Buổi trưa ngày hôm sau, có mười bảy phạm nhân bị liên tục đưa tới phòng giam. Cao có thấp có, già có trẻ có, bộ dạng mới nhìn đã biết ngay là nhân vật giang hồ. Phòng giam chật ních chỉ có thể ngồi bó gối. Địch Vân thấy người đến càng ngày càng nhiều tự dưng cảm thấy kinh sợ, biết rằng những người này đều là đến để đối phó với Đinh Điển. Huynh ấy đã nói là có năm kẻ kình địch, nào ngờ bây giờ lại có đến mười bảy.
Đinh Điển lại chỉ nằm quay mặt vào tường, không hề để ý.
Những phạm nhân này xì xào to nhỏ, lớn tiếng nói cười. Địch Vân cúi đầu nghe họ nói chuyện. Thì ra mười bảy người này chia làm ba phe, đều đang muốn được một vật báu gì đó. Địch Vân tình cờ nhìn xéo một cái, chạm phải ánh mắt của mấy người kia, sợ đến nỗi phải ngoảnh mặt đi, nghĩ bụng: “Mình đóng vai Đinh đại ca, nhưng võ công của mình đã mất hết, đến khi động thủ phải làm sao đây? Đinh đại ca bản lĩnh có cao đến đâu cũng khó lòng đánh chết cả bấy nhiêu người”.
Trời tối dần. Một đại hán cao lớn cát giọng ồm ồm nói:
– Chúng ta trước hết phải nói cho rõ, đó là chủ ý của bọn ta, cho nên vật ấy phải là của Động Đình Bang. Nếu ai không phục thì hãy động thủ so tài, khỏi đến lúc ấy lại co co kéo kéo, rách việc.
Động Đình Bang của y có đến chín người, là phe người đông thế mạnh nhất. Một gã trung niên tóc hoa râm bộ dạng cổ quái lại nói:
– Ra tay rồi mới biết, ở đây ẩu đả hay là ra sân?
Đại hán kia nói:
– Ra sân thì ra, ai thèm sợ ngươi.
Rồi gã duỗi tay, nắm một chiếc chấn song, đẩy về bên trái một cái, chấn song sắt lập tức cong veo. Gã lại tiện tay đẩy chấn song bên phải cũng cong veo đi, sức mạnh thật đáng sợ.
Gã định nhảy qua chỗ chấn song đã bị “vén” để vọt ra sân, bỗng thấy một bóng người loáng qua, một người đã chặn khoảng hở ấy, chính là Đinh Điển. Đinh Điển không nói một lời đưa tay chộp lấy ngực đại hán nọ. Hắn cao hơn Đinh Điển nửa cái đầu nhưng bị nắm chặt lập tức nhũn ra, rũ xuống không hề động đậy. Đinh Điển chuồi cái xác to lớn của hắn qua chấn song, ném ra ngoài sân. Hắn nằm co quắp trên mặt đất không nhúc nhích, rõ ràng là đã chết.
Mấy người trong phòng giam thấy chuyện lạ, đều sợ hãi ngơ ngác. Đinh Điển thuận tay chộp lấy một tên, lại ném qua chấn song, rồi lại chộp tiếp một tên nữa, liên tiếp vừa chộp vừa ném, đã có bảy người bị anh ta ném ra sân. Phàm kẻ nào đã bị hai tay anh ta chộp trúng thì đều lập tức mất mạng, không kịp rên một tiếng.
Mười tên còn lại đều cả sợ, ba tên co cụm lại ở một góc phòng giam, còn bảy tên khác thì cùng ra tay, quyền đấm chân đá, tấn công Đinh Điển. Đinh Điển không cần gạt đỡ cũng không né tránh, chỉ đưa tay ra chộp, cứ mỗi lần vung tay là chộp được một tên, mà kẻ đã bị chộp tất chết trong khoảnh khắc, họ bị vết thương chí mạng như thế nào Địch Vân hoàn toàn không thấy được.
Ba tên chui nhủi ở góc phòng giam sợ vỡ mật, cùng quỳ xuống rập đầu xin tha. Đinh Điển làm như không thấy lại cứ chộp từng đứa ném ra sân.
Địch Vân mắt giương miệng ngọng, như trong mơ.
Đinh Điển phủi phủi hai tay, lạnh lùng cười, nói:
– Võ vẽ được một chút mà cũng đòi đến cướp “Liên thành quyết”!
Địch Vân ngẩn ra, nói:
– Đinh đại ca, “Liên thành quyết” là cái gì?
Đinh Điển tựa hồ như hối hận vì đã lỡ lời, nhưng cũng không muốn bịa chuyện để lừa Địch Vân, lại cười nhạt không đáp.
Địch Vân tận mắt thấy mười bảy người kia vừa mới dữ tợn như rồng như cọp, thế mà chỉ trong khoảnh khắc đã thành mười bảy cái xác nằm ngổn ngang. Suốt đời cậu ta chưa bao giờ thấy người chết chất thành đống như vậy, than thở:
– Đinh đại ca, bọn người này đều chết chưa hết tội phải không?
Đinh Điển nói:
– Chết chưa hết tội, cũng chưa biết được. Nhưng bọn người này đều không có ý tốt. Nếu như huynh không luyện được võ công “Thần chiếu kinh” thì sẽ bị bọn người này bức cung, thê thảm không thể tưởng tượng nổi.
Địch Vân biết Đinh Điển nói đúng, bèn nói:
– Đại ca cứ một tay một chộp là người ta mất mạng, công phu này tiểu đệ đến nghe cũng chưa hề được nghe. Nếu đệ nói điều này với sư muội, cô ấy cũng không tin được…
Câu nói vừa mới thốt ra lập tức tỉnh ngộ, thấy chua xót trong lòng, trái tim như có bàn tay ai đó bóp chặt.
Đinh Điển lại không cười cậu, thở dài, lẩm bẩm:
– Thực ra, dẫu có luyện được võ công tuyệt thế, cũng không thể mọi việc đều như ý. Địch Vân chợt “ối” lên một tiếng, đưa tay chỉ một xác chết ở ngoài sân.
Đinh Điển hỏi:
– Cái gì?
Địch Vân nói:
– Người kia chưa chết, chân y còn động đậy.
Đinh Điển giật mình:
– Thật à?
Khi nói giọng anh ta hơi run. Địch Vân nói:
– Vừa rồi đệ thấy hắn nhúc nhích.
Vừa nói vừa nghĩ bụng: “Một người bị thương không chết, cũng không có gì lớn, quyết không thể ra tay nữa.”
Đinh Điển nhíu mày, như gặp phải một câu hỏi lớn, bèn nhảy ra ngoài chấn song cúi mình xem xét.
Bỗng “xoẹt xoẹt” hai tiếng, hai mũi ám khí nhỏ phóng về hai mắt, chính là tên chưa chết kia phóng ra. Đinh Điển vội ngửa người, hai mũi tụ tiễn sượt qua mặt, thoang thoảng có mùi tanh, rõ ràng là có bôi chất kịch độc. Kẻ kia vừa bắn tụ tiễn xong lập tức nhảy bật dậy chạy ra thềm.
Đinh Điển thấy khinh công của hắn rất khá, mình thì phải mang xiềng xích, hành động bất tiện chỉ sợ đuổi không kịp bèn tiện tay cầm một cái xác ném theo. “Bốp” một tiếng, đầu của xác chết giáng mạnh vào hông tên kia. Chân trái của y mới đạp lên bậc thềm, bị xác chết kia bắn vào, đứng không vững, ngã ngay xuống. Đinh Điển bước tới mấy bước, chộp lấy gáy y, nhấc vào trong phòng giam, đưa tay sờ mũi, lần này thì chết thật.
Đinh Điển ngồi trên nền đá, hai tay day trên thái dương, suy nghĩ lung lắm: “Vì sao cú chộp trước lại không giết chết được y? Trong công lực của mình có khuyết điểm gì? Lẽ nào mình chưa luyện được thành thục Thần chiếu công?”. Nghĩ mãi vẫn không tìm được lý do, cảm thấy buồn bã, lại đưa tay sờ lên ngực xác chết kia, bỗng cảm thấy có một lực đàn hồi tác động vào ngón tay, Đinh Điển mừng rỡ reo lên:
– Phải rồi, phải rồi.
Vội xé cái áo ngoải của xác chết ra chỉ thấy bó sát người y là một chiếc áo trong đen bóng như sơn. Đinh Điển mừng nói:
– Phải rồi, hóa ra là thế, làm huynh giật cả mình.
Địch Vân lấy làm lạ hỏi:
– Sao cơ?
Đinh Điển cởi tấm áo ngoài của tên kia, lại cởi cả chiếc áo trong đen bóng của y ra, rồi ném xác chết ra khỏi phòng giam, cười hì hì nói:
– Địch huynh đệ, đệ mặc tấm áo này vào người đi.
Địch Vân nghĩ rằng chiếc áo đen này rất quý, nói:
– Đây là vật của đại ca, đệ không dám tham.
Đinh Điển nói:
– Không phải là vật của đệ thì đệ không tham à? – Giọng nói rất nghiêm trang.
Địch Vân hơi sững người, sợ anh ta nổi giận, bèn nói:
– Đại ca nhất định muốn đệ mặc thì đệ mặc cũng được.
Đinh Điển nghiêm mặt nói:
– Ta hỏi đệ, không phải là vật của đệ thì đệ có cần không?
Địch Vân nói:
– Trừ phi chủ nhân nhất định muốn cho đệ, đệ không nhận không được. Nếu không… nếu không… cái gì không phải của đệ tất nhiên là đệ không cần. Nếu tham của người khác thì chẳng phải lả sẽ biến thành kẻ cướp kẻ trộm sao?
Nói mấy lời cuối, vẻ mặt cậu ta rất hiên ngang, rồi lại tiếp:
– Đinh đại ca, huynh nên hiểu, đệ bị người ta hãm hại mới bị giam ở đây. Đệ tuy nghèo nhưng chưa hề làm việc gì xấu.
Đinh Điển gật gật đầu, nói:
– Tốt lắm, tốt lắm! Không uổng công Đinh Điển này kết giao với một người bạn như đệ. Đệ hãy mặc cái áo này bó sát vào người.
Địch Vân không dám bướng nữa, bèn cởi áo ra, mặc tấm áo đen kia sát vào người, bên ngoài lại mặc tấm áo cũ đã ba năm không giặt vào. Hai tay Địch Vân bị còng, muốn thay áo thật là khó khăn, phải nhờ Đinh Điển xé tay áo cũ mới có thể cởi được áo ra. Cái áo đen này thực ra là có hai mảnh trước và sau, cài khuy ở dưới nách, mặc vào chẳng có gì là khó.
Đinh Điển đợi Địch Vân mặc xong mới nói:
– Tấm áo này quý lắm, đao thương đâm chém không thủng. Nó được dệt bằng tơ tằm đen ở Đại Tuyết Sơn. Đệ xem, đây chỉ là hai mảnh, kéo cắt không thể đứt, trước một tấm sau một tấm, cài khuy lại. Thằng cha này là nhân vật quan trọng trong phái Tuyết Sơn mới có được tấm áo “tơ tằm đen” này. Hắn muốn đến cướp bảo vật, không ngờ lại đem bảo vật đến tặng!
Địch Vân nghe nói tấm áo đen quý giá như vậy, vội nói:
– Đại ca, huynh có nhiều kẻ thù, nên mặc áo hộ thân mới phải. Hơn nữa, ngày rằm nào cũng…
Đinh Điển xua tay lia lịa, nói:
– Huynh có “Thần chiếu công” hộ thân, không cần phải mặc áo tơ tằm đen này. Còn ngày rằm bị tra khảo là ta cam lòng chịu đựng. Dùng bảo giáp hộ thân thì không phải là tự nguyện. Những nỗi khổ trên da thịt, không tổn thương đến gân cốt, thì có ăn nhằm gì?
Địch Vân lấy làm lạ, muốn hỏi nữa. Đinh Điển nói:
– Huynh bảo đệ dán râu vào, đóng vai huynh, huynh tuy ở bên cạnh bảo vệ nhưng vẫn luôn lo lắng, bây giờ thì tốt rồi. Bây giờ huynh truyền cho đệ tâm pháp nội công, đệ hãy chú ý nghe.
Trước đây Đinh Điển muốn truyền võ công, Địch Vân đã tuyệt vọng nên quyết ý không học, lúc này đã biết rõ tiền nhân hậu quả của việc bị hãm hại, ngọn lửa phục thù rừng rực trong lòng, hận không thể ra tù ngay để tìm Vạn Khuê thanh toán. Địch Vân tận mắt thấy Đinh Điển tay không giết một lúc rất nhiều cao thủ giang hồ, nghĩ rằng chỉ cần mình học được vài ba thành công phu của huynh ấy thì có thể vượt ngục báo thù, máu nóng cuộn lên, mặt đỏ bừng.
Đinh Điển e rằng cậu ta vẫn cố chấp, không chịu học, đang định tìm cách thuyết phục, Địch Vân bỗng quỳ xuống, cất tiếng khóc vang, kêu lên:
– Đinh đại ca, xin huynh hãy dạy cho đệ. Đệ phải báo thù! Đệ phải báo thù!
Đinh Điển cười dài, tiếng cười rung cả phòng giam, nói:
– Muốn báo thù, có khó gì?
