Ngày mồng năm tháng chạp, Sử bà bà dẫn Bạch Vạn Kiếm, Thạch Thanh, Mẫn Nhu, Thạch Phá Thiên, A Tú, Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến đi đến một xóm chài nhỏ ở bến Nam Hải.
Khi Sử bà bà rời khỏi thành Lăng Tiêu đã chỉ định Cảnh Vạn Chung tạm quyền chưởng môn lo việc thủ thành, Uông Vạn Dực cùng Hô Diên Vạn Thiện phụ giúp mọi việc. Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý đã tham gia vào vụ phản sư nghịch phái, tuy vì thời thế ép bức, nhưng bọn Bạch Vạn Kiếm là đệ tử chi trưởng cũng không tính gì đến hắn. Mụ đưa ba người Thành Tự Học, Tề Tự Miễn và Lương Tự Tiến cùng đi là có ý đề phòng bọn đệ tử các chi lại làm phản trong môn phái. Còn Liêu Tự Lệ thì đã trọng thương, võ công mất hết, không đến nỗi gây thành mầm họa.
Phía sau đồng bài Hiệp Khách Đảo phát ra có khắc rõ ngày tháng và địa điểm hẹn gặp, mỗi người một khác. Lúc Sử bà bà cùng mọi người đến đây, thấy xóm chài này hoàn toàn không có ai, cũng không gặp nhân vật giang hồ nào khác. Bạch Tự Tại cũng không biết đâu mà tìm, thậm chí suốt vùng biển đó không có chiếc thuyền nào.
Đoàn người tạm nghỉ chân trong một gian nhà tranh. Chiều hôm ấy, có một hán tử áo vàng cầm trượng đến xóm chài dõng dạc nói: “Sứ giả Hiệp Khách Đảo vâng mệnh đảo chúa nghênh tiếp tân khách. Kính thỉnh Thạch bang chúa của bang Trường Lạc lên đường.”
Bọn Sử bà bà nghe tiếng từ trong nhà chạy ra. Hán tử kia đi tới trước mặt Thạch Phá Thiên, khom lưng thi lễ rồi nói: “Phải chăng các hạ là Thạch bang chúa?”
Thạch Phá Thiên nói: “Đúng vậy! Quý tính các hạ là gì?”
Người kia nói: “Tiểu nhân họ Triệu. Mời Thạch bang chúa lên đường!”
Thạch Phá Thiên nói: “Tại hạ còn có mấy vị sư trưởng cùng bạn hữu cũng muốn đến thăm quý đảo.”
Người kia nói: “Việc đó thì khó lắm. Thuyền nhỏ không chở nặng được, đảo chúa đã có nghiêm lệnh chỉ đón một mình Thạch bang chúa mà thôi. Chỉ thêm một người, thuyền nhỏ mà không bị lật thì tiểu nhân cũng mất đầu.”
Sử bà bà cười lạnh nói: “Việc đã thế này, e rằng ngươi không tự quyết định được.” Mụ nói xong, nhảy ra trước, tay nắm chuôi đao.
Gã kia không lý gì đến mụ, cứ nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Tiểu nhân xin dẫn đường. Mời Thạch bang chúa thượng lộ.” Dứt lời, gã trở gót đi luôn. Thạch Phá Thiên cùng Sử bà bà, Thạch Thanh đều đi theo sau. Gã kia theo ven biển mà đi, quanh co qua hai eo núi thì đến một bãi cát.
Tại đây có một con thuyền nhỏ, rộng không đầy ba thước, dài chừng sáu thước, thật không còn con thuyền nào nhỏ hơn nữa. Thuyền này chưa chắc đã chở được hai người, đừng nói đến ba. Hán tử kia nói: “Các vị muốn giết tiểu nhân thì chỉ cất tay một cái là xong. Sau đó vị nào biết đường đến Hiệp Khách Đảo thì đi cùng Thạch bang chúa.
Sử bà bà cùng Thạch Thanh ngơ ngác nhìn nhau, không ngờ Hiệp Khách Đảo bố trí chu đáo đến thế, muốn đi thêm một người ra đó cũng không được. Mọi người chỉ biết tên đảo, còn đảo này ở phía Nam hay phía Bắc, gần hay xa thì hoàn toàn không biết. Huống hồ ba chữ Hiệp Khách Đảo đến chín phần mười cũng là tự đặt, cho dù những thuyền chài thường xuyên đi biển cũng chưa chắc đã tìm được. Biển cả rộng lớn mênh mang, biết tìm ở nơi nào?
Ai nấy cố giương mắt nhìn ra thật xa, nhưng ngoài biển tuyệt không thấy chiếc thuyền nào khác, chẳng còn cách nào đi theo được. Sử bà bà tức giận vô cùng. Mụ vung chưởng lên toan đánh hán tử áo vàng, nhưng phát chưởng phóng ra nửa vời bỗng thu lại, nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Đồ nhi! Ngươi đưa thẻ đồng để ta đi thay. Mụ già này dù thế nào cũng phải chết với lão điên kia một chỗ.”
Hán tử áo vàng nói: “Đảo chúa đã có lệnh không cho đón lầm người. Tiểu nhân bị xử trảm cũng chẳng có chi đáng tiếc, nhưng còn lụy cho cha mẹ vợ con tiểu nhân cũng bị chém đầu hết.”
Sử bà bà tức giận nói: “Chém đầu thì chém đầu, có gì là quan trọng?” Miệng nói vậy, nhưng trong lòng mụ cũng nghĩ thầm: “Đối với mình thì không quan trọng, nhưng đối với gã này lại trọng đại vô cùng.”
Mụ nghĩ ra một kế khác, liền bảo Thạch Phá Thiên: “Đồ nhi! Vậy ngươi nhường ngôi bang chúa bang Trường Lạc cho ta. Ta là bang chúa, chắc gã không bị trách đã đón lầm người nữa.”
Thạch Phá Thiên ngần ngừ nói: “Chuyện này… e rằng…”
Gã hán tử nói: “Hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đã nói rất rành mạch, bang chúa bang Trường Lạc là một thiếu niên anh hùng tuổi mới đôi mươi. Đâu có phải là một bà bà tuổi cao đức trọng?”
Sử bà bà tức giận nói: “Ngươi nói thúi lắm! Sao ngươi lại biết ta tuổi cao đức trọng? Tuổi ta tuy có cao, nhưng đức ta không trọng.” Người kia chỉ mỉm cười, không nói gì nữa, xuống bãi biển tháo dây buộc thuyền.
Sử bà bà thở ra một hơi rồi nói: “Đồ nhi, ngươi đi đi. Hãy nghe sư phụ dặn một câu.”
Thạch Phá Thiên nói: “Dĩ nhiên là đệ tử phải nghe lời sư phụ.”
Sử bà bà nói: “Nếu ngươi còn có đường sống, thì phải nhớ kỹ là cố tìm cách chạy trốn ra đây, đừng vì chuyện cứu gia gia mà tự hãm mình vào nơi tuyệt địa. Đó là lệnh của sư phụ, ngươi nhất định không được vi phạm.”
Thạch Phá Thiên ngạc nhiên, không hiểu tại sao sư phụ không cho mình cứu trượng phu, chẳng lẽ trong lòng của người chưa hết căm hận gia gia? Chàng nghĩ: “Gia gia không thể không cứu”, thật không đồng ý với lệnh của Sử bà bà.
Sử bà bà lại nói tiếp: “Ngươi đến đó nói cho lão già điên biết, ta ở đây chờ lão ba tháng. Đến ngày mùng tám tháng ba sang năm, nếu lão không đến đây gặp ta thì ta sẽ nhảy xuống biển chết đi. Nếu lão còn nói đến chuyện lên núi Bích Loa con khỉ gì nữa, ta sẽ làm quỷ dữ không tha cho lão.”
Thạch Phá Thiên gật đầu vâng dạ. A Tú cũng nói: “Đại ca! Tiểu muội… tiểu muội cũng thế, ở lại đây chờ đại ca ba tháng. Nếu huynh không về thì muội sẽ… muội sẽ nhảy xuống biển theo bà bà.”
Thạch Phá Thiên cảm thấy trong lòng vừa ấm áp vừa thê lương. Chàng nói: “Tú muội bất tất phải làm như vậy.”
A Tú nói: “Tiểu muội muốn làm thế.” Nàng nói rất khẽ, nhưng giọng đầy vẻ cương quyết, tuyệt không hối hận.
Mẫn Nhu cũng nói: “Hài tử! Ta mong ngươi bình yên trở về. Chúng ta đều chờ ở đây, cầu cho ngươi được vô sự.”
Thạch Phá Thiên đáp: “Thạch phu nhân hãy bảo trọng, không cần lo lắng cho lệnh lang. Huynh ấy đi theo Tạ tiên sinh, nhất định sẽ trở thành người tốt. Phu nhân cũng đừng lo lắng cho con, chức bang chúa bang Trường Lạc này chỉ là đồ giả, không chừng họ sẽ thả con về. Trương Tam, Lý Tứ lại là huynh trưởng kết nghĩa của con, nếu xảy ra chuyện nguy hiểm, chắc hai vị ca ca cũng chẳng thể nào thấy chết mà không cứu.”
Mẫn Nhu nói: “Ta cũng mong như vậy.” Bà nghĩ bụng: “Thằng nhỏ này chưa biết lòng người hiểm ác, chuyện kết nghĩa kim lan này đâu phải là chuyện thực?”
Thạch Thanh nói: “Tiểu huynh đệ! Giả tỉ trên đảo phải động thủ với ai, ngươi cứ vận nội lực ra mà đánh loạn xạ, đừng quan tâm gì đến chiêu số hay đao pháp cả.” Ông nghĩ nội lực của Thạch Phá Thiên kinh người, nếu có một tia sống sót thì chỉ dựa vào nội lực mà thôi.
Thạch Phá Thiên nói: “Vâng! Đa tạ Thạch trang chủ chỉ điểm.”
Bạch Vạn Kiếm kéo tay chàng nói: “Hiền tế! Từ đây chúng ta đã là người một nhà. Phụ thân ta tuổi đã già, con nhớ chiếu cố cho lão gia gia.”
Thạch Phá Thiên nghe Bạch Vạn Kiếm kêu mình bằng hiền tế, không khỏi đỏ mặt lên nói: “Chuyện đó con sẽ biết lo liệu.”
Chỉ có ba người Thành Tự Học, Tề Tự Miễn và Lương Tự Tiến là sung sướng vì thoát khỏi tai vạ của mình. Họ đều nghĩ thầm: “Ba mươi năm nay đã có ba đoàn cao thủ võ lâm đến Hiệp Khách Đảo, nhưng chẳng ai sống sót trở về. Thằng lỏi này đâu có ba đầu sáu tay, dĩ nhiên không thể là ngoại lệ.”
Thạch Phá Thiên cùng mọi người chia tay để ra bãi biển. Mọi người đưa chàng ra đến chỗ thuyền đậu, A Tú cùng Mẫn Nhu khóe mắt đỏ hoe.
Sử bà bà đột nhiên nhảy xổ đến trước hán tử áo vàng, tát bốp một phát vào mặt gã rồi quát lên: “Ngươi vô lễ với bậc tôn trưởng, ta phải cho ngươi một bài học.” Người kia không đánh trả, đưa tay lên xoa má bị tát rồi mỉm cười bước vào trong con thuyền nhỏ. Thạch Phá Thiên đưa tay xá mọi người rồi cũng xuống theo.
Con thuyền nhỏ chỉ chở hai người mà nước đã mấp mé mạn thuyền chỉ cách mấy tấc, thật không thể chở thêm một người nữa được. May mà gặp mùa rét lạnh, Nam Hải gió lặng sóng yên, không thì chỉ một con sóng nhỏ cũng đủ làm lật thuyền. Sở dĩ Hiệp Khách Đảo chọn tháng chạp để khai yến, chắc cũng vì lẽ này.
Gã hán tử kia chèo mấy cái cho thuyền rời khởi bờ, rồi quay thuyền lại, kéo cánh buồm tam giác màu vàng lên. Gió bấc hiu hiu thổi, thuyền chạy về phía Nam. Thạch Phá Thiên nhìn lên bờ biển ở phía Bắc, thấy Sử bà bà cùng A Tú nhỏ dần lại, về sau chỉ còn là những chấm đen, nhưng vẫn còn đứng đó nhìn theo.
* * *
Trời vừa tối, con thuyền nhỏ chuyển hướng đi về phía Đông Nam. Thuyền lênh đênh trên mặt biển ba ngày, đến ngày thứ tư vào khoảng giờ ngọ, tính ra đúng là mồng tám tháng chạp, hán tử trỏ vào một vệt đen đen ở phía trước nói: “Hiệp Khách Đảo kia rồi!”
