Đoàn người đi được độ hơn một trăm dặm, giữa sa mạc mới dừng lại nghỉ ngơi. Trương Vô Kỵ ngủ đến nửa đêm bỗng nghe từ phía tây loáng thoáng vọng lại tiếng kim loại chạm nhau leng keng, trong lòng thảng thốt, lập tức lén trở dậy đi về phía có âm thanh lạ. Được hơn một dặm, chàng thấy một bóng người mảnh khảnh di động dưới ánh trăng, vội bước tới, kêu lên:
– Tiểu Chiêu, sao tiểu cô nương lại tới đây?
Bóng người đó chính là Tiểu Chiêu. Nàng bất ngờ gặp lại Trương Vô Kỵ ở đây liền òa lên khóc, sà vào lòng chàng mà nức nở không nói gì. Trương Vô Kỵ vỗ nhẹ lên vai Tiểu Chiêu, vỗ về:
– Thôi đừng khóc nữa, đừng khóc nữa!
Tiểu Chiêu dường như bao nhiêu nỗi niềm bây giờ mới có dịp phát tiết, lại càng khóc lớn hơn, thổn thức:
– Công tử đi đâu, nô tì… sẽ đi theo đó!
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cô bé này cha mẹ mất cả rồi, lại bị cha con Dương tả sứ nghi ngờ, quả thật đáng thương. Có lẽ vì mình luôn ôn hòa thương mến, nên cô nương ấy mới quyến luyến không muốn rời”. Chàng bèn nói:
– Được rồi, đừng khóc nữa, vậy ta mang cô nương cùng đi hải ngoại.
Tiểu Chiêu mừng quá liền ngẩng đầu lên nhìn Vô Kỵ. Dưới ánh trăng mờ ảo, khuôn mặt xinh đẹp nhỏ nhắn của nàng như phủ một lớp lụa mỏng, những giọt lệ lấp lánh chưa khô, đôi mắt xanh màu nước biển dường như ánh lên một nỗi niềm. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
– Tiểu Chiêu, mai này lớn lên thể nào cô nương cũng rất xinh đẹp.
Tiểu Chiêu hỏi lại:
– Sao công tử biết?
Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, bỗng nghe phía đông bắc có tiếng vó ngựa lộp cộp, một đại đội nhân mã từ tây sang đông, chạy vụt qua, ít ra cũng phải hơn trăm con. Qua một lúc lâu lại thấy Vi Nhất Tiếu và Dương Tiêu lần lượt chạy đến, nói:
– Giáo chủ, trong đêm hôm khuya khoắt có đại đội người ngựa chạy như thế, không chừng là kẻ địch của bản giáo.
Trương Vô Kỵ bảo Tiểu Chiêu đến gặp bọn Bành Oánh Ngọc, còn mình cùng Dương, Vi hai người chạy về phía có tiếng vó ngựa để tra xét. Khi đến gần, quả nhiên trên sa mạc còn một dãy vết chân ngựa. Vi Nhất Tiếu cúi xuống xem, bốc một nắm cát lên, nói:
– Có vết máu.
Trương Vô Kỵ cũng bốc một nắm cát đưa lên mũi, quả nhiên ngửi thấy mùi máu tanh. Ba người theo vết chân ngựa đến ba bốn dặm, Dương Tiêu bỗng thấy phía bên trái trong bãi cát có một mảnh đao gãy, vội cầm lên xem, thấy cán đao có khắc ba chữ “Phùng Viễn Thanh”. Dương Tiêu hơi ngẫm nghĩ, nói:
– Đây là người của phái Không Động. Thưa giáo chủ, có lẽ phái Không Động chuẩn bị ngựa xe tại chỗ này để về Trung nguyên.
Vi Nhất Tiếu nói:
– Từ đỉnh Quang Minh xuống đã hơn nửa tháng, nếu như họ còn lẩn quẩn ở đây chẳng biết làm trò quỷ quái gì?
Ba người biết là phái Không Động rồi, chẳng thèm để ý nữa, quay về chỗ cũ nằm ngủ.
Đi được năm ngày, từ thảo nguyên trước mặt có một đoàn người đi đến, phần lớn mặc áo đen kiểu ni cô, nhưng cũng có bảy tám nam nhân. Hai bên đến gần, một ni cô the thé kêu lên:
– Đây là ác tặc của Ma giáo!
Cả bọn lập tức rút binh khí, tản ra nghinh địch. Trương Vô Kỵ thấy họ là người của phái Nga Mi, không hiểu sao đã đi rồi còn quay trở lại, mà những người này chàng chưa gặp bao giờ, nên hỏi lớn:
– Các vị sư thái có phải là môn hạ phái Nga Mi chăng?
Một ni cô người nhỏ bé vượt đám đông tiến ra, gằn giọng hỏi:
– Ác tặc Ma giáo kia, hỏi cái gì? Mau ra đây chịu chết!
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Ngoại hiệu của sư thái là gì? Cớ sao lại nổi giận như thế?
Ni cô đó quát lớn:
– Ác tặc, thứ như ngươi mà dám hỏi ngoại hiệu ta ư? Ngươi là ai?
Vi Nhất Tiếu phóng vụt ra, xông thẳng vào đám đông, điểm huyệt hai nam đệ tử, nắm cổ cả hai người, chạy thẳng ra ngoài xa, ném xuống đất, rồi lại chạy về chỗ cũ. Hành động đó chẳng khác gì chim cắt bắt mồi, nhanh không thể tả. Vi Nhất Tiếu cười khẩy mấy tiếng, nói:
– Vị này là Trương giáo chủ của Minh giáo, người võ công đệ nhất thiên hạ, một nam tử can đảm vô song, thống suất Tả Hữu Quang Minh sứ giả, Tứ Đại Hộ Giáo pháp vương, Ngũ tản nhân, Ngũ Hành kỳ, Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, đã từng đuổi phái Nga Mi xuống núi, đoạt bảo kiếm Ỷ Thiên trong tay Diệt Tuyệt sư thái, với một nhân vật như thế có đủ để hỏi pháp danh của sư thái hay chăng?
Vi Nhất Tiếu nói một thôi một hồi, quần đệ tử phái Nga Mi ai nấy đều kinh hãi, lại vừa mới thấy Vi Nhất Tiếu trổ chút công phu thượng thừa như thế, còn ai dám hoài nghi lời nói của y. Ni cô trung niên kia lấy lại bình tĩnh, rồi nói:
– Các hạ là ai?
Vi Nhất Tiếu đáp:
– Tại hạ họ Vi, ngoại hiệu Thanh Dực Bức Vương.
Trong phái Nga Mi có mấy tiếng kêu lên hoảng hốt, bốn người vội chạy đến xem hai gã đồng môn vừa bị Vi Nhất Tiếu điểm huyệt vứt ngoài xa.
Vi Nhất Tiếu nói:
– Phụng hiệu lệnh của Trương giáo chủ, Minh giáo và sáu đại môn phái chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ, kể từ nay giao hảo với nhau. Quý đồng môn cũng may lắm đó nên Vi Bức Vương ta lần này tha không hút máu.
Từ khi Vi Nhất Tiếu được Trương Vô Kỵ dùng Cửu dương thần công trị thương, chẳng những trừ hết âm độc Ảo Âm Chỉ, mà cả những độc khí từ trước tích tụ cũng hết quá nửa, nên không cần phải hút máu kháng hàn mỗi khi hành công vận kình. Bốn người đó dìu hai đồng môn bị điểm huyệt kia về, đang định tìm cách giải huyệt chữa trị, bỗng nghe hai tiếng veo veo, tiếp theo xé gió, hai viên sỏi nhỏ đã bắn tới, trúng ngay huyệt đạo hai người kia, lập tức giải khai các nơi bị điểm. Đó là Dương Tiêu dùng “Đàn chỉ thần thông” ngược lại với công phu “Trịch thạch điểm huyệt”. Ni cô trung niên kia thấy đối phương người cũng không ít, chỉ mới hai người lộ chút tài năng mà võ công đã cao siêu ghê gớm, nếu như động thủ, ắt sẽ chuốc lấy thảm bại. Thành thử dù tám chữ “chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ” không biết thật hay giả, ni cô cũng nói:
– Bần ni pháp danh Tĩnh Không. Các vị có thấy sư phụ chúng tôi đâu không?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Tôn sư từ đỉnh Quang Minh xuống núi đã hơn nửa tháng, chắc lúc này vào ải Ngọc Môn rồi đó. Các vị từ phía đông lại, chẳng lẽ trên đường không gặp nhau hay sao?
Một người đàn bà chừng khoảng ba mươi ở đằng sau Tĩnh Không liền nói:
– Sư tỷ đừng nghe y nói láo! Chúng ta chia ba ngả tiếp ứng, có hỏa tiễn làm tín hiệu liên lạc, lẽ nào trên đường lại không gặp nhau?
Chu Điên thấy người kia ăn nói vô lễ, muốn dạy cho mấy câu bèn nói:
– Nói láo ư, giỏi thật…
Trương Vô Kỵ liền hạ giọng:
– Chu tiên sinh đừng chấp nhất họ làm chi. Bọn họ không tìm thấy sư phụ, dĩ nhiên nóng ruột.
Tĩnh Không mặt đầy vẻ hoài nghi, nói:
– Gia sư và huynh đệ đồng môn có phải đã rơi vào tay Minh giáo rồi chăng? Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, việc gì phải giấu giếm?
Chu Điên cười nói:
– Thôi nói thực cho các người nghe, phái Nga Mi không lượng sức mình, đến vây đánh đỉnh Quang Minh, từ Diệt Tuyệt sư thái trở xuống đều bị bắt cả rồi, hiện nay nhốt dưới thủy lao, để cho họ ăn năn sám hối mười năm tám năm, đến lúc đó có thả hay không còn tùy.
Bành Oánh Ngọc vội nói:
– Các vị đừng nghe vị Chu huynh này nói giỡn. Diệt Tuyệt sư thái thần công cái thế, môn hạ đệ tử ai ai võ công cũng cao cường, làm sao lại rơi vào tay Minh giáo cho được? Lúc này hai bên quý phái và bản giáo đã ngừng chiến giảng hòa với nhau, các vị trở về núi Nga Mi đi, tự nhiên sẽ gặp.
Tĩnh Không nửa tin nửa ngờ, chần chừ không thể quyết định được. Vi Nhất Tiếu nói:
– Vị Chu huynh này thích nói đùa, không lẽ đường đường địa vị giáo chủ tôn quý của bản giáo cũng lại đánh lừa tiểu bối hay sao?
Người thiếu phụ trung niên kia lại nói:
– Trước nay Ma giáo quỷ kế đa đoan, gian trá giảo hoạt, lời nói làm sao tin được?
Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy kỳ là Đường Dương liền phất tay một cái, lập tức Ngũ Hành kỳ giãn ra xa xa, sau đó lại bao vây trở lại. Cự Mộc ở phía đông, Liệt Hỏa phía nam, Nhuệ Kim phía tây, Hồng Thủy phía bắc, còn Hậu Thổ ở bên ngoài di động tiếp ứng, vây chặt tất cả người của phái Nga Mi.
Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:
– Lão phu là Bạch Mi Ưng Vương, chỉ cần một mình ta ra tay là đã lập tức bắt được tất cả bọn tiểu bối các ngươi rồi. Minh giáo hôm nay thủ hạ lưu tình, những người ít tuổi các ngươi sau này ăn nói cho có ý tứ.
Mấy câu đó oang oang vang dội, chấn động đến nỗi bọn người của phái Nga Mi ù cả tai, tâm thần hoảng hốt, không tự chế nổi. Chỉ thấy lão nhân mày râu trắng xóa, thần uy lẫm lẫm, ai nấy đều kinh hãi.
Trương Vô Kỵ chắp tay nói:
– Khi nào gặp lại tôn sư, xin cho Trương Vô Kỵ của Minh giáo gửi lời vấn an lão nhân gia.
Nói xong chàng quay về hướng đông, đi thẳng. Đường Dương đợi Vi Nhất Tiếu, Ân Thiên Chính đi rồi, lúc ấy mới vẫy tay triệu hồi Ngũ Hành kỳ. Quần đệ tử phái Nga Mi thấy thế, trong bụng hãi thầm, đứng nhìn Trương Vô Kỵ và tùy tùng đi xa xa, miệng há hốc, không nói nên lời. Bành Oánh Ngọc nói:
– Giáo chủ, tôi xem chuyện này bên trong có điều bất thường. Diệt Tuyệt sư thái cùng đệ tử trở về theo hướng đông, không lẽ lại lạc không gặp môn nhân? Các môn các phái đi đường thể nào chẳng có tín hiệu, lẽ nào biến mất không để lại tăm hơi gì?
Mọi người vừa đi vừa bàn thảo, cảm thấy phái Nga Mi bao nhiêu người bỗng dưng mất tích trên sa mạc, chuyện thật khó hiểu, Trương Vô Kỵ trong bụng lo lắng cho an nguy của Chu Chỉ Nhược, nhưng không tiện nói với người ngoài. Hôm đó đi đến tối, chưởng kỳ sứ Hậu Thổ kỳ là Nhan Viên bỗng nói:
– Ở đây có điều khác lạ!
Y chạy đến một hàng cây thấp ở phía trước quan sát, giật một chiếc thuổng từ tay một giáo chúng bản kỳ rồi hì hục đào dưới đất. Một lát sau, quả nhiên lộ ra một xác người. Cái xác đó đã thối rữa, mặt mũi không còn nhận rõ, nhưng cứ theo quần áo trên người thì rõ ràng là đệ tử phái Côn Luân. Các giáo chúng Hậu Thổ kỳ liền nhất tề đào bới, trong chốc lát đã thành một cái hố lớn, trong hố để chất đống mười sáu tử thi, tất cả đều là người của phái Côn Luân. Nếu như người của môn phái họ chôn cất, ắt không thể nào đơn sơ như thế, hiển nhiên là do kẻ địch đã làm. Xem xét những xác này, ai ai cũng có vết thương trên người. Trương Vô Kỵ ra lệnh cho Hậu Thổ kỳ chia ra từng người chôn cất riêng rẽ cho tử tế.
Cả bọn người nọ nhìn người kia, bụng ai cũng hỏi thầm: “Ai giết chúng chứ?” Ngơ ngẩn một hồi, Bành Oánh Ngọc nói:
– Nếu không truy cứu cho đến đầu đến đũa, món nợ này thể nào cũng đổ lên đầu Minh giáo chúng ta.
Thuyết Bất Đắc lớn tiếng nói:
– Các huynh đệ nghe đây, nếu như đánh nhau ban ngày ban mặt, mình có giáo chủ đứng đầu, tuy không dám nói là vô địch thiên hạ, nhưng cũng không thể thua ai. Thế nhưng tên bắn trộm rất khó đề phòng, từ rày trở đi, ăn uống gì, nghỉ ngơi ở đâu, chỗ nào cũng phải đề phòng địch nhân ám toán, hạ độc. Tất cả đồng thanh đáp ứng. Đi một quãng nữa, thấy mặt trời đỏ như máu, trời từ từ tối dần, mọi người đang tính chuyện tìm chỗ nghỉ ngơi thì bỗng thấy trên trời phía đông bắc có bốn con kên kên ở trên không bay lượn vòng vòng. Đột nhiên một con lao xuống, rồi lại bay vọt lên, lông rơi tơi tả, kêu kéc kéc mấy tiếng, hiển nhiên bị vật gì đánh trúng. Từ khi chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ Trang Tranh bị chết vì kiếm Ỷ Thiên, Trương Vô Kỵ đưa phó kỳ sứ Ngô Kình Thảo lên làm chánh kỳ sứ, lúc này thấy chim kên kên có vẻ lạ lùng, liền nói:
– Để ta đi xem.
