Trên sân bãi tiếng ồn ào lặng dần, lão tăng của Đạt Ma đường đứng sau lưng Không Trí lại dõng dạc nói:
– Chúng ta hãy theo đúng quy củ mà các vị anh hùng đã đưa ra, bắt đầu tỷ võ. Đao thương quyền cước không có mắt, muốn dùng cách gì đấu cũng được, sống chết tùy số trời. Môn phái bang hội cuối cùng võ công mạnh nhất, thì Tạ Tốn và thanh đao Đồ Long sẽ thuộc sở hữu của vị đó.
Trương Vô Kỵ hơi cau mày, nghĩ thầm: “Lão tăng này sợ người ta ra tay không đủ nặng, oán thù các môn phái kết không đủ sâu; lão không hề có lòng từ bi như các vị thần tăng Không Văn, Không Kiến”.
Vì đã quy định mỗi người đấu xong hai trận sẽ được nghỉ ngơi, nên đấu trước hay sau không khác biệt gì lắm; lập tức có người bước ra khiêu chiến; thoáng chốc đã có sáu người chia thành ba cặp đấu với nhau. Triệu Mẫn từ khi ở chùa Vạn An tập luyện tuyệt nghệ của sáu đại môn phái, tuy chưa giỏi, nhưng kiến thức quả là bất phàm. Nàng đứng giữa Trương Vô Kỵ và Phạm Dao, thấp giọng bình phẩm võ công của sáu người kia, dự đoán ai thắng ai thua, nói năng xác đáng. Sau thời gian uống một chén trà, hai trong ba cặp đấu đã phân thắng bại, chỉ còn một cặp dây dưa. Lại có người ra đấu với kẻ thắng, thành sáu người ba cặp đấu tiếp. Hai cặp mới đấu với nhau bằng binh khí, mười phần thì phải tám chín có đổ máu mới phân thắng bại.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Đấu kiểu này, các môn phái bang hội thể nào cũng tổn thương hòa khí nghiêm trọng, dù không ai bỏ mạng đi nữa, song phái thua sau đó sẽ tìm cách báo thù, chẳng hóa thành đại họa tự tàn sát lẫn nhau đó sao?”
Tại hiện trường, Chấp pháp trưởng lão của Cái Bang giáng cho lão già lùn của phái Hoa Sơn một chưởng hộc máu tươi. Lão già cao liền ngoạc mồm chửi:
– Quân ăn mày thối tha, quân ăn xin nhơ bẩn!
Rồi tung mình nhảy ra toan khiêu chiến với Chấp pháp trưởng lão của Cái Bang. Lão già lùn nắm cánh tay sư đệ kéo lại, nói:
– Sư đệ đánh không lại hắn đâu, chúng ta hãy tạm nhịn đã.
Lão già cao tức giận nói:
– Đánh không lại cũng cứ đánh!
Miệng nói thế, song lão ta biết rằng sư huynh võ nghệ chiêu số y như mình, song tu luyện sâu hơn mà còn bại trận, thì mình chắc cũng sẽ thua, nên chỉ luôn miệng chửi bới mà quay về lán.
Kế đó Chấp pháp trưởng lão lại thắng chưởng môn phái Mai Hoa Đao; thắng liền hai trận, được bang chúng Cái Bang hoan hô ầm ỹ, lão dương dương đắc ý lui về chỗ.
Thế rồi hết người này người nọ, các cuộc tỷ thí đã diễn ra hơn hai canh giờ; mặt trời ngả sang phía tây, võ công của những người xuất chiến càng lúc càng cao. Bao nhiêu người vốn hùng tâm bừng bừng, hăm hở định trổ tài một phen giữa đại hội anh hùng; nhưng xem võ công của người khác, mới biết mình đúng là ếch ngồi đáy giếng, có lên Thái Sơn mới thấy trời cao đất rộng, thế nên không dám xuất trường nữa.
Đến giờ Thân, Chưởng bát long đầu của Cái Bang ra khiêu chiến, đánh cho Bành Tứ Nương của Bài giáo ở Tương Tây một trận tơi bời. Bành Tứ Nương bị rách một mảng áo to ở lưng, xấu hổ quá vội thoái lui. Chưởng bát long đầu nhìn các đệ tử phái Nga Mi, cười khẩy, nói:
– Đàn bà con gái lấy đâu ra bản lĩnh thật sự? Không dựa vào đao kiếm sắc bén, thì cũng nhờ đến ám khí cổ quái; vị Bành Tứ Nương kia luyện được tới mức ấy kể cũng không phải dễ.
Chu Chỉ Nhược nói nhỏ với Tống Thanh Thư mấy câu. Tống Thanh Thư gật đầu, thong thả bước ra, chắp tay chào Chưởng bát long đầu, nói:
– Long đầu đại ca, để tại hạ lĩnh giáo cao chiêu của đại ca.
Chưởng bát long đầu vừa thấy Tống Thanh Thư thì giận tím mặt, nói lớn:
– Họ Tống kia, mi là tên gian tặc nhận lệnh Trần Hữu Lượng trà trộn vào Cái Bang ta, chắc chắn mi cũng dự phần hại chết Sử bang chủ; hôm nay mi còn dám vác mặt tới gặp ta ư?
Tống Thanh Thư cười nhạt, nói:
– Trên giang hồ, việc trà trộn vào hang ổ địch nhân, thám thính cơ mật là chuyện bình thường, ai bảo lũ ăn xin các người có mắt như mù, không nhận ra bản lai diện mục của Tống đại gia?
Chưởng bát long đầu chửi toáng lên:
– Ngay đến phái Võ Đang là bố đẻ của mi, mi còn phản bội, thì còn việc gì mi không làm kia chứ? Mi đã bất hiếu với cha, với vợ rồi thì cũng sẽ bất nghĩa, phái Nga Mi cũng đến tan nát vì mi thôi.
Tống Thanh Thư giận đến mặt tái không còn hột máu, nói:
– Ngươi giở rắm giở thối đã xong chưa?
Chưởng bát long đầu không thèm nói nữa, đánh luôn ra một chưởng. Tống Thanh Thư lùi tránh, giơ tay phất nhẹ một cái, dùng “Kim đỉnh miên chưởng” của phái Nga Mi chống đỡ. Chưởng bát long đầu giận hắn trà trộn vào Cái Bang lừa dối mọi người, nên chiêu nào cũng là độc thủ, đánh thí mạng chết thôi, chứ không còn là tỷ võ tranh tài nữa.
Chưởng bát long đầu trong Cái Bang địa vị chỉ ở sau bang chủ và Truyền công, Chấp pháp trưởng lão; tài nghệ quả phi phàm. Tống Thanh Thư tuy là nhân vật xuất sắc trong số đệ tử đời thứ ba của phái Võ Đang, nhưng mới tập “Kim đỉnh miên chưởng” của phái Nga Mi chưa thành thục, nên chưa thi thố được những chỗ tinh vi huyền diệu của chưởng pháp đó. Đấu tới ngót năm chục hiệp, khi gặp hiểm chiêu, hắn đành sử dụng “Miên chưởng” của phái Võ Đang để hóa giải. Đó là môn võ công hắn luyện từ nhỏ, đã hơn hai chục năm, đắc tâm ứng thủ, uy lực mạnh mẽ, nhìn bề ngoài hao hao như “Kim đỉnh miên chưởng” của phái Nga Mi, song phép vận kình chiết chiêu thì khác hẳn. Người xem không rõ chỗ đó, lại tưởng hắn dần dần lấy lại uy thế. Nhưng Ân Lê Đình thì càng nhìn càng giận, nói:
– Tên tiểu tử Tống Thanh Thư kia, ngươi quả thật mặt dày mày dạn! Ngươi đã phản bội phái Võ Đang, sao còn dùng công phu của phái Võ Đang để cứu mạng? Ngươi không cần cha ngươi nữa, sao còn sử dụng võ công cha truyền?
Tống Thanh Thư đỏ mặt, quát:
– Võ công của phái Võ Đang thì có gì lợi hại? Hãy coi cho kỹ đây!
Tay trái của hắn đột nhiên huơ huơ trước mặt Chưởng bát long đầu, từ trái sang phải rồi ngược lại đến bảy, tám lần, bất thần tay phải vươn ra, nghe “bộp” một tiếng, năm ngón tay cắm phập vào sọ Chưởng bát long đầu. Người bên ngoài còn đang ngẩn người, chỉ thấy năm ngón tay hắn dính đầy máu, thì Chưởng bát long đầu đã ngã xuống tắt thở. Tống Thanh Thư cười khẩy, hỏi:
– Phái Võ Đang có công phu này hay không?
Giữa tiếng kêu kinh hãi của mọi người, tám người của Cái Bang cùng chạy ra, hai người khiêng thi thể của Chưởng bát long đầu, sáu người còn lại xông vào tấn công Tống Thanh Thư. Sáu người ấy đều là hảo thủ của Cái Bang, trong đó bốn người cầm binh khí, Tống Thanh Thư lập tức lâm vào tình thế nguy ngập.
Một hòa thượng mập mạp ở sau lưng Không Trí đại sư liền nói to:
– Các vị Cái Bang đông người đánh một, chẳng hóa ra vi phạm quy định của đại hội anh hùng hôm nay sao?
Chấp pháp trưởng lão nói to:
– Các người lui ra, để bản tòa báo thù cho Chưởng bát long đầu.
Các đệ tử Cái Bang lùi ra, khiêng thi thể Chưởng bát long đầu về lán của mình, ai nấy phẫn nộ, hầm hầm nhìn Tống Thanh Thư.
Quần hùng xem bên ngoài đều nghĩ thầm: “Tuy nói rằng đôi bên tỷ thí ai chết nấy chịu, song gã họ Tống kia ra tay đúng là quá tàn bạo”.
Lúc này Trương Vô Kỵ chợt nhớ đến năm vết thương bởi ngón tay trên vai Triệu Mẫn, cái chết thảm khốc của hai người trong căn nhà lá đêm nào, bèn run giọng hỏi:
– Dương tả sứ, tại sao phái Nga Mi lại có môn võ công tà độc như thế?
Dương Tiêu lắc đầu, nói:
– Thuộc hạ chưa thấy môn ấy bao giờ. Thế nhưng tổ sư sáng phái Quách nữ hiệp của phái Nga Mi có ngoại hiệu Tiểu Đông Tà, võ công của họ nếu có ba phần tà khí, thì cũng không lấy gì làm lạ.
Hai người đang nói chuyện, thì Chấp pháp trưởng lão và Tống Thanh Thư đã đấu với nhau. Chấp pháp trưởng lão thân hình bé nhỏ, hành động cực kỳ nhanh nhẹn, mười ngón tay như móc như chùy, dùng “Ưng trảo công” đối phó với Tống Thanh Thư, xem chừng lão cũng tính bổ năm ngón tay xuống thiên linh cái Tống Thanh Thư để trả thù cho Chưởng bát long đầu. Thoạt tiên, Tống Thanh Thư vẫn sử dụng “Kim đỉnh miên chưởng” đấu với lão, tới lúc kịch liệt, Chấp pháp trưởng lão quát:
– Tiểu cẩu tặc!
Năm ngón tay trái chộp vào đầu Tống Thanh Thư thật mạnh, thì tay phải của Tống Thanh Thư đã vụt đánh ra, chỉ nghe “bộp” một tiếng, năm ngón tay hắn đã cắm ngập vào yết hầu đối phương.
Chấp pháp trưởng lão ngã nhào về phía trước, kình lực tay trái chưa kịp tiêu, các ngón tay cắm sâu xuống đất, máu cổ ộc ra chết liền.
Chu Chỉ Nhược giơ tay làm hiệu, tám nữ đệ tử phái Nga Mi cầm trường kiếm nhảy ra, từng đôi dựa lưng vào nhau đứng bốn góc che chắn cho Tống Thanh Thư. Đệ tử Cái Bang mà xông vào thì sẽ thành thế hỗn chiến tức thời.
Một lão tăng thuộc Đạt Ma đường dõng dạc hô:
– Ba mươi sáu đệ tử La Hán đường nghe lệnh!
Lão vỗ tay ba cái, ba mươi sáu hoàng bào hòa thượng tiến ra, mười tám người cầm thiền trượng, mười tám người cầm giới đao, kẻ trước người sau, chia ra trấn giữ các nơi hiểm yếu trên sân bãi, cứ như bày trận vậy.
Lão tăng kia nói:
– Theo pháp chỉ của Không Trí sư thúc, ba mươi sáu đệ tử La Hán đường sẽ giám quản quy củ của đại hội anh hùng. Trong cuộc tỷ võ hôm nay, kẻ nào cậy số đông đánh số ít, sẽ là kẻ địch chung của võ lâm thiên hạ. Phái Thiếu Lâm chúng tôi là chủ nhân, phải duy trì công đạo. Ba mươi sáu đệ tử sẽ giám sát chặt chẽ, bất kể người nào phạm quy, cũng sẽ giết luôn tại chỗ, quyết không dung tha.
Ba mươi sáu đệ tử Thiếu Lâm lớn tiếng đáp ứng, chằm chằm theo dõi vùng giữa sân bãi. Như thế là phái Nga Mi đã phòng bị trước, phái Thiếu Lâm lại giám sát ở bên cạnh, đệ tử Cái Bang tuy rất bi phẫn, song cũng không dám xông ra động thủ, chỉ lớn tiếng chửi rủa, khiêng xác Chấp pháp trưởng lão về. Triệu Mẫn quay sang nói với Phạm Dao:
– Khổ đại sư, không ngờ phái Nga Mi lại có tuyệt chiêu như vậy, dạo ở chùa Vạn An, Diệt Tuyệt sư thái thà chết không chịu ra tỷ võ, có lẽ là vì vậy.
Phạm Dao lắc đầu, trong óc cố nghĩ cách hóa giải chiêu này. Y thẫn thờ một hồi, rồi quay sang nói với Trương Vô Kỵ:
– Giáo chủ, thuộc hạ xin thỉnh giáo một lộ võ công.
Y đặt hai tay lên mặt bàn, giơ ngón trỏ tay trái và ngón trỏ tay phải ra, một trước một sau, lên lên xuống xuống cực kỳ linh hoạt bảy lần, rồi nói nhỏ:
– Hai cánh tay thuộc hạ liên tiếp tấn công, giữ riệt cánh tay của tên tiểu tử ấy, vận nội lực đánh gãy khớp xương cánh tay của hắn, thì lực ngón tay của hắn lợi hại mấy cũng trở nên vô dụng.
Trương Vô Kỵ cũng giơ hai ngón tay trỏ, bên trái móc lại, bên phải nâng lên, nói:
– Cẩn thận, chớ để hắn dùng ngón tay đâm vào cánh tay ta.
Phạm Dao gật đầu, nói:
– Thuộc hạ sẽ dùng cầm nã thủ tóm lấy cổ tay hắn, sử dụng mười tám lộ “Uyên ương liên hoàn” đá vào hạ bàn của hắn.
Trương Vô Kỵ nói:
– Tấn công mạnh tám mươi mốt chiêu, làm cho hắn không kịp thở.
Hai người bốn ngón tay tiến thoái, đánh đỡ nhanh nhẹn tuyệt luân. Phạm Dao bỗng mỉm cười, nói:
– Mấy chiêu vừa rồi của giáo chủ quá ư thần diệu, tên tiểu tử kia ngoài chỉ lực ra, võ công có hạn, sẽ không thể thi thố gì được.
Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:
– Hắn không thi thố nổi ba chiêu ấy, thì Phạm hữu sứ tất nhiên thắng rồi.
Ngón trỏ tay trái xoay hai vòng tròn, đột nhiên ngón trỏ tay phải thọc luôn vào giữa vòng, móc lấy ngón tay của Phạm Dao, mỉm cười không nói.
