Hư Trúc ra khỏi căn nhà gỗ bỗng giật mình, thấy giữa bãi đất trống có một đám lửa lớn, dưới đất có bảy tám thân cây tùng bị đánh gãy nằm ngổn ngang. Y không ngờ mình mới vào căn nhà gỗ chưa bao lâu mà bên ngoài đã xảy ra những biến cố trời long đất lở. Chắc những cây tùng này đã đổ xuống lúc Hư Trúc ngất đi nên y chẳng hay biết gì.
Mọi người bên ngoài đã chia thành hai phe. Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà ngồi ở đầu bên phải, bọn Huyền Nạn, Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa… đứng đằng sau lão. Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu ngồi đầu bên trái, sau lưng lão có tên đầu sắt Du Thản Chi cùng bọn đệ tử phái Tinh Tú. Còn bọn Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự, Cưu Ma Trí, Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần thì đứng ở xa xa mà xem.
Giữa Tô Tinh Hà và Đinh Xuân Thu đang có một cây cột lửa cháy rực trời, hai lão đều vận chưởng lực để đẩy sang đối phương. Lúc này cây cột lửa đang từ từ lấn sang phải, rõ ràng Đinh Xuân Thu đang chiếm thượng phong.
Không ai để ý đến Hư Trúc từ trong nhà đi ra, vì mọi người đều chăm chú nhìn cây cột lửa. Đương nhiên Vương Ngữ Yên chỉ quan tâm đến biểu huynh là Mộ Dung Phục, còn Đoàn Dự thì để hết tâm trí vào Vương Ngữ Yên. Hai người này chẳng thèm đưa mắt nhìn Hư Trúc lần nào, mà hình như cả cây cột lửa đang cháy rực trời họ cũng không nhìn thấy.
Hư Trúc đi vòng sau lưng mọi người qua bên phải, đứng bên sư bá tổ Huyền Nạn. Y thấy cây cột lửa cứ nhích dần sang phải. Tô Tinh Hà đang vận động chân khí, áo lão phồng lên trông như cánh buồm căng gió, hai tay không ngớt phóng chưởng đẩy ra.
Bên kia Đinh Xuân Thu vẫn cười nói tự nhiên, tay áo phất phơ nhẹ nhàng như đang ngồi hóng mát. Bọn đệ tử phái Tinh Tú đang thi nhau tâng bốc sư phụ. Nào là: “Tinh Tú Lão Tiên nhắc vật nặng cũng nhẹ như không, thần thông trên đời có một. Bữa nay các ngươi sẽ được mở rộng tầm mắt.” “Sư phụ ta còn muốn giáo huấn nên chỉ từ từ thúc đẩy thần công, khi nào lão nhân gia quyết định tru diệt lão họ Tô thì chỉ đẩy mạnh một cái là xong.” “Kẻ nào chưa chịu khuất phục thì cứ lấy một chọi một nếm thử thần công của phái Tinh Tú.” “Thiên thư đã ghi rõ phái Tinh Tú là thiên hạ vô địch. Kẻ nào lớn mật giở trò châu chấu đá xe thì cũng như tự sát mà thôi.”
Giả tỉ bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh nghe chúng khoác lác mà ngứa tai xuất thủ tấn công Đinh Xuân Thu thì Tinh Tú Lão Quái bản lĩnh tới đâu cũng không chống nổi. Song bọn Cưu Ma Trí cũng chẳng có thiện cảm gì với Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà, nên chẳng giải nguy cho lão làm gì, vả lại ai cũng sợ người khác nhân lúc mình sơ hở mà hạ thủ. Vì vậy mà mặc kệ bọn đệ tử phái Tinh Tú bốc thơm sư phụ chúng lên tới mây xanh, bọn Cưu Ma Trí chỉ tủm tỉm cười chứ không nói gì.
Đột nhiên cây cột lửa lướt tới, lửa liếm vào người Tô Tinh Hà, mấy chòm râu dài của lão bị cháy bay mùi khét lẹt. Tô Tinh Hà phải cố gắng lắm mới đẩy được cây cột lửa ra cách người lão không đầy hai thước. Hư Trúc kinh hãi nghĩ thầm: “Ta không nhìn nhận lão họ Tô kia là sư huynh, nhưng ít nhiều cũng có liên hệ. Bây giờ lão sắp bị đốt chết, ta biết làm thế nào cho phải?”.
Bỗng nghe tiếng “tùng tùng beng beng” nổi lên ầm ĩ, thì ra bọn đệ tử phái Tinh Tú lôi ra nào trống, nào thanh la não bạt, khua lên để tán dương oai phong của sư phụ. Lại còn mấy gã phất cờ xanh vàng đỏ tím đủ màu, lớn tiếng reo hò. Trước nay cao thủ đấu nội lực, chưa có ai đem trống chiêng cờ xí để trợ oai bao giờ, việc này thật là hi hữu trong võ lâm. Cưu Ma Trí cười ha hả nói: “Tinh Tú Lão Quái thật là mặt dày cổ kim hiếm thấy!”
Giữa những tiếng chiêng trống om sòm, một tên đệ tử phái Tinh Tú lấy ra một tờ giấy, lớn tiếng xướng lên một đoạn văn biền ngẫu để ca ngợi Tinh Tú Lão Tiên dương oai ở Trung Nguyên. Không hiểu tên đồ gàn nào đã soạn ra bài này để tán tụng công đức của Tinh Tú Lão Quái, thật là vừa huênh hoang vừa ngu xuẩn, nếu Hứa Do cùng Sào Phủ nghe xong mà tại chưa điếc thì phải dẫn nhau ra biển rửa mới sạch nổi.
Chẳng hiểu Tinh Tú Lão Quái có cần đến những lời tán dương vô sỉ đó không, nhưng nội lực của lão quả là dạt dào như sóng cồn. Giữa tiếng chiêng trống pha lẫn những lời nịnh hót vang lừng, cây cột lửa lại tiến lên nửa thước.
Đột nhiên có tiếng bước chân, rồi hơn hai chục đại hán từ sau nhà chạy ra đứng chắn trước mặt Tô Tinh Hà, Đây là những gã câm điếc đệ tử của lão, mới đây đã khiêng bọn Huyền Nạn lên núi. Đinh Xuân Thu vận thêm kình lực, đẩy cây cột lửa tới đốt bọn đại hán đó, lập tức da thịt cháy xèo xèo mà hơn hai mươi người vẫn đứng yên không nhúc nhích, mặc cho lửa cháy. Họ lại bị câm, không lên tiếng kêu réo gì, thành ra tấn kịch lại càng bi tráng. Ai nhìn thảm cảnh này cũng không khởi động lòng. Chỉ trong khoảnh khắc, cây cột lửa đã đốt một số gã câm điếc cháy thành than.
Đoàn Dự la lên: “Không được tàn nhẫn như thế!” Chàng vung tay phải ra toan dùng Lục Mạch Thần Kiếm để đánh Đinh Xuân Thu, nhưng nội lực đầy rẫy mà chỉ chuyển qua chuyển lại chứ không theo đầu ngón tay phóng ra ngoài được. Đoàn Dự trán toát mồ hôi, cất tiếng gọi lớn: “Mộ Dung huynh! Huynh mau xuất thủ cứu bọn kia đi!” Mộ Dung Phục đáp: “Có Đoàn huynh ở đây, tiểu đệ không dám múa rìu qua mắt thợ. Đoàn huynh thi triển Lục Mạch Thần Kiếm đi!”
Đoàn Diên Khánh đến sau, không nhìn thấy Đoàn Dự phóng Lục Mạch Thần Kiếm. Lão vừa nghe Mộ Dung Phục nói bất giác run lên, liếc mắt nhìn Đoàn Dự để xem chàng có hiểu môn thần công đó của họ Đoàn Đại Lý thật không, nhưng chỉ thấy chàng đưa ngón trỏ bên phải ra điểm điểm vạch vạch rất có phương pháp, mà nội lực không phát huy được chút nào. Lão không hiểu Đoàn Dự không có căn bản võ công nên không sử dụng theo ý muốn được, bèn lẩm bẩm: “Có Lục Mạch Thần Kiếm quái gì đâu mà mình phải sợ? Chắc thắng lỏi này chỉ hư trương thanh thế dọa người. Họ Đoàn ta tuy có môn Lục Mạch Thần Kiếm thật, nhưng đã có ai luyện được đâu?”
Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự không chịu xuất thủ, lại nghĩ rằng chàng có ý giấu giếm. Y là người tâm cơ sâu sắc, không chịu hành động khinh suất, bèn đứng yên để xem diễn biến.
Sau một lúc nữa, hơn hai chục tên đại hán câm điếc đã bị cây cột lửa đốt cháy thành than đến một nửa, một nửa còn lại đều bị trọng thương. Bỗng nghe chiêng trống khua vang lên, Đinh Xuân Thu phất tay áo bào hai cái, cây cột lửa vượt qua đám đại hán câm điếc, tiến đến sát Tô Tinh Hà.
Tiết Mộ Hoa hô to: “Chớ hại sư phụ ta!”, rồi tung mình nhảy đến trước cây cột lửa. Tô Tinh Hà tay phóng một chưởng đẩy gã ra, miệng bảo: “Đừng chết vô ích”, rồi vận hết toàn lực vào tay trái đánh tới cây cột lửa. Nhưng lúc này nội lực của lão đã hao tổn rất nhiều, phát chưởng này chỉ ngăn cản được một chút, toàn thân liền nóng bỏng, trước mắt ngọn lửa cháy đỏ rực. Khi xưa lão phát thệ giả câm giả điếc để được sống thêm ba mươi năm, công lực của lão đã tiến triển rất nhiều, song Đinh Xuân Thu càng tiến bộ mau lẹ hơn, so với ba mươi năm trước thì võ công sư huynh sư đệ lại càng chênh lệch. Lúc này Tô Tinh Hà chẳng khác nào ngọn đèn hết dầu, chắc chắn không thoát khỏi độc thủ của Đinh lão quái. Tô Tinh Hà lại nghĩ đến Đinh Xuân Thu giết xong mình rồi sẽ sấn vào nhà giết nốt sư phụ. Dường như trong lòng lão lại còn nóng bỏng hơn cả da thịt bên ngoài đang bị cây cột lửa táp tới gần.
Hư Trúc thấy tình hình cực kỳ nguy cấp mà Tô Tinh Hà vẫn đứng nguyên tại chỗ không lùi nửa bước. Y không nhịn được nữa, tiến lại nắm lấy lưng Tô Tinh Hà gọi: “Chết cũng vô ích, tránh đi cho mau!” Thật là đúng lúc, Tô Tinh Hà đang phóng chưởng ra nhưng chưởng lực rất suy yếu chẳng còn công hiệu gì, bỗng dưng lão cảm thấy sau lưng có luồng nội lực hùng hậu vô cùng truyền vào, mà lại đúng hệt như nội lực trong người lão. Thế là kình lực của phát chưởng tăng gia không biết mấy lần, những tiếng vù vù vang lên, cây cột lửa chạy ngược trở lại Đinh Xuân Thu, bọn đệ tử phái Tinh Tú đứng bên cũng bị lửa táp vào người.
Lúc này tiếng chiêng trống loạn xạ cả lên, mất cả nhịp nhàng. Những câu chúc tụng “Phái Tinh Tú uy chấn Trung Nguyên” “Tinh Tú Lão Tiên thiên hạ vô địch” bỗng bị trộn lẫn với những tiếng chửi bới tục tằn, tiếng gọi nhau kêu cứu.
Đinh Xuân Thu giật bắn người. Thực ra thì nội lực Hư Trúc hợp với chưởng phong của Tô Tinh Hà cũng chưa chắc đã thắng nổi, nhưng Tinh Tú Lão Quái đang nắm vững phần thắng thì bị phản kích bất ngờ nên mới sợ hãi bủn rủn chân tay. Đồng thời lão quái phát giác ra chưởng phong của đối phương bao hàm nội lực mãnh liệt hơn của sư huynh Tô Tinh Hà nhiều, mà hiển nhiên là công phu bản phái. Lão tự hỏi: “Sư phụ hiển linh nhập vào sư huynh để đòi nợ mình chăng?” Thế là thần hồn nát thần tính, lão run lẩy bẩy, không ngưng tụ nội lực được nữa, cây cột lửa đã tới sát bên mình mà không còn sức đẩy ra.
Hòa trong tiếng hoan hô cùng tiếng kêu cứu của bọn đệ tử Tinh Tú, lại thêm tiếng Đinh Xuân Thu la lên: “Thiết diện đồ nhi! Xuất thủ mau lên!”
Du Thản Chi không suy nghĩ gì nữa, vội tung mình nhảy ra, phóng cả song chưởng đẩy vào cây cột lửa. Những tiếng xèo xèo vang lên, luồng khí âm hàn cực độ dập cây cột lửa tắt ngấm lập tức, cả luồng khói xanh cũng tiêu tan rất mau. Dưới đất chỉ còn lại những khúc gỗ thông to lớn đã cháy thành than.
Râu cùng lông mày Đinh Xuân Thu bị cháy mất một nửa, y phục cũng thủng lỗ chỗ, vẻ mặt cực kỳ hoảng hốt. Trong lòng lão vẫn đang sợ âm hồn sư phụ hiển linh báo phục, bèn cất tiếng gọi: “Đi thôi!”. Lão lạng người một cái đã ra xa đến bảy tám trượng.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú cũng cúp đuôi chạy theo thầy, không kịp lượm nào trống, nào chiêng, thanh la, não bạt ngổn ngang dưới đất. Bài văn phú lục ca tụng phái Tinh Tú oai chấn Trung Nguyên chưa đọc xong đã bị cháy một miếng lớn, mảnh còn lại bay qua bay lại trên mặt đất, tựa hồ như chế nhạo công cuộc dương oai của Tinh Tú Lão Quái là chuyện đầu voi đuôi chuột.
Bỗng nghe xa xa có một tiếng rú lên thảm khốc, một tên đệ tử phái Tinh Tú bay vọt lên không rồi rớt xuống bất động. Mọi người nhìn nhau, cùng đoán Tinh Tú Lão Quái đại bại nên giận cá chém thớt, tên đồ đệ này chắc là vỗ mông ngựa không khéo nên bị ngựa đá, nịnh bợ khó nghe nên bị lão đánh chết rồi.