Đợi Địch Vân dịu đi, Đinh Điển lập tức truyền thụ khẩu quyết luyện công nhập môn và phép hành công.
Địch Vân mới được truyền thụ, lập tức theo phép luyện tập. Đinh Điển thấy cậu ta luyện rất hăng hái, cười nói:
– Luyện được “Thần chiếu kinh” sẽ thành thiên hạ vô địch. Lẽ nào lại có thế dễ dàng luyện được ngay? Huynh gặp nhiều cơ may, căn bản nội công lại cao mới có thể luyện được trong vòng mười hai năm. Địch huynh đệ, luyện võ công phải chuyên cần, đó là điều rất quan trọng, còn dục tốc thì bất đạt đấy. Cần phải tuần tự tiệm tiến mới được, nhất là phải tâm bình khí hòa, không được có một chút tạp niệm. Đệ hãy nhớ kỹ những điều huynh dặn.
Địch Vân lúc này tuy gọi là “đại ca” nhưng trong lòng đã coi Đinh Điển là “sư phụ”, anh ta nói gì nghe nấy. Nhưng cừu hận trong lòng cuồn cuộn như sóng, làm sao có thể “tâm bình khí hòa” cho được.
* * *
Ngày hôm sau bọn ngục lại kinh hãi quái lạ bàn tán ầm ĩ. Nha dịch, bổ khoái (người chuyên bắt tội phạm) xộc đến làm rộn cả nửa ngày, mãi đến chiều mới khiêng mười bảy xác chết kia đi. Đinh Điển và Địch Vân chỉ nói rằng bọn người này đánh lộn nhau mà chết. Họ cũng chẳng hỏi gì thêm.
Một ngày nọ, Địch Vân đang tập theo những khẩu quyết Đinh Điển đã truyền thụ. Phương pháp nhập môn “Thần chiếu công” rất giản dị, nhưng muốn trong lòng thanh tịnh không có một chút tạp niệm nào thì lại cực kỳ khó khăn. Địch Vân thoắt nhớ tới sư muội, lại thoắt nghĩ đến Vạn Khuê, lại thoắt nghĩ đến sư phụ, luyện đến tối mới tạm yên. Bỗng, trước ngực sau lưng đồng thời bị đánh mạnh.
Hai cú đánh này giống như hai cú chùy sắt giáng vào. Địch Vân tối tăm mặt mũi, suýt ngất đi. Khi cơn đau tạm giảm, mở mắt ra, thấy hai bên có hai hòa thượng, ngoảnh đầu nhìn lại thấy đằng sau và chếch một chút có ba hòa thượng nữa, cộng tất cả là năm nhà sư vây lấy mình vào giữa.
Địch Vân nghĩ bụng: “Năm kẻ kình địch mà Đinh đại ca nói đã đến rồi, mình phải gắng cầm cự, không để sơ hở?”, bèn cười ha ha nói:
– Năm vị đại sư phụ, tìm Đinh mỗ có việc gì?
Tăng nhân ở bên trái nói:
– Mau giao “Liên thành quyết” đây! Ầy, ngươi… ngươi… ngươi là…
Đột nhiên, “phách” một tiếng, lưng y trúng một quyền, thân hình y lắc lư mấy cái suýt ngã. Tiếp theo, tên tăng nhân thứ hai cũng bị trúng quyền, “ọe” một tiếng, thổ ra một búng máu tươi.
Địch Vân ngạc nhiên, không nén được nhìn về phía Đinh Điển một cái, chỉ thấy chàng ta nhảy phắt tới, đánh ra một quyền, cú đấm này vô hình vô ảnh, cực nhanh, trúng ngay vào ngực tăng nhân thứ ba. Lão “a” lên một tiếng, bước lùi mấy bước, vấp ngay vào tường.
Hai tên tăng nhân khác theo ánh mắt của Địch Vân, nhìn về phía Đinh Điển đang đứng ở góc tường, cùng kinh hãi kêu lên:
– Thần chiếu công, vô ảnh thần quyền!
Tên tăng nhân có thân hình cực cao, mỗi tay kéo một tên đồng bọn bị thương, nhảy ra ngoải chấn song vốn đã bị bẻ cong, vượt tường mà chạy. Còn một tên ôm ngang lưng tên thổ huyết, quay đầu phát chưởng đánh vào Đinh Điển. Đinh Điển tung quyền đấm mạnh. Tăng nhân ấy đỡ một quyền, lùi một bước, lại tiếp một quyền, lại lùi một bước, tiếp đến quyền thứ ba thì đã rút ra ngoài chấn song.
Tăng nhân kia lảo đảo bước mấy bước, lại loạng choạng lùi một bước, thân hình lắc lư như say rượu, buông tay thả tăng nhân hộc máu xuống đất, thở phập phào, hai chân từ từ khuỵu xuống, rồi không đứng lên được nữa. Hai tên tăng nhân nằm co quắp, bất động.
Đinh Điển nói:
– Đáng tiếc, đáng tiếc! Địch huynh đệ, nếu đệ không nhìn về phía huynh một cái, hòa thượng kia sẽ không thể chạy trốn được.
Địch Vân thấy hai tăng nhân chết thê thảm, trong lòng bất nhẫn, nghĩ thầm: “Để ba người kia chạy trốn cũng được, Đinh đại ca giết người nhiều quá rồi”.
Đinh Điển nói:
– Đệ nghĩ huynh ra tay quá tàn nhẫn phải không?
Địch Vân nói:
– Đệ… đệ…
Cổ họng tắc nghẹn, ngã ngồi xuống, không thành tiếng.
Đinh Điển vội thôi huyết quá cung cho cậu ta, xoa bóp hồi lâu, khí tắc trong ngực Địch Vân mới lưu thông trở lại.
Đinh Điển nói:
– Đệ nghĩ là huynh ra tay quá tàn ác, nhưng hai tên ác tăng kia mới đến đã mỗi đứa đánh đệ một chưởng, nếu trên người đệ không có áo tằm đen thì đã mất mạng rồi. Đây cũng là do đại ca quá sơ suất, không nghĩ là chúng mới đến đã động thủ ngay. Huynh đoán chúng phải cật vấn cái đã. Ầy, phải rồi, chúng rất sợ huynh, muốn đánh huynh trọng thương trước rồi mới tra vấn.
Chàng xoa hàm râu quai nón trên mặt Địch Vân, cười nói:
– Thằng giặc trọc ấy sợ vỡ mật, không dám đến gây sự với chúng ta nữa.
Đinh Điển lại nghiêm mặt nói:
– Địch huynh đệ, hòa thượng cao kều đã chạy trốn kia tên là Bảo Tượng, tên mập ú kia tên là Thiện Dũng. Quyền thứ nhất của huynh đã đánh gục tên lợi hại nhất tên là Thắng Đế. Năm tên hòa thượng này đều là cao thủ của “Huyết đao môn” ở Tây Tạng, nếu huynh không ở trong bóng tối tập kích đắc thủ, một địch năm chỉ sợ đấu không nổi. Thiện Dũng và Thắng Đế đều bị trúng thần quyền của huynh, nếu nhất thời chưa chết cũng không sống được mấy ngày nữa. Tên Bảo Tượng kia lòng dạ độc ác, thủ đoạn ghê gớm, sau này nếu như đệ gặp y trên giang hồ thì cần phải cẩn thận đề phòng.
Trầm ngâm một lúc, lại nói:
– Nghe nói sư phụ của năm tên này còn sống, võ công cực kỳ lợi hại, tương lai phải đấu với lão một phen.
Địch Vân tuy có bảo y hộ thân, nhưng trước ngực sau lưng đồng thời bị giáp kích, bị thương rất nặng, được sự chỉ dẫn của Đinh Điển, vận công chữa trị mười mấy ngày, lại được Đinh Điển dùng nội lực tương trợ mới dần dần thuyên giảm.
Hai năm sau đó, ngày tháng cứ trôi đi bình lặng, tình cờ có một vài nhân vật giang hồ đến nhà lao quấy rối, Đinh Điển không một chụp thì một quyền lấy mạng.
Mấy tháng gần đây Địch Vân tu tập “Thần chiếu công” tiến bộ có vẻ đình trệ, luyện đi luyện lại vẫn chỉ như mấy tháng trước. Được cái cậu ta ngộ tính tuy không cao nhưng bản tính lại cực kỳ kiên nghị, biết rằng loại nội công cao thâm này quyết không thể dễ dàng luyện được, nên vẫn kiên trì tập luyện dưới sự chỉ dẫn của Đinh Điển, chỉ còn phải đột phá khâu khó khăn nhất.
Một buổi sớm tỉnh dậy, Địch Vân trở mình nằm nghiêng, mặt quay vào tường, thở theo phép luyện công, bỗng nghe thấy tiếng thở dài của Đinh Điển, âm thanh có vẻ lo âu, một lúc sau lại nghe chàng lẩm bẩm một mình:
– Hôm nay chưa tàn, ngày mai thay cũng chưa muộn.
Địch Vân lấy làm lạ, trở mình lại, chỉ thấy Đinh Điển ngẩng đầu, đang chăm chú nhìn lên bồn hoa đặt trên bậu cửa lầu cao xa xa kia.
Địch Vân từ khi luyện “Thần chiếu công” tai mắt linh mẫn hơn trước nhiều, mới nhìn đã thấy trong ba đóa hoàng tường vi có một đóa đã bị rụng mất một cánh. Ngày ngày cậu vẫn thấy Đinh Điển ngưng thần ngắm hoa tươi trong chậu ấy, ngơ ngẩn xuất thần, mấy năm như một ngày, nghĩ bụng trong tù không có gì tiêu khiển, duy chỉ có bồn hoa kia luôn luôn tươi thắm, Đinh Điển say sưa thưởng thức thì cũng không có gì lạ. Có điều hoa tươi trong bồn ấy nếu không hàm tiếu thì cũng nở tươi dưới ánh mặt trời, không đợi một cánh nào héo đã thay rồi. Mùa xuân hoa nhài, mùa thu hải đường, ngày ngày đêm đêm vẫn một bồn hoa đặt bên bậu cửa sổ. Địch Vân nhớ chậu hoa hoàng tường vi này đặt đã sáu bảy ngày, thông thường thì đã thay rồi, nhưng lần này lại mãi mà chưa thay.
Hôm ấy Đinh Điển từ sáng đến tối bồn chồn bất an. Đến buổi sớm hôm sau, chậu hoàng tường vi kia vẫn chưa được thay, có năm sáu cánh đã bị gió thổi rụng. Địch Vân thầm cảm thấy có sự bất tường, thấy Đinh Điển thần sắc buồn bã, liền nói:
– Người ấy lần này quên thay hoa, chắc là đến chiều sẽ nhớ ra.
Đinh Điển lớn tiếng:
– Sao lại quên? Chắc không phải! Lẽ nào… lẽ nào bị ốm? Nhưng nếu có bị ốm thì cũng bảo người thay chứ!
Rồi chàng đi đi lại lại, thần sắc hết sức bất an.
Địch Vân không dám hỏi nhiều, bèn bó gối ngồi, nhập tĩnh luyện công.
Đến chiều, mây đen kín trời, rồi rả rích mưa, một cơn gió lạnh thổi qua, những cánh hoàng tường vi rơi lả tả. Trong suốt thời gian dài ấy, Đinh Điển mắt đăm đăm nhìn không rời bồn hoa, mỗi cánh hoa rơi, cơ mặt chàng lại giật giật, thần sắc khổ não, đau đớn như bị khoét từng miếng thịt.
Địch Vân không thể nhẫn nại được nữa, hỏi:
– Địch đại ca, vì sao huynh bồn chồn đến thế?
Đinh Điển quay đầu lại, mặt đầy vẻ giận, thét:
– Liên quan gì đến đệ, la lối cái gì?
Từ ngày truyền thụ võ công cho Địch Vân đến nay chàng chưa hề dữ tợn như vậy. Địch Vân cảm thấy bối rối muốn nói mấy câu phân giải nhưng thấy nét mặt Đinh Điển quá đỗi thê lương, chắc là lòng rất đau đớn, bèn im lặng.
Suốt buổi tối chàng không hề ngồi xuống. Địch Vân nghe thấy bước chân chàng đi đi lại lại, tiếng xiềng xích kêu loẻng xoẻng, cậu ta cũng không sao ngủ được.
Sáng sớm hôm sau, mưa bay lất phất không dứt. Trong ánh ngày mông lung, khi nhìn lên bồn hoa kia, chỉ thấy những cánh hoa trên ba bông hoàng tường vi đã rụng hết, trong bồn chỉ còn lại cuống hoa run rẩy trong mưa gió.
Đinh Điển kêu to:
– Chết rồi ư? Chết rồi ư? Nàng chết thật rồi ư?
Hai tay chàng bấu chặt chấn song run bần bật.
Địch Vân nói:
– Đại ca, nếu anh nhớ ai, chúng mình đi thăm xem.
Đinh Điển gầm lên:
– Thăm! Còn thăm gì được nữa. Nếu ta đi được thì đã đi rồi, ở chi trong nhà lao thối tha này nữa?
Địch Vân không rõ lý do, mở to mắt lặng im. Suốt ngày hôm ấy, Đinh Điển hai tay ôm đầu, ngồi trên mặt đất lặng im bất động, không ăn không uống.
Nghe tiếng “cốc cốc” báo canh một. Thời gian trôi qua trong lặng lẽ, cứ thế “cốc cốc, cốc cốc, keng keng” báo canh ba.