Phạm Dao ngẩn ra, cả mừng, nói:
– Đa tạ giáo chủ chỉ điểm, thuộc hạ bội phục thật sự. Bốn chiêu này đúng là ngoài sức tưởng tượng, mở mắt cho thuộc hạ, thuộc hạ thật tiếc là không được bái giáo chủ làm sư phụ.
Trương Vô Kỵ nói:
– Đây là “Loạn hoàn quyết” trong “Thái cực quyền” pháp do thái sư phụ bản tòa truyền cho. Yếu chỉ nằm ở chỗ tay trái đảo mấy vòng. Tống Thanh Thư tuy xuất thân từ phái Võ Đang, nhưng hắn chưa hiểu nổi chỗ tinh vi ấy đâu.
Phạm Dao đã có chủ ý, đã biết cách chế ngự Tống Thanh Thư; có điều là Tống Thanh Thư mới thắng liền hai trận, theo quy định được quyền tạm nghỉ, phải chờ hắn tái độ xuất trường, mới tiến ra khiêu chiến được.
Triệu Mẫn mỉm cười, vui vẻ đi sang một bên. Trương Vô Kỵ đi theo, hỏi nhỏ:
– Mẫn muội có chuyện gì mà vui thế?
Đôi má trắng như ngọc của Triệu Mẫn ửng hồng, cúi đầu nói nhỏ:
– Chàng truyền cho Phạm hữu sứ mấy chiêu võ công, chỉ để đánh gãy tay Tống Thanh Thư, sao chàng không bày cách giết luôn hắn cho xong?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Tống Thanh Thư tuy làm nhiều việc bất nghĩa, nhưng dẫu sao cũng là đứa con độc nhất của Tống đại sư bá, nên để chính đại sư bá phân xử thì hơn. Nếu ta bảo Phạm Dao lấy mạng hắn, chẳng hóa ra có lỗi với đại sư bá.
Triệu Mẫn cười nói:
– Chàng giết hắn, Chu tỷ tỷ sẽ thành góa phụ, chàng có thể gá lại duyên xưa, chẳng hay hơn ư?
Trương Vô Kỵ cười, nói:
– Thế muội có để cho ta làm vậy hay không nào?
Triệu Mẫn mỉm cười, nói:
– Muội chỉ mong có thế, để khi nào chàng thay lòng đổi dạ, nàng ta sẽ móc năm cái lỗ trên ngực kẻ bạc tình.
Trong lúc Trương Vô Kỵ trao đổi chiêu thức với Phạm Dao, thì Tống Thanh Thư được tám nữ đệ tử hộ vệ trở vào lán nghỉ ngơi. Quần hùng thấy hắn dùng năm ngón tay hạ sát hai cao thủ, thật là kinh tâm động phách, nổi da gà, không dám mạo hiểm ra đấu với hắn.
Lát sau, Tống Thanh Thư lại nhơn nhơn bước ra, ôm quyền, nói:
– Tại hạ nghỉ ngơi đã xong, có vị anh hùng nào lên chỉ giáo chăng?
Phạm Dao lên tiếng:
– Để ta lĩnh giáo tuyệt học của phái Nga Mi.
Phạm Dao định xông ra, bỗng có một cái bóng xám vọt tới trước mặt Tống Thanh Thư, quay sang nói với Phạm Dao:
– Phạm đại sư, xin hãy nhường tại hạ lần này.
Chỉ thấy người kia khí độ chững chạc, hai chân đứng không theo kiểu chữ Đinh hay chữ Bát, tay ôm theo hình Thái cực, chính là Võ Đang nhị hiệp Du Liên Châu.
Phạm Dao thấy người tranh chỗ là sư bá của giáo chủ, thì không tiện từ chối, đành nói:
– Phạm mỗ hôm nay may mắn được ngắm thần kỹ của Du nhị hiệp phái Võ Đang.
Du Liên Châu nói:
– Không dám.
Tống Thanh Thư từ nhỏ đã sợ vị sư thúc này, bây giờ thấy ông vận khí, nghiêm trận lâm địch, thì biết ngay việc hôm nay đã không còn là chuyện luyện võ truyền nghề trên núi Võ Đang, mà là trận đấu chí tử, tuy hắn đã học được võ công kỳ môn, song cũng không khỏi khiếp sợ.
Du Liên Châu ôm quyền, nói:
– Mời Tống thiếu hiệp!
Ông hành lễ, miệng xưng hô như thế, rõ ràng là muốn chứng tỏ ông hoàn toàn không dám coi thường đối phương, song cũng không còn chút tình hương hỏa gì với hắn nữa. Tống Thanh Thư không nói một lời, cúi mình thi lễ. Du Liên Châu tung luôn ra một chưởng.
Du Liên Châu thành danh đã hơn ba chục năm, nhưng trong võ lâm được tận mắt chứng kiến thân thủ của ông thì chẳng có mấy người; mãi đến hôm nay mới thấy ông sử dụng nhu kình trên lòng bàn tay hóa giải thế công gớm ghiếc của “Tích lịch lôi hỏa đạn”, công lực tinh thuần như thế, ai nấy đều tự thẹn mình thua kém. Trên giang hồ người ta đều biết yếu chỉ võ công của phái Võ Đang là lấy nhu khắc cương, chiêu thức tuy chậm mà biến hóa tinh vi, ngờ đâu Du Liên Châu song chưởng như gió cuốn, chiêu thức quá mau lẹ, trong giây lát Tống Thanh Thư đã trúng một chưởng một cước vào hông và đùi.
Tống Thanh Thư kinh hãi: “Thái sư phụ và cha ta đều muốn ta lên làm chưởng môn đời thứ ba phái Võ Đang, chẳng có môn võ công gì mà giữ kín, không truyền thụ. Pho quyền cước này của Du nhị thúc, ta đã học rồi, nhưng xuất chiêu sao lại nhanh như thế, chẳng phải đã phạm điều đại kỵ của võ công bản môn hay sao? Nhưng phải nói là lợi hại thật đấy!” Hắn muốn thi triển công phu chỉ lực do Chu Chỉ Nhược truyền thụ, nhưng bị Du Liên Châu dồn ép đến không kịp thở, đành liên tiếp lùi bước, cố phòng thủ môn hộ.
Quần hùng chăm chú theo dõi cuộc đấu, tuy thấy Du Liên Châu đang chiếm thượng phong, song ban nãy Tống Thanh Thư giết chết Cái Bang nhị lão, cũng đều là chuyển bại thành thắng, đang yếu thế đột nhiên tung sát thủ, chuyện đó rất có thể tái diễn. Du Liên Châu càng đánh càng nhanh, song chiêu nào thức ấy hết sức rõ ràng mạch lạc, y như một ca sĩ đại tài, hát đến chỗ cực nhanh, nhưng mỗi tiếng mỗi nốt vẫn đâu ra đó, không hề lẫn lộn, nuốt lời.
Quần hùng lục tục nhổm dậy, những người ở đằng sau thì trèo cả lên bàn để nhìn cho rõ, ai nấy tấm tắc:
– Võ Đang Du nhị hiệp danh bất hư truyền, tấn công dồn dập hồi lâu mà chiêu thức không hề trùng lặp.
Song Tống Thanh Thư là đệ tử đích truyền của phái Võ Đang, mọi biến hóa tinh vi trong quyền cước của Du Liên Châu, hắn đều đã học cả, chỉ là đánh với tốc độ nhanh như thế, thì hắn mới gặp lần đầu. Trên sân bãi bụi vàng bay mù mịt, bao phủ cả hai người.
Bỗng nghe một tiếng “bốp” rất vang, hai chưởng đập vào nhau, Tống Thanh Thư và Du Liên Châu cùng bật ngược ra sau, đám bụi cũng chia thành hai. Du Liên Châu chân chưa đứng hẳn đã lại tung mình nhảy tới.
Ân Lê Đình lo cho sư huynh, bất giác cứ nhích dần tới bên đấu trường, tay đặt trên cán kiếm, mắt chăm chú theo dõi. Lúc này Tống Thanh Thư sống chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc, dốc toàn lực chống trả, không còn phân biệt môn phái gì nữa, sử dụng toàn là công phu của phái Võ Đang mà hắn đã luyện từ bé. Chiêu thức quyền cước của hai người, Ân Lê Đình đều thuộc làu, biết chiêu nào cũng đều là sát thủ trí mạng, nên trong bụng lo lắng bồn chồn hơn hẳn người ngoài. May mà thấy Du Liên Châu càng đánh càng thắng thế, nếu không phải đề phòng Tống Thanh Thư giở đòn sát thủ hiểm độc bất ngờ chộp năm ngón tay, phải từng bước hết sức thận trọng, thì Du Liên Châu hẳn đã lấy mạng hắn rồi.
Trương Vô Kỵ cũng rất lo lắng, trong tay cầm sẵn hai tấm thánh hỏa lệnh, nếu Du Liên Châu gặp nguy hiểm đến tính mạng thật sự, thì chàng sẽ bất chấp quy định của đại hội, ném ra cứu Du sư bá.
Chỉ thấy bụi mù càng bay cao hơn, Tống Thanh Thư đột nhiên xòe năm ngón tay trái chộp tới vai bên phải của Du Liên Châu. Du Liên Châu trong hơn một trăm chiêu vừa qua vẫn đợi hắn thi triển chiêu này. Tống Thanh Thư một trảo giết chết Cái Bang nhị lão ra sao, ông đã nhìn rõ hết. Nếu không có chuyện hai ông già Cái Bang bị họa, lần đầu tiên ông bất ngờ gặp phải đòn sát thủ ấy, có lẽ không chết thì cũng bị trọng thương. Nhưng ông đã thấy trước, nên trong bụng đã có cách ứng phó rồi.
Tống Thanh Thư luyện môn trảo pháp này chưa lâu, biến hóa chưa nhiều, lúc này tái diễn, so với hai lần trước chỉ là đại đồng tiểu dị. Du Liên Châu vai phải nghiêng đi, tay trái đưa lên xoay mấy vòng tròn.
Triệu Mẫn và Phạm Dao không nhịn được, cùng kêu ồ lên; Du Liên Châu xoay tay mấy vòng tròn, đúng như “Loạn hoàn quyết” trong “Thái cực quyền pháp” mà Trương Vô Kỵ vừa chỉ điểm cho Phạm Dao. Triệu Mẫn và Phạm Dao nhìn thấy, biết ngay Tống Thanh Thư sa bẫy rồi, quả nhiên tiếng “Ồ” chưa dứt, năm ngón tay phải của Tống Thanh Thư đã nhắm vào cổ họng Du Liên Châu. Trương Vô Kỵ cả giận, khẽ chửi “Cho mi chết, đáng kiếp!” Chấp pháp trưởng lão của Cái Bang đã bỏ mạng vì trảo này của Tống Thanh Thư, bây giờ hắn lại giở ngón đòn đó ra với sư thúc của hắn.
Nhưng hai tay Du Liên Châu một xoay vòng, một kéo lại, sử dụng hai kình lực “Toàn phiên” và “Loa thi” trong “Lục hợp kình”, cuốn chặt lấy hai cánh tay Tống Thanh Thư, nghe hai tiếng “rắc rắc”, khớp xương hai tay của hắn đã bị bẻ gãy vụn. Du Liên Châu quát:
– Hôm nay ta báo thù cho thất đệ!
Hai tay ông chập lại, dùng chiêu “Song phong quán nhĩ”[135], song quyền đập vào hai tai Tống Thanh Thư, một chiêu miên kình này lập tức làm cho đầu hắn bẹp dúm.
Thân hình Tống Thanh Thư chưa kịp đổ xuống, Du Liên Châu đang toan đá thêm một cái, lấy mạng hắn tại trận, bỗng một cái bóng xanh vụt ra, một sợi trường tiên[136] đánh tới mặt ông. Du Liên Châu vội nhảy ra sau tránh được, sợi trường tiên kia cứ liên tiếp tấn công cực nhanh, chính là chưởng môn phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược nhảy ra báo thù cho chồng.
Du Liên Châu vội lùi ba bước. Tiên pháp[137] của Chu Chỉ Nhược kỳ ảo, chỉ trong ba chiêu đã vây chặt ông lại, đột nhiên rung một cái, thu roi lại, tay trái chộp lấy ngọn roi, lạnh lùng nói:
– Lúc này ta lấy mạng các hạ, e các hạ không phục. Mau lấy binh khí ra!
Ân Lê Đình rút kiếm nghe soạt một tiếng, xông ra, nói:
– Để ta tiếp cao chiêu của Chu cô nương!
Chu Chỉ Nhược trừng mắt nhìn Ân Lê Đình một cái, quay sang xem thương thế của Tống Thanh Thư, thấy hắn hai mắt lồi tròng, thất khiếu chảy máu, nằm rũ dưới đất, chắc là đã chết. Ba nam đệ tử phái Nga Mi chạy tới khiêng hắn về lán.
Chu Chỉ Nhược quay lại, chỉ Du Liên Châu, nói:
– Ta giết các hạ trước, rồi giết gã họ Ân kia cũng chưa muộn.
Du Liên Châu vừa rồi dốc toàn lực mà không thoát nổi vòng vây nhuyễn tiên, thì lòng thầm kinh hãi. Ông thương sư đệ, nghĩ bụng: “Mình đấu với y thị một trận, dẫu có chết bởi cây roi kia, thì lục đệ ít ra cũng nhận biết được chỗ lợi hại của tiên pháp y thị mà tìm được đường sống”. Ông bèn giơ tay nhận thanh trường kiếm trong tay Ân Lê Đình. Ân Lê Đình cũng thấy cục diện vô cùng nguy hiểm, với võ công của hai sư huynh sư đệ, chắc khó lòng thoát đòn đánh của ngọn roi, ông cũng nghĩ như sư huynh, thà mình lãnh nhận mối nguy hiểm trước, để sư huynh nhận biết, thấy được yếu chỉ của tiên pháp, vì thế ông không chịu trao kiếm, nói:
– Sư ca, để tiểu đệ đấu cho.
Du Liên Châu nhìn sư đệ, mấy chục năm cùng nhau học nghệ, tình thân như thủ túc, ý nghĩ vụt hiện ra như tia chớp, nhớ đến Du Đại Nham tàn phế, Trương Thúy Sơn tự sát, Mạc Thanh Cốc chết thảm, Võ Đang thất hiệp nay chỉ còn bốn người, hôm nay xem chừng lại có hai người nữa bỏ mạng ở đây; Ân lục đệ võ công tuy cao, nhưng tính nết lại yếu đuối, nếu mình chết trước, tâm thần lục đệ sẽ rối loạn, chưa chắc còn đấu được nữa. Ông nghĩ thầm: “Nếu mình chết trước, lục đệ sẽ không thể báo thù được cho mình, cũng không chịu bảo toàn mạng sống, như thế thì hai sư huynh đệ mình cùng bỏ mạng tại đây, thật chẳng ích gì. Còn nếu để lục đệ đấu trước, ta sẽ nhận ra chỗ cốt yếu trong tiên pháp của nữ nhân kia, may ra còn quyết đấu buộc y thị cùng chết”. Nghĩ vậy, bèn gật đầu dặn:
– Lục đệ, hãy cố giữ thêm được khắc nào hay khắc ấy.
Ân Lê Đình nghĩ đến vợ là Dương Bất Hối đang mang thai, bất giác đưa mắt nhìn Dương Tiêu và Trương Vô Kỵ, song lại gạt đi ngay: “Ta chết đi rồi, Bất Hối và con ta sẽ có người lo liệu, hà tất phải dặn dò theo lối đàn bà con gái”. Liền giơ kiếm lên, mắt nhìn mũi kiếm, tập trung tinh thần, rùn vai xuống, lỏng khuỷu tay, nói:
– Mời chưởng môn nhân ra chiêu!
