Phạm Dao bị Triệu Mẫn nắm tay kéo đi thẳng ra khỏi chùa Vạn An, trong bụng vừa bồn chồn vừa lấy làm lạ, không hiểu nàng ta định kéo mình đi đâu. Triệu Mẫn đội một cái nón lá che mái tóc đẹp, nói:
– Khổ đại sư, mình đi gặp gã tiểu tử Trương Vô Kỵ!
Phạm Dao ngạc nhiên, liếc nàng ta, thấy nàng mắt long lanh, má ửng hồng, bảy phần e thẹn, ba phần hoan hỉ, rõ ràng không phải là nàng khám phá ra chân tướng của y. Phạm Dao hoàn toàn yên tâm, nhớ lại tình cảnh tối qua trong chùa Vạn An hai kẻ oan gia sinh tử gặp nhau. Nghĩ đến hai chữ “oan gia”, đột nhiên Phạm Dao nảy ra câu hỏi: “Oan gia ư? Hay là quận chúa đã ngầm có tình ý gì với Trương giáo chủ?” Lại nghĩ thầm: “Tại sao nàng không bảo Huyền Minh nhị lão là kẻ thân tín hơn, mà lại gọi mình đi theo? Phải rồi, tại vì mình câm, sẽ không tiết lộ bí mật của nàng”. Bèn gật gù, mỉm cười đầy bí hiểm.
Triệu Mẫn bực mình hỏi:
– Khổ đại sư cười gì vậy?
Phạm Dao hiểu rằng không thể đùa với nàng, bèn hoa chân múa tay làm hiệu, ngụ ý Khổ đầu đà này sẽ tận lực bảo vệ quận chúa chu toàn, dù phải xông vào đầm rồng hang hổ cũng nhất quyết đi theo quận chúa.
Triệu Mẫn không nói thêm, đi trước dẫn đường, chẳng mấy chốc đã tới cổng khách điếm, nơi Trương Vô Kỵ đang ở. Phạm Dao thầm kinh ngạc: “Quận chúa quả thật thần thông quảng đại, tìm ngay ra chỗ giáo chủ trú ngụ”. Hai người bước vào khách điếm.
Triệu Mẫn hỏi chưởng quỹ:
– Bọn ta cần tìm vị quan khách họ Tăng.
Nguyên khi đến đây trọ, Trương Vô Kỵ dùng họ tên giả là “Tăng A Ngưu”. Điếm tiểu nhị bèn đi vào gọi.
Trương Vô Kỵ đang ngồi dưỡng thần, chỉ chờ thấy lửa bốc lên ở chùa Vạn An, sẽ chạy đi tiếp ứng, đột nhiên nghe báo có người tới thăm, lấy làm lạ, ra phòng khách, thấy Phạm Dao và Triệu Mẫn thì kêu thầm: “Hỏng rồi, chắc là Triệu cô nương đã khám phá chân tướng của Phạm hữu sứ, nên tới đây gây sự với ta”. Chàng đành chào hỏi, nói:
– Không biết Triệu cô nương quang lâm, nên thất lễ nghênh tiếp.
Triệu Mẫn nói:
– Chỗ này nói chuyện không tiện, mình đi tìm một quán rượu nhỏ, uống với nhau vài chén được chăng?
Trương Vô Kỵ đành nói:
– Được lắm.
Triệu Mẫn đi trước dẫn đường, tới một quán rượu nhỏ, cách khách điếm năm dãy nhà. Trong quán bày vài cái bàn gỗ, trên mỗi bàn đặt một ống đũa. Lúc này đã khuya, trong quán không có người khách nào. Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ ngồi đối diện với nhau, Phạm Dao dùng tay làm hiệu rằng mình ra gian ngoài uống rượu. Triệu Mẫn gật đầu, gọi điếm tiểu nhị mang lên hai cân rượu trắng, một cái bếp than, thái ba cân thịt cừu sống.
Trương Vô Kỵ lòng đầy ngờ vực, nghĩ thầm nàng là một quận chúa cao sang, sao lại rủ chàng tới một cái quán rượu tồi tàn dơ dáy nhắm rượu với thịt cừu nướng, không biết là có quỷ kế gì.
Triệu Mẫn rót hai chén rượu, cầm chén của Trương Vô Kỵ lên, nhấp một ngụm, cười nói:
– Rượu này không pha thuốc độc, công tử cứ yên tâm mà uống.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Cô nương rủ ta tới đây, không biết có gì chỉ giáo?
Triệu Mẫn nói:
– Uống xong ba chén, hãy vào chuyện chính. Ta cạn chén trước, mời công tử.
Rồi nàng cầm chén rượu lên uống cạn.
Trương Vô Kỵ cầm chén lên, trong ánh lửa thấy miệng chén còn lưu lại mờ mờ vết son môi, mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, không rõ mùi thơm đó từ vết son miệng chén hay từ thân thể nàng tỏa ra, bất giác cảm thấy lâng lâng, bèn uống cạn. Triệu Mẫn nói:
– Hãy uống hai chén nữa. Ta biết công tử vẫn chưa an tâm về ta, nên mỗi chén ta sẽ uống trước một ngụm.
Trương Vô Kỵ biết nàng ngụy kế đa đoan, quả thực việc gì cũng phải đề phòng, nay nàng đã nhắp trước một ngụm như thế, chàng khỏi cần mạo hiểm, bèn liên tiếp uống cạn ba chén rượu mà nàng uống dở, ngẩng lên nhìn nàng, thấy nàng cười tủm tỉm, đôi má ửng hồng vì rượu, trông kiều diễm vô cùng. Chàng không dám nhìn lâu, vội ngoảnh mặt ra phía khác.
Triệu Mẫn nói nhỏ:
– Công tử có biết ta là ai không?
Trương Vô Kỵ lắc đầu. Triệu Mẫn nói:
– Hôm nay ta cho công tử biết, cha ta là Nhữ Dương Vương, chấp chưởng đại quyền binh mã đương triều. Ta là con gái Mông Cổ, tên là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Ta được hoàng đế phong cho tước Thiệu Mẫn quận chúa. Hai chữ “Triệu Mẫn” là ta tự đặt cho mình đó.
Nếu Phạm Dao chưa kể sớm, Trương Vô Kỵ lúc này hẳn đã cả kinh; nhưng chàng thấy nàng không hề giấu giếm, nói thẳng thân phận cho mình nghe, cũng thấy bất ngờ, song chàng không khéo giả vờ, nên không làm vẻ quá kinh ngạc.
Triệu Mẫn lấy làm lạ, hỏi:
– Công tử biết rồi ư?
Trương Vô Kỵ nói:
– Không, làm sao ta biết được? Có điều là ta thấy một thiếu nữ trẻ như cô nương mà sai khiến bao nhiêu cao thủ võ lâm, thì địa vị tất không phải tầm thường.
Triệu Mẫn xoay nghịch cái chén, hồi lâu không nói gì, rồi rót đầy hai chén rượu, chậm rãi nói:
– Trương công tử, ta hỏi công tử câu này, mong công tử trả lời thật lòng. Nếu ta đem Chu cô nương giết đi, công tử sẽ đối với ta thế nào?
Trương Vô Kỵ giật mình, hỏi lại:
– Chu cô nương không hề đắc tội với cô nương, tại sao lại giết nàng ta?
Triệu Mẫn đáp:
– Ai ta không thích thì ta giết, cứ gì phải đắc tội hay không? Có người đắc tội với ta nhiều lần, song ta vẫn không giết, như công tử đã mấy phen đắc tội với ta chẳng hạn.
Nói tới đây, mắt nàng long lanh tinh quái.
Trương Vô Kỵ thở dài, nói:
– Triệu cô nương, ta đắc tội với cô nương thực ra là việc bất đắc dĩ. Cô nương đã tặng ta thuốc trị thương cho tam sư bá, lục sư thúc của ta, ta rất cảm kích.
Triệu Mẫn cười:
– Công tử ngốc lắm. Du Đại Nham và Ân Lê Đình bị thương đều do thuộc hạ của ta gây ra, công tử đã không trách thì thôi, lại còn cảm kích là sao?
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
– Tam sư bá của ta bị thương đã hơn hai chục năm, khi đó cô nương chưa ra đời.
Triệu Mẫn nói:
– Thì do thuộc hạ của cha ta, có khác gì đâu? Công tử đừng lảng sang việc khác. Ta hỏi công tử, nếu ta giết Chu cô nương, công tử sẽ đối với ta thế nào? Có định giết ta để trả thù hay không?
Trương Vô Kỵ ngẫm nghĩ một hồi, đáp:
– Ta cũng không biết nữa.
Triệu Mẫn hỏi:
– Sao lại không biết? Công tử không chịu nói chứ gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Cha mẹ ta bị người ta bức tử. Bức tử cha mẹ ta là một số kẻ ở phái Thiếu Lâm, phái Không Động, phái Hoa Sơn. Sau này khi ta lớn lên, ta thấy mọi việc trở nên rõ ràng hẳn ra, nhưng càng nghĩ càng không hiểu, rốt cuộc thì ai là kẻ hại chết cha mẹ ta? Không thể nói là Không Trí đại sư, Thiết Cầm tiên sinh; cũng không thể bảo đó là ông ngoại hay cậu ruột của ta, cũng chẳng thể nói là các thủ hạ của cô nương, như A Nhị, A Tam hay Huyền Minh nhị lão. Trời xui đất khiến thế nào mà lại như vậy, có rất nhiều điều ta chưa hiểu ra nổi. Dù có tìm ra hung thủ đích thực rồi ta giết hết bọn họ đi chăng nữa, cũng đâu có ích gì? Cha mẹ ta đã không thể sống lại. Triệu cô nương, mấy ngày nay ta cứ nghĩ, giá mọi người đừng giết lẫn nhau, sống chan hòa thân ái với nhau, có phải là hay biết mấy? Ta không nghĩ đến chuyện giết người báo thù, cũng mong người khác đừng sát hại ai cả.
Chàng nói một mạch những điều đã nghĩ từ lâu trong lòng, song chưa hề nói với Dương Tiêu, chưa hề nói với Trương Tam Phong, cũng chưa nói với Ân Lê Đình, bỗng dưng nơi quán rượu nhỏ bé này chàng lại nói với Triệu Mẫn; nói xong rồi chính chàng cũng lấy làm lạ.
Triệu Mẫn thấy chàng nói rất thành thực, nghĩ một lát, nói:
– Đó là do công tử quá nhân hậu, chứ ta thì không thế được. Kẻ nào giết cha ta, anh ta, ta sẽ giết sạch không chỉ cả gia đình hắn, mà cả thân thích bằng hữu của hắn, ta cũng sẽ giết tuốt.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nếu thế ta sẽ phải ngăn chặn cô nương.
Triệu Mẫn hỏi:
– Vì sao? Công tử trợ giúp kẻ thù của ta ư?
Trương Vô Kỵ nói:
– Cô nương giết một người, tự chuốc lấy cho mình một nghiệp chướng. Người bị cô nương giết chết, sau đó ra sao thì không biết, coi như đã xong, nhưng còn cha mẹ con cái, vợ chồng anh em người ấy phải đau lòng biết bao. Về sau mỗi khi nghĩ lại, cô nương sẽ bị lương tâm cắn rứt. Nghĩa phụ ta đã giết không ít người, ta biết tuy ông không nói ra miệng, nhưng trong lòng vô cùng hối hận.
Triệu Mẫn không nói, lặng lẽ suy nghĩ về những lời chàng nói.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Cô nương đã giết người bao giờ chưa?
Triệu Mẫn cười đáp:
– Hiện tại thì chưa, sau này khi ta lớn rồi, ta muốn giết thật nhiều người. Tổ tiên ta là Thành Cát Tư Hãn đại đế, là Đà Lôi, Bạt Đô, Húc Liệt Ngột, Hốt Tất Liệt, toàn các vị anh hùng. Ta chỉ hận mình là nữ; nếu là nam, thể nào cũng phải tạo dựng một đại nghiệp thật là oanh liệt.
Nàng rót rượu vào chén, tự mình uống cạn, nói:
– Công tử vẫn chưa trả lời câu hỏi của ta.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nếu cô nương giết Chu cô nương, hoặc giết bất cứ một thuộc hạ thân cận nào của ta, ta sẽ không còn coi cô nương là bằng hữu, vĩnh viễn không nhìn mặt cô nương, mà nếu có thấy mặt, cũng sẽ không trò chuyện.
Triệu Mẫn cười, hỏi:
– Thế hiện tại công tử coi ta là bằng hữu ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Nếu ta căm hận cô nương, ta đâu có ngồi uống rượu với cô nương thế này? Ôi, ta cảm thấy phải căm hận một người thì thật là khó. Ta bình sinh chỉ căm hận mỗi một người, đó là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn. Nhưng nay hắn đã chết rồi, ta lại cảm thấy y đáng thương, tựa hồ mong y chưa phải chết.
Triệu Mẫn nói:
– Nếu ngày mai ta chết đi, công tử sẽ nghĩ sao? Chắc thể nào công tử cũng nghĩ, tạ ơn trời đất, cô ả điêu ngoa hung ác đối địch với mình ngỏm rồi, từ nay mình bớt được bao nhiêu là rắc rối.
Trương Vô Kỵ nói to:
– Không, không đâu. Ta không khi nào mong cô nương chết cả. Vi Bức Vương dọa rạch mặt cô nương, từ lúc ấy cứ nghĩ đến là ta lại thấy lo cho cô nương.
Triệu Mẫn mỉm cười, má đỏ lên, cúi mặt xuống.
Trương Vô Kỵ nói:
– Triệu cô nương, cô nương đừng gây khó dễ với bọn ta nữa. Hãy thả hết các cao thủ sáu môn phái ra; tất cả mọi người vui vẻ làm bạn với nhau, có phải hay hơn không? Triệu Mẫn vui mừng nói:
– Hay lắm, chính ta cũng mong như thế. Công tử là giáo chủ Minh giáo, một lời nói nặng như chín cái đỉnh, công tử hãy đến khuyên tất cả nên quy hàng triều đình. Cha ta sẽ tâu lên hoàng thượng, tất cả sẽ được phong thưởng.
Trương Vô Kỵ thong thả lắc đầu, nói:
– Người Hán chúng ta ai ai cũng có tâm nguyện, muốn người Mông Cổ các ngươi rút ra khỏi đất của người Hán.
Triệu Mẫn đứng ngay dậy, nói:
– Cái gì? Sao công tử nói nhất lời phạm thượng tác loạn như thế, định công khai phản loạn hay sao?
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta vốn là kẻ phản loạn, không lẽ đến bây giờ cô nương mới biết?
