Hồi 07: Tuyết Sơn kiếm pháp

Giữa lúc ấy Trần Xung Chi cầm một thanh trường kiếm, hai tay đưa lên trước mặt Thạch Phá Thiên. Gã khẽ nói: “Bang chúa! Bất tất phải nhiều lời với chúng nữa, cứ dùng võ lực mà nói chuyện, thắng là đúng mà bại là sai.” Thì ra họ Trần thấy Bạch Vạn Kiếm tuy kiếm pháp tinh xảo, nhưng về võ công cao cường hay nội lực thâm hậu thì nhất định không thể bằng bang chúa mình được, nên nghĩ thầm: “Bây giờ bằng chứng đã rõ ràng, dù có biện bác gì cũng vô ích, chỉ còn cách dụng võ. Giả tỉ bang chúa không địch nổi hắn thì bang Trường Lạc người nhiều thế mạnh, dư sức đánh cho đối phương không còn manh giáp mà về.”

Thạch Phá Thiên thuận tay nhận lấy thanh trường kiếm, trong lòng vẫn mơ hồ chưa nghĩ được gì.

Bạch Vạn Kiếm nghiêm nghị nói: “Thạch Trung Ngọc! Nghe ta nói đây. Ta vâng lệnh chưởng môn bản phái là Uy Đức Tiên Sinh, hôm nay phải thanh trừ môn hộ. Đây là việc riêng của phái Tuyết Sơn, hoàn toàn không can dự gì đến người khác, nếu động thủ ngay tại tổng đà bang Trường Lạc thì có điều không tiện. Chúng ta ra ngoài để kết liễu có được hay không?”

Thạch Phá Thiên vẫn mơ hồ hỏi lại: “Kết liễu… kết liễu cái gì?”

Đinh Đang đẩy nhẹ vai chàng một cái, khẽ bảo: “Cứ đánh nhau với hắn đi. Võ công Thiên ca cao hơn hắn nhiều, chỉ một nhát là giết được.”

Thạch Phá Thiên ấp úng: “Ta… ta không giết hắn. Sao lại giết hắn được? Bạch đại hiệp không phải là người xấu.” Chàng vừa nói vừa tiến về phía trước.

Bạch Vạn Kiếm vừa thấy chàng vẫy tay áo một cái đã làm Vương Vạn Nhận bị trọng thương, trong lòng nghĩ: “Sau khi thằng lỏi này rời khỏi thành Lăng Tiêu, không hiểu đã gặp những chuyện kỳ ngộ như thế nào mà luyện thành nội công thâm hậu như thế, võ công dĩ nhiên cũng có chỗ khác thường. Ta không thể sơ xuất được.” Hắn rung tay một cái, xuất chiêu Mai Tuyết Tranh Kiếm hư mà là thực, thực mà là hư. Đồng thời hắn sử dụng cả lưỡi kiếm và mũi kiếm, mũi kiếm như đóa tuyết hoa còn lưỡi kiếm tựa cành mai, bốn phương tám hướng tấn công vào Thạch Phá Thiên.

Chỉ trong chớp nhoáng, Thạch Phá Thiên thấy trước mặt toàn là kiếm quang trắng xóa mịt mù, chẳng phân biệt được đâu là lưỡi kiếm đâu là mũi kiếm nữa. Trong lúc hoảng hốt, chàng lại vung tay áo loạn lên, trong người tuy có nội lực thâm hậu vô song mà lại không biết vận dụng. Vừa rồi chàng hất được Vương Vạn Nhận ra xa mấy trượng chỉ là gặp may mà thôi. Bây giờ chàng cũng phất tay áo loạn xạ nhưng một là nội lực không phát huy được mãnh liệt, hai là võ công Bạch Vạn Kiếm cao hơn Vương Vạn Nhận nhiều.

Những tiếng roạc roạc vang lên, hai cánh tay áo Thạch Phá Thiên đã bị lưỡi kiếm của Bạch Vạn Kiếm cắt rơi xuống đất. Sau đó Thạch Phá Thiên lại cảm thấy cổ họng mình mát lạnh, đã bị mũi kiếm của đối phương dí vào.

Bạch Vạn Kiếm biết bên đối phương rất nhiều cao thủ, võ công của Bối Hải Thạch chắc chắn không dưới mình, mà đứng sau Thạch Phá Thiên còn một ông lão mắt lộ thần quang, cũng là một nhân vật rất lợi hại. Người vào hiểm địa, khi nào đã nắm được thời cơ còn để sểnh mất? Hắn vừa ra một chiêu thắng thế, lập tức tiến lên hai bước, vòng tay trái một cái cắp được ngang nách Thạch Phá Thiên, vận lực của cánh tay ép vào hai huyệt đạo ở trên lưng của Thạch Phá Thiên, rồi quát lớn: “Các vị bằng hữu! Hôm nay Bạch mỗ đắc tội với các vị, sau này sẽ có ngày đến tạ lỗi.”

Kha Vạn Quân thấy sư huynh đắc thủ, không chờ hiệu lệnh, lập tức cõng ngay Vương Vạn Nhận xông ra cửa lớn. Trần Xung Chi và Mễ Hoành Dã vung đao kiếm ra quát lên: “Thả ngay bang chúa ra!” Thanh đơn đao nhằm chém vào vai, còn kiếm quét vào dưới hông Bạch Vạn Kiếm.

Bạch Vạn Kiếm rung tay một cái. Nghe hai tiếng choang choang, thanh trường kiếm của hắn đã gạt cả đao và kiếm ra hầu như cùng một lúc. Nhưng trong lòng hắn cũng ngấm ngầm kinh hãi, vì đã bị nội lực của đối phương chấn động phải lùi lại một bước. Bạch Vạn Kiếm xoay chuyển ý nghĩ rất mau, bụng bảo dạ: “Võ công hai gã này cũng rất cao thâm. Nếu bọn chúng đồng thời tiến lên, thì chúng ta chắc chắn phải mất mạng hết ở đây.” Hắn vọt người một cái đã nhảy vọt lên đầu tường, rồi quát lớn: “Nếu có ai nhảy lên, thì tại hạ phải bóp chết thằng lỏi Thạch Trung Ngọc này trước, rồi sẽ đấu với quý vị sau.”

Quần hào bang Trường Lạc không ngờ võ công bang chúa mình cao thâm là thế, mà chỉ một chiêu đã bị đối phương bắt được. Mọi người đều chưa có chủ ý gì. Đinh Đang lộ vẻ cực kỳ nóng nảy, kéo tay ra hiệu yêu cầu gia gia động thủ. Đinh Bất Tam vẫn mỉm cười, nghĩ thầm: “Thằng lỏi này võ công rất cao, vừa rồi ở trên thuyền, nó đỡ phát chưởng của ta nhẹ nhàng hết sức. Có lý đâu nó lại bị bắt dễ dàng như vậy, chắc là đang có thâm ý gì đây. Nếu ta vội vàng ra mặt, chỉ sợ làm hỏng mất mưu đồ của gã. Chi bằng ta ngấm ngầm theo dõi xem sao rồi sẽ tính.” Đinh Đang thấy gia gia vẫn mỉm cười không lộ vẻ gì cấp bách, thì chắc lão đã có chủ ý, nhưng thấy lang quân đã lọt vào tay địch thủ thì trong lòng nàng vẫn chưa hết lo lắng.

Lúc này Kha Vạn Quân đã đặt hai bàn tay vào cổng, đang vận kình lực đẩy ra. Những cây cột cổng đang kêu lên cót két. Bối Hải Thạch thấy Kha Vạn Quân sắp xô đổ cổng, vội nghiêng người nhảy ra nói: “Kha bằng hữu bất tất phải nóng nảy, để tại hạ kêu người mở cổng tiễn khách.”

Hoa Vạn Tử quát: “Lùi lại ngay!” Nàng vung kiếm che đỡ sau lưng Kha Vạn Quân. Bối Hải Thạch đưa tay chụp xuống lưỡi kiếm của nàng. Hoa Vạn Tử giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ bàn tay lão này không sợ đao kiếm hay sao?” Nàng ngần ngừ mất một chút, tay Bối Hải Thạch đã sắp đụng đến lưỡi kiếm. Không ngờ còn cách chừng vài tấc, đột nhiên lão cong ngón tay lại búng ra.

Nghe một tiếng “keng”, thanh trường kiếm tuột khỏi tay nàng rơi xuống đất. Bối Hải Thạch lại đưa tay phải ra, vỗ vào vai nàng một chưởng.

Hai động tác này chỉ trong nháy mắt, lão biến chiêu cũng thần tốc chẳng kém gì Bạch Vạn Kiếm khắc sáu đóa kiếm hoa trên cột. Đinh Bất Tam gật gật đầu nghĩ bụng: “Ngũ Hành Lục Hợp Chưởng của Bối đại phu lừng lẫy võ lâm, quả nhiên là một bản lãnh phi thường.”

Chỉ thấy Bối Hải Thạch nhẹ nhàng lạng người từ tả sang hữu, bên này lão búng một chỉ, bên kia lão phóng một chưởng. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn lần lượt lăn xuống đất, mỗi người chống cự được với Bối Hải Thạch nhiều lắm ba chiêu là bị lão đánh ngã.

Bạch Vạn Kiếm la lên: “Tuyệt diệu! Công phu Ngũ Hành Lục Hợp Chưởng thật là tuyệt diệu! Hôm khác Bạch mỗ sẽ đến lãnh giáo.” Đột nhiên hắn tung người vọt lên. Nghe mấy tiếng răng rắc, nóc nhà bị phá thủng ra, hắn cắp Thạch Phá Thiên bay ra ngoài.

Bối Hải Thạch la lên: “Sao không lãnh giáo ngay bây giờ?” Rồi lão cũng nhảy lên theo, bỗng thấy trên đầu hào quang lóe mắt, tựa hồ hàng muôn ngàn đóa tuyết hoa đang rơi xuống. Bối Hải Thạch người đang lơ lửng trên không, tay chẳng có binh khí, trong lúc hốt hoảng cũng khó mà chống đỡ. Lão lập tức thi triển phép Thiên Cân Trụy hạ mình xuống. Chiêu này trông thì bình thường chẳng có chi là lạ, nhưng trong nháy mắt lão đã đột ngột đổi được thế nhảy vọt lên thành thế hạ mình xuống, chỉ cần chậm đi chút xíu là bị lưỡi kiếm đả thương. Những tay cao thủ trong nhà đại sảnh đều nổi tiếng hoan hô. Nhưng Bạch Vạn Kiếm đã nhân lúc này cắp Thạch Phá Thiên chạy đi rồi. Bối Hải Thạch lại nhún chân một cái, vọt qua lỗ thủng mái nhà rượt theo.

Đinh Đang lo lắng vô cùng. Nàng cũng tung mình toan vọt qua lỗ thủng trên nóc nhà. Đinh Bất Tam vội nắm lấy tay nàng nói: “Đừng gấp.”

Lúc này những tiếng “binh binh, chát chát” vang lên không ngớt, những viên ngói trên nóc nhà quanh lỗ thủng rớt xuống tới tấp. Trong tám tên đệ tử phái Tuyết Sơn đang nằm la liệt dưới đất, đột nhiên có một thân hình nhỏ bé vọt lên, nhanh như vượn, khéo như mèo, theo lỗ thủng nóc nhà bay ra ngoài.

Trần Xung Chi xoay đao lại chém roạt một tiếng. Thanh đao hớt đứt một miếng đế giày của người nhảy lên, chỉ thiếu một tấc là chặt được chân hắn. Quần hào hết thảy đều kinh ngạc, chẳng ai ngờ trong phái Tuyết Sơn ngoài Bạch Vạn Kiếm ra còn tay cao thủ như vậy. Gã đã bị Bối Hải Thạch điểm huyệt rồi, mà vận khí tự giải khai được để chạy thoát thân. Mễ Hoàng Dã sợ bảy người kia lại trốn nữa, liền điểm thêm mỗi người mấy chỉ.

Lúc này trong bang Trường Lạc đã có mười mấy người cầm binh khí vọt qua lỗ thủng trên nóc nhà, chia mấy ngả rượt theo. Ai cũng nghĩ rằng: “Để người ta đến tận nhà ăn hiếp, bắt bang chúa đem đi, nếu không đoạt về được thì từ nay bản bang làm gì còn đất đứng trên chốn giang hồ nữa? Tuy có bắt được bảy tên địch, nhưng dù bắt bảy mươi hay bảy trăm tên cũng không rửa được cái nhục để bang chúa bị bắt.” Có người lại nghĩ: “Chỉ cần cầm chân được gã họ Bạch mấy chiêu để các huynh đệ kéo đến là cứu được bang chúa, đó là kỳ công rất lớn.” Ai nấy đều gắng sức chia ngả truy tầm.

Lúc này tiếng còi hiệu vang khắp bốn mặt, người bang Trường Lạc đuổi theo mỗi lúc một nhiều.

* * *

Bạch Vạn Kiếm chỉ một chiêu đã bắt được Thạch Phá Thiên, chính hắn cũng thấy khó mà tin được. Sau khi hắn chui qua nóc nhà ra thoát, miệng vẫn lẩm bẩm: “Thật là xấu hổ!”, cho đây là một chuyện may mắn phi thường. Tuy hắn đã thủ thắng nhất thời, nhưng nếu bang Trường Lạc kéo hết ra, thì khó mà chạy xa được.

Hắn đưa mắt nhìn quanh, thấy ở hướng Tây có một cây cầu vồng bắc qua sông, không kịp nghĩ gì thêm, lập tức chạy đến nhảy xuống gầm cầu. Tay trái hắn vẫn ôm Thạch Phá Thiên, tay phải đưa trường kiếm lên, lách mũi kiếm vào khe hai phiến đá ở trụ cầu, chịu lấy sức nặng hai người.

Một lát sau, Bạch Vạn Kiếm nghe tiếng quần hào bang Trường Lạc từ bờ sông hướng Nam đã chạy đến, bảy tám người chạy qua cầu sang hướng Bắc sông. Hắn đã định bụng, nếu mình bị lộ hình tích thì phải giết thằng lỏi này trước. Bên tai hắn nghe tiếng bang chúng bang Trường Lạc tìm kiếm dọc theo bờ sông, đột nhiên trong một bụi cỏ rậm bên sông nổi lên tiếng sột soạt, một người chạy vọt về hướng đông. Bạch Vạn Kiếm nghe tiếng chân người này, nhận ra đó là sư đệ Uông Vạn Dực, trong bụng mừng thầm.

Uông Vạn Dực là tay khinh công cao nhất trong phái Tuyết Sơn, chạy nhanh như bay. Hành động này của hắn hiển nhiên là kế điệu hổ ly sơn, cố ý dụ truy binh đuổi theo đường khác để Bạch Vạn Kiếm có cơ thoát hiểm. Quả nhiên quần hào bang Trường Lạc cứ theo tiếng bước chân gã mà đuổi. Bạch Vạn Kiếm lại nghĩ: “Ở trong Trường Lạc Bang không ít người kiến thức cao minh, đâu thể cứ sơ hở mãi để mình ung dung đi thoát?”

Bạch Vạn Kiếm còn đang ngần ngừ chưa biết làm thế nào, bỗng nghe có tiếng mái chèo khua trên mặt nước. Ba chiếc thuyền từ phía đông đi lại, hai thuyền đựng đầy rau cải, còn một thuyền thì chứa đầy rơm. Những thuyền này là của người ở thôn quê chở hàng đi đến thành Trấn Giang bán. Ba con thuyền nối đuôi nhau chui qua gầm cầu, Bạch Vạn Kiếm cả mừng, chờ chiếc thuyền sau cùng đi qua sát bên mình mới buông người nhảy xuống. Hắn cùng Thạch Phá Thiên rơi lên trên đống rơm. Rơm trong thuyền rất dày, nên hai người hạ xuống êm ru không phát ra một tiếng động, cả người ở trên thuyền cũng không hề phát giác. Bạch Vạn Kiếm kéo Thạch Phá Thiên trầm mình xuống, cùng chui vào giữa đống rơm.

Mấy chiếc thuyền này đi thẳng tới bến chợ thì đậu lại, bọn phu thuyền lên một quán trà ngồi ăn uống. Bạch Vạn Kiếm từ trong đống rơm thò đầu ra, thấy trong thuyền không có ai, liền kẹp Thạch Phá Thiên nhảy lên bờ. Hắn thấy một chiếc thuyền có mui đang neo ở hướng Tây, liền nhảy lên đầu thuyền, lấy ra một đỉnh bạc nặng khoảng ba lạng ném cho người trên thuyền rồi nói: “Thuyền gia! Ông bạn của ta đột nhiên bị bệnh nặng, mau mau đưa chúng ta đến Dương Châu. Thỏi bạc này là tiền thuê thuyền, không cần thối lại.” Thuyền gia trông thấy đỉnh bạc thì mừng rỡ vô cùng, liền nhổ sào đẩy thuyền đi ngay. Con thuyền đi quanh co một lúc, rồi vào sông Vân Hà đi về phía Bắc.

Bạch Vạn Kiếm nấp trong khoang thuyền. Hắn biết rằng thế lực bang Trường Lạc ở đây rất lớn, chỉ để lộ phong thanh một chút là quần hùng lập tức đuổi tới nơi, nên không dám lên tiếng, chỉ ngấm ngầm suy tính: “Ta may mắn mà bắt được thằng lỏi Thạch Trung Ngọc này, nhưng bảy vị sư đệ sư muội cũng bị giữ tại bang Trường Lạc. Làm thế nào để cứu bọn họ ra khỏi chỗ hiểm nghèo đây?” Trong lòng hắn nửa mừng nửa lo, lại còn sợ Thạch Phá Thiên đang giả vờ. Cứ sau thời gian uống cạn tuần trà, Bạch Vạn Kiếm lại đưa ngón tay ra điểm thêm mấy huyệt đạo trên người chàng.

Lúc thuyền vào sông Trường Giang, Thạch Phá Thiên đã bị điểm đến tám chín huyệt đạo trong người. Bạch Vạn Kiếm nói: “Thuyền gia! Ngươi cứ cho thuyền đi xuôi dòng, ta thưởng thêm năm lạng bạc.”

Thuyền gia cả mừng nói: “Đa tạ khách quan thưởng hậu. Có điều con thuyền nhỏ của tiểu nhân khó mà chống nổi với sóng gió giữa sông Trường Giang, phải đi gần bờ mới miễn cưỡng xuôi dòng được.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Vậy thì cứ theo ven bờ hướng Nam mà xuôi dòng, lại càng hay.” Thuyền đi được hơn hai chục dặm, Bạch Vạn Kiếm thấy trên bờ có một tòa cổ miếu tường vàng, liền đứng lên đầu thuyền huýt một tiếng sáo. Trong miếu lập tức có tiếng còi đáp lại. Bạch Vạn Kiếm bảo chủ thuyền: “Áp thuyền vào bờ.” Thuyền gia áp mạn cắm sào, chưa kịp bắc cầu thì Bạch Vạn Kiếm đã cắp Thạch Phá Thiên tung người nhảy lên bờ rồi.

Bạch Vạn Kiếm vừa nhảy lên bờ thì trong miếu có mười mấy người vừa hô hoán vừa chạy tới. Thì ra đây là toán đệ tử tiếp ứng của phái Tuyết Sơn. Mọi người thấy Bạch Vạn Kiếm cắp một thanh niên mặc áo gấm liền hỏi: “Bạch sư ca! Người này là…”

Bạch Vạn Kiếm thả Thạch Phá Thiên rơi xuống đất, tức giận nói: “Các vị sư đệ! Tiểu huynh may mà đắc thủ, cuối cùng cũng bắt được thằng lỏi tội lỗi đầy đầu này. Chẳng lẽ các sư đệ không nhận ra nó ư?”

Mọi người nhìn kỹ lại Thạch Phá Thiên, thì thấy nét mặt chàng cũng hao hao giống như gã thiếu niên Thạch Trung Ngọc ngày trước đã ở thành Lăng Tiêu trốn đi. Ai cũng tức giận, người thì phóng chân đá, kẻ lại nhổ nước miếng vào mặt chàng. Một gã đệ tử lớn tuổi nói: “Các vị huynh đệ, đừng đánh gã bị thương. Bạch sư ca mã đáo thành công, thật đáng chúc mừng!”

Bạch Vạn Kiếm lắc đầu nói: “Tuy bắt được thằng lỏi này, nhưng bảy vị sư đệ sư muội lại bị giam bên địch, thật là cái được không bằng cái mất.” Mọi người vừa nói chuyện vừa đi vào trong tòa miếu nhỏ. Hai đệ tử phái Tuyết Sơn cũng khiêng Thạch Phá Thiên vào. Đây là một miếu thờ thổ địa đã bỏ hoang phế lâu ngày, trong miếu không có sư vãi chi hết. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn thấy nơi này vắng vẻ không bị quấy nhiễu, liền chọn làm nơi liên lạc và nghỉ chân.

Bạch Vạn Kiếm đi vào trong miếu, bảo bọn sư đệ dọn bữa cho ăn trước, rồi sẽ thương nghị hành động kế tiếp. Tuy gọi là thương nghị, nhưng thực ra Bạch Vạn Kiếm đã sắp sẵn kế hoạch rồi. Hắn nói câu nào, bọn sư đệ cũng không dám dị nghị. Bạch Vạn Kiếm nói: “Chúng ta phải nhanh chóng đưa thằng lỏi này về thành Lăng Tiêu ngay, để giao cho chưởng môn xử lý. Bảy vị sư đệ sư muội tuy bị hãm bên địch, nhưng tính mạng không có gì đáng phải lo. Dĩ nhiên bọn bang Trường Lạc phải nghĩ bang chúa của chúng còn trong tay ta, nhất định không dám làm khó dễ họ. Trương sư đệ, Vương sư đệ, Triệu sư đệ! Ba ngươi là người phương nam, nên ở lại thành Trấn Giang, hóa trang đi dò la tin tức. Cũng may các ngươi không đến Trường Lạc Bang, chúng không nhận ra được.” Trương, Vương, Triệu ba người đều tuân lệnh.

Bạch Vạn Kiếm lại nói: “Uông Vạn Dực sư đệ võ công cao cường lại tâm cơ linh mẫn. Vậy khi ba vị liên lạc với Uông sư đệ được rồi thì phải nghe theo kế hoạch của y. Đừng vì mình nhập môn sớm hơn mà ra kiểu sư huynh, làm hỏng mất đại sự.” Trương, Vương, Triệu ba người đối với Bạch sư ca vẫn một lòng kính nể, liền vâng dạ luôn miệng.

Bạch Vạn Kiếm nói: “Chúng ta cứ ở đây, chờ trời tối sẽ đi về phía Đông, đến Giang Âm rồi ra khỏi Trường Giang, đi một vòng mới về thành Lăng Tiêu. Đi như vậy xa hơn, nhưng người bang Trường Lạc quyết không ngờ tới chúng ta lại theo con đường này, dĩ nhiên chúng đang đuổi về phía Giang Bắc.” Trong lòng hắn rất e sợ bang Trường Lạc, nhưng cứ nói thẳng ra không giấu giếm gì.

Bạch Vạn Kiếm xem xét xung quanh một vòng, rồi lại vào nói chuyện với bọn sư đệ. Hắn thở dài rồi nói: “Chuyến này bọn ta xuống Trung Nguyên đã thiêu hủy được Huyền Tố trang, bắt được tên nghịch đồ Thạch Trung Ngọc. Nhưng hai vị sư đệ Tôn, Chử bị uổng mạng, bọn Cảnh sư đệ lại bị địch cầm tù, thật là tổn thương rất lớn đến oai danh bản phái! Xét cho cùng, chỉ tại tiểu huynh chỉ huy không sáng suốt mà ra.”

Người lớn tuổi nhất trong đám là Hô Diên Vạn Thiện nói: “Bạch sư ca đừng tự trách mình, nguyên nhân thật sự là do bọn sư đệ ta không luyện được võ công đến nơi đến chốn. Tất cả anh em cùng được sư phụ truyền thụ như nhau, nhưng trừ Phong sư ca và Bạch sư ca ra, mọi người mới học được một chút vỏ bên ngoài, chưa luyện tới võ công tinh thâm của sư môn.”

Một gã đệ tử khác béo tròn béo trục tên là Văn Vạn Phu lên tiếng: “Chúng ta ở thành Lăng Tiêu tỉ thí với nhau đều tưởng mình là giỏi, có ra ngoài mới biết mình chẳng vào đâu. Bạch sư ca! Chúng ta phải chờ đến tối mới lên đường, bây giờ rảnh rỗi, xin Bạch sư ca chỉ điểm cho anh em mấy chiêu.” Bọn sư đệ cũng hùa theo, phụ họa với gã béo mập.

Bạch Vạn Kiếm nói: “Gia gia truyền thụ võ công cho mọi người đều y hệt như nhau, hoàn toàn không thiên vị ai cả. Các sư đệ cũng thấy đó, Phong sư ca khổ công rèn luyện hơn ta nhiều, nên bản lãnh huynh ấy còn ở trên ta.”

Văn Vạn Phu nói: “Sư phụ hết sức công bằng, tuyệt không thiên vị, ai ai cũng biết. Tiểu đệ chỉ hận mình tư chất ngu muội, không lĩnh hội được hết yếu quyết mà thôi.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Từ đây về thành Lăng Tiêu dọc đường chưa chắc đã được bình yên vô sự. Học thêm được một chiêu kiếm pháp thì lực lượng chúng ta cũng hùng hậu thêm được một phần. Hô Diên sư đệ! Văn sư đệ! Hai sư đệ qua đây tỉ thí với nhau vài chiêu cho ta xem. Triệu sư đệ! Vương sư đệ! Hai sư đệ ra ngoài canh chừng, nếu thấy gì khác lạ thì lập tức báo ngay.”

Hai gã Triệu, Vương thấy các bạn đồng môn được Bạch sư ca chỉ điểm kiếm pháp cho, nghĩ rằng bọn họ may mắn gặp được cơ duyên, còn mình phải ra ngoài canh gác dĩ nhiên không khỏi so bì, nhưng cũng chẳng dám trái lệnh sư ca. Hai tên đành riu ríu vâng lời đi ra ngoài.

Hô Diên Vạn Thiện cùng Văn Vạn Phu phấn khởi tinh thần, cầm trường kiếm đứng đối diện nhau. Văn Vạn Phu là sư đệ đứng ở phía dưới, cất tiếng hô. “Xin mời Hô Diên sư ca!”

Hô Diên Vạn Thiện đảo ngược chuôi kiếm ra ngoài, chắp hai tay hướng về Bạch Vạn Kiếm nói: “Xin Bạch sư ca chỉ điểm cho!” Bạch Vạn Kiếm gật đầu. Hô Diên Vạn Thiện đột nhiên xoay mũi kiếm lại đâm xéo lên vai bên tả Văn Vạn Phu. Đó chính là chiêu Lão Chỉ Hoành Tà trong Tuyết Sơn kiếm pháp.

Trong ngoài thành Lăng Tiêu đều trồng đầy hoa mai. Năm xưa vị tổ sư sáng lập ra kiếm phái này rất thích hoa mai, nên phổ vào kiếm pháp lẫn lộn những hình hoa mai, nụ mai, cành mai, và nguyên cả cây mai, nên trong Tuyết Sơn kiếm pháp có cả cổ phong thuần phác lẫn phiêu dật tiêu sái. Đó là vì cành mai thì lấy khô khan gầy guộc làm quý, còn hoa mai thì lại lấy mãn khai tươi tốt làm hơn.

Hô Diên Vạn Thiện cùng Văn Vạn Phu giao thủ, chiêu thức có lúc đơn sơ hời hợt như mấy cành khô, nhưng vừa xoay chuyển thì lại mau chóng thành hoa tuyết tung bay đầy trời trong cơn bão tố, khí thế sầm sập như hô phong hoán vũ. Thân hình hai người lúc thì như cành hoa rung rinh trong gió, lại có lúc khuất trong màn kiếm quang như lạc đà chạy đuổi nhau ở vùng sa mạc cát bay, thỉnh thoảng mới hiện ra một chút.

Thạch Phá Thiên đang bị quăng vào một xó chẳng ai nhìn ngó gì đến. Lúc này chàng chẳng biết làm gì, đành ngồi nhìn Hô Diên Vạn Thiện và Văn Vạn Phu chiết giải kiếm pháp của nhau. Nội công chàng đã luyện đến mực rất tinh thâm, song về quyền thuật và kiếm pháp thì chưa biết tí gì. Hai sư huynh đệ chiết chiêu qua lại, công thủ tiến thoái rất là tinh diệu, Thạch Phá Thiên thấy họ càng đấu đến lúc khẩn trương, lại càng lấy làm thích thú.

Chàng lại xem một lúc nữa, bỗng thấy hai người cùng phóng kiếm đâm tới chẳng khác con nít giỡn chơi, rõ ràng chỉ cần đưa thêm về phía trước một chút là đâm trúng đối phương, nhưng lực đạo đột nhiên hết đà rồi ngừng lại, rõ ràng nội công vận thiếu mất một chút. Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Sư huynh sư đệ họ đang luyện kiếm chứ không phải đánh nhau thật sự, dĩ nhiên không dùng hết sức.”

Bỗng nghe Bạch Vạn Kiếm quát to: “Dừng lại.” Rồi hắn từ từ đi vào trong điện, đón lấy thanh trường kiếm trong tay của Hô Diên Vạn Thiện, vạch ra một chiêu rồi nói: “Chiêu này chỉ đưa thêm về phía trước hai tấc là thắng rồi.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Bạch đại hiệp nói rất đúng. Chiêu kiếm đó mà đấy thêm ra hai tấc nữa là thủ thắng, nhưng không hiểu sao vị Hô Diên đại hiệp kia lại không đâm mạnh thêm chút nữa.”

Bỗng Hô Diên Vạn Thiện gật đầu nói: “Bạch sư ca chỉ giáo như vậy là đúng lắm. Nhưng chiêu Phong Sa Mãng Mãng đó của tiểu đệ chỉ phóng tới đó thì lực đạo đã hết, muốn đâm thêm về phía trước nửa tấc nữa cũng không được.”

Bạch Vạn Kiếm mỉm cười nói: “Muốn nội lực tinh thâm không phải là chuyện một sớm một chiều. Nhưng nội lực không đủ thì có thể dùng kiếm pháp để bổ sung vào chỗ khiếm khuyết. Tình thực mà nói, thì nội lực của bản phái vị tất đã có chỗ đặc biệt hơn người. Phái Tuyết Sơn của chúng ta so với các phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Côn Luân, tuy nói là mỗi phái có cái hay riêng, nhưng thực ra sáng lập chưa lâu, so với các phái lớn còn kém đến mấy trăm năm. Nhưng bản phái lại có thể tự hào về kiếm pháp kỳ diệu vô song. Vậy các vị sư đệ khi lâm địch, thì nên phát huy sở trường của mình để đánh vào sở đoản của người ta. Nhất định không nên tỉ đấu nội lực, chỉ có thể nhờ vào biến chiêu tinh vi để thủ thắng.”

Bọn sư đệ đều gật đầu nghĩ bụng: “Câu này của Bạch sư ca quả là nói đúng vào chỗ quan trọng nhất của kiếm pháp bản phái.”

Chủ thành Lăng Tiêu, chưởng môn phái Tuyết Sơn là Uy đức tiên sinh Bạch Tự Tại từ nhỏ đã gặp cơ duyên may mắn, được uống linh dược nên nội lực tiến bộ khác thường, ngang với người bình thường luyện năm sáu chục năm. Kể ra thì nội lực phái Tuyết Sơn không có chi kỳ lạ, nhưng Bạch Tự Tại đi đường tắt nên nội lực của lão còn cao hơn cả những tay cao thủ phái Thiếu Lâm hay Võ Đang. Hiển nhiên là thứ linh đan diệu dược này không phải là vật dễ tìm, chỉ ngẫu nhiên mà gặp chứ không phải cầu mà được. Vì thế nội lực Bạch Tự Tại tuy thâm hậu, nhưng bọn đệ tử của lão thì hãy còn khiếm khuyết nhiều.

Uy Đức tiên sinh là người tự cao hiếu thắng, chẳng bao giờ nói cho đệ tử hiểu về sở đoản của bản môn. Bọn đệ tử đóng cửa ở trong thành Lăng Tiêu đã tưởng mình giỏi nhất thiên hạ, cứ cho rằng nội ngoại công của bản phái đã đạt tới mức đứng đầu võ lâm hiện nay. Phen này chúng kéo xuống Trung Nguyên bị thất bại liên tiếp mấy phen, bây giờ Bạch Vạn Kiếm mới hiểu mà nói ra sự thật, mọi người cùng tỉnh ngộ. Sau đó, Bạch Vạn Kiếm lại đem những chỗ biến hóa tinh diệu trong kiếm pháp, chỉ cho mọi người từng chiêu từng thức.

Hô Diên Vạn Thiện cùng Văn Vạn Phu đối chiêu xong, lại đổi đến hai tên sư đệ khác. Sau khi hai người này tỉ đấu, Bạch Vạn Kiếm bảo Hô Diên Vạn Thiện và Văn Vạn Phu ra canh gác bên ngoài, đổi phiên cho hai gã Triệu, Vương vào xem. Mọi người đã trải qua thực chiến, hiểu được rằng chỉ cần nửa chiêu kiếm pháp sử đến nơi đến chốn hay không là có thể quyết định chuyện sống hay chết của mình, nên ai nấy ngưng thần chú ý theo dõi từng ly từng tí, không giống như khi luyện kiếm tại thành Lăng Tiêu. Cứ sau mỗi lần phân tích chiêu thức, bọn chúng lại sử lại những chiêu kiếm pháp đó cho thành thuộc.

Thạch Phá Thiên vốn thông minh, chàng cứ ngồi nghe Bạch Vạn Kiếm tận tình chỉ dẫn. Đến khi cặp thứ bảy đối chiêu, thì Thạch Phá Thiên đã nhớ hết bảy mươi hai chiêu kiếm pháp phái Tuyết Sơn. Tuy tên gọi các chiêu thức thì chàng chỉ nhớ lõm bõm, những chỗ tinh diệu biến hóa cũng không thể nhất thời lĩnh hội được hết, nhưng khi đối phương xuất chiêu kiếm nào thì phải đón đỡ thế nào, phản kích ra sao, chàng cũng tưởng tượng được ra. Có thể nói chàng đã nắm được những yếu quyết về kiếm pháp của phái Tuyết Sơn rồi.

Mọi người để hết tâm thần luyện kiếm, kẻ học thì quên mệt, người xem cũng quên đói. Đến khi cả mười tám tên đệ tử phái Tuyết Sơn chia làm chín cặp đã diễn đi diễn lại mỗi chiêu thức đến tám chín lần, Thạch Phá Thiên đã ghi nhớ được sáu bảy phần.

Đột nhiên có tiếng loong coong, Bạch Vạn Kiếm ném trường kiếm xuống đất, thở dài một tiếng. Bọn sư đệ phái Tuyết Sơn ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu vì lẽ gì mà Bạch sư ca lại quăng kiếm thở dài. Chỉ thấy Bạch Vạn Kiếm đưa mắt nhìn Thạch Phá Thiên đang ngồi tựa cột, nhẹ giọng nói: “Thằng lỏi này mới nhập môn phái ta hai ba năm mà đã lĩnh hội võ công bản phái đến chỗ tinh diệu, so với các vị sư bá sư thúc luyện tập mười mấy năm hãy còn tinh thâm hơn, dù công lực không bằng nhưng cơ biến thì lại hơn nhiều. Kiếm pháp bản phái lấy cơ linh biến hóa làm trọng, có đồ đệ như thế nên dĩ nhiên Phong sư ca lấy làm đắc ý, mà chưởng môn cũng nhìn gã bằng con mắt đặc biệt, chỉ mong sau này hắn làm rạng rỡ cho môn phái.”

Hắn thở dài luôn mấy tiếng, vẻ hối tiếc lộ ra ngoài mặt. Ta nên biết Khí hàn tây bắc Bạch Vạn Kiếm không những võ công cao thâm mà kiến thức cũng hơn người một bực. Hẳn vừa chỉ bảo cho mười hai tên sư đệ này luyện kiếm mất nửa ngày, cảm thấy bọn chúng tư chất thấp kém, phải cố gắng khổ luyện mới mong có kết quả. Hắn thấy bản phái không có ai kế thừa xứng đáng, lại nhớ đến gã tiểu tử Thạch Trung Ngọc thông minh kiệt xuất lại không chịu học lấy điều hay. Vừa rồi hắn để hết tâm thần vào chuyện rèn luyện kiếm pháp biến ảo nên lãng quên mối sỉ nhục của sư môn được một lúc, bây giờ nghĩ đến lại đau lòng.

Thạch Phá Thiên thấy Bạch Vạn Kiếm đưa mắt nhìn mình, trong ánh mắt vẫn tỏ vẻ mến tài và thương tiếc. Tuy chàng không hiểu rõ thâm ý của hắn, nhưng cũng bất giác thầm cảm kích.

* * *

Tòa miếu thổ địa nhỏ bé trở lại yên tĩnh không một tiếng động. Một lúc sau, Bạch Vạn Kiếm khẽ điểm chân trái xuống đất, thanh kiếm đột nhiên vọt lên như một vật sống động, tự nhảy vào tay hắn. Hắn cầm kiếm rồi từ từ bước ra giữa sân, dõng dạc nói: “Cao nhân phương nào đã đến đây, xin mời ra gặp mặt.”

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đều hơi sợ sệt, nghĩ bụng: “Những tay cao thủ bang Trường Lạc đuổi đến nơi rồi ư? Sao Hô Diên Vạn Thiện cùng Văn Vạn Phu ở ngoài canh gác mà không báo động? Hoàn toàn không có một tiếng động mà sao Bạch sư ca lại biết có người đến?”

Nghe một tiếng vỗ tay nhè nhẹ, trong miếu đã có thêm hai người, một nam nhân mặc toàn màu đen, còn một nữ nhân lại mặc toàn màu trắng, nhưng trên lưng có thắt dây màu đỏ, trên tóc có cài một bông hoa màu đỏ, dĩ nhiên đó không phải là tang phục. Hai người cùng lưng đeo trường kiếm. Thanh kiếm của nam nhân buộc dải đen, còn thanh kiếm của nữ nhân lại phất pho dây thao trắng bạch. Hai người nhảy xuống cùng chấm đất một lúc, chỉ phát ra tiếng động rất khẽ. Tư thế của hai người này rất anh hùng khí khái, ai trông thấy cũng phải đem lòng vì nể. Bọn đệ tử Tuyết Sơn bất giác phải rung động trong lòng.

Bạch Vạn Kiếm quay ngược thanh kiếm lại, chắp tay dõng dạc nói: “Thì ra là Huyền Tố Trang Thạch trang chủ giá lâm.”

Hai người vừa nhảy xuống chính là trang chủ Huyền Tố Trang là Thạch Thanh, cùng vợ là Mẫn Nhu. Thạch Thanh mỉm cười, khoanh tay đáp lễ nói: “Bạch huynh giá lâm tệ trang mà bọn tại hạ không biết để đón tiếp, cũng chưa tỏ tình địa chủ ở nơi này, thật là có lỗi.”

Đám đệ tử phái Tuyết Sơn đã gặp vợ chồng Thạch Thanh tại Hầu Giám Tập đều đã bị bắt ở tổng đàn bang Trường Lạc. Bọn ở đây chưa biết mặt vợ chồng Thạch Thanh, bây giờ thấy họ tới đây thì trong lòng không khỏi sợ sệt nghĩ thầm: “Bọn mình đã thiêu hủy Huyền Tố Trang, chẳng hiểu họ đã biết chưa?”

Không ngờ Bạch Vạn Kiếm đã nói ngay: “Phen này chúng ta từ Tây Vực tới đây chỉ vì muốn tìm lệnh lang, nhưng chưa tìm được nên trong lúc nóng giận đã thiêu hủy quý trang.”

Thạch Thanh không động dung chút nào, chỉ nói: “Tệ trang xây dựng cũng chẳng có chi đẹp đẽ, Bạch huynh thấy không thuận mắt mà thay tại hạ đốt đi, cũng là chuyện tốt. Tại hạ còn phải đa tạ huynh đã nương tay, đuổi hết bọn gia đinh ra ngoài. Ngay cả con gà con chó cũng không bị thiêu chết, đủ biết tấm lòng nhân hậu của huynh.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Gia đinh bộc phụ quý trang chẳng có điều chi mạo phạm, khi nào tại hạ lại dám mạo muội giết nguôi. Sao Thạch trang chúa lại còn nói lời đa tạ?”

Thạch Thanh nói: “Quần hùng phái Tuyết Sơn đối với tiểu nhi hết dạ thương yêu, chỉ giận là nó không chịu học những điều hay, làm những việc hồ đồ để phụ lòng mong mỏi của Bạch lão tiền bối cùng Phong sư huynh. Vợ chồng tại hạ chẳng những cảm kích vô cùng, mà còn tự lấy làm xấu hổ. Bạch lão tiền bối vẫn được an hảo đấy chứ? Bạch phu nhân có được khang kiện không?” Thạch Thanh nói tới đây liền cùng Mẫn Nhu thi lễ ra chiều kính cẩn, cứ như vấn an chính song thân mình vậy.

Bạch Vạn Kiếm cũng khom lưng thi lễ rồi đáp: “Gia phụ nhờ phúc ấm nên vẫn được khang kiện. Còn gia mẫu vì chuyện lệnh lang, nên không còn ở trong thành nữa.” Nói đến đây, hắn bất giác lộ vẻ lo buồn.

Thạch Thanh nói: “Lão phu nhân võ công tinh thâm, đạo cao đức trọng, một đời hành thiện khó mà đếm hết, trên chốn giang hồ người người kính phục. Phen này lão phu nhân ra ngoài giải khuây một chuyến để tiêu tan lòng sầu muộn, ngọc thể chắc chắn sẽ trở lại khang cường.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Đa tạ trang chúa ban cho những lời vàng ngọc, tại hạ cũng chỉ mong được thế. Chỉ vì tuổi tác của gia mẫu đã cao mà lại trải phong sương, đạo làm con chẳng khỏi băn khoăn lo lắng.”

Thạch Thanh nói: “Bạch sư huynh thật là hiếu thảo. Phận làm con phải hiếu thuận với song thân, bậc làm cha mẹ phải lo lắng cho con cái, là lẽ thường tình của con người. Con cái mà có hành vi tội lỗi, thì cha mẹ ngoài việc đau lòng còn phải bắt về trừng trị gắt gao.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Phu phụ Thạch trang chúa là bậc anh hùng nghĩa hiệp, được bằng hữu võ lâm ngưỡng mộ. Tại hạ còn nhớ trong đại sảnh Huyền Tố Trang có treo tấm biển đề bốn chữ lớn Hắc Bạch Phân Minh. Theo đó mà nói thì Hắc Bạch Song Kiếm phân biệt thị phi rất rõ ràng, mang tấm lòng hiệp nghĩa để chủ trì công đạo, không chỉ có oai phong ngang dọc giang hồ một cách đơn thuần.”

Thạch Thanh đáp: “Bốn chữ Tấm Lòng Hiệp Nghĩa thật không dám nhận, chỉ vì những người học võ như bọn ta đối với những việc thị phi chắc chắn không thể hàm hồ được. Nhưng không biết tấm biển này đã biến đâu mất rồi.”

Bạch Vạn Kiếm ngẩn ra một chút rồi gượng đáp: “Tại hạ đã đốt mất rồi.”

Thạch Thanh nói: “Hay lắm! Nhục nhi đã đến bái lạy xin làm môn hạ phái Tuyết Sơn, nếu phạm vào môn quy quý phái, dĩ nhiên phải được sư trưởng quý phái trừng trị, dù đánh dù giết, cha mẹ cũng không được quyền hỏi tới. Đó là lề luật của võ lâm. Nhưng ngày trước ở Hầu Giám Tập, vợ chồng tại hạ đã gửi hai thanh Hắc Bạch Song Kiếm cho quý phái, và nói rõ là sẽ áp giải nhục nhi tới thành Lăng Tiêu để chuộc kiếm về. Việc này có đúng không?”

Bạch Vạn Kiếm đã nghe bọn Cảnh Vạn Chung, Kha Vạn Quân kể rõ vụ này. Ngày đó Cảnh Vạn Chung bị đoạt mất song kiếm, lúc đầu thì nghĩ là do vợ chồng Thạch Thanh bố trí. Nhưng sau đó chúng gặp một đám kiệu phu cùng quan sai đang hoảng hồn chạy trốn, hỏi tường tận mới biết trong kiệu có một già một trẻ, theo phục sức và hình dáng thì hiển nhiên là Ma Thiên cư sĩ Tạ Yên Khách và thằng bé ăn mày. Bạch Vạn Kiếm cũng từng nghe Tạ Yên Khách võ công rất cao, hành tung vô định, muốn lấy lại đôi Hắc Bạch Song Kiếm này thật là một việc rất khó.

Bây giờ, Bạch Vạn Kiếm nghe Thạch Thanh nhắc đến cặp kiếm này thì không khỏi đỏ mặt. Hắn đáp: “Đúng thế! Nhưng đôi báu kiếm hiện không có ở đây, sau này nhất định bọn tại hạ sẽ đưa tới quý xứ để hoàn trả.”

Thạch Thanh cười ha hả nói: “Bạch huynh nói câu này chẳng hóa ra coi rẻ Thạch mỗ rồi ư? Bốn chữ Hắc Bạch Phân Minh không phải nói về vợ chồng Thạch mỗ đâu. Các vị hiện đã bắt giữ nhục nhi, lại cầm luôn cả khí giới của vợ chồng Thạch mỗ không chịu hoàn lại. Tại hạ không hiểu trong võ lâm có lề luật này chăng?”

Bạch Vạn Kiếm hỏi: “Theo Thạch trang chúa thì nên làm thế nào?”

Thạch Thanh nói: “Bậc đại trượng phu đã nói ra một lời thì bốn ngựa khó theo. Các vị giữ nhục nhi thì đừng giữ kiếm, mà giữ kiếm thì không được giữ người.”

Bạch Vạn Kiếm cũng là một tay tiếng tăm lừng lẫy, rất trọng chữ tín. Người trong phái đã để mất Hắc Bạch Song Kiếm, hắn không khỏi hổ thẹn với Thạch Thanh. Đáng lý ra hắn không nên cưỡng từ đoạt lý mà mở cuộc đấu khẩu. Nhưng hắn đã bàn bạc cùng bọn Cảnh Vạn Chung, nghi là không chừng Thạch Thanh ngấm ngầm cấu kết với Tạ Yên Khách, sau khi giao kiếm lại nhờ lão xuất thủ đoạt đi. Huống chi Thạch Trung Ngọc đã làm nhục đứa con gái yêu quý độc nhất của hắn, khó khăn lắm mới bắt được kẻ phạm tội vào tay, khi nào chỉ vì một câu nói mà chịu giao trả?

Hắn liền nói: “Việc này tại hạ không thể tự quyết định được, mong Thạch trang chúa thứ lỗi. Còn đôi bảo kiếm của quý vị thì Bạch Vạn Kiếm này xin lãnh trách nhiệm hoàn trả. Nếu Bạch mỗ không đủ sức giao lại Hắc Bạch Song Kiếm, sẽ đến quý trang tự chặt đầu tạ tội.”

Câu nói của Bạch Vạn Kiếm dứt khoát như đinh đóng cột, không ngắc ngứ chỗ nào. Vợ chồng Thạch Thanh biết địa vị hắn trong võ lâm rất cao, đã nói là làm. Hắn nói sẽ đem tính mạng để đền cặp kiếm, thì chẳng thể coi là nhẹ được. Nhưng hai người thấy đứa con yêu độc nhất đang nằm dưới đất dơ dáy vô cùng, thì nói sao thì nói cũng phải cứu nó về.

Mẫn Nhu tiến vào trong điện, mắt đăm đăm nhìn Thạch Phá Thiên không chớp. Bà đã xa đứa con bảo bối lâu ngày, bây giờ được trùng phùng chỉ muốn chạy lại ôm nó vào lòng, nước mắt đã sắp trào ra. Bạch Vạn Kiếm nói gì bà cũng không để ý, bất luận việc gì bà cũng nghe theo chủ trương của lang quân. Vì vậy bà cứ đứng bên Thạch Thanh, không nói tiếng nào.

Thạch Thanh nói: “Bạch sư huynh nói quá lời rồi. Đôi kiếm của vợ chồng tại hạ có đáng là bao, làm sao dám đem ra so bì với tấm thân ngàn vàng của Bạch sư huynh? Có điều chúng ta đã là những người bôn tẩu giang hồ, thì mọi việc phải theo chữ lý mà làm. Phái Tuyết Sơn dẫu cho kiếm pháp cao cường, nhân tài đông đúc, cũng chẳng nên hiếp đáp người khác, đã lấy kiếm lại muốn lấy người. Bạch sư huynh! Hôm nay vợ chồng tại hạ phải đem đứa con này về.”

Thạch Thanh vừa nói dứt câu, vai trái ông khẽ rung một cái. Đó là dấu hiệu để gọi vợ mình cùng rút kiếm ra. Hào quang lấp loáng trước mắt mọi người, Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đã phóng kiếm nhằm trước ngực Bạch Vạn Kiếm đâm tới. Hai thanh kiếm còn cách Bạch Vạn Kiếm không đầy một thước thì đột nhiên ngừng lại không nhúc nhích.

Thạch Thanh nói: “Xin mời Bạch sư huynh!” Vợ chồng ông quả nhiên vẫn giữ phong độ danh gia, không chịu hạ thủ đột ngột. Nếu Bạch Vạn Kiếm không rút kiếm đón đỡ thì dĩ nhiên song kiếm không đâm tới nữa. Bạch Vạn Kiếm chú ý nhìn mũi kiếm của song kiếm rồi bước lên nửa bước. Thạch Thanh, Mẫn Nhu rụt kiếm về một chút, vẫn giữ cự ly một thước trước ngực Bạch Vạn Kiếm.

Bạch Vạn Kiếm đột nhiên lùi lại một bước, vợ chồng Thạch Thanh cũng tiến lên một bước. Đột nhiên nghe thấy hai tiếng leng keng, Bạch Vạn Kiếm đã rút kiếm ra phản kích. Ba thanh trường kiếm rung lên thành ba đóa kiếm hoa. Thạch Thanh vốn sử dụng thanh Hắc Kiếm, lúc này lại cầm một cây Thanh Cương Kiếm tỏa sắc xanh lè. Ba thanh trường kiếm đụng nhau loảng xoảng, hàn khí giàn giụa đầy tòa miếu cũ.

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn vẫn tưởng kiếm pháp của Bạch sư ca là trên đời có một, đều nghĩ bụng: “Dù Bạch sư ca có phải lấy một chọi hai, nhưng cũng nắm chắc phần thắng.” Mọi người đều rút kiếm cầm tay, đứng tựa vào tường chăm chú theo dõi cuộc đấu.

Lúc đầu vợ chồng Thạch Thanh Mẫn Nhu chia nhau ra hợp kích mỗi người một chiêu, đều là những chiêu tuyệt diệu. Qua lại được sáu bảy chục chiêu, hai người càng phóng kiếm mau lẹ hơn, không nhìn rõ kiếm chiêu nữa. Bạch Vạn Kiếm vẫn thi triển bảy mươi hai đường Tuyết Sơn kiếm pháp luyện tập đã rất thành thục để đối phó với vợ chồng Thạch Thanh. Những chiêu kiếm pháp trông chẳng có chi kỳ dị mà từ tay hắn phóng ra cũng có uy lực mãnh liệt, vừa công vừa thủ.

Trong đại điện tòa miếu thổ địa chỉ thắp một cây nến, ánh sáng vàng lợt ảm đạm. Bóng ba người xoay chuyển lẫn giữa ba luồng kiếm quang khiến mọi người nhìn mà hoa cả mắt. Ai cũng hồi hộp đến phát run vì tình trạng vô cùng nguy hiểm, nhiều chiêu kiếm chỉ cách chừng sợi tóc là có cảnh máu chảy thây phơi ngay trước thần điện. Kiếm quang lấp loáng dưới ánh nến chiếu vào mặt ba người khi tỏ khi mờ. Bạch Vạn Kiếm vẫn lạnh lùng kiêu ngạo, Thạch Thanh vẫn ôn hòa ung dung, Mẫn Nhu vẫn dịu dàng hòa nhã như lúc bình thường. Thái độ ba người này lúc kịch chiến cũng giống hệt lúc thi lễ vấn an, nhưng hiển nhiên đang dùng toàn lực để phóng ra những chiêu hiểm độc.

Lúc hai vợ chồng Thạch Thanh vừa vào trong miếu, Thạch Phá Thiên đã nhận ra Mẫn Nhu chính là vị phu nhân xinh đẹp ngày trước đã tặng cho mình một thỏi bạc ở Hầu Giám Tập. Vợ chồng họ vừa vào trong miếu cứ nói chuyện hoài với Bạch Vạn Kiếm, rồi lại rút kiếm đánh nhau, đến giờ chàng vẫn chưa có cơ hội để lên tiếng chào hỏi. Ba người nói với nhau những gì chàng cũng không hiểu, chỉ biết Thạch Thanh muốn đòi hai thanh kiếm, rồi lại nhắc đến thằng nhỏ nào đó. Hắc Bạch Song Kiếm thì chàng biết, nhưng không ngờ thằng nhỏ mà ba người tranh chấp lại chính là mình.

Vừa rồi Thạch Phá Thiên đã được xem mười tám đệ tử phái Tuyết Sơn luyện kiếm. Lúc này ba người rút kiếm giao đấu mà hoàn toàn không có nửa câu trách mắng, thần thái cũng rất bình tĩnh, nên chàng cứ tưởng họ đang nghiên cứu võ thuật như lúc nãy. Bảy mươi hai đường Tuyết Sơn kiếm pháp chàng đã thấy qua, bây giờ lại được xem chính tay Bạch Vạn Kiếm thi triển. Kiếm chiêu cực kỳ thần tốc lại mãnh liệt vô cùng, mỗi chiêu đều khiến chàng cảm thấy tâm hồn thoải mái, thần sắc càng lúc càng sảng khoái.

Thạch Phá Thiên chăm chú ngó Bạch Vạn Kiếm một hồi, rồi quay sang để ý kiếm pháp của vợ chồng Thạch Thanh. Chàng nhận ra ngay kiếm pháp của ba người này rất khác nhau. Kiếm pháp của Thạch Thanh thì mở rộng phóng dài oai nghiêm trịnh trọng, Mẫn Nhu thì tùy thời mà chuyển động, sử kiếm mềm mại như một dải lụa. Những kiếm chiêu của hai vợ chồng họ hoàn toàn không giống nhau, một cương một nhu, một âm một dương, một thẳng một cong, một mau một chậm, cách vận nội kình cũng hoàn toàn trái ngược nhau.

Nhưng mỗi khi gặp thanh trường kiếm của Bạch Vạn Kiếm thì kiếm chiêu của hai vợ chồng lại tương hỗ với nhau mà đón đỡ, hợp với nhau thành một thể.

Ta nên biết rằng vợ chồng Thạch Thanh là sư huynh muội đồng môn, cùng học võ nghệ ở Thượng Thanh Quán. Từ khi còn học họ đã phát sinh tình cảm, sử dụng kiếm pháp đã tâm đầu ý hợp. Sau khi kết hôn, suốt hai chục năm trời họ chưa xa nhau lấy một ngày, mà cũng không ngày nào ngừng luyện kiếm, nên lại càng tâm ý tương thông, hai người như một. Về kiếm pháp âm dương lúc ly lúc hội mà lại tương hợp với nhau, thì trừ vợ chồng Thạch Thanh ra, trong võ lâm không còn hai người nào so sánh được nữa.

Những đạo lý cao thâm về kiếm pháp như thế, đương nhiên Thạch Phá Thiên chưa hiểu được. Chàng xem một hồi nữa, liền nhận thấy Bạch Vạn Kiếm một người phải chọi với hai, dần dần đi đến chỗ kém thế. Nguyên vợ chồng Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm thì về kiếm pháp cũng như nội lực đều tương tự như nhau, chẳng chênh lệch mấy tí. Hai người đánh một thì đối phương làm sao địch lại được? Có điều Bạch Vạn Kiếm ra những đòn ác liệt, còn Thạch Thanh vẫn giữ thái độ khoan thai bình ổn. Nhất là Mẫn Nhu yểu điệu thướt tha, tính tình hòa dịu, nên xuất thủ vẫn có mấy phần gượng nhẹ, vì vậy mà cuộc tỉ đấu giữa ba người mới kéo dài đến thế.

Mẫn Nhu trông thì mảnh dẻ thướt tha, mà thực ra kiếm pháp bà tinh thâm chẳng kém trượng phu. Bạch Vạn Kiếm đấu với hai người được bảy chục chiêu, hai lần suýt bị lưỡi kiếm của Mẫn Nhu quét trúng. Trong lòng hắn đã rất nao núng, chỉ vì bản tính cương cường, thà mất mạng dưới lưỡi kiếm của vợ chồng Thạch Thanh chứ nhất định không chịu khuất phục. Kiếm pháp của hắn càng lúc càng bối rối, công thủ dần dần bế tắc.

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đã thấy tình trạng không êm, một gã lớn tiếng la lên: “Hai người đánh một thì có gì là giỏi? Thạch trang chúa! Nếu trang chúa là anh hùng hảo hán thì hãy đơn đả độc đấu với Bạch sư ca ta, còn muốn cậy nhiều hiếp ít thì chúng ta phải xông cả vào.”

Thạch Thanh mỉm cười gọi: “Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý sư huynh có ở đây không? Mời Phong huynh ra liên thủ với Bạch huynh, bốn người chúng ta tỉ thí một phen.” Câu nói của ông hết sức rõ ràng: trong phái Tuyết Sơn, trừ Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý, chẳng còn ai đáng liên thủ với Bạch Vạn Kiếm. Chính Thạch Thanh cũng tự biết, hai vợ chồng mình giáp công một mình Bạch Vạn Kiếm thì đã chiếm tiện nghi, nhưng nếu để đứa con duy nhất bị đưa về thành Lăng Tiêu thì không thể sống được. Huống chi trong miếu thổ địa lúc này, bên đối phương có tới mười mấy đồ đệ phái Tuyết Sơn, thì hai người phải đấu với mười mấy người chứ không phải lấy hai đánh một. Nếu nói ngoài Bạch Vạn Kiếm ra, bọn kia đều là hạng tầm thường, thì đó là lỗi của phái Tuyết Sơn không dạy thêm được mấy đệ tử kha khá mà chọi với người ta.

Bạch Vạn Kiếm nghe Thạch Thanh nhắc đến Phong Hỏa Thần Long Phong sư huynh thì lại càng căm hận rủa thầm: “Phong sư huynh vì nhận thằng tiểu quỷ con của ngươi làm đồ đệ, nên mới bị gia gia chặt đi một cánh tay. Thế mà ngươi còn mặt mũi nhắc đến Phong huynh nữa ư?” Những tay cao thủ tỉ võ không được để cho tâm thần rối loạn hay xúc động chút nào. Bạch Vạn Kiếm đã ở vào tình thế quẫn bách, vừa nổi giận liền sử chiêu Minh Đà Tuấn Túc hơi quá đà một chút.