Ông lớn tuổi hơn hẳn Chu Chỉ Nhược, song Chu Chỉ Nhược hiện thời làm chưởng môn phái Nga Mi, cho nên ông cần giữ lễ cho đúng. Du Liên Châu thấy sư đệ dùng thức mở đầu trong “Thái cực kiếm” để nghênh địch, biết lục đệ lấy tuyệt học của sư môn đối phó với cường địch, bèn thong thả lùi về phía sau.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Các hạ tiến chiêu đi!
Ân Lê Đình biết đối phương xuất thủ nhanh như chớp, nếu y thị chiếm được tiên cơ, sẽ khó lòng giữ thế quân bình, nghĩ vậy, bèn bước chân trái lên, kiếm giao sang tay trái, sử chiêu “Tam hoàn sáo nguyệt”, chiêu thứ nhất hư hư thực thực, tay trái cầm kiếm tấn công, mũi kiếm phát ánh loang loáng và tiếng gió vi vu, người đứng ngoài vỗ tay hoan hô vang dội.
Chu Chỉ Nhược nghiêng người tránh sang một bên, Ân Lê Đình liền sử chiêu “Đại khôi tinh”, “Yến tử sao thủy”, trường kiếm vạch thành vòng tròn lớn trên không trung, tay phải đâm kiếm quyết ra, cũng phát tiếng vi vu. Chu Chỉ Nhược uốn cái eo thon, tránh cả hai chiêu đó, nói:
– Ân lục hiệp, ta nhường các hạ ba chiêu để đáp lại cái tình năm xưa trên núi Võ Đang.
Chữ “Đang” vừa dứt, nhuyễn tiên chẳng khác gì một con linh xà trườn thẳng tới ngực Ân Lê Đình. Ân Lê Đình tránh sang bên trái, nhuyễn tiên đang ở trên không liền chuyển hướng đuổi theo.
Ân Lê Đình sử chiêu “Phong bãi hà diệp”[138], trường kiếm hớt qua, kiếm tiên chạm nhau, nghe “tưng” một tiếng nhỏ, Ân Lê Đình cảm thấy hổ khẩu nóng rát, suýt nữa để văng thanh kiếm, thì trong bụng cả kinh: “Ta cứ tưởng y thị chiêu thức quái dị, còn nội lực chẳng thể sánh với ta, không ngờ nội lực của y thị cũng kỳ dị khôn lường”. Liền ngưng thần chuyên chí, vận dụng pho “Thái cực kiếm pháp” xoay tròn như ý, bảo vệ môn hộ nghiêm mật lạ thường.
Ngọn nhuyễn tiên trong tay Chu Chỉ Nhược giống như một dải lụa mềm, tưởng chừng không có một chút sức nặng, lúc bên này lúc bên kia, lúc tiến lúc thoái, cứ bay lượn xung quanh Ân Lê Đình.
Trương Vô Kỵ càng nhìn càng lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Nàng sử dụng nhuyễn tiên khác hẳn so với ba vị cao tăng Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp”. Thoạt đầu chàng ngỡ phái Nga Mi có võ công tà môn, song lúc này thấy thân thủ nàng biến ảo như quỷ mị, khác hẳn so với Diệt Tuyệt sư thái, thì trong lòng cảm thấy một mối kinh sợ lờ mờ. Phạm Dao bỗng nói:
– Nàng ta là quỷ, không phải là người.
Câu đó nói trúng tâm sự của Trương Vô Kỵ, khiến chàng bất giác giật mình, nếu trên bãi đấu không sáng lóa mắt, bốn phía đông nghịt người, thì chàng đã nghi Chu Chỉ Nhược chết rồi, hồn ma nhập vào nhuyễn tiên mà đấu với Ân Lê Đình. Bình sinh chàng từng chứng kiến vô số môn võ công quái dị, thế nhưng tiên pháp thân pháp này của Chu Chỉ Nhược, y như gió lay cành liễu, nước đẩy cánh bèo, không giống cảnh tượng cõi trần, thì chàng cứ ngỡ mình đang nằm mơ, lòng thấy lạnh lẽo: “Chẳng lẽ nàng có yêu pháp thật hay sao? Hay là quỷ nhập tràng?”
Chu Chỉ Nhược thân pháp kỳ dị, song “Thái cực kiếm pháp” là do Trương Tam Phong sáng chế vào cuối đời sau Thái cực quyền, quả là thứ kiếm thuật tuyệt đỉnh thời nay, Ân Lê Đình vận dụng kình lực ra rồi thì cứ liên miên bất tuyệt, tuy không đả thương nổi đối thủ, song để bảo vệ lấy mình thì không có chút sơ hở nào.
Bỗng nghe có tiếng người lè nhè eo éo cất lên:
– Chao ôi, Tống Thanh Thư sắp tắt thở rồi, Chu đại chưởng môn ơi, sao chẳng lo tiễn chồng xuống suối vàng, làm quả phụ thì khổ bỏ mẹ!
Mọi người nhìn về phía đó, biết là Chu Điên.
Chu Điên biết đệ tử phái Võ Đang bình sinh hết sức chú trọng việc dưỡng khí điều tức, trong lúc giao đấu luôn luôn giữ cung cách “núi Thái Sơn sụp trước mặt cũng không biến sắc, hươu nai chạy bên cạnh cũng chẳng ngó theo”; vì thế Chu Điên muốn làm rối trí Chu Chỉ Nhược để giúp Ân Lê Đình.
Chu Điên lại gọi to:
– Ối ối, này Chu Chỉ Nhược cô nương phái Nga Mi, đức lang quân của cô nương thở hắt ra rồi kìa, hắn có mấy lời trăn trối với cô nương, nói là hắn còn có ba bảy hai mươi mốt, bốn bảy hai mươi tám đứa con riêng. Sau khi hắn chết, hắn nhờ cô nương nuôi chúng nên người, để hắn có thể nhắm mắt nơi chín suối. Rốt cuộc cô nương có nhận lời giúp hắn hay không hả?
Quần hùng nghe Chu Điên nói nhăng nói cuội, có người nhịn không được, cười ồ lên, Chu Chỉ Nhược làm như không nghe thấy. Chu Điên lại eo éo nói:
– Ối chà, không xong rồi! Này Diệt Tuyệt lão sư thái, lâu nay bà vẫn mạnh giỏi chứ? Lâu lắm không gặp, trông bà ngày càng rắn rỏi. Âm hồn bà nhập vào người Chu cô nương, thảo nào nhuyễn tiên cô nàng múa quá đẹp!
Đột nhiên thân hình Chu Chỉ Nhược nhún một cái đã nhảy lùi mấy trượng, ngọn nhuyễn tiên vụt qua vai ra phía sau, đầu roi nhắm thẳng tới mặt Chu Điên. Nàng vốn ở cách lán của Minh giáo hơn mười trượng, song nhuyễn tiên quất đi là tới liền, y như rồng lượn trên trời, tên rời khỏi nỏ. Chu Điên đang cao hứng nói văng cả nước bọt, nào ngờ Chu Chỉ Nhược đang ác đấu lại bỗng dưng quất roi tập kích, Chu Điên còn đang ngây ra, thì ngọn roi đã đánh tới mặt. Chu Chỉ Nhược không hề quay người lại, song ngọn roi tựa hồ có mắt, đầu roi nhắm ngay chót mũi của ông ta.
Chu Chỉ Nhược quất roi về phía sau lưng rồi, mà ngón trỏ và ngón giữa tay trái vẫn liên tiếp chọc bảy chỉ vào Ân Lê Đình, toàn nhắm các yếu huyệt ở mặt và ngực ông.
Ân Lê Đình không kịp tấn công, cũng không có cách gì vòng ngược kiếm về chặt cánh tay nàng ta, đành sử chiêu “Phụng điểm đầu” rùn mình xuống tránh né.
Lúc ấy chỗ lán của Minh giáo nghe một tiếng “bốp”, rồi nhiều tiếng đổ vỡ. Nguyên Dương Tiêu đứng cạnh Chu Điên, mắt tinh tay lẹ, hất cái bàn trước mặt lên hứng ngọn roi của Chu Chỉ Nhược. Nhuyễn tiên quật trúng cái bàn, bàn vỡ, ván gỗ bay tung tóe, bình trà, chén trà cũng vỡ tan, mấy người ở gần đều bị mảnh sứ, nước trà văng vào người.
Chu Chỉ Nhược ra đòn không trúng, chẳng lý đến Chu Điên nữa, ngọn nhuyễn tiên lại dồn dập tấn công Ân Lê Đình.
Du Liên Châu cầm kiếm đứng ngoài quan sát hồi lâu, vẫn chưa tìm ra chỗ tinh yếu trong tiên pháp của Chu Chỉ Nhược. Ông nghĩ thầm: “Mình có ra tay lần nữa, pho Thái cực kiếm pháp cũng chẳng thể sử dụng hay hơn lục đệ. Nhưng nếu đấu càng lâu, nội lực của y thị không dồi dào, mình có thể lấy sức bền dẻo dai thủ thắng”. Ông thấy kiếm pháp của Ân Lê Đình vào ra khép mở, âm dương động tĩnh, quả đã đạt tới mức tuyệt diệu những gì ân sư Trương Tam Phong truyền thụ cho, nghĩ trong đời sư đệ chưa từng thi thố thứ kiếm thuật cao minh thế này bao giờ, hôm nay lâm vào thời khắc sinh tử, đã phát huy được những gì tinh túy nhất trong kiếm pháp. Võ công phái Võ Đang càng đánh càng mạnh, càng kéo dài càng có hi vọng thủ thắng.
Chu Chỉ Nhược đột nhiên rung nhuyễn tiên, xoay nó thành các vòng tròn lớn nhỏ, bao vây Ân Lê Đình. “Thái cực quyền” và “Thái cực kiếm” đều đều sử dụng cách vận kình thành vòng tròn. Nhuyễn tiên của Chu Chỉ Nhược cũng cuộn thành vòng tròn, vòng tròn của roi và vòng tròn của kiếm có cùng phương hướng, song nó nhanh gấp mấy lần. Kình lực trên kiếm của Ân Lê Đình bị nàng ta kéo đi, lập tức ông đứng không vững, xoay mình mấy lần, thanh kiếm rời khỏi tay văng lên không trung. Nhuyễn tiên của Chu Chỉ Nhược vòng ngược lại, đầu roi nhắm ngay đỉnh đầu Ân Lê Đình mà đánh tới.
Du Liên Châu vọt tới, tay phải chộp lấy đầu nhuyễn tiên. Chu Chỉ Nhược tung một ngọn cước đá trúng bên hông Du Liên Châu. Du Liên Châu vẫn chưa tìm ra chỗ tinh yếu của tiên pháp quái dị, đến lúc thấy nàng xoay roi thành vòng tròn, đánh văng trường kiếm của Ân Lê Đình, thì ông chợt hiểu: “Hóa ra công lực của y thị thuộc loại xoàng, việc điều khiển nhuyễn tiên xoay vòng tròn so với công phu ‘Thái cực quyền’ của bản môn còn thua xa”. Ông chộp được ngọn roi, chịu nhận một cú đá vào bên hông, tay trái xộc thẳng vào bụng dưới của Chu Chỉ Nhược, chính là một chiêu “Hổ trảo tuyệt hộ thủ”. Chu Chỉ Nhược không cách gì chống đỡ, trong óc chợt lóe lên ý nghĩ: “Thôi thế là hôm nay mình bỏ mạng dưới tay Du nhị thúc”. Tay phải nàng buông rơi cây roi, năm ngón tay bổ xuống đỉnh đầu Du Liên Châu, cốt để đôi bên cùng chết.
Du Liên Châu toan nghiêng đầu né tránh, ngờ đâu bên hông trúng cước, huyệt đạo bị phong bế, cổ gáy cứng đơ không chuyển động được, nhưng tay trái vẫn vận kình đâm tới.
Đúng vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, từ bên ngoài một bóng người bay vụt tới, tay phải gạt “Hổ trảo tuyệt hộ thủ” của Du Liên Châu, tay trái hất năm ngón tay của Chu Chỉ Nhược đang vồ xuống đầu Du Liên Châu, chính là Trương Vô Kỵ lao ra cứu cả hai người.
Song chưởng của Chu Chỉ Nhược liền đánh nhanh tới ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nếu tránh thì lực của song chưởng sẽ trúng mặt Du Liên Châu, nên chàng đành giơ tay trái chống đỡ.
Ba bàn tay của hai người đập vào nhau. Trương Vô Kỵ cảm thấy song chưởng của Chu Chỉ Nhược không có chút kình lực nào, lòng thầm kinh hãi: “Chao ôi, không hay rồi! Nàng khổ đấu với lục thúc hơn hai trăm chiêu, đã lâm vào tình thế cây đèn cạn dầu. Luồng kình lực của ta mà tống ra, ắt nàng sẽ chết liền tại chỗ mất”, vội thu ngay kình lại.
Ban đầu tả chưởng của chàng đánh ra, biết Chu Chỉ Nhược là một đại cường địch, võ công thua kém chàng không đáng kể, chàng hoàn toàn không dám coi thường, hơn nữa lại dùng đơn chưởng chống đỡ song chưởng, nên lần này chàng sử dụng mười thành lực. Kình lực vừa đẩy ra, chợt phát hiện đối phương kiệt sức, vội gắng gượng thu về, dẫu biết như thế là phạm đại kỵ trong võ học, chẳng khác gì dùng mười thành kình lực tự đánh mình, huống chi trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó đột nhiên thu về, lại phải tốn rất nhiều lực. Cũng may chàng có thể nội kình thu phát tùy ý, luồng kình lực đánh về bản thân này cùng lắm cũng chỉ khiến chàng ngạt thở một chút, chứ không đến nỗi nào. Không ngờ chàng vừa thu kình về, tự dưng phát giác chưởng lực của đối phương ào ào tràn tới như nước lũ làm vỡ đê, không gì chặn nổi.
Trương Vô Kỵ cả kinh, biết mình bị ám toán, nghe “bình” một tiếng, ngực đã bị song chưởng của Chu Chỉ Nhược đánh vào. Đó là chưởng lực của chàng cộng với của song chưởng Chu Chỉ Nhược, khác nào hai đại cao thủ cùng hợp kích, “Cửu dương thần công” hộ thể của chàng tuy dồi dào thật, song cũng không chịu nổi. Huống hồ chưởng lực của Chu Chỉ Nhược lại là thừa cơ đánh vào, đúng cái lúc chàng đã dùng hết sức cũ, còn lực mới thì chưa kịp sinh ra. Môn công phu này là đích truyền của phái Nga Mi, năm trước Diệt Tuyệt sư thái đã sử dụng đánh chàng hộc máu ngã gục. Có điều năm trước chàng hoàn toàn chưa biết cách chống đỡ, còn lần này chỉ là vì thương người mà bị lừa trúng kế. Thế là chàng ngã ngửa ra sau, mắt tối sầm, hộc ra một ngụm máu tươi.
Chu Chỉ Nhược đánh lén thành công, tay trái liền vươn ra, năm ngón chộp xuống ngực chàng. Trương Vô Kỵ bị trọng thương, nhưng tâm trí chưa loạn, nhìn đòn trảo ấy, nếu để đánh tới ngực thì ngực sẽ vỡ tung, vội cố gượng lùi ra sau vài tấc; nghe “soạt” một tiếng, năm ngón tay của Chu Chỉ Nhược đã cào rách áo, để lộ đường thịt trên ngực chàng.
