Thạch Phá Thiên không thấy chiếc thuyền đầy xác chết đâu nữa, trong xóm chài cũng yên lặng như tờ không một bóng người. Chàng cứ đi một bước, tim lại thót một cái, sắc mặt cũng trắng bệch hẳn, lẩm nhẩm tự trấn an: “Chắc là họ đã trốn hết rồi, nên không phát hiện ra chúng ta”.
Trương Tam, Lý Tứ đưa mắt ngắm nghía địa hình xung quanh, rồi đi đến trước một căn nhà lá nhỏ. Trương Tam đưa tay ra đẩy cửa, rồi đi thẳng vào bếp. Gã lại đảo mắt nhìn quanh một lượt, suy nghĩ một chút rồi ôm lấy một cái lu lớn đựng đầy nước xoay qua một bên. Dưới đáy lu lộ ra một vòng sắt lớn. Lý Tứ nắm lấy vòng sắt kéo mạnh một cái. Bỗng nghe tiếng lách cách, một tấm thiết bản bỗng dời qua, để lộ ra một cái cửa lớn.
Trương Tam nhảy xuống trước, Lý Tứ nhảy theo sau. Thạch Phá Thiên thấy chuyện ly kỳ bí hiểm bèn tắc lưỡi. Chàng biết chắc đây là nơi ẩn thân của bọn người hung dữ Thiết Xoa Hội, bèn mở miệng khuyên: “Hai vị ca ca, không thể xuống đó được.” Nhưng câu nói còn chưa dứt thì Trương Tam, Lý Tứ đã không thấy bóng đâu nữa, chàng chỉ còn cách lấy hết can đảm nhảy xuống theo.
Phía trước là một con đường mòn, Thạch Phá Thiên bước theo sau hai người một cách cẩn thận, mới vài bước đã nghe có tiếng người quát hỏi: “Ai đó?” Tiếp theo có tiếng gió rít lên, hai thanh thiết xoa sáng loáng đâm thẳng tới Trương Tam. Trương Tam vung hai tay ra vỗ lên cán thiết xoa. Gã vận nội lực mà chấn động, hai người cầm xoa bên trong lộn đi một vòng, lăn xuống đất mà chết.
Trên tường con đường hầm đó có đặt những cây đèn sáp rất lớn. Cứ đi được vài trượng lại có một khúc quanh, mỗi khúc quanh lại có hai gã hán tử canh giữ. Cứ mỗi lần Trương Tam vung tay một cái là hai gã cầm thiết xoa lại mất mạng. Gã ra tay cực kỳ thần tốc chuẩn xác, nhanh chóng điêu luyện, chưa phải xuất đến hai chiêu.
Thạch Phá Thiên há hốc mồm ra, không ngậm lại được. Chàng nghĩ bụng: “Không hiểu Trương đại ca sử dụng pháp thuật gì. Nếu đó là võ công, thì so với Đinh Bất Tam, Đinh Bất Tứ gia gia hay Bạch đại hiệp, đại ca mình còn lợi hại hơn nhiều.”
Giữa lúc chàng đang phân vân chưa quyết, bỗng nghe tiếng huyên náo, một số đông người từ phía trong đường hầm xông ra. Trương Tam, Lý Tứ vẫn từ từ từng bước, tiến về phía trước. Bọn người xông tới đột nhiên đứng lại, nét mặt người nào cũng lộ vẻ kinh hãi sợ sệt. Trương Tam hỏi: “Tổng đà chúa hiện có ở đây không?”
Một người thân hình cao lớn rẽ đám đông tiến ra, chắp tay nói: “Tại hạ là Uông Đắc Thắng, thủ lĩnh của Thiết Xoa Hội nhỏ xíu này. Đại giá hai vị giáng lâm, bọn tiểu nhân không kịp nghênh tiếp thật là đắc tội. Xin mời hai vị vào đại sảnh dùng mấy chén rượu nhạt tẩy trần. À! Đây lại còn một vị khách quý nữa. Xin mời cả ba vị vào trong.”
Trương Tam, Lý Tứ gật đầu. Thạch Phá Thiên thấy cảnh sắc xung quanh rất kỳ lạ, chàng thầm nghĩ: “Trong đường hầm vừa rồi, Trương đại ca đã giết một lúc mười hai tên tráng hán của Thiết Xoa Hội, dĩ nhiên bọn họ chẳng chịu bỏ qua.” Lòng chàng cực kỳ hồi hộp, chỉ muốn quay lưng chạy trốn. Nhưng chàng thấy Trương Tam, Lý Tứ vẫn thản nhiên chẳng để ý gì, tiếp tục rảo bước tiến về phía trước. Chàng cũng chẳng thể nào một mình lùi ra, đành bấm bụng đi theo, không giữ nổi cho toàn thân không run rẩy.
Tổng đà chủ Uông Đắc Thắng của Thiết Xoa Hội ở phía trước cung kính đi trước dẫn đường. Hai bên đường hầm có rất đông người trong Thiết Xoa Hội xếp hàng, người nào tay cũng cầm thiết xoa. Mũi xoa sắc nhọn dị thường, lập lòe ánh sáng. Trương Tam, Lý Tứ cùng Thạch Phá Thiên đi vào giữa hai hàng môn hạ Thiết Xoa Hội.
Qua mấy khúc quanh nữa, trước mặt đột nhiên sáng lòa, ba người đã đến trước tòa đại sảnh. Trên tường hai bên sảnh đường cắm rất nhiều đèn đuốc, sáng trưng như ban ngày. Chung quanh sảnh đường cũng đầy những hán tử tay cầm thiết xoa, thỉnh thoảng Thạch Phá Thiên cũng chạm phải mục quang mấy người. Mắt họ lộ vẻ hung dữ khiến chàng vội quay đi không dám nhìn tiếp.
Uông Đắc Thắng nghiêm trang mời Trường Tam, Lý Tứ ngồi lên trên. Hai gã Trương Lý cũng chẳng khiêm nhường gì, đi thẳng vào chỗ rồi ngồi xuống. Trương Tam cười, trỏ chiếc ghế bên mình nói: “Tiểu huynh đệ! Tiểu đệ ngồi xuống đây đi!”
Thạch Phá Thiên vâng lời ngồi xuống ghế. Sau đó, Uông Đắc Thắng mới ngồi vào chủ vị để tiếp khách. Lát sau, mấy gã hán tử mình mặc áo xanh không đeo binh khí bưng rượu thịt lên. Trương Tam, Lý Tứ cùng rung tay trái một cái, trong tay áo bào mỗi gã bắn ra một vật, rớt xuống trước mặt Uông Đắc Thắng nghe chát một tiếng. Đây là hai tấm bài đồng, chìm xuống mặt bàn rất tề chỉnh, tựa như do bàn tay thợ khéo khảm vào.
Một tấm bài đồng thì khắc bộ mặt tươi cười, còn tấm kia khắc bộ mặt giận dữ. Hai tấm bài đồng này giống hệt như hai tấm đã gắn vào cửa khoang thuyền đựng đầy xác chết của bang Phi Ngư. Uông Đắc Thắng vừa ngó thấy hai tấm đồng bài đã sợ xám mặt lại, đứng phắt dậy. Những tiếng xoang xoảng lập tức vang lên, hơn trăm hán tử chung quanh đều rung động thiết xoa. Những vòng sắt trên thiết xoa vang lên những tiếng chói tai, người nào cũng tiến ra một bước.
Thạch Phá Thiên la lên: “Úi chà!” Chàng rất muốn đứng dậy chạy ra ngoài, trong lòng nghĩ: “Cái sảnh đường này lại chìm trong lòng đất, thật là khó thoát thân.” Chàng đưa mắt nhìn Trương Tam, Lý Tứ, thì thấy một gã cười hì hì, một gã vẻ mặt lầm lì không lộ vẻ gì. Thạch Phá Thiên không còn làm gì được, chỉ còn cách ngồi xuống.
Uông Đắc Thắng cất giọng thản nhiên nói: “Đã là như vậy, còn gì để nói nữa?”
Trương Tam mỉm cười nói: “Uông tổng đà chủ! Ông là truyền nhân duy nhất của Phục Hổ Môn ở Sơn Tây, công phu Song Đoản Xoa trên thế gian chỉ có một mình ông biết sử dụng. Chúng ta đến đây là để mời ông đến Hiệp Khách Đảo dùng một chén cháo lạp bát, chứ không có ý gì khác. Tổng đà chúa bất tất phải đa nghi.”
Uông Đắc Thắng ngần ngừ một lúc rồi vỗ tay xuống bàn đánh chát một tiếng, hai tấm bài đồng bắn lên. Hắn giơ tay ra đón lấy cất vào trong bọc rồi nói: “Họ Uông này nhất định sẽ tới.”
Trương Tam giơ ngón tay cái lên nói: “Đa tạ Uông tổng đà chúa! Như vậy là anh em ta chẳng đến nỗi trở về tay không.”
Trong đám đông bỗng có tiếng người la lên: “Uông tổng đà chúa là thủ lĩnh của chúng ta. Đại đa số huynh đệ của Thiết Xoa Hội đã kết nghĩa sinh tử, không thể để tổng đà chúa mất mạng một mình vì tất cả anh em.” Thạch Phá Thiên vừa nghe thanh âm đã nhận ra ngay đó là “Hồ đại ca”, gã đã giết hai người trong khoang thuyền lúc trước. Chàng biết gã là người hung dữ xảo trá, bất giác sinh lòng khiếp sợ, trống ngực đánh thình thình.
Uông Đắc Thắng nhăn nhó cười nói: “Đi càng nhiều thì mất mạng càng lắm, phỏng có ích gì? Ý ta đã quyết, Hồ huynh đệ đừng nói nhiều nữa”. Nói xong hắn cầm hồ rượu rót mời Trương Tam, nhưng tay run bần bật làm vãi rượu ra cả mặt bàn.
Trương Tam mỉm cười nói: “Ta thường nghe nói Uông tổng đà chúa nổi tiếng anh hùng, giết người không gớm tay, sao hôm nay lại ra chiều hoảng hốt như vậy?” Gã nói xong, nâng chén rượu lên toan uống thì đột nhiên nghe có tiếng loảng xoảng, chén rượu rớt xuống đất vỡ tan tành. Sau đó gã nghiêng người đi gục xuống ghế.
Thạch Phá Thiên kinh hãi gọi: “Đại ca! Đại ca làm sao thế?” Chàng lại quay sang hỏi Lý Tứ: “Nhị ca! Huynh ấy… huynh ấy…” Chàng chưa dứt lời, người Lý Tứ cũng từ từ tụt xuống gầm bàn. Thạch Phá Thiên kinh hãi vô cùng, chân tay luống cuống.
Lúc đầu Uông Đắc Thắng còn cho là Trương Tam, Lý Tứ cố ý đóng kịch, nhưng hắn nhìn kỹ thấy Trương Tam mặt đỏ như máu, thở hồng hộc, còn Lý Tứ hai mắt trắng dã, nét mặt xám đen, hiển nhiên đều đã trúng phải kịch độc. Uông Đắc Thắng cả mừng nhưng cũng chưa dám hành động ngay. Hắn giả vờ hỏi: “Hai vị làm sao rồi?”
Chỉ thấy Lý Tứ nằm co quắp dưới gầm bàn, bắt đầu co giật. Thạch Phá Thiên kinh hãi vô cùng, vội đưa tay ra nâng Lý Tứ dậy hỏi: “Nhị ca! Huynh… huynh… trong người khó chịu hay sao?” Chàng có biết đâu vừa rồi Trương Tam, Lý Tứ uống rượu với mình là thứ rượu có chất kịch độc, mỗi người đã uống đến tám chín hớp. Với công lực của họ, nếu chỉ uống ba hớp rồi vận nội lực đề kháng ngay thì không hại gì lắm. Nhưng hai gã uống liền bảy tám hớp vào trong bụng thì lại quá nhiều. Lúc đó hai gã còn miễn cưỡng chống chọi được, lại tự khen công lực của mình lúc này tăng tiến, nên uống nhiều rượu độc như vậy mà ruột không bị quặn đau.
Họ không biết đó là do đã uống thuốc giải phòng ngừa. Thuốc giải này chỉ có thể giữ cho chất độc tạm thời không phát tác ra, chờ nội lực phát huy hóa giải dần dần rượu thuốc để tăng cường nội lực, chỉ có công hiệu trấn áp chứ không có công hiệu giải độc. Nếu không thì uống thuốc giải thì sẽ làm mất đi dược tính của loại rượu thuốc quý như thế này, há chẳng đáng tiếc hay sao? Lúc hai gã chạy nhanh, chất độc trong rượu đồng thời phát tác, biến cố lúc này thật sự là ở ngoài dự định.
Lúc nãy Trương Tam, Lý Tứ thấy trong bụng đau kịch liệt, toàn thân tê liệt. Hai người đều biết tình thế rất là nguy cấp, lập tức vận chân khí của đan điền để cô lập rượu độc trong bụng, mong rằng có thể hóa giải được chút ít, nếu để kịch độc phát ra e rằng trái tim phải ngừng đập ngay. Nhưng chất độc phát tác không sớm không muộn đúng vào lúc này, thật đã giao tính mạng của họ vào tay của người khác. Cho dù họ kiềm chế nổi rượu độc trong bụng, cũng khó mà tránh khỏi động thủ của Thiết Xoa Hội. Hai gã đều nghĩ: “Chúng ta một đời tung hoành thiên hạ, không ngờ hôm nay phải chết tại đây.”
Uông tổng đà chúa của Thiết Xoa Hội cùng bọn Hồ đại ca thấy Trương Tam, Lý Tứ đột nhiên ngã lăn xuống đất, trán toát mồ hôi, da mặt co rúm lại, bộ dạng cực kỳ đau khổ thì hết thảy đều kinh hãi. Mọi người từng bị oai danh hai nhân vật này khủng bố tinh thần, nên tuy thấy cơ hội ngàn năm một thuở mà nhất thời cũng chưa dám vọng động.
Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Đại ca! Nhị ca! Hai vị uống rượu say quá, hay là đột nhiên trở bệnh?” Trương Tam Lý Tứ đều không trả lời, vẫn nửa nằm nửa ngồi, gấp rút vận nội công chống lại chất độc trong bụng. Chỉ trong nháy mắt, trên đầu hai người đều bốc ra những làn khói trắng.
Uông Đắc Thắng thấy trên đầu hai người bốc ra khói trắng liền hiểu ngay, khẽ cất tiếng gọi: “Hồ huynh đệ! Nếu hai vị này không bị tẩu hỏa nhập ma thì cũng bị bạo bệnh đột ngột phát ra. Họ đang gấp rút vận nội công điều trị, các anh em xông vào lẹ đi!”
Hồ đại ca mừng rỡ khôn xiết, nhưng chưa dám xông vào động thủ. Gã cầm lấy một cây Thiết Xoa, vận kình liệng vào Trương Tam nghe vù một tiếng. Trương Tam không còn sức đỡ gạt, chỉ hơi nghiêng người đi một chút. Sột một tiếng vang lên, ngọn thiết xoa đã cắm vào vai hắn, máu tươi bắn ra tung tóe.
Thạch Phá Thiên kinh hãi la lên: “Ngươi… ngươi làm gì vậy? Ngươi dám hai đại ca ta ư?” Bọn Thiết Xoa Hội một là thấy chàng nhỏ tuổi, hai là thấy chàng hoảng sợ tới tay chân bủn rủn, nên chẳng ai coi chàng vào đâu. Chúng thấy Hồ đại ca mới phóng một ngọn Thiết Xoa đã đâm trúng Trương Tam, đối phương không còn sức đỡ gạt mà cũng không tránh được, đều phấn khởi tinh thần.
Bỗng nghe luôn mấy tiếng vun vút, ba ngọn thiết xoa đồng thời nhằm Thạch Phá Thiên phóng tới. Chàng vung tay trái ngang ra, gạt bay mất hai ngọn, còn tay phải chụp lấy ngọn thiết xoa thứ ba. Chàng lạng người đi một cái, đứng chắn phía trước hai gã Trương Tam, Lý Tứ. Đang lúc hỗn loạn, lại năm ngọn thiết xoa nữa phóng tới. Thạch Phá Thiên đã có ngọn thiết xoa trong tay liền vung loạn xạ lên, gạt những cây thiết xoa bay đi chỗ khác. Hai ngọn thiết xoa văng ngược lại, một cây đánh trúng vào đầu một tên hội chúng, một cây đâm thủng bụng một gã khác.
Uông Đắc Thắng thấy nơi này chật hẹp không tiện thi triển thiết xoa, nếu tiếp tục hỗn chiến thế này thì nhiều huynh đệ của mình phải bị thương oan uổng. Hắn liền la lên: “Các anh em dừng tay lại, để ta thu thập tên tiểu tặc này trước rồi sẽ nói chuyện sau.” Dứt lời, hắn đưa hai tay vào dưới ống quần, sờ vào bắp chân một cái rồi lại đứng thắng lên, hai tay đã có thêm một cặp cương xoa rất nhỏ, sáng lấp lánh.
Bọn Thiết Xoa Hội lui hết lại phía sau, đứng tựa vào tường đồng thanh reo hò: “Chúng ta hãy coi tổng đà chúa thu thập tên tiểu tặc này!” Nhà mật thất này ở dưới hầm, thanh âm không truyền ra ngoài được nên nghe rất chói tai.
Uông Đắc Thắng vọt người đi một cái, nhảy đến chỗ Thạch Phá Thiên nhanh như điện chớp. Hai cây cương xoa một trên một dưới chia ra đâm vào tay mặt và sau lưng Thạch Phá Thiên. Chàng không ngờ đối phương tấn công mau lẹ như vậy, la lên một tiếng “úi chà” rồi bước tới một bước, cánh tay mặt và sau lưng đồng thời trúng thiết xoa.
Ngọn thiết xoa chàng cầm trong tay bị rơi xuống đất nghe choang một tiếng. Uông Đắc Thắng thấy võ công đối phương chẳng cao cường gì, cũng yên tâm được vài phần. Miệng hắn hò hét, rồi lại xông vào tấn công như gió táp mưa sa. Cánh tay phải của Thạch Phá Thiên bị thương rất nhẹ, chỗ lưng bị đâm thì đau hơn một chút. Chàng lập tức vừa xông lên trước vừa nghiêng người để tránh né, phóng chưởng ngược lại đánh vào sau lưng đối thủ. Đây là một chiêu mà Đinh Bất Tứ đã dạy chàng.
Uông Đắc Thắng là thủ lĩnh Thiết Xoa Hội, giỏi nhất là công phu tiểu xảo nhảy nhót và đánh giáp lá cà. Hắn thấy Thạch Phá Thiên lúc xuất chiêu tư thế rất khó coi, nhưng khi cất tay cất chân thì kình phong rít lên veo véo, biết chàng nội lực rất lợi hại, trong lòng cũng hơi kiêng nể. Hắn bèn thi triển hết sở học từ trước đến giờ, múa tít cặp cương xoa nhỏ, chiêu nào cũng nhằm đâm vào các huyệt đạo trọng yếu trong người Thạch Phá Thiên.