Thạch Phá Thiên giương mắt nhìn ra xa vẫn chưa thấy gì khác lạ, nhưng trái tim chàng đã đập loạn lên. Thuyền đi chừng hơn một giờ nữa mới nhìn rõ trên đảo có ngọn núi đá cao ngất. Trên núi xanh rì rậm rạp, cây cỏ mọc đầy. Vào khoảng giờ thân, con thuyền nhỏ áp sát bờ phía Nam đảo.
Hán tử nói: “Mời Thạch bang chúa lên!” Phía Nam đảo là một bãi cát lớn. Về hướng Đông núi đá có đến bốn chục con thuyền vừa lớn vừa nhỏ đang neo đậu.
Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Nơi đây rất nhiều thuyền bè. Nếu lên đảo mà không chết, thì quay lại đây đoạt lấy một con thuyền nhỏ để thoát hiểm cũng chẳng khó khăn gì.” Chàng liền nhảy lên bờ. Hán tử nhảy lên theo, lấy dây buộc thuyền vào một tảng đá lớn. Gã lấy trong bọc ra một con ốc biển, thổi lên mấy tiếng tu tu…
Chẳng bao lâu, từ phía núi có bốn hán tử chạy ra. Chúng đều mặc áo ngắn màu vàng, rảo bước đến trước mặt Thạch Phá Thiên khom lưng thi lễ nói: “Đảo chúa hiện ở cung Nghinh Tân chờ bang chúa. Mời Thạch bang chúa qua bên này.”
Thạch Phá Thiên rất quan tâm đến Bạch Tự Tại, liền hỏi ngay: “Chưởng môn phái Tuyết Sơn là Uy Đức tiên sinh đã đến chưa?”
Hán tử mặc áo vàng đứng đầu đáp: “Tiểu nhân phụ trách việc đón Thạch bang chúa, không biết đến việc khác. Thạch bang chúa cứ vào cung Nghinh Tân sẽ rõ.” Gã nói xong, quay lưng đi trước dẫn đường. Thạch Phá Thiên theo sau. Còn bốn gã hán tử áo vàng nữa thì lùi lại bảy tám bước rồi đi theo sau Thạch Phá Thiên.
Đoàn người đi vào trong núi, hai bên toàn là rừng rậm, chỉ có một con đường xuyên qua rừng. Thạch Phá Thiên chú ý quan sát cảnh trí bốn bên để nhận định đường lối, phòng khi thoát thân biết đường mà chạy. Đi thêm mấy dặm nữa lại rẽ vào một con đường mọc toàn đá tai mèo, bên trái là một thung lũng rất sâu, từ dưới vọng lên tiếng nước chảy xiết xô vào đá. Con đường cứ mỗi lúc một lên cao, sau hai khúc quanh bỗng thấy một thác nước từ trên cao mười mấy trượng đổ xuống.
Thác nước này là chỗ đầu nguồn của lạch nước kia. Hán tử dẫn đường đưa tay vào sau một cây lớn bên đường, lấy một tấm áo mưa bằng vải dầu treo sẵn ở đó. Gã cầm áo đưa cho Thạch Phá Thiên rồi nói: “Cung Nghinh Tân ở bên trong thác nước. Xin Thạch bang chúa mặc áo mưa vào để khỏi ướt y phục.”
Thạch Phá Thiên nhận lấy áo mặc vào. Chàng thấy hán tử đi tới thác nước rồi tung mình nhảy vào, chàng cũng nhảy theo. Phía trong thác là một con đường hầm khá dài, hai bên đường hầm có thắp đèn dầu, ánh sáng lờ mờ nhưng cũng trông rõ được đường đi. Chàng theo sau gã kia, tiếp tục tiến về phía trước.
Đường hầm này là một hang động thiên nhiên trong lòng núi rồi được sửa sang, chỗ nào do nhân công đào ra thì rất chật hẹp, nhưng có lúc lại gặp những quãng rất rộng. Chàng cảm thấy càng tiến vào sâu càng đi xuống thấp, trong động có tiếng nước chảy róc rách nghe rất êm tai, tưởng chừng như tiếng khánh ngọc.
Trong sơn động có rất nhiều ngõ ngách, Thạch Phá Thiên dụng tâm ghi nhớ. Chàng đi trong đường hầm chừng hơn hai dặm thì trước mặt hiện ra một cửa động xây bằng ngọc thạch. Trên cổng có khắc ba chữ lớn.
Thạch Phá Thiên hỏi: “Đây là cung Nghinh Tân phải không?”
Hán tử đáp: “Đúng thế.” Gã hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Trên cổng có đề chữ rõ ràng mà hắn còn hỏi làm chi? Chẳng lẽ hắn không biết chữ hay sao?”
Đúng là Thạch Phá Thiên một chữ cũng không biết. Chàng tiến vào cửa thạch động, thấy mặt đất lát đá xanh rất ngay ngắn. Hán tử dẫn Thạch Phá Thiên đi sang động bên trái rồi nói: “Thạch bang chúa! Bang chúa hãy tạm nghỉ ở đây một chút, lát nữa vào dự yến tiệc, đảo chúa sẽ cùng bang chúa làm lễ tương kiến.” Trong thạch động này cũng có đủ bàn ghế. Ba cây nến đỏ lớn chiếu sáng cả động. Một tên tiểu đồng bưng trà cùng bốn món điểm tâm vào.
Thạch Phá Thiên vừa nhìn thấy thức ăn, liền nhớ lại lúc lên đường, Thạch Thanh đã mấy lần căn dặn: “Tiểu huynh đệ! Ba mươi năm nay không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán mình mang tuyệt kỹ đến Hiệp Khách Đảo, không ai sống sót trở về. Những nhân vật trên Hiệp Khách Đảo dù bản lãnh cao cường đến đâu cũng không thể chỉ một mẻ lưới mà quét hết được rất nhiều hào kiệt tuyệt đỉnh võ lâm. Theo ta phỏng đoán thì trên đảo nhất định có sử dụng những thủ đoạn đê hèn, nếu không bố trí cơ quan cạm bẫy thì cũng bỏ chất kịch độc vào đồ ăn thức uống. Họ công khai tuyên bố là mời đi ăn cháo Lạp Bát, khiến cho người ta phải chú ý đến món cháo này. Nhưng không chừng món cháo này lại không có gì quái lạ, mà trong những thức ăn uống thông thường như nước trà, bánh điểm tâm hoặc rau xanh, cơm trắng lại có vấn đề. Tiểu huynh đệ không thể không đề phòng. Nhưng lý lẽ này rất nông cạn, Thạch Thanh này đã nghĩ tới thì có lý đâu thủ lĩnh các môn phái lớn lại không nghĩ tới? Khi họ đi Hiệp Khách Đảo, dĩ nhiên cũng đã dự bị linh dược để giải độc, mà cuối cùng cũng mắc độc thủ. Như vậy thì chẳng còn trời nào hiểu được. Tiểu huynh đệ! Ngươi có lòng nhân hậu, bản tính lương thiện, tất được ông trời che chở, không đến nỗi phải chịu ác báo. Nhưng lúc nào cũng phải đề phòng cẩn thận.”
Thạch Phá Thiên nhớ Thạch Thanh lời dặn dò, nhưng mùi thơm ngào ngạt lại xông vào mũi, liền tự nhủ: “Bụng ta đã đói, mà suốt thời gian ở đảo này không ăn uống gì thì làm sao chịu nổi? Hai vị Trương Tam Lý Tứ đã kết nghĩa huynh đệ với ta, từng lập lời trọng thệ có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu. Nếu hai vị đó muốn hại ta, thì cũng tự hại chính mình hay sao?”
Chàng liền lấy đồ điểm tâm mà ăn. Cả bốn đĩa xíu mại, chả nướng, bánh chiên và bánh chưng, chàng ăn hết sạch chẳng còn lại chút nào. Bình trà xanh chàng cũng uống đến quá nửa.
Thạch Phá Thiên ngồi trong thạch động chừng một giờ, bỗng nghe tiếng đàn sáo nổi lên. Gã hán tử dẫn đường lại đến trước mặt chàng khom lưng nói: “Đảo chúa đã có lời mời, xin Thạch bang chúa lên dự yến.”
Thạch Phá Thiên đứng dậy theo gã ra khỏi động. Chàng đi qua mấy thạch động, tiếng chiêng trống sáo đàn càng lúc càng lớn. Đột nhiên trước mắt sáng rực, chàng thấy một tòa sơn động lớn thắp sáng bằng rất nhiều đèn nến. Trong động bày đến hơn trăm bộ bàn ghế mà lối đi vẫn còn rộng thênh thang. Mấy trăm tên hán tử áo vàng đi lui đi tới, dẫn tân khách vào chỗ ngồi.
Tân khách mỗi người một bàn, hoàn toàn không có người của bên chủ nhân ngồi chung. Khi khách đã an tọa hết thì tiếng nhạc chấm dứt. Thạch Phá Thiên đảo mắt nhìn bốn phía, nhìn thấy Bạch Tự Tại nghênh ngang ngồi một bàn, đầu lão bạc phơ nhưng tinh thần quắc thước. Lão ngồi lẫn giữa các vị anh hùng, thân thể cao lớn trội hẳn lên tựa hồ chim hạc đứng giữa đàn gà.
Hôm trước ở trong thạch lao, vì ánh sáng lờ mờ nên Thạch Phá Thiên không nhìn rõ được tướng mạo lão. Hiện giờ dưới ánh đèn sáng rực, Uy Đức Tiên Sinh uy nghiêm chẳng khác một pho thần tượng trong miếu điện, khiến ai trông thấy cũng sinh lòng kính phục. Thạch Phá Thiên đi đến trước mặt lão gọi: “Gia gia! Cháu đến đây!”
Trong nhà đại sảnh tuy đông người, nhưng bên chủ nhân tiếp đãi ai cũng nói rất khẽ. Còn bên khách thì ai cũng nghĩ đến chuyện mình sắp mất mạng trong khoảng khắc, nên trong lòng nặng trĩu. Hơn nữa oai danh Hiệp Khách Đảo quá lớn, chấn động võ lâm khiến mọi người đều khiếp vía, chẳng ai nói câu nào.
Bây giờ Thạch Phá Thiên đột nhiên la gọi Bạch Tự Tại nên ánh mắt của mọi người đều hướng về phía chàng. Bạch Tự Tại hắng giọng một tiếng rồi nói: “Thằng quỷ con này không biết tốt xấu gì cả. Ngươi đến đây thì làm sao ta có được chút chắt ngoại?”
Thạch Phá Thiên ngẩn ra, một lúc sau mới dần dần hiểu ý câu nói của lão. Thì ra Bạch Tự Tại có ý nói là Thạch Phá Thiên đến Hiệp Khách Đảo chịu chết, không ở nhà thành thân cùng A Tú để sinh con. Chàng liền đáp: “Gia gia! Bà bà hiện ở xóm chài nhỏ gần bờ biển để đợi gia gia đó. Người dặn cháu nói là người chờ gia gia trong ba tháng, tức là đến ngày mồng tám tháng ba, nếu chưa thấy mặt gia gia thì bà bà… sẽ nhảy xuống biền tự tử.”
Bạch Tự Tại giương cặp lông mày dài lên hỏi: “Mụ không lên núi Bích Loa ư?”
Thạch Phá Thiên nói: “Bà bà nghe gia gia nói vậy, tức giận vô cùng… lại còn thóa mạ… thóa mạ gia gia…”
Bạch Tự Tại hỏi giật giọng: “Mụ thóa mạ ta thế nào?”
Thạch Phá Thiên nói: “Bà bà thóa mạ gia gia là điên khùng. Người nói là Đinh Bất Tứ dựng chuyện đồn đại hoang đường để gạt người, lão điên khùng này mất hết đầu óc mới tin lời của hắn. Bà bà còn nói, khi nào nhìn thấy Đinh Bất Tứ nhất định sẽ sử dụng Kim Ô đao ơháp chặt đứt một cánh tay của hắn, rồi sẽ cắt lưỡi của hắn ra.”
Bạch Tự Tại cười ha hả nói: “Hay lắm! Hay lắm! Có thế mới phải!”
Đột nhiên trong một góc đại sảnh có tiếng người than vãn: “Sao mụ lại mắng ta như vậy? Ta có bao giờ đối xử không đúng với mụ đâu? Ta đối với mụ một dạ chí thành, đến già cũng không lấy vợ. Thế mà lòng dạ mụ như sắt đá, không chịu bước lên núi Bích Loa lấy một bước chân.”