Bọn Huyền Nạn, Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí đều nghĩ rằng Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà dùng khổ nhục kế, nhử cho Đinh Xuân Thu hao tổn công lực để đốt cháy bọn đồ đệ câm điếc của mình, rồi bất thình lình đánh ra một đòn như sấm sét khiến đối phương không kịp đề phòng, cúp đuôi chạy mất. Lung Á lão nhân là tay bản lĩnh phi thường, lắm mưu nhiều trí, nổi danh lừng lẫy trên chốn giang hồ. Vừa rồi lão khai diễn cuộc ác đấu cùng Tinh Tú Lão Quái đã đánh bật gốc một cây tùng rất lớn đường kính đến hơn một thước, mọi người đều kinh hồn động phách. Vì thế mà quần hùng yên trí rằng lão thi triển thần công đuổi Tinh Tú Lão Quái chạy dài, cũng không lấy chi làm lạ.
Huyền Nạn nói: “Tô tiên sinh công lực thâm hậu, đuổi được lão quái chạy dài. Chắc là từ đây lão phải táng đởm kinh hồn không dám vào Trung Nguyên một bước. Chuyến này tiên sinh tạo phúc cho võ lâm không phải là ít!”
Tô Tinh Hà liếc mắt thấy chiếc nhẫn đá đen của sư phụ đang đeo ở ngón tay Hư Trúc, hiểu rõ mọi việc ngay, vừa đau khổ lại vừa hoan hỉ. Lão nhìn lại thấy đệ tử của mình chết cháy đến tám chín phần, còn lại đều bị trọng thương, trong lòng đau đớn vô kể. Tô Tinh Hà nghĩ ngay đến sự an nguy của sư phụ, quay lại nói với bọn Huyền Nạn, Mộ Dung Phục mấy câu khách sáo, rồi nắm tay Hư Trúc nói: “Tiểu sư phụ! Xin mời đi theo lão phu vào trong này!”
Hư Trúc đưa mắt nhìn Huyền Nạn hỏi ý kiến. Huyền Nạn nói: “Tô tiền bối là cao nhân trong võ lâm, người dạy bảo điều gì ngươi đều phải nhất nhất tuân theo!” Hư Trúc “Vâng” một tiếng, rồi theo Tô Tinh Hà chui qua lỗ trên vách ván đi vào. Tô Tinh Hà thuận tay kéo tấm ván gãy chắn ngang lỗ vách.
Bên ngoài đều là những người lịch duyệt giang hồ, thấy thế biết ngay Tô Tinh Hà không muốn người ngoài thám thính, nên đều giữ ý không tò mò đến việc của lão. Người ít kiến văn nhất trong đám này là Đoàn Dự, thì lại dồn hết tâm trí vào Vương Ngữ Yên, không hề biết Tô Tinh Hà cùng Hư Trúc vào trong nhà lúc nào nữa.
Tô Tinh Hà dắt Hư Trúc vào trong, chui qua hai lần lỗ vách. Vào tới nơi thì thấy lão già nằm dưới đất, Tô Tinh Hà đưa tay đặt lên mũi sư phụ thì thấy lão chết rồi. Họ Tô đã đoán trước tám chín phần mười, mà cũng không dằn nổi mối bi ai tận đáy lòng, bèn phục xuống dập đầu trước thi hài sư phụ, vừa khóc vừa nói: “Sư phụ, sư phụ! Thế là đệ tử không còn được nghe sư phụ giáo huấn nữa rồi.”
Hư Trúc nghĩ thầm: “Quả nhiên lão già này đúng là sư phụ Tô tiền bối.” Tô Tinh Hà gạt nước mắt đứng dậy, đặt thi thể sư phụ ngồi ngay ngắn, tựa vào vách ván, rồi lại dắt Hư Trúc đến ngồi bên cạnh.
Hư Trúc cả kinh nghĩ thầm: “Tô tiền bối đặt mình ngồi ngang thi thể sư phụ y để làm gì? Chẳng lẽ… lão bắt ta phải chết theo?” Y thấy nổi da gà, muốn đứng dậy nhưng không dám. Một là y vẫn kính nể Tô Tinh Hà, hai là sư bá tổ Huyền Nạn đã dặn y nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của họ Tô.
Tô Tinh Hà kéo ngay ngắn lại cái vạt áo đã bị đốt cháy mất một nửa, rồi đột nhiên quỳ xuống trước mặt Hư Trúc, dập đầu lạy, nói: “Đệ tử bất tiếu phái Tiêu Dao là Tô Tinh Hà xin làm lễ bái kiến chưởng môn bản phái!” Hư Trúc sợ đến luống cuống chân tay, lẩm bấm một mình: “Lão này điên mất rồi! Lão này điên mất rồi!” Y vội vã quỳ xuống dập đầu lạy trả Tô Tinh Hà, vừa lạy vừa nói: “Lão tiền bối thi hành đại lễ thế này, tiểu tăng tổn thọ mất!”.
Tô Tinh Hà nghiêm mặt nói: “Sư đệ! Sư đệ đã được sư phụ ta thu nạp làm đệ tử kế nghiệp, tức là chưởng môn của bản phái. Ta tuy là sư huynh, nhưng dĩ nhiên cũng phải dập đầu trước chưởng môn sư đệ!” Hư Trúc ấp úng: “Việc này… việc này…” Bây giờ y biết không phải Tô Tinh Hà phát điên, nhưng như vậy lại càng khó xử hơn.
Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ! Vừa rồi sư đệ cứu được mạng ta, chắc chắn sư phụ đã thành toàn cho sư đệ rồi, vậy sư đệ nhận mấy lạy của ta là đáng lắm. Phải chăng sư phụ đã bảo sư đệ khấu đầu chín cái làm lễ bái sư? Sư đệ đã dập đầu chưa?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng dập đầu rồi, nhưng lúc ấy chưa biết là lễ bái sư. Tiểu tăng đã là đệ tử Thiếu Lâm, không thể gia nhập phái khác được.” Tô Tinh Hà nói: “Dĩ nhiên sư phụ hiểu sư đệ là môn đệ Thiếu Lâm, nhất định người hóa giải võ công của sư đệ trước, rồi mới truyền võ công bản phái sau. Phải chăng sư phụ đã trút hết một thân công lực của người vào nội thể sư đệ?” Hư Trúc gật đầu nói: “Đúng thế!” Tô Tinh Hà lại nói: “Cái nhẫn đá đen kia là biểu tượng của chưởng môn bản phái. Phải chăng sư phụ đã đeo vào ngón tay cho sư đệ?” Hư Trúc đáp: “Chính thế! Có.điều… tiểu tăng không hiểu đó là biểu tượng gì gì hết…!”
Tô Tinh Hà ngồi xuống đất nói: “Sư đệ! Phúc trạch sư đệ cực kỳ thâm hậu! Ta cùng Đinh Xuân Thu mong mỏi cái nhẫn đá đen đó mấy chục năm trời, thủy chung vẫn không được! Vậy mà sư đệ mới gần gũi sư phụ một giờ đã được trao nhẫn cho”. Hư Trúc vội nói: “Thế thì tiền bối cứ lấy đi, cái nhẫn này tiểu tăng không dùng làm gì được!” Tô Tinh Hà nghiêm mặt nói: “Sư đệ! Chắc hẳn sư đệ đã nhận lời ủy thác của sư phụ lúc lâm tử, cố lý đâu lại chạy trốn trách nhiệm? Phải chăng sư phụ đã dặn sự đệ phải trừ diệt Đinh Xuân Thu?” Hư Trúc nói: “Chính thế! Nhưng tiểu tăng đạo hạnh thô thiển, làm sao đương nổi trọng trách đó?”
Tô Tinh Hà thở dài, nhìn cái nhẫn trên ngón tay Hư Trúc mà nói: “Sư đệ! Trong vụ này còn nhiều điểm sư đệ chưa biết, để ta nói cho nghe. Phái Tiêu Dao trước đây đã có lệ: Khi chưởng môn qui tiên thì không nhất định là đại đệ tử kế vị, mà đệ tử có võ công cao cường nhất trong bản phái sẽ nhận chức chưởng môn.”
Hư Trúc mừng quá nói ngay: “Vâng, vâng! Tiểu tăng võ công thấp kém…” Tô Tinh Hà không lý gì đến y, cứ nói tiếp: “Trước kia sư phụ chỉ nhận hai đồ đệ là ta và Đinh Xuân Thu. Nhưng sở học của sư phụ rất phức tạp nên có qui định ai muốn làm chưởng môn thì phải giỏi hết mọi môn, không những tỉ võ mà phải đi thí cả cầm kỳ thi họa nữa. Đinh Xuân Thu ngoài võ công ra thì chẳng biết gì hết, y tự biết không có hy vọng giành được chức chưởng môn, bèn hạ thủ trước, đánh sư phụ rơi xuống vực thẳm, lại đánh ta bị trọng thương!”
Hư Trúc từ lúc ở dưới địa động trong nhà Tiết Mộ Hoa đã nghe chuyện này. Y vẫn chưa hiểu một chuyện, bèn hỏi: “Sao Đinh Xuân Thu lại không giết tiền bối đi?” Tô Tinh Hà đáp: “Sư đệ đừng tưởng y để ta sống vì lòng nhân nghĩa. Một là nhất thời hắn không phá được trận thế kỳ môn độn giáp do ta dùng ngũ hành bát quái sắp đặt. Hai là ta có nói với hắn: “Đinh Xuân Thu! Ngươi ám toán sư phụ, đánh thắng sư huynh, nhưng còn nhiều môn võ công uyên thâm của phái Tiêu Dao ngươi chưa biết tí gì. Kinh sách Bắc Minh Thần Công ngươi có muốn xem không? Khinh công Lăng Ba Vi Bộ ngươi có muốn học không? Còn Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ thì sao? Tiểu Vô Tướng Công thì sao?”
“Đó là những môn võ công thượng thừa của bản phái, ngay cả sư phụ của ta vì phân tâm theo đuổi nhiều môn tạp học, nên cũng chưa luyện tới nơi. Đinh Xuân Thu nghe vậy thì thèm đến run người, liền bảo ta: “Ngươi giao sách ra đây, ta sẽ tha mạng cho ngươi.” Ta đáp: “Ta đâu có giữ mấy pho sách này mà đưa ra, cũng chưa chắc biết nơi sư phụ cất giấu. Ngươi muốn giết ta thì cứ việc hạ thủ!”. Đinh Xuân Thu lại nói: “Dĩ nhiên bí kíp cất giấu ở Tinh Tú Hải, sao ta lại không biết?” Ta nói: “Đúng thế. Bí kíp ở Tinh Tú Hải, ngươi có giỏi thì tự đi mà tìm lấy!”. Hắn tính toán một lúc, biết rằng chu vi Tinh Tú Hải rộng đến mấy trăm dặm, tìm mấy pho sách nhỏ xíu không phải chuyện dễ dàng, liền bảo: “Được rồi! Hôm nay ta không giết ngươi, nhưng từ đây trở đi ngươi phải giả câm giả điếc, không tiết lộ bí mật bản phái ra ngoài.”
“Hắn mà không muốn giết ta ư? Hắn lưu mạng ta lại để bắt phải cung khai, biết rằng sau khi ta chết thì khắp thiên hạ không ai tìm được bí kíp cho hắn nữa. Thực ra những bí kíp này không ở Tinh Tú Hải, mà ba vị sư bá, sư phụ, sư thúc chia nhau ra giữ. Mấy chục năm nay Đinh Xuân Thu ở Tinh Tú Hải, chắc là y đã lột hết từng cục đá lên mà cũng không thấy tờ kinh sách nào. Mấy lần y đến đây, đều bị ta bày cơ quan thổ mộc và dàn trận kỳ môn độn giáp thoát khỏi. Lần này chắc là hắn tuyệt vọng rồi, muốn giết ta cho hả dạ.”
Hư Trúc nói: “May mà tiền bối…” Tô Tinh Hà ngắt lời: “Sư đệ là chưởng môn của bản phái, sao lại gọi ta là tiền bối, gọi là sư ca mới phải chứ!” Hư Trúc nghĩ thầm: “Chuyện này thật là rắc rối, ta chưa thể nói huỵch toẹt ra được.” Y nghĩ vậy liền đáp: “Tiền bối có phải sư huynh tiểu tăng hay không, chưa bàn đến vội. Giả tỉ tiền bối là sư huynh thì cũng có thể gọi là tiền bối chứ sao?” Tô Tinh Hà gật đầu nói: “Sư đệ nói cũng có lý. Vừa rồi sư đệ định nói may mà cái gì?” Hư Trúc nói: “May mà tiền bối giấu được công lực tinh nhuệ của mình, chờ đến lúc tối hậu mới đột nhiên xuất kỳ chiêu trả đòn, khiến Tinh Tú Lão Quái thua liểng xiểng phải bỏ chạy.”
Tô Tinh Hà xua tay lia lịa nói: “Sư đệ! Đó là kỳ công của sư đệ mà! Rõ ràng sư đệ truyền thần công của sư phụ vào giúp sức, cứu được tính mạng cho ta, sao còn khiêm tốn không chịu nhận? Ta tuy là sư huynh, song ngôi chưởng môn đã định rồi, ta phải tôn kính chưởng môn nhân. Huống chi sư phụ đã mượn bàn tay sư đệ cứu mạng ta, từ đây sư đệ đừng coi ta như người ngoài nữa.”
Hư Trúc lấy làm lạ hỏi: “Tiểu tăng đã giúp tiền bối gì đâu? Việc cứu mạng gì gì đó không nên nói đến nữa.” Tô Tinh Hà ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Cũng có thể là sư đệ vô tâm, nhưng nhờ sư đệ đặt tay lên lưng ta nên thần công của bản môn mới truyền vào được, ta mới chuyển bại thành thắng.” HưTrúc nói: “Thế ư? Nếu vậy thì tiền bối được lệnh sư cứu mạng, chứ không phải tiểu tăng đâu.” Tô Tinh Hà nói: “Thì ta cũng nói sư phụ đã mượn bàn tay sư đệ cứu mạng ta mà, sư đệ chịu rồi chứ?” Hư Trúc không cãi được, gật đầu nói: “Tiền bối nói vậy là hợp lý, tiểu tăng không chịu cũng không được.”
