Trương Vô Kỵ cầm tay Tạ Tốn, đang định sánh vai bước ra, Tạ Tốn bỗng nói:
– Hãy khoan!
Ông chỉ về phía một lão già đứng trong đám tăng chúng Thiếu Lâm, nói:
– Thành Côn, ngươi mau ra đây, trước mặt anh hùng thiên hạ hãy nói rõ toàn bộ tiền nhân hậu quả xem nào!
Quần hùng kinh ngạc, chỉ thấy đó là một lão tăng lưng còng, diện mạo ti tiện, chẳng giống Thành Côn chút nào. Trương Vô Kỵ đang định nói: “Người kia không phải là Thành Côn!” Chỉ nghe Tạ Tốn lại nói:
– Thành Côn, ngươi có thể thay đổi diện mạo, chứ thanh âm thì không. Ngươi chỉ cần đằng hắng một tiếng, ta đã biết ngay là ai.
Lão tăng kia cười nham hiểm, nói:
– Ai đi nghe lời lẽ xằng bậy của một thằng mù kia chứ!
Lão ta vừa mở miệng, Trương Vô Kỵ nhận ra liền. Lần ở trên đỉnh Quang Minh, chàng nằm trong túi vải, từng nghe Thành Côn nói một thôi một hồi, giọng hắn thế nào, chàng nhớ quá rõ. Lúc này Thành Côn cố ý đổi giọng, diện mạo cũng cải trang cực kỳ khôn khéo, song thanh âm rốt cuộc rất khó che giấu. Trương Vô Kỵ liền nhảy tới chặn đường lui của lão tăng kia, nói:
– Viên Chân đại sư, Thành Côn tiền bối, đại trượng phu quang minh lỗi lạc, sao không cho mọi người thấy bản lai diện mục của mình?
Thành Côn cải trang náu mình trong tăng chúng Thiếu Lâm, thủy chung không lộ chút sơ hở nào, mãi đến lúc hoàng y mỹ nữ chế ngự Chu Chỉ Nhược, thật bất ngờ đối với hắn, hắn lại đằng hắng, ho khẽ vài tiếng. Tạ Tốn sau khi bị mù thì tai trở nên cực thính, tiếng đằng hắng của kẻ thù khắc cốt ghi xương không khác gì tiếng sấm giữa ban ngày, nên ông nhận ra hắn ngay.
Thành Côn thấy sự việc đã bại lộ, bèn thẳng lưng lên, quát to:
– Tăng chúng Thiếu Lâm nghe đây: Ma giáo quấy phá đất Phật, coi thường bổn phái, tăng chúng hãy nhất tề ra tay giết sạch chúng đi, không cần nói năng nhiều lời.
Bọn đồng đảng tay chân của hắn nhao nhao hưởng ứng, rút binh khí tiến lên toan động thủ.
Không Trí chỉ vì sư huynh Không Văn đang bị bọn phản đồ trong chùa khống chế, phải nín nhịn đã lâu, lúc này nghe Viên Chân ra lệnh đánh nhau với Minh giáo, nếu đôi bên hỗn chiến, tăng chúng Thiếu Lâm tự không biết sẽ bị tổn hại như thế nào. Cân nhắc nặng nhẹ, thì tính mạng của tăng chúng là chuyện lớn, bèn quát to:
– Không Văn phương trượng đã rơi vào tay tên phản đồ Viên Chân này, các đệ tử hãy bắt giữ hắn trước, rồi cứu phương trượng sau.
Phút chốc trên đỉnh núi náo loạn cả lên.
Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược nằm gục dưới đất, vẻ mặt ủ rũ, trong lòng không nỡ, liền bước tới giải huyệt cho nàng, đỡ nàng đứng dậy. Chu Chỉ Nhược hất tay chàng ra, đi về với đám đệ tử phái Nga Mi.
Chỉ nghe Tạ Tốn dõng dạc nói:
– Việc hôm nay hoàn toàn do Thành Côn và tại hạ gây nên, bao nhiêu ân oán trói buộc, xin hãy để hai người chúng tôi kết liễu lấy. Sư phụ, toàn bộ võ công của ta đều do sư phụ truyền thụ. Thành Côn, cả gia đình ta bị ngươi giết hại. Đại ân cũng như đại cừu, hôm nay hai ta phải thanh toán cho xong.
Thành Côn thấy Không Trí không ngại gì nữa, đã lên tiếng ra lệnh, dẫu gì thì trong số tăng chúng, chính phái vẫn đông hơn hẳn, đồng đảng của hắn chỉ chiếm một phần nhỏ, xem chừng cái mộng lên làm phương trượng chưởng môn phái Thiếu Lâm đã tan thành mây khói, nghĩ bụng: “Tạ Tốn gây vô số tội ác; nếu mình hạ được hắn, thì mọi tội trạng cứ trút xuống đầu hắn; võ công của hắn đều do mình truyền thụ, hắn lại mù cả hai mắt, chẳng lẽ mình không đối phó nổi hay sao?” Bèn nói:
– Tạ Tốn, bao nhiêu anh hùng hảo hán trên giang hồ đã bỏ mạng dưới tay mi, hôm nay mi còn chiêu dẫn hàng loạt tên ma đầu Ma giáo đến quấy phá đất lành của nhà Phật, đối địch với anh hùng thiên hạ. Ta hối hận ngày trước đã truyền võ công cho mi, bây giờ ta phải thanh lý môn hộ, trừng trị tên nghịch đồ khi sư diệt tổ mới xong.
Nói đoạn hắn nghênh ngang bước đến trước mặt Tạ Tốn.
Tạ Tốn cao giọng nói:
– Quý vị anh hùng bốn phương nghe đây, võ công của Tạ Tốn này, vốn là do vị sư phụ Thành Côn truyền thụ; nhưng y đã bức gian vợ ta không được, lại giết hại cha mẹ vợ con ta. Thầy trò tuy thân, cũng không thân bằng cha sinh mẹ đẻ của mình. Tạ Tốn tìm Thành Côn để báo thù, như thế có đáng hay không đáng?
Quần hùng tứ phía hò reo vang động:
– Đáng lắm! Đáng trả thù lắm!
Thành Côn không nói một lời, “vù” một cái, đánh một chưởng vào đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn nghiêng đầu, giữ chỗ yếu hại trên đỉnh đầu, nghe “bộp” một tiếng, chưởng đó trúng vai ông. Tạ Tốn không trả đòn, nói:
– Hừ, Thành Côn, năm xưa ngươi truyền cho ta chiêu “Trường hồng kinh thiên”, có dặn là khi đánh trúng địch thủ, thì phải vận “Hỗn nguyên nhất khí công” để đả thương kẻ địch, vì sao ngươi lại không vận công? Hay là tuổi đã già, không còn công để vận nữa?
Nguyên chiêu đầu tiên của Thành Côn chỉ là hư chiêu, không ngờ đối phương lại chẳng né tránh, đánh là trúng ngay. Nhưng chiêu này hắn chẳng dồn chút lực nào, nên Tạ Tốn không hề bị thương.
Thành Côn tay trái đánh nhứ, tay phải tung ra một chưởng nữa. Tạ Tốn nghiêng người tránh, vẫn chưa trả đòn. Thành Côn hai chân liên tiếp đá tới, “bộp bộp” hai tiếng, hông Tạ Tốn trúng luôn hai cước. Hai cú đá này kình lực cực mạnh, Tạ Tốn tuy thân thể cao lớn, cũng chịu không nổi, ộc ra một ngụm máu lớn.
Trương Vô Kỵ vội kêu lên:
– Nghĩa phụ, trả đòn đi! Sao cha chỉ chịu đòn mà không đánh trả?
Tạ Tốn loạng choạng mấy bước, gượng cười, nói:
– Y là sư phụ ta, có chịu một chưởng hai cước cũng đáng.
Nói xong ông hú lên một tiếng, múa chưởng đánh ra.
Thành Côn thầm tiếc rẻ: “Hoài của, hoài của! Mình cứ ngỡ hắn với mình thù sâu như biển, vừa gặp là đánh trí mạng ngay, nếu biết hắn nhường mình ba chiêu, thì đã hạ sát thủ ngay từ đầu, đâu bỏ lỡ cơ hội thế này?” Thấy chưởng thế của Tạ Tốn rất lợi hại, bèn tay trái đưa xéo ra, gạt chưởng lực của đối phương, thân hình xoay nửa vòng, đã luồn ra sau lưng Tạ Tốn, khinh thường Tạ Tốn bị mù không nhìn thấy, lẳng lặng vô thanh vô tức đánh vào lưng ông một chưởng. Nhưng Tạ Tốn tựa hồ có mắt, giơ chân đá ngược ra sau. Thành Côn nhảy vọt lên cao, từ trên không bổ xuống như chim ưng. Thành Côn đã ở tuổi cổ lai hi, song thân pháp vẫn lẹ làng như người còn trẻ. Tạ Tốn song chưởng chống đỡ, thế đánh từ trên xuống của Thành Côn bị chặn lại, hắn bật trở lên, nhẹ nhàng xoay một vòng trên không trung, lại đánh xuống.
Hai người vừa ra tay, lấy nhanh đánh nhanh, chốc lát đã qua lại bảy, tám chục chiêu. Tạ Tốn tuy không nhìn thấy gì, nhưng võ công của ông toàn do Thành Côn truyền thụ, quyền cước, chiêu số của Thành Côn thế nào, ông đã thuộc lòng. Sau mấy chục năm, việc tu luyện nội công của hai người đều đại tiến triển, riêng chiêu thuật quyền cước thì vẫn là bài bản cũ; Tạ Tốn dẫu không nhìn thấy, cũng biết chưởng này của ông đối phương hóa giải thế nào, tiếp sau chiêu này sẽ biến hóa đại để ra sao. Đã thế, ông lại trẻ hơn Thành Côn mười mấy tuổi, khí huyết còn mạnh hơn, khí hậu khắc nghiệt ở Băng Hỏa đảo giúp ông tu luyện nội lực rất thuận lợi, nhờ thế hơn một trăm chiêu vẫn không bị lép vế chút nào.
Tạ Tốn căm hận Thành Côn khôn tả, ông canh cánh đợi chờ mấy chục năm rồi, bây giờ mới có dịp giao đấu. Trương Vô Kỵ cứ tưởng nghĩa phụ sẽ đánh thí mạng ngay, sẵn sàng cả hai cùng chết; nào ngờ từng chiêu từng thức đều trầm ổn lạ thường, bảo vệ môn hộ cực kỳ nghiêm mật. Thoạt tiên Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, nhưng sau khi xem mấy chục chiêu, liền hiểu ra, võ công của Thành Côn chẳng thua gì ba vị cao tăng Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp; nếu Tạ Tốn ngay từ đầu nóng máu hung hăng, chỉ e không chịu nổi ba trăm chiêu. Hiển nhiên mối thù trong lòng Tạ Tốn càng sâu, thì ông ra tay càng thận trọng, lo rằng nếu mình bại trận, thì không trả được món nợ máu cho cha mẹ vợ con.
Thấm thoắt đôi bên đã qua lại hơn hai trăm chiêu. Tạ Tốn quát lên một tiếng, đánh ra một quyền. Quan Năng của phái Không Động thốt lên:
– Thất thương quyền!
Chỉ thấy Tạ Tốn tả hữu song quyền liên tiếp đánh ra, vô cùng uy mãnh, chư lão phái Không Động ai nấy kinh hãi, bất giác hổ thẹn thấy mình không bì kịp. Thành Côn tránh liền ba quyền, chờ lúc quyền thứ tư đánh tới, hữu chưởng bèn đẩy ngang ra, “bộp” một tiếng, quyền chưởng đụng nhau, Tạ Tốn râu tóc dựng đứng, uy phong lẫm liệt đứng bất động; còn Thành Côn phải lật đật lùi ba bước.
Quần hùng đứng xem, nhiều người lớn tiếng reo hò. Diễn biến và nguyên do mối thù hằn của Tạ Tốn với Thành Côn thế nào, cả giang hồ đều biết. Người ta tuy giận Tạ Tốn ra tay quá tàn ác, lạm sát người vô tội, song cũng cảm thông với tình cảnh bi thảm cùng cực mà ông phải gánh chịu; trong khi Thành Côn quá ư gian hiểm, trừ thân nhân và bằng hữu của những người bị Tạ Tốn sát hại, còn quá nửa đều mong Tạ Tốn đắc thắng.
Tạ Tốn tiến lên ba bước, lại đánh ra vù vù hai quyền, Thành Côn trả lại hai chưởng, lại phải lùi ba bước. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hỏng rồi! Thành Côn sử dụng ‘Thiếu Lâm Cửu dương công’, là công phu hắn học được sau khi bái Không Kiến thần tăng làm thầy, mà nghĩa phụ thì chưa được truyền thụ”.
Tạ Tốn khi luyện “Thất thương quyền”, vì nôn nóng mà năm xưa từng bị nội thương; môn này vốn có khuyết điểm, Thành Côn thừa biết chỗ cốt yếu đó, hắn cố ý tỏ ra kém thế, đem “Thiếu Lâm Cửu dương công” ra đối phó. Mỗi quyền Tạ Tốn đánh ra, Thành Côn chịu bảy thành kình lực, dùng “Cửu dương công” hóa giải; còn ba thành thì phản kích trở lại. Tạ Tốn vù vù đánh ra mười hai quyền, Thành Côn liên tiếp thoái lui mấy chục bước, nhìn bề ngoài tưởng là Tạ Tốn đại chiếm thượng phong, kỳ thực nội thương càng lúc càng nặng.
Trương Vô Kỵ ruột như lửa đốt, đây là cơ hội phục thù mà nghĩa phụ ngày đêm mong đợi suốt đời, chàng không có cách gì xen vào trợ giúp; nhưng cứ đà này đấu thêm vài chục chiêu, Tạ Tốn sẽ hộc máu mà chết.
Không Trí đột nhiên lạnh lùng nói:
– Viên Chân, sư huynh ta năm xưa truyền cho ngươi “Thiếu Lâm Cửu dương công”, để bây giờ ngươi đem ra hại người ư?
Thành Côn cười khẩy, đáp:
– Ân sư ta bỏ mạng vì “Thất thương quyền”, hôm nay ta báo thù rửa hận cho lão nhân gia.
Triệu Mẫn bỗng nói to:
– “Cửu dương công” của Không Kiến thần tăng cao siêu hơn hẳn ngươi, sao Không Kiến thần tăng không chống đỡ nổi “Thất thương quyền”? Không Kiến thần tăng bị chết chính vì sự gian tặc của ngươi. Ngươi đánh lừa lão nhân gia đứng ra hóa giải oan nghiệt, để lão nhân gia chịu đòn chứ không đánh trả. Ô kìa, hãy nhìn xem ai đang đứng sau lưng ngươi? Một người mặt đầy máu, đang hầm hầm chỉ vào lưng ngươi, chẳng phải Không Kiến thần tăng thì còn ai?
Thành Côn thừa biết là lời dọa suông, nhưng sau khi hắn phạm tội, không khỏi bị lương tâm cắn rứt, bất giác cũng thấy rờn rợn. Đúng lúc ấy Tạ Tốn lại đánh ra một quyền, Thành Côn giơ chưởng đỡ, thân hình hơi lảo đảo, nhưng không lùi về sau, vì đã phân tâm nên chân khí tán loạn. Hắn bị trúng một quyền vào ngực, khí huyết nhộn nhạo, vội thi triển khinh công chạy quanh Tạ Tốn một hồi, mới lấy lại sự quân bình.
Triệu Mẫn lại gọi:
– Không Kiến thần tăng, đại sư hãy bám sát hắn, đúng rồi, cứ như thế, đại sư hãy phả hơi lạnh vào gáy hắn. Đại sư chết bởi tay đồ đệ, hắn cũng sẽ chết bởi tay đồ đệ; như thế gọi là ông trời có mắt, quả báo nhãn tiền.
Thành Côn bị nàng dọa cho nổi da gà, thần hồn nát thần tính, cảm thấy hình như có từng đợt gió lạnh thổi tới mình, trong lúc hoảng loạn quên mất rằng trên đỉnh núi cao thế này, gió núi thổi quanh năm không ngừng, hơn nữa hai người đang nhảy nhót giao đấu, sau lưng có gió là chuyện đương nhiên.
