Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Phu nhân của tiền bối cố nhiên ăn nói vô vị, mặt mũi khó ưa, nhưng phụ nữ trong thiên hạ đâu phải ai cũng như vậy. Tiền bối đem thê tử của mình mà suy luận ra phụ nữ trong thiên hạ thật đáng buồn cười. Nếu tiểu sư muội quả thực là ăn nói vô vị, mặt mũi khó ưa…
Đào Hoa Tiên hai tay bưng hai bát rượu to, đi vào trong rạp nói:
– Trời ơi! Bình đại phu chưa trị xong ư?
Bình Nhất Chỉ sầm nét mặt nói:
– Trị không được rồi.
Đào Hoa Tiên sửng sốt nói:
– Trị không khỏi thì làm thế nào bây giờ?
Lão quay qua Lệnh Hồ Xung nói:
– Chi bằng ra ngoài uống rượu thôi.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Phải đấy.
Bình Nhất Chỉ giận nói:
– Không đi được.
Đào Hoa Tiên sợ giật bắn người, quay người đi ra, hai bát rượu văng đầy áo lão.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Lệnh Hồ công tử, thương thế của công tử muốn trị khỏi hẳn, dù có Đại La kim tiên e cũng khó làm được, nhưng muốn kéo dài tính mạng từ mấy tháng đến mấy năm cũng có thể được. Nhưng công tử phải nghe lời tại hạ: một là không được uống rượu; hai là dẹp lòng dục vọng, nữ sắc thì vạn lần phải kiêng, đừng nói là phải kiêng mà ngay cả nghĩ đến cũng không được; ba là không được động võ với ai. Giới tửu, giới sắc, giới đấu, ba giới này làm được thì có thể sống thêm được một hai năm nữa.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả. Bình Nhất Chỉ cả giận nói:
– Có gì đâu mà cười?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Con người sống trên đời này gặp việc thích chí thì cứ làm, mà ngay cả rượu cũng không được uống, phụ nữ cũng không được nhớ, người ta đè đầu cưỡi cổ cũng không được đánh trả thì còn sống làm gì nữa? Chi bằng chết sớm cho sảng khoái hơn.
Bình Nhất Chỉ gằn giọng nói:
– Tại hạ nhất định muốn công tử kiêng cữ, nếu tại hạ không trị được bệnh của công tử thì còn gì là thanh danh?
Lệnh Hồ Xung đưa tay ra cầm tay phải của lão, nói:
– Bình tiền bối, lòng tốt của lão tiền bối khiến vãn bối cảm kích vô cùng. Nhưng con người sống chết có số, dù y đạo của tiền bối tinh thâm cũng khó có thể cứu được người phải chết; trị không khỏi bệnh của tại hạ cũng không ảnh hưởng chút thanh danh nào của tiền bối đâu.
Soạt một tiếng, lại có người thò đầu vào. Đó là Đào Căn Tiên. Lão lớn tiếng nói:
– Lệnh Hồ Xung, bệnh của ngươi khỏi chưa?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Bình đại phu y đạo tinh thâm đã trị khỏi bệnh cho tại hạ rồi.
Đào Căn Tiên nói:
– Tuyệt quá! Tuyệt quá!
Lão đi vào kéo tay áo của Lệnh Hồ Xung, nói:
– Uống rượu đi! Uống rượu đi!
Lệnh Hồ Xung hướng về Bình Nhất Chỉ xá dài rồi nói:
– Đa tạ tiền bối đã nhọc tâm vì tại hạ.
Bình Nhất Chỉ không đáp lễ, miệng nói lẩm bẩm.
Đào Căn Tiên nói:
– Ta đã nói nhất định là trị khỏi mà. Lão là Sát nhân danh y, trị khỏi một người thì phải giết một người, nếu trị không khỏi cho một người thì lão phải làm thế nào? Sao không nói rõ ra luôn đi?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Đừng nói tầm bậy tầm bạ nữa!
Cả hai nắm tay nhau ra ngoài rạp.
Quần hào tụ tập tứ phía uống rượu, trên đường Lệnh Hồ Xung đi qua, hễ ai rót rượu đưa mời, chàng liền uống cạn. Quần hào thấy Lệnh Hồ Xung vui vẻ tự nhiên, rượu đưa là uống, cười nói hể hả nên ai cũng thích thú, đều nói:
– Lệnh Hồ công tử hào khí ngất trời khiến ai cũng thán phục.
