39. Truyện ni sư Đức Hạnh

Thanh Lương ni sư người họ Phạm, con nhà thế tộc Giao Chỉ, xuất gia làm Ni ở Thanh Lương, không kể đồ mặc chỉ biết khổ hạnh, cốt lấy cần khẩn giải ngộ làm thông sướng; sư thường tập phép xước ngại, diện mạo giống như La Hán, tăng đồ xa gần đều kinh sợ coi là một vị Ni Sư ở đời; nhà của Sư thì cho tăng đồ làm chùa Hồng Vũ. Có Trần Tứ, tên là Huệ Thông Đại Sĩ ở núi Vọng Đông, một hôm bảo đồ đệ rằng:

– Ta muốn đem thân này thí cho hổ lang.

Một đêm đạo sĩ ngồi vào phiến đá nhỏ và tuyệt thực ba ngày; hổ lang đến ngồi quanh không dám đến gần. Tăng đồ khẩn xin đạo sĩ trở về am, mở cửa nhập định. Khi gần mất, Huệ Thông tập họp tăng đồ để thuyết pháp, nhân đó đóng cửa ngồi yên mà hóa, thọ hơn tám mươi tuổi. Trà Tỳ có cốt Phật Xá Lỵ rất nhiều, vì vậy có quan dựng tháp ở bản tự.

Trước kia Huệ Thông thường dặn đệ tử rằng:

– Sau khi ta chết, nên lấy xương ta cho thế gian rửa bệnh.

Đến lúc thu cốt, đệ tử không nỡ lấy chỉ bỏ vào hòm đậy lại; cách đêm bỗng thấy cái xương lớn để ở trên ghế ngoài hòm; chúng lấy làm lạ, cho là linh nghiệm.

Sau người nào có bệnh đến cầu đảo, đệ tử mài vào nước đem cho rửa, lập tức lành ngay; lời thề nguyền sâu xa đến như thế.

40. Truyện Phạm Tử Hư thờ thầy

Thời vua Lý Huệ Tông, có Phạm Tử Hư, người làng Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giang, nhà nghèo túng, dời đến ở Hoa Phong; người thiếu niên sống cô độc, nhưng lại lạc đạo và hiếu học; theo thầy là Công Trạng, tên chữ là Công Trực, chàng thường như lời giáo huấn, học tập ý kiến thầy mà làm văn chương. Đến khi Công Trực mất, đứa con tuổi còn ấu thơ chưa có thể phụng sự, Tử Hư thưa với mẹ rằng:

– Thầy nghèo con dại, mẹ có thể để cho con bao nhiêu ruộng?

Bà mẹ nói:

– Có thể cho con sáu sào.

Từ Hư khóc:

– Xin mẹ trích ra hai sào bán cho người trong thôn lấy tiền để giúp thầy.

Bà mẹ cũng khóc nghe theo, bán hai sào ruộng được ba mươi quan tiền. Tử Hư mua sắm các vật để trợ tế cho thầy. Lại làm nhà ở bên mộ thầy, ngày đêm hương hỏa, phụng sự trong ba năm, xong việc mới trở về. Đến khoa Giáp Tý thì ứng thí, đậu tam trường; khoa Đinh Mão lại ứng thí đậu tứ trường. Năm ấy tháng Mười một, trên đường từ nhà đến Kinh, Tử Hư đi đến chùa Châư Võ; gặp ngày trời nắng to, Tử Hư vào nghỉ ở chùa, bỗng thấy Công Ttực ngồi ở trong. Tử Hư kinh sợ vừa lạy vừa khóc rằng:

– Thầy về âm ty đã bảy tám năm nay, không hiểu vì sao lại thấy ở đây?

Thầy bảo:

– Tử Hư có nghĩa với ta nên ta hiển hiện lên đây để bảo cho biết.

Tử Hư cúi đầu khóc rống:

– Ngày thầy về, nhà con nghèo túng không lấy gì làm lễ, ngày nay gặp thầy cũng tại tay không mà thôi, lấy gì làm nghĩa?

Thầy đáp:

– Sinh thời, ta ở trên dương thế có công bình chính trực nên Thượng đế cho làm Phán quan, kiêm trị việc cống cử.

Tử Hư thưa:

– Thầy có biết phận mệnh của con ra sao không?

– Nay thì ta chưa biết, con cứ về đi, đến ngày hai mươi tháng Chạp sang năm lại đến chùa này, ta sẽ bảo cho.

Tử Hư bái lạy về nhà. Đêm ngày, chàng suy nghĩ và tin vào lời nói của Thầy. Đến ngày, Tử Hư thưa với mẹ rằng:

– Mẹ ở nhà, con đi qua Kinh sư theo quan Kinh có việc.

Rồi đem theo rượu thịt đến chùa, đã thấy thầy và các đệ tử ở đó rồi. Tử Hư cúi đầu lạy, dọn rượu thịt dâng lên thầy; thầy trò cùng nhau ăn uống.

Thầy bảo Tử Hư cởi áo mũ đi giao lại cho đệ tử, rồi lấy áo mũ của đệ tử mặc cho, xong thầy lấy tay phất vài ba cái; Tử Hư nhắm mắt lại theo thầy đi lên trời. Đến chỗ làm việc của Nam Tào Bắc Đẩu, Tử Hư ngồi hai bên tả hữu, thầy cũng ngồi phía dưới cùng luận xét những người đức hạnh văn chương trong thiên hạ để yết tên lên bảng.

Có người tiến cử Trần Thái ở Quế Dương, ưu bác về văn học. Nam Tào nói:

– Trần Thái có văn học nhưng không có đức hạnh.

Có người tiến cử người làng Tây Mục là người có văn học Nam Tào nói:

– Người Tây Mục lấy văn học kiêu ngạo với người, vả lại người vợ bất tiếu, không được.

Đến người làng An Lạc tên là Phạm Công Bình giỏi văn học, vả lại tổ tông, cha mẹ đều tốt, vợ lại hiền, đáng đậu nhất đó là Trạng nguyên. Nguyễn Viết Chất người Phụng Sơn, văn học sắc sảo đức hạnh cũng hoàn toàn, đáng đậu nhì, đó là Bảng nhãn. Vương văn Hiệu người làng Thượng Hiền, văn học đầy đủ, đáng đậu thứ ba, đó là Thám Hoa, kịp đến Dương Chánh người làng Thượng Phúc, văn học tuy kém nhưng mẹ và vợ đều hiền lành, nhà nghèo nhưng mộ đạo, đáng đậu thứ tư, ấy là Hoàng Giáp. Trước sau được bốn mươi người biên tên vào bảng. Phán quan mới tiến cử người Hoa Phong Phạm Tử Hư, văn học khả thủ, Nam Tào nói:

– Tử Hư lấy văn học lên mặt với người khác.

Phán quan thưa:

– Tủ Hư còn trẻ tuổi, tuy có kiêu ngạo với người nhưng chưa từng hại người.

Ông quan áo tía nói:

– Tử Hư mồ côi từ nhỏ, mẹ có tiết hạnh, vả lại có nghĩa với Phán quan, cũng nên dung thứ cho nó đậu chót.

Lập tức niêm tên họ Tử Hư ở sau bốn mươi người, treo bảng ở cửa nhà trời.

Quan ngồi bên hữu là Bắc Đầu nói:

– Tử Hư văn học khá, nếu để đậu chót, e có trái thứ tự.

Quan áo tía nói:

– Ta lấy chữ “Bạch” thêm vào thì nó bị truất xuống chót, có trái gì đâu.

Năm sau là năm Mậu Thìn tháng Ba thi hội, Tử Hư vào đệ nhất trường, vì thiếu trị kinh, khảo quan thấy sai mới treo cảo ở dưới công đường, rồi lại đưa bài vào chấm, quả trúng cao đệ. Đến trường đệ tứ, Tử Hư văn thể thuần hậu, điển nhã cẩn mật đáng được đậu cao, chỉ vì hai chữ “bạch” nên không được lấy đậu. Kể được lấy đậu chỉ có bốn mươi người. Khảo quan tâu với vua để treo bảng. Vua bảo rằng:

– Mỗi khoa lấy năm mươi người làm hạn, khoa này lấy ít quá không được.

Lại khiến Khảo quan xét tên nào văn thể thuần hậu thì lấy thêm, không câu nệ chữ bạch; Khảo quan lấy thêm một quyển, quả là Tử Hư, dán thêm tên ở dưới bốn mươi người, mới hay ý trời rất nghiệm, vinh tiến đã định sẵn không thể dối vậy.

Sau này Tử Hư làm nên quan to, đến chức Tán Trị Dực Vân Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, đai ngọc mão vàng, tham lùng Lại Bộ thượng thư.

Giới thiệu tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí

Hoàng Lê nhất thống chí (chữ Hán: 皇黎一統志), hay An Nam nhất thống chí (chữ Hán: 安南一統志), hay Lê quý ngoại sử (chữ Hán: 黎季外史) là tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán, nằm trong bộ Ngô gia văn phái tùng thư của các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Hà Nội.

Đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi, ghi chép về sự thống nhất vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh trả lại Bắc Hà cho Vua Lê đến khi Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, thống nhất cả nước. Đây là tác phẩm viết theo thể chí – một lối văn ghi chép sự vật, sự việc, do một số tác giả kế tục nhau viết, trong những thời điểm khác nhau. Được sáng tác trong khoảng thời gian dài từ cuối Triều Lê sang đầu Triều Nguyễn (cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX). Toàn bộ tác phẩm gồm có 17 hồi.

Bảy hồi đầu tiên là phần chính biên do Ngô Thì Chí viết, mười hồi tiếp theo là phần tục biên, trong đó có 7 hồi được cho là Ngô Thì Du viết, còn 3 hồi cuối cùng viết có tính chất chắp vá, lại có cả những sự việc thời Tự Đức, tương truyền do Ngô Thì Thuyết (có người đọc là Thiến) viết.

(Nguồn: wiki)

Mục lục

Hồi 1: Đặng Tuyên Phi được yêu dấu, đứng đầu hậu cung – Vương Thế Tử bị truất ngôi, ra ở nhà kín.
Hồi 2: Lập Điện đô, bảy quan nhận di chúc – Giết Huy quận, ba quân phò Trịnh vương
Hồi 3: Dương nguyên cữu bàn chém kiêu binh – Nguyễn quốc sư mưu trừ nội loạn
Hồi 4: Nhờ ngoại viện, Hữu Chỉnh rửa thù thầy – Tỏ lòng trung, Trần Quán chết theo chúa
Hồi 5: Phò chính thống, thượng công vào điện – Kết duyên lành, công chúa ra xe
Hồi 6: Chúa Tây Sơn lẻn rút quân về nước – Quân Đông Giang mưu khởi nghĩa phò vương
Hồi 7: Phò Lê đế, đạo Vũ thành lại ra quân – Đốt Trịnh cung, chúa Án Đô phải bỏ nước
Hồi 8: Dương Trọng Tế bị dâng tù trước nhà Thái học – Hoàng Phùng Cơ phải tự tử ở ngoài Tây thành
Hồi 9: Tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm đem quân lấn ngoài bờ cõi – Quan bình chương Trần Công Xán vâng mệnh bàn việc biên cương
Hồi 10: Lân dương hầu phò chúa vượt biển đến Yên Quảng – Bằng công Chỉnh mời vua qua sông đi Lạng Sơn
Hồi 11: Tây Sơn lại kéo vào thành chiếm giữ đất nước – Chiêu Thống ba phen tính chước khôi phục kinh đô
Hồi 12: Lê sứ thần qua đất Bắc xin quân – Tôn đốc bộ tới ải Nam truyền hịch
Hồi 13: Khiếp thanh thế, giặc mạnh rút lui – Khiếp thanh thế, giặc mạnh rút lui Nhờ viện binh, vua xưa trở lại
Hồi 14: Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận – Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài
Hồi 15: Dẹp yên cõi Bắc, Nguyễn Huệ được phong – Đánh phá Cao Bằng, Duy Chỉ bị hại
Hồi 16: Tế Linh đường, sứ Thanh bị lừa – Chết Yên Kinh, vua Lê nuốt hận
Hồi 17: Mất thành Thăng Long, vua Cảnh Thịnh bị bắt – Táng lăng Bàn Thạch, Nguyễn Hoàng Phi chết theo

Binh pháp Lục Thao

Giới thiệu Binh pháp Lục Thao

Lục Thao  hay Lược Thao (六韬) hay Thái công lục thao (太公六韬), Thái công binh pháp (太公兵法) là một tác phẩm binh pháp đưa ra những lý luận có hệ thống về mưu lược dùng binh trong chiến tranh, tương truyền do Khương Tử Nha đầu đời nhà Chu sáng tác. Tuy nhiên hiện nay đa số ý kiến cho rằng Lục Thao chỉ là do người đời Chiến Quốc ghi chép lại những tư tưởng của Khương Tử Nha mà làm thành.

Phiên bản Lục Thao cổ nhất được tìm thấy là trong bộ “Thẻ tre Ngân Tước sơn” do các nhà khảo cổ Trung Quốc khai quật được năm 1972.

Năm 1935 Trung Hoa học nghệ xã đã dựa theo bản in thời Tống để cho xuất bản lại bộ VŨ KINH THẤT THƯ trong đó có Lục Thao.

Cấu trúc  Lục Thao hiện nay gồm có 6 bộ:

Văn thao (文韬): dụng nhân – trị quốc

Võ thao (武韬): dụng binh

Long thao (龙韬): tuyển tướng

Hổ thao (虎韬): quân hình – khí tài.

Báo thao (豹韬): Chiến thuật.

Khuyển thao (犬韬): Luyện sĩ


SƠ LƯỢC VỀ TÁC GIẢ: KHƯƠNG TỬ NHA

     Khương Tử Nha (姜仔呀), tên thật Khương Thượng (姜尚), tự là Tử Nha (子牙)và còn có tên khác là Lã Vọng, là khai quốc công thần nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là vua khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc

Khương Tử Nha tuổi già thường đi câu cá ở sông Vị, tình cờ được Cơ Xương (Văn Vương – vị vua đầu tiên của nhà Chu) ngưỡng mộ tài năng sau cuộc gặp gỡ trong một chiến đi săn và đón về cung, tôn làm thầy. Khương Thượng giúp Cơ Xương chấn chỉnh nội trị và xây dựng lực lượng nước Chu để mưu đánh đổ nhà Thương tàn bạo mất lòng dân.

Khương Tử Nha tiếp tục phò Cơ Phát ( Vũ Vương – 1226 Trước Công Nguyên) đánh bại Trụ Vương (nhà Thương) và được phong làm vua Tề (Tề Thái Công) ở đất Doanh Châu. (Tiểu thuyết dã sử Phong Thần diễn nghĩa có bao gồm các tư liệu lịch sử và truyền thuyết về Khương Tử Nha).


VĂN  THAO:  DỤNG NHÂN – TRỊ QUỐC

Thiên thứ 1: Văn sư

Văn Vương sắp đi săn.

Sử Biên gieo quẻ bói rằng: “Đại Vương săn ở đất Vị Dương thì sẽ được việc lớn. Không phải được rồng, lân, cọp, giấu mà là điềm được bậc công hầu Trời cho xuống giúp đại vương để lập sự nghiệp, hưng thịnh như thời Tam Vương vậy”.

Văn Vương nói: “Điềm này tốt đến thế ư?”

Sử Biên tâu: “Xưa Thái tổ của thần là Sử Trù chiêm quẻ cho vua Vũ gặp Cao Dao cũng được điềm này”.

Văn Vương bèn nghỉ ngơi ăn chay ba ngày rồi xa giá đền miền Vị Dương, chợt thấy Thái Công đang ngồi dưới túp liều tranh câu cá.

Văn Vương đến úy lạo và hỏi: “Người thích câu cá lắm ư?”

Thái Công đáp: “Thần nghe nói quân tử thích thỏa chí của mình, tiền nhân thích được việc của mình. Nay thần ngồi câu ở đây cũng giống như vậy, chứ không hẳn là vui thích”.

Văn Vương hỏi: “Sao gọi là giống như thế?”

Thái Công đáp: “Câu cá có ba điều cân nhắc:

– Tùy quyền mà ban bổng lộc.

–  Tùy quyền mà khiến người chết.

– Tùy quyền mà định tước quan.”

Câu cá để đạt được nguyện vọng của mình thì ý nghĩa sâu sắc có thể “làm nên việc lớn”.

Văn Vương nói: “Xin cho nghe về ý nghĩa này.”

Thái Công đáp: “Nguồn sâu nên nước chảy, nước chảy là cái Lí sinh ra cá. Rễ sâu nên cây lớn, cây lớn là cái Lí sinh ra quả. Quân tử cùng chí hướng nên hợp nhau, hợp nhau là cái Lí sinh ra sự việc.

Đối đáp bằng ngôn ngữ là cái bề ngoài của tính cách, còn câu nói chính là lẽ tận cùng của sự việc. Nay thần nói chí tình không hề kiêng nể, Đại vương có lấy làm trái ý chăng?”

Văn Vương nói: “Người có lòng nhân ái mới chịu nghe điều can gián, không ghét lời nói chí tình. Vậy những lời nói ấy là chi?”

Thái Công đáp: “Dây bé mồi nhỏ thì cá nhỏ ăn. Dây vừa mồi thơm thì cá hạng trung ăn. Cá ăn mồi nên phải mắc câu, người hưởng lộc nên phải theo vua.

Vậy câu cá bằng mồi thì cá sẽ bị bắt, giữ người bằng bổng lộc thì người sẽ làm hết mình, chiếm nước bằng nhà thì nước sẽ bị chiếm, chiếm thiên hạ bằng nước thì thiên hạ sẽ đi theo.

Ôi, miên man, dằng dặc, cảnh hợp ấy ắt phải tan rã. Tối tăm mờ mịt sẽ phải rời xa ánh sáng. Huyền diệu thay!

Cái đức của thánh nhân có thể chinh phục được thiên hạ, há chẳng đủ cho mình vui sao? Những điều lo nghĩ của thánh nhân là tùy theo địa vị của mỗi người mà thu phục họ.”

Văn Vương hỏi: “Thiên hạ không phải là của một người, thiên hạ là của thiên hạ. Chung quyền lợi với thiên hạ thì được thiên hạ, chiếm quyền lợi của thiên hạ thì mất thiên hạ.

Trời có thời, đất có của, cùng hưởng với người là “nhân”. “Nhân” ở đâu thì thiên hạ theo về đấy.

Tha cha cho người, giái cái khó của người cứu người lúc hoạn nạn, giúp người khi khốn đốn là đức. Đức ở đâu, thiên hạ theo về đấy.

Cùng lo, cùng vui, cùng thương, cùng ghét với mọi người là nghĩa. Nghĩa ở đâu thiên hạ theo về đấy.

Con người vốn tham sống sợ chết, thích đức và lợi, làm cho con người được sống được lợi là đạo. Đạo ở đâu, thiên hạ theo về đấy.

Văn Vương bái tạ và nói: “Thật là đúng hay, làm sao ta dám cãi mệnh trời”.

Bèn mời ông cùng ngự xe trở về, phong Thái Công làm Quốc sư.

Thiên thứ 2: Doanh hư

Văn Vương hỏi Thái Công: “Thiên hạ mênh mông sao có lúc đầy lúc vơi, khi yên khi loạn? Vì vua hiền, ngu không giống nhau, hay vì thiên thời biến hóa tự nhiên sinh ra vậy?”

Thái Công đáp: “Vua ngu thì nước nguy dân loạn, vua hiền thì dân trị nước yên. Nên họa phúc là ở vua, chứ không phải ở thiên thời”.

Văn Vương nói: “Xin nghe về bậc hiền quân thưở trước”.

Thái Công đáp: “ Xưa vua Nghiêu trị vì thiên hạ, thời đó gọi người là bậc hiền quân (vua hiền)”

Văn Vương hỏi: “Chính trị thời đó ra sao?”

Thái Công đáp: “ Khi vua Nghiêu trị vì thiên hạ, không trang sức vàng bạc châu báu, không mặc đồ gấm vóc xa hoa, không nhìn vật lạ kỳ, không quí đồ tốt đẹp, không nghe nhạc phóng đãng, không trang hoàng cung viện, không chạm trổ kèo cột, không cắt cỏ trong vườn.

Dùng áo bông mặc khi trời rét, lấy áo vải để che thân, lấy gạo xấu làm cơm, lấy rau hoắc làm canh.

Không bày chuyện bắt dân sưu dịch để thiệt hại mùa màng, dân chúng. Dốc hết tâm trí vào công việc giáo hóa nhân dân.

Quan nào trung chính thi hành pháp luật thì nâng cao ngôi vị, liêm khiết thương dân thì cho bổng lộc nhiều. Ai nhân từ hiếu đễ thì kính yêu, có công trồng trọt thì khích lệ, đạo đức hiền thục thì treo biển nêu danh nơi cổng làng.

Giữ lòng công bình chính trực, dùng pháp luật ngăn cấm điều gian dối. Người mình ghét mà có công thì vẫn thưởng, người mình yêu mà có tội vẫn phạt.

Nuôi dưỡng những người già yếu, góa bụa đơn côi, giúp đỡ các gia đình tai ương chết choc.

Lễ vật dân dâng thì lấy rất nhẹ, thuế má sưu dịch thì cần rất ít nên muôn dân giàu có vui vẻ, không có cảnh đói rét điêu linh. Trăm họ thờ vua như mặt trời, mặt trăng, thương vua như cha mẹ vậy.

Văn Vương nói: “Vĩ đại thay! Cái đức của bậc hiền vương”.

Thiên thứ 3: Quốc vụ

Văn Vương hỏi Thái Công: “Xin cho nghe về việc lớn để trị nước”

Thái Công đáp: “Chỉ cần thương dân”.

Văn Vương hỏi: “Thương dân như thế nào?”

Thái Công đáp: “Làm lợi mà đừng hại, giúp nên mà đừng phá. Để sống mà đừng giết, ban cho đừng chiếm đoạt. Để vui đừng gây khổ, khiến họ mừng mà không giận”.

Văn Vương nói: “Xin giải thích lý do”

Thái Công đáp: “Dân không mất việc là lợi, trồng trọt không lỡ màu là nên. Giảm bớt hình phạt là sống, thu thuế nhẹ là cho. Ít xây cất đền đài là vui, quan lại thanh liêm không sách nhiễu dân là mừng.

Dân bị mất việc là hại, trồng trọt lỡ mùa là hư. Không tội mà phạt là giết, thu thế nặng là đoạt. Xây nhiều đền đài khiến dân mỏi mệt là khổ. Quan lại tham ô sách nhiễu dân lành là giận.

Nên người trị nước chăm sóc dân như cha mẹ thương con, như anh thương em, thấy dân đói rét thì lo, thấy dân khổ nhọc thì buồn, thưởng phạt như chính mình phải chịu, thu thuế như chính mình phải đóng. Đấy là đạo thương dân”.

 Thiên thứ 4: Đại lễ

Văn Vương hỏi Thái Công: “Lễ nghi của đạo vua tôi như thế nào?”

Thái Công đáp: “Trên phải soi xét, dưới phải thâm trầm, soi xét mà không xa dân, thâm trầm mà không giấu giếm. Trên phải chu toàn, dưới phải yên định. Chu toàn là trời, yên định là đất. Có trời có đất thì thành đại lễ”.

Văn Vương hỏi: “Làm chủ như thế nào?”

Thái Công đáp: “Khoan thai mà điềm tĩnh, ôn hòa nhưng thẳng thắn. Định trước mọi việc, cho mà không tranh, khiêm nhường bình dị, lấy sự công bằng mà xử thế”.

Văn Vương hỏi: “Chủ phải nghe như thế nào?”

Thái Công đáp: “Đừng nghe xằng mà hứa, đừng thấy trái mà chống. Hứa sẽ không giữ được, chống sẽ gặp bế tắc. Núi cao trông lên không thấy được ngọn, vực sâu nhìn xuống không lường được đáy. Cái đức của bậc thánh minh là công chính,trầm tĩnh vô cùng”.

Văn Vương hỏi: “Chủ phải sáng suốt như thế nào?”

Thái Công đáp: “Khoan thai mà điềm tĩnh, ôn hòa nhưng thẳng thắn. Định trước mọi việc, cho mà không tranh, khiêm nhường bình dị, lấy sự công bằng mà xử thế”.

Văn Vương hỏi: “Chủ phải nghe như thế nào?”

Thái Công đáp: “Đừng nghe xằng mà hứa, đừng thấy trái mà chống. Hứa sẽ không giữ được, chống sẽ gặp bế tắc. Núi cao trông lên không thấy được ngon, vực sâu nhìn xuống không lường được đáy. Cái đức của bậc thánh minh là công chính, trầm tĩnh vô cùng”.

Văn Vương hỏi: “Chủ phải sáng cuốt như thế nào?”

Thái Công đáp: “Mắt quý ở chổ sáng, tai quý ở chổ rõ, lòng quý ở chổ biết. Lấy mắt của thiên hạ mà xem thì không có gì là không nhìn thấy. Lấy tai của thiên hạ mà nghe, thì không có gì là không nghe thấy. Lấy lòng của thiên hạ mà nghĩ thì không có gì là không biết. Họp dân lại mà làm thì sáng suốt, không gì có thể che lấp được.

 Thiên thứ 5: Minh truyền

Văn Vương nằm trên giường bệnh, cho mời Thái Công Vọng và Thái Tử Phát đến bênh mình và nói: “ Than ôi! Trời sắp bỏ ta. Xã tắc nhà Châu sẽ thuộc về con. Nay ta muốn quốc sư nói về đạo cả để mình truyền cho con cháu về sau”.

Thái công nói: “ Đâị vương muốn hỏi điều chi?”

Văn Vương nói: “Xin nghe về đạo của tiên thánh do đâu mà ngưng trệ, do đâu mà hưng khởi”.

Thái Công đáp: “ Thấy người lành mà khinh, thời cơ đến mà nghi, biết sự trái mà làm, là ba điều khiến cho đạo phải ngưng.

Còn nhu mà tĩnh, cung mà kính, mạnh mà mềm, nhịn mà cứng, là bốn điều khiến cho đạo được hưng khởi.

Nên danh nghĩa thắng dục vọng thì thịnh, dục vọng thắng nhân nghĩa thì mất, kính thắng khinh thì tốt, khinh thắng kính thì bị diệt.”

Thiên thứ 6: Lục thủ

Văn Vương hỏi Thái Công: “Vua là chủ của dân, thế mà cũng có khi mất là vì sao?”

Thái Công đáp: “Vì không thận trọng trong việc giao phó, làm vua có sáu điều phải giữ và ba điều quý”.

Văn Vương hỏi: “Sáu điều phải giữ là gì?”

Thái Công đáp: “Một là nhân, hai là nghĩa, ba là trung, bốn là tín, năm là dũng, sáu là mưu. Đấy là sáu điều phải giữ.”

Văn Vương hỏi:”Làm sao chọn được người có sáu điều này?”

Thái Công đáp:”Giàu có mà không phạm pháp, được quý trọng mà không kêu căng, giao việc mà không thay lòng, sử dụng mà không phải đề phòng, lâm nguy mà không sợ hãi, xử lí công việc mà không lúng túng.

Giàu sang mà không phạm pháp là nhân, cao quý mà không kêu căng là nghĩa, được giao phó mà không đổi lòng là trung, được dùng mà không đề phòng là tín, lâm nguy mà không sợ hãi là dũng, xử lí công việc mà không lúng túng là mưu.

Làm vua không có ba điều quý thì mất quyền uy.”

Văn Vương nói:”Xin hỏi về ba điều quý ấy”.

Thái Công đáp:”Đại nông, đại công, đại thương là ba điều quý.

Nhà nông canh tác trong làng thì lúa gạo đủ ăn. Người thợ hành nghề trong làng thì dụng cụ đủ dùng. Thương gia buôn bán trong làng thì hàng hoá đủ tiêu dùng. Ba điều quý này đặt yên ở mỗi nơi thì dân không lo nghĩ, không loạn trong làng, không loạn trong họ, quan không giàu hơn vua, đô thị không to hơn nước.

Sáu điều giữ được lâu dài thì vua mạnh. Ba điều quý được vuông tròn thì nước yên.”

Thiên thứ 7: Thủ thổ

Văn Vương hỏi Thái Công: “Việc giữ đất đai như thế nào?”

Thái Công đáp:”Không xa người thân, không khinh người lành, an ủi kẻ giúp việc cho mình, chế ngự lân bang ở bốn mặt.

Không mượn người nhiếp chính. Mượn người nhiếp chính sẽ mất quyền hành. Không đào hoang mà đắp gò. Không bỏ gốc mà chừa ngọn.

Mặt trời lên đỉnh đầu thì đất phải nắng, cầm dao phải cắt, cầm rìu phải chặt. Đứng bóng mà không nắng thì trái thời. Cầm dao mà không cắt thì bỏ lỡ dịp bén. Cầm rìu mà không chặt thì giặc sẽ đến nơi.

Nước chảy lâu ngày sẽ thành sông ngòi. Một đớm lửa nhỏ không dập sẽ bốc lên cao. Hai nhánh cây không phạt thì sau phải dùng đến búa to.

Nên làm vua phải lo việc giàu thịnh. Không giàu thì không có gì để làm việc nhân. Không thịnh thì không lấy gì để kết tình thân thiện. Xa người thân thì hại. Mất dan lành thì hỏng.

Không mượn nhân tài, vũ khí của người. Mượn nhân tài và vũ khí của người thì sẽ bị hại, không giũ tròn quyền cai trị của mình.”

Văn Vương hỏi: “ Thế nào là nhân nghĩa?”

Thái Công đáp: “ Kính mến dân lành, kết hợp người thân. Kính mến dân lành thì hoà thuận. Kết hợp người thân thì vui vẻ. Đấy là đầu mối của nhân nghĩa.

Đừng để người khác cướp uy vua, dựa vào sự sáng suốt, thuận với lẽ thường. Người theo thì lấy đức mà dùng, kẻ nghịch thì lấy thế mà diệt.

Không đa nghi thì thiên hạ mới hoà phục.”

Thiên thứ 8: Thủ quốc

Văn Vương hỏi Thái Công: “Việc giữ nước như thế nào?”

Thái Công đáp: “Xin đại vương sống thanh tịnh rồi thần sẽ nói về lẽ bất dịch của trời đất, sự sinh biến của bốn mùa, đạo của bậc thánh nhân và cơ tình của dân gian”.

Vua bèn ăn chay, thanh tịnh bảy ngày, hướng về hướng Bắc lạy hai lạy rồi hỏi.

Thái Công nói: “Trời sinh ra bốn mùa, đất sinh vạn vật, trong thiên hạ có dân, bậc thánh nhân phải trông nom dẫn dắt.

Nên mùa xuân là mùa sinh nở, vạn vật tốt tươi. Mùa hạ là mùa tăng trưởng, vạn vật lớn mạnh. Mùa thu là mùa ngưng tụ, vạn vật đầy đủ. Mùa đông là mùa ẩn tàng, vạn vật yên tĩnh.

Đầy đủ thì ẩn tàng, ẩn tàng rồi lại phát ra không biết đâu là đầu, không biết đâu là đuôi. Thánh nhân so sánh để tìm ra lẽ bất dịch của trời đất.

Nên phải dùng âm mà phát, dùng dương mà hội. Khởi sướng trước trong thiên hạ rồi mới làm, làm khác với lẽ thường để hoà hợp. Không tiến mà tranh, không lui mà nhường. Giữ được như thế thì nước nhà có thể vinh quang như trời đất”.

Thiên thứ 9: Thượng hiền

Văn Vương hỏi Thái Công: “Làm vua phải nâng cái gì? Hạ cái gì? Lấy cái gì? Bỏ cái gì, cấm cái gì, ngăn cái gì?”.

Thái Công đáp: “Làm vua phải nâng người hiền, hạ kẻ dữ, lấy sự thành tín, bỏ điều gian xảo, cấm chuyện bạo tàn, ngăn việc xa hoa. Nên làm vua có sáu điều hư và bảy điều hại”.

Văn vương hỏi: “Xin nghe về lẽ ấy”.

Thái Công đáp: “Sáu điều hư là:

1. Bề tôi cất lâu đài thủy tọa to lớn, đàn hát vui chơi phương hại đến mức độ của vua.

2. Dân không lo trồng trọt, vui thú chơi bời, phạm điều luật cấm, không nghe quan dạy, phương hại đến phong hóa của vua.

3.  Bề tôi cấu bè kết đảng, che lấp người hiền trí, ngăn trở sự sáng suốt của chủ, phương hại đến quyền hành của vua.

4. Kẻ sĩ có ý chống đối, nhờ tiết tháo thanh cao mà có uy thế, ngoài thì kết giao với chư hầu, không tôn trọng chúa, phương hại đến uy danh của vua.

5.  Bề tôi khinh rẻ tước ngôi, làm điều xấu xa gây khó khăn cho thượng cấp, phương hại đến công lao của bậc cung thần.

6. Những tông phái mạnh chiếm đoạt quyền hành, áp bức người nghèo yếu, phương hại đến nghề nghiệp của dân.

Bảy điều hại là:

1.  Những kẻ không trí lược quyền mưu mà được trọng thưởng tước cao nên hùng hổ coi thường, cậy vào sự rủi may. Vua phải cẩn thận, không nên cho làm tướng.

2. Những kẻ có tiếng mà không có tài, ra vào dị nghị, phô bày điều tốt che giấu việc hay, khéo lui khéo tiến. Vua phải cẩn thận không nên bàn mưu.

3. Những kẻ hình dáng ra vẻ chất phát, ăn mặc giản gị, đối đáp như không cầu danh, nói năng có vẻ không cầu lợi, là người giả dối. Vua phải cẩn thận không nên gần gũi.

4. Những kẻ đai mũ khác người, mặc đồ kì dị, hay nghe biện bác, bàn luận cao xa, ở nơi vắng vẻ, cho mình là tốt, chê bai thế tục, là người gian xảo. Vua phải cẩn thận, không nên sủng ái.

5.  Những kẻ dèm pha, nịnh hót để cầu quan tước, tham lam vô độ, coi thường cái chết, thấy lợi thì làm, không nghĩ đại sự, đặt điều hư thực, nói trước mặt vua. Vua phải cẩn thận không nên tin dùng.

6. Những kẻ hành nghề chạm trổ đồ gang sắt, tuy khéo léo đẹp đẽ nhưng có hại cho việc nhà nông. Vua phải cấm đoán.

7.  Những kẻ có thuật dị kì giả dối, đồng bóng tà đạo, nói điều không tốt, mê hoặc dân lành. Vua phải ngăn cấm.

Cho nên, dân không cố gắng thì không phải là dân của ta. Kẻ sĩ không thành tín thì không phải là kẻ sĩ của ta. Tướng quốc mà không biết làm cho nước giàu dân mạnh, điều hòa âm dương để làm yên lòng vua, sửa sai quần thần, dùng người tài danh, khiến cho muôn dân vui vẻ, thì không phải là tướng quốc của ta.