Thạch Phá Thiên nhìn về phía phát ra thanh âm, thì thấy Đinh Bất Tứ ngồi chống hai tay xuống bàn. Toàn thân lão run lên, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi. Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Lão cũng đến rồi! Tuổi già như thế mà còn khóc lóc như con nít, sao lão không biết mắc cỡ?”
Nếu là lúc bình thường, mọi người chắc chắn không khỏi nhìn nhau mà chê cười, nhưng lúc này ai cũng nghĩ vận rủi sắp đến nên trong lòng đều thương cảm, chỉ mong được cùng khóc với nhau chứ không ai muốn cười. Những anh hùng hào kiệt này, nếu không phải là chưởng môn các phái thì cũng là chủ nhân của bang hội, suốt đời làm bạn với gươm đao, hai chữ “sợ chết” đối với họ dĩ nhiên không phải. Nhưng nếu được dùng đao thương tỉ đấu liều mạng thì chuyện sống chết chẳng có chi đáng kể, huống hồ ai cũng tự cho mình võ công rất cao, lúc nào cũng nghĩ mình sẽ sống, đối phương phải chết. Đằng này tình hình hoàn toàn khác hẳn, ai đã đến Hiệp Khách Đảo thì không thể nào tránh được cái chết, lại thêm vào nỗi nghi hoặc lo sợ phải chết như thế nào. Cái chết mơ hồ này so với việc đứng trước cường địch liều mạng một phen thì còn khó chịu hơn nhiều.
Đột nhiên ở phía tây tòa viện có tiếng nữ nhân cười lạnh, vừa cười vừa nói: “Hừ! Một dạ chí thành, đến già cũng không lấy vợ! Đinh Bất Tứ quả là kẻ mặt dày. Giả tỉ ngươi đối với Sử Tiểu Thúy trung thành như vậy, thì sao lại để tỷ tỷ ta sinh một đứa con gái?”
Chỉ trong chớp nhoáng đó, Đinh Bất Tứ thẹn đỏ mặt lên. Lão vô cùng bối rối, đứng dậy ấp úng hỏi: “Ngươi… ngươi… ngươi là ai, sao lại biết…?”
Nữ nhân kia nói: “Bà ấy là chị ruột của ta, sao ta lại không biết? Con nhỏ đó đâu? Còn sống hay chết rồi?”
“Binh” một tiếng, Đinh Bất Tứ ngồi phịch xuống ghế. Tiếp theo lại có mấy tiếng “rắc rắc”, cả bốn chân chiếc ghế gỗ đều gãy hết. Nữ nhân kia hỏi một cách giận dữ: “Con nhỏ đó đâu? Còn sống hay chết? Nói mau!”
Đinh Bất Tứ chậm chạp đáp: “Ta… ta làm sao biết!”
Nữ nhân kia nói: “Lúc lâm tử, tỷ tỷ ta có dặn ta tìm ngươi, hỏi xem đứa con gái đó lạc lõng nơi đâu. Tỷ tỷ còn yêu cầu ta chiếu cố cho đứa nhỏ. Ngươi… ngươi là một tên lòng lang dạ thú, hại đời tỷ tỷ của ta chưa đủ, còn muốn hại đến vợ người khác nữa ư?”
Sắc mặt của Đinh Bất Tứ xám xịt như đất. Chiếc ghế gãy hết chân, lão phải nửa đứng nửa ngồi. Bây giờ đầu gối nhũn ra, lão ngồi phịch xuống, suýt nữa ngã ngửa. May mà võ công lão tinh thâm, khẽ nhún hai chân rồi đứng vững lại được.
Nữ nhân kia lại hỏi, giọng còn gay gắt hơn: “Con nhỏ đó còn sống hay chết?”
Đinh Bất Tứ đáp: “Hai chục năm trước thì nó còn sống. Nhưng sau này ta không biết nữa.”
Nữ nhân hỏi: “Sao ngươi không đi kiếm nó?”
Đinh Bất Tứ không biết trả lời ra sao, chỉ ấp úng: “Cái đó… cái đó… không phải là chuyện dễ. Có người nói cô ấy đã đi đến Hiệp Khách Đảo, cũng không biết có đúng không.”
Thạch Phá Thiên thấy nữ nhân đang nói chuyện thân hình bé nhỏ thấp lùn, mình mặc áo vóc màu tía. Nàng che mặt bằng tấm sa đen khá dày, dĩ nhiên dung mạo không thể nhìn thấy rõ ràng. Không hiểu sao Đinh Bất Tứ, vốn là một tên cường hung bá đạo giết người không nháy mắt, trông thấy nàng lại ra chiều sợ hãi.
* * *
Đột nhiên chuông trống nổi lên. Một hán tử áo vàng dõng dạc nói: “Hai vị Long đảo chúa và Mộc đảo chúa của Hiệp Khách Đảo ra mắt tân khách.”
Mọi người chấn động tâm thần. Đến giờ họ mới biết Hiệp Khách Đảo có hai vị đảo chúa, một vị họ Long và một vị họ Mộc. Bỗng thấy cánh cửa giữa mở rộng rồi hai hàng người cao có, thấp có, nam có, nữ có, đi ra. Hàng người bên trái mặc toàn áo xanh, hàng người bên phải mặc toàn áo vàng.
Người thủ lễ lại tuyên bố: “Chúng đệ tử dưới trướng Long đảo chúa và Mộc đảo chúa ra mắt quý khách.”
Mọi người đưa mắt nhìn thì thấy cả hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đi phát thẻ đồng hôm trước cũng có mặt trong đám đông. Trương Tam mặc áo vàng đứng thứ mười một bên phải, Lý Tứ mặc áo xanh đứng thứ mười ba bên trái. Sau hai người này, mỗi bên còn có đến hơn hai chục người nữa.
Ai nấy bất giác cảm thấy ớn lạnh xương sống. Võ công Trương Tam Lý Tứ, mọi người đã thấy rồi. Té ra hai gã còn có rất nhiều huynh đệ đồng môn, chắc bản lãnh bọn này cũng tương đương với hai gã. Mọi người nghĩ bụng: “Thảo nào ba mươi năm nay, bao nhiêu anh hùng hảo hán hễ đến Hiệp Khách Đảo là không còn sống sót trở về. Chưa kể đến người khác, chỉ cần hai sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác ra tay, những nhân vật nổi tiếng trong võ lâm Trung Nguyên chúng ta cũng chẳng có mấy ai chống đỡ nổi hai chục chiêu.”
Hai hàng đệ tử đứng hai bên tả hữu nhất tề khom lưng, hướng về phía quần hùng thi lễ rất cung kính. Quần hùng vội đáp lễ. Ai cũng nghĩ tới Trương Tam cùng Lý Tứ lúc đi phân phát thẻ đồng ở Trung Nguyên, vừa cười nói vừa giết người, phong độ rất ung dung. Chúng chỉ cất tay một cái là trọn một bang hội hoặc một môn phái bị giết sạch. Thế mà về đến đảo, mắt chúng không dám nhìn ngang nhìn ngửa, giữ thái độ cực kỳ nghiêm cẩn.
Giữa tiếng âm nhạc vang lừng, hai lão già từ từ cất bước đi ra, một lão mặc đồ vàng, một lão mặc đồ xanh. Người thủ lễ lớn tiếng hô: “Tệ đảo chúa hoan nghênh các vị quý khách.” Hai vị Long, Mộc đảo chúa cùng xá dài gần tới đất. Quần hùng cũng tới tấp đáp lễ.
Lão mặc áo bào vàng là Long đảo chúa cười ha hả nói: “Tại hạ cùng Mộc huynh đệ ở nơi hoang đảo hẻo lánh này, hôm nay được cùng các vị cao hiền tương kiến, lại được quý vị ra ân đến thăm, rất lấy làm vinh hạnh. Có điều trên hoang đảo cảnh vật hủ lậu, khoản đãi không được chu đáo, mong liệt vị lượng thứ cho.”
Thanh âm lão rất ôn hòa. Hiệp Khách Đảo là một hòn đảo lẻ loi trong miền Nam Hải, mà khẩu âm Long đảo chúa lại giống người ở Trung Châu.
Mộc đảo chúa cũng nói: “Mời chư vị an tọa.” Thanh âm lão này lanh lảnh tựa như người ở vùng Phúc Kiến Quảng Châu.
Quần hùng an tọa rồi, hai vị Long Mộc đảo chúa mới ngồi vào một cái bàn ở hướng Tây. Còn bọn đệ tử không ai được ngồi, đều phải đứng thõng tay hầu hạ kế bên.
Quần hùng bụng bảo dạ: “Cách mời khách của Hiệp Khách Đảo cực kỳ bá đạo, hễ khách không chịu đi là tru diệt hết cả môn phái hay bang hội. Nhưng khách lên đảo rồi thì lễ nghi đón tiếp lại vô cùng chu đáo. Ta hãy chờ xem họ còn làm trò gì nữa.”
Có người lại nghĩ: “Tội phạm trước khi bị chặt đầu cũng thường được ăn một bữa no say, nói mấy lời an ủi. Cuộc yến tiệc này chắc là bữa ăn chúng bố thí cho mình trước khi hạ sát.”
Mọi người liếc mắt ngó hai vị đảo chúa, thì thấy Long đảo chúa râu tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào như đứa trẻ, còn Mộc đảo chúa mái tóc dài chỉ còn lơ thơ, phần đen nhiều hơn phần bạc, nhưng mặt đầy vết nhăn nheo. Họ bao nhiêu tuổi, thật khó mà đoán được. Cứ nhìn mặt thì nói họ sáu chục hay chín chục cũng đều có lý, mà đoán họ đã ngoài trăm tuổi cũng chẳng có chi quá đáng.
Mọi người thi lễ xong ngồi xuống. Người trên đảo bước ra rót rượu và đưa thức ăn lên. Bàn nào cũng có bốn bát bốn đĩa, cả thảy tám món. Những món ăn gồm đủ cả thịt, gà, cá, tôm, mùi thơm ngào ngạt đưa lên tận mũi, xem chừng có vẻ ngon lành chứ chẳng có chi khác lạ.
Thạch Phá Thiên đã hơi yên lòng. Chàng nhìn quanh bàn tiệc thấy cả quán chủ Thượng Thanh Quán là Thiên Hư đạo nhân cũng đã đến. Chưởng môn bốn phái lớn tại Quan Đông là Phạm Nhất Phi, Phong Lương, Lữ Chính Bình và Cao Tam nương tử cũng có mặt. Những người này tâm thần rất đỗi hoang mang, khi ánh mắt chạm phải mục quang của Thạch Phá Thiên, họ chỉ gật đầu thi lễ chứ không dám cất tiếng chào hỏi.
Hai vị đảo chúa Long, Mộc nâng chén rượu lên nói: “Xin mời!” rồi uống một hơi can sạch.
Quần hùng thấy rượu xanh lè. Tuy hương vị rất thơm tho, nhưng họ không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Chẳng hiểu trong rượu này có thuốc độc gì không?” Đa số chỉ để chén rượu lên môi chứ không dám uống.
Một số ít nghĩ bụng: “Đối phương mà muốn hại mình thì chỉ cần cất tay một cái là xong. Trong rượu có độc cũng thế mà không có độc cũng vậy, đằng nào cũng chết. Chi bằng cứ ngang tàng mà uống.” Họ liền nâng chén lên uống cạn.
Những người đứng chầu một bên tiếp tục rót rượu vào. Hai vị đảo chúa đảo Long Mộc mời khách cạn ba tuần rồi, Long đảo chúa giơ tay trái lên. Bọn nô bộc từ nội đường xếp hàng đi ra, mỗi tên bưng ra một bát cháo nóng rất to đặt trước mặt tân khách.
Quần hùng bụng bảo dạ: “Đây chắc là chén cháo Lạp Bát mà chốn giang hồ thường đồn đại.” Những bát cháo vừa múc ra, hơi còn bốc lên nghi ngút, bọt sủi từ đáy bát lên. Bát cháo nào cũng một màu xanh thẫm, ai nhìn cũng không khỏi sinh lòng nghi hoặc. Thứ cháo này thường nấu với táo tàu, vừng đen, hạt sen, long nhãn, đậu đỏ… nhưng trong bát cháo này lại có những thứ rau chẳng ra rau, cỏ chẳng ra cỏ, thứ là rễ cây thái nhỏ, thứ lại xắt ra từng khúc trăng trắng như khoai mài, mùi thuốc rất nồng.
Quần hùng đều biết đa số độc dược có màu xanh, mà bát cháo này lại màu xanh thẫm, mặt người soi vào cũng ánh lên xanh biếc. Chỉ ngửi mùi thuốc nặng nề xông vào mũi cũng biết là bát cháo này độc đến mức nào.
