Tạ Yên Khách muốn thử xem mấy năm gần đây mình khổ luyện nội công đã đến cảnh giới nào, không ngừng vận nội lực đưa đẩy những lá thông đó càng lúc càng nhanh, rồi lại dần dần mở rộng vòng lá ra phía ngoài. Tới lúc cái vòng mở rộng hơn phạm vi nội lực của lão, một số lá cây ngoài cùng đã từ từ rơi xuống, Tạ Yên Khách hít một hơi chân khí rồi lại phát huy nội lực rộng ra, lá tùng không rơi xuống nhiều nữa. Lão mừng rỡ, cảm thấy không cần phải cố gắng vận nội lực nữa, tay chân tự nhiên duỗi ra, sảng khoái thư thái không nói hết được, quả nhiên đã tới cảnh giới thân ý khí điều hợp, vật ngã đều quên.
Một lúc sau, Tạ Yên Khách cảm thấy mình đã vận nội lực đến độ chót khá lâu, nếu tiếp tục thì sẽ tổn hại đến nguyên khí, bèn từ từ thu nội lực về. Những lá tùng từ từ rơi xuống xung quanh lão, đan thành một cái vòng màu xanh trên mặt đất.
Bất thình lình Tạ Yên Khách biến sắc, thấy tiền hậu tả hữu đã có cả thảy chín người vây mình vào giữa, mà lão không biết họ đến từ lúc nào. Chín người này đều cầm binh khí, không nói nửa câu mà chỉ giương mắt ra nhìn lão. Với võ công của Tạ Yên Khách, thì người ngoài đừng hòng âm thầm đến bên lão, dù còn xa mấy dặm cũng không thể qua tai mắt lão được. Nhưng vì lão đang để hết tâm trí huy động nội lực để thử chiêu Bích Châm Thanh Chưởng, nên không phân tâm chú ý ra ngoài, dù là vật ngay trước mắt cũng không nhìn thấy hay nghe thấy. Đừng nói chín tay cao thủ đến bên lão, dù cho đất lở núi nghiêng lúc này cũng chưa chắc lão đã hay biết.
Ma Thiên Nhai này trước nay không có người ngoài lui tới. Lão thấy có người xuất hiện, biết ngay họ đến đây là chẳng tử tế gì, lập tức tập trung tinh thần lại. Tạ Yên Khách lại để ý nhìn đám người mới đến thì thấy trong này có một người ốm nhom mà cao kều, một đạo nhân, một hán tử mặt mũi xấu xí. Hai năm trước đây lão đã gặp mấy người này vây đánh Đại Bi Lão Nhân ở ngoài thành Biện Lương, chúng tự xưng là nhân vật của bang Trường Lạc.
Chỉ trong khoảnh khắc, trong lòng Tạ Yên Khách nảy ra rất nhiều ý nghĩ: “Bất luận chúng là ai nhưng đã lên đến Ma Thiên Nhai không một tiếng động, thì rõ ràng đã xem thường ta, coi ta như là kẻ địch. Ta cùng bang Trường Lạc chưa đi lại giao thiệp bao giờ, thế thì chúng kéo lên đây là có dụng ý gì? Phải chăng chúng định dùng võ lực để áp bức ta gia nhập bang phái, cũng như Đại Bi Lão Nhân hay sao.” Rồi lão lại lẩm bẩm: “Trong bọn này thì có ba người ta đã biết rồi. Ngay ngày ấy, một mình ta cũng đủ đối phó với chúng, bây giờ thì đương nhiên lại càng không đáng sợ. Nhưng ngoài ba gã đó, không hiểu võ công những người còn lại ra sao? Sáu người kia đều bốn chục tuổi trở lên, ít ra là có hai gã công lực rất thâm hậu.”
Tạ Yên Khách nhìn họ cười lạnh nhạt nói: “Các vị đều là bằng hữu ở bang Trường Lạc phải không? Các vị đột ngột giá lâm Ma Thiên Nhai nên Tạ mỗ không biết trước để nghênh tiếp. Chẳng hiểu các vị có điều chi dạy bảo?”
Lão vừa nói vừa chắp tay. Chín người kia cũng khoanh tay đáp lễ. Bọn này vừa thấy Tạ Yên Khách thi triển Bích Châm Thanh Chưởng nội lực kinh hồn, nhưng chúng không nghĩ là Tạ Yên Khách để hết tinh thần luyện võ, mà lại tưởng lão ỷ vào võ công cao cường, thấy khách đến mà vẫn không thèm dừng tay. Chín người nghĩ như vậy đã tức mình, thấy lão chắp tay thi lễ lại sợ lão vận nội lực đả thương, nên ai nấy đều ngấm ngầm vận động chân khí để hộ vệ các yếu huyệt trong người. Trong đám này có hai người huyệt thái dương nhô cao lên, lại còn một người tay áo không gió mà rung động.
Ngờ đâu cái thi lễ của Tạ Yên Khách hoàn toàn không vận dụng nội lực. Bọn kia cũng không biết lão đã sử dụng hết toàn lực để thi triển Bích Châm Thanh Chưởng giống như đã quyết đấu với một cao thủ tuyệt đỉnh, mười phần nội lực đã dùng hết chín.
Một lão già mặc áo vàng lên tiếng: “Tại hạ cùng các huynh đệ đến đây thật là mạo muội, mong Tạ tiên sinh thứ tội.”
Tạ Yên Khách thấy sắc mặt lão già xanh mét, tiếng nói phều phào hết hơi, rất giống một người đang trọng bệnh. Đột nhiên lão nhớ ra một người, liền cất tiếng hỏi: “Phải chăng các hạ là Trước thủ hồi xuân Bối đại phu?”
Lão già đó chính là Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch, thấy Tạ Yên Khách biết danh hiệu mình cũng hơi đắc ý. Lão hắng giọng hai tiếng rồi đáp: “Lão phu không dám. Tiện danh có đáng chi mà tiên sinh cũng nhớ. Ngoại hiệu Trước Thủ Hồi Xuân này thật quá lớn lối, chẳng bõ làm trò cười cho Tạ tiên sinh.”
Tạ Yên Khách nói: “Tại hạ thường nghe Bối đại phu một mình qua lại giang hồ, không hiểu đã gia nhập bang Trường Lạc từ lúc nào?”
Bối Hải Thạch đáp: “Tại hạ nghĩ rằng sức một người chẳng đáng bao nhiêu, đồng tâm hiệp lực với huynh đệ trong bang thì hành sự tạo phúc cho thế gian được dễ dàng hơn.” Lão ho mấy tiếng rồi nói tiếp: “Tạ tiên sinh! Bọn tại hạ đến đây thật là lỗ mãng, tự tiện xâm nhập bảo sơn, tiên sinh là người đại nhân đại lượng xin miễn trách cho. Bọn tại hạ thật chẳng dám vô sự mà quấy nhiễu, chỉ vì muốn yết kiến bang chúa tệ bang, cảm phiền Tạ tiên sinh dẫn vào ra mắt.”
Tạ Yên Khách ngạc nhiên hỏi lại: “Không hiểu bang chúa quý bang là ai? Tại hạ ít khi qua lại giang hồ, lại là người cô lậu, kiến thức hẹp hòi, đến ngay cả danh hiệu của quý bang chúa cũng thất lễ mà chưa được biết, làm sao tiến dẫn được?”
Tạ Yên Khách vừa dứt lời thì chín người đều lộ vẻ không bằng lòng. Bối Hải Thạch đưa tay trái lên vuốt râu, hắng giọng mấy tiếng rồi nói: “Tạ tiên sinh! Thạch bang chúa của tệ bang đã có giao tình với tiên sinh, hai vị dắt tay nhau mà đi, nên tệ bang suốt từ trên xuống dưới ai cũng đem lòng kính cẩn, coi tiên sinh như một bậc thượng khách không dám vô lễ chút nào. Hành động của Thạch bang chúa thì lẽ ra bọn thuộc hạ không dám hỏi đến, nhưng vì người rời khỏi tổng đàn đã lâu, mọi việc phải đợi người về lo liệu, lại còn hai việc rất lớn, cấp bách như dầu sôi lửa bỏng.”
Lão lại ho mấy tiếng rồi tiếp: “Vì thế khi vừa được tin Thạch bang chúa đã lên Ma Thiên Nhai, bọn tại hạ lập tức gấp rút đến đây. Đáng lẽ phải đưa danh thiếp lên trước, đợi Tạ tiên sinh chấp nhận mới được lên núi, nhưng vì sự việc cấp bách nên lễ số có phần khiếm khuyết, chỉ mong được cao nhân thứ lỗi.” Lão nói xong, lại cúi mình vái chào một cái nữa.
Tạ Yên Khách thấy lão này ra chiều thành khẩn, còn cả bọn tuy tay cầm binh khí mà vẻ mặt không có gì ác ý, thì nghĩ bụng: “Té ra mình đã hiểu lầm.” Rồi lão mỉm cười nói: “Trên Ma Thiên Nhai không có bàn ghế, nên tiếp đãi quý khách không được trịnh trọng, xin các vị tùy tiện tìm chỗ ngồi. Không hiểu Bối đại phu nghe ai nói lão phu dắt tay Thạch bang chúa cùng đi? Quý bang nhân tài như nước, hào kiệt như mây, thanh danh Thạch bang chúa lừng lẫy hiếm kẻ sánh bằng, còn lão phu chẳng qua chỉ là một kẻ chán đời ẩn cư nơi hoang sơn dã lĩnh, sao lại được Thạch bang chúa hạ cố tương giao? Ha ha! Thật đáng buồn cười!”
Bối Hải Thạch liền bảo đồng bọn: “Các huynh đệ! Chúng ta hãy ngồi cả đây nói chuyện!” Họ Bối quả nhiên là thủ lĩnh của bọn này, lão vừa hạ lệnh là mọi người đều ngồi xuống xung quanh, người ngồi xuống mỏm đá, người ngồi trên cành cây, Bối Hải Thạch thì ngồi xuống một ụ đất. Chín người thu khí giới lại, nhưng vẫn ngồi thành thế vây quanh Tạ Yên Khách.
Tạ Yên Khách đã hơi tức giận, nghĩ bụng: “Bọn ngươi thật là vô lễ. Đừng nói là ta không biết Thạch bang chúa hay Ngói bang chúa gì gì đó rúc ở xó nào, mà dù ta có biết chăng nữa, thì bộ dạng bọn ngươi như thế này, ta cũng không thèm nói.” Lão cười lạt, ngẩng lên nhìn mặt trời trên đỉnh đầu, không thèm nhìn đến bọn kia nữa.
Bối Hải Thạch cũng nghĩ: “Địa vị và thân phận ta trong võ lâm cũng không thấp, ngươi đối với ta ngạo mạn như thế cũng không khỏi quá đáng. Nhưng nghe nói người này võ công cao cường, lòng dạ nham hiểm, ra tay lợi hại. Trường Lạc Bang chúng ta cũng không nên kết thêm đối thủ như thế.” Lão bèn ra vẻ nể mặt Tạ Yên Khách là chỗ bạn bè với Thạch bang chúa, vẫn dùng lời lẽ lịch sự nói tiếp: “Tạ tiên sinh! Vì việc của tệ bang mà đến quấy quả tiên sinh, thật lấy làm áy náy. Lão phu chỉ xin tiên sinh dẫn vào yết kiến, rồi huynh đệ bọn tại hạ sẽ xin lỗi Tạ tiên sinh sau vậy.”
Tám người kia cùng suy nghĩ: “Bối đại phu khách sáo với lão này như thế cũng là nhịn lắm rồi. Cho dù võ công Tạ Yên Khách có cao hơn, nhưng chúng ta đến chín người dĩ nhiên không sợ lão ta. Chẳng qua lão là bạn của bang chúa nên không tiện đắc tội mà thôi.”
Tạ Yên Khách lạnh lùng nói: “Bối đại phu! Đại phu là hào kiệt thành danh, tiếng tăm lừng lẫy trên chốn giang hồ. Người ta thường nói: Ngựa hay chỉ quất một roi, quân tử chỉ nói một lời. Xem chừng đại phu ra chiều mạt sát lão phu không đáng là quân tử, có đúng thế không?”
Bối Hải Thạch nghe giọng Tạ Yên Khách đã có ý tức giận thì không khỏi âm thầm cảnh giác. Lão liền ôn tồn đáp: “Tại hạ không dám!”
Tạ Yên Khách lại tiếp: “Theo lời Bối đại phu thì dường như Tạ mỗ ăn nói không có mực thước. Lão phu đã bảo chưa thấy Thạch bang chúa mà đại phu nhất định không tin. Chẳng lẽ đại phu mới là bậc quân tử chí thành, còn Tạ mỗ chỉ là tiểu nhân nói dối ư? “
Bối Hải Thạch hắng giọng mấy tiếng rồi nói: “Sao Tạ tiên sinh lại nói nặng lời như thế? Anh em bọn tại hạ đã ngưỡng mộ Tạ tiên sinh từ lâu, tệ bang từ trên xuống dưới không ai dám không tôn kính. Lời nói của Tạ tiên sinh nặng như núi, nào ai dám coi thường? Chẳng qua Tạ tiên sinh đang bận tu luyện thần công, không có thời gian dẫn kiến bọn tại hạ vào ra mắt tệ bang chúa, nên bọn tại hạ không dám quấy nhiễu mà phải chia nhau tự đi tìm kiếm, cũng mong Tạ tiên sinh đừng trách.”
Tạ Yên Khách trước đã bực bội, bây giờ lại càng tức giận hơn, vẻ mặt xám xanh nói: “Bối đại phu chẳng những không tin lời Tạ mỗ, lại còn coi Tạ mỗ không vào đâu, toan làm điều càn rỡ trên Ma Thiên Nhai hay sao?”
