Hồi 29: Hàn độc trùng luyện hàn độc chưởng…

Du Thản Chi chạy nhanh về tới ngoài thành Nam Kinh thì trời đã khuya, cổng thành đã đóng, gã phải ngủ ở ngoài một đêm. Sáng sớm hôm sau gã mới vào cung Đoan Phúc, trình A Tử là đã bắt được con tằm mang về.

A Tử cả mừng, bỏ con tằm vào hũ sành để nuôi. Lúc đó là tháng năm, vào đầu mùa hạ khí trời ấm áp, trong điện chỉ nuôi một con tằm mà khí lạnh mỗi lúc một thêm, chẳng mấy chốc mà bình nước trà cũng đóng thành băng. Đêm ấy Du Thản Chi rét run bần bật, suốt đêm không sao ngủ được. Gã nghĩ vẩn vơ: “Con tằm này thật là cổ quái nhất thiên hạ. Giả tỉ cô nương cho nó hút máu thì cho dù mình không bị trúng độc chết, cũng rét cóng mà bỏ mạng.”

A Tử vẫn tiếp tục đi bắt những rắn độc, trùng độc đem về cho đấu với con tằm. Con tằm chỉ bò quanh một vòng là đủ làm đối thủ lạnh cóng, rồi hút lấy huyết dịch trong mình con vật bị chết, Luôn mười mấy ngày như vậy, không có giống trùng nào chống cự nổi với con tằm. Một hôm A Tử bảo Du Thản Chi: “Thiết Sửu! Hôm nay ta giết con tằm trong suốt kia. Mi thò tay vào trong hũ cho nó hút máu!”

Mấy bữa nay Du Thản Chi ngày thì lo sốt vó, đêm thì mơ thấy toàn ác mộng. Bây giờ gã thấy nàng chẳng chút dung tình, thí mạng mình cho con tằm cắn, lòng gã xiết nỗi thê lương, mắt đăm đăm nhìn A Tử. Nhưng gã không nói gì, cũng không nhúc nhích.

A Tử ngồi xếp bằng tĩnh tâm vận công, trong lòng hoan hỉ nghĩ thầm: “Ta ngẫu nhiên tìm vật dị bảo này, không chừng luyện thành công phu lợi hại hơn cả sư phụ.” Nàng giục Du Thản Chi: “Mi thò tay vào trong lọ đi!” Du Thản Chi nước mắt tuôn rơi, quỳ xuống lạy A Tử rồi nói: “Cô nương ơi! Khi cô nương luyện xong thần công độc chưởng rồi, đừng quên kẻ này đã chết vì cô nương, Tiểu nhân họ Du tên Thản Chi, không phải là Thiết Sửu gì gì đó!” A Tử tủm tỉm cười nói: “Được rồi, ngươi tên Du Thản Chi, ta nhớ kĩ lắm! Mi đối với ta hết dạ trung thành, ta coi ngươi là một tên nô bộc trung nghĩa.”

Du Thản Chi nghe A Tử tán dương, cảm thấy được an ủi rất nhiều. Gã dập đầu lạy hai lạy rồi nói: “Đa tạ cô nương!” Nhưng ai mà chẳng muốn sống, Du Thản Chi nghĩ đến hôm trước bị rết cắn, nhờ phép vận công của nhà sư trong đồ hình mà thoát chết. Hôm nay gã không muốn bó tay chịu chết, lại đem cách đó ra thử. Gã cúi xuống, chui đầu vào giữa hai chân rồi thò tay phải vào trong lọ, tập trung ý nghĩ theo những mũi tên trong đồ hình. Ngón trỏ gã bắt đầu thấy ngứa ngáy, một luồng khí lạnh tiến vào thân thể. Gã đã chuẩn bị, cứ tâm tâm niệm niệm, quả nhiên thấy luồng khí lạnh đi đúng như ý nghĩ, từ ngón tay chuyển lên cánh tay, sau cùng lên tới đỉnh đầu… Tia hàn khí này nhỏ xíu mà lạnh vô cùng, Du Thản Chi phải cố lắm mới chịu nổi.

A Tử thấy tư thế của Du Thản Chi thì vừa kinh ngạc vừa buồn cười. Nàng nổi tính hiếu kỳ lại gần coi, thấy con tằm kia đang cắn chặt đầu ngón tay trỏ Du Thản Chi. Mình con tằm trong suốt như thủy tinh, nàng nhìn rõ một dây máu từ miệng tằm hút vào, vòng từ trái sang phải, trở ra miệng rồi quay lại người Du Thản Chi. Từ cái đầu sắt cho đến y phục cùng chân tay gã đều bao phủ một lớp băng trắng toát.

A Tử lẩm bẩm: “Gã này chết rồi! Người sống phải có hơi nóng, khi nào hơi nước lại đóng thành băng được.” Tia máu trong mình con tằm vẫn chuyển động, rõ ràng nó chưa hút hết sức. Nàng định chờ cho nó no hẳn rồi mới đập chết, lấy huyết dịch luyện công, bèn để hết tâm trí theo dõi diễn biến. Đột nhiên trên mình con tằm có một luồng nhiệt khí toát ra.

A Tử đang ngạc nhiên, bỗng nghe “tách” một tiếng, con tằm từ ngón tay Du Thản Chi rớt xuống. Nàng đã cầm sẵn một cây côn gỗ, liền đập xuống. Con tằm này rất linh mẫn, lẽ ra khó lòng đánh trúng, không ngờ nó rơi xuống đáy hũ rồi ngửa bụng lên, cựa quậy một lúc vẫn không sao lật lại được, cây côn của A Tử vừa đánh xuống, con vật đã nát nhừ.

A Tử cả mừng, vội thò tay vào lọ lấy huyết dịch trong mình con tằm xoa vào hai bàn tay, rồi nhắm mắt vận công cho thấm vào người. Nàng biết rằng con tằm này là vật chí bảo khó tìm, bèn lấy nước đó chà xát hết lần này đến lần khác để luyện công, đến lúc khô kiệt hẳn mới thôi.

A Tử luyện công vất vả hết nửa ngày mới duỗi chân đứng dậy, vẫn thấy Du Thản Chi đứng như cũ, khắp người phủ một lớp băng trắng xóa. Nàng lấy làm kinh dị, đưa tay sờ vào người gã thì thấy giá buốt vô cùng, phải rụt lại ngay. Ngay cả y phục gã cũng đóng băng cứng ngắt. A Tử chẳng hiểu ra sao, ngơ ngác đứng nhìn một hồi mới bỏ đi. Hôm sau A Tử lại đến xem, thấy Du Thản Chi vẫn đứng nguyên như cũ, băng giá trên người gã lại dày thêm một lớp nữa. Nàng vừa kinh hãi vừa buồn cười, gọi Thất Lý đến, sai y đem xác Du Thản Chi đi chôn.

Thất Lý dẫn mấy tên lính Khất Đan khiêng xác Du Thản Chi bỏ lên xe ngựa chở đi, nhưng gã chẳng buồn đào huyệt, ném xác Du Thản Chi xuống khe nước rồi trở về thành.

Không ngờ cái tính lười biếng của Thất Lý lại cứu được mạng sống cho Du Thản Chi. Ngón tay gã bị con tằm cắn, đáng lẽ phải dùng phép vận công trong Dịch Cân Kinh để giải độc. Nếu gã đã luyện hết yếu quyết trong Dịch Cân Kinh thì có thể đẩy chất độc ra ngoài, nhưng gã chỉ bắt chước tranh vẽ mà hành công, con tằm hút máu, máu lại quay về ngón tay vào huyết quản, đem những tinh hoa của con băng tằm độc nhất thiên hạ kia đưa vào thân thể gã. Chất kịch độc này thuộc loại âm hàn, chồng chất lên những chất độc của rết, nhện, rắn… đã chứa sẵn trong người, làm gã đóng băng chết cứng.

Giả tỉ Thất Lý đem xác gã chôn cất đàng hoàng thì không chừng mấy trăm năm nữa vẫn còn cứng đơ, chưa chắc đã phân hủy được. Nhưng xác gã bị vứt xuống suối, từ từ chảy xuôi dòng chừng hai mươi dặm thì đến chỗ quanh co chật hẹp, vướng vào đám lau sậy. Lát sau nước quanh chỗ gã đóng lại thành băng, tựa hồ như một cái quan tài bằng thủy tinh. Suối vẫn tiếp tục chảy qua không ngừng, khí lạnh trong người Du Thản Chi giảm xuống dần dần, sau cùng khối băng quanh người gã rã ra.

Đầu gã chụp lồng sắt, kim loại mau nóng mà cũng mau lạnh nên băng giá bọc ngoài cái đầu sắt tan trước. Du Thản Chi bị nước tràn vào miệng mũi, họ sặc sụa, đầu óc tỉnh táo lại. Gã bò dưới suối lên, những mảnh băng còn lại trên người vỡ ra nghe lách cách, mơ màng như vừa tỉnh giấc mơ.

Du Thản Chi ngồi trên bờ suối nhớ lại, mình đối với A Tử hết dạ trung thành, nguyện đem thân nuôi trùng độc cho nàng luyện công, thế mà khi mình chết, A Tử không thở dài lấy một tiếng. Lúc người bắt đầu lạnh cứng, gã chưa mất tri giác, nhưng không nhúc nhích được, lớp băng đóng quanh người gã trong suốt, trông ra rất rõ. Gã thấy A Tử ngoẹo cổ nhìn cái xác mình rồi hớn hở tươi cười lấy huyết dịch con tằm ra xát vào tay luyện công, dường như cái chết của mình chỉ khiến nàng thú vị, tuyệt không thương tiếc.

Gã tự nhủ: “Con tằm kia độc vô cùng, đánh thắng vô số loại trùng độc khác. Cô nương lấy huyết dịch nó thấm vào bàn tay, chắc là luyện xong độc chưởng rồi. Giả tỉ mình về gặp nàng…” Đột nhiên người gã run bắn lên, lẩm bẩm: “Cô nương mà thấy mặt mình, chắc đem ra thử độc chưởng. Nếu luyện thành rồi thì chỉ một chưởng là mình toi mạng. Nếu chưa thành thì nàng lại bắt mình đi tìm trùng độc cho đến khi luyện xong độc chưởng mới thôi, bấy giờ lại thử chưởng thì mình cũng hết sống. Đằng nào cũng chết, mình trở về làm gì nữa?”

Gã đứng dậy, nhảy lên mấy cái cho những miếng băng còn đọng trên người, rơi xuống hết, rồi tự hỏi: “Ta biết đi đâu bây giờ?” Tìm Tiêu Phong để báo phụ thù ư, chuyện đó không thể nghĩ tới được nữa. Gã nhất thời không xác định được chủ ý, chỉ lang thang nơi hoang sơn dã lĩnh, lượm quả dại, bắt các loài thú điểu nhỏ để ăn. Đến xế chiều hôm sau, gã không biết làm gì bèn lôi cuốn Dịch Cân Kinh tiếng Phạn ra, theo những đồ hình vị sư lõa thể mà hành công.

Lúc gã nằm dưới suối, quyển sách bị ướt vẫn chưa khô. Du Thản Chi lật sách rất cẩn thận chỉ sợ rách, thấy trang nào cũng hiện lên đồ hình một vị quái tăng, tư thế đều khác nhau. Gã nghĩ ngợi rất lâu mới tỉnh ngộ, hình vẽ trong sách gặp ẩm ướt thì hiện lên, chứ chẳng có bồ tát nào đến cứu mạng mình. Gã liên bắt chước theo tư thế đồ hình ở trang đầu, rồi tâm niệm theo những mũi tên màu đỏ trên văn tự kỳ lạ. Dường như có một luồng khí lạnh di chuyển khắp nơi trong thân thể và tứ chi gã, tựa hồ như con băng tằm sống dậy bò trong nội thể. Gã kinh hãi đứng dậy, cảm giác băng tằm bò trong cơ thể cũng biến mất.

Trong khoảng hai canh giờ, gã bị ám ảnh bởi con băng tằm vô ảnh vô tung trong cơ thể, không sờ được cũng không bắt được, chẳng hiểu đang ẩn nấp nơi nào. Cuối cùng gã không nhẫn nại được, tiếp tục tập theo những tư thế kỳ quái đó, tâm niệm theo những mũi tên trên văn tự ngoằn ngoèo, chẳng mấy chốc lại thấy băng tằm bò trong nội thể mình. Du Thản Chi hốt hoảng la thầm: “Ta tiếp tục quán tưởng thì băng tằm tiếp tục bò, không quán tưởng thì không hiểu nó trốn chỗ nào trong người, thật là hỏng bét.”

Tuy nhiên bằng tăm bò được một lúc thì cơ thể gã thấy sảng khoái vô cùng. Trong sách có rất nhiều đồ hình hòa thượng lõa thể, các mũi tên cũng quanh co biến hóa phức tạp vô cùng. Gã cứ y theo đó mà tập luyện, tựa hồ tâm ý tương thông với băng tằm trong người, trong thân thể lúc nóng lúc lạnh, mỗi lúc đều có cảm giác thư thái khác nhau.

Cứ thế vài tháng, gã thấy việc đuổi bắt cầm thú đã dễ dàng hơn nhiều, nhảy được xa, chạy được nhanh, trước kia không hề có khả năng đó.

Một đêm có một con sói đói đi kiếm ăn, nhảy đến vồ gã. Du Thản Chi kinh sợ, toan cất bước chạy trốn thì móng vuốt sắc bén đã đến vai, mấy cái răng nhọn hoắt kề sát vào yết hầu. Gã kinh hoàng, phóng ra một chưởng đánh vào đầu con sói, nó lăn ra ngoài, giãy giụa rồi gục xuống bất động. Du Thản Chi còn chưa hết sợ, chạy ra xa mấy trượng nhưng thấy con sói vẫn nằm yên, nhặt một hòn đá ném thử, trúng vào con sói mà nó vẫn bất động. Gã cả mừng, bước lại gần nhìn kỹ, thì ra con sói đã chết rồi, thật không thể tưởng tượng được, chỉ thuận tay đánh ra một chưởng đã lợi hại như thế. Rồi gã chăm chú nhìn bàn tay của mình không thấy có gì kỳ lạ cả, không nén nổi sung sướng, la lên: “Quỷ hồn của băng tằm thật là linh ứng!”

Gã chỉ cho rằng đó là năng lực của quỷ hồn con băng tằm nấp trong thân thể, không hiểu đó là công hiệu của Dịch Cân Kinh, thêm vào chất kịch độc của con băng tằm thế gian hãn hữu. Chất kịch độc âm hàn này đã bị gã hút vào nội thể, rồi được phép luyện công thượng thừa của Dịch Cân Kinh dung hợp thành âm kình cực kỳ lợi hại.

Pho Dịch Cân Kinh đúng là một bảo điển tối cao vô thượng trong võ học, nhưng tu tập không dễ dàng chút nào, phải phế bỏ được ý niệm về nhân tướng, ngã tướng mới mong thành tựu được. Những vị tăng lữ tu học môn võ công thượng thừa này đều phải dũng mãnh tinh tiến về Phật học mới có kết quả. Nhưng có ai học võ mà không muốn nhanh chóng thành tựu, muốn tâm vô sở trụ thật là thiên nan vạn nan. Bởi vậy mấy trăm năm nay trong chùa Thiếu Lâm không thiếu gì cao tăng muốn luyện môn này mà dụng công nhiều năm cũng chẳng được gì. Tăng chúng đều tưởng kinh này không hiệu nghiệm, nên khi bị A Châu lấy trộm, các cao tăng trong chùa tuy phẫn nộ nhưng cũng không coi là việc lớn. Một trăm năm trước đây, có một vị hòa thượng tính khí điên khùng xuất gia từ nhỏ, sư phụ của y khổ luyện Dịch Cân Kinh không thành tựu, tức giận mà viên tịch. Nhà sư điên nhặt được cuốn kinh ở bên di thể của sư phụ, cười ha hả rồi bắt đầu luyện, quả nhiên trở thành cao thủ phi thường. Nhưng cũng chỉ được một đời, nhà sư điên đến lúc viên tịch cũng không nói ra được vì sao võ công mình cao cường đến thế, mọi người đều không hiểu đó là công hiệu của Dịch Cân Kinh. Đến bây giờ, Du Thản Chi luyện môn võ công này một cách vô tâm, chỉ vì muốn gọi quỷ hồn của băng tằm ra để chơi đùa, không nghĩ gì đến việc tiến triển công lực, chính là đi đúng con đường của nhà sư điên năm xưa,

Từ đó về sau, gã liên tiếp đánh chết nhiều loại dã thú, biết rằng chưởng lực của mình rất mạnh. Bởi vậy mà dũng khí cũng từ từ nổi dậy, dần dần đi về hướng nam. Nhưng gã sợ có ngày quỷ hồn của băng tằm bỏ mình mà đi, không gọi lên được, bởi thế ngày nào cũng chiêu hồn, không dám bỏ ngày nào. May mà quỷ hồn này thật là linh ứng, hễ gã gọi là đến ngay.

Du Thản Chi cứ nhắm hướng nam mà tiến, một hôm đã đến địa giới Hà Nam ở Trung Châu. Gã tự biết cái đầu sắt làm người ta kinh sợ, nên ban ngày chỉ ở nơi hoang dã nghỉ chân, đêm mới dám ra ngoài trộm cắp vật thực mà ăn. Lúc này thân thủ của hắn đã linh mẫn lắm rồi, không ai phát giác được.

Một hôm gã đang ngủ trong một cái miếu hoang bên vệ đường, bỗng nghe tiếng bước chân, có ba người đi vào miếu.

Gã nhanh chân núp vào phía sau bệ thờ, không dám chạm mặt những người mới đến. Ba người đó vào miếu, ngồi xuống ăn uống nhồm nhoàm, nói đủ thứ chuyện, rồi kể đến những cố sự trên giang hồ. Bỗng một người hỏi: “Theo ngươi thì gã Kiều Phong trốn đâu mà kín thế, cả năm nay không có tí tin tức gì của hắn.”

Hai tiếng Kiều Phong vừa lọt vào tai Du Thản Chi, gã trong lòng chợt động, bèn để ý nghe xem họ nói gì. Một người khác nói: “Gã tác ác quá nhiều, bây giờ làm con rùa rút đầu rút cổ, e rằng chúng ta không thể tìm được nữa.” Người nói trước lại nói: “Cũng chưa chắc, không chừng gã đang chờ cơ hội, ai mà xui xẻo gặp phải là gã lại tái xuất giang hồ. Ngươi tính mà xem, sau trận chiến ở Tụ Hiền Trang, gã đã giết thêm bao nhiêu người. Nào là Từ trưởng lão, phu phụ Đàm Công Đàm Bà, Triệu Tiền Tôn, cả nhà Thiết diện phán quan Đơn lão anh hùng ở Thái Sơn, Trí Quang hòa thượng trên Thiên Đài Sơn, Mã phu nhân của Cái Bang, trưởng lão Bạch Thế Kính, đúng là không đếm xuể được.”

Du Thản Chi nghe thấy năm chữ “đại chiến Tụ Hiền Trang”, bất giác tim nhói lên một cái, những lời nói tiếp theo không lọt vào tai nữa. Một hồi lâu, có một âm thanh già nua nói: “Kiều bang chủ trước nay nhân nghĩa với người, sao lại… sao lại… ta nghĩ không ra, chẳng lẽ đó là kiếp số? Thôi, chúng ta đi.” Rồi lão đứng dậy toan bước đi.

Một người khác nói: “Lão Uông! Theo lão thì chúng ta phải cử ai làm bang chủ?” Thanh âm già nua đáp lại: “Ta cũng không biết, tuyển tới tuyển lui cả năm nay cũng chưa có ai được tất cả anh hùng hảo hán trên dưới đều kính phục. Ái chà, cứ chờ đấy mà xem.” Một người khác nói: “Ta biết tâm ý của lão rồi, chỉ mong gã Kiều Phong quay lại làm bang chủ chúng ta. Tốt nhất là lão đừng nằm mơ giữa ban ngày nữa, chuyện này mà lọt vào tai Toàn đà chủ, e rằng mạng lão khó toàn.” Lão Uông lo lắng nói: “Tiểu Tất! Chuyện này là mi nói, chứ ta chẳng bao giờ mong Kiều bang chủ quay lại làm bang chủ bản bang đâu.” Gã Tiểu Tất cười khẩy, nói: “Lão mở miệng ra là Kiều bang chủ nọ, Kiều bang chủ kia, không phải nhất tâm mong muốn Kiều Phong làm bang chủ Cái Bang sao?” Lão Uông cả giận nói: “Ngươi mà mở miệng nói bậy bạ nữa, là ta đập chết cái mạng chó ngay.” Người thứ ba khuyên can: “Thôi, chúng ta là huynh đệ, đừng vì việc này mà thành chuyện. Chúng ta đi thôi, đừng chậm trễ nữa. Còn Kiều Phong sao lại làm bang chủ được, hắn là giống chó Khất Đan, bọn ta mà gặp hắn là muốn liều mạng ngay. Mà nói cho cùng thì giả tỉ chúng ta muốn hắn làm bang chủ, liệu hắn có chịu không?” Lão Uông thở dài nói: “Ngươi nói phải lắm.” Nói xong, ba người rời khỏi miếu.