Tô Tinh Hà lại nói: “Vừa rồi thần công của sư đệ đánh cho Đinh Xuân Thu kinh sợ chạy đi, chỉ là nhờ xuất kỳ bất ý thôi. Thật ra hai sư huynh đệ chúng ta hợp lực chưa chắc đã địch nổi hắn, nếu không thì sư phụ đã giúp ta thu thập tên phản đồ này từ lâu rồi, hà tất phải khổ sở đến thế. Ba mươi năm nay ta đã thử nhiều phương pháp, rốt cuộc vẫn không tìm thấy ai đủ tư cách kế thừa võ công của sư phụ. Sư phụ thì ngày càng già yếu, người thừa kế lại ngày càng khó tìm, không những phải có ngộ tính cực cao, còn phải là thiếu niên anh tuấn…”
Hư Trúc lại nghe Tô Tinh Hà nói mấy chữ “thiếu niên anh tuấn”, không khỏi chau mày tự hỏi: “Luyện võ công thì cần gì đến bộ mặt đẹp hay xấu? Hai thầy trò lão này cứ ráng tìm người anh tuấn để truyền võ công là tại vì sao?” Bỗng y thấy Tô Tinh Hà liếc mắt nhìn mình thở dài, bèn nói: “Tiểu tăng mặt mũi xấu xí, không đủ tư cách làm truyền nhân của tôn sư. Vậy lão tiền bối đi tìm một vị thiếu niên phong lưu anh tuấn về đây, tiểu tăng sẽ chuyển giao lại thần công cho chàng, thế là yên chuyện.”
Tô Tinh Hà sửng sốt nói: “Thần công bản phái có liên quan đến khí huyết cùng tim mạch. Thần Công còn thì người còn, thần công mất thì người chết. Sư phụ truyền thần công cho sư đệ rồi quy tiên ngay, chẳng lẽ sư đệ không thấy sao?”
Hư Trúc dậm chân liên tiếp, rồi nói: “Trời ơi! Biết làm thế nào đây? Tiểu tăng làm lỡ đại sự của lệnh sư cùng tiền bối mất rồi!”
Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ! Trách nhiệm đã trút lên vai sư đệ rồi. Sư phụ đặt ra thế cờ Trân Lung là cốt để kiểm tra ngộ tính của những người đến phá giải. Thế cờ đó khó vô cùng, ta khổ sở mấy chục năm trời mà không sao phá giải được, chỉ có mình sư đệ giải khai được mà thôi. Vậy thì ngộ tính của sư đệ cực cao, là hợp thức rồi.”
Hư Trúc nhăn nhó cười nói: “Thực ra thì không hợp thức đâu, thế cờ đó không phải tiểu tăng phá được.” Rồi y thuật lại mọi việc sư bá tổ Huyền Nạn dùng phép Truyền Âm Nhập Mật ngấm ngầm chỉ điểm.
Tô Tinh Hà nửa tin nửa ngờ nói: “Huyền Nạn đại sư mắc phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, mất hết công lực toàn thân thì làm sao thi triển được phép Truyền Âm Nhập Mật nữa?” Lão ngừng một lát rồi nói tiếp: “Nhưng phái Thiếu Lâm là một phái võ chính tông đứng đầu thiên hạ, không chừng Huyền Nạn đại sư chỉ giả vờ mất công lực, ta chỉ là ếch ngồi đáy giếng không hiểu được. Sư đệ ơi, ta đã khổ công mời mọc bao nhiêu nhân vật đến đây phá thế cờ. Mộ Dung công tử ở Cô Tô mặt đẹp như ngọc, lại hiểu hết tuyệt kỹ võ công trên thiên hạ. Y chính là nhân vật đủ tư cách nhất trong chuyện này, nhưng khốn nỗi lại không phá được thế Trân Lung.”
Hư Trúc nói: “Đúng rồi! Mộ Dung công tử quả là đẹp trai gấp trăm lần tiểu tăng. Lại còn vị Đoàn công tử nước Đại Lý cũng là tay phong lưu tuyệt thế.”
Tô Tinh Hà nói: “Ôi chao, gã này không nên đề cập đến. Ta từng nghe Trấn Nam Vương nước Đại Lý là Đoàn Chính Thuần rất tinh thâm về thần kĩ Nhất Dương Chỉ, lại là người phong lưu trên đời hiếm có. Bất luận là khuê nữ hay thiếu phụ trong võ lâm mà gặp phải y là thần hồn điên đảo, không sao tự chủ được nữa. Ta cũng đã sai đệ tử đi mời y đến đây, nói cho y biết Cô Tô Mộ Dung muốn phá phép Nhất Dương Chỉ của Đoàn gia, ngờ đâu y chẳng đến mà chỉ có cậu con trai ngớ ngẩn đến thôi.”
Hư Trúc mỉm cười nói: “Dường như cặp mắt của Đoàn công tử lúc nào cũng đăm đăm chiêm ngưỡng Vương cô nương!”
Tô Tinh Hà lắc đầu nói: “Tội nghiệp, tội nghiệp! Phụ thân gã là Đoàn Chính Thuần thì nổi danh là tay phong lưu đệ nhất võ lâm, lại có cậu con chẳng giống cha chút nào, làm mất cả mặt. Gã cố sống cố chết theo đuổi Vương cô nương, mà Vương cô nương lại không thèm để ý gì đến gã, thật là tức cười chết đi được!” Hư Trúc nói: “Đoàn công tử là kẻ thâm tình, thì tư cách chàng còn hơn bọn phong lưu. Sao tiền bối lại chê trách chàng?” Tô Tinh Hà đáp: “Gã là một tên ngờ nghệch không biết tán gái, chúng ta không thể dùng gã được.” Hư Trúc đáp: “Vâng.” Nhà sư mừng thầm nghĩ bụng: “Té ra bọn này muốn kiếm một chàng thiếu niên anh tuấn là để đối phó với nữ nhân. Nếu vậy thì tuyệt diệu, nhất định họ không dùng đến kẻ trọc đầu xấu xí như ta!”
Tô Tinh Hà lại hỏi: “Sư đệ! Sư phụ có dặn sư đệ đi kiếm người nào không?” Hư Trúc sửng sốt, biết rằng chuyện này rắc rối, đã toan nói dối. Những nhà sư đã được các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm dạy dỗ từ nhỏ, kẻ xuất gia không được nói dối, nên ngượng nghịu không dối được. Y ấp úng đáp: “Cái đó… cái đó…”
Tô Tinh Hà đáp: “Sư đệ là chưởng môn bản phái, hỏi gì thì ta phải trả lời, nếu không thì sư đệ có thể dùng quyền chưởng môn mà xử tử ta. Còn ta hỏi sư đệ điều gì, sư đệ muốn trả lời thì tốt, còn không muốn trả lời thì có thể cấm ta không được hỏi nhiều.”
Tô Tinh Hà nói vậy, song Hư Trúc không dám hỗn láo, liền khoát tay nói: “Tiểu tăng không dám ngông cuồng tự đại. Tiền bối, lệnh sư đã giao cái này cho tiểu tăng.” Nói xong, y lấy cuốn trục trong bọc ra, chỉ thấy vẻ mặt Tô Tinh Hà cực kỳ cung kính, lão không dám đưa tay đụng tới cuốn trục. Nhà sư liền tự tay chầm chậm mở ra. Cuốn trục vừa mở, cả hai cùng ngẩn người, la lên một tiếng kinh ngạc. Thì ra cuốn trục này không vẽ bản đồ mà cũng không vẽ phong cảnh chi hết, chỉ vẽ một thiếu nữ ăn mặc kiểu cung phi, nhan sắc tuyệt vời. Hư Trúc nói: “Đây chính là Vương cô nương ở ngoài kia.”
Cuốn trục này bằng lụa đã vàng ố, nét vẽ cũng đã phai màu, ít ra cũng đến ba bốn chục năm, rõ ràng là một bức vẽ nhân vật đời trước. Chẳng lẽ họa sĩ mấy chục hay mấy trăm năm trước đã tưởng tượng mà vẽ ra dung mạo Vương cô nương hiện nay, thật là không thể tin được. Nét vẽ trong đồ hình linh hoạt phi thường, người trong bức vẽ sinh động như thật, tựa như Vương Ngữ Yên co nhỏ người lại rồi chui vào bức tranh.
Hư Trúc kinh hãi, nhìn qua Tô Tinh Hà thì thấy lão đang thò ngón tay ra vẽ vẽ vạch vạch, dường như cố bắt chước nét vẽ trong bức họa. Lão vừa vẽ vừa tấm tắc khen ngợi hồi lâu, rồi đột nhiên như người đang mơ chợt tỉnh, cất tiếng nói: “Sư đệ đừng ngạc nhiên mà cũng đừng trách tiểu ca. Chẳng qua tiểu ca nhìn nét đan thanh tuyệt diệu của sư phụ, bất giác lại ngứa nghề, xuất thần muốn học vẽ một phen. Ôi! Bá nghệ bá tri vị chi bá láp, cái gì ta cũng muốn học nên không học được gì đến nơi đến chốn, mới bị Đinh Xuân Thu đánh cho thảm hại.” Lão vừa nói vừa vội vã cuộn cuốn trục lại, chỉ sợ coi nữa sẽ lại bị nét bút quyến rũ làm cho mê mẩn. Tô Tinh Hà nhắm mắt dưỡng thần, lại lắc lắc đầu tựa như để xua đuổi những nét vẽ trong đồ hình ra khỏi tâm trí. Hồi lâu lão mới mở mắt ra hỏi: “Lúc sư phụ trao cuốn trục này cho sư đệ, người đã dặn gì?”
Hư Trúc đáp: “Lệnh sư nói là hiện giờ công phu của tiểu tăng chưa đủ trừ diệt Đinh Xuân Thu, phải theo cuốn trục này đi đến núi Vô Lượng ở Đại Lý, tìm kiếm kinh thư võ học để luyện thêm. Lệnh sư còn nói đồ hình này vẽ nơi người đã hưởng phúc thanh nhàn khi trước. Tiểu tăng cứ tưởng trong đồ hình phải vẽ một nơi non thanh thủy tú, hoặc một phong cảnh thanh tịch u nhã, ngờ đâu lại là hình ảnh Vương cô nương. Hay là lệnh sư đưa nhầm cuốn trục?”
Tô Tinh Hà nói: “Hành động của sư phụ khó mà lường được. Ngộ tính của sư đệ rất cao, chắc là lúc gặp việc tự nhiên sẽ hiểu. Sư đệ phải cố mà tuân lệnh sư phụ, kiếm sách học thêm để trừ diệt Đinh Xuân Thu.” Hư Trúc ấp úng: “Việc này… việc này… Tiểu tăng là đệ tử Thiếu Lâm, bây giờ phải trở về phục mệnh ngay. Khi đã về chùa rồi thì không biết còn ra lại nữa không.”
Tô Tinh Hà giật mình la lên một tiếng, rồi buông tiếng khóc ròng. Lão sụp xuống trước mặt Hư Trúc, vừa lạy như tế sao vừa khẩn cầu: “Chưởng môn! Trời ơi! Chưởng môn không tuân theo đi huấn, thế ra sư phụ tự sát chết oan chứ còn gì nữa?”
Hư Trúc cũng quì xuống vừa lạy trả vừa nói: “Tiểu tăng đã vào cửa Không, một lòng giới sân giới sát. Trước đây tiểu tăng đã chịu lời tôn sư đi trừ diệt Đinh Xuân Thu, lúc này nghĩ lại hối hận vô cùng. Qui củ bản phái nghiêm minh, dù sao thì tiểu tăng cũng không dám qui đầu phái khác, làm điều càn rỡ.” Bất luận Tô Tinh Hà khóc lóc van vỉ, dỗ ngon dỗ ngọt, hay uy hiếp cưỡng bách, Hư Trúc vẫn một mực không chịu. Lão không biết làm thế nào được, vừa thương tâm vừa tuyệt vọng, nhìn thi thể sư phụ vừa khóc vừa nói “Sư phụ ơi! Chưởng môn sư đệ không chịu tuân theo di mệnh, tiểu đồ kém cỏi không làm gì được, đành đi theo sư phụ thôi!” Lão nói xong nhảy vọt lên, hai chân đưa lên trời, trở đầu toan đập xuống thềm đá.
Hư Trúc hốt hoảng la lên: “Không được!”, rồi nhảy tới ôm chặt lấy Tô Tinh Hà. Hiện giờ nội lực y thâm hậu, chân tay mau lẹ hơn trước nhiều. Tô Tinh Hà bị Hư Trúc ôm chặt không nhúc nhích được. Lão hỏi: “Sao sư đệ không cho tiểu huynh tự tận?” Hư Trúc đáp: “Người xuất gia lấy từ bi làm gốc, dĩ nhiên tiểu tăng không nỡ thấy tiền bối hủy mình.” Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ buông ta ra. Tiểu huynh nhất quyết không muốn sống nữa!” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng nhất định không buông.” Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ ôm ta thế này mãi được chăng?” Hư Trúc thấy lão nói đúng, liền đảo người lão lại cho đầu lên trên chân xuống dưới rồi buông ra nói: “Được rồi! Tiểu tăng buông tiền bối, nhưng nhất quyết không chịu để tiền bối tự tận” .
Tô Tinh Hà trong lòng chợt động, nói ngay: “Sư đệ không cho tiểu huynh tự tận ư? Dĩ nhiên tiểu huynh phải tuân lệnh của chưởng môn. Hay lắm! Chưởng môn ơi, thế là chưởng môn đã chịu làm chưởng môn bản phái rồi!” Hư Trúc lắc đầu quầy quậy: “Không đâu! Tiểu tăng chịu làm chưởng môn hồi nào?” Tô Tinh Hà cười ha hả nói: “Chưởng môn! Bây giờ chưởng môn lại muốn cãi thì không kịp nữa rồi! Chưởng môn đã ra lệnh, tại hạ đã tuân theo, từ giờ không dám tự tận nữa. Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà này là hạng người nào? Trừ chưởng môn bản phái, ngoài ra chẳng ai dám ra lệnh cho ta nữa. Chưởng môn không tin thì cứ hỏi Huyền Nạn đại sư phái Thiếu Lâm xem có đúng thế không? Ngay cả phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng không dám ra lệnh cho ta.”