Đinh Điển từ từ đứng dậy, nói:
– Huynh đệ, chúng mình đi thử xem xem.
Giọng nói rất bình tĩnh. Địch Vân đáp:
– Vâng
Đinh Điển đưa tay nắm chặt hai chấn song nhẹ nhàng vén ra hai bên, hai chấn song lập tức cong veo. Đinh Điển nói:
– Nắm chặt lấy xiềng, đừng để phát ra tiếng động.
Địch Vân nghe lời giữ chặt xiềng xích.
Đinh Điển bước đến bên tường, đề khí nhảy vọt lên, đã đứng trên mặt tường, khẽ nói:
– Nhảy lên!
Địch Vân học theo, hướng lên mặt tường mà nhảy. Sau khi xương bả vai bị xâu dây sắt, kình lực bị mất hết, cú nhảy chỉ được mấy tấc. Đinh Điển duỗi tay ra chụp lấy, kéo cậu ta lên mặt tường, hai người cùng nhảy xuống.
Vượt qua được bức tường này, bên ngoài còn có một bức tường rất cao, Đinh Điển thì còn được, chứ Địch Vân thì không cách nào vượt qua. Đinh Điển hừm một tiếng, tựa sống lưng vào tường. Chỉ nghe thấy tiếng “rào rào”, vôi vữa trên tường rời ra gạch đá rơi xuống lả tả. Địch Vân hoa cả hai mắt, mở mắt nhìn thấy trên tường hiện ra một lỗ hổng lớn, không thấy Đinh Điển đâu nữa.
Thì ra chàng đã dùng nội công tuyệt đỉnh “Thần chiếu kinh” phá tường mà ra. Địch Vân vừa sợ vừa mừng, vội vàng nhảy qua lỗ thủng bức tường. Ra khỏi con hẻm nhỏ là đường phố. Đinh Điển hình như rất quen thuộc mọi đường phố trong thành Kinh Châu. Qua một dãy phố lại xuyên qua hai con hẻm, đến trước một cánh cửa hàng sắt.
Đinh Điển giơ tay đẩy, cách một tiếng, then cửa gãy lìa. Người thợ rèn trong hàng sắt giật mình, nhảy dựng dậy kêu:
– Có trộm.
Đinh Điển chặn ngang yết hầu y, hạ giọng nói:
– Thắp đèn.
Người thợ rèn không dám bướng, thấp đèn lên, thấy hai người tóc dài rủ đến tận vai, mặt đầy râu, bộ dạng hung ác dễ sợ, đâu dám ho he?
Đinh Điển nói:
– Chặt hết xiềng xích cho bọn ta!
Thợ rèn đoán hai người này là trọng phạm vượt ngục, nếu chặt xiềng xích cho họ, quan phủ tra ra chắc chắn sẽ bị trừng trị nên hơi do dự. Đinh Điển thuận tay cầm lấy một thanh sắt lớn, “chát” một tiếng, gãy ngang làm đôi, quát:
– Cái cổ của ngươi có cứng thế này không?
Thợ rèn tưởng gặp phải quỷ thần, mình đánh thanh sắt này, dù có quai búa mấy chục nhát chưa chắc đã gãy, vậy mà đại hán này chỉ giơ tay một cái, thanh sắt đã gãy lìa, nếu cứ cứng đầu thì thật không ổn, bèn vội vàng “dạ, dạ”, cầm lấy búa và đột sắt, trước hết chặt xiềng xích cho Đinh Điển, lại chặt cho Địch Vân.
Đinh Điển đầu tiên rút thanh dây sắt trên xương bả vai của mình ra. Khi chàng rút thanh dây sắt trên xương bả vai Địch Vân, Địch Vân đau đớn suýt ngất đi.
Cuối cùng, hai tay Địch Vân nâng hai thanh dây sắt đẫm máu tươi, đứng trước cái đe sắt, nghĩ đến năm năm đau khổ trong tù không thấy ánh mặt trời, bị hai thanh dây sắt này xâu qua bả vai, mãi đến hôm nay xiềng xích, dây sắt mới được nhổ ra, bỗng thấy vừa vui mừng vừa đau đớn, đứng ngẩn người ròng ròng nước mắt.
Địch Vân theo Đinh Điển chạy ra khỏi lò rèn. Chợt thoát khỏi xiềng xích, lâng lâng chạy như gió trên đường, Địch Vân cảm thấy không quen, mấy lần đầu nặng chân nhẹ suýt ngã nhào, nhưng thấy Đinh Điển bước chân trầm ổn, càng chạy càng nhanh bèn bám sát theo chỉ sợ lạc mất.
Trong khoảnh khắc hai người đã đến dưới khung cửa sổ có đặt bồn hoa. Đinh Điển ngẩng đầu lên, do dự một chút như muốn tiến vào lại như còn ngại. Địch Vân thấy cửa sổ đóng chặt, trong tòa lầu im phăng phắc, nói:
– Đệ vào trước xem xem, được không?
Đinh Điển gật gật đầu.
Địch Vân đi vòng ra trước cửa tòa lầu, đưa tay đẩy cửa, phát hiện ra then không cài. Tường bao rất thấp, một cành liễu chìa ra ngoài tường, Địch Vân khẽ nhảy lên nắm lấy cành liễu, nhảy qua tường. Phía trong có một cánh cửa khép hờ. Địch Vân đẩy cửa vào, bước lên lầu, trong bóng tối nghe thấy tiếng cầu thang kêu cót két, dưới chân cảm thấy nhẹ nhàng. Trong hơn năm năm qua Địch Vân chỉ suốt ngày suốt đêm loay hoay trong phòng giam, chưa hề bước lên một bậc cầu thang.
Lên đến lầu, nghiêng tai nghe ngóng, tuyệt không một âm thanh, trong ánh sáng lờ mờ, thấy bên trái có cửa, liền nhẹ nhàng bước vào, trong phòng đến cả tiếng thở cũng không. Trong ánh chập choạng thấy trên bàn có một giá đèn, giơ tay vào trên bàn lấy dao và đá đánh lửa, thấp ngọn nến lên, dưới ánh nến bỗng cảm thấy một nỗi thê lương tịch mịch không thể nói thành lời.
Trong phòng trống trải, ngoài một cái bàn, một cái ghế và một cái giường ra, không có gì nữa. Trên giường treo một tấm màn trắng, một tấm chăn đơn, một chiếc gối vải, bên chân giường đặt một đôi hài phụ nữ màu xanh mới cho biết đây vốn là phòng của một người con gái.
Địch Vân ngẩn ra một lúc, khi chạy sang gian phòng thứ hai để xem, ở đây cả bàn ghế cũng không có, nhưng xem ra không phải là mới được khiêng đi mà là đã nhiều năm vốn trống trải như thế. Lại bước xuống lầu, nơi nào cũng xem xét, quả là không có một người nào.
Cậu thoáng cảm thấy có cái gì đó không ổn, đi ra báo cho Đinh Điển biết. Đinh Điển nói:
– Không có gì hết à?
Địch Vân lúc lắc đầu. Hình như điều này đã ở trong dự liệu của Đinh Điển, hoàn toàn không lấy làm lạ, nói:
– Đến chỗ khác xem xem.
* * *
Đến một chỗ khác lại là một tòa nhà lớn, cổng lớn sơn đỏ chói, trên cửa đóng những chiếc đinh đồng to bảng miệng bát, ngoài cổng có hai ngọn đèn lồng lớn. Trên một lồng đèn có đề “Kinh Châu phủ chính đường”, còn một lồng đèn khác đề “Lăng phủ”. Địch Vân sợ hãi: “Đây là chỗ ở của Lăng tri phủ, phủ Kinh Châu, Đinh đại ca đến đây làm gì? Muốn giết ông ta sao?”.
Đinh Điển vẫy tay, không nói một lời, vượt tường mà vào. Chàng rất thuộc lối đường trong Lăng phủ, qua hành lang, vào cửa cứ như là vào nhà mình. Đi qua hai dãy hành lang, đến một sảnh hoa ở ngoài cửa, thấy có ánh sáng chiếu qua lớp giấy bồi cửa sổ, Đinh Điển bỗng run rẩy, run giọng nói:
– Huynh đệ, đệ vào xem xem!
Địch Vân đưa tay đẩy cửa sảnh, chỉ thấy đèn đuốc sáng lòa, trên bàn có hai cây bạch lạp đang cháy, thì ra là một linh đường. Địch Vân rất sợ nhìn thấy linh đường, quan tài hoặc người chết, lúc này lại thấy, tuy đã dự liệu từ trước nhưng vẫn không nén được cảm thấy rợn gáy, chăm chú nhìn lên linh vị thấy đề tám chữ “Ái nữ Lăng Sương Hoa chi linh vị” bỗng cảm thấy sau mình có tiếng gió táp, Đinh Điển đã đến.
Đinh Điển đứng chết lặng, nhào tới bàn, khóc vang, kêu lên:
– Sương Hoa, nàng quả nhiên đã đi trước ta rồi.
Trong phút chốc, Địch Vân nghĩ đến bao nhiêu là chuyện, mọi hành vi cử chỉ kỳ quái của người anh họ Đinh này trong lúc ôm bàn mà khóc đã khiến Địch Vân hiểu ra tất cả. Nhưng nghĩ kỹ lại có bao điều không sao hiểu nổi.
Đinh Điển hoàn toàn không để ý đến việc mình là trọng phạm vượt ngục, không hề quan tâm đến việc mình đang ở trong nhà tri phủ đại nhân, càng khóc càng bi thảm. Địch Vân biết không cách gì khuyên giải được đành để Đinh Điển tự nhiên.
Đinh Điển khóc rất lâu, mới từ từ đứng dậy, đưa tay vén tấm rèm trắng, đằng sau tấm rèm là một cỗ quan tài. Hai tay chàng ôm chặt quan tài, úp mặt lên nắp áo quan, thổn thức nói:
– Sương Hoa, Sương Hoa, vì sao nàng lại nhẫn tâm như thế? Trước khi nàng ra đi, sao không bảo ta đến gặp nàng một lần.
Địch Vân bỗng nghe thấy tiếng chân bước, ngoài cửa có mấy người đến, vội nói:
– Đại ca, có người đến.
Đinh Điển kề môi hôn lên quan tài, không để ý gì đến việc có người đến.
Chỉ thấy đèn đuốc sáng trưng, hai người giơ cao hai bó đuốc tiến vào, hét lên:
– Ai làm ồn ở đây thế?
Sau hai người ấy là một người đàn ông tuổi trạc bốn lăm bốn sáu, áo quần sang trọng, mặt mũi hung ác, y nhìn Địch Vân một cái, hỏi:
– Ngươi là ai? Đến đây làm gì?
Địch Vân tức giận đầy lòng, hỏi lại:
– Còn ngươi là ai? Đến đây làm gì?
Một người cầm đuốc cao giọng mắng:
– Tiểu tặc, vị này là Lăng đại nhân, tri phủ Kinh Châu, ngươi to gan thực, nửa đêm canh ba dám đến đây, định làm phản hả? Mau quỳ xuống!
Địch Vân cười nhạt một tiếng, không thèm để ý.
Đinh Điển lau nước mắt, hỏi:
– Sương Hoa mất ngày nào? Bị bệnh gì?
Giọng nói rất bình tĩnh.
Lăng tri phủ nhìn anh một cái, nói:
– À, tưởng là ai, hóa ra là Đinh đại hiệp. Tiểu nữ bất hạnh qua đời, phiền đại hiệp đến điếu. Tiểu nữ mất đã năm ngày rồi, thầy thuốc cũng không biết là bệnh gì, chỉ nói là uất ức không tiêu trừ được.
Đinh Điển căm hận nói:
– Thế là ngươi toại nguyện.
Lăng tri phủ than:
– Đinh đại hiệp, đại hiệp cố chấp quá, nếu sớm nói ra, tiểu nữ cố nhiên không bị đại hiệp hại chết, ta và đại hiệp có thể thành bố vợ con rể, thế có phải là tốt đẹp cả không.
Đinh Điển lớn tiếng nói:
– Ngươi nói ta hại chết Sương Hoa à? Chẳng phải là ngươi đã hại chết cô ấy sao?
Nói rồi bước một bước tới trước mặt Lăng tri phủ, mắt tóe hung quang.
Lăng tri phủ lại hết sức bình tĩnh, lắc đầu nói:
– Việc đã như thế, còn nói gì nữa? Sương Hoa ơi, Sương Hoa, con ở nơi chín suối hẳn là trách cha không lượng cho con.
Lão chậm rãi bước đến trước linh vị, tay trái vỗ bàn, tay phải gạt nước mất.
Đinh Điển ảm đạm nói:
– Nếu hôm nay ta giết ngươi, linh hồn Sương Hoa trên trời hẳn sẽ hận ta. Lăng Thoái Tư, hãy nhìn lên linh vị con gái ngươi, ngươi đày đọa ta bảy năm, hôm nay chúng ta thanh toán hết. Từ nay về sau nếu ngươi còn đụng đến ta thì đừng trách họ Đinh này vô tình. Địch huynh đệ, đi thôi.
Lăng tri phủ thở dài một tiếng, nói:
– Đinh đại hiệp, chúng ta rơi vào kết quả hôm nay, đại hiệp bảo có gì là hay?