Trương Tam, Lý Tứ vừa vận nội khí để chống lại chất độc trong bụng, vừa nhìn Thạch Phá Thiên đấu với Uông tổng đà chủ. Họ biết rằng chuyện sống chết của mình hôm nay hoàn toàn quyết định ở chỗ Thạch Phá Thiên có thắng được hay không. Hai người thấy chàng đã bỏ lỡ vô số cơ hội thì cảm thấy vừa tiếc rẻ vừa lo lắng, nhưng lại không dám chú ý quá, sợ nội tức của mình tiêu tan mất.
Thạch Phá Thiên cùng Uông tổng đà chúa chiến đấu một lúc nữa, chân phải của chàng lại bị đâm sượt qua. Chàng la lên một tiếng “úi chà” rồi vung tay phải đánh ra. Uông Đắc Thắng đột nhiên ngửi thấy trong chưởng phong đối phương có mùi hương nồng nặc, rồi đầu óc hắn choáng váng, tức thì ngã lăn xuống đất.
Thạch Phá Thiên kinh ngạc đến ngẩn ra, nhảy lùi lại phía sau. Gã họ Hồ lập tức nhảy tới thì thấy mặt Uông Đắc Thắng tím đen lại, hiển nhiên trúng phải chất kịch độc. Gã để tay lên mũi họ Uông thì không thấy hơi thở nữa, thì ra đã tuyệt khí chết rồi. Hồ đại ca vừa kinh hãi vừa giận dữ gầm lên: “Thạch tiểu tử kia! Ngươi dám dùng chất độc để hại người, ta phải liều mạng với ngươi… Các anh em xông cả vào đi! Tổng đà chúa đã bị thằng giặc con này ám toán chết rồi”
Bọn hội chúng của Thiết Xoa Hội la ó om sòm, đồng thời vung thiết xoa lên lăn xả vào Thạch Phá Thiên. Chàng cứ đứng chắn trước người Trương Tam, Lý Tứ, không dám tránh ra chỗ khác, chỉ sợ mình dời đi một chút là hai vị nghĩa huynh phải mất mạng ngay dưới mấy chục ngọn thiết xoa. Giữa lúc nguy cấp, chàng đoạt được một ngọn thiết xoa rồi sử dụng Kim Ô đao pháp vung lên đỡ gạt. Nội lực chàng vận vào thiết xoa cực kỳ hùng hậu, ai đụng phải đều bị hất văng đi.
Chỉ trong chớp mắt, mười mấy ngọn thiết xoa đã bị Thạch Phá Thiên gạt rời khỏi tay bắn văng đi. Một tên đứng gần nhất, rớt mất thiết xoa liền nhảy xổ vào, vung hai tay lên xòe ngón ra nhằm chụp xuống mặt Thạch Phá Thiên. Chàng thấy gã khí thế hung hãn liền vung tay trái lên gạt nghe “chát” một tiếng! Mười đầu ngón tay gã này vang lên những tiếng lắc cắc, hình như đã gãy hết, người thì lăn xuống dưới đất nằm bất động. Đang lúc hỗn chiến, không ai rảnh rỗi mà xem kỹ gã còn sống hay chết rồi.
Bảy tám tên khác sấn gần vào tấn công Thạch Phá Thiên, kẻ cầm thiết xoa người dùng tay không. Thạch Phá Thiên vẫn không dám lùi lại một bước, hễ thấy ai nhảy xổ tới gần là tung chưởng đánh ra. Không hiểu vì lẽ gì mà mỗi phát chưởng là đối phương lập tức ngã xuống, thật là hiệu nghiệm như thần.
Thạch Phá Thiên đánh ngã được sáu tên, bỗng nghe một tên la lớn: “Độc chưởng của thằng lỏi này ghê gớm vô cùng, các anh em phải cẩn thận!”
Lại có người kêu: “Vương tam ca, Tôn lão lục đều trúng độc chưởng mà chết rồi! Anh em cẩn…” Gã này nói chưa dứt lời đã ngã lăn xuống đất nghe huỵch một tiếng, ngọn thiết xoa cầm trên tay vập mạnh vào mặt. Hiển nhiên gã chưa trúng phải chưởng lực của Thạch Phá Thiên mà cũng trúng độc chết liền.
Bọn hội chúng Thiết Xoa Hội trong đại sảnh đều rất hoảng hốt, tên nào cũng lộ vẻ khủng khiếp đến cùng cực, cứ lùi dần từng bước ra sau. Bỗng những tiếng “binh binh”, “huỵch huỵch” nổi lên không ngớt, người nọ tiếp theo người kia ngã lăn ra. Có kẻ xoay mình muốn chạy trốn, nhưng chỉ chạy được một hai bước rồi cũng ngã ra. Chỉ trong khoảnh khắc, trong đại sảnh có đến hơn trăm tên tráng hán nằm ngổn ngang dưới đất, chỉ còn bốn tên công lực cao nhất còn đứng vững được, vừa đưa tay lên bịt miệng vừa chạy bán sống bán chết ra ngoài. Nhưng vừa chạy tới cửa nhà đại sảnh, cả bốn gã đồng thời lăn ra chết nốt.
Thạch Phá Thiên thấy tình trạng này mà cực kỳ kinh hãi, mắt trợn ngược lên, miệng há hốc ra. So với hôm trước chàng nhảy lầm xuống thuyền xác chết ở đảo Tử Yên, thì lần này còn khủng khiếp gấp mười lần. Hôm trước những xác chết trong thuyền đó là bang chúng bang Phi Ngư đã chết từ trước, còn lần này vô số hội chúng Thiết Xoa Hội đang khỏe mạnh bỗng chết lăn ra trước mắt chàng, thật không hiểu trúng độc hay bị tà ma hãm hại mà chết.
Thạch Phá Thiên sực nhớ tới bọn chúng đã kêu la độc chưởng của mình lợi hại, liền đưa bàn tay lên xem thì thấy trong hai lòng bàn tay đều có một vừng mây đỏ hồng như máu, bên cạnh vừng mây đỏ lại có vô số vết màu lam rất đẹp. Lúc chàng kết bái huynh đệ cùng Trương Tam và Lý Tứ, trong lòng bàn tay đã có những vết xanh đỏ này nhưng rất nhỏ, không hiểu đã lớn như thế này từ bao giờ. Nhưng chàng xem một lúc thì không khỏi buồn nôn, vì nhận ra lòng bàn tay mình trông như lưng con rết độc, lại còn ngửi thấy một mùi kỳ lạ, nửa như thơm tho, nửa như tanh tưởi.
Thạch Phá Thiên quay lại ngó Trương Tam, Lý Tứ thì thấy hai người thần sắc đã bình ổn hơn, khói trắng trên đầu mỗi lúc một dày đặc thêm. Trên vai Trương Tam vẫn còn ngọn thiết xoa cắm vào. Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Ta hãy nhổ ngọn thiết xoa cho đại ca đã rồi sẽ tính.” Chàng liền nắm lấy ngọn thiết xoa từ từ giật ra, một tia máu tươi cũng vọt ra theo. Thạch Phá Thiên vội bịt lấy, rồi xé vạt áo buộc vết thương lại.
Chàng bỗng nghe Trương Tam hít một hơi chân khí rất sâu, chậm chạp lắp bắp: “Ngươi… nghe… ta… nói… theo lời của ta… lời ta…” Gã nói đã nhát gừng mà thanh âm lại rất nhỏ, hết sức khó nghe. Nguyên Trương Tam trúng độc cũng tương tự như Lý Tứ, nhưng vì vết thương trên vai chảy máu nhiều nên chất độc cũng theo ra một ít, nói chuyện được trước.
Thạch Phá Thiên vội gật đầu đáp: “Vâng! Đại ca cứ dặn.”
Trương Tam nói: “Ngươi… tay trái… đặt… vào… lưng… của ta… huyệt… huyệt Linh Đài”. Gã vừa nói vừa phải điều hòa chân khí, nói hết câu phải mất một lúc lâu. Gã từ từ dạy cho Thạch Phá Thiên cách vận nội lực giúp mình ép chất độc trong cơ thể ra ngoài, khi dạy xong thì đầu toát mồ hôi ướt đẫm, mặt đỏ như sắp ứa máu ra.
Thạch Phá Thiên không dám chần chờ, lập tức theo lời dặn bảo của Trương Tam mà hành động. Chàng cởi áo ngoài của gã ra, đặt tay trái vào huyệt Linh Đài, tay phải vào huyệt Đản Trung, thúc đẩy nội lực vào người gã bằng tay trái, lại vận khí vào tay phải để hút chất độc ra ngoài.
Quả nhiên chẳng bao lâu sau, một luồng nhiệt khí nóng bỏng nhỏ như sợi tơ từ người Trương Tam tiết vào lòng bàn tay phải chàng. Cứ như thế, một chưởng đẩy vào, một chưởng hút ra, chàng đang vận dụng toàn lực thì đột nhiên nghe thấy có tiếng bước chân sột soạt, hơn mười người từ ngoài cửa tiến vào. Bọn người này đều cầm thiết xoa trong tay, dĩ nhiên là hội chúng Thiết Xoa Hội.
Đây là bọn canh giữ bên ngoài, chờ đã lâu mà chẳng nghe động tĩnh gì, bèn tiến vào thám thính. Chúng không ngờ anh em đồng hội đã chết hết, đang kinh hãi vô cùng thì nhìn thấy Thạch Phá Thiên cùng Trương Tam, Lý Tứ ngồi dưới đất, hiển nhiên đều bị nội thương. Chúng đồng thanh hô lên một tiếng rồi cầm thiết xoa nhằm ba người đâm tới.
Thạch Phá Thiên đã toan đứng lên chống cự, không ngờ mười mấy người này xông tới trước mặt chàng còn cách chừng hơn trượng thì đột nhiên lảo đảo như say rượu, rồi tên nào cũng bủn rủn nhào xuống, không kêu được tiếng nào đã chết thẳng cẳng. Thạch Phá Thiên kinh hãi, trống ngực đánh thình thình tưởng như trái tim sắp văng ra miệng. Chàng run giọng nói: “Đại ca… Trong nhà này hình như có ác quỷ… Chúng ta đi nhanh thôi.”
Trương Tam lắc đầu. Lúc này chất độc trong người gã đã tiết ra đến phân nửa, bụng không đau kịch liệt như trước. Gã cố gắng nói: “Ngươi… ngươi dùng thủ pháp vừa rồi làm cho… cho nhị ca…”
Thạch Phá Thiên vâng dạ rồi lại theo phương pháp mà Trương Tam đã truyền thụ để giải độc cho Lý Tứ, nhưng lần này một tia khí mát lạnh tiết ra bàn tay chàng. Sau thời gian chừng ăn xong bừa cơm, chất độc trong người Lý Tứ cũng giảm bớt đi nhiều. Chàng lại quay sang hút chất độc cho Trương Tam.
Chàng cứ lần lượt giải độc cho mỗi gã ba lần, tuy chất độc trong nội thể hai người chưa ra hết sạch, nhưng không có gì đáng ngại nữa. Trương Tam, Lý Tứ cũng muốn giữ lượng thuốc còn lại để giúp cho công lực mạnh lên, chỉ cần từ từ dung hòa là được.
Hai gã đảo mắt nhìn quanh thấy xác chết ngổn ngang, lại nghĩ tới tình cảnh nguy hiểm vừa qua thì không khỏi cảm thấy mình rất may mắn. Họ biết vừa rồi Thạch Phá Thiên giải độc cho mình, lại hút không ít chất độc vào bàn tay, chỉ sợ có gì nguy hiểm thì phải tìm phương pháp giải độc cho chàng. Nhưng cử chỉ Thạch Phá Thiên vẫn bình thường chẳng có chi khác lạ, không có vẻ gì là trúng độc. Hai gã không hiểu nổi chàng thiếu niên này đã uống được thứ linh chi tiên thảo gì mà không sợ ngay cả chất độc ghê gớm như vậy, nhưng vừa mừng cho chàng lại vừa âm thầm cảm kích.
Ta nên biết rằng mình Thạch Phá Thiên uống hết quá nửa hai bầu rượu độc, còn Trương Tam, Lý Tứ hai người uống không tới một nửa. Hiện giờ có đến bảy tám phần mười chất độc đã xâm nhập vào cơ thể chàng. Bọn Thiết Xoa Hội sở dĩ gặp phải chưởng phong của chàng liền chết ngay, là bởi chất kịch độc trong người chàng tiết ra ngoài, về sau chất độc lan ra cả sảnh đường, người nào hít phải là mất mạng ngay. Nhưng việc này không dễ giải thích, chàng đã không hỏi thì bọn họ cũng không nhắc lại làm chi.
Trương Tam nói: “Nhị đệ! Tam đệ! Chúng ta đi thôi!” Rồi gã đứng lên đi trước, Lý Tứ cùng Thạch Phá Thiên theo sau. Ba người ra đến bên ngoài đường hầm, bỗng nhìn thấy mấy chục người đứng lấp ló xung quanh, người nào tay cũng cầm thiết xoa.
Bọn này thấy ba người đi ra liền la lên một tiếng rồi kéo lại vây quanh. Một tên quát hỏi: “Tổng đà chúa đâu? Sao chưa ra đây?”
Trương Tam mỉm cười đáp: “Tổng đà chúa còn ở trong đó.”
Người đó lại hỏi: “Thế sao các ngươi lại ra trước?”
Trương Tam lại mỉm cười đáp: “Cái đó thì chính ta cũng không rõ. Các ngươi tự vào đó mà xem thử.” Rồi gã vươn tay nắm lấy ngực tên này, liệng vào trong đường hầm. Bọn kia thấy thế kinh hãi la hoảng, vung thiết xoa phóng tới Trương Tam. Trương Tam không né tránh, lại vươn hai tay ra nắm lấy hai người khác liệng về phía sau.
Thạch Phá Thiên đứng bên cạnh, thấy Trương Tam chỉ thò tay ra đã chộp trúng người rồi ném đi, bất kể đối phương tránh né như thế nào cũng không thoát khỏi. Chàng càng nhìn càng kinh ngạc, nghĩ thầm: “Thì ra võ công đại ca cao cường đến thế. Trước nay mình chưa thấy cao thủ nào hơn được huynh ấy.”
Lý Tứ vẫn đứng chắp hai tay sau lưng, không thèm tiến ra trợ giúp. Trương Tam liệng hết người này đến người kia, lại chọn bắt những người xa nhất trước, thành ra bức bách cả toán phải tiến lại phía cửa đường hầm. Có người la lên: “Trốn đi thôi!” rồi chạy thẳng vào đường hầm. Cả bọn chẳng nghĩ ngợi gì nữa, cũng chạy ùa theo.
Thạch Phá Thiên vội kêu lên: “Trong ấy nguy hiểm lắm! Không thể vào được!” Nhưng bọn kia đời nào chịu nghe lời chàng?
Trong lòng Thạch Phá Thiên nảy sinh ra nhiều mối nghi ngờ. Chàng tự hỏi: “Tại sao bọn Thiết Xoa Hội người nào cũng đột nhiên ngã lăn ra chết? Tại sao đại ca cùng nhị ca lại bị trúng độc đau bụng một cách đột ngột? Tại sao đại ca lại xua bọn người này vào trong đường hầm?” Mấy nghi vấn này, chàng không biết nên hỏi vấn đề nào trước. Chàng đành cất tiếng gọi: “Đại ca, nhị ca…”
Thạch Phá Thiên chưa dứt lời, bỗng nghe Trương Tam hỏi: “Ái chà! Bên kia có ai tới đó?”
Thạch Phá Thiên ngoảnh mặt lại nhìn, chẳng thấy bóng một người nào, liền hỏi lại: “Có ai đến đâu?”
Không thấy Trương Tam trả lời, chàng quay người lại thì không khỏi giật mình kinh hãi. Trương Tam, Lý Tứ đều mất dạng, tưởng chừng như đã ẩn thân trốn ở đâu đó. Thạch Phá Thiên kinh hãi lớn tiếng gọi: “Đại ca! Nhị ca! Hai vị đâu rồi?” Chàng gọi luôn mấy câu vẫn không thấy tiếng người đáp lại.
Xóm chài này toàn là nhà tranh vách đất, Thạch Phá Thiên chạy xộc vào bảy tám nhà tìm kiếm, nhưng nhà nào cũng không có một bóng người. Lúc này mặt trời mới mọc, ánh dương quang rọi tỏ khắp nơi, cả thôn xóm vắng ngắt, chỉ còn lại một mình chàng.
Thạch Phá Thiên nhớ tới cảnh tượng rất nhiều người bị thảm tử dưới đường hầm thì trong lòng lại kinh hãi. Chàng la lên một tiếng rồi ù té chạy ra ngoài.
Thạch Phá Thiên chạy được hơn mười dặm mới bước chầm chậm lại. Chàng đưa lòng bàn tay lên xem thì áng mây hồng cùng những vân xanh biếc đã mất đi đến quá nửa, không ghê gớm như lúc nãy nữa, nên cũng yên tâm được mấy phần.
Chàng chưa biết, khi mình không vận kình vào bàn tay thì chất độc lại theo kinh mạch từ từ chạy trở vào nội thể. Về sau, hằng ngày chàng hành công luyện khí, chất kịch độc cũng tiêu tan dần, công lực cũng nhờ đó mà gia tăng. Phải mất bảy lần bảy là bốn mươi chín ngày, chất độc mới được hóa giải hết.
* * *
Thạch Phá Thiên cứ thuận đường mà đi, chẳng để ý gì đến phương hướng. Chàng đi chừng nửa ngày lại đến bờ sông Trường Giang, bèn tiếp tục theo đường lớn ven sông đi xuống hạ lưu. Vào khoảng giữa trưa Thạch Phá Thiên tới một thị trấn nhỏ, chàng mua mì ăn qua loa rồi lại đi về hướng Đông. Lúc này chàng không có gì phải lo lắng, cứ tùy ý mà cất bước.
Trời đã xế chiều, trước mắt chàng hiện ra một khu rừng, trong rừng ẩn hiện một bức tường màu vàng. Đó là một tòa miếu viện của đạo giáo rất rộng rãi. Từ ngoài cổng đi vào là một con đường lớn và bằng phẳng, lát những phiến đá xanh. Từ trong cửa có hai đạo nhân đội mũ vàng lưng đeo trường kiếm đi ra, vừa thấy Thạch Phá Thiên liền rảo bước tới gần.
Một đạo nhân đứng tuổi hỏi trống không: “Làm gì đó?” Y thấy Thạch Phá Thiên còn nhỏ tuổi, áo quần dơ dáy, quê mùa cục mịch, không có vẻ hào hoa phong nhã, nên lời nói không lịch sự chút nào.
