Tầm Tần ký – Chương 281: Mây Kiếm Bao Trùm

về đến Ô phủ, mới biết Cầm Thanh đến, đang ngồi với Kỷ Yên Nhiên trong nội sảnh, hai người đều thần sắc ngưng trọng, thấy Hạng Thiếu Long quay về thì miễn cưỡng nhoẻn miệng cười.

Hạng Thiếu Long ngồi xuống ngạc nhiên nói, “Có chuyện gì mà căng thẳng đến thế?”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Bị quân chính thức hạ chỉ dụ, phái Thanh tỷ đến Ung Đô để xử lý mọi chuyện lớn nhỏ trong lễ.

Thanh tỷ đang lo lắng về chuyện này, đi thì không được, không đi thì không xong.”

Hạng Thiếu Long giật mình, “Kẻ hiểu ta chính là Doanh Chính, chiêu này quả nhiên là đánh trúng tử huyệt của ta.”

“Hay là các người cứ đi trước, sau đó thiếp sẽ tìm cách đi sau!” Cầm Thanh ủ dột nói.

Hạng Thiếu Long bình tĩnh trở lại, lắc đầu dứt khoát, “Không! Muốn đi thì chúng ta phải đi cùng, nếu không ta sẽ chết vì nhớ nàng mất!”

Câu nói đầy thâm tình này của Hạng Thiếu Long khiến cho Cầm Thanh cảm động đến nỗi hai mắt đỏ ửng.

Kỷ Yên Nhiên nói, “Yên Nhiên có thể giả thành nô tỳ bên cạnh Thanh tỷ, nếu xảy ra biến cố, thì cũng có thể ứng phó được.”

Hạng Thiếu Long sững người một lúc rồi mới nói, “Ðây quả thật là cách rất hay, lại khiến cho người ta không ngờ được Khi cần thiết ta sẽ phái Kinh Tuấn đến Ung Đô đón rước các nàng.”

Ðến tối thì Tiêu Nguyệt Ðàm vội vàng chạy về.

Mọi người đều vào trong phòng kín bàn bạc.

Tiêu Nguyệt Ðàm nói, “Nếu không phải Đồ công bí mật giám sát Lã tặc, chúng ta chết xuống suối vàng, vẫn là một lũ quỷ hồ đồ.”

Mọi người đều đồng thời biến sắc, hỏi dấn tới.

Tiêu Nguyệt Ðàm nói, “Lã Bất Vi càng lúc càng thiếu người dùng, cho nên đành phải dùng những người cũ do Đồ công đứng đầu, cho nên Đồ công càng hiểu rõ âm mưu của Lã tặc. Chúng ta đã quên rằng Lã Bất Vi có sự giúp sức của sáu nước phía đông. Giờ đây vua tôi sáu nước này đều rất e sợ Doanh Chính, chỉ cần lật đổ được Doanh Chính, bọn họ sẽ rất vui mừng.”

Hạng Thiếu Long biến sắc nói, “Chả lẽ y dám mở cửa biên phòng, để cho liên quân kéo vào hay sao?”

Tiêu Nguyệt Ðàm cười, “Dù y có gan ấy cũng vô dụng, quân Tần ai ai cũng có lòng yêu nước, nào chịu nghe theo?

Huống chi tam Tấn và Sở, Yên vừa bị Thiếu Long đánh cho đại bại, dù có mở cửa ra mời chúng vào, chúng cũng không dám. Song sáu nước đã chọn ra bốn tốp tử sĩ, ai nấy đều là những cao thủ một địch trăm, chuẩn bị khi thời cơ thích hợp, tiến hành hành động ám sát. Bốn mục tiêu là Doanh Chính, Thiếu Long, Xương Bình quân và Lý Tư.”

Doanh Chính và Hạng Thiếu Long trở thành đối tượng cần phải giết của sáu nước, đó là điều đương nhiên. Xương Bình quân và Lý Tư là hai đại thần văn võ của Doanh Chính, nếu có gì bất trắc, sẽ khiến cho bá quan văn võ không có ai thống lĩnh, như vậy Lã Bất Vi có thể thừa cơ đưa người của mình lên.

Hạng Thiếu Long nghĩ thầm, “Kẻ phải giết nhất chính là Vương Tiễn, song có lẽ Lã Bất Vi chưa biết rằng Vương Tiễn đã về đến Hàm Dương.”

Trong thời khắc mấu chốt của nước Tần, chỉ cần Tiểu Bàn ngồi lên ngai vua, hai đảng Lã, Lao sẽ phải chết không chỗ chôn thân.

Ðào Phương trầm giọng hỏi, “Bọn chúng giờ đây phải chăng đã ở Hàm Dương?”

Tiêu Nguyệt Ðàm nói, “Vì muốn giấu hành tung, cho nên giờ đây bọn chúng đang ẩn nấp ở vùng rừng núi gần đây, việc ăn uống do Đồ công phụ trách, các vị đã biết điểm này có lợi cho chúng ta như thế nào không?”

“Ðồ tổng quản phải chăng hiểu rõ hành động của bọn chúng?” Kỷ Yên Nhiên nói.

Tiêu Nguyệt Ðàm nói, “Chuyện này do Hứa Thương phụ trách, chỉ cần có thể bắt sống được kẻ này, Tiêu mỗ sẽ có thủ đoạn khiến cho y phải ngoan ngoãn khai ra.”

Ðằng Dực nói, “Chỉ cần Hứa Thương chịu bước chân ra khỏi cửa thành, chúng tôi sẽ có cách bắt sống y, rồi sẽ giao cho tiên sinh tra khảo. Nhưng nếu y ở trong thành, trừ phi chúng ta phải xông thẳng vào Lã phủ nếu không cũng khó làm gì được y.”

Hứa Thương vốn là một kiếm khách thuộc hàng nhất lưu, lâu nay ở trong phủ trọng phụ ra vào đều có một tốp thân vệ, trong thành lại là phạm vi thế lực của đo vệ quân. Muốn giết y có lẽ có chút cơ hội, nhưng nếu muốn bắt sống y, quả thật khó hơn lên trời.

Tiêu Nguyệt Ðàm rút ra một tấm bản đồ, trải lên bàn nói, “Ðây là bản đồ trong phủ trọng phụ, giả sử ta dùng kế, hoàn toàn có thể bắt sống Hứa Thương và ám sát Lã Bất Vi.”

Ngừng một lúc rồi mới nói, “Ðồ công đã chuẩn bị một loại thuốc mê, chỉ cần bỏ xuống giếng trong phủ trọng phụ, ai uống sẽ phải ngủ mê trong ba ngày.”

Kinh Tuấn vui mừng nói, “Thật là tuyệt diệu.”

Hạng Thiếu Long hỏi, “Không biết Đồ tổng quản có biết được toàn bộ kế hoạch của Lã Bất Vi không?”

Tiêu Nguyệt Ðàm cười nhạt nói, “Dù cho Đồ công không tham dự vào chuyện này, nhưng động tĩnh của Lã tặc làm sao giấu được ông ta? Kế hoạch của Lã tặc rất hoàn chỉnh, khi Lao ái nổi dậy ở Ung Ðô, ở Hàm Dương y cũng sẽ khởi binh, trên danh nghĩa là thảo phạt Lao ái, giành lấy quyền điều động quân đội trong tay.”

Ðào Phương nhíu mày, “Giả sử Lao ái thất bại, Lã Bất Vi chẳng phải là chẳng còn gì hay sao? Lại còn mang tiếng tạo phản nữa.”

Tiêu Nguyệt Ðàm nói, “Cho nên Lã tặc mới bí mật đưa Quản Trung Tà đến Ung Ðô, phối hợp với cao thủ sáu nước chủ trì hành động ám sát. Kẻ này có thuật bắn tên cao siêu, vả lại đây không phải là nơi ở của Doanh Chính.”

Mọi người đều lo lắng trong lòng, nếu không trừ khử kẻ này trước, quả thật đây là một mối nguy.

Hạng Thiếu Long than rằng, “Không may chuyện này chúng ta đã đoán trúng, có cách nào biết được hành tung của y không?

Tiêu Nguyệt Ðàm lắc đầu, “Ðây có thể nói là quân cờ lợi hại cuối cùng của Lã tặc, cho nên e rằng ngoài y ra, không ai có thể biết được hành tung của Quản Trung Tà. Sự thành bại của Lã tặc chính là có giết được Doanh Chính hay không, mà y không phải là không có cơ hội thành công.”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Vậy Ô Quả há chẳng phải càng nguy thêm hay sao?”

ô Quả mặt trắng bệch, song chỉ cần nghĩ đến thuật bắn tên trùm đời của Quản Trung Tà, không ai có thể trách y nhát gan được.

Tiêu Nguyệt Ðàm vuốt râu cười, “Các vị đừng lo, thực ra Quản Trung Tà cũng không phải là khó tìm được. Trước hết kẻ đầu tiên y phải giết là Doanh Chính, cũng có thể đồng loạt ám sát bốn người một lần. Nếu không sẽ bứt dây động rừng, hành động ám sát sẽ không linh nghiệm.”

ô Quả nhất thời thở phào.

Kỷ Yên Nhiên nói, “Vậy thì hành động ám sát sẽ tập trung ở Ung Ðô, chỉ có như thế mới có thể đổ hết mọi tội trạng lên đầu Lao ái.”

Rồi mỉm cười nói, “Kẻ thiện chiến, đấu trí chứ không đấu lực, vấn đề lớn nhất của hai đảng Lã, Lao là không tin tưởng lẫn nhau, ám toán lẫn nhau. Theo Yên Nhiên suy đoán, Lã Bất Vi sẽ che đậy hành động ám sát, không cho Lao ái biết, còn trong số cận vệ bên cạnh bị quân, chắc chắn có nội gián của Lã tặc. Chỉ cần chúng ta tiết lộ bí mật này cho Lao ái, nói không chừng sẽ thu được hiệu quả.”

Hạng Thiếu Long không hề lo lắng cho mạng của tiểu Bàn, nếu không trong lịch sử đã không có Tần Thủy Hoàng, cũng không lo lắng cho Xương Bình Quân, Lý Tư, lý do cũng như thế, người gã lo lắng nhất chính là Ô Quả.

Ðằng Dực lúc này mới nói, “Chắc ăn nhất là trước tiên hãy giết chết Quản Trung Tà, còn chúng ta thì hãy tự bảo vệ cho an nguy của mình, bởi vì nếu ta hoặc Tiểu Tuấn có điều gì bất trắc, Lã tặc sẽ công nhiên thu hết mọi quyền hành trong đô ky quân.”

Quản Trung Tà là nhân vật trí dũng song toàn, có ý chủ trì hành động ám sát của sáu nước, ai dám khinh địch?

Tiêu Nguyệt Ðàm đột nhiên nói, “ô Quả đã giả làm Hạng Thiếu Long, vậy thì Thiếu Long cũng có thể giả làm Ô Quả, như thế sẽ càng kín kẽ hơn.”

Mọi người đồng thanh kêu hay.

Ðào Phương nghi ngờ nói, “Thời gian có kịp không?”

Tiêu Nguyệt Ðàm cười, “Khi chế tạo mặt nạ giả, trong lòng Tiêu mỗ đã tính đến điều này, cho nên đã làm một lúc hai cái, nếu không làm sao phải tốn nhiều thời gian như thế?”

Mọi người đều khen hay, khâm phục trí kế của Tiêu Nguyệt Ðàm.

Thương lượng xong chi tiết, quyết định phải coi chuyện điều tra tung tích của Quản Trung Tà lên hàng đầu, rồi mới đặt ra các kế hoạch ứng biến khác.

Ðêm ấy Hạng Thiếu Long ngủ ngon, sáng hôm sau cố ý xuất hiện trong buổi tảo triều để cho bọn người Lã Bất Vi thấy vẻ mặt bệnh hoạn và giọng nghe khàn khàn của gã.

Ngày hôm ấy chỉ thảo luận về việc cử hành lễ đội mũ.

Lã Bất Vi chủ động đòi giữ Hàm Dương, tiểu Bàn giả vờ miễn cưỡng chấp nhận.

Sau buổi tảo triều, tiểu Bàn và Hạng Thiếu Long, Xương Bình quân, Xương Văn quân và Lý Tư vào trong thư phòng thương nghị.

xương Bình quân và Lý Tư báo cáo xong, đều là trình tự của buổi lễ Ung Ðô.

Tiểu Bàn nghe xong nói, “Các khanh đều biết rằng đây là cơ hội cuối cùng để hai đảng Lã Lao lật đổ quả nhân, về mặt này các khanh có đối sách gì?”

Xương Bình quân nói, “Chuyện này vi thần đã có kế hoạch, trước tiên hãy sai một đội thuyền đến Ung Ðô, đội thuyền này không những có kiểu dáng giống nhau mà phía trên có cắm vương kỳ, khiến cho kẻ địch không phân biệt được đâu là thuyền của bị quân. Lại dùng các chiến thuyền kiểu nhỏ để mở đường, các điểm chiến lược hai bên bờ đều có tinh binh chốt giữ. Như vậy có thể bảo vệ được an toàn cho đường đi.”

Tiểu Bàn gật đầu rồi nói, “Song điều nguy hiểm nhất là sau khi đến Ung Ðô, Lao tặc đã sắp xếp nhiều năm chờ đợi thời khắc này, tuyệt không thể sơ ý.”

Xương Bình quân nói, “Cốc Hề sẽ dẫn một vạn tinh binh đóng trước ở Ung Ðô, giữ lấy những chỗ quan trọng, vi thần tin rằng Lao ái sẽ không dám chống lệnh.”

Hạng Thiếu Long nhíu mày nói, “An đại tướng quân quay về lúc nào?”

Tiểu Bàn ho khan một tiếng nói, “Vì thượng tướng quân ngã bệnh nằm ở nhà, quả nhân không dám kinh động cho nên không cho thượng tướng quân biết chuyện này.”

Bọn ba người Lý Tư đều cúi đầu, lúng túng không nói gì.

Hạng Thiếu Long mắt như đổ lửa, “Bị quân đã tính toán hết mọi điều, đâu cần vi thần phải giúp sức, chi bằng cứ để vi thần ở lại Hàm Dương dưỡng bệnh thì hơn.”

Bọn ba người Lý Tư cúi đầu càng thấp hơn.

Tiểu Bàn bình thản nói, “Thượng tướng quân đừng hiểu nhầm, giờ đây quả nhân chính là muốn thỉnh giáo thượng tướng quân đây.”

Hạng Thiếu Long nói dứt khoát, “Nếu như không cho hạ thần biết tất cả mọi sự sắp xếp, đến khi xảy ra chuyện chắc chắn sẽ thất bại.”

Có được tin tức quý giá của Đồ Tiên, gã càng nắm chắc hơn rằng có thể ứng phó được với hai đảng Lã, Lao và tên tiểu tử vô ơn bạc nghĩa tiểu Bàn này.

Tiểu Bàn nghiêm mặt nói, “Thượng tướng quân cớ gì nói ra lời này?”

Hạng Thiếu Long biết tiểu Bàn coi trọng mình là bởi từ nhỏ đến lớn y coi mình như là người trời, chưa bao giờ thất bại, mà mình thì đã nhiều lần giúp y vượt qua được cửa ải khó khăn, cho nên trong lòng của y, hình tượng trí dũng của mình không thể nào phai nhòa được.

Nếu là người khác, dẫu cho bọn Lý Tư, Vương Tiễn cũng đừng hòng hù dọa được vị Tần Thủy Hoàng này.

Hạng Thiếu Long không đáp mà hỏi lại rằng, “An đại tướng quân cầm bao nhiêu binh trong tay?”

Tiểu Bàn do dự một lúc chỉ đành nói, “Năm vạn người!”

Hạng Thiếu Long nhìn vẻ mặt của người khác, biết Tiểu Bàn không nói dối trong chuyện này thản nhiên nói, “Còn bốn vạn kia ở đâu, do ai nắm giữ?”

Gã đương nhiên hiểu rõ được rằng đại quân này ngoài chuyện đối phó với Lã Bất Vi còn dùng để đè bẹp hai người Ðằng Kinh và các chiến sĩ của Ô gia, nên cố ý buộc Tiểu Bàn nói ra.

Tiểu Bàn có vẻ như không dám nhìn Hạng Thiếu Long nữa, giả vờ lật mấy trang văn kiện, bình tĩnh mà nói rằng, “Ðây là đội quân hậu bị để ứng phó khi tình thế cấp bách, do úy Liêu chỉ huy, có thể dùng để tăng viện cho Ung Đô hoặc Hàm Dương bằng đường sông.”

Tiếp theo hỏi với vẻ không nhẫn nại, “Thượng tướng quân sao vẫn chưa trả lời câu hỏi vừa rồi của quả nhân?”

Trong thiên hạ e rằng chỉ có Hạng Thiếu Long mới dám nói với Tiểu Bàn như thế.

Bọn Lý Tư cũng không dám xen vào.

Hạng Thiếu Long bình thản nói, “Dù cho hai đảng Lã Lao có điên cuồng đến mức nào cũng không dám công nhiên tạo phản, cho nên bọn chúng nhất định sẽ dùng thủ đoạn ám sát, nếu như giết chết được bị quân, thiên hạ đại loạn gian đảng có thể khuấy nước mà bắt cá, giành lấy lợi ích lớn nhất.”

Xương Văn quân nén không được nói, “Ðiểm này chúng tôi cũng đã nghĩ đến, cũng đã có cách ứng phó rồi.”

Hạng Thiếu Long trầm giọng nói, “Giả sử hành động ám sát lần này do Quản Trung Tà chủ trì, kẻ tham dự là những thích khách thuộc hàng nhất lưu được sáu nước phía đông chọn ra, mà bị quân thì phải lộ mặt trong khi thi lễ, trong số cấm vệ quân có nội ứng của gian đảng, quân thượng có còn nắm chắc không?”

Bao gồm cả tiểu Bàn trong đó, ai nấy cũng đều biến sắc.

Năm ấy tiểu Bàn đến khúc sông Ðức Thủy để làm lễ tế mùa xuân, đã từng bị thích khách ám sát, may mà thoát được, đến nay vẫn còn nhớ rõ. Giờ đây lại có thêm Quản Trung Tà, kẻ có thuật bắn tên ghê người, ai dám đảm bảo rằng sẽ không xảy ra chuyện gì?

Xương Bình quân ngạc nhiên nói, “Theo tin tức truyền đến, Quản Trung Tà vẫn đang cầm cự với người Hàn ở biên giới nước Hàn.”

Hạng Thiếu Long nói, “Ðó chỉ là cách che mắt, đây là lúc căng thẳng, Lã Bất Vi vì sao không triệu hồi ái tế? Ðây chính là nuôi quân ngàn ngày dùng trong một lúc.”

Lời nói của gã đầy sức thuyết phục.

Tiểu Bàn lóe lên ánh mắt lạnh lẽo, nhìn Hạng Thiếu Long nói, “Thượng tướng quân tại sao lại biết được tin này?”

Hạng Thiếu Long sớm biết Tiểu Bàn sẽ hỏi như thế, cười, “Lã Bất Vi có bạn bè sáu nước, vi thần cũng thế.”

Tiểu Bàn nhìn gã một lúc gật đầu, “Thượng tướng quân đã có cách gì để đối phó?”

Hạng Thiếu Long hạ chiêu cuối cùng, “Bị quân trước tiên hãy giao hổ phù cho vi thần, để vi thần có thể điều binh khiển tướng, vi thần mới có cách để xử lý chuyện này.”

Ðây chính là chiêu lợi hại nhất của Hạng Thiếu Long mà tiểu Bàn thì không thể không chấp nhận.

ở nước Tần, hễ là những tướng soái đều được cấp cho một nửa miếng hổ phù, còn một nửa do tiểu Bàn nắm lấy.

Khi dẫn quân xuất chinh, tướng cầm quân được ban nửa tấm binh phù còn lại, như thế mới có thể nắm lấy binh quyền. Những tướng lãnh có cấp bậc khác nhau, cầm những binh phù phản ánh thân phận của mình, quy định được cầm bao nhiêu quân.

Những tướng soái từ cấp đại tướng quân trở lên, không những không bị hạn chế về số quân mà còn có thể điều động quân ở các địa phương và chiêu mộ thêm quân mới.

Khi chinh chiến về triều, thì tướng cầm quân trả nửa mảnh binh phù cho triều đình, binh lính cũng trả về trung ương, các tướng lĩnh chỉ giữ lại một số giới hạn thân binh theo quan cấp của mình, binh quyền cũng trả lại cho nhà vua.

Hạng Thiếu Long là một trong hai thượng tướng quân, nếu như có một tấm binh phù hoàn chỉnh, thì có nghĩa là thống soái cao nhất trong quân đội, lúc này ngoài tiểu Bàn, không ai có thể thu hồi binh phù của gã.

Cho nên giả sử Hạng Thiếu Long cầm một tấm binh phù hoàn chỉnh có nghĩa là đã nắm toàn bộ binh quyền trong tay, lúc này tiểu Bàn muốn đối phó gã, tuyệt không thể phái những tướng lĩnh cấp thấp mới như úy Liêu. Cách duy nhất là tiểu Bàn tự đi xử lý gã.

Từ đó có thể thấy chuyện tấm binh phù rất quan trọng.

Nhưng Hạng Thiếu Long không lo tiểu Bàn không chấp nhận, bởi vì có ba nguyên nhân.

Ðầu tiên, tiểu Bàn muốn Hạng Thiếu Long đi cùng y đến Ung Ðô, sau đó mới ung dung ám toán, không sợ xảy ra tình trạng tướng ở ngoài không nghe theo lệnh vua.

Thứ hai là Hạng Thiếu Long cố ý tạo ra tình thế này, khiến cho tiểu Bàn đành phải dùng đó để lừa gạt và vỗ về gã.

Nguyên nhân cuối cùng càng vi diệu hơn, bởi vì lòng tin của tiểu Bàn đối với tài năng của gã đã ăn sâu vào trong tâm khảm, tin rằng làm như thế đối với y có lợi chứ không có hại.

Cho nên Hạng Thiếu Long không sợ y không chấp nhận, lại không thể điều tra sự việc đến tận căn nguyên, nếu thế thì tỏ ra không tin tưởng Hạng Thiếu Long.

Quả nhiên tiểu Bàn chỉ sững người một lát, rồi hơi gật đầu trả lời, “Ta chuẩn tấu!”.

Hạng Thiếu Long cố nén cơn vui mừng, bình thản nói, “Ngày bị quân đội mũ, chính là lúc thần trình lên cho bị quân đầu của Quản Trung Tà, nếu không bị quân có thể trị tội hạ thần theo quân pháp.”

Trong mắt tiểu Bàn thoáng qua tia nhìn phức tạp.

Hạng Thiếu Long trong lòng thầm than, thừa cơ thối lui.

Tầm Tần ký – Chương 282: Dùng hình bức cung

Xương Văn quân từ phía sau đuổi lên, cùng Hạng Thiếu Long cưỡi ngựa đi chầm chậm, các thiết vệ và tùy tùng của Xương Văn quân đều để ý xung quanh để đề phòng thích khách, dáng vẻ rất căng thẳng.

Hạng Thiếu Long nhẹ nhàng hỏi, “Huynh không cần hầu hạ bị quân sao?”

Xương Văn quân lắc đầu hỏi, “Thiếu Long định đối phó với gian đảng như thế nào, có thể tiết lộ để ta phối hợp hành động không?

Hạng Thiếu Long điềm nhiên nói, “Phải chăng bị quân bảo huynh đuổi theo để hỏi tại hạ hay không?”

Xương Văn quân lộ vẻ ngạc nhiên, không thể trả lời.

Hạng Thiếu Long mỉm cười, “Không cần phải nói, ta cũng biết huynh khó xử.”

Xương Văn quân chợt sầm mặt hổ thẹn mà đáp rằng, “Thiếu Long có thể giúp ta không?”

Hạng Thiếu Long nói, “Vậy thì hãy nói với bị quân, ta đã nắm được một ít manh mối, có thể quét trọn một mẻ Quản Trung Tà và thích khách của sáu nước, nhưng chuyện này phải tuyệt đối giữ bí mật, cho nên càng ít người biết càng tốt.

Xương Văn quân vội vàng nói, “Thiếu Long cần binh phù để làm gì?”

Hạng Thiếu Long nhủ thầm tấm binh phù dĩ nhiên là dùng để bảo vệ cho mạng ta, nhưng miệng thì lại đáp rằng, “Bởi vì ta cần phải điều động ba vạn quân đô ky để truy quét kẻ địch đột nhập vào biên giới nước ta.”

Rồi hỏi ngược lại, “Thân phận của úy Liêu lúc này là gì?”

xương Văn quân lộ vẻ khó xử, cúi đầu, “Tại hạ không biết?”

Hạng Thiếu Long trong lòng thầm than, Xương Văn quân rốt cuộc không có nghĩa khí bằng anh trai của mình. Cùng hưởng phú quý thì dễ, cùng gánh hoạn nạn thì là chuyện khác.

Nghĩ tới đây, nào có hứng thú nói chuyện với y nữa? Chỉ nói một câu, “Xin hãy quay về!”

Rồi cùng với các thiết vệ phóng nhanh lên phía trước.

Về đến quan thuộc, lập tức gọi Ðằng Dực, Kinh Tuấn và Ô Quả đến, nói chuyện về tấm binh phù xong thì bảo rằng, “Giờ đây chúng ta có thể nói đã đứng ở chỗ không thể thất bại, trừ phi Doanh Chính tự tay cầm đại quân đến giết ta, nếu không những kẻ khác không dám động thủ.”

Ðằng Dực nhíu mày, “Nhưng Doanh Chính có thể hạ lệnh, đoạt lại binh quyền của tam đệ.” Bạn đang đọc truyện tại TruyệnFULL.vn – www.TruyệnFULL.vn

Hạng Thiếu Long mỉm cười, “Ðây chính là chỗ tuyệt vời nhất! Vì muốn đệ đối phó với Quản Trung Tà, cho nên trước khi làm lễ đội mũ, Doanh Chính sẽ không dám đoạt lại binh phù. Ðến khi y muốn đối phó với đệ, thì đột nhiên phát hiện rằng đệ không hề ở Ung Ðô, lúc đó chúng ta ít nhất cũng có một hai ngày để toàn lực đối phó với Lã Bất Vi.”

ô Quả gật đầu, “Nói như thế, tiểu nhân phải bỏ chạy trước khi làm lễ xong.”

Kinh Tuấn nói, “Vậy chúng ta có thật sự tiêu diệt Quản Trung Tà không?”

“Ðó là món quà cuối cùng mà chúng ta gởi cho Doanh Chính!” Hạng Thiếu Long thở dài nói.

Ðằng Dực đồng ý, “Chúng ta cũng đành phải làm. Nếu để cho Lã Bất Vi thành công, chúng ta cũng sống không yên.”

Hạng Thiếu Long nói, “Chỉ cần chúng ta quét sạch một mẻ những tên thích khách đang ẩn nấp trong chốn rừng núi, Đồ Tiên sẽ không cho Lã Bất Vi biết việc này, còn chúng ta thì dùng hình để bức cung, nắm được hành tung của Quản Trung Tà.”

ô Quả thắc mắc, “Tiểu nhân quả thật không hiểu, tốp thích khách ấy tại sao không thừa cơ đến Ung Đô trước mà lại ở Hàm Dương?”

Hạng Thiếu Long nói, “Ðạo lý rất đơn giản, bởi vì Lã tặc sợ Lao ái phát hiện, thứ đến là không hiểu ta có đến Ung Đô hay không. Nếu ta ở đây, mặc dù giết được Doanh Chính, nhưng ta có thể dựa vào thực lực và uy tín của mình để xoay chuyển tình thế. Lã Bất Vi cũng muốn xem thử có cơ hội giết chết Doanh Chính trên đường đến Ung Đô hay không, cho nên bốn tốp người đó phải ở gần đây để đợi lệnh.”

Ngừng một lát rồi tiếp tục nói, “Tên lão tặc này đành phải nhờ Đồ Tiên để liên hệ với nhóm thích khách, nếu dùng bọn người Hứa Thương, thì tin tức này sẽ sớm lộ ra.”

Kinh Tuấn nói, “Còn ba ngày nữa Doanh Chính đến Ung Ðô, tam ca chuẩn bị lúc nào hành động?”

Hạng Thiếu Long nở nụ cười tự tin, bình thản nói, “Trong đêm nay!”

Dưới ánh trăng sáng, Hạng Thiếu Long lúc này đã hóa trang thành Ô Quả cũng với Kỷ Yên Nhiên đang nấp trên một ngọn đồi ở phía thành nam ngoài thành Hàm Dương, lặng lẽ chờ đợi.

Bọn họ đều mặc áo dạ hành, mang theo cung nỏ có thể gấp nhỏ lại, lưng có mặc áo giáp, được thiết kế như áo tránh đạn của thế kỷ hai mươi mốt.

Hạng Thiếu Long nằm thoải mái trên sườn cỏ, đưa tay vỗ lên đùi nàng Kỷ tài nữ đang ngồi bên cạnh, nhẹ giọng hỏi, “Hy vọng Ô Quả không xảy ra chuyện thì tốt!”

Ðêm nay Ô Quả lần đầu tiên đội lốt của Hạng Thiếu Long để xuất hiện cùng Ðằng Dực đi gặp Hứa Thương, nghiên cứu nên phối hợp thế nào giữa đô ky quân và đô vệ quân sau khi Doanh Chính rời khỏi Hàm Dương.

Tác dụng của chiêu này, đương nhiên là khiến cho Hứa Thương không nghi ngờ.

Nếu phát hiện được Hạng Thiếu Long đã ra thành, thì y sẽ đề phòng.

Lúc này Kinh Tuấn đến phía trước hai người, hạ giọng nói, “Kẻ địch có khoảng mười hai đến mười lăm tên, đang cắm trại trong rừng rậm, chỉ có hai tên canh gác. Ðệ đã bố trí thiên la địa võng, đảm bảo không ai có thể chạy thoát.”

Kinh Tuấn là một thợ săn xuất sắc đã chế ra mấy chục tấm lưới, có thể giăng dưới đất hay tung từ trên ngọn cây xuống.

Những thích khách đến nước Tần lần này đều là những tử sĩ được sáu nước chọn ra kĩ càng, nếu như không có thủ đoạn đặc biệt, muốn giết bọn chúng thì dễ, muốn bắt sống thì lại khó hơn lên trời.

Hạng Thiếu Long đứng dậy nói, “Ra tay đi!”

Kinh Tuấn lại quay về chỗ cũ.

Hạng Thiếu Long cùng Kỷ Yên Nhiên lên trên đỉnh đồi, giám sát hành động vây bắt ở phía dưới.

Nếu không phải có tin tức chính xác của Đồ Tiên, lại phái thêm một ngàn quân đi điều tra, cũng đừng mong có thể bao vây mục tiêu trùng trùng như thế này.

Ðột nhiên có tiếng vó ngựa cách một dặm vang lên rầm rập, từ xa đến gần, chạy thẳng đến khu rừng rậm.

Bọn Hạng Thiếu Long không hề ngạc nhiên, bởi vì đây là sự sắp xếp của bọn họ, để buộc kẻ địch chạy trốn theo hướng ngược lại, chiu đầu vào lưới.

Quả nhiên kẻ địch lập tức phản ứng, chỉ nhìn thấy vị trí chim rừng bay lên, thì cũng đã biết bọn chúng chạy về hướng đông nam.

Có tiếng la hét vang lên trong rừng, trong chốc lát thì lại im bặt.

Hạng Thiếu Long và Kỷ Yên Nhiên nhìn nhau mỉm cười, biết rằng kế hoạch của mình đã thành công, điều còn lại chỉ là xem thủ đoạn bức cung của Tiêu Nguyệt Ðàm.

Kẻ bị bắt sống có mười ba người, tướng mạo đều kỳ dị, đều là hạng cao lớn. Nếu như giao phong chính diện, chắc chắn bên mình sẽ khó thoát chết.

Những kẻ ấy đều đã bàn trước, không ai lên tiếng, tỏ ra thà chết chứ không chịu khai.

Sau khi bí mật áp giải bọn chúng về đến Ô phủ, Tiêu Nguyệt Ðàm căn dặn nhốt riêng bọn chúng ra. Sau khi quan sát, thì hạ lệnh dùng một tên thích khách để làm mục tiêu bức cung, nói với mọi người rằng, “Tên này tướng mạo anh tuấn, trông cũng oai vệ, có lẽ cũng được bọn nữ nhân ưa thích. Ðược như thế, chắc chắn cũng là mạo hiểm đến đây, cũng chỉ là muốn sau khi xong việc thì được phong thưởng tiền tài và sắc đẹp, đương nhiên sẽ biết quý trọng thân thể và tính mạng của mình.”

Kỷ Yên Nhiên khen rằng, “Tiên sinh quả nhiên là chuyên gia dùng hình. Chả trách nào đã trở thành trợ thủ đắc lực của Đồ tổng quản.”

Tiêu Nguyệt Ðàm mỉm cười, “Tại hạ cũng chỉ vì thích động não hơn kẻ khác mà thôi!”

Rồi hạ giọng nói, “Yên Nhiên có thể tránh ra một chốc không?”

Kỷ Yên Nhiên hiểu ra chắc chắn có chuyện mà nữ nhi không thể thấy được, tuy không muốn, nhưng cũng chỉ đành ngoan ngoãn bỏ ra ngoài.

ở trong phòng chỉ còn lại Hạng Thiếu Long, Kinh Tuấn và Tiêu Nguyệt Ðàm, hai chiến sĩ Ô gia bắt ra tên thích khách đã chọn.

Người này cao lớn tuấn tú, lúc này mặt mũi xám ngoét, cúi đầu rầu rĩ, khắp người đầy bụi đất, áo quần thì bị rách nát nhiều chỗ, hai tay bị trói quặt ra sau lưng, chân thì mang xích sắt.

ánh mắt của ba người nhìn vào khuôn mặt y, không bỏ qua bất cứ thay đổi nào trên khuôn mặt ấy.

Tiêu Nguyệt Ðàm mỉm cười nói, “Vị bên cạnh ta chính là Hạng Thiếu Long danh lừng thiên hạ, huynh đài đã có gan đến đây, chắc không thể không biết y là người như thế nào?”

Người ấy ngẩng đầu nhìn Hạng Thiếu Long, lúc mới đầu thì hơi ngạc nhiên rồi hơi gật đầu.

Hạng Thiếu Long và Kinh Tuấn trong lòng đều khâm phục chọn tù binh của Tiêu Nguyệt Ðàm. Bởi vì những người khác đều không có phản ứng gì, người này chịu gật đầu, thì có thể có cơ hội để điều tra.

Tiêu Nguyệt Ðàm nhẹ giọng nói, “Huynh đài tên gọi là gì, người xứ nào?”

Người ấy lộ vẻ đau khổ vì giằng xé trong lòng, cuối cùng cũng lắc đầu, tỏ ý sẽ không nói.

Tiêu Nguyệt Ðàm cười ha ha nói, “Ðể bổn nhân cho ngươi xem một vật này trước, rồi ngươi hãy quyết định có hợp tác với chúng ta hay không? Cởi quần áo của y xuống.”

Hai chiến sĩ Ô gia cùng ra tay, trong chốc lát người ấy đã trần truồng như nhộng, còn mặt thì lộ vẻ kinh hoàng.

Lúc này cả hai người Hạng, Kinh đều không biết thủ đoạn tiếp theo của Tiêu Nguyệt Ðàm là gì.

Tiêu Nguyệt Ðàm lại hạ lệnh nữa, ngoài cửa có tiếng bánh xe chuyển động, lại có tiếng kêu chịu chít kỳ lạ, khiến hai người Kinh Hạng đều rợn da gà.

Chỉ thấy hai thiết vệ đẩy một chiếc lồng sắt lớn vào, trong đó có chứa hàng trăm con chuột, đang bò lúc nhúc.

Kinh Tuấn kêu lên, “Hay lắm!”

Hạng Thiếu Long thì đổ mồ hôi, suýt nữa bỏ chạy ra ngoài.

Người ấy tái mặt, hai chân mềm nhũn, té xuống đất, toàn thân run bần bật, rõ ràng là đang nghĩ tới số phận của mình.

Tiêu Nguyệt Ðàm nghiêm mặt nói, “Không cần bổn nhân nói ra, huynh đài chắc cũng biết chiếc lồng chuột này dùng để làm gì? Nghe nói loài chuột này rất giỏi đào lỗ, hà hà!”

Người ấy rên lên một tiếng, suýt tý nữa thì ngất đi.

Tiêu Nguyệt Ðàm ghé vào tai Hạng Thiếu Long nói, “Ðến lúc Thiếu Long làm người tốt.”

Hạng Thiếu Long hiểu ý, cố nén sự ghê tởm đối với bầy chuột, đứng dậy, đỡ người ấy mà nói rằng, “Huynh đài chắc cũng biết Hạng Thiếu Long này là người như thế nào, Hạng mỗ dám lấy đầu trên cổ để bảo đảm rằng, chỉ cần huynh đài chịu hợp tác, tại hạ sẽ đảm bảo để cho huynh đài rời khỏi đây, lại còn tặng bạc, đảm bảo không báo chuyện này cho triều đình, để tránh liên lụy cho quý quốc.”

Người ấy cúi đầu, run giọng nói, “Có thật không?”

Hạng Thiếu Long không hề khách khí mà rằng, “Huynh đài có nghe ai từng nói tại hạ không giữ lời chưa? Nhưng đương nhiên là phải chứng thực lời huynh đài không phải dối, thì mới có thể thả huynh đài quay về.”

Người ấy rầu rĩ gật đầu, “Ta nói.”

Sau khi được tin tức quý báu, Ô Quả, Ðằng Dực và các thiết vệ đều vui mừng quay về, rõ ràng là đã lừa gạt được Hứa Thương.

ô Ngôn khen rằng, “Quả đại ca thật tuyệt, mỗi lần có điều không hiểu, đều ho sù sụ lên, lúc thì ôm đầu, lúc thì nhăn mặt, quả thực giả rất giống.”

Ðằng Dực nói, “Ngay cả ta cũng coi y như tam đệ, chỉ là nhãn thần hơi kém một chút, may mà người khác cũng tưởng rằng y vừa mới bệnh khỏi, cho nên không nhìn ra sơ hở.”

Rồi quay sang Hạng Thiếu Long nói, “Kết quả thẩm vấn thế nào?”

Hạng Thiếu Long vui mừng ra dấu đã thành công.

ô Quả và các thiết vệ đều vui mừng.

Kinh Tuấn nói, “May mà có Tiêu tiên sinh ra tay, khiến cho tên tiểu tử này phải ngoan ngoãn, cả những điều không cần nói cũng nói ra, té ra tốp tử sĩ này chẳng phải là đoàn thích khách của sáu nước gì cả, đó chỉ là thủ đoạn của Ðiền Ðan, bọn chúng toàn là những người của nước Tề phái đến. Nhưng ai cũng giả thành thân phận của năm nước khác. Kẻ đứng đầu là Biên Ðông Sơn, là đệ tử chân truyền của Tào Thu Ðạo, chính y đã huấn luyện ra Lan Cung Viên. Người này giờ đây đã đến Ung Ðô.”

Tiêu Nguyệt Ðàm bổ sung thêm, “Kẻ này là đại hành gia trong nghề ám sát, chúng ta tuyệt không nên lơi lỏng.”

Ðằng Dực ngạc nhiên nói, “Sư môn của Quản Trung Tà không phải là có thù oán với Tắc Hạ kiếm thánh hay sao, tại sao lại có thể hợp tác với đồ đệ của Tào Thu Ðạo?”

Hạng Thiếu Long nói, “Chuyện này đương nhiên có Hàn Kiệt, thủ hạ của Lao ái làm cầu nối, kẻ này đã bị Lã Bất Vi mua chuộc, trở thành gian tế của Lã tặc bên cạnh Lao ái.”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Phu quân định đối phó với Quản Trung Tà thế nào?”

“Trong tình huống trước mắt, không phải người chết thì ta vong, cho nên ta phải giết chết Quản Trung Tà trước.”

Tiêu Nguyệt Ðàm nói, “Thiếu Long định lúc nào thì ra tay?”

Hạng Thiếu Long nghiêm mặt nói, “Có cách nào tìm ra hai chiếc thuyền đánh cá bình thường hay không? Nhưng không để cho kẻ khác biết.”

Ðào Phương nói, “Chuyện đó cứ giao cho ta, Thiếu Long lúc nào cần thuyền?”

Hạng Thiếu Long nói, “Ngày mai, càng sớm càng tốt, chúng ta phải lấy đầu của y để tặng cho Doanh Chính trước khi ra đi.”

Tầm Tần ký – Chương 283: Ra tay bất ngờ

sáng sớm hôm sau, Hạng Thiếu Long giả thành Ô Quả cùng Kinh Tuấn dắt theo năm mươi chiến sĩ của Ô gia, ngược dòng lên Ung Ðô. Ðằng Dực thì phụ trách chỉ huy đô ky quân và càn quét ba tốp thích khách còn lại, đồng thời giũ vững Hàm Dương.

Ngày hôm nay mây đen mù mịt, trời như sắp đổ mưa. Hai người Hạng Thiếu Long và Kinh Tuấn ngồi ở đầu thuyền bàn bạc chi tiết của cuộc hành động.

Hạng Thiếu Long nói, “Chúng ta chỉ có một ngày một đêm, nếu không thể giết chết Quản Trung Tà trong thời gian này, thì sẽ không có cơ hội thứ hai.”

Kinh Tuấn nói đầy tự tin, “Sau khi vào Ung Ðô, chúng ta sẽ lập tức theo dõi nơi Quản Trung Tà giấu mình, đợi đến đêm mới ra tay giết chết y.”

Hạng Thiếu Long nhíu mày nói, “Nhưng ta vẫn còn chưa quyết định, rốt cuộc có nên mượn sức An Cốc Hề hay không? Như thế có lẽ sẽ kinh động đến Lao ái.”

Kinh Tuấn nói, “Hay là chúng ta tìm tứ ca vậy.”

Hạng Thiếu Long lắc đầu, “Ta không muốn xong chuyện này thì để Doanh Chính biết được, sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ của tứ đệ.”

Kinh Tuấn hớn hở nói, “Vậy chúng ta cứ tiến hành một mình, chỉ cần đột kích theo như kế hoạch, thành công thì lập tức rút lui, lúc đó Quản Trung Tà đã chết, Lao ái vẫn chưa biết chuyện gì.”

Hạng Thiếu Long lắc đầu nói, “Nhưng Hàn Kiệt sẽ nhanh chóng biết được, mà vì đây là nơi của Hàn Kiệt, nếu muốn cùng lúc giết y, rủi ro sẽ càng lớn hơn, cho nên ta vẫn do dự khó quyết định.”

Kinh Tuấn nói, “Thì cứ để cho y biết vậy. Chả lẽ y dám báo với Lao ái sao? Vả lại cho dù y lập tức sai người báo cho Lã Bất Vi cũng là chuyện của hai ngày sau, huống chi y cũng chưa chắc qua được cửa ải của nhị ca.”

Theo như kế hoạch, sau khi tiểu Bàn dắt văn võ bá quan đến Ung Ðô, đô ky quân của Ðằng Dực sẽ kiểm tra hai con đường thủy và bộ giữa Hàm Dương với Ung Ðô, đặt ra các trạm gác, kiểm tra chặt chẽ.

Hạng Thiếu Long đồng ý nói, “Chỉ đành làm thế!”

Hoàng hôn ngày hôm ấy, Hạng Thiếu Long chỉ còn cách Ung Đô hai dặm nữa, thì bỏ thuyền lên bờ, đi theo đường bộ đến Ung Ðô. Nhờ vào các văn kiện, bọn họ giả thành người ở bên ngoài đến, lần lượt tiến vào thành.

Sau khi đã liên lạc với các chiến sĩ của Ô gia mà Ðào Phương đã phái đến trong vòng hai năm nay, bọn họ giấu mình trong một căn nhà dân thường ở phía nam của thành Ung Ðô, chuẩn bị cho mọi thứ.

Ung Đô là một đô thành lớn ở Quan Trung của người Tần, nằm ở nơi giao nhau của Vị Hà và Chi Hà, là điểm liên tiếp văn hóa Quan Trung, văn hóa Ba Thục và văn hóa Thụy Hương. Từ các đường giao thông thủy và bộ, có thể đi đến Long Nam, Hán Trung, Ba Thục. Một trăm năm mươi năm trước Tần Ðức Công chọn Ung Đô làm kinh đô, là muốn lấy đây làm cứ điểm trấn thủ Quan Trung.

ở Ung Đô có nhiều cung điện hùng vĩ, trong đó lớn nhất là cung Ðại Trịnh và cung Kỳ Niên. Cung Ðại Trịnh là nơi ở của Chu Cơ, cung Kỳ Niên là hành cung mà tiểu Bàn sẽ ở tạm trong lần đến đây.

Ðến Ung Ðô, Hạng Thiếu Long mới thực sự cảm nhận uy phong của Lao ái. Quân phục của lính đóng ở đây đều được viền bằng màu vàng, lộ ra vẻ hào hoa, khác hẳn với bề ngoài đơn giản của quân Tần, mà ai nấy thì cũng tỏ vẻ ngang ngược.

Rất rõ ràng, quân của An Cốc Hề vẫn chưa giành được quyền khống chế trong toàn thành, chỉ nắm được cửa thành phía nam gần sông Vị Thủy, và con đường giao thông đến cung Kỳ Niên.

vì có Chu Cơ sau lưng, trước khi chính thức đối chọi với nhau, cả tiểu Bàn cũng chẳng làm gì được Lao ái. Ðương nhiên, chỉ cần đội quân vô địch của Vương Tiễn vào trong thành, tình thế sẽ lập tức thay đổi, ba vạn tử sĩ của Lão ái dù có uy phong thế nào, đến lúc ấy cũng đành chịu chết mà thôi.

Ðiều đáng sợ duy nhất là nhóm ám sát do Quản Trung Tà bí mật cầm đầu.

Còn Hạng Thiếu Long lần này đến đây chính là muốn giải tán nhóm ám sát đó. Lại còn phải tiến hành mà không để cho Lao ái biết được, nếu không sẽ không ai còn mạng rời khỏi đây.

Ðến giờ dậu thì có tin báo về, Quản Trung Tà giả thành người dân bình thường vừa ra khỏi nơi ẩn nấp, lúc này trời đang mưa lất phất. Quản Trung Tà cũng giống như Hạng Thiếu Long, dầu y giả trang thành thế nào cũng sẽ có người nhận ra.

Hạng Thiếu Long lập tức hạ lệnh hành động.

Hai người Hạng Kinh và năm mươi chiến sĩ đến một ngõ nhỏ gần với mục tiêu rồi mới cởi áo bào bên ngoài ra, để lộ bộ dạ hành.

Năm mươi người lập tức chia thành năm nhóm, mỗi nhóm năm người, leo vào phía trong.

Vì hành động của họ nhanh chóng mà bí mật, người trong nhà không hề phát giác, trong chốc lát thấy có người vào sảnh, đó là những đại hán lạ mặt.

Ðợi cho tất cả mọi người đã vào vị trí, Hạng Thiếu Long và Kinh Tuấn cùng với hai nhóm chiến sĩ lẻn vào trong bụi hoa bên cạnh của tòa nhà chính.

Phía trong có hắt ra ánh sáng và vọng ra tiếng người.