Cao Tam nương tử vừa ngửi thấy mùi thuốc đã phát ngán, nghĩ bụng: “Lúc họ nấu nồi cháo này, không biết đã thả bao nhiêu rắn rết nhện độc vào trong.” Mụ không nhịn được cơn buồn nôn, vội đẩy bát cháo ra cạnh bàn rồi đưa tay bịt mũi.
Long đảo chúa nói: “Các vị đường xa ngàn dặm đã có lòng chiếu cố, tệ đảo không biết lấy gì kính khách, chỉ dùng chén cháo Lạp Bát ở Trung Châu khó kiếm để đưa ra thết đãi. Vị cốt yếu trong bát cháo là Đoạn Trường Thực Cốt Hủ Tâm Thảo. Loại cỏ này sau khi đã nở hoa mới thật công hiệu, nhưng phải tám năm, mười năm không chừng mới có một lần nở hoa. Tệ đảo phải chờ tới khi cỏ khai hoa mới mời đồng đạo giang hồ tới đây cùng hưởng, tính ra lần thiết yến này là lần thứ tư. Mời chư vị ăn uống thực tình, không nên khách sáo.” Lão nói xong, cùng Mộc đảo chúa tay trái cầm bát cháo, tay phải giơ đũa lên mời.
Mọi người nghe đến tên loại cỏ Đứt Ruột Mòn Xương Nát Tim, ai cũng bở vía. Tuy ai đã tới đảo này cũng không tính đến chuyện sống sót trở về nữa, nhưng họ công khai tuyên bố thứ cỏ độc trong bát cháo Lạp Bát khiến mọi người càng kinh tâm động phách, ai nấy sắc mặt tái mét.
Long Mộc hai vị đảo chúa đều giơ đũa lên khoanh một vòng hướng về mọi người, tỏ ý mời toàn thể cử tọa, rồi bưng chén cháo lên bắt đầu ăn.
Quần hùng đều nghĩ bụng: “Trong bát cháo của hai lão này chắc toàn là nhân sâm, yến sào cùng các vị đại bổ.”
Đột nhiên phía đông có một hán tử đứng phắt dậy, trỏ tay vào mặt Long Mộc đảo chúa lớn tiếng quát: “Lão Long và lão Mộc kia hãy nghe đây! Ta là Giải Văn Báo ở Quan Tây. Trước khi tới Hiệp Khách Đảo này, ta đã thu xếp mọi việc về sau đâu đó xong cả rồi. Giải Văn Báo này đường đường là tay hán tử đội trời đạp đất, lòng dạ sắt đanh. Các ngươi muốn giết thì cứ giết, Giải mỗ quyết chẳng chau mày. Còn bắt Giải mỗ phải ăn uống thứ độc vật dơ bẩn này thì nhất định không thể được.”
Long đảo chúa ngạc nhiên mỉm cười nói: “Giải anh hùng đã không muốn ăn cháo, dĩ nhiên bọn tại hạ không miễn cưỡng được. Các hạ chẳng cần nổi giận, xin mời ngồi!”
Giải Văn Báo lại hét lớn: “Giải mỗ đã không mong toàn mạng, thì chết sớm hay chết muộn cũng là chết. Ta chỉ muốn vạch mặt các ngươi là bọn chó má ỷ mạnh làm càn, gây tai họa ở nhân gian.” Hắn nói xong, bưng chén cháo lên tạt vào mặt Long đảo chúa.
Một lão già ngồi cách hai bàn đứng phắt dậy quát: “Giải hiền đệ không được lỗ mãng!” Lão phất tay áo một cái, phát ra một luồng kình phong ngăn cản bát cháo còn đang lơ lửng trên không. Chén cháo không bay về phía trước nữa, dừng lại trên không gian một giây rồi rớt xuống.
Ai cũng yên trí chiếc bát Thanh Hoa Đại Hải sắp vỡ tan tành, còn cháo sắp đổ lênh láng. Bỗng một tên hầu chuyên việc rót rượu cho tân khách đang đứng gần đó khom lưng chuồi người xuống đất, vọt tới đưa tay ra đỡ lấy chén cháo. Lúc này chén cháo chỉ còn cách mặt đất vài tấc, bắt được thật khó vô cùng.
Quần hùng không nhịn được, bật lên tiếng hoan hô vang dội: “Công phu tuyệt diệu!” Tiếng hoan hô vừa dứt, nét mặt quần hùng càng lộ vẻ lo âu. Ai nấy bụng bảo dạ: “Chỉ một tên hầu rượu mà thân thủ đã kỳ diệu đến thế, mình còn mong sống sót trở về được nữa ư?”
Mọi người đâm ra tính quẩn lo quanh. Người thì nhớ con cháu cùng sản nghiệp trong nhà, kẻ thì nghĩ tới mối đại cừu chưa trả được. Có người lẩm bẩm: “Ta mà chết đi, cơ nghiệp của bản bang tất phải điêu tàn.”
Có người lại tự oán mình: “Đã biết sắp đến ngày Hiệp Khách Đảo mời đi dự yến, sao mình không sớm tìm nơi thâm sơn cùng cốc để ẩn lánh, lại cứ ngồi cầu may đồng bài đừng đưa tới chỗ mình. Lúc họa đến trước mắt rồi thì lại mong Hiệp Khách Đảo không lợi hại đến như lời đồn đại. Bây giờ chính mắt thấy một tên hầu rượu chuồi mình đón bắt bát cháo, thì chút hy vọng nhỏ xíu đó cũng bị vỡ tan.”
Bỗng thấy một thư sinh ốm yếu vào tuổi trung niên đứng lên, cất tiếng dõng dạc nói: “Long Mộc đảo chúa! Hai vị đảo chúa chỉ cho hai tên thuộc hạ vào Trung Nguyên là đủ lừng danh khét tiếng. Vậy nếu hai vị muốn lên ngôi võ lâm chí tôn thật dễ như trở bàn tay, hà tất phải hao tổn tâm cơ, phí phạm công phu để triệu bọn tại hạ lên đảo này làm chi? Tại hạ đến quý đảo cũng không còn hy vọng sống sót trở về, nhưng trong lòng còn mối nghi ngờ thì chết cũng không nhắm mắt được. Vậy xin hai vị đảo chúa giãi bày cho tại hạ được tỏ tường mối nghi ngờ đó, rồi tại hạ sẽ vươn cái cổ này ra chờ chém.”
Những câu này thì hết thảy mọi người đều muốn nói ra, có điều người khác không hoạt bát văn hoa được như y mà thôi. Mọi người nghe thấy đều lấy làm hợp ý, mấy trăm con mắt đổ dồn vào hai đảo chủ Long, Mộc.
Long đảo chúa cười nói: “Tây Môn tiên sinh hãy ngồi xuống, bất tất phải quá khiêm như vậy.”
Quần hùng nghe Long đảo chúa nói vậy, lại quay nhìn gã thu sinh tự hỏi: “Phải chăng người này là Tây Môn Quán Chỉ tú tài, tiếng tăm lừng lẫy giang hồ hai chục năm trước? Nhưng coi y bất quá mới ngoài bốn chục tuổi, mà hai chục năm trước vị tú tài kia chỉ hai bàn tay không đã đánh chết bảy tên ác ôn ở Thiểm Bắc, rồi trong ba ngày dùng một cây Phán Quan Bút phá hủy tám sơn trại của bọn lục lâm tỉnh Hà Bắc. Người ta đồn khi đó y đã ngoài bốn mươi tuổi, rồi sau mấy vụ đó thì không có tin tức gì nữa, chẳng biết sống chết thế nào. Theo tuổi người này thì không phải, song họ Tây Môn chẳng có mấy người, mà hiện nay trong võ lâm lại không có cao thủ nào họ Tây Môn ăn mặc theo kiểu thư sinh, nhiều phần chắc đúng là ông ấy.”
Bỗng nghe Long đảo chúa nói tiếp: “Ngày trước Tây Môn tiên sinh song chưởng đả bại thất bá, một bút dẹp yên tám trại…”
Lúc này thì quần hùng đều nghĩ: “Quả là ông ấy!”
Long đảo chúa nói tiếp: “Tại hạ cùng Mộc huynh đệ đây đem lòng ngưỡng mộ tôn giá đã lâu, hôm nay mới được gặp, đâu dám vô lễ với tiên sinh?”
Tây Môn Quán Chỉ đáp: “Tại hạ không dám. Mấy việc nhỏ mọn ngày xưa, hoặc giả có thể nhất thời ngông cuồng ở Trung Nguyên, còn dưới mắt hai vị đảo chúa thì chỉ là trò trẻ nít tập cầm dao, chẳng đáng kể đến làm gì.”
Long đảo chúa nói: “Tây Môn tiên sinh lại quá khiêm rồi! Câu hỏi vừa rồi của tôn giá, tại hạ cũng muốn trình bày ngay cùng các vị anh hùng, nhưng trong bát cháo Lạp Bát này có vị Đoạn Trường Thực cốt Hủ Tâm Thảo, cần phải ăn nóng mới hiệu nghiệm. Vậy mời các vị hãy dùng cháo trước, rồi tại hạ sẽ trình bày sau có được chăng?”
Thạch Phá Thiên nghe hai người nói chuyện với nhau toàn những lời khách sáo, dùng rất nhiều thành ngữ, mình chỉ hiểu phần nào. Bụng chàng lại đang đói, ruột gan cồn cào không chịu được. Vừa nghe Long đảo chúa nói vậy, chàng liền bưng ngay chén cháo lên, húp sì sụp một hồi đã cạn đến nửa bát. Tuy mùi thuốc nồng nặc, nhưng cháo lại ngon lành, chẳng thấy gì là khó ăn cả.
Chỉ trong khoảnh khắc, chàng ăn hết sạch bát cháo. Trong quần hùng có người nghĩ: “Thằng lỏi này chẳng biết trời cao đất rộng là gì, chỉ tỏ vẻ ta đây hào kiệt nhất thời, chẳng sợ chết là gì. Giả tỉ gã muốn cướp đường chạy trước tới quỷ môn quan cho rộng, thì cũng chưa cần phải vội vã đến thế.”
Có người lại nghĩ: “Tự sát cũng là chết, bị giết cũng là chết. Đằng nào cũng chết, thì thà cứ như vị thiếu niên anh hùng kia, chết thật là sảng khoái.”
Bạch Tự Tại hô lên: “Hay lắm! Giỏi lắm! Cháu rể của phái Tuyết Sơn chúng ta quả nhiên khác với mọi người.” Đã đến lúc này mà lão vẫn còn có ý ngạo nghễ, muốn phái Tuyết Sơn phải cao hơn các môn phái khác một bậc. Lão cho là Thạch Phá Thiên đã thay mặt cho lão mà bảo toàn thể diện.
Sau cuộc tỉ đấu trong thạch lao tại thành Lăng Tiêu, nhuệ khí của Bạch Tự Tại đã cùn nhụt đi nhiều. Ngay lúc ấy lão đã nghĩ, mình tự xưng là “đại anh hùng, đại hiệp sĩ, đại tôn sư, kiếm pháp đệ nhất, quyền cước đệ nhất, nội công đệ nhất, ám khí đệ nhất tự cổ chí kim”, nay phải bỏ bớt bốn chữ “nội công đệ nhất”.
Đến lúc lão thấy tên hầu rót rượu thi triển thân thủ bắt được chén cháo sắp rớt, thì lão lại cho là bốn chữ “quyền cước đệ nhất” cũng không đứng vững được nữa. Có điều lão vẫn tự nhủ, chưa chắc võ công mọi người trên Hiệp Khách Đảo đều tuyệt cao. Không chừng tên hầu này là tay cao thủ đệ nhất trên đảo, giả vờ đóng vai nô bộc để hù dọa người khác mà thôi.
Lão thấy Thạch Phá Thiên thản nhiên ăn chén cháo độc một cách ngon lành, liền lấy làm đắc ý vì chàng là cháu rể của chưởng môn phái Tuyết Sơn. Bất giác hào khí trong lòng lại nổi dậy, lão liền bưng chén cháo lên húp soàn soạt rồi nhìn khắp mặt quần hùng, nghĩ bụng: “Trong đại sảnh này, bất quá chỉ có ta và cháu ta là dám ăn chén cháo đó thôi. Người khác làm sao có khí khái anh hùng hào kiệt như vậy?”