Hư Trúc cũng biết Lung Á lão nhân oai danh lừng lẫy giang hồ, lão nói không ai dám ra lệnh cho lão là đúng sự thực. Nhà sư nói: “Tiểu tăng không dám ra lệnh cho tiền bối. Tiểu tăng nói vậy là để khuyên tiền bối giữ gìn tính mệnh không nên hủy hoại, đó chỉ là hảo ý mà thôi.”
Tô Tinh Hà đáp: “Ta không đủ tư cách xem xét ý kiến của chưởng môn là hảo ý hay ác ý. Chưởng môn bảo ta chết thì ta phải chết, chưởng môn bảo ta không được chết thì ta không dám chết nữa. Chuyện sống hay chết là chuyện lớn nhất ở đời, giả tỉ sư đệ không phải là chưởng môn thì không có quyền bắt tiểu huynh phải sống.”
Hư Trúc đuối lý bèn xuống giọng năn nỉ: “Thì ra tiểu tăng đã lỡ lời, xin rút lại câu nói đó vậy.” Tô Tinh Hà nói: “Được lắm! Chưởng môn đã rút lệnh không cho ta tự tận, tức là ngầm bảo ta phải tự tận đi. Tiểu huynh xin tuân lệnh, lập tức tự tận ngay.” Cách tự sát của lão thật là cổ quái, lại nhảy giơ chân lên trời, đầu chúc xuống toan đập vào thềm đá.
Hư Trúc lại giơ tay ra ôm lấy, nói: “Không được, không được! Tiểu tăng có bảo tiền bối tự tận đâu!” Tô Tinh Hà lại nói: “Vâng! Chưởng môn đã không cho tự tận, tại hạ kính cẩn tuân lệnh chưởng môn!” Hư Trúc hạ người Tô Tinh Hà xuống, không biết nói sao, cứ vò đầu bứt tai mãi, giả tỉ cái đầu của y còn sợi tóc nào thì e rằng cũng rụng hết.
Tô Tinh Hà có ngoại hiệu là Thông Biện tiên sinh vì lão biện bác rất giỏi. Suốt ba mươi năm trời lão phải giả câm giả điếc, hôm nay mới được múa lưỡi lý luận như thông reo nước chảy. Hư Trúc đã nhỏ tuổi lại kém mồm miệng, thì tranh luận với lão thế nào được? Thực ra Hư Trúc không cho lão tự tận thì không thể qui ra là bắt lão tự tận, nhưng Tô Tinh Hà biện luận hùng hồn nói đâu ra đấy, y không biết nói sao đành đứng ngẩn ra. Hồi lâu Hư Trúc mới thở dài nói: “Tiền bối! Tiểu tăng không cãi nổi, nhưng dù sao cũng không thể tuân mệnh tiền bối mà gia nhập quý phái.”
Tô Tinh Hà lại vặn hỏi: “Lúc chúng ta vào đây, Huyền Nạn đại sư đã dặn sư đệ điều gì? Lời nói của Huyền Nạn đại sư thì sư đệ có tuân mệnh hay không?” Hư Trúc ấp úng đáp: “Sư bá tổ đã dặn tiểu tăng… phải… nghe lời… lão tiền bối.”
Tô Tinh Hà đắc ý cười ha hả nói: “Phải rồi! Huyền Nạn đại sư bảo sư đệ phải nghe lời tiểu huynh, mà tiểu huynh đã khuyên sư đệ tuân theo di mệnh của sư phụ mà làm chưởng môn bản phái. Thế thì nếu sư đệ tuân lời của Huyền Nạn đại sư thì phải làm chưởng môn phái Tiêu Dao. Giả tỉ sư đệ không tuân lời Huyền Nạn đại sư cũng vẫn hợp lý, vì chưởng môn phái Tiêu Dao bất tất phải nghe lệnh của Huyền Nạn đại sư.” Tô Tinh Hà đưa ra lý luận nào Hư Trúc nghe cũng có lý, nhà sư lúng túng không biết nói gì nữa.
Tô Tinh Hà lại tiếp: “Sư đệ! Huyền Nạn đại sư cùng mấy vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm đã trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, nếu không tìm cách cứu chữa thì tính mạng nguy trong chốc lát, mà hiện nay trên thế gian chỉ có một mình sư đệ là cứu được. Ta nói vậy thôi, còn cứu hay không là tùy ý sư đệ.” Hư Trúc cả kinh hỏi: “Sư bá tổ của tiểu tăng trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, tiền bối bảo tiểu tăng có thể… có thể cứu được ư? Vậy phải làm thế nào mới cứu được họ?”
Tô Tinh Hà mỉm cười nói: “Sư đệ! Bản phái không chỉ sở trường về võ học mà bất luận môn gì, y bốc tướng số hay cầm kỳ thi họa đều bao quát hết. Sư đệ có một tên sư điệt là Tiết Mộ Hoa, gã học y thuật, chưa đến đâu mà người trên chốn giang hồ đều gọi gã là Tiết Thần Y, lại còn được thiên hạ tặng cho cái ngoại hiệu là Diêm Vương Địch, thật là buồn cười đến nẻ ruột. Huyền Nạn đại sư trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu, vị sư phụ mặt vuông thì bị gã đầu sắt dùng Băng Tằm Chưởng đánh bị thương, còn vị sư phụ cao cao gầy gầy thì bị Đinh Xuân Thu đá vào cạnh sườn bên tả cách ba tấc, làm tổn thương kinh mạch.”
Tô Tinh Hà cứ thao thao bất tuyệt kể rõ nguyên do và thương thế từng người. Hư Trúc vừa kinh ngạc vừa bội phục, nói: “Tiền bối! Tiểu tăng tưởng tiền bối chỉ chuyên tâm về kỳ thuật, không ngờ cũng hiểu rõ chuyện chẩn mạch chữa thương đến như vậy.”
Tô Tinh Hà đáp: “Nhân vật võ lâm bị thương do đánh nhau thì chỉ trông qua là biết, nếu đã biết thì chữa trị chẳng có gì là khó. Những bệnh thiên nhiên như suy nhược, phong tà hay thương hàn, còn khó đoán hơn nhiều. Trong mình sư đệ đã có bảy mươi năm thần công phái Tiêu Dao của sư phụ truyền cho, nếu đem ra trị bệnh thì rất hiệu quả. Muốn khôi phục lại công lực cho Huyền Nạn đại sư thì không phải là chuyện dễ, nhưng muốn chữa thương bảo toàn sinh mạng cho đại sư thì chỉ giơ tay một cái là xong.” Tô Tinh Hà nói xong bèn dạy cho Hư Trúc cách vận khí thúc vào huyệt đạo, cùng phép tiêu trừ hàn độc. Mỗi người bị thương khác nhau đều phải dùng thủ pháp khác nhau để chữa trị, rất là phức tạp.
Hư Trúc ráng học đến thuộc lòng những thủ pháp mà Tô Tinh Hà dạy cho, nhưng chỉ biết cách chữa mà không hiểu gì đạo lý bên trong. Tô Tinh Hà thấy Hư Trúc diễn lại vài lần đã thuần thục, liền khen rằng: “Quả nhiên chưởng môn sư đệ ngộ tính hơn người, vừa học đã nhớ ngay.” Lão vừa nói vừa cười cười đầy vẻ bí hiểm.
Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà cười có vẻ cổ quái, dường như có ẩn ý không hay, bất giác sinh nghi hỏi: “Sao tiền bối lại cười?” Tô Tinh Hà không cười nữa, giữ vẻ mặt nghiêm trang nói: “Tiểu huynh vô lễ, xin chưởng môn tha tội!” Hư Trúc nóng lòng trị thương cho mọi người, không để ý đến nữa, liền bảo: “Chúng ta ra ngoài đi.” Tô Tinh Hà “Vâng” một tiếng rồi cùng Hư Trúc ra khỏi căn nhà bí mật. Mọi người bị thương đều ngồi xếp bằng dưới đất, nhắm mắt dưỡng thần. Mộ Dung Phục vận dụng nội lực để tiếp sức cho Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác đỡ đau khổ, Vương Ngữ Yên thì săn sóc cho Công Dã Càn. Tiết Mộ Hoa mồ hôi đầy mặt, chạy tới chạy lui, thấy ai nguy khốn nhất thì chạy đến cấp cứu, nhưng người này hơi khỏe thì người khác lại la gọi rồi. Y thấy Tô Tinh Hà trở ra thì trong lòng cảm thấy vững tin, liền chạy tới gọi: “Sư phụ! Lão nhân gia mau mau tìm cách chữa trị cho bọn họ.”
Hư Trúc đến bên Huyền Nạn, thấy đại sư đang nhắm mắt vận công, liên thõng tay đứng chờ, không dám mở miệng. Huyền Nạn từ từ mở mắt ra, khẽ thở dài một tiếng rồi nói: “Sư bá tổ ngươi bất tài, trúng độc thủ của Đinh Xuân Thu làm tổn thương uy danh bản phái, thật là xấu hổ. Ngươi về bẩm với phương trượng rằng ta… ta cùng sư thúc tổ ngươi là Huyền Thống… không còn mặt mũi nào trở về chùa nữa!”
Hư Trúc trước nay thấy sư bá tổ lúc nào cũng trang nghiêm, không giận mà uy, chưa dám nhìn thẳng mặt bao giờ, thế mà bây giờ lão tăng mặt mày thảm đạm, đầy vẻ thê lương như anh hùng đến bước đường cùng, giọng nói lại đầy vẻ chán nản tựa hồ có ý tự sát. Y bèn nói: “Sư bá tổ! Lão nhân gia đừng quá lo buồn. Những người học võ như chúng ta, không nên để tâm vào việc giận dữ, hơn thua, thắng bại hay được mất…” Mấy câu này là trước đây sư phụ dạy cho, y đã thuộc nằm lòng, bây giờ thuận miệng xổ ra trước mặt sư bá tổ, đến khi thấy mình nói không đúng chỗ, gấp rút ngưng lại thì đã lỡ tuôn ra một tràng rồi.
Huyền Nạn mỉm cười, đáp lại: “Ngươi nói không sai, nhưng nội lực của sư bá tổ đã mất, sức để thiền định cũng không còn nữa.” Hư Trúc nói: “Vâng, vâng. Đồ tôn không biết nặng nhẹ, ăn nói thật là bừa bãi.” Y đang muốn ra tay trị thương, bỗng nhớ đến cái cười đầy vẻ xảo trá trên mặt Tô Tinh Hà, trong lòng không khỏi kinh nghi tự hỏi: “Lão dạy ta phóng chưởng đánh vào yếu huyệt trên đỉnh đầu sư bá tổ, là có ý hại người hay chăng? Sư bá tổ đã mất hết công lực, giả tỉ ta đánh chết người thì biết làm thế nào?”
Huyền Nạn nói: “Ngươi về bẩm với phương trượng là bản tự sắp có đại nạn, cần phải gia tăng cảnh giới. Đi đường phải chú ý đề phòng. Ngươi thiên tính thuần phác, hai mặt Trì Giới và Thiền Định thì không phải lo gì, nhưng sau này phải dụng tâm nghiên cứu bốn quyển Kinh Lăng Già để thêm phần chữ Tuệ. Ái chà! Tiếc rằng sư bá tổ không thể ở bên mà chỉ điểm cho ngươi được.”
Hư Trúc “Dạ, dạ” rồi chợt nghĩ ra điều gì, lại nói: “Sư bá tổ! Bản tự sắp gặp đại nạn, thì lão nhân gia lại càng phải bảo trọng lấy thân, về chùa hiệp lực với phương trượng để ngăn đại địch!” Huyền Nạn nhăn nhó, cười nói: “Ta… ta trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu đã thành phế nhân rồi, nói gì đến chuyện hiệp lực với phương trượng để chống địch nữa?” Hư Trúc bèn đáp: “Sư bá tổ! Thông Biện tiên sinh có dạy cho đệ tử mấy phép chữa thương, đệ tử không tự lượng sức mình, muốn thử chữa cho Tuệ Phương sư bá. Sư bá tổ xem có nên chăng?”
Huyền Nạn cũng không ngạc nhiên lắm, lão tăng vốn biết Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà là sư phụ của Diêm Vương Địch Tiết Thần Y, tất nhiên y thuật phải cao minh, chỉ không hiểu sao lão không tự ra tay, hay bảo Tiết Mộ Hoa động thủ. Đại sư liền bảo Hư Trúc: “Những phương pháp Thông Biện tiên sinh truyền thụ cho ngươi tất nhiên phải rất cao minh.” Huyền Nạn lại liếc nhìn Tô Tinh Hà một cái, bảo Hư Trúc: “Ngươi cứ theo đó mà chữa thử.” Hư Trúc chạy tới bên Tuệ Phương khom lưng nói: “Sư bá! Đệ tử vâng lệnh của sư bá tổ đến chữa thương cho sư bá đây.” Tuệ Phương mỉm cười gật đầu một cái. Hư Trúc bước xéo sang trái một bước, xoay tay phóng ngược lại một chưởng, trúng vào sườn bên tả Tuệ Phương.
Tuệ Phương kêu “Ối” lên một tiếng, lảo đảo người, thấy cạnh sườn mình bị đục thủng một lỗ, máu tươi cuồn cuộn chảy ra, tuy thấy trong người suy nhược, nhưng cái đau khổ do Hàn Băng Độc Chưởng của Du Thản Chi bỗng tiêu tan trong khoảnh khắc. Thì ra phép trị thương của Hư Trúc không phải dùng nội lực bản thân để khu trừ hàn độc trong người bị thương,mà lại dùng thần công bảy mươi năm của phái Tiêu Dao đánh thủng người để mở đường tiết khí hàn độc ra ngoài. Phương pháp này cũng giống như khoét chỗ bị thương của người bị rắn cắn để nặn chất độc ra. Có điều so với dùng dao cắt thì phóng chưởng đục thủng thân thể khó hơn nhiều, bộ vị phải chính xác tuyệt đối thì chất độc mới tiết ra được. Hơn nữa, giả tỉ người chữa không đủ nội lực để đánh thấu vào kinh mạch, thì khí độc không tiết ra mà lại dồn ngược vào phủ tạng, bệnh nhân sẽ chết ngay lập tức.