Triệu Mẫn thấy hắn hơi chần chừ, lại gọi:
– Ối chao, Thành Côn, ngươi thử ngoảnh lại xem ai ở sau lưng kìa? Ngươi không dám ngoảnh lại hả? Thế thì hãy ngó xuống nhìn mấy bóng đen dưới đất, vì sao hai người giao đấu mà lại có những ba cái bóng?
Thành Côn bất giác nhìn xuống đất, quả nhiên giữa hai bóng người có một vệt thẫm đen, trong bụng hơi hoảng, quyền của Tạ Tốn đã đánh tới. Thành Côn không kịp hóa giải, cũng tống một quyền ra chọi lại, “bộp” một tiếng, hai người lấy chân lực đấu nhau, đều lảo đảo lùi lại một bước. Thành Côn lúc đó mới nhìn kỹ, cái bóng sẫm kia chẳng qua là bóng cây tùng gãy mà thôi.
Thành Côn đánh lâu chưa thắng, nóng ruột nghĩ thầm: “Hắn là đệ tử, hai mắt lại mù; mình lại không hạ nổi hắn, những kẻ tâm phúc đứng xem bên ngoài sẽ không phục mình nữa. “Huyễn Âm Chỉ” thần công của mình lần trước bị tên tiểu tặc ác ôn Trương Vô Kỵ dùng nội lực thuần dương phá mất rồi, nếu không hôm nay đâu phải đấu dây dưa mãi với Tạ Tốn thế này? Tình hình hiện tại rất nguy hiểm, chỉ có cách duy nhất là nhanh chóng chế ngự tên nghịch đồ này mới khống chế được Minh giáo, rồi thừa cơ kêu gọi các kẻ thù của Tạ Tốn cùng xông lên; như vậy chí ít mình cũng có thể thoát thân”. Nghĩ vậy, hắn liền len lén di chuyển hai bước về phía một cây tùng gãy.
Tạ Tốn đánh ra liên tiếp ba quyền, tiến lên hai bước; Thành Côn lùi thêm hai bước nữa, định dụ Tạ Tốn tới chỗ cây tùng gãy đổ. Tạ Tốn đang đuổi theo, thì Trương Vô Kỵ kêu lên:
– Nghĩa phụ, cẩn thận dưới chân!
Tạ Tốn giật mình, lạng sang một bên, do vậy chậm lại, Thành Côn đã tìm được chỗ sơ hở, một chưởng vô thanh vô tức đánh ra, tới ngực Tạ Tốn thì dồn sức vào đó, khiến Tạ Tốn ngã ngửa ra sau.
Thành Côn giơ chân lên đạp mạnh một cái xuống đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn vội lăn một vòng, đứng bật dậy, khóe miệng máu tươi chảy thành dòng. Thành Côn đứng im, tay phải chậm rãi giơ ra. Tạ Tốn đấu với hắn toàn là nhờ chiêu số quen thuộc, cộng với nghe tiếng gió mà nhận định tình hình, bây giờ Thành Côn ra chiêu không theo chưởng pháp thông thường nữa, hắn nhẹ nhàng thong thả đưa tới trước mặt Tạ Tốn rồi đột ngột đánh trúng vai địch thủ. Tạ Tốn loạng choạng mấy cái, cố đứng vững lại.
Quần hùng đa số không phục, nhao nhao la ó:
– Mắt sáng đấu với người mù, sao lại dùng thủ đoạn hèn hạ như thế?
Thành Côn bất chấp, lại chậm rãi đánh ra một chưởng. Tạ Tốn chăm chú lắng nghe, vừa cảm thấy chưởng của địch ập tới, thì lập tức đưa tay gạt ra.
Trương Vô Kỵ thấy mái tóc vàng của nghĩa phụ bay tung, khóe miệng ri rỉ máu tươi, trong lòng vừa phẫn nộ vừa bối rối, biết nếu cứ đà này đấu thêm, nghĩa phụ hẳn sẽ mất mạng dưới tay Thành Côn; nhưng nếu chàng nhảy ra trợ giúp, dù có hạ sát được Thành Côn, thì nghĩa phụ cũng sẽ ôm hận suốt đời. Chàng nắm lấy tay Triệu Mẫn, hỏi dồn:
– Mau nghĩ kế hộ ta đi!
Triệu Mẫn nói:
– Chàng lén bắn ám khí, làm mù hai mắt hắn đi có được chăng?
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
– Nghĩa phụ thà chết, không chịu cho ta làm thế đâu.
Lại thấy Thành Côn chậm rãi đánh ra một chưởng. Triệu Mẫn kêu lên:
– Trên ngực kìa!
Tạ Tốn liền đấm thẳng một quyền ra trước ngực, chưởng của Thành Côn chưa đến vội thu về. Hắn đánh liền mấy chưởng thật chậm, đều bị Triệu Mẫn báo động cho Tạ Tốn, thấy cách đó không ổn, bèn tương kế tựu kế, đánh một chưởng thật chậm vào vai bên phải của Tạ Tốn. Triệu Mẫn kêu:
– Vai phải!
Trương Vô Kỵ thấy vai trái của Thành Côn hơi động, chàng hiểu ngay ý đồ của hắn, vội kêu to:
– Sau lưng!
Tạ Tốn nghe tiếng nhắc của Triệu Mẫn, bèn giơ tay chống đỡ đòn đánh vào vai bên phải, đâu biết đó chỉ là hư chiêu, Thành Côn thừa cơ Tạ Tốn vừa giơ tay chống đỡ hữu chưởng, thì tay trái liền giáng một chưởng thật nặng vào sau lưng Tạ Tốn. Trương Vô Kỵ tuy kịp thời nhắc ông, nhưng đòn này của Thành Côn cực nhanh, Tạ Tốn nghe tiếng kêu của Trương Vô Kỵ thì không kịp biến chiêu nữa rồi.
Mọi người kinh hãi kêu ồ lên, thấy Tạ Tốn phun ra một ngụm máu to, trúng ngay mặt Thành Côn. Thành Côn kêu “Ối”, giơ tay lên lau mặt; còn Tạ Tốn thì ngã lăn ra đất. Bỗng nghe cả hai người cùng thét lên, rồi không thấy họ đâu nữa.
Nguyên Tạ Tốn ngã xuống, lập tức ôm lấy hai chân Thành Côn, gắng sức xô hắn ngã, thế là cả hai cùng rơi xuống địa lao.
Trong địa lao nước ngập đến cổ, tối như hũ nút, Thành Côn tức thời chẳng khác gì người mù. Hắn vội nhảy lùi về phía sau, cốt càng xa đối thủ càng tốt. Nhưng địa lao quá chật hẹp, nhảy lùi thì lưng đụng vào vách đá, vừa nhảy lên thì bụng dưới trúng một chiêu Thất thương quyền, đau thấu tâm can. Thành Côn biết quyền này khiến hắn bị thương không nhẹ, nếu còn nhảy lên, sẽ tiếp tục bị đòn quyền, vội biến chiêu, dùng “Tiểu cầm nã thủ” để đối phó. “Tiểu cầm nã thủ” vốn dùng để đánh gần trong bóng tối, phải ứng biến cực nhanh, mắt tuy không nhìn thấy, song ngón tay, bàn tay, cánh tay, khuỷu tay, bất cứ chỗ nào đụng phải cơ thể kẻ địch, đều lập tức nắm, bắt, chộp, bẻ, vặn, thúc, cấu ngay. Tạ Tốn quát to một tiếng, cũng dùng “Tiểu cầm nã thủ” đối phó.
Mọi người chỉ nghe thấy dưới địa lao tiếng quát tháo, tiếng quyền chưởng đánh vào cơ thể, nước bắn văng tung tóe, hẳn là hai người đang dốc sức tấn công nhau. Trương Vô Kỵ trống ngực đập thình thịch, nghĩ bụng lúc này nghĩa phụ có gặp hung hiểm, chàng cũng không cứu nổi; chàng không thể nhảy xuống địa lao trợ giúp, nên lo toát cả mồ hôi.
Tạ Tốn bị mù đã hơn hai mươi năm, công phu nghe âm thanh để định hình đã luyện thành thạo, lấy tai thay mắt đã quá quen rồi. Thành Côn ở trong địa lao ngập nước, đánh đấm loạn xạ chỉ là hú họa cầu may, ưu thế đôi bên bây giờ đã thay đổi hẳn. Thành Côn thầm kinh hãi, không biết tính sao, đành hai tay sử dụng “Tiểu cầm nã thủ”, thi triển liền liền như gió táp mưa sa hết độc chiêu này đến độc chiêu khác, bụng nghĩ: “Không để cho hắn đánh trúng một đòn nào nữa, phải tìm cách ra khỏi địa lao mới được”.
Quần hùng nhích dần từng bước tới gần miệng hầm, lòng bàn tay nhơm nhớp mồ hôi lạnh, nghe tiếng quát tháo của Thành Côn và Tạ Tốn từ địa lao không ngớt vọng lên, xem chừng chưa phân thắng bại. Bỗng nghe có tiếng rú thảm thiết của Thành Côn, kế đó hai bóng người từ dưới địa lao phóng vọt lên.
Dưới ánh nắng, chỉ thấy hai mắt của cả Thành Côn lẫn Tạ Tốn đều chảy máu, hai người đứng đối diện nhau bất động.
Nguyên trong lúc ác đấu, hai tay của Tạ Tốn đột nhiên tách ra để chém vào hai mạng sườn Thành Côn. Thành Côn cả mừng, kêu:
– Trúng này!
Hai ngón trỏ và giữa của tay phải tức thời chọc nhanh vào hai mắt Tạ Tốn. Chiêu “Song long sang châu” này vốn dĩ tầm thường, nhưng khi dùng xen vào với “Tiểu cầm nã thủ” thì lại có uy lực cực lớn, đối phương thể nào cũng phải quay đầu né tránh; tay trái ta sẽ lập tức quét qua, thể nào cũng sẽ trúng huyệt Thái Dương của địch. Ngờ đâu Tạ Tốn chẳng tránh né gì hết, cũng quát to:
– Trúng này!
Cũng sử dụng đúng chiêu “Song long sang châu”, hai ngón trỏ và giữa tức thời chọc nhanh vào hai mắt Thành Côn.
Hai ngón tay Thành Côn chọc trúng mắt Tạ Tốn, trong óc một ý nghĩ lóe lên như tia chớp: “Chết rồi!” thì mắt đã đau nhói vì hai ngón tay Tạ Tốn chọc vào. Hai người bị thương y như nhau, nhưng Tạ Tốn đã mù sẵn, chỉ là tổn thương da thịt, còn Thành Côn thì từ nay biến thành kẻ mù.
Tạ Tốn cười khẩy, hỏi:
– Làm thằng mù thích chứ?
“Vù” một tiếng, đấm luôn ra một quyền. Thành Côn không còn nhìn thấy gì, chẳng biết đường né tránh, bị trúng ngay chiêu “Thất thương quyền” ấy vào giữa ngực.
Tay trái của Tạ Tốn lại tung tiếp một quyền, Thành Côn lảo đảo lùi mấy bước, vấp cây tùng đổ, ngã xuống, máu mồm trào ra như suối. Độ Ách lên tiếng:
– Thiện tai, thiện tai!
Tạ Tốn ngây ra, quyền thứ ba đánh ra chợt ngừng lại giữa chừng, nói:
– Ta vốn định đánh ngươi đủ mười ba đòn “Thất thương quyền”. Nhưng bây giờ ngươi đã mất hết võ công, lại mù cả hai mắt, từ nay trở thành tàn phế, không còn làm ác trên thế gian được nữa. Mười một quyền còn lại, khỏi cần đánh tiếp.
Bọn Trương Vô Kỵ thấy Tạ Tốn toàn thắng, đều hoan hô vang dậy. Tạ Tốn đột nhiên ngồi xuống đất, xương cốt toàn thân kêu lách cách. Trương Vô Kỵ cả kinh, biết nghĩa phụ vận ngược nội tức để tự hủy bỏ toàn bộ võ công, vội kêu lên:
– Nghĩa phụ, đâu cần làm thế!
Chàng vọt tới, toan lấy tay áp vào lưng ông, dùng “Cửu dương thần công” ngăn lại.
Tạ Tốn đột nhiên đứng dậy, vung tay đấm mạnh vào ngực mình một cái, máu tươi phun ra đằng miệng. Trương Vô Kỵ vội đưa tay đỡ, chỉ thấy tay ông lẩy bẩy yếu ớt, quả nhiên võ công đã mất hết, khó lòng phục hồi được nữa.
Tạ Tốn chỉ Thành Côn, nói:
– Thành Côn, ngươi giết cả nhà ta, hôm nay ta hủy đôi mắt ngươi, phế bỏ võ công của ngươi, gọi là để báo thù. Sư phụ, toàn bộ võ công của đệ tử là do sư phụ truyền thụ, vừa rồi đệ tử cũng đã tự hủy hết, trả lại cho sư phụ. Từ nay trở đi, hai ta vô ân vô oán, vĩnh viễn không còn thấy mặt nhau nữa.
Thành Côn hai tay ôm mắt, rên một tiếng đau đớn, không trả lời.
Quần hùng nhìn nhau, không ngờ cuộc đấu giữa hai thầy trò cuối cùng kết thúc như thế này.
Tạ Tốn dõng dạc nói:
– Tạ Tốn này tác ác đa đoan, vốn không mong sống được tới ngày hôm nay. Trong chư vị anh hùng thiên hạ, vị nào có thân nhân, sư hữu bị Tạ mỗ giết hại, xin mời ra lấy mạng Tạ mỗ cho xong. Vô Kỵ, con không được ngăn cản, càng không được phục thù sau này, để khỏi tăng thêm nghiệp chướng cho nghĩa phụ.
Trương Vô Kỵ nuốt lệ vâng lời.
Trong quần hùng tuy không ít người có thù oán sâu xa với Tạ Tốn, song thấy ông trả mối thù cả nhà bị giết cũng chỉ phế bỏ võ công của Thành Côn, sau đó võ công của mình cũng tự hủy đi, nếu bây giờ mình bước ra đâm một kiếm, đấm một quyền, thì chẳng đáng mặt anh hùng hảo hán chút nào.
Từ đám đông, một hán tử bước ra, nói:
– Tạ Tốn, phụ thân ta Nhạn Linh Phi Thiên Đao Khưu lão anh hùng chết dưới tay ngươi, ta ra đây báo thù cho tiên phụ!
Nói xong bước tới trước mặt Tạ Tốn. Tạ Tốn buồn rầu nói:
– Đúng thế, lệnh tôn quả thật bị tại hạ sát hại. Xin Khưu huynh cứ ra tay.
Gã họ Khưu rút đao ra, tiến lên hai bước.
Trương Vô Kỵ trong lòng rối loạn, nếu không ra tay ngăn cản, nghĩa phụ sẽ mất mạng dưới đao của người này; nhưng nếu đánh đuổi gã đi, e rằng nghĩa phụ còn sống ngày nào sẽ phiền não ngày đó, huống hồ ông hai mắt đã mù, võ công mất hết, sống trên đời còn gì vui thú; chàng thực là khó nghĩ, bất giác tiến lên hai bước.
Tạ Tốn quát:
– Vô Kỵ, nếu con ngăn cản người ta báo thù, tức là đại đại bất hiếu đối với ta. Sau khi ta chết, con xuống địa lao xem kỹ, sẽ biết mọi việc.
Gã họ Khưu giơ đao ngang ngực, bỗng ứa nước mắt, nhổ một bãi nước bọt vào mặt Tạ Tốn, nghẹn ngào nói:
– Tiên phụ một đời anh hùng, nếu lão nhân gia ở trên trời linh thiêng, thấy ta cầm đao giết một người mù không còn chút võ công, chắc sẽ thất vọng về ta…
Keng một tiếng, gã đã ném đao xuống đất, ôm mặt chạy trở vào đám đông.
Một trung niên nữ nhân bước ra, nói:
– Tạ Tốn, ta báo thù cho chồng ta là Âm Dương Phán Quan Tần Đại Bằng.
Nói rồi cũng nhổ một bãi nước bọt vào mặt Tạ Tốn, khóc òa lên, bỏ đi.
Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ liên tiếp chịu nhục, thủy chung vẫn đứng yên, thì trong lòng đau như dao cắt.