Y dẫn theo hai người tùy tùng vội chạy về phía đó. Một lúc sau, một giáo chúng chạy trở lại, bẩm với Trương Vô Kỵ:
– Bẩm cáo giáo chủ, Ân lục hiệp của phái Võ Đang bị rơi xuống dưới vực cát.
Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nói:
– Ân lục hiệp ư? Có bị thương không?
Người kia đáp:
– Dường như bị thương nặng, Ngô kỳ sứ thấy là Ân lục hiệp nên sai thuộc hạ cấp tốc báo cho giáo chủ. Ngô kỳ sứ hiện đang xuống dưới sa cốc cứu giúp…
Trương Vô Kỵ lòng nóng như lửa đốt, không đợi y nói hết đã vội vàng chạy đi. Dương Tiêu, Ân Thiên Chính cả bọn lục tục chạy theo. Đi đến gần, thấy đó là một cái vực cát thật lớn, sâu đến hơn chục trượng, Ngô Kình Thảo tay trái ôm Ân Lê Đình, đi một bước lại sụp một cái, đang cố gắng hết sức để trèo lên. Trương Vô Kỵ liền theo vách cát trượt xuống, đưa tay nắm cánh tay phải của Ngô Kình Thảo, tay kia đưa vào thăm hơi thở Ân Lê Đình, thấy vẫn còn thoi thóp, cũng hơi yên lòng, vội đón lấy sư thúc. Chàng nhảy mấy cái đã ra khỏi sa cốc, để Ân sư thúc nằm trên mặt đất, chăm chú xem kỹ, không khỏi vừa kinh hãi, vừa tức giận, không biết tính sao. Chỉ thấy Ân Lê Đình hơi thở yếu ớt, đầu gối, khuỷu tay, cổ chân, cổ tay, ngón chân, ngón tay tất cả các khớp xương đều bị bẻ gãy không cử động được, đối phương hạ độc đến thế thực khiến người ta phải ghê rợn. Tuy nhiên thần trí Ân Lê Đình vẫn chưa đến nỗi hôn mê, thấy Trương Vô Kỵ, mặt lộ vẻ vui mừng liền nhả ra hai viên đá. Thì ra sau khi bị thương, ông bị người ta vứt xuống vực cát, nhờ có nội lực tinh thuần nên không đến nỗi chết ngay, kên kên sà xuống toan ăn thịt bị ông nghiêng đầu ngoạm mấy viên đá, phun ra chặn chúng lại, cứ khổ sở chống đỡ như thế suốt mấy hôm nay. Dương Tiêu thấy bốn con kên kên kia vẫn vòng vòng chưa chịu bỏ đi, chắc chúng đợi khi nào bỏ xác Ân Lê Đình rồi sẽ đáp xuống ăn thịt, liền nhặt bốn viên sỏi dưới đất, “vút vút” bắn liền mấy phát, cả bốn con kên kên đều rơi xuống, con nào đầu cũng bị viên sỏi bắn trúng vỡ nát. Trương Vô Kỵ trước hết cho Ân Lê Đình uống thuốc an thần giảm đau, sau đó mới coi kỹ lại một lần nữa, thấy chân tay đến hơn hai mươi chỗ gãy, mỗi nơi gãy đều bị địch dùng trọng thủ, lấy ngón tay bóp nát nhừ, không cách nào nối lại được. Ân Lê Đình nói nhỏ:
– Chẳng khác gì tam ca, bị phái Thiếu Lâm dùng… Kim Cương chỉ lực… đánh đó…
Trương Vô Kỵ nhớ tới năm xưa nghe phụ thân kể chuyện Du tam sư bá Du Đại Nham bị phái Thiếu Lâm dùng Kim Cương chỉ lực bóp nát các khớp xương, phải nằm liệt giường hơn hai mươi năm nay. Lúc đó phụ thân chưa gặp mẫu thân chàng, không ngờ việc đã bao nhiêu năm, giờ lại thêm một vị sư thúc bị thương vì Kim Cương chỉ lực của phái Thiếu Lâm. Chàng suy nghĩ một lát rồi nói:
– Lục thúc không phải lo lắng, chuyện này cứ giao cho điệt nhi, kẻ gian nhất định sẽ lộ mặt. Kẻ nào trong phái Thiếu Lâm, lục thúc có nhận ra không?
Ân Lê Đình lắc đầu, mấy hôm nay ông kiệt lực ráng sống, hơi sức không còn chút nào, lúc này trong lòng vừa hết lo thì chịu không nổi lập tức ngất đi. Trương Vô Kỵ nghĩ đến thân thế mình, phụ mẫu tự vẫn mà chết, cũng chỉ vì không nên không phải với Du sư bá, bây giờ Lục sư thúc lại gặp nạn, nếu không ép được phái Thiếu Lâm giao ra kẻ gây nên tội lỗi thì quả có tội lớn với hai vị Du, Ân, thực bất hiếu đối với song thân quá cố. Chàng thấy Ân Lê Đình tuy bất tỉnh nhưng tính mệnh không có gì đáng ngại, chỉ có điều tay chân gãy khó lòng nối lại được, xem ra sẽ chẳng khác gì Du Đại Nham. Chàng từng trải giang hồ chưa nhiều, thấy việc không quyết định được, phải tìm nơi thanh tĩnh suy nghĩ cho chín, bèn chắp tay sau lưng đi ra đằng xa, trèo lên trên một cái gò nhỏ ngồi xuống, trong đầu hai luồng suy nghĩ không ngừng xung đột: “Nên hay không nên lên chùa Thiếu Lâm tìm kẻ gây họa kia để báo thù cho phụ mẫu, Tam sư bá, Lục sư thúc? Nếu phái Thiếu Lâm thừa nhận giao hung thủ ra thì mọi việc đều tốt đẹp, nếu không Minh giáo sẽ phải liên kết với phái Võ Đang, cùng đối phó với phái Thiếu Lâm? Mình đã cùng tất cả huynh đệ cắt máu ăn thề, nhất quyết không đi sinh sự, tầm thù các môn phái bang hội khác, nhưng nay việc lại đến ngay với mình, chính mình lại vứt bỏ lời thề thì làm sao khiến mọi người tuân phục được? Một khi ân oán đã có, từ nay oán oán tương báo, e rằng không biết bao nhiêu đời máu chảy, bao nhiêu anh hùng hảo hán bỏ mạng vì chuyện này?”
Lúc này trời đã tối hẳn, người của Minh giáo liền đốt lửa lên, làm lò nấu ăn. Trương Vô Kỵ vẫn ngồi trên ngọn đồi, nhìn trăng lên dần, vẫn phân vân mãi đến nửa đêm mới quyết định: “Phải lên núi Thiếu Lâm gặp chưởng môn Không Văn thần tăng, nói rõ đầu đuôi, cầu ông ta đưa ra một giải pháp”. Nghĩ thế xong lại tưởng: “Nếu như mình nói xong rồi không đến đâu, phải động thủ thì làm sao đây?” Chàng thở dài một tiếng, đứng lên, nghĩ thầm: “Ta tuổi còn trẻ, mới giữ trọng trách đã gặp ngay một chuyện thật khó nghĩ, chỉ một lòng muốn bãi chiến, không tranh giành, thế nhưng những món nợ máu này lại ép ta phải tính tới. Ta đảm đương trọng nhiệm giáo chủ Minh giáo, từ chối cũng không xong, bỏ đi cũng không được, từ nay còn bao nhiêu lo buồn, khốn khổ thực không kể sao cho xiết. Giá như không làm giáo chủ có phải sướng biết bao?”
Chàng trở về bên đống lửa, mọi người tuy bụng đói nhưng chưa ai dám cầm đũa ăn trước, vội vàng cung kính đứng lên. Trương Vô Kỵ thấy vậy áy náy, vội nói:
– Các vị từ rày về sau cứ dùng bữa tự nhiên, không phải đợi ta làm gì.
Chàng đến thăm Ân Lê Đình, thấy Dương Bất Hối đang dùng nước nóng lau những vết thương và cho ông ăn cháo. Ân Lê Đình thần trí mơ hồ, đột nhiên mắt mở to, trừng trừng nhìn Dương Bất Hối, kêu lên:
– Hiểu Phù muội tử, huynh nhớ muội lắm, muội có biết không?
Dương Bất Hối mặt đỏ bừng, thần sắc bẽn lẽn, tay phải cầm muỗng, nói nhỏ:
– Lục hiệp uống thêm vài thìa nữa.
Ân Lê Đình nói:
– Muội hứa đừng bao giờ xa huynh nữa nhé.
Dương Bất Hối nói:
– Được rồi, được rồi. Lục hiệp ăn thêm vài thìa rồi sẽ nói sau.
Ân Lê Đình dường như trong lòng hết sức vui sướng, vội há miệng ăn ngay. Hôm sau Trương Vô Kỵ truyền lệnh xuống, mọi người tạm thời chưa phân tán, tất cả cùng đi lên chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn hỏi cho ra lẽ việc Ân Lê Đình bị thương rồi sẽ tính sau. Cả bọn Vi Nhất Tiếu, Chu Điên thấy Ân Lê Đình bị thương nặng như thế, trong bụng ai cũng bất bình, nghe giáo chủ bảo lên Thiếu Lâm vấn tội thì đều mừng rỡ. Dương Tiêu vì việc Kỷ Hiểu Phù, đối với Ân Lê Đình hết sức thương cảm, tuy không nói ra nhưng trong bụng đã có chủ ý, quyết tâm hết sức báo thù cho ông, lại bảo con gái cố gắng chăm lo săn sóc cho Ân lục hiệp, bù lại phần nào lỗi lầm khi xưa. Từ đó trên đường không gặp chuyện gì khác lạ. Ân Lê Đình lúc mê lúc tỉnh, Trương Vô Kỵ hỏi ông bị thương thế nào, Ân Lê Đình ngơ ngẩn không kể rõ được, chỉ nói:
– Năm hòa thượng phái Thiếu Lâm vây đánh một mình ta. Đúng là võ công phái Thiếu Lâm, không thể nào lầm được.
*
* *
Chẳng bao lâu cả đoàn tiến vào cửa ải Ngọc Môn, liền bán hết lạc đà chuyển sang cưỡi ngựa, lại sợ người ngoài dòm ngó nên mua quần áo cải trang làm khách thương. Có người thì đánh xe lừa, giả vờ như chở theo hàng hóa, thuốc men. Hôm đó sáng sớm mọi người đã khởi hành, theo đường lớn Cam Lương mà đi, ánh mặt trời chói lọi, trời bắt đầu nóng. Đi được chừng hai canh giờ, thấy trước mặt một hàng dương liễu khoảng hai chục cây, ai nấy đều mừng rỡ, vội vàng thúc ngựa đi tới dưới bóng cây nghỉ ngơi. Đến gần hơn, đã thấy dưới tàn cây có chín người ngồi đó, tám người đàn ông mặc quần áo kiểu thợ săn, bên hông đeo đao, lưng đeo cung tên, còn thêm năm sáu con chim ưng dùng để đi săn, lông đen móng sắc, hình dáng trông rất hiên ngang. Một người nữa là vị công tử mặc áo dài màu lam, phe phẩy quạt lông không giấu vẻ ung dung sang trọng. Trương Vô Kỵ nhảy xuống ngựa, liếc nhìn vị công tử kia một cái, thấy chàng ta tướng mạo rất đẹp đẽ, đôi mắt trắng đen rõ ràng, lấp loáng có thần, cái quạt trong tay cán làm bằng bạch ngọc, bàn tay cầm quạt cũng trắng không khác gì cán quạt. Bỗng mọi người không hẹn mà cùng nhìn xuống ngang hông công tử đó, thấy thắt lưng có khóa bằng vàng, đeo một thanh trường kiếm, trên cán kiếm có khắc hai chữ Ỷ Thiên theo kiểu triện. Nhìn kiếm đó, hình dáng dài ngắn, chính là thanh kiếm Ỷ Thiên mà Diệt Tuyệt sư thái đã dùng để sát hại giáo chúng Minh giáo và Chu Chỉ Nhược đã dùng nó đâm Trương Vô Kỵ một nhát suýt chết. Người trong Minh giáo ai nấy ngạc nhiên, Chu Điên nhịn không nổi toan lên tiếng hỏi. Ngay lúc đó, thấy trên đường cái từ phía đông có tiếng vó ngựa rầm rập, một đoàn người cưỡi ngựa chạy ào tới.
Đoàn người đó là một đội quân Nguyên, khoảng chừng năm sáu chục tên, lại có thêm khoảng trên trăm phụ nữ bị quân Mông Cổ dùng thừng trói lôi theo. Những người đàn bà đó phần lớn chân yếu tay mềm, làm sao chạy kịp với ngựa, có người ngã lăn, liền bị kéo lê trên đất. Họ đều là người Hán, hiển nhiên là dân chúng bị đoàn quân Nguyên này bắt cóc, hơn nữa y phục rách bươm, có người lộ cả thân trên, khóc khóc mếu mếu vô cùng thảm thiết. Quân Nguyên có kẻ tay cầm bình rượu, uống đã nửa tỉnh nửa say, kẻ khác vung roi đánh túi bụi vào đám phụ nữ. Bọn người Mông Cổ này lớn lên trên lưng ngựa, thuật đánh roi rất xảo diệu, roi vung ra lúc rút về đều cuốn theo một mảng quần áo của những nữ nhân. Những kẻ khác liền lớn tiếng reo hò, cười nói xí xố.
Người Mông Cổ xâm lược Trung Hoa đã gần một trăm năm, trước nay vẫn coi người Hán chẳng bằng súc vật, nhưng ngay giữa ban ngày ban mặt làm trò dâm ô thế này lại là điều ít thấy. Người trong Minh giáo ai nấy mắt như đổ lửa, chỉ chờ Trương Vô Kỵ ra lệnh một tiếng, là lập tức xông ra giết bọn quân binh cứu người. Vị công tử kia bỗng nói:
– Ngô Lục Phá, ngươi ra bảo bọn chúng thả những người đàn bà ra, quấy rối như thế còn ra cái giống gì nữa.
Thanh âm trong trẻo, vừa yểu điệu vừa nũng nịu, nghe như giọng thiếu nữ. Một đại hán đáp “Vâng” rồi cởi dây buộc một con ngựa vàng dưới gốc cây, nhảy lên lưng ra roi chạy lên, lớn tiếng quát:
– Này, ban ngày mà làm loạn như thế, các ngươi không có quan trưởng ước thúc hay sao? Mau thả họ ra ngay lập tức.
Một tên quan quân trong đám Nguyên binh giục ngựa chạy ra, mắt lờ đờ say, tay vẫn còn cắp một thiếu nữ, cười ha hả nói:
– Thằng chó chết kia không muốn sống hả, sao dám xen vào chuyện của các ông?
Đại hán nọ cười nhạt, nói:
– Thiên hạ loạn lạc khắp nơi cũng vì chúng mày không biết thương xót trăm họ mà ra cả, để ta dạy các ngươi một trận cho biết phép tắc.
Tên quân nọ đánh giá đám người dưới bóng cây, trong lòng hơi lấy làm lạ, nghĩ thầm dân chúng mỗi khi thấy quan binh, chạy cho nhanh còn không kịp, bọn này không biết uống mật báo, ăn gan hổ hay sao mà lại dám can thiệp vào việc của quan quân? Gã liếc qua thấy trên khăn đầu của công tử nọ có đính hai hạt châu to bằng quả long nhãn, lấp lánh phát quang, liền nổi lòng tham, cười lớn:
– Này chú thỏ con kia, đi theo ông, ông cho mày hưởng phúc.