Thạch Thanh lập tức nhận ra chỗ sơ hở của đối phương bèn vung kiếm lên gạt, vận nội công ra lưỡi kiếm rồi đè dính lên thanh kiếm của Bạch Vạn Kiếm. Hắn vội vàng vận hết kình lực để giật kiếm về, nhưng trong chớp mắt đó, thanh trường kiếm của Mẫn Nhu đã xuyên qua kẽ hở phóng thẳng vào trước ngực Bạch Vạn Kiếm. Hắn vội nhắm mắt lại, biết rằng thế kiếm này sắp xuyên thủng trái tim mình, không né tránh kịp nữa. Không ngờ trường kiếm của Mẫn Nhu phóng tới trước ngực Bạch Vạn Kiếm còn cách chừng nửa thước thì lại rụt về, rồi hai vợ chồng sóng vai nhảy lùi lại. Nghe soạt một tiếng, cả hai thanh kiếm đều tra vào vỏ, hai người không nói một câu.

Bạch Vạn Kiếm trợn tròn cặp mắt, mặt xám xịt lại. Hắn nhục nhã nghĩ thầm: “Đối phương cố ý tha mạng cho mình đã quá rõ ràng. Bây giờ vợ chồng họ muốn đem con đi, mình đã bại trận thì không tiện ngăn cản nữa. Mà nếu có mặt dày đánh tiếp thì song quyền khó địch bốn tay, cũng không thể địch nổi hai vợ chồng họ.” Hắn lại nhớ tới đứa con gái yêu quý bị con trai của họ hại chết, mình dẫn bọn sư đệ xuống Trung Nguyên, để bảy tên bị hãm tại tổng đà bang Trường Lạc mới bắt được Thạch Trung Ngọc, thế mà phải chịu mất đi. Hơn nữa, phái Tuyết Sơn trước nay vẫn tự phụ kiếm pháp thông huyền mà nay không địch nổi Huyền Tố Song Kiếm, thì coi như thanh danh của mình trôi theo dòng nước.

Bạch Vạn Kiếm càng nghĩ lại càng cay đắng, rồi đâm ra chán nản, mất hết tự tin. Hắn đứng ngây người ra như tượng gỗ, không nói gì nữa. Lúc này Hô Diên Vạn Thiện và Văn Vạn Phu cũng đã biết tin, chạy vào trong miếu. Chúng thấy Bạch sư ca bại trận liền lớn tiếng hô hoán: “Họ lấy nhiều đánh ít, chẳng lẽ chúng ta lại không được làm như thế ư?” Thế là cả mười tám đệ tử phái Tuyết Sơn đều cầm kiếm xông ra bao vây vợ chồng Thạch Thanh Mẫn Nhu, toan tấn công.

Thạch Thanh nói: “Bạch huynh! Vợ chồng tại hạ liên thủ có chiếm được một chút thượng phong, nhưng chưa thể nói đã phân thắng bại. Vậy Bạch huynh hãy tiếp chiêu!” Ông dứt lời, lại phóng kiếm đâm tới.

Bạch Vạn Kiếm là người có địa vị khá cao, vừa rồi được đối phương tha mạng, dĩ nhiên không mặt mũi nào động thủ khiêu chiến nữa. Nhưng chính Thạch Thanh quyết định tấn công thì hắn có thể chông đỡ. Hắn bèn nghĩ thầm: “Được! Bây giờ lấy một chọi một, ta phải tử chiến với ngươi một phen.” Hắn liền vung kiếm lên gạt, rồi nghiêng người phản kích một chiêu.

Bạch Vạn Kiếm đấu với một mình Thạch Thanh, dĩ nhiên tình thế có khác trước. Vừa rồi một mình hắn địch với hai người nên luôn luôn bị uy hiếp, phải đem hết tâm lực để phòng thủ, tấn công đã thưa thớt lại không thể phát huy nội lực. Lúc hắn tấn công Thạch Thanh còn phải đề phòng Mẫn Nhu đánh đến, lúc phóng kiếm đâm Mẫn Nhu lại còn mải đỡ gạt Thạch Thanh ở bên này, hai người phối hợp với nhau thật là khó mà đón đỡ.

Lúc này một người đấu với một người, một kiếm chọi với một kiếm, nghĩ tới cái thua nhục nhã vừa qua, Bạch Vạn Kiếm lập tức đem bảy mươi hai đường Tuyết Sơn kiếm pháp phóng ra như gió táp mưa sa, kiếm chiêu trùng trùng cực kỳ lợi hại biến ảo.

Thạch Thanh không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Khí Hàn Tây Bắc quả thật danh bất hư truyền, đúng là một tay kiếm thủ bậc nhất võ lâm hiện nay.” Ông liền tập trung tinh thần để thi triển những chiêu tuyệt học, trong lòng nghĩ: “Ta phải cho ngươi biết kiếm pháp của Huyền Tố Trang cũng chẳng kém gì phái Tuyết Sơn. Sở dĩ ta cho con đến xin học võ ở phái ngươi là có thâm ý khác, ngươi đừng tự tôn tự đại mà nghĩ Thạch Thanh này không bằng Bạch Vạn Kiếm.”

Cuộc đấu kiếm giữa Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm lần này thật là kỳ phùng địch thủ. Bạch Vạn Kiếm ra chiêu thần tốc mãnh liệt, kiếm quang nhảy múa ngang dọc, kiếm phong rít lên veo véo. Thạch Thanh thì tư thế trang nghiêm vững chãi như núi, kiếm pháp cực kỳ nghiêm mật.

Bạch Vạn Kiếm đã phóng tới mười mấy kiếm chiêu mà vẫn chưa chiếm được chút thượng phong nào, trong lòng không khỏi kinh hãi: “Người này kiếm pháp còn cao hơn danh tiếng nhiều. Thế mà sao hắn còn cho con đến bản phái mà học võ?” Rồi hắn lại nghĩ: “Vừa rồi mình thất bại còn có thể nói là song quyền khôn địch bốn tay. Bây giờ lấy một chọi một, chỉ thua hắn nửa chiêu cũng đủ đem thanh danh phái Tuyết Sơn quét đất, sự nghiệp tiêu ma. Ta nhất định phải kiềm chế được chỗ yếu hại của hắn, rồi lại tha mạng. Nếu không làm được như thế, cái nhục hôm nay không tài nào rửa được.”

Bạch Vạn Kiếm vì trong lòng nóng nảy muốn thắng gấp, nên ra chiêu không khỏi có chỗ sơ hở. Thạch Thanh mừng thầm nghĩ bụng: “Ngươi càng muốn thắng lẹ bao nhiêu thì càng chóng thất bại dưới tay ta.”

Quả nhiên mới qua lại hơn chục chiêu, Bạch Vạn Kiếm liên tiếp gặp nguy hiểm. Hắn bỗng run lên tỉnh ngộ, lập tức trấn tĩnh tâm thần lại, bỏ bớt phần mạo hiểm mà đi vào chính đạo, không gấp rút tấn công để tranh tiên. Lúc này thì hai người trở lại tương đương, bất phân thắng bại.

Thạch Phá Thiên ngồi xem hai người tỉ đấu, dĩ nhiên là không hiểu những lý lẽ bên trong, nhưng từng chiêu từng thức đều lọt vào mắt chàng.

Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm đặt hết tinh thần vào cuộc đấu, quên cả mọi việc bên ngoài. Sau khi hai bên đã qua lại dư hai trăm chiêu, Bạch Vạn Kiếm trở nên say mê, cho rằng đây là trận đấu hào hứng nhất trong đời. Hắn không nghĩ gì tới cái nhục vừa bị Mẫn Nhu tha chết, cơ hồ quên mất. Thạch Thanh cũng rất vui mừng vì hôm nay gặp được đối thủ, hai người đều nảy tình luyến tiếc, thương mến nhau. Bao nhiêu ý nghĩ thù địch đều tiêu tan dần, hai người càng lúc càng muốn học hỏi lẫn nhau, cứ mang những tuyệt kỹ của mình ra để xem đối phương hóa giải thế nào.

Trong miếu vang lên những tiếng choang choảng liên tiếp do hai thanh kiếm chạm nhau. Một lúc sau, Bạch Vạn Kiếm ra chiêu Ám Hương Sơ Ảnh, mũi kiếm đâm chênh chếch tới. Thạch Thanh hô khẽ: “Hảo kiếm pháp!” rồi dựng trường kiếm lên đỡ. Chiêu này hai người đã vận nội lực, hai thanh kiếm đụng nhau thật mạnh, vang lên một tiếng rùng rợn. Thanh kiếm trong tay Thạch Thanh bị gãy làm đôi. Lập tức bên trái ông có một thanh kiếm đưa tới.

Thạch Thanh đưa tay trái ra đón lấy, xuất ngay chiêu Tả Hữu Phùng Nguyên, trường kiếm đưa từ trái qua phải, vạch thành một hình cánh cung để ngăn cản đối phương đánh tới. Không ngờ Bạch Vạn Kiếm lùi lại một bước, lên tiếng: “Đây chỉ vì thanh kiếm của Thạch bang chúa không được tốt, không phải vì kiếm chiêu cao hay thấp. Giả tỉ Thạch trang chúa có thanh Hắc Kiếm trong tay thì dĩ nhiên không thể gãy kiếm được. Đó chính là lỗi của tiểu đệ.”

Hắn nói tới đây đột nhiên biến sắc mặt, vì phát giác ra người đưa trường kiếm cho Thạch Thanh chính là Mẫn Nhu, đồng thời nhìn thấy mười tám đệ tử bản phái đã nằm lăn dưới đất. Thì ra trong lúc Bạch Vạn Kiếm để hết tinh thần vào cuộc tỉ đấu với Thạch Thanh, thì Mẫn Nhu đã đả thương hết mười tám đệ tử phái Tuyết Sơn. Người nào cũng chỉ bị thương rất nhẹ, nhưng Mẫn Nhu đã vận kình lực vào mũi kiếm đâm trúng huyệt đạo, khiến cho người đã trúng kiếm không nhúc nhích được nữa. Đó cũng là một tuyệt kỹ về kiếm pháp của Mẫn Nhu. Bà vốn tính tình nhân hậu không muốn sát hại địch nhân, nên đã dùng phép điểm huyệt gia truyền để vận vào kiếm thuật. Mười tám tên đệ tử phái Tuyết Sơn tuy nói là trúng kiếm, nhưng thực ra đã bị Mẫn Nhu điểm huyệt. Có điều nội lực của bà chưa đến cảnh giới thượng thừa, nếu không thì mũi kiếm đụng vào huyệt đạo đối phương là đủ khống chế, không cần tổn thương đến da thịt làm gì.

Mẫn Nhu đưa trường kiếm cho Thạch Thanh, rồi dùng mũi chân hất một thanh trường kiếm của bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đánh rơi xuống đất cho nó vọt lên, rồi nắm trong tay. Bà đứng sang bên trái, sau Thạch Thanh chừng ba bước, bất cứ lúc nào cũng có thể xông đến giáp công.

Bạch Vạn Kiếm thấy tình trạng này thì trái tim tựa hồ chìm xuống, tự nhủ: “Mình bất quá chỉ ngang sức với Thạch Thanh. Nếu Thạch phu nhân lại tham gia vào chiến cuộc thì tình trạng cũ sẽ tái diễn, còn tỉ đấu thêm làm gì nữa?” Hắn liền nói: “Tiếc là Phong sư ca không có ở đây. Nếu không thì bọn tại hạ hai người hợp lực còn có thể lãnh giáo hai vị một phen. Hôm nay thì thắng bại đã phân, chẳng còn gì để nói.”

Thạch Thanh đáp: “Không sai! Sau này có dịp gặp Phong Hỏa Thần Long…” Ông nói chưa dứt lời, chợt nhớ ra Phong Vạn Lý đã vì con mình là Thạch Trung Ngọc mà bị sư phụ chặt cụt một tay, dù sau này có gặp cũng không thể đấu kiếm được nữa. Thạch Thanh vội ngừng lại, không nói thêm nữa, trên mặt cũng lộ vẻ hối hận. Vợ chồng Thạch Thanh liên thủ đánh bại hết mười tám người phái Tuyết Sơn mà không thấy vui mừng chi hết.

* * *

Thạch Phá Thiên ngồi dưới đất, thấy Bạch Vạn Kiếm vẻ mặt xám xanh hiển nhiên đau khổ vô cùng, còn Thạch Thanh và Mẫn Nhu cũng lộ vẻ thương tiếc, thì nghĩ thầm: “Mười tám gã sư đệ phái Tuyết Sơn đều là đồ tồi, không gã nào đủ sức liên thủ với Bạch đại hiệp để đấu với vợ chồng Thạch trang chúa một trận ra hồn, thật là mất hứng thú.” Chàng nhớ tới hồi nãy Bạch Vạn Kiếm đã nhìn mình ra chiều luyến tiếc thì nghĩ bụng: “Bạch đại hiệp đối với mình rất tốt, còn vị phu nhân áo trắng kia cũng từng cho mình tiền bạc, đối đãi cũng không tồi. Bọn họ ở đây tỉ kiếm mà lại thiếu người, xem chừng họ chỉ trông mong vị Phong sư ca nào đó, nhưng y lại không ở đây nên mọi người đều mất hứng thú. Mình chẳng hiểu gì về kiếm pháp nhưng vừa rồi xem đã thuộc lòng, tưởng cũng nên giúp cho thêm phần hào hứng.”

Chàng nghĩ vậy liền đứng dậy, bắt chước Bạch Vạn Kiếm khi nãy, dí đầu ngón chân vào một thanh kiếm dưới đất, nội lực vừa tới, thanh kiếm đã vọt lên nghe vù một tiếng. Chàng giơ tay ra bắt lấy thanh kiếm rồi cười nói: “Các vị còn muốn đấu kiếm, mà lại thiếu mất một người nên cuộc đấu phải bỏ dở. Vậy tại hạ muốn cùng Bạch đại hiệp liên thủ để đấu tiếp cho vui. Nhưng tại hạ lại không biết sử kiếm, xin quý vị chỉ dạy thêm.”

Bạch Vạn Kiếm và vợ chồng Thạch Thanh thấy chàng đột nhiên đứng dậy đều giật mình kinh hãi. Nhất là Bạch Vạn Kiếm, hắn nhớ chính mình đã điểm mười mấy huyệt đạo toàn thân chàng, không hiểu sao chàng lại đứng dậy bước đi được. Hắn tự nhủ: “Chắc là Mẫn Nhu sau khi đánh ngã hết mười tám đệ tử bản phái đã sang đó giải khai huyệt đạo cho nó.”

Thạch Thanh và Mẫn Nhu thì nghĩ: “Bạch Vạn Kiếm đã bắt được con mình, dĩ nhiên hắn phải điểm vào những huyệt đạo trọng yếu đề phòng nó chạy trốn, sao lại đi được?” Mẫn Nhu la lên: “Ngọc…” Bà định gọi Ngọc nhi, nhưng chợt nghĩ ra điều gì liền im bặt, quay lại nhìn trượng phu hỏi ý.

Thực ra Thạch Phá Thiên bị Bạch Vạn Kiếm điểm huyệt rồi bỏ nằm dưới đất đã hơn hai giờ rồi. Bạch Vạn Kiếm điểm huyệt người khác như vậy, ít ra phải sáu giờ sau mới có thể tự giải khai được. Hắn không ngờ nội lực Thạch Phá Thiên thâm hậu, tuy chàng chẳng hiểu gì về cách giải khai huyệt đạo mà chưa tới một giờ, luồng nội lực ghê gớm tự động vận hành đã giải khai được hết những huyệt đạo bị phong tỏa. Thạch Phá Thiên cũng hoàn toàn không hay biết gì, chỉ cảm thấy tay chân đang tê cứng không thể động đậy được, bây giờ tự nhiên lại có thể cử động được.

Bạch Vạn Kiếm lớn tiếng hỏi: “Sao ngươi lại muốn liên thủ với ta? Ngươi muốn thử những kiếm pháp đã học được của phái Tuyết Sơn ư?”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Vừa rồi ta thấy các ngươi luyện kiếm thực sự cũng học được một ít, chỉ không biết có đúng không.” Chàng liền gật đầu đáp: “Những gì ta học được cũng không biết có đúng không, xin được Bạch đại hiệp cùng Thạch trang chúa và Thạch phu nhân chỉ điểm thêm cho.” Chàng nói xong, vung thanh trường kiếm lên, đứng bên cạnh Bạch Vạn Kiếm. Chiêu kiếm đầu tiên chàng sử dụng chính là chiêu Song Đà Tây Lai trong Tuyết Sơn kiếm pháp.

Vợ chồng Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu cứ chăm chú nhìn Thạch Phá Thiên. Từ lúc họ đưa chàng lên thành Lăng Tiêu học võ nghệ, đã mấy năm dài không gặp mặt. Bây giờ được trùng phùng ở đây, trong lòng họ không khỏi lẫn lộn nhiều thứ tình cảm, vừa thương mến, mừng vui, vừa căm phẫn, hối hận, thật khó mà diễn tả. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu thấy con đã cao lớn hơn lúc ra đi rất nhiều, thân hình rất tráng kiện, khuôn mặt đã có những nét phong trần tiều tụy, nhưng lại không mất vẻ anh hùng tuấn tú, nhất là đôi mắt sáng ngời ẩn tàng nội lực thâm hậu vô biên.

Thạch Thanh là bậc nghiêm phụ, nghĩ tới đứa con bất hiếu này đã làm bại hoại gia phong Huyền Tố Trang, phạm vào đủ thứ quy củ võ lâm, khiến cho vợ chồng mình phải xấu hổ với bằng hữu giang hồ. Mấy năm nay vợ chồng Thạch Thanh lén lút đi dò la tung tích con trai, hoàn toàn không dám giáp mặt đồng đạo võ lâm. Thế mà bây giờ chàng gặp song thân lại thản nhiên không bái kiến, lại còn cầm kiếm ra mặt chống đối lại cha mẹ. Chỉ một hành động này mà xét, cũng đủ thấy những hành vi ô uế trên phái Tuyết Sơn của chàng không phải là chuyện bịa. Thạch Thanh tức giận vô cùng, nhưng chỉ ngấm ngầm nghiến răng, cố nén để khỏi phát tác trước mặt Bạch Vạn Kiếm.

Mẫn Nhu lại có tấm lòng từ mẫu, tỏ ra vui mừng hơn là nóng giận. Bà vốn có hai đứa con trai, con thứ đã bị kẻ thù giết hại, nên bao nhiêu tình cảm thương yêu dồn hết sang cho Thạch Trung Ngọc. Bà đã từng bênh vực cậu quý tử trước mặt chồng, nói là lập luận một chiều của phái Tuyết Sơn chưa chắc đã đáng tin. Theo bà suy đoán, chắc khi ở thành Lăng Tiêu, Thạch Trung Ngọc đã bị người ta áp bức đến không còn chỗ dung thân, nhiều phần là đứa cháu gái của Bạch Tự Tại được nuông chiều đã ăn hiếp nó quá đỗi, nên nó giận dữ mà phản kháng. Nếu không thì một thằng bé như thế sao có thể gây ra những chuyện cưỡng gian phạm thượng, huống hồ con gái nhà họ Bạch lúc đó chỉ mới mười hai mười ba tuổi, Thạch Trung Ngọc chắc không thể nào đối xử với một tiểu cô nương như thế.

Mấy năm nay Mẫn Nhu dày dạn phong trần, cùng chồng len lỏi khắp nơi tìm con mà không rõ tung tích nó đâu. Lắm lúc bà quá thương con mà âm thầm khóc lóc, lo rằng con trai mình đã bỏ mạng trong Đại Tuyết Sơn bên Tây Vực, hay bị thú dữ ăn thịt mất rồi. Bây giờ Mẫn Nhu được gặp con, dù nó có tội lớn bằng trời đi nữa thì tấm lòng từ mẫu cũng tha thứ hết. Thấy Thạch Phá Thiên cầm kiếm tiến ra, chân bước như mây trôi nước chảy, tư thế ngay thẳng đĩnh đạc, thì bà càng nức lòng hả dạ, chỉ giận mình không thể chạy lại ôm choàng lấy nó vào lòng để vỗ về nâng niu một lúc, cho bõ tấm lòng thương nhớ lâu nay.

Mẫn Nhu biết rõ con mình từ nhỏ đã tâm cơ mau lẹ, nhanh trí hơn người. Bà chắc Thạch Phá Thiên cố ý liên thủ với Bạch Vạn Kiếm để tỉ kiếm với mình, nhất định là có kế hoạch gì đây. Bà nghĩ vậy, rồi một mặt thì băn khoăn lo lắng chồng mình có thể nóng giận trách mắng, mặt khác thì muốn xem võ công của con trai trong mấy năm nay đã tiến bộ đến mức nào, liền lên tiếng: “Được lắm! Bây giờ chúng ta đã có bốn người, vậy chia ra làm hai cặp để nghiên cứu võ công. Chúng ta giao hẹn cứ điểm tới đối phương là dừng tay, tưởng cũng không quan hệ lắm.”

Giọng nói của Mẫn Nhu hết sức dịu hiền lại tràn đầy yêu thương, chỉ vì trong lòng kích động nên âm thanh có phần run rẩy. Thạch Thanh liếc nhìn vợ một cái rồi gật đầu. Mẫn Nhu tính tình nhu hòa, bất luận việc gì nàng cũng làm theo ý lang quân, không bao giờ có chủ trương trái ngược với chồng. Nhưng những lúc hiếm hoi bà đưa ra một vài ý kiến thì Thạch Thanh đều nhất nhất nghe theo, không bao giờ phản đối cả. Ông thấy vợ nói như thế thì nghĩ rằng: “Một là nàng muốn xem võ công của con trai, hai là nàng muốn Bạch Vạn Kiếm thua nhanh mà phải tâm phục khẩu phục. Thật ra Thạch Trung Ngọc tuổi tác còn nhỏ, dù thông minh đến đâu thì kiếm pháp cũng không thể cao hơn mấy vị sư thúc của phái Tuyết Sơn vừa rồi đã bị Mẫn Nhu đánh ngã. Huống chi thằng con mình chẳng khi nào lại tận tâm ra sức giúp Bạch Vạn Kiếm để chống lại cha mẹ.”

Bạch Vạn Kiếm lại có chủ ý riêng. Hắn nghĩ bụng: “Ngươi muốn dùng kiếm pháp của phái Tuyết Sơn liên thủ với ta để chống lại kẻ địch, tức là ngươi đã thừa nhận làm đệ tử phái Tuyết Sơn. Bất luận cuộc tỉ đấu này có kết quả như thế nào, chỉ cần ta không bị ba người trong gia đình ngươi giết chết, nhất định có thể dùng lệnh phù của chưởng môn phái Tuyết Sơn để bắt ngươi theo ta về Tuyết Sơn. Vợ chồng Thạch Thanh mà ngăn trở, tức là họ phá hoại quy củ võ lâm.” Hắn bèn giơ trường kiếm lên nói: “Lấy hai chọi hai cũng được, mà lấy ba chống một cũng không sao. Dù sao thì Bạch mỗ cũng là bại tướng dưới tay Huyền Tố Song Kiếm, bây giờ có phải bỏ mạng để quân tử được thỏa lòng thì cũng đáng.” Hắn đã quyết định là chịu chết, nếu như ba người nhà họ Thạch bao vây tấn công mình thì dù sao cũng phải giết Thạch Trung Ngọc đã. Chỉ cần không lo tự bảo vệ mình, việc liều mạng giết nó xem ra cũng không khó lắm.

Thạch Phá Thiên để ý thấy thanh kiếm trong tay hắn đang rung lên trỏ vào Thạch Thanh, tựa như tấn công mà thực ra là phòng thủ, liền nói: “Thế thì để ta tấn công trước.” Chàng dứt lời, trường kiếm cũng rung lên, lập tức đâm tới bả vai Thạch Thanh. Chiêu kiếm này chàng phóng ra không lấy gì làm mau lẹ cho lắm, thế mà nội lực đi tới đâu kiếm phong rít lên veo véo tới đó.

Kiếm chiêu đúng là của phái Tuyết Sơn, nhưng nội lực thì hùng hậu vô cùng, Bạch Vạn Kiếm không thể bì kịp.

Thạch Phá Thiên vừa phóng ra một chiêu, cả ba người Bạch Vạn Kiếm, Thạch Thanh và Mẫn Nhu đồng thời la lên một tiếng: “Ái chà.”

Bạch Vạn Kiếm thấy Thạch Phá Thiên xuất chiêu này, tuy không khỏi kinh hãi nhưng cũng có ý coi thường, nghĩ bụng: “Chiêu Vân Hoành Tây Lĩnh mà ngươi giơ tay phải lên cao quá, chắc chắn sẽ bị quá đà. Tay trái lại không đặt đúng chỗ, để có thể đưa ngón tay ra điểm huyệt đối phương. Chân trái đưa ra quá bốn tấc, địch nhân có thể phản kích nhanh mà không sợ chân trái của ngươi phóng cước trả đòn.”

Bạch Vạn Kiếm vừa ngó qua đã thấy chiêu thức của Thạch Phá Thiên có đến bảy tám chỗ sơ suất, nhưng chỉ thoáng cái là khinh thị biến thành kinh ngạc. Kiếm khí của chàng mãnh liệt phi thường, hắn chưa từng thấy ai có nội lực nào ghê gớm đến thế. Chỉ có một lần phụ thân hắn uống rượu ngà ngà rồi biểu diễn kiếm pháp cho mấy cao đồ xem, lão phát huy nội lực cho kiếm phong rít lên veo véo. Nhưng cũng phải sau ba bốn chục chiêu, nội lực mới ngưng tụ dần dần, kiếm phong mới réo lên như thế. Hắn tự hỏi: “Thằng lỏi này mới xuất chiêu đầu mà đã có tiếng réo như thế, chẳng lẽ gã gắn còi hay vật quái gở gì vào chuôi kiếm để kiếm phong rít lên như thế hay sao?” Nhưng hắn nghĩ lại thì biết mình nghi bậy ngay.

Thạch Thanh la lên một tiếng rồi vội vung kiếm lên gạt. Nghe “choang” một tiếng, thanh trường kiếm trong tay ông vừa chạm vào kiếm của Thạch Phá Thiên là bị gãy làm hai đoạn, nửa trên bay vọt đi cắm ngập vào tường, sâu đến mấy tấc. Thạch Thanh cảm thấy cổ tay tê rần, cánh tay rung động đến tận vai, nửa thanh kiếm trên tay cũng suýt bị văng đi mất. Tuy ông đang tức giận đứa con hư đốn này, nhưng là người học võ gặp phải cao thủ hơn mình, bất giác thán phục mà buột miệng tán dương: “Hay lắm!”

Thạch Phá Thiên thấy thanh trường kiếm trong tay Thạch Thanh bị gãy, giật mình la hoảng: “Ái chà!” Rồi chàng lập tức thu kiếm về, trên mặt đầy vẻ hối hận và quan tâm. Lần này chàng quay mặt về phía có ánh nến. Thạch Thanh và Mẫn Nhu thấy thái độ của chàng liền cảm thấy đôi chút ấm áp trong lòng, nghĩ thầm: “Ngọc nhi vẫn là một đứa con hiếu thuận.”

Thạch Thanh liệng thanh kiếm gãy đi, lại dùng ngón chân hất một thanh kiếm khác ở dưới đất lên rồi nói: “Đừng kiêng nể chi hết. Tiếp chiêu đây!” Dứt lời, ông vung kiếm đánh vèo một cái nhằm đâm vào đùi trái Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên chưa từng luyện kiếm bao giờ. Nội lực chàng tuy rằng rất mạnh, nhưng trong lúc tấn công mới có thể phát ra uy lực, chứ gặp phải chiêu kiếm hư hư thực thực, chợt tả chợt hữu của Thạch Thanh thì chẳng biết đường nào mà đỡ gạt. Mới một chiêu mà chàng đã chân tay luống cuống, vội vã sử chiêu Thương Tùng Nghinh Khách hoành kiếm đón đỡ.

Trường kiếm của Thạch Thanh hơi nghiêng đi một chút, mũi kiếm đã vạch trúng đùi phải chàng. Giả tỉ trước mắt không phải là con trai mà là kẻ địch phải giết, thì chiêu kiếm này đã chặt đứt chân phải của Thạch Phá Thiên rồi. Trường kiếm của ông vừa nhè nhẹ nghiêng đi, Mẫn Nhu đã sợ hãi đến toát mồ hôi lạnh đầy người, la lên thất thanh: “Thạch ca!”

Thạch Phá Thiên nhìn xuống chân phải mình thì thấy ống quần rách một vệt dài, nhưng không thương tổn đến da thịt. Chàng bèn cười nói: “Đa tạ trang chúa hạ thủ lưu tình. Kiếm pháp của tại hạ chưa học được đàng hoàng, còn thua trang chúa xa lắm.”

Chàng nói câu này hết sức thành thực, nhưng khổ thay, người nói vô ý mà người nghe lại hữu tâm. Câu nói của chàng vừa lọt vào tai Bạch Vạn Kiếm, hắn lấy làm khó chịu, nghĩ bụng: “Ngươi nói kiếm pháp ngươi còn kém hắn xa, thì có khác gì ngươi bảo kiếm pháp phái Tuyết Sơn kém cỏi? Lại còn nói chưa học được đàng hoàng, tức là nói phái Tuyết Sơn của ta ích kỷ không chịu dạy dỗ ngươi tử tế. Câu này thật là làm mất thể diện phái Tuyết Sơn, Bạch Vạn Kiếm này dù chỉ còn một hơi thở cũng không chịu nổi thằng lỏi con sỉ nhục chê cười như thế.”

Thạch Thanh cũng nhíu mày suy nghĩ: “Nhu muội thường nói là Ngọc nhi ở phái Tuyết Sơn bị bọn sư thúc, sư huynh ăn hiếp, nhưng mình vẫn nghĩ rằng Bạch Tự Tại tiền bối là người ngay thẳng, Phong Vạn Lý là anh hùng nghĩa hiệp, đã nhận con mình làm đồ đệ thì chắc chắn không xử tệ với nó. Nhưng bây giờ mình xem Ngọc nhi sử hai chiêu kiếm pháp, tuy bề ngoài thì đúng nhưng sơ hở đến hàng trăm chỗ, làm sao có thể chống đối với địch? Xem thế thì quả nhiên nó chẳng học được chút võ công chân thật nào ở thành Lăng Tiêu hết. Chiêu kiếm đầu thì nội lực quả nhiên ghê gớm, nhưng nội lực đó hoàn toàn chẳng liên quan gì đến phái Tuyết Sơn, ngay cả nội lực của Uy Đức Tiên Sinh cũng chưa chắc đã thâm hậu được đến thế. Vậy thì nội lực của con mình nhất định đã do một kỳ duyên nào đó mà được. Mình phải truy cứu cho rõ vụ này, mới có thể phân biệt được trắng đen phải trái.” Ông liền nói: “Cứ lại đây. Chúng ta đừng kiêng dè gì cả, cứ tỉ thí đàng hoàng.”

Thạch Thanh vừa dứt lời, tay trái giữ kiếm quyết, phóng ra một chỉ đâm vào Bạch Vạn Kiếm. Hắn bèn vung kiếm lên gạt, đồng thời phóng kiếm trả đòn. Mẫn Nhu cũng từ từ phóng kiếm đâm tới Thạch Phá Thiên, nhưng bà cố ý ra chiêu thong thả để con trai mình không đến nỗi tránh né không kịp.

Thạch Phá Thiên thấy Mẫn Nhu chậm rãi đâm tới, chàng nhớ lại ngày trước ở Hầu Giám Tập đã được bà tặng bạc, liền toét miệng ra cười rồi gật đầu cảm tạ, sau đó mới nhẹ nhàng đưa kiếm lên đỡ. Mẫn Nhu thấy thái độ của chàng như vậy thì cho rằng nó đang chào mẹ, trong lòng mừng rỡ vô cùng. Bà lại xoay tay kiếm lướt qua sau lưng chàng. Thạch Phá Thiên thoáng nghĩ trong đầu: “Đối với chiêu này thì ta phải chiết giải cách này mới ổn.” Rồi chàng sử một chiêu trong Tuyết Sơn kiếm pháp để gạt thế đâm tới của Mẫn Nhu.

Mẫn Nhu thấy kiếm pháp của Thạch Phá Thiên không thuần thục chút nào, xuất chiêu chậm chạp mà thủ pháp lại vụng về, thì trong lòng rất lấy làm khó chịu. Bà nghĩ bụng: “Những tay kiếm khách phái Tuyết Sơn vẫn tự hào là giàu lòng nghĩa hiệp, không ngờ họ dạy kiếm pháp cho con mình một cách lờ mờ như vậy.” Mẫn Nhu vừa nghĩ vừa biến chiêu nhằm đâm vào vai trái Thạch Phá Thiên. Mỗi chiêu phóng ra, bà đều đợi xem cách hóa giải của Thạch Phá Thiên rồi mới thực sự đâm đến. Nếu chàng không biết cách hóa giải thì bà ra đòn lại càng chậm chạp hơn để chờ đợi.

Mẫn Nhu ra chiêu chậm rãi như vậy, đây không còn gì là cuộc tỉ đấu nữa, mà giống như khi thầy trò chiết chiêu dạy kiếm, lại thêm vào tấm lòng nhẫn nại vô bờ của người từ mẫu. Mẫn Nhu và Thạch Phá Thiên qua lại được mười mấy chiêu, lòng tự tin của Thạch Phá Thiên đã tăng lên rất nhiều. Mẫn Nhu càng mừng thầm trong bụng, mỗi khi Thạch Phá Thiên sử được một chiêu không tệ thì bà lại gật đầu khen ngợi.

Thạch Phá Thiên cũng hiểu là bà muốn chỉ điểm kiếm pháp cho mình. Khi chàng thấy bà chưa gật đầu, lại sử chiêu đó một lần nữa. Nếu Mẫn Nhu vẫn cho rằng chiêu kiếm đó chưa được tốt thì chàng lại sử tới lần thứ ba. Bà cứ trở đi trở lại một chiêu, cho đến lúc chàng chiết giải thông thạo mới thôi.

Bên kia thì Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm đã đánh nhau đến lần thứ ba, hai người cùng hiểu rất kỹ bản lãnh đối phương từ chỗ sở trường tới chỗ sở đoản, nên lại càng không dám chếnh mảng hay để sơ hở chút nào. Mới trao đổi mấy chiêu, hai bên đã để hết tâm thần vào cuộc đấu, nên những chuyện gì xảy ra bên ngoài họ hoàn toàn không thấy không nghe gì hết. Cuộc tỉ thí giữa Mẫn Nhu và Thạch Phá Thiên là thật hay giả, ai chiếm thượng phong, Thạch Bạch hai người đều không rảnh rỗi để liếc qua xem thử. Họ biết rằng trong trận đấu này, một trong hai người chỉ hơi phân tâm một chút, sơ sẩy một ly là có thể mất mạng ngay, ít nhất cũng bị trọng thương.

Mẫn Nhu vừa chỉ điểm kiếm pháp cho Thạch Phá Thiên, vừa thoải mái quan sát trượng phu tỉ đấu cùng Bạch Vạn Kiếm. Bà lắng tai nghe thấy hơi thở của Thạch Thanh vẫn đều đặn thì biết nội lực của ông còn dư dật, nếu chưa nắm được phần thắng, thì nhất định cũng chưa đến nỗi hạ phong. Bà thấy Thạch Phá Thiên cứ diễn đi diễn lại từng chiêu cho đến hết, trong bảy mươi hai chiêu Tuyết Sơn kiếm pháp thì chàng đã quên mất hai mươi mấy đường. Bà cứ theo thứ tự mà dẫn dụ cho chàng diễn lại một lần nữa.

Thạch Phá Thiên vốn tư chất thông minh, nội lực lại cực kỳ hùng hậu. Chàng biểu diễn kiếm pháp đến lần thứ hai thì so với lần đầu đã khác nhau xa lắm, bây giờ đường kiếm của chàng đã đủ cả công lẫn thủ, chiết giải cũng mau lẹ hơn trước nhiều. Nhưng chàng chỉ học được có bốn mươi mấy chiêu kiếm pháp.

Mẫn Nhu thấy trượng phu cùng Bạch Vạn Kiếm vẫn đang giằng co bất phân thắng bại. Bà nghĩ thầm: “Ta chiết giải cho Ngọc nhi hết lần này nữa, sẽ qua đó tương trợ. Chúng ta không giằng co với Bạch Vạn Kiếm nữa, đưa Ngọc nhi lên đường quách cho xong.” Bà thấy Thạch Phá Thiên phóng kiếm đâm tới, liền vung kiếm lên gạt, rồi lại phản kích một chiêu. Bà tưởng chiêu này chàng đã hiểu cách hóa giải rồi. thì có thể đón đỡ dễ dàng.

Nào ngờ ngay lúc ấy mắt bà tối sầm lại. Thì ra ngọn nến đã cháy hết, đột nhiên tắt ngấm. Mẫn Nhu đang phóng kiếm ra, thấy nến tắt bèn lập tức thu chiêu về. Không ngờ Thạch Phá Thiên chưa có mảy may kinh nghiệm, mắt vừa tối sầm lại, đáng lý phải lùi về phía sau thì chàng lại tiến lên trước, toan kể lại chuyện cũ rồi ngỏ lời cảm tạ bà đã chỉ điểm kiếm pháp cho mình.

Thạch Phá Thiên bước lên, là tự đưa mình vào lưỡi kiếm của Mẫn Nhu. Mẫn Nhu thấy kiếm của mình đang thu về đột nhiên bị vướng lại, thì biết ngay lưỡi kiếm đã phạm vào người đối phương. Bà giật mình kinh hãi, vội liệng kiếm ra sau, rồi ôm choàng lấy Thạch Phá Thiên trong bóng tối, kinh hãi la lên: “Ngươi bị trúng kiếm rồi phải không? Bị thương ở chỗ nào?”

Thạch Phá Thiên ấp úng: “Cháu… cháu…” Rồi chàng ho rũ rượi, nói không ra tiếng nữa.

Mẫn Nhu thắp lửa lên xem thì thấy trước ngực Thạch Phá Thiên máu chảy đầm đìa. Bà vốn là người rất bình tĩnh, mà lúc này phải hoảng sợ đến mất hồn, hoang mang quay lại gọi Thạch Thanh: “Sư ca… Làm sao bây giờ…”

Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm vẫn tiếp tục tỉ đấu trong bóng tối, chỉ nghe tiếng gió cũng biết đường để đánh đỡ kịch liệt, không chịu ngừng tay. Mãi đến lúc Mẫn Nhu bật lửa lên rồi la hoảng, Thạch Thanh mới liếc mắt nhìn sang, thấy Thạch Phá Thiên nằm lăn dưới đất, còn vợ mình cực kỳ hoảng hốt. Tình cha con tha thiết khiến ông không khỏi nao nao trong dạ.

Ông vừa loạn tâm một chút đã để lộ sơ hở. Bạch Vạn Kiếm vừa nhìn thấy chỗ sơ hở của đối phương liền phóng kiếm đâm tới. Chiêu kiếm này rất nguy hiểm, Thạch Thanh muốn đỡ cũng không kịp nữa. Bạch Vạn Kiếm đưa thanh trường kiếm tới trước ngực Thạch Thanh còn cách chừng tám tấc, liền thu kiếm lại.

Vừa rồi Mẫn Nhu cũng đã ra chiêu đưa được Bạch Vạn Kiếm vào tử địa, rồi bà xoay kiếm đi không đâm tới, cố ý tha mạng cho hắn. Bây giờ hắn lại đưa được mũi kiếm tới yếu huyệt Thạch Thanh rồi thu chiêu về, lấy một mạng đổi một mạng, hai bên hòa nhau, không ai nợ ai nữa.

Thạch Thanh đang lo lắng về vết thương của con trai, chẳng còn lòng dạ nào nghĩ tới chuyện tỉ kiếm hơn thua vinh nhục nữa. Ông lập tức đi tới, cúi xuống xem vết thương của Thạch Phá Thiên thì thấy trước ngực chàng chỉ từ từ ứa máu ra, hiển nhiên mũi kiếm đâm vào không sâu lắm. Thì ra Mẫn Nhu phản ứng rất nhanh, mũi kiếm vừa đâm vào người Thạch Phá Thiên, bà đã vội rụt tay lại ngay.

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đã hơi yên tâm một chút, thì đột nhiên có một mũi kiếm lạnh toát chỉ vào cổ Thạch Phá Thiên. Bạch Vạn Kiếm lạnh lùng lên tiếng: “Lệnh lang làm nhục ái nữ của tại hạ, khiến cho nó tuy còn nhỏ tuổi mà cũng không chịu được nhục nhã, phải nhảy xuống vực thẳm tự tận. Cái thù đó chẳng thể không trả. Nếu hai vị để tại hạ đưa gã về thành Lăng Tiêu, thì ít ra gã cũng còn sống thêm được hai tháng. Nếu hai vị lại dùng vũ lực, thì tại hạ phải đâm gã chết ngay.”

Thạch Thanh và Mẫn Nhu đưa mắt nhìn nhau. Mẫn Nhu sợ hãi run lên, bà biết Bạch Vạn Kiếm đã nói là làm. Khi mũi kiếm này đâm xuống, thì dù hai vợ chồng có hiệp lực giết chết hắn cũng chỉ vô ích. Thạch Thanh đưa mắt ra hiệu cho Mẫn Nhu, rồi nắm lấy cổ tay vợ mình tung mình nhảy ra ngoài điện. Mẫn Nhu quay lại một lần nữa, nhìn Thạch Phá Thiên vẫn còn nằm dưới đất. Lòng bà vừa xót xa vừa đau đớn.

Mồi lửa trong tay bà loé lên một cái rồi tắt ngấm, trong miếu lại tối mò.

Bạch Vạn Kiếm nghiêng đầu lắng tai nghe, thấy bước chân hai vợ chồng Thạch Thanh mỗi lúc một xa. Tuy nhiên hắn biết rằng hai người nhất quyết không chịu buông trôi vụ này. Đường từ đây về thành Lăng Tiêu còn xa lắm, dọc đường thế nào cũng còn vô số phong ba, nhiều trận chiến đấu dữ dội. Nhưng ít ra thì ngay bây giờ vợ chồng Thạch Thanh không quay lại nữa. Bạch Vạn Kiếm hồi tưởng lại cuộc đấu kiếm vừa rồi, tự nhủ: “Thật là cực kỳ nguy hiểm. Giả tỉ cây nến chỉ dài thêm nửa tấc nữa, thì thằng lỏi họ Thạch này chắc chắn được cha mẹ cứu đi.”

Bạch Vạn Kiếm định thần lại, hít mạnh một hơi dài rồi thò tay vào bọc định lấy hỏa đao hỏa thạch ra thắp lửa thì chẳng thấy đâu. Hắn chợt nhớ ra, trước khi đi đến tổng đà bang Trường Lạc, hắn đã giao những thứ đó cho sư đệ Văn Vạn Phu cho khỏi vướng víu khi kịch đấu. Ta nên biết những tay cao thủ lúc động võ, có khi chỉ cách chừng sợi tóc là có thể nguy hiểm khôn lường, trong người nhẹ được chút nào thì linh hoạt thêm chút ấy. Bạch Vạn Kiếm liền mò vào bọc một tên sư đệ nằm cạnh đấy, lấy hỏa đao hỏa thạch cùng giấy mồi để thắp lửa lên. Hắn đang tìm nến để thắp, thì đột nhiên thộn mặt ra.

Thạch Trung Ngọc vốn nằm ngay bên chân hắn, không biết đã biến mất tự bao giờ.

Bạch Vạn Kiếm kinh hãi đến lạnh xương sống, mồ hôi toát ra đầm đìa, tóc dựng cả lên, la thầm: “Có ma! Có ma! Nếu không có ma quỷ xuất hiện thì sao gã Thạch Trung Ngọc này mới trong nháy mắt đã biến mất không thấy tông tích, mà chính mình cũng không phát giác?” Hắn vứt mồi lửa đi, xách trường kiếm chạy ra ngoài miếu. Nhưng trên trời lác đác sao thưa, bốn bề vắng ngắt, tuyệt không một bóng người.

Lúc đầu Bạch Vạn Kiếm la lên “Có ma”, nhưng rồi hắn nghĩ ra ngay, đây chỉ là một cao thủ nào đó đứng cạnh, nhân lúc mình móc túi lấy đá lửa mà cứu người đem đi. Nhiều phần đây là Bối Hải Thạch. Hắn vội nhảy lên nóc điện, đảo mắt nhìn quanh bốn phía thì thấy ở hướng đông nam có một khu rừng cây rậm rạp, không chừng kẻ gian còn nấp tại đó. Hắn liền tung người xuống, chạy thẳng tới ven rừng lớn tiếng quát: “Lén lút rình mò như vậy đâu phải là anh hùng hảo hán? Có giỏi thì ra đây quyết một trận tử chiến.”

Hắn đợi một lát, trong rừng vẫn không có tiếng người. Hắn lại la lên: “Bối đại phu! Là ngươi có phải không?” ở trong rừng cũng không có tiếng trả lời. Bạch Vạn Kiếm là người tài cao mật lớn, không sợ địch nhân ám toán, cứ ngang nhiên cầm trường kiếm tiến vào rừng. Nhưng bốn bề vắng ngắt, từng trận gió quạt vào mặt mát lạnh, lá cây rụng xuống xào xạc, mùa thu ở đất Giang Nam đã đậm lắm rồi.

Bao nhiêu lửa giận của Bạch Vạn Kiếm đã tiêu tan trong khoảnh khắc, cuộc đấu kiếm vừa rồi đã khiến hắn không dám coi thường anh hùng thiên hạ nữa. Bây giờ hắn mới hiểu câu người ta thường nói: “Ngoài trời còn có trời, trên người còn có người.” Bạch Vạn Kiếm bỗng cảm thấy trong lòng nguội lạnh, rồi bỗng dưng nhớ tới cô con gái còn nhỏ tuổi đã bị thảm tử, đau lòng không xiết.

Hồi 08: Thằng ngốc

Lúc Thạch Phá Thiên tự nhào vào lưỡi kiếm của Mẫn Nhu, chàng bị thương không lấy gì làm trầm trọng, mà cũng chẳng đau đớn gì cho lắm. Sau khi Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đi khỏi, trong bóng tối chàng cảm thấy có người đưa tay ra bịt miệng mình, rồi người mình được nhấc bổng lên, đem đặt vào gầm bàn thờ. Sau một lúc, Thạch Phá Thiên lại thấy người đó ôm mình vọt ra khỏi miếu, rồi chạy đi rất nhanh. Đi được một quãng xa, người đó nhảy xuống một con thuyền nhỏ. Sau khi thắp đèn sáng, Thạch Phá Thiên giương mắt lên nhìn thì thấy người ngồi cạnh đèn chính là Đinh Đang. Chàng mừng rỡ không biết đến thế nào mà nói, reo to: “Đinh Đinh Đang Đang! Ai đã đem ta về đây?”

Đinh Đang bĩu môi làm mặt giận đáp: “Đương nhiên là gia gia rồi, còn ai vào đấy nữa.”

Thạch Phá Thiên ngoảnh đầu nhìn ra thì thấy Đinh Bất Tam đang ngồi bó gối ở đầu thuyền, ngẩng mặt nhìn lên trời. Chàng liền hỏi: “Gia gia! Gia gia đưa cháu đến đây làm chi?”

Đinh Bất Tam hắng giọng một tiếng rồi nói: “A Đang! Gã này đúng là một thằng ngốc, ngươi lấy làm chi? Bây giờ ngươi chưa chung phòng với gã lần nào, chém gã một đao đi cho gọn.”

Đinh Đang lo lắng nói: “Không, không! Thiên ca vừa một phen trọng bệnh, đã quên mất rất nhiều việc. Nhất định chàng sẽ khỏi mà.” Nàng quay lại bảo Thạch Phá Thiên: “Thiên ca! Để muội xem vết thương xem thế nào?” Nàng nhẹ nhàng mở vạt áo trước ngực Thạch Phá Thiên ra, lấy khăn dấp nước lau huyết tích xung quanh vết thương, rịt thuốc cho chàng rồi xé áo buộc vết thương lại.

Thạch Phá Thiên nói: “Cảm ơn Đinh Đinh Đang Đang! Nàng cùng gia gia nấp dưới gầm bàn ở đó phải không? Cứ như đang chơi trốn tìm vậy, vui thật.”

Đinh Đang hỏi: “Thế mà Thiên ca còn nói giỡn được ư? Lúc gia gia và má má huynh đấu kiếm với gã họ Bạch, trong lòng muội hoang mang đến thế nào huynh có biết không?”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Gia gia má má ta ư? Muội nói người mặc áo đen đó là gia gia, còn phu nhân áo trắng đó là má má của ta…” Chàng ngập ngừng rồi nói tiếp: “Má má ta không giống thế, không đẹp như bà ấy đâu.”

Đinh Đang thở dài nói: “Thiên ca! Huynh bị cơn trọng bệnh này thật là thiệt hại, ngay cả cha mẹ mình cũng không nhớ nữa rồi. Muội thấy bảy mươi hai đường Tuyết Sơn Kiếm Pháp của huynh cũng không thành thuộc lắm. Chẳng lẽ ngay cả võ công huynh cũng quên hết rồi hay sao? Cái… Cái này làm sao được?”

Thì ra lúc Thạch Phá Thiên bị Bạch Vạn Kiếm bắt đi, hai ông cháu Đinh Bất Tam lập tức theo dõi. Khi Bạch Vạn Kiếm đi vòng vòng xem xét ngoài miếu, hai ông cháu thừa cơ núp dưới bàn thờ, thấy được hết tình hình vợ chồng Thạch Thanh đấu kiếm cùng Bạch Vạn Kiếm. Đinh Bất Tam vốn tưởng Thạch Phá Thiên tiến ra xuất thủ là có dụng ý gì, nào ngờ chàng sử kiếm tồi tệ quá khiến lão tức đến bể bụng, mắng thầm liên tục: “Thằng ngốc, thằng ngốc.” Nhân lúc Bạch Vạn Kiếm đang tìm hỏa đao hỏa thạch, lão đã cứu Thạch Phá Thiên ra ngoài.

Bỗng nghe Thạch Phá Thiên nói: “Võ công của ta ư? Ta chẳng hiểu chút võ công nào hết. Câu này ta lại càng không hiểu.”

Đinh Bất Tam không nhịn được nữa, đột nhiên đứng phắt dậy, lớn tiếng quát: “A Đang! Cháu mê nó ở chỗ nào vậy? Sao lại đòi lấy một thằng ngốc hồ đồ như thế này? Tên nó là Cẩu Tạp Chủng thật là đúng lắm, để ta phóng một chưởng đánh chết đi cho xong. Mọi việc ngươi cứ để gia gia lo liệu, nhất định ta sẽ kiếm cho ngươi một chàng thiếu niên anh tuấn khác. Y phải là người thông minh, văn võ song toàn, có khí phách anh hùng để xứng với ngươi, và đáng là cháu rể ta.”

Đinh Đang hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, nghẹn ngào nói: “Cháu… cháu không lấy người khác. Chàng… chàng không phải là kẻ ngốc, chỉ vì… chỉ vì lâm trọng bệnh nên đầu óc mê muội trong một lúc mà thôi.”

Đinh Bất Tam giận dữ nói: “Sao lại nói là mê muội trong một lúc? Cha mẹ nó rõ ràng rất giỏi võ công, thế mà nó lại tự xưng là Cẩu Tạp Chủng. Nó mà không phải là thằng ngốc thì gia gia ngươi là thằng ngốc. Ta thấy nó lúc nào cũng như bị quỷ ám, khiến ai cũng phải tức đến vỡ mật. Chân tay nó cứ quờ quạng, mỗi kiếm chiêu sơ hở đến hàng trăm chỗ, đối phương muốn đâm vào đâu cũng được. Rõ ràng người ta đã thu kiếm về mà gã còn tự nhào vào lưỡi kiếm của đối phương để bị thương mới chịu! Cái hạng bị thịt này, ta mà không giết thì sớm muộn cũng bị người hạ sát. Giang hồ sẽ đồn đại là cháu rể của Đinh lão tam bị kẻ khác đâm chết, thì ta còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa? Không được! Không thể không giết.”

Đinh Đang mím môi hỏi: “Gia gia! Gia gia muốn thế nào thì mới không giết chàng?”

Đinh Bất Tam đáp: “Hà hà! Như thế nào mới không giết gã ư? Không thể không giết, nếu không thì sau này Đinh lão tam sẽ mất thể diện. Người ta nghe nói Đinh Bất Tam tự tay hạ sát cháu rể mình thì chẳng lấy chi làm lạ, nhưng nếu họ đồn cháu rể của Đinh lão tam bị người hạ sát thì còn ra thể thống gì nữa?”

Đinh Đang nói: “Nếu thế thì gia gia đi trả thù cho chàng chứ có sao đâu?”

Đinh Bất Tam cười ha hả nói: “Ta mà đi trả thù cho những đứa tồi tệ như thế ư? Ngươi tưởng gia gia ngươi là người thế nào?”

Đinh Đang vừa khóc vừa nói: “Chính gia gia đã kêu cháu bái đường với chàng, bây giờ chàng đã là trượng phu của cháu rồi. Gia gia giết chàng đi, không phải biến cháu thành góa phụ hay sao?”

Đinh Bất Tam vò đầu bứt tai nói: “Khi ấy ta cũng đã thử qua, biết nội công của nó cũng không phải tệ, đáng làm cháu rể của ta. Ngờ đâu nó lại là một thằng ngốc. Còn nhất định muốn ta đừng giết nó, thế cũng được, nhưng phải nghe ta một điều.”

Đinh Đang thấy có cơ hội, cả mừng hỏi: “Phải nghe việc gì? Gia gia nói ngay đi!”

Đinh Bất Tam nói: “Ta nói nó là thằng ngốc đáng giết, ngươi lại nói nó không phải là thằng ngốc, không đáng giết. Được rồi! Ta hẹn cho nó trong vòng mười ngày phải đi tỉ võ với Bạch Vạn Kiếm và giết thằng cha Khí Hàn Tây Bắc đó, hay ít ra là đánh bại hắn, thì ta mới tha mạng nó, rồi cho ngươi cùng nó làm vợ chồng thật sự.”

Đinh Đang thở ra một hơi. Vừa rồi nàng thấy Bạch Vạn Kiếm đúng là một tay kiếm thuật thần thông, Thiên ca làm sao địch nổi với tay đại danh gia về kiếm thuật đó được? E rằng chàng luyện đến hai chục năm cũng chưa xong. Nàng liền nói: “Gia gia! Điều kiện của gia gia thật là khó khăn, không thể nào làm được.”

Đinh Bất Tam nói: “Khó cũng vậy mà dễ cũng vậy. Nếu nó không hạ được Bạch Vạn Kiếm, thì ta phải phóng chưởng đập chết cái đồ vô dụng đó đi.” Nói xong, lão tự thấy mình thật thông minh, thằng lỏi này dù sao cũng không làm được chuyện đó, nên rất tự đắc trong lòng.

Đinh Đang sầu khổ vô cùng, ngoảnh mặt nhìn Thạch Phá Thiên thì thấy chàng vẫn thản nhiên như không. Nàng khẽ nói: “Thiên ca! Gia gia muội ra điều kiện trong vòng mười ngày Thiên ca phải đả bại Bạch Vạn Kiếm. Huynh tính sao?”

Thạch Phá Thiên hỏi lại: “Bạch Vạn Kiếm ư? Kiếm pháp y rất giỏi, ta làm thế nào mà đả bại y được?”

Đinh Đang đáp: “Đúng thế, nhưng gia gia muội nói là nếu huynh không thắng được y, lão nhân gia sẽ giết huynh đó.”

Thạch Phá Thiên cười hì hì nói: “Tự nhiên sao lại vô cớ giết người? Gia gia nói đùa mà muội tưởng thật ư? Gia gia là người tốt, không phải là người xấu, dĩ nhiên không giết ta.”

Đinh Đang thở dài nghĩ bụng: “Thạch lang quả là bệnh thành ngu ngốc, không hiểu sự đời. Bây giờ ta đành tạm vâng lời gia gia rồi sẽ tính, trong vòng mười ngày nhất định sẽ tìm ra biện pháp để chàng trốn đi.” Nàng liền nhìn Đinh Bất Tam nói: “Được rồi, cháu đồng ý với gia gia. Trong vòng mười ngày chàng sẽ đả bại Bạch Vạn Kiếm là xong.”

Đinh Bất Tam cười lạnh nói: “Gia gia đói rồi, làm cơm ăn đã. Ta nhắc ngươi ba điều: một là không dạy, hai là không trốn, ba là không tha. Điều thứ nhất là gia gia quyết không truyền dạy võ nghệ cho thằng ngốc. Điều thứ hai là ngươi đừng hòng tha cho nó trốn thoát, nếu gia gia phát giác nó định đào tẩu thì dù chưa đủ mười ngày cũng giết ngay lập tức. Còn điều thứ ba, ta bất tất phải giải thích.”

Đinh Đang hỏi: “Gia gia đã bảo chàng là kẻ ngốc, thì dù gia gia có dạy võ nghệ chàng cũng không hiểu, sao lại không dạy?”

Đinh Bất Tam đáp: “Dù ta có chịu dạy, thì trong vòng mười ngày nó cũng chẳng thể giết Bạch Vạn Kiếm được. Dạy mười năm chưa chắc là đủ.”

Đinh Đang nói: “Thế thì gia gia không đủ bản lãnh dạy người. Võ công thiên hạ vô địch như gia gia mà không dạy được đồ đệ giỏi hơn đồ đệ của Bạch Tự Tại phái Tuyết Sơn ư? Chẳng lẽ lão Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại gì gì đó còn giỏi hơn gia gia sao?”

Đinh Bất Tam mỉm cười nói: “A Đang! Kế khích tướng của ngươi không được hay lắm. Thằng ngốc như thế này thì cho dù là thần tiên cũng không dạy nổi. Ngươi không nghe thấy vợ chồng Thạch Thanh nói gì với Bạch Vạn Kiếm ư? Thằng ngốc này đã học võ nghệ nhiều năm trên phái Tuyết Sơn, thế mà kiếm pháp của nó y hệt như con mèo một chân.” Người ta thường nói là kiếm pháp như mèo ba chân, nhưng lão tên là Đinh Bất Tam nên kị húy không nói đến chữ Tam, mèo ba chân sửa thành mèo một chân.

Gặp lúc gió đông đang thuận, thuyền giương buồm chạy ngược sông Trường Giang đi về hướng Tây. Bầu trời càng lúc càng sáng, nhưng khắp trên mặt nước vẫn mờ mịt sương mù. Đinh Đang nói: “Được lắm! Gia gia không dạy thì cháu dạy. Cháu không đi làm cơm nữa, phải dạy võ công cho Thiên ca đây.”

Đinh Bất Tam tức giận hỏi: “Ngươi không đi làm cơm, định để gia gia chết đói chăng?”

Đinh Đang đáp: “Gia gia muốn giết trượng phu của cháu, chi bằng cháu để gia gia chết đói trước đi là hơn.”

Đinh Bất Tam quát: “Không, không! Phải đi nấu cơm trước.”

Đinh Đang không lý gì đến lão nữa, quay sang bảo Thạch Phá Thiên: “Thiên ca lại đây. Muội dạy cho huynh một bộ công phu, để trong vòng mười ngày huynh đánh bại được Bạch Vạn Kiếm.”

Đinh Bất Tam gắt: “Chỉ ăn nói lung tung. Việc đó ngay cả ta còn làm không nổi, con tiểu a đầu như ngươi sao có thể làm được?”

Hai ông cháu cãi vã nhau hoài, thực ra chỉ vì Đinh Đang đang sầu muộn. Nàng biết Đinh Bất Tam tính tình cổ quái, năn nỉ lão cũng vô dụng, chỉ còn cách bướng bỉnh, hậm hực, họa may khiến lão hồi tâm chuyển ý được phần nào chăng? Mặt khác, Đinh Đang định bụng: “Ta không làm cơm cho gia gia ăn. Khi gia gia đói, thì chỉ còn cách dừng thuyền lên bờ tìm mua cái gì ăn, mình sẽ thừa cơ mà đưa Thạch lang chạy trốn.”