Đạo làm vua như đầu rồng, ngựa trên cao để nhìn xa, quan sát kỹ để nghe rõ, chỉ rõ lộ trình như trời cao không thể đến, như vực sâu không thể đo.

Cho nên điều đáng giận mà không giận thì gian thần lộng hành, đáng giết mà không giết thì giặc lớn nổi lên, quân đội mà không tăng cường thì nước địch sẽ mạnh hơn”.

Văn Vương nói: “Thật là hay lắm”.

Thiên thứ 10: Cử hiền

Văn Vương hỏi Thái Công: “Vua lo cử người hiền mà không nên việc gì cả, khiến đời càng thêm loạn đến nỗi bị nguy vong là vì sao?”

Thái Công đáp: “Cử người hiền mà không dùng thì chỉ có tiếng là cử hiền mà không thực sự dùng hiền”.

Văn vương hỏi: “Lỗi đó tại ai?”

Thái Công đáp: “Lỗi đó là vì vua chỉ thích dùng người theo lời khen ở đời, nên không được người hiền chân chính”.

Văn Vương hỏi: “Tại sao vậy?”

Thái Công đáp: “ Vua thấy người đời khen thì cho là người hiền, thấy người đời chê thì cho là không hiền. Nên nhiều người phe đảng ủng hộ thì có thể tiến thân, người ít phê đảng ủng hộ thì phải đưa về. Do đó mà bọn gian tà liên kết để che giấu người hiền.

Do đó trung thần vô tội mà bị chết, gian thần nhờ hư danh mà được tước vị, nên đời càng loạn, thì nước không tránh khỏi cảnh nguy vong”.

Văn Vương hỏi: “Cử người hiền như thế nào?”

Thái Công đáp: “Phân định chức vụ tướng quân và tướng quốc rồi chọn người hiền ra làm quan bằng cách thi tuyển danh tài, tài phải xứng với danh, danh phải xứng với tài thì mới đúng là cử người hiền.”

Thiên thứ 11: Thưởng phạt

Văn Vương hỏi Thái Công: “Thưởng cốt để khen, phạt cốt để ngăn. Nay trẫm muốn thưởng một người để khuyên trăm người, phạt một người để răn dân chúng thì phải làm như thế nào?”

Thái Công đáp: “Thưởng quý ở chữ tín, phạt quý ở chữ đúng. Thưởng cho đúng công, phạt cho đúng tội, để cho mọi người nghe thấy, thì những người không nghe thấy không khỏi không thầm phục.

Lòng thành còn thấu đến trời đất, thông đến thần linh, huống hồ là đối với con người”.

Thiên thứ 12: Binh đạo

Vũ Vương hỏi Thái Công: “Đạo dùng binh như thế nào?”

Thái Công đáp: “Phạm đạo dùng binh không gì hơn một. Nắm vững được một, thì có thể từ đó tung hoành.

Một lấy đạo làm gốc, lấy thân biến hóa làm ngọn, tùy thời cơ mà sử dụng, tùy thời thế mà thể hiện, do vua mà hình thành. Nên bậc thánh vương gọi việc binh là việc hệ trọng bất đắt dĩ mới dùng đến.


VÕ THAO: DỤNG BINH

 Thiên thứ 1: Phát khải

      Văn Vương ở đất Phong, mời Thái Công đến mà nói rằng: “ Than ôi, vua Thương tàn ác vô cùng, giết hại người vô tội. Khanh đang có cách gì để giúp đỡ dân đang đau khổ chăng?”

Thái Công đáp: “Vua nêm sửa đức để người hiền cảm phục, ban ân để dân thấy đạo trời.

Không có tai ương thì không thể khởi xướng đạo trời. Không có tai họa thì không thể toan tính đạo người.

Phải lấy thiên tai và nhân họa thì mới mưu được việc lớn. Phải thấy được phải trái thì mới biết được lòng người. Phải thấy bên ngoài và bên trong thì mới rõ được ý người, phải thấy chỗ sơ hở và chỗ thân thì mới hiểu được tính người.

Bây giờ theo đạo mà làm, đạo sẽ được thi hành, theo cửa mà vào, theo cửa sẽ được mở cho vào. Đặt ra việc lễ, lễ nghi sẽ thành. Đấu tranh bằng sức mạnh, sức mạnh sẽ chiến thắng.

Toàn thắng mà không phải đánh nhau, không cần lập đại binh, cảm thông đến quỷ thần. Huyền diệu thay!

Đối với người, cùng bị bệnh thì cứu nhau, cùng bị thương thì dựa vào nhau, cùng bị ghét thì giúp nhau, cùng thích thì hợp nhau. Nên không cần giáp binh mà vẫn thắng. Không cần xung đột, mà vẫn tiến công, không cần hào lũy mà vẫn cố thủ.

Người có trí lớn không cần đến trí, có mưu cao không cần đến mưu, có dũng khí không cần đến dũng, có lợi to không cần đến lợi.

Làm lợi cho thiên hạ thì thiên hạ chào đón, làm hại cho thiên hạ thì thiên hạ chối từ. Thiên hạ không phải của một người, thiên hạ là của cả thiên hạ. Chiếm lấy thiện hạ như việc săn thú, mà mọi người đều tin rằng mình sẽ được chia phần thịt, cũng như ngồi chung thuyền mà sang sông, qua được thì cũng có lối đi, mà thất bại thì cùng bị hại, nên tất cả đều chờ đón mà không chối từ.

Không lấy của dân là chiếm được dân, không lấy của nước là chiếm được nước, không lấy của thiên hạ là chiếm được thiên hạ.

Không lấy của dân thì dân làm lợi cho mình, không lấy của nước thì nước làm lợi cho mình. Không lấy của thiện hạ thì thiên hạ làm lợi cho mình.

Cho nên đạo hay ở chỗ không thể thấy, sự hay ở chỗ không thể nghe, thắng hay ở không thể biết. Huyền diệu thay!

Chim cắt sắp bắt mồi thì ngưng bay thu cánh, thú dữ sắp vồ thì nép mình cụp tai, thánh nhân sắp hành động thì có vẻ dại khờ.

Nay ở nước Thương, dân chúng ngờ vực lẫn nhau, tinh thần hoang mang, đời sống khổ cực vô cùng. Đấy là cái điềm mất nước.

Ta nhìn thấy ngoài đồng cỏ nhiều hơn lúa, dân chúng thì gian nhiều hơn ngay, quan lại thì tham tàn bạo ngược, bất chấp cả luật pháp trên dưới đều không giác ngộ. Đấy là lúc mất nước.

Đại minh phát ra thì muôn vật đều sáng. Đại nghĩa phát ra thì muôn vật đều lợi. Đại binh phát ra thì muôn vật đều phục tùng.

Vĩ đại thay! Cái đức của thánh nhân! chỉ nghe chỉ thấy cũng đủ vu lòng”.

Thiên thứ 2: Văn khải

     Văn Vương hỏi Thái Công: “Thánh nhân phải giữ điều gì?”

Thái Công đáp: “Phải lo nghĩ, xót xa, quan tâm đến vạn vật. Xót xa lo nghĩ, quan tâm thì vạn vật sẽ hết lòng vì mình. Chính sách ban ra, ai cũng biết. Thời cơ chưa đến, ai cũng biết lúc đổi thay. Thánh nhân giữ điều này mà cảm hóa vạn vật.

Phàm cái gì đến chỗ cùng tận thì trở lại lúc ban đầu. Muốn tốt muốn nhàn thì khéo léo mà cầu mong. Cầu mong mà được thì không thể không giữ lấy, đã giữ lấy thì không thể không hành động, đã hành động thì không nên  khoe mình.

Trời đất không khoe mình nên tồn tại lâu dài. Thánh nhân không khoe mình nên nên tên tuổi rạng rỡ.

Xưa Thánh nhân tập hơp người lại thành nhà, tập hợp nhà lại thành nước, hợp nước lại thành thiên hạ, phong hầu cho người hiền, lập thành vạn quốc, gọi là đại kỉ.

Đặt ra chính sách, dạy dỗ, dựa theo phong tục của dân, sửa điều trái thành ngay, thay hình đổi dạng muôn nước đều thông, khắp nơi đều vui vẻ, mọi người đều thương vua, gọi là đại thịnh.

Ôi, Thánh nhân lo ổn định, hiền nhân lo chỉnh đốn, kẻ ngu không thể chỉnh nên tranh chấp với người trên, nên có nhiều hình phạt, hình phạt nhiều thì dân lo lắng, dân lo lắng nên lưu vong khắp nơi, trên dưới sống không yên, cứ thế kéo dài từ đời này sang đời kia gọi là đại thất.

Người trong thiên hạ ví như dòng nước chảy, hễ ngăn thì dừng, mở thì chảy, yên thì trong.

Thần diệu thay! Thánh nhân thấy được cái khởi đầu thì biết được sự kết thúc”.

Văn Vương hỏi: “Làm sao yên?”

Thái Công đáp: “Trời có hình tượng của trời, dân có đời sống bình thường, cùng dân chung sống thì thiên hạ yên. Xưa bậc minh quân noi theo đó mà cảm hóa dân, dân được cảm hóa thì tuân theo chính sách, nên làm nên sự nghiệp, giàu có. Đấy là cái đức của thánh nhân”.

Văn Vương nói: “Lời nói của người rất hợp với lòng ta vậy. Ta sẽ đêm ngày ghi nhớ không quên đển dùng làm đạo”.

Thiên thứ 3: Văn phạt

    Văn Vương hỏi Thái Công: “ Văn phạt là thế nào?”

 Thái Công đáp: “Văn phạt có mười hai điều:

+ Điều 1:  Tùy sở thích của người mà chiếu theo ý họ, họ sẽ sinh lòng kiêu hãnh, sẽ hay gây sự, ta nhân dịp đó mà trừ đi.

+ Điều 2: Thân thiện với người họ yêu quý để chia xẻ uy quyền, một người mà hai lòng nội bộ ắt suy, trong triều không có trung thần thì xã tắc phải nguy.

+ Điều 3:  Mua chuộc những người thân cận để gây cảm tình. Thân ở trong mà lòng ở ngoài thì nước sẽ bị hại.

+ Điều 4: Cho họ hưởng lạc để làm tan ý chí, biếu nhiều châu ngọc, hiến dâng gái đẹp để mua vui, nói năng khiêm nhường thuận với lẽ phải thì họ sẽ không tranh, gian kế ấy sẽ thành.

+ Điều 5: Đối với trung thần không được hối lộ, vờ lưu giữ họ, khiến cấp trên không nghi họ mà thay ngay kẻ khác. Ta đối với họ thành thật, thân mật và tin tưởng. Vua sẽ triệu họ về mà nghiêm trị. Khi đó ta có thể mưu việc lấy nước.

+ Điều 6:  Mua chuộc bên trong, li gián bên ngoài, khiến cho quan giỏi giúp bên ngoài, địch đánh vào trong thì họ không tránh khỏi mất nước.

+ Điều 7:  Muốn nắm được lòng người thì phải biếu xén thật nhiều, thu phục những người thân cận trung tín với vua, chỉ ra cái lợi khiến họ lơ là công việc mà gây nên sự suy yếu trong nước.

+ Điều 8:  Hối lộ đò quý báo rồi nhân đó cùng mưu tính công việc. Mưu có lợi thì họ phải tin, gọi là trung thân (đã thân lại thêm thân), thân nhiều thì ta có thể dùng. Ở trong nước mà lòng hướng ngoại thì nước sẽ đại bại.

+ Điều 9:  Tôn cho họ một danh vị mà không hại đến bản thân họ. Biểu dương thế lực cho họ tin tưởng mà sinh lòng tôn kính. Trước hết làm cho họ được vinh quang, vờ coi họ như thánh thần thì có thể lấy được nước.

+ Điều 10:  Hạ mình cho họ tin để biết rõ tình hình, tuỳ theo ý họ mà ứng biến, như cùng chung sống với nhau, lúc đã được lòng họ thì từ từ mà thu phục dân chúng, chờ khi thời cơ đến là lúc Trời diệt họ.

+ Điều 11:  Dùng đạo để che lấp. Từ quan đến dân không ai là không thích giàu sang phú quý, ghét sự chết chóc và tội lỗi. Ta tỏ ra cao quý rồi lén đem báo vật thu phục hào kiệt. Bên trong chất chứa nhiều mà ngoài thì ra vẻ thiếu thốn. Ngầm kết nạp tu sĩ để tính kế bàn mưu, thu dụng dũng sĩ để nâng cao uy thế. Giàu sang sung túc thì vây cánh càng đông, đồ đảng càng nhiều. Đấy là bưng bít. Có nước mà bị bưng bít thì làm sao gọi là có nước?

+ Điều 12:  Nuôi dưỡng loạn thần để mê hoặc vua, hiến nhạc dâm, gái đẹp để quyến rũ vua, nhường chó tốt ngựa hay để giải khuây, cho quyền thế lớn để dụ dỗ. Khi đã kiểm soát được trên thì cùng thiên hạ mưu đồ việc lớn.

Đầy đủ mười hai điều này thì việc binh sẽ thành. Đấy là trên xem trời, dưới xem đất, điều kiện xuất hiện thì có thể đánh chiếm”.

Thiên thứ 4:  Thuận khải

    Văn Vương hỏi Thái Công: “Làm thế nào để trị thiên hạ”.

Thái Công đáp:   “Lượng phải bao trùm thiên hạ rồi sau mới chứa được thiên hạ.

Tín phải bao trùm thiên hạ rồi sau mới giữ được thiên hạ.

Quyền phải bao trùm thiên hạ rồi sau mới không mất thiên hạ.

Làm mà không nghi thì vận trời không thể rồi, thời thế không thể thay đổi.

Sáu điều này có đầy đủ thì mới cai trị được thiên hạ.

Cho nên có lợi cho thiên hạ thì thiên hạ chào đón, có hại cho thiên hạ thì thiên hạ chối từ.

Cho thiên hạ sống thì thiên hạ ghi ân. Giết hại thiên hạ thì thiên hạ làm giặc.

Soi thấu thiên hạ thì thiên hạ cảm thông. Đưa thiên hạ đến chổ cùng cực thì thiên hạ thì thiên hạ oán thù.

Làm cho thiên hạ yên thì thiên hạ tin cậy. Làm cho thiên hạ nguy thì thiên hạ hại mình.

Thiên hạ không phải của một người, nhưng người có “ĐẠO” thì nắm được cả thiên hạ”.

Thiên thứ 5: Tam nghi

        Võ Vương hỏi Thái Công: “Trẫm muốn lập nên nghiệp lớn, nhưng có ba điều nghi ngại: sợ sức mình không thể đánh nước mạnh, không li gián được người thân, không phân chia được dân chúng. Vậy phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Phải mưu tính cẩn thận và dùng nhiều tiền của.

Muốn đánh nước mạnh, phải dưỡng họ cho mạnh, giúp học khuếch trương. Mạnh quá phải gãy, trương quá phải khuyết.

Dùng nước mạnh đánh nước mạnh. Dùng người thân li gián người thân.

Dùng dân chúng phân chia dân chúng.

Phàm đạo dùng mưu, quý ở điểm chu đáo. Tùy sự mà địch, lấy lợi mà nhử thì họ sẽ sinh lòng tranh chấp.

Muốn chia rẽ nội bộ họ thì tùy theo sở thích của họ mà làm cho người họ yêu quý, cho điều họ muốn,vạch rõ điều lợi, rồi nhân đó mà làm họ chia rẽ nhau. Họ thấy lợi thì vui, nhưng đừng cho họ thỏa mãn. Khi gây được hiềm nghi thì dừng lại.

Về phép tấn công, trước phải che mắt địch rồi mới đánh vào chỗ mạnh. Diệt điểm lớn của địch, tránh làm hại cho dân.

Dùng sắc quyến họ mê, dùng lợi nhử họ ăn, dùng hương vị quyến rũ họ, dùng ca nhạc giúp vui. Đã xa người thân ắt phải xa dân.

Đừng cho họ biết mưu kế, cũng đừng để họ biết ý định của mình, ngầm giúp dân để thu phục nhân tâm thì có thể thành công.

Ban ân cho dân thì đừng tiếc của. Dân như trâu, ngựa, phải chăm nom nuôi nấng, nghe và thương mến họ.

Lấy lòng mở mang trí tuệ, dùng trí tìm của, lấy của thu dân, dùng dân đón người hiền.

Đón được người hiền thì làm vua thiên hạ”.


LONG THAO: TUYỂN TƯỚNG

Thiên thứ nhất: Vương dực

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Vua mang quân đi đánh phải có tay chân vây cánh để tạo nên uy thần, muốn vậy thì phải làm thế nào?”

  Thái Công đáp: “Phàm cất quân đi đánh, thì dùng tướng làm mệnh. Mệnh cốt ở chổ thông suốt, chứ không theo một phép nhất định. Tùy theo khả năng mà giao phó nhiệm vụ, tận dụng sở trường của từng người, lấy sự tùy cơ ứng biến làm nguyên tắc.

Nên tướng có 72 người làm tay chân vây cánh, ứng theo số trời định để nghiên cứu phương pháp, hiểu rõ nguyên lí, đủ tài hay thuật lạ, thì mọi việc đều xong cả”.

Võ Vương nói: “Xin hỏi về từng mục”.

Thái Công đáp: “Tâm của một người, chuyên về mưu lược, đối phó cấp thời, diệt trừ biến loạn, nắm trọn mưu kế để bảo toàn tính mạng của dân.

Mưu sĩ:  5 người, lo sự an nguy, tính việc chưa xảy đến, xem xét đức hạnh tài năng, thưởng phạt nghiêm minh, bổ nhiệm quan tước, quyết đoán sự hiềm nghi, định việc nên hay đừng.

+ Thiên văn:  3 người, chuyên xem tinh tú, khí hậu dự đoán ngày giờ, quan sát sự linh ứng, kiểm chứng thiên tai chuyện lạ, biết rõ lòng người và thời cơ tiến lui.

+ Địa lợi: 3 người, lo việc tiến dừng của ba quân, tình thế lợi hại, tin tức gần xa, dễ hay khó, sông núi cách trở ra sao, để không mất địa lợi.

+ Binh pháp:  9 người, nghiên cứu những điểm khác nhau, hành động thành bại, huấn luyện ba quân, chỉ ra những điều sai của binh pháp.

Thông lương: 4 người, lo việc ăn uống, tích trữ lương thực, chuyển vận ngũ cốc, khiến ba quân không bị thiếu thốn.

+ Phần uy: 4 người, chuyên chọn người tài đức, nghiên cứu binh lược, đánh như gió thổi, sấm vang, khiến địch không biết đến từ đâu.

Phục cổ kì: 3 người lo việc dùng cờ trống, làm sáng tai mắt ba quân,mạo chứng thu ấn tín, giả hiệu lệnh đối phương, đi lại trong đêm tối xuất nhập như thần:

Cố vấn: 4 người, đảm nhiệm công tác nặng nề, sửa hào đắp lũy, phòng ngự địch quân.

Thông tài: 3 người, chuyên tìm chổ sơ sót, sửa chữa lỗi lầm, tiếp đãi tân khách, bàn bạc chuyện trò giải quyết việc rắc rối.

Quyền sĩ: 3 người, chuyên làm điều quỹ quyệt, đặt chuyện dị kì, biến trá vô song, không ai biết được.

Nhĩ mục: 7 người, đi lại nghe ngóng tin tức, quan sát biến động, xem xét công việc bốn phương và tình hình trong quân ngũ.

+ Trảo nha: 5 người, chuyên nâng cao uy vũ khích lệ ba quân, khiến họ hăng hái không ngại xông pha chốn hiểm nguy.

Vũ dực: 4 người, chuyên tuyên truyền danh tiếng, kinh động bốn cõi, làm nao núng lòng địch.

+ Du sĩ: 8 người, chờ dịp có âm mưu gian biến móc nối cảm tình, xét ý hướng địch để làm gián điệp

Thuật sĩ: 2 người, lợi dụng quỷ thần làm điều giả dối để mê hoặc lòng dân.

Phương sĩ:  2 người, rành về thuốc men, trị lành bệnh và thương tích.

+ Pháp toán:  2 người, lo việc kế toán trong ba quân, xuất nhập vật dụng, doanh trại, lương thực, tiền của”.

Thiên thứ hai: Luận tướng

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Phép luận tướng như thế nào?”

Thái Công đáp: “Tướng có năm điều hay và mười điều lợi”.

Võ Vương hỏi: “Xin hỏi về từng mục”.

Thái Công đáp: “Năm điều hay là dũng, trí, nhân, tín, trung.

+ Dũng thì không thể xâm phạm.

+ Trí thì không thể rối loạn.

+ Nhân thì hay thương người.

+ Tín thì không dối trá.

+ Trung thì không ở hai lòng.

Mười điều lợi là:

Dũng mà coi thường cái chết. Gấp mà trong lòng vội vã. Tham mà ham lời. Nhân mà không nỡ giết người. Trí mà nhút nhát. Tín mà hay tin người. Liêm mà không thương người. Trí mà chậm chạp. Cương mà chỉ theo ý mình. Nhu mà hay nghe người.

Dũng mà coi thường cái chết thì bị hại. Tham mà ham lợi thì sơ suất. Nhân mà không nỡ giết người thì sinh phiền nhiễu. Trí mà nhút nhát thì bị khốn đốn. Tín mà hay tin người thì bị lừa gạt. Liêm mà không thương người thì bị khinh nhờn. Trí mà chậm chạp thì bị đánh úp. Cương mà chỉ theo ý mình thì thành tai hại. Nhu mà hay nghe người thì bị chèn ép.

Nên việc binh là việc trọng đại, là đạo mất còn của một nước. Mệnh ở trong tay của người tướng nên tướng là người phò tá nước nhà mà xưa kia các bật tiên vương vốn rất coi trọng. Khi phong người làm tướng không thể không xét kỹ.

Cho nên thường nói rằng, binh không thắng hai lần, cũng không thua hai lần, không mất nước thì cũng bị mất tướng tàn quân”.

Võ Vương nói: “Thật là hay vậy”.

Thiên thứ ba: Tuyển tướng

   Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi vua cử binh, muốn tuyển chọn anh hùng, làm sao phân biệt tài cao thấp của kẻ sĩ?”.

Thái Công đáp: “Diện mạo của kẻ sĩ thường không giống với bên trong”.

– Có người nghiêng mà không hiền.

– Có người hiền mà trộm cắp.

– Có người cung kính bề ngoài mà trong lòng khinh người.

– Có người tỏ ra liêm khiết mà không thật thà.

– Có người chung thủy mà bất nghĩa.

– Có người nồng hậu mà không thành tâm.

– Có người giỏi mưu mà không quả quyết.

– Có người quả cảm mà không tài năng.

– Có người thật thà mà không tin được.

– Có người hốt hoảng mà không trung trực.

– Có người quỷ quyệt mà làm nên công.

–  Có người ngoài dạn mà trong nhát.

– Có người trang nghiêm mà dễ dãi.

– Có người quát tháo mà bình tĩnh.

– Có người dáng xấu xa, nhưng khi ra ngoài thì ngang dọc vẫy vùng, không có gì là không làm được. Thiên hạ khinh thường mà thánh nhân quý trọng. Người thường không thể biết nếu không là bật cao minh thì không nhìn thấy điều này. Đấy là điện mạo kẻ sĩ, không giống với suy nghĩ bên trong.

Võ Vương hỏi: “Làm sao mà biết được?

Thái Công đáp: “Có tám cách để biết”

–  Một là dùng lời mà hỏi để xem xét cách ăn nói.

–  Hai là cố tình trách móc để xem sự đổi thay.

–  Ba là cho biết âm mưu để xem lòng thành thật.

–  Bốn là thăm hỏi rõ ràng để xem đức độ.

–  Năm là sai khiến bằng tiền để xem tính thanh liêm.

–  Sáu là thử sắc đẹp để xem sự trinh khiết.

–  Bảy là cho biết khó khăn để xem lòng can đảm.

–  Tám là chuốc rượu cho say để xem thái độ.

Thử bằng tám cách này thì phân biệt được kẻ ngu người hiền”.

 Thiên thứ bốn : Lập tướng

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Đạo lập tướng như thế nào?”.

Thái Công đáp: “Khi đất nước lâm nguy thì vua rời khỏi chính điện, mời vị tướng vào mà dụ rằng “Xã tắc yên nguy, đều do nơi tướng quân. Nay có nước Mỗ không thuần phục, mong tướng quân đem binh đối phó”.

Khi tướng đã nhận mệnh, vua sai quan Thái sư xem xét thiên văn, ăn chay ba hôm nơi Thái miếu, nghiên cứu linh quy, chọn ngày tốt để trao búa rìu.

Vua vào trong miếu, đứng ở cửa bắc, cầm lưỡi búa trao cho tướng mà nói rằng ‘Từ nay trở đi từ mặt đất đến vực thẳm đều do tướng quân chế ngự. Thấy địch yếu thì tiến, địch mạnh thì dừng, không vì quân đông mà khinh địch, chớ vì nhận mệnh mà phải chết. Đừng cho mình cao quý mà khinh người, không độc đoán mà phản bội lòng dân, cũng không nên cho lời của mình là đúng. Quân chưa ngồi thì không ngồi, quân chưa ăn thì không ăn, cùng chung cảnh ấm no đói rét, như thế thì sĩ tốt sẽ chiến đấu quên mình”.

Tướng nhận mệnh xong bái tạ ân vua mà đáp rằng: “Thần nghe nói, nước không thể trị từ bên ngoài, quân không thể trị từ bên trong. Kẻ có hai lòng không thể thờ vua, người nhụt chí không thể đánh giặc. Nay thần đã chịu mệnh vua, nắm trọn quyền uy lãnh đạo, thần không dám tham sống trở về, xin vua hạ lệnh cho thần, nếu vua không cho phép thì thần không dám làm tướng”.

Vua nhận lời, tướng bèn cáo biệt ra đi. Mọi việc trong quân ngũ đều không theo lệnh vua, mà tuân theo lệnh tướng. Gặp địch chỉ quyết chiến, chứ không có hai lòng.

Như vậy thì trên không có trời, dưới không có đất, trước không có địch, sau không có vua. Nên bậc tài trí mới có công giúp vua, người vũ dũng mới gắng sức dẹp giặc. Khí thế cao vút tận mây xanh, tiến nhanh như ngựa phi nước đại, quân chưa giao chiến mà địch đã đầu hàng.

Ngoài thì chiến thắng địch, trong lập được công to, quan được thăng cấp, quân được ban thưởng, trăm họ vui mừng, không còn gặp cảnh tai ương. Do đó mà bốn mùa mưa thuận gió hoà, ngũ cốc phong phú, xã tắc yên vui”.

Võ Vương nói: “Thật là hay lắm”.

 Thiên thứ năm : Tướng uy

     Võ Vương hỏi Thái Công: “Tướng lấy gì làm uy, lấy gì làm sáng, lấy gì làm răn mà lệnh được thi hành?”

Thái Công đáp: “Tướng lấy việc diệt lớn làm uy, thưởng nhỏ làm sáng, hình phạt làm răn mà lệnh được thi hành.

Nên giết một người mà ba quân run sợ thì phải giết. Thưởng một người mà vạn người đều vui thì nên thưởng. Việc giết quý ở chỗ không kể người cấp to, việc thưởng quý ở chỗ kể cả người cấp nhỏ. Giết đến quan đang có địa vị cao quý là phạt đến cấp cao nhất. Thưởng đến kẻ chăn trâu tắm ngựa là thưởng đến tận kẻ dưới.

Phạt đến kẻ trên cùng, thưởng đến tận kẻ dưới là những việc làm tăng thêm uy quyền của người tướng vậy”.

 Thiên thứ sáu: LỆ QUÂN

     Võ Vương hỏi Thái Công: “Trẫm muốn khiến cho ba quân, lúc công thành thì tranh nhau lên, khi dã chiến thì tranh nhau tiến, nghe chiêng khua mà giận, nghe trống đánh mà mừng thì phải làm thế nào?”

 Thái Công đáp: “Tướng có ba điều cần biết”.

Võ Vương hỏi: “Xin hỏi từng mục”.

Thái Công đáp: “Tướng mà mùa hè không cần quạt, mùa đông không mặc áo lông cừu ,gặp mưa không che lọng, gọi là Lễ Tướng. Làm tướng mà thân không giữ lễ, thì không biết được sự nóng rét của sĩ tốt.

Ra chốn hiểm trở, vào nơi sình lầy, tướng phải đi trước, gọi là Lực Tướng. Làm tướng mà bản thân không lao lực thì không biết được sự cực khổ của sĩ tốt.

Quân đã yên nghỉ, tướng mới vào nhà. Cơm đều chín cả, tướng mới đến ăn. Quân không đốt lửa, tướng cũng khôgn đốt. Gọi là Chỉ dục Tướng. Làm Tướng mà không nếm qua cảnh cực khổ thì không biết được sự đói lo của sĩ tốt.

Tướng cùng sĩ tốt chung cảnh nóng rét, cực khổ, đói no thì khi nghe trống đánh ba quân đều mừng, nghe chiêng khua ba quân đều giận, gặp thành cao hào sâu, tên bay đá ném vẫn tranh nhau lên, đao kiếm giáp nhau vẫn tranh nhau tiến, không phải là họ thích bị thương vong, mà vì tướng biết đến cảnh ấm no đói rét, hiểu rõ sự lao khổ của họ”.

 Thiên thứ bảy: Âm phù

     Võ Vương hỏi Thái Công: Đem quân vào sâu đất chư hầu, nếu trong ba quân chợt có việc hoãn gấp có thể có lợi, có thể có hại. Vua với tướng muốn thông báo nhau từ gần đến xa, tiếp ứng nhau từ trong ra ngoài, cung cấp nhu cầu cho ba quân thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Vua và tướng có thứ âm phù: (ám hiệu)

–   Thứ đại thắng dài một thước

–   Thứ giết quân bắt tướng dài 9 tấc

–   Thứ chiếm đất hạ thành dài 8 tấc

–   Thứ báo tin đuổi địch dài 7 tấc

–   Thứ răn quân kiên thủ dài 6 tấc

–   Thứ xin lương thêm binh dài 5 tấc

–   Thứ quân thua tướng mất dài 4 tấc

–   Thứ bất lợi, chết quân dài 3 tấc

Những người nhận lệnh thi hành âm phù cần phải thận trọng, nếu việc trong âm binh bị tiếc lộ thì người nghe kẻ nói đều bị giết.

Vua và tướng dùng tám thứ âm phù này để bí mật thông báo tin tức với nhau chứ không dùng lời nói câu văn.

Đấy là một thuật để trong ngoài hiểu nhau, nên dù địch có thánh trí cũng không thể biết được”.

 Thiên thứ tám: Âm thư

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, vua và tướng muốn họp quân lại để hành sự, biến hoá vô cùng, hay mưu tính việc lợi trong khi địch bất trắc, như thế công việc rất nhiều mà âm phù không diễn tả được, đôi bên lại xa cách, không thể dùng lời nói thông tin với nhau, thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Khi có chuyện mất hay toan tính việc lớn thì nên dùng thư mà không dùng phù. Vua viết thư cho tướng, tướng viết thư hỏi vua. Thư từ đều dùng cách hợp nhất phân chia, ba người phát đưa mà chỉ một người biết, nghĩa là lấy ý trong thư chia ra làm ba phần, giao cho ba người mang đi, nên không ai rõ được sự tình. Như thế gọi là âm thư, dù địch có thánh trí cũng không thể biết được”.

 Thiên thứ chín: Quân thế

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Phép công phạt như thế nào?”

 Thái Công đáp: “Phải nhân sự biến động của địch giữa hai trận đánh mà phát ra thế kì chính vô tận.

Cho nên việc đến không cần bàn, dùng binh không cần bàn nhiều và ít có thời gian, binh đã dùng thì hình dáng không thể lấy nó, chợt đi chợt đến, không ai chế ngự được. Đó mới là biết cách dùng binh.

Phàm việc binh hễ nghe thì bàn bạc, thấy thì mưu đồ, biết liệu chỗ khó khăn, phân biệt việc nguy hiểm. Nên người thiện chiến không chờ đến lúc dàn quân, kẻ khéo trị đã biết diệt trừ khi hoạ chưa xảy đến.

Người giỏi thắng địch, thắng từ lúc vô hình, khi ra trận không được giao chiến. Cho nên tranh thắng nơi trận mạc không phải là tướng giỏi,  phòng bị khi đã mất không phải là bậc thánh, dạy dỗ như mọi người không phải là bậc thánh, trị giống như mọi người không phải là bậc quốc sư, tài nghệ như mọi người không phải là bậc quốc công.

Không gì lớn hơn là việc đã thành. Không gì khéo hơn là bình tĩnh hành động, không gì hay hơn là bất ngờ. Mưu không gì tốt hơn là kín đáo. Người thắng trước là kẻ đã thấy chổ yếu của địch rồi mới đánh, nên chỉ làm một nửa mà hiệu suất gấp bội.

Thánh nhân xem sự biến động của trời đất mà biết được giềng mối, xét đạo âm dương mà tuỳ thế tuỳ thời. Trời đất đầy vơi là lẽ thường, vạn vật sống chết là do hình tượng của trời đất, nên chưa thấy hình dạng mà đánh thì dù đông vẫn thua.

Người thiện chiến, sẵn có tinh thần bất khuất, thấy thắng thì khởi binh, không thắng thì đừng, nên mới nói rằng không sợ hãi mà cũng không do dự. Trong phép dùng binh, do dự là một điều tai hại nhất. Tai vạ trong ba quân, cũng không có gì hơn là hồ nghi.

Người thiện chiến, thấy lợi không thể mất, gặp thời không hồ nghi, vì để mất lợi thì sau phải gánh lấy tai ương.

Nên người có trí, tuỳ thời mà không bỏ lợi. Kẻ khoé tính, cương quyết mà không phân vân, như sấm không kịp che tai, chớp nhanh không kịp nhắm mắt, đi mau như sợ hãi, dùng binh như điên cuồng, ai ngăn thì phải vỡ, ai gần thì phải chết, không ai có thể chống cự.

Tường tướng không nói mà giữ được là thần, không nhìn mà thấy được là minh (sáng). Nên biết đạo thần minh thì trong rừng không có giặc hoành hành, trước mắt không có nước đối lập”.

 Thiên thứ mười: Kì binh

     Võ Vương hỏi Thái Công: “Điều quan trọng trong phép dùng binh như thế nào?”

Thái Công đáp: “Xưa kia, những người thiện chiến không phải đánh ở trên trời, cũng không phải đánh ở dưới đất, mọi việc thành bại đều do “thế” mà ra. Được thế thì thịnh, thất thế thì mất.

Thường giữa hai trận đánh, ta dàn quân cởi giáp cho sĩ tốt nghỉ ngơi,  thi hành kế hoạch của trận đánh.