Nói xong, hai đùi thúc một cái, giục ngựa xông đến gần vị công tử. Công tử vốn dĩ mặt mày hòa hoãn, thấy bọn Nguyên binh bạo hành không nổi giận, bấy giờ nghe tên quân này vô lễ như thế, đôi lông mày hơi nhướng lên, nói:
– Không để tên nào sống sót.
Tiếng “sót” vừa ra khỏi miệng đã nghe “vụt” một tiếng, một mũi tên xuyên thủng ngực tên quân kia, chính là do một người thợ săn đứng bên cạnh vị công tử bắn ra. Thủ pháp bắn cung của người đó thật nhanh nhẹn, kình lực lại mạnh, dường như là một cao thủ bậc nhất võ lâm, thợ săn tầm thường làm sao có tài như thế? Chỉ nghe liên tiếp tiếng tên xé gió, cả tám người cùng bắn, quả thực có tài bách bộ xuyên dương, không mũi tên nào hụt, mỗi mũi bắn chết một tên Nguyên binh. Bọn quân Nguyên thấy tình thế đột biến, giật mình kinh hoảng, nhưng vốn cung tên thuần thục nên lớn tiếng kêu la lập tức bắn trả. Bảy người thợ săn cũng nhảy lên lưng ngựa xông ra, cứ một mũi tên là một đứa, chỉ trong khoảnh khắc đã bắn chết trên ba chục tên. Những đứa còn lại thấy tình hình không ổn, luôn mồm kêu la, vội bỏ đám nữ nhân mà giục ngựa chạy ngay. Thế nhưng ngựa của tám người thợ săn đều là tuấn mã, đuổi theo nhanh như gió, cứ tám mũi tên buông ra là có tám tên ngã xuống, đuổi chưa đầy một dặm thì tất cả quân Mông Cổ không còn kẻ nào sống sót. Vị công tử kia cũng nhảy lên ngựa, giục ngựa chạy đi, không quay đầu nhìn lại một lần. Y ra lệnh cho bộ thuộc trong nháy mắt giết hơn năm chục tên quân Mông Cổ, tưởng như chuyện ăn cơm uống nước thường ngày, không coi vào đâu cả. Chu Điên kêu lên:
– Này, này, hượm đã, cho ta hỏi một câu!
Công tử kia không thèm để ý, cùng tám người thợ săn hộ vệ theo sau, chạy ra xa xa. Trương Vô Kỵ, Vi Nhất Tiếu nếu như thi triển khinh công đuổi theo, cũng có thể kịp ngựa đang chạy, hỏi chàng công tử này cho minh bạch, thế nhưng thấy tám người thợ săn kia thần tiễn sát địch như thế, vẻ đầy hiệp nghĩa, trong bụng ai cũng ngầm kính phục, không tiện mạo phạm đến họ. Mọi người bàn tán xôn xao nhưng không ai đoán ra được lai lịch của chín người này. Dương Tiêu nói:
– Vị công tử kia rõ ràng là gái giả trai, còn tám cao thủ ăn mặc như thợ săn kia đối với nàng ta rất cung kính. Tiễn pháp của tám người đó thật là thần diệu, không giống nhân vật của môn phái nào ở Trung nguyên.
Lúc đó Dương Bất Hối và những giáo chúng trong Hậu Thổ kỳ đã chạy ra an ủi những người đàn bà bị bắt cóc, hỏi thăm tình hình, mới biết đều là người ở các thôn trấn chung quanh, bèn lục các xác quân Nguyên lấy kim ngân tài bảo chia cho họ, bảo họ theo đường nhỏ tự kiếm lối về nhà.
Mấy ngày liền quần hào vẫn tiếp tục bàn luận về chín người bắn tên giết quân Nguyên kia, trong bụng ai ai cũng có chiều ái mộ, ân hận không có dịp làm quen. Chu Điên nói với Dương Tiêu:
– Dương huynh, lệnh ái vốn dĩ là một mỹ nữ, thế nhưng so với tiểu thư mặc giả trai kia, cứ bề ngoài mà nói, xem ra còn kém một chút.
Dương Tiêu nói:
– Đúng vậy, đúng vậy! Bọn họ nếu như gia nhập bản giáo, cứ tám người thợ săn kia phải xếp hạng trên cả Ngũ tản nhân.
Chu Điên giận dữ:
– Nói thối bỏ mẹ, bọn ta cưỡi ngựa có kém gì ai đâu? Ngươi thử bảo bọn họ thi tài với Chu Điên xem nào.
Dương Tiêu trầm ngâm rồi nói:
– Cứ so với Chu huynh thì quả có kém thực, nhưng nếu chỉ tính võ công thôi, xem ra họ có vẻ hơn Lãnh Khiêm huynh một chút.
Trong năm người Ngũ tản nhân của Minh giáo thì Lãnh Khiêm võ công đứng đầu, chuyện đó ai ai cũng biết. Dương Tiêu và Chu Điên trước nay vẫn không hợp tính, tuy không còn công khai kình chống nhau, nhưng Chu Điên hễ có cơ hội là cãi với Dương Tiêu vài câu, bây giờ nghe ông ta nói võ công tám người thợ săn kia cao hơn Lãnh Khiêm, rõ ràng là trên tất cả Ngũ tản nhân thì trong bụng tức lắm, đang tính châm chọc mấy câu trả miếng. Bành Oánh Ngọc cười nói:
– Chu huynh lại bị Dương tả sứ cho vào tròng rồi, y định chọc cho Chu huynh tức đấy mà!
Chu Điên cười sằng sặc nói:
– Vậy ta không thèm tức, xem Dương Tiêu làm gì được ta nào?
Thế nhưng chẳng mấy chốc, Chu Điên lại chỉ trích Dương Tiêu cưỡi ngựa không được tinh thông, quần hào chỉ mặc kệ không ai trả lời.
Ân Lê Đình được Trương Vô Kỵ ngày ngày chữa trị, thần trí đã tỉnh táo nhiều, kể lại hôm đó từ đỉnh Quang Minh chạy xuống, tâm thần kích động nên lạc lối, càng chạy càng xa, lang thang trong sa mạc mênh mông tám chín ngày. Đến khi kiếm được đường cũ quay về thì không còn liên lạc được với huynh đệ đồng môn phái Võ Đang nữa. Hôm đó ông bất ngờ gặp phải năm nhà sư Thiếu Lâm, những hòa thượng đó không nói một lời đã lập tức động thủ. Năm nhà sư đó võ công rất cao, tuy Ân Lê Đình đánh bại hai người, nhưng cuối cùng vẫn bị họ đánh trọng thương. Ông thấy võ công họ đều thuộc phái Thiếu Lâm, nhưng chưa từng lên đỉnh Quang Minh nên không gặp mặt bao giờ, xem ra có thể là người đi sau tiếp viện, nhưng vì cớ gì lại hạ độc thủ với mình thì không nghĩ ra. Ông cũng đã nói tên tuổi, như thế không thể nói là họ lầm người được. Trên đường đi, Dương Bất Hối săn sóc Ân Lê Đình rất chu đáo, nàng biết cha mẹ mình đã không phải với ông thật nhiều, lại thấy ông bị nạn thê thảm như thế, không khỏi chạnh lòng thương hại.
*
* *
Đến sẩm tối hôm đó, quần hào qua khỏi Vĩnh Đăng, cố giục ngựa chạy nhanh hơn mong đến được Giang Thành Tử nghỉ ngơi. Đang đi bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, trên đường cái có hai kỵ sĩ song song chạy đến, cách chừng mươi trượng liền nhảy xuống ngựa, đứng tránh qua một bên đường, cử chỉ thật cung kính. Hai người đó mặc theo lối đi săn, chính là hai trong số tám anh hùng bắn tên giết quân Nguyên hôm trước. Quần hào vui mừng, vội vàng nhảy xuống ngựa đến chào hỏi. Hai người đó đi đến trước mặt Trương Vô Kỵ, khom lưng hành lễ. Một người cao giọng nói:
– Tệ thượng ngưỡng mộ hành vi nhân hiệp cao nghĩa của Trương giáo chủ Minh giáo, cùng cung cách anh hùng của quý liệt vị, nên sai tiểu nhân mời các vị dừng ngựa ở tệ trang để tỏ lòng hâm mộ.
Trương Vô Kỵ hoàn lễ, hỏi:
– Không dám, không dám. Không hiểu quý thượng xưng hô thế nào?
Người kia đáp:
– Tệ thượng họ Triệu, khuê danh không dám gọi tới.
Mọi người thấy y nhận ngay vị công tử kia là nữ nhân giả trang là quả thực có thành ý, trong bụng mừng thầm. Trương Vô Kỵ nói:
– Từ khi được chứng kiến thần kỹ bắn tên của quý vị, chúng tôi ai ai cũng khen ngợi hết lời, quý vị không hiềm hạ mình kết giao thì thật vinh dự xiết bao, chỉ e như thế không tiện.
Người kia đáp:
– Các vị là anh hùng đời nay, tệ thượng đã ngưỡng mộ từ lâu, hôm nay có dịp đi qua đất nhà, nếu chẳng được dâng lên ba chén rượu nhạt thì e không đúng lễ nghi.
Trương Vô Kỵ đang muốn được quen biết thêm với những nhân vật anh hùng này, lại muốn hỏi xem thanh kiếm Ỷ Thiên vì đâu qua tay đổi chủ như thế, nên nói:
– Đã như vậy, từ chối đúng là không cung kính, vậy xin được đến thăm quý trang.
Hai người kia mừng lắm, lên ngựa đi trước dẫn đường. Đi chừng chưa tới một dặm, trước mặt lại có hai người cưỡi ngựa chạy đến, ở xa xa xuống ngựa đứng đợi, cũng là người trong Thần tiễn bát hùng. Đi thêm một dặm nữa, bốn người còn lại trong bát hùng lại phi ngựa đến đón tiếp. Quần hào Minh giáo thấy bên kia lễ số chu đáo như thế, ai nấy đều cảm động. Mọi người đi theo một con đường lát đá xanh dẫn đến một đại trang viện, có sông nhỏ uốn khúc vây quanh, bờ sông trồng đầy dương liễu xanh rờn, suốt một dải Cam Lương bây giờ bỗng thấy phong cảnh chẳng khác gì ở Giang Nam, quần hào ai cũng thấy tinh thần sảng khoái hẳn lên. Trước mặt trang môn mở lớn, cầu treo đã hạ xuống từ bao giờ, vị cô nương họ Triệu kia vẫn mặc nam trang, đứng ngay tại cửa nghênh tiếp.
Triệu tiểu thư tiến lên hành lễ, dõng dạc nói:
– Quý vị hào hiệp của Minh giáo hôm nay giá lâm Lục Liễu sơn trang, quả thực rạng rỡ cho nhà tranh vách đất của chúng tôi. Xin mời Trương giáo chủ, mời Dương tả sứ, mời Ân lão tiền bối, mời Vi Bức Vương…
Nàng biết hết từng người trong quần hào Minh giáo, không cần phải giới thiệu, thuận miệng nói ra danh hiệu, kẻ cao người thấp không sai một ai. Cả bọn lấy làm kinh ngạc, Chu Điên nhịn không nổi liền hỏi:
– Đại tiểu thư, sao tiểu thư biết hết tên tuổi chúng tại hạ? Chẳng lẽ tiểu thư có bản lãnh tiên tri hay sao?
Triệu tiểu thư mỉm cười, nói:
– Quần hiệp Minh giáo danh vang khắp chốn, ai chẳng hay biết? Trận đánh trên đỉnh Quang Minh mới rồi, Trương giáo chủ dùng tuyệt thế thần công uy nhiếp sáu đại môn phái, việc đó đã vang động cả võ lâm. Các vị đến Trung nguyên, trên đường biết bao bằng hữu võ lâm mong được tiếp đãi, có phải chỉ mình tiểu nữ đâu?
Mọi người nghe thấy quả không sai, trong bụng mừng thầm, nhưng miệng ai cũng khiêm tốn, hỏi ngay tên tuổi sư thừa của Thần tiễn bát hùng. Một người thân thể cao to đáp:
– Tại hạ là Triệu Nhất Thương, đây là Tiền Nhị Bại, đây là Tôn Tam Hủy, đây là Lý Tứ Thôi.
Y chỉ tiếp qua mấy người kia, nói:
– Đây là Chu Ngũ Thâu, Ngô Lục Phá, Trịnh Thất Diệt, còn kia là Vương Bát Suy.
Quần hào Minh giáo nghe xong, ai cũng ngẩn người, nghĩ thầm tám người này họ sắp xếp theo “Bách gia tính”[101] là Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương, đã là hết sức lạ lùng rồi, nhưng tên lại toàn những chữ không gì tốt lành như Suy Bại Phá Diệt chẳng hạn, thật ngoài dự liệu. Thế nhưng người trên giang hồ vì lánh nạn, tránh thù, tùy nghi lấy tên giả là chuyện rất thường, thành ra không dám hỏi thêm.
Triệu tiểu thư tự mình dẫn đường, nhường cho mọi người tiến vào đại sảnh trước. Quần hào thấy đại sảnh trên cao có treo một tấm biển, viết bốn chữ đại tự “Lục Liễu sơn trang”. Ngay chính giữa treo một bức tranh “Bát tuấn đồ” do Triệu Mạnh Phủ vẽ, tám con ngựa mỗi con một kiểu không con nào giống con nào, con nào cũng toát lên vẻ thần mã. Bên phía trái treo một bức đại tự, văn viết:
Bạch hồng tòa thượng phi,
Thanh xà hạp trung hống.
Sát sát sương tại phong,
Đoàn đoàn nguyệt lâm nữu.
Kiếm quyết thiên ngoại vân,
Kiếm xung nhật trung đẩu.
Kiếm phá yêu nhân phục,
Kiếm phất nịnh thần thủ.
Tiềm tương tịch lị mị,
Hốt đãn kinh thiếp phụ.
Lưu trảm hoằng hạ giao,
Mạc thí nhai trung cẩu.
(Mống trắng bay vụt lên,
Rắn xanh kêu lồng lộn.
Sương đọng trên đỉnh núi,
Mây quấn quanh vầng trăng.
Kiếm quyết tỏa tận mây,
Kiếm khí xung tinh đẩu.
Kiếm phá phục yêu ma,
Kiếm phất đầu gian nịnh.
Nằm yên ma quỷ kinh,
Vung lên lòng thiếp sợ.
Xuống vực chém giao long,
Đâu thèm giết chó dữ).
Dưới bài thơ đề một hàng chữ nhỏ: “Dạ thí Ỷ Thiên bảo kiếm, tuân thần vật dã, tạp lục Thuyết Kiếm thi dĩ tán chi. Biện Lương Triệu Mẫn”[102].
Trương Vô Kỵ thư pháp tuy không giỏi, nhưng đã theo Chu Cửu Chân học phép viết chữ, người khác viết xấu đẹp chàng cũng tạm nhận ra, thấy bức thiếp đó nét bút tung hoành, nhưng vẫn có nét ủy mị, rõ ràng là chữ con gái, biết là vị Triệu tiểu thư này viết. Chàng ngoài y thư ra thì chẳng đọc sách bao nhiêu, nhưng ý thơ không mấy khúc mắc, đọc là hiểu ngay, nghĩ thầm: “Thì ra nàng vốn là người Biện Lương, tên chỉ có một chữ Mẫn”, liền nói:
– Triệu cô nương văn võ toàn tài, thật là bội phục. Thì ra cô nương vốn là thế gia ở cựu kinh đô.