Chu Chỉ Nhược lại giơ năm ngón tay phải toan trảo tiếp. Lúc này Du Liên Châu bị nàng đá trúng huyệt đạo đã ngã ra, không cử động được, Ân Lê Đình vội xông tới cứu, cũng không kịp nữa, Trương Vô Kỵ khó tránh kiếp nạn. Chu Chỉ Nhược vừa toan ra đòn, bỗng nhìn thấy vết sẹo mà nàng đã dùng kiếm Ỷ Thiên đâm chàng năm trước trên đỉnh Quang Minh; năm ngón tay nàng chỉ cách ngực Trương Vô Kỵ chưa đầy nửa thước, nhu tình trong lòng chợt dấy lên, mắt nhòa lệ, bàn tay không chộp xuống nữa.
Nàng đang chần chừ, thì Ân Lê Đình, Vi Nhất Tiếu, Phạm Dao và Dương Tiêu bốn người đã cùng xông ra. Vi Nhất Tiếu phi thân che chắn cho giáo chủ, Phạm Dao và Dương Tiêu thì chia ra đánh vào hai bên tả hữu của Chu Chỉ Nhược. Ân Lê Đình thì ôm Trương Vô Kỵ chạy về.
Biến cố đó khiến sân bãi náo loạn, các đệ tử phái Nga Mi và tăng chúng Thiếu Lâm quát tháo ầm ỹ, cầm binh khí xông ra đấu trường. Phạm Dao và Dương Tiêu trao đổi vài chiêu với Chu Chỉ Nhược, thì ngừng tay, Vi Nhất Tiếu đã xốc Du Liên Châu cùng quay về lán. Người của phái Nga Mi và Thiếu Lâm thấy đám kia không đánh nhau nữa, cũng tản đi.
Triệu Mẫn cũng chạy ra cứu, nhưng thân pháp không nhanh bằng đám Vi Nhất Tiếu, giữa chừng thấy Trương Vô Kỵ miệng đầy máu, nàng sợ đến nỗi mặt trắng nhợt như tờ giấy. Trương Vô Kỵ gượng cười, nói:
– Không sao đâu, vận khí một lát sẽ khỏe liền.
Mọi người đỡ chàng ngồi xuống đất giữa lán. Trương Vô Kỵ từ từ điều dẫn “Cửu dương thần công” để chữa nội thương.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Còn vị anh hùng nào lên chỉ giáo nữa không?
Phạm Dao xốc lại dây lưng, hùng dũng bước ra.
Trương Vô Kỵ gọi:
– Phạm hữu sứ, ta hạ lệnh không xuất chiến, chúng ta… chúng ta chịu thua…
Nói chưa dứt câu lại hộc ra hai ngụm máu tươi nữa. Lệnh của giáo chủ, Phạm Dao không thể không tuân theo, nếu cứ ra đấu, ắt sẽ làm cho thương thế của Trương Vô Kỵ nặng thêm, huống hồ xuất chiến chắc chỉ kiệt sức, chết uổng mạng, chẳng ích gì cho bản giáo.
Chu Chỉ Nhược đứng giữa sân bãi, lại gọi hai lần nữa.
Vừa rồi Trương Vô Kỵ thu lực về, tự mình đánh vào mình, chỉ có chàng và Chu Chỉ Nhược hai người hiểu chuyện đó mà thôi. Người ngoài cứ tưởng chưởng lực của nàng quái dị nên Trương Vô Kỵ không địch nổi; còn việc Chu Chỉ Nhược ngừng tay tha mạng cho chàng, thì ai ai cũng thấy rõ cả. Nàng chỉ là một thiếu nữ trẻ tuổi, mà liên tiếp đánh bại Du Liên Châu, Ân Lê Đình và Trương Vô Kỵ là ba cao thủ hạng nhất thời nay, võ công kỳ lạ, quả thực ngoài sức tưởng tượng. Trong số quần hùng tuy không ít người thân mang tuyệt kỹ, tự biết tài mình không bằng được Ân, Du, Trương ba người, nên chẳng dại gì bước ra nộp mạng.
Chu Chỉ Nhược đứng giữa bãi, gió núi thổi lay động quần áo, tựa hồ sắp thổi bay cả thân hình mảnh khảnh mềm yếu của nàng, vậy mà mấy ngàn anh hùng hảo hán từ tam sơn ngũ nhạc, bốn phương tám hướng kéo đến đây, chẳng một ai dám bước ra nghênh chiến.
Chu Chỉ Nhược đợi thêm một lát, vẫn không có ai tiến ra; vị lão tăng của Đạt Ma đường bèn bước ra, chắp tay nói:
– Chưởng môn phái Nga Mi, Tống phu nhân võ nghệ đứng đầu quần hùng thiên hạ, có vị anh hùng nào không phục chăng?
Chu Điên nói:
– Chu Điên ta không phục.
Lão tăng nói:
– Vậy xin mời Chu anh hùng hạ trường so tài.
Chu Điên nói:
– Ta đánh không lại cô ta, còn so tài cái gì?
Lão tăng nói:
– Nếu Chu anh hùng đã tự biết mình không địch nổi, tức là phục rồi còn gì?
Chu Điên nói:
– Ta tự biết mình không địch nổi, song vẫn không phục, thì đã sao?
Lão tăng không muốn dây dưa với Chu Điên, bèn hỏi:
– Trừ vị Chu anh hùng này ra, còn ai không phục nữa chăng?
Lão tăng hỏi ba lần, Chu Điên hừ ba tiếng, ngoài ra không một ai lên tiếng. Lão tăng nói:
– Nếu không còn ai hạ trường tỷ thí, chúng ta hãy làm theo quy định từ đầu của đại hội anh hùng, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn giao cho Tống phu nhân phái Nga Mi xử trí. Thanh đao Đồ Long ở trong tay ai, thì người đó cũng phải trao cho Tống phu nhân thu giữ. Đó là quyết định chung của quần hùng, không ai được dị nghị.
Trương Vô Kỵ đang điều quân nội tức, vận hành “Cửu dương chân khí” trị liệu trọng thương, đang dần dần đi vào cảnh giới phản hư không minh[139], bỗng nghe lão tăng nói câu “Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn giao cho Tống phu nhân phái Nga Mi xử trí”, thì trong lòng chấn động, lại hộc ra một ngụm máu tươi nữa.
Triệu Mẫn ngồi bên cạnh, chăm chú săn sóc, thấy chàng đột nhiên run rẩy, mặt mày biến sắc, biết ngay tâm sự của chàng, dịu dàng nói:
– Vô Kỵ ca ca, nghĩa phụ chàng do Chu tỷ tỷ xử trí thì còn gì bằng. Lúc nãy Chu tỷ tỷ không nỡ hạ sát chàng, đủ biết tình ý vẫn còn sâu đậm, sẽ không sát hại nghĩa phụ đâu, chàng cứ yên tâm mà trị thương.
Trương Vô Kỵ nghĩ quả như vậy, cảm thấy yên tâm hẳn.
Lúc này mặt trời lặn xuống sau núi, sân bãi tối dần. Lão tăng kia nói:
– Kim Mao Sư Vương đang bị nhốt ở một nơi sau núi. Bây giờ trời đã tối, các vị cũng đã đói bụng, chiều mai chúng ta lại tề tựu ở đây, lão tăng sẽ dẫn Tống phu nhân đến chỗ mở cửa thả tù. Lúc đó chúng ta sẽ lại được chiêm ngưỡng một lần nữa võ công vô song của Tống phu nhân.
Dương Tiêu, Phạm Dao đưa mắt nhìn Triệu Mẫn, nghĩ thầm: “Quả nhiên cô nương liệu sự chính xác. Phái Thiếu Lâm còn có âm mưu khác. Chu Chỉ Nhược võ công dù cao siêu, cũng chẳng tài gì đánh bại ba lão tăng Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp, e rằng thể nào nàng cũng bỏ mạng trên đỉnh núi kia, kết cục là phái Thiếu Lâm xưng hùng xưng bá”.
Lúc này Chu Chỉ Nhược đã trở về lán. Phái Nga Mi hôm nay uy chấn quần hùng. Các đệ tử thấy chưởng môn bước về lán, ai nấy vô cùng kính phục.
Quần hùng tuy thấy Chu Chỉ Nhược đã đoạt được danh hiệu “Đệ nhất thiên hạ võ công”, nhưng đại sự chưa kết thúc, trong bụng ai cũng có toan tính riêng, nên chưa ai chịu xuống núi.
Lão tăng kia nói:
– Các vị anh hùng đến thăm bản tự, đều là khách quý của phái Thiếu Lâm; ai có ân oán gì, cũng xin hãy nể mặt tệ phái, tạm thời nín nhịn, xin đừng thanh toán với nhau ở núi Thiếu Thất này, nếu không tức là coi thường phái Thiếu Lâm lắm vậy. Các vị sau khi dùng bữa tối, mọi nơi ở núi trước cứ việc tùy ý du lãm. Còn núi sau là nơi tệ phái cất giữ kinh và truyền nghề, xin các vị tự trọng dừng bước cho.
*
* *
Phạm Dao ôm Trương Vô Kỵ đi về dãy lều do Minh giáo tự dựng. Trương Vô Kỵ tuy bị chưởng thương nặng, nhưng sau khi uống chín viên linh đan do chàng chế sẵn, lại dùng “Cửu dương chân khí” thúc đẩy dược lực, nên đến canh hai đêm ấy, chàng thổ ra ba ngụm máu bầm, nội thương khỏi hẳn.
Dương Tiêu, Phạm Dao, Du Liên Châu, Ân Lê Đình vừa kinh ngạc vừa vui mừng, tấm tắc khen chàng tu luyện nội công thâm hậu quá chừng, người thường bị thương như thế, dù có cao nhân điều trị, chí ít cũng phải dưỡng thương vài tháng, mới có thể khử trệ thuận khí, chữa lành thương thế; đằng này chàng chỉ tốn vài canh giờ đã khỏi hẳn, nếu không chính mắt chứng kiến, thì thật khó tin.
Trương Vô Kỵ ăn hai chén cơm, nghỉ ngơi một lát rồi đứng dậy, nói:
– Ta ra ngoài một lát.
Chàng là giáo chủ, đã không nói đi đâu lo chuyện gì, thì cũng không ai dám hỏi. Ân Lê Đình nói:
– Điệt nhi bị thương vừa đỡ, hãy hết sức cẩn thận.
Trương Vô Kỵ nói:
– Vâng!
Thấy Triệu Mẫn vẻ mặt hết sức quan hoài, chàng chỉ mỉm cười với nàng, ngụ ý bảo “Nàng cứ yên tâm!”
Chàng ra khỏi lều, ngẩng đầu lên, thấy trăng sáng vằng vặc, lác đác mấy chòm sao, bèn hít một hơi dài, chân khí trong người lưu chuyển, tinh thần phấn chấn, đi tới bên cổng chùa Thiếu Lâm, nói với tri khách tăng:
– Tại hạ có việc cần gặp chưởng môn phái Nga Mi, làm ơn dẫn đường cho.
Tri khách tăng thấy đó là giáo chủ Minh giáo, thì cả sợ, vội cung kính thưa:
– Vâng, vâng! Tiểu tăng xin dẫn đường, mời Trương giáo chủ đi qua bên này!
Tri khách tăng dẫn chàng đi sang phía tây, đi chừng một dặm, đến chỗ có mấy gian nhà nhỏ, nói:
– Phái Nga Mi đều ở đây cả, tăng ni phân biệt, đêm hôm khuya khoắt, tiểu tăng không tiện lại gần chỗ họ.
Tri khách tăng sợ Trương Vô Kỵ lại đến đánh nhau với Chu Chỉ Nhược, nếu hai đại cao thủ thời nay đánh nhau, không chừng y bị vạ lây. Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:
– Nếu đại sư về chùa nói ra việc này, e rằng làm kinh động mọi người, vậy để tại hạ điểm huyệt, đại sư ngồi đây chờ tại hạ, nên chăng?
Tri khách tăng vội nói:
– Tiểu tăng sẽ không kể cho ai biết, giáo chủ cứ yên tâm.
Nói đoạn vội vàng quay mình trở lui.
Trương Vô Kỵ thong thả trước ngôi nhà nhỏ, còn cách mươi trượng, đã thấy hai ni cô phi thân nhảy ra, chĩa kiếm ngăn chặn, quát:
– Ai đó?
Trương Vô Kỵ ôm quyền, nói:
– Minh giáo Trương Vô Kỵ, cầu kiến Tống phu nhân, chưởng môn quý phái.
Hai ni cô cả kinh, người lớn tuổi nói:
– Trương… Trương giáo chủ… xin hãy đợi, để… vào bẩm báo.
Bà ta tuy cố trấn tĩnh, song giọng nói vẫn run rẩy, quay mình đi vài bước liền lấy sáo trúc ra thổi.
Phái Nga Mi hôm nay nở mày nở mặt với anh hùng thiên hạ, người chưởng môn đánh bại liên tiếp ba đại cao thủ, làm cho mấy ngàn bọn mày râu không một ai dám ra nghênh chiến, từ ngày thành lập môn phái đến nay chưa bao giờ vẻ vang đến thế. Nhưng phái Nga Mi hôm nay giết chết hai vị trưởng lão của Cái Bang, đánh bại Võ Đang nhị hiệp, đả thương giáo chủ Minh giáo, đắc tội quả với không ít người; huống hồ Chu Chỉ Nhược đoạt danh hiệu võ công đệ nhất thiên hạ, không biết có bao nhiêu anh hùng ghen tức, đêm nay ở chốn nguy hiểm, xung quanh đầy rẫy cường địch, nên việc canh phòng cực kỳ nghiêm mật. Tiếng sáo của ni cô kia vừa thổi lên, bốn phía nhảy ra đến hơn hai chục người, kiếm quang loang loáng, chia ra trấn giữ các nơi. Trương Vô Kỵ làm như không để ý, hai tay chắp sau lưng, thản nhiên đứng chờ.
Ni cô kia vào nhà bẩm báo, lát sau trở ra, nói:
– Chưởng môn tệ phái bảo nam nữ hữu biệt, đêm hôm không tiện tiếp khách, mời giáo chủ lui bước.
Trương Vô Kỵ nói:
– Tại hạ thông hiểu y thuật, muốn trị thương cho Tống Thanh Thư thiếu hiệp, chứ không có ý gì khác.
Ni cô kia ngẩn ra, lại vào bẩm báo, hồi lâu mới trở ra, nói:
– Chưởng môn mời vào.
Trương Vô Kỵ vỗ vỗ lưng áo, chứng tỏ hoàn toàn không mang theo binh khí, theo ni cô bước vào trong nhà, chỉ thấy Chu Chỉ Nhược ngồi một bên, tay chống cằm, ngơ ngác xuất thần, nghe tiếng chàng đi vào cũng không quay đầu lại. Nữ ni kia rót một chén trà đặt lên bàn rồi lui ra, nhẹ nhàng khép cửa lại, trong gian này không còn ai khác. Một cây nến trắng cháy leo lét, chiếu lên bộ thanh y của Chu Chỉ Nhược khi tỏ khi mờ, trông rất thê lương.
Trương Vô Kỵ trong lòng chợt chua xót, nói nhỏ:
– Tống sư ca thương thế ra sao, để ta xem một chút nào.
Chu Chỉ Nhược không quay đầu, lạnh lùng nói:
– Xương đầu bị vỡ, thương thế quá nặng, chắc không qua nổi đêm nay.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nàng biết ta y thuật không kém, ta muốn tận lực cứu chữa.
Chu Chỉ Nhược hỏi:
– Vì sao giáo chủ muốn cứu y?