Bối Hải Thạch lắc đầu đáp: “Không dám, không dám! Nói ra xấu hổ, giả tỉ câu chuyện Trường Lạc Bang phải năn nỉ người ngoài dẫn vào yết kiến bang chúa mà đồn đại ra giang hồ, thì thiên hạ phải cười đến sái quai hàm. Bọn tại hạ chẳng qua vì không thấy bang chúa mà phải tìm quanh đây một chút, chứ không dám làm gì càn rỡ, mong rằng Tạ tiên sinh đừng lấy thế làm bất mãn. Ma Thiên Nhai núi cao rừng rậm, nhiều nơi ẩn náu, không chừng Thạch bang chúa của tệ bang đã lên núi mà Tạ tiên sinh mải thanh tu nên chưa để ý.” Trong lòng lão nghĩ: “Ngươi không để chúng ta gặp mặt bang chúa, nhất định là có ý bất hảo rồi.”
Tạ Yên Khách thì lại nghĩ: “Trên đỉnh Ma Thiên Nhai này, mình có thấy lão bang chúa bang chó nào đâu? Bọn này thật là ngang ngược vô lễ, mượn tiếng tìm người để sục sạo trong khu vực của mình, dĩ nhiên đó chỉ là mượn danh nghĩa mà thôi. Chúng đã mờ ám lên đây như thế thì làm gì có chuyện tốt? Nhưng bọn Trường Lạc Bang đã biết danh Tạ mỗ mà còn dám khoa trương, đương nhiên là có chuẩn bị rồi.” Lão cũng biết tình thế lúc này rất nguy hiểm. Ngũ Hành Lục Hiệp Chưởng của Bối Hải Thạch cũng nổi tiếng võ lâm, giả tỉ một mình Bối Hải Thạch thì giỏi lắm cũng chỉ ngang sức với mình là cùng, nhưng còn thêm tám cao thủ khác thì cũng không dễ đối phó. Huống hồ mình cũng không biết trong Trường Lạc Bang có bao nhiêu cao thủ đã lên núi, không chừng còn một số đang ẩn nấp chung quanh để chờ cơ hội ra tay.
Tạ Yên Khách nghĩ ra một kế, đột nhiên đưa mắt nhìn về phía Tây Bắc, vẻ mặt ra chiều kinh hãi, miệng khẽ la lên một tiếng: “Ái chà!” Bọn chín người bang Trường Lạc cũng quay nhìn cả về phía Tây Bắc. Tạ Yên Khách chớp nhoáng vọt tới chỗ gã Mễ hương chủ cao kều, vươn tay ra toan rút lấy thanh kiếm trên lưng gã.
Mễ hương chủ cũng nhìn về phía Tây Bắc, chưa thấy gì khác lạ thì bỗng nghe gió ập đến, địch nhân đã lạng tới bên người. Gã cũng phản ứng nhanh như chớp, vung tay phải nắm lấy chuôi kiếm trước cả Tạ Yên Khách, rút đánh soạt một cái, trường kiếm đã ra khỏi vỏ. Thanh quang vừa lấp loáng thì dưới cạnh sườn gã cảm thấy tê nhức, thì ra đã bị ngón trỏ tay phải của Tạ Yên Khách đã điểm trúng huyệt đạo. Rồi sau lưng gã cũng đau buốt, đã bị người ta nắm lấy. Tạ Yên Khách nhìn về phía Tây Bắc chỉ là kế dụ địch. Cả đến chiêu tranh đoạt trường kiếm của đối phương cũng chỉ là dương đông kích tây. Quả nhiên Mễ hương chủ trúng kế, chỉ chú ý đến việc cố nắm lấy chuôi kiếm trước, để hở cạnh sườn và sau lưng.
Kể ra thì võ công Mễ hương chủ có kém Tạ Yên Khách, nhưng cũng không dễ gì trong một chiêu mà thất bại, bị kiềm chế ngay được. Nhưng ngày trước Tạ Yên Khách đã từng quan sát Mễ hương chủ đấu với Đại Bi lão nhân, lại thấy gã vung quỷ đầu đao để cạo trọc đầu thằng bé ăn xin. Lão còn nhớ thuộc lòng kiếm pháp của Mễ hương chủ. Thông thường người nào ra tay quá mau lẹ thì phòng thủ phải thiếu bề nghiêm cẩn, lão thử một chiêu quả nhiên đã đắc thủ ngay.
Tạ Yên Khách mỉm cười nói: “Mễ hương chủ! Tạ mỗ cam bề đắc tội.” Mễ hương chủ giận dữ vô cùng, nhưng chẳng làm gì được.
Bối Hải Thạch ngạc nhiên hỏi: “Tạ tiên sinh làm gì thế? Tiên sinh thật không cho bọn tại hạ tìm kiếm tệ bang chúa hay sao?”
Tạ Yên Khách nói: “Các vị muốn giết Tạ mỗ cũng không phải là chuyện dễ dàng. Tạ mỗ mà chết thì bên các vị cũng phải có mấy mạng đi trước đã.”
Bối Hải Thạch cười khổ: “Bọn tại hạ cùng Tạ tiên sinh vốn không thù oán, khi nào lại đem lòng gia hại? Huống chi võ công của Tạ tiên sinh biến ảo tuyệt diệu như vậy thì dù bọn tại hạ muốn gia hại cũng chỉ rước họa vào thân mà thôi. Chúng ta là chỗ bạn tốt, xin Tạ tiên sinh buông Mễ huynh đệ ra trước đã.” Lão thấy Tạ Yên Khách mới thi triển một chiêu mà đã nắm được Mễ hương chủ thì trong lòng hết sức thán phục.
Tay phải Tạ Yên Khách nắm lấy huyệt Đại Truy sau lưng Mễ hương chủ, chỉ huy động chưởng lực một chút là tâm mạch gã phải đứt hết ngay. Lão thấy mình đã uy hiếp được đối phương, liền nói: “Các vị cứ rời khỏi Ma Thiên Nhai trước, Tạ mỗ sẽ thả Mễ hương chủ ra ngay.”
Bối Hải Thạch đáp: “Muốn bọn tại hạ xuống núi thì cũng chẳng khó khăn gì, nhưng không chừng giờ Ngọ xuống thì giờ Thân lại trở lên.”
Tạ Yên Khách sa sầm nét mặt nói: “Bối đại phu! Ngươi giống như âm hồn bất tán, quanh quẩn mãi bên Tạ mỗ như vậy là có ý gì?”
Bối Hải Thạch đáp: “Anh em bọn tại hạ đâu có âm mưu ý định gì đâu?”
Bảy gã kia nãy giờ chưa hề mở miệng, bây giờ mới cùng lên tiếng: “Bọn tại hạ đến đây chỉ xin vào ra mắt bang chúa, và đón người về ngay tổng đà.”
Tạ Yên Khách tức giận hỏi: “Nói đi nói lại thì các ngươi vẫn nghi ngờ lão phu đem giấu bang chúa của các ngươi. Có phải thế không?”
Bối Hải Thạch đáp: “Bên trong còn có ẩn tình gì, trước khi gặp mặt Thạch bang chúa thì không ai dám vội vã đoán mò.” Rồi lão quay lại bảo một hán tử trung niên thân hình cao lớn: “Vân hương chủ! Ngươi cùng các vị hiền đệ chia nhau bốn mặt tìm kiếm, nếu thấy đại giá bang chúa thì lập tức báo cho ngu huynh biết.”
Gã Vân hương chủ này, tay phải cầm một đôi đoản kích bằng bạc sáng loáng, gật đầu nói: “Tuân lệnh.” Rồi gã lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Bối tiên sinh có lệnh, chúng ta phải đi kiếm bang chúa.”
Sáu gã kia đồng thanh đáp: “Vâng!” Bảy người đi giật lùi mấy bước rồi quay mình đi vào rừng.
Tạ Yên Khách tuy đã kiềm chế được một người, nhưng bọn người bang Trường Lạc chẳng quan tâm gì đến sự yên nguy của Mễ hương chủ, ai nấy cứ việc mà đi, chẳng e dè chi hết. Dường như lão có hạ sát Mễ hương chủ, chúng cũng coi là chuyện nhỏ. Chỉ có một mình Bối Hải Thạch ở lại, hiển nhiên có ý giám sát bản thân mình, chứ không phải để tìm cách giải cứu Mễ hương chủ. Tạ Yên Khách chợt nghĩ ra một chuyện: “Thiếu niên đó đã giao Huyền Thiết Lệnh cho mình, việc này chắc đã đồn rộng khắp giang hồ. Bọn này lấy danh nghĩa đi tìm bang chúa, dụng ý chắc là bắt cóc thiếu niên đó. Giả tỉ thiếu niên đó mà rơi vào tay chúng, Trường Lạc Bang sẽ có lợi thế để chế phục ta. Nhưng Tạ Yên Khách này là nhân vật như thế nào mà để cho người ta đến nhà mình ăn hiếp?”
Tạ Yên Khách quyết định được chủ ý, đợi bảy người kia đi xa, đột nhiên dồn nội lực vào sau lưng Mễ hương chủ rồi đẩy ra. Đây là chiêu Văn Thừa Võ úy, dùng thân thể Mễ hương chủ làm binh khí để tấn công Bối Hải Thạch.
Lão từng nghe Bối Hải Thạch nội lực tinh thâm, chỉ vì hồi trung niên bị nội thương, trong người thường xuyên có bệnh mà võ công có phần sút kém. Bối Hải Thạch cũng vì mắc bệnh lâu ngày, phải tìm cách chữa cho mình mà biết nghề thuốc, vì thế mà có ba chữ “Bối đại phu”, chứ y không phải là thầy lang thật sự. Tuy võ công y có phần giảm sút, nhưng vẫn còn lợi hại lắm. Chín năm trước đây, Kỳ Trung Tam Sát đã bị y đánh chết trong một đêm và ở ba nơi cách nhau đến hai trăm dặm. Mỗi khi nhân vật giang hồ nhắc tới vụ này đều phải hoảng hồn. Vì thế tuy Tạ Yên Khách thấy Bối Hải Thạch ho hen liên tục dường như chân khí hư nhược, nhưng lão cũng không dám coi thường, xuất thủ toàn những chiêu hiểm độc nhất.
Bối Hải Thạch thấy Tạ Yên Khách đột ngột động thủ, vừa ho vừa nói: “Tạ tiên sinh… Hà tất phải tổn thương hòa khí…” Câu nói của y bị những cơn ho cắt thành mấy quãng. Y vừa nói vừa giơ song chưởng ra, lúc gần đụng vào Mễ hương chủ thì đột nhiên phóng chân trái ra, đá trúng bụng dưới Mễ hương chủ, hất người gã bay vọt qua đỉnh đầu mình ra phía sau lưng, đồng thời song chưởng của y phóng đến trước ngực Tạ Yên Khách.
Chiêu này biến hóa thật là kỳ dị. Tạ Yên Khách tuy kiến văn uyên bác mà cũng không hiểu chiêu thức đó tên là gì. Lão giật mình kinh hãi, thuận tay đưa ra nghênh đón chưởng lực đối phương, bỗng cảm thấy mười đầu ngón tay tê nhức như bị muôn ngàn mũi kim đâm vào. Trong lúc Tạ Yên Khách gấp rút vận nội kình để đỡ chưởng lực của đối phương, lão cảm thấy trước ngực trống rỗng, tựa hồ nội lực toàn thân hoàn toàn biến mất. Lão kêu thầm: “Không xong rồi! Mình vừa luyện chưởng pháp, nội lực vô tình đã bị hao tán đến bảy tám phần. Bây giờ làm sao so với hắn được?” Lập tức lão hạ tay xuống kích vào bụng Bối Hải Thạch. Tay phải của Bối Hải Thạch cũng hạ thấp xuống, ngăn chặn thế đánh của đối phương. Tạ Yên Khách phất mạnh tay áo ra, phát huy Thiết Tụ Công phất vào mặt họ Bối.
Bối Hải Thạch nghĩ bụng: “Thế đánh của lão tuy rất hiểm độc, nhưng dường như nội lực suy kiệt, không chừng là muốn dụ ta vào tròng.” Y bèn nghiêng người đi để tránh né tay áo của họ Tạ. Bốn chữ Ma Thiên Cư Sĩ trong võ lâm không ai dám coi thường, Bối Hải Thạch lại vừa thấy lão thi triển Bích Trâm Thanh Chưởng, chưởng pháp tinh kỳ, nội lực thâm hậu, biết rằng mình không thể bằng được. Nhưng vì bang chúa mất tích không thể không tìm, bị ép động thủ thì phải động thủ, tuy phát giác nội lực của đối phương nông cạn mà cũng phải đề phòng, không dám coi thường.
Tạ Yên Khách thu tay áo về. Nghe véo một tiếng, lão mượn kình phong ở tay áo để băng mình lùi lại mấy trượng, rồi chắp tay nói: “Xin thứ lỗi, sau này sẽ có ngày tái hội.” Miệng nói chưa dứt lời, người lão đã lùi về phía sau mau lẹ phi thường, nhưng vẫn ra vẻ ung dung, chẳng có gì là hấp tấp hốt hoảng cả.
Tạ Yên Khách ra ba chiêu liên tiếp, thấy tình thế không ổn mà phải rút lui, nhưng cũng không thể nói là lão đã thua Bối Hải Thạch. Tuy lão bị ép phải xuống Ma Thiên Nhai, nhưng bị chín người đối phương vây đánh mà vẫn kiềm chế được một tay cao thủ là Mễ hương chủ. Như vậy chẳng những oai danh bang Trường Lạc bị thương tổn, mà nhuệ khí phái này cũng bị giảm sút nặng nề.