Một chiến sĩ lẻn tới bên cửa sổ nghe lén xong quay về báo cáo, “Trong sảnh có năm người, chỉ có hai người mang binh khí, tập trung ở cửa sổ phía đông.”

Hạng Thiếu Long trầm giọng nói, “Có nữ nhân không?”

Một chiến sĩ vừa mới quay về trả lời rằng, “Phía trong nội đường có hai ả nô tỳ.”

Hạng Thiếu Long cảm thấy khó xử, gã vốn là quyết định sẽ giết chết toàn bộ những người trong nhà, trong tình huống người không chết thì ta vòng này, không có ý nghĩ nhân từ.

Nhưng gã làm sao hạ lệnh giết chết những nữ nhân không thể chống trả được.

Thở dài nói, “Nam thì giết chết không tha, nữ thì bắt sống xử lý sau, bảo bọn họ chờ ám hiệu của ta.”

Bốn chiến sĩ nhận lệnh quay ra.

Ðợi một lát, Hạng Thiếu Long hạ lệnh tấn công, Kinh Tuấn liên tục phát ra ba tiếng kim kêu như đã hẹn.

Hạng Kinh và các chiến sĩ từ trong bụi hoa và những nơi khác mau chóng phóng ra, chặn lại ở các cửa ra vào.

Tiếng chim lại vang lên.

Có tiếng phá cửa.

ở nơi đại đường, Kinh Tuấn phá cửa sổ phóng vào trước, trước khi hạ xuống đất thì đã bắn ra mũi tên thứ nhất, mở màn cuộc chém giết.

Một hán tử dựa vào cửa sở trúng tên ngay cổ họng, ngã nhào xuống đất. Những người khác thì hoảng hốt phóng người lên, mỗi người trúng ít nhất ba mũi tên, chết ngay tại chỗ, nhưng không biết có Biên Ðông Sơn trong số ấy không.

Phía hậu viện cũng có tiếng kêu thảm vang lên không ngớt, nhưng trong chốc lát trở nên tĩnh mịch.

Một lát sau, mười chiến sĩ áp giải một nữa tử đang ôm đứa trẻ và bốn ả nô tỳ mặt mũi tái mét đến trước Hạng Thiếu Long và Kinh Tuấn. T.r.u.y.ệ.n.Y.Y.c.o.m

Hạng Thiếu Long và Kinh Tuấn nhìn nhau, đó chính là tam tiểu thư Lã Nương Dung của nhà họ Lã.

Lã Nương Dung mặt không còn chút máu, nhưng ánh mắt vẫn kiên định, lóe lên tai thù hận sâu sắc, đứa trẻ trong lòng thì vẫn đang đùa nghịch gấu áo nàng, không hề biết rằng đại họa đang giáng xuống đầu.

Nàng nghiến răng nói, “Hãy giết chúng ta đi, phụ thân nhất định sẽ báo thù cho chúng ta.”

Hạng Thiếu Long hoàn toàn không nghĩ ra được rằng Lã Nương Dung sẽ xuất hiện ở đây, nhất thời không biết làm thế nào. Nói cho cùng, gã đối với Lã Nương Dung cũng có ý hối hận. Gã càng không muốn đổ mọi thù hận của Lã Bất Vi lên một nữ nhi như thế này.

Kinh Tuấn cười lạnh lùng, “Báo thù! Hừ, cha của nàng giờ đây thân mình khó giữ, làm sao báo thù cho nàng, muốn trách thì hãy trách nàng là con gái của y.”

Lã Nương Dung tức giận kêu lên, “Im miệng! Ngươi có tư cách gì nói chuyện với ta.”

Hạng Thiếu Long đưa tay cản lại, dịu giọng nói, “Tam tiểu thư vì sao lại ở đây?”

Lã Nương Dung cười lạnh lùng, “Bổn tiểu thư thích làm gì thì cứ làm, nào đến lượt các ngươi quản.”

Các chiến sĩ Ô gia chỉ chờ Hạng Thiếu Long hạ lệnh thì sẽ lập tức dùng loạn đao chém chết nàng. Bốn ả nữ tỳ hoảng sợ đến nỗi té nhào xuống đất, một ả thì sợ đến nỗi ngất xỉu, đứa trẻ bắt đầu khóc.

Hạng Thiếu Long ngăn mọi người xong thì thở dài nói, “Những chuyện khác không cần phải nói nữa, nhưng tiểu thư chẳng lẽ không nghĩ cho con trẻ hay sao?”

Lã Nương Dung cúi đầu dỗ đứa con yêu, nước mắt tuôn ra rầu rĩ nói, “Nếu Trung Tà đã chết, mẹ con chúng ta sống còn ý nghĩa gì nữa?”

Lúc này có người vào báo, “Mục tiêu đã quay về.”

Lã Nương Dung ngẩng đầu lên nhìn về phía Hạng Thiếu Long, lần đầu tiên trong mắt nàng lộ ra vẻ cầu khẩn.

Hạng Thiếu Long cũng đau khổ không kém nàng. Gã đã từng hứa với tiểu Bàn, trước ngày đội mũ sẽ dâng lên đầu của Quản Trung Tà, nhưng giờ đây đối mặt với mẹ con Lã Nương Dung, gã làm sao có thể nhẫn tâm.

Lúc này không còn đủ thời gian suy nghĩ nữa, hạ giọng nói, “Mời Lã tiểu thư ngồi yêu một chỗ!” rồi nói tiếp, “Tam tiểu thư đừng kêu la, nếu không Quản huynh chắc chắn sẽ chết, nàng hãy tin tưởng Hạng Thiếu Long này.”

Lã Nương Dung nghe thế thì ngạc nhiên, Kinh Tuấn cũng lộ vẻ không đồng ý, nhưng rốt cuộc không nói ra lời.

Trong màn mưa lất phất, Quản Trung Tà cứ thản nhiên bước vào trong nhà, đến khi phát giác không ổn. Hạng Thiếu Long và Kinh Tuấn đã xông ra từ hai bên trái phải, chế phục được y.

Mọi người biết y lợi hai, sau khi tước binh khí thì cột hai tay y lại, nhưng Hạng Thiếu Long ngăn lại, nói, “Quản huynh cớ gì quay về mà không thông báo với tiểu đệ một tiếng?”

Quản Trung Tà nghe tiếng thì nhận ra Hạng Thiếu Long, trầm giọng nói, “Nương Dung ở đâu?”

Hạng Thiếu Long thở dài nói, “Ðại tẩu và lệnh lang vẫn còn an toàn, vào rồi hãy nói.”

Lã Nương Dung thấy Quản Trung Tà bị bắt, lập tức ngã quy, khóc không thành tiếng.

Quản Trung Tà chua chát nhìn hai mẹ con nàng, rồi ngồi xuống ở chỗ mà Hạng Thiếu Long vừa chỉ, tiu nghỉu nói, “Quản Trung Tà này tuy không phục, nhưng cũng đành phải thừa nhận đấu không lại Hạng Thiếu Long ngươi.”

Rồi lại cúi đầu nói, “Có thể tha cho mẹ con nàng không? Ta chỉ yêu cầu như thế.”

Hạng Thiếu Long trong lòng cảm động, lần đầu tiên cảm thấy y chân thành với mẹ con Lã Nương Dung, cho nên mới cúi mình mà cầu xin như thế.

Hạng Thiếu Long trầm ngâm một lúc, Kinh Tuấn nói, “Tam ca, đệ muốn nói mấy câu với tam ca.”

Hạng Thiếu Long lắc đầu nói, “Chốc nữa hãy nói, ta hiểu ý đệ.”

Rồi quay sang nhìn Quản Trung Tà nói, “Quản huynh chắc đã biết ngày tàn của quý nhạc phụ đã tới, Lao ái cũng chẳng làm nên trò trống gì, Quản huynh có tính toán thế nào?”

Quản Trung Tà giật mình, ngẩng đầu nhìn Hạng Thiếu Long, trong mắt lộ vẻ không thể nào tin được.

Kinh Tuấn vội vàng nói, “Nhưng chúng ta làm thế nào trả lời với bị quân?”

Hạng Thiếu Long bình tĩnh trở lại, nói, “Ta đã có cách, ý Quản huynh thế nào?”

Quản Trung Tà hít một hơi, nói, “Hạng huynh không sợ ta thông báo với trọng phụ hoặc Lao ái sao?”

Hạng Thiếu Long nói, “Cho nên ta mới cần lời hứa của Quản huynh, sau này sẽ đưa đại tẩu và Quản huynh rời khỏi Ung Ðô, chuẩn bị thuyền để các ngươi đến nước Sở. Lúc đó dù cho Quản huynh có muốn thông báo cho người khác, thời gian cũng không kịp. Không có sự phối hợp của kẻ khác, Quản huynh một tay vỗ lên cũng khó kêu.”

Quản Trung Tà nhìn Lã Nương Dung và con trai của mình, trong mắt lộ ra vẻ dịu dàng, lát sau mới nhìn về phía Hạng Thiếu Long, đưa tay ra.

Hạng Thiếu Long nắm tay y thật chắc, chân thành nói, “Chúc Quản huynh thuận buồm xuôi gió.”

Quản Trung Tà hai mắt đỏ ửng, nói, “Dù cho trước nay chúng ta luôn đối chọi với nhau, nhưng Hạng huynh là người cả đời Quản Trung Tà này khâm phục nhất, xin đa tạ!”

Ðêm ấy ngôi nhà của Quản Trung Tà đang ở bốc cháy lớn, sau khi dập tắt lửa thì phát hiện ba mươi xác chết nam giới, người của Lao ái thì chẳng hiểu tại sao. Chỉ có Hàn Kiệt thì biết rõ chuyện gì, hoảng sợ đến nỗi bỏ trốn ngay trong đêm, từ đó không biết tông tích ở đâu.

Sáng hôm sau, Kinh Tuấn và Hạng Thiếu Long mới gặp An Cốc Hề.

Tầm Tần ký – Chương 284: Hiện thực hàn khốc

Một đoàn thuyền lớn đến bến phía nam của thành Ung Ðô. Có hai chiến thuyền chứa đầy quân cấm vệ, ai nấy đều uy võ và căng thẳng. Lao ái dắt theo quan viên lớn nhỏ của Ung Đô ra nghênh tiếp ở ngay bến. Lúc này Hạng Thiếu Long đang đội lốt Ô Quả và Kinh Tuấn đứng bên cạnh An Cốc Hề nhìn ra đoàn thuyền.

Kinh Tuấn ghé sát Hạng Thiếu Long, rỉ tai nói, “Huynh nhìn dáng vẻ của Lao ái, chắc đêm qua không ngủ ngon.”

Bọn họ vẫn chưa biết Hàn Kiệt đã bỏ trốn ngay trong đêm, có vẻ không hiểu tinh thần của Lao ái tại sao lại kém đến thế.

Chiếc thuyền của tiểu Bàn ầm ầm cập bến.

Kinh Tuấn lo lắng nói, “Giả sử Ô Quả bị vạch trần thân phận rồi bị trói ném xuống, chúng ta phải làm thế nào?”

“Chỉ còn cách nói với Doanh Chính rằng đây là kế dụ địch, ” Hạng Thiếu Long cười khổ nói.

An Cốc Hề lúc này quay sang Kinh Tuấn cười nói, “Ðã lâu không gặp tam ca của huynh! Trong lòng ta rất nhớ y, xin mời!”

Rồi vỗ ngựa bước ra. Hai người vội vàng đi theo.

Tấm ván lên bờ từ thân thuyền thò xuống. Lao ái lúc này ở trên bờ sai người tấu lên nhạc khúc đón chào.

Ðầu tiên là ba trăm cấm vệ quân tạo thành bức tường người gồm ba vòng, ở giữa có một khoảng trống khoảng mười tấc, trông rất chỉnh tề mà lại đẹp mắt.

Bọn An Cốc Hề vội vàng xuống ngựa, quỳ xuống bên đường.

xương Văn quân dẫn đầu nhảy xuống ván trước, sau đó là hơn hai mươi cấm vệ quân tinh nhuệ dẫn đường, hai người đi đầu cầm vương kỳ.

Tiếp theo là mười quan nội thị bưng các đồ tế lễ, sau đó là hai mươi cấm vệ quân nữa, rồi mới thấy Tần Thủy Hoàng tiểu Bàn và bị phi được Xương Văn quân, Vương Quan, Lý Tư, Thái Trạch, Cầm Thanh, Ô Quả lúc này đang giả thành Hạng Thiếu Long vây quanh, bước xuống thuyền.

Hàng vạn người dân Ung Đô lúc này chợt chộn rộn, cao giọng hô vạn tuế, vội vàng quỳ xuống, không khí rất náo nhiệt.

Hai người Hạng Kinh thấy Ô Quả vẫn an toàn, đều cất đi tảng đá trong lòng.

Hạng Thiếu Long nhìn Lao ái, thấy y nghe tiếng hô của đám dân chúng, mặt mũi xụ xuống, lòng thầm nghĩ, người là hạng bám váy đàn bà, làm sao đấu nổi Tần Thủy Hoàng?

Tiểu Bàn ung dung nhận lời chúc của Lao ái, cùng bị phi lên cỗ xe ngựa, được cấm vệ của Xương Văn quân bảo vệ, khởi giá đến cửa thành.

Binh lính của An Cốc Hề thì canh giữ ven đường.

Hạng Thiếu Long và Kinh Tuấn tìm cơ hội lên ngồi cùng xe với Ô Quả. Hạng Thiếu Long và Ô Quả tháo mặt nạ và y phục xuống, vội vàng đổi y phục cho nhau.

ô Quả đắc ý nói, “May mà tiểu nhân biết cách giả bệnh, nếu không biết làm thế nào để ứng phó với những người ấy.”

Hạng Thiếu Long nói, “Bị quân có tìm ngươi không?”

ô Quả nói, “Y chỉ phái ngự y đến thăm bệnh cho tiểu nhân, lại còn bảo sau khi lên bờ cùng y đến cung Ðại Trịnh gặp Thái hậu.”

Hạng Thiếu Long lạc giọng kêu, “Cái gì?”

Lúc này An Cốc Hề mới thúc ngựa đến gần bên cỗ xe của họ. Hạng Thiếu Long vội vàng ngồi vào vị trí của Ô Quả lúc nãy, mỉm cười nói, “Xin chào đại tướng quân.”

An Cốc Hề rõ ràng chẳng biết mối mâu thuẫn giữa gã và tiểu Bàn, mỉm cười nói, “Thiếu Long cứ gọi đệ là Cốc Hề như ngày trước, huynh thật là uy phong, là trụ cột của đại Tần ta.”

Hạng Thiếu Long cứ thế nói chuyện với y, đến khi đoàn xe vào trong cửa thành, An Cốc Hề mới bỏ đi xử lí công việc.

Hạng Thiếu Long ngồi dựa vào thùng xe thở phào.

Giai đoạn thứ nhất của kế hoạch đã thành công, giờ đây là làm thế nào để trốn thoát sự ám toán của tiểu Bàn, lẻn về Hàm Dương.

Tiểu Bàn và bị phi dẫn đầu một nhóm quan viên, xuống xe ở phía trước cung Ðại Trịnh.

Hạng Thiếu Long thấy nhiều người cũng đi, thở phào thầm nghĩ nếu chỉ mình gã và tiểu Bàn đi gặp Chu Cơ, thì nguy hiểm lắm.

Nhờ Kỷ Yên Nhiên chỉ ra, gã đau đớn nhận ra rằng trong tình hình trước mắt, Chu Cơ đã ngày càng dấn sâu hơn vào vũng bùn, chẳng thể nào rời bỏ Lao ái để đi cùng gã.

Nhưng làm thế nào mới giữ được tính mạng của nàng?

Hầu như chẳng có cách gì chu toàn cả. Nhưng đã mất đi Lao ái và con của mình, lại biết rõ tiểu Bàn không phải là con ruột, nàng sống mà như đã chết, làm người còn có ý nghĩa gì?

Lúc này Mao Tiêu từ trong điện bước ra quỳ xuống nói, “Thái hậu hôm nay không được khỏe, không muốn gặp nhiều người, chỉ mời bị quân và Hạng thượng tướng quân vào trong tương kiến.”

Mọi người ngạc nhiên.

Bị phi tỏ vẻ bất mãn, nghĩ bụng chả lẽ Hạng Thiếu Long có quyền uy hơn cả nàng?

Tiểu Bàn và Hạng Thiếu Long nhìn nhau, giả sử nếu trong cung có phục binh, hai người chẳng phải sẽ bị chém chết như tương hay sao?

Xương Văn quân quỳ xuống nói với tiểu Bàn, “Mạt tướng sẽ đi bên cạnh.”

Lao ái đứng một bên cười, “Thái hậu chỉ là không muốn gặp nhiều người, cấm vệ đại thần đương nhiên phải cũng đi.

Tiểu Bàn đột nhiên nói, “Không cần! Cứ để thượng tướng quân cùng đi với quả nhân vào trong điện.”

Hạng Thiếu Long nhìn thấy Mao Tiêu đang ngầm ra dấu với tiểu Bàn lúc này mới hiểu tiểu Bàn tại sao đột nhiên có hào khí đến thế.

Tiểu Bàn quay sang ra dấu cho Hạng Thiếu Long, hiên ngang bước lên bậc tam cấp, Hạng Thiếu Long vội vàng đuổi theo sau.

Tiểu Bàn không thèm quay đầu lại mà hạ giọng nói, “Mụ ta đang nghĩ gì?”

Hạng Thiếu Long hạ giọng nói, “Bởi vì bà ta muốn làm rõ sự việc, xem có nên toàn lực ủng hộ cho Lao ái hay không?

Tiểu Bàn không ngạc nhiên mà chỉ lạnh lùng nói, “Ðó gọi là đã sai càng thêm sai.”

Hạng Thiếu Long rất muốn cố gắng nhắc nhở y phải giữ lời hứa, nhưng biết đó cũng chỉ là lời thừa thải, nên cố nén ý nghĩ này xuống. Chu Cơ ngồi trên loan tọa của Thái hậu, trong điện ngoài nàng ra chẳng còn ai nữa.

Cả đại điện rộng lớn lạnh lẽo như không có chút sinh khí.

Chu Cơ đã hơi béo ra, nhưng vẫn xinh đẹp lắm, không có dáng vẻ già lão. Chỉ là khuôn mặt hơi tiều tụy, lạnh lùng nhìn hai người hành lễ với nàng.

Chu Cơ bình thản nói, “Vương nhi, thượng tướng quân xin mời ngồi.”

Hai người ngồi xuống ở bên phải, tiểu Bàn nói, “Vương nhi thấy mẫu hậu vẫn còn khỏe như ngày trước, trong lòng rất mừng rỡ.”

Chu Cơ thở dài nói, “Ai gia đã không gặp vương nhi bao lâu? E rằng đã ba bốn năm nay! Có lúc ai gia tưởng rằng không có đứa con này.”

Tiểu Bàn trong mắt thoáng qua tia sát cơ, giả vờ cung kính nói, “Mẫu hậu đã trách hơi quá! Vương nhi chỉ là việc nước nặng nề, e sợ ảnh hưởng đến mẫu hậu tịnh dưỡng. Nhưng vương nhi cũng quan tâm và yêu mến mẫu hậu như ngày trước.

Hạng Thiếu Long sững người nhìn ở phía trước, lòng hy vọng giờ đây đang nằm mộng, bởi vì hiện thực quá tàn khốc.

Nghĩ lại năm xưa khi lần đầu tiên đến Hàm Ðan, Chu Cơ và tiểu Bàn tương thân tương ái như thế nào, nhưng giờ đây thì hai bên trở nên lừa gạt, ám toán lẫn nhau.

ánh mắt của Chu Cơ dừng lại ở chỗ Hạng Thiếu Long, nhẹ giọng nói, “Ai gia chưa có cơ hội chúc mừng thượng tướng quân khải hoàn quay về!”

Hạng Thiếu Long nhìn vào mắt nàng, trong lòng đầy tình cảm và sự hối hận, nói, “Chỉ là sự may mắn giữ được mạng nhỏ này! Làm sao đáng để thái hậu khen thưởng.”

ánh mắt của Chu Cơ chợt lạnh đi, “Gần đây có lời đồn về thân phận của vương nhi, không biết thượng tướng quân có cách gì để đối phó hay không?”

Tiểu Bàn lạnh lùng chen vào nói, “Vương nhi đã truyền lệnh trong toàn quốc, không cho bất cứ kẻ nào nhắc đến chuyện này, mong thái hậu xét rõ, đừng nhắc đến nữa.”

Chu Cơ đột nhiên nổi giận nói, “Phải chăng ngay cả người mẹ ruột là ta đây cũng không được nói?”

Tiểu Bàn bình thản nói, “Vương nhi nào dám, nhưng thượng tướng quân lại có nỗi khổ không thể chống lệnh.”

Chu Cơ bật cười, buồn bã nói, “Ai gia suýt tý nữa đã quên, sau ba ngày vương nhi đã chính thức đăng cơ, cho nên đâu cần coi thái hậu này vào đâu.”

Tiểu Bàn điềm nhiên nói, “Thái hậu đã quá trách vương nhi. Tóm lại những lời mà mẫu hậu nghe được toàn là do những kẻ khác cố ý li gián tình cảm của mẹ con ta.”

Ðứng dậy rồi nói, “Mẫu hậu sức khỏe đang kém, không tiện kích động, vương nhi xin cáo lui, sau này sẽ đến thỉnh an mẫu hậu.”

Hạng Thiếu Long đến lúc này chẳng có cơ hội lên tiếng. Trong lòng thầm than dù cho trước nay tiểu Bàn không có lòng giết nàng, chỉ mấy lời này của Chu Cơ, giờ đây nàng đã gây ra họa sát thân cho mình. Còn gã thì không có cách gì cứu nàng.

Bởi vì Chu Cơ không còn yêu gã nữa, mà thay vào đó là nỗi oán hận. Bởi vì nàng đã khẳng định được rằng gã đã lừa gạt nàng, thậm chí còn cho rằng gã đã giết chết đứa con thật sự của mình. Trong tình huống này gã có thể làm gì nữa?

ở cung Kỳ Niên.

Trong ngự thư phòng, tiểu Bàn nhận cây thiết cung của Quản Trung Tà do Hạng Thiếu Long dâng lên, cười ha ha nói, “Quản khanh gia, giờ đây nếu ngươi không thành một con quỷ hồ đồ, thì chắc biết năm xưa ngươi đi theo Lã Bất Vi là sai lầm lớn nhất trong cuộc đời ngươi.”

Rồi bọn Lý Tư, Xương Bình quân, Xương Văn quân, An Cốc Hề, Vương Quan đứng bên cạnh đều chúc mừng Hạng Thiếu Long đã lập được kỳ công.

Tiểu Bàn đặt cây thiết cung xuống, ra lệnh cho các quan ngồi xuống, cười mà nói với Hạng Thiếu Long rằng, “Ðáng tiếc không thấy được đầu của Quản Trung Tà, nhưng quả nhân cũng hoàn toàn tán thành cách làm của Kinh khanh gia, chỉ có đốt hết tất cả mới mới không làm kinh động tới Lao đảng.”

Ngừng một lát rồi nói tiếp, “Mấy ngày nay chúng ta phải cẩn thận việc ăn uống, nếu không sẽ trúng độc thủ của Lao tặc, xương Văn quân nói, “Bị quân yên tâm, chúng thần đã chú ý hơn.”

Tiểu Bàn nhìn mọi người, rốt cuộc ánh mắt dừng ở Hạng Thiếu Long, nhẹ giọng nói, “Thượng tướng quân đã khỏe chưa?”

Hạng Thiếu Long lắc đầu cười gượng nói, “Tất cả chỉ vì bị nhiễm lạnh trên đường chạy trốn, lúc ấy có thể miễn cưỡng chống đỡ được, nào ngờ quay về thì lại phát bệnh.”

Tiểu Bàn nói, “Vậy thượng tướng quân đừng làm việc nặng nhọc, hãy nghỉ ngơi cho tốt.”

Rồi ánh mắt chợt lạnh lẽo, lạnh lùng hừ nói, “Lao đảng đã quyết định làm loạn trong buổi dạ tiệc của ngày đăng cơ, thượng tướng quân có cách gì hay để đối phó?”

Hạng Thiếu Long bình thản nói, “Ra tay trước để khống chế người, ra tay sau thì bị người khống chế, đó là đạo lí không đổi của ngàn năm nay.”

Tiểu Bàn vỗ lên trường kỷ chép miệng, “Chính là câu này, chúng ta chắc chắn sẽ thắng lợi!”

Vương Quan nhíu mày nói, “Xin thứ tội cho vi thần hồ đồ, chúng ta phải chăng là đợi Lao đảng làm loạn rồi mới trị tội?

Tiểu Bàn ung dung nói, “Lúc thế này lúc thế khác, thắng lợi mới là quan trọng nhất, không cần biết phải dùng thủ đoạn gì. Chúng ta sẽ ra tay trước buổi tiệc, đánh cho y trở tay không kịp.”

Lý Tư nói, “Tên ác tặc Lao ái, có lẽ là đến khi chết vẫn chưa biết là sai ở chỗ nào.” Text được lấy tại http://truyenfull.vn

Lý Tư đương nhiên là muốn nói đến đại nội gian Mao Tiêu, chính vì thế tiểu Bàn biết toàn bộ kế hoạch của Lao ái, cho nên mới có thể ung dung ứng phó.

Tiểu Bàn rõ ràng cầm chắc phần thắng nói, “Trước buổi quốc yến một canh giờ, An đại tướng quân cầm lệnh của quả nhân, đoạt binh quyền của thành thủ, khống chế các con đường ra vào, không cho bất cứ ai rời khỏi. Như thế buộc Lao ái phải ra tay trước. Còn cấm vệ thì phụ trách chốt giữ cung Kỳ Niên, một mặt bảo vệ cho công khanh đại thần, đồng thời bắt gian đảng trong cung theo danh sách.”

Ngừng một lát rồi tiếp tục nói, “Ðồng thời đại quân của Vương thượng tướng quân sẽ vào trong thành giết sạch gian đảng, còn Hạng thượng tướng quân và quả nhân sẽ đánh vào cung Ðại Trịnh. Hừ, quả nhân xem Lao ái có kết cuộc như thế nào!”

Mọi người đều khen hay.

Chỉ có Hạng Thiếu Long trong lòng biết rõ, giả sử mình không có cách ứng phó, cung Ðại Trịnh chính là nơi chôn thân của mình.

Hạng Thiếu Long quay về khu tứ hợp viện được chia ở phía sau cung Kỳ Niên, Cầm Thanh và Kỷ Yên Nhiên đã lẻn tới, đang đàm đạo cùng Kinh Tuấn và Ô Quả.

Thấy Hạng Thiếu Long hai người đều mừng rỡ.

Hạng Thiếu Long ngồi xuống hỏi, “Ðã liên lạc được với tứ đệ chưa?”

Kinh Tuấn gật đầu nói, “Vừa rồi nhân lúc tam ca đến cung Ðại Trịnh, đệ và tứ ca đã gặp nhau.”

Kỷ Yên Nhiên hỏi, “Chu Cơ nói gì?”

Hạng Thiếu Long chép miệng, “Tình thế rất xấu, quan hệ giữa bị quân và nàng rốt cuộc đã rạn nứt.”

Trả lời xong thì quay sang Kinh Tuấn nói, “Tứ đệ nói như thế nào?”

Kinh Tuấn nói, “Tứ ca nói bị quân hạ lệnh, bắt đầu từ bây giờ, khóa chặt Ung Đô lại, nghiêm cấm bất cứ ai ra vào, trừ phi có văn kiện thông hành đặc biệt.”

Hạng Thiếu Long giật mình nói, “Bị quân lại gạt ta, vừa rồi y nói chỉ đóng chặt thành sau khi làm lễ đội mũ và trước khi diễn ra quốc yến.”

Cầm Thanh giật mình nói, “Vậy phải làm thế nào đây?”

Hạng Thiếu Long suy nghĩ rồi nói, “Ta muốn bỏ đi dễ như trở bàn tay, chỉ cần giả thành Ô Quả chính thức xin với bị quân dẫn người về Hàm Dương để giúp nhị ca thì có thể trốn được. Ô Quả quay về thì không có vấn đề gì, chỉ cần y trở lại hình dạng của mình, lại có tứ đệ giúp sức, thì có thể thuận lợi thoát thân. Vấn đề là Thanh muội, Doanh Chính sẽ sai người lấy danh nghĩa là bảo vệ, nhưng thực chất là bí mật giám sát. Vậy thì phải làm thế nào?”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Phu quân định lúc nào thì quay trở về Hàm Dương?”

Hạng Thiếu Long nói, “Có lẽ ngày mai ta và Tiểu Tuấn sẽ lên đường. Nhưng ta làm sao bỏ các người được! Bị quân rất hiểu ta.”

Kỷ Yên Nhiên mỉm cười nói, “Vậy chúng ta sẽ cùng về!”

Mọi người ngạc nhiên nhìn nàng tài nữ xinh đẹp này.

Cầm Thanh vui mừng nói, “Yên Nhiên đừng chần chừ nữa, muội có kế gì hay?”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Muội cũng mới nghĩ ra thôi, chính là lợi dụng tình thế giữa thái hậu và bị quân. Nếu thái hậu sai người đến mời Cầm thái phó của chúng ta đến cung Ðại Trịnh để đàm đạo, bị quân sẽ phản ứng như thế nào?”

Mọi người đều khen hay.

Cầm Thanh vui mừng nói, “Lúc đó ta sẽ dùng chút thủ đoạn để sắp xếp, bị quân cũng khó mà từ chối được.”

Mọi người đều biết nàng rất hiểu rõ cung đình, cho nên không lo lắng cho nàng.

Kỷ Yên Nhiên nói, “Ðiều này có thể khiến cho bị quân tưởng rằng phu quân hoàn toàn không có ý bỏ chạy. Nào ngờ Cầm thái phó của chúng ta chưa đến cung Ðại Trịnh thì đã lẻn đi mất.”

ô Quả nói, “vậy tiểu nhân chừng nào mới bỏ trốn?”

Hạng Thiếu Long nói, “Trên cơ bản là tùy cơ ứng biến, quan trọng nhất là phải giữ được mạng sống. Nhưng đừng đợi cho đến khi làm lễ đội mũ, lúc đó Doanh Chính sẽ theo dõi ngươi rất chặt chẽ.”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Vậy thì sẽ bỏ đi ngay đêm trước buổi lễ! Có được thời gian hai ngày, chúng ta đủ để thu thập Lã Bất Vi.”

Kinh Tuấn nhắc nhở, “Nhớ rằng phải thoát khỏi Hàm Dương thật nhanh, rồi mau chóng quay về mục trường, sau khi tập hợp thì bỏ trốn theo kế hoạch, như thế đại công đã cáo thành.”

Tầm Tần ký – Chương 285: Tiếp thu Hàm Dương

Ðêm ấy Hạng Thiếu Long vào gặp tiểu Bàn, tỏ ý muốn phái Kinh Tuấn dẫn người về Hàm Dương để giúp cho Ðằng Dực đối phó Lã Bất Vi.

Tiểu Bàn từ chối không được, chỉ đành chấp thuận. Nhờ đó Hạng Thiếu Long có thể sắp xếp thuyền bè, không sợ ai nghi ngờ hoặc điều tra.

Ðến sáng hôm sau, Cầm Thanh đến gặp tiểu Bàn, bảo nhận được thông báo của thái hậu, muốn đến cung Ðại Trịnh ở mây ngày.

Tiểu Bàn không biết có trá ngụy, lại bị Cầm Thanh nài nỉ, chỉ đành chấp nhận.

Lúc ấy Cầm Thanh, Kỷ Yên Nhiên được tám chiến sĩ Ô gia giả thành tùy tùng hộ tống, hiên ngang rời khỏi cung Kỳ Niên, trên đường hội họp với Hạng Thiếu Long thì hóa thân thành tùy tùng của Kinh Tuấn, giấu xe ngựa ở chỗ kín xong thì ra khỏi thành lên thuyền.

Thuyền đi thuận dòng xuống phía hạ lưu, lại thêm thuận gió, chỉ nửa ngày thì đã đến Hàm Dương. Bọn họ đã hẹn nhau, chờ nửa canh giờ thì Ðằng Dực, Ðào Phương và Tiêu Nguyệt Ðàm chạy đến, thấy Cầm Thanh và Kỷ Yên Nhiên cùng quay về thì vui mừng ra mặt, sĩ khí tăng lên.

Ðằng Dực cười nói, “Tất cả đã sắp xếp xong, chỉ đợi thượng tướng quân quay về chủ trì đại cuộc.”

Hạng Thiếu Long mỉm cười vỗ vào tay Ðằng Dực nói, “Nhị ca lại trêu đệ, chắc là đang vui lắm đây! Lần này chúng ta chỉ có thể ở lại hai ngày, cho nên cần phải lập tức hành động.”

Kỷ Yên Nhiên hỏi Tiêu Nguyệt Ðàm, “Phía bên Đồ tổng quản có tin tức gì không?”

Tiêu Nguyệt Ðàm đáp, “Ðồ công cùng với hơn ba trăm người đã sắp xếp ổn thỏa, chỉ cần chúng ta thông báo một tiếng, ông ta sẽ lập tức hạ độc.”

Ðằng Dực nói, “Sự phối hợp về thời gian rất quan trọng, khi Đồ tổng quản hạ độc, chúng ta phải đoạt binh quyền của Hứa Thương, như vậy mới giúp cho Đồ tổng quản và người nhà của ông ta an toàn rời khỏi thành, lại không để cho Lã tặc thoát khỏi lòng bàn tay của ta.”

Tiêu Nguyệt Ðàm chép miệng, “Ðó chính là chỗ tuyệt vời của kế hoạnh hạ độc này, loại thuốc này dược tính rất mạnh, khi uống vào không đầy một khắc thì sẽ phát tác. Ðể nhiều người trúng độc, chỉ có thể hạ độc trước buổi cơm tối, nhưng có bao nhiêu người sẽ bị trúng độc, rất khó khẳng định.”

Kinh Tuấn nói, “Chỉ cần chúng ta bao vây trùng trùng phủ trọng phụ, không sợ Lã Bất Vi chạy trốn.”

Hạng Thiếu Long nói, “Ðồ tổng quản có biết lối ra vào cửa đường hầm bí mật trong phủ trọng phụ không?”

Tiêu Nguyệt Ðàm nói, “Khi lão tặc xây phủ, Đồ công không được trọng dụng, chỉ phụ trách mua nguyên vật liệu, cho nên không hề biết chuyện này.”

Hạng Thiếu Long nói, “Ðã là như thế, chúng ta chỉ đành phái người đặt các trạm canh gác ở ngoài thành! Trừ phi chúng ta có vương lệnh của bị vương trong tay, nếu không không thể cấm y rời khỏi thành. Tướng lĩnh của đô ky quân sẽ vì thế mà sinh nghi, cho nên chúng ta chỉ đành tự mình truy sát y.”

Rồi quay sang Cầm Thanh nói, “Thanh muội hãy cùng Ðào công quay về Ô phủ, xem thử nên dắt ai đi theo, còn những người khác thì cho giải tán, sau đó lập tức đến mục trường chờ đợi tin vui của chúng tôi.”

Cầm Thanh đã cảm nhận được không khí khẩn trương, cắn môi gật đầu.

Kỷ Yên Nhiên hỏi Ðằng Dực, “ở gần đây có nhìn thấy bóng dáng của kẻ địch hay không?”

Mọi người đều hiểu kẻ địch mà nàng nói chính là bốn vạn đại quân của úy Liêu, ánh mắt tập trung về phía Ðằng Dực.

Ðằng Dực nói với vẻ nghi hoặc, “Huynh cũng lấy làm lạ về chuyện này, bởi vì không thấy bóng dáng của bọn chúng.”

Tiêu Nguyệt Ðàm nói, “Giờ đây chúng ta phải chạy đua với thời gian, theo ta thấy đại quân của úy Liêu chắc là đang đóng ở một nơi nào đó trên thượng du, chỉ chờ lệnh của Doanh Chính, thì trong thời gian ngắn nhất có thể đến được Hàm Dương. Chỉ cần chúng ta hành động nhanh chóng, thì trước khi quân của úy Liêu đến, chúng ta đã an toàn rời khỏi đây.”

Hạng Thiếu Long yên lòng nói, “Thời gian hành động đã đến.”

Hạng Thiếu Long vẫn mang hình dáng bên ngoài của Ô Quả để vào thành, đến đô ky quan thuộc mới quay lại bộ mặt thật của mình, đồng thời gọi hơn một trăm tướng lĩnh của cấm vệ quân và đô ky quân đưa ra tấm hổ phù, bảo rằng phụng lệnh của bị quân, quay về để thống lĩnh ba quân trong thành, đề phóng có người làm loạn.

Các tướng đã nghe tin hai đảng Lã, Lao cấu kết, lại thêm Hạng Thiếu Long trước nay là đại tướng tâm phúc của Tiểu Bàn, thanh vọng của bản thân lại cao, lại thêm đưa ra tấm hổ phù, nào nghi ngờ y, ai nấy cũng thề chết tận trung.

Tất cả đã sắp xếp ổn thỏa xong, bọn Hạng Thiếu Long lập tức đến đô vệ quan quen thuộc.

Lúc này nhà nhà vừa mới lên đèn, trong thành rất yên bình, không hề biết có chuyện lớn sắp xảy ra.

Hạng Thiếu Long trước tiên hạ lệnh cấm vệ quân và đô ky quân bao vây quan thuộc trùng trùng, rồi mới dẫn tùy tùng và Ðằng Dực, Kinh Tuấn, Kỷ Yên Nhiên, Tiêu Nguyệt Ðàm vào trong.

Quân giữ cửa chưa kịp thông báo thì đã bị bọn họ chế phục. Lúc này Hứa Thương và các tướng đang nghị sự trong chủ đường, ngạc nhiên khi thấy Hạng Thiếu Long xông vào, chưa kịp phản ứng thì mấy chục cung nỏ đã chĩa thẳng vào Hứa Thương và thủ hạ lập tức biến sắc. Ngay cả cơ hội rút kiếm cũng không có. Sự việc xảy ra thật bất ngờ, y nghĩ Hạng Thiếu Long lẽ ra giờ này đang ở ưng Ðô.

Hứa Thương vẫn giữ bình tĩnh, trầm giọng hỏi, “Thượng tướng quân làm thế này là có ý gì?”

Hạng Thiếu Long chờ thuộc hạ tước xong vũ khí của bọn họ, rồi mới đưa ra tấm hổ phù nói, “Bổn soái phụng lệnh của bị quân đến đây tiếp quản đô vệ quân từ khắc này, ai dám không phục?”

Hứa Thương nhìn thấy tấm hổ phù, lập tức biết thế mình đã hết cho nên chủ đành im lặng.

Hạng Thiếu Long thấy khống chế được tình thế, hạ lệnh, “Hãy nhốt tất cả những kẻ khác vào trong nhà lao cho bổn soái, để một mình Hứa thống lĩnh ở đây.”

Khi chỉ còn một mình Hứa Thương, Hạng Thiếu Long ngồi vào ghế lệnh cho y ngồi xuống bên cạnh, Ðằng Dực và Kinh Tuấn thù giữ lấy binh phù thống lĩnh của Hứa Thương xong, vội vàng đi tiếp thu đô vệ quân.

Hứa Thương cười khổ nói, “Ngươi đã thắng.”

Hạng Thiếu Long bình thản nói, “Lịch sử đã định như thế, Hạng Thiếu Long này chỉ phụ trách chấp hành mà thôi, tù lúc Lã Bất Vi hạ độc giết chết tiên vương, số mệnh đã định trước y sẽ có kết quả thê thảm. Không biết Hứa huynh có quan tâm đến kết cuộc của mình không?”

Trong mắt Hứa Thương lướt qua tia hi vọng nói, “Thượng tướng quân chịu thả ta?”

Hạng Thiếu Long mỉm cười, “Hứa huynh chắc biết rằng tại hạ không phải là kẻ tàn nhẫn háo sát. Ngay cả Quản Trung Tà và tam tiểu thư ta cũng thả cho bọn họ đi. Lúc này chắc bọn họ đã đến biên giới nước Sở, cho nên giờ đây ta rất muốn biết tâm ý của Hứa huynh.”

Nghe tin Quản Trung Tà thất bại và được thả đi, Hứa Thương hoàn toàn sụp đổ, chép miệng, “Thượng tướng quân quả nhiên là vô địch thần tướng, rốt cuộc ngài muốn tại hạ làm thế nào?”

Hạng Thiếu Long nói, “Chỉ cần Hứa huynh cho ta biết Lã Bất Vi đến khi nguy cấp thì bỏ chạy về hướng nào, ta sẽ lập tức đưa Hứa huynh và người nhà rời khỏi thành.”

Khi Hứa Thương đang còn trầm ngâm do dự, Hạng Thiếu Long nói, “Nếu Hứa huynh còn muốn nghe lời ca tiếng hát của Lan Cung Viên thì phải lập tức quyết định.”

Kỷ Yên Nhiên dịu dàng nói, “Lã Bất Vi dù cho thoát khỏi thành, rốt cuộc cũng phải chết, Hứa huynh đừng bỏ đi cơ hội tốt này.”

Tiêu Nguyệt Ðàm bình thản nói, “Bổn nhân là Tiêu Nguyệt Ðàm, chắc Hứa huynh đã nghe qua tên của bổn nhân!”

Hứa Thương ngạc nhiên quay nhìn Tiêu Nguyệt Ðàm nói, “Chẳng phải ông đã chết rồi sao?”

Tiêu Nguyệt Ðàm gằn giọng nói, “Nếu không giả chết, Lã Bất Vi nào chịu tha cho ta? Ngươi tưởng rằng Lã Bất Vi thật sự coi trọng người hay sao? Thủ hạ của Lã Bất Vi đều là con cờ của y, lúc nào y cũng có thể hy sinh các người, ngươi đã hiểu chưa?”

Hứa Thương rốt cuộc đã khuất phục nói, “Trong phòng ngủ của trọng phụ có lối vào của bí đạo, có thể thông đến một tòa nhà lớn ở Bách Thông Nhai của thành nam, tại hạ chỉ biết thế thôi.”

Hạng Thiếu Long mừng rỡ đứng dậy, thời cơ giết Lã Bất Vi đã đã đợi mười năm, cuối cũng đã đến. Bọn Hạng Thiếu Long vây quanh lối vào của địa đạo, ai nấy đều thắc mắc. Hai canh giờ trước Đồ Tiên đã dắt theo bọn Ðằng Dực, Kinh Tuấn vào trong phủ trọng phụ, những người này bị trúng thuốc mê nằm la liệt, nhưng tìm không ra Lã Bất Vi, chắc là chạy thoát ra từ địa đạo.

Nhưng giờ đây vẫn chưa có tin tức gì, chả lẽ y vẫn còn dám trốn trong thành?

Chẳng hợp lí chút nào.

Kinh Tuấn nói, “Chúng ta cứ rà soát trong toàn thành, xem ý có thể trốn đi đâu?”

Đồ Tiên nói, “Hay là chúng ta tra xét căn nhà trống ấy trước, nếu như ta đoán không sai, căn nhà trống ấy lại có một đường hầm bí mật nữa, thông ra tường thành, có lẽ nơi đó lại có thêm bí đạo dẫn ra khỏi thành.”

Ðằng Dực phất tay, mọi người vội triển khai hành động.

Kỷ Yên Nhiên chép miệng, “Lã tặc tất không nỡ bỏ gia sản của mình, đi bằng địa đạo sẽ không nhanh bằng đường bộ, hay là chúng ta hãy đánh cược một lần, y chắc chắn đã rời khỏi địa đạo, thoát ra biên giới bằng đường bộ, bởi vì đường thủy ở Hàm Dương đã bị chúng ta nắm trong tay.”

Hạng Thiếu Long cương quyết hạ lệnh, “Không cần truy xét nữa, chúng ta lập tức ra khỏi thành.”

Bọn Hạng Thiếu Long vội vàng phóng ngựa về biên giới nước Triệu.

Khi ra khỏi thành được một dặm, phát hiện có dấu chân người trong đó có những dấu in rất sâu, chứng tỏ là có mang theo vật nặng.

Mọi người đều vui mừng.

Kinh Tuấn nhíu mày, “Chỉ nhìn dấu chân ngựa, đối phương có ít nhất hai ngàn, thực lực hơn hẳn chúng ta.”

Ðằng Dực nói, “Khi đã tháo chạy còn gì dũng khí nữa, trong đó lại có đàn bà trẻ con, cần gì phải sợ?”

Hạng Thiếu Long nghiêm mặt nói, “Gia tướng của Lã phủ toàn là cao thủ, giả sử chúng ta bám đuổi theo, bọn chúng có thể nghe tiếng vó ngựa mà đoán được hư thực của chúng ta, rồi sau đó quay đầu lại liều mạng. Chúng ta tuy chưa chắc bại, nhưng cũng khó tránh thương vong, cho nên đây không phải là thượng sách.” Bạn đang đọc truyện tại TruyệnFULL.vn – http://truyenfull.vn

Kỷ Yên Nhiên nói, “Giả sử chúng ta đoán được lộ tuyến bỏ chạy của Lã tặc, rồi dùng khinh ky mã đi trước một bước mai phục ở phía trước, rồi sau đó đánh chặn đầu Lã tặc, như thế không sợ đối phương biết chúng ta ít người, mà lại còn nắm chắc phần thắng hơn.”

Đồ Tiên hiểu rõ tình trạng của Lã Bất Vi nói, “Theo hướng của dấu chân ngựa, bọn chúng có lẽ sẽ chạy đến trấn Ngô Sương ở hạ du, trấn phủ ở nơi này là tâm phúc của y, đến đó có thể dùng thuyền thuận con nước ra phía đông, nếu không đi bằng đường bộ thì làm sao chạy nhanh được.”

Ðằng Dực cả mừng nói, “Trên đường đến Ngô Sương có một nơi gọi là hẻm Cuồng Phong, đó là con đường chắc chắn phải qua, chúng ta hãy đi đường vòng đến đó, rồi đợi đại giá của trọng phụ vậy.”

Hạng Thiếu Long ha ha cười lớn, “Trồng xuống nhân gì sẽ kết được quả ấy, lần này cùng nhờ Đồ gia hiểu được Lã Bất Vi.”

“Ðâu dám, đâu dám. Mời Ðằng tướng quân dẫn quân đi trước, ” Đồ Tiên cười nói.

Tầm Tần ký – Chương 286: Trả được đại thù

Khi trời tờ mờ sáng, một đoàn khoảng ba ngàn người, lặng lẽ tiến vào hẻm cuống phong, chỉ có mấy ngọn đuốc đi đầu dẫn đường.

Nhìn vào đội hình thì biết đoàn người chạy trốn này đang lo lắng hoảng hốt, cứ vài ba người đi thành một nhóm đầu đuôi rời rạc nhau, đàn bà trẻ con thì tụt ở phía sau, những người bị ngã chẳng ai thèm để ý.

Mọi người tuy căm ghét Lã Bất Vi nhưng mắt thấy tình cảnh này ai nấy đều cảm thấy ngao ngán.

Hạng Thiếu Long nói, “Ta chỉ cần lấy cái mạng của Lã lão tặc, có cách nào để tìm Lã Bất Vi trong nhóm người kia hay không?”