Ngờ đâu, Thạch Phá Thiên thấy Đinh Bất Tam đói đến mặt mũi nhăn nhó, chính chàng cũng thấy bụng đói meo. Chàng không hiểu được dụng ý của Đinh Đang, bèn đứng dậy nói: “Để cháu đi làm cơm.”

Đinh Đang tức giận nói: “Thiên ca vừa mới bị thương, bây giờ cử động nếu vết thương lại vỡ ra thì làm thế nào?”

Đinh Bất Tam nói: “Thuốc kim sang của nhà họ Đinh chúng ta linh nghiệm như thần, rịt vào là khỏi ngay lập tức. Huống chi, vết thương của gã chẳng trầm trọng gì thì còn chi đáng ngại? Thằng nhỏ ngoan, mau đi nấu cơm cho gia gia ăn.” Lão vì muốn ăn cơm, không gọi chàng là thằng ngốc nữa.

Đinh Đang hỏi: “Chàng nấu cơm cho gia gia ăn, thì gia gia có giết chàng nữa không?”

Đinh Bất Tam đáp: “Nấu là nấu, giết là giết. Hai việc này riêng rẽ chẳng có liên quan gì đến nhau, sao lại đem việc nọ xọ vào việc kia được?”

Thạch Phá Thiên nắn thử vết thương trước ngực, quả nhiên không đau đớn gì mấy. Chàng bèn xuống chỗ lái thuyền vo gạo nấu cơm. Cuối thuyền có một lão già ngồi bẻ bánh lái, hoàn toàn không nghe ba người nói chuyện. Một mình Thạch Phá Thiên loay hoay thổi cơm cùng nấu nướng món ăn. Công việc này chàng rất thành thạo, chỉ trong khoảnh khắc đã nướng xong hai con cá rất thơm tho, rồi dọn nồi cơm trắng nóng hổi bốc hơi thơm phức ra.

Đinh Bất Tam vừa ăn vừa khen ngon luôn miệng. Lão nói: “Giả tỉ võ công của ngươi chỉ được bằng phân nửa tài nấu bếp của ngươi thì ta không thể giết ngươi được. Mà nếu ngươi đừng bái đường thành thân với A Đang, chỉ xin làm đầu bếp cho ta, thì chẳng những ta không giết ngươi mà dù ngươi bị kẻ khác hạ sát thì ta cũng không chịu để yên. Chỉ tiếc là ta đã định thời hạn mười ngày. Lời nói của Đinh Bất Tam này nặng như núi, nhất định không sửa đổi. Nếu ta hạn định một tháng thì được ngươi nấu cho ăn thêm hai mươi mấy ngày, há chẳng không tốt hơn sao? Nhưng bây giờ hối hận cũng không kịp, không còn cách gì sửa chữa được nữa.” Nói xong, lão thở dài một tiếng.

* * *

Ăn cơm xong, Thạch Phá Thiên ngồi sóng vai với Đinh Đang rửa chén bát ở đằng lái thuyền. Đinh Đang thấy gia gia ngồi phía mũi thuyền, liền khẽ bảo Thạch Phá Thiên: “Lát nữa muội sẽ dạy Thiên ca môn cầm nã thủ pháp, Thiên ca phải dụng tâm nhớ thuộc lòng mới được.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Ta học xong rồi đi tìm Bạch đại hiệp để tỉ võ có phải không?”

Đinh Đang hỏi lại: “Chẳng lẽ Thiên ca biến thành ngẩn ngơ thật rồi chăng? Thiên ca… Thiên ca từ trước đến giờ có thế này đâu?…”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Ngày trước ta như thế nào?”

Đinh Đang hai má ửng hồng đáp: “Trước kia, hễ Thiên ca gặp muội là nói chuyện còn ngọt hơn đường phèn, cười cười nói nói lanh lợi vô cùng, khiến tiểu muội cảm thấy vui lòng hởi dạ. Còn bây giờ huynh nói ra câu nào cũng làm cho người ta chán ngấy, đã thật sự ngốc nghếch rồi ư?”

Thạch Phá Thiên thở dài nói: “Thực ra ta không phải là Thiên ca của Đinh Đinh Đang Đang đâu. Y biết cách làm cho Đinh Đinh Đang Đang vui lòng, còn ta chẳng biết chi hết. Vậy Đinh Đinh Đang Đang đi mà kiếm y, có phải hay hơn không?”

Đinh Đang dịu dàng thỏ thẻ: “Thiên ca! Chẳng lẽ huynh giận muội rồi ư?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Sao ta lại giận Đinh Đinh Đang Đang được? Ta nói thật, mà Đinh Đinh Đang Đang vẫn không tin.”

Đinh Đang nhìn nước sông chảy cuồn cuộn bên mạn thuyền, lẩm bẩm một mình: “Không biết đến bao giờ chàng mới trở lại như xưa?” Nàng ngơ ngẩn xuất thần, vô ý đánh rớt một cái bát sành xuống sông. Cái bát chỉ lạng qua lại dưới làn sóng biếc mấy cái rồi chìm xuống mất tăm.

Thạch Phá Thiên nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Vĩnh viễn ta không trở thành Thiên ca của Đinh Đinh Đang Đang được, suốt đời ta cứ… ta cứ ngẩn ngơ thế này mãi, thì Đinh Đinh Đang Đang cũng vĩnh viễn không vui lòng, có đúng thế không?”

Đinh Đang nghẹn ngào muốn bật khóc, đáp: “Muội không biết! Muội không biết!” Đột nhiên nàng cực kỳ phiền não muốn phát tác, bèn cầm hết cái bát này đến cái bát khác liệng xuống sông.

Thạch Phá Thiên nói: “Ta… nếu mồm mép ta lanh lợi, Đinh Đinh Đang Đang thích ta nói năng hoạt bát cho vui thì ta sẽ nói liến thoắng suốt ngày không ngớt cũng chẳng ngại gì. Nhưng… nhưng ta thật sự không phải là Thiên ca của Đinh Đinh Đang Đang, dù muốn giả vờ cũng không giả vờ được.”

Đinh Đang đưa mắt nhìn Thạch Phá Thiên. Lúc ấy mặt trời mới mọc, nắng mai tươi hồng chiếu vào mặt chàng, đôi mắt chớp chớp ra chiều khẩn thiết. Nàng nhẹ thở dài rồi nói tiếp: “Nếu huynh không phải là Thiên ca thì sao trên vai lại có vết sẹo do muội cắn vào, sao huynh cũng thích trêu hoa ghẹo nguyệt, lả lơi với vợ của Triển hương chủ trong Trường Lạc Bang, rồi Hoa cô nương ở phái Tuyết Sơn? Mà nếu huynh đúng là Thiên ca thì sao đột nhiên trở nên ngớ ngẩn, không phong lưu hoạt bát như trước chút nào?”

Thạch Phá Thiên mỉm cười đáp: “Nếu ta làm trượng phu của Đinh Đinh Đang Đang mà thực thà chất phác, lại không hay hơn ư?”

Đinh Đang lắc đầu đáp: “Không! Thà huynh giống như lúc trước, khoái hoạt ham vui, cướp vợ của người ta cũng được, ghẹo con gái người ta cũng được. Muội không muốn thấy huynh đàng hoàng như lúc này.”

Thạch Phá Thiên vẫn chưa hiểu rõ việc cướp vợ của người ta, lập tức hỏi: “Cướp vợ của người ta để làm chi? Lão bá bá nói là không xin người ta trước mà đã lấy đồ của người ta, thì là tiểu tặc. Ta cướp vợ của người ta thì có gọi là tiểu tặc không?”

Đinh Đang nghe chàng càng nói càng ngớ ngẩn, thật không hiểu được nên nhịn không nổi nữa. Đột nhiên khí tức xông lên tận cổ, nàng đưa tay nắm lấy tai chàng kéo một cái thật mạnh, chảy cả máu ra. Thạch Phá Thiên đau quá, hất mạnh tay một cái. Đinh Đang cảm thấy một luồng nội lực mãnh liệt phi thường kích vào cánh tay mình, vội buông chàng ra. Người nàng bị hất mạnh về phía sau, suýt đụng gãy cả cột chống mui thuyền.

Đinh Đang la lên một tiếng: “Úi chao!” Rồi nàng lớn tiếng mắng: “Đồ vũ phu quỷ sứ! Đánh vợ mà mạnh tay như thế ư?”

Thạch Phá Thiên ấp úng: “Xin lỗi, xin lỗi! Ta… ta không cố ý đâu.”

Đinh Đang nhìn xuống cánh tay mình thấy sưng vù lên và tím bầm lại, đột nhiên vẻ mặt đang tức tối bỗng trở nên mừng rỡ. Nàng nắm chặt lấy hai tay Thạch Phá Thiên lắc đi lắc lại mấy cái nói: “Thiên ca! Quả nhiên Thiên ca đang giả vờ để gạt muội.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Ta giả vờ chuyện gì?”

Đinh Đang nói: “Võ công Thiên ca chẳng mất đi chút nào hết!”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta có biết võ công gì đâu?”

Đinh Đang nũng nịu nói: “Huynh cứ nói bừa nữa đi, xem muội còn lo lắng cho huynh nữa không?” Chưa dứt lời, nàng đã vung tay lên tát vào má bên trái Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên nghiêng đầu đi, đưa tay ra đỡ, nhưng chưởng pháp gia truyền của Đinh Đang cực kỳ lợi hại. Thế chưởng vừa huyền diệu vừa mau lẹ, Thạch Phá Thiên đỡ không đúng cách, dĩ nhiên không đỡ được. Chàng cảm thấy mặt mình đau nhức, bị nàng tát trúng vào má.

Nhưng cánh tay của Đinh Đang lại chấn động mạnh, cứ như cái má của Thạch Phá Thiên đã đánh bàn tay nàng vậy. Đinh Đang lại la hoảng: “Úi chao!” Tiếng la hoảng của nàng còn hãi hùng hơn lần trước.

Nàng tưởng võ công của Thạch Phá Thiên không mất hoàn toàn, dĩ nhiên sẽ tránh được cái tát của mình, nên phát chưởng đó đã phát huy kình lực âm nhu rất lợi hại, vì nếu không vận đủ nội lực thì chưởng phóng ra không nhanh được. Nàng không ngờ cái gạt của chàng lại vụng về đến thế, đúng là người không hiểu võ công, nhưng khi tay nàng vừa chạm vào má chàng thì lại bị chấn động rất dữ dội. Nàng vội đưa tay trái nắm lấy tay phải, nhìn thấy nửa mặt bên trái chàng đã in dấu bàn tay, thành một vết màu đen lõm hẳn xuống.

Hắc Sa Chưởng của nàng đã được ông nội dạy cho, hết sức lợi hại. May mà nội lực của nàng so với Thạch Phá Thiên thì quá nông cạn, nên chàng chỉ bị thương nhẹ mà thôi. Nhưng dấu bàn tay đen đó cũng in vào má chàng, nửa tháng sau cũng chưa chắc đã mất hẳn. Nàng cảm thấy vừa thương xót vừa áy náy, bèn ôm choàng lấy lưng Thạch Phá Thiên, dụi mặt mình vào má trái chàng, vừa khóc vừa nói: “Thiên ca! Thực tình muội không biết, té ra Thiên ca vẫn chưa hoàn toàn bình phục.”

Thạch Phá Thiên được người đẹp ôm lấy, quên cả đau thở dài nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Nàng lúc thì tức tối, lúc lại vui mừng là nghĩa làm sao? Ta không hiểu được.”

Đinh Đang lo lắng nói: “Bây giờ… bây giờ biết làm thế nào? Biết làm thế nào?” Nàng buông Thạch Phá Thiên ra, thò tay vào bọc lấy ra một cái bình sứ, vừa móc thuốc viên trong bình cho Thạch Phá Thiên uống vừa nói: “Ôi chao! Chỉ mong không để sẹo lại là tốt rồi.”

Hai người ngồi bên nhau ở đằng lái thuyền, chẳng ai nói gì nữa. Hồi lâu, Đinh Đang mới ghé vào bên tai chàng nói nhỏ: “Thiên ca! Sau khi chàng bệnh thì võ công quên sạch, nhưng nội lực vẫn còn nguyên như cũ. Để muội đem cầm nã thủ pháp chỉ điểm cho Thiên ca, sẽ rất hữu ích về sau.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Muội mà chịu dạy thì ta sẽ cố dụng tâm để học.” Đinh Đang đưa mấy ngón tay khẽ xoa dấu bàn tay đen sì trên mặt chàng, trong lòng hối hận vô cùng. Đột nhiên nàng đặt môi lên vết bàn tay, khẽ hôn một cái.

Hai người đều nét mặt ửng hồng bẽn lẽn, nhưng trong lòng cảm thấy ngọt ngào không gì sánh được. Đinh Đang sửa lại mái tóc rồi đem mười tám đường cầm nã thủ biểu diễn từng đường một cho Thạch Phá Thiên xem. Ngay lúc đó nàng đã dạy được sáu đường, Thạch Phá Thiên đều nhớ hết, rồi hai người chiết giải những chiêu thức đó. Ngày hôm sau lại dạy được thêm sáu đường.

Ba ngày trôi qua, Thạch Phá Thiên đã luyện đến thuộc lòng mười tám đường cầm nã thủ pháp. Tuy bộ cầm nã thủ này chỉ có mười tám đường, nhưng biến hóa vô cùng phức tạp. Mấy ngày nay chàng cùng Đinh Đang phân tích mười tám đường cầm nã thủ, Đinh Bất Tam chỉ ngồi nhìn lạnh nhạt, thỉnh thoảng lại chê bai mấy câu.

Đến ngày thứ tư, vết kiếm thương trước ngực Thạch Phá Thiên đã bình phục rất nhiều. Đinh Đang thấy Thạch Phá Thiên luyện võ tiến bộ rất nhanh, trong bụng mừng thầm. Cứ mỗi lần nàng nghe Đinh Bất Tam mắng chàng là thằng ngốc, thì nàng lại hỏi: “Gia gia! Mười tám đường cầm nã thủ của nhà họ Đinh ta, nếu một thằng ngốc mà học thì phải hết mấy ngày mới xong?”

Đinh Bất Tam nghẹn họng không biết đáp sao. Lão thấy Thạch Phá Thiên quả đã học thuộc cầm nã thủ rồi, bèn nghĩ bụng: “Thằng lỏi này tuyệt không si ngốc chút nào. Hoặc là nó giả bộ, hoặc là đã quên hết những việc trước kia thật rồi.” Nhưng tính lão cố chấp, khi nào chịu thua cháu gái mà im miệng? Lão miễn cưỡng đáp: “Có loại ngốc thông minh, cũng có loại ngốc ngu dốt. Thằng ngốc thông minh thì chỉ nửa ngày là hiểu, còn thằng ngốc đần độn như Thạch lang của cháu thì phải ba ngày mới học được.”

Đinh Đang cong môi lên cười hỏi: “Gia gia! Ngày trước gia gia học bộ cầm nã thủ pháp này mất mấy ngày?”

Đinh Bất Tam nói: “Làm gì mà mất mấy ngày? Ta nghe tằng tố ngươi nói qua một lượt là xong. Kể cả luyện tập, không đầy nửa ngày là ta đã thành thuộc hết rồi.”

Đinh Đang phá lên cười rồi nói: “Ha ha! Thì ra gia gia thuộc vào loại ngốc thông minh.”

Đinh Bất Tam sầm mặt quát lên: “Ăn nói bậy bạ, chẳng còn biết thứ bậc trên dưới là gì nữa!”

Giữa lúc ấy, một con thuyền nhỏ từ phía hạ lưu đang đuối tới. Đoạn sông này hai bên bờ rất hoang vắng, dòng chảy cũng ổn định. Con thuyền này cũng thuận gió trương buồm, lại thêm bốn người chèo rất gấp, nên cứ lướt vèo vèo, mỗi lúc một gần lại. Đinh Bất Tam đã thấy hai hán tử áo trắng đứng ở đầu thuyền. Một gã lớn tiếng gọi: “Có phải thằng lỏi họ Thạch ở trên thuyền đó không? Dừng thuyền lại mau! Dừng thuyền lại mau!”

Đinh Đang khẽ hắng giọng một tiếng rồi nói: “Gia gia! Phái Tuyết Sơn lại truy đuổi Thạch lang rồi!”

Đinh Bất Tam hớn hở nói: “Bọn họ mà bắt thằng ngốc này đi chém một ngàn đao, một vạn đao thì mới hả dạ ta.”

Đinh Đang hỏi: “Không hiểu chúng muốn bắt kẻ ngốc thông minh hay muốn bắt kẻ ngốc ngu dại?”

Đinh Bất Tam đáp: “Đương nhiên là bắt thằng ngốc ngu dại. Ai dám bắt thằng ngốc thông minh?”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Không sai! Kẻ ngốc thông minh mà lại võ công cao cường thì còn ai dám đắc tội?”

Đinh Bất Tam ngẩn người ra, tức giận nói: “Con nha đầu này! Ngươi dám uốn lưỡi nói quanh để thóa mạ gia gia ư?”

Đinh Đang lại hỏi: “Giả tỉ phái Tuyết Sơn giết cháu rể của gia gia, rồi sau này Trường Lạc Bang đến đòi người, thì Đinh Bất Tam lão gia có còn thể diện không?”

Đinh Bất Tam đáp: “Sao lại không có thể diện? Rất có thể diện nữa mà khác.” Nhưng lão cũng thấy câu nói của mình nghe không xuôi tai, bèn tiếp: “Ai mà dám nói Đinh lão tam ta không có thể diện, ta sẽ bẻ gãy cổ hắn ngay lập tức.”

Đinh Đang lẩm bẩm như tự nói với mình: “Người khác thì không dám nói gì thật. Chỉ sợ Tứ gia gia của ta gan dạ hơn người, dám nói gia gia chỉ có một đứa cháu rể mà để người ta giết mất. Không biết gia gia có dám bẻ cổ em ruột của mình hay không? Mà cho dù có gan thì cũng không biết có đủ bản lãnh không?”

Đinh Bất Tam giận dữ nói: “Ngươi nói võ công của lão tứ mạnh hơn ta ư? Thúi lắm, thúi lắm! Nó kém ta rất nhiều.”

Hai ông cháu cãi cọ một lúc, chiếc thuyền kia đã đuổi gần tới nơi. Hai hán tử áo trắng trên con thuyền nhỏ bỗng lớn tiếng quát: “Thằng lỏi Thạch Trung Ngọc ở bang Trường Lạc có trong thuyền đó không? Sao không dừng thuyền?”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang! Có người đuổi tới nơi, bây giờ biết làm thế nào?”

Đinh Đang nói: “Muội biết làm thế nào được? Thiên ca là nam nhi, chẳng lẽ không có chủ định gì ư?”

Lúc ấy con thuyền nhỏ chỉ còn cách chừng hơn một trượng. Hai hán tử áo trắng vừa la hét om sòm vừa tung mình nhảy vọt sang đằng lái thuyền này, ngay chỗ Thạch Phá Thiên đang ngồi. Cả hai đều cầm trường kiếm, hàn quang lóe mắt. Thạch Phá Thiên thấy hai gã này đều là đệ tử phái Tuyết Sơn mà chàng đã gặp trong tòa miếu thổ địa, bèn tự hỏi: “Không hiểu mình đã đắc tội gì với bọn họ, mà họ cứ cố tình đuổi theo mình như thế?”

Nghe soạt một tiếng, một gã đã phóng trường kiếm đâm tới vai chàng. Ba ngày nay Thạch Phá Thiên đã cùng Đinh Đang chiết giải các chiêu thức võ công, hễ chàng hơi chậm chân tay một chút là bị nàng nắm tai mà kéo, cũng đã chịu không ít khổ sở. Nhờ thế mà lúc này chàng đã mau lẹ hơn nhiều, so với lúc tỉ kiếm cùng vợ chồng Thạch Thanh tại miếu thổ địa đã khác lắm rồi.

Chàng vừa thấy thanh kiếm của địch phóng tới, liền lập tức ra chiêu thứ tám là Phụng Vĩ Thủ, tay phải vung ra theo đường vòng tới phía trước, chụp được cổ tay hán tử đó vặn một cái. Gã lập tức la lên một tiếng, thanh kiếm trong tay rớt xuống. Thạch Phá Thiên lại thuận đà hất khuỷu tay phải lên một cái. Khuỷu tay chàng đập trúng vào cằm hán tử nghe đánh bốp. Quai hàm gã bị gãy liền, miệng hộc máu tươi, mười mấy cái răng cũng phun ra theo máu.

Thạch Phá Thiên hoàn toàn không ngờ chiêu Phụng Vĩ Thủ của mình lợi hại đến thế. Chàng sợ quá đứng thộn mặt ra, trống ngực đánh thình thình. Tên đệ tử thứ hai phái Tuyết Sơn đang muốn tiến lên giáp công Thạch Phá Thiên thì đột nhiên thấy sư huynh đã bị trọng thương. Gã sư huynh này bản lãnh còn cao hơn hắn nhiều. Hắn liệu chừng nếu mình xông lên thì cũng chẳng tốt đẹp gì hơn, việc cứu người còn khẩn cấp hơn nhiều.

Hắn quyết định được chủ ý, liền ôm xốc sư huynh lên. Lúc ấy thuyền nhỏ và thuyền lớn đang chạy song song bên nhau, tên đệ tử này bèn cắp gã sư huynh bị thương, nhẹ nhàng nhảy trở về thuyền nhỏ. Hắn lớn tiếng quát tháo đồng bọn hạ buồm xuống, cho thuyền quay đầu lại chạy xuôi theo dòng nước về phía đông. Chẳng mấy chốc hai con thuyền đã cách nhau khá xa, nhưng những tiếng thóa mạ vẫn theo gió văng vẳng vọng lại.

Thạch Phá Thiên thấy trên ván thuyền hãy còn vũng máu tươi và mười mấy chiếc răng thì trong lòng vừa kinh ngạc vừa áy náy, ấp úng nói: “Chuyện này… chuyện này… ta thật là có lỗi.”

Đinh Đang từ trong khoang thuyền chui ra đến bên Thạch Phá Thiên, mỉm cười nói: “Thiên ca! Vừa rồi Thiên ca xuất chiêu Phụng Vĩ Thủ cũng không đến nỗi tồi!”

Chàng nghe đến đây liền lắc đầu nói: “Tại sao Đinh Đang không cho ta hay trước? Giả tỉ ta biết trước chiêu thức này đánh người lợi hại đến thế thì ta đã không học nữa.”

Đinh Đang cảm thấy trái tim tựa hồ chìm xuống. Nàng than thầm: “Bệnh ngớ ngẩn của chàng ngốc này lại phát tác rồi, nói toàn chuyện vẩn vơ.” Nàng lấy làm khó chịu bèn nói: “Đã học võ công thì chiêu thức lợi hại chừng nào hay chừng đấy. Vừa rồi nếu Thiên ca không sử chiêu Phụng Vĩ Thủ vừa đúng lúc vừa chuẩn xác như vậy thì trường kiếm của đối phương đã đâm vào vai huynh rồi. Huynh không đả thương người thì tất bị người đả thương, vậy huynh muốn đánh người ta hay thích để người ta đánh mình? Nói thực ra, đối phương bị đánh gãy mấy cái răng còn là nhẹ lắm, chứ trong võ lâm đã xảy cuộc động thủ thì lúc nào cũng có thể mất mạng như chơi. Lòng dạ của huynh dù có tốt nhưng lỡ lòng dạ đối phương độc ác thì sao? Giả tỉ họ đâm một kiếm giết chết huynh, thì lương tâm huynh có tốt gấp mười cũng chẳng có ích gì.”

Thạch Phá Thiên trầm ngâm suy nghĩ rồi đáp: “Tốt hơn hết là Đinh Đinh Đang Đang dạy ta thứ công phu không thể đả thương hoặc đánh chết người ta, đồng thời đừng để đối phương đánh mình chết hay bị thương, mọi người đều hoan hỉ kết bạn với nhau, đừng oán thù gì nữa.”

Đinh Đang nhăn nhó cười nói: “Thiên ca nói toàn chuyện ngớ ngẩn không đâu. Đã là người học võ thì khi động thủ phải thí mạng, chẳng lẽ giống như trẻ con chơi cút bắt hay sao?”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta chỉ thích chơi trò cút bắt chứ không thích động thủ thí mạng. Nhưng tiếc là không có ai chơi cút bắt với ta, A Hoàng cũng không biết.”

Đinh Đang càng nghe càng giận, dậm chân nói: “Thiên ca thật là hồ đồ. Ai phải nói chuyện với huynh thì số mạng người đó thật là xui xẻo.” Dứt lời, nàng hầm hầm bỏ đi không lý gì đến chàng nữa, chui vào khoang thuyền nằm ngủ.

* * *

Đinh Bất Tam nói: “Ngươi đã thấy chưa? Ta đã bảo nó là thằng ngốc, thì nó đúng là thằng ngốc. Võ công lợi hại cũng là thằng ngốc, mà võ công tệ hại cũng là thằng ngốc. Chi bằng ngươi giết nó đi càng sớm càng tốt, để đỡ phải bực mình.”

Đinh Đang tự nhủ: “Nếu Thạch lang thật sự vĩnh viễn hồ đồ như vậy thì mình ở với chàng thế nào được? Hay là cứ nghe lời gia gia mà một đao giết chết chàng đi, để lòng mình thanh tịnh?” Nhưng nàng nhớ tới trước kia chàng chưa mắc bệnh, nói toàn những lời ngọt ngào khả ái. Dù chàng chẳng nói gì mà chỉ đưa mắt nhìn mình một cái, thì đầu mày cuối mắt cũng thố lộ tình yêu nồng nàn, mình khác nào được uống rượu ngọt, tâm hồn ngây ngất say sưa. Từ khi phải chia ly, mình tương tư chàng đến điên đảo thần hồn, ngờ đâu chỉ sau một cơn bệnh là vị lang quân tuấn tú thông minh đã biến thành một pho tượng gỗ ngẩn ngơ hủ lậu.

Đinh Đang càng nghĩ càng phiền não trong lòng, không nén nôi phải để nước mắt tuôn ra giàn giụa. Nàng bèn kéo tấm chăn mỏng lên trùm kín đầu. Đinh Bất Tam nói: “Ngươi khóc thì có ích gì? Có khóc thì cũng không thể biến một tên si ngốc thành một trang tài tử được.”

Đinh Đang tức mình đáp: “Cháu thử khóc cho con người ngớ ngẩn biến thành thông minh, thử xem có được không?”

Đinh Bất Tam nổi giận quát lên: “Cả con nhãi này cũng ăn nói hồ đồ mất rồi!”

Đinh Đang khóc thầm, nghĩ bụng: “Hoa Vạn Tử cô nương phái Tuyết Sơn đối với Thạch lang có vẻ rất giận dữ, dường như cũng chưa bị chàng hưởng thụ. Chàng đối với những cô nương đẹp đẽ như thế mà còn không muốn chọc ghẹo, ra vẻ nam tử hán đại trượng phu. Nếu ta phải lấy pho tượng gỗ ngớ ngẩn này làm chồng, thì còn có lạc thú gì nữa.” Đinh Đang khóc tới nửa đêm rồi nghĩ bụng: “Ta đã cùng chàng bái đường thành thân, danh chính ngôn thuận nên nghĩa vợ chồng. Mấy hôm nay, ban ngày luyện công thì chàng cũng luyện rất đàng hoàng, không tìm cơ hội đụng chạm vào người của ta cái nào. Ban đêm thì ngủ bên nhau, khoảng cách chỉ mấy thước, mà chàng chẳng lần nào lại thân cận với ta một tí, cũng chẳng nắm tay sờ chân mình một lần nào cả. Thế thì đâu có phải là vợ chồng mới cưới? Đừng nói là vợ chồng son, cho dù là vợ chồng già bảy tám chục tuổi cũng phải thân thiết hơn mới đúng.”

Nàng lắng tai nghe thấy Thạch Phá Thiên nằm ở phía sau, hơi thở chầm chậm đều đều, rõ ràng đang ngủ say sưa. Lửa giận bốc lên, Đinh Đang rút thanh Liễu Diệp Đao bên mình ra, nghiến răng lẩm bẩm: “Lấy phải ông chồng tượng gỗ này, để y sống trên thế gian phỏng được ích gì?” Đinh Đang thủ dao trong tay, ngần ngừ một lúc rồi lẳng lặng đi ra phía lái thuyền. Nàng lẩm bẩm: “Thạch lang! Thạch lang! Đây là do chính chàng thay đổi, đừng trách lòng ta phụ bạc!”

Nàng giơ Liễu Diệp Đao lên, toan chém xuống đầu Thạch Phá Thiên, nhưng tay nàng chợt run run rồi dừng lại. Nàng nắm lấy vai chàng, nhè nhẹ lật người qua một bên, để nhìn chồng một cái nữa trước khi giết chết. Thạch Phá Thiên đang ngủ li bì, bị nàng lật người lại mà vẫn không biết gì. Dưới ánh trăng lò” mờ, Đinh Đang nhìn thấy mặt chàng vẫn đang cười, không hiểu chàng đang ở trong giấc mộng đẹp nào. Nàng nghĩ bụng: “Thôi thì ta cứ để chàng tan giấc mộng vui rồi hãy ra tay. Chàng chết sớm hay chết chậm chốc lát cũng chẳng có gì quan trọng.” Thạch Phá Thiên vẫn không hay biết gì hết. Đinh Đang ngồi bó gối ngắm nghía mặt chàng, chỉ chờ chàng ra khỏi giấc mộng thần tiên là hạ thủ ngay.

Một lúc sau, không hiểu Thạch Phá Thiên đã tỉnh lại chưa hay vẫn đang trong giấc mơ, chỉ nghe chàng lên tiếng gọi: “Đinh Đinh Đang Đang… tại sao muội giận? Nhưng nàng giận bao nhiêu lại càng xinh đẹp bấy nhiêu. Nàng xinh đẹp lắm… xinh đẹp vô cùng. Dù ta có ngắm hàng ngàn hàng vạn ngày cũng không chán mắt. Một vạn ngày… mười vạn ngày… không, năm mươi vạn ngày vẫn là không đủ…”

Đinh Đang im lặng nghe, bao nhiêu hờn giận chất chứa trong lòng đều tiêu tan hết. Nàng tự nhủ: “Thạch lang, Thạch lang! Cả lúc ngủ mơ mà chàng cũng không quên muội. Sao lúc tỉnh chàng không thổ lộ những câu ân ái nồng nàn này, có phải sung sướng biết bao nhiêu? Rồi sẽ có một ngày, cái bệnh hồ đồ của chàng sẽ khỏi, sẽ nói với muội những lời như thế.” Đinh Đang còn đang ngẫm nghĩ, chợt thấy những giọt sương đọng trên mép mui thuyền nhỏ xuống làm ẩm ướt sạp ván. Nàng lại thấy Thạch Phá Thiên chỉ phong phanh một chiếc áo mỏng thì không khỏi quan tâm, liền rón rén vào trong khoang lấy chiếc chăn đơn đắp lên người chàng. Nàng tần ngần ngắm nhìn Thạch Phá Thiên một lúc nữa rồi mới quay vào trong khoang thuyền.

Bỗng nghe Đinh Bất Tam cất tiếng thóa mạ: “Đêm hôm khuya khoắt thế này, mà ngươi cứ chui qua chui lại như loài chuột nhắt, đã định ra tay mà lại không dám hạ thủ. Nhát gan như ngươi thì còn làm nên trò trống gì nữa? Thật cũng không biết có phải dòng họ Đinh nhà ta hay không.”

Đinh Đang nghe gia gia mắng nhiếc, thì biết là lão đã nhìn rõ hết mọi cử động của mình. Nhưng lúc này lòng nàng đang rạo rực vui tươi, nên bỏ hết ngoài tai những lời nhiếc móc, trong đầu cứ văng vắng những câu nói trong mơ của Thạch Phá Thiên. “Nàng xinh đẹp lắm… xinh đẹp vô cùng. Dù ta có ngắm hàng ngàn hàng vạn ngày cũng không chán mắt.” Nghĩ tới đây Đinh Đang không khỏi mỉm cười hoan hỉ. Nàng nghĩ: “Anh chàng ngu ngốc này lúc nằm mơ cũng thốt ra những lời si ngốc. Cho dù có sống một trăm năm cũng chỉ mới ba vạn sáu ngàn ngày, làm gì được mười vạn hay năm mươi vạn? Nhưng biết Đinh Đang này được bao nhiêu ngày tuổi xuân tươi đẹp để chàng nhìn ngắm thương yêu?”

Đinh Đang ở vào tình trạng dở khóc dở cười, trằn trọc suốt đêm. Trống điếm canh tư nàng mới mơ màng ngủ được. Nhưng nàng vừa nhắm mắt được một lát, bỗng bị thanh âm của Thạch Phá Thiên làm tỉnh giấc. Chàng ở phía sau lớn tiếng la lên: “Trời ơi! Thật là kỳ lạ! Đinh Đinh Đang Đang! Sao chăn của muội lại biết chạy lên mình ta? Chẳng lẽ nó mọc chân hay sao?”

Đinh Đang ngẩn người ra. Nàng hổ thẹn vô cùng, nhỏm dậy vọt về phía lái thuyền. Thạch Phá Thiên thấy nàng tới, liền cầm chiếc chăn giơ lên hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang! Thế này có lạ không? Cái chăn này…”

Đinh Đang mặt đỏ bừng, giật lấy cái chăn khẽ gắt lên: “Đừng nói nữa! Cái chăn có chân có chi là lạ đâu?”

Thạch Phá Thiên nói: “Cái chăn có chân mà không kỳ lạ ư? Muội nói đi, cái chân của nó ở chỗ nào?”

Đinh Đang không đáp, ngẩng đầu nhìn ra thì thấy lão thuyền phu đang nhổ sào cởi dây đẩy thuyền đi, lão liếc mắt nhìn nàng tựa như cười mà không phải cười. Nàng ngượng quá, mặt đỏ như gấc chín, nũng nịu nói: “Huynh còn nói nữa ư?” Rồi nàng vươn tay ra, nắm lấy tai chàng mà kéo thật mạnh. Thạch Phá Thiên đưa tay lên, bất giác sử chiêu Hạc Tường Thủ trong Thập Bát Cầm Nã Thủ. Đinh Đang vòng tay lại chụp xuống nách Thạch Phá Thiên, chàng vội đưa ngang khuỷu tay trái ra để phong tỏa thế chụp của đối phương, đồng thời vung tay phải lên chụp xuống vai nàng.

Đinh Đang vội quăng cái chăn trong tay xuống sạp thuyền để ra chiêu phản kích. Nàng biết nội lực của chàng rất lợi hại, nên không dám công nhiên đối chưởng. Chớp mắt hai người đã qua lại mười mấy chiêu, Đinh Đang ra tay mỗi lúc một mau lẹ hơn, nhưng Thạch Phá Thiên để ý nhìn từng thế một, không để sơ hở chút nào. Được mấy chục chiêu nữa, Đinh Đang thi triển chiêu Long Đằng Trảo chụp xuống đầu Thạch Phá Thiên, chàng vội đưa cổ tay lên gạt ngược lại.

Chàng xuất thủ cực kỳ mau lẹ, Đinh Đang rút tay về không kịp, bị năm ngón tay chàng phất trúng vào huyệt đạo nơi cổ tay. Nàng liền cảm thấy một luồng kình lực nóng bỏng chuyền vào cổ tay, rồi từ cổ tay chuyền qua cánh tay, ra sau lưng, tiếp tục chuyền xuống dưới. Lúc luồng kình lực từ lưng chuyền xuống đến đùi, Đinh Đang không đứng vững nữa, người nàng nghiêng đi rồi ngã lăn ra. May mà nàng lại ngã trúng vào cái chăn mà nàng vừa bỏ xuống sạp thuyền.

Thạch Phá Thiên lại nổi lòng trẻ con, cúi xuống lấy cái chăn quấn quanh người Đinh Đang rồi bế nàng lên, mỉm cười nói: “Tại sao Đinh Đang lại nhéo ta? Ta phải liệng Đinh Đinh Đang Đang xuống sông cho cá nuốt.”

Đinh Đang bị Thạch Phá Thiên ôm chặt lấy, tuy cách một lần chăn mỏng mà nàng đã thấy bủn rủn cả người. Nàng vừa hổ thẹn vừa vui mừng, mỉm cười nói: “Thiên ca dám…”

Thạch Phá Thiên cướp lời: “Sao ta lại không dám?” Rồi chàng để nguyên chăn, khẽ ném Đinh Đang vào trong khoang thuyền. Đinh Đang chui trong chăn ra, lại chạy ra ngoài. Thạch Phá Thiên sợ nàng đánh nữa, vội lùi lại một bước, đưa hai tay ra thủ thế chuẩn bị tiếp chiêu.

Đinh Đang mỉm cười nói: “Thôi, không đùa nữa! Tư thế của Thiên ca chẳng khác gì anh chàng đi chụp ếch, chẳng ra phong độ cao thủ võ lâm chi hết!”

Thạch Phá Thiên cười nói: “Ta có phải cao thủ võ lâm gì đâu?”

Đinh Đang nói: “Muội xin chúc mừng Thiên ca đã học được Cầm Nã Thủ Pháp đến mức độ tinh vi hơn cả sư phụ. Muội là thầy dạy môn này cho Thiên ca, mà đành chịu kém đồ đệ mất rồi.”

Bỗng nghe Đinh Bất Tam ở trong khoang thuyền cất giọng lạnh lùng nói: “Nhưng nếu ngươi muốn tỉ thí với Bạch Vạn Kiếm phái Tuyết Sơn thì hãy còn kém xa lắm.”

Đinh Đang nói: “Gia gia! Thiên ca học võ công nhanh như vậy, giả tỉ chàng được gia gia truyền thụ cho một năm hay dăm bảy tháng, thì dù chẳng trở nên cao thủ thiên hạ vô địch, cũng không đến nỗi quá kém cỏi làm phương hại đến thanh danh của gia gia. Có đúng thế không?”

Đinh Bất Tam cười lạnh nói: “Đinh lão tam đã nói ra thì không sửa đổi được. Thứ nhất, ta đã nói nó mà lấy ngươi làm vợ thì đừng hòng học võ công của ta. Thứ hai, ta đã hạn định trong vòng mười ngày nó phải đả bại được Bạch Vạn Kiếm. Nó chỉ còn sống được năm ngày nữa, còn nói gì đến chuyện một năm hay nửa năm?”

Đinh Đang nghe mà phát lạnh trong lòng. Mới đêm qua nàng toan tự tay hạ sát Thạch Phá Thiên, bây giờ nàng lại phập phồng lo sợ về chuyện chàng sẽ bị mất mạng dưới tay gia gia. Nhưng quả thật gia gia đã nói cái gì là làm đúng theo cái ấy, như thế thì phải làm sao mới được? Nàng nghĩ tới nghĩ lui, xem ra chỉ còn có cách trước đây mình đã nghĩ, phải tiếp tục truyền dạy võ công cho chàng, lấy mười tám đường cầm nã thủ làm căn bản để thực hiện cơ mưu.

Thế rồi mấy ngày sau đó, chỉ trừ lúc ăn uống hay đi ngủ, Đinh Đang dùng hết thì giờ, đem hàng mấy trăm biến thế của mười tám đường cầm nã thủ luyện đi luyện lại cho Thạch Phá Thiên, về sau, Thạch Phá Thiên đã luyện môn này đến chỗ cực kỳ tinh thục, dù chẳng cần phát huy nội lực cũng có thể chiết giải ngang tay với Đinh Đang.

Sáng sớm ngày thứ tám, Đinh Bất Tam đằng hắng một tiếng rồi nhắc: “Chỉ còn lại ba ngày.”

Đinh Đang nói: “Gia gia! Gia gia muốn Thiên ca đả bại Bạch Vạn Kiếm, cháu thấy cũng chẳng khó gì. Tuy kiếm pháp của Bạch Vạn Kiếm ở phái Tuyết Sơn lợi hại thật, nhưng đâu có bằng được võ công của nhà họ Đinh ta? Môn cầm nã thủ của Thiên ca luyện cũng khá lắm rồi, có thể chỉ dùng hai bàn tay không mà đoạt được trường kiếm trong tay Bạch Vạn Kiếm. Chàng tay không đoạt được trường kiếm của người ta, có thể gọi là thắng lợi hay không?”

Đinh Bất Tam cười lạnh nói: “Con tiểu a đầu này nói sao nghe dễ quá. Một chút xíu bản lãnh này mà đòi đoạt được trường kiếm trong tay của Khí Hàn Tây Bắc ư? Thôi thôi, ta can ngươi, đừng mơ tưởng hão huyền nữa. Ngay gia gia ngươi đây, nếu tay không cũng chưa dám nói đến chuyện đoạt kiếm trong tay gã họ Bạch.”

Đinh Đang nói: “Thì ra gia gia cũng không đoạt được. Thế thì cháu thấy võ nghệ của gia gia cũng… hừ hừ… cũng chẳng qua… hừ hừ…”

Đinh Bất Tam giận dữ hỏi: “Cái gì mà hừ hừ?”

Đinh Đang ngang đầu nhìn trời đáp: “Hừ hừ là hừ hừ chứ sao, chính là cháu định nói võ công của gia gia rất khá.”

Đinh Bất Tam nói: “Ngươi nói chuyện quỷ quái gì vậy? Hừ hừ chính là nói võ công của ta bình thường, chẳng có chi kỳ lạ.”

Đinh Đang đáp: “Chính gia gia nói võ công của gia gia bình thường chẳng có gì kỳ lạ, chứ không phải là cháu nói.”

Đinh Bất Tam nói: “Ngươi hừ hừ cũng được, hà hà cũng được, nhưng nói sao thì nói, trong mười ngày mà nó chưa đánh bại Bạch Vạn Kiếm thì ta phải giết cái thằng ngốc con này.”

Đinh Đang cong môi lên nói: “Gia gia hẹn cho Thạch lang trong mười ngày phải đả bại được Bạch Vạn Kiếm, nhưng nếu trong mười ngày mà không tìm được gã họ Bạch, thì có phải là lỗi của Thạch lang hay không?”

Đinh Bất Tam nói: “Ta đã nói mười ngày là mười ngày, tìm được cũng tốt mà không tìm được cũng tốt. Trong vòng mười ngày mà nó chưa đánh bại Bạch Vạn Kiếm, thì ta giết.”

Đinh Đang lo lắng nói: “Bây giờ chỉ còn có ba ngày, gia gia bảo Thạch lang đi đâu kiếm cho ra gã họ Bạch đây? Gia gia… gia gia thực không chịu nói lý lẽ chút nào.”

Đinh Bất Tam mỉm cười nói: “Nếu Đinh lão tam này mà còn đi nói chuyện đạo lý với thiên hạ, thì đã không phải là Đinh Bất Tam nữa rồi. Ngươi cứ vào chốn giang hồ mà nghe ngóng, thử xem có ai thấy Đinh Bất Tam nói chuyện có lý lẽ chưa?”

* * *

Đến ngày thứ chín, trên môi Đinh Bất Tam vẫn nhoẻn một nụ cười. Có lúc lão liếc nhìn Thạch Phá Thiên bằng con mắt rất kỳ lạ, ba phần coi thường còn bảy phần sát khí.

Đinh Đang biết gia gia mình nhất định sẽ giết Thạch lang vào ngày thứ mười. Đừng nói lúc này võ công của Thạch lang còn kém xa Bạch Vạn Kiếm, cho dù có thắng được hắn thì chỉ trong hai ngày ngắn ngủi trên sông Đại Giang mờ mịt, biết tìm đâu cho thấy Bạch Vạn Kiếm?

Hôm ấy trời đã quá ngọ, Đinh Đang cùng Thạch Phá Thiên chiết giải cầm nã thủ một lúc thì mặt nàng đỏ như gấc chín. Bất giác nàng hắt hơi một cái rồi nói: “Đã tháng tám rồi mà trời còn oi bức thế này.” Nàng sánh vai cùng ngồi với Thạch Phá Thiên, trỏ tay vào đôi chim đang nhởn nhơ giỡn chơi trên mặt nước rồi nói: “Thiên ca! Huynh nhìn xem, đôi vợ chồng chim kia vui thú biết bao. Giả tỉ có người phóng tên bắn chết con trống để con mái phải cô đơn hiu quạnh, có phải là đáng thương hay không?”

Thạch Phá Thiên nói: “Khi ta còn ở trên núi, lúc bắn chim chẳng bao giờ nghĩ tới con nào là con trống hay con mái. Bây giờ Đinh Đinh Đang Đang đã nói vậy, thì từ nay ta chỉ lựa con mái mà bắn thôi.”

Đinh Đang buông một tiếng thở dài, lẩm bẩm: “Anh chàng Thạch lang của mình vẫn còn ngớ ngẩn lắm!” Lát sau nàng thấy mỏi mệt, liền tựa mình vào Thạch Phá Thiên, gối đầu lên vai chàng mà nhắm mắt lại ngủ gà ngủ gật.

Thạch Phá Thiên nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Muội mệt rồi phải không? Ta đỡ muội vào trong khoang thuyền ngủ nhé?”

Đinh Đang nói như người mơ ngủ: “Không! Muội thích ngủ như thế này.” Thạch Phá Thiên không muốn trái ý nàng, đành cứ để vai trái cho nàng gối đầu. Chàng thấy hơi thở của nàng mỗi lúc một đều đặn, ngủ mỗi lúc một say sưa. Mái tóc diễm lệ của nàng phơ phất chạm vào má bên trái chàng, tạo cảm giác hơi ngứa ngáy, nhưng lại êm dịu không bút nào tả xiết.

Đột nhiên, một giọng nói rất nhỏ lọt vào tai Thạch Phá Thiên. Thanh âm này vo ve như tiếng muỗi kêu, chàng phải lắng tai mới nghe rõ: “Chuyện mà muội sắp nói với Thạch lang, huynh nhớ im lặng mà nghe, đừng gật đầu mà cũng đừng lên tiếng. Huynh cũng đừng lộ vẻ kinh hãi hay ngạc nhiên chi hết. Tốt hơn hết là Thạch lang nhắm mắt lại giả vờ ngủ, thở khò khè một chút để lấp bớt thanh âm của muội đi.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên, cứ tưởng là nàng đang mơ ngủ. Nhưng bỗng chàng thấy đôi mi dài của nàng đang khép bỗng hé mở ra, chớp mắt hai cái rồi nhắm lại. Bấy giờ Thạch Phá Thiên mới tỉnh ngộ, nghĩ thầm: “Té ra nàng có chuyện bí mật muốn nói với ta, mà không muốn để gia gia nghe thấy.” Chàng bèn ngáp dài mấy cái rồi nói: “Mệt quá!”, rồi nhắm mắt lại.

Đinh Đang mừng thầm nghĩ bụng: “Thiên ca cũng không ngốc lắm, ta vừa nói đã hiểu ngay. Ta bảo chàng giả vờ ngủ, chàng cũng giả vờ rất giống.” Nàng liền nói rất khẽ: “Gia gia nói là võ công Thiên ca tệ quá, lại là một thằng ngốc, không xứng đáng làm cháu rể. Kỳ hạn mười ngày, đến mai là hết, gia gia nhất định sẽ giết huynh. Chúng ta không tìm được Bạch Vạn Kiếm, dù có tìm được hắn thì Thiên ca cũng không địch nổi hắn. Bây giờ chỉ còn một cách là vợ chồng ta đưa nhau đi trốn, tìm nơi thâm sơn cùng cốc ẩn lánh để gia gia không biết đâu mà kiếm.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Sao gia gia lại vô cớ giết ta? Đinh Đinh Đang Đang thật là trẻ con, tưởng câu gia gia nói giỡn chơi là chuyện thật. Nhưng giả tỉ hai đứa mình vào chốn thâm sơn ẩn lánh để gia gia không tìm thấy được, như vậy cũng vui lắm.” Chàng đã quen với cảnh chỉ có hai người ở nơi núi sâu rừng thẳm, cảm thấy đó là cuộc sống rất tự nhiên. Mấy tháng nay gặp phải nhiều chuyện không biết giải quyết thế nào, chàng thường muốn trở về rừng núi. Lại nghĩ đến sau này có Đinh Đinh Đang Đang xinh tươi khả ái kề cận bên mình, chàng bất giác hoan hỉ vô cùng.

Đinh Đang lại nói: “Nếu chúng ta lên bờ mà chạy thì gia gia nhất định rượt theo, bất luận thế nào cũng không trốn thoát được. Thiên ca nghe đây, đêm nay vào khoảng canh ba, muội sẽ bất ngờ ôm lấy gia gia rồi vừa khóc vừa năn nỉ: “Gia gia! Xin gia gia tha cho Thạch lang, đừng giết chàng.” Lúc ấy, huynh phải lập tức chạy vào khoang thuyền, tay phải ra chiêu Hổ Trảo Thủ, tay trái ra chiêu Ngọc Nữ Niêm Châm nắm chặt lấy sau lưng gia gia. Huynh phải nhớ kỹ, vừa nghe muội la đến câu “đừng giết chàng” thì huynh phải động thủ cho nhanh. Gia gia bị muội giữ chặt hai tay, tất không gỡ ra mà chống đỡ ngay được. Nội lực của huynh rất thâm hậu, cứ nắm như thế thì gia gia không nhúc nhích được nữa.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Đinh Đinh Đang Đang thật tinh nghịch quá trớn, đem cả gia gia ra để giỡn chơi, chẳng hiểu gia gia có nổi giận không? Nhưng mà thôi, nàng đã muốn thế thì ta cứ làm theo ý nàng là xong. Như vậy kể ra cũng thú.”

Đinh Đang lại nhỏ nhẹ nói tiếp: “Hai chiêu này rất có quan hệ đến chuyện sống chết của hai người chúng ta. Thiên ca thử đưa tay trái sờ vào sau lưng muội, đúng chỗ huyệt Linh Đài. Chiêu Hô Trảo Thủ phải nhằm vào đó.” Thạch Phá Thiên vẫn nhắm mắt, từ từ đưa tay trái sờ nhẹ vào huyệt Linh Đài của Đinh Đang.

Đinh Đang nói: “Đúng rồi! Lúc đó ở trong bóng tối, Thiên ca cần ra tay cho nhanh, nhận huyệt cho đúng. Muội có ôm lấy gia gia thì cũng chỉ giữ được trong chớp mắt mà thôi. Lúc gia gia tỉnh ngộ mà hất được muội ra rồi, thì dù huynh có ra chiêu xảo diệu đến đâu cũng khó mà kiềm chế được gia gia. Bây giờ Thiên ca lại khẽ đụng vào huyệt Thiên Khu sau lưng muội thử xem có đúng không? Chiêu Ngọc Nữ Cô Châm chỉ dùng hai ngón tay là ngón cái và ngón trỏ bấm lấy huyệt Thiên Khu, đồng thời huynh phải thúc đẩy kình lực ra đầu ngón tay đánh thấu vào huyệt đạo.”

Thạch Phá Thiên chầm chậm dịch ngón tay xuống dưới một chút, nhẹ nhàng đặt hai đầu ngón tay vào huyệt Thiên Khu ở sau lưng Đinh Đang. Lúc này dĩ nhiên chàng không vận kình lực, nhưng Đinh Đang còn là hoàng hoa khuê nữ, vừa bị chàng sờ vào dưới lưng là buồn quá không nhịn được, bật lên cười khúc khích rồi khẽ quát: “Thiên ca nhộn quá!” Thạch Phá Thiên lớn tiếng cười ha hả. Đinh Đang cũng thò tay vào nách chàng mà cù trả, cả hai người đều cười ngặt nghẹo. Thế là chuyện giả vờ ngủ hai người quên mất, không nghĩ gì tới nữa.

* * *

Vào lúc hoàng hôn, lão thuyền phu đã neo thuyền vào bờ sông, cạnh một thị trấn nhỏ. Lão xách hũ lên bờ để mua rượu và thức ăn. Đinh Đang nói: “Thiên ca! Chúng ta cũng lên bờ đi chơi một lúc chăng?”

Thạch Phá Thiên nói: “Phải đấy!” Đinh Đang bèn dắt tay chàng lên bờ, tha thẩn cất bước.

Thị trấn này nhỏ bé, chỉ có tám chín chục nhà, đến hơn mười nhà là dân chài lưới. Hai người vào tới đầu thị trấn, đưa mắt nhìn quanh thấy bốn bề chẳng có một ai. Thạch Phá Thiên nói: “Bây giờ gia gia đang ngủ vùi trong khoang thuyền, chúng ta hãy chạy trốn ngay đi.” Chàng chỉ mong được sớm cùng Đinh Đang trốn vào chốn thâm sơn.

Đinh Đang lắc đầu đáp: “Không dễ như thế đâu. Dù chúng ta có chạy xa hàng mấy chục dặm, gia gia vẫn đuối kịp.”

Bỗng sau lưng có tiếng nói ồ ồ cất lên: “Dù các ngươi có chạy xa hàng mấy ngàn dặm, mấy vạn dặm thì bọn ta vẫn đuổi kịp.” Thạch Phá Thiên cùng Đinh Đang quay đầu nhìn lại, thì thấy hai tên đại hán từ sau bụi cây đi ra, toét miệng ra cười vừa hung dữ vừa khả ố. Thạch Phá Thiên nhận ra hai gã này chính là Hô Diên Vạn Thiện và Văn Vạn Phu ở phái Tuyết Sơn. Chàng không khỏi sửng sốt, trong lòng ngấm ngầm kinh hãi.

Khi bọn đệ tử phái Tuyết Sơn phát giác ra hành tung Thạch Phá Thiên trên sông Trường Giang rồi động thủ trên thuyền, một tên đã bị trọng thương. Bạch Vạn Kiếm nhận được tin này liền phái bọn sư đệ chia hai đường thủy bộ truy đuổi đến đây. Hô Diên Vạn Thiện cùng Văn Vạn Phu đi ngựa theo ngược dòng sông, trông về hướng tây mà đuổi, không ngờ lại chạm trán Thạch Phá Thiên tại thị trấn nhỏ này.

Hô Diên Vạn Thiện vốn là người tính toán kỹ lưỡng, cho rằng bọn mình hai người chưa chắc đã là đối thủ của thằng lỏi họ Thạch này. Hắn đã định theo lời dặn của Bạch sư huynh, phóng pháo hiệu lên không để cấp báo, không ngờ Văn Vạn Phu nóng tính không nhẫn nại được liền la ó om sòm.

Đinh Đang kinh hãi nghĩ thầm: “Hai gã này là đệ tử phái Tuyết Sơn, chẳng hiểu Bạch Vạn Kiếm có quanh quẩn ở gần đây không. Nếu hắn mà ló mặt ra, nhất định gia gia sẽ bắt Thạch lang phải động thủ với hắn thì hỏng bét.” Nàng đưa mắt nhìn hai gã rồi nói: “Chúng ta đang nói chuyện riêng, ai bảo các ngươi chõ miệng vào? Thiên ca, chúng ta về thuyền đi.” Thạch Phá Thiên trong lòng cũng phập phồng lo sợ, liền gật đầu đồng ý. Hai người quay mình toan bước đi.

Trước giờ Văn Vạn Phu vẫn xem đứa sư điệt này không ra gì, bèn nghĩ bụng: “Không hiểu sao hai người Vương Vạn Nhận sư ca cùng Trương Vạn Phụng sư đệ lại thua dưới tay thằng lỏi này. Nếu thật sự võ công nó cao cường thì sao mới một chiêu đã bị sư ca bắt được? Hôm nay mà ta bắt được nó thì coi như lập được đại công, có thể dương danh trong bản môn.” Gã liền quát hỏi: “Các ngươi chạy đi đâu? Thằng lỏi họ Thạch kia, biết điều thì đi theo chúng ta!” Gã vừa quát tháo vừa phóng tay trái ra chụp xuống vai Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên nghiêng người tránh né, rồi thi triển cầm nã thủ pháp mấy ngày qua Đinh Đang đã dạy, hất tay trái ra để gạt chiêu thức của đối phương. Văn Vạn Phu là một tay quyền cước rất tinh thâm. Gã chụp không trúng, liền phóng cước đá vào bụng dưới Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên chưa học tới cách phá giải khi đối phương phóng cước đá tới. Hàng nửa ngày trời, chàng chỉ nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc lòng hai chiêu Hổ Trảo Thủ và Ngọc Nữ Niêm Châm, bây giờ gặp lúc nguy cấp, chàng cũng chỉ nhớ tới hai chiêu đó. Lúc này Văn Vạn Phu đứng đối diện với chàng, kể ra thì hai chiêu đó hoàn toàn không thể dùng được, nhưng chàng chẳng có thì giờ đâu mà nghĩ đến chuyện có dùng được hay không nữa, lập tức co giò chạy vòng ra phía sau Văn Vạn Phu.

Nội lực Thạch Phá Thiên thâm hậu vô cùng, dĩ nhiên chàng chuyển mình cực kỳ mau lẹ, tránh khỏi phát cước của Văn Vạn Phu rồi tay phải sử chiêu Hổ Trảo Thủ chụp vào huyệt Linh Đài, tay trái sử chiêu Ngọc Nữ Niêm Châm chụp vào huyệt Huyền Khu đối phương. Nội lực chàng vừa truyền vào,

Văn Vạn Phu khẽ run lên một cái rồi nhũn người lăn ra.

Hô Diên Vạn Thiện đang muốn xông vào giáp công, đột nhiên thấy Thạch Phá Thiên dùng thủ pháp cực kỳ tinh diệu chụp được huyệt đạo trọng yếu của sư đệ thì trong lòng vừa nóng nảy vừa hoang mang đến cực điểm. Gã không kịp rút trường kiếm, vội phóng quyền đánh vào lưng Thạch Phá Thiên. Vì nóng lòng cứu viện cho sư đệ, gã đã vận đến mười thành công lực vào thoi quyền này. Chỉ nghe một tiếng “bình”, sau đó là mấy tiếng răng rắc, cánh tay trái gã đã bị gãy.

Thạch Phá Thiên chỉ cảm thấy sau lưng hơi đau một chút. Lúc chàng buông Văn Vạn Phu ra thì thấy người gã co rúm lại như một đống thịt không nhúc nhích được, vội nắm vai gã lật lên nhìn thì thấy hai mắt gã trợn ngược, vẻ mặt nhìn rất khủng khiếp. Thạch Phá Thiên hốt hoảng la lên: “Trời ơi! Nguy rồi! Đinh Đinh Đang Đang! Gã… gã… tại sao lại bị co rúm? Chẳng lẽ… chẳng lẽ gã chết rồi ư?”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Thiên ca! Thiên ca sử hai chiêu đó rất tốt, chăng qua trong lúc hoang mang nên tư thế hơi khó coi một chút. Gã trúng phải đòn cầm nã như thế, tuy không thể chết được nhưng khó lòng tránh khỏi tàn phế chân tay, phải chữa trị nửa năm một năm mới khỏi được.”

Thạch Phá Thiên rất đỗi kinh ngạc. Chàng vội nâng Văn Vạn Phu dậy nói: “Ta thật là… thật là… có lỗi. Ta… ta… thực tình không cố ý đả thương ngươi. Làm thế nào bây giờ? Đinh Đinh Đang Đang! Muội phải nghĩ cách để chữa trị cho y chứ?”

Đinh Đang đưa tay ra rút lấy thanh trường kiếm đeo bên mình Văn Vạn Phu rồi nói: “Huynh muốn hắn đỡ phải đau khổ ư? Chuyện đó thì dễ lắm, chỉ chém một nhát là xong!”