Tạ Yên Khách theo vách núi dựng đứng tung mình đi xuống, trong lòng thấy khoan khoái hơn là phẫn nộ. Đột nhiên lão nghĩ đến thiếu niên kia phải rơi vào tay kẻ địch, sau này hậu hoạn vô cùng. Lão lập tức cảm thấy phiền não, dự tính: “Khi nội lực của ta khôi phục lại, chắc phải đi đến Trường Lạc Bang để lật ngược cả tổng đà của chúng lên. Nếu chúng không gặp được Cẩu Tạp Chủng thì chắc chắn không làm gì ta được, còn nếu Cẩu Tạp Chủng bị chúng kiềm chế hay quyến rũ, vừa gặp mặt ta đã nói: “Cháu xin ông tự chặt một cánh tay” thì hỏng bét. May mà kinh mạch âm dương của thằng lỏi này đã đảo lộn hết. Nội công của nó chẳng bao lâu sẽ luyện thành, khi luyện thành thì mất mạng lập tức. Ta đợi nó chết mới đi tìm Trường Lạc Bang để trút hận cũng được. Quân tử báo thù mười năm không muộn, việc này không nên gấp rút, cứ theo kế sách an toàn nhất mà làm.”
* * *
Bối Hải Thạch thấy Tạ Yên Khách tự nhiên rút lui khỏi Ma Thiên Nhai thì sinh nghi tự hỏi: “Lão đã kết giao cùng Thạch bang chúa mà sao lại hạ độc thủ với Mễ hương chủ? Chuyện khuất khúc như thế này thực là khó nghĩ, chẳng lẽ… chẳng lẽ lão đã phát giác ra mưu kế của chúng ta, không biết có nói với Thạch bang chúa chưa?” Lão không nén nổi, suy nghĩ lung tung mất một lúc rồi im lặng lắc đầu.
Bối Hải Thạch liền quay lại nâng Mễ hương chủ lên, áp hai bàn tay vào hai yếu huyệt Hồn Môn và Phách Hộ trên lưng để trút nội lực sang cho gã. Chỉ trong khoảng khắc, mắt Mễ hương chủ hé mở, khẽ thều thào: “Đa tạ Bối tiên sinh cứu mạng.”
Bối Hải Thạch đáp: “Mễ huynh đệ cứ nằm yên nghỉ ngơi, ngàn vạn lần nhớ đừng vận khí.”
Vừa rồi Tạ Yên Khách ra chiêu Văn Thừa Võ Úy định đưa Mễ hương chủ vào đất chết, đồng thời lại hạ độc thủ toan sát hại cả Bối Hải Thạch. Giả tỉ họ Bối cũng xuất chưởng đón tiếp, thì Mễ hương chủ bị hai luồng nội lực giáp công, nhất định phải mất mạng. Nhưng Bối Hải Thạch đã dùng chân trái ra đỡ ở bụng dưới Mễ hương chủ, một mặt là hất người gã bay qua đầu mình, một mặt là hóa giải quá nửa phần nội lực của Tạ Yên Khách. Cũng may lúc đó nội lực của Tạ Yên Khách chỉ còn lại một phần, nếu không thì chiêu này của Bối Hải Thạch kỳ diệu đến đâu cũng không thể bảo toàn được sinh mạng của Mễ hương chủ.
Bối Hải Thạch nhẹ nhàng đặt Mễ hương chủ xuống đất, đặt hai tay vào trước ngực gã để vận nội lực trị thương. Bất thình lình có tiếng la lên: “Bang chúa đây rồi! Bang chúa đây rồi!”
Bối Hải Thạch cả mừng nói: “Mễ huynh đệ! Tính mạng của huynh đệ không có gì nguy hiểm nữa. Ta đi yết kiến bang chúa đã.” Dứt lời, lão chạy vội về phía có tiếng hô hoán, trong bụng nghĩ: “Tạ ơn trời phật! Nếu không tìm thấy bang chúa, chỉ sợ bản bang tiêu tan thành mây khói, đại họa trước mắt chẳng còn ai chống đỡ!”
Bối Hải Thạch chạy chưa đầy một dặm thì đã thấy một người ngồi trên tảng đá lớn. Lão ngẩng đầu lên nhìn, thì đúng là bang chúa bản bang Thạch Phá Thiên. Bọn Vân hương chủ bảy người đang thõng tay đứng trước tảng đá rất nghiêm cẩn. Bối Hải Thạch chạy nhanh tới trước. Lúc này mặt trời đang ở giữa đỉnh đầu chiếu xuống, soi rõ mặt mũi người ngồi trên tảng đá. Người này mày rậm mắt to, khuôn mặt vuông vắn, không phải Thạch bang chúa thì còn ai nữa? Bối Hải Thạch mừng quá reo lên: “Bang chúa! Lão nhân gia có mạnh khỏe không?”
Lão vừa nói câu này thì phát hiện nét mặt Thạch bang chúa lộ vẻ cực kỳ đau khổ, má trái ẩn hiện sắc xanh như lạnh cóng, má phải đỏ nhừ như say rượu. Bối Hải Thạch là tay nội công cao cường, lại bị bệnh lâu ngày nên tinh thông y thuật. Lão thấy tình trạng này không ổn, giật mình kinh hãi nghĩ bụng: “Bang chúa… bang chúa làm gì vậy? Chẳng lẽ đang luyện nội công cao thâm hay sao? Thế thì nguy rồi, nhất định là Tạ Yên Khách đã truyền cho ông ấy. Trời ơi, chúng ta kéo nhau lên đỉnh núi này, e rằng đã làm phiền nhiễu đến việc luyện công của lão nhân gia.”
Chỉ trong chớp mắt, bao nhiêu mối nghi ngờ trong lòng Bối Hải Thạch đều thông suốt hết. Lão nghĩ: “Bang chúa đã mất tích nửa năm nay, tìm đâu cũng không ra, thì ra ẩn dật nơi này để luyện môn võ công cao thâm gì đó. Võ công của ông ấy càng cao thì bản bang càng có lợi, dĩ nhiên đó là việc tốt. Tạ tiên sinh chắc đã biết bang chúa luyện công đến lúc tối hậu, nếu người ngoài tới quấy nhiễu thì lão nhân gia sẽ phân tâm, vì thế mà bọn mình năn nỉ cách nào tiên sinh cũng nhất định không dẫn vào ra mắt. Tiên sinh có ý tốt như vậy mà bọn ta lại không biết điều, thật là đắc tội. Nhưng lão ta chỉ cần nói rõ là được, chẳng lẽ bọn ta nghe lại không hiểu hay sao? Trước giờ vẫn nghe nói lão họ Tạ này ngạo mạn, chắc thấy chúng ta tự tiện lên núi thì không vui, mới trở mặt xuất thủ giết người.”
Rồi lão lại nghĩ: “Xem vẻ mặt bang chúa thì dường như hai luồng nội lực âm dương trong người đang công kích nhau ghê gớm. Long hổ đâu có thể chung sống hòa bình với nhau được, nếu không ổn thì chắc chắn sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Tình trạng này nguy hiểm vô cùng.” Lão liền vẫy tay ra hiệu cho mọi người tạm rút lui. Khi đã cách xa phiến đá chừng mười trượng, Bối Hải Thạch mới nói rõ tình hình này cho mọi người nghe.
Mọi người nghe Bối Hải Thạch nói thì đều lộ vẻ vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Có người hỏi: “Bang chúa không đến nỗi tẩu hỏa nhập ma chứ?” Có người lại càu nhàu tự trách: “Chúng ta xông lên núi thật là lỗ mãng, quấy nhiễu lúc bang chúa luyện công, hậu họa e rằng không nhỏ.”
Bối Hải Thạch nói: “Mễ hương chủ đã bị Tạ tiên sinh đả thương, anh em nào qua đó săn sóc cho y một chút. Ta phải ở đây chầu chực, phòng khi bang chúa gặp nguy thì còn ra tay viện trợ. Còn các vị khác thì cứ ở gần đây chờ đợi, chớ làm huyên náo. Giả tỉ có địch nhân lên núi thì các vị tìm cách làm họ rút lui êm thấm, tuyệt nhiên không được kinh động đến bang chúa.” Mọi người đều là những tay lão luyện giang hồ, chẳng ai là không hiểu cái nguy khi đang luyện nội công mà có đại địch đến quấy nhiễu tâm thần. Họ đều vâng lời, chia ra canh gác những nơi hiểm yếu của Ma Thiên Nhai.
Bối Hải Thạch im lặng trở lại trước mặt Thạch bang chúa, thấy da mặt y đang co giật, toàn thân run lẩy bẩy, miệng há thật to như muốn la lên mà không phát ra tiếng. Hiển nhiên nội lực Thạch bang chúa đang đi vào đường rẽ, tính mạng nguy kịch trong khoảnh khắc. Bối Hải Thạch kinh hãi vô cùng, rất muốn cứu viện nhưng lại chưa hiểu Thạch bang chúa đang luyện nội công theo đường lối nào. Giữa lúc âm dương đang xung kích nhau, mình mà ra tay lầm lạc một chút là khiến y chết lẹ hơn.
Nhìn kỹ lại thì thấy y phục trên mình Thạch bang chúa bị rách tả tơi, da thịt đầy vết máu, trên đầu đang bốc ra một làn mù trắng dày đặc, ngưng tụ lại mà không tan đi. Bối Hải Thạch nghĩ: “Thạch bang chúa về chiêu số võ công thì biến ảo khôn lường, nhưng nội lực thì trước nay chẳng thâm hậu gì cho lắm. Nhưng trên đỉnh đầu đã bốc hơi trắng thì công lực phải cao thâm đến tột độ, có lý đâu mới nửa năm mà công lực lão nhân gia lại tiến bộ thần tốc đến thế?”
Bối Hải Thạch còn đang ngần ngừ, chưa biết làm thế nào thì đột nhiên ngửi thấy mùi khét lẹt, rồi trên vai áo bên phải Thạch bang chúa có một luồng khói trắng bốc lên. Đó chính là một hiện tượng tẩu hỏa nhập ma lúc luyện công, người luyện sẽ bị chết trong chớp mắt. Lão cực kỳ kinh hãi liền đưa tay ra nắm lấy huyệt Thanh Lãnh Uyên trên khuỷu tay phải của bang chúa, ít ra là để y tạm thời yên tĩnh lại một chút. Ngờ đâu, ngón tay lão đụng vào khuỷu tay Thạch bang chúa lại thấy lạnh ngắt, chẳng khác nào sờ phải một khối băng, bất giác run bắn người lên.
Bối Hải Thạch không dám vận nội lực để chống lại, vội rụt tay về tự hỏi: “Đó là nội công gì mà kỳ lạ thế? Tại sao nửa người lạnh thấu xương, còn nửa người lại nóng như lửa đốt.” Lão chưa biết phải làm sao, đột nhiên thấy người Thạch bang chúa co rúm lại thành một khối, lăn từ trên phiến đá xuống, giãy giụa mấy cái, rồi ôm đầu nằm yên không nhúc nhích nữa.
Bối Hải Thạch cả kinh la lên: “Bang chúa! Bang chúa!…” Rồi lão đưa tay xem thử thì thấy y hãy còn hô hấp, nhưng hơi thở rất yếu ớt, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể tắt hơi. Bối Hải Thạch chau mày, cất tiếng la gọi, rồi đỡ Thạch bang chúa ngồi dậy, tựa vào phiến đá. Lão thấy tình hình rất nguy cấp, lập tức ngồi xếp bằng cạnh bang chúa, tay trái áp vào bụng, tay phải áp vào lưng y, vận nội lực để bảo hộ tâm mạch.
Lát sau mọi người trong bang cũng kéo đến. Họ thấy sắc mặt bang chúa lúc đỏ như say rượu, lúc xanh như chết cóng, thân thế không ngớt run lên bần bật thì ai nấy cả kinh thất sắc, ánh mắt cực kỳ lo âu nghi hoặc. Bao nhiêu con mắt đều đổ dồn cả vào Bối Hải Thạch, thấy trán lão không ngớt tuôn ra những giọt mồ hôi lớn như hạt đậu, toàn thân rung động không ngừng, hiến nhiên lão cũng đang phải dùng toàn lực.
Sau rất lâu, Bối Hải Thạch mới từ từ buông tay, đứng dậy nói: “Hiến nhiên bang chúa đang tu luyện một môn nội công thượng thặng. Người có bị tẩu hỏa nhập ma hay không thì lúc này ta cũng chưa dám quyết đoán. Ta vừa tạm thời giúp lão nhân gia qua một cửa ải khó khăn, nhưng cũng không dám chắc về sau sẽ thế nào. Đây là một việc rất trọng đại, xin các vị huynh đệ cùng nhau bàn bạc xem có kế sách nào không.”
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, ai cũng nghĩ thầm: “Đến Bối đại phu mà còn nghĩ không ra thì chúng ta còn có ý kiến gì nữa?” Không ai lên tiếng nói chi hết.
Mễ hương chủ cũng đã được dìu đến, ngồi tựa vào gốc cây bách khẽ nói: “Bối tiên sinh! Tiên sinh bảo làm thế nào thì mọi người chỉ biết làm theo như vậy. Ý kiến của tiên sinh còn cao minh gấp mấy bọn tiểu đệ.”
Bối Hải Thạch lại nhìn Thạch bang chú nói: “Bốn môn phái lớn ở Quan Đông đã hẹn vào tiết Trùng Dương mùng chín tháng chín sẽ đến thăm Tổng đà bản bang, đã sắp đến ngày rồi. Việc này có quan hệ đến sự vinh nhục tồn vong của bản bang, hết thảy anh em đều biết rõ. Thực ra thì bốn phái lớn ở Quan Đông, thiết kích, quỷ đầu đao, mười mấy con phi đao đó cũng không làm khó dễ được Trường Lạc Bang của chúng ta. Còn vụ về môn phái của bang chúa là chuyện nội bộ, chúng ta cũng chẳng lo đến làm chi, nhưng việc này nếu truyền ra giang hồ thì thật sự không ổn.” Lão ho mấy tiếng, lại nói tiếp: “Việc trọng đại thật sự thì mọi người đều biết rõ, đó là Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh của Hiệp Khách Đảo, chắc chắn phải do đích thân bang chúa nhận lấy. Nếu không… nếu không thì mọi người khó mà qua khỏi kiếp nạn này.”