Tiêu Nguyệt Ðàm cười nhạt, “Một kẻ tự tư tự lợi như Lã Bất Vi chắc chắn sẽ đi ở hàng đầu.”

Rồi chỉ vào nhóm người đi đầu nói, “ở đó có mấy cỗ xe đẩy, chắc chắn Lã lão tặc đang ở trong nhóm này.”

Hạng Thiếu Long nói, “Vậy chúng ta đợi nhóm đầu tiên qua khỏi rồi lăn gỗ xuống để chân lại, chúng ta có thể ung dung ra tay bắt người! Trừ Lã lão tặc, cứ để cho những tên khác bỏ chạy!”

Nhóm người đầu tiên của Lã Bất Vi có khoảng hơn trăm người, vừa ra khỏi hẻm, ở trên đột nhiên có mấy chục khúc gỗ và vô số tảng đá lăn ầm ầm xuống dưới hẻm.

Trong chốc lát số gỗ và đá này đã chặn lối ra của con hẻm, ai nấy đều rối loạn, khóc than vang trời, chạy ngược về phía sau. Bọn người ấy lớp thì ngã xuống, lớp thì đạp lên nhau mà bỏ chạy, tình cảnh như ngày tận thế.

Khi những người vừa ra khỏi hẻm chạy tứ tán, đột nhiên xung quanh có ánh đuốc bừng sáng lên, hai trăm chiến sĩ Ô gia thúc ngựa từ bốn hướng xông ra, không thèm để ý đến những người mang vác vật nặng, chỉ lao về phía Lã Bất Vi với hơn mười tên thân vệ.

Trong khoảnh khắc Lã Bất Vi đã bị bao vây trùng trùng, rơi vào trong cảnh tuyệt vọng.

Hạng Thiếu Long cùng bọn Đồ Tiên, Tiêu Nguyệt Ðàm, Ðằng Dực, Kinh Tuấn, Kỷ Yên Nhiên thúc ngựa bước ra, quát lớn, “Lã Bất Vi, năm xưa ngươi sai người đột kích chúng ta, giết thê thiếp thủ hạ của ta, có từng nghĩ là sẽ có ngày này hay không?.”

Lã Bất Vi nhìn thấy Đồ Tiên và Tiêu Nguyệt Ðàm, giận lắm, run người lên, chỉ tay vào hai người nói, “Hay lắm!

Uổng cho Lã Bất Vi này hậu đãi với các ngươi, dám liên thủ với người ngoài để đối phó với ta!”

Đồ Tiên phun ra một bãi nước bọt, nghiến răng nói, “Hãy im mồm thối tha của ngươi, câu này phải do ta nói với ngươi mới phải! Uổng cho ta tận trung với ngươi, nhưng ngươi chỉ vì muốn tẩy rửa nghi ngờ, hy sinh những huynh đệ đã cùng ta vào sinh ra tử, ngươi có còn là người không?”

Tiên Nguyệt Ðàm cũng bĩu môi nói, “Chết đến nơi mà vẫn còn nói những lời vô sỉ, hôm nay ta tận mắt thấy kết quả của ngươi, cũng bởi vì ông trời công chính liêm minh, ngươi còn dám điên đảo trắng đen, ngậm máu phun người?”

Lã Bất Vi nhất thời cứng họng, nhìn về phía hàng trăm mũi tên đang nhắm về phía mình, nói không ra lời.

Kỷ Yên Nhiên rít lên, “Tiên vương đối đãi với ngươi không tệ, ngươi lại nhẫn tâm hạ độc ông ta, Lã Bất Vi nhà ngươi ngay cả loài cầm thú cũng không bằng.”

Ðằng Dực quát, “Từ Tiên và Lộc Công cũng đều vì ngươi mà chết, để cho ngươi sống mấy năm nay, ông trời cũng đã ưu ái với ngươi lắm.”

Kinh Tuấn quát, “Bọn ngu ngốc kia muốn cùng chết với y hay sao? Lập tức hạ binh khí xuống cút ra xa cho ta.”

Hơn mười tên gia tướng nhìn nhau, không biết ai đã hạ binh khí xuống trước, trong chốc lát đã chạy không còn một mống, chỉ trơ lại một mình Lã Bất Vi đứng ở giữa vòng vây.

Bọn Hạng Thiếu Long nhảy xuống ngựa, bước về phía Lã Bất Vi.

“Keng.”

Hạng Thiếu Long rút ra thanh Bách Chiến bảo đao.

Trong khoảnh khắc này, trong đầu gã lướt qua những chuyện đau lòng khó quên của ngày xưa, tất cả những điều đó do một tay Lã Bất Vi tạo nên.

Bọn Xuân Doanh và nhiều thủ hạ tận trung từng người ngã xuống đất, nàng công chúa xinh đẹp Triệu Thiên trút hơi thở cuối cùng trong lòng gã, ánh mắt oán hận của Trang Tương vương trước khi chết, cái chết không nhắm mắt của Lộc Công, tất cả đều thoáng qua đầu gã.

Những hình ảnh ấy như một tảng đá lớn gieo vào lòng gã khiến cho nỗi căm thù như dâng trào sục sôi.

Bỗng nhiên gã phát giác ra thanh Bách Chiến bảo đao cắm thẳng vào bụng Lã Bất Vi.

Thân người Lã Bất Vi đột nhiên lao về phía trước, đón lấy mũi đao của gã, té ra là bị Ðằng Dực ở phía sau dùng thanh Mặc Tử kiếm đẩy một phát. Trong tai vẫn còn nghe tiếng Ðằng Dực, “Nhát đao này xin hiến cho công chúa Thiên ở trên trời.”

Khi Lã Bất Vi ngã xuống trước mặt gã thì đã biến thành một cái xác không hồn, tất cả những công danh phú quý đều không còn nữa.

Hạng Thiếu Long tuy đã trả được thù, nhưng trong lòng cảm thấy trống không, không hề có được niềm vui khi báo được đại thù Trong lòng gã đã chán ngán những cuộc chém giết lẫn nhau giữa người với người.

Rốt cuộc trời đã sáng.

Sau ba ngày hai đêm, mọi người đã hết cả hơi sức nên phải cắm trại nghỉ ngơi. Lúc này vẫn còn cách mục trường một ngày đường nữa.

Trên đường đi, Hạng Thiếu Long rất lặng lẽ.

Ðêm nay trời thật đẹp, bầu trời đầy sao vây quanh vầng trăng con cong, lúc thưa lúc nhặt.

Hạng Thiếu Long và Kỷ Yên Nhiên rời khỏi trại, đến một gò nhỏ, an nhàn ngồi lên bãi cỏ. Hạng Thiếu Long trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi, từ thời khắc này những câu chuyện có liên quan đến Lã Bất Vi như đã lùi thật xa, sự uy hiếp của tiểu Bàn đối với gã như không hề tồn tại.

Gã đột nhiên nhớ lại bộ phim Tần Thủy Hoàng đã coi ở thế kỷ hai mươi mốt, Lã Bất Vi không phải chết như vậy.

Y vì mang tội tiến cử Lao ái nên Doanh Chính tước đi chức tướng quốc, đuổi về thực ấp ở Hà Nam. Nhưng vì Lã Bất Vi vẫn âm thầm cấu kết quyền quý sáu nước, có mưu đồ không tốt nên bị Doanh Chính đuổi đến đất Thục, rồi gởi thư khiển trách.

Lã Bất Vi tự biết mình tội khó thoát chết nên đã uống rượu độc tự tận.

Giờ đây tình huống lại hoàn toàn khác nhau, chả lẽ mình đã thay đổi lịch sử?

Ðang suy nghĩ, Kỷ Yên Nhiên thỏ thẻ bên tai, “Phu quân đang nghĩ gì?”

Hạng Thiếu Long trong lòng kích động, suýt tí nữa đã kể về lai lịch thân thế của nàng cho mình nghe.

Kỷ Yên Nhiên nói, “Yên Nhiên hiểu rõ tâm sự của phu quân. Con người rất kỳ lạ, đôi khi rất khó khăn mới hoàn thành được mục tiêu, nhưng đến khi thành công thì ngược lại cảm thấy tất cả đều là hư không. Nhưng may mà không phải tất cả mọi người đều như thế. Giống như tình cảm giữa người với người có thể ngày càng tiến xa hơn. Ðương nhiên cũng không tránh khỏi có chuyện chuyển bạn thành thù.”

Hạng Thiếu Long gật đầu nói, “Chỉ nghe Yên Nhiên nói chuyện, cũng đã là một niềm vui trong cuộc đời của ta, có thể cùng Yên Nhiên sống trọn đời ở chốn quan tái, ta còn cầu mong gì nữa.”

Kỷ Yên Nhiên rúc vào lòng gã, gối đầu lên vai gã, mắt nhìn ngôi sao lấp lánh trên bầu trời cao, thỏ thẻ, “Từ hôm qua trở đi, Doanh Chính đã chính thức trở thành vua nước Tần. Không biết Lao ái và thái hậu phải chăng… chao ôi! Yên Nhiên quả thật không nên nhắc đến chuyện này.”

Hạng Thiếu Long cười gượng nói, “Hiền thê không cần phải áy náy, ta đã thông suốt cả rồi. Sức người đôi khi cũng có hạn, không phải chuyện gì cũng có thể làm được. Ta hoàn toàn không đủ sức giúp thái hậu, giờ đây chỉ mong rằng khi quay về mục trường, bọn Ô Quả đã an toàn.”

Kỷ Yên Nhiên chép miệng, “Yên Nhiên cũng mong rằng có thể sớm rời khỏi nơi này, mãi mãi không quay về.”

Sáng sớm hôm sau mọi người nhổ trại lên đường, theo con đường bí mật đã định trước, đi thẳng về hướng mục trường.

Ðến hoàng hôn, mục trường đã xuất hiện phía trước.

Ðội đi đầu do Kinh Tuấn dẫn đường đột nhiên quay lại, sắc mặt rất khó coi. Mọi người trong lòng đều ngạc nhiên, biết tình thế không hay.

Kinh Tuấn trần giọng nói, “Mục trường đã bị bao vây.”

Dưới ánh trăng mọi người náu mình trên gò cao quan sát tình huống. Chỉ thấy hàng vạn quân Tần đang bao vây xung quanh mục trường. Song tòa thành nhỏ bên trong vẫn không hề hấn gì, kẻ địch rõ ràng vẫn chưa phát động tấn công.

Trong thành thì tối om, giống như một con mãnh thú đang say ngủ. Trong trại quân Tần chốc chốc lại phát ra tiếng chặt cây, chắc là đang chuẩn bị công cụ phá thành.

Ðằng Dực gằn giọng nói, “Nhất đình là quân của úy Liêu, Doanh Chính thật là nhẫn tâm.”

Tiêu Nguyệt Ðàm thắc mắc, “Theo lý thì bọn chúng phải giả vờ tấn công để làm hao phí thể lực và tinh thần của chúng ta, tại sao lại án binh bất động như thế?”

Kỷ Yên Nhiên nhớ lại trong thành chỉ có Cầm Thanh và hơn một trăm gia tướng, trầm giọng nói, “úy Liêu đang chờ chúng ta quay về, may mà chúng không thông thuộc địa hình, không ngờ rằng chúng ta lại quay về bằng con đường này.” Bạn đang đọc truyện được lấy tại T.r.u.y.e.n.y.y chấm cơm.

Hạng Thiếu Long nảy ý nói, “Trong đó có một nguyên nhân, đó là Doanh Chính sẽ bí mật quay về xử lí chúng ta để đảm bảo tin tức không bị lộ ra ngoài.”

Tiêu Nguyệt Ðàm nhìn lối vào của đường hầm bí mật ở phía dưới, may mà doanh trại và công sự phòng ngự của địch nằm ở ngoài xa, thở phào nói, “Vậy chúng ta hãy nhân lúc trước khi Doanh Chính đến đây, lại vào trong thành theo đường hầm bí mật rồi sẽ lập tức dắt mọi người mau chóng rời khỏi đây.”

Mọi người đương nhiên không phản đối, vội hành động.

Nửa canh giờ sau, bọn họ đã âm thầm tiến vào trong thành. Hạng Thiếu Long ôm Cầm Thanh vào lòng, quả thật có cảm giác cách nhau cả thế kỷ. Vì lũ chiến mã đều được đi ra vào địa đạo, cho nên không phát ra bất cứ tiếng động gì, khiến cho kẻ địch không hề hay biết. Ðằng Dực đột nhiên lạc giọng kêu, “Sao? Bọn Ô Quả vẫn chưa quay về ư?”

Hạng Thiếu Long lo lắng lắm, nhè nhẹ đẩy Cầm Thanh ra, ngạc nhiên kêu lên, “Không có lí nào?”

Ðào Phương rầu rĩ nói, “Xem ra Ô Quả đã xảy ra chuyện.”

Rồi ngừng lại một lát mới nói tiếp, “Ðêm qua kẻ địch đột nhiên xuất hiện ngoài thành, may mà chúng cứ án binh bất động, nếu không chúng tôi không biết nên tử thủ hay bỏ chạy.”

Tiêu Nguyệt Ðàm sắc mặt ngưng trọng nói, “Chúng ta hãy lập tức rút lui, bởi vì bí đạo này chỉ có thể giấu được một thời gian, sớm muộn gì cũng bị bọn chúng phát giác, lúc đó thì càng khó chạy hơn.”

Hạng Thiếu Long nói với vẻ dứt khoát, “Chúng ta hãy chia nhau ra chạy, đệ phải đợi cho đến khi kẻ địch phát động tấn công mới bỏ đi. Châu V đã mất đi huynh trưởng, đệ không muốn nàng mất thêm phu quân nữa.”

Đồ Tiên cười ha ha nói, “Chạy thì cùng chạy, chúng ta hãy xem thử tâm ý của ông trời.”

Bọn Hạng Thiếu Long lên trên tường thành, nhìn ra doanh tại dài dằng dặc của kẻ địch.

Thực lực của hai bên quá cách xa nhau, ngay cả sức để liều mạng cũng chẳng có.

Nhất là bọn Hạng Thiếu Long ngày đêm đi đường đã sớm mệt mỏi, trận này không cần đánh cũng biết đã bại.

Ðằng Dực nói, “Chỉ cần nhìn sự bố trí của bọn chúng, đã biết úy Liêu là người tinh thông binh pháp.”

Tiêu Nguyệt Ðàm than rằng, “Doanh Chính suy nghĩ thật chu đáo, điều đến toàn là những kẻ không có quan hệ với Thiếu Long, e rằng bọn chúng cũng chẳng biết là đang đánh ai.”

Kinh Tuấn lúc này mới chạy lên nói, “Ðã chuẩn bị xong tất cả, có nên đưa ngựa đến chỗ bí mật trước, để đến khi bỏ trốn sẽ thuận tiện hơn không?”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Chi bằng chúng ta đều ở chỗ bí đạo để chờ bọn Ô Quả. Giờ đây dù cho có phá được vòng vây cũng bỏ chạy không kịp.”

Mọi người đều im lặng không nói, nhìn về phía Hạng Thiếu Long.

Hạng Thiếu Long biết lời của nàng có lý.

Gần sáu trăm người và ngựa, lại thêm lương khô và nước uống, nếu muốn an toàn bỏ đi thì thật là khó. Rồi miễn cưỡng gật đầu nói, “Thôi được!”

Kinh Tuấn nhận lệnh quay đi.

Ðằng Dực đột nhiên giật mình, “Doanh Chính đã đến, bọn Ô Quả cũng đã xong.”

Mọi người ngạc nhiên, nhìn theo ánh mắt của y, chỉ thấy một con rồng lửa từ xa đến gần, tiến vào doanh trại của địch.

Hạng Thiếu Long quát lớn, “Lập tức rút lui.”

Ðùng đùng đùng Tiếng trống trận vang lên.

Ai nấy đều đưa mắt nhìn nhau, Doanh Chính đang đêm chạy đến chưa kịp uống ngụm nước, chỉ hơi nghỉ ngơi thì đã lập tức hạ lệnh tấn công, có thể thấy y nhất quyết giết cho bằng được Hạng Thiếu Long.

Hạng Thiếu Long buồn thảm kêu lên, “Tiểu Bàn! Con thật nhẫn tâm.”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Bỏ ngựa! Chúng ta phải chạy bộ thôi, nếu không sẽ không kịp.”

Mọi người đều nghe theo. Nhìn thấy đối phương tràn tới, trong lòng ai nấy đều lo lắng.

Dù cho họ có thể rời khỏi đường hầm bí mật này, cũng chỉ là lặp lại vết xe đổ của Lã Bất Vi, rốt cuộc cũng sẽ bị ngựa của đối phương giẫm lên mà thôi.

Giả sử đây cũng là một sự báo ứng, thì ông Trời đã quá vô tình vô nghĩa.

Tầm Tần ký – Chương 287: Khoảng khắc sinh tử

Khi cửa thành bị phá, bên phía Hạng Thiếu Long vẫn còn một nửa số người chưa vào địa đạo.

Trong lúc cấp bách, hạng Thiếu Long hạ lệnh cho những người này rút vào trong ngôi mộ mới xây, rồi sau đó đóng tấm cửa sắt dày lại, hy vọng có thể tranh thủ chút thời gian để rút lui tiếp.

May mà Tiểu Bàn tưởng rằng bọn họ đã sớm bỏ đi nên không tra xét. Song, ai cũng biết đó chỉ là vọng tưởng.

Người trong cả tòa thành tự nhiên biến mất đương nhiên là có đường hầm bí mật thông ra ngoài thành.

Giả sử úy Liêu không thể tìm ra đường hầm này thì làm thế nào trả lời với Tần vương vừa mới đăng cơ.

ở trong ngôi mộ ai nấy đều nghe tiếng la hét ở bên ngoài, lòng đều như lửa đốt, nhưng chỉ có thể nghe theo mệnh trời mà thôi. Có tiếng ầm ầm không ngừng truyền đến, rõ ràng là kẻ địch đang phá cửa để vào truy lùng.

“Ầm.”

Đó là tiếng cánh cửa sắt bị tông vào, rõ ràng kẻ địch đã mò được tới đây.

Sau mấy lượt tông vào không có kết quả, xung quanh chợt im ắng, ai nấy đều thót tim, ngay cả thở cũng khó khăn.

Mọi người đều đoán rằng kẻ địch lần này sẽ cho xe lôi mộc đến phá cửa.

Thời gian một khắc kéo dài như cả thế kỷ.

Hạng Thiếu Long, Kỷ Yên Nhiên, Ðằng Dực, Kinh Tuấn, Đồ Tiên và hơn mười chiến sĩ Ô gia, tay cầm cung nỏ, chuẩn bị tử thủ, để cho những người khác có thời gian rút lui an toàn.

Mọi người đều không muốn lên tiếng.

Lúc này ngoài bọn họ, vẫn còn có hơn ba mươi người vẫn chưa vào trong đường hầm.

May mà ngày đó khi thiết kế đường hầm đã chú ý đến việc thông khí, nếu không e rằng chưa rời khỏi thì bọn họ đã ngạt chết.

Hạng Thiếu Long bất đồ nhìn lên tấm linh vị nằm giữa một mộ đường của Ni phu nhân, trong lòng cười khổ, nhủ thầm Triệu Ni nàng đâu có ngờ Hạng Thiếu Long này rốt cuộc có một ngày bị chính đứa con ruột thân yêu của nàng giết chết.

“Ầm.”

Cả ngôi mộ như bị lay động, song tấm cửa sắt vẫn không hề lung lay.

“Ầm.”

Ba thanh sắt chêm ở cửa lúc này oằn lại, cửa hé ra, ánh sáng từ bên ngoài lọt vào, tiếng la hét truyền vào trong ngôi mộ rõ ràng hơn.

May mà lúc này ngoài bọn họ, những người khác đã chui hết vào trong đường hầm.

Hạng Thiếu Long quát lớn, “Mau lùi vào!”

Không ai dám chậm trễ đều bỏ chạy vào trong đường hầm.

Khi bọn Hạng Thiếu Long chưa kịp đậy đường hầm lại thì một tiếng ầm cực lớn vang lên, hai tấm cửa sắt đổ ập xuống đất, làm cho gạch đá cũng đổ theo, bụi bốc lên mù mịt.

Hạng Thiếu Long, Ðằng Dực, Kỷ Yên Nhiên và Kinh Tuấn thủ ở lối ra của đường hầm, chuẩn bị liều chết. Bọn họ đành phải làm thế.

Lúc này trong địa đạo vẫn còn nhiều người, nếu để cho kẻ địch đuổi theo, bọn họ đừng hòng thoát được.

Càng có thể kéo dài được thời gian tìm ra địa đạo của kẻ địch, cơ hội sống sót mới càng cao.

Bọn Hạng Thiếu Long hơi nhích ra phía sau một chút, tránh ánh sáng.

Chỉ có người vui mừng kêu lên, “Lối vào ở đây! Bọn chúng vẫn chưa đậy nắp.”

Bọn Hạng Thiếu Long trong lòng kêu khổ thì đột nhiên trong hầm mộ yên lặng như tờ.

Tiếp đó có tiếng quỳ xuống bái lạy.

Bọn Hạng Thiếu Long đưa mắt nhìn nhau đều biết là tiểu Bàn đã tới.

Một giọng nói ồm ồm vang lên, “Ðại vương minh giám, vừa rồi vi thần đã phát giác phản tặc vẫn chưa rời khỏi địa đạo, cho nên chúng ta chỉ cần xông khói vào thì bọn chúng sẽ ngạt thở. Sau đó vi thần sẽ sai người vào trong địa đạo để tìm lối ra, bảo đảm có thể quét sạch một mẻ bọn phản tặc.”

Hạng Thiếu Long tức giận vô cùng, nhưng trong lòng cũng bàng hoàng, chẳng còn cách nào để đối phó.

Người ấy chắc là úy Liêu.

Doanh Chính bỗng trầm mặc không lên tiếng.

Rồi có tiếng người quỳ xuống đất. Giọng nói của Lý Tư vang lên trong địa đạo, “Ðại vương khai ân!”

úy Liêu ngạc nhiên nói, “Ðình úy đại nhân!”

Sau đó im lặng trở lại.

Giọng nói của úy Liêu lại vang lên, “Xin đại vương ra lệnh, nếu không thời cơ sẽ qua.”

Tiếp theo có tiếng ho khan một cái, hỏi, “Sao đại vương chỉ nhìn linh vị ở phía trước?”

Bọn Hạng Thiếu Long trong lòng đều dâng lên cảm giác khó hình dung, vỡ lẽ ra rằng Tiểu Bàn đang nhìn linh vị của Ni phu nhân, người mẹ ruột của y.

Song nếu Tiểu Bàn chấp nhận đề nghị của úy Liêu, bọn họ chỉ còn một con đường chết mà thôi.

Giọng nói quen thuộc của Tiểu Bàn rốt cuộc vang lên, “úy khanh và tất cả những người khác hãy lui ra cho quả nhân, chỉ có Lý khanh ở lại.”

úy Liêu ngạc nhiên nói, “Ðại vương…”

Tiểu Bàn quát lớn, “Lui ra!”

Có tiếng bước chân vang lên.

Cho đến khi tất cả mọi người đều đi xa, Tiểu Bàn trầm giọng nói, “Thế nào mới khiến người trong thiên hạ không nhắc đến chuyện này nữa?”

Chỉ nghe giọng Lý Tư trả lời, “Chỉ cần đại vương chinh phục sáu nước, thống nhất thiên hạ, lúc đó đại vương ban lệnh trong thiên hạ nghiêm cấm nhắc tới ba chữ Hạng Thiếu Long, ai vi phạm sẽ chém đầu, tất nhiên sẽ bịt miệng được thiên hạ, chuyện này tự nhiên cũng giải quyết xong.”

Tiểu Bàn lạnh lùng nói, “Nếu bọn chúng không nói bằng miệng mà viết lại thành sách sử, lại có cách gì để ứng phó?”

Lý Tư nói, “Lúc đó đại vương hãy chôn tất cả những người ấy, đốt sách của chúng.”

Hạng Thiếu Long nghe mà trố mắt, té ra chuyện đốt sách, chôn học trò vì mình mà có. Những loại sách bói toán bị đốt theo chắc là cũng để che mắt người đời.

Tiểu Bàn nói, “Chuyện Hạng Thiếu Long giết chết Lã Bất Vi thì xử lí thế nào?”

Lý Tư rành rọt nói, “Ðiều này thì dễ, cứ nói là y sợ nội loạn chạy về thực ấp, rốt cuộc uống rượu độc tự tận là xong.”

Tiếng bước chân vang lên, có người bước vào phía trong.

Sau một hồi lặng lẽ, giọng nói của Tiểu Bàn lại nhè nhẹ truyền vào, “Sư phụ! Chúc người lên đường bình an!”

Rồi tiếp theo có tiếng quát của Tiểu Bàn, “Lập tức rút quân!”

Tiếng bước chân đi xa.

Hạng Thiếu Long cố nén nước mắt đang chực trào ra. Gã cứ cảm nhận được mùi vị của một người sáng tạo nên lịch sử Khi Tiểu Bàn bước ra khỏi ngôi mộ này, y không phải là Triệu Bàn đến từ Hàm Ðan nữa. Bởi vì y đã hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ của mình, thật sự trở thành Doanh Chính.

Sau này y sẽ tập trung tinh thần để thống nhất thiên hạ.

Khi y bước qua tấm cửa sắt này, số phận của sáu nước đã định.

Họ sẽ đối mặt với một vị bá vương mà không ai có thể quật ngã, đó là Tần Thủy Hoàng Doanh Chính, người đã dựng nên Trung Quốc, vị vua của ngàn đời sau.

Bọn Hạng Thiếu Long gấp rút chạy ra khỏi địa đạo thì phát giác Ô Quả đang lẫn vào trong đám thiết vệ.

Té ra bọn họ vì Xương Văn quân khống chế đường thủy nên buộc phải đuổi theo bằng đường bộ, cho nên đến trễ hơn Doanh Chính cả mấy canh giờ, may mà vẫn còn chờ bọn họ ở gần cửa ra của địa đạo.

ô Quả cũng mang đến tin tức Lao ái bị phanh thây giữa chợ, hai đứa con mà Chu Cơ sinh cho y thì bị thiêu sống.

Đó là tin tức của Vương Tiễn cho biết.

Còn Chu Cơ thì bị truyền áp giải về Hàm Dương.

Ðương nhiên mọi người đều biết Chu Cơ đã xong đời, kẻ bị áp tải về giam lỏng ở Hàm Dương chỉ là thế thân mà Doanh Chính sắp xếp.

Ðợi Doanh Chính rút hết quân, mọi người mới vào lại trong mục trường, cỡi ngựa ung dung bỏ đi.

Hạng Thiếu Long mang theo cả linh vị của bọ Triệu Thiên và Ni phu nhân.

Ba tháng sau, rốt cuộc cũng đã đến được quan tái, hoàn thành được ước vọng của mình.

Tầm Tần ký – Chương 288: Thống nhất sáu nước

Vì những kẻ phản loạn là Lã Bất Vi và Lao ái đều là người của sáu nước, lại thêm chuyện đào kênh Trịnh Quốc vốn là kế phá Tần của người Hàn, đồng thời Doanh Chính cũng lo lắng người của sáu nước tiếp tục phao tin đồn nhảm cho nên đã hạ lệnh đuổi khách, khiến cho khách khanh của sáu nước phía đông ai nấy đều cảm thấy nguy ngập cho bản thân mình.

Lý Tư biết mình quả thật đã biết quá nhiều chuyện không nên biết, lại hiểu rõ mong muốn thống nhất thiên hạ của Doanh Chính, cho nên liều chết dâng biểu can gián.

Viết rằng.

“Thần nghe lệnh đuổi khách của đại vương quả thật là sai lầm! Năm xưa Mục công cầu sĩ, phía tây thì lấy được Du Vu Dung, phía đông thì có Bách Lý Hồ, Thúc Vu Tống, Công Tôn Chi, những người này đều không phải là người nước Tần, mà Tần Mục công vẫn dùng họ, nhờ đó đã lấy được hai mươi nước làm bá chủ miền tây.”

Tần Thiếu Công dùng Thương ưởng biến pháp, thay phong đổi tục, dân tình thịnh vượng, nước được giàu mạnh, trăm họ yên vui, chư hầu thần phục, lấy được đất của Sở, Ngụy ra đến ngàn dặm, nhờ đó cho đến nay nước Tần vẫn còn hùng cường.

Huệ vương dùng kế của Trương Nghi lấy được đất của Tam Xuyên, phía tây thì gộp thâu được Ba Thục, phía bắc thì lên đến Thượng Quận, phía nam lấy được Hán Trung, trong đó có Cửu Di, Yên Dĩnh, phía đông thì chiếm cứ Thành Khâu khiến cho người trong sáu nước đều phải phục tùng, công ấy đến nay vẫn còn ghi.

Chiêu Vương được Phạm Tuy, bỏ Tương Hầu, đuổi Hoa Dương, lấy dần đất của các nước chư hầu, khiến cho Tần trở thành đế nghiệp.

Bốn vua ấy đều dựng được nghiệp lớn nhờ công của các khách khanh. Từ đó mà thấy khách khanh nào có phụ Tần đâu.

Giả sử không dùng khách khanh thì sẽ khiến cho nước không còn giàu mạnh.”

Bức thư trần tình khẳng khái của Lý Tư không những đã thể hiện lòng trung tuyệt đối với Doanh Chính mà còn đưa ra những sự thực lịch sử để chứng minh. Rốt cuộc đã khiến Doanh Chính thu hồi lại lệnh đuổi khách.

Còn người bạn cũ Hàn Phi của Kỷ Yên Nhiên và hạng Thiếu Long lúc này được Doanh Chính mời vào nước Tần.

Sau đó y rốt cuộc lòng vẫn nhớ đến nước cũ, cứ nói tốt cho Hàn, mà miệng lưỡi lại không lanh lợi, nên không được Doanh Chính ưa thích.

Sau đó lại đắc tội với Diêu Cồ và Lý Tư, lại thêm hai người này đố kị với tài hoa của y nên đã bị hạ độc chết ở trong ngục.

Doanh Chính quét sạch Lã Bất Vi và Lao ái xong thu lại đại quyền trong nước Tần, tiếp tục mở rộng đại nghiệp chinh phục sáu nước. Lúc này sáu nước đã không còn sức chống Tần nữa.

Nhưng sau khi liên kết trở lại, sau sáu năm Doanh Chính kế vị, tam Tấn và người Sở đã đánh bại người Tần. Nhưng Hàn Sấm thì không may chết trong trận này.

Ðiền Ðan vì mất đi sự ủng hộ của Lã Bất Vi, cho nên thất thế, nước Tề từ đó không còn nhân tài nữa.

Doanh Chính rút kinh nghiệm, được Lý Tư và úy Liêu hiến kế, khéo dùng thủ đoạn ly gián, phân hóa, đột phá vào sáu nước.

Năm thứ mười bốn đời Tần vương Doanh Chính, Hàn vương An đầu tiên khuất phục nước Tần. Năm sau quân Tần đánh vào Tân Trịnh, diệt nước Hàn.

Hoàn Xỉ lúc này đã trở thành thượng tướng quân, không may gặp phải Lý Mục, bị y đánh bại ở Hợp Phì, không còn mặt mũi nào gặp Doanh Chính, trốn đến nước Yên.

Cuối cùng đến lúc Vương Tiễn và Lý Mục gặp nhau trên sa trường. Vương Tiễn và Dương Ðoan Hòa cầm quân đánh thẳng vào nước Triệu, Lý Mục nghênh chiến ở ngoài thành Hàm Ðan, khi hai bên đang giằng co với nhau, nào ngờ Quách Khai bị Lý Tư dùng kế phản gián, xúi giục Triệu vương đổi tướng, Lý Mục không chịu nghe theo, kết quả bị Triệu vương xử tử.

Cây đại thụ đã ngã, nước Triệu không còn tướng nào có thể chống được Vương Tiễn, bị quân Tần đánh cho tan tành.

Năm thứ mười chín đời Tần vương Chính, thái tử Ðan sai Kinh Kha vào nước Tần hành thích Doanh Chính sự việc thất bại chết ngay tại trận.

Doanh Chính lấy đó làm cớ, phái Vương Tiễn đánh Yên, đại phá quân Yên ở bờ tây sông Dịch Thủy, năm sau thì đánh thẳng vào kinh đô của người Yên, giết chết thái tử Ðan.

Con trai của Vương Tiễn là Vương Bôn cũng chiếm được hơn mười thành của người Sở. Năm sau thì y lại đại triển thần oai, vượt sông đánh vào Ðại Lương, nước Ngụy mất.

Năm thứ hai mươi ba Vương Tiễn đánh Sở, đại phá quân Sở ở Bình Dư. Ðến năm tiếp theo thì cùng Mông Võ đánh đến Thọ Xuân, vua Sở và Lý Viên đều bị bắt làm tù binh, Lý Yên Yên uống thuốc độc mà chết, nước Sở mất.

Năm thứ hai mươi sáu thời Tần vương Chính, Vương Bôn đánh vào Lâm Tri, Tề vương Ðiền Kiện đầu hàng. 

Ðến lúc này sáu nước phía đông đều thuộc về Tần. Doanh Chính nhớ lại ba chữ Thủy Hoàng đế mà Hạng Thiếu Long đã nói, vì thế lệnh cho quần thần xem thử tên này có hợp với thân phận thống nhất sáu nước của y hay không.

Mọi người đương nhiên đồng thanh kêu hay.

Vì thế Doanh Chính tự Xưng mình là Thủy Hoàng đế. Phế bỏ chế độ phong chư hầu, chia thiên hạ ra làm ba mươi sáu quận, thu hết binh khí trong thiên hạ, đúc thành mười hai tượng người bằng kim loại, thống nhất chế độ cân đo, đặt ra chế độ tiền tệ, thống nhất kích thước của trục xe trong cả nước, dùng chung một loại chữ, tập trung mười hai vạn hộ giàu có về Hàm Dương.

Xác lập nên một nước Trung Quốc rộng lớn.

Khi Doanh Chính trở thành Tần Thủy Hoàng đế, tòa Hoài Thanh đài hùng vĩ cũng được xây dựng. Muôn dân đều tưởng rằng vua của họ nhớ đến quả phụ Thanh mà dựng lên. Chỉ có vài người như Lý Tư, Vương Tiễn mới biết Doanh Chính thật sự là vì nhớ đến hạng Thiếu Long mà xây nên Hoài Thanh đài này.

Tầm Tần ký – Chương 289: Lời cuối

Tất cả cảnh vật đều lùi ra phía sau.

Hạng Thiếu Long cùng với Ô Trác, Kinh Tuấn và Ðằng Dực phóng như bay trên miền thảo nguyên xanh tốt vô tận.

Trên bầu trời xanh là những áng mây trắng lững lờ, ở cách đó nửa dặm có hàng ngàn thớt ngựa hoang đang phóng lên phía bắc. 

Bốn người hú lên, thúc ngựa đuổi theo.

Bọn Hạng Thiếu Long chia thành hai tốp. Tốp thứ nhất chạy vòng về phái trước, buộc thớt ngựa phải đổi hướng, còn tốp kia thì đuổi lên ở phía sau.

Sau một hồi bầy ngựa buộc phải nhảy xuống sông, bơi qua bờ bên kia.

Hạng Thiếu Long kìm ngựa lại kêu lớn, “Các con, hãy giở bản lĩnh của mình ra!”

Bờ bên kia bỗng xuất hiện bọn Ô Quả, Ô Ngôn, Triệu Ðại, Lưu Sào cùng với hơn một trăm người, ai nấy tay cũng cầm dây thừng, đợi lúc ngựa lên bờ.

Hạng Thiếu Long vui mừng nhìn thấy huynh đệ và thủ hạ bắt ngựa hoang, khen rằng, “Ðại ca quả thật biết chọn chỗ, ở đây đều là các con sông lớn, nguồn nước dồi dào, đất đai tươi tốt, cỏ mọc xanh rì, quả là thắng cảnh chốn nhân gian.”

Ô Trác nhìn vùng thảo nguyên vô tận, hít làn hương thoang thoảng trong gió, cười rằng, “Lúc mới đến cứ nghĩ là bị ép buộc, nhưng sống ở đây đã lâu, ta không muốn rời khỏi nữa.”

Ðến hoàng hôn ai nấy đầu quay về.

Bọn Kỷ Yên Nhiên, Cầm Thanh, Ô Ðình Phương, Triệu Chi, Ðiền Trinh, Ðiền Phụng, Châu Vi, Thiện Lan, Lộc Ðan Nhi đang ngồi trên một sườn dốc, nhìn bầy trẻ đang chơi đùa ở phía dưới.

Trong đó có cả Hạng Bảo Nhi nữa.

Cậu bé trông to khỏe rắn chắc hơn những đứa trẻ khác, đầu đội chiếc mão có cắm lông vũ, mắt to mày rậm, trông rất có cá tính.

Trong doanh trại, làn khói lững lờ bốc lên, đám phụ nữ đang nổi lửa nấu cơm, đợi chồng con quay về.

Đồ Tiên và Tiêu Nguyệt Ðàm đang ngồi đàm đạo, ánh mắt dõi theo ở phía xa.

Cầm Thanh đột nhiên vui mừng kêu, “Phu quân đã quay về.”

Mọi người đều nhìn ra ngoài xa, hơn một trăm chấm đen dần dần hiện rõ, tiếng vó ngựa cũng truyền về văng vẳng.

Kỷ Yên Nhiên vui mừng đứng dạy kêu, “Ai cùng ta đi nghênh đón các chiến sĩ khải hoàn quay về?”

Bọn trẻ ngừng chơi, đứng đón đoàn quân chiến thắng trở về.

Trong chốc lát tiếng vó ngựa rầm rập lao tới.

Kỷ Yên Nhiên cùng mọi người nhảy lên ngựa, trong chốc lát đã gặp đoàn chiến sĩ ở phía ngoài thảo nguyên, rồi tất cả cùng quay về.

Bọn trẻ thì dương dương đắc ý dẫn đầu.

Hạng Thiếu Long đi với Cầm Thanh và Kỷ Yên Nhiên nói, “ông trời đối đãi với chúng ta rất hậu hĩ, trước đây đâu có cuộc sống hạnh phúc không lo không nghĩ như thế này.”

Cầm Thanh chép miệng, “Vì chúng ta đã sống như thế cho nên mới hiểu rõ cuộc sống ở thảo nguyên quý báu dường nào. Còn bọn trẻ này thì lại bảo cứ muốn quay về Trung Nguyên.”

Ô Ðình Phương giận dỗi nói, “Sau này chàng đừng nhắc đến chữ Trung Nguyên nữa, thiếp chẳng hiểu nổi tại sao Bảo Nhi lại không thích nơi này?”

Hạng Thiếu Long cười, “Mỗi người đều có ước mơ riêng của mình, bởi vì ước mơ của chúng ta đã thành hiện thực cho nên mới an tâm mà tận hưởng. Bảo Nhi chỉ là muốn tìm ước mơ của nó mà thôi. Chúng ta không nên cản trở, cũng không nên buộc nó phải an vui trong giấc mộng của chúng ta.”

Kỷ Yên Nhiên nói, “Phu quân nói thật hay, giấc mộng của Bảo Nhi chính là trở thành loài phi ưng trên trời cao có thể tự do bay lượn đến khắp nơi.”

Triệu Chi cười, “Ai cũng cưng chiều nó, thiếp đã bảo rồi, tiểu Trinh và tiểu Phụng đã chiều nó quá đáng.”

Ðiền Trinh và Ðiền Phụng che miệng cười, khuôn mặt đầy vẻ hạnh phúc.

Kỷ Yên Nhiên như nhớ ra chuyện gì nói, “Suýt nữa quên cho chàng hay, Bảo Nhi chê tên của nó quá trẻ con, cho nên muốn đổi thành tên khác.”

Hạng Thiếu Long vui vẻ nói, “Ðổi tên gì cũng được, nhưng phải mang họ Hạng.”

Ô Ðình Phương giả vờ bực mình nói, “Bảo Nhi là do thiếp đặt, đó là nhũ danh của nó kia mà.”

Kỷ Yên Nhiên nói tiếp, “Thiếp thấy nó thích loài chim ưng cho nên định đặt cho nó tên là ưng.”

Hạng Thiếu Long cười ha hả nói, “Hạng ưng! Nghe cũng hay đấy!”

Cầm Thanh nói, “Chàng làm cha mà chẳng hiểu con chút nào, nó chê chữ ưng quá giống cầm thú, sợ người ta cười nên đã đổi thành chữ Vũ.”

Hạng Thiếu Long giật mình kìm ngựa, kêu lên, “Cái gì?”

Mọi người xung quanh đều ngạc nhiên, ánh mắt tập trung về phía gã.

Lúc này Hạng Thiếu Long trong lòng dâng lên cơn sóng dữ.

Hạng Vũ?

Đó chẳng phải là Sở Bá Vương Hạng Vũ, người đã cùng tranh thiên hạ với Lưu Bang, cuối cùng cũng cùng mỹ nhân Ngu Cơ tự vận ở Ô Giang? Chuyện gì thế này?

Chả lẽ đây chỉ là một sự trùng hợp?

Nhưng nếu tính toán theo thời gian, chuyện này cũng có thể lắm.

Theo lịch sử nhà Tần trải qua hai đời thì mất.

Từ lúc Doanh Chính lên ngôi bị quân, ba mươi bảy năm sau, đi tuần ở miền nam rồi bệnh chết tại Xa Khâu, sau đó Tần nhị kế vị, ba năm thì mất.

Lúc này đứa con Hạng Vũ của mình đã hơn ba mươi tuổi, đang ở tuổi tráng niên.

Tiếng gọi của mọi người làm gã giật mình.

Kỷ Yên Nhiên nghiêm mặt nói, “Phu quân đại nhân không thích cái tên này sao? Nếu chàng muốn đổi thì hãy tự nói với nó.”

Hạng Thiếu Long định thần lại, đang suy nghĩ là có nên cảnh cáo cho đứa con yêu này biết hay không, ví dụ như khi gặp một người tên Lưu Bang thì phải lập tức giết y.

Nhưng gã nghĩ lại, dù cho mình đã biết được sự phát triển của lịch sử rốt cuộc cũng không thể thay đổi được.

Vận mệnh không thể thay đổi chút nào vì sự cố gắng hoặc ý chí của bất cứ ai.

Con người cứ nghĩ rằng mình đang sáng tạo ra vận mệnh, là bởi vì họ không hề biết rằng vận mệnh đi về hướng nào, chỉ có mình mới hiểu rõ được điều ấy.

Một đứa con của mình là Tiểu Bàn xây dựng nên đế quốc đại Tần, một đứa con khác của mình là Hạng Vũ lại phá hủy đế quốc đại Tần ấy.

Cầm Thanh nhíu mày kêu, “Phu quân đại nhân đang nghĩ gì?”

Hạng Thiếu Long đột nhiên cười lớn, “Ta đã thông suốt!”

Giọng nói của Ðằng Dực bên kia truyền qua, “Tam đệ đã thông suốt điều gì?”

Hạng Thiếu Long vui mừng nói, “Hạng Bảo Nhi về sau sẽ là Hạng Vũ.”

Mọi người đều ngạc nhiên.

Kỷ Yên Nhiên thắc mắc, “Chuyện này cũng cần phải nghĩ thông nữa hay sao?”

Hạng Thiếu Long cười rằng, “Ðiều ta nghĩ thông là thắng thì sao, bại thì đã sao. Thành công hay thất bại không quan trọng, chỉ cần sống một cách oanh liệt, tên tuổi đi vào lịch sử của ngàn năm sau thì đã không uổng kiếp này.”

Mọi người càng hoang mang hơn, đâu biết rằng ý gã muốn nói đến con trai của mình sau này sẽ trở thành Sở Bá Vương Hạng Vũ, danh truyền đến ngàn sau.

Hạng Thiếu Long cười lớn thúc ngựa theo sau Hạng Vũ. Mọi người cũng vội vàng đuổi theo.

Ðoàn người và cả vùng thảo nguyên hợp thành một khối, trong ánh chiều tà tráng lệ, tạo thành một bức tranh đầy hạnh phúc và tiếng cười.

HẾT

Phần V – Cận kim thời đại – Thời Nhà Nguyễn (1802-1865)

CHƯƠNG XII: Nguyễn Vương nhất thống Nước Nam

11. Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La

12. Nguyễn Vương về lấy Gia Định

13. Nguyễn Vương sửa sang mọi việc ở Gia Định

14. Việc khai khẩn điền thổ

15. Việc buôn bán

16. Ông Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh ở Pháp về

17. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ nhất

18. Thế lực Tây Sơn

19. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ hai

20. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ nhất

21. Quân Tây Sơn vây thành Bình Định

22. Nguyễn Vương thu phục Phú Xuân

23. Võ Tính tử tiết

24. Nguyễn Vương lên ngôi tôn

25. Quân Nam ra lấy bắc hà


1. Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La.

Tháng tư năm ất tị (1785), ông Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La ở Mỹ tho, Nguyễn Vương thế cô, lại phải sang nương nhờ nước Tiêm. Đến khi các tướng sĩ đã biết ngài ở Tiêm La, đều lục tục kéo sang bái yết, bấy giờ có quan cũ là Lê Văn Câu (còn gọi Quân hay Duân) đem 600 người sang theo giúp. Vua nước Tiêm để cho người Việt Nam ở riêng một chỗ gọi là Long Kỳ, ở ngoài thành Vọng Các (Bangkok).

Nguyễn Vương bèn phân trí mọi người đi làm các việc: người thì đi làm ruộng để lấy thóc gạo nuôi quân, người thì đi ra các đảo làm sẵng chiến [133]

Nay ở Bangkok có một chỗ gọi là làng Gia Long tức là chỗ Nguyễn Vương ở ngày trước. thuyền, người thì đi lẻn về Gia Định, chiêu tập những kẻ nghĩ dũng để đợi ngày khôi phục.

Lúc bấy giờ nhân có quân Diến Điện sang đánh Tiêm La, Nguyễn Vương cùng với bọn Lê Văn Câu, Nguyễn Văn Thành đem quân bản bộ đi đánh giúp nước Tiêm. Nguyễn Vương lại có công trừ được những giặc Mã Lai thường vẫn hay đến quấy nhiễu ở mặt bể. Bởi vậy cho nên nước Tiêm lại càng trọng đãi vua tôi nhà Nguyễn.

2. Nguyễn Vương Về Lấy Gia Định.

Trong khi Nguyễn Vương còn phải nương náu ở đất Tiêm La, ông Nguyễn Huệ tiến binh ra Bắc Hà giết Trịnh Khải, tôn vua Lê, rồi về được phong là Bắc Bình Vương, đóng ở Phú Xuân. Ông Nguyễn Nhạc xưng là Trung Ương Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương vào giữ đất Gia Định.

Nhưng chẳng được bao lâu, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ không hòa với nhau. Nguyễn Huệ đem quân Phú Xuân vào vây thành Quy Nhơn nguy cấp lắm. Nguyễn Nhạc phải vời đô đốc Đặng Văn Chân đem quân ở Gia Định ra cứu.

Từ đó quân thế của Tây Sơn ở Gia Định đã kém, ở các nơi lại có nhiều đảng theo về chúa Nguyễn, rồi nổi lên đánh phá, làm cho quân Tây Sơn càng ngày càng khó giữ. Vả trong mấy anh em Tây Sơn chỉ có Nguyễn Huệ là anh hùng kiệt hiệt hơn cả, mà đã ra chuyên giữ mặt bắc, thì công việc mặt nam phó mặc Nguyễn Lữ là người tầm thường, cho nên thế Tây Sơn ở mặt ấy thành ra suy nhược.