Hào sĩ võ lâm coi cái chết nhẹ như lông hồng, song lại quyết không chịu nhục, cho nên mới có câu “Sĩ khả sát nhi bất khả nhục”. Hai người vừa rồi nhổ nước bọt vào mặt ông, quả là đại nhục, mà Tạ Tốn vẫn thản nhiên chịu đựng, đủ biết ông đã hối hận cực điểm về mọi tội lỗi trong quá khứ. Từ trong đám đông một số người lần lượt tiến ra, kẻ tát hai cái, kẻ đá một cái, cũng có kẻ chửi bới nặng nề, song Tạ Tốn trước sau vẫn nín nhịn, không tránh né, cũng không nói lại nửa lời.
Cứ thế hơn ba chục người ra làm nhục Tạ Tốn một phen. Cuối cùng một đạo sĩ râu dài bước ra, cúi đầu nói:
– Bần đạo là Thái Hư Tử, có hai vị sư huynh bị chết dưới tay Tạ đại hiệp. Hôm nay bần đạo nhìn thấy phong phạm của Tạ đại hiệp, trong lòng cảm thấy rất hổ thẹn, bần đạo cũng từng giết vô số hào kiệt hắc đạo, bạch đạo. Nếu bần đạo tìm Tạ đại hiệp báo thù, thì kẻ khác cũng có thể tìm bần đạo để báo thù.
Nói xong rút trường kiếm, giơ ngón tay trái búng một cái, nghe “keng” một tiếng, thanh kiếm gãy đôi. Y ném kiếm gãy xuống đất, hành lễ với Tạ Tốn rồi lui về.
Quần hùng xôn xao bàn tán, cái gã Thái Hư Tử này danh tiếng chưa nổi lắm trên giang hồ, võ công cao siêu đã đành, không ngờ lại có tấm lòng khoan dung lớn và biết tự trách mình, xem ra chẳng còn ai làm khó với Tạ Tốn nữa.
Giữa lúc ấy, một nữ ni trung niên từ đám đệ tử phái Nga Mi bước đến trước mặt Tạ Tốn, nói:
– Mối thù giết chồng ta, ta cũng nhổ một bãi nước bọt để kết thúc.
Nói xong há mồm, nhổ một bãi nước bọt vào trán Tạ Tốn. Không ngờ bãi nước bọt này kình phong rất mạnh, bên trong lại có một cái đinh sắt hình hạt táo.
Tạ Tốn nghe tiếng gió có điều khác lạ, gượng cười buồn bã nhưng không tránh né, nghĩ thầm: “Ta bây giờ mới chết, đã là quá muộn”.
Bỗng dưng một bóng vàng lướt qua, Hoàng y mỹ nữ bất ngờ vọt tới, phất tay áo cuốn lấy cái đinh sắt, quát:
– Vị sư thái này pháp danh là gì?
Nữ ni kia đột kích không trúng, hơi kinh hoảng, đáp:
– Ta là Tĩnh Chiếu.
Hoàng y mỹ nữ nói:
– Hừ, Tĩnh Chiếu, Tĩnh Chiếu. Trước khi bà xuất gia, chồng bà tên gì? Tại sao ông ta lại bị Tạ đại hiệp giết?
Tĩnh Chiếu giận dữ nói:
– Chuyện đó liên can gì tới cô nương, việc gì cô nương đi lo chuyện bao đồng?
Hoàng y mỹ nữ nói:
– Tạ đại hiệp sám hối tội lỗi ngày trước, nếu có ai muốn báo thù cho cha mẹ, anh em, thầy bạn, dù có dùng đao kiếm băm vằm ông, Tạ đại hiệp cũng cam chịu, người ngoài không thể can thiệp. Thế nhưng, nếu có kẻ bất lương, định thừa cơ đục nước béo cò, toan giết người diệt khẩu, thì mọi người đều có quyền can thiệp.
Tĩnh Chiếu nói:
– Ta với Tạ Tốn không thù không oán, hà tất phải giết người diệt…
Chữ “khẩu” chưa kịp thốt ra, bà ta biết mình lỡ lời, vội nín bặt, mặt trắng bệch, bất giác liếc Chu Chỉ Nhược một cái.
Hoàng y mỹ nữ nói:
– Đúng thế, bà với Tạ đại hiệp không thù không oán, hà tất phải giết người diệt khẩu? Hừ, mười hai nữ ni hàng chữ “Tĩnh” của phái Nga Mi, Tĩnh Huyền, Tĩnh Hư, Tĩnh Không, Tĩnh Tuệ, Tĩnh Già, Tĩnh Chiếu… đều là khuê nữ xuất gia, chồng ở đâu mà có?
Tĩnh Chiếu không nói gì, cắm đầu chạy về.
Hoàng y mỹ nữ quát:
– Ai cho bỏ đi dễ dàng như thế?
Nàng tiến lên hai bước, giơ tay chộp đầu vai Tĩnh Chiếu. Tĩnh Chiếu nghiêng người tránh được cái trảo đó. Hoàng y mỹ nữ liền giơ ngón trỏ tay phải chọc vào mạng sườn, tiếp đó tung cước đá trúng huyệt Hoàn Khiêu ở đùi Tĩnh Chiếu. Tĩnh Chiếu ngã huỵch xuống đất. Hoàng y mỹ nữ cười khẩy, nói:
– Chu cô nương, cái kế giết người diệt khẩu của cô nương độc địa thật.
Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói:
– Tĩnh Chiếu sư tỷ muốn báo thù Tạ Tốn, có gì mà bảo là giết người diệt khẩu?
Rồi phất tay trái, nói:
– Ở đây có vô số đệ tử danh môn chính phái, thế mà chẳng ai phân biệt được chính tà, cam tâm nhập bọn với bàng môn yêu ma. Phái Nga Mi không thể a dua với chúng, thôi bọn ta đi về.
Các đệ tử phái Nga Mi đáp ứng, đứng cả dậy. Hai nữ đệ tử ra dìu Tĩnh Chiếu đi, Hoàng y mỹ nữ không ngăn cản nữa. Chu Chỉ Nhược dẫn các đồng môn xuống núi.
Trương Vô Kỵ tới trước mặt Hoàng y mỹ nữ, vái dài, nói:
– May được tỷ tỷ mấy phen trợ giúp, đại ân đại đức, không dám cảm tạ bằng lời. Chỉ mong được biết phương danh, để Trương Vô Kỵ này ngày đêm ghi nhớ trong lòng.
Hoàng y mỹ nữ mỉm cười, nói:
– Chung Nam sơn hậu, hoạt tử nhân mộ, Thần Điêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ.
Nói xong nâng một chút vạt áo lên thi lễ, vẫy tay một cái, dẫn tám bạch y, hắc y thiếu nữ khoan thai mà đi.
Trương Vô Kỵ bước theo, gọi:
– Xin tỷ tỷ hãy dừng bước.
Hoàng y mỹ nữ không ngoảnh lại, tiếp tục đi xuống núi.
Cô bé Sử Hồng Thạch, bang chủ Cái Bang, gọi to:
– Dương tỷ tỷ! Dương tỷ tỷ!
Chỉ nghe từ lưng núi vọng lên giọng nói của hoàng y mỹ nữ:
– Đại sự của Cái Bang, mong Trương giáo chủ tận lực trợ giúp.
Trương Vô Kỵ lớn tiếng đáp lời:
– Vô Kỵ tuân lệnh.
Hoàng y mỹ nữ nói:
– Đa tạ!
Hai tiếng “Đa tạ!” văng vẳng vọng lên, đôi bên đã cách nhau rất xa, nhưng giọng nói trong trẻo, nghe vẫn rõ lạ thường. Trương Vô Kỵ trong dạ không khỏi bồi hồi.
*
* *
Không Trí tới trước mặt Thành Côn, quát hỏi:
– Viên Chân, mau ra lệnh thả phương trượng ngay. Lão phương trượng mà có mệnh hệ gì, thì tội trạng của ngươi càng lớn đó.
Thành Côn gượng cười:
– Đã đến nước này, tất cả phải cùng chết một lượt. Bây giờ dù ta có muốn thả Không Văn, thì cũng chẳng kịp. Ngươi không mù, sao không nhìn thấy lửa đã bốc cao?
Không Trí giật mình, quay đầu nhìn xuống bên dưới, quả nhiên thấy dưới chùa khói đen bốc lên, lưỡi lửa lem lém, vội kêu to:
– Đạt Ma đường cháy rồi! Mau mau xuống cứu hỏa!
Tăng chúng náo loạn một trận, chạy tứ tán xuống núi.
Bỗng thấy bốn phía xung quanh Đạt Ma đường đều có các vòi nước phun vào trông như các con rồng trắng, chẳng mấy chốc ngọn lửa đã bị dập tắt.
Không Trí chắp tay niệm Phật, nói:
– A Di Đà Phật, ngôi chùa Thiếu Lâm cổ kính thoát được kiếp nạn.
Lát sau có hai tăng nhân chạy lên bẩm báo:
– Khải bẩm sư thúc tổ, bọn phản nghịch thủ hạ của Viên Chân phóng hỏa đốt Đạt Ma đường, may nhờ các anh hùng trong Hồng Thủy kỳ của Minh giáo trượng nghĩa, đã dập tắt được rồi.
Không Trí tới trước mặt Trương Vô Kỵ, chắp tay vái, nói:
– Ngôi chùa Thiếu Lâm cổ kính ngàn năm thoát được hỏa kiếp, hoàn toàn là nhờ đại ân đại đức của Trương giáo chủ, tăng chúng bổn tự dù tan xương nát thịt cũng khó báo đền.
Trương Vô Kỵ hoàn lễ, nói:
– Việc đó đương nhiên phải làm, đại sư khỏi cần đa lễ.
Không Trí nói:
– Không Văn phương trượng bị bọn phản đồ nhốt trong Đạt Ma viện. Lửa dập tắt rồi, nhưng không biết sự an nguy của sư huynh ra sao. Trương giáo chủ và chư vị anh hùng chờ cho một chút, lão nạp phải xuống xem thế nào.
Thành Côn cười hô hố, nói:
– Trên người Không Văn bôi đầy dầu mỡ, lửa vừa cháy lên, thì y cháy trước. Hồng Thủy kỳ chỉ cứu được Đạt Ma viện, cứu sao nổi lão phương trượng.
Bỗng từ lưng chừng núi có tiếng nói vọng lên:
– Hồng Thủy kỳ cứu không nổi, thì còn có Hậu Thổ kỳ.
Chính là tiếng nói của Phạm Dao. Vừa nói xong đã thấy Phạm Dao cùng với chưởng kỳ sứ của Hậu Thổ kỳ là Nhan Viên chạy lên núi, hai người dìu một lão tăng, chính là phương trượng Không Văn của chùa Thiếu Lâm. Chỉ thấy cả ba người quần áo tả tơi, râu tóc bơ phờ, có chỗ bị lửa sém, trông lem luốc.
Không Trí chạy lại ôm chầm lấy Không Văn, nói:
– Sư huynh có sao không? Sư đệ bất tài, tội thật đáng chết vạn lần!
Không Văn mỉm cười, nói:
– Hoàn toàn nhờ có hai vị Phạm thí chủ và Nhan thí chủ từ dưới lòng đất chui lên cứu, nếu không ta và sư đệ chắc chẳng còn được gặp mặt nhau.
Không Trí kinh ngạc nói:
– Tài độn thổ của Hậu Thổ kỳ Minh giáo quả là thần diệu!
Ông quay sang thi lễ tạ ơn Phạm Dao và Nhan Viên, rồi nói:
– Phạm thí chủ, lão tăng trước đây vô lễ mạo phạm, xin thí chủ lượng thứ cho. Lời hẹn tới chùa Vạn An ở Đại Đô, lão nạp xin hủy bỏ.
Nhân sĩ võ lâm đã ước hẹn tỷ võ, nếu nuốt lời không đến, so với muối mặt chịu thua thì còn đáng hổ thẹn gấp bội. Không Trí vô cùng cảm kích đại ân của Phạm Dao mạo hiểm cứu sống sư huynh, nên mới tự nguyện hủy bỏ ước hẹn. Hai người vốn đã phục nhau, trải qua việc này, càng thấy tâm đầu ý hợp, từ đó thành bạn tâm giao.
Nguyên Thành Côn đã sắp đặt mọi sự đâu ra đấy từ trước. Đêm trước ngày khai mạc đại hội anh hùng, hắn xuất kỳ bất ý ra tay điểm huyệt Không Văn, đem ông nhốt vào Đạt Ma viện, trong viện chất đủ thứ lưu hoàng, củi cỏ dễ cháy, sai bọn tâm phúc canh giữ, ép Không Trí phải làm theo ý hắn trong mọi việc, nếu không hắn sẽ ra lệnh phóng hỏa thiêu chết Không Văn. Nhưng rồi sự việc không như hắn toan tính, khi tất cả đã thất bại, hắn còn nước cờ cuối cùng, truyền hiệu lệnh phóng hỏa. Hắn tính rằng quần hùng và tăng chúng sẽ hốt hoảng lo cứu hỏa, bọn thủ hạ tâm phúc sẽ thừa cơ cứu hắn xuống núi. Không ngờ đại đội nhân mã của Dương Tiêu kéo đến núi Thiếu Thất từ mấy hôm trước, đã sai Hậu Thổ kỳ đào một đường hầm thông vào bên trong chùa Thiếu Lâm, vốn định để cứu Tạ Tốn, nào hay Tạ Tốn lại không được nhốt ở trong chùa. Người của Hậu Thổ kỳ tìm mãi không ra, nhân dịp đó đã xóa hết dấu tích mười sáu chữ sau lưng các pho tượng La Hán.
Sau khi Trương Vô Kỵ liên thủ với Chu Chỉ Nhược phá vỡ “Kim cương phục ma khuyên”, đến lúc Thành Côn lộ mặt ra, trở mặt với Không Trí, thì Triệu Mẫn và Dương Tiêu liền nhìn ra manh mối. Hai người bàn bạc, nhờ Phạm Dao chỉ huy Hồng Thủy, Hậu Thổ hai kỳ theo địa đạo mà chui vào chùa cứu Không Văn. Có điều là Thành Côn bố trí cực kỳ bí mật, độc địa, trong ngoài Đạt Ma viện chất nhiều lưu hoàng, dầu củi, chỉ một mồi lửa sẽ cháy bùng lên, khiến cho năm giáo đồ của Hậu Thổ kỳ bị chết thiêu. Phạm Dao và Nhan Viên hai người cố xông vào cứu Không Văn ra, song ba người cũng bị cháy sém cả râu tóc, nếu không có đường hầm thoát hiểm, chắc đã thành tro cả rồi. Đạt Ma viện và vài gian tăng xá lân cận bị cháy, may chưa lan sang mấy nơi yếu địa như Đại Hùng bảo điện, Tàng kinh các, La Hán đường.
Không Văn, Không Trí bàn nhau một lát, truyền pháp chỉ bắt tất cả đồng đảng của Thành Côn đem nhốt vào hậu điện chờ lệnh sau. Thành Côn ở chùa Thiếu Lâm đã lâu, kết nạp đồ đảng thật không phải ít, nhưng tên đầu sỏ đã bị bắt và trở nên một kẻ vô dụng, phương trượng thì thoát hiểm; bọn đồng đảng của Thành Côn thấy đại thế đã mất, không một tên nào dám kháng cự. Thủ tọa La Hán đường chỉ huy tăng chúng áp giải bọn đó, tên nào tên nấy đầu cúi gầm, ủ rũ đi xuống núi.
Trương Vô Kỵ tới bên cạnh Tạ Tốn, chỉ gọi được hai tiếng “Nghĩa phụ!” nước mắt đã ròng ròng. Tạ Tốn cười, nói:
– Hài nhi ngốc nghếch của ta, nghĩa phụ của con may được ba vị cao tăng điểm hóa, đại triệt đại ngộ, bao nhiêu tội lỗi một đời đã được hóa giải hết, con phải mừng cho ta chứ, sao lại khổ sở như thế? Ta phế bỏ võ công thì có gì đáng tiếc, chẳng lẽ còn giữ để làm điều xằng bậy hay sao?
Trương Vô Kỵ không biết nói gì, trong lòng vẫn đau đớn, lại thốt lên:
– Nghĩa phụ!
Tạ Tốn tới trước mặt Không Văn, quỳ xuống, nói:
– Đệ tử tội nghiệt thâm trọng, mong phương trượng cho ở lại đây, xuống tóc tu hành.