Trương Vô Kỵ ngẩn người, nói:
– Ta có lỗi với nàng, trong lòng vô cùng hổ thẹn, huống hồ hôm nay nàng lại nương tay tha mạng cho ta. Tống sư ca thụ thương, dĩ nhiên ta phải cố cứu chữa.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Giáo chủ nương tay cho ta thắng, chẳng lẽ ta không biết? Nếu giáo chủ cứu sống Tống đại ca, thì muốn ta báo đáp thế nào?
Trương Vô Kỵ nói:
– Một mạng đổi một mạng, xin nàng hãy nương tay cho nghĩa phụ ta.
Chu Chỉ Nhược chỉ vào gian trong, nói:
– Ở trong đó.
Trương Vô Kỵ đi tới cửa buồng, thấy bên trong tối om, không đèn nến gì, bèn cầm cây nến đi vào.
Chu Chỉ Nhược vẫn ngồi bất động bên bàn, một tay chống cằm.
Trương Vô Kỵ vén màn, dưới ánh nến thấy Tống Thanh Thư hai mắt lồi ra, ngũ quan méo mó, mặt mũi thật đáng sợ, hơi thở yếu ớt, sớm đã hôn mê li bì. Chàng cầm cổ tay, thấy mạch chạy hỗn loạn, lúc nhanh lúc chậm, da dẻ lạnh ngắt, nếu không cứu chữa ngay thì đúng là khó qua nổi đêm nay.
Chàng sờ nắn xương đầu của Tống Thanh Thư, thấy ở trán và gáy có bốn chỗ bị vỡ, nghĩ thầm song quyền của Du nhị bá quá lợi hại, chiêu “Song phong quán nhĩ” ấy phải dùng đến mười thành nội kình, nếu Tống Thanh Thư không có căn cơ nội công vững vàng, thì đã bỏ mạng tại trận rồi.
Trương Vô Kỵ buông màn xuống, đặt cây nến trên bàn, ngồi trên chiếc ghế trúc nghĩ cách cứu chữa.
Tống Thanh Thư bị thương trí mạng, chỉ có ba phần hi vọng cứu nổi mà thôi. Chàng suy nghĩ bằng thời gian một bữa ăn, rồi đi ra gian ngoài, nói:
– Tống phu nhân, cứu sống được Tống sư ca hay không, ta không dám chắc, nàng có để cho ta thử một phen được chăng? Chu Chỉ Nhược đáp:
– Chàng không cứu nổi, thì thế gian này chẳng có ai cứu được.
Trương Vô Kỵ nói:
– Dù cứu được mạng, thì dung mạo và võ công của Tống sư ca cũng khó phục hồi, đầu óc bị chấn động quá mạnh, chỉ e… chỉ e nói năng cũng không suôn sẻ nữa.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Giáo chủ cũng không phải là thần thánh. Ta biết giáo chủ sẽ tận tâm tận lực cứu y để trong lòng khỏi áy náy, yên tâm đi làm quận mã triều đình.
Trương Vô Kỵ chột dạ, nhưng chuyện này khó mà biện bạch, bèn lẳng lặng bước vào trong buồng, giở cái chăn mỏng đắp trên người Tống Thanh Thư, điểm tám huyệt đạo của hắn, mười ngón tay nhẹ nhàng nắn lại bốn chỗ xương đầu bị vỡ. Chàng lấy trong bọc ra chiếc hộp vàng, dùng ngón út quệt lấy chút cao màu đen bôi lên mấy chỗ gãy xương đó. Thứ cao đó chính là thánh dược trị thương tiếp cốt “Hắc ngọc đoạn tục cao” của phái Thiếu Lâm Tây Vực, mà năm trước Triệu Mẫn đã tặng chàng để chữa trị cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình, may còn dư một chút. “Cửu dương chân khí” từ bàn tay chàng cuồn cuộn tuôn sang, dẫn thuốc tới mấy chỗ vỡ xương.
Chừng tàn một nén nhang, Trương Vô Kỵ đã dẫn thuốc xong, thấy mặt Tống Thanh Thư không có gì thay đổi, thì cả mừng, biết rằng việc cứu sống hắn có thêm vài phần hi vọng. Bản thân chàng bị trọng thương mới khỏi, vừa rồi vận sức như thế, không khỏi thở dốc, tim đập dồn, phải đứng bên giường điều quân nội tức hồi lâu, mới bước ra gian ngoài, đặt cây nến xuống bàn.
Dưới ánh nến, chàng thấy sắc mặt Chu Chỉ Nhược trắng bệch dị thường, phía ngoài có tiếng bước chân nhè nhẹ qua lại, các đệ tử phái Nga Mi đang tuần tra canh phòng, bèn nói:
– Tính mạng của Tống sư ca có cơ cứu được, nàng cứ yên tâm.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Giáo chủ không tin chắc cứu sống y, thì ta cũng không dám chắc cứu được Tạ đại hiệp.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ngày mai nàng phải phá vỡ ‘Kim cương phục ma khuyên’, dù phái Nga Mi có vài cao thủ trợ giúp, mười phần đến chín là thất bại, không chừng nàng còn mất mạng là đằng khác”, bèn nói:
– Nàng có biết tình hình nơi nhốt nghĩa phụ thế nào chưa?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Chưa biết. Phái Thiếu Lâm bố trí mai phục lợi hại lắm ư?
Trương Vô Kỵ liền đem việc Tạ Tốn bị nhốt trong địa lao trên đỉnh núi thế nào, ba vị lão tăng canh giữ nghiêm mật ra sao, hai lần chàng tấn công đều thất bại rồi Ân Thiên Chính vì thế mà từ trần thế nào, vắn tắt thuật qua một lượt.
Chu Chỉ Nhược im lặng nghe xong, nói:
– Như thế là giáo chủ còn không phá được, ta làm sao có thể phá nổi?
Trương Vô Kỵ chợt nghĩ ra, mừng rỡ nói:
– Chỉ Nhược, hai ta liên thủ thì chắc là thành công. Ta sẽ dùng lực đạo thuần dương chí cương, cuốn giữ ba sợi trường tiên của ba vị lão tăng; nàng hãy sử dụng lực âm nhu thừa cơ đánh vào, một khi vào trong “Kim cương phục ma khuyên” rồi, nội ngoại giáp công, thì có thể thủ thắng.
Chu Chỉ Nhược cười nhạt, nói:
– Ta với chàng trước đây từng đính hôn với nhau, phu quân ta hiện giờ sống chết chưa biết thế nào, hôm nay ta lại không giết chàng, người ngoài đều nghĩ ta vẫn còn tình xưa nghĩa cũ với chàng. Ngày mai lại gọi chàng ra tiếp tay, anh hùng thiên hạ sẽ chửi ta là kẻ vô liêm sỉ, tính nết trăng gió.
Trương Vô Kỵ vội nói:
– Chỉ cần mình không cảm thấy hổ thẹn với lương tâm, thì cần gì phải để ý đến lời dị nghị của kẻ khác?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Nhưng ta tự vấn lại cảm thấy hổ thẹn thì sao?
Trương Vô Kỵ ngây ra, không trả lời được, chỉ ấp úng:
– Nàng… nàng…
Chu Chỉ Nhược nói:
– Trương giáo chủ, hai ta cô nam quả nữ, đêm khuya ở chung một chỗ dễ bị người ta dị nghị. Giáo chủ mau về đi!
Trương Vô Kỵ đứng lên, vái một cái thật dài, nói:
– Tống phu nhân, nàng từ nhỏ đã đối xử tốt với ta, mong nàng gia ân một lần nữa. Trương Vô Kỵ ta còn sống ngày nào, không dám quên tình nghĩa cao cả của nàng.
Chu Chỉ Nhược lặng thinh, không nhận lời, cũng chẳng cự tuyệt. Nàng từ đầu chí cuối không hề quay đầu lại, Trương Vô Kỵ không nhìn rõ sắc mặt nàng, đang định thấp giọng khẩn cầu, thì Chu Chỉ Nhược bỗng cao giọng, nói:
– Tĩnh Tuệ sư tỷ, tiễn khách!
Kẹt một tiếng, cửa mở ra, Tĩnh Tuệ đã đứng chực sẵn ngoài hiên, tay cầm trường kiếm, mặt hầm hầm nhìn chàng. Trương Vô Kỵ nghĩ việc sống chết của nghĩa phụ là ở lúc này, mình có muối mặt chịu nhục, cũng không đáng gì, liền quỳ ngay xuống, rập đầu lạy Chu Chỉ Nhược bốn cái, nói:
– Tống phu nhân, mong nàng thương tình.
Chu Chỉ Nhược vẫn trơ trơ như tượng đá.
Tĩnh Tuệ quát:
– Trương Vô Kỵ, chưởng môn đã bảo ngươi đi ra, sao còn cứ lải nhải gì ở đó? Đúng là hạng người vô liêm sỉ, quân bại hoại trong võ lâm!
Tĩnh Tuệ lại tưởng Trương Vô Kỵ thừa dịp Tống Thanh Thư sắp chết, đến van xin nối lại tình cũ duyên xưa.
Trương Vô Kỵ thở dài, đứng dậy đi ra.
Chàng về đến dãy lều của Minh giáo, Triệu Mẫn đứng đón, hỏi:
– Vết thương của Tống Thanh Thư có thể cứu được phải không? Chàng lại đem “Hắc ngọc đoạn tục cao” của muội đi cứu người ta chứ gì?
Trương Vô Kỵ nói:
– Ồ, nàng dự đoán như thần. Thương thế của hắn có cứu được hay không, lúc này chưa dám chắc.
Triệu Mẫn thở dài, nói:
– Chàng tưởng cứu sống Tống Thanh Thư thì đổi được Tạ đại hiệp ư? Vô Kỵ ca ca, chàng chỉ làm hỏng chuyện thêm thôi, chàng chả hiểu tâm sự gì của người ta cả.
Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:
– Vì sao? Ta chưa hiểu tại sao?
Triệu Mẫn nói:
– Chàng tận tâm cứu sống Tống Thanh Thư, có khác nào bảo với Chu tỷ tỷ rằng chàng chẳng còn luyến tiếc chút gì với nàng ta nữa, vậy thì nàng ta có buồn hay không?
Trương Vô Kỵ ngẩn ra, không biết nói sao, không lẽ Chu Chỉ Nhược lại không muốn chàng cứu chữa cho chồng nàng ta, nhưng đúng là nàng có nói: “Ta biết giáo chủ sẽ tận tâm tận lực cứu y để trong lòng khỏi áy náy, yên tâm đi làm quận mã triều đình”. Câu nói ấy quả là có ý oán trách, huống chi nàng ta còn nói “Nếu ta tự vấn lại cảm thấy hổ thẹn thì sao?”
Triệu Mẫn nói:
– Chàng cố cứu mạng Tống Thanh Thư, bây giờ lại hối hận rồi phải không?
Không chờ Trương Vô Kỵ trả lời, nàng mỉm cười, thản nhiên đi vào lều.
Trương Vô Kỵ ngồi xuống một tảng đá, nhìn vầng trăng lạnh, ngẩn ngơ xuất thần, nhớ lại mọi chuyện từ ngày quen biết Chu Chỉ Nhược tới nay, nhất là lời lẽ, thần sắc của nàng tối nay, càng hoang mang khó hiểu.
*
* *
Sáng ngày mồng sáu tháng năm, chuông chùa Thiếu Lâm gióng lên vang động, quần hùng lại tụ tập trên bãi rộng. Lão tăng nọ của Đạt Ma đường lần này không thỉnh thị Không Trí nữa, tự đứng ra, dõng dạc nói:
– Các vị anh hùng, hôm qua tỷ võ tranh tài, chưởng môn phái Nga Mi Tống phu nhân nghệ quán quần hùng, xin mời Tống phu nhân ra sau núi phá cửa địa lao, nhận Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, lão tăng sẽ dẫn đường.
Nói xong ông ta đi trước.
Tám ni cô đại đệ tử phái Nga Mi liền đi theo, tiếp đến Chu Chỉ Nhược và các đệ tử khác, sau cùng là quần hùng kéo cả đoàn đi về phía núi sau.
Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược vẫn mặc trang phục giống hôm qua, không mặc đồ tang, biết là Tống Thanh Thư chưa chết, nghĩ thầm: “Hắn đã qua được một đêm, thì chắc là sẽ sống”.
Mọi người lên tới đỉnh núi, thấy ba vị lão tăng ngồi xếp bằng dưới ba gốc cổ tùng. Vị lão tăng của Đạt Ma đường nói:
– Kim Mao Sư Vương bị nhốt trong địa lao, nằm dưới giữa ba góc cây tùng kia. Canh giữ địa lao là ba vị trưởng lão của tệ phái. Tống phu nhân võ công thiên hạ vô song, chỉ cần thắng ba vị trưởng lão của tệ phái, là có thể phá lao mang tù đi. Mọi người chúng tôi lại được chiêm ngưỡng thân thủ của Tống phu nhân.
Dương Tiêu nhìn sắc diện hoang mang của Trương Vô Kỵ, bèn ghé tai nói nhỏ với chàng:
– Giáo chủ cứ yên tâm. Hai vị Vi Bức Vương, Thuyết Bất Đắc đã chỉ huy Ngũ Hành kỳ mai phục dưới chân núi. Nếu phái Nga Mi không chịu trao Tạ Sư Vương, chúng ta đành sử dụng vũ lực.
Trương Vô Kỵ cau mày, nói:
– Như thế thì vi phạm quy củ của đại hội, mất cả tín nghĩa.
Dương Tiêu nói:
– Thuộc hạ chỉ sợ Tống phu nhân cầm kiếm kề vào cổ Tạ Sư Vương, mình ném chuột sợ vỡ đồ quý, chứ chuyện tín nghĩa không đáng ngại lắm.
Triệu Mẫn cũng nói nhỏ:
– Tạ Sư Vương có quá nhiều kẻ thù, mình phải đề phòng trong đám đông có kẻ phóng ám khí đánh trộm đấy.
Dương Tiêu nói:
– Phạm hữu sứ, Thiết Quan đạo trưởng, Bành đại sư, Chu huynh bốn người đã phân chia bốn góc đề phòng chuyện đó rồi.
Triệu Mẫn nói nhỏ:
– Tốt nhất là khi có kẻ phóng ám khí đánh trộm, mình thừa cơ đoạt luôn Tạ Sư Vương; như thế anh hùng thiên hạ cũng không thể trách ta mất tín nghĩa. Nếu như sóng lặng gió êm… thì lại… Ồ, Dương tả sứ, có lẽ tả sứ hãy ngầm sai người giả bộ đánh lén Tạ Sư Vương, rồi nhân lúc hỗn loạn mà xông ra cướp người.
Dương Tiêu cười, nói:
– Kế đó hay lắm!
Liền sai người đi lo liệu.
Trương Vô Kỵ biết làm như thế chẳng quang minh lỗi lạc chút nào, nhưng vì muốn cứu nghĩa phụ, cũng không có cách nào khác, trong lòng bất giác cảm kích, nghĩ thầm: “Mẫn muội và Dương tả sứ đều có tài quyết đoán khi lâm sự, thảo nào hay thấy họ bàn tính với nhau rất ăn ý, ta thật không có cái tài ấy”.
Bỗng nghe Chu Chỉ Nhược nói:
– Ba vị cao tăng là trưởng lão của phái Thiếu Lâm, dĩ nhiên võ học thâm hậu. Nếu bổn tòa lấy một địch ba, đã không công bằng, lại còn bất kính.