Lúc bấy giờ Nguyễn Vương ở Tiêm La vẫn có người đi về tin tức, biết có cơ hội lấy được đất Gia Định, mà cũng biết rằng người Tiêm La vẫn không giúp được cho mình lại còn có bụng ghen ghét: như năm đinh mùi (1787) có người Bồ Đào Nha đưa quốc thư cho Nguyễn Vương xin đem binh và thuyền ở thành Goa [134] lại giúp. Vua Tiêm La biết việc ấy làm không bằng lòng, Nguyễn Vương phải từ chối và tạ ơn người Bồ Đào Nha.

Đến khi được tin rằng đất Gia Định có thể lấy được, Vương bèn để thư lại từ tạ vua Tiêm La, rồi nửa đêm đem vương mẫu và cung quyến xuống thuyền về nước. Bấy giờ là tháng bảy năm đinh mùi (1787).

Nguyễn Vương đi qua đảo Cổ cốt có người nhà Thanh tên là Hà Hỉ Văn thuộc về Thiên Địa Hội đem mấy người đến xin theo giúp. Vương về[134] đất thuộc địa của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ đến Hà Tiên cho người đưa vương mẫu và cung quyến ra ở Phú Quốc, rồi cùng mọi người về đóng ở Long Xuyên.Lúc bấy giờ Nguyễn Vương đi đến đâu, những người hào kiệt ra theo rất nhiều lại có tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Trương đem 300 quân, 15 chiếc thuyền ra hàng. Qua tháng 6, vương vào cửa Cần Giờ, quân thế to lắm, Đông Định Vương Nguyễn Lữ khiếp sợ để quan thái phó Phạm Văn Tham ở lại giữ thành Sài Gòn rồi lui về đóng ở Lạng Phụ, thuộc Biên Hòa.

Nguyễn Vương sai người trá làm một cái thư của Nguyễn Nhạc gửi cho Nguyễn Lữ, trong thư bảo phải giết Phạm Văn Tham đi, rồi vương sai người giả tảng đưa lầm cho Phạm Văn Tham, Phạm Văn Tham bắt được cái thơ ấy sợ hãi, lập tức về Lạng Phụ để phân giải tình oan với Nguyễn Lữ, nhưng Nguyễn Lữ thấy tự nhiên Phạm Văn Tham kéo quân đến, lại có cờ trắng đi trước, tưởng là Văn Tham đã hàng nhà Nguyễn rồi, vội vàng bỏ thành chạy về Quy Nhơn, được ít lâu thì mất.

Phạm Văn Tham trở về giữ thành Gia Định đánh phá được quân nhà Nguyễn. Nguyễn Vương phải rút quân về miền Mỹ Tho, chỉ còn được 300 quân và vài mươi chiếc thuyền, thế lực đã núng lắm. Nhưng nhờ có mộ thêm được mấy nghìn quân Cao Miên và lại có mấy toán quân Tây Sơn về hàng, cho nên quân thế mới hơi vững.

Bấy giờ lại nhờ có Võ Tính là tướng giỏi ra giúp, cho nên Nguyễn Vương lại tiến lên đánh Nước Xoáy, Phạm Văn Tham lùi về đóng ở Ba Thắc.

Võ Tính là người ở Biên Hòa, có người anh tên là Võ Nhân làm thuộc tướng Đỗ Thanh Nhân. Sau Đỗ Thanh Nhân bị giết, Võ Nhân tụ quân Đông Sơn làm phản, đánh lại chúa Nguyễn, nhưng chẳng bao lâu cũng bị bắt, phải giết. Võ Tính mới đem dư đảng Đông Sơn của anh về giữ Vườn Trầu (thuộc Gia Định), rồi sau lại về đóng ở Gò Công, xưng là Tổng Nhung, thủ hạ có mấy vạn người, quân Tây Sơn đã bị đánh phá nhiều lần, thường nói rằng: “Trong bọn tam hùng đất Gia Định, Võ Tính là anh hùng bậc nhất, không nên phạm đến”. Khi Nguyễn Vương ở Tiêm La về có sai Nguyễn Đức Xuyên đến dụ Võ Tính về giúp. Đến khi Nguyễn Vương về đóng ở Nước Xoáy, Võ Tính đem bộ hạ đi đuổi đánh Phạm Văn Tham, rồi đến tháng tư năm mậu thân (1788) mới đem Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín đến hành tại bái kiến Nguyễn Vương. Nguyễn Vương mừng rỡ, phong cho làm Tiền Phong Dinh Chưởng Cơ và lại gả cho bà Ngọc Du Công Chúa là em gái. Bọn Võ Văn Lượng đều được phong làm cai cơ.

Qua tháng 7 năm ấy (1788) Nguyễn Vương đem quân về đóng ở Ba Giồng, rồi sai Tôn Thất Hội và Võ Tính đem binh vào đánh quan đốc chiến Tây Sơn là Lê Văn Minh ở đồn Ngũ Kiều, đốt phá cả đồn trại, bắt được tướng sĩ rất nhiều. Lại có tướng là Nguyễn Văn Nghĩa phá được quân Tây Sơn ở Lộc Dã (tức là Đồng Nai). Tháng tám thì Nguyễn Vương vào thành Gia Định, chiêu yên trăm họ, sửa sang phép tắc và phong thưởng cho các tướng sĩ.

Bấy giờ quan thái bảo Tây Sơn là Phạm Văn Tham vẫn đóng ở Ba Thắc; vương sai giữ các cửa bể không cho quân Tây Sơn chạy thoát, rồi sai Nguyễn Văn Nhàn sang Tiêm La báo tiệp; sai Nguyễn Văn Nhân và Trương Phúc Giáo ra Phú Quốc đón vương mẫu và cung quyến về Gia Định.

Sang năm kỷ dậu (1789) Phạm Văn Tham ở Ba Thắc đem binh xuống thuyền định ra bể về Quy Nhơn, nhưng Nguyễn Vương đã sai Lê Văn Câu (còn gọi Duân), Tôn Thất Hội, Võ Tính, Nguyễn Văn Trương hợp binh lại đánh ở Hỗ Châu, quân Phạm Văn Tham không phá được vây, lại phải lui về Ba Thắc. Văn Tham chờ không thấy viện binh, liệu thế giữ không nổi, bèn đem binh ra hàng, được ít lâu bị tội phải giết.

Từ đó toàn đất Gia Định thuộc về chúa Nguyễn cả.

3. Nguyễn Vương Sửa Sang Mọi Việc ở Gia Định.

Nguyễn Vương thu phục được đất Gia Định rồi, lập ra luật pháp, khôNg cho dân gian đánh cờ bạc, lại nghiêm cấm phù thủy và đồng bóng để giữ phong tục cho khỏi sự mê hoặc.

Trước hết vương lo chỉnh đốn những việc thuế khóa, việc canh nông, để lấy lương tiền nuôi tướng sĩ và tu bổ việc vũ bị. Lại đặt ra các sở công đồng để các quan văn võ hội nghị mọi việc quốc quân, và lo sự tiến binh đánh Tây Sơn.

4. Việc Khai Khẩn Điền Thổ.

Đất Gia Định lúc bấy giờ chi ra làm 4 doanh là: Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, và Trấn Định, nhưng vì phải loạn lạc mãi, dân sự đói khổ, ruộng đất bỏ hoang, lương thực không đủ. Nguyễn Vương bèn sai văn thần là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Chu, Hoàng Minh Khánh cả thảy là 12 người làm điền tuấn quan để khuyên nhủ quân dân cố sức làm ruộng. Từ lính phủ binh cho đến người cùng cố đều bắt phải làm ruộng cả. Hễ ai không chịu thì bắt phải làm lính để thay cho phủ binh. [162]

Đến mùa lúa chín, thì cứ mỗi người cày ruộng đồng bằng phải nộp 100 cơ 135 , mà ai cày ruộng núi thì phải nộp 60 cơ trở lên. Ai nộp đủ lệ ấy, như phủ binh thì được miễn cho một năm không phải đi đánh giặc, mà dân đinh thì được miễn cho một năm giao dịch. Ai không nộp đủ thì không được dự vào lệ miễn ấy.

Lại mộ những dân ở các nơi đến làm ruộng, gọi là điền tốt. Quan điền tuấn lấy ruộng đất bỏ hoang cấp cho để cày cấy. Ai không có đủ trâu bò mà cày bừa, thì quan cũng cấp cho, rồi đến mùa phải trả bằng thóc.

Nguyễn Vương lại phát trâu bò và điền khí cho quân dân, bắt đi khai khẩn những nơi rừng núi để làm ruộng gọi là đồn điền, rồi đến mùa lấy thóc để vào kho, gọi là đồn điền khố.

Các quan văn võ đều phải mộ người lập thành đội, gọi là đồn điền đội, mỗi năm mỗi người phải nộp 6 hộc thóc. Còn dân mà ai mộ được 10 người trở lên, thì cho làm cai trại và được trừ sưu tịch.

Cách Nguyễn Vương khai khẩn đất Gia Định thật là khôn khéo, khiến cho đất Nam Việt trước là một chỗ đất bỏ hoang, không có người ở, mà sau thành ra một nơi rất đông người và rất trù phú trong nước Nam ta. Ấy cũng là một cái công lớn của ông Nguyễn Phúc Ánh vậy.

5. Việc Buôn Bán.

Nguyễn Vương lập lệ: phàm những thuyền của khác mà có chỡ những đồ gang, sắt, kẽm và lưu hoàng, thì quan mua để làm binh khí, và cho cứ theo số hàng nhiều ít, được chở thóc gạo về nước. Bởi vậy những khách buôn bán cũng vui lòng đem đồ hàng đến bán. Vương lại sai quan ở doanh Trấn Biên cứ theo giá chợ mà mua lấy đường cát để đổi cho những người Tây Dương mà lấy đồ binh khí.

6. Ông Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh ở Pháp về.

Từ mùa đông năm giáp thìn (1784), ông Bá Đa Lộc đem Hoàng Tử Cảnh cùng với Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Khiêm xuống tàu sang Tây; đi qua Ấn Độ Dương và thành Phong ti thê ri (Pondichéry) đất Ấn Độ, ở lại gần 20 tháng, rồi đến mùa xuân năm đinh mùi (1787), thì chiếc tàu chở ông Bá Đa Lộc mới vào cửa Lorient ở phía tây nước Pháp Lan Tây.

Ông Bá Đa Lộc đưa Hoàng Tử Cảnh vào yết kiến Pháp Hoàng Louis XVI. Pháp Hoàng lấy vương lễ tiếp đãi Hoàng Tử, và giao cho thượng thư [135]

Mỗi một cơ là 42 bát. ngoại giao bộ là De Montmorin Bá Tước, thương nghị với ông Bá Đa Lộc việc sang giúp Nguyễn Vương.

Đến ngày 28 tháng 11 năm 1787 thì ông Bá Đa Lộc và De Montmorin bá tước ký tờ giao ước, đại lược nói rằng:

1. Vua nước Pháp thuận giúp cho Nguyễn Vương 4 chiếc tàu chiến và một đạo binh: 1.200 lục quân, 200 pháo binh, 250 hắc binh ở Phi Châu (Cafres) và đủ các thứ súng ống thuốc đạn.

2. Vì vua nước Pháp có lòng giúp như thế, Nguyễn Vương phải nhường đứt cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo) và đảo Côn Lôn (Poulo-Condore).

3. Nguyễn Vương phải để cho người nước Pháp ra vào buôn bán tự do ở trong nước, ngoại giả không cho người nước nào ở Âu Châu sang buôn bán ở nước Nam nữa.

4. Khi nào nước Pháp có cần đến lính thủy, lính bộ, lương thực, tàu bè ở phương đông, thì Nguyễn Vương phải ứng biện cho đủ giúp nước Pháp.

5. Khi Nguyễn Vương đã khôi phục được nước rồi, thì phải cứ mỗi năm làm một chiếc tàu, y như tàu của nước Pháp đã cho sang giúp, để đem sang trả cho Pháp Hoàng [136] .

Tờ giao ước ký xong rồi, Pháp Hoàng xuống chiếu giao cho quan tổng trấn thành Pondichéry ở đất Ấn Độ, tên là De Conway bá tước, kinh lý việc sang giúp Nguyễn Vương.

Ngày mồng 8 tháng chạp tây, năm 1787, ông Bá Đa Lộc vào bái tạ Pháp Hoàng Louis XVI, rồi đem Hoàng Tử Cảnh xuống tàu về nước Nam. Nhưng đến khi sang tới thành Pondichéry, vì De Conway bá tước có chuyện bất hòa với ông Bá Đa Lộc, cho nên bá tước mới tìm cách ngăn trở việc giúp Nguyễn Vương, rồi làm sớ về tâu Pháp Hoàng xin bãi việc ấy đi, lấy cớ rằng sự đem binh sang cứu viện Nguyễn Vương là việc rất khó mà không có lợi gì.

Pháp Đình thấy sớ của De Conway bá tước nói như vậy cũng lấy làm nản; vả lại lúc bấy giờ chính phủ còn đang bối rối về việc trong nước dân cách mệnh đã rục rịch cả mọi nơi, cho nên bỏ việc ấy không nói đến nữa.

Ấy cũng vì có De Conway bá tước, cho nên việc sang cứu viện Nguyễn Vương không thành, bởi vậy sau ông Faure chép truyện ông Bá Đa [136]

Tờ giao ước này hiện còn ở Ngoại Giao Bộ ở Paris, và đã biên rõ ở sách ông Gosselin [163] Lộc, có tiếc rằng: “Ví bằng lúc bấy giờ chính phủ nước Pháp mà sẵn lòng giúp ông Bá Đa Lộc, thì có lẽ ông ấy đã lập nên cho nước Pháp thành cuộc bảo hộ ở An Nam ngay từ cuối đời thập bát thế kỷ, khiến cho về sau khỏi phải dùng đến sự chiến tranh mới xong công việc”.

Ông Bá Đa Lộc thấy De Conway bá tước không chịu xuất binh thuyền, bèn đứng lên đi mộ người, mua tàu và súng ống khí giới để đem sang giúp Nguyễn Vương.

Đến tháng 6 năm kỷ dậu (1789), ông Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đi chiếc tàu chiến Méduse về đến Gia Định. Các tàu buôn chở súng ống thuốc đạn cũng lục tục sang sau.

Bấy giờ những người Pháp tên là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng), túc là chúa tàu Long, Vannnier, (Nguyễn Văn Chấn), tức là chúa tàu Phụng, De Forcant (Lê Văn Lăng), Victor Ollivier (ông Tín), Dayot v.v… cả thảy đến non 20 người theo ông Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn Vương; vương phong quan tước cho cả mọi người để luyện tập quân sĩ, làm tàu, đúc súng, và chỉnh đốn mọi việc vũ bị.

Từ đó, thế lực của Nguyễn Vương mỗi ngày một mạnh, tướng tá mỗi ngày một đông, lương thực nhiều, quân sĩ giỏi, việc đánh phá Tây Sơn đã chắc lắm rồi.

Tháng tư năm tân hợi (1791), bà thứ phi sinh ra hoàng tử thứ tư lên là Đảm, tức là vua Thánh Tổ ở làng Tân Lộc, gần Sài Gòn bây giờ. Đến tháng ba năm quý sửu (1793), thì vương lập hoàng tử Cảnh làm Đông Cung, phong chức nguyên súy, lĩnh tả quân doanh.

7. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Nhất.

Nguyễn Vương đã khôi phục được đất Gia Định rồi, nghỉ ngơi hơn một năm để chỉnh đốn mọi việc. Đến tháng tư năm canh tuấn (1790) mới sai quan chưởng tiền quân là Lê Văn Câu đem 5.000 quân thủy và quân bộ ra đánh lấy Bình Thuận, sai Võ Tính và Nguyễn Văn Thành đem quân đi làm tiên phong. Chẳng bao lâu nhà Nguyễn lấy được đất Phan Rí và hạ được thành Bình Thuận. Nhưng vì Lê Văn Câu và Võ Tính hai người không chịu nhau, Nguyễn Vương bèn lưu Lê Văn Câu ở lại giữ Phan Rí, triệu Võ Tính và Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Lê Văn Câu đem quân ra đóng ở Phan Rang bị quân Tây Sơn đến vây đánh, phải cho người đi gọi Võ Tính và Nguyễn Văn Thành trở lại cứu, nhưng Võ Tính không chịu trở lại, chỉ có Nguyễn Văn Thành đưa binh đến đánh giải vây rồi cùng Lê Văn Câu về giữ Phan Rí.

Lê Văn Câu lấy điều bại binh ấy làm thẹn, xưng bệnh không ra coi việc binh nữa. Đến khi về Gia Định nghị tội phải cách hết chức tước, Lê Văn Câu uống thuốc độc tự tử [137] .

Quân nhà Nguyễn ra đánh Tây Sơn lần ấy không lợi; vả bấy giờ là mùa tháng 7, gió bắc thổi mạnh, cho nên Nguyễn Vương truyền rút quân về Gia Định để đợi mùa gió thuận thì mới đem quân đi đánh nhau, cho nên người đời bấy giờ gọi là giặc mùa.

Năm nhâm tí (1792) tháng ba, nhân khi mùa gió nam thổi mạnh, Nguyễn Vương sai tướng là Nguyễn Văn Trương cùng với Nguyễn Văn Thành, Dayot và Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại của Tây Sơn ở cửa Thị Nại (cửa Quy Nhơn) rồi lại về.

Tháng ba năm quý sửu (1793) Nguyễn Vương để Đông Cung ở lại giữ đất Gia Định, sai Tôn Thất Hội cùng Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ra đánh Phan Rí. Nguyễn Vương cùng với Nguyễn Văn Trương và Võ Tính đem thủy sư đi đánh mặt bể. Đến tháng năm thì chiến thuyền của Nguyễn Vương vào cửa bể Nha Trang rồi lên đánh lấy phủ Diên Khánh và phủ Bình Khang, sau lại ra đánh lấy phủ Phú Yên.

Mặt thủy, Nguyễn Vương được toàn thắng, còn mặt bộ, thì Tôn Thất Hội chỉ lấy được phủ Bình Thuận mà thôi. Vương bèn sai người đưa thư giục Tôn Thất Hội phải kíp tiến binh lên hội với thủy sư, để hai mặt cùng ra đánh Quy Nhơn.

Khi quân của Nguyễn Vương vào cửa Thị Nại, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sai thái tử là Nguyễn Bải, đem binh ra chống giữ. Nguyễn Vương bèn mật sai Võ Tính đem binh lẻn đi hội với toán quân Tôn Thất Hội và Nguyễn Văn Thành để đánh tập hậu. Quân của Nguyễn Bảo bị hai mặt đánh lại, chống không nổi, phải bỏ chạy về Quy Nhơn. Từ đó quân thủy và quân bộ của Nguyễn Vương tương thông được với nhau. Vương bèn sai Tôn Thất Hội, Võ Tính, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành đem binh tiến lên đánh thành Quy Nhơn.

Nguyễn Nhạc phải sai người ra cầu cứu ở Phú Xuân.

Bấy giờ vua Quang Trung đã mất rồi, vua Cảnh Thịnh, tức là Nguyễn Quang Toản, sai quan thái úy là Phạm Công Hưng, quan hộ giá là Nguyễn [137]

Lê Văn Câu là một người công thần đã theo phò Nguyễn chủ trong lúc gian nan, nay cũng bất đắc kỳ tử. 164 Văn Huấn, quan đại tư lệ là Lê Trung và quan đại tự mã là Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh và 80 con voi đi đường bộ, và sai quan đại thống lĩnh là Đặng Văn Chân đem hơn 30 chiếc thuyền đi đường bể, cả hai đạo cùng tiến vào cứu Quy Nhơn.

Nguyễn Vương thấy viện binh đã đến, liệu thế chống không nổi, rút quân về Diên Khánh (tức là Khánh Hòa bây giờ) rồi về Gia Định. Để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh, Nguyễn Huỳnh Đức ở lại giữ Bình Thuận.

Đến tháng 11, Nguyễn Vương lại sai Đông Cung Cảnh và ông Bá Đa Lộc, Phạm Văn Nhân, Tống Phúc Khê ra giữ thành Diên Khánh.

8. Thế Lực Tây Sơn.

Bọn Phạm Công Hưng giải được vây rồi, kéo quân vào thành Quy Nhơn, chiếm giữ lấy thành trì và tịch biên cả các kho tàng.

Nguyễn Nhạc thấy vậy, tức giận đến nỗI thổ huyết ra mà chết. Ông làm vua được 16 năm.

Vua Cảnh Thịnh ở Phú Xuân thấy Nguyễn Nhạc mất rồi, phong cho Nguyễn Bảo làm Hiến Công, cho ăn lộc một huyện, gọi là tiểu triều rồi để Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại giữ thành Quy Nhơn.

Từ đó các tướng Tây Sơn mới hoạt động hơn trước. Tháng ba năm giáp dần (1794) Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh vào đánh Phú Yên, và Trần Quang Diệu vào vây thành Diên Khánh.

Đông Cung Cảnh cho người về Gia Định cầu viện, NguyễN Vương bèn đem đại binh đến đánh giải vây. Trần Quang Diệu rút quân về.

Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn còn mạnh và lại đến mùa gió bắc, cho nên vương đem Đông Cung về Gia Định; để Võ Tính ở lại giữ thành Diên Khánh.

Tháng giêng năm ất mão (1795) Trần Quang Diệu lại đem quân vào đánh Diên Khánh, Võ Tính hết sức chống giữ, Quang Diệu đánh mãi không được. Đến tháng hai, Nguyễn Vương để Đông Cung ở lại giữ Gia Định, đem thủy sư ra cứu Diên Khánh.

Trong khi hai bên còn đang chống giữ nhau ở đất Diên Khánh, thì ở Phú Xuân các quan đại thần nhà Tây Sơn giết hại lẫn nhau, gây thành mối loạn.

Nguyên từ khi vua Quang Trung mất rồi, vua Cảnh Thịnh lên ngôi, nhưng quyền về cả Thái sư Bùi Đắc Tuyên, các quan có nhiều người oán giận. Năm ất mão (1795) Bùi Đắc Tuyên sai Ngô Văn Sở ra Bắc hà thay cho Vũ Văn Dũng. Văn Dũng về Phú Xuân, đi đến trạm Hoàng Giang 138

gặp quan trung thư lệnh là Trần Văn Kỷ phải tội đày ra ở đấy. Văn Kỷ nhân đang căm tức Bùi Đắc Tuyên, bèn xui Vũ Văn Dũng rằng: “Thái sư ngôi trùm cả nhân thần, cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết; nếu mà không sớm trừ đi, thì rồi có chuyện bất lợi cho nhà nước. Ông nên liệu sớm đi”.

Vũ Văn Dũng xưa nay vẫn tin trọng Văn Kỷ, nay thấy nói như vậy, bèn nghe lời ấy, về mưu với Phạm Công Hưng và Nguyễn Văn Huấn, lừa đến đêm đem quân vây nhà Bùi Đắc Tuyên bắt bỏ ngục, rồi sai Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn bắt con Đắc Tuyên là Bùi Đắc Trụ, và cho người đưa thư ra Bắc Hà truyền cho quan tiết chết là Nguyễn Quang Thùy (em Nguyễn Quang Toản) bắt giải Ngô Văn Sở về Phú Xuân.

Bọn Vũ Văn Dũng bèn đặt chuyện ra vu cho nhữNg người ấy làm phản, đem dìm xuống sông giết đi. Vua Cảnh Thịnh không sao ngăn giữ được, chỉ gạt nước mắt khóc thầm mà thôi.

Lúc bấy giờ Trần Quang Diệu đang vây thành Diên Khánh, nghe tin ấy, thất kinh, nói với các tướng rằng: “Chúa thượng không phải là người cứng cỏi, để cho đại thần giết lẫn nhau. Nếu trong mà không yên, thì ngoài đánh người ta thế nào được?”

Quang Diệu bèn giải vây rút quân về. Khi về đến Quy Nhơn, Nguyễn Văn Huấn đến tạ tội trước. Trần Quang Diệu không hỏi đến, rồi dẫn quân về đến làng An cựu đóng bên bờ sông mé nam.

Vũ Văn Dũng cùng với nội hậu Tứ cũng đem quân bản bộ ra đóng ở mé bắc bờ sông, ỷ mệnh vua ra cự nhau với Trần Quang Diệu.

Vua Cảnh Thịnh sợ hãi sai quan ra khuyên giải cả hai bên, Trần Quang Diệu mới đem các tướng vào chầu, rồi với bọn Vũ Văn Dũng giảng hòa.

Từ đó Trần Quang Diệu làm thiếu phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiếu bảo, Vũ Văn Dũng làm đại tư đồ, Nguyễn Văn Danh (hay là Nguyễn Văn Tứ) làm đại tư mã, gọi là tứ trụ đại thần. Nhưng chẳng được bao lâu có người

138

Có nơi chép là trạm Hán Xuyên 165 gièm pha, Trần Quang Diệu bị thu hết cả binh quyền, chỉ được giữ chức tại trièu mà thôi. Thế lực Tây Sơn từ đấy về sau mỗi ngày một kém: trên vua thì còn nhỏ dại, không có đủ uy quyền để sai khiến các quan, dưới tướng tá thì vì lòng ghen ghét rồi cứ tìm cách mà giết hại lẫn nhau. Bởi vậy cho nên đến khi quân Nguyễn Vương ở Nam ra đánh, chẳng phải mất bao nhiêu công phu mà lập nên công lớn vậy.

9. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Hai.

Từ khi quân của Trần Quang Diệu giải vây Diên Khánh về Phú Xuân rồi, Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định sửa soạn việc quân lương, và sai người đi do thám mọi nơi để chiêu mộ người về đánh Tây Sơn.

Đến năm đinh tị (1797) Nguyễn Vương để Tôn Thất Hội ở lại giữ Gia Định, rồi cùng Đông Cung Cảnh đem binh thuyền ra đánh Quy Nhơn. Lại sai Nguyễn Văn Thành và Võ Tính ra đánh Phú Yên.

Quân thủy của Nguyễn Vương ra đến Quy Nhơn, thấy Tây Sơn đã phòng bị, liệu đánh không đổ được, Nguyễn Vương bèn ra đánh Quảng Nam. Được vài tháng quân nhu không đủ, lại phải đem quân về Gia Định, sai Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở lại giữ thành Diên Khánh.

10. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Ba.

Nguyễn Vương về Gia Định rồi, một mặt sai Nguyễn Văn Thụy sang Tiêm La xin với quốc vương nước ấy đem quân đi đường Vạn Tượng, hoặc sang đánh Thuận Hóa, hoặc sang đánh Nghệ An, để chận đường quân ở Bắc hà vào. Một mặt sai quan binh bộ tham tri là Ngô Nhân Tĩnh sang sứ nhà Thanh, để do thám mọi việc.

Năm mậu ngọ (1798) Tiểu triều là Nguyễn Bảo căm tức vua Cảnh Thịnh là Nguyễn Quang Toản chiếm giữ mất đất Quy Nhơn, bèn định bỏ về hàng Nguyễn Triều. Vua Cảnh Thịnh biết mưu ấy, sai tướng vào bắt Nguyễn Bảo đưa về dìm xuống sông giết đi.

Lại có người nói gièm rằng việc Tiểu Triều làm phản là tại quan trấn thủ Lê Trung. Vua Cảnh Thịnh triệu Lê Trung về Phú Xuân, sai võ sĩ bắt chém đi. Được ít lâu quan thiếu phó Nguyễn Văn Huấn cũng bị giết. Từ đó quân Tây Sơn ai cũng nản lòng, có nhiều người bỏ theo về Nguyễn Vương.

Bấy giờ có người con rễ Lê Trung là Lê Chất vốn là người đánh trận giỏi có tiếng, quan làm đến chức đại đô đốc; đến khi thấy vua Tây Sơn hay nghi kỵ mà giết hại các công thần như vậy, bèn bỏ trốn sang hàng nhà Nguyễn. Nguyễn Vương trọng dụng cho làm chức Tướng Quân.

Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn đã suy nhược, đến tháng ba năm kỷ mùi (1799) bèn củ đại binh ra đánh Quy Nhơn. Đến tháng tư thủy quân của Nguyễn Vương vào cửa Thị Nại, rồi Nguyễn Vương sai quan hậu quân Võ Tính, hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức đem quân lên bộ đóng ở Trúc Khê. Ngay lúc bấy giờ quan Khâm sai tiền quân chưởng cơ Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ra đánh lấy Phú Yên, rồi tiến quân lên tiếp ứng cho toán quân Võ Tính.

Đến tháng năm, thì quân của Nguyễn Vương đến vây thành Quy Nhơn. Ở Phú Xuân sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đm binh vào cứu. Nhưng mà vào đến Quảng Nghĩa gặp quân của Nguyễn Văn Thành giữ ở Thạch Tân, cho nên không cứu được Quy Nhơn.

Sử chép rằng khi đạo quân của Vũ Văn Dũng vào đến Chung Xá, đóng lại ở đấy, đến đêm có con nai ở trong rừng chạy ra, có người trông thấy kêu to lên rằng: Con nai! Quân Tây Sơn nghe lầm là quân Đồng Nai! Mọi người luống cuống bỏ chạy. Các quân đội Tây Sơn tưởng là quân nhà Nguyễn đã vây đánh, đều vỡ tan cả. Quân nhà Nguyễn thừa thế đánh đuổi, thành ra quân Tây Sơn thua to.

Quan trấn thủ Quy Nhơn là Lê Văn Thanh không thấy viện binh đến, mà lương thực ở trong thành thì hết cả, bèn cùng các tướng mở cửa ra hàng. Nguyễn Vương đem quân vào thành rồi đổi tên Quy Nhơn gọi là Bình Định.

Vua Tây Sơn được tin Quy Nhơn thất thủ, liền cử đại binh vào đóng ở Trà Khúc (thuộc Quảng Nghĩa) để đốc các tướng tiến binh đánh quân nhà Nguyễn. Nhưng vì phải độ trái mùa gió, thủy chiến không tiện, cho nên các quan đều can xin rút quân về. Vua Cảnh Thịnh bèn sai Nguyễn Văn Giáp ở lại giữ Trà Khúc, sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng giữ Quảng Nam.

Nguyễn Vương cũng đem quân về Gia Định, để Võ Tính và Ngô Tòng Chu ở lại giữ thành Bình Định. Năm ấy (1899) ông Bá Đa Lộc đi tòng chinh, mất ở cửa Thị Nại. Nguyễn Vương đem về hậu táng ở Gia Định, tặng phong làm Thái Tử Thái Phó Bi Nhu Quận Công.

11. Quân Tây Sơn Vây Thành Bình Định.

Khi quân nhà Nguyễn ra vây đánh thành Quy Nhơn, vua Tây Sơn sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu, nhưng vì quân cuả Văn Dũng không đánh 166 mà tan, đến nỗi bại binh. Việc ấy là tội Văn Dũng, nhưng nhờ có Quang Diệu giấu đi, cho nên không ai biết. Văn Dũng cảm ơn ấy, cho nên mới kết nghĩa sinh tử với Quang Diệu.

Bấy giờ ở Phú Xuân có nhiều người ghét Quang Diệu, nhân dịp ấy mà đổ tội cho Quang Diệu, bèn tâu vua xin sai người đưa mật thư ra cho Vũ Văn Dũng để giết Quang Diệu. Vũ Văn Dũng tiếp được thư ấy đưa cho Trần Quang Diệu xem. Trần Quang Diệu sợ hãi, lập tức đem quân về Phú Xuân, đóng ở mé nam sông Hương Giang, nói rằng về bắt những người loạn thần. Vua Tây Sơn sai người ra giảng hòa. Không ai dám đi, sau phải bắt mấy người nộp cho Quang Diệu. Quang Diệu mới vào chầu. Vua Cảnh Thịnh cũng tìm lời giảng dụ, khuyên phải hết sức giúp đỡ nhà nước.

Quang Diệu khóc lạy rồi xin cùng Văn Dũng đem thủy bộ quân vào lấy lại thành Quy Nhơn.

Đến tháng giêng năm canh thân (1800), quân của Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng tiến đến gần thành Quy Nhơn. Võ Tính giữ vững, không ra đánh. Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành và chia quân ra vây bốn mặt. Văn Dũng thì đem hai chiếc tàu lớn và hơn 100 chiến thuyền ra đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn và đặt súng đại bác ở hai bên cửa bể, để phòng ngự thủy quân nhà Nguyễn.

Nguyễn Vương được tin quân Tây Sơn ra vây thành Bình Định, liền cử đại binh ra cứu viện, sai Nguyễn Văn Thành đem Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tiến Bảo, chia ra làm ba đạo ra đánh lấy đồn Hội An ở Phú Yên, rồi kéo ra đánh ở Thị Dã (thuộc Bình Định). Nguyễn Vương đem thủy binh ra đến Quy Nhơn đóng thuyền ở ngoài cửa Thị Nại. Bấy giờ quân bộ của Nguyễn Văn Thành và quân thủy của Nguyễn Vương không thông được với nhau, cho nên sự cứu viện không có công hiệu gì cả.

Đến tháng giêng năm tân dậu (1801), Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đem quân tiền đạo đến đánh đồn thủy của Tây Sơn, và sai Lê Văn Duyệt, Vũ Di Nguy đem thủy quân vào đánh cửa Thị Nại. Vũ Di Nguy trúng đạn chết, còn Lê Văn Duyệt ra sức xông đột, đốt được cả tàu và thuyền của Tây Sơn.

Tướng Tây Sơn là Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thị Nại đem binh về hợp với Trần Quang Diệu để phòng giữ mọi nơi.

Nguyễn Vương lấy được cửa Thị Nại rồi, cho người đưa tin về Gia Định báo cho tướng sĩ các nơi đều biết.

Năm ấy Đông Cung Cảnh lên đậu, mất ở Gia Định, thọ được 22 tuổi. Được một tháng hoàng tử thứ hai tên là Hi cũng mất ở Diên Khánh, đem về táng ở Gia Định.

12. Nguyễn Vương Thu Phục Phú Xuân.

Nguyễn Vương đánh được trận thủy ở Thị Nại rồi, bèn sai Nguyễn Văn Trương đem thủy quân ra đánh Quảng Nam, Quảng Nghĩa, và lại thấy quân Tây Sơn vây thành Quy Nhơn một cách cẩn mật lắm, đánh phá không được. Vương cho người lẻn vào thành bảo Võ Tính và Ngô Tòng Chu bỏ thành mà ra. Nhưng Võ Tính phúc thư lại rằng: quân tinh binh của Tây Sơn ở cả Quy Nhơn, vậy xin đừng lo việc giải vây vội, hãy nên kíp ra đánh lấy Phú Xuân thì hơn.

Nguyễn Vương bèn để Nguyễn Văn Thành ở lại chống giữ với Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, rồi đem đại quân ra đánh Phú Xuân.

Bấy giờ nhà Tây Sơn cũng bối rối lắm: ở Nghệ An thì có tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đem quân Vạn Tượng sang đánh phá; ở Thanh Hóa thì có phiên thần là Hà Công Thái khởi binh giúp nhà Nguyễn; ở Hưng Hóa thì có thổ ti là Phan Bá Phụng nổi lên quấy nhiễu. Còn các trấn ở Bắc Hà thì rối vì những việc tông giáo; các đạo trưởng và đạo đồ đạo Thiên Chúa cũng nổi lên, có ý giúp nhà Nguyễn; dân tình thì bị quan quân nhũng lạm hà hiếp, ai ai cũng có lòng oán giận. Ở Phú Xuân, vua thì hèn, các quan đại thần thì cứ ghen ghét nhau rồi tìm kế giết hại lẫn nhau, việc chính trị không sửa sang gì cả. Bởi vậy nhân dân đều mong mỏi chúa Nguyễn, cho nên có câu hát rằng: “Lạy trời cho chóng gió nồm, để cho chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra”.

Nguyễn Vương thấy lòng người đã không theo Tây Sơn nữa, bèn đem binh ra đánh Phú Xuân, đến tháng năm (1801), thủy sư vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn là phò mã Nguyễn Văn Trị đem quân ra lập đồn giữ ở núi Quy Sơn. Tiền quân nhà Nguyễn đánh không được. Nguyễn Vương sai Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem thủy binh ra đánh tập hậu. Nguyễn Văn Trị bỏ đồn mà chạy. Quân Nguyễn Vương vào cửa Nguyễn Hải (cửa Thuận An) rồi kéo lên đánh thành Phú Xuân. Vua Tây Sơn phải ngự giá đem quân ra chống giữ, hai bên đánh nhau đến giữa trưa, thì quân Tây Sơn vỡ tan. Quân Nguyễn Vương tiến lên đuổi đánh, thu phục được đô thành. Bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 5 năm tân dậu (1801).

Nguyễn Vương vào thành Phú Xuân treo biển yên dân, rồi sai Lê Chất đem bộ binh đuổi đánh quân Tây Sơn, sai Nguyễn Văn Trương đem thủy binh ra chặn ở Linh Giang, để đánh quân Tây Sơn chạy ra Bắc. Lại sai Phạm Văn Nhân ra giữ cửa Nguyễn Hải, sai Lưu Phúc Tường đem quân đi 167 đường Cam Lộ sang Vạn Tượng truyền bảo các Mường giữ đường yếu lộ không cho quân Tây Sơn chạy tràn sang.

13. Võ Tính Tử Tiết.

Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đang vây đánh thành Quy Nhơn, được tin Phú Xuân thất thủ, liền sai tướng đem quân ra cứu, nhưng ra đến Quảng Nam, gặp quân của Lê Văn Duyệt kéo vào đánh chặn đường, quân Tây Sơn phải lùi trở lại. Từ đó Trần Quang Diệu ngày đêm hết sức đốc quân đánh thành. Quân Nguyễn Vương ở trong thành hết cả lương thực, không thể chống giữ được nữa, quan trấn thủ là Võ Tính bèn viết thư sai người đưa ra cho Trần Quang Diệu nói rằng: “Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành liều chết ở dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại”.

Đoạn rồi sai người lấy rơm cỏ chất ở dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào tự đốt mà chết. Quan hiệp trấn là Ngô Tùng Chu cũng uống thuốc độc tự tử.

Trần Quang Diệu vào thành Quy Nhơn tha cho cả bọn tướng sĩ và sai làm lễ liệm táng Võ Tính và Ngô Tòng Chu, rồi sai đại đô đốc Trương Phúc Thượng và tư khấu Định, đem binh đi đường thượng đạo ra đánh Phú Xuân. Đi được nửa đường thì quân hết lương. Trương Phúc Thượng về hàng nhà Nguyễn, còn tư khấu Định thì đánh thua chạy vào chết ở trong Mường. Trần Quang Diệu lại sai Lê Văn Điềm vào đánh Phú Yên, cũng không được.

Bấy giờ Trần Quang Diệu tuy đã lấy được thành Quy Nhơn, nhưng một mặt thì có quân của Lê Văn Duyệt và Lê Chất ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa đánh vào, một mặt thì quân của Nguyễn Văn Thành ở cửa Thị Nại đánh lên, còn ở phía nam, lại có quân của Tống Viết Phúc và Nguyễn Văn Tính ở Phú Yên đánh ra. Ba mặt thụ địch, quân Tây Sơn phải hết sức chống giữ, để chờ quân ở Bắc Hà vào cứu viện.

11. Trận Trấn Ninh.

Từ khi thất thủ Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh ngày đêm kíp ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng và truyền hịch đi các trấn để lấy viện binh rồi sai em là Nguyễn Quang Thùy đem binh mã vào giữ Nghệ An. Đến tháng 11, vua Tây Sơn đem quân 4 trấn ở xứ Bắc và quân Thanh Hóa, Nghệ An, cả thảy được non 3 vạn người, sang sông Linh Giang. Lại sai tướng đem hơn 100 chiếc chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ. Bấy giờ có vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân cũng đem 5.000 thủ hạ đi tòng chinh.

Quan Chưởng Trung Quân Bình Tây Đại Tướng Quân Nguyễn Văn Trương, cùng với Tống Phúc Lương, Đặng Trần Thương giữ ở Linh Giang, thấy quân Tây Sơn thế mạnh phải lui về giữ Đồng Hới. Nguyễn Vương được tin ấy, liền thân chinh đem đại binh ra tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường đem quân ra giữ mặt bộ, sai Nguyễn Văn Trương ra giữ mặt bể.

Tháng giêng năm nhâm tuất (1802), vua Tây Sơn sai Nguyễn Quang Thùy tiến quân lên đánh lũy Trấn Ninh; đánh mãi không đổ. Vua Tây Sơn đã toan rút quân về, nhưng Bùi Thị Xuân không chịu, xin cho ra đốc quân đánh trận. Đánh từ sáng sớm đến chiều tối, chưa bên nào được thua. Bỗng có tin rằng thủy quân của Tây Sơn ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới) đã bị Nguyễn Văn Trương phá tan cả. Quân Tây Sơn khiếp sợ bỏ chạy, tướng là Nguyễn Văn Kiên về hàng nhà Nguyễn.

Vua Tây Sơn đem tàn quân chạy về Bắc, để Nguyễn Văn Thận ở lại giữ Nghệ An.

Nguyễn Vương phá được quân Tây Sơn ở thành Trấn Ninh rồi đem quân về Phú Xuân, để trung quân Nguyễn Văn Trương giữ Đồng Hới, để Tống Phúc Lương và Đặng Trần Thường giữ Linh Giang.

Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ở Quy Nhơn được tin quân Tây Sơn thua ở Trấn Ninh, liệu chống không nổi, bèn đến tháng 3 năm nhâm tuất (1802) bỏ thành Quy Nhơn, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, để hội với vua Tây Sơn mà lo sự chống giữ.

15. Nguyễn Vương Lên Ngôi Tôn.

Nguyễn Vương từ khi khởi binh ở Gia Định tuy đã xưng vương, nhưng vẫn theo các chúa đời trước không đặt niên hiệu. Đến nay khôi phục được Phú Xuân, thanh thế lừng lẫy, bắc phá đại quân của Tây Sơn, nam lấy lại thành Quy Nhơn; đất An Nam bấy giờ từ sông Linh Giang vào đến Gia Định lại thuộc về nhà Nguyễn như trước. Các quan thân thuộc đều xin Nguyễn Vương đặt niên hiệu và lên ngôi tôn.

Tháng 5 năm nhâm tuất (1802) ngài lập đàn tế cáo trời đất, rồi thiết triều để các quan chầu mừng, và đặt niên hiệu là Gia Long nguyên niên.

16. Quân Nam Ra Lấy Bắc Hà.

Nguyễn Vương đã lên ngôi làm vua rồi, sai Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tĩnh đem các đồ phẩm vật và những ấn sách của nhà Thanh phong cho Tây Sơn sang nộp cho Thanh Triều và xin phong. Ngài lại định ngự giá đi đánh Bắc Hà, bèn sai Nguyễn Văn 168 Trương lĩnh thủy binh, Lê Văn Duyệt và Lê Chất lĩnh bộ binh, hai mặt thủy bộ cùng tiến.

Tháng 6, thì quân bộ sang sông Linh Giang tiến lên đóng ở Hà Trung, quân thủy vào cửa Hội Thống rồi lên đánh phá các đồn lũy của Tây Sơn. Quan Trấn Thủ Nghệ An là Nguyễn Văn Thận bỏ thành chạy ra giữ đồn Tiền Lý ở Diễn Châu.

Bấy giờ Trần Quang Diệu đi đường Ai Lao ra đến châu Quý Hợp, xuống huyện Hương Sơn thấy quân nhà Nguyễn đã lấy được Nghệ An rồi, bèn cùng với Bùi Thị Xuân về huyện Thanh Chương, bao nhiêu quân sĩ đều bỏ cả, được mấy hôm hai vợ chồng cùng bị bắt. Còn Vũ Văn Dũng chạy ra đến Nông Cống cũng bị dân bắt được đem nộp.

Quân Nguyễn Triều kéo tràn ra lấy Thanh Hóa, đi đến đâu quân Tây Sơn chưa đánh đã tan, chỉ trong một tháng đã ra đến Thăng Long.

Vua Tây Sơn thấy thế mình không chống giữ được nữa, bèn cùng với các em là Nguyễn Quang Thùy, Nguyễn Quang Thiệu, và mấy người bề tôi là bọn đô đốc Tú, và Nguyễn Văn Tứ sang sông Nhị Hà chạy về phía Bắc, nhưng lên đến địa hạt Phượng Nhỡn, bị dân ở đấy bắt được. Nguyễn Quang Thùy tự tử, đô đốc Tú và vợ cũng tự vẫn. Còn vua tôi nhà Tây Sơn mấy người đều bị đóng cũi đem về nộp ở Thăng Long.

Nhà Tây Sơn khởi đầu từ năm mậu tuất (1778), Nguyễn Nhạc xưng đế ở Quy Nhơn, đến năm Nhâm Tuất (1802), cả thảy được 24 năm. Nhưng Nguyễn Nhạc chỉ làm vua từ đất Quảng Nam, Quảng Nghĩa trở vào mà thôi, còn từ Phú Xuân trở ra, thì thuộc về nhà Lê. Đến năm mậu thân (1788), vua Quang Trung xưng đế hiệu, rồi ra đánh giặc Thanh, lấy lại đất Bắc Hà, sửa đổi việc chính trị. Từ đó nước Nam mới thuộc về nhà Nguyễn Tây Sơn.

Vậy kể từ năm mậu thân (1788) đến năm nhâm tuất (1802) thì nhà Tây Sơn chỉ làm vua được có 14 năm mà thôi.

Trong bấy nhiêu năm phải đánh nam dẹp bắc luôn, không mấy lúc nghỉ việc chiến tranh, cho nên nhà Tây Sơn không sửa sang được việc gì. Vả sau khi vua Quang Trung mất rồi, vua thì hèn, quan thì nhũng, chính trị bỏ nát, lòng người oán giận, ai cũng mong mỏi được thời thịnh trị để yên nghiệp mà làm ăn. Bởi vậy cho nên khi vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn cất quân ra Bắc, lòng người theo phục, chỉ một tháng trời mà bình được đất Bắc Hà, đem giang sơn về một mối, nam bắc một nhà, làm cho nước ta thành một nước lớn ở phương nam vậy.

169

PHẦN V

Cận Kim Thời-Đại

Nhà Nguyễn (1802-1945)

CHƯƠNG I

Thế Tổ (1802-1819) Niên hiệu: Gia Long

26. Thế Tổ xưng đế hiệu 27. Việc triều chính 28. Binh chế 29. Việc tài chánh 30. Công vụ 31. Pháp luật 32. Việc học hành 33. Việc giao thiệp với nước Tàu 34. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La 35. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao 36. Việc giao thiệp với nước Pháp Lang Tây 37. Sự giết hại công thần 38. Xét công việc của vua Thái Tổ

1. Thế Tổ xưng đế hiệu.

Thế tổ khởi binh chống nhau với Tây Sơn ở đất Gia Định từ năm mậu tuất (1778), kể vừa 24 năm, mới dứt được nhà Tây Sơn, thu phục được giang sơn cũ của chúa Nguyễn khi xưa và họp cả nam bắc lại làm một mối. Khi việc đánh dẹp xong rồi, ngài xưng đế hiệu, đặt quốc hiệu là Việt Nam, đóng Kinh đô ở Phú Xuân, tức là thành Huế bây giờ.