Thạch Phá Thiên chẳng lấy thế làm khó chịu, mỉm cười đáp: “Tại hạ thuận chân đi tới đây chứ không có mục đích gì hết. Đây là chùa của hòa thượng phải không? Ta có ít bạc đây, mua gì cùng ăn với các vị được chăng?”
Đạo nhân tức giận nói: “Tiểu tử hỗn láo này chỉ ăn nói bậy bạ. Ngươi xem ta có phải là hòa thượng không? Đây đâu phải là tiệm bán thức ăn, mua bán gì ở đây? Đi nhanh lên! Nếu lại còn đến miếu ta ăn nói càn rỡ nữa, thì ta phải đánh cho què.” Đạo nhân kia ít tuổi hơn, cầm lăm lầm trường kiếm, vẻ mặt hung dữ. Bộ dạng y như chỉ chực vung kiếm ra giết người.
Thạch Phá Thiên nói: “Tại hạ đói bụng lắm rồi, mới hỏi các vị mua chút gì ăn, chứ không phải đến đây tỉ võ. Có lý đâu lại vô cớ đánh chết các vị?” Chàng nói rồi quay lưng đi.
Đạo nhân trẻ tuổi tức giận nói: “Ngươi nói cái gì?” Rồi cất bước rượt theo.
Thạch Phá Thiên vì thành thực chất phác mà nói vậy. Chàng vừa ở trong đại sảnh của bọn Thiết Xoa Hội, vung tay một cái là chết một người, trong lòng hãy còn hối hận vô cùng. Thực tình chàng không muốn động thủ với người khác, thấy đạo nhân trẻ tuổi đang muốn đánh nhau, chàng sợ lại phải giết người một cách vô duyên vô cớ, nên lập tức co giò chạy thẳng vào rừng.
Thạch Phá Thiên trốn sâu vào trong rừng rồi, vẫn còn nghe tiếng hai đạo nhân cười ha hả. Đạo nhân trung niên nói: “Thằng lỏi này vừa hỗn xược vừa nhút nhát, mình mới la một câu đã cúp đuôi chạy mất.”
Thạch Phá Thiên thấy hai đạo nhân không đuổi theo nữa, mà trời cũng đã gần tối, bèn định kiếm mấy trái cây rừng ăn cho đỡ đói. Nhưng trong khu rừng này chỉ toàn là cây thông cây sam, thuộc họ tùng bách không có trái. Thạch Phá Thiên chạy tới một trái núi nhỏ, quay đầu nhìn bốn phía thì vẫn còn trông thấy tòa miếu của bọn đạo nhân kia dựa vào thành núi, trước sau và hai bên có đến mười mấy gian. Ở một gian nhà phía sau khói trắng vẫn bốc lên nghi ngút, chàng chắc họ đang thổi cơm làm thức ăn.
Thạch Phá Thiên căng mắt lên nhìn, thì thấy gần tòa miếu đó còn có mấy nhà khác nữa. Chàng nhìn thấy khói lửa, trong bụng lại càng thấy cồn cào, thầm nghĩ: “Mấy đạo nhân vừa rồi thật là hung dữ, vừa mở miệng đã muốn đánh nhau. Chi bằng ta lẻn vào gian nhà phía sau, có gì cứ lấy trộm mà ăn, khi bỏ đi sẽ để lại chút ít bạc, cũng không bị gọi là tiểu tặc.” Chàng liền vòng quanh khu rừng đi tới phía sau miếu, lần theo tường nhắm đúng nơi có khói bốc lên mà đi. Bỗng chàng thấy cổng sau miếu chỉ khép hờ, liền lạng người một cái tiến vào.
Lúc này trời đã tối mịt. Thạch Phá Thiên vào trong cổng thấy một cái sân rộng. Chàng nghe có tiếng người lao xao xen lẫn với tiếng nồi chảo khua loảng xoảng. Thức ăn trong chảo nóng kêu xèo xèo, mùi thơm ngào ngạt bay ra tận ngoài này. Chàng vào đến trong sân, liền nhận ra khu này là nhà bếp. Thạch Phá Thiên nuốt nước bọt, theo hành lang từ từ đến trước cửa nhà bếp, núp ở một con đường nhỏ tối thui, nghĩ bụng: “Mình hãy chờ xem cơm canh chín rồi họ đem đi đâu đã. Nếu không có ai thì mình lấy trộm một bát thịt rồi chạy đi, như vậy khỏi phải đánh nhau giết người.”
Một lúc sau quả nhiên có ba người từ trong bếp đi ra, toàn là tiểu đạo sĩ. Người đi trước cầm đèn lồng, còn hai người đi sau mỗi người bưng một cái khay. Mùi thơm ở trong khay tỏa ra bốn phía, hiển nhiên đựng đầy những thức ăn ngon. Thạch Phá Thiên không ngớt nuốt nước bọt, lẹ làng cất bước len lén theo sau.
Ba chú tiểu đạo sĩ theo đường hẻm, qua một dãy hành lang, đi vào sảnh đường. Hai chú đặt cơm canh xuống bàn rồi trở gót đi ra. Còn một chú vẫn ở lại xếp đặt bàn ghế cho ngay ngắn, bày đũa chén ra, có ba bàn tất cả.
Thạch Phá Thiên nấp ngoài cửa sổ, ghé mắt nhìn vào trong sảnh đường không chớp. Sau một lúc khá lâu, chú tiểu đạo sĩ lui vào hậu đường. Chàng không chần chờ nữa, lẹ bước chạy vào sảnh đường, chụp ngay lấy một miếng thịt bò trong bát canh nhét vào trong miệng, hai tay lại bẻ lấy chiếc đùi gà luộc. Miếng thịt bò đút vào miệng vừa nuốt xuống bụng, bỗng chàng nghe ngoài cửa sổ có tiếng người nói: “Sư đệ! Sư muội! Xin mời qua bên này.” Rồi có tiếng bước chân vang dội, mấy người đang đi đến sảnh đường.
Thạch Phá Thiên thầm la: “Hỏng bét!”. Chàng cầm chiếc đùi gà trên tay, trong lúc gấp rút vẫn còn lấy một thỏi bạc đặt trên bàn rồi toan chạy vào sau hậu đường. Nhưng chàng lại nghe thấy tiếng bước chân từ hậu đường đi ra, đưa mắt nhìn quanh sảnh đường một lượt thì thấy trống rỗng không có chỗ nào ấn nấp được. Chàng không nén nổi, thầm kêu khổ: “Chẳng lẽ lại phải đánh nhau ư?”
Thạch Phá Thiên nghe thấy mấy người kia đã đi đến cửa, nhớ lại cảnh bọn Thiết Xoa Hội thảm tử dưới đường hầm mà ghê rợn. Chàng vẫn nghĩ là không chừng có yêu ma quỷ quái ám hại, chưa chắc là họ đã chết về tay mình, nhưng trong lòng vẫn thầm sợ hãi nên không dám thử lần nữa một cách khinh suất. Trước tình thế cấp bách, chàng đưa mắt nhìn lên xà nhà thì thấy trên tường treo một tấm biển lớn. Chàng không kịp nghĩ nhiều, tung mình nhảy vọt lên kèo nhà, chui vào sau tấm biển, ngả người nằm xuống vừa đủ che mình, động tác chỉ trong nháy mắt.
Thạch Phá Thiên vừa nấp sau tấm biển thì cửa sảnh đường mở ra, mấy người tiến vào. Bỗng chàng nghe có tiếng người nói: “Chúng ta là chỗ sư huynh sư đệ, thế mà sư ca cứ làm như khách khứa, bày đặt thết tiệc linh đình làm chi.” Thạch Phá Thiên nghe thanh âm rất quen thuộc, bèn ghé mắt vào khe hở bức hoành phi nhìn xuống, thì thấy bên dưới có đến mười mấy đạo nhân đang mời hai người khách một nam một nữ vào chỗ ngồi. Hai người này chính là vợ chồng Thạch trang chúa ở Huyền Tố Trang. Thạch Phá Thiên vốn rất cảm kích hai vị này, nhất là Thạch phu nhân Mẫn Nhu. Ngày trước bà đã có ơn tặng bạc và dạy chàng kiếm pháp, chàng vừa nhìn thấy bà ta đã cảm thấy ấm áp trong lòng.
Một vị lão đạo sĩ râu tóc bạc phơ lên tiếng: “Sư đệ sư muội từ xa tới đây, ngu huynh mừng rỡ khôn xiết. Đây chỉ là chén rượu nhạt tẩy trần, sao lại dùng đến hai chữ yến tiệc?” Đột nhiên lão ngó thấy trên bàn nước canh rơi vãi tung tóe, một bát lớn chỉ còn lại ít nước, còn đùi gà hay giò heo trong đó đã không cánh mà bay, cạnh đó lại có một thỏi bạc, thật sự không biết nói gì.
Lão đạo sĩ chau mày nghĩ thầm: “Bọn tiểu đạo sĩ sao lại sơ suất thế này? Chúng không chịu trông coi, để mèo nhảy vào ăn vụng hết cả.” Nhưng trước mặt quý khách, lão không tiện đem chuyện nhỏ mọn mà trách mắng thuộc hạ. Giữa lúc ấy lại có một chú tiểu đạo sĩ bưng thức ăn lên. Mọi người nhìn vào bát canh kia đều không khỏi khó chịu, bèn vội thu dọn lại, không ai nói năng gì cả.
Lão đạo sĩ trịnh trọng mời vợ chồng Thạch Thanh ngồi vào thủ tọa. Lão ngồi cạnh đó, rồi nhẹ nhàng phẩy tay áo bào úp lên thỏi bạc, khi tay áo rời khỏi bàn thì thỏi bạc cũng không còn ở đó nữa. Khoảng giữa có một bàn riêng cho ba đạo nhân đứng tuổi. Ngoài ra còn hơn hai mươi đạo nhân ngồi ở bàn ngoài.
* * *
Rượu đã ba tuần, lão đạo sĩ mới nói: “Tám năm trời không gặp, mà sư đệ cùng sư muội còn ra vẻ phong lưu hơn ngày trước. Chỉ có ngu huynh là đã già nua tuổi tác, sức lực hao mòn.”
Thạch Thanh đáp: “Sư ca tuy râu tóc hơi bạc một chút, song tinh thần vẫn còn tráng kiện lắm.”
Lão đạo sĩ nói: “Cái gì mà bạc một chút? Trong lòng ngu huynh lo nghĩ muôn phần, một đêm cũng đủ bạc hết đầu. Giả tỉ sư muội sư đệ đến trước đây ba ngày, thì râu tóc ngu huynh mới hoa râm mà thôi.”
Thạch Thanh hỏi: “Phải chăng sư huynh lo lắng về vụ hai vị sứ giả Thưởng Thiện, Phạt Ác?”
Lão đạo sĩ buông một tiếng thở dài rồi đáp: “Ngoài việc này ra, trong thiên hạ không còn việc thứ hai có thể khiến cho Thiên Hư đạo nhân Thượng Thanh Quán này chỉ trong vài ngày đã già đi hai mươi tuổi.”
Thạch Thanh nói: “Vợ chồng tiểu đệ đang ở Hồ Sào, nghe tin hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác tái xuất giang hồ, võ lâm lại gặp phải một cơn kiếp nạn, liền đi suốt đêm đến đây, chỉ muốn chưởng môn sư ca và các vị sư huynh đệ thương nghị một phương sách hoàn thiện. Thượng Thanh Quán chúng ta gần mười năm nay rất nổi tiếng trong giang hồ. Cây cao hứng gió mạnh, thuyền to chịu sóng lớn, hai sứ giả Thiện Ác này không chừng sẽ chiếu cố đến chúng ta. Vợ chồng tiểu đệ muốn ở lại một vài tháng, giả tỉ hai vị ấy có tới thăm thì vợ chồng tiểu đệ tuy chẳng làm nên trò trống gì, nhưng cũng được vì sư môn mà gắng sức liều mình.”
Thiên Hư khẽ thở dài, rồi móc trong bọc ra hai tấm bài đồng, đặt xuống mặt bàn kêu lách cách.
Thạch Phá Thiên ở ngay trên đầu bọn họ nên nhìn thấy rõ mồn một. Hai tấm bài đồng đó một tấm khắc bộ mặt tươi cười, còn một tấm khắc bộ mặt nhăn nhó, y như những tấm bài đồng mà chàng đã thấy qua. Bất giác chàng cũng hơi run rẩy, tự hỏi: “Sao lão đạo nhân này cũng có hai tấm bài đồng?”
Thạch Thanh “ủa” lên một tiếng rồi nói: “Té ra hai vị sứ giả Thiện Ác đã qua đây. Vợ chồng tiểu đệ ngựa không dừng vó, người chẳng nghỉ ngơi mà cũng tới chậm mất rồi. Việc này xảy ra vào hôm nào? Sư ca… sư ca ứng phó với hai vị như thế nào?”
Thiên Hư đạo nhân hãy còn hoang mang chưa kịp trả lời, thì một đạo nhân đứng tuổi ngồi cạnh lão kính cẩn đáp thay: “Vụ này đã xảy ra ba hôm trước đây. Chưởng môn sư ca là bậc đại nhân đại nghĩa, đã nhận lời lên Hiệp Khách Đảo để ăn cháo Lạp Bát.”
Thạch Thanh nhìn thấy hai tấm bài đồng, lại thấy mọi người vô sự thì mười phần đã đoán được bảy tám. Ông đứng lên, xá dài Thiên Hư đạo nhân rồi nói: “Sư ca một mình gánh hết trọng trách, bảo toàn cho toàn thể Thượng Thanh Quán. Tiểu đệ tự cảm thấy rất hổ thẹn, xin đa tạ trước, lại còn có lời thỉnh cầu không biết có nên nói ra hay không, xin sư ca đừng trách.”
Thiên Hư đạo nhân mỉm cười, đáp lễ rồi nói: “Lúc này mọi sự trong thiên hạ đối với ngu huynh chỉ còn như đám mây nổi. Hiền đệ có điều chi sai bảo, ngu huynh cũng cố gắng làm theo.”
Thạch Thanh nói: “Sư ca nói vậy là ưng thuận rồi phải không?”
Thiên Hư nói: “Đương nhiên là ưng thuận. Nhưng chưa hiểu hiền đệ muốn điều chi?”
Thạch Thanh nói: “Tiểu đệ to gan lớn mật, thỉnh cầu sư ca giao phó chức vụ chưởng môn cùng mọi việc trong Thượng Thanh Quán này cho vợ chồng tiểu đệ cùng nhau gánh vác.”
Thạch Thanh vừa nói câu này, tất cả đạo nhân ngồi trong đại sảnh đều thay đổi sắc mặt. Thiên Hư còn đang trầm ngâm chưa kip trả lời thì Thạch Thanh lại nói tiếp: “Sau khi vợ chồng tiểu đệ giữ chức chưởng môn, sẽ lên Hiệp Khách Đảo để ăn cháo Lạp Bát.”
Thiên Hư đạo nhân bật lên tràng cười ha hả, nhưng trong tiếng cười chứa đựng đầy nỗi đau khổ, cặp mắt long lanh ngấn lệ. Lão nói: “Thịnh tình của hiền đệ, ngu huynh đã hiểu. Nhưng ngu huynh giữ chức chưởng môn ở Thượng Thanh Quán này đã mười mấy năm, khắp võ lâm đều biết cả. Thế mà nay gặp lúc gian nguy lại trốn tránh rút lui, thì mặt mũi của Thiên Hư từ nay đem giấu vào đâu được?”
Thiên Hư nói đến đây, đưa tay nắm lấy tay Thạch Thanh rồi tiếp: “Hiền đệ! Hai người chúng ta tuổi tác chênh lệch cũng nhiều, hiền đệ lại là người ngoài cõi tục nên ít được ở gần nhau, nhưng hiền đệ với ta là chỗ thâm giao. Võ công và nhân phẩm của hiền đệ đúng là hạng nhất trong bản môn, trước nay ngu huynh rất lấy làm kính phục. Giả tỉ không có cái hẹn ước ngày mùng tám tháng chạp này, hiền đệ muốn làm chưởng môn bản phái thì ngu huynh lập tức nhường ngay. Song tình thế hôm nay đã khác rồi, ngu huynh không thể nào ưng thuận chuyện này được. Ha ha, ha ha.” Lão chấm dứt câu nói bằng mấy tiếng cười đầy vẻ thê lương.
Thạch Phá Thiên không hiểu cháo Lạp Bát trên Hiệp Khách Đảo đó là thứ gì, nhưng lúc ở Thiết Xoa Hội từng nghe đại ca nói đến. Hôm nay Thiên Hư đạo nhân vừa mới nhắc tới cái hẹn đi ăn cháo Lạp Bát thì thần sắc biến đổi rất nhiều, chẳng lẽ đó là một thứ kịch độc làm mất mạng hay sao?
Bỗng nghe Thiên Hư lại nói: “Hiền đệ! Ngu huynh một đêm lo nghĩ đến bạc đầu, không phải vì chuyện tham sống sợ chết. Năm nay ngu huynh đã sáu mươi hai tuổi, có chết cũng là thọ lắm rồi. Điều mà ta trằn trọc lo nghĩ, là phải tìm phương pháp để cho võ lâm cứ mười năm khỏi một lần kiếp nạn, đồng thời cố duy trì cho uy danh bản phái khỏi bị tan tành, đó mới thật là việc khó. Ba mươi năm qua, Hiệp Khách Đảo đã ba lần mời dự yến tiệc Lạp Bát, anh hùng hào kiệt các môn các phái các bang các hội, đã đi dự hội đó không ai được trở về. Ngu huynh chết đi cũng không có gì đáng tiếc, nhưng chúng ta cũng nên nghĩ một biện pháp nào cho vẹn toàn mới được.”
Thạch Thanh cũng cười ha hả, nâng chung rượu trước mặt lên uống cạn sạch rồi nói: “Sư ca! Vợ chồng tiểu đệ không biết tự lượng sức mà xin sư ca nhường lại ngôi vị, chẳng phải là để thay mặt sư ca đi chịu chết, mà là đi để thám thính cho biết rõ thực hư. Không chừng ông trời che chở, giúp tiểu đệ khám phá ra được chân tướng sự việc cũng nên. Tuy tiểu đệ không dám nói là có thể trừ mối hại lớn cho võ lâm, nhưng nếu tìm ra những bí hiểm bên trong để võ lâm thiên hạ cùng nhau hiệp sức thương lượng, chẳng lẽ không thể địch nổi bọn người trên Hiệp Khách Đảo hay sao?”
Thiên Hư từ từ lắc đầu nói: “Không phải ngu huynh cứ phô trương cái hay cái giỏi của người mà coi thường hiền đệ. Nhưng phương trượng Diệu Đế của chùa Thiếu Lâm, đạo trưởng Ngu Trà của phái Võ Đang, Thanh Không đạo nhân phái Thanh Thành, ai cũng võ công quán thế, mưu trí hơn người, lại đem theo bao nhiêu tay cao thủ xuất chúng, đi rồi cũng mất tích luôn, chẳng một ai trở về. Ôi! Võ công hiền đệ tuy cao thâm nhưng rốt cuộc… rốt cuộc cũng không thể so sánh với những vị cao nhân tiền bối như phương trượng Diệu Đế, đạo trưởng Ngu Trà.”