Lệnh Hồ Xung tiếp rượu uống liên tục khoảng mười mấy bát bỗng nhớ đến Bình Nhất Chỉ, liền rót một bát rượu to, miệng lớn tiếng hát:
– Đời nay có rượu, đời nay say…
Rồi đi vào trong rạp tranh, nói:
– Bình tiền bối, tại hạ kính tiền bối một bát.
Dưới ánh nến lập lòe, vẻ mặt của Bình Nhất Chỉ rất kỳ lạ. Lệnh Hồ Xung kinh hãi, cơn say đã tỉnh được ba phần. Lúc nhìn kỹ lão, thì mái tóc đen đã bạc trắng hết, mặt đầy những vết nhăn sâu hoắm. Trong vài canh giờ mà lão đã già đi mấy chục năm. Chỉ nghe lão lẩm bẩm:
– Trị khỏi một người phải giết một người, trị không khỏi một người thì phải làm sao?
Máu Lệnh Hồ Xung sôi lên, chàng lớn tiếng nói:
– Một mạng của Lệnh Hồ Xung là cái thá gì? Tiền bối hà tất phải nặng lòng như vậy?
Bình Nhất Chỉ nói:
– Trị không khỏi một người thì tại hạ sẽ tự sát, nếu không sao gọi là Sát nhân danh y được?
Lệnh Hồ Xung kinh hãi, vội chạy đến đỡ lão, thấy lão đã tắt thở chết rồi. Lệnh Hồ Xung ôm lão, không biết làm sao. Tai chàng vẫn nghe ngoài rạp tiếng ồn ào dần dần giảm đi, lòng cảm thấy thê lương. Lệnh Hồ Xung đứng lặng rất lâu, không kìm được nước mắt. Thi thể của Bình Nhất Chỉ trong tay chàng càng lúc càng nặng, chàng không còn sức ôm nữa liền đặt nhè nhẹ xuống đất.
Bỗng thấy một người đi vào rạp tranh gọi khẽ:
– Lệnh Hồ công tử!
Lệnh Hồ Xung thấy Tổ Thiên Thu, hắn buồn bã nói:
– Tổ tiền bối! Bình đại phu chết rồi.
Tổ Thiên Thu không để ý đến chuyện này, lão nói khẽ:
– Lệnh Hồ công tử, tại hạ năn nỉ công tử một việc. Nếu có người hỏi, xin công tử nói là chưa bao giờ gặp qua Tổ Thiên Thu có được không?
Lệnh Hồ Xung sửng sốt hỏi:
– Tại sao?
Tổ Thiên Thu nói:
– Cũng không sao, nhưng… nhưng… Ôi tạm biệt, tạm biệt!
Tổ Thiên Thu vội vã bước ra khỏi rạp cỏ tranh thì lại có người đi vào. Đó là Tư Mã Đại, lão nói với Lệnh Hồ Xung:
– Lệnh Hồ công tử, tại hạ có chuyện không nói ra được… không nói ra được… Chuyện này… nếu có người hỏi có những ai tụ tập trên Ngũ Bá Cương, xin công tử đừng nhắc đến tên tại hạ thì tại hạ cảm kích vô cùng.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dạ, nhưng tại vì sao?
Vẻ mặt của Tư Mã Đại bối rối như đứa trẻ làm chuyện gì sai bỗng bị người bắt được, ấp úng nói:
– Chuyện này… chuyện này…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lệnh Hồ Xung không xứng đáng làm bằng hữu với các hạ, thì từ nay không dám với cao nữa.
Tư Mã Đại biến sắc, quỳ xuống bái lạy rồi nói:
– Công tử nói vậy là đào hố chôn tại hạ rồi. Tại hạ cầu xin công tử đừng nhắc tới chuyện trên Ngũ Bá Cương chỉ vì để người ta khỏi nổi giận, nhưng công tử bỗng nhiên nghi ngờ nên tại hạ mới nói thật điều đó ra. Đúng là Tư Mã Đại đánh rắm rồi.
Lệnh Hồ Xung vội đưa tay đỡ lão dậy, nói:
– Vì cớ gì Tư Mã đảo chủ hành đại lễ như vậy? Xin hỏi đảo chủ, đảo chủ đến Ngũ Bá Cương gặp tại hạ, sao lại khiến cho người ta nổi giận. Người đó có điều gì giận Lệnh Hồ Xung thì cứ trút hết vào tại hạ là được rồi…
Tư Mã Đại xua tay lia lịa, mỉm cười nói:
– Công tử càng nói càng sai rồi. Người này đối với công tử yêu còn không hết, có lý nào lại nổi giận? Ôi, tiểu nhân là một người thô thiển, thật không biết ăn nói. Tạm biệt, tạm biệt, tạm biệt… Nói tóm lại Tư Mã Đại kết giao bằng hữu với công tử, sau này công tử có điều gì sai bảo, chỉ cần truyền tin đến thì dù có xông vào nước sôi lửa bỏng, Tư Mã Đại chỉ chau mày một cái là tổ tông mười tám đời đều là quân rùa đen thối tha.