Đinh Điển nói:
– Đêm khuya, ngươi hãy đặt tay lên trái tim mình mà tự hỏi, xem có phải hổ thẹn hay không? Ngươi chỉ tham “Liên thành quyết”, hại chết cả con gái của mình.
Lăng tri phủ nói:
– Đinh đại hiệp, chớ vội đi, hãy nói kiếm quyết ấy ra, ta sẽ cho đại hiệp thuốc giải, để khỏi phải mất mạng.
Đinh Điển kinh hãi, nói:
– Thuốc giải nào?
Chính lúc ấy bỗng cảm thấy mặt, môi, lòng bàn tay đều tê dại, đồng thời lại ngửi thấy một làn hương hoa dìu dịu, mùi hoa này… mùi hoa này… anh vừa sợ hãi vừa tức giận, thân mình lảo đảo.
Lăng tri phủ nói:
– Ta sợ có kẻ xấu đến mở quan tài làm nhục đến di thể con gái ta, vì thế…
Đinh Điển lập tức tỉnh ngộ, giận dữ nói:
– Ngươi đã bôi thuốc độc lên quan tài? Lăng Thoái Tư, ngươi thật là ác độc!
Chàng liền tung mình lên, phát chưởng đánh Lăng Thoái Tư. Không ngờ thuốc độc kia thật là lợi hại, trong khoảnh khắc đã tiêu trừ công lực, mủn cả xương, “Thần chiếu công” đã thành vô hiệu.
Lăng Thoái Tư nghiêng mình né tránh, động tác hết sức nhanh nhẹn. Ngoài cửa lại có bốn đại hán bước vào, lăm lăm đao kiếm, cùng tấn công Đinh Điển. Đinh Điển giơ chân trái nhảm cổ tay người bên trái đá tới, cú đá này phương vị rất xảo diệu, đơn đao trong tay người kia chắc chắn phải rơi. Nào ngờ chân mới đến nửa chừng, kình lực đã mất hết, thì ra độc tính đã truyền đến chân. Người kia trở sống đao, “bốp” một tiếng, đánh vào xương ống chân Đinh Điển. Xương chân Đinh Điển vỡ vụn, chàng ngã xuống đất.
Địch Vân cả sợ, trong hoảng hốt không kịp suy nghĩ, tung mình chụp lấy Lăng Thoái Tư, nghĩ bụng chỉ có cách bắt lấy lão để uy hiếp mới có thể cứu được Đinh Điển. Nào ngờ Lăng Thoái Tư vung xéo tả chưởng, “vù” một tiếng đánh trúng giữa ngực Địch Vân, thủ pháp kình lực đều thuộc loại thượng thừa. Địch Vân đã sớm không kể đến tính mạng, không cần gạt đỡ, vẫn nhảy xốc tới. Chưởng ấy của Lăng Thoái Tư rõ ràng đã đánh trúng ngực đối phương nhưng thấy Địch Vân không hề để ý, lão không biết Địch Vân có áo tằm đen hộ thân, cho rằng võ công của cậu ta cực kỳ cao, đang kinh hãi đã bị chưởng trái của Địch Vân đánh trúng huyệt đản trung ở trên ngực.
Địch Vân đắc thủ, cúi mình cõng Đinh Điển trên lưng, tay trái vẫn nắm chắc yếu huyệt trên ngực Lăng Thoái Tư. Bốn tên kia sợ hãi do dự, chỉ biết chửi mắng chứ không dám xông lên. Đinh Điển hét:
– Ném đuốc xuống, tắt nến đi.
Tên cầm bó đuốc không dám không nghe lời, trong linh đường bỗng tối đen như mực.
Địch Vân tay trái vẫn thộp ngực Lăng Thoái Tư, tay phải cõng Đinh Điển, dấn bước xông ra. Đinh Điển chỉ đường, chốc lát đã đến bên cửa hoa viên, Địch Vân đá tung cánh cửa giáng mạnh một quyền vào huyệt đản trung trên ngực Lăng Thoái Tư, cõng Đinh Điển chạy trốn. Trong bóng tối, bước thấp bước cao, chạy như ma đuổi.
Cậu ta khổ công tập luyện “Thần chiếu kinh” đã hai năm, tuy chưa có thành tựu gì lớn nhưng nội lực đã khá cao thâm. Cậu đánh trúng ngực Lăng Thoái Tư là do gấp gáp liều mạng, ra đòn rất nặng, may mà trúng vào yếu huyệt của đối phương. Lăng Thoái Tư sau khi trúng quyền, hộc lên một tiếng, ngã ra phía sau. Bọn thủ hạ và võ sư của gã kinh hoảng vội vàng tới cứu, không ai nghĩ tới chuyện đuổi bắt hai người.
Đinh Điển chân tay mỗi lúc một tê dại nhưng đầu ốc vẫn tỉnh táo. Chàng thông thuộc mọi đường lối trong thành Giang Lăng, chỉ dẫn cho Địch Vân quành trái rẽ phải, không lâu sau đã chạy xa chỗ đông người, đến một cái vườn hoang. Đinh Điển nói:
– Lăng tri phủ chắc chắn sẽ giữ chặt cổng thành, tra xét gắt gao, huynh trúng độc đã lâu, không thể ra khỏi thành được nữa. Người ta bảo cái vườn hoang này có ma trước nay không ai dám tới, chúng ta tạm lánh ở đây rồi tính sau.
Địch Vân đặt Đinh Điển dưới một gốc mai, hỏi:
– Đinh đại ca, huynh trúng loại độc gì vậy? Làm cách nào đễ chữa trị?
Đinh Điển thở dài, cười khổ:
– Không ích gì đâu. Đây là chất kịch độc “Kim ba tuần hoa”, thiên hạ không có thuốc nào giải được, chịu được khắc nào hay khắc đó.
Địch Vân cả sợ, như rơi xuống hố băng, run giọng nói:
– Cái gì? Huynh… huynh nói đùa đấy chứ?
Nhưng trong lòng biết rõ Đinh Điển không nói đùa.
Đinh Điển nói:
– Chất độc “Kim ba tuần hoa” này của Lăng Thoái Tư cực kỳ lợi hại. Hi hi, trước đây huynh chỉ ngửi phải một chút đã ngất đi, lần này lại dính vào người, làm sao qua khỏi được?
Địch Vân lo lắng nói:
– Đinh đại ca, huynh đừng đau lòng, non xanh còn đó… Ôi… liên quan đến nữ nhân, đệ cũng vậy, thật hết cách… huynh nghĩ cách giải độc, đệ đi kiếm ít nước rửa cho huynh.
Trong lòng cậu đang lo lắng, lời lẽ lộn xộn.
Đinh Điển lắc lắc đầu, nói:
– Không có ích gì đâu, chất độc “Kim ba tuần hoa” này dùng nước rửa, da thịt lập tức rữa nát, chết càng thê thảm. Địch huynh đệ, ta có rất nhiều rất nhiều điều muốn nói với đệ, đệ đừng hoảng loạn, hốt hoảng một chút e rằng ta lẫn hết những điều cần nói.
Địch Vân đành ngồi xuống bên cạnh Đinh Điển, nhưng làm sao mà bình tĩnh được?
Đinh Điển nói rất điềm tĩnh tựa hồ như nói chuyện của người khác, không liên quan gì đến chàng:
– Huynh là người Kinh Châu, thuộc võ lâm thế gia. Thân phụ huynh rất nổi tiếng ở vùng Lưỡng Hồ (tức hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc). Huynh lại có năng khiếu võ học, ngoài học võ gia truyền, còn bái hai vị sư phụ. Thời trẻ huynh thích dẹp mọi nỗi bất bình, tất nhiên cũng đã làm những việc được người truyền tụng, về sau, phụ mẫu qua đời, gia tài giàu có nhưng cũng không muốn lấy vợ, chỉ chăm học võ, kết giao với bằng hữu giang hồ.
Việc này là của mười lăm năm trước, huynh cưỡi thuyền từ Tứ Xuyên về, sau khi rời Tam Giáp, thuyền đỗ lại ở Tam Đầu Bình. Đêm ấy huynh ở trong thuyền nghe thấy tiếng đánh nhau trên bờ. Huynh có tính thích võ nên rất quan tâm, liền nhìn qua cửa sổ ngó ra ngoài. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc, nhìn rất rõ, thấy ba người đang vây đánh một ông già. Ba người này đều nổi tiếng trong võ lâm vùng Lưỡng Hồ (Hồ Nam Hồ Bắc), huynh đều biết cả. Một người là “Ngũ Vân Thủ” Vạn Chấn Sơn – Địch Vân nói xen vào: “A, là sư bá của đệ” – Một người nữa là “Lục Địa Thần Long” Ngôn Đạt Bình – Địch Vân lại ngất lời – “A, là nhị sư bá của đệ, nhưng đệ chưa được gặp” – Người thứ ba sử một thanh trường kiếm, thân thủ hết sức nhanh nhẹn, đó là “Thiết Tỏa Hoành Giang” Thích Trường Phát – Địch Vân nhảy dựng dậy, kêu lên: “Là sư phụ của đệ!”.
– Huynh đã từng gặp Vạn Chấn Sơn mấy lần, biết lão võ công không xoàng, lúc ấy huynh còn kém xa. Thấy ba sư huynh đệ bọn họ liên thủ đánh ông già, chắc là họ sẽ thắng. Ông già đã bị thương trên lưng, máu chảy không ngừng, trong tay lại không có binh khí, chỉ hai tay không đấu với ba người, nhưng võ công của ông ta cao hơn bọn họ. Ba người kia không dám đến gần. Huynh càng xem càng cảm thấy bất bình, nhưng thấy bọn Vạn Chấn Sơn đều dùng sát chiêu, chắc chắn quyết giết ông lão. Huynh không dám lên tiếng, chỉ sợ bọn họ phát hiện ra thì tai họa không nhỏ. Việc giết nhau trên chốn giang hồ, nếu để người khác nhìn thấy, thường giết người diệt khẩu.
Đấu một hồi lâu, máu trên lưng ông lão càng chảy càng nhiều, quả là không thể cầm cự được nữa, bỗng kêu lên: “Được, ta sẽ trao cho các ngươi”, rồi ông ta thò tay vào trong bụng lục tìm. Ba người bọn Vạn Chấn Sơn nhất tề xông tới, tựa như sợ người khác tranh mất. Đột nhiên, ông lão đánh vù ra hai chưởng, ba người bị chưởng lực đánh dạt ra. Ông lão quay mình chạy, “póc” một tiếng nhảy ngay xuống sông. Ba người kia lớn tiếng la hoảng, đuổi đến bên sông.
Trường Giang từ Tam Giáp cuồn cuộn chảy xuống, nước ở Tam Đầu Bình rất xiết. Chỉ trong chốc lát, ông lão kia đã không còn tung tích. Nhưng sư phụ của đệ vẫn không chịu để yên, nhảy xuống thuyền của huynh, nhổ luôn cây sào tre, chống thuyền sục sạo khắp lòng sông một hồi. Ba người kia đã bức tử ông lão, đáng ra phải vui mừng mới phải, nhưng vẻ mặt ba người đều rất đáng sợ. Huynh không dám xem nữa, lấy chăn trùm kín đầu, loáng thoáng nghe họ cãi cọ gì đó như là oán trách lẫn nhau.
Mãi đến khi nghe thấy ba người kia đã chạy xa, huynh mới dám ngồi dậy, bỗng nghe “phách” một tiếng ở đằng sau lái thuyền. Người chèo thuyền “a” lên một tiếng, kêu lên: “Có ma!”. Huynh nghiêng đầu xem, chỉ thấy một người ướt sũng nằm trên ván thuyền, chính là ông lão kia. Thì ra sau khi nhảy xuống sông, ông ta bám lấy đáy thuyền, dùng thủ pháp “đại lực ưng trảo” bám chắc vào đáy thuyền, nín thở, chờ kẻ địch đi xa mới trồi lên. Huynh vội vàng đỡ ông ta vào trong thuyền, thấy ông ta thở thoi thóp, không nói ra tiếng.
Huynh nghĩ bụng: “Bọn Vạn Chấn Sơn chắc chưa yên tâm, sẽ xuống phía hạ du tìm thi thể ông lão.” Cũng do huynh tự hứa hành động theo đạo nghĩa hiệp khách, phải cứu người trong lúc nguy nan, bèn bảo nhà thuyền lập tức ngược dòng, trở lại Tam Giáp. Nhà thuyền đương nhiên không chịu, nửa đêm lại không có người kéo thuyền, lên Tam Giáp đâu phải là chuyện dễ. Nhưng như nói tóm lại, có tiền có thể sai khiến được cả quỷ thần.
Huynh có mang theo thuốc kim sang, liền chữa vết thương cho ông lão. Nhưng nhát kiếm đâm trên lưng ông ta quá sâu, thủng cả phổi, không thể chữa trị được. Huynh gắng hết sức chữa, không hỏi ông ta điều gì, chỉ mua rượu thịt ngon bồi dưỡng cho ông ta. Huynh nhìn võ công của ông ta, tận mắt thấy ông ta nhảy xuống sông, bám vào đáy thuyền, lòng can đảm và võ công ấy đáng để cho Đinh Điển này quên mình vì ông.
Chữa trị như thế được ba ngày, ông lão hỏi họ tên của huynh, cười khổ nói: “Tốt lắm, tốt lắm!”, rồi rút từ trong lòng ra một bọc giấy dầu, trao cho huynh. Huynh nói: “Thân nhân của lão trượng ở đâu, cháu nhất định sẽ đưa đến giúp lão trượng, quyết không để lỡ”. Ông lão nói: “Cháu biết ta là ai không?”. Huynh nói: “Không biết”. Ông lão nói: “Ta là Mai Niệm Sinh”.