Thạch Thanh nói: “Về điểm này thì tiểu đệ cũng đã tự biết, nhưng chuyện thành bại thì một nửa trông vào bản lãnh, còn một nửa tùy theo may rủi. Muốn diệt trừ đại họa này thì chắc là không được, nhưng tìm cách dò xét bí mật thì chưa chắc đã hoàn toàn vô vọng.”
Thiên Hư vẫn lắc đầu nói: “Chức chưởng môn Thượng Thanh Quán từ trăm năm nay đều do đạo nhân chấp chưởng. Sau khi ngu huynh chết, đã chỉ định sư đệ Xung Hư lên tiếp nhiệm. Sau này nếu vợ chồng hiền đệ ra sức chống đỡ cho bản phái khỏi suy vong mai một trong giang hồ, thì ngu huynh cũng lấy làm cảm kích lắm rồi.” Thạch Thanh nói tới nói lui mãi mà Thiên Hư vẫn không chịu ưng theo. Mọi người đều dừng chén, quên cả ăn uống.
Thạch Phá Thiên nhè nhẹ xé chiếc đùi gà bỏ vào miệng, sợ nhai thì phát ra tiếng động nên đành cứ thế mà nuốt chửng vào bụng. Cặp mắt chàng vẫn nhìn chằm chằm xuống dưới qua kẽ hở. Chàng thấy Thạch phu nhân Mẫn Nhu vẫn lắng tai nghe trượng phu cùng Thiên Hư nói chuyện mà không xen vào câu nào. Bà từ từ đưa tay ra cầm lấy hai tấm bài đồng, xem một lúc rồi thuận tay toan cho vào bọc. Xung Hư ngồi cạnh la lên: “Sư muội để xuống.”
Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Để muội giữ giúp sư ca thì cũng vậy thôi.”
Xung Hư đạo nhân thấy dùng lời nói không cản trở được bà, bèn đưa tay toan đoạt lấy. Ngay lúc đó Thạch Thanh đưa đũa ra gắp một miếng lươn, dùng cánh tay phải để cản trở Thiên Hư. Thạch phu nhân rút tay lại để tránh né bàn tay của Xung Hư, vẫn nắm miếng bài đồng mà nói: “Cứ để muội giữ cho.” Bà giơ tay trái lên, bốn ngón tay bật vào cổ tay Xung Hư như gảy đàn tì bà. Xung Hư lập tức phóng chỉ tay trái ra, nhằm điểm vào tay mặt Thạch phu nhân, cổ tay phải của Thạch phu nhân nhẹ nhàng uốn đi tránh né, ngón giữa tay trái búng một luồng kình phong vào trước ngực Xung Hư.
Xung Hư đã nhận lệnh của Thiên Hư đạo nhân tiếp nhiệm chức quán chủ Thượng Thanh Quán, sẽ là chưởng môn của mọi đệ tử cả đạo lẫn tục trong phái này. Ông ta biết vợ chồng Thạch Thanh vì nghĩa khí mà muốn đi chịu nạn, hoàn toàn vì lòng tốt. Nhưng hai tấm bài đồng này lại có quan hệ đến tính mạng hết thảy đạo sĩ trong chùa. Thiên Hư đạo nhân đã tiếp nhận đồng bài, nếu để nó lọt vào tay người khác thì toàn thể quán này có thể mất mạng. Vì thế mà Xung Hư chẳng nể nang gì, cố xuất thủ tranh đoạt với Thạch phu nhân. Lão nhìn thấy ngón tay của đối phương điểm đến, tức thì đưa chưởng ra cản trở.
Cả hai người vẫn ngồi yên không rời khỏi chỗ, mà trong chớp mắt đã giao thủ đến bảy tám chiêu. Cả hai cùng học một thầy, đều sử dụng cầm nã thủ pháp của bản môn, tuy không có ý đả thương đối phương, nhưng ra tay cực kỳ mau lẹ. Cự ly chỉ hơn một thước, họ phải dùng toàn lực để đối phó.
Hai người trước kia là bạn đồng song, từng tỉ thí võ công rất nhiều lần. Nhưng từ khi chia tay tới nay đã hơn hai chục năm, trong thời gian này tuy có mấy lần gặp mặt nhau, nhưng chưa động thủ trở lại bao giờ. Lúc này hai người đột nhiên giao thủ, trong lòng đều ngấm ngầm thán phục nhau.
Trên ba bàn tiệc có tổng cộng mười sáu người, đều quan sát cuộc tỉ đấu không chớp mắt. Bọn này đều là cao thủ bản môn, ai cũng biết mười năm nay vợ chồng Thạch Thanh đã lừng lẫy tiếng tăm trên chốn giang hồ. Họ thấy Mẫn Nhu cùng Xung Hư tranh đoạt bài đồng mà vẻ mặt vẫn thản nhiên, hai người đem những tinh hoa về võ công bản phái phát huy đến mức ly kỳ tuyệt diệu, chẳng ai là không tán thưởng.
Mười mấy chiêu đầu hai người ở vào thế quân bình. Nhưng Thạch phu nhân đang cầm hai tấm bài đồng, tay trái chỉ sử được quyền, không thể thi triển hết những phép cầm nã câu trảo tuyệt diệu của bản môn nên uy lực bị giảm đi rất nhiều. Hai bên trao đổi mấy chiêu nữa, Xung Hư vận nội lực vào tay trái đè vào cánh tay trái Thạch phu nhân, còn năm ngón tay bên phải nhằm chụp tới bài đồng.
Thạch phu nhân biết rằng phen này chắc chắn phải để ông ta nắm lấy thẻ bài. Nếu hai người lại vận nội lực tranh đoạt, thì một là có vẻ khó coi, hai là mình dù sao cũng là nữ nhân, nội lực không bằng Xung Hư sư ca. Bà liền buông tay ra cho hai tấm bài đồng rớt xuống, cố ý giao cho trượng phu.
Thạch Thanh đưa tay ra toan chụp lấy thì đột nhiên hai luồng kình phong xô đến trước mặt, chính là Thiên Hư đạo nhân đã đẩy chưởng lực ra. Tuy hai luồng kình phong này không có vẻ bá đạo, nhưng lực đạo rất nặng, nếu không chống đỡ tất bị trọng thương. Giả tỉ lúc này Thạch Thanh đã cầm bài đồng vào tay rồi thì cũng đành để rớt xuống, ông chỉ còn cách phóng chưởng ra đỡ.
Giữa lúc Thạch Thanh chậm tay một chút, người ngồi dưới Thiên Hư là Chiếu Hư đạo nhân đã thò tay ra chụp lấy đồng bài. Bài đồng vừa lọt vào tay Chiếu Hư, vợ chồng Thạch Thanh cùng Thiên Hư, Xung Hư đều nổi lên cười ha hả rồi dừng tay lại.
Xung Hư và Chiếu Hư khom lưng cúi mình thi lễ nói: “Sư đệ, sư muội! Đừng trách nhé!”
Vợ chồng Thạch Thanh đứng lên đáp lễ. Thạch Thanh nói: “Sao hai vị sư huynh lại nói vậy? Chính vợ chồng tiểu đệ mới là người lỗ mãng. Chưởng môn sư huynh nội lực thâm hậu đến như vậy, còn gấp mười lần tiểu đệ. Chuyến đi này dĩ nhiên nguy hiểm, nhưng sư huynh muốn giữ mình rút lui thì chưa hẳn đã là vô vọng.” Thạch Thanh vừa rồi đối chưởng với Thiên Hư, biết ngay nội lực chưởng môn sư huynh còn thâm hậu hơn mình rất nhiều.
Thiên Hư nhăn nhó cười nói: “Ngu huynh chỉ mong được như lời sư đệ. Xin mời, xin mời.” Rồi lão nâng ly uống một hơi cạn sạch.
Thạch Phá Thiên thấy Mẫn Nhu muốn đoạt bài mà không được. Chàng cũng không biết hai tấm bài đồng đó có quan hệ gì, nhưng nhớ Thạch phu nhân đã có nhiều ơn huệ với mình, bèn nghĩ bụng: “Đạo sĩ kia đã đoạt mất bài đồng của phu nhân. Để lát nữa ta sẽ đi đoạt hai tấm đồng bài đó lại cho bà.”
Bỗng thấy Thạch Thanh đứng lên nói: “Rất mong sư ca đi chuyến này được bình yên trở về. Tiểu đệ có thằng con bị người ta bắt đi, bây giờ phải lo đi cứu, phen này không thể đoàn tụ lâu ngày cùng các vị sư huynh sư đệ. Vậy tiểu đệ xin cáo từ.”
Các đạo nhân nghe Thạch Thanh nói vậy đều giật mình. Thiên Hư nói: “Nghe nói lệnh lang của hiền đệ vào làm môn hạ phái Tuyết Sơn. Oai danh của vợ chồng hiền đệ cộng thêm vào thanh thế của phái Tuyết Sơn, vậy mà có kẻ to gan lớn mật dám cướp lệnh lang đem đi ư?”
Thạch Thanh thở dài nói: “Câu chuyện này dài lắm. Đại khái là tiểu đệ bất tài vô đức, không dạy dỗ con đến nơi đến chốn, nên nó đã có những hành động càn rỡ. Tiểu đệ không dám trách ai.” Ông thị phi hết sức phân minh, tuy Huyền Tố Trang của mình đã bị Bạch Vạn Kiếm đốt cháy rụi, nhưng cũng tự biết tai vạ này là do mình gây nên, tuyệt không oán trách phái Tuyết Sơn.
Xung Hư đạo nhân dõng dạc nói: “Sư đệ! Sư muội! Kẻ địch đã cướp lệnh lang của các vị, thì cũng là coi Thượng Thanh Quán chẳng vào đâu. Bất luận hắn là một nhân vật ghê gớm thế nào, dù ngu huynh chẳng được tích sự gì, nhưng cũng quyết giúp hiền đệ một tay.” Y ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Vợ chồng sư đệ đã bị người ta bắt mất con mà vẫn quay về sư môn để chung lo kiếp nạn, đủ thấy tình nghĩa thâm trọng vô cùng. Chẳng lẽ bấy nhiêu đạo sĩ mũi trâu chúng ta lại không có lòng dạ con người hay sao?”
Xung Hư nói vậy, vì y tưởng đối thủ đã chẳng sợ vợ chồng Thạch Thanh, lại coi thường cả phái Tuyết Sơn người nhiều thế mạnh, thì tất phải là một nhân vật vô cùng lợi hại. Y chưa biết người cướp con Thạch Thanh lại chính là nhân vật phái Tuyết Sơn.
Thạch Thanh một là không muốn phô bày chuyện xấu xa của nhà mình, hai là không muốn Thượng Thanh Quán đang lâm đại nạn lại kết oán với phái Tuyết Sơn cho thêm cường địch, bèn nói: “Thịnh tình của các vị sư huynh khiến cho vợ chồng tiểu đệ cảm kích vô cùng. Việc này tạm thời còn chưa rõ ràng, vậy chờ khi tìm ra manh mối, nếu vợ chồng tiểu đệ thế cô không đủ sức, nhất định sẽ về cầu cứu các vị sư huynh sư đệ giúp đỡ một tay.”
Xung Hư nói: “Thế cũng được. Nhưng khi ấy hiền đệ hiền muội bất tất phải thân hành đến, chỉ đưa tin lại thì Thượng Thanh Quán sẽ gửi lực lượng đến mà trợ giúp.”
Vợ chồng Thạch Thanh chắp tay ngỏ lời cảm tạ, nhưng trong bụng lại âm thầm đau khổ vô cùng. Họ cùng nghĩ: “Dù phái Tuyết Sơn có đem con mình ra băm vằm mổ xẻ thì vợ chồng ta cũng phải ráng chịu, quyết chẳng dám đến Thượng Thanh Quán mà xin viện trợ.”
Vợ chồng Thạch Thanh cáo từ ra đi. Bọn Thiên Hư, Xung Hư và toàn thể đạo nhân đều tiễn chân ra ngoài sảnh đường. Thạch Phá Thiên thấy mọi người đi xa rồi, liền chui ra khỏi bức hoành. Chàng xoay mình bám vào xà nhà rồi nhảy xuống mé ngoài tường, bụng bảo dạ: “Thạch trang chúa và Thạch phu nhân nói là có cậu con bị người cướp đi, chẳng hiểu kẻ nào đã hạ thủ? Tấm bài đồng kia chỉ là một món đồ chơi, cướp lại hay không cũng chẳng quan hệ gì. Xem ra sư huynh sư muội của họ rất có tình nghĩa, giành nhau đồng bài chỉ là đùa giỡn mà thôi. Thạch phu nhân đối với mình rất tốt, mình nên giúp bà ta đi tìm kiếm cậu con là hơn. Mình phải đến hỏi bà ấy trước, xem con trai của bà chừng bao nhiêu tuổi, hình dạng thế nào, bị ai cướp đi.”
Nghĩ tới đó, chàng lập tức nhảy vọt lên đứng trên ngọn cây, nhìn về phía đông bắc thấy mười mấy chiếc đèn lồng xếp thành hàng hai. Quần đạo Thượng Thanh Quán đang tiễn chân vợ chồng Thạch Thanh ra khỏi cửa sơn môn. Thạch Phá Thiên nghĩ thầm: “Vợ chồng Thạch trang chúa cưỡi ngựa đi rất mau, vậy mình phải cố gắng đi tắt chặn đầu mới được.” Chàng nhìn rõ đường đi của vợ chồng Thạch Thanh, rồi từ trên cây nhảy xuống, theo sườn núi mà rượt theo.
Chàng chưa chạy ra khỏi cổng Thượng Thanh Quán đã nghe có tiếng người quát: “Ai đó? Đứng lại!” Nguyên lúc Thạch Phá Thiên trốn sau bức hoành, chàng ngừng hơi nín thở nên chẳng phát ra mảy may tiếng động, mọi người trong sảnh đường đều chưa phát giác ra. Nhưng bây giờ chàng chạy nhanh quá, mà quần đạo Thượng Thanh Quán toàn là những tay cao thủ, lập tức biết ngay có người ngoài đến. Ban đầu họ vẫn làm ngơ, chờ cho vợ chồng Thạch Thanh lên ngựa đi xa rồi mới chia nhau chạy đi đón đường.
Trong bóng tối, Thạch Phá Thiên bất thình lình thấy kiếm quang vọt lên, rồi hai đạo nhân chống kiếm đứng chắn trước mặt. Ánh sao lờ mờ chiếu vào lưỡi kiếm lóe lên một chút, Thạch Phá Thiên tinh mắt nhận ra người đứng bên trái chính là Chiếu Hư. Trong bụng mừng thầm, chàng cất tiếng hỏi: “Chiếu Hư đạo chưởng đấy ư?”
Chiếu Hư sửng sốt đáp: “Đúng vậy. Các hạ là ai?”
Thạch Phá Thiên đưa tay phải ra nói: “Đưa hai tấm bài đồng cho tại hạ.”
Chiếu Hư tức giận quát lên: “Ta cho ngươi cái này!” Rồi y vung kiếm lên chém vào chân chàng. Giới luật của Thượng Thanh Quán rất nghiêm ngặt, không được giết càn người vô tội. Hiện y chưa biết rõ lai lịch đối phương như thế nào, tuy Thạch Phá Thiên vừa mở miệng đã đòi đồng bài là phạm vào một điều tối kỵ, nhưng chiêu kiếm này của Chiếu Hư cũng chưa dám đâm vào chỗ trọng yếu trên người Thạch Phá Thiên.
Thạch Phá Thiên né người đi tránh khỏi, đưa tay phải chụp xuống vai đối phương. Chiếu Hư thấy thủ pháp Thạch Phá Thiên rất nhanh nhạy liền vung thanh kiếm chuyển hướng nhằm vào vai phải chàng. Thạch Phá Thiên vội cúi đầu xuống luồn dưới lưỡi kiếm, nhưng sợ lưỡi kiếm hớt vào đầu mình nên bất giác vận khí vào tay phải giơ lên đỡ.
Chiếu Hư bỗng thấy mùi tanh xông thẳng vào mũi, đầu óc choáng váng, lập tức ngã lăn ra đất. Thạch Phá Thiên còn đang đứng ngẩn ngơ thì đạo nhân thứ hai đã phóng kiếm đến sau lưng chàng. Chàng tự biết bàn tay của mình quả là quái dị, cứ động thủ là giết người, không dám vung chưởng ra phản kích nữa, vội nhảy vọt về phía trước. Roạt một tiếng vang lên, vạt áo sau lưng chàng đã bị mũi kiếm của đạo nhân kia quét rách một đường. Y thấy Chiếu Hư hôn mê ngã lăn ra bất tỉnh, không hiểu đối phương đã dùng cách nào để hạ thủ, vì nóng lòng cứu đồng đạo nên vội vã phóng kiếm ra đâm vào Thạch Phá Thiên.
Thạch Phá Thiên nhảy xéo đi để tránh né, trong lúc gấp rút chàng vội lượm lấy thanh trường kiếm của Chiếu Hư đã quăng xuống đất vừa rồi. Chàng thấy kiếm thế của đối phương rất lợi hại, bèn dùng kiếm làm đao để thi triển Kim Ô đao pháp. Nghe choang một tiếng, chàng đã vung kiếm lên gạt lưỡi kiếm của đối phương phóng tới. Nội lực trong tay Thạch Phá Thiên thật là kỳ lạ, đạo nhân không nắm chặt được, thanh kiếm văng đi mất.
Võ công Thượng Thanh Quán không chỉ sở trường về kiếm pháp, mà cầm nã thủ pháp phái này cũng vào hạng nhất võ lâm. Đạo nhân này mất binh khí mà vẫn không sợ hãi chút nào, vọt người nhảy xổ vào Thạch Phá Thiên, hai bàn tay biến thành trảo, nhằm đâm vào những huyệt đạo trọng yếu trên ngực và bụng chàng. Ta nên biết rằng đạo nhân tay không mà đối địch với Thạch Phá Thiên cầm kiếm trong tay, cần phải đánh giáp lá cà khiến đối phương khó bề thi triển vũ khí, mới có cơ thủ thắng được.
Thạch Phá Thiên la lên: “Không được!” Chàng vung tay trái đẩy đạo nhân ra, nhưng lúc ấy nội lực chàng đã phát huy, chất kịch độc đã ra đến lòng bàn tay. Đạo nhân này vừa bị đẩy, lập tức ngã lăn xuống đất nằm co rúm lại.