Thạch Phá Thiên vội nói: “Không được! …”

Hồ Diên Vạn Thiện tức giận mắng: “Hai đứa tiểu yêu vô sỉ này! Đệ tử phái Tuyết Sơn thà chịu chết chứ không chịu nhục. Hôm nay sư huynh sư đệ ta đã bại dưới tay ngươi, vậy ngươi hạ thủ giết chúng ta đi, còn nói những câu chọc tức làm chi?”

Thạch Phá Thiên chỉ sợ Đinh Đinh Đang Đang chém chết Văn Vạn Phu, vội giật lấy thanh trường kiếm ở trong tay nàng cắm phập xuống đất rồi nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Chúng ta mau về thuyền đi.” Nói rồi, chàng kéo tay áo của nàng, ba chân bốn cẳng chạy về thuyền.

Đinh Đang nói: “Giang hồ vẫn đồn đại bang chúa bang Trường Lạc ác độc vô cùng, giết người không chớp mắt mà sao hôm nay chàng lại rụt rè đến thế? Câu chuyện vừa rồi Thiên ca không được nói hở cho gia gia biết.”

Thạch Phá Thiên nói: “Được rồi, ta không nói. Đinh Đinh Đang Đang! Nàng bảo y… y thật sự thành người tàn phế rồi ư?”

Đinh Đang nói: “Thiên ca đã chụp trúng hai đại huyệt mà không làm cho gã thành người tàn phế, thì mười tám đường cầm nã thủ pháp của nhà họ Đinh ta còn dùng làm gì được nữa?”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Thế sao Đinh Đinh Đang Đang lại bảo ta dùng hai chiêu thức này để chụp vào gia gia?”

Đinh Đang mỉm cười đáp: “Chàng ngốc ơi! Gia gia chúng ta là hạng người nào? Gia gia đâu có phải như mấy cái bị thịt phái Tuyết Sơn này? Nếu Thiên ca may mà chụp trúng hai huyệt đạo này của gia gia, có vận dụng nội lực tối đa thì cũng chỉ khiến cho gia gia khó bề cử động trong hai ba giờ thôi. Chẳng lẽ huynh đủ sức đánh cho gia gia tàn phế hay sao?”

Thạch Phá Thiên nghĩ đến dáng vẻ rất dễ sợ của Văn Vạn Phu, cứ áy náy mãi trong lòng. Đêm đó chàng cứ mơ hồ nửa tỉnh nửa mê, đến nửa đêm quả nhiên nghe thấy Đinh Đang la hoảng trong khoang thuyền: “Gia gia! Xin gia gia tha mạng cho Thạch lang, đừng giết chàng! Đừng giết chàng!” Thạch Phá Thiên đứng phắt dậy, đi vào trong khoang. Chàng trông lờ mờ thấy Đinh Đang ôm chặt Đinh Bất Tam, miệng không ngớt kêu la: “Gia gia, đừng giết Thạch lang!”

Thạch Phá Thiên đưa hai tay ra toan chụp xuống sau lưng của Đinh Bất Tam. Nhưng chàng đột nhiên nhớ tới cảnh tượng Văn Vạn Phu co rúm người lại khổ sở vô cùng, nghĩ bụng: “Nếu mình mà chụp xuống khiến cho gia gia cũng biến thành tàn phế thì thật là có lỗi. Ta nhất định không thể làm thế.” Chàng nghĩ vậy rồi từ từ ra khỏi khoang thuyền, ôm đầu nằm ngủ tiếp. Đinh Đang thấy Thạch Phá Thiên chạy vào khoang thuyền, phối hợp hành động rất chính xác, đã mừng thầm trong dạ. Ngờ đâu chàng ngần ngừ một chút rồi bỏ đi, nàng thấy mình sắp thành công mà lại thất bại, trong lòng không khỏi vừa lo lắng vừa giận dữ.

Thạch Phá Thiên về đến đằng lái thuyền, trống ngực đánh thình thình. Lát sau chàng bỗng nghe tiếng Đinh Đang la lên: “Trời ơi! Gia gia! Sao cháu lại ôm lấy gia gia thế này? Cháu… cháu vừa nằm mơ thấy ác mộng. Cháu mơ thấy gia gia phóng chưởng đánh chết Thạch lang! Cháu cầu xin gia gia… gia gia tha mạng cho chàng, gia gia nhất định không chịu. Tạ ơn trời phật, đây chỉ là một giấc mơ.”

Chàng lại nghe Đinh Bất Tam nói: “Ngươi nằm mơ thì cũng vậy, mà không nằm mơ thì cũng vậy. Ngày mai đã là ngày thứ mười. Ta thử chờ nốt ngày mai xem nó có tìm được Bạch Vạn Kiếm rồi đánh bại hắn hay không.”

Đinh Đang thở dài nói: “Cháu biết Thạch lang không phải là thằng ngốc.”

Đinh Bất Tam nói: “Đúng đấy! Nó có lương tâm rất tốt. Nhưng ta lại xem người nào có lương tâm là ngu dại, là si ngốc, là đáng chết. Ôi! Dùng Hổ Trảo Thủ chụp vào huyệt Linh Đài, dùng Ngọc Nữ Niêm Châm nắm lấy huyệt Huyền Khu. Thật là diệu kế! Thật là diệu kế! Nhưng kẻ nào mà có lương tâm không chịu hạ thủ, thì chính là thằng ngốc. Thằng ngốc thì đáng chết.”

Mấy câu nói từ trong khoang thuyền đưa ra ngoài, chẳng những lọt vào tai Đinh Đang mà cả Thạch Phá Thiên đang nằm ngoài sàn thuyền cũng nghe rõ. Hai người cùng giật mình kinh hãi tự hỏi: “Tại sao gia gia lại biết rõ kế sách của chúng ta?”

Thạch Phá Thiên còn ít, chứ Đinh Đang hết sức băn khoăn, toàn thân toát mồ hôi ra như tắm. Nàng lẩm bẩm: “Té ra gia gia đã biết trước từ lâu rồi, nhất định đã âm thầm chuẩn bị. Vừa rồi Thiên ca không động thủ, không biết đó là phúc hay là họa.” Thạch Phá Thiên thì vẫn ngây ngô, không tin ngày mai Đinh Bất Tam sẽ hạ thủ giết mình. Chỉ sau một lúc, chàng lại ngủ thiếp đi.

* * *

Lúc trời mờ sáng, bỗng trên bờ sông có tiếng người náo loạn, rồi có người la lên: “Đây rồi! Chính là chiếc thuyền này.” Có người lại hô: “Chúng trong thuyền kia rồi. Đừng để lão yêu quái tẩu thoát.”

Thạch Phá Thiên nghe tiếng la ó vội ngồi dậy, thấy trên bờ có đến mười mấy người, kẻ cầm đèn lồng, người cầm đuốc sáng rực cả một vùng, chạy đến bên thuyền. Bốn năm người đi đầu nhảy vọt lên thuyền, lớn tiếng quát: “Lão yêu quái đâu? Lão yêu hại người trốn đâu rồi?”

Đinh Bất Tam chui từ trong khoang thuyền ra, hét lớn: “Bọn nào dám đến đây quấy nhiễu giấc ngủ của lão gia?”

Một hán tử hét lên: “Chính hắn đấy! Chính hắn đấy! Phun ngay đi!” Hai người đứng sau anh ta lấy ra hai ống trúc, nhằm Đinh Bất Tam thụt ra hai tia máu. Bọn người trên bờ hoan hô rầm rĩ: “Máu chó mực phun trúng lão yêu quái rồi. Lão đừng hòng trốn được nữa.”

Thực ra hai ống máu chó đó làm sao phun trúng vào người Đinh Bất Tam được? Lão tức giận vô cùng, nhảy vọt lên lớn tiếng quát: “Bọn càn rỡ ở đâu đến đây, dám bảo lão phu là yêu quái rồi dùng máu chó mà bắn lão phu?”

Bọn kia đâu có biết lão già này hỉ nộ bất thường, lại chỉ cất tay một cái là giết người được ngay, nếu không thì chẳng dại gì gây sự với lão. Đinh Bất Tam còn chưa hạ mình xuống đã phóng song cước đá trúng hai gã hán tử cầm ống trúc, rồi lại phóng chưởng đánh trúng gã đại hán đứng đầu, hất văng ra ngoài. Cả ba người này đều không hiểu võ công, trúng phải quyền cước của một tay quái kiệt giang hồ thì làm sao giữ được mạng nữa? Hai người cầm ống trúc gục xuống chết ở ngay đầu thuyền, còn đại hán bị đánh tung lên thì người còn lơ lửng trên không, miệng đã hộc máu tươi ra.

Đinh Bất Tam lại toan phóng cước đá quét vào bọn người còn sống sót. Bỗng nghe Đinh Đang ở phía sau lạnh lùng nói: “Gia gia! Nhất nhật bất quá tam, một ngày không giết quá ba người.” Đinh Bất Tam không khỏi sửng sốt, vì giận quá mà suýt nữa quên cả lời trọng thệ. Nghe Đinh Đang la hoảng, chân lão chưa đá trúng ai đã vội thu về.

Mấy người kia sợ đến hồn vía lên mây, kêu la rầm rĩ: “Lão yêu quái này ghê gớm quá! Chạy cho mau! Chạy cho mau!” Chớp mắt chúng đã trốn hết, đèn đuốc cái thì quẳng xuống sông, cái thì vứt lại trên bờ. Ba cái xác chết, một cái trên bờ, hai cái ở đầu thuyền, cũng chẳng ai đụng đến nữa.

Đinh Bất Tam đá xác chết trên thuyền văng xuống sông rồi quay vào bảo lão thuyền phu: “Nhổ thuyền chạy cho lẹ! Bây giờ mà chúng còn kéo đến thì ta không thể giết thêm được nữa.” Lão thuyền phu sợ quá thộn mặt ra, hai tay run lẩy bẩy, không đủ sức để nhổ sào lên.

Đinh Bất Tam liền tự tay nhổ sào đẩy thuyền ra xa bờ. ống máu chó vừa rồi thụt không trúng người lão, vung vãi đầy trong khoang thuyền, mùi hôi tanh xông lên rất khó ngửi. Đinh Bất Tam cất giọng lạnh lùng hỏi: “Đinh Đang! Có phải ngươi giở trò quỷ này không?”

Đinh Đang không trả lời câu hỏi của gia gia, chỉ mỉm cười hỏi lại: “Gia gia! Gia gia đã nói ra gì thì có giữ lời không?”

Đinh Bất Tam đáp: “Có bao giờ ta nói mà không giữ lời đâu?”

Đinh Đang nói: “Hay lắm! Gia gia đã nói đến hết mười ngày mà Thạch lang không đánh bại được Bạch Vạn Kiếm thì gia gia sẽ giết chàng. Hôm nay là ngày thứ mười, nhưng gia gia đã giết ba mạng rồi.”

Đinh Bất Tam run lên rồi nói: “Con tiểu nha đầu này thực lắm mưu ma chước quỷ. Té ra gia gia đã mắc vào cạm bẫy của ngươi.”

Đinh Đang hết sức đắc ý, cười hì hì nói: “Đinh tam gia trước giờ nói thế nào thì làm thế ấy. Gia gia nói đến ngày thứ mười là nhất định sẽ giết Thạch lang, nhưng nhất nhật bất quá tam, hôm nay gia gia đã giết ba người rồi, không giết người thứ tư được nữa. Gia gia đã không giết chàng vào ngày thứ mười, thì sau này cũng không thể giết. Theo cháu thấy thì cháu rể của gia gia cũng không phải ngu ngốc gì, đợi khi thần trí hoàn toàn khôi phục thì võ công chàng dĩ nhiên sẽ tiến bộ rất mau, nhất định không làm mất thể diện của gia gia đâu.”

Đinh Bất Tam tức mình giơ chân lên dậm nghe rắc một cái, ván lót thuyền bị thủng một lỗ. Lão thét lên: “Không được, không được! Đinh Bất Tam ta không thể thua dưới tay con a đầu này được, nếu không thì thật là mất thể diện.”

Đinh Đang khoái chí cười nói: “A Đang là cháu gái của gia gia, người trong một nhà thì có gì mà mất mặt hay không mất mặt? Chuyện này cháu nhất định không nói ra cho ai biết.”

Đinh Bất Tam tức giận nói: “Ta đã thua ai thì trong lòng tự thấy khó chịu, ngươi có nói chuyện này ra hay không thì cũng thế thôi.”

Đinh Đang nói: “Thế thì coi như gia gia đã thắng cháu cũng được.”

Đinh Bất Tam nói: “Thua là thua, thắng là thắng. Ta đâu có phải lão Tứ gia gia vô dụng của ngươi? Hồi nhỏ hắn hay đánh nhau với ta, mỗi khi thua cứ cố cãi là mình thắng.”

Thạch Phá Thiên nghe hai ông cháu cãi vã nhau, đến lúc này mới tỉnh ngộ nghĩ thầm: “Té ra bọn người kia là do Đinh Đinh Đang Đang cố ý dẫn dụ đến để gia gia hạ sát ba người liên tiếp, rồi sau đó nhắc đến chuyện nhất nhật bất quá tam để gia gia không giết mình được nữa.”

Chàng chính mắt nhìn thấy chỉ trong chớp nhoáng Đinh Bất Tam đã giết ba người, thần thái hết sức hung hãn, thế thì lão nói muốn giết mình chắc cũng không phải chuyện nói đùa. Chàng thấy Đinh Đang mỉm cười đi ra sau thuyền, bèn nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Nàng muốn cứu mạng ta mà làm ba người phải chết oan, như thế chẳng hóa ra… tàn nhẫn lắm hay sao?”

Đinh Đang sầm mặt hỏi lại: “Đó là Thiên ca hại người, sao lại còn trách muội?”

Thạch Phá Thiên ngo” ngác hỏi: “Là… là ta hại người ư?”

Đinh Đang nói: “Chứ còn gì nữa? Việc đến lúc quyết định mà Thiên ca không dám động thủ. Nếu huynh làm theo lời tiểu muội thì hai ta đã chạy xa rồi, đâu có liên lụy đến ba người phải vô cớ mà mất mạng?” Thạch Phá Thiên thấy nàng nói mấy câu này cũng không sai, nghẹn họng không biết nói sao nữa.

Bỗng Đinh Bất Tam cười ha hả rồi lớn tiếng nói: “Được lắm, được lắm! Thằng lỏi họ Thạch kia! Gia gia sẽ móc mắt chặt tay ngươi, để cho ngươi sống không sống được, chết chẳng chết cho, biến thành một phế nhân. Chỉ cần ta không lấy mạng ngươi, thì chưa phải là phá cái quy củ nhất nhật bất quá tam.”

Đinh Đang và Thạch Phá Thiên cùng nhìn nhau, thần sắc thay đổi hẳn. Đinh Bất Tam rất lấy làm đắc ý, lại nói luôn một hồi: “Diệu kế, diệu kế! Thằng ngốc kia, ta không giết ngươi, nhưng phải làm cho ngươi biến thành nửa người nửa ma. A Đang đâu rồi? Ta nói hợp lý đấy chứ?”

Ngay lúc này Đinh Đang thật chẳng biết nói gì, đành đáp: “Ngày thứ mười cũng chưa hết. Biết đâu hôm nay Thạch lang lại gặp Bạch Vạn Kiếm rồi đả bại hắn thì sao?”

Đinh Bất Tam cười ha hả nói: “Không sai, không sai. Chúng ta phải lấy đạo lý mà cư xử, dù già dù trẻ cũng không được ăn gian. Gia gia sẽ chờ đến canh ba đêm nay rồi mới động thủ cũng chưa muộn.”

Đinh Đang buồn bã vô cùng, nghĩ mãi mà không ra được biện pháp nào cứu Thạch Phá Thiên thoát được mối nguy này. Còn Thạch Phá Thiên thì vẫn không hề biết đại họa lâm đầu, ngớ ngẩn hỏi nàng: “Sao muội chau mày lại? Muội có tâm sự gì chăng?”

Đinh Đang bực bội đáp: “Thiên ca không nghe gì ư? Gia gia muốn móc mắt huynh, chặt đứt tay huynh.”

Thạch Phá Thiên cười nói: “Gia gia nói giỡn để dọa chơi, mà Đinh Đinh Đang Đang lại tưởng là thật ư? Ta chẳng đắc tội gì với gia gia, gia gia móc mắt cùng chặt tay ta để làm chi?”

Đinh Đang từ bực bội chuyển thành tức giận, nghĩ bụng: “Thạch lang bây giờ suốt ngày ngơ ngơ ngẩn ngẩn, đầu óc lờ mờ chẳng hiểu chi hết. Ta mà theo chàng cả đời thì cũng chẳng vui thú gì. Gia gia muốn giết chàng, thì cứ để chàng chết quách đi cho xong.” Nàng nghĩ tới gia gia định móc mắt chặt tay Thạch lang, thì lại nghĩ: “Thạch lang mà bị như thế thì chẳng còn cách nào chạy chữa cho khỏi được. Ta lấy phải người chồng tàn tật, thật khổ cả một đời.” Đinh Đang ngẩng mặt nhìn trời thấy thái dương đã xế về tây, nhìn xuống dưới sông thì thấy bóng mình cùng Thạch Phá Thiên song song in trên mặt nước, tựa hồ đang bơi lội, giỡn sóng mà đi.

Đinh Đang quay người lại, thấy lưng của Thạch Phá Thiên đang hướng về phía mình, bèn dùng cầm nã thủ kiềm chế yếu huyệt trên lưng chàng. Tay phải nàng sử chiêu Hổ Trảo Thủ nắm lấy huyệt Linh Đài, tay trái ra chiêu Ngọc Nữ Niêm Châm chụp vào huyệt Huyền Khu. Thạch Phá Thiên không phòng bị chi hết, bị nàng nắm trúng huyệt đạo, lập tức toàn thân chàng nhũn ra không nhúc nhích được nữa. Đinh Đang cũng bị nội lực Thạch Phá Thiên chấn động, người nàng bị hất ra, suýt nữa ngã xuống sông. Nàng vội đưa tay ra nắm được mui thuyền rồi cất tiếng mắng: “Ngươi sắp bị gia gia móc mắt chặt tay. Con người tàn phế như vậy mà để sống trên đời, dù chẳng làm cho Đinh tam gia mất thể diện, thì Đinh Đang này cũng không còn mặt mũi trông thấy ai nữa. Chẳng cần gia gia động thủ, ta tự tay móc mắt ngươi ra trước.”

Nàng nói xong, tới đằng lái thuyền lôi ra một sợi dây rất dài, trói chân tay Thạch Phá Thiên lại. Nàng còn lấy vải buồm quấn dọc từ vai xuống đến chân, cột chằng chịt đến tám chín vòng khắp người chàng, trông như một đòn bánh tét lớn. Lẽ ra Thạch Phá Thiên đã bị cầm nã thủ chụp trúng huyệt đạo, thì trong một thời gian không thể nói chuyện được. Nhưng nhờ nội lực chàng thâm hậu, nên tuy tứ chi không cử động được mà vẫn có thể lên tiếng hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang! Sao nàng lại đùa dai thế?”

Miệng chàng nói vậy, song thấy mặt nàng đầy vẻ hung dữ thì biết là gặp chuyện không hay, trong ánh mắt chàng bỗng lộ vẻ van lơn. Đinh Đang vừa phóng chân đá vào lưng Thạch Phá Thiên vừa mắng nhiếc: “Hừ! Ta mà đùa với ngươi ư? Chết đến nơi rồi mà vẫn còn như người mơ ngủ. Những loại ngu ngốc như ngươi, dù chém tới ngàn đao vạn đao cũng không oan uổng.” Rồi nàng rút xoẹt lưỡi dao lá liễu ra, liếc qua liếc lại trên mặt Thạch Phá Thiên hai cái, như người đang mài dao.

Thạch Phá Thiên kinh hãi nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Từ nay trở đi, nhất định ta sẽ nghe lời nàng mọi chuyện. Nàng đừng giết ta, ta không sống lại được đâu!”

Đinh Đang giận dữ nói: “Ai cần ngươi sống trở lại? Ta đã có lòng cứu ngươi, nhưng ngươi lại không chịu nghe ta dặn bảo. Đó là tự ngươi đi tìm cái chết, còn trách ai được nữa? Bây giờ ta mà không giết ngươi, thì gia gia cũng chẳng tha ngươi. Hừ! Nếu chồng của ta bị giết thì cũng phải chính ta động thủ, chứ để người khác giết chồng mình thì suốt đời Đinh Đang này làm sao yên lòng được nữa?”

Thạch Phá Thiên nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Nàng tha ta đi, ta không làm chồng nàng nữa là xong.” Đối với chàng thì mấy câu này đã là cầu xin cực độ. Chỉ vì từ nhỏ chàng đã nghe mẹ dạy không được cầu xin ai cả, nên hai chữ cầu xin khó mà nói ra miệng được.

Đinh Đang nói: “Đã cùng bái thiên địa rồi, sao lại không phải là chồng của ta? Ngươi mà còn làm ầm ĩ nữa thì ta chém vào đầu ngươi lập tức.” Thạch Phá Thiên cả sợ, không dám nói to lên nữa.

Bỗng nghe Đinh Bất Tam cười rộ lên rồi nói: “Hay lắm, hay lắm! Thế mới không thẹn là cháu gái ngoan của Đinh lão tam. Ngươi cứ sảng khoái vung một đao chém nó thành hai đoạn là xong.”

Thấy Đinh Đang giơ đao lên toan giết người, lão thuyền phu sợ đến tay run bần bật, bẻ lái thuyền đi lệch đường, suýt đụng vào một con thuyền nhỏ đang thuận dòng xuôi tới. Người chống sào bên thuyền nhỏ thấy thuyền mình sắp đâm vào thuyền Đinh Bất Tam, hốt hoảng la lên: “Bẻ lái thẳng lại! Bẻ lái thẳng lại!”

Đinh Đang giơ thanh Liễu Diệp Đao lên, ánh trời chiều phản chiếu lên lưỡi dao làm chói mắt Thạch Phá Thiên. Đột nhiên nàng vung tay đâm phập xuống ván thuyền, chỉ cách mặt chàng chừng vài tấc. Đinh Đang cắm đao xuống rồi buông tay ra, hai tay nàng ôm lấy người Thạch Phá Thiên, vận kình liệng mạnh chàng vào con thuyền nhỏ đang đi sát bên cạnh.

Đinh Bất Tam thấy cô cháu đột nhiên thi hành ngụy kế thì tức giận quát lên: “Ngươi… ngươi làm trò gì vậy?” Lão phi thân vọt tới, định chụp Thạch Phá Thiên lại nhưng đã chậm mất rồi. Nước sông chảy xiết, chỉ trong chớp mắt hai con thuyền đã cách nhau đến mười mấy trượng, dù khinh công Đinh Bất Tam có cao thâm gấp mười cũng không tài nào nhảy sang thuyền kia được. Lão xoay tay lại tát Đinh Đang một cái thật mạnh rồi la lên: “Quay thuyền lại! Quay thuyền lại! Đuổi mau!”

Nhưng sông Trường Giang sóng to gió lớn, làm sao trong một khoảnh khắc mà xoay chiếc thuyền lại được? Huống chi con thuyền nhỏ đang nhẹ nhàng lướt sóng, mỗi lúc một xa hơn, dù có quay được thuyền lại cũng khó mà đuối kịp.

Hồi 09: Đòn Bánh Tét

Thạch Phá Thiên nghe gió rít bên tai vù vù, thân thể lơ lửng trên không lăn đi nửa vòng, lúc rơi xuống thì nằm sấp. Người chàng rớt vào một chỗ mềm nhũn nên chẳng đau đớn gì, chung quanh tối đen không nhìn thấy chi hết. Chàng chợt nghe có tiếng người khẽ gọi, nhưng thân thể không nhúc nhích được nên không dám mở miệng. Mũi chàng ngửi thấy một mùi thơm man mác, tựa như đã về tới tổng đà bang Trường Lạc, nằm trên chiếc giường êm ấm trong phòng mình.

Thạch Phá Thiên định thần lại một chút, quả nhiên nhận ra mình đang nằm trên chăn đệm, mặt úp vào một cái gối. Trên gối lại có một mái tóc dài của nữ nhân đang buông xõa ra. Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi, la lên một tiếng.

Rồi chàng nghe giọng một thiếu nữ hỏi: “Ngươi… ngươi là ai?”

Thạch Phá Thiên ấp úng: “Ta… Ta…” Chàng không biết đáp thế nào cho tiện.

Thiếu nữ tức giận nói: “Ngươi tự nhiên chui vào trong thuyền của chúng ta, tất không phải là hạng người tử tế. Bản cô nương phải chém chết ngươi cho xong!”

Thạch Phá Thiên lớn tiếng la lên: “Không! Ta không phải… tự nhiên chui vào thuyền này. Ta bị người khác ném vào đây.”

Thiếu nữ nói: “Ngươi… ngươi… cút ra mau! Sao ngươi dám chui vào chăn đệm của ta?” Thạch Phá Thiên định thần lại, quả nhiên chàng nhận thấy trên lưng mình có chăn mà dưới ngực lại có đệm, mặt úp lên gối. Trong đống chăn đệm này còn hơi ấm áp, rõ ràng vừa có người nằm.

Thì ra Đinh Đang thừa lúc con thuyền nhỏ đi sát thuyền mình mà liệng Thạch Phá Thiên đúng vào khoang thuyền. Theo lời thiếu nữ này nói thì đây chính là chỗ ngủ của nàng, thật là chuyện ngẫu nhiên phiền phức. Giả tỉ lúc này tay chân Thạch Phá Thiên không bị trói, thì chàng đã vùng dậy nhảy ra ngoài rồi. Khốn nỗi chàng bị điểm huyệt chưa ai giải khai cho, dù muốn giơ tay lên cũng không được chứ đừng nói đến chuyện cử động. Chàng đành năn nỉ: “Tại hạ không nhúc nhích được, xin cô nương đẩy ra giúp. Cô nương muốn liệng thì cứ liệng, muốn đá thì cứ đá, tại hạ chẳng dám kêu ca chi hết.”

Lại nghe thanh âm một bà già lên tiếng: “Thằng khốn kiếp này nói lăng nhăng gì vậy? Ngươi vung đao chém chết gã quách đi cho xong!”

Thiếu nữ kia lại nói: “Bà bà! Nếu cứ để gã nằm đây mà chém chết, máu me dây cả ra chăn đệm của con thì… làm thế nào?” Giọng nàng tỏ ra rất nóng nảy băn khoăn.

Mụ già tức giận quát lên: “Ngươi làm trò gì thế? Tên khốn nạn kia, sao không chui ra đây?”

Thạch Phá Thiên vội vàng đáp: “Ta thật sự là không động đậy được. Ta đã bị kiềm chế huyệt Linh Đài và huyệt Huyền Khu, toàn thân lại bị bó chằng bó chịt không thể nhúc nhích, chẳng biết làm thế nào? Vị cô nương hay thái thái nào đó, xin lại đây mau! Tại hạ nằm đây thực… thực không tiện chút nào.”

Thiếu nữ bĩu môi nói: “Thái thái nào đâu? Ta là một cô nương… ta cũng không cử động được. Bà bà! Bà mau tìm cách gì đi, gã này đúng là bị người ta trói thực.”

Thạch Phá Thiên nói: “Lão thái thái!… Tại hạ nhờ lão thái thái vào đây lôi tại hạ ra… Tại hạ thật là đắc tội với cô nương này… thật sự… thật sự không biết nói gì hơn.”

Mụ già tức giận quát lên: “Quân khốn kiếp! Bây giờ mà ngươi còn nói chuyện giỡn chơi được ư?”

Thiếu nữ nói: “Bà bà! Chúng ta kêu thuyền phu ở đằng lái vào kéo gã ra có được không?”

Mụ già vội nói: “Không được! Không được! Tình hình lộn xộn thế này làm sao để người khác thấy được? Nếu chúng biết bà cháu mình cùng không động đậy được, thì cái này… cái này…”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên tự hỏi: “Chẳng lẽ vị thái thái kia cùng cô nương đây cũng bị người ta trói chặt, không nhúc nhích được hay sao?”

Mụ già vừa tức giận vừa nóng nảy, chửi mắng luôn miệng: “Quân khốn kiếp! Quân khốn kiếp! Sao ngươi không đi thuyền nào khác lại nhảy vào thuyền này? A Tú! Ngươi giết phứt gã đi! Chăn đệm bị dây máu thì có gì quan hệ đâu? Sớm muộn gì cũng phải giết gã thôi.”

Thiếu nữ nói: “Cháu không đủ sức để giết người nữa.”

Mụ già kia nói: “Ngươi cứ dùng dao mà từ từ cứa đứt cổ họng nó là được. Quân khốn nạn này bị đứt cổ thì chắc chắn không thể sống được nữa.”

Thạch Phá Thiên vội la lớn: “Không được! Không được! Máu tại hạ tanh vô cùng, chăn đệm thơm tho thế này mà để máu dơ bẩn dây vào ư? Huống chi… huống chi… trong chăn đệm mà có xác chết thì thật là không tốt!”

Bỗng nghe một tiếng rên nho nhỏ, dường như cô nương này nghĩ tới trong chăn đệm có tử thi thì sợ phát run lên. Thạch Phá Thiên cả mừng, lại nghe nàng nói: “Bà bà! Con không đủ cả sức để rút dao nữa.”

Thạch Phá Thiên nói: “Cô không có sức để rút dao, thật không có gì tốt hơn được nữa. Nếu bị cô nương giết chết, tại hạ nhất định sẽ biến thành quỷ nhập tràng nằm kế bên mình cô nương lại càng khủng khiếp hơn. Lúc này còn sống tại hạ không nhúc nhích được, khi chết đi biến thành quỷ nhập tràng dĩ nhiên cử động được như thường. Hai bàn tay lạnh toát như băng của quỷ nhập tràng sẽ túm chặt lấy cổ cô nương…”

Thiếu nữ nghe Thạch Phá Thiên nói vậy quả nhiên sợ hết hồn, vội la lên: “Ta không giết ngươi! Ta không giết ngươi!” Ngừng một lúc, nàng cất tiếng gọi: “Bà bà! Bà có nghĩ được biện pháp nào đem gã này ra không?”

Mụ già đáp: “Ta đang nghĩ cách đây. Ngươi đừng nói nhiều nữa!”

Trời đã tối mịt, trong thuyền chẳng nhìn rõ gì hết. Thạch Phá Thiên tuy nằm cùng chăn đệm với thiếu nữ, nhưng may mà khi bị liệng vào, chàng nằm chệch sang một bên, không chạm tới người nàng. Trong bóng tối, Thạch Phá Thiên chỉ nghe tiếng nàng thở rất gấp, tỏ ra vừa bồn chồn vừa sợ hãi. Đã khá lâu mà mụ già vẫn chưa nghĩ ra được biện pháp nào.

Đột nhiên trên sông có hai tiếng sáo nổi lên lanh lảnh, giữa đêm khuya yên tĩnh nghe càng chói tai hơn. Tiếng sáo chưa dứt, làn gió trên sông đã đưa lại một tràng cười ha hả, đúng là thanh âm một lão già quắc thước. Lão già vừa cười vừa cất tiếng gọi: “Tiểu Thúy! Ta đợi nàng suốt một ngày một đêm rồi, sao bây giờ nàng mới đến?”

Cô nương kia hoảng hốt gọi: “Bà bà! Hắn… hắn đuổi kịp đến nơi rồi! Biết làm thế nào bây giờ?”

Mụ già hứ một tiếng rồi đáp: “Ngươi đừng lên tiếng nữa. Ta đang đề tụ chân khí, cố làm những kinh mạch dưới chân hơi thông một tí. Hễ nhúc nhích được một chút là ta sẽ nhảy xuống sông để khỏi bị lão yêu quái làm nhục.”

Cô nương đó vội vàng nói: “Bà bà! Như vậy không được đâu!”

Mụ già tức giận nói: “Ta đã bảo ngươi đừng có làm phiền ta nữa. Lúc ta nhảy xuống sông, ngươi có theo ta không?”

Cô nương ngần ngừ một chút rồi nói: “Cháu… cháu sẽ chết chung với bà bà.”

Mụ già nói: “Thế thì được.” Rồi mụ im lặng, không nói gì nữa.

Thạch Phá Thiên đã hai lần nếm mùi tẩu hỏa nhập ma. Chàng nghĩ bụng: “Té ra lão thái thái cùng tiểu cô nương này đều vì luyện nội công mà bị tẩu hỏa đến không nhúc nhích được nữa. Địch nhân lại đuối đến nơi giữa lúc này thì thật là khó xử!”

Tiếng lão già dưới hạ lưu lại vang lên: “Phen này nàng muốn đấu kiếm cũng được mà đấu quyền cũng được, Đinh lão tứ này nhất định tiếp đón đến cùng. Tiểu Thúy! Sao ta hỏi mà nàng không trả lời?” Câu này vừa dứt, thanh âm đã gần lại thêm mấy chục trượng. Một lúc sau, bỗng nghe trên không trung vang lên mấy tiếng loảng xoảng, rồi nghe một tiếng “bõm”, dường như vật gì nặng rớt xuống thuyền. Thì ra lúc con thuyền kia đi tới, có người liệng neo buộc xích sắt xuống cho thuyền dừng lại.

Người thuyền phu ở đằng lái la lên: “Trời ơi! Ai làm gì vậy? Ai làm gì vậy?”

Thuyền tròng trành mạnh. Thạch Phá Thiên không tự chủ được, bị lăn qua bên phải. Cô nương kia cũng lăn theo, tựa vào người chàng. Thạch Phá Thiên nói: “Cái này… cái này… cô nương…” Chàng định bảo cô ấy đừng tựa vào người mình, nhưng nghĩ lại cô ta cũng không nhúc nhích được chẳng khác gì mình, nên chàng đang nói dở câu liền ngừng lại. Tiếp theo chàng cảm thấy mũi thuyền chúi xuống, có người nhảy qua thuyền mình. Con thuyền lại tròng trành một lúc rồi mới ổn định.

Lão già đứng ở mũi thuyền lên tiếng nói: “Tiểu Thúy! Ta đã đến đây! Chúng ta có động thủ ngay không?”

Người thuyền phu ở đằng lái la lên: “Lão làm gì mà quấy rối ghê thế? Cả hai con thuyền bị đắm hết bây giờ.”

Lão già tức giận mắng: “Đồ chó chết! Ngươi có câm miệng ngay không?” Lão rút neo lên rồi quăng ra, hai con thuyền lại trôi băng băng theo dòng nước. Người thuyền phu thấy lão thần lực ghê người, cái neo quấn xích sắt nặng đến hàng trăm cân mà lão kéo phăng phăng coi nhẹ như không, liền sợ cứng lưỡi không dám nói gì nữa.

Lão già mỉm cười nói: “Tiểu Thúy! Ta cứ ở đầu thuyền đợi nàng. Nàng nằm trong khoang định ám toán ta, ta không bị lừa đâu.”

Thạch Phá Thiên nghe lão nói vậy thì yên tâm được một chút, nghĩ bụng: “Lão chưa vào khoang thuyền lúc nào thì hay lúc ấy.” Nhưng sau chàng lại nghĩ thầm: “Kéo dài thời gian chưa chắc đã hay. Bà già kia mà ngưng tụ chân khí được, là lập tức cắp tiểu cô nương này nhảy xuống sông tự vẫn.” Lúc này tai nàng đang kề vào miệng Thạch Phá Thiên, chàng khẽ bảo: “Cô nương! Cô bảo bà bà đừng nhảy xuống sông.”

Thiếu nữ nói: “Bà bà… bà bà không chịu đâu. Lão nhân gia nhất định phải nhảy xuống sông.” Lúc đó nàng cảm thấy quá đau lòng, không nhịn được nữa phải để nước mắt chảy ra, ướt cả mặt Thạch Phá Thiên. Rồi cô nghẹn ngào nói: “Xin… xin lỗi. Nước mắt của ta đã rớt trúng mặt ngươi rồi.” Thì ra cô nương này là người văn nhã, hiểu lễ nghĩa.

Thạch Phá Thiên khẽ thở dài rồi nói: “Cô nương bất tất phải khách khí. Mấy giọt nước mắt có gì đáng kể đâu?”

Nàng vừa khóc vừa nói: “Ta cũng không muốn chết, nhưng lão đứng ở đầu thuyền kia hung dữ lắm. Bà bà bảo là thà chết đi còn hơn để lọt vào tay lão. Ta… ta để nước mắt chảy vào mặt ngươi thật lấy làm áy náy. Ngươi đừng giận ta nhé…”

Giữa lúc ấy, bỗng nghe trên sạp thuyền có một tiếng bịch nhè nhẹ, đầu khoang thuyền kia có một bóng người ngồi. Thạch Phá Thiên trước thì nằm sấp, mặt úp xuống gối, nhưng vì thuyền xô nên chàng nghiêng người lên, có thể nhìn rõ. Vừa trông thấy người ngồi ở đó, trống ngực Thạch Phá Thiên đập thình thình. Chàng run giọng nói: “Cô… cô nương! Bà bà của cô ngồi dậy được rồi.”

Cô nương “à” lên một tiếng. Nàng đang đối diện với Thạch Phá Thiên nên không nhìn thấy tình hình ngoài sàn thuyền. Một lúc sau, Thạch Phá Thiên lại la lên: “Lão thái thái! Thái thái đừng nắm lấy cô nương, cô nương không muốn nhảy xuống sông tự tử đâu. Có ai đó không? Lại cứu người ngay!”

Lão già đứng ở đầu thuyền nghe trong khoang có thanh âm một chàng trai trẻ thì hết sức ngạc nhiên, bèn hỏi: “Gã nào la ó om sòm vậy?”

Thạch Phá Thiên hô lớn: “Lão bá mau tới cứu người. Lẹ lên! Lão thái thái sắp nhảy xuống sông tự tử rồi.”

Lão già giật mình kinh hãi, vung chưởng hất một nửa mui thuyền lên, đồng thời vươn tay phải chụp lấy cánh tay bà lão. Bao nhiêu chân khí của bà lão cố gắng ngưng tụ trong nửa ngày, bây giờ lập tức tiêu tan hết. Lão già kia vừa chụp tới, mụ đã ngã lăn ra. Lão già nắm lấy mạch môn rồi đưa tay ra giữ lấy lưng mụ. Lão thất kinh hỏi: “Tiểu Thúy! Nàng luyện công bị tẩu hỏa ư? Sao không bảo trước mà cứ gắng gượng chống cự?”

Bà lão thở hổn hển nói: “Buông tay ta ra! Mặc kệ ta, cút mau đi!”

Lão già nói: “Kinh mạch của nàng chạy ngược đường hết sức nguy hiểm, nếu không sớm chữa trị thì e rằng… e rằng sẽ thành tàn phế. Để ta giúp nàng một tay.”

Mụ già tức giận nói: “Nếu ngươi còn đụng chạm vào thân thể ta, thì dù ta không cử động được cũng quyết cắn lưỡi tự tận ngay lập tức.”

Lão già biết tính tình mụ này cương liệt nói sao làm vậy, nên vội rút tay lại la lên: “Mấy mạch Thủ thái âm phế kinh, Thủ thiếu âm tâm kinh và Thủ thiếu dương tam tiêu của nàng bị rối loạn cả rồi. Cái đó… cái đó…”

Mụ già nói: “Ngươi cứ cố thắng ta, bây giờ ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma còn chưa tốt hay sao? Như vậy là hợp với tâm nguyện ngươi rồi.”

Lão già đáp: “Thôi, không nói đến chuyện đó nữa. A Tú! Ngươi làm sao vậy, cố khuyên bà nội ngươi đi chứ? Ngươi… ngươi… sao lại ngủ chung với một nam nhân? Gã là tình lang hay là lang quân của ngươi?”

A Tú cùng Thạch Phá Thiên vội vã đáp “Không phải, không phải đâu. Chúng ta đều không nhúc nhích được.”

Lão kia vừa ngạc nhiên vừa tức cười, đưa tay kéo Thạch Phá Thiên ra. Ngờ đâu chàng đang bị trói bằng dây buồm chặt cứng, không co duỗi gì được, bị lão lôi từ trong mền ra như một cây gỗ. Lão kia thấy vậy giật mình không hiểu chi hết, nhưng định thần nhìn rõ lại liền nổi lên cười ha hả nói: “A Tú! Đây có phải là Tết Đoan Ngọ đâu mà ngươi giấu một đòn bánh tét lớn trong chăn màn?”

A Tú vội đáp: “Không phải! Gã ở ngoài bay vào đây, không phải ta giấu gã đâu.”

Lão già cười hỏi: “Sao ngươi cũng không cử động được? Chẳng lẽ cũng biến thành đòn bánh tét rồi sao?”

Mụ già giận dữ nói: “Ngươi dám đụng một ngón tay vào A Tú thì ta phải liều mạng với ngươi.”

Lão già thở dài nói: “Được! Ta không đụng vào người cô ấy.” Rồi lão quay lại bảo người phu thuyền: “Thuyền gia! Quay thuyền lại rồi giương buồm lên, chừng nào ta bảo thì mới được dừng thuyền!” Người phu thuyền không dám trái ý lão, liền dạ một tiếng rồi từ từ quay thuyền lại.

Mụ già tức giận hỏi: “Ngươi làm gì vậy?”

Lão già kia đáp: “Ta đưa nàng lên Bích Loa Sơn để điều dưỡng cho mau khỏi. Lần này nàng bị tẩu hỏa nhập ma không phải là nhẹ đâu.”

Mụ già quát: “Ta thà chết chứ không chịu lên Bích Loa Sơn. Ta đã thua ngươi đâu mà ngươi bắt ta phải đến cái ổ chó của ngươi?”

Lão kia nói: “Chúng ta đã ước hẹn tỉ võ trên sông Trường Giang, nàng thắng thì ta phải đến nhà nàng mà khấu đầu bái lạy, nàng thua thì phải ghé nhà ta một chuyến. Bây giờ nàng tự luyện nội công mà bị tẩu hỏa nhập ma cũng thế, mà nàng không thắng nổi ta thì cũng thế, nói sao thì nói cũng phải lên Bích Loa Sơn một phen. Mộng ước mấy chục năm nay của ta lần này coi như đạt được, thật là tuyệt diệu.”

Mụ già tức giận như phát điên, la rầm lên: “Không đi! Không đi! Ta nhất định không đi!” Mụ càng la, thanh âm nghe càng nghẹn ngào thê thảm, cơ hồ sắp ngạt thở mà ngất đi.

Lão già kia vẫn cười khì khì nói: “Nàng không đi thì cũng phải đi, chuyện hôm nay đâu có theo ý nàng được?”

Thạch Phá Thiên không nhịn được nữa, hỏi xen vào: “Bà bà đã không chịu đi, lão gia còn cưỡng ép bà làm chi?”

Lão già cả giận lớn tiếng quát: “Ai mượn ngươi chõ miệng vào? Thúi lắm!” Lão hùng hổ xoay tay lại, vung chưởng toan tát vào mặt Thạch Phá Thiên, tưởng chừng chàng sắp phải gãy mấy cái răng. Nhưng đột nhiên lão nhìn thấy trên mặt Thạch Phá Thiên có in vết bàn tay đen sì, liền chưng hửng một chút rồi thu chưởng về, mỉm cười nói: “Ha ha! Đại tống tử! Ta cứ tưởng là ai cột ngươi như đòn bánh tét, té ra chính là đứa cháu gái ngoan ngoãn của ta. Phát chưởng còn in trên mặt ngươi cũng là nó đánh, có đúng thế không?”

Thạch Phá Thiên chưa hiểu ra sao, hỏi lại: “Cháu gái của lão gia ư?”

Lão kia dằn giọng: “Ngươi chưa biết lão phu là ai hay sao? Ta là Đinh Bất Tứ. Đinh Bất Tam là ca ca của ta, tuổi hắn lớn hơn ta nhưng võ công lại không bằng ta… Đứa cháu gái của ta…”

Thạch Phá Thiên nhìn lại thấy mặt mũi của lão ta cũng khá giống Đinh Bất Tam, cách ăn mặc cũng tương tự, chỉ có ngang lưng thắt thêm một sợi dây vàng sáng lấp lánh, liền nói: “Phải rồi, Đinh Đinh Đang Đang là cháu gái của lão gia. Đúng thế! Phát chưởng này là do Đinh Đinh Đang Đang đã tát, mà cháu cũng bị nàng trói đấy.”

Đinh Bất Tứ ôm bụng cười vang: “Ta đã nói mà, khắp thiên hạ trừ con a đầu A Đang này ra, không còn người thứ hai nào lại tinh nghịch như thế. Hay lắm, hay lắm! Nhưng sao nó lại trói ngươi?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Gia gia nàng muốn giết tại hạ, vì tại hạ chẳng những võ công kém cỏi mà lại còn ngu ngốc.”

Đinh Bất Tứ lại càng khoái chí. Lão cười lăn cười lộn nói: “Người mà lão tam đã muốn giết, lại gặp lão tứ thì… thì…”

Thạch Phá Thiên kinh hãi hỏi lại: “Lão gia cũng muốn giết tại hạ ư?”

Đinh Bất Tứ nói: “Tâm ý của Đinh Bất Tứ, thiên hạ ai mà đoán trúng được? Ngươi tưởng là ta muốn giết ngươi thì ta lại không giết.” Lão đứng dậy, tay trái nắm lấy người Thạch Phá Thiên nhấc bổng lên, tay phải vung lên như lưỡi đao chém soạt soạt vào dây thừng quấn trên người Thạch Phá Thiên từ trên xuống dưới, mấy chục vòng dây cột buồm lập tức bị cắt thành từng khúc. Lưỡi đao thật e rằng cũng chưa sắc bén đến thế.

Thạch Phá Thiên trầm trồ khen ngợi: “Lão gia! Thủ pháp của lão gia lợi hại quá! Cái đó kêu bằng gì vậy?”

Đinh Bất Tứ vốn hiếu thắng, nghe Thạch Phá Thiên ca ngợi thì nức lòng hởi dạ, đáp: “Công phu đó dĩ nhiên phi thường, khắp thiên hạ trừ Đinh Lão Tứ ra e rằng không còn ai có bản lãnh này nữa. Cái công phu này gọi là…”

Lúc này mụ già đã hồi tỉnh, nghe Đinh Bất Tứ ba hoa khoác lác liền cười lạt nói: “Hừ! Đúng là mèo khen mèo dài đuôi. Cái chiêu này gọi là Khoái Đao Trảm Loạn Ma, bất luận kẻ nào đã học mấy miếng võ mèo què đều phải biết qua. Ngay cả bọn nhà quê khỏi cần học võ, chỉ cần biết cầm lưỡi liềm là sử dụng được rồi.”

Đinh Bất Tứ giận dữ quát: “Nói bậy, nói bậy! Kẻ mới học được mấy miếng võ mèo què mà có thể sử được chiêu Khoái Đao Trảm Loạn Ma này ư? Nàng thử biểu diễn cho ta xem thử nào.”

Mụ già đáp: “Ngươi đã biết ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma mất hết khí lực nên mới nói móc ta chứ gì? Đòn bánh tét kia! Ta nói cho ngươi biết, ngươi cứ đến bất cứ một thị trấn nào mà tìm bọn sơn đông mãi võ bán thuốc bịp người lấy tiền, cho chúng vài đồng tiền thì đảm bảo là chúng sẽ biểu diễn chiêu Khoái Đao Trảm Loạn Ma này cho ngươi xem, không khác lão già này chút xíu nào, còn có thể hay hơn lão nữa. Đó là trò bịp của hạng người lê la kiếm cơm khắp thiên hạ, chứ có chi là kỳ lạ đâu.”

Đinh Bất Tứ nghe mụ kia nhạo báng, bất giác nổi giận như điên, vươn tay ra toan chụp xuống vai mụ. Thạch Phá Thiên la lên: “Đừng nặng tay như thế.” Chàng nghiêng người đi, xoay tay lại nhằm chụp vào cổ tay Đinh Bất Tứ. Đó chính là chiêu Bạch Hạc Thủ trong mười tám đường cầm nã thủ mà Đinh Đang đã truyền thụ cho chàng. Chàng bị Đinh Đang điểm huyệt đã lâu, nội lực xung kích đã dần dần giải khai được huyệt đạo. Bây giờ dây trói bị đứt hết, khí huyết lưu thông khoan khoái, lập tức chàng cử động tự do được như ý muốn.

Đinh Bất Tứ la lên một tiếng: “Ái chà!”, xoay ngược tay lại móc vào cánh tay Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên đã luyện mười tám đường cầm nã thủ pháp rất thành thục, bèn lập tức biến chiêu, tay trái gạt ra, tay phải nhằm chụp vào hai mắt đối phương.

Đinh Bất Tứ quát lên: “Hay lắm! Đây chính là cầm nã thủ của lão tam.” Lão đưa cánh tay ra trước để đè khuỷu tay chàng xuống. Thạch Phá Thiên khoa hai cánh tay thành vòng tròn, song quyền phản kích vào huyệt thái dương hai bên đầu đối phương. Đinh Bất Tứ luồn hai cánh tay từ dưới lên trên, rồi gạt ra hai bên nhanh như điện chớp để hất cánh tay Thạch Phá Thiên đi. Lão cứ tưởng chiêu này đủ làm gãy cả hai cánh tay Thạch Phá Thiên, không ngờ khi bốn cánh tay đụng vào nhau Thạch Phá Thiên vẫn đứng yên không nhúc nhích, còn Đinh Bất Tứ lại thấy thân thể mình tê nhức. Lão giật mình, chân đạp gãy cả tấm ván thuyền, con thuyền tròng trành rất mạnh. Lão vội lùi lại một bước để tránh chỗ tấm ván thủng dưới sàn thuyền, lại “Ái chà!” một tiếng nữa.

Đinh Bất Tứ lần trước đã la lên một tiếng vì ngạc nhiên không hiểu sao Thạch Phá Thiên lại biết thi triển mười tám đường cầm nã thủ của nhà họ Đinh. Nhưng khi động chạm vào hai cánh tay của Thạch Phá Thiên rồi phải lui lại một bước, lão lại la lên một tiếng là vì kinh hãi thực sự, nhận ra nội lực chàng thanh niên này thâm hậu vô cùng vô tận. Vừa rồi lão đánh ra một đòn, tuy chưa huy động toàn lực, nhưng đối phương thản nhiên vô sự mà chính mình phải lùi lại loạng choạng giẫm gãy cả ván thuyền, như vậy chẳng khác nào mình đã thua một chiêu. Lão tự hỏi: “Gã này bản lãnh ghê gớm đến thế mà sao bị Đinh Đang bắt trói được? Sao gã lại bị nó đánh trúng một chưởng?” Trong lòng lão nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn.

Mụ già cũng không kém phần kinh hãi, có lẽ còn ngạc nhiên hơn cả Đinh Bất Tứ. Nhưng mụ thấy có cơ hội để mỉa mai lão, lập tức khoái chí cười ha hả nói: “Ngay một thằng nhóc này mà lão cũng… cũng… cũng.” Lúc đó hơi thở của mụ không được thông suốt, không thể nói tiếp được nữa.

Đinh Bất Tứ tức giận nói: “Nàng đừng ấp úng nữa, để ta nói giúp cho. Ngay một thằng nhóc này mà lão cũng đánh không lại thì sao còn gọi là anh hùng hảo hán, có phải như thế không? Câu này nàng không nói được, vì sợ ta đánh chết mất mạng chứ gì?” Mụ kia cười tươi, gật đầu lia lịa.

Đinh Bất Tứ nghiêng đầu nhìn Thạch Phá Thiên hỏi: “Đại tống tử! Sư phụ ngươi là ai?”

Thạch Phá Thiên gãi gãi đầu. Chàng nghĩ bụng: “Tuy mình có học võ công của Tạ Yên Khách, Đinh Đang, nhưng chưa làm lễ bái sư.” Chàng liền đáp: “Tại hạ không có sư phụ.”

Đinh Bất Tứ tức giận nói: “Ngươi đừng nói nhăng nữa. Vậy mười tám đường cầm nã thủ pháp ngươi đã học lén được của ai?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Không phải tại hạ học lén, Đinh Đinh Đang Đang đã dạy tại hạ mất mười ngày. Nhưng nàng không phải là sư phụ của tại hạ mà là… là…” Chàng muốn nói “là vợ của tại hạ”, nhưng cảm thấy có chỗ không ổn, bèn dừng lại không nói nữa.

Đinh Bất Tứ tức giận mắng: “Con mẹ nó! A Đang đã dạy võ công cho ngươi ư? Nói năng bậy bạ!”

Lúc này mụ già đã điều hòa hơi thở trở lại, bèn lạnh lùng nói: “Trên giang hồ ai ai cũng bảo Đinh Thị Song Hùng nhất hùng nhất cẩu, quả thật không sai. Hôm nay chính mắt ta đã trông thấy.”

Đinh Bất Tứ tức quá quát lên oang oang: “Câu này đã có ai nói bao giờ? Nhất định là nàng mới bịa đặt ra. Nàng bảo ai là anh hùng, ai là giống chó? Võ công của ta còn cao cường hơn lão tam, trong võ lâm chẳng ai là không biết.”

Mụ già không nói nhanh được, cứ chậm rãi nói từng tiếng một: “Đinh Đang là cháu nội Đinh Lão Tam. Đinh Lão Tam truyền thụ võ công cho con, rồi con lão lại dạy cho Đinh Đang, bây giờ Đinh Đang lại truyền thụ cho thằng nhóc này. Gã chỉ học có mười ngày mà thắng được Đinh Lão Tứ. Vậy ngươi thử nghĩ xem, thiên hạ nói ai… ai… ai…” Mụ nói liên tiếp ba chữ “ai”, rồi lại không thở được nữa.

Đinh Bất Tứ nghe mụ nói chậm quá, nóng ruột không nhẫn nại được liền cướp lời: “Đừng ấp úng nữa, để ta nói nốt giùm cho. Thiên hạ nói ai là anh hùng, ai là giống chó? Đương nhiên Đinh Lão Tam là anh hùng, Đinh Lão Tứ là giống chó. Có phải thế không?” Lão càng nói thanh âm càng vang dội, sau cùng thành ầm ầm như sấm động, khắp trên sông ai cũng nghe thấy.

Mụ già mỉm cười gật đầu nói: “Ngươi… ngươi tự biết mình như vậy là tốt rồi.”

Mụ nói câu này rất nhẹ nhàng, nhưng Đinh Bất Tứ nghe vào tai cũng căm tức vô cùng. Lão quát lên: “Ai bảo gã Đại Tống Tử này thắng được Đinh Lão Tứ? Lại đây, chúng ta tỉ đấu một phen. Nếu ta không hất được cái đòn bánh tét này xuống sông trong… trong…” Lão muốn nói, trong vòng ba chiêu mà ta không hất được ngươi xuống sông thì phải như thế nào đó.

Nhưng lão chưa nói ra miệng, lại nghĩ võ công của tên này cũng không phải tầm thường, trong ba chiêu chắc không hạ được gã, mà đến mười chiêu cũng chưa nắm vững phần nào, nói là hai mươi chiêu cũng chưa chắc chắn. Nếu nói một trăm chiêu thì còn gì là khí khái anh hùng? Mình là một nhân vật có tên tuổi mà phải mất đến một trăm chiêu mới đánh bại được đồ đệ của đứa cháu gái thì còn gì là hay ho nữa?

Lão ngần ngừ một lúc, mụ già lại cướp lời: “Nếu trong vòng mười vạn chiêu mà ngươi không đánh bại được gã thì phải lạy gã… lạy gã… lạy gã…”

Đinh Bất Tứ giận dữ hét lên: “Nàng muốn bảo ta lạy gã làm sư phụ, có đúng thế không?” Chưa dứt lời, người lão đã vọt lên không, vung song chưởng đánh xuống đỉnh đầu và ngực của Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên tuy đã học qua mười tám đường cầm nã thủ pháp, nhưng chỉ mới dùng để chiết giải với Đinh Đang. Lúc học đã không linh hoạt, thì lúc ứng dụng đương nhiên cũng không thể linh hoạt được. Chàng thấy bóng chưởng của Đinh Bất Tứ trùng trùng, như có đến hàng ngàn hàng vạn bàn tay vỗ xuống đầu mình thì chẳng biết chống cự làm sao, đành giơ hai tay lên để che đỉnh đầu của mình. Giữa lúc ấy huyệt Đại Truy ở sau gáy chàng cảm thấy bị đè rất nặng, hiển nhiên đã bị trúng chưởng. Huyệt Đại Truy là chỗ quy tụ Tam Dương Đốc Mạch từ chân tay đưa lên, là chỗ yếu hại của con người, nhưng cũng chính là một chỗ có thể phát huy nội lực để phản kích rất mãnh liệt. Đinh Bất Tứ cảm thấy toàn thân run bắn, rồi bị hất văng sang một bên. Lão nhìn lại Thạch Phá Thiên thì thấy chàng vẫn thản nhiên như không.

Kể ra thì chiêu này Thạch Phá Thiên đã bị đánh trúng, nhưng Đinh Bất Tứ lại bị nội lực chàng hất ngược ra, không thể nói là ai hơn ai kém được. Thế mà mụ già bật lên cười khi dễ rồi nói: “Đinh Bất Tứ! Đây là gã cố ý để cho ngươi đánh trúng, rồi thừa cơ hất văng ngươi đi. Xem thế đủ biết ngươi đúng là đồ vô dụng, mới có một chiêu đã bị thua rồi.”

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Ta thua thế nào được? Chỉ nói bậy bạ.”

Mụ già nói: “Nếu ngươi chưa chịu thua thì cứ để cho gã đánh trả một chưởng vào huyệt Đại Truy xem thử thế nào. Nếu ngươi cũng không chết mà lại hất được gã ra mấy bước, thì mới là hai bên bằng nhau.”

Đinh Bất Tứ nghĩ thầm: “Nội lực thằng tiểu tử này thâm hậu phi thường, nếu mình để gã đánh vào huyệt Đại Truy thì chẳng chết cũng trọng thương.” Lão liền nói: “Sao ta lại phải để cho gã đánh một cách vô duyên như thế? Nàng thử để ta đánh một chưởng vào huyệt Đại Truy xem thế nào?”

Mụ già bĩu môi khinh bỉ nói: “Ta đã biết mà, ngươi chỉ là quân chó má không làm được gì, chỉ chuyên dùng công phu lừa bịp người ta mà thôi. Nếu ta bảo ngươi đấu chưởng đấu quyền với gã một cách công bằng, ai cũng không được tránh né, thì chắc chắn ngươi không dám.”

Đinh Bất Tứ bị mụ già nói trúng tâm sự hết sức khó chịu, bèn nghiêm giọng nói: “Đó là lối đánh nhau man rợ của bọn hán tử thô lỗ không hiểu võ công. Chúng ta là những nhà võ học nổi tiếng, sao có thể tỉ đấu theo cái kiểu ngu dốt này?” Lão vốn là người hiếu thắng, nhưng cũng tự biết mình cãi thế là không hợp lý, không thể biện bạch được. Nhân lúc mụ già còn đang cười khẩy chưa kịp nói gì, lão vội quay lại bảo Thạch Phá Thiên: “Lại đây, lại đây! Chúng ta tỉ thí một phen!”

Thạch Phá Thiên đáp: “Tại hạ chỉ học được ở Đinh Đinh Đang Đang có mấy chiêu cầm nã thủ pháp, còn ngoài ra chẳng hiểu võ công chi hết. Vừa rồi lão gia đã ra chiêu biến hóa thành hàng ngàn hàng vạn bàn tay cùng đánh xuống, tại hạ không biết đường chống đỡ, chỉ quơ tay loạn xạ thế thôi. Thế thì cứ kể như lão gia thắng rồi, chúng ta không nên tỉ thí làm gì nữa.”