Triệu Mẫn nhìn chàng hồi lâu, vẻ mặt tức giận và ngạc nhiên dần dần dịu đi, trở lại vừa dịu dàng, vừa thất vọng, cuối cùng lại ngồi xuống, nói:
– Ta sớm biết thế rồi, nhưng bây giờ nghe chính miệng công tử nói ra, ta mới tin hẳn, thật không còn cách gì cứu vãn.
Câu này nàng nói ra nghe thật hết sức đau khổ. Trương Vô Kỵ mềm lòng hẳn đi, tưởng chừng không chịu nổi cái cảnh thấy nàng đau khổ, chàng như muốn nói “Thôi được, ta nghe lời cô nương vậy”. Nhưng ý nghĩ đó vừa lóe lên là tắt ngay, chàng cố bình thản, tìm lời để an ủi nàng.
Hai người lặng lẽ ngồi đối diện nhau một hồi. Trương Vô Kỵ nói:
– Triệu cô nương, đêm khuya rồi, để ta đưa cô về.
Triệu Mẫn nói:
– Ngồi thêm với ta một lát, công tử cũng không muốn hay sao?
Trương Vô Kỵ vội nói:
– Không phải thế, nếu cô nương thích ngồi đây uống rượu chuyện trò, ta sẽ ngồi với cô nương.
Triệu Mẫn mỉm cười, chậm rãi nói:
– Có lúc ta nghĩ, giá như ta không phải là người Mông Cổ, cũng không phải quận chúa gì hết, chỉ là một cô gái người Hán dân dã như Chu cô nương, có lẽ công tử sẽ tử tế với ta hơn. Trương công tử, giữa ta và Chu cô nương, công tử bảo ai xinh hơn?
Trương Vô Kỵ không ngờ nàng hỏi câu đó, nghĩ bụng con gái phiên bang tính cách thẳng thắn, không biết khéo miệng, dưới ánh đèn lại thấy nàng kiều diễm bội phần, thì buột miệng:
– Dĩ nhiên là cô nương xinh hơn.
Triệu Mẫn giơ bàn tay phải đặt lên mu bàn tay chàng, ánh mắt đầy vui mừng, nói:
– Trương công tử có muốn gặp ta luôn không? Nếu thỉnh thoảng ta mời công tử tới đây uống rượu, công tử có tới hay chăng?
Mu bàn tay Trương Vô Kỵ được lòng bàn tay mềm ấm của nàng ấp lên làm tim chàng đập mạnh. Chàng cố định thần, nói:
– Ta không thể ở đây lâu, vài hôm nữa sẽ phải đi xuống phía nam.
Triệu Mẫn hỏi:
– Công tử xuống phía nam làm gì?
Trương Vô Kỵ thở dài, nói:
– Ta không nói thì cô nương cũng đoán biết; nói ra thì e cô nương tức giận…
Triệu Mẫn nhìn ra vầng trăng ngoài cửa sổ, nói:
– Công tử nhận làm cho ta ba việc, vẫn chưa quên chứ?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Tất nhiên chưa quên. Xin cô nương cứ sai bảo, ta sẽ tận lực thực hiện.
Triệu Mẫn quay đầu lại nhìn thẳng vào mặt chàng, nói:
– Hiện tại ta mới nghĩ ra việc thứ nhất. Ta muốn công tử cùng ta đi lấy thanh đao Đồ Long.
Trương Vô Kỵ vốn đã đoán trước, ba việc nàng ta muốn chàng làm ắt phải rất khó, song không ngờ việc thứ nhất lại tày trời như thế.
Triệu Mẫn thấy chàng đầy vẻ ngại ngần thì nói:
– Sao vậy, công tử không chịu làm ư? Việc này hoàn toàn không trái với đạo hiệp nhiều, cũng không phải là công tử không làm nổi.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thanh đao Đồ Long đang ở trong tay nghĩa phụ ta, giang hồ ai ai cũng biết cả, điều đó chẳng cần giấu nàng”, bèn nói:
– Thanh đao Đồ Long là của nghĩa phụ ta, Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp. Ta làm sao có thể phản bội nghĩa phụ, lấy đao cho cô nương?
Triệu Mẫn nói:
– Ta không đòi công tử đi ăn trộm ăn cướp hoặc đánh lừa ai; ta cũng không cần lấy thanh đao đó. Ta chỉ muốn công tử đi mượn nghĩa phụ công tử thanh đao đó, cho ta nghịch chơi một giờ, rồi trả lại liền. Hai người là nghĩa phụ nghĩa tử, chẳng lẽ mượn một giờ cũng không được hay sao? Chỉ mượn xem chơi, không lấy đi mất, cũng không dùng nó để cướp của giết người, đâu có gì trái với đạo hiệp nghĩa?
Trương Vô Kỵ nói:
– Thanh đao Đồ Long tuy lừng danh võ lâm, thực ra có đẹp đẽ gì cho cam, chỉ rất nặng và rất sắc mà thôi.
Triệu Mẫn nói:
– Tại sao người ta có câu “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng, Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?” Kiếm Ỷ Thiên đang ở trong tay ta, ta phải xem thanh đao Đồ Long như thế nào mới được. Nếu công tử không yên tâm, thì khi ta xem đao, công tử cứ đứng kèm bên cạnh. Với bản lĩnh của công tử, ta đâu có thể cưỡng chiếm không trả?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Sau khi cứu được cao thủ sáu đại môn phái, ta vốn định sẽ lập tức đi đón nghĩa phụ, mời lão nhân gia về đảm nhiệm chức giáo chủ. Triệu cô nương đã nói rõ là chỉ mượn đao xem một giờ, tuy chưa biết nàng ta có ngụy kế gì hay không, nhưng mình sẽ hết sức đề phòng, không để cho nàng ta chiếm đoạt thanh đao. Nghĩa phụ từng bảo bên trong thanh đao ấy có giấu một đại bí mật võ công tuyệt học. Nghĩa phụ lấy được thanh đao ấy lúc chưa bị mù, thông minh tài trí như ông mà bao nhiêu lâu vẫn chưa nghĩ ra được, Triệu Mẫn cô nương mượn xem vẻn vẹn một canh giờ thì làm được gì? Huống hồ ta và nghĩa phụ xa nhau đã mười năm, không chừng ở một mình trên hoang đảo, ông đã tìm ra bí mật của thanh bảo đao rồi cũng nên”.
Triệu Mẫn thấy chàng trầm ngâm không đáp, cười nói:
– Công tử không chịu, cái đó tùy công tử thôi. Nhưng ta sẽ đòi công tử làm một việc khác còn khó hơn thế nhiều.
Trương Vô Kỵ biết cô gái này cực kỳ lợi hại, nếu đưa ra một việc khác, e rằng mình không tài gì làm nổi, vội nói:
– Được, ta bằng lòng đi mượn thanh đao cho cô nương. Nhưng giao hẹn rõ với nhau, cô nương chỉ được mượn xem một canh giờ, nếu có ý chiếm đoạt, ta quyết không để yên đâu đấy.
Triệu Mẫn cười nói:
– Đúng thế. Ta không biết sử đao, nó lại nặng như công tử nói, thì ta chiếm lấy làm gì? Dù công tử có cung kính dâng cả hai tay cho ta, ta cũng chả thèm. Vậy bao giờ thì công tử khởi hành?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Vài hôm nữa.
Triệu Mẫn nói:
– Thế thì tốt lắm. Để ta đi thu xếp; chừng nào công tử lên đường thì đến hẹn trước với ta.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, hỏi:
– Cô nương cùng đi ư?
Triệu Mẫn đáp:
– Dĩ nhiên. Nghe nói nghĩa phụ công tử ở trên một hoang đảo ngoài biển, nếu ông ta không chịu trở về, chẳng lẽ công tử cất công đi xa vạn dặm mượn đao, mang về đây cho ta xem một lúc, rồi lại vượt vạn dặm mang đao đi trả? Trên đời có ai làm như thế?
Trương Vô Kỵ nghĩ đến cảnh phong ba hiểm ác nơi biển bắc, đại hải mênh mông, tìm cho thấy Băng Hỏa đảo là cực kỳ khó khăn; nếu lại đi đi về về mấy lần chẳng đâu vào đâu, thật không có gì chắc chắn. Triệu Mẫn nói đúng, nghĩa phụ ở hoang đảo đã hai mươi năm, chưa chắc đã muốn sống những năm cuối đời ở Trung thổ, ông không chịu trở về thì sao? Bèn nói:
– Giữa biển cả sóng gió vô tình, cô nương hà tất phải mạo hiểm như thế?
Triệu Mẫn nói:
– Công tử mạo hiểm được, tại sao ta lại không được?
Trương Vô Kỵ lưỡng lự, hỏi:
– Phụ thân cô nương liệu có để cho cô nương đi hay không?
Triệu Mẫn nói:
– Cha ta bảo ta thống lĩnh quần hào giang hồ, mấy năm qua ta chạy đông chạy tây, cha ta đâu có nói gì.
Trương Vô Kỵ nghe câu “Cha ta bảo ta thống lĩnh quần hào giang hồ” của nàng, thì chột dạ: “Mình đi Băng Hỏa đảo đón nghĩa phụ, không biết năm nào tháng nào mới trở về được. Nếu đây là kế điệu hổ ly sơn của nàng ta, thừa dịp mình đi vắng, đem đại binh đối phó với bản giáo, thì mình không thể không đề phòng. Nếu nàng đi cùng với mình, bọn tay chân của nàng sẽ sợ cho nàng mà không dám giở trò, mình sẽ đỡ lo chuyện ở nhà”. Nghĩ vậy, bèn gật đầu:
– Được, khi nào khởi hành, ta sẽ đến hẹn với cô nương.
Lời chưa dứt, đột nhiên bên ngoài có ánh lửa sáng hồng, tiếng huyên náo từ phía xa vọng tới. Triệu Mẫn bước lại bên cửa sổ nhìn, hoảng hốt kêu lên:
– Ối chao! Tòa bảo tháp ở chùa Vạn An bị cháy! Khổ đại sư, Khổ đại sư, lại đây mau!
Nàng gọi luôn mấy tiếng, không thấy Khổ đầu đà, vội chạy ra ngoài, cũng không thấy y đâu cả, hỏi chưởng quỹ, chưởng quỹ nói rằng y đã đi ngay lúc mới đến đây. Triệu Mẫn lấy làm lạ, nhớ lại nụ cười bí hiểm của y lúc trước, bất giác hai má đỏ bừng, cúi đầu liếc trộm Trương Vô Kỵ một cái.
Trương Vô Kỵ thấy lửa bốc mỗi lúc một cao, sợ rằng nhóm đại sư bá công lực chưa phục hồi, sẽ bị chết cháy trên tháp, nói:
– Triệu cô nương, ta phải đi đây!
Lời chưa dứt đã chạy vụt đi. Triệu Mẫn gọi theo:
– Hượm đã, ta sẽ cùng đi với công tử.
Nàng ra đến cửa thì Trương Vô Kỵ đã biến đi rồi.
*
* *
Lộc Trượng Khách thấy Khổ đầu đà bị quận chúa gọi đi, thì yên tâm hẳn, ôm Hàn cơ đi tới phòng của đệ tử Ô Vượng A Phổ. Tòa bảo tháp chùa Vạn An cả thảy mười ba tầng, cao mười ba trượng. Ba tầng trên cùng thờ Phật, đặt tượng Phật, kinh Phật, xá lợi, không ai được ở. Ô Vượng A Phổ là tổng quản trông coi tòa tháp, ở tầng thứ mười, cho tiện việc quan sát bốn phía, khống chế toàn cục.
Lộc Trượng Khách vào phòng, nói với Ô Vượng A Phổ:
– Ngươi đứng canh bên ngoài, đừng cho ai vào.
Ô Vượng A Phổ vừa bước ra, lão lập tức đóng chặt cửa lại, mở bọc chăn ra. Chỉ thấy nàng Hàn cơ sợ hãi tái cả mặt, ánh mắt lộ đầy vẻ khẩn cầu. Lộc Trượng Khách nói nhỏ:
– Nàng đã ở đây, đừng sợ gì cả, ta sẽ đối xử tử tế với nàng.
Lão chưa thể giải huyệt cho nàng ta, sợ nàng ta kêu lên thì hỏng việc. Lão đặt nàng nằm trên giường của Ô Vượng A Phổ, lấy chăn đắp lên, lấy thêm cái chăn khác cuộn lại, chèn ở một bên. Chỗ này không phải là nơi sàm sỡ, lão không dám ở lâu, vội ra khỏi phòng, dặn Ô Vượng A Phổ không được vào, cũng không cho bất cứ ai vào phòng. Lão biết tên đại đệ tử này kính sợ mình, quyết chẳng dám trái lời.
Lão nhẩm tính: “Việc này muốn Khổ đầu đà giữ kín cho mình, không thể không lấy lòng y, đành phải đi thả mụ tình nhân và đứa con gái của y ra trước. Vừa may tối qua giáo chủ Ma giáo đến quấy phá, mọi sự khởi đầu từ Chu cô nương mà ra. Lão chỉ việc đổ cho giáo chủ Ma giáo cứu Diệt Tuyệt lão ni và Chu cô nương đi, thế là ổn thỏa, quận chúa chắc sẽ không nghi ngờ. Tên tiểu ma đầu võ công cao cường như thế, quận chúa cũng không thể trách cứ bọn mình phòng bị kém cỏi”.
Đám nữ đệ tử phái Nga Mi bị nhốt ở tầng thứ bảy, riêng Diệt Tuyệt sư thái là chưởng môn, được giam một mình trong một phòng nhỏ. Lộc Trượng Khách lệnh cho tên canh giữ mở cửa cho lão vào, thấy Diệt Tuyệt sư thái đang ngồi xếp bằng dưới sàn, nhắm mắt tĩnh tu. Bà ta tuyệt thực mấy ngày nay, dung nhan tuy có phần tiều tụy, nhưng vẫn đầy vẻ ngạo nghễ.
Lộc Trượng Khách nói:
– Diệt Tuyệt sư thái, khỏe chứ?
Diệt Tuyệt sư thái từ từ mở mắt ra, nói:
– Ở nơi đây là đã không khỏe, có gì mà phải hỏi?
Lộc Trượng Khách nói:
– Bà ương ngạnh như thế, chủ nhân bảo là giữ bà lại cũng vô ích, nên sai ta tiễn bà quy thiên đây.
Diệt Tuyệt sư thái đã quyết chí chọn cái chết, bèn đáp:
– Hay lắm, có điều là khỏi phiền các hạ nhọc công động thủ, hãy cho ta mượn một thanh đoản kiếm, ta sẽ tự lo lấy. Xin các hạ cho gọi đứa học trò Chu Chỉ Nhược của ta tới đây, ta có vài lời trối trăn với nó.