Không Văn chưa kịp trả lời, Độ Ách nói:
– Ngươi hãy lại đây, lão tăng nhận ngươi làm đồ đệ.
Tạ Tốn nói:
– Đệ tử không dám mong được phúc duyên như thế.
Tạ Tốn bái Không Văn làm thầy, sẽ là đệ tử hàng chữ “Viên”, còn bái Độ Ách làm thầy, thì sẽ ở vào hàng chữ “Không”, được xưng hô huynh đệ với Không Văn, Không Trí.
Độ Ách nói:
– Không cố nhiên là không, Viên cũng là không, ngã tướng với nhân tướng, nào có gì khác nhau!
Tạ Tốn ngẩn ra, lập tức hiểu ngay, sư phụ đệ tử, hàng trên hàng dưới, pháp danh thứ tự đối với nhà Phật đều là hư ảo, bèn đọc luôn câu kệ:
– “Sư phụ là không, đệ tử là không, vô tội vô nghiệp, vô đức vô công!”
Độ Ách cười ha hả, nói:
– Thiện tai, thiện tai! Ngươi trở thành môn hạ của ta, tên ngươi vẫn là Tạ Tốn, ngươi hiểu chưa?
Tạ Tốn đáp:
– Đệ tử hiểu rồi. Tạ Tốn hay cục phân, cũng đều là hư ảnh, cái thân còn là không, huống hồ cái danh?
Tạ Tốn văn võ toàn tài, bách gia chư tử đều đã học, vừa được Độ Ách điểm hóa, lập tức ngộ ra tinh nghĩa Phật gia, từ đó đi vào cửa Phật, cuối cùng sẽ trở thành một cao tăng đại đức.
Độ Ách nói:
– Đi thôi, đi thôi! Mới ngộ được đạo, đừng nhập vào ma chướng!
Lão tăng dắt tay Tạ Tốn, cùng Độ Nạn, Độ Kiếp thong thả đi xuống núi. Không Văn, Không Trí, Trương Vô Kỵ cùng mọi người đứng lên cúi mình tiễn biệt. Kim Mao Sư Vương ba mươi năm trước lừng danh giang hồ, gây ra bao nhiêu chuyện kinh thế hãi tục, hôm nay thân nhập cửa thiền, quần hùng không khỏi cảm thán. Trương Vô Kỵ vừa hoan hỉ, vừa bi thương.
Không Văn nói:
– Chư vị anh hùng quang lâm tệ tự, nói ra thật hổ thẹn, tệ tự có nội biến, thật đáng trách, việc tiếp đãi không được chu đáo. Chư vị ở bốn phương, hôm nay tụ hội nơi đây, chưa biết bao giờ mới có dịp tái ngộ, xin mời vào chùa tạm nghỉ.
Quần hùng cùng xuống núi, vào chùa. Chùa Thiếu Lâm bày tiệc chay thết đãi, lập đàn cầu kinh siêu độ cho những người không may bỏ mạng trong kỳ đại hội này. Quần hùng lần lượt tới bàn thờ thắp nhang ai điếu.
Đại sự xong xuôi, Trương Vô Kỵ trong lòng còn nhiều điều chưa rõ; Tạ Tốn rời bỏ đột ngột như thế, nhiều chuyện chàng chưa hỏi cho tường tận, nhưng nghĩ rằng những điều đó đều có liên quan đến Chu Chỉ Nhược. Nghĩ đến tình xưa, thôi thì cũng chẳng nên làm sáng tỏ mọi nghi vấn, để khỏi tổn hại thanh danh của nàng. Dùng bữa xong, chàng cùng cô bé Sử Hồng Thạch và các vị trưởng lão Cái Bang bàn thảo đại sự của Cái Bang ở sương phòng phía tây, chợt có giáo đồ tới báo:
– Giáo chủ, Trương tứ hiệp phái Võ Đang đến, có việc cần thương nghị.
Trương Vô Kỵ cả kinh, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ có chuyện gì xảy ra với thái sư phụ chăng?” Chàng rảo bước tới đại điện, vái chào Trương Tòng Khê, thấy ông thần sắc không khác lạ, mới yên tâm, hỏi:
– Thái sư phụ vẫn mạnh khỏe chứ ạ?
Trương Tòng Khê nói:
– Sư phụ lão nhân gia người vẫn khỏe. Ta ở núi Võ Đang nghe được tin hai vạn quân thiết kỵ Thát tử đang tiến về hướng chùa Thiếu Lâm, thấy tình hình rõ ràng sắp bất lợi cho đại hội anh hùng, bởi vậy ta gấp rút đi suốt ngày đêm tới đây báo tin.
Trương Vô Kỵ nói:
– Vậy mình cần cho lão phương trượng biết ngay.
Hai người tức thời đến hậu viện, bẩm với Không Văn. Không Văn trầm ngâm, nói:
– Việc này quá lớn, cần cộng nghị với quần hùng.
Bèn lệnh cho kéo chuông, tụ tập tất cả mọi người ở Đại Hùng bảo điện.
Quần hùng nghe tin, lập tức xôn xao bàn tán. Những người hăng hái nói:
– Nhân lúc quần hùng thiên hạ tề tựu ở đây, mình hãy xuống núi đánh cho chúng trở tay không kịp.
Những người lão thành trầm tĩnh thì nói:
– Quân Nguyên điều động binh mã đây đó là chuyện rất thường, chưa chắc đã đến đây đánh ta.
Trương Tòng Khê nói:
– Tại hạ biết tiếng Mông Cổ, chính tai nghe quan quân Thát tử ra lệnh, đúng là đem quân tới vây đánh chùa Thiếu Lâm.
Thời đó Mông Cổ chiếm cứ Trung nguyên đã hơn trăm năm, số người Hán biết tiếng Mông Cổ không phải là ít. Trương Tòng Khê thông minh đa trí, nghe hiểu nhiều thổ ngữ, nói tiếng Mông Cổ rất lưu loát.
Không Văn nói:
– Chư vị anh hùng, xem ra triều đình biết chúng ta tụ tập ở đây, đoán chừng gây khó dễ cho triều đình, nên điều binh đến trấn áp. Chúng ta ai ai cũng biết võ công, không sợ gì Thát tử, tục ngữ có câu “binh đến tướng ngăn, nước dâng đất chặn”, có gì đáng ngại…
Ông chưa dứt lời, nhiều người đã đứng dậy hoan hô, song Không Văn nói tiếp:
– Có điều chúng ta là hào sĩ giang hồ, chỉ quen đơn đả độc đấu, tỷ thí không phải chỉ dùng binh khí quyền cước, mà còn sử dụng cả nội công ám khí. Việc giao chiến bằng trường thương đại kích, lên ngựa xuống ngựa, hoàn toàn không phải là sở trường của chúng ta. Theo ý lão nạp, chư vị anh hùng nên giải tán ngay có hơn chăng?
Mọi người nhìn nhau, im lặng.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nếu chúng ta giải tán đi, một là bọn Thát tử sẽ tưởng chúng ta sợ chúng, khiến chúng hung hăng thêm; hai là các sư phụ trong chùa Thiếu Lâm sẽ ra sao?
Không Văn mỉm cười, nói:
– Quân Nguyên vào chùa, thấy toàn tăng nhân, chẳng có hào sĩ giang hồ nào cả, chắc sẽ chẳng làm gì được. Cái đó gọi là đến thì hăm hăm hở hở, đi thì như chó cụp đuôi.
Quần hùng biết sở dĩ Không Văn nói thế chỉ vì hảo ý với mọi người. Đại hội anh hùng kỳ này là do chùa Thiếu Lâm triệu tập, không muốn vì thế mà gây họa, khiến quần hùng phải đổ máu trên núi Thiếu Thất này. Nhưng quần hùng đều là những người có nhiệt huyết, gặp địch lẽ nào chịu rút lui? Huống hồ triều đình đã cử đại quân đến, hẳn sẽ không vì bắt hụt mà yên ổn rút về, thế nào cũng quấy phá chùa Thiếu Lâm, không chừng còn giết sạch, bắt hết tăng nhân, phóng hỏa đốt chùa. Quân Nguyên vốn bạo ngược, giết người đốt nhà đã thành chuyện cơm bữa.
Dương Tiêu nói:
– Quân Mông Cổ bạo ngược, phàm người Hán chúng ta đều phải có trách nhiệm chống địch. Theo ý tại hạ, chúng ta nên tìm cách dụ cho bọn Thát tử đi đường khác, tìm chỗ khác đánh cho chúng một trận, để ngôi chùa cổ kính này khỏi bị họa binh lửa.
Quần hùng ồn ào tán thành:
– Đúng là như thế!
Còn đang nghị luận, bỗng ngoài cổng chùa có tiếng vó ngựa dồn dập, hai hán tử phóng ngựa tới. Họ được tri khách tăng dẫn vào trong điện. Quần hùng nhìn trang phục của họ, biết ngay là giáo đồ Minh giáo. Hai người tới trước mặt Trương Vô Kỵ cúi mình hành lễ, một người nói:
– Khải bẩm giáo chủ, đội tiên phong của Thát tử năm ngàn quân đang tiến tới chùa Thiếu Lâm, nói là chư vị sư phụ trong chùa tụ tập làm phản, nên sẽ san bằng Thiếu Lâm tự. Hễ ai trọc… trọc… Không Văn mỉm cười:
– Ngươi định nói là hòa thượng trọc đầu phải không? Thì cứ nói, đừng ngại.
Người kia nói tiếp:
– Dọc đường có nhiều vị đại hòa thượng đã bị Thát tử giết hại. Bọn Thát tử bảo rằng “Bọn hòa thượng trọc đầu đều xấu xa, bọn để tóc cũng không tốt, thấy kẻ nào mang binh khí cứ việc giết luôn”.
Nhiều người nhao nhao lên, nói:
– Không sống mái một phen với bọn Thát tử thì không đáng là con cháu Hoàng Đế.
Bấy giờ nhà Tống đã mất ngôi gần trăm năm, nhưng anh hùng lục lâm trước sau vẫn coi quan binh Mông Cổ là bọn thiểu số mọi rợ, không chịu sự quản thúc của chúng. Lúc này nghe tin quân Mông Cổ kéo đến chém giết, thì ai nấy nhiệt huyết bừng bừng, đều muốn vùng lên đánh giặc.
Trương Vô Kỵ dõng dạc nói:
– Chư vị anh hùng, hôm nay chính là lúc giết giặc đền nợ nước của nam tử hán. Đại hội anh hùng Thiếu Lâm tự từ nay nổi danh thiên thu!
Trong đại điện tiếng hoan hô vang động hồi lâu.
Trương Vô Kỵ nói tiếp:
– Chúng ta có muốn rút lui cho yên lành cũng không được nữa rồi, vậy xin Không Văn phương trượng đứng ra chỉ huy, Minh giáo chúng tôi trên dưới xin được vâng lệnh.
Không Văn nói:
– Sao Trương giáo chủ lại nói như vậy? Tăng chúng tệ phái tuy từng học quyền cước, nhưng hành quân đánh trận thì chẳng biết gì. Mấy năm qua Minh giáo gây dựng đại sự nghiệp, người trên giang hồ ai mà không biết? Chỉ giáo chúng Minh giáo mới đủ sức kháng cự bọn Thát tử. Chúng tôi xin đề cử Trương giáo chủ đứng ra chỉ huy hào kiệt thiên hạ chống lại bọn Thát tử.
Trương Vô Kỵ định từ chối, thì quần hùng đã hò reo ủng hộ. Trương Vô Kỵ tuy tuổi còn trẻ, chưa đủ để người ta tuân phục; song võ công cao cường, mới rồi đấu với Thiếu Lâm tam tăng, người người đều thấy; hơn nữa, các lộ nhân mã của Minh giáo, như Hàn Sơn Đồng, Từ Thọ Huy, Chu Nguyên Chương… nổi lên tại khắp vùng Hoài Tứ, Dự Ngạc, đánh thành chiếm đất, thanh thế lên mạnh. Hôm qua Ngũ Hành kỳ đại hiển tài nghệ ở sân bãi, xem ra khả năng chiến đấu đông người của họ không môn phái nào sánh nổi. Hào sĩ các môn phái, bang hội đều nghĩ rằng trừ Minh giáo ra, quả thật không ai đủ tài năng đảm nhiệm việc lớn này.
Trương Vô Kỵ nói:
– Việc điều binh khiển tướng không phải là sở trường của tại hạ, xin chư vị tiến cử người hiền năng khác thì hơn.
Chàng đang khiêm nhường, bỗng nghe dưới chân núi nhiều tiếng la hét nổi lên. Hai nhà sư Thiếu Lâm chạy vào đại điện báo tin:
– Khải bẩm phương trượng, quân Mông Cổ đang đánh lên chùa.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nhuệ Kim kỳ, Hồng Thủy kỳ, hai kỳ ra chặn địch trước. Chu Điên tiên sinh, Thiết Quan đạo trưởng, mỗi vị giúp cho một kỳ.
Chu Điên và Thiết Quan đạo nhân vâng lệnh chạy ra. Lúc này tình thế khẩn cấp, không cho phép Trương Vô Kỵ khước từ, chàng chỉ còn cách tiếp tục ra lệnh:
– Thuyết Bất Đắc đại sư, đại sư hãy mang thánh hỏa lệnh đi các vùng lân cận điều động lực lượng bản giáo đến đây cứu viện.
Thuyết Bất Đắc nhận lệnh đi liền.
Quần hùng trong đại điện nghe tin quân Nguyên đang đánh lên chùa, ai nấy rút binh khí, ào ào xông ra.
Dương Tiêu nói nhỏ:
– Giáo chủ, nếu giáo chủ không ra lệnh, mọi người sẽ loạn cả lên, như thế thì bại trận mất.
Trương Vô Kỵ gật đầu, ra khỏi điện, tới sơn đình ở lưng núi quan sát, thấy hơn một ngàn quân tiên phong của Mông Cổ đánh lên lưng núi đã bị Nhuệ Kim kỳ dùng nỏ cứng giáo dài đánh bật xuống. Nhìn xa xa, từng tốp từng tốp quân Nguyên đang bò lên như rắn rất có hàng lối. Hiện giờ đã xa hẳn cái thời Thành Cát Tư Hãn và Bạt Đô uy chấn thiên hạ, song quân thiết kỵ Mông Cổ được huấn luyện đúng cách, vẫn là đội quân tinh nhuệ có một không hai trên thế gian.
Bỗng nghe phía bên trái nhiều tiếng kêu la ầm ỹ, khá đông ni cô và một số nam nhân chạy lên núi, chính là người của phái Nga Mi, chắc hẳn khi xuống núi đã gặp quân Mông Cổ đánh đuổi nên phải chạy ngược trở lại. Chừng mười mấy hán tử khiêng một cái cáng, bị quân Mông Cổ vây chặt; Chu Chỉ Nhược chỉ huy bọn Tĩnh Huyền, Tĩnh Chiếu mấy phen cố xông vào, tuy giết được vài chục quan binh Mông Cổ, song vẫn không cứu được đồng môn đang bị vây hãm.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hỏng rồi! Người nằm trên cáng chắc là Tống sư ca!” Bèn gọi to:
– Hồng Thủy kỳ, Liệt Hỏa kỳ yểm hộ, Dương Phạm nhị sứ, Vi huynh, hãy theo ta cứu người!
Rồi phóng xuống trước. Hai tên lính Mông Cổ cầm mâu xông tới. Trương Vô Kỵ chộp một cây mâu, vận kình hất một cái, cả hai tên lính lăn xuống núi. Trương Vô Kỵ sử dụng hai cây mâu, xông vào quân địch như rồng ra biển. Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành Oánh Ngọc chạy theo sau, quân Mông Cổ chạy tán loạn, bỏ tốp người của phái Nga Mi ở lại phía sau. Phạm Dao đấm một quyền vỡ mặt một tên thập phu trưởng của quân Nguyên, cướp lấy người bị thương nằm trên cáng, quay đầu chạy lên núi.
Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược người vấy máu, lại xông vào trận địa quân Nguyên, bèn gọi:
– Chỉ Nhược, Chỉ Nhược, Tống sư ca đã cứu được rồi.
Chu Chỉ Nhược như không nghe thấy, vẫn múa trường tiên đánh về phía trước, nhưng vì sơn đạo nhỏ hẹp, lại đông người, nên nhất thời chưa vượt tới được.