Huynh ngạc nhiên không sao tưởng tượng nổi. Sao? Đệ không lấy làm lạ à? Mai Niệm Sinh là ai, đệ không biết sao? Là “Thiết Cốt Mặc Ngạc” Mai Niệm Sinh đấy. Đệ thật sự không biết à? (Địch Vân lại lắc lắc đầu nói: “Xưa nay đệ chưa từng nghe đến cái tên này”.) Hi hi, phải rồi, sư phụ của đệ tất nhiên là không nói cho đệ biết. “Thiết Cốt Mặc Ngạc” Mai Niệm Sinh là một ngôi sao danh tiếng trong võ lâm, ông ta có ba đệ tử, đại đệ tử có tên là Vạn Chấn Sơn, nhị đệ tử tên là Ngôn Đạt Bình, tam đệ tử tên là… (Địch Vân nói chen vào: “Đinh… Đinh đại ca, huynh… huynh nói sao?) Đệ tử thứ ba của ông ấy là Thích Trường Phát. Lúc ấy huynh nghe ông ấy tự nhận là Mai Niệm Sinh thì cũng ngạc nhiên như đệ lúc này đây. Huynh tận mắt thấy cuộc ác đấu dưới ánh trăng bên sông, thấy ba sư huynh đệ Vạn Chấn Sơn ra tay ác độc thì cũng kinh hãi như đệ lúc này.
Mai lão tiên sinh cười khổ, lắc lắc đầu:
– Đồ đệ thứ ba của ta lợi hại nhất, bất ngờ đâm một nhát kiếm vào lưng ta, lão già này mới phải nhảy xuống sông… (Địch Vân run giọng: “Sao? Đúng là sư phụ của đệ ra tay trước à?”) Huynh không biết nói gì để an ủi ông ta, chỉ nghĩ bụng “Bốn thầy trò ông ấy trở mặt thành cừu địch chắc là có nguyên nhân cực kỳ quan trọng”, huynh là người ngoài, tuy rất tò mò nhưng cũng không dám hỏi nhiều. Mai lão tiên sinh nói: “Trên đời này người thân của ta chỉ có ba đứa đồ nhi này. Chúng muốn đoạt một bộ kiếm phổ của ta, đang tâm hành thích cả sư phụ, hi hi… học trò ngoan. Bộ kiếm phổ ấy đã bọn chúng cướp mất rồi, nhưng không có kiếm quyết thì cũng có ích gì? “Liên thành kiếm pháp” tuy thần kỳ nhưng làm sao bằng được “Thần chiếu công”? Bộ “Thần chiếu kinh” này ta tặng cháu, hãy cố gắng luyện thành. Nếu luyện được kinh này, uy lực cực kỳ lớn, muôn vạn lần không được truyền cho kẻ xấu”. “Thần chiếu kinh” của huynh là do Mai lão tiên sinh truyền lại.
Sau khi nói xong những lời ấy, Mai lão tiên sinh sống không được hai canh giờ nữa. Huynh an táng tiên sinh bên bờ sông ở Vu Giáp. Lúc ấy huynh không biết rằng “Liên thành quyết” lại quan trọng đến thế, chỉ cho rằng đây là một bộ bí quyết kiếm thuật mà môn đồ của ông ấy muốn tranh đoạt, vì thế không nghĩ đến việc phải giữ bí mật, đề lên dòng chữ: “Lưỡng hồ đại hiệp Mai tiên sinh Niệm Sinh chi mộ”. Nào hay tấm bia đá ấy lại đem đến cho huynh bao điều phiền não. Có người theo dấu vết từ tấm bia đá ấy, tra hỏi thợ đá, phu thuyền, biết được người lập bia là huynh, Mai lão tiên sinh là do huynh an táng, vậy thì những thứ mà Mai lão tiên sinh mang theo bên mình tám chín phần là rơi vào tay huynh.
Chưa đầy ba tháng sau, có một tay giang hồ hào khách tìm đến nhà huynh. Người ấy mặt mũi rất tử tế, trò chuyện rất ân cần, cuối cùng cũng phải thổ lộ nguyên nhân. Ông ta bảo có một tấm bản đồ giấu kho báu ở trong tay Mai lão tiên sinh, lúc này chắc là huynh có được, xin huynh đưa ra mọi người cùng dò tìm, nếu như tìm được kho báu, huynh được bảy phần, ông ta ba phần.
Mai lão tiên sinh tặng cho huynh một bộ bí kinh luyện tập nội công thượng thừa, còn đọc mấy câu kiếm quyết, bảo là “Liên thành quyết” gì đó, nhưng chỉ là mấy con số mà thôi, ngoài ra chẳng có gì nữa cả, ở đâu ra bản đồ kho báu. Huynh cứ thực nói lại, người kia không tin, yêu cầu huynh đưa bí quyết võ công cho ông ta xem. Mai lão tiên sinh trịnh trọng dặn dò muôn vạn lần không được truyền cho kẻ xấu. Huynh tất nhiên là không chịu đưa ra, người kia buồn bã bỏ đi. Ba ngày sau, vào lúc nửa đêm có người mò đến nhà huynh, ra tay đánh nhau với huynh, y bị thương, thấy khó đành bỏ đi.
Tin tức lộ ra, người đến hỏi mỗi ngày một nhiều. Huynh quả thực là không đối phó nổi, cuối cùng, cả Vạn Chấn Sơn cũng đến. Huynh không thể ở nhà cũ ở Kinh Môn được nữa, chỉ còn cách phải bỏ đi, mai danh ẩn tích, chạy cho xa, đến tận thảo nguyên ngoài ải bắc buôn bán súc vật… Qua được năm sáu năm, không nghe thấy tin tức gì nữa, lòng nhớ quê hương bèn cải trang trở về Kinh Môn xem sao. Nào ngờ nhà cũ đã bị người ta đốt rụi chỉ còn bãi đất hoang, may mà huynh không có thân nhân, thế là trắng tay.
Địch Vân lòng dạ rối bời, bảo là không tin thì Đinh đại ca xưa nay chưa hề nói dối, huống nữa với mình thân như ruột thịt sao lại phải bịa chuyện lừa mình? Còn nếu tin lời huynh ấy, thì lẽ nào sư phụ luôn thật thà trung hậu của mình lại là kẻ âm hiểm ác độc như thế?
Chỉ thấy cơ mặt Đinh Điển giật giật không ngừng, xem ra chất độc đang lan tỏa, Địch Vân nói:
– Đinh đại ca, chuyện của sư phụ đệ và thái sư phụ, chúng ta đừng vội truy cứu. Huynh… thử nghĩ kỹ xem, có cách gì trị được chất độc không.
Đinh Điển lắc đầu:
– Huynh đã bảo đệ không được ngắt lời, đệ cứ yên mà nghe.
Đây lại là chuyện chín năm về trước. Thượng tuần tháng chín, huynh đến Hán Khẩu, bán nhân sâm cho hiệu thuốc. Chủ hiệu lại là một người phong nhã, xong việc mua bán bèn mời huynh đi xem hội hoa cúc nổi tiếng ở Hán Khẩu. Ở hội hoa cúc này những loại hoa quý nổi tiếng rất nhiều, ôi, hoàng cúc thì có “đô thăng”, “kim vân dược”, “hoàng hạc lệnh”, “báo quân tri”, “ngự bào hoàng”, “kim khổng tước”, “trắc kim trản”, “oanh vũ hoàng”. Bạch cúc thì có “nguyệt hạ bạch”, “ngọc mẫu đơn”, “ngọc bảo tướng”, “ngọc linh lung”, “nhất đoàn tuyết”, “Điêu Thuyền bái nguyệt”, “Thái Dịch liên”. Tử cúc (cúc tím) thì có “bích giang hà”, “song phi yến”, “tiễn hà tiêu”, “tử ngọc liên”, “tử hà bôi”, “mã não bàn”, “tử la vi”. Hồng cúc thì có “mỹ nhân hồng”, “hải vân hồng”, “túy quí phi”, “tú phù dung”, “yên chi lương”, “cẩm lệ chi”, “hạc đỉnh hồng”. Cúc màu hồng nhạt thì có “phật kiến tiếu”, “hồng phấn đoàn”, “đào hoa cúc”, “Tây Thi phấn”, “thắng phi đào”, “ngọc lâu xuân”…”
Đinh Điển cứ thuận miệng kể ra các loại hoa cúc, có vẻ còn quen thuộc hơn cả các chiêu thức võ công. Địch Vân ngạc nhiên nhưng lại nghĩ ngay rằng Đinh đại ca là người yêu hoa, vì vậy trên bậu cửa sổ của vị Lăng tiểu thư kia luôn đặt bồn hoa tươi. Huynh ấy thuộc hết tên các giống hoa cúc, cũng không có gì lạ.
Nhắc đến tên những loài hoa ấy, khóe miệng Đinh Điển hơi mỉm cười, thần sắc rất dịu dàng, nhẹ nhàng nói:
– Huynh vừa xem vừa tán thưởng, nói tên các loài hoa, phẩm bình ưu liệt. Khi huynh thưởng thức hoa rồi sắp ra khỏi vườn hoa, nói rằng: “Hội hoa cúc này thật là hiếm có, chỉ tiếc là không có lục cúc”.
Bỗng nghe thấy giọng của một cô gái nhỏ nói ở phía sau: “Tiểu thư, người này lại biết hoa lục cúc. Những giống hoa xanh như “xuân thủy bích ba”, “lục ngọc như ý”… trong nhà ta người thường dễ gì được thấy?”
Huynh quay đầu lại, thấy một thiếu nữ thanh tú tuyệt tục đang ngắm hoa cúc, mình mặc áo vàng nhạt, thật đúng là người thanh như cúc, suốt đời huynh chưa từng thấy cô gái nào trang nhã thanh lệ như thế. Đi theo nàng là một a hoàn khoảng mười bốn mười lăm tuổi. Vị tiểu thư ấy thấy huynh đang chăm chú nhìn mình, mặt ửng hồng, khẽ nói: “Xin lỗi, tiên sinh đừng trách… A hoàn nhỏ lỡ nói hỗn”. Huynh đứng ngẩn người, không nói được lời nào.
Huynh nhìn theo nàng đi ra khỏi vườn hoa, vẫn ngẩn ngơ không nói được thành lời. Người chủ hiệu thuốc nói: “Vị này là tiểu thư, con gái của Lăng Hàn lâm ở Vũ Xương, là mỹ nhân nổi tiếng ở Vũ Hán chúng ta. Hoa ở trong nhà cô ấy thật tuyệt vời”.
Huynh ra khỏi vườn hoa, chia tay với người chủ hiệu thuốc, về đến nhà trọ, trong lòng chỉ nghĩ đến Lăng tiểu thư mà thôi. Quá giờ ngọ, huynh liền qua sông đến Vũ Xương, hỏi đường, tìm đến phủ Lăng Hàn lâm. Nếu đến thăm thì e quá mạo muội, huynh cứ lượn qua lượn lại ngoài cổng phủ, lòng thất điên bát đảo, vừa vui sướng lại vừa sợ hãi vừa tự mắng mình đáng chết. Bấy giờ huynh cũng đã không còn nhỏ tuổi nữa nhưng lại như một chú nhóc mới rơi vào lưới tình.
Nói đến đây, gương mặt Đinh Điển tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ lạ, mất lấp lánh thần quang… Địch Vân cảm thấy sợ hãi, lo Đinh Điển không chịu đựng nổi, ngập ngừng nói:
– Đinh đại ca, huynh hãy nghỉ một chút, đệ đi tìm thầy thuốc tới xem cho huynh, chưa chắc đã vô phương cứu chữa.
Nói rồi liền đứng dậy.
Đinh Điển nắm chặt tay áo Địch Vân, nói:
– Hai chúng ta bộ dạng này mà đi tìm thầy thuốc chẳng phải là tự tìm đường chết sao? – ngừng một chút, lại thở dài – Địch huynh đệ, ngày ấy đệ nghe tin sư muội lấy người khác, tức giận đến nỗi tự thắt cổ. Sư muội của đệ đối với đệ vô tình vô nghĩa, thực không đáng phải vì cô ta mà chết.
Địch Vân gật đầu nói:
– Đúng vậy! Mấy năm nay đệ cũng nghĩ ra rồi.
Đinh Điển nói:
– Nếu như sư muội của đệ đối với đệ tình thâm, rốt cuộc vì đệ mà chết thì đệ cũng nên chết vì nàng.
Địch Vân bỗng tỉnh ngộ, hỏi:
– Lăng tiểu thư vì huynh mà chết ư?
Đinh Điển nói:
– Đúng thế! Nàng đã vì huynh mà chết. Bây giờ huynh cũng vì nàng mà chết. Trong… trong lòng huynh cảm thấy rất sung sướng. Nàng đối với huynh tình sâu nghĩa nặng. Huynh… huynh đối với nàng cũng không kém. Địch huynh đệ, đừng nói huynh trúng độc không thuốc nào chữa được, dù có chữa được, huynh cũng không chữa đâu.