Lộc Trượng Khách quay mình đi ra, sai người dẫn Chu Chỉ Nhược tới, nghĩ thầm: “Tình mẫu tử có khác, sao không gọi đại đệ tử, mà lại chỉ gọi một mình cô bé”.
Chẳng mấy chốc Chu Chỉ Nhược đã tới phòng sư phụ. Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Lộc tiên sinh, xin tiên sinh ra chờ bên ngoài, ta chỉ nói vài lời là xong.
Chu Chỉ Nhược đợi Lộc Trượng Khách ra ngoài, nàng khép cửa lại, sà vào lòng sư phụ mà khóc thành tiếng. Diệt Tuyệt sư thái bình sinh tính tình cứng rắn, nhưng vào lúc tử biệt này, cũng không khỏi thương cảm, nhẹ nhàng đưa tay vuốt tóc nàng.
Chu Chỉ Nhược biết không có thời gian nói chuyện lâu với sư phụ, bèn đem chuyện tối qua Trương Vô Kỵ tới cứu nàng ra sao kể lại sơ qua. Diệt Tuyệt sư thái nghe xong, thì cau mày, ngẫm nghĩ một lát, nói:
– Tại sao hắn chỉ cứu mình con, không cứu những người khác? Hôm ở trên đỉnh Quang Minh, con đâm hắn một kiếm, sao hắn lại đến cứu con là nghĩa làm sao?
Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng, nhỏ nhẹ đáp:
– Con cũng không biết nữa.
Diệt Tuyệt sư thái giận dữ nói:
– Hừ, tên tiểu tử ấy vô cùng nham hiểm độc ác. Hắn là đại ma đầu của Ma giáo, làm sao có được hảo tâm. Hắn giăng bẫy để cho con chui vào đấy.
Chu Chỉ Nhược lấy làm lạ, nói:
– Chàng… chàng ta giăng bẫy ư?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Chúng ta đối địch với Ma giáo, kiếm Ỷ Thiên của ta đã lấy mạng không biết bao nhiêu gian đồ tà ác của Ma giáo. Tất nhiên Ma giáo sẽ căm hận phái Nga Mi thấu xương, có lý nào lại đến cứu mình? Tên Ma đầu họ Trương kia chắc là hắn thích con, muốn con sa vào vòng tay hắn, nên hắn sai người giả bộ bắt bọn mình, sau đó cố lấy lòng, cứu con ra, để từ nay con một lòng một dạ nhớ ơn hắn.
Chu Chỉ Nhược nhỏ nhẹ nói:
– Sư phụ, con thấy… chàng ta không phải là giả bộ đâu.
Diệt Tuyệt sư thái cả giận, quát lên:
– Ngươi lại định đi theo vết cái con Kỷ Hiểu Phù hư hỏng hay sao, mà lại phải lòng tên dâm đồ của Ma giáo? Nếu ta chưa bị mất công lực, thì một chưởng đánh chết ngươi cho rồi.
Chu Chỉ Nhược sợ đến run rẩy toàn thân, nói:
– Đệ tử không dám thế.
Diệt Tuyệt sư thái xẵng giọng:
– Ngươi quả thực không dám, hay chỉ nói khéo để đánh lừa sư phụ?
Chu Chỉ Nhược gạt lệ, nói:
– Con quyết không dám trái lời giáo huấn của ân sư.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Vậy ngươi hãy quỳ xuống thề nặng ta coi.
Chu Chỉ Nhược y lời quỳ xuống, chưa biết phải thề như thế nào.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Ngươi hãy thề như vầy: “Con là Chu Chỉ Nhược, xin thề có trời đất chứng giám, nếu sau này con đem lòng ái mộ tên dâm đồ Trương Vô Kỵ, giáo chủ của Ma giáo, kết thành vợ chồng với hắn, thì cha mẹ con chết nằm dưới mồ xương cốt không yên; sư phụ con là Diệt Tuyệt sư thái sẽ thành ma quỷ ngày đêm quấy nhiễu con suốt đời; nếu con sinh con đẻ cái với hắn, thì con trai đời đời làm nô bộc, con gái kiếp kiếp làm kỹ nữ”.
Chu Chỉ Nhược cả kinh, nàng bản tính hiền lành dịu dàng, chưa từng nghĩ đến những lời thề độc địa như thế, chẳng những rủa xả cả đến cha mẹ và ân sư đã qua đời, mà còn nguyền rủa những đứa con chưa ra đời; nhưng trước cặp mắt sáng quắc đầy giận dữ của sư phụ, thì bất giác hoa mắt, đầu óc mụ đi, lẩm bẩm nhắc lại lời sư phụ.
Diệt Tuyệt sư thái thấy nàng đã chịu thề độc như vậy, thì mặt dịu lại, ôn tồn nói:
– Được rồi, thôi con đứng lên đi.
Chu Chỉ Nhược nước mắt lã chã, uể oải đứng dậy.
Diệt Tuyệt sư thái sa sầm mặt, nói:
– Chỉ Nhược, ta không phải cố ý ép buộc con, mà chỉ vì muốn tốt lành cho con đấy thôi. Con chỉ là một cô bé, từ rày sư phụ không thể lo cho con được nữa; nếu như con lại sa vào bước chân lầm lỡ của Kỷ sư tỷ, thì sư phụ ở dưới suối vàng cũng không thể an tâm. Huống hồ sư phụ muốn con gánh vác trọng nhiệm của bổn phái, không thể có sơ suất gì được.
Nói tới đây, Diệt Tuyệt sư thái tháo chiếc nhẫn sắt đeo ở ngón trỏ tay trái ra, đứng dậy, nói:
– Nữ đệ tử phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược quỳ xuống nghe dụ.
Chu Chỉ Nhược ngạc nhiên, vội quỳ xuống.
Diệt Tuyệt sư thái giơ chiếc nhẫn cao quá đầu, nói:
– Chưởng môn đời thứ ba của phái Nga Mi là nữ ni Diệt Tuyệt kính cẩn truyền lại chức chưởng môn bổn phái cho nữ đệ tử đời thứ tư là Chu Chỉ Nhược.
Chu Chỉ Nhược bị sư phụ ép phải thề độc, đầu óc còn rối loạn, đột nhiên lại nghe rằng mình phải tiếp nhiệm chức chưởng môn bản phái, thì càng thêm hoang mang, kinh ngạc đến ngớ người ra.
Diệt Tuyệt sư thái nói rành rọt từng tiếng một:
– Chu Chỉ Nhược, hãy tiếp nhận thiết chỉ hoàn chưởng môn của bổn phái.
Chu Chỉ Nhược lúng túng giơ tay trái ra, Diệt Tuyệt sư thái liền đeo chiếc nhẫn sắt vào ngón trỏ của nàng.
Chu Chỉ Nhược nói, giọng run rẩy:
– Sư phụ, đệ tử tuổi còn nhỏ, nhập môn chưa lâu, làm sao có thể đảm đương trọng nhiệm? Lão nhân gia rồi sẽ thoát khỏi cảnh này; dẫu không thế, thì đệ tử cũng chẳng thể…
Nói tới đó, nàng ôm hai đầu gối sư phụ, khóc òa lên.
Lộc Trượng Khách ở bên ngoài đợi đã sốt ruột, nghe tiếng khóc bèn đẩy cửa ngó vào, nói:
– Này, hai người nói xong chưa? Ngày mai còn khối thời gian mà trò chuyện.
Diệt Tuyệt sư thái quát:
– Lộc tiên sinh đừng có léo nhéo.
Rồi quay lại nói với Chu Chỉ Nhược:
– Lệnh của sư tôn, con dám trái lời hay sao?
Liền đem giới luật của người chưởng môn bản phái nói ra một lượt, bảo nàng phải nhớ cho kỹ. Chu Chỉ Nhược thấy trong lời lẽ của sư phụ cứ y như lời trăn trối cuối cùng, thì lại càng sợ hãi, nói:
– Đệ tử không làm nổi, đệ tử không thể…
Diệt Tuyệt sư thái gằn giọng:
– Ngươi không nghe lời ta, vậy là kẻ khi sư diệt tổ.
Diệt Tuyệt sư thái thấy Chu Chỉ Nhược có vẻ khổ sở đến tội nghiệp, nghĩ mình cứng rắn mạnh mẽ mà còn thấy gánh nặng quá lớn, nữa là đem trút sang vai cô bé hiền lành yếu đuối này, chỉ sợ nàng không làm nổi thật. Thế nhưng trong đám đệ tử phái Nga Mi, chỉ có Chu Chỉ Nhược ngộ tính cao hơn cả, muốn tu luyện võ công cao nhất, làm rạng rỡ môn phái, thì trừ nàng ra, không có đệ tử thứ hai nào thích hợp. Nghĩ rồi đây đường dài đằng đẵng, đứa học trò nhỏ bé này sẽ gặp biết bao gian lao nguy hiểm, thì Diệt Tuyệt sư thái không khỏi se lòng, bèn giơ tay đỡ nàng lên, ôm vào lòng, dịu giọng nói:
– Chỉ Nhược, ta sở dĩ trao chức chưởng môn cho con mà không truyền cho các sư tỷ của con, chẳng phải vì ta thiên vị; chẳng qua vì phái Nga Mi lấy nữ lưu làm chủ, người chưởng môn tất phải có võ công trác tuyệt, mới có chỗ đứng trong quần hùng võ lâm.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Võ công của con đâu đã theo kịp các vị sư tỷ?
Diệt Tuyệt sư thái mỉm cười, nói:
– Bọn nó thành tựu có hạn, đạt tới mức như hiện giờ, không còn tiến thêm được bao nhiêu nữa; đó là do thiên tư mà có, chẳng thể cưỡng cầu theo ý mỗi người. Con hiện tại tuy chưa bằng các sư tỷ, nhưng sau này thì rất có triển vọng. Đúng là con rất có triển vọng.
Chu Chỉ Nhược thần sắc hoang mang, nhìn sư phụ, không hiểu ý câu nói vừa rồi.
Diệt Tuyệt sư thái ghé miệng vào tai nàng thì thầm:
– Con đã là chưởng môn bổn phái, ta sẽ cho con biết một đại bí mật của bổn phái. Tổ sư khai sáng phái Nga Mi là Quách nữ hiệp, thứ nữ của đại hiệp Quách Tĩnh. Bấy giờ Quách đại hiệp danh chấn thiên hạ, bình sinh có hai môn tuyệt nghệ, một là binh pháp hành quân đánh trận, hai là võ công. Phu nhân Quách đại hiệp là Hoàng Dung nữ hiệp thì cực kỳ thông minh cơ trí, bà thấy thế của quân Nguyên quá lớn, thành Tương Dương cuối cùng sẽ thất thủ, hai vợ chồng bà quyết tử báo quốc, không giữ được thành thì giữ tấm lòng son tận trung, nhưng nếu để tuyệt nghệ của Quách đại hiệp bị thất truyền, thì đáng tiếc biết bao! Huống chi bà nghĩ rằng quân Nguyên dù có nhất thời chiếm được Trung nguyên, người Hán cũng sẽ không cam chịu làm nô lệ cho bọn Thát tử. Trong cuộc huyết chiến ở Trung nguyên sau này, hai môn binh pháp và võ công kia sẽ rất đắc dụng. Thế là Hoàng nữ hiệp mời các thợ đúc lành nghề lấy thanh huyền kiếm mà Dương Quá Dương đại hiệp tặng cho Quách tổ sư bản phái nấu chảy ra, thêm tinh kim của phương Tây mà đúc thành một thanh đao Đồ Long và một thanh kiếm Ỷ Thiên.
Chu Chỉ Nhược nghe tiếng “đao Đồ Long, kiếm Ỷ Thiên” đã lâu, bây giờ mới biết hai báu vật này là do mẫu thân Hoàng nữ hiệp của tổ sư bản phái Quách nữ hiệp đúc nên.
Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
– Trước khi đúc đao rèn kiếm, Quách đại hiệp và Hoàng nữ hiệp dành ra một tháng, chép những điều tinh yếu về binh pháp và võ công, chia ra giấu trong đao và kiếm. “Đao Đồ Long” giấu binh pháp, hai chữ “Đồ Long” ngụ ý sau này có người học được binh thư giấu trong đao, sẽ đánh đuổi Thát tử, giết hoàng đế Mông Cổ. “Kiếm Ỷ Thiên” thì giấu bí kíp võ công, trong đó quý nhất là bộ “Cửu âm chân kinh” và bộ “Hàng long thập bát chưởng chưởng pháp tinh nghĩa”, hi vọng hậu nhân tập được môn võ công đó, thay trời hành đạo, trừ hại cho dân.
Chu Chỉ Nhược mở to đôi mắt, càng nghe càng thấy lạ. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
– Vợ chồng Quách đại hiệp đúc xong đao kiếm, thì trao bảo đao cho con trai là Quách công Phá Lỗ, còn bảo kiếm thì trao cho Quách tổ sư bản phái. Đương nhiên, Quách tổ sư đã được cha mẹ truyền thụ võ công, Quách công Phá Lỗ thì được truyền thụ binh pháp. Nhưng khi thành Tương Dương thất thủ, thì hai vợ chồng Quách đại hiệp và cả Quách công Phá Lỗ cũng đều tuẫn nạn. Quách tổ sư tính nết không phù hợp với võ công của phụ thân, cho nên võ học của bản phái không cùng một lộ với võ công của Quách đại hiệp hồi trước.
Diệt Tuyệt sư thái kể tiếp:
– Một trăm năm nay, võ lâm trải qua bao sóng gió, đôi đao kiếm kia đổi chủ mấy lần. Hậu nhân chỉ biết thanh đao Đồ Long là võ lâm chí tôn, chỉ có kiếm Ỷ Thiên mới địch lại được, nhưng vì sao lại là chí tôn, thì không một ai biết cả. Quách công Phá Lỗ tuẫn nạn từ lúc còn là thanh niên, không có truyền nhân, thành thử bí mật trong hai thứ đao kiếm kia chỉ một mình Quách tổ sư bản phái biết mà thôi. Lão nhân gia lúc sinh thời từng tận lực tìm kiếm thanh đao Đồ Long, nhưng không thành công. Đến lúc lìa trần, mới đem bí mật ấy truyền lại cho ân sư của ta là Phong Lăng sư thái. Phong Lăng sư thái nhận di mệnh của tổ sư, tìm kiếm thanh đao Đồ Long cũng không có kết quả. Lão nhân gia khi viên tịch, lại đem kiếm Ỷ Thiên và di mệnh của tổ sư truyền lại cho ta. Ta tiếp nhiệm chức chưởng môn bản phái chưa lâu, thì sư bá ngươi là Cô Hồng Tử thách đấu với một cao thủ trẻ tuổi của Ma giáo, đôi bên hẹn nhau tỷ thí tay đôi, không có người ngoài tương trợ. Sư bá ngươi biết đối thủ tuổi còn rất trẻ, nhưng võ công vô cùng lợi hại, bèn mượn thanh kiếm Ỷ Thiên của ta.