Trương Vô Kỵ thấy còn hai đệ tử phái Nga Mi khiêng một cái cáng khác, ở trong vòng vây quân Nguyên, đang cố vung đao tử chiến, thì nghĩ thầm: “Xem chừng trên cái cáng kia mới là Tống sư ca”. Chàng nhún mình nhảy tới, hai thanh trường mâu chống lên vách núi, dùng tay thay chân, lướt nhanh tới như đi bằng cà kheo. Còn cách hơn một trượng, thì hai đệ tử phái Nga Mi kẻ trúng đao, người trúng tên, đều ngã lăn xuống núi.
Trương Vô Kỵ phi thân tới, tay trái giơ trường mâu ra đỡ không để cái cáng rơi xuống, thấy người nằm trên cáng quấn đầy vải trắng, chỉ lộ khuôn mặt, chính là Tống Thanh Thư. Trương Vô Kỵ quẳng cây mâu, ôm hắn lên tay, thấy thân thể y sao nặng dị thường, bên trong lớp vải thấy cứng ngắc, tựa hồ bọc theo vật gì khác. Chàng không kịp nghĩ, chỉ sợ làm xê dịch những chỗ xương gãy, vội lạng trái né phải, tránh đao kiếm của quân Nguyên, ôm Tống Thanh Thư chạy lên núi.
Lúc đó, Đường Văn Lượng và Tông Duy Hiệp phái Không Động cùng xông tới, cầm kiếm yểm hộ hai bên cho chàng. Quân Nguyên bị kiếm đâm chém giạt ra. Trương Vô Kỵ bế Tống Thanh Thư lên núi bình an.
Vài trăm quân Nguyên dàn đội hình xông lên. Bành Oánh Ngọc hô to:
– Liệt Hỏa kỳ ra tay!
Giáo chúng Liệt Hỏa kỳ dùng ống phun dầu thô rồi bắn hỏa tiễn, lửa bốc cháy đùng đùng, hơn hai trăm tên địch đi trước biến thành những quả cầu lửa lăn xuống núi. Ở mé bên kia, Hồng Thủy kỳ cũng phun nước độc xuống, hàng trăm quân Nguyên bị trúng, chết thật thảm khốc. Tên vạn phu trưởng quân Nguyên hạ lệnh thu binh, đội tiên phong của địch đổi thành đội chặn hậu, giơ cung bắn chặn, chậm rãi rút xuống núi. Bành Oánh Ngọc than:
– Quân Mông Cổ bại trận mà không loạn, đúng là tinh binh trong thiên hạ.
Quân địch rút xuống chân núi thì tản ra thành hình nan quạt, xem chừng nhất thời chưa dám tái chiến.
Trương Vô Kỵ hạ lệnh:
– Nhuệ Kim, Hồng Thủy, Liệt Hỏa ba kỳ trấn giữ các nơi hiểm yếu. Cự Mộc, Hậu Thổ hai kỳ mau chặt cây, đào đất, dựng rào đắp lũy đề phòng quân địch đánh lên.
Các chưởng kỳ sứ của Ngũ Hành kỳ nhất tề tuân lệnh, chỉ huy thuộc hạ bố phòng.
Quần hùng thoạt đầu cứ tưởng nếu không giết sạch quân Nguyên, chỉ tự bảo vệ thân mình, thì chẳng có gì khó. Nhưng sau một trận giao phong, mới biết việc bày binh bố trận khác hẳn chuyện tỷ thí võ nghệ một chọi một. Khi hàng ngàn hàng vạn người ào lên tấn công như nước vỡ bờ, người võ công có cao cường như Chu Chỉ Nhược, lúc ấy cũng chẳng có cách gì thi thố tài năng. Bốn phía chỗ nào cũng tua tủa đao thương kiếm kích, đâm chém loạn xạ, bao nhiêu phép tắc hóa giải chiêu số, nội công ngoại kình từng học đều không thể vận dụng. Nếu không nhờ Ngũ Hành kỳ của Minh giáo dùng trận pháp ngăn chặn trận pháp của địch, thì lúc này núi Thiếu Thất chắc đã thê thảm hết chỗ nói, chùa Thiếu Lâm chắc đã bị đốt cháy thành tro rồi.
Mặc dù tăng chúng Thiếu Lâm có kỷ luật, từng đội tăng nhân trẻ tuổi cầm giới đao, thiền trượng, dưới quyền chỉ huy của các tăng nhân đứng tuổi, chia nhau trấn giữ các nơi hiểm yếu, song quả bất địch chúng, làm sao chống đỡ nổi đòn tấn công của hai vạn tinh binh Mông Cổ? Đến khi quân Nguyên lui binh, quần hùng mới nhao nhao bàn luận, hiểu vì sao tiền triều có rất nhiều anh hùng hào kiệt võ công cao cường, nhưng lại để giang sơn gấm vóc rơi vào tay bọn Thát tử.
*
* *
Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng đặt Tống Thanh Thư xuống đất, thăm mũi, thấy vẫn thở, quay đầu định gọi Chu Chỉ Nhược, song không thấy nàng đâu, bèn hỏi:
– Tống phu nhân đâu rồi?
Mọi người vừa rồi lo đánh trả quân Nguyên, không ai để ý xem Chu Chỉ Nhược đi đâu. Các đệ tử phái Nga Mi lúc này cũng bớt mấy phần căm hận đối với Minh giáo, đều nói họ không thấy vị chưởng môn đâu cả. Trương Vô Kỵ sợ Tống Thanh Thư trong cơn hỗn loạn có thể bị thương, bèn cởi các băng vải quấn người hắn ra xem sao.
Trên người hắn quấn ba lớp vải trắng, lúc cởi đến lớp thứ ba, thì loảng xoảng rơi ra bốn đoạn binh khí gãy.
Trương Vô Kỵ cả kinh, kêu lên:
– Đao Đồ Long, kiếm Ỷ Thiên!
Mọi người cùng ùa tới, thấy hai món binh khí cực kỳ lợi hại kia đều đã gãy đôi.
Trương Vô Kỵ cầm một nửa thanh đao Đồ Long lên xem, thấy nó rất nặng, thì trong lòng trào dâng bao cảm xúc lẫn lộn. Cha mẹ chàng vì thanh đao này mà bỏ mạng, ngót hai mươi năm sóng gió liên miên trên giang hồ cũng là vì nó cả. Quần hùng tụ tập ở chùa Thiếu Lâm lần này, cũng là vì thanh bảo đao. Đến lúc bảo đao xuất hiện, thì nó đã gãy, hóa thành vô dụng. Chàng cầm cây đao gãy, thấy chỗ gãy có lỗ hổng, có thể giấu vật gì đó bên trong. Kiếm Ỷ Thiên cũng y như thế. Cả đao lẫn kiếm đều có chỗ rỗng, nếu bên trong giấu vật gì, thì vật đó đã bị người ta lấy mất rồi.
Dương Tiêu thở dài, nói:
– Võ công kinh người của Chu cô nương thì ra là từ trong đao kiếm này mà nên.
Trương Vô Kỵ thấy đao kiếm gãy như thế, thì hiểu ngay: cái đêm trên hòn đảo nhỏ, đao kiếm cùng bị mất, chính là bị Chu Chỉ Nhược lấy trộm. Không biết nàng dùng thủ đoạn gì mà đuổi được Triệu Mẫn, rạch mặt Ân Ly, rồi đem đao kiếm chém vào nhau, khiến cả hai thứ binh khí sắc bén nhất thiên hạ đều bị hủy, nàng ta đã lấy bí kíp võ công giấu trong đao kiếm ra mà bí mật tu luyện.
Chàng càng nghĩ càng hiểu rõ: “Phải rồi, hồi ấy trên hòn đảo nhỏ ta dùng “Cửu dương thần công” trừ độc cho nàng, trong cơ thể nàng cứ có một luồng nội lực quái dị ngầm chống lại ta, càng về sau luồng nội lực ấy càng mạnh, chứng tỏ nội công của nàng được tu luyện ngày càng tăng tiến. Ôi, nàng muốn luyện gấp cho xong, không chịu tập luyện nội công một cách căn cơ, chỉ luyện toàn công phu âm độc, nên cuối cùng không thể đạt tới cảnh giới thượng thừa của võ học. Nàng tuy đánh bại được Du nhị bá và Ân lục thúc, song chỉ là nhờ chiêu số võ công quái dị mà thắng, giống như ba sứ giả Ba Tư thắng ta lần đầu vậy. Võ công chân chính của Chu Chỉ Nhược so với hai vị Du, Ân thì còn thua xa, mai sau còn giao đấu ắt sẽ bỏ mạng dưới tay Võ Đang nhị hiệp”.
Chàng còn đang ngẫm nghĩ, thì chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ là Ngô Kình Thảo bước tới, nói:
– Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ vốn xuất thân thợ rèn, từng học qua phép rèn đao kiếm; để thuộc hạ làm thử, không chừng có thể nối lại bảo đao bảo kiếm như cũ.
Dương Tiêu vui mừng nói:
– Thuật rèn kiếm của Ngô kỳ sứ thiên hạ vô song, xin giáo chủ cứ để y thử xem sao.
Trương Vô Kỵ gật đầu, nói:
– Hai thứ vũ khí sắc bén này bị gãy, quả thật đáng tiếc. Ngô kỳ sứ nối lại được thì hay lắm.
Ngô Kình Thảo quay sang nói với chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa kỳ Tân Nhiên:
– Rèn đao đúc kiếm, cốt yếu là ở sức lửa, vậy phải nhờ Tân huynh giúp cho một tay. Tình hình này, xem ra bọn Thát tử chưa đánh lên núi đâu, chúng ta bắt tay làm luôn được chứ?
Tân Nhiên cười đáp:
– Gì chứ nhóm củi đốt lửa là sở trường của đệ mà.
Thế là hai người chỉ huy thuộc hạ đắp một cái lò cao, đường kính miệng lò chưa đầy một thước. Ngô Kình Thảo lấy nửa thanh đao Đồ Long đặt vào trong lò, chỗ gãy ở gần miệng lò. Nhiên liệu của Liệt Hỏa kỳ đã chuẩn bị sẵn, chẳng mấy chốc lửa cháy đùng đùng. Ngô Kình Thảo đã mất cánh tay phải, chỉ còn cánh tay trái. Y đặt bên cạnh mười mấy loại binh khí khác nhau, mắt chăm chú theo dõi lửa trong lò, mỗi khi thấy lửa biến màu, lại ném một thứ binh khí vào lò để thử sức nóng. Đến lúc lửa từ màu xanh biến thành màu trắng, y tay trái cầm kìm, kẹp nửa thanh đao Đồ Long còn lại mà chắp nối với đầu bên kia để nung chảy. Nửa thân trên y để trần, tàn lửa bắn văng tung tóe, song y như không cảm thấy, chỉ chăm chú vào công việc. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Rèn đao kiếm tuy là nhỏ, song phải có nhiều kiến thức, có tài nghệ lớn mới làm nổi. Loại thợ rèn tầm thường, thì chỉ chịu nóng không thôi cũng chẳng nổi”.
Bỗng nghe “hịch hịch” hai tiếng, hai người kéo bễ của Liệt Hỏa kỳ ngã lăn ra bất tỉnh. Tân Nhiên và phó kỳ sứ liền chạy lại thay thế, tự tay kéo bễ. Hai người có nội công khá, sử kình quạt gió vào lò đều và mạnh, lửa bốc lên cao cả trượng, trông rất đẹp mắt.
Chừng tàn nửa nén nhang, Ngô Kình Thảo bỗng kêu lên:
– Ái chà!
Rồi nhảy về phía sau, mặt đầy vẻ thất vọng. Mọi người kinh ngạc nhìn kỹ, thấy cây kìm trong tay y đã méo mó biến dạng vì sức nóng, trong khi thanh đao Đồ Long vẫn nguyên xi. Ngô Kình Thảo lập tức, nói:
– Thuộc hạ bất tài. Thanh đao Đồ Long này quả danh bất hư truyền.
Tân Nhiên và viên phó kỳ sứ tạm ngưng kéo bễ, lùi sang một bên. Hai người áo quần ướt sũng mồ hôi, tưởng như từ dưới nước leo lên không bằng.
Triệu Mẫn bỗng nói:
– Vô Kỵ ca ca, thanh đao Đồ Long chặt không đứt thánh hỏa lệnh, phải vậy không?
Trương Vô Kỵ nói:
– Đúng rồi!
Có sáu tấm thánh hỏa lệnh, chàng đã giao một tấm cho Thuyết Bất Đắc mang đi điều binh, chỉ còn năm, bèn lấy ra, đưa cho Ngô Kình Thảo, nói:
– Đao kiếm không hàn lại được thì cũng chẳng sao. Thánh hỏa lệnh là bảo vật của bổn giáo, đừng để bị hủy hoại.
Ngô Kình Thảo cúi mình tiếp nhận, nói:
– Xin vâng lệnh!
Y thấy năm tấm thánh hỏa lệnh không phải bằng vàng hoặc bằng sắt, cứng rắn vô cùng, nặng chình chịch, nên cúi đầu ngẫm nghĩ.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nếu thấy không ăn chắc, thì đừng mạo hiểm.
Ngô Kình Thảo không trả lời, hồi lâu mới như bừng tỉnh, nói:
– Thuộc hạ có gì kém cỏi, thì xin giáo chủ lượng thứ. Thánh hỏa lệnh này là bạch kim huyền thiết trộn với bột kim cương đúc nên, sức lửa cực nóng cũng không nung chảy được. Thuộc hạ chỉ hồ nghi, không biết khi xưa làm sao họ đúc được, nên nhất thời chưa nghĩ ra thôi.
Triệu Mẫn liếc Trương Vô Kỵ, mỉm cười:
– Sau này giáo chủ có dịp sang Ba Tư gặp một nhân vật quan trọng, lúc ấy Ngô huynh hãy tháp tùng sang đó mà hỏi các tay thợ đúc tài giỏi của họ.
Trương Vô Kỵ ngượng ngùng nói:
– Ta sang Ba Tư để làm gì?
Triệu Mẫn mỉm cười:
– Để làm gì thì tự biết.
Rồi nàng quay sang nói với Ngô Kình Thảo:
– Ngô huynh xem, trên thánh hỏa lệnh còn có khắc hoa văn và chữ nữa. Sắc bén như thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên mà không làm cho tấm thánh hỏa lệnh suy suyển chút nào, thế thì họ làm cách gì để khắc được các đường nét văn tự ấy cơ chứ?
Ngô Kình Thảo nói:
– Muốn khắc các đường nét văn tự thì không khó. Chỉ cần dùng sáp trắng phủ lên trên thánh hỏa lệnh, khắc hoa văn và các chữ lên trên sáp, đổ nước cường toan vào để vài tháng sẽ ăn mòn. Sau đó cạo sáp đi, hình và chữ sẽ hiện ra. Tiểu nhân chỉ không hiểu cách nung đúc của họ mà thôi.
Tân Nhiên nói:
– Này, có định làm không đây?
Ngô Kình Thảo nói với Trương Vô Kỵ:
– Giáo chủ đừng lo. Liệt hỏa của Tân huynh tuy ghê gớm, nhưng không làm suy suyển nổi thánh hỏa lệnh đâu.
Tân Nhiên cảm thấy lo lo, nói:
– Đệ chỉ lo hết sức quạt lửa, còn chuyện làm hỏng thánh vật của bản giáo, thì đệ không chịu tội đâu đấy.
Ngô Kình Thảo mỉm cười, nói:
– Chỉ sợ huynh không đủ sức quạt lửa, còn mọi việc có gì đệ chịu hết.
Rồi lấy hai tấm thánh hỏa lệnh kẹp nửa thanh đao Đồ Long, sau đó dùng cây kim mới kẹp hai tấm thánh hỏa lệnh mà đưa bảo đao vào trong lò nung lần nữa.
Lửa bốc càng lúc càng cao, nung đến hơn nửa canh giờ, chỉ thấy Ngô Kình Thảo, Tân Nhiên và phó kỳ sứ của Liệt Hỏa kỳ bị sức nóng của lò lửa táp lại, trông thần sắc đã rất mệt mỏi, uể oải, xem chừng không thể chịu đựng thêm.