Vân hương chủ lên tiếng: “Bối tiên sinh nói đúng lắm. Tiếng tâm bang Trường Lạc chúng mình trên giang hồ thế nào, anh em đều biết cả rồi. Huynh đệ chúng ta quen hành động mau lẹ, không khéo mồm miệng như bọn ngụy quân tử, người ta muốn thưởng thiện thì cũng chẳng có thiện gì mà thưởng, còn muốn phạt ác thì có nhiều món nợ thật là khó mà tính toán. Vụ này nếu không có bang chúa chủ trương thì e rằng… Chỉ ngại…”
Bối Hải Thạch nói: “Việc này không thể chậm trễ. Theo ý ta, thì phải gấp rút thỉnh bang chúa về tổng đà. Nếu có cát nhân thiên tướng bảo trợ cho mà lão nhân gia trong vòng mười ngày nửa tháng có thể phục hồi nguyên trạng thì thật là phúc đức. Mà dù bang chúa chưa khỏi bệnh nhưng có mặt ở tổng đà thì anh em chống ngoại địch cũng yên tâm được một phần. Có đúng thế không?”
Mọi người đều gật đầu đáp: “Tiên sinh nói rất phải.”
Bối Hải Thạch nói: “Đã thế thì chúng ta chia làm hai tốp, đưa bang chúa cùng Mễ hương chủ về tổng đà.”
Mọi người bèn chặt cành cây, lột vỏ cây buộc thành hai cái cáng, đặt Thạch bang chúa cùng Mễ hương chủ lên cáng, buộc chặt lại để khi xuống núi khỏi trơn tuột. Tám người luân phiên khiêng hai cái cáng từ Ma Thiên Nhai đi xuống.
* * *
Hôm ấy, chàng thiếu niên đang theo lời Tạ Yên Khách mà luyện nội công như mọi ngày. Vào khoảng giờ Ngọ, chàng cảm thấy khí nóng trong những kinh mạch Thủ Dương Minh Đại Trường Kinh, Túc Dương Minh Vị Kinh, Túc Thái Dương Bàng Quang Kinh, Thủ Thái Dương Tam Tiêu Kinh, Túc Thiếu Dương Đởm Kinh cuồn cuộn bốc lên không thể kiềm chế được. Trong lúc ấy, các kinh mạch thuộc Thái Âm, Thiếu Âm, Quyết Âm lại lạnh cóng, tựa hồ đông cứng thành băng. Bên nhiệt thì nóng ghê gớm mà bên hàn lại lạnh kinh khủng, hai bên không lưu thông với nhau được.
Thì ra mấy năm nay chàng chuyên cần tu luyện, công lực đã tăng tiến rất nhiều. Giờ Ngọ hôm nay, ngoài xung mạch, đới mạch ra, những kinh mạch âm dương đột nhiên xung kích kịch liệt với nhau. Chàng thiếu niên gắng gượng chống đỡ được chừng nửa giờ rồi mê man đi không biết gì nữa, cũng không biết đã bao lâu. Lúc thì chàng thấy mình rơi vào hỏa lò nóng bỏng, mồ hôi thoát ra đầm đìa, môi miệng khô như cháy, lúc lại tưởng như rơi vào một cái hầm đá, máu trong người như đông hết lại thành băng.
Chàng thiếu niên cứ hết nóng rồi lại lạnh, hết lạnh rồi lại nóng. Trong lúc mơ màng chàng thấy đủ hạng người, trai có, gái có, xấu có, đẹp có, qua lại trước mắt chàng, nói năng với chàng, mà sao chẳng nghe được câu nào. Chàng muốn kêu lên mà không sao thốt ra lời được. Có lúc chàng thấy trước mắt sáng lòa, có lúc lại tối đen. Có lúc chàng tưởng như người bên cạnh đang mời uống gì đó, được thức ngon thì tươi cười, mà uống phải những loại cay đắng thì nhăn mặt lại, cũng không biết đó là những loại nước gì.
Chàng thiêu niên cứ mơ mơ hồ hồ như vậy không biết đã mấy ngày, một hôm bỗng cảm thấy trán mát rượi, mũi ngửi thấy mùi thơm. Chàng từ từ mở mắt ra, vật đầu tiên nhìn thấy là một cây nến đỏ được thắp sáng, ánh sáng lung linh. Rồi chàng lại nghe thấy một thanh âm thanh tao, dịu dàng nói: “May quá, cuối cùng công tử cũng tỉnh lại rồi.” Trong giọng nói đầy vẻ hân hoan. Chàng thiếu niên đưa mắt nhìn về phía phát ra thanh âm, thì thấy người nói chuyện là một thiếu nữ chừng mười bảy mười tám tuổi, mặc áo xanh nhạt, khuôn mặt trái xoan rất kiều diễm, ánh mắt trong veo đang nhìn mình, khóe miệng lộ một nụ cười, lại nhẹ nhàng hỏi: “Công tử còn chỗ nào khó chịu nữa không?”
Trong đầu óc chàng lúc này trống rỗng, chỉ còn nhớ mình đang luyện công trên Ma Thiên Nhai thì đột nhiên cảm thấy nửa người nóng như lửa còn nửa người lại lạnh như băng, rồi mê man không biết gì nữa. Bây giờ vừa hồi tỉnh thì đột nhiên thấy thiếu nữ này xuất hiện, chàng lẩm bẩm: “Ta… ta…” rồi lại phát giác ra mình đang nằm trên một cái giường êm dịu, lại có chăn đắp trên người. Chàng toan ngồi dậy, nhưng vừa cựa mình thì khắp tứ chi mình mẩy đau đớn vô cùng, tựa như bị trăm nghìn mũi kim châm chích, không nhịn được phải la lên một tiếng.
Thiếu nữ nói: “Công tử vừa hồi tỉnh, không nên cử động nhiều. Tạ ơn Trời Phật! Thế là cái mạng nhỏ bé này có thể giữ được rồi.” Nàng nói xong, đột nhiên cúi xuống nhẹ nhàng hôn lên trán chàng, khi ngẩng dậy thì mặt đỏ bừng lên.
Chàng thiếu niên cũng không hiểu là nàng mắc cỡ, chỉ nhận thấy hai má nàng đỏ ửng lại càng xinh đẹp, bèn mỉm cười run run hỏi: “Ta… ta ở chỗ nào?”
Thiếu nữ cũng mỉm cười, dịu dàng giơ ngón tay trỏ lên để vào miệng ra hiệu cho chàng đừng lên tiếng. Nàng khẽ nói: “Có người đến! Ta phải đi đây!” Bóng người thấp thoáng, nàng chuồn qua cửa sổ ra ngoài.
Chàng thiếu niên chỉ thấy hoa mắt lên một cái là thiếu nữ đã mất hút. Chàng lại nghe trên nóc nhà có những tiếng bước chân lạo xạo rất nhẹ, nhanh chóng rời xa, không khỏi bâng khuâng tự hỏi: “Nàng là ai? Nàng còn đến thăm ta nữa không?”
Một lát sau, quả nhiên có tiếng chân người đi đến bên cửa, rồi có tiếng hắng giọng. Cửa phòng kẹt mở. Hai người đi vào là một lão già mặt như người bệnh và một hán tử vừa ốm nhom vừa cao kều, nét mặt hơi quen quen như đã gặp ở đâu.
Lão già thấy chàng thiếu niên giương mắt lên nhìn thì lộ vẻ vui mừng tiến lại nói: “Bang chúa! Bang chúa thấy trong người thế nào? Hôm nay vẻ mặt bang chúa đã tươi tỉnh lắm rồi.”
Chàng thiếu niên ngập ngừng hỏi lại: “Lão… lão gọi ta là gì? Ta… ta… ở đâu đây?”
Lão già thoáng vẻ lo âu nhưng lại tươi cười ngay, đáp: “Bang chúa bị trọng bệnh đã bảy tám ngày, bây giờ thần trí phục hồi, thật là chuyện đáng mừng. Xin bang chúa cứ nằm nghỉ dưỡng thần, sáng mai thuộc hạ sẽ đến vấn an.” Lão nói xong, đưa ngón tay ra đặt lên cổ tay chàng để xem mạch, rồi một lát sau không ngừng gật đầu cười nói: “Tâm mạch bang chúa đã ổn định, không có gì đáng lo ngại nữa. Quả nhiên người tốt có hoàng thiên che chở, toàn bang cũng được hưởng phúc lây.”
Chàng thiếu niên kinh ngạc nói: “Ta… ta… là Cẩu Tạp Chủng chứ không phải bang chúa.”
Lão già cùng gã gầy đét nghe vậy lập tức ngẩn mặt ra, đưa mắt nhìn nhau. Lão già khẽ nói: “Xin bang chúa cứ yên nghỉ.” Lão đi giật lùi mấy bước, đoạn trở ra khỏi phòng.
Lão già này chính là Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch, còn gã gầy đét chính là hương chủ Mễ Hoành Dã.
Khi ở Ma Thiên Nhai, Mễ Hoành Dã đã bị Tạ Yên Khách dùng nội lực đả thương. Cũng may lúc đó nội lực Tạ Yên Khách đã suy giảm, lại nhờ Bối Hải Thạch võ công cao cường, y thuật tinh thông, kịp thời cứu viện gã đem về tổng đà bang Trường Lạc, điều dưỡng mấy ngày là dần dần bình phục. Nhưng gã một đời nổi tiếng anh hùng mà bị Tạ Yên Khách chỉ ra một chiêu đã bắt được, trong lòng phiền muộn vô cùng.
Bối Hải Thạch đã phải khuyên gã: “Mễ hiền đệ! Vụ này cũng tại chúng ta hành động lỗ mãng mà ra. Bây giờ nghĩ lại, phải chi Tạ Yên Khách nóng giận mà chế phục cả chín anh em, thì chắc không còn ai đến kinh động bang chúa khiến người phải tẩu hỏa nhập ma. Bây giờ bang chúa còn hôn mê bất tỉnh, tình thế nguy ngập, không ai dám đoán trước là lão nhân gia có qua khỏi được không. Môn nội công bang chúa đang luyện âm dương xung đột nhau như thế, dù chúng ta bản lãnh đến đâu cũng không thể luyện đến nơi được. Vạn nhất bang chúa xảy chuyện bất trắc thì Mễ hiền đệ là người tội nhẹ nhất trong chín anh em ta, vì hiền đệ vừa lên Ma Thiên Nhai đã bị Tạ tiên sinh kiềm chế, mất công lực từ trước khi thấy mặt bang chúa.”
Mễ Hoành Dã nói: “Bối tiên sinh không thể phân biệt kẻ có tội hay không bằng cách đó được. Bang chúa mà có mệnh hệ nào thì cả chín người chúng ta đều đại họa lâm đầu, còn phân biệt tội nặng với tội nhẹ gì nữa.”
Đến ngày thứ tám, Bối Hải Thạch và Mễ Hoành Dã vào thăm thì thấy Thạch bang chúa đã mở mắt ra và miệng đã nói được mấy tiếng, hai người mừng rõ vô cùng. Bối Hải Thạch bắt mạch thấy đã khá ổn định, còn chưa kịp mừng thì chàng thiếu niên lại nói một câu ngớ ngẩn “Ta là Cẩu Tạp Chủng chứ không phải bang chúa”, khiến cho Bối, Mễ hai người cả kinh thất sắc không dám nói gì nữa, lập tức lui ra.
Ra khỏi phòng, Mễ Hoành Dã hỏi Bối Hải Thạch: “Sao lại như thế?”
Bối Hải Thạch trầm ngâm một lát rồi đáp: “Hiện giờ tâm thần bang chúa còn chưa tỉnh táo, nhưng vẫn tốt hơn là cứ hôn mê. Tiểu huynh chỉ còn biết hết lòng chữa trị, sớm muộn gì thì chắc người cũng khỏi thôi.” Nói tới đây, lão ngưng lại một lát rồi tiếp: “Lúc này đang có nhiều việc gấp, mà chẳng biết bao giờ lão nhân gia mới hoàn toàn bình phục. Nhưng chỉ cần có bang chúa ở đây, cho dù trời có sập xuống cũng có người gánh vác.” Rồi lão vỗ nhè nhẹ lên vai Mễ Hoành Dã, mỉm cười nói: “Mễ hiền đệ! Ngươi không phải quá lo lắng, mọi việc ta sẽ lo liệu ổn thỏa.”
* * *
Chàng thiếu niên thấy hai người ra khỏi, lại mơ màng nhìn qua căn phòng một lượt. Chàng thấy mình nằm trên một chiếc giường rất lớn, trước giường là một án sách sơn son, bên án sách có hai chiếc ghế bành trải gấm. Trong phòng chỗ nào cũng bày biện xa hoa mỹ lệ, màn hồng đệm gấm, khói trầm đưa lên nhè nhẹ chẳng khác gì một động phủ thần tiên. Bỗng chàng thấy hơi hoa mắt, thấy chẳng có gì quen thuộc với mình, liền buông một tiếng thở dài nghĩ thầm: “Chắc là mình đang nằm mơ!”
Nhưng chàng nhớ lại thiếu nữ áo xanh nhạt vừa rồi dịu dàng nói chuyện, nét mặt rõ ràng lộ vẻ vui mừng. Cả đến động tác nàng chui qua cửa sổ chuồn đi cũng là sự thực hiển nhiên, không phải là mộng ảo. Chàng thiếu niên đưa tay phải lên toan sờ đầu, nhưng tay vừa động nhẹ thì toàn thân lại đau đớn như dần. Chàng không nhịn được, lại la lên một tiếng.
Bỗng trong góc phòng có tiếng người hắt hơi rồi hỏi: “Thiếu gia đã tỉnh rồi ư?” Đây đúng là thanh âm một thiếu nữ vừa thức dậy còn ngái ngủ. Đột nhiên cô ta thất thanh la gọi: “Thiếu gia đã tỉnh rồi ư?” Rồi một thiếu nữ áo vàng từ góc phòng nhảy vọt đến trước giường chàng.