Hư Trúc tuy quyết tâm phóng chưởng ra, nhưng trong lòng vẫn kinh sợ không yên tâm chút nào. Y chăm chú nhìn thấy Tuệ Phương chỉ lảo đảo một cái rồi ngồi thẳng lại, chỉ chau mày đau khổ một chút rồi vẻ mặt lại biến thành khoan khoái dễ chịu. Biến chuyển này chỉ trong khoảnh khắc, mà Hư Trúc tưởng như lâu đến mấy giờ. Sau một lúc nữa, Tuệ Phương thở phào một cái, tủm tỉm cười nói: “Hảo sư điệt, phát chưởng vừa rồi của ngươi thật là công hiệu phi thường.”
Hư Trúc cả mừng nói: “Đệ tử không dám!”, rồi quay sang hỏi Huyền Nạn: “Sư bá tổ! Đệ tử lại xin phép trị liệu cho mấy vị sư bá sư thúc nữa, được chăng?” Huyền Nạn nhìn sang mấy tên thủ hạ của nhà Mộ Dung, lắc đầu đáp: “Không được! Ngươi phải chữa trị cho người ngoài trước, trị cho người nhà sau.”
Hư Trúc rùng mình đáp: “Vâng!”, nghĩ thầm: “Lo cho người trước, lo cho mình sau mới đúng là bản sắc đại từ đại bi của nhà Phật.” Y thấy Bao Bất Đồng đang run rẩy toàn thân, răng khua lập cập, liền đến gọi: “Bao tam tiên sinh! Thông Biện tiên sinh dạy cho tiểu tăng phương pháp trị chứng hàn độc, tiểu tăng mới học, chưa được thông suốt mà cả gan dám thử, nếu có gì sai trái thì xin Bao tam tiên sinh lượng thứ cho.” Y nói xong liền áp tay vào ngực Bao Bất Đồng.
Bao Bất Đồng cười hỏi: “Ngươi làm cái trò gì thế?” Hư Trúc đưa hữu chưởng lên, đánh “binh” một phát vào trước ngực gã, Bao Bất Đồng tức quá liền mở miệng thóa mạ: “Hòa thượng…” Còn chữ “thúi” chưa kịp nói ra miệng, đột nhiên y thấy hàn độc lưu cữu trong mình đã lâu ngày bỗng theo vết thương trên ngực tuôn ra ào ào. Thế là y ngậm miệng lại không mắng tiếp, đúng là nuốt “thúi” vào bụng.
Hư Trúc đánh cho mọi người tiết hàn độc ra hết, rồi lại cứu trị cho những người bị độc thủ của Đinh Xuân Thu. Bọn này bị thương không giống nhau, người bị Hóa Công Đại Pháp làm tiêu tan nội lực thì Hư Trúc phóng chưởng vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu hoặc vào huyệt Linh Đài ở trước ngực để giữ vững nguyên khí. Người nào bị thương về độc công phái Tinh Tú thì Hư Trúc dùng ngón tay đâm vào để hóa giải chất độc. Hư Trúc quả là nhớ dai, Tô Tinh Hà vừa chỉ điểm thương thế mỗi người ra sao, trị bằng cách nào, y nhớ rành mạch hết. Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, mọi người đang đau đớn khổ sở đều được Hư Trúc giải trừ. Lung Á lão nhân là sư phụ của Tiết Thần Y, quả nhiên y thuật không phải tầm thường.
Sau cùng Hư Trúc đến trước mặt Huyền Nạn nghiêng người nói: “Sư bá tổ! Đệ tử lớn mật, xin phóng chưởng đánh vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu sư bá tổ.” Huyền Nạn đại sư mỉm cười nói: “Ngươi lọt vào mắt xanh Thông Biện tiên sinh, được người dạy cho phương pháp trị thương tuyệt diệu thế này, phúc trạch thật là thâm hậu. Ngươi cứ phóng chưởng vào huyệt Bách Hội trên đầu ta đi.”
Hư Trúc khom lưng nói: “Thế này thì đệ tử càn rỡ quá!” Lúc y ở chùa Thiếu Lâm, mỗi lần muốn thấy Huyền Nạn đều phải đứng xa xa nhìn vào. Những lúc Huyền Nạn hội họp tăng chúng để giảng giải tâm pháp võ công, Hư Trúc cũng phải đứng sau các vị khác, chứ chưa được đứng gần lão tăng bao giờ. Lần này nhà sư trẻ phóng chưởng đánh vào đầu sư bá tổ, tuy là để chữa thương, nhưng không khỏi hồi hộp trong lòng. Y trấn tĩnh lại rồi nói thêm: “Đệ tử mạo phạm, xin sư bá tổ tha tội”, rồi mới tiến lên một bước, nhắm huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu Huyền Nạn từ từ phóng chưởng ra, không nhanh không chậm mà cũng không nhẹ không nặng, thật là vừa cẩn thận vừa chính xác vô cùng.
Phát chưởng của Hư Trúc vừa chạm vào đầu Huyền Nạn, đột nhiên trên mặt đại sư hiện ra một nụ cười cổ quái, la lên một tiếng “Ôi chao!”, rồi gục xuống đất, cựa quậy mấy cái rồi nằm yên không nhúc nhích nữa.
Mọi người đều kinh hoảng la lên, Hư Trúc sợ hãi quá, tim đập ầm ầm, cứ nghĩ mình quá tay đánh chết sư bá tổ. Tuệ Phương cũng chạy vội đến, thấy miệng Huyền Nạn vẫn hiện một nụ cười quái dị, tuyệt khí chết rồi. Hư Trúc hốt hoảng la gọi: “Sư bá tổ!… Sư bá tổ làm sao vậy?”
Bỗng nghe tiếng Tô Tinh Hà la lên: “Chuyện gì thế? Ra sao rồi?”. Lão từ hướng Đông Nam nhảy vọt tới, nét mặt lộ vẻ sợ hãi nói: “Có người ở phía sau ám toán. Thân pháp y mau lẹ phi thường, không nhìn rõ là ai.” Tô Tinh Hà cầm tay Huyền Nạn xem mạch, rồi chau mày nói: “Huyền Nạn đại sư bị ám toán, lại đã mất hết công lực không còn sức để chống đỡ, nên viên tịch rồi!”
Hư Trúc đau lòng muốn ngất đi, khóc rống lên: “Sư bá tổ! Sư bá tổ… làm sao vậy?” Y bỗng nhớ lại lúc còn ở trong căn nhà gỗ, Tô Tinh Hà đã cười rất quái dị, bèn tức giận hỏi: “Thông Biện tiên sinh? Tại sao sư bá tổ lại chết? Phải chăng là tiên sinh cố ý hãm hại, mau nói thực đi!”
Tô Tinh Hà quì hai gối xuống đất nói: “Thưa chưởng môn, Tô Tinh Hà này không dám để chưởng môn làm chuyện bất nghĩa đâu. Huyền Nạn đại sư bị người ám toán nên mới viên tịch một cách đột ngột.” Hư Trúc hỏi: “Thế thì lúc ở trong nhà gỗ, tại sao tiên sinh lại cười một cách kỳ cục?” Tô Tinh Hà cả kinh hỏi lại: “Tiểu ca đã cười ư? Chưởng môn phải cẩn thận, có người…” Lão chưa nói dứt câu đột nhiên ngừng lại, khóe miệng lại lộ ra một nụ cười khó hiểu.
Tiết Mộ Hoa la lớn: “Sư phụ!”, rồi vội móc trong bọc ra một bình thuốc giải độc, mở nắp lấy ba viên nhét vào miệng Tô Tinh Hà. Nhưng Lung Á tiên sinh đã vĩnh viễn câm điếc thật rồi, mấy viên thuốc nghẹn trong miệng không nuốt xuống được nữa. Tiết Mộ Hoa khóc rống lên nói: “Sư phụ bị Đinh Xuân Thu hạ độc chết rồi. Lão tặc Đinh Xuân Thu…!” Lão khóc nấc lên, nghẹn ngào không nói tiếp được.
Khang Quảng Lăng nhảy chồm lại toan ôm lấy Tô Tinh Hà. Tiết Mộ Hoa vội nắm lấy sau lưng đại sư huynh kéo lại, vừa khóc vừa nói: “Đừng có… đụng vào người sư phụ!” Phạm Bách Linh, Cẩu Độc, Ngô Lãnh Quân, Phùng A Tam, Thạch Thanh Lộ, Lý Quỷ Lỗi đều nhất tề quì xuống trước di thể sư phụ, nét mặt vừa đau thương vừa giận dữ.
Khang Quảng Lăng theo Tô Tinh Hà đã lâu ngày nên biết rõ lề luật bản môn hơn. Lúc lão thấy sư phụ mình quì xuống trước mặt Hư Trúc gọi bằng chưởng môn, thì mười phần đã đoán ra đến tám chín, bây giờ lại chú ý nhìn vào tay Hư Trúc, quả nhiên thấy cái nhẫn bảo thạch màu đen liền nói: “Các vị sư đệ, mau theo ta lại tham kiến chưởng môn sư thúc của bản phái.” Nói xong y quì xuống trước mặt Hư Trúc, dập đầu lạy. Bọn Phạm Bách Linh đều hiểu ra, liền quì xuống lạy theo.
Hư Trúc ruột rối như tơ vò, cất tiếng nói: “Đinh… Đinh Xuân Thu thật là độc ác, đã gia hại sư bá tổ ta, lại làm chết cả sư phụ các vị!” Khang Quảng Lăng nói: “Việc trừ diệt kẻ gian ác để báo cừu tiết hận, hoàn toàn trông vào chưởng môn sư thúc chủ trương đại cuộc.”
Hư Trúc chỉ là một nhà sư trẻ chưa hiểu việc đời, tuy về kiến thức, võ công cùng danh vọng trên giang hồ thì bọn này ai cũng hơn y xa, nhưng lúc này y chẳng để ý gì nữa. Trong đầu y chỉ còn một ý niệm duy nhất: “Không báo thù cho sư bá tổ không được. Không báo thù cho Thông Biện tiên sinh không được. Không báo thù cho lão tiền bối trong căn nhà gỗ cũng không được.” Hư Trúc bất giác lớn tiếng la lên: “Không giết chết Đinh Xuân Thu… ác nhân Đinh Xuân Thu… ác tặc Đinh Xuân Thu không được.”
Khang Quảng Lăng lại dập đầu nói: “Chưởng môn sư thúc đã nhận lời báo thù cho sư phụ, bọn sư điệt cảm tạ đại ân đại đức vô cùng.” Bọn Phạm Bác Linh, Tiết Mộ Hoa đều dập đầu lạy theo. Hư Trúc vội quỳ xuống đáp lễ nói: “Không dám, không dám! Xin các vị đứng dậy.” Khang Quảng Lăng nói: “Thưa sư thúc! Tiểu điệt có việc muốn bẩm, nhưng ở đây đông người không tiện, mời sư thúc vào trong kia để tiểu điệt trình bày.” Hư Trúc nói: “Được!” rồi đứng dậy, mọi người cũng đứng dậy theo.
Hư Trúc cùng Khang Quảng Lăng vừa định đi vào trong căn nhà gỗ, Phạm Bách Linh vội nói: “Khoan đã! Sư phụ vừa bị độc thủ của Đinh lão tặc trong nhà, chưởng môn sư thúc cùng đại sư huynh chớ nên vào đó. Tên lão tặc này rất nhiều quỷ kế, nhất định phải đề phòng.” Khang Quảng Lăng gật đầu nói: “Ngươi nói đúng lắm! Chưởng môn sư thúc là bậc yếu nhân, không thể để bị nguy hiểm được.” Tiết Mộ Hoa nói: “Hai vị nói phải lắm. Để bọn tiểu đệ đi xem xét bốn mặt, đề phòng Đinh lão tặc lại giở ngụy kế gì nữa chăng?” Nói xong y chạy đi luôn, bọn Phùng A Tam, Lý Quỷ Lỗi cũng ra xa đến ngoài mười trượng. Nghĩ mà tội nghiệp, bọn huynh đệ này chỉ còn sót Tiết Mộ Hoa là vô sự, còn lại thì không mất hết công lực cũng bị trọng thương. Mang tiếng là đi cảnh giới, nhưng giả tỉ Đinh Xuân Thu quay lại tập kích thật, họ chỉ còn cách hô hoán chứ không còn sức kháng cự nữa.
Bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, thấy bọn họ lùi ra xa cũng đều lảng đi chỗ khác. Bọn Cưu Ma Trí, Đoàn Diên Khánh tuy thấy sự tình cổ quái nhưng không phải chuyện của mình, cũng rời đi mỗi người một hướng.
Khang Quảng Lăng lại nói: “Sư thúc!…” Hư Trúc ngắt lời: “Ta không phải là sư thúc của các vị, mà cũng chẳng phải chưởng môn gì gì hết. Ta chỉ là một hòa thượng Thiếu Lâm, không có liên can gì đến phái Tiêu Dao của các vị.” Khang Quảng Lăng lại hỏi: “Sư thúc! Sao sư thúc lại không chịu nhận? Theo lề luật bản môn thì ba chữ Phái Tiêu Dao, người ngoài môn phái quyết không được nghe. Giả tỉ có ai vô tình hay hữu ý nghe thấy thì phải hạ sát ngay, dù phải đuổi theo đến góc biển chân trời cũng giết cho kỳ được để bịt miệng.” Hư Trúc sợ run lên, nghĩ thầm: “Qui củ như vậy thì không phải là chính phái. Nếu ta không chịu gia nhập phái này thì họ phải giết ta ư?”
Khang Quảng Lăng lại nói: “Thủ pháp mà sư thúc vừa trị thương cho mọi người chính là nội công chính thống của bản phái. Nếu sư thúc không gia nhập bản phái thì khi nào sư tổ lại truyền thụ môn đó? Mà tiểu điệt không dám hỏi nhiều, không chừng gia sư đã thay mặt sư tổ để thu đồ đệ, truyền chức chưởng môn cũng nên. Dù sao, chiếc nhẫn Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn đã đeo ở trên ngón tay của sư thúc, gia sư lúc lâm tử lại gọi sư thúc bằng chưởng môn, thì sư thúc đừng chối làm gì nữa.”
