Lệnh Hồ Xung tuy bị vết kiếm đâm trầm trọng, nhưng bên ngoài đã được bôi Thiên hương đoạn tục giao, bên trong đã được uống Bạch vân hùng đảm hoàn là hai thứ thánh dược trị thương của phái Hằng Sơn, vả lại hắn đang lúc thanh niên trai tráng, nội công thâm hậu, nên chỉ ngủ một ngày hai đêm bên thác nước thì vết thương gần như đã hoàn toàn bình phục. Suốt hai đêm một ngày, hắn chỉ ăn toàn dưa hấu. Lệnh Hồ Xung yêu cầu Nghi Lâm đi bắt cá bắn thỏ, nhưng dù hắn nói sao cô cũng không chịu. Cô nói Lệnh Hồ Xung thoát chết lần này là hoàn toàn nhờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ, tốt nhất là nên ăn chay trường một hai năm để tạ ân đức Quán Thế Âm Bồ Tát, còn bắt cô phá giới sát sanh thì vạn lần không thể được. Lệnh Hồ Xung cười thầm, cho là cô hủ lậu, tẻ nhạt nhưng không có cách nào nên đành phải ăn chay.
Trời đã chạng vạng tối, hai người dựa vào vách đá, nhìn trong đám cỏ thấy những bóng đom đóm lập lòe bay qua bay lại đẹp như những ngôi sao trên trời.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Mùa hạ năm ngoái, ta từng bắt mấy ngàn con đom đóm, đựng vào mười mấy túi vải the treo ở trong phòng, thật thú vị.
Nghi Lâm nghĩ tính tình Lệnh Hồ Xung phù động như vậy, quyết không thể tự đi may mười mấy cái túi vải the được. Cô hỏi:
– Nhạc sư muội của đại ca bảo đại ca bắt đom đóm phải không?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tiểu sư muội thật thông minh, đoán trúng chóc. Sao tiểu muội biết Linh San sư muội bảo ta bắt đom đóm?
Nghi Lâm mỉm cười nói:
– Đại ca nóng tính như vậy, lại không phải là con nít, không thể chịu khó đi bắt mấy ngàn con đom đóm để chơi được.
Cô hỏi tiếp:
– Sau đó thì sao?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Linh San sư muội đem treo ở trong màn, nói là khắp giường đầy ánh sao lấp lánh, cũng giống như y đang ngủ ở trên mây, khi mở mắt ra thì bốn bề toàn những sao là sao.
Nghi Lâm nói:
– Tiểu sư muội của đại ca thật là biết chơi. Chỉ có một mình đại ca là sư ca mà y cũng thật biết pha trò. Giả tỷ y muốn đại ca lên bắt các vì sao trên trời, không chừng đại ca cũng chịu đi.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Chuyện bắt đom đóm chơi cũng từ việc muốn bắt những vì sao trên trời mà ra. Tối hôm đó, ta và tiểu sư muội cùng đứng hóng mát, nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời. Tiểu sư muội bỗng thở dài rồi nói: “Thật là đáng tiếc, chút nữa phải đi ngủ rồi. Tiểu muội muốn ngủ ở ngoài trời, nửa đêm tỉnh dậy, thấy được những vì sao đầy trời đang lấp lánh nhìn tiểu muội thì vui biết mấy, nhưng mẫu thân nhất định không cho”. Ta liền nói: “Chúng ta đi bắt đom đóm rồi bỏ vào trong màn, thì cũng giống như những vì sao kia thôi”.
Nghi Lâm khẽ nói:
– Thì ra là chủ ý của đại ca.
Lệnh Hồ Xung tủm tỉm cười nói:
– Linh San sư muội nói: “Đom đóm ở trong màn bay qua bay lại trên mặt mình thì chán chết được. Đúng rồi, để tiểu muội đi may một ít túi vải the, bắt đom đóm bỏ vào”. Thế rồi y ngồi may túi còn ta đi bắt đom đóm suốt một ngày một đêm. Đáng tiếc là chỉ chơi được có một đêm, sang ngày hôm sau tất cả đom đóm đều chết sạch.
Nghi Lâm giật mình, giọng run run hỏi:
– Mấy ngàn con đom đóm đều bị chết cả ư? Hai người… hai người sao…
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tiểu muội nói chúng ta quá tàn nhẫn phải không? Úi chao, tiểu muội là đệ tử của Phật môn, lòng dạ từ bi hơn người. Sự thật thì khi gặp trời lạnh, những con đom đóm đều chết cóng hết; chúng chết sớm hay chết muộn hơn vài ngày cũng chẳng có gì quan trọng.
Một hồi lâu, Nghi Lâm sụt sùi nói:
– Thật ra kiếp người sống trên thế gian này đều như vậy cả thôi, có người chết sớm, có kẻ chết muộn, sớm muộn gì cuối cùng cũng phải chết. Đức Phật dạy mỗi con người đều không tránh khỏi bốn cái khổ Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Còn chuyện giác ngộ sâu rộng để tự giải thoát mình ra khỏi luân hồi không phải dễ làm đâu.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đúng vậy. Tiểu muội việc gì phải tâm niệm mãi những thanh quy giới luật đó? Việc gì mà không thể sát sinh, không thể trộm cắp. Nếu đức Bồ Tát mà mỗi chuyện đều phải để mắt đến thì thật phiền quá đi mất.
Nghi Lâm quay đầu đi. Cô không biết phải nói làm sao cho Lệnh Hồ Xung hiểu được. Giữa lúc đó, đầu ngọn núi phía trái có một ngôi sao băng rất nhanh, vạch thành một đường sáng dài trên bầu trời đêm mênh mông.
Nghi Lâm nói:
– Nghi Tĩnh sư tỷ có nói: “Người nào thấy được sao băng, nếu vừa thắt dải vạt áo vừa ước nguyện một điều, chỉ cần thắt dải vạt áo xong trước khi ngôi sao băng thì sẽ đạt được ước nguyện ấy”. Đại ca, có đúng như vậy không?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Ta không biết. Chúng ta hãy thử làm xem, nhưng chỉ sợ động tác mình làm không nhanh được như vậy.
Lệnh Hồ Xung nói xong liền cởi vạt áo ra rồi nói:
– Tiểu muội chuẩn bị đi, chậm một chút thì không kịp đâu.
Nghi Lâm cầm vạt áo, ngẩng nhìn lên bầu trời. Trời đêm mùa hạ sao băng rất nhiều, chỉ trong chốc lát có một vì sao băng vạch thành một đường dài trong không trung. Nhưng ngôi sao băng chỉ xẹt qua trong nháy mắt rồi tắt ngay. Ngón tay Nghi Lâm chỉ vừa động đậy thì sao băng đã tắt rồi. Cô khẽ kêu ối rồi lại đợi ngôi sao băng kế tiếp. Ngôi sao băng thứ hai từ hướng Đông sang hướng Tây kéo thành một đường dài. Động tác của Nghi Lâm rất mau lẹ, cô đã thắt được dải vạt áo.
Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:
– Hay quá, hay quá, tiểu muội thắt được rồi. Có Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ, nhất định tiểu muội đã đạt được sở nguyện.
Nghi Lâm thở dài nói:
– Tiểu muội chỉ mới cố gắng thắt dải vạt áo nhưng lòng chưa kịp ước nguyện gì cả.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Vậy tiểu muội mau mau nghĩ ra điều ước nguyện trước đi, tâm niệm trước mấy lần để khỏi đến lúc thắt được dải vạt áo lại quên điều ước nguyện.
Nghi Lâm cầm dải vạt áo, nghĩ: Ta biết ước nguyện gì đây? Ta biết ước nguyện gì đây? Rồi cô liếc nhìn Lệnh Hồ Xung, bỗng hai má ửng hồng; cô vội quay đầu đi.
Lúc này trên bầu trời liên tục có mấy ngôi sao băng xẹt qua. Lệnh Hồ Xung luôn miệng kêu lên không ngớt:
– Lại một vì sao băng nữa. Ái chà, vì sao này dài thật, tiểu muội thắt dải vạt áo được chưa? Lần này lại không kịp rồi.
Tâm sự Nghi Lâm rối như tơ vò. Ẩn sâu tận đáy lòng cô là một khát vọng thiết tha nhưng chính cô cũng không dám nghĩ đến chứ đừng nói đến chuyện cầu xin đức Quán Thế Âm Bồ Tát cho được toại nguyện. Tim cô đập thình thịch, cảm thấy vừa sợ hãi vô cùng, vừa sung sướng khôn xiết.
Lệnh Hồ Xung lại hỏi:
– Tiểu muội đã nghĩ xong ước nguyện gì chưa?
Trong sâu thẳm, lòng cô như khẽ hỏi:
– Ta nên ước nguyện gì đây? Ta nên ước nguyện gì đây?
Từng vì sao băng trên bầu trời cứ lần lượt xẹt qua, cô ngẩng đầu lên nhìn rồi lại ngẩn người ra.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tiểu muội không nói thì để ta đoán thử xem.
Nghi Lâm vội nói:
– Không, không, đại ca đừng đoán.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Sao tiểu muội lại hoảng hốt lên như vậy? Ta chỉ thử đoán ba lần, xem có trúng không thôi mà.
Nghi Lâm đứng dậy nói:
– Đại ca cứ muốn đoán nữa thì tiểu muội đi đây.
Lệnh Hồ Xung cười, nói:
– Được rồi, ta không nói. Cho dù trong thâm tâm tiểu muội muốn làm chưởng môn phái Hằng Sơn thì điều đó cũng có gì là đáng xấu hổ đâu?
Nghi Lâm ngẩn ngơ một lát rồi nghĩ: Đại ca… đại ca đoán mình muốn làm chưởng môn phái Hằng Sơn ư? Xưa nay, mình chưa bao giờ có ý nguyện đó, mà mình thì sao làm được chưởng môn nhân? Bỗng nghe mấy tiếng tình tang từ xa vọng lại, dường như có ai đang đánh đàn. Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm nhìn nhau, cảm thấy kỳ lạ vô cùng.
Nơi hoang sơn dã lĩnh này sao lại có người đến đánh đàn? Tiếng đàn không ngớt vọng lại nghe rất u nhã; một lúc sau, có tiếng sáo nhu hòa dìu dặt nổi lên hòa với tiếng đàn. Âm điệu tiếng đàn thất huyền cầm dịu dàng, trung chính lẫn với tiếng sáo thanh cao véo von làm rúng động lòng người. Tiếng đàn tiếng sáo dường như một bên hỏi, một bên đáp, rồi từ từ đi đến gần.
Lệnh Hồ Xung nhích người đến, nói khẽ vào tai Nghi Lâm:
– Điệu nhạc này thật cổ quái, e rằng có điều bất lợi cho chúng ta. Bất luận có chuyện gì, tiểu muội cũng không được lên tiếng.
Nghi Lâm gật đầu, nghe tiếng đàn dần dần cao vút lên, còn tiếng sáo lại từ từ trầm xuống. Nhưng tiếng sáo hạ xuống thấp mà vẫn không dứt, du dương như làn gió thoảng mà liên miên bất tuyệt khiến người nghe không khỏi cảm thấy bâng khuâng, bùi ngùi trong dạ.
Từ sau tảng đá, có ba người xuất hiện. Lúc này, ánh trăng bị mây che khuất nhưng dưới ánh sáng mờ ảo, vẫn thấy được ba người, hai cao một thấp. Hai người cao là đàn ông, người thấp là một thiếu nữ. Hai người đàn ông khoan thai bước đến bên một tảng đá to rồi ngồi xuống; một người gảy đàn, một người thổi sáo; còn thiếu nữ thì đứng bên cạnh người gảy đàn. Lệnh Hồ Xung thu mình vào phía sau tảng đá, không dám ló mặt ra, sợ bị ba người phát hiện. Nghe tiếng đàn tiếng sáo du dương hài hòa, Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Bên thác nước, tiếng nước chảy rì rầm mà không át được tiếng đàn sáo dịu dàng, xem ra nội công của hai người đánh đàn thổi sáo không phải tầm thường. Phải rồi, sở dĩ họ đến đây hòa nhạc là vì nơi đây có thêm âm thanh của thác đổ. Như vậy thì không có liên can gì đến chúng ta.
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy mới cảm thấy an tâm.
Bỗng dưng tiếng đàn phát ra những âm thanh gào thét, dường như có ý sát phạt nhưng tiếng sáo vẫn ôn hòa uyển chuyển. Một lúc sau, tiếng đàn trở lại êm dịu; hai âm điệu lúc trầm lúc bổng hòa quyện vào nhau. Bỗng nhiên tiếng đàn tiếng sáo biến đổi thình lình, dường như cùng một lúc có bảy tám cây đàn, bảy tám ống sáo cùng hòa tấu một nhạc khúc. Âm thanh của tiếng đàn tiếng sáo biến ảo vô cùng phức tạp, một tiếng phát ra chợt trầm bổng, chợt ngừng ngắt, vui tai nhưng vẫn khiến người ta xúc động nghẹn ngào. Lệnh Hồ Xung lắng nghe đến nỗi mạch máu căng lên, không kìm được muốn đứng dậy. Lại nghe một lúc nữa, tiếng đàn tiếng sáo biến đổi; tiếng sáo biến thành giai điệu lĩnh xướng, tiếng đàn thất huyền cầm chỉ phụ họa theo tình tang tình tang. Rồi tiếng sáo càng lúc càng cao vút lên. Lệnh Hồ Xung không hiểu sao lòng mình cảm thấy đau xót, nghiêng đầu nhìn Nghi Lâm, thấy tiểu ni cô nước mắt rơi lã chã. Đột nhiên cung đàn rít lên một tiếng cấp bách, tiếng đàn lập tức dừng lại; tiếng sáo cũng ngừng ngay. Bốn bề trở lại tĩnh mịch, chỉ còn vầng trăng ở trên bầu trời cao soi bóng những hàng cây xuống đất.
Chỉ nghe một người khoan thai nói:
– Lưu hiền đệ, ta và hiền đệ hôm nay bỏ mạng tại đây âu cũng do số trời định sẵn. Chỉ tại ngu huynh không ra tay sớm hơn một chút, khiến cho cả thân quyến và đệ tử của hiền đệ đều bị nạn. Lòng ngu huynh thực sự không yên.
Người kia nói:
– Huynh và đệ đã gan dạ kết giao với nhau, còn nói với nhau những lời đó làm gì…
Nghi Lâm nghe giọng nói của lão, lòng chợt dao động. Cô nói khẽ vào tai Lệnh Hồ Xung:
– Đó chính là Lưu Chính Phong sư bá.
Cả hai người tuyệt đã không biết chuyện thảm sát trong phủ của Lưu Chính Phong, bây giờ lại thấy Lưu Chính Phong xuất hiện nơi hoang dã này. Một người lại nói cái gì “Ta và hiền đệ hôm nay bỏ mạng tại đây”, cái gì “Thân quyến và đệ tử của hiền đệ đều bị nạn”, khiến cả hai đều kinh ngạc vô cùng.
Lưu Chính Phong tiếp tục nói:
– Con người sinh ra ai cũng phải chết, có được một người tri kỷ thì chết cũng không tiếc.
Người kia nói:
– Lưu hiền đệ, ta nghe trong tiếng sáo của hiền đệ có chút tình ý di hận, phải chăng là do lệnh lang gặp lúc nguy nan đã tỏ ra tham sống sợ chết làm hoen ố thanh danh của hiền đệ?
Lưu Chính Phong thở dài, nói:
– Khúc đại ca đoán không sai. Cần nhi là đứa con mà ngày thường tiểu đệ quá nuông chìu, thiếu sự giáo huấn, không ngờ trở nên hèn yếu không còn chút khí tiết nào hết.
Khúc Dương nói:
– Có khí tiết hay không có khí tiết cũng vậy thôi, một trăm năm sau cũng về với đất, có khác biệt gì đâu? Ngu huynh đã nằm phục trên nóc nhà từ lâu, đáng lý nên ra tay sớm một chút nhưng nghĩ rằng hiền đệ sẽ không tình nguyện vì cố nhân mà làm tổn thương hòa khí của Ngũ Nhạc kiếm phái, lại nghĩ rằng ngu huynh đã từng vì hiền đệ mà lập lời trọng thệ quyết không làm phương hại đến nhân sĩ trong bạch đạo, vì vậy nên ngần ngừ chưa muốn ra tay. Đâu ngờ Ngũ Nhạc minh chủ phái Tung Sơn lại ra tay tàn nhẫn như vậy.
Lưu Chính Phong lặng yên, thở dài rồi nói:
– Bọn chúng là người phàm tục, làm sao hiểu được huynh đệ chúng ta vì âm luật cao tình nhã chí mà kết giao với nhau? Bọn chúng lấy cái thường tình mà xét đoán, khẳng định rằng huynh đệ chúng ta kết giao với nhau để gây bất lợi cho bạch đạo và Ngũ Nhạc kiếm phái. Chao ôi, chúng không hiểu nên cũng không trách chúng được. Khúc đại ca, đại ca bị thương ở huyệt Đại truy làm chấn động tâm mạch phải không?
Khúc Dương nói:
– Đúng vậy. Nội công của phái Tung Sơn quả thật là ghê gớm, ta không ngờ đến nên đưa lưng ra nhận một chưởng, vận nội lực không đủ, lại làm cho tâm mạch của hiền đệ cũng bị chấn động đứt đoạn ra. Nếu ta sớm biết hiền đệ không tránh khỏi bị thương thì nắm Hắc huyết thần châm đó cũng không cần phải liệng ra để nhiều người vô tội bị tổn thương mà chẳng ích gì. May thay, mũi kim không tẩm thuốc độc.
Lệnh Hồ Xung nghe bốn chữ “Hắc huyết thần châm” thì lòng chấn động, nghĩ: Người này đã từng cứu tính mệnh ta, lẽ nào lão lại là cao thủ trong Ma giáo? Lưu sư thúc vì sao lại kết giao với lão?
Lưu Chính Phong cười khẽ rồi nói:
– Nhưng có vậy thì huynh đệ chúng ta mới có dịp hợp tấu khúc nhạc này. Từ nay về sau trên đời này sẽ không còn tiếng đàn tiếng sáo như vậy nữa.
Khúc Dương nghe vậy thở dài, nói:
– Ngày xưa, Kê Khang lúc sắp bị hành hình còn gảy khúc nhạc “Quảng Lăng tán” bi ai rồi từ đó cung đàn này không còn tồn tại trên thế gian. Ha ha, khúc “Quảng Lăng tán” tuy tinh diệu nhưng bì sao được với khúc “Tiếu ngạo giang hồ” của hai chúng ta? Nhưng năm đó, tâm tình của Kê Khang cũng giống như tâm tình của ta với hiền đệ lúc này.
Lưu Chính Phong cười nói:
– Vừa rồi Khúc đại ca còn rất thoáng đạt mà sao bây giờ lại cố chấp như vậy? Đêm nay, đại ca và tiểu đệ đã hợp tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ” phát huy đến chỗ lâm ly tận chí. Trên thế gian có khúc nhạc này thì đại ca và tiểu đệ đã hợp tấu rồi, một bản hợp tấu tuyệt nhất ở cõi đời thì còn ân hận gì nữa?
Khúc Dương vỗ tay khẽ nói:
– Hiền đệ nói phải lắm.
Một lúc sau lão lại thở dài. Lưu Chính Phong hỏi:
– Đại ca, sao đại ca thở dài? Đúng rồi, nhất định là đại ca không an tâm vì Phi Phi.
Nghi Lâm giật mình, nghĩ thầm: Phi Phi, chính cô bé Phi Phi kia ư?
Quả nhiên nghe tiếng Khúc Phi Yên nói:
– Gia gia, gia gia và Lưu công công từ từ tịnh dưỡng thương thế cho lành hẳn rồi chúng ta đến phái Tung Sơn giết sạch bọn ác đồ mà trả thù cho Lưu bà bà.
Đột nhiên, vách núi vang vọng một tràng cười dài. Tiếng cười chưa hết, một bóng đen từ sau vách núi đi ra, ánh thanh quang lấp loáng, hắn đã đứng trước mặt Khúc Dương và Lưu Chính Phong, tay cầm trường kiếm. Đó chính là Đại tung dương thủ Phí Bân của phái Tung Sơn. Hắn lạnh lùng cười lên ha hả rồi nói:
– Con nhãi ranh kia, ngươi nói hay đấy. Muốn giết sạch cả phái Tung Sơn ư? Trên đời này đâu có những chuyện dễ toại ý đến như vậy được?
Lưu Chính Phong đứng dậy nói:
– Phí Bân, ngươi đã giết cả nhà ta; chính Lưu mỗ cũng bị chưởng lực của hai sư huynh ngươi đánh, nguy hiểm tính mạng trong khoảnh khắc. Ngươi còn muốn làm gì nữa đây?
Phí Bân cười hô hố rồi nói khích:
– Con nhãi ranh kia nói muốn giết sạch phái Tung Sơn, tại hạ đến đây để cho nó giết sạch. Con nhãi kia, ngươi qua đây chịu chết trước đi.
Nghi Lâm ngồi bên cạnh Lệnh Hồ Xung nói:
– Phi Phi và gia gia của cô ấy đã cứu đại ca; chúng ta phải tìm cách cứu họ mới được.
Lệnh Hồ Xung không đợi cô nói ra đã ngầm tính kế giải vây để báo đáp ơn cứu mạng của hai cha con Khúc Dương. Nhưng một là đối phương là cao thủ phái Tung Sơn, chính mình lúc chưa bị trọng thương cũng không phải là đối thủ của hắn; hai là bây giờ đã biết Khúc Dương là người trong Ma giáo, mà phái Hoa Sơn và Ma giáo lại thù địch với nhau, làm sao có thể cứu giúp kẻ địch được? Lòng hắn còn ngại, chưa thể quyết định, lại nghe Lưu Chính Phong nói:
– Họ Phí kia, ngươi cũng được coi như là một nhân vật có tiếng trong danh môn chính phái. Hôm nay, Khúc Dương và Lưu Chính Phong lọt vào tay của ngươi, ngươi muốn băm muốn vằm thế nào chúng ta cũng không oán hận; song ngươi lại hà hiếp một đứa con gái nhỏ tuổi thì còn gì là anh hùng hảo hán nữa? Phi Phi, ngươi chạy mau đi!
Khúc Phi Yên nói:
– Tiểu nữ nguyện chết cùng gia gia và Lưu công, quyết không chịu tìm cái sống một mình.
Lưu Chính Phong thúc giục:
– Chạy mau đi! Chạy mau đi! Chuyện của người lớn, ngươi là con nít không có liên can gì đây cả.
Khúc Phi Yên đáp:
– Tiểu nữ không đi.
Loảng xoảng hai tiếng, cô rút hai thanh đoản kiếm từ sau lưng lạng ra cản trước Lưu Chính Phong rồi quát:
– Phí Bân, trước đây Lưu công tha chết cho ngươi mà ngươi lại lấy oán báo ân. Ngươi có còn biết hổ thẹn không đó?
Phí Bân hầm hầm nói:
– Con ranh này nói là muốn giết sạch phái Tung Sơn của chúng ta. Lẽ nào họ Phí ta chịu bó tay để bị ngươi phanh thây hay là cắm đầu chạy trốn.
Lưu Chính Phong kéo tay Khúc Phi Yên vội nói:
– Chạy mau đi, chạy mau đi!
Nhưng vì lão bị nội lực của phái Tung Sơn làm chấn động gần đứt hết kinh mạch, vừa rồi lại đem hết tâm lực ra diễn tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ” nên tay lão không còn chút nội lực nào. Khúc Phi Yên kéo nhẹ một cái đã thoát khỏi tay Lưu Chính Phong. Trước mặt cô thanh quang lấp loáng, trường kiếm của Phí Bân đã đâm tới.
Tay trái Khúc Phi Yên giơ đoản kiếm lên gạt, tay phải cầm kiếm phóng ra. Phí Bân cười gằn một tiếng, quay trường kiếm một vòng rồi chát một tiếng, hắn đánh xuống đoản kiếm bên tay phải của cô. Cánh tay Khúc Phi Yên tê nhức, hổ khẩu đau đớn, thanh đoản kiếm trên tay phải rớt xuống đất. Trường kiếm của Phí Bân chênh chếch đánh ngược lại, chát một tiếng nữa, đoản kiếm bên tay trái của cô lại bị chấn động, rớt xuống văng xa mấy trượng. Phí Bân chỉ trường kiếm vào yết hầu cô bé, nhìn Khúc Dương cười nói:
– Khúc trưởng lão, tại hạ đâm đui mắt trái của hài nhi trưởng lão trước rồi xẻo mũi, xẻo tai cô ta sau.
Khúc Phi Yên thét to, nhảy xổ lao thẳng vào mũi trường kiếm của hắn. Phí Bân rút kiếm lại rất nhanh, hắn đưa ngón trỏ tay trái điểm huyệt Khúc Phi Yên rồi cười hô hố nói:
– Tà ma ngoại đạo làm nhiều chuyện gian ác, muốn chết cũng không dễ dàng đâu. Ta đâm mù mắt trái của ngươi trước đã.
Hắn giơ trường kiếm lên toan đâm vào mắt trái của Khúc Phi Yên, bỗng nghe đằng sau có tiếng người quát:
– Dừng tay!
Phí Bân giật mình kinh hãi, vội quay người lại, thủ kiếm hộ thân. Hắn không ngờ Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm đã sớm ẩn núp sau tảng đá không nhúc nhích, nếu không thì với nội công của hắn, quyết không thể có ai đến gần mà lại không phát giác được. Dưới ánh trăng, hắn chỉ thấy một hán tử trẻ tuổi, hai tay chống nạnh đang đứng đó.
Phí Bân quát hỏi:
– Ngươi là ai?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiểu điệt là Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn tham kiến Phí sư thúc.
Lệnh Hồ Xung nói xong liền khom người hành lễ, thân người loạng choạng không vững. Phí Bân gật đầu nói:
– À, thì ra đại đệ tử của Nhạc sư huynh. Ngươi làm gì ở đây?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiểu điệt bị đệ tử phái Thanh Thành đánh trọng thương nên ở đây để dưỡng thương, rất may mắn được bái kiến Phí sư thúc.
Phí Bân hừ lên một tiếng rồi nói:
– Ngươi đến đúng lúc lắm. Con ranh này là tà ma ngoại đạo trong Ma giáo, đáng bị tiêu diệt; nếu chính ta ra tay thì không tránh khỏi ỷ lớn hiếp nhỏ. Ngươi hãy giết con ranh này đi.
Hắn nói vậy rồi đưa tay chỉ vào Khúc Phi Yên.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:
– Gia gia của cô bé này và Lưu sư thúc kết giao với nhau, cứ tính như vậy thì cô bé này thấp hơn tiểu điệt một bậc. Nếu tiểu điệt giết cô ta thì trên giang hồ đồn đãi rằng phái Hoa Sơn ỷ lớn hiếp nhỏ, cứ vậy truyền rộng ra thì thanh danh rất thương tổn. Vả lại, Khúc tiền bối này và Lưu sư thúc đều đã bị trọng thương. Trước mặt hai vị mà ăn hiếp tiểu bối của hai vị quyết không phải là hành vi của bậc anh hùng hảo hán. Phái Hoa Sơn của tiểu điệt không thể làm việc này, xin Phí sư thúc lượng thứ cho.
Lệnh Hồ Xung nói như vậy ý tứ rất rõ ràng. Chuyện phái Hoa Sơn không muốn làm mà phái Tung Sơn cứ làm, thì hiển nhiên là phái Tung Sơn không sánh bằng phái Hoa Sơn được.
Đôi mày Phí Bân dựng ngược, ánh mắt lộ hung quang. Hắn gằn giọng:
– Thì ra ngươi và gian nhân Ma giáo cũng đã ngấm ngầm câu kết với nhau. Phải rồi, vừa rồi Lưu Chính Phong có nói gian nhân họ Khúc đã trị thương cho ngươi, cứu tính mạng ngươi. Không ngờ ngươi đường đường là đại đệ tử phái Hoa Sơn cũng quy đầu Ma giáo nhanh như vậy.
Trường kiếm trong tay hắn rung động, lưỡi kiếm sáng loáng, dường như chỉ muốn đâm Lệnh Hồ Xung.
Lưu Chính Phong nói:
– Lệnh Hồ hiền điệt, hiền điệt và bọn ta không có liên can gì, không nên đến đây rước thêm mối nhục nhã, mau mau rời khỏi nơi này để khỏi làm khó cho sư phụ của hiền điệt.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:
– Lưu sư thúc, từ xưa đến nay bạch đạo của chúng ta và tà ma ngoại đạo không đội trời chung với nhau. Hai chữ “hiệp nghĩa” có ý nghĩa gì? Ức hiếp người đang bị trọng thương cũng được coi là hiệp nghĩa ư? Tàn sát đứa bé gái vô tội cũng được coi là hiệp nghĩa ư? Nếu những chuyện này đều làm được thì ta có khác gì tà ma ngoại đạo đâu?
Khúc Dương than thở:
– Những chuyện như vậy, Ma giáo chúng ta cũng không làm. Lệnh Hồ huynh đệ, chính miệng huynh đệ đã nói ra đó, phái Tung Sơn thích làm những chuyện này thì cứ để cho hắn tự do làm đi.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tiểu điệt không muốn đi. Đại tung dương thủ Phí Bân trên giang hồ danh tiếng lẫy lừng, là bậc anh hùng hảo hán nhất nhì trong phái Tung Sơn. Sư thúc chẳng qua chỉ nói vài câu hăm dọa cô bé thôi, chứ không thể làm những chuyện xấu xa như vậy được. Phí sư thúc quyết không phải là hạng người như vậy.
Lệnh Hồ Xung nói xong, hai tay khoanh trước ngực, dựa lưng vào gốc cây. Mặt Phí Bân bừng bừng sát khí. Hắn cười lên một tràng dài man rợ rồi nói:
– Ngươi tưởng có thể dùng ba tấc lưỡi làm xiêu lòng ta, có thể lung lạc ta tha cho ba tên gian nhân này ư? Ha ha, ngươi đừng có ngu si mộng tưởng. Ngươi đã đầu quân vào Ma giáo, Phí mỗ này giết ba người hay giết thêm cả ngươi nữa cũng vậy thôi.
Nói rồi hắn khoa chân bước lên một bước.
Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt của hắn rất hung tợn, lòng không khỏi kinh hãi nhưng vẫn ngấm ngầm tìm kế sách để giải vây. Lệnh Hồ Xung vẫn cố làm ra vẻ bình thản, nói:
– Phí sư thúc, ngay cả tiểu điệt sư thúc cũng muốn giết để bịt miệng phải không?
Phí Bân nói:
– Ngươi thông minh thật, câu này không sai!
Hắn nói xong lại tiến gần thêm một bước. Bỗng nhiên từ sau tảng đá hiện ra một nữ ni nhỏ tuổi. Cô nói:
– Phí sư thúc, khổ hải vô biên hồi đầu thị ngạn (biển khổ mênh mông, quay đầu là thấy bến). Bây giờ sư thúc định làm chuyện bại hoại, nhưng việc chưa ra tay mà biết gò cương dừng ngựa thì cũng chưa muộn.
Ni cô này chính là Nghi Lâm. Lệnh Hồ Xung bảo cô cứ núp sau tảng đá, không được để ai nhìn thấy, nhưng trước mắt, Lệnh Hồ Xung đang lâm vào tình thế nguy cấp; không kịp suy nghĩ cô đành đánh bạo đi ra, nghĩ có thể lấy lời nói phải để khuyên răn Phí Bân dừng tay.
Phí Bân giật mình kinh hãi nói:
– Ngươi là đồ đệ phái Hằng Sơn phải không? Sao lại lén lút núp ở đây?
Mặt Nghi Lâm ửng hồng, cô ấp úng nói:
– Đệ tử… đệ tử…
Khúc Phi Yên bị điểm huy ệt đạo, đang nằm dưới đất, không nhúc nhích được, nghe giọng Nghi Lâm cô liền lớn tiếng nói:
– Nghi Lâm tỷ tỷ, tiểu muội sớm đoán được tỷ tỷ cùng đi với Lệnh Hồ đại ca. Quả nhiên tỷ tỷ đã trị lành vết thương cho đại ca, chỉ đáng tiếc… chỉ đáng tiếc chúng ta đều sắp chết hết rồi.
Nghi Lâm lắc đầu nói:
– Không đâu, Phí sư thúc là bậc anh hùng hào kiệt tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, có khi nào lại đi giết hại những người đang bị trọng thương và một tiểu cô nương như muội muội.
Khúc Phi Yên cười gằn hỏi:
– Lão thật đúng là đại anh hùng, đại hào kiệt ư?
Nghi Lâm đáp:
– Phái Tung Sơn là minh chủ của Ngũ Nhạc kiếm phái, là lãnh tụ bạch đạo trên giang hồ; bất luận làm chuyện gì, phái này cũng phải lấy hiệp nghĩa làm đầu.
Cô nói mấy câu này với tất cả tấm lòng chân thành, nhưng Phí Bân nghe lại hoàn toàn cho là lời chế giễu. Hắn nghĩ bụng: Một là không làm, hai là không nghĩ; nếu hôm nay còn một tên sống sót thì thanh danh Phí mỗ từ đây sẽ bị ô nhục. Tuy ta giết gian nhân trong Ma giáo nhưng giết đang lúc chúng bị trọng thương thì không phải là hành vi của bậc anh hùng hào kiệt, tất bị người ta coi thường. Hắn nghĩ vậy liền vung trường kiếm lên chỉ vào Nghi Lâm nói:
– Ngươi đã không bị trọng thương, cũng không phải là tiểu cô nương không biết võ công, ta giết ngươi được chứ?
Nghi Lâm giật mình sợ hãi, lùi lại mấy bước, run run nói:
– Đệ tử… đệ tử… Sao sư thúc lại muốn giết đệ tử?
Phí Bân nói:
– Ngươi cấu kết với gian nhân Ma giáo, gọi nhau là tỷ muội, cũng đã là cùng một phe với gian nhân, tất nhiên không thể dung tha được.
Hắn nói xong, khua chân bước lên một bước, giơ kiếm toan đâm thẳng vào Nghi Lâm. Lệnh Hồ Xung vội lạng người cản trước mặt Nghi Lâm, rồi la lên:
– Sư muội mau chạy đi, mời sư phụ đến cứu mạng.
Lệnh Hồ Xung biết nước xa khó cứu được lửa gần, hắn bảo Nghi Lâm đi cầu cứu viện binh chẳng qua là muốn cô rời xa chỗ này cho khỏi mất mạng.
Trường kiếm của Phí Bân lay động, mũi kiếm đâm về phía bên phải Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung vội nghiêng người né tránh. Phí Bân đánh ba đường kiếm liên hoàn véo véo, rất nguy hiểm cho Lệnh Hồ Xung. Nghi Lâm vội rút thanh kiếm gãy sau lưng ra, nhắm vai Phí Bân đâm tới. Cô la lên:
– Lệnh Hồ đại ca, đại ca bị trọng thương, mau mau lùi lại đi.
Phí Bân cười ha hả nói:
– Tiểu ni cô động lòng phàm tục rồi, thấy thiếu niên anh tuấn thì không kể chi đến sinh mạng.
Nói xong, hắn đưa kiếm đỡ. Choang một tiếng, song kiếm giao nhau, thanh kiếm gãy trong tay Nghi Lâm bị văng đi; trường kiếm của Phí Bân phóng tới ngực Nghi Lâm. Phí Bân muốn giết cả năm người, tuy người nào cũng chẳng còn sức lực chống lại hắn nhưng hắn sợ đêm dài sinh lắm mộng, chỉ cần một tên chạy thoát thì hậu hoạn vô cùng, nên hắn phải ra tay tuyệt diệt.
Lệnh Hồ Xung vọt đến, tay trái phóng song chỉ đâm vào mắt Phí Bân. Phí Bân vội đứng lại, rồi nhảy lùi ra sau. Lúc hắn rút trường kiếm về, thừa thế lia một cái, vạch một đường dài lên cánh tay trái của Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung liều mình xông vào để cứu nguy cho Nghi Lâm, nhưng hắn đã thở lên hồng hộc, thân người lảo đảo muốn té nhào. Nghi Lâm vội nhảy lên trước đỡ lấy Lệnh Hồ Xung, nghẹn ngào nói:
– Để lão giết chúng ta hết đi.
Lệnh Hồ Xung vừa thở vừa giục:
– Tiểu muội… tiểu muội chạy mau đi…
Khúc Phi Yên cười nói:
– Ông ngốc ơi, đến nước này mà ông còn chưa hiểu rõ bụng dạ người ta. Người ta muốn vì ông mà chết đó.
Câu nói của Khúc Phi Yên chưa xong thì trường kiếm của Phí Bân đã phóng đến, đâm thẳng vào tim cô. Khúc Dương, Lưu Chính Phong, Lệnh Hồ Xung, Nghi Lâm cùng giật mình kinh hoàng.
Phí Bân nở một nụ cười man rợ, khoa chân bước lên một bước hướng về Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm, rồi tiến lên một bước nữa; lưỡi kiếm của hắn nhỏ máu tươi từng giọt.
Lệnh Hồ Xung suy nghĩ loạn xạ: Hắn… hắn đã giết tiểu cô nương này, chẳng khác nào hạng lang sói, ta đây cũng phải chết. Tại sao Nghi Lâm sư muội muốn vì ta mà chết? Tuy ta đã cứu nàng nhưng nàng cũng đã cứu lại ta, xem như ân tình đã báo đáp đủ rồi. Trước đây ta và nàng không hề quen biết, chẳng qua chỉ là sư huynh sư muội trong Ngũ Nhạc kiếm phái, muốn giữ đạo nghĩa trên giang hồ cũng không cần lấy tính mạng mà đền đáp như vậy. Không ngờ đệ tử môn hạ phái Hằng Sơn lại vẹn toàn nghĩa khí võ lâm; Định Dật sư thái thật là một nhân vật hiếm có. Ôi, Nghi Lâm sư muội lại muốn cùng chết với ta, tại sao không phải là Linh San tiểu sư muội? Nàng… nàng bây giờ đang làm gì?
Trước mắt Lệnh Hồ Xung, nét mặt hung tợn cùng nụ cười man rợ của Phí Bân đang tiến đến gần. Lệnh Hồ Xung mỉm cười, thở dài rồi nhắm mắt lại.
Bỗng nghe tiếng hồ cầm từ xa xa vọng lại. Tiếng đàn thê lương, ai oán, giống như đang khóc tỉ tê, lại như đang run bần bật, phát ra những âm điệu lúc đứt lúc nối giống như những hạt mưa nhỏ rơi xuống trên lá cây. Lệnh Hồ Xung sửng sốt, mở to mắt ra nhìn.
Phí Bân giật mình nghĩ:
– Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh đã đến rồi!
Tiếng hồ cầm càng lúc càng thê lương não nuột, Mạc Đại tiên sinh vẫn đứng sau gốc cây chưa chịu xuất hiện. Phí Bân gọi to:
– Mạc Đại tiên sinh, sao chưa hiện thân tương kiến?
Tiếng hồ cầm bỗng nhiên im bặt. Từ sau gốc cây tùng, một người gầy nhom bước ra. Lệnh Hồ Xung nghe danh tiếng Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh đã lâu nhưng chưa bao giờ thấy qua mặt lão. Lúc này dưới ánh trăng, chàng chỉ thấy lão gầy còm như que củi, hai vai nhô lên giống như một người bệnh lao nặng có thể ngã ra chết ngay bất cứ lúc nào. Lệnh Hồ Xung không ngờ chưởng môn phái Hành Sơn lừng danh khắp giang hồ lại là một người có bộ dạng cổ quái đến như vậy. Tay trái Mạc Đại tiên sinh kẹp cây hồ cầm, hai tay cung lại, hướng về Phí Bân nói:
– Phí sư huynh, Tả minh chủ có khỏe không?
Phí Bân thấy lão không có ác ý, lại biết lão và Lưu Chính Phong bất hòa, bèn nói:
– Đa tạ Mạc Đại tiên sinh, Tả sư ca vẫn khỏe. Lưu Chính Phong của quý phái và gian nhân Ma giáo kết giao với nhau, muốn gây bất lợi cho Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta. Mạc Đại tiên sinh, theo tiên sinh thì nên xử trí thế nào?
Mạc Đại tiên sinh bước đến hai bước gần Lưu Chính Phong, dõng dạc nói hai tiếng:
– Đáng giết!
Tiếng “giết” vừa nói ra khỏi miệng, ánh thanh quang lấp loáng, tay lão đã cầm một thanh trường kiếm vừa mỏng vừa nhỏ như lá lúa, phát chiêu rất nhanh, đâm thẳng vào ngực Phí Bân. Chiêu kiếm cực kỳ nhanh song lại như mộng như ảo, chính là một tuyệt chiêu trong Bách biến thiên ảo Hành Sơn vân vụ thập tam thức. Phí Bân lúc ở Lưu phủ đã từng biết qua môn võ công này của Lưu Chính Phong, bây giờ hắn lại bị lãnh đủ, kinh hãi không kịp trở tay. Hắn vội lùi ra sau thở hồng hộc, ngực hắn đã bị lưỡi kiếm lợi hại vạch một đường dài, áo bị rách toạc, lưỡi kiếm rạch vào da thịt, tuy vết thương không nặng nhưng hắn kinh hãi, nhuệ khí mất hẳn.
Phí Bân lập tức xoay kiếm đâm trả nhưng Mạc Đại tiên sinh đã chiếm được tiên cơ nên cứ liên tục phóng kiếm đánh tới. Thanh kiếm của tiên sinh như con linh xà, rung động không ngớt, luồn lách vào làn kiếm quang của Phí Bân mà đâm tới, ép Phí Bân phải liên tục thối lui, nửa câu chửi cũng không mở miệng phát ra được.
Kiếm pháp của Mạc Đại tiên sinh biến ảo trước mắt Khúc Dương, Lưu Chính Phong, Lệnh Hồ Xung; giống như ma như quỷ khiến cả ba không khỏi kinh tâm loạn phách. Ngay Lưu Chính Phong từng là đồng môn học nghệ, làm sư huynh sư đệ với nhau mấy chục năm cũng không ngờ kiếm thuật của sư huynh lại tinh thâm đến vậy.
Từng giọt máu tươi từ giữa hai thanh kiếm nhỏ xuống. Phí Bân không ngừng chuyển dịch né tránh, cố sức chống đỡ vẫn không thoát khỏi làn kiếm quang của Mạc Đại tiên sinh, máu tươi nhỏ xuống chung quanh hai người thành một vòng đỏ lòm. Bỗng nghe Phí Bân thét một tiếng đau đớn rồi nhảy vọt lên cao. Mạc Đại tiên sinh lùi ra sau hai bước, nhét trường kiếm vào đáy hồ cầm rồi quay người đi. Khúc Tiêu Tương dạ vũ từ sau cây tùng vọng lại rồi xa dần…
Phí Bân nhảy lên rồi lập tức ngã xuống, máu từ vết thương trước ngực hắn phun ra như suối. Trong trận kịch chiến vừa rồi, hắn vận nội lực chính tông của phái Tung Sơn, sau khi bị kiếm đâm vào ngực mà nội lực vẫn chưa tan, nên nội lực ép máu tươi trong vết thương phụt ra ngoài, trông vừa kỳ dị vừa đáng sợ.