Chàng thiếu niên tưởng đây là thiếu nữ lúc nãy vào thăm mình, bỗng thấy mừng rỡ. Nhưng chàng định thần nhìn kỹ thì thiếu nữ này mặc áo ngắn màu vàng, chẳng những màu áo khác nhau mà vẻ mặt cũng không giống. Thiếu nữ trước mắt chàng mặt tròn, mắt to, không xinh đẹp bằng cô áo xanh nhưng dịu dàng yểu điệu hơn. Hôm nay là lần đầu tiên chàng thiếu niên được đối diện chuyện trò với những cô gái trạc tuổi mình, đương nhiên không nhận xét được những sai biệt nhỏ, nhưng cũng hiểu cô này đang vừa vui mừng vừa kinh hãi. Chàng đáp: “Ta tỉnh rồi. Ta… ta không phải đang nằm mơ chứ?”
Thiếu nữ cười khanh khách nói: “Ai mà biết thiếu gia có đang nằm mơ hay không?” Đột nhiên mặt nàng nghiêm trang lại, hỏi tiếp: “Thiếu gia có cần gì không?”
Chàng thiếu niên ngạc nhiên, vội hỏi lại: “Cô kêu ta là gì? Thiếu… thiếu gia nghĩa là gì?”
Thiếu nữ nhíu cặp lông mày ra chiều bất mãn, hỏi lại: “Bọn nô tỳ là phận tôi đòi, chẳng kêu chủ nhân bằng thiếu gia thì kêu bằng gì nữa?”
Chàng thiếu niên lẩm bẩm: “Vừa rồi một người kêu mình bằng… bang chúa gì gì đó, rồi bây giờ lại có một cô kêu bằng thiếu gia. Vậy thì mình là ai, và sao lại ở đây?”
Thiếu nữ dịu dàng lại, cất tiếng khuyên: “Thiếu gia! Hiện giờ thiếu gia chưa hoàn toàn khỏi hắn, đừng nói những chuyện này. Thiếu gia có ăn chút yến sào không?”
Chàng thiếu niên hỏi: “Yến sào ư?” Chàng không biết đó là cái thứ gì, nhưng cảm thấy rất đói bụng, có bất cứ cái gì ăn cũng tốt, nên liền gật đầu. Thiếu nữ đó bèn chạy sang phòng bên, lát sau bưng ra một cái khay. Trên khay có đặt một cái liễn sứ vẽ hoa màu xanh, mùi thơm bốc lên nghi ngút. Chàng thiếu niên vừa ngửi thấy đã chảy nước miếng, bụng sôi ùng ục.
Thiếu nữ tủm tỉm cười nói: “Bảy tám ngày nay thiếu gia chỉ uống sâm thang để cầm hơi, chắc bây giờ đói lắm rồi!” Cô vừa nói vừa đặt mâm xuống trước mặt chàng.
Dưới ánh nến, chàng thiếu niên thấy trong liễn đựng một thứ gì trắng như tuyết, trông như cháo mà không phải là cháo, lại loáng thoáng có mấy cánh hoa hồng bốc lên một mùi thơm thanh nhã. Chàng cất tiếng hỏi: “Cái này để ta ăn đây phải không?”
Thiếu nữ mỉm cười đáp: “Phải rồi! Thiếu gia lại còn phải hỏi ư?”
Chàng thiếu niên tự hỏi: “Không biết thứ này mất bao nhiêu tiền, mà mình chẳng có đồng bạc nào. Ta hỏi trước là hơn.” Chàng liền nói: “Trong mình ta không có tiền, thì… thì lấy gì trả cô được?”
Thiếu nữ sửng sốt, nhưng lát sau thì không nhịn được, cười khanh khách nói: “Thiếu gia vừa trọng bệnh mà tính nết vẫn chẳng thay đổi chút nào, nói ra toàn những lời đùa giỡn. Thiếu gia đã đói thì cứ ăn đi thôi.” Cô nói xong, liền bưng liễn yến sào đến gần.
Chàng thiếu niên cả mừng hỏi: “Ta ăn cái này không phải trả tiền ư?”
Thiếu nữ tưởng là chủ nhân trêu ghẹo, trong lòng hơi khó chịu liền xịu mặt xuống đáp: “Không phải trả tiền. Thiếu gia có ăn không?”
Chàng thiếu niên vội đáp: “Ta ăn, ta ăn…” Rồi chàng đưa tay ra cầm thìa, nhưng vừa cất tay lên thì toàn thân lại đau đớn không chịu được. Chàng nghiến chặt răng, từ từ giơ tay lên, nhưng tay cứ run bần bật không ngớt.
Thiếu nữ mặt lạnh như tiền hỏi: “Thiếu gia đau thật hay là giả vờ?”
Chàng thiếu niên lấy làm kỳ hỏi lại: “Đương nhiên là đau thật, tại sao phải giả vờ chứ?”
Thiếu nữ nói: “Được rồi! Thấy thiếu gia ốm thập tử nhất sinh, nô tỳ phá lệ mà đút cho thiếu gia ăn. Nhưng nếu thiếu gia lại thừa cơ mà đụng đậy chân tay bừa bãi, thì nô tỳ mặc kệ mà bỏ đi đấy.”
Chàng thiếu niên càng nghe càng thấy ngạc nhiên, lại hỏi: “Đụng đậy chân tay bừa bãi nghĩa là gì?”
Thiếu nữ đôi má ửng hồng, lườm chàng một cái rồi lấy muỗng múc yến sào trong liễn, đổ vào miệng chàng. Chàng thiếu niên ngơ ngác, không ngờ trên đời lại có người tử tế như vậy. Chàng há miệng ra nuốt một thìa yến sào thì thấy vừa thơm vừa ngon, khoan khoái không biết thế nào mà nói. Thiếu nữ không nói câu gì, múc cho chàng ba thìa liên tiếp. Cô vẫn sợ chàng có những hành động bất lịch sự nên cứ đứng cách giường xa xa, phải vươn tay ra mới đổ được yến sào vào miệng chàng.
Chàng thiếu niên đưa lưỡi liếm môi, khen luôn miệng: “Ngon quá! Thật là ngon quá! Ta hết sức cảm ơn cô!”
Thiếu nữ cười lạnh: “Thiếu gia đừng tưởng dùng ngụy kế mà đánh lừa được nô tỳ! yến sào chỉ là yến sào như mọi khi, thiếu gia ăn có đến hàng ngàn lần rồi, sao chẳng thấy khen ngon bao giờ?”
Chàng thiếu niên không khỏi ngạc nhiên nghĩ thầm: “Mình đã ăn thứ này bao giờ đâu?” Chàng liền hỏi: “Cái này… cái này là yến sào ư?”
Thiếu nữ hắng giọng một tiếng rồi đáp: “Thiếu gia thật khéo giả vờ!” Nói xong câu này cô ta lùi một bước, trên mặt đầy vẻ cảnh giác.
Chàng thiếu niên thấy cô ta mặc áo ngắn màu vàng óng, mới ngủ dậy chưa kịp chải tóc nên hai lọn tóc trên đầu còn rối bù xù, chân cũng chưa đi tất, hai bàn chân trắng xỏ trong đôi hài thêu. Mẹ chàng quanh năm đi tất, lại chẳng cho chàng vào phòng bao giờ. Chàng chưa từng được thấy đôi chân đẹp đẽ như thế, không nhịn được phải cất tiếng khen: “Chân… chân của cô thật là đẹp.” Thiếu nữ đỏ mặt lên ra chiều giận dữ. Cô ta đặt thịch liễn yến xuống bàn, quay lưng đi tới góc phòng, cuốn chiếu rồi cầm cả chăn gối bước ra cửa.
Chàng thiếu niên kinh hãi hỏi: “Cô… cô đi đâu? Cô không nhìn đến ta nữa ư?” Giọng nói của chàng tỏ vẻ khẩn thiết.
Thiếu nữ nói: “Thiếu gia bệnh nặng đến chết đi sống lại, mới nhúc nhích được một chút đã lại nói những câu vớ vẩn rồi. Thiếu gia là chủ, nô tỳ là phận tôi đòi thấp kém, khi nào lại dám tự tiện bỏ đi, mặc kệ chủ nhân?” Nàng nói xong thì đã bước ra khỏi cửa.
Chàng thiếu niên thấy cô ta tức giận bỏ đi, cũng không hiểu mình đã lầm lỗi gì, nghĩ bụng: “Một cô nhảy qua cửa sổ, một cô bước khỏi cửa lớn mà đi. Mấy cô này nói gì mình cũng chẳng hiểu chi hết, thật không biết chuyện gì nữa.” Chàng còn đang ngơ ngẩn xuất thần, bỗng nghe tiếng bước chân rất nhẹ, thiếu nữ vừa rồi lại quay vào phòng. Mặt cô vẫn còn ra chiều tức giận, tay bưng một thau nước rửa mặt.
Chàng thiếu niên thấy nàng trở lại thì cả mừng. Thiếu nữ đặt thau nước xuống bàn, lấy trong thau ra một chiếc khăn mặt nóng còn bốc hơi nghi ngút. Nàng vắt cho ráo nước, rồi đưa lại trước mặt chàng, lạnh nhạt nói: “Thiếu gia lau mặt đi!”
Chàng thiếu niên vội đáp: “Vâng, vâng!” rồi vội đưa tay ra cầm lấy. Nhưng chàng vừa cử động hai tay thì toàn thân lại đau đớn vô cùng, nghiến răng cố chịu để đưa khăn lên lau mặt, nhưng tay giơ lên còn cách mặt chừng một thước thì không sao đưa gần vào được nữa.
Thiếu nữ thấy vậy bán tín bán nghi, cười lạnh nhạt nói: “Thiếu gia giả vờ khéo thật!” Cô đón lấy khăn mặt rồi nói tiếp: “Thiếu gia muốn nô tỳ lau mặt cho cũng chẳng khó gì, nhưng đừng có đưa tay ra quấy rối. Thiếu gia chỉ đụng tới một sợi tóc, là nô tỳ vĩnh viễn không vào phòng nữa.”
Chàng thiếu niên nói: “Ta không dám. Cô nương đừng lau mặt cho ta nữa. Tấm khăn trắng như bông thế này mà lau vào mặt ta, thì bị dơ bẩn mất.”
Thiếu nữ nghe giọng nói chàng nhỏ nhẹ hơn trước, lời lẽ thì hoàn toàn chẳng giống ngày trước chút nào, vớ vẩn chẳng ra nghĩa lý gì nữa, thì không khỏi sinh lòng ngờ vực. Cô ta nghĩ thầm: “Không chừng trận ốm này làm chàng tổn thương đến não. Nghe Bối đại phu kể thiếu gia đang luyện công thì bị tẩu hỏa nhập ma, tổn hại đến lục phủ ngũ tạng, tính mạng giữ được hay không còn khó nói. Nếu không tổn thương đến não thì sao chàng lại nói trăng nói cuội như thế?” Nghĩ vậy cô ta liền hỏi: “Thiếu gia! Thiếu gia còn nhớ tên tiểu tỳ không?”
Chàng thiếu niên đáp: “Cô nương chưa nói bao giờ, thì ta biết làm sao được?” Rồi chàng mỉm cười nói tiếp: “Tên ta không phải là Thiếu gia mà là Cẩu Tạp Chủng, mẫu thân vẫn gọi ta như vậy. Nhưng lão bá lại bảo Cẩu Tạp Chủng không phải là tên, chỉ là tiếng dùng để mắng người, nghe không hay. Còn cô nương tên là gì?”
Thiếu nữ càng nghe thì đôi mày càng nhăn tít lại, nghĩ thầm: “Vẻ mặt thiếu gia chẳng có vẻ gì là giỡn cợt hay chọc ghẹo. Đúng là chàng mất trí rồi.” Nghĩ vậy cô không khỏi đau lòng, liền hỏi: “Thiếu gia! Thiếu gia thật không nhận ra tiểu tỳ là Thị Kiếm nữa ư?”
Chàng thiếu niên hỏi lại: “Cô nương là Thị Kiếm phải không? Từ đây ta gọi cô nương là Thị Kiếm tỷ tỷ. Mẫu thân ta có dặn rằng: Nếu gặp nữ nhân hơn tuổi mình nhiều thì kêu bằng bà bà, nếu chỉ hơn vài tuổi thì kêu bằng tỷ tỷ. “
Thị Kiếm buồn bã cúi xuống, bất giác vừa khóc vừa nói: “Thiếu gia… Thiếu gia quên Thị Kiếm này thật, không phải giả vờ để lừa gạt tiểu tỳ ư?”
Chàng thiếu niên lắc đầu nói: “Thật sự ta không hiểu được cô nói gì. Thị Kiếm tỷ tỷ! Sao tỷ tỷ lại khóc? Tại sao tỷ tỷ không vui vẻ? Ta có lầm lỗi gì không? Mỗi khi mẫu thân của ta không vui vẻ thì lại đánh ta, mắng ta. Tỷ tỷ có đánh ta mắng ta cũng được.”
Thị Kiếm nghe vậy lại càng đau lòng như cắt. Nàng cầm khăn từ từ lau mặt cho chàng, hạ thấp giọng nói: “Tiểu tỳ là một đứa a hoàn, có lý nào lại đánh mắng thiếu gia? Tiểu tỳ chỉ mong rằng ông trời phù hộ cho thiếu gia mau mau khỏi bệnh. Nếu thật sự thiếu gia quên hết mọi chuyện, tiểu tỳ biết phải làm sao đây?”
Sau khi lau mặt xong, chàng thiếu niên nhìn thấy chiếc khăn mặt trắng tinh đó cũng không đến nỗi dơ lắm. Chàng không biết trong lúc mình mê sảng, mỗi ngày đều được Thị Kiếm lau mặt mấy lần, nhưng cũng cảm ơn không ngớt. Thị Kiếm hạ giọng hỏi: “Thiếu gia quên tên tiểu tì, nhưng còn nhớ được những việc khác không? Tỉ dụ như thiếu gia là bang chúa của bang nào?”