Chu Chỉ Nhược nghe mấy tiếng “cao thủ trẻ tuổi của Ma giáo” thì chột dạ, tự dưng đỏ mặt lên, nhưng chợt nghĩ thầm: “Không phải chàng đâu, e rằng khi ấy chàng còn chưa ra đời là đằng khác”.
Chỉ nghe Diệt Tuyệt sư thái kể tiếp:
– Bấy giờ ta muốn đi theo để giúp, nhưng sư bá ngươi là người tín nghĩa, bảo rằng đã ước hẹn rõ với tên ma đầu kia là không cho người thứ ba tham gia, do vậy ông kiên quyết không cho ta đi. Trận tỷ thí đó, sư bá ngươi võ công không thua gì đối thủ, nhưng gã ma đầu liên tiếp triển khai ngụy kế, cuối cùng bị trúng một chưởng vào ngực, kiếm Ỷ Thiên còn chưa kịp rút khỏi vỏ, thì đã bị tên ma đầu kia đoạt mất.
Chu Chỉ Nhược kêu “Ôi” một tiếng, nhớ lại cảnh Trương Vô Kỵ đoạt kiếm từ tay Diệt Tuyệt sư thái trên đỉnh Quang Minh, chỉ nghe sư phụ kể tiếp:
– Tên ma đầu kia cười khẩy một tràng, nói: “Kiếm Ỷ Thiên nghe danh ghê gớm lắm, nhưng dưới mắt ta nó chẳng khác gì đồng nát sắt gỉ!” Nói rồi hắn ném thanh kiếm xuống đất mà đi thẳng. Sư bá ngươi nhặt kiếm lên, định trở về núi trả kiếm cho ta. Nào ngờ tính ông cao ngạo, càng nghĩ càng tức không chịu nổi, đi được ba ngày thì giữa đường ngã bệnh, không dậy được nữa. Kiếm Ỷ Thiên bị quan phủ lấy mất, đem hiến triều đình. Con có biết tên ác đồ Ma giáo làm tức chết sư bá ngươi Cô Hồng Tử là ai không?
Chu Chỉ Nhược đáp:
– Không, con không biết. Là ai vậy?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Chính là tên đại ma đầu Dương Tiêu, kẻ sau này đã hủy hoại cuộc đời Kỷ Hiểu Phù sư tỷ con.
Bỗng nghe Lộc Trượng Khách đẩy cửa, nói:
– Xong chưa? Ta không thể đợi thêm nữa đâu.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Không việc gì phải vội, chỉ lát nữa sẽ xong.
Rồi thản nhiên nói với Chu Chỉ Nhược:
– Thời gian không còn nhiều, ta không nói với con được bao nhiêu nữa. Kiếm Ỷ Thiên ấy sau đó hoàng đế Thát tử ban cho Nhữ Dương Vương; ta đã đến phủ Nhữ Dương Vương đoạt lại được. Lần này không may trúng phải gian kế, thanh kiếm đó đã rơi vào tay bọn Ma giáo.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Không phải đâu, kẻ đoạt kiếm là cô nương họ Triệu.
Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt, nói:
– Con bé họ Triệu ấy rõ ràng là đồng bọn của Ma giáo, chẳng lẽ đến lúc này mà con vẫn chưa tin lời sư phụ hay sao?
Chu Chỉ Nhược quả thực khó tin, nhưng không dám cãi lại sư phụ.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Sư phụ muốn con tiếp nhiệm chức chưởng môn là có thâm ý. Phen này ta sa vào tay gian đồ, thanh danh một đời trôi theo dòng nước, thực chẳng còn muốn sống mà ra khỏi cái tháp này. Tên dâm đồ họ Trương kia có tà ý, chắc sẽ không lấy mạng con, thành thử con hãy giả vờ ưng thuận với hắn, thừa cơ đoạt lại kiếm Ỷ Thiên. Còn thanh đao Đồ Long thì đang nằm trong tay nghĩa phụ hắn là tên ác tặc Tạ Tốn. Tên tiểu tử Trương Vô Kỵ dù thế nào cũng không chịu tiết lộ chỗ ở của Tạ Tốn, nhưng trên đời này có một người có thể bảo hắn đi lấy thanh đao.
Chu Chỉ Nhược biết sư phụ muốn nói đến mình, thì vừa ngạc nhiên vừa e thẹn, nửa mừng nửa lo.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Người ấy chính là con. Ta muốn con dùng sắc đẹp dụ hắn lấy được bảo đao bảo kiếm, thủ đoạn đó tuy không phải là cách hành xử của người hiệp nghĩa nhưng muốn thành đại sự, đừng nề tiểu tiết. Con thử nghĩ xem, kiếm Ỷ Thiên ở trong tay cô ả Triệu Mẫn, đao Đồ Long ở trong tay ác tặc Tạ Tốn, bọn chúng cùng một phường xấu xa với nhau, một khi đao kiếm tương phùng, lấy được binh pháp và võ công của Quách đại hiệp, dùng tàn hại bách tính, bao nhiêu người vô tội trong thiên hạ sẽ mất mạng, vợ chồng chia lìa, cha con li tán, thì đại nghiệp đánh đuổi bọn Thát tử đã khó sẽ càng khó thêm. Chỉ Nhược, ta biết việc này khó vô cùng, quả không nỡ bắt con phải gánh vác, nhưng chúng ta một đời học võ cốt để làm gì? Chỉ Nhược, ta vì trăm họ trong thiên hạ mà cầu xin con.
Diệt Tuyệt sư thái nói đến đây liền quỳ gối mà lạy Chu Chỉ Nhược.
Chu Chỉ Nhược kinh hãi, vội quỳ xuống, kêu lên:
– Sư phụ, sư phụ…
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Khẽ chứ, đừng để bọn ác tặc ngoài kia nghe thấy, con có bằng lòng hay không? Con mà không nhận lời, thì ta sẽ không đứng dậy.
Chu Chỉ Nhược lòng rối như tơ vò, trong khoảng thời gian ngắn ngủi vừa rồi, sư phụ bắt nàng phải làm ba việc cực khó, trước là thề độc, không được ái mộ Trương Vô Kỵ, kế đến tiếp nhiệm chức chưởng môn bản phái, sau cùng lại buộc nàng dùng sắc đẹp dẫn dụ Trương Vô Kỵ, hầu lấy được kiếm Ỷ Thiên và thanh đao Đồ Long. Ba việc ấy bảo nàng thực hiện trong vòng mười năm, với tính nết hiền lành như nàng, nàng cũng không làm nổi, huống hồ chỉ trong giây lát? Thần trí bấn loạn, nàng lập tức mụ người đi không còn biết gì nữa.
Đột nhiên nàng cảm thấy môi trên đau nhói, mở mắt ra thấy sư phụ vẫn đang quỳ trước mặt, thì nàng khóc, nói:
– Sư phụ, xin lão nhân gia đứng dậy cho.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Thế con đã nhận làm việc mà sư phụ cầu xin con chưa đã?
Chu Chỉ Nhược nước mắt ròng ròng, gật đầu, tựa hồ lại sắp ngất đi.
Diệt Tuyệt sư thái nắm lấy cổ tay nàng, hạ giọng nói:
– Sau khi con lấy được kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long, hãy tìm một chỗ kín đáo, một tay cầm đao, một tay cầm kiếm, vận lực lên, lấy đao kiếm chém vào nhau; bảo đao bảo kiếm sẽ cùng gãy rời; sẽ lấy được bí kíp giấu bên trong thân đao kiếm. Đó là cách duy nhất để lấy được bí kíp, sau đó đao kiếm đều đã bị hủy. Con nhớ kỹ chưa?
Diệt Tuyệt sư thái nói rất khẽ, nhưng giọng rất nghiêm lạnh. Chu Chỉ Nhược gật đầu.
Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
– Đó là bí mật lớn nhất của bản phái, từ thời vợ chồng Quách đại hiệp truyền lại cho Quách tổ sư bản phái, tới nay chỉ một mình người chưởng môn được biết. Ai cũng biết đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên đều là thứ vũ khí sắc bén tuyệt luân, dù người nào có được cả hai thứ đó, cũng chẳng dám mạo hiểm đem bảo đao bảo kiếm chém vào nhau, chả lẽ tự dưng hủy hoại cả hai thứ đi hay sao? Sau khi con lấy được binh pháp rồi, hãy chọn một người có tấm lòng nhân hậu, son sắt với quốc gia, đem binh thư truyền cho người đó, bảo họ phải thề đánh đuổi Hồ Lỗ. Còn bí kíp võ công thì con tự luyện lấy. “Hàng long thập bát chưởng”[110] là môn cương mãnh thuần dương, con luyện không thích hợp; chỉ nên luyện công phu “Cửu âm chân kinh”. Theo như ân sư ta thuật lại di ngôn của Quách tổ sư, thì pho “Cửu âm chân kinh” bác đại tinh thâm, vốn không thể tốc thành, nhưng Hoàng nữ hiệp nghĩ đến việc trừ diệt bọn Thát tử tàn ác là việc khẩn cấp, sớm ngày nào thiên hạ đỡ khổ ngày ấy, cho nên trong bí kíp giấu nơi kiếm Ỷ Thiên có viết mấy chương về cách luyện tốc thành. Song khi thành đại sự, phải luyện lại từ đầu cho có căn cơ; công phu tốc thành kia chỉ đắc dụng nhất thời, là do trí tuệ tuyệt đỉnh của Hoàng nữ hiệp tạo ra để quyền nghi mà thôi, không phải là võ học chân chính vô địch thiên hạ. Điều đó con phải nhớ cho kỹ.
Chu Chỉ Nhược mơ hồ gật đầu. Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Cuộc đời ta bình sinh có hai tâm nguyện lớn, một là làm sao đuổi bọn Thát tử, lấy lại giang sơn cho người Hán; hai là làm sao cho võ công phái Nga Mi đứng đầu thiên hạ, vượt cả Thiếu Lâm, Võ Đang, trở thành môn phái số một ở Trung nguyên. Hai việc đó khó vô cùng, nhưng con đường trước mắt đã sáng rõ, chỉ cần con làm theo đúng lời dặn dò của ta, thì rồi cuối cùng sẽ thành tựu cả, bấy giờ dù ở dưới cửu tuyền ta cũng cảm kích chịu ơn con.
Nói đến đây, thì hình như Lộc Trượng Khách ở bên ngoài lại gõ cửa. Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Vào được rồi.
Cửa mở ra, người bước vào không phải Lộc Trượng Khách mà là Khổ đầu đà. Diệt Tuyệt sư thái cũng không lấy làm lạ, nghĩ bụng bọn này vốn cùng một giuộc, đứa nào cũng thế cả thôi, bèn nói:
– Các hạ hãy đem đứa bé này ra đi.
Diệt Tuyệt sư thái không muốn tự vẫn trước mặt Chu Chỉ Nhược để nàng đỡ đau lòng.
Khổ đầu đà bước tới gần, nói nhỏ:
– Đây là thuốc giải, hãy uống mau, chờ khi nào thấy bên ngoài có tiếng la hét, mọi người cùng xông ra chém giết.
Diệt Tuyệt sư thái kinh ngạc, hỏi:
– Các hạ là ai? Tại sao cho ta thuốc giải?
Khổ đầu đà đáp:
– Tại hạ là Phạm Dao, Quang Minh hữu sứ của Minh giáo, lấy trộm được thuốc giải, đem tới đây cứu sư thái.
Diệt Tuyệt sư thái giận dữ nói:
– Gian tặc Ma giáo! Giờ này ngươi còn đùa cợt với ta ư?
Phạm Dao cười, đáp:
– Hay nhỉ, cứ coi như tại hạ đùa cợt với sư thái, vậy thì đây là liều thuốc độc nữa đó, sư thái có dám uống không? Thuốc này mà uống vào, một giờ sau cứ gọi là ruột đứt thành từng đoạn, chết thảm hết mức.
Diệt Tuyệt sư thái không thèm nói nửa lời, cầm lấy chút thuốc bột trên tay y, há miệng nuốt luôn vào bụng.
Chu Chỉ Nhược kêu lên:
– Sư phụ, sư phụ…
Phạm Dao chìa bàn tay kia ra, quát:
– Đừng có to tiếng, cô nương cũng uống thuốc độc ngay đi.
Chu Chỉ Nhược cả sợ, nhưng đã bị Phạm Dao bóp má, đổ thuốc bột vào miệng, rồi còn rót một ngụm từ bình nước trắng cho trôi xuống họng.
Diệt Tuyệt sư thái cả kinh, nghĩ bụng nếu Chu Chỉ Nhược chết đi, thì mọi mưu tính của mình thành công toi, bèn cố vung chưởng đánh Phạm Dao. Nhưng công lực của bà ta đã mất, chưởng này chiêu số tinh diệu, nhưng chẳng có chút sức nặng gì; Phạm Dao chỉ giơ tay hất nhẹ, bà ta đã văng vào tường.
Phạm Dao cười, nói:
– Tăng chúng Thiếu Lâm, Võ Đang chư hiệp cũng đều uống thuốc độc của ta cả rồi. Minh giáo ta hay dở tốt xấu thế nào, lát nữa các người sẽ biết thôi.
Nói đoạn y cười hà hà, quay người đi ra, khép cửa phòng lại.
*
* *
Nguyên Phạm Dao hộ tống Triệu Mẫn đi gặp Trương Vô Kỵ, mà trong bụng chỉ nghĩ tới việc làm cách nào đoạt lấy thuốc giải. Triệu Mẫn bảo y ngồi ở gian ngoài quán rượu chờ nàng, song y lập tức chạy thẳng về chùa Vạn An, đi lên tòa tháp, đến tầng thứ mười, chỗ có phòng ở của Ô Vượng A Phổ.
Ô Vượng A Phổ đang đứng ngoài cửa, thấy y liền cung kính chào:
– Khổ đại sư!