Du Thản Chi nghĩ thầm: “Té ra Cái Bang đang truy tìm Kiều Phong, mà tìm cùng hết cũng không thấy. Làm sao họ đoán nổi gã đang làm Nam viện đại vương ở nước Liêu? Giả tỉ ta đem chuyện này nói cho họ biết, thì Cái Bang người đồng thế mạnh, lại liên hệ với anh hùng hảo hán Trung Nguyên, không chừng đến giết được tên ác tặc này. Ta cũng theo họ mà đi giết Kiều Phong.” Gã nghĩ đến chỗ khi quay lại Nam Kinh có thể gặp A Tử, trong đầu lại nóng bừng lên.

Khi đó gã bèn nhẹ nhàng đi từ trong miếu ra, thấy ba tên đệ tử Cái Bang đi theo đường núi về hướng tây, bèn đi theo sau xa xa. Vùng núi này rất hoang vắng, không một bóng người. Gã đi vài dặm nữa đến một hẻm núi, xa xa đã nhìn thấy trong đó có một đống lửa. Du Thản Chi nghĩ thầm: “Cái đầu sắt của ta trông rất kỳ dị, e rằng người ta nhìn thấy phải kinh ngạc. Ta kiếm chỗ nấp để nghe ngóng rồi hãy tính.” Gã bèn chui vào bụi cỏ, từ từ bò đến phía đống lửa, cứ vài trượng lại ngừng. Đến gần hơn một chút đã nghe thanh âm ồn ào, số người quanh đống lửa không phải là ít. Thời gian vừa qua Du Thản Chi chịu khổ đã nhiều, nên không dám sơ ý, càng gần đống lửa gã bò càng chậm, sau cùng nấp vào sau một tảng đá chỉ cách vài trượng rồi ngừng lại không dám đến gần hơn, cúi mình lắng tai nghe.

Bên đống lửa có người đang đứng phát biểu, Du Thản Chi nghe một hồi, thì hiểu đây là cuộc họp của Đại Trí phân đà, thương nghị về việc ở đại hội Cái Bang hôm sau sẽ đề cử người nào làm bang chủ. Có người chủ trương đề cử Tống trưởng lão, có người muốn ủng hộ Hề trưởng lão, lại có người nói: “Nếu nói đến trí dũng song toàn, thì phải đề cử Toàn đà chủ của bản đà. Chỉ tiếc rằng ngày trước Toàn đà chủ đã bị Kiều Phóng dùng việc công trả tư thù mà trục xuất, đến nay cũng chưa chính thức trở lại bản bang.” Lại có một người nói: “Toàn đà chủ của chúng ta là người đầu tiên đưa âm mưu của Kiều Phong ra ánh sáng, thật là đã lập đại công, việc trở về bản bang là rất dễ dàng. Trong cuộc đại hội, chúng ta hãy đưa việc khôi phục bang tịch cho Toàn đà chủ trước, rồi nhắc đến đại công của ông ta, sau cùng mới đề cử làm bang chủ.”

Một giọng khác nói: “Việc ta quay lại bản bang thì hết sức hợp lý, không nói làm gì, nhưng nếu các vị huynh đệ muốn đề cử ta làm bang chủ thì không được đâu. Mọi người sẽ nghĩ huynh đệ chúng ta vạch trần âm mưu của Kiều Phong là vì lợi riêng.” Một người lớn tiếng nói: “Toàn đà chủ, người xưa có nói: Đương nhân bất nhượng (không thể nhường nhau làm việc nhân). Thuộc hạ thấy mấy vị trưởng lão của bản bang tuy võ công rất giỏi, nhưng mưu trí thì không ai hơn huynh được. Đối với gã Kiều Phong, chúng ta phải đấu trí chứ không đấu lực, Toàn đà chủ…” Gã Toàn đà chủ bèn cắt lời: “Thi huynh đệ! Khi ta chưa chính thức trở về bản bang thì ba chữ Toàn đà chủ không thể gọi bừa bãi được.”

Quanh đống lửa có hơn hai trăm bang chúng Cái Bang, đều nói: “Tống trưởng lão đã chỉ thị huynh vẫn tạm thời giữ chức đà chủ bản đà, ba chữ Toàn đà chủ có gì mà không gọi được?” “Sau này huynh làm đến bang chủ, khi đó mới không gọi là đà chủ nữa.” “Toàn đà chủ có thể tạm thời chưa làm bang chủ, nhưng giá chót cũng phải đưa lên làm trưởng lão, chỉ mong đến lúc đó có thể kiêm nhiệm đà chủ bản đà.” Một người khác lại nói: “Đúng thế! Khi Toàn đà chủ đã làm tới bang chủ rồi, cũng mong người kiêm nhiệm chức vị đà chủ của Đại Trí phân đà của chúng ta.”

Mọi người đang bàn luận náo nhiệt, bỗng có một tên Cái Bang bước vào hẻm núi dõng dạc nói: “Khải bẩm đà chủ, có Đoàn vương tử nước Đại Lý đến thăm.” Toàn đà chủ, chính là Toàn Quan Thanh, đứng dậy nói: “Đoàn vương tử ư? Nước Đại Lý cùng bản bang trước nay có liên hệ gì đâu?” Rồi y lớn tiếng nói với mọi người: “Các vị huynh đệ! Nhà họ Đoàn ở Đại Lý là võ lâm thế gia, lần này Đoàn vương tử đích thân đến thăm, tất cả chúng ta đều phải tiếp đãi chu đáo.” Y liền dẫn mọi người ra ngoài hẻm núi để nghênh tiếp.

Bên ngoài có một vị công tử đang đứng cười hì hì, xung quanh có đến bảy tám tùy tùng, chính là Đoàn Dự. Hai bên gặp nhau liền chắp tay thi lễ, kể ra đã có quen biết, từng gặp nhau ở khu rừng hạnh thành Vô Tích, nhưng khi đó Toàn Quan Thanh không hiểu thân phận và lai lịch của Đoàn Dự. Y nghĩ lại ngày đó mình bị Kiều Phong đuổi đi một cách nhục nhã đã bị Đoàn Dự nhìn thấy, không khỏi ngượng ngùng, nhưng bình tâm lại ngay, ôm quyền nói: “Không biết Đoàn vương tử ghé thăm để ra xa nghênh tiếp, thật là thất lễ.”

Đoàn Dự cười nói: “Không dám không dám! Vãn sinh phụng mệnh gia phụ, có việc cần phải báo với quý bang, nên phải đến quấy nhiễu.”

Hai người nói mấy câu khách sáo, Đoàn Dự giới thiệu mấy người cùng đi là bọn Cổ Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần với bên Cái Bang. Toàn Quan Thanh mời Đoàn Dự ngồi lên một tảng đá ở phía trước đống lửa, rồi bọn Cái Bang đưa rượu lên mời.

Đoàn Dự nâng ly rượu lên uống rồi nói: “Mấy tháng trước, gia phụ ở Trung Châu có ghé qua nhà Mã phó bang chủ của quí bang ở Tín Dương thành, đã chính mắt nhìn thấy Bạch Thế Kính trưởng lão qua đời, bên trong có điều kỳ quái. Việc này có liên quan rất nhiều với quí bang cùng mấy vị anh hùng trong võ lâm. Gia phụ đã muốn nói với nhân vật đầu não của quí bang từ trước, nhưng vì mang thương tích phải điều dưỡng đến nay mới khỏi, hơn nữa các vị trưởng lão của quí bang hành tung vô định, khó mà hội diện. Gia phụ có viết một bức thư mà đến nay vẫn chưa trao được, mấy ngày trước đây biết quí đà sắp tụ hội ở đây, bèn sai vãn sinh đến trao lên.” Chàng nói xong liền đứng dậy, lấy trong túi một bức thư trao qua.

Toàn Quan Thanh đứng dậy, đón phong thư bằng cả hai tay rồi nói: “Đoàn vương gia thật là tình nghĩa thâm trọng, phiền đến Đoàn vương tử đích thân trao thư, tệ bang trên dưới cảm kích vô cùng.” Phong thư có niêm phong cẩn thận, trên bì thư viết: “Cái Bang chư vị trưởng lão thân khải”, tức là trưởng lão Cái Bang mới được đọc. Toàn Quan Thanh thấy tám chữ này, nghĩ mình không tiện mở ra coi, bèn nói: “Tệ bang sắp có kỳ đại hội, các trưởng lão đều đến. Tại hạ sẽ đích thân đem phong thư của Đoàn vương gia trình lên.” Đoàn Dự nói: “Nếu vậy thì tốt quá, vãn sinh xin cáo từ.”

Toàn Quan Thanh cảm tạ, tiễn khách ra về rồi nói: “Bạch trưởng lão cùng Mã phu nhân của tệ bang không may chết dưới độc thủ của Kiều Phong, ngày đó Đoàn vương gia đã chứng kiến thảm kịch đó ư?”

Đoàn Dự lắc đầu nói: “Bạch trưởng lão cùng Mã phu nhân không phải bị Kiều đại ca giết chết. Hung thủ sát hại Mã phó bang chủ là một người khác, gia phụ đã viết minh bạch trong thư. Sau này Toàn đà chủ xem thư tự nhiên sẽ hiểu.” Trong lòng chàng nghĩ: “Việc này nói cũng dông dài, mi lại không phải là người tốt, không cần phải nói nhiều. Chắc mi cũng không dám giấu giếm phong thư của gia gia ta đâu.” Toàn Quan Thanh chắp tay nói: “Sau này còn gặp lại, xin không tiễn xa nữa.”

Đoàn Dự quay người đi ra ngoài khe núi, thấy hai đệ tử Cái Bang cùng hai hán tử khác đang đến. Hai hán tử nhìn nhau, tiến lên vài bước, hướng về Đoàn Dự thi lễ rồi trình lên một tấm thiệp đỏ. Đoàn Dự nhận lấy, nhìn qua thấy mấy hàng chữ: “Tô Tinh Hà kính mời kỳ thủ trong thiên hạ, đến mùng tám tháng hai tụ hội tại tỉnh Hà Nam, núi Lôi Cổ, đất Thiên Lung.”

Trước nay Đoàn Dự vẫn thích chơi cờ, thấy mấy chữ này liền phấn chấn tinh thần, cười nói: “Thật là tuyệt diệu. Nếu vãn sinh không bận chuyện gì khác, nhất định sẽ đến. Không hiểu sao hai vị lại biết vãn sinh thích đánh cờ?”. Hai hán tử có vẻ vui mừng, trong miệng ú ớ chỉ xua tay loạn lên ra hiệu, thì ra đều là người câm. Đoàn Dự thấy thế đành cười, hỏi Chu Đan Thần: “Núi Lôi Cổ cách đây có xa không?”, rồi đưa tấm thiệp cho y xem.

Chu Đan Thần xem qua, ôm quyền quay sang nói với hai hán tử: “Thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý là Đoàn công tử xin đa tạ Thông Biện tiên sinh trước. Đến lúc đó nhất định sẽ đích thân đến viếng.” Sau đó liền chỉ Đoàn Dự, ra hiệu rằng sẽ đến dự hội.

Hai hán tử nghiêng mình thi lễ với Đoàn Dự, rồi lấy ra một tấm thiếp trình lên Toàn Quan Thanh. Y xem qua rồi cung kính trao trả, chắp tay nói: “Toàn Quan Thanh là người tạm nắm quyền đà chủ Đại Trí phân đà ở Cái Bang, xin cung kính trình bày với Thông Biện tiên sinh ở núi Lôi Cổ rằng Toàn mỗ kỳ nghệ kém cỏi, chỉ tổ thiên hạ chê cười, không dám đến dự. Xin tiên sinh thứ lỗi.” Hai hán tử thi lễ, rồi lại thi lễ lần nữa với Đoàn Dự, quay người đi.

Lúc này Chu Đan Thần mới nói với Đoàn Dự: “Núi Lôi Cổ ở phía nam Cảo Huyện, phía đông bắc Cang Khuất Nguyên, cách đây không xa lắm.”

Đoàn Dự cùng Toàn Quan Thanh từ biệt, ra khỏi hẻm núi rồi mới hỏi Chu Đan Thần: “Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là người như thế nào? Là một kỳ thủ nổi tiếng ở Trung Nguyên chăng?” Chu Đan Thần nói “Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á tiên sinh.”

Đoàn Dự “A” lên một tiếng, cái tên Lung Á tiên sinh khi ở Đại Lý chàng đã nghe bá phụ cùng phụ thân nhắc đến, biết đó là một cao thủ tiền bối của võ lâm Trung Nguyên, vừa câm vừa điếc nhưng võ công rất cao. Bá phụ chàng khi nhắc đến ông ta đều có vẻ rất kính trọng. Chu Đan Thần lại nói: “Lung Á tiên sinh có cố tật, nhưng lại tự xưng là Thông Biện tiên sinh, không chừng ông ta nghe bằng tâm, nói bằng bút còn hơn người thường nghe bằng tai, nói bằng lưỡi.” Đoàn Dự gật đầu nói: “Cũng có lý.” Chàng đi vài bước, đột nhiên thở dài sườn sượt.

Thì ra chàng nghe Chu Đan Thần nói về Tâm Thông Bút Biện của Lung Á tiên sinh thắng được Nhĩ Thông Thiệt Biện của người thường, không khỏi nghĩ đến võ công bằng miệng lưỡi của Vương Ngữ Yên, phàm nhân dùng binh đao quyền cước không sao hơn được.

Sau khi chàng cùng A Châu cứu bọn Cái Bang ở Vô Tích, không bao lâu hai gã Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cũng đến gặp Vương Ngữ Yên, rồi cả năm người đi về hướng bắc tìm Mộ Dung công tử. Đoàn Dự tự nhiên cũng đi theo. Phong Ba Ác thì nghĩ đến cái ơn chàng hút máu độc trị vết thương bò cạp cắn, nên rất hoan nghênh. Còn Bao Bất Đồng nói chuyện không lịch sự chút nào, trách mắng Đoàn Dự không biết trời cao đất dày, dám đóng giả làm Mộ Dung công tử, Về sau gã lại còn nói: “Mi không cút đi cho lẹ thì ta đánh cho bây giờ.” Vương Ngữ Yên thì chỉ huyên thuyên với Phong Ba Ác về việc nên đi đâu để tìm biểu huynh, tình cảnh quẫn bách của Đoàn Dự nàng coi như không thấy.

Đoàn Dự không biết làm sao, đành phải chia tay với Vương Ngữ Yên đi về hướng bắc, nhưng rồi lại nghĩ: “Các ngươi đi Hà Nam tìm Mộ Dung Phục, ta cũng muốn đi Hà Nam, Hà Nam ở Trung Châu không phải là nhà của bọn Mộ Dung các ngươi. Mộ Dung Phục và Bao Bất Đồng đi được, chẳng lẽ Đoàn mỗ không đi được? Nếu trên đường có tình cờ gặp mặt với các ngươi thì chẳng qua là ý trời, Bao Tam tiên sinh ngươi không thể trách ta được.”

Nhưng ông trời hiển nhiên không có ý định cho chàng gặp Vương Ngữ Yên. Mấy tháng qua, Đoàn Dự du ngoạn Hà Nam, danh nghĩa là du sơn ngoạn thủy, nhưng thực chất là nhìn đông ngó tây chỉ mong thấy được một sợi tóc hay một chéo áo của Vương Ngữ Yên, chứ non xanh nước biếc không lọt vào đến nửa con mắt.

Một hôm, Đoàn Dự vào Bạch Mã Tự ở Lạc Dương, đang đàm luận về kinh A Hàm với phương trượng, thảo luận về Thất Bảo của Chuyển Luân Thánh Vương trong Phật học. Đoàn Dự đặc biệt hứng thú về Ngọc Nữ Bảo “không dài không ngắn, không trắng không đen, đông ấm hè mát”. Nhưng phương trượng lắc đầu quầy quậy, nói rằng: “Đoàn cư sĩ, đây chỉ là ví dụ, huống hồ Phật tổ đã nói rõ rằng thất bảo chỉ là vô thường…” Nói đến đây thì có ba người tiến vào trong chùa, chính là Phó Tư Qui, Cổ Đốc Thành và Chu Đan Thần.

Sau khi Đoàn Chính Thuần rời khỏi Mã gia ở Tín Dương, gặp lại Nguyễn Tinh Trúc, rồi tìm một nơi để dưỡng thương. Ông nghĩ đến Tiêu Phong đã bị Cái Bang vu cho cái tội hạ sát Mã Đại Nguyên, nhất định phải vì ông ta mà biện bạch, nên đã viết một lá thư, sai bọn ba người Phó Tư Qui đi trao cho Cái Bang.

Bọn Phó Tư Qui đi đến Lạc Dương, mà trong tổng đà của Cái Bang không có nhân vật đầu não nào. Họ lại nghe nói Đại Trí phân đà đang tụ hội ở gần đó, bèn tìm đến để đưa thư. Trên đường, ghé vào một tửu lâu nghe người ta kể chuyện tiếu lâm về một vị công tử si ngốc, hình mạo cử chỉ rất giống Đoàn Dự, họ bèn hỏi rõ phương hướng rồi tìm đến được Bạch Mã Tự.

Bốn người gặp nhau hết sức vui mừng. Đoàn Dự nói: “Ta cùng đi đưa thư với các ngươi, rồi các ngươi dẫn ta đến bái kiến phụ vương.” Chàng đã biết phụ thân đang ở Hà Nam, cũng rất muốn gặp. Bấy lâu chàng không nghe thấy chút tin tức nào của Vương Ngữ Yên, ngày đêm lo lắng. Đoàn Dự chỉ mong tại Đại Trí phân đà của Cái Bang là chỗ nhân vật giang hồ tụ hội, may ra có ai từng trông thấy dung nhan tuyệt thế của nàng chăng, nhưng cuối cùng cũng không được gì.

Chu Đan Thần thấy chàng thở ngắn thở dài, cứ tưởng đang nhớ đến Mộc Uyển Thanh, việc này làm sao khuyên giải được? Gã nghĩ rằng tốt nhất là dẫn dụ cho chàng nghĩ sang chuyện khác, bèn nói:“Thông Biện tiên sinh phát thiếp mời thiên hạ tới đánh cờ, chắc hẳn kỳ lực của ông ta cao lắm. Sau khi công tử gặp Trấn Nam Vương cũng nên đến chỗ Thông Biện tiên sinh mà chơi mấy ván.”

Đoàn Dự gật đầu nói: “Không sai, có thể mượn những quân đen trắng giải phá thành sầu. Tuy nàng thấu hiểu võ công khắp thiên hạ, thuộc lòng vô số kinh điển võ học, nhưng vị tất đã biết chơi cờ. Cuộc kỳ hội này của Thông Biện tiên sinh, chắc nàng không tới đâu.”

Chu Đan Thần không hiểu Đoàn Dự nói đến ai, dọc đường chỉ thấy chàng tựa hồ đầu óc không để trong người. Gã nghe chàng nói chuyện câu trước chẳng ăn nhập gì đến câu sau, nhưng đã quen nên cũng coi là chuyện thường, không hỏi thêm nữa.

Đoàn người cứ đi về hướng tây bắc. Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa, lúc chau mày, lúc phì cười, rồi nói: “Trong kinh có nói: nên nghĩ rằng trong thân mỹ nữ chỉ toàn máu mủ, trăm năm sau biến thành xương trắng (đương tự mỹ nữ, thân tàn nồng huyết, bách niên chi hậu, hóa bi bạch cốt). Nói thì nói vậy, nhưng ta e rằng mỹ nhân sau một trăm năm hóa thành xương trắng thì đống bạch cốt đó cũng cực kỳ mỹ lệ.” Chàng đang tưởng tượng xương cốt Vương Ngữ Yên sau này trông thế nào, chợt nghe tiếng vó ngựa từ xa chạy tới. Có một người nằm phục trên lưng ngựa, trong đêm tối không thể nhận định là người như thế nào.

Con ngựa đó không có ai điều khiển, xông thẳng vào bọn bốn người Đoàn Dự. Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành đưa tay nắm dây cương kéo lại, thấy người trên lưng không động đậy gì. Phó Tư Qui đưa mắt nhìn kỹ, thì ra là một sứ giả của Lung Á tiên sinh, trên mặt nhoẻn nụ cười mà lại tựa như không phải cười, đã chết lâu rồi. Lúc nãy y vừa đưa thiệp cho Đoàn Dự, không hiểu sao bây giờ lại chết rồi. Một con ngựa khác cũng chạy tới, trên lưng là xác tên sứ giả kia, trên mặt lộ vẻ cười quái dị. Phó Tư Qui biết ngay hai tên này trúng kịch độc mà chết, liền giật ngựa lui lại hai bước, không dám chạm vào hai cái thi thể đó.