Đóng nơi cây cỏ rậm rạp để có chỗ ẩn nấp, nơi hang sâu hiểm trở để ngăn xe chống kị binh, nơi núi rừng quan ải để dùng ít đánh nhiều, nơi ao đầm âm u để che giấu hình dáng, nơi đồng trống quang đãng để dùng sức tranh hùng.

Nhanh như tên bay, đạn bắn để phá chỗ tinh vi của địch, bày mưu ẩn núp, đem binh dẫn dụ để phá quân, bắt tướng. Chia tư xẻ năm để phá thế vuông tròn. Khiến địch sợ hãi để dùng một đánh mười. Thừa lúc địch mệt để lấy mười đánh trăm.

Dùng kỹ thuật để vượt sông ngòi. Nỏ cứng giáo dài để đánh thuỷ chiến. Do thám quan ải, đột nhập nhanh chóng để chiếm ấp hạ thành. Đánh trống ầm ĩ để dùng kế lạ. Mưa to gió lớn để đánh trước chặn sau. Giả làm sứ địch để chặn đường tải lương, giả mạo hiệu lệnh, ăn mặc như địch để phòng khi chạy trốn.

Lấy nghĩa mà đánh để khích quân thắng địch. Thăng chức trọng thưởng để khiến quân tuân hành. Nghiêm hình trọng phạt để răn quân lười biếng. Khi vui khi giận, lúc lấy lúc cho, khi văn khi võ, lúc nhanh lúc chậm để điều hoà ba quân trị người dưới trướng.

Ở nơi cao rộng để tiện việc phòng thủ, giữa chốn hiểm nguy để dễ bè củng cố, rừng núi rậm rạp để che dấu sự đi lại, luỹ cao hào sâu lương đầy để cầm cự lâu dài.

Cho nên không biết mưu kế tấn công thì không thể nói là vô địch, không biết cách phân chia thay đổi thì không thể nói là li kì, không giỏi cách trị loạn thì không thể nói là ứng biến.

Nên mới nói rằng: “Tướng không có nhân thì ba quân không thân, tướng không có dũng thì ba quân không tinh nhuệ, tướng không có trí thì ba quân nghi ngờ, tướng không sáng suốt thì ba quân nghiêng ngửa, tướng không tinh vi thì ba quân lơ là, tướng không hay răn dạy thì ba quân không phòng bị, tướng không kiên quyết thì ba quân bê trễ.

Cho nên tướng là tư lệnh của ba quân, có thể khiến ba quân yên, có thể khiến ba quân loạn. Tướng giỏi thì quân cường nước thịnh, tướng không giỏi thì quân suy nước mất”.

Thiên thứ mười một: Ngũ âm

       Võ Vương hỏi Thái Công: “Nghe âm thanh luật quản (nhạc cụ chế bằng ống trúc để làm tiêu chuẩn cho các âm thanh) có thể biết được tin tức của ba quân, có quyết định sự thắng bại hay không?”.

Thái Công đáp: “Câu hỏi của vua thật là sâu sắc. Luật quản có mười hai thứ, căn bản là ngũ âm: cung, thương, giác, chuỷ, vũ. Đấy là những âm thanh chính, muôn đời không thay đổi, là chỗ thần diệu của ngũ hành mà cũng là lẽ thường của đạo.

Nhờ ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ ta có thể biết được địch và dùng cái hay của mỗi loại để tấn công họ.

Ngày xưa, Tam Hoàng, lấy sự khiêm nhường mà trị sự cứng cỏi, chưa có chữ nghĩa, chỉ dùng ngũ hành. Ngũ hành là đạo tự nhiên của trời đất, chia thành lục giáp thần diệu vô cùng.

Phương pháp áp dụng là nhân lúc trời trong sáng không mây mù mưa gió, nửa đêm đem quân đột nhập thành luỹ địch, cách hơn chín trăm bước, tay cầm luật quản, gào thét bên tai địch, trong âm thanh kích động xen lẫn tiếng quản nghe rất nhỏ.

Tiếng trổ âm giác (mộc) thì dùng bạch hổ (kim), trổ âm thuỷ (hoả) thì dùng huyền vũ (thuỷ), trổ âm thương (kim) thì dùng chu tước (hoả), trổ âm vũ (thuỷ) thì dùng câu trần (thổ). Tiếng quân chấm dứt không trổ âm nào là cung (thổ) thì dùng thanh long (mộc), đấy là âm hiệu ngũ hành giúp cho chiến thắng, là cơ sở của sự thành bại”.

Võ Vương nói: “hay lắm”

Thái Công tiếp: “Khi nghe âm thanh khác lạ thì phải dò xét bên ngoài”

Võ Vương hỏi: “Làm sao mà biết?”

Thái Công hỏi: “Trong khi địch kinh động thì ta để ý nghe. Nghe tiếng trống là giác, thấy lửa sáng là chuỷ, nghe tiếng kim khí là thương, nghe tiếng reo hò là vũ, im lặng không có tiếng động là cung. Đấy là âm điệu của thanh sắc”.

Thiên thứ mười hai: Binh trưng

 Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi chưa đánh nhau, ta muốn biết biết trước sự mạnh yếu của địch, thấy trước cái điểm thắng bại thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Cái điềm thắng bại, có thể nhìn thấy ở tinh thần. Người tướng sáng suốt biết xem xét, thì cái bại thuộc về người khác.

Cẩn thận là do sự ra vào tiến lui của địch, xem xét động tĩnh, lời nói tốt xấu do binh sĩ địch tiết lộ.

Nếu ba quân vui vẻ, sĩ tốt tôn trọng pháp luật, tuân theo lệnh tướng, lấy việc phá địch để cùng vui, lấy lòng dũng mãnh để phô tài, lấy uy vũ để kính nhau, thì đấy là điểm mạnh.

Nếu ba quân hay sợ hãi. Sĩ tốt không một lòng lấy địch mạnh doạ nhau, đem điều bất lợi bảo nhau, kháo nhau không hết chuyện xấu, mọi người bàn tán nghi hoặc lẫn nhau, không theo pháp luật, không trọng tướng mình, thì đấy là điểm yếu.

Nếu ba quân tề chỉnh, trận thế vững vàng, thành cao hào sâu, lại được lợi khi mưa to gió lớn, ba quân chỉ cờ ra phía trước, tiếng chiêng vang rất thanh, tiếng trống kêu rất rõ, thì đấy là sự giúp đỡ của thần linh, là điểm thắng lớn.

Nếu ra trận không vững vàng, cờ xí rối loạn quấn lấy nhau, không lợi khi mưa to gió lớn, sĩ tốt kinh hãi, khí thế bị mất, ngựa chiến sợ chạy, xe bị gảy trục, tiếng chiêng thấp đục, tiếng trống khàn như bị thấm nước, thì đấy là điểm thua to.

Phàm đánh thành vây ấp mà trông thấy khí sắc trong thành như tro tàn thì thành ấy có thể đánh được, khí trong thành bốc về hướng Bắc thì thành ấy có thể lấy được. Bốc về hướng Tây thì thành ấy phải đầu hàng. Bốc về hướng nam thì thành ấy không thể chiếm được. Bốc về hướng Đông thì thành ấy không thể đánh được. Bốc rồi lại bay vào làm chủ tướng chạy trốn. Bốc lên rồi che trên quân ta thì quân ta mắc bệnh. Bốc lên cao mãi không dứt là phải chiến đấu lâu dài.

Khi đánh thành vây ấp quá một tuần mà không mưa không sấm, thì phải bỏ đi ngay, vì trong thành đã có người trợ giúp.

Đấy là điềm để biết trước có thể đánh được thì mới đánh, không thể đánh được thì thôi”

Thiên thứ mười ba: Nông khí

     Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi thiên hạ yên ổn trong nước vô sự, ta không cần tu bổ chiến cụ, không cần lo việc phòng thủ có được chăng?”

Thái Công đáp: “Những công cụ tấn công hay phòng thủ đều do công việc của con người.

Việc cầy cấy gây trở ngại cho ngựa đi. Xe cộ, ngựa, trâu là dinh lũy, thuẫn, mộc. Dụng cụ cầy bừa là binh khí, mâu, kích. Dù, nón, áo tơi là binh giáp che thân. Cuốc, mai, búa, cưa, chày, cối là vật dụng đánh thành. Trâu, bò, ngựa để vận tải lương thực. Chó, gà để canh phòng kẻ địch. Đàn bà dệt vải để làm cờ xí. Đàn ông san đất là đánh thành.

Mùa xuân sạch cỏ gai là đánh kị binh, mùa hè làm cỏ ngoài đồng là đánh quân bộ, mùa thu gặt lúa là dự trữ lương thực, màu đông chất đầy kho chứa là để phòng thủ vững chắc.

Tổ chức hàng ngũ ở ruộng vườn là tín hiệu gắn bó. Trong làng có viên chức, trong quan có hàng tướng soái. Quanh làng có tường ngăn cách là phân chia đội ngũ. Thu thóc, lấy cỏ làm kho chứa. Xuân thu hai mùa sửa sang thành quách, tu chỉnh mương rạch để đắp chiến lũy.

Cho nên vật dụng dùng vào việc binh là đều ở công việc của con người. Biết chọn những công việc đó là người giỏi trị nước, nên phải khéo dùng các loại gia súc, khai khẩn đất đai, ổn định nhà cửa, đàn ông làm ruộng, đàn bà dệt vải. Đấy là đạo khiến cho nước nhà yên mạnh”.

Võ Vương nói: “Thật là hay vậy”.


HỔ THAO: QUÂN HÌNH, KHÍ TÀI

Thiên thứ nhất: Quân dụng

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi vua điều binh, các vật dụng trong ba quân, chiến cụ quân khí ít hay nhiều, có theo khuôn phép không?”.

Thái Công đáp: “Câu hỏi của vua thật là lớn. Các loại chiến cụ quân khí đều có kích thước và số lượng riêng. Đấy là cái uy lớn của nhà vua”.

Võ Vương nói: “Xin được nghe về điều này”.

Thái Công đáp: “Phàm chỉ huy đại binh, tướng và giáp sĩ hàng vạn người, theo phép phải dùng:

– Xe võ xung to 36 cỗ, quân giỏi nỏ cứng mâu kích yểm hộ hai bên, mỗi xe có 24 người đẩy. Dùng bánh xe tám thước, trên xe đặt cờ trống, binh pháp gọi là chấn hải, để phá trận kiên cố, đánh quân địch mạnh.

– Xe võ dục to 72 chiếc, quân giỏi nỏ cứng mâu kích yểm hộ hai bên, dùng bánh xe  thước, cột nỏ vào xe, để phá trận kiên cố, đánh quân định mạnh.

– Xe đề dực nhỏ 140 chiếc, cột nỏ vào xe dùng bánh xe hươu, để phá trận kiên cố, đánh quân địch mạnh.

– Xe đại hoàng tham liên 36 cỗ, quân giỏi nỏ cứng mâu kích yểm hộ hai bên, sử dụng phi phù và điện ảnh. Phi phù là loại tên cán đổ cánh trắng, đầu bằng đồng. Điện ảnh là loại tên cánh xanh cánh đỏ, đầu bằng sắt. Ban ngày dùng lụa đỏ dài 6 thước, rộng 6 tấc làm dấu hiệu rực rở. Ban đêm dùng lụa trắng dài 6 thước, rộng 6 tấc làm dấu hiệu sao băng, để phá trận kiên cố, đánh quân bộ và kị binh.

– Xe xung kích to 36 cỗ, chở các võ sĩ cảm tử, có thể xong pha ngang dọc, đánh xe quân nhu và kị binh, còn gọi là điện xa. Binh pháp gọi là điện kích để phá trận kiên cố,đánh bộ binh, kị binh tấn công ban đêm.

– Xe mâu kích nhẹ 160 chiếc,mỗi xe có 3 võ sĩ cảm tử. Binh pháp gọi là đình kích, để phá trận kiên cố, đánh bộ binh và kị binh.

– Gậy sắt đầu vuông nặng 12 cân, đuôi dài 5 thước trở lên, 1200 cây, gọi là thiên bối.

– Rìu to lưỡi dài 8 tấc, nặng 8 cân chuôi dài 5 thước trở lên, 1200 cây, còn gọi là thiên việt.

– Búa sắt đầu vuông nặng 8 cân, chuôi dài 5 thước, 1200 cây, còn gọi là thiên chuỳ, để đánh bộ binh và kị binh.

– Phi câu dài 8 tấc, câu mang dài 4 tấc, chuôi dài 6 thước trở lên, 1200 cây để khi phòng thủ phóng vào quân giặc.

– Xe xung kích gỗ rộng 2 trượng, 120 chiếc còn gọi là hành mã, đi trên đất bằng, để bộ binh đánh quân xa và kị binh.

– Xe ủi gai góc, 2 thước 5 tấc, 120 chiếc để đánh bộ binh và kị binh.

– Muốn đuổi giặc thua chạy, dùng xe đoản xung mâu kích 120 chiếc, xưa Hoàng đế đã dùng để đánh bại Sy-Vưu và quân bộ binh, kị binh.

Muốn đuổi giặc thua chạy, nơi ngõ đường mòn đặt chông sắt lưỡi nhọn 4 tấc, rộng 8 tấc, dài 6 thước trở lên, 1.200 cây, để đánh bộ binh và kị binh.

Phòng giặc thình lình kéo đến khiêu chiến trước khi trời tối, đặt lưỡi dao, chông 2 mũi và gai nhọn hình ngôi sao, rải rác khắp mặt đất, cách nhau 2 tấc, 12.000 cái.

Nơi đồng cỏ trống trãi: đặt mâu ngắn cán vuông bằng sắt, 1200 cây, và mâu dài cán sắt cao 1 thước  tấc, để đánh bộ binh, kị binh.

Muốn đuổi giặc thua chạy chống giữ cửa thành, dùng xe mâu kích nhỏ 12 chiếc, cột nỏ trên xe.

Khi ba quân phòng thủ, dùng phên tre nối thành một bộ, rộng 1 trượng 5 thước, cao 8 thước, 120 bộ.

Xe chống đao kiếm rộng 1 trượng 5 thước,  cao 8 thước, 520 bộ.

Phi kiều 1 bộ để vượt hào sâu, rộng 1 trượng 5 thước, dài 2 trượng trở lên, dùng ròng rã 8 bộ,cột dây kéo lên.

Phi giang 8 bộ, để vượt sông to rộng 1 trượng, 5 thước, dài 2 trượng trở lên, cột dây kéo lên.

Thiên phù 32 chiếc trong vuông ngoài tròn, đường kính 4 thước trở lên, để nối liền với nhau.

Đặt phi giang lên thiên phù để vượt qua bể cả gọi là thiên hoàng hay là thiên hương (thuyền).

Đóng quân nơi rừng núi thì kết phên che dinh, xung quanh có cọc sắt dài 2 trượng trở lên, 1.200 cây.

Dây to 4 tấc, dài 4 trượng trở lên, 600 sợi

Dây vừa 2 tấc, dài 4 trượng trở lên, 200 sợi

Dây nhỏ dài 2 trượng trở lên, 1.200 sợi.

Trời mưa dùng ván đậy xe rộng 4 thước, dài 4 trượng trở lên, mỗi xe dùng bằng cọc sắt.

Rìu to để chặt cây, nặng 8 cân, chuôi dài 3 thước trở lên, 300 cây.

Kích bọc lụa đỏ lưỡi rộng 6 tấc, chuôi dài 5 thước trở lên, 300 cây.

Đồng trúc dài  thước trở lên, 300 cây.

Cào sắt chuôi dài 7 thước trở lên, 300 cây.

Chĩa sắt chuôi dài  thước trở lên, 300 cây.

Chĩa sắt 2 ngạnh chuôi dài 7 thước trở lên, 300 cây. Liềm to phát cỏ, chuôi dài 7 thước trở lên 300 cây.

Đẩu to nặng 8 cân, chuôi dài 6 thước, 300 cây.

Cọc sắt dài 3 thước trở lên, 300 cây

Búa to nặng 5 cân, chuôi dài 2 thước trở lên 120 cây.

Giáp sĩ 10.000 người. Nỏ cứng 6.000 chiếc. Kích thuẩn 2.000 bộ

Mâu thuẩn 2.000 bộ

Thợ giỏi để sửa chiến cụ, mài binh khí, 300 người.

Đấy là số lượng lớn về quân dụng để dùng vào việc binh”.

Thiên thứ hai: Tam trận

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Phàm dùng binh bày thiên trận, địa trận, nhân trận như thế nào?”.

Thái Công đáp: “Mặt trời, mặt trăng, sao đẩu, sao tiêu, một bên trái, một bên phải, một đằng trước, một đằng sau, gọi là thiên trận.

Gò, đống, sông, suối cũng có lợi về đằng trước đằng sau, bên trái, bên phải gọi là địa trận.

Dùng xe, dùng ngựa, dùng văn, dùng võ gọi là nhân trận”.

Võ Vương nói: “Thật là hay vậy”.

Thiên thứ ba: Tật chiến

     Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi địch vây ta, cắt đứt phía trước, phía sau, chặn đường vận chuyển lương thực của ta thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Đấy là quân ta bị nguy khốn. Dùng binh nhanh bạo thì thắng, chậm trễ thì thua. Trong tình trạng này, phải áp dụng tử võ xung trận. Dùng chiến xa và kị binh dũng cảm gây rối trong hàng ngũ địch, rồi thừa cơ đánh thật nhanh thì có thể tự do tung hoành”.

Võ Vương hỏi: “Khi thoát khỏi vòng vây, ta muốn nhân dịp đó mà đánh thắng địch thì phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Quân bên trái đánh nhanh về phía trái, quân bên phải đánh nhanh về bên phải, không tranh giành đường đi vơi địch. Quân ở giữa thì thay đổi khi trước khi sau. Như thế, binh địch tuy đông, nhưng tướng có thể bỏ chạy”.

Thiên thứ bốn: Tất xuất

      Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, bị địch bao vây bốn mặt, chặn đường rút lui cắt đứt đường vận chuyển lương thực của ta. Quân địch đã đông lương thực lại nhiều, ta rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm mà muốn thoát ra thì phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Cách để thoát ra là lấy khí giới làm quý, chiến đấu anh dũng làm đầu, biết rõ điểm yếu của địch và những chổ không có người thì có thể thoát được.

Tướng sĩ cầm cờ đen, mang khí giới, ngậm hàm mai, chờ đêm đến đem hết sức.

Tướng sĩ can đảm dàn hàng ngang đi đầu, mở đường cho quân tiến lên. Quân giỏi nỏ cứng làm phục binh đi sau, quân yếu và xa kị đi giữa. Dàn trận xong rồi thong thả mà đi, cẩn thận đề phòng, không nên sợ hãi, cho xe võ xung đi trước và sau để chống cự, xe võ dực phòng vệ hai mặt phải, qua trái.

Nếu quân địch phát giác, thì tướng sĩ can đảm đánh nhanh về trước, quân yếu và xa kị theo sau, quân giỏi nỏ cứng mai phục một nơi để theo dõi, chờ địch đuổi đến thì nổi trống đốt lửa, đánh mạnh sau lưng như ở dưới đất chui lên: từ trên trời rơi xuống, ba quân chiến đấu mạnh mẽ thì địch không có thể chống lại ta”.

Võ Vương nói: “Phía trước có sông to, hào rộng hố sâu, ta muốn vượt qua mà không chuẩn bị thuyền bè. Quân địch đóng đồn ngăn trước chặn sau, các nơi hiểm yếu đều có quân thường xuyên cảnh giới. Quân xa kị đón đánh phía trước, quân cảm tử đuổi đánh phía sau thì làm thế nào ?”

Thái Công đáp: “Nơi sông to, hào rộng, hố sâu quân địch thường không lưu ý phòng thủ, hoặc có phòng thử thì quân cũng ít.

Gặp trường hợp này thì dùng thuyền để vượt qua, quân sĩ khỏe, mạnh và tài giỏi, dưới sự chỉ hủy của ta, cảm tử xông vào trận địch.

Trước phải đốt hết quân dụng, kế đến thiêu hủy lương thực, rồi nói rõ cho sĩ tốt biết nếu đánh mạnh thì sống, không đánh mạnh thì chết.

Khi ra khỏi thì ra lệnh cho quân phía sau nổi lửa canh phòng, ở những nơi có cây cỏ gò mô hiểm trở, quân xa kị địch ắt không dám đuổi theo quá xa. Vì có lửa làm dấu, nên ra lệnh cho quân chạy đến chỗ có lửa thì dừng, gọi là tử võ xung trận. Như thế, ba quân đều chiến đấu mạnh mẽ, không gì có thể ngăn cản được.

Thiên thứ năm: Quân lược

      Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, gặp khe sâu suối lớn, dòng nước hiểm trở, ba quân chưa qua hết thì có mưa to, dòng nước chảy xiết, phía sau không liên lạc được với phía trước. Ta không chuẩn bị thuyền bè, dưới nước cũng không có cây cối có thể giúp mình sang sông. Ta muốn vượt sông thì làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Khi đem quânđi tác chiến mà tướng không tính trước, khí giới không đầy đủ, huấn luyện không tin tường, binh sĩ không thuần phục, như thế không phải là quân của bậc vua chúa.

Khi ba quân làm chiến ai cũng phải biết sử dụng các loại khí giới. Đánh thành, vây ấp thì có xe để đánh thành. Trước khi xung kích, muốn nhìn rõ trong thành thì phải có thang cao. Ba quân đi hay dừng thì phải có xe võ xung phòng thủ trước sau.

Gặp đường cùng ngõ hẹp thì phải có quân giỏi, nỏ cứng bảo vệ hai bên đường. Xây cất dinh lũy thì có lưới sắt phên tre, cỏ gai ngăn cản ngựa, ban ngày lên thang cao nhìn xa, dựng cờ ngũ sắc, ban đêm thắp hàng vạn ngọn đèn, đánh trống khua chiêng thổi kèn, vượt hào sâu thì có phi kiều, bừa, cuốc. Qua sông to thì có thuyền. Đi ngược dòng nước thì có cầu nổi. Ba quân có đầy đủ dụng cụ thì chủ tướng không còn lo gì nữa”.

Thiên thứ sáu: Lâm cảnh

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Ta với địch đánh nhau ở biên cương, địch có thể đến chổ ta, ta có thể đến nơi được, hai bên đều dàn trận kiên cố, không ai dám đốc binh trước. Ta muốn tiến công địch, địch cũng có thể tiến công ta, thì phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Chia quân ra ba nơi. Lệnh cho tiền quân đào hào đắp lũy mà không ra, trương cờ xí đánh trống trận mà phòng ngự.

Lệnh cho hậu quân tích trữ lương thực, không để địch biết ý định của ta. Rồi sai quân tinh nhuệ len lỏi mà trộn vào trong dụ địch, đánh lúc họ không để ý, tiến công khi họ không phòng bị, địch không biết tình hình ta, nên không chống lại được”.

Võ Vương hỏi: “Địch biết tình hình ta, rõ mưu kế ta, thám thính được sự việc của ta, đem quân tinh nhuệ mai phục nơi rậm rạp hiểm trở, đánh vào chỗ yếu của ta, thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Lệnh cho tiến quân ban ngày ra khiêu chiến làm cho địch mỏi mệt. Cho quân già yếu cầm cây, đánh trống, hò reo qua lại ở hai bên, không quá trăm bước.

Tướng địch sẽ phải mệt, quân địch sẽ phải sợ hãi, như thế địch sẽ không dám đến chổ ta, còn ta có thể qua bên địch mà không bị ngăn cản, hoặc kích bên trong hoặc kích bên ngoài, ba quân đánh úp thật nhanh thì địch phải thua”.

Thiên thứ bảy: Động tịnh

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, chạm trán với địch, hai bên đang ghìm nhau, mạnh yếu đều ngang nhau, chưa ai dám đánh trước.

Ta muốn làm cho tướng địch sợ hãi, sĩ tốt của nó lo âu khi đi trận khí thế không vững vàng, phía sau chỉ muốn chạy, phía trước nhìn về phía sau, ta thừa cơ đánh trống reo hò, khiến địch bỏ chạy thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Như thế thì ta đem quân đánh địch mười dặm, mai phục hai bên sườn, cho quân xa kị vượt qua hai phía trước và sau quân địch chừng trăm dặm, dùng nhiều cờ xí và chiêng trống.

Khi đánh nhau thì nổi trống reo hò, tướng địch phải kinh hoàng, quân địch sợ hãi, không cứu được nhau, người sang kẻ hèn không đợi nhau thì địch phải thua”.

Văn Vương hỏi: “Nếu địa thế địch khiến ta không thể mai phục hai bên, quân xa kị không thể vượt qua hai phía trước sau, địch biết ý ta nên đề phòng trước. Quân ta hoang mang tướng tá sợ hãi, không đánh thắng địch thì làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Câu hỏi của vua thật là tế nhị. Như thế thì trước khi giao chiến năm ngày, cho quân xích hầu thám thính tin tức địch, để biết rõ nơi họ sẽ đến, rồi dàn quân phục kích đợi chờ, rồi dụ địch vào tử địa.

Ta tránh giao chiến với địch, đưa cờ xí ra xa hàng ngũ lỏng lẻo, địch ắt đuổi theo, ta bèn chống cự, đánh nhau một trận rồi bỏ chạy không ngớt khua chiêng, chạy được ba dặm thì quay lại, khi ấy phục binh nổi lên, hoặc vây hãm hai bên sườn, hoặc công kích hai phía trước và sau, ba quân đánh áp sát thật nhanh thì địch phải chạy”.

Thiên thứ tám: Kim cổ

   Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, chạm trán với địch, gặp thời tiết quá lạnh, quá nóng, mưa dầm hết ngày này sang ngày khác. Hào luỹ đều hư, cửa ải không phòng thủ, quân xích hầu biếng nhác, sĩ tốt không cảnh giới. Ban đem địch đến ba quân không đề phòng, trên dưới rối loạn thì phải làm  thế nào?”.

 Thái Công đáp: “Phàm trong ba quân, phải cảnh giác thật nghiêm ngặt, biếng nhác thì thua.

Ra lệnh cho quân trên thành, mọi người đều phải cầm cờ xí, dùng dấu hiệu để truyền lệnh mà không dùng lời nói. Tất cả đều hướng về bên ngoài, ba ngàn người lập thành một đồn, nhắc nhở nhau mỗi người phải giữ gìn cẩn thận chỗ của mình.

Nếu quân địch đến, thấy ta cảnh giới, thì cũng phải bỏ về, đã mệt sức lại nhụt chí, bấy giờ ta cho quân tinh nhuệ đuổi theo mà đánh”.

Võ Vương hỏi: “Nếu địch biết ta đuổi theo mà phục binh tinh nhuệ, giả thua chạy qua chỗ phục kích rồi quay lại, hoặc đánh phía trước, hoặc đánh phía sau, hoặc đánh thành của ta. Ba quân sợ hãi rối loạn, mất cả trật tự bỏ chỗ của mình, thì làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Chia quân làm ba đội mà đuổi theo, đừng vượt qua chỗ phục binh của họ. Khi ba đội cùng đến, hoặc đánh hai phía trước sau; hoặc hãm hai bên sườn, hiệu lệnh rõ ràng, đánh nhanh đánh trước thì địch phải thua”.

Thiên thứ chín: Tuyệt đạo

     Võ Vương hỏi Thai Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, cầm cự với địch, địch chặn đường vận tải lương thực của ta, lại vượt qua hai phía trước và sau của ta.

Nếu ta đánh thì không thắng, mà thủ thì không giữ được lâu, vậy phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Khi đi sâu vào đất địch, phải xét tình thế đất đai tìm chổ tiện lợi, dựa vào núi rừng hiểm trở, có thể suối nước, cây cối mà cũng cố, phòng thủ cẩn thận các nơi quan trọng, lại phải biết lợi thế của thành ấp gò mả. Như thế thì quân ta vững vàng, địch không thể chặn đường vận tải, lương thực cũng không thể vượt qua hai phía trước và sau của ta.

Võ Vương hỏi: “Ba quân qua đồi cao đầm rộng hay chỗ đất bằng phẳng, quân ta bị thất lạc, đột nhiên gioa chiến với địch, nếu đánh mà không thắng, mà thủ thì không vững. Địch bố trí hai bên sườn và vượt qua hai mặt trước và sau của ta khiến cho ba quân kinh sợ thì làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Phàm phép cầm binh, cách địch hai trăm dặm, cánh gần năm chục dặm, nếu có chuyện khẩn cấp thì trước sau có thể cứu nhau.

Ba quân luôn luôn phòng bị vững chắc thì không bị tổn thất”.

Thiên thứ mười: Lược địa

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi đánh thắng tiến sâu vào chiếm đất địch gặp thành lớn không hạ được, lại có một đạo quân đặt biệt của địch đóng nơi hiểm yếu chống lại ta.

Ta muốn đánh thành vây ấp, chỉ e quân địch bất chợt kéo đến, trong ngoài liên kết vây đánh ta, khiến ba quân rối loạn, trên dưới sợ hãi, thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Phàm khi công thành xây ấp thì cho quân xa kị đóng đồn ở xa để cảnh giới và ngăn trở sự liên lạc giữa bên trong và bên ngoài. Nên bên trong hết lương bên ngoài không thể đưa vào, ngoài trong thành sợ hãi thì tướng địch phải đầu hàng”.

Võ Vương hỏi: “Nếu bên trong hết lương, bên ngoài không thể đưa vào, địch lén giao ước với nhau, mưu kế bí mật, ban đêm đưa quân cảm tử ra quyết chiến, quân xa kị tinh nhuệ xôgn thẳng vào trong trận ta, hoặc đanh từ ngoài vào khiến cho sĩ tốt hoang mang, ba quân tán loạn, thì làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Như thế thì chia quân làm ba phần, xem kỹ địa hình mà chiến đấu, dò xét nơi trú quân và thành luỹ địch, nhân đó bố trí để nhữ địch, đề phòng cẩn mật không để sơ hở.

Quân địch sợ hãi, nếu không chạy vào rừng núi thì chạy về ấp lớn. Cho toán quân địch đi rồi, đem quân xa kị vượt lên đón phía trước đừng để họ trốn thoát.

Người trong thành tưởng là toán quân đi trước đã tìm được lối thoát, ắt cho quân giỏi ra theo, chỉ để lại binh sĩ già yếu. Khi ấy ta đem quân xa kị đuổi theo thật xa, khiến địch khôgn dám ra nữa, nhưng tránh giao chiến với địch, mà chỉ bao vây phòng thủ bên ngoài để chặn đường vận lương của địch.

Không đốt đồ vật, không phá nhà cửa, không đẵn cây cối, khôgn giết kẻ đầu hàng, không hại người bị bắt. Chỉ thị điều nhân nghĩa, ban ân đức sâu rộng, lệnh cho quân dân đich biết là tội chỉ do một người, như thế thì thiên hạ sẽ yên phục”.

Thiên thứ mươi một: Hỏa chiến

   Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, gặp nơi cỏ rậm um tùm bao phủ quân ta bốn phía, đi vài trăm dặm thì người ngựa mệt mỏi phải nghỉ ngơi.

Địch thừa lúc trời nắng gió to, đốt lửa ở đầu gió, lại cho quân giỏi và xa kị phục sau lưng ta khiến ba quân sợ hãi, bỏ chạy tán loạn, thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Như thế dùng dùng thang mây và lầu cao để nhìn xa hai bên phải trái, quan sát hai phía trước và sau, thấy lửa cháy thì lập tức đốt phía trước cho cháy rộng ra và đốt luôn phía sau ta.

Nếu địch đến phía trước thì dẫn quân lui theo chỗ đất đen. Nếu địch đến phía sau, thấy lửa cháy ắt chạy trở về. Ta cứ tìm chổ đất đen mà đóng, cho quân giỏi nỏ cứng bảo vệ hai bên phải trái và đất hai phía trước sau thì địch không thể hại ta được”.

Võ Vương hỏi: “Địch đốt hai bên phải trái của ta, lại đốt cả hai phía trước sau, khói mù che lấp quân ta, đại binh địch cũng tìm chổ đất đen mà đến thì làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Như thế thì áp dụng tử võ xung trận, cùng xông ra bốn mặt, cho quân giỏ nỏ cứng bảo vệ hai bên phải trái, theo cách này thì không thắng cũng không thua”.

Thiên thứ mười hai: Lũy hư

     Võ Vương hỏi Thái Công: “Làm thế nào mà biết được sự hư hay thực, việc đi hay đến trong thành luỹ địch”.

 Thái Công đáp: “Làm tướng phải trên rõ đạo trời, dưới rành địa lí giữa thông nhân sự, lên chỗ cao trông xuống để quan sát sự biến động của địch, nhìn thành luỹ thì biết thực hay hư, xem sĩ tốt thì biết đi hay đến”.

Võ Vương hỏi: “Làm sao mà biết?”

Thái Côgn đáp: “Nghe không có tiếng trống, tiếng chiêng, trông lên thành thấy nhiều chim bay lượn mà không sợ hãi, không thấy có hung khí, thì biết địch giả đặt người gỗ.

Địch bỏ đi không xa, chưa ổn định quân thế mà quay trở lại, là họ dùng binh quá vội vàng. Vội vàng thì trước sau không theo thứ tự, mất thứ tự thì ra trận phải loạn.

Như vậy, ta mau đem quân tấn công, lấy ít đánh nhiều cũng thắng địch”.


BÁO THAO: CHIẾN THUẬT

Thiên thứ 1: Lâm chiến

   Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn quân tiến sâu vào đất chư hầu gặp phải rừng rậm, ta và địch chia rừng ra chống giữ nhau. Ta làm thế nào để thủ thì kiên cố mà đánh thì chắc thắng?”

 Thái Công đáp: “Cho ba quân của ta lập thành một đội, xung kích, chỗ nào tiện lợi thì đóng quân cung nỏ bên ngoài kích thuẫn ở bên trong. Chặt cây cỏ cho thật trống, để tiện đường đánh giặc của ta.

Chỗ cao cắm cờ xí, nhắc nhỡ binh sĩ cẩn thận không để cho địch biết rõ tình hình của phép đánh giặc trong rừng thì phải cho quân sử dụng mâu kích xếp thành hàng ngũ, chỗ rừng thưa cho kị binh yểm trợ, chiến xa đặt ở đàng trước, thấy tiện lợi thì đánh, thấy không có lợi thì đừng.

Ở cánh rừng hiểm trở ắt phải bố trí một đội xung kích để phòng ngừa mặt trước mặt sau, quân ta phải đánh nhanh, quân địch tuy đông nhưng tướng địch ắt sẽ bỏ chạy, ta cho binh sĩ luân phiên vừa đánh vừa nghỉ. Mọi người phải đi theo đội ngũ của mình, ấy là phép đánh giặc trong rừng”.