Đinh Bất Tứ nghe chàng nói câu “kể như lão gia thắng rồi”, thật sự không êm tai chút nào. Lão lớn tiếng nói: “Thắng là thắng, bại là bại, kể như thắng là sao? Bây giờ ta để cho ngươi ra tay trước, qua đây đánh ta đi.”

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Tại hạ đã nói là không biết võ công mà.”

Đinh Bất Tứ thấy mụ già cứ cười khẩy hoài thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt, liền cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Ngươi không biết thì để ta dạy cho, ngươi hãy xem đây. Bây giờ ngươi ra chiêu đánh ta thế này, thì ta phải chống lại thế này. Sau đó ta phóng tay kia đánh ngươi như thế này, thì ngươi phải nghiêng mình né qua như thế này, rồi lại dùng quyền trái đánh vào chỗ này.”

Thạch Phá Thiên học rất mau, chàng cứ theo đúng như lão nói mà xuất thủ. Đinh Bất Tứ xoay tay lại phản kích. Hai người biểu diễn hết bốn chiêu thì lão vung quyền đánh tới, Thạch Phá Thiên không biết trả đòn cách nào. Chàng buông thõng hai tay nói: “Sau đó thì tại hạ không biết nữa.”

Đinh Bất Tứ vừa tức mình lại vừa buồn cười, bèn nói: “Ta phải vừa dạy cho ngươi vừa đánh, thì còn nói đến chuyện tỉ đấu làm chi nữa?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Thì tại hạ đã nói rồi, không cần phải tỉ thí nữa, cứ coi như là lão gia thắng rồi.”

Đinh Bất Tứ nói: “Không được! Nếu ta không thắng ngươi một cách chân chính, thì suốt đời cứ bị Tiểu Thúy chê cười. Đinh đại anh hùng mà bị bà ấy kêu bằng giống chó, bỏ qua vụ này thì ta còn mặt mũi nào nhìn thấy ai nữa? Ngươi nhớ lấy, ta đánh đòn này thì ngươi đừng đỡ gạt, cứ tiến lên một bước mà giơ ngón tay ra đâm vào bụng dưới ta. Chiêu này rất hiểm độc, quyền của ta chắc chắn không đánh trúng ngươi được, ta chỉ còn cách phải tránh né. Cái đó kêu bằng lấy công làm thủ, bắt địch nhân phải thu chiêu về để tự cứu mình trước.”

Lão vừa nói vừa vạch rõ từng chiêu, Thạch Phá Thiên cứ dụng tâm ghi nhớ. Học một lúc rồi hai người đánh lại từ đầu, đến lúc hết những chiêu thức mà Đinh Bất Tứ đã truyền dạy mới dừng lại. Sau đó một người lại tiếp tục dạy, một người lại tiếp tục học. Quyền pháp chưởng pháp của Đinh Bất Tứ vốn biến hóa rất phức tạp, nhưng lão đấu với Thạch Phá Thiên chỉ hạn định trong chỗ đã dạy mà thôi. Đinh Bất Tứ nghĩ bụng: “Nếu cứ thế này mãi thì làm sao mà thắng được gã? Mình chỉ trông mong vào cơ hội duy nhất là lúc nào thằng lỏi này quên mất chiêu thức đã học, hoặc có sai lầm trong khi hóa giải thì mới mắc phải độc thủ của mình!”

Nhưng Thạch Phá Thiên có trí nhớ rất tốt, Đinh Bất Tứ chỉ dạy một lần là chàng đã nhớ như chôn vào bụng. Hai người cứ tiếp tục qua lại đến mấy chục chiêu mà Thạch Phá Thiên vẫn không bị đối phương tìm thấy chỗ sơ hở. Mụ già thỉnh thoảng lại bật lên mấy tiếng cười lạnh nhạt, khiến cho Đinh Bất Tứ không dám đem những chiêu tầm thường ra truyền thụ. Lúc lão ra chiêu công thủ mà không đủ phần mãnh liệt hay biến hóa kỳ ảo là mụ lại lên tiếng chê bai. Tuy mụ bị tẩu hỏa nhập ma không cử động được, nhưng nhãn quang vẫn còn lợi hại, ngay những chiêu thức tuyệt diệu mà mụ cũng moi móc ra được chỗ để phê bình mấy câu chí lý. Huống hồ là những chiêu thức kém phần tinh tế, khi nào mụ chịu buông tha mà không chỉ trích?

Đinh Bất Tứ đem hết tinh thần truyền thụ quyền chưởng cho Thạch Phá Thiên, tận tâm tận lực chẳng kém gì phải đấu với mụ già bằng gươm đao thật sự. Sau khi dạy vài chục chiêu thì trời đã gần sáng. Lão bắt đầu cảm thấy lo lắng, đột nhiên biến đổi quyền pháp, sử dụng một chiêu đã dạy là Khát Mã Bôn Tuyền, cả người lẫn quyền lao vào Thạch Phá Thiên. Chàng vội la lên: “Không đúng thứ tự!”

Đinh Bất Tứ nói: “Có gì mà không đúng thứ tự? Chỉ cần chiêu thức ta đã dạy ngươi là được rồi.” Thạch Phá Thiên nhớ ngay là lão đã dạy chiêu Phấn Điệp Phiên Phi để đối phó với chiêu này. Chàng liền theo đúng cách thức tung mình nhảy tránh ra.

Đinh Bất Tứ nghĩ bụng: “Ta chỉ cần bức bách gã phải nhảy xuống sông là thắng rồi, dù Tiểu Thúy có lắm mồm cũng không cãi được nữa.” Lão tiến lên một bước phóng chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, vung cả hai tay quét ngang rất mạnh. Thạch Phá Thiên liền theo đúng bài bản sử chiêu Hòa Phong Tế Vũ tránh khỏi thế công dũng mãnh của đối phương. Nhưng chàng vừa lùi một bước thì chân trái đã giẫm lên mạn thuyền, suýt bị rớt xuống sông. Đinh Bất Tứ cả mừng quát lên: “Xuống nước đi!” Lão vừa quát vừa xuất chiêu Chung Cổ Tề Minh, song quyền cùng phóng ra đánh vòng vào hai bên huyệt

thái dương của Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên đáng lẽ phải chiếu theo lời dạy của Đinh Bất Tứ, lùi lại một bước rồi dùng chiêu Xung Văn Tác Triển để hóa giải song quyền của đối phương. Nhưng lúc này chàng không có chỗ để lùi nữa, chỉ nửa bước là rơi xuống dòng sông. Trong lúc hoang mang, chàng không kịp suy nghĩ gì nữa, liền sử dụng hai chiêu thành thục nhất mà Đinh Đang đã dạy. Chàng lập tức lạng người đi một cái đã vòng ra sau lưng Đinh Bất Tứ, tay phải ra chiêu Hổ Trảo Thủ chụp xuống huyệt Linh Đài, còn tay trái sử chiêu Ngọc Nữ Niêm Châm nắm lấy huyệt Huyền Khu của lão. Hai cánh tay chàng chộp thật mạnh, kình lực vô cùng mãnh liệt. Đinh Bất Tứ kêu lên một tiếng, rồi ngã lăn quay xuống sạp thuyền.

Thực ra dù nội lực Thạch Phá Thiên có mạnh đến đâu, nhưng chàng dùng thủ pháp cầm nã mới học được mấy ngày thì làm sao mà nắm trúng được cao thủ như Đinh Bất Tứ? Sở dĩ lão bị hạ là vì đang muốn ép Thạch Phá Thiên rớt xuống sông, cứ yên trí Thạch Phá Thiên phải dùng chiêu Xung Văn Tác Triển để giải khai chiêu Chung Cổ Tề Minh của mình. Nếu chàng sử dụng chiêu Xung Văn Tác Triển tất phải lùi lại một bước, mà lùi lại tức là rớt xuống sông. Giả tỉ lão đấu với một tay cao thủ nào khác thì dĩ nhiên phải đề phòng cẩn thận, vì đối phương có nhiều cách giải khai, sau khi phá giải lại có thể trả đòn lợi hại, đương nhiên lão sẽ đề phòng bốn phương tám hướng, chắc chắn không để ai vòng ra sau lưng mình nắm lấy những huyệt đạo trọng yếu. Đằng này lão đã cùng Thạch Phá Thiên đấu đến mấy trăm chiêu, mà chiêu nào chàng cũng chỉ một mực tuân theo đường lối của lão đã truyền thụ, nên trong lòng lão hoàn toàn không có một chút đề phòng. Mà lão cũng không ngờ tới thằng lỏi này đột nhiên lại biến chiêu nhuần nhuyễn đến thế.

Thạch Phá Thiên ra tay lẹ như gió, lúc Đinh Bất Tứ phát giác ra muốn né tránh thì đã không kịp nữa. Nội lực chàng thật là ghê gớm, đánh thấu vào huyệt đạo. Đinh Bất Tứ tuy nội công thâm hậu là thế mà cũng không gượng nổi. Biến cố này khiến cho cả Đinh Bất Tứ lẫn Thạch Phá Thiên đều kinh hãi vô cùng. Mụ già kia cũng không khỏi ngạc nhiên, rồi khoái chí nổi lên cười sằng sặc. Mụ cười như người phát điên, rồi đột nhiên ngất xỉu, hai mắt trợn lên trông rất dễ sợ.

Thạch Phá Thiên kinh hãi la lên: “Lão bà! Bà… bà làm sao rồi?”

A Tú nằm trong khoang, không nhìn thấy tình hình ngoài thuyền. Nàng nghe Thạch Phá Thiên la hoảng, không hiểu là chuyện gì cũng líu lưỡi la hỏi: “Đại ca ơi, bà nội của muội thế nào rồi?”

Thạch Phá Thiên ấp úng đáp: “Trời ơi, bà bà… ngất đi rồi. Lần này… lần này hình như có gì không đúng, e rằng… sợ… sợ khó mà tỉnh dậy được.”

A Tú kinh hãi hỏi: “Huynh nói bà nội của muội đã… đã chết rồi ư?”

Thạch Phá Thiên đưa tay xem thử hơi thở của bà lão, rồi đáp: “Hơi thở vẫn còn, nhưng dáng vẻ… dáng vẻ hình như không được tốt lắm.”

A Tú lo lắng hỏi: “Sao lại không tốt?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Trông nét mặt thì dường như bà bà đã chết rồi. Tại hạ đỡ cô nương ra xem xem thử.”

A Tú vốn không muốn để chàng bế ra, nhưng nàng đang hết sức lo lắng cho bà nội, nên chỉ ngần ngừ một chút rồi khẽ nói: “Được! Nếu vậy thì phải làm phiền đại ca vậy!”

Suốt đời Thạch Phá Thiên chưa nghe ai nói năng nhã nhặn lễ phép như vậy. Khi ở bang Trường Lạc, chàng đã được nghe người ta nói năng kính cẩn, nhưng cái kính cẩn này đượm vẻ sợ hãi chứ không phải vì tình hữu nghị. Ngay cả tiểu a đầu Thị Kiếm lúc nào cũng có sắc thái sợ hãi trên mặt. Đinh Đang thì nói chuyện với chàng có lúc rất thân mật nhưng có lúc lại rất vô lễ, chỉ có vị cô nương này nói chuyện hết sức êm tai, làm người nghe cảm thấy thư thái trong lòng.

Thạch Phá Thiên nhẹ nhàng đỡ cô gái dậy. Chàng quấn quanh nàng một lần chăn mỏng, rồi bế nàng ra đầu thuyền.

A Tú thấy bà nội đang ngất xỉu thì la lên một tiếng, rồi hỏi: “Tiểu muội xin đại ca đặt bàn tay lên huyệt Linh Đài của bà nội, chuyển cho một chút nội lực, có được chăng?” Nàng ngừng lại một chút rồi tiếp: “Chuyện thỉnh cầu này thật là quá mức, tiều muội áy náy vô cùng.”

Thạch Phá Thiên nghe thanh âm êm dịu, bất giác cúi xuống nhìn vào mặt nàng. Dưới ánh mặt trời mới mọc, khuôn mặt trái xoan của thiếu nữ vừa xinh đẹp vừa hòa nhã, đôi mắt to đen lấp lánh của nàng cũng đang nhìn chàng. Mục quang của hai người vừa chạm nhau, lập tức A Tú đỏ bừng mặt, nhưng nàng không có cách nào ngoảnh đầu ra chỗ khác để tránh né, đành nhắm mắt lại.

Thạch Phá Thiên buột miệng nói: “Cô nương! Thì ra cô xinh đẹp như thế!” Sắc mặt của A Tú lại càng đỏ hơn. Lúc này mặt hai người rất gần nhau, nàng sợ nói chuyện thì hà hơi vào mặt Thạch Phá Thiên, bèn ngậm miệng lại.

Thạch Phá Thiên ngẩn người ra nói: “Xin lỗi!” rồi vội đặt nàng xuống.

Chàng đặt bàn tay lên huyệt Linh Đài của bà lão, nhưng không biết cách vận nội lực thế nào, bèn bắt chước chiêu Hô Trảo Thủ mà Đinh Đang đã dạy, chụp vào huyệt Linh Đài rồi vận kình lực sang.

Mụ già bỗng la lên một tiếng: “Úi chao!” rồi cất tiếng nói: “Thằng lỏi này làm gì vậy?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Vị cô nương này bảo cháu thúc đẩy nội lực vào người cho bà bà. Quả nhiên bà bà đã tỉnh lại rồi.”

Mụ già vẫn lớn tiếng mắng: “Huyệt đạo ta đã bị phong tỏa, ngươi có thúc đẩy nội lực vào thì cũng chẳng làm gì được.”

Thạch Phá Thiên run rây nói: “Xin lỗi, xin lỗi, thực sự cháu không biết. Xin bà bà dạy bảo cho.”

Vừa rồi chàng vận kình lực bừa bãi đã làm cho lục phủ ngũ tạng của bà lão chấn động như muốn đảo lộn lên, huyệt Linh Đài càng bị phong bế. Bà ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma, huyệt đạo đã tự bế tắc, lúc này càng bế tắc hơn. Mụ vừa mới tỉnh lại tức giận vô cùng, nhưng phát hiện ra nội lực chàng hùng hậu không gì so sánh được, bèn nghĩ bụng: “Thằng ngốc này có nội lực thiên phú, không chừng đã được ăn tiên thảo hoặc được uống một thứ linh dược kỳ dị nào đó. Tuy gã nội lực phi thường nhưng lại chưa biết cách phát huy mà sử dụng. Ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma, không chừng có thể nhờ nội lực của gã mà đả thông được kinh mạch.” Mụ nghĩ vậy liền nói: “Được! Để ta dạy cho ngươi. Bây giờ ngươi ngưng tụ nội khí vào huyệt Đan Điền. Đã cảm thấy một luồng nhiệt khí trong Đan Điền hay chưa? Ngươi vừa tập trung ý niệm vừa chuyển luồng nhiệt khí đó theo kinh mạch Thiếu Dương Đảm Kinh ra bàn tay.”

Khi ở Ma Thiên Nhai, Tạ Yên Khách đã từng dạy chàng những tên gọi về huyệt đạo và kinh mạch. Thạch Phá Thiên làm theo lời mụ, tụ tập nội lực vào lòng bàn tay được ngay chẳng khó khăn gì. Ta nên biết Thạch Phá Thiên đã luyện La Hán Phục Ma Thần Công, một môn nội công tinh diệu vào bậc nhất của phái Thiếu Lâm, lại kiêm cả hai luồng chân khí dương cương và âm nhu. Chỉ có điều chàng có nội công thâm hậu nhưng chưa biết sử dụng, cũng giống như người ta có nguyên cả một kho vàng bạc, nhưng lại không có chìa khóa để mở ra. Lúc này chàng được mụ già chỉ dẫn sơ sơ, bèn theo đó mà làm, nội lực trong nội thể tuôn ra như sóng cồn.

Mụ già la lên: “Từ từ, chậm…” Mụ chưa dứt lời đã ộc lên một tiếng, thổ ra một bụm máu đen.

Thạch Phá Thiên cả kinh la lên: “Trời ơi! Bà bà sao rồi? Cháu làm không đúng hay sao?”

A Tú nói: “Đại ca ơi! Bà nội của tiểu muội bảo đại ca vận nội lực từ từ, đừng gấp rút quá.”

Mụ già lại mắng: “Thằng ngốc! Ngươi muốn lấy mạng của ta hay sao mà vận nội lực như thế? Bây giờ ngươi phát huy từng chút một, chờ ta hấp thụ được rồi hãy vận thêm.”

Thạch Phá Thiên vâng dạ, xin lỗi rối rít, rồi toan làm theo lời mụ thì đột nhiên thấy Đinh Bất Tứ ngồi nhỏm dậy la lên: “Con mẹ nó! Chúng ta tỉ đấu lại! Cuộc vừa rồi bỏ đi không tính.”

Mụ già nói: “Lão này rõ ràng không đếm xỉa đến thể diện nữa. Sao lại không tính? Rõ ràng là ngươi thua rồi. Vừa rồi nó mà chém vào ngươi một đao hay một kiếm, thử hỏi ngươi còn mạng hay không?”

Đinh Bất Tứ biết mình đuối lý, không đấu khẩu với mụ nữa, lập tức phóng chưởng đánh tới Thạch Phá Thiên, miệng quát: “Cách chống đỡ chiêu này ta đã dạy cho ngươi, nếu không đỡ được thì không sao cãi lý được nữa.” Thạch Phá Thiên vội thi triển chiêu thức mà Đinh Bất Tứ đã dạy cho để đối phó.

Đinh Bất Tứ lại đánh ra một chiêu nữa, vừa phóng chưởng vừa quát: “Chiêu này ta cũng đã từng dạy ngươi, không thể nói ta bất cần thể diện mà ăn hiếp tiểu bối nữa.” Mỗi lần lão ra chiêu đều nói là chiêu thức này mình đã dạy Thạch Phá Thiên, tỏ ra là người thủ tín. Lão đánh càng lúc càng nhanh, sau mười mấy chiêu thì không nói kịp, chỉ nhắc đi nhắc lại: “Chiêu đã từng dạy ngươi! Đã từng dạy ngươi! từng dạy, dạy… dạy…”

Đinh Bất Tứ cứ phóng chiêu tới tấp như thế, khiến cho Thạch Phá Thiên dù thông minh đến đâu cũng không tài nào chống đỡ kịp. Những chiêu thức này chàng mới học một lượt, lúc học dĩ nhiên không động thủ mau lẹ như bây giờ. Thạch Phá Thiên bị đánh rát quá, không tài nào ứng phó được, xem chừng chỉ mấy chiêu nữa là phải bị thương về tay Đinh Bất Tứ. Giữa lúc chàng hốt hoảng, chân tay luống cuống thì đột nhiên mụ già la lên: “Khoan đã! Ta muốn nói một câu.”

Đinh Bất Tứ dừng tay lại hỏi: “Tiểu Thúy! Nàng muốn nói gì?”

Mụ già nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Thằng bé kia! Trong mình ta hãy còn khó chịu lắm, ngươi qua đây dồn nội lực vào cho ta.”

Đinh Bất Tứ gật đầu nói: “Hay lắm! Người bị tẩu hỏa nhập ma thì kinh mạch ngưng trệ, nàng đã không muốn ta giúp đỡ, thì nhờ gã ra sức một tí cũng được. Thằng lỏi này tuy võ công không ra gì, nhưng nội lực rất mạnh.”

Mụ già đằng hắng một tiếng, rồi lạnh lùng nói: “Phải rồi! Võ công của hắn không ra gì nhưng nội lực rất mạnh. Võ công của hắn là do ngươi dạy, còn nội lực của hắn thì không phải do ngươi dạy.”

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Sao lại nói võ công của hắn là do ta dạy? Gã mới học có nửa ngày, chứ nếu được ta truyền thụ năm ba năm thì chắc là nhiều nhân vật tiền bối không phải là địch thủ của hắn nữa.”

Mụ già nói: “Dù gã có học ngươi bao lâu cũng vậy thôi, chẳng ích gì! Gã chưa học võ công của ngươi mà đã có thể đánh bại ngươi rồi. Ta e rằng sau khi hắn học được võ công của ngươi thì lại không đánh thắng ngươi được nữa. Càng học càng kém như vậy, ngươi nói thử xem gã có nên học ngươi hay không?”

Đinh Bất Tứ nghẹn họng một lúc không biết nói sao, đứng thộn mặt ra hồi lâu mới lên tiếng cãi: “Ngay cả hai chiêu Hổ Trảo Thủ và Ngọc Nữ Niêm Châm, không phải là gã học được của nhà họ Đinh ta hay sao?”

Mụ già nói: “Đó là cháu gái của Đinh Lão Tam dạy gã, chứ có phải ngươi dạy đâu? Thằng nhỏ kia, ngươi lại đây, đừng nói chuyện với lão nữa.”

Thạch Phá Thiên dạ một tiếng rồi lại ngồi kế bên mụ già, đặt tay vào huyệt Linh Đài để giúp mụ đả thông kinh mạch. Lần này chàng đưa nội lực sang rất từ từ, cứ nơm nớp sợ bà ta lại thổ máu ra.

Mụ già đưa tay áo lên che miệng để Đinh Bất Tứ không trông thấy mình nói chuyện, cũng không nghe được tiếng nói. Mụ nói rất khẽ với Thạch Phá Thiên: “Một lúc nữa lão cùng ngươi tái đấu, thì ngươi phải vận kình lực giống như thế này vào quyền, vào chưởng. Hễ thấy lão phóng chưởng đánh tới, ngươi cứ thi triển chiêu thức giống như lão, đỡ lấy bàn tay lão mà dồn nội lực sang. Ta nói cho ngươi biết, lão đang định hất ngươi xuống sông cho chết đuối đấy. Ngươi phải nhớ kỹ, hễ lão ra chiêu gì thì ngươi phải bắt chước cho giống hệt. Chỉ có cách ấy mới giữ được… giữ được mạng sống cho ba người chúng ta.”

Thì ra mụ già mới gặp Thạch Phá Thiên vài giờ nhưng đã nhận ra chàng là người lương thiện. Mụ e rằng nếu khuyên chàng làm khó dễ Đinh Bất Tứ để tự vệ thì chàng không chịu nghe theo, nên mụ mới bảo chàng “mới giữ được mạng sống cho ba người chúng ta” tức là bao gồm cả bà cháu mụ vào trong đó, để chàng vì lòng nghĩa hiệp mà hết sức đối phó với lão.

Thạch Phá Thiên gật đầu luôn mấy cái. Mụ già lại nói: “Bây giờ ngươi hãy tạm ngừng lại, đừng dồn nội lực vào cho ta nữa. Đợi lúc đánh nhau, đối chưởng với lão thì sẽ gấp rút dồn nội lực ra, càng mạnh càng tốt.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Làm như thế liệu lão có thổ huyết không?”

Mụ già nói: “Không đâu! Ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma không còn chút hơi sức nào, mà nội lực ngươi thúc nhanh quá, ta không chống đỡ nổi nên mới bị thổ huyết. Còn nội lực lão cũng rất thâm hậu, vừa rồi ngươi đã nắm lấy huyệt đạo sau lưng lão mà lão có bị thổ huyết đâu? Giả tỉ ngươi không dốc toàn lực thì lại bị lão làm cho thổ huyết. Nếu ngươi bị thương thì không còn ai bảo vệ cho hai bà cháu ta nữa. Một bà già, một tiểu cô nương nằm thẳng cẳng không nhúc nhích được, thì chỉ còn có cách để mặc cho người muốn chém thì chém, muốn giết thì giết, muốn lăng nhục thì lăng nhục.”

Thạch Phá Thiên nghe tới đây, nhiệt huyết sôi lên sùng sục, lập tức nổi lòng nghĩa hiệp. Lúc này, vì bà già và cô nương này mà chết thì chàng cũng quyết chẳng chau mày. Còn hai bà cháu mụ là hạng người nào, thiện hay ác, chàng cũng không cần biết.

Mụ già từ từ hạ tay áo xuống nói: “Cảm ơn ngươi. Đinh Lão Tứ có chết cũng không chịu nhận là đã thua, thì ngươi cứ tiếp chiêu của lão xem thử sao. Ôi! Mụ già này sống đã nhiều rồi, đã gặp không ít anh hùng hảo hán trong thiên hạ, thật không ngờ lúc cuối đời sắp về chầu trời lại phải nhìn thấy một lão già chó má. Thật là oan nghiệt.”

Đinh Bất Tứ giận dữ hỏi: “Nàng mắng ai là lão già chó má?”

Mụ già mỉm cười đáp: “Con người dù ngu dốt đến đâu cũng nên tự hiểu, chẳng lẽ ta lại tự mắng mình ư? Đinh Bất Tứ! Ngươi muốn giết gã phỏng có khó gì? Ngươi cứ việc sử dụng những chiêu nào chua dạy, đảm bảo là gã không thể đỡ được.”

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Đinh Bất Tứ này mà là hạng ngươi vô sỉ như thế ư? Ngươi cứ nhìn kỹ mà xem ta có xuất chiêu nào chưa dạy cho gã không.” Mụ già chỉ nói khích lão mấy câu, rồi buông tiếng thở dài không nói gì nữa. Đinh Bất Tứ hứ một tiếng rồi lớn tiếng quát: “Đòn bánh tét kia! Ta ra chiêu Nghịch Thủy Hành Chu để đánh ngươi đây. Chiêu này ta đã dạy ngươi, đừng quên nghe chưa!” Lão vừa nói vừa hơi co chân lại, đầu gối rùn xuống một chút, thành ra người lão lùn xuống một đoạn. Đột nhiên tay trái lão đưa từ dưới lên, phát chưởng đánh ra. Thạch Phá Thiên nghe lão nói đến chiêu Nghịch Thủy Hành Chu, chàng cũng co hai đầu gối rồi vung tả chưởng từ dưới đưa lên đánh ra.

Đinh Bất Tứ quát lên: “Sai rồi! Cách giải khai đâu phải như vậy.” Lão chưa dứt lời đã nhìn thấy bàn tay chàng sắp chạm vào bàn tay mình, bèn không khởi sợ run, nghĩ bụng: “Nội lực thằng lỏi này rất mạnh, còn hơn mình nhiều. Ta mà tỉ thí nội lực với gã thì có chi thú vị?” Lão liền thu tay trái về đẩy tay mặt ra, đó là chiêu Kỳ Phong Đột Khởi. Thạch Phá Thiên cứ theo lời mụ già, cũng sử chiêu Kỳ Phong Đột Khởi. Trong lòng bàn tay chàng đã vận đến bảy phần nội kình.

Đinh Bất Tứ thấy chưởng lực đối phương rất mạnh, bàn tay chưa tới mà chưởng phong đã quạt ràn rạt vào mặt, thì trong lòng kinh hãi. Lão lập tức biến đổi chiêu thức. Thạch Phá Thiên cứ chăm chú nhìn vào chiêu thức của Đinh Bất Tứ, lão ra tay thế nào thì chàng cũng xuất chiêu y hệt như vậy. Lúc này chàng chẳng cần nhớ cách phá giải chiêu thức như thế nào, chỉ cần bắt chước mà ra tay, bao nhiêu tâm trí dồn cả vào việc ngưng tụ nội lực. Quả nhiên chưởng phong từ bàn tay chàng cuồn cuộn xô ra, chưởng lực càng lúc càng hung mãnh.

Đinh Bất Tứ lo ngại trong lòng, lúc nào cũng phải đề phòng tay mình chạm vào tay đối phương. Nếu hai bàn tay dính vào nhau thì sẽ đi đến chỗ tỉ đấu nội lực, và khi đó những chiêu thức tinh diệu của lão không thi triển được nữa. Vì thế mà mấy lần lão đánh vào chỗ sơ hở của Thạch Phá Thiên, nhưng chàng cứ theo chiêu thức của lão mà đánh ra, thì lão không thể không lập tức biến chiêu. Từ ngày lão thành danh trong giang hồ đã gặp không biết bao nhiêu cao thủ võ lâm, nhưng chưa gặp đối thủ nào như Thạch Phá Thiên. Bất luận lão ra chiêu nào, đối phương cũng ra chiêu đúng như vậy. Giả tỉ đối phương là một nhân vật đã có tên tuổi, mà tỉ đấu theo kiểu học mót thế này, dĩ nhiên lão có thể dùng lời nói để mà đả kích. Nhưng Thạch Phá Thiên lại chỉ là một có nội lực chứ hoàn toàn không hiểu võ công, mà chàng cũng đã nói rõ là dùng những chiêu thức của lão dạy để đấu với lão, nên chàng cứ xuất chiêu y hệt như vậy cũng là danh chính ngôn thuận.

Đinh Bất Tứ không ngừng thầm mắng trong lòng, nhưng rốt cuộc cũng chẳng làm gì được Thạch Phá Thiên. Cuộc đấu kéo dài đến năm sáu mươi hiệp, Thạch Phá Thiên đã dần dần hiểu rõ phép vận nội lực. Mỗi quyền mỗi chưởng chàng phát ra, kình lực càng ngày càng lớn, rít gió vù vù như cuồng phong đang ập đến. Đinh Bất Tứ không dám lơ đãng, phải đem toàn lực ra đối phó. Lão nghĩ bụng: “Thằng lỏi này thật là tà môn. Phải chăng gã chỉ giả vờ ngớ ngẩn, mà thực ra là một tay cao thủ võ công tuyệt đỉnh?” Càng đánh lão lại càng cảm thấy khó tránh được chưởng phong của đối phương. Còn may ở chỗ Thạch Phá Thiên chỉ đánh theo những chiêu thức của lão, cho nên lão không phải đề phòng chàng có biến hóa gì khác.

Thêm mấy chiêu nữa, Đinh Bất Tứ đưa hai tay quạt ra đánh chênh chếch vào đối phương. Chiêu này gọi là Hoặc Tả Hoặc Hữu, chưởng lực hướng về tả nhưng lại đánh sang hữu, tùy theo tình hình thực tế mà phát kình. Lão ra chiêu này trong bụng mừng thầm, lẩm bẩm: “Thằng lỏi thối tha kia! Lần này ngươi có bắt chước ta cũng không được nữa. Ngươi làm sao biết được chưởng lực của ta đánh tới từ phía nào?”

Quả nhiên Thạch Phá Thiên thấy chiêu này khó mà sao chép. Chàng liền cất tiếng hỏi: “Lão đánh về bên trái hay bên phải thế?”

Đinh Bất Tứ cười rộ lên rồi quát: “Ngươi cứ đoán thử xem.” Miệng lão quát, hai tay vẫn tiếp tục vung lên quạt tới. Thạch Phá Thiên trong lòng kinh hãi, chỉ còn cách giơ cả song chưởng lên để chống đỡ chưởng lực của Đinh Bất Tứ. Chàng chẳng hiểu chưởng lực đối phương từ bên nào đánh tới, nên phải đồng thời vận kình lực vào cả hai tay.

Đinh Bất Tứ thấy Thạch Phá Thiên đưa cả song chưởng lên chống đỡ, bất giác kinh hãi vô cùng. Lão lẩm bẩm: “Chiêu này trong thực có hư, trong hư có thực, thằng lỏi ngốc này vụng về không bắt chước được. Chiêu thức của mình là Hoặc Tả Hoặc Hữu mà gã biến thành Diệc Tả Diệc Hữu, vận cả kình lực vào song chưởng chứ không hời hợt thì còn chi là chỗ ảo diệu của nó? Nhưng cứ tiếp tục thế này thì ta phải tỉ đấu nội lực với gã mất.” Giữa lúc nguy cấp, lão chợt nghĩ ra một cách, chuyển hướng song chưởng ở dưới đất đánh lên trên trời.

Chiêu này gọi là Thiên Vương Thác Tháp, chuyên để đối phó với địch nhân nhảy vọt lên không rồi từ trên đánh xuống. Lúc này không có ai từ trên không đánh xuống, đáng lý ra không nên sử dụng chiêu thức này. Nhưng Thạch Phá Thiên chiêu nào cũng bắt chước đối phương, thấy Đinh Bất Tứ sử chiêu Thiên Vương Thác Tháp chàng cũng vung chưởng phóng lên không đánh véo một tiếng, không hiểu ý lão muốn gì.

Hai người bốn tay cùng đánh vào chỗ trống, bốn mắt cùng giương lên nhìn nhau. Đinh Bất Tứ không nhịn được, nổi lên một tràng cười ha hả. Thạch Phá Thiên thấy lão không có vẻ cừu địch nữa, cũng cao hứng phá lên cười. A Tú đang ngồi tựa vào cột bên cửa khoang thuyền, thấy tình trạng này cũng phải mỉm cười. Chỉ có mụ già là ra vẻ khó chịu, cất tiếng mắng: “Đồ mặt dày! Không đánh nổi người ta, phải dùng quỷ kế để lừa gạt con nít.”

Chỉ trong chớp mắt mà Đinh Bất Tứ nghĩ ra biện pháp giải nguy, khỏi phải tỉ đấu nội lực cùng Thạch Phá Thiên. Lão đang đắc ý về sự thông minh nhanh trí của mình, nên tuy nghe mụ già mỉa mai mà lão cũng chẳng để tâm đến. Lão vẫn cười khà khà, nói giọng hòa giải: “Ta cùng thằng nhỏ này không thù không oán, cần gì phải tỉ đấu nội lực để lấy mạng nó?”

Mụ già đang định nhiếc móc nữa, thì đột nhiên con thuyền tròng trành mấy cái rồi tăng tốc độ trôi băng băng xuống hạ lưu. Thì ra khúc sông này hẹp lại, nước chảy rất xiết. Đinh Bất Tứ cười ha hả nói: “Tiểu Thúy! Đã đến Bích Loa Đảo rồi! Hai bà cháu nàng và cả đòn bánh tét lớn này, cùng lên đó chơi mấy hôm cho vui.”

Mụ già biến sắc mặt, run ray nói: “Không đi! Ta có chết thì chết, chứ không chịu đặt chân lên cái đảo quỷ đó.”

Đinh Bất Tứ lại dỗ dành: “Lên đó mấy hôm thì đã sao đâu? Nàng cứ ở trong nhà ta mà dưỡng thương một cách đàng hoàng thư thái.”

Bà lão kia giận dữ mắng: “Thư thái cái chó gì?” Trong lúc gấp rút, mụ chợt buông lời thô tục.

Nước sông chảy cuồn cuộn, sóng vô bôm bốp vào mạn thuyền. Thạch Phá Thiên nhìn theo ánh mắt của Đinh Bất Tứ thì thấy bên phải phía trước đã hiện ra một ngọn núi xanh biếc, hình dáng trên nhọn dưới tròn, quả giống như một cái vỏ ốc. Chàng nghĩ ngay: “Đây chắc là đảo Bích Loa rồi.”

Đinh Bất Tứ quay lại bảo người phu thuyền: “Áp thuyền vào bờ ở hòn đảo kia.” Ông già lái thuyền vâng dạ liên miệng. Đinh Bất Tứ cúi xuống cầm lấy chiếc neo sắt, rồi ra đứng ở đầu thuyền, đợi khi tới gần sẽ liệng mỏ neo lên đảo.

Thạch Phá Thiên nói: “Lão gia! Bà bà đây đã không muốn đến nhà lão gia, thì hà tất lão…” Chàng chưa dứt lời, đột nhiên mụ già đứng phắt dậy, đưa tay ra ôm lấy A Tú nhảy xuống sông.

Đinh Bất Tứ vội la lên: “Không được!” Lão xoay tay lại chụp thì đã không kịp nữa. Chỉ nghe đánh “ùm” một tiếng, nước sông bắn tóe lên, hai người đã chìm dưới nước. Thạch Phá Thiên hoảng hồn, rút lấy một tấm ván thuyền rồi cũng nhảy xuống sông. Hai chân chàng đạp vào mạn thuyền, vọt đi khá xa, nên tuy nhảy xuống sau mà lúc người chàng tới mặt nước thì đã đến gần hai bà cháu kia.

Thạch Phá Thiên không biết bơi, bị sóng đánh vào miệng phải nuốt nước ừng ực. Nhưng chàng quyết tâm cứu người, tay trái ôm khư khư tấm ván thuyền, tay phải quơ loạn xạ, chạm vào đầu tóc mụ già liền nắm chặt không buông ra nữa. Cả ba người trôi theo dòng nước xuôi xuống hạ lưu.

* * *

Thạch Phá Thiên bị sóng đánh dồn dập đến đầu nhức mắt hoa, không ngớt nuốt nước sông ừng ực vào bụng. Đột nhiên người chàng bị đụng mạnh một cái, lưng đau nhói lên, va phải một tảng đá. Thạch Phá Thiên cả mừng vận nội lực đạp chân vào tảng đá đó để dừng lại, lập tức đưa tay kéo bà lão đến gần. Chàng thấy hai tay mụ vẫn còn ôm chặt cô cháu gái thì trong bụng cả mừng, nhưng không hiểu họ còn sống hay đã chết.

Thạch Phá Thiên ôm cả hai bà cháu lên rồi bước thấp bước cao lội qua bãi sông bùn lầy, tiến vào trong đất liền. Chàng đi hơn mười trượng thì tới chỗ đất khô ráo. Bỗng nghe mụ già lên tiếng mắng: “Thằng lỏi này thật là vô lễ! Sao ngươi dám nắm tóc của ta?”

Thạch Phá Thiên chưng hửng, vội nói: “Dạ! Dạ! Thật là xin lỗi!”

Mụ già lại nói: “Sao ngươi cứ túm lấy tóc, làm ta đau đầu quá chừng!” Bỗng mụ oẹ lên một tiếng, trong miệng ộc ra một vũng nước sông.

A Tú nói: “Bà nội! Nếu không được đại ca đây cứu mạng, hai bà cháu mình lại không biết bơi, thì lúc này… lúc này…” Nàng nói tới đây, miệng cũng ộc nước ra.

Mụ già nói: “Thế ra thằng lỏi này đã có ơn cứu mạng cho chúng ta. Vậy thì cái tội vô lễ ta cũng bỏ đi.”

A Tú mỉm cười nói: “Gặp lúc nguy cấp cứu người, đâu có thể làm gì khác được? Vị đại ca này, thật là… thật là phải đa tạ rồi.”

Nàng đang bị Thạch Phá Thiên ôm vào lòng, bốn mắt cách nhau trong gang tấc. Nhưng lúc nàng nói, ánh mắt luôn quay đi chỗ khác, không dám nhìn thẳng vào mặt chàng. Cả hai bà cháu thổ nước ra làm ướt đẫm cả người Thạch Phá Thiên. Nhưng toàn thân chàng đã bị nước sông ướt đẫm, có thổ bao nhiêu nước vào cũng chẳng hề gì, thế mà A Tú cũng đỏ mặt lên, tự trách mình vô ý thức.

Mụ già nói: “Được rồi! Ngươi cứ để chúng ta xuống đây. Chỗ này là đảo Tử Yên, cách chỗ ở của lão quái đó không xa, phải đề phòng lão đến quấy rối.” Thạch Phá Thiên vâng dạ luôn mấy tiếng, rồi đặt hai người xuống.

Bỗng nghe sau bụi cây rậm có tiếng người nói: “Chắc là tiểu tử đó chưa chết. Chúng ta nhất định phải tìm cho ra hắn.”

Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi, khẽ nói: “Đinh Bất Tứ đuổi tới nơi rồi!” Chàng liền ôm lấy hai người chạy vào bụi rậm, ngồi yên không nhúc nhích. Rồi có tiếng chân giẫm trên cỏ khô cùng lá rụng bật lên những tiếng sột soạt, hai người từ bên kia đi tới, là một lão già và một thiếu nữ.

Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi, còn sợ hơn cả bị Đinh Bất Tứ đuổi tới nơi. Chàng nhận ra đây là Đinh Đang và Đinh Bất Tam, bèn run rẩy nói: “Hỏng bét! Đây là… là Đinh Tam gia gia.”

Mụ già thấy chàng có vẻ sợ hãi Đinh Bất Tam thì ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi lại sợ Đinh Bất Tam? Không phải cháu gái lão đã truyền thụ võ công cho ngươi hay sao?”

Thạch Phá Thiên nói: “Đinh Bất Tam muốn giết cháu, còn Đinh Đinh Đang Đang thì giận cháu không chịu nghe lời nàng nên mới cột tại hạ thành một đòn bánh tét rồi ném xuống sông. Còn may là vừa đúng lúc thuyền của bà bà đi qua, nếu không… nếu không…”

Mụ già mỉm cười nói: “Nếu không thì ngươi đã thành món điểm tâm cho bọn rùa đen cùng cá mập rồi!”

Thạch Phá Thiên nói: “Vâng, vâng!” Chàng chợt nhớ tới cảnh mình bị Đinh Đang dùng dây buộc thuyền trói gô lại ngày hôm qua, trong lòng vẫn còn sợ sệt nói: “Thái thái! Bọn họ vẫn đang còn tìm cháu. Nếu lần này cháu lại bị họ bắt được thì nguy hiểm vô cùng.”

Mụ già tức giận nói: “Nếu ta không bị tẩu hỏa nhập ma thì cái thằng cha Đinh Bất Tam này có chi đáng kể! Ngươi đi kêu lão lại đây, thử xem lão có dám đụng đến một sợi tóc của ngươi hay không?”

A Tú vội khuyên can: “Bà nội! Hiện giờ bà nội chưa phục hồi công lực, hãy tạm thời tránh né hai anh em nhà họ Đinh một chút, đợi khi khoe mạnh sẽ đi tìm họ để trút giận cũng chưa muộn.”

Mụ già vẫn hậm hực nói: “Lần này bà nội của ngươi thật là xúi quẩy. Nói đi nói lại, chẳng qua chỉ vì thằng tiểu súc sinh và lão già không chịu chết đó không tốt mà ra.”

A Tú dịu dàng nói: “Bà nội! Những việc đã qua còn nhắc đến làm chi? Cả hai chúng ta cùng bị tẩu hỏa nhập ma, phải bình tâm tịnh khí để dưỡng thương mới mau khỏi được. Nếu trong lòng của bà nội bực tức, thì chỉ làm tổn hại cho thân thể.”

Mụ già vẫn chưa nguôi giận, hậm hực nói: “Thân thể bị tổn hại thì đã đáng gì? Hôm nay gặp phải vụ này, ta phải uống bao nhiêu nước sông thối tha vào bụng. Thế thì thanh danh một đời Sử Tiểu Thúy này thật là không còn sót lại một chút nào nữa.” Mụ phẫn hận trong lòng, càng nói càng to tiếng.

Thạch Phá Thiên sợ Đinh Bất Tam nghe thấy, liền khuyên can: “Lão thái thái! Thái thái hãy bình tâm lại, để cháu… cháu vận thêm một chút nội lực vào cho thái thái được không?” Rồi chàng không chờ mụ trả lời, đặt bàn tay vào huyệt Linh Đài, từ từ vận nội lực thúc đẩy vào người mụ. Sử bà bà ngưng thần vận khí, dẫn kình lực bên ngoài vào xông phá những nơi bế tắc trong mình, những kinh mạch cùng huyệt đạo được thúc đẩy và giải khai từng chút một. Mụ im tiếng không nói nữa.

Thạch Phá Thiên chỉ mong cho mụ đừng làm huyên náo để khỏi kinh động đến tai Đinh Bất Tam. Nội lực từ bàn tay chàng tiếp tục tràn vào người mụ không ngớt. Sử bà bà trong lòng ngấm ngầm kinh hãi, nghĩ thầm: “Nội lực thằng lỏi này thâm hậu vô cùng, mà lại là luồng khí thuần dương. Hiển nhiên từ lúc gã còn là đứa trẻ nít đã học được kỹ thuật của danh môn chính phái, mà lại chẳng hiểu chút võ công nào thì thật là kỳ.” Mụ nghĩ tới đây, bất giác cảm thấy khí huyết trong người nhộn nhạo lên, nên không dám nghĩ nhiều nữa. Đến lúc đả thông được toàn bộ kinh mạch Túc thiếu dương rồi, mụ thở phào một cái nhẹ nhõm, rồi đứng lên mỉm cười nói: “Làm phiền ngươi quá.”

Thạch Phá Thiên cùng A Tú đều vui mừng khôn xiết, đồng thanh hỏi: “Bà bà cử động được rồi ư?”

Sử bà bà đáp: “Mới đả thông được một mạch ở chân, còn những kinh mạch khác chưa thông.”

Thạch Phá Thiên nói: “Cháu còn chưa mệt. Chúng ta tiếp tục đả thông hết các kinh mạch khác đi.”

Sử bà bà chau mày nói: “Thằng lỏi này chỉ nói bậy bạ! Ta cùng A Tú vì luyện Vô Vọng Thần Quyết mà bị tẩu hỏa nhập ma, đâu phải là những loại nội thương bình thường? Hôm nay đả thông được một đường kinh mạch đã phải tạ ơn trời phật lắm rồi. Dù Đạt Ma tổ sư hay Trương Tam Phong chân nhân có phục sinh cũng chẳng thể chỉ một ngày mà đả thông được hết những kinh mạch bị bế tắc trong nội thể ta.”

Thạch Phá Thiên run rẩy nói: “Dạ dạ! Cháu không hiểu đạo lý bên trong.”

Sử bà bà bảo: “Hiện giờ chưa có chuyện gì, ngươi giúp A Tú đả thông kinh mạch Túc thiếu dương của nó đi!” Thạch Phá Thiên vâng dạ luôn miệng. Chàng nâng A Tú dậy, đặt nàng tựa vào một cành cây rồi áp bàn tay vào huyệt Linh Đài nàng. Chàng cứ theo chỉ thị của Sử bà bà, từ từ thúc đẩy nội lực vào người nàng. Nội lực của A Tú nông cạn hơn bà nội của cô nhiều, nên Thạch Phá Thiên phải mất thời gian gấp bốn lần mới đả thông được kinh mạch Túc thiếu dương cho nàng.

A Tú gắng gượng đứng lên, nhẹ nhàng nói: “Đa tạ đại ca! Bà nội! Chúng ta còn chưa biết cao tính đại danh của đại ca đây là gì để tiện xưng hô, như vậy thật là thất lễ!” Câu này tuy nàng nói với tổ mẫu mà thực ra là để hỏi danh tính Thạch Phá Thiên, chỉ vì thẹn thùng trước mặt chàng thanh niên này mà nàng ngại ngùng không dám hỏi thẳng chàng.

Sử bà bà nói: “Tên đại tống tử kia! Cháu gái ta hỏi tên họ ngươi đó.”

Thạch Phá Thiên nói: “Cháu… cháu… cũng không biết… Mẹ của cháu gọi cháu… gọi cháu là… là…” Chàng muốn nói cái tên Cẩu Tạp Chủng ra, nhưng bây giờ đã hiểu ba chữ đó thật là khó nghe, không tiện nói ra trước mặt một vị cô nương thanh khiết dịu hiền này. Chàng liền nói tiếp: “Mọi người cứ nhận lầm cháu là một người khác, mà thực ra cháu không phải là người đó… Cuối cùng cháu là ai, thật sự… thật sự… không thể nào nói ra được.”

Sử bà bà nóng nảy không nhịn được liền quát lên: “Ngươi muốn nói thì nói, không muốn nói thì thôi, sao lại ấp úng quanh co như vậy?”

A Tú nói: “Bà nội! Người ta không muốn nói thì chắc chắn là có chỗ khó nói ra, chúng ta cũng không nên hỏi nữa. Biết tên hay không cũng chẳng sao, miễn là chúng ta ghi nhớ ơn đức của người ta là được rồi.”

Thạch Phá Thiên nói: “Không, không! Không phải là cháu không chịu nói, thật ra tên cháu khó nghe lắm.”

Sử bà bà nói: “Sao lại khó nghe với dễ nghe? Còn tên gì mà khó nghe hơn Đòn Bánh Tét nữa? Ngươi không nói thì ta kêu ngươi bằng Đại Tống Tử.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Đòn Bánh Tét còn dễ nghe hơn Chó Lộn Giống nhiều.” Chàng liền mỉm cười đáp: “Gọi cháu là Đại Tống Tử cũng được, chẳng có gì khó nghe cả.”

A Tú thấy Thạch Phá Thiên bản tính hiền hòa mà tổ mẫu mình nói năng thiếu lễ. Tuy chàng không lấy thế làm tức giận, nhưng trong lòng nàng vẫn áy náy, bèn nói: “Bà nội! Bà đừng có khinh dễ người ta nữa. Cũng xin đại ca đừng trách.”

Thạch Phá Thiên cười hì hì đáp: “Không hề gì. Tạ ơn trời đất. Chỉ cầu sao Đinh Bất Tam gia gia và Đinh Đinh Đang Đang đừng kiếm thấy cháu là được rồi. Hai vị ngồi nghỉ đây một lúc, để cháu đi kiếm xem có gì ăn không.”

Sử bà bà nói: “Trên đảo Tử Yên này có rất nhiều trái hồng, mùa này đang chín đỏ, ngươi đi hái về đây một ít. Lại còn những loại tôm cua trên đảo cũng béo lắm, ngươi bắt về mà ăn.”

Thạch Phá Thiên vâng lời, lạng người đi nấp vào sau gốc cây, rón rén chạy đi, chỉ sợ bị ông cháu nhà họ Đinh nhìn thấy. Chàng đi được chừng mấy chục trượng thì quả nhiên thấy trên sườn núi có mấy chục cây hồng, cây nào cũng lúc lỉu những trái hồng chín đỏ. Thạch Phá Thiên chạy lại gốc cây, giơ tay ra nắm lấy một cành rung mạnh mấy cái. Những trái chín mọng trên cây liền rụng xuống. Thạch Phá Thiên liền mở vạt áo ra hứng lấy, rồi chạy về chỗ bụi cây rậm cho Sử bà bà cùng A Tú ăn. Chân của hai bà cháu đã đi lại được, nhưng kinh mạch nơi tay hãy còn bế tắc. Sử bà bà còn gắng gượng giơ tay lên được, nhưng hai tay A Tú không sao nhúc nhích. Thạch Phá Thiên ngồi bóc vỏ một trái hồng đưa cho Sử bà bà, rồi lại bóc cho A Tú một trái.

A Tú thấy Thạch Phá Thiên đưa những trái hồng đã lột vỏ tới bên miệng của mình thì mắc cỡ quá, mặt đỏ bừng lên như trái hồng. Nàng không thể từ chối được, đành há miệng ra ăn những trái hồng mà chàng đưa tới. Thạch Phá Thiên toan đưa trái nữa vào miệng A Tú thì nàng nói: “Đại ca! Đại ca hãy ăn no trước rồi sau đó… rồi sau đó…”

Sử bà bà nói: “Từ đây đi về phía Tây Nam chừng hơn dặm có một thạch động. Chúng ta đợi đến tối sẽ tới đó ẩn thân, để anh em lão quỷ Bất Tam, Bất Tứ không tìm ra được.”

Thạch Phá Thiên cả mừng nói: “Thế thì tuyệt diệu!” Chàng không sợ Đinh Bất Tứ lắm, nhưng hai ông cháu Đinh Bất Tam quyết ý giết chàng nên chàng cứ lo ngay ngáy, khi nghe Sử bà bà nói ở gần đây có chỗ ẩn nấp bất giác cả mừng.

Khi màn đêm buông xuống, Thạch Phá Thiên tay trái dắt Sử bà bà, tay phải nâng đỡ A Tú, ba người đi về mé Tây Nam. Sử bà bà hiển nhiên rất hay lui tới đảo Tử Yên này, rất thuộc địa thế ở đây. Quả nhiên ba người đi chưa đầy một dặm đã đến một nơi toàn là vách núi. Sử bà bà chỉ đường cho Thạch Phá Thiên vòng theo hai khúc quanh, rồi chui qua một bụi cây thấp thì thấy cửa động. Sử bà bà nói: “Đại Tống Tử! Đêm nay ngươi ngủ ở trước cửa động để canh gác, nhớ là không được đi vào trong này.”

Thạch Phá Thiên vâng dạ rồi nói tiếp: “Tiếc là chúng ta không dám đốt lửa lên để sưởi cho khô áo quần.”

Sử bà bà lạnh lùng nói: “Thật là hổ xuống bình nguyên bị chó lờn. Ngày sau anh em lão quỷ Bất Tam Bất Tứ sẽ bị báo ứng, trả nợ gấp mười lần”.

Hồi 10: Kim Ô đao pháp

Sáng sớm hôm sau, ba người thức dậy lại ăn mấy trái hồng, rồi Thạch Phá Thiên lại vận công giúp hai bà cháu đả thông một đường kinh mạch nữa, thế là hai tay cử động được.

Sử bà bà nói: “Đại Tống Tử! Trên đảo này có một cái hồ rất nhiều tôm cua, ngươi tới đó bắt về một ít. Mùa này tôm cua không béo lắm, nhưng cũng còn hơn là chỉ ăn mấy trái hồng.”

Thạch Phá Thiên ngần ngừ hỏi: “Bắt tôm cua thì chẳng khó gì, nhưng không có cách nào nấu chín, không thể ăn sống được.”

Sử bà bà nói: “Trai tráng như ngươi mà lại đi sợ lão quỷ Đinh Bất Tam thì còn ra trò trống gì?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Đừng nói tới Đinh Bất Tam gia gia, ngay Đinh Đinh Đang Đang cũng đã lợi hại hơn cháu rất nhiều. Nếu họ lại bắt được cháu lần nữa, nhất định trói cháu thành một đòn bánh tét lớn rồi liệng xuống sông thì thật là nguy hiểm!”

A Tú cất tiếng khuyên: “Bà nội! Đại ca đây nói phải đó! Chúng ta hãy tạm thời nhẫn nại, chờ cho bà nội đả thông kinh mạch, khôi phục thần công. Khi ấy còn sợ gì Đinh Bất Tam và Đinh Bất Tứ nữa?”

Sử bà bà nói: “Hừ! Ngươi nói thì dễ lắm! Khôi phục lại thần công đâu phải chuyện dễ dàng? Hai người chúng ta đả thông xong kinh mạch ít ra phải mất mười ngày. Còn muốn phục hồi công lực, thì lâu là một năm mà nhanh nhất cũng phải tám tháng. Chẳng lẽ bấy nhiêu thời gian chúng ta chỉ ăn mấy trái hồng? Mà chỉ chừng mười ngày nữa thì hồng cũng chín rụng hết rồi.”

Thạch Phá Thiên nói: “Tưởng bà bà sợ gì, chứ chuyện đó thì cũng không khó lắm. Để cháu đi hái thật nhiều về phơi khô, đóng thành bánh hồng, ba chúng ta ăn dần trong một năm hay bảy tám tháng. Tuy không ngon, nhưng cũng không chết đói được” Lâu nay Thạch Phá Thiên trải qua nhiều cơn hoạn nạn, vừa đau khổ vừa nguy hiểm, cảm thấy thế thái nhân tình thật là phiền nhiễu, việc gì cũng chẳng rõ ràng. Chàng thấy cứ ở trong cái thạch động này những ngày yên ổn còn vui vẻ hơn nhiều.

Sử bà bà lại mắng: “Ngươi muốn làm con rùa rút đầu, nhưng ta lại không muốn. Vả lại chỉ vài ngày nữa là thằng cha Đinh Bất Tứ sẽ tìm đến đây, ngươi có muốn làm con rùa rút đầu cũng không được. Đại Tống Tử! Thật ra ngươi là ai? Sao đã có nội lực thâm hậu vô biên mà lại chưa từng luyện tập võ nghệ?”

Thạch Phá Thiên cũng tự cảm thấy bối rối, bèn đáp: “Thì có ai chịu dạy cháu đâu mà học? Chỉ có Đinh Đinh Đang Đang truyền cho cháu mười tám đường cầm nã thủ, dĩ nhiên cháu không thắng được cô ta. Đinh Bất Tứ lão gia cũng dạy cho một chút, thì đều là những chiêu thức lão thuộc cả rồi, làm gì mà chẳng thua lão?”

A Tú bỗng nói xen vào: “Bà nội! Sao bà nội không chỉ điểm cho đại ca đây mấy chiêu? Giả tỉ huynh ấy học được công phu của bà bà, sau này đánh bại được Đinh Bất Tứ thì còn vẻ vang hơn là chính tay bà nội đánh thắng lão.”

Sử bà bà không trả lời, giương mắt lên nhìn Thạch Phá Thiên không chớp. Trong mục quang mụ đột nhiên lộ ra những tia sáng hung dữ, hai tay run rẩy tựa như muốn chồm lên bóp chết Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên sợ quá không tự chủ được, bất giác lùi lại một bước ấp úng hỏi: “Thái thái… thái thái…”

Sử bà bà thét lên: “A Tú! Ngươi nhìn kỹ lại xem, gã có giống thằng chó kia hay không?”

A Tú quay lại, mở to đôi mắt nhìn Thạch Phá Thiên, vẻ mặt vẫn hiền từ, dịu dàng đáp: “Bà nội! Tướng mạo đại ca đây quả có hơi giống, nhưng nhất quyết không phải hắn. Hắn đâu có tốt bụng như đại ca này, hắn tuyệt nhiên không thể… không thể…”

Những tia hung quang trong mắt Sử bà bà dần dần dịu lại. Mụ đằng hắng một tiếng rồi nói: “Dù thằng lỏi này không phải là hắn, nhưng tướng mạo cũng rất giống hắn. Ta nhất định không dạy.”

* * *

Thạch Phá Thiên chợt hiểu ra, bèn lẩm bẩm tự bảo: “Phải rồi, bà bà lại nghi mình là thằng cha Thạch Phá Thiên nào đó. Cái gã bang chúa họ Thạch kia chắc là đắc tội với nhiều người lắm rồi, nên mới bị người ta căm hận đến thế. Sau này mình mà có cơ hội gặp mặt, phải khuyên giải y mới được.”

Bỗng nghe Sử bà bà hỏi: “Ngươi có phải ở họ Thạch hay không?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Không phải! Người ta đều bảo cháu giống vị Thạch bang chúa nào đó của bang Trường Lạc. Nhưng cháu không phải là hắn, nhất định không phải, thế mà nói đi nói lại cũng chẳng ai tin.” Chàng nói xong lại thở dài sườn sượt, đầy vẻ phiền não.

A Tú khẽ nói: “Tiểu muội tin chắc là đại ca không phải hắn.”

Thạch Phá Thiên cả mừng kêu lên: “Cô nương thật sự tin là ta không phải hắn ư? Thế thì… thế thì hay lắm! Chỉ có mình cô nương là không tin như thế.”

A Tú nói: “Đại ca là người tốt còn hắn… hắn là người xấu. Hai người hoàn toàn khác nhau.”

Thạch Phá Thiên sung sướng như được người tri kỷ, bất giác nắm tay nàng cảm ơn lia lịa: “Đa tạ cô nương! Đa tạ cô nương! Đa tạ cô nương!” ít lâu nay, mọi người đều cho chàng là Thạch bang chúa, khiến chàng không sao biện bạch được. Lúc này chàng chẳng khác gì một phạm nhân được minh oan, mừng rỡ không sao nói hết, thật sự là cảm kích vị thanh thiên lão gia này đến rơi nước mắt.

Thạch Phá Thiên liên tiếp nói “Đa tạ cô nương!” rồi không nhịn được nữa, để hai hàng lệ chảy ra. Những giọt lệ rớt xuống bàn tay nhỏ nhắn của A Tú. Nàng xấu hổ đến đỏ mặt lên, nhưng không nỡ rút tay ra khỏi tay chàng.