Khi vua Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà rồi, ngài xuống chỉ tha cho dân một vụ thuế, và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Ngài lại phong tước cho con 170 cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ phong dịch cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờ phụng tổ tiên.

Đoạn rồi, ngài đổi Bắc Hà là Bắc Thành, đặt quan tổng trấn, triệu Nguyễn Văn Thành ở Quy Nhơn ra sung chức ấy, để coi mọi việc. Lại đặt ra tam tào là tào Hộ, tào Binh, tào Hình, sai Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, và Phạm Văn Đăng ra coi các tào ấy, để giúp Nguyễn Văn Thành.

Đến tháng bảy năm nhâm tuất (1802), Thế Tổ về Kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơn về làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem ra tận pháp trường xử trị. Lại sai quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Thái Tổ Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi, còn đầu thì đem bỏ giam ở trong ngục tối.

Những bọn văn thần nhà Tây Sơn như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng, đem nọc ra đánh ở trước văn miếu, rồi tha cho về. Lúc bấy giờ có Ngô Thì Nhiệm vì trước có hiềm với Đặng Trần Thường, cho nên đến khi đánh ở văn miếu, Đặng Trần Thường sai người đánh chết.

Vua Thế Tổ định tội, thưởng công xong rồi, lo sửa sang mọi việc; làm đền Cần Chính để lập thường triều, đền Thái Hòa để lập đại triều; lại sai quân dân xây thành Kinh Đô và Hoàng Thành cùng các thành trì ở ngoài các doanh trấn.

Tuy rằng ngài đã đặt niên hiệu, lên ngôi từ năm nhâm tuất (1802), nhưng mà đến năm giáp tí (1804), tức là Gia Long tam niên, vua nhà Thanh mới sai sứ sang phong vương, và đến năm bính dần (1806), ngài mới làm lễ xưng đế hiệu ở đền Thái Hòa. Định triều nghi, cứ ngày rằm và ngày mồng một thiết đại triều; ngày mồng 5, mồng 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.

Lúc ngài đánh xong Tây Sơn, thì chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy hoại, việc gì cũng cần sửa sang lại. Bởi vậy ở trong thì ngài chỉnh đốn pháp luật, và mọi việc cai trị cùng là sửa sang phong tục, cấm dân gian không cho lấy việc thần phật mà bày ra rượu chè ăn uống, nghiêm dụ quan lại không được sinh sự nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo sự giao hiếu với nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiến cho nước Việt Nam lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị.

2. Việc Triều Chính.

Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi hoàng hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì tự quân lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.

Quan lại trong Triều đại khái theo chế độ nhà Lê, nhưng bỏ chức Tham Tụng và Bồi Tụng tức là chức tể tướng đời xưa. Mọi việc đều do Lục Bộ chủ trương hết cả. Mỗi bộ có quan Thượng Thư làm đầu, quan tả hữu tham tri, tả hữu thị lang, cùng các thuộc viên như là lang trung, viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại, v.v…..

Bộ Lại: coi việc thuyên bổ quan văn, ban thưởng phẩm cấp, khảo xét công trạng, phong tặng tước ấm, thảo những tờ chiếu sắc cáo mệnh và làm những sổ các hàng quan lại v.v….

Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ v.v…

Bộ Lễ: coi việc triều hộ, khánh hạ, tế tự, tôn phong, cùng là cách thức học hành thi cử, tinh biểu cho người sống lâu, người có tiết nghĩa, phong thụy cho các thần nhân v.v…..

Bộ Binh: coi việc thuyên bổ võ chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc đi đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh.

Bộ Hình: coi việc hình danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án ngờ, xét kỹ những tù giam ngục cấm.

Bộ Công: coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu v.v….

Ngoài lục bộ lại có Đô Sát Viện để giữ việc can gián vua, và đàn hạch các quan. Cấp sự trung các khoa và giám sát ngự sử các đạo, đều thống thuộc về viện ấy. Trong viện có tả hữu đô ngự sử và tả hữu phó đô ngự sử đứng đầu.

Bấy giờ vua Thế Tổ lại đặt ra Tào Chính để coi việc vận tải cùng là thuế má tàu bè. Có quan Tào Chính Sứ và Tào Phó Sứ làm đầu.

Các địa phương thì lúc bấy giờ từ nam chí bắc chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh Hóa ngoại (tức là Ninh bình bây giờ) trở ra, gọi là Bắc Thành, thống cả 11 trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và Hải Dương; 6 ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định Thành, thống cả 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường và Hà Tiên. 171

Còn ở quãng giữa nước, thì đặt Thanh Hóa Trấn (gồm cả Thanh Hóa nội, Thanh Hóa ngoại), Nghệ An trấn, Quảng Nghĩa trấn, Bình Định trấn, Phú Yên trấn, Bình Hòa trấn (tức là Khánh hòa) và Bình Thuận trấn. Đất kinh kỳ thống bốn doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức là Thừa Thiên bây giờ), Quảng Trị doanh, Quảng bình doanh, Quảng Nam doanh.

Ở Bắc Thành và Gia Định Thành đều đặt chức tổng trấn, và phó tổng trấn, để coi mọi việc. Ở các trấn thì đặt quan lưu trấn hay là quan trấn thủ, quan cai bạ và quan ký lục để coi việc cai trị trong trấn.

Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức tri phủ, tri huyện, tri châu để coi việc cai trị.

Những trấn ở Nghệ An, Thanh Hóa và 5 nội trấn ở Bắc Thành, thì dùng những quan cựu thần nhà Lê làm quan cai trị. Còn 6 ngoại trấn ở Bắc Thành, thì giao quyền cai trị cho những thổ hào sở tại.

3. Binh Chế.

Khi vua Thế Tổ đánh được Tây Sơn rồi, ngài ban thưởng cho các tướng sĩ, tặng phong và làm đền thờ những người tử trận. Còn những quân lính già nua thì cho về quê quán. Đặt ra phép giản binh: lệ định các trấn, tự Quảng Bình vào đến Bình Thuận thì cứ ba tên đinh kén lấy một tên lính; tự Biên Hòa trở vào thì cứ 5 tên đinh kén lấy một tên lính; tự Hà Tịnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc Thành thì cứ 7 tên đinh kén lấy một tên lính. Còn 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên thì cứ 10 tên đinh kén lấy một tên lính.

Ở chỗ Kinh thành thì đặt ra thân binh, cấm binh, tinh binh. Lính thân binh mỗi vệ có 500 người và có 50 người tập quân nhạc. Ở các trấn thì đặt ra lính cơ, lính mộ. Lại đặt biền binh ban lệ, nghĩa là các binh lính chia ra làm 3 phiên, 2 phiên về quán, còn một phiên ở tại ban luân lưu thay đổi cho nhau.

Những binh khí thì dùng gươm giáo, mã tấu, và lại có súng lớn bằng đồng gọi là súng đại bác, súng nhỏ gọi là súng thạch cơ điểu thương, nghĩa là bắn thì mổ bằng máy đá lửa. Ở chỗ kinh thành lập ra ba sở xạ trường để quân lính tập bắn.

Ở các cửa bể đều làm đồn đặt súng để phòng giữ và để xem xét những tàu bè ngoại quốc đi lại.

Nước Việt Nam ta có nhiều bể cần phải giữ gìn, bởi vậy vua Thế Tổ lưu tâm về việc chỉnh đốn binh thuyền: lấy người ở gần bể về doanh Quảng Đức và doanh Quảng Nam làm 6 vệ thủy quân đóng tại Kinh Thành. Còn ở các hải khẩu, mỗi nơi có một cơ lính thủy coi giữ. Nhà vua lại làm một thứ thuyền lớn ngoài bọc đồng, để đi lại tuần phòng ở miền bể.

4. Việc Tài Chính.

Thuế đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền thì chia ra làm 3 hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng.

Thuế đinh thì lệ định: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu:

Thuế thân 1 quan 2 tiền

Mân tiền 1 tiền

Cước mễ 2 bát

5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên 139 , mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:

Thuế thân 1 quan 2 tiền

Mân tiền 1 tiền

Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền

Cước mễ 2 bát

6 ngoại trấn Bắc Thành, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:

Thuế thân 6 tiền

Mân tiền 1 tiền

Điệu tiền 3 tiền

Cước mễ 1 bát

Lệ giảm thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, v.v… thì nhà nước chiếu theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Lúa 10 phần thiệt hại tới 4 phần thì khoan giảm cho hai phần thuết; thiệt hại 5 phần thì giảm cho 3; thiệt hại 6 phần thì giảm cho 4; thiệt hại 7 phần thì giảm cho 5; thiệt hại 8 phần thì giảm cho 6; thiệt hại 9 phần thì giảm cho 7; thiệt hại hết cả thì giảm cả. Hoặc nhà nước có lấy dân đinh đi làm đường, đào sông, xây thành v.v… thì cũng được giảm thuế.

139

Tức là phủ Hoài Đức bây giờ. 172

Vụ thuế: Nhà vua lại tùy từng địa phương mà định vụ thuế. Từ Quảng Bình đến Bình Thuận cứ mỗi năm một vụ thu thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng 7 thì hết. Từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa ngoại, cùng các trấn ở Bắc thành mỗI năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ thì khởi tự tháng 4 đến tháng 6 thì hết; mùa đông thì khởi sự tự tháng 10 đến tháng 11 thì hết.

Đinh bạ: Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải khai vào sổ.

Điền bạ: Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại đâu, đông tây tứ chí phải chua cho rõ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần đệ vào bộ đóng dấu kiềm, rồi một bản lưu lại bộ, để phòng khi xét đến; còn hai bản giao về tỉnh, tỉnh để một bản lưu chiểu, còn một bản gia trả dân xã lưu thủ.

Cấm bán ruộng công điền: Từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xã có nơi thì đem công điền đổi ra tư điền, có nơi thì đem cố bán đi, bởi vậy năm Gia Long thứ hai (1803) nhà vua lập lệ cấm dân xã không được mua bán công điền công thổ, chỉ trừ lúc nào xã thôn có công dụng điều gì, thì mới được phép cho điển cố, hạn hết 3 năm lại phải trả lại. Ai giữ quán hạn ấy thì phải tội.

Thuế các sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An, đồng niên phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân, và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người tìm được cây quế, phải trình quan để cấp cho văn bằng mới được đẵn. Đẵn xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người tìm được.

Năm Gia long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến sào ở các đảo về hạt Quảng Nam, mỗi người đồng niên phải nộp thuế yến 8 lạng, và được tha việc binh lính.

Còn những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản vật.

Vua Thế Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải nộp.

Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai để đánh thuế.

Đúc tiền: Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc Thành, để đúc tiền đồng và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng bạc, để cho tiện sự giao thông buôn bán trong nước.

Mỗi đồng tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ “Gia Long Thông Bảo”, một mặt in chữ “thất phân”, mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng.

Giá vàng ở Bắc Thành thì định cứ một lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc.

Về sau mở thêm lò đúc tiền ở Gia Định Thành và ở các trấn.

Thước đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng, một mặt khắc 7 chữ “Gia Long cửu niên thu bát nguyệt”, một mặt khác 10 chữ “ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo”. Chuẩn định lại các thước vuông đo ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ “Gia Long Cửu Niên Thu Bát Nguyệt”, một mặt khắc 12 chữ “ban hành đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo”.

Phép cân: Năm Gia Long thứ 12 (1813), chế tạo ra cân thiên bình, cấp cho các doanh các trấn, để cân đồng, sắt, chì, thiếc và các sản vật. Còn vàng và bạc thì dùng cân trung bình.

5. Công Vụ.

Vua Thế Tổ lại sửa sang những đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân gian được tiện lợi.

Đường Quan Lộ: Đường sá trong nưóc là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên vua Thế Tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ: bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo.

Lại từ cửa Nam quan (thuộc Lạng Sơn) vào đến Bình Thuận, cứ độ 4.000 trượng phải làm một cái nhà trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm.

Còn từ Bình Thuận trở vào phía nam đến Hà Tiên thì đi đường thủy.

Sông ngòi và đê điều: Những sông ngòi và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn phải xoi đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở Bắc thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận: chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa 173 lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy mà phát cho dân.

6. Pháp Luật.

Nguyên khi trước vẫn theo luật nhà Lê, nhưng nay nhà Nguyễn đã nhất thống cả nam bắc, vua Thế Tổ bèn truyền cho đình thần lập ra pháp luật rõ ràng, để cho tiện sự cai trị. Năm tân mùi (1811) sai Nguyễn Văn Thành làm tổng tài, coi việc soạn ra sách luật; lấy luật cũ của đời Hồng Đức nhà Lê, mà tham chước với luật nhà Thanh làm thành một bộ, cả thảy 22 quyển, có 398 điều.

Đến năm ất hợi (1815), thì in sách luật ấy phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi.

7. Việc Học Hành.

Thời bấy giờ nhờ có võ công mới dựng nên cơ nghiệp, cho nên lúc ấy các quan đầu triều là quan ngũ quân đô thống, và quan tổng trấn Nam Bắc hai thành đều là quan võ cả. Nhưng vua Thế Tổ cũng biết rằng sự trị nước cần phải có võ có văn, bởi vậy đêm ngày ngày lưu ý về việc học hành thi cử trong nước.

Ngài lập nhà Văn Miếu ở các doanh các trấn, thờ đức Khổng tử, để tỏ lòng trọng Nho học. Đặt Quốc Tử Giám ở Kinh đô, để dạy con các quan và các sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học hành ra là quan.

Đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và dùng những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ.

Vua Thế Tổ lo cả đến địa dư và quốc sử, bởi vậy ngày sai quan Binh Bộ Thượng Thư là Lê Quang Định kê cứu ở trong các trấn các doanh, tự Lạng Sơn đến Hà Tiên, xem sơn xuyên hiểm trở, đưòng sá xa gần, sông bể, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản, có những gì làm thành sách “Nhất Thống Địa Dư Chí” để dâng lên. Đến năm bính dần (1806), bộ sách ấy làm xong cả thảy được 10 quyển.

Năm tân mùi (1811), ngài sai quan tìm những sách dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc sử.

Thời bấy giờ văn quốc âm cũng thịnh lắm. Một đôi khi nhà vua cũng dùng chữ nôm mà làm văn tế. Bài văn tế tướng sĩ khi quan Tiền quân Nguyễn Văn Thành, tổng trấn Bắc Thành ra chủ tế không rõ ai làm, nhưng thật là một bài văn chương đại bút. Lại có những chuyện như “Hoa Tiên” của ông Nguyễn Huy Tự, “Truyện Thúy Kiều” của quan Hữu Tham tri bộ Lễ là ông Nguyễn Du 140 , cũng phát hiện ra thời bấy giờ.

“Truyện Thúy Kiều” là một tập văn chương rất hay, diễn được đủ cả nhân tình thế cố, tả được cả mọi cảnh trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhã, lời lẽ cũng lý thú. Nói theo tiếng đời nay thì “Truyện Thúy Kiều” thật là một tập văn chương đại trước tác của nước ta vậy.

8. Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu.

Khi vua Thế Tổ dứt được nhà Nguyễn Tây Sơn và lấy được đất Bắc Hà rồi, sai quan thượng thư Binh Bộ là Lê Quang Định làm chánh sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, lấy lẽ rằng Nam là An Nam và Việt là Việt Thường. Nhưng vì đất Nam Việt đời nhà Triệu ngày trước gồm cả đất Lưỡng Quảng, cho nên Thanh Triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt Nam để cho khỏi lầm với tên cũ.

Đến năm giáp tí (1804) Thanh Triều sai quan án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong. Đoạn rồi, vua sai Lê Bá Phẩm làm chánh sứ đem đồ cống sang tạ và từ đó cứ chiếu lệ ba năm một lần sang cống.

Đồ cống phẩm là:

Vàng

200 lượng

Bạc

1000 lượng

Lụa và cấp mỗi thứ 100 cây

Sừng tê giác

2 bộ

Ngà voi và quế mỗi thứ 100 cân

9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La.

Nguyên lúc còn Lê Triều thì chúa Nguyễn vẫn giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp. Sau vua nước ấy là Nặc Ông Tôn 141

bị anh em hiếp chế, phải chia quyền ra làm ba, để cho Nặc Ông Vinh làm vua đầu, mình làm vua thứ hai, em là Nặc Ông Thâm làm vua thứ ba. Được ít lâu Nặc Ông Vinh giết cả Nặc Ông Tôn và Nặc Ông Thâm giữ lấy quyền làm vua một mình.

Lúc bấy giờ Nguyễn Vương còn ở Gia Định mới sai Đỗ Thanh Nhân sang đánh Nặc Ông Vinh và lập con Nặc Ông Tôn là Nặc Ông Ấn lên làm vua. Nặc Ông Ấn bấy giờ mới có 8 tuổi. Nguyễn Vương sai Hồ Văn Lân ở lại

140

Ông Nguyễn Du người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh 141

Xem ở chương VI 174 bảo hộ. Nhưng đến khi đất Gia Định thất thủ quyền bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về nước Tiêm La.

Năm bính thìn (1796), Nặc Ông Ấn mất, truyền nôi lại cho con là Nặc Ông Chân. Vua Tiêm La sai sứ sang phong, như thế là vua Chân Lạp phải thần phục vua Tiêm La.

Đến năm đinh mão (1807) Nặc Ông Chân lại bỏ Tiêm La mà xin về thần phục vua Việt Nam ta, theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần.

Đồ cống vật là:

Voi đực cao 5 thước 2 con

Sừng tê giác

2 chiếc

Ngà voi

2 cái

Hột sa nhân

50 cân

Đậu khấu 50 cân

Hoàng lạp 50 cân

Cánh kiến 50 cân

Sơn đen 20 lọ

Nặc Ông Chân có ba người em tên là Nặc Ông Nguyên, Nặc Ông Lem, Nặc Ông Đôn, muốn tranh quyền của anh, mới sang cầu cứu nước Tiêm La. Tiêm La bắt Nặc Ông Chân phải chia đất cho các em. Nặc Ông Chân không chịu, quân Tiêm La bèn sang đánh thành La Bích. Nặc Ông Chân chạy sang Tân Châu, rồi dâng biểu cầu cứu. Quan tổng trấn Gia Định thành bấy giờ là Nguyễn Văn Nhân mới đem việc ấy tâu về Triều đình.

Năm tân mùi (1811), vua Thế Tổ cho sứ đưa thư sang trách nước Tiêm La sinh sự. Năm sau, vua Tiêm La sai sứ sang phúc thư lại rằng: việc ấy là muốn giảng hòa cho anh em Nặc Ông Chân, chứ không có ý gì cả. Vậy xin để Việt Nam xử trí thế nào, Tiêm La 142

cũng xin thuận.

Qua năm quý dậu (1813) vua Thế Tổ sai quan tổng trấn Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt đem hơn 10.000 quân, hội đồng với sứ nước Tiêm La, đưa Nặc Ông Chân về nước.

Nước Tiêm La tuy không dám kháng cự, nhưng vẫn lưu quân ở lại giữ tỉnh Bắc tầm bon (Battambang), nói rằng để đất ấy phong cho các em Nặc Ông Chân. Lê Văn Duyệt mới viết thư sang trách nước Tiêm La về điều ấy, quân Tiêm mới rút về.

142

Tức là Thái Lan ngày nay

Lê Văn Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnompenh) và thành La-lêm. Khi những thành ấy xây xong, thì vua Thế Tổ sai Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân ở lại bảo hộ nước Chân Lạp. Từ đó quyền bảo hộ Chân Lạp lại về nước ta.

10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao.

Năm quý hợi (1803), nước Hồng Mao (tức là Anh Cát Lợi) sai sứ là ông Robert đem đồ phương vật sang dân và xin cho vào mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Thế Tổ không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Hồng Mao còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng ngày vẫn một niềm từ chối không chịu.

11. Việc giao thiệp với nước Pháp Lan Tây.

Đối với nước Pháp thì vua Thế Tổ có biệt nhỡn hơn, là vì khi ngài còn gian truân, ngài có nhờ ông Bá Đa Lộc có đem mấy người sang giúp ngày. Đến khi xong việc đánh dẹp rồi, còn có Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, mà vua Thế Tổ cũng có lòng trọng đãi, cho mỗi người 50 lính hầu, và đến buổi chầu thì không bắt lạy.

Vả trong khi vua Thế Tổ làm vua ở nước Việt Nam, thì Nã Phá Luân đệ nhất (Napoleon I) làm vua bên nước Pháp, đang còn phải đánh nhau với các nước, cho nên tàu Pháp cũng không hay đi lại ở phía Viễn Đông này. Đến khi Nã Phá Luân thất thế, dòng dõi nhà vua cũ lại trung hưng lên, bấy giờ sự chiến tranh đã yên, thì mới có tàu sang buôn bán ở phương Á đông. Năm đinh sửu (1817), có chiếc tàu “La Paix” của hiệu Balguerie, Sarget et Cie chở đồ hàng sang bán, nhưng mà những đồ hàng ấy, người Việt Nam ta không dùng được, lại phải chở về. Vua Thế Tổ tha không đánh thuế. Qua tháng sáu năm ấy, chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cử Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng là De Kergarion bá tước nói rằng Pháp Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa.

Năm kỷ mão (1819), có chiếc tàu buôn ba cột tên là “Rose” và “Le Henri” vào cửa Đà Nẵng. Lần này hàng hóa đem sang bán được, lại chở chè và lụa về. Năm ấy Chaigneau xin nghỉ ba năm, đem vợ con xuống tàu “Le Henri” về Pháp.

175 12. Sự giết hại công thần.

Những người công thần như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết hại trong khi vua Thế Tổ còn đang trị vì.

Nguyễn Văn Thành, nguyên là người ở Thừa Thiên, nhưng vào ở Gia Định đã hai ba đời. Theo vua Thế Tổ từ khi ngài mới khởi binh đánh Tây Sơn, chịu hết mọi đường khổ sở. Sau ra đánh Tây Sơn ở Quy Nhơn, lập được công lớn, đứng đầu hàng công thần.

Khi vua Thế Tổ ra lấy bắc hà, triệu ông ra làm tổng trấn, giao cho xếp đặt mọi việc, chỉ có mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị. Sau về Kinh làm chức trung quân.

Ông có học thức, cho nên triều đình cử làm tổng tài việc làm sách luật và quốc sử.

Nguyễn Văn Thành có người con tên là Nguyễn Văn Thuyên thi đậu cử nhân, thường hay làm thơ để giao du với những kẻ văn sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, Văn Thuyên làm bài thơ sai tên Nguyễn Trương Hiệu cầm đi mời vào chơi.

Bài thơ rằng:

Văn đạo Ái châu đa tuấn kiệt

Hư hoài trắc tịch dục cầu ty

Vô tâm cửu bảo Kinh sơn phác

Thiện tường phương tri Ký bắc kỳ

U cốc hữu hương thiên lý viễn

Cao cương minh phượng cửu thiên tri

Thư hồi nhược đắc sơn trung tể

Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky

Dịch nôm là:

Ái châu nghe nói lắm người hay

Ao ước cầu hiền đã bấy nay

Ngọc phác Kinh sơn tài sẵn đó

Ngựa kỳ Ký bắc biết lâu thay

Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,

Tiếng phượng gò cao suốt chín mây

Sơn tể phen này dù gặp gỡ

Giúp nhau xoay đổi hội cơ này

Tưởng bài thơ này chẳng qua là lời lẽ của người thiếu niên nói ngông mà thôi, không ngờ tên Hiệu đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi xui tên Hiệu đi cáo với Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vốn ghét Nguyễn Văn Thành, nay thấy bài thơ này, nắm lấy đem vào tâu vua, vua sai bắt Nguyễn Văn Thuyên đem bỏ ngục. Bấy giờ triều thần có nhiều người bẻ tội ông Thành. Một hôm bãi triều rồi, ông Thành chạy theo nắm lấy áo vua mà kêu khóc rằng: “Thần theo Bệ Hạ từ thủa nhỏ đến bây giờ, nay không có tội gì mà bị người ta cấu xé, Bệ Hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn để người ta giết thần mà không cứu?”. Vua Thế Tổ giật áo ra đi vào cung, rồi từ đó cấm không co ông Thành vào chầu nữa, và sai Lê Văn Duyệt đem con Nguyễn Văn Thành ra tra hỏi, bắt phải nhận tội. Nguyễn Văn Thành sợ tội, uống thuốc độc mà chết, còn Nguyễn Thuyên thì phải chém.

Đặng Trần Thường người ở Chương Đức (tức là huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông bây giờ) có tài văn học, trốn Tây Sơn vào Gia Định theo giúp vua Thế Tổ làm đến Binh Bộ Thượng Thư. Sau vì làm gian sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc là tướng nhà Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình làm án phải tội chém. Nhưng rồi lại được tha. Đặng Trần Thường vốn có hiềm với Lê Chất, cho nên Lê Chất mới bới những việc như là khi ra coi tào binh ở Bắc Thành, có chiếm giữ đầm ao và ẩn lậu đinh điền, v.v…. Lại bị bắt bỏ ngục và xử phải tội giảo.

Tương truyền rằng Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài “Hàn Vương Tôn Phú” bằng quốc âm để ví mình như Hàn Tín đời Hán.

13. Xét công việc của vua Thế Tổ.

Vua Thể tổ là ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng mà theo giúp. Bởi vậy cho nên không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại thống nhất được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.

Công nghiệp của ngài thì to thật, tài trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa.

Vua Thế Tổ mất năm kỷ mão (1819), trị vì được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế. 176

CHƯƠNG I

Thánh Tổ (1820-1840) Niên hiệu: Minh Mệnh

1. Đức độ vua Thánh Tổ 2. Việc chính trị trong nước 3. Nội các 4. Cơ mật viện 5. Tôn nhân phủ 6. Quan chế 7. Đặt tổng đốc, tuần phủ ở các tỉnh 8. Lương bổng của các quan 9. Tiền dưỡng liêm 10. Sự học hành thi cử 11. Sách vở 12. Việc sửa sang phong tục 13. Nhà dưỡng tế 14. Việc dinh điền và thuế má 15. Việc võ bị

1. Đức Độ Vua Thánh Tổ.

Tháng giêng năm canh thìn (1820), Hoàng Thái Tử húy là Đảm lên ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mệnh.

Vua Thánh Tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại hay làm; phàm có việc gì, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành.

Ngài tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, cho nên không ưa đạo mới, cho là một tả đạo lấy trời thánh ra mà làm mê hoặc lòng dân. Bởi vậy, ngài mới nghiêm cấm và trừng trị những người theo đạo Gia Tô.

Về sau có nhiều nhà làm sử, vì ý riêng mà cho ngài là bạo quân, thì thiết tưởng điều ấy không hợp với lẽ công bằng.

177

Phải biết rằng nước ta từ xưa đến nay, điều gì cũng theo Nho Giáo, lấy tam cương ngũ thường làm căn bản cho sự ăn ở. Vua tôi, cha con, vợ chồng, ấy là cái khóa luân lý củ xã hội mình. Ai tháo cái khóa ấy ra thì cho là không phải loài người nữa. Vậy con phải theo cha, tôi phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy ra phải tội nặng, đáng chém giết.

Lúc trong nước mình từ vua quan cho chí dân sự, ai ai cũng lấy cái lý tưởng ấy làm phải, làm hay hơn cả, mà lại thấy có người bỏ đi theo đạo khác, nói những chuyện mà lúc bấy giờ lại không mấy người hiểu rõ ra thế nào thì tất cho là theo tả đạo làm hư hỏng cái phong tục hay của mình. Bởi vậy cho nên nhà vua mới cấm, không cho người trong nước đi theo đạo mới.

Một ông vua nghiêm khắc như Thánh Tổ mà cấm không được, thì tất là phải giết. Trong khi cấm và giết như vậy, là vẫn tưởng mình làm bổn phận làm vua của mình, chớ có biết đâu là mình làm sự thiệt hại cho dân cho nước.

Vả, bao giờ cũng vậy, hễ người ta đã sùng tín một tông giáo nào, thì tất cho cái tông giáo của mình là hay hơn, và cho người theo tông giáo khác là thù nghịch với mình, rồi hễ có quyền thế là làm thế nào cũng dùng cách ấy mà hà hiếp người khác đạo với mình. Cũng vì lẽ ấy, cho nên ngày trước Vua Phillippe II nước I Pha Nho, vua Louis XIV nước Pháp Lan Tây giết hại bao nhiêu người trong nước. Mà chắc rằng lúc bấy giờ các ông ấy cũng tưởng là mình làm điều phải, chớ có biết đâu là mình làm điều trái lẽ.

Vẫn biết rằng sự giết đạo là sự không lành, nhưng phải hiểu cái trí não người Việt Nam ta lúc bấy giờ, không rõ cái tông chỉ đạo Thiên Chúa ra thế nào, cho nên dẫu không phải là vua Thánh Tổ nữa, thì ông vua khác cũng không chắc đã tránh khỏi cái lỗi giết đạo ấy.

Nhà làm sử lại đổ cho vua Thánh Tổ giết Nguyễn Văn Thành, song xét trong các truyện như sách Thực Lục Chính Biên và sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện thì chỉ thấy chép rằng Nguyễn Văn Thành bị tội phải uống thuốc độc mà tự tử năm Gia Long thứ 15 mà thôi. Còn như vụ án Lê Văn Duyệt và Lê Chất thì có hẹp hòi thật, nhưng khi các ông ấy đã mất rồi, và lại vì có tên Khôi khởi loạn cho nên mới truy tội hai ông ấy mà làm án, chứ lúc hai ông ấy còn sống, thì vua Thánh Tổ, tuy có bụng nghi ngờ, nhưng vẫn không bạc đãi.

Việc ngài giết chị dâu là bà vợ Hoàng Tử Cảnh và các cháu, thì không thấy sách nào chép cả, chỉ thấy một đôi người truyền ngôn như thế mà thôi. Vậy việc ấy thực hư thế nào không rõ.

Còn việc không biết giao thiệp với các nước ngoại dương, thì không phải là cái lỗi riêng một mình ngài. Lúc bấy giờ người mình ai cũng chỉ biết có nước Tàu là văn minh hơn, còn thì cho là man di cả. Phỏng sử có ai là người biết mà nói ở thiên hạ còn có nhiều nước văn minh hơn nữa cũng không ai tin. Bởi thế, hễ thấy người ngoại quốc vào nước mình, thì không những là sợ có sự phản trắc và sợ đem đạo mới vào nước mà thôi, lại còn sợ lây phải cái phong tục dã man nữa, cho nên không muốn giao thông với ngoại quốc làm gì. Như thế thì có nên riêng trách một mình ai không ?

Cái nghĩa vụ làm sử, tưởng nên kê cứu cho tường tận, rồi cứ sự thực mà nói, chứ không nên lấy lòng yêu ghét của mình mà xét đoán. Dẫu người mình ghét mà có làm điều phải, mình cũng phải khen; người mình yêu mà có làm điều trái, mình cũng phải chê. Vua Thánh Tổ là một ông vua chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai lầm và có nhiều điều tàn ác, nhưng xét cho kỹ, thì thật ngài cũng có lòng vì nước lắm. Trong, lo sửa sang mọi việc, làm thành ra nền nếp chỉnh tề, ngoài, đánh Tiêm dẹp Lào, làm cho nước không đến nỗi kém hèn.

Vậy cứ bình tình mà xét, thì dẫu ngài không được là ông anh quân nữa, thì cũng không phải là ông vua tầm thường; cứ xem công việc của ngài làm thì hiểu rõ.

2. Việc Chính Trị Trong Nước.

Vua Thánh Tổ đã 30 tuổi mới lên ngôi vua, cho nên việc triều chính ngài đã am hiểu lắm. Việc gì ngài cũng muốn biết. Có khi xong buổi chầu rồi, ngài đòi một vài quan đại thần lên bàn mọi việc kinh lý và hỏi những sự tích đời xưa, những nhân vật và phong tục ở các nước xa lạ. Ngài chăm xem xét mọi việc, có khi đêm thắp đèn xem chương, sớ, đến trống hai, trống ba mới thôi. Thường thường ngài nói với các quan rằng: Lòng người ai cũng muốn ở yên, mà không muốn sinh sự ra để thay đổi luôn, nhưng lúc trẻ mạnh mà không sửa sang mọi việc, thì rồi đến lúc già yếu, mỏi mệt còn làm gì được. Bởi vậy cho nên trẫm không dám lười biếng lúc nào 143 .

Ở trong triều, thì ngài đặt thêm ra các tự và các viện. Bấy giờ có Nội Các và Cơ Mật Viện là quan trọng hơn cả.

3. Nội Các.

Đời vua Thế Tổ đã đặt Thị Thư Viện làm chốn cơ yếu trong điện, để có điều gì thì vua hỏi han và làm các việc như biểu, sách, chế, cáo,

143

Minh Mệnh Chính Yếu, quyển Cần Chính. 178 chương, tấu, sắc, mệnh, v.v…. Đại khái cũng tự hồ phòng bí thư của vua vậy.

Năm canh thìn (1820) là năm Minh Mệnh nguyên niên, vua Thánh Tổ cải làm Văn Thư Phòng; đến năm Minh Mệnh thứ mười (1829), đổi làm Nội Các, lấy quan tam tứ phẩm ở các bộ, viện, vào quản lĩnh mọi việc.

4. Cơ Mật Viện.

Năm giáp ngọ (1834) là năm Minh Mệnh thứ 15, nhân vì việc quân quốc cơ yếu là việc rất quan trọng, vua Thánh Tổ mới theo như Khu Mật Viện nhà Tống và Quân Cơ xứ nhà Thanh mà châm chước đặt ra Cơ Mật Viện, cho có trách nhiệm riêng. Các quan đại thần sung chức trong viện ấy thì dùng 4 viên, văn võ từ tam phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Thuộc viên thì có viên ngoại lang, chủ sự, tư vụ, biên tu, đều kén ở trong các bộ viện ra sung bổ. Các quan đại thần ở Cơ Mật Viện có đặc chỉ cho đem kim bài để phân biệt với các quan khác. Kim bài khởi đầu có từ đấy.

5. Tôn Nhân Phủ.

Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, vua Thánh Tổ đặt ra Tôn Nhân Phủ và đặt quan chức để coi mọi việc ở trong họ nhà vua.

Nhà vua thờ tiên tổ có 7 miếu: những miếu phía tả gọi là chiêu, những miếu phía hữu gọi là mục. Con cháu các dòng chiêu hay là mục phải phân biệt chi nào ra chi ấy.

Đặt tôn nhân lệnh một người, tả hữu tôn chính hai người, tả hữu tôn nhân hai người, để coi việc hoàng tộc và việc phân biệt tự hàng chiêu hàng mục, ghi chép hàng lượt người thân người sơ, việc nuôi nấng và cấp tước lộc cho mọi người trong hoàng tộc; lại đặt ra hữu tôn khanh hai người, tả hữu tá lý hai người, để coi thứ trật mọi người tôn thất và việc cấp dưỡng cho kẻ cô ấu, giúp đỡ những việc tang hôn v.v….

6. Quan Chế.

Vua Thánh Tổ lại đặt các phẩm cấp quan chế, từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mổi phẩm chia ra làm chánh và tòng hai bậc.

Văn Võ Chánh Nhất Phẩm Cần chính điện đại học sĩ, Văn Minh điện đại học sĩ, Võ hiển điện đại học sĩ, Đông các đại học sĩ. Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống chưởng phủ sự. Tòng Nhất Phẩm Hiệp biện đại học sĩ. Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống. Chánh Nhị Phẩm Thượng thư, tổng đốc, tả hữu đô ngự sử. Thống chế, đề đốc. Tòng Nhị Phẩm Tham tri, tuần phủ, tả hữu phó đô ngự sử. Chưởng vệ, khinh xa đô úy,đô chỉ huy sứ,phó đề đốc. Chánh Tam Phẩm Chưởng viện học sĩ, thị lang, đại lý tự khanh, thái thường tự khanh, bố chính sứ, trực học sứ, thông chính sứ, thiêm sự, phủ doãn. Nhất đẳng thị vệ, chỉ huy sứ, thân cấm binh vệ úy, lãnh binh. Tòng Tam Phẩm Quang Lộc tự khanh, thái bộc tự khanh, thông chính phó sứ. Binh mã sứ, tinh binh vệ úy, thâm cấm binh phó vệ úy, phó lãnh binh, kiêu kỵ đô úy, phò mã đô úy. Chánh Tứ Phẩm Hồng lô tự khanh, đại lý tự thiếu khanh, thái thường tự thiếu khanh, tế tửu, lang trung, thị độc học sĩ, thiếu thiêm sự, thái y viện sứ, tào chính sử, phủ thừa, án sát sứ. Quản cơ, nhị đẳng thị vệ, binh mã phó sứ, tinh binh phó vệ úy, thành thủ úy. Tòng Tứ Phẩm Quang Lộc tự thiếu khanh, thái bộc tự thiếu khanh chưởng ấn, cấp sự trung, thị giảng học sĩ, kinh kỳ đạo ngự sử, tư nghiệp, từ tế sứ, quản đạo. Phó quản cơ, tuyên úy sứ, kị đô úy. Chánh Ngũ Phẩm Hồng lô tự thiếu khanh, giám sát ngự sử, hàn lâm viện thị độc, viên ngoại lang, trưởng sử, từ tế phó sứ,ngự y, giám chánh, tào chánh phó sứ,đốc học,phó quản đạo. Tam đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng, phòng thủ úy. Tòng Ngũ Phẩm Hàn lâm viện thị giảng, hàn lâm viện thừa chỉ, miếu lang, giám phó, phó trưởng sử, phó ngự y, tri phủ. Tinh binh chánh đội, tứ đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng suất đội, tuyên phó sứ, phi kị úy. Chánh Lục Phẩm Hàn lâm việc trước tác, chủ sự, đồng tri phủ, kinh huyện, tri huyện, y tả viện phán, ngũ quan chánh. Ngũ đẳng, thị vệ, cẩm y hiệu úy, tinh binh chánh đội trưởng suất đội, thổ binh chánh đội, trợ quốc lang. Tòng Lục Phẩm Hàn Lâm Viện tu soạn, tri huyện, tri châu, miếu thừa, Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh 179 học chánh, thông phán, thổ tri phủ, y hữu viện phán. chánh đội trưởng suất đội. Chánh Thất Phẩm Hàn lâm viện biên tu, tư vụ, lục sự, giám thừa, giám linh đài lang, giáo thụ, kinh lịch. Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh chánh đội trưởng suất đội. Tòng Thất Phẩm Hàn lâm viện kiểm thảo, y chánh, tinh linh đài lang, thổ tri huyện, tri châu. Tinh binh đội trưởng, phụng ân úy, dịch thừa, tòng thất phẩm thiên hộ, nội tạo phó tư tượng. Chánh Bát Phẩm Hàn lâm viện điển tịch, huấn đạo, chánh bát phẩm thơ lại. Chánh bát phẩm đội trưởng, chánh bát phẩm bá hộ, dịch mục, chánh bát phẩm chánh tư tượng. Tòng Bát Phẩm Hàn lâm viện điển bạ, y phó, tòng bát phẩm thơ lại. Tòng bát phẩm đội trưởng, tòng bát phẩm bá hộ, thừa ân úy, tòng bát phẩm phó tư tượng. Chánh Cửu Phẩm Hàn lâm viện cung phụng, chánh cửu phẩm thơ lại, thái y y chánh, tự thừa, phủ lại mục. Chánh cửu phẩm đội trưởng, phủ lệ mục, chánh cửu phẩm bá hộ, chánh cửu phẩm tượng mục. Tòng Cửu Phẩm Hàn lâm viện đãi chiếu, tòng cửu phẩm thơ lại, tỉnh y sinh, huyện lại mục, chánh tổng. Tòng cửu phẩm đội trưởng, tòng cửu phẩm bá hộ, huyện lệ mục, tòng cửu phẩm tượng mục. 7. Đặt Tổng Đốc, Tuần Phủ ở các tỉnh.

Nguyên trước nước Nam ta chia ra làm từng trấn, có quan Trấn Thủ, hay là quan Lưu Trấn để coi việc trong trấn. Từ đời Gia Long trở đi, ở Bắc Thành và Gia Định Thành đặt quan Tổng Trấn và quan Hiệp Trấn, để coi việc quân và việc dân trong cả toàn xứ.

Đến năm tân mão (1831) là năm Minh Mệnh thứ 12, vua Thánh Tổ mới theo lối nhà Thanh, đổi trấn làm tỉnh và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính sứ, án sát sứ và lĩnh binh.

Tổng đốc thì coi việc quân, việc dân, khảo hạch quan lại, sửa sang bờ cõi ở trong hạt; tuần phủ thì coi việc chính trị, giáo dục và giữ gìn phong tục; bố chính sứ thì coi việc thuế má, đinh điền, lính tráng và triều đình có ân trạch hay là cấm lệnh điều gì, thì phải tuyên cho mọi nơi biết; án sát sứ thì coi việc hình luật và kiêm cả việc trạm dịch bưu chính; lĩnh binh thì chuyên coi binh lính.

Từ tuần phủ trở xuống đều phải theo lệnh quan tổng đốc. Thường thì tỉnh nào lớn, có lắm việc quan trọng mới đặt tổng đốc để quản trị cả hai ba tỉnh. Còn những tỉnh nhỏ thì chỉ đặt tuần phủ là quan đầu tỉnh 144 .

8. Lương bổng của các quan viên.

Năm kỷ hợi (1839) là năm Minh Mệnh thứ 20, vua Thánh Tổ định lương bổng đồng niên và tiền xuân phục của các quan viên.

Chánh nhất phẩm:tiền 400 quan, gạo 300 phương, tiền xuân phục 70 quan. Tòng nhất phẩm: tiền 300 quan, gạo 250 phương, tiền xuân phục 60 quan. Chánh nhị phẩm:tiền 250 quan, gạo 200 phương, tiền xuân phục 50 quan. Tòng nhị phẩm: tiền 180 quan, gạo 150 phương, tiền xuân phục 30 quan. Chánh tam phẩm:tiền 150 quan, gạo 120 phương, tiền xuân phục 20 quan. Tòng tam phẩm: tiền 120 quan, gạo 90 phương, tiền xuân phục 16 quan. Chánh tứ phẩm:tiền 80 quan, gạo 60 phương, tiền xuân phục 14 quan. Tòng tứ phẩm: tiền 60 quan, gạo 50 phương, tiền xuân phục 10 quan. Chánh ngũ phẩm:tiền 40 quan, gạo 43 phương, tiền xuân phục 9 quan. Tòng ngũ phẩm: tiền 35 quan, gạo 30 phương, tiền xuân phục 8 quan. Chánh lục phẩm:tiền 30 quan, gạo 25 phương, tiền xuân phục 7 quan. Tòng lục phẩm: tiền 300 quan, gạo 22 phương, tiền xuân phục 6 quan. Chánh thất phẩm:tiền 25 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng thất phẩm: tiền 22 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Chánh bát phẩm:tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng bát phẩm: tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 4 quan. Chánh cửu phẩm:tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan. Tòng cửu phẩm: tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan.

Lại dịch binh tượng: mỗi tháng tiền một quan, gạo một phương. Hậu bổ: mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương.

Từ nhất phẩm đến tam phẩm, mỗi năm hai kỳ trình giấy lĩnh bỗng; tự tứ phẩm đến thất phẩm, mỗi năm 4 lần, đến tháng cuối mùa xuân, hạ, thu, đông, trình giấy lĩnh bỗng; tự bát cửu phẩm trở xuống, thì cứ mỗi tháng đến lĩnh một kỳ.

Tiền lương bổng của các quan viên lúc bấy giờ mà so sánh với bây giờ, thì thật là ít ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự ăn tiêu thủa trước rẻ rúng không hết bao nhiêu. Nhà vua lại sợ những phủ huyện thiếu thốn mà nhũng lạm của dân, cho nên mỗi năm lại phát thêm tiền dưỡng liêm.

144

Đời vua Thế Tổ nước Nam ta có 27 trấn, đến đời vua Thánh Tổ đặt thêm 4 tỉnh nữa là Hưng Yên, Ninh Bình, Hà tĩnh và An Giang, cả thảy thành ra 31 tỉnh. 180

9. Tiền Dưỡng Liêm.

Tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.

Đồng tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.

Tri huyện, tri châu: tối yếu khuyết cho 40 quan, yếu khuyết 30 quan, trung khuyết 25 quan, giản khuyết 20 quan.

10. Sự Học Hành Thi Cử.

Việc trị nước cần phải có văn học, cho nên từ đời vua Thế Tổ cũng đã lưu ý về việc mở mang sự học hành. Đến đời vua Thánh Tổ thì ngài lại trọng sự văn học lắm, ngài thường nói với các quan rằng: Đạo trị nước thì trước hết cần phải gây lấy nhân tài. Bởi vậy ngài có lòng yêu dùng những người có văn học, cho các hương cống vào làm hành tẩu ở trong lục bộ, để học tập việc chính trị. Mở Quốc Tử Giám cho các giám sinh được lương bổng ở ăn học.

Đời vua Thế Tổ thì chỉ có thi Hương mà thôi, đến năm nhâm ngọ (1822) là năm Minh Mệnh thứ 3, mới mở khoa thi Hội, thi Đình để lấy tiến sĩ, đến năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) nhà vua lại cho những người trúng cách, nhưng không cập phân, được đỗ phó bảng. Phó bảng khởi đầu có từ đấy.

Nguyên trước cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm tí, ngọ, mão, dậu, thi Hương; năm thìn, tuất, sửu, mùi, thi Hội, thi Đình.

Phép thi thì vẫn theo như đời Gia Long, nghĩa là kỳ đệ nhất: kinh nghĩa; kỳ đệ nhị: tứ lục; kỳ đệ tam: thi phú; kỳ đệ tứ: văn sách. Trước ai đỗ tam trường, gọi là sinh đồi, ai đỗ tứ trường gọi là hương cống, nay đổi sinh đồ là tú tài, hương cống là cử nhân.

Vua Thánh Tổ là ông vua thông minh, ngài vẫn biết sự học của nước ta sai lầm, những sĩ phu trong nước chỉ học theo lối cử nghiệp, nghĩa là cốt học lấy thi đỗ, chứ không mấy người có thực học. Thường ngài nói chuyện với các quan rằng: “Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không có qui củ nhất định, mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó, khoa tráng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại”. Vua Thánh Tổ thật là biết rõ cái tật của những người đi học ở trong nước ta, nhưng chỉ vì thói quen lâu ngày khó bỏ. Vả lại dẫu có muốn đổi, thì dễ thường cũng không biết đổi ra thế nào cho hay hơn được, cho nên sự học của mình vẫn nguyên như cũ.

11. Sách Vở.

Vua Thánh Tổ mới lên ngôi, đã lo việc làm sách vỡ; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ý về việc tưởng lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ, hay làm ra sách mới, thì được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định Thành Thông Chí và sách Minh Bột Di Hoán Văn Thảo; ông Hoàng Công Tài dâng một bản Bản Triều Ngọc Phả, 2 bản Kỷ Sự; ông Cung Văn Hi, người ở Quảng Đức dâng 7 quyển Khai Quốc Công Nghiệp Diễn Chí; ông Nguyễn Đình Chính người Thanh Hóa dâng 34 quyển Minh Lương Khải Cáo Lục; ông Vũ Văn Tiêu, người Quảng Nghĩa, dâng một quyển Cố Sự Biên Lục.