Địch Vân đau lòng không chịu nổi, đương nhiên là vì thương xót người bạn tốt sắp phải ra đi nhưng trong sâu thảm cõi lòng lại hâm mộ hạnh phúc của Đinh Điển, bởi vì trên thế giới này có một người con gái thật lòng yêu huynh ấy, cam lòng chết vì huynh ấy và huynh ấy cũng chân thành báo đáp mối thâm tình. Còn mình, còn mình thì sao?
Đinh Điển lại đắm mình vào hồi ức dĩ vãng, nói:
– Cổng phủ Lăng Hàn lâm là cổng lớn đỏ chói, hai bên là hai con sư tử đá lớn, huynh lại là khách giang hồ, làm sao có thể tự tiện xông vào? Huynh dạo quanh cổng phủ ba canh giờ, mãi đến hoàng hôn, cũng không biết mình đang trông đợi điều gì.
Trời chóng tối, huynh vẫn không muốn rời, bỗng từ cánh cửa nhỏ bên cạnh một thiếu nữ bước ra, bước tới bên cạnh huynh, khẽ nói: “Của ngốc này, vẫn còn chưa đi à? Tiểu thư mời tiên sinh về đi!”. Huynh nhìn, chính là cô bé a hoàn của Lăng tiểu thư. Tim đập bình bình, huynh ấp úng nói:
– Cô… cô nói gì?
Cô ta cười hi hi nói:
– Tiểu thư và tôi đánh cuộc xem tiên sinh lúc nào mới đi, tôi đã thắng được hai cái nhẫn rồi, tiên sinh vẫn còn chưa đi à?
Huynh vừa sợ vừa mừng, nói: “Tôi ở đây tiểu thư đã biết rồi à?” Cô bé cười nói: “Tôi ra xem tiên sinh mấy lần, tiên sinh vẫn không nhìn thấy tôi, linh hồn của tiên sinh cũng không thấy, phải không?”. Cô ta cứ cười cười, quay mình đi. Huynh vội nói: “Tỉ tỉ!” Cô bé nói: “Sao? Tiên sinh muốn gì?”. Huynh nói: “Nghe tỉ tỉ nói, trong phủ có mấy loại lục cúc, tôi rất muốn xem. Không biết có được không?” Cô ta gật gật đầu chỉ tay ra một góc lầu hồng, nói: “Để tôi xin với tiểu thư, nếu tiểu thư bằng lòng, thì sẽ đem lục cúc đặt ở bên bậu cửa sổ lầu hồng kia”.
Hôm ấy, huynh ngồi trên bậc đá ngoài phủ họ Lăng suốt đêm.
Sáng sớm hôm sau, Địch huynh đệ, huynh thật có phúc, hai chậu hoa cúc màu lục nhạt xuất hiện trên bậu cửa. Huynh biết một bồn gọi là “xuân thủy bích ba”, một bồn tên là “bích ngọc như ý”, nhưng trong lòng huynh thì chỉ nghĩ đến người đặt hai bồn hoa ấy. Chính lúc ấy, gương mặt mỹ lệ nhất thiên hạ thoáng hiện sau rèm cửa, nhìn huynh một cái bỗng ửng hồng rồi biến mất, từ đó không hiện ra nữa.
Địch huynh đệ, đại ca của đệ tướng mạo tầm thường, chẳng giàu chẳng sang, chỉ là một kẻ thảo mãng lưu lạc giang hồ, làm sao dám trông đợi được giai nhân đoái tưởng? Có điều từ đó về sau, mỗi buổi sớm huynh vẫn đến ngoài hậu viên Lăng phủ nhìn lên bậu cửa sổ của tiểu thư. Lăng tiểu thư cũng nhớ huynh, ngày nào cũng thay một bồn hoa tươi, đặt trên bậu cửa.
Cứ như thế hơn sáu tháng, bất kỳ mưa to gió lớn, sương lạnh tuyết rơi, huynh sớm sớm lại đến thưởng hoa. Lăng tiểu thư cũng mặc gió mưa không đổi, ngày ngày vẫn thay một bồn hoa tươi cho huynh. Nàng mỗi ngày chỉ nhìn huynh một cái, quyết không nhìn lần thứ hai, mỗi khi nhìn mặt lại ửng hồng ẩn vào sau rèm cửa sổ. Huynh chỉ cần mỗi ngày được nhìn thấy sóng mắt nàng một lần, thấy nàng ửng hồng gương mặt là đủ cảm thấy hài lòng mãn ý. Nàng chưa bao giờ nói chuyện với huynh, huynh cũng chưa bao giờ dám thốt một lời. Với võ công của huynh, chỉ cần một bước nhảy nhẹ nhàng là có thể lên lầu, đến bên cạnh nàng. Nhưng huynh chưa bao giờ dám một chút khinh mạn. Ngay cả viết một phong thư để bày tỏ lòng ái mộ, huynh cũng không dám.
Một đêm ngày mùng năm tháng ba năm ấy, có hai hòa thượng đến chỗ huynh ở bất ngờ tập kích huynh. Chúng biết tin tức, muốn cướp “Thần chiếu kinh” và kiếm quyết. Đây là hai trong năm hòa thượng của “Huyết đao môn”, trong đó có một tên đã bị huynh thanh toán trong tù, hôm ấy đệ cũng tận mắt nhìn thấy đấy. Nhưng hồi đó huynh chưa luyện xong “Thần chiếu kinh”, võ công không bằng chúng, bị hai tên ác tăng đó đánh trọng thương, suýt không giữ được tính mạng, huynh nấp trong đống cỏ ngựa mới thoát nạn.
Lần bị thương này nặng quá, nằm liệt hơn ba tháng mới gượng dậy được. Huynh mới dậy, đã chống gậy tập tễnh đến cửa sổ vườn sau Lăng phủ. Chỉ thấy cảnh vật hoàn toàn khác. Hỏi ra mới biết Lăng Hàn lâm đã chuyển nhà từ ba tháng trước. Chuyển đến nơi nào thì không ai biết cả.
Địch huynh đệ, đệ nghĩ xem, nỗi thất vọng của huynh lúc ấy còn ghê gớm hơn vết thương trên thân thể.
Huynh lấy làm lạ, Lăng Hàn lâm là nhân vật đại danh đỉnh đỉnh ở Vũ Xương, chuyển đến nơi nào mà tới mức không ai biết. Nhưng huynh dò tìm khắp nơi, tốn không ít của cải và sức lực vẫn không có một chút đầu mối nào. Thật có điều gì rắc rối lớn đây. Chắc là Lăng Hàn lâm phải trốn tránh kẻ thù hoặc là có nguyên nhân đặc biệt nào đó, mới đột ngột dời cả nhà đi như thế, không biết đi đâu, sao khéo nhè lúc huynh bị thương mà chuyển nhà?
Từ đó, huynh không còn bụng dạ nào mà làm bất cứ việc gì nữa, đông phiêu tây lãng khắp giang hồ. Cũng nhờ Đinh Điển này hồng phúc, một ngày nọ trong quán trà ở Trường Sa tình cờ nghe được hai người trong bang hội đàm luận, tính chuyện đến Kinh Châu tìm Vạn Chấn Sơn, bảo là bắt lão ta phải giao bộ “Liên thành kiếm phổ”… Huynh nhớ lại ngày ấy ba sư huynh đệ Vạn Chấn Sơn đại nghịch giết thầy chỉ vì bộ kiếm phổ ấy, rốt cuộc bộ kiếm phổ ấy ra sao cũng nên xem một chút. Thế là huynh lặng lẽ theo hai người ấy, đến Giang Lăng. Hai kẻ trong bang hội này quả là không biết tự lượng sức mình, vừa đến nhà họ Vạn gây sự liền bị Vạn Chấn Sơn tóm được, giải đến nha môn phủ Kinh Châu. Huynh cũng theo xem náo nhiệt, vừa nhìn thấy tờ cáo thị trước cửa nha môn, quả là tin mừng từ trên trời rơi xuống. Thì ra tri phủ ở đây không phải ai xa lạ mà chính là Lăng Thoái Tư, thân phụ của Lăng tiểu thư.
Tối hôm ấy, huynh lặng lẽ bưng một bồn hoa tường vi đặt lên bậu cửa sổ lầu Lăng tiểu thư, rồi đứng đợi ở dưới lầu. Sớm hôm sau, tiểu thư mở cửa sổ, thấy bồn hoa, reo lên một tiếng, liền thấy ngay huynh. Hai đứa mình hơn một năm không gặp cứ ngỡ là kiếp này không còn được gặp nhau nữa. Phen này xa lâu gặp lại, thật là khôn xiết mừng vui. Nàng nhìn huynh một lúc, mặt ửng hồng, nhẹ nhàng khép cửa sổ. Ngày thứ ba, cuối cùng nàng cũng đã mở lời, hỏi:
– Huynh bị bệnh à? Gầy đi nhiều quá.
Những ngày hôm sau, huynh không là người, mà là thần tiên trên trời, kỳ thực có là thần tiên nhất định cũng không sung sướng như huynh lúc ấy. Cứ nửa đêm, huynh đến trên lầu đón Lăng tiểu thư ra đi dạo khắp các nơi hoang sơn khoáng dã xứ Giang Lăng. Hai đứa vẫn không hề có hành vi bất chính nào, nhưng không có chuyện gì là không nói tới, thành một đôi tri kỷ mà bảng hữu thiên hạ cũng không sánh nổi.
Một buổi tối, Lăng tiểu thư thổ lộ với huynh một điều tuyệt mật. Thì ra cha của nàng tuy thi đỗ tiến sĩ, đã làm quan Hàn lâm, nhưng thực ra là một đại long đầu của Long Sa bang vùng Lưỡng Hồ, không những văn tài xuất chúng mà võ công cũng rất cao cường. Huynh đối với Lăng tiểu thư đã kính như thiên thần, đối với phụ thân của nàng tất nhiên cũng rất tôn kính, nghe nói vậy cũng không lấy làm điều.
Lại có một buổi tối, Lăng tiểu thư nói với huynh, thân phụ nàng sở dĩ không làm chức quan hàn lâm thanh cao nữa, lại còn tiêu hàng vạn lạng bạc, tìm trăm mưu ngàn kế để được đến làm tri phủ Kinh Châu là một mưu đồ trọng đại. Thì ra từ trong sử sách ông ta tìm hiểu được ở một nơi nào đó trong thành Kinh Châu nhất định có chôn một kho báu mà số lượng vô cùng nhiều.
Lăng tiểu thư nói: Thời Lục triều, Lương Vũ đế bị chết trong loạn Hầu Cảnh, Giản Văn đế nối ngôi, lại bị Hầu Cảnh hại chết, Tương Đông vương Tiêu Giáng nối ngôi ở Giang Lăng, đó là Lương Nguyên đế. Lương Nguyên đế nhu nhược bất tài, tính chỉ thích ky cóp của cải. Làm hoàng đế ở Giang Lăng ba năm đã vơ vét được vô số vàng bạc châu báu. Năm thứ ba niên hiệu Thừa Thánh, quân binh nước Ngụy công phá Giang Lăng, giết Nguyên đế. Nhưng kho tàng mà ông ta cất giấu ở chỗ nào thì không ai biết được. Nguyên soái nước Ngụy là Vu Cẩn vì việc tra vấn kho tàng này mà đã khảo đả giết chóc mấy ngàn người, rốt cuộc vẫn không tra ra. Vu Cẩn sợ những người biết chỗ giấu kho báu sau này sẽ đào trộm nên lùa cả mấy vạn dân chúng Giang Lăng về Trường An. Người thì bị giết, người thì bị chôn sống, cơ hồ không có ai may mắn sống sót. Mấy trăm năm nay bí mật ấy thủy chung vẫn chưa được khám phá. Thời gian quá lâu rồi, không ai biết cả.
Lăng tiểu thư nói: Thân phụ nàng mất nhiều năm đọc hết “Kinh Châu phủ chí” cho đến đủ các loại cổ thư cổ tịch, đoán rằng số của cải kia của Lương Nguyên đế nhất định là chôn ở một nơi nào đó ngoài thành Giang Lăng. Lương Nguyên đế là kẻ tàn nhẫn, hẳn là sau khi chôn của cải đã giết tất cả những người biết điều bí mật ấy. Vì thế, nguyên soái nước Ngụy khảo đả dân chúng cách mấy, rốt cuộc cũng không lần ra được chút đầu mối nào.
Địch Vân nghe đến đây, bao nhiêu điều bấy lâu không sao hiểu nổi bây giờ mới rõ, nói:
– Đinh đại ca, huynh biết bí mật kho báu ấy, phải không? Rất nhiều kẻ đến nhà tù tìm huynh chắc cũng vì muốn được kho báu ấy.
Gương mặt Đinh Điển hiện ra nét cười đau khổ, tiếp tục nói:
– Lăng tiểu thư kể với huynh những điều ấy, huynh cảm thấy lòng ham phát tài của cha nàng thật là ghê gớm. Ông ta đã văn võ toàn tài, vừa giàu vừa sang, hà tất phải muốn có kho báu làm gì nữa? Về sau huynh cùng nàng đàm luận đến những chuyện xảy ra trên chốn giang hồ. Ngay cả chuyện thấy ba người bọn Vạn Chấn Sơn giết thầy cướp kiếm phổ bên sông Trường Giang tất nhiên cũng không giấu nàng. Huynh nói cả về “Thần chiếu kinh”, “Liên thành quyết” với nàng.