Chàng thiếu niên lắc đầu đáp: “Ta không phải là bang chúa chi hết. Lão bá bá truyền thụ võ công cho, ta đang rèn luyện thì đột nhiên nửa người bên này nóng như sôi lên, còn nửa người bên kia lại lạnh cứng. Ta… ta… không sao chịu đựng nổi, bỗng dưng xây xẩm mặt mày rồi không biết gì nữa. Thị Kiếm tỷ tỷ! Sao hiện giờ ta lại ở đây? Có phải tỷ tỷ đem ta về đây không?”
Thị Kiếm trong lòng chua xót, nghĩ bụng: “Cứ tình trạng này thì hiển nhiên là thiếu gia không còn nhớ một tý gì nữa.”
Chàng thiếu niên lại nói tiếp: “Lão bá đâu rồi? Người dạy ta luyện công theo những nét vẽ trên hình nhân, không hiểu sao mà thân thể vừa nóng vừa lạnh, ta muốn hỏi lại lão bá thử.”
Thị Kiếm nghe chàng thiếu niên nói đến những hình nhân thì sực nhớ ra bảy hôm trước đây, lúc thay áo cho chàng, thấy trong bọc rớt ra một chiếc hộp gỗ. Cô động tính hiếu kỳ mở hộp ra xem, thì thấy mười tám pho tượng đất nhỏ xíu toàn là nam nhân lõa thể, lập tức đỏ mặt lên. Cô cho là thiếu chủ nhân quen tính phong lưu lãng mạn không phải người đứng đắn, những tượng đất lõa thể chắc chắn không phải là vật tốt, nên đóng nắp hộp lại ngay rồi cất vào hộc tủ. Bây giờ cô lại nghĩ thầm: “Ta cứ thử đem những tượng đất đó cho thiếu gia xem, không chừng sẽ giúp cho chàng nhớ lại những việc trước khi tấu hỏa nhập ma.” Thị Kiếm liền lấy hộp gỗ ra rồi nói: “Thiếu gia nói hình nhân gì đó, có phải là những thứ này không?”
Chàng thiếu niên vui mừng đáp: “Phải rồi! Hình nhân đây rồi, còn lão bá đâu? Lão bá đi đâu rồi?”
Thị Kiếm hỏi lại: “Lão bá nào?”
Chàng thiếu niên đáp: “Lão bá là lão bá chứ còn lão bá nào? Danh hiệu lão bá là Ma Thiên Cư Sĩ.”
Thị Kiếm chẳng hiểu mấy về những nhân vật võ lâm, trước nay cũng chưa nghe danh hiệu Ma Thiên cư sĩ Tạ Yên Khách, bèn đáp: “Thiếu gia ơi, thiếu gia tỉnh lại là tốt rồi, những việc ngày trước chưa nhớ ra thì cũng chẳng quan trọng lắm. Trời hãy còn chưa sáng, thiếu gia hãy ngủ đi một lúc nữa. Thực ra thì những việc ngày trước, thiếu gia quên hết đi càng hay.” Cô nói xong, kéo chăn đắp cho chàng, thu dọn đồ vật toan ra khỏi phòng.
Chàng thiếu niên hỏi: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Tại sao ta không nhớ lại những việc ngày trước thì lại tốt hơn?”
Thị Kiếm đáp: “Những việc ngày trước của thiếu gia…” Cô nói dở câu bỗng ngừng lại, cúi đầu xuống bước mau ra khỏi phòng.
* * *
Chàng thiếu niên hết sức hoang mang, dù cố nghĩ đến đâu cũng chẳng hiểu gì hết. Thỉnh thoảng chàng lại nghe bên ngoài có tiếng mõ lốc cốc, rồi tiếp đến tiếng thanh la leng keng. Chàng không biết đây là hiệu lệnh canh phòng, lại nghĩ rằng nửa đêm rồi mà người ta còn khua chiêng gõ mõ giỡn chơi.
Đột nhiên, huyệt Thương Dương ở ngón tay trỏ bên phải chàng nóng lên, một luồng nhiệt khí từ ngón tay truyền qua cổ tay, rần rần chạy lên cánh tay. Chàng kinh hãi la thầm: “Không xong!” Đồng thời huyệt Dũng Tuyền ở lòng bàn chân bên trái lại phát lạnh thấu xương. Hai luồng hàn khí và nhiệt khí xung kích nhau làm chàng khổ cực đã nhiều. Mỗi lần lên cơn, hai luồng chân khí bốc lên đau đớn kinh khủng, khiến người ta phải mê man không biết gì nữa. Có điều những lần trước thì biến diễn này xảy ra vào lúc chàng đã hôn mê sẵn, mà lần này trong lúc tỉnh táo thì thương thế đột nhiên phát tác, khiến chàng phải kinh tâm động phách.
Chàng thiếu niên cảm giác rõ ràng hai luồng hàn nhiệt từ hai nửa người từ từ chạy vào tâm phế, đau khổ than thầm: “Đời ta đến đây là hết. Những lần trước hai luồng hàn nhiệt không tụ trước bụng thì tụ sau lưng, lần này chúng lại công phá nhau ở tim phổi thì còn chịu thế nào được?” Chàng thiếu niên biết tình thế vô cùng nguy ngập, gắng gượng ngồi dậy toan xếp bằng lại, nhưng đôi chân không thể nào co vào được. Trong lúc khó khăn, trong lòng chàng chợt nghĩ: “Ngày trước lão bá luyện công phu cũng phải đau khổ như thế này ư? Lão bá từng để hai con chim sẻ trong lòng bàn tay, để chúng vỗ cánh mà không bay lên được, chẳng qua cũng là việc đùa giỡn mà thôi. Nếu sớm biết thế này thì ta chẳng luyện làm gì cho khổ.”
Bỗng ngoài cửa sổ có giọng một nam nhân vọng vào: “Bẩm bang chúa! Thuộc hạ là Triển Phi ở Báo Tiệp Đường có việc cơ mật cần bẩm báo.”
Chàng thiếu niên nghe mà không nói được nửa tiếng. Hồi lâu bỗng thấy cánh cửa sổ từ từ mở ra, bóng người thấp thoáng, một hán tử mặc áo rách nát nhảy vọt vào. Hán tử vào đến trước giường, thấy chàng thiếu niên đã ngồi dậy thì không khỏi giật mình kinh hãi. Chàng đã cử động được là chuyện ngoài dự liệu, gã vội lùi lại hai bước.
Lúc này hai luồng nội lực hàn nhiệt trong người chàng thiếu niên đã gặp nhau ở giữa khoảng tim và phổi. Trái tim chàng đập kịch liệt, bất cứ lúc nào cũng có thể ngưng đập mà chết. Nhưng giữa lúc cực kỳ đau đớn, mà tinh thần chàng lại rất linh mẫn. Chàng nghe gã báo danh là Triển Phi ở Báo Tiệp Đường, thấy gã nhảy từ cửa sổ vào mà không hiểu gã muốn làm gì, chỉ giương mắt lên nhìn.
Triển Phi thấy chàng thiếu niên không động đậy gì, liền khẽ cất tiếng hỏi: “Bang chúa! Tại hạ nghe nói lão nhân gia luyện công bị tẩu hỏa nhập ma, trong người không được khỏe. Bây giờ bang chúa đã đỡ chưa?” Chàng thiếu niên run người lên mấy cái, không nói ra tiếng. Triển Phi cả mừng, lại hỏi: “Bang chúa! Hiện giờ bang chúa chưa khỏi hẳn, không nên cử động, có phải thế không?”
Gã nói rất nhỏ, nhưng Thị Kiếm ở phòng bên kia cũng nghe tiếng động lạ, liền chạy sang xem. Cô thấy vẻ mặt Triển Phi cực kỳ hung dữ thì kinh hãi hỏi: “Ngươi vào phòng bang chúa có việc gì? Sao không thông báo mà dám tự tiện nhảy vào? Ngươi muốn phạm thượng làm loạn chăng?”
Triển Phi lạng người nhanh như chớp đến bên Thị Kiếm, huých khuỷu tay phải vào sau lưng nàng, ngón tay điểm xuống đầu vai. Thị Kiếm bị gã điểm trúng huyệt đạo, lập tức ngã xuống nằm nghiêng trên một cái ghế, không sao nhúc nhích được. Triển Phi chuyên luyện công phu ngoại gia, phép điểm huyệt của gã chỉ khiến người khác bất động, nhưng vẫn nói chuyện được. Gã phải lấy một mảnh vải nhét vào miệng Thị Kiếm. Thị Kiếm trong lòng lo lắng vô cùng. Cô biết Triển Phi định làm hại bang chúa, nhưng không có cách nào gọi người đến cứu viện.
Triển Phi đối với bang chúa vẫn hết sức kiêng kị. Gã đưa hữu chưởng lên, nhỏ giọng nói: “Ta chỉ dùng một đòn Thiết Sa Chưởng là đủ giết con tiện tỳ này, chẳng có chi là khó.” Gã vung chưởng lên nhưng không đánh xuống ngay, nghĩ bụng: “Nếu bang chúa chưa mất hết nội công thì nhất định y sẽ ra tay giải cứu.” Gã vừa nghĩ vừa nhắm đỉnh đầu Thị Kiếm đập xuống, bàn tay chỉ còn cách chừng nửa thước mà bang chúa vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Gã mừng thầm trong bụng, lập tức thu chưởng về, quay lại nhìn chàng thiếu niên cười hết sức độc ác: “Tiểu dâm tặc! Đời ngươi tác ác đã nhiều, không ngờ hôm nay lại chết về tay ta.” Rồi gã bước lên hai bước tới sát giường, thấp giọng nói: “Kể ra thì lúc này ta hạ thủ giết ngươi cũng không phải là hành vi của bậc anh hùng hảo hán. Nhưng giữa ngươi và ta đã có mối thù sâu tựa biển, thì còn đếm xỉa đến lề luật giang hồ làm chi? Giả tỉ ngươi là kẻ hào kiệt biết trọng nghĩa khí, thì đã chẳng quyến rũ vợ ta.”
Chàng thiếu niên và Thị Kiếm tuy không nhúc nhích được, nhưng thần trí vẫn còn tỉnh táo. Chàng nghe Triển Phi nói rất rõ ràng mà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, tự hỏi: “Gã này nói gì mà có thù sâu tựa biền với ta, lại còn bảo ta quyến rũ vợ hắn.”
Thị Kiếm lại nghĩ: “Lão nhân gia đã nợ không biết bao nhiêu món nợ phong lưu rồi, cuối cùng hôm nay cũng phải chịu báo ứng. Ối chao, tên này thật sự muốn giết chết thiếu gia rồi.” Trong lòng cô hết sức hoảng sợ, cố gắng giãy giụa, nhưng tay chân bủn rủn vô lực, đột nhiên ngã lăn xuống đất nghe “bịch” một tiếng.
Triền Phi giận dữ nói tiếp: “Vợ ta đã phải thất thân với ngươi. Hừ! Ngươi tưởng là ta vừa đui vừa điếc không biết tí gì hay sao? Trước đây ta có biết nhưng chẳng làm gì được ngươi, đành ôm mối căm hờn, nén khổ trong lòng không thể nói ra. May mà trời còn có mắt, thằng quỷ dâm ác tội lỗi đầy đầu như ngươi lại có ngày lọt vào tay ta.” Dứt lời, Triển Phi đứng thủ thế, vận nội lực vào cánh tay, gân cốt chuyển nghe răng rắc, rồi vung chưởng đánh vào trước ngực chàng thiếu niên.
Triền Phi là một vị hương chủ ở Báo Tiệp Đường, một trong ngoại ngũ đường của bang Trường Lạc. Công phu Thiết Sa Chưởng của gã đã luyện đến hai mươi năm, không phải tầm thường, lại đã vận đủ mười thành công lực nhằm đánh vào huyệt Đản Trung ở giữa ngực đối phương. Thế mà chỉ nghe mấy tiếng lắc cắc, cánh tay phải Triển Phi đã bị gãy rời, người gã bị hất ngược lại xuyên qua cửa sổ, phá gãy cả song cửa, rồi té lăn xuống đất bên ngoài phòng. Kinh mạch toàn thân gã đều bị bế tắc, ngất xỉu ngay chỗ đó.
Ngoài căn phòng này là một vườn hoa, trong vườn lúc nào cũng có một đội tuần tiểu. Đêm nay là đúng phiên Báo Tiệp Đường canh gác. Phòng riêng của bang chúa là nơi được phòng thủ rất nghiêm mật. Triển Phi muốn trả thù từ mấy hôm trước, nhưng gã không dám hấp tấp, biết nếu không phải lúc mình canh gác thì khó mà hành sự, nên phải cố nén chờ đến hôm nay. Gã được giao việc canh gác phòng bang chúa, liền bẻ sẵn mấy chấn song cửa sổ để chui vào chui ra cho dễ.
Lúc này, Triển Phi ngã vào một bụi hoa hồng rậm rạp. Bọn tuần tiễu thấy khóm hồng lay động, hai tên bèn chạy lại giơ đuốc lên soi. Chúng thấy Triển Phi nằm không nhúc nhích, chẳng hiểu sống chết thế nào, lại cho là có cường địch lẻn vào phòng bang chúa, đều cả kinh thất sắc. Bọn chúng vội thổi còi báo động, rồi rút đơn đao ra, thò đầu nhìn vào cửa sổ. Trong phòng tối đen như mực, không thấy động tĩnh gì. Hai tên tuần tiễu vừa giơ đuốc soi vào, vừa vung đao lên để bảo vệ trước mặt. Đao quang lấp lóe, hai gã nhìn rõ bang chúa ngồi xếp bằng trên giường, dưới đất có một thiếu nữ, dường như là thị nữ của bang chúa đang nằm. Ngoài ra, không còn ai khác.