Thạch Phá Thiên vừa dậm chân vừa la hoảng: “Trời ơi! Thật tình ta không muốn hại ông.” Bỗng chàng nghe tiếng la ó khắp xung quanh, quần đạo bốn mặt đang tiến gần vào. Thạch Phá Thiên vội thò tay vào sờ trong bọc Chiếu Hư, quả nhiên có hai tấm bài đồng. Chàng liền lấy ra bỏ vào túi mình, rồi co giò chạy về hướng vợ chồng Thạch Thanh đã đi trước.
Thạch Phá Thiên chạy một mạch mười mấy dặm, mà vẫn không thấy tiếng vó ngựa chi hết thì tự hỏi: “Chẳng lẽ Thạch trang chúa và Thạch phu nhân đi nhanh đến thế ư? Mình đuổi nữa chưa chắc đã ăn thua gì. Hay là mình đuổi không đúng đường, hai ông bà không đi theo con đường lớn này ư?” Tuy chàng nghĩ vậy nhưng vẫn tiếp tục rượt theo, thêm mấy dặm nữa thì đột nhiên nghe tiếng ngựa hí. Chàng liền ngẩng đầu nhìn về phía phát ra thanh âm thì thấy một đôi ngựa buộc vào dưới gốc cây liễu. Đôi ngựa này một đen một trắng, đúng là ngựa của vợ chồng Thạch Thanh.
Thạch Phá Thiên mừng rỡ vô cùng, móc túi lấy hai tấm bài đồng ra cầm sẵn trong tay. Chàng toan cất tiếng gọi thì đột nhiên nghe thanh âm Thạch Thanh từ xa vọng lại: “Sư muội! Tiểu tặc này cứ nấp nánh rượt theo chúng ta hoài, chắc là có lòng đen tối. Chi bằng chúng ta đuổi gã đi thôi.”
Thạch Phá Thiên vừa nghe thấy đã giật mình kinh hãi, tự hỏi: “Hai người không thích ta đi theo hay sao?” Tuy chàng nghe thấy thanh âm Thạch Thanh nhưng chưa nhìn thấy hai người. Chàng chỉ sợ Thạch phu nhân động thủ đánh chàng, nếu chàng lâm vào tình trạng bắt buộc phải trả đòn, không cẩn thận làm chết Thạch phu nhân thì còn ra thế nào? Chàng vội ẩn mình vào trong đám cỏ rậm, định bụng nếu Mẫn Nhu sấn lại thì chàng sẽ liệng bài đồng cho bà, rồi xoay người chạy trốn.
Bỗng nghe đánh vù một tiếng, một bóng người đứng nấp phía sau cây lớn ở bên trái nhảy vọt ra, tay cầm trường kiếm trỏ vào bụi cỏ rậm, quát lên: “Thằng lỏi này! Ngươi theo bọn ta làm chi? Ra đây mau!” Bóng người đó chính là Mẫn Nhu.
Thạch Phá Thiên toan lên tiếng thì từ trong bụi cỏ rậm vọt ra ba tiếng veo véo, có người phóng ám khí bắn tới Mẫn Nhu. Bà rung thanh trường kiếm trong tay một cái, gạt được ám khí rớt xuống, thì một hán tử áo xanh từ trong bụi rậm nhảy ra. Gã cầm đơn đao trong tay, nhằm bổ xuống Mẫn Nhu. Diễn biến này hoàn toàn ngoài dự tính của Thạch Phá Thiên, chàng chưa biết trong bụi cỏ rậm này lại có người mai phục.
Thân thủ tên này cực kỳ nhanh nhẹn, múa thanh đơn đao rít lên veo véo. Mẫn Nhu chỉ vung kiếm đỡ gạt chứ không trả đòn. Thạch Thanh cũng từ sau gốc cây chạy ra, trường kiếm vẫn cài sau lưng. Ông đứng xem hai bên động thủ một lúc rồi lên tiếng: “Huynh đệ! Ngươi là đồ đệ của Lô Thập Bát trên núi Thái Sơn phải không?”
Hán tử cũng quát lại: “Phải thì đã sao?” Tay gã vẫn tới tấp ra chiêu không chậm lại chút nào.
Thạch Thanh mỉm cười nói: “Lô Thập Bát tuy chưa có giao tình gì với chúng ta, nhưng cũng chẳng có gì xích mích. Người theo dõi chúng ta sáu bảy dặm đường là có dụng ý gì?”
Hán tử nói: “Ta không rảnh để nói chuyện với ngươi…” Tuy Mẫn Nhu ra tay hời hợt, trông bề ngoài chẳng có chi mãnh liệt, nhưng bà đã bức bách hán tử phải luống cuống chân tay.
Thạch Thanh cười nói: “Đao pháp của Lô Thập Bát còn cao thâm hơn bọn ta, nhưng ngươi chưa học được tới ba phần mười bản lãnh của sư phụ, thì hạ đao dừng tay lại là hơn.” Thạch Thanh vừa dứt câu này thì Mẫn Nhu phóng kiếm đâm trúng vào cổ tay hán tử. Bà lại lạng người chuyển đến sau lưng gã, xoay ngược đốc kiếm điểm trúng vào huyệt đạo gã.
“Choang” một tiếng vang lên, thanh đơn đao trong tay hán tử rớt xuống đất, đại huyệt sau lưng lại bị phong tỏa không nhúc nhích được nữa. Thạch Thanh mỉm cười nói: “Tên họ bằng hữu là gì?”
Gã hán tử này hết sức quật cường, tuy bị kiềm chế mà không tỏ vẻ gì khiếp sợ, vẻ mặt vẫn hung hăng. Gã nói: “Ngươi muốn giết thì cứ việc giết, hà tất phải hỏi nhiều làm chi?”
Thạch Thanh mỉm cười nói: “Bằng hữu không chịu nói thì cũng chẳng quan hệ gì, nhưng lén gia nhập vào bang hội nào khác, chẳng lẽ không sợ lệnh sư biết ra hay sao?”
Hán tử lộ vẻ kinh dị hỏi lại: “Sao ngươi lại biết?”
Thạch Thanh đáp: “Tại hạ cùng lệnh sư là Lô Thập Bát lão sư vốn chẳng có hiềm khích gì. Mà cho dù ông ấy có phái người theo dõi hành tung vợ chồng tại hạ, ha ha, chẳng giấu gì ông bạn, lệnh sư cũng coi trọng bọn tại hạ đôi chút, quyết chẳng khi nào phái ông bạn làm chuyện này.”
Hiển nhiên là Thạch Thanh muốn bảo với hán tử này rằng võ công gã còn kém lắm, dĩ nhiên sư phụ gã không sai gã đi làm một việc quá khả năng. Hán tử mặt tím bầm, may mà trong đêm tối không ai nhìn rõ.
Thạch Thanh đưa tay vỗ vai gã hai cái rồi nói: “Vợ chồng tại hạ làm việc gì cũng quang minh lỗi lạc, không cần lén lút, dù ai hay biết cũng chẳng sợ gì. Ngươi muốn biết hành tung vợ chồng ta, thì ta cũng không ngại nói cho ngươi biết. Vừa rồi chúng ta lên Thượng Thanh Quán thăm Thiên Hư đạo trưởng. Ngươi cứ về nói cho lệnh sư biết, Thạch Thanh và Mẫn Nhu hồi còn nhỏ tuổi đã từng học võ ở chùa Thượng Thanh, Thiên Hư đạo trưởng là sư huynh chúng ta. Hiện giờ chúng ta định đến thành Lăng Tiêu trên núi Tuyết Sơn để bái yết chưởng môn phái Tuyết Sơn là Uy Đức tiên sinh. Ngươi còn điều gì muốn hỏi thì cứ việc nói ra.”
Hán tử kia thấy tứ chi tự nhiên hết tê dại, hiển nhiên Thạch Thanh vỗ vai hai cái là để giải huyệt đạo cho mình. Gã không khỏi sinh lòng kính phục, chắp tay nói: “Thạch trang chúa lấy nhân nghĩa đối đãi với mọi người, tiếng đồn quả đã không sai. Vãn bối tự biết mình mạo phạm.”
Thạch Thanh đáp: “Nói quá lời rồi.”
Hán tử cũng không dám lượm thanh đơn đao dưới đất lên, nhìn về phía Thạch phu nhân chắp tay xin lỗi: “Vãn bối thật là đắc tội.” Rồi gã trở gót đi luôn.
Thạch phu nhân cũng khoanh tay đáp lễ. Hán tử vừa đi được mấy bước thì Thạch Thanh lại lên tiếng: “Bằng hữu! Bang chúa của quý bang đã có tung tích gì chưa?”
Hán tử giật mình kinh hãi, quay lại hỏi: “Ông… ông biết cả rồi ư?”
Thạch Thanh khẽ thở dài nói: “Ta chưa biết. Chưa có tin tức phải không?”
Hán tử lắc đầu nói: “Chưa có tin tức gì.”
Thạch Thanh nói: “Vợ chồng ta cũng đang muốn kiếm nó.” Ba người nhìn nhau một lúc, rồi hán tử lại trở gót ra đi.
Mẫn Nhu đợi hán tử đi xa rồi mới nói: “Sư ca! Phải chăng gã là người bang Trường Lạc?” Thạch Phá Thiên nghe đến ba chữ “bang Trường Lạc”, bất giác chấn động trong lòng.
Thạch Thanh nói: “Lúc gã xoay mình bước đi vạt áo bay lên, ta nhìn thoáng qua góc vạt áo bào có thêu một đóa hoa vàng, nhưng không rõ lắm. Ta buột miệng hỏi câu đó thì quả nhiên không lầm. Gã… gã theo dõi chúng ta thật ra cũng chỉ vì… Ngọc nhi. Nếu mình sớm biết vậy thì chẳng làm khó dễ gã.”
Mẫn Nhu nói: “Bọn họ… trong bang của họ đối với Ngọc nhi cũng rất trung thành”.
Thạch Thanh nói: “Ngọc nhi đã bị Bạch Vạn Kiếm bắt đi, Trường Lạc bang tất nhiên cố gắng phái người đi tìm kiếm.”
Mẫn Nhu hỏi: “Bang Trường Lạc người nhiều thế lớn, ở đâu cũng có tai mắt mà sao lại không được tin tức gì?” Ngừng một lát, bà lại hỏi bằng một giọng thê lương: “Sao sư ca biết là… họ vẫn chưa được tin tức gì?”
Thạch Thanh nắm lấy tay vợ, kéo bà cùng sánh vai ngồi xuống gốc cây liễu, nói bằng một giọng ấm áp: “Nếu bọn họ đã được tin tức của Ngọc nhi, tất không phái người theo dõi hành tung những nhân vật giang hồ. Vừa rồi gã đệ tử của Lô Thập Bát vô cớ theo dõi bọn ta, thì ngoài việc dò la tung tích bang chúa gã còn có chuyện gì nữa?”
Chỗ vợ chồng Thạch Thanh ngồi chỉ cách bụi cỏ rậm mà Thạch Phá Thiên ẩn náu không đầy hai trượng, nên tuy hai vợ chồng nói chuyện thì thầm mà chàng cũng nghe rõ mồn một. Kể ra thì bản lãnh của hai vợ chồng Thạch Thanh đáng lý phải phát hiện Thạch Phá Thiên từ lúc chàng còn ở đằng xa chạy tới thì mới phải. Nhưng lúc đó cả hai người đang chú ý đến gã hán tử theo dõi hành tung mình ở phía sau, vả lại nội công Thạch Phá Thiên rất cao thâm, chân bước không phát ra thanh âm khó mà phát giác. Khi hán tử kia đi rồi, hai người lại không ngờ trong bụi cỏ rậm còn có một người khác.
Thạch Phá Thiên nghe hai vợ chồng Thạch Thanh nói những gì là bang chúa bang Trường Lạc, rồi lại bị Bạch Vạn Kiếm bắt đi, thì tưởng như họ đang nói về chính mình. Nhưng lúc chàng nghe hai ông bà nói đến Ngọc nhi nào đó, thì biết là không phải mình rồi, thế là thân thế mình vẫn còn nguyên vẹn những nghi ngờ. Bây giờ đang núp trong bụi cỏ mà đột nhiên xuất hiện thì không khỏi bẽ bàng, nên chàng cứ đánh bạo núp trong đó lắng nghe cho biết rõ.
Lúc này bốn bề chỉ còn tiếng côn trùng rên rỉ, ngọn gió lay động đầu cành, vợ chồng Thạch Thanh ngồi yên không nói chuyện nữa. Thạch Phá Thiên thì sợ bị bại lộ hành tung, nín hơi không dám thở mạnh. Hồi lâu, chàng mới nghe Thạch phu nhân buông tiếng thở dài, rồi tiếp theo là tiếng khóc thút thít rất khẽ.
Thạch Thanh chậm rãi lên tiếng: “Vợ chồng mình bôn tẩu giang hồ làm điều nghĩa hiệp, suốt đời chưa có chuyện gì trái với lương tâm. Nhất là mấy năm nay vì muốn giữ an toàn cho Ngọc nhi, mình lại càng cố gắng làm nhiều việc thiện. Nhưng nếu ông trời thật sự muốn bắt vợ chồng mình tuyệt tự, thì sức người không thể thắng trời được. Huống chi Ngọc nhi là đứa con hư đốn, thà chẳng có con còn hơn. Chúng mình coi như chưa sinh ra nó là xong.”
Mẫn Nhu nhỏ nhẹ nói: “Ngọc nhi tuy bướng bỉnh từ thuở nhỏ nhưng nó… nó cũng là bảo bối của chúng ta. Cũng vì Kiên nhi chết thảm về tay người nên chúng ta lại càng thương yêu Ngọc nhi hơn, mới gây nên cái vạ ngày nay. Nhưng… nhưng tiểu muội cũng chẳng oán thán gì. Có điều ngày đó trong tòa miếu nhỏ, tiểu muội thấy nó cũng chưa đến nỗi hư hỏng cùng cực. Giả tỉ tiểu muội không lỡ tay đâm nó một kiếm, thì không chừng… không chừng…” Bà nói tới đây lại nghẹn ngào, trong lòng đau xót không biết đến đâu mà kể.
Thạch Thanh nói: “Ta vẫn khuyên muội đừng đau lòng vì việc đó. Giả tỉ hôm ấy chúng mình có cứu được nó, thì cũng khó mà đảm bảo được bọn họ không đoạt lại. Mà chuyện này cũng kỳ lạ, bọn người phái Tuyết Sơn đột nhiên biến đi đâu cả. Trên giang hồ, các phái võ Trung Nguyên cũng chẳng một ai biết tin tức. Sư muội! Sáng mai chúng ta khởi hành đến thành Lăng Tiêu. Tới đó thì tốt xấu mới biết rõ ràng.”
Mẫn Nhu nói: “Nếu bọn mình không tìm được mấy tay viện thủ đắc lực, thì làm sao dấn thân vào chỗ đầm rồng hang cọp như thành Lăng Tiêu mà cứu Ngọc nhi ra được?”
Thạch Thanh thở dài nói: “Việc cứu người đâu thề dễ dàng được. Nếu dọc đường không cứu được, thì Ngọc nhi về đến thành Lăng Tiêu chẳng khác gì dê vào miệng cọp, khó mà sống sót.”
Mẫn Nhu không đáp. Bà lấy khăn tay lau nước mắt, một hồi lâu mới nói: “Tiểu muội xem chừng vụ này cũng không phải hoàn toàn là lỗi của Ngọc nhi. Sư ca cứ xem Ngọc nhi sử Tuyết Sơn kiếm pháp thô thiển như vậy, đủ biết phái đó không truyền thụ võ công cho nó đến nơi đến chốn. Mặt khác Ngọc nhi là đứa nhỏ cao ngạo, vì hiếu thắng mà nó nhất định đã kết oán với nhiều người. Mấy năm nay chắc nó cũng đã khổ lắm rồi.” Nói đến đây, trong âm thanh của bà lại lẫn vào những tiếng khóc.
Thạch Thanh nói: “Chuyện này là tại ta lầm lẫn, bây giờ rất hối hận với muội. Ngày đó ta chủ trương đưa nó đến học võ nghệ phái Tuyết Sơn, tuy nàng không nói ra, nhưng ta cũng biết lòng nàng rất quyến luyến không nỡ xa nó. Ta không ngờ Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý nổi tiếng hào kiệt, lại là chỗ thâm giao với mình, mà lại đối xử với Ngọc nhi như thế.”
Mẫn Nhu nói: “Việc này trách sư ca thế nào được? Sư ca đưa Ngọc nhi lên thành Lăng Tiêu cũng hoàn toàn vì tiểu muội. Dù sư ca chẳng nói ra, nhưng tiểu muội đâu phải là không biết? Muốn báo thù cho Kiên nhi thì một mình tiểu muội không đủ sức, mà đến lúc tối hậu sư ca lại không tiện động thủ. Hơn nữa kẻ đối đầu lại biết rõ võ công bản môn, nhất định nó phá giải được. Nếu Ngọc nhi học được kiếm pháp phái Tuyết Sơn thì mẹ con tiểu muội hợp lực, có thể khắc chế được kẻ địch. Ngờ đâu… ngờ đâu… ôi!”
Thạch Phá Thiên nghe hai người nói chuyện, phần lớn chẳng hiểu gì, chỉ nghĩ bụng: “Thạch phu nhân đang thương nhớ con trai đến thế. Dường như con bà bị phái Tuyết Sơn bắt về thành Lăng Tiêu, chi bằng ta theo tới đó để giúp hai vị cứu người. Rõ ràng bà vừa muốn kiếm vài người giúp sức.”
Chàng còn đang ngẫm nghĩ, bỗng nghe từ xa văng vẳng có tiếng vó ngựa chừng hơn mười con chạy tới rất nhanh. Vợ chồng Thạch Thanh cũng nghe thấy, không nói chuyện về đứa con nữa, ngồi yên chờ đợi.
* * *
Chẳng mấy chốc tiếng vó ngựa đã tới gần, rồi có tiếng người la lên: “Đây rồi.” Một người khác gọi to: “Thạch sư đệ! Mẫn sư muội! Chúng ta có mấy lời muốn nói!”
Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu nhận ra thanh âm Xung Hư, đều lấy làm kinh ngạc, nhảy vọt ra. Thạch Thanh lên tiếng: “Xung Hư sư huynh? Trong quán có chuyện gì chăng?”
Bỗng thấy bọn Thiên Hư, Xung Hư cùng mười mấy sư huynh đệ đều cỡi ngựa đến nơi. Trong bọn có hai đạo nhân phải ôm một người trong lòng, lúc này trời chưa sáng nên không nhìn rõ hai người được ôm là ai. Xung Hư hơi thở còn hổn hển đã lớn tiếng gọi: “Thạch sư đệ! Mẫn sư muội! Lúc nãy trong quán hai ngươi đã không đoạt được đồng bài Thưởng Thiện Phạt Ác, sao lại còn dùng ngụy kế để cướp đem đi? Cướp đồng bài chẳng nói làm chi, nhưng sao lại hạ thủ đánh chết Chiếu Hư, Thông Hư hai vị sư đệ? Chuyện này… chuyện này thật là không biết nói sao!”
Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu nghe Xung Hư nói vậy đều giật mình kinh hãi. Thạch Thanh nói: “Chiếu Hư, Thông Hư hai vị sư huynh bị người ta hạ độc thủ ư? Chuyện này… chuyện này… là như thế nào? Hai vị bị người ta đánh chết rồi ư?” Ông rất quan tâm đến sự an nguy của hai vị sư huynh, trong lúc hốt hoảng cũng không kịp biện giải cho chính mình.
Xung Hư hầm hầm tức giận, nói tiếp: “Không hiểu ngươi đã cấu kết với bọn hạ lưu nào mà lại dùng đến chất kịch độc, mọi người võ lâm đều ghê tởm. Hai sư đệ tuy chưa tắt thở, nhưng e rằng sắp nguy đến nơi rồi.”
Thạch Thanh nói: “Để tiểu đệ xem sao đã.” Ông vừa nói vừa đi lại gần, muốn xem hai người Chiếu Hư, Thông Hư bị ra sao. Nghe soạt soạt mấy tiếng, mấy đạo nhân đã rút kiếm ra khỏi vỏ để chặn đường.
Thiên Hư thở dài bảo: “Tránh ra! Thạch sư đệ đâu phải con người như vậy!” Mấy đạo nhân hắng giọng một tiếng rồi thu kiếm về nhường lối. Thạch Thanh lấy đá lửa trong bọc ra thắp sáng, soi vào mặt Chiếu Hư, Thông Hư thì thấy mặt hai đạo nhân này xám đen, đúng là trúng phải chất kịch độc. Ông lại đưa tay lên mũi thì thấy chỉ còn thoi thóp thở, tính mạng nguy trong khoảnh khắc.
Ta nên biết võ công chùa Thượng Thanh có chỗ hơn người. Chiếu Hư, Thông Hư đều có nội lực rất thâm hậu, cũng chưa bị độc chưởng của Thạch Phá Thiên chạm trực tiếp vào người, chỉ hít phải độc khí mà thôi, nhưng cũng đã ngất đi ngã lăn xuống đất. Tuy vậy, nhưng hai đạo nhân này không thể chống nổi một giờ hay ba khắc nữa.
Thạch Thanh liền quay lại hỏi: “Sư muội! Sư muội thử xem đây là độc thủ của phái nào?” Ông vừa quay đầu lại, đã thấy bảy tám vị sư huynh sư đệ chống kiếm bao vây hai vợ chồng mình vào giữa.
Mẫn Nhu thấy quần đạo có ý thù nghịch mình, nhưng vẫn lờ đi như không thấy. Bà cầm lấy bó đuốc trong tay Thạch Thanh, bước lại gần hai đạo nhân xem xét. Bà thấy mũi hai người cũng thở ra hơi độc làm mình hơi chóng mặt, bất giác lùi lại một bước, trầm ngâm nói: “Trên giang hồ chưa thấy thứ thuốc độc này. Xin sư huynh cho biết hai vị sư ca đây đã trúng độc trong trường hợp nào, bị địch nhân bỏ thuốc độc vào thức ăn hay là trúng ám khí có chất độc của kẻ địch? Trong mình có thương tích gì không?”
Xung Hư giận dữ nói: “Chúng ta làm sao mà biết được, đang định tìm đến hỏi các ngươi. Ngươi lại còn làm bộ ôn nhu, ra vẻ người tốt. Ta chắc là lúc ăn cơm, ngươi tranh không được bài đồng liền bỏ thuốc độc vào rượu. Không thế thì sao người khác không trúng độc, mà Chiếu Hư mới bị trúng độc chỉ vì giữ hai tấm bài đồng ở trong mình. Hơn nữa… hơn nữa cả hai tấm bài đồng trong bọc của y cũng bị các ngươi lấy cắp mất.”
Mẫn Nhu tức đến xám mặt, nhưng bản tính bà ôn nhu, từ thuở nhỏ lại đối với các vị sư huynh sư đệ một niềm khiêm cung lễ nhượng, nên không muốn cãi nhau với họ. Cặp mắt bà long lanh ngấn lệ, cơ hồ sắp trào ra. Thạch Thanh biết trong vụ này có chuyện hiểu lầm trọng đại, tự nhủ: “Vợ chồng mình vừa đến Thượng Thanh Quán tranh đoạt bài đồng không được, mà bây giờ Chiếu Hư vừa mất bài đồng vừa trúng kịch độc, chẳng trách họ chẳng đem lòng hoài nghi vợ chồng mình.” Ông bèn đưa tay trái ra nắm lấy tay phải vợ để an ủi, trong lòng cũng bàng hoàng khôn xiết.
Mẫn Nhu nói: “Tiểu muội… tiểu muội…” Bà chỉ nói được hai tiếng “tiểu muội” đã bật lên tiếng khóc. Con người tinh thâm kiếm thuật, vốn là một nữ kiệt oai danh chấn động võ lâm, nhưng lúc bị oan ức nặng nề thì cũng chẳng khác gì một nữ nhân nhu nhược tầm thường.
Xung Hư tức giận nói: “Ngươi cứ khóc nữa đi, thử xem hai vị sư đệ của ta có sống lại được không, hay chỉ như mèo khóc chuột?”
Xung Hư chưa dứt lời, chợt nghe phía sau có tiếng người quát: “Sao các vị chưa phân rõ trắng đen đã đổ oan cho người khác một cách hồ đồ?” Thanh âm này vang dội, chứng tỏ nội lực ghê gớm vô cùng. Ai nấy đều ngoảnh đầu lại xem, thì thấy một hán tử quần áo tả tơi đứng cách chừng vài trượng.
Lúc này phương Đông đã hừng sáng, mọi người trông rõ đây là một thiếu niên. Thạch Thanh và Mẫn Nhu vừa thấy chàng thiếu niên này, bất giác mừng rỡ vô cùng. Mẫn Nhu ồ lên một tiếng, gọi: “Con… con…” Bà từng trải giang hồ, đã nhiều lịch duyệt, nên không thốt ra hai tiếng Ngọc nhi.
Thiếu niên đó chính là Thạch Phá Thiên. Thì ra chàng nấp trong bụi cỏ rậm nghe bọn đạo nhân trách mắng vợ chồng Thạch Thanh, ban đầu thì nghĩ nếu mình lộ diện sẽ khó lòng tránh khỏi động thủ với bọn đạo sĩ này, thì đôi độc chưởng của mình lại phải giết nhiều người, thật là không muốn chút nào. Nhưng về sau Xung Hư mỗi lúc một hung dữ với Thạch phu nhân khiến bà phải khóc, chàng không nhịn được nữa mới phải nhảy ra.
Xung Hư lớn tiếng quát hỏi: “Ngươi là ai? Sao dám bảo chúng ta vu oan cho họ?”
Thạch Phá Thiên đáp: “Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân không lấy đồng bài của các ngươi, mà các ngươi lại cứ đổ tội cho các vị. Như thế không phải oan uổng cho người tốt sao?”
Xung Hư chống kiếm tiến lên một bước nói: “Thằng lỏi này biết gì mà đứng đây nói năng bừa bãi?”
Thạch Phá Thiên đáp: “Đương nhiên là ta biết.” Chàng muốn nói rõ chính mình đã lấy bài đồng, nhưng sợ nói ra thì đối phương nhất định phải đòi lại. Nếu mình không trả thì đi đến chỗ động thủ, lại phải giết người nên chàng đành giấu giếm không nói ra.
Xung Hư động tâm nghĩ thầm: “Không chừng gã thiếu niên này biết rõ những chuyện ngoắt ngoéo bên trong.” Y liền hỏi: “Vậy thì ai lấy?”
Thạch Phá Thiên đáp: “Chẳng cần biết là ai, nhưng không phải Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân đã lấy. Các vị mạo phạm đến người khác, khiến cho Thạch phu nhân uất ức đến phát khóc, thế là không phải. Các vị nên xin lỗi Thạch phu nhân đi là hơn.”
Mẫn Nhu đột nhiên thấy cậu con cưng ngày mong đêm nhớ bấy lâu được bình yên vô sự, trong lòng đã vui mừng khôn xiết. Bây giờ bà nghe chàng bảo Xung Hư phải xin lỗi mình, rõ ràng có ý bênh vực mẫu thân.
Thạch phu nhân sinh được hai cậu con đã hao tốn bao nhiêu tâm huyết, chảy bao nhiêu nước mắt. Đến bây giờ bà mới được nghe con nói một câu bênh vực cho mình, trong lòng được an ủi vô cùng. Thế là hơn hai chục năm trời tân khổ cũng không đến nỗi uổng phí hoàn toàn. Thạch Thanh thấy vợ vui mừng lộ ra sắc mặt, nước mắt không nén nổi phải lăn dài xuống má, dĩ nhiên hiểu rõ tâm ý của bà. Ông nắm chặt tay vợ, bụng bảo dạ: “Ngọc nhi tuy là đứa con hư đốn về mọi phương diện, nhưng đối với mẫu thân lại rất là hiếu thảo.”
Xung Hư thấy Thạch Phá Thiên ăn nói ngang ngạnh thì không khỏi nổi cơn thịnh nộ. Lão lớn tiếng hỏi: “Ngươi là ai? Căn cứ vào đâu mà bắt bần đạo xin lỗi Thạch phu nhân?”
Mẫn Nhu đang hoan hỉ vô cùng, không để ý chuyện Xung Hư trách oan mình nữa, mà chỉ lo con trai cùng sư huynh gây chuyện xích mích, làm tổn thương đến hòa khí sư môn. Bà vội đỡ lời: “Chẳng qua Xung Hư sư huynh có điều nhầm lẫn trong chốc lát mà thôi. Chúng ta đều là người một nhà, nói rõ ràng là được rồi, hà tất phải xin lỗi.” Bà lại quay sang Thạch Phá Thiên dịu dàng nói: “Các vị đây đều là sư bá sư thúc, con mau mau cúi đầu hành lễ.”
Thạch Phá Thiên đối với Mẫn Nhu vốn rất có tình cảm. Bây giờ chàng thấy bà nét mặt dịu hiền, nước mắt chạy quanh, nhìn mình đầy vẻ trìu mến, thật không khỏi xúc động. Suốt đời chàng chưa được ai có lòng thành thực thương yêu như vậy. Bất giác bầu nhiệt huyết của chàng nổi lên bừng bừng, giả tỉ bà sai bảo chàng làm điều gì, dù chết chàng cũng chẳng từ nan, huống chi dập đầu mấy cái phỏng có chi đáng kể? Chàng không ngần ngại gì cả, hai chân quỳ mọp ngay xuống, dập đầu nói: “Thạch phu nhân bảo tại hạ lạy chào các vị.”
Bọn Thiên Hư, Xung Hư đều ngẩn người ra. Họ thấy Thạch Phá Thiên đối với Mẫn Nhu một lòng kính thuận, đều phỏng đoán: “Vợ chồng Thạch Thanh có hai đứa con thì một bị kẻ thù giết chết, còn một bị người ta cướp đi mất. Gã thiếu niên này chắc là đệ tử của họ.”
Xung Hư tuy bản tính nóng nảy, nhưng cũng là một đạo nhân đức hạnh. Lão thấy Thạch Phá Thiên thi hành đại lễ thì cơn giận lập tức nguội bớt mấy phần, nghiêng mình xuống ngựa, vừa giơ tay ra nâng chàng dậy vừa nói: “Bất tất phải khách khí như vậy.”
Ngờ đâu Thạch Phá Thiên nghe Thạch phu nhân bảo mình sụp lạy thì phải lạy cho xong, Xung Hư đưa tay ra đỡ mà chàng không đứng lên ngay. Xung Hư thấy người chàng nặng như núi, không nhúc nhích chút nào. Bất giác lão lại nổi giận, quát hỏi: “Ta là trưởng bối, ngươi dám cậy mình nội công thâm hậu mà khoe bản lãnh trước mặt ta chăng?” Lão liền hít một hơi chân khí, vận nội lực vào hai cánh tay, hết sức đẩy mạnh một cái muốn hất chàng văng đi.
Vợ chồng Thạch Thanh thấy thế không khỏi hồi hộp. Vì là chỗ đồng môn, họ nhìn rất rõ Xung Hư vận chân lực vào cánh tay để hất chàng đi. Thạch Thanh hắng giọng một tiếng, trong lòng đã hơi tức giận, nhưng lại nghĩ rằng ông ấy là sư huynh, nên phải để con mình chịu thiệt thòi một chút. Mẫn Nhu thì la lên: “Xin sư ca lưu tình một chút.”
Bỗng nghe một tiếng vù, người Xung Hư vọt lên không, bị hất về phía sau. May mà lão đụng mạnh vào con ngựa, hai chân loạng choạng rồi dùng phép Thiên Cân Trụy mới đứng vững lại được. Con ngựa bị đụng phải hí lên một tiếng dài, hai chân trước khuỵu xuống.
Thì ra nội lực Thạch Phá Thiên cực kỳ thâm hậu. Xung Hư vận sức hất chàng lên, chẳng làm chàng chuyển động được chút nào, mà chính mình lại bị hất lộn ngược ra sau. Diễn biến này mọi người đều trông rõ mồn một, ai nấy đều giật mình kinh hãi. Vợ chồng Thạch Thanh đã cùng Thạch Phá Thiên trao đổi kiếm pháp trong tòa miếu thổ địa ngoài thành Dương Châu, biết nội lực chàng thâm hậu, nhưng không ngờ bản lãnh chàng lại đến mức độ này. Chỉ sức phản kích đã đủ hất một tay cao thủ hạng nhất Thượng Thanh Quán tung lên không rồi văng đi.
Xung Hư đứng vững lại được, bèn rút trường kiếm ở sau lưng ra cầm tay. Lão tức quá, cười gằn nói: “Giỏi, giỏi, giỏi!” Lão khen luôn ba tiếng rồi lại điều hòa hơi thở, nói: “Sư đệ cùng sư muội quả nhiên đã dạy được một tên đệ tử khác thường. Ta phải lãnh giáo gã mấy chiêu.” Lão nói xong, vung kiếm lên đâm thẳng vào ngực Thạch Phá Thiên.
Thạch Phá Thiên lùi lại một bước, vừa xua tay lia lịa vừa nói: “Không, không! Ta không đánh nhau với ông.”
Thiên Hư đã thấy rõ võ công của Thạch Phá Thiên ghê gớm khác thường, bụng bảo dạ: “Xung Hư sư đệ đứng vào hàng sư bá mà lại đi tỉ đấu với sư diệt. Thắng chẳng vinh gì, mà thua thì lại bị người khác chê cười.” Lão thấy Thạch Phá Thiên lùi lại nhượng bộ rất trúng ý mình, bèn nói: “Cùng là người trong nhà, tỉ đấu làm chi? Dù có nghiên cứu võ nghệ thì đâu phải vội vàng gì lắm?”
Thạch Phá Thiên nói: “Phải rồi! Các vị là chỗ sư huynh sư đệ với Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân. Nếu tại hạ xuất thủ đánh chết các vị thì thật là không nên không phải.” Thạch Phá Thiên chẳng hiểu gì nhân tình thế thái, chỉ lo độc chưởng của mình phóng ra làm chết đối phương, nên buột miệng nói thẳng tuột ra.
Quần đạo Thượng Thanh Quán đều tự phụ võ công cao cường, lại không hiểu được hảo ý của chàng. Nghe thấy câu này thì không ai không giận dữ, trong mười mấy người đã có bảy tám người tức tối đến nỗi râu tóc dựng ngược cả lên. Thạch Thanh cũng quát lên: “Ngươi nói gì đó? Không được nói bậy.”
Xung Hư đã tuân lời chưởng môn sư huynh, thu kiếm lại lùi ra. Nhưng lão nghe Thạch Phá Thiên nói câu này chẳng coi quần đạo vào đâu, công nhiên nhục mạ thì nhẫn nại làm sao được? Lão lại tiến ra, quát lên: “Hay lắm! Ta thử xem ngươi có đánh chết hết được bọn ta không. Xuất chiêu đi!”
Thạch Phá Thiên không ngớt xua tay đáp: “Ta không động thủ với ông.”
Xung Hư lại càng căm tức hơn, quát lên: “Hừ! Kể cả ta mà ngươi cũng không thèm động thủ hay sao?” Chưa dứt lời, lão đã rút kiếm nhằm đâm vào vai Thạch Phá Thiên.
Lão thấy Thạch Phá Thiên tay không binh khí, nên nhằm đâm vào chỗ không phải huyệt đạo trọng yếu. Xung Hư là một tay cao thủ kiếm thuật ở Thượng Thanh Quán, tuy kinh nghiệm lâm địch không bằng vợ chồng Thạch Thanh, nhưng ra chiêu mau lẹ hoàn toàn không thua kém gì.
Thạch Phá Thiên hoàn toàn không né tránh. Chỉ nghe sột một tiếng, vai chàng đã trúng kiếm ứa máu tươi ra. Mẫn Nhu la hoảng: “Trời ơi!”
Xung Hư quát: “Lấy kiếm cho gã!”
Thạch Phá Thiên bụng bảo dạ: “Lão là sư huynh của Thạch phu nhân, mà vừa rồi mình đã giết lầm mất hai vị sư huynh của bà. Nếu bây giờ mình giết lão nữa thì thật là không tốt, lại có lỗi với Thạch phu nhân. Nếu lão phóng kiếm đâm mình mà mình vung chưởng ngăn chặn thì dĩ nhiên gạt được, nhưng bàn tay mình có chất kịch độc, phóng chưởng ra thì nguy hiểm vô cùng.” Chàng nghĩ vậy nên hai tay vẫn nắm chặt lại chắp sau lưng, nhất định ai nói gì thì nói cũng không chịu xuất thủ.
Quần đạo Thượng Thanh Quán thấy bộ điệu Thạch Phá Thiên như vậy thì lại tưởng chàng ra vẻ khinh thị bọn mình. Tuy họ đều là người tu hành đã quen nhẫn nhịn, nhưng cũng không khỏi tức giận. Có người tức giận la lên: “Xung Hư sư huynh! Thằng lỏi này ngông cuồng quá lắm, phải cho gã một bài học!”
Xung Hư hỏi: “Thật ngươi không thèm động thủ với ta ư?” Lão lại đâm luôn hai kiếm veo véo, chiêu thức cực kỳ mau lẹ. Thạch Phá Thiên không thạo về kiếm pháp, dù có chuyển động né tránh cũng không kịp, nên lại trúng kiếm vào cả vai trái và trước ngực.