Thiên thứ 2 : Đột chiến

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi quân địch tiến sâu vào nước ta xâm chiếm đất đai ta, lừa bắt trâu và ngựa của ta, quân địch lại đến bao vây dưới chân thành ta, quân sĩ ta kinh hãi, nhân dân ta vì tiếc của cải nên bị địch bắt sống, như vậy làm thế nào để phòng thủ thì kiên cố mà đánh thì chắc thắng?”

Thái Công đáp: “Trường hợp này phải dùng đột binh, vì trâu ngựa không được ăn, binh sĩ hết lương thực. Nên phải đánh nhanh ở mặt trước, rồi ra lệnh cho các ấp xa xôi chọn quân sĩ tinh nhuệ đánh nhanh ở mặt sau, rồi tổ chức đánh địch ban đêm, quân ta tinh nhanh, địch tuy đông, tướng địch cũng có thể bị ta bắt sống”.

Võ Vương hỏi: “Địch chia ra ba bốn mặt hoặc tiến đánh chiếm đất đai ta, hoặc dùng quân bắt trâu ngựa ta, đại quân của địch chưa đến đầy đủ mà cho những cánh quân ô hợp bao vây chân thành ta, khiến cho ba quân ta sợ hãi, như vậy phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Ta phải quan sát cẩn thận, khi quân địch đến đầy đủ thì phải chuẩn bị chu đáo mà chờ địch đến. Cách thành 4 dặm cho xây chiến lũy, chiêng trống cờ xí đều bày ở trên lũy, các đội khác đặt làm phục binh. Trên chiến lũy có đặt nhiều nỏ mạnh, cứ trăm bộ lại có một cửa đột kích, trước mỗi cửa đều có kị binh và chiến xa.

Các chiến sĩ tinh nhuệ, có sức mạnh và gan dạ mai phục một nơi. Nếu quân địch kéo đến cho khinh binh ra giao chiến rồi giả thua bỏ chạy, khi ấy ở trên thành treo cờ xí, đánh chiêng trống làm như cố thủ, quân địch cho rằng quân ta thủ thành nên bao vây, lúc đó phục binh của ta xông ra đánh ở giữa, hoặc đánh ở bên ngoài, quân ta đánh nhanh, đằng trước, hoặc đằng sau.

Quân địch dù có liều lĩnh cũng không hề chống cự nổi, kẻ nhát gan cũng không kịp bỏ chạy.

Đó gọi là đột chiếm, quân địch tuy đông, tướng địch ắt sẽ bỏ chạy”.

Võ Vương nói: “Hay lắm”

Thiên thứ 3: Địch cường

  Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn quân tiến sâu vào đất chư hầu, quân ta và quân địch đương đầu nhau, địch đông ta ít, địch mạnh ta yếu. Nửa đêm quân địch kéo đến hoặc đánh bên trái, hoặc đanh bên phải, quân ta náo động, như vậy phải làm sao để đánh thì thắng mà thủ thì vững chắc”.

 Thái Công đáp: “Đó là quân địch uy hiếp quân ta, có lợi cho việc đánh chứ không có lợi cho việc phòng thủ. Ta phải chọn lựa binh sĩ có tài, biết sử dụng nỏ mạnh, chiến xa và cưỡi ngựa, ra quân bên trái và bên phải, rồi đánh nhanh ở đàng trước và đánh gấp ở đàng sau, hoặc đánh ở bên ngoài, hoặc đánh ở bên trong. Như vậy binh sĩ địch ắt phải rối loạn, tướng địch ắt phải sợ hãi”.

Võ Vương hỏi: “Quân địch án ngữ ở phía trước ta, đánh gấp ở phía sau ta, cắt đứt đường tiến quân của cánh quân tinh nhuệ ta, chặn đứng binh sĩ tài ba của ta, khiến quân ở trong và ngoài của ta không thể liên lạc với nhau, quân ta bị rối loạn, tan tác và bỏ chạy. Binh sĩ không có tinh thần chiến đấu, tướng súy và quan quân không quyết tâm chống giữ, như vậy phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Câu hỏi của vua sáng suốt lắm! Vậy ta phải ra hiệu lệnh cho rõ ràng. Dùng những người dũng cảm tinh nhuệ và dám mạo hiểm, một người cầm đuốc, hai người đánh trống, như vậy ta sẽ biết được chỗ ở của địch. Lúc ấy ta đánh vào bên ngoài hoặc bên trong, rồi ra ám hiệu cho tắt lửa và ngừng đánh trống. Trong và ngoài hợp lực đánh thật nhanh, quân địch ắt phải thua.

Thiên thứ 4: Địch vũ

  Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn quân tiến sâu vào đất chư hầu bất thần gặp quân địch đông và mạnh, chúng dùng chiến xa và kị binh bao vây bên trái và bên phải ta, quân ta đều sợ hãi bỏ chạy không thể ngăn cản được, như vậy phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Như vậy gọi là bại binh rồi, phải khéo léo thì có thể thắng, nếu không khéo thì sẽ bị tiêu diệt”.

Văn Vương hỏi: “Phải làm như thế nào?”

Thái Công đáp: “Ta phải bố trí lính tinh nhuệ, nỏ mạnh, chiến xa và kị binh ở bên trái và bên phải trước, sau cách nhau ba dặm. Khi quân địch đuổi ta thì cho chiến xa và kị binh xông ra đánh bên trái và bên phải. Làm như vậy quân địch ắt phải náo loạn, và quân bỏ chạy của ta cũng sẽ dừng lại.

Võ Vương hỏi: “Khi quân địch đương đầu với chiến xa và kị binh của ta, địch đông ta ít địch mạnh ta yếu, quân địch hàng ngủ chỉnh tề có trật tự và tinh nhuệ, quân ta không dám chống lại địch, như vậy phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Ta chọn binh sĩ tinh nhuệ dùng nỏ mạnh, mai phục bên trái và bên phải, chiến xa và kị binh đóng yên một chỗ, đợi đến khi quân địch đi qua chỗ phục binh của ta, cung nỏ bên trái và bên phải cùng lúc bắn ra. Lúc ấy chiến xa kị binh và tinh binh tiến đánh thật nhanh hoặc đánh đằng trước địch hoặc đánh đằng sau địch.

Quân địch tuy đông nhưng tướng địch ắt bỏ chạy.

Thiên thứ 5: Điểu vân sơn binh

  Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn quân tiến sâu vào đất chư hầu gặp phải núi đá cao vòi vọi mà không có cỏ cây, bốn bề đều đương đầu với địch, ba quân ta sợ hãi, binh sĩ ta hoang mang, như vậy phải làm thế nào để thử thì vững chắc mà đánh thì sẽ thắng?”

Thái Công đáp: “Khi đóng quân ở trên núi cao thì sẽ bị địch uy hiếp bao vây, khi đã chọn núi để đóng quân thì phải bày điểu vân trận. Theo cách thức bày trận, trận điểu vân thì phía dương và phía âm cũng phải phòng bị hoặc đóng quân ở phía âm hoặc đóng quân ở phía dương. Nếu đóng quân ở phía dương thì lo phòng bị ở phía âm, nếu đóng quân ở phía âm thì lo phòng bị ở phía dương. Nếu đóng quân ở phía bên trái thì lo phòng bị ở phía bên phải, nếu đóng quân ở phía bên phải thì lo phòng bị ở phía bên trái. Như vậy quân đich chỉ có thể đánh phá ở phía bên ngoài của cánh quân phòng thủ mà thôi. Những con đường ăn thông đến hang động phải dùng chiến xa ngăn chặn. Cờ xí cấm ở trên cao nhắc nhở binh sĩ cẩn thận không để cho quân địch biết rõ tình hình của ta.

Như vậy gọi là xây thành ở trên núi. Khi hàng ngũ đã đàng hoàng, binh sĩ đã bày xong trận, pháp lệnh đã được thi hành, quân giả và quân chính quy đã được thiết lập. Tất cả đều lập đội xung kích ở bên ngoài núi. Chỗ đóng quân phải chia chiến xa và kị binh ra bày điểu vân trận rồi thúc quân đánh thật nhanh. Như vậy quân địch tuy đông, tướng địch có thể bị bắt sống.

Thiên thứ 6: Điểu vân trạch binh

   Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn binh tiến sâu vào đất chư hầu: ta và địch gặp nhau tại con sông, địch giàu có mà chưa đông, ta nghèo nàn mà binh ít. Ta muốn vượt sông đánh địch mà không thể tiến, muốn cầm cự lâu ngày mà không đủ lương thực. Chỗ ta đóng quân là nơi nước mặn đồng chua bốn bề không có làng mạc, lại không có cỏ cây. Quân ta tìm không ra lương thực, trâu và ngựa của ta không có rơm cỏ để ăn. Như vậy phải làm sao?”.

Thái Công đáp: “Ba quân ta không phòng bị, trâu ngựa không có thức ăn, binh sĩ không có lương thực, như vậy phải tìm cách đánh lừa địch để bỏ đi ngay và phải đặt phục binh ở đằng sau”.

Võ Vương hỏi: “Ta không đánh lừa được địch mà binh sĩ ta lại hoang mang, địch đánh phía trước và phía sau ta. Ba quân ta tán loạn thua chạy. Như vậy phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Ta tìm lối thoát là chính, dựa theo tình hình địch mà sử dụng một cách khéo léo”.

Võ Vương hỏi: “Quân địch biết rằng ta có đặt phục binh. Nên đại quân của chúng không dám vượt sông mà chỉ cho những toán nhỏ qua sông. Quân ta thấy vậy rất lấy làm sợ hãi. Như vậy phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Nếu như vậy ta phải chia ra làm nhiều toán xung kích, chọn chỗ tiện lợi mà đóng quân. Đợi những toán quân nhỏ của địch sang đến bên này bờ sông thì ta cho phục binh đánh nhanh ở phía sau. Nỏ mạnh ở bên trái và bên phải cùng lúc bắn ra. Chiến xa và kị binh lập thành trận điểu vân lo phòng bị ở trước và ở sau. Quân ta đánh thật nhanh, quân địch thấy quân ta tiến đánh ắt họp đại binh lại để vượt sông. Khi đó ta cho phục binh đánh nhanh ở phía sau, chiến xa và kị binh tiến đánh bên trái và bên phải. Quân địch tuy đông, tướng của địch cũng sẽ bỏ chạy. Điểm quan trọng của việc dùng binh là trong khi lâm chiến với địch phải tuỳ nghi mà đặt xung trận và coi chỗ nào tiện lợi thì đóng quân rồi sau mới chia kị binh ra thành lập điểu vân trận. Đó là điều đặc biệt của việc dùng binh. Gọi là điểu vân tức là điểu tan vân hợp (chim bay tản ra và mây tụ hợp lại).

Thiên thứ 7: Thiểu chúng

   Võ Vương hỏi Thái Công rằng: “Ta muốn dùng binh ít mà đánh binh đông, dùng binh yếu đánh binh mạnh, như vậy phải làm sao?”.

Thái Công nói: “ Muốn dùng binh ít để đánh binh đông thì phải đợi khi chiều tối cho binh mai phục ở chổ cỏ cây rậm rạp và đoạn đường hiểm yếu mà đánh địch. Còn muốn dùng binh yếu đánh quân mạnh thì phải được sự trợ giúp của nước lớn đối với các nước láng giềng”.

Võ Vương hỏi: “Chỗ ta đóng quân không có cỏ cây rậm rạp lại không có những quảng đường hiểm yếu. Địch không đến vào buổi chiều, ta lại không được sự giúp đỡ của nước lớn và các nước láng giềng. Như vậy phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Ta dùng nghệ thuật đánh lừa để dụ dỗ chúng, làm cho tướng của địch phải nghi ngờ. Ta đi đường cong khiến cho địch phải qua chỗ cỏ cây rậm rạp. Ta đi đường xa, khiến địch phải gặp ta vào buổi chiều. Đánh vào lúc địch chưa kịp vượt sông. Hậu quân của địch chưa kịp xuất quân, thì ta cho phục binh đánh nhanh ở bên trái và bên phải.

Chiến xa và kị binh quấy nhiễu mặt trước và mặt sau của địch. Quân địch tuy đông tướng địch cũng phải bỏ chạy. Sau đó ta phải giao hảo với nước lớn, nhún nhường đối với binh sĩ các nước láng giềng, dùng của cải dụ dỗ họ. Dùng lời lẽ khiêm nhường đối với họ, làm như vậy ta sẽ được nước lớn và các nước láng giềng trợ giúp”.

Thiên thứ 8: : Phân hiểm

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn quân tiến sâu vào đất chư hầu, gặp địch tại nơi hiểm trở, bên trái của ta là núi, bên phải là sông. Bên phải của địch là núi, bên trái là sông. Địch và ta chia vùng hiểm trở mà chống cự nhau, phải làm sau để thủ thì vững chắc mà đánh thì sẽ thắng?”.

Thái Công nói rằng: “Đóng quân bên tả núi thì phòng bị bên hữu núi, đóng quân bên hữu núi thì phòng bị bên tả núi. Chỗ hiểm trở có sông lớn không có thuyền thì dùng cầu nổi (thiên hoàng) để binh ta sang sông, xong phải mở rộng đường đất để tiện cho chiến đấu, đặt xe vũ xung ở trước và sau, nỏ mạnh bày ở hai bên, ra lệnh giữ kỹ các tuyến đường dùng xe vũ xung chặn các cửa hang, cắm cờ xí ở trên cao, như vậy gọi là xây thành bằng xe. Theo phép đánh giặc thì ở chỗ hiểm yếu phải đặt xe vũ xung ở phía trước và cỗ xe đại lỗ dùng để yểm trợ. Binh sĩ tinh nhuệ và nỏ mạnh ở hai bên trái và phải có 3000 người để đóng đồn và bày xung trận. Chỗ tiện lợi thì đóng quân. Tả quân ở bên trái, Hữu quân ở bên phải, Trung quân ở giữa, cùng lúc tiến đánh, đánh xong trở về đồn, thay phiên nhau vừa đánh vừa nghỉ, đánh đến khi nào thắng mới thôi”.

Võ Vương khen rằng : “Hay lắm”


KHUYỂN THAO: LUYỆN SĨ TỐT

Thiên thứ 1: Phân binh

   Võ Vương hỏi Thái Công: “Các vua cầm ba quân đóng ở nhiều nơi, nếu muốn tập hợp quân lại để tuyên thệ và thưởng phạt thì phải làm cách nào?”

Thái Công đáp rằng: “Thường phép dùng binh trong ba quân thì: Đại tướng phải địch trước chiến địa và ngày giao chiến rồi mới chuyển hịch thư đến các tướng lĩnh hẹn thời hạn đánh thành vây ấp. Thông báo cho các nơi biết rõ ngày đánh trận, ấn định thời giờ cụ thể. Sau đó, đại tướng cho lệnh đóng doanh trại, quét dọn sạch sẽ rồi đứng trước viên môn chờ đợi các tướng lĩnh đến để theo dõi việc thực hiện giờ giấc của họ. Người đến trước giờ đã định thì khen thưởng, kẻ đến sau giờ ấn định thì xử chém. Như thế ba quân ở gần, xa đều khẩn trương đến dự, cùng nhau sống mái với quân thù”.

Thiên thứ 2: Vũ phong

   Võ Vương hỏi Thái Công: “Phàm việc dùng binh, điều cốt yếu là phải có vũ xa, kiêu kị, tuyển chọn từng trận mà đánh, thấy có thể đánh được thì đánh. Vậy thế nào là có thể đánh được?”.

 Thái Công đáp: “Phàm muốn đánh thì nên xem xét rõ ràng 14 biến động của địch. Thấy rõ được việc biến thì đánh ngay, như thế địch sẽ thất bại”.

Võ Vương nói: “Có thể cho nghe 14 biến động đó chăng?”

Thái Công đáp:

“ – Mới tụ tập thì có thể đánh.

– Người và ngựa chưa ăn thì có thể đánh.

–  Thiên thời bất thuận thì có thể đánh.

–  Chưa nắm vững địa hình thì có thể đánh.

– Bỏ chạy thì có thể đánh.

–  Không phòng bị thì có thể đánh.

– Mỏi mệt thì có thể đánh.

– Tướng lìa xa sĩ tốt thì có thể đánh.

– Vừa vượt qua đoạn đường dài thì có thể đánh.

–  Đang vượt sông thì có thể đánh.

–  Đang bối rối thì có thể đánh.

– Đang đi trên đường hẹp có thể đánh, ngăn trở khó khăn thì có thể đánh.

–  Đang rối loạn thì có thể đánh.

– Lòng dạ hoang mang thì có thể đánh”.

Thiên thứ 3: Luyện sĩ

     Võ Vương hỏi Thái Công: “Huấn luyện quân lính như thế nào?”.

Thái Công đáp: “Trong quân ngũ có hạng người dũng cảm, mạnh khoẻ không sợ chết và vui vẻ khi bị thương, xếp hạng người này vào một tốt gọi là lính dám chém giết.

– Có hạng người nhuệ khí cường tráng, dũng mãnh, xông xáo, xếp hạng người này thành một tốt gọi là lính phá trận.

– Có hạng người múa kiếm dài tuyệt vời, sử dụng kiếm như múa, xếp hạng người này vào một tốt, gọi là lính anh dũng tinh nhuệ.

– Có hạng người sức lực to lớn, bền bỉ chống cự địch liên tục, có sức mạnh phá vỡ chuông trống, huỷ diệt cờ xí địch, xếp hạng người này thành một tốt, gọi là lĩnh dũng mãnh.

– Có hạng người vượt nổi chỗ cao, chạy được đường xa, nhẹ chân chạy giỏi, xếp hạng người này thành một tốt, gọi là lính nhanh như cướp.

– Có hạng người khi vương thần thất thế, quyết khôi phục để lập công, khôi phục giang sơn, xếp hạng người này lại một tốt, gọi là lính quyết chiến đấu đến cùng.

– Có hạng người là con em của các vị tướng tử trận, nên quyết trả thù cho vị tướng đó, xếp hạng người này lại một tốt, gọi là lính cảm tử.

– Có hạng người chỉ sống nương tựa và bị đày đoạ bởi kẻ khác, nên muốn nhập ngũ để nêu cao thanh danh, hạng người này xếp thành một tốt, gọi là lính khích lệ.

– Có hạng người bần cùng quẫn bách, nên phẫn nộ nguyện gia nhập quân ngũ để toại lòng hả dạ, xếp hạng người này thành một tốt, gọi là lính bất tử.

– Có hạng người phạm tội, nhưng đã hết hạn, giờ gia nhập quân ngũ để rửa sạch nỗi nhục, xếp hạng người này thành một tốt, gọi là lĩnh may mắn được tuyển dụng.

– Có hạng người có tài nghệ hơn người, có khả năng gánh vác đồ đạc nặng nề đi xa, hợp hạng người này thành một tốt , gọi là lính sẵn sang chờ lệnh.

Sự sắp xếp và tập luyện các hạng quân này không thể không xét kĩ”.

Thiên thứ 4: Giáo chiến

   Võ Vương hỏi Thái Công: “Hợp đông đủ ba quân, nếu muốn sĩ tốt thao luyện về đạo giáo chiến thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Phàm thống lĩnh ba quân có hiệu lệnh của trống chiêng khiến quân sĩ chỉnh tề. Vị tướng phải nói cho quân sĩ quán triệt ba điều lệnh về thao diễn ,ăn ở và phép biến đổi của cờ xí. Phương pháp dạy chiến đấu là: Một người học đánh thành thạo thì dạy cho mười người, mười người học thành thạo rồi dạy cho trăm người, trăm người học nên thì dạy cho ngàn người. Vạn người nên thì dạy cho ba quân. Phép đại chiến khi học thành thạo thì tập hợp thành triệu người, nên có thể trở thành đại binh lập uy trong thiên hạ”.

Võ Vương nói: “Thực là hay vậy”

Thiến thứ 5: Quân binh

     Võ Vương hỏi Thái Công: “Lấy xe đánh với quân bộ thì một xe đương đầu nổi với mấy quân bộ, mấy quân bộ đương đầu nổi với một xe, lấy quân kị đánh với xe, thì một xe đương đầu với mấy kị, mấy kị đương đầu nổi với một xe?”

Thái Công đáp rằng: “Xe là vây cánh của quân. Xe dùng để đánh phá những trận địa kiên cố của địch và dùng làm phương tiện lúc thua chạy. Kị dùng để dò xét tình hình, xếp viện cho quân bại trận, cắt đứt đường tải lương của quân giặc. Cho nên nếu xe và kị chưa giao chiến với địch thì một xe không thể đương đầu đươc với một quân bộ. Tuy nhiên nếu quân đông lập thành trận địa thì ở vị thế dễ dàng một xe sẽ đánh được 80 quân bộ, 80 quân bộ sẽ đánh được một xe. Một kị sẽ đánh được 8 quân bộ, 8 quân bộ đánh được một kị. Một xe đánh được 10 kị, 10 kị đánh được một xe. Nếu ở địa thế hiểm trở, thì một xe địch được 40 quân bộ, 40 quân bộ địch được một xe. Một kị địch được 4 quân bộ, 4 quân bộ địch được một kị. Một xe địch được 6 kị, 6 kị địch được một xe. Xe và kị là binh khí mạnh trong quân đội. 10 xe có thể đánh bại ngàn người, trăm xe đánh bại vạn người, 10 kị đánh bại trăm người, trăm kị đánh bại ngàn người. Đó là con số rất lớn”.

Võ Vương hỏi: “Số lượng sĩ quan chỉ huy xe, kị và cách bày trận phải như thế nào?”

Thái Công nói: “Số sĩ quan chỉ huy xe thì cử 5 xe đặt một trưởng trông coi, 10 xe đặt 1 lại, 50 xe đặt một suất, 100 xe đặt một Tướng. Cách đánh bằng xe nơi thế đất dễ dàng thì cứ 5 xe xếp thành một hang ngang, dài 40 bộ. khoảng cách giữa hai xe là 10 bộ, khoảng cách hai đội là 60 bộ. Đánh ở địa thế hiểm trở thì xe phải di chuyển theo đường xa. Cứ 10 xe lập thành 1 tụ, 20 xe lập thành một đôn, trước sau cách xa 20 bộ, hai bên tả hữu cách nhau 20 bộ. khoảng cách hai đội là 36 bộ, cứ 5 xe đặt một Tướng trông coi, ngang dọc cách nhau 2 dặm, khi di chuyển cần giữ nguyên vị trí. Về số lượng sĩ quan trông coi kị thì 5 kị đặt một trưởng, 10 kị đặt một lại, trăm kị đặt một suất, 200 kị đặt một Tướng trông coi. Cách đánh ở thế đất dễ dàng thì 5 kị xếp thành một hàng trước sau cách khoảng 10 bộ, tả hữu cách 2 bộ, khoảng cách 2 đội 2 bộ, 30 kị lập thành một đồn, 60 kị lập thành một bối, 10 kị đặt một lại trông coi, ngang dọc cũng cách xa 100 bộ, khi di chuyển đều phải giữ nguyên vị trí”.

Thiên thứ 6: Võ xa sĩ

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Việc tuyển xa sĩ phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Phép tuyển xa sĩ thì nên chọn người dưới 40 tuổi trở xuống, cao từ thước rưỡi trở lên, chạy nhanh có thể đuổi kịp loài ngựa, đồng thời có thể di chuyển nhanh chóng tới trước, sau, phải, trái, trên cao, dưới thấp và xoay vòng hay quấn được cờ xí trong người, có thể giương nổi loại nỏ nặng 8 thạch bắn tới trước, sau, trái, phải, mọi mặt đều tiện cho việc thực hành, được gọi là “lĩnh võ xa”. Hạng người này không thể không hậu đãi”.

Thiên thứ 7: Võ kị sĩ

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Việc tuyển kị sĩ phải làm như thế nào?”.

 Thái Công đáp: “Cách tuyển kị sĩ là chọn người dưới 40 tuổi cao từ 7 thước 50 trở lên, than thể tráng kiện, nhanh nhẹn hơn người. Có khả năng cưỡi ngựa bắn nỏ đi các mặt tiền, hậu, tả, hữu và xoay vòng, tiến thoái vượt qua hào rạch: leo trèo đồi núi, mạo hiểm xông vào vùng hiểm trở, ngăn được đầm rạch lớn, điều khiển được kẻ địch mạnh, nhiễu loạn được đám đông. Loại người này được gọi là “kị sĩ” không thể không hậu đãi.”

Thiên thứ 8: Chiến xa

   Võ Vương hỏi Thái Công: “Phép đánh bằng chiến xa như thế nào?”

Thái Công đáp: “Quân bộ phải biết trước biến động, xe phải biết trước địa hình, kị phải biết trước đường xa lạ. Phàm tử địa của xe thì có mười và thắng địa của xe chỉ có tám mà thôi”.

Võ Vương hỏi: “Mười điều tử địa là gì?”

Thái Công đáp:

“ –  Đi được mà không về được là tử địa của xe

– Vượt được đất hiểm trở, lấn được địch mà đi xa là kiệt địa của xe.

–  Tiến dễ dàng, sau hiểm trở là khốn địa của xe.

–  Bị rơi vào vùng hiểm trở khó mà thoát ra ngoài là tuyệt địa của xe.

– Lúc xe lọt vào đầm trạch, bùn đất dính đầy xe là lao địa của xe.

–  Bên trái hiểm trở, bên phải dễ dàng, phía trên có gò đống mà xe phải leo dốc là nghịch địa của xe.

–  Lúc xe đi qua bãi ruộng cỏ mênh mông, phải vượt qua các đầm, ao sâu kín là thất địa của xe.

–  Xe ít đường di chuyển dễ dàng lại không đương đầu nổi với quân bộ là bại địa của xe.

–  Phía sau có hào lạch, bên trái có sông sâu, bên phải có đồi núi cao là hoại địa của xe

–  Xe di chuyển gặp lúc mưa dầm dề ngày đêm, mà luôn phải di chuyển, đường sá ngập lụt, vỡ lở, đằng trước không thể tiến, đằng sau không giải toả được, đó là hảm địa của xe.

Mười điều trên là tử địa của xe. Nếu tướng vụng về thường bị bắt, tướng sáng suốt sẽ tránh khỏi”.

Võ Vương hỏi: “Tám điều thắng của xe thì thế nào?”

Thái Công đáp:

“ – Phía trước phía sau trận địa địch chưa ổn định thì phải tiến công ngay.

–  Cờ xí rối loạn, người và ngựa xáo trộn thì tiến công ngay

–  Sĩ tốt chạy tán loạn, ở cả phía trước, sau, phải, trái thì phải tiến công ngay.

– Trận địa không kiên cố, sĩ tốt hai mặt trước sau dựa dẫm lẫn nhau thì tiến công ngay.

– Quân địch đi đến đằng trước thì ngờ vực, đến đằng sau thì hoảng hốt thì tiến công ngay.

–  Ba quân sợ hãi, buộc lòng nổi dậy một cách bất đắc dĩ thì tiến công ngay

–  Đánh ở địa thế dễ dàng mà trời tối, không giải vây được thì tiến công ngay.

– Quân di chuyển đường xa, nên về muộn, trời tối mới cắm trại, quân lính hoang mang thì tiến công ngay.

Tám điều trên là đất thắng của xe. Vị tướng thông suốt mười điều hại, tám điều thắng thì dù địch có dùng hàng ngàn xe, hàng vạn kị bao vây tiến công thì trong vạn trận đánh, vị tướng đó cũng sẽ chiến thắng”.

Thiên thứ 9: Thiên kỵ

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Phép đánh bằng chiến kị như thế nào?”.

Thái Công đáp: “Đánh bằng chiến kị thì có mười lúc thắng, chin lúc bại”.

Võ Vương hỏi: “Mười lúc thắng ra sao?”

Thái Công đáp:

“ – Lúc địch mới đến, thế trận chưa định hẵn, hai cánh quân tiền và hậu chưa hỗ trợ nhau được, ta đánh phá các chiến kị phía trước, đồng thời đánh hãm hai mặt tả hữu thì địch sẽ chạy ngay.

–  Lúc địch dàn trận đã chỉnh tề, kiên cố, sĩ tốt quyết đấu đến cùng, thì quân kị của ta phải sát cánh bên nhau, hoặc đuổi đi, hoặc đuổi lại, hành động nhanh như gió, mạnh như sấm sét, ngày cũng như đêm, thay cờ xí đổi y phục thì quân ta ắt sẽ thắng.

–  Lúc địch bố trí trận địa chưa kiên cố, sĩ tốt chưa muốn đánh thì ta lấn hai mặt tiền, hậu của chúng, đón hai mặt tả hữu mà đánh, địch sẽ hoảng sợ.

–  Lúc chiều về quân địch muốn về nghỉ ngơi, quân lính hoang mang, ta kẹp sát hai bên hông của chúng tiến đánh nhanh mặt sau, lấn chiếm cửa thành luỹ khiến địch không có lối vào, địch ắt sẽ bại ngay.

–  Lúc địch không có địa thế hiểm trở để phòng thủ kiên cố thì quân ta xâm nhập đuổi đánh chúng, cắt đứt đường tiếp tế lương thực thì quân địch sẽ bị đói.

–  Lúc ta đóng ở vị thế bằng phẳng dễ dàng, bốn mặt trông thấy địch, ta dùng xa kị để đánh phá, địch sẽ rối loạn ngay.

–  Lúc địch tháo chạy, sĩ tốt tán loạn, ta xuất binh và đánh kẹp hai bên hông chúng, hoặc chặn hai mặt tiền hậu, thì sẽ bắt được tướng địch.

–  Lúc chiều xế địch trở về, quân chúng đông nên rối loạn, ra lệnh cho 10 kị của ta lập thành đội, trăm kị hợp thành đồn, 5 xe lập thành một tụ, 10 xe hợp thành một quần, cắm cờ xí nhiều nơi, hoặc cắt đứt liên lạc giữa hai mặt tiền, hậu của chúng thì sẽ bắt sống được tướng địch.

Đó là mười lúc thắng của quân kỵ”.

Võ Vương hỏi: “Chín điều bại như thế nào?”

Thái Công đáp:

“- Phàm đánh phá địch bằng quân kị mà không thể phá trận, địch sẽ vờ thua chạy rồi dùng xa kị phản kích mặt sau của ta. Đó là bại địa của quân kị.

– Lúc đuổi theo quân địch qua vùng hiểm trở, truy kích liên tục. Địch sẽ phục ở hai bên hông ta, đồng thời cắt đứt mặt sau của ta. Đó là vi địa của quân kị.

–  Lúc có đường đi mà không lối về, không có ngõ ra, gọi là bị vây hãm vào gầm trời, dồn vào tử huyệt. Đó là tử địa của quân kị.

– Lối vào thì hẹp, lối ra thì xa, địch yếu cũng có thể đánh được ta mạnh, địch ít cũng có thể đánh được ta đông. Đó là mạt địa của quân kị.

– Hai bên tả hữu có nước, mặt trước gò lớn, mặt sau núi cao, khi đánh nhau với địch quân ta ở giữa hai dòng nước, địch ở bên ngoài và trong. Đó là gian địa của quân địch.

–  Địch cắt đường tải lương của ta, đi mà không về được. Đó là khốn địa của quân kị.

–  Khi tiến vào nơi nước đục, đầm ao, tiến thoái lưỡng nan. Đó là hoạn địa của quân kị.

–  Bên tả có mương sâu, bên hữu có đồi núi cao thấp đều như bình địa, tiến thoái đều làm mồi cho địch. Đó là hãm địa của quân kị.

Chín điều trên là tử địa của quân kị, tướng sáng suốt thì có thể thoát khỏi. Tướng u muội thì sẽ bị thảm hại vậy”.

Thiên thứ 10: Chiến bộ

    Võ Vương hỏi Thái Công: “Nguyên tắc đánh nhau giữa bộ binh và xa kị như thế nào?”.

Thái Công đáp: Nếu bộ binh và xa kị đánh nhau thì bộ binh phải dựa vào gò đống hiểm trở, dùng binh khí dài, cung nỏ mạnh đi trước, binh khí ngắn, cung nỏ yếu đi sau, lúc tiến lúc dừng. Xa kị của địch tuy đông, nhưng khi đến đã gặp trận tuyến kiên cố và đánh nhanh ở phía sau có quân tài giỏi và cung nỏ mạnh sẵn sang chống trả”.

Võ Vương hỏi: “Ta không có gò đống, cũng không có địa thế hiểm trở, khi địch kéo nhiều quân đến, xa kị đánh kẹp hai bên hông ta, đón đánh hai mặt tiền và hậu của ta, quân ta khiếp sợ, thua chạy tán loạn thì phải làm sao?”.

Thái Công đáp rằng: “Ra lệnh cho sĩ tốt ta đóng hàng rào gỗ, chông gai, đặt đội trâu ngựa đánh xông trận bốn mặt. Khi thấy xa kị địch sắp đến thì cho quân chôn chông gai, quốc đất thành hố sâu và rộng khoảng 5 thước (gọi là lồng) vòng qua sau, rồi cho người cầm hàng rào gỗ chặn xe địch để làm luỹ. Nếu xe chúng chia làm hai theo mặt trước và mặt sau ta mà lập đồn thì quân tài giỏi và cung nỏ mạnh của ta sẵn sàng trấn thủ hai bên hông, tả và hữu. Sau đó ra lệnh cho quân ta đánh nhanh, đánh liên tục không ngừng”.

Võ Vương nói: “Thật là hay vậy”.



Tầm Tần ký – Chương 275: Quay Về Hàm Dương

Sau khi nhảy xuống đất, thì gã lập tức ép mình vào trong góc tối, nghe tiếng bước chân của Tào Thu Ðạo chạy ở phía xa, biết y trong lúc tức giận, đã chạy xuống bậc tam cấp đuổi theo mình.

Gã đưa mắt nhìn quanh, thấy vỏ thanh đao đang nằm cách đó không xa, vội vàng nhặt lên, mang đao trên lưng, rồi lại chụp lấy dây treo, trèo lại lên trên đài.

Trên đài đương nhiên không thấy Tào Thu Ðạo.

Hạng Thiếu Long khom người lén nhìn xuống phía dưới, thấy Tào Thu Ðạo đang chạy ngang qua phía dưới, đồng thời cũng thấy được những bụi cây ở hai bên đều lay động, rõ ràng có kẻ địch mai phục trong bóng tối, vì không biết gã trốn ở đâu nên mới lúng túng như thế.

Gã thầm kêu nguy hiểm, nếu như cứ bỏ chạy, nói không chừng đã lọt vào tay của bọn phục binh này.

Kế quay lại Quang Tinh đài này quả thật là cao chiêu, vừa có thể quan sát được tình thế của đối phương, vừa có thể nghỉ ngơi trong chốc lát, băng bó lại vết thương.

Một lát sau, gã trèo xuống Quang Tinh đài từ góc đông nam, sau khi thu lại dây móc, thì đến tường phía nam của Tắc Hạ học cung.