Sử bà bà lạnh lùng nói: “Đúng là đúng, không đúng là không đúng. Đàn ông con trai mà lại khóc khóc mếu mếu thì thật chẳng còn ra trò trống gì nữa,”

Thạch Phá Thiên vâng dạ, toan đưa tay lên lau nước mắt mới phát giác ra mình đang nắm tay A Tú. Chàng giật mình xin lỗi rối rít, vội buông tay A Tú ra, hổ thẹn ấp úng: “Ta… ta không phải… Ta đi hái thêm một ít trái hồng nữa.” Rồi chàng không dám nhìn mặt A Tú nữa, cắm đầu chạy ra ngoài.

Sử bà bà thấy Thạch Phá Thiên hoảng hốt thật sự chứ không phải giả vờ, không khỏi phì cười, rồi thở dài bảo A Tú: “Quả nhiên là không phải. Nếu gã tiểu súc sinh họ Thạch kia mà có một chút trung hậu hảo tâm như đòn bánh tét này thì dứt khoát không…”

Bỗng ngoài cửa động có tiếng sột soạt. Thạch Phá Thiên đã quay về, sắc mặt lợt lạt ra chiều cực kỳ hoảng hốt. Chàng líu lưỡi nói: “Chết rồi… Thật là hỏng bét…”

Sử bà bà thấy Thạch Phá Thiên hoảng hốt chạy về liền hỏi ngay: “Sao thế? Đinh Bất Tam nhìn thấy ngươi rồi hay sao?”

Thạch Phá Thiên nói: “Không phải. Người phái Tuyết Sơn đã lên đảo này rồi, thật là nguy hiểm…”

Sắc mặt Sử bà bà cùng A Tú cũng thay đổi, hai người đưa mắt nhìn nhau. Sử bà bà hỏi: “Là những ai đến?”

Thạch Phá Thiên nói: “Bạch Vạn Kiếm đại hiệp dẫn mười mấy sư đệ đến đây. Họ… họ nhất định đến để bắt cháu đem về thành Lăng Tiêu xử tử.”

Sử bà bà lại nhìn A Tú một cái, hỏi Thạch Phá Thiên: “Họ đã trông thấy ngươi chưa?”

Thạch Phá Thiên nói: “Cũng may mà chưa thấy… Nhưng cháu thấy Bạch Vạn Kiếm đại hiệp đang nói chuyện với Đinh Bất Tứ gia gia.”

Sử bà bà nhíu mày hỏi: “Đinh Bất Tứ chứ không phải là Đinh Bất Tam ư?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Đúng là Đinh Bất Tứ. Lão nói: “Trên sông Trường Giang không thấy xác chết nổi lên, nhất định chúng đang ở đảo này.” Bọn họ lục tìm mãi, nhất định sẽ đến đây, thế thì… thế thì hỏng bét rồi.” Chàng lo lắng đến nỗi mồ hôi vã ra đầy trán.

A Tú bèn lên tiếng an ủi: “Bạch đại hiệp cũng đã nhận lầm đại ca phải không? Huynh không phải là con người hư hỏng đó thì cứ nói rõ cho họ nghe, có gì phải lo lắng đâu?”

Thạch Phá Thiên hoang mang nói: “Không thể nói rõ được.”

Sử bà bà liền bảo: “Nói không rõ được thì phải đánh nhau chứ sao? Trên thiên hạ này không phải chỉ có một mình ngươi bị vu oan.”

Thạch Phá Thiên hỏi lại: “Nhưng vị Bạch đại hiệp này là một tay cao thủ phái Tuyết Sơn. Kiếm pháp ông ấy thần xuất quỷ một, cháu… cháu làm sao đánh nổi?”

Sử bà bà cười lạnh đáp: “Kiếm pháp phái Tuyết Sơn thì đã đáng gì? Ta thì thấy hết sức bình thường!”

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Không đúng, không đúng! Vị Bạch đại hiệp này kiếm thuật thông thần, không thể tả xiết được. Thanh trường kiếm trong tay của ông ấy chỉ rung lên một cái là để lại sáu vết kiếm, hoặc khắc trên cột hoặc khắc vào người khác đều được cả. Thái thái có tin hay không?” Chàng vừa nói vừa vén quần lên, để hở sáu vết kiếm chụm lại như cánh hoa mai trên đùi mình cho bà xem. Làm như thế trước mặt phụ nữ là rất khiếm nhã, nhưng chàng ở nông thôn quê kệch thực thà, vốn không hiểu lắm cách giữ ý trước mặt nữ nhân.

Sử bà bà hắng giọng một tiếng rồi nói: “Có gì mà không tin?” Rồi giọng bà chuyển sang giận dữ, nói tiếp: “Dưới mắt của Sử Tiểu Thúy này thì võ công của phái Tuyết Sơn chẳng có gì là hay ho, không đáng một xu. Lão Bạch Tự Tại cứ xưng hùng xưng bá trong thành Lăng Tiêu, không biết trời cao đất rộng là gì, dám nói kiếm pháp phái Tuyết Sơn của hắn là thiên hạ đệ nhất. Hừ, đao pháp của phái Kim Ô ta chính là khắc tinh kiếm pháp phái Tuyết Sơn của hắn. Đại Tống Tử, ngươi có biết Kim Ô nghĩa là gì không?”

Thạch Phá Thiên nói: “Không… cháu không biết.”

Sử bà bà nói: “Kim Ô tức là mặt trời. Mặt trời mà mọc lên thì tuyết sẽ làm sao?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Tuyết sẽ tan.”

Sử bà bà cười ha hả nói: “Đúng rồi! Mặt trời mọc lên thì tuyết sẽ chảy thành nước. Chính vì phái Kim Ô của ta là khắc tinh của phái Tuyết Sơn, nên bọn đệ tử phái Tuyết Sơn mà gặp phải phái Kim Ô ta thì chỉ còn nước dập đầu xin tha mạng.”

Thạch Phá Thiên đã chính mắt trông thấy kiếm pháp phái Tuyết Sơn cực kỳ thần diệu, nghe Sử bà bà ca ngợi võ công phái Kim Ô lợi hại như thế thì không khỏi nửa tin nửa ngờ. Trong lòng Thạch Phá Thiên đã không tin phục, vẻ nghi ngờ lập tức lộ ra ngoài mặt.

Sử bà bà hỏi: “Ngươi không tin hay sao?”

Thạch Phá Thiên nói: “Cháu từng bị Bạch đại hiệp bắt về miếu Thổ địa, chính mắt nhìn thấy sư huynh sư đệ họ luyện kiếm, cũng nhớ được một ít. Cháu thấy… cháu thấy kiếm pháp của phái Tuyết Sơn thực là… thực là…”

Sử bà bà giận dữ hỏi: “Thực là làm sao?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Thực là tuyệt diệu.”

Sử bà bà nói: “Ngươi chỉ thấy bọn sư huynh sư đệ chúng luyện kiếm một đêm thì đã học được gì, sao biết được là hay hay dở? Thử diễn lại cho ta xem!”

Thạch Phá Thiên nói: “Mấy chiêu kiếm pháp cháu đã học được cũng không lợi hại bằng Bạch đại hiệp đâu.” Sử bà bà phá lên cười ha hả. A Tú cũng không nhịn được, nàng khẽ mỉm cười.

Sử bà bà nói: “Thằng lỏi Bạch Vạn Kiếm vốn rất thông minh, lại siêng năng luyện kiếm từ nhỏ đến bây giờ đã hai mươi mấy năm. Ngươi mới xem một đêm mà đã so bì với hắn, thật khiến cho người ta phải tức cười đến nẻ ruột.”

A Tú nói: “Bà nội! Đại ca này đâu có nói là kiếm pháp lợi hại hơn Bạch đại hiệp?”

Sử bà bà nheo mắt nhìn A Tú một cái, lại quay sang Thạch Phá Thiên nói: “Được rồi! Ngươi thử biểu diễn để ta xem lợi hại đến thế nào.” Thạch Phá Thiên biết bà ta đang chế giễu mình thì thẹn đỏ mặt lên. Chàng lượm một cành cây ở dưới đất, tuốt sạch lá và những nhánh nhỏ để dùng làm trường kiếm, rồi bắt chước sử lại những chiêu thức của Hô Diên Vạn Thiện và Văn Vạn Phu.

Sử bà bà cười ha hả nói: “Mới chiêu thứ nhất đã trật rồi!” Thạch Phá Thiên càng đỏ mặt hơn, chàng buông tay xuống.

Sử bà bà lại gọi: “Diễn nữa đi! Diễn tiếp đi! Ta muốn xem kiếm pháp của phái Tuyết Sơn lợi hại như thế nào.” Thạch Phá Thiên mắc cỡ quá, muốn liệng cành cây đi. Nhưng chàng liếc mắt nhìn A Tú thì thấy nàng lộ vẻ rất ân cần, ánh mắt thiết tha như cổ vũ, như khuyến khích, tuyệt không có ý gì là chế giễu chàng cả. Chàng liền xoay tay lại phóng kiếm ra.

Thạch Phá Thiên vừa xuất chiêu vừa sợ mình nhớ không đúng để Sử bà bà lại chế giễu. Một lúc sau chàng tập trung được tinh thần, không lo lắng gì đến xung quanh nữa, cứ phóng kiếm ra hết chiêu này đến chiêu khác. Được bảy tám chiêu rồi, chàng nhớ lại hôm ở miếu Thổ địa đã được chiết giải cùng Thạch phu nhân, nên càng về sau đường kiếm càng thuần thục, kiếm phong rít lên veo véo.

Nét mặt Sử bà bà và A Tú cùng lộ vẻ cười, tuy nụ cười của mỗi người có một ý nghĩa khác nhau, nụ cười của mụ già thì ngụ ý chế giễu, mà nụ cười của tiểu cô nương đầy vẻ dịu dàng. Cả hai người đều nhận thấy những chiêu kiếm của Thạch Phá Thiên chỉ giống bên ngoài mà hãy còn rất sai trật, để sơ hở hàng trăm chỗ, thực sự chẳng ra gì cả. Nhưng hai người càng xem lâu, sắc mặt càng biến đối, ý niệm khinh khi giảm bớt dần, phần kính nể mỗi lúc một gia tăng.

Lúc Thạch Phá Thiên sử hết bảy mươi hai đường kiếm của phái Tuyết Sơn vừa lộn xộn vừa không có bài bản, Sử bà bà cùng A Tú đưa mắt nhìn nhau. Cả hai người cùng biết rằng Thạch Phá Thiên sử kiếm pháp của phái Tuyết Sơn chưa đến nơi đến chốn, hiển nhiên chàng chưa được truyền thụ đàng hoàng, nhưng nhờ nội lực thâm hậu nên oai lực trong những chiêu kiếm đó cũng rất khác thường. Thật ra kiếm pháp của phái Tuyết Sơn có bảy mươi hai chiêu, nhưng Thạch Phá Thiên chỉ nhớ được có sáu mươi ba chiêu còn quên mất chín chiêu, nên vừa rồi chàng biểu diễn kiếm pháp của phái Tuyết Sơn đã vụng về lại chẳng mạch lạc chút nào.

Thạch Phá Thiên thấy hai người không nói gì, bèn rón rén bỏ cành cây xuống rồi nói: “Thật khiến cho hai vị phải cười vỡ bụng. Cháu thật là ngu dại, mới có mười ngày đã quên mất hết.”

Sử bà bà nói: “Ngươi nói là đã xem bọn đệ tử phái Tuyết Sơn luyện kiếm trong miếu Thổ địa rồi học lén được bấy nhiêu phải không?”

Thạch Phá Thiên thẹn đỏ mặt lên đáp: “Cháu cũng biết học lén võ công của người khác là không tốt. Lúc lão bá dẫn cháu lên núi cao, cũng đã nói không được phép lấy đồ của người ta khi chưa được người ta cho phép, nếu lấy thì gọi là tiểu tặc. Cháu lén lút học kiếm pháp của phái Tuyết Sơn chắc cũng là tiểu tặc rồi, chỉ vì thấy kiếm pháp của họ cực kỳ tinh diệu nên bất giác nhập tâm được bấy nhiêu.”

Sử bà bà mừng rỡ nói: “Mới có một đêm mà ngươi đã học được như thế, thì thật là tư chất thông minh đặc biệt. Xem ra ngươi có thể học được Kim Ô đao pháp của ta, bái ta làm sư phụ được rồi…”

A Tú vội xen vào: “Bà nội! Không được đâu.”

Sử bà bà ngạc nhiên hỏi: “Sao lại không được?”

A Tú mặt đỏ bừng lên, ấp úng: “Như vậy… như vậy… chẳng lẽ cháu phải kêu huynh ấy bằng sư thúc, tự nhiên lại thấp hơn một bậc hay sao?”

Sử bà bà sầm mặt xuống nói: “Sư thúc thì là sư thúc, có gì mà không được? Giả tỉ bây giờ lão quái Đinh Bất Tứ tìm đến đây để bức bách ta phải lên đảo Bích Loa, thì bà cháu mình lại phải nhảy xuống sông tự tử. Bây giờ chỉ còn cách mau mau dạy võ công cho Đòn Bánh Tét này, mới chống đỡ được với hắn. Hiện giờ chúng ta đang lâm vào tình thế cấp bách, thì còn câu nệ vai vế cao thấp làm gì? Đại Tống Tử! Hôm nay Sử bà bà ta khai tông lập phái, thu ngươi làm đồ đệ đầu tiên của phái Kim Ô. Vậy ngươi có chịu bái sư không?”

Bản tính của Thạch Phá Thiên vốn dễ dãi, Sử bà bà đã muốn chàng bái sư thì chàng cũng bái sư. Nhưng chàng lại nghe A Tú bảo không muốn kêu mình bằng sư thúc, nên không khỏi ngần ngừ. Sử bà bà lại giục: “Ngươi mau quỳ xuống dập đầu đi! Ngươi sẽ là truyền nhân chính thống của phái Kim Ô ta. Ta là tổ sư sáng lập ra môn phái, còn ngươi là đại đệ tử của đời thứ hai.”

A Tú đột nhiên nghĩ ra một chuyện, mỉm cười nói: “Bà nội! Chúc mừng bà nội khai tông lập phái. Đại ca đây bái bà nội làm sư phụ, còn cháu không phải là đệ tử phái Kim Ô. Thế là chúng ta ở hai phái khác nhau, cháu bất tất phải gọi huynh ấy bằng sư thúc.”

Sử bà bà chỉ nóng lòng sáng lập môn phái rồi thu nhận đồ đệ, cũng không muốn nhiều lời với A Tú nữa. Mụ quay lại giục Thạch Phá Thiên: “Mau quỳ xuống rồi khấu đầu tám cái!”

Thạch Phá Thiên thấy A Tú không phản đối nữa, chàng cả mừng quỳ xuống trước mặt Sử bà bà dập đầu binh binh luôn tám lạy rất thành thực, không có vẻ hời hợt chút nào.

Sử bà bà hoan hỉ, cười tít mắt lại nói: “Được rồi! Được rồi! Hảo đồ đệ! Bây giờ ta và ngươi là người một nhà, tình cảm phải khác trước. Phái Kim Ô ta hôm nay khai tông lập phái, ngươi phải đem hết tâm lực để học tập công phu của ta. Ngày sau thanh danh phái Kim Ô trên chốn giang hồ có được vẻ vang hay không, là hoàn toàn trông vào Đại Tống Tử ngươi…”

A Tú bĩu môi, mỉm cười xen vào: “Bà nội đã là tổ sư phái Kim Ô, đồ đệ đầu tiên của quý phái phải là một tay anh hùng quán thế. Cái danh hiệu “Đòn bánh tét lớn” này không làm rạng rỡ cho môn phái lắm.”

Sử bà bà nói: “Phải lắm! Rốt cuộc tên họ ngươi là gì? Đối với sư phụ, ngươi không được giấu giếm điều gì hết.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Dạ, dạ! Má má thường kêu đồ đệ bằng Cẩu Tạp Chủng, còn những người ở bang Trường Lạc lại tưởng tại hạ là Thạch Phá Thiên bang chúa của họ. Thực sự là đệ tử không biết tên họ thật của mình là gì.”

Sử bà bà hứ một tiếng rồi nói: “Cái gì mà Cẩu Tạp Chủng? Chỉ nói tầm bậy. Không chừng má má ngươi bị điên rồi. Thôi, ngươi cứ theo họ Sử của ta. Sau này đệ tử đời thứ hai của phái Kim Ô phải dùng chữ nào để xếp vai vế nhỉ? Được rồi! Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nào là Bạch Vạn Kiếm, Phong Vạn Lý, Cảnh Vạn Chung… rồi còn những “vạn” gì nữa. Chúng ta phải mạnh hơn họ một vạn lần, họ dùng chữ Vạn, chúng ta phải dùng chữ Ức. Gã họ Bạch đã gọi là Bạch Vạn Kiếm, vậy ta đặt tên cho ngươi là Sử Ức Đao.”

Thạch Phá Thiên từ ngày cha sinh mẹ đẻ vốn chưa có họ tên chính thức, ai muốn kêu bằng Cẩu Tạp Chủng cũng được, Thạch Phá Thiên cũng được, Đại Tống Tử cũng được, chàng cũng chẳng quan tâm. Sử bà bà đặt cho cái tên là Sử Ức Đao, chàng cũng chẳng biết chữ Ức là một vạn vạn, nghe rồi cũng thuận miệng vâng dạ, không quan tâm lắm.

Còn Sử bà bà thì rất vui mừng, tinh thần phấn chấn nói: “Đao pháp Kim Ô của ta ngay từ năm sáu năm về trước đã hoàn hảo lắm rồi. Có điều bộ đao pháp này phải có nội lực cực kỳ thâm hậu mới sử dụng được, nếu không thì chẳng thể phát huy được những chỗ biến ảo kỳ diệu của đao pháp. Lần này ta bất ngờ gặp Đinh Bất Tứ trên sông Trường Giang, lão quỷ đó nhất định mời ta lên đảo Bích Loa của hắn, nếu không ác đấu một trận thì không thể bắt hắn lùi bước được. Ta liền cùng A Tú luyện môn Vô Vọng Thần Chú, khi luyện thành thì ta sử bộ Kim Ô đao pháp, còn nó sử bộ Ngọc Thố kiếm pháp, thành thế nhật nguyệt chuyển vần. Đừng nói Đinh Bất Tứ chỉ là một lão yêu quái môn tả đạo, dù là sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác gieo họa khắp võ lâm e rằng cũng không chống nổi, còn bọn cuồng vọng ngoại đạo ở phái Tuyết Sơn nhất định phải bái phục sát đất. Chẳng ngờ chỉ vô ý một chút, nội tức A Tú chạy lạc đường, ta hốt hoảng cứu chữa rồi cả hai người cùng bị tẩu hỏa nhập ma không động đậy được.”

Sử bà bà đã thu Thạch Phá Thiên làm đồ đệ nên nói chuyện chẳng giấu giếm gì, ngay cả nguyên nhân tẩu hỏa nhập ma cũng nói cho chàng biết. Bà lại nói: “Cũng may là ngươi có được nội lực vô cùng thâm hậu, đúng là rất phù hợp để luyện Kim Ô đao pháp của ta. Đao pháp không giống như kiếm pháp, kiếm lấy mau lẹ nhẹ nhàng làm hay, còn đao lại cần đĩnh đạc sắc bén làm tốt. Cành cây này quá nhẹ, ngươi đi tìm một cành khác lớn và nặng hơn mới được.”

Thạch Phá Thiên vâng lời, liền chạy vào rừng tìm một cành cây thì thấy một cây khá lớn đã gãy, chỉ còn lại đoạn gốc. Dưới gốc cây này còn một lưỡi dao chặt củi đã rỉ sét. Chàng nhặt lên thì thấy chuôi dao đã mục nát, mà lưỡi dao cũng sứt mẻ lung tung. Chàng chẳng hiểu con dao này ai bỏ đây từ bao giờ, nhưng cầm trên tay cũng thấy nặng nề thì nghĩ bụng: “Tuy đây chỉ là một con dao chặt củi đã han rỉ, nhưng cũng còn hơn là dùng cành cây.” Thế rồi chàng nhổ lưỡi dao ra, cắm vào một cành cây khác để làm cán, rồi hăm hở chạy về.

Sử bà bà cùng A Tú thấy Thạch Phá Thiên cầm con dao chặt củi đã han rỉ thì không khỏi bật cười. A Tú mỉm cười nói: “Bà nội! Hôm nay quý phái mở lễ khai sơn, dùng thanh bảo đao này để truyền võ công cho khai sơn đại đệ tử thì không khỏi… không khỏi có phần kém long trọng.”

Sử bà bà nói: “Gì mà có phần kém long trọng? Phái Kim Ô của ta ngày sau danh vang bốn bê, oai trấn võ lâm, toàn là từ cây bảo đao này khởi nghiệp. Ha ha!” Mụ nói đến hai chữ “bảo đao” thì chính mình cũng không nhịn được, cả ba người cùng cười lớn tiếng.

* * *

Sử bà bà vừa cười vừa nói: “Được rồi! Bây giờ ngươi hãy ghi nhớ. Chiêu thứ nhất của Kim Ô đao pháp gọi là Khai Môn Chấp Đạo.” Mụ lượm một cành cây giả làm đao thủ thế rồi nói: “Tay chân của ta không có sức, ra chiêu không được mau lẹ. Còn ngươi thì phải càng nhanh càng tốt.” Thạch Phá Thiên vung con dao chặt củi theo đúng cách thức ra chiêu thật mau, tiếng gió cũng vù vù nghe rất lợi hại.

Sử bà bà gật đầu nói: “Hay lắm! Khi ngươi thành thuộc chiêu thức rồi thì phải sử cho lẹ hơn nữa. Chiêu Khai Sơn Chấp Đạo này là để khắc chế chiêu Thương Tùng Nghinh Khách của phái Tuyết Sơn. Bọn chúng giả nhân giả nghĩa nói là đón khách, chúng ta phải nói thẳng thừng là đón giặc, thủ thế thì giống như hành lễ với đối phương, mà trong tâm lại coi là đạo tặc. Chiêu thứ hai là Mai Tuyết Phùng Hạ để khắc chế chiêu Mai Tuyết Tranh Xuân của họ. Bọn phái Tuyết Sơn dùng kiếm pháp nào là tuyết hoa sáu cánh, nào là hoa mai bảy đóa. Chúng ta gọi chiêu này bằng Mai Tuyết Phùng Hạ, vì đến mùa hạ thì tuyết hoa của họ còn gì là oai phong nữa?”

Chiêu Mai Tuyết Tranh Xuân là một chiêu kiếm rất phức tạp. Lúc Thạch Phá Thiên còn ở Tổng đà bang Trường Lạc, chàng đã từng thấy Bạch Vạn Kiếm sử dụng rồi, kiếm quang mịt mù, uy thế mãnh liệt, trong Thổ Địa Miếu chàng không học được chiêu này. Còn chiêu đao Mai Tuyết Phùng Hạ cũng chỉ trong chớp mắt là phóng trên ba đao, dưới ba đao, tả ba đao, hữu ba đao, cộng là mười hai đao. Bất kể chiêu kiếm của đối phương thiên biến vạn hóa như thế nào, chiêu đao này dùng kình lực mãnh liệt và mau lẹ để giải trừ kiếm chiêu phức tạp của đối phương, tựa như ánh nắng mùa hạ nóng nực rọi vào tuyết hoa vậy.

Chiêu thứ ba là Thiện Quân Áp Đà dùng để khắc chế chiêu thức Minh Đà Tây Lai của phái Tuyết Sơn. Chiêu thứ tư là Đại Hải Trầm Sa dùng để khắc chế Phong Sa Mãng Mãng. Chiêu thứ năm Xích Nhật Nhiêm Nhiêm khắc chế chiêu Nguyệt Sắc Oạn Hoàn, lấy ánh sáng để thắng u tối. Chiêu thứ bảy Bào Ngư Chi Tứ khắc chế Ám Hương Sơ Ảnh, dùng mùi thối để phá hương thơm. Mỗi chiêu đao pháp đều có những tên gọi rất cổ quái, phản lại với tên chiêu kiếm của phái Tuyết Sơn. Tuy tên gọi nghe có vẻ cổ quái, song đao pháp lại tinh diệu vô cùng.

Những tên chiêu thức về đao pháp và kiếm pháp đa số đều là thành ngữ ở trong sách, Thạch Phá Thiên chẳng biết chữ nào nên chàng chẳng hiểu gì hết và dĩ nhiên cũng không thể nhớ được. Chàng đành dụng tâm ghi nhớ lấy bộ vị cùng thủ thế. Sử bà bà miệng thì nói, tay thì từ từ sử chiêu thức. Thạch Phá Thiên ra chiêu không đúng chỗ nào lập tức mụ sửa lại ngay. So với lúc chàng học kiếm ở trong miếu thổ địa, đương nhiên thấy dễ dàng hơn rất nhiều.

Sử bà bà truyền thụ cho chàng xong mười tám chiêu đã cảm thấy mệt nhọc, mụ ngồi nhắm mắt dưỡng thần để cho Thạch Phá Thiên tự luyện tập lấy. Sau chừng nửa giờ, Sử bà bà lại dạy tiếp cho chàng mười tám chiêu nữa. Đến lúc trời đã hoàng hôn, bà mới truyền thụ xong hết bảy mươi hai chiêu, đồng thời cũng dạy lại cho chàng chín chiêu của phái Tuyết Sơn đã quên mất. Đao pháp của Kim Ô dùng để khắc chế kiếm pháp của phái Tuyết Sơn, đương nhiên chàng cũng phải học kiếm pháp của phái Tuyết Sơn.

Sử bà bà nói: “Kiếm pháp của Tuyết Sơn có bảy mươi hai chiêu. Võ công phái Kim Ô ta chỗ nào cũng hơn họ một bậc, có tất cả bảy mươi ba chiêu để phá bảy mươi hai chiêu của đối phương. Vậy còn chiêu cuối cùng ngươi hãy coi đây!” Mụ nói xong liền đưa cành cây lên cao chém thẳng xuống rồi nói: “Khi sử chiêu này cần phải nhảy lên không để cả người lẫn đao đều chém thẳng xuống.” Mụ liền dạy chàng cách thức nhảy lên, vận kình ra sao, cùng là cách phong tỏa những khe hở để đối phương hết đường chạy trốn.

Thạch Phá Thiên ngẫm nghĩ một lúc rồi theo phương pháp đó mà thực hành. Chàng tung người nhảy lên, từ trên không phóng đao chém xuống đánh vù một tiếng. Lưỡi dao còn cách mặt đất vài thước mà cát bụi đã bay mù, cỏ đứt lá rụng tơi bời, bị đao phong cuốn lên như nhảy múa, quả nhiên uy lực mãnh liệt ghê người.

Thạch Phá Thiên chém xuống một nhát rồi thu thế đứng yên. Lúc chàng nhìn tới Sử bà bà thì thấy sắc mặt của bà ta lợt lạt, quay lại nhìn A Tú thấy mắt nàng giương to, nước mắt ràn rụa tỏ vẻ rất đau lòng. Thạch Phá Thiên rất lấy làm kỳ, ấp úng hỏi: “Chiêu thức này… đồ đệ sử không đúng hay sao?”

Sử bà bà không đáp, hồi lâu mới xua tay rồi nói: “Đúng chứ!” Mụ ngẩn người ra một lúc, rồi lại tiếp: “Chiêu đó uy lực rất mạnh, không nên sử dụng một cách khinh suất để khỏi hại lầm người tốt.”

Thạch Phá Thiên nói: “Dạ dạ! Người tốt thì nhất định không nên gia hại.” Tối hôm ấy chàng nằm ngủ mà trong lòng vẫn nghĩ tới nghĩ lui về bảy mươi ba chiêu đao pháp, quên cả vụ cường địch ở bên ngoài đang sục tìm. May mà đảo Tử Yên này không rộng lớn mấy nhưng cây cối khá rậm rạp, lối đi chằng chịt. Bọn Bạch Vạn Kiếm không thể một lúc mà tìm tới nơi ngay được.

* * *

Trời vừa rạng sáng, chàng liền trở dậy luyện tập đao pháp. Tới chiêu thứ bảy mươi ba, chàng tung người lên không vung đao chém xuống. Lần này uy lực càng mạnh hơn, đao phong nện xuống mặt đất đánh binh một tiếng rất lớn.

Bỗng nghe A Tú lên tiếng: “Sử… Sử đại ca! Huynh dậy sớm quá.” Thạch Phá Thiên quay lại nhìn thấy A Tú đứng tựa ở cửa thạch động, đôi mắt còn ngái ngủ đang nhìn mình. Chàng liền nói: “Muội cũng dậy sớm.”

A Tú hai má ửng hồng nói: “Tiểu muội muốn đi dạo trong rừng một lúc cho mát mẻ và giãn xương cốt. Huynh đi cùng muội có được chăng?”

Thạch Phá Thiên nói: “Được! Được! Kinh mạch toàn thân của muội vừa mới đả thông, chính là lúc nên hoạt động nhiều hơn.” Hai người liền sánh vai đi vào trong rừng.

Đi chừng mười trượng thì đã vào đến chỗ rừng sâu. Lúc này ánh mặt trời chưa rọi tới, cây cỏ trong rừng chỉ trông thấy lờ mờ. Sương mù còn lảng vảng, thân người lẫn mặt mũi A Tú như trùm một tấm sa mỏng. Trong rừng không một tiếng động, chỉ có tiếng bước chân sột soạt của hai người giẫm lên cỏ khô. Đột nhiên Thạch Phá Thiên nghe thấy bên mình có tiếng nức nở. Chàng quay đầu nhìn lại thì ra A Tú đang khóc, những giọt nước mắt lóng lánh trong như ngọc lăn trên má nàng, từ từ nhỏ xuống, Thạch Phá Thiên giật mình ấp úng hỏi: “A Tú cô nương! Cô nương… tại sao cô nương lại khóc?”

A Tú không trả lời. Nàng đi thêm mấy bước, rồi dang tay ra ôm lấy một gốc cây, khóc lóc càng thảm thiết hơn. Thạch Phá Thiên hỏi: “Tại sao vậy?… Có phải bà bà mắng cô không?” A Tú lắc đầu. Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Hay là trong người cô không được khỏe?” A Tú lại lắc đầu. Thạch Phá Thiên hỏi nàng đến bảy tám nguyên nhân mà lần nào nàng cũng chỉ lắc đầu.

Lúc này Thạch Phá Thiên cũng không biết phải làm gì. Những nữ nhân chàng đã gặp, từ mẫu thân đến Thị Kiếm, rồi Đinh Đang, Hoa Vạn Tử… đều là những người có tính cách mau lẹ. Thạch phu nhân Mẫn Nhu tuy tính nết ôn nhu, nhưng cũng rất kiên cường, tự chủ. Chàng chưa từng gặp một cô nương nào hay mắc cỡ nhõng nhẽo như A Tú, thật không biết đối đãi thế nào cho phải. A Tú càng khóc lóc thì chàng càng hoang mang, lại gặn hỏi: “Vì sao cô nương buồn rầu? Cô nói cho ta biết có được không?”

A Tú thút thít nói: “Đó là… đó là… huynh… huynh không tốt… Huynh… huynh còn hỏi gì nữa?”

Thạch Phá Thiên kinh hãi tự hỏi: “Ta làm sai chuyện gì rồi ư?” Chàng đối với cô gái dịu dàng này một lòng kính cẩn, cô ta đã nói là mình không tốt thì đương nhiên là mình không tốt. Chàng cất giọng run run hỏi: “A… A Tú cô nương. Cô nương cứ trách ta đi. Ta là một người ngu ngốc, tự mình làm những việc lỗi lầm mà không biết, thực là đáng chết.”

A Tú nước mắt đầm đìa quay lại nói: “Đêm qua tiểu muội nằm mơ, hết sức sợ hãi. Huynh… huynh… đối với tiểu muội thật là dữ tợn…” Nói tới đây, nước mắt nàng tựa như một chuỗi trân châu bị đứt dây, từng hạt nối nhau rớt xuống.

Thạch Phá Thiên hết sức ngạc nhiên hỏi lại: “Ta dữ tợn với cô ư?”

A Tú vừa khóc vừa nói: “Đúng thế! Tiểu muội nằm mơ thấy Sử đại ca thi triển chiêu đao thứ bảy mươi ba của phái Kim Ô, từ trên không vung đao bổ xuống chém chết tiểu muội.”

Thạch Phá Thiên sửng sốt, rồi đột nhiên vung quyền lên đánh thật mạnh vào trước ngực mình nói: “Đáng chết! Đáng chết! Té ra trong mơ ta đã làm cho cô sợ hãi.”

A Tú mỉm cười nói: “Sử đại ca! Đó là tự tiểu muội nằm mơ, trách đại ca thế nào được?”

Thạch Phá Thiên thấy trên đôi má trắng như ngọc của A Tú còn đọng mấy giọt nước mắt, nhưng miệng cười thì tươi như hoa nở. Những giọt lệ này tô điểm thêm cho vẻ đẹp của nàng, khiến người ta càng phải mê mẩn tâm thần. Thạch Phá Thiên bất giác đứng ngây người ra. A Tú hai má ửng hồng vì e thẹn, người nàng hơi rung động, khiến cho mấy hạt lệ tự nhiên lăn xuống.

Nàng nói: “Tiểu muội thường nằm mơ rất đúng. Vì thế tiểu muội sợ sau này sẽ có một ngày đại ca sử chiêu đó chém chết tiểu muội thật.”

Thạch Phá Thiên lắc đầu lia lịa nói: “Không đâu! Không đâu! Dù thế nào đi nữa ta cũng không thể giết cô. Cho dù là cô muốn giết ta, ta… cũng quyết không chống đỡ.”

A Tú lấy làm lạ hỏi: “Nếu muội muốn giết huynh, tại sao huynh không chống đỡ?”

Thạch Phá Thiên giơ tay lên gãi đầu, rồi ngớ ngẩn cười nói: “Ta cảm thấy… bất luận cô muốn ta làm việc gì, ta đều phải nghe lời của cô. Nếu thật sự cô muốn giết ta, mà ta không chịu để cho cô giết thì cô nhất định không được vui lòng. Chi bằng ta cứ để cô hạ sát còn hơn.”

A Tú đứng thộn mặt ra. Nàng thấy Thạch Phá Thiên nói câu này với cả tấm lòng thành thực thì không sao không cảm động. Mắt nàng lại đỏ hoe lên, hỏi: “Huynh… Tại sao huynh lại tốt với tiểu muội đến thế?”

Thạch Phá Thiên nói: “Chỉ cần cô được vui vẻ là ta cũng hoan hỉ. A Tú cô nương! Ta chỉ mong ngày nào cũng được trông thấy cô vui vẻ!” Trong bụng chàng nghĩ thế nào, là ngoài miệng nói ra như vậy.

A Tú tuy nhỏ hơn Thạch Phá Thiên vài tuổi, nhưng về nhân tình thế thái thì nàng hiểu hơn chàng nhiều. Nàng nghe vậy, biết ngay chàng tỏ ý muốn cùng mình kết thành quyến thuộc, bất giác bẽn lẽn vô cùng, mặt đỏ ra đến mang tai, rồi từ từ cúi đầu xuống.

Một lúc lâu, cả hai người đều im lặng. Rồi A Tú vẫn cúi đầu, thẹn thùng nói: “Tiểu muội biết đại ca là người tốt. Huống chi cũng đã có chuyện trùng hợp, trong thuyền chúng ta… chúng ta… đã cùng gối chung một cái gối… Tiểu muội thà chết, chứ không chịu theo người khác.” Ý nàng muốn nói: “Ông trời đã sắp đặt cho đại ca chui vào chỗ nằm của tiểu muội, ngủ chung một đêm”, nhưng câu này khó mà mở miệng ra nói được. Khi nàng nói đến chuyện “chúng ta… đã cùng gối chung một cái gối” thì giọng nói đã rất nhỏ nhẹ, cơ hồ không ai nghe rõ được.

Thạch Phá Thiên không hiểu đó là những lời thề nguyện trăm năm của A Tú, nhưng cũng biết mấy câu đó ý nói nàng đối với mình rất tốt. Chàng vui sướng như mở cờ trong bụng, đột nhiên nói: “Giả tỉ trên đảo này chỉ có ba người là bà nội, cô nương và tại hạ thì hay biết chừng nào, chúng ta sẽ vĩnh viễn ở đây với nhau. Nhưng lại còn nào Bạch Vạn Kiếm đại hiệp, nào Đinh Bất Tứ gia gia… thật sự khiến ta sợ hãi.”

A Tú ngẩng đầu lên nói: “Dù Đinh Bất Tứ hay Bạch đại hiệp, tiểu muội cũng không sợ. Muội chỉ sợ đại ca giết muội mà thôi.”

Thạch Phá Thiên vội nói: “Thà là ta tự giết mình, nhất quyết không đụng đến một ngón tay của cô.” A Tú giơ tay mình lên nhìn. Lúc này ánh mặt trời đã xuyên qua kẽ lá chiếu vào trong rừng, rọi lên mấy ngón tay A Tú trong sáng như mấy thanh mã não. Thạch Phá Thiên không nhịn được nữa, nắm lấy tay nàng đặt lên môi mà hôn một cái.

A Tú la lên một tiếng: “Úi chao!”, vội rút tay về. Nội tức lại chạy nhốn nháo, chân tay rã rời, nàng tựa vào gốc cây không thở nổi.

Thạch Phá Thiên lo lắng nói: “A Tú cô nương! Cô đừng trách ta. Ta… ta… làm cô giận mất rồi. Lần sau ta không dám nữa, nhất định không dám nữa.”

A Tú thấy Thạch Phá Thiên lo lắng đến trán toát mồ hôi thì trong lòng bất nhẫn. Nàng lại đặt bàn tay nhỏ nhắn lên lòng bàn tay to lớn của chàng, rồi nói bằng một giọng dịu dàng: “Huynh không làm muội giận đâu. Lần sau… lần sau… huynh đừng dùng chữ không dám.”

Thạch Phá Thiên nghe vậy thì mừng rỡ vô cùng, trái tim đập loạn lên. Chàng nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay nhỏ bé mềm mại của nàng, nhưng không dám đặt môi lên hôn nữa. A Tú điều hòa hơi thở một lúc rồi nói: “Muội và bà nội tuy đã được huynh đả thông kinh mạch, nhưng không biết đến năm nào tháng nào mới khôi phục lại được công lực.”

Thạch Phá Thiên chẳng hiểu gì về chuyện vận công bị tẩu hỏa nhập ma, nên cũng chẳng biết an ủi ra sao, chỉ nói: “Mong sao Đinh Bất Tứ không tìm được chúng ta. Như thế thì dù công lực của bà nội cùng cô chưa phục hồi cũng không có gì đáng ngại.”

A Tú mỉm cười nói: “Sao đến bây giờ huynh còn gọi là bà nội của cô bà nội của ta gì gì đó? Bà ấy là đại tổ sư sáng lập phái Kim Ô, huynh không gọi được một tiếng sư phụ hay sao?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Phải lắm, nhưng đã quen miệng rồi thì thật khó mà sửa được, A Tú cô nương…”

A Tú lại ngắt lời: “Sao huynh vẫn cứ gọi tiểu muội một điều cô nương hai điều cô nương, khách sáo như vậy?”

Thạch Phá Thiên vội nói: “Phải lắm! Cô dạy ta đi, phải gọi như thế nào mới đúng.”

A Tú hai má ửng hồng nghĩ bụng: “Huynh cứ gọi muội là Tú muội đi, còn muội sẽ gọi huynh là đại ca.” Tuy nàng nghĩ vậy, nhưng cuối cùng vẫn xấu hổ không nói ra miệng, chỉ nói: “Huynh cứ gọi muội là A Tú được rồi. Còn huynh muốn muội gọi là gì?”

Thạch Phá Thiên nói: “Muội muốn gọi ta là gì thì cứ việc.”

A Tú mỉm cười nói: “Tiểu muội kêu đại ca bằng Đại Tống Tử, huynh có chịu hay không?”

Thạch Phá Thiên cười nói: “Hay lắm! Làm sao ta giận muội được?”

A Tú nhõng nhẽo gọi: “Đại Tống Tử!”

Thạch Phá Thiên đáp: “A Tú!”

A Tú “Vâng” một tiếng, rồi hai người nhìn nhau cười, trong lòng vui sướng không bút nào tả xiết.

Thạch Phá Thiên nói: “Muội đứng lâu cũng mệt rồi, chúng ta ngồi xuống mà nói chuyện.” Hai người sóng vai ngồi dưới một gốc cây lớn. Mái tóc vừa dài vừa đen nhánh của nàng rủ xuống vai, lấp lánh dưới ánh mặt trời, phơ phất cả vào trước ngực Thạch Phá Thiên. Chàng khẽ cầm lấy rồi nhè nhẹ vuốt ve.

A Tú nói: “Đại Tống Tử ca ca! Giả tỉ không được gặp ca ca, thì bà nội cùng tiểu muội đều chết chìm dưới đáy Trường Giang, đâu có lúc này nhỉ?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Nếu không có thuyền của muội đi ngang qua thì ta cũng đã chết chìm dưới lòng Trường Giang rồi. Chúng ta cứ vĩnh viễn ở bên nhau thế này cho qua ngày tháng há chẳng vui thú ư? Sao lại phải học võ công để đánh nhau, khiến cho mọi người đều phải đau lòng khó chịu? Ta thật sự không hiểu.”

A Tú nói: “Võ công thì nhất định là cần học rồi. Trên đời này người xấu rất nhiều, mình không đánh họ thì họ đánh mình. Đánh người thì cũng chưa hại lắm, nhưng giết người thì họ không sống lại được nữa. Đại Tống Tử ca ca! Tiểu muội muốn xin ca ca một việc, có được hay không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Đương nhiên là được. A Tú bảo làm gì là ta làm vậy.”

A Tú nói: “Kim Ô đao pháp của bà nội tiểu muội thật là lợi hại, mà nội lực ca ca lại thâm hậu vô cùng. Sau khi huynh luyện thuần thục thì trong võ lâm có rất ít người là đối thủ. Nhưng muội cứ lo một chuyện, huynh thì trung hậu thực thà mà người trên giang hồ thì tâm địa hiểm độc. Nếu huynh kết nhiều thù oán thì bọn người xấu sẽ dùng quỷ kế để đối phó với huynh, chắc chắn huynh sẽ bị thiệt thòi rất nhiều. Vì thế mà tiểu muội cầu xin huynh đừng kết nhiều thù oán.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Thế thì cũng vì ta mà thôi. Đương nhiên ta càng nên nghe lời A Tú.”

Hai má A Tú lại phơn phớt màu hồng. Nàng nói: “Từ đây về sau ca ca đừng nói những gì là “nhất định nghe lời muội”, “muội nói gì ta cũng nhất định làm theo.” Như thế thì mọi người mới không cười huynh, nói huynh là mất hết vẻ nam tử hán đại trượng phu.” Ngừng một chút, nàng lại nói tiếp: “Tiểu muội thấy đao pháp Kim Ô mà bà nội đã dạy cho huynh, chiêu nào cũng hung hãn hiểm độc. Sau này ca ca cùng người động thủ, chắc chắn phải giết cùng đả thương người khác rất nhiều, không muốn kết thành thù oán cũng không thể được.”

Thạch Phá Thiên đột nhiên kinh hãi nói: “Muội nói phải lắm! Nếu biết trước thì huynh đã không học bộ đao pháp này rồi, phải xin bà nội dạy cho những môn khác.”

A Tú lắc đầu nói: “Võ công phái Kim Ô của bà nội chỉ có bộ đao pháp này, ngoài ra không có môn võ nào khác. Hơn nữa, bất luận thứ võ công gì cũng nhằm để đả thương hay giết người, nếu không thì không phải là võ công nữa. Chỉ cần khi ca ca động thủ với người ta thì nên hạ thủ lưu tình, nếu tha được thì tha, đó là tốt nhất.”

Thạch Phá Thiên nói: “Nếu tha được thì tha, câu nói này thật là hay. A Tú muội! Muội thật là thông minh mới nói được những câu hay như thế.”

A Tú mỉm cười nói: “Tiểu muội đâu có thông minh như thế? Câu này là trong một bài thơ nào đó, dường như là “Tứ xuất động lai vô địch thủ; Đắc nhiên nhân xứ thả nhiên nhân”, tức là: Xuất động khó tìm tay địch thủ, Nếu tha người được hãy tha ngay.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Bài thơ là gì vậy?” Chàng một chữ cũng không biết, đương nhiên không hiểu thế nào là thi từ ca phú.

A Tú đưa mắt nhìn chàng lộ vẻ kinh ngạc, chẳng biết chàng không hiểu thật hay là chỉ thuận miệng hỏi thôi. Nàng không trả lời, trầm ngâm một lúc rồi nói: “Khi luyện tới mức trong thiên hạ không còn địch thủ thì mới có thể tha được cho người ta. Ngược lại, mình mà phải van xin người ta tha cho mình thì cũng không thể được. Đại Tống Tử…”

Đột nhiên nàng dừng lại, mỉm cười nói: “Muội gọi huynh là đại ca có được không? Năm chữ Đại Tống Tử ca ca nghe dài quá, bỏ đầu bỏ đuôi cho đơn giản hơn một chút.” Cũng không đợi xem Thạch Phá Thiên có đồng ý hay không, nàng tiếp tục nói: “Muội muốn huynh tha mạng người ta, nhưng trong võ lâm nhiều người rất nham hiểm, nếu huynh vì lòng tốt mà không hạ sát thủ thì không chừng đối phương lại nhân cơ hội mà ám toán, thì thật là muội đã hại huynh rồi. Đại ca! Tiểu muội đã được xem người ta sử dụng một chiêu thức rất ảo diệu, để diễn thử cho huynh xem nhé.”

Nàng nói xong, cầm lấy con dao chặt củi ở cạnh Thạch Phá Thiên, đứng dậy rồi từ từ thủ thế, hoành đao đưa về phía trước, đoạn hướng mũi đao sang bên trái, xoáy đao lại đâm chếch qua bên phải. Sau cùng nàng xoay chuôi đao hướng về huyệt My Tâm trên trán mình, rồi lướt đao chém thẳng xuống dưới, cách mình chừng một thước.

Thạch Phá Thiên thấy tà áo nàng bay phất phới, dáng vẻ cực kỳ mỹ miều, thật không ngờ một cô gái yêu kiều, thướt tha hay thẹn, mà lại sử được chiêu đao tinh diệu đến thế. Chàng cứ ngẩn ra nhìn A Tú, trong lòng khoan khoái nhẹ nhàng, nên không chú ý nhớ được chiêu đao của nàng.

A Tú thu đao về lùi lại hai bước, ôm đao đứng thủ thế rồi nói: “Lúc thu đao về vẫn cần vận động nội kình để bảo vệ cả bốn mặt, đề phòng địch nhân đánh lén.” Nàng thấy Thạch Phá Thiên vẫn đứng ngẩn người ra mà nhìn mình, dường như chẳng nghe thấy gì, liền hỏi: “Huynh làm sao vậy? Chiêu thức này của tiểu muội tồi tệ lắm phải không?”

Thạch Phá Thiên choàng tỉnh, lắp bắp: “Cái này… Cái này…”

A Tú nhõng nhẽo nói: “Muội biết rồi. Huynh là khai sơn đại đệ tử của phái Kim Ô, đâu có thèm nhìn những chiêu thức mèo quào của muội.”

Thạch Phá Thiên hoảng hốt nói: “Xin lỗi. Ta… vì ta thấy muội xinh đẹp quá, nên quên cả nhìn đao pháp. A Tú cô nương! Muội… muội diễn lại một lần nữa xem.”

A Tú làm mặt giận nói: “Không diễn nữa! Ai bảo huynh gọi muội là A Tú cô nương?”

Thạch Phá Thiên đập lên trán mình đánh bốp một cái rồi nói: “Thật đáng chết, cứ hay quên như thế. A Tú, A Tú, muội diễn thử lại một lần nữa xem.”

A Tú mỉm cười nói: “Được rồi! Tiểu muội chỉ sử một lần nữa thôi, chẳng có hơi sức đâu mà sử đến lần thứ ba đâu nhé.” Nàng nói xong lại giơ đao lên, múa tả đâm hữu vung lên bổ xuống, từ từ sử lại một lượt như trước. Lần này Thạch Phá Thiên để hết tinh thần ghi nhớ tất cả những thủ thế, bộ pháp, đao thức, phương vị. A Tú lại dặn chàng sau khi thu đao về rồi vẫn phải vận kình lực đề phòng địch nhân ám toán.

Thạch Phá Thiên nhất nhất ghi nhớ vào lòng, đón lấy con dao rồi theo đúng cách thức mà thi triển lại. A Tú thấy chàng vừa học đã hiểu ngay thì trong bụng mừng thầm, trầm trồ khen ngợi: “Đại ca! Đại ca thật là thông minh, chỉ cần chuyên tâm một chút là đã học được ngay. Chiêu đao này kêu là Bàng Cổ Trắc Kích, lưỡi đao đi tới đâu thì nội lực xô ra tới đó.”

Thạch Phá Thiên nói: “Chiêu thức này quả nhiên tuyệt diệu! Diệu nhất là ở chỗ chợt tả chợt hữu, lên xuống bất thường, khiến địch nhân không biết đâu mà đề phòng.”

A Tú nói: “Chiêu thức này còn diệu ở chỗ dùng để tha mạng cho người. Lúc những tay cao thủ tỉ võ, binh khí đã vung lên là thành cuộc chiến đấu cực kỳ hung hiểm, kẻ yếu chẳng chết cũng bị trọng thương. Nếu đại ca kém người thì chẳng nói làm gì, nhưng bản lãnh cao hơn mà muốn rút lui không hại đối phương cũng chẳng phải dễ dàng gì. Chiêu Bàng Cổ Trắc Kích này đã không hại người, mà lại giữ được mình không để bị thương.”

Thạch Phá Thiên thấy A Tú đứng tựa vào thân cây ra chiều mệt nhọc liền nói: “A Tú! Muội mệt rồi, ngồi xuống rồi hãy nói.”

A Tú co đầu gối, từ từ quỳ xuống rồi ngồi lên gót chân của mình, cất tiếng hỏi: “Đại ca đã nghe rõ lời của tiểu muội chưa?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Hiểu rồi! Chiêu đó kêu bằng Bàng Cổ… Bàng Cổ gì gì đó.” Lần này không phải chàng không dụng tâm ghi nhớ, mà chỉ vì bốn chữ Bàng Cổ Trắc Kích là một thành ngữ văn nhã, chàng không hiểu rõ ý tứ nên không nhớ được.

A Tú nói: “Hừ! Đại ca lại phân tâm rồi. Đại ca quay đầu đi, đừng nhìn tiểu muội nữa.” Nàng nói câu này là để trêu Thạch Phá Thiên, ngờ đâu chàng tưởng là thật, quả nhiên quay đầu đi không dám nhìn nàng nữa.

A Tú mỉm cười nói: “Chiêu này kêu bằng Bàng Cổ Trắc Kích. Đại ca! Người trong võ lâm đều rất hiếu danh. Nhân vật nổi tiếng mà đả thương đại ca thì chẳng sao, nhưng nếu bại về tay đại ca thì họ còn khó chịu hơn là chết. Vì thế mà lúc tỉ võ, hay hơn hết là đại ca để người ta có lối thoát. Nếu quả đại ca đã thắng rồi thì nên sử chiêu này, chém đông đánh tây để người ngoài hoa mắt, rồi mình lùi lại hai bước thu binh khí về. Như vậy thì người bàng quan không hiểu ai thắng ai bại, giữ được thể diện cho đối phương, như thế thì ít kết oán thù hơn. Đại ca lại nói thêm mấy câu tán dương người ta đại khái như: “Kiếm pháp các hạ thật là tinh diệu, tại hạ khâm phục vô cùng. Hôm nay chúng ta bất phân thắng bại, giải hòa để kết bạn được chăng?” Vậy là đối phương hiếu ngay mình có ý nhường nhịn, lại không tổn thương đến thể diện, nhiều phần là họ kết bạn với đại ca ngay.”

Thạch Phá Thiên nghe vậy hết sức khâm phục, bèn nói: “A Tú! Muội còn nhỏ tuổi mà sao đã hiểu biết thế sự nhiều như vậy? Phương pháp đó quả thật là hay!”

A Tú mỉm cười nói: “Muội đã nói xong rồi, huynh quay đầu lại đi.” Thạch Phá Thiên quay lại nhìn A Tú, thấy nét mặt nàng đang hớn hở tươi cười, lòng chàng bất giác cũng bâng khuâng mơ mộng.

A Tú nói: “Tiểu muội có hiểu biết gì đâu? Đó chẳng qua là muội nghe người lớn nói những câu lịch sự đã nhiều, nên nhớ được một ít mà thôi.”

Thạch Phá Thiên nói: “Để ta luyện lại một lần nữa cho khỏi quên.” Nói xong, chàng tung mình lên không, vung con dao chặt củi thi triển chiêu Bàng Cổ Trắc Kích luôn hai lượt.

A Tú gật đầu khen: “Hay lắm! Huynh không quên chút nào hết.” Thạch Phá Thiên hí hửng mừng thầm, lại ngồi bên A Tú.

A Tú bỗng thở dài nói: “Đại ca! Tiểu muội dạy đại ca chiêu Bàng Cổ Trắc Kích này, đại ca đừng nói với bà nội!”

Thạch Phá Thiên nói: “Được rồi, ta không nói đâu. Ta cũng biết là bà nội của muội chắc chắn sẽ không vui.”

A Tú hỏi: “Làm sao huynh biết bà nội sẽ không vui?”

Thạch Phá Thiên nói: “Tú muội không phải người phái Kim Ô. Ta là đệ tử phái Kim Ô mà đi học võ công của phái khác, thì đương nhiên bà nội không thích.”

A Tú mỉm cười nói: “Kim Ô phái! Kim Ô phái! Bà nội thật chẳng khác gì trẻ nít.”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta cũng thấy bà nội của muội hơi có tính trẻ con. Đinh Bất Tứ lão gia mời bà lên đảo Bích Loa du ngoạn, bà cứ đi chơi một chuyến thì đã sao, việc gì lại kéo cả Tú muội nhảy xuống sông? Nếu Bích Loa đảo không vui cũng đâu có sao? Ta thấy Đinh Bất Tứ lão gia cũng rất tốt đối với bà nội của muội, bà không ngớt la mắng ông ấy, ông ấy cũng không giận dỗi. Nhưng bà nội của muội đối với ông ấy lại rất hung hãn.”

A Tú mỉm cười nói: “Huynh dám nói xấu sau lưng sư phụ ư? Muội mà mách lẻo, không chừng bà nội đem huynh ra mà bứt gân, xé thịt, lột da.”

Thạch Phá Thiên thấy nàng vừa nói vừa cười cũng biết là câu nói đùa, nhưng trong lòng không khỏi băn khoăn. Chàng nói: “Lần sau ta không dám như thế nữa.”

A Tú thấy Thạch Phá Thiên ra vẻ hoang mang sợ hãi thì không khỏi hơi ân hận, nàng biết đùa giỡn quá mức với một con người thành thật như chàng thì cũng không nên. Nàng còn nghĩ đến chuyện mình đã dạy chàng chiêu Bàng Cổ Trắc Kích, tuy chưa chắc đã có hại cho chàng, nhưng vẫn là do mình có ý vị kỷ, thì trong lòng cũng hơi hối hận. Nàng liền dịu dàng nói: “Đại ca! Đại ca đã đồng ý với muội là về sau khi động thủ với người khác thì không giết hay đả thương người ta một cách khinh suất, cũng cố giữ thể diện cho người ta. Tiểu muội… muội rất lấy làm cảm kích. Muội chẳng biết lấy chi báo đáp cho huynh, trước hết phải tỏ lòng cảm tạ đã.”

Nàng nói xong, quỳ sụp xuống lạy Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên kinh hãi hỏi: “Tại sao… tại sao muội lạy ta?” Chàng thấy A Tú sụp lạy, cũng vội vàng quỳ xuống dập đầu đáp lễ.

* * *

Bất thình lình cách đó chừng mười trượng có thanh âm một thiếu nữ tức giận quát lên: “Hừ! Thật là ngươi không thèm đếm xỉa đến ta, dám ở đây làm lễ bái thiên địa với người khác rồi.” Đó chính là giọng nói của Đinh Đang.

Thạch Phá Thiên kinh hãi giật bắn người lên, la lên một tiếng “Úi chà!”, rồi đứng phắt dậy kêu lên: “Đinh Đinh Đang Đang!”

Quả nhiên Đinh Đang từ ven rừng bên kia đang chạy như bay tới, theo sau nàng còn có Đinh Bất Tam. Thạch Phá Thiên vừa thấy hai người đã hoảng sợ đến hồn phách bay mất hết. Chàng khom lưng ôm A Tú vào trong tay, rồi co giò chạy tuốt.

Thân pháp Đinh Bất Tam mau lẹ phi thường. Lão chỉ nhảy lên mấy cái là đã vượt qua Thạch Phá Thiên, đứng lại chặn đường. Thạch Phá Thiên lại la lên: “Úi chà!” một tiếng, rồi chạy xéo đi để trốn, nhưng khinh công của chàng vốn chưa bằng Đinh Bất Tam, huống chi lại ôm một người trong tay, nên chỉ trong chớp mắt là Đinh Bất Tam lại đứng trước mặt chặn đường chàng.

Lúc này Đinh Đang cũng đã đuổi đến nơi. Thạch Phá Thiên thấy trong tay nàng cầm một thanh đao lá liễu sáng quắc thì sợ hết hồn. Bỗng nghe Đinh Đang tức giận nói: “Đặt ngay con tiểu tiện nhân xuống để ta chém ả một nhát toi mạng. Nếu không thì cả hai ngươi đều chết hết.”

Thạch Phá Thiên nói: “Không được! Không được!” Đinh Đang vung đao đánh véo một tiếng, nhằm chém xuống đầu A Tú. Thạch Phá Thiên hoảng hốt, hai chân nhảy vọt lên để tránh. Chàng sợ nhát đao kia đâm chết A Tú, bất giác kình lực phát sinh theo ý muốn, một luồng nội lực rất hùng hậu từ lòng bàn chân đẩy mạnh lên.

Vù một tiếng, người chàng vọt lên cao hơn cả ngọn cây. Đinh Đang và Đinh Bất Tam thấy kình lực chàng ghê gớm như vậy thì không khỏi giật mình kinh hãi. Thạch Phá Thiên người còn lơ lửng trên không, miệng đã la lên: “Trời ơi!” Chàng nghĩ bụng: “Khi ta rớt xuống thì hai chân gãy mất. A Tú mà bị Đinh Đang giết chết thì làm thế nào?” Mắt chàng bỗng nhìn thấy chân mình đang hạ xuống một cành thông, trong lúc hoang mang, chàng lại vận kình lực giẫm lên rồi tiếp tục nhảy đi, chỉ mong trốn được xa hơn một chút.

Bỗng nghe một tiếng rắc, cành tùng bị gãy lìa, người chàng thì bắn về phía trước rất nhanh thêm mấy trượng, tiếng gió rít vù vù bên tai.

Bỗng nghe A Tú trong lòng chàng lên tiếng: “Đại ca! Lúc hạ xuống thì đề khí cho nhẹ, nhảy đi càng…” Nàng chưa dứt lời thì hai chân Thạch Phá Thiên đã hạ xuống cành một cây thông khác. Lần này chàng theo lời A Tú, hơi co đầu gối lại hãm bớt kình lực. Lạ thay, cành thông chỉ hơi trĩu xuống chứ không gãy, rồi lại bật lên đẩy người chàng đi vừa xa vừa cao hơn lần trước. Tiếng quát mắng của Đinh Đang vẫn còn nghe thấy, nhưng dần dần mỗi lúc một xa.