Đoàn Dự cả giận nói: “Tên đà chủ họ Toàn của Cái Bang thật là ác độc, sao lại hạ độc thủ giết những người này? Ta phải đến lý luận với hắn.” Chàng nói xong liền quay đầu ngựa lại, muốn đến chất vấn Toàn Quan Thanh.

Trong bóng tối phía trước bỗng có người nói: “Thằng lỏi này không biết trời cao đất rộng chi hết. Ngoài môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên, trong thiên hạ còn ai có pháp thuật giết người vô hình vô ảnh như thế? Lão già Lung Á đó cứ làm con rùa rút đầu rút cổ thì chẳng nói làm gì, nhưng hiện nay lão mon men xuất hiện trên giang hồ, Tinh Tú Lão Tiên làm sao tha cho lão được? Ê, tên tiểu tử kia! Chuyện này không liên quan đến ngươi, mau mau cút đi cho ta nhờ.”

Chu Đan Thần hạ giọng nói: “Công tử, đây là nhân vật phái Tinh Tú, không liên quan gì đến chúng ta. Mình đi thôi!”

Đoàn Dự tìm không thấy Vương Ngữ Yên cũng đã thấy chán nản. Giả tỉ hai tên sứ giả của Lung Á Lão Nhân mà chưa uổng mạng thì chàng cũng đến cứu, nhưng chúng đã chết rồi thì thật chẳng muốn sinh sự nữa làm gì. Chàng thở dài rồi nói: “Câm điếc vẫn chưa đủ, bao giờ mắt không nhìn thấy gì, mũi không ngửi thấy gì, trong lòng không có ý niệm gì nữa thì mới là giải thoát hết phiền não.”

Chàng nói thì nói vậy, nhưng đã lỡ gặp Vương Ngữ Yên, dáng dấp giọng cười của nàng đã in sâu vào tâm khảm, giả tỉ bây giờ hỏng cả tai mắt mũi miệng thì cũng đã muộn, phiền não e rằng không thể giải thoát được. Bỗng nhiên phía trước có người buông tiếng cười rộ rồi vỗ tay nói lớn: “Đúng, đúng lắm! Ngươi nói rất có lý. Móc mắt, cắt mũi vẫn chưa đủ, phải lôi ra đánh đập đến một ý niệm cũng không còn thì mới gọi là xong.”

Đoàn Dự than rằng: “Thân thể bên ngoài tàn phế chưa chắc đã hiệu quả. Phải tự mình tu tâm, không nghĩ đến sắc tướng trên thế gian, thì mới tới mức tâm vô sở trụ. Nếu thế thì trở thành đại bồ tát rồi, ta chỉ là phàm phu tục tử, làm sao tu tập tới trình độ đó được? Than ôi! Oán tăng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc (gặp người mình ghét, xa người mình thương, muốn mà không được) đều là cái khổ của nhân sinh.”

***

Du Thản Chi nấp sau tảng đá trong bụi cỏ, thấy bọn Đoàn Dự đến rồi đi, sau đó lại nghe thấy tiếng hô hoán ở phía trước. Lúc đó hai tên đệ tử Cái Bang chạy lẹ đến nói nhỏ với Toàn Quan Thanh: “Toàn đà chủ, hai gã ban nãy không hiểu sao đã bị người ta đánh chết rồi. Hung thủ tự xưng là người của phái Tinh Tú, môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên”.

Toàn Quan Thanh giật mình, biến sắc mặt. Y đã nghe nói đến Tinh Tú Lão Quái ở phái Tinh Tú, đã giỏi dụng độc mà võ công cũng rất kỳ ảo, nghĩ rằng môn nhân của lão ta giết sứ giả của Lung á Lão Nhân thì không liên quan đến mình, đừng giây vào là hơn. Y liền nói: “Biết rồi! Chẳng qua là ma quỉ giết nhau, mặc kệ chúng đi.”

Bỗng phía trước có tiếng người nói: “Thằng cha này ăn nói láo toét, đã biết bọn ta là môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên mà còn dám mắng ta là quỉ, chắc chán sống rồi chăng?” Toàn Quan Thanh cả kinh, bất giác lùi lại một bước, dưới ánh lửa thấy ngay trước mặt có một tên bang chúng thủ hạ của mình. Y định thần nhìn kỹ, thấy mặt tên này tựa như cười mà không phải cười, trông rất kỳ lạ, phía sau hình như lại còn một người nữa, bèn hỏi: “Các hạ là thần hay là quỉ, sao lại đến đây?”

Người đứng phía sau tên đệ tử Cái Bang đáp lại, giọng nói âm hiểm lạ thường: “Ngươi to gan thật, lại nói một chữ quỷ nữa. Lão gia đây là môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên. Lão Tiên đã giá đáo Trung Nguyên, trước mắt cần dùng hai chục con rắn độc, một trăm con trùng độc. Cái Bang chúng bay xưa nay vẫn có nhiều độc vật, mau mau đem dâng lên. Tinh Tú Lão Tiên thấy chúng bay ngoan ngoãn, không chừng sẽ tha mạng cho bọn ăn mày mạt hạng này. Nếu không chịu, hà hà, cứ nhìn tên này mà làm gương.”

Nghe “binh” một tiếng, tên đệ tử Cái Bang đứng trước bỗng vọt lên không, rồi rớt xuống bên đống lửa không cục cựa, thì ra đã chết rồi. Xác gã vừa bay lên, liền lộ ra một hán tử thân thể lùn mập, mặc áo ngắn, không hiểu đã lẻn đến giết gã từ bao giờ.

Toàn Quan Thanh vừa kinh sợ vừa giận dữ, trong lòng suy nghĩ rất lung:“Tinh Tú Lão Quái muốn cưỡi lên đầu Cái Bang ta, nếu không khuất phục thì phải đối đầu. Việc này tuy hung hiểm, nhưng nếu ta mới nghe dọa một tiếng đã ngoan ngoãn đem rắn độc trùng độc dâng lên, thì huynh đệ trong bang hẳn là nhìn ta bằng nửa con mắt, chuyện ta làm bang chủ coi như vô vọng, mà muốn đứng vững trong bang cũng khó. May mà Tinh Tú Lão Quái chưa thân hành đến đây, gã này chỉ có một mình, không đến nỗi đáng sợ.” Y nghĩ đến đó, bèn cười khẩy hỏi lại: “Té ra huynh đài là môn hạ phái Tinh Tú. Xin cho biết tôn tính đại danh?”

Tên lùn kia đáp: “Đạo hiệu ta là Thiên Lang Tử. Ngươi mau mau chuẩn bị sẵn rắn độc trùng độc đi.” Toàn Quan Thanh cười nói: “Rắn độc trùng độc chỉ là chuyện nhỏ, không cần lưu tâm lắm.” Y thuận tay nhặt dưới đất lên một cái túi vải, nói: “Trong này có mấy con rắn độc, huynh đài xem thử coi Tinh Tú Lão Tiên có dùng được hay không?”

Tên lùn Thiên Lang Tử nghe Toàn Quan Thanh gọi “Tinh Tú Lão Tiên”, trong lòng hoan hỉ, lại thấy thái độ y cung kính bèn nghĩ: “Cái Bang gì gì đó là một đại bang ở Trung Nguyên, mà vừa nghe danh hiệu của sự phụ ta đã sợ đến té đái vãi phân. Ta lấy mấy con rắn độc này về ắt là sư phụ hoan hỉ, khen ta làm việc đắc lực. Nói đi nói lại, thì cũng dựa vào uy danh của sư phụ lão nhân gia thôi.” Y bèn cúi đầu nhìn vào trong cái túi đó.

Đột nhiên trước mắt y tối sầm lại, cái túi vải đã chụp lên đầu. Thiên Lang Tử kinh hãi, đánh ra một chưởng nhưng chẳng trúng ai. Lúc đó trên đầu, trên mặt, sau gáy đồng thời đau nhói lên, chắc đã bị độc vật trong túi cắn trúng. Gã không kịp giật cái bao xuống, phóng ra hai chưởng rồi vọt người đi. Đầu gã bị cái túi vải chụp kín, mắt không thấy gì, song chưởng vung lên loạn xạ, lại cảm thấy bị rắn rết cắn khắp chỗ trên đầu trên mặt, trong lúc hoảng hốt chỉ biết chạy mà thôi. Bỗng dưng hắn bước vào chỗ không, thân thể rơi từ trên cao xuống. Gã chỉ kêu được một tiếng đã rơi tòm xuống con sông chảy quanh chân núi, rồi bị cuốn trôi theo dòng nước.

Bản ý của Toàn Quan Thanh là giết người diệt khẩu, nào ngờ để người chạy mất. Tuy tên lùn kia bị độc vật cắn vào mặt, lại rớt xuống sông, dĩ nhiên phần chết nhiều hơn phần sống, nhưng Toàn Quan Thanh nghĩ đến phái Tinh Tú dụng độc như thần, không chừng có thuốc giải độc hiệu nghiệm, lại ở Tinh Tú Hải lâu năm chắc không tới nỗi chết đuối. Giả tỉ tên này không chết, phái Tinh Tú biết tin nhất định sẽ cho nhiều người đến phục thù. Gã trầm ngâm một lúc rồi nói: “Chúng ta hãy bày trận mãng xà, đánh nhau với Tinh Tú Lão Quái một phen. Chẳng lẽ vì Kiều Phong bỏ đi mà Cái Bang chúng ta không đứng vững hay sao? Chẳng lẽ từ đây phải chịu người ngoài áp bức hay sao? Phái Tinh Tú chuyên nghề dùng độc, chúng ta không thể đánh nhau bằng binh đao quyền cước, nhưng có thể dĩ độc công độc.”

Bọn Cái Bang reo lên khen phải, lập tức tản ra bốn hướng, lập thành thế trận ở cách đống lửa vài trượng rồi xếp bằng ngồi xuống.

Du Thản Chi thấy Toàn Quan Thanh dùng mưu chụp túi vải vào đầu tên Thiên Lang Tử kia, nghĩ thầm: “Té ra trong túi vải đó có độc vật. Họ có nhiều túi vải thế kia, chẳng lẽ túi nào cũng có trùng độc rắn độc hay sao? Bọn Cái Bang này bắt trùng bắt rắn rất giỏi, nếu vậy thì cũng không phải là lạ lắm. Nếu ta trộm được hết đống bao vải này về tặng cho A Tử, nhất định cô nương sẽ rất mừng.”

Chỉ thấy bọn Cái Bang ngồi bất động không nói năng gì, cạnh mỗi người đều có một cái túi vải. Có những cái túi rất lớn, bên trong tựa hồ như có vật gì lớn lắm đang nhúc nhích, Du Thản Chi nhìn mà kinh sợ đến nổi gai ốc. Bốn phía đều không một tiếng động, nếu gã bò đến chắc chắn sẽ bị bọn Cái Bang phát giác, Du Thản Chi nghĩ thầm: “Giả tỉ họ dùng cái túi này chụp lên đầu ta, thì ta có cái đầu sắt che đỡ cũng không đáng sợ lắm. Nhưng nếu nhét cả người ta vào một cái túi to cùng với các loại rắn rết sâu bọ thì chắc là khốn khổ không chịu nổi.”

Trong mấy giờ, không hề có động tĩnh gì. Một lúc nữa, chân trời hơi rạng, rồi mặt trời ló ra chiếu sáng cả một vùng hoang sơn rộng lớn, chim chóc cũng bắt đầu hót vang. Đột nhiên Toàn Quan Thanh nói nhỏ: “Đến rồi! Mọi người phải cẩn thận.” Y ngồi xếp bằng cạnh một tảng đá, bên người không có túi vải, nhưng trong tay cầm một ống sáo bằng sắt.

Ở hướng tây bắc vang lên một tiếng sáo trúc nhẹ nhàng, thấy một đoàn người từ từ tiến đến, trong tiếng sáo trúc lại hòa lẫn tiếng trống, tiếng chiêng nghe cũng réo rắt du dương. Du Thản Chi nghĩ: “Chẳng lẽ là đám rước dâu hay sao?”

Tiếng nhạc từ từ đến gần, còn cách khoảng mười trượng thì dừng lại. Có vài người đồng thanh hô lên:“Pháp giá Tinh Tú Lão Tiên giá lâm Trung Nguyên, đệ tử Cái Bang mau mau ra quì xuống nghênh tiếp.” Tiếng hô vừa dứt, bốn tiếng trống tung tung nổi lên, sau ba hồi trống lại có một tiếng thanh la. Sau khi chiêng trống ngừng lại, có đến mấy chục người đồng thanh hô vang: “Cung thỉnh Tinh Tú Lão Tiên thi triển đại pháp, hàng phục bọn yêu ma tiểu quỷ Cái Bang.”

Du Thản Chi nghĩ thầm: “Kiểu này giống như bọn đạo sĩ lập đàn trừ tà vậy.” Rồi gã từ sau tảng đá, cẩn thận thò nửa cái đầu ra nhìn thấy ở phía tây bắc có hơn hai mươi người xếp hàng chữ nhất, có người thì cầm trống chiêng các loại nhạc khí, có người thì cầm cờ phướn, màu xanh đỏ đập vào mắt. Từ xa cũng nhìn thấy trên cờ phướn có những chữ rất to: “Tinh Tú Lão Tiên thần thông quảng đại, pháp lực vô biên, uy trấn thiên hạ”. Trong tiếng sáo trúc, trống chiêng, một ông lão từ từ bước ra, sau lão mấy trượng lại có mấy chục người xếp thành hai hàng đi theo.

Ông lão đang cầm một cái quạt bằng lông ngỗng, sắc mặt hồng hào dưới ánh mặt trời, đầu tóc bạc phơ, dưới cằm có chòm râu dài ba thước, quả là đồng nhan hạc phát, giống như thần tiên trong tranh vậy. Lão đi về phía bọn Cái Bang, cách chừng ba trượng thì dừng lại không tiến nữa, đột nhiên chúm môi phát ra một tiếng sáo lanh lảnh, cái quạt trong tay phẩy lên tựa hồ đưa tiếng huýt gió tới bọn Cái Bang. Lập tức có bốn người đang ngồi dưới đất phải ngã ngửa ra.

Du Thản Chi kinh ngạc la thầm: “Tinh Tú Lão Tiên pháp lực quả nhiên lợi hại.” Lão già lộ vẻ tươi cười, cứ huýt một tiếng lại quạt mấy cái, là thêm một tên ăn xin lăn ra. Tiếng huýt gió của lão tựa như một thứ ám khí lợi hại hữu chất vô hình, trong nháy mắt đã đánh ngã sáu bảy đệ tử Cái Bang.

Bọn người đi theo sau lão đều thi nhau tán tụng: “Công lực của sư phụ cổ kim hiếm có. Bọn Cái Bang này muốn chống đối phái ta thì chẳng khác gì đom đóm so với ánh sáng mặt trời mặt trăng thôi.” “Châu chấu không biết tự lượng sức lại đòi đá xe, thật là buồn cười đến nẻ ruột.” Có tên lại nói “Sư phụ lão nhân gia chỉ cười nói như không, đã làm bọn tiểu yêu này chết tươi tại chỗ, thế thì chẳng phí nửa giọt mồ hôi là hoàn toàn thắng lợi. Từ xưa tới nay đồ đệ chưa được thấy cũng chưa được nghe những việc như thế bao giờ”. Cũng có tên nói: “Đây là kỳ tích vô tiền khoáng hậu, nếu sư phụ không hiển lộ cho xem thì bọn võ lâm Trung Nguyên quyết không tưởng tượng nổi trên thế gian lại có công phu đến như thế.” Phụ họa vào tiếng hoan hô ca tụng công đức của lão tiên, lại có tiếng sáo trúc, trồng chiêng ầm ĩ thật là náo nhiệt.

Đột nhiên Toàn Quan Thanh thổi thiết địch trên tay nghe suỵt một tiếng, Du Thản Chi kinh ngạc tự hỏi: “Không hiểu y thổi làm chi, không lẽ xoay sang tán tụng Tinh Tú Lão Tiên ư?” Ở dưới đất bỗng có tiếng động, trong những bao vải lớn có mấy con rắn to màu sắc sặc sỡ bò ra, trườn dưới đất hướng đến ông lão. Bọn đệ tử kinh hãi la lên: “Có rắn, có rắn độc!” “Ôi chao, không xong rồi! Ở đây nhiều rắn độc quá.” “Sư phụ ơi, dường như lũ rắn độc này đang xông đến chúng ta.” Trong túi vải của bọn Cái Bang bò ra mỗi lúc một nhiều rắn độc, lớn có nhỏ có, nhiều con cất đầu lên phun phè phè, cùng xông vào chỗ lão già kia đang đứng với bọn đệ tử. Bọn chúng la rầm lên, thật là hoảng loạn.

Mấy tên đệ tử phái Tinh Tú cầm cương trượng nhắm vào rắn dưới đất mà đập túi bụi, nhưng ông lão sắc mặt vẫn thản nhiên, tiếp tục chúm môi huýt sáo cùng phất quạt để tấn công địch. Bên kia thì tiếng thiết tiêu của Toàn Quan Thanh cất lên không ngớt, bọn Cái Bang cũng hò hét trợ oai.

Rắn bò ra mỗi lúc một nhiều, chỉ chốc lát quanh gánh hát của Tinh Tú Lão Tiên đã tụ lại cả trăm con: Trong đó có năm sáu con trăn lớn, khi bò đến gần liền ngoắt đuôi lại quấn người. Trong đám đệ tử của phái Tinh Tú đã có bốn tên bị trăn quấn, số còn lại đều hoảng hồn muốn co giò chạy trốn cho xa đám rắn này, nhưng lại không dám. Trong lúc sư phụ đang nghênh địch thì đệ tử làm sao dám bỏ chạy được, chúng chỉ đứng đó mà khua binh khí đập loạn xạ. Chúng đánh chết ít nhất cũng đã tám chín chục con rắn, nhưng bảy tám người đã bị rắn độc cắn trúng. Những con trăn lớn da dày xương cứng lại càng lợi hại, cương trượng đập vào chúng chỉ như phủi bụi, mà chúng đã quấn được thân thể tên nào thì không thả ra nữa, càng lúc càng siết chặt. Tiếng thiết tiêu vẫn nổi lên tựa như kèn thúc quân, trăn rắn bò ra lại càng nhiều, dưới đất đã có tới hai mươi bảy, hai mươi tám con trăn lớn.

Ông lão thấy tình hình không êm, muốn rời chỗ để công kích Toàn Quan Thanh, nhưng đột nhiên có hai con rắn nhỏ vọt đến nhắm vào mặt lão mà mổ. Lão cả giận quát: “To gan thật!” rồi phẩy quạt, một trận kình phong cuốn hai con rắn đó rơi xuống. Đột nhiên lão thấy một vật mềm mại cuốn vào chân, biết là nguy rồi, vội vã phi thân lên. Thiết tiêu lại suýt một tiếng nữa, bốn con trăn đồng thời quơ cái đuôi dài lên, hướng vào lão ta mà quấn. Lão đang lơ lửng trên không, kích ra hai chưởng, đánh vào hai con trăn phía trước và bên trái binh binh hai tiếng, chúng lảo đảo rồi bắn ra ngoài hai trượng. Lúc đó đuôi của hai con trăn còn lại đã vươn tới. Trong lúc nguy cấp lão lại vận kình phóng ra một chưởng cực kỳ mãnh liệt, chưởng phong vừa đến thì đầu của một con trăn to nát bét ngay.

Đàn rắn ào ào kéo tới như sóng biển. Tuy lão già đã đánh chết được ba con trăn lớn, nhưng trên lưng và chân phải lại bị hai con khác quấn chặt. Lão quát lên một tiếng, vận hết công lực bình sinh dùng trảo bấu vào bụng con trăn trên lưng, lập tức máu tươi nó tuôn ra đỏ lòm khắp người lão. Nhưng giống trăn thật là dai sức, nó bị thủng bụng mà chưa chết ngay, vẫn cố siết mạnh vào, xương sống lão tựa hồ sắp gãy. Lão đang ra sức kháng cự thì lại có hai con trăn nữa vươn tới, dùng đuôi quấn quanh lưng lão mấy vòng, siết cứng cả hai tay lão vào người. Thế là lão già không còn cách nào chống cự nữa. Du Thản Chi trong bụi có thấy tình hình kinh tâm động phách này, sợ đến không dám thở mạnh.

Toàn Quan Thanh cả mừng, thấy mọi người bên địch đã bị trăn lớn quấn chặt hết, chỉ còn biết rên rỉ, thóa mạ chứ không còn phản kháng gì được nữa. Y bèn ngưng thổi thiết tiêu, tiến lại mấy bước cười nói: “Tinh Tú Lão Quái! Phái Tinh Tú của ngươi cùng Cái Bang chúng ta trước nay vẫn không can thiệp đến công việc của nhau, nước sông không phạm vào nước giếng, sao bỗng dưng đến đây kiếm chuyện? Bây giờ ngươi nói sao đây?”