May mà Xung Hư ra chiêu còn có ý lưu tình, chỉ muốn bức bách Thạch Phá Thiên phải ra tay, chứ không có ý lấy mạng chàng. Mũi kiếm của lão vừa đâm trúng vào da thịt liền rụt về ngay, nên chàng bị thương rất nhẹ. Mẫn Nhu thấy cậu con yêu liên tiếp trúng ba nhát kiếm thì trong lòng đau xót vô cùng. Bà thấy Xung Hư lại phóng kiếm đâm tới nữa, liền vung kiếm lên gạt đánh choang một tiếng.
Tiếp theo là những tiếng choang choảng không ngớt, nổ như bắp rang. Chớp mắt hai bên đã trao đổi mười ba chiêu. Xung Hư liên tiếp tấn công mười ba chiêu, Mẫn Nhu cũng liên tiếp đỡ gạt mười ba chiêu. Hai người đều là cao thủ bản môn, thi triển công phu Thượng Thanh Khoái Kiếm như sao nhảy múa. Những tia lửa bắn tóe ra bốn phía như chớp nhoáng.
Mười ba chiêu kiếm vừa sử xong, quần đạo cùng Thạch Thanh không nhịn được đều reo lên: “Tuyệt diệu!” Những người có mặt tại đây, trừ Thạch Phá Thiên ra, đều là những tay kiếm thủ nổi tiếng của Thượng Thanh Quán. Họ thấy mười ba chiêu kiếm của Xung Hư tấn công cực kỳ nhanh nhẹn sắc bén, còn mười ba chiêu kiếm của Mẫn Nhu phòng thủ dày khít, vô cùng nghiêm cẩn kín đáo. Một người tấn công một người phòng thủ đã phát huy kiếm thuật bản môn đến chỗ tinh diệu, nên quần đạo trông thấy đều khoan khoái trong lòng.
Thiên Hư biết rằng nếu hai bên còn đấu nữa thì cũng khó mà phân thắng bại. Lão liền hỏi: “Mẫn Nhu sư muội! Có phải sư muội định che chở cho gã thiếu niên này không?” Mẫn Nhu không đáp, đưa mắt nhìn Thạch Thanh hỏi ý.
Thạch Thanh nói: “Thằng nhỏ này không biết tôn trọng trưởng bối, lớn mật càn rỡ, cần phải răn dạy. Gã đã trúng phải ba nhát kiếm của Xung Hư sư huynh, nay mà sư huynh còn kiếm hạ lưu tình, không thì gã đã bỏ mạng rồi. Thằng nhỏ này công phu thô thiển như vậy thì làm sao đáng tiếp chiêu với Xung Hư sư huynh? Ngươi mau mau qua đây sụp lạy sư bá mà tạ tội đi!”
Xung Hư lớn tiếng nói: “Rõ ràng gã coi bọn Thượng Thanh chúng ta không vào đâu nên không thèm động thủ. Nếu không phải thế thì sao gã dám nói nếu ra tay là đánh chết hết bọn ta?”
Thạch Phá Thiên lại xòe bàn tay ra nhìn, thấy trong lòng bàn tay đã hiện lên đám mây đỏ và những vân xanh thì thở dài nói: “Hai bàn tay của ta cứ thường xuyên gây ra tai họa, động cái là đánh chết người.”
Quần đạo Thượng Thanh Quán đều biến sắc. Thạch Thanh cũng tưởng chàng kiêu ngạo khinh người mà nói năng láo lếu, không nén nổi giận dữ hét lên: “Thằng lỏi này quả không biết trời cao đất dày là gì. Vừa rồi Xung Hư sư bá hạ thủ lưu tình nên mới không giết ngươi, chẳng lẽ ngươi không biết hay sao?”
Thạch Phá Thiên nói: “Tại hạ… tại hạ cũng không muốn giết chết ông ấy, cũng là hạ thủ lưu tình.” Thạch Thanh nổi giận, muốn lập tức nhảy đến tát chàng mấy cái cho hả dạ. Nhưng thân hình của ông mới hơi nhúc nhích thì Mẫn Nhu đã biết ý, lập tức nắm lấy tay trái chồng giữ lại. Tuy bà chẳng vận kình lực gì, nhưng Thạch Thanh cũng không động đậy nữa.
Xung Hư vừa rồi đâm Thạch Phá Thiên trúng luôn ba kiếm, lại thấy chàng né tránh vụng về dường như không hiểu chỗ tinh diệu về kiếm pháp của bản môn, nhưng nội lực lại rất ghê gớm. Cứ nhìn võ công thì chắc chắn chàng không phải là đệ tử của vợ chồng Thạch Thanh, nên trong lòng lão không khỏi sinh nghi. Lúc chàng giơ bàn tay lên xem, lão ngửi thấy thoang thoảng có mùi tanh tưởi, lại càng nghi hoặc hơn liền quát hỏi: “Thằng lỏi kia! Ngươi là đồ đệ của ai mà ăn nói lớn lối đến thế?”
Thạch Phá Thiên đáp: “Ta… ta… ta là khai sơn đệ tử phái Kim Ô.”
Xung Hư ngẩn người, nghĩ bụng: “Phái Kim Ô nào? Làm gì có Kim Ô với Ngân Ô? Trong võ lâm ta chưa nghe thấy ai nhắc đến, chắc thằng lỏi này lại nói nhăng rồi.” Lão liền cười lạnh nhạt nói: “Ta cứ tưởng các hạ là cao đồ của Thạch sư đệ, thực ra không phải người trong nhà. Vậy chẳng có điều gì đáng ngại nữa.”
Lão quay lại, đưa mắt nhìn hai sư đệ đứng bên cạnh. Hai đạo nhân này hiểu ý, liền xoay kiếm lại sử chiêu Triều Bái Kim Đỉnh, một người hướng về Thạch Thanh còn một người hướng về Mẫn Nhu. Triều Bái Kim Đỉnh là một chiêu kiếm để kính lễ đối phương của Thượng Thanh Quán, thường chỉ áp dụng với những nhân vật danh vọng trong võ lâm. Người sử chiêu trỏ mũi kiếm xuống đất, tay trái nắm kiếm quyết giữ thế thủ, bề ngoài thì như hành lễ mà thực ra là phòng thủ cực kỳ nghiêm mật trong phạm vi năm thước về phía trước. Địch chưa động thủ thì mình cũng chưa động thủ, nếu địch tấn công thì mình lập tức phản kích được ngay.
Vợ chồng Thạch Thanh dĩ nhiên hiểu ý hai vị đạo nhân này muốn giám sát mình. Nếu mình lại vung kiếm ra để che chở cho Ngọc nhi thì lập tức trường kiếm trong tay hai đạo nhân sẽ vung lên ứng chiến, còn nếu mình không ra chiêu thì hai đạo nhân này giữ nguyên thế thủ, vĩnh viễn không cử động. Họ làm như vậy là có ý giữ cho khỏi tổn thương đến nghĩa khí đồng môn.
Mẫn Nhu đưa mắt nhìn Linh Hư sư huynh đứng trước mặt. Bà tự nhủ: “Năm xưa lúc mình còn ở Thượng Thanh Quán học nghệ, thì Linh Hư sư huynh chân tay vụng về, kiếm thuật còn kém mình xa. Thế mà chiêu Triều Bái Kim Đỉnh của y thủ thế rất vững chắc, không phải tầm thường. Nếu mình động thủ thì trong vòng ba bốn chục chiêu chưa chắc đã đả bại y được.”
Bà còn đang ngẫm nghĩ thì Xung Hư đã vung kiếm lên quát tháo: “Nếu ngươi còn không chịu động thủ, thì ta phải đâm chết tên ác đồ của phái Kim Ô này.” Xung Hư vừa nhấn mạnh ba chữ “phái Kim Ô” vừa đưa mắt nhìn vợ chồng Thạch Thanh, để nhắc ông biết là vụ này không dính líu gì đến tình đồng môn, khiến hai người khỏi trở mặt.
Thạch Thanh băn khoăn suy tính: “Nếu phen này con mình lại không chịu trả đòn, thì Xung Hư nhất định tự ái mà đâm nó trọng thương. Còn nếu nó chịu phản công tỉ đấu, thì Xung Hư cũng biết vợ chồng mình có ý che chở cho nó, chắc sẽ hạ thủ không đến nỗi quá tay, điểm tới là thôi. Chi bằng mình dạy cho nó bớt ngông cuồng, lại thêm phần hữu ích.” Ông liền bảo: “Hài tử! Sư bá muốn chỉ điểm võ công cho ngươi, như vậy cũng rất có ích. Sư bá không đả thương ngươi đâu, ngươi đừng sợ chi hết, mau lấy binh khí ra chống chọi đi!”
Thạch Phá Thiên thấy bốn phương tám hướng đều có kiếm quang của Xung Hư bao phủ, hàn khí rần rần quạt vào mặt, khiến chàng không khỏi kinh hãi vô cùng. Hơn nữa chàng đã bị Xung Hư đâm trúng ba nhát liền, cũng biết là kiếm pháp của đối phương cực kỳ lợi hại. Bây giờ chàng nghe Thạch Thanh bảo mình lấy binh khí ra chống đỡ thì trong bụng mừng thầm, tự nhủ: “Phải rồi! Nếu mình dùng binh khí chống đỡ thì chất độc trong bàn tay không đến nỗi phóng ra làm chết lão.”
Chàng nhìn xuống đất thấy có một thanh đơn đao của gã đệ tử Lô Thập Bát bỏ lại, vội la lên: “Được! Được! Tại hạ xin trả đòn. Ông… ông đừng phóng kiếm đâm tôi, hãy đợi tại hạ cúi xuống lượm thanh đao đã. Nếu đạo trưởng thừa lúc tại hạ cúi xuống mà phóng kiếm đâm vào lưng là không đàng hoàng đâu.”
Xung Hư thấy chàng ăn nói buồn cười, bèn hừ một tiếng, lùi lại hai bước rồi cắm lưỡi kiếm xuống đất nghe soạt một tiếng. Lão nói: “Ngươi coi Xung Hư ta là hạng người nào? Chẳng lẽ ta đi đánh lén một thằng lỏi hay sao?” Lão chắp hai tay sau lưng chờ Thạch Phá Thiên cúi xuống lượm đao, bụng bảo dạ: “Té ra thằng lỏi này sử đao, vậy đúng không phải là đệ tử của vợ chồng Thạch sư đệ. Nhưng không hiểu tại sao Thạch sư đệ lại bảo nó kêu mình bằng sư bá?”
Thạch Phá Thiên đang cúi xuống lượm đao, đột nhiên động tâm nghĩ thầm: “Lát nữa đánh nhau đến lúc khẩn yếu, không chừng mình lại bất cẩn phóng chưởng ra đánh chết người thì sao? Chi bằng mình phải cột tay trái vào người trước, mới thật là bình yên vô sự.” Nghĩ vậy, chàng đứng thẳng người lên nhìn Xung Hư nói: “Xin lỗi. Đạo trưởng hãy chờ tại hạ một chút.”
Rồi chàng cởi dây lưng ra, tay trái buông dọc theo người, tay phải dùng dây lưng cột lại. Mọi người giương mắt lên nhìn, không hiểu chàng làm gì mà quái dị như vậy. Thạch Phá Thiên siết chặt dây lưng cho tay trái không cử động được rồi mới cúi xuống lượm đao, ngẩng lên nói: “Được rồi, bây giờ chúng ta tỉ đấu. Như thế này thì ta không sợ lỡ tay đánh chết ông nữa.”
Thạch Phá Thiên nói câu này khiến Xung Hư tức muốn ngất đi. Lão thấy chàng cột cánh tay trái lại rồi mới tỉ võ với mình thì thật là khinh người đến cực điểm. Quần đạo chùa Thượng Thanh đều lớn tiếng quát mắng, Thạch Thanh và Mẫn Nhu cũng la lên: “Con cái vô lễ, mau cởi dây lưng ra.”
Thạch Phá Thiên chần chừ một chút thì kiếm của Xung Hư đã đâm thẳng đến soạt một tiếng. Chàng không kịp tuân theo lời Mẫn Nhu nữa, vội giơ đao lên cản trở. Xung Hư đã biết nội lực của chàng rất mạnh nên không dám để đơn đao đụng vào trường kiếm của mình, lập tức biến chiêu, đâm veo véo luôn sáu bảy kiếm. Tay chân Thạch Phá Thiên luống cuống cả lên, đừng nói đến tiếp chiêu, ngay cả kiếm đối phương chém vào đâu cũng không nhìn rõ. Chàng la thầm trong bụng: “Ta chết chắc rồi!” Thanh đao trong tay chém ra loạn xạ, hoàn toàn không thành chương pháp gì cả, bảy mươi ba đường Kim Ô đao pháp vừa mới học đã quên mất sạch, cứ như đã gửi trả cho Sử bà bà hết rồi. May mà Xung Hư biết nội lực của chàng lợi hại, tuy thấy đao pháp sơ suất lung tung, nhưng khi chàng vung đao chém tới thì lão phải né tránh, thủy chung không dám dùng kiếm đỡ gạt. Lão chỉ sợ trường kiếm bị chàng đánh văng đi, lúc đó thật không còn mặt mũi nào nữa.
Thạch Phá Thiên chém loạn xạ một hồi đã thấy Xung Hư lùi lại. Chàng định thần được một chút, bảy mươi ba chiêu Kim Ô đao pháp dần dần trở về trong đầu. Nhưng Xung Hư tuy lùi lại mà xuất chiêu vẫn cực kỳ nhanh chóng. Thạch Phá Thiên nghĩ: “Nếu ta dùng đao pháp của Sử bà bà đã dạy để chống đỡ thì chắc chắc không xong, vì Kim Ô đao pháp chỉ chuyên để khắc chế kiếm pháp phái Tuyết Sơn mà thôi, gặp phải kiếm pháp khác hẳn như Thượng Thanh kiếm pháp này thì không thể nào dùng được.” Trong lòng chàng vẫn hoảng loạn, nhưng lúc này đã đỡ nguy hiểm nên cứ thuận tay mà vung múa thanh đao.
Được một lúc, chàng đột nhiên nhớ lại lúc ở trên đảo Tử Yên, chiêu cuối cùng của Bạch Vạn Kiếm đánh mình đại bại chỉ vì mình không biết kiếm pháp của đối phương. Lúc này chàng hoàn toàn không biết kiếm pháp của đạo sĩ này, đã không biết thì không thèm nhìn còn hơn, cứ việc sử dụng đao pháp của mình. Chàng bèn đem bảy mươi ba đường Kim Ô đao pháp ra thi triển loạn xạ, nội lực phát huy thành một vòng kín bao bọc toàn thân, Xung Hư không có cách nào tấn công vào được.
Bọn đạo sĩ và vợ chồng Thạch Thanh đều âm thầm kinh hãi. Xung Hư vừa sợ vừa giận, lại thêm mấy phần kinh ngạc. Đao pháp của các phái lớn trong võ lâm, lão hầu như đều biết, nhưng lúc này đao pháp của Thạch Phá Thiên hết sức ấu trĩ, thi triển lung tung hoàn toàn không theo đạo lý căn bản của võ học. Đáng lẽ lão phải đánh bại được chàng ngay, nhưng chính lão lại liên tiếp gặp nguy hiểm, thật không thể nào lý giải được.
Đánh được mười mấy chiêu nữa, Xung Hư đã thập phần lo lắng. Lão đâm lẹ một kiếm tấn công vào giữa ngực đối phương. Ngay lúc này Thạch Phá Thiên vung đao chém ngược lại, hai người xuất thủ đều rất nhanh nên đao kiếm chạm nhau nghe xoảng một tiếng. Xung Hư đã có phòng bị nên cố nắm trường kiếm thật chặt không đến nỗi văng đi. Nhưng nội lực của Thạch Phá Thiên quá mạnh, nên mọi người la lên kinh hãi, nhìn thấy thanh kiếm trong tay Xung Hư bị bẻ cong lại, trên lưỡi kiếm đầm đìa máu tươi. Thì ra lão đã bị chấn động đến toác hổ khẩu chảy máu. Xung Hư kinh hãi vô cùng, thầm nghĩ: “Thanh danh một đời mình đành buông theo dòng nước chảy, còn luyện kiếm làm gì nữa, còn làm chưởng môn Thượng Thanh Quán sao được nữa.” Trong lúc giận dữ, lão hất tay ném thanh kiếm cong vòng đến Thạch Phá Thiên, hai bàn tay biến thành trảo, chuyển thân nhảy xổ tới.
Thạch Phá Thiên vung đao hất thanh kiếm cong đó văng ra, rồi nhất thời không biết phải đối phó thế nào. Chàng hơi ngần ngừ một chút đã để lộ nhiều chỗ sơ hở trước ngực. Hai tay Xung Hư liền nắm được hai chỗ yếu huyệt trước ngực chàng.
Chiêu thức này của Xung Hư là một chiêu thí mạng, phép cầm nã của Thượng Thanh Quán lại là một trong những tuyệt học bản môn. Ngờ đâu hai tay lão vừa chạm vào huyệt đạo Thạch Phá Thiên liền bị nội lực của chàng hất ngược lại. Phen này lão sử kình rất mạnh, nên phản lực lại càng mạnh hơn, tự biết không thể đứng vững được, nhưng nếu để ngồi bệt xuống đất thì mất thể diện vô cùng.
Thiên Hư đạo nhân nhảy vọt tới trước, đưa tay ra đẩy vào vai Xung Hư để giảm bớt lực đạo phản kích. Xung Hư phải nhảy lộn người ra sau rồi mới đứng lại được. Mặt lão xám ngắt, không còn chút huyết sắc.
Thiên Hư rút trường kiếm ra nói: “Quả nhiên anh hùng phát xuất tự thiếu niên. Bần đạo rất lấy làm thán phục, muốn lãnh giáo mấy chiêu, nhưng e rằng tuổi già sức kém không phải là đối thủ của các hạ.” Thiên Hư nói xong, từ từ phóng kiếm ra.
Thạch Phá Thiên vung đao lên gạt, bỗng thấy đao mình chạm vào kiếm đối phương mà cứ như chạm phải bông gòn, kình lực đã vận vào lưỡi đao bị tiêu tan không còn chút nào, nên không nén nổi phải la lên “Ái chà! Kỳ lạ quá!”
Thì ra Thiên Hư biết nội lực của Thạch Phá Thiên rất lợi hại, nên lão sử chiêu kiếm này để hóa giải kình lực đối phương. Nhưng chính tay lão cũng bị chấn động mạnh đến tê nhức, trước ngực cũng thấy ngâm ngẩm đau thì thầm kinh hãi, chỉ sợ mình đã bị nội thương. Đến chiêu thứ hai lão cứ đâm tới, Thạch Phá Thiên lại vung đao lên gạt. Lão không dám phá nội kình của đối phương nữa, chuyển kiếm xéo đi đâm tới.