Hư Trúc nhìn sang trái thấy bọn Tuệ Phương đã khiêng thi thể Huyền Nạn đặt qua một bên, lại thấy xác Tô Tinh Hà vẫn quỳ dưới đất, khóe miệng vẫn còn một nụ cười bí mật, thì chua xót trong lòng, nói: “Chuyện này nhất thời không thể nói rõ được. Hiện giờ, cấp bách nhất là phải làm sao biết Đinh Xuân Thu để báo thù cho sư phụ các vị và sư bá tổ ta, đồng thời trừ hại cho võ lâm, Lão tiền bối…”
Khang Quảng Lăng lập tức quì xuống nói: “Sư thúc xưng hô như vậy thì giết tiểu điệt đi còn hơn.” Hư Trúc chau mày nói: “Thôi được! Đứng dậy đi!” Khang Quảng Lăng vâng lời đứng dậy. Hư Trúc nghĩ sao lại buột miệng nói: “Lão tiền bối!…” Ba chữ này vừa ra khỏi miệng, Khang Quảng Lăng lại quỳ mọp xuống đất. Hư Trúc nói: “Ta quên mất, không được xưng hô thế nữa. Đứng dậy đi!” Hư Trúc lấy cuốn trục của Tiêu Dao lão nhân, mở ra nói: “Sư phụ ngươi bảo ta theo cuốn trục này để tìm cách học võ công, mới trừ diệt được Đinh Xuân Thu.”
Khang Quảng Lăng thấy cuốn trục vẽ hình một mỹ nữ cung trang thì lắc đầu nói: “Tiểu điệt không hiểu được bức vẽ này, sư thúc hãy cất đi đừng để cho người ngoài trông thấy. Lúc gia sư còn sống đã nói gì, xin sư thúc cứ theo lời người mà hành động. Tiểu điệt xin nói rõ, chất độc gia sư trúng phải gọi là Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, vô hình vô sắc. Người trúng độc không hay biết gì hết, chỉ có nét mặt tựa như mỉm cười một cách cổ quái, cười đến lần thứ ba là tắt thở chết.”
Hư Trúc cúi đầu nói: “Thật là xấu hổ. Lúc lệnh sư trúng độc, quả là có cười một cách khó hiểu. Ta lại đem bụng dạ tiểu nhân mà đoán càn, nghi lệnh sư có ý nghĩ không tốt. Nếu lúc ấy mà hỏi ngay, thì chắc còn cứu kịp, không đến nỗi thảm tử.”
Khang Quảng Lăng lắc đầu nói: “Ai đã trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì khó mà cứu được, Đinh lão tặc hoành hành trong võ lâm, nhờ vào Tam Tiếu Tiêu Dao Tán mà chẳng sợ ai. Hóa Công Đại Pháp thì nổi tiếng hơn, vì người trúng Hóa Công Đại Pháp mất hết công lực nhưng không chết. Còn ai trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì đừng hòng sống sót, dĩ nhiên không kể cho người khác nghe được.”
Hư Trúc gật đầu nói: “Quả là kịch độc! Lúc đó ta đứng cạnh tôn sư mà không phát giác được Đinh lão tặc đã hạ độc cách nào. Mà sao Đinh lão tặc không hạ độc thủ giết nốt ta, còn dung tha cái mạng nhỏ bé này làm gì?” Khang Quảng Lăng đáp: “Chắc lão thấy võ công sư thúc tầm thường, không cần hạ độc. Chưởng môn sư thúc, theo tiểu điệt thì sư thúc còn nhỏ tuổi, bản lĩnh chưa có gì cao thâm. Sư thúc được sư phụ truyền thụ cho phép trị thương kỳ diệu, nhưng bản lĩnh so với Đinh Xuân Thu thì chưa thấm gì. Có lẽ vì thế mà Đinh lão quái không để ý gia hại sư thúc.” Đột nhiên y nghĩ ra mình ăn nói vô lễ, vội vàng nhận lỗi: “Chưởng môn sư thúc! Tiểu điệt quen nói thật tình, sư thúc trách phạt thì tiểu điệt cũng xin chịu. Sự thực võ công sư thúc chưa được cao cường lắm.”
Hư Trúc nói: “Ngươi nói không sai chút nào, võ công ta quả là thấp kém. Đinh lão tặc… Ôi chao, tội lỗi, tội lỗi! Tiểu tăng xưng hô khinh bạc, phạm vào ác khẩu giới, thật không đáng làm đệ tử nhà Phật. Đinh Xuân Thu thí chủ quả là không muốn giết tiểu tăng.”
Hư Trúc thì bụng dạ chất phác, Khang Quảng Lăng thì không hiểu nội tình, đều không nghĩ ra được lúc Đinh Xuân Thu đột nhập vào nhà gỗ, nghe thấy Tô Tinh Hà đang truyền pháp môn trị hàn độc cho Hư Trúc, không phải không muốn ám toán Hư Trúc, cũng không phải cho rằng y võ công thấp kém mà không đáng giết. Lý do chỉ vì Tam Tiếu Tiêu Dao Tán là loại thuốc độc phải dùng nội lực đẩy vào thân thể của đối phương. Đinh Xuân Thu trong nhà gỗ đã phát xạ Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào Tô Tinh Hà và Hư Trúc, ra ngoài lại ám toán Huyền Nạn. Tô Tinh Hà thì sau trận ác chiến đã kiệt lực, Huyền Nạn thì đã mất hết nội lực, nên trước sau đều trúng độc. Còn Hư Trúc vừa nhận được bảy mươi năm thần công, nội lực kèm chất độc của Đinh Xuân Thu nhắm vào y đều bị hất ra ngoài, vô tình lại chuyển sang thân của Tô Tinh Hà, còn Hư Trúc không trúng mảy may. Bởi thế mà trước nay Đinh Xuân Thu cùng người chiến đấu, không dám sử dụng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán trước mặt vì sợ đối phương nội lực cao cường hất trở lại mình.
Khang Quảng Lăng nói: “Sư thúc nói không đúng rồi. Phái Tiêu Dao không phải Phật mà cũng chẳng phải Đạo, muốn đi đâu thì đi, muốn đến đâu thì đến, có phải tiêu dao tự tại biết chừng nào không? Sư thúc là chưởng môn bản phái, chẳng phải nghe lời ai cả, nên sớm bỏ áo cà sa, để tóc dài, lấy cô vợ mười bảy mười tám, mặc kệ Phật môn hay chẳng Phật môn, ác khẩu giới thiện khẩu giới chi chi hết.”
Y cứ nói một câu là Hư Trúc niệm một tiếng “A Di Đà Phật!”. Y dứt lời, Hư Trúc bèn nói: “Trước mặt ta, ngươi đừng nói những câu phỉ báng Phật môn nữa. Người còn điều chi muốn nói nữa không?” Khang Quảng Lăng la lên: “Hỏng bét! Tiểu điệt thật là đáng chết, nói lăng nhăng hàng nửa ngày vẫn chưa đi vào chính đề. Thưa chưởng môn sư thúc, tiểu điệt thỉnh cầu sư thúc một việc lớn, xin sư thúc gia ơn phê chuẩn cho.”
Hư Trúc đáp: “Sao lại kêu ta phê chuẩn, ta không dám đâu!” Khang Quảng Lăng nói: “Ôi! Đại sự trong bản môn mà không cầu chưởng môn phê chuẩn thì còn biết cầu ai nữa? Bọn sư huynh sư đệ tiểu điệt cả thảy tám người, trước kia đã bị sư phụ đuổi ra khỏi môn phái. Không phải là bọn tiểu điệt phạm lỗi gì, chỉ vì sư phụ sợ Đinh lão tặc gia hại đến bọn tiểu điệt, lại không nỡ chọc màng tai, cắt đầu lưỡi cho bọn tiểu điệt thành câm điếc, nên phải dùng đến hạ sách này. Bây giờ sư phụ đã thu hồi mệnh lệnh, cho bọn tiểu điệt gia nhập trở lại sư môn, nhưng chưa bẩm lên chưởng môn để thi hành đại lễ, như thế vẫn chưa được kể là đệ tử chính thức. Vậy bọn tiểu điệt thỉnh cầu chưởng môn chuẩn y thu nhận. Nếu không, tám người bọn sư điệt vẫn là vô môn vô phái, chẳng khác gì bọn cô hồn dã quỷ vật vờ trên chốn giang hồ, thật là đau khổ.”
Hư Trúc nghĩ thầm: “Nếu mình quyết không nhận làm chưởng môn phái Tiêu Dao, thì lão già này còn quấy rầy mãi không chịu thôi. Thôi thì ta cứ vờ vịt cho xong chuyện rồi tính sau.” Y liền nói: “Lệnh sư đã bằng lòng thì các ngươi tự nhiên lại là đệ tử trong môn phái, còn thắc mắc gì nữa?”
Khang Quảng Lăng cả mừng quay lại hô to: “Các vị sư đệ, sư muội! Chưởng môn sư thúc đã ưng thuận cho bọn ta quay lại bản môn rồi!” Bảy người còn lại trong Hàm Cốc Bát Hữu đều hoan hô ầm ĩ! Lão nhị mê cờ là Phạm Bách Linh, lão tam đồ gàn là Cẩu Độc, lão tứ vẽ giỏi là Ngô Lãnh Quân, lão ngũ là Diêm Vương Địch Tiết Mộ Hoa, lão lục thợ khéo là Phùng A Tam, lão thất là thiếu phụ Thạch Thanh Lộ, lão bát kép hát là Lý Quỷ Lỗi, cả bọn đều đến khấu đầu lạy tạ chưởng môn sư thúc đã gia ơn cho trở về bản phái.
Hư Trúc lại càng băn khoăn, thấy mỗi việc xảy ra lại kéo mình vào danh vị chưởng môn sư thúc sâu thêm một nấc. Mình là đệ tử danh môn chính phái, là hòa thượng Thiếu Lâm mà lại đi chấp chưởng một tà môn ngoại đạo thì còn ra gì nữa? Nhưng y thấy bọn Phạm Bách Linh đang mừng rỡ đến chảy nước mắt, nếu mình lại từ chối danh vị chưởng môn thì thật là quá tàn nhẫn. Y không biết làm thế nào cho phải, đành lắc đầu nở một nụ cười đau khổ. Hư Trúc ngoảnh đầu lại, nhưng mọi người Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh, Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên, sáu nhà sư chữ Tuệ, đến cả thi thể Huyền Nạn đều không thấy đâu nữa, trong rừng tùng chỉ còn lại chín người phái Tiêu Dao mà thôi.
Hư Trúc ngạc nhiên hỏi: “Ôi chao! Mọi người đi đâu hết rồi?” Ngô Lãnh Quân đáp: “Mộ Dung công tử cùng các vị cao tăng phái Thiếu Lâm thấy chúng ta bàn luận lâu quá, đều đi cả rồi.” Hư Trúc la lên: “Trời ơi!”, rồi nhún chân nhảy vọt đi, định bụng đuổi theo bọn Tuệ Phương để cùng về chùa Thiếu Lâm, hỏi ý sư phụ xem có nên đi nữa không. Trong lòng y nóng nảy, không nghe cả những tiếng hô hoán của bọn sư điệt phía sau.
Hư Trúc chạy như bay chừng nửa giờ, càng về sau càng nhanh hơn mà vẫn không thấy sáu vị sư bá sư thúc hàng chữ Tuệ đâu. Y không ngờ nhờ vào thần công bảy mươi năm của Tiêu Dao lão nhân truyền cho, nên khinh công mau lẹ phi thường, vượt xa sáu nhà sư hàng chữ Tuệ. Y hốt hoảng rượt theo, ngờ đâu trong lúc băng qua một thung lũng, y chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ sáu nhà sư lại phía sau mà không hay biết.
Hư Trúc chạy một mạch đến chiều tối vẫn chẳng thấy sáu nhà sư đâu, trong lòng rất kinh ngạc, tưởng là mình chạy lạc đường. Y liền quay đầu chạy ngược lại chừng hai mươi dặm, vừa chạy vừa hỏi thăm những người qua đường, nhưng chẳng ai biết. Đến lúc trời tối y chạy tới một thị trấn, bụng đã đói meo liền tìm vào phạn điếm, bảo nhà hàng nấu hai bát miến chay.
Hư Trúc ngồi đợi nấu miến mà lòng dạ bồn chồn, không ngớt đưa mắt nhìn ra ngoài, hết ngó đông lại ngò tây. Đột nhiên y nghe một thanh âm vừa trong trẻo vừa dõng dạc hỏi: “Phải chăng hòa thượng đang muốn kiếm ai?” Hư Trúc ngoảnh lại nhìn thì thấy ở hướng tây có một chàng thiếu niên mặc áo xanh ngồi bên cửa sổ, mày thanh mắt sáng, nước da trắng mịn, tướng mạo tuấn nhã đang cười hì hì nhìn mình. Gã này mới chừng mười bảy mười tám tuổi. Hư Trúc nói: “Đúng thế! Tiểu tướng công có thấy sáu hòa thượng qua đây không?” Thiếu niên đáp: “Sáu hòa thượng thì không thấy, chỉ thấy một thôi!” Hư Trúc hỏi: “Thế ư? Tướng công thấy vị hòa thượng đó ở đâu?” Thiếu niên đáp: “Ở trong phạn điếm này.”
Hư Trúc nghĩ thầm: “Một hòa thượng thì chắc là không phải, bọn Tuệ Phương sư bá cùng đi chứ đâu phải một người? Nhưng ta cứ thử hỏi xem, may ra có được tin tức gì chăng?” Y liền hỏi: “Không hiểu vị hòa thượng đó trông thế nào, độ bao nhiêu tuổi và đi hướng nào, tiểu tướng công có để ý không?” Chàng thiếu niên mỉm cười đáp: “Hòa thượng đó trán dô tai vểnh, miệng rộng môi dày, lỗ mũi huếch lên trời, độ chừng hai mươi ba hai mươi bốn tuổi. Nhà sư đó đang trong phạn điếm để chờ ăn hai bát miến, chưa biết sẽ đi hướng nào!”
Hư Trúc phì cười đáp: “Té ra tiểu tướng công đang nói đến bần tăng.” Chàng thiếu niên nói: “Tướng công là tướng công, sao lại còn tiểu vào đấy? Ta vẫn gọi là hòa thượng, có gọi tiểu hòa thượng đâu?” Giọng nói của gã vừa trong trẻo vừa uyển chuyển, nghe rất êm tai. Hư Trúc cười nói: “Phải rồi! Gọi bằng tướng công thì đúng hơn!”