***

Vị tiên ông đồng nhan hạc phát này chính là Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu mà nhân sĩ võ lâm đều ghét cay ghét đắng. Và một trong Tinh Tú tam bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh bị nữ đệ tử là A Tử lấy trộm đem đi mất, lão bèn phái nhiều nhóm đệ tử đi truy lùng, thậm chí đại đồ đệ là Trích Tinh Tử cũng phải đi. Chim bồ câu đưa thư về toàn là tin bất lợi, cuối cùng lão được tin A Tử ỷ vào Kiều Phong là bang chủ Cái Bang, đánh Trích Tinh Tử trọng thương tới cửu tử nhất sinh. Đinh Xuân Thu vừa kinh hãi vừa căm hận, nghĩ rằng Cái Bang là một đại bang của võ lâm Trung Nguyên, không dễ gì đối phó. Vả lại Lung Á Lão Nhân mấy năm nay lại lộ diện trên giang hồ, đó cũng là một mối lo trong lòng, lão mà chưa trừ được thì không thể yên tâm. Lão định bụng sau khi lấy lại vương đỉnh sẽ nhân dịp làm cho xong việc đã ấp ủ nhiều năm, bèn thống lĩnh đệ tử bản phái đông chinh một chuyến.

Việc luyện Hóa Công Đại Pháp là thường xuyên phải bôi chất độc của rắn rết vào lòng bàn tay, cho thấm vào nội thể. Trong vòng bảy ngày mà không bôi chất độc mới vào, thì chẳng những công lực bị giảm sút mà độc chất tích trữ mấy chục năm trời, không được chất độc mới thấm vào nuôi dưỡng, sẽ bắt đầu phát tác, dần dần gây ra tai họa ghê gớm không biết đâu mà lường. Thần Mộc Vương Đỉnh có tiết ra một chất khí đặc biệt, mỗi khi đốt hương liệu lên thì trong khoảnh khắc dẫn dụ được rắn rết độc bò tới. Không có loại trùng độc nào trong phạm vi mười dặm đã ngửi thấy mùi hương mà chống lại nổi, không tìm đến. Đinh Xuân Thu có chiếc bảo đỉnh này trong tay nên việc bắt trùng độc không tốn một chút hơi sức nào mà phép Hóa Công Đại Pháp càng luyện càng thâm hậu. Trước kia lão có một tên đệ tử đắc ý, gã này luyện Hóa Công Đại Pháp cũng có chút thành tựu. Nào ngờ sau này gã ỷ tài, không chịu nịnh bợ sư phụ nữa, Đinh Xuân Thu bèn bắt lấy, rồi không cần trừng phạt bằng roi đòn hay đao kiếm chi hết, chỉ đem giam vào một căn nhà đá, khiến gã không có cách nào bắt được độc vật. Gã này bị độc chất trong mình phát tác cực kỳ khổ sở, tự cào xé da thịt toàn thân nát bét, rên rỉ kêu gào hơn bốn mươi ngày mới chết. Tinh Tú Lão Quái tuy đắc ý, nhưng cũng không khỏi sợ sệt trong lòng, bèn không dám truyền thụ Hóa Công Đại Pháp cho ai nữa, do đó bọn Trích Tinh Tử cũng không biết. A Tử muốn học môn thần công này, bèn lén nhìn phương pháp lão tập luyện.

A Tử mưu mô xảo quyệt, chờ sư phụ vừa bắt trùng độc xong liền ăn cắp cái Thần Mộc Vương Đỉnh, rồi xin phép đàng hoàng đi về hướng đông. Đến lúc Tinh Tú Lão Quái phát giác ra mộc đỉnh đã biến mất, thì đã qua bảy ngày, A Tử đã trốn xa rồi, nàng cứ chọn những con đường vắng vẻ mà đi. Bọn sư huynh đi truy nã tuy võ công cao hơn nàng, nhưng mưu kế lại kém xa. Nàng dùng cách dương đông kích tây, liên tiếp bày ra vô số ngụy kế để trốn tránh.

Nơi ở của Tinh Tú Lão Quái là một khe núi ẩm thấp có rất nhiều rắn độc trùng độc. Tuy lão mất mộc đỉnh ngọc, nhưng việc bắt độc vật cũng không phải là chuyện khó. Tuy nhiên những con rắn độc trùng độc dễ bắt thì lại tầm thường, những loại ghê gớm hiếm có không thể bắt được nữa. Lão còn lo lắng một điều là lỡ mà bọn cao thủ Trung Nguyên khám phá ra lai lịch chiếc đỉnh, thì bất luận là ai cũng đập tan tức khắc. Vì thế ngày nào chưa tìm được là lão chưa yên tâm ngày ấy.

Đinh Xuân Thu đi đến Thiểm Tây thì gặp bọn đồ đệ. Đại đệ tử là Trích Tinh Tử may mà không chết, nhưng mất hết võ công, bị bọn sư đệ nhục mạ rồi đánh đập nhừ tử đến không ra hình người nữa. Nhị đệ tử là gã mũi sư tử đạo hiệu là Sư Hống Tử tạm giữ chức vị đại sư huynh. Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy sư phụ thân hành xuất mã thì vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, nghĩ tới chuyện mình không hoàn thành được mệnh lệnh được giao, e rằng sẽ bị trách phạt cực kỳ thảm khốc. May mà Tinh Tú Lão Quái đang lúc cần người, tạm gác chuyện trách phạt lại, cho chúng lập công chuộc tội.

Dọc đường cả bọn đều ra sức thám thính tin tức của Cái Bang, nhưng chúng tướng mạo đã kỳ dị, hành động ngôn ngữ lại làm người ta chán ghét, nên chẳng ai muốn giúp đỡ chỉ bảo cho. Hơn nữa Tiêu Phong đã đến nước Liêu làm tới chức Nam viện đại vương, trong võ lâm không mấy ai biết, nên chúng không dò la được chút xíu tin tức nào, ngay cả tổng đà Cái Bang đang ở đâu cũng không hiểu.

Một hôm Thiên Lang Tử vô tình nghe tin Đại Trí phân đà hội họp, muốn lập công bèn một mình xông vào, không tính toán gì. Gã trúng kế của Toàn Quan Thanh, may mà trong nội thể có nhiều độc chất nên bò cạp cắn lên mặt cũng không chết, thoát nạn chạy về bẩm báo với sư phụ. Đinh Xuân Thu lập tức tìm đến, không ngờ cuối cùng bị mãng xà siết chặt đến nỗi bất động, một thân võ công thâm hậu lại đầy dẫy chất kịch độc cũng tựa hồ vô kế khả thi.

***

Đinh Xuân Thu không trả lời câu hỏi của Toàn Quan Thanh, lạnh lùng hỏi lại: “Trong Cái Bang có ai tên là Kiều Phong không? Hắn đang ở đâu, mau kêu ra đây gặp ta.” Toàn Quan Thanh bất giác rùng mình một cái, hỏi: “Ngươi có chuyện gì mà muốn kiếm Kiều Phong?” Đinh Xuân Thu ngạo mạn nói: “Tinh Tú Lão Tiên hỏi mi sao mi dám không trả lời, lại còn hỏi tới hỏi lui? Kiều Phong đâu?”

Toàn Quan Thanh thấy lão đang bị trăn quấn chặt, mất cả khả năng phản kháng mà nói chuyện vẫn ngạo mạn như thường, đủ hiểu con người này ác độc cỡ nào, thật là hiếm có trên đời. Y liền kiếm lời châm chọc: “Tinh Tú Lão Tiên lừng danh thiên hạ, thế mà mấy con rắn cỏn con này cũng đối phó không xong, rõ ràng chỉ có hư danh. Xin lỗi nhé, hôm nay chúng ta phải vì thiên hạ mà trừ đại họa.”

Đinh Xuân Thu cười nói: “Lão phu bất cẩn để thua loại súc sinh máu lạnh này, hôm nay về Tây phương cực lạc cũng chẳng qua là số mệnh mà thôi.”

Lão vừa dứt lời, đột nhiên một tên đệ tử phái Tinh Tú đang bị trăn quấn kêu lên: “Cái Bang đại anh hùng ơi! Xin tha mạng cho tiểu nhân, sẽ có rất nhiều lợi ích. Sư phụ của tiểu nhân rất nhiều ngụy kế, ai đề phòng đến đâu cũng không tránh hết được. Đại anh hùng chỉ sơ ý một chút là mắc bẫy ngay lập tức.” Toàn Quan Thanh lạnh lùng hỏi: “Tha cho ngươi thì được lợi gì?” Gã kia đáp: “Phái Tinh Tú có ba món bảo vật gọi là Tinh Tú tam bảo, chỉ có Tinh Tú Lão Quái và tiểu nhân là biết nơi cất giấu. Đại anh hùng cứ tha tiểu nhân ra đi, khi giết xong lão quái, tiểu nhân sẽ đi lấy dâng lên. Nếu đem tiểu nhân giết đi, thì vĩnh viễn không lấy được Tinh Tú tam bảo.”

Lại một tên đệ tử khác la lên: “Đại anh hùng! Đại anh hùng chớ có bị đánh lừa! Trong tam bảo thì một vật đã bị người lấy cắp đi mất rồi. Đại anh hùng tha tiểu nhân ra hay hơn, chỉ có tiểu nhân là hết lòng trung thành, quyết không lừa dối.”

Trong chốc lát bọn đệ tử phải Tinh Tú nhốn nháo cả lên. Nào là: “Cái Bang đại anh hùng! Tha mạng cho tiểu nhân là hay nhất, bọn kia không hết lòng trung thành với đại anh hùng đâu. Chỉ một mình tiểu nhân là đến chết cũng không đổi dạ, quyết ra sức phục vụ cho ngài.” “Tiểu nhân biết rất nhiều tuyệt kỹ bí truyền của phái Tinh Tú, nhất định sẽ nói cho đại anh hùng biết hết, không giấu giếm chút nào.” “Bản phái đến Trung Nguyên là có mưu đồ đại sự, chủ yếu là để đối phó với Cái Bang các ngài. Các vị đại anh hùng có muốn biết cụ thể không?” “Trên bờ Tinh Tú Hải có vô số kim ngân châu báu, tiểu nhân biết hết mọi chỗ, xin dẫn các vị đi khai quật, từ nay anh hùng hảo hán Cái Bang không cần phải đi xin ăn nữa.” Bọn này ăn nói bát nháo, tên thì hứa hẹn trung thành, tên thì hiến kế, tên thì đem lợi ra nhử, tên thì khêu gợi tính hiếu kỳ, lại có tên lại bịa đặt ra những chuyện hoang đường. Thôi thì kiểu gì cũng có. Có mấy tên bị rắn cắn hoặc trăn quấn chặt đã sắp đứt hơi, chỉ sợ mình chết mà không kịp van xin tha mạng, lại càng nghẹn ngào năn nỉ.

Bang chúng Cái Bang không ngờ đệ tử phái Tinh Tú lại vô sỉ đến thế, liền đem lòng khinh bỉ. Có tên nổi tính hiếu kỳ, lại gần để nghe cho đã tai. Toàn Quan Thanh lạnh lùng nói: “Bọn mi đối với sư phụ còn chẳng trung thành, nói chi đến chuyện trung thành với người chưa quen biết? Thật là đáng buồn cười.”

Bọn đệ tử phái Tinh Tú lại tranh nhau nói: “Không phải! Không phải! Tinh Tú Lão Quái bản lĩnh kém cỏi, tiểu nhân theo lão chẳng ăn thua gì, trung thành với lão cũng vô ích. Còn đại anh hùng Cái Bang uy danh lừng lẫy khắp thiên hạ, lại có bí quyết sai khiến rắn độc cực kỳ lợi hại. Tinh Tú Lão Quái bì với đại anh hùng thế nào được?” “Phải rồi! Cái Bang mà thu dụng đệ tử phái Tinh Tú là khiến cho quần hùng Tây Vực cũng như ở Trung Nguyên đều chấn động. Họ sẽ khâm phục các vị anh hùng Cái Bang không biết đến đâu mà nói.” “Chỉ gọi là anh hùng thôi ư? Hai chữ “Anh Hùng” không đủ để ca tụng các vị, mà phải kêu bằng “Đại Hiệp”, “Thánh Nhân” mới đúng! Tiểu nhân là người biết ăn nói, từ đây sẽ chu du bốn phương trời để ra sức quảng cáo. Oai đức của các vị đại hiệp Cái Bang chẳng mấy chốc khắp thiên hạ không còn ai không biết.” “Hứ! Tiếng tăm các vị đại hiệp Cái Bang trước nay đã lẫy lừng như sấm động, hà tất phải đợi ngươi đi khua chuông gõ trống?” “Thánh nhân! Tiểu nhân là kẻ sáng suốt tuyên bố quay về chính nghĩa trước tiên, bọn kia chỉ biết bắt chước chứ có công lao gì?

Một tên đệ tử năm túi của Cái Bang chau mày nói: “Bọn mì toàn là đồ tiểu nhân để tiện, ton hót chỉ tổ người ta bẩn cả tai. Tinh Tú Lão Quái! Sao ngươi lại đào tạo ra bọn đê hèn vô liêm sỉ đến thế? Thôi, ta hóa kiếp cho ngươi trước rồi từ từ cho bọn chúng đi theo hết. Bữa nay lão gia phải đại khai sát giới.” Nói xong, y phóng chưởng đánh Đinh Xuân Thu nghe “vù” một tiếng. Phát chưởng này kình lực cực kỳ lợi hại, đánh trúng ngay giữa ngực, nào ngờ lão vô sự mà tên Cái Bang lại nhũn hai chân ra, khuỵu xuống đất cuộn người thành một khối, giãy giụa hai cái rồi bất động. Bọn Cái Bang cả kinh la lên: “Sao thế?”, rồi hai tên đứng cạnh đưa tay toan đỡ dậy, nhưng vừa chạm vào gã thì lắc lư muốn ngã. Kế bên có ba tên theo phản xạ ra tay đỡ lấy, nhưng vừa động đến cũng ngã ra. Toàn thể quần cái đều chưng hửng đứng nhìn, không dám chạm vào đồng bọn nữa.

Toàn Quan Thanh la lên: “Lão này toàn thân đầy chất độc, không được động đến. Phóng ám khí!”

Tám chín tên đệ tử Cái Bang vào hàng bốn năm túi đồng thời phát xạ ám khí, nào là cương tiêu, phi đao, tụ tiễn, phi hoàng thạch, đều nhắm hướng Đinh Xuân Thu bay đến vèo vèo. Lão quát lên một tiếng, hất đầu xổ mái tóc bạc ra như một cây nhuyễn tiên, gạt hết mười mấy thứ ám khí bay ngược lại. Những tiếng “Ái chà!” “Ôi chao!” liên tiếp vang lên, sáu bảy tên bang chúng Cái Bang bị trúng ám khí. Tên thì trúng vào chỗ hiểm yếu, có tên chỉ bị sướt qua trầy da, nhưng tất cả đều nhũn ra chết cùng một lúc.

Toàn Quan Thanh quát lớn: “Lui ra! Lui ra!”. Bỗng nhiên từ mái tóc bạc phơ của Đinh Xuân Thu có một cây cương tiêu bay vèo đến, nhắm vào gã. Toàn Quan Thanh cả kinh, vung thiết tiêu gạt bắn mũi cương tiêu bay ra xa. Gã nghĩ rằng Tinh Tú Lão Quái quái dị khôn lường, dùng trăn quấn chết là an toàn nhất, liền đưa ống thiết tiêu lên miệng toan thổi. Bỗng dưng môi miệng gã tê dại đi, đầu óc choáng váng. Gã biết mình vừa ngu vừa ẩu, vứt ngay thiết tiêu xuống thì đã không kịp nữa, chỉ kêu được một tiếng rồi lăn ra nằm ngửa mặt nhìn trời.

Bang chúng Cái Bang đều cả kinh, có hai tên chạy đến tranh nhau đỡ lấy gã. Toàn Quan Thanh trong lúc nửa mê nửa tỉnh cũng cố nói: “Ta… ta… trúng độc rồi! Mau… mau… rút đi”. Bọn ăn xin sợ đến hồn vía bay hết lên mây, ôm lấy gã dông thẳng một mạch. Chẳng tên nào buồn thu dọn những tử thi đồng bọn và đủ các thứ linh tinh đang nằm vương vãi đầy mặt đất.

***

Du Thản Chi nấp trong bụi rậm, cũng hoảng sợ không dám động đậy. Tứ bề đều vắng lặng, mười mấy người Cái Bang nằm dưới đất đều co rút lại như con nhím, hiển nhiên mất mạng cả rồi. Những con trăn lớn không nghe thấy tiếng tiêu của Toàn Quan Thanh đều không cử động gì nữa, chỉ quấn chặt sư đồ của Đinh Xuân Thu như cũ. Mọi người phái Tinh Tú đều không dám cử động, chỉ sợ chúng nổi hung lên mà há miệng đớp cho.

Yên lặng một lúc, một tên cất tiếng nói trước: “Sư phụ! Thần công sư phụ đã đến mức thiên hạ vô địch, đang cười cười nói nói chỉ hất đầu một cái mà bọn độc ác man rợ đều bị giết sạch…” Tên này chưa dứt lời, tên khác đã nói ngay: “Sư phụ! Sư phụ đừng nghe giọng lưỡi thối tha của hắn. Chính hắn vừa ca tụng bọn ăn xin nào là đại hiệp, nào là thánh nhân.” Lại một tên khác nói: “Bọn đệ tử theo hầu sư phụ đã bấy nhiêu năm, còn lạ gì bản lĩnh nghiêng trời lệch đất của sư phụ? Vừa rồi bọn Cái Bang nói nhăng nói cuội, toàn những lời bịp bợm.”

Bỗng có tiếng khóc rống lên: “Sư phụ! Sư phụ ơi, đệ tử thật là ngu xuẩn, tham sống sợ chết mà đầu hàng kẻ địch, bây giờ hối hận không kịp. Đệ tử thà để rắn độc cắn chết, không còn mặt mũi nào xin sư phụ tha mạng!” Gã nói mấy câu, bọn kia lập tức tỉnh ngộ. Kẻ nào léo mép che lấp tội lỗi lại càng bị Tinh Tú Lão Quái ghét bỏ, còn tự trách mình lầm lỡ đáng chết, nhận hết tội lỗi thì không chừng còn được khoan hồng. Nghĩ vậy, chúng lại tranh nhau tự kể tội mình, những là phân thây muôn đoạn cũng chưa đáng tội. Du Thản Chi nằm trong đám cỏ cũng phải nhức cả đầu, chối cả tai.

Đinh Xuân Thu ngầm vận kình lực, định bứt đứt ba con trăn quấn vào mình. Nhưng thân thể chúng vừa dai vừa cứng, có thể co giãn được, lão đã dồn hết nội lực mà chúng chỉ hơi duỗi mình đi một chút, không thể bứt đứt nổi. Thân thể Đinh Xuân Thu tích chứa chất độc nhiều vô kể, ngay cả trên y phục cùng đầu tóc cũng chẳng thiếu gì, vừa rồi bọn Cái Bang phóng chưởng hoặc phóng ám khí tấn công lão đều nhiễm độc mà uổng mạng. Còn da trăn đã dày lại trơn tuột, chất độc không thể thấm vào cơ thể chúng được, lão đành chịu thua. Lão nghe bọn đệ tử lải nhải bên tai, bực mình nói móc: “Chúng ta bị khốn đốn vì rắn độc, đứa nào nghĩ ra cách giải quyết, ta sẽ tha mạng cho. Các ngươi biết tính ta rồi, ai được việc cho ta, ta mới không giết. Nếu cứ bẻm mép tìm lời xảo trá chẳng ích gì đâu!”

Lão vừa dứt lời, bọn đệ tử lập tức câm mồm. Hồi lâu mới có một tên lên tiếng: “Chỉ còn cách dùng lửa đốt những con trăn lớn này, lập tức chúng phải bỏ chạy.” Đinh Xuân Thu mắng: “Thúi lắm! Chỗ này hoang dã tịch mịch không có thôn trang nhà ở, làm gì có ai đi lại? Dù có người đi qua thì thấy nhiều rắn độc tất nhiên hốt hoảng chạy trốn, lấy đâu ra lửa để đốt rắn?” Sau đó bọn kia lại thi đua phát huy sáng kiến, song đều không thể thực hiện được. Chúng nhao nhao lên, chẳng qua để lấy lòng sư phụ, ra vẻ nhiều mưu kế, được việc cho thầy.

Sau một giờ nữa, một tên đệ tử bị xiết chặt quá nghẹt thở. Gã thần trí hồ đồ, mở miệng cắn con trăn một miếng. Con vật bị đau, quay lại cắn vào cổ gã, gã chỉ kêu được một tiếng rồi chết ngay tức khắc.

Đinh Xuân Thu nóng nảy vô cùng. Giả tỉ đang bị địch nhân vây khốn thì chỉ một lát là lão nghĩ ra mưu kế xảo quyệt để lừa đối phương mà thoát thân, nhưng đối với đàn rắn vô tri này thì mưu kế tuyệt diệu đến đâu cũng chẳng ăn thua. Lão chỉ sợ đến lúc đám trăn bị đói sẽ đớp người mà nuốt.