Lão nói xong liền vỗ ngực, bước ra khỏi rạp. Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ, thầm nghĩ: Người này rất thành thật với ta, không thể nghi ngờ gì nữa. Nhưng sao lão đến Ngũ Bá Cương gặp ta mà lại khiến người ta nổi giận? Mà người nổi giận không hận ta, còn đối với ta rất tốt, thiên hạ nào có chuyện kỳ cục như vậy? Nếu thật đối với ta tốt, thì khi ta kết giao nhiều bằng hữu, người đó nên vui mừng mới phải.
Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung nghĩ ra một chuyện, thầm nói: A đúng rồi, người này nhất định là tiền bối trong chính phái, rất thương yêu ta, chắc không thích ta kết giao với những hạng bàng môn tả đạo. Chẳng lẽ là Phong thái sư thúc tổ? Kỳ thực Tư Mã đảo chủ là hạng người thẳng thắn sảng khoái, có chỗ nào không tốt đâu?
Lại nghe ngoài rạp có người ho khẽ rồi có tiếng gọi khẽ:
– Lệnh Hồ công tử!
Lệnh Hồ Xung nghe tiếng của Hoàng Bá Lưu liền nói:
– Hoàng bang chủ, xin mời vào.
Hoàng Bá Lưu đi vào, nói:
– Lệnh Hồ công tử, có mấy vị bằng hữu muốn tại hạ chuyển lời chào công tử. Họ có chuyện gấp phải lập tức quay trở về lo liệu, không kịp đích thân từ tạ công tử, xin công tử lượng thứ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Không cần khách sáo.
Quả nhiên, bên ngoài tiếng ồn ào giảm dần, nhiều người đã ra về.
Hoàng Bá Lưu ấp úng nói:
– Chuyện này, ui chao, thật là do bọn tại hạ lỗ mãng. Mọi người đến đây một là vì hiếu kỳ, hai là muốn ân cần tỏ lòng với công tử, không ngờ… Vốn là, người ta muốn giữ kín, không muốn phô trương, bọn tại hạ là người lỗ mãng thô lỗ, không ai hiểu được. Lam giáo chủ lại là cô nương người Miêu, chuyện này…
Lệnh Hồ Xung nghe lão nói câu trước chẳng dính dáng gì với câu sau, hắn vò đầu chẳng hiểu chút gì, hỏi:
– Có phải Hoàng bang chủ muốn tại hạ đừng đề cập đến chuyện trên Ngũ Bá Cương với người ta phải không?
Hoàng Bá Lưu cười khan mấy tiếng, vẻ mặt bẽn lẽn nói:
– Người khác có thể chối cãi được còn Hoàng Bá Lưu biết chối cãi làm sao. Thiên Hà bang khoản đãi công tử trên Ngũ Bá Cương, nói gì cũng phải thừa nhận.
Lệnh Hồ Xung dặng hắng một tiếng nói:
– Bang chủ mời tại hạ uống một bát rượu, tại hạ cũng không thấy có điều gì tội lỗi. Bậc nam tử hán đại trượng phu có gì mà phải chối hay không chối.
Hoàng Bá Lưu vội cười gượng nói:
– Công tử đừng để tâm. Ôi, Hoàng mỗ thật ngu muội, nếu chuyện này hỏi trước con dâu, hoặc hỏi cháu gái thì đâu đến nỗi đắc tội với người ta, mà chính mình cũng không biết. Ôi, Hoàng mỗ thô lỗ lấy vợ từ năm mười bảy tuổi, chỉ trách vợ của Hoàng mỗ chết sớm, nên Hoàng mỗ mới chẳng hiểu tâm sự đàn bà con gái nhà người ta ra làm sao.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Chẳng trách sư phụ bảo bọn họ là bàng môn tả đạo. Người này nói năng thật lộn xộn. Lão mời mình uống rượu mà cần phải hỏi con dâu và cháu gái, lại trách tại vợ lão mất quá sớm.