Vị lão tăng của Đạt Ma đường nói:
– Nếu Tống phu nhân muốn có thêm một, hai người trợ giúp cũng được, không sao cả.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Bản tòa may mắn đoạt danh vị đứng đầu chẳng qua nhờ anh hùng thiên hạ nhường nhịn, nhờ võ công do tiên sư Diệt Tuyệt sư thái bí truyền. Nếu lấy ba địch ba, dù đắc thắng, cũng không hiển lộ được công lao của ân sư vất vả giáo huấn bổn tòa. Còn nếu lấy một địch ba, hóa ra là bất kính với chủ nhân. Thôi thế này vậy, bổn tòa gọi một tiểu tử ra liên thủ; kẻ đó hôm qua bị thương dưới tay bổn tòa, hiện giờ chưa khỏi. Tiểu tử ấy ngày trước từng bị tiên sư đánh ba chưởng thổ huyết, thiên hạ đều biết. Như thế sẽ khỏi tổn thương uy danh của tiên sư.
Trương Vô Kỵ nghe vậy cả mừng: “Tạ ơn trời đất, nàng quả nhiên đã nhận lời ta”. Chỉ nghe Chu Chỉ Nhược gọi:
– Trương Vô Kỵ, mau ra đây!
Quần hào Minh giáo trừ bọn Dương Tiêu, không ai hiểu nguyên do, thấy Chu Chỉ Nhược gọi giáo chủ của họ là tiểu tử này tiểu tử nọ, thảy đều bất bình. Song họ lại thấy Trương Vô Kỵ có vẻ tươi tỉnh, bước ra, vái một cái thật dài, nói:
– Đa tạ Tống phu nhân hôm qua đã nương tay, tha mạng cho tiểu tử.
Trong bụng chàng đã có chủ ý: “Nàng nhục mạ ta trước đám đông, chẳng qua để gỡ thể diện cho phái Nga Mi, trả thù cái chuyện chú rể bỏ đi trong ngày cưới chưởng môn của họ mà thôi. Vì nghĩa phụ, ta phải nhịn nhục đến cùng cho xong việc”.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Ngươi hôm qua bị trọng thương hộc máu, bây giờ ta cũng không cần ngươi giúp gì lắm, chỉ ra cho có vậy thôi.
Trương Vô Kỵ đáp:
– Vâng, mọi việc xin theo lệnh Tống phu nhân, không dám làm trái.
Chu Chỉ Nhược rút nhuyễn tiên ra, tay phải rung một cái, cây roi đã tạo nên hơn mười vòng tròn, lớn nhỏ đủ cả, trông vô cùng đẹp mắt; tay trái lật một cái, thanh quang loáng lên, lộ ra một cây đoản đao. Quần hùng hôm qua đã thấy uy lực của nhuyễn tiên trong tay nàng, ai ngờ tay trái nàng còn có thể dùng đao, vậy là binh khí một dài một ngắn, một cứng một mềm, thực là hai thứ trái ngược với nhau. Quần hùng vừa kinh ngạc vừa thán phục, cảm thấy hào hứng hẳn lên.
Trương Vô Kỵ rút trong bọc ra hai tấm thánh hỏa lệnh, bước tới hai bước, đột nhiên chân bước loạng choạng, cố ý ho to mấy tiếng, làm bộ bị thương chưa khỏi, xem chừng tự lo cho mình còn chưa xong, giả dụ thắng được ba vị lão tăng, thì quần hùng sẽ hiểu là hoàn toàn trông cậy ở công lao của Chu Chỉ Nhược.
Chu Chỉ Nhược tới bên chàng, hỏi nhỏ:
– Chàng từng thề sẽ báo thù cho biểu muội, nếu hung thủ làm hại nàng ta lại là nghĩa phụ của chàng, thì chàng có cứu ông ấy nữa hay không?
Trương Vô Kỵ sững sờ, nói:
– Nghĩa phụ có lúc tâm trí thất thường, nếu vậy không tính.
Độ Ách nói:
– Trương giáo chủ hôm nay lại lên chỉ giáo ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
Cúi mong ba vị đại sư lượng thứ.
Độ Ách nói:
– Nói khéo lắm! Vị chưởng môn phái Nga Mi này, nghe đâu hôm qua tài nghệ cao hơn hết thảy anh hùng thiên hạ, lẽ nào võ công nàng ta lại còn cao hơn cả Trương giáo chủ được sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Đúng thế! Hôm qua vãn bối bị Chu chưởng môn đánh cho trọng thương hộc máu.
Độ Nạn nói:
– Thế thì lạ thật!
Trường tiên của ba vị lão tăng từ từ vươn ra.
Ngay lúc ấy, từ dưới lưng chừng núi bỗng vọng lên tiếng hợp tấu đàn và sáo. Trương Vô Kỵ mừng thầm, thấy bốn bạch y thiếu nữ đi lên, tay mỗi người cầm một cây đàn ngắn; tiếp đến bốn hắc y thiếu nữ, tay mỗi nàng cầm một cây sáo dài. Đen trắng xen nhau, tám thiếu nữ chia nhau đứng ở tám phương vị, cùng gảy đàn thổi sáo, âm vận rất tao nhã. Một mỹ nữ mặc áo lụa mỏng màu vàng khoan thai bước tới, chính là người mà Trương Vô Kỵ từng gặp ở Lư Long trong lần gặp quần hào Cái Bang.
Cô bé Sử Hồng Thạch, bang chủ Cái Bang, vừa trông thấy, liền chạy ra, sà vào lòng hoàng y mỹ nữ, nói:
– Dương tỷ tỷ, Dương tỷ tỷ, các vị trưởng lão và long đầu của bên ta bị người ta giết chết rồi.
Cô bé vừa nói vừa chỉ Chu Chỉ Nhược, nói:
– Chính phái Nga Mi và phái Thiếu Lâm hạ độc thủ đó.
Hoàng y mỹ nữ gật đầu, nói:
– Ta biết rồi. Hừ, “Cửu âm bạch cốt trảo” vị tất đã là môn võ công vô địch thiên hạ.
Nàng lên núi với cung cách như thế, dung nhan lại xinh đẹp cao sang, khiến ai nấy đổ dồn nhìn nàng, câu nói vừa rồi ai cũng nghe rõ mồn một. Quần hùng giật mình, những người đứng tuổi đều nghĩ thầm: “Pho trảo pháp của phái Nga Mi không lẽ lại là “Cửu âm bạch cốt trảo”, môn võ công âm độc lừng danh giang hồ một trăm năm về trước?” Họ từng nghe cái tên đó, nhưng nó quá tàn độc, lại thất truyền đã lâu, chưa ai chứng kiến lần nào cả.
Hoàng y mỹ nữ cầm tay Sử Hồng Thạch, đi lẫn vào đám đệ tử Cái Bang, ngồi xuống một tảng đá.
Chu Chỉ Nhược mặt hơi biến sắc, hỏi nhỏ:
– Nữ nhân ấy là ai vậy?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Ta mới gặp nàng có một lần, chưa biết lai lịch họ tên, chỉ biết có mối liên hệ sâu xa với Cái Bang.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Hừ, ra tay đi thôi!
Trường tiên của nàng rung một cái, phóng cuồn cuộn về phía sợi dây dài của Độ Nạn, mượn thế nhảy luôn vào khoảng giữa ba cây cổ tùng.
Chiêu đầu tiên nàng đã tấn công thẳng vào trung cung của địch, vừa mau lẹ vừa ác liệt, lại rất gan dạ, dẫu cao thủ hạng nhất trên giang hồ cũng khó sánh kịp. Quần hùng chỉ thấy thân hình nàng từ trên không trung nhẹ nhàng đáp xuống như một con hạc xanh, nhuyễn tiên trong tay phải cuốn lấy sợi dây của Độ Nạn, đã mượn sức đối phương, lại khiến cho lão ta nhất thời chưa sử dụng được binh khí. Hai sợi trường tiên của Độ Kiếp và Độ Ách cùng vung ra, chia hai bên đánh vào.
Trương Vô Kỵ liền xông thẳng tới, chân vừa nhấp một cái, đột nhiên lảo đảo. Mọi người ồ lên ngạc nhiên, tưởng chàng bị thương mới khỏi, còn chưa đứng vững. Nào ngờ đó là một chiêu võ công Ba Tư ghi trên thánh hỏa lệnh, thân pháp quái dị, muốn đạt cực điểm phải làm như ngã nhào về phía trước, hai tấm thánh hỏa lệnh trong hai tay chàng đã đánh ngay tới ngực Độ Nạn. Lúc này sợi trường tiên của Độ Nạn còn đang bị sợi nhuyễn tiên của Chu Chỉ Nhược quấn lấy, lão ta không thể thu về chống đỡ. Độ Ách và Độ Kiếp thấy thế nguy, vội bỏ Chu Chỉ Nhược, hai sợi dây cùng tấn công Trương Vô Kỵ. Hai sợi dây đen ấy linh động uy mãnh, hệt như hai con rồng đen, ai cũng nghĩ Trương Vô Kỵ khó lòng chống đỡ, không ngờ chàng lăn ngay xuống đất, đã thế, thật nguy hiểm, còn lăn ngay tới bên cạnh Độ Ách. Độ Ách liền chém tay trái xuống vai chàng. Trương Vô Kỵ dùng tâm pháp “Càn khôn đại na di” hóa giải, nhỏm người dậy, lấy vai hích vào Độ Kiếp.
Hôm nay chàng cố ý nhường cho Chu Chỉ Nhược được nổi danh, chưởng môn phái Nga Mi sẽ được tiếng đánh bại ba vị cao tăng Thiếu Lâm; còn chàng chỉ cốt cứu được nghĩa phụ, cho nên chàng sử dụng toàn là võ công Ba Tư, lăn sang bên này một cái, nhào qua bên kia một cái, đã khó coi cho khó coi thêm, đã bệ rạc cho bệ rạc thêm. Trong số quần hùng đứng ngoài xem, không ít nhân vật có kiến thức siêu việt, nhưng thứ võ công Ba Tư này quá cổ quái, người Trung thổ lại chưa ai sử dụng bao giờ, huống hồ việc hôm qua Trương Vô Kỵ bị trọng thương người người đều thấy rõ, cho nên thoạt đầu không ai nhận biết được sự thực. Kẻ thù của Minh giáo thì mừng thầm, bằng hữu của Minh giáo thì không khỏi lo lắng, chỉ sợ hôm nay chàng sẽ bỏ mạng nơi đây.
Hai bên trao đổi vài chục chiêu, chỉ thấy Chu Chỉ Nhược thân hình nhô lên hụp xuống cực kỳ phiêu diêu; còn Trương Vô Kỵ thì càng lúc càng tơi tả, vụng về, luống cuống, xem ra chưa bằng một kẻ mới học võ; thế nhưng bất kể tình huống nguy hiểm đến mức nào, chàng cũng đều thoát khỏi sát thủ của đối phương trong đường tơ kẽ tóc.
Những người tâm trí mẫn tiệp liền hiểu ngay bên trong tất có điều gì lạ thường, đoán chừng võ công chàng sử dụng có lẽ cùng loại như “Túy bát tiên”, trông bề ngoài loạng choạng ngả nghiêng, thực ra ẩn chứa biến hóa lạ kỳ; loại võ công này so với công phu chính lộ còn khó luyện hơn nhiều.
Lộ võ công Ba Tư này rất lợi hại, nếu một chọi một, đấu với bất cứ người nào trong ba vị lão tăng, cũng sẽ làm cho đối phương luống cuống chân tay, giống như Trương Vô Kỵ đấu với Phong Vân tam sứ. Ở đây ba vị cao tăng từng luyện khô thiền mấy chục năm, tâm ý tương thông, một vị có sơ hở trong chiêu số thì hai vị kia lập tức bù cho ngay. Thân pháp cực kỳ quái dị của Trương Vô Kỵ lẽ ra cứ mỗi chiêu đều khiến đối phương hoa mắt, tưởng bên trái mà hóa ra bên phải, tưởng trước mặt hóa ra ở sau lưng, không sao biện thức nổi. Thế nhưng ba sợi dây của ba cao tăng tùy tâm mà động, chẳng buồn lý đến mọi biến hóa của Trương Vô Kỵ. Đấu tới bảy, tám chục chiêu rồi, Trương Vô Kỵ đã thi thố không biết bao nhiêu quái chiêu, vẫn không chạm tới một sợi lông của ba vị cao tăng. Đấu tới trăm chiêu, chàng chỉ cảm thấy uy lực của ba sợi dây càng mạnh lên, trong khi thân pháp của chàng thì trì trệ dần, không còn linh hoạt biến ảo như ban đầu.
Chàng đâu biết rằng thứ võ công mình đang sử dụng gần một nửa đã nhập ma đạo, trong khi “Kim cương phục ma khuyên” của ba vị cao tăng chính là đại pháp tinh diệu của nhà Phật để chế ngự tà ma. Người ngoài đứng xem thấy chàng càng đấu càng hăng hái, kỳ thực ma quỷ cứ lớn dần lên trong tâm linh chàng; chỉ cần đấu thêm một trăm chiêu nữa, sẽ bị võ công thượng thừa của Phật môn khống chế hoàn toàn, sẽ nhảy múa điên cuồng loạn xạ không còn tự chủ, ba vị cao tăng khỏi cần ra tay, chàng sẽ tự kết liễu đời mình. Minh giáo bị người đời gọi là Ma giáo, vốn cũng có nguyên do nhất định của nó; còn kẻ sáng tạo ra lộ võ công này là “Sơn trung lão nhân”, một tên đại ác ma giết người không chớp mắt. Trương Vô Kỵ lúc mới luyện, chưa cảm thấy gì cả; nhưng bây giờ gặp kình địch, mới phát huy hết chỗ tinh diệu của thứ võ công đó, tâm linh càng lúc càng cảm ứng, đột nhiên chàng ngửa cổ cười hô hố ba tiếng, âm thanh chứa đầy gian trá tà ma.
Ba tiếng cười của chàng vừa dứt, bỗng từ địa lao bên dưới ba gốc cổ tùng vọng lên tiếng tụng kinh, chính là giọng của Tạ Tốn. Giọng già nua của Tạ Tốn đang đọc kinh “Kim Cương”:
– Bấy giờ Tu Bồ Đề nghe giảng kinh này, hiểu sâu nghĩa lý, nước mắt ràn rụa, bạch Phật rằng “Bạch Thế Tôn, Phật giảng kinh điển thâm sâu nhường ấy, tôi từ khi có được tuệ nhãn đến nay, chưa bao giờ được nghe kinh này. Bạch Thế Tôn, nếu ai nghe kinh này mà có lòng tin thanh tịnh, ắt sinh thực tướng”…
Trương Vô Kỵ vừa đấu võ vừa nghe, từ lúc Tạ Tốn tụng kinh, uy lực của ba sợi dây đen trên tay ba vị cao tăng Thiếu Lâm lập tức giảm đi, chỉ nghe Tạ Tốn tụng tiếp:
– Bạch Thế Tôn, hôm nay tôi được nghe kinh này, tin mà làm theo, không còn gì khó. Nếu đến kiếp sau, năm trăm năm nữa, chúng sinh nghe kinh này, ai tin mà làm theo, thì người ấy thành đấng Thế Tôn liền. Vì sao thế? Vì người đó Vô ngã tướng, Vô nhân tướng, Vô thọ giả tướng…
Trương Vô Kỵ nghe tới đây, trong lòng dồn dập bao ý nghĩ, biết nghĩa phụ từ khi bị nhốt dưới địa lao trên đỉnh núi, ngày ngày nghe ba vị cao tăng Thiếu Lâm tụng kinh, lần trước hiển nhiên có thể thoát thân, nhưng tự biết mình tội nghiệt nặng nề, nhất định không chịu rời khỏi nơi đây, chẳng lẽ sau mấy tháng nghe kinh Phật, ông đã đại triệt đại ngộ hay sao? Trong kinh có câu: “Nếu đến kiếp sau, năm trăm năm nữa, chúng sinh nghe kinh này, ai tin mà làm theo…” Trong lòng nghĩa phụ lúc này, cái kẻ ở “kiếp sau, năm trăm năm” đó chính là Trương Vô Kỵ. Có điều kinh nghĩa thâm thúy, chàng đang mải đấu, chưa thể suy nghĩ kỹ. Dĩ nhiên chàng không biết Tu Bồ Đề nói trong kinh là một trưởng lão ở nước Xá Vệ bên Thiên Trúc, nghe Thích Ca Mâu Ni giảng kinh Kim Cương, thành thử nghe lời kinh Tạ Tốn đang tụng, chàng chỉ hiểu lờ mờ một nửa.