Thiên Hư tuy đã ngoại lục tuần mà chân tay mau lẹ chẳng kém gì hồi niên thiếu, xuất chiêu mãnh liệt lợi hại vô cùng. Thạch Phá Thiên thì không chiết giải chiêu thức với lão, mở mắt tỉ đấu nhưng nhìn mà không thấy, giống như nhắm mắt để tự luyện đao vậy. Bất kể chiêu kiếm của đối phương là trong hư có thực hay là trong thực có hư, chàng cũng mặc kệ. Kiếm chiêu đâm đến trước ngực mình cũng được, mà đâm lên trên vai mình cũng thế thôi, chàng cứ việc tuần tự xuất chiêu Mai Tuyết Phùng Hạ, Bào Ngư Chi Tứ, Hán Tướng Đương Quan, Thiên Quân Áp Đà…
Trận tỉ đấu này thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Thiên Hư có tấn công xảo diệu thế nào đi nữa, Thạch Phá Thiên cũng coi như không biết, cứ tiếp tục tự luyện đao. Hai người tỉ đấu trong khoảnh khắc đã qua lại hơn hai chục chiêu, đao phong kiếm khí không ngớt quạt ràn rạt ra ngoài. Vòng người đứng xem chung quanh mỗi lúc một giãn rộng ra. Bọn Linh Hư hai người đứng giám thị vợ chồng Thạch Thanh để ngăn cản hai ông bà ra tay viện trợ Thạch Phá Thiên, nhưng chúng thấy Thiên Hư cùng Thạch Phá Thiên tỉ đấu kịch liệt cũng không tự chủ được, mắt cứ chăm chú nhìn vào trường đấu.
Lúc này Thạch Phá Thiên đã hết sợ hãi, nên bộ Kim Ô đao pháp vận dụng mỗi lúc một thông thạo hơn, chiêu số cũng khá tinh diệu. Nội lực chàng theo đó mà gia tăng. Thiên Hư lúc đầu còn chống chọi được, nhưng mỗi lần chiết giải chiêu thức của đối phương lại thấy kình lực chàng mạnh thêm một phần, tựa như không bao giờ cùng tận, không bao giờ khô kiệt. Kiếm chiêu của lão tuy chiếm được thượng phong, nhưng hai chân mỗi lúc một bải hoải, cánh tay mỗi lúc lại thêm tê nhức, càng lúc càng thấy đón đỡ khó khăn hơn.
Lúc này vợ chồng Thạch Thanh đã nhìn rõ, nếu tiếp tục đấu nữa thì Thiên Hư phải đi đến chỗ thất bại. Nhưng nếu họ lên tiếng ngăn trở cậu con thì khác nào bảo chàng nhường nhịn một cách công khai, làm tổn thương đến thể diện Thiên Hư. Hai người không biết làm thế nào mới phải, bất giác cảm thấy lo lắng.
Thạch Phá Thiên càng đánh càng hăng, từng đao từng đao áp bức đối phương mãnh liệt. Đột nhiên mọi người thấy đầu gối bên phải Thiên Hư nhũn ra cơ hồ khuỵu xuống. Lão phải gắng gượng đứng thẳng dậy, sắc mặt biến đổi rất nhiều.
Thạch Phá Thiên cũng đã thấy rõ đối phương kém thế, liền nhớ tới lúc trên đảo Tử Yên, A Tú từng dặn chàng: “Khi ca ca động thủ với người ta thì nên hạ thủ lưu tình, nếu tha được thì tha, đó là tốt nhất.” Thạch Phá Thiên nhớ tới lời dặn dò dịu dàng của nàng, trước mặt như hiện ra con người thuần hậu ôn nhu. Lập tức chàng cầm ngang lưỡi đao hất về phía trước.
Thiên Hư thấy chàng đẩy đao tới còn cách xa mà kình phong đã ép làm mình khó thở, lão vội lùi lại hai bước, chân loạng choạng, người lảo đảo. Lão than thầm: “Gã mà tiến thêm hai bước nữa, thì mình không đủ khí lực để lùi nữa.” Nhưng Thạch Phá Thiên lại phóng đao về bên trái ra một hư chiêu, rồi thu đao lại đâm vào chỗ trống ở bên phải, lại xoay thẳng đao ra trước mặt rồi đưa thẳng lưỡi đao bổ xuống.
Cả ba đao này đều là hư chiêu, nhưng nội lực chàng phóng ghê gớm quá, hất tung cát bụi bay lên mờ mịt. Thiên Hư thở lên hồng hộc, còn đang kinh hãi thì thấy Thạch Phá Thiên thu đao về, lùi lại hai bước đứng yên. Rồi lão lại nghe chàng nói: “Kiếm pháp của đạo trưởng tinh diệu, tại hạ khâm phục vô cùng. Hôm nay chúng ta khó lòng phân thắng bại được, vậy ngừng tay đừng tỉ đấu nữa, cùng hòa hảo với nhau có nên chăng?”
Thiên Hư tựa hồ không tin vào tai mình nữa, cứ đứng ngẩn người ra không biết nói gì. Thạch Thanh mỉm cười, bây giờ mới trút bỏ được mối lo âu, chẳng khác chi cất được gánh nặng. Mẫn Nhu thì vui vẻ lộ ra ngoài mặt, hớn hở tươi cười.
Cả hai vợ chồng thấy võ công con mình cao thâm, đã là vui mừng rồi. Nhưng họ còn vui mừng hơn ở chỗ lúc chàng sắp thắng lại có ý nhân nhượng, rất hợp ý vợ chồng mình lúc nào cũng để cho người ta còn chút thể diện.
Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Thằng con này chỉ nói lung tung! Ngươi nói cái gì mà đạo trưởng với tại hạ? Sao không gọi lão nhân gia bằng sư bá và tự xưng là tiểu điệt?” Câu này bà vừa nói vừa cười, biểu lộ rất nhiều tình cảm. Trong đó bao hàm nỗi vui mừng, cả tấm lòng người từ mẫu dịu dàng, thật không thể nào tả xiết.
Thiên Hư thở phào một cái rồi than thở: “Sông Trường Giang sóng sau xô sóng trước. Chúng ta già mất rồi, chắc chắn không thể nào chống đỡ nổi chàng thiếu niên này.”
Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Hài tử! Ngươi đã đắc tội với sư bá, mau mau ra bái tạ đi.” Thạch Phá Thiên vâng lời bỏ thanh đơn đao xuống, cởi cánh tay trái bị cột bằng dây lưng ra, rồi cung kính bước lên phía trước cúi mình thi lễ.
Mẫn Nhu rất lấy làm đắc ý. Bà dịu dàng nói: “Chưởng môn sư ca! Đây chính là đứa con láo xược của vợ chồng tiểu muội, từ nhỏ ít được cha mẹ dạy dỗ nên phạm lắm lỗi lầm. Xin sư ca miễn trách cho.”
Thiên Hư không khỏi ngạc nhiên đáp: “Té ra đây là lệnh lang của vợ chồng sư đệ? Không ngờ, thật là không ngờ! Lúc trước sư đệ đã nói là lệnh lang bị người cướp đi, chuyện đó chỉ là lời đồn không đúng sự thật ư?”
Thạch Thanh đáp: “Tiểu đệ khi nào dám dối trá sư huynh? Thằng nhỏ này đã bị người ta cướp đi thật. Tiểu đệ cũng chưa hiểu nó làm thế nào mà thoát hiểm được, trong lúc vội vàng cũng chưa kịp hỏi.”
Thiên Hư gật đầu nói: “Thế thì được rồi. Bản lãnh của lệnh lang như vậy thì thoát thân cũng chẳng khó gì. Có điều võ công của nó không phải là do sư đệ cùng sư muội đích thân truyền dạy, mà trong đao pháp cũng chẳng có mấy chiêu số về kiếm pháp của phái Tuyết Sơn. Song nội lực nó thì thật là ghê gớm, không biết đến đâu mà lường. Nhất là chiêu thức cuối cùng thật sự là hiếm thấy.”
Thạch Phá Thiên nói: “Phải rồi! Chiêu đó tiểu điệt học được của A Tú. Nàng bảo khi nào người ta đánh không lại mình thì nên hạ thủ lưu tình, nếu tha được phải tha ngay. Chiêu thức đó kêu bằng Bàng Xao Trắc Kích, vừa nhượng bộ đối phương lại vừa giữ được mình không để đối phương gia hại.”
Thạch Phá Thiên vốn là người tính tình ngay thẳng, mở miệng nói thao thao bất tuyệt chẳng nể nang gì. Sắc mặt Thiên Hư lúc đỏ hồng lúc trắng bệch ra vẻ bẽ bàng, không biết ẩn vào đâu cho được. Thạch Thanh quát lên: “Chỉ nói bậy bạ.”
Thạch Phá Thiên nói: “Con không dám nói nữa. Nếu con sớm nghĩ đến hai bàn tay có chất độc mà cột lại từ trước, chỉ dùng đơn đao động thủ cùng người thì không đến nỗi… không đến nỗi…” Chàng nói tới đây, chợt nghĩ ra nếu mình thừa nhận đã đánh chết Thông Hư, Chiếu Hư thì nhất định phải gặp rắc rối, liền im miệng không nói nữa.
Nhưng Thiên Hư đã động tâm, thét lên: “Bàn tay ngươi có độc ư? Hai vị đạo trưởng Chiếu Hư và Thông Hư trúng phải chất độc của ngươi mà chết phải không? Hai tấm bài đồng là do ngươi lấy cắp ư?” Quần đạo đã tra kiếm vào vỏ, bây giờ lại rút trường kiếm ra, nổi lên những tiếng loảng xoảng.
Thạch Phá Thiên thở dài nói: “Đáng lẽ cháu không muốn hại chết họ. Chẳng ngờ vừa giơ tay lên là các vị đã ngã lăn ra, không nhúc nhích được nữa.”
Xung Hư tức giận đến cực điểm, nhìn Thạch Thanh lớn tiếng hỏi: “Thạch sư đệ! Bây giờ phải xử trí thế nào, sư đệ nói cho ta hay?”
Thạch Thanh ruột rối như bòng bong, ngoảnh đầu nhìn lại thấy Mẫn Nhu nước mắt chạy quanh, vẻ mặt cực kỳ hoảng loạn. Ông cắn răng nói: “Chúng ta phải lấy nghĩa khí sư môn làm trọng. Thằng súc sinh này đi đến đâu là gieo tai rắc họa đến đó, vợ chồng tiểu đệ không thể che chở được. Xin chưởng môn sư ca cứ việc xử trí.”
Xung Hư nói: “Hay lắm!” Lão vung trường kiếm lên, toan xông lại tấn công.
Mẫn Nhu vội la lên: “Khoan đã!”
Xung Hư nhìn bà, lạnh lùng hỏi: “Sư muội còn gì để nói?”
Mẫn Nhu run run đáp: “Hai vị sư huynh Chiếu Hư và Thông Hư hiện giờ chưa chết, không chừng… không chừng còn có thể cứu được.”
Xung Hư ngửa mặt lên trời cười ha hả, rồi lạnh nhạt nói: “Hai vị sư đệ đã trúng phải chất kịch độc như vậy, khi nào còn sống được? Sư muội nói câu này có phải để giải buồn cho người khác hay không?”
Mẫn Nhu cũng biết là vô vọng. Bà nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Hài nhi! Trong lòng bàn tay hài nhi có chất độc gì vậy? Liệu còn cách nào giải được không?” Bà vừa hỏi vừa chạy đến bên chàng, nói tiếp: “Ta chắc rằng trong bọc hài nhi phải có thuốc giải.” Bà giả vờ đưa tay ra mò vào bọc áo chàng, nhưng lại nói thầm vào tai: “Trốn mau đi, trốn mau đi! Gia gia cùng má má không cứu được hài nhi đâu.”
Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi la lên: “Gia gia má má ư? Ai là gia gia má má của con?”
Xung Hư đã nhắc đi nhắc lại mấy lần hai chữ “lệnh lang”, song Thạch Phá Thiên không hiểu “lệnh lang” là tiếng xưng hô con trai người đối diện. Còn vợ chồng Thạch Thanh kêu chàng bằng “hài nhi”, chàng lại cho đây là một tiếng thông thường để gọi người nhỏ tuổi. Chàng chưa ngờ tới chuyện vợ chồng Thạch Thanh lại nhận lầm mình là con trai.
Giữa lúc ấy, chàng cảm thấy sau lưng mình nhói lên một cái. Thì ra Thạch Thanh đã dí mũi kiếm vào sau lưng chàng, rồi nói: “Sư muội! Chúng ta không thể vì thằng súc sinh này mà bỏ mất nghĩa khí sư môn. Nó không trốn được đâu.” Giọng nói của Thạch Thanh đầy vẻ đau khổ.
Mẫn Nhu run run hỏi: “Hài nhi! Hai vị sư bá đã trúng kịch độc, Con thật sự… thật sự không có thuốc để giải cứu hay sao?”
Linh Hư đứng bên Mẫn Nhu thấy sắc mặt bà xám ngắt thì nghĩ ngay đến chuyện bọn nữ nhân chuyện gì cũng dám làm. Y sợ bà động thủ ngăn cản hoặc vung kiếm tự tử, liền đưa năm ngón tay ra nắm lấy cổ tay bà rồi đoạt lấy thanh trường kiếm. Lúc này, Mẫn Nhu để hết tâm thần vào Thạch Phá Thiên, không lưu ý đến những chuyện chung quanh, vì thế mà Linh Hư đạo nhân đoạt được thanh trường kiếm trong tay bà một cách dễ dàng.
Thạch Phá Thiên thấy Linh Hư tấn công Mẫn Nhu liền la lên: “Lão làm gì thế?” Chàng vươn tay phải ra toan đoạt lại thanh trường kiếm cho Mẫn Nhu. Linh Hư rút kiếm ra khỏi vỏ, kiếm phong vừa đụng vào bàn tay Thạch Phá Thiên, chàng hạ thấp tay xuống, xoay lại toan nắm lấy cổ tay Linh Hư. Đây là chiêu thức Cửu Liên Hoàn trong mười tám đường cầm nã thủ mà Đinh Đang đã truyền dạy cho chàng. Trong chiêu lại có chiêu, tất cả thay đổi chín lần.
Cửu Liên Hoàn tuy là một chiêu cầm nã kỳ diệu, nhưng làm sao qua mặt được một tay cao thủ trong Thượng Thanh Quán? Linh Hư quát lên một tiếng: “Hay lắm!”, đồng thời xoay kiếm lại gạt. Đột nhiên người y lảo đảo rồi ngã lăn ra.
Thì ra chất độc trong bàn tay Thạch Phá Thiên đã nhân lúc chàng thi triển Cầm Nã Thủ mà xô ra. Khi Linh Hư quát lên một tiếng rồi hít vào một hơi chân khí, liền bị trúng độc ngay. Quần đạo cực kỳ kinh hãi, không tự chủ được đều lùi lại mấy bước. Ai nấy cả kinh thất sắc tưởng chừng như gặp phải ma quỷ.
Thạch Phá Thiên biết mình lại gây ra đại họa. Chàng thấy quần đạo tuy lùi ra nhưng đều lăm lăm trường kiếm trong tay, chuyển động thân hình vây mình vào giữa. Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Nếu mình muốn xông ra khỏi vòng vây, nhất định lại làm mấy người mất mạng.” Chàng đưa mắt nhìn Linh Hư thì thấy hai tay y đang ôm bụng quằn quại, rõ ràng đang đau bụng không thể chịu được.
Quần đạo Thượng Thanh Quán đều nội lực thâm hậu, không phải như quần chúng Thiết Xoa Hội vừa trúng độc là chết ngay, nên còn chống đỡ được mấy giờ. Thạch Phá Thiên nhớ lại hai vị nghĩa huynh là Trương Tam, Lý Tứ sau khi trúng độc trong đại sảnh dưới địa đạo cũng có vẻ đau bụng kịch liệt như thế. Sau đó Trương Tam dạy chàng phương pháp cứu trị, nên đã giải được chất kịch độc trong nội thể hai người. Chàng lập tức nâng Linh Hư ngồi dậy.
Quần đạo bốn phía vung kiếm lên, kiếm quang lấp loáng. Mọi người thủ thế, tưởng chừng như muốn đâm tới Thạch Phá Thiên, nhưng chàng đang vội cứu người nên hoàn toàn không để ý đến. Chàng ấn tay trái vào huyệt Linh Đài ở sau lưng, tay phải vào huyệt Đản Trung trước ngực Linh Hư, theo phương pháp Trương Tam đã truyền thụ, tay trái thúc đẩy chân khí vào nội thể y, còn tay phải hút chất độc ra.
Quả nhiên chỉ trong thời gian uống cạn tuần trà, Linh Hư thở phào một cái, cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Thằng lỏi chết đâm này!”
Mọi người đều nổi tiếng hoan hô như sấm dậy. Linh Hư ngoác miệng ra mà chửi tục, thật không đúng với phong độ của người xuất gia phải thanh tu. Nhưng câu chửi này khiến cho ai nấy đều biết rằng tính mạng của y đã vãn hồi được.
Mẫn Nhu mừng đến rơi nước mắt. Bà nói: “Hài tử! Hai vị sư bá Chiếu Hư và Thông Hư đã trúng độc, con mau cứu trị cho hai vị đi.” Bà chưa dứt lời đã thấy hai đạo nhân ôm Chiếu Hư và Thông Hư chỉ còn thoi thóp thở đến trước mặt Thạch Phá Thiên.
Thạch Phá Thiên lại làm theo phương pháp vừa rồi. Nhưng hai vị này đã trúng độc khá lâu, nên chàng cứu trị mỗi người phải mất thời gian cháy tàn nén hương mới hút được chất độc ra. Lúc Chiếu Hư tỉnh lại cũng lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó!” Thông Hư lại còn chửi tệ hại hơn: “Đồ chó lộn giống, lớn mật dám phóng độc vào ông nội nó.”
Vợ chồng Thạch Thanh mừng rỡ khôn xiết, dù nghe hai vị sư ca chửi bậy có liên quan đến mình, nhưng cũng không lấy thế làm bất mãn mà chỉ cười thầm, nghĩ bụng: “Hai vị sư ca đã tu hành bấy lâu, lúc bình thời thì phong độ chính khí như bậc cao nhân đắc đạo, mà lúc nóng tiết lên cũng buông lời thô tục.”
Mẫn Nhu lại bảo: “Hài tử! Hai tấm đồng bài của sư bá có phải con đã lấy đi hay không? Con trả lại cho sư bá đi, má má không cần đâu.”
Thạch Phá Thiên kinh hãi lẩm bẩm “Má má ư?” Chàng lấy bài đồng trong bọc ra trả lại cho Chiếu Hư rồi lẩm nhẩm tự hỏi: “Bà là… bà là… má má của ta ư?”
Thiên Hư đạo nhân buông một tiếng thở dài, nhìn Thạch Thanh, Mẫn Nhu nói: “Sư đệ, sư muội! Chúng ta cáo biệt từ đây!” Lão nghĩ rằng không còn có ngày gặp nhau nữa, nên không dùng câu “hậu hội hữu kỳ”. Thiên Hư nói xong liền dẫn quần đạo cáo từ đi ngay.