Thạch Phá Thiên thấy người cứ chúi xuống rồi lại vọt lên thì rất lấy làm thích thú. A Tú ở trong lòng chàng không ngớt chỉ điểm cho chàng cách vận kình. Thạch Phá Thiên vốn dĩ nội lực có thừa, bây giờ đã hiểu được yếu quyết về khinh công nên nhảy nhót chuyền từ cành nọ sang cành kia một cách rất dễ dàng, chẳng khác loài khỉ loài sóc linh hoạt tự tại. Đây thật là một niềm vui mà chàng chưa nếm trải bao giờ. Chàng sung sướng nói: “Cách này hay lắm! Như vậy thì họ không đuổi kịp mình được.”

Lúc Thạch Phá Thiên thấy mình đã nhảy đến bìa khu rừng rậm thì thốt nhiên nghe tiếng người quát tháo, và ánh mặt trời lấp loáng phản chiếu trên binh khí, dường như phía trước đang có một trận chiến. Thạch Phá Thiên la thầm: “Nguy rồi! Bên đó có người, không thể đi tới được.” Chân trái chàng điểm vào cành cây từ từ hạ xuống. Chàng theo đúng cách của A Tú đã hướng dẫn, đề khí cho đầu ngón chân hướng xuống dưới. Trong tay chàng ôm một người, mà hạ xuống không hề phát ra tiếng động.

Chàng nấp vào sau một gốc thông lớn, thò đầu nhìn ra ngoài, bất giác sợ quá giật nẩy mình lên. Trong một khu đất trống giữa rừng có hai người đang đánh nhau kịch liệt, một người cầm trường kiếm là Bạch Vạn Kiếm, còn một người tay không chính là Đinh Bất Tứ. Mười mấy tên đệ tử phái Tuyết Sơn đều cầm trường kiếm trong tay đứng lác đác bao vây bốn mặt, hò hét trợ oai cho Bạch Vạn Kiếm.

Đinh Bất Tứ tuy tay không binh khí, nhưng hai tay lão nào chụp nào chém, nào đánh nào điểm, nào đâm nào móc, cũng lợi hại chẳng kém gì khí giới. Mỗi khi gặp trường kiếm của Bạch Vạn Kiếm đâm tới, lão lại nhún người tránh né rồi phản công một cách hung hãn phi thường. Thạch Phá Thiên vừa xem mấy chiêu đã để hết tinh thần theo dõi, quên cả mình đang ôm một người trong lòng.

Thạch Phá Thiên đã học qua kiếm pháp phái Tuyết Sơn, còn những chiêu thức của Đinh Bất Tứ thì có đến phân nửa lão đã từng dạy cho chàng. Phân nửa chàng chưa học thì đường lối liên tiếp cũng rất mạch lạc, chàng theo dõi rất dễ dàng. Hai tay đại cao thủ này tỉ võ mà lại dùng đến quá nửa phần võ công chàng đã học qua, nên chàng xem rất lấy làm hứng thú.

Chàng thấy Đinh Bất Tứ chiêu nào cũng tấn công, hai tay lão như đao như kiếm lại như thương như kích, dường như lão bức bách Bạch Vạn Kiếm phải thủ nhiều mà công ít. Nhưng Bạch Vạn Kiếm cũng ra những đòn rất trầm trọng, hoàn toàn không có những chiêu thức hoa hòe biểu diễn, ánh kiếm cứ lóe lên rồi lại thu về.

Xem chừng Đinh Bất Tứ muốn thủ thắng cũng không phải là chuyện dễ, nếu cuộc đấu còn kéo dài thêm thì e rằng Bạch Vạn Kiếm sẽ chiếm được thế thượng phong. Thạch Phá Thiên không nhìn rõ điểm này, nhưng Đinh Bất Tứ và Bạch Vạn Kiếm thì đương nhiên đã rất hiểu nhau.

Thì ra Đinh Bất Tứ tự phụ mình ngang hàng với phụ thân Bạch Vạn Kiếm là Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại. Lão không muốn mang tiếng là người lớn ăn hiếp trẻ con, nên dùng tay không để đón tiếp trường kiếm của hắn. Nhưng đến lúc động thủ thì lão không khỏi sợ hãi, la thầm trong bụng: “Thằng lỏi này xuất chiêu nhanh chóng, biến hóa linh mẫn, nội công hùng hậu, thủ thế rất là cẩn mật, tác phong nhất nhất đúng là cao thủ bậc nhất. Ngay cả Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại tiếng tăm lừng lẫy giang hồ, bất quá cũng vậy mà thôi.”

Đinh Bất Tứ phải trấn tĩnh, để hết tinh thần thi triển khinh công, nhảy nhót qua lại giữa luồng kiếm quang của Bạch Vạn Kiếm. Gặp những lúc bất đắc dĩ, lão phải mạo hiểm ra chiêu liều mạng cho cả hai bên cùng chết, để bức bách đối phương phải thu những kiếm chiêu ác liệt trở về. Những lúc này thì Bạch Vạn Kiếm sẵn sàng nhượng bộ, không thí mạng với lão, dường như hắn đã nắm chắc phần thắng trong tay.

Kể về bản lãnh hai người thì Đinh Bất Tứ cao thâm hơn Bạch Vạn Kiếm một bậc, nhưng lão thua ở chỗ lên mặt kẻ cả, không chịu dùng binh khí để đấu với đối phương. Rõ ràng trên lưng của lão có đeo một cây nhuyễn tiên chín khúc sáng lóng lánh, nhưng lão đã nói là không dùng, thì dù bị chặt đầu cũng không chịu lấy ra mà sử dụng.

Hai bên qua lại thêm mấy chục chiêu nữa, Bạch Vạn Kiếm bỗng lên tiếng: “Đinh Lão Tứ! Lão lấy cây Cửu Khúc Nhuyễn Tiên ra đi, nếu đấu tay không thì không địch nổi ta đâu.”

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Thúi lắm! Ta mà không đánh bại ngươi được ư? Thử tiếp chiêu này đi!” Tay trái lão khoa lên thành một vòng tròn, tay phải phóng quyền xuyên qua vòng tròn đánh thẳng ra. Chiêu thức này thật là quái dị, Bạch Vạn Kiếm không hiểu phép giải khai, phải lùi lại một bước.

Đinh Bất Tứ bật lên tràng cười ha hả. Chân phải lão chấm xuống đất, dường như gót chân có gắn lò xo, đột nhiên tung người lên nhảy vọt qua bên trái. Lão còn lơ lửng trên không, hai chân đã đá hất ra. Bạch Vạn Kiếm lại lùi thêm một bước, vung kiếm che đỡ trước mặt.

Đinh Bất Tứ chợt bên trái chợt bên phải, thoáng đằng trước, thoáng đằng sau, Thạch Phá Thiên nhìn mà hoa cả mắt. Bỗng nghe đánh “roạc” một tiếng, ống quần bên phải Đinh Bất Tứ đã bị trúng một kiếm. Nhát kiếm này tuy không làm bị thương đến da thịt Đinh Bất Tứ, nhưng ống quần lão đã rách một mảnh dài.

Bạch Vạn Kiếm thu kiếm về nói: “Đa tạ Đinh Tứ thúc đã nhân nhượng.” Thật ra những tay cao thủ tỉ võ thì chiêu này đủ phân thắng bại rồi. Nhưng Đinh Bất Tứ thẹn quá hóa giận, quát lớn: “Ai thèm nhân nhượng cho ngươi? Chiêu này chẳng qua là ngươi gặp may mà thôi, có đáng gì đâu.” Lão vừa quát vừa phóng chiêu Nghịch Thủy Hành Chu tấn công Bạch Vạn Kiếm. Bạch Vạn Kiếm đành phải vung kiếm lên đỡ. Chiêu kiếm vừa rồi của hắn đã quẹt rách ống quần đối phương, bảo là vận may kể cũng không sai, vì Bạch Vạn Kiếm vung kiếm lên vừa gặp lúc Đinh Bất Tứ phóng cước đá tới, tựa hồ lão tự đưa ống quần mình vào mũi kiếm của đối phương nên mới bị rách.

Nhưng Đinh Bất Tứ vận chân lực mãnh liệt quá, không tránh khỏi bị giảm sút. Lão ra chiêu mỗi lúc một thận trọng hơn, càng lúc càng sút kém. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đều rất đắc ý, có gã lên tiếng ca ngợi: “Các ngươi hãy xem chiêu Nguyệt Sắc Hôn Huỳnh của Bạch sư ca thật là tinh diệu, như có như không, lờ mờ hư ảo, thế mới gọi là đến chỗ cốt tủy của Tuyết Sơn kiếm pháp. Chân tay Đinh Bất Tứ lão tử luống cuống hết rồi. Nếu Bạch sư ca mà không kiếm hạ lưu tình thì lúc này người lão tất phải đổ máu đầm đìa.”

Bỗng nghe có tiếng la: “Thúi lắm!” Tiếng la này vang lên đồng thời ở hai nơi, một là từ miệng Đinh Bất Tứ, dĩ nhiên chẳng lấy chi làm lạ. Nhưng một tiếng lại phát ra từ hướng Đông Bắc. Ánh mắt của mọi người đều quay về bên đó, thì ra đó chính là hai người làm cho Thạch Phá Thiên khiếp sợ hơn hết, một là Đinh Bất Tam, một là Đinh Đang.

Đinh Bất Tứ la lên: “Lão Tam! Ta đang động thủ tỉ thí, sao lão không đi đi? Còn đứng đó làm chi?” Tuy lão để hết tinh thần tỉ đấu với Bạch Vạn Kiếm, nhưng Đinh Bất Tam là chỗ huynh đệ tình thâm, nên lão vừa nghe hai tiếng “Thúi lắm” đã biết ngay là huynh trưởng đã đến. Từ nhỏ đến bây giờ, hai anh em lão nói chuyện với nhau thì hai tiếng này là nhiều hơn hết.

Đinh Bất Tam cười nói: “Ta muốn xem gần đây võ công của ngươi đã tiến bộ đến mức nào rồi.”

Đinh Bất Tứ trong dạ rất bồn chồn, biết tình thế trước mắt mình không tài nào thủ thắng được. Từ nhỏ lão đã rất hiếu thắng, nhất định không chịu sút kém ông anh, thế mà lão tam xuất hiện đúng vào lúc này là thời khắc khó chịu nhất. Lão bèn lớn tiếng la lên: “Lão đứng bên chỉ tổ làm cho ta rối ruột. Ta đã phải phân tâm mở miệng nói với lão, thì còn lòng dạ nào tỉ đấu với địch thủ nữa?”

Đinh Bất Tam cười nói: “Vậy ngươi không cần phải nói chuyện với ta, cứ để hết tinh thần chiến đấu đi!” Đoạn lão quay lại bảo Đinh Đang: “Tứ gia gia của ngươi tự xưng là mình võ công quán thế, thiên hạ vô địch, còn hơn cả lão gia gia của ngươi một chút. Bây giờ ngươi hãy mở mắt to mà nhìn cho kỹ, xem Tứ gia ngươi dùng hai bàn tay bằng xương bằng thịt mà đánh cho người ta phải buông kiếm chịu thua, quỳ dưới đất xin tha mạng. Ha ha! Ha ha!…”

Giọng cười của Đinh Bất Tam thật là quái dị, mọi người đều nghe ù ù bên tai, cảm thấy không được thoải mái lắm. Đinh Bất Tứ quát lên: “Lão Tam! Lão cười cái quái gì vậy?”

Đinh Bất Tam cười nói: “Ta cười ngươi chứ còn cười ai nữa?”

Đinh Bất Tứ lại càng tức giận, gầm lên: “Lão cười ta ư? Ta có gì đáng cười đâu?”

Đinh Bất Tam nói: “Ta cười ngươi suốt đời hiếu thắng, cứ tưởng mình giỏi lắm. Bây giờ gặp lúc nguy nan, ngươi lại ỷ vào ca ca giúp ngươi chăng?”

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Gã họ Bạch này là hàng con cháu, ta mà không nể mặt cha mẹ gã thì đã phóng chưởng đánh chết gã rồi. Ta làm gì mà gặp lúc nguy nan? Ai cần lão giúp ta? Có chăng thì chỉ nhờ lão cầm bình rượu, hay lấy bô cho ta…”

Bỗng lão rú lên: “Úi chà! Thằng lỏi này! Ngươi thừa lúc người ta nguy khốn mà…” Thì ra lão tay không tỉ đấu với Bạch Vạn Kiếm vốn đã kém thế, lúc này phân tâm đối đáp với Đinh Bất Tam, nên lại để lộ nhiều chỗ sơ hở. Bạch Vạn Kiếm thừa cơ đâm trúng dưới nách trái lão một nhát, máu tươi chảy ra đầm đìa.

Đinh Bất Tam và Đinh Bất Tứ tuy là hai anh em, nhưng cả đời ưa tranh hơi gây gổ với nhau, chẳng ai chịu ai. Anh chẳng ra anh, em chẳng ra em, không giống huynh đệ chút nào. Nhưng lúc này Đinh Bất Tam thấy em bị thương cũng không khỏi quan tâm. Lão tức giận quát lên: “Thằng lỏi này! Ngươi dám cả gan đả thương huynh đệ của lão gia ư?” Lão lún người xuống, nhảy vọt lại rồi vung tay chụp vào sau lưng Bạch Vạn Kiếm.

Bạch Vạn Kiếm bị hai mặt giáp công, song hắn vẫn bình tĩnh, vung kiếm tới trước đâm Đinh Bất Tứ bắt lão phải lùi lại một bước. Tiếp theo hắn xoay kiếm lại đâm chênh chếch tới Đinh Bất Tam. Đinh Bất Tứ la lên: “Lão Tam! Tránh ra! Ai mượn lão giúp ta?”

Đinh Bất Tam nói: “Ai giúp ngươi làm chi? Đinh Lão Tam này rất ghét tỉ đấu một cách bất công. Trước hết ta sẽ tước kiếm gã đi, đoạn đâm gã chảy máu, rồi lại để các ngươi tỉ đấu với nhau cho được công bằng…”

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn thấy sư huynh bị hai người giáp công, hơn nữa Đinh Bất Tam lại là kẻ thù giết hại đồng môn của mình, nên chúng vừa thấy lão nhảy vào động thủ thì cùng quát lên một tiếng rồi nhất tề xông ra. Đinh Bất Tam thét lên: “Bọn mặt chó kia! Các ngươi không muốn sống nữa ư? Biết điều thì cút đi cho lẹ!” Kiếm quang lấp loáng, mấy lưỡi kiếm tua tủa đâm tới. Đinh Bất Tam vừa né tránh vừa quát lên: “Nếu bọn ngươi không cút đi thì lão gia phải giết người!”

Bạch Vạn Kiếm biết bọn sư đệ mình nhất định không thể là đối thủ của lão. Lão đã nói giết người là giết người thực, không phải chuyện chơi. Hắn vội la lên: “Các vị sư đệ hãy lui ra!”

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nhất nhất tuân theo hiệu lệnh của sư huynh không ai dám chống lại. Chúng vừa nghe Bạch Vạn Kiếm hô liền lập tức lui lại phía sau. Đinh Bất Tam nhìn một gã đệ tử phái Tuyết Sơn béo chùn béo chụt mà thấp lủn chủn tên gọi Lý Vạn Sơn, nói: “Người đưa kiếm cho ta mượn.”

Lý Vạn Sơn tức giận nói: “Được lắm! Để ta cho lão mượn.” Rồi gã hướng mũi kiếm vào bụng Đinh Bất Tam, phóng rất nhanh nghe vù một tiếng. Không ngờ Đinh Bất Tam vòng tay trái ra chụp trúng cố tay phải Lý Vạn Sơn khẽ vặn một cái, đoạt ngay được thanh kiếm trên tay hắn, trông hệt như Lý Vạn Sơn ngoan ngoãn đưa kiếm cho lão vậy. Chỉ trong nháy mắt, cổ tay của Lý Vạn Sơn đã bị vặn sai khớp, rồi Đinh Bất Tam lại phóng chân đá gã một cước lăn lông lốc.

Bọn đệ tử của phái Tuyết Sơn lại lăm le chống kiếm, muốn nhảy vào viện trợ. Đinh Bất Tam cầm trường kiếm trong tay đâm xuống đất, rồi chạy quanh Bạch Vạn Kiếm và Đinh Bất Tứ một vòng, vạch thành một vòng tròn đường kính chừng hai trượng. Đoạn lão đứng lại, nhìn bọn đệ tử phái Tuyết Sơn lạnh lùng nói: “Tên nào dám bước qua cái vòng tròn này một bước, coi như bước vào quỷ môn quan!”

Bạch Vạn Kiếm tuy là người bình tĩnh, nhưng lúc này cũng không khỏi hoang mang nóng nảy. Hắn biết anh em Đinh Bất Tam và Đinh Bất Tứ quen giết người chỉ trong nháy mắt, hiện giờ hai người lại liên thủ với nhau thì mình khó mà sống được. Cuộc đấu kiếm hôm nay so với lần đấu cùng vợ chồng Thạch Thanh trong miếu thổ địa thì còn nguy hiểm hơn nhiều, huống hồ huynh đệ họ Đinh lại không trọng đạo nghĩa võ lâm như Thạch Thanh phu phụ. Hắn chỉ sợ hôm nay mười bảy đệ tử phái Tuyết Sơn sẽ mất mạng hết trên đảo Tử Yên này, lập tức sử dụng một chiêu nguy hiểm, chỉ mong tìm cơ hội để đâm chết Đinh Bất Tứ. Mười bảy mạng đệ tử phái Tuyết Sơn sống hay chết, hoàn toàn quyết định ở chỗ chiêu này có hạ được Đinh Bất Tứ hay không.

Nhưng vết thương dưới nách Đinh Bất Tứ không nguy hiểm lắm. So với lúc trước lão đánh còn hăng hơn, hai tay phát chưởng như vũ bão. Bạch Vạn Kiếm thì nóng nảy muốn hạ đối phương gấp, nên kiếm chiêu tuy dữ dội hiểm độc nhưng lại vi phạm hai chữ ổn và chuẩn, không bằng lúc trước. Đinh Bất Tứ cứ múa tít song chưởng, xuyên qua xuyên lại giữa luồng kiếm quang một cách mau lẹ, xuất chiêu không kém phần ác độc. Máu nơi vết thương lão không ngớt chảy ra. Đinh Bất Tam chống kiếm tiến lại la lên: “Lão Tứ! Ngươi hãy lùi lại băng bó vết thương rồi hãy đánh tiếp cũng chưa muộn.”

Đinh Bất Tứ lớn tiếng hét lên: “Làm gì mà bị thương? Ta có bị thương đâu? Kiếm pháp thằng lỏi này có ra gì đâu mà đả thương được ta?”

Đinh Bất Tam hỏi: “Ủa, ngươi không bị thương mà sao trên người có máu chảy ra?”

Đinh Bất Tứ đáp: “Ta bị ngứa ngáy trên người nên gãi trầy da chảy mấy giọt máu, có gì lạ đâu.”

Đinh Bất Tam cười ha hả, vừa phóng kiếm đâm tới Bạch Vạn Kiếm vừa lớn tiếng nói: “Gã họ Bạch kia! Ngươi lắng tai mà nghe cho rõ. Bây giờ ta với ngươi tỉ đấu lấy một chọi một, còn Đinh Lão Tứ cũng một mình đấu với ngươi, chứ không phải là hai anh em ta hiệp lực giáp công một mình ngươi. Đinh Lão Tứ bảo ta đừng ra tay, nhưng ta không chịu. Ta bảo y lùi lại, mà y cũng không muốn nghe lời. Ta thấy ngươi mà ngứa mắt, muốn cho ngươi một bài học. Còn y thấy ngươi cũng phát ghét, muốn đánh ngươi mấy cái tát tai. Chúng ta việc ai người nấy làm, chứ không phải là Đinh Thị Song Hùng lấy hai chọi một. Tên nào thúi miệng, đồn bậy ra giang hồ thì nhất định chúng ta không chịu bỏ qua.” Miệng lão la hét om sòm mà tay không chậm chút nào, ra chiêu cực kỳ lợi hại.

Bạch Vạn Kiếm bị hai người giáp công thì bụng bảo dạ: “Thì ra một mình lão đấu với ta, Đinh Bất Tứ cũng một mình đấu với ta, chứ không phải là lấy hai đánh một ư?” Trong lòng nghĩ vậy, nhưng hắn vốn tính khí nghiêm trang, trước nay không thích tranh hơi cãi lý với người. Vả lại tuy hắn không phục anh em họ Đinh vô lại, nhưng đang bị hai tay cao thủ giáp công, không thể phân tâm trả lời Đinh Bất Tam mà phải để hết tâm thần phòng thủ nghiêm mật, tìm cơ hội phản kích, nên một câu cũng không nói.

Cuộc giao đấu đang lúc dữ dội, thanh kiếm của Đinh Bất Tam bỗng đụng vào trường kiếm của Bạch Vạn Kiếm. Bạch Vạn Kiếm thấy cánh tay bị nội lực đối phương chấn động đến tê dại đi, lập tức phải vận nội lực chống lại, rồi hoành kiếm ngang ngực phòng thủ. Bỗng chân phải hắn lại bị tay phải của Đinh Bất Tứ chém một phát rất nặng, tựa như bị cương đao phạt trúng. Hắn đành lùi lại hai bước, loạng choạng cơ hồ muốn té.

Một tên đệ tử phái Tuyết Sơn la lên: “Không được hại sư ca của ta!” Gã chống kiếm tiến vào trợ chiến, nhưng chân trái vừa bước vào cái vòng tròn vừa rồi Đinh Bất Tam đã vạch ra, thì ánh bạch quang lóe lên trước mắt, trường kiếm đã đâm suốt qua ngực. Gã đã bị Đinh Bất Tam đâm một kiếm chết ngay.

Hai đệ tử phái Tuyết Sơn khác vừa kinh hãi vừa tức giận, song song tiến vào tập kích. Đinh Bất Tam quát to một tiếng, nhảy vọt lên không, thanh trường kiếm từ trên bổ xuống, đồng thời tay trái đánh ra một chưởng. Một tên đệ tử phái Tuyết Sơn bị chém từ vai phải chéo sang nách trái, đứt thành hai đoạn như một củ sen bị phạt xéo đi. Còn tên đệ tử kia bị chưởng đập vào đỉnh đầu, chỉ kịp rên lên một tiếng rồi ngã lăn xuống đất, đầu gã ngoẹo ra sau vì xương cổ bị gãy lìa.

Mới trong khoảng khắc Đinh Bất Tam đã giết ba mạng người. Thạch Phá Thiên đứng nấp sau một gốc cây, thấy thế run sợ đến mặt tái mét. Oai thế của Đinh Bất Tam không hề giảm sút, trường kiếm của lão vũ lộng như gió táp mưa sa, chém tới tấp vào Bạch Vạn Kiếm.

Bỗng nghe hai tiếng rắc rắc, cả hai thanh trường kiếm đồng thời bị gãy rời, cả hai người đồng thời liệng nửa thanh kiếm gãy vào đối phương. Hai người cùng cúi đầu rùn thấp người xuống, hai thanh kiếm gãy cùng lướt qua đầu băng đi, chỉ cách đầu người chừng nửa thước. Hành động của hai người y hệt như nhau, mau lẹ ngang nhau, cùng gặp nguy hiểm như nhau. Nếu không phải là lúc mạng sống treo đầu sợi tóc thì họ đã phải lên tiếng hoan hô đối phương lợi hại.

Bạch Vạn Kiếm đã bị thương ở chân phải, di chuyển không thuận tiện, bây giờ lại mất binh khí. Lập tức hắn lâm vào tình trạng chỉ còn chống đỡ, hết đường phản kích. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn biết rõ mình tiến vào vòng tròn là phải chết, không thể sống sót được, nhưng cũng không thể giương mắt nhìn sư huynh bị hai tên hung ác này liên thủ đánh chết. Hai tên đệ tử liền chống kiếm xông vào.

Đinh Bất Tam la lên: “Lão Tứ! Ngươi đến đây mà lo liệu, hôm nay ta đã giết đủ ba mạng rồi.”

Đinh Bất Tứ cười ha hả nói: “Thì ra cũng có lúc lão cần đến ta ra tay.” Lão nói xong, không cần xoay mình, chân trái đá hậu ra sau tựa như lừa ngựa đá người. “Bốp bốp” hai tiếng, song cước của lão đá trúng ngực hai người. Hai gã đệ tử phái Tuyết Sơn bị đá văng ra xa mấy trượng, té huỵch xuống đất không rên la một tiếng. Thì ra hai gã vừa trúng cước của Đinh Bất Tứ đã chết ngay lập tức.

Anh em họ Đinh nổi tính hung tàn, không đếm xỉa gì đến đạo nghĩa giang hồ nữa. Chúng vừa phóng chưởng vừa phóng cước cực kỳ tàn độc, nhằm công kích đối phương. Bạch Vạn Kiếm đã què một chân, phải gắng gượng đối phó, lùi từng bước một ra ngoài vòng. Đột nhiên hắn khẽ rên lên một tiếng, vai phải lại trúng một chưởng của Đinh Bất Tứ, cơ hồ không cất tay lên được nữa.

Thạch Phá Thiên thấy mạng của Bạch Vạn Kiếm treo đầu sợi tóc thì bầu nhiệt huyết sôi lên sùng sục. Chàng la lớn: “Không được giết Bạch đại hiệp.” Chàng bỏ A Tú xuống đất, rút con dao chặt củi hoen rỉ ở sau lưng ra. Chàng lại quát lên: “Không được giết người nữa.”

A Tú bị chàng liệng xuống khá mạnh, buột miệng la lên một tiếng: “Úi chao!”

Thạch Phá Thiên đang lúc vội vàng, quay lại “Xin lỗi!” rồi nhô lên hụp xuống mấy cái, đã bước vào trong vòng. Đinh Bất Tứ vẫn không quay đầu lại, hất chân đá ngược ra sau. Thạch Phá Thiên vừa điểm chân phải xuống đã nhẹ nhàng nhảy qua đầu Đinh Bất Tứ, hạ mình xuống trước mặt lão. Chàng đã sử dụng khinh công A Tú vừa mới dạy cho.

Đinh Bất Tứ thấy chân mình đá vào khoảng không, trước mắt lại xuất hiện thêm một người. Lão sửng sốt la lên: “Té ra là cái đòn bánh tét này.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Vâng! Đúng là cháu. Lão gia gia, Tứ gia gia, các ông… các ông đã giết năm người rồi, dừng tay lại thôi.” Chàng liếc mắt nhìn Đinh Bất Tam, trống ngực đánh thình thình. Ba tên đệ tử phái Tuyết Sơn bị lão giết, xác còn nằm lăn dưới đất. Chân chàng giẫm phải máu me loang lổ, nên càng kinh hãi hơn.

Đinh Bất Tam hỏi: “Thằng ngốc kia! Hôm ấy ở trên thuyền ta để ngươi trốn thoát, té ra ngươi ẩn nấp ở đây. Bây giờ ngươi còn chạy ra đây làm gì?”

Thạch Phá Thiên nói: “Cháu ra khuyên hai vị lão gia đừng có kết nhiều oán thù. Hai vị đã thắng rồi, có thể tha cho người ta được thì hãy tha đi, hà tất phải tàn sát nhiều người.”

Đinh Bất Tam và Đinh Bất Tứ bất giác nhìn nhau, nổi lên cười hô hố. Đinh Bất Tứ nói: “Lão Tam! Không hiểu thằng lỏi này học được ở đâu mấy câu sáo ngữ? Gã nói năng đã không trơn tru, mà còn dám đến khuyên can lão gia.”

Thạch Phá Thiên dùng con dao chặt củi hất tung một thanh trường kiếm dưới đất đến trước mặt Bạch Vạn Kiếm, cất tiếng gọi: “Bạch đại hiệp! Các vị ở phái Tuyết Sơn, nhất định phải dùng kiếm.”

Bạch Vạn Kiếm chụp lấy thanh trường kiếm, nghĩ thầm: “Mình sắp mất mạng dưới móng vuốt của anh em nhà họ Đinh, không ngờ thằng chó con Thạch Trung Ngọc này lại nhảy ra giúp đỡ, thật sự không biết phải nghĩ gì.” Thanh kiếm mà Thạch Phá Thiên hất lại cho Bạch Vạn Kiếm là của một tên đệ tử chết về tay Đinh Bất Tam còn bỏ lại. Bạch Vạn Kiếm vừa có thanh kiếm trong tay, tinh thần phấn khởi hẳn lên.

Đinh Bất Tam cất tiếng mắng: “Gã họ Bạch kia đã bắt được ngươi, toan giết đi. Nếu hôm ấy không có ta đến cứu thì liệu ngươi còn sống được chăng?”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Đúng thế! Cháu rất cảm kích gia gia, nhất định cũng khuyên Bạch đại hiệp hễ tha người ta được thì hãy tha ngay.”

Đinh Bất Tứ sợ Thạch Phá Thiên nói huỵch toẹt chuyện chàng đã đả bại lão ở trên thuyền, cứ muốn phóng chưởng đánh chết chàng ngay lập tức. Lão liền quát lên: “Ngươi nói nhăng gì thế?” Rồi lão vung chưởng phóng vào chàng nghe vù một tiếng. Phen này không có Sử bà bà ở bên cạnh, lão không còn úy kỵ gì nữa, ra chiêu Hắc Vân Mãn Thiên là một chiêu chưa dạy cho chàng.

Bạch Vạn Kiếm không muốn Thạch Trung Ngọc chết dưới chiêu thức hiểm độc của Đinh Bất Tứ. Hắn vung trường kiếm ra chiêu Lão Thụ Hoành Tà đâm chéo sang. Thạch Phá Thiên cũng vung con dao chặt củi, sử chiêu Trưởng Giả Chiết Chi chém vào tay Đinh Bất Tứ. Lạ thay! Chiêu đao và chiêu kiếm này vốn xung khắc nhau như nước với lửa, nhưng khi hợp nhau lại cùng sử dụng thì phát sinh uy lực vô cùng ghê gớm. Chỉ trong chớp mắt, Đinh Bất Tứ bị vây bọc vào giữa hai làn đao quang và kiếm quang.

Đinh Bất Tam la lên: “Cẩn thận!” Đao quang kiếm thế lợi hại vô cùng, tuy lão muốn xen vào trợ chiến, nhưng hai bàn tay không thì khó lòng xông vào được màn đao kiếm dày như lưới này. Đinh Bất Tứ cũng giật mình kinh hãi, thấy nguy cấp liền lăn người mấy vòng dưới đất, trốn ra ngoài vòng chiến. Lúc lão đứng lên thì thấy quanh đao kiếm của đối phương đang nhảy múa vô số những sợi to trắng. Lão sờ xuống cằm thì thấy chòm râu của mình đã bị hớt mất một mảng.

Đinh Bất Tứ vừa kinh hãi vừa tức giận, còn Đinh Bất Tam cũng sợ đến thất sắc. Bạch Vạn Kiếm cũng không khỏi ngạc nhiên. Chỉ có Thạch Phá Thiên không hiểu chiêu thức vừa rồi mình đã sử dụng nội lực hùng hồn mà đao pháp lại càng tinh diệu, khiến cho ba tay cao thủ đương thời phải chấn động.

Đinh Bất Tam nói: “Được lắm! Bây giờ chúng ta cũng dùng binh khí!” Lão lượm hai thanh trường kiếm dưới đất lên, đưa một thanh cho Đinh Bất Tứ rồi bảo: “Lão Tứ, chúng ta còn bày đặt anh hùng làm quái gì? Cứ tiến lên đi!” Mũi kiếm lão rung lên, nhằm đâm vào Thạch Phá Thiên.

Đến lúc này Thạch Phá Thiên vẫn chưa biết ứng biến. Chàng thấy kiếm đâm tới mình thì rất đỗi hoang mang, không biết phải sử chiêu nào để giải khai cho dúng. Bạch Vạn Kiếm bèn ra chiêu Song Đà Tây Lai đỡ giúp. Chiêu kiếm này nhắc nhở Thạch Phá Thiên sử chiêu Thiên Quân Áp Đà. Chàng xoay bản đao từ trên không đè xuống. Con dao chặt củi tuy đã cùn nhụt, nhưng được Thạch Phá Thiên vận nội lực vào nặng đến ngàn cân, Đinh Bất Tam lập tức cảm thấy chiêu kiếm của mình bị ngưng trệ. May có Đinh Bất Tứ rút cây Cửu Tuyết Tiên trên lưng ra xông đến trợ giúp, Đinh Bất Tam mới thừa cơ tránh né được.

Bạch Vạn Kiếm lại sử chiêu Phong Sa Mãng Mãng, Thạch Phá Thiên liền phóng ra chiêu Đại Hải Trầm Sa. Một đao một kiếm phối hợp nhau như chiếc áo trời may không có đường ráp nối, bên trên như cuồng phong bão táp đè xuống, bên dưới tựa hồ biển cả sóng nổi ba đào đẩy lên. Đinh Bất Tam và Đinh Bất Tứ đều la hoảng.

Thạch Phá Thiên nội lực đã cực kỳ thâm hậu mà đao pháp chàng học được cũng tinh diệu vô cùng. Có điều chàng còn ít luyện tập, nên lúc đối địch không biết ứng biến linh hoạt, thấy chiêu thức của địch đánh đến mà không biết nên dùng chiêu thức nào để đối phó. Chàng đã học Kim Ô đao pháp, ngoài chiêu cuối cùng ra, chiêu nào cũng đối chọi với kiếm pháp phái Tuyết Sơn. Khi Sử bà bà truyền thụ bộ đao pháp này cho chàng, đã chỉ điểm luôn cả kiếm pháp của phái Tuyết Sơn. Lúc này trong lòng Thạch Phá Thiên đã hoang mang, chàng không suy nghĩ gì nữa, hễ thấy Bạch Vạn Kiếm ra chiêu nào là chàng lại sử chiêu tương ứng ra đối phó. Giả tỉ Bạch Vạn Kiếm ra chiêu Lão Chi Hoành Tà, chàng liền sử chiêu Trưởng Giả Chiết Chi. Bạch Vạn Kiếm mà ra chiêu Song Đà Tây Lai, chàng liền sử chiêu Thiên Quân Áp Đà. Ngờ đâu Kim Ô đao pháp là khắc tinh với Tuyết Sơn kiếm pháp, chính vì chỗ tương khắc đó mà khi liên thủ với nhau đã bổ khuyết cho nhau mọi chỗ sơ sót của hai bên, thành ra một thứ võ công có uy lực vô cùng mãnh liệt.

Bạch Vạn Kiếm trong lòng xiết nỗi kinh nghi. Chỉ mấy chiêu là hắn biết ngay đao pháp của Thạch Phá Thiên rất phù hợp với kiếm pháp của mình, khi liên kết lại thì không gì không phá vỡ được. Hắn nghĩ bụng: “Nội lực của thằng lỏi này hữu chất vô hình, cứ dần dần tăng mãi lên không ngớt mới thật là tuyệt diệu.”

Đinh Bất Tam cùng Đinh Bất Tứ có bản lãnh và kiến thức còn cao hơn Bạch Vạn Kiếm, dĩ nhiên nhìn nhận ra sớm hơn. Có điều cả hai lão đều bản tính hung hăng kiêu ngạo, tuy biết thế mà chẳng chịu thua. Hai lão hy vọng bộ đao pháp cổ quái này của Thạch Phá Thiên chiêu số có hạn, nên phấn chấn tinh thần cố sức chống đỡ.

Bạch Vạn Kiếm cũng sợ rằng võ công của Thạch Phá Thiên cũng như Trình Giảo Kim chỉ được ba búa, kéo dài sẽ bị anh em họ Đinh đoạt lại thượng phong. Tình thế trước mắt chỉ lợi ở chỗ đánh nhanh giải quyết nhanh. Hắn liền sử chiêu Ám Hương Sơ Ảnh, trường kiếm vừa rung lên, kiếm quang đã xuất hiện trùng trùng. Đây là một chiêu tinh vi nhất trong kiếm pháp Tuyết Sơn, có thể đả thương đối phương bất cứ lúc nào, không thể biết để đề phòng. Thạch Phá Thiên cầm con dao chặt củi phạt ngang rồi rung động luôn mấy cái. Đó là chiêu Bào Ngư Chi Tứ, nội lực xô ra cả bốn mặt tám phương.

Bỗng nghe hai tiếng la ôi ối, vai Đinh Bất Tứ bị trúng đao, cánh tay Đinh Bất Tam bị trúng kiếm. Hai lão đột nhiên quay mình nhảy ra ngoài vòng. Đinh Bất Tam xoay tay lại nắm lấy Đinh Đang lôi đi, chạy lẹ vào khu rừng phía đông, còn Đinh Bất Tứ chạy trốn về quả núi ở hướng tây. Một lúc sau, từ sau núi vọng lại tiếng nói của lão: “Bạch Vạn Kiếm! Lão tử nể mặt mẹ của ngươi, hôm nay tha mạng ngươi một lần. Lần sau chắc chắn ta không tha được nữa…”, rồi âm thanh dần dần mất hút.

* * *

Dưới đất còn lại những vũng máu, năm xác chết lăn lóc trên mặt cỏ. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn ngơ ngác nhìn nhau, hết thảy đều đau lòng, vừa hoài nghi vừa kinh hãi. Bạch Vạn Kiếm liếc mắt nhìn Thạch Phá Thiên, vừa đau lòng hổ thẹn lại vừa cảm thấy mình còn may mắn, vừa sợ hãi vừa kinh ngạc, thật sự rất nhiều cảm giác cùng nổi lên. Một lúc sau thì trong lòng hắn chỉ còn có ý cảm kích, nghĩ tới vừa rồi hai anh em họ Đinh ra tay cực kỳ ác độc, nếu không được thằng lỏi này ra tay trợ giúp thì mười mấy người của phái Tuyết Sơn chắc chắn phải chết hết trên đảo Tử Yên này. Rồi hắn thở phào một cái, cất tiếng hỏi: “Đao pháp đó là ai đã dạy cho ngươi?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Đó là Sử bà bà đã truyền thụ cho tại hạ. Đao pháp này có bảy mươi ba chiêu, so với Tuyết Sơn kiếm pháp thì nhiều hơn một chiêu. Chiêu nào cũng là khắc tinh của Tuyết Sơn kiếm pháp.”

Bạch Vạn Kiếm hắng giọng một tiếng, lại hỏi: “Chiêu nào cũng khắc tinh với kiếm pháp phái Tuyết Sơn ư? Khẩu khí lớn lắm! Sử bà bà là ai?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Sử bà bà là tổ sư sáng lập ra phái Kim Ô. Bà là sư phụ của tại hạ, còn tại hạ là đại đệ tử đời thứ hai.”

Bạch Vạn Kiếm nghe chàng nói câu này thì không nén nổi giận dữ, lạnh lùng hỏi: “Ngươi đã không nhìn nhận sư môn nữa thì thôi, sao lại còn gia nhập môn phái Kim Ô gì gì đó? Phái Kim Ô… ta chưa từng nghe thấy. Trong võ lâm đâu có môn phái này?”

Thạch Phá Thiên chưa biết Bạch Vạn Kiếm đã nổi giận. Chàng tiếp tục giải thích: “Sư phụ tại hạ bảo Kim Ô là mặt trời. Mặt trời mọc lên thì tuyết trên đỉnh núi sẽ chảy đi. Vì thế mà đệ tử phái Tuyết Sơn chạm trán phái Kim Ô thì chỉ còn đường… còn đường…” Chàng muốn nói tiếp “chỉ còn đường dập đầu van xin tha mạng.” Nhưng tuy chàng không am hiểu nhân tình thế thái, cũng không phải là hạng ngu ngốc, lập tức ngưng lại không nói nữa vì biết câu này không thể nói trước mặt đệ tử phái Tuyết Sơn.

Bạch Vạn Kiếm sắc mặt xám xanh, lớn tiếng hỏi: “Đệ tử phái Tuyết Sơn ta chạm trán phái Kim Ô ngươi thì sao? Chỉ còn đường gì?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Câu này nói ra thì Bạch đại hiệp tất không được hài lòng. Tại hạ cũng cho rằng câu nói này của sư phụ không đúng lắm.”

Bạch Vạn Kiếm hỏi: “Có phải mụ nói là chỉ còn đường chạy tháo thân không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Lời nói của sư phụ tại hạ cũng tương tự như vậy. Bạch đại hiệp bất tất phải bực mình, đó là sư phụ tại hạ nói cho vui thôi, không phải là thật đâu.”

Chân phải và vai phải của Bạch Vạn Kiếm đã bị trúng chưởng của Đinh Bất Tứ, càng lúc càng thêm đau đớn. Nhưng hắn nghe Thạch Phá Thiên nói câu nào cũng ra vẻ xem thường môn phái mình thì còn nhẫn nại làm sao được? Hắn vung thanh kiếm thét lên: “Được! Ta muốn lĩnh giáo mấy cao chiêu của phái Kim Ô, xem thử những chiêu đao nào là khắc tinh của phái Tuyết Sơn.” Nhưng hắn vừa giơ kiếm lên đã cảm thấy bả vai đau nhức, mặt tái đi, trường kiếm suýt nữa tuột khỏi tay.

Một tên đệ tử phái Tuyết Sơn tên gọi Bao Vạn Diệp chống kiếm tiến ra hai bước nói: “Thằng lỏi họ Thạch kia! Ngươi đương nhiên không chịu nhìn nhận ta là sư thúc, vậy ta thử tiếp mấy chiêu thức cao thâm của ngươi xem thế nào.”

Bạch Vạn Kiếm nghiến răng chịu đau nói: “Bao sư đệ!… Ngươi… ngươi…” Hắn định nói: “Ngươi không thể đấu với gã được”, nhưng người võ lâm xem trọng nhất là thể diện, hắn liền đổi giọng nói: “Ngươi để ta tiếp gã vài chiêu được rồi.” Bạch Vạn Kiếm bèn đưa kiếm sang tay trái rồi gọi: “Thạch

tiểu tử! Tiến lên đi!”

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Bạch đại hiệp đã bị thương ở vai và đùi, chúng ta bất tất tỉ thí nữa. Vả lại… vả lại… tại hạ nhất định không địch nổi Bạch đại hiệp đâu.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Ngươi đã có gan buông lời khinh mạn phái Tuyết Sơn, sao lại không có gan cùng ta tỉ thí?” Dứt lời, hắn vung kiếm ra chiêu Mai Tuyết Tranh Xuân, kiếm quang vọt ra thành nhiều điểm chụp xuống đầu Thạch Phá Thiên. Hắn sử kiếm bằng tay trái tuy không linh hoạt bằng tay phải, nhưng về phần mãnh liệt vẫn không suy giảm chút nào.

Thạch Phá Thiên thấy kiếm quang từ trên đầu chụp xuống liền vung con dao chặt củi lên, trả đòn bằng chiêu Mai Tuyết Phùng Hạ. Quả nhiên chiêu này nhằm đánh vào những chỗ sơ hở của đối phương, nó đúng là khắc tinh của chiêu Mai Tuyết Tranh Xuân. Bạch Vạn Kiếm thấy vậy thì trong lòng không khỏi kinh hãi. Hắn không đợi xong chiêu Mai Tuyết Tranh Xuân, đã vội biến sang chiêu Hồ Mã Nguyệt Lĩnh. Thạch Phá Thiên cũng y theo mà biến sang chiêu Hán Tướng Đương Quan.

Bạch Vạn Kiếm nhìn thấy đối phương sử dụng chiêu này tự vệ nghiêm mật khác thường, không những phong tỏa hoàn toàn kiếm chiêu của mình, mà hiển nhiên còn có biến thế lợi hại tiếp theo, tức thì đổi sang chiêu Minh Nguyệt Cương Địch. Thạch Phá Thiên cũng đổi chiêu Xích Nhật Kim Cổ.

Bạch Vạn Kiếm lại càng kinh hãi, nhìn rõ con dao chặt củi của đối phương chém đúng vào yếu điểm của mình, hắn liền hốt hoảng biến chiêu. May mà Thạch Phá Thiên chưa hiểu được đến chỗ ảo diệu, vừa thấy đối phương biến chiêu thì cũng biến đổi chiêu thức liền. Thực ra chiêu Xích Nhật Kim Cổ của chàng đã chiếm được thượng phong rồi. Bất luận Bạch Vạn Kiếm biến chiêu cũng được mà không biến chiêu cũng được, nếu chàng cứ thừa thế tấn công thì lập tức đối phương phải thối lui đến ba bước. Nhất là lúc này chân Bạch Vạn Kiếm đã bị thương, hắn không tài nào thối lui ba bước một cách mau lẹ dễ dàng, nhiều phần là phải buông kiếm chịu thua.

Nhưng nói đến kinh nghiệm tỉ đấu thật sự thì Thạch Phá Thiên còn kém rất xa. Chàng chỉ cố gắng nhìn ra Bạch Vạn Kiếm sử dụng chiêu thức gì, thì cứ theo đó mà sử dụng chiêu tương ứng trong đao pháp phái Kim Ô mà thôi. Lần này cũng y hệt ngày trước chàng đấu quyền trên thuyền cùng Đinh Bất Tứ, người ta vẽ sao mình vẽ theo đấy. Thạch Phá Thiên ra chiêu mà không hiểu được đến chỗ kỳ diệu, thành ra bỏ lỡ mất những cơ hội rất tốt. Bạch Vạn Kiếm thì la thầm: “Thật là nhục nhã!” Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đứng xung quanh cũng thầm la: “Thật là may mắn.”

Bạch Vạn Kiếm qua khỏi được cơn nguy này, nhưng về sau còn gặp nhiều trường hợp hung hiểm nữa. Bất luận kiếm pháp Bạch Vạn Kiếm cao siêu đến đâu, kỳ diệu đến mực nào, cũng đều bị lưỡi dao chặt củi của Thạch Phá Thiên làm mất hết chỗ ảo diệu mà chiếm lấy thượng phong.

Bạch Vạn Kiếm vừa đấu vừa sợ hãi nghĩ thầm: “Thằng lỏi này không phải khoa trương bừa bãi, Kim Ô đao pháp gì gì đó của nó quả nhiên là khắc tinh của kiếm pháp phái Tuyết Sơn ta. Sử bà bà nào đó chắc là kẻ thù của gia gia ta rồi. Mụ ta sáng tác bộ đao pháp này rất tinh vi, hiển nhiên là muốn đánh cho phái Tuyết Sơn chúng ta phải thua be bét.”

Sau khi hai bên đã qua lại hơn ba chục chiêu, Thạch Phá Thiên bỗng vung con dao chặt củi chém xuống vai trái Bạch Vạn Kiếm. Kể ra hắn có thể phóng cước ra đá vào cổ tay chàng để giải khai, nhưng vì chân hắn đã bị thương, vừa giơ chân lên thì đau thấu xương, đầu gối khuỵu ngay xuống. Hắn vội chống bàn tay phải xuống đất cho khỏi ngã. Giả tỉ thanh đao cứ chém xuống thì Bạch Vạn Kiếm không còn cách nào chống đỡ được nữa. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nhìn thấy con dao sắp chém vào cánh tay trái của sư ca, đều lớn tiếng hô hoán om sòm. Không ngờ Thạch Phá Thiên không chém xuống, dừng tay nói: “Chiêu này bỏ đi không tính.”

Bạch Vạn Kiếm nhún chân trái một cái, đứng phắt dậy. Trong lòng hắn xoay chuyển ý nghĩ rất mau: “Đáng lý thằng lỏi này đã thắng ta từ lâu rồi, mà sao gã không sử cho hết chiêu? Dường như gã lại chưa học qua kiếm pháp phái Tuyết Sơn. Lúc này rõ ràng gã có thể giết ta, sao lại cố ý nhân nhượng? Thằng lỏi Thạch Trung Ngọc trước nay rất nham hiểm. Gã mà phóng đao chém chết ta rồi thì cả bọn sư đệ ở đây chẳng còn ai địch nổi gã nữa, sao đột nhiên gã lại nảy lòng từ thiện? Chẳng lẽ… chẳng lẽ… gã thật sự không phải là Thạch Trung Ngọc ư?”

Bạch Vạn Kiếm nghĩ tới đây, đột nhiên rung trường kiếm phóng ra một chiêu rất tầm thường, chẳng có chi kỳ dị. Đó là chiêu Triều Thiên Thế, đơn giản chỉ đâm kiếm về phía trước. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đều kinh ngạc “ồ” lên một tiếng. Triều Thiên Thế không thuộc vào số bảy mươi hai chiêu Tuyết Sơn kiếm pháp, chỉ là một trong mười hai thế của kẻ mới nhập môn phải tập để luyện gân cốt cho cơ bản. Những chiêu sơ học này rất giản dị dễ nhớ, tuy hữu ích cho việc luyện công, song tầm thường quá nên không thể dùng vào chuyện đối địch thủ thắng được.

Bọn sư đệ Bạch Vạn Kiếm thấy hắn đột nhiên sử chiêu Triều Thiên Thế đều giật mình kinh hãi, tưởng sư huynh bị thương kiệt lực, không còn sức để sử kiếm mới đâm liều dùng những thế sơ học đó. Ngờ đâu Thạch Phá Thiên lại đứng thộn mặt ra vì chàng chưa từng thấy chiêu này bao giờ. Sử bà bà lúc dạy chàng Kim Ô đao pháp không nói gì đến cách phá giải chiêu đó cả. Chàng không biết đối phó thế nào, đâm ra luống cuống. Nhưng trước thanh trường kiếm của Khí Hàn Tây Bắc thì ai dám ngơ ngác như thế? Thạch Phá Thiên chỉ ngẩn người ra một lát thì thanh trường kiếm của Bạch Vạn Kiếm đã nhanh như điện chớp trỏ vào trước ngực chàng. Hắn quát lớn: “Ngươi nói gì đây?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Bạch đại hiệp sử chiêu vừa rồi là thuộc kiếm pháp gì? Tại hạ chưa từng thấy qua.”

Bạch Vạn Kiếm thấy Thạch Phá Thiên giữa lúc chỉ cách cái chết chừng sợi tóc mà chẳng sợ hãi gì, lại còn hỏi đến kiếm pháp, trong lòng hắn không khỏi khâm phục con người gan dạ. Hắn hỏi lại: “Ngươi chưa học qua thật ư?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu. Bạch Vạn Kiếm tiếp: “Bây giờ ta muốn giết ngươi thì dễ như trở bàn tay, nhưng bậc đại trượng phu ân oán phải phân minh. Vừa rồi hai anh em họ Đinh vây đánh ta, ngươi đã có ơn xông ra giải vây. Vậy bây giờ ta tha cho ngươi, thế là lấy một mạng đổi một mạng, chúng ta không còn nợ nhau gì nữa. Từ đây về sau, ngươi đừng có mở miệng khoác lác Kim Ô đao pháp là khắc tinh của Tuyết Sơn kiếm pháp nữa!”

Thạch Phá Thiên gật đầu đáp: “Tại hạ cũng đã nói là không thể địch nổi Bạch đại hiệp. Đại hiệp bảo tại hạ không được nói thế, thì sau này tại hạ không nói là xong. Bạch đại hiệp! Tại hạ nghĩ ra rồi. Chiêu kiếm vừa rồi của đại hiệp dường như cũng có cách phá giải.” Nói xong, chàng hóp ngực lại cho lõm vào mấy tấc rồi vung con dao chặt củi lên gạt ngang. Đao kiếm chạm nhau phát ra một tiếng kêu khủng khiếp, trường kiếm trong tay Bạch Vạn Kiếm bị gãy đôi, vì nội lực Thạch Phá Thiên ghê gớm quá.

Bạch Vạn Kiếm kinh hãi biến sắc. Hắn điểm chân trái xuống một cái, một thanh trường kiếm khác đang nằm dưới đất bỗng bật lên nhảy vào tay hắn. Véo, véo, véo! Bạch Vạn Kiếm sử luôn mấy chiêu thức tầm thường để đệ tử nhập môn luyện công, nhưng một cách cực kỳ thần tốc. Thạch Phá Thiên nhìn mà hoa cả mắt, tay chân luống cuống. Đột nhiên cổ tay chàng trúng kiếm, con dao chặt củi cầm không chặt rớt xuống đất.

Ngay lúc ấy thanh trường kiếm của đối phương đã chỉ vào trước ngực chàng. Bạch Vạn Kiếm rung tay một cái. Thạch Phá Thiên la lên: “Úi chao!” Chàng cúi đầu nhìn xuống thì trước ngực đã in vào sáu chấm rất ngay ngắn, máu thấm ra ngoài. May mà mũi kiếm đâm vào không sâu nên chẳng thấy đau đớn gì.

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn reo hò: “Chiêu Tuyết Hoa Lục Xuất thật là tuyệt diệu!”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Cảm phiền các hạ về trình với lệnh sư là phái Tuyết Sơn đã có điều thất lễ.”

Hắn thấy Thạch Phá Thiên không hiểu cả đến mấy chiêu thức nhập môn thô thiển nhất của phái Tuyết Sơn, thì rõ ràng chàng không phải là đệ tử bản phái chứ không phải giả dối. Mặt khác, thái độ, cử chỉ cùng tính nết chàng hoàn toàn khác hẳn Thạch Trung Ngọc. Hắn nghĩ thầm: “Gã đã có ơn cứu mạng ta, mà vừa rồi lại không chém xuống vai ta, rõ ràng đã hạ thủ lưu tình. Bất luận gã có phải là Thạch Trung Ngọc hay không, hôm nay ta cũng không nên giết hay bắt gã. Chiêu Tuyết Hoa Lục Xuất chỉ là để cảnh cáo hắn đừng lên mặt chê bai phái Tuyết Sơn, để lại trên người hắn một vết sẹo mà thôi.”

Bạch Vạn Kiếm bèn liệng thanh trường kiếm xuống, ôm thi thể hai tên sư đệ lên. Hắn nghĩ đến tình huynh đệ đồng môn mà đau lòng, lại tự hổ thẹn vì mình không đủ sức bảo vệ, khiến bọn sư đệ phải uổng mạng dưới bàn tay anh em họ Đinh. Hắn không cầm lòng được, đành để hai dòng lệ tuôn rơi. Mấy tên đệ tử khác của phái Tuyết Sơn ôm ba cái xác kia lên. Bạch Vạn Kiếm nói bằng một giọng căm hờn: “Bất Tam, Bất Tứ hai tên lão tặc! Mối thù này thế nào phái Tuyết Sơn cũng phải trả. Ta mong rằng hai tên lão tặc đừng chết quá sớm.” Đoạn hắn quay lại bảo bọn sư đệ: “Chúng ta đi!”

Đoàn người đi nhanh ra khỏi khu rừng rậm, chẳng ai thèm ngoái cổ lại ngó Thạch Phá Thiên lấy một lần.

Hồi 11: Rượu thuốc

Thạch Phá Thiên thấy dưới đất còn vết máu loang lổ, mấy đoạn đao kiếm gãy vứt bỏ tại đó, đàn quạ bay lượn trên đầu réo lên quang quác. Chàng lượm con dao chặt củi lên, lớn tiếng gọi: “A Tú! A Tú!”, chạy lại sau gốc cây nhưng không thấy nàng ở đó nữa.

Thạch Phá Thiên tự hỏi: “Hay nàng về trước rồi?” Chàng lật đật chạy về hang núi, lại gọi luôn mấy tiếng: “A Tú! A Tú!” nhưng chẳng những không thấy A Tú mà cả Sử bà bà cũng bỏ đi rồi. Thạch Phá Thiên rất đỗi hoang mang. Chàng nhìn xuống mặt đất thấy mấy hình vẽ lộn xộn, song không biết đó là chữ, cũng không hiểu có ý nghĩa gì, chỉ đoán là Sử bà bà cùng A Tú đã rời khỏi đây.

Ban đầu Thạch Phá Thiên cảm thấy cô đơn vắng lặng, nhưng từ thuở nhỏ chàng đã quen với cảnh cô đơn lạnh lẽo, nên chỉ sau một lúc là trở lại bình tĩnh. Lúc này vết thương trước ngực đã ngưng chảy máu, chàng nghĩ: “Họ đi cả rồi, ta cũng đi thôi. Bây giờ ta lại đi kiếm má má cùng con A Hoàng.” Lúc này chẳng còn ai quấy nhiễu, chàng cảm thấy trong lòng thư thái nhẹ nhõm, nhưng khi nghĩ đến Sử bà bà cùng A Tú thì có chút luyến tiếc. Chàng cài con dao chặt củi lên lưng rồi đi ra bờ sông.

Thạch Phá Thiên ra đến bờ sông, chỉ thấy làn nước mênh mông, sóng vỗ bì bõm, ven bờ không có con thuyền nào, đành men theo bờ sông mà đi. Đảo Tử Yên không lấy chi làm lớn, Thạch Phá Thiên chạy mới một giờ là đã quanh hết một vòng, vẫn chẳng thấy thuyền bè chi hết, phóng tầm mắt nhìn ra ngoài xa cũng không thấy bóng một cánh buồm nào.

Chàng vẫn còn hy vọng Sử bà bà và A Tú đi một lúc rồi về, bèn quay về hang núi xem thử, nhưng vẫn chẳng có ai. Chàng liền đi tìm ít trái hồng để ăn cho qua cơn đói, khi đêm xuống lại ngủ trong động.

Thạch Phá Thiên ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe ngoài sông có tiếng roạc roạc như xé lụa. Chàng đứng phắt dậy, nhắm hướng có tiếng động chạy ra bờ sông. Dưới ánh sao lờ mờ, chàng nhìn rõ một con thuyền lớn áp vào gần bờ, buồm rung phần phật trong gió.

Thạch Phá Thiên vừa kinh hãi vừa mừng thầm, chỉ sợ trên thuyền này có Đinh Bất Tam hay Đinh Bất Tứ, nên không dám mạo muội tiến đến ngay, bèn thụt người lại nấp vào sau gốc cây. Bỗng chàng nghe một tiếng vang lớn. Lần này chàng nhìn rõ buồm trên thuyền đã xoắn vào nhau, bị gió mạnh giật tung ra mà trên thuyền chẳng ai dòm ngó gì tới.

Thạch Phá Thiên thấy chiếc thuyền lay động rồi trôi ra xa bờ, vội chạy lại la gọi: “Trên thuyền có ai không?” Không nghe tiếng người đáp lại, chàng nhảy vọt lên đầu thuyền nhìn vào trong khoang, nhưng chỉ thấy tối đen, không rõ vật gì hết. Chàng liền chui vào khoang, chân bỗng vấp phải một người nằm trên sạp thuyền. Chàng vội cất tiếng xin lỗi rồi đưa tay ra nâng người đó dậy. Ngờ đâu tay đụng vào thấy lạnh ngắt, thì ra là một cái tử thi.

Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi, la lên một tiếng: “Úi chao!” Tay trái chàng sờ soạng lại đụng phải cánh tay một người khác cũng lạnh như băng, lại là một xác chết. Chàng run rẩy, lần mò đi vào khoang trong, chân lại dẫm phải một tử thi nữa. Khoang này cũng toàn là xác chết, cái nằm lăn ra, cái ngồi tựa mạn thuyền.

Thạch Phá Thiên hoảng sợ quá, cất tiếng la thật to: “Trong thuyền có ai không?” Chàng kinh hãi quá độ, âm thanh tuy vang dội nhưng đã lạc giọng. Thạch Phá Thiên run rẩy đi tới đằng lái. Dưới ánh sao lờ mờ chàng nhìn rõ có đến mười mấy người nằm ngổn ngang trên boong tàu. Người nào cũng cứng đờ, hiển nhiên đều là xác chết. Lúc này đang tiết trời thu. Gió thổi rất mạnh, mấy cánh buồm rách toang bị gió thổi vang lên những tiếng lạch phạch. Gió thổi rít qua những sào tre bị gãy trên thuyền, nghe như tiếng sáo hòa cùng tiếng hú của ma.