Thiết Quan đạo nhân Trương Trung đưa mắt ra hiệu cho Chu Điên, phất tay trái một cái, cả hai cùng chạy vào kéo bễ thay cho Tân Nhiên và phó kỳ sứ của Liệt Hỏa kỳ. Trương, Chu hai người nội lực so với hai người kia cao hơn hẳn, cho nên lửa trong lò bốc thẳng lên thành luồng màu trắng.
Ngô Kình Thảo bỗng quát to:
– Cố huynh, ra tay!
Phó kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ tay cầm một con dao nhọn, chạy tới bên lò, loáng một vệt trắng, dùng con dao ấy đâm luôn vào ngực Ngô Kình Thảo. Quần hùng đứng chung quanh không khỏi thất sắc, cùng kêu lên. Máu từ bộ ngực trần của Ngô Kình Thảo phun tung tóe vào thanh đao Đồ Long trong lò, gặp nóng lập tức hóa thành khói xanh khét lẹt. Ngô Kình Thảo reo to:
– Thành rồi!
Y lùi mấy bước, ngồi bệt xuống đất, tay phải cầm một thanh đại đao đen nặng. Quả nhiên hai đoạn của thanh đao Đồ Long đã liền lại với nhau.
Mọi người bây giờ mới biết, thợ giỏi luyện đao kiếm mà không thành, thường thường phải nhỏ máu vào. Thời cổ vợ chồng Can Tương, Mạc Tà thậm chí phải nhảy vào lò, mới đúc nên bảo kiếm vô song. Ngô Kình Thảo làm thế, chính là bắt chước các nghệ nhân lớn thời cổ.
Trương Vô Kỵ vội đỡ Ngô Kình Thảo lên, xem xét vết thương, thấy dao đâm không sâu, không đáng ngại; bèn lấy thuốc rịt vào, băng lại, nói:
– Ngô huynh hà tất phải làm như thế? Đao này hàn được hay không chẳng quan trọng, đâu đáng để Ngô huynh chịu khổ như vậy?
Ngô Kình Thảo nói:
– Vết thương nhỏ ngoài da thịt, đâu có đáng để giáo chủ phải bận tâm.
Y đứng dậy, cầm thanh đao Đồ Long lên ngắm, thấy liền lại không một dấu vết, chỉ lờ mờ lằn máu nhỏ, thì vô cùng đắc ý.
Trương Vô Kỵ xem lại hai tấm thánh hỏa lệnh bị nung trong lò lửa, thấy quả nhiên không suy tổn mảy may. Chàng cầm lấy thanh đao Đồ Long chém một cái vào hai cây trường mâu cướp được của quân Nguyên, “xoẹt” một tiếng nhỏ, trường mâu bị chặt đứt liền, đúng là chém sắt như bùn.
Quần hùng reo hò tán thưởng:
– Đao thế mới là đao!
Ngô Kình Thảo cầm hai nửa thanh kiếm Ỷ Thiên lên, nghĩ đến chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ Trang Tranh cùng mấy chục huynh đệ đã bỏ mạng bởi lưỡi kiếm này, thì không nhịn nổi, ứa nước mắt, nói:
– Bẩm giáo chủ, thanh kiếm này đã sát hại Trang đại ca, giết hại không ít huynh đệ của bản giáo, Ngô Kình Thảo này hận nó tận xương tủy, đành để giáo chủ trị tội chứ không muốn nối nó lại.
Nói đoạn khóc òa lên.
Trương Vô Kỵ nói:
– Đó là nghĩa khí của Ngô huynh, đâu có tội gì?
Chàng cầm hai khúc kiếm gãy, đến trước mặt Tĩnh Huyền phái Nga Mi, nói:
– Kiếm này vốn là của quý phái, vậy xin gửi sư thái để chuyển giao lại cho Chu… cho Tống phu nhân.
Tĩnh Huyền lẳng lặng cầm hai khúc kiếm gãy.
Trương Vô Kỵ cầm thanh đao Đồ Long, nghĩ một chút, rồi nói với Không Văn:
– Phương trượng, thanh đao này là do nghĩa phụ tại hạ lấy được, hiện giờ ông đã quy y tam bảo, thuộc về phái Thiếu Lâm, vậy đao này để phái Thiếu Lâm chấp chưởng.
Không Văn xua tay lia lịa:
– Thanh đao này đã mấy lần đổi chủ, cuối cùng chính Trương giáo chủ cướp được từ đám thiên binh vạn mã, ai ai cũng chứng kiến, lại do Ngô đại ca của quý giáo phục nguyên như cũ. Huống hồ hôm nay anh hùng thiên hạ đều suy cử Trương giáo chủ làm võ lâm chí tôn, luận tài luận đức, luận cả cội nguồn, danh vị, thanh đao này phải do Trương giáo chủ chưởng quản thì mới hợp với thiên kinh địa nghĩa.
Quần hùng nhất tề phụ họa, nói:
– Mọi người đều mong thế, Trương giáo chủ xin đừng từ chối.
Trương Vô Kỵ đành giữ thanh đao, nghĩ thầm: “Nếu như nhờ có thanh đao này mà hiệu lệnh được hào kiệt võ lâm thiên hạ, chung sức đánh đuổi bọn Thát tử, thì đấy chính là đại sự trước nhất phải làm”. Chỉ nghe mọi người nhao nhao nói:
– Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng!
Tiếp theo còn hai câu nữa là “Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?” thì không ai nhắc đến, vì thấy thanh kiếm đã gãy, không thể nối lại được nữa.
Người trong Nhuệ Kim kỳ của Minh giáo căm hận kiếm Ỷ Thiên, giờ thấy thanh đao Đồ Long đã được phục hồi như xưa, còn kiếm Ỷ Thiên chỉ là hai khúc kiếm gãy, thì ai nấy đều hả dạ.
*
* *
Mọi người bận rộn cả nửa ngày, đều đã đói bụng. Ngũ Hành kỳ của Minh giáo cùng một nửa tăng chúng Thiếu Lâm chia nhau trấn giữ các nơi hiểm yếu, số còn lại lên chùa dùng cơm chay.
Trời sắp tối, Trương Vô Kỵ leo lên một cây cao, nhìn xuống chân núi, thấy quân Nguyên tụm lại thành từng đám, nổi lửa nấu ăn. Chàng nhảy xuống đất, nói với Vi Nhất Tiếu:
– Vi huynh, sau khi trời tối hẳn, nhờ Vi huynh đi do thám một chuyến, xem đêm nay địch có tấn công hay không?
Vi Nhất Tiếu nhận lệnh ra đi.
Dương Tiêu nói:
– Giáo chủ, thuộc hạ thấy bọn Thát tử ở mặt trước đã thua một trận, đêm nay chắc chúng không tấn công lần nữa, có phòng bị là đề phòng địch tập kích ở mặt sau.
Trương Vô Kỵ nói:
– Đúng thế. Nhờ Dương tả sứ và Phạm hữu sứ ở đây trấn thủ, bản nhân ra sau núi xem thế nào.
Triệu Mẫn nói:
– Cho muội theo với.
Hai người tới ngọn núi từng nhốt Tạ Tốn, nhìn xuống đằng sau núi Thiếu Thất, không thấy động tĩnh gì. Trương Vô Kỵ xoa xoa ba cây tùng đổ, nhìn xuống cửa địa lao đen ngòm, nhớ lại trận kịch chiến hôm nay, thực là muôn phần hung hiểm. Đột nhiên chàng nhớ ra một chuyện, nghĩ thầm: “Nghĩa phụ bảo ta nhìn vách địa lao, chút nữa thì quên mất”, bèn nói:
– Muội ở trên này canh chừng, ta xuống dưới địa lao xem thế nào.
Chàng nhảy xuống địa lao, lấy đồ đánh lửa lên, lúc này trong hầm đá, nước đã rút, chỉ còn lõm bõm dưới chân. Cả bốn bức vách đều khắc hình vẽ bằng cách dùng đá nhọn mà vạch, đường nét rất đơn giản, song thần thái rất sinh động. Bức vẽ thứ nhất trên vách phía đông, vẽ ba thiếu nữ, một nàng nằm dưới đất, một nàng quỳ bên cạnh săn sóc, còn nàng thứ ba thò tay vào bọc của người đang quỳ, bên cạnh đề hai chữ “Trộm thuốc”.
Bức vẽ thứ hai trên vách phía nam, vẽ một chiếc thuyền, một thiếu nữ quẳng một thiếu nữ khác lên thuyền, bên cạnh đề hai chữ “Đuổi đi”. Trương Vô Kỵ vã mồ hôi, nghĩ thầm: “Hóa ra đúng như thế thật. Chỉ Nhược thừa lúc Mẫn muội đang săn sóc cho biểu muội, đã lấy trộm ‘Thập hương nhuyễn cân tán” trong bọc của nàng, bỏ vào đồ ăn thức uống, sau đó ném Triệu Mẫn lên hải thuyền Ba Tư, buộc họ phải chạy đi. Tại sao Chu Chỉ Nhược lại không giết Triệu Mẫn nhỉ? Ồ, nếu giết Triệu Mẫn, không hủy được thi thể của Triệu Mẫn, thì làm sao có thể giá họa cho nàng, như vậy, biểu muội bị hại cũng chính là bởi tay Chu Chỉ Nhược”.
Ở góc trái bên dưới còn vẽ thêm hai nam nhân, một ngủ rất say, một người tóc dài dỏng tai nghe ngóng. Trương Vô Kỵ thầm kinh ngạc: “Thì ra Chu Chỉ Nhược làm những việc thương thiên hại lý ấy, nghĩa phụ đều nghe biết cả. Lão nhân gia công phu hàm dưỡng thật cao siêu, hồi ở trên đảo không để lộ ra một tí gì. Đúng rồi, bấy giờ mình và nghĩa phụ bị trúng “Thập hương nhuyễn cân tán”, tính mạng ở trong tay Chu Chỉ Nhược, thảo nào nghĩa phụ cứ đổ riệt cho Triệu Mẫn, thật là khôn ngoan vô cùng. Ông biết ta ngờ nghệch thật thà, nếu cho ta biết chân tướng sự việc, thể nào ta cũng sẽ để lộ bí mật trong lời lẽ cử chỉ”.
Bức vẽ này vương vãi máu me, chính là nơi Tạ Tốn và Thành Côn giao đấu, vết máu bắn vào khiến cảnh tượng thêm phần thê lương đáng sợ.
Bức vẽ thứ ba trên vách phía tây, vẽ Tạ Tốn đang ngồi, Chu Chỉ Nhược đứng sau lưng ông giơ tay đánh lén, từ bên ngoài có một đám đệ tử Cái Bang xông vào. Tình cảnh này y hệt như tuồng tích mà Triệu Mẫn đã sai người trình diễn trong đám rước ở Đại Đô hồi trước.
Đang xem thì cây đuốc trên tay cháy hết, chàng gọi:
– Mẫn muội, mang cho ta cây đuốc xuống đây!
Triệu Mẫn châm một cây đuốc, nhảy xuống địa lao, vừa nhìn thấy mấy bức vẽ thì hiểu liền.
Bức vẽ thứ tư vẽ mấy hán tử bắt Tạ Tốn dẫn đi, xa xa có một thiếu nữ nấp sau gốc cây nhìn trộm. Bốn bức vẽ bút pháp tài tình, nhưng trừ chính Tạ Tốn ra, diện mạo của những người khác đều rất mơ hồ, không thể nhận biết thiếu nữ là ai. Trương Vô Kỵ ngẫm nghĩ một chút, hiểu vì sao: “Khi nghĩa phụ bị hỏng mắt, ngay cả ta còn chưa ra đời, ông nhận biết ta, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược chỉ toàn nhờ giọng nói, chứ đâu biết diện mạo thế nào mà vẽ được”. Chàng chỉ vào thiếu nữ nấp sau cây, hỏi:
– Đây là muội, hay là Chu cô nương?
Triệu Mẫn đáp:
– Là muội đấy. Khi Thành Côn đến tổng đàn Cái Bang cướp Tạ đại hiệp đi, sai người mang về nhốt ở chùa Thiếu Lâm, thì chính hắn đã vẽ các ký hiệu Minh giáo dọc đường, khiến chàng chạy loanh quanh một vòng dài; mấy phen muội tính cướp lại Tạ đại hiệp mà không được, rốt cuộc khiến cho chàng làm chú rể hụt, muội thật ngượng quá đi mất.
Trương Vô Kỵ lúc này mới cảm thấy hết sức ngượng ngùng, chàng nhìn Triệu Mẫn, thấy nàng dung nhan tiều tụy, hai má hóp vào, biết rằng mấy tháng qua nàng phải chịu đựng bao nhiêu là khổ sở oan ức, thật đáng thương, bèn vòng tay ôm nàng vào lòng, ấp úng nói:
– Mẫn muội, ta thật… có lỗi với muội.
Chàng vừa ôm nàng, thì cây đuốc cháy hết, tắt ngúm, trong địa lao tối như mực. Trương Vô Kỵ nói:
– Nếu không nhờ muội thông minh lanh lợi, thì cái gã Trương Vô Kỵ hồ đồ ngớ ngẩn này đã giết muội mất rồi, bây giờ không biết làm sao đây?
Triệu Mẫn cười, nói:
– Liệu chàng có nỡ ra tay giết muội chăng? Hồi ấy chàng tưởng muội là hung thủ, tại sao gặp muội lại không giết?
Trương Vô Kỵ ngẩn ra, thở dài, nói:
– Mẫn muội, trong lòng ta thực tình chỉ có một mình muội thôi, không thể thiếu muội. Giả dụ muội có giết biểu muội của ta thật đi nữa, ta cũng không biết phải làm thế nào. Mấy ngày nay sự việc dần dần sáng tỏ, ta tuy có tình quyến luyến Chu Chỉ Nhược, song phải nói là trong bụng mừng thầm.
Triệu Mẫn nghe chàng thổ lộ chân tình như thế, bèn ngả người vào lòng chàng. Một hồi lâu cả hai không nói gì, ngẩng đầu lên, chỉ thấy trăng treo lơ lửng ở phía đông, bốn bề vô cùng yên tĩnh.
Triệu Mẫn nói nhỏ:
– Vô Kỵ ca ca, muội với chàng gặp nhau lần đầu ở Lục Liễu sơn trang, sau đó cùng rơi xuống hầm tối, tình cảnh cũng gần giống như hôm nay đấy nhỉ?
Trương Vô Kỵ bật cười, giơ tay cầm lấy bàn chân trái của nàng, cởi chiếc hài ra. Triệu Mẫn cười khúc khích:
– Đại nam nhi lại đi ăn hiếp một thiếu nữ yếu đuối.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nàng mà yếu đuối ư? Nàng ngụy kế đa đoan, còn lợi hại gấp mười đại nam nhi.
Triệu Mẫn cười nói:
– Đa tạ Trương giáo chủ quá khen, tiểu nữ không dám nhận đâu ạ.
Hai người nói đến đây thì cùng cười như nắc nẻ. Mấy câu đối đáp vừa rồi gần như những câu họ từng nói trong địa lao ở Lục Liễu sơn trang, chỉ khác là năm trước khi nói mấy câu đó họ đang thù ghét nhau, còn bây giờ thì tình ý dạt dào.
Trương Vô Kỵ cười, nói:
– Nàng có sợ ta cù lòng bàn chân nữa không?
Triệu Mẫn cười, đáp:
– Không sợ nữa!
Trương Vô Kỵ vừa toan cù bàn chân nàng, bỗng nghe từ phía tây bắc hình như có tiếng người quát, dỏng tai lắng nghe, xa xa có kình phong phần phật, đúng là có người đánh nhau, bèn nói:
– Chúng mình lên coi xem sao!
Chàng nắm tay Triệu Mẫn, nhảy khỏi địa lao, đi về phía phát ra âm thanh, thấy có ba bóng người chạy về phía tây, thân pháp nhanh nhẹn dị thường, đều là cao thủ hạng nhất.
*
* *
Trương Vô Kỵ giơ tay đỡ ngang lưng Triệu Mẫn, thi triển khinh công đuổi theo, thấy phía xa một người chạy trước, hai người đuổi theo đằng sau. Chàng nhanh chân hơn, đuổi hơn một dặm, thì đã nhận ra dưới ánh trăng hai người đuổi theo đằng sau kia chính là Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông. Hạc Bút Ông vung tay trái, ném cây bút mỏ hạc về phía kẻ chạy trước. Kẻ chạy trước vung kiếm lại gạt đi, keng một tiếng, cây bút mỏ hạc văng lên không trung, vì thế mà chậm lại một bước, Lộc Trượng Khách đã phóng tới ngang bên cạnh, đâm cây trượng sừng hươu ra.