Lại nghe Tạ Tốn tụng kinh:
– Phật bảo Tu Bồ Đề: “Chính thế, chính thế đó! Nếu có ai nghe kinh này, không kinh sợ, không hoảng hốt, thì quả thật hiếm có trên thế gian… Như ta ngày trước vì vua Ca Lợi mà cắt bỏ thân thể. Ta phải Vô ngã tướng, Vô nhân tướng, Vô thọ giả tướng. Vì sao thế? Ta khi đó bị chặt ra từng khúc, nếu có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, thì sẽ sinh lòng giận dữ, thù hận… Tu Bồ Đề, hãy rời bỏ mọi thứ tướng”.
Đoạn kinh trên ý nghĩa thật rõ ràng, muốn nói rằng hết thảy trên thế gian đều là hư ảo, ngay cả đối với thân thể mình, tính mạng mình, trong lòng cũng không hề có chút ý niệm gì, dù kẻ khác có đâm chém thân thể ta, cắt ra từng khúc, mà ta căn bản không coi đó là thân thể của mình, thì sẽ hoàn toàn không có ý phiền não thù hận. Nghĩa phụ thân ở trong địa lao mà lòng bình thản như thế, chẳng lẽ ông đã đạt tới cảnh giới “không kinh sợ, không hốt hoảng” rồi sao? Chàng lại nghĩ: “Hay là nghĩa phụ nhắn ta rằng khỏi cần lo buồn cho ông, khỏi cần tốn sức cứu ông thoát hiểm?”
Nguyên Tạ Tốn mấy tháng qua bị nhốt dưới địa lao, ngày đêm nghe ba vị cao tăng tụng kinh Kim Cương, cũng ngộ ra được ít nhiều nghĩa lý của kinh văn, vừa rồi nghe thấy tiếng cười quái đản của Trương Vô Kỵ, tựa hồ tâm ma nổi dậy, dần dần đi vào hiểm cảnh, Tạ Tốn bèn lập tức tụng kinh Kim Cương để giúp chàng thoát khỏi ma chướng trong lòng.
Trương Vô Kỵ vừa nghe Tạ Tốn tụng kinh Phật, chiêu số trên tay vẫn không dừng; vừa ngẫm nghĩ hàm nghĩa của kinh văn, tâm ma tức thì tiêu giảm, pho võ công Ba Tư kia không còn ăn khớp với nhau, vút một cái, trường tiên của Độ Kiếp đánh tới vai trái của chàng. Trương Vô Kỵ hạ vai xuống tránh, bất giác sử dụng “Cửu dương thần công” phối hợp với tâm pháp “Càn khôn đại na di” chế ngự ngay được kình lực đánh tới, chợt nghĩ thầm: “Còn sử dụng pho võ công Ba Tư thì không thắng được”. Chàng liếc sang phía Chu Chỉ Nhược, thấy nàng lạng phải lách trái, có vẻ sắp thua, thì nghĩ bụng: “Tình thế hôm nay khó vẹn mọi bề. Nếu mình không dốc toàn lực, Chỉ Nhược bại trận, thì còn làm sao cứu được nghĩa phụ?” Bèn hú lên một tiếng thanh thoát, cầm hai tấm thánh hỏa lệnh chuyển sang thế công.
Tiếng tụng kinh của Tạ Tốn vẫn chưa dứt, nhưng Trương Vô Kỵ ngưng thần thi triển tâm pháp “Càn khôn đại na di”, nên không nghe rõ lời kinh nữa, chỉ cốt làm sao tóm được ba sợi dây dài của ba vị cao tăng, để Chu Chỉ Nhược tìm ra kẽ hở mà lọt vào giữa vòng.
Khi chàng dốc toàn lực ra thi triển, ba vị cao tăng cảm thấy áp lực đè lên sợi dây càng lúc càng nặng, khiến mỗi vị phải vội vận nội lực chống lại. “Kim cương phục ma khuyên” của ba vị cao tăng lấy kinh Kim Cương làm tinh nghĩa tối cao, cuối cùng mong đạt tới “Vô ngã tướng, Vô nhân tướng, Vô chúng sinh tướng, Vô thọ giả tướng”, không còn phân biệt ta với người, sống với chết, hết thảy đều là hư ảo cả. Có điều là ba vị cao tăng tuy tu luyện đã cao, nhưng lúc xuất thủ vẫn chưa từ bỏ nổi ý niệm khắc địch chế thắng, tuy đã gạt bỏ sự sống chết của bản thân mình ra ngoài, nhưng vẫn chưa diệt nổi sự phân biệt ta với người, cho nên uy lực của “Kim cương phục ma khuyên” chưa đạt tới mức tối cao. Trong ba vị cao tăng thì Độ Ách tu tập cao nhất, hiểu sâu việc trừ bỏ “bốn tướng” kia, nhưng cái ý nghĩ tranh hùng đấu thắng của hai cao tăng Độ Nạn, Độ Kiếp thì nhiễm tạp quá sâu, lẫn vào hình tích “tướng” của thế gian, thành thử phép đánh roi của Độ Ách không thể không chiều theo hai vị kia cho ăn ý.
Quần hùng theo dõi thấy Trương Vô Kỵ thay đổi chiêu số võ công, cuộc đấu ở giữa ba cây cổ tùng càng lúc càng trở nên ác liệt; một làn hơi lờ mờ bắt đầu bốc lên từ đỉnh đầu ba vị cao tăng, biết là mồ hôi ở trán và đỉnh đầu bị nội lực hun nóng thành hơi bốc lên, đủ hiểu năm người đã đến cảnh giới đấu nội lực với nhau. Hơi nước từ đầu Trương Vô Kỵ bốc lên thẳng như cây bút, nhỏ và dài, tụ mà không tán, hiển nhiên nội lực của chàng thâm hậu hơn ba vị cao tăng. Hôm qua quần hùng ai cũng thấy chàng bị trọng thương, nào ngờ chỉ sau một đêm đã hoàn toàn bình phục, nội lực thâm hậu như thế thật khiến ai nấy kinh hãi.
Chu Chỉ Nhược thì không giao phong trực diện với ba vị cao tăng, chỉ chạy ở ngoài vòng đánh cầm chừng, hễ thấy “Kim cương phục ma khuyên” có chỗ nào sơ hở mới vọt tới, nhuyễn tiên đánh vào đó, rồi lại lập tức phải nhảy ra vòng ngoài.
Đến lúc này tu luyện võ công giữa nàng và Trương Vô Kỵ ai cao ai thấp, thì đã hiện rõ. Trong quần hùng, không ít người bàn tán với nhau, họ nói:
– Vài năm nay người ta đồn giáo chủ Minh giáo võ công cao cường, thời nay không ai sánh kịp, quả nhiên danh bất hư truyền. Hôm qua hắn cố ý nhường vị Tống phu nhân kia thôi, cái đó gọi là đàn ông không thèm chấp đàn bà đó.
– Cái gì mà đàn ông không thèm chấp đàn bà? Tống phu nhân vốn là vợ của Trương giáo chủ đó, các hạ không biết ư? Cái đó phải gọi là tình cũ nghĩa xưa.
– Hừ, tình oan nghĩa trái thì có, chứ làm gì có chuyện tình cũ nghĩa xưa!
– Thế nhưng sau đó Tống phu nhân lại tha chết cho Trương giáo chủ, chẳng phải là tình chàng nghĩa thiếp hay sao?
Chiêu số của Thiếu Lâm tam tăng và Trương Vô Kỵ càng lúc càng chậm dần, biến hóa càng lúc càng tinh vi. Võ công của Chu Chỉ Nhược toàn lấy biến hóa kỳ ảo làm chính, thắng được Võ Đang nhị hiệp quả là tuyệt đỉnh rồi, còn nói về tu luyện nội công, thì còn thua xa Du Liên Châu với Ân Lê Đình. Hiện giờ Trương Vô Kỵ cùng Thiếu Lâm tam tăng đang đem bản lĩnh chân thực đấu với nhau, không có chuyện khéo léo gì ở đây. Chu Chỉ Nhược không cách gì xen vào được; có lúc nàng cố vung roi xông lên tấn công, nhưng đụng phải nội kình của bốn người kia lại lập tức bị dội ngược trở ra.
Lại đấu ngót nửa canh giờ nữa, “Cửu dương thần công” trong cơ thể Trương Vô Kỵ lưu chuyển dồn dập, thánh hỏa lệnh phát ra tiếng ù ù. Sắc diện của ba vị cao tăng vốn khác nhau, lúc này đều đỏ bừng như gấc, áo bào căng phồng lên như bị gió thổi phồng. Áo quần của Trương Vô Kỵ thì không thấy gì khác, tình trạng cao thấp xem ra đã rõ ràng, nếu là một chọi một, thậm chí một chọi hai, thì chàng đã thắng từ lâu. “Cửu dương chân khí” chàng luyện được vốn thâm hậu khôn cùng, lại được Trương Tam Phong chỉ điểm cho phép luyện khí trong “Thái cực quyền”, cho nên càng đấu càng mạnh, có thể kéo dài hai canh giờ nữa, đến khi đối phương hoàn toàn kiệt sức. Thiếu Lâm tam tăng lúc này đã hiểu, càng đấu lâu càng bất lợi, đột nhiên cùng quát to, ba sợi dây dài cùng chuyển động thần tốc, bóng dây tung hoành, thực thực hư hư. Trương Vô Kỵ ngưng thần theo dõi thế roi của địch, đòn nào cũng hóa giải, nhưng trong bụng thì lo nghĩ: “Võ công của Chu Chỉ Nhược tuy lạ, nhưng học chưa lâu, thành ra uy lực không bằng ông ngoại ta liên thủ với Dương tả sứ; ta một mình khó làm nổi chuyện gì, xem chừng hôm nay lại thua mất. Lần này không cứu được nghĩa phụ, biết làm sao đây?”
Chàng vừa hoang mang, nội lực liền suy giảm, ba vị cao tăng thừa cơ tấn công, khiến càng nguy hiểm thêm. Trong óc Trương Vô Kỵ vụt thoáng qua hình ảnh cử chỉ yêu thương mà Tạ Tốn dành cho chàng hồi nhỏ ở Băng Hỏa đảo, lại nghĩ đến việc Tạ Tốn mắt đã mù mà chấp nhận đại mạo hiểm, trở lại giang hồ, hoàn toàn chỉ vì chàng; hôm nay nếu không cứu được nghĩa phụ, thật chàng cũng chẳng thiết sống một mình nữa. Mắt thấy sợi dây dài của Độ Nạn từ phía sau cuốn tới, chàng chẳng còn nghĩ tới an nguy sinh tử của bản thân, bèn giơ nhanh tay trái ra cho sợi dây quất vào cánh tay, dùng tâm pháp “Càn khôn đại na di” chế ngự sức roi, tay phải dùng thánh hỏa lệnh ngăn chặn hai sợi dây của Độ Ách và Độ Kiếp cùng đánh tới; thân hình chàng như một con chim ưng bay giạt sang bên trái, xoay một vòng trên không trung, đã quấn được sợi dây dài của Độ Nạn vào cây cổ tùng mà lão tăng đang ngồi dưới gốc.
Chiêu này thực bất ngờ, Trương Vô Kỵ tay trái kéo mạnh về phía sau, định xiết cho sợi dây hằn sâu vào thân cây. Độ Nạn cả kinh, vội giật lại. Trương Vô Kỵ biến chiêu cực nhanh, thuận theo đà giật của Độ Nạn mà kéo luôn sợi dây về phía lão. Cây cổ tùng tuy to lớn, nhưng dưới gốc đã bị khoét mất một nửa làm chỗ tránh mưa gió cho ba vị lão tăng, lúc này bị sợi dây cực kỳ dẻo dai quấn quanh, bị sức kéo cùng về một phía của hai luồng lực đạo do Trương Vô Kỵ và Độ Nạn phát ra, chỉ nghe răng rắc thật to, rồi cây cổ tùng gãy ngay chỗ bị khoét rỗng mà đổ ập xuống.
Thừa lúc Độ Ách và Độ Kiếp còn đang kinh hãi chưa kịp trở tay, song chưởng của Trương Vô Kỵ cùng tung ra, chàng quát một tiếng, đánh thẳng vào cây cổ tùng của Độ Ách. Chưởng lực này là hội tụ công lực của cả đời chàng, cây cổ tùng thứ hai không chịu nổi, cũng gãy liền. Hai cây cổ tùng gãy, cộng cả cành lá phải nặng mấy ngàn cân, đổ sập xuống cây cổ tùng của Độ Kiếp. Trương Vô Kỵ phi thân nhảy lên, đạp mạnh thêm một cái vào thân cây cổ tùng thứ ba ấy, cây đó rung chuyển, từ từ đổ xuống.
Trong tiếng cây đổ, tiếng người reo hò huyên náo, Trương Vô Kỵ ném hai tấm thánh hỏa lệnh về phía Độ Ách và Độ Kiếp. Nhân lúc hai người ấy luống cuống vừa tránh cây đổ, vừa đối phó với thánh hỏa lệnh, Trương Vô Kỵ liền thụp xuống, lăn vào giữa “Kim cương phục ma khuyên”, sử dụng tâm pháp “Càn khôn đại na di”, song chưởng vừa đẩy vừa lay, lập tức xê dịch tảng đá lớn đậy nắp hầm, gọi to:
– Nghĩa phụ, mau lên thôi!
Chàng sợ Tạ Tốn không chịu ra, không đợi ông trả lời, liền thò tay xuống địa lao nắm lưng ông kéo lên.
Ngay lúc ấy, hai sợi dây của Độ Ách và Độ Kiếp cùng đánh tới, Trương Vô Kỵ đành buông Tạ Tốn xuống, móc hai tấm thánh hỏa lệnh ném về phía hai lão tăng; hai tay nhanh như chớp chộp luôn hai đầu dây. Độ Ách, Độ Kiếp toan vận lực kéo về, thì thánh hỏa lệnh bay tới trước mặt, không kịp nghĩ gì nữa, đành vứt bỏ sợi dây mà nhảy vọt về phía sau mới tránh được đòn tập kích của thánh hỏa lệnh. Lúc đó Độ Nạn rảnh tay, vung tả chưởng đánh tới, Trương Vô Kỵ gọi:
– Chỉ Nhược, mau chặn lại!
Chàng nghiêng người né tránh, ôm Tạ Tốn mang ra khỏi chỗ ba cây cổ tùng, thì phái Thiếu Lâm sẽ không nói gì được nữa. Chu Chỉ Nhược hừ một tiếng, hơi chần chừ, hữu chưởng của Độ Nạn đã đánh tiếp theo. Trương Vô Kỵ né lệch sang một bên, cốt giữ yếu huyệt sau lưng, để cho chưởng đó đánh vào vai.
Chàng ôm Tạ Tốn, định nhảy ra khỏi chỗ ba cây tùng đổ, Tạ Tốn nói:
– Vô Kỵ hài nhi, ta một đời phạm nhiều tội nghiệt, ở đây được nghe kinh sám hối nên tâm đã yên, con hà tất phải cứu ta ra?