Điều lão lo âu đã thành hiện thực. Một con trăn lớn đã lâu không nghe thấy hiệu lệnh, đang lúc đói bụng liền há cái miệng to tướng đớp vào người tên đệ tử đang bị quấn chặt. Gã này la hoảng: “Sư phụ cứu mạng! Sư phụ cứu mạng!”, la chưa dứt tiếng thì cặp giò đã chui vào miệng con trăn, rồi thân hình gã không gượng được nữa, từng khúc một bị nuốt vào, dần dần đến bụng, đến ngực, miệng vẫn gào thét đến phút cuối cùng. Lúc lâm tử, tiếng rú lại càng thảm thiết, vang động cả một vùng rộng lớn. Bạn đọc nên biết loài rắn hay trăn đều có răng hình móc câu, bất luận con vật nào bị đớp đều dần dần bị đẩy vào bụng, không thể thoát ra được.

Mọi người đều hiểu chỉ trong khoảnh khắc là chung số phận với tên này, sợ đến mất mật, hồn vía lên mây. Một tên đệ tử thấy Tinh Tú Lão Quái cũng chịu bó tay, bất giác lửa giận bốc lên ngùn ngụt, liền mở miệng thóa mạ sư phụ, đổ cho lão làm liên lụy mình. Trước kia hắn chăn cừu ở bờ biển Tinh Tú kiếm sống, bị lão dùng lời đường mật, dụ vào làm môn hạ. Hôm nay hắn sắp chết thảm trong miệng rắn, bèn quyết định chết xuống âm ty sẽ làm cáo trạng kiện với Diêm Vương.

Một tên đã bắt đầu, bọn kia không chịu kém, lập tức nhao nhao chửi bới sư phụ. Bọn này ngày thường bị Tinh Tú Lão Quái ngược đãi cực kỳ tàn nhẫn, đều căm hận trong lòng mà không dám nói ra. Bữa nay thầy trò đều chết đến nơi, chúng đều thóa mạ cho sướng miệng để hả lòng căm tức bấy lâu. Hai tên đệ tử chửi bới đến lúc cao hứng, cử động mạnh khiến cho con trăn đang quấn chúng nổi hung đớp cho một miếng vào vai. Hắn lớn tiếng kêu la: “Úi chao! Cứu tôi với! Cứu tôi với!”.

Du Thản Chi nghe tiếng hô hoán không nhẫn nại được nữa, đang nằm trong bụi cỏ bèn đứng phắt dậy nói: “Ta phóng hỏa đốt rắn để cứu các ngươi!”, rồi ôm cỏ khô chất thành một đống. Bọn phái Tinh Tú bất thình lình thấy xuất hiện một gã bịt mặt hình dung cổ quái, đều kinh hãi giật mình, nhưng nghe hắn nói đốt rắn cứu mình, thì khác nào đã xuống đến Quỷ Môn Quan còn được quay lại, liền nhao nhao lên ngỏ lời cảm tạ.

Bọn này có bản lĩnh thóa mạ rất cao siêu, công phu nịnh hót cũng phi thường. Suốt đời Du Thản Chi chưa được ai ca tụng đến thế, nào là “Đại anh hùng đại hào kiệt”, nào là “Nhân nghĩa đại hiệp”, nào là “Hảo hán nhất đời”, chẳng còn danh từ hoa mỹ nào không được tận dụng. Đã là con người được nghe tán tụng đều nức lòng hả dạ, Du Thản Chi thấy bọn này ca mình lên tới mây xanh thì trong lòng cũng thấy khoan khoái, liền không nề nguy hiểm mà quyết cứu mạng cho chúng.

Gã lấy đồ đánh lửa bên mình ra, toan đốt đống cỏ khô. Nhưng lúc nhìn thấy vô số rắn trăn dữ tợn, gã lại đâm ra sợ hãi, nhớ tới câu “Chọc ong thì ong đốt”, trêu vào đám rắn này chắc sẽ liên lụy ngay tức khắc.

Gã suy nghĩ một lát rồi lượm cành cây khô đốt một đống lửa thật to để phòng thủ trước, rồi mới nhặt một cành cây đang cháy liệng vào con trăn gần nhất, chạy về phía đống lửa ẩn nấp để chờ xem, định bụng thấy nó bò lại phía mình là xa chạy cao bay, chẳng thèm làm đại anh hùng, đại hiệp sĩ gì gì nữa.

Nhưng con trăn này quả nhiên rất sợ lửa, vừa nóng đến bên mình là nó buông ngay tên đệ tử phái Tinh Tú ra rồi chui vào đống cỏ rậm. Du Thản Chi thấy phép hỏa công của mình hiệu nghiệm. Giữa những tiếng hoan hô nhiệt liệt của bọn đệ tử phái Tinh Tú, gã liệng từng cành cây đang cháy vào đám rắn. Đàn rắn tới tấp bỏ chạy, ngay cả những con trăn dài mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng, bò đi rào rào. Chỉ trong khoảnh khắc, mấy trăm con trăn lớn cùng rắn độc biến mất.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú lại đổi sang giọng nịnh thầy. Tên thì nói: “Sư phụ mắt nhìn muôn dặm, thần cơ diệu toán, quả nhiên phép hỏa công của sư phụ vô cùng linh nghiệm.” Có kẻ nói: “Sư phụ hồng phúc tày trời, gặp dữ hóa lành, hoàn toàn trông cậy vào sư phụ chỉ huy, sai người phóng hỏa cứu mạng kiến ruồi cho bọn đệ tử.” Những lời tán tụng đều hướng về Tinh Tú Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi thì chẳng tên nào nhắc đến nữa.

Du Thản Chi nghe mà kinh ngạc, mắng thầm: “Bọn mi vừa thóa mạ sư phụ đã hết lời tán tụng là sao?” Gã không hiểu bọn này thoát được nạn rắn, thì tính mạng lại ở trong tay Tinh Tú Lão Quái, nếu không nịnh hót thì lão chỉ giơ tay lên một cái là toi mạng. Còn công cứu mạng Du Thản Chi đến đây là sổ toẹt, chúng coi gã như người đi đường mà thôi.

Đinh Xuân Thu vẫy tay gọi Du Thản Chi, bảo: “Thiết đầu tiểu tử, ngươi lại đây! Tên ngươi là gì?” Du Thản Chi bị khinh rẻ đã quen, dù thấy đối phương vô lễ cũng không giận. Gã đáp: “Tại hạ là Du Thản Chi.”, rồi tiến lại mấy bước. Đinh Xuân Thu hỏi: “Đám Cái Bang này chết cả chưa? Ngươi lại sờ mũi chúng xem còn thở không?” Du Thản Chi dạ một tiếng rồi cúi xuống sờ vào mũi một tên khất cái thì chỉ thấy lạnh ngắt, đã chết tự bao giờ, lại xem một tên khác cũng thấy tắt hơi rồi. Gã nói: “Họ chết hết rồi, không còn ai thở nữa.”, vừa nói vừa đứng thẳng lên, bỗng thấy vẻ mặt mọi người ra chiều giễu cợt mình. Gã chẳng hiểu gì, nhắc lại: “Họ chết cả rồi, không còn ai thở nữa.” Bộ mặt vừa khinh khỉnh vừa giễu cợt của bọn đồ đệ phái Tinh Tú dần dần biến thành kinh dị.

Đinh Xuân Thu nói: “Ngươi coi bọn ăn mày lần nữa, xem còn có thể cứu vãn không?” Du Thản Chi đáp: “Vâng.”, rồi đi xem xét cẩn thận mười mấy tên Cái Bang một lần nữa. Đoạn gã lắc đầu nói: “Bọn họ chết hết rồi, không cứu vãn được nữa. Công lực của lão tiên sinh thật là ghê gớm!” Đinh Xuân Thu cười nhạt, nói: “Công phu kháng độc của ngươi mới là lợi hại.” Du Thản Chi kinh ngạc hỏi: “Tại hạ… tại hạ có công phu kháng độc gì đâu?”

Thật sự Du Thản Chi không hiểu lão nói vậy là có ý gì, không biết rằng mỗi lần gã sờ vào mũi những xác chết kia là một lần gõ cửa Quỷ Môn Quan, xem hết mười mấy tên Cái Bang là trải qua mười mấy lần suýt mất mạng. Nguyên Tinh Tú Lão Quái ở địa vị tôn sư một phái, bị trăn quấn vô kế khả thi, lại phải nhờ một đứa trẻ nít nhỏ tuổi cứu mạng. Chuyện này mà đồn đại ra giang hồ thì thật là mất thể diện, vì thế mà sau khi đàn trăn bỏ đi rồi, lão nghĩ ngay đến việc giết Du Thản Chi để bịt miệng. Thi thể bọn Cái Bang đều có chất kịch độc, lão sai Du Thản Chi sờ mũi họ là có dụng ý cho gã nhiễm độc mà chết. Dè đâu Du Thản Chi bản chất âm dương sai lệch, đã nhờ mấy tháng luyện Dịch Cân Kinh thành ra nội công ghê gớm, lại hút cả huyết dịch con băng tằm là một loại trùng độc nhất thiên hạ. Chất độc con băng tằm rất dung hợp với thể chất Du Thản Chi, trong mình gã đã chứa chất độc này thì vạn độc bất xâm. Dĩ nhiên là chất độc trong mình Đinh Xuân Thu phát ra chẳng thấm vào đâu.

Đinh Xuân Thu lẩm bẩm: “Không hiểu bản lãnh chân chính của thằng lỏi này ra sao. Chắc là trong mình hắn có vật kỵ độc như Hùng Hoàng Châu, Tịch Tà Bích chi đó, hay đã uống thuốc giải độc từ trước nên mới chịu nổi chất kỳ độc của ta nhiễm vào mình.” Nghĩ vậy lão bảo: “Du huynh đệ, ngươi lại đây! Ta có chuyện muốn nói.”

Du Thản Chi tuy thấy lão nói có vẻ chân thành, nhưng chính mắt gã vừa thấy lão giết một lúc mười mấy tên Cái Bang một cách tàn nhẫn, lại thấy bọn đồ đệ lúc thì thóa mạ lúc thì xiểm nịnh, biết rằng hạng người này khó mà đối phó, kính nhi viễn chi là hơn. Nghĩ vậy gã đáp: “Tiểu nhân có việc gấp không chần chờ được. Xin cáo từ lão tiên, tiểu nhân phải đi ngay.” Gã nói xong, chắp tay vái chào rồi chuyển thân đi ngay.

Gã mới đi được mấy bước, đột nhiên thấy bên mình có luồng gió mát lướt qua, gã chưa kịp phản kháng gì, hai cổ tay đã bị nắm chặt. Du Thản Chi quay đầu nhìn lại thì thấy một tên đệ tử phái Tinh Tú cao lớn mập mạp. Gã không hiểu hắn có dụng ý gì, nhưng nhìn gương mặt đang cười một cách hung dữ, rõ ràng không phải chuyện tử tế. Gã không khỏi giật mình la lên: “Buông ta ra!” rồi cựa mạnh một cái.

Bỗng nghe trên đầu có tiếng gió vù vù, một bóng người to lớn từ sau lưng bay vút qua đầu gã rồi đập vào vách núi trước mặt đánh huỵch một tiếng, mạnh đến nỗi xương thịt tan nát, đầu nhão ra như đất bùn.

Du Thản Chi thấy đại hán này va vào vách núi mãnh liệt quá chừng, cứ tưởng mình lóa mắt. Gã định thần nhìn lại thì ra chính là tên đệ tử phái Tinh Tú vừa nắm chặt tay mình, lại càng kinh ngạc hơn nữa, tự hỏi: “Rõ ràng thằng cha này vừa nắm tay mình, sao lại bất thình lình đâm đầu vào núi mà tự tử?” Thực ra đại hán này không phải tự tử, mà vì Du Thản Chi giãy mạnh một cái, kình lực tung hắn bay qua đầu rồi hất mạnh vào núi đến nỗi toi mạng.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy Du Thản Chi chỉ nhấc tay một cái đã giết chết đồng môn, đều cả kinh thất sắc la lên một tiếng: “Ôi chao!” Tinh Tú Lão Quái giàu kinh nghiệm giang hồ, nhìn thủ pháp của gã hất chết đệ tử mình không phải là võ công thượng thặng mà chỉ có sức mạnh phi thường ở cánh tay, bèn cho đó là người có thần lực tự nhiên còn võ công thì vào hạng tầm thường. Lão băng mình đi một cái, chộp lấy cái đầu sắt của Du Thản Chi. Du Thản Chi bị chụp một cách đột ngột không kịp đề phòng, kình lực của lão nặng đến ngàn cân, đè gã ngã quỵ xuống đất. Gã toan đứng dậy, nhưng trên đỉnh đầu dường như có cả một trái núi nhỏ. Gã hết đường cựa quậy, liền mở miệng van lơn: “Xin lão tiên sinh tha mạng!”

Đinh Xuân Thu thấy gã năn nỉ tha mạng mới yên lòng hỏi lại: “Sư phụ mi là ai? Mi to gan thật! Sao dám đánh chết đồ đệ ta?” Du Thản Chi ấp úng: “Tiểu nhân không có sư phụ, Tiểu nhân cũng… chẳng giết đồ đệ của lão tiên sinh.”

Đinh Xuân Thu nghĩ bụng: “Mình đã kiềm chế được gã, đánh chết để bịt miệng là xong.” Nghĩ vậy, lão buông tay ra cho Du Thản Chi đứng dậy, rồi phóng chưởng từ từ đánh vào ngực gã. Du Thản Chi thấy vậy cả kinh, bất giác đưa tay lên gạt, hai bàn tay chạm nhau. Chính Đinh Xuân Thu cố ý ra tay rất chậm, lão dùng nội lực hùng mạnh đầy chất độc đã chứa sẵn trong bàn tay ra, đó chính là Hóa Công Đại Pháp nổi danh mấy chục năm trời, đã tàn hại không biết bao nhiêu là cao thủ võ lâm. Thật ra đối với một đứa hậu sinh nhỏ tuổi như Du Thản Chi, lão không muốn thi triển Hóa Công Đại Pháp vì mỗi lần dùng đến nó là tổn hao nguyên khí và giảm bớt chất kịch độc trong mình, nhưng lão thấy Du Thản Chi đã sờ vào mười mấy tên Cái Bang mà vẫn không trúng độc nên bất đắc dĩ phải dùng đến tuyệt kĩ này.

Hai chưởng gặp nhau, Du Thản Chi lảo đảo lùi lại mấy bước. Gã toan đứng dậy nhưng lại trượt đi ngồi phệt xuống, bèn chống hai tay ra sau để ngồi cho vững nhưng dư lực đòn chưởng vẫn còn mãnh liệt, mông của Du Thản Chi chạm tới đất rồi mà còn lộn ba vòng mới dừng lại được.

Về phần Đinh Xuân Thu, sau khi đối chưởng bỗng thấy trước ngực mát lạnh, rồi nội lực tiết từ lòng bàn tay ra ngoài một cách mau lẹ dị thường. Lão cố kìm lại nhưng không tự chủ được, nội lực vẫn thoát ra ngoài, vội đảo ngược đầu xuống giơ chân lên trời, xoay người mấy vòng. Nhờ phép Cố Cơ Vận Kình của phái Tinh Tú, lão mới ngăn nội lực lại được, nhảy lộn người đứng dậy, râu tóc dựng ngược lên, sắc mặt nhợt nhạt, trông rất đáng sợ. Lão lại xòe hai bàn tay to tướng như cái quạt toan đánh xuống Du Thản Chi lần nữa. Du Thản Chi đập đầu lia lịa kêu van: “Xin lão tiên sinh tha mạng, xin lão tiên sinh tha mạng!”

Đinh Xuân Thu đối một chưởng, phát giác ra nội lực gã này thâm hậu, âm hàn đến cực điểm, lại chứa chất kịch độc. Tuy gã bị mình hất đi lăn lộn mấy vòng, mà so ra nội lực và độc kình cũng chưa kém thế chút nào, sao lại van xin tha mạng? Lão nghi ngờ tên này cố ý chế giễu, bèn tiến tới mấy bước, hỏi: “Ngươi muốn ta tha mạng là chân tâm hay giả trá?” Du Thản Chi chỉ biết dập đầu năn nỉ: “Tiểu nhân một dạ chân thành, chỉ mong lão tiên sinh từ bi tha cho cái mạng kiến ruồi.”

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: “Không hiểu tên này dùng phương pháp gì, hay gặp cơ duyên nào mà độc chất trong người lại còn nhiều hơn ta, quả là một bảo bối hãn hữu. Tốt nhất là ta thu nhận gã để điều tra cho ra pháp môn luyện công, rồi hấp thu độc chất của hắn, sau cùng mới đem ra xử tử. Bây giờ giết gã thì dễ thôi, nhưng thật là đáng tiếc.” Lão bèn đưa tay ấn vào cái đầu sắt, vận nội lực rồi nói: “Ngươi mà bái ta làm sư phụ thì ta mới tha mạng ngươi được.”

Du Thản Chi thấy cái đầu sắt nóng như có lửa đốt, tựa hồ bỏng cả mặt mũi, trong lòng sợ sệt vô kể. Từ khi gã bị A Tử hành hạ dã man thì đã chấp nhận người ta muốn sao mình chịu vậy, cũng không phân biệt thị phi thiện ác gì gì nữa, những gì là hào khí trượng phu nam tử hán cũng đã quên sạch cả rồi. Lúc này gã chỉ mong toàn mạng, bèn vội vã nói: “Sư phụ! Đệ tử là Du Thản Chi xin bái kiến sư phụ làm lễ nhập môn, xin lão nhân gia thu nạp.”

Đinh Xuân Thu cả mừng, nghiêm nghị nói: “Ngươi đã nguyện ý bái ta làm sư phụ thì được rồi. Nhưng qui củ của bản môn rất nghiêm, ngươi có giữ đúng được không? Sư phụ đã sai bảo việc gì, ngươi phải hết lòng hết sức tuân theo, không được phản kháng, đã nghe rõ chưa?” Du Thản Chi nói: “Đệ tử xin tuân theo qui củ, phục tùng sư mệnh.” Đinh Xuân Thu hỏi: “Nếu sư phụ bảo ngươi chết, ngươi có cam tâm chịu chết không?” Du Thản Chi ấp úng: “Cái đó… Cái đó…” Đinh Xuân Thu nói: “Ngươi suy nghĩ rồi trả lời cho rõ ràng. Cam tâm thì bảo là cam tâm, mà không cam tâm thì bảo là không cam tâm.”

Du Thản Chi lẩm bẩm: “Giả tỉ lão muốn giết mình, dĩ nhiên mình không cam tâm. Nhưng nếu thật vậy, lúc đó mình trốn được thì trốn, mà không trốn được thì chịu chết, cam tâm hay không cũng chẳng làm gì.” Gã nghĩ vậy liền đáp: “Sư phụ đối với đệ tử ơn sâu nghĩa trọng, bắt phải chết thì đệ tử cũng cam tâm.” Đinh Xuân Thu cười ha hả đáp: “Hay lắm! Ngươi thề độc đi, nếu sau này không tuân lời ta thì chịu thế nào?” Du Thản Chi suy nghĩ rồi đáp: “Đệ tử là Du Thản Chi, nếu sau này không tuân lời, xin để sư phụ phân thây muôn đoạn, chẳng được chết toàn thây.” Đinh Xuân Thu ngẩn người ra, rồi cười nói: “Tên đầu sắt này xảo quyệt gớm! Ngươi không tuân theo mệnh lệnh sư phụ, dĩ nhiên là ta sẽ xử tử, vậy lời thề độc của ngươi chỉ bằng thừa. Nhưng thôi được, ngươi đã thề rồi thì cố mà nhớ lấy.” Rồi lão gọi: “Ngươi lại đây, thuật kỹ lai lịch cho ta nghe!”

Du Thản Chi không làm gì được, đành đem bao nhiêu hoạn nạn cơ cực thuật sơ qua một lượt. Nhưng gã không muốn làm nhơ nhuốc thanh danh họ Du ở Tụ Hiền Trang, chỉ nói mình là con một nông dân, bị quân Liêu đi thu hoạch bắt về, gặp A Tử rồi cùng nàng đi bắt trùng độc. Lúc Du Thản Chi kể đến chuyện bắt con băng tằm, Đinh Xuân Thu lại càng chăm chú nghe, rồi hỏi kỹ hình thù con băng tằm, nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên, tuyệt không lộ vẻ gì khác lạ. Du Thản Chi đột nhiên nghĩ thầm: “Vị sư phụ này không phải người tốt, nếu mình kể về cuốn kinh chữ Phạn tất lão đoạt mất.” Gã liền không nhắc gì tới phép luyện công cổ quái này.

Đinh Xuân Thu không biết về Dịch Cân Kinh, tưởng đó chỉ là công hiệu của con tằm kỳ diệu. Lão rủa thầm trong bụng: “Thần vật quí báu như vậy mà lọt vào tay thằng quỉ con mắt sắt này, để gã hút lấy chất độc vào trong người thật là đáng tiếc!” Lão nghĩ một lúc rồi hỏi: “Lúc nãy ngươi nói tên sư mập bắt được băng tằm tên là Tuệ Tịnh, đệ tử Thiếu Lâm ư? Hiện nay y đang ở chùa Mẫn Trung ở Nam Kinh phải không?” Du Thản Chi đáp: “Đúng thế.”