Hai người đang nói chuyện thì tiểu nhị bưng miến lên. Hư Trúc cười nói: “Tướng công! Bần tăng ăn miến đây.” Thiếu niên nói: “Ăn chay không có chút dầu mỡ nào thì sao nuốt nổi? Hòa thượng lại đây dùng thịt béo gà quay với ta.” Hư Trúc nói: “Tội lỗi! Tội lỗi! Suốt đời bần tăng không đụng đến thịt cá, xin tướng công cứ tùy tiện.” Nói xong, nhà sư cúi xuống ăn miến, thấy chàng thiếu niên ăn thịt nên không muốn nhìn lâu.
Nhà sư đang đói meo, nuốt hết nửa bát miến trong nháy mắt. Bỗng nghe thiếu niên la lên: “Ôi chao! Cái gì thế này?” Hư Trúc ngoảnh lại xem thì thấy gã cầm thìa canh chưa đưa vào miệng, vẻ mặt kinh ngạc như đột nhiên trông thấy một vật kỳ dị. Gã thò tay trái ra nhặt lấy vật gì đó trên bàn rồi đứng dậy, một tay vẫn cầm thìa canh, một tay cầm vật kia đến bên Hư Trúc hỏi: “Hòa thượng! Hòa thượng coi con sâu này có kỳ lạ không?”
Hư Trúc nhìn kỹ vật trên tay gã, thì ra chỉ là một con bọ nhỏ màu đen rất thông thường, ở đâu cũng có. Y bèn hỏi: “Không hiểu nó kỳ dị ở chỗ nào?” Chàng thiếu niên đáp: “Hòa thượng nhìn kỹ mà xem, vỏ nó đen sì mà sáng bóng, tựa như có bôi dầu.” Hư Trúc nói: “Ôi chà, đó chỉ là con bọ thôi, con nào cũng vậy.” Thiếu niên nói: “Thế ư?”, rồi vứt con bọ xuống đất, lấy chân dẫm chết, xong trở lại bàn mình. Hư Trúc thở dài nói: “Tội nghiệp! Tội nghiệp!”, rồi lại cúi xuống ăn miến.
Cả ngày nay nhà sư chưa có gì vào bụng nên ăn có vẻ rất ngon lành, húp cạn cả nước, chỉ còn lại bát không. Hư Trúc lại bưng bát miến thứ hai lên cầm đũa toan gắp ăn, đột nhiên gã thiếu niên cười ha hả nói: “Hòa thượng! Ta thấy người bề ngoài nghiêm cẩn, cứ tưởng là hòa thượng tốt, ngờ đâu cũng là hạng khẩu thị tâm phi, giả bộ tu hành!” Hư Trúc hỏi lại: “Bần tăng khẩu thị tâm phi ở chỗ nào?” Thiếu niên đáp: “Hòa thượng nói suốt đời không đụng tới thịt cá, thế mà húp sạch bát thang gà một cách ngon lành!” Hư Trúc nói: “Tướng công nói giỡn rồi. Rõ ràng là một bát miến chay chỉ có rau, sao lại bảo là thang gà? Bần tăng đã dặn chủ quán đừng cho giọt dầu mỡ nào.”
Thiếu niên mỉm cười nói: “Hòa thượng nói là không biết ăn thịt cá, thế mà húp nguyên bát thang gà cũng chẳng thấy gì. Để ta lại múc một thìa mỡ gà đổ vào bát miến cho hòa thượng ăn nữa nhé!” Gã nói xong, múc một thìa mỡ trong đĩa gà quay rồi đứng lên.
Hư Trúc cả kinh nói: “Tướng công! Vừa rồi… vừa rồi…” Thiếu niên cười đáp: “Phải rồi! Lúc nãy ta múc một thìa mỡ gà cho vào bát miến, chẳng lẽ hòa thượng không thấy hay sao? Ái chà chà! Chắc chắn là hòa thượng nhắm mắt vờ như không biết ta cho mỡ gà vào, như thế vừa được ăn ngon vừa không phải tự mình ra tay. Không hiểu Phật tổ có trách phạt hòa thượng không?”
Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức giận, bấy giờ y mới hiểu ban nãy gã thiếu niên gạt mình nhìn vào con sâu là để thừa cơ đổ thìa mỡ gà vào bát miến của mình. Nhà sư nghĩ lại lúc ăn bát canh miến quả thấy thơm ngon hơn, chỉ vì suốt đời chưa từng nếm qua nên không nhận được mùi vị, Hư Trúc không hiểu đã lỡ nuốt mỡ gà vào bụng rồi thì phải làm thế nào, có nên nôn ra không. Y ngẩn ra hồi lâu, chưa biết tính sao.
Gã thiếu niên lại hỏi: “Phải chăng hòa thượng đang tìm sáu nhà sư? Có phải mấy vị đang đi ngoài kia không?”
Hư Trúc cả mừng bước ra cửa, ngó qua ngó lại cũng chẳng thấy bóng người nào. Y biết là lại bị lừa gạt thì bực bội trong lòng, nhưng là người xuất gia thì không nên oán giận, bèn cố nhịn không nói năng gì, lại quay vào ăn miến.
Hư Trúc nghĩ thầm: “Tiểu tướng công này còn nhỏ tuổi mà tính tình tinh nghịch, thích chọc ghẹo người khác.” Y lại cầm đũa ăn như rồng cuốn đến hơn nửa bát. Đột nhiên lưỡi nhà sư chạm phải vật gì trơn trơn, nhưng vì ăn lẹ quá nên không hãm kịp, nuốt luôn vào bụng. Hư Trúc giật mình nhìn vào bát miến, thấy một miếng thịt lớn, biết ngay vừa rồi mình đã nuốt một miếng thịt rồi. Y vứt đũa xuống bàn, than thở: “Khổ rồi! Khổ rồi!”
Gã thiếu niên cười nói: “Hòa thượng! Ăn miếng thịt ngon lành thế kia mà lại còn kêu khổ ư?” Hư Trúc tức giận nói: “Thì ra ngươi lừa ta chạy ra cửa để bỏ thịt vào bát miến của ta. Ta… ta đã hai mươi ba tuổi, chưa ăn một chút đồ tanh nào… Ta bị hại vì tay ngươi rồi!”
Chàng thiếu niên mỉm cười hỏi lại: “Miếng thịt béo đó mà không ngon gấp mười rau xanh đậu hũ ư? Trước nay hòa thượng không chịu ăn cá thịt thì thật là ngu ngốc.” Hư Trúc cau mày đầy vẻ đau khổ, đưa tay lên gãi đầu, nhất thời chưa biết làm thế nào cho phải, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng nhốn nháo, một đám đông người đang tiến vào phạn điếm.
Y nhìn ra, thì chính là bọn đệ tử phái Tinh Tú, kinh hãi than thầm: “Ôi chao, nguy rồi! Bọn chúng mà bắt được ta thì còn chi là sinh mạng?” Hư Trúc vội vàng chạy ra sau để tìm chỗ trốn, ngờ đâu vừa đẩy cửa tiến vào, thì đây là một buồng ngủ. Phạn điếm này nhỏ quá, phòng ngủ của nhà chủ liền với phòng khách ngồi. Hư Trúc toan trở ra, bỗng nghe có tiếng gọi: “Chủ quản! Mau mau đem rượu thịt ra đây!” Bọn đệ tử phái Tinh Tú đã vào đến phòng khách.
Hư Trúc không dám ra ngoài nữa, đứng trong phòng khép cửa lại. Bỗng nghe một người nói: “Kiếm chỗ cho nhà sư mập nằm!” Thanh âm đó rất quen thuộc, chính là của Đinh Xuân Thu. Một tên đệ tử phái Tinh Tú đáp: “Vâng!”, rồi có tiếng chân bước nặng chịch đi lại phía phòng ngủ. Hư Trúc cả kinh, bèn cúi xuống chui vào gầm giường. Đột nhiên y đụng phải vật gì đó rồi có tiếng kêu khẽ, thì ra đã có một người nằm ẩn dưới gầm giường. Hư Trúc giật mình, đang muốn chui ra thì một tên đệ tử phái Tinh Tú đã bồng nhà sư Tuệ Tịnh tiến vào buồng ngủ, đặt lên giường rồi trở ra ngoài.
Hư Trúc lại nghe người nằm bên cạnh mình hỏi nhỏ: “Hòa thượng! Lúc nãy ăn thịt có ngon không? Hòa thượng sợ quái gì?” Hư Trúc nghĩ thầm: “Gã này chân tay mau lẹ, chui vào nấp dưới gầm giường trước cả mình.”, bèn nói: “Ngoài kia có một bọn ác nhân, tướng công chớ có lên tiếng.” Thiếu niên hỏi: “Sao hòa thượng biết bọn chúng là ác nhân?” Hư Trúc đáp: “Bần tăng có gặp qua bọn này, chúng vô cớ giết người không hề chớp mắt.”
Chàng thiếu niên đang định bảo Hư Trúc nói nhỏ lại, thì đột nhiên Tuệ Tịnh nằm trên giường la lên: “Gầm giường có người! Gầm giường có người!” Hư Trúc cùng gã thiếu niên cả kinh, đồng thời chui ra. Đinh Xuân Thu đang đứng sừng sững trước cửa phòng cười nhạt, vẻ mặt lão vừa đắc ý vừa ác độc.
Gã thiếu niên mặt mày tái mét cắt không ra máu, quì ngay xuống đất, hô lớn: “Sư phụ!” Đinh Xuân Thu cười nói: “Hay lắm, hay lắm! Đưa đây!” Thiếu niên đáp: “Đệ tử không để bên mình.” Đinh Xuân Thu hỏi: “Để ở đâu?” Thiếu niên đáp: “Đệ tử cất ở Nam Kinh, nước Liêu.” Đinh Xuân Thu mắt lộ hung quang, gằn giọng nói: “Mi còn dám lừa gạt ta ư? Ta sẽ để mi muốn sống không sống được, mà muốn chết cũng không chết được!” Thiếu niên đáp: “Đệ tử không dám lừa gạt sư phụ!” Đinh Xuân Thu đảo mắt nhìn Hư Trúc, rồi hỏi thiếu niên: “Sao mi lại ở với hắn một nơi?” Thiếu niên đáp: “Đệ tử mới gặp y trong phạn điếm này.” Đinh Xuân Thu hừ một tiếng, quát: “Mi nói láo!” Hai mắt lão hầm hầm nhìn hai người, rồi quay trở ra. Bốn tên đệ tử phái Tinh Tú bèn tiến lại gần vây lấy hai người.
Hư Trúc vừa kinh hãi vừa hối hận, nói: “Té ra ngươi cũng là đệ tử phái Tinh Tú!”
Gã thiếu niên hằn học đáp: “Chỉ tại ngươi mà lộ chuyện, còn trách ta nữa ư?” Một tên đệ tử phái Tinh Tú hỏi: “Đại sư tỉ! Lâu nay vẫn bình yên chứ?” Giọng nói của gã ra chiều mai mỉa, bộ mặt đầy vẻ khoái chí khi thấy người khác gặp tai họa.
Hư Trúc kinh ngạc hỏi: “Cái gì? Ngươi… ngươi…” Gã thiếu niên mắng luôn: “Tên trọc ngu ngốc này, tên trọc thối tha này! Dĩ nhiên ta là nữ nhân, chẳng lẽ ngươi không nhận ra hay sao?”
Thiếu niên này chính là A Tử cải trang. Nàng ở trong thành Nam Kinh nước Liêu, tuy vinh hoa phú quý hưởng không hết được, nhưng bản tính hiếu động, lâu ngày đâm chán. Tiêu Phong thì công việc bận rộn, không thể ngày nào cũng đưa nàng đi săn bắn du ngoạn được. Một hôm nàng thấy trong lòng buồn bã, liền một mình ra ngoài chơi, lúc đầu nghĩ là đến tối sẽ trở về, không ngờ gặp chuyện hứng chí, đuổi theo một người càng lúc càng xa, đến lúc giết được người đó thì đã xa Nam Kinh quá rồi. Nhân đó nàng bèn xuống Trung Nguyên du ngoạn khắp nơi, hôm nay ma dẫn lối quỷ đưa đường thế nào lại gặp cả Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu. A Tử gạt Hư Trúc ăn mặn phá giới, chỉ là để đùa chơi. Hễ thấy người ta bối rối phiền não là nàng khoái chí, thật ra không có ý tứ sâu xa gì.
A Tử tưởng sư phụ nàng cứ ở Tinh Tú Hải đến hết tuổi già, không bước chân tới Trung Nguyên nữa, nào ngờ trong phạn điếm nhỏ xíu nơi thị trấn này lại oan gia gặp mặt trong ngõ hẻm. Ngoài mặt A Tử tỏ ra thản nhiên vô sự, nhưng nàng đã sợ đến xiêu hồn bạt vía, to tiếng mạt sát Hư Trúc chỉ là để tự trấn an mình. Giọng nói của nàng cũng bắt đầu run rẩy, cố gượng trấn tĩnh nhưng không được nữa. A Tử bèn ngồi xuống mép giường, tính kế thoát thân. Nàng nghĩ thầm: “Chỉ có tỉ phu may ra mới có thể cứu được mình, còn bất luận ai khác cũng không địch nổi sư phụ. Bây giờ chỉ còn đường sống duy nhất là gạt sư phụ đến Nam Kinh, mượn tay tỉ phu giết phắt lão đi. Cũng may mà mình để Thần Mộc Vương Đỉnh lại Nam Kinh, chắc sư phụ không bỏ bảo vật đó được.”
Nàng đã thấy hơi hơi yên lòng, nhưng lại nghĩ tiếp: “Giả tỉ sư phụ tra khảo hành hạ mình, phế hết võ công rồi mới giải đến Nam Kinh, thì còn đau khổ gấp mười lần bị giết chết ngay.” Nghĩ vậy nàng sợ quá, mặt không còn chút huyết sắc.
Lúc ấy, một tên đệ tử phái Tinh Tú đi tới cửa phòng cười hì hì gọi: “Đại sư tỉ ơi, sư phụ mời ra nói chuyện.”A Tử chẳng khác gì chuột nghe mèo gọi, xương cốt mềm nhũn ra, hồn phi phách tán, chỉ còn biết theo chân tên này ra phòng khách.