Huynh và Lăng tiểu thư sống những ngày hạnh phúc như thế được hơn nửa năm. Hôm ấy là ngày mười bốn tháng bảy, Lăng tiểu thư nói với huynh: “Điển ca, chuyện chúng mình phải nói với cha đi, để lão nhân gia làm chủ cho phép, khỏi phải giấu giấu giếm giếm thế này…”. Nàng nói câu ấy nửa chừng thì thẹn thùng giấu mặt vào ngực huynh. Huynh nói: “Muội là thiên kim tiểu thư, huynh chỉ sợ phụ thân muội không chấp nhận huynh”. Nàng nói: “Tổ của muội thực ra cũng là người trong võ lâm, chỉ có phụ thân muội là làm quan, muội thì không biết gì về võ nghệ. Cha rất thương yêu muội, từ ngày mẹ mất, muội nói gì cha cũng bằng lòng”.
Huynh nghe nàng nói vậy, tất nhiên vui mừng chết đi được. Ngày rằm tháng bảy, huynh nôn nao chờ đợi. Đến lúc nửa đêm, huynh lại đến lầu của Lăng tiểu thư gặp nàng. Nàng đỏ bừng cả mặt nói: “Cha bảo hoàn toàn bằng lòng với con gái”. Huynh sung sướng đến mức biến thành một thảng ngốc. Hai đứa nhìn nhau, lại nhìn nhau, chỉ biết cười.
Huynh và Lăng tiểu thư cầm tay nhau bước xuống lầu, dưới ánh trăng bỗng thấy trong vườn hoa có thêm mấy bồn hoa vàng màu sắc đặc biệt kiều diễm. Những cánh hoa này vàng như là hoàng kim lấp lánh ánh sáng, đóa hoa rất giống sen nhưng không lớn bằng. Huynh và nàng đều rất yêu hoa liền đến ngắm. Lăng tiểu thư tấm tấc khen lạ bảo là xưa nay chưa từng thấy giống hoa vàng này. Cả hai đều cùng đến gần ngửi ngửi, muốn biết mùi hương của hoa này thế nào…
Địch Vân nghe Đinh Điển kể chuyện đã qua, dưới ánh trăng cùng ý trung nhân cầm tay du ngoạn, thưởng thức kỳ hoa, thật là thần tiên trên trời cũng không sánh nổi. Nhưng trong giọng kể của Đinh Điển lại hàm ẩn một không khí âm u đáng sợ, Địch Vân nghe mà cơ hồ nghẹt thở, như trong vườn hoang này có rất nhiều ma quỷ sắp vồ lấy mình. Bỗng Địch Vân nghĩ đến một cái tên, kêu lên:
– Kim ba tuần hoa!
Khóe miệng Đinh Điển gợn lên một nét cười đau khổ, một lúc sau mới nói:
– Huynh đệ, đệ không ngốc đâu. Từ nay về sau đệ một mình đi lại trên chốn giang hồ cũng không đáng ngại nữa, huynh có thể yên tâm.
Địch Vân nghe thấy trong những lời ấy tràn đầy lòng quan tâm và thương yêu, không ngăn được nước mất ngập tràn nóng hổi, hậm hực nói:
– Cái thằng cẩu quan Lăng tri phủ này, y, y, y không chịu gả con gái cho huynh thì thôi, mắc chi phải dùng độc kế hại huynh?
Đinh Điển nói:
– Lúc ấy làm sao huynh đoán được? Càng đâu có ngờ đóa hoa vàng này lại là giống kim ba tuần hoa cực độc? Hai chữ “ba tuần” là tiếng Phạn, có nghĩa là “ác ma”. Giống hoa độc này là từ Thiên Trúc (Ấn Độ) truyền đến. Người Thiên Trúc vốn gọi là “hoa ác ma”. Huynh vừa ngửi một cái là cảm thấy choáng váng, thấy Lăng tiểu thư cũng lảo đảo, rồi ngã nhào. Huynh vội đưa tay ra đỡ, nhưng tự mình cũng đứng không vững. Huynh đang vận nội công, điều hòa hơi thở chống lại chất độc, bỗng từ trong bóng tối có mấy tên cầm binh khí xông ra. Huynh chỉ đấu với chúng được mấy chiêu, trước mắt đã tối đen như mực, rồi không biết gì nữa.
Đến khi tỉnh lại, cựa mình, tay chân của huynh đều đã bị xiềng xích, cả xương bả vai cũng bị một sợi dây sắt lớn xuyên qua. Lăng tri phủ mặc thường phục thẩm vấn ngay trong sảnh hoa, hầu hạ bên cạnh lão cũng không phải là mấy tên sai dịch trong nha môn mà là huynh đệ trong bang hội của lão. Huynh tất nhiên là rất quật cường, cất tiếng chửi lớn. Lăng tri phủ trước hết ra lệnh khảo đả huynh một trận, rồi mới ép huynh phải trao “Thần chiếu kinh” và kiếm quyết.
Chuyện sau đó thì đệ đều biết cả rồi. Cứ đến rằm mỗi tháng, Lăng tri phủ lại đưa huynh đi tra tấn, quyết ép huynh phải trao võ kinh và kiếm quyết. Huynh thủy chung không thèm để ý đến lão. Lòng kiên nhẫn của lão thật là ghê gớm, cứ thế…
Địch Vân nói:
– Thế còn Lăng tiểu thư? Nàng vì sao không nghĩ cách cứu huynh? Về sau huynh luyện được Thần chiếu công”, đi lại theo ý mình, vì sao không đến thăm nàng? Vì sao cứ ở trong tù chờ đợi, đợi mãi đến khi nàng chết?
Đầu óc Đinh Điển lại mê man, toàn thân như bay lơ lửng trên không trung, chàng giơ tay quờ quạng như muốn tìm một chỗ dựa. Địch Vân đưa tay nắm chặt tay chàng. Đinh Điển bỗng giật thót mình, có sức giãy ra, nói:
– Tay huynh có độc, đệ đừng đụng vào.
Địch Vân đau nhói trong lòng.
Đinh Điển ngất đi một lúc, dần dần hồi tỉnh, định thần, hỏi:
– Đệ vừa nói gì?
Địch Vân bỗng nghĩ đến một chuyện, nói:
– Đinh đại ca, huynh có bao giờ nghĩ Lăng tiểu thư bị cha nàng sai khiến, có ý lừa huynh, định…
Đinh Điển kêu to một tiếng, thét:
– Nói bậy!
Rồi vung quyền đánh ra.
Địch Vân biết mình lỡ lời, không đưa tay ra đỡ, cam lòng nhận một cú đấm. Không ngờ nấm đấm của Đinh Điển vung ra giữa chừng rồi ngừng lại. Chàng trừng mát nhìn Địch Vân, chầm chậm co tay lại, nói:
– Huynh đệ, đệ bị con gái phụ tình đến nỗi không tin tất cả con gái trong thiên hạ, huynh cũng không trách đệ. Sương Hoa nếu bị cha nàng sai khiến, muốn dùng mỹ nhân kế để lừa huynh lấy “Thần chiếu kinh” và “Liên thành quyết” thì quá dễ. Mà nàng cũng cần gì phải lừa? Chỉ cần nói một câu: “Huynh cho muội bộ “Thần chiếu kinh” và “Liên thành quyết” đi!”. Thậm chí nàng cũng chẳng cần phải nói rõ, chỉ cần ngầm tỏ ý hoặc hé lộ một chút ý ấy huynh sẽ lập tức cho nàng. Nàng lấy để cho phụ thân cũng được, đem cho hành khất ngoài đường cũng được, hoặc xé bỏ để chơi cũng được, đốt cháy đi mà xem cũng được, huynh đều không một chút cau mày. Địch huynh đệ, dù là kỳ thư chí bảo trong võ lâm nhưng so với Sương Hoa, trong lòng huynh những kỳ thư chí bảo ấy cũng chỉ là bùn đất. Lăng Thoái Tư tự cho mình là văn võ song toàn, thực ra lại là đại ngu xuẩn. Nếu lão bảo con gái nói với huynh một lời, huynh lẽ nào từ chối?
Địch Vân nói:
– Biết đâu lão đã từng nói với Lăng tiểu thư nhưng nàng lại không chịu.
Đinh Điển lắc đầu nói:
– Nếu có chuyện ấy, Sương Hoa cũng quyết không giấu huynh – thở dài một tiếng lại nói: – Loại người như Lăng Thoái Tư, đối với công danh lợi lộc, vàng bạc của cải quá coi trọng. Suy bụng ta ra bụng người, cho rằng người trong thiên hạ đều trọng tài khinh nghĩa như lão, nghĩ rằng con gái lão nếu yêu cầu huynh, huynh cũng nhất định không chịu, lại vì thế mà để lộ ý định, khiến huynh đề phòng. Ngoài ra còn có một lý do nữa – lão là hàn lâm tri phủ, con gái lại tự ý kết thân với một kẻ áo vải thảo mãng như huynh. Lão căm hận huynh làm nhục uy vọng của lão, không giết chết huynh không được. Sau khi bắt giam huynh, lão lập tức khám xét trên người huynh, chẳng tìm được gì, lại khám xét chỗ ở của huynh, tất nhiên cũng không tìm được gì. Cứ rằm mỗi tháng lão lại đưa huynh đi khảo đả, thẩm vấn, nói hết lời đường mật lại dọa dẫm uy hiếp, huynh một mực không thèm để ý đến lão. Lão không khai thác được gì ở huynh, nhưng từ những lời thẩm vấn của lão huynh lại suy được – thì ra “Liên thành quyết” mà tiên sinh Mai Niệm Sinh nói với huynh là bí quyết tìm kho báu của Lương Nguyên đế. Lão đã từng phái người đóng vai tù phạm, giam với huynh một chỗ, hy vọng huynh để lộ tin tức. Người kia giả trang là bị oan uổng, chửi Lăng Thoái Tư đủ điều. Nhưng huynh nhìn một cái là biết ngay, đáng tiếc là lúc ấy chưa luyện xong “Thần chiếu công”, không có mấy sức, đánh hắn không ghê gớm lắm.
Nói đến đây, anh hơi mỉm cười:
– Đệ số xui, bị huynh hiểu lầm đánh cho không ít trận, nếu không có chuyện thắt cổ tự tử, khéo mà đến nay đã bị huynh đánh chết mất rồi.
Địch Vân nói:
– Đệ bị hãm hại, nếu không có đại ca…
Đinh Điển xua xua tay trái, ý bảo Địch Vân đừng nói, rồi lại tiếp tục:
– Đó là cơ duyên. Thế sự phần nhiều ở một chữ “duyên”.
Khóe mắt chàng liếc nhìn, thấy trong đám ngói gạch vỡ ngổn ngang ở một góc vườn hoang mọc lên một bông hoa tím nhỏ xíu, lắc lư trong gió, thật cô tịch thê lương, bèn nói:
– Đệ hái đến đây cho huynh.
Địch Vân ngắt bông hoa, đặt vào tay chàng.
Đinh Điển cầm bông hoa tím nhỏ, thả hồn về dĩ vãng, chậm rãi nói:
– Huynh bị xâu xương bả vai, giam trong tù, tất cả đều đã rõ, Lăng Thoái Tư không lấy mạng huynh không được. Nếu huynh trao võ kinh kiếm quyết cho lão sớm ngày nào thì huynh sẽ chết sớm ngày ấy. Nhưng nếu như huynh chịu đòn mà không nói, lão cần bí mật kho báu thì sẽ không giết huynh, cứ khảo đả hành hạ mãi cũng chỉ làm huynh đau đớn da thịt chứ không đánh chết.
Địch Vân nói:
– Đúng thế, dạo ấy đệ giả vờ muốn giết huynh, ngục tốt lại lo lắng không dám hành hung bá đạo nữa.
Đinh Điển cầm bông hoa tím nhỏ, ngón tay run rẩy, bông hoa cũng run rẩy, chàng chầm chậm nói:
– Huynh bị giam trong tù hơn một tháng, vừa giận vừa lo muốn phát điên. Một buổi chiều có một a hoàn đến, đó là nữ tì Cúc Hữu luôn ở bên tiểu thư. Huynh biết Sương Hoa ở thành Vũ Xương cũng nhờ một lời của cô bé ấy. Không biết Sương Hoa đã hối lộ ngục tốt mất bao nhiêu y mới cho Cúc Hữu đến thăm huynh một lần. Nhưng Cúc Hữu cũng không nói một lời nào với huynh, cũng không có thư từ gì cho huynh, chỉ ngẩn ra nhìn huynh. Ngục tốt cầm thanh đao nhọn dí vào lưng cô bé. Huynh biết tay ngục tốt này rất sợ Lăng tri phủ, chỉ cho cô bé nhìn huynh một cái nhưng không cho nói một lời.
Cúc Hữu nhìn huynh rơi nước mất. Ngục tốt luôn đưa tay ra hiệu bảo cô ấy ra mau. Cúc Hữu nhìn thấy một bông cúc dại mọc bên thềm ngoài sân, liền hái lấy, cách song sắt ra hiệu cho huynh, đưa tay chỉ lên bậu cửa sổ ngôi lầu cao ở phía xa. Trên bậu cửa đặt một bồn hoa tươi. Huynh mừng rỡ, biết hoa ấy là do Sương Hoa đặt lên để làm bạn với huynh.