Phạm Dao gật đầu, trong bụng cười thầm: “Lão dê già họ Lộc này gớm thật, ở trong phòng hú hí với ái thiếp của vương gia, bắt đệ tử đứng ngoài canh chừng. Nhân lúc lão ta còn đang say sưa hưởng lạc trong ấy, ta phải xông vào cướp thuốc giải mới được”. Bèn lách người ngang qua Ô Vượng A Phổ, bất ngờ xoay tay điểm luôn vào huyệt đạo ở bụng dưới của hắn. Ô Vượng A Phổ dĩ nhiên không hề đề phòng, mà dù có đề phòng, thì cũng không tránh được. Yếu huyệt bị điểm trúng, hắn đứng trơ ra không thể cử động, kinh ngạc không hiểu mình làm gì đắc tội với lão già câm, chẳng lẽ tiếng chào vừa rồi chưa đủ cung kính hay sao?
Phạm Dao đẩy cửa, nhanh như chớp phi thân tới bên giường, hai chân chưa chạm đất đã giáng luôn một chưởng vào kẻ nằm bên trên. Y biết Lộc Trượng Khách võ công cao siêu, nếu chưởng này không làm cho hắn trọng thương, hai bên sẽ phải quần nhau một trận ác liệt chưa biết ai sống ai chết, ai thắng ai bại; thành thử y dồn mười thành kình lực vào chưởng này. Chỉ nghe bịch một tiếng, cái chăn bị đánh thủng, bông bay tứ tung; lật chăn lên coi, chỉ thấy nàng Hàn cơ miệng mũi ứa máu, ngọc nát hương tàn, chứ chẳng thấy Lộc Trượng Khách đâu cả.
Phạm Dao chợt nảy ra một kế, vội vàng ra cửa mang Ô Vượng A Phổ vào, nhét hắn dưới gầm giường, vừa xong thì có tiếng gắt của Lộc Trượng Khách ở bên ngoài:
– A Phổ, A Phổ! Ngươi dám bỏ đi đâu rồi?
Nguyên Lộc Trượng Khách đứng bên ngoài phòng giam Diệt Tuyệt sư thái đợi một hồi, nghĩ thầm hai mẹ con mụ kể lể dông dài biết bao giờ mới xong, nhưng không dám đắc tội với Khổ đầu đà, nên đành để yên; bụng lại nhớ nàng Hàn cơ đến mức hết chịu nổi, bèn trở lên phòng Ô Vượng A Phổ. Không thấy gã đệ tử vốn luôn luôn vâng lời kia đâu, tức giận đẩy cửa bước vào, may quá chưa thấy gì khác lạ; nàng Hàn cơ vẫn nằm trên giường, mặt quay vào trong, trên mình đắp kín tấm chăn bông.
Lộc Trượng Khách cài then cửa, quay mình lại, cười nói:
– Người đẹp ơi, để ta giải huyệt cho nàng, nhưng nàng chưa được lên tiếng đâu đấy.
Lão vừa nói vừa luồn tay vào trong chăn, sờ soạng lưng nàng Hàn cơ. Bỗng nhiên cổ tay lão bị bóp chặt, năm ngón tay ai như gọng kìm bấm mạnh vào mạch môn của lão. Kình lực toàn thân lão lập tức mất hết, lão không còn chút hơi sức nào, chỉ thấy tấm chăn lật lên, một người bật dậy, chính là Khổ đầu đà.
Phạm Dao tay phải nắm mạch môn của Lộc Trượng Khách, tay trái nhanh như gió, điểm liên tiếp mười chín đại huyệt trên người Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách mềm ra, sụm xuống đất, không cử động gì được, mắt thì như nảy lửa.
Phạm Dao chỉ mặt Lộc Trượng Khách, nói:
– Lão phu đi không thay họ, ngồi chẳng đổi tên, chính là Quang Minh hữu sứ của Ma giáo, họ Phạm tên Dao đây. Hôm nay ngươi bị lão phu ám toán, uổng công ngươi tự coi mình cơ trí tuyệt luân, kỳ thực ngu xuẩn vô dụng. Bây giờ mà lão phu giết ngươi thì không đáng mặt anh hùng hảo hán; vậy tạm tha mạng cho ngươi, ngươi có giỏi thì rồi đây đi tìm Phạm Dao ta mà báo thù.
Y chưa hết hứng, còn lột sạch quần áo trên người Lộc Trượng Khách, đặt lão nằm chung với thi thể Hàn cơ, lấy tấm chăn bọc hai người, một sống một chết, lại với nhau.
Sau đó Phạm Dao mới lấy cây trượng sừng hươu, mở cái nhánh sừng, đổ thuốc giải ra, đi từng buồng giam chia cho Không Văn đại sư, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu mọi người uống. Đợi cho mọi người uống xong cũng tốn khá nhiều thời gian, cũng phải mất công giải thích mỗi người đôi lời. Cuối cùng y tới phòng giam Diệt Tuyệt sư thái, y thấy bà ta không chịu tin đây là thuốc giải, đành dọa là thuốc độc. Y hận bà ta giết hại nhiều huynh đệ của Minh giáo, nên hù dọa được mấy câu cũng thấy khoái chí lắm.
Phân phát xong xuôi thuốc giải, Phạm Dao đang tự cảm thấy đắc ý, bỗng nghe dưới chân tháp đầy tiếng huyên náo, trong đó tiếng của Hạc Bút Ông vang to hơn cả:
– Tên Khổ đầu đà là gian tế, mau bắt hắn xuống đây!
Phạm Dao thầm kêu khổ: “Chết thật, hỏng to rồi! Không biết ai cứu hắn ra thế nhỉ?” Y thò đầu nhìn xuống dưới chân tháp, thấy Hạc Bút Ông cầm đầu một đám võ sĩ vây kín xung quanh tháp. Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Thôi nhìn thấy Phạm Dao thò đầu ra, liền bắn lên hai mũi tên, chửi to:
– Ác tặc đầu đà, ngươi hại bọn ta quá đỗi!
Hạc Bút Ông và hai gã đó bị điểm huyệt, vốn chưa thể cử động, lại nằm trong buồng của Lộc Trượng Khách, đâu có ai dám tự tiện bước vào. Nào ngờ đám võ sĩ do phủ Nhữ Dương Vương sai đến chùa Vạn An tra xét, không thấy tung tích nàng ái thiếp của vương gia, có người nghĩ đến tính hiếu sắc tham hoa của Lộc Trượng Khách, nhưng đám võ sĩ lâu nay vẫn luôn e sợ lão ta, tuy nghi ngờ lão ta dính líu đến việc Hàn cơ mất tích, song ai dám vuốt râu hùm? Một hồi lâu sau, kẻ đứng đầu đội võ sĩ là Cáp tổng quản nghĩ ra một cách, sai một tên lính hầu tới gõ cửa phòng Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách thân phận cực cao, dẫu có nổi giận cũng chẳng thèm trừng phạt một tên lính hầu. Tên lính gõ cửa mấy lần, vẫn không có tiếng bên trong trả lời.
Cáp tổng quản nghiến răng, lệnh cho tên lính đẩy mạnh cửa vào xem sao thì thấy bọn Hạc Bút Ông và Tôn, Lý hai gã nằm lăn lóc dưới đất. Lúc ấy Hạc Bút Ông vận khí xung huyệt cũng đã giải được ba, bốn phần, Cáp tổng quản giúp lão giải huyệt, thế là lão lập tức hoạt động được như thường.
Hạc Bút Ông cả giận, hỏi xem Lộc Trượng Khách và Khổ đầu đà đi đâu, khi biết hai người đi lên tháp, liền dẫn bọn võ sĩ bao vây, lớn tiếng hò hét, gọi Khổ đầu đà xuống một phen tử chiến.
Phạm Dao nghĩ thầm: “Muốn tử chiến thì tử chiến, Phạm Dao ta sợ quái gì ngươi? Có điều là bọn hòa thượng ni cô thối tha kia uống thuốc giải chưa lâu thời công lực chưa phục hồi. Hạc Bút Ông ngươi đã nghe câu chuyện giữa ta và Lộc Trượng Khách, bây giờ ta có giết lão Lộc dê già, cũng không thể diệt khẩu nữa rồi, phải làm sao đây?”
Phạm Dao còn bàng hoàng, nhất thời chưa nghĩ được cách gì, thì nghe Hạc Bút Ông gọi to:
– Tên đầu đà chết tiệt kia, ngươi không xuống thì ta lên!
Phạm Dao liền vào phòng vác cái bọc chăn cuộn Lộc Trượng Khách và Hàn cơ ra bao lơn, chìa phần mặt ra, nói:
– Con hạc già kia, mi mà tiến lên tháp một bước, ta sẽ ném con hươu dâm đãng này xuống đó.
Đám võ sĩ giơ cao đuốc, chiếu bốn phía sáng như ban ngày, tuy ngọn tháp quá cao, ánh sáng chiếu không tới, nhưng người bên dưới vẫn có thể nhìn thấy mặt Lộc Trượng Khách và Hàn cơ.
Hạc Bút Ông cả kinh, gọi to:
– Sư ca, sư ca không sao chứ?
Lão ta gọi liền mấy lần, không nghe Lộc Trượng Khách đáp lại, tưởng rằng sư huynh đã bị Khổ đầu đà giết rồi, thì đau đớn nói:
– Tặc đầu đà, ngươi hại chết sư ca ta, ta thề một mất một còn với ngươi.
Phạm Dao giải huyệt câm cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách liền cất tiếng chửi:
– Tặc đầu đà, ngươi là gian tế, đáng bị đem ra tùng xẻo!
Phạm Dao lại điểm huyệt không cho lão ta nói. Hạc Bút Ông thấy sư huynh chưa chết, cũng hơi yên tâm, chỉ sợ Khổ đầu đà ném xuống thật, không dám bước tới cửa tháp.
Đôi bên cò cưa như thế hồi lâu, Hạc Bút Ông chưa dám xông lên cứu sư huynh. Phạm Dao thì chỉ mong kéo dài thời gian thêm chút nào hay chút ấy. Y đứng ở lan can, cười ha hả, nói:
– Con hạc già kia, sư huynh ngươi quả là gan to bằng trời, dám đi bắt trộm ái cơ của vương gia mang về đây. Ta bắt kẻ gian, bắt quả tang tại giường. Ngươi còn định bao che cho sư huynh ngươi hay sao? Tổng quản đại nhân, hãy mau mau tóm cổ con hạc già đó. Sư huynh sư đệ lão ta phản loạn, tội chẳng thể tha. Tổng quản đại nhân bắt giữ hắn, thể nào cũng sẽ được vương gia trọng thưởng.
Cáp tổng quản liếc nhìn Hạc Bút Ông, cũng muốn ra tay, song lại không dám. Hắn thấy Khổ đầu đà tự dưng biết nói, kể quái lạ thật nhưng rõ ràng nhìn thấy Lộc Trượng Khách và Hàn cơ nằm chung trong một cái chăn; vốn trước đây hắn đã nghi ngờ, nên tin lời Phạm Dao đến tám chín phần. Hắn nói:
– Khổ đại sư, mời đại sư xuống đây, mọi người cùng đi gặp vương gia phân biện phải trái. Cả ba vị đều là cao nhân tiền bối, tiểu nhân không dám mạo phạm vị nào cả.
Phạm Dao vốn cả gan lớn mật, nghĩ thầm nếu tất cả cùng đi gặp vương gia, đợi đến lúc phân biện trắng đen, thì chư hiệp trên tháp đã giải độc xong rồi, bèn nói:
– Hay lắm, hay lắm! Ta đang muốn đi gặp vương gia lĩnh thưởng. Tổng quản đại nhân hãy canh chừng con hạc già ấy, đừng để hắn đào tẩu!
Đúng lúc ấy có tiếng vó ngựa dồn dập, rồi một người phi ngựa tới chân tháp, đám võ sĩ nhất tề cúi mình hành lễ:
– Tiểu vương gia!
Phạm Dao từ trên tháp nhìn xuống, thấy người kia đội chiếc mũ vàng lấp lánh, mình bận cẩm bào, cưỡi một con bạch mã cao to, chính là thế tử của Nhữ Dương Vương, tên là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, mang tên Hán là Vương Bảo Bảo.
Vương Bảo Bảo gằn giọng hỏi:
– Hàn cơ đâu? Phụ vương nổi cơn lôi đình, sai ta đích thân đi tra xét.
Cáp tổng quản bước lên bẩm cáo, rằng Lộc Trượng Khách bắt cóc Hàn cơ, hiện đã bị Khổ đầu đà bắt được. Hạc Bút Ông vội nói:
– Tiểu vương gia, đừng nghe hắn nói bậy. Tên đầu đà ấy là gian tế, hắn hãm hại sư ca của thuộc hạ.
Vương Bảo Bảo nhìn lên, gọi:
– Hãy xuống cả dưới này nói chuyện!
Phạm Dao ở trong vương phủ đã lâu, biết Vương Bảo Bảo khôn ngoan sáng suốt không kém gì cha, ngụy kế của mình chỉ lừa được người khác, chứ không thể che mắt gã; một khi xuống dưới đó, chỉ sau vài câu là Vương Bảo Bảo biết rõ chân tướng, sẽ hạ lệnh bọn võ sĩ vây đánh; đối phó với một mình Hạc Bút Ông đã mệt, một mình thoát thân cũng không khó, nhưng không thể nào cứu được chư hiệp trên tháp. Bèn nói to:
– Tiểu vương gia, thuộc hạ bắt được Lộc Trượng Khách rồi, sư đệ của hắn căm hận thấu xương, thuộc hạ xuống dưới đó sẽ bị lão ta giết ngay.
Vương Bảo Bảo nói:
– Đại sư cứ xuống đây, Hạc tiên sinh không thể giết đại sư được.
Phạm Dao lắc đầu, nói to:
– Thuộc hạ ở trên tháp an toàn hơn. Tiểu vương gia, Khổ đầu đà này cả đời không nói, hôm nay việc chẳng đặng đừng, đành phải mở miệng, hoàn toàn là vì lòng trung thành đối với vương gia mà thôi. Nếu tiểu vương gia không tin, thuộc hạ sẽ nhảy xuống, vỡ đầu chết trước mặt cho tiểu vương gia xem.
Vương Bảo Bảo nghe Phạm Dao nói, mười phần đến bảy tám là vớ vẩn, rõ ràng có ý trì hoãn, bèn thấp giọng hỏi Cáp tổng quản:
– Y có mưu đồ gì mà cố ý lần khân, không lẽ chờ kẻ nào tới chăng?
Cáp tổng quản đáp:
– Tiểu nhân không biết…
Hạc Bút Ông vội cướp lời:
– Tiểu vương gia, tên tặc đầu đà kia đã cướp thuốc giải của sư huynh thuộc hạ để cứu bọn phản nghịch đang bị nhốt trên tháp.
Vương Bảo Bảo lập tức hiểu ra, gọi to:
– Khổ đại sư, ta biết công lao của đại sư rồi, đại sư hãy mau xuống đây, ta sẽ trọng thưởng.