Đinh Xuân Thu nói: “Hòa thượng Tuệ Tịnh này đã kể là bắt được băng tằm trên núi Côn Luân thì tốt. Trên đó đã có một con, thì chắc phải còn hai ba con nữa. Có điều núi Côn Luân bao la ngàn dặm, nếu không có ai biết chỗ dẫn đường thì đi bắt băng tầm chẳng phải dễ gì.” Lão đã đích thân nếm mùi công hiệu của băng tằm, thấy nó còn quí hơn Thần Mộc Vương Đỉnh nhiều, bèn quyết định việc đầu tiên là phải tìm cho ra Tuệ Tịnh, bắt hắn dẫn lên núi Côn Luân kiếm băng tằm. Kể ra tên này vốn là hòa thượng Thiếu Lâm thì khó mà bắt được, cũng may gã đang ở Nam Kinh nên công việc dễ dàng hơn nhiều. Lão bèn lập tức bảo Du Thản Chi làm lễ bái sư nhập môn.

Bọn môn hạ phái Tinh Tú thấy sư phụ đối đãi với hắn đặc biệt, những lời nịnh bợ tán dương tức thời phun ra như suối. Đinh Xuân Thu đang lúc cần dùng người, bèn vờ như không nghe thấy chúng thóa mạ sư phụ, đầu hàng kẻ địch vừa rồi. Trong phái Tinh Tú thì những chuyện thế này tất phải xảy ra thường xuyên, lão cũng chẳng nổi giận làm chi.

Đoàn người đi về hướng đông bắc. Du Thản Chi theo sau Đinh Xuân Thu, thấy lão tay áo bào phấp phới, chân bước ung dung nhẹ nhàng chẳng khác thần tiên, bất giác trong lòng sinh ra kính ngưỡng, nghĩ thầm: “Ta có phúc bái được một vị sư phụ thế này, chắc là đã tu mấy kiếp.”

Phái Tinh Tú đi đã ba ngày, đến một buổi trưa nóng bức bèn ghé vào.quán lương đình bên đường lớn để nghỉ chân uống nước. Bỗng nghe có tiếng vó ngựa lộp cộp, bốn kỵ sĩ từ phía trước chạy đến.

Bốn con ngựa tới gần, người đi đầu gọi lớn: “Đại ca! Nhị ca! Ta vào lương đình này uống mấy chén nước, nghỉ ngơi một tí nên chăng?” Nói xong y bèn nhảy xuống ngựa chạy vào, ba người đi sau cũng lục tục xuống ngựa. Bốn người này thấy bọn Đinh Xuân Thu liền khẽ gật đầu thi lễ, rồi đến bên lu nước lấy chén múc ra uống.

Hán tử đầu tiên mặc áo đen, thân hình bé nhỏ gầy nhom, có hai chòm râu chuột, thần sắc điêu ngoa. Người thứ hai mặc áo bào màu vàng, cũng gây ốm lộ xương nhưng thân thể cao hơn, lông mày chênh chếch rủ xuống, sắc mặt giống như đang bệnh. Người thứ ba mặc áo bào màu đỏ táo, thân hình khôi vĩ, mặt vuông tai lớn, dưới cằm để một chòm râu trắng, trông giống như một vị thương gia giàu có. Người cuối cùng lại là một nho sinh mặc áo xanh trạc ngũ tuần, đôi mắt lờ đờ tựa như đọc sách quá nhiều nên thị lực kém đi. Gã này không uống nước mà lấy cái hồ lô ra, uống rượu một mình.

Lúc đó lại có một nhà sư đi đến, chắp tay cung kính nói: “Các vị thí chủ! Tiểu tăng đi đường khát nước, xin được vào nghỉ ngơi uống nước một chút.” Gã áo đen cười nói: “Sư phụ đa lễ rồi. Ai cũng là người đi đường, mà lương đình này cũng không phải do chúng ta xây. Vào đây uống nước đi.” Nhà sư nói: “A Di Đà Phật, tiểu tăng xin đa tạ!”, rồi đi vào trong lương đình.

Nhà sư này khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, mày rậm mắt to, cái mũi lớn vừa tẹt vừa hếch lên trời, dung mạo xấu xí, mặc tăng bào có nhiều chỗ vá nhưng rất sạch sẽ. Gã đợi ba người uống xong rồi mới đến cái lu nước trong, dùng gáo sành múc lên một chén nước, bưng cả hai tay, hai mắt nhìn xuống, cung kính đọc kệ: “Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng, Nhược bất trì tỷ chú, Như thực chúng sinh nhục” (Phật nhìn vào một bát nước thấy tám vạn bốn nghìn con trùng, nếu không đọc chú này thì khác nào ăn thịt sống). Gã đọc kệ xong lại còn niệm một câu chú nữa rồi mới bưng chén nước lên uống.

Hán tử áo đen lấy làm lạ, bèn hỏi: “Tiểu sư phụ lẩm bẩm niệm chú gì vậy?” Nhà sư trả lời: “Tiểu tăng niệm Ẩm Thủy Chú. Phật dạy là trong một bát nước có tám vạn bốn nghìn con trùng, người xuất gia phải niệm chú này rồi mới được uống.” Người áo đen cười ha hả nói: “Nước này trong vắt thế kia, một con sâu cũng không có. Tiểu sư phụ nói giỡn rồi.” Nhà sư nói: “Thí chủ không biết đâu. Mắt phàm của chúng ta nhìn thì trong nước không có sâu bọ gì, nhưng thiên nhãn của Phật nhìn vào thì lại thấy trong nước có cả ngàn cả vạn con trùng.” Người áo đen cười, lại hỏi: “Sau khi niệm chú xong thì lại nuốt hết tám vạn bốn ngàn con trùng vào trong bụng, không hiểu chúng có chết không?” Nhà sư do dự rồi đáp: “Cái này… cái này sư phụ chưa dạy bảo tiểu tăng, chắc là phần lớn bọn tiểu trùng đó không chết đâu.”

Người áo vàng xen vào nói: “Sai bét, sai bét! Bọn tiểu trùng đó nhất định là phải chết. Có điều sau khi tiểu sư phụ niệm chú, tám vạn bốn ngàn con trùng đều được về thế giới tây phương cực lạc. Tiểu sư phụ chỉ uống một bát nước mà siêu độ xong tám vạn bốn ngàn chúng sinh, quả là công đức vô lượng.”

Nhà sư không biết gã nói thật hay nói chơi, ngẩn người ra, hai tay vẫn bưng bát nước mà lẩm bẩm nói: “Chỉ chốc lát mà siêu độ được tám vạn bốn ngàn sinh linh ư? Trước nay tiểu tăng chưa dám nghĩ đến pháp lực như thế.”

Người áo vàng tiến lại, đỡ lấy cái bát sành trong tay nhà sư, nhìn vào rồi đếm: “Một, hai, ba, bốn, năm, sáu,… một ngàn, hai ngàn, một vạn, hai vạn… Sai bét, sai bét! Trong cái chén này tổng cộng có tám vạn ba ngàn chín trăm chín mươi chín con tiểu trùng thôi. Tiểu sư phụ đếm thừa mất một con.”

Nhà sư nói: “Nam mô a di đà phật. Thí chủ nói giỡn rồi. Thí chủ cũng là người phàm, làm sao có thiên nhãn được?” Người áo vàng nói: “Không lẽ tiểu sư phụ không có thần thông thiên nhãn hay sao?” Nhà sư nói: “Dĩ nhiên là tiểu tăng không có.” Người áo vàng nói: “Sai bét, sai bét! Ta nghĩ là tiểu sư phụ có thiên nhãn thông, nếu không thì sao chỉ vừa gặp đã biết ngay ta là phàm phu tục tử, không phải là bồ tát hạ phàm?” Nhà sư nhìn qua nhìn lại, sắc mặt đầy vẻ hoài nghi.

Đại hán mặc áo đỏ sậm đi tới cầm bát nước trao lại vào tay nhà sư, rồi cười nói: “Tiểu sư phụ uống nước đi! Vị huynh đệ của tại hạ tính hay nói giỡn, xin đừng tin là thật.” Nhà sư đón lấy bát nước, cung kính nói: “Đa tạ! Đa tạ!”, trong lòng hãy còn kinh nghi, chưa uống ngay. Đại hán lại nói: “Tại hạ thấy tiểu sư phụ bộ pháp vững chãi, hẳn là người có võ công. Xin thỉnh giáo tiểu sư phụ pháp danh là gì, và xuất gia ở tự viện nào.”

Nhà sư để lại chén nước lên nắp lu, rồi hơi nghiêng người nói: “Tiểu tăng là Hư Trúc, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm.”

Hán tử áo đen reo lên: “Tuyệt diệu! Thì ra tiểu sư phụ là cao thủ phái Thiếu Lâm. Lại đây, lại đây! Chúng ta tỉ thí một phen.” Hư Trúc xua tay lia lịa đáp: “Tiểu tăng võ công thấp kém, không dám động thủ với thí chủ đâu.” Gã áo đen cười nói: “Đã mấy ngày nay ta không được động thủ động cước nên ngứa ngáy chân tay. Chúng ta thử vài chiêu, không phải đánh nhau thật đâu, đừng sợ!” Hư Trúc lùi lại hai bước nói: “Tiểu tăng tuy đã luyện mấy năm công phu, nhưng chỉ là để thân thể khỏe mạnh, chứ không phải để đánh nhau.” Gã áo đen nói: “Hòa thượng Thiếu Lâm người nào võ công cũng cao cường. Nhà sư nào mới học võ công đều không được rời khỏi sơn môn một bước. Tiểu sư phụ đã được hạ sơn, dĩ nhiên phải là hảo thủ. Đến đây, đến đây! Chúng ta đấu chơi trăm chiêu, ai thắng ai thua cũng chẳng có chi là quan hệ.”

Hư Trúc lại lùi hai bước nữa, nói: “Thí chủ không biết đâu. Lần này tiểu tăng tuy bản lĩnh tệ hại mà cũng được xuống núi cho đủ số. Bản tự sai hết đệ tử đi phát thiếp mà vẫn không đủ, mới phải gọi tới tiểu tăng. Tiểu tăng mang đi mười tấm anh hùng thiếp, sư phụ dặn đưa hết thì về chùa, tuyệt đối không được động thủ với ai, Tiểu tăng đưa được bốn tấm rồi, còn lại sáu tấm. Thí chủ võ công cao cường, xin hãy nhận lấy tấm thiệp này.” Nhà sư nói xong bèn lôi trong bọc một gói vải dầu, lấy ra một tấm thiệp đỏ chói, cung kính nói: “Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh của thí chủ, để tiểu tăng về chùa bẩm lại với sư phụ.”

Hán tử áo đen không đón tấm thiếp, chỉ nói: “Tiểu sư phụ chưa động thủ với ta, làm sao biết ta là anh hùng hay cẩu hùng? Chi bằng hãy thử vài chiêu, nếu ta thắng thì mới đủ tư cách để nhận anh hùng thiếp.” Gã nói xong tiến lên hai bước, tay trái đang từ từ nắm lại thì hữu quyền đã phóng tới Hư Trúc. Nhưng quyền vừa tới mặt đối phương liền rụt ngay về, la lên: “Tiếp chiêu đi chứ!”

Đại hán khôi vĩ khi nghe Hư Trúc nói đến ba chữ anh hùng thiếp đã để ý, bèn can thiệp: “Tứ đệ, khoan hãy động thủ, để ta xem anh hùng thiếp viết những gì đã.” Y đón lấy tấm thiệp trên tay Hư Trúc, nhìn thấy mấy hàng chữ:

“Trụ trì chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ, cung kính bái thỉnh anh hùng thiên hạ vào tiết Trùng Dương mùng chín tháng chín giá lâm chùa Thiếu Lâm ở Cảo Sơn để đàm luận về tuyệt kỹ Gậy Ông Đập Lưng Ông, mong được hội kiến Mộ Dung thế gia ở Cô Tô.”

Đại hán “A” lên một tiếng, đưa tấm thiệp cho người nho sinh đứng bên, rồi nói với Hư Trúc: “Thì ra phen này phái Thiếu Lâm triệu tập đại hội anh hùng là để đối phó với nhà Cô Tô Mộ Dung.” Hán tử áo đen bèn nói: “Hay lắm! Ta là Nhất trận phong Phong Ba Ác, chính là thủ hạ của Cô Tô Mộ Dung đây. Phái Thiếu Lâm muốn làm khó dễ Cô Tô Mộ Dung cũng chẳng cần phải mở đại hội anh hùng làm gì. Bây giờ ta phải lãnh giáo thân thủ của cao đồ phái Thiếu Lâm trước đã.”

Hư Trúc lại lùi hai bước nữa, chân trái đã bước ra khỏi lương đình, vội đáp: “Thì ra là Phong thí chủ. Sư phụ của tiểu tăng có nói, không phải bản tự cả gan mời nhà Cô Tô Mộ Dung đến để đắc tội, chỉ vì mấy năm gần đây trên giang hồ đồn đại rằng không ít anh hùng hảo hán mất mạng dưới tuyệt kỹ Gậy Ông Đập Lưng Ông. Sư bá của tiểu tăng là Huyền Bi đại sư cũng viên tịch ở chùa Thân Giới nước Đại Lý, không biết có liên hệ gì tới Cô Tô Mộ Dung hay không. Từ phương trượng đại sư trở xuống, trong bản phái ai cũng nửa tin nửa ngờ, cho nên mới…”

Hán tử áo đen cướp lời: “Ái chà, việc này không dính dáng gì đến nhà Mộ Dung chúng ta đâu. Nhưng ta nói thì nói, làm sao người ta tin ngay được, rốt cuộc cũng phải tỉ võ mà thôi. Bữa nay hai chúng ta thử trước một trận, coi như khua chiêng gióng trống mở màn cho đại chiến sau này. Trận này điểm tới là ngưng, đừng đánh tới mức trọng thương táng mạng mà mất cả vui đi. Đợi đến mùng chín tháng chín, Phong mỗ sẽ đến Thiếu Lâm Tự từ dưới đánh lên, tỉ thí với từng người một mới thật là sảng khoái. Chỉ e rằng Phong mỗ bất quá đánh xong mười bảy mười tám người thì đã thương tích đầy mình, chắc chắn không có cơ hội giao thủ với lão phương trượng Huyền Từ. Thật là đáng tiếc.” Gã nói xong, liền vung tay bước lên toan động thủ.

Đại hán khôi vĩ la lên: “Tứ đệ dừng tay! Đợi nói chuyện cho rõ ràng rồi hãy đánh cũng chưa muộn.” Người mặc áo vàng xen vào: “Sai bét, sai bét. Sau khi nói cho rõ ràng thì lại không cần đánh nhau nữa. Tứ đệ đừng bỏ qua cơ hội, không nói rõ ràng thì mới đánh nhau được.”

Đại hán cao to không lý gì đến y, quay sang Hà Trúc nói: “Tại hạ là Đặng Bách Xuyên, vị này là nhị đệ Công Dã Càn.” Y giới thiệu người nho sinh xong, lại quay sang chỉ gã mặc áo vàng nói: “Còn đây là tam đệ Bao Bất Đồng, bọn tại hạ đều là thủ hạ dưới trướng Mộ Dung công tử ở Cô Tô.”

Hư Trúc thi lễ với cả bốn người xong, bèn nói: “Đặng thí chủ, Công thí chủ…” Bao Bất Đồng đột ngột cắt lời: “Sai bét, sai bét! Nhị ca của ta mang họ kép là Công Dã, ngươi gọi là Công thí chủ là sai bét, chỉ tổ người ta cười cho.” Hư Trúc đỏ mặt lên nói: “Thật là đắc tội! Tiểu tăng học vấn thô thiển, xin Công Dã thí chủ đừng trách. Bao thí chủ…” Bao Bất Đồng lại xen vào: “Ngươi lại nói sai bét. Ta đúng là ở họ Bao, nhưng trước nay không hề bố thí cho bọn hòa thượng ni cô, không thể gọi là Bao thí chủ được.” Hư Trúc đáp: “Vâng! Vâng! Bao tam gia, Phong tứ gia…” Bao Bất Đồng lại bắt lỗi: “Ngươi nói sai bét nữa rồi. Lát nữa Phong tứ đệ đánh nhau với ngươi, mặc dù chưa biết ai thắng ai thua nhưng ngươi cũng có thêm chút ít kinh nghiệm giang hồ. Ngươi không thể nói tứ đệ ta không bố thí gì cho ngươi được.” Hư Trúc vội đáp: “Vâng! Vâng! Phong thí chủ, tiểu tăng không đánh nhau đâu. Người xuất gia lấy tu hành làm gốc, võ công làm ngọn, bản lĩnh cao hay thấp cũng chẳng can hệ gì.”

Phong Ba Ác than thở: “Ngươi khinh thường chuyện học võ quá, thì chắc võ công cũng bình thường thôi, ta không thích đánh nhau với ngươi nữa.” Gã cụt hứng lắc đầu quầy quậy. Hư Trúc tựa hồ trút bỏ được gánh nặng, hoan hỉ đáp liền: “Vâng! Vâng!”

Đặng Bách Xuyên nói: “Hư Trúc sư phụ, cái thiệp anh hùng này chúng tôi sẽ thay mặt Mộ Dung công tử mà nhận lấy. Nhưng mấy tháng trước công tử gia đã khởi hành đến bái phỏng Thiếu Lâm Tự, chẳng lẽ chưa đến nơi ư?”

Hư Trúc đáp: “Chưa đến đâu. Phương trượng đại sư chỉ mong Mộ Dung công tử đến nhưng chờ hoài không thấy, đã hai lần phái người đến quí phủ để vấn an, chỉ nghe nói Mộ Dung lão thí chủ đã qui tiên, tiểu thí chủ lại vắng nhà. Lần này phương trượng đại sư chỉ định thủ tòa Đạt Ma Viện thân hành đến Mộ Dung gia để đưa tin, chỉ sợ vẫn không gặp được. Vì vậy mới phát thiệp anh hùng rộng rãi trên giang hồ, nếu có gì thất lễ xin bốn vị thay mặt tệ tự mà nói rõ với Mộ Dung Công tử. Sau này Mộ Dung thí chủ giá lâm bản tự, phương trượng đại sư nhất định sẽ thân hành tạ tội.”

Đặng Bách Xuyên nói: “Tiểu sư phụ bất tất phải khách khí. Từ nay đến kỳ hội còn hơn nửa năm, chắc chắn công tử gia sẽ đến Thiếu Lâm Tự bái kiến phương trượng đại sư” Hư Trúc chắp tay cung kính đáp lại: “Mộ Dung công tử cùng các vị giá lâm tệ tự, chắc chắn phương trượng sẽ hoan hỉ vô cùng. Hai chữ Bái Kiến thật tình không dám nhận.”

Phong Ba Ác nghe nhà sư này nói năng bảo thủ, tuy là hòa thượng Thiếu Lâm mà không có chút nào khí độ khoái hoạt của nhân vật giang hồ. Gã thấy khó chịu, bèn mặc kệ không lý gì đến nữa, quay lại nhìn đám người bên Đinh Xuân Thu. Gã thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú đều cầm binh khí, hiển nhiên là nhân vật võ lâm, liền muốn tìm đối thủ để đánh mấy trận cho đỡ ngứa ngáy tay chân.

Từ lúc Du Thản Chi thấy bốn người bọn Phong Ba Ác vào quán lương đình, gã cứ rúc vào sau lưng sư phụ. Đinh Xuân Thu thân thể cao lớn che khuất cả y nên bọn Đặng Bách Xuyên chưa thấy cái đầu sắt kỳ lạ của gã. Phong Ba Ác chỉ chú ý đến một ông lão đồng nhan hạc phát, tiên phong đạo cốt ra vẻ thế ngoại cao nhân, trong lòng sinh ra kính ngưỡng. Y không tiện vô duyên vô cớ khiêu chiến ngay, bèn hỏi: “Xin thỉnh vấn tôn tính đại danh của lão tiền bối.” Đinh Xuân Thu khẽ cười, đáp: “Ta ở họ Đinh.”

Ngay lúc đó bỗng nhiên Hư Trúc “A” một tiếng rồi hô lên: “Sư thúc tổ! Lão nhân gia cũng đến đây ư?” Phong Ba Ác quay mặt lại nhìn, thấy ngoài đường có bảy tám hòa thượng đang đến, dẫn đầu là hai vị lão tăng, phía sau lại có hai nhà sư đang khiêng một cái cáng, trên đó có người nằm. Hư Trúc nhanh chân chạy ra khấu kiến hai vị lão tăng, rồi bẩm báo lai lịch của bọn Đặng Bách Xuyên.