Triệu tiểu thư Triệu Mẫn mỉm cười, nói:
– Lệnh tôn đại nhân của Trương giáo chủ có ngoại hiệu Ngân Câu Thiết Hoạch, hẳn là danh gia thư pháp. Trương giáo chủ gia học uyên nguyên, tiểu nữ mong được giáo chủ ban cho một bức thiếp.
Trương Vô Kỵ nghe câu đó lập tức mặt đỏ bừng. Phụ thân chàng mất khi chàng mới lên mười, chưa từng được theo cha tập viết chữ, về sau học thuốc học võ, chữ nghĩa quả thật ít ỏi, liền nói:
– Cô nương bảo tại hạ viết chữ, có khác gì giết Trương Vô Kỵ này. Tại hạ bất hạnh từ khi còn nhỏ thì gia phụ quy tiên chưa được kế thừa sở học của gia phụ, thật hổ thẹn.
Còn đang nói chuyện, trang đinh đã đem trà lên, thấy trong những chén sứ xanh ngắt, nổi mấy lá trà Long Tỉnh xanh rờn, mùi thơm ngào ngạt. Quần hào ai nấy đều lạ lùng, nơi này cách đất Giang Nam cả mấy ngàn dặm, làm sao có được trà Long Tỉnh còn tươi như thế? Cô nương này cái gì cũng đều lạ lùng.
Triệu Mẫn cầm chén lên uống trước một ngụm, dường như muốn cho mọi người biết trà không có độc, rồi đợi mọi người uống xong, mới nói:
– Các vị đường xa chiếu cố đến, tệ trang thật là giản mạn, xin thứ tội cho. Các vị đi đường chắc đã mệt, xin qua bên này ăn chút cơm dùng chút rượu.
Nói xong, nàng đứng dậy, đưa quần hào qua một hành lang đến một vườn hoa lớn. Trong vườn có giả sơn xù xì, suối hồ nước trong vắt, hoa tuy không nhiều nhưng thật thanh nhã. Trương Vô Kỵ chưa lãnh hội được vẻ đẹp của thú chơi vườn cảnh nhưng Dương Tiêu đã ngầm gật gù, biết rằng chủ nhân của vườn hoa này là kẻ lòng mang chí lớn, không phải người thô tục tầm thường. Trong thủy các bày hai mâm tiệc, Triệu Mẫn liền mời mọi người vào bàn, còn bọn Thần tiễn bát hùng Triệu Nhất Thương, Tiền Nhị Bại ở sảnh đường bên cạnh bồi tiếp các giáo chúng Minh giáo khác. Ân Lê Đình không sao dậy được, nên Dương Bất Hối phải ở trong phòng đút cơm cho ăn.
Triệu Mẫn rót đầy một chén rượu lớn, uống một hơi cạn sạch, nói:
– Đây là Nữ Trinh Thiệu Hưng trần tửu, đã được một trăm mười tám năm, các vị thử nếm xem tửu vị thế nào?
Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ân Thiên Chính tuy đã tin rằng Triệu tiểu thư là người hiệp nghĩa, nhưng vẫn mười phần cẩn thận, xem kỹ hồ rượu, chén rượu không có gì khác lạ, Triệu tiểu thư lại uống một chén trước rồi thì mới hết nghi kỵ và ăn uống tự nhiên. Giáo quy Minh giáo trước nay vẫn là ăn chay thờ ma, cấm uống rượu, kỵ ăn mặn; nhưng từ khi tổng đàn dọn vào trong dãy Côn Luân mới bỏ đi các lề luật cấm kỵ này. Tây Vực khó kiếm rau dưa, chỉ toàn là thịt, hơn nữa khí hậu lạnh buốt, nếu như không ăn mỡ bò mỡ cừu, chỉ thuần nội lực sẽ không đề kháng nổi. Trong hồ bao quanh nơi thủy các có trồng bảy tám cây hoa trông giống như thủy tiên nhưng lớn hơn, hoa màu trắng hương thơm thoang thoảng. Quần hào được ngửi hoa thơm, uống rượu ngon, gió hiu hiu mát rượi thật không còn gì thoải mái bằng.
Triệu tiểu thư ăn nói rất tự nhiên, bàn luận về các nhân vật võ lâm Trung nguyên thật sành sỏi, nhiều điều đến cha con Ân Thiên Chính cũng không biết. Đối với võ công các phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Luân, nàng không khen ngợi lắm, nhưng khi nhắc tới Trương Tam Phong và Võ Đang thất hiệp lại hết lời tán tụng, cũng ca ngợi võ công môn phái các thủ lĩnh Minh giáo, thoạt nghe tưởng như không có gì đặc sắc nhưng mỗi câu khen ngợi đều đúng chỗ trọng yếu. Quần hào vừa hoan hỉ, vừa bội phục, thế nhưng khi hỏi đến võ công môn phái của chính nàng, Triệu Mẫn chỉ mỉm cười không đáp, lảng qua chuyện khác.
Rượu được mấy tuần, rót đến đâu nàng cạn ly đến đó, thật hào sảng. Mỗi món ăn đưa lên, nàng cũng đưa đũa gắp một miếng ăn trước, đôi má hồng lên, dường như đã hơi say, trông càng thêm diễm lệ. Người đẹp xưa nay nếu không dịu dàng yểu điệu thì cũng kiều diễm tươi tắn, nhưng tiểu thư họ Triệu này không những thập phần xinh đẹp, lại thêm ba phần anh khí, ba phần hào hùng, mà vẫn ung dung cao quý, toát ra một vẻ đoan trang nghiêm cẩn khiến người ta phải ngầm kính trọng, không dám coi thường.
Trương Vô Kỵ nói:
– Triệu cô nương, được cô nương hậu đãi như thế này, tệ giáo ai nấy đều cảm kích. Tại hạ có một câu muốn hỏi, có điều ngại nên chưa dám mở miệng mà thôi.
Triệu Mẫn đáp:
– Trương giáo chủ sao phải dè dặt thế? Chúng ta hành tẩu giang hồ, bốn bể đều là huynh đệ, các vị nếu không hiềm thì cho tiểu muội được kết bằng hữu. Có chuyện gì sai bảo hỏi han, ắt sẽ hết sức trình bày.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nếu đã như thế, tại hạ mong được thỉnh vấn, thanh bảo kiếm Ỷ Thiên của cô nương vì sao có được?
Triệu Mẫn mỉm cười, cởi thanh kiếm Ỷ Thiên ở hông ra, đặt lên bàn, nói:
– Tiểu muội từ khi gặp các vị đến giờ, ai nấy chăm chăm mắt không rời thanh kiếm này, không hiểu vì duyên cớ gì, mong cho biết được chăng?
Trương Vô Kỵ nói:
– Quả không dám giấu, thanh kiếm này nguyên là sở hữu của Diệt Tuyệt sư thái chưởng môn phái Nga Mi, huynh đệ trong tệ giáo táng thân dưới thanh kiếm này không phải ít. Chính Trương mỗ cũng đã từng bị kiếm này đâm vào ngực, suýt nữa bỏ mạng, cho nên ai nấy đều để ý.
Triệu Mẫn nói:
– Trương giáo chủ thần công vô địch, từng nghe dùng tâm pháp Càn khôn đại na di đoạt thanh kiếm này từ tay Diệt Tuyệt sư thái, sao lại có thể bị thương vì nó chứ? Lại nghe nói kẻ dùng kiếm đâm Trương giáo chủ chỉ là một nữ đệ tử trẻ tuổi của phái Nga Mi, võ công cũng chỉ bình bình, tiểu muội quả không sao hiểu nổi.
Nàng nói câu đó không chớp mắt, chăm chăm nhìn Trương Vô Kỵ, trên môi dường như điểm một nụ cười. Trương Vô Kỵ mặt đỏ rần, nghĩ thầm: “Sao cô nương ấy biết rõ thế nhỉ?” liền đáp:
– Đối phương đâm đột ngột quá, tại hạ không kịp để ý cho nên sẩy tay.
Triệu Mẫn mỉm cười:
– Chắc Chu Chỉ Nhược Chu tỷ tỷ xinh đẹp lắm, phải thế không?
Trương Vô Kỵ mặt đỏ như gấc, ngượng nghịu nói:
– Cô nương lại nói đùa rồi.
Chàng cầm chén lên định uống một ngụm để chữa thẹn, nào hay tay trái hơi run, làm sánh mấy giọt rượu ra ngoài, bắn cả lên tà áo. Triệu Mẫn cười nụ, nói:
– Tiểu muội tửu lực không bao nhiêu, ăn nói đã không biết nặng nhẹ nữa rồi, sợ uống thêm đâm ra thất thố mất! Để xin phép vào trong thay quần áo, sẽ trở ra ngay, xin các vị cứ tự nhiên, đừng khách sáo gì cả.
Nói xong đứng dậy, làm như kiểu cách nam nhi, cung kính vái một vái rồi đi ra khỏi thủy các, lần theo những luống hoa cành liễu vào bên trong. Thanh Ỷ Thiên kiếm kia vẫn để trên bàn, không đem theo. Các gia đinh phục thị tiếp tục đem các món ăn lên. Quần hào không dám ăn tiếp nữa, đợi một lúc lâu vẫn không thấy Triệu Mẫn quay trở lại. Chu Điên nói:
– Nàng ta để bảo kiếm lại đây, quả là tin bọn mình quá.
Nói xong cầm thanh kiếm lên để trong tay, đột nhiên “Ối” một tiếng, nói:
– Sao nhẹ thế này?
Y cầm cán kiếm rút ra, kiếm vừa khỏi vỏ, quần hào đều đứng bật cả lên, ai nấy rất kinh ngạc. Kiếm này đâu phải Ỷ Thiên bảo kiếm, chém vàng chặt sắt sắc bén phi thường? Chẳng qua chỉ là một thanh kiếm gỗ màu vàng. Mọi người lập tức ngửi thấy một mùi hương thơm nhè nhẹ, chính là bằng gỗ đàn hương.
Chu Điên nhất thời không hiểu tại sao, đút kiếm trở lại vỏ, lắp bắp:
– Dương… Dương tả sứ, cái này… cái này là trò gì đây?
Ông ta tuy ngày ngày cãi cọ với Dương Tiêu, nhưng trong bụng thực sự phục Dương Tiêu kiến thức siêu việt, bây giờ gặp chuyện nghi nan, tự nhiên mở miệng hỏi ngay như thế. Dương Tiêu mặt mày trịnh trọng, hạ giọng nói:
– Giáo chủ, Triệu tiểu thư này mười phần đến chín không có ý tốt. Bây giờ bọn mình ở trong cảnh nguy khốn, nên đi ngay là hơn.
Chu Điên nói:
– Việc gì phải sợ? Nếu y thị có giở trò gì, với bấy nhiêu người chúng ta, chẳng lẽ không đánh cho một trận tan tành hay sao?
Dương Tiêu nói:
Từ khi vào trong Lục Liễu sơn trang này, cái gì cũng thấy thần bí, chính chẳng ra chính, tà chẳng ra tà, không biết đường đâu mà lần. Bọn ta việc gì phải ở nơi đây, để mọi việc cho người ta khắc chế?
Trương Vô Kỵ gật đầu:
– Dương tả sứ nói phải lắm! Chúng ta ăn uống xong rồi cáo từ là vừa.
Nói xong lập tức đứng lên. Thiết Quan đạo nhân hỏi:
– Thế thanh Ỷ Thiên kiếm thực nay ở đâu, giáo chủ không muốn dò hỏi hay sao?
Bành Oánh Ngọc nói:
– Theo thuộc hạ, Triệu tiểu thư này dàn nghi binh, đã toan tính chuyện gì rồi. Mình nếu không đi kiếm cô ta, cô ta cùng sẽ đi kiếm mình.
Trương Vô Kỵ nói:
– Đúng thế, chúng mình bây giờ đang có việc phải làm, không nên thêm việc làm chi. Mai sau mình cứ chờ họ đến, bao giờ rõ ràng mọi việc hãy hay.
Mọi người ra khỏi thủy các, trở về đại sảnh, bảo gia đinh thông báo tiểu thư, gửi lời cảm ơn bữa thịnh yến rồi lập tức cáo từ. Triệu Mẫn lật đật đi ra, nàng đã thay một bộ áo thêu màu vàng nhạt, hình dung trông thật thanh thoát phiêu dật, mặt mày sáng rỡ, nói:
– Vừa mới gặp nhau sao đã vội đi? Hay là chê tiểu nữ tiếp đãi đơn sơ quá chăng?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Đa tạ cô nương tiếp đãi hậu hĩ như thế, đâu thể gọi là đơn sơ được. Chúng tôi đang việc cần kíp, không dám nán lại lâu. Ngày sau có dịp tái ngộ, sẽ xin thọ giáo thêm.
Khóe miệng Triệu Mẫn tưởng như cười mà không phải cười, đưa mọi người ra khỏi sơn trang. Thần tiễn bát hùng cung kính đứng hai bên đường, khom lưng tiễn khách. Quần hào ôm quyền từ biệt, không nói một lời chỉ giục ngựa chạy ngay, chẳng mấy chốc thấy đã cách xa Lục Liễu sơn trang, bốn bề chung quanh là đồng trống, nhưng không thấy ai khác. Chu Điên lớn tiếng nói:
– Cái cô Triệu tiểu thư này chưa chắc đã sắp đặt chuyện gì không tốt đâu, chẳng qua tính đàn bà trẻ con hay giỡn hớt, nên đem một thanh kiếm gỗ để đùa giáo chủ, có gì phải lo? Dương tả sứ, kỳ này ngươi đi quá xa rồi.
Dương Tiêu trầm ngâm nói:
– Là trò gì, thực tình đệ không biết rõ, chỉ thấy có điều không ổn thôi.
Chu Điên cười nói:
– Dương tả sứ đại danh vang dậy của chúng ta sau trận chiến trên đỉnh Quang Minh đã biến thành kinh cung chi… ối chà…
Y nói tới đây bỗng lảo đảo ngã khỏi ngựa. Thuyết Bất Đắc ở gần ông ta nhất, vội vàng nhảy ra đỡ lên, hỏi:
– Chu huynh, sao thế?
Chu Điên cười nói:
– Chẳng… chẳng sao cả! Có lẽ uống quá chén, đầu hơi váng vất… thôi.
Y nói tới “váng vất”, quần hào ai nấy đều thất sắc. Thì ra từ khi rời Lục Liễu sơn trang, trên đường chạy, ai ai cũng thấy hơi váng vất, nhưng cũng chỉ nghĩ rằng vì uống mấy chén rượu nên không ai để ý, thế nhưng Chu Điên võ công cao cường, tửu lượng lại mạnh, uống có vài chén thì đâu đến nỗi phải ngã ngựa. Bên trong hẳn có gì bất thường.
Trương Vô Kỵ ngửng đầu lên, duyệt lại một lượt Độc Kinh của Vương Nạn Cô trong đầu, xem có loại độc dược nào không vị, không sắc, không mùi, làm cho người ta choáng váng hay không. Khắp cuốn Độc Kinh xem ra không thấy chỗ nào phù hợp, mà chính mình cùng với quần hào uống chung ăn chung, sao không thấy gì khác lạ? Đột nhiên, trong óc như một ánh chớp lóe lên, giật mình nghĩ tới một chuyện, khiến chàng kinh hoảng kêu to:
– Tất cả các vị uống rượu ở trong thủy các xuống ngựa hết, ngồi xếp bằng trên đất, nhất định không được vận khí điều tức, cứ để tự nhiên.