Phạm Dao nói:
– Thuộc hạ bị Lộc Trượng Khách đá hai cái, gãy cả hai cẳng, hiện thời không cử động được. Tiểu vương gia đợi cho một chút, thuộc hạ vận khí trị thương, rồi sẽ xuống liền.
Vương Bảo Bảo quát:
– Cáp tổng quản, mau phái người lên tháp cõng Khổ đại sư xuống đây!
Phạm Dao nói to:
– Không được đâu, đừng lên. Kẻ nào đến gần ta, ta sẽ bẻ què cặp giò của hắn.
Vương Bảo Bảo bây giờ không còn hoài nghi gì nữa, thấy Lộc Trượng Khách và Hàn cơ hai người nằm chung trong một cái chăn, dẫu hai kẻ đó chưa làm trò gì cả, thì phụ vương cũng không cần tới nàng hầu đó nữa, bèn nói nhỏ:
– Cáp tổng quản, nổi lửa đốt cái tháp đi. Cho người nạp sẵn cung tên, bất kể kẻ nào từ trên tháp nhảy xuống, cũng bắn chết hết cho ta.
Cáp tổng quản tuân lệnh truyền ra, các võ sĩ cung tên sẵn sàng vây quanh tòa tháp cao; một số võ sĩ đi lấy cỏ khô để nổi lửa đốt tháp.
Hạc Bút Ông cả kinh, kêu lên:
– Tiểu vương gia, sư ca của thuộc hạ còn đang ở trên đó.
Vương Bảo Bảo lạnh lùng nói:
– Tên đầu đà kia không thể ở lỳ trên tháp; khi tháp vừa cháy là hắn sẽ xuống ngay thôi.
Hạc Bút Ông nói:
– Lỡ hắn quẳng sư ca của thuộc hạ xuống thì sao? Tiểu vương gia, không nên đốt tháp.
Vương Bảo Bảo “hừ” một tiếng, không thèm để ý đến lão ta.
Trong giây lát, các võ sĩ đã mang cỏ, củi tới chân tháp và nổi lửa.
Hạc Bút Ông là người có địa vị lớn trong võ lâm, được Nhữ Dương Vương trân trọng mời vào vương phủ, luôn luôn được nể trọng; không ngờ hôm nay vì trúng gian kế của Khổ đầu đà, nên ngay cả tiểu vương gia cũng không coi lão ra gì; lão thấy tính mạng sư huynh nguy ngập đến nơi thì cũng bất chấp tiểu vương gia, đại vương gia, giơ đôi phán quan bút nhảy vọt tới, hất hai gã võ sĩ đang châm lửa văng ra ngoài xa.
Vương Bảo Bảo cả giận, quát:
– Hạc tiên sinh, tiên sinh định làm loạn hả?
Hạc Bút Ông nói:
– Tiểu vương gia không sai người phóng hỏa, thì lão phu sẽ không làm loạn.
Vương Bảo Bảo quát:
– Đốt lửa!
Gã phất tay trái một cái, năm tên hồng y phiên tăng đứng sau gã xông tới, cướp mất bó đuốc trong tay bọn võ sĩ mà ném vào đống củi, cỏ chất dưới chân tháp, lửa lập tức cháy bùng bùng.
Hạc Bút Ông cuống lên, cướp một cây giáo dài của một tên võ sĩ, gạt các thanh củi đang cháy ra khỏi tháp.
Vương Bảo Bảo quát:
– Bắt lấy hắn!
Năm tên hồng y phiên tăng cầm giới đao liền vây Hạc Bút Ông lại.
Hạc Bút Ông cả giận, vứt cây giáo đi, giơ tay cướp binh khí của một tên phiên tăng ở bên trái. Tên phiên tăng này không phải hạng tầm thường, xoay giới đao chém xuống vai Hạc Bút Ông. Hạc Bút Ông vừa tránh được, thì đã nghe tiếng gió phía sau lưng, lại có hai thanh giới đao cùng chém tới.
Thủ hạ của Vương Bảo Bảo có cả thảy mười tám phiên tăng võ công cao cường, gọi là “Thập bát kim cương”, chia ra Ngũ đao, Ngũ kiếm, Tứ trượng, Tứ bạt. Năm phiên tăng này là “Ngũ đao kim cương”, nếu là một chọi một đấu với Hạc Bút Ông thì chúng thua xa, nhưng khi cả năm liên thủ với nhau, giúp nhau kẻ công người thủ, thì rất lợi hại. Hạc Bút Ông võ công tuy cao siêu, nhưng hôm trước bị Trương Vô Kỵ đánh cho hộc máu, nội lực đại hao tổn, hiện giờ lại nhìn lửa bốc cháy, đe dọa tính mạng của sư huynh, trong bụng phập phồng lo sợ, không dễ gì thắng ngay được.
Đám võ sĩ của Vương Bảo Bảo tiếp thêm củi, lửa cháy mỗi lúc một mạnh. Tòa bảo tháp này xây bằng gạch có nhiều phần là gỗ, mấy tầng dưới cùng đã bén lửa, tiếng cháy nổ lốp bốp, ù ù.
Phạm Dao đặt Lộc Trượng Khách xuống đất, chạy vào phòng giam Võ Đang chư hiệp, nói to:
– Thát tử đang đốt tháp, các vị nội lực đã phục hồi chưa?
Chỉ thấy Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu cả bọn đang ngồi xếp bằng vận công tập trung tinh thần cao độ, không ai lên tiếng trả lời; hiển nhiên đã đến thời khắc quan trọng nhất của việc phục hồi công lực.
Một số tên võ sĩ canh giữ chư hiệp xông vào ngăn trở, đều bị Phạm Dao thộp cổ từng tên, ném xuống chân tháp chết tươi. Những tên còn lại cố xông qua khói lửa mà chạy xuống dưới đất.
Không lâu sau, lửa đã bén lên tầng thứ tư. Những người bị giam ở đây thuộc phái Hoa Sơn, công lực chưa kịp phục hồi, hốt hoảng chạy nháo nhào lên tầng thứ năm. Lửa vẫn không ngừng bốc lên, khiến những người thuộc phái Không Động ở tầng thứ năm cũng phải chạy lên cao hơn. Có người chậm chân, bị cháy sém cả râu tóc, quần áo.
Phạm Dao đang lúng túng, chưa biết làm thế nào, bỗng nghe có tiếng gọi:
– Phạm hữu sứ, đón lấy này!
Chính là tiếng nói của Vi Nhất Tiếu. Phạm Dao cả mừng, nhìn theo hướng tiếng nói, thấy Vi Nhất Tiếu đứng trên nóc hậu điện chùa Vạn An, vung tay ném sang một sợi dây dài. Phạm Dao giơ tay đón lấy. Vi Nhất Tiếu nói:
– Phạm huynh hãy buộc vào lan can, làm một cái cầu dây.
Phạm Dao còn đang loay hoay buộc, thì một gã trong “Thần tiễn bát hùng” là Triệu Nhất Thương bắn lên một mũi tên làm đứt luôn sợi dây chão. Phạm Dao và Vi Nhất Tiếu cùng cất tiếng chửi, biết rằng muốn bắc một cái cầu dây, thì trước hết phải trừ khử “Thần tiễn bát hùng” mới xong. Vi Nhất Tiếu chửi:
– Bắn cái con mẹ ngươi. Đứa nào không vứt cung tên đi, lát nữa ông giết trước.
Nói rồi rút trường kiếm ra, nhảy từ trên nóc điện xuống đất. Chân vừa chạm đất, Vi Nhất Tiếu đã bị năm tên thanh y phiên tăng vây chặt, chính là “Ngũ kiếm kim cương” trong mười tám phiên tăng kia. Năm tên đó vung kiếm loang loáng, chiêu số quái dị, đấu với một mình Vi Nhất Tiếu.
Hạc Bút Ông vẫn múa cặp bút mỏ hạc đấu với Ngũ đao, nói lớn:
– Tiểu vương gia, nếu không hạ lệnh cứu hỏa, lão phu sẽ không còn nể nang gì nữa đâu.
Vương Bảo Bảo không thèm để ý đến lão. Bốn tên phiên tăng cầm trượng liền chia nhau đứng bốn bên Vương Bảo Bảo, đề phòng có kẻ đánh lén. Hạc Bút Ông nóng ruột, song bút đột nhiên sử chiêu “Hoành tảo thiên quân”[111], đẩy dạt ba tên phiên tăng trước mặt phải lui ra hai thước, lão vọt tới bên chân tháp. Năm tên phiên tăng lập tức đuổi theo. Hạc Bút Ông nhún mình một cái, đã nhảy lên mái hiên tầng thứ nhất. Năm tên phiên tăng thấy lửa cháy đùng đùng, thì dừng lại, không nhảy lên.
Hạc Bút Ông cứ thế nhảy lên từng tầng một. Khi lão ta vọt lên đến mái hiên tầng thứ tư, Phạm Dao đứng ở tầng thứ bảy thò đầu ra trông thấy, bèn giơ cao Lộc Trượng Khách, nói lớn:
– Lão hạc già kia, mau dừng lại! Ngươi còn lên thêm một bước, ta sẽ cho con hươu già này máu thịt nát bấy tức thì.
Hạc Bút Ông quả nhiên không dám tiến thêm, nói:
– Khổ đại sư, huynh đệ ta trước đây không có thù oán gì với đại sư, sao đại sư nỡ gây khó dễ với huynh đệ chúng tôi thế? Đại sư muốn cứu người tình cũ là Diệt Tuyệt sư thái với đứa con gái của đại sư với bà ta là Chu Chỉ Nhược, thì đại sư cứ việc cứu họ, lão phu quyết không ngăn cản.
Diệt Tuyệt sư thái sau khi uống thuốc giải do Khổ đầu đà đưa cho, tưởng đó là thuốc độc, mình thể nào cũng chết; lại thấy Chu Chỉ Nhược cũng bị ép đổ thuốc vào miệng, bao nhiêu kỳ vọng cả đời bà tan thành mây khói, thì trong lòng đau đớn vô cùng. Đang lúc thương tâm, bỗng nghe dưới chân tháp có tiếng huyên náo, rồi cuộc đấu khẩu giữa Khổ đầu đà với Hạc Bút Ông, tiếp đến Vương Bảo Bảo hạ lệnh đốt tháp… hết thảy bà nghe rõ mồn một. Bà lấy làm lạ: “Chẳng lẽ lão quỷ đầu đà ấy định cứu mình thật hay sao?” bèn thử vận khí, lập tức thấy từ đan điền có một luồng hơi ấm đi lên, khác hẳn tình trạng từ ngày bị trúng độc tới giờ.
Diệt Tuyệt sư thái không chấp nhận cái lệnh Triệu Mẫn gọi sang đại điện tỷ võ, tuyệt thực đã sáu, bảy ngày; dạ dày trống không, nên sau khi uống thuốc giải, thuốc đi ngay vào máu, dược lực được phát huy nhanh hơn tất cả mọi người. Hơn nữa, nội lực của bà thâm hậu hơn cả Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Hà Thái Xung, so với Không Văn thần tăng phái Thiếu Lâm có lẽ chỉ kém một chút, thành thử độc tính của “Thập hương nhuyễn cân tán” được thuốc giải làm tiêu tan rất nhanh. Diệt Tuyệt sư thái chỉ vận khí một hồi, nội lực tái sinh liền, chưa đến nửa canh giờ, nội công đã phục hồi được năm, sáu thành.
Diệt Tuyệt sư thái đang định vận công gấp rút hơn, bỗng nghe từng lời tiếng nói rành rọt của Hạc Bút Ông ở bên ngoài: “Đại sư muốn cứu người tình cũ là Diệt Tuyệt sư thái cùng đứa con gái của đại sư với bà ta là Chu Chỉ Nhược, thì đại sư cứ việc cứu họ, lão phu quyết không ngăn cản”. Mấy tiếng “người tình cũ”… cứ như mũi tên nhọn xoáy vào tai bà, làm sao không khiến bà nổi giận, bèn bước ra lan can, tức giận quát to:
– Ngươi nói bậy nói bạ những gì vậy?
Hạc Bút Ông năn nỉ:
– Lão sư thái, xin bà làm ơn khuyên người… người bạn cũ của bà thả sư huynh ta ra, ta bảo đảm ba người nhà bà bình an ra khỏi đây. Huyền Minh nhị lão nói một là một, nói hai là hai, quyết không phải hạng nói rồi nuốt lời.
Diệt Tuyệt sư thái cả giận, quát hỏi:
– Cái gì mà “ba người nhà bà”?
Phạm Dao tuy đang trong cảnh nguy nan, vẫn cười phá lên hết sức đắc chí, nói:
– Lão sư thái, con hạc già ấy hắn bảo ta với bà là người tình cũ, còn Chu cô nương là con riêng của hai đứa mình.
Diệt Tuyệt sư thái giận hết chỗ nói, trong ánh lửa khi mờ khi tỏ, vẻ mặt trông thật đáng sợ, bà giật giọng gọi:
– Lão hạc già kia lên đây, ta đấu với lão một trăm chưởng rồi hãy tính.
*
* *
Nếu là lúc khác, thách Hạc Bút Ông lên đấu thì lão lên liền, đâu ngán gì vị chưởng môn phái Nga Mi, nhưng lúc này sư huynh lão đang nằm trong tay kẻ khác, lão không dám ngang tàng, chỉ kêu lên:
– Khổ đầu đà, chuyện đó là do chính đại sư nói ra, chứ đâu phải ta bịa đặt.
Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt nhìn Phạm Dao, quát hỏi:
– Là ngươi nói thế ư?
Phạm Dao lại cười ha hả, định châm chọc bà ta thêm vài câu, bỗng nghe dưới chân tháp có nhiều tiếng ồn ào, nhìn xuống thì thấy trong ánh lửa có một bóng người bay lượn như cánh bướm giữa vườn hoa, tiếng binh khí từ tay các phiên tăng, võ sĩ rơi xuống đất loảng xoảng không ngớt, chính là giáo chủ Trương Vô Kỵ đã tới.
*
* *
Trương Vô Kỵ vừa ra tay, năm thanh kiếm của năm phiên tăng đang vây đánh Vi Nhất Tiếu đều văng đi cả. Vi Nhất Tiếu cả mừng, lướt tới bên cạnh chàng, nói nhỏ:
– Để thuộc hạ đi đốt phủ Nhữ Dương Vương.