Vua Thánh Tổ lại sai quan soạn xong bộ Liệt Thánh Thực Lục Tiền Biên, bộ Khâm Định Tiễu Binh Lưỡng Kỳ Phỉ Khấu Phương Lược, còn sách của ngài soạn ra có hai bộ là Ngự Chế Tiễu Bình Nam Kỳ Tặc Khấu Thi Tập và Ngự Chế Thi Tập.

12. Việc Sửa Sang Phong Tục.

Mấy năm về cuối đời vua Thánh Tổ trong nước lắm giặc giã, phong tục thành ra kiêu bạc, dân sự lắm người cờ bạc rượu chè và hay mê hoặc những tà giáo. Nhà vua lấy sự ấy làm lo, bèn soạn ra 10 điều huấn dụ, ban ra mọi nơi, để dạy bảo ngu dân. 1. Đô Nhân Luân: trọng tam cương ngũ thường. 2. Chính Tâm Thuật: làm việc gì cũng cốt phải giữ bụng dạ cho chính đính trong sạch. 3. Vụ Bản Nghiệp: giữ bổn phận chăm nghề nghiệp của mình. 4. Thượng Tiết Kiệm: chuộng đường tiết kiệm. 5. Hậu Phong Tục: giữ phong tục cho thuần hậu. 6. Huấn Tử Đệ: phải dạy bảo con em. 7. Sùng Chính Học: chuộng học đạo chính. 8. Giới Dâm Thắc: răn giữ những điều gian tà dâm dục. 9. Thận Pháp Thủ: cẩn thận mà giữ pháp luật. 10. Quảng Thiện Hạnh: rộng sự làm lành.

Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, có quan giám sát ngự sử là Bùi Mậu Tiên dâng sớ tâu rằng: “Các làng ở ngoài Bắc Thành nhiều kẻ hào cường trái phép, mà dân thì biếng nhác chỉ cờ bạc rượu chè; việc tế lễ quỷ thần thì hay dùng cách xa xỉ, việc táng tế thì chuộng đường xa hoa, 181 thậm chí có kẻ bán sạch cửa nhà cơ nghiệp để đền nợ miệng, thực là trái với nghĩa tương bảo tương lân”.

Vua Thánh Tổ bèn xuống chiếu trách cứ các quan địa phương phải đem những điều huấn dụ đã ban ra trước mà khuyên bảo dân sự, và phải chuyển sức cho tổng lý: hễ thấy ai biếng nhác rong chơi cờ bạc rượu chè, thì phải cấm chỉ đi. Những kẻ hào cường trong làng mà ỷ thế hống hách điêu toa kiện tụng, chống cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ bình dân, thì phải theo phép mà trừng trị. Còn những lệ thờ thần và lễ tang tế thì Lễ Bộ đã định ra phép tắc, hễ ai không tuân theo thì phải tội.

13. Nhà Dưỡng Tế.

Không những là vua Thánh Tổ chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến những kẻ nghèo khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở các trấn ngoài Bắc Thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng tế: hễ những kẻ quan quả, cô độc, và kẻ tàn tật không có nơi nương nhờ, phải đến ở đó, thì mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo.

14. Việc Đinh Điền và Thuế Má.

Thuế đinh và thuế điền thì đại khái cũng theo như đời vua Thế Tổ đã định. Chỉ có năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, đất Nam kỳ đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại các thứ thuế điền thổ ở miền ấy. Còn như số dân đinh và điền thổ trong nước, thì cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng và đất.

Những dân Tàu sang thành lập hương ấp ở nước Nam ta gọi là Minh Hương, thì có lệnh mỗi người đồng niên phải nộp hai lạng bạc và được trừ giao dịch. Những người lão hạng và tàn tật thì phải chịu một nửa.

Còn những người nhà Thanh sang buôn bán ở nước Nam, phàm người nào mà có vật lực thì đồng niên phải đóng 6 quan năm tiền; ai không có vật lực thì phải nộp một nửa, hạn cho 3 năm, thì chiếu lệ thu cả thuế.

Nhà vua lại đặt lệ đánh thuế muối. Cứ mỗi ruộng muối đồng niên phải nộp bằng muối từ 6 phương cho đến 10 phương.

Mỗi phương nộp bằng tiền thì phải từ 3 tiền cho đến 4 tiền 30 đồng.

Còn các thứ thuế mỏ, thuế sản vật, v.v… thì đại khái cũng theo lệ đời vua Thế Tổ đã định, chứ không thay đổi mấy đi.

15. Việc Võ Bị.

Khi vua Thánh Tổ lên nối nghiệp làm vua, thì trong nước đã được yên trị, nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải có võ bị, cho nên thường thường ngài vẫn có dụ truyền bảo các quan phải luyện tập binh mã để phòng khi hữu sự.

Ở những nơi hiểm yếu thì lập đồn ải, ở các cửa bể và các đảo thì lập pháo đài. Và lại làm tàu đồng, tập thủy quân để phòng giữ mặt bể.

Binh chế thì có bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh và pháo thủ binh.

Bộ binh thì có kinh binh và cơ binh. Kinh binh chia ra làm doanh, vệ, đội, hoặc để đóng giữ ở Kinh thành, hoặc sai đi đóng giữ các tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 người, có suất đội và đội trưởng cai quản.

Những binh khí của mỗi vệ, thì có hai khẩu súng thần công, 200 khẩu điểu thương và 21 ngọn cờ.

Cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng chia ra làm cơ, làm đội. Cơ thì có quản cơ, mà đội thì có suất đội cai quản.

Tượng quân chia ra thành đội, mỗi đội là 40 con voi. Số voi ở Kinh thành 150 con, ở Bắc thành 110 con, ở Gia Định thành 75 con, ở Quảng Nam 35 con, ở Bình Định 30 con, ở Nghệ An 21 con, ở Quảng Bình, Quảng Nghĩa, Thanh Hóa mỗi nơi 15 con, Quảng Trị, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Bình mỗi nơi 7 con.

Thủy quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có quan chưởng vệ quản lĩnh, và có quan đô thống coi cả 3 doanh.

Vua Thánh Tổ vẫn biết rằng nước ở dọc bờ bể, thủy binh là việc rất yếu trọng cho sự phòng bị. Thường ngài bắt quan đem binh thuyền ra để luyện tập.

Đại khái việc binh cơ, ngài không bỏ trễ chút nào. Ngài lập toán giáo dưỡng binh, để cho con các quan võ, từ suất đội trở lên ai muốn tình nguyện vào học, thì cho lương bổng, và cử quan đại thần ra dạy võ nghệ.

Còn như khi nào có quân lính đi đâu, thì nhà vua đặt lệ sai mấy người y sinh đi theo để điều hộ.

182

Tuy nhà vua muốn lưu ý về việc binh lính, nhưng người mình lúc bấy giờ ai cũng trọng văn khinh võ, bình nhật không có ai lo gì đến việc quân lính khí giới. Hễ có lâm sự thì mới rối lên. Dẫu rằng nhà vua nay có chỉ dụ ra tập binh, mai có chỉ dụ ra tập trận mặc lòng, các quan chỉ làm cho xong việc, rồi lại bỏ mặc bọn quản đội làm thế nào thì làm. Thành ra quân số ở trong sổ sách thì nhiều, mà thế lực thì vẫn không đủ: ấy là đời vua Thánh Tổ mà còn thế, huống chi đến những đời sau, lại còn suy nhược hơn nữa.

CHƯƠNG III

Thánh Tổ (1820-1840) (tiếp theo)

1. Sự giặc giã 2. Giặc ở Bắc kỳ 3. Phan Bá Vành 4. Lê Duy Lương 5. Nông Văn Vân 6. Giặc ở Nam Kỳ 7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất 8. Giặc Tiêm La 9. Việc Ai Lao 10. Việc Chân Lạp 11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương 12. Sự cấm đạo 13. Vua Thánh Tổ mất

1. Sự Giặc Giã.

Vua Thánh Tổ thật là hết lòng lo việc chính trị, điều gì ngài cũng xem xét đến, việc gì ngài cũng sửa sang lại, có ý muốn cho nước thịnh dân giàu, nhưng phải mấy năm về sau, trong nước có lắm giặc giã, quan quân phải chinh nam phạt bắc, phải đánh Tiêm, dẹp Lào, thành ra dân sự không được yên nghiệp mà làm

Xét sự giặc giã về đời vua Thánh Tổ là do ở ba lẽ cốt yếu:

Một là khi nhà Nguyễn thất thế ở Nam, quân họ Trịnh thua ở Bắc, nhà Nguyễn Tây Sơn còn phải lo việc trong nước, lúc bấy giờ nước Tiêm La nhân lấy dịp ấy mà giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp và hiếp thế các nước ở đất Lào. Đến khi vua Thế Tổ nhất thống nam bắc, thanh thế lừng lẫy, nước Chân Lạp lại xin về thần phục nước Nam, và các nước Ai Lao, Vạn Tượng, đều sang triều cống nhà Nguyễn. Từ đó nước Tiêm La đối với nước Nam, bề ngoài tuy không ra mặt cừu địch, nhưng bề trong chỉ tìm cách mà sinh sự để cướp lại cái quyền bảo hộ ở Chân Lạp và ở các nước Lào. Bởi vậy cho nên 183 về phía tây và phía nam bao giờ cũng có giặc Tiêm và giặc Lào quấy nhiễu mãi.

Hai là ở Bắc Kỳ tuy đã là thống thuộc về nhà Nguyễn rồi, nhưng còn có người mong nhớ nhà Lê, thỉnh thoảng lại có nơi nổi lên, hoặc muốn khôi phục cho nhà Lê, hoặc để chống cự với quan nhà Nguyễn, bởi thế cho nên ở đất Bắc cứ phải loạn lạc luôn.

Ba là quan lại cứ hay nhũng nhiễu, làm cho lòng người không được thỏa thuận, và trong đám quan trường thường hay có thói bới móc nhau để tâng công tâng cán. Nhà vua lại có tính hẹp hòi, không bao dong cho những kẻ công thần, hay tìm chuyện làm uất ức mọi người, mà ở với thần dân thì nghiêm khắc quá, cho nên mới thành ra nhiều sự rối loạn.

Bởi những lẽ ấy, cho nên ở ngoài thì có giặc Tiêm đánh phá, ở trong thì có ngụy Khôi dấy loạn ở phía nam. Lê Duy Lương và Nông văn Vân dấy binh ở phía bắc. Lúc bấy giờ cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi như Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ v.v…. đều ra công đánh dẹp, cho nên không những là giặc trong nước dẹp yên, mà lại thêm được bờ cõi rộng rãi hơn cả những đời trước.

2. Giặc ở Bắc Kỳ.

Sự giặc giã ở đất Bắc thì từ năm Minh Mệnh thứ hai (1822) trở đi, thỉnh thoảng ở các trấn vẫn có những giặc cỏ quấy nhiễu ở các châu huyện. Còn những giặc có thanh thế to mà quan quân phải đánh dẹp khó nhọc, thì có Phan Bá Vành khởi ở Nam Định, Lê Duy Lương khởi ở Ninh Bình và Nông Văn Vân khởi ở Tuyên Quang.

3. Phan Bá Vành.

Năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), ở Nam Định có Võ Đức Cát cùng với Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh khởi binh đánh phủ Trà Lý và Lân Hải, giết quan thủ ngự là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn. Quan trấn thủ ở Nam Định là Lê Mậu Cúc đem quân xuống đánh, cũng bị giặc giết mất. Quan quân ở các trấn phải về tiễu trừ, bắt được tên Võ Đức Cát. Còn tên Vành và dư đảng thì chạy tan cả. Nhưng đến tháng chạp năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh lại thông với đảng giặc Khánh đi cướp ở ngoài bể, rồi lại đem quân về đánh phá ở huyện Tiên Minh và huyện Nghi Dương ở Hải Dương.

Nhà vua thấy thế giặc to lắm, bèn sai quan Tham biện Thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ, quan Tham biện Nghệ An là Nguyễn Đức Nhuận đem binh thuyền ở Thanh, Nghệ ra cùng với quan Hiệp trấn Bắc thành là Nguyễn Hữu Thận đi đánh giặc.

Tháng giêng năm đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, Vành lại về đánh lấy phủ Thiên Trường và phủ Kiến Xương, sau lại về vây quan quân ở chợ Quán. Phạm Văn Lý và Nguyễn Công Trứ đem quân đến đánh giải vây, Vành thua chạy về giữ Trà Lũ. Quan quân vây đánh, bắt được Vành và cả đảng hơn 765 người.

4. Lê Duy Lương.

Khi dẹp xong giặc Vành thì trong xứ yên được một độ, nhưng còn có dòng dõi nhà Lê muốn khôi phục nghiệp cũ, bởi vậy đến tháng ba năm quý tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, ở Ninh Bình có Lê Duy Lương, là con cháu nhà Lê nổi lên, xưng là Đại Lê Hoàng Tôn, cùng với bọn thổ ti là Quách Tất Công, Quách tất Tế, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh, đem binh đi đánh phá các phủ huyện và chiếm giữ được 3 châu huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa và Yên Hóa. Lê Duy Lương lại sai quân đến vây đánh thành Hưng Hóa nguy cấp lắm.

Vua Thánh Tổ sai quan tổng đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra Ninh Bình cùng với Tổng đốc Thanh hóa là Nguyễn Văn Trọng đi đánh Lê Duy Lương.

Lê Duy Lương ở Ninh Bình thế cô lắm, chống không nổi mấy đạo quan quân, chỉ đương được vài ba tháng thì bị bắt, đóng cũi giải về Kinh trị tội. Còn bọn Quách Tất Công, Quách Tất Tế thì chẳng được bao lâu mà tan.

Vì có chuyện Lê Duy Lương dấy binh, cho nên nhà vua truyền bắt dòng dõi nhà Lê đem đày vào ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Bình Định, cứ chia cho 15 người ở một huyện và phát cho 10 quan tiền và 2 mẫu ruộng để làm ăn.

5. Nông Văn Vân.

Ở Bắc còn đang dẹp loạn Lê Duy Lương chưa xong, thì ở Nam Lê Văn Khôi làm phản, chiếm giữ thành Gia Định. Nguyên tên Khôi là người Bắc, có họ hàng bà con mạn Tuyên Quang, Cao Bằng, bởi vậy nhà vua sai quan tìm bắt anh em của tên Khôi đem về Kinh làm tội. Bấy giờ ở Tuyên Quang có người anh vợ tên Khôi là Nông Văn Vân bị quan bắt bớ, bèn nổi lên đánh phá trong hạt Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn. Giặc Nông khởi từ tháng 7 năm quý tị (1833) cho đến tháng 3 năm ất mùi (1835) dai dẳng trong non hai năm trời, làm cho quan quân thật là vất vả.

Nông Văn Vân làm Tri châu châu Bảo Lạc. Nhân thấy quan quân tìm bắt họ hàng Lê Văn Khôi, bèn nổi lên tự xưng là Tiết Chế Thượng Tướng 184 Quân, và bắt viên tỉnh phái thích chữ vào mặt rằng: “Quan tỉnh hay ăn tiền của dân”, rồi đuổi về.

Nông Văn Vân chia quân ra đánh phá các tỉnh, quan sở tại chống không nổi, phải xin quân cứu viện. Vua Thánh Tổ được tin ấy, bèn sai Sơn Hưng Tuyên Tổng Đốc là Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng Đốc Quân Vụ, và sai Hải An thự tổng đốc là Nguyễn Công Trứ làm tham tán, đem quân hội với Ninh Thái Tổng Đốc là Nguyễn Đình Phổ đi tiễu trừ giặc Nông.

Quân giặc vây đánh Cao Bằng và Lạng Sơn ngặt quá, nhà vua lại sai An Tĩnh tổng đốc là Tạ Quang Cự làm tổng thống đại thần, lên đánh ở mạn Cao Bằng và Lạng Sơn.

Nông Văn Vân nhận được chỗ mường mán lắm núi nhiều rừng, bèn chia quân đi tản ra mọi nơi, tìm chỗ hiểm yếu mà ẩn nấp, hễ có quan quân đến, đánh được thì tiến, không đánh được thì lui, cứ ra vào bất trắc, lui tới không nhất định. Quan quân đi đánh thật là khó nhọc và lại hao binh tổn tướng rất nhiều.

Tháng chạp năm quý tị (1833) đạo quân của Tạ Quang Cự giải được vây tỉnh Lạng Sơn và lấy lại được thành Cao bằng. Đạo quân của Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung (tức là Bảo Lạc) là chỗ sào huyệt của giặc. Nông Văn Vân phải chạy trốn sang Tàu.

Nhưng mà khi quan quân rút về, thì Nông Văn Vân lại về rủ đảng đánh phá như cũ. Nhà vua lại sai các đạo quân tiến lên phòng giữ các tỉnh mạn ngược.

Đến tháng 9 năm giáp ngọ (1834) Lê Văn Đức và Phạm Văn Điển đi từ Sơn Tây lên Tuyên Quang; Tạ Quang Cự, Nguyễn Tiến Lâm, và Hồ Hữu đi từ Cao bằng; Nguyễn Đình Phổ và Nguyễn Công Trứ đi từ Thái Nguyên, ba mặt quân cùng tiến lên hội tiễu. Quan quân đi đường sá khó khăn, lương thực vận tải không tiện, nhưng mà quân sĩ đều cố hết sức, đi đến đâu quân giặc tan đến đấy. Tháng chạp năm ấy, cả ba đạo cùng đến hội ở Vân Trung, rồi sai người đưa thư sang nói với quan nhà Thanh phòng giữ, đừng cho quân giặc chạy sang bên ấy. Quả nhiên Nông Văn Vân lại chạy sang Tàu, bị quân Tàu đuổi bắt, lại phải trở về Tuyên Quang.

Tháng 3 năm ất mùi (1835), Phạm Văn Điển được tin biết chỗ tên Văn Vân ở, liền đem quân đi đuổi. Văn Vân chạy ẩn vào trong rừng, Phạm Văn Điển bèn vây 4 mặt, rồi phóng hỏa đốt rừng. Văn Vân bị chết cháy. Quan quân chém lấy đầu đem về Kinh báo tiệp.

6. Giặc ở Nam Kỳ.

Đất Nam Kỳ là đất của nhà Nguyễn khai sáng ra, và cũng bởi đấy mà vua Thế Tổ lập nên cơ nghiệp bản triều bây giờ, thế mà lại có sự phản nghịch là tại làm sao? Có phần là tại vua Thánh Tổ không dong thứ cho những kẻ cựu thần, có phần là tại những người gian nịnh muốn chiều ý vua để lấy công, làm ức hiếp người ta, cho nên mới thành ra sự loạn lớn ấy.

Nguyên mấy năm trước, Lê Văn Duyệt làm tổng trấn ở Gia định thành, có uy quyền lắm, mà lòng người ai cũng kính phục. Chỉ vì ông ấy là quan võ, tính khí nóng nảy, lắm khi ở chỗ triều đường tấu đối không được hợp thể, vua Thánh Tổ lấy làm không bằng lòng, nhưng ông ấy là bậc khai quốc công thần, cho nên ngài cũng làm ngơ đi. Đến khi ông ấy mất, thì vua Thánh Tổ bãi chức Tổng Trấn thành Gia Định và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lĩnh binh, như các tỉnh ở ngoài Bắc.

Tỉnh Phiên An (tức là tỉnh Gia Định) có Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương Đạt làm án sát. Nhưng Bạch Xuân Nguyên vốn là người tham lam tàn ác; khi đến làm bố chính ở Phiên an, nói rằng phục mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày trước.

Trong bọn ấy có Lê Văn Khôi. Nguyên trước tên ấy gọi là Nguyễn Hữu Khôi, người ở Cao Bằng, nhân cớ khởi binh làm loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt làm kinh lược ở đấy, nó xin ra thú. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến chức Phó Vệ Úy.

Bấy giờ Lê Văn Khôi bị bắt giam, phần thì tức giận, phần thì sợ tội, bèn mưu với mấy người đảng của nó để dấy loạn; ở Gia Định lại có những người có tội ở Bắc Kỳ đem đày vào, hoặc cho làm ăn với dân sự, hoặc bắt làm lính gọi là hồi lương; những lính ấy đều theo tên Khôi cả.

Đến đêm ngày 18 tháng năm, năm quý tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, Khôi cùng với 27 người lính hồi lương vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên, rồi ra gặp quan tổng đốc là Nguyễn Văn Quế đem người đến cứu, chúng cũng giết nốt. Còn quan Án và quan Lãnh thì chạy thoát được.

Bấy giờ những quân kinh đóng ở Phiên An phần nhiều theo về Lê Văn Khôi. Lê Văn Khôi bèn tự xưng làm Đại Nguyên Súy, phong cho đảng mình là bọn Thái Công Triều và Lê Đắc Lực quản trung quân, Nguyễn Văn 185 Đà và Nguyễn Văn Tông quản tiền quân, Võ Vĩnh Tiền và Võ Vĩnh Tài quản hữu quân, Võ Vĩnh Lộc và Nguyễn Văn Bột quản hậu quân, Lưu Tín và Trần Văn Tha quản thủy quân, Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Văn Chân quản tượng quân, v.v…. Lại đặt các quan chức như một triều đình riêng vậy. Đoạn rồi Lê Văn Khôi sai bọn Thái Công Triều đem quân đi lấy các tỉnh thành, chỉ trong một tháng mà 6 tỉnh Gia Định thuộc về giặc cả.

Triều đình được tin ấy, liền sai Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch tả tướng quân và Nguyễn Xuân làm tham tán, sai Phan Văn Thúy làm Thảo nghịch hữu tướng quân, Trương Minh Giảng làm tham tán, cùng với Bình Khấu tướng quân là Trần Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào đánh Lê Văn Khôi.

Khi quan quân vào đến Gia Định không biết tại cớ gì, mà trung quân của ngụy là Thái Công Triều xin về đái tội lập công. Nguyên Thái Công Triều là người ở Thừa Thiên, trước làm quan vệ úy, coi vệ biền binh đóng ở Gia Định, sau theo tên Khôi làm phản. Nay lại trở về với triều đình, đem quân đi đánh Lê Văn Khôi lấy lại các tỉnh.

Lê Văn Khôi biết thế không chống nổi, vào thành Phiên An đóng cửa lại, rồi chia quân ra chống giữ, và lại sai người đi sang Tiêm La cầu cứu. Quân Tiêm nhân dịp ấy, chia làm mấy đạo sang đánh nước Nam. Việc ấy sẽ nói ở mục sau.

Quan quân một mặt thì đánh đuổi quân Tiêm, một mặt thì vây đánh thành Phiên An, Lê Văn Khôi hết sức chống giữ, nhưng đến tháng chạp năm ấy thì phải bệnh chết. Tuy vậy, quân ngụy ở trong thành cứ chống giữ mãi, non ba năm trời quan quân mới hạ được thành.

Thành Phiên An là thành của ông Lê Văn Duyệt xây xong năm Minh Mệnh thứ 11 (1830). Xây toàn bằng đá ong, thành cao và rộng, hào sâu, ở trong thành lại có đủ cả lương thực khí giới, cho nên quan quân đánh thành lần nào cũng bị chết hại nhiều người, mà không lấy được. Mãi đến tháng 7 năm ất tị (1835), quân ngụy ở trong thành đã mỏi mệt lắm rồi, tướng quân là Nguyễn Xuân, và Nguyễn Văn Trọng mới hạ được thành và vào bắt giết quân giặc cả thảy đến 1.831 người, đem chôn vào một chỗ, nay gọi là “mả ngụy”. Còn những người thủ phạm thì đóng cũi đem về Kinh trị tội.

Ông J. Silvestre chép truyện Lê Văn Khôi khởi loạn ở Gia Định 145

nói rằng trong 6 người thủ phạm phải đóng cũi giải về Huế, có một ông linh mục

145

Xem tập tạp chí “Revue Indochinoise” số 7-8 năm 1915 và quyển An Nam Sử Lược “Abrégé de l’histoire d’Annam” của ông A. Schreiner. người nước Pháp tên là Marchand (bấy giờ gọi là cố Du), một người khách tên là Mạch Tấn Gia, và một đứa con của Khôi, mới lên 7 tuổi.

Việc ông cố Marchand thì đã nhiều người bàn đi bàn lại: người thì bảo ông ấy có ý muốn làm như ông Bá Đa Lộc, để giúp Lê Văn Khôi lập nên một nước theo đạo Thiên Chúa ở Gia Định, người thì bảo ông ấy bị Lê Văn Khôi bắt vào trong thành. Việc ấy vẫn phân vân không rõ hẳn ra thế nào.

Đến khi về đến Huế thì ông Marchand và 5 người kia đều phải tội lăng trì. Thiết tưởng dẫu thế nào mặc lòng, đem một đứa con vô tội và 2 người ngoại quốc ra làm cái tội thảm hình ấy, thì thật gớm ghê quá. Tục Á Đông ta trước hay dùng những nhục hình như là tội lăng trì, tội ngựa xé, tội voi dày v.v… thì thật là dã man vô cùng, ngày nay ai nghĩ đến cũng phải ghê mình.

7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất: – Lê Văn Duyệt.

Quan quân bình xong giặc Lê Văn Khôi rồi vua Thánh Tổ sai phá thành Phiên An đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống chiếu định truy tội Lê Văn Duyệt và tội Lê Chất.

Cứ bình tỉnh mà xét, thì chẳng qua là vua Thánh Tổ vốn có ý không ưa hai ông ấy, rồi đình thần lại nhân đó mà bới việc ra để chiều ý ngài, cho nên thành ra hai cái án thật là không đáng.

Nay cứ theo trong sách “Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện” mà chép ra, để mọi người đều được lấy lẽ công bằng mà phán đoán.

Từ khi tên Khôi khởi loạn, vua Thánh Tổ thường ban trách Lê Văn Duyệt che chở quân phỉ đảng, để gây nên hoạn loạn.

Năm ất mùi (1835), ở Đô Sát Viện có Phan Bá Đạt dâng sớ nói rằng: Lê Văn Duyệt trước ở Gia Định, lấy bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, làm trảo nha, lấy binh Bắc Thuận, Hồi Lương 146

làm tâm phúc. Bọn ấy vốn là quân hung ác, không phải là người lương thiện, cho nên Duyệt mất chưa bao lâu mà bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, đã đem quân Hồi Lương, Bắc thuận cùng với bọn thủ hạ giữ thành làm phản; lại làm phiến hoặc nhân tâm, để vạ lây đến các tỉnh Nam Kỳ, mà khó nhọc đến đại đội quan quân phải tiến tiễu. Năm tỉnh nay dẫu thu phục rồi, song thành Phiên An tặc đảng vẫn còn thiết cứ, quan quân tiến tiễu, lắm người thương vong, cái vạ ấy nói sao cho xiết. Nay Duyệt mất rồi, sự trạng dẫu không có thể tường cứu được, nhưng cứ xem con nuôi là Lê Văn Hán trước đây vào ra trong thành, nhập đảng với

146

Bắc Thuận, Hồi Lương là những người ở Bắc Kỳ bị tội phải đày vào làm lính ở Nam Kỳ. 186 nghịch Khôi, và đem Bạch Xuân Nguyên làm đuốc để tế từ đường, thì tâm tích của Duyệt tưởng không phải xét cũng đã rõ. Nếu không bắt tội e không làm gương được cho đời sau. Vậy xin truy đoạt quan chức của Duyệt, còn vợ con thì giao về Hình Bộ tra minh nghiêm nghị, để tỏ phép nước”.

Vua dụ Nội Các rằng: “Lê Văn Duyệt xuất tha6n từ kẻ yêm hoạn, vốn là một đứa đầy tớ trong nhà. Xảy gặp hồi trung hưng, rồng mây gặp gỡ, đánh dẹp Tây Sơn, cũng dự có phần công lao. Đức hoàng khảo ta nghĩ tới nó thủa nhỏ sai khiến ở trong cung, mới đem lòng tin cậy, nhiều lần cho nó cầm quyền đại tướng. Không ngờ bọn ấy phần nhiều là quân bất lương, mỗi ngày sinh ra kiêu căng, manh tâm phản nghịch, sinh chí làm càn, ăn nói hỗn xược. Vì nó còn e Hoàng Khảo ta thánh minh, cho nên dẫu có lòng gian mà chưa dám lộ. Mà hoàng khảo ta đến vãn niên cũng đã biết rõ. Nhưng lại nghĩ hắn dẫu có lòng gian, song thiên hạ đã yên rồi, thần dân ai còn theo kẻ thị hoạn đó, thì chắc hắn cũng chẳng làm gì được. Đến khi trẫm lên ngôi, cựu thần không còn mấy, vả lại nghĩ nó tuổi đã già, cho nên cũng tạm khoan dung, hoặc là hắn biết nghĩ mà chừa đi, để cho toàn vẹn công danh, thì cũng là việc hay. Không ngờ kẻ kia lòng như rắn rết, tính tựa sài lang, càng ngày càng sinh kiêu ngạo, dám nói xấu triều đình trước mặt chúng nhân, mà khoe cái tài riêng của mình. Năm trước các quân tù phạm xứ Thanh, Nghệ cùng là những kẻ hung ác, hắn đều chiêu dụ ra thú, tâu xin ghép vào trướng hạ để làm nanh vuốt. Lê Văn Khôi là quân vô lại, thì tiến cử đến chức vệ úy, theo dưới cờ hắn, để làm phúc tâm. Thổ hào như bọn Dương Văn Nhã, Đặng Vĩnh Ưng thì hắn ngấm ngầm vời dùng; nhân thích như bọn Võ Vĩnh Tiền, Võ Vĩnh Lộc thì hắn âm thầm lập đảng. Những kẻ tù phạm Bắc Kỳ phát phối vào đó, hắn cho ở trong thành, rồi tha cho làm lính; lại kén lấy những voi khỏe đem ra nơi đồn trú; vét lấy những thuyền bè khí giới trong 6 tỉnh Nam Kỳ chứa vào thành Phiên An; rồi lại nghe tên Trần Nhật Vĩnh mà hút hết cao huyết của dân Nam Kỳ. Đắp thành Phiên An, tiếm bằng Kinh thành, hào thì đào sâu hơn. Nếu bảo thành cao hào sâu để phòng giặc Tiêm, thì đường bể phải phòng ở Hà Tiên, đường bộ phải phòng ở Chân Lạp, có lẽ nào bỏ bốn tỉnh An, Hà, Long, Tường không giữ, mà lại giữ ở Phiên An hay sao? Thế là rõ rằng phòng Triều đình, chứ không phải phòng ngoại hoạn. Cứ suy điều đó, thì ruột gan hắn, dẫu người đi đường cũng biết, ai không căm tức, chỉ giận vì ai không chịu nói rõ cho Triều đình biết sớm mà thôi. Đến nỗi ngày nay như nuôi cái nhọt bọc để nên đau, mỗi ngày mầm vạ một lớn, cho nên kẻ quyền yêm dẫu chịu tội minh tru, mà bọn nhỏ nhặt còn dám giữ thành làm phản. Ví dù quan cai trị không hèn đốn như Nguyễn Văn Quế, tham tàn như Bạch Xuân Nguyên, thì chúng nó có ngày làm phản chứ không sao khỏI được. Vì bọn tiêu hạ hắn toàn là quân hung đồ, quen làm những việc bất thiện. Chúng nó đã quen thấy hắn dối chúa, lấn trên, đều bắt chước hắn. Thậm chí hắn nói với người tra rằng hắn vào trấn Gia Định, vốn là phong vương để giữ lấy đất, chứ không phải như các tổng trấn tầm thường khác. Mả của cha hắn, em hắn, cũng tiếm gọi là lăng; hoặc dám đối với người ta, tự xưng là Cô, để cho bộ hạ tập quen thành thói, chỉ biết có Lê Văn Duyệt mà không biết đến triều đình. Thầy Hữu tử nói rằng: “Không ưa phạm người trên mà ưa làm loạn, chứ có lẽ ấy bao giờ”. Vậy thì ưa phạm người trên và không ưa làm loạn, cũng chưa có lẽ thế bao giờ. Mối vạ gây nên đã lâu, lẽ nào mà muốn cho bọn tiêu hạ không làm phản được? Vậy nên hắn chết chưa bao lâu, mà bọn Lê Văn Khôi đã khởi loạn, cháu hắn cũng đồng tình tạo phản, để cho cả bọn bộ khúc của hắn đều theo giặc cả, không một tên nào trốn đi, rồi nó kết tử đảng, cậy có thành cao, hào sâu, lương thực như núi, khí giới tinh nhuệ, đồ đảng lại nhiều, kháng cự lại vương sư, chầy đến 3 năm trời, nhiều lần mở đường sống cho nó, mà chúng nó không biết hối tội đầu thành, đến nỗi binh dân gan óc lầy đường, nói ra đau xót đến gốc nguồn thì tội hắn kể từng cái tóc cũng không xuể. Nay hãY đem những công việc của hắn làm, rõ ràng ở tai mắt người ta, để gây nên hoạn loạn, hiểu thị cho ai nấy đều biết. Còn như Lê Văn Duyệt và con cháu hắn nên xử tội thế nào, thì giao cho đình thần nghị xử”.

Vài hôm sau, nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Quýnh tâu rằng: Duyệt che chở cho quân phỉ loạn, gây nên sự biến, cái tai vạ tích lại đã lâu. Nay xét những giấy má của y ngày trước, rõ ra hình tích bội nghịch, có 6 điều: 1) Năm Minh Mệnh thứ 4, y tự tiện sai người riêng là bọn Phan Đạt giả danh đi thám, đi thuyền sang nước Diến Điện. Trong thư ấy chắc có giao thông. Cứ lấy nghĩa “làm tôi không có phép được giao thông với nước ngoài”, thì tâm sự của y đã rõ, ấy là một tội. 2) Đến khi sứ thần nước Diến điện đến thành, mới tâu vào Triều Đình. Đã có chỉ dụ nói việc đó quan hệ đến đại nghĩa, không nên khinh thường, nghe lời ngoài mà bỏ tình hòa hiếu, gây việc cừu thù. Vậy mà y cố xin dung nạp. May mà triều đình trả đồ cống vật cho sứ Diến Điện về nước, thì danh nghĩa nước lớn ta mới tỏ giải ra thiên hạ. Thế là y chẳng những mưu việc nước không ra gì, mà lại cố giữ lấy ý riêng để che điều lỗi, ấy là hai tội. 3) Năm Minh Mệnh thứ 7, tàu bạt phong nước Anh Cát Lợi đậu vào cửa Bình Thuận, đã có chỉ sai sở tại hộ tống, mà y cố xin đưa vào Gia Định, và nói rằng: “Quan trấn kiềm thúc, không bằng thần có quyền, khiến cho kẻ kia sợ tướng lệnh và biết binh oai”. Hai chữ “có quyền” từ xưa vẫn lấy làm răn, mà y dám ngất ngưởng tự nhận, kiêu tứ dường nào, ấy là ba tội. 4) Năm Minh Mệnh thứ 4, thị vệ là Trần Văn Tình nhân việc công sai ở Gia Định về, có tâu việc Trần Nhật Vĩnh làm riêng phố ngói, 187 mua trộm các món. Y nghe chuyện làm vậy, năm sau vào chầu, cố xin bắt Trần Văn Tình giao cho y để y chém, nếu không giao thì y xin trả chức Tổng Trấn; rồi y xin từ chức thực. Có ý trêu quân như vậy, tội gì còn to bằng tội ấy. Vả y xin giết một Trần Văn Tình, thế là bắt người ta phải khóa lưỡi, không ai dám nói nữa, rất là dụng tâm nham hiểm, ấy là bốn tội. 5) Trần Nhật Vĩnh đã có chỉ bổ thụ ký lục Vĩnh Thanh, mà y cố xin lưu ở lại trong thành. Lê Đại Cương có chỉ tuyên triệu, mà y cố xin lưu lại làm việc phủ Lạc Hóa, đều là có ý vi chiếu. Trong tập tâu của y lại nói rằng: “Chuẩn cho thần cầu xin việc ấy, thì hầu có ích cho việc ngoài biên cương”; lại ở trong tập tâu xin chi bổng cho bọn thơ lại, cơ, đội, các vệ, có câu rằng: “Lão thần xa ở ngoài biên khổn, chỉ e triều đình tin dùng không được vững bền”. Trong lời lẽ ấy đều là không kính, ấy là 5 tội. 6) Năm Minh Mệnh thứ 6, y tâu xin tăng thọ cho Lê Chất, có nói rằng: “Ấy là vị thánh dược khởi tử hồi sinh, tiếc gì mà không làm”. Y là chức biên khổn dám kết đảng tư tình như thế, rất trái với đạo làm tôi, ấy là 6 tội. Vả lại nghe y bình nhật thường khoe chuyện với người ta rằng: y xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ:

Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng Phù Chu ninh hậu thập Chu thần Tha niên tái ngộ Trần kiều sự Nhất đán hoàng báo bức thử thân

Dịch Nôm Giúp Hán há thua cùng tướng Hán Phò Chu nào kém bọn tôi Chu Trần kiều nếu gặp cơn binh biến Mảnh áo hoàng bào để ép nhau!

Giá y không phải là người sẵn có bụng bất trung, thì không khi nào dám khoe bài ấy với người ta. Bởi vậy bọn tiêu hạ tập quen thành thói, cho nên thây y chưa lạnh mà đã có việc này. Vậy xin giao cả lời tâu này cho đình thần kết án để chính tội. Vua ưng cho.

Đến khi nghị án xong, trích ra các lời nói, việc làm, bội nghịch, có 7 tội nên trảm: 1. Sai người đi riêng sang Diến Điện, âm kết ngoại giao. 2. Xin giao tàu Anh Cát Lợi đến thành, để tỏ có quyền. 3. Xin giết thị vệ là Trần Văn Tình, để khóa miệng người ta. 4. Kháng sớ xin lưu quan viên bổ đi chỗ khác. 5. Lập đảng mà xin tăng thọ cho Lê Chất. 6. Giấu chứa giấy ngự bảo. 7. Mộ cha, tiếm gọi là lăng, đối với người ta, tự xưng là Cô.

Có 2 tội nên giảo: 1. Cố xin dung nạp Diến Điện để che chở cái lỗi của mình. 2. Nói chuyện với người ta xin được quẻ thẻ có câu thơ hoàng báo.

Một tội nên phát quân: 1. Tự tiện sai biền binh tu tạo tàu thuyền.

Sự biến Phiên An, y thực là đầu vạ nên chiếu theo luật mưu phản, khép vào tội lăng tri; song y đã chịu minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bỏ quan quách giết thây, để tỏ gương răn cho người khác. Còn như tằng tổ, tổ phụ của y được phong tặng cáo sắc, thì xin truy đoạt cả; tiên phần có tiếm dụng trái phép nào thì tước hủy đi; con, cháu, vợ cả, vợ lẽ, đều phân biệt nghị tội; tài sản thì tịch biên hết.

Án ấy đệ lên. Những tội nguyên nghị trảm quyết đổi làm giam hậu, con cháu từ 15 tuổi trở xuống, tạm hãy nghiêm cấm; trẻ thơ ấu chưa biết gì thì tha không bắt; ba họ phải phát nô cũng đều tha; nguyên nghĩ lục thì cũng thôi.

Lại sai Hình bộ sao bản văn án phát cho tổng đốc, tuần phủ các tỉnh, cho cứ ý kiến riêng mà tâu về. Hộ phủ Lạng Bình là Trần Huy Phác xin điều phép tội trảm quyết. Hộ phủ Quảng Yên là Lê Dục Đức xin người nào từ 16 tuổi trở lên đều chém, còn thì đều y như đình nghị. Tổng đốc Bình Phú là Võ Xuân Cẩn, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Văn Trạm cũng đều xin y đình nghị. Lại nói kèm một cầu rằng: hoặc nên lấy công bù tội châm chước ít nhiều thì tự Thiên Ân.

Dụ rằng: “Xem vậy thì đủ biết lẽ Trời không sai, mà công đạo ở lòng người không ai giấu được. Kẻ quyền gian kia gây vạ, thiên hạ ai cũng căm tức luôn, muôn miệng cùng lời, đủ tỏ cái án sắt nghìn xưa. Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan quách mà giết thây, cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mã, không bõ gia hình. Vậy cho tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên viết to những chữ “Chỗ này là nơi quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp”, để chính tội danh cho kẻ đã chết, mà tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời.

188 Không những Lê Văn Duyệt là họa thủ tội khôi, mà tên cháu y là Lê Văn Hán cũng giao thông với giặc, thì thân thuộc phải tội, trong luật đã có điều nói rõ rồi. Song nghĩ nó chẳng qua cuồng dại một lúc, qua lại với giặc mà thôi, sánh với kẻ trước sau theo giặc kháng cự quan quân, hơi có khác nhau. Và đã xử cực hình, cũng đủ tỏ phép nước rồi. Những kẻ thân thuộc khác, khép tội trảm giam hậu, cũng đủ cho nó phục tội. Lời dụ này chuẩn lục tống phát cho mỗi tỉnh một đạo, để cho ai nấy đều biết Triều Đình xử rất công, rõ ràng cái cân ba thước mà nghiêm như rìu búa nghìn thu”.

Án Lê Chất: Án Lê Văn Duyệt phát ra năm trước thì năm sau có quan Lại bộ tả thị lang là Lê Bá Tú truy tham những tội bất thần của Lê Chất, có 6 tội nên chết: 1. Chất cùng Duyệt toan mưu làm việc Y, Hoắc (phế lập), bị hai đứa ở nói hở ra ngoài, bèn giết chúng nó để buộc miệng, là một tội. 2. Mấy lần cố xin thưởng cho hoàng tử để làm con nuôi, muốn bắt chước lối cũ của Dương Kiên, là hai tội. 3. Muốn cho con gái chính vị trong cung, không được thỏa chi, nói ra những lời oán vọng, là ba tội. 4. Thường nói chuyện với Lê Văn Duyệt rằng: “Người ta thường nói trời, vua và cha mẹ, người làm con, làm tôi dù có điều bất bình, cũng không dám giận, mà một mình tôi dám giận” là bốn tội. 5. Lại nói rằng: “Vua cậy có Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Hữu Thuận phúc tâm, chỉ đem độ vài trăm người vào chầu, quát to một tiếng, bọn ấy cũng phải phục xuống đất, rồi ta muốn làm gì ta làm” là năm tội. 6. Lại nói rằng quốc tính đổi làm tôn thất, đều là bọn Hoài Đức a dua xui giục, nên đem chém ở trước cửa miếu để chính tội, là sáu tội.

Lại có 10 tội tiếm loạn: 1. Khi y ở Bắc thành, đầu năm điểm binh, dám lên lầu Ngũ môn ngồi chính giữa. 2. Đệ niên thuyền tải ngoài bể, y lấy của riêng mà tải vào thuyền công. 3. Cùng với Lê Văn Duyệt dâng biểu từ chức để bắt bí nhà vua. 4. Việc sinh sát dữ đoạt, hay tự tiện. 5. Trái phép, ăn lễ, giàu đến nghìn vạn. 6. Tấu sớ không hợp phép, có chỉ không cho, mà cứ nhất định nộp lại, có Lê Văn Duyệt ngăn đi mới thôi. 7. Nuôi những cung nữ tiên triều, không biết kiêng nể gì. 8. Nơi công sảnh tiếm làm gác chuông, gác trống. 9. Tội án Lê Duy Thanh đã thành, lại còn cùng với Lê Văn Duyệt cố xin nghị lại. 10. Điều bổ cơ binh, phủ binh, xin lấy chức quan văn mà thi hành.

Vậy xin giao cho đình nghị, để chính tội danh làm gương cho kẻ gian trăm đời.

Vua dụ rằng: “Chất, tính vốn sài lang, nết như ma quỷ, làm tôi thì bất trung, bất chính, xử việc thì đại ác đại gian, việc nào cũng càn rỡ, ai là chẳng tức giận, chẳng những là 16 tội mà thôi đâu. Trước kia trẫm nghĩ hắn cùng với Lê Văn Duyệt, dẫu mang lòng bất thần, nhưng người ta không chịu theo, thì chắc không dám gây sự. Vả hắn là nhất phẩm đại thần; dù có mưu gian mà thần dân chưa cáo tố, thì không nỡ bắt tội. Kể đến hắn lại chịu tội minh tru rồi thì lưới trời tưởng cũng không thoát, cho nên cũng chẳng kể làm gì nữa. Nay đã có người tham hạch, vậy thì phải trái công, đã có triều đình pháp luật. Chuẩn cho đình thần đem 16 điều tội của hắn mà định rõ tội danh, vợ con cũng án luật mà nghị xử, duy con gái nào đã xuất giá, cùng là cháu trai còn nhỏ thì tha”.

Đình thần nghị rằng: Chất, bất pháp bất trung, đại gian đại ác, có 6 tội nên lăng trì, 8 tội nên trảm, 2 tội nên giảo. Những tội phạm phận, âm mưu điều bất quỷ, thì khép vào tội bạn nghịch mà xử lăng trì. Song y đã chịu tội minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bổ áo quan, lục thây, khiêu thủ để thị giới. Còn cáo sắc phong cho cha mẹ y, cũng xin truy đoạt; vợ là Lê Thị Sai từng đồng mưu bạn với chồng, nghĩ trảm lập quyết. Lại phát cho các tổng đốc, tuần phủ, mỗi nơi một đạo văn án, để cho đem ý riêng bày tỏ tâu về, cho công lòng chúng. Các địa phương tâu về, đều xin y đình nghị.

Ngài dụ rằng: “Như vậy đủ rõ lẽ trời ở tại lòng người, công luận không bao giờ mất. Kẻ gian thần chứa vạ, muôn miệng cùng một lời, đủ làm án sắt thiên cổ. Vả Lê Chất cùng với Lê Văn Duyệt, dựa nhau làm gian, tội ác đầy chứa, nhổ từng cái tóc mà tính cũng không hết, giá thử bổ áo quan giết thây, cũng không là quá. Song lại nghĩ Chất tội cũng như Duyệt, trước kia Duyệt đã không bổ áo quan giết thây, thì nắm xương khô của Chất nay cũng chẳng màng bắt tội. Vậy cho tổng đốc Bình Phú Võ Xuân Cẩn san phẳng mộ của hắn, khắc bia dựng lên trên đề to mấy chữ: “Chỗ nầy là nơi Lê Chất phục pháp” để làm gương cho kẻ gian tặc muôn đời. Còn vợ hắn là Lê Thị Sai cùng ở một nhà, dự biết mưu bạn nghịch, xử vào cực hình, cũng là phải, song kẻ đàn bà chẳng cần vội vàng chính pháp. Vậy Lê Thị Sai cùng con là Lê Cẩn, Lê Trương, Lê Thường, Lê Kỵ, đều cải làm trảm giam hậu. Lại tịch biên gia sản, được hơn 12.000 quan tiền, giao tỉnh chứa cả vào kho 147 .