Vị lão tăng bên phải gật gật đầu, đi vào lương đình thi lễ với bốn người Đặng Bách Xuyên rồi nói: “Lão nạp là Huyền Nạn”, sau đó chỉ sang vị lão tăng kia giới thiệu: “Còn đây là sư đệ Huyền Thống. Hôm nay thật là hân hạnh được gặp bốn vị đại hiền ở nhà Mộ Dung Cô Tô.”.

Bọn Đặng Bách Xuyên đã nghe tên Huyền Nạn từ lâu, thấy vị sư già này mặt đầy nếp nhăn, hai mắt lộ thần quang, liền đáp lễ. Phong Ba Ác nói: “Tại hạ kính ngưỡng thần công của đại sư phụ thủ tòa Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm đã lâu. Hôm nay thể nào cũng xin được lãnh giáo một phen.”

Huyền Nạn khẽ cười, đáp: “Lão nạp cùng Huyền Thống sư đệ đang vâng lệnh phương trượng đến Yến Tử Ổ ở Giang Nam để trình tấm thiệp này. Đây là lần thứ ba bản tự phái người đến quí phủ, lần này may mắn gặp được bốn vị ở đây, cơ duyên không phải tầm thường.” Lão tăng nói xong bèn lấy trong bọc ra một tấm thiệp đỏ.

Đặng Bách Xuyên đưa hai tay tiếp lấy, thấy trên phong bì có ghi “Kính gửi Mộ Dung thí chủ ở Yến Tử Ổ”. Y nghĩ rằng nội dung bên trong chắc cũng đại khái như tấm thiệp của Hư Trúc, bèn nói: “Hai vị đại sư là cao tăng Thiếu Lâm, bằng hữu võ lâm đều kính trọng, lại phải thân hành đến bản trang, quả là thể diện nhà Mộ Dung được rạng rỡ thêm nhiều. Vừa rồi tiểu sư phụ Hư Trúc đã gửi anh hùng thiếp, bọn tại hạ sẽ nhanh chân bẩm báo lên trên. Vào tiết Trùng Dương mùng chín tháng chín, Mộ Dung công.tử nhất định sẽ đến quí tự bái Phật, đích thân đa tạ chư vị cao tăng, đồng thời trước mặt anh hùng thiên hạ sẽ đối chất cho rõ những chỗ hiểu lầm.”

Huyền Nạn nghĩ thầm: “Ngươi nói là hiểu lầm, chẳng lẽ Huyền Bi sư huynh không phải bị bọn Mộ Dung các ngươi gia hại ư?”, Đột nhiên phía sau có tiếng la lên: “Chao ôi! Sư phụ ơi, chính hắn đây rồi.” Huyền Nạn quay đầu nhìn lại, thấy một quái nhân đầu sắt đang chỉ vào trong cáng, nói nhỏ gì đó với ông lão tóc bạc.

Du Thản Chi thầm thì vào tai Đinh Xuân Thu: “Nhà sư mập trong cái cáng đó chính là người bắt con băng tằm, không hiểu sao phái Thiếu Lâm lại khiêng y đến.”

Đinh Xuân Thu nghe nói nhà sư mập này là chủ nhân con băng tằm, không khỏi mừng thầm, hạ giọng hỏi lại: “Không nhầm đấy chứ?” Du Thản Chi đáp: “Đệ tử không nhầm đâu, chính là Tuệ Tịnh. Sư phụ nhìn xem, cái bụng y tròn vo lù lù một đống thế kia.” Đinh Xuân Thu nhìn kỹ người nằm trên cáng, thấy cái bụng y quả thật còn to hơn bụng đàn bà chửa mười tháng, bèn nghĩ: “Bất luận là ai đã nhìn thấy tên trọc bụng to này một lần đều không thể nhầm lẫn được nữa.” Lão bèn hỏi Huyền Nạn: “Đại sư! Hòa thượng Tuệ Tịnh này là bạn của tại hạ, không hiểu đã mắc bệnh gì, có nguy hiểm không?”

Huyền Nạn chắp tay đáp: “Không hiểu thí chủ tôn tính đại danh là gì, sao lại quen biết với sư điệt của lão nạp?” Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: “Tên Tuệ Tịnh này lại đi cùng với bọn hòa thượng Thiếu Lâm, thêm phiền phức nữa rồi. May mà ta gặp ở đây, chặn đường bắt đi cũng còn dễ hơn xông lên chùa Thiếu Lâm cướp người.” Lão nghĩ đến thần hiệu vô song của con băng tằm, hùng khí lại nổi lên, bèn tự xưng: “Tại hạ là Đinh Xuân Thu.”

Ba tiếng “Đinh Xuân Thu” vừa thốt ra, cả sáu người Huyền Nạn, Huyền Thống, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác không hẹn mà cùng la lên một tiếng, mặt biến sắc. Ác danh Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu đã đồn khắp thiên hạ, không ai tin nổi lão lại có phong thái ung dung tự tại như thế, lại càng không hiểu sao lại gặp nhau ở đây. Cả sáu người đều thấy kinh nghi.

Huyền Nạn trấn tĩnh trước tiên, nói: “Thì ra là Đinh lão tiên sinh ở Tinh Tú Hải, lão nạp từ lâu đã ngưỡng mộ đại danh, thật như sấm động bên tai.”

Nhà sư già không nói đến những câu khách sáo thông thường như “hân hạnh gặp mặt, may mắn tương phùng” gì gì, trong lòng nghĩ: “Ai mà phải gặp ngươi là coi như kiếp trước tu không khéo rồi.”

Đinh Xuân Thu đáp: “Không dám! Môn Tụ Lý Càn Khôn của thủ tòa Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm mới thật là vang danh thiên hạ, lão phu ngưỡng mộ từ lâu. Tại hạ đi khắp nơi tìm vị Tuệ Tịnh này, tình cờ gặp ở đây thật là hay quá.”

Huyền Nạn hơi chau mày, đáp: “Nói ra xấu hổ. Bản tự giáo dục không đến nơi nên tên sư điệt Tuệ Tịnh đây phạm nhiều giới luật, năm trước tự ý trốn khỏi chùa làm nhiều chuyện ác. Phương trượng sư huynh đã cho người đi tìm kiếm khắp nơi, khó khăn lắm mới bắt được để đưa về bản tự. Đinh lão tiên sinh đã gặp hắn ư?” Đinh Xuân Thu nói: “Thì ra y không bị bệnh mà bị người ta đánh ư? Thương tích có trầm trọng không?” Huyền Nạn trầm ngâm một lát mới nói: “Hắn không tuân pháp dự của phương trượng mà quay về, lại dám xuất thủ đả thương người khác.” Trong lòng nhà sư nghĩ: “Hắn giao kết với bọn tà ma ngoại đạo như ngươi, lại phạm thêm một giới luật nữa.”

Đinh Xuân Thu nói: “Tại hạ lên núi Côn Luân, tốn rất nhiều công sức mới bắt được một con băng tằm. Đó là một món rất hữu dụng, nhưng lại bị tên Tuệ Tịnh sư điệt của đại sư cướp mất. Lần này tại hạ ngàn dặm xa xôi từ Tinh Tú Hải vào Trung Nguyên chỉ vì muốn lấy lại con băng tằm…”

Lão chưa dứt lời, đột nhiên Tuệ Tịnh la lên: “Băng tằm của ta đâu? Này này, ngươi có thấy con băng tằm của ta ở đâu không? Con băng tầm này là ta đã vất vả tìm được trên núi Côn Luân. Chính ngươi… ngươi ăn cắp của ta phải không?”

Từ lúc Du Thản Chi lộ mặt ra hô hoán, cặp mắt láo liên của Phong Ba Ác cứ ngó chầm chập vào cái đầu sắt của gã không ngớt. Y càng nhìn càng thấy hay hay, lại đi vòng quanh Du Thản Chi ngắm nghía cái đầu kỳ lạ, thấy cái đầu này đúc rất tinh xảo, hàn gắn rất kỹ càng, cứ muốn đưa tay gõ thử mấy cái. Phong Ba Ác nhìn một hồi rồi gọi chuyện: “Huynh đài mạnh giỏi chứ?” Du Thản Chi đáp: “Tại hạ… tại hạ vẫn thường. Còn huynh đài thế nào?” Gã thấy Phong Ba Ác hình như đang ngứa chân ngứa tay, bèn ngấm ngầm sợ hãi. Phong Ba Ác hỏi: “Cái lồng sắt của huynh đài ai làm mà khéo thế? Phong mỗ đi khắp thiên hạ mà chưa thấy ai có cái mặt nạ giống như vậy.” Du Thản Chi ngượng ngùng cúi đầu, khẽ nói: “Tại hạ… tại hạ không tự chủ lấy thân được, không có cách nào…”

Phong Ba Ác nghe vậy, hỏi lại: “Kẻ nào mà ác độc đến thế? Phong mỗ muốn gặp thử coi.” Gã vừa nói vừa nheo mắt nhìn Đinh Xuân Thu, cứ tưởng lão này đã ức hiếp mà chụp lồng sắt vào đầu Du Thản Chi. Du Thản Chi vội nói: “Không… không phải sư phụ tại hạ đâu.” Phong Ba Ác nói: “Vậy thì ai? Chụp lồng sắt vào đầu huynh đài để làm gì? Tại hạ phải tháo bỏ nó đi.” Y nói xong, thò tay vào bọc móc lưỡi trủy thủ sáng loáng ra, chỉ nhìn cũng biết là cực kỳ sắc bén.

Phong Ba Ác định dùng lưỡi dao này để tháo cái lồng sắt cho Du Thản Chi.

Du Thản Chi biết cái lồng sắt này đã dính liền vào mặt mũi cùng đầu óc mình, nếu tháo nó ra thì đứt cả da thịt, có thể nguy đến tính mạng. Gã vội ngăn lại: “Không… không tháo ra được đâu!” Phong Ba Ác nói: “Huynh đài đừng sợ chi hết, cứ để ta tháo ra cho, quyết không tổn thương gì đến da thịt đâu.” Du Thản Chi vẫn nằng nặc không chịu, nói: “Không được, không được mà!” Phong Ba Ác hỏi: “Phải chăng huynh đài sợ hãi tên ác nhân đã chụp đầu sắt vào, nên không dám tháo ra? Giả tỉ lần sau hắn có hành hạ huynh đài về tội mất cái mặt sắt, cứ bảo hắn rằng Nhất Trận Phong đè ra mà tháo, không tự chủ được, bảo hắn đến tìm ta mà trả đũa.” Phong Ba Ác nói xong, nắm chặt cổ tay trái Du Thản Chi.

Du Thản Chi nhìn thấy lưỡi trủy thủ sáng loáng thì kinh hãi vô cùng, vội la lên: “Sư phụ! Sư phụ!”, vừa gọi vừa quay lại Đinh Xuân Thu cầu cứu, nhưng lão đang đứng bên cái cáng thương, chắp tay sau lưng hứng thú nhìn nhà sư Tuệ Tịnh, cũng không hiểu có nghe Du Thản Chi kêu réo hay không. Phong Ba Ác đưa truy thủ lên toan đâm vào cái lồng sắt. Du Thản Chi trong lúc hoang mang, vươn tay phải đập vào vai Phong Ba Ác nghe bộp một tiếng, chỉ toan đẩy gã ra.

Phong Ba Ác đang để hết tinh thần vào việc tháo lồng sắt cho Du Thản Chi, sợ chỉ trệch mũi dao một chút là sứt mặt thủng đầu. Gã không hề đề phòng Du Thản Chi tập kích bất thình lình, mà phát chưởng này kình lực không phải tầm thường, lại trúng vào chỗ hiểm yếu. Phong Ba Ác chỉ kịp rú lên một tiếng rồi ngã chúi ra trước. May mà gã nhanh chân lẹ tay, tay trái vừa chống xuống đất, liền nhảy vọt một cái đứng thẳng người lên. Bỗng nghe “ụa” một cái, miệng Phong Ba Ác hộc máu tươi ra.

Ba người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng thấy Du Thản Chi bất thình lình hạ độc thủ, khiến huynh đệ bị một đòn nặng thì đều giật mình kinh hãi, lại thấy Phong Ba Ác mặt mày nhợt nhạt thì lo lắng vô cùng. Công Dã Càn bắt mạch Phong Ba Ác, thấy mạch cấp bách hỗn loạn dường như bị trúng độc, bèn trỏ vào mặt Du Thản Chi quát mắng: “Thằng lôi con kia! Té ra mi là môn hạ Tinh Tú Lão Quái, hễ ra tay là dùng thủ đoạn thâm độc hại người”. Gã móc trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp lấy một viên thuốc giải độc nhét vào mồm Phong Ba Ác.

Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng lạng người đứng chặn trước mặt Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi. Bao Bất Đồng vận kình lực vào tay trái, vươn năm ngón tay ra như móng vuốt, toan chụp xuống ngực Du Thản Chi. Đặng Bách Xuyên la lên: “Tam đệ dừng tay!” Bao Bất Đồng bèn thủ thế lùi lại, đưa mắt nhìn đại ca. Đặng Bách Xuyên mở lời chất vấn: “Nhà Mộ Dung chúng ta cùng phái Tinh Tú vốn không thù không oán, tứ đệ lại có lòng tốt muốn tháo bỏ mặt nạ giúp cho, sao môn hạ phái Tinh Tú lại xuất thủ đánh người? Mong lão tiên sinh giải thích chuyện này.”

Đinh Xuân Thu thấy gã môn đệ mới nhận chỉ hời hợt đẩy ra đã đánh bại một tên hảo thủ của nhà Cô Tô Mộ Dung, oai phong của phái Tinh Tú hiển nhiên rạng rỡ thêm nhiều. Lão ngấm ngầm đắc ý, nghĩ đến thần hiệu của băng tằm lại càng thèm nhỏ dãi, bèn khẽ cười nói: “Vị Phong tứ gia này tính tình nóng nảy hiếu chiến, hành động lại càng lỗ mãng. Môn nhân phái Tinh Tú thích đội nón đồng hay nón sắt thì không hiểu có phiền hà gì đến nhà họ Mộ Dung không?”

Lúc đó Công Dã Càn đã đỡ Phong Ba Ác ngồi dậy, thấy gã toàn thân run bần bật, hai hàm răng khua lên lách cách, tựa hồ như ngã vào biển băng. Lát sau, sắc mặt Phong Ba Ác dần dần xám xanh lại. Viên thuốc giải độc của Công Dã Càn vốn rất linh nghiệm, nhưng lần này chẳng ăn thua gì.

Công Dã Càn sợ quá, đặt tay lên mũi để nghe hơi thở thì cảm thấy một luồng gió lạnh buốt thấu xương thổi vào lòng bàn tay. Y vội rụt tay lại, la lên: “Nguy rồi! Sao hơi thở lại lạnh đến thế?”, nghĩ rằng Phong Ba Ác thở hơi ra lạnh đến thế thì chắc đã trúng phải hàn độc cực kỳ ghê gớm. Tình hình cấp bách, Công Dã Càn không kịp suy nghĩ nhiều, bèn quay lại hỏi Định Xuân Thu; “Phải chăng các hạ là sư phụ gã đầu sắt kia? Huynh đệ của tại hạ trúng phải độc thủ của gã, xin các hạ giải độc giúp cho.”

Phong Ba Ác trúng phải chất hàn độc ghê gớm của băng tằm, do thần công Dịch Cân Kinh của Du Thản Chi tống vào. Đinh Xuân Thu không có thuốc giải, mà dù có thì lão cũng chẳng chịu cho. Lão ngửng đầu lên trời cười to, hô một tràng chú ngữ chẳng ai hiểu được, phất tay áo cuộn lên một trận gió. Bọn đệ tử phái Tinh Tú đều co giò chạy lẹ ra khỏi quán lương đình.

Huynh đệ Đặng Bách Xuyên cùng quần tăng Thiếu Lâm đều cảm thấy luồng gió dữ dội này như rắc ớt vào mắt, làm nhức nhối khó chịu, nước mắt trào ra, mắt không mở được. Ai nấy đều la thầm: “Nguy rồi!”, biết rằng lão phất tay áo là để phát tán độc phấn giấu bên trong. Ba người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng không hẹn mà cùng xông ra trước Phong Ba Ác, chỉ sợ đối phương hạ độc thủ hại gã. Đặng Bách Xuyên nhắm mắt phóng ra một chưởng, một tiếng “Ầm” vang lên, ngói và cát bụi trên mái rơi xuống lả tả. Phát chưởng của Đặng Bách Xuyên đánh trúng cột quán lương đình, cái cột to đến bảy tấc bị gãy đôi, nửa quán đổ sập xuống. Khi mọi người mở được mắt ra nhìn thì Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi đã chạy mất rồi, không thấy tông tích đâu nữa.

Một hòa thượng Thiếu Lâm la lên: “Tuệ Tịnh đâu rồi?” Té ra trong lúc hỗn loạn thì Đinh Xuân Thu đã cướp Tuệ Tịnh đi mất, cái cáng thương đang chụp lên đầu một nhà sư khác. Huyền Thống nổi giận la lên: “Đuổi!”, rồi phi thân ra khỏi lương đình. Đặng Bách Xuyên cùng Bao Bất Đồng cũng nhảy ra đuổi theo. Huyền Nạn phất tay trái một cái, cũng dẫn bọn sư điệt rượt theo tiếp ứng.

Công Dã Càn ở lại trong lương đình để lo liệu cho Phong Ba Ác. Gã thấy trong mắt cay xè, nước mắt chảy không ngừng, lại thấy mồ hôi trán Phong Ba Ác dần dần đóng thành bằng, trong lòng cực kỳ hoang mang. Bỗng nghe tiếng bước chân, Công Dã Càn ngẩng lên nhìn thấy Đặng Bách Xuyên đang ôm Bao Bất Đồng chạy trở lại, bèn cả kinh la lên: “Đại ca! Tam đệ lại bị thương ư?” Đặng Bách Xuyên đáp: “Lại là độc thủ của gã đầu sắt.” Rồi Huyền Nạn cùng quần tăng Thiếu Lâm cũng trở lại lương đình, Huyền Thống đang nằm trên lưng Hư Trúc, rét đến răng khua lách cách. Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn nhìn nhau ngơ ngác.

Đặng Bách Xuyên nói: “Gã đầu sắt chỉ đối một chưởng với tam đệ, rồi lại cùng Huyền Thống đại sư đối một chưởng nữa. Không ngờ hàn độc chưởng của phái Tinh Tú lợi hại đến thế.”

Huyền Nạn lấy trong bọc ra một cái hộp gỗ nhỏ, nói rằng: “Tệ phái có Lục Dương Chính Khí Đan có công hiệu chữa trị hàn độc.” Nhà sư mở nắp hộp, lấy ra ba viên đan dược màu đỏ như máu, trao Đặng Bách Xuyên hai viên, còn một viên cho Huyền Thống uống.

Thời gian chừng ăn xong bữa cơm, hàn độc trong thân thể bọn Huyền Thống ba người đã dịu lại, Bao Bất Đồng mở miệng la lên: “Gã đầu sắt này, con… con mẹ nó, không hiểu là chưởng lực gì vậy?” Đặng Bách Xuyên nói: “Tam đệ, từ từ rồi hãy mắng cũng chưa muộn, hành công trước đã.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Bây giờ mà không mắng, lát nữa mạng của tiểu đệ ô hô ai tai rồi, lúc đó muốn mắng thì đã muộn.” Đặng Bách Xuyên cười nói:“Đừng lo quá, không chết được đâu.” Y nói xong liền đưa bàn tay áp vào huyệt Chí Dương ở hậu tâm, dùng nội lực yểm trợ gã khu trừ hàn độc. Công Dã Càn lại giúp Phong Ba Ác, còn Huyền Nạn cũng dùng nội lực yểm trợ cho Huyền Thống trục độc.

Trong số họ thì dĩ nhiên hai vị Huyền Nạn, Huyền Thống nội lực thâm hậu nhất. Một lát sau Huyền Thống thở phào rồi nói: “Tốt rồi! Thật là lợi hại.” Huyền Nạn có ý đi giúp Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác trục hàn độc, nhưng ngặt ở chỗ đối phương chưa mở lời mà mình tự ý sang giúp thì không khỏi có ý coi thường nội lực của họ, đó là một điều cấm kỵ của võ lâm.