Chàng lại hạ lệnh:
– Các đệ tử Ngũ Hành kỳ và Thiên Ưng kỳ chia ra bố phòng bốn mặt, nghiêm mật bảo vệ các thủ lĩnh, bất luận ai đến gần đều giết hết không tha.
Mọi người nghe giáo chủ hạ nghiêm lệnh như thế liền đáp ứng vang dậy, lập tức rút binh khí chia ra tứ phương. Trương Vô Kỵ lại nói:
– Phải đợi đến khi ta về, không được rời xa nhau.
Quần hào không hiểu lý do tại sao, chỉ thấy hơi váng vất, không thấy gì khác, sao giáo chủ lại có vẻ kinh hoảng như thế? Trương Vô Kỵ lại dặn thêm:
– Dù cho có nhức đầu khó chịu đến đâu, cũng tuyệt đối không được điều vận nội tức, nếu không chất độc phát tác sẽ không chữa được đâu.
Quần hào ai nấy hoảng sợ tự hỏi: “Mình trúng độc như thế nào?”
Trương Vô Kỵ thân hình hơi lắc một cái đã vọt ra ngoài hơn chục trượng. Chàng sợ cưỡi ngựa chậm quá, lập tức thi triển khinh công chạy về phía Lục Liễu sơn trang. Chàng gấp gáp dị thường, biết rằng kỳ này bọn Dương Tiêu, Ân Thiên Chính đều trúng phải kịch độc, nếu phát tác thì tính mạng chỉ còn được một giờ ba khắc, không phải như trúng Ảo Âm Chỉ xong còn có thể kéo dài ngày này sang ngày khác, nếu không lấy được giải dược, tất cả mọi người đều chết cả. Đoạn đường hơn hai mươi dặm kia chốc lát đã tới ngay, đến trước sơn trang, chàng lao một cái, thân hình như mũi tên bắn tới. Những trang đinh canh nơi cửa chỉ thấy hoa mắt, dường như có một bóng người vụt qua nhưng không nhìn rõ là người nào đã vào trang môn. Trương Vô Kỵ liền vọt vào ngay vườn sau, chạy đến thủy các, thấy một thiếu nữ mặc áo màu xanh nhạt, tay trái cầm chén, tay phải cầm sách, đang ngồi uống trà đọc sách, chính là Triệu Mẫn. Lúc này nàng đã đổi sang y phục nữ nhân. Nàng nghe thấy tiếng chân Trương Vô Kỵ, quay đầu nhìn lại, mỉm cười.
Trương Vô Kỵ nói:
– Triệu cô nương, tại hạ xin cô nương vài cây hoa.
Không đợi nàng trả lời, chân trái chàng liền điểm một cái nhảy từ bờ hồ sang thủy các, thân hình tà tà bay qua, chẳng khác gì chuồn chuồn điểm nước, hai tay đã nhổ sạch mấy cây hoa trông như thủy tiên trồng trong hồ. Chàng đang toan đạp lên thủy các, bỗng nghe soẹt soẹt, mấy ngọn ám khí nhỏ li ti đã bắn vào mặt. Tay áo phải Trương Vô Kỵ liền phất một cái, cuộn hết ám khí vào trong, tay áo bên trái hất ra, đánh vào Triệu Mẫn.
Triệu Mẫn nghiêng người né tránh, chỉ thấy gió nổi vù vù, bao nhiêu bình trà, chén trà, đĩa trái cây trên bàn bị tụ phong thổi bay qua hồ rơi vào trong đám cây cỏ, vỡ tan tành. Trương Vô Kỵ thân hình đứng vững rồi, nhìn lại mấy cây hoa trong tay, thấy mỗi cây đều có một chùm rễ dài màu tím, trên mỗi cái rễ dính đầy những củ lớn bằng hạt ngọc trai, xanh biếc như phỉ thúy thì mừng lắm, biết là đã có được thuốc giải, lập tức bỏ vào túi nói:
– Đa tạ giải dược, cáo từ!
Triệu Mẫn nói:
– Đến thời dễ nhưng đi thì khó.
Nàng ném quyển sách đi, thuận tay rút từ trong quyển sách hai lưỡi kiếm mỏng như giấy, sáng loáng như gương, đâm tới. Trương Vô Kỵ lo cho thương thế của bọn Ân Thiên Chính nên không dám đánh lâu, y tụ bên phải phất ra, hơn chục mũi kim châm dính trong tay áo cùng bắn tới. Triệu Mẫn nghiêng người nhảy khỏi thủy các, chân trái điểm vào bậc thềm một cái nhảy trở lại, trong khi nhảy ra nhảy vào như thế, mấy mũi kim châm đều rơi hết xuống ao. Trương Vô Kỵ khen ngợi:
– Hảo thân pháp!
Chàng lại thấy nàng tay trái ra trước, tay phải ra sau, đâm hai thanh đoản kiếm tới, nghĩ thầm: “Con a đầu này lòng dạ độc ác đến thế, nếu ta không luyện được Cửu dương thần công, đọc được sách Độc kinh của Vương Nạn Cô, hôm nay Minh giáo đều bị chết vì tay nó một cách oan uổng rồi”.
Chàng hai tay vươn ra, khi chập lại toan cướp hai thanh đoản kiếm. Triệu Mẫn liền xoay cổ tay hòng dùng kiếm chặt ngón tay Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ không cướp được binh khí của đối phương, cũng hơi lấy làm lạ, nhưng thần công của chàng biến ảo khôn lường, mấy ngón tay liền phất một cái trúng ngay mấy huyệt đạo trên cổ tay. Kiếm trong tay Triệu Mẫn cầm không vững, thừa thế ném tới. Trương Vô Kỵ nghiêng đầu, nghe “băng băng” hai tiếng, hai thanh kiếm cắm luôn vào cột thủy các, kình lực vẫn còn rung rung không ngớt. Trương Vô Kỵ trong bụng hơi sợ, nếu nói về võ công thì Triệu Mẫn kém xa Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, nhưng luận về cơ cảnh linh mẫn, biến chiêu vừa nhanh vừa độc, song kiếm không còn giữ được vẫn còn toan đả thương người, nếu như né tránh chậm một chút thì có phải chàng chết dưới kiếm của a đầu này rồi không? Triệu Mẫn mất hai thanh kiếm rồi, liền lật tay lại cầm luôn thanh kiếm gỗ Ỷ Thiên nhưng không rút ra, múa lên đâm vào hông Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ liền giơ ngón tay trỏ và ngón tay giữa bên trái điểm vào huyệt Kiên Trinh trên vai nàng, đợi Triệu Mẫn vừa né qua liền thò tay phải dùng Càn khôn đại na di đoạt luôn kiếm gỗ. Triệu Mẫn vừa đứng vững, liền cười hì hì nói:
– Trương công tử, đó là gì thế? Có phải Càn khôn đại na di đấy không? Ta xem cũng bình thường chẳng có gì lạ.
Trương Vô Kỵ liền xòe tay trái ra, trong lòng bàn tay có một đóa hoa kết bằng ngọc trai đang rung động, chính là đóa hoa Triệu Mẫn cắm trên mái tóc. Triệu Mẫn sắc mặt hơi đổi khác, Trương Vô Kỵ lấy đóa hoa trên tóc nàng mà nàng không hay biết gì cả, nếu như thay vì thò tay lấy hoa mà lại đánh vào huyệt Thái Dương một cái, mạng nàng đâu còn nữa. Thế nhưng Triệu Mẫn trấn tĩnh ngay, cười nhạt một tiếng, nói:
– Nếu công tử thích đóa hoa ngọc đó thì ta tặng cho công tử, cần gì phải ra tay cướp đoạt.
Trương Vô Kỵ nghe nàng nói dường như cho rằng chàng có ý không tốt, tay trái liền vung lên một cái ném trả đóa hoa, nói:
– Tại hạ xin hoàn lại tiểu thư!
Nói rồi quay mình ra khỏi thủy các. Triệu Mẫn giơ tay đón lấy đóa hoa, kêu lên:
– Khoan đã!
Trương Vô Kỵ quay đầu lại thấy nàng cười nói:
– Sao công tử lại lấy mất hai viên ngọc trai lớn nhất trên đóa hoa này rồi?
Trương Vô Kỵ nói:
– Cô nương thực nói giỡn, ta không hơi đâu ở đây đùa với cô.
Triệu Mẫn giơ cao đóa hoa, nghiêm mặt nói:
– Xem này, chẳng phải mất hai viên ngọc trai đấy ư?
Trương Vô Kỵ nhìn đến quả nhiên có hai sợi chỉ vàng thiếu mất hạt châu, biết là Triệu Mẫn cố tình giựt đứt để dụ cho mình đến gần hầu thi hành ngụy kế, nên chỉ “hừ” một tiếng không thèm để ý đến nữa. Triệu Mẫn tay vịn vào thành bàn, thống thiết kêu lên:
– Trương Vô Kỵ, ngươi có giỏi thì đến cách ta ba bước xem nào.
Trương Vô Kỵ không mắc vào kế khích tướng của nàng, nói:
– Cô nương bảo ta nhát gan sợ chết cũng chẳng sao.
Nói xong chàng nhảy xuống hai bậc thềm. Triệu Mẫn thấy mình khích tướng không thành, mặt liền biến sắc, buồn bã nói:
– Thôi rồi, thôi rồi. Hôm nay ta đã đến nước này, còn mặt mũi nào gặp lại sư phụ?
Nàng với tay rút ngay một thanh đoản kiếm cắm trên cột, kêu lên:
– Trương giáo chủ, đa tạ ngươi đã thành toàn cho ta.
Trương Vô Kỵ quay đầy nhìn lại, chỉ thấy một ánh sáng trắng lóe lên, Triệu Mẫn đã đâm thẳng mũi kiếm vào ngực. Trương Vô Kỵ cười nhạt:
– Ta đâu có để cho…
Chưa nói tới chữ “ngươi lừa” thì thấy mũi kiếm quả thật đã đâm vào ngực Triệu Mẫn, nàng ta thảm thiết kêu lên một tiếng, gục ngay xuống bàn. Trương Vô Kỵ kinh hoảng không để đâu cho hết, không ngờ cô nương này lại ngang ngạnh đến vậy, vài chiêu chưa thắng đã vung kiếm tự sát, nghĩ thầm nếu như nhát kiếm không trúng tim thì may ra còn cứu được. Chàng liền quay trở lại chạy tới coi thương thế của nàng thế nào. Chàng vừa tới cách bàn chừng ba bước, đang toan thò tay nắm lấy vai Triệu Mẫn, bỗng nhiên cảm thấy dưới chân hụt xuống, đạp vào chỗ trống không, thân hình rơi tụt ngay xuống. Chàng biết là nguy cấp, hai tay áo vận khí đánh xuống, thân hình đang trên không lập tức ngừng lại, liền giơ tay đánh một chưởng vào cạnh bàn. Chưởng đó nếu đánh trúng, chàng có thể mượn sức vọt lên, không để rơi vào căn hầm dưới chân. Nào ngờ Triệu Mẫn chỉ giả vờ tự sát nên đã liệu trước chuyện này, hữu chưởng vận kình đánh ra, không cho tay chàng đụng vào bàn. Mọi sự xảy ra chỉ trong nháy mắt, song chưởng đụng nhau, Trương Vô Kỵ đã rơi tụt xuống lưng chừng, vội vàng lật tay một cái, chộp luôn mấy ngón tay phải của Triệu Mẫn. Bàn tay nàng trơn tuột, dường như muốn thoát ra, nhưng Vô Kỵ chỉ cần một chút lực có thể mượn được là có thể bay vụt lên, chàng liền vươn tay nắm cánh tay cô nương ấy. Thế nhưng đang sức rơi rất mạnh, chàng vừa nắm được Triệu Mẫn thì cả hai người cùng rơi xuống hầm. Chỉ thấy tối đen như mực, thân hình tiếp tục rơi xuống, nghe một tiếng “cách” ở trên đầu, cửa hầm bên trên đã đóng chặt. Hai người rơi đến bốn năm trượng mới tới đáy. Trương Vô Kỵ vừa chạm đất đã lập tức nhảy lên thi triển công phu “Bích Hổ Du Tường” bò lên tận trên, giơ tay đẩy nắp đậy. Nắp hầm vừa chắc vừa lạnh, là một thiết bản thật lớn, đẩy vào chỉ thấy nó trơ trơ. Chàng tuy có Càn khôn đại na di thần công nhưng thân hình lơ lửng trên không, đâu có được như đứng trên mặt đất mà lực đạo chuyển qua chuyển lại; đẩy tới đẩy lui một hồi, tấm sắt không hề lay chuyển, thân hình chàng lại tụt trở xuống. Triệu Mẫn cười khanh khách:
– Bên trên có tám thanh sắt to chặn lại, công tử ở bên dưới, dù có mạnh đến đâu cũng không sao mở được.
Trương Vô Kỵ giận nàng giảo hoạt gian trá, không thèm để ý đến, lần mò chung quanh căn hầm để tìm cách thoát thân nhưng cả bốn bề đều lạnh ngắt, trơn tuột, cứng rắn dị thường. Triệu Mẫn cười nói:
– Trương công tử, công phu Bích Hổ Du Tường của công tử thật tài tình. Cái hầm này làm bằng thép đúc, trơn như thế, ngay cả đường nối cũng không, thế mà công tử vẫn trèo lên được, hi hi, ha ha.
Trương Vô Kỵ giận dữ nói:
– Chính cô nương cũng bị nhốt chung với ta ở dưới đây, có gì đáng cười đâu?
Đột nhiên nghĩ ra: “Con a đầu này gian xảo lắm, cái hố này hẳn phải có đường thoát, không thể để nó trốn ra một mình”. Chàng bèn tiến lên nắm chặt tay Triệu Mẫn. Nàng kinh hoảng kêu lên:
– Ngươi làm gì thế?
Trương Vô Kỵ nói:
– Cô nương đừng nghĩ chuyện thoát ra một mình. Nếu muốn sống thì mau mau mở tấm nắp đậy ra.
Triệu Mẫn cười đáp:
– Công tử làm gì phải lo thế? Ta đâu có chết đói ở dưới này mà sợ. Để họ tìm không thấy ta, ắt sẽ mở cho ta ra. Có lo là thủ hạ của ta lại tưởng ta đi ra ngoài, chuyện đó mới phiền.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Thế căn hầm này không có cơ quan để mở lối ra ngoài hay sao?
Triệu Mẫn cười đáp:
– Trông mặt công tử có vẻ thông minh mà sao hỏi một câu ngớ ngẩn thế? Cái hố này có phải chế tạo để chơi cho vui đâu. Làm ra để bắt kẻ địch mà lại cố ý thiết lập cơ quan đóng mở thì địch nhân trốn mất còn gì?
Trương Vô Kỵ nghĩ nàng ta nói không sai, bèn nói:
– Có người rơi xuống hố, không lẽ bên ngoài không hay biết gì? Cô nương mau bảo người mở nắp hầm ra.
Triệu Mẫn nói:
– Thủ hạ của ta đều sai ra ngoài cả rồi, công tử có thấy ai khác ở trong thủy các đâu? Ngày mai giờ này họ mới trở về. Công tử không phải nóng ruột, cứ nghỉ một lát, chúng ta cũng mới ăn xong, chưa đến nỗi đói.