Giữa lúc ấy, bang chúng nghe còi báo động, từ cả trước lẫn sau lục tục chạy đến. Hương chủ Mãnh Hổ Đường là Khưu Sơn Phụng rút thiết giản ra cầm tay, lớn tiếng la hỏi: “Bang chúa! Lão nhân gia có bình yên chăng?” Gã vừa hô vừa vén rèm chạy vào phòng, thấy toàn thân bang chúa run bần bật không ngớt. Đột nhiên bang chúa oẹ lên một tiếng, rồi thổ ra mấy bụm máu tím bầm, phải đến hàng mấy bát.
Khưu Sơn Phụng vội né người sang một bên để máu khỏi bắn vào quần áo. Gã còn đang kinh ngạc, thì bang chúa đã bước xuống giường, đỡ ả thị nữ lên rồi hỏi: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Hắn… hắn có đả thương tỷ tỷ không?” Chàng vừa hỏi vừa lấy tấm khăn nhét trong miệng Thị Kiếm ra.
Thị Kiếm thở phào một cái, hỏi lại: “Thiếu gia! Bang chúa có bị hắn đả thương không? Bang chúa cảm thấy như thế nào?” Nàng kinh hãi quá, nói cũng không được rõ ràng.
Nhưng chàng thiếu niên đáp ngay: “Gã đánh ta một chưởng, nhưng lại khiến ta khoan khoái vô cùng!”
Bỗng ngoài cửa có tiếng chân nhộn lên, rất nhiều người chạy đến. Bối Hải Thạch cùng Mễ Hoành Dã lật đật chạy vào phòng, còn những người địa vị thấp kém thì đứng cả ngoài cửa. Bối Hải Thạch chạy tới trước mặt chàng thiếu niên, vội hỏi: “Bang chúa! Thích khách đến làm kinh động lão nhân gia ư?”
Chàng thiếu niên ngơ ngác hỏi lại: “Thích khách cái gì? Ta chẳng thấy chi hết!” Lúc này có mấy cao thủ trong bang đã tiếp nội lực cho Triển Phi, cứu gã tỉnh lại rồi đưa vào trong phòng. Triển Phi đã biết luật lệ bản bang cực kỳ nghiêm ngặt. Kẻ nào can tội mạo phạm tôn trưởng, hay âm mưu phản bang đều bị gia hình cực kỳ khốc liệt. Phạm nhân sẽ bị lột trần, cột vào một phiến đá phía sau núi gọi là Hình Đài Thạch, để cho ong châm kiến đốt, rắn cắn rết hút, diều tha quạ mổ lôi từng miếng thịt, bị hành hạ đến tám chín ngày mới chết được.
Triển Phi vừa vận toàn lực để đánh bang chúa một đòn thật nặng. Ngờ đâu, chẳng những phát chưởng của gã không làm gì được, mà còn bị nội lực cực kỳ thâm hậu của đối phương hất ngược lại, chấn gãy cánh tay phải, lại còn bị nội thương cực kỳ trầm trọng. Bây giờ gã không nghĩ gì nữa, chỉ mong sao được chết mau lẹ. Gã thấy mình bị đưa vào phòng thì yên trí sẽ bị gia hình, liền ngưng tụ nội tức, chỉ chờ bang chúa ra lệnh một câu “Đem ra cột vào Hình Đài Thạch” là lập tức đập đầu vào vách để tự tử.
Bối Hải Thạch lại cất tiếng hỏi: “Bang chúa! Thích khách đã nhảy từ cửa sổ vào phải không?”
Chàng thiếu niên đáp: “Ta đang lúc mơ màng, trong người thật là khó chịu, tim đập loạn xạ đến muốn chết đi được, cũng không biết có ai vào không.”
Triển Phi nghe vậy thì rất lấy làm kỳ. Gã tự hỏi: “Chẳng lẽ lúc đó y vẫn còn mê man chưa tỉnh, không biết ta đã vung chưởng đánh y hay sao?” Nhưng gã lại nghĩ bụng: “Nhưng con nha đầu kia biết rõ mình đã hạ thủ, thế nào nó cũng kể ra.”
Quả nhiên, Bối Hải Thạch đưa tay ra vỗ vào lưng của Thị Kiếm mấy cái, vận nội lực để giải huyệt đạo cho cô, rồi cất tiếng hỏi: “Ai đã phong tỏa huyệt đạo của ngươi?”
Thị Kiếm chỉ vào Triển Phi đáp: “Là hắn.”
Bối Hải Thạch quay lại, chau mày nhìn Triển Phi. Triển Phi cười lạt một tiếng, toan thóa mạ mấy câu cho sướng miệng rồi chết cũng được. Nhưng gã chưa mở miệng thì bang chúa đã lên tiếng trước: “Là ta… ta bảo y làm đó.”
Triển Phi và Thị Kiếm đều ngẩn người ra nhìn chàng thiếu niên. Cả hai cùng không tin ở tai mình, đều tự hỏi: “Bang chúa nói vậy thì có dụng ý gì?” Chàng thiếu niên đó không hiểu rõ ràng bất cứ chuyện gì, nhưng chàng thấy tình thế cực kỳ nghiêm trọng, mà mọi người đều có vẻ tôn kính mình. Nếu bọn này biết Triển Phi đã điểm huyệt Thị Kiếm và phóng chưởng đánh mình thì thật là bất lợi cho gã.
Vì thế mà chàng buột miệng nói dối một câu để cứu nguy cho Triển Phi. Còn vì nguyên nhân gì mà chàng bảo vệ gã thì chính chàng cũng không biết. Chàng chỉ nhớ mang máng rằng lúc Triển Phi hạ thủ đánh mình, vẻ mặt gã cực kỳ phẫn nộ, chứng tỏ là có lý do gì bất đắc dĩ phải ra tay. Hơn nữa, lúc đó hai luồng khí hàn nhiệt trong người chàng đang xung kích nhau cực kỳ mãnh liệt cơ hồ không chịu nổi, nhờ phát chưởng của Triển Phi đánh trúng huyệt Đản Trung mà chàng hết đau đớn.
Huyệt Đản Trung là mấu chốt giao thông của các đường kinh mạch trong người. Chưởng lực của Triển Phi đã mãnh liệt phi thường, tại tình cờ đánh vào đúng chỗ đúng lúc. Phát chưởng đó kích thích cho kinh mạch Bát Âm và Bát Dương của chàng được âm dương hòa hợp, cũng giống như nước với sữa đã khuấy đều, không còn phân lớp hay có cặn chi hết.
Đồng thời, nội lực chàng đột nhiên gia tăng một cách không tưởng nổi, hất ngược lại chấn động gãy tay Triển Phi, lại tống gã ra ngoài cửa sổ. Chàng thiếu niên chẳng hiểu gì, chỉ cảm thấy những luồng hàn khí đang lạnh thấu xương trong người bỗng được ấm áp, mà khí nóng như lửa cũng mát dịu đi, khắp mình mẩy và tứ chi đều thư thái dễ chịu. Một lúc sau, ngay cả cảm giác ấm áp hay mát dịu cũng không thấy nữa, chàng chỉ thấy tinh lực tràn trề trong thân thế, nhịn không nổi muốn la lên.
Khi hương chủ Mãnh Hổ Đường là Khâu Sơn Phong tiến vào phòng, chàng thiếu niên hộc ra mấy ngụm ứ huyết, rồi từ lúc đó chàng cảm thấy tâm thần khoan khoái, nội lực phong phú, đầu óc cũng thêm phần minh mẫn.
Bọn Bối Hải Thạch thấy Thị Kiếm y phục xốc xếch, đầu tóc rối tung, vẻ mặt bơ phờ thì cùng nghĩ như nhau. Chúng vốn biết rõ bang chúa trước giờ vốn là người tham dâm háo sắc, vừa khỏi bệnh liền động ngay tạp niệm. Chắc chàng đang tính chuyện nài ép Thị Kiếm thì gặp lúc hương chủ Triển Phi đi tuần bên ngoài, liền gọi gã vào, hạ lệnh gã điểm huyệt Thị Kiếm. Nhưng họ không hiểu Triền Phi đã đắc tội thế nào với bang chúa mà bị chàng hất ra ngoài cửa sổ. Có thể là Triển Phi nghe lệnh cởi bỏ y phục của Thị Kiếm mà hành động chậm trễ nên bang chúa nổi giận, cũng có thể là Triển Phi giả vờ tìm cách đó để chuồn ra ngoài.
Bây giờ họ thấy thương thế Triển Phi cực kỳ trầm trọng, mặt mũi chân tay lại bị gai nhọn ở khóm hoa hồng đâm trầy xước, thì đều có ý thương hại gã, chỉ vì đang đứng trước mặt bang chúa nên họ chẳng dám đến thăm hỏi để an ủi gã mà thôi. Mọi người đều nghĩ như vậy, nên không ai đề cập đến chuyện thích khách nữa.
Mãnh Hổ Đường hương chủ Khâu Sơn Phong bỗng nghĩ ra mình đã gây cản trở đến chuyện bang chúa mua vui. Gã thấy Triển Phi như vậy, cũng lo bang chúa trở mặt trách phạt đến mình, nên không dám trùng trình ở lại nữa, liền khom lưng nói: “Xin bang chúa cứ nghỉ ngơi, thuộc hạ xin lui bước.” Mọi người cũng nghiêng mình thi lễ rồi lục tục dời khỏi.
Bối Hải Thạch thấy thần sắc bang chúa có vẻ kỳ dị thì băn khoăn lo lắng, liền đưa tay ra nói: “Để thuộc hạ chẩn mạch lại cho bang chúa.” Chàng thiếu niên bèn đưa tay ra cho y bắt mạch. Bối Hải Thạch vừa đặt hai đầu ngón tay lên cổ tay chàng, thì đột nhiên cánh tay run lên, nửa người tê dại, mấy đầu ngón tay bị hất mạnh ra. Bối Hải Thạch giật mình kinh hãi, nhưng rồi lộ vẻ vui mừng, lớn tiếng nói: “Chúc mừng bang chúa! Chúc mừng bang chúa! Thần công cái thế của bang chúa đã luyện thành rồi.”
Chàng thiếu niên vẫn chẳng hiểu đầu đuôi như thế nào, ngơ ngác hỏi lại: “Cái gì… cái gì là cái thế thần công?”
Bối Hải Thạch nghe hỏi vậy thì lại đoán là bang chúa không muốn tiết lộ cái thế thần công cho người ngoài hay biết, nên lão không dám nhắc lại nữa, liền nói chữa: “Dạ, dạ! Thuộc hạ ăn nói lung tung, xin bang chúa miễn tội cho!” Rồi lão cũng khom lưng thi lễ, vội vã ra khỏi phòng.
Một lúc sau, quần hào rút ra ngoài hết, trong phòng chỉ còn lại Triển Phi và Thị Kiếm. Triển Phi bị trọng thương, nhưng mọi người không biết bang chúa định xử trí gã ra sao. Bang chúa không ra lệnh gì, họ đành để mặc gã lại trong phòng, không ai dám dìu gã ra ngoài chữa trị. Triển Phi vừa bị gãy tay vừa bị nội thương, đau đớn vô cùng, mồ hôi trán toát ra đầm đìa. Gã thấy mọi người lui ra cả rồi thì căm hận nghiến răng nói: “Ngươi muốn hành hạ ta thì ra tay lẹ lên! Họ Triển này mà mở miệng van xin ngươi một câu thì không phải là hảo hán.”
Chàng thiếu niên ngạc nhiên hỏi: “Tại sao ta phải hành hạ ngươi? Hừ! Cánh tay ngươi gãy rồi, phải nối lại mới được. Trước kia con A Hoàng của ta ngã lăn từ sườn núi xuống hố sâu bị gãy chân, chính ta đã chữa cho nó đấy.” Tư chất chàng thiếu niên này vốn rất thông minh. Hai mẹ con chàng ân cư trên núi hoang, bất luận việc gì chàng cũng phải ra tay làm lấy. Tuy chàng còn nhỏ tuổi, song các việc trồng trọt, săn bắn, nấu cơm, sửa nhà đều đã làm qua. Con chó A Hoàng bị gãy chân, chàng dùng thanh gỗ buộc cho nó, chỉ không đầy mười ngày là hồi phục.
Chàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn quanh, tìm một mảnh gỗ để bó xương lại cho Triển Phi. Thị Kiếm thấy bang chúa ngó qua ngó lại liền hỏi: “Thiếu gia muốn kiếm chi vậy?”
Chàng thiếu niên đáp: “Ta kiếm một khúc cây.”
Thị Kiếm tiến lại hai bước, quỳ xuống nói: “Thiếu gia! Nô tỳ xin thiếu gia tha cho y… Thiếu gia… đã lừa gạt vợ y rồi, xin đừng trách y nhất thời giận dữ, mà y cũng chưa đả thương được thiếu gia. Nếu quả thật thiếu gia muốn giết y thì cứ chém một đao là được rồi, xin đừng tra khảo hành hạ y làm gì!” Cô tưởng rằng bang chúa tìm khúc cây để tra khảo Triển Phi tới chết, còn đau khổ hơn chém bằng đao rất nhiều, bất giác trong lòng thấy thương xót mà năn nỉ hộ.
Chàng thiếu niên ngơ ngác hỏi: “Ta có lừa gạt vợ y đâu? Sao ta phải giết y? Cô nói ta giết người ư? Sao có thể giết người được?” Trong phòng ngủ bang chúa dĩ nhiên không có khúc cây nào. Chàng liền cầm chiếc ghế lên, bẻ lấy một chân. Bây giờ trong người chàng âm dương hòa hợp, thủy hỏa tương thông, thần công đã thành tựu nên sức mạnh vô cùng. Chàng mới bẻ nhẹ, cái chân ghế đã gãy rời nghe rắc một tiếng.