Đột nhiên Huyền Thống lắc lư hai cái, hai hàm răng lại khua lên lách cách, kêu cứu: “Sư… sư huynh! Hàn… hàn độc này thật là cổ quái…” Huyền Nạn phải tiếp tục vận công tương trợ. Hàn độc trong mình ba người cứ dịu đi chốc lát rồi lại lên cơn, cứ như thế đến chiều tối thì mỗi người đã uống đến ba viên Lục Dương Chính Khí Đan mà hàn khí vẫn không giảm chút nào. Huyền Nạn mang theo mười viên đan dược, lúc này chỉ còn một viên, liền bỏ ra chia cho ba người uống. Bao Bất Đồng không chịu uống nữa, phều phào nói: “E rằng uống thêm một trăm viên nữa cũng… cũng… chưa chắc…”

Huyền Nạn đành bó tay, nói: “Bao thí chủ nói không sai. Lục Dương Chính Khí Đan quả là thuốc không đúng bệnh, mà nội công của chúng ta cũng không thể khu trừ hàn độc này được. Lão nạp nghĩ rằng, chỉ còn cách đến xin Tiết Thần Y chữa trị thôi. Bốn vị thí chủ nghĩ sao?” Đặng Bách Xuyên cả mừng nói: “Tại hạ cũng có nghe Tiết Thần Y ngoại hiệu là Diêm Vương Địch diệu thủ hồi xuân, chứng bệnh nào cũng có thể chữa khỏi. Đại sư có biết thần y ở chỗ nào không?” Huyền Nạn đáp: “Gia đình Tiết Thần Y ở trấn Liễu Tông phía tây Lạc Dương, cách đây cũng không xa lắm. Thần Y cùng lão nạp đã có duyên gặp gỡ mấy lần, nếu qua đó xin chữa trị thì chắc ông ta không từ chối đâu.” Nhà sư ngừng một chút lại nói: “Tiết Thần Y trước đây đã từng ngưỡng mộ Cô Tô Mộ Dung lừng danh thiên hạ. Nếu y có dịp kết giao bằng hữu với bốn vị anh hùng, chắc cũng rất vui mừng.”

Bao Bất Đồng xen vào nói: “Sai bét, sai bét! Tiết Thần Y mà thấy chúng ta đến trước cửa chưa chắc đã vui mừng. Có điều hết thảy nhân vật võ lâm đều chán ghét môn Gậy Ông Đập Lưng Ông của công tử nhà ta, chỉ có Tiết Thần Y là không sợ mà còn tán dương là khác. Sau này giả tỉ y gặp phải chuyện… chuyện lôi thôi, chỉ cần đến nhờ công tử gia thi triển môn Gậy Ông Đập Lưng Ông là cái mạng già của y được cứu ngay.”

Mọi người phá lên cười, cùng nhau rời khỏi quán lương đình, đến thị trấn phía trước thuê ba cỗ xe lớn để ba người bị thương nằm dưỡng sức. Đặng Bách Xuyên lại xuất ngân lượng mua thêm mấy con ngựa cho quần tăng Thiếu Lâm cưỡi.

Đoàn người cứ đi hai ba giờ lại phải dừng để giúp bọn ba người Huyền Thống hành công trấn áp hàn độc. Về sau Huyền Nạn không tị hiềm nữa, cũng dùng nội công phái Thiếu Lâm để tương trợ cho Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác. Từ nơi này đến trấn Liễu Tông chỉ cách vài trăm dặm, tuy đường núi gập ghềnh mà đến trưa ngày thứ ba đã đến nơi. Nhà Diêm vương địch Tiết Thần Y ở chốn thâm sơn, cách trấn Liễu Tông hơn ba mươi dặm về phía Bắc. May mà khi ở Tụ Hiền Trang lão đã nói rõ đường lối với Huyền Nạn đại sư, nên đoàn người không phải hỏi gì, đi một mạch đến cửa Tiết gia.

Huyền Nạn cưỡi ngựa đi trước, thấy bên suối có mấy gian nhà tường trắng ngói đen, trước nhà có vườn thuốc. Nhà sư biết là chỗ ở của Tiết Thần Y, liền giục ngựa đến nơi, thấy trước cửa có treo hai chiếc đèn lồng to phất giấy trắng. Huyền Nạn giật mình tự hỏi: “Chẳng lẽ trong nhà Tiết Thần Y có người bệnh chữa không khỏi?” Nhà sư đến gần mấy trượng nữa, thấy rõ trước cửa có treo mấy tấm xô gai, bên cạnh cắm một lá cờ chiêu hồn, quả là có đám tang không còn nghi ngờ gì nữa. Trên đèn lồng có viết hai hàng chữ: “Tiết Công Mộ Hoa chi tang; Hưởng niên ngũ thập ngũ tế” (Đám tang ông Tiết Mộ Hoa, hưởng thọ năm mươi lăm tuổi). Huyền Nạn lẩm bẩm: “Không hiểu Tiết Mộ Hoa có phải là Tiết Thần Y không, theo độ tuổi thì đúng rồi. Nếu Tiết Thần Y không tự chữa được cho mình mà chết đi, thì thật là tuyệt lộ.”

Nhà sư đang dừng ngựa trầm ngâm, Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn cũng thúc ngựa đến nơi. Ba người ngơ ngác nhìn nhau đều lộ vẻ hoài nghi không nhất quyết.

Trong nhà bỗng có tiếng khóc vang lên, thanh âm của phụ nữ: “Lão gia ơi! Lão gia y thuật như thần, ngờ đâu lại bị cấp chứng bỏ bọn tiểu nhân mà đi. Lão gia ngoại hiệu là Diêm Vương Địch, rốt cuộc cũng bị lôi xuống Diêm cung, chắc bị Diêm Vương hành hạ khổ sở!”

Ba cỗ xe lớn và sáu nhà sư chùa Thiếu Lâm cũng vừa đến nơi. Đặng Bách Xuyên, nhảy xuống ngựa, cất tiếng nói to: “Huyền Nạn đại sư chùa Thiếu Lâm dẫn mấy bằng hữu đến, có việc khẩn cầu Tiết Thần Y.” Thanh âm y bình thường đã oang oang như tiếng chuông đồng, lúc này vận khí lại càng lớn, vọng đi rất xa. Tiếng khóc trong nhà bỗng im bặt.

Lát sau, một người nô bộc già cùng một nam một nữ từ trong nhà chạy ra, nước mắt nước mũi giàn giụa trông rất thương tâm. Lão bộc đấm ngực nghẹn ngào nói: “Lão gia của bọn tiểu nhân mất từ chiều hôm qua. Các vị… các vị không gặp được nữa rồi.”

Huyền Nạn chắp tay để trước ngực, hỏi: “Tiên sinh mắc bệnh gì mà tạ thế?” Lão bộc đáp: “Đột nhiên lão gia nấc lên mấy cái rồi nghẹt thở, không hiểu là bệnh gì. Lão gia của bọn tiểu nhân vốn thân thể tráng kiện, tuổi cũng chưa cao, thật là không ngờ! Thật là không ngờ!” Huyền Nạn lại hỏi: “Trong nhà Tiết Thần Y còn ai không?” Lão bộc đáp: “Không có ai, không có một người nào hết.” Công Dã Càn cùng Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, nhận ra lão bộc nói mấy câu này không tự nhiên, có vẻ thiếu thành thật. Huyền Nạn thở dài nói: “Quả là sinh tử hữu mạng chẳng sai. Xin để bọn lão nạp vào lạy một lạy trước linh vị bằng hữu.” Lão bộc ấp úng: “Cái đó… Cái đó… Vâng, vâng”, rồi dẫn mọi người tiến qua cổng lớn vào nhà.

Công Dã Càn lùi lại một bước, khẽ bảo Đặng Bách Xuyên: “Đại ca! Tiểu đệ thấy dường như có gì uẩn khúc. Lão này có vẻ lúng túng, nói chuyện mập mờ.” Đặng Bách Xuyên gật đầu, theo lão bộc vào.

Linh đường bài trí rất đơn giản thô sơ, thiếu thốn đủ thứ, rõ ràng sắp đặt một cách vội vàng. Trên bài vị có dòng chữ: “Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị”, nét bút sắc sảo gân guốc đúng là của một người đọc sách nhiều, lão bộc kia không thể viết được thế này. Công Dã Càn để ý thấy, nhưng không nói gì, theo mọi người tuần tự vào trước linh vị làm lễ điếu tang. Y nhìn ra sân thấy hai cây sào tre, có phơi đến mười mấy bộ quần áo đủ cả nam phụ lão ấu, nghĩ thầm: “Rõ ràng trong nhà Tiết Thần Y có đông đủ gia quyến, thế mà lão bộc nói không có ai.”

Huyền Nạn nói: “Bọn lão nạp từ chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn tới đây cầu Tiết tiên sinh trị bệnh, không ngờ đến nơi thì Tiết tiên sinh lại quy tiên rồi. Bây giờ đã xế chiều, xin được ngủ lại quý phủ một đêm.” Lão bộc ấp úng đáp: “Cái đó… Cái đó… được… được. Xin chư vị đợi trong khách sành một chút, tiểu nhân đi làm cơm.” Huyền Nạn nói: “Quản gia bất tất phải bận lòng, cơm hẩm dưa muối cũng được rồi.” Lão bộc nói: “Dạ dạ! Xin các vị ngồi chơi một chút.” Nói xong, lão dẫn mọi người ra lại sảnh đường rồi xoay mình đi vào trong nhà.

Qua một lúc lâu, chẳng thấy ai mang trà nước ra mời khách chi hết. Huyền Nạn lẩm bẩm: “Lão bộc này gặp lúc chủ nhân qua đời đột ngột, không khỏi thần hồn điên đảo. Hỡi ơi! Huyền Thống sư đệ bị trúng hàn độc, biết làm thế nào bây giờ?” Mọi người chờ đến nửa giờ nữa, vẫn chẳng thấy lão bộc ra. Bao Bất Đồng nóng ruột nói: “Để tại hạ đi tìm nước uống, khát quá rồi!” Hư Trúc nói: “Bao tiên sinh cứ ngồi nghỉ, để tiểu tăng đi giúp ông lão đó nấu nước.” Nhà sư nói xong liền đứng dậy đi vào nhà trong. Công Dã Càn muốn xem động tĩnh Tiết gia ra sao, bèn nói: “Để tại hạ đi cùng tiểu sư phụ.”

Hai người đi thẳng ra sau, xuống tận nhà bếp. Tiết gia rất nhiều phòng ốc, trước sau có đến năm dãy, mà tuyệt không thấy bóng người, cả đôi nam nữ vừa rồi cũng chẳng thấy đâu nữa.

Công Dã Càn biết là có chuyện khác thường, hấp tấp trở ra sảnh đường, nói: “Tình hình trong nhà này rất khác thường, Tiết Thần Y giả chết cũng nên.” Huyền Nạn kinh ngạc đứng bật dậy hỏi: “Sao thế?” Công Dã Càn đáp: “Tại hạ vào xem quan tài thử.” Y vào trước linh vị, đưa tay ra toan nhấc nắp quan tài, đột nhiên nghĩ sao lại rút tay về, chạy ra sân lấy một cái áo phơi trên sào quấn vào tay.

Phong Ba Ác hỏi: “Phải chăng nhị ca sợ trên quan tài có chất độc?” Công Dã Càn đáp: “Lòng người nham hiểm khôn lường, không thể không đề phòng.” Y vận kình lực nhấc quan tài thử, thì thấy rất nặng, chắc là bên trong không có xác chết, liền nói: “Quả nhiên Tiết Thần Y trá tử!”

Phong Ba Ác rút đơn đao ra đánh soạt một tiếng, nói: “Chúng ta mở nắp quan tài ra xem sẽ rõ.” Công Dã Càn nói:”Lão này xưng là Thần Y, tất nhiên dụng độc cao cường, tứ đệ phải cẩn thận!” Phong Ba Ác nói: “Tiểu đệ biết rồi.”, đưa mũi đao vào kẽ hở nạy lên, nghe lách cách mấy tiếng, nắp quan tài hé mở. Gã sợ phấn độc trong quan tài bay ra, bèn phong bế hết đường hô hấp.

Bao Bất Đồng lạng người một cái nhảy ra sân, vươn tay ra chụp lấy hai con gà mái đang tìm sâu bọ bên cây quế, ném lướt qua mặt quan tài. Hai con gà kêu quang quác mấy tiếng, rớt xuống rồi chạy vội chạy vàng, nhưng chỉ được mấy bước là ngã lăn ra giẫy đành đạch mấy cái rồi nằm chết cứng. Lúc này dưới hành lang có một cơn gió lạnh thổi qua, lông gà bay tứ tung theo chiều gió. Gà mới chết mà đã rụng hết lông, đủ biết chất độc mãnh liệt chừng nào. Mọi người thấy tình trạng này không khỏi khiếp sợ, không ai dám đến bên quan tài.

Huyền Nạn hỏi Đặng Bách Xuyên: “Đặng thí chủ! Vụ này là thế nào? Chẳng lẽ Tiết Thần Y trá tử thật sao?” Đại sư vừa nói vừa tung mình nhảy lên, tay trái bám lấy xà nhà, nhìn vào quan tài thì thấy bên trong đựng đầy đá tảng, ở giữa có một cái bát lớn chứa đầy nước trong, dĩ nhiên là thuốc độc, Huyền Nạn nhảy xuống, lắc đầu nói: “Giả tỉ Tiết thí chủ chẳng chịu chữa trị cho chúng ta thì thôi, việc gì phải bố trí cơ quan điểm độc hại người? Chùa Thiếu Lâm với y không thù không oán, việc này thật là vô lý. Hay là… hay là…” Nhà sư dừng lại không nói nữa, nhưng ai cũng biết lão định nói: “Hay là có thâm thù với nhà Cô Tô Mộ Dung?”

Bao Bất Đồng nói: “Đại sư bất tất phải đoán lung tung. Mộ Dung Công Tử cùng Tiết Thần Y chưa hề quen biết, lại không thù oán. Nếu có thì dù bọn tại hạ có đau khổ đến đâu cũng ráng chịu, chẳng thèm quị lụy kẻ thù để xin chữa trị. Đại sư đừng tưởng Bao Bất Đồng này là hàng giá áo túi cơm.” Huyền Nạn nói: “Bao thí chủ nói phải lắm, lão tăng đoán sai rồi.” Huyền Nạn là một vị cao tăng đắc đạo, cũng đã nghĩ như vậy nên mới dừng lại, không nói nhiều, chỉ nhận lỗi về mình.

Đặng Bách Xuyên nói: “Nơi đây độc khí rất mạnh không nên ở lâu, chúng ta quay ra ngoài thôi.” Mọi người trở lại sảnh đường, chẳng ai đoán được vì sao Tiết Thần Y đã trá tử lại còn bố trí cơ quan hại người. Bao Bất Đồng nói: “Lão Tiết Quỉ Y này thật là khả ố, chúng ta nổi lửa đốt quách cái tổ quỉ này đi!” Đặng Bách Xuyên nói: “Không được! Dù sao thì Tiết tiên sinh cũng là hảo hữu của chùa Thiếu Lâm, chúng ta phải nể mặt Huyền Nạn đại sư, không nên hành động lỗ mãng.”

Lúc này trời đã tối mịt, trong nhà chẳng có đèn lửa chi hết, mọi người đều bụng đói miệng khát mà không ai dám uống nước ở đây. Huyền Nạn nói: “Chúng ta ra ngoài tìm nhà hàng xóm để kiếm cơm nước, nên chăng?” Đặng Bách Xuyên nói: “Chúng ta đi mười dặm đường rồi hãy tìm thức ăn thức uống. Tiết tiên sinh hẳn là người rất tâm cơ, không phải chỉ bố trí một cái quan tài mà thôi đâu. Nếu xảy ra chuyện gì liên lụy đến các vị đại sư, thì bọn tại hà áy náy vô cùng!” Y cùng Công Dã Càn chưa hiểu nguyên nhân, nhưng cũng đoán rằng đường lối “Gậy ông đập lưng ông” của nhà Mộ Dung đã đồn đại khắp nơi, bị khách giang hồ kết oán vu vơ đã nhiều. Y cho rằng Tiết Thần Y có thân hữu gì bị hại, đem đổ lên đầu Cô Tô Mộ Dung mà đòi nợ máu.

Mọi người đứng dậy đi ra cửa chính, bỗng thấy trên trời sáng rực lên ở phía tây nam, tiếp theo là một vùng những tia lửa bắn lên không trung, từ sắc đỏ chuyển thành xanh biếc, chẳng khác nào một đám mưa hoa, màu sắc biến ảo huy hoàng trông rất đẹp mắt. Phong Ba Ác nói: “Đẹp quá! Không hiểu ai đốt pháo hoa mà đẹp thế?” Lúc này mới đầu mùa thu, chẳng phải là tiết Nguyên Tiêu hay tiết Trung Thu, sao lại có người đốt pháo hoa? Chẳng bao lâu lại có một đóa hoa vàng chói bay vút lên không gian rồi nở ra, y như trăm ngàn sao băng va chạm vào nhau.

Công Dã Càn nói: “Đây không phải là pháo hoa, mà là tín hiệu của bọn đại địch kéo đến bao vây.” Phong Ba Ác la lớn: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Mình lại được một phen đánh đấm sướng tay!”, rồi quay vào đại sảnh. Đặng Bách Xuyên hạ lệnh: “Tam đệ cùng tứ đệ vào trong đại sảnh để ngăn chặn phía trước, nhị đệ chống đỡ phía sau.” Đoạn y quay lại nói với Huyền Nạn đại sư: “Vụ này không liên quan đến chùa Thiếu Lâm, xin các vị cứ bàng quan đừng bênh vực bên nào, nhà Mộ Dung xin đa tạ đại đức!

Huyền Nạn nói: “Sao Đặng thí chủ lại nói thế? Giả tỉ địch nhân có tư thù với chư vị mà kéo đến vây đánh, bên trong có điều gì khuất khúc, bọn bần tăng cũng phải xét đoán theo lẽ công bằng, không thể để họ nhân lúc người ta nguy cấp, cậy đông mà thủ thắng được. Giả tỉ họ là đồng đảng của Tiết Thần Y, bố trí cơ quan độc địa hại người một cách vô lý, thì bọn bần tăng cũng coi họ là kẻ thù chung, lẽ nào lại thõng tay đứng nhìn?” Đoạn Huyền Nạn quay lại hô: “Chuẩn bị đối địch!” Bọn Tuệ Phương, Hư Trúc đồng thanh vâng lời. Huyền Thống nói: “Đặng thí chủ! Bần tăng cùng hai vị huynh đệ của thí chủ đã đồng bệnh tương liên, dĩ nhiên phải liên thủ chống địch.”

Đang lúc nói chuyện lại có hai bông hoa vọt lên trời, lần này lại gần hơn. Rồi cách một lúc lại có hai bông hoa xuất hiện, trước sau có đến sáu lần. Hình dáng cùng màu sắc các bông hoa đều khác nhau, có bông tựa như một nhát búa quét ngang bầu trời, có bông lại giống như hoa mẫu đơn. Sau khi sáu bông hoa phóng lên rồi, bầu trời đen kịt không còn tín hiệu gì nữa.

Huyền Nạn hạ lệnh cho bọn đệ tử Thiếu Lâm canh giữ chung quanh đại sảnh, chờ địch nhân đến đánh, nhưng hồi lâu vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Bỗng nghe phía Đông có một giọng nữ ngâm thơ: “Mày liễu bìa ai biếng điểm trang, Khăn hồng ố lệ những mơ màng, Phòng the khắc khoải hồn cô tịch, Châu ngọc khôn khuây nỗi đoạn trường.” Giọng hát đầy vẻ thê lương não nuột.

Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghi hoặc. Thanh âm xướng xong giọng đào liền đổi sang vai kép: “Cha chả! Lâu ngày không thấy mặt, lòng trẫm những thương tình. Hộp trân châu ban tặng cho khanh, chẳng biết có vui lòng bạn ngọc?” Lại chuyển sang vai đào: “Chao ôi! Bệ hạ có Dương Phi kề cận, mãi say mê trong cuộc truy hoan. Đem Mai Phi phế bỏ cho xong, đâu có lý thương người mệnh bạc.” Nói xong, lại lên tiếng khóc thút thít.

Các hòa thượng Thiếu Lâm hàng chữ Tuệ cùng Hư Trúc ít hiểu biết việc ngoài đời, nghe người kia nói lúc giọng nam lúc giọng nữ, chẳng biết là trò quỉ quái gì, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thê lương. Còn bọn Đặng Bách Xuyên biết người này đang diễn một lớp tuồng cổ, đóng cả vai Mai Phi lẫn vai Đường Minh Hoàng, giọng hát vừa đúng điệu vừa diễn cảm. Nhưng mọi người đang lúc khẩn trương chỉ thấy trong lòng nao núng, không hiểu người hát có dụng ý gì.

Người đó lại lên tiếng:“Thôi, khanh đừng khóc nữa làm gì. Mau bày tiệc yến, rồi thổi sáo cho trẫm hát một khúc mà giải muộn ái phi.” Lại chuyển giọng đào nói: “Tiện thiếp lấy lệ mà rửa mặt, những mong được thấy quân vương. Hôm nay đã giáp mặt long nhan, tiện thiếp cam lòng nhắm mắt.” Nói xong lại khóc ấm ức.

Bao Bất Đồng bỗng cao giọng xướng lên:“Cô gia An Lộc Sơn chính thị. Bớ Đường dương Lý thị hồ đồ, Dương Ngọc Hoàn trao lại cho cô, Thời tránh khỏi sinh linh đồ thán.”

Đặng Bách Xuyên muốn ngăn trở cũng không kịp nữa. Tiếng người vợ khóc bên ngoài im bặt, tựa như giật mình hoảng sợ.

Chỉ trong khoảnh khắc, bốn bề im lặng như tờ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.