Rồi lão lại nghĩ: “Ta là người thứ hai ăn chén cháo này, vậy kể về anh hùng hào kiệt thì ta đứng hàng thứ hai trong thiên hạ. Thế thì sáu chữ “đại anh hùng, đại hào kiệt” cũng phải bỏ đi.” Lão không nén nổi, lại ủ rũ suy nghĩ: “Ăn cháo độc thì cũng đến chết là cùng. Sao mình không ăn trước tiên, phải hạ xuống “thiên hạ đệ nhị” thì còn thú gì nữa?” Bạch Tự Tại trong lòng buồn bã tự trách, nên về sau Long đảo chúa nói gì, lão cũng chẳng buồn lắng nghe nữa.
Long đảo chúa nói: “Bốn chục năm về trước, tại hạ cùng Mộc huynh đệ kết giao ý hợp tâm đầu. Đáng lẽ hai người định dắt tay nhau vào chốn giang hồ, khen thưởng người thiện, trừng phạt kẻ ác trong võ lâm, cố dựng nên sự nghiệp. Không ngờ bọn tại hạ vừa bước chân vào chốn giang hồ đã ngẫu nhiên tìm được một tấm địa đồ viết đầy chữ nhỏ. Tại hạ xem xong thì biết bản đồ này vẽ một hoang đảo vô danh, và tại đó có cất giấu một bí lục võ công kinh thiên động địa.”
Giải Văn Báo nói xen vào: “Rõ ràng đây là Hiệp Khách Đảo, sao lại bảo là hoang đảo vô danh?”
Lão già lúc nãy phất tay áo để cản chén cháo lại quát lên: “Giải hiền đệ không nên ngắt lời Long đảo chúa!”
Giải Văn Báo vẫn cãi: “Dù lão huynh cố gắng lấy lòng, nhưng chưa chắc họ đã tha mạng đâu.”
Lão già tức quá, bưng bát cháo lên húp một hơi quá nửa rồi nói: “Ta với ngươi kết giao đã nửa đời, mà ngươi chưa biết Trịnh Quang Chi này là người thế nào ư?”
Giải Văn Báo ra chiều hối hận nói: “Đai ca! Tiểu đệ sai rồi. Xin đại ca lượng thứ cho.” Đoạn hắn quỳ xuống dập đầu binh binh ba cái, tiện tay vớ lấy bát cháo trên bàn, cũng húp một hơi hơn nửa bát.
Trịnh Quang Chi chạy lại ôm lấy Giải Văn Báo nói: “Huynh đệ! Ngày anh em ta kết nghĩa đã tuyên lời trọng thệ, không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, nhưng nguyện chết cùng năm cùng tháng cùng ngày. Hôm nay lời thề đó sắp thành hiện thực, như thế mới không uổng một phen kết nghĩa huynh đệ.” Hai người ôm lấy nhau, vừa hoan hỉ vừa bi thương đến chảy nước mắt.
Thạch Phá Thiên nghe lão nhắc tới lời thề, bất giác đưa mắt nhìn Trương Tam Lý Tứ. Hai gã này nhìn nhau cười một cái, rồi đưa mắt nhìn Long Mộc đảo chúa. Mộc đảo chúa khẽ gật đầu. Trương Tam Lý Tứ liền bước ra khỏi hàng của mình, mỗi người bưng một bát cháo Lạp Bát đi đến bàn Thạch Phá Thiên nói: “Nào, mời hiền đệ!”
Thạch Phá Thiên vội ngăn lại: “Đừng làm thế! Nhị vị ca ca bất tất phải chết chung với tiểu đệ. Tiểu đệ chỉ mong nhị vị sau này chiếu cố cho A Tú…”
Trương Tam mỉm cười nói: “Huynh đệ! Ngày chúng ta kết nghĩa đã có lời thề, sau này có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Hiền đệ đã ăn cháo Lạp Bát, thì có lý đâu bọn ca ca lại không ăn?” Trương Tam nói xong, cùng Lý Tứ bưng cháo lên ăn một hơi hết sạch. Đoạn hai gã quay lại khom lưng nhìn Long Mộc đảo chúa nói: “Tạ ơn sư phụ đã ban cho bát cháo.” Rồi chúng mới quay lại chỗ cũ.
Quần hùng thấy Trương Tam, Lý Tứ vì nghĩ đến tình kết nghĩa với Thạch Phá Thiên mà ăn cháo độc để chết cùng chàng. So với Trịnh Quang Chi và Giải Văn Báo nhất định phải chết, trường hợp của hai người này khó khăn gấp mười, vậy mà họ cũng giữ lòng nghĩa khí. Ai nấy đều khâm phục vô cùng.
Bạch Tự Tại cũng tự nghĩ: “Như hai người này thì chữ Hiệp mới có ý nghĩa. Giả tỉ mình có bạn kết nghĩa uống phải chất kịch độc, liệu mình có nghĩ đến nghĩa chi lan mà chết cùng bạn không?” Nghĩ tới đây lão không khỏi ngần ngừ một chút, rồi lại nghĩ: “Ta đã ngần ngừ một chút rồi, cho dù về sau có chết cùng người đó thì cũng không khỏi xấu hổ với ba chữ Đại Hiệp Sĩ.”
Bỗng nghe Trương Tam nói tiếp: “Tam đệ! Ở đây có một số tân khách dường như không ưa mùi vị thứ cháo Lạp Bát này. Tam đệ muốn ăn thêm mấy bát thì cứ lấy mà ăn, chẳng hề gì đâu.”
Thạch Phá Thiên đói bụng đã nửa ngày, mới ăn một chén cháo chưa thấm vào đâu. Chàng nghĩ bụng: “Mình đã ăn một bát rồi, dù ăn nhiều hay ăn ít cũng không phân biệt gì nữa.” Chàng đưa mắt nhìn sang những bàn bên cạnh.
Mấy người ngồi gần đấy, thấy chàng nhìn qua bàn mình vội bưng cháo giơ lên nói: “Loại cháo này mùi vị khác thường, tại hạ không quen. Tiểu anh hùng cứ tùy tiện lấy mà dùng, bất tất phải khách sáo.” Họ thấy Thạch Phá Thiên chỉ có hai tay, dĩ nhiên không đón hết được bấy nhiêu bát. Họ còn sợ Trương Tam đột nhiên thay đổi ý kiến để lỡ mất cơ hội này, liền bưng chén cháo sang để trên bàn trước mặt Thạch Phá Thiên.
Thạch Phá Thiên cất tiếng cảm ơn, rồi ăn liền một lúc hai bát nữa.
Long đảo chúa mỉm cười, gật đầu rồi nói: “Câu hỏi vừa rồi của Giải anh hùng quả là không sai. Hoang đảo vô danh ghi trên địa đồ chính là Hiệp Khách Đảo mà hiện chúng ta đang ngồi đây, có điều cái tên Hiệp Khách Đảo là sau khi tại hạ và Mộc huynh đệ đến đây rồi mới đặt ra. Cũng không phải bọn tại hạ ngông cuồng tự cho mình là hiệp khách, thật sự bên trong còn có nguyên do khác. Bọn tại hạ theo chỉ thị trong địa đồ mà tìm kiếm trên đảo mất mười tám ngày, cuối cùng cũng tìm được võ công bí quyết. Té ra bí lục này là một bài thơ cổ, nghĩa lý rất sâu xa và phức tạp. Hai anh em tại hạ mừng quá, liền theo đồ giải mà luyện tập.”
“Hỡi ơi! Chẳng ai ngờ được phúc mà thành họa. Sau mấy năm nghiên cứu luyện tập, đột nhiên hai anh em có chuyện bất đồng ý kiến về võ công trong bức đồ giải. Tại hạ bảo phải luyện như tại hạ mới đúng, mà Mộc huynh đệ lại cho là tại hạ nghĩ sai, phải luyện thế kia mới được. Hai người tranh luận mấy ngày trời, rốt cuộc chẳng ai chịu ai. Về sau đi đến chỗ quyết định, người nào luyện theo ý người ấy, bao giờ luyện thành công rồi sẽ cùng nhau chứng nghiệm, ai đúng ai sai đến bấy giờ sẽ rõ. Sau khi luyện được quá nửa năm, hai chúng ta động thủ để chiết giải với nhau. Hai anh em mới qua lại mấy chiêu, bất giác đột nhiên thất sắc. Thì ra… thì ra…”
Lão nói tới đây, vẻ mặt buồn rầu, ngừng lại không nói nữa. Mộc đảo chúa cũng ra chiều uất ức, thở một hơi dài. Qua một lúc lâu, Long đảo chúa lại nói tiếp: “Té ra hai anh em tại hạ đều luyện sai cả.”
Quần hùng nghe nói mà tâm thần chấn động. Ai cũng nghĩ, võ công Trương Tam Lý Tứ đã cao như vậy, dĩ nhiên hai vị đảo chủ phải đến mức xuất thần nhập hóa, không thể nào lường được. Môn võ công họ đã cố luyện, nếu không phải là quyền cước phi thường thì cũng là nội công tối cao. Nếu luyện sai nội công tất nhiên phải tẩu hỏa nhập ma, nhẹ là trọng thương tàn phế, mà nặng thì phải chết người.
Long đảo chúa lại tiếp: “Anh em tại hạ khi phát giác luyện sai, liền lập tức ngưng lại để cùng nhau phân tích, cố nghiên cứu cho ra đạo lý bên trong. Nhưng hai chúng ta tư chất tầm thường, mà chỉ thị trong đồ giải lại rất thâm sâu, nghiên cứu mấy tháng vẫn trì trệ, không hiểu được những chỗ khó khăn. Khi ấy bỗng có một chiếc thuyền của bọn cướp biển trôi dạt vào đảo. Hai anh em tại hạ giết ba tên cầm đầu, rồi bắt bọn đồng lõa đem ra thẩm vấn. Những tên nào hành vi tàn ác đều bị xử tử, những kẻ được tha chết thì giữ lại trên đảo. Hai anh em bàn nhau: Sở dĩ mình nghiên cứu đồ giải trong bài cổ thi không thông suốt được, có thể vì đã luyện nhiều năm võ công, những điều sở học trước kia khác hẳn khiến mình luyện công sai đường lạc lối, chi bằng thu nạp mấy tên đệ tử cho chúng suy nghĩ về bài cổ thi đồ giải. Thế rồi bọn tại hạ lựa trong bọn đạo tặc đó ra sáu tên biết chữ khá nhiều, tương đối thông minh mà võ công lại thấp kém. Bọn tại hạ chia chúng làm hai nhóm đồ đệ, không truyền thụ nội công mà chỉ dạy một ít quyền thuật cùng kiếm pháp, rồi để chúng tự nghiên cứu đồ giải.”
“Ngờ đâu, cách hiểu của ba tên đồ đệ tại hạ không giống như của ba tên đệ tử Mộc huynh đệ. Thậm chí giữa ba tên đồ đệ tại hạ, cách suy nghĩ cũng đã ngược nhau rồi. Giữa ba tên đồ đệ của Mộc huynh đệ cũng vậy. Hai anh em lại thương nghị tỉ mỉ hơn: Phần đồ giải này là một bài thơ cổ của Lý Thái Bạch, mà bọn ta lại là hạng võ biền thô lỗ, tuy biết một chút chữ nghĩa, nhưng khó mà so với các nhà văn tinh thông thi lý. Xem chừng đồ giải này nếu không phải là kẻ sĩ tài kiêm văn võ thì khó lòng hiểu được. Vì thế tại hạ cùng Mộc huynh đệ chia nhau vào Trung Nguyên, hẹn nhau trong một năm mỗi người cố tìm bốn tên đồ đệ là nho sĩ đầy bụng kinh luân, không thì cũng là những tay danh sĩ văn tài mẫn tiệp.”
Lão giơ tay trỏ vào bảy tám tên đệ tử mặc áo vàng và xanh, nói tiếp: “Không dám giấu liệt vị, mấy tên đệ tử này giả tỉ đi thi thì việc đậu tiến sĩ, hàn lâm dễ như trở bàn tay. Ban đầu chúng đến Hiệp Khách Đảo cũng chưa hẳn là cam tâm tình nguyện, nhưng về sau vừa học võ công vừa nghiên cứu đồ giải, ai cũng tình nguyện sống chết ở đảo, vì đã hiểu ra học võ luyện công còn thú hơn đọc sách làm quan.”
Quần hùng nghe Long đảo chúa nói “học võ luyện công thú hơn đọc sách làm quan” đều lấy làm vừa ý, nhiều người bất giác gật đầu khen phải.