Hoàng Bá Lưu lại nói:
– Chuyện đã đến nước này, cũng đành vậy thôi. Công tử, công tử nói đã sớm quen Hoàng mỗ, là hảo bằng hữu của Hoàng mỗ đã mấy chục năm nay có được không? Ồ không được, phải nói là có giao tình với Hoàng mỗ tám chín năm thôi. Lúc công tử mười lăm, mười sáu tuổi đã từng đánh bạc, uống rượu với Hoàng mỗ.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Năm tại hạ sáu tuổi đã đánh bạc và uống rượu với Hoàng bang chủ, bang chủ quên rồi sao? Đến hôm nay mối giao tình của chúng ta đã được hai chục năm rồi.
Hoàng Bá Lưu ngây người ra, liền hiểu ra Lệnh Hồ Xung nói giỡn mình nên cười nhăn nhó, nói:
– Công tử muốn nói sao cũng được, nhưng… hai mươi năm trước Hoàng mỗ làm nghề phá nhà cướp của, toàn chuyện bậy bạ, không dám nhìn mặt ai, sao công tử lại kết giao bằng hữu với Hoàng mỗ được? Hì hì, cái này…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hoàng bang chủ thẳng thắn, đủ biết bang chủ là người quang minh lỗi lạc, nên tại hạ phải kết giao với bang chủ cách đây hai mươi năm mới được.
Hoàng Bá Lưu vui mừng lớn tiếng nói:
– Hay lắm, chúng ta là hảo bằng hữu từ hai mươi năm trước.
Lão quay đầu lại nhìn rồi nói khẽ:
– Công tử bảo trọng. Công tử là người có lòng tốt, bây giờ tuy đang bệnh nhưng có thể trị khỏi, huống chi Thánh… Thánh… thần thông quảng đại… Trời ơi!
Bỗng nghe có tiếng vó ngựa từ xa vọng lại, tiếng huyên náo đều ngưng bặt. Lệnh Hồ Xung nhìn thi thể của Bình Nhất Chỉ, ngẩn ra một lúc rồi bước ra ngoài rạp, bỗng giật mình kinh hãi. Trên sườn núi tĩnh lặng, không một bóng người. Chàng cho rằng quần hào dù không uống rượu nữa thì cũng có người đi, người ở lại. Không hiểu sao trong khoảnh khắc lại biến đi hết sạch. Chàng cố lớn tiếng gọi:
– Sư phụ, sư nương!
Nhưng không ai đáp lại. Lệnh Hồ Xung gọi tiếp:
– Nhị sư đệ, tam sư đệ, tiểu sư muội!
Vẫn không ai đáp lại.
Mảnh trăng lưỡi liềm chênh chếch chiếu xuống, gió hiu hiu thổi, trên gò Ngũ Bá Cương chỉ còn lại một mình Lệnh Hồ Xung. Dưới đất toàn hũ rượu, bát đĩa, nón, áo khoác… rải rác khắp nơi. Quần hào lật đật ra đi, ngay cả những thứ này cũng không kịp thu dọn.
Lệnh Hồ Xung càng lấy làm lạ, nghĩ: Bọn họ chạy hấp tấp như vậy, làm như có nước lũ hay mãnh thú bỗng nhiên ập tới, phải trốn mau kẻo không kịp. Những hán tử này dường như không sợ trời sợ đất, bỗng biến thành những kẻ cực kỳ nhát gan, thật khiến cho người ta khó hiểu nổi. Sư phụ, sư nương, tiểu sư muội, bọn họ đi đâu cả rồi? Nếu thật sự có chuyện gì nguy hiểm tại sao lại không kêu ta một tiếng?
Bỗng nhiên lòng Lệnh Hồ Xung nổi lên một trận thê lương, cảm th ấy trời đất bao la nhưng không có được một người quan tâm đến sự an nguy của hắn. Trước đây không lâu, có quá nhiều người đua nhau đòi kết giao lấy lòng hắn mà bây giờ ngay cả những người thân là sư phụ, sư nương cũng bỏ hắn ra đi.
Lệnh Hồ Xung chua xót, mấy luồng chân khí trong cơ thể lại dâng lên, thân người loạng choạng rồi ngã lăn xuống đất. Chàng gắng gượng ngồi dậy, rên rỉ mấy tiếng nhưng một chút khí lực cũng không còn.
Lệnh Hồ Xung nhắm mắt dưỡng thần, nghỉ ngơi một khắc, lần thứ hai lại chống chọi ngồi dậy. Không ngờ lần này vận lực quá mạnh, tai lùng bùng, trước mặt tối sầm lại. Chàng liền ngất đi.