Thạch Phá Thiên tuy rất gan dạ, lại đã quen vói cảnh cô đơn yên tĩnh, nhưng đêm khuya một mình ở nơi hoang vắng, trong một chiếc thuyền đầy tử thi hoàn toàn không có một người sống, tai lại nghe thấy những tiếng động quái dị thì cũng không khỏi run rẩy. Chàng cứ tưởng như những thi thể này sắp sống lại, nhảy lên để bóp cổ mình. Chàng nhớ lại vụ bị xác chết đuổi bắt rồi toan mổ bụng ở Hầu Giám Tập mà cơ hồ nghẹt thở, mồ hôi toát ra như tắm, lông tóc dựng ngược, chỉ muốn nhảy lên bờ. Nhưng chàng vừa đặt chân lên mép thuyền, bỗng la hoảng vì con thuyền đã ra khỏi bờ quá xa rồi, đang thuận dòng trôi đi.

Thì ra con thuyền vô chủ này thuận dòng trôi đến đảo Tử Yên, loanh quanh mấy vòng rồi lại thuận dòng xuôi tiếp. Suốt đêm hôm ấy Thạch Phá Thiên không dám vào khoang thuyền, chỉ ngồi ở đằng lái ôm lấy cột buồm, chờ cho đến sáng.

Sáng sớm hôm sau lúc mặt trời vừa mọc, mọi vật đều trông thấy rõ ràng, Thạch Phá Thiên cũng đỡ khiếp sợ. Chàng nhảy xuống sàn thuyền, nhìn thấy trong khoang ngoài khoang có ít ra là năm sáu chục cái xác chết, thật khiến cho người ta phải hoảng sợ. Lạ ở chỗ trên mình thi thể nào cũng không có máu, cũng không có vết đao thương kiếm kích chi cả. Chàng không hiểu bọn họ vì sao mà chết.

Thạch Phá Thiên quay lại mũi thuyền thì thấy ngay giữa cửa khoang có treo hai cái bài đồng sáng lấp loáng, lớn bằng bàn tay. Một tấm khắc bộ mặt tươi cười, dung nhan hòa ái. Còn một tấm lại khắc bộ mặt dữ tợn như hung thần ác sát. Cả hai tấm bài đồng này được đóng vào tấm gỗ cửa khoang bằng đinh sắt rất dài, trông rất kỳ bí. Thạch Phá Thiên chăm chú nhìn hai tấm bài đồng thì thấy hai bộ mặt khắc vào đó linh động như người sống, bèn không dám nhìn lâu, quay đi chỗ khác. Chàng lại nhìn tới những xác chết thì tay người nào cũng cầm binh khí hoặc lưng giắt đao kiếm, hiển nhiên toàn là nhân vật võ lâm.

Thạch Phá Thiên nhìn kỹ hồi lâu, phát giác ra trên vai áo mỗi người đều thêu một con cá có cánh, rất sống động. Chàng đoán những người trên thuyền là cùng một bọn, nhưng không tài nào hiểu được họ gặp địch thủ đến thế nào mà bị giết hết.

* * *

Con thuyền cứ tiếp tục trôi theo dòng nước Trường Giang xuống hạ lưu, đến trưa thì thấy trước mặt có hai con thuyền đang song song ngược dòng đi lên. Người lái thuyền kia thấy con thuyền này cứ chênh chếch trôi xuống liền la lên: “Chống thuyền lại! Chống thuyền lại!” Nhưng con thuyền này không có ai bẻ lái, gặp chỗ nước chảy xiết bèn xoay ngang ra. Nghe sầm một tiếng, nó đã đụng vào hai thuyền kia. Tiếng người la ó om sòm lẫn với tiếng chửi rủa thô tục lập tức vang lên.

Thạch Phá Thiên kinh hãi vô cùng, bụng bảo dạ: “Thuyền của người ta bị thuyền này đụng phải, chắc họ sẽ làm khó dễ mình. Không chừng họ còn buộc mình vào tội giết chết bấy nhiêu người trên thuyền, lúc đó thì biết làm thế nào?” Gặp phải tình trạng cấp bách, chàng đánh liều chui vào trong khoang, lật ván lên nằm nép xuống đáy thuyền.

Lúc này ba con thuyền đã áp vào nhau, rồi có người nhảy sang, những tiếng la hoảng lại vang lên. Có người lớn tiếng kêu: “Là người của Phi Ngư Bang, sao… sao đã chết cả rồi?” Lại có người la lên: “Bang chúa… bang chúa Thành Đại Dương cũng chết ở đây.” Đột nhiên ngoài mũi thuyền có người la hoảng, lắp bắp: “Đây là Thưởng Thiện… Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh…”

Tiếng người này không to lắm, nhưng thanh âm run lên bần bật ra chiều khủng khiếp đến cực độ. Câu này chưa nói xong mà thì mọi người đã im bặt, trong thuyền yên lặng không một tiếng động. Thạch Phá Thiên tuy nấp dưới đáy khoang, không nhìn thấy mặt ai, nhưng chàng cũng biết họ khiếp sợ đến cùng cực.

Hồi lâu, mới có người nói: “Năm nay lại đến kỳ Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh tái xuất giang hồ rồi. Đây chắc là hai vị sứ giả Thưởng Thiện, Phạt Ác phụng mệnh đi tuần. Phi Ngư Bang này từ trước đến giờ đã gây nên nhiều tội ác… Hỡi ơi!” Hắn buông tiếng thở dài rồi không nói nữa.

Một người khác cất tiếng hỏi: “Hồ đại ca! Nghe nói Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh vốn không phải giết hại người ta ngay lúc đó, chỉ là triệu tập đến… đến Hiệp Khách Đảo, đến đó rồi mới xét xử phải không?”

Người nói trước đáp: “Nếu ai ngoan ngoãn tuân lệnh thì đúng là như vậy. Nhưng đã đi là chết, không đi cũng chết, chết sớm muộn một chút cũng chẳng khác gì. Chắc là Thành Đại Dương bang chúa không chịu phụng mạng, cùng toàn bang kháng cự cho nên… cho nên mới có kết cục như thế.”

Một người hỏi hết sức nhỏ: “Hai vị Thưởng Thiện Phạt Ác đó thật sự thần thông quảng đại như thế ư? Chẳng lẽ trong võ lâm không ai địch nổi họ sao?”

Hồ đại ca gì đó hỏi ngược lại: “Ngươi nói thử xem có ai không?”

Người kia im lặng một chút, mới nói nhỏ nhẹ: “Sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác trở lại giang hồ, thì các bang các phái đều khó mà tránh khỏi đại kiếp này.”

Thạch Phá Thiên sực nhớ tới một chuyện, ngấm ngầm la hoảng: “Những xác chết trên thuyền này đều là người Phi Ngư Bang gì đó, có cả bang chúa, thật là chuyện không hay. Chẳng hiểu hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác nào đó có tìm đến bang Trường Lạc hay không?”

Chàng nghĩ tới đây bất giác lòng nóng như lửa đốt, nghĩ bụng: “Mình phải chạy mau về tổng đà báo tin cho Bối tiên sinh hay, để bọn họ chuẩn bị trước.” Sở dĩ chàng quyết định như vậy là vì từ lúc bị người ta nhận lầm là Thạch bang chúa của Trường Lạc Bang đã phải chịu đựng rất nhiều phiền não, lại mấy phen suýt nguy đến tính mạng, chỉ có bang Trường Lạc từ trên xuống dưới là kính cẩn lễ phép với chàng. Dù ở đó có một người tên là Triển Phi toan hạ sát chàng, nhưng đó chỉ là chuyện hiểu lầm mà thôi. Lúc này chàng nghe đến câu: “Các bang các phái đều khó mà tránh khỏi đại kiếp này”, nghĩ đến chuyện an nguy của mọi người ở bang Trường Lạc, chàng hết sức quan tâm.

Thạch Phá Thiên lại càng lắng tai nghe mọi người trong thuyền nói chuyện. Bỗng nghe tiếng một người khác hỏi: “Hồ đại ca! Đại ca xem vụ này có liên quan gì đến chúng ta không? Hai sứ giả đó có tìm đến Thiết Xoa Hội của chúng ta không?”

Hồ đại ca đáp: “Hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đã đi tuần, thì bất cứ bang hội nào trên giang hồ cũng khó tránh khỏi tiêu điều. Chuyện này cũng còn tùy chúng ta hên xui thế nào.” Y im lặng một lúc lâu rồi tiếp: “Bây giờ ngươi ngấm ngầm phái người đi bẩm với Tổng đà chúa, rồi hết thảy anh em trong hai thuyền đều tụ tập cả vào đây, bất luận là ai cũng không được nhúc nhích. Chúng ta dùng thuyền này để tới xóm chài nhỏ ngoài cảng Hồng Liễu. Hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đã tới thuyền này diệt sạch nhân vật đầu não bang Phi Ngư, thì chắc không trở lại đây nữa.”

Người kia mừng rõ nói: “Đúng lắm! Đúng lắm! Kế của Hồ đại ca thật là tuyệt diệu. Hai vị sứ giả Thiện Ác mà có thấy lại thuyền này thì cũng cho là thuyền đầy xác chết của Phi Ngư Bang, chắc không lên đây. Tại hạ xin đi truyền lệnh ngay.” Chẳng bao lâu sau, có rất nhiều người đi qua chiếc thuyền này.

Thạch Phá Thiên nằm phục dưới đáy thuyền, lắng tai nghe những người trên khoang thì thào bàn tán, tưởng chừng như đại họa đến nơi rồi. Có người nói: “Thiết Xoa Hội chúng ta không có điều chi đắc tội với Hiệp Khách Đảo, hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác vị tất đã tìm đến bọn mình.”

Một người khác nói: “Chẳng lẽ Phi Ngư Bang lại cả gan đắc tội với Hiệp Khách Đảo hay sao? Theo ta thì giang hồ cứ mười năm lại gặp một lần kiếp nạn, chỉ sợ rằng lần này… lần này…”

Bỗng có người ngắt lời: “Lão Lý! Hay là chúng ta cầu xin Tổng đà chúa tuân lệnh qua đó, thử xem thế nào?”

Lão Lý hắng giọng một tiếng rồi đáp: “Đương nhiên là một đi không trở lại. Ba mươi năm trước, các vị bang chúa, hội chủ, chưởng môn tuân lệnh đến Hiệp Khách Đảo, đã có ai trở về được đâu? Tổng đà chúa từ trước đến giờ đối xử với chúng ta cũng không đến nỗi tồi, chẳng lẽ chúng ta lại ham sống sợ chết để lão nhân gia đơn phương độc mã vào nơi nguy hiểm mà chịu mất mạng ư?”

Lại người khác nói: “Phải đấy! Bây giờ chỉ có cách tạm lánh đi là hơn. May mà chúng ta phát giác ra sớm, xem ra cũng nhờ ông trời che chở Thiết Xoa Hội của chúng ta qua khỏi kiếp vận này. Xóm chài ở ngoài cảng Hồng Liễu là nơi rất kín đáo, chúng ta đến đó tạm lánh thì hai vị sứ giả có tai thính mắt tinh đến đâu cũng khó mà phát giác ra được.”

Hồ đại ca nói: “Ngày trước Tổng đà chúa sửa sang xóm chài này là để dùng vào việc như hôm nay. Đó là nơi để trốn hết nợ của thế gian… chẳng khác gì chốn đào nguyên ngoài cõi tục.”

Bỗng một giọng ồ ồ bỗng cất lên: “Thiết Xoa Hội của chúng ta vùng vẫy trên sóng Trường Giang, không biết sợ trời sợ đất là gì, ngay đức Hoàng Đế cũng phải làm ngơ. Thế mà vừa nghe đến hai tên sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác gì gì đó, cả bọn chúng ta lại hoảng sợ cụp đuôi, vội chui vào xóm chài hẻo lánh ngoài cảng Hồng Liễu bắt chước con rùa rút đầu, thật chẳng ra làm sao. Giả tỉ lần này trốn tránh được, nhưng sau này có kẻ hỏi tới thì bọn ta biết đem những cái mặt mo này giấu đi đâu? Chi bằng cứ quyết đấu với chúng một trận, con mẹ nó, chưa chắc gì đã mất cái mạng già nua này.”

Lão này nói năng thật là khí phách anh hùng, nhưng cả thuyền không có ai dám hưởng ứng. Qua một hồi lâu, Hồ đại ca nói: “Không sai! Chúng ta đã quen ăn miếng cơm giang hồ, hứng máu trên lưỡi đao mà uống. Con mẹ nó! Lại đầu quy Vương lão lục nào có biết sợ ai? Ha ha!”

Đột nhiên người vừa lên tiếng hô hào bỗng rú lên một tiếng thảm khốc, nhưng mọi người trong khoang thuyền hoàn toàn im lặng. Thạch Phá Thiên nghe những tiếng tí tách, rồi cảm thấy từng giọt nước nhỏ xuống lưng bàn tay mình. Chàng đưa tay lên mũi ngửi thấy mùi tanh sặc sụa, biết ngay là máu từ trên nhỏ xuống. Thạch Phá Thiên bây giờ mới hiểu bọn họ ngồi ngay bên trên mình, nên không dám động đậy chút nào, đành để máu tươi tiếp tục nhỏ xuống người mình.

Bỗng nghe Hồ đại ca lớn tiếng hỏi: “Ngươi trách ta về chuyện giết Lại đầu quy ư?”

Một người run run đáp: “Không… không có… Vương lão lục quả là ăn nói lỗ mãng, chẳng trách Hồ đại ca phải nổi nóng. Có điều… gã đối với bản hội… trước nay vẫn một dạ trung thành.”

Hồ đại ca nói: “Thế thì ngươi không phục cách xử trí của ta phải không?”

Người kia vội nói: “Không… không phải…” Y chưa dứt lời, bỗng nghe một tiếng rú thê thảm vang lên, hiển nhiên lại bị gã họ Hồ hạ sát rồi. Thạch Phá Thiên lại nghe máu nhỏ từng giọt từ trên khoang thuyền xuống đáy. May mà người này không ngồi ngay trên chỗ chàng nấp nên máu không rơi vào người chàng.

Gã Hồ đại ca kia giết liền một lúc hai người, rồi lại nói: “Không phải là ta tâm địa hiểm độc, thủ đoạn tàn ác, chẳng nghĩ gì đến nghĩa khí anh em. Nhưng thật sự là vụ này quan hệ đến mạng sống của mấy ngàn người trong bang hội. Vụ này mà chỉ tiết lộ ra một chút thì hết thảy chúng ta đều giống như các bằng hữu Phi Ngư Bang. Lại đầu quy Vương lão lục cứ tự cho mình là anh hùng hảo hán, la ó om sòm. Hắn coi thường tính mạng hắn đã đành, chẳng lẽ bắt cả tổng đà chúa và hết thảy anh em chúng ta mất mạng theo hắn hay sao?”

Mọi người đều nói: “Phải lắm! Phải lắm!”

Gã họ Hồ lại nói: “Người nào không muốn chết, thì chỉ có cách ngồi yên trong khoang thuyền. Tiểu Tống! Ngươi ra ngoài bẻ lái, nhớ lấy một mảnh buồm rách che lên mình, đừng để người ta nhìn thấy.”

Thạch Phá Thiên nằm phục dưới đáy thuyền, tai nghe tiếng nước chảy kế bên. Mọi người trong khoang thuyền chẳng ai nói năng gì, Thạch Phá Thiên lại càng không dám phát ra một chút âm thanh. Trong lòng chàng vẫn thắc mắc: “Không hiểu Hiệp Khách Đảo là chỗ nào, sao trên đảo lại phái đi hai sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác hung hãn ác độc đến thế, giết sạch những người trên thuyền. Cũng khó mà trách được bọn người Thiết Xoa Hội này lại hoảng sợ đến như vậy.”

Qua một hồi lâu, chàng cảm thấy rất mệt mỏi, mơ mơ màng màng chỉ muốn nhắm mắt ngủ một giấc, nhưng lại nghĩ lỡ mình ngủ mơ mà phát ra những tiếng động để bọn người phía trên phát giác thì sẽ ra sao, chắc là khó giữ được tính mạng. Nên chàng cứ cố mở to mắt, bất luận thế nào cũng không dám nhắm mắt lại. Rất lâu sau, chàng lại nghe thấy những tiếng lách cách rồi tiếng xích sắt khua, con thuyền không ngớt lắc lư, thì ra đã được người ta neo lại.

Lại nghe Hồ đại ca nói: “Mọi người sau khi vào nhà, bất cứ ai cũng không được ra ngoài, cứ im lặng chờ Tổng đà chúa mà nghe hiệu lệnh của lão gia.” Mọi người đều thấp giọng vâng dạ tuân lời, rồi len lén lên bờ. Chỉ trong khoảng khắc mọi người lên hết, trong thuyền chẳng còn một ai.

Thạch Phá Thiên lại chờ một lúc nữa, đoán chừng mọi người đã vào nhà hết, mới dám mở ván thuyền thò đầu lên. Chàng để ý nhìn quanh một lượt không thấy có người, bèn lén lút bò lên khoang thuyền, thấy xác chết vẫn còn nằm la liệt.

Thạch Phá Thiên lượm một thanh đao giắt vào sau lưng, đổi con dao chẻ củi hoen rỉ của mình. Chàng lại thò tay vào bọc một tử thi, lần mò lấy ít tiền để lên bờ mua cơm ăn. Thạch Phá Thiên đi lại đằng lái, nhẹ nhàng nhảy lên bờ. Chàng khom lưng theo bãi sông chạy lẹ về phía trước, chừng hơn một dặm mới rẽ lên bờ, đi vào một con đường nhỏ.

Chàng nghĩ bây giờ vẫn chưa thoát khỏi vòng nguy hiểm, càng đi xa hơn càng tốt, lại co giò cố chạy thật nhanh. May mà thôn chài này cực kỳ hẻo lánh, trong vòng mười dặm không có căn hộ nào cả, chàng chưa gặp một ai.

Thạch Phá Thiên mừng thầm, cứ tưởng mình gặp vận may. Chàng không biết, lúc trước ở vùng này lác đác cũng có nhà dân, nhưng đều bị Thiết Xoa Hội ngấm ngầm phóng độc giết sạch. Những người vừa dọn tới chưa được bao lâu cũng bị trúng độc mà chết. Dân chúng trong vùng đều cho là Hồng Liễu Cảng này có ma quái dễ sợ, có thể truyền nhiễm ôn dịch. Sau bảy tám năm, mọi người đều lánh đi xa, nơi đây biến thành sào huyệt cực kỳ bí mật của Thiết Xoa Hội.

* * *

Thạch Phá Thiên chạy xa thôn chài này thêm mấy dặm, đã cảm thấy bụng đói như cào. Chàng liền chạy vào rừng rậm định tìm quả dại, nhưng vừa đi được mấy bước bỗng nghe có tiếng sột soạt. Một con heo rừng từ trong bụi cỏ rậm nhảy ra, cúi đầu lao thẳng đến chàng. Thạch Phá Thiên nghiêng người đi một chút, tay phải rút đơn đao thuận tay phóng chiêu Trưởng Giả Chiết Chi trong Kim Ô đao pháp, chỉ soạt một tiếng đã chặt đứt đầu nó. Con heo rừng này cực kỳ hung mãnh, tuy đầu đã rơi xuống đất rồi mà nó vẫn chạy thêm mười mấy bước nữa mới lăn ra chết.

Thạch Phá Thiên cả mừng, trước đây chưa học Kim Ô đao pháp thì chàng gặp heo rừng chỉ có cách chạy trốn, đâu dám nghĩ đến chuyện giết nó. Chàng tìm một khối đá đen ở bên rừng, lấy sống đao ghè xuống cho tia lửa bắn tóe ra, đốt lên một đống lửa. Chàng chặt lấy bốn đùi heo rừng đem đến khe suối rửa sạch vết máu rồi xách về bên đống lửa. Chàng nung nóng thanh đao, dí vào đùi heo cho cháy lông đi, đoạn lấy cành cây xiên qua đùi heo, nướng lên đống than. Chẳng mấy chốc, mùi thịt heo chín đã bay thơm phức.

Giữa lúc Thạch Phá Thiên đang nướng thịt thì đột nhiên nghe thấy ngoài mười trượng có tiếng người nói: “Thơm quá! Thơm quá! Thật khiến cho người ta phải chảy nước miếng.”

Một giọng khác nói: “Bên đó có người đang nướng thịt thú gì đó. Chúng mình đến đó thương lượng với họ, lấy một ít mà ăn, không biết có được hay không.”

Người nói trước nói: “Đúng thế.” Rồi hai người từ từ đi tới. Thạch Phá Thiên thấy một người thân thể cao lớn mặt tròn tai to, mình mặc áo đoạn màu hồng, vẻ mặt niềm nở hòa ái rất dễ thân cận. Còn người kia thì thân hình đã cao nghễu cao nghều lại gầy khẳng gầy kheo, khoác trường bào màu thanh thiên. Mặt hắn ốm không bằng một nửa người kia, lại để một chùm râu đuôi chuột, vẻ mặt rất âm trầm hiểm độc.

Gã béo mập cười ha hả nói: “Tiểu huynh đệ! Chuyện này…”

Thạch Phá Thiên đã nghe hai người bàn nhau từ trước, liền nói: “Con heo rừng này nhiều thịt lắm, mười mấy người ăn cũng không hết. Hai vị cứ việc ăn uống cho thỏa thích”.

Gã béo mập lại mỉm cười nói: “Như thế thì chúng ta cũng không khách sáo nữa.” Hai người liền ngồi xuống. Dưới ánh lửa bập bùng họ nhìn thấy y phục của Thạch Phá Thiên rất sang trọng nhưng lem luốc, chẳng những xốc xếch mà lại dính máu bê bết thì lộ vẻ kinh ngạc. Nhưng họ chỉ nhìn thoáng qua rồi bốn con mắt lại nhìn hau háu vào mấy cái đùi heo đang nướng trên đống lửa, không để ý gì đến chàng nữa.

Mỡ ở đùi heo nhỏ giọt xuống đống lửa, hòa lẫn với mùi nhựa thông rất thơm tho. Tuy chưa ai ăn vào miệng, nhưng cũng cảm thấy mùi vị thật là tuyệt vời. Gã cao gầy lấy cái bầu màu lam đeo ở sau lưng, mở nút ra ghé miệng vào uống một hơi rồi nói: “Rượu ngon!” Gã béo mập cũng lấy trên lưng xuống chiếc bầu sắc đỏ, lắc mấy cái rồi mở nút ra uống. Gã cũng khen: “Rượu ngon!”

Thạch Phá Thiên khi còn đi theo Tạ Yên Khách đã từng được uống rượu. Bây giờ chàng ngửi thấy mùi rượu thơm phức, cũng muốn uống một hớp. Nhưng chàng thấy hai người mạnh ai nấy uống, không hề có ý mời mình. Suốt đời chàng nhất quyết không cầu xin ai cả, chỉ đành nuốt nước miếng mà thôi. Một lúc nữa, bốn cái đùi heo đã chín tới. Chàng liền nói: “Thịt heo chín rồi. Xin mời!”

Hai gã một ốm một mập đồng thời thò tay ra cầm lấy một chiếc đùi heo. Chúng đưa vào miệng toan cắn thì Thạch Phá Thiên cười nói: “Hai cái đùi ấy tuy lớn thật, nhưng đều là đùi sau, mùi vị không bằng đùi trước.”

Gã béo mập mỉm cười nói: “Chú bé này cũng có lương tâm lắm.” Đoạn gã đổi lấy đùi heo trước cắn ăn. Còn gã gầy nhom cầm đùi sau đã lỡ cắn một miếng rồi, hắn ngần ngừ không tiện đổi nữa.

Hai người ăn mấy miếng, lại uống một hớp rượu rồi cất tiếng khen: “Rượu ngon!” Rồi hai gã cùng đậy nút lại, đeo bầu vào sau lưng.

Thạch Phá Thiên bụng bảo dạ: “Hai người này thật là tiết kiệm, chỉ uống hai hớp rồi cất rượu đi. Chẳng lẽ rượu này lại quý đến thế hay sao?” Chàng liền nhìn gã béo nói: “Đại gia, rượu trong hồ lô này ngon lắm phải không? Tại hạ cũng muốn uống vài hớp.” Lời nói của chàng tuy không phải là xin của người ta, nhưng cái ý xin rượu thì đã rõ.

Gã béo lắc đầu nói: “Không được! Không được! Cái này không phải rượu, chú không uống được. Chúng ta đã ăn thịt heo rừng của chú, lát nữa sẽ có lễ vật tặng lại.”

Thạch Phá Thiên mỉm cười nói: “Đại gia nói giỡn rồi. Chính miệng đại gia vừa khen rượu ngon, mà tại hạ cũng ngửi thấy mùi rượu.” Chàng lại quay sang hỏi gã gầy nhom: “Còn trong hồ lô của vị đại gia này, chắc chắn là rượu đấy chứ?”

Gã gầy nhom đảo cặp mắt, trợn lòng trắng lên nói: “Đây là rượu độc. Ngươi có gan thì cứ uống đi!” Gã nói xong, cởi hồ lô ra đặt xuống đất.

Thạch Phá Thiên mỉm cười nói: “Nếu đây là thuốc độc thì sao đại gia uống vào không chết?” Chàng nhắc lấy cái hồ lô rồi mở nút, mùi rượu xông lên thơm ngát.

Gã béo mập hơi biến sắc nói: “Vô duyên vô cớ sao chúng ta lại gạt ngươi? Mau đặt xuống đi, mau đặt xuống đi.” Gã liền giơ năm ngón tay ra chụp vào cổ tay chàng, toan cướp lấy cái hồ lô. Ngờ đâu, gã vừa chạm vào cổ tay Thạch Phá Thiên liền cảm thấy một luồng đại lực mãnh liệt xô ra, hất văng ngón tay gã đi. Gã béo mập giật mình kinh hãi, “Úi chà” một tiếng rồi nói: “Té ra là thế! Chúng ta đã nhìn lầm người. Vậy thì mời chú uống rượu!”

Thạch Phá Thiên cầm ngay chiếc hồ lô kê vào miệng, nuốt ừng ực hai hơi dài. Chàng nghĩ gã gầy ốm xem chừng tiếc rượu, nên không dám uống nhiều, liền đậy nút bình lại nói: “Đa tạ!” Trong nháy mắt, một luồng khí lạnh buốt từ đan điền chàng bốc lên, như một khối băng lạnh cứ lan ra mãi. Chỉ trong khoảng khắc, Thạch Phá Thiên cảm thấy toàn thân đều bị lạnh cứng, cả người run lên, hai hàm răng khua vào nhau lập cập. Chàng vội vận nội lực để chống lại, luồng hơi lạnh dần dần tan đi rồi khắp mình mẩy chân tay cảm thấy thư thái vô cùng. Chẳng những chàng không thấy giá lạnh nữa mà trong người lại rất ấm áp. Bất giác chàng lớn tiếng khen: “Rượu ngon!”

Chàng không nhịn được lại nhắc bầu lên, mở nút ra uống hai hớp nữa. Rồi chàng lại vận nội lực cho luồng hơi lạnh tiêu tan, cảm thấy trong người càng khoan khoái hơn. Thạch Phá Thiên thích quá, trầm trồ khen: “Tại hạ chưa từng được uống rượu ngon như thế này. Tiếc là loại rượu này quý báu quá, nếu không thì tại hạ nhất định phải uống sạch.”

Sắc mặt của hai gã kia đều lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi. Gã béo nói: “Tiểu huynh đệ! Nếu chú quả có tửu lượng hơn người thì cứ uống cạn cả bầu rượu này cũng được, đừng ngại chi hết.”

Thạch Phá Thiên cả mừng nói: “Đại gia nói thật đấy chứ? Nhưng tuy đại gia rộng lượng mà tại hạ cũng thấy ngại.”

Gã gầy nhom lạnh lùng nói: “Rượu độc trong bầu đỏ của ông kia còn ngon hơn nữa. Ngươi có muốn uống thử không?”

Thạch Phá Thiên đưa mắt nhìn gã béo mập, cũng có ý muốn thử một chút. Gã béo mập thở dài nói: “Tuổi còn nhỏ mà nội công đã cao cường đến thế, bây giờ bỗng dưng chết uổng thì thật là đáng tiếc!” Gã vừa nói vừa cởi cái bầu rượu đỏ chóe ra đặt xuống đất.

Thạch Phá Thiên nghĩ thầm: “Hai người này cũng ưa nói giỡn. Nếu là rượu độc thật thì sao chính họ lại uống vào?” Chàng cầm bầu rượu đỏ lên mở nút ra, một mùi thơm ngào ngạt đưa lên mũi. Chàng liền uống một hơi. Lần này chàng không cảm thấy giá lạnh, lại ruột nóng như lửa đốt.

Thạch Phá Thiên kinh hãi la lên một tiếng: “Úi chao!” rồi không chịu được phải nhảy vọt lên. Chàng vội huy động nội lực trấn áp, quả nhiên dẹp được cơn nóng, tựa hồ ngọn lửa hồng bị tắt ngấm. Chàng la lên: “Thứ rượu này ghê gớm quá!” Nhưng lạ thay, luồng nhiệt khí trong bụng vừa tiêu tan, toàn thân lại khoan khoái vô cùng.

Gã béo mập nói: “Nội lực của chú rất thâm hậu. Nếu bây giờ chú uống hết cả hai bầu rượu này thì dũng chẳng sao.”

Thạch Phá Thiên cười nói: “Một mình tại hạ đâu dám uống hết? Ba người chúng ta hôm nay có duyên hội ngộ, nếu chúng ta kết bạn với nhau rồi cùng uống rượu ăn thịt có hay hơn không? Nào! Xin mời đại gia!” Chàng nói xong, cầm bầu rượu đưa sang.

Gã béo mập mỉm cười nói: “Tiểu huynh đệ thật sự muốn thử sức ta hay sao? Vậy ta phải xả thân để bồi tiếp người quân tử.” Gã nói xong, đón lấy bầu rượu giơ lên uống một hớp rồi đưa bầu lại cho Thạch Phá Thiên nói: “Chú uống nữa đi!”

Thạch Phá Thiên lại uống một hớp, rồi cầm bầu rượu đưa cho gã gầy nhom nói: “Xin mời đại gia!”

Gã gầy nhom biến sắc đáp: “Ta chỉ uống rượu của ta thôi!” Gã cầm bầu rượu màu lam lên, uống một hớp rồi đưa cho Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên nhận lấy rồi uống một hớp lớn, cảm thấy sau khi uống hớp rượu nóng rồi lại uống một hớp rượu lạnh, hai dòng nóng lạnh hòa lẫn nhau trong bụng thì mùi vị lại càng ngon hơn. Chàng thấy cả hai gã trợn mắt lên nhìn mình, hiểu ý ngay liền mỉm cười nói chữa thẹn: “Xin lỗi nhé! Tại hạ uống hớp rượu này tham quá.”

Gã gầy nhom vẫn lạnh nhạt nói: “Ngươi muốn trổ tài hảo hán thì càng nốc nhiều càng hay.”

Thạch Phá Thiên mỉm cười đáp: “Nếu uống chưa thỏa thích thì chúng ta tới thị trấn trước mặt kia, mua một hũ lớn uống cho kỳ thích. Tại hạ đã có bạc đây, có điều e rằng không tìm đâu được thứ rượu ngon như thế này.” Chàng nói xong, lại cầm bầu rượu giơ lên uống một hớp rồi đưa cho gã mập.

Gã mập ngồi xếp bằng dưới đất, ngấm ngầm vận công lực rồi mới uống một hơi. Gã thấy Thạch Phá Thiên uống hết hớp lớn này đến hớp lớn khác mà không sao cả, thì càng lúc càng kinh ngạc. Gã mập và gã gầy cứ nhìn nhau, trên sắc mặt đều lộ vẻ kinh dị. Thì ra hai người này đều là những tay cao thủ võ công tuyệt đỉnh, nhưng mỗi người luyện công hoàn toàn trái ngược nhau.

Gã béo mập luyện theo đường lối dương cương, còn gã gầy nhom lại theo lối âm nhu. Trong bầu rượu của mỗi người đều đựng rượu thuốc để hỗ trợ cho việc luyện công. Trong bầu rượu màu đỏ đựng rượu thuốc có tính rất nóng, dùng Liệt Hỏa Đan ngâm vào rượu mạnh. Còn rượu trong bầu lam thì có tính cực hàn, dùng Cửu Cửu Hoàn ngâm thành.

Liệt Hỏa Đan và Cửu Cửu Hoàn đều bào chế từ không ít những loại linh đan diệu dược. Trong Cửu Cửu Hoàn chứa tới tám mươi mốt loại độc thảo, trong Liệt Hỏa Đan thì thuốc độc ít hơn nhưng lại có Hạc Đỉnh Hồng, Khổng Tước Đảm là những loại kịch độc. Hai gã đã mất nhiều năm và tốn lắm công phu mới luyện được. Dược tính của hai loại rượu này cực kỳ mãnh liệt, nên người thường chỉ cần nhỏ vài giọt lên đầu lưỡi là mất mạng ngay. Hai gã này công lục rất cao thâm, nhưng khi uống vẫn phải thêm một thứ thuốc để hòa hoãn bớt phần mãnh liệt của dược liệu mới uống được mấy hớp mà không đến nỗi trúng độc. Nhưng nếu gã mập uống lầm phải rượu lạnh, hay gã gầy uống lầm phải rượu nóng, thì lập tức mất mạng ngay.

Hai gã thấy Thạch Phá Thiên uống vừa bừa bãi vừa nhiều như vậy mà không sao hết, thì sao mà không kinh hãi? Kiến thức của họ rất rộng rãi, võ học trong thiên hạ mười phần biết đến tám chín, nhưng thật sự không đoán ra Thạch Phá Thiên đã gặp kỳ duyên. Chàng đã luyện nội công thuần âm trước, rồi sau lại luyện thuần dương. Hai thứ nội công một âm một dương ấy lẽ ra phải xung khắc nhau làm chàng tẩu hỏa nhập ma mà chết, nhưng chàng gặp được kỳ tích may mắn, nên chúng lại hỗ tương cho nhau, phát sinh ra uy lực khiến cho công lực của chàng tiến bộ rất nhanh. Sau đó chàng nhờ bộ tượng La Hán của Đại Bi Lão Nhân tặng cho mà luyện thành La Hán Phục Ma Thần Công, lại được rượu thuốc của Đinh Bất Tam làm cho nội lực âm dương giao hòa thành một, dĩ nhiên có thể chống đỡ được bất cứ thứ độc dược nào, bất kể là hàn hay nhiệt.

Thạch Phá Thiên uống rượu của hai gã, cảm thấy băn khoăn trong dạ. Chàng nướng thêm thịt heo rừng, dành những miếng ngon lành nhất cho hai gã, lại luôn miệng mời họ uống rượu. Hai gã lại cho là chàng cố ý uống rượu độc để tỉ thí nội lực với mình. Khi nào họ chịu thua trận đầu hàng, đành miễn cưỡng cùng chàng đối ẩm mỗi người một hớp. Nhưng họ ngấm ngầm lấy thuốc giải độc ra, lén bỏ vào miệng của mình.

Lúc nào hai gã cũng ngó Thạch Phá Thiên chằm chặp, nhưng thấy chàng hoàn toàn không uống một thứ thuốc gì khác để hóa giải loại rượu độc này. Thần công Thạch Phá Thiên thật là hiếm có trên đời, khiến hai gã phải kinh ngạc không hiểu chàng thiếu niên anh hùng này từ đâu xuất hiện.

Gã béo mập thấy Thạch Phá Thiên uống một hớp rượu trong bầu đỏ, rồi lại đưa sang cho mình. Gã đón lấy cái bầu rồi nói: “Nội lực của tiểu huynh đệ cao thâm khôn lường, khiến cho ta phải khâm phục. Vậy tiểu huynh đệ cho biết quý tính đại danh?”

Thạch Phá Thiên chau mày nói: “Vấn đề này thật khiến cho tại hạ phải điên đầu. Ai đã biết tại hạ đều tưởng là người họ Thạch, còn ai chưa biết là hỏi ngay họ tên. Thực ra tại hạ không phải họ Thạch, hay đúng hơn là không họ không tên, nên câu hỏi này không thể trả lời được.”

Gã béo mập bụng bảo dạ: “Thằng lỏi này giả ngây giả dại, tìm cách thoái thác không chịu xưng tên.” Gã lại hỏi: “Vậy tiểu huynh đệ đã bái ai làm sư phụ, ở môn phái nào?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Sư phụ tại hạ ở họ Sử, thường kêu bằng Sử bà bà. Đại gia đã gặp gia sư bao giờ chưa? Lão gia là tổ sư sáng lập ra phái Kim Ô, còn tại hạ là đại đệ tử đời thứ hai.”

Cả hai gã mập, ốm cùng đều nghĩ: “Chỉ nói bậy bạ. Tất cả các môn phái trong thiên hạ chúng ta đều biết, làm gì có phái Kim Ô quỷ quái nào? Có ai là Sử bà bà đâu? Thằng lỏi này thật chỉ kiếm chuyện nói bừa.”

Gã mập nhân cơ hội đang đối đáp, không uống rượu nữa. Gã cầm bầu rượu đưa lại cho Thạch Phá Thiên rồi nói: “Té ra tiểu huynh đệ là đệ tử phái Kim Ô mới sáng lập, thảo nào bản lãnh phi thường! Mời uống rượu đi!”

Thạch Phá Thiên thấy gã chưa uống đã đưa bầu rượu cho mình thì nghĩ thầm: “Y mải nói chuyện quên cả uống rượu.” Chàng liền nhắc: “Đại gia chưa uống mà.”

Gã mập hơi đỏ mặt lên nói: “Vậy ư?” Gã cố ý trốn vòng, uống ít đi một hớp để chiếm lợi thế, nào ngờ bị Thạch Phá Thiên phát hiện, trong lòng không khỏi có chút hổ thẹn. Gã có biết đâu Thạch Phá Thiên chỉ vì hảo ý mà nhắc gã, sợ gã uống ít rượu ngon thì bị thua thiệt.

Gã mập bèn đưa bầu rượu lên uống, nhưng gã đã uống tới tám hớp rượu thuốc là quá sức rồi, cho dù có uống thuốc để kiềm chế thì cũng có hại cho cơ thể. Gã liền kê bầu rượu vào miệng, cổ họng thì giả vờ nuốt ừng ực nhưng hai hàm răng lại cắn chặt. Khi gã hạ bầu rượu xuống, rượu lại chảy vào bầu.

Gã béo mập chơi kiểu này, dĩ nhiên không qua mắt gã gầy nhom được. Gã gầy nhom cũng uống theo kiểu gã béo mập, tức là không để rượu trôi xuống cổ họng. Như vậy, bề ngoài thì chú một hớp anh một hớp, mà thực ra hai bầu rượu đầy thì mười phần có đến bảy, tám đã chui vào bụng Thạch Phá Thiên.

Tửu lượng chàng cũng không khá lắm, nhờ có nội lực thâm hậu mới chống đỡ được. Rượu độc này tuy chưa có hại gì cho chàng, song uống nhiều quá cũng ngà ngà say, rồi tửu nhập ngôn xuất, mỗi lúc chàng nói một nhiều. Chàng kể hết chuyện A Tú sang chuyện Đinh Đinh Đang Đang… Hai gã nghe mà chẳng hiểu gì hết.

Gã béo mập suy nghĩ: “Gã thiếu niên này nhất định đã luyện được một kỳ công nào đó để chuyên môn đối phó với hai người chúng ta. Hắn không lộ vẻ gì, chỉ nói chuyện bừa bãi, thật là cực kỳ nham hiểm. Đợi lát nữa động thủ, sợ rằng hai chúng ta phải mất mạng vào tay hắn.” Gã lại nghĩ: “Hôm nay hai chúng ta lấy hai chống một vẫn chưa chắc thắng nổi. Nội lực tên này thật cao thâm đến mức hiếm thấy trên đời. Để ta thử tăng lượng thuốc vào, xem thử hắn còn chống đỡ nổi hay không.” Gã nghĩ vậy, liền đưa mắt ra hiệu cho gã gầy nhom.

Gã gầy nhom hiểu ý, liền thò tay vào bọc lấy ra một viên Cửu Cửu Hoàn bọc sáp, bóp nát vỏ ngoài rồi cầm trong lòng bàn tay. Gã chờ Thạch Phá Thiên uống một hớp rồi đưa cái bình rượu màu lam qua mình, giả vờ uống một hớp rồi đưa tay ra làm như lau nước bọt dính ở miệng bầu, mà thực ra là bỏ viên Cửu Cửu Hoàn vào trong bình. Gã cầm bầu rượu lắc mấy cái, miệng tấm tắc khen: “Rượu ngon! Thật là rượu ngon!”

Lúc gã gầy nhom hành động thì gã béo mập cũng lấy trong bọc ra viên Liệt Hỏa Đan lén bỏ vào trong rượu. Thạch Phá Thiên cứ tưởng mình đã gặp được hai ông bạn rộng lượng và sảng khoái. Chàng cứ vô tư vừa uống rượu vừa ăn thịt. Kinh nghiệm giang hồ của chàng đã chẳng đáng gì, lúc này lại đã ngà ngà nên hoàn toàn không phát giác được hai gã này lại ngấm ngầm bỏ thuốc vào trong rượu.

Bỗng nghe gã béo mập nói: “Tiểu huynh đệ! Trong bầu còn ít rượu lắm, mà tửu lượng chú lại rất cao. Vậy chú cứ uống một hơi cạn sạch đi!”

Thạch Phá Thiên mỉm cười nói: “Hay lắm. Hai vị đã có lòng tốt thì tại hạ cũng không dám khách sáo.” Chàng cầm cái bầu màu lam lên toan uống, nhưng chợt nhớ ra một chuyện bèn nói ngay: “Lúc tại hạ ngồi thuyền trên sông Trường Giang có nghe Đinh Đinh Đang Đang kể chuyện, nếu bên trai bên gái tình đầu ý hợp thì kết nghĩa phu thê, còn nam nhân với nam nhân vừa gặp nhau đã thân mật như tình cố cựu thì kết nghĩa làm huynh đệ. Nếu hai vị đại gia không rẻ bỏ tại hạ, thì ba chúng ta sau khi uống cạn hai bình rượu này sẽ kết làm huynh đệ, để rồi đây lại cùng nhau uống rượu. Hai vị thấy có được không?”

Hai người mập và ốm này khí phách ngời ngời, lúc bình thường thì Thạch Phá Thiên chắc không dám nghĩ tới chuyện kết bái huynh đệ, mà cho dù có nghĩ tới cũng không dám mở miệng, nhưng lúc này chàng đã ngà ngà say nên thuận miệng nói ra.

Gã béo mập nghe chàng nói chuyện càng lúc càng thân mật, lại cảm thấy câu nào cũng là nói kháy. Gã nghĩ rằng chỉ trong chốc lát là hai bên động thủ, mà nội lực của mình chắc khó mà chống đỡ được, chỉ còn cách dùng thuốc cực mạnh để phá hủy nội lực của chàng. Tuy cách làm này không quang minh chánh đại lắm, nhưng xem ra tâm địa của thằng lỏi này rất hiểm ác, phải lấy độc trị độc thôi. Hắn chỉ sợ chàng không chịu uống nữa, vội nói: “Hay lắm! Hay lắm! Như thế thì còn gì bằng. Chú uống cạn bầu rượu này đi đã.”

Thạch Phá Thiên quay lại hỏi gã gầy nhom: “Còn vị đại gia đây thì nghĩ sao?”

Gã gầy nhom đáp: “Cung kính không bằng tuân mệnh. Tiểu huynh đệ đã có mỹ ý như thế, ha ha, thật là chúng ta cầu mong cũng không được.” Thạch Phá Thiên lúc này mười phần đã say đến tám chín. Chàng đầu óc mơ hồ nhưng cao hứng vô cùng, ngửa mặt dốc bầu rượu lên uống một hơi cạn sạch. Nhưng bây giờ chàng không cảm thấy giá lạnh khó chịu như trước nữa.

Gã béo mập vỗ tay nói: “Hảo tửu lượng! Hảo tửu lượng! Trong bầu rượu của ta cũng còn một hai hớp rượu. Chú uống cạn nốt đi, rồi chúng ta kết bái thành huynh đệ.” Thạch Phá Thiên lơ mơ đón lấy bầu rượu màu đỏ, chẳng cần suy nghĩ gì, uống cạn nốt.

Hai gã đưa mắt nhìn nhau, trong bụng nghĩ thầm: “Một viên Cửu Cửu Hoàn hay Liệt Hỏa Đan phải hòa với sáu bầu rượu. Một bầu rượu phải uống một tháng, mỗi ngày phải vận công hóa giải từ từ thì mới hữu ích mà vô hại. Một viên Cửu Cửu Hoàn lại thêm một viên Liệt Hỏa Đan thì phải hòa trong mười hai bầu rượu, hai người chúng ta phải uống trong nửa năm. Hắn uống hết lượng rượu một năm của chúng ta chỉ trong chốc lát, nếu còn có thể chống đỡ được thì thật là một điều vô lý nhất trong thiên hạ”.

Hai gã còn đang ngẫm nghĩ, đột nhiên Thạch Phá Thiên kêu lớn: “Úi cha! Nguy rồi! Tại hạ đau bụng dữ quá.” Chàng ôm bụng, gập lưng xuống mà rên la không ngớt.

Hai gã một mập một gầy đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Gã mập giả vờ hỏi: “Cái gì? Chú bị đau bụng ư? Chắc vì ăn nhiều thịt heo rừng quá đấy thôi.”

Thạch Phá Thiên nói: “Không phải. Trời ơi! Không được rồi.” Chàng vừa la vừa nhảy vọt lên mấy trượng.

Hai gã cũng đứng dậy. Chúng nghĩ bụng: “Chắc thằng lỏi này biết mình sắp chết, sẽ dùng hết sức để đánh một đòn.” Hai gã ngầm vận nội lực, chuẩn bị sẵn sàng đối phó. Chúng cho rằng công lực của chàng ghê gớm, thế công tất phải mãnh liệt phi thường.

Không ngờ Thạch Phá Thiên lại vung chưởng đánh vào một cây lớn ở kế bên. Chàng càng la dữ dội hơn: “Trời ơi! Đau… đau chết ta mất!” Ruột chàng đau như bị ai vặn đứt ra, vội vận nội lực để hóa giải một khối gì đó đang vò xé trong bụng. Ngờ đâu Cửu Cửu Hoàn và Liệt Hỏa Đan không phải là những loại thuốc tầm thường, chàng càng vận khí thôi thúc thì cơn đau càng dữ dội. Thạch Phá Thiên đau quá, cơ hồ sắp ngất xỉu, toàn thân co rúm lại, chân tay run bần bật.

Giữa lúc đau không chịu nổi, chàng vung quyền trái đấm mạnh vào một gốc cây lớn. Vừa đánh xong quyền này, chàng cảm thấy cơn đau bụng giảm đi một chút. Tay phải chàng lại đánh ra một chưởng, làm cho lá cây rơi lả tả. Một quyền một chưởng phóng ra rồi, chàng cảm thấy bớt đau nhiều, nhưng chỉ dừng tay lại một chút là bụng lại đau như đã nuốt đến muôn ngàn lưỡi đao kiếm vào.

Thạch Phá Thiên miệng thì la lối, chân tay thì múa loạn xạ, thi triển lộn xộn tất cả các loại võ công mà trước nay đã học, tuy chẳng ra đường lối gì mà uy thế mãnh liệt phi thường. Chàng càng đánh càng nhanh, cảm thấy mỗi lần phát ra một quyền một chưởng thì cơn đau trong bụng giảm đi một chút, tựa như theo nội lực vận hành mà phát tiết ra ngoài.

Hai gã một mập một gầy nhìn nhau, từng bước lùi ra sau. Chúng biết Thạch Phá Thiên là một cao thủ võ lâm, đã trúng chất kịch độc thì trước khi chết chắc chắn phải giải tỏa công lực toàn thân, cũng giống như một con mãnh thú điên khùng. Nếu có thể, phải ôm chặt được chàng thì mới có thể thoát khỏi kiếp nạn này. Chúng thấy quyền cước của Thạch Phá Thiên lộng gió ầm ầm, chiêu thức phần thì giống Tuyết Sơn kiếm pháp, phần lại như quyền chưởng của nhà họ Đinh, lại có cả gia số của Ma Thiên cư sĩ Tạ Yên Khách lẫn vào. Nhưng thứ nào cũng có vẻ giống mà lại không giống hẳn, thật sự là từ trước đến giờ chúng chưa từng thấy. Chúng sinh nghi tự hỏi: “Hay gã là đồ đệ phái Kim Ô nào đó thực?”

Võ công hai gã này hết sức cao thâm, chiêu thức của Thạch Phá Thiên dù quái dị đến đâu chúng cũng chẳng coi ra gì. Có điều quyền cước của chàng phát ra những luồng kình phong ghê gớm khiến người ta phải ngấm ngầm kinh dị. Về sau chúng thấy Thạch Phá Thiên càng đánh càng nhanh, kình phong mỗi lúc một thêm mãnh liệt. Hai gã bất giác đưa mắt nhìn nhau mỉm cười, đều nghĩ bụng: “Nội lực của thằng lỏi này tuy rất mạnh, nhưng võ công lại chẳng ra gì. Cho dù Cửu Cửu Hoàn và Liệt Hỏa Đan không giết được gã, thì gã cũng không phải là địch thủ của hai người chúng ta. Lúc trước mình thấy nội lực của gã ghê gớm, lại tưởng lầm là võ công gã cũng cao thâm vô cùng.”

Hai gã nghĩ vậy, rồi đâm ra tiếc hai bầu rượu thuốc và hai viên độc hoàn. Giả tỉ biết sớm thế này thì chúng đã ra tay hạ sát chàng rồi, khỏi phí mất bao nhiêu dược vật quý báu. Hai luồng dược tính đó rất mãnh liệt, âm dương tương phản đã dung hòa với nhau. Thì ra đó là công hiệu chính của La Hán Phục Ma Công mà Thạch Phá Thiên đã luyện. Nếu chàng chỉ uống loại rượu thuốc cực nhiệt của gã mập, hoặc chỉ uống loại rượu thuốc cực hàn của gã ốm, thì cho dù nội lực của chàng có cao hơn cũng phải mất mạng. Hai tên mập ốm này đồng thời ra tay là sai lầm, hai loại rượu độc mãnh liệt như nhau, nên hai loại kịch độc âm dương này lại khắc chế tương hỗ cho nhau.

Hai gã mập ốm này hoàn toàn không biết trước đây Tạ Yên Khách cũng đã từng gia hại chàng như thế. Lão cũng muốn hại mạng chàng, nhưng đã làm cho chàng biết được phương pháp chống đỡ. Thạch Phá Thiên múa quyền cước một lúc, những chất kịch độc trong bụng cũng theo nội lực từ từ ép ra bàn tay, những cơn đau bụng cũng theo đó mà giảm. Đến lúc bao nhiêu chất kịch độc bị thúc đẩy hết ra khỏi nội tạng thì chàng không thấy đau nữa.

Thạch Phá Thiên loạng choạng quay về bên đống lửa, mỉm cười nói: “Úi chà! Vừa rồi tại hạ thật phải một phen hú vía. Không hiểu những cơn đau bụng từ đâu kéo đến, khiến cho tại hạ tưởng như đứt từng khúc một, mất mạng tới nơi.”

Hai gã một mập một gầy trong lòng vẫn chưa hết kinh hãi, bụng bảo dạ: “Nội công của người này quái lạ, thật sự khó mà ngờ được.” Gã béo mập hỏi: “Bây giờ trong bụng chú còn đau nữa không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Tại hạ hết đau rồi.” Chàng đưa tay ra cầm lấy một miếng thịt heo rừng đã bị nướng cháy, dưới ánh lửa bỗng nhìn rõ giữa lòng bàn tay của mình có một chấm đỏ lớn bằng đồng tiền, xung quanh lại có vô số những chấm xanh nhỏ li ti. Chàng bất giác ồ lên một tiếng rồi nói: “Cái này… cái này là thế nào?” Chàng lại nhìn tới lòng bàn tay bên trái thì thấy cũng như vậy. Thì ra chàng đã thúc đẩy những chất kịch độc từ trong bụng ra lòng bàn tay, nhưng không biết cách vận nội lực đẩy hẳn chất độc ra khỏi thân thế, nên vẫn còn ngưng tụ lại ở trong lòng bàn tay thành những dấu chấm.

Gã mập và gã gầy đương nhiên là hiểu rõ nguyên nhân ngay, bất giác càng yên tâm hơn, tự nhủ: “Té ra thằng lỏi này có nội công thâm hậu mà không biết vận dụng, như vậy lại càng chẳng có chi đáng sợ. Nếu không phải gã được trời cho tư chất đặc biệt, thì cũng vô tình được ăn tiên thảo linh chi gì đó, thì nội lực mới mãnh liệt đến thế.” Vừa rồi họ tưởng trong lòng chàng có ác ý, nên mới xuất thủ gia hại. Nào ngờ chàng chỉ múa quyền chưởng đánh vào cây to, tuy trong lúc cơn đau phát tác mà trong ánh mắt cũng hoàn toàn không có chút thù hằn nào. Hai người biết mình hiểu lầm, đều cảm thấy dùng thủ đoạn này với một thằng nhỏ thì trong cũng không khỏi áy náy, thật là mất đi thân phận của cao thủ võ lâm.

Bỗng nghe Thạch Phá Thiên nói: “Vừa rồi chúng ta đã nói đến chuyện kết nghĩa kim lan. Tại hạ không hiểu vị nào tuổi lớn hơn, cũng chưa được biết tôn tính đại danh.” Hai gã một mập một gầy yên trí là Thạch Phá Thiên uống thuốc độc vào rồi sẽ mất mạng ngay lập tức, nên mới mở miệng đồng ý cùng chàng kết bái huynh đệ, ngờ đâu thuốc độc lại không giết chết chàng được. Hai gã này vốn rất tự phụ, từ ngày học thành bản lãnh cao cường chưa bao giờ đã nói ra mà lại không thực hiện. Tuy chúng không muốn kết bái với thằng ngốc này, nhưng cũng không muốn nuốt lời.

Gã mập hắng giọng một tiếng rồi nói: “Ta là Trương Tam, nhiều tuổi hơn huynh đệ Lý Tứ đây một chút. Tiểu huynh đệ! Chú đã không họ không tên thì làm sao kết giao với chúng ta?”

Thạch Phá Thiên nói: “Tên họ của tại hạ chẳng dễ nghe gì, nên sư phụ đã đặt cho một cái tên là Sử Ức Đao. Hai vị cứ gọi tại hạ bằng cái tên này cũng được.”

Gã béo mập mỉm cười nói: “Vậy ba chúng ta hôm nay sẽ kết nghĩa làm huynh đệ.” Gã nói xong, quỳ một gối xuống dõng dạc tuyên bố: “Trương Tam và Lý Tứ cùng Sử Ức Đao bái kết đệ huynh, từ đây có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu. Nếu Trương Tam trái lời thề này thì ngày sau sẽ bị chết thảm như con heo rừng, để cho người ta nướng thịt mà ăn. Ha ha! Ha ha!” Hai chữ Trương Tam dĩ nhiên là tên của rất nhiều người, miệng gã chỉ nói hai chữ Trương Tam, không nói rõ là “Trương Tam ta”. Như vậy là gã chẳng có thành ý chút nào.

Gã gầy nhom cũng quỳ xuống, vừa cười vừa nói: “Lý Tứ và Trương Tam cùng Sử Ức Đao hôm nay kết làm huynh đệ, tuy không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, mong được chết cùng năm cùng tháng cùng ngày. Nếu trái lời thề này Lý Tứ sẽ bị loạn đao đâm chém, vạn tiễn xuyên thân. Ha ha! Ha ha!” Gã cười nhạt luôn mấy tiếng, đủ biết là giả dối.

Thạch Phá Thiên không biết Trương Tam, Lý Tứ chỉ là cách xưng hô phù phiếm, hoàn toàn không phát giác được thần sắc của họ là giả dối. Chàng quỳ hai gối dưới đất, nói rất thành thật: “Tiểu đệ cùng hai vị ca ca Trương Tam, Lý Tứ kết làm huynh đệ. Có rượu ngon thịt ngon, đệ tất nhường hai vị ca ca xơi trước. Có kẻ muốn giết hai vị ca ca, tiểu đệ sẽ đương đầu trước. Nếu không nhớ những lời thề này thì ông trời sẽ phạt tiểu đệ hàng ngày phải đau đớn như vừa rồi.”

Hai gã một mập một gầy nghe Thạch Phá Thiên thề thốt chân thành thì không khỏi cảm thấy đôi chút hổ thẹn. Gã béo mập đứng dậy nói: “Tam đệ! Hai chúng ta có việc gấp cần phải đi ngay. Vậy bây giờ chúng ta chia tay thôi.”

Thạch Phá Thiên nói: “Bây giờ hai vị ca ca lại đi đâu? Vừa rồi Trương đại ca đã nói, chúng ta sau khi kết nghĩa huynh đệ thì có họa cùng chịu, có phúc cùng hưởng. Lúc này tiểu đệ cũng không có việc gì, xin đi theo nhị vị ca ca”.

Gã béo mập tức Trương Tam cười ha hả nói: “Chúng ta phải đi mời khách, cũng chẳng có gì vui thú. Ngươi bất tất phải theo chúng ta làm chi?” Gã nói xong, quay gót băng băng đi luôn.

Thạch Phá Thiên thấy mình bỗng kết giao được với những người bạn tốt. Suốt đời chàng chưa từng có một người bạn, hôm nay cùng lúc được kết nghĩa cùng hai vị ca ca, thật sự rất mừng. Chàng thấy họ gấp rút bỏ đi, cũng có phần không nỡ liền nhanh chân chạy theo nói: “Thế thì tiểu đệ tiễn chân hai vị ca ca một đoạn đường vậy. Hôm nay ly biệt, chẳng hiểu ngày nào chúng ta lại được gặp nhau để cùng uống rượu ăn thịt?”

Gã gầy nhom tức Lý Tứ vẻ mặt cứ lầm lì chẳng nói chẳng rằng. Trương Tam cũng không vui vẻ gì, hỏi lại: “Tiểu huynh đệ! Tiểu đệ nói là được sư phụ đặt cho cái tên Sử Ức Đao. Vậy trước khi sư phụ đặt tên thì tên thật của chú là gì? Chúng ta đã kết nghĩa kim lan, chẳng lẽ chú lại còn giấu giếm hai vị ca ca nữa hay sao?”

Thạch Phá Thiên bối rối cười nói: “Không phải là muốn giấu giếm ca ca, nhưng nói ra rất khó nghe. Má má chỉ kêu tiểu đệ là Cẩu Tạp Chủng.”

Trương Tam cười ha hả nói: “Cẩu Tạp Chủng! Cẩu Tạp Chủng! Cái tên này quả nhiên kỳ lạ.” Hai gã Trương Tam và Lý Tứ đi trước, cứ nhìn thì tưởng chừng không nhanh lắm, nhưng chúng đã ngấm ngầm thi triển khinh công, cây cối hai bên đường vùn vụt lùi lại rất mau.

Thạch Phá Thiên chỉ ngần ngừ một chút mà hai gã đã bỏ chàng lại xa mấy trượng. Chàng vội lao mình đuổi theo thật nhanh. Ba người hai trước một sau, cách quãng chừng ba bước. Trương Tam, Lý Tứ chỉ muốn rời xa chàng ngốc này, liền vận toàn lực thi triển khinh công đến tột độ. Nhưng Thạch Phá Thiên vẫn theo rất sát phía sