Hồi 17: Pháp môn gõ mạnh không phương tiện – Nghi trận bày ra có thí như

Đột nhiên từ xa xuất hiện một quầng ánh sáng, từ từ tới gần, Vi Tiểu Bảo cả kinh, nghĩ thầm “Lửa ma, lửa ma!”. Quầng sáng ấy càng lúc càng tới gần, lại là một chiếc đèn lồng, người cầm đèn lồng là một nữ quỷ mặc áo trắng. Vi Tiểu Bảo vội nhắm nghiền hai mắt. Chỉ nghe tiếng bước chân rất khẽ, bước tới bên cạnh thì ngừng lại.

Y sợ tới mức không dám thở, toàn thân run lên, lại nghe giọng một cô gái nhỏ cười nói “Tại sao ngươi lại nhắm mắt lại?”, âm thanh trong trẻo rất dễ nghe. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi đừng dọa ta. Ta… ta không dám nhìn ngươi”.

Nữ quỷ kia cười nói “Ngươi sợ ta bảy khiếu chảy máu, lưỡi thè ra ngoài phải không? Ngươi mở mắt ra xem đi”.

Vi Tiểu Bảo run lên nói “Ta không mắc lừa ngươi đâu, ngươi là tóc tai rũ rượi, bảy khiếu chảy máu, có cái gì… có cái gì đẹp mà xem?”. Nữ quỷ kia cười khanh khách, thổi vào mặt y.

Hơi thở này thổi tới mặt, lại thấy ấm, mang theo một chút u hương. Vi Tiểu Bảo hé mắt trái ra nhìn, rõ ràng thấy một khuôn mặt một như tuyết, mày cong một nhỏ, tươi cười như hoa, lập tức mở to hai mắt ra, chỉ thấy trước mắt là một khuôn mặt thiếu nữ mười phần thanh tú, khoảng mười bốn mười lăm tuổi, tóc tết thành hai bím, cười hì hì đang nhìn mình. Vi Tiểu Bảo định thần, hỏi “Ngươi quả thật không phải là ma chứ?”. Thiếu nữ kia mỉm cười nói “Ta tự nhiên là ma, là ma thắt cổ”.

Vi Tiểu Bảo bị bất ngờ, kinh nghi bất định. Thiếu nữ kia cười nói “Ngươi lúc giết người ác thì lớn mật như thế, tại sao gặp ma thắt cổ lại nhút nhát như thế?”. Vi Tiểu Bảo thở ra một hơi, nói “Ta không sợ người, chỉ sợ ma”.

Thiếu nữ kia lại cười khanh khách, hỏi “Ngươi bị người ta điểm vào huyệt đạo nào?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta làm sao biết được?”. Thiếu nữ kia nắm vào sau vai y mấy cái, lại khẽ vỗ lên lưng y ba chưởng, Vi Tiểu Bảo hai tay lập tức cử động được. Y nhấc cánh tay lên, vung vung hai cái, cười nói “Ngươi biết giải huyệt, như thế rất hay”.

Thiếu nữ kia nói “Ta mới học được chưa lâu, hôm nay thử lần đầu tiên lại là trên người ngươi” lại nắm vào dưới nách, trên hông y mấy cái. Y dang hai tay ra, cười nói “Ngươi làm ta nhột, ta cũng sẽ làm ngươi nhột lại”, nói xong bước tới một bước.

Thiếu nữ kia thè lưỡi ra, làm ra vẻ mặt nhát ma. Nhưng bộ mặt con ma này vô cùng khả ái, hoàn toàn không có chút gì đáng sợ. Vi Tiểu Bảo đưa tay nắm vào lưỡi nàng. Thiếu nữ kia quay đầu tránh đi, cười khanh khách nói “Ngươi không sợ ma thắt cổ à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi có bóng, lại có hơi nóng, là người chứ không phải ma”. Thiếu nữ kia trợn tròn hai mắt, nghiêm mặt nói “Ta là quỷ nhập tràng, không phải là ma!”.

Vi Tiểu Bảo ngẩn ra, dưới ánh đèn nhìn thấy mặt nàng vừa hồng vừa trắng, cười nói “Quỷ nhập tràng thì hai gối không co lại được, không cần nói nữa”.

Thiếu nữ kia lại bật cười, nói “Vậy thì nhất định ta là hồ ly tinh”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta không sợ hồ ly tinh”, trong lòng cũng hơi ngờ vực “Chẳng lẽ thị đúng là hồ ly tinh”, bèn xoay ra sau lưng nàng nhìn nhìn. Thiếu nữ kia cười nói “Ta là hồ ly ngàn năm, đạo hạnh rất sâu, không có đuôi đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Loại hồ ly tinh xinh đẹp như ngươi, thì bị ngươi mê hoặc mà chết cũng không hề gì”. Thiếu nữ kia thoáng đỏ mặt, đưa tay lên mặt lêu lêu y, nói “Không biết xấu hổ, mới rồi sợ ma tới mức nào, lại còn muốn miệng lưỡi ăn người nữa”.

Vi Tiểu Bảo sợ nhất là quỷ nhập tràng, thứ nhì là ma, còn như hồ ly tinh thì không sợ lắm, nhìn thấy thiếu nữ này hòa nhã dễ gần, so với Phương Di, Mộc Kiếm Bình còn khiến người ta dễ gần gũi hơn mấy phần, huống hồ nàng nói toàn khẩu âm Giang Nam, dễ nghe hơn hai người Phương Mộc nói khẩu âm Vân Nam rất nhiều. Y cười hỏi “Cô nương, ngươi tên gì?”. Thiếu nữ kia nói “Ta là Song Nhi, Song là đôi”. Vi Tiểu Bảo nói “Như vậy rất hay, chỉ có điều không biết là một đôi hài thơm hay là một đôi tất thúi”.

Song Nhi cười nói “Tất thúi cũng được, hài thơm cũng được, đều tùy ngươi thôi. Quế tướng công, ngươi trên người ướt đẫm, nhất định rất không thoải mái, mời vào trong này thay quần áo khô. Chỉ có một việc khó, xin ngươi đừng trách”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện gì khó vậy?”. Song Nhi nói “Chỗ chúng ta không có quần áo đàn ông”. Vi Tiểu Bảo trong lòng thầm buồn cười, nhưng lập tức biến sắc, nghĩ thầm “Trong nhà này đều là nữ quỷ”.

Song Nhi nhấc chiếc đèn lồng lên, nói “Mời qua bên này”. Vi Tiểu Bảo ngần ngừ bất định. Song Nhi đã bước tới cửa, quay đầu chờ y, mỉm cười nói “Mặc quần áo phụ nữ, ngươi sợ là rủi ro phải không? Thôi thế này, ngươi cứ nằm trên giường, để ta hong khô quần áo cho ngươi”.

Vi Tiểu Bảo thấy thái độ của nàng ôn nhu thể thiếp, rất khó cự tuyệt, chỉ đành theo nàng bước ra cửa, hỏi “Những người đồng bạn của ta đi đâu cả rồi?”. Song Nhi đi chậm lại hai bước, sóng vai với y cùng đi, hạ giọng nói “Tam thiếu nãi đã dặn chuyện gì cũng không nói nhiều với ngươi, chờ ngươi dùng điểm tâm xong, Tam thiếu nãi sẽ đích thân nói chuyện với ngươi”.

Vi Tiểu Bảo đã sớm đói bụng cồn cào, nghe nói có cái để ăn, lập tức tinh thần phấn chấn.

Song Nhi dắt Vi Tiểu Bảo đi qua một hành lang tối om, tới một gian phòng, thắp nến trên bàn lên. Gian phòng này chỉ có một cái bàn, một cái giường, bày biện đơn giản, nhưng mười phần sạch sẽ, trên giường có chăn nệm. Song Nhi mở một góc nệm, buông màn xuống, nói “Quế tướng công, ngươi lên giường cởi quần áo ném ra ngoài này cho ta”. Vi Tiểu Bảo theo lời nhảy lên giường, cởi quần áo ra, chui vào trong chăn, ném quần áo ra ngoài màn. Song Nhi đón lấy, bước ra cửa, nói “Ta đi lấy thức điểm tâm. Ngươi thích ăn bánh ít ngọt hay bánh ít mặn?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Trong bụng đói sôi òng ọc, cho dù là bánh bằng đất cũng ăn luôn ba cái”. Song Nhi cười một tiếng bước đi.

Vi Tiểu Bảo thấy nàng đi rồi, trong phòng yên tĩnh trở lại, nhìn thấy ánh nến chập chờn, lại cảm thấy sợ hãi “Ái chà, không xong, nữ quỷ mời người ta ăn miến ăn côn đồn, thật ra toàn là ăn giun dế sâu bọ, mình không nên mắc lừa”.

Qua một lúc, Vi Tiểu Bảo nghe mùi thịt và bánh thơm phức thoảng tới. Song Nhi tay bưng một cái mâm gỗ, vén màn ra. Vi Tiểu Bảo thấy trên dĩa đặt bốn cái bánh ít đã bóc lá, trong lòng cả mừng, quả thật đã rất đói, nghĩ thầm cho dù là giun dế sâu bọ , lão tử cũng cứ ăn rồi sẽ nói, bèn cầm đũa lên gắp ăn, cho vào miệng thấy thơm ngon, không gì sánh bằng. Y cắn hai miếng ăn hết nửa cái, nói “Song Nhi, cái này giống như bánh ít Hồ Châu, mùi vị rất ngon”. Hồ Châu Chiết Giang là nơi sản xuất bánh ít, gạo mềm vị thơm, thiên hạ vô song, ở Dương Châu có cửa hiệu bán bánh ít Hồ Châu, khách chơi tới Lệ Xuân viện thường sai Vi Tiểu Bảo đi mua. Bánh ít là gói bằng lá dong,

Vi Tiểu Bảo muốn ăn nguyên cái rất khó, nhưng y vẫn móc ở một góc ra nếm nếm. Từ khi tới Bắc Kinh, y không còn được ăn bánh ít Hồ Châu nữa.

Song Nhi thoáng kinh ngạc, nói “Ngươi thật là biết người biết của, vừa ăn đã biết ngay là bánh ít Hồ Châu”. Vi Tiểu Bảo miệng nhai ngồm ngoàm, lúng búng nói “Đây đúng là bánh ít Hồ Châu à? Tại sao ở đây lại có bán bánh ít Hồ Châu?”. Song Nhi cười nói “Không phải là mua, mà là hồ ly tinh… hì hì… hồ ly tinh dùng phép thuật biến ra”. Vi Tiểu Bảo khen “Hồ ly tinh thần thông quảng đại”, chợt nhớ tới bọn Chương lão tam, lại thêm một câu “Thọ sánh ngang trời!”.

Song Nhi cười nói “Ngươi cứ thong thả mà ăn, ta hong quần áo cho ngươi”, rồi bước ra một bước, hỏi “Ngươi có sợ không?”. Vi Tiểu Bảo nỗi sợ trong lòng đã tiêu tan quá nửa, nhưng rốt lại vẫn hơi sợ, nói “Ngươi mau mau quay lại”. Song Nhi ứng tiếng nói “Được rồi!”.

Qua hồi lâu, Vi Tiểu Bảo nghe có tiếng động, lại là Song Nhi mang một cái lò than vào, đặt quần áo giày tất của y lên bàn, vừa hong khô vừa trò chuyện với y.

Bốn cái bánh ít có hai cái ngọt hai cái mặn, Vi Tiểu Bảo ăn ba cái thì không ăn được nữa, nói “Bánh ít này ngon thật, là ngươi gói à?”. Song Nhi nói “Là Tam thiếu nãi làm, ta chỉ giúp gói thôi”.

Vi Tiểu Bảo nghe nàng nói khẩu âm Giang Nam, chợt động tâm niệm, hỏi “Ngươi là người Hồ Châu à?”.

Song Nhi ngần ngừ không đáp, nói “Quần áo đã khô rồi. Lúc nào Quế tướng công gặp tam thiếu nãi thì cứ hỏi bà, như thế được không?”. Trong khẩu khí có vẻ mềm mỏng thương lượng, tỏ vẻ rất cung kính.

Vi Tiểu Bảo nói “Được chứ, có gì không được?”, rồi vén màn ra, nhìn nàng hong quần áo. Song Nhi ngẩng đầu lên nhìn y mỉm cười, nói “Ngươi không có quần áo, cẩn thận coi chừng bị lạnh”. Vi Tiểu Bảo đột nhiên nảy dạ ương bướng, cong người lên kêu “Ta nhảy ra đây, không mặc quần áo cũng không sợ lạnh”. Song Nhi giật nảy mình, lại thấy y nhảy xuống, toàn thân khoác chăn, trùm kín cả đầu, bất giác cười khanh khách.

Qua thời gian khoảng một bữa cơm, Song Nhi đem những quần áo giày tất đã hong khô đặt vào trong màn, Vi Tiểu Bảo mặc xong bước xuống giường. Song Nhi giúp y cài cúc áo, lại lấy ra một cái lược gỗ nhỏ chải tóc kết bím giúp y. Vi Tiểu Bảo nghe mùi u hương thoang thoảng trên người nàng, trong lòng rất vui vẻ, nói “Té ra hồ ly tinh lại là người tốt thế này”. Song Nhi chẩu miệng ra cười nói “Cái gì mà hồ ly tinh với không phải hồ ly tinh, khó nghe chết đi, ta không phải là hồ ly tinh”. Vi Tiểu Bảo nói “A, ta biết rồi, phải gọi là đại tiên, không được gọi là hồ ly tinh”. Song Nhi cười nói “Ta cũng không phải là đại tiên, ta là một a hoàn”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta là tiểu thái giám, ngươi là tiểu a hoàn, hai chúng ta đều phải hầu hạ người khác, cũng là một cặp”. Song Nhi nói “Ngươi là hầu hạ hoàng đế, ta làm sao sánh được với ngươi? Một người ở trên trời, một người ở dưới đất”, trong lúc trò chuyện đã tết xong bím tóc cho Vi Tiểu Bảo.

Song Nhi nói “Ta không biết tết bím tóc đàn ông, không biết tết thế này có đúng không?”. Vi Tiểu Bảo kéo bím tóc ra trước ngực nhìn một cái, nói “Đẹp lắm. Ta ghét nhất là tết bím tóc, ngươi cứ hàng ngày giúp ta tết bím tóc thì hay quá”. Song Nhi nói “Ta không có phúc. Ngươi là đại anh hùng, hôm nay ta được tết bím tóc cho ngươi một lần, thì đã là nhờ kiếp trước tu hành rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ái chà, đừng khách sáo như thế, một vị giai nhân như ngươi tết tóc cho ta, mới đúng là ta kiếp trước đã gõ vỡ mười tám cái mõ gỗ”.

Song Nhi đỏ bừng mặt, hạ giọng nói “Ta nói thật lòng, ngươi lại lấy ta ra làm trò đùa”. Vi Tiểu Bảo nói “Không có đâu, không có đâu, ta nói cũng là thật lòng mà”. Song Nhi mỉm cười, nói “Tam thiếu nãi nói nếu Quế tướng công ưng thuận thì mời người chịu khó dời giá vào hậu đường ngồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, tam thiếu gia ngươi không có nhà sao?”. Song Nhi “Ờ” một tiếng, khẽ nói “Qua đời rồi”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ tới rất nhiều linh đường trong gian nhà này, trong lòng chợt lạnh buốt, không dám hỏi nữa, theo nàng đi vào một gian hoa sảnh nhỏ trong hậu đường, ngồi xuống xong, Song Nhi bưng lên một chén trà nóng. Vi Tiểu Bảo tim đập thình thịch, không dám nói đùa với nàng nữa.

***

Qua một lúc, chỉ nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng vang lên, sau vách bước ra một thiếu phụ toàn thân mặc áo tang, nói “Quế tướng công trên đường vất vả”, nói xong vái dài nói câu vạn phúc, lễ số cực kỳ cung kính. Vi Tiểu Bảo vội vàng đáp lễ, nói “Không dám”. Thiếu phụ kia nói “Mời Quế tướng công ngồi”.

Vi Tiểu Bảo thấy thiếu phụ này khoảng hai mươi lăm hai mươi sáu tuổi, không dùng son phấn, sắc mặt trắng bệch, hai mắt đỏ lên, rõ ràng là vừa khóc xong, dưới ánh đèn nhìn thấy rõ ràng nàng có bóng, tuy có vẻ âm u, nhưng có quá nửa không phải là ma quỷ, trong lòng hồi hộp không yên, bèn ứng tiếng “Dạ, dạ!”. Rồi nghiêng người ngồi xuống ghế, nói “Tam thiếu nãi, đa tạ món bánh ít Hồ Châu của ngươi, quả thật rất ngon”.

Thiếu phụ kia nói “Vong phu họ Trang, cách gọi tam thiếu nãi thật không dám nhận. Quế tướng công ở trong cung lâu chưa?”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Mới rồi trong lúc tối tăm, có một người đàn bà tới hỏi chuyện giết chết Ngao Bái, mình đã nhận là mình giết, họ bèn sai a hoàn kia đưa bánh ít tới cho mình ăn. Xem ra cứ đặt hết là được”. Bèn nói “Chẳng qua cũng chỉ hơn một năm”. Trang phu nhân nói “Quế tướng công chính tay bắt sống gian tướng Ngao Bái, có thể kể lại đầu đuôi cho tiểu nữ nghe không?”.

Vi Tiểu Bảo nghe nàng gọi Ngao Bái là gian tướng càng thêm yên tâm, giống như trong tay có một nước bài Chí tôn, bất kể hai lá bài nào khác lật ra thì cũng chỉ thắng không thua, nhiều lắm là hòa thôi. Lúc ấy bèn kể lại chuyện Khang Hy ra lệnh thế nào, Ngao Bái chống cự thế nào, bọn thái giám nhỏ xông vào níu kéo thế nào, bị y giết chết mấy người thế nào, mình dùng tro trong lò hương ném vào mắt y mới bắt sống được thế nào, chỉ có việc Khang Hy rút đao đâm y thì nói là mình nhân lúc Ngao Bái không đề phòng đâm mạnh vào lưng y một đao.

Trang phu nhân không nói tiếng nào, im lặng lắng nghe, nghe tới đoạn Vi Tiểu Bảo bốc tro ném vào mắt Ngao Bái, rút đao đâm vào lưng y, nhấc lò hương đập vào đầu y mới bắt được, bất giác khẽ thở phào một tiếng. Vi Tiểu Bảo đã quen nghe các tiên sinh kể chuyện, chỗ nào phải ngừng, chỗ nào phải nêu, các chi tiết phải thật ăn khớp, huống hồ chuyện này lại là chính y trải qua, tất cả ngọn ngành chi tiết đều nói rất tường tận, lại thêm mắm dặm muối, những người nghe y kể chuyện e còn kinh tâm động phách hơn chính y lúc bắt sống Ngao Bái mấy phần.

Trang phu nhân nói “Té ra là thế. Ở ngoài đồn đại quả thật nói không hết những chuyện thất thiệt, nào là Quế tướng công võ công cao cường, đại chiến với Ngao Bái ba trăm hiệp, ra tuyệt chiêu chế phục y. Nghĩ lại Ngao Bái có hiệu là Mãn Châu đệ nhất dũng sĩ, Quế tướng công cho dù võ công cao cường thì rốt lại cũng còn nhỏ tuổi”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Nếu đánh nhau thật thì cho dù có một trăm Tiểu Quế tử cũng không phải là đối thủ của thằng gian tặc kia”.

Trang phu nhân nói “Về sau vì sao Ngao Bái bị giết?”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Vị tam thiếu nãi này mười phần có tới tám chín không phải là ma, vậy thì ắt là người trong võ lâm. Lúc không cần bịa đặt thì không nên bịa đặt để khỏi trong một ván thua sạch số tiền cay đắng mới thắng được”. Lúc ấy bèn theo sự thật kể lại chuyện Khang Hy sai y đi xem Ngao Bái thế nào, gặp phải người Thiên Địa hội tấn công vào phủ Khang thân vương thế nào, mình tưởng lầm đám người kia là thuộc hạ của Ngao Bái thế nào, nhảy vào ngục thất thế nào, giết chết Ngao Bái thế nào nhất nhất nói ra, sau cùng nói “Những người ấy vốn là kẻ đối đầu với Ngao Bái, là anh hùng hảo hán trong Thanh Mộc đường Thiên Địa hội. Họ thấy ta giết chết Ngao Bái thì mười phần khách khí với ta, nói là đã trả giúp mối đại thù cho họ”.

Trang phu nhân gật đầu nói “Sở dĩ Quế tướng công được Trần Tổng đà chủ thu làm đệ tử, lại làm Hương chủ Thanh Mộc đường của Thiên Địa hội, té ra đều vì thế”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Ngươi đã biết cả rồi, còn hỏi ta làm gì?”. Bèn nói “Thật ra thì ta rất hồ đồ, chuyện gì cũng không biết. Làm Hương chủ Thanh Mộc đường của Thiên Địa hội cũng rất hữu danh vô thực”. Y không biết Trang phu nhân là bạn hay thù của Thiên Địa hội, nên nói hai câu ấy để thăm dò.

Trang phu nhân trầm ngâm một lúc, nói “Lúc ấy Quế tướng công giết chết Ngao Bái trong ngục là dùng chiêu số gì, có thể diễn lại cho ta xem không?”.

Vi Tiểu Bảo thấy nhãn thần của nàng sáng rực, nghĩ thầm “Người đàn bà này rất tà môn, nếu mình ăn nói bậy bạ, khoe khoang khoác lác thì có quá nửa sẽ bị bại lộ, cứ nói thật hết mới là cao minh”. Lúc ấy đứng lên, nói “Ta thì có chiêu số cái rắm gì?”. Hai tay khua ra, nói “Lúc ấy ta sợ tới mức hồn bất phụ thể, tay chân luống cuống, bèn làm thế này”.

Trang phu nhân gật gật đầu, nói “Mời Quế tướng công ngồi xuống”, nói xong đứng lên, lại gọi “Song Nhi, sao không đem bánh quế hoa của chúng ta ra mời Quế tướng công nếm thử?”. Nói xong quay qua làm lễ nói câu vạn phúc với Vi Tiểu Bảo rồi đi vào hậu đường.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Thị mời mình ăn bánh, tự nhiên là không có ý xấu rồi”, nhưng rốt lại vẫn hơi chưa yên tâm “Tuy tam thiếu nãi này xem ra không phải là ma, nhưng biết đâu đạo hạnh của thị rất cao, nên không để lộ quỷ khí”.

Song Nhi vào nội đường, bưng ra một cái khay chân cao bằng sứ Thanh Hoa, trên đựng rất nhiều bánh quế hoa, bánh tùng tử, mỉm cười nói “Quế tướng công, mời ăn bánh” rồi đặt cái khay xuống bàn, quay vào hậu đường.

***

Vi Tiểu Bảo ngồi trên hoa sảnh, ăn không ít kẹo bánh, chỉ mong trời mau sáng.

Qua hồi lâu, chợt nghe tiếng quần áo loạt soạt, cạnh cửa sau, cửa sổ, bình phong có rất nhiều cặp mắt nhìn trộm vào y, tựa hồ đều là mắt phụ nữ, trong bóng đêm khó mà phân biệt là người hay là ma. Bỗng nhiên y sợ tới mức thấy nổi da gà.

Chợt nghe một giọng phụ nữ già nua bên ngoài cửa sổ nói “Quế tướng công, ngươi giết được gian tặc Ngao Bái, trả được mối huyết hải thâm cừu của gia đình bọn ta, đại ân đại đức không biết làm sao báo đáp”. Cánh cửa lùa mở ra, mấy mươi người đàn bà mặc áo trắng bên ngoài lạy rạp xuống đất.

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, vội vàng đáp lễ. Chỉ nghe đám phụ nữ dập đầu bình bình xuống đất, y cũng dập đầu, cánh cửa lùa đột nhiên đóng lại. Bà già kia nói “Ân công không cần đa lễ, vị vong nhân không dám nhận”, chỉ nghe bên ngoài cửa lùa tiếng phụ nữ nghẹn ngào nức nở khóc ran lên.

Vi Tiểu Bảo toàn thân nổi gai ốc, qua một lúc, tiếng khóc dần dần đi xa, đám phụ nữ kia đều đã giải tán. Y như đang trong ảo mộng, nghĩ thầm “Rốt lại là người hay ma? Xem ra… xem ra…”.

Qua một lúc, Trang phu nhân từ hậu đường bước ra, nói “Quế tướng công, xin đừng lo sợ nghi ngờ. Những người tụ cư ở đây đều là gia thuộc của các bậc trung thần nghĩa sĩ bị Ngao Bái hại chết, mọi người biết Quế tướng công giết chết Ngao Bái, trả được mối đại thù cho bọn ta, không ai không cảm kích”.

Vi Tiểu Bảo nói “Vậy thì Trang tam gia cũng… cũng bị Ngao Bái hại chết à?”. Trang phu nhân cúi đầu nói “Đúng thế. Người ở đây đều vô cùng đau xót, ngày đêm nghĩ cách trả thù, không ngờ thằng gian tặc ấy lại mất mạng sớm như thế, bị chết dưới tay Quế tướng công”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta có công lao gì đâu, chẳng qua là vừa khéo gặp đúng dịp mà thôi”.

Song Nhi mang bao phục của y bước ra đặt lên bàn. Trang phu nhân nói “Quế tướng công, đại ân đại đức của ngươi thật khó báo đáp, vốn phải khoản đãi chu đáo mới hợp đạo lý. Chỉ là người ở góa có nhiều điều bất tiện, mọi người bàn bạc, muốn tặng một món lễ mọn để biểu lộ tấm lòng, nhưng Quế tướng công hành lý đầy đủ, người mang nhiều tiền, chỗ quê mùa bọn ta còn có cái gì lọt được vào mắt Quế tướng công? Còn như võ công gì đó thì Quế tướng công là đệ tử của Trần Tổng đà chủ Thiên Địa hội, hơn xa một chút công phu thô thiển của bọn ta, quả thật làm người ta khó nghĩ’.

Vi Tiểu Bảo nghe nàng nói rất ôn nhu văn nhã, nói “Không cần khách khí, chỉ là ta muốn hỏi mấy người đồng bạn của ta đều đi đâu cả rồi?”.

Trang phu nhân trầm ngâm một lúc, nói “Đã đội ơn hỏi tới, vốn không dám không đáp. Nhưng sau khi ân công biết được, e chỉ có hại mà không có lợi gì. Mấy vị ấy đã là bạn của ân công thì tự nhiên bọn ta sẽ phải làm hết sức mình, không để bọn họ bị tổn thương là được. Ngày sau họ sẽ gặp lại ân công thôi”.

Vi Tiểu Bảo đoán có hỏi nữa cũng vô ích, ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ một cái, nghĩ thầm “Sao trời còn chưa sáng?”.

Trang phu nhân tựa hồ hiểu rõ tâm ý y, hỏi “Sáng mai ân công đi đâu?”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Mình nói chuyện với Chương lão tam, chắc bà ta đã nghe cả rồi, cũng không giấu được”, bèn nói “Ta muốn lên núi Ngũ Đài”. Trang phu nhân nói “Chuyến đi này lên núi Ngũ Đài, lộ trình không gần, chỉ sợ dọc đường có sóng gió. Bọn ta muốn tặng ân công một món lễ vật, mong đừng từ chối”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Trước nay người ta có ý tốt tặng cho cái gì, ta chưa bao giờ không nhận cả”.

Trang phu nhân nói “Vậy thì tốt lắm”, rồi chỉ vào Song Nhi nói “Tiểu a hoàn Song Nhi này theo ta đã nhiều năm, cũng rất biết làm việc, ta tặng cho ân công, xin người mang đi, từ nay trở đi hầu hạ ân công”.

Vi Tiểu Bảo vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, không ngờ bà ta nói món lễ vật tặng mình lại là một người, mới rồi Song Nhi hầu hạ mình, hong áo tết tóc, đỡ được không ít công sức, nếu có một tiểu a hoàn vừa xinh đẹp vừa ngoan ngoãn khéo léo thế này làm bạn, quả thật rất khoái hoạt, nhưng chuyến này lên núi Ngũ Đài chưa chắc đã thái bình vô sự, phải tùy cơ ứng biến, dắt theo một tiểu a hoàn lại mười phần bất tiện, liền nói “Trang phu nhân tặng ta món hậu lễ này, quả thật vô cùng cảm ơn. Chỉ có điều … chỉ có điều…”, muốn từ chối nhưng lại không muốn thôi, một là người ta tặng cho lễ vật sao lại không nhận, hai là một a hoàn xinh đẹp thế này quả thật cũng không bỏ được. Chỉ thấy Song Nhi cúi đầu, đang nhìn trộm mình, ánh mắt y vừa nhìn tới, nàng vội quay đầu đi, mặt mũi đỏ bừng.

Trang phu nhân nói “Không biết ân công có chỗ nào khó xử?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta lên núi Ngũ Đài, quá nửa những việc phải làm rất… rất không dễ dàng, mang vị cô nương này theo, e là không tiện”. Trang phu nhân nói “Chuyện đó thì không cần lo lắng, Song Nhi tuy còn nhỏ tuổi nhưng thân thủ cũng khá cao cường, không trở thành gánh nặng cho ân công đâu, cứ yên tâm là được”.

Vi Tiểu Bảo lại nhìn qua Song Nhi một cái, thấy hai con mắt đen láy của nàng lộ ra vẻ rất tha thiết, bèn cười nói “Song Nhi, ngươi có muốn đi theo ta không?”. Song Nhi cúi đầu, hạ giọng nói “Tam thiếu nãi muốn tôi hầu hạ tướng công, tự nhiên… tự nhiên là tôi phải vâng lời”. Vi Tiểu Bảo nói “Vậy thì ngươi có muốn không? Chỉ e sẽ gặp nguy hiểm đấy”. Song Nhi nói “Tôi không sợ nguy hiểm”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi trả lời câu thứ hai của ta chứ chưa trả lời câu thứ nhất. Ngươi không sợ nguy hiểm, chỉ có điều phu nhân tặng ngươi cho ta, chứ trong lòng ngươi thì không muốn”. Song Nhi nói “Phu nhân đối xử với tôi ân đức sâu nặng, tướng công lại có đại ân với Trang gia chúng tôi như thế, phu nhân bảo tôi hầu hạ tướng công, tôi nhất định sẽ tận tâm. Tướng công đối xử tốt với tôi, thì là số phận tôi may mắn, nếu đối xử không tốt với tôi, thì đó là… là số phận tôi rủi ro thôi”. Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Số phận ngươi rất may mắn, không rủi ro đâu”. Song Nhi trên khóe môi thoáng nét tươi cười.

Trang phu nhân nói “Song Nhi, ngươi lạy tướng công đi, từ nay trở đi ngươi là người của Quế tướng công rồi đấy”.

Song Nhi ngước đầu, mi mắt chợt đỏ lên, trước tiên quỳ xuống dập đầu lạy Trang phu nhân, nói “Tam thiếu nãi… tôi… tôi…”, nói hai tiếng “tôi” thì khẽ nấc lên. Trang phu nhân vỗ vỗ lên tóc nàng, nói “Quế tướng công thiếu niên anh hùng, tuy còn nhỏ tuổi đã nổi tiếng khắp thiên hạ, ngươi nên hầu hạ tướng công cho chu đáo. Y đã đáp ứng đối xử tốt với ngươi rồi”. Song Nhi ứng tiếng “Dạ”, rồi quay người lại, dập đầu lạy Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo nói “Đừng khách khí!”, rồi đỡ nàng đứng lên, mở bao phục lấy ra một chuỗi minh châu, cười nói “Đây coi như là lễ ra mắt của ta”, nghĩ thầm “Chuỗi minh châu này ít nhất cũng ba bốn ngàn lượng bạc, đủ mua mấy mươi a hoàn, nhưng mấy mươi a hoàn gom lại cũng không khả ái bằng cô Song Nhi này”.

Song Nhi hai tay đón lấy, nói “Đa tạ tướng công”, rồi đeo vào cổ, ánh sáng trên chuỗi ngọc nhảy nhót, ánh lên mặt nàng càng làm tăng thêm vẻ xinh đẹp.

Trang phu nhân nói “Ân công lên núi Ngũ Đài, không biết là định công khai điều tra hay bí mật dò xét?”. Vi Tiểu Bảo nói “Tự nhiên là bí mật dò xét”. Trang phu nhân nói “Các chùa trên núi Ngũ Đài chia ra chùa vàng chùa xanh, đều có kẻ sĩ rồng ẩn cọp núp, xin ân công cẩn thận”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, xin đa tạ đã dặn dò. Có điều ngươi gọi là ân công thì ta không dám, cứ gọi là Tiểu Bảo thôi”.

Trang phu nhân nói “Chuyện đó thì không dám”, rồi đứng lên nói “Trên đường xin bảo trọng, tha lỗi cho vị vong nhân không thể đưa xa”. Lại quay qua Song Nhi nói “Song Nhi, sau khi ngươi ra khỏi cửa thì không còn là người của Trang gia nữa. Từ nay về sau ngươi nói gì làm gì đều không có liên quan gì tới chủ cũ, nếu ngươi gây rắc rối ở ngoài thì Trang gia ta không sao che chở cho ngươi được đâu”, lúc nói câu này dáng vẻ mười phần trịnh trọng. Song Nhi vâng dạ, Trang phu nhân lại quay qua Vi Tiểu Bảo làm lễ, rồi bước ra ngoài.

Nhìn thấy lớp giấy dán cửa sổ đã có ánh sáng soi vào, trời sáng dần. Song Nhi lấy một cái bao phục ra, khoác luôn bao phục của Vi Tiểu Bảo lên vai. Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta đi thôi”, Song Nhi nói “Dạ”, rồi cúi đầu xuống, vẻ mặt buồn bã, không ngừng nhìn nhìn vào nhà trong, rõ ràng quyến luyến không nỡ xa lìa Trang phu nhân. Nàng hai mắt đỏ hoe, nhất định mới rồi vừa khóc xong.

***

Vi Tiểu Bảo ra cổng, Song Nhi đi phía sau. Lúc ấy mưa đã tạnh, nhưng nước khe trong núi chảy ào ào, khắp nơi đều nghe tiếng nước đổ. Vi Tiểu Bảo đi được vài mươi bước, quay đầu nhìn lại gian nhà lớn, chỉ thấy hơi nước mờ mờ phủ lên trước tường trên vách, lại đi thêm vài mươi bước, quay đầu lại chỉ thấy mờ mịt trắng xóa, không nhìn được gì nữa.

Y thở ra một hơi, nói “Chuyện đêm qua thật là như nằm mơ. Song Nhi, câu cuối cùng phu nhân nói với ngươi là có ý gì vậy?”. Song Nhi nói “Tam thiếu nãi nói từ nay tôi hầu hạ tướng công, bất kể nói gì làm gì đều không có liên quan gì tới Trang gia nữa”.

Vi Tiểu Bảo nói “Vậy thì rốt lại mấy người đồng bạn của ta đi đâu, ngươi có thể nói với ta rồi”.

Song Nhi thoáng sửng sốt, nói “Vâng. Mấy người bạn của tướng công vốn đều được chúng tôi cứu thoát, Chương lão tam và bọn thủ hạ của y cũng bị chúng tôi bắt hết, nhưng sau đó trong Thần Long giáo có nhân vật lợi hại tới, lại cướp được lại tất cả. Tam thiếu nãi nói chúng tôi đều là nữ lưu, không tiện tranh giành động võ với bọn đàn ông hung dữ , mà nói lại cũng chưa chắc đã thắng được, tạm thời cứ theo ý họ, rồi sẽ nhờ người khác cứu các bạn của người. Người Thần Long giáo thấy chúng tôi nhượng bộ cũng rút lui, lúc sắp đi còn nói mấy câu rất khách khí”.

Vi Tiểu Bảo gật gật đầu, rất lo lắng cho Phương Di và Mộc Kiếm Bình. Song Nhi nói “Tam thiếu nãi có nói với người đứng đầu Thần Long giáo là quyết không được làm thương tổn tính mạng mấy người bạn của người, y đã chính miệng ưng thuận”. Vi Tiểu Bảo thở dài nói “Chỉ e bọn đầy tớ Thần Long giáo nói chuyện cũng như đánh rắm, ờ, nhưng cũng không còn cách nào”. Lại hỏi “Tam thiếu nãi biết võ công không?”. Song Nhi nói “Biết, không những biết mà còn rất cao cường nữa”.

Vi Tiểu Bảo lắc lắc đầu, nói “Con người gió thổi cũng ngã như bà ta làm sao mà biết võ công cao cường được? Nếu quả thật bà ta võ công cao cường, thì tại sao tam thiếu gia lại bị Ngao Bái hại chết?”. Song Nhi nói “Lúc lão thái gia, tam thiếu gia bị hại, mấy mươi người trong nhà không ai biết võ công. Lúc ấy tất cả đàn ông trong nhà đều bị Ngao Bái bắt lên Bắc Kinh xử chém, đàn bà thì bị sung quân tới Ninh Cổ Tháp, nói là bị giải đi làm nô tỳ gì đó cho người ta, may là trên đường gặp được cứu tinh, giết hết quan quân áp giải, cứu hết đàn bà con gái trong mấy mươi gia đình chúng tôi, sắp xếp cho ở chỗ này, lại truyền thụ võ công cho tam thiếu nãi”. Vi Tiểu Bảo dần dần hiểu ra.

Lúc ấy trời đã sáng hẳn, mặt trời phía đông vừa mọc, mưa lớn một đêm gột rửa cây cỏ trong núi xanh rờn, Vi Tiểu Bảo đến lúc này mới không còn chút nghi ngờ nào là đêm qua đã gặp nữ quỷ, bèn hỏi “Trong nhà các ngươi đặt rất nhiều linh đường, đó đều là thờ các vị lão gia, thiếu gia bị Ngao Bái hại chết phải không?”.

Song Nhi nói “Đúng thế. Chúng tôi ở ẩn trong núi sâu, trước nay không đi lại với người ngoài. Người nhà quê chung quanh có kẻ hiếu kỳ tới nhìn nhìn ngó ngó, chúng tôi cứ đóng thần giả ma dọa cho họ hoảng sợ bỏ chạy. Cho nên mọi người đều nói đây là gian nhà ma, gần một năm nay không ai dám tới. Không ngờ đêm qua tướng công lại tới. Tam thiếu nãi nói mối thù lớn của chúng tôi còn chưa trả, tất cả đều phải giấu kín mới hay. Trên linh đường linh vị viết rõ tên họ của các lão gia, thiếu gia gặp nạn, nếu để người ngoài thấy được thì rất bất tiện. Đêm qua tướng công hỏi tới, tôi không dám nói. Có điều tam thiếu nãi đã nói từ nay trở di tôi chỉ hầu hạ tướng công, không liên quan gì tới Trang gia, thì tự nhiên không được giấu giếm người chuyện gì nữa”.

Vi Tiểu Bảo vui vẻ nói “Phải đấy. Ta nói với ngươi nhé, tên họ thật của ta là Vi Tiểu Bảo, Quế tướng công gì đó chỉ là tên giả. Ngươi là người nhà họ Vi, không phải là người nhà họ Quế”. Song Nhi rất mừng rỡ, nói “Tướng công ngay cả tên thật cũng nói với tôi, tôi quyết không tiết lộ đâu”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Cái tên thật này của ta cũng không phải là bí mật gì to tát, các huynh đệ trong Thiên Địa hội cũng có rất nhiều người biết rồi”.

Song Nhi nói “Lúc người trong Thần Long giáo động thủ với bọn tướng công, bọn tam thiếu nãi đứng ngoài xem nhiệt náo, thấy họ biết thần chú, miệng cứ lầm rầm niệm chú ky lý cô lô… ”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hồng giáo chủ thần thông quảng đại, thọ sánh ngang trời, câu thần chú ấy thì ta cũng niệm được”. Song Nhi nói “Tam thiếu nãi nói họ niệm thần chú như thế, trong đó nhất định còn có sử dụng pháp thuật gì khác, nếu không thì sẽ không phải vừa niệm thần chú là công phu trên tay lại tăng lên gấp mấy lần, về sau lúc Chương lão tam nói chuyện với người, tam thiếu nãi rình nghe ngoài cửa sổ, lại có người khác thắp nến tắt đèn trong đại sảnh, dùng lưới đánh cá bắt hết mọi người”.

Vi Tiểu Bảo vỗ đùi một cái, kêu lên “Hay quá! Dùng lưới đánh cá bắt người à? Thật hay quá”. Song Nhi nói “Tam thiếu nãi nói võ công của Chương lão tam cũng không có gì cao cường, nhưng yêu pháp lợi hại, nên không trực tiếp động thủ với y, vừa dụ được y ra là tắt hết đèn đuốc, tung lưới đánh cá ra chụp xuống…”. Vi Tiểu Bảo nói “Bắt được một con ba ba già”.

Song Nhi cười hì hì, nói “Sau núi có một cái hồ, ban đêm chúng tôi thường ra đó đánh cá. Lúc chúng tôi ở Hồ Châu, nhà của Trang gia ở cạnh Thái Hồ, cái hồ ấy lớn lắm. Lúc ấy Trang gia chúng tôi có rất nhiều thuyền đánh cá, cho ngư dân thuê để đánh cá. Bọn tam thiếu nãi đã từng nhìn thấy cách thức ngư dân quăng lưới đánh cá”.

Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi quả nhiên là người Hồ Châu, chẳng trách gì làm bánh ít Hồ Châu ngon như thế. Rốt lại vì sao tam thiếu gia bị Ngao Bái hại chết thế?”.

Song Nhi nói “Tam thiếu nãi nói đây là một vụ Văn tự ngục”. Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Văn tử nhục à? Muỗi mà cũng có thịt à?”. Song Nhi nói “Không phải văn tử mà là văn tự, tự là chữ viết ấy. Đại thiếu gia của chúng tôi là người đọc sách, học vấn rất cao, sau khi y bị mù hai mắt, làm một bộ sách, trong sách có những câu chửi người Mãn Châu…”. Vi Tiểu Bảo nói “Chặc chặc chặc, thật giỏi quá, mù mắt mà vẫn làm sách viết văn được. Ta thì không bị mù, nhưng thấy người khác viết chữ lại không biết gì, có thể gọi ta là thằng mù sáng mắt”. Song Nhi nói “Lão thái thái thường nói lúc thế đạo không hay thì không biết chữ là tốt. Các vị lão gia, thiếu gia bị hại trong mấy gia đình của chúng tôi ở đây người nào cũng là danh sĩ tài tử, không ai không văn chương nổi tiếng thiên hạ, nên mới chuốc lấy tai họa. Có điều tam thiếu nãi nói người Thát Đát Mãn Châu không muốn người Hán chúng ta làm việc đọc sách viết văn, nhưng chúng ta vẫn làm, mới không để cho họ được xứng ý thỏa lòng”.

Vi Tiểu Bảo nói “Vậy ngươi biết làm văn không?”. Song Nhi hì một tiếng cười nói “Tướng công thật hay nói đùa, tiểu a hoàn thì làm sao làm văn được? Tam Thiếu nãi dạy tôi đọc sách, chẳng qua cũng chỉ đọc bảy tám quyển thôi”. Vi Tiểu Bảo ồ một tiếng, nói “Ngươi đã đọc bảy tám quyển sách à? Vậy thì giỏi hơn ta rất nhiều, ta chẳng qua chỉ biết được bảy tám chữ”. Song Nhi cười nói “Tướng công không thích đọc sách, nhất định lão thái thái sẽ rất thích người. Bà nói đến triều nhà Thanh, chỉ có con cái nhà suy bại mới đọc sách”.

Vi Tiểu Bảo nói “Phải! Ta thấy thằng khốn Ngao Bái kia cũng không biết chữ gì nhiều, nhất định là bọn đầy tớ vỗ mông ngựa nói lại cho y nghe thôi”. Song Nhi nói “Đúng đấy. Đại thiếu gia chúng tôi làm bộ sách kia, gọi là Minh sử gì đó, trong sách có những câu chửi người Mãn Châu. Có một người xấu tên Ngô Chi Vinh cầm quyển sách ấy đi tố cáo với Ngao Bái, sự tình vỡ lở ra, hại chết tới mấy trăm người, cả các lão bản chủ hiệu bán sách và người mua sách đọc đều bị y chém đầu. Tướng công, người ở trong thành Bắc Kinh có gặp Ngô Chi Vinh chưa?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Chưa, nhưng từ từ tìm sẽ gặp thôi. Song Nhi, ta muốn đổi ngươi với một người khác”.

Song Nhi giật nảy mình, run lên nói “Người… người muốn đem tôi đổi lấy người khác à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không phải đem cho người khác, mà là đổi với người khác”. Song Nhi mi mắt đã đỏ lên, hoảng hốt sắp bật khóc, nói “Cái gì… cái gì mà đổi với người khác?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Tam thiếu nãi ngươi tặng ngươi cho ta, món hậu lễ này không dễ mà báo đáp. Ta sẽ nghĩ cách bắt thằng khốn Ngô Chi Vinh kia đưa tới cho tam thiếu nãi, món lễ vật ấy cũng không kém bao nhiêu”.

Song Nhi gạt lệ tươi cười, khẽ đập tay phải lên ngực, nói “Người làm tôi sợ quá, tôi cứ nghĩ là tướng công không cần tôi”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nói “Ngươi sợ ta không cần ngươi nên cuống lên như thế. Ngươi yên tâm đi, cho dù người ta mang núi bạc, núi vàng, núi trân châu, núi bảo thạch chất đống trước mặt ta, cũng không đổi được ngươi đâu”.

Trong lúc trò chuyện, hai người đã xuống tới chân núi, chỉ thấy trời quang mây tạnh, muôn dặm trong veo, Vi Tiểu Bảo nhớ lại tình hình đêm qua trong cơn mưa lớn hấp tấp tìm tới căn nhà ma trú mưa, quả thật khác hẳn. Chỉ là bọn Từ Thiên Xuyên, Phương Di, Mộc Kiếm Bình bị hãm gặp nạn, không biết thoát thân được không, nhưng bằng vào bản lĩnh của mình thì bất kể thế nào cũng không cứu được họ, có nghĩ nhiều cũng vô dụng, chẳng bằng đừng nghĩ tới.

***

Đi được vài dặm, tới một thị trấn, hai người tìm một quán miến, vào đó nghỉ chân. Vi Tiểu Bảo ngồi xuống xong, Song Nhi đứng hầu bên cạnh.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đừng khách khí, ngồi xuống cùng ăn thôi”. Song Nhi nói “Không được, tôi làm sao có thể ngồi ăn cùng bàn với tướng công? Mất quy củ lắm”. Vi Tiểu Bảo nói “Kệ con mẹ nó cái gì quy củ với không quy củ. Ta nói ngồi thì ngồi đi. Chờ ta ăn xong ngươi mới ăn thì mất thời giờ lắm”. Song Nhi nói “Tướng công ăn xong thì chúng ta đi ngay. Tôi mua vài cái bánh bao, vừa đi vừa ăn là được, không mất thời giờ đâu”. Vi Tiểu Bảo thở dài nói “Ta có cái tính rất lạ, là ăn cái gì một mình thì cái bụng nhất định có chuyện, nếu không có ai ăn cùng, đến khi đau bụng thì không sao chịu được”.

Song Nhi nhoẻn miệng cười một tiếng, đành kéo một cái ghế dài ngồi xuống một góc bàn.

Vi Tiểu Bảo mới gắp được vài đũa, chợt thấy ba tên Lạt ma Tây Tạng bước vào quán, ngồi dựa vào lan can, luôn miệng gọi “Mang miến ra đây, mang miến ra đây!”. Một tên Lạt ma liếc thấy chuỗi minh châu trên cổ Song Nhi, liền huých huých khuỷu tay trái vào đồng bạn, chúm miệng ra hiệu. Hai người kia vừa nhìn thấy, lập tức lộ vẻ vui mừng, nhìn chằm chằm vào chuỗi minh châu.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Không xong, ba thằng đầy tớ này định chặn đường cướp của”. Liền lấy ra một dúm bạc vụn, gọi một tên người làm trong quán ra thuê một chiếc xe lớn, vội vàng ăn cho xong, ra cửa lên xe, bảo phu xe chạy nhanh về phía tây.

Đi được vài dặm, chợt nghe có tiếng vó ngựa vang lên phía sau, Vi Tiểu Bảo nhìn ra, quả thấy ba tên Lạt ma phóng ngựa đuổi theo, liền nói với Song Nhi “Ba tên ác nhân này muốn cướp chuỗi minh châu của ngươi, cứ đưa chúng cho rồi, lúc trở về ta sẽ mua cho ngươi một chuỗi khác”. Song Nhi nói “Vâng! Cũng không cần mua nữa đâu”. Chỉ nghe ba lên Lạt ma quát tháo “Dừng xe lại, dừng xe lại!”. Phu xe bèn kéo cương cho lừa đứng lại.

Ba tên Lạt ma phóng ngựa lên trước xe. Một người nói “Hai đứa nhóc con, xuống xe mau!”. Song Nhi tháo chuỗi minh châu trên cổ ra, đưa ra ngoài xe, nói “Các ngươi thích chuỗi minh châu này, tướng công bảo đưa cho các ngươi, cứ cầm đi”. Một tên Lạt ma to béo đưa bàn tay to tướng ra, nhưng không cầm chuỗi minh châu mà là quờ tới nắm cổ tay Song Nhi kéo ra ngoài. Vi Tiểu Bảo vội nói “Muốn tiền thì có tiền, không cần động võ!”. Chợt thấy ánh vàng chớp lên, tên Lạt ma thân hình bay lên, nhảy lên trên không rồi bật ra phía sau.

Vi Tiểu Bảo kêu thầm “Hảo công phu!”. Thấy thân hình y rơi mau xuống, nhưng là đầu dưới chân trên, soạt một tiếng, đầu đã cắm vào bãi bùn, ngập xuống tận ngực, hai chân giãy loạn lên. Vi Tiểu Bảo vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, không biết tên Lạt ma kia đang biểu diễn công phu gì.

Hai tên Lạt ma còn lại kêu lên be be, sấn tới túm người y, kéo y dưới vũng bùn lên. Tên Lạt ma ấy mặt mũi đầy bùn, vô cùng thảm hại. May mà tối hôm qua mưa lớn, thấm ướt đất cạnh đường, nên tên Lạt ma ấy mới không bị thương.

Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói với phu xe “Còn không chạy mau đi!”.

Song Nhi cầm chuỗi minh châu trong tay, hỏi “Tướng công, chuỗi minh châu này có đưa cho chúng không?”.

Vi Tiểu Bảo còn chưa trả lời, chợt thấy ba tên Lạt ma đều rút cương đao trong lưng ra, hung dữ

sấn vào. Song Nhi đón lấy roi trong tay phu xe vung ra ngoài, cuốn chặt thanh cương đao trong tay một tên Lạt ma, ngọn roi kéo lại, tay trái nắm chặt lấy đao, tay phải lại vung roi ra, vừa cuốn lấy lại đoạt luôn thanh cương đao trong tay tên Lạt ma thứ hai. Tên Lạt ma thứ ba kêu lên “Trời ơi!”, hoảng sợ dừng lại.

Song Nhi ngọn roi trong tay lại đã cuốn ra, lần này thì cuốn vào cổ y, thuận thế kéo y tới trước xe, kế đó vung tay cướp ngọn cương đao trong tay y. Tên Lạt ma ấy bị roi xiết vào cổ , hai mắt trợn trắng, thè cả lưỡi ra, trên mặt lập tức không còn chút máu. Hai tên Lạt ma còn lại chia ra hai bên xông vào tấn công Song Nhi, định cứu đồng bạn. Song Nhi nhảy lên, chân trái đứng lên càng xe, chân phải liên tiếp đá ra, hai tên Lạt ma kia bị điểm trúng huyệt trên đầu, ngã lăn xuống đất ngất đi. Nàng vung tay thả lỏng ngọn roi ra, tên Lạt ma kia bị nghẹt thở đã lâu, cũng lập tức ngất đi.

Vi Tiểu Bảo vô cùng mừng rỡ, nhảy bật lên kêu lớn “Song Nhi, hảo Song Nhi, té ra công phu của ngươi rất cao cường”.

Song Nhi cười khẽ một tiếng, nói “Cũng không có gì, chỉ là ba gã ác nhân này quá vô dụng”. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu biết thế này ta đã không phải lo lắng suốt nửa ngày”, rồi nhảy xuống xe, đá vào một tên Lạt ma, hỏi “Các ngươi làm gì?”. Tên Lạt ma ấy vẫn hôn mê không tỉnh lại.

Song Nhi bèn đá vào lưng y một cước, tên Lạt ma ấy rên lên một tiếng tỉnh lại. Song Nhi nói “Tướng công hỏi các ngươi làm gì?”. Tên Lạt ma ấy nói “Cô nương… cô nương là biết… biết phép tiên à?”. Song Nhi mỉm cười nói “Nói mau! Các ngươi làm gì?”. Tên Lạt ma ấy nói “Bọn ta… bọn ta là Lạt ma trong chùa Đại Văn Thù… trên đỉnh Bồ Tát núi Ngũ Đài”. Song Nhi cau mày nói “Cái gì mà Lạt ma với không Lạt ma, ăn nói bậy bạ thô tục như thế”. Vi Tiểu Bảo nói “Lạt ma là hòa thượng Tây Tạng”. Song Nhi nói “Té ra các ngươi là hòa thượng”, rồi khẽ đá y một cước, nói “Làm hòa thượng sao không cạo đầu?”.

Tên Lạt ma ấy nói “Bọn ta là Lạt ma, không phải hòa thượng”. Song Nhi nói “Cái gì? Ngươi còn già mồm à? Tướng công nói ngươi là hòa thượng, thì là hòa thượng!”. Rồi đá vào huyệt Thiên hác của y một cước, tên Lạt ma đau thấu xương tủy, nhịn không được, la ầm lên, càng lúc càng thấy đau hơn, càng lúc càng la lớn hơn. Hai tên Lạt ma kia từ từ tỉnh lại, nghe y la như heo bị chọc tiết, tên nào cũng hoảng sợ, cùng dùng tiếng Tạng hỏi han, tên Lạt ma kia đáp, sau đó la lên bằng tiếng Hán “Ta là hòa thượng, ta là hòa thượng, cô nương nói… nói ta là cái gì, thì… thì là cái ấy, xin xin ngươi… mau mau giải… giải huyệt cho ta”. Song Nhi cười nói “Cô nương nói không kể, tướng công nói mới kể. Tướng công, người nói y là gì?”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta nói y là ni cô”.

Tên Lạt ma kia đã nhịn không nổi, vội nói “Ta là ni cô, ta là ni cô!”. Vi Tiểu Bảo và Song Nhi cùng bật tiếng cười lớn. Song Nhi chân trái đá nhẹ vào huyệt Khí hộ của y một cước, tên Lạt ma kia lập tức hết đau, nhưng vẫn luôn mồm kêu lên “Ta là ni cô, ta là ni cô!”.

Vi Tiểu Bảo nhịn cười, hỏi “Các ngươi là người xuất gia, tại sao lại chặn đường cướp tài vật của bọn ta?”. Tên Lạt ma kia nói “Tiểu nhân đáng chết, lần sau không dám thế nữa”. Vi Tiểu Bảo “Ngươi còn muốn có lần sau à?”. Tên Lạt ma nói “Ta nói không dám thì là không dám, qua một trăm năm nữa cũng không dám”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi không ở trong chùa niệm kinh, xuống núi làm gì?”. Tên Lạt ma ấy nói “Là… là sư phụ sai bọn ta xuống núi”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Sư phụ sai các ngươi xuống núi cướp bóc tiền bạc châu báu à?”. Tên Lạt ma ấy nói “Không… không phải. Bọn ta phải tới Bắc Kinh…”. Vừa nói tới đó, tên Lạt ma to béo kia hắng giọng một tiếng.

Vi Tiểu Bảo liếc mắt nhìn qua, chỉ thấy tên Lạt ma kia liên tiếp đưa mắt ra hiệu tỏ ý bảo đồng bạn không nên nói thật. Vi Tiểu Bảo vốn nghĩ mấy tên Lạt ma này thấy tiền tối mắt, cậy mạnh đánh cướp, cũng không quan hệ gì lớn. Người Mãn Châu sùng tín Lạt ma, trong hoàng cung làm Phật sự thì nhất định sẽ mời Lạt ma lập đàn tụng kinh. Hoàng gia đã như thế, thì các vương công quý thích càng không cần phải nói, cho nên có rất nhiều Lạt ma không giữ thanh quy hoành hành bất pháp ở Bắc Kinh. Y vốn định hành hạ chúng một lúc cho vui, rồi thả chúng đi, nhưng thấy dáng vẻ của tên Lạt ma to béo kia, tựa hồ còn có chuyện khác, liền nói “Ba thằng đầy tớ này giở trò ma. Song Nhi, ngươi đá vào người chúng mỗi tên một đá, cho ba người bọn chúng kêu cha kêu mẹ, rồi chúng ta đi thôi!”.

Song Nhi ứng tiếng “Dạ!”. Nàng cũng nhìn thấy tên Lạt ma to béo kia giở trò ma, trước tiên đá vào huyệt Thiên hác của y một cước. Tên Lạt ma lập tức lớn tiếng kêu gào. Song Nhi lại bước tới bên cạnh tên Lạt ma đầu tiên, giơ chân lên làm ra vẻ như sắp đá.

Tên Lạt ma kia đã nếm mùi đau khổ, vội nói “Đừng đá, ta nói là được. Sư phụ sai bọn ta tới Bắc Kinh đưa một lá thư”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Thư đâu?”. Tên Lạt ma ấy nói “Lá… lá thư ấy không thể đưa các ngươi xem được, nếu để người khác xem được, sư… sư phụ nhất định sẽ giết chết bọn ta”. Vi Tiểu Bảo nói “Lấy ra đi! Ngươi không lấy ra, ta sẽ đá người một cước”, nói xong sấn lên một bước.

Tên Lạt ma kia không biết y võ công có hạn, một cước này mà đá trúng người cũng không bằng gãi ngứa, nhưng vừa thấy y giơ chân lên, vội nói “Không… không phải trong người ta”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi đi lấy ra đây!”. Tên Lạt ma kia không biết làm sao, bước tới bên cạnh tên Lạt ma to béo, ky lý cổ lô nói mấy câu tiếng Tạng. Tên Lạt ma to béo kia dùng tiếng Tạng trả lời, y đang kêu gào như heo bị chọc tiết, lần này nói bằng tiếng Tạng đứt đoạn, lại càng khó nghe. Vi Tiểu Bảo nhìn thấy trong dáng vẻ giọng điệu của y, đoán y nhất định không chịu cho tên Lạt ma kia lấy lá thư, lập tức bước tới đá mạnh vào đỉnh đầu y một cước, tên Lạt ma to béo lập tức ngất đi. Một tên Lạt ma khác moi trong bọc y lấy ra một cái bao nhỏ bằng vải dầu, run rẩy hai tay đưa lên.

Vi Tiểu Bảo cầm lấy. Song Nhi cũng lấy trong bọc ra một cái bao nhỏ , mở bao lấy ra một con dao rọc giấy nhỏ, rọc cái bao ra, bên trong quả là một lá thư, trên phong thư viết vài hàng chữ Tạng.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Lá thư này đưa tới cho ai?”. Tên Lạt ma kia nói “Đưa cho sư bá của bọn ta”. Vi Tiểu Bảo đưa tay kéo một cái, soạt một tiếng, xé phong bì ra. Hai tên Lạt ma luôn miệng kêu khổ, chỉ thấy một tờ giấy vàng viết mấy hàng chữ Tạng cong cong queo queo, bên dưới lại dùng mực son vẽ một đạo bùa, ly kỳ cổ quái không biết là nói gì. Nếu lá thư này viết bằng chữ Hán, Vi Tiểu Bảo cũng không đọc được, lập tức đưa cho Song Nhi, hỏi “Trong ấy viết gì thế?”.

Song Nhi cũng không biết, hỏi tên Lạt ma kia “Tướng công hỏi ngươi trong thư viết gì, nói mau! Nếu có nửa câu bịa đặt, ta sẽ đá vào huyệt đạo ngươi, vĩnh viễn không giải khai cho ngươi. Hừ, ít nhất cũng phải qua ba ngày ba đêm mới giải khai cho ngươi”.

Tên Lạt ma kia đón lấy lá thư, đọc qua một lượt, run rẩy nói “Chuyện này… chuyện này…”. Vi Tiểu Bảo nói “Cái gì mà chuyện này với chuyện kia? Nói mau!”. Tên Lạt ma kia nói “Dạ, dạ! Trong lá thư này nói người mà sư huynh hỏi…”. Vừa nói tới đó, một tên Lạt ma khác đột nhiên ky lý cô lô lên tiếng. Song Nhi phi thân qua, đá vào huyệt Thiên Hác của y một cước, tiếng nói của tên Lạt ma kia lập tức biến thành tiếng rên la gào thét.

Tên Lạt ma đầu tiên biến sắc, run giọng nói “Trong thư này nói… nói muốn tìm được người kia, chúng ta tìm tới tìm lui không được, nhất định… nhất định không phải trên núi Ngũ Đài”.

Vi Tiểu Bảo thấy y ánh mắt láo liên, nói chuyện úp úp mở mở, nghĩ thầm “Ta tuy không biết tiếng gà kêu chó sủa của các ngươi, nhưng nhìn dáng vẻ các ngươi thì nhất định là bịa đặt, chỉ có điều bọn đầy tớ các ngươi quá ngu, bịa đặt lại không giống lắm”. Bèn nói với Song Nhi “Tên Lạt ma này đang bịa đặt lừa ta đấy”. Song Nhi nói “Y xấu xa như thế, thì không tha được”. Rồi giơ chân đá vào huyệt Thiên hác của y một cước.

Tên Lạt ma kia kêu lên “Ngươi… ngươi giết ta đi. Sư huynh ta nói… nói, nếu nói lời trong lá thư ra, bọn ta… bọn ta ba người cũng không sống được… ngươi… ngươi giết ta đi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đừng đếm xỉa gì tới y, chúng ta đi thôi!”, rồi cùng Song Nhi nhảy lên xe. Người phu xe thấy hai người bọn họ còn nhỏ tuổi mà bản lĩnh đã khiến ba tên Lạt ma chết đi sống lại, phục sát đất, luôn miệng ca ngợi.

Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Tới thị trấn phía trước, ngươi nên cải trang, chuỗi minh châu kia cũng nên cất đi”. Song Nhi nói “Vâng, tôi cải trang thế nào?”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Ngươi giả làm đàn ông thôi”.

***

Xe đi được hơn ba mươi dặm, tới một thị trấn lớn. Vi Tiểu Bảo sai phu xe tới khách điếm nghỉ lại, đưa tiền bảo Song Nhi đi mua quần áo cải trang. Song Nhi mua quần áo trở về khách điếm, mặc vào đóng giả làm một tiểu thư đồng tuấn tú.

Cải trang như thế, trên đường không làm người ta chú ý. Song Nhi võ công cao cường, nhưng không biết gì về nhân tình thế cố, trên đường toàn do Vi Tiểu Bảo đưa ra chủ ý, nhưng chủ ý của y lại không cao minh gì lắm, thường ba phần đứng đắn thì có bảy phần bậy bạ.

Không quá một ngày đã tới ranh giới hai tỉnh Trực Tấn. Từ huyện Phụ Bình tỉnh Trực Lệ đi về phía tây, qua dãy Trường Thành là tới cửa quan Long Gia. Cửa quan Long Gia là cửa phía đông núi Ngũ Đài, đường núi quanh co, núi non chập chùng, ngôi chùa đầu tiên trong núi Ngũ Đài là chùa Dũng Tuyền.

Vi Tiểu Bảo hỏi địa điểm chùa Thanh Lương, nguyên là núi Ngũ Đài rất lớn, chùa Thanh Lương ở giữa đỉnh Nam Đài và đỉnh Trung Đài, từ chùa Dũng Tuyền tới đó, đường đi không phải gần.

Đêmấy Vi Tiểu Bảo và Song Nhi ngụ lại ở Lư gia trang cạnh chùa Dũng Tuyền, ăn một bát vằn thắn thịt dê, rồi ăn bánh trái, nghĩ thầm lúc ban ngày hỏi đường ở chùa Dũng Tuyền, hòa thượng trong chùa thấy mình nhỏ tuổi, thái độ lãnh đạm, không thèm đếm xỉa gì tới, không nói đường đi tới chùa Thanh Lương, lại hỏi “Đường vừa xa vừa khó đi, ngươi tới chùa Thanh Lương làm gì?”. Dáng vẻ rất khinh miệt, có bảy phần giống như bọn giặc trọc đầu chạy theo thế lợi trong chùa Thiền Trí ở Dương Châu, tới chùa Thanh Lương gặp hoàng đế Thuận Trị e rất không dễ, phải nghĩ cách mới được.

Y miệng ăn bánh, trong lòng ngẫm nghĩ “Có tiền thì có thể sai ma quỷ xay thóc, bảo hòa thượng xay thóc thì quá nửa chắc cũng được. Từng nghe các tiên sinh kể chuyện nói trong truyện Thủy Hử, Lỗ Trí Thâm lên núi Ngũ Đài xuất gia, có một viên ngoại gì đó bố thí cho chùa không ít tiền bạc, Lỗ Trí Thâm gây náo loạn trong chùa, vừa uống rượu vừa ăn thịt chó mà lão hòa thượng cũng không nổi giận. Phải rồi, mình giả muốn làm pháp sự, vào chùa cúng nhiều tiền bạc, mượn cớ nấn ná không đi, rồi từ từ tìm lão hoàng gia, lão hòa thượng cũng không đuổi mình đi được”.

Nhưng sau khi vào núi, ngoài chùa chiền thì không có thị trấn nào lớn, một tờ ngân phiếu năm trăm lượng cũng không tìm được chỗ đổi, đành trở ra cửa Long Tuyền, quay về Phụ Bình, đổi tiền xong cùng Song Nhi mua quần áo mới để thay. Y nghĩ thầm “Mình muốn làm pháp sự nhưng chuyện gì cũng không biết, chỉ e lòi đuôi, trước tiên phải diễn thử một lượt đã”. Lúc ấy bèn tới chùa Cát Tường trong huyện thành Phụ Bình, dập đầu trước tượng Phật mấy cái. Sư tiếp khách đưa nghiên bút ra, Vi Tiểu Bảo phẩy tay nói “Bố thí thì bố thí, còn viết chữ cái gì?”. Rồi lấy ra một đĩnh nguyên bảo năm mươi lượng đưa qua. Hòa thượng kia cả kinh, nghĩ thầm vị tiểu thí chủ này lạc thiện hiếu thí, thế gian hiếm có, lập tức luôn miệng cảm tạ, đón vào trai phòng, bưng thức ăn chay lên mời.

Lúc Vi Tiểu Bảo ăn miến chay, hòa thượng Phương trượng ngồi cạnh bồi tiếp, xưng tụng tiểu đàn việt nhân hậu thành tín, nhất định sẽ được Bồ tát phù hộ, sau này sẽ bảng vàng đề tên, thi đậu Trạng nguyên, con cháu đầy nhà, phúc lộc vô cùng. Vi Tiểu Bảo cười thầm, nghĩ ngươi vỗ mông ngựa ta cái gì cũng hay, nhưng ta lại không biết chữ, nói ta thi đậu Trạng nguyên, không phải là chửi giữa mặt người ta à? Bèn nói “Lão hòa thượng, ta muốn vào núi Ngũ Đài làm một trường đại pháp sự, chỉ là chuyện gì ta cũng không biết, muốn nhờ ngươi chỉ giáo”.

Phương trượng nghe ba chữ Đại pháp sự, đứng phắt lên nói “Thí chủ , chùa chiền trong thiên hạ đều thờ cúng Phật tổ, Bồ tát như nhau, ngươi muốn làm pháp sự cứ làm ở tiểu tự là được, đảm bảo tất cả đều đâu vào đấy, cần gì phải vất vả lên núi Ngũ Đài”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Không được, trường pháp sự này là tâm nguyện của ta, nhất định phải làm trên núi Ngũ Đài”. Nói xong lại rút ra một đĩnh năm mươi lượng bạc, nói “Thế này vậy, ngươi thuê cho ta một người, theo ta lên núi Ngũ Đài giúp việc. Năm mươi lượng bạc này là cho y”. Lão hòa thượng cả mừng nói “Chuyện đó dễ, chuyện đó dễ!”. Y có một người em con cậu, buôn bán những sản vật trong chùa, những việc thu tô mua sắm đều do y quản lý, nhưng không phải là hòa thượng, lúc ấy bèn gọi y tới ra mắt Vi Tiểu Bảo.

Người ấy họ Vu, tên Bát, khuôn mặt rất dễ coi, lại có một cái ngoại hiệu là Thiếu một nét, vốn chữ Vu thêm một nét sẽ thành chữ Vương, Vu Bát sẽ thành Vương Bát. Trò chuyện đôi ba câu, Vi Tiểu Bảo và y đã mười phần hợp nhau. Vi Tiểu Bảo từ nhỏ đã quen biết rất nhiều với hạng người tiểu nhân ở chợ búa này, lúc ấy đột nhiên gặp một người ở huyện Phụ Bình, có cảm giác tha hương ngộ cố tri.

Vi Tiểu Bảo lại thỉnh giáo Phương trượng về các quy củ làm Phật sự , vị Phương trượng kia cũng nói hết những gì mình biết. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các hòa thượng cũng nhiều quy củ thật!”, lại cúng thêm hai mươi lượng bạc.

Vi Tiểu Bảo dắt Vu Bát về khách điếm, đưa tiền sai y đi mua những vật cần dùng. Vu Bát có tiền trong tay, làm việc mười phần mau lẹ, không bao lâu đã mua đủ các vật phẩm, chính mình cũng mua một bộ quần áo mới, nói “Vi tướng công, ngươi là đại tài chủ, ta là tùy tùng của ngươi, cũng phải ăn mặc cho dễ coi một chút, phải không? Bộ quần áo giày tất mới này, chẳng qua chỉ hết có ba lượng năm tiền”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thấy không sai, lại bảo y tới cửa hiệu quần áo mua cho mình và Song Nhi thêm mấy bộ quần áo hoa lệ đắt tiền.

Ba người vui vẻ qua cửa quan Long Tuyền, phía sau là tám tên phu khuân vác gánh tám gánh đồ vật bố thí cho sư và lễ vật cúng Phật, theo đường cái đi thẳng về phía nam.

Vừa vào núi Ngũ Đài, đi vài dặm là có một ngôi chùa, qua khỏi chùa Dũng Tuyền, thì tới các chùa Đài Lệ, Thạch Phật, Phổ Tế, Cổ Phật, Kim Cương, Bạch Vân, Kim Đăng rồi tới chùa Linh Cảnh. Tối hôm ấy tá túc một đêm ở chùa Linh Cảnh, sáng hôm sau rẽ lên hướng bắc, qua khỏi chùa Kim Các vài dặm về phía tây bắc là tới chùa Thanh Lương.

Chùa Thanh Lương trên đỉnh núi Thanh Lương, so với các chùa chiền dọc đường cũng không nguy nga tráng lệ gì, cổng chùa hư cũ, lâu ngày chưa sửa sang. Vi Tiểu Bảo cảm thấy hơi thất vọng “Hoàng đế xuất gia, nhất định phải chọn một cái chùa thật lớn, chỉ e con rùa đen Hải Đại Phú ăn nói bậy bạ, lão hoàng đế hoàn toàn không phải làm hòa thượng trong chùa này”.

Vu Bát bước vào cửa chùa, nói với nhà sư coi việc tiếp khách rằng ở thành Bắc Kinh có một vị Vi đại quan nhân muốn làm Phật sự lớn, bố thí cho sư cúng dường đức Phật. Tri khách tăng thấy một đoàn người quần áo hoa lệ, lại mang theo tám gánh đồ vật, lập tức mời vào sương phòng mời trà, rồi vào trong bẩm báo với Phương trượng.

Phương trượng là Trừng Quang lão hòa thượng tới sương phòng, làm lễ ra mắt với Vi Tiểu Bảo, hỏi “Không biết thí chủ muốn làm Phật sự gì?”.

Vi Tiểu Bảo thấy Phương trượng Trừng Quang thân hình rất cao, nhưng gầy gò như que củi, hai mắt hơi nhắm lại, dáng vẻ không có gì là tinh anh, lại càng thất vọng, nói “Đệ tử muốn mời đại hòa thượng làm pháp sự bảy ngày bảy đêm để siêu độ cho vong phụ của đệ tử, còn có mấy vị bằng hữu đã qua đời”.

Trừng Quang nói “Ở Bắc Kinh rất nhiều chùa chiền, trong núi Ngũ Đài cũng rất nhiều chùa chiền, không biết tại sao thí chủ lại đường sá xa xôi lên núi Ngũ Đài, tới tiểu tự làm pháp sự?”.

Vi Tiểu Bảo đã sớm biết sẽ có câu hỏi này nên trước đó đã bàn với Vu Bát, bèn nói “Ngày rằm tháng trước mẹ ta nằm mơ, thấy cha ta về nói với bà là lúc người sinh tiền tội nghiệp rất lớn, phải tới chùa Thanh Lương trên núi Ngũ Đài, xin Phương trượng đại sư đọc kinh bảy ngày bảy đêm mới tiêu trừ được tai họa huyết quang cho người, để cha ta khỏi chịu khổ não vô cùng dưới địa ngục”. Y không biết cha mình là ai, càng không biết còn sống hay chết, lúc nói như thế, nhịn không được cười thầm trong bụng, lại nghĩ “Con mẹ nó, ngươi sinh ra lão tử là buông tay bất kể, xuống địa ngục cũng đáng kiếp. Lão tử vừa khéo làm pháp sự bảy ngày bảy đêm cho ngươi, kể ra là may cho ngươi lắm rồi”.

Trừng Quang nói “Té ra là thế. Vi thí chủ, lời tục có câu rất hay là nghĩ làm sao chiêm bao làm vậy. Chuyện ảo mộng này quả không phải là chuyện thật đâu”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đại hòa thượng, lời tục có câu rất hay là thà tin là có, đừng ngờ là không. Cho dù lời cha ta nói trong mộng chưa chắc đã là chuyện thật, nhưng bọn ta làm một trường pháp sự cho ông, siêu độ vong hồn, cũng là một chuyện công đức. Nếu quả cha ta có nói lời ấy, mà bọn ta không làm theo lời ông, ở dưới âm ty ông sẽ bị bọn đầu trâu mặt ngựa, bọn quỷ Vô thường khinh rẻ hà hiếp, vậy thì … vậy thì … làm sao ta yên tâm được? Mà nói lại, đây là ta vâng lệnh mẹ ta. Mẹ ta nói lão Phương trượng ở chùa Thanh Lương trên núi Ngũ Đài có duyên phận với bà, trường pháp sự này, nhất định phải do chùa này làm”. Nghĩ thầm “Ngươi có duyên phận với mẹ ta thì cũng lạ đấy, ngươi tới làm khách chơi trong Lệ Xuân viện ở Dương Châu lần nào chưa?”.

Trừng Quang cười hắc lên một tiếng, nói “Thí chủ có chuyện chưa biết, tệ tự là Thiền tông, những chuyện kinh sám pháp sự này là của Tĩnh thổ tông, bọn ta không biết làm đâu. Trên núi Ngũ Đài, các chùa Kim Các, Phổ Tế, Đại Phật, Diên Khánh đều thuộc Tĩnh thổ tông, thí chủ cứ dời bước tới các chùa ấy làm pháp sự là được”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm lúc ở huyện Phụ Bình thì vị Phương trượng kia muốn làm pháp sự, mà tới đây thì lão hòa thượng này lại tìm đủ cách từ chối, hai tay đẩy trả số tiền người ta đưa mình, bên trong ắt có chuyện lạ. Y nài nỉ mấy lần, nhưng Trừng Quang nhất định không chịu, kế đó đứng lên nói với Tri khách tăng “Ngươi chỉ đường cho thí chủ tới chùa Kim Các, lão nạp không bồi tiếp được nữa”.

Vi Tiểu Bảo cuống lên, vội nói “Phương trượng đã nhất định không ưng thuận thì những áo sư, mũ sư, và tiền bạc ta mang tới cúng dường cho chùa, xin mời các vị đại hòa thượng trong chùa tới nhận cho”.

Trừng Quang chắp tay nói “Đa tạ”. Y thấy Vi Tiểu Bảo mang theo tám gánh lễ vật, nhưng vẫn hoàn toàn thản nhiên.

Vi Tiểu Bảo nói “Mẹ ta đã nói mỗi phần lễ vật phải giao tận tay từng vị đại hòa thượng trong chùa, cho dù là đạo nhân nấu bếp hay người trồng rau cũng đều có phần. Mang theo tất cả ba trăm phần lễ vật, nếu không đủ , ta sẽ đi mua thêm”. Trừng Quang nói “Đủ rồi, quá nhiều rồi. Bản tự chỉ có hơn năm mươi người. Xin thí chủ để lại năm mươi sáu phần phẩm vật là được”. Vi Tiểu Bảo nói “Có thể xin Phương trượng triệu tập chúng tăng trong toàn chùa, để ta chính tay phân phát hay không? Đây là điều tâm nguyện của mẹ ta, bất kể thế nào cũng phải làm bằng được”.

Trừng Quang ngẩng đầu lên, đột nhiên mục quang như điện quét qua mặt Vi Tiểu Bảo một lượt, nói “Được! Ngã Phật từ bi, sẽ làm như mong ước của thí chủ”, rồi xoay người bước vào trong.

Nhìn thấy bóng dáng cao như cây sào của y đi khỏi, Vi Tiểu Bảo trong lòng chợt có một cảm giác không sao nói ra được, bẽn lẽn nâng chén trà lên uống.

Vu Bát đứng sau lưng y, hạ giọng nói “Loại hòa thượng già không hợp thời này, họ Vu ta cả đời quả rất ít gặp, chẳng trách gì một ngôi chùa Thanh Lương thế này mà ngay cả tượng Bồ tát mình vàng cũng hư hư nát nát”.

Chỉ nghe trong chùa có tiếng chuông vang lên, tri khách tăng nói “Mời đàn việt tới Tây điện bố thí”. Vi Tiểu Bảo tới Tây điện, thấy tăng chúng nối nhau bước vào, y lấy từng phần từng phần lễ vật ra phát, ngưng thần chăm chú nhìn vào từng hòa thượng, nghĩ thầm “Minh chưa gặp qua hoàng đế Thuận Trị, nhưng y là cha tiểu hoàng đế, tướng mạo phải có nét giống nhau. Chỉ cần nhìn thấy hòa thượng nào rất giống tiểu hoàng đế là đúng”. Nhưng phát hết hơn năm mươi phần lễ vật, đừng nói không thấy hòa thượng nào “rất giống Tiểu hoàng đế”, mà ngay cả một hòa thượng có tướng mạo giống tiểu hoàng đế một hai phần cũng không thấy.

Vi Tiểu Bảo rất thất vọng, chợt nghĩ “Y đã làm hoàng đế thì thân phận thế nào, làm sao ra đây nhận một phần áo mũ bố thí của mình được! Kế sách này của mình thật ngu ngốc quá”. Bèn hỏi Tri khách tăng “Tất cả tăng nhân của quý tự đều đã tới rồi chứ?”. Tri khách tăng nói “Người nào cũng đã lãnh rồi, đa tạ đàn việt bố thí”. Vi Tiểu Bảo nói “Người nào cũng lãnh rồi à? E là chưa chắc, chỉ sợ còn có người không chịu tới lấy”. Tri khách tăng nói “Đàn việt nói đùa rồi, làm gì có chuyện ấy?”. Vi Tiểu Bảo nói “Người xuất gia không bịa đặt, nếu ngươi lừa ta thì chết đi sẽ bị rơi xuống Ngục Rút lưỡi”. Tri khách tăng vừa nghe thấy, lập tức biến sắc.

Vi Tiểu Bảo nói “Nếu đã có tăng nhân chưa tới nhận, thì đại hòa thượng mời y ra nhận đi!”.

Tri khách tăng lắc đầu nói “Chỉ có Phương trượng đại sư chưa nhận, ta thấy không cần phải mời lão nhân gia người ra đâu”.

Đúng lúc ấy, một tăng nhân hấp tấp bước vào, nói “Sư huynh, ở ngoài có hơn mười vị Lạt ma muốn gặp Phương trượng”, kế hạ giọng nói “Họ đều mang binh khí, xoa tay nắn quyền, tới đây không có ý tốt đâu”. Tri khách tăng cau mày nói “Chùa xanh và chùa vàng trên núi Ngũ Đài trước nay nước sông không phạm nước giếng, họ tới đây làm gì? Ngươi vào bẩm báo với Phương trượng, để ta ra xem”. Nói xong nhìn qua Vi Tiểu Bảo nói “Xin lỗi, không thể bồi tiếp” rồi rảo chân bước ra.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Bọn Lạt ma thối tha này, chỉ e là tới đây vì bọn ta”. Y nghĩ Song Nhi võ công cao cường, mười tên Lạt ma cũng không coi vào đâu. Chợt nghe ngoài cổng chùa có một tràng tiếng huyên náo vang lên, một bọn người sấn vào Đại hùng bảo điện. Vi Tiểu Bảo nói “Ra xem náo nhiệt đi”, rồi kéo tay Song Nhi, cùng bước ra ngoài.

Đi tới đại điện, chỉ thấy hơn mười Lạt ma vây quanh Tri khách tăng, tranh nhau quát tháo “Không lục soát không được, có người chính mắt nhìn thấy y vào chùa Thanh Lương”. “Đây là các ngươi không phải, tại sao lại bắt người giấu đi?”. “Ngoan ngoãn giao người ra đây là xong, nếu không thì, hừ hừ!”.

Vi Tiểu Bảo bước tới đứng một bên điện, hai tay xoa lưng, nghĩ thầm “Lão tử đang ở đây, các ngươi phóng ngựa qua đây”. Nào ngờ bọn Lạt ma kia không đếm xỉa gì tới y, cũng không thèm nhìn y một cái.

Trong tiếng huyên náo, Trừng Quang từ trong đi ra, chậm rãi hỏi “Chuyện gì thế?”. Tri khách tăng nói “Có Phương trượng biết đấy, bọn họ…”. Y vừa nói hai chữ Phương trượng, bọn Lạt ma kia đã sấn tới vây quanh Trừng Quang, quát “Ngươi là Phương trượng à? Vậy thì tốt lắm!”. “Mau giao người ra đây! Nếu không giao ra, thì cả cái chùa của ngươi cũng sẽ một nắm lửa đốt trụi”. “Lẽ nào lại thế, đúng là lẽ nào lại thế!”. “Chẳng lẽ làm hòa thượng thì không cần nói lý lẽ à?”.

Trừng Quang nói “Xin hỏi các vị sư huynh là ở chùa nào? Quang lâm tệ tự là có việc gì?”.

Một tên Lạt ma khoác áo cà sa màu đỏ ngoài tấm áo vàng nói “Bọn ta từ Tây Tạng tới đây, là vâng lệnh Phật sống tới Trung Nguyên công cán, nào ngờ một tên Lạt ma tùy tùng bị một tên tặc hòa thượng bắt đi giấu trong chùa Thanh Lương. Hòa thượng Phương trượng, ngươi mau mau giao tên tiểu Lạt ma ấy ra, nếu không thì ngươi không yên được đâu”.

Trừng Quang nói “Chuyện này mới lạ đấy. Bọn ta ở đây là chùa Phật Thiền tông, không có dính dấp gì với Mật tông Tây Tạng. Quý xứ có một tiểu Lạt ma đi lạc, sao không tới các chùa vàng hỏi xem?”. Tên Lạt ma kia tức giận nói “Có người chính mắt nhìn thấy tên tiểu Lạt ma ấy trong chùa Thanh Lương nên bọn ta mới tới đây hỏi, nếu không thì là bọn ta ăn cơm no xong không có việc gì làm, tới đây gây chuyện à? Ngươi biết điều thì mau giao tên tiểu Lạt ma ấy ra, bọn ta không nể mặt sư cũng nể mặt Phật, không truy cứu nữa”.

Trừng Quang lắc đầu nói “Nếu quả thật có tiểu Lạt ma tới chùa Thanh Lương thì cho dù các vị không hỏi, lão nạp cũng không cho y trú thân ở đây”.

Mấy tên Lạt ma đồng thanh quát “Vậy thì để bọn ta lục soát một phen!”. Trừng Quang vẫn lắc đầu, nói “Đây là nơi Phật môn thanh tịnh, đâu thể cho người khác muốn lục soát là lục soát”. Tên Lạt ma đứng đầu nói “Nếu không phải có tật giật mình, thì tại sao không cho bọn ta lục soát? Đủ thấy chắc chắn ngàn vạn lần là tên tiểu Lạt ma kia đang ở trong chùa Thanh Lương”.

Trừng Quang vẫn lắc lắc đầu, liền có hai tên Lạt ma đồng thời vươn tay ra nắm cổ áo y, lớn tiếng quát “Ngươi có chịu cho lục soát hay không?”. Một tên Lạt ma khác nói “Hay là trong chùa của đại hòa thượng giấu giếm con gái nhà lành, sợ người ta biết được? Nếu không thì lục soát một lần có hề gì chứ?”. Lúc ấy trong chùa Thanh Lương đã có hơn mười hòa thượng bước ra, nhưng bị bọn Lạt ma cản lại không cho tới gần Phương trượng.

Song Nhi hạ giọng nói “Tướng công, có cần đánh đuổi họ đi không?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Khoan đã”, nghĩ thầm “Bọn Lạt ma này rõ ràng là gây sự vô lý, trong chùa này tại sao lại giấu giếm tiểu Lạt ma? Hay là họ cũng như mình, cũng muốn gặp hoàng đế Thuận Trị?”.

Chợt thấy bạch quang chớp lên, hai tên Lạt ma đã rút đao ra, chia nhau chĩa vào trước ngực sau lưng Trừng Quang, lớn tiếng quát “Không cho lục soát thì giết ngươi trước”. Trừng Quang trên mặt không có vẻ gì sợ hãi, nói “A di đà Phật, mọi người đều là đệ tử Phật môn, tại sao lại hung năng động võ?”. Hai tên Lạt ma kia mũi đao hơi đẩy tới, quát “Đại hòa thượng, bọn ta phải đắc tội rồi”. Trừng Quang thân hình hơi nghiêng đi, thuận thế hất một cái, mũi đao của hai tên Lạt ma đều phóng vào ngực đối phương, hai người vội vung tay trái đánh ra, chát một tiếng, cùng lùi lại vài bước. Đám còn lại la lên “Phương trượng chùa Thanh Lương hành hung đánh người! Đánh chết người rồi!”.

Trong tiếng la thét, ngoài cổng lại có ba bốn mươi người bước vào, có hòa thượng, có Lạt ma, còn có mấy người tục gia mặc áo trường bào. Một Lạt ma già râu bạc mặc áo vàng cao giọng quát “Phương trượng chùa Thanh Lương hành hung giết người à?”.

Trừng Quang chắp tay nói “Người xuất gia lấy từ bi làm gốc, há dám khai sát giới bừa bãi? Các vị sư huynh thí chủ từ đâu tới đây?”. Rồi hướng về một hòa thượng khoảng năm mươi tuổi nói “Té ra Phương trượng Tâm Khê chùa Phật Quang đại giá quang lâm, không kịp đón tiếp, đắc tội, đắc tội!”.

Chùa Phật Quang là chùa lâu đời nhất trên núi Ngũ Đài, xây dựng từ thời Hiếu Văn đế nhà Nguyên, đã có từ lâu. Người ở địa phương nói “Chùa Phật Quang có trước, núi Ngũ Đài có sau”. Nguyên núi Ngũ Đài vốn tên là núi Thanh Lương, về sau vì phát hiện ra năm đỉnh cao mới gọi là núi Ngũ Đài, lúc ấy đã có chùa Phật Quang. Tên huyện Ngũ Đài cũng đến đầu niên hiệu Đại Nghiệp nhà Tùy mới có. Trong Phật giáo, địa vị của chùa Phật Quang cao hơn chùa Thanh Lương nhiều, Phương trượng Tâm Khê mặc nhiên là người đứng đầu các chùa xanh trên núi Ngũ Đài.

Hòa thượng này tai to mặt lớn, khuôn mặt bóng loáng, cười hì hì nói “Trừng Quang sư huynh, ta giới thiệu cho ngươi hai vị bằng hữu”, rồi chỉ Lạt ma già kia nói “Vị này là Đại Lạt ma pháp sư Ba Nhan vừa từ Lạp Tát Tây Tạng tới, là người thân tín nhất dưới trướng Phật sống, là một Lạt ma rất có thế lực”. Trừng Quang chắp tay nói “Có duyên được bái kiến Đại Lạt ma”. Ba Nhan gật gật đầu, dáng vẻ vô cùng kiêu ngạo.

Tâm Khê chỉ một văn sĩ áo xanh khoảng ba mươi tuổi, nói “Vị này là đại danh sĩ ở Xuyên Tây, Hoàng Phủ Các Hoàng tiên sinh”. Hoàng Phủ Các chắp tay nói “Từ lâu đã ngưỡng mộ Trừng Quang hòa thượng võ học thông thần, hôm nay được gặp, quả thật tam sinh hữu hạnh”.

Trừng Quang chắp tay nói “Lão tăng tuổi tác đã lớn, một ít công phu thô thiển học qua lúc trẻ đã quên hết rồi. Hoàng Phủ cư sĩ văn võ kiêm toàn, đáng vui đáng mừng”.

Vi Tiểu Bảo thấy những người này nói năng văn vẻ khách khí, nghĩ thầm trận đánh nhau này có quá nửa là không xảy ra, đã không được xem náo nhiệt, lại không có cơ hội để thừa nước đục thả câu tìm lão hoàng đế, thầm thấy thất vọng.

Ba Nhan nói “Đại hòa thượng, ta dắt tên tiểu Lạt ma ấy từ Tây Tạng tới đây, lại bị chùa các ngươi bắt mất. Ngươi nể mặt Phật sống tha y ra, thì mọi người đều cám ơn ngươi”. Trừng Quang cười khẽ một tiếng, nói “Mấy vị sư huynh này la ó trong tệ tự, lão nạp cũng không buồn tranh cãi với họ. Đại sư là người thông tình đạt lý, tại sao cũng nghe lời người ta? Chùa Thanh Lương từ khi xây dựng đến nay, chỉ e hôm nay mới có các vị Lạt ma quang lâm. Người nào nói là bọn ta bắt đệ tử của quý tòa vậy?”. Ba Nhan hai mắt đảo một cái, cao giọng nói “Chẳng lẽ là oan uổng cho ngươi à? Ngươi … rượu phạt không muốn uống lại muốn uống… uống rượu mời”. Y nói tiếng Hán không thạo, lại nói đảo câu “Rượu mời không uống lại uống rượu phạt”.

Tâm Khê cười nói “Hai vị đừng làm tổn thương hòa khí. Theo ý lão nạp, tiểu Lạt ma kia có phải ở trong chùa Thanh Lương không thì nói miệng không có bằng cớ, mắt thấy mới là thật. Cứ để Hoàng Phủ cư sĩ và bần tăng làm chứng, mọi người tùy hỷ các nơi trong chùa Thanh Lương một phen, thấy Phật lạy Phật, gặp sư chào sư, chỗ nào cũng thấy, người nào cũng gặp, nếu vẫn không tìm ra tiểu Lạt ma kia, thì không phải là không có chuyện gì sao?”. Y nói đi nói lại, vẫn là muốn lục soát chùa Thanh Lương.

Trừng Quang trên mặt thoáng vẻ không vui, nói “Mấy vị Lạt ma này từ Tây Tạng tới, không hiểu quy củ người Hán chúng ta, chuyện đó không trách được. Tâm Khê đại sư đức cao vọng trọng, tại sao cũng nói thế? Nếu tiểu Lạt ma kia quả thật bị mất tích trong núi Ngũ Đài, cần phải lục soát từng chùa từng chùa, chỉ e là phải bắt đầu từ chùa Phật Quang”.

Tâm Khê cười hì hì một tiếng, nói “Sau khi lục soát trong chùa Thanh Lương, nếu vẫn tìm không ra, thì mấy vị Lạt ma này sẽ tới chùa Phật Quang, đó là điều rất hoan nghênh, rất hoan nghênh”.

Ba Nhan nói “Có người chính mắt nhìn thấy, thằng đầy tớ ấy quả đúng là trong chùa Thanh Lương, bọn ta mới tới đây tra hỏi, nếu không cũng không dám… cũng không dám muội… muội mạo thế này”, y nói ngược hai chữ “mạo muội”. Trừng Quang nói “Không biết là ai nhìn thấy?”. Ba Nhan chỉ Hoàng Phủ Các một cái, nói “Là vị Hoàng Phủ tiên sinh này nhìn thấy, y là người rất có danh vọng, quyết không bịa đặt”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các ngươi rõ ràng là cùng bọn với nhau, làm sao có thể làm chứng”, nhịn không được bèn hỏi chen vào “Tiểu Lạt ma kia khoảng bao nhiêu tuổi?”.

Ba Nhan, Tâm Khê, Hoàng Phủ Các cả bọn nãy giờ không đếm xỉa gì tới hai đứa nhỏ đứng bên cạnh, chợt nghe y hỏi, ánh mắt đều dồn cả vào y, thấy y quần áo sang trọng, trên mũ gắn ngọc quý, vạt áo đính minh châu, là công tử con nhà giàu, thư đồng nhỏ bên cạnh cũng mặc áo đoạn.

Tâm Khê cười nói “Tiểu Lạt ma này tuổi cũng xấp xỉ công tử”.

Vi Tiểu Bảo quay đầu nói “Vậy thì đúng rồi, mới rồi bọn ta không phải rõ ràng đã nhìn thấy tiểu Lạt ma ấy sao? Y chạy vào một ngôi chùa lớn. Ngôi chùa ấy ngoài cổng có viết chữ, không sai, rõ ràng là viết ba chữ đại tự Phật Quang tự. Tiểu Lạt ma ấy là vào chùa Phật Quang rồi”.

Y nói câu ấy, bọn Ba Nhan lập tức biến sắc mặt, Trừng Quang thì trong bụng mừng thầm. Ba Nhan lớn tiếng nói “Nói ba lăng nhăng, nói bốn lăng nhăng!”. Y nói thêm một lăng nhăng, đó là có ý càng lăng nhăng. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nói năm lăng nhăng, nói sáu lăng nhăng, nói bảy lăng nhăng, tám lăng nhăng! “.

Ba Nhan tức giận không kìm được, vươn tay chụp vào ngực Vi Tiểu Bảo. Trừng Quang tay trái khẽ nhấc lên, kình phong trên tay áo quét tới khuỷu tay Ba Nhan. Ba Nhan tay trái vươn ra, năm ngón tay như móng gà chụp vào tay áo y. Trừng Quang khẽ rút tay lại, tay áo cuốn lên, một trảo ấy không trúng. Ba Nhan kêu lên “Ngươi giấu giếm tiểu Lạt ma dưới trướng Phật sống của bọn ta, lại còn định động thủ giết người à? Làm phản rồi, làm phản rồi!”.

Hoàng Phủ Các cao giọng nói “Mọi người có lời cứ nói, không được động võ”. Y vừa nói chữ “võ” xong, ngoài chùa đột nhiên có rất nhiều người đồng thanh quát lớn “Hoàng Phủ tiên sinh có lệnh: Mọi người có lời cứ nói, không được động võ”. Nghe thanh âm phải có tới vài trăm người, lại là bao vây quanh chùa Thanh Lương. Bọn người này nghe Hoàng Phủ Các cao giọng nói thế, lập tức đồng thanh ứng tiếng, tỏ ý uy hiếp. Cho dù phương trượng Trừng Quang có công phu hàm dưỡng cao thâm hơn, mà lại đột nhiên nghe thấy một tràng tiếng hò hét như thế, phút chốc cũng bất giác trong lòng rúng động.

Hoàng Phủ Các cười khùng khục nói “Trừng Quang phương trượng, ngươi là tiền bối cao nhân trong võ lâm, ở đây che ánh sáng nuôi cái tối, mọi người đều rất kính ngưỡng. Vị Đại Lạt ma Ba Nhan này muốn tùy hỷ đi các nơi trong quý tự, ngươi cứ để y đi thôi. Đại hòa thượng làm việc chính đáng, cử chỉ chính đáng như gió mát trăng trong, chùa Thanh Lương làm gì có chuyện gì không để người ta thấy được, mọi người cần gì phải để mất hòa khí trong võ lâm?”.

Trừng Quang ngấm ngầm lo sợ, y võ công tuy cao cường, nhưng ở chùa Thanh Lương chỉ tọa thiền thuyết pháp, chưa từng truyền thụ võ công, hơn năm mươi nhà sư trong chùa Thanh Lương, rất ít người biết võ công, mới rồi giao thủ một chiêu với Ba Nhan, phát giác ra Kê trảo công trên tay trái y vô cùng lợi hại, lại nghe Hoàng Phủ Các cất cao giọng nói câu mới rồi, nội lực thâm hậu, cũng không phải tầm thường, không cần mấy trăm người ở ngoài chùa, chỉ nhìn vào hai cao thủ trước mắt, đã không dễ đối địch rồi.

Hoàng Phủ Các thấy y trầm ngâm không đáp, bèn cười nói “Cho dù trong chùa Thanh Lương có mấy cô nương xinh đẹp, để mọi người kính ngưỡng, thì cũng là nhãn phúc không nhỏ mà”. Hai câu ấy cực kỳ khinh bạc, không hề có chút nể mặt Trừng Quang.

Tâm Khê cười nói “Phương trượng sư huynh, nếu đã như thế, thì cứ để mấy vị đại Lạt ma đây đi các nơi xem thử thôi” nói xong chúm môi một cái.

Ba Nhan sải chân bước vào hậu điện trước. Trừng Quang nghĩ đối phương đã có chuẩn bị mà tới, cho dù cản được Ba Nhan và Hoàng Phủ Các, cũng quyết không cản được đám người mà họ mang theo, một khi xảy ra trận hỗn chiến, thì chùa Thanh Lương phải gặp đại kiết, nhất thời trong lòng rối lên, thở dài một tiếng, trừng trừng nhìn theo mười mấy người bọn Ba Nhan đi vào hậu điện, chỉ đành đi theo.

Ba Nhan và Tâm Khê, Hoàng Phủ Các ba người hạ giọng bàn bạc, mấy mươi thủ hạ của họ đã sấn vào từng gian điện đường, từng gian tăng phòng lục soát. Chúng tăng chùa Thanh Lương thấy Phương trượng chưa có lệnh, người nào cũng đành trợn mắt tức giận, chứ không cản trở. Vi Tiểu Bảo và Song Nhi đi theo sau Trừng Quang, thấy tay áo tăng bào của y run lên bẩn bật, rõ ràng vô cùng tức giận.

Đột nhiên trong tăng phòng phía tây có người cao giọng quát “Phải y đây không?”.

Hoàng Phủ Các vọt tới, hai hán tử đã kéo một tăng nhân trung niên ra. Hòa thượng này khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, tướng mạo thanh cù, nói “Các ngươi bắt ta làm gì?”. Hoàng Phủ Các lắc lắc đầu, hai hán tử kia cười nói “Đắc tội” rồi buông hòa thượng ấy ra. Vi Tiểu Bảo trong lòng hiểu rõ, bọn người này là tới tìm hoàng đế Thuận Trị, đó là điều chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa.

Trừng Quang cười nhạt nói “Hòa thượng của bản tự là tiểu Lạt ma dưới trướng Phật sống à?”. Hoàng Phủ Các không đáp, thấy bọn thủ hạ kéo một hòa thượng trung niên ra, y nhìn kỹ tướng mạo rồi lắc lắc đầu. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Té ra y biết mặt hoàng đế Thuận Trị”. Lại nghĩ “Lục soát thế này, nhất định sẽ tìm ra hoàng đế Thuận Trị, y là cha tiểu hoàng đế, mình phải tìm cách bảo vệ”, nhưng đối phương người đông thế mạnh, làm sao bảo vệ thì không nghĩ ra được cách nào.

Mấy mươi người lục soát tới trước một tăng viện nhỏ phía đông bắc, thấy cửa viện đóng chặt, bèn la lên “Mở cửa, mở cửa!”.

Trừng Quang nói “Đây là nơi tọa quan của một vị cao tăng trong bản tự, đã bảy năm nay rồi, các vị không nên quấy rầy cuộc thanh tu của y”.

Tâm Khê cười nói “Đây là người ngoài sân vào, chứ không phải là hòa thượng tọa quan tự mở cửa, có hề gì đâu?”.

Một Lạt ma cao lớn kêu lên “Còn không chịu mở cửa à? Quá nửa là trong này rồi!”. Rồi phi chân đá vào cửa.

Trừng Quang thân hình hơi lạng đi một cái, đã chặn trước mặt y. Lạt ma kia thu thế không kịp, phát cước đá ra trúng vào bụng dưới Trừng Quang, lách cách một tiếng, Lạt ma ấy xương chân đã bị gãy, ngã vật về phía sau. Ba Nhan be be kêu ầm lên, tay trái vươn ra, tay phải co lại đều thành hình Kê trảo chụp vào Trừng Quang. Trừng Quang đứng chặn giữa cửa, vù vù hai chưởng bức Ba Nhan lùi lại.

Hoàng Phủ Các kêu lên “Bát Nhã chưởng hay quá”, ngón trỏ tay trái điểm ra, một dây kình phong bắn vào giữa mặt Trừng Quang. Trừng Quang tránh qua bên trái, chát một tiếng, luồng kình phong đánh vào cửa gỗ. Trừng Quang sử dụng Bát Nhã chưởng, ngưng thần tiếp chiến.

Ba Nhan và Hoàng Phủ Các chia ra hai bên xông vào giáp kích. Trừng Quang chiêu thức đánh ra rất chậm, từng chưởng từng chưởng vỗ ra tựa hồ không có bao nhiêu sức mạnh, nhưng có tiếng gió khẽ rít lên, rõ ràng là kình lực rất lợi hại. Mấy mươi tên thủ hạ của Ba Nhan và Hoàng Phủ Các quát tháo ầm ĩ trợ oai cho hai người. Ba Nhan xông vào tấn công mấy lần, đều bị chưởng lực của Trừng Quang bức phải lùi ra.

Ba Nhan sốt ruột, sấn vào đánh gấp, đột nhiên hự khẽ một tiếng, tay trái giơ lên, mấy mươi sợi râu bạc rơi xuống, đã chụp trúng cằm Trừng Quang, nhưng vai trái của y cũng bị trúng một chưởng, lúc đầu chưa cảm thấy gì, dần dần cánh tay càng lúc càng nặng nề, tay phải không thể nhấc lên cao được nữa. Y giận dữ quát tháo, tránh qua một bên, bốn tên Lạt ma tay cầm cương đao xông vào Trừng Quang.

Trừng Quang phi chân đá hai tên tung ra, chưởng trái vỗ tới, đánh trúng ngực tên thứ ba. Tên Lạt ma ấy “A” một tiếng, nhảy về phía trước. Đúng lúc ấy, cương đao của tên Lạt ma thứ tư đã chém tới, Trừng Quang tay áo phất lên cuốn vào cổ tay y. Chỉ thấy Ba Nhan hai tay một trên một dưới nhảy xổ vào. Trừng Quang tránh về bên phải, đột nhiên thấy kình phong đổ tới, thầm kêu “Không xong!” thuận tay vỗ ra một chưởng, nhưng cảm thấy má phải rất đau, đã bị trúng một chỉ của Hoàng Phủ Các. Một chưởng này tuy đánh trúng cánh tay của Hoàng Phủ Các, nhưng chưa đánh gãy được tay y.

Song Nhi thấy Trừng Quang mặt đầy máu tươi, hạ giọng hỏi “Có cần giúp y không?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Chờ một lúc”, y chỉ muốn nhìn thấy hoàng đế Thuận Trị, nếu Song Nhi ra tay đánh lùi mọi người thì không gặp được lão hoàng đế, huống chi đối phương người đông thế mạnh, lại có binh khí, Song Nhi là một cô gái nhỏ, làm sao đánh được bấy nhiêu đại hán?

Chúng tăng chùa Thanh Lương thấy phương trượng bị nguy cấp, nhao nhao vác gậy gộc que thông lò xúm vào trợ chiến. Nhưng đám hòa thượng này không biết võ công, vừa bước vào đã bị đánh vỡ đầu chảy máu. Trừng Quang kêu lên “Mọi người không được động thủ!”.

Ba Nhan tức giận quát “Mọi người ra tay giết sạch chúng đi”. Bọn Lạt ma ra tay càng không dung tình, trong khoảnh khắc đã có bốn hòa thượng chùa Thanh Lương bị chém đầu một nơi thân một nẻo. Số còn lại thấy địch nhân hành hung giết người, đều đứng ở xa xa la thét, không dám tới gần.

Trừng Quang hơi phân tâm, lại trúng thêm một chỉ của Hoàng Phủ Các, chỉ này đánh trúng ngực phải y. Hoàng Phủ Các cười nói “Bát Nhã chưởng của chùa Thiếu Lâm chẳng qua cũng chỉ có thế. Đại hòa thượng còn chưa đầu hàng à?”. Trừng Quang nói “A di đà Phật, thí chủ tội nghiệp không nhỏ đâu”.

Đột nhiên hai tên Lạt ma vung đao lăn tròn dưới đất xông vào chém hai chân y. Trừng Quang nhấc chân đá ra, trước ngực đau nhói lên, trước mắt tối sầm lại, một cước ấy đá ra tới nửa chừng thì khựng lại. Lúc choáng váng chưởng trái đập xuống vừa đúng vào đỉnh đầu hai tên Lạt ma ấy, hai người lập tức ngất đi. Ba Nhan chửi “Con lừa trọc chết giẫm!”, hai tay vung mau ra, mười ngón chụp vào chân trái Trừng Quang. Trừng Quang không chi trì nổi nữa, ngã lăn xuống đất. Hoàng Phủ Các phóng liền mấy chỉ, điểm vào yếu huyệt của Trừng Quang.

Ba Nhan hô hô cười rộ, chân trái đá cánh cửa gỗ, lách cách một tiếng, cánh cửa bay tung ra. Ba Nhan cười nói “Ra mau đi, để mọi người xem thử dáng vẻ ra sao”.

Trong tăng phòng tối om, không hề có tiếng động nào.

Ba Nhan nói “Bắt người ra đây cho ta”. Hai tên Lạt ma ứng tiếng vâng dạ, cùng sấn vào trong.

Chú:

Câu đối tên của hội này là dùng lời của nhà Phật. “Phương tiện” là ý “Phương pháp quyền nghi”. Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, nếu người nghe không hiểu, thi dùng “Thí như” (ví dụ như) để giải thích.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.