147

Đến năm Tự đức nguyên niên (1847) quan đông các đại học sĩ là Võ Xuân Cẩn làm sớ tâu xin gia ân cho con cháu Nguyễn Văn Thành. Trong bài sớ có lắm câu thảm thiết. Có chỗ nói rằng: “Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất đều có lòng theo mây đợi gió, xông pha chỗ mũi tên hòn đạn, thân làm đại tướng, tước đến quận công, sau hoặc vì con dại, hoặc vì cậy công mà làm thành tội ….. Dù bọn Nguyễn Văn Thành có tội, thì tội đã trị rồi, mà công thì không hỏi đến, 189

8. Giặc Tiêm La.

Nước Tiêm La tự khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp, vẫn có ý muốn sinh sự với nước Nam, nhưng còn sợ thế lực Nguyễn Triều chưa dám làm gì, chỉ thỉnh thoảng sang sinh sự với những nước ở Lào. Hễ khi nào Tiêm và Lào đánh nhau, thì nhà vua sai quan quân phòng giữ những chỗ biên thùy, và sang cứu viện những nước bị người Tiêm bắt nạt. Như năm đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, nước Tiêm đánh lấy nước Vạn Tượng (Vientiane), quốc trưởng nước ấy là A Nỗ chạy sang cầu cứu, vua Thánh Tổ sai quan thống chế là Phan Văn Thúy làm kinh lược biên vụ đại thần đem binh tượng sang cứu A Nỗ.

Tháng chín năm ấy, bọn Lê Đức Lộc, Nguyễn Công Tiến đem binh ở Nghệ An chia làm hai đạo đi đường Quy Hợp và đường Lạc Phàm qua Trấn Ninh sang cứu A Nỗ. Đi đến đâu vẽ những sông núi hình thế hiểm trở rồi gửi về Kinh.

A Nỗ mất nước không lấy lại được, phải theo quân An Nam về Nghệ An, đợi thu xếp quân sĩ để về đánh báo thù. Đến năm mậu tí (1828), A Nỗ nói rằng quân Lào tụ hợp được đủ rồi, xin cho quan quân đưa về nước. Vua Thánh Tổ sai Phan Văn Thúy làm kinh lược đại thần, Nguyễn Văn Xuân làm phó, Nguyễn Khoa Hào làm tham tán, đem 3.000 quân và 24 con voi, đưa A Nỗ về Trấn Ninh.

Đến Trấn Ninh, A Nỗ xin đem quân Lào về Vạn Tượng (Vientiane). Phan Văn Thúy cho hai đội quân Thần Sách đi hộ tống. Về đến Vạn Tượng, A Nỗ đem quân đi đánh quân Tiêm, quân sĩ chết hại rất nhiều, rồi lại sai người sang Nghệ An xin viện binh.

Vua Thánh Tổ thấy A Nỗ hay sinh sự đánh nhau mà không được việc gì, bèn không cho quân sang cứu, chỉ xuống lệnh truyền cho các hạt ở Lào phải phòng giữ những chỗ biên thùy. A Nỗ không có quân cứu viện, bị quân Tiêm đến đánh, lại phải bỏ thành mà chạy sang Trấn Ninh. Được ít lâu, Chiêu Nội là thủ lĩnh Trấn Ninh bắt A Nỗ đem nộp cho Tiêm La.

Quân Tiêm La phá được Vạn Tượng rồi, lại xâm vào đến các châu phụ thuộc về nước Nam, ở mạn gần Quảng Trị. Vua Thánh Tổ sai thống chế Phạm Văn Điển, kinh lý mọi việc ở Cam Lộ, sai Lê Đăng Doanh làm tham tán quân vụ, cùng với quân các đạo ở Lào đi tiễu trừ.

chẳng hóa ra đem cái công lao bách chiến mà để đến nỗi cái tàn hồn phải bơ vơ như ma trơi ngoài đồng, khác nào quỷ Mạc Ngao không ai thờ cúng không?” Vua Dực Tông xem bài sớ ấy lấy làm cảm động bèn truy phong cho bọn Nguyễn Văn Thành, và cấp phẩm hàm cho các con cháu.

Phạm Văn Điển, một mặt thì cho người đem thư sang trách nước Tiêm La sinh sự, một mặt thì chia quân, làm ba đạo tiến lên đánh.

Tướng Tiêm la viết thư trả lời một cách khiêm nhường lắm, rồi rút quân về. Từ đó nước Tiêm bề ngoài vẫn thông sứ đi lại để giữ sự hòa hiếu, nhưng ngấm ngầm cứ tìm cách quấy nhiễu nước Nam. Ở phía tây nam, người Tiêm vẫn dung túng những người phản nghịch nước Chân Lạp, mà ở phía tây bắc thì vẫn cứ hà hiếp Vạn Tượng và các nước nhỏ khác. Dù thế mặc lòng, vua Thánh Tổ không muốn gây việc binh đao, cứ dùng lời nói ngọt mà trang trải mọi việc.

Đến cuối năm quý tị (1833) nhân có ngụy Khôi khởi loạn ở đất Gia Định và tên Khôi lại cho người sang cầu cứu vua Tiêm La bèn sai quân thủy bộ chia ra làm 5 đạo sang đánh Việt Nam.

Đạo thứ nhất thủy quân đem hơn 100 chiếc thuyền vào đánh lấy Hà Tiên; đạo thứ nhì bộ quân sang đánh Nam Vang (Phnon-penh), rồi tiến lên đánh lấy Châu Đốc và An Giang; đạo thứ ba đánh lấy mặt Cam Lộ; đạo thứ tư đánh Cam Cát, Cam Môn, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh.

Tuy rằng quân nghịch năm đạo cùng tiến, nhưng chủ đích của Tiêm La là cốt đánh Chân Lạp và Nam Kỳ, còn các đạo khác là để phân quân lực của nước Nam mà thôi.

Vua Thánh Tổ được tin báo cấp, liền xuống chiếu sai quan quân phòng ngự các nơi. Phía tây nam thì sai quân thứ ở Gia Định, chia quân cho Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đi tiến tiễu ở mặt An Giang. Phía tây bắc thì sai Lê Văn Thụy giữ mặt Cam Lộ, thuộc Quảng Trị, Phạm Văn Điển giữ mặt Nghệ An. Lại sai Nguyễn Văn Xuân 148

làm kinh lược đại sứ đi tiễu trừ quân Tiêm và quân Lào ở Trấn Ninh.

Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đại phá quân Tiêm La ở sông Cổ cắng. Quân Tiêm La ở Chân Lạp cũng bị người bản xứ đánh phá. Chỗ nào quân nghịch cũng thua to chết hại rất nhiều; chỉ trong một tháng mà quan quân lấy lại Hà Tiên và Châu Đốc, đuổi quân Tiêm ra khỏi bờ cõi, rồi tiến lên đánh lấy thành Nam Vang và đưa vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về nước.

148

Nguyễn Xuân thì làm tham tán đại thần theo Trương Minh Giảng, Nguyễn Văn Xuân thì làm hữu quân lĩnh An tĩnh tổng đốc đi đánh mặt Trấn Ninh. 190

Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân từ Nam Vang tiến lên đánh quân Tiêm, liền phá mấy trận, chém tướng bắt binh lấy được súng ống khí giới không biết ngần nào mà kể. Tướng Tiêm La là Phi Nhã Chất Tri đem bại binh chạy về nước, quan quân đuổi đánh lấy thành Phú Túc (Pursat) rồi cho người Chân Lạp ở lại giữ các nơi: chỗ nào hiểm yếu thì làm đồn đắp lũy, để phòng ngự quân giặc.

Những đạo quân Tiêm và quân Lào sang đánh ở mặt Quảng Trị, Nghệ An và Trấn Ninh, đều bị tướng quân là Nguyễn Văn Xuân, Phạm Văn Điển và Lê Văn Thụy đánh đuổi, chỗ nào quan quân cũng được toàn thắng, giữ được bờ cõi nguyên như chỗ cũ cả.

Quân Tiêm sang đánh từ tháng giêng năm giáp ngọ (1834), đến tháng năm năm ấy, thì quan quân đã bình xong cả mọi nơi. Vua Thánh Tổ mừng rỡ, ban thưởng cho các tướng sĩ và bố cáo ra cho mọi nơi đều biết.

9. Việc Ai Lao.

Nước Nam ta về đời vua Thánh Tổ thì to rộng hơn cả, là vì quân Tiêm La cứ hay sang quấy nhiễu cho nên các xứ ở Lào đều xin về nội thuộc nước ta.

Năm đinh hợi (1827), người Nam chưởng (Luan Prabang) thông với Tiêm La, rồi cứ đem quân xuống quấy nhiễu đất Trấn Ninh. Tù trưởng là Chiêu Nội xin đem đất Trấn Ninh về nội thuộc Việt Nam. Vua Thánh Tổ phong cho Chiêu Nội làm Trấn Ninh phòng ngự sứ cai quản cả 7 huyện, lại phong cho những thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện thừa. Chiêu Nội dâng sổ dân đinh và điền thổ, cả thảy được 3.000 suất đinh và 28 sở ruộng.

Lại có đất Tam động và Lạc Phàn ( trước thuộcvề Vạn Tượng) cũng xin nội thuộc. Triều đình chia những đất ấy ra làm hai phủ là Trấn Tĩnh phủ và Lạc biên phủ. Năm ấy lại có xứ Xa hổ (?), Sầm Tộ (Sam teu), Mường soạn (?), Mang Lan (Mường Lam), Trình Cố (Xiêng-khô), Sầm nứa (Sam- neua), Mương Duy (?) và ở Ngọc Ma có Cám cát (Kham-keut), Cam Môn và Cam Linh (?) đều xin về nội thuộc. Vua Thánh Tổ chia những đất ấy ra làm ba phủ là Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man.

Phủ Trấn biên có bốn huyện là Xa hổ, Sầm tộ, Mang soạn, Mang lan; phủ Trấn định 149

có 3 huyện là Cam cát, Cam môn, và Cam linh. Hai phủ ấy đều thuộc về Nghệ An. Còn phủ Trấn Nam có 3 huyện là Trình Cố, Sầm nứa, Man Duy thì thuộc về Thanh Hóa.

149

Ở gần địa hạt Hà tĩnh bây giờ.

Ở miền Cam Lộ thuộc Quảng Trị lại có những mường Mang vang (?), Ná bi (?), Thượng kế (?), Tả bang (?), Xương thịnh (?), Tầm bồn (?), Ba lan (?), Mang bổng (?), Lang thời (?), xin về nội thuộc, chia ra làm 9 châu, cho chiếu lệ triều cống.

Đại khái là đất Sầm nứa, đất Trấn Ninh, đất Cam môn và đất Savannakhet bây giờ, thủa ấy thuộc về Việt Nam ta cả.

10. Việc Chân Lạp.

Ở nước Chân Lạp thì từ khi quan quân phá được giặc Tiêm rồi, Tướng quân là Trương minh Giảng và tham tán là Lê Đại Cương lập đồn An Nam ở gần Nam vang để bảo hộ Chân Lạp.

Cuối năm giáp ngọ (1834), vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên liêu là bọn Trà Long và La Kiên. Những người này đều là người Chân Lạp mà lại nhận quan chức Việt Nam. Đến năm ất mùi (1835), Trương Minh Giảng xin lập người con gái của Nặc Ông Chân tên là Angmey lên làm quận chúa, gọi là Ngọc Vân công chúa, rồi đổi nước Chân Lạp ra làm Trấn tây thành, chia ra làm 32 phủ và 2 huyện. Đặt một tướng quân, một tham tán đại thần, một đề đốc, một hiệp tán, và 4 chánh phó lĩnh binh, để coi mọi việc quân dân. Ở các chỗ yếu hại, lại đặt chức tuyên phủ, an phủ để phòng ngự.

Năm canh tí (1840), nhà vua sai Lê Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doãn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh Giảng để kinh lý mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo ruộng đất, định thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.

Nhưng vì quan lại Việt Nam ta sang làm nhiều điều trái lẽ, nhũng nhiễu dân sự, lại bắt Ngọc Vân công chúa đem về để ở Gia Định, bắt bọn Trà Long và Lê Kiên đày ra Bắc Kỳ, dân Chân Lạp ai cũng oán giận, chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên đánh phá. Lại có em Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa, có người Tiêm La giúp đỡ, thành ra quan quân đánh mãi không được. Về sau khi vua Thánh Tổ mất rồi, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà rút về An Giang.

Ấy cũng là vì người mình không biết bênh vực kẻ hèn yếu, chỉ đem lòng tham tàn mà ức hiếp người ta, cho nên thành ra hao tổn binh lương, nhọc mệt tướng sĩ, mà lại phải sự bại hoại, thật là thiệt hại cho nước mình.

11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương.

Việc giao thiệp của nước Nam ta với các nước ngoại dương mà ngăn trở là bởi có 191 hai lẽ: một là vì sự cấm giảng đạo thiên chúa; hai là vì người nước mình lúc bấy giờ không hiểu thời thế, cứ tự đắc mình là văn minh hơn người, không chịu học tập như người ta mà theo đường tiến bộ.

Nước ta từ đời thập thất thế kỷ, về nhà Hậu Lê đã có người Âu-la-ba ra vào buôn bán, hoặc ở Phố Hiến (Hưng Yên), hoặc ở cửa Hội An (Faifo), đều không có việc gì ngăn trở cả. Chỉ có sự giảng đạo Thiên chúa ở trong nước là hay bị sự ngăn cấm. Ngày trước chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã có dụ nghiêm cấm. Đến đời Nguyễn Tây Sơn thì trong nước rối loạn, còn phải lo việc chiến tranh, cho nên không nói đến việc cấm đạo. Về sau, khi vua Thế Tổ nhất thống cả nam bắc, thì ngài nhớ ơn bên đạo có công giúp rập trong lúc gian truân, vẫn để các giáo sĩ được phép đi giảng đạo mọi nơi. Mãi đến đời vua Thánh Tổ thì việc nước đã yên, nhà vua lưu ý về sự giáo hóa, lấy Nho đạo làm chính đạo và cho các tôn giáo khác làm tả đạo, bắt dân gian phải bỏ tà theo chính. Sự cấm đạo lại khởi đầu phát ra nữa.

Mà cũng vì sự cấm đạo, cho nên sự buôn bán của những người ngoại dương ở nước ta, thành ra ngăn trở. Bởi vì Triều đình thấy thỉnh thoảng có chiếc tàu buôn lại, thì có một vài người giáo sĩ vào giảng đạo, ngăn cấm thế nào cũng không được, tưởng là có ý do thám gì chăng, cho nên lại càng nghi ngờ lắm.

Vả lại về đời nhà Nguyễn lúc bấy giờ, ở trong nước cũng không có người ngoại quốc ra vào buôn bán, chỉ có người Pháp Lan Tây trước đã theo giúp vua Thế Tổ, rồi ở lại làm quan tại triều là Chaigneau và Vannier. Khi vua Thế Tổ hãy còn, thì Chaigneau có xin về nước Pháp nghỉ ba năm, đến năm đinh mùi (1821), ông ấy trở sang thì lại nhận chức lãnh sự và chức khâm sai của vua Louis XVIII, đem đồ phẩm vật và tờ quốc thư sang điều đình việc thông thương với nước Nam. Chaigneau sang đến nơi, thì vua Thế Tổ mất rồi, vua Thánh Tổ tiếp đãi Chaigneau cũng tử tế, và ngày sai quan trả lời cho Pháp Hoàng rằng nước Nam và nước Pháp không việc gì mà phải làm điều ước về việc thương mại. Việc vào buôn bán ở nước Nam, thì cứ theo luật nước Nam, không điều gì ngăn trở cả.

Năm nhâm ngọ (1822) có chiếc tàu chiến của Pháp tên là Cléopâtre vào cửa Đà nẵng, người quản tàu tên là Courson de La Ville Héllio nhờ Chaigneau xin phép cho vào yết kiến vua Thánh Tổ; ngài không cho. Tháng 7 năm ấy, có tàu Anh Cát Lợi vào Đà nẵng xin thông thương, nhà vua cũng không cho.

Chaigneau thấy nhà vua càng ngày càng nhạt nhẽo với mình, và cũng không làm được công việc gì có ích, bèn cùng với Vannier xin từ chức, rồi đến cuối năm giáp thân (1824), hai người xuống tàu đi qua Gia Định về Pháp.

Tháng giêng năm ất dậu (1825), lại có thủy quân đại tá nước Pháp là ông Bougainville đem hai chiếc tàu chiến là Thétis và Espérance vào cửa Đà Nẵng, đem đồ phẩm vật và quốc thư, xin vào yết kiến vua Thánh Tổ. Ngài nói rằng nước Pháp và nước Anh là hai nước cừu địch, mà nước ta trước đã không tiếp sứ Anh Cát Lợi, lẽ nào nay lại tiếp sứ nước Pháp. Vả lúc bấy giờ Chaigneau và Vannier đã về cả rồi, ngài bèn sai quan đem đồ vật ra ban thưởng cho sứ nước Pháp và nói rằng ở trong triều không có ai biết tiếng Pháp, cho nên không thể tiếp được.

Qua năm sau (1826) chính phủ Pháp lại sai cháu ông Chaigneau sang làm lĩnh sự thay cho chú, nhưng sang đến nơi, Triều đình nước ta không nhận, đến năm kỷ sửu (1829) lại phải trở về.

Từ đó cho đến 10 năm về sau nước Pháp tuyệt giao với nước Nam ta. Mà lúc bấy giờ chỉ trừ mấy người giáo sĩ đi giảng đạo ở chỗ thôn dã ra, thì trong nước cũng không có người ngoại dương nào ở nữa.

12. Sự Cấm Đạo.

Từ khi vua Thánh Tổ lên ngôi, ngài đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước. Đến năm ất dậu (1825), khi chiếc tàu Thétis vào cửa Đà Nẵng, có một người giáo sĩ tên là Rogerot ở lại đi giảng đạo các nơi, vua Thánh Tổ nhân dịp ấy mới có dụ cấm đạo, và truyền cho các quan phải khám xét các tàu bè của ngoại quốc ra vào cửa bể. Trong dụ nói rằng: “Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo”.

Ngài lại sai tìm bao nhiêu những giáo sĩ ở trong nước đem cả về Huế để dịch những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ ý là không phải vì việc dịch sách, nhưng là để cho khỏi đi giảng đạo ở chốn hương thôn.

Lúc bấy giờ không phải là một mình vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cấm thế nào mặc lòng, trong nước vẫn có người đi giảng đạo, nhà vua lấy điều đó làm trái phép, lại có dụ ra lần nữa truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo, và ai bắt được giáo sĩ đem nộp thì được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và ở các nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo. [192]

Từ đó trở đi, trong Nam ngoài Bắc, chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên, nhà vua ngờ cho dân bên đạo theo giúp quân giặc, lại càng cấm nghiệt: từ năm giáp ngọ (1834) cho đến năm mậu tuất (1838), có nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi bắt được cố Du (P. Marchand) ở Gia Định rồi, sự giết đạo lại dữ hơn trước nữa.

Nhà vua một mặt thì cấm đạo, một mặt thì ban những huấn điều ra đê/ khuyên dân giữ lấy đạo chính. Nhưng nhà vua mà dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu, thì dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm được. Vả lại đạo Thiên chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng nhân ái, việc gì mà làm khổ dân sự như thế? Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều sống chết đi truyền giáo cho được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hàng mấy tháng để dạy đạo. Những người có chí bền chặt như vậy, thì hình phạt cũng vô ích mà thôi. Năm mậu tuất (1838), vua Thánh Tổ thấy cấm thế nào cũng không được những người đi giảng đạo trong nước, ngài bèn sai sứ sang nước Pháp để điều đình với chính phủ Pháp về việc ấy. Song khi sứ thần Việt Nam sang đến nơi, thì hội Ngoại Quốc Truyền Đạo xin Pháp Hoàng là vua Louis Philippe đừng tiếp [150]. Sứ thần ta phải trở về không; khi về đến Huế thì vua Thánh Tổ đã mất rồi.

Về sau việc cấm đạo cứ dai dẳng mãi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.

13. Vua Thánh Tổ Mất.

Vua Thánh Tổ mất năm canh tí (1840), thọ được 50 tuổi, và trị vì được 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.

Trong đời vua Thánh Tổ làm vua, pháp luật, chế độ, điều gì cũng sửa sang lại cả, làm thành một nước có cương kỷ. Nhưng chỉ vì ngài nghiêm khắc quá, cứ một mực theo cổ, chứ không tùy thời mà biến hóa phong tục; lại không biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại những người theo đạo, và lại tuyệt giao với ngoại quốc làm thành ra nước Nam ta ở lẻ loi một mình.

Đã hay rằng những điều lầm lỗi ấy là trách nhiệm chung cả triều đình và cả bọn sĩ phu nước ta lúc bấy giờ, chứ không riêng chi một mình ngài, nhưng ngài là ông vua chuyên chế một nước, việc trong nước hay dỡ thế nào, ngài cũng có một phần trách nhiệm rất to, không sao chối từ được. Vậy cứ bình tình mà xét, thì chính trị của ngài tuy có nhiều điều hay, nhưng cũng có nhiều điều dở; ngài biết cương mà không biết nhu, ngài có uy quyền [150]

Sách Histore de la Cochinchine Francaise của ông Cultru. mà ít độ lượng, ngài biết có dân có nước mà không biết thời thế tiến hóa. Bởi vậy cho nên nói rằng ngài là một ông anh quân thì khí quá, mà nói rằng ngài là ông bạo quân thì không công bằng. Dẫu thế nào mặc lòng, ngài là một ông vua thông minh, có quả cảm, hết lòng lo việc nước, tưởng về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông vua nào làm được nhiều công việc hơn ngài vậy. [193]


CHƯƠNG IV: Hiến Tổ (1841-1847) – Niên hiệu: Thiệu Trị

1. Đức độ vua Hiến Tổ

2. Việc Chân Lạp

3. Việc Tiêm La

4. Việc giao thiệp với nước Pháp

1. Đức Độ Vua Hiến Tổ.

Tháng giêng năm tân sửu (1841) Hoàng Thái Tử húy là Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa đặt niên hiệu là Thiệu Trị.

Tính vua Hiến Tổ thuần hòa, không hay bày ra nhiều việc và cũng không được quả cảm như Thánh Tổ. Trong đời Ngài làm vua, học hiệu, chế độ, thuế mà, điều gì cũng theo như triều vua Thánh Tổ cả. Bầy tôi lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp trong ngoài ra sức giúp rập. Nhưng mà đất Nam Kỳ có giặc giã, dân Chân Lạp nổi loạn, quân Tiêm La sang đánh phá, nhà vua phải dùng binh đánh dẹp mãi mới xong.

2. Việc Chân Lạp.

Nguyên từ cuối đời đức Thánh Tổ, đất Nam Kỳ và đất Chân Lạp đã có giặc giã, các ông Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ cứ phải đem quân đi tiễu trừ mãi, đánh được chỗ này thì chỗ kia nổi lên. Sau ở Nam Kỳ lại có Lâm Sâm cùng với bọn thầy chùa làm loạn ở Trà Vinh; ở Chân Lạp thì những người bản xứ cùng với người Tiêm La đánh phá. Quan quân chống không nổi. Triều đình lấy việc ấy làm lo phiền. Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), ở trong Triều, ông Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang. Vua nghe lời ấy, xuống chiếu truyền cho tướng quân là Trương Minh Giảng rút quân về. Trương Minh Giảng về đến An Giang thì mất. Bởi vì việc kinh lý đất Chân Lạp là ở tay ông cả, nay vì có biến loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà chạy, ông nghĩ xấu hổ và buồn bực đến nỗi thành bệnh mà chết.

3. Việc Tiêm La.

Khi quân của Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm ở Nam Kỳ, thì quân Tiêm La lại đem binh thuyền sang cùng với quân giặc để đánh phá. Vua bèn sai Lê Văn Đức làm tổng thống đem binh tướng đi tiễu trừ. Sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn Tây. Quan quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ cõi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu.

Nguyên là Nặc Ông Đôn [151] đem quân Tiêm La về cứu viện để đánh lấy lại nước. Nhưng khi đến Việt Nam rút về rồi, quân Tiêm La tàn bạo, người Chân Lạp lại không phục, có người sang cầu cứu ở Nam Kỳ, vua bèn sai Võ Văn Giải sang kinh lý việc Chân Lạp.

Tháng sáu năm ất tị (1845), là năm Thiệu Trị thứ năm, Võ Văn Giải vào đến Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp, phá được đồn Dây Sắt, lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp về hàng kể hơn 23.000 người.

Đoạn rồi, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đem binh đuổi đánh quân Tiêm La và quân Chân Lạp, vây Nặc Ông Đôn và tướng Tiêm La là Chất Tri ở Ô-Đông (Oudon).

Tháng chín năm ấy, Chất Tri sai người sang xin hòa. Qua tháng mười thì Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn và Chất Tri ký tờ hòa ước ở nhà hội quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn Tri Phương rút quân về đóng ở Trấn Tây, đợi quân Tiêm thi hành những điều ước đã định.

Tháng chạp năm bính ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống.

Tháng hai năm đinh mùi (1847) là năm Thiệu Trị thứ bảy, Triều đình phong cho Nặc Ông Đôn làm Cao Miên Quốc Vương và phong cho Mỹ Lâm Quận Chúa làm Cao Miên Quận Chúa. Lại xuống chiếu truyền cho quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang.

Từ đó nước Chân Lạp lại có vua, và việc ở phía nam mới được yên vậy.

[151]

Nặc Ông Đôn là em Nặc Ông Chân, chú nàng Ang-mey là Ngọc Vân quận chúa. 

1944. Việc Giao Thiệp với nước Pháp.

Từ khi vua Hiến Tổ lên trị vì, thì sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít. Nhưng mà triều đình vẫn ghét đạo, mà những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn giam cả ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha.

Qua năm ất tị (1845) là năm Thiệu Trị thứ năm có một giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Bấy giờ có người quản tàu Mỹ Lợi Kiên ở Đà Nẵng xin mãi không được, mới báo tin cho hải quân thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết. Thiếu tướng sai quân đem chiếc tàu Alemène vào Đà Nẵng lĩnh giám mục ra.

Năm đinh mùi (1847) quan nước Pháp được tin rằng ở Huế không còn giáo sĩ phải giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.

Lúc hai bên còn đang thương nghị về việc ấy, thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta ra đóng ở gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân ta sắp sửa đồn lũy, mới nghi có sự phản trắc gì chăng, bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.

Vua Hiến Tổ thấy sự trạng như thế, tức giận vô cùng, lại có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo, và trị tội những người trong nước đi theo đạo.

Việc tàu nước Pháp vào bắn ở Đà nẵng xong được mấy ngày tháng, thì vua Hiến Tổ phải bệnh mất. Bấy giờ là tháng chín năm đinh mùi (1847), năm Thiệu Trị thứ bảy. Ngài làm vua được bảy năm, thọ 37 tuổi, miếu hiệu là Hiến tổ Chương Hoàng Đế.


CHƯƠNG V: Dực Tông (1847-1883) Niên hiệu: Tự Đức

1. Đức độ vua Dực Tông

2. Đình thần

3. Việc ngoại giao

4. Việc cấm đạo

5. Việc thuế má

6. Việc văn học

7. Việc binh chế

1. Đức độ vua Dực Tông.

Vua Hiến Tổ mất, truyền ngôi lại cho hoàng tử thứ hai húy là Hồng Nhậm. Bấy giờ hoàng tử mới có 19 tuổi, nhưng học hành đã thông thái. Đến tháng 10 năm đinh mùi (1847), thì ngài lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Tự Đức, lấy năm sau là năm Mậu Thân làm Tự Đức nguyên niên.

Vua Dực Tông đối với vận hội nước Nam ta thật là quan hệ, vì là đến đời ngài thì nước Pháp sang bảo hộ, đổi xã hội mình ra một cảnh tượng khác. Bởi vậy cho nên ta cần phải biết rõ ngài là người thế nào, để xét đoán những công việc thời bấy giờ cho khỏi sai lầm. Quan tổng đốc Thân Trọng Huề đã được trông thấy dung nhan của ngài và đã tả rõ chân tượng của ngài ra như sau này: “Ngài hình dung như một người nho sĩ, không cao, không thấp, trạc người bậc trung, không gầy không béo, có một phần hơi gầy một tí. Da không trắng không đen. Mặt hơi dài; cằm hơi nhỏ, trán rộng mà thẳng, mũi cao mà tròn, hai con mắt tinh mà lành.

Ngài hay chít cái khăn vàng mà nhỏ, và mặc áo vàng, khi ngài có tuổi thì hay mặc quần vàng đi giày hàng vàng của nội vụ đóng. Ngài không ưa trang sức mà cũng không cho các bà nội cung đeo đồ nữ trang, chỉ cốt lấy sự ăn mặc sạch sẽ làm đẹp.

Tính ngài thật là hiền lành. Những người được hầu gần ngài nói chuyện rằng: một hôm ngài ngự triều tại điện Văn Minh, ngài cầm cái hoa [195] mai [152] sắp hút thuốc, tên thái giám đứng quạt hầu, vô ý quạt mạnh quá, lửa hoa mai bay vào tay ngài. Tên thái giám sợ xanh mặt lại, mà ngài chỉ xoa tay, chứ không nói gì cả.

Ngài thờ đức Từ Dụ rất có hiếu. Lệ thường cứ ngày chẵn thì chầu cung, ngày lẽ thì ngự triều: trong một tháng chầu cung 15 lần, ngự triều 15 lần, trừ khi đi vắng và khi se yếu [153] . Trong 36 năm, thường vẫn như thế, không sai chút nào.

Khi ngài chầu cung thì ngài tâu chuyện này chuyện kia, việc nhà việc nước, việc xưa việc nay. Đức Từ Dụ thuộc sử sách đã nhiều mà biết việc đời cũng rộng. Khi Đức Từ Dụ ban câu chi hay, thì ngài biên ngay vào một quyển giấy gọi là Từ Huấn Lục.

Một hôm rảnh việc nước, ngài ngự bắn tại rừng Thuận Trực [154] gặp phải khi nước lụt. Còn hai ngày nữa thì có kị đức Hiến Tổ, mà ngài chưa ngự về. Đức Từ Dụ nóng ruột, sai quan đại thần là Nguyễn Tri Phương đi rước. Nguyễn Tri Phương đi được nữa đường, vừa gặp thuyền ngự đương chèo lên, mà nước thì chảy mạnh, thuyền không đi mau được. Gần tối thuyền ngự mới tới bến. Khi ấy trời đang mưa, mà ngài vội vàng lên kiệu trần đi thẳng sang cung, lạy xin chịu tội. Đức Từ Dụ ngồi xoay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng chi cả. Ngày lấy một cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát kỷ rồi ngài nằm xuống xin chịu đòn. Cách một hồi lâu, đức Từ Dụ xoay mặt ra lấy tay hất cái roi mà ban rằng:

– Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kị.

Ngài lạy tạ lui về, nội đêm đó ngài phê thưởng cho các quan quân đi hầu ngự. Quan thì mỗi người được một đồng tiền bạc, lớn nhỏ tùy theo phẩm, còn lính thì mỗi tên được một quan tiền kẽm. Đến sáng ngài ngự ra điện Long An lạy kị. Xem cách ngài thờ mẹ như thế, thì tự xưa đến nay ít có.

Tính ngài siêng năng, sáng chừng năm giờ, ngài đã ngự tánh, nghĩa là thức dậy, chừng sáu giờ, ngài đã ra triều. Cho nên các quan ở Kinh buổi ấy cũng phải dậy sớm để mà đi chầu. Thường thấy các quan thắp đèn ăn cháo để vào triều cho sớm.


[152] Hoa mai là một sợi dây làm bằng chỉ để thắp lửa mà hút thuốc.

[153] Se yếu là đau yếu. Tiếng se ở Huế nói cách tôn kính, như vua đau thì nói vua se mình.

[154] Cách Kinh thành chừng độ 15 cây số, ở bên bờ sông Lợi Giang, có một cái rừng cấm gọi là Thuận Trực. Chỗ ấy nhiều chim, đức Dực Tông thường ngự đến bắn ở đấy.

Thường ngài ngự triều tại điện Văn Minh, ở bên tả điện cần chính. Các quan đến sớm, quan văn thì ngồi chực tại tả vu, quan võ tại hữu vu. Khi ngài đã ngự ra, thì thái giám tuyên triệu các quan vào chầu. Các quan đều mặc áo rộng xanh, đeo thẻ bài đi vào, quan văn bên hữu, quan võ bên tả

[155] Khi các quan theo thứ tự đứng yên rồi, quan bộ Lại hay là quan hộ Binh tâu xin cho mấy ông quan mới được thăng thuyên bái mạng. Các quan bái mạng thì phải chực ở ngoài, đợi bộ Lại hay là bộ Binh tâu xong mới được vào. Quan văn thuộc bộ Lại, quan võ thì thuộc bộ binh. Bái mạng thì phải mặc áo đại trào.

Các ông bái mạng xong rồi, bộ nào có việc gì tâu thì đến chỗ tấu sự quỳ tâu. Như bộ nào có tâu việc gì thì các quan ấn quan trong bộ ấy đều quỳ chỗ tấu sự, rồi ông nào tâu, thì đọc bài diện tấu. Một bên các quan tấu sự lại có một ông quan nội các và một ông ngự sử đều quỳ. Quan nội các để biên lời ngài ban; quan ngự sử để đàn hạch các quan phạm phép.

Đức Dực Tông đã thuộc việc mà lại chăm cho nên nhiều bữa ngài ban việc đến chín mười giờ mới ngự vào nội.

Ngài thường làm việc ở chái đông điện Cần Chánh. Trong chái ấy lót ván đánh bóng. Gần cửa kính có mấy chiếc chiếu, trên trải một chiếu cạp bằng hàng vàng, để một cái yên với nghiên bút, một trái dựa (cái gối dựa), chứ không bày bàn ghế gì cả. Cách một khoảng có để một cái đầu hồ với thẻ. Ngày làm việc mỏi thì đứng dậy đánh đầu hồ, hay là đi bách bộ. Ngài ngồi làm việc một mình, vài tên thị nữ đứng hầu để mài son, thắp thuốc hay là đi truyền việc.

Lệ nước ta xưa nay các quan không được vào chỗ ngài ngự tọa làm giúp việc cho vua, cho nên việc lớn việc nhỏ, ngài phải xem cả.

Phiến sớ ác nơi đều gởi về nội các. Nội các đề trong tráp tấu sự, đưa cho giám, giám đưa cho nữ quan dâng lên ngài. Ngài xem rồi giao nội các. Nội các giữ bản chính có châu điểm, châu phê, lục bản phó ra cho các bộ nha.

[155] Khi ngài ngự điện Thái Hòa hay là điện Cần Chính, hay là đi hành lễ điện Phụng Tiên, thì quan văn lại đứng bên tả, quan võ bên hữu, duy ở điện Văn Minh thì quan võ bên tả, quan văn bên hữu, không biết tại làm sao? 

[196] Nay xem các nguyên bản trong Các, thì thấy có nhiều tờ phiến ngài phê dài hơn của các quan tâu. Chữ đã tốt mà văn lại hay, ai cũng kinh cái tài của ngài.

Ngài vốn là người hiếu học. Đêm nào ngài cũng xem sách đến khuya. Có ba tập Ngự Chế Thi Văn của ngài đã in thành bản. Ngài lại làm sách chữ nôm để dạy dân cho dễ hiểu, như là sách Thập Điều, Tự Học Diễn Ca, Luận Ngữ Diễn Ca, v.v…”

Xem cái chân tượng của vua Dực Tông như thế, thì ngài không phải là người to béo vạm vỡ [156] , mà cũng không phải là ông vua tàn ác bạo ngược như người ta thường nói. Chỉ vì ngài làm vua về một thời đại khó khăn, trong nước lắm việc, mà những người phò tá thì tuy có người thanh liêm như ông Trương Đăng Quế, ông Vũ Trọng Bình, trung liệt như ông Phan Thanh Giản, ông Nguyễn Tri Phương, ông Hoàng Diệu, v.v…. nhưng mà các ông ấy đều là người cũ, không am hiểu thời thế mới. Vả lại các thế lực lúc bấy giờ kém hèn quá, dẫu có muốn cải cách duy tân, cũng không kịp nữa, cho nên mọi việc đều hỏng cả.

2. Đình Thần.

Đình thần là các quan ở trong Triều giúp vua để lo việc nước. Nhưng lúc bấy giờ tình thế đã nguy ngập lắm, vì từ đầu thập cửu thế kỷ trở đi, sự sinh hoạt và học thuật của thiên hạ đã tiến bộ nhiều mà sự cạnh tranh của các nước cũng kịch liệt hơn trước. Thế mà những người giữ cái trách nhiệm chính trị nước mình, chỉ chăm việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì phi Nghiêu, Thuấn lại Hạ, Thương, Chu, việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại, rồi cứ nghễu nghện tự xưng mình hơn người, cho thiên hạ là dã man. Ấy, các đình thần lúc bấy giờ phần nhiều là những người như thế cả. Tuy có một vài người đã đi ra ngoài, trông thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại, thì các cụ ở nhà cho là nói bậy, làm hủy hoại mất kỷ cương! Thành ra người không biết thì cứ một niềm tự đắc, người biết thì phải làm câm làm điếc, không thở ra với ai được, phải ngồi khoanh tay mà chịu.

Xem như mấy năm về sau, nhà vua thường có hỏi đến việc phú quốc cường binh, các quan bàn hết lẽ nọ lẽ kia, nào chiến, nào thủ, mà chẳng thấy làm được việc gì ra trò. Vả thời bấy giờ, cũng đã có người hiểu rõ thời thế, chịu đi du học và muốn thay đổi chính trị. Như năm bính dần (1866) là

[156]

Ta thường trông thấy có cái tranh vẽ một người to lớn vạm vỡ, mặt mũi dữ tợn mà mặc áo đội mũ không ra lối lăng gì cả, ở dưới cái tranh có chữ đề là vua Tự Đức. Cái tranh ấy chắc là của một người nào tưởng tượng mà vẽ ra chứ không phải là chân dung của ngài. Vì là thủa trước chỉ trừ những quan đại thần và những người được vào hầu cận, vua ta không cho ai trông thấy mặt, mà cũng không bao giờ có hình ảnh gì cả. năm Tự Đức thứ 19, có mấy người ở Nghệ An là Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều đi du học phương tây. Sau Nguyễn Trường Tộ về làm mấy bài điều trần, kể hết cái tình thế nước mình, và cái cảnh tượng các nước, rồi xin nhà vua phải mau mau cải cách mọi việc, không thì mất nước. Vua giao những tờ điều trần ấy cho các quan duyệt nghị. Đình thần đều lấy làm sự nói càn, không ai chịu nghe.

Năm mậu thìn (1868) là năm Tự Đức thứ 21, có người ở Ninh Bình tên là Đinh Văn Điền dâng tờ điều trần nói nên đặt doanh điền, khai mỏ vàng, làm tàu hỏa, cho người các nước phương tây vào buôn bán, luyện tập sĩ tốt để phòng khi chiến thủ, thêm lương thực cho quan quân, bớt sưu dịch cho dân sự, thưởng cho những người có công, nuôi nấng những người bị thương, tàn tật, v.v…. Đại để là những điều ích quốc lợi dân cả, thế mà đình thần cho là không hợp với thời thế, rồi bỏ không dùng.

Các quan đi sứ các nơi về tâu bày mọi sư, vua hỏi đến đình thần thì mọi người đều bác đi, cái gì cũng cho là không hợp thời. Năm kỷ mão (1879) là năm Tự Đức thứ 32, Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La về nói rằng khi người nước Anh Cát Lợi mới sang xin thông thương, thì nước Tiê m La lập điều ước cho ngay, thành ra người Anh không có cớ gì mà sinh sự để lấy đất, rồi Tiêm La lại cho nước Pháp, nước Phổ, nước Ý, nước Mỹ v.v… đặt lĩnh sự để coi việc buôn bán. Như thế mọi người đều có quyền lợi không ai hiếp chế được mình. Năm tân tị (1881) là năm Tự Đức thứ 34, có Lê Đĩnh đi sứ ở Hương Cảng về, tâu rằng: các nước Thái Tây mà phú cường là chỉ cốt ở việc binh và việc buôn bán. Lấy binh lính mà bênh vực việc buôn bán, lấy việc buôn bán mà nuôi binh lính.

Gần đây Nhật Bản theo các nước Thái Tây cho người đi buôn bán khắp cả mọi nơi. Nước Tàu cũng bắt chước cho người ngoại quốc ra vào buôn bán. Nước ta, người khôn ngoan, lại có lắm sản vật, nên theo người ta mà làm thì cũng có thể giữ được quyền độc lập của nước nhà.

Năm ấy lại có quan hàn lâm viện tu soạn là Phan Liêm làm sớ mật tâu việc mở sự buôn bán, sự chung vốn lập hội, và xin cho người đi học nghề khai mỏ. Giao cho đình thần xét, các quan đều bàn rằng việc buôn bán không tiện, còn việc khác thì xin đòi hỏi các tỉnh xem thể nào, rồi sẽ xét lại. Ấy cũng là một cách làm cho trôi chuyện, chứ không ai muốn thay đổi thói cũ chút gì cả. Nhân việc đó vua Dực Tông khuyên rằng các quan xét việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến, thì tức là thoái vậy.

197

Xem lời ấy thì không phải là vua không muốn thay đổi. Chỉ vì vua ở trong cung điện, việc đời không biết rõ, phải lấy các quan làm tai làm mắt, mà các quan thì lại số người biết thì ít, số người không biết thì nhiều. Những người có quyền tước thì lắm người trông không rõ, nghe không thấy, chỉ một niềm giữ thói cũ cho tiện việc mình. Lại có lắm người tự nghĩ rằng mình đã quyền cả ngôi cao, thì tất là tài giỏi hơn người, chứ không hiểu rằng cái tài giỏi không cần phải nhiều tuổi, sự khôn ngoan không phải làm quan to hay là quan nhỏ. Cái phẩm giá con người ta cốt ở tư tưởng, học thức, chứ không phải ở tiền của hay là ở quyền tước.

Đến khi nước Pháp đã sang lấy đất Nam Kỳ, đã ra đánh Bắc Kỳ, tình thế nguy cấp đến nơi rồi, thế mà cứ khư khư giữ lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự gì hơi mới một tí, thì bác đi. Như thế thì làm thế nào mà không hỏng việc được.

Đã hay rằng vua có trách nhiệm vua, quan có trách nhiệm quan, dẫu thế nào vua Dực Tông cũng không tránh khỏi cái lỗi với nước nhà, nhưng mà xét cho xác ly, thì cái lỗi của đình thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ vậy.

3. Việc Ngoại Giao.

Việc chính trị đời Dực Tông là nhất thiết không cho người ngoại quốc vào buôn bán. Như năm canh tuất (1850) là năm Tự Đức thứ 3, có tàu Mỹ Lợi Liên vào cửa Đà Nẵng, đem thư sang xin thông thương, nhà vua không tiếp thư.

Từ năm ất mão (1855) cho đến năm đinh sửu (1877) tàu Anh Cát Lợi ra vào mấy lần ở cửa Đà Nẵng, cửa Thị Nại (Bình Định) và ở Quảng Yên, để xin buôn bán, cũng không được. Người I Pha Nho và nước Pháp Lan Tây xin thông thương cũng không được.

Về sau đất Gia Định đã mất rồi, việc ngoại giao một ngày một khó, nhà vua mới đặt Bình Chuẩn Ti để coi việc buôn bán, và Thương Bạc Viện để coi việc giao thiệp với người ngoại dương. Tuy vậy nhưng cũng không thấy ai là người hiểu việc buôn bán và biết cách giao thiệp cả.

4. Việc Cấm Đạo.

Việc cấm đạo thì từ năm mậu thân (1848) là năm Tự Đức nguyên niên, vua Dực Tông mới lên ngôi, đã có dụ cấm đạo. Lần ấy trong dụ nói rằng những người ngoại quốc vào giảng đạo, thì phải tội chết, những người đạo trưởng ở trong nước mà không chịu bỏ đạo, thì phải khắc chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở chỗ nước độc. Còn những ngu dân thì các quan phải ngăn cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông, chứ đừng có giết hại v.v….

Đến năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, lại có dụ ra cấm đạo. Lần này, cấm nghiệt hơn lần trước, và có mấy người giáo sĩ ngoại quốc phải giết.

Sức đã không đủ giữ nước mà lại cứ làm điều tàn ác. Đã không cho người ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội những người đi giảng đạo, bởi thế cho nên nước Pháp và nước I Pha Nho mới nhân cớ ấy mà đánh nước ta vậy.

5. Việc Thuế Má.

Thuế má trong nước đời bấy giờ, thì đại khái cũng như đời vua Thánh Tổ và Hiến Tổ, duy chỉ từ khi nước Pháp và nước I Pha Nho vào đánh lấy mấy tỉnh Nam Kỳ rồi, lại phải bồi tiền binh phí mất 4 triệu nguyên, nhà nước mới tìm cách lấy tiền, bèn cho người khách tên là Hầu Lợi Trịnh trưng thuế bán thuốc nha phiến từ Quảng Bình ra đến Bắc Kỳ. Sử chép rằng đồng niên nhà vua thu được có 302.200 quan tiền thuế nha phiến.

Nhà vua lại định lệ cho quyên từ 1.000 quan trở lên thì được hàm cửu phẩm, lên đến 10.000 quan thì được hàm lục phẩm, nghĩa là phải dùng lối đời trước bán quan để lấy tiền.

6. Việc Văn Học.

Vua Dực Tông là một ông vua hay chữ nhất đời nhà Nguyễn, cho nên ngài trọng sự nho học lắm. Ngài chăm về việc khoa giáp, sửa sang việc thi cử đặt ra Nhã Sĩ Khoa và Cát Sĩ Khoa, để chọn lấy người văn học ra làm quan.

Ngài lại đặt Tập Hiền Viện và Khai Kinh Diên để ngài ngự ra cùng với các quan bàn sách vở, làm thơ phú hoặc nói chuyện chính trị. Lại sai quan soạn bộ Khâm Định Việt Sử , từ đời thượng cổ cho đến hết đời nhà Hậu Lê.

7. Việc Binh Chế.

Đời vua Dực Tông lắm giặc giã, nhà vua cần đến việc võ, nên chỉ năm tân dậu (1861) là năm Tự Đức thứ 14 mới truyền cho các tỉnh chọn lấy những người khỏe mạnh để làm lính võ sinh. Đến năm ất sửu (1865) là Tự Đức thứ 18 lại mở ra khoa thi võ tiến sĩ.

Tuy rằng lúc bấy giờ nước mình có lính võ sinh, có quan võ tiến sĩ, nhưng mà thời đại đã khác đi rồi, người ta đánh nhau bằng súng đạn nạp hậu, bằng đạn trái phá chứ không bằng gươm bằng giáo như trước nữa. Mà quân lính của mình mỗi đội có 50 người thì chỉ có 5 người cầm súng điểu thương cũ, phải châm ngòi mới bắn được, mà lại không luyện tập, cả năm 198 chỉ có một lần tập bắn. Mỗi người chỉ được bắn có 6 phát đạn mà thôi, hễ ai bắn quá số ấy thì phải bồi thường.

Quân lính như thế, binh khí như thế, mà quan thì lại cho lính về phòng, mỗi đội chỉ để độ chừng 20 tên tại ngũ mà thôi. Vậy nên đến khi có sự, không lấy gì mà chống giữ được.