Trương Vô Kỵ nổi khùng, nghĩ thầm: “Ta có đợi thêm cũng chẳng hề gì, nhưng làm sao cứu được ngoại công công với những người khác?” Năm ngón tay bóp chặt, sử đến hai thành kình lực, quát lên:
– Cô nương không thả ta ra ngay, ta sẽ giết cô nương trước.
Triệu Mẫn cười nói:
– Nếu công tử giết ta thì công tử sẽ vĩnh viễn không thể ra khỏi cương lao này được. Mà này, nam nữ thụ thụ bất thân, sao công tử cứ nắm tay ta mãi thế?
Trương Vô Kỵ bị Triệu Mẫn trách cứ, vội vàng bỏ tay nàng ra, lùi lại hai bước, ngồi dựa vào tường. Cái hầm này vuông vức bất quá vài thước, dù có xa nhất hai người cũng chỉ cách nhau một bước, càng bồn chồn, càng bực bội, lại ngửi thấy hơi thở của cô gái, cộng thêm hương thơm của những cây hoa trong túi, lòng chàng càng có cảm giác lâng lâng, liền đứng lên giận dữ nói:
– Minh giáo ta vốn không quen biết, không thù oán gì với cô nương, sao cô nương lại mưu tính ác độc đưa tất cả bọn ta vào chỗ chết?
Triệu Mẫn nói:
– Công tử còn nhiều chuyện chưa biết, nếu đã hỏi đến, để ta nói cho nghe từ đầu. Công tử có biết ta là ai không?
Trương Vô Kỵ nghĩ lại quả không sai, tuy cũng muốn biết dụng ý và lai lịch của cô gái này, nhưng nếu chờ được cô ta kể lại đầy đủ từ đầu thì Ân Thiên Chính và mọi người chắc đã bị chất độc phát tác chết cả rồi, huống chi làm sao biết cô ta nói thật hay giả, nếu như bịa chuyện nói lăng nhăng thì chẳng phải mất biết bao nhiêu thì giờ ư. Trước mắt thấy không còn biện pháp gì khác, chỉ còn cách ép cho cô nàng phải mở cửa hầm cho mình ra, liền nói:
– Ta không biết cô nương là ai, cũng không có hơi đâu nghe cô nương kể chuyện. Cô nương có gọi người mở cho ta ra không?
Triệu Mẫn nói:
– Có ai đâu mà gọi? Hơn nữa, ở dưới này có kêu gào thì bên trên cũng chẳng nghe thấy. Nếu công tử không tin, vậy cứ kêu mấy tiếng thử xem.
Trương Vô Kỵ giận dữ giơ tay nắm đầu vai Triệu Mẫn khiến nàng ta hoảng sợ kêu lên một tiếng, giơ tay ra gạt nhưng đã bị điểm trúng huyệt đạo nơi hông, không cử động được. Trương Vô Kỵ tay trái giơ ra nắm ngay yết hầu nàng, nói:
– Ta chỉ bóp nhẹ một cái, cô nương sẽ táng mạng ngay.
Lúc đó hai người đứng sát bên nhau, thấy nàng thở hổn hển, hơi thơm như lan, Trương Vô Kỵ vội ngửng đầu về sau cho mặt mình xa mặt cô nàng một chút. Triệu Mẫn đột nhiên khóc rấm rứt:
– Ngươi hà hiếp ta, ngươi hà hiếp ta.
Việc đó quả ngoài dự liệu nên chàng ngạc nhiên, vội vàng bỏ tay ra, nói:
– Ta đâu có ý định hà hiếp cô nương, chỉ muốn cô nương thả ta ra thôi.
Triệu Mẫn khóc:
– Có phải ta không muốn đâu! Được rồi, để ta gọi.
Nàng cao giọng gọi lớn:
– Này, này, có ai không? Mở nắp hầm ra, ta bị rơi xuống cương lao đây này.
Nàng liên tiếp kêu réo, bên ngoài vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Triệu Mẫn cười nói:
– Thấy chưa, phỏng ích gì đâu?
Trương Vô Kỵ rất giận dữ nói:
– Không biết xấu, vừa khóc xong lại cười.
Triệu Mẫn nói:
– Chính công tử mới không biết xấu. Đại trượng phu sao lại ăn hiếp nữ nhi chân yếu tay mềm?
Trương Vô Kỵ nói:
– Cô nương chân yếu tay mềm ư? Cô nương quỷ kế đa đoan, còn ghê gớm gấp mười gã phàm phu.
Triệu Mẫn cười:
– Cám ơn Trương giáo chủ đã khen ngợi, tiểu nữ không dám nhận.
Trương Vô Kỵ thấy tình thế khẩn cấp, nếu không ra tay độc ác thì toàn thể người trong Minh giáo sẽ chết sạch; chàng liền nghiến răng, thò tay ra, “xoẹt” một tiếng đã xé ngay một mảnh vải quần của cô nương ấy. Triệu Mẫn tưởng chàng đột nhiên có tà ý, lúc này rất hoảng sợ kêu lên:
– Ngươi… ngươi làm gì thế?
Trương Vô Kỵ nói:
– Nếu cô nương bằng lòng thả ta ra thì gật đầu đi.
Triệu Mẫn nói:
– Để làm gì?
Trương Vô Kỵ không thèm để ý, nhổ nước miếng cho ướt mảnh vải, nói:
– Xin lỗi nhé, ta cũng đành vậy chứ biết sao hơn.
Chàng lấy mảnh vải bịt chặt mồm mũi cô gái lại, Triệu Mẫn không thở được nữa, chỉ giây lát đã thấy tức ngực chịu không nổi. Thế nhưng nàng thật ương ngạnh, nhất định không gật đầu, sau cùng giãy mấy cái rồi ngất đi.
Trương Vô Kỵ giơ tay thăm mạch thấy mạch nhảy rất yếu ớt, nên bỏ miếng vải ướt bịt miệng mũi cô nàng ra. Một lát sau, Triệu Mẫn từ từ tỉnh lại, rên lên mấy tiếng. Trương Vô Kỵ nói:
– Như thế đâu có thích thú gì phải không? Có thả ta ra không thì bảo?
Triệu Mẫn hậm hực nói:
– Dù có phải ngất đi một trăm lần, ta cũng không thả, để xem ngươi dám giết ta không?
Nàng đưa tay chùi miệng mũi, hứ mấy tiếng nói:
– Nước miếng ngươi, hừ, thối muốn chết được.
Trương Vô Kỵ thấy Triệu Mẫn cứng đầu như thế thì không biết phải làm sao, thêm một lúc nữa càng thêm nóng ruột, bèn nói:
– Ta vì cứu mạng cho mọi người, đành phải làm ẩu một phen, đừng trách ta vô lễ.
Chàng nắm lấy bàn chân trái nàng, lột luôn giày vớ ra. Triệu Mẫn vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi, kêu lên:
– Tiểu tử xấu xa, ngươi làm gì thế?
Trương Vô Kỵ không trả lời, lại lột luôn giày vớ chân phải, giơ ngón tay trỏ điểm vào huyệt Dũng Tuyền dưới gan bàn chân, vận Cửu dương thần công lên, một luồng khí ấm liền theo ngón tay truyền vào.
Huyệt Dũng Tuyền ở chỗ lõm dưới lòng bàn chân là khởi đầu của Túc Thiếu Âm Thận Kinh, là nơi nhạy cảm hơn cả. Trương Vô Kỵ tinh thông y lý nên biết rõ như thế. Trẻ con chơi đùa thường lấy tay cù vào gan bàn chân sẽ làm cho đối phương tê cả người, lúc này chàng dùng khí nóng của Cửu dương thần công mơn man huyệt Dũng Tuyền, so với lấy lông chim hay tóc cọ xát vào còn khó chịu gấp bội. Chỉ mới cù mấy cái, Triệu Mẫn nhịn không nổi phải cười lên khanh khách, toan rút chân về để tránh nhưng khổ nỗi huyệt đạo đã bị điểm làm sao cử động được? Nỗi khổ đó còn khó chịu hơn dùng dao cắt, roi đánh, chẳng khác gì muôn ngàn con rận cùng thi nhau cắn ngũ tạng lục phủ, cốt tủy huyết quản một lượt, khiến nàng chỉ cười được mấy tiếng rồi chịu không nổi khóc òa lên. Trương Vô Kỵ mặc kệ, vẫn tiếp tục tra tấn. Trái tim Triệu Mẫn dường như muốn nhảy khỏi lồng ngực, các chân lông chân tóc toàn thân ngứa không chịu nổi như muốn rụng hết, nàng mở miệng mắng chửi:
– Tên thối tha… tên giặc con… sẽ có ngày ta đem ngươi ra… lăng trì tùng xẻo… thôi… thôi… tha… tha cho ta… Trương… Trương giáo chủ… Trương công tử… Trương giáo… giáo chủ… hu hu… hu hu… Trương Vô Kỵ hỏi:
– Cô nương chịu thả ta ra chưa?
Triệu Mẫn khóc nói:
– Để ta… thả… mau ngừng… ngừng tay… Trương Vô Kỵ bấy giờ mới ngưng, nói:
– Tạ lỗi.
Chàng nắn mấy cái vào lưng, Triệu Mẫn giải khai huyệt đạo cho nàng. Triệu Mẫn thở phào một hơi, mắng:
– Tặc tiểu tử, đi vớ xỏ giày vào cho ta.
Trương Vô Kỵ cầm chiếc vớ lụa, một tay cầm chân nàng. Khi trước chàng chỉ chăm chăm lo thoát thân, không có ý gì khác, lúc này cầm bàn chân nhỏ nhắn mềm mại của cô gái, trong lòng không khỏi lâng lâng.
Triệu Mẫn thẹn thùng rụt chân về, mặt nóng bừng, cũng may trong hầm tối đen nên Trương Vô Kỵ không nhìn thấy. Nàng chẳng nói chẳng rằng tự mình đi vớ xỏ giày, chỉ chỉ trong một giây bỗng thấy lòng nổi lên một cảm giác lạ kỳ, tưởng như lại mong được chàng cầm chân mình lần nữa.
Bỗng nghe Trương Vô Kỵ hậm hực quát:
– Mau lên, mau lên, thả ta ra!
Triệu Mẫn không nói một lời, giơ tay mò lên tường kiếm chỗ có khắc một cái vòng tròn, xoay ngược cán kiếm, tại cái vòng đó gõ khi chậm khi nhanh, lúc dài lúc ngắn đâu bảy tám tiếng. Gõ vừa xong, nghe “xạch” một tiếng, một luồng ánh sáng từ trên đầu chiếu xuống, cái nắp hầm đã mở ra. Cái vòng đó có bộ phận liên lạc với bên ngoài, nàng đã ước định tín hiệu nên khi nghe thấy, người canh cửa liền mở nắp hầm ra.
Trương Vô Kỵ đâu ngờ bảo mở là mở nhanh đến thế, không khỏi ngạc nhiên nói:
– Thôi ta đi ra.
Triệu Mẫn cúi đầu đứng qua một bên, không nói lời nào. Vô Kỵ nghĩ nàng là một thiếu nữ, nếu mình còn chì chiết thêm nữa sẽ không khỏi thất thố, vái một vái nói:
– Triệu cô nương, vừa rồi chuyện chẳng đặng đừng mới làm như thế, bây giờ xin tạ tội!
Triệu Mẫn hất đầu quay sang nhìn vào tường, đôi vai rung rung vẻ như đang khóc. Khi cô nàng gian trá độc ác, Trương Vô Kỵ cùng nàng đấu trí đấu lực không có một chút tạp niệm nào, bây giờ thấy lòng hổ thẹn, thấy tấm lưng thon của nàng, nước da nơi cổ trắng như ngọc, làn tóc xõa ra, không khỏi nhủ lòng thương cảm, nói:
– Triệu cô nương, tại hạ cáo từ. Trương mỗ thật là không phải.
Chàng thấy bóng lưng Triệu Mẫn rung rung nhưng nàng không quay lại.
Trương Vô Kỵ không dám nấn ná thêm, lập tức thi triển công phu Bích Hổ Du Tường trèo lên, đến khoảng còn chừng hơn một trượng, chân phải điểm vào tường một cái, bay vọt lên cao, tay áo phất một cái bảo vệ trên đỉnh đầu sợ có kẻ nào ở trên đánh lén. Chân chàng chưa rơi chạm đất, nhìn chung quanh, thấy thủy các không một bóng người. Chàng không muốn gây thêm chuyện, vượt qua tường theo đường nhỏ chạy về nơi quần hào Minh giáo đang đợi. Trước mắt thấy trời đã ngả bóng, hóa ra chàng bị hãm dưới hầm hơn nửa giờ, không biết tính mệnh Ân Thiên Chính và mọi người giờ này ra sao. Chàng trong bụng lo lắng lại càng gia tăng cước lực, chẳng bao lâu đã về gần tới nơi quần hào dừng chân, không khỏi giật mình kinh hãi.
Trước mặt là đại đội kỵ binh Mông Cổ chạy qua chạy lại, vây chặt người của Minh giáo, quân Nguyên ai nấy giương cung, nhắm vào người trong vòng bắn tới. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Những nhân vật thủ lĩnh của bản giáo ai ai cũng trúng độc cả, không ai ra lệnh chỉ huy, làm sao chống trả được với đại đội quân địch vây đánh?” Chàng gia tăng cước lực, chạy vọt lên. Chạy đến gần hơn, thấy trong đám người một giọng con gái trong trẻo cất lên:
– Nhuệ Kim kỳ tấn công mặt đông bắc, Hồng Thủy kỳ bao vây phương tây nam.
Chính là giọng Tiểu Chiêu. Nàng vừa ra lệnh xong, một đội giáo chúng mang cờ trắng liền xung sát mặt đông bắc, còn đội giáo chúng mang cờ đen bao vòng qua mặt tây nam. Quân Nguyên chia ra chống đỡ, đột nhiên đội cờ vàng Hậu Thổ kỳ, cờ xanh Cự Mộc kỳ song song từ trong đánh ra, chẳng khác gì một con rồng xanh, một con rồng vàng chộp tới. Quân Nguyên bị đánh tập hậu, trận thế liền đại loạn, phải lùi về sau. Trương Vô Kỵ nhảy mấy cái đã tới trước mặt các giáo chúng. Mọi người thấy giáo chủ quay về liền reo hò ầm ỹ, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Trương Vô Kỵ thấy Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Chu Điên và các chánh phó kỳ sứ của Ngũ Hành kỳ vẫn ngồi dưới đất, còn Tiểu Chiêu tay cầm cờ lệnh, đứng trên gò đất chỉ huy giáo chúng ngự địch. Những người trong Ngũ Hành kỳ, Thiên Ưng kỳ đều võ nghệ cao cường, chỉ vì thủ lĩnh trúng độc nên loạn cả lên, đến khi Tiểu Chiêu dùng thuật số bát quái bố trí chống đỡ, quân Nguyên không thể tấn công được nữa.
Tiểu Chiêu mừng rỡ kêu lên:
– Trương công tử, mời công tử lên chỉ huy.