Gã hiểu rất rõ tình thế ở gần Tắc Hạ học cung, biết rằng ở phía ngoài vách tường có bụi cây um tùm, rất có lợi cho cuộc chạy trốn của mình, Sức lực của gã đã khôi phục được một nửa, khi ra tay chắc chắn sẽ thua thiệt, nhưng muốn bỏ chạy thì vẫn còn dư sức, sau khi phóng người qua tường cao, gã vung tay bắn ra ngọn hỏa tiễn của Lý Viên trao cho.

Rồi tiếp theo chạy về hướng mà Tiêu Nguyệt Ðàm đã giấu ván trượt tuyết.

Kế nghi binh này là dụ cho đối phương kéo tới nơi bắn ra hỏa tiễn, tốt nhất là tưởng rằng gã bị thương mà không bỏ chạy được, cho nên mới đành phải kêu viện binh đến cứu.

Chạy một mạch được hơn mười trượng, chân Hạng Thiếu Long mềm nhũn, ngã lăn xuống đất.

Té ra trên mặt đất vẫn còn đầy tuyết, khi rút chân lên rất mất sức, thể lực của Hạng Thiếu Long tuy hơn người, nhưng sau trận đánh, lại bị thương mất máu nhiều, cho nên trong nhất thời đầu váng mắt hoa, suýt tý nữa ngã quy.

Tuyết dính trên mặt giúp cho gã tỉnh hẳn, chỉ thấy bốn bên tối mù mịt.

May mà ánh sáng từ phía xa trên Quang Tinh đài, như ngọn đèn pin, giúp cho gã định được phương hướng.

Hạng Thiếu Long gắng gượng ngồi dậy, lảo đảo bước tới bụi cỏ gần đấy, chui vào rồi ngồi nghỉ ngơi.

Sao đêm vẫn đẹp, nhưng lòng gã giờ đang rối loạn, sức lực như đã cạn kiệt, gã nào có lòng dạ để thưởng thức nữa.

Hạng Thiếu Long nhắm hai mắt lại, cố gắng chống chọi cơn buồn ngủ do thiếu dưỡng khí, cắn răng vượt qua.

Một lát sau, hơi thở mới bình thường trở lại, mở mắt ra nhìn thì lập tức kêu nguy.

Chỉ thấy dưới ánh trăng, đầy rẫy những dấu chân còn in lại trên tuyết của gã, điều đó khác gì đã chỉ rõ cho kẻ địch thấy rằng gã đang ở đây.

Lúc này gã chỉ có thể cố gắng chống chọi không để mình hôn mê đi, muốn đứng dậy thật là khó.

Tuy là trời đông lạnh lẽo, nhưng toàn thân gã đầy mồ hôi.

Tiếng bước chân từ xa đã đến gần.

Mười bóng người xuất hiện cách khoảng mấy trượng, chúng men theo dấu chân, đi thẳng tới nơi gã đang nấp.

Hạng Thiếu Long thầm kêu mạng ta đã hết, nhìn thấy kẻ địch ngày càng đến gần mà không có cách nào.

Chỉ còn ba mươi trượng nữa thì đến mảng rừng thưa, gã có thể tới chỗ gò nhỏ, nơi có giấu ván trượt tuyết.

Thế là tất cả đã thất bại, thật là đáng tiếc.

Lúc này dù gã cố gắng cất bước, thì cũng không thể bằng sức lực của đối phương, chi bằng cứ ngồi đây chờ khi kẻ địch phát hiện thì vung đao liều mạng. Gã rút ra hai mũi phi đao găm dưới chân, giấu trong tay.

Nếu chẳng phải kẻ địch không dám đốt đuốc, lúc này đã nhìn thấy gã.

Ðột nhiên có tiếng vó ngựa vang lên.

Bọn người kia đồng thời ngạc nhiên.

Một người phóng ngựa ra, quát lớn, “Các ngươi là ai?”

Hạng Thiếu Long nhận ra giọng của Tào Thu Ðạo, thu lại phi đao, cả mừng bò dậy.

Mấy tiếng vút vút vang lên, bọn người kia phóng tên ra, bắn về phía Tào Thu Ðạo.

Tào Thu Ðạo giận quá hét lên một tiếng, múa ra một vòng kiếm ảnh, từng mũi tên rơi xuống đất, không làm gì được y cả.

Lúc này Hạng Thiếu Long mới đứng dậy, lê bước về phía mục tiêu của mình.

Phía sau có tiếng kêu thảm, rõ ràng trong lúc thịnh nộ Tào Thu Ðạo đã đại khai sát giới.

Hạng Thiếu Long không biết sức lực ở đâu mà trong chớp mắt đã tiến vào khu rừng thưa, rồi mới ngã xuống nữa.

Tiếng bước chân và tiếng vó ngựa lại vang lên, có thể thấy kẻ địch đã tản ra bốn bên chạy trốn.

Hạng Thiếu Long trong lòng hơi yên, nghĩ bụng đối phương bỏ chạy chắc chắn sẽ để lại dấu chân, dấu chân của mình lúc nãy sẽ lẫn vào đó.

Hạng Thiếu Long nằm phục được một lát rồi mới bò dậy, chầm chậm tiến về phía trước, tiếng vó ngựa vang lên, đuổi tới từ phía sau.

Hạng Thiếu Long hoảng sợ, nấp vào sau một gốc cây.

Trong rừng thưa tối mịt, khiến cho đối phương không nhìn thấy dấu chân.

Xem ra lúc Tào Thu Ðạo vội vàng, đã quên mang theo đuốc, nếu không lúc này đốt lửa lên thì sẽ thấy gã.

Gã không dám thở mạnh, bởi vì Tào Thu Ðạo đang thúc ngựa về phía nơi gã nấp, miệng đang thở dốc.

Nếu không phải y đi ngựa, thì lúc này có lẽ cũng sẽ ngã xuống bên cạnh Hạng Thiếu Long.

Xẹt.

Hạng Thiếu Long trong lòng kêu không hay, biết mình đã tính sai, Tào Thu Ðạo đang châm lửa.

Hạng Thiếu Long nào dám chần chừ, rút ra phi đao, nhoài người ra phóng phi đao về phía Tào Thu Ðạo.

Thớt ngựa hí lên một tiếng, hất Tào Thu Ðạo xuống ngựa, mồi lửa văng khỏi tay rơi xuống ở nơi xa, xung quanh lại tối mịt.

Hạng Thiếu Long cười lớn nói, “Ngươi đã trúng kế, xem đao đây!”

Có tiếng bước chân truyền đến, Tào Thu Ðạo nhất thời không biết nấp ở đâu.

Hạng Thiếu Long thấy kế đã thành, vội vàng giở hết tàn lực, chạy về phía ngọn đồi nhỏ đã định.

Nói đến chạy trong đêm tối, mười Tào Thu Ðạo cũng không phải là đối thủ của gã.

Khí lực của gã dần dần khôi phục lại, gã đã rời khỏi mảng rừng thưa, leo lên con dốc phía đông của ngọn đồi nhỏ, phía sau có tiếng la hét tức tối của Tào Thu Ðạo. 

Hạng Thiếu Long nổi giận, thuận tay rinh một tảng đá mười cân, ném về phía Tào Thu Ðạo.

Tảng đá lăn xuống.

Tào Thu Ðạo né qua một bên, tuyết đóng trên sườn dốc trơn trượt, tuy né được tảng đá, nhưng chân đã không vững, Tào Thu Ðạo mất đà, lăn xuống phía dưới.

Hạng Thiếu Long nghĩ bụng ngươi cũng nên nếm thử mùi vị ấy, vội vàng treo lên đỉnh đồi, vừa lên tới nơi thì thấy một đôi ván và gậy trượt tuyết nằm bên cạnh một tay nải đã bó gọn gàng.

Hạng Thiếu Long thầm cảm ơn Tiêu Nguyệt Ðàm và ông trời, ráng sức lao về hướng ấy, mang đôi ván trượt vào chân, rồi buộc chắc.

Khi mang tay nải lên lưng, Tào Thu Ðạo xuất hiện ở phía sau, quát lớn, “Hôm nay coi thử ngươi có thể chạy đến đâu?

Hạng Thiếu Long đứng dậy, cười lớn nói, “Ðương nhiên là chạy về Hàm Dương, ta và ngươi sẽ không gặp nhau nữa!”

Lúc này Tào Thu Ðạo đứng cách gã chưa đầy một trượng. Hạng Thiếu Long cúi người, chống cây gậy trượt tuyết, trượt xuống đỉnh đổi, lao xuống phía dưới như một cơn gió, khi quay đầu lại nhìn, Tào Thu Ðạo đứng trơ ra ở đó, hoàn toàn mất đi ý định đuổi theo.

Hạng Thiếu Long không ngừng chống gậy, gió vun vút kêu bên tai, trong chốc lát đã cách xa Tào Thu Ðạo.

Trong lòng gã vui vẻ, tuy toàn thân đau đớn, nhưng miệng vẫn lẩm nhẩm hát theo bài hát mà Giải Tử Nguyên đã từng hát cho gã nghe khi ngồi trong cỗ xe ngựa.

Lúc này gã chỉ nghĩ đến Hàm Dương, những người và những chuyện khác đều không có liên quan gì đến gã nữa.

Dưới ánh nắng ban mai, Hạng Thiếu Long đang cúi người bên dòng suối nhỏ, vốc nước uống từng ngụm, cảm thấy thoải mái hơn nhiều, rồi ngồi lên một tảng đá, mở tay nải mà Tiêu Nguyệt Ðàm đã chuẩn bị ra.

Ðập vào mắt là một tấm bản đồ, vẽ đường đến Trung Mâu, ngoài ra là thức ăn, y phục và thuốc trị thương, thuốc nổ, sắp xếp rất chu đáo.

Khi lật tấm bản đồ ra, ở giữa có một phong thư nói, “Khi Thiếu Long thấy được phong thư này, chắc đã an toàn rời khỏi Lâm Tri, đồng thời đánh bại được Tào Thu Ðạo. Lão ca có một chuyện đến lúc này mới có thể cho đệ hay, cái hẹn đánh trong vòng mười chiêu của đệ và Tào Thu Ðạo, chỉ là lão ca nói dối, bức thư ấy đã không hề đưa tới tay Tào Thu Ðạo Nếu không như thế, Thiếu Long sẽ không dám ứng chiến. Nếu không ứng chiến mà bỏ chạy, sẽ tổn hại đến danh dự của đệ, còn nghiêm trọng hơn cả chết trong tay Tào Thu Ðạo. Như thế đệ cũng sẽ mất đi lòng tin để đối chọi với Lã Bất Vi, trong lòng bị quân cũng không thể là một anh hùng thà chết không khuất phục. Nếu Thiếu Long thấy được thư này, đương nhiên không trách ta. Nếu như không thấy được thư này, thì mọi chuyện cũng không nên nhắc nữa. Lão ca thà thấy đệ chết trong tay Tào Thu Ðạo, còn hơn là để cho đệ bị kẻ khác mỉa mai là kẻ nhu nhược và nhát gan, sau này gặp lại.”

Hạng Thiếu Long xem mà nổi da gà, vừa hoảng sợ vừa buồn cười.

Thực ra chuyện này đã có manh mối từ trước, nếu không Tiêu Nguyệt Ðàm mỗi lần nhắc đến cái hẹn mười chiêu đều không ngừng nhắc nhở mình phải cẩn thận Tào Thu Ðạo nuốt lời, mà thần sắc lại rất cổ quái.

Tiêu Nguyệt Ðàm có thể nói là lấy mạng của mình để đánh cược, may mà y đã thắng.

Mình tuy không thắng, nhưng cũng không bại.

ít ra Tào Thu Ðạo cũng phải thừa nhận mình cũng có khả năng khiến cho y lưỡng bại câu thương.

ăn no nê xong, gã ngủ một chốc rồi men theo bờ sông trượt như bay về phía tây nam.

Ðến khi hoàng hôn thì tìm một hang động nhỏ nổi lửa lên, ngủ một giấc, tỉnh dậy thì tiếp tục lên đường.

Cứ như thế sau năm ngày, Hạng Thiếu Long đã vào biên giới nước Ngụy, lẻn về phía Trung Mâu.

Khi gã đến bờ bắc sông Hoàng Hà, nước sông đã tan ra. Nghĩ bụng chỉ cần vượt sông này, thì nhiều nhất là một ngày đã có thể đến Trung Mâu.

Ðiều gã lo lắng nhất giờ này là bọn Ðằng Dực đã rút quân ra khỏi Trung Mâu. Vậy thì gã phải mất công đi về Hàm Dương, lúc ấy thức ăn cũng đã hết.

Lúc này là mùa tuyết tan, trời lạnh đến nỗi khiến cho người ta cảm thấy dù có bao nhiêu quần áo cũng không đủ ấm, nếu là một người yếu ớt thì đã sớm chết cứng vì lạnh.

Ðang lo lắng, ba chiếc thuyền lớn đang trôi theo dòng xuôi xuống.

Hạng Thiếu Long chột dạ, nằm phục ở sau một tảng đá lớn nhìn ra.

Nhìn thấy rõ ràng cờ hiệu trên thuyền, Hạng Thiếu Long vui mừng xông ra, đốt lên ngọn lửa, phát ra tín hiệu.

Người Tần trên thuyền ai nấy đều lập tức ngạc nhiên, mọi người đều lên khoang tàu, vẫy chào gã.

Ba chiếc thuyền chầm chậm cập bến.

Hạng Thiếu Long vui mừng như điên, rốt cuộc cuối cùng đã gặp được người thân, tháo ván trượt tuyết, ném cả gậy trượt tuyết, chạy ra bỜ.

Ðầu chiếc thuyền áp sát vào bờ, hơn mười thanh gỗ dài được bắc ra, một giọng ồm ồm vang lên từ xa, “Thiếu Long!

Thiếu Long! Là bọn ta!”

Hạng Thiếu Long giật mình, nhận ra đó là giọng nói thân thiết của Ðằng Dực.

Tiếp theo là tiếng kêu khóc của Kỷ Yên Nhiên, Triệu Chi, có cả tiếng gọi của Xương Bình quân.

Chiếc thuyền bắt đầu đi ngược dòng lên trở lại, trong đại sảnh của thuyền, Hạng Thiếu Long đã thay bộ y phục mới, mọi người vây quanh gã.

Kỷ Yên Nhiên và Triệu Chi vì nhớ nhung gã nên đã ốm đi nhiều, lúc này vừa khóc vừa cười, vui mừng lẫn lộn.

Hạng Thiếu Long uống xong ngụm trà nóng, nói với Ðằng Dực và Xương Bình quân, “Vừa rồi ta mới hiểu cái gì là gặp lại người thân, ta đã từng nghĩ không bao giờ gặp lại các người nữa.”

Triệu Chi lại ngả vào lòng gã khóc rấm rứt, gã phải vội vàng dùng lời an ủi.

Kỷ Yên Nhiên thì biết kiềm chế hơn Triệu Chi, bình tĩnh trở lại, buồn bã nói, “Bọn thiếp đã từng muốn tự tận theo chàng, may mà nhận được tin, biết chàng đang ở Lâm Tri, mọi người đều vui mừng đến phát điên. Yên Nhiên và Thanh tỷ liền đi gặp bị quân, nhờ ngài sai người đến nước Tề rước chàng về.”

Xương Bình quân xúc động chen vào, “Bị quân còn lo lắng hơn bất cứ ai, lập tức bảo tiểu đệ bỏ hết tất cả mọi thứ, đến Lâm Tri. Chỉ tiếc là nước sông đã kết băng, song may mà như thế, nếu không chúng tôi sẽ đi uổng một chuyến.”

Ðằng Dực nói, “Kinh gia thôn tuy có người đến báo tin, nhưng chúng tôi chờ mãi vẫn không thấy tam đệ quay về, còn tưởng rằng tam đệ đã xảy ra chuyện.”

Hạng Thiếu Long hỏi, “Còn những người khác có khỏe không?”

Xương Bình quân nói, “Bọn chúng tôi đã đạt thành hiệp nghị với người Triệu, lui quân ra khỏi Trung Mâu, giờ đây Kinh Tuấn và Hoàn Xỉ đang ở Ðồn Lưu. Trận chiến này của Thiếu Long vừa có thể bình định được cái loạn Phố Cao, vừa có thể hạ được nhuệ khí của người Triệu, công lao thật là lớn.”

Hạng Thiếu Long than rằng, “Công lao dù cho có thể lớn hơn nữa, Châu Lương và biết bao huynh đệ đã phải chết nơi đất khách quê người.”

Ðằng Dực trầm giọng nói, “Chiến tranh là như thế, dù thắng hay bại cũng khó tránh được thương vong, tam đệ không cần phải tự trách như thế. Lý Mục quả là một nhân vật lợi hại.”

Xương Bình quân nói, “Lã Bất Vi chẳng phải tới Lâm Tri hay sao? Chắc là y không biết huynh đang ở đó.”

Hạng Thiếu Long cười khổ nói, “Ngược lại, ta không những đã từng uống rượu với y, chính y đã đưa ta đến Tắc Hạ học cung để quyết chiến với Tào Thu Ðạo.”

Mọi người đều kêu lên, “Cái gì?”

Hạng Thiếu Long kể hết mọi chuyện ở Lâm Tri ra, người nghe ai nấy đều lo lắng, trố mắt lè lưỡi. Còn nguy cơ về thân phận của tiểu Bàn, gã đương nhiên giấu biến đi.

Triệu Chi nghe mà quên cả khóc, vẫn cứ ôm riết lấy gã, khi nghe nói đến Thiện Nhu đã trở thành vợ của người khác, ngồi dậy mà giận dỗi nói rằng, “Nhu tỷ sao lại như thế, gả cho người khác mà không cho bọn chúng ta hay?”

Hạng Thiếu Long vội vàng giải thích Giải Từ Nguyên là một người chồng tốt, Thiện Nhu cũng đã chọn lựa đúng, cho nên Triệu Chi mới không trách nữa.

Kỷ Yên Nhiên ngạc nhiên nói, “Chàng không thấy nghĩa phụ sao? Lẽ nào…”

Hạng Thiếu Long kể lại những chuyện ly kỳ của y, đến khi kết thúc, thì vươn vai nói, “Bây giờ ta chỉ muốn ngủ một giấc, hy vọng khi tỉnh lại thì đã ở Hàm Dương.”

Hạng Thiếu Long thay bộ nhung trang, đứng ở đầu thuyền, bên cạnh ngoài Xương Bình quân, Ðằng Dực, Kỷ Yên Nhiên, Triệu Chi, còn có Kinh Tuấn nữa.

Hàm Dương chỉ còn cách một canh giờ nữa.

Cảnh tượng tuyết trắng phủ đầy đã đổi thành cảnh đẹp của đầu xuân.

Từng đóa mây trắng bay bồng bềnh, nước sông cuồn cuộn, hai bên bờ cây cỏ xanh biêng biếc.

Hạng Thiếu Long nhìn khung cảnh xung quanh, nhớ lại những ngày tháng trốn chạy của mình, lúc này có cảm giác rất tự do.

Một chuyện gã lo lắng nhất giờ đây chính là thân phận của tiểu Bàn.

Hạng Thiếu Long thuận miệng hỏi, “Mấy ngày nay có chuyện gì lớn xảy ra không?”

Xương Bình quân nói, “Hàn vương vừa mới qua đời, thái tử Ðan lên ngôi, sai sứ đến cầu hòa với chúng ta, bị quân cho Hàn vương sai Hàn Phi vào Tần, không biết Hàn vương có chịu chấp nhận hay không?”

Hạng Thiếu Long gật đầu, “Bị quân trước nay luôn khâm phục lý luận trị nước của Hàn Phi huynh, nếu như Hàn Phi huynh có thể trổ tài ở nước Tần, thì cũng là chuyện tốt.”

Kỷ Yên Nhiên lại thở dài, nhưng không nói gì cả.

Khi Hạng Thiếu Long định hỏi đến chuyện khác, Xương Bình quân hạ giọng nói, “Lao ái ngày càng được thái hậu sủng ái, sau khi được phong thành Trường Tín hầu, tước vị ngang ngửa với Lã Bất Vi, cho nên ngày càng trở nên kiêu ngạo hơn.”

Hạng Thiếu Long nhủ thầm năm nay chính là lúc Tiểu Bàn cử hành lễ đội mũ, Lao ái và Lã Bất Vi chỉ đến mức ấy thôi, chỉ là bọn họ không biết mà thôi.

Rồi lặng lẽ suy nghĩ, mối quan hệ giữa Chu Cơ và Lao ái ngày càng khăng khít với nhau, có lẽ cũng bởi hai nguyên nhân Ðầu tiên là vì Chu Cơ bắt đầu nghi ngờ tiểu Bàn không phải là con của nàng, thứ đến là tưởng mình đã chết. Mà Chu Cơ thì cần một nam nhân.

Kinh Tuấn cười, “Lần này tam ca an toàn quay về, sẽ khiến cho một số người rất thất vọng.”

Triệu Chi hớn hở nói, “Phu quân xa nhà đã gần hai năm! Chàng có biết chăng Bảo nhi của chúng ta đã lớn đến mức nào không?”

Kỷ Yên Nhiên vui vẻ nói, “Nếu không vì Bảo nhi, Phương muội cũng sẽ đi cùng với bọn thiếp, khiến cho tiểu Trinh và tiểu Phụng cũng không thể đi cùng, bọn họ khóc lóc mấy ngày.”

Hạng Thiếu Long lại hỏi về Vương Tiễn.

Xương Bình quân hạ giọng nói, “Chuyện này gặp bị quân thì hãy nói!”

Hạng Thiếu Long ngạc nhiên nhìn Xương Bình quân, Xương Bình quân nháy mắt với gã, Hạng Thiếu Long chỉ đành cất câu hỏi vào trong bụng.

Lúc này thành Hàm Dương đã ở phía trước mặt.

Hạng Thiếu Long thẫn thờ nói, “Rốt cuộc đã quay về!”

Tiểu Bàn đã sớm nhận được tin, thân chinh ra ngoài thành đón tiếp.

vị Tần Thủy Hoàng trong tương lai này rốt cuộc đã thành người lớn, trên mặt đã để râu, ngực nở vai rộng, đã có uy thế của một vị hoàng đế, Hạng Thiếu Long nhìn thấy y đã khác lạ hơn nhiều.

Xương Văn quân, Lý Tư, Quản Trung Tà, Ô Ðình Phương, Cầm Thanh và các công khanh đại thần đều đến, không khí rất náo nhiệt long trọng, nhưng không thấy Lao ái.

Trong tiếng nhạc và tiếng pháo nổ, Hạng Thiếu Long bỏ thuyền lên bờ.

Tiểu Bàn bước ra, đỡ Hạng Thiếu Long đứng dậy, nhìn kỹ bộ mặt ốm hơn nhiều của gã, than rằng, “Thượng tướng quân đã khổ nhọc!

Hạng Thiếu Long trong lòng dâng lên cảm giác kỳ lạ, như là giữa hai người trước đây không hề có quan hệ thân thiết.

Ðiều đó không những vì tiểu Bàn không xúc động như gã suy nghĩ, mà ánh mắt của y như chứa một điều gì đó khiến gã khó hiểu.

Mọi người đều bước tới chúc mừng.

Ô Ðình Phương không màng đến tất cả, ngả vào lòng gã, Cầm Thanh thì đương nhiên không thể làm thế, nhưng trong mắt rực lửa tình, như thiêu đối trái tim Hạng Thiếu Long.

Tiểu Bàn và Hạng Thiếu Long cưỡi ngựa sánh vai vào trong thành, tiếp nhận sự đón chào của dân chúng, mỉm cười, “Sau khi tin tức thượng tướng quân mất tích truyền về, mọi nhà đều cầu nguyện cho thượng tướng quân, mong thượng tướng quân có ngày trở về an toàn, rốt cuộc thì bọn họ đã toại nguyện.”

Hạng Thiếu Long rất muốn nói với y về âm mưu của Lã Bất Vi, nhưng biết rằng đây không phải là lúc, chỉ đành nén lại trong lòng, nói, “Lã Bất Vi vẫn chưa về sao?”

Tiểu Bàn cười nhạt, “Y đương nhiên phải về trước thượng tướng quân, cuộc chiến ở Tắc Hạ học cung của thượng tướng quân quả thật tuyệt vời, giành được vinh quang cho đại Tần ta. Sau khi thượng tướng quân bỏ đi, Tào Thu Ðạo đã thỉnh tội với Tề vương, thừa nhận không đủ sức giữ thượng tướng quân lại. Thượng tướng quân có biết rằng Tề vương sau khi nghe được tin này, đã tức giận mà ngã bệnh trong ngày hôm ấy.”

Hạng Thiếu Long ngạc nhiên, “Lã Bất Vi đã quay về, vậy…”

“Vào cung hãy nói!” tiểu Bàn nở nụ cười khó hiểu, vẫy tay với đám dân chúng, rồi bình thản nói, “Mọi chuyện đều nằm trong bàn tay của quả nhân, quay về rồi hãy nói.”

Trong lòng Hạng Thiếu Long lại dâng lên một cảm giác kỳ lạ như trước.

Chỉ cách hai năm, uy nghiêm của tiểu Bàn đã tăng lên nhiều, lòng dạ cũng sâu hơn, không giống như một đứa trẻ đã từng nói sư phụ cứu con như trước.

Hạng Thiếu Long và Tiểu Bàn bước vào trong thư trai.

Khi nói đến chuyện đôi vợ chồng họ Trương ở Hàm Ðan, tiểu Bàn hai mắt lạnh lùng, nói, “To gan thật! Tên gian tặc ấy dám tiết lộ chuyện này cho người ngoài, quả thật chết vạn lần không đủ bù tội.”

Hạng Thiếu Long ngạc nhiên nói, “Hình như bị quân đã sớm biết được chuyện này?”

Tiểu Bàn mỉm cười, “Ðừng quên rằng quả nhân đã có một quân cờ Mao Tiêu bên cạnh Lao ái, nhất cử nhất động của Lao ái làm sao giấu nổi quả nhân.”

Hạng Thiếu Long trong lòng như cất được tảng đá nặng, nói, “Chắc bị quân đã có đối sách?”

Tiểu Bàn đắc ý nói, “Nếu sau khi biết được mọi chuyện mới phái người đến Hàm Ðan thì đã không kịp. May mà nhiều năm trước đây quả nhân đã nghĩ đến điểm này, cho nên đã giải quyết xong.”

Hạng Thiếu Long trong lòng cảm thấy lạnh lẽo, trầm giọng hỏi, “Tại sao bị quân không cho hạ thần hay?”

Tiểu Bàn tránh ánh mắt của gã, điềm nhiên nói, “Thượng tướng quân lúc đó đang ở ngoài chiến trường, cho nên quả nhân nhất thời quên đi.”

Hạng Thiếu Long vẫn hỏi dấn tới, “Bị quân đã giải quyết bọn họ như thế nào?”

Tiểu Bàn có vẻ không nhẫn nại nữa nói, “Ðương nhiên là trả công cho họ đầy đủ, rồi đưa họ đến nơi khác, khiến cho kẻ khác không tìm thấy bọn họ.”

Trực giác của Hạng Thiếu Long cảm thấy tiểu Bàn đang nói dối, nhưng nếu cứ hỏi tiếp, thì sẽ xảy ra chuyện không vui, chỉ đành trầm mặc không nói gì.

Giữa hai người như cảm thấy rất khó xử.

Một lát sau tiểu Bàn mới phá vỡ bầu không khí nặng nề, thở dài rằng, “Sư phụ không vui sao?”

Hai chữ sư phụ đã lâu không nói này, khiến cho Hạng Thiếu Long mềm lòng, buột miệng rằng, “Ngài đã thay đổi rất nhiều.

ánh mắt sắc bén của tiểu Bàn nhìn về hướng gã, một lát sau gật đầu rằng, “Ta không thể không thay đổi, muốn ngồi yên ở chỗ này, thì càng không thể không thay đổi, nhưng đối với thượng tướng quân, ta vẫn mãi là một đứa trẻ.”

Ngừng một lát, rồi mới khó khăn hỏi tiếp, “Ngoài thượng tướng quân, có ai biết chuyện này của quả nhân không?”

Hạng Thiếu Long biết y rất muốn hỏi như thế, nhưng đến lúc này thì mới nói ra. Hơi trầm ngâm rồi nói, “Ngoài Ðình Phương, không còn kẻ thứ ba nào biết được chuyện này.”

Gã đương nhiên không kể ra Ðằng Dực.

Tiểu Bàn hít một hơi, dựa vào ghế, ngửa đầu lên nhìn xà nhà, nhẹ giọng nói, “Chuyện tốt không ra khỏi cửa, chuyện xấu đã truyền đến ngàn dặm, giờ này chắc bên ngoài toàn là lời đồn, nếu như quả nhân biết kẻ nào đề cập đến chuyện này, dù đó là ai, sẽ giết chết không tha, lại sẽ xét nhà diệt tộc, coi thử ai còn dám nhiều lời. Hừ, Lã Bất Vi, Lao ái!”

Hạng Thiếu Long trong lòng chợt run, câu này tuy không chỉ vào gã, nhưng giống như tiểu Bàn đã đưa ra ám thị, cảnh cáo mình không được cho bất cứ ai biết nữa, trong lòng nhất thời cảm thấy không thoải mái.

Tiểu Bàn không giải thích gì thêm nữa, cúi người về phía trước, hạ giọng nói, “Quả nhân đã bí mật điều Vương Tiễn về đây, trong vòng hai tháng có thể đến Hàm Dương.”

Hạng Thiếu Long nhíu mày nói, “Chuyện này bị quân đã cho thái hậu biết chưa?”

Tiểu Bàn hai mắt lạnh lùng, thản nhiên nói, “Bà ta đã không coi quả nhân là con trai, quả nhân cần gì phải nể mặt.

Bà ta ở Ung Đô làm nhiều chuyện phóng túng, khiến cho lời đồn vang khắp nơi, thiên hạ đều lấy đó làm trò cười, trở thành mối nhục của đại Tần ta.”

Hạng Thiếu Long biết y căm tức Chu Cơ đã tiết lộ chuyện vợ chồng họ Trương, thở dài rằng, “Bị quân có nhớ rằng đã từng hứa với hạ thần một chuyện hay không?”

Ý gã muốn nói đến dù trong bất cứ tình huống nào, Tiểu Bàn cũng không được làm hại đến Chu Cơ.

Tiểu Bàn bực tức nhìn về hướng gã, giận dữ mà rằng, “Giờ đây thượng tướng quân vẫn bảo vệ cho bà ta?”

Hạng Thiếu Long nhìn thẳng vào y, nói, “Ðúng vậy! Bà ta đã từng toàn tâm toàn ý yêu thương ngài, ủng hộ cho ngài.

Ngài cũng đã từng coi bà ta là mẹ ruột. Nếu ngài chịu đặt mình vào trường hợp của bà ta để suy nghĩ, thì biết làm chuyện này cũng chẳng có lợi gì, bà ta vẫn làm cũng là chuyện thường tình của con người.”

Tiểu Bàn không biết có phải vì vẫn e ngại gã không, nên ánh mắt tránh đi, nhìn vào đống văn thư ở trên án, nói, “Ðây là những văn kiện có liên quan ít nhiều đến chuyện đào kênh Trịnh Quốc, gần đây quả nhân nhận được tin Trịnh Quốc có khả năng là người Hàn phái đến, thượng tướng quân có suy nghĩ gì về chuyện này?”

Hạng Thiếu Long thấy tiểu Bàn cố ý chuyển sang chuyện khác, không chịu tiếp tục nói chuyện Chu Cơ nữa, không nén được sự tức giận, trầm giọng nói, “Hạ thần đã mệt, muốn về nhà nghỉ ngơi.”

Tiểu Bàn thở dài, cười khổ nói, “Thái phó đã nổi giận! Có nhiều chuyện ta cũng không muốn làm, nhưng lại biết không làm như thế thì không được. Thái phó cũng nên suy nghĩ cho quả nhân.”

Y dùng chức quan để gọi Hạng Thiếu Long, lập tức khoảng cách giữa hai người lại được kéo dài hơn.

Hạng Thiếu Long không còn giận nữa, nghiêm mặt nói, “Tháng bảy năm nay chính là lúc bị quân chính thức đội mũ, lúc đó đại quyền sẽ nắm vào tay, thái hậu đâu còn ảnh hưởng được đến bị quân.”

Tiểu Bàn cúi mặt, chầm chậm nói ra từng chữ, “Thượng tướng quân có biết mụ tiện nhân đó đã trao ngọc tỷ cho Lao ái tùy ý sử dụng, khiến cho quả nhân đêm ngủ không yên?”

Tiểu Bàn đã thật sự thay đổi, mối quan hệ với Chu Cơ đã đến lúc không thể nào cứu vãn được, nếu không thì làm sao gọi Chu Cơ là mụ tiện nhân?

Hạng Thiếu Long ngạc nhiên không trả lời.

“Bình.”

Tiểu Bàn vỗ tay lên mặt án, nghiến răng, nói, “Mụ tiện nhân này còn sinh ra cho Lao ái hai đứa nghiệt chủng, một đứa gọi là Lao Chính, một đứa gọi là Lao Long, thượng tướng quân bảo đó là ý gì? Nếu chẳng phải Lao tặc và Lã Bất Vi cấu kết với nhau, lôi kéo thái hậu, quả nhân không chờ đến tháng bảy đã phanh thây chúng ra muôn mảnh.”

Ngừng một lát, Tiểu Bàn đổi ngay sắc mặt, cười gượng nói, “Thượng tướng quân có biết Lao ái tự Xưng mình là giả phụ, lại còn bảo rằng ngày tháng của tên giả tử là ta đây không nhiều nữa, sau này sẽ do chính tên giả phụ là y đội mũ chứ không phải là ta. Tên nô tài ngu ngốc này cứ mở mắt mà nằm mộng, quả nhân muốn coi thử y có kết cuộc như thế nào.”

Lúc y nói lời này miệng vẫn đang cười, khiến Hạng Thiếu Long lạnh mình hơn cả lúc đang nghiến răng.

Ðột nhiên gã cảm thấy quả thật rất mệt mỏi, ứng phó với tiểu Bàn còn mất sức và gian khổ hơn cả Lã Bất Vi, gã không thể tưởng tượng được rằng tiểu Bàn sẽ có một ngày như thế này.

Tầm Tần ký – Chương 276: Thiên Oai Khó Đoán

Hạng Thiếu Long cùng mọi người quay về Ô phủ, khi thấy tỷ muội họ Ðiền, trong lòng rất xúc động.

Hạng Bảo Nhi cũng vừa tròn sáu tuổi, trông cao lớn hơn những đứa trẻ khác. Cứ quấn lấy Hạng Thiếu Long hỏi này hỏi nọ, khiến cho gã cảm thấy an ủi lắm. Ô ứng Nguyên dẫn mọi người ra bái tế tổ tiên, đến tối thì trong phủ treo đèn kết hoa, bày tiệc ăn mừng.