Kẻ kia nghiêng người tránh, đánh ra một chưởng, ánh trăng chiếu vào khuôn mặt trắng bệch, tóc dài xõa ra, chính là Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ cả kinh, vội kéo Triệu Mẫn theo mình nấp sau một gốc cây.
Hạc Bút Ông đón cây bút mỏ hạc từ trên không rơi xuống, tấn công phía bên trái Chu Chỉ Nhược, cùng với Lộc Trượng Khách tạo thành thế tả hữu giáp công.
Chu Chỉ Nhược nghiến răng, nói:
– Hai lão quỷ già cứ bám theo ta là để làm gì?
Lộc Trượng Khách nói:
– Hôm nay Trương Vô Kỵ Minh giáo đoạt được thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên, chính hai ta trông thấy, bí kíp võ công giấu trong đao kiếm đã không còn nữa, tức thị đang ở trong người Tống phu nhân.
Trương Vô Kỵ giật mình: “Khi ta đoạt đao cứu người, thì ra hai lão già kia nấp ở bên cạnh, thế mà ta không phát giác được họ”.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Bí kíp võ công có thật, nhưng ta luyện xong, đã hủy đi rồi.
Lộc Trượng Khách cười khẩy, nói:
– “Luyện xong”, hai chữ đó nói nghe dễ thế? Thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên được gọi là võ lâm chí tôn, bí kíp giấu bên trong lẽ nào lại tầm thường? Tống phu nhân võ công tuy cao siêu hơn người, nhưng chưa đến mức đăng phong tạo cực, nếu không thì chỉ cần vung tay là giết được huynh đệ lão phu, đâu cần phải bỏ chạy?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Ta bảo hủy là hủy rồi, chẳng ai rỗi hơi lằng nhằng với các người! Ta đi đây.
Hạc Bút Ông và Lộc Trượng Khách cùng quát:
– Đứng lại!
Lộc trượng và Hạc bút cùng đánh vào hai bên sườn Chu Chỉ Nhược.
Chu Chỉ Nhược múa kiếm vù vù, dưới ánh trăng kiếm cứ loang loáng như một con rắn bạc. Huyền Minh nhị lão một trượng, hai bút liên thủ tấn công.
Trương Vô Kỵ lúc trước mới chỉ thấy Chu Chỉ Nhược sử dụng trường tiên, bây giờ được ngắm kiếm chiêu thần quang ly hợp của nàng đấu với hai đại cao thủ, có thủ có công, biến ảo hư hư thực thực, quả là tài tình.
Đấu tiếp mấy chục hiệp, kiếm chiêu của Chu Chỉ Nhược càng lúc càng kỳ lạ, trong mười chiêu thì đến bảy chiêu là là thế công vô cùng lợi hại. Trương Vô Kỵ biết nàng nôn nóng thoát thân, nhưng đánh kiểu này thì phải tốn rất nhiều nội lực, chỉ cần sơ ý một chút là gặp ngay hung hiểm. Lòng đầy quan hoài, chàng rón rén từ sau gốc cây tiến gần lại mấy bước.
Bỗng Chu Chỉ Nhược thét một tiếng, đâm liền ba kiếm về phía Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách tránh gấp. Ngay lúc ấy hai cây bút của Hạc Bút Ông rời tay ném tới sau lưng nàng, giữa đường chạm nhau keng một tiếng, chia ra đánh vào gáy và lưng nàng.
Chu Chỉ Nhược nghe phía sau có binh khí ném tới, vội rùn người xuống tránh, không ngờ hai cây bút đụng nhau xong lại đổi hướng, nên tránh được cây bút đánh vào gáy chứ không tránh được cây bút đánh vào lưng.
Trương Vô Kỵ phi thân tới, chộp cây bút mỏ hạc đó, tung chưởng gạt chưởng của Hạc Bút Ông đánh tới.
Chu Chỉ Nhược còn đang kinh hoàng bối rối, thì Lộc Trượng Khách đã nhẹ nhàng đánh ra một chưởng trúng vào bụng dưới của nàng. Đó chính là “Huyền Minh thần chưởng” kinh hồn, Chu Chỉ Nhược trúng đòn, tức thì ngộp thở, ngất đi.
Trương Vô Kỵ cả kinh, quẳng cây hạc bút đang cầm xuống đất, giơ tay đỡ Chu Chỉ Nhược, nhảy xéo ra hơn một trượng, quát:
– Huyền Minh nhị lão thật là mặt dày mày dạn!
Lộc Trượng Khách cười hô hố, nói:
– Tưởng kẻ nào to gan dám nhúng tay vào, hóa ra là Trương đại giáo chủ. Quận chúa nương nương đâu? Giáo chủ bắt cóc quận chúa mang đi đâu rồi?
Triệu Mẫn từ sau gốc cây bước ra, đỡ lấy Chu Chỉ Nhược, cười hì hì, nói:
– Lộc tiên sinh, tiên sinh vẫn cứ thần hồn điên đảo, ngày ngày nhớ nhung ta, không sợ cha ta nổi giận ư?
Lộc Trượng Khách tức giận nói:
– Cô nương là tiểu yêu nữ, muốn ly gián hai sư huynh sư đệ lão phu. Huynh đệ lão phu với Nhữ Dương Vương đã ân đoạn nghĩa tuyệt lâu rồi, ông ta giận hay không chẳng liên quan gì đến lão phu.
Trương Vô Kỵ thấy Lộc Trượng Khách hạ độc thủ đả thương Chu Chỉ Nhược, lại nói năng vô lễ với Triệu Mẫn, chàng nhớ lại hồi nhỏ từng bị trúng “Huyền Minh thần chưởng” của hai lão già này, phải chịu không biết bao nhiêu khổ sở, hận cũ thù mới lập tức bừng bừng bốc lên, chàng nói:
– Mẫn muội tạm lui ra, hai lão tặc này ta vừa gặp đã lộn ruột, hôm nay phải cho chúng một trận mới xong.
Hai lão thấy chàng tay không thì bỏ binh khí xuống, chăm chú đứng đợi.
Trương Vô Kỵ quát:
– Nhìn đây!
Một chiêu “Lãm tước vĩ”, song chưởng đánh ra. Chiêu này ở trong “Thái cực quyền pháp”, đánh ra rất chậm, song chưởng lực thì lại ngầm chứa “Cửu dương thần công”. “Thái cực quyền” đối với hậu thế là tầm thường, nhưng bấy giờ Trương Tam Phong mới sáng tạo ra, trong võ lâm còn ít người biết đến. Lộc Trượng Khách chưa từng gặp loại chưởng thế mềm mại vô lực kiểu này bao giờ, không biết bên trong có ngụy kế gì, vốn rất ngán ngại Trương Vô Kỵ, nên lão không dám chống đỡ, vội lách tránh. Trương Vô Kỵ xoay mình, sử chiêu “Bạch xà thổ ngôn”, tả chưởng đánh Hạc Bút Ông, hữu chưởng hơi rung động, nhứ nhứ bất định. Hạc Bút Ông điểm hờ ngón trỏ tay trái vào lòng bàn tay của chàng, hữu chưởng đánh xéo xuống bụng dưới Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ đã mấy độ giao đấu với Huyền Minh nhị lão, biết hai lão vốn không phải là đối thủ của chàng, vừa rồi chàng lại giao đấu ba lần với Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp, võ công cao thêm một bậc, thừa sức đánh bại hai lão. Có điều là hai lão già này tài nghệ chẳng tầm thường, chẳng thể xem nhẹ, bèn triển khai “Thái cực quyền pháp”, tạo nên các vòng tròn liên tục, “Cửu dương thần công” từ các vòng tròn ấy lúc thẳng lúc xéo cuồn cuộn tung ra.
Huyền Minh nhị lão thấy khí dương mỗi lúc một thịnh, khí âm hàn của Huyền Minh thần chưởng càng lúc càng bị đối phương đẩy trở lại.
Đấu đến hơn một trăm hiệp, lúc Trương Vô Kỵ xoay người, bỗng thấy dưới đất có hai bóng người hơi run rẩy, chính là bóng của Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược dưới ánh trăng, chàng giật mình, liếc sang, thấy Triệu Mẫn cứ không ngừng lảo đảo, tựa hồ không thể ôm Chu Chỉ Nhược được nữa, chàng nghĩ thầm: “Hỏng rồi, Chu Chỉ Nhược bị trúng Huyền Minh thần chưởng của Lộc Trượng Khách, chỉ e hết chịu nổi. Nàng vốn đã luyện công phu âm hàn, bây giờ cộng với hàn khí tối âm độc của Huyền Minh thần chưởng, sẽ càng thêm lạnh, ngay cả Triệu Mẫn chỉ ôm nàng cũng không chịu nổi”. Chàng bèn gia tăng kình lực đánh mạnh về phía Lộc Trượng Khách.
Lộc Trượng Khách thấy chàng thay đổi quyền pháp, đoán ngay ra tâm ý của chàng, nghiêng người tránh qua, nói:
– Sư đệ, cố đấu cầm chừng. Con bé họ Chu kia đang bị hàn độc phát tác, đừng để cho gã giáo chủ rảnh tay giải cứu.
Hạc Bút Ông nói:
– Đúng thế!
Lão nhảy ra ngoài vòng, nhặt hai cây bút mỏ hạc, sử chiêu “Thông thiên triệt địa” đánh cả hai mặt trên dưới.
Trương Vô Kỵ khinh khỉnh nói:
– Có sử dụng binh khí hay không thì cũng thế thôi!
Nói rồi chàng đánh một chưởng, kình phong ép tới khiến Hạc Bút Ông ngộp thở. Lộc Trượng Khách cũng ngoặt tay rút trượng sừng hươu ra, tấn công vào bên sườn Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ thay đổi liền mấy lộ quyền pháp, sử dụng ba mươi sáu thức “Long trảo cầm nã thủ” mà chàng học lóm được của Không Tính thần tăng phái Thiếu Lâm, như các thức Phủ cầm, Cổ sắt, Bổ phong, Bão tàn, thế công cực kỳ lợi hại.
Lộc Trượng Khách nói:
– Môn “Long trảo công” ngươi luyện giỏi đó, để lát nữa đào hố thì rất tiện.
Hạc Bút Ông hỏi:
– Sư ca, đào hố để làm gì vậy?
Lộc Trượng Khách cười, nói:
– Chu cô nương chết rồi, thì phải đào hố để chôn chứ làm gì nữa.
Lão mở miệng nói, tâm thần hơi phân tán, Trương Vô Kỵ tung một cước đá trúng đùi trái của lão. Lão lảo đảo, nhưng đứng vững lại ngay, múa cây gậy khiến gió mưa không lọt.
Trương Vô Kỵ quay lại nhìn Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược một cái, thấy hai nàng run lập cập, vội hỏi:
– Mẫn muội, thế nào?
Triệu Mẫn đáp:
– Ối chao, lạnh quá chừng!
Trương Vô Kỵ kinh hãi, nghĩ một chút liền hiểu ra tại sao, Chu Chỉ Nhược trúng Huyền Minh thần chưởng, âm hàn dù lợi hại mấy, cũng một mình nàng bị thôi, đằng này cả Triệu Mẫn cũng bị lạnh theo; như vậy là Triệu Mẫn tốt bụng, giơ chưởng giúp Chu Chỉ Nhược vận công đề kháng. Công lực của hai nàng chênh lệch quá xa, nội công của Chu Chỉ Nhược lại thập phần quái dị, thành thử Triệu Mẫn đã cứu người chẳng xong, còn bị liên lụy.
Trương Vô Kỵ song quyền tấn công lia lịa, chỉ mong mau chóng đánh bại hai lão. Nhưng hai lão cứ tránh xa xa, chợt tiến chợt lùi, cố kéo dài thời gian, không dám đấu trực diện với chàng.
Trương Vô Kỵ nóng ruột, kêu lên:
– Mẫn muội, mau đặt Chu cô nương xuống đất, đừng ôm nàng ta nữa.
Triệu Mẫn nói:
– Muội… muội không đặt xuống được.
Trương Vô Kỵ lấy làm lạ:
– Tại sao?
Triệu Mẫn nói:
– Lưng… lưng nàng ta cứ… dính chặt vào tay muội.
Triệu Mẫn vừa nói, răng cứ đánh vào nhau cầm cập, thân hình loạng choạng chực ngã. Trương Vô Kỵ càng kinh hãi.
Lại nghe Lộc Trượng Khách nói:
– Trương giáo chủ, Chu cô nương kia tâm địa thật độc ác, đang đẩy hàn độc từ cơ thể mình sang người quận chúa nương nương, chẳng mấy chốc quận chúa sẽ bỏ mạng. Vậy chúng ta hãy giao hẹn với nhau có hơn không?
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Giao hẹn cái gì?
Lộc Trượng Khách nói:
– Chúng ta ngừng đấu, bọn ta lấy hai quyển sách trong người Chu cô nương, giáo chủ thì cứu quận chúa.
Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Huyền Minh nhị lão võ công đã cao cường thế này, nếu lại luyện thêm thứ võ công âm độc của Chu Chỉ Nhược, sau này làm ác thì còn ai chế ngự nổi kia chứ”. Chàng hoang mang ngó lại, thấy khuôn mặt trắng như ngọc của Triệu Mẫn đã chuyển sang màu xanh, đầy vẻ đau đớn khó chịu. Chàng lùi lại hai bước, tay trái nắm lấy tay phải của nàng, chân khí Cửu dương trong cơ thể lập tức qua lòng bàn tay truyền sang cuồn cuộn.
Lộc Trượng Khách quát:
– Tiến lên tấn công gấp!
Huyền Minh nhị lão một trượng hai bút xông tới tấn công như gió táp mưa sa.
Trương Vô Kỵ sử dụng quá nửa chân lực để cứu hai nàng Triệu, Chu. Thân hình đã không thể di chuyển, lại chỉ còn một tay nghênh địch, lập tức lâm vào thế vạn phần hung hiểm. Soạt một cái, ống quần chân trái bị cây bút của Hạc Bút Ông xé rách một đường dài, máu chảy dầm dề.
Triệu Mẫn vốn bị khí âm hàn của Chu Chỉ Nhược truyền sang, sắp sửa chết cứng, tựa hồ huyết dịch trong người đã đóng thành băng, giờ được tiếp cho chân khí Cửu dương liền thấy ấm áp trở lại. Thế nhưng Trương Vô Kỵ phải chống đỡ với Huyền Minh nhị lão, đơn chưởng cứ liên tiếp gạt trái quét phải, nên chân khí Cửu dương truyền sang cho nàng yếu dần. Toàn thân Triệu Mẫn lại run lập cập.
Lộc Trượng Khách vù vù vù đánh ra ba trượng, cái sừng hươu trên đầu gậy chọc thẳng vào mắt Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ chưởng vận lực gạt ra được. Nhưng Hạc Bút Ông nằm xuống đất mà lăn vào, cây bút trong tay trái lão sử chiêu “Tòng tam sở dục” chọc vào hông chàng. Trương Vô Kỵ không thể né tránh, đành thi triển tâm pháp “Càn khôn đại na di”, cốt đẩy cây bút của lão chệch đi; song lực mà lão dồn vào đòn này quá nặng, không chắc có đẩy nổi chăng. Bỗng nghe keng một tiếng, bên hông chấn động mà không hề thấy đau, thì ra cây bút đã đâm trúng vào thanh đao Đồ Long chàng đeo bên hông.
Trương Vô Kỵ lâm địch thường không sử dụng binh khí. Khi đấu với ba sư huynh sư đệ Độ Ách, chàng cũng chỉ dùng thánh hỏa lệnh như một cái tay thước, chứ không dùng đao kiếm, thành thử thanh đao Đồ Long đeo kè kè bên hông mà chẳng nhớ tới rút ra chống địch.