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta đang bận, cô nương cứ chỉ huy tốt hơn, để ta xung sát một trận, giết vài tên quân quan. Chỉ thấy “vèo vèo” mấy tiếng, mấy mũi tên nhắm chàng bắn tới. Trương Vô Kỵ giật ngay một thanh trường mâu của một giáo chúng, gạt hết mấy mũi tên đó ra, vung tay một cái ném chiếc thương đó bay vụt ra ngoài, xuyên qua ngực một tên bách phu trưởng, đóng chặt hắn xuống đất. Quân Nguyên liền kêu la ầm ỹ, lui ra ngoài mấy chục bước. Đột nhiên nghe tiếng tù và u u vang lên, độ mươi tên kỵ binh từ xa chạy tới. Trương Vô Kỵ thấy đi trước chính là bọn Thần tiễn bát hùng, thủ hạ của Triệu Mẫn, không khỏi nhíu mày nghĩ thầm: “Tám người này tiễn pháp quá ghê gớm, nếu để bọn chúng bắn tên thì e rằng các huynh đệ sẽ bị thương không ít, ta nên ra tay trước thì hơn”. Người thủ lĩnh của Thần tiễn bát hùng là Triệu Nhất Thương tay cầm một cây đoản trượng khắc đầu rồng màu vàng, kêu lớn:
– Chủ nhân có lệnh, lập tức thu binh!
Người thiên phu trưởng chỉ huy đội quân Nguyên liền nói xí xố mấy câu Mông Cổ, bọn quân quan liền quay đầu ngựa chạy đi. Tiền Nhị Bại tay cầm một cái khay, xuống ngựa tiến đến trước mặt Trương Vô Kỵ, khom lưng nói:
– Chủ nhân chúng tôi xin giáo chủ nhận món quà lưu niệm.
Trương Vô Kỵ nhìn đến thấy khay lót một tấm nhiễu màu vàng, trên để một chiếc hộp bằng vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Trương Vô Kỵ không ngần ngại giơ tay cầm lấy. Tiền Nhị Bại cung thân hành lễ, lùi lại ba bước, quay mình lên ngựa đi thẳng. Trương Vô Kỵ tiện tay giao luôn cái hộp cho Tiểu Chiêu, chàng lo lắng cho bệnh tình của mọi người, không thì giờ đâu mở xem trong hộp có gì, lập tức lấy trong bọc ra mấy cây hoa. Chàng sai người đem nước lạnh tới nghiền nát những rễ màu đỏ và củ màu xanh, hòa vào trong nước, chia cho Ân Thiên Chính, Dương Tiêu và các chánh phó kỳ sứ Ngũ Hành kỳ uống. Chuyến đi này, tất cả những ai yến ẩm nơi thủy các, trừ Trương Vô Kỵ có Cửu dương thần công hộ thể nên các loại độc không thể xâm phạm, các thủ lĩnh Minh giáo ai ai cũng bị trúng độc. Chỉ có Dương Bất Hối vì phải đút cơm cho Ân Lê Đình ở bên ngoài, Tiểu Chiêu và các giáo chúng ăn cơm ngoài đại sảnh, đã nghe theo lệnh giáo chủ, phàm vật gì trước khi ăn đều dùng ngân châm thử trước nên không ai bị trúng độc. Thuốc giải độc thật công hiệu, chưa đến nửa canh giờ sau, độc tính trong cơ thể quần hào đều tiêu giải, không còn thấy đầu váng mắt hoa nhưng toàn thân dường như hơi sức mất hết, lập tức hỏi xem đã bị trúng độc như thế nào. Trương Vô Kỵ thở dài:
– Bọn ta mọi việc đều đã đề phòng, những món ăn uống rượu thịt không hề có chất độc, bản nhân đã xem xét kỹ. Nào ngờ cách hạ độc của Triệu cô nương thật không sao ngờ nổi. Cây hoa trông như thủy tiên kia gọi là Túy Tiên Linh Phù, tuy rất khó kiếm nhưng vốn không có độc tính. Còn thanh kiếm Ỷ Thiên giả kia làm bằng một loại gỗ dưới đáy biển tên là Kỳ Lăng Hương Mộc, vốn cũng không độc. Thế nhưng hai mùi kia trộn lẫn với nhau thì biến thành kịch độc.
Chu Điên vỗ đùi, kêu lên:
– Cũng tại ta cả, ai bảo ta ngứa tay rút thanh kiếm Ỷ Thiên kia ra làm cái mẹ gì cơ chứ!
Trương Vô Kỵ nói:
– Cô ta nếu đã có âm mưu làm hại chúng ta, dẫu Chu huynh không động thủ, cô ta cũng sai người đến rút ra để hạ độc, không thể nào phòng bị nổi.
Chu Điên nói:
– Đi, mình đến cho một mồi lửa đốt rụi cái Lục Liễu sơn trang đó cho rồi.
Y vừa nói tới câu đó đã thấy đằng xa khói đen bốc lên, bên trong ánh lửa thấp thoáng chính là Lục Liễu sơn trang đang cháy.
Quần hào ai nấy nhìn nhau không nói được lời nào, trong bụng nghĩ thầm: “Triệu cô nương này chuyện gì cũng tính trước được cả, biết rằng mình giải độc xong thể nào cũng tới đốt trang viện, thành ra phóng hỏa trước cho chắc ăn. Cô nương ấy tuổi còn nhỏ, lại phận nữ nhi nhưng thật sự là một kình địch”.
Chu Điên lại vỗ đùi kêu lên:
– Cô nàng đốt trang viện thì ăn thua gì? Mình cứ tới đuổi đánh cho một trận tan tành mới thôi.
Dương Tiêu nói:
– Đến như trang viện cô ta cũng đã đốt rồi đủ biết chuyện gì cũng tính toán trước, xem ra giờ có đuổi cũng không kịp đâu.
Chu Điên nói:
– Dương huynh, võ công ngươi không nói làm gì, ngay cả mưu kế xem ra cũng còn hơn Chu Điên này một bực.
Dương Tiêu cười:
– Không dám, không dám. Chu huynh thần cơ diệu toán, tiểu đệ làm sao bì kịp?
Trương Vô Kỵ cười nói:
– Hai vị bất tất quá khiêm nhường. Chúng ta không bị tổn thất lớn, chỉ có mười ba mười bốn huynh đệ bị trúng tên, cũng là may lắm rồi, thôi lên đường đi ngay.
Trên đường đi, quần hào hỏi Vô Kỵ làm sao tìm ra nguyên nhân mọi người bị trúng độc, Trương Vô Kỵ nói:
– Ta nhớ trong Độc kinh có một đoạn chép: “Kỳ Lăng Hương Mộc nếu như gặp phải hương thơm của một loại giống như thủy tiên, có thể làm cho người ta say sưa mê mẩn mấy ngày, nhưng chỉ cần dùng củ tròn của cây thủy tiên pha với nước là giải được. Nếu không giải kịp, độc tính sẽ ăn vào tim phổi. Túy Tiên Linh Phù so với loại phù dung thường còn lợi hại hơn nhiều”. Vì thế ta mới dặn các vị chớ nên vận tức dụng công, nếu không hương hoa sẽ đi vào các kinh mạch có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Vi Nhất Tiếu nói:
– Không ngờ con a hoàn Tiểu Chiêu lại lập được kỳ công, nhân khi nguy cấp nếu không có nó đứng ra, bọn mình bị chết chắc nhiều lắm.
Dương Tiêu vốn cho rằng Tiểu Chiêu là người của kẻ địch sai đến nhưng sau chuyện hôm nay, nàng đã thành một công thần của Minh giáo, khiến ông ta không thể ngờ nổi, nhất thời không hiểu nguyên do ra sao.
Mọi người trên đường đi đàm luận lai lịch Triệu Mẫn nhưng chẳng ai có được đầu mối nào. Trương Vô Kỵ không kể chuyện chàng bị rơi xuống hố cùng với Triệu Mẫn, việc mình cù gan bàn chân nàng để thoát thân, tuy trong lòng không có điều gì phải hổ thẹn, nhưng trước mặt mọi người thì chuyện này cũng khó ăn khó nói.
Tối hôm đó mọi người vào quán trọ nghỉ ngơi, còn đại đội nhân mã chia ra tìm đền đài miếu mạo ngủ tạm.
Tiểu Chiêu lấy một thau nước bưng vào phòng, Trương Vô Kỵ nói:
– Tiểu Chiêu, hôm nay tiểu cô nương lập được kỳ công, từ rày không phải làm những việc phục dịch như trước nữa.
Tiểu Chiêu cười nói:
– Nô tì rất thích được hầu hạ công tử, có gì đâu gọi phục dịch hay không phục dịch?
Đợi chàng rửa mặt xong, Tiểu Chiêu lấy chiếc hộp vàng ra nói:
– Không biết bên trong hộp có độc trùng độc dược, độc tiễn ám khí gì không?
Trương Vô Kỵ nói:
– Đúng vậy, cứ cẩn thận là hơn.
Chàng để chiếc hộp trên bàn, cầm tay Tiểu Chiêu kéo ra xa, lấy trong túi một đồng tiền vung tay ném tới, nghe “keng” một tiếng trúng ngay mép cái hộp, nắp hộp liền mở tung, không có gì khác lạ. Chàng đến gần xem thấy trong hộp là một đóa hoa cài tóc kết bằng trân châu, vẫn còn đang rung rinh, chính là đóa hoa Triệu Mẫn cài trên đầu. Hai viên ngọc trai Triệu Mẫn ngắt đi nay đã đính lại trên sợi chỉ bằng vàng. Chàng không khỏi ngẩn người, không hiểu Triệu Mẫn có dụng ý gì.
Tiểu Chiêu cười nói:
– Công tử, vị Triệu cô nương này đối với công tử tốt quá, trịnh trọng sai người đến biếu công tử một đóa hoa kết bằng ngọc trai.
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta là đàn ông, có được món trang sức của nữ nhân này làm gì? Tiểu Chiêu, cô nương cầm lấy mà dùng.
Tiểu Chiêu xua tay, cười nói:
– Thế sao được? Người ta có tình ý với công tử, sao nô tì dám lấy?
Trương Vô Kỵ cầm lấy đóa hoa, cười nói:
– Trúng.
Chàng vung tay ném ra, vừa hay cắm luôn lên tóc Tiểu Chiêu, chiếc kim dưới đóa hoa không hề chạm vào da thịt. Tiểu Chiêu toan dứt xuống, Trương Vô Kỵ xua tay nói:
– Chẳng lẽ ta tặng cô nương một món quà nhỏ cũng không được hay sao?
Tiểu Chiêu hai má hồng lên, nói nhỏ:
– Vậy thì đa tạ công tử. Chỉ sợ tiểu thư nhìn thấy lại bực mình.
Trương Vô Kỵ nói:
– Hôm nay cô nương đã làm được một việc lớn, cha con Dương tả sứ lẽ nào còn nghi ngờ?
Tiểu Chiêu lòng đầy vui sướng, nói:
– Nô tì thấy công tử đi lâu quá không về, trong bụng thật nôn nóng. Thế rồi bọn Thát tử đến tấn công, không biết vì sao tiểu nữ lại dám lớn mật đứng lên hô hoán, bây giờ nghĩ lại thật là sợ hãi. Công tử, nhờ công tử nói lại với quý vị trong Ngũ Hành kỳ, Thiên Ưng kỳ là Tiểu Chiêu to gan làm càn, xin các vị đó đừng trách.
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
– Bọn họ cám ơn còn chưa đủ, sao lại trách cứ?
*
* *
Chẳng bao lâu đã đến cảnh giới tỉnh Hà Nam. Lúc ấy thiên hạ đại loạn, quần hùng bốn phương nổi lên, quan quân Mông Cổ tra xét càng thêm nghiêm nhặt. Đại đội Minh giáo đi thành đoàn không tiện, đành chia ra nhiều nhóm, hẹn đến chân núi Tung Sơn sẽ gặp nhau, rồi sẽ cùng lên ngọn Thiếu Thất, lúc ấy Chưởng kỳ sứ Cự Mộc kỳ là Văn Thương Tùng sẽ đem danh thiếp mọi người đưa lên chùa Thiếu Lâm.
Trương Vô Kỵ biết rằng kỳ này mình lên Thiếu Lâm vấn tội, tuy không muốn lại dấy động can qua, nhưng kết quả ra sao thực khó lòng biết trước. Nếu tăng chúng chùa Thiếu Lâm ngang ngược không nói phải quấy mà ra tay động võ, Minh giáo không thể không tiếp chiến, thành thử chàng truyền lệnh xuống: các thủ lĩnh tiến vào chùa trước, còn các giáo chúng trong Ngũ Hành kỳ và Thiên Ưng kỳ sẽ chia ra bao vây bốn mặt, chờ ở bên ngoài, nếu nghe ba tiếng hú là lập tức tấn công tiếp ứng. Các giáo chúng nhận lệnh chia nhau đi.
Chẳng bao lâu, một tri khách tăng đã già đi theo Văn Thương Tùng xuống núi nói:
– Phương trượng và các trưởng lão bản tự hiện nay đều bế quan tịnh tu, xin thứ lỗi không tiếp khách được.
Quần hào nghe nói thế ai nấy đều biến sắc. Chu Điên giận dữ nói:
– Vị này là giáo chủ Minh giáo đích thân đến chùa Thiếu Lâm bái sơn, lão hòa thượng cũng không cho gặp, thế chẳng phải coi thường lắm ư?
Vị tri khách tăng kia cúi đầu ủ rũ, mặt đầy vẻ sầu khổ, chỉ nói:
– Không tiếp.
Chu Điên nổi giận, giơ tay nắm ngay ngực áo nhà sư, Thuyết Bất Đắc vội ngăn lại:
– Chu huynh không được lỗ mãng.
Bành Oánh Ngọc nói:
– Phương trượng nếu đã tọa quan, chúng tôi xin gặp hai vị Không Trí, Không Tính thần tăng cũng được.
Nhà sư kia chắp hai tay, nói cụt ngủn:
– Không tiếp.
Bành Oánh Ngọc hỏi tiếp:
– Thế còn thủ tọa Đạt Ma Đường thì sao? Thủ tọa La Hán Đường thì sao?
Vị tri khách tăng cũng đáp:
– Không tiếp.
Ân Thiên Chính quát một tiếng như sấm rền:
– Nhất định không tiếp hay sao?
Song chưởng lập tức đẩy ra một chưởng thế như nghiêng sông dốc bể, nghe bùng một tiếng đánh gãy đôi một cây đại tùng ở bên đường, nửa thân trên cả cành cả lá cùng đổ rầm xuống. Nhà sư lúc này lộ vẻ hoảng sợ, nói:
– Các vị đường xa đến đây, đúng ra phải lấy lễ tiếp đãi, có điều tất cả các trưởng lão đều tọa quan cả rồi, xin để dịp sau vậy.
Nói xong chắp tay khom mình, quay lưng đi thẳng. Vi Nhất Tiếu thân hình hơi rung động đã chặn ngay trước mặt nhà sư nói:
– Đại sư xưng hô thế nào?
Vị tri khách tăng đáp:
– Pháp danh của tiểu tăng, không nói tới là hơn.
Vi Nhất Tiếu vỗ nhẹ hai cái vào đầu vai nhà sư, cười nói:
– Tốt lắm, tốt lắm! Ông chỉ nói hai chữ “bất kiến”, chắc hẳn là Bất Kiến đại sư, là sư huynh của Không Kiến thần tăng. Thế nhưng chẳng hay nếu Diêm Vương mời đi, không biết Bất Kiến thần tăng có chịu gặp hay không?
Nhà sư kia bị Vi Nhất Tiếu vỗ hai cái, một luồng khí lạnh chạy thẳng từ vai vào tim, toàn thân lập tức run lẩy bẩy, răng đánh vào nhau lập cập. Y cố nhịn, xoay người lách qua bên hông Vi Nhất Tiếu chạy đi, vừa đi vừa run, thất thểu lên núi. Vi Nhất Tiếu nói:
– Gã này có học võ trước khi vào Thiếu Lâm, võ công của y không thuộc phái Thiếu Lâm.