Khi tiệc rượu được mấy tuần, Xương Văn quân cười nói, “Tào Thu Ðạo vốn vang danh vô địch, giờ đã không phải vô địch nữa! Sau trận chiến ở Tắc Hạ học cung, ngoài danh kiếm thánh Tào Thu Ðạo, còn có đao quân Hạng Thiếu Long, xem thử người sáu nước phía đông còn đem thứ gì ra để đè bẹp đại Tần ta?”

Bọn Kỷ Yên Nhiên, Cầm Thanh đều nhìn về phía Hạng Thiếu Long, Kinh Tuấn, Ðằng Dực chúc rượu cho gã, Hạng Thiếu Long vội vàng trả lễ.

Hạng Thiếu Long nhìn thấy Châu Vi, giờ đây nàng đã trở thành thê tử của Ô Quả, thì trong lòng nhớ đến Châu Lương và ưng vương, buồn bã nói, “Ðáng tiếc Châu Lương huynh…”

Thần sắc Châu Vi cũng chợt buồn, cúi đầu xuống, nhẹ giọng nói, “Ðiều ấp ủ của tiên huynh suốt đời là huấn luyện được ưng vương, có thể ra sức ngoài sa trường, giờ đây tâm nguyện đã đạt thành, chết không hối tiếc. Thượng tướng quân không cần phải áy náy, tiên huynh đã có thể yên nghỉ ở suối vàng.”

Nói đến câu cuối cùng thì hai mắt đỏ ửng.

Mọi người biết Hạng Thiếu Long trọng tình cảm, nên tìm cách nói lảng sang chuyện khác. Lộc Ðan Nhi hỏi, “Thượng tướng quân sẽ ở lại Hàm Dương hay là quay về mục trường?”

Lý Tư đùa rằng, “Kinh phu nhân chắc đã quên rằng, người khác có thể gọi Thiếu Long là thượng tướng quân, còn phu nhân thì phải gọi là tam ca hoặc tam bá mới phải.”

Trong tiếng cười của mọi người, Lộc Ðan Nhi lại trút giận lên người Kinh Tuấn, trừng mắt liếc gã rồi mắng yêu, “Ðều là tại chàng không tốt!”

Lời ấy càng khiến cho mọi người cười lớn hơn, đã làm loãng đi không khí bi thương.

Sau buổi tiệc, mọi người đều cáo từ, còn người của Ô gia thì vẫn ngồi bàn bạc.

Khi Hạng Thiếu Long không có mặt, mọi việc đều do Kỷ Yên Nhiên phụ trách. Ðào Phương lên tiếng trước nói, “Thiếu Long quay về thì chúng tôi đã an tâm. Ta đã từng gặp Đồ Tiên nhiều lần, chứng thực rằng Lã Bất Vi quả thực bề mặt thì giả vờ bất hòa với Lao ái, nhưng thật sự thì ngầm cấu kết với nhau, lại thêm thái hậu ở phía sau chống đỡ, thế lực ngày càng lớn. Nhờ sự đề nghị của Lã Bất Vi, Lao ái đã đến sống tại Ung Ðô, giờ như vua một cõi. Phàm những chiếu lệnh cần thái hậu đóng dấu, trước tiên hãy để cho y coi qua mới được.”

Kỷ Yên Nhiên gật đầu nói, “Vì mối quan hệ với thái hậu, Ung Đô thật sự đã lọt vào tay Lao ái. Nhờ Lã Bất Vi đồng ý, y đã bí mật gây bè kết đảng, chiêu mộ các tử sĩ của các nước, chuẩn bị hành sự khi bị quân cử hành lễ đội mũ vào tháng bảy, chuyện này thật đáng lo.”

Hạng Thiếu Long nói, “Bị quân đã sớm cài nội gián vào chỗ của Lao ái, cho nên biết rõ mọi hành động của Lao ái.

Hiện nay đã bí mật triệu Vương Tiễn về kinh, chuẩn bị quyết chiến với Lao ái.”

Ðằng Dực giật mình nói, “Giờ đây đã có Thiếu Long, cần gì phải gọi Vương Tiễn trở về?”

Hạng Thiếu Long sững người, lần đầu tiên nghĩ đến vấn đề này, trong lòng dâng lên nỗi chua chát.

ánh mắt của mọi người tập trung vào gã.

Kinh Tuấn nói, “Bị quân đã chính miệng cho tam ca biết chuyện này, chắc là không có vấn đề gì!”

Kỷ Yên Nhiên lộ ra vẻ phức tạp, buồn bã thở dài rằng, “Mỗi khi có liên quan đến chuyện quyền lực vương vị, phụ tủ huynh đệ cũng chẳng còn nhân tình đạo lý gì cả. Vấn đề lớn nhất của phu quân là chàng đã được lòng người, nhìn thấy phu quân lần này trở về, dân chúng ra đường đón chào thì có thể biết được.”

ô Quả tức giận nói, “Thiên hạ này của bị quân có thể nói là do cô gia giúp y giành lấy, sao lại…”

Ô ứng Nguyên ho khan một tiếng, ngắt lời y, “Ðừng nói những lời thừa thãi ấy. Ô Quả nhà ngươi quả thật không biết ngắn dài, trải qua chuyện người Triệu quên ơn mà vẫn còn có ý nghĩ ngây thơ ấy. Thiếu Long giờ đây chính là một Bạch Khởi, hãy nghĩ lại kết cục của Bạch Khởi thử xem!”

Ngừng một lát rồi nói, “May mà nhiều năm trước chúng ta đã quyết định, phải ra miền biên giới, xây dựng vương quốc của chính mình, giờ đây rốt cuộc đã đến giai đoạn cuối cùng. Sau khi giết Lã Bất Vi, chúng ta sẽ lập tức rời khỏi nước Tần, chuyện này có thể do Thiếu Long toàn quyền xử lý.”

Ðào Phương cũng ho khan nói, “Gần đây có lời đồn rằng, bảo bị quân không phải là con của tiên vương, cũng không phải là do Lã Bất Vi sinh ra, mà là chính Thiếu Long đã dựng lên, lời này thật hoang đường!”

Kỷ Yên Nhiên nhìn Hạng Thiếu Long bằng ánh mắt kỳ lạ, cúi đầu không nói gì.

Ðằng Dực là người biết việc này, giật mình nói, “Những người nghe được lời đồn này có tin không?”

Ðào Phương nghiêm mặt nói, “Giờ đây trên đất nước Tần, ngoài những kẻ có lòng riêng, ai nấy cũng đều tin rằng bị quân chính là chân mệnh quân chủ do trời sai xuống. Chỉ những lời đồn ấy, có thể gây nên tác dụng gì, vấn đề là e rằng bị quân nghe được thì lòng không thoải mái mà thôi.”

Hạng Thiếu Long nói, “Cũng như lời nhạc phụ vừa mới nói, vận mệnh của Ô gia chúng ta sẽ không do kẻ khác quyết định nữa, tất cả đều phải nắm trong lòng bàn tay của chúng ta.”

Rồi bàn bạc chi tiết của cuộc rút lui, mọi người mới quay về phòng nghỉ ngơi.

Kỷ Yên Nhiên kéo Hạng Thiếu Long ra vườn đi tản bộ, nàng mỹ nữ ấy nói rằng, “Phu quân có cảm thấy rằng hai năm nay bị quân đã thay đổi rất nhiều không?”

Hạng Thiếu Long đang ngắm vầng trăng sáng treo trên bầu trời cao, than rằng, “Ðã là một đấng quân chủ, ai mà không thay đổi?”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Nói rất hay! Quyền lực tuyệt đối sẽ làm cho người ta mục nát tuyệt đối, đó có phải là câu nói của chàng không? Uy quyền của bị quân ngày càng tăng, tính cách ngày càng thâm trầm khó đoán. Chao ôi! Lý Tư cũng đã thay đổi rất nhiều, không gần gũi với Ô gia chúng ta như trước kia nữa. Còn Thiếu Long chàng cứ chân thành đối đãi với người khác như trước, rất dễ dàng thua thiệt.”

Hạng Thiếu Long đang sững người, Kỷ Yên Nhiên cúi đầu nói, “Ðó là do Ðình Phương cho thiếp biết!”

Hạng Thiếu Long ngạc nhiên nhìn sang nàng.

Kỷ Yên Nhiên né ánh mắt của gã, nói, “Ngày trước nghe tin chàng mất tích, trong lúc nóng lòng, Ðình Phương đã nói thân phận của bị quân ra, bị quân chắc cũng vì mối quan hệ này mà toàn lực cứu chàng, cho nên chàng cũng không thể trách Ðình Phương. Không ngờ chàng lại giấu cả thiếp nữa.”

Hạng Thiếu Long biến sắc nói, “Còn ai biết chuyện này?”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Ðương nhiên có cả Chi Chi nữa. Nhưng thiếp đã căn dặn Chi Chi phải giữ bí mật. Thiếu Long!

Nếu không có chuyện này, mặc cho lời đồn khắp thiên hạ, vẫn không hề ảnh hưởng đến mối quan hệ của chàng và bị quân Nhưng giờ đây mọi chuyện đã khác, chàng không thể không đề phòng.”

Hạng Thiếu Long gật đầu, “Ða tạ Yên Nhiên đã chỉ điểm, chuyện này trong lòng ta đã tính. Ðêm đã khuya! Chúng ta nghỉ ngơi thôi!”

Sáng hôm sau, Hạng Thiếu Long, Ðằng Dực và Kinh Tuấn vội vàng lên triều.

Khi đến nghị chính điện, phát giác không những Lã Bất Vi đến, Lao ái cũng từ Ung Đô quay về, nhất thời cảm thấy không ổn.

Lao ái đến bên Hạng Thiếu Long, kéo gã qua một góc nói, “Nghe nói Thiếu Long gặp nguy hiểm, ta và thái hậu cũng lo lắng lắm.”

Hạng Thiếu Long đương nhiên biết y nói không đúng với lòng, nhưng cũng không nghĩ ra, giả vờ cảm kích mà rằng, “Ða tạ Lao huynh và thái hậu quan tâm.”

Lao ái ghé sát tai gã, lại còn hạ giọng mà nói rằng, “Không biết mấy tháng nay ai đã tung tin đồn rằng bị quân không phải là con trai của tiên vương, mà chỉ là do Thiếu Long dựng nên. Vì thế ta đã bàn bạc với thái hậu, đến Hàm Ðan đưa đôi vợ chồng đã nuôi lớn bị quân về Hàm Dương để giải nỗi thắc mắc cho thiên hạ.”

Hạng Thiếu Long vẫn bình tĩnh mà đáp rằng, “Kết quả thế nào?”

Lao ái hai mắt lóe lên tia nhìn sắc lạnh, nhìn thẳng vào gã mà nói rằng, “Kết quả là phát giác vào nửa năm trước, đôi vợ chồng họ Trương và mấy chục hộ gia đình láng giềng đã mất mạng trong một trận hỏa hoạn, hơn bốn trăm người bất luận già trẻ gái trai không ai còn sống. Chuyện này đã gây chấn động Hàm Ðan, trở thành một nỗi nghi ngờ của tất cả mọi người.”

Hạng Thiếu Long lập tức tay chân lạnh ngắt, đầu óc choáng váng.

Giọng nói của Lao ái như từ ở phía xa vọng tới, “Lúc nãy ta và trọng phụ nói đến chuyện này, trọng phụ bảo rằng Thiếu Long đã từng cho ngài biết bị quân đã đưa đôi vợ chồng họ Trương ấy về Hàm Dương hưởng phước, nhưng tại sao sự thực là như thế?”

Một người nhanh trí như Hạng Thiếu Long nhất thời cũng khó mà tìm ra lời đối đáp, may mà lúc này có tiếng trống vang lên, mọi người đều vội vàng lên triều, Hạng Thiếu Long chỉ có thể nói được một câu, “Chuyện này rất kỳ lạ!” rồi thừa cơ thoát thân.

Cho đến khi vào trong điện, tung hô xong, Hạng Thiếu Long vẫn còn hoang mang, nghĩ đến tin tức đáng sợ mà Lao ái vừa mới tiết lộ.

Gã cũng đoán được Tiểu Bàn sẽ giết vợ chồng họ Trương để bịt miệng, nhưng nằm mơ cũng không ngờ rằng cả những người láng giềng vô tội cũng không tránh khỏi! Có thể thấy tiểu Bàn vì muốn giữ bí mật mà bất chấp thủ đoạn, nói không chừng những kẻ đã từng làm chuyện này cũng đã sớm bị xử tử.

Giờ đây trong lòng Tiểu Bàn, chỉ có Hạng Thiếu Long gã và Ô Ðình Phương biết bí mật về thân thế của mình, không biết y có quên hết tình cũng mà cả mình cũng giết để diệt khẩu hay không?

Trải qua kinh nghiệm bị bạn bè thân thiết bán đứng ở Lâm Tri, gã càng hiểu hơn về nhân tính.

Tiểu Bàn quả thật đã khác xưa.

Chỉ cần nhìn thấy tư thế của y ngồi trên long tọa, khen ngợi Hạng Thiếu Long trước mặt quần thần về chuyện gã đã bình tĩnh dẹp loạn Phố Cao, thì biết y đã hoàn toàn nắm được thủ đoạn dùng uy đức để chế phục người khác của một đấng quân chủ.

Tiếp theo là những lời báo cáo dài dòng của Lã Bất Vi về chuyến đi Lâm Tri của y. Nói được một nửa, Tiểu Bàn phất tay cắt lời y, nhíu mày nói, “Ðiền Kiện rốt cuộc là người thế nào? Sau khi y được thế, Ðiền Ðan có giữ được quyền lực của mình không?”

Lã Bất Vi đang nói ngon trớn thì bị tiểu Bàn chặn lại, mặt lộ vẻ không vui, trầm giọng nói, “Ðiền Kiện và Ðiền Ðan không đáng lo, điều đáng lo là liên minh Tề Sở. Lần này Ðiền Kiện ngồi vững trên ngai vàng, người Sở ở phía sau lưng đã ra nhiều sức, cho nên lão thần…”

Tiểu Bàn lại cắt đứt lời y một lần nữa, “Ðiền Kiện rốt cuộc là kẻ có dã tâm hay là kẻ nhu nhược chỉ cầu an?”

Hạng Thiếu Long giật mình.

Tiểu Bàn quả thật đã thay đổi, trở nên thực dụng hơn, không cân những lời nói suông. Chỉ thấy y hỏi những câu này, thì đã biết.

Lã Bất Vi ngừng một lát, rồi nhíu mày nói, “Chuyện này còn phải đợi quan sát.”

ánh mắt của Tiểu Bàn dừng lại ở chỗ Hạng Thiếu Long, giọng nói chuyển sang ôn hòa cung kính, rằng, “Thượng tướng quân có thể giải nỗi thắc mắc này cho quả nhân không?”

Hạng Thiếu Long trong lòng thầm than, chỉ cần mình nói mấy câu thì sẽ quyết định vận mệnh của người Tề, trong đó có lẽ cũng bao gồm người mình đã từng yêu thương là Thiện Nhu và người bạn thân thiết Giải Tử Nguyên.

Song không thể không trả lời, nhất là mối quan hệ giờ đây của gã và Tiểu Bàn trở nên như thế.

Hít sâu một hơi rồi ung dung nói, “Ðiền Kiện giờ đây thực tế đã trở thành vua nước Tề, tất cả mọi chuyện đều do y xử lý, cho nên hy vọng có thể làm được việc. Ðáng tiếc là chịu ảnh hưởng của lối nói suông trước nay của người Tề, cho nên không nhìn thấy những vấn đề bức thiết trong nước, càng cố gắng muốn giữ mối quan hệ tốt với chúng ta, không có cái chí muốn thống nhất thiên hạ như những người trước kia.”

Tiểu Bàn vỗ mạnh lên án, than rằng, “Trả lời của thượng tướng quân đã đủ, thái úy đâu?”

Lý Tư bước ra phía trước, cầm hốt khấu đầu nói, “Hạ thần có!”

Tiểu Bàn nói, “Lập tức hãy chọn một người ăn nói giỏi, lựa một đoàn ca vũ cơ tài sắc song toàn, đưa đến Lâm Tri cho Ðiền Kiện, chúc y lên ngôi thái tử, đồng thời soạn một bài chúc tụng cho quả nhân.”

Lý Tư nhận lệnh quay về chỗ.

Tiểu Bàn cười lớn nói, “Từ thời Hoàn Công, người Tề cứ đối chọi với đại Tần ta, còn tam Tấn, Sở, Yên nếu không liên kết với ta chống Tề, thì liên kết với Tề chống ta. Chuyện này cũng sẽ sớm muộn chấm dứt khi chúng ta bình định được tam Tấn và người Sở.”

Các quan đều nói những lời chúc mừng.

Lao ái và Lã Bất Vi thì mặt lạnh như băng, chẳng nói chẳng rằng.

Hạng Thiếu Long hiểu rằng, tiểu Bàn muốn cho quần thần thấy rằng ai mới là kẻ nắm quyền thật sự, nên cố ý bẽ mặt Lã Bất Vi, âm thầm buộc bọn chúng tạo phản.

Lúc này Lã Bất Vi đột nhiên nháy mắt với Lao ái, rồi Lao ái lại phất tay ra hiệu cho một vị đại phu tên Tiền Trực đứng cách đó khoảng mười người.

Tiền Trực do dự một lát rồi mới bước ra khấu đầu rằng, “Vi thần có chuyện cần bẩm lên bị quân.”

Trong điện lập tức im lặng.

Xương Bình quân ghé vào tai Hạng Thiếu Long rỉ nhỏ, “Y là người của Lao ái, chính là do thái hậu hạ chiếu đề bạt.”

Tiểu Bàn vẫn bình tĩnh nói, “Tiền khanh gia có lời thì hãy nói!”

Tiền Trực môi run run, rồi run sợ nói rằng, “Gần đây ở Hàm Dương có lời đồn làm tổn thương đến bị quân, sau khi vi thần điều tra, phát giác những lời đồn này ảnh hưởng đến lòng dân, vì thế, vi thần xin bị quân, cho phép vi thần xử lý.

Tiểu Bàn lạnh lùng ngắt lời y, nói, “Tiền đại phu rốt cuộc đã nghe được những lời đồn gì, quả nhân không hiểu.”

Tiền Trực lập tức tái mặt, quỳ xuống đất, dập đầu mà nói rằng, “Vi thần không dám nói.”

Tiểu Bàn tức giận quát lên, “Có mấy câu mà không dám nói ra, làm sao có thể giúp cho quả nhân xử lý việc nước.”

Lao ái thấy thế thì đẩy Lã Bất Vi một cái.

Lã Bất Vi bất đắc dĩ, lại bực bội Tiền Trực vô dụng, ho khan một tiếng, định lên tiếng, thì tiểu Bàn đã quát, “Bất kể là ai cũng không được cầu xin cho hạng ngu ngốc này, hãy mau nói lời đồn ấy cho quả nhân nghe.”

Tiền Trực đã dập đầu đến nỗi chảy máu, run giọng nói, “Bên ngoài đồn rằng bị quân không phải là… vi thần tội đáng muôn chết.”

Tiểu Bàn cười ha ha nói, “Té ra là chuyện ấy.”

Rồi chợt sầm mặt nói, “Kẻ có trí không nên tin vào lời đồn, người sáu nước phía đông đã khiếp sợ, cố ý tung ra lời đồn mà Tiền Trực ngươi lại coi lời đồn ấy là sự thực, còn bảo ảnh hưởng đến lòng người.”

Tiền Trực sợ đến nỗi vãi đái trong quần, khấu đầu kêu, “Vi thần không hề tin vào lời đồn, vi thần…”

Tiểu Bàn chợt quát lớn, “Hãy mang tên nô tài này ra khỏi cửa cung chém đầu cho quả nhân. Nam nhân trong tộc toàn bộ bị đày ra biên cương sung quân, nữ nhân thì trở thành quan kỹ.”

Khi các quan đều im thin thít, Tiền Trực bị Xương Văn quân và các cấm vệ lôi xềnh xệch ra ngoài, Tiền Trực thì kêu không ngớt, “Bị quân khai ân!” ở giữa điện chỉ còn lại vết máu lúc nãy.

Vẻ mặt của Lã Bất Vi và Lao ái ngày càng khó coi hơn.

Trong điện im lặng đến nỗi nghe cả tiếng kim rơi, ai nấy đều run sợ trước thiên oai khó lường của tiểu Bàn.

Còn vài tháng nữa tiểu Bàn chính thức trở thành vua của nước Tần, ai dám buông ra lời mạo phạm trong thời khắc này?

Hạng Thiếu Long cảm thấy lạnh lẽo nơi xương sống.

Tiểu Bàn đã trở nên đáng sợ.

Tiểu Bàn bình tĩnh lại, điềm nhiên nói, “Giờ đây những lời đồn vô cớ đã truyền đến nơi này, trọng phụ cho rằng phải xử lý thế nào?”

Lã Bất Vi bình tĩnh trở lại, trầm giọng nói, “Bị quân nói phải, kẻ có trí không nên tin vào lời đồn, chỉ cần chúng ta không thèm để ý, mọi việc sẽ trôi qua.”

Tiểu Bàn hơi lắc đầu, tỏ vẻ không đồng ý, giờ lại hỏi mọi người rằng, “Các khanh có kế gì hay?”

Xương Bình quân ghé vào tai Hạng Thiếu Long nói, “Ðã đến lúc ta bước ra.”

Rồi mới bước ra phía trước bẩm lên rằng, “Hạ thần cho rằng chuyện này phải mau chóng xử lý, xin bị quân hãy hạ thánh dụ, ra lệnh cho muôn dân từ rày về sau không cho phép bất cứ ai bàn luận đến chuyện này, kẻ vi phạm bất cứ là ai, thì sẽ bị giáng tội cả họ, kẻ nào phát giác ra thì sẽ được thưởng. Như thế lời đồn tự nhiên sẽ ngừng hẳn.”

Hạng Thiếu Long trong lòng bàng hoàng, biết rằng tiểu Bàn đã sớm cùng bọn cận thần như Lý Tư, Xương Bình quân bàn bạc trước, dùng thủ đoạn sấm sét để bình định cơn sóng gió này.

Tiểu Bàn vui vẻ nói, “Lời này của khanh gia hợp với ý quả nhân. Quả nhân đã sắp đăng cơ, phàm có người nhắc đến chuyện này, thì dù cho chức quan lớn nhỏ, đều là hạng có ý đồ không tốt, lập tức giết chết không tha.”

Rồi quát lớn, “Bãi triều!”

Các quan quỳ xuống, cung kính đưa tiễn vị bị quân có uy quyền ngày càng tăng.

Sau khi tiểu Bàn bỏ đi, Hạng Thiếu Long định quay về. Xương Bình quân kéo lại nói, “Bị quân muốn gặp huynh.”

Tầm Tần ký – Chương 277: Trước Khi Đổ Mưa

Tiểu Bàn đẩy cửa sổ ra, đứng quay lưng về phía cửa sổ, nói, “Quả nhân chỉ muốn gặp một mình thượng tướng quân, những người khác hãy chờ ở ngoài cửa.”

Lý Tư và Xương Bình quân nhận lệnh lui ra, bọn thị vệ đóng cửa lại. Hạng Thiếu Long không thi lễ, ung dung đến phía sau tiểu Bàn, hạ giọng nói, “Trận hỏa hoạn thiêu chết mấy trăm người ở Hàm Ðan, phải chăng là bị quân đã sai người làm?”

Tiểu Bàn thở dài nói, “Quả nhân cũng không còn sự lựa chọn nào khác, nếu không giờ đây cả hai chúng ta đã bị người ta giết chết.”

Hạng Thiếu Long lập tức chẳng còn lời gì để nói.

Từ góc độ thực tế, thủ đoạn độc ác của tiểu Bàn rất có hiệu quả, ngay cả Hạng Thiếu Long gã cũng chẳng nghĩ ra được phương pháp nào hay hơn.

Mấy trăm nhân mạng đó, cả Hạng Thiếu Long gã cũng phải trực tiếp chịu trách nhiệm.

Nếu không phải trước đây gã dùng tiểu Bàn để giả thành Doanh Chính, thì mối họa này đâu xảy ra.

Lúc này hối hận cũng đã không kịp.

Ðây phải chăng là vận mệnh.

Từ ngày dựng nên một Tần Thủy Hoàng, gã lần đầu tiên cảm thấy hối hận.

Tiểu Bàn nhẹ giọng nói, “Sư phụ giờ đây là người thân duy nhất trên đời của ta, ngàn vạn lần đừng trách ta. Không có sự giúp đỡ của thượng tướng quân, quả nhân cảm thấy rất cô độc.”

Lời xưng hô của y từ sư phụ và ta, cuối cùng chuyển thành thượng tướng quân và quả nhân, quả là một sự thay đổi đầy kịch tính.

Trong khoảnh khắc, Hạng Thiếu Long như trải qua một quá trình từ lúc tiểu Bàn còn là đứa trẻ nghịch ngợm, trở thành một vị Tần Thủy Hoàng danh lừng thiên hạ, trong lòng cảm thấy rúng động vô cùng, Hạng Thiếu Long cố nén cơn xúc động, thản nhiên nói, “Hôm nay vi thần đến là để nói lời từ biệt với bị quân, lát nữa vi thần sẽ về mục trường, chờ đợi bị quân làm lễ đội mũ.”

Tiểu Bàn giật mình, “Thượng tướng quân vẫn chưa hiểu nỗi khổ của quả nhân hay sao?”

Hạng Thiếu Long lắc đầu cười khổ nói, “Thần nào dám trách ngài, ngài đã trở thành người xuất sắc hơn tất cả các vị quân chủ trước đây, trong thiên hạ có ai thắng được ngài?”

Tiểu Bàn thở phào, xoay người lại, nhìn gã bằng ánh mắt kỳ lạ, nói, “Vẫn còn bốn tháng nữa, ta mới chính thức đăng cơ, sư phụ nếu không trách ta, hãy giúp ta quét sạch bọn người Lã, Lao.”

Hạng Thiếu Long mềm lòng, than rằng, “Ðã có Vương Tiễn, vậy thì cần gì Hạng Thiếu Long này nữa?”

Tiểu Bàn nhếch mép mỉm cười, lắc đầu nói, “Sư phụ đã hiểu nhầm. Ta gọi Vương Tiễn quay về là bởi vì y cũng nên quay về, một khi sư phụ gặp chuyện ở Tề, quả nhân đã có Vương Tiễn báo thù cho thượng tướng quân.”

Hạng Thiếu Long trầm ngâm một chốc nói, “Vi thần quay về mục trường, thật sự là chỉ muốn nghỉ ngơi, xin bị quân đừng nghĩ lệch.”

Tiểu Bàn gượng cười, “Chỉ có thượng tướng quân mới dám bảo quả nhân là đừng nghĩ lệch, nếu là người khác làm sao dám nói thế.”

Rồi lại nghiêm nét nói, “Thượng tướng quân phải chăng vẫn chờ đến khi quả nhân làm lễ đội mũ thì thoái ẩn ở biên giới phía bắc?”

Hạng Thiếu Long nhìn thẳng vào đôi mắt đầy uy thế của Tiểu Bàn, trầm giọng nói, “Ðây là tâm nguyện lớn nhất của vi thần, mong bị quân đừng ngăn cản.”

Tiểu Bàn cười khổ nói, “Thượng tướng quân là người duy nhất mà quả nhân không dám đắc tội, quả nhân còn có thể nói gì được nữa? Giờ đây quả nhân chỉ có một yêu cầu, là mong thượng tướng quân hãy giúp quả nhân trừ khử Lã Bất Vi và Lao ái.”

Hạng Thiếu Long nói dứt khoát, “Thôi được! Sau một tháng, vi thần sẽ quay về Hàm Dương, giúp cho bị quân một tay.”

Hạng Thiếu Long cùng với Ðằng Dực, Kinh Tuấn thúc ngựa lên đỉnh đồi cao nhất trong mục trường, đưa mắt nhìn xa xa.

Cảnh sắc bốn bề như tranh vẽ, bầy mục súc đang thong dong gặm cỏ trên thảo nguyên.

Trong làn sương mỏng của buổi sớm, đồi núi chập chùng ẩn hiện mông lung, dòng thác nước từ trên cao đổ xuống, càng tăng thêm sức sống.

Ðằng Dực ngửa mặt nhìn đàn chim bay ngang qua ở trên trời, than rằng, “Cuối cùng đã quay về.”

Hạng Thiếu Long thì đang chú ý nhìn bọn Kỷ Yên Nhiên, Lộc Ðan Nhi, Thiện Lan cùng với bọn trẻ Hạng Bảo Nhi đang chơi đùa, nói, “Lần này xuất chinh, thu hoạch lớn nhất không phải là lập được công nghiệp gì, mà là hiểu được hai chuyện.”

Kinh Tuấn vội vàng hỏi ngay.

Hạng Thiếu Long nói, “Ðiều đầu tiên là biết cách chấp nhận thất bại.”

Ðằng Dực nói, “Lý Mục quả thật là dùng binh như thần, một ngày người này vẫn còn, quân ta đừng hòng đánh vào nước Triệu.”

Hạng Thiếu Long than rằng, “Trên chiến trường, Lý Mục sẽ chẳng thua bất cứ người nào, dẫu rằng Vương Tiễn cũng chẳng làm gì được y. Nhưng minh thương dễ đỡ, ám tiễn khó phòng, rốt cuộc y cũng sẽ có một ngày bại trong tay của hôn quân và gian thần nước Triệu, đó chính là kết quả của một vị danh tướng công cao hơn chủ!”

Ðằng Dực ngạc nhiên nói, “Thiếu Long hình như rất có cảm xúc, có thể nói rõ hơn được không?”

Hạng Thiếu Long nói, “Ðó chính là chuyện thứ hai mà đệ đã học được lúc ở Lâm Tri, trong chính trị không có cái gọi là đạo lý, vì lợi ích của cá nhân, quốc gia, dù huynh đệ tốt nhất cũng có thể bán đứng chúng ta.”

Ðằng Dực và Kinh Tuấn đều lộ vẻ trầm tư suy nghĩ.

Hạng Thiếu Long nói, “Cho nên chúng ta phải chuẩn bị từ trước, nếu không một khi đại họa giáng xuống, thì sẽ trở tay không kịp.”

Kỷ Yên Nhiên lúc này một mình bước lên đồi, khen rằng, “Lời của phu quân đại nhân rất có lý. Yên Nhiên đã yên tâm!”

Hạng Thiếu Long trong lòng dâng lên nhu tình vô hạn, nhìn Kỷ Yên Nhiên, hào tình xông lên, nói, “Trận cuối cùng này chúng ta phải đánh sao cho đẹp mắt, vừa có thể trừ được Lã tặc, vừa có thể rút lui ra ngoài biên ải để an hưởng nửa đời còn lại của chúng ta.”

Ðằng Dực nói, “Nhưng giả sử bị quân cố ý đối phó với chúng ta, chúng ta phải làm thế nào?”

Kinh Tuấn giật mình nói, “Chắc không như vậy đâu!”

Kỷ Yên Nhiên quay sang Hạng Thiếu Long nói, “Thiếp thấy phu quân cũng nên nói thẳng cho tiểu Tuấn hay tại sao chuyện ấy sẽ xảy ra! Nếu không tiểu Tuấn sẽ không biết được tình thế nguy hiểm đến mức nào!”

Kinh Tuấn biến sắc nói, “Nói vậy lời đồn ấy là có thật?”

Hạng Thiếu Long chậm rãi gật đầu, kể thân thế của tiểu Bàn, sau đó mới nói, “Chuyện này phải giữ bí mật, tiểu Tuấn không nên cho bất cứ người nào biết, cả Ðan Nhi cũng thế.”

Kinh Tuấn hít một hơi, nói, “Chỉ cần nhìn thấy ngày hôm ấy bị quân chém Tiền Trực, thì biết y vì bảo vệ ngôi vua, nên không màng đến tất cả.”

Hạng Thiếu Long trầm giọng nói, “Ta đã bị người ta lừa nhiều lần, cho nên cũng nghi ngờ bị quân đang lừa ta. Các người có nghe câu chuyện thỏ hết thì chó cũng vào nồi chưa?”

Kỷ Yên Nhiên tuy đọc nhiều sách, nhưng đương nhiên chưa nghe chuyện này, hỏi, “Chuyện này thế nào?”

Hạng Thiếu Long giải thích rằng, “Khi thỏ đã bị bắt, chủ nhân không còn gì để săn nữa, thì sẽ làm thịt chó săn. Giờ đây tình trạng của chúng ta cũng là như thế. Khi Lã Bất Vi, Lao ái đã bị dẹp tan, chúng ta bị trở thành con chó săn ấy.

Nhưng chúng ta lại còn biết rõ thân thế thật sự của bị quân, cho nên vẫn còn ảnh hưởng đến sự vững bền của y.”

Ðằng Dực gật đầu nói, “Tam đệ có ý nghĩ này, nhị ca cũng yên tâm lắm. Chúng ta có nên bỏ đi sớm hay không?

Không có chúng ta, Lã Bất Vi cũng chẳng có ngày yên.”

Hạng Thiếu Long nói, “Nếu chúng ta bỏ đi lúc này, bảo đảm rằng sẽ không có ai sống được mà rời khỏi đây.”

Ba người đều đồng thời biến sắc.

Hạng Thiếu Long đưa mắt nhìn xa, cười khổ nói, “Y do một tay ta nuôi lớn, không ai hiểu rõ lòng dạ của y bằng ta.

Năm xưa khi còn là một đứa trẻ, đã dùng thủ đoạn lừa gạt để tự tay giết chết Triệu Mục, sau đó còn dương dương đắc ý Theo ta đoán, trong Ô gia chúng ta, nhất định đã có người bị y mua chuộc, cho nên nếu có bất cứ hành động gì, cũng không lọt qua khỏi mắt của y.”

Kinh Tuấn nghiến răng nói, “Nếu đệ tìm ra tên phản đồ này, sẽ lập tức giết chết không tha.”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Binh bất yếm trá, nếu chúng ta có thể tìm ra người này, thì phải lợi dụng mới đúng.”

Hạng Thiếu Long nói, “Cơ hội duy nhất cho chúng ta bỏ chạy, là nhân lúc bị quân đến Ung Đô để đối phó với Lao ái, nếu bỏ qua cơ hội này thì khó mà chạy được.”

Ðằng Dực cười ha ha nói, “Lời này rất hợp với ý của ta.”

Hạng Thiếu Long nói, “Kẻ bị quân e ngại nhất là đệ, cho nên chỉ cần một ngày đệ vẫn còn đây thì những người khác muốn bỏ đi y cũng không can thiệp. Chúng ta phải lợi dụng tình thế này, đưa mọi người ra biên ải. Bị quân cũng khó mà ngăn cản được, bởi vì ít nhất bề ngoài y đã hứa cho đệ rời khỏi nơi này.”