Long đảo chúa nói tiếp: “Nhưng tám đệ tử nguyên là danh sĩ xuất thân này nghiên cứu đồ giải xong, mỗi người lại có ý kiến rất khác nhau, chẳng những không làm cho Mộc huynh đệ và ta hiểu thêm được điều gì, mà còn khiến cho hai anh em tại hạ lún sâu thêm vào chỗ mơ hồ. Bọn tại hạ không biết làm thế nào, trong lòng rất là phiền muộn, mà bỏ đi thì cũng không đành lòng. Một hôm, Mộc huynh đệ bảo tại hạ: “Hiện nay những bậc tinh thâm về võ học không ai hơn được Diệu Đế đại sư, một vị cao tăng chùa Thiếu lâm. Sao chúng ta không mời lão nhân gia tới đây một phen để chỉ giáo cho?” Tại hạ nói: “Diệu Đế đại sư đã ẩn cư mười mấy năm, không màng thế sự, e rằng khó mà mời được.”
“Mộc huynh đệ nói: “Thế sao chúng ta không chép thêm một bản đưa đến chùa Thiếu Lâm, để nhờ lão nhân gia xem giúp? Nếu Diệu Đế đại sư cũng bó tay thì e rằng đồ giải này có chỗ sai lầm, hai chúng ta chẳng hơi đâu mà nghiên cứu thêm cho mệt.” Tại hạ liền vỗ tay khen: “Kế ấy rất diệu! Chúng ta có thể chép thêm một bản nữa đưa cho Ngu Trà đạo trưởng phái Võ Đang. Võ công phái Thiếu Lâm và Võ Đang nổi tiếng nhất trên chốn giang hồ, hai vị cao nhân đó nhất định kiến thức siêu việt hơn người.”
“Tức thì hai người chúng ta liền sao chép đồ giải rất kỹ, cả nét vẽ lẫn chữ viết không sai một chút nào, rồi đích thân đưa đến chùa Thiếu Lâm. Không giấu gì quý vị, lúc đầu hai ta phát hiện đồ giải cổ thi này thì mừng như điên, vì nghĩ rằng cứ theo đồ giải mà luyện tập thì võ công của mình sẽ tới chỗ cao nhất thiên hạ, không có người thứ ba nào bì kịp. Nhưng càng luyện tập, hai ta lại càng đi sâu vào chỗ nghi ngờ không sao giải quyết được. Lúc cùng lên chùa Thiếu Lâm, thì ý niệm trước đây không chịu truyền bí quyết cho người khác, phải giữ cho mình đã hoàn toàn tiêu tan hết. Hai ta không muốn giấu giếm nữa, chỉ mong sao có người giải khai được mối nghi ngờ canh cánh trong lòng bấy lâu nay, dù có phải đem đồ giải công bố cho thiên hạ cũng chẳng có chi đáng tiếc.”
“Sau khi hai anh em tại hạ đến chùa Thiếu Lâm, liền cho đồ giải vào bao thư, nhờ tri khách tăng trình lên Diệu Đế đại sư. Ban đầu tri khách tăng không chịu, nói là Diệu Đế đại sư đã đóng cửa ẩn cư lâu năm, không giao thiệp với người ngoài. Hai anh em tại hạ liền lấy mỗi người một chiếc bồ đoàn, ngồi giữa cổng chùa Thiếu Lâm suốt bảy ngày bảy đêm, khiến cho sư sãi trong chùa không có lối ra vào. Tri khách tăng không biết làm sao, đành đem phong thư vào đệ trình đại sư.”
Quần hùng đều nghĩ bụng: “Lão chỉ nói hời hợt là ngồi giữa cổng chùa Thiếu Lâm bảy ngày bảy đêm, nhưng thực ra câu chuyện đâu có dễ dàng thế được? Trong bảy ngày này chắc đã xảy ra nhiều cuộc long tranh hổ đấu, quần tăng chùa Thiếu Lâm không có cách nào đuổi được hai lão này đi, mới phải đưa thư vào.”
Long đảo chúa lại kể tiếp: “Tri khách tăng chịu nhận thư rồi, anh em tại hạ mới đứng lên, rời khỏi cổng chùa Thiếu Lâm, xuống chân núi Thiếu Thất đợi. Chừng nửa giờ thì thấy Diệu Đế đại sư xuống, hỏi ngay: “Ở đâu?” Mộc huynh đệ liền đáp: “Còn phải đi mời một vị nữa?” Diệu Đế đại sư đáp: “Không sai! Đi mời Ngu Trà!” Ba người lên đến núi Võ Đang. Diệu Đế đại sư nói: “Lão tăng là Diệu Đế ở chùa Thiếu Lâm, muốn ra mắt Ngu Trà!” Rồi đại sư không chờ thông báo, đi thẳng vào trong. Diệu Đế đại sư chùa Thiếu Lâm là nhân vật lừng lẫy nhất võ lâm, bọn đệ tử phái Võ Đương không ai dám cản trở, anh em tại hạ cũng theo ông ấy vào. Diệu Đế đại sư vào tận chỗ thanh tu của Ngu Trà đạo trưởng, lấy đồ giải ra, đem chiêu thứ nhất trong đồ giải diễn thử một phen, rồi không nói một lời đã quay đầu đi ngay. Ngu Trà đạo trưởng vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, cũng không hỏi lại, lập tức đi theo Diệu Đế đại sư lên Hiệp Khách Đảo.”
“Diệu Đế đại sư tinh thông tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm, còn Ngu Trà đạo trưởng kiếm pháp thần thông, hai vị đều là nhân vật tuyệt đỉnh mà võ lâm đều công nhận. Hai vị tới đảo rồi, lập tức rèn luyện đồ giải. Trong tháng đầu ý kiến hai lão nhân gia gần giống nhau, chỉ bất đồng một vài điểm nhỏ nhặt. Từ tháng thứ hai, những chỗ mâu thuẫn đã nảy sinh khá nhiều. Đến tháng thứ ba, hai vị không muốn giữ tư cách cao nhân xuất thế nữa, chỉ vì mỗi người giải thích đồ giải một kiểu khác nhau mà sinh ra tranh chấp kịch liệt. Thậm chí… thậm chí… Hỡi ôi, hai vị xảy cuộc động thủ.”
Quần hào kinh ngạc vô cùng. Có người vội hỏi: “Hai vị cao nhân này tỉ võ thì ai thắng ai bại?”
Long đảo chúa nói: “Diệu Đế đại sư cùng Ngu Trà đạo trưởng đem những công phu nghiên cứu trong đồ giải ra thi triển, đến chiêu thứ năm thì còn có phần giống nhau nên vui vẻ tươi cười, không cần tỉ đấu nữa. Từ lúc bắt đầu chiêu thứ sáu hai vị đã có chỗ bất đồng ý kiến, nhưng còn có lúc tỉ đấu, có lúc bỏ qua. Sau mấy tháng trời, kết quả nghiên cứu của hai vị đi đến chỗ giống nhau thì ít mà khác nhau lại nhiều. Nhưng chuyện so bì ai hơn ai kém thì khó mà định được. Tại hạ cùng Mộc huynh thương nghị với nhau nhiều lần, đều cho là đồ giải đó bao la huyền diệu quá chừng. Ngay cả Diệu Đế đại sư cùng Ngu Trà đạo trưởng là những cao nhân quán thế mà cũng chỉ lĩnh hội được một phần nhỏ trong đó mà thôi. Xem ra nếu muốn thông suốt được toàn thể bản đồ giải này, chỉ có cách mở rộng cuộc nghiên cứu để nhiều người tham gia, chứ không còn cách nào khác. Ý kiến của nhiều người góp lại phải hơn ý kiến của một bậc đại tài. Vì thế chúng ta muốn mời những bậc kỳ tài khắp thiên hạ lên đảo này, đem hết tâm lực ra mà nghiên cứu.”
Long đảo chúa ngừng lại một lúc rồi nói tiếp: “May mà lúc đó Đoạn Trường Thực Cốt Hủ Tâm Thảo đang nở hoa. Loại cỏ này đem phối hợp với mấy vị thuốc nữa, nấu thành cháo nóng thì ăn vào rất có ích cho những người luyện võ chúng ta. Vì thế hai anh em tại hạ cho sứ giả đi mời các vị chưởng môn phái lớn, các giáo chủ, các bang chúa cùng đến tệ đảo ăn cháo Lạp Bát. Ăn cháo xong, sẽ mời quần hùng tham gia vào công cuộc nghiên cứu đồ giải.”
Mọi người nghe Long đảo chúa nói vậy thì bán tín bán nghi, sắc mặt người nào cũng thập phần kỳ dị.
* * *
Qua một hồi lâu, Đinh Bất Tứ lớn tiếng nói: “Đảo chúa nói vậy, thì ra hai vị mời anh em đồng đạo đến đây ăn cháo Lạp Bát là vì lòng tốt hay sao?”
Long đảo chúa nói: “Nếu nói hoàn toàn vì lòng tốt thì cũng không đúng hẳn. Tại hạ cùng Mộc huynh đệ vẫn có chút tư tâm, muốn những cao thủ võ học trong thiên hạ hội họp trên đảo này nghiên cứu đồ giải, giúp hai ta gỡ được những chỗ nghi ngờ bấy lâu nay, đồng thời để phát huy võ học được thêm một mức. Nhưng nếu bảo bọn tại hạ mời khách để gia hại, thì thật là ý kiến sai lầm.”
Đinh Bất Tứ cười lạnh nói: “Đảo chúa nói vậy, chẳng hóa ra lừa bịp mọi người một cách trắng trợn ư? Nếu bảo là mời đồng đạo đến nghiên cứu võ học thì sao khi người ta không chịu đi, các vị lại hạ sát toàn gia hoặc cả môn phái? Trên thiên hạ có ai đi mời khách một cách cường hung bá đạo đến thế bao giờ?”
Long đảo chúa gật đầu, vỗ tay ra hiệu rồi bảo: “Lấy sổ thưởng thiện phạt ác ra đây!” Tám tên đệ tử quay vào nội đường, ôm ra tám chồng sổ, mỗi chồng cao đến hai thước.
Long đảo chúa nói: “Các ngươi hãy phân phát sổ ra để chư vị cùng xem.” Bọn đệ tử lần lượt chia sổ sách cho mọi người ở bàn tiệc, trên mỗi quyển đều dùng giấy vàng chú thích là của môn phái hay bang hội nào.
Đinh Bất Tứ cầm xem một cuốn, thì thấy ngoài bìa cuốn sổ của lão đề bốn chữ “Lạc Hợp nhân thị”. Lão không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Huynh đệ của ta đúng là người Lạc Hợp. Chuyện này khắp thiên hạ ít ai biết đến, thế mà Hiệp Khách Đảo xa xôi hẻo lánh này cũng biết rõ. Tin tức của họ thu lượm được thật là xác thực.” Lão mở sổ ra xem thì thấy bên trong ghi chú rõ năm nào, tháng nào, ngày nào Đinh Bất Tam làm gì ở đâu, ngày nào tháng nào năm nào Đinh Bất Tứ làm gì ở đâu. Dĩ nhiên là cuốn sổ ghi chép không thể hoàn toàn, nhưng phần lớn những việc sai trái lão làm trong hai chục năm nay đều có ghi cả.
Đinh Bất Tứ trán toát mồ hôi, liếc mắt nhìn trộm những người bên cạnh thì ai nấy đều lộ vẻ hoang mang bối rối. Chỉ có một mình Thạch Phá Thiên là ngồi cắm đầu ăn cháo, chẳng ngó gì đến cuốn sổ đề ba chữ “Bang Trường Lạc” trước mặt. Chàng không biết chữ nào, nên hoàn toàn không biết trong đó viết cái gì.
Thời gian ăn xong một bữa cơm, Long đảo chúa nói: “Thu sổ thưởng thiện phạt ác lại!” Bọn đệ tử chia nhau đi thu sổ về.
Long đảo chúa mỉm cười nói: “Huynh đệ ta đã phái đệ tử đi nghe tin tức trên chốn giang hồ, nhưng cũng không phải là cả gan thám thính những việc riêng tư bí mật của các vị, chỉ là biết được chuyện nào thì ghi lại mà thôi. Bất cứ môn phái hay bang hội nào bị Hiệp Khách Đảo tiêu diệt, đều đã gây nên những tội ác tày trời, không thể dung tha được. Bọn tại hạ không dám nói là thế thiên hành đạo, nhưng chuyện thị phi thiện ác cũng phân biệt rõ ràng. Tại hạ cùng với Mộc huynh đệ đều nghĩ, chúng ta ở trên Hiệp Khách Đảo, thì việc làm cũng phải hợp với hai chữ Hiệp Khách mới đúng. Chúng ta chỉ hối hận một điều là khả năng của Hiệp Khách Đảo còn giới hạn, không thể giết sạch ác đồ khắp thiên hạ. Các vị thử nghĩ kỹ lại xem, có danh môn chính phái hoặc bang hội nghĩa hiệp nào đã bị Hiệp Khách Đảo tiêu diệt không?”