Trương Vô Kỵ gật đầu, hiểu ngay dụng ý. Phe mình ở đây chỉ vẻn vẹn vài người, nếu không cứu kịp quần hào sáu đại môn phái, viện binh của đối phương sẽ kéo đến mỗi lúc một đông. Vi Nhất Tiếu đi đốt phủ Nhữ Dương Vương, bọn võ sĩ sẽ thấy việc bảo vệ vương gia cần kíp hơn. Đó là diệu kế điệu hổ ly sơn, rút củi khỏi bếp. Chỉ thấy một cái bóng xanh vút đi, Vi Nhất Tiếu đã bay qua tường.
Trương Vô Kỵ nhìn tình thế bốn phía, hỏi to:
– Phạm hữu sứ, thế nào rồi?
Phạm Dao đáp:
– Nguy lắm, đường rút xuống bị lửa chặn, không ai có thể thoát được!
Lúc này trong số mười tám phiên tăng thủ hạ của Vương Bảo Bảo, có tới mười bốn tên vây đánh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Bắt giặc, phải bắt tên đầu sỏ”, có bắt được gã vương công Thát tử đội mũ dát vàng kia, thì mới buộc bọn chúng dập lửa cứu người; bèn nghiêng mình một cái, như con cá phóng mình lên mặt nước, chàng vọt ra khỏi vòng vây của bọn phiên tăng, tới ngay trước mặt Vương Bảo Bảo.
Nào ngờ từ phía trái có một thanh kiếm đâm tới, hàn quang lạnh người, mũi kiếm chọc thẳng vào ngực chàng. Trương Vô Kỵ vội lùi một bước, chỉ nghe một giọng thiếu nữ nói:
– Trương công tử, đây là gia huynh, xin chớ đụng tới.
Thanh trường kiếm trong tay nàng ta rung rung, lưỡi kiếm sáng loáng như nước, chính là kiếm Ỷ Thiên; còn thiếu nữ cầm kiếm thì xinh tươi như hoa, chính là Triệu Mẫn. Nàng chạy theo Trương Vô Kỵ tới đây, chỉ chậm hơn chàng một chút.
Trương Vô Kỵ nói:
– Cô nương mau hạ lệnh dập lửa cứu người, nếu không ta sẽ phải thất lễ với hai người đó.
Triệu Mẫn quát:
– Thập bát kim cương, người này võ công cao siêu, mau lập “Kim cương trận” ngăn chặn hắn.
Mười tám gã phiên tăng mới rồi đã nếm đòn của Trương Vô Kỵ, khỏi cần quận chúa chỉ điểm cũng biết chàng lợi hại thế nào; chỉ nghe choang một tiếng lớn, tám cái não bạt bằng đồng trong tay “Tứ bạt kim cương” nhất tề dập mặt vào nhau một cái; mười tám gã phiên tăng chạy qua chạy lại, che chở cho Vương Bảo Bảo và Triệu Mẫn, đẩy lùi Trương Vô Kỵ ra.
Trương Vô Kỵ thấy mười tám gã phiên tăng cứ chạy quanh như đèn cù, bộ pháp kỳ dị, tạo thành một bức tường sống, xem ra bên trong còn nhiều biến hóa. Chàng toan nhảy vào phá “Kim cương trận” một phen xem sao, bỗng nghe một tiếng ầm thật lớn, một cây cột lớn trên tháp đổ xuống.
Chàng ngoảnh nhìn, thấy lửa đã bén tới tầng thứ bảy; trong ánh lửa đỏ như máu, có hai bóng người đang giao đấu ác liệt với nhau, chính là Diệt Tuyệt sư thái và Hạc Bút Ông, còn trên lan can tầng thứ mười thì lố nhố rất nhiều người của các phái Thiếu Lâm, Võ Đang… Những người ấy võ công chưa hoàn toàn phục hồi, huống hồ tháp cao hơn chục trượng, dẫu có khinh công tuyệt đỉnh, nội lực dồi dào mà nhảy từ trên kia xuống thì cũng chết tươi.
Một ý nghĩ vụt lóe lên trong óc Trương Vô Kỵ: “Kim cương trận không phải thứ có thể phá vỡ trong chốc lát; hơn nữa đánh bại được bọn phiên tăng, sẽ có bọn khác xông tới; muốn bắt gã anh trai của Triệu Mẫn thật chẳng dễ gì. Diệt Tuyệt sư thái giao đấu với Hạc Bút Ông hồi lâu, không bị núng thế, chứng tỏ công lực đã phục hồi, như thế thì nhóm đại sư bá cũng đã được phục hồi, có điều là tòa tháp quá cao, họ không thể nhảy xuống mà thôi”.
Chàng nghĩ vậy, rồi đột nhiên chạy chỗ này chỗ nọ, hai tay hoặc đánh hoặc tóm, hoặc đập hoặc đoạt, đánh ngã toàn bộ “Thần tiễn bát hùng”, ngoài ra trong đám võ sĩ kẻ nào cầm cung tên đều bị chàng hoặc bẻ gãy cung, hoặc điểm huyệt, đến khi quanh tháp không còn một tay bắn cung nào nữa, chàng mới gọi to:
– Các vị tiền bối trên tháp, hãy lần lượt nhảy xuống đây, tại hạ ở dưới này sẽ đỡ cho.
Những người ở trên tháp nghe thế đều kinh ngạc, nghĩ thầm trên này cao đến hơn mười trượng, lực rơi sẽ rất lớn, chàng dù có sức ngàn cân cũng chẳng thể đón đỡ được. Trong đám người phái Không Động, phái Côn Luân có kẻ nhao nhao lên nói:
– Chớ có dại nhảy xuống mà mắc lừa tên tiểu tử đó. Hắn muốn bọn ta nhảy xuống cho tan xương đấy mà.
Trương Vô Kỵ thấy lửa đã liếm gần tới chỗ các cao thủ, nếu họ không nhảy xuống, ắt tất cả sẽ bị chết thiêu, bèn lớn tiếng nói:
– Du nhị bá, nhị bá đối với điệt nhi ơn nặng như núi, không lẽ điệt nhi lại có bụng hại nhị bá? Nhị bá nhảy xuống trước đi!
Du Liên Châu vốn luôn tin ở Trương Vô Kỵ, biết chàng võ công dù rất cao cường, cũng chẳng đỡ nổi mình; song ở trên tháp để bị chết cháy hay nhảy xuống có chết cũng chả khác gì nhau, bèn đáp:
– Được, để ta nhảy!
Rồi ông tung mình từ trên tháp cao nhảy xuống.
Trương Vô Kỵ nhắm kỹ, đợi lúc thân hình Du Liên Châu còn cách mặt đất dăm sáu thước, bèn nhẹ nhàng đẩy ra một chưởng, vào ngang lưng ông. Trong chưởng này chàng vận dụng môn võ công tuyệt đỉnh “Càn khôn đại na di”, khôn khéo biến lực rơi từ trên đi xuống thành lực đẩy ngang từ trái qua phải.
Thân hình Du Liên Châu bay ngang qua, xa đến vài trượng, lúc này công lực của ông đã phục hồi được bảy, tám thành; ông vừa xoay mình một cái đã đứng vững trên mặt đất, thuận tay đánh ra một chưởng, khiến một võ sĩ Mông Cổ bị hộc máu. Ông gọi to:
– Đại sư ca, tứ sư đệ, nhảy xuống đi!
Mọi người trên tháp thấy Du Liên Châu rơi xuống bình an thì hoan hô rầm trời.
Tống Viễn Kiều thương con, muốn y thoát hiểm trước, giục:
– Thanh Thư, con nhảy xuống đi!
Tống Thanh Thư từ lúc ra khỏi buồng giam, luôn ở bên cạnh Chu Chỉ Nhược, bèn nói:
– Chu cô nương, cô nương nhảy đi.
Chu Chỉ Nhược công lực chưa phục hồi, không giúp gì cho sư phụ được, song cũng không muốn thoát đi trước một mình, nghe Tống Thanh Thư giục như vậy thì lắc đầu, nói:
– Tiểu nữ chờ sư phụ!
Lúc ấy bọn Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đã trước sau nhảy xuống, đều được Trương Vô Kỵ thi triển thần công “Càn khôn đại na di” đẩy chưởng ra, biến lực rơi thẳng thành lực đẩy ngang, nên ai nấy đều thoát hiểm. Những người ấy tuy chưa phục hồi hoàn toàn công lực, song chỉ cần dăm sáu thành, thì bọn phiên tăng, võ sĩ cũng khó lòng địch nổi. Họ cướp ngay lấy binh khí của địch, hộ vệ xung quanh Trương Vô Kỵ. Thủ hạ của Vương Bảo Bảo và Triệu Mẫn xông tới ngăn chặn, đều bị Du Liên Châu, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn… đẩy lùi. Mỗi người trên tháp nhảy xuống, Trương Vô Kỵ lại có thêm một người tiếp tay. Những người này từ khi bị Triệu Mẫn giam giữ trên tháp đến giờ, ai cũng hứng chịu bao nhiêu nhục nhã, nhiều người đã bị chặt ngón tay, lúc này được sổ lồng, ai cũng đánh thí mạng, trong giây lát đã có hơn hai chục võ sĩ Mông Cổ chết ngổn ngang mặt đất.
Vương Bảo Bảo thấy tình thế xấu, hạ lệnh:
– Mau điều đội thân binh cung nỏ của ta tới đây!
Cáp tổng quản đang định đi truyền lệnh của tiểu vương gia, bỗng thấy phía đông nam lửa bốc ngút trời, vội hốt hoảng kêu lên:
– Tiểu vương gia, vương phủ bị cháy kìa! Chúng ta quay về bảo vệ vương gia thì hơn.
Vương Bảo Bảo lo lắng đến sự an nguy của cha, không còn bụng dạ nào nghĩ đến việc bắt giết bọn phản tặc, bèn nói:
– Muội tử, huynh về phủ trước, muội ở lại phải cẩn thận đấy!
Chẳng đợi Triệu Mẫn trả lời, gã quay đầu ngựa phóng đi liền.
Vương Bảo Bảo đi rồi, “Thập bát kim cương” cũng rút theo, bọn võ sĩ cũng bỏ về quá nửa. Bọn còn lại thấy vương phủ bị cháy, đâu biết rằng chỉ do một mình Vi Nhất Tiếu gây ra, cứ tưởng bọn phản tặc kéo đại đội binh mã đến tấn công vương phủ, tên nào tên nấy kinh hoàng.
Lúc này Tống Thanh Thư, Tống Viễn Kiều, Trương Tòng Khê, Mạc Thanh Cốc đều đã nhảy xuống khỏi tháp, đôi bên yếu mạnh giờ đã đổi chiều; đến khi Không Văn phương trượng, Không Trí đại sư cùng các cao tăng Đạt Ma đường và La Hán đường của Thiếu Lâm tự xuống cả rồi, thì đám võ sĩ của Triệu Mẫn không tài gì địch nổi.
Triệu Mẫn nghĩ bây giờ mình không rút đi, có khi lại bị phe bên kia bắt làm tù binh, bèn hạ lệnh:
– Các ngươi mau rút ra khỏi chùa Vạn An!
Rồi nàng quay sang nói với Trương Vô Kỵ:
– Hoàng hôn ngày mai, ta lại mời Trương công tử đi uống rượu, nhớ đến nhé!
Trương Vô Kỵ ngẩn ra, chưa kịp trả lời thì Triệu Mẫn đã mỉm cười, lui vào hậu điện chùa Vạn An.
Chỉ nghe Phạm Dao trên đỉnh tháp gọi to:
– Chu cô nương, mau nhảy xuống, lửa cháy đến nơi rồi, chẳng lẽ cô nương muốn làm mỹ nhân thui hay sao?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Tiểu nữ phải theo sư phụ!
Diệt Tuyệt sư thái và Hạc Bút Ông đánh nhau một trận kịch liệt, mỗi khi khói lửa bén tới, thì họ lại nhảy lên tầng trên, cuối cùng đến tầng thứ mười. Công lực của bà chưa phục hồi hoàn toàn, nhưng bây giờ bà đã chẳng còn nghĩ gì đến chuyện sống chết, chưởng pháp chỉ công mà không thủ. Hạc Bút Ông thì một là vẫn lo ngay ngáy cho sư huynh, hai là bị thương chưa khỏi hẳn, ba là mới uống phải thuốc mê, huyệt đạo bị phong bế khá lâu nên chân tay chưa được linh hoạt, thành thử đôi bên không phân cao thấp. Diệt Tuyệt sư thái nghe tiếng đệ tử trả lời, bèn nói:
– Chỉ Nhược, mau nhảy xuống đi, đừng lo cho ta! Lão tặc này làm nhục ta quá thể, làm sao có thể tha chết cho lão?
Hạc Bút Ông thầm kêu khổ: “Mụ ni cô này toàn đánh kiểu thí mạng, ta cần cứu sư huynh, không lẽ bị chết thiêu cùng với mụ ta ở đây hay sao?” Lão bèn nói to:
– Diệt Tuyệt sư thái, câu nói ban nãy là do Khổ đầu đà nói ra, đâu dính dáng gì đến ta?
Diệt Tuyệt sư thái liền thu chưởng về, quay sang hỏi Phạm Dao:
– Tên đầu đà khốn kiếp kia, câu nói điên khùng đó có đúng là do ngươi nói ra hay không?
Phạm Dao cười rung cả mặt, hỏi lại:
– Câu nói điên khùng nào?
Câu hỏi này rõ ràng cốt để Diệt Tuyệt sư thái phải tự miệng mình nhắc lại câu: “Lão bảo ta và ngươi là người tình cũ, Chu Chỉ Nhược là con riêng của ta với ngươi”. Thế nhưng hai câu ấy, làm sao bà thốt ra nổi? Nghe câu hỏi của Phạm Dao, bà đã biết là Hạc Bút Ông nói thật, thì giận điên người lên được.
Hạc Bút Ông thấy Diệt Tuyệt sư thái quay lưng về phía lão vừa lúc có một đám khói đen tràn tới, chính là cơ hội tốt để đánh lén, bèn giáng luôn một chưởng vào lưng bà. Chu Chỉ Nhược và Phạm Dao nhìn rất rõ, vội cùng kêu lên:
– Sư phụ, hãy coi chừng!
– Lão ni cô, cẩn thận kìa!
Diệt Tuyệt sư thái đánh một chưởng ra phía sau, nhưng đã không đỡ nổi âm dương song chưởng của Hạc Bút Ông. Tả chưởng của bà đụng vào tả chưởng của lão ta; còn Huyền Minh thần chưởng bên tay phải của lão thì giáng trúng vào lưng bà. Huyền Minh thần chưởng vô cùng lợi hại, năm xưa trên núi Võ Đang lão từng đối chưởng ngang ngửa với cả Trương Tam Phong. Diệt Tuyệt sư thái thân hình lảo đảo, ngã quỵ xuống. Chu Chỉ Nhược cả kinh, chạy lại đỡ sư phụ lên.