Kỷ Yên Nhiên nhíu mày nói, “Nhưng khi chúng ta muốn bỏ đi, thì đâu có dễ như thế.”

Hạng Thiếu Long quay sang Kinh Tuấn nói, “Giờ đây trong Ô gia, chúng ta có thể dùng được bao nhiêu người?”

Kinh Tuấn nói, “Thêm người trong tộc của đệ mới đến, trừ đi những người đã chết trận, tổng cộng có hơn hai ngàn một trăm người, nhưng vì phải hộ tống mọi người ra biên ải, cho nên số còn lại rất ít!”

Hạng Thiếu Long hài lòng nói, “Người đông thì khó chạy được, chỉ cần để lại ba trăm người là đủ. Nhưng ba trăm người này phải là những hảo thủ tinh nhuệ nhất và trung thành nhất. Chuyện nay do nhị ca và ngũ đệ giải quyết, người của chúng ta bị quân sẽ không đề phòng.”

Kỷ Yên Nhiên trầm ngâm nói, “Nhưng phu quân đại nhân có nghĩ rằng, khi truy quét phản đảng, bị quân nhất định sẽ điều động đại quân, bao vây Ung Đô và Hàm Dương, lúc đó chúng ta người ít thế cô, vậy thì làm sao bỏ chạy.”

Hạng Thiếu Long bình thản nói, “Nếu bị quân muốn giết ta, thì sẽ không dùng người của y, chả lẽ y lại sai bọn tứ đệ, Xương Bình quân, Hoàn Xỉ đến đối phó ta? Thử hỏi y sẽ dùng kế gì? Một phương pháp duy nhất, đó là đổ mọi trách nhiệm cho Lao ái, Lã Bất Vi, ví dụ như thông qua tên nội gian Mao Tiêu ở chỗ của Lao ái, bày ra cạm bẫy để chúng ta giẫm vào. Chỉ có khi bất đắc dĩ, mới tự tay cầm binh để đối phó với ta, đến khi xong chuyện thì sẽ tìm lời che đậy.”

Ðằng Dực nói, “Tam đệ nói rất có lý, nhưng giả sử bị quân đang tâm đối phó với chúng ta, mà ở chỗ chúng ta lại có nội gián, quả thật khiến cho ta lo lắng.”

Hạng Thiếu Long đột nhiên lảng sang chuyện khác, nói, “Chúng ta hãy tìm cách sắp xếp lại ở đây, giả sử có thay đổi bất ngờ, thì cũng có thể quay về trốn ở mục trường, rồi sau đó ung dung rời khỏi đây, như thế có thể tránh được đại quân, vừa có thể khiến cho bị quân tưởng rằng đã bí mật xử quyết được chúng ta.”

Kỷ Yên Nhiên chép miệng, “Cách bỏ chạy hay nhất là đào địa đạo. Vậy làm thế nào mới có thể giữ được bí mật?”

Ðột nhiên giật mình, “Yên Nhiên đã nghĩ ra.”

Ba người vui mừng nhìn về phía nàng.

Kỷ Yên Nhiên chỉ về ngôi mộ của Ni phu nhân ở phía đông nam, nói, “Giả sử chúng ta bề ngoài giả vờ xây dựng lại ngôi mộ, nhưng âm thầm đào địa đạo, chúng ta sẽ dùng những huynh đệ mới đến của tiểu Tuấn và người của Yên Nhiên, đảm bảo dù cho quỷ thần cũng có thể giấu được.”

Hạng Thiếu Long rầu rĩ nói, “Bị quân biết ta giỏi dùng kế, chỉ cần trước khi tấn công, sai người giữ ở phía trên đỉnh núi, chúng ta có thể chạy được bao xa? Nhưng giờ đây còn bốn tháng nữa mới đến lễ đội mũ, không thể nào đào được một con địa đạo dài đến mấy dặm.”

Kinh Tuấn hiến kế, “Ðiều này thì dễ, chỉ cần có thể chạy ra gờ địa đạo, tìm một nơi bí mật ẩn nấp vài ngày, đợi đại quân rút lui thì mới âm thầm chạy ra, chuyện này hãy cứ giao cho đệ.”

Hạng Thiếu Long cả mừng nói, “Những chuyện này hãy lập tức tiến hành.”

Ba ngày sau, Cầm Thanh đến.

Hạng Thiếu Long nén không được ôm nàng vào lòng để thỏa lòng mong nhớ.

Bọn Kỷ Yên Nhiên biết ý nên lui ra ngoài sảnh để cho hai người gặp nhau. 

Hạng Thiếu Long dắt tay nàng ngồi xuống một góc, âu yếm nói, “Nàng đã ốm nhiều!”

Cầm Thanh cúi đầu nói, “Người ta lần này đến tìm chàng, là có chuyện muốn báo.”

Hạng Thiếu Long hỏi, “Chuyện gì?”

Cầm Thanh nhìn gã rồi lại nghiêm mặt nói, “Gần đây bị quân sai người chọn ra một ca cơ, rồi lại dạy cho nàng các lễ nghi cung đình. Chuyện này rất bí mật, người ta cũng chỉ vô tình phát hiện mà thôi.”

Hạng Thiếu Long nhíu mày nói, “Chuyện này có gì đặc biệt?”

Cầm Thanh lộ ra vẻ sợ hãi, run giọng nói, “Người này dù bề ngoài hay tướng mạo cũng có bảy tám phần giống thái hậu, chao ôi! Thiếu Long, thiếp lo sợ quá.”

Hạng Thiếu Long đưa tay ôm nàng vào lòng, chỉ cảm thấy người mình lạnh lẽo.

Gã đã lập tức biết được Cầm Thanh đang suy nghĩ gì.

Tiểu Bàn quyết định giết chết Chu Cơ, nhưng Chu Cơ về danh nghĩa là mẹ ruột của y, giết nàng là chuyện bất hiếu bất nghĩa, cho nên đã dùng cách trộm long tráo phụng, che mắt người khác.

Sau khi giết Chu Cơ, thì sẽ giam lỏng thái hậu giả này vào trong cung, như thế có thể dễ dàng che được mắt của người Tần.

Sở dĩ Cầm Thanh lo lắng, là bởi vì nàng không biết Chu Cơ quả thật không phải là mẹ ruột của tiểu Bàn.

Tiểu Bàn không còn là tiểu Bàn của ngày trước, y đã trở thành một Doanh Chính vô tình độc ác, hễ là những vật gây trở ngại trên đường đi của y, y sẽ lập tức dẹp bỏ ngay.

Năm ấy y đã từng hứa rằng sẽ thả Chu Cơ, nhưng giờ đây y rõ ràng không muốn giữ lới.

Mình phải làm thế nào đây? Ðối với Chu Cơ, gã cảm thấy hối hận.

Nhưng trong tình thế này, gã có thể làm được gì?

Tầm Tần ký – Chương 278: Mây Gió Hàm Dương

Cầm Thanh ở mục trường được ba ngày mới về Hàm Dương. Giờ đây Hạng Thiếu Long đã hiểu rõ bụng dạ của tiểu Bàn, vì giữ ngôi vua của mình, y sẽ hoàn toàn không hề chùn tay trước việc giết người.

Tuy nhiên vẫn khó nói y có dám đối phó với mình hay không, nhưng đã có bài học ở Lâm Tri, Hạng Thiếu Long không dám lơi lỏng nữa.

Gã vẫn giữ thói quen dậy sớm luyện đao trước khi trời sáng, mấy ngày nay gã còn luyện tập thêm thuật xạ ky nữa.

Từ trong các binh sĩ của Ô gia và Kinh tộc, bọn họ đã chọn ra ba trăm người, ngày đêm luyện tập.

Bọn Ô ứng Nguyên đã bắt đầu rút lui từng tốp, hôm nay đến lượt Ô Ðình Phương, Triệu Chi, Châu Vi, Thiện Lan, chị em họ Ðiền, Lộc Ðan Nhi, bọn trẻ Hạng Bảo Nhi. Hạng Thiếu Long, Ðằng Dực, Kinh Tuấn và Kỷ Yên Nhiên đưa cả đoàn được ba ngày thì mới quay về mục trường, chỉ thấy mục trường trống không, cảm giác không tự nhiên.

Trong bữa cơm tối, Ðằng Dực trầm giọng nói, “Ô ứng ân có thể là tên phản đồ.”

Mọi người đều ngạc nhiên.

Ô ứng ân là tam đệ của Ô ứng Nguyên, trước nay không đồng ý bỏ hết những vinh hoa phú quý ở Hàm Dương, nhưng không ai ngờ rằng y là nội gian của tiểu Bàn.

Kỷ Yên Nhiên nói, “Muội cũng để ý đến kẻ này, nhưng nhị ca sao lại khẳng định được như thế?”

Ðằng Dực nói, “Bởi vì y đòi ở lại quản lý mục trường, đến lúc cuối cùng mới rút lui. Ðiều đó ngược lại với tính cách tham sống sợ chết của kẻ này, cho nên ta đã phái người bí mật theo dõi y và thủ hạ của mình, thấy y đã từng nhiều lần sai người đến Hàm Dương. Vì thế ta thông báo cho Ðào công, báo ông ta sai người theo dõi thủ hạ của y ở Hàm Dương, quả nhiên là lén vào hoàng cung để mật báo.”

Kinh Tuấn tức giận nói, “Lâu nay đệ cũng không thích y.”

Hạng Thiếu Long nói, “May mà chúng ta đã sớm phòng bị, song có y ở đây, thì làm việc sẽ thấy cản tay cản chân. Có cách nào buộc y và người nhà của y phải đi hay không?”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Y chỉ là bị kẻ khác lợi dụng dụ dỗ, lại ham yên bình, cho nên mới làm việc ngu ngốc như thế!

Chỉ cần chúng ta dựa vào tính cách tham sống sợ chết này, rồi dọa dẫm, để ý hiểu được rằng bị quân sẽ không tha cho bất cứ kẻ nào biết y sẽ ám toán chàng, bảo đảm y sẽ tỉnh ngộ ra.”

Ðằng Dực nhíu mày nói, “Ðừng làm vỡ lở mọi chuyện, giả như y báo cáo cho bị quân biết chuyện này, bị quân sẽ biết chúng ta đã đề phòng.”

Kỷ Yên Nhiên mỉm cười nói, “Chỉ cần chúng ta đưa toàn bộ người nhà của y ra biên ải, y còn dám làm điều gì nữa?

Việc này cứ giao cho Yên Nhiên xử lý là xong.”

Hạng Thiếu Long thấy Kỷ Yên Nhiên ra tay thì yên tâm, nói rằng, “Ngày mai chúng ta sẽ về Hàm Dương, ai ở lại mục trường trông coi đây?”

Kỷ Yên Nhiên cười, “Ðể Yên Nhiên ở lại!”

Hạng Thiếu Long tuy không đành, nhưng chẳng còn cách nào nữa, thời gian càng lúc càng gấp, chỉ còn ba tháng nữa là tiểu Bàn đăng cơ, tất cả phải được giải quyết hết trong ba tháng này.

Hạng Thiếu Long về đến Hàm Dương, chuyện đầu tiên là vào cung gặp tiểu Bàn.

Tiểu Bàn chờ gã ở trong thư phòng, còn có Lý Tư đứng một bên.

Thi lễ quân thần xong, tiểu Bàn nói, “Lý khanh trước tiên hãy báo cáo tình thế trước mắt.”

Lý Tư hình như e ngại tiếp xúc với ánh mắt của Hạng Thiếu Long, cúi đầu lật đống văn kiện trên bàn, trầm giọng nói, “Phần lớn thời gian Lã Bất Vi không ở Hàm Dương, lấy cớ là giám sát giai đoạn cuối cùng của cuộc đào kênh Trịnh Quốc, thật sự là liên hệ với các thế lực địa phương, đến khi triều đình có thay đổi thì tranh thủ sự ủng hộ ở những nơi này.”

Hạng Thiếu Long cố ý thăm dò, “Còn Quản Trung Tà?”

Lý Tư vẫn không nhìn về phía gã, cúi đầu nói, “Quản Trung Tà vừa bị bị quân điều đến biên giới nước Hàn để trấn áp người Hàn, trừ phi y cãi lời quay về, nếu không ngày bị quân đội mũ, y vẫn còn ở nơi xa ấy.”

Tiểu Bàn bình thản nói, “Thuật bắn tên của người này rất lợi hại, có y ở đây, quả nhân sẽ ăn ngủ không yên. Trong số những người bên cạnh y, có tai mắt do quả nhân bố trí, chỉ cần y hơi có động tĩnh khác lạ, sẽ có người cầm thánh chỉ của quả nhân, lập tức xử tử y.”

Lý Tư mau chóng tránh ánh mắt của Hạng Thiếu Long, lại cúi đầu xuống, nói, “Giờ đây Ung Đô thật sự đã lọt vào tay Lao ái, bộ hạ của y tăng lên đến ba vạn, chiếm hết tất cả những chức quan ở Ung Ðô.”

Tiểu Bàn mỉm cười, “Quả nhân cố ý để cho y lớn mạnh lên, khiến cho y không có lòng đề phòng, sau đó quét sạch gian đảng của y. Hừ! Cứ để cho y phong lưu khoái hoạt thêm một chốc nữa.”

Lý Tư lần đầu tiên nhìn thẳng vào ánh mắt Hạng Thiếu Long, nói, “Theo như bị quân tính toán, Lã Bất Vi sẽ nhân lúc bị quân đến Ung Đô để làm lễ, khởi binh cùng lúc với Lao ái, khống chế Hàm Dương. Vì lúc đó đô vệ quân vẫn còn nằm trong tay Hứa Thương, mà cấm vệ quân của Xương Văn quân thì đã bảo vệ cho bị quân đến Ung Ðô, trong lúc đột biến, Lã Bất Vi quả thật đủ sức làm chuyện này.”

Tiểu Bàn tiếp lời, “Lao tặc và Lã tặc đã có ngọc ấn của thái hậu, những người khác trong lúc không hiểu rõ tình huống, rất dễ bị bọn chúng lôi kéo, trở thành kẻ đồng phạm mà không hay.”

Hạng Thiếu Long bình thản nói, “Vậy Hàm Dương cứ do hạ thần phụ trách, đảm bảo Lã Bất Vi không thể làm gì được Tiểu Bàn và Lý Tư ngạc nhiên nhìn nhau.

Một lát sau Tiểu Bàn mới trầm giọng nói, “Không có thượng tướng quân bên cạnh quả nhân, quả nhân làm sao yên tâm? Hàm Dương cứ giao cho hai vị tướng quân Kinh, Ðằng xử lý, thượng tướng quân nhất định phải đi cùng quả nhân đến Ung Ðô.”

Hạng Thiếu Long đã sớm biết sẽ có phản ứng như thế, trong lòng thầm than, bề ngoài giả vờ tỉnh như không, nói, “Bị quân đã có lệnh, vi thần nào dám không nghe theo.”

Tiểu Bàn nhíu mày nhìn gã một chốc rồi quay sang Lý Tư nói, “Quả nhân có mấy câu muốn nói riêng với thượng tướng quân.”

Lý Tư cũng không dám nhìn Hạng Thiếu Long, lui ra ngoài phòng.

Trong phòng chỉ còn lại hai người, không khí trở nên lặng lẽ.

Tiểu Bàn thở dài nói, “Thượng tướng quân phải chăng là đang bất mãn quả nhân? Có rất nhiều chuyện quả nhân cũng không còn cách lựa chọn nào nữa, cho nên buộc phải sử dụng thủ đoạn mà thôi.”

Hạng Thiếu Long nhìn chằm chằm vào y, cảm thấy y như hoàn toàn trở thành một người xa lạ, miệng thì nói, “Bị quân định xử lý thái hậu thế nào?”

Tiểu Bàn nhìn thẳng vào gã mà không hề e sợ, khi nghe nói thế thì hai mắt lạnh lẽo, hừ một tiếng, nói, “Ðến giờ này ngày này, thượng tướng quân vẫn còn nói tốt cho nữ nhân đã dâm loàn cung cấm, hủy hoại thanh danh của hoàng tộc đại Tần ta.”

Mắt Hạng Thiếu Long cũng lạnh lẽo, nhìn thẳng vào y nói, “Ðó là yêu cầu duy nhất của hạ thần đối với bị quân, ngài giết ai thần không màng tới, nhưng chỉ mong ngài nhớ đến ân tình xưa, tha cho thái hậu.”

Tia sát cơ trong mắt tiểu Bàn chợt lóe lên rồi tắt hẳn, không biết là nhằm vào Chu Cơ hay là Hạng Thiếu Long. Trở lại bình tĩnh, trầm ngâm nói, “Chỉ cần từ rày về sau bà ta không để ý đến triều chính, ở lại trong cung, quả nhân sẽ không đối xử tệ với bà ta, như thế thượng tướng quân đã hài lòng chưa?”

Nếu như Cầm Thanh không tiết lộ tin tức, nói không chừng Hạng Thiếu Long sẽ thật sự tin vào lời y, nhưng giờ đây chỉ cảm thấy lạnh lẽo nơi sống lưng.

Hạng Thiếu Long cũng rất muốn nói thẳng ra, không hề e sợ, nhưng nghĩ lại bên cạnh gã vẫn còn có Ðằng Dực, Kinh Tuấn, Kỷ Yên Nhiên và mấy trăm nhân mạng nữa, thậm chí sinh mạng của Ô tộc và Kinh tộc cũng đang ở trong tay mình, cho nên chỉ đành nuốt giận.

Làm bạn với vua như làm bạn với hổ, nếu không cẩn thận, thì sẽ gây nên họa sát thân.

Vị Tần Thủy Hoàng tương lai này không dễ đối phó chút nào.

Giọng nói của tiểu Bàn trở nên dịu dàng, hỏi, “Sư phụ không tin ta hay sao?”

Hạng Thiếu Long trong lòng đầy cảm xúc, thở dài, trầm giọng nói, “Bị quân đối phó với đảng Lã, Lao đã rất chắc ăn, đâu cần hạ thần ra tay nữa? Hay là đêm nay hạ thần ra đi!”

Tiểu Bàn giật mình kêu, “Không!”

Hạng Thiếu Long trong lòng cũng giật thót.

Mấy câu này của gã chỉ là thăm dò phản ứng của tiểu Bàn, giờ đây đã suy luận ra mọi chuyện.

Tiểu Bàn hít sâu một hơi, nói, “Sư phụ đã từng hứa chính mắt nhìn thấy quả nhân đăng cơ mới bỏ đi. Sư phụ thế nào cũng phải giữ lời hứa.”

Rồi lại thở dài nói, “Sư phụ không muốn giết chết Lã tặc sao?”

Hạng Thiếu Long biết nếu cứ kèo nài mãi, có lẽ sẽ không ra khỏi cung. Giả vờ mệt mỏi, nói, “Nếu thần giữ lời hứa, bị quân có chịu giữ lời hứa không?”

Tiểu Bàn nói với vẻ không vui, “Quả nhân đã từng thất hứa chưa?”

Hạng Thiếu Long nhủ thầm, trong hai năm có nhiều chuyện thay đổi, khiến cho mình và tiểu Bàn không hề tin tưởng nhau như trước nữa, miệng nói những lời không đúng với lòng.

Gã đương nhiên không ngu ngốc đến nỗi vạch trần âm mưu của tiểu Bàn đối với Chu Cơ, mỉm cười rằng, “Nếu bị quân không có chuyện gì nữa, vi thần muốn về nhà nghỉ ngơi.”

Rời khỏi thư phòng, Lý Tư đang đứng yên ở ngoài cửa, thấy Hạng Thiếu Long, hạ giọng nói, “Ðể tại hạ tiễn thượng tướng quân một đoạn!”

Hạng Thiếu Long biết y có lời muốn nói, cho nên sánh vai cất bước cùng y ra ngoài.

Nào ngờ suốt cả đoạn đường ra tới quảng trường, y vẫn không hề nói lời gì.

Bọn Kinh Thiện thấy Hạng Thiếu Long thì dắt ngựa đến.

Lý Tư đột nhiên hạ giọng nói, “Ði thôi, Thiếu Long!” rồi chợt buồn bã quay đầu trở lại.

Hạng Thiếu Long trong lòng dâng lên cơn sóng dữ.

Lý Tư là người gần gũi Tiểu Bàn nhất giờ này, với tài trí của y, đã hiểu được bụng dạ tiểu Bàn. Cũng đã đoán được thân phận của tiểu Bàn và mối quan hệ thật sự giữa hai người, cho nên nghĩ rằng tiểu Bàn sẽ không tha cho Hạng Thiếu Long.

Không có Chu Cơ, không có Hạng Thiếu Long, tiểu Bàn mới có thể mãi mãi giữ được thân phận Doanh Chính của y.

Những điều khác có lẽ sẽ không có ảnh hưởng gì.

Đó cũng là một vấn đề tâm lý, mỗi khi vị Tần Thủy Hoàng trong tương lai này nhìn thấy gã hoặc Chu Cơ, lòng sẽ nhớ đến rằng mình chỉ là một thứ đồ giả.

Lý Tư là người có tài trí, cố ý vạch rõ giới tuyến của mình trước mặt tiểu Bàn, đã mạo hiểm liều chết nói hai chữ đi thôi, để nhắc nhở mình.

Trong lòng cũng cảm thấy ấm áp vì không uổng kết bạn với Lý Tư.

Ra đến cửa cung, có người gọi ở phía sau.

Hạng Thiếu Long quay đầu lại, chỉ thấy Xương Văn quân một mình cỡi ngựa từ cửa cung phóng tới, nói, “Chúng ta vừa đi vừa nói!”

Hạng Thiếu Long ngạc nhiên nói, “Có chuyện gì? Không phải huynh đang ở trong cung sao?”

Xương Văn quân thần sắc ngưng trọng nói, “Thiếu Long phải chăng là thật sự muốn đến biên ải?”

Hạng Thiếu Long bình thản nói, “Ta là người không thích hợp ở đây, bởi vì ta không muốn thấy chiến tranh, huynh quen biết ta đã lâu, chắc hiểu rõ ta là người thế nào.”

Xương Văn quân im lặng một lúc, lại nói, “Bị quân hình như không vui vì chuyện này, bảo như thế sẽ làm dao động lòng quân.

Hạng Thiếu Long chợt nhói trong lòng, hạ giọng nói, “Ðừng khuyên ta, điều ta hối hận duy nhất là hai năm trước không bỏ đi.”

Nói xong thì kẹp bụng ngựa, phóng nhanh về phía trước. Xương Văn quân vội vàng đuổi theo ở phía sau.

Bọn thiết vệ Ô Thư vội vàng vung roi đuổi tới.

Một hàng hơn mười thớt ngựa, phóng nhanh trên con đường lớn ở Hàm Dương dưới bóng chiều tà.

Hạng Thiếu Long đến lúc này mới thực sự không còn lòng dạ nào với tiểu Bàn nữa.

Giờ đây chuyện gã cần làm nhất chính là làm thế nào để giúp Chu Cơ thoát khỏi cái họa sát thân này.

Từ ngày đến với thế giới Chiến Quốc này, mỗi ngày gã đều phải đối mặt với những cuộc đấu tranh, đã rèn luyện được ý chí kiên cường hơn bất cứ ai, dù cho đối thủ của gã là Tần Thủy Hoàng, gã vẫn không hề e sợ.

Nhưng gã không hề đánh giá thấp tiểu Bàn, bởi vì đến lúc này gã biết được y là người đáng sợ nhất trong thời đại này.

Trong lịch sử, Tần Thủy Hoàng là một kẻ thống trị ghê gớm nhất, rồi rất cả mọi người sẽ phải cúi đầu trước y.

Ðiều mỉa mai là con người này lại do một tay gã bồi dưỡng nên.

Hạng Thiếu Long rất muốn ngửa mặt kêu trời, để giải tỏa nỗi oán hận trong lòng.

Nhưng gã đương nhiên phải giữ bình tĩnh hơn bất cứ lúc nào.

Chỉ có như thế, gã mới có hy vọng sống mà thực hiện mục đích của mình.

Giả sử Chu Cơ chịu đi theo gã, gã nhất định sẽ đưa nàng rời khỏi đây, để bù đắp lỗi lầm của mình.

Hạng Thiếu Long bước chân vào Ô phủ đã bị Ðào Phương kéo vào trong sảnh, ngạc nhiên hỏi, “Chuyện gì?”

Ðào Phương mỉm cười bí hiểm nói, “Có bạn cũ đến!”

Lúc đó người bước vào trong sảnh, Ðằng Dực đang cùng hai người khách nói chuyện, té ra đó là Đồ Tiên và Tiêu Nguyệt Ðàm.

Hạng Thiếu Long cả mừng lao tới, nắm tay hai người, mừng đến nỗi không nói được lời gì.

Đồ Tiên xúc động đến nỗi hai mắt đỏ ửng, nói, “Ta không hề biết Nguyệt Ðàm đột nhiên đến Hàm Dương, cho nên không thông báo trước cho các vị.”

Tiêu Nguyệt Ðàm ánh mắt cũng đỏ ửng, mỉm cười, “ở Lâm Tri, lão ca đã từng lấy mạng Thiếu Long ra cá cược, Thiếu Long chắc là không trách lão ca!”

Ðằng Dực mỉm cười, “Nhưng giờ thì đã thắng!”

Hạng Thiếu Long cười khổ nói, “Lòng tin của lão ca đối với đệ, còn hơn cả đệ đối với chính mình, may mà đệ có thể chạy nhanh, cho nên hôm nay có thể nắm tay với hai vị. Ðây gọi là trong ba mươi sáu kế, chạy là hay nhất.”

Mọi người đều cười ầm lên.

Đồ Tiên chép miệng, “Nói rất hay, chạy là hay nhất, chúng tôi vừa rồi đang nghiên cứu làm cách nào để rời khỏi mảnh đất thị phi này.”

Ðào Phương cười, “Ngồi xuống rồi hãy nói!”

Ðến khi mọi người ngồi xuống, Tiêu Nguyệt Ðàm nói, “Lần này ta đến Hàm Dương là muốn chứng kiến ngày tàn của Lã tặc. Song vừa rồi nói chuyện với Ðằng huynh, mới biết được Thiếu Long đã lâm vào cảnh không hay.”

Hạng Thiếu Long thấy Tiêu Nguyệt Ðàm, nỗi ưu sầu trong lòng cũng đã tan biến, cười ha ha nói, “Có thể đứng vững trong nghịch cảnh mới là hảo hán thật sự. Giờ đây đã có Tiêu huynh đến giúp đỡ, còn lo gì chuyện lớn không thành?”

Đồ Tiên vui mừng nói, “Thấy Thiếu Long lòng tin đầy đủ, chúng tôi đương nhiên cũng rất vui mừng, dù cho tình thế hiểm ác thế nào chúng ta cũng vững lòng. Giờ đây thế bại của Lã Bất Vi đã xuất hiện, vấn đề là làm thế nào có thể an toàn đến được biên ải, sống những tháng ngày yên vui của chúng ta.”

Ðào Phương tiếp lợi, “Vừa rồi Đồ quản gia đã phân tích kỹ càng hoàn cảnh của Lã tặc, giờ đây trong tay của y chỉ có quân đô vệ, quân đội của Quản Trung Tà, một vạn năm ngàn tên gia tướng, và bè đảng của Lao ái, còn những quan viên trong ngoài cấu kết với y, khi xảy ra chuyện chắc chắn sẽ không làm nên trò trống gì, cho nên chỉ cần chúng ta giũ vững, nhất định Sẽ buộc y vào đường cùng, báo thù cho chúng ta.”

Tiêu Nguyệt Ðàm nghiêm nét mặt nói, “Nhưng vấn đề là sau khi hạ được Lã Bất Vi, rồi an toàn rời khỏi đây.”

Hạng Thiếu Long mỉm cười nói, “Vốn là đệ không nắm chắc lắm, nhưng giờ đây lão ca đã đến, thì mọi việc đã khác!”

Tiêu Nguyệt Ðàm cười khổ nói, “Ðừng dựa vào ta như thế, nói không chừng ta sẽ khiến cho các người thất vọng.”

Hạng Thiếu Long hạ giọng nói, “Lão ca có thể biến ra một Hạng Thiếu Long khác không?”

Mọi người đều ngạc nhiên.

Hạng Thiếu Long vui vẻ nói, “ô Quả là kẻ giả thần thì giống thần, giả quỷ thì giống quỷ, thân hình cũng rất giống đệ, chỉ cần lão ca có cách biến khuôn mặt của y giống như của đệ, thì đệ sẽ lừa gạt được tất cả mọi người, đối phó với kẻ địch.”

Tiêu Nguyệt Ðàm ngồi trầm ngâm giây lát rồi cuối cùng nói với vẻ dứt khoát, “Ðây có lẽ là thử thách lớn nhất đối với Tiêu Nguyệt Ðàm này, tuy rất khó, nhưng ta có thể bảo đảm rằng không để cho Thiếu Long thất vọng.”

Hạng Thiếu Long vỗ đùi, cười ha ha nói, “Có câu này của lão ca, tình thế đã thay đổi. Người đầu tiên chúng ta phải giết là Quản Trung Tà, chỉ cần trừ đi kẻ này, Lã Bất Vi sẽ giống như cọp không nanh, không thể làm điều ác được nữa.”

Ðằng Dực gật đầu đồng ý, “Ðúng! Nếu để cho y cầm cung tên lên, không biết sẽ có bao nhiêu người chết.”

Ðào Phương nói, “Nhưng điều mà chúng ta lo lắng lúc này không phải là Lã Bất Vi mà là Doanh Chính.”

Tiêu Nguyệt Ðàm nhếch mép cười, nhìn Đồ Tiên chép miệng, “Thiếu Long thật ghê gớm, lừa gạt chúng tôi đến khổ.”

Lúc này, Hạng Thiếu Long đã hiểu được Tiêu Nguyệt Ðàm và Đồ Tiên đã đoán rằng tiểu Bàn không phải là Doanh Chính thật sự.

Mà đó cũng chính là nguyên nhân mà tiểu Bàn phải giết mình.

Sự rạn nứt này là sự sắp xếp của vận mệnh, không ai có thể thay đổi được.

Tầm Tần ký – Chương 279: Thật Giả Khó Phân

Hơn mười ngày sau đó, Hạng Thiếu Long vẫn lên triều như thường, nhưng từ chối hết tất cả các lời mời, toàn lực huấn luyện cho ba trăm binh sĩ mới vừa chọn lựa.

Hoàng hôn hôm nay, Kỷ Yên Nhiên cùng với Ô Quả từ mục trường trở về, mang theo tin tốt lành.

Nàng tài nữ xinh đẹp ấy nói, “Ô ứng ân rốt cuộc đã thừa nhận cung cấp tin tức cho bị quân, nhưng lại bảo rằng là vì Ô gia, bởi vì bị quân chỉ yêu cầu y tìm cách làm cho chúng ta bỏ đi ý định lui về ẩn ở biên ải!”

Ðằng Dực cười nhạt nói, “Ðó chẳng qua là cái cớ của y mà thôi!”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Yên Nhiên thì tin lời y, bởi vì khi Yên Nhiên bảo rằng bị quân chỉ vì sợ chúng ta công cao hơn chủ, đã động sát cơ, y sợ đến nỗi mặt mũi trắng bệch, còn khai ra tất cả những người y đã tiếp xúc.”

Hạng Thiếu Long trầm giọng nói, “Là ai?”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Người ấy là Diêu Cổ, phu quân có biết kẻ này không?”

Hạng Thiếu Long gật đầu nói, “Kẻ này là phó thủ của Lý Tư, có nhiệm vụ liên lạc giữa các nước, gần đây mới đi sú nước Tề trở về, cũng là người rất có tài trí.”

Kỷ Yên Nhiên nói, “ô tam gia giờ đây đã nhận thấy tình hình rất nghiêm trọng, hứa sẽ hợp tác toàn diện với chúng ta. Vì an toàn, Yên Nhiên đã cho tất cả gia tướng và thủ hạ của y ra biên ải, để tránh trong đó lại có người bị Diêu Cồ mua chuộc.”

Hạng Thiếu Long nói, “Tác dụng lớn nhất của Ô ứng ân là làm cho bị quân tưởng rằng chúng ta đợi sau khi mọi việc đã hoàn thành mới lùi ra biên ải.”

Ðằng Dực trầm giọng nói, “Nếu ta là tên tiểu tử vong ơn phụ nghĩa ấy, thì sẽ mượn tay Lao ái ở Ung Đô để trừ khử đệ Lúc đó y có thể mượn cớ báo thù cho đệ, khởi binh thảo phạt Lao ái, đúng là nhất cử lưỡng tiện.”

Hạng Thiếu Long cười, “Tóm lại chúng ta đừng để cho y biết rằng giết Lã Bất Vi xong sẽ bỏ đi.”

Rồi quay sang Kỷ Yên Nhiên nói, “Yên Nhiên hãy lần lượt tiết lộ những tin giả cho Diêu Cồ biết.”

Kỷ Yên Nhiên nhìn gã rồi nói, “Thiếp sẽ làm hết sức mình!”

Ðằng Dực nói, “Còn hơn hai tháng nữa là phải đến Ung Ðô, tam đệ rốt cuộc đã có diệu kế gì để giết Lã Bất Vi rồi ung dung thoát thân?”

Hạng Thiếu Long thở dài nói, “Trước tiên đệ phải gặp mặt Chu Cơ một lần rồi mới quyết định sau.”

Hai người Ðằng, Kỷ đều giật mình.

Ðằng Dực khuyên, “Giờ đây Lao ái coi đệ như cái đinh trong mắt, giả sử đệ đến Ung Ðô, nói không chừng sẽ xảy ra chuyện. Vả lại nếu bị quân biết được, sẽ càng khiến cho y tức giận.”

Kỷ Yên Nhiên cũng nói, “Thái hậu không phải là thái hậu trước kia nữa, thậm chí sẽ hiểu nhầm rằng chàng đã giết con trai thật sự của bà ta rồi trộm long tráo phụng, cho nên chàng không nên đi gặp bà ta.”

Hạng Thiếu Long thì không nghĩ đến điểm này, lòng không vui, không nói lời gì.

Ðằng Dực vỗ vai gã an ủi rằng, “Chỉ cần chúng ta không thẹn với trời đất, nào sợ người khác nói gì!”

Hạng Thiếu Long cười khổ nói, “Ðệ cũng chính vì thẹn với mình, cho nên mới muốn đi gặp Chu Cơ một chuyến, hy vọng có thể giúp cho bà ta thoát khỏi đại họa.”

Rồi quay sang Kỷ Yên Nhiên nói, “Hãy mời Thanh tỷ đến, ta muốn có thể thông qua nàng để bí mật gặp Chu Cơ.”