Chỉ một mình Đinh Xuân Thu ngồi, trên bàn đã bày sẵn rượu thịt. Bọn đệ tử đều thõng tay đứng xa xa, thái độ cực kỳ cung kính, không ai dám thở mạnh. A Tử bước đến gọi: “Sư phụ!”, rồi quỳ mọp xuống. Đinh Xuân Thu hỏi: “Thực sự mi để ở đâu?” A Tử đáp: “Đệ tử không dám lừa gạt sư phụ. Vật đó đang ở trong thành Nam Kinh nước Liêu.” Đinh Xuân Thu lại hỏi: “Chỗ nào trong thành Nam Kinh?” A Tử đáp: “Trong vương phủ của Nam Viện Đại Vương nước Liêu.” Đinh Xuân Thu chau mày hỏi: “Tại sao lại để lọt vào tay bọn chó má Khất Đan đó?” A Tử đáp: “Không lọt vào tay chúng đâu. Đệ tử lên miền bắc, vừa sợ làm thất lạc bảo bối của sư phụ, vừa sợ lỡ tay đánh rơi làm xây xát, liền vào vườn hoa phía sau vương phủ Tiêu đại vương đào lỗ chôn giấu. Nơi đó rất là hẻo lánh, hoa viên của Tiêu đại vương lại rộng đến sáu ngàn mẫu, trừ đệ tử ra thì không còn ai tìm thấy vương đỉnh được nữa. Xin sư phụ cứ yên tâm.”
Đinh Xuân Thu lạnh lẽo cười nói: “Hừ! Chỉ có mi mới tìm được phải không? Ái chà, con này đáo để thật. Mi tưởng ta sợ tìm không ra vương đỉnh mà không dám giết mi ư?” A Tử toàn thân run rẩy, ấp úng nói: “Giả tỉ sư phụ không chịu dung tha cho đứa đệ tử ngu xuẩn này, mà đem phế bỏ công lực, cắt gân bứt mạch, hoặc chặt chân tay, thì đệ tử thà chết còn hơn, nhất quyết không nói ra vương đỉnh… vương đỉnh hiện đang giấu ở đâu.” Nàng sợ đến đứt hơi, mấy chữ cuối nói không ra tiếng.
Đinh Xuân Thu mỉm cười nói: “Con lỏi này lớn mật dám mặc cả với ta! Trong phái Tinh Tú thì mi là lợi hại nhất, chỉ vì ta không để ý phòng bị mà mi qua mặt được Tinh Tủ lão tiên!”
Một tên đệ tử đột nhiên lớn tiếng nói: “Tinh Tú lão tiên nhìn xa vạn dặm, người biết rõ số kiếp của Thần Mộc Vương Đỉnh phải trải qua mấy cuộc nguy nan, nên mới mượn tay A Tử để giũa mài thêm cho bảo bối.” Một tên đệ tử khác nói: “Thần toán của lão tiên bao trùm thiên hạ, lời nói lại khiêm nhường, bọn đệ tử thật không thể nào theo kịp.” Một tên khác lại nói: “Bữa nay Tinh Tú lão tiên mới thi triển một chút công phu đã hạ sát được tên Huyền Nạn là cao thủ Thiếu Lâm, đồng thời tru diệt luôn mười mấy tên đệ tử của Lung Á lão nhân, quả là đệ nhất thiên hạ từ cổ chí kim, Đại La Kim Tiên cũng chưa bằng được!” “Con lỏi A Tử kia! Mi xảo quyệt thế nào cũng không ra khỏi vòng trù tính của lão tiên được đâu! Dù mi van xin hay kháng cự, cũng vô ích như nhau.” Tiếng gã này dõng dạc, Đinh Xuân Thu ngồi gật đầu mỉm cười, vuốt vuốt chòm râu ra vẻ thích thú.
Hư Trúc đứng trong phòng ngủ nghe rõ hết, nghĩ thầm: “Quả nhiên sư bá tổ cùng Thông Biện tiên sinh đều bị lão sát hại. Hỡi ôi! Nói chi đến chuyện báo cừu tiết hận? Ngay cả cái mạng nhỏ nhoi của ta cũng khó mà giữ nổi.”
Bọn đệ tử phái Tinh Tú thi nhau khuyến cáo A Tử mau mau thành thật cung xưng, giọng điệu vừa sợ hãi, vừa tán dương oai đức của Tinh Tú lão tiên. Cả những câu tưởng chỉ nói cho A Tử nghe cũng đều ngụ ý xu nịnh Đinh Xuân Thu.
Bình sinh Đinh Xuân Thu có tật thích nghe nịnh bợ, ai càng nịnh khéo thì lão lại càng thích. Bọn đồ đệ này đã tán dương lão mấy chục năm trời, lão nghe quen tai, yên trí rằng chúng nói thật lòng, tên nào không biết ca tụng thì lại bị lão nghi ngờ là không trung thành. Đối với kẻ ác độc như Đinh Xuân Thu, tên nào lỡ làm mất lòng sư phụ thì không thể bảo toàn tính mạng được. Bọn đệ tử đều biết thế, nên cứ gặp cơ hội là chúng chụp ngay lấy để tán dương. Nói thật tình thì không phải hết thảy đệ tử phái Tinh Tú đều mặt dày vô sỉ, nhưng một là vì tình thế bắt buộc phải nịnh bợ sư phụ để tồn tại, hai là chúng đi theo sư phụ lâu ngày, những câu nịnh bợ nghe đã quen tai, rồi cứ thuận miệng xì ra, chẳng thấy gì là đáng xấu hổ nữa.
Đinh Xuân Thu ngồi nghe bọn đệ tử ca tụng, mỉm cười vuốt râu, hai mắt híp lại, khoái chí vô cùng. Bộ râu dài của lão lúc tỉ thí nội công cùng sư huynh là Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà đã bị cháy mất một mảng lớn, nhưng chỗ còn lại cũng đủ để vuốt chơi. Về sau lão đã ngấm ngầm tung Tam Tiếu Tiêu Dao Tán ra lấy mạng Tô Tinh Hà, thế là thắng trận chung kết, thua mất một ít râu ở vòng trước cũng chẳng đáng nhớ tới nữa.
Lão tính toán trong bụng: “Con nha đầu A Tử hôm nay có mọc cánh cũng không thoát khỏi tay của lão tiên, còn tên tiểu hòa thượng ở phòng trong thì phải cẩn thận hơn. Rõ ràng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán không giết được hắn, nhưng một lát nữa ta sẽ tìm cơ hội để thi triển Hủ Thi Độc hay Hóa Công Đại Pháp là ăn chắc, Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn của chưởng môn bản phái nhất định vào tay ta rồi. Thật là đáng mừng!”
Sau thời gian chừng ăn xong bữa cơm, bọn đệ tử phái Tinh Tú im lặng dần. Còn mấy gã đang thao thao tràng giang đại hải thì chuyện cũng đã nhạt thếch, Đinh Xuân Thu bèn giơ tay ra hiệu bảo im đi. Bọn đệ tử lại đồng thành hô: “Công đức sư phụ rộng lớn như trời biển. Bọn đệ tử ngu dốt, vạn phần không nói lên được một”, rồi mới im lặng hết. Đinh Xuân Thu lại gật đầu mỉm cười, quay sang A Tử hỏi: “A Tử! Mi còn điều gì muốn nói nữa không?” A Tử động tâm nghĩ thầm: “Trước kia sư phụ thương mình nhất cũng chỉ vì mình khéo ca tụng lão, đưa ra những lời tán dương mới lạ, còn bọn kia kém thông minh, chỉ nhai đi nhai lại những câu cũ mèm.” Nàng bèn lên tiếng: “Sư phụ! Đệ tử lấy cắp Thần Mộc Vương Đỉnh cũng là có lý do riêng.”
Cặp mắt Đinh Xuân Thu long lên sòng sọc, hỏi: “Lý do gì?” A Tử thưa: “Thời kỳ sư phụ còn ít tuổi, công lực chưa đến tột đỉnh mới cần Thần Mộc Vương Đỉnh để giúp luyện công. Nhưng hai năm nay, ai chưa mù mắt đều thấy thần thông sư phụ lệch đất nghiêng trời, thần sầu quỷ khốc. Thần Mộc Vương Đỉnh chỉ có khả năng kêu gọi trùng độc, so với thủ pháp của sư phụ thì nó chẳng đáng vào đâu. Trời đất còn biến chuyển thì pháp thuật của sư phụ còn tiến triển vô bờ bến, chuyện năm xửa năm xưa nhắc đến làm gì. Sư phụ có luyến tiếc cũng chỉ vì coi cái đỉnh đó như vật kỷ niệm mà thôi. Thế mà các vị sư huynh không biết gì lại đi hoảng hốt, tưởng chừng sư phụ không có cái đỉnh đó không xong, mất cái đỉnh là việc vô cùng trọng đại. Thế thì các vị thật là ngu xuẩn hết chỗ nói, lại còn có ý coi rẻ thần thông của sư phụ.”
Đinh Xuân Thu gật đầu lia lịa khen: “Ừ! Ừ! Nói có lý! Nói có lý!”.
A Tử lại nói tiếp: “Đệ tử còn nghĩ rằng võ công phái Tinh Tú chúng ta cao cường nhất thiên hạ, mà sư phụ là bậc đại nhân đại lượng không thèm tranh hơi với bọn võ lâm Trung Nguyên, vì bản lĩnh thấp kém của chúng chẳng đáng để sư phụ bận tâm. Cũng vì thế mà bọn người ngu xuẩn cứ ngồi ở đáy giếng, tưởng trời to bằng nắp vung, rồi đâm ra tự tôn tự đại. Họ biết sư phụ không thèm lý gì đến, lại càng làm già, gọi nhau nào là võ học danh gia, nào là đương thế cao nhân, thật là mặt dày vô sỉ hết chỗ nói. Bọn chúng chỉ giỏi diễu võ dương oai ở Trung Nguyên, chẳng tên nào dám bén mảng đến phái Tinh Tú mà lĩnh giáo mấy chiêu. Kể ra thì chúng cũng thừa biết võ công sư phụ cao thâm, nhưng chẳng biết cao đến mức độ nào. Thế rồi nhà Mộ Dung ở Cô Tô lên mặt, phái Thiếu Lâm ở Hà Nam cũng tự xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu, rồi nào là Lung Á tiên sinh, nào họ Đoàn nước Đại Lý đều tự coi mình là những nhân vật phi thường. Sư phụ nghĩ xem có đáng buồn cười không?”
Thanh âm nàng đã trong trẻo, uyển chuyển dễ nghe, mà ý tứ lại thông minh, gãi đúng chỗ ngứa của Đinh Xuân Thu, so với kiểu đồng thanh hộ khẩu hiệu của bọn đệ tử kia thì siêu hơn nhiều. Bộ mặt Đinh Xuân Thu càng lúc càng tươi tỉnh, lão khoan khoái đến lờ đờ như người say thuốc.
A Tử lại tiếp: “Đệ tử vẫn còn trẻ con, bèn nảy ra ý nghĩ muốn mời sư phụ xuống Trung Nguyên để thi triển tuyệt kỹ thần thông cho bọn chúng mở rộng tầm mắt, cho bọn chúng biết rằng phía trên mặt đất còn có bầu trời, phía trên bọn võ lâm cao thủ bình thường còn có những vị lão tiên mà chúng không mơ thấy nổi. Nhưng nếu mời sư phụ một cách bình thường thì không phải lẽ, địa vị của sư phụ là vô tiền khoáng hậu khác với người thường thì dĩ nhiên cách cung thỉnh sư phụ cũng phải đặc biệt. Vì thế mà đệ tử lấy chiếc Thần Mộc Vương Đỉnh là cố ý rước đại gia sư phụ đến Trung Nguyên”.
Đinh Xuân Thu cười ha há rồi nói: “Như thế thì ngươi lấy vương đỉnh cũng chỉ vì tấm lòng hiếu thuận ư?” A Tử đáp: “Chuyện đó thì không phải nói nữa, nhưng ngoài tấm lòng hiếu thuận cũng có một chút tư tâm” Đinh Xuân Thu chau mày hỏi: “Lại còn tư tâm gì nữa?”
A Tử mỉm cười đáp: “Xin sư phụ tha thứ. Con là đệ tử phái Tinh Tú, rất mong muốn cái danh bản phái vang lừng thiên hạ, để con đi đâu cũng được mọi người kính nể. Tư tâm nhỏ mọn của đệ tử là ở chỗ đó.” Đinh Xuân Thu cười ha hả khen: “Nói hay lắm, nói hay lắm! Trong môn phái ta rất nhiều đệ tử, mà chẳng ai có tâm cơ linh mẫn như ngươi. Té ra ngươi lấy cắp Thần Mộc Vương Đỉnh là để làm nổi danh cho ta. Ha ha! Ngươi thật là thông minh sáng tạo, giết đi kể cũng đáng tiếc, bên mình ta sẽ thiếu mất một đứa nói chuyện có duyên để giải buồn. Nhưng giả tỉ ta bỏ qua việc này không xét tới nữa…” A Tử vội ngắt lời: “Nếu thế thì sư phụ thật là khoan hồng với đệ tử, bản môn từ trên xuống dưới ai nấy đều cảm kích tấm lòng đại lượng của sư phụ, càng tận tâm tận lực phụng sự sư môn, tan xương nát thịt cũng cam lòng.”
Đinh Xuân Thu nói: “Ngươi có thể đánh lừa người khác, nhưng đối với ta thì vô ích. Ta đâu có hồ đồ đến thế? Hừ! Ngươi đã nói giả tỉ ta phế bỏ công lực ngươi, cắt gân bứt mạch ngươi…”
Chưa biết lão muốn nói gì, bỗng nghe một thanh âm dõng dạc vang lên: “Điếm gia! Dọn chỗ ngồi cho ta!” Đinh Xuân Thu đảo mắt nhìn qua thì thấy một chàng thanh niên công tử mình mặc hoàng bào, lưng đeo trường kiếm, ngồi ngay bàn bên cạnh, không biết vào đây từ lúc nào, chính là Mộ Dung Phục mà lão đã gặp nơi kỳ hội, võ thuật gia truyền lừng danh võ lâm. Đinh Xuân Thu đang mải nghe A Tử tán dương, để chàng đột nhiên vào ngồi cạnh mà không để ý, quả là sơ hở rất lớn. Giả tỉ Mộ Dung Phục ra tay ám toán thì chắc lão phải khốn đốn rồi. Đinh Xuân Thu giật mình một cái, hơi biến sắc mặt, nhưng lại trấn tĩnh được ngay.