Phạm Dao cả giận, quát:
– Quân tiểu nhân đê tiện độc ác, còn để ngươi lại làm gì?
Nói xong bèn xách bọc chăn gói Lộc Trượng Khách và Hàn cơ quẳng ngay ra khỏi tháp. Hạc Bút Ông tình đồng môn sâu nặng, trong sát-na nguy cấp không kịp nghĩ ngợi gì cả, liền nhảy theo để chộp lấy Lộc Trượng Khách. Nhưng cái bọc đã văng quá xa, Hạc Bút Ông chỉ nắm được một góc, chính lão cũng rơi xuống theo.
Trương Vô Kỵ đứng bên dưới, do khói lửa không nhìn rõ mấy người cãi cọ nhau trên tháp, chỉ thấy một vật lớn cùng với một người từ trên cao rơi xuống. Vật kia không biết là gì, hình như bọc một người bên trong; còn người rơi cùng thì đã nhìn rõ là Hạc Bút Ông. Chàng biết lão ta chính là kẻ đã gây cho chàng bao nhiêu đau khổ hồi còn nhỏ, thậm chí lão ta còn dính dáng cả đến cái chết của cha mẹ chàng. Nhưng cuối cùng chàng không nỡ xuôi tay mặc cho lão rơi xuống nát thây, chàng bèn nhảy tới, hai tay chia ra, một đẩy vào bọc chăn, một đẩy Hạc Bút Ông, khiến cả hai văng ngang ra xa hơn ba trượng.
Hạc Bút Ông xoay người một cái đã đứng vững, trong bụng kêu thầm: “Hú vía!” Lão ta hoàn toàn không ngờ Trương Vô Kỵ lại lấy đức báo oán, cứu mạng lão. Lão quay sang phía sư huynh, thì cả kinh. Thì ra cái bọc chăn trúng chưởng của Trương Vô Kỵ, cái chăn bung ra, để lộ hai cơ thể trần như nhộng, rơi ngay vào đống lửa. Lộc Trượng Khách chưa được giải huyệt, không cử động được, tóc bị bén lửa cháy xèo xèo. Hạc Bút Ông kêu to:
– Sư ca!
Rồi xông vào đám lửa ôm Lộc Trượng Khách lên. Lão ta nhảy ra ngoài, chân chưa đứng vững, đã nghe tiếng Du Liên Châu quát:
– Hãy nếm một chưởng của ta!
Tả chưởng đánh ngay vào vai Hạc Bút Ông. Lão ta không dám chống trả, hạ vai xuống tránh; nhưng Du Liên Châu đã quen với ngón đòn này, dù lão ta đã trầm vai xuống né tránh, đòn của ông cũng xuống theo; chỉ nghe “bộp” một tiếng, Hạc Bút Ông đau vã mồ hôi lạnh, nhưng lúc này việc cứu sư huynh là trọng, lão ta vội ôm Lộc Trượng Khách mà phi thân vọt qua tường.
Lúc ấy một cây cột lớn đang cháy trên tháp rơi xuống, đè lên xác Hàn cơ, trong giây lát lửa bao phủ toàn thân nàng ta. Mọi người ở dưới chân tháp cùng gọi to:
– Nhảy xuống mau! Nhảy xuống mau!
Phạm Dao chạy qua chạy lại tránh lửa tạt. Sau khi cái xà ngang của tòa bảo tháp bị cháy và sụp xuống, gạch ngói rơi tung tóe, đỉnh tháp hơi lung lay, có thể đổ ụp không biết lúc nào.
Diệt Tuyệt sư thái xẵng giọng:
– Chỉ Nhược, nhảy xuống đi!
Chu Chỉ Nhược nói:
– Sư phụ nhảy trước, con sẽ xuống theo!
Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên xông tới, giáng một chưởng vào vai trái của Phạm Dao, nói:
– Ác tặc Ma giáo, không thể nào tha cho ngươi được!
Phạm Dao cười một tràng dài, tung mình nhảy khỏi tháp. Trương Vô Kỵ đánh ra một chưởng, nhẹ nhàng đẩy y rơi ngang sang một bên, khen ngợi:
– Phạm hữu sứ, việc lớn đã xong, công của hữu sứ không nhỏ!
Phạm Dao đứng vững chân, nói:
– Nếu không có thần công cái thế của giáo chủ, hết thảy mọi người đã thành heo quay trên tháp cả rồi. Phạm Dao hành sự kém cỏi, có công cán gì?
Diệt Tuyệt sư thái giơ tay ôm Chu Chỉ Nhược nhảy xuống, lúc cách mặt đất hơn một trượng, bà vận sức vào hai tay tung nàng ngược lên cao mấy thước. Làm thế khiến cho Chu Chỉ Nhược như chỉ bị rơi từ trên cao một trượng, không nguy hiểm chút nào, trong khi Diệt Tuyệt sư thái rơi xuống càng nhanh hơn.
Trương Vô Kỵ bước tới, vận thần công “Càn khôn đại na di” đẩy vào sau lưng bà. Nào ngờ Diệt Tuyệt sư thái quyết ý không sống nữa, cũng không chịu ơn Minh giáo, thấy Trương Vô Kỵ đẩy chưởng tới bèn thu hết tàn lực đánh ngược lại một chưởng. Hai chưởng đụng nhau, nghe bốp một tiếng lớn, chưởng lực của Trương Vô Kỵ bị chưởng của bà đẩy chệch đi, “hịch” một cái, Diệt Tuyệt sư thái đã rơi thẳng xuống đất, xương sống gãy thành mấy đoạn. Trương Vô Kỵ thì bị chưởng của bà cộng với lực rơi khiến cho khí huyết trong ngực nhộn nhạo, phải lùi mấy bước, trong lòng không thể hiểu vì lẽ gì Diệt Tuyệt sư thái lại tự sát.
Chu Chỉ Nhược nhào tới ôm sư phụ khóc, gọi:
– Sư phụ, sư phụ!
Các đệ tử khác của phái Nga Mi cũng xúm quanh Diệt Tuyệt sư thái, ồn ã cả lên. Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Chỉ Nhược, từ nay con là chưởng môn bản phái; việc ta muốn con làm, con sẽ không sai lời chứ?
Chu Chỉ Nhược khóc, đáp:
– Vâng, sư phụ, đệ tử nhớ rồi.
Diệt Tuyệt sư thái mỉm cười, nói:
– Như thế, ta chết cũng nhắm mắt được…
Lúc ấy Trương Vô Kỵ bước tới, giơ tay toan thăm mạch cho bà ta, Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên xoay tay, bóp chặt cổ tay chàng, miệng rít lên:
– Tên dâm đồ Ma giáo, ngươi mà làm ô uế tấm thân trong trắng của ái đồ ta, ta làm ma cũng không tha cho ngươi…
Chữ “ngươi” sau cùng chưa ra khỏi miệng, bà đã tắt thở. Nhưng năm móng tay bà bấm vào cổ tay Trương Vô Kỵ đến bật máu ra.
Phạm Dao nói to:
– Mọi người hãy theo ta, ra cửa Tây thành tề tựu. Nếu còn chần chừ, e đại đội binh mã của gian vương kéo đến bây giờ.
Trương Vô Kỵ ôm xác Diệt Tuyệt sư thái lên, nói nhỏ:
– Ta đi thôi!
Chu Chỉ Nhược nhè nhẹ gỡ năm ngón tay sư phụ ra khỏi cổ tay chàng, đỡ lấy thi thể sư phụ, không nhìn chàng, đi thẳng ra cổng chùa.
Lúc này cao thủ các phái Côn Luân, Hoa Sơn, Không Động đều đã chạy đi như ong vỡ tổ; chỉ còn hai vị thần tăng phái Thiếu Lâm Không Văn, Không Trí vẫn giữ phong thái tiền bối, bước tới chắp tay cảm tạ Trương Vô Kỵ, nói vài lời thăm hỏi với Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, rồi mới rời khỏi chùa.
Trương Vô Kỵ thi triển thần công “Càn khôn đại na di” giúp cho cao thủ sáu đại môn phái xuống khỏi tháp an toàn, đã hao tổn hầu hết nội lực; sau cùng lại phải đối chưởng với Diệt Tuyệt sư thái, khiến nguyên khí tổn thương nghiêm trọng, lúc này cơ hồ không bước nổi nữa. Mạc Thanh Cốc phải cõng chàng. Trương Vô Kỵ ngầm vận “Cửu dương thần công”, nội lực mới dần dần phục hồi.
*
* *
Trời hửng sáng thì quần hùng tới cửa Tây, đánh đuổi bọn quan binh giữ cổng thành, chạy ra khỏi thành mấy dặm. Dương Tiêu đã đem các cỗ xe ngựa tới đón, mừng mọi người thoát cơn hoạn nạn.
Không Văn đại sư nói:
– Hôm nay nếu không được Trương giáo chủ và các vị Minh giáo cứu giúp, thì vận mệnh của sáu đại môn phái Trung nguyên không biết sẽ thế nào. Đại ân không thể cảm tạ bằng lời là đủ, kế sách từ nay tất cả mọi người cần làm thế nào, xin Trương giáo chủ chủ trì hộ cho.
Trương Vô Kỵ nói:
– Tại hạ kiến thức nông cạn, đâu dám có chủ ý gì; những mong phương trượng Thiếu Lâm tự ra lệnh cho.
Không Văn đại sư nhất quyết không nhận. Trương Tòng Khê nói:
– Chỗ này cách kinh thành không xa. Chúng ta vừa quậy phá kinh đô Thát tử một phen long trời lở đất, gian vương há chịu bỏ qua? Khi chúng dập xong lửa ở vương phủ, thể nào cũng đem binh mã truy đuổi. Chúng ta hãy rời xa nơi đây, để sau bàn tính cũng được.
Hà Thái Xung nói:
– Gian vương mà đem binh mã đuổi theo thì còn gì hay bằng, mình sẽ đánh cho chúng một trận tơi bời hoa lá, cho hả cơn giận bấy nay.
Trương Tòng Khê nói:
– Công lực của mọi người chưa hoàn toàn phục hồi, việc đánh giết Thát tử không phải chỉ làm vội một ngày hôm nay, chúng ta tạm lánh đi thì hơn.
Không Văn đại sư nói:
– Trương tứ hiệp nói chí phải, nếu bây giờ đánh giết bọn Thát tử, phe ta cũng sẽ thương vong không ít, nên tạm lánh đi thì hơn.
Lời của vị chưởng môn phái Thiếu Lâm nói ra bao giờ cũng có sức nặng, bởi thế không ai bàn ra tán vào nữa. Không Văn đại sư lại hỏi:
– Trương tứ hiệp, theo cao kiến của ông, chúng ta nên tạm lánh về hướng nào?
Trương Tòng Khê đáp:
– Bọn Thát tử sẽ đoán chúng ta chỉ đi về hướng nam hoặc hướng đông nam. Vậy chúng ta hãy đi về hướng tây bắc.
Mọi người đều ngẩn ra, Dương Tiêu vỗ tay, nói:
– Trương tứ hiệp thực là cao kiến. Vùng tây bắc đất rộng người thưa, dễ tìm được một vùng hoang sơn để trú ẩn một thời gian; bọn Thát tử sẽ không thể ngờ được.
Mọi người càng nghĩ càng thấy kế của Trương Tòng Khê rất hay, bèn quay ngựa chạy về hướng tây bắc.
Đi được hơn năm chục dặm, quần hùng dừng nghỉ trong một thung lũng. Dương Tiêu đã mua sẵn rượu thịt, lương khô, chẳng thiếu món gì. Mọi người nhắc lại chuyện thoát khỏi cơn nguy khốn vừa qua, ai cũng bảo toàn là nhờ vào sự cứu giúp của Trương Vô Kỵ và Phạm Dao.
Đến đây, Chu Chỉ Nhược và đệ tử phái Nga Mi mới đem xác Diệt Tuyệt sư thái đi hỏa táng. Không Văn, Không Trí, Tống Viễn Kiều, Trương Vô Kỵ đều tới viếng chia buồn. Diệt Tuyệt sư thái là một vị đại hiệp tuy tính nết khác thường, nhưng bình sinh hành hiệp trượng nghĩa, đầy chính khí, trong võ lâm ai ai cũng kính nể. Các đệ tử phái Nga Mi khóc lóc thảm thiết, nhiều người cũng mủi lòng.
Không Văn đại sư lớn tiếng nói:
– Người chết rồi chẳng thể phục sinh, chư hiệp phái Nga Mi nếu kế thừa chí hướng của sư thái, thì sư thái như vẫn còn sống vậy. Lần này chúng ta bị kẻ gian hạ độc, ai cũng thiệt thòi. Không Tính sư đệ của bản phái cũng bị bọn Thát tử sát hại, mối thù này không thể không báo; nhưng báo thù bằng cách nào thì phải bàn nhau cho kỹ.
Không Trí đại sư tiếp lời:
– Sáu đại môn phái Trung nguyên vốn thù địch với Minh giáo, nay Trương giáo chủ lấy đức báo oán, ra tay cứu chúng ta, bao nhiêu hiềm thù cũ từ nay xóa sạch. Từ nay trở đi mọi người hãy đồng tâm hiệp lực, đánh đuổi bọn Hồ Lỗ.
Tất cả khen phải. Nhưng khi bàn tới cách báo thù, thì bàn mãi các môn phái vẫn không nhất trí được với nhau. Cuối cùng Không Văn đại sư nói:
– Việc này không thể quyết định nhất thời. Chúng ta hãy nghỉ ngơi ít ngày, chia nhau ra về; sau này sẽ lại cùng nhau bàn tính để tìm ra phương sách hay nhất.
Mọi người đều gật đầu khen phải.
Trương Vô Kỵ nói:
– Hiện nay đại sự đã xong, tại hạ có chút việc riêng, phải quay lại Đại Đô một chuyến; xin từ biệt các vị. Từ nay sẽ cùng với các vị nắm tay kề vai, sống mái một phen với bọn Thát tử.
Quần hào nhất tề hô to:
– Mọi người hãy cùng nắm tay kề vai, sống mái một phen với bọn Thát tử!
Tiếng hô vang trời, rung chuyển cả thung lũng. Mọi người tiễn chàng ra cửa thung. Trương Vô Kỵ hành lễ cáo biệt. Dương Tiêu nói:
– Giáo chủ là hi vọng của anh hùng thiên hạ, xin hãy gắng bảo trọng.
Trương Vô Kỵ nói:
– Bản nhân hiểu rồi.
Đoạn chàng giục ngựa chạy về hướng nam.