Hồi lâu không thấy ai trả lời. Long đảo chúa lại nói: “Những người mà bọn tại hạ đã sát hại, thật sự chẳng có ai vô tội…”
Bây giờ Bạch Tự Tại mới lên tiếng chất vấn: “Nhiếp lão quyền sư Nhiếp Lập Nhân ở Thông Châu tỉnh Hà Bắc có làm việc ác gì đâu? Sao lão cũng bị hai vị hạ sát toàn gia?”
Long đảo chúa lấy ra một cuốn sổ, đẩy về phía trước rồi nói: “Mời Uy Đức tiên sinh xem thử!” Cuốn sổ này từ từ bay về phía Bạch Tự Tại. Lão Bạch toan giơ tay ra đón, thì cuốn sổ đột nhiên dừng lại trên không một chút, rồi rớt thẳng xuống mặt bàn, chỉ cách tay lão chừng hai thước.
Bạch Tự Tại vội vàng đưa tay ra chụp được cuốn sổ, không đến nỗi để rớt vào bát cháo trên bàn. Cuốn sổ cầm vào tay rồi, lão còn cảm thấy lực đạo nặng trĩu. Bất giác trong lòng lão ngấm ngầm kinh hãi, bụng bảo dạ: “Thằng cha này thuận tay liệng cuốn sổ mỏng dính có mấy trang, thế đi rất chậm mà lực đạo ghê gớm, thật là xa gần tùy ý, biến hóa khó lường. Thế thì truyền thuyết “cánh hoa tấn công địch, mảnh lá đả thương người” là chuyện có thật. Thủ kình của thằng cha này mà phóng ám khí thì thật không thể đỡ gạt hay né tránh được. Ta đã tự xưng là “ám khí đệ nhất”, bốn chữ này chắc chắn cũng phải xóa đi.”
Lão nhìn ngoài bìa cuốn sổ có đề bảy chữ “Hà Bắc Thông Châu Nhiếp Gia Quyền”. Vừa mở sổ ra đọc dòng đầu, lão đã phải kinh hãi. Hàng đầu ghi: “Năm Giáp Thân, tháng năm ngày mùng hai, Nhiếp Tôn Đài đã gian dâm và giết hai mạng người ở Hắc gia trang hạt Thương Châu, lại để thư giá họa cho đạo tặc Hắc Hổ Trại.” Hàng thứ hai ghi: “Năm Giáp Thân, tháng mười ngày mười bảy, Nhiếp Tôn Hiệp vì một chuyện nhỏ mọn mà đả thương con cả của Lưu Văn Chất ở phủ Tế Nam. Đêm hôm ấy, y lại hại sát toàn gia nhà họ Lưu mười ba người để bịt miệng.”
Nhiếp Tôn Đài và Nhiếp Tôn Hiệp đều là con trai Nhiếp lão quyền sư. Nhà này nổi tiếng là hào hiệp trên chốn giang hồ, không ngờ đã làm những điều cực kỳ tàn ác trong bóng tối. Bạch Tự Tại suy nghĩ một chút rồi nói: “Những việc này không có gì đối chứng, chẳng hiểu thực giả ra sao. Tại hạ không dám nói hai vị đảo chúa cố ý chụp mũ rồi giết người vô tội, nhưng e rằng bọn đệ tử Hiệp Khách Đảo phái đi đã nghe lời đồn đại không đúng sự thực cũng chưa biết chừng.”
Trương Tam liền đứng dậy nói: “Nếu Uy Đức tiên sinh không tin, thì hãy xem cái này…” Gã nói xong, quay lưng đi vào nhà trong, lúc trở ra tay phải có cầm một cuốn sổ. Gã cũng giơ tay lên cho cuốn sổ từ từ bay về phía Bạch Tự Tại, còn chừng hai thước thì đột nhiên rớt thẳng xuống, thủ pháp giống hệt như của Long đảo chúa.
Phen này Bạch Tự Tại dĩ nhiên đã chuẩn bị sẵn, lão đưa tay chụp lấy, khi cầm vào tay cũng thấy nhẹ nhàng hơn lúc Long đảo chủ ném sách đến. Lão mở ra xem, thì đây là cuốn sổ nợ của nhà họ Nhiếp. Bạch Tự Tại đã quen Nhiếp lão quyền sư từ thuở nhỏ, nên biết rõ bút tích. Lão thấy chữ trong cuốn sổ này rõ ràng là của lão Nhiếp, trong số toàn ghi những việc liên quan đến tiền bạc. Ngay trang đầu đã phê hai chữ son: “Đáng giết”. Trang này có khoản ghi: “Ngày mồng tám mua tám mươi ba mẫu ruộng ở Chu Gia Thôn, giá tiền bảy mươi lạng.” Bạch Tự Tại nghĩ bụng: “Bảy chục lạng bạc mà mua được tám mươi mẫu ruộng ư? Đâu có của rẻ thế được? Vụ này chắc là có dùng uy lực để cưỡng ép.”
Lão đọc tiếp xuống dưới lại thấy một khoản nữa có phê hai chữ son “Đáng giết”. Khoản này ghi: “Ngày mười lăm, thu của quan huyện họ Trương ở Thông Châu hai ngàn năm trăm lạng.” Bạch Tự Tại nghĩ thầm: “Nhiếp Lập Nhân nổi tiếng là người nghĩa hiệp, sao lại lấy tiền của quan nha? Chắc là lão cấu kết với bọn tham quan vô lại để chèn ép người lương thiện, làm ra những việc thương thiên bại lý.”
Bạch Tự Tại lật tiếp xuống dưới thì thấy có tới năm sáu chục chỗ phê hai chữ “Đáng giết” bằng son đỏ, chắc là do Trương Tam hay Lý Tứ phê vào. Bất giác lão gập sổ lại, thở dài nói: “Biết người biết mặt khó biết lòng! Nhiếp Lập Nhân thật là đáng giết. Giả tỉ Bạch mỗ mà được xem cuốn nhật ký này mấy năm trước, thì dù Hiệp Khách Đảo có hạ thủ lưu tình cho lão, Bạch mỗ cũng phải giết hết cả nhà lão ta.”
Lão nói xong, đứng lên đi đến trước mặt Trương Tam, bưng hai tay trả cuốn sổ lại rồi nói: “Đáng phục! Đáng phục!” Lão quay lại nhìn Long Mộc đảo chúa ra chiều ngưỡng mộ, trong lòng thầm nghĩ: “Bọn đồ đệ Hiệp Khách Đảo chẳng những võ công trác tuyệt, mà còn rất chu đáo trong việc chủ trì công đạo. Thưởng Thiện thì mình chưa hiểu ra sao, nhưng hai chữ Phạt Ác thật là chí công, vậy việc thưởng thiện chắc cũng đích đáng không còn nghi ngờ gì nữa. Bốn chữ Thưởng Thiện Phạt Ác quả nhiên danh bất hư truyền. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn của mình tuy đông đúc, nhưng làm gì có được nhân tài như Trương Tam Lý Tứ? Hỡi ôi! Ba chữ Đại Tôn Sư còn dán vào trán Bạch Tư Tại này làm sao được? Thật càng nghĩ tới càng hổ thẹn.”
Long đảo chúa dường như đã đoán được ý nghĩ của Bạch Tự Tại, liền mỉm cười nói: “Mời Uy Đức tiên sinh ngồi. Tiên sinh ở Tây Vực đã lâu, thì làm sao biết được hành động của bọn cầm thú biết đội mũ mặc áo kia? Tiên sinh không thể tự trách mình.” Bạch Tự Tại lắc đầu, trở về chỗ ngồi.
Đinh Bất Tứ lớn tiếng hỏi: “Nói vậy thì mấy chục năm nay nhị vị đảo chúa giết toàn là hạng người đáng tội cả ư? Việc mời đồng đạo võ lâm đến đây chỉ vì mục đích cùng nghiên cứu võ công thôi ư?”
Long, Mộc đảo chúa gật đầu đáp: “Không sai.”
Đinh Bất Tứ lại hỏi: “Thế thì sao đồng đạo võ lâm đã đến đảo đều bị giết chết, ngay cả thi thể cũng không được trả về quê quán?”
Long đảo chúa lắc đầu nói: “Câu này Đinh tiên sinh nói sai rồi. Những lời đồn đãi dọc đường, làm sao có thể tin được?”
Đinh Bất Tứ nói: “Theo lời Long đảo chúa thì những cao thủ võ lâm vô tội chẳng ai chết cả ư? Ha ha! Thật đáng buồn cười!”
Long đảo chúa cũng ngửa mặt lên trời, cười lớn tiếng nói: “Ha ha, thật đáng buồn cười.”
Đinh Bất Tứ ngạc nhiên hỏi: “Có gì mà đáng cười?”
Long đảo chúa mỉm cười đáp: “Đinh tiên sinh là tân khách của đệ đảo. Tiên sinh nói là đáng buồn cười thì tại hạ cũng phải phụ họa, chỉ còn cách nói là đáng buồn cười mà thôi.”
Đinh Bất Tứ nói: “Trong ba mươi năm nay, số cao thủ võ lâm đến Hiệp Khách Đảo ăn cháo Lạp Bát nếu chưa tới ba trăm thì cũng phải hai trăm. Long đảo chủ nói họ đều ở đây bình yên vô sự, chẳng đáng buồn cười lắm sao?”
Long đảo chúa đáp: “Đã là người, ai cũng có số mạng. Nếu đại hạn đã đến thì dù là Đại La Kim Tiên cũng không thể không chết. Có điều những người đã chết không phải bị Hiệp Khách Đảo hạ sát.”
Đinh Bất Tứ nghiêng đầu ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Vậy tại hạ muốn hỏi thăm tin tức một người, một cô gái tên là… tên là… Phương Cô. Tại hạ nghe nói hai mươi năm trước đây cô ấy đã đến Hiệp Khách Đảo, vẫn còn mạnh khỏe chứ?”
Long đảo chúa hỏi: “Vị nữ hiệp đó họ gì? Chừng bao nhiêu tuổi? Là thủ lãnh môn phái bang hội nào?”
Đinh Bất Tứ nói: “Họ gì… thì tại hạ cũng không biết rõ. Đúng ra cô ấy cũng phải ở họ Đinh.”
Đột nhiên nữ nhân che mặt cất tiếng lanh lảnh nói: “Đó chính là con gái rơi của lão, nhưng cô này không theo họ cha mà theo họ mẹ, tên là Mai Phương Cô.”
Đinh Bất Tứ thẹn đỏ mặt lên nói: “Hừ! Họ Mai thì họ Mai chứ sao, làm gì phải nhặng lên thế? Cô ấy… cô ấy năm nay khoảng bốn chục tuổi…”
Nữ nhân che mặt lại lanh lảnh nói: “Việc gì phải nói khoảng bốn mươi tuổi? Nói rõ là ba mươi chín có được không?”
Đinh Bất Tứ nói: “Được rồi, được rồi, thì ba mươi chín tuổi. Cô ấy không phải là chưởng môn phái nào, cũng chẳng phải bang chúa, giáo chủ chi hết, chỉ là đã học được Mai Hoa Quyền. Trong thiên hạ chỉ có một nhà cô ấy biết Mai Hoa Quyền, chắc cũng được mời lên Hiệp Khách Đảo rồi?”
Mộc đảo chúa lắc đầu nói: “Mai Hoa Quyền không đủ tư cách.”
Nữ nhân che mặt tức giận hỏi: “Mai Hoa Quyền mà không đủ tư cách ư? Thế sao ta… ta cũng nhận được đồng bài?”
Mộc đảo chúa lại lắc đầu nói: “Không phải vì Mai Hoa Quyền.”
Long đảo chúa nói: “Mộc huynh đệ của tại hạ thích nói ngắn gọn, không ưa dài dòng như tại hạ. Mộc huynh đệ muốn nói bọn tại hạ mời tôn giá đến Hiệp Khách Đảo, không phải vì tôn giá có môn Mai Hoa Quyền gia truyền, mà vì môn kiếm pháp mà tôn giá mới sáng chế hai năm trước.”
Bà họ Mai nói: “Kiếm pháp mà tại hạ mới sáng chế chưa một ai thấy qua, sao đảo chúa lại biết?” Tiếng mụ nói vốn đã chói tai khiến người nghe phải khó chịu, lúc này mụ ra chiều kinh ngạc lại càng khó nghe hơn.
Long đảo chúa mỉm cười chỉ vào hai tên đệ tử, một tên áo vàng, một tên áo xanh. Hai gã lập tức bước ra khom lưng chờ lệnh. Long đảo chúa nói: “Các ngươi hãy đem pho kiếm pháp tân kỳ của Mai nữ hiệp ra biểu diễn một lượt. Nếu có chỗ nào chưa đạt, thì xin Mai nữ hiệp sửa giúp cho.”