Kỷ Yên Nhiên giận dỗi nói, “Chàng đã muốn là phải làm cho bằng được. Chu Cơ đã sinh hai đứa con cho Lao ái, chả lẽ bà ta chịu bỏ hai đứa con đó để theo chàng sao? Giờ đây chúng ta tự lo cũng không xong, chàng lại gây thêm rắc rối, khi Ðình Phương và Chi Chi ra đi, đã dặn thiếp rằng đừng cho chàng làm những chuyện nguy hiểm, nếu chàng thật sự muốn gặp nữ nhân ấy, trước tiên hãy thôi Kỷ Yên Nhiên này đã!”

Từ ngày quen biết Kỷ Yên Nhiên, đây là lần đầu tiên lời lẽ của nàng lại sắc bén như thế, khiến cho Hạng Thiếu Long không dám cãi lại.

Ðằng Dực gật đầu, “Lần này nhị ca cũng không giúp được đệ, nhất là chuyện này có liên quan đến sự tồn vong của gia tộc, tam đệ phải nghe lời của Yên Nhiên.”

Hạng Thiếu Long chỉ đành chấp nhận.

Kỷ Yên Nhiên lúc này mới hết giận.

Trong mấy ngày tiếp theo, Hạng Thiếu Long một mặt toàn lực huấn luyện toán quân ba trăm người ấy, mặt khác thì hướng dẫn Ô Quả phải giả mình như thế nào, để có thể lừa gạt được những người quen thân như tiểu Bàn, Lý Tư.

Sơ hở duy nhất là tiếng nói, may mà Kỷ Yên Nhiên đã nghĩ ra một kế, chính là do Hạng Thiếu Long giả bệnh, vậy thì tiếng nói sẽ khàn đi một chút, không làm cho người khác nghi ngờ, lại không cần phải nói nhiều, thật là nhất củ lưỡng tiện.

Ðêm nay Tiêu Nguyệt Ðàm từ mục trường quay về, mượn một bộ quan phục của Hạng Thiếu Long xong thì dắt Ô Quả vào trong phòng, mọi người chờ đợi xem thử Ô Quả sẽ trở thành như thế nào.

Lúc này cũng chẳng ai hiểu được tại sao Hạng Thiếu Long lại nhờ Ô Quả giả thành mình, Kinh Tuấn nén không được hỏi ra điều ấy.

Hạng Thiếu Long nói, “Người đầu tiên ta muốn gạt là Lã Bất Vi, bị quân đã ra lệnh Lã Bất Vi phải ở lại giữ Hàm Dương, với tác phong của Lã Bất Vi, nhất định sẽ nhân lúc này mà trừ khử nhị ca và ngũ đệ, chỉ cần ta…”

Kỷ Yên Nhiên, Ðằng Dực và Kinh Tuấn đều giật mình biến sắc nhìn gã.

Hạng Thiếu Long thần sắc ngưng trọng nói, “Ta đoán Quản Trung Tà cũng sẽ dùng cách này để lẻn về Hàm Dương!”

Ðằng Dực nói, “Nếu không có bàn tay của Tiêu huynh, thì làm sao biến thành một Quản Trung Tà khác?”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Nếu như Lã Bất Vi đã sớm có kế này, thì sẽ tìm một người giống với Quản Trung Tà, rồi sẽ do người bên cạnh yểm hộ, thì có thể lừa gạt được mọi người, cho nên điều mà phu quân đại nhân suy đoán có lẽ sẽ xảy ra.”

Lúc này Ðào Phương bước vào, Hạng Thiếu Long nói lại những suy đoán của mình cho y nghe rồi dặn dò, “Thông báo cho Đồ tổng quản, bảo ông ta lưu ý chuyện này, chỉ cần chúng ta nắm được hành tung của Quản Trung Tà, khi hành sự, người đầu tiên phải giết chính là y, sau đó mới đến bọn Hàn Kiệt.”

Kinh Tuấn nói, “Vừa rồi ý của tam ca, phải chăng là muốn Lã Bất Vi tưởng rằng tam ca đi cùng bị quân đến Ung Ðô, thật sự là huynh đang ở Hàm Dương để đối phó với y?”

Hạng Thiếu Long gật đầu nói, “Ðó là nguyên nhân chính nhất, thứ đến là ta có thể yên tâm làm việc mà không bị bị quân theo dõi.”

Ðằng Dực nói, “Nhưng chúng ta phải sắp xếp cho ổn thỏa, tìm cách đón Ô Quả chạy khỏi Ung Ðô, nếu không e rằng tên tiểu tử này khó giữ mạng.”

Tiếng của Tiêu Nguyệt Ðàm vang lên, “Ðó chính là chỗ tuyệt vời nhất, chỉ cần Hạng Thiếu Long giả trở thành Ô Quả thật, thì khi bỏ chạy sẽ thuận tiện hơn nhiều.”

Mọi người nhìn về hướng cửa phòng đang mở ra, chỉ thấy Tiêu Nguyệt Ðàm và một Hạng Thiếu Long chậm rãi bước ra, ai nấy đều vỗ án khen hay.

ô Quả lên tiếng chào mọi người rồi giả vờ chạm vào thanh Bách Chiến bảo đao, quát rằng, “Lã tặc nhà ngươi hãy quỳ xuống cho ta, Hạng Thiếu Long này đã chờ bảy năm nay để chém cái đầu thối của ngươi!”

Ngay cả giọng nói cũng giả được bảy tám phần.

Mọi người đều cười ầm lên.

Kỷ Yên Nhiên cười nói, “Không thể, sao lại có thể giống đến thế?”

ô Quả quay về phía Kỷ Yên Nhiên nói, “Nương tử nàng ngay cả phu quân đại nhân mà cũng không nhận ra, hồ đồ đến như thế, coi chừng ta sẽ thôi nàng.”

Mọi người cười ồ lên, Kỷ Yên Nhiên cũng đùa rằng, “Nếu chàng dám thôi thiếp, thiếp sẽ một kiếm chém chàng.”

Hạng Thiếu Long lòng đầy cảm xúc, hai năm nay, lần đầu tiên Ô phủ mới vui vẻ thế này.

ô Quả giả vờ hoảng hốt, kêu lên, “Nương tử hung dữ như thế, ta đành nhận sai thì hơn.”

Kỷ Yên Nhiên hỏi Tiêu Nguyệt Ðàm, “Tiêu tiên sinh không hổ là thiên hạ đệ nhất diệu thủ, sao lại có thể làm được điều ấy?

Tiêu Nguyệt Ðàm nhìn kiệt tác của mình rồi chậm rãi nói, “Tại hạ đã bỏ ra năm ngày để dùng gỗ tạc thành đầu của Thiếu Long, rồi lại dùng các nguyên liệu để chế ra một cái mặt giả, sau khi tô màu và trang điểm, một Hạng Thiếu Long khác đã xuất hiện.”

Kinh Tuấn khen rằng, “Sau này tại hạ phải sờ vào người đối phương, mới dám tin rằng đó là người thật.”

Tiêu Nguyệt Ðàm cười nói, “Nếu không có Ô Quả, dù tại hạ ba đầu sáu tay cũng khó mà dùng kế này được. Thể hình của gã này cũng giống với Thiếu Long, chỉ có vai và đầu hơi hẹp một chút, cho nên tại hạ phải lót thêm trong y phục của y, mới có thể che giấu được sơ hở này.”

Kỷ Yên Nhiên che miệng cười, “Song hắn vẫn phải học cách đi đứng mới được.”

ô Quả ngửa mặt lên trời cười ha ha, giả thành dáng đi của Hạng Thiếu Long, quả nhiên rất giống.

Hạng Thiếu Long cảm thấy nhẹ nhõm cả người, bỗng nhiên, gã biết quyền chủ động đã lọt vào tay mình.

Hôm sau trời chưa sáng, mọi người trong Ô phủ đều đã thức dậy, tập trung trong vườn luyện võ.

Hạng Thiếu Long nhẫn nại chỉ vẽ cho Ô Quả sử dụng thanh Bách Chiến bảo đao giả, cũng do Thanh thúc chế tạo ra.

Thanh đao này tuy không bằng thanh Bách Chiến bảo đao, nhưng cũng thuộc loại đao tốt.

Vì Ô Quả cũng là một cao thủ, dù tư thế hay khí chất, cũng giống Hạng Thiếu Long lắm.

Ðằng Dực dùng Mặc tử kiếm pháp để luyện với y, đến hơn một trăm chiêu thì Ô Quả mới chịu thua.

Bọn thiết vệ Ô Ngôn, Ô Thư, Kinh Thiện đều vỗ tay khen hay.

Hạng Thiếu Long kéo Ô Ngôn sang một bên, nói, “Trong số các thiết vệ, ngươi là kẻ đa trí nhất, lần này các ngươi theo Ô Quả đến Ung Ðô, phải nhớ rằng cần phải giữ mạng! Nếu thấy tình thế không xong, thì phải tìm cách bỏ chạy ngay.”

ô Ngôn nói, “Hạng gia yên tâm, hai năm trước Ðào công đã từng sai người đến Ung Ðô, không những đã biết được tình thế, mà còn sắp xếp rất nhiều, để có thể khi nguy cấp thì tiếp ứng cho chúng tôi.”

Kỷ Yên Nhiên đứng một bên cười rằng, “ô Quả là kẻ quỷ kế đa đoan, chưa bao giờ người khác chiếm được phần tiện nghi của y, ám toán y quả thật khó hơn lên trời, Thiếu Long hãy yên tâm!”

Hạng Thiếu Long có lòng tin đầy đủ với Ô Quả, nếu không thì đã không để cho y mạo hiểm. Nhưng lại đặc biệt nhắc nhở Ô Ngôn rằng, “Bị quân sẽ chờ đến thời cơ tốt nhất, mới thi triển thủ đoạn ám toán với ta, đó là lúc xảy ra xung đột với bọn Lao ái, nếu không thì làm sao đổ trách nhiệm cho Lao ái?”

Kỷ Yên Nhiên chen vào nói, “Nếu có cách mang chiếc mặt nạ giả ấy vào một thi thể giống với phu quân, thì có thể tạm thời lừa được bị quân.”

ô Ngôn nói, “Chuyện này sẽ do chúng tôi xử lý.”

Lúc này Ô Quả thở dốc đến trước ba người, đắc ý nói, “Bách Chiến đao pháp của tiểu nhân thế nào?”

Kỷ Yên Nhiên cười, “Hạng gia của ngươi đâu có thở dốc như sắp chết thế?”

ô Quả cười hì hì nói, “Ðừng quên rằng ta bệnh vừa mới khỏi, thở như thế mới bình thường!”

Kỷ Yên Nhiên gật đầu nói, “Ngươi giỏi lắm, ta suýt tí nữa quên.”

Rồi quay sang Hạng Thiếu Long nói, “Phu quân tốt nhất hãy nhờ Tiêu tiên sinh hóa trang cho giống bệnh một chút, đến khi bị quân nhìn thấy mới có thể tin được.”

ô Quả nói, “Lúc đầu chỉ cần giả vờ mệt mỏi, sau đó trang điểm cho vẻ mặt giống như bệnh thì mọi việc sẽ càng kín kẽ hơn.”

Hạng Thiếu Long nhủ thầm đây gọi là một người tính ngắn, hai người tính dài, đang định trả lời thì Ðào Phương dắt một người bước vội tới, mọi người ngạc nhiên nhìn ra, ai nấy đều vui mừng ra mặt.

Té ra đó là Vương Tiễn, người đã lâu không gặp.

Tầm Tần ký – Chương 280: Lâu Ngày Gặp Lại

Vương Tiễn đen và rắn chắc hơn trước nhiều, trở nên có khí thế và thâm trầm hơn, hai mắt sáng quắc, không nộ mà oai, không hổ là một danh tướng đương thời.

Lúc này y nở nụ cười đầy chân thành, trước tiên ôm chặt Hạng Thiếu Long rồi nói, “Tiểu đệ rất mong nhớ các người!”

Ðằng Dực và Kinh Tuấn bước tới, bốn người ôm chặt nhau, ai nấy đều cảm động không nói ra lời.

Vương Tiễn cười ha ha, nói, “Tam ca đã hơi ốm, nhưng thần thái còn hơn cả ngày trước khi đệ rời khỏi Hàm Dương.”

Quay sang Kỷ Yên Nhiên nói, “Tam tẩu cũng xinh đẹp hơn nhiều.”

Hạng Thiếu Long nói, “Tứ đệ quay về lúc nào, đã gặp bị quân chưa?”

Vương Tiễn nói, “Ðệ vừa bí mật quay về, đến chào hỏi các người trước rồi mới đi gặp bị quân.”

Mọi người ngạc nhiên, Kỷ Yên Nhiên nói, “Tứ thúc sao lại có ý nghĩ như thế?”

Vương Tiễn trầm giọng nói, “Sự thực ba ngày trước đệ đã quay về, nhưng ở một nơi bí mật ở ngoài thành, chỉ sai người vào trong thành dò la tin tức, đó là vì sợ hai đảng Lã, Lao giả truyền chỉ ý triệu đệ về kinh, nào ngờ lại nghe được một tin khác. Tam ca và bị quân gần đây hình như không được hòa thuận lắm.”

Ðằng Dực nói, “Tứ đệ nghe được những tin tức gì?”

Vương Tiễn nói, “Hình như bị quân không tán thành tam ca và người trong tộc ra ngoài biên tái. Bị quân và tam ca không còn thân thiết, không giống như trước chuyện gì cũng tìm tam ca bàn bạc.”

Kinh Tuấn chép miệng, “Tai mắt của tứ ca thật là lợi hại.”

Hạng Thiếu Long trong lòng đã quyết định, nói, “Chúng ta vào trong hãy nói tiếp.”

Ngồi xuống trong khách sảnh, Vương Tiễn lạnh lùng hừ một tiếng nói, “Lần này đệ đem về ba vạn tinh binh, ai cũng là kẻ sẽ liều chết cho Vương Tiễn này, nếu chỉ là bọn phản tặc, đệ chỉ cần động ngón tay, bảo đảm sẽ quét sạch bọn chúng.”

Rồi lại thở dài, “Nhưng đệ lại lo lắng bị quân, e rằng ngài sẽ làm điều bất lợi đối với tam ca. Bị quân ngày càng lớn, trở nên càng lợi hại hơn.”

Mọi người đã biết, Vương Tiễn chắc chắn nghe được những tin tức về thân thế của Doanh Chính, cho nên từ đó suy luận Chỉ vì sợ Hạng Thiếu Long khó xử, đồng thời cũng để tỏ ra tin tưởng Hạng Thiếu Long, cho nên không nói thẳng ra.

Chuyện Doanh Chính xử chém Tiền Trực, đã chấn động trong cả nước, Vương Tiễn không có lý gì không biết được.

Ðào Phương, Kỷ Yên Nhiên, Kinh Tuấn, Ðằng Dực, Ô Quả đều nhìn vào Hạng Thiếu Long, coi thử gã sẽ quyết định có nói chuyện này cho Vương Tiễn nghe không.

Hạng Thiếu Long mỉm cười nói, “Tứ đệ không hổ danh là mãnh tướng số một của đại Tần, mới về Hàm Dương mà đã biết được nhiều điều như thế.”

Ðiều đó có nghĩa là khẳng định suy đoán của Vương Tiễn.

Vương Tiễn hai mắt lạnh lẽo nói, “Tiểu đệ chỉ là đối phó với bọn Hung Nô, còn tam ca thì đối phó với liên quân của năm nước, khi nào mới đến lượt Vương Tiễn này là mãnh tướng số một?”

Ngừng một lát rồi nói như chém đinh chặt sắt, “Tam ca muốn tứ đệ này làm gì, xin hãy cứ nói thẳng ra!”

Hạng Thiếu Long cười ha ha, đưa tay nắm lấy vai y, vui mừng nói, “Ta muốn tứ đệ quét sạch hai đảng Lã, Lao, giúp Doanh Chính thống nhất thiên hạ, xây dựng đại nghiệp cho Tần triều, còn tứ đệ thì trở thành danh tướng để tiếng lại cho muôn đời sau.”

vương Tiễn nhìn gã một lúc, lát sau mới cười rằng, “Anh hùng hảo hán mãi mãi là anh hùng hảo hán, các vị hãy nhìn tam ca của ta, còn có ai có lòng dạ phóng khoáng, không bị danh lợi bủa vây như tam ca, tiểu đệ hổ thẹn cảm thấy không bằng.”

Mọi người đều cảm động trong lòng, càng hiểu rõ ý của Vương Tiễn.

Giờ đây ở nước Tần chỉ có hai thượng tướng quân, chính là Hạng Thiếu Long và Vương Tiễn, mà hai người đều có danh vọng cao vời ở nước Tần, điều này càng được thể hiện rõ trong quân đội nước Tần.

Nếu như hai người liên kết với nhau, chắc chắn sẽ đủ sức đối phó với Doanh Chính.

Nhưng Hạng Thiếu Long lại một mực từ chối đề nghị của Vương Tiễn, để cho nước Tần tránh khỏi nguy cơ của một cuộc nội chiến.

Mọi người không biết rằng Hạng Thiếu Long nhờ đọc sách sử, mà đã biết được không ai có thể thắng được Tần Thủy Hoàng, cho nên không dám nghĩ đến mặt này.

Ðược Vương Tiễn khen ngợi như thế, Hạng Thiếu Long đổ mồ hôi nói, “Tứ đệ đừng đề cao ta như thế, có nhiều chuyện ta còn phải nhờ vào đệ.”

Vương Tiễn nghiêm mặt nói, “Bị quân có lẽ là một vị quân chủ có thủ đoạn mưu lược nhất trong lịch sử đại Tần ta, Lý Tư còn hơn hẳn Thương ưởng. Nhưng nếu quyết chiến trên sa trường, ngoài tam ca và Lý Mục, Vương Tiễn này chẳng sợ ai cả. Nhưng đã nói đến âm mưu thủ đoạn, không thể không đề phòng, tam ca có tính toán gì?”

Hạng Thiếu Long nói, “Tứ đệ có biết bị quân sắp xếp binh lực như thế nào không?”

Vương Tiễn đáp rằng, “Chủ lực của bị quân vẫn là cấm vệ quân và đô ky quân. Mấy hôm gần đây, cấm vệ quân không ngừng chiêu nạp người mới, binh lực đến năm vạn người, dù cho huấn luyện, trang bị hay bổng lộc đều hơn hẳn những quân khác, vì thế trung thành cẩn cẩn với bị quân, tam ca phải đề phòng bọn chúng.”

Hạng Thiếu Long nhớ lại ngày ấy Xương Văn quân từ hoàng cung đuổi ra, khuyên mình không nên bỏ đi mà mình thì từ chối thẳng thừng, nghĩ lại Xương Văn quân và Xương Bình quân rốt cuộc là hoàng tộc, cho nên khi xảy ra chuyện chỉ có thể đứng về phía tiểu Bàn.

Vương Tiễn tiếp tục nói, “Lần này bị quân đối phó với phản đảng, vốn là phải điều Hoàn Xỉ về, nhưng ngược lại ngài lại triệu hồi An Cốc Hề từ biên giới nước Sở, từ điểm này, đệ đã đoán được y quả thực muốn đối phó với tam ca.”

Ðằng Dực ngạc nhiên, “An Cốc Hề đã quay về, tại sao chúng tôi không biết?”

Vương Tiễn trầm giọng, “Ðây là quân cờ bí mật của bị quân, nhưng đệ cũng không rõ binh lực của An Cốc Hề, chỉ biết rằng y đã rời khỏi biên cương, đóng tại một nơi ở giữa Hàm Dương và Ung Ðô, chỉ cần nhận được vương lệnh, trong vòng một ngày sẽ có thể đến được Hàm Dương hoặc Ung Ðô.”

An Cốc Hề cũng giống như Xương Bình quân và Xương Văn quân, đều là người hoàng tộc, khi xảy ra chuyện, chỉ có thể đứng về phía Doanh Chính. Chả trách gì Vương Tiễn đã nhận ra ý muốn đối phó với Hạng Thiếu Long của Doanh Chính.

Hạng Thiếu Long ung dung nói, “Dù y sắp xếp thế nào, chỉ cần tứ đệ có thể bảo vệ cho Hạng Thiếu Long giả bỏ trốn khỏi Ung Ðô, những chuyện khác chúng tôi đủ sức ứng phó.”

ô Quả cười, “Tức là muốn Tiễn gia chiếu cố cho cái mạng nhỏ này của tiểu nhân.”

Vương Tiễn lo lắng nói, “Nếu bị khám phá, tam ca há chẳng phải đã phạm tội khi quân hay sao?”

Ðằng Dực cười khổ nói, “Chuyện này cũng đành phải mạo hiểm, nếu tứ đệ nhìn thấy Hạng Thiếu Long giả, chắc chắn lòng tin sẽ tăng lên.”

Kỷ Yên Nhiên tiếp lời, “Huống chi tam ca của đệ sẽ giả bệnh, như thế thì càng dễ che đậy hơn.”

Vương Tiễn nói, “Tốt nhất nửa đường mới thay đổi, như thế sẽ càng kín kẽ hơn.”

Hạng Thiếu Long vui mừng nói, “Có tứ đệ giúp đỡ, chúng tôi sẽ càng vững lòng hơn, tứ đệ không nên ở lâu.”

Hai bên lại nghiên cứu cách làm thế nào để giữ liên hệ, Vương Tiễn mới âm thầm rời khỏi Ô phủ.

Hạng Thiếu Long tìm Tiêu Nguyệt Ðàm, Tiêu Nguyệt Ðàm đang ngồi trước gương đồng để hóa trang thành một lão già. Nghe Hạng Thiếu Long kể chuyện về Vương Tiễn xong, Tiêu Nguyệt Ðàm gật đầu nói, “Chỉ nhìn thấy khí độ của y, cũng đã biết kẻ này chỉ trọng nghĩa khí, không sợ cường quyền. Có y giúp đỡ, chúng ta sẽ càng dễ dàng rút lui hơn.”

Rồi lại ngạc nhiên nói, “Sáng nay đệ không cần lên triều hay sao?”

Hạng Thiếu Long nói, “Ðó chính là nguyên nhân đệ tìm đến lão ca, phiền lão ca hãy hóa trang cho đệ trở thành một kẻ bệnh hoạn.”

Tiêu Nguyệt Ðàm cười, “Thiếu Long đã quá coi thường Doanh Chính. Nếu nghe tin đệ ngã bệnh, y sẽ phái ngự y đến, bề ngoài là trị bệnh cho đệ, nhưng thực tế là điều tra, lúc đó Thiếu Long sẽ chẳng còn gì để nói nữa.”

Hạng Thiếu Long thất kinh, nói, “Vậy phải làm thế nào đây?”

Tiêu Nguyệt Ðàm nhìn lên bầu trời, nói, “May mà vẫn còn một ít thời gian, bởi vì Doanh Chính phải đợi sau khi tảo triều mới sai ngự y đến. Ðệ sẽ uống một ít thảo dược của ta, lúc đó mạch đập của đệ sẽ không ổn, nhưng không ảnh hưởng tới sức khỏe, như thế mới có thể lừa được Doanh Chính, không làm cho y nghi ngờ.”

Ðối với tri thức và thủ đoạn của Tiêu Nguyệt Ðàm, Hạng Thiếu Long đã sớm khâm phục đến sát đất, thầm mừng trong bụng, nếu chẳng phải vì Lã Bất Vi có lòng hại y, hôm nay y đã trở thành mối họa trong lòng của mình.

Chiều hôm ấy, quả nhiên không ngoài dự đoán của Tiêu Nguyệt Ðàm, Tiểu Bàn đã sai đến hai ngự y khám bệnh cho Hạng Thiếu Long, đi cùng còn có cả Xương Bình quân.

Hai ngự y lần lượt bắt mạch cho gã xong, đều đoán là vì Hạng Thiếu Long quá mệt mỏi cho nên nhiễm phải bệnh phong hàn.

Hai viên ngự y ra khỏi phòng, Xương Bình quân ngồi xuống mép giường, thở dài, mặt mày ủ dột, có lời muốn nói nhưng không sao mở miệng được.

Hạng Thiếu Long giả vờ nói với giọng yếu ớt, “Quân thượng có tâm sự gì?”

xương Bình quân than rằng, “Trong lòng ta rất mâu thuẫn, vừa muốn Thiếu Long cứ tiếp tục bệnh như thế này, nhưng lại hy vọng Thiếu Long lập tức khỏe mạnh!”

Hạng Thiếu Long nghe nhói trong lòng, nắm chắc lấy tay y, hạ giọng nói, “Tại hạ đã hiểu tất cả, quân thượng không cần phải nói ra.”

Xương Bình quân giật mình nói, “Huynh…”

Hạng Thiếu Long nở nụ cười chua chát, trầm giọng nói, “Gần vua như gần hổ, đó là điều thường tình từ xưa đến nay.

Chúng ta đừng nói đến chuyện này nữa. Doanh Doanh có vui không? Ðoan Hòa đối xử với nàng thế nào?”

Xương Bình quân nước mắt lưng tròng, nói, “Chúng tôi sở dĩ có ngày nay, toàn là nhờ Thiếu Long đem lại, nếu huynh đệ bọn ta rũ tay áo đứng nhìn khi huynh gặp khó, có còn là người không? Chuyện này vốn là bị quân không đúng.

Hạng Thiếu Long trong lòng xúc động nói, “Chuyện này không phải là đúng hay sai, cũng không nên vì thế mà sinh lòng oán hận với bị quân, tiểu đệ đã có cách tự giữ mạng của mình.”

Xương Bình quân lấy tay áo lau nước mắt, trầm ngâm một lát rồi nói, “Thiếu Long phải cẩn thận một người tên là úy Liêu, y là người Ðại Lương ở nước Ngụy, sau khi vào nước Tần thì trở thành khách khanh của bị quân, giờ đây vẫn chưa có chức quan gì, nhưng rất được bị quân coi trọng, có rất nhiều chuyện không cho chúng tôi biết, mà lại thương lượng với y. Kẻ này trí kế hơn người, rất giỏi dùng binh, đã từng viết một cuốn binh thư tên gọi là úy Liêu tử, chủ trương mở rộng đất đai, dùng một chế độ, rất hợp với chủ trương thống nhất thiên hạ của đại Tần ta. Bị quân có lẽ chịu ảnh hưởng của y, cho nên dành chuyện thống nhất thiên hạ lên hàng đầu, tất cả những người cản trở đại nghiệp thống nhất này đều bị quét sạch.”

Hạng Thiếu Long hiểu ra.

Xương Bình quân đang ám chỉ tiểu Bàn vì muốn bảo vệ cho ngôi vua, nên mới bất chấp thủ đoạn trừ khử mình, nên hy vọng mình ngã bệnh, chính là chỉ ra nếu như mình đi cùng tiểu Bàn đến Ung Ðô, thì tính mạng khó giữ.

Hạng Thiếu Long lại nghe nói úy Liêu tuy chưa có quan chức, nhưng là người tiểu Bàn dùng để đến đối phó mình.

Bởi vì những thủ hạ đắc lực khác của tiểu Bàn đều có mối quan hệ với mình. Cho nên muốn đối phó mình, phải mượn sức của một người ngoài.

Xương Bình quân lại nói, “Thiếu Long có cảm thấy Lý Tư càng trở nên lợi hại không? Bọn chúng tôi giờ đây đều không thích y, y đã quá ham mê quyền lực.”

Hạng Thiếu Long lại cảm động, biết Xương Bình quân nhắc mình đề phòng Lý Tư.

Nhưng chỉ có gã mới thật sự hiểu Lý Tư.

Lý Tư thật ra có lý tưởng thống nhất thiên hạ, đó là chuyện y coi trọng nhất, cho nên phải làm vừa ý tiểu Bàn. Song chỉ cần nhìn thấy y mạo hiểm khuyên mình trốn chạy, có thể thấy trong lòng của y vẫn còn cảm tình với mình.

Hạng Thiếu Long vỗ vai Xương Bình quân, mỉm cười, “Hãy quay về báo cáo với bị quân! Bảo với y rằng dù thế nào ta cũng sẽ đến Ung Đô với y.”

Khi Xương Bình quân trố mắt ra, Hạng Thiếu Long nháy mắt với y, tuy không rõ Hạng Thiếu Long sẽ làm gì, nhưng cũng biết gã đã nắm chắc phần thắng.

Ba ngày tiếp theo, tiểu Bàn đều sai ngự y đến thăm bệnh cho gã.

Lúc này còn mười ngày nữa là phải đến Ung Ðô, Hạng Thiếu Long ngày càng khỏe dần, tuy vẻ mặt vẫn còn chút bệnh hoạn, nhưng vẫn có thể vào cung để gặp tiểu Bàn được.

Tiểu Bàn biết gã đến, tự mình ra đến cửa cung để đón rước.

Sau mấy lời hàn huyên, tiểu Bàn đưa gã vào thư phòng, đóng cửa lại. Text được lấy tại http://truyenfull.vn

Vị Tần Thủy Hoàng trong tương lai ấy thở phào nói, “May mà thượng tướng quân vừa mới khỏe lại, nếu không có thượng tướng quân đi cùng quả nhân, đối phó với gian đảng, thì mọi việc sẽ hỏng bét.”

Hạng Thiếu Long nhìn vào mắt vị Tần Thủy Hoàng do một tay mình nuôi lớn, trong lòng trăm mối tơ vò, nhất thời không biết là yêu hay ghét, nói bằng giọng khàn khàn như Tiêu Nguyệt Ðàm đã chỉ, “Tất cả đã chuẩn bị xong chưa?”

Tiểu Bàn gật đầu nói, “Mọi chuyện đã chuẩn bị xong xuôi, Vương Tiễn đã quay về, trong tay có tổng cộng ba vạn tinh binh, ai nấy đều dũng cảm thiện chiến, quả nhân đã phái y đến Ung Đô trước để hành sự theo kế.”

Hạng Thiếu Long nhíu mày nói, “Theo kế gì?”

Tiểu Bàn nói với vẻ hơi lúng túng, “Theo tin tức của Mao Tiêu, Lao ái chuẩn bị trong đêm cử hành lễ đội mũ, ai nấy uống rượu say mèm thì tác động binh biến. Lúc ấy Vương Tiễn sẽ bao vây Ung Ðô, như thế bọn người Lao ái không ai có thể chạy thoát.”

Hạng Thiếu Long giả vờ không vui nói, “Vương Tiễn đã quay về, sao y không đến gặp vi thần?”

Tiểu Bàn vội vàng nói, “Chính là quả nhân căn dặn y không nên vào thành, thượng tướng quân đừng trách y.”

Hạng Thiếu Long nói, “Phía Lã Bất Vi có động tĩnh gì?”

Tiểu Bàn cười nhạt nói, “Y dám có động tĩnh gì? Song khi quả nhân cùng bá quan văn võ đến Ung Ðô, tình huống sẽ khác.

Rồi hình như không dám tiếp xúc với ánh mắt của Hạng Thiếu Long nên cúi đầu xuống trầm giọng, “Sau khi quả nhân cùng thượng tướng quân đến Ung Ðô, trung đại phu úy Liêu sẽ ở lại Hàm Dương chủ trì đại cuộc, đối phó với Lã Bất Vi. Y sẽ cầm hổ phù của quả nhân, toàn bộ quân trong thành đều do y điều động. Ngày mai quả nhân sẽ tuyên bố chuyện này trong triều.”

Hạng Thiếu Long lập tức nổi giận, y tuy nói dễ nghe như thế, nhưng thực tế là đồng thời tước hết mọi binh quyền của Kinh Tuấn và Ðằng Dực.

Phải biết rằng quân Tần trước nay luôn trung thành với hoàng thất, nếu như Ðằng Kinh hai người không thể điều động được đô ky quân, thì lúc đó Hạng Thiếu Long còn cái gì để đối phó với Lã Bất Vi nữa. Còn úy Liêu thì mặc sức tung hoành.

Hạng Thiếu Long lắc đầu nói, “Chuyện này không hợp lý chút nào, giờ đây thống lĩnh của đô vệ quân đều là người của hai đảng Lã, lao, khi người mới bước lên, lại không có chiến công hay uy vọng, làm sao có thể phục chúng? Như thế càng có thể làm lay động lòng quân, chuyện này vạn lần không thể, mong bị quân thu hồi lại ý này.”

Tiểu Bàn rõ ràng vẫn còn e ngại Hạng Thiếu Long, lại thêm trong lòng có mưu đồ, trầm ngâm một lát mới giải thích rằng, “Thực ra quả nhân làm thế chỉ là để đối phó với Lã Bất Vi. Nếu như y có ý đồ điều động đô vệ quân, thì có nghĩa khi có biến loạn, úy Liêu có thể nội ứng ngoại hợp, một mẻ quét sạch Lã đảng. Ðương nhiên cần có sự phối hợp của hai vị tướng quân Kinh Ðằng.”

Trong mắt Hạng Thiếu Long lướt qua tia nhìn lạnh lẽo, giọng điệu thì lại bình tĩnh một cách bất ngờ, nói rằng, “Vậy chi bằng cứ để úy Liêu nhậm chức đô vệ thống lĩnh!”

Tiểu Bàn khổ não nói, “Nhưng điều đó cho thấy là sẽ đối phó với Lã Bất Vi, mụ tiện nhân kia có chịu đồng ý không?

Hạng Thiếu Long không thèm để ý, nói, “Ðã là như thế, bị quân cứ giao hổ phù cho Ðằng Dực. Chỉ cần sau khi củ hành lễ đội mũ, bị quân đã trở thành vua nước Tần, lúc đó đâu cần thái hậu đồng ý. Bị quân cũng có thể khống chế các quân trong thành Hàm Dương, đâu cần đánh cỏ động rắn như bây giờ?”

Hạng Thiếu Long biết tiểu Bàn vì muốn dụ mình đến Ung Ðô, cho nên không xung đột với mình lúc này, mà về mặt tâm lý y cũng không có cái dũng khí này. Cho nên Hạng Thiếu Long thừa cơ ra giá cao, xem tiểu Bàn sẽ trả lời như thế nào.

Sự thực tiểu Bàn chỉ muốn khống chế đô ky quân, còn đô vệ quân thì y không cần, nhưng không có cách nào nói ra miệng.

Một lát sau, tiểu Bàn nhượng bộ, “Ðã là thế, tất cả hãy cứ làm như cũ. Quả nhân sẽ phái úy Liêu cầm quân đóng ở ngoài thành Hàm Dương, nếu như có chuyện, thì sẽ tăng viện cho hai vị tướng quân Ðằng Kinh.”

Hạng Thiếu Long trong lòng cười thầm, dù cho úy Liêu ba đầu sáu tay, vì không biết mình đã ngầm nhúng tay vào, chắc chắn sẽ thua to.

Lúc này gã không còn lòng dạ nào nói chuyện với tiểu Bàn nữa, mượn cớ vẫn còn bệnh trong người, quay về Ô phủ.