CHƯƠNG VI: Chế độ và tình thế nước Việt Nam đến cuối đời Tự Đức

1. Cách tổ chức chính trị và xã hội.

2. Bốn hạng dân

3. Sự sinh hoạt của người trong nước.

1. Cách Tổ Chức Chính Trị và Xã Hội.

Nước Việt Nam tuy nói là một nước quân chủ chuyên chế[ 157] , nhưng theo cái tinh thần và cách tổ chức của xã hội thì có nhiều chỗ rất hợp với cái tinh thần dân chủ. Nguyên Nho Giáo là cái học căn bản của nước ta khi xưa, mà về đường thực tế, thì cái học ấy rất chú trọng ở sự trị nước. Trị nước thì phải lấy dân làm gốc, nghĩa là phải lo cho dân được sung túc, phải dạy dỗ dân cho biết đạo lý và mở mang trí tuệ của dân. Những việc quan trọng như thế không phải bất cứ ai cũng làm được, tất là phải có những người có đủ đức hạnh, tài năng và uy quyền mới có thể đảm đang được. Bởi vậy cho nên mới cần có vua có quan.

Vua: Theo cái lý thuyết của Nho Giáo, thì khi đã có quần chúng, là phải có quân. Quân là một đơn vị giữ cái chủ quyền để chịu hết thảy các trách nhiệm về sự sinh hoạt và tính mệnh của toàn dân trong nước. Cái đơn vị ấy gọi là đế hay là vương, được giữ cái chủ quyền cả nước. Cái chủ quyền ấy người ta còn gọi là cái thần khí, nghĩa là một vật thiêng liêng do trời cho, tức là dân thuận mới được giữ. Nói rằng những người làm những điều gian ác bạo ngược mà cướp lấy chủ quyền thì sao ? Đó là sự tiếm đoạt chứ không phải là chính nghĩa. Ngay những người đã làm đế làm vương mà lạm dụng chủ quyền để làm những điều tàn bạo, thì cũng chỉ là người tàn tặc mà thôi, chứ không phải là thật bậc đế bậc vương nữa.

[157]

Ta thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên chế theo cái nghĩa của các nước Âu Tây ngày nay, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái học nho giáo có nhiều chỗ khác nhau. [199] Triều đình: Sở dĩ đời xưa quần chúng công nhận một ông vua giữ cái chủ quyền cả nước, là muốn cho có mối thống nhất để khỏi sự tranh dành và cuộc biến loạn. Song việc trị nước là việc chung cả nước, cho nên có vua là phải có triều đình. Triều đình không phải là một nhóm cận thần để hầu hạ và làm việc riêng cho nhà vua, chính là một hội nghị chung cả nước, do sự kén chọn những người xứng đáng bằng cách thi cử mà đặt ra. Cách thi cử không phân biệt sang hèn giàu nghèo gì cả, miễn là ai có học, có hạnh và có đủ tài năng thì được ra ứng thí. Người nào đã đỗ rồi và đã ra làm quan là người ấy có chân ở trong triều đình.

Lệ nhà vua, mỗi tháng phải mấy lần thiết đại triều, các quan tại kinh đều phải đến đủ mặt và theo phẩm trật mà đứng để tâu bày mọi việc. Bởi vì khi có việc gì quan trọng, thì vua hạ đình nghị, nghĩa là giao cho đình thần bàn xét. Các quan bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của mình mà trình bày. Việc gì đã quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành.

Vua tuy có quyền lớn thật, nhưng không được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có làm điều gì lầm lỗi, thì các quan Giám Sát Ngự Sử phải tâu bày mà can ngăn vua. Trừ những ông vua bạo ngược không kể, thường là vua phải nghe lời can ngăn của các quan.

Hễ triều đình có những người ngay chính và sáng suốt, thì việc nước được yên trị; nếu có những người gian nịnh mờ tối, thì việc nước hư hỏng. Đó là lệ chung từ xưa đến nay như vậy.

Quan tư: mệnh lệnh của triều đình đã phát ra, thì quan tư ở các quận huyện phải theo mà thi hành. Các quan coi các quận huyện có nhiệm vụ dạy dỗ dân, đừng để dân làm những điều trái luân thường đạo lý hay những việc phản loạn. Ngoài ra quan phải để cho dân được yên nghiệp làm ăn, không nên bày việc ra để nhiễu dân. Bởi vậy đời xưa ông quan nào cai trị một hạt mà dân hạt ấy được yên trị là ông quan giỏi.

Quyền Tự Trị của dân làng: Quan của triều đình bổ ra chỉ có đến phủ huyện, còn từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Dân tự chọn lấy người của mình mà cử ra coi mọi việc trong hạt. Tổng là một khu gồm có mấy làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do hội đồng kỳ dịch các làng cử ra coi việc thuế khóa, đê điều và mọi việc trị an trong tổng.

Làng hay xã là phần tử cốt yết của dân. Phong tục, lệ luật của làng nào hay làng ấy, triều đình không can thiệp đến, cho nên tục ngữ có câu: “Phép vua thua lệ làng”. Làng có hội đồng kỳ dịch do dân cử ra để trông coi hết cả mọi việc. Hội đồng ấy có người tiên chỉ và thứ chỉ đứng đầu, rồi có lý trưởng và phó lý do hội đồng kỳ dịch cử ra để thay mặt làng mà giao thiệp với quan tư, có tuần đinh chuyên coi việc cảnh sát trong làng. Khi một người nào can phạm việc gì thì quan trách cứ ở làng, cho nên ai đi đâu hay làm việc gì cũng phải lấy làng làm gốc.

Ngày xưa các làng không có sổ khai sinh tử và giá thú, nhưng tục lệ của làng, cứ con trai đến 12 tuổi thì phải vào làng, tức là vào sổ đinh của làng, con gái thì không có lệ ấy. Lại vì sự thờ cúng tổ tiên và sự tin số, tướng, v.v… cho nên nhà nào đẻ con ra, bất kỳ trai hay gái, cha mẹ phải nhớ cho đúng giờ, ngày tháng và năm sinh của đứa con ấy. Bởi vậy người nào cũng biết rõ ngày tháng sinh của con mình.

Việc giá thú là việc quan hệ về gia tộc, phải làm đúng lệ thường, nhưng đối với làng, thì tục lệ bắt người chồng khi cưới vợ, phải trình làng và nộp cho làng một số mấy quan tiền, gọi là nộp tiền cheo. Như thế, thành ra theo tục lệ, tuy không có sổ khai sinh tử giá thú, mà mọi điều cũng đủ như là có vậy.

2. Bốn Hạng Dân.

Người trong nước chia ra làm bốn hạng là: sĩ, nông, công, thương.

Công: Công là hạng người làm thợ hoặc làm một công nghệ gì để lấy lợi. Nhưng vì nước ta khi xưa chỉ có những tiểu công nghệ, như quây tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài lưới, làm mắm muối v.v…. chứ không có đại công nghệ làm giàu như các nước khác. Đại công nghệ đã không có thì những người làm thợ, ai chuyên tập nghề gì thì lập thành phường, như thợ mộc, thợ nề, thợ rèn, thợ đúc, thợ gốm v.v…. mỗi phường có thợ cả, thợ phó và thợ, và phường nào có tục lệ của phường ấy. Những người làm thợ thường là người ít học, quanh năm ngày tháng đi làm thuê làm mướn chỉ được đủ ăn mà thôi.

Thương: Thương là hạng người làm nghề buôn bán. Song việc buôn bán của ta ngày xưa kém cỏi lắm. Người thiên hạ đi buôn nước này, bán nước nọ, xuất cảng, nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to lớn kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời không đi đến đâu, chỉ quanh quẩn ở trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt, thành ra bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất. Thỉnh thoảng có một ít người có mươi lăm chiếc thuyền mành chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia, nhưng vốn độ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự phú.

Công nghệ như thế, buôn bán như thế, bảo nước mình phú cường làm sao được? Rút cục lại, chỉ có nghề nông và nghề sĩ là trọng yếu hơn cả. [200]

Nông: Nông là hạng người chuyên nghề làm ruộng. Dân Việt Nam ta thường thì ai cũng có ít ra là vài ba sào ruộng để cày cấy, nghĩa là nghề làm ruộng là nghề gốc của người mình. Nhưng trừ những nơi ruộng nhiều người ít và đất lại phì nhiêu như đất ở Nam Việt, còn thì đất xấu và lại vì khí hậu không điều hòa, nắng mưa thất thường, việc cày cấy gặp nhiều nỗi khó khăn. Dân ở nhà quê, phần nhiều ăn nhờ về ruộng nương, hễ năm nào mưa hòa gió thuận, mùa màng tốt thì năm ấy dân được no ấm, nhưng năm nào mưa lụt hay hạn hán, mùa màng mất hết, thì dân đói khổ.

Sĩ: Sĩ là hạng người chuyên nghề đi học, hoặc để thi đỗ ra làm quan, hoặc để đi dạy học, làm thầy thuốc, thầy địa lý, thầy bói, thầy tướng, thầy số v.v…. là những nghề phong lưu nhàn hạ.

Sự học của nước ta ngày trước có bộ Lễ coi việc giáo hóa của toàn nước. Ở tỉnh có quan Đốc Học, ở phủ có quan Giáo Thụ, ở huyện và ở châu thì có quan Huấn Đạo, là những người có khoa mục, triều đình bổ ra coi việc giáo dục ở các hạt, và mỗi người coi một trường công ở trong hạt. Những sĩ tử học ở các trường tư thục đã khá khá đều được đến học tập ở các trường công của quan Đốc, quan Giáo hay quan Huấn, đợi đến khi có khoa thi Hương, thì ra ứng thí. Năm nào có khoa thi, thì các quan huấn đạo, giáo thụ và đốc học mở cuộc khảo học trò để lựa chọ những người có đủ sức mới cho ra ứng thí.

Lệ nhà vua cứ ba năm mở khoa thi Hương ở các địa phương. Những người đỗ cao ở khoa thi Hương gọi là cử nhân, những người đỗ thấp gọi là Tú Tài. Năm sau ở Kinh đô mở khoa thi Hội tại bộ Lễ, những người đỗ Cử Nhân năm trước vào ứng thí, ai trúng cách thì được vào thi Đình ở trong điện nhà vua để lấy các bậc Tiến Sĩ, là những bậc đại khoa, người trong nước rất lấy làm quý trọng.

Mỗi khi có khoa thi Hương, các quan ở kinh ra chấm thi có cái biển đề bốn chữ: Phụng Chỉ Cầu Hiền, nghĩa là: vâng chỉ vua ra tìm người giỏi. Vậy sự thi cử ngày trước có cái ý nghĩa khác sự thi cử ngày nay.

Đó là nói cách tổ chức việc giáo hóa của triều đình. Còn ở chỗ dân gian, thì sự học tập rất tự do. Bất kỳ người nào có học lực kha khá cũng có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường tư thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con học và cho con các nhà lân cận đến học. Người Việt Nam ta vốn chuộng sự học, cho nên người đi học cũng nhiều.

Nguyên sự học ngày xưa có cái mục đích chân chính là học cho hiểu đạo lý, biết phải trái, và luyện tâm tính cho thành người có tiết tháo và có phẩm cách cao quý, để gặp thời thì ra giúp nước giúp dân, nếu không, thì làm người ngay chính trong xã hội. Sau dần dần vì sự sanh hoạt ở đời, sự học thành ra cái học chuyên về mặt cử nghiệp, nghĩa là học chỉ cốt lấy đỗ để ra làm quan. Người đi học đã đỗ đạt rồi, tự tin mình là tài giỏi, chỉ vụ lấy cái hoa mỹ bề ngoài để lòe người, chứ không thiết gì đến sự thực học. Tựu trung cũng có người muốn thi đỗ để lấy chút danh phận rồi về ở nhà học thêm hay dạy học. Nhưng đại đa số chỉ mong đỗ để làm quan vì làm quan là có địa vị tôn quý, ngoài ra không có gì hơn nữa.

Chương trình sự học cử nghiệp có những gì ? Bao nhiêu công phu của người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cùng những lời thể chú của tiền nho trong những sách ấy và học thêm mấy bộ sử nước Tàu. Còn sự luyện tập hàng ngày, thì cốt tập cho thạo thuộc các lề lối ở chỗ khoa trường là: kinh nghĩa, tứ lục, thi phú, văn sách. Ấy là dùng hư văn mà xét tài thực dụng, đem sự hoa mỹ làm mực thước đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đã nghĩ mình hơn người, ai tài thi phú đã tưởng mình giỏi nghề trị nước. Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ và kiêu căng, cho thiên hạ như rơm rác, coi mình như thần thánh.

Sự học của mình đã hư hỏng như thế, những hủ tục lại ăn sâu vào trí não, thành ra một thứ cố tật không sao chữa được. May nhờ cái tinh thần học cũ, người đi học, kiến thức tuy không có cái gì mấy, nhưng thường có khí tiết, biết liêm sĩ và nhờ có cái thanh nghị của bọn sĩ phu ràng buộc, ngăn ngừa sự hành động bấ chính. Song chỉ có thế mà thôi, vẫn không đủ để sinh tồn trong cái thời đại quyền lợi cạnh tranh, quyền mưu quỷ quyệt, trí thuật gian trá. Cho nên trong khi người tiến thì ta thoái, người thịnh thì ta suy.

Đại khái, cái trình độ của bọn sĩ phu ở nước ta lúc bấy giờ là thế, cho nên vận nước suy đến nơi mà hồn người vẫn mê muội ở chỗ mơ màng mộng mị. Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt cho mọi người mà còn kém cõI như thế, thì bảo dân gian khôn ngoan làm sao được.

3. Sự Sinh Hoạt của người trong nước.

Tình thế trong nước như đã nói trên, công nghệ không có, buôn bán không ra gì, trừ việc cày cấy làm ruộng ra thì người nghèo đói không có nghề nghiệp gì mà làm ăn cả, cho nên thủa ấy tuy một tiền được bốn bát gạo, mà vẫn có người chết đói, vì rằng giá gạo thì rẻ, nhưng kiếm được đồng tiền thật là khó. Người đi làm thuê khôn khéo, thì mới được một ngày một tiền, không thì chỉ được 18 hay 30 đồng tiền mà thôi. Sự làm ăn ở chỗ thôn quê đã vất vả mà lại thường bị nhiều sự hà lạm, ai có đồng tiền ở trong nhà thì lo sợ đủ mọi đường: nào sợ [201] kẻ gian phi trộm cắp, nào sợ giặc đêm giặc ngày cướp phá, cho nên phải chôn phải giấu cho kín.

Nhà cửa phần nhiều là nhà tranh nhà lá, ít khi có nhà ngói nhà gạch. Kiểu nhà làm cũng phải theo kiểu thường mà làm, chứ không được làm nhà lầu và nhà kiểu chữ công hay kiểu chữ môn. Ai làm nhà cữa mà không theo đúng phép, thì cho là lộng hành, phải tội.

Cách ăn mặc thì chỉ có đồ vải đồ nâu, người nghèo khổ chỉ có manh áo cánh và thường thì đóng cái khố, có đi đâu mới mặc cái quần vải dài đến đầu gối. Người sung túc mới có vài cái áo nâu đen và vài cái quần hoặc nhuộm nâu hoặc để trắng, chứ không được mặc đồ gấm đồ vóc và đi giày. Nhà vua cấm như thế, là cũng có ý muốn cho dân không quen thói xa hoa hoang phí, chỉ trừ những người làm quan làm tư mới có cái đặc ân được ăn mặc hơn người. Cũng vì thế cho nên người trong nước ai cũng mong được đi làm quan cho hiển đạt cái thân hình và cho rỡ ràng mẹ cha, chứ không lo nghĩ làm việc gì khác nữa. Hễ ai đi học mà vì lẽ gì thi không đỗ, làm quan không được, thì bức chí quay ra làm giặc để tìm cách hiển vinh, thành ra trong nước hay có giặc giã.

Nước nghèo, dân khổ, lại phải lúc có nhiều tai biến, người ngoài vào xâm lược, triều đình ngơ ngác không biết xoay xở ra thế nào, lòng người ly tán, phân ra bè nọ đảng kia, giết hại lẫn nhau. Ấy là cái tình thế nước Việt Nam ta và cuối đời Tự Đức là thế, cho nên sự nguy vong mới xảy ra vậy.


CHƯƠNG VII: Nước Pháp lấy đất Nam Kỳ

1. Nước Pháp đánh Đà Nẵng.

2. Quân Pháp hạ thành Gia Định.

3. Mất tỉnh Định Tường.

4. Mất tỉnh Biên Hòa và tỉnh Vĩnh Long

5. Hòa ước năm nhâm tuất (1862)

6. Sứ Việt Nam ta sang Tây

7. Việc bảo hộ Cao Miên

8. Nước Pháp lấy ba tỉnh phía tây đất Nam Kỳ

1. Quân Pháp Đánh Đà Nẵng.

Trong thời đại khó khăn như đời vua Dực Tông, mà vua quan cứ khư khư giữ lấy thói cũ, không biết theo thời mà mở nước cho người ta vào buôn bán, không biết nhân dịp mà khai hóa dân trí, lại vì sự sùng tín mà đem giết hại người trong nước, và đem làm tội những người đi giảng đạo. Bởi những sự lầm lỗi ấy, cho nên nước Pháp mới dùng binh lực để báo thù cho những người giáo sĩ bị hại.

Nguyên từ năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 về sau, nghĩa là từ khi có tờ dụ cấm đạo lần thứ hai, ở Bắc Kỳ có mấy người giáo sĩ là ông Bonard, ông Charbonnier, ông Matheron và ông giám mục I Pha Nho tên là Diaz bị giết. Còn những giáo sĩ khác thì phải đào hầm đào hố mà ở, hoặc phải trốn tránh ở trong rừng trong núi để giảng đạo. Những tin ấy về đến bên Tây, các báo chí ngày ngày kể những thảm trạng của các người giáo sĩ đi truyền đạo ở nước ta, lòng người náo động cả lên.

Chính phủ nước Pháp bèn sai ông Leheur de Ville-sur-Arc, đem chiếc chiến thuyền “Catinat” vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách Triều Đình Việt Nam về việc giết đạo. Sau thấy quan ta lôi thôi không trả lời, quân nước Pháp bèn bắn phá các đồn lũy ở Đà Nẵng, rồi bỏ đi. Bấy giờ là tháng 8 năm bính thìn (1856) là năm Tự Đức thứ 9.

Được 4 tháng sau thì sứ thần nước Pháp là ông Montigny ở nước Tiêm La sang, để điều đình mọi việc. Chiếc tàu của ông Montigny đi vào đóng ở cửa Đà nẵng, rồi cho người đưa thư lên nói xin cho người nước Pháp 202 được tự do vào thông thương, đặt lĩnh sự ở Huế, mở cửa hàng buôn bán ở Đà Nẵng, và cho giáo sĩ được tự do đi giảng đạo. Trong bấy nhiêu điều, triều đình nước ta không chịu điều nào cả.

Bấy giờ bên nước Pháp đã lập lại đế hiệu, cháu ông Nã Phá Luân đệ nhất là Nã Phá Luân đệ tam lên làm vua. Triều chính lúc bấy giờ thì thuận đạo, lại có bà hoàng hậu Eugénie cũng sùng tín. Vả chăng khi chiếc tàu “Catinat” vào cửa Đà nẵng, có ông giám mục Pellerin trốn được xuống tàu rồi về bệ kiến Pháp Hoàng, kể rõ tình cảnh các người giảng đạo ở Việt Nam.

Ông P. Cultru chép ở trong sách Nam Kỳ Sử Ký (Histore de la Cochinchine) rằng: lúc bấy giờ có nhiều người quyền thế như ông chủ giáo thành Rouen là Mgr de Bonnechose và có lẽ cả bà hoàng hậu cũng có nói giúp cho ông giám mục Pellerin. Bởi vậy Pháp hoàng mới quyết ý sai quan đem binh thuyền sang đánh nước ta. Lại nhân vì những giáo sĩ nước I Pha Nho cũng bị giết, cho nên chính phủ hai nước mới cùng nhau trù tính việc sang đánh nước Việt Nam. Ấy cũng tại vì vua quan mình làm điều trái đạo, giết hại những người theo đạo Gia Tô cho nên mới có tai biến như vậy.

Tháng 7 năm mậu ngọ (1858) là năm Tự Đức thứ 11, hải quân Trung Tướng nước Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu I Pha Nho cả thảy 14 chiếc, chở hơn 3.000 quân của hai nước vào cửa Đà nẵng, bắn phá các đồn lũy, rồi lên hạ thành An Hải và thành Tôn Hải.

Triều đình được tin ấy liền sai ông Đào Trí ra cùng với quan tổng đốc Nam Nghĩa là Trần Hoằng tiễu ngự. Ông Đào Trí ra đến nơi thì hai cái hải thành đã mất rồi. Triều đình lại sai quan hữu quân Lê Đình Lý làm tổng thống đem 2.000 cấm binh vào án ngự.

Ông Lê Đình Lý vào đánh với quân Pháp một trận ở xã Cẩm Lệ bị đạn, về được mấy hôm thì mất.

Vua Dực Tông lại sai quan Kinh Lược Sứ là ông Nguyễn Tri Phương vào làm tổng thống, ông Chu Phúc Minh làm đề đốc cùng với ông Đào Trí chống giữ với quân Pháp và quân I Pha Nho.

Ông Nguyễn Tri Phương lập đồn Liên Trì và đắp lũy dài từ Hải Châu cho đến Phúc Ninh, rồi chia quân ra phòng giữ. Cứ như sách Nam Kỳ Sử của ông Cultru thì ý quan trung tướng Rigault de Genouilly định lấy Đà Nẵng xong rồi, lên đánh Huê, nhưng mà đến lúc bấy giờ thấy quan quân phòng giữ cũng rát, và lại có người đem tin cho trung tướng biết rằng có hơn 10.000 quân ở Huế sắp kéo xuống. Trung tướng không biết rõ tình thế ra làm sao, mà đường xá lại không thuộc, cho nên cũng không dám tiến quân lên.

Nhân vì khi trước các giáo sĩ đều nói rằng hễ quân Pháp sang đánh, thì dân bên đạo tức khắc nổi lên đánh giúp, đến nay không thấy tin tức gì, mà quân lính của trung tướng thì tiến lên không được. Ở Đà Nẵng thì chỗ ăn chỗ ở không có, lại phải bệnh dịch tả chết hại mất nhiều người, bởi vậy trung tướng lấy làm phiền lắm. Bấy giờ có ông giám mục Pellerin cũng đi theo sang ở dưới tàu Ménésis, trung tướng cứ trách ông giám mục đánh lừa mình, giám mục cũng tức giận bỏ về ở nhà tu dạy đạo tại thành Pénang ở bên Mã Lai.

Được mấy tháng, trung tướng liệu thế đánh Huế chưa được, bèn định kế vào đánh Gia Định là một nơi dễ lấy, và lại là một nơi trù phú của nước Nam ta.

2. Quân Pháp vào đánh Gia Định.

Trước đó đã có người bàn với trung tướng Rigault de Genouilly ra đánh Bắc Kỳ, nói rằng ở Bắc Kỳ có hơn 40 vạn người đi đạo, và lại có đảng theo nhà Lê, có thể giúp cho quân Pháp được thành công. Trung tướng cho đi do thám biết rằng đất Nam Kỳ dễ lấy hơn, và lại là đất giàu có, nhiều thóc gạo. Đến tháng giêng năm kỷ mùi (1859) là năm Tự Đức tháng 12, Trung tướng giao quyền lại cho đại tá Toyon ở lại giữ các đồn tại Đà Nẵng, rồi còn bao nhiêu binh thuyền đem vào Nam Kỳ. Quân Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá các pháo đài ở hai bên bờ sông Đồng Nai, rồi tiến lên đánh thành Gia Định.

Ở Gia Định, bấy giờ tuy có nhiều binh khí, nhưng quân lính không luyện tập, việc võ bị bỏ trễ nải, cho nên khi quân Pháp ở cửa Cần Giờ tiến lên, quan hộ đốc là Vũ Duy Ninh vội vàng tư đi các tỉnh lấy binh về cứu viện; nhưng chỉ trong hai ngày thì thành vỡ. Vũ Duy Ninh tự tận. Quân nước Pháp và nước I Pha Nho vào thành, lấy được 200 khẩu súng đại bác, 8 vạn rưỡi kilos thuốc súng và độ chừng 18 vạn phật lăng (francs) cả tiền lẫn bạc, còn các binh khí và thóc gạo thì không biết bao nhiêu mà kể.

Trung tướng Rigault de Genouilly lấy được thành Gia Định rồi, đốt cả thóc gạo và san phẳng thành trì làm bình địa, chỉ để một cái đồn ở phía nam, sai thủy quân trung tá Jauréguiberry đem một đạo quân ở lại chống giữ với quân của ông Tôn Thất Hợp đóng ở đất Biên Hòa.

Trung tướng lại đem quân trở ra Đà Nẵng, rồi tiến lên đánh một trận ở đồn Phúc Ninh. Quân ông Nguyễn Tri Phương thua phải lui về giữ đồn Nại Hiên và đồn Liên Trì. 203

Trung tướng muốn nhân dịp đó mà định việc giảng hòa, nhưng mà Triều đình cứ để lôi thôi mãi, người thì bàn hòa, kẻ thì bàn đánh, thành ra không xong việc gì cả 158 . Mà quân Pháp lúc bấy giờ ở Đà Nẵng khổ sở lắm, nhiều người có bệnh tật; trung tướng Rigault de Genouilly cũng đau, phải xin về nghỉ.

Chính phủ Pháp sai hải quân thiếu tướng Page (Ba-du) sang thay cho trung tướng Rigault de Genouilly và nhân thể để chủ việc giảng hòa cho xong. Đến tháng 10 năm kỷ mùi (1859) thì thiếu tướng sang đến nơi, và cho người đưa thư bàn việc hòa, chỉ cốt xin đừng cấm đạo, để cho các giáo sĩ được tự do đi giảng đạo, đặt lĩnh sự coi việc buôn bán ở các cửa bể và đặt sứ thần ở Huế. Đại để thì cũng như những điều của ông Montigny đã bàn năm trước. Nhưng chẳng may lúc bấy giờ ở trong Triều không ai hiểu chính sách ngoại giao mà chủ trương việc ấy, hóa ra làm mất cái dịp hay cả cho hai nước.

Thiếu tướng thấy cuộc hòa không xong bèn tiến binh lên đánh, trận ấy bên quân Pháp chết mất một viên lục quân trung tá là Dupré Déroulède.

Khi quân Pháp và quân I Pha Nho sang đánh nước ta ở Đà Nẵng và Gia Định, thì quân nước Anh và quân nước Pháp đang đánh nước Tàu ở mạn Hoàng Hải. Đến bấy giờ quân Pháp cần phải tiếp sang bên Tàu, chính phủ nước Pháp mới truyền cho thiếu tướng Page phải rút quân ở Đà Nẵng về, và chỉ để quân giữ lấy Gia Định, còn bao nhiêu binh thuyền phải đem sang theo hải quân trung tướng Charner đi đánh Tàu. Bởi vậy đến tháng ba năm canh thân (1860) quân Pháp đốt cả dinh trại ở Trà Sơn rồi xuống tàu. Về đến Gia Định, thiếu tướng Page để hải quân đại tá d’Ariès ở lại giữ Gia Định, còn bao nhiêu binh thuyền đem lên phía bắc hội với binh thuyền của nước Anh để đánh nước Tàu.

Triều đình ở Huế thấy quân Pháp bỏ Đà nẵng đi, bèn sai Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển vào Nam Kỳ, để cùng với ông Tôn Thất Hợp sung Gia Định quân thứ.

Đến tháng 7 năm canh thân (1860) ông Nguyễn Tri Phương khởi hành. Lúc gần đi, ông ấy có tâu bày mấy lẽ về việc giữ nước và nói rằng việc đánh nhau với nước Pháp bây giờ khó gắp năm gấp bảy lúc trước,

[158]

Chỗ này sách tây có quyển chép rằng khi hai bên đang bàn việc hòa, thì vua Tự Đức sai ông Nguyễn Tri Phương đánh quân Pháp ở Gia Định. Vả xem sử ta lúc bấy giờ thì ông Nguyễn Tri Phương đang còn ở Quảng Nam mãI đến tháng 5 năm canh thân (1860), ông ấy mới vào Nam Kỳ. Vậy việc đánh ở Gia Định là ông Tôn Thất Hợp, chứ không phải là ông Nguyễn Tri Phương. nhưng ông ấy xin cố hết sức để đền ơn nước, còn ở mặt Quảng Nam mà có việc gì, thì ông Phan Thanh Giản và ông Nguyễn Bá Nghi có thể cáng đáng được.

Quân Pháp và quân I Pha Nho ở Sài gòn lúc bấy giờ chỉ có độ 1.000 người mà quân của Việt Nam ta thì có đến hơn một vạn người. Nhưng mà quân ta đã không luyện tập, lại không có súng ống như quân Tây. Mình chỉ có mấy khẩu súng cổ, bắn bằng đá lửa, đi xa độ 250 hay là 300 thước tây là cùng; còn súng đại bác thì toàn là súng nạp tiền mà bắn mười phát không đậu một. Lấy những quân lính ấy, những khí giới ấy mà đối địch với quân đã lập theo lối mới, thì đánh làm sao được. Bởi vậy cho nên xem trận đồ của Việt Nam ta từ đầu cho đến cuối, chỉ có cách đào hầm đào hố để làm thế thủ, chứ không bao giờ có thế công, mà người Tây thì lợi cả công lẫn thủ. Tuy vậy ông Nguyễn Tri Phương cùng với quan tham tán đại thần Phạm Thế Hiển vào xếp đặt ở Gia Định một cách rất có quy cũ, đắp dãy đồn Kỳ Hòa (người Pháp gọi là dãy đồn Chí Hóa) cũng hợp quy thức, để chống nhau với quân của đại tá d’Ariès. Hai bên đã từng đánh nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả.

Đến tháng 9 năm canh thân (1860), thì nhà Thanh bên Tàu ký tờ hòa ước với nước Anh và nước Pháp, hai bên bãi sự chiến tranh. Chính phủ nước Pháp sai hải quân trung tướng Charner đem binh thuyền về chủ trương việc lấy Nam Kỳ.

Tháng giêng năm tân dậu (1861) trung tướng Charner đem cả thảy 70 chiếc tàu và 3.500 quân bộ về đến Gia Định 159 . Được 20 ngày thì trung tướng truyền lệnh tiến quân lên đánh lấy đồn Kỳ Hòa. Hai bên đánh nhau rất dữ trong hai ngày. Quân Pháp chết hơn 300 người, nhưng mà súng Tây bắn hăng quá, quân ta địch không nổi, phải thu bỏ đồn chạy về Biên Hòa.

Trận ấy bên Tây thì có lục quân thiếu tướng Vassoigne, đại tá I Pha Nho Palanca và mấy người nữa bị thương, mà bên ta thì ông Nguyễn Tri Phương bị thương, em ngài là Nguyễn Duy tử trận, quan tham tán là Phạm Thế Hiển về đến Biên Hòa được mấy hôm thì mất, còn quân sĩ thì chết hại rất nhiều.

3. Mất Tỉnh Định Tường.

Phá được đồn Kỳ Hòa rồi, trung tướng Charner truyền cho quân thủy bộ tiến lên đuổi đánh, quan quân vỡ tan cả.

[159]

Sử ta chép rằng quân Pháp lúc bấy giờ có hơn 1 vạn người, mà các sách chép việc lấy Nam Kỳ thì chỉ nói có 3.500 người thôi và trong số ấy lại có mấy đội lính mộ An Nam nữa. Thiết tưởng số 3.500 có lẽ thật hơn. [204] Tàu thủy của Pháp lên lấy Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Trung tướng lại sai người đưa thư sang cho vua Cao Miên là Norodom (Nặc Ông Lân), đại lược nói rằng: chủ ý của Pháp định lấy đất Gia Định làm thuộc địa, và nay mai sẽ đánh lấy Mỹ Tho (Định Tường) để cho tiện đường lưu thông với nước Cao Miên.

Bấy giờ bại quân của Nguyễn Tri Phương rút về đóng ở Biên Hòa, còn đang rối loạn, chưa dám làm gì, quân Pháp bèn quay về phía tây đánh tỉnh Định Tường. Trước trung tướng đã cho tàu đi dò các ngọn sông xem đi đường nào tiện, đến cuối tháng 2 năm tân dậu (1861), một mặt trung tướng sai trung tá Bourdais đem tàu đi đường sông, tiến lên đánh các đồn, một mặt thì sai thiếu tướng Page đi đường bể, theo cửa sông Mê-kong vào, hai mặt cùng tiến lên đánh lấy thành Mỹ tho. Quan hộ đốc là Nguyễn Công Nhàn phải bỏ thành chạy.

Từ khi hạ xong thành Mỹ Tho rồi, trung tướng đặt đồn lũy ở các nơi hiểm yếu, và có ý hoãn việc binh để sửa sang việc cai trị trong địa hạt đã lấy được, cho nên cũng không đánh các tỉnh khác.

Triều đình ở Huế được tin quan quân thất thủ đại đồn Kỳ Hòa, và thành Mỹ Tho cũng thất thủ rồi, sai quan thượng thư Hộ bộ là Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần vào kinh lý việc Nam kỳ. Nguyễn Bá Nghi biết thế chống không nổi với quân Pháp, dâng sớ về xin giảng hòa. Nhưng ở trong triều lúc bấy giờ có bọn Trương Đăng Quế không chịu, bắt phải tìm kế chống giữ.

Có nhà chép sử trách Nguyễn Bá Nghi rằng tuy ông ấy muốn giảng hòa, nhưng không chịu nhường đất, cứ lấy lý mà cãi, chứ không biết rằng thời buổi cạnh tranh này, hễ cái sức đã không đủ, thì không có cái lý gì là phải cả. Vả chăng quân nước Pháp đã sang đánh lấy mấy tỉnh ở Nam Kỳ, là cốt để làm thuộc địa, lẽ nào tự nhiên lại đem trả lại. Bởi vậy sự giảng hòa cứ lôi thôi mãi không xong. Mà ở trong địa hạt tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường lúc ấy lại có mấy người như tri huyện Toại, phó quản cơ Trương Định, Thiên hộ Dương rủ những người nghĩa dũng nổi lên đánh phá quân Pháp. Quân Pháp cứ đánh dẹp mãi dân tình cũng bị lắm điều cực khổ.

Đến tháng 10 năm tân dậu (1861), chính phủ Pháp sai hải quân thiếu tướng Bonard sang thay cho trung tướng Charner về nghỉ.

4. Mất Tỉnh Biên Hòa và Tỉnh Vĩnh Long.

Thiếu tướng Bonard thấy quan quân ta cứ chống giữ mãi, bèn quyết ý đánh lấy tỉnh Biên Hòa và tỉnh Vĩnh Long. Đến tháng 11 năm ấy, thì quân Pháp chia ra làm 3 đạo, cùng tiến lên đánh lấy thành Biên Hòa, rồi lại tiến lên mặt đông nam đánh lấy đồn Bà Rịa. Qua tháng 3 năm sau là năm nhâm tuất (1862), thiếu tướng Bonard lại đem 11 chiếc tàu và hơn 1.000 quân đi đánh Vĩnh Long. Tỉnh thần ở đấy chống giữ được 2 ngày thì thành phá. Tổng đốc Trương Văn Uyển phải đem quân lui về phía tây sông Mê-kong.

5. Hòa Ước Năm Nhâm Tuất (1862).

Lúc bấy giờ ở ngoài Bắc Kỳ có tên Phụng, tên Trường, đánh phá ở mặt Quảng Yên và Hải Dương ngặt lắm, lại có Nguyễn Văn Thịnh, tục gọi là Cai Tổng Vàng, quấy nhiễu ở Bắc Ninh, mà trong Nam Kỳ thì lại mất thêm hai tỉnh nữa. Triều đình lấy làm lo sợ lắm, bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng hòa.

Đến tháng 4 thì sứ thần nước ta theo chiếc tàu Forbin 160

vào Sài gòn. Đến hôm 9 tháng 5 thì thiếu tướng Bonard và sứ thần nước Nam ta là ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Tiếp ký tờ hòa ước.

Tờ hòa ước ấy có 12 khoản, nhưng cốt có những khoản sau này là quan trọng hơn cả: 1. Nước Nam phải để cho giáo sĩ nước Pháp và nước I Pha Nho được tự do vào giảng đạo, và để dân gian được tự do theo Đạo. 2. Nước Nam phải nhường đứt cho nước Pháp tỉnh Biên Hòa, tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường, và phải để cho chiến thuyền của Pháp được ra vào tự do ở sông Mékong. 3. Nước Nam không được đem binh khí, thuốc đạn đi qua những tỉnh đã nhường cho nước Pháp. 4. Hễ nước Nam có giao thiệp với nước nào khác thì phải cho chính phủ Pháp biết, và khi nào muốn nhường đất cho nước nào, thì phải tùy ý nước Pháp có thuận cho mới được. 5. Người nước Pháp và nước I Pha Nho được ra vào buôn bán tự do ở cửa Đà Nẵng, cửa Ba Lạt và cửa bể ở Quảng Yên. 6. Nước Nam phải trả tiền binh phí 4.000.000 nguyên, chia làm mười năm, mỗi năm 40 vạn nguyên. 7. Nước Pháp trả tỉnh Vĩnh Long lại cho nước Nam, nhưng quân Pháp cứ đóng ở tỉnh lỵ cho đến khi dẹp yên giặc giã ở tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường thì mới rút về.

160

Nguyên trước thiếu tướng Bonard có sai trung tá Simon đem chiếc tàu Forbin vào cửa Thuận An để đợi xem triều đình ở Huế có xin hòa không. Nay chiếc tàu ấy đem thuyền của sứ thần Việt Nam ta về Gia Định. 205 Sự giảng hòa xong rồi thì triều đình sai ông Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long, ông Lâm Duy Tiếp làm tuần phủ Khánh Thuận, để giao thiệp với quan nước Pháp ở Gia Định.

Bấy giờ nước I Pha Nho cũng nhường quyền lấy đất làm thuộc địa cho nước Pháp, chỉ nhận tiền binh phí và quyền được cho giáo sĩ đi giảng đạo thôi.

Tháng 2 năm quý hợi (1863) là năm Tự Đức thứ 16, thiếu tướng Bonard và đại tá nước I Pha Nho là Palanca vào Huế triều yết vua Dực Tông để công nhận sự giảng hòa của ba nước. Đoạn rồi thiếu tướng Bonard về Pháp nghĩ. Hải quân thiếu tướng De la Grandière sang thay.

6. Sứ Việt Nam Sang Tây.

Vua Dực Tông tuy thế bất đắc dĩ phải nhường đất ba tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp, nhưng trong bụng vẫn muốn cố hết sức để chuộc lại, vì là đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và lại là đất quê ngoại của ngài, nên chi hòa ước đã ký rồi, mà ngài vẫ sai quan thương nghị với quan nước Pháp về việc ấy. Mà chủ ý người nước Pháp lúc bấy giờ thì không những là chỉ giữ lấy ba tỉnh mà thôi, lại còn định mở rộng thêm ra nữa. Vậy lẽ nào lại đem trả lại cho mình?

Vua Dực Tông thấy việc bên này bàn không xong, bèn sai quan hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản, quan tả tham tri lại bộ Phạm Phú Thứ và quan án sát sứ tỉnh Quảng Nam là Ngụy Khắc Đản đem phẩm vật sang sứ nước Pháp và I Pha Nho. Còn việc giao thiệp ở trong Nam Kỳ thì giao lại cho quan tổng đốc tỉnh Vĩnh Long là Trương Văn Uyển.

Tháng 6, các sứ thần xuống tàu “Echo” vào Gia Định, rồi sang tàu “Européen” cùng với quan nước Pháp và quan nước I Pha Nho sang Tây. Đến tháng 8 thì tàu “Européen” về tới nước Pháp, sứ thần nước ta lên Paris, xin vào triều yết Pháp Hoàng Nã Phá Luân đệ tam. Nhưng bấy giờ Pháp Hoàng sắp đi ngự mát, sứ thần ta phải ở lại chờ đến hơn một tháng mới được yết kiến. Ông Phan Thanh Giản tây bày mọi lẽ về việc xin chuộc ba tỉnh Nam Kỳ. Pháp Hoàng ban rằng việc đó để đình nghị xem thế nào rồi sau sẽ trả lời cho Triều Đình Huế.

Mấy hôm sau, bọn ông Phan Thanh Giản đi sang I Pha Nho, rồi đến cuối năm thì các sứ thần xuống tàu “Japon” trở về.

7. Việc Bảo Hộ Cao Miên.

Trong khi sứ nước ta sang Tây lo việc chuộc lại mấy tỉnh ở Nam Kỳ, thì ở bên này thiếu tướng De La Grandière một mặt cứ đánh dẹp mọi nơi, xếp đặt cách cai trị, định thuế lệ và mở trường dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ 161 , một mặt sai quan đi kinh doanh việc bảo hộ nước Cao Miên (Chân Lạp).

Nguyền từ năm kỷ mùi (1859), vua nước Cao Miên là An Dương (tức là Nặc Ông Tôn) mất rồi, người con trưởng tên là Norodom (Ông Lân) lên nối ngôi. Đến năm tân dậu (1861), thì người em Norodom là Si-Vattha nổi lên tranh ngôi của anh. Norodom phải chạy sang Tiêm La. Sang năm nhâm tuất (1862) vua Tiêm La sai quân đem Norodom về nước, rồi đặt quan ở Ô- đông để bảo hộ Cao Miên.

Lúc bấy giờ ở Cao Miên có ông giám mục tên là Miche khuyên vua Norodom về với nước Pháp thì Tiêm La không dám bắt nạt. Bên này thiếu tướng De La Grandière cũng sai đại úy Doudart de Lagrée sang kinh doanh việc bảo hộ Cao Miên. Ông Doudart de Lagrée sang Cao Miên trong một năm trời thu xếp mọi việc, đến năm giáp tí (1864) thì nước Tiêm La phải rút quân về, nhường quyền bảo hộ cho nước Pháp.

8. Nước Pháp Lấy Ba Tỉnh Phía Tây Đất Nam Kỳ.

Ở bên Pháp lúc bấy giờ chính phủ cũng còn phân vân, chưa quyết hẳn lấy hay là trả đất Nam Kỳ, mà Pháp Hoàng thì thấy đường xá xa xôi cũng ngại, bèn sai hải quân trung tá Aubaret (Ha-ba-lý) sang điều đình với Triều đình ở Huế về việc cho chuộc ba tỉnh Nam Kỳ.

Vua Dực Tông lại sai quan Lại Bộ thượng thư là ông Phan Thanh Giản ra sung chức toàn quyền cùng với Trần Tiễn Thành và Phan Huy Vịnh để thương nghị với sứ thần nước Pháp.

Ông Aubaret đưa bản thảo tờ hòa ước, đại lược nói rằng: Nước Pháp trả lại ba tỉnh Gia Định, Biên Hòa và Định Tường cho nước Nam, chỉ giữ Sàigòn, Mỹ Tho và Thủ Dầu Một để đóng quân. Nhưng nước Nam phải để nước Pháp được quyền bảo hộ cả 6 tỉnh Nam Kỳ. Nước Nam lại phải chịu mỗi năm là 2.000.000 nguyên tiền thuế.

161

Nguyên người nuớc ta tự xưa tuy có tiếng nói riêng mà không có chữ viết. Học hành, văn chương, án từ, việc gì cũng làm bằng Hán tự cả. Từ đời nhà Trần về sau đã có người dùng Hán Tự mà đặt ra chữ Nôm để viết tiếng Quốc Ngữ. Nhưng mà những nhà văn học không hay dùng đến chữ nôm. Đến cuối đời nhà Lê có các giáo sĩ Bồ Đào Nha sang giảng đạo ở nước ta, thấy hán tự khó học và không mấy người hiểu, mới mượn chữ La Tinh mà đặt ra chữ quốc ngữ, để cho tiện sự giảng dạy. Ngày nay ta cũng nhờ có chữ quốc ngữ ấy mà làm thành ra nước ta có một lối chữ riêng rất tiện. 206

Sứ hai nước cứ bàn đi bàn lại mãi không xon, mà ở bên Pháp thì có nhiều người không muốn trả lại đất Nam Kỳ. Cuối năm giáp tí (1864) quan thượng thư Hải quân bộ là hầu tước De Chasseloup Laubat dâng sớ tâu với Pháp Hoàng nhất định xin không cho nước Nam chuộc ba tỉnh. Pháp Hoàng nghe lời ấy bèn xuống chỉ truyền cứ chiếu tờ hòa ước năm nhâm tuất (1862) mà thi hành.

Năm ất sửu (1865), quan thượng thư De Chasseloup Laubat muốn biết rõ tình thế bên Việt Nam này, bèn gọi thiếu tướng De La Grandière về hội nghị và sai hải quân thiếu tướng Roze sang thay. Thiếu tướng De la Grandière về Pháp cả đi lẫn về mất 7 tháng, lại trở sang kinh lý việc Nam Kỳ.

Lúc bấy giờ ở ba tỉnh của Pháp đã thành nếp rồi, thiếu tướng De la Grandière ở Pháp sang đã quyết ý lấy nốt ba tỉnh phía tây. Lại nhân từ khi trước nước Pháp sang lấy Nam Kỳ, người bản xứ thỉnh thoảng vẫn nổi lên đánh phá, quân Pháp dẹp mãi không yên. Ở Cao Miên lại có tên sư Pu kầm Bô xưng là cháu Nặc Ông Chân cũng nổi lên đánh vua Norodom. Súy phủ ở Sài gòn đổ cho quan Việt Nam xui giục và giúp đỡ những người làm loạn, bèn sửa soạn việc lấy tỉnh Vĩnh Long, tỉnh An Giang và tỉnh Hà Tiên.

Ở Huế tuy triều đình còn cứ mong chuộc lại đất ba tỉnh, nhưng vẫn biết ý súy phủ ở Sài gòn rồi tất lấy cả ba tỉnh phía tây, cho nên năm bính dần (1866), lại sai ông Phan Thanh Giản vào làm kinh lược sứ để tìm kế chống giữ.

Ở bên Pháp, thì từ năm đinh mão (1867), hải quân trung tướng Rigault de Genouilly lên làm thượng thư hải quân bộ 162

ra sức giúp thiếu tướng De la Grandière cho xong việc. Bởi vậy súy phủ ở Sài gòn chỉ đợi dịp để khởi sự.

Tháng 6 năm đinh mão (1867) là năm Tự Đức thứ 20, thiếu tướng De la Grandière hội hơn 1.000 quân ở Mỹ Tho, rồi định ngày kéo sang lấy Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ông Phan Thanh Giản biết thế không chống nổi, bảo các quan đành chịu nộp thành trì cho khỏi sự tai hại, rồi ông uống thuốc độc mà tự tận, dặn lại con cái phải cày ruộng mà ăn, chứ không được nhận quan chức gì ở Nam Kỳ.

Bấy giờ ông đã già, đã ngoài 74 tuổi, làm quan thật là thanh liêm, nhưng chẳng may gặp phải khi nước có biến, biết thế mình không làm gì

162

Lúc bấy giờ Hải quân bộ kiêm cả Thuộc địa bộ được, đem tấm lòng son sắt mà báo đền ơn nước cho hết bổn phận người làm tôi.

Từ đó đất Nam kỳ toàn cảnh thành ra đất thuộc địa của Pháp, thuế má, luật lệ, điều gì cũng do súy phủ ở Sài gòn quyết định cả.