Cây bút của Hạc Bút Ông đâm trúng đao liền nhắc nhở chàng; chàng quát một tiếng, chân trái đá ra, buộc Hạc Bút Ông thoái lui ba bước. Chàng rút đao ra, vừa lúc cây trượng sừng hươu của Lộc Trượng Khách đánh tới. Trương Vô Kỵ vung đao lên, nghe xoẹt một tiếng nhẹ, cái đầu hươu trên cây trượng gãy, rơi xuống đất liền. Lộc Trượng Khách cả kinh, kêu lên:
– Ối chao!
Hạc Bút Ông song bút cuốn tới. Trương Vô Kỵ giơ bảo đao lên, xoẹt xoẹt hai tiếng, hai cây bút đã gãy thành bốn khúc. Thanh đao Đồ Long múa thành một đạo bạch quang.
Huyền Minh nhị lão không dám lại gần nữa. Chân khí Cửu dương từ cơ thể Trương Vô Kỵ lại cuồn cuộn truyền sang người Triệu Mẫn, lần này phát huy toàn lực, nên hàn độc mà Chu Chỉ Nhược bị trúng đã được loại trừ hết sạch. Nhưng hai khí âm dương trong cơ thể giao cảm, bên này mạnh thì bên kia yếu, bên này yếu thì bên kia mạnh, hàn độc Huyền Minh vừa hết, thì chân khí Cửu dương cũng làm tiêu tan luôn cả “Cửu âm nội lực” mà nàng đã luyện được.
Chu Chỉ Nhược sau khi lấy được pho “Cửu âm chân kinh” giấu trong kiếm Ỷ Thiên, ở trên đảo sợ Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ phát giác, chỉ ban đêm mới lén luyện tập. Do thời gian gấp gáp, không cách gì tuần tự tiến dần từ căn bản, cho nên nội lực không thâm hậu, chỉ tập toàn là công phu hạ thừa trong pho kinh đó mà thôi. Khi trúng “Huyền Minh thần chưởng”, nàng đem khí hàn độc đẩy cơ thể Triệu Mẫn, đến lúc Trương Vô Kỵ ra tay trợ cứu, nàng cảm thấy toàn thân ấm áp vô cùng khoan khoái, khí lực tăng dần, đang định rời khỏi bàn tay Triệu Mẫn, vừa gắng sức bứt ra liền bị hút chặt vào, giằng không ra, mới biết lúc nãy bàn tay của Triệu Mẫn bị lưng nàng hút chặt; còn bây giờ chính lưng nàng lại bị bàn tay Triệu Mẫn hút ngược lại, tất cả chỉ vì nội lực đôi bên mạnh yếu khác nhau mà ra, thì không khỏi cả kinh.
Trương Vô Kỵ khu trừ hàn độc, thấy chân khí Cửu dương của mình truyền sang cứ gặp một luồng hàn khí từ bàn tay Triệu Mẫn chống lại, chàng cứ nghĩ chất hàn độc của “Huyền Minh thần chưởng” chưa được trừ hết, nên càng dồn sức truyền sang; đâu ngờ rằng mỗi phần chân khí Cửu dương của chàng truyền sang thì lại tiêu trừ một phần chân khí Cửu âm mà Chu Chỉ Nhược khổ công luyện được. Chu Chỉ Nhược thầm kêu khổ, biết mà không dám nói, vì chỉ cần mở miệng nói, sẽ lập tức hộc máu, mất hết chân khí mà chết.
Triệu Mẫn thấy cơ thể ấm áp dễ chịu, cười nói:
– Vô Kỵ ca ca, muội khỏe rồi. Chàng hãy chuyên tâm mà đối phó với Huyền Minh nhị lão.
Trương Vô Kỵ nói:
– Hay lắm!
Liền thu nội lực về.
Chu Chỉ Nhược như được đại xá, thoát khỏi lực hút, biết hàn độc của “Huyền Minh thần chưởng” đã được trừ hết, song Cửu âm nội lực của mình cũng bị hao tổn nghiêm trọng, thấy Trương Vô Kỵ vung đao Đồ Long chuyên tâm nghênh địch, nàng liền giơ năm ngón tay vồ thẳng xuống đỉnh đầu Triệu Mẫn.
Triệu Mẫn kêu thét lên:
– Ối chao!
Chỉ thấy đỉnh đầu đau nhoi nhói, những tưởng phen này chắc là rồi đời, không ngờ nghe “rắc rắc” mấy tiếng, Chu Chỉ Nhược rên lên đau đớn, vội vã bỏ chạy.
Trương Vô Kỵ cả kinh, vội ngoảnh lại hỏi:
– Có chuyện gì vậy?
Triệu Mẫn đưa tay sờ đầu, sợ hết hồn, không nói nên lời. Trương Vô Kỵ ngỡ nàng bị thương bởi “Cửu âm bạch cốt trảo”, cũng hết cả hồn, tay phải múa đao ngăn chặn Huyền Minh nhị lão, tay trái sờ đầu Triệu Mẫn, thấy ướt dính nhèm nhẹp, tuy chảy máu song không bị vỡ xương, thủng lỗ, thì như trút được gánh nặng, an ủi nàng:
– Chỉ bị thương ngoài da thịt thôi, không đáng ngại!
Trong bụng nghĩ thầm: “Lạ thật! Lạ thật!” Chàng không biết rằng khi Chu Chỉ Nhược ra tay tập kích, chân khí Cửu dương trong cơ thể Triệu Mẫn chưa rút đi hết, còn chân khí Cửu âm của Chu Chỉ Nhược thì đã đại hao tổn, nàng ta lấy yếu đánh mạnh, chẳng những không đả thương được đối phương, mà chính nàng ta bị chấn động gãy mấy ngón tay.
Trương Vô Kỵ vừa phân tâm, Huyền Minh nhị lão lại tấn công tới. Lúc này cầm trong tay món binh khí sắc bén nhất thiên hạ, tự thấy nếu chỉ dựa vào vũ khí lợi hại mà thắng đối phương thì không phải con nhà võ, bèn trao thanh đao Đồ Long cho Triệu Mẫn, điều chuyển nội tức một vòng cực nhanh, ngưng thần chuyên tâm, sử dụng tâm pháp “Càn khôn đại na di”, tay trái làm chuyển hướng kình lực đòn chưởng của Hạc Bút Ông đánh tới. Thủ pháp vừa kéo vừa đẩy này của chàng chứa đựng “Cửu dương thần công” kết hợp với công phu cấp thứ bảy cao nhất của tâm pháp “Càn khôn đại na di”. Việc sử dụng công phu cấp cao nhất này rất hao tổn nội lực tâm huyết, hoàn toàn không được sơ sảy chút nào, vì chỉ vận dụng sai một chút, chính mình sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, bởi vậy, ban nãy trong lúc phân tâm giúp hai nàng Triệu, Chu khu trừ hàn độc, tuy tình thế rất nguy cấp, chàng vẫn không dám đem ra sử dụng.
Huyền Minh nhị lão thuộc hạng đệ nhất cao thủ, nếu chàng sử dụng công phu cấp năm cấp sáu đối phó với họ, chắc không làm gì nổi họ.
Trương Vô Kỵ gạt một cái, hữu chưởng của Hạc Bút Ông đánh tới nghe bộp một tiếng, trúng ngay đầu vai Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách cả kinh, tức giận hỏi:
– Sư đệ, làm cái trò gì vậy?
Hạc Bút Ông võ công tinh diệu, nhưng đầu óc chậm hiểu, việc gì cũng phải suy nghĩ hồi lâu mới hiểu ra lý lẽ, lúc này đang ngẩn ngơ chưa hiểu tại sao, không trả lời được, chỉ biết là do Trương Vô Kỵ giở trò quỷ, định tấn công dồn dập đối phương để tạ lỗi với sư huynh, bèn vận kình xuống chân phải, tung ra một cú đá. Trương Vô Kỵ phất tay trái, vừa bắt vừa kéo, cú đá ấy lập tức chuyển hướng tới đan điền của Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách vừa ngạc nhiên, vừa tức giận, quát sư đệ:
– Ngươi điên rồi hả?
Triệu Mẫn nói:
– Đúng thế, Hạc tiên sinh mau bắt gã sư huynh phạm thượng làm loạn, hiếu sắc tham dâm ấy cho ta, cha ta sẽ trọng thưởng.
Trương Vô Kỵ cười thầm trong bụng: “Cái kế khích bác ly gián ấy quả thật rất hay!” Chàng vốn định sử dụng tâm pháp “Càn khôn đại na di” để cho Hạc Bút Ông đánh Lộc Trượng Khách, rồi lại làm cho đòn của Lộc Trượng Khách đánh vào Hạc Bút Ông; bây giờ nghe Triệu Mẫn nói thế, thì chàng chỉ dẫn kéo quyền cước của Hạc Bút Ông, còn đối phó với Lộc Trượng Khách thì chàng dùng chiêu số trong Thái cực quyền. Chàng nói to:
– Hạc tiên sinh, tiên sinh đừng lo, tại hạ hợp sức với tiên sinh, thể nào cũng đánh gục được lão họ Lộc dâm đãng. Nhữ Dương Vương đã phong cho tiên sinh làm… phong cho tiên sinh chức…
Chàng nhất thời chưa nghĩ ra quan chức gì cho thích hợp, thì Triệu Mẫn liền nói:
– Hạc tiên sinh, tờ bố cáo phong chức cho tiên sinh ta đang giữ đây.
Nói xong rút trong bọc ra một tờ giấy, đọc:
– Ồ, là chức Đại Nguyên hộ quốc dương uy đại tướng quân, tiên sinh hãy mau gắng sức!
Trương Vô Kỵ hữu chưởng đánh ra, buộc Lộc Trượng Khách lùi sang bên trái, đúng lúc tả chưởng của Hạc Bút Ông bị chàng lái từ bên trái qua bên phải, thành thế tả hữu giáp công.
Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông mấy chục năm nay thân nhau còn hơn cả ruột thịt, vốn không thể nào tin sư đệ lại bán rẻ mình; nhưng lúc này thấy Hạc Bút Ông năm chiêu liền đều nhắm đánh những chỗ yếu hại của mình, đường quyền ngọn cước xem ra toàn dồn hết sức, tựa hồ muốn lấy mạng mình thì còn nghi ngờ gì nữa? Lộc Trượng Khách cả giận, quát:
– Ngươi tham đồ phú quý, quên hết cả nghĩa khí rồi hả?
Hạc Bút Ông vội nói:
– Đệ… đệ chẳng…
Triệu Mẫn liền xen vào:
– Phải rồi, tiên sinh chẳng qua là bất đắc dĩ, vì chức Đại Nguyên hộ quốc dương uy đại tướng quân mà đắc tội với sư huynh, cũng chẳng cần phải nói làm gì.
Trương Vô Kỵ dồn mười thành lực vào tay phải, ngưng thần dẫn chưởng của Hạc Bút Ông giáng vào đầu vai của Lộc Trượng Khách, nghe “bốp” một tiếng thật mạnh. Lộc Trượng Khách cả giận, đánh ngược lại một chưởng, làm gãy luôn mấy chiếc răng hàm bên trái của Hạc Bút Ông. Hạc Bút Ông tuổi đã già, miệng chỉ còn mấy cái răng ấy nên quý lắm, giờ bị đánh gãy thì cả giận, quát:
– Sư ca, huynh chẳng biết phải trái gì cả, đâu phải là đệ cố ý đánh huynh.
Lộc Trượng Khách tức giận quát lại:
– Thế ai đánh trước?
Lão kiến văn uyên bác, nhưng không ngờ rằng trên thế gian lại có thần công “Càn khôn đại na di” cấp thứ bảy uy lực dường ấy, một người võ công cao cường như Hạc Bút Ông, cái gã Trương Vô Kỵ có thể thắng y giết y, chứ quyết không thể mượn sức y, mượn đòn y đánh lão, thành thử lão không hề nghi ngờ Trương Vô Kỵ ra tay.
Hạc Bút Ông vội cố biểu lộ tấm lòng của mình, liền cất tiếng chửi:
– Thằng lỏi con giở trò quỷ!
Triệu Mẫn nói:
– Phải rồi, đừng gọi lão là sư ca, cứ chửi lão là “thằng lỏi con” đi!
Trương Vô Kỵ tả chưởng ép chưởng lực của Lộc Trượng Khách, tay phải kéo chưởng của Hạc Bút Ông đánh trúng má bên phải của Lộc Trượng Khách, khiến nó sưng vù lên. Trương Vô Kỵ thấy Lộc Trượng Khách giận điên lên, hai mắt đỏ ngầu, chưởng lực cuồn cuộn đẩy ra, biết là kế ly gián đã thành công, quát lên:
– Hạc tiên sinh, gã họ Lộc dâm đãng này, ta giao cho người xử đó.
Chàng nhún chân trái vọt ra ngoài, nắm tay Triệu Mẫn bỏ đi. Chỉ thấy Huyền Minh nhị lão đánh nhau ác liệt dị thường. Triệu Mẫn nói:
– Hạc tiên sinh, sau khi tiên sinh bắt được sư ca, bí kíp võ công trong thanh đao Đồ Long sẽ cho tiên sinh mượn đọc một tháng. Mau lập đại công, đừng để lỡ dịp may!
Lộc Trượng Khách nổi cơn lôi đình, ra đòn không chút nương tay. Hai người võ công cùng môn phái, tài nghệ kẻ tám lạng người nửa cân, trận ác đấu này chưa biết bao giờ mới chấm dứt.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn về chùa Thiếu Lâm, chàng xem lại vết thương trên đầu nàng, thấy không có gì đáng ngại, chợt nhớ ra một chuyện, hỏi:
– Mẫn muội, may sao muội lại mang theo người một tờ giấy, khiến cho Lộc Trượng Khách không thể không tin.
Triệu Mẫn tủm tỉm cười, thò tay vào bọc lấy ra hai cuộn giấy mỏng, giơ trước mặt chàng, nói:
– Chàng thử đoán xem cái gì đây?
Trương Vô Kỵ cười, nói:
– Muội bảo ta đoán thử, có mà đoán cả đời chẳng ra, chỉ phí công.
Triệu Mẫn đặt hai cuộn giấy mỏng vào tay Trương Vô Kỵ. Chàng đưa ra cạnh cây nến, thấy đó không phải là giấy, mà là lụa mỏng như cánh ve, chi chít các hàng chữ khải nhỏ bằng đầu ruồi. Cuộn thứ nhất có tựa đề bốn chữ “Vũ Mục di thư”, bên trong chép toàn yếu quyết tinh nghĩa hành quân giao chiến, bày binh bố trận. Cuộn thứ hai có tựa đề bốn chữ “Cửu âm chân kinh”, bên trong chép các loại võ công thần kỳ quái dị, “Cửu âm bạch cốt trảo” và “Thôi tâm chưởng” cũng chép trong đó. Trương Vô Kỵ run giọng, hỏi:
– Muội… muội lấy từ trong người Chu cô nương đấy ư?
Triệu Mẫn cười, nói:
– Trong lúc nàng ta không cựa quậy được, tội gì muội không tiện tay dắt dê? Cái thứ võ công âm độc này muội chả thiết học, nhưng phải lấy để hủy đi, hơn là để trong tay nàng ta hại người.
Trương Vô Kỵ tiện tay giở xem “Cửu âm chân kinh”, đọc vài mục, thấy lời văn thâm thúy, nhất thời chưa hiểu rõ, nhưng đó quyết không phải là thứ võ công âm độc hạ lưu, bèn nói:
– Võ công trong cuốn kinh này kỳ thực vô cùng tinh thâm, cứ theo đó mà tu luyện, sau một hai chục năm thành tựu sẽ cao siêu lắm; còn nếu chỉ mong tốc thành, học sơ sơ cái vỏ bên ngoài, thì sẽ hại người và hại cả mình.
Ngừng một chút, lại nói:
– Như vị hoàng y tỷ tỷ kia, võ công rõ ràng là cùng một lộ với Chu cô nương, nhưng chiêu số quang minh chính đại, chín chắn, tựa hồ học từ “Cửu âm chân kinh” này vậy.
Triệu Mẫn nói:
– Hoàng y mỹ nữ nói bốn câu “Chung Nam sơn hậu, hoạt tử nhân mộ, Thần Điêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ” có nghĩa là gì?
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
– Sau này gặp thái sư phụ, sẽ thỉnh giáo lão nhân gia, may ra hiểu được duyên do mấy câu nói đó chăng.
Hai người chuyện trò thêm vài lời, thấy dưới núi không có động tĩnh gì, nên chia tay đi nghỉ.