Nói xong ông giãy giụa đòi đứng xuống. Trương Vô Kỵ biết nghĩa phụ võ công cao cường, nếu ông quyết không chịu đi, thì rất khó đối phó, bèn nói:
– Nghĩa phụ, hài nhi đắc tội vậy!
Năm ngón tay phải của chàng điểm nhanh mấy huyệt đạo ở đùi, ngực và bụng Tạ Tốn, để tạm thời ông không thể cử động.
Đúng lúc đó, chưởng của Thiếu Lâm tam tăng cùng đánh tới, kèm theo tiếng quát:
– Để người lại!
Trương Vô Kỵ bị chưởng lực của ba vị lão tăng bao trùm bốn phương tám hướng, tay họ chưa tới, chưởng phong đã dồn ép, đành đặt Tạ Tốn xuống đất, giơ chưởng chống đỡ, miệng gọi:
– Chỉ Nhược, mau mang nghĩa phụ ra ngoài!
Song chưởng của chàng xoay thành vòng tròn, vận lực đối kháng với tam tăng, để họ không ai rảnh tay ngăn cản Chu Chỉ Nhược. Đây là công phu cao nhất trong tâm pháp “Càn khôn đại na di”, chưởng lực du di bất định, hư hư thực thực, dính chặt lấy chưởng lực của ba vị lão tăng.
Chu Chỉ Nhược nhảy vào trong vòng, tới bên cạnh Tạ Tốn. Tạ Tốn quát:
– Hừ, con tiện nhân!…
Chu Chỉ Nhược giơ tay điểm á huyệt của Tạ Tốn, mắng lại:
– Họ Tạ kia, ta có thiện ý cứu các hạ, sao các hạ lại mở miệng chửi ta? Các hạ tội trạng tày trời, tính mạng ở trong tay ta, tưởng ta không giết nổi các hạ chăng?
Nói rồi giơ tay phải, năm ngón thành trảo, vồ xuống đỉnh đầu Tạ Tốn.
Trương Vô Kỵ thấy vậy hốt hoảng kêu lên:
– Chỉ Nhược, không được thế!
Lúc này chàng đang giở hết sức bình sinh đấu với ba vị cao tăng, tuy tam tăng không có ý giết chàng, nhưng vào khoảnh khắc sống chết tùy thuộc trong nháy mắt, không đả thương người thì mình sẽ chết, thực không cách gì dung tha cho nhau. Trương Vô Kỵ vừa mở miệng, chân khí tiết lậu, chưởng lực của ba vị cao tăng như bài sơn đảo hải tràn tới, đành phải cố sức chống đỡ. Đôi bên không còn cách nào khác, đều vận yếu quyết chữ “dính chặt”, chưa phân thắng bại thì không thể nào thoát thân.
Chu Chỉ Nhược bàn tay để trên không, chưa vồ xuống, nhìn Trương Vô Kỵ, cười khẩy, nói:
– Trương Vô Kỵ, lần trước ở thành Hào Châu, đang làm lễ cưới, ngươi bỏ ta mà đi, đâu có ngờ đến ngày hôm nay phải không?
Tâm trí Trương Vô Kỵ phải chia ba, phần lo cho tính mạng của Tạ Tốn, phần chán chường vì đúng lúc nguy cấp nàng lại đem chuyện cũ đòi thanh toán, huống hồ chưởng lực của ba vị cao tăng vẫn cuồn cuộn tràn tới, dù có tập trung tâm thần đối phó, cuối cùng cũng thua, đằng này tâm thần rối loạn, thật đúng là đại họa lâm đầu.
Trán chàng đổ mồ hôi hột, trong giây lát, trước ngực sau lưng quần áo ướt đầm.
Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Bức Vương, Thuyết Bất Đắc, Du Liên Châu, Ân Lê Đình cả bọn thấy tình hình như vậy đều cả kinh thất sắc. Ai cũng nghĩ, chỉ cốt cứu được Trương Vô Kỵ, còn mình dù phải mất mạng cũng không hối tiếc; song ai cũng biết mình công lực bất cập, đừng nói gì chuyện can hai bên ra, mà dù có tiến lên tập kích ba vị cao tăng, tam tăng cũng sẽ dễ dàng dồn ngoại lực sang người Trương Vô Kỵ khiến chàng phải chịu lực nhiều hơn, cứu không xong lại còn làm hại chàng.
Không Trí cao giọng nói:
– Ba vị sư thúc, Trương giáo chủ có ơn với bản phái, xin hãy nhẹ tay cho.
Nhưng cuộc tỷ thí của bốn người đã đến lúc không thể phân giải được nữa. Trương Vô Kỵ vốn không định bụng đả thương ba vị cao tăng, tam tăng cũng nhớ cái ơn chàng giải vây cho lần trước, cũng đang tìm cách dừng tay, có điều đôi bên đều ở vào thế đâm lao phải theo lao. Tam tăng không còn chú ý gì đến bên ngoài, thành thử không nghe thấy lời nói của Không Trí, mà dù có nghe thấy thì cũng đành chịu.
Vi Nhất Tiếu lắc mình một cái, như một làn khói mỏng bay vào giữa chỗ ba cây tùng đổ, toan tấn công Chu Chỉ Nhược, song thấy nàng ta để tay trên không, nếu lão xông lên, năm ngón tay nàng ta sẽ vồ xuống đầu Tạ Tốn ngay tức thời. Tạ Tốn mà chết, Trương Vô Kỵ sẽ quá đau đớn, sẽ lập tức bỏ mạng bởi chưởng lực của tam tăng. Vi Nhất Tiếu đứng cách Chu Chỉ Nhược chưa đầy một trượng, nhưng đành đứng trơ trơ ở đó, không dám xông tới tấn công. Trong giây lát, trên đỉnh núi ai nấy cứ y như tượng đá, không cử động, không nói năng.
Đột nhiên Chu Điên cười khà khà, hùng dũng tiến lên.
Dương Tiêu giật mình, quát to:
– Chu huynh, không được lỗ mãng.
Chu Điên bất chấp, cứ bước tới trước mặt ba vị lão tăng Thiếu Lâm, hớn hở nói:
– Ba vị đại hòa thượng, có xơi thịt chó không nào?
Lão thò tay vào bọc lôi ra một cái đùi chó đã luộc chín, nhứ nhứ trước mặt Độ Ách. Hai ngày nay chùa Thiếu Lâm đãi ăn chỉ toàn món chay, Chu Điên thì mê rượu thịt, mấy bữa liền toàn rau dưa đậu phụ, làm sao chịu nổi? Tối qua lão đi bắt trộm được một con chó, làm thịt chén no, còn dành lại một đùi, bây giờ thấy tình thế cấp bách liền đem ra quấy nhiễu tâm thần của Thiếu Lâm tam tăng. Bọn Dương Tiêu thấy vậy thì cả mừng, nghĩ thầm: “Chu Điên bình thời hành sự điên điên khùng khùng, nhưng bây giờ giở ngón kia ra rất hay”. Mọi người biết rằng, khi tỷ thí nội lực, điều cốt tử là tập trung tinh thần ý chí; Chu Điên phá rối như thế, chỉ cần một lão tăng nổi giận, tâm thần hơi phân tán, là Trương Vô Kỵ có thể chiến thắng.
Ba vị lão tăng nhìn mà không thấy, chẳng buồn để ý tới Chu Điên. Chu Điên đưa đùi thịt chó lên miệng, cắn một miếng, nhai tóp tép, khen:
– Thơm quá! Ngon quá! Ba vị đại hòa thượng ăn thử một miếng coi nào!
Thấy tam tăng thản nhiên như không, Chu Điên liền giơ cái đùi thịt chó lại bên miệng Độ Ách, toan giúi vào mồm lão ta. Các hòa thượng Thiếu Lâm đứng ngoài cùng quát lên:
– Gã điên kia, mau xéo đi!
Chu Điên gí cái đùi thịt chó vào môi Độ Ách, đột nhiên cánh tay chấn động, nửa người tê dại, “bạch” một tiếng, cái đùi chó rơi xuống đất. Thì ra lúc này Độ Ách nội kình lan tỏa toàn thân, đến mức “ruồi muỗi không đậu được”, ngoại lực chạm vào bất cứ chỗ nào trên cơ thể cũng sẽ bị dội ngược ra.
Chu Điên kêu lên:
– Ối, ối! Tệ quá, tệ quá! Lão không xơi thịt chó thì thôi, hà tất phải hất cái đùi chó ngon lành của ta xuống đất, làm bẩn hết thế này? Lão phải đền cho ta! Ta bắt đền đấy!
Chu Điên hoa chân múa tay, kêu la om sòm, nào ngờ ba vị cao tăng tu luyện thâm sâu, hoàn toàn không bị ma chướng bên ngoài quấy rối. Chu Điên liền rút ra một chiếc đoản đao, nói:
– Lão mà không chịu xơi món thịt chó của ta, ta sẽ thí mạng cho mà xem!
Nói rồi đưa đao lên rạch một đường ngay trên má mình, lập tức máu chảy ròng ròng.
Quần hùng kinh ngạc, Chu Điên lại đưa đao lên rạch một đường nữa ngay trên má, khiến máu me nhoe nhoét trên mặt, trông đáng sợ. Hình ảnh ấy bất cứ ai nhìn thấy cũng kinh hãi, song ba vị lão tăng vẫn chuyên chú, mắt, tai, mũi, họ đều không sử dụng, chẳng những họ không nhìn thấy cảnh Chu Điên tự hủy hoại diện mạo, mà ngay cả sự hiện diện của Chu Điên trước mắt họ, họ cũng không biết tới. Chu Điên lại kêu toáng lên:
– Ông sư gớm nhỉ, ông mà không đền cái đùi thịt chó, thì ta sẽ chết trước mặt ông cho coi!
Nói xong giơ đoản đao lên toan đâm vào tim mình. Lão thấy giáo chủ nguy đến tính mạng, bèn quyết ý xả mệnh tự sát để quấy nhiễu tinh thần ba vị cao tăng.
Đột nhiên một cái bóng vàng nhoáng lên, một người phi thân tới, đoạt đoản đao khỏi tay Chu Điên, tiếp đó nghiêng người lướt đi, năm ngón tay vồ xuống đỉnh đầu Chu Chỉ Nhược, thủ pháp giống hệt như cách mà Tống Thanh Thư đã sử dụng để giết chết hai vị trưởng lão Cái Bang.
Năm ngón tay của Chu Chỉ Nhược tuy chỉ cách đỉnh đầu Tạ Tốn chưa đầy một thước, song thân pháp của người kia nhanh quá, Chu Chỉ Nhược đành thu tay về để đối phó.
Trương Vô Kỵ nội kình chẳng thua kém gì ba vị cao tăng liên thủ, song công phu khô thiền “ta, vật đều quên” thì kém xa, chưa đạt mức vào mắt mà không thấy, vào tai mà không nghe thấy, khi thấy Chu Chỉ Nhược xuất thủ uy hiếp Tạ Tốn, tâm thần chàng liền xáo động. Chu Điên lên quấy rối, đến lúc giơ đao toan tự sát, chàng đều nhìn thấy, càng thêm nóng ruột. Chính lúc nội tức trào lên, chỉ giây lát sẽ hộc máu mà chết, thì bỗng thấy hoàng y mỹ nữ nhảy vào đoạt đao khỏi tay Chu Điên, xuất chiêu tấn công Chu Chỉ Nhược, giải cứu Tạ Tốn khỏi nguy nan.
Trương Vô Kỵ cả mừng, nội kình lập tức trỗi dậy, hóa giải kình lực của ba vị cao tăng, trong nháy mắt đã tạo thành cục diện cân bằng. Ba vị cao tăng tuy không nhìn, không nghe sự vật ngoại giới, nhưng nội kình đôi bên tăng giảm thế nào, đều cảm nhận rất tinh tế, đột nhiên phát hiện nội kình của đối phương đại tăng, song đối phương không chuyển từ thế thủ sang thế công, chính là cơ hội tốt nhất để giải trừ nguy nan cho cả đôi bên; ba vị cao tăng tâm ý tương thông, lập tức thu kình lại một chút. Trương Vô Kỵ cũng thu bớt một phần nội kình, ba vị cao tăng lại giảm một phần. Cứ thu dần mỗi bên một phần như thế, trong giây lát kình lực đôi bên đã thu hết về. Bốn người cùng cười ha hả, nhất tề đứng dậy. Trương Vô Kỵ vái một cái thật dài. Độ Kiếp, Độ Nạn, Độ Ách ba vị cao tăng cũng chắp tay đáp lễ. Cả bốn người cùng nói:
– Bội phục, bội phục!
Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn, thấy hoàng y mỹ nữ đang cùng Chu Chỉ Nhược giao đấu dữ dội. Hoàng y mỹ nữ tay không, Chu Chỉ Nhược tay phải dùng roi, tay trái đoản đao, nhưng xem ra lại núng thế. Võ công của hoàng y mỹ nữ tựa hồ cùng một lộ với Chu Chỉ Nhược, phiêu diêu linh động, vô cùng biến ảo, song mọi động tác tay chân của nàng ta đều là chính chứ không tà, nếu bảo hình dáng Chu Chỉ Nhược như quỷ mị, thì phong thái của hoàng y mỹ nữ chẳng khác gì thần tiên. Trương Vô Kỵ chỉ nhìn qua, cũng biết hoàng y mỹ nữ chỉ có thắng chứ không thua, nghĩa phụ không còn gặp nguy hiểm, xem chừng nàng ta ra chiêu là có ý thăm dò, muốn biết võ công của Chu Chỉ Nhược đến mức nào, chứ muốn đánh thắng, thì đã đánh ngã Chu Chỉ Nhược từ lâu rồi.
Độ Ách nói:
– Thiện tai, thiện tai! Trương giáo chủ, các hạ tuy không thắng được ba huynh đệ ta, song ba huynh đệ ta cũng không thắng nổi các hạ. Tạ cư sĩ, xin ông cứ tự nhiên!
Nói rồi bước lại giải huyệt cho Tạ Tốn, nói:
– Tạ cư sĩ, ném đao đi, lập tức thành Phật. Cửa Phật luôn luôn mở rộng, thế gian này không ai là không độ được. Ta với ông ở trên núi với nhau nhiều ngày, cái đó cũng là cơ duyên đấy.
Tạ Tốn đứng dậy, nói:
– Ngã Phật từ bi, đa tạ ba vị đại sư chỉ cho con đường sáng, Tạ Tốn này cảm kích vô cùng.
Bỗng nghe hoàng y mỹ nữ quát khẽ một tiếng, tay trái đã đoạt lấy trường tiên của Chu Chỉ Nhược, tiếp đó thúc cùi chỏ vào huyệt đạo ở ngực nàng, năm ngón tay phải xòe ra đặt hờ trên đỉnh đầu nàng, nói:
– Ngươi có muốn nếm mùi “Cửu âm bạch cốt trảo” hay chăng?
Chu Chỉ Nhược không cử động được, nhắm mắt chờ chết.
Tạ Tốn tuy mù, không nhìn thấy gì, song vẫn biết rõ toàn bộ tình cảnh xung quanh, liền vái một cái, nói:
– Cô nương đã cứu mạng hai cha con ta, đại đức thật sâu nặng. Còn Chu cô nương nếu không hối cải, cứ tiếp tục làm điều bất nghĩa, cuối cùng chắc sẽ bị quả báo. Cúi mong cô nương hôm nay hãy tạm tha cho cô ta.
Hoàng y mỹ nữ nói:
– Kim Mao Sư Vương hối cải quả là nhanh thật.
Thân hình rung nhẹ một cái, nàng đã lui ra ngoài.