Cúc Hữu không thể dừng được lâu, quay mình bước ra. Vừa mới bước ra khỏi cửa sắt trước sân, một mũi tên từ trên cao bẳn xuống, trúng ngay vào lưng cô bé, cô bé chết ngay. Thì ra Lăng Thoái Tư sợ bạn bè của huynh đến cướp ngục nên cho người mai phục trên tường, trên mái nhà. Tiếp đó là mũi tên thứ hai bắn tới, ngục tốt cũng mất mạng. Lúc ấy huynh thực sự sợ hãi, chỉ sợ Lăng Thoái Tư hung hãn mất tính người, hại cả con gái. Huynh không dám chọc giận lão, mỗi lần lão thẩm vấn huynh chỉ giả câm giả điếc. Cúc Hữu vì huynh mà chết, nếu không có cô ấy mấy năm nay huynh làm sao qua nổi? Huynh làm sao biết được hoa tươi trên bậu cửa kia là Sương Hoa đặt lên cho huynh? Nhưng Sương Hoa thủy chung vẫn không hề xuất hiện, trước sau không hề vén rèm cửa sổ để huynh có thể nhìn nàng một lần. Huynh lúc ấy không hề biết một tí gì, có lúc không khỏi trách nàng sao lại nhẫn tâm như thế.
Thế là huynh càng cố gắng khổ luyện “Thần chiếu kinh” muốn sớm công thành hạnh mãn, có thể không bị sự khống chế của xiềng xích. Huynh chỉ mong thoát được lao lung, đưa Sương Hoa khỏi vòng giam cấm. Có điều “Thần chiếu công” tựu thành chủ yếu phải do diệu ngộ tự nhiên chứ không thể nôn nóng luyện tập mà được. Huynh bị xuyên xương bả vai tất nhiên càng khó khăn gấp bội. Mãi đến hai tháng trước ngày đệ tự tử mới đại công cáo thành. Bao nhiêu ngày tháng ở trong tù huynh chỉ có những chậu hoa tươi kia an ủi.
Lăng Thoái Tư tìm trăm mưu ngàn kế để moi bí mật trong lòng huynh. Nhốt đệ với huynh vào một chỗ cũng là một mưu kế của lão. Lão biết là sai người thân tín đến lừa huynh không được, thế là đưa một người trẻ tuổi thực sự bị oan khuất đến ở với huynh. Lâu rồi huynh sẽ nhận ra giả hay thực. Chỉ cần huynh và đệ trở thành bạn bè trong hoạn nạn huynh sẽ thổ lộ bí mật với đệ, những gì ép huynh khai ra không được lão sẽ moi từ đệ. Đệ còn trẻ người non dạ, trung hậu thật thà, ai giả làm người tốt đệ cũng dễ dàng tin ngay. Nhưng huynh cứ không tin đệ. Những điều huynh phải chịu đựng, cái chết thê thảm của Cúc Hữu khiến huynh không tin ai được nữa.
Việc nhiều năm trước, Lăng Thoái Tư đã mãn nhiệm tri phủ Kinh Châu, đáng ra phải điều đi nơi khác, hoặc là thăng quan, lão lại phải hối lộ để lưu nhiệm Kinh Châu. Lão không muốn thăng quan, chỉ muốn được kho báu kia.
Đệ tưởng là huynh chưa ra khỏi nhà tù à? Sau khi luyện được “Thần chiếu công”, ngay hôm ấy đã ra ngoài ngục rồi, có điều trước khi ra, huynh điểm huyệt cho đệ ngủ say, tất nhiên đệ không biết.
Tối hôm ấy, khi huynh vượt qua bức tường cao còn nghĩ là khó tránh khỏi một cuộc ác đấu, không ngờ việc cách nhiều năm, Lăng Thoái Tư đã không còn đề phòng nữa. Bọn lính gác bên ngoài đã không còn. Lão không ngờ Thần chiếu công kỳ diệu đến thế, người đã bị xuyên xương bả vai vẫn có thể luyện được võ công thượng thừa.
Huynh đến bên cửa sổ lầu cao, trống ngực đập ghê gớm, giống như trở lại lần đầu được nàng hé lộ tâm tình. Lấy hết can đảm, huynh nhẹ nhàng gõ cửa sổ ba lần, gọi: “Sương Hoa!”.
Nàng từ trong mộng giật mình tỉnh dậy, mơ màng nói: “Đại ca, Điển ca! Là huynh à? Muội đang mơ hay sao?”. Bao nhiêu tháng ngày xa cách cuối cùng lại được nghe thấy giọng nói của nàng, huynh vui mừng tưởng phát điên, run giọng nói:
– Sương muội, là huynh đây! Huynh vượt ngục ra đây.
Huynh đợi nàng đến mở cửa sổ. Trước đây mỗi lần gặp nhau, huynh đều đợi nàng mở cửa sổ, vẫy tay huynh mới tiến vào. Huynh chưa hề tự tiện vào phòng nàng.
Không ngờ nàng lại không mở cửa sổ, khẽ nói: “Tạ ơn trời đất! Điển ca, huynh vẫn còn sống đây, cha không lừa muội”. Huynh nói: “Ôi, cha muội không lừa muội, huynh vẫn còn sống đây, muội mở cửa đi, huynh muốn nhìn muội…”. Nàng hốt hoảng nói: “Không! Không! Không được!”. Lòng huynh trĩu xuống, hỏi: “Vì sao không được?”. Nàng nói: “Muội đã hứa với cha. Ông ấy không giết huynh, muội thì vĩnh viễn không gặp huynh nữa. Ông ấy bắt muội thề nếu muội gặp huynh thì mẹ của muội ở dưới cõi âm sẽ bị ác quỷ hành hạ”. Nàng nói đến đây, giọng nói nghẹn ngào. Nàng mất mẹ năm mười ba tuổi, đối với người mẹ quá cố nàng yêu kính vô cùng.
Huynh cực kỳ căm hận lòng dạ độc ác của Lăng Thoái Tư. Lão không giết huynh chẳng qua là vì muốn được võ kinh kiếm quyết, Sương Hoa không thề như thế lão cũng không thể giết huynh. Nhưng lão ép con gái phải thề độc. Lời thề độc ấy khiến bao nhiêu ước vọng của nàng trở thành mây khói. Nhưng huynh vẫn không tuyệt vọng, huynh nói: “Sương Hoa, muội đi theo huynh, muội dùng vải bịt mắt lại, mãi mãi không nhìn huynh là được”. Nàng khóc lóc: “Không được đâu. Muội cũng không muốn huynh nhìn thấy muội”.
Những nỗi oán hận tích tụ trong lòng huynh bao năm qua bỗng bùng vỡ, huynh kêu lên: “Vì sao? Huynh không thể không nhìn muội”.
Nàng nghe thấy giọng nói của huynh có vẻ khác lạ, dịu giọng nói: “Điển ca, sau khi muội biết cha đã bắt huynh, muội đã lần này lượt khác xin ông ta thả huynh. Ông ta lại hứa gả muội cho người khác, để muội không còn hy vọng sum họp với huynh. Muội van xin thế nào cũng không được, ông ta vẫn cứ ép buộc muội. Thế là… thế là… muội dùng dao cắt nát mặt mình”.
Địch Vân nghe đến đây, không nén được “á” lên một tiếng.
Đinh Điển nói:
– Huynh vừa cảm kích, vừa thương xót, đánh một chưởng phá luôn cửa sổ. Nàng sợ hãi kêu lên một tiếng, nhắm nghiền mất, đưa hai tay ôm lấy mặt, nhưng huynh cũng đã nhìn thấy rồi. Trên khuôn mặt vốn đẹp nhất thiên hạ của nàng giờ đây bị vạch mười bảy mười tám vết sẹo chằng chịt ngang ngang dọc dọc, cơ mặt lồi ra thành những vết sẹo đỏ lòm. Đôi mắt mỹ lệ, cái mũi xinh xắn, làn môi hồng tươi, tất cả đều bị méo mó giống như yêu ma. Huynh giang tay ôm nàng vào lòng. Nàng bình sinh rất yêu quý dung nhan của mình, nếu không vì kẻ xui xẻo như huynh thì nàng đâu để cho khuôn mặt mỹ lệ của nàng bị hủy hoại đến nhường ấy? Huynh nói: “Sương muội, dung mạo mà sánh được với trái tim sao? Nàng vì ta mà hủy hoại dung nhan, trong tim ta muội đẹp gấp mười gấp trăm ngày trước”. Nàng khóc nói: “Đến bước này rồi, hai chúng mình làm sao được nữa? Muội đã nhận lời với cha mãi mãi không gặp chàng nữa. Điển ca, huynh… huynh hãy đi đi”. Huynh biết đã không còn cách gì vãn hồi được nữa. Huynh nói: “Sương muội, huynh trở lại nhà tù, ngày ngày ngắm hoa tươi bên cửa sổ phòng nàng”. Nàng lại ôm chặt lấy cổ huynh nói: “Huynh… huynh đừng đi!”.
Huynh và nàng cứ quấn quýt không rời, không nói một lời. Nàng không dám nhìn huynh, huynh cũng không dám nhìn nàng. Đương nhiên huynh không hiềm nàng xấu xí. Nhưng… Nhưng… khuôn mặt của nàng bị hủy hoại đến ghê gớm… nhìn quá đỗi đau lòng. Rất lâu rất lâu, xa xa vẳng tiếng gà. Nàng nói: “Điển ca, muội không thể hại người mẹ đã khuất của muội. Từ nay về sau, huynh… huynh đừng đến thăm muội nữa.” Huynh nối: “Chúng ta không gặp lại nhau nữa sao?”. Nàng khóc nói: “Không gặp nhau nữa! Muội chỉ mong sau khi hai ta chết rồi, được chôn một chỗ. Chỉ mong có một người tốt bụng có thể đáp ứng cho tâm nguyện của muội, muội ở cõi âm sẽ ngày ngày niệm Phật phù hộ cho người ấy”.
Huynh nói: “Huynh đã nghĩ đến, “Liên thành quyết” mà huynh biết là bí quyết để tìm kho tàng của Lương Nguyên đế. Huynh nói với muội, muội hãy nhớ kỹ”. Nàng nói: “Muội không nhớ! Muội nhớ làm gì? Cha vì bí mật ấy mới hại huynh đến nỗi này. Điển ca, muội không muốn nghe”. Huynh nói: “Muội tìm một người thành thật đáng tin, nhờ người ấy nhận lời giúp hai ta thực hiện tâm nguyện hợp táng, rồi nói cho người ấy bí quyết này”.
Nàng nói: “Một đời này muội quyết không xuống lầu nữa. Mặt mũi muội thế này, làm sao còn dám gặp ai?”. Nhưng nàng nghĩ ngợi một lúc, lại nói: “Được, huynh nói cho muội biết đi. Điển ca, dù thế nào đi nữa muội cũng muốn được chôn chung với huynh một mồ. Dù có phải đem bộ dạng này đi nhờ cậy người ta muội cũng không ngại”. Thế là, huynh đọc kiếm quyết cho nàng nghe. Nàng cố nhớ kỹ.
Phương đông dần rạng sáng, huynh chia tay nàng trở lại phòng giam. Lúc bấy giờ tuy huynh có thể tự do ra tù, nhưng huynh muốn được ngày ngày ngắm hoa trên cửa sổ, nên huynh mãi mãi, mãi mãi không ra đi… Có người hành thích Lăng Thoái Tư, huynh lại cứu lão, bởi vì… bởi vì nếu Lăng Thoái Tư bị giết, Sương Hoa sẽ phải côi cút bơ vơ, không có nơi nào nương tựa trên thế gian này…”.
Chàng nói đến đây, giọng nói nhỏ dần.
Địch Vân nói:
– Đại ca, huynh yên tâm, nếu quả thực huynh không qua nổi, đệ nhất định sẽ hợp táng cho huynh và Lăng tiểu thư. Đệ không cần bí quyết gì cả, huynh có nói đệ cũng không nghe đâu.
Đinh Điển hơi mỉm cười:
– Hảo huynh đệ, chú em tốt bụng của ta, không uổng cho huynh đã kết bạn với đệ. Đệ nhận lời hợp táng cho huynh và Sương Hoa, huynh chết cũng có thể nhảm mắt được. Huynh rất vui mừng…
Giọng nói càng ngày càng nhỏ, chàng tiếp lời:
– Nếu như tìm được kho tàng này, cũng không nên giữ lấy cho riêng mình. Đệ có thể dùng nó để cứu giúp người nghèo khổ. Những người khốn khổ… Những người khốn khổ như huynh, như đệ, trong thiên hạ nhiều lắm. “Liên thành quyết” này nếu như đệ không nghe, huynh chết đi sẽ bị thất truyền, chẳng đáng tiếc lắm sao?
Địch Vân gật gật đầu.
Đinh Điển thở sâu vào một hơi, nói:
– Đệ nghe đây, đây đều là những chữ số, không được quên.
Địch Vân tập trung tinh thần chú ý lắng nghe. Đinh Điển nói:
– Số thứ nhất là “bốn”, số thứ hai là “năm mươi mốt”, số thứ ba là “ba mươi ba”, số thứ tư là “năm mươi ba”…
Địch Vân đang cảm thấy mơ hồ khó hiểu, bỗng có tiếng chân người vang lên ngoài vườn hoang, có người nói:
– Vào vườn này tra xem.
Đinh Điển biến sắc, nhảy vọt dậy. Địch Vân cũng nhảy theo. Chỉ thấy ở cửa sau vườn ba người đàn ông xông vào.