Trương Vô Kỵ nghĩ ngay đến Viên Chân, biết rằng chuyện đi học nơi khác rồi sau học võ Thiếu Lâm là chuyện bình thường, nên nói:
– Vi Bức Vương đánh y hai đòn Hàn băng miên chưởng, sư tổ, sư phụ y lẽ nào bỏ qua? Thôi, chúng ta cùng lên đó xem các đại hòa thượng có tiếp hay không tiếp.
Mọi người biết rằng khó có thể tránh khỏi một trường ác đấu, phái Thiếu Lâm trước nay vẫn là Thái Sơn Bắc Đẩu của võ lâm, hơn một ngàn năm qua giang hồ vẫn gọi là “môn phái chỉ thắng không thua”, hôm nay đại chiến một trận, xem thử Minh giáo và Thiếu Lâm ai mạnh ai yếu.
Mọi người ai nấy hăng hái cùng kéo nhau lên núi, nghĩ đến phái Thiếu Lâm cao thủ nhiều vô kể, trận đại chiến trước mắt nhất định ác liệt không để đâu cho hết. Chưa hết thời gian uống một chén trà đã đến thạch đình trước cửa chùa. Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm xưa theo thái sư phụ lên núi, gặp tam đại thần tăng chính ở tại nơi đây, hôm nay trở lại, tuy trước sau chỉ mới vài năm, nhưng ngày xưa chàng là một đứa bé bệnh hoạn gầy gò, cô khổ lênh đênh, hôm nay là giáo chủ Minh giáo tôn quý, nghĩ lại chuyện xưa tưởng như đã từ kiếp trước.
Căn thạch đình đó hai chiếc cột đá bị gãy, chiếc bàn đá cũng đổ lăn lóc. Thuyết Bất Đắc cười nói:
– Các nhà sư chùa Thiếu Lâm thích đánh nhau thật, mấy cái cột này mới gãy đây thôi, xem ra mấy hôm trước có một trận chiến khủng khiếp nên mới không kịp tu sửa.
Chu Điên nói:
– Để khi chúng ta đắc thắng rồi, Chu Điên ta sẽ phá hết cái đình này.
Quần hào ở thạch đình chờ đợi, liệu rằng trong chùa sẽ có một đám cao thủ ào ra nên đã định tiên lễ hậu binh trách hỏi tại sao hạ độc thủ đối với Ân Lê Đình, nếu chúng tăng vẫn ngang ngược không nghe thì lúc ấy mới động võ. Nào ngờ chờ cả nửa ngày mà trong chùa hoàn toàn không thấy chút động tĩnh gì. Thêm một lúc nữa, thấy một đoàn người từ sau chùa chạy xuống hậu sơn, nhìn từ xa phải đến bốn năm chục người. Bành Oánh Ngọc nói:
– Hừ, chắc họ điều binh khiển tướng, mai phục bốn bên chăng?
Trương Vô Kỵ nói:
– Thôi, vào chùa.
Lập tức Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu ở phía bên trái; Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương bên phải; Thuyết Bất Đắc, Bành Oánh Ngọc, Thiết Quan đạo nhân và Chu Điên Tứ tản nhân tại đằng sau, cùng hộ vệ Trương Vô Kỵ tiến vào chùa. Đến Đại Hùng bảo điện, thấy chiếc bàn thờ trước tượng Phật ngã chỏng chơ một bên, lư hương còn lăn lóc dưới đất, mặt đất đầy tàn nhang nhưng không thấy một ai. Thuyết Bất Đắc cười nhạt nói:
– Phái Thiếu Lâm thấy bọn mình đến đây, tâm hoảng thần loạn, chân tay quýnh quáng, đến bình hương cũng đánh rơi, nực cười quá đi thôi.
Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:
– Minh giáo Trương Vô Kỵ, cùng với mọi người trong tệ giáo Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu tới đây bái sơn, cầu kiến phương trượng đại sư.
Tiếng của chàng tuy không lớn lắm nhưng nội lực hồn hậu, tất cả chuông trống treo bên ngoài đại điện cùng u u vang lên. Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu cùng đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: “Giáo chủ nội lực thật thâm hậu, ai nghe thấy cũng phải sợ, đương niên Dương giáo chủ khi còn tại thế xem ra cũng còn kém xa. Trận chiến hôm nay, bản giáo thể nào cũng thắng”. Lời cầu kiến của Trương Vô Kỵ, cả tiền viện lẫn hậu viện chùa Thiếu Lâm chỗ nào cũng nghe thấy. Thế nhưng đợi thêm một hồi, trong chùa vẫn không thấy ai bước ra. Chu Điên quát lớn:
– Này, tất cả bọn sư sãi lớn bé chùa Thiếu Lâm đâu, rụt đầu rụt cổ trốn hết thì còn ra giống gì nữa? Bộ còn hú hí với vợ hay sao?
Tiếng của Chu Điên so với Trương Vô Kỵ lớn hơn nhiều, nhưng chuông trống trong điện không thấy vang lại. Quần hào lại đợi thêm một lát, vẫn không thấy ai ra. Bành Oánh Ngọc nói:
– Bần tăng trong lòng bỗng thấy khác lạ, thấy chùa này âm khí u uất, thật là điều bất thường.
Chu Điên cười nói:
– Hòa thượng quay về chùa là đúng chỗ rồi, có gì gọi khác lạ nữa chứ?
Thiết Quan đạo nhân bỗng nói:
– Ồ, nơi đây có một thiền trượng gãy đầu.
Thuyết Bất Đắc nói:
– Ồ, chỗ này có một vũng máu lớn.
Chu Điên cười nói:
– Chắc là sau trận chiến đỉnh Quang Minh, uy danh giáo chủ truyền ra xa nên phái Thiếu Lâm mới treo cao “miễn chiến bài”. Xem chừng họ chạy bán sống bán chết, đến binh khí cũng quẳng bỏ luôn.
Thiết Quan đạo nhân lắc đầu:
– Không phải thế đâu.
Chu Điên hỏi:
– Có gì mà không phải?
Thiết Quan đạo nhân nói:
– Thế còn vũng máu này thì sao?
Chu Điên nói:
– Chắc là họ sợ quá nên cắt phải tay…
Nói tới đây Chu Điên liền khựng lại, tự biết mình có lời lẽ hầm hồ nên nói không hết câu. Ngay lúc đó, một trận gió thổi qua khiến quần áo mọi người tung bay.
Chu Điên vui vẻ nói:
– Gió mát quá.
Bỗng nghe có tiếng lách cách, một cây tùng lớn ngã xuống cách vài mươi trượng ở phía tây. Quần hào ai nấy kinh ngạc, cùng nhảy lên chạy ngay đến chỗ cây đổ, thấy cây tùng đó ở bên góc đông nam của một tòa đại viện, trong viện cũng không có ai, không hiểu vì sao cây tùng lớn thế mà lại bị gió thổi gãy được làm sập cả một mảng tường. Mọi người tới gần quan sát, thấy các thớ gỗ nát vụn, hiển nhiên bị người nào dùng trọng thủ đánh nát, chỗ gãy cũng đã khô chứ không phải mới đây. Quần hào coi kỹ một hồi, bàn tán xôn xao:
– Ồ, không phải.
– A, nơi đây có động thủ.
– Ghê gớm thật, chết nhiều người quá.
Trong tòa đại viện chỗ nào cũng có dấu vết một cuộc kịch chiến, trên nền đá xanh, những cành cây khô, tường đá vây quanh để lại biết bao nhiêu vết binh khí chém xuống, quyền cước đấm đá. Nơi nào cũng đầy vết máu, đủ biết ở đây đã có trận giao chiến kịch liệt dị thường. Trên nền đất vẫn còn nhiều vết chân lõm xuống, là của cao thủ tỉ đấu nội lực lưu lại. Trương Vô Kỵ kêu lên:
– Mau bắt gã tri khách tăng kia hỏi cho ra lẽ.
Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc, mọi người liền chia ra tìm kiếm, nhưng không biết nhà sư kia trốn ở đâu. Ngũ Hành kỳ cũng chia các nơi tra xét, qua hơn nửa canh giờ, các chưởng kỳ sứ quay về bẩm báo, nói là trong chùa không có ai nhưng chỗ nào cũng có dấu vết kịch đấu. Nhiều điện đường còn vết máu, binh khí gãy nhưng không thấy xác người. Trương Vô Kỵ hỏi:
– Dương tả sứ, ông nghĩ sao?
Dương Tiêu đáp:
– Trận chiến ghê gớm này chỉ mới hai ba ngày trước, không lẽ toàn thể phái Thiếu Lâm bị tiêu diệt, hoặc bị giết, hoặc bị bắt không còn một ai hay sao?
Thuyết Bất Đắc nói:
– Hồi nãy chẳng phải có mấy chục người chạy về phía hậu sơn đấy ư?
Dương Tiêu đáp:
– Rất có thể đó là bọn đối đầu với phái Thiếu Lâm ở lại trấn giữ nơi đây, thấy đại đội nhân mã của mình nên bỏ chạy trước.
Bành Oánh Ngọc nói:
– Cứ theo sự thế mà suy đoán thì hẳn là như vậy. Gã tri khách tăng kia cũng chỉ là mạo xưng thôi, tiếc là không kịp giữ hắn lại. Thế nhưng đối đầu với phái Thiếu Lâm có môn phái bang hội nào ghê gớm đến thế? Chẳng lẽ là Cái Bang?
Chu Điên nói:
– Cái Bang thế lực tuy có lớn thật, cao thủ tuy nhiều thật, nhưng đâu có thể chỉ đánh một trận mà giết sạch bọn đầu trọc chùa Thiếu Lâm được chứ! Chỉ có Minh giáo chúng ta mới làm nổi điều đó, nhưng rõ ràng bọn mình đâu có làm.
Thiết Quan đạo nhân nói:
– Chu Điên, ngươi nói bớt một câu tầm phào đi có được không? Bản giáo có làm chuyện đó hay không, chẳng lẽ chính bọn ta không biết?
Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ kỳ Nhan Viên quay về báo:
– Khải bẩm giáo chủ, mười tám pho tượng Phật La Hán trong La Hán Đường không biết ai đã di chuyển, không hiểu có chuyện gì không?
Quần hào biết Nhan Viên giỏi nghề nề mộc xây cất, nếu y đã nghi ngờ, ắt phải có chuyện, liền nói:
– Chúng ta đến xem thử.
Đến La Hán Đường thấy trên tường đầy vết máu, giới đao thiền trượng la liệt khắp mặt đất. Chu Điên nói:
– Nhan huynh, mười tám vị La Hán này có gì khác lạ cơ chứ?
Nhan Viên đáp:
– Vị La Hán nào cũng bị người ta xô đẩy, lúc đầu huynh đệ nghi đằng sau có thể có lối đi, nhưng xem xét tường vách không thấy có cửa hay đường bí mật gì cả.
Dương Tiêu trầm ngâm một hồi, nói:
– Mình thử đẩy tượng La Hán ra lần nữa xem sao?
Nhan Viên nhảy lên bệ thờ, đẩy tượng Trường Mi La Hán sang một bên, lộ tường ra, quả nhiên không có gì khác lạ. Dương Tiêu cũng nhảy lên bệ, xem kỹ pho tượng La Hán, đột nhiên “Ồ” một tiếng, rồi nói:
– Sau lưng La Hán có viết chữ.
Liền xoay ngược pho tượng lại. Quần hào ngạc nhiên thấy có khắc một chữ “Diệt” lớn bằng cái đấu. Pho tượng vốn dĩ được sơn son thếp vàng, lúc này lớp sơn bên ngoài bị người ta dùng dao nhọn khắc một chữ “Diệt” lớn, sâu vào cả tấc, lộ phần đất sét ra. Vết khắc xem ra còn mới, rõ ràng khắc chưa bao lâu. Chu Điên nói:
– Chữ “Diệt” này là cái quái gì? A, đúng rồi, chắc là phái Nga Mi đến quấy phá chùa Thiếu Lâm, Diệt Tuyệt sư thái để chữ lại thị uy đấy mà.
Ai nấy thấy chuyện đó ngoài sức tưởng tượng, đều lắc đầu. Trong khi đang nói chuyện, những người khác đã xoay cả mười tám pho tượng lại , trừ pho Hàng Long La Hán ở tận cùng bên phải và Phục Hổ La Hán ở tận cùng bên trái còn thì cả mười sáu pho tượng La Hán ở giữa đều có khắc mỗi pho một chữ ở sau lưng, từ phải sang trái thành như sau:
Tiên tru Thiếu Lâm, tái diệt Võ Đang, duy ngã Minh giáo, võ lâm xưng vương.[103]
Ân Thiên Chính, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc, mọi người cùng kêu lên:
– Đây là kế Di họa Giang Đông.
Quần hào thấy mười sáu chữ đó giương nanh khoe vuốt, hình dáng thật ghê rợn, nghĩ đến quần tăng chùa Thiếu Lâm bị thảm họa, bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu Minh giáo thì không khỏi lo âu. Chu Điên kêu lên:
– Mình mau mau cạo sạch mấy chữ này đi, để khỏi bị tiếng oan.
Dương Tiêu nói:
– Địch nhân dụng tâm ác độc, chỉ cạo mấy chữ đi đâu đã đủ.
Lần này Chu Điên thấy Dương Tiêu nói có lý nên không cãi lại chỉ hỏi:
– Vậy phải làm thế nào?
Thuyết Bất Đắc nói:
– Cứ để sau làm chứng cớ. Mình đi kiếm kẻ lập tâm di họa, bắt đối chất với mười sáu chữ này.
Dương Tiêu gật đầu khen phải. Bành Oánh Ngọc nói:
– Tiểu tăng vẫn còn một chuyện chưa rõ, muốn được Dương tả sứ chỉ giáo. Kẻ khắc mười sáu chữ này đã lập tâm giá họa cho bản giáo, để chúng ta phải chịu cái đại tội tiêu diệt Thiếu Lâm, khiến cho anh hùng võ lâm cùng nổi lên tấn công, thế nhưng sao lại xoay lưng các pho tượng này quay vào tường? Sao không để mười sáu chữ đó hướng ra ngoài cho mọi người cùng thấy? Nếu Nhan kỳ sứ không xét kỹ, thì có ai biết được sau lưng tượng La Hán liệu có khắc chữ?
Dương Tiêu thần sắc ngưng trọng nói:
– Cứ đệ suy xét, các pho tượng La Hán này có ai đó xoay ngược lại, hẳn là bí mật giúp cho bản giáo, mình chịu một ân tình lớn của người đó.
Quần hào cùng hỏi:
– Người đó là ai? Sao Dương tả sứ lại biết?
Dương Tiêu thở dài:
– Nguyên do ẩn giấu trong chuyện này, Dương mỗ cũng chưa nghĩ ra…
Dương Tiêu nói chưa xong đã nghe Trương Vô Kỵ bỗng “A” lên một tiếng hoảng hốt:
– Tiên tru Thiếu Lâm, tái diệt Võ Đang, chỉ… chỉ e phái Võ Đang cũng đang gặp nạn.
Vi Nhất Tiếu nói:
– Chúng ta phải mau đến cứu viện, để xem bọn chó má nào gây ra chuyện này!
Ân Thiên Chính cũng nói:
– Việc không thể chậm trễ, phải lập tức đi ngay. Bọn gian tặc này đã đi trước một hai ngày rồi.