Chàng thiếu niên không biết nội lực bản thân mình ghê gớm, lại lẩm bẩm: “Cái ghế này hỏng rồi mà cứ để đây, ai vô ý ngồi lên không khỏi ngã lăn kềnh.” Chàng quay ra bảo Thị Kiếm: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Tỷ tỷ quỳ ở đó làm chi? Mau đứng dậy đi!” Rồi chàng tiến lại gần Triển Phi bảo: “Ngươi đừng có động đậy!”
Triển Phi tuy mồm miệng cứng rắn, nhưng nghĩ lại mình đánh bang chúa một chưởng mà bị chấn gãy cánh tay lại bị hất ra cửa sổ, nội lực người này thật là hùng hậu không gì sánh được. Gã không tự chủ được nữa phải run lên bần bật, mắt nhìn chằm chặp vào cái chân ghế trong tay chàng thiếu niên. Gã nghĩ thầm: “Dĩ nhiên không phải hắn cầm chân ghế để đánh mình, chắc là dùng chân ghế để tọng vào miệng ta, cắm từ cổ xuống đến dạ dày để sống không sống được, chết chẳng chết cho.”
Trong bang Trường Lạc có rất nhiều hình phạt khốc liệt, đúng là có chuyện dùng một khúc cây nhét vào miệng phạm nhân, cắm từ yết hầu đến bao tử. Kẻ thụ hình phải đau khổ vô cùng mà không chết ngay được. Hình phạt đó gọi là Khai Khẩu Tiếu. Triển Phi nghĩ ra mình sắp phải chịu cực hình Khai Khẩu Tiếu, đang sợ hết hồn thì thấy bang chúa đã đến trước mặt. Gã đâm liều vung tả chưởng lên đánh vào chàng thiếu niên.
Chàng thiếu niên không biết gã có ý đả thương mình, vẫn thản nhiên nói: “Chớ có cử động! Chớ có cử động!” Chàng vừa nói vừa vươn tay ra chụp lấy cổ tay trái Triển Phi. Gã lập tức cảm thấy nửa người tê nhức, không cục cựa được nữa. Chàng thiếu niên lấy nửa cái chân ghế ướm vào cánh tay gãy của Triển Phi rồi quay lại hỏi Thị Kiếm: “Thị Kiếm tỷ tỷ! ở đây có sợi dây nào không? Cột giùm cho y một chút.”
Thị Kiếm hết sức ngạc nhiên, hỏi lại: “Thiếu gia định nối xương cho y thật ư?”
Chàng thiếu niên cười đáp: “Nối xương là nối xương, lại còn thật hay giả nữa ư? Tỷ tỷ xem y đau đớn đến thế này, sao lại nói giỡn được?”
Thị Kiếm bán tín bán nghi, nhưng vẫn đi tìm một khúc dây đem đến. Cô đưa mắt nhìn chàng thiếu niên một lần nữa, rồi ngoan ngoãn lấy dây cột cánh tay gãy của Triển Phi vào chân ghế.
Chàng thiếu niên mỉm cười nói: “Hay lắm! Tỷ nương buộc rất khéo, so với ngày trước ta buộc chân A Hoàng còn chắc chắn hơn nhiều.”
Triển Phi nghĩ thầm: “Không hiểu tên bang chúa hoang dâm độc ác này đang định kiếm trò gì mới lạ hành hạ mình để tiêu khiển đây.” Gã còn đang ngẫm nghĩ, thấy chàng nhắc đến A Hoàng bị gãy chân, không nhịn được nữa bèn cất tiếng hỏi: “A Hoàng là ai?”
Chàng thiếu niên đáp: “A Hoàng là con chó của ta nuôi, nhưng tiếc là nó bỏ đi mất rồi.”
Triển Phi thấy chàng thiếu niên đem chuyện nối tay cho mình so với chuyện nối chân gãy cho con chó, thì cho là chàng coi mình như một giống súc sinh. Gã nổi giận bèn lớn tiếng mắng: “Ta là nam tử hán, là đại trượng phu. Ngươi giết ta thì được, chứ không thể làm nhục ta. Sao ngươi không hạ thủ ngay đi, lại còn đem ví ta với loài thú vật?”
Chàng thiếu niên vội nói: “Không, không! Ta chỉ lỡ miệng nói một câu như thế, đại ca đừng giận dữ. Xin đại ca tha lỗi cho.” Chàng vừa nói vừa chắp tay, hướng về y nghiêng mình thi lễ. Triển Phi biết nội công của chàng thiếu niên cực kỳ lợi hại, lại nghĩ rằng chàng giả bộ thi lễ nhưng thực ra là dùng nội lực đả thương người. Con người trước nay quen ngạo mạn vô lễ, nói vài câu tử tế với thuộc hạ đã là chuyện hiếm, làm gì có chuyện xin lỗi thuộc hạ? Gã bất giác né người tránh qua một bên, cặp mắt trừng trừng nhìn chàng thiếu niên để xem còn trò gì ác độc nữa.
Chàng thiếu niên ôn tồn hỏi: “Phải chăng đại ca họ Triển? Triển đại ca cứ trở về nghỉ ngơi đi. Cẩu Tạp Chủng này ăn nói vụng về thành ra đắc tội, xin Triển đại ca đừng trách!”
Triền Phi cả kinh nghĩ: “Cái gì… Cái gì? Hắn tự xưng là Chó Lộn Giống ư? Chắc chắn lại là chuyện vòng vo mắng xéo người ta rồi.”
Thị Kiếm thì nghĩ: “Thiếu gia mới tỉnh táo lại một chút, tâm thần lại hồ đồ ngay!” Cô liếc mắt nhìn chàng thiếu niên thì thấy chàng vẫn trố mắt ra, cặp lông mày nhíu lại ra chiều suy nghĩ. Cô liền đưa mắt ra hiệu cho Triển Phi bảo gã nên thừa cơ rút lui.
Nhưng Triển Phi vẫn chưa chịu ra, lại còn lớn tiếng nói: “Thằng lỏi họ Thạch kia! Ta cũng không muốn ngươi tử tế với ta làm chi. Ngươi muốn giết ta, ta cũng không trốn được. Lão gia tự biết mạng mình, không muốn sống thêm một giờ ba khắc làm gì. Ngươi còn không mau hạ thủ giết ta đi!”
Chàng thiếu niên ngạc nhiên nói: “Người này nói chuyện lung tung, không thể nín cười được. Sao ta lại phải giết ngươi chứ? Mỗi lần mẫu thân ta kể chuyện cổ tích, cuối cùng đều dạy một câu: người xấu mới giết người, còn người tốt không bao giờ giết người. Dĩ nhiên ta không làm người xấu. Ngươi rõ ràng là một con người, chỉ mới gãy một cánh tay, sao ta lại giết được?”
Thị Kiếm đứng bên không nhịn được liền nói xen vào: “Triển hương chủ! Bang chúa đã tha cho ngươi rồi, sao còn chưa đi nhanh đi?”
Triền Phi đưa tay trái lên hết gãi đầu lại gãi tai, nghĩ bụng: “Không hiểu là thằng giặc con này bị hồ đồ, hay là mình bị hồ đồ?”
Thị Kiếm dậm chân nói: “Nhanh lên! Đi nhanh lên!” Cô vừa giục vừa đưa tay đẩy gã ra ngoài phòng.
Chàng thiếu niên cười ha hả nói: “Người này thật là kỳ cục, cứ mở miệng là bảo ta muốn giết y, cứ như ta thích giết người vậy. Không chừng y coi ta như một kẻ xấu xa hư đốn!”
Từ khi Thị Kiếm hầu hạ bang chúa đến nay, đây là lần đầu tiên cô thấy bang chúa nổi thiện tâm mà tha thứ cho thuộc hạ có lỗi, huống hồ Triển Phi đã phạm thượng mưu sát, thật là trọng tội không thể bỏ qua. Cô mừng thầm, mỉm cười nói: “Thiếu gia đương nhiên là người tốt, là người tử tế. Có là người tốt, người tử tế mới cướp vợ người ta, khiến cho gia đình họ phải tan rã…”
Cô nói đến đây, giọng nói hơi đổi thành chua chát, nhưng trước mặt bang chúa oai nghi cũng không dám mỉa mai bừa bãi, liền dừng lại không nói nữa. Chàng thiếu niên lại ngạc nhiên hỏi: “Tỷ tỷ nói ta đã cướp vợ của người khác ư? Vợ làm sao mà cướp được? Mà cướp để làm chi?”
Thị Kiếm nhỏ nhẹ nói: “Đã muốn làm người tốt mà cứ nói toàn giọng hạ lưu, giả vờ đứng đắn được một lúc rồi lại lòi đuôi chồn ra lập tức. Giả tỉ thiếu gia chịu giả vờ làm người tốt lâu hơn một chút nữa, thì tiểu tỳ cảm ơn thiếu gia nhiều lắm.”
Chàng thiếu niên trợn tròn mắt, há hốc miệng hỏi: “Tỷ tỷ… tỷ tỷ nói cái gì? Ta cướp vợ hắn để làm chi? Ta thật sự không hiểu, tỷ tỷ dạy ta đi.” Lúc này chàng thiếu niên cảm thấy tinh lực đầy rẫy chỉ muốn phát tán ra ngoài, đôi mắt chàng lộ thần quang sáng chói.
Thị Kiếm càng nghe chàng nói càng không hiểu gì cả, trong lòng rất kinh hãi liền lùi lại vài bước đến bên cửa, đề phòng nếu bang chúa xông tới chỗ mình thì lập tức nhảy vọt ra ngoài. Thật ra nàng cũng biết nếu bang chúa dùng sức mạnh để cưỡng bức thì mình không thể thoát khỏi tay người được. Trước kia đã mấy lần gặp nguy, nàng phải dùng cái chết để uy hiếp, kiên quyết không chịu, nên mới còn giữ được tấm thân trong trắng. Lúc này Thị Kiếm thấy cặp mắt chàng thiếu niên lóe sáng lên trông như mắt loài dã thú, nên lại càng không dám châm chọc nữa, tim đập loạn lên, run rẩy nói: “Thiếu gia… thân thể… còn chưa phục hồi, vẫn… Thiếu gia nên nghỉ ngơi một lát nữa đi.”
Chàng thiếu niên lắc đầu hỏi lại: “Nếu ta phục hồi thân thể rồi thì sao?” Thị Kiếm lại đỏ mặt lên, bước ra khỏi phòng, còn nghe chàng lẩm bẩm sau lưng: “Ở đây có nhiều việc ta thật sự không hiểu chút nào. Tỷ tỷ này hình như sợ ta lắm.”
Chàng nói xong, vịn hai tay vào thành ghế. Nội lực chàng phát huy nhiều quá, đầy rẫy trong người, hai bàn tay bứt rứt không ngừng bóp vào thành ghế. Chiếc ghế này làm bằng gỗ cẩm lai rất chắc chắn, ngờ đâu mới bóp vài cái đã nghe thấy tiếng lạch cạch, rồi lưng ghế gãy lìa ra. Chàng thiếu niên chẳng hiểu ra sao, ngấm ngầm kinh hãi trong lòng, lẩm bẩm: “Ở đây cái gì cũng giống như làm bằng bột mì vậy.”
Tạ Yên Khách lập mưu hiểm ác, đem nội công thượng thừa truyền thụ cho chàng mà đảo lộn cả thứ tự. Khi chàng luyện đủ hỏa hầu thì các mạch âm dương xung khắc với nhau, sẽ chết một cách thê thảm, lão không cần dùng một ngón tay mà cũng hại được mạng chàng. Chàng thiếu niên đã luyện mấy năm, âm dương đã xung đột, lẽ ra đã phải chết rồi.
Nhưng thật kỳ lạ, ngay lúc sinh tử quan đầu thì có Bối Hải Thạch ở kế bên. Bối đại phu tinh thông y đạo, dùng nội lực thâm hậu để bảo vệ được hơi thở tạm thời cho chàng. Khi về đến tổng đà của Trường Lạc Bang, mỗi đêm đều có người đến cho chàng uống Huyền Băng Bích Hỏa Tửu, là một loại rượu trân quý trong võ lâm, làm trì hoãn lại sự tương giao của hai luồng khí âm dương trong nội thế. Loại rượu thuốc này còn làm tăng nội lực của chàng lên rất nhiều.
Sau đó, đang lúc hiểm nguy thì lại gặp được Triển Phi phóng chưởng đánh vào huyệt Đản Trung để báo thù, nhờ đó mà chàng nôn ra được máu huyết ứ đọng trong Đan Điền. Bây giờ thủy hỏa điều hòa, hai luồng nội công thuần âm và thuần dương chẳng những không xung đột làm tổn hại đến thân thể chàng, mà lại còn hòa hợp thành một luồng nội tức rất kỳ lạ, xưa nay chưa từng thấy.
Trước giờ trong võ lâm chưa có ai dám nghĩ đến biện pháp luyện công nguy hiểm như thế. Cho dù Tạ Yên Khách đột nhiên nổi lòng hối hận, muốn cứu mạng chàng thì dứt khoát lão cũng không dám dùng chưởng lực mạnh để làm chấn động tâm khẩu của chàng. Nội lực kỳ lạ này lại do những chuyện xảo hợp mà có, rốt cuộc cũng không thể lý giải được.
Chàng thiếu niên không hiểu được như thế, vẫn mơ hồ như người trong mộng. Huyết khí chàng có đôi lúc bị đảo lộn, lúc thì muốn nôn mửa, lúc thì muốn nhảy cẫng lên, khó mà định tâm được. Chàng chẳng còn biết đâu là sự thực, đâu là huyễn ảo nữa.
Thị Kiếm dịu dàng nói: “Thiếu gia đã tha mạng cho Triển Phi hương chủ, lại nối xương cho y, sao còn thóa mạ y là giống súc sinh? Vì thế mà y càng căm hận thiếu gia đến xương tủy.” Cô thấy những tia sáng khác lạ ở mắt bang chúa, không chờ chàng trả lời đã vội vã lui ra.