Hai tên đệ tử “dạ” một tiếng rồi đến bên cái bàn đặt cạnh tường, người áo vàng lấy một thanh kiếm, người áo xanh lấy một cây nhuyễn tiên. Hai gã nhìn bà họ Mai khom lưng nói: “Xin Mai nữ hiệp chỉ giáo!” Rồi chúng bắt đầu thi triển võ công, đâm dọc chém ngang tỉ đấu với nhau. Quân hùng trong sảnh đường đều là những người kiến văn quảng bác, nhưng kiếm pháp mà tên áo vàng sử dụng thì chưa ai được thấy qua.
Nữ nhân họ Mai nói không ngớt miệng: “Kỳ lạ thật! Kỳ lạ thật! Các ngươi xem trộm kiếm pháp của ta lúc nào?”
Thạch Phá Thiên xem mấy chiêu, rồi động tâm tự hỏi: “Chẳng lẽ gã áo xanh kia đang sử dụng Kim Long Tiên Pháp của Đinh Bất Tứ gia gia hay sao?”
Quả nhiên Đinh Bất Tứ la lên: “Úi chà! Ngươi sáng chế pho kiếm pháp này để đối phó Kim Long Tiên Pháp của ta, là có dụng ý gì?” Tên đệ tử áo xanh đúng là đang sử Kim Long Tiên Pháp, nhưng mỗi chiêu mỗi thức đều bị đệ tử áo vàng dùng môn kiếm pháp tân kỳ khắc chế.
Nữ nhân che mặt chỉ cười lạt mấy tiếng, không thèm đáp. Đinh Bất Tứ càng xem càng tức giận, quát lên: “Ngươi tưởng kiếm pháp này có thể đối phó với Kim Long Tiên Pháp của ta ư? E rằng chưa đủ tư cách.”
Câu này vừa ra khỏi miệng lão, tên áo vàng liền biến đổi kiếm pháp. Chiêu nào cũng cực kỳ gian trá thâm hiểm, tuyệt không giữ phong độ danh gia.
Đinh Bất Tứ lại quát: “Ngươi thật chẳng ra gì! Kiếm pháp gì mà kỳ vậy, y như bọn đàn bà đánh nhau ngoài đường.”
Tuy ngoài miệng lão nói thế, nhưng trong lòng không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, bụng bảo dạ: “Giả tỉ mình đánh nhau với y mà đột nhiên gặp phải kiếm pháp này thì không chừng bất lợi. Tuy nhiên môn kiếm pháp thâm độc này chỉ có thể dùng đánh lén mà thôi, không thể tỉ đấu một cách quang minh chính đại được.”
Đinh Bất Tứ tuy kinh ngạc nhưng cũng có chỗ mừng thầm, tự nhủ: “Những chiêu thức hạ lưu này mà đột ngột đưa ra thì dĩ nhiên khó bề chống đỡ, nhưng ta đã được thấy một lần thì chẳng có gì đáng sợ nữa. Những đồ bàng môn tả đạo này chỉ lừa bịp người ta được một lần, không triển khai đến lần thứ hai được.”
Phong Lương, Cao Tam nương tử, Lữ Chính Bình, Phạm Nhất Phi từng thua dưới tay của Đinh Bất Tứ, nhìn thấy Kim Long Tiên Pháp bị kiếm pháp quái lạ kia khắc chế đến mức tay chân rối loạn, cùng nhịn không nổi phải lên tiếng hoan hô.
Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Có gì là hay đâu?”
Phong Lương cười nói: “Ta nói là Kim Long Tiên Pháp của Tứ gia rất hay.”
Cao Tam nương tử mỉm cười nói: “Kim Long Tiên Pháp thật là tuyệt diệu. Tức chết đi được! Tức chết đi được! Tức chết đi được!” Mụ kêu tức ba lần, chính là nhại lại khẩu khí của Đinh Bất Tứ lúc lão sinh sự trong phạn điếm ngày trước.
Gã đệ tử áo xanh thi triển Kim Long Tiên Pháp được hơn một nửa thì đột nhiên vẫy roi mấy cái. Gã đệ tử áo vàng cũng lập tức thu chiêu, đợi gã áo xanh đem nhuyễn tiên đặt lại lên bàn. Rồi gã áo xanh dùng tay không tiếp tục tỉ đấu với gã áo vàng.
Xem được mấy chiêu, Thạch Phá Thiên ồ lên một tiếng rồi nói: “Đinh gia Cầm Nã Thủ.” Thì ra người áo xanh đó đang sử dụng Cầm Nã Thủ của Đinh Bất Tam, nào là Phụng Vĩ Thủ, Hổ Trảo Thủ, Ngọc Nữ Niêm Châm, Dạ Xoa Tỏa Hầu… Những chiêu thức này Đinh Đang đã dạy cho Thạch Phá Thiên trên thuyền dọc Trường Giang.
Đinh Bất Tứ lại càng tức giận, lớn tiếng quát: “Họ Mai kia! Ngươi kiếm chuyện với anh em ta, rốt cuộc là có dụng ý gì? Vụ này… vụ này… vụ này thật là khó hiểu!” Nhưng trong lòng lão dĩ nhiên đã biết, bà họ Mai này muốn hỏi tội anh em nhà họ Đinh là vì muốn trả thù cho tỷ tỷ.
Gã đệ tử áo vàng sử dụng kiếm pháp lẫn quyền cước cực kỳ thâm hiểm để khắc chế cầm nã thủ của nhà họ Đinh, nào là đánh vào hạ bộ, móc mắt… không thiếu chỗ nào không đánh tới, nhưng gã áo xanh vẫn đỡ gạt được hết. Đột nhiên gã áo vàng hoành kiếm chém xuống dưới, gã áo xanh vội nhảy lên tránh né. Gã áo vàng buông kiếm trong tay xuống, hai tay ôm vòng lấy ngang hông gã áo xanh, mở miệng cắn vào yết hầu của đối phương.
Đinh Bất Tứ kinh hãi hét lên: “Úi chà!”. Dường như gã áo vàng mở miệng cắn vào cổ họng của chính lão vậy. Trái tim lão nhảy thình thịch, biết rằng tư thế ôm cắn này thật là xảo diệu, nếu là mình chắc chắn không thể tránh né được.
Tên đệ tử áo vàng buông hai tay ra, cùng tên áo xanh cúi mình hướng về phía Đinh Bất Tứ và nữ nhân che mặt thi lễ, rồi nói: “Xin Đinh lão tiền bối cùng Mai nữ hiệp chỉ giáo.” Bọn chúng lại hướng về phía Long Mộc hai vị đảo chúa thi lễ, rồi mới cất kiếm, lui về hàng ngũ.
Nữ nhân họ Mai cất giọng lanh lảnh nói: “Các ngươi đã nấp lén trong bóng tối, học mót đến bảy thành kiếm pháp của ta, thật cũng không phải là chuyện dễ. Nhưng các ngươi đã diễn cho lão xem qua thì… thì…”
Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Thứ kiếm pháp hạ lưu đó chẳng ra thể thống gì, có gì mà khó học?”
Bạch Tự Tại nói xen vào: “Sao lại chẳng ra thể thống gì? Lão họ Đinh kia! Nếu lão gặp người ta một cách đột ngột, trong lúc chân tay còn luống cuống thì đã bị người ta đâm trúng đến bảy tám chỗ huyệt đạo.”
Đinh Bất Tứ lại càng tức giận hem, thách: “Ngươi có giỏi thì cứ thử xem!”
Bạch Tự Tại đáp: “Dù sao ngươi cũng không phải là địch thủ của Mai nữ hiệp. Cô ấy mà cắn trúng vào cổ họng ngươi, thì cho dù bản lãnh của ngươi mạnh thêm gấp mười lần cũng không tài nào thoát được.”
Nữ nhân họ Mai cất giọng the thé nói: “Ai cần lão lấy lòng ta? Nếu ta đi tỉ thí với Sử Tiểu Thúy thì ngươi tính sao?”
Bạch Tự Tại nói: “Ngươi còn kém xa lắm. Phu nhân ta không có đây, nhưng đồ đệ của phu nhân ta hiện đã đến Hiệp Khách Đảo rồi. Cháu rể! Ngươi ra tỉ thí với thị đi!”
Thạch Phá Thiên đáp: “Cháu nghĩ rằng bất tất phải tỉ thí làm chi.”
Nữ nhân họ Mai hỏi: “Ngươi là đồ đệ của Sử Tiểu Thúy ư?”
Thạch Phá Thiên đáp: “Vâng.”
Nữ nhân lại hỏi: “Thế sao ngươi lại là cháu rể của lão ta? Thật chẳng còn có trên dưới gì nữa, thứ bậc loạn xà ngầu! Ngươi có phải là đồ Cẩu Tạp Chủng không?”
Thạch Phá Thiên lại đáp: “Đúng thế! Tại hạ là Cẩu Tạp Chủng.” Nữ nhân sửng sốt một chút rồi không nhịn được, cười phá lên.
Mộc đảo chúa nói: “Đủ rồi!” Lão chỉ nói hai chữ, nhưng âm thanh rất oai nghiêm, đủ khiến nữ nhân họ Mai ngẩn người im lặng.
Long đảo chúa nói: “Khách quan mà nói thì kiếm pháp của Mai nữ hiệp chưa tinh thâm ảo diệu bằng nhà họ Đinh. Nhưng Mai nữ hiệp tự mình sáng chế ra chiêu thức tân kỳ, thì cũng là bậc thiên tư trí tuệ phi thường. Trong những chiêu thức này có nhiều chỗ rất khá, vì thế mà bọn tại hạ mời nữ hiệp đến tệ đảo, mong rằng có thể phá giải bài cổ thi đồ hình đó. Còn về môn học tổ truyền Mai Hoa Quyền thì chẳng cần nói đến làm chi.”
Mai nữ hiệp nói: “Nếu là như thế thì Mai Phương Cô có đến Hiệp Khách Đảo không?”
Long đảo chúa lắc đầu đáp: “Không có.”
Mai nữ hiệp ngồi thừ người ra, lẩm bẩm. “Tỷ tỷ của ta… Tỷ tỷ của ta lúc lâm tử còn nhắc đến đứa con này!”
Long đảo chúa liền quay lại bảo một tên đệ tử áo vàng đứng ở bên phải: “Ngươi tra giúp Mai nữ hiệp!” Gã đệ tử dạ một tiếng rồi quay vào nhà trong, ôm ra mấy cuốn sổ.
Gã lật mấy trang, rồi trỏ một hàng chữ, dõng dạc đọc: “Truyền nhân Mai Hoa Quyền là Mai Phương Cô, phụ thân ở họ Đinh, tức là Đinh…” Gã đọc đến đây rồi ngừng lại, nhưng mọi người cũng biết ngay là gã giữ ý, tránh cho Đinh Bất Tứ khỏi phải khó chịu.
Gã đọc tiếp: “… Từ thuở nhỏ học võ ở mẫu thân. Năm mười tám tuổi… ẩn cư ở Sơn Tây, trên ngọn Khô Thảo Lĩnh, núi Hùng Nhĩ.”
Đinh Bất Tứ cùng Mai nữ hiệp đồng thời đứng bật dậy, cất tiếng hỏi. “Cô ấy ở núi Hùng Nhĩ ư? Sao ngươi biết?”
Gã đệ tử đáp: “Tại hạ có biết đâu? Nhưng trong sổ ghi như vậy.”
Đinh Bất Tứ hỏi: “Ta không biết, mà lại có người biết để ghi vào sổ ư?”
Long đảo chúa dõng dạc nói: “Hiệp Khách Đảo bất tài, chỉ cố noi theo mục đích bảo toàn chính nghĩa võ lâm. Muốn thưởng thiện phạt ác được công minh, thì nhất cử nhất động của các bằng hữu võ lâm, bọn tại hạ đều phải tìm hiểu và ghi chép rành mạch, để sau này tra xét.”
Nữ nhân họ Mai lên tiếng: “Ra thế đấy! Vậy thì Phương Cô… hiện ở Khô Thảo Lĩnh núi Hùng Nhĩ…” Rồi bà chăm chú nhìn Đinh Bất Tứ, thấy lão ta cũng có vẻ vui mừng, nhưng rồi thần sắc lại ảm đạm, thở ra một hơi. Nữ nhân họ Mai cũng nhè nhẹ thở dài. Cả hai đều hiểu, tuy đã biết được hành tung của Mai Phương Cô, nhưng kiếp này khó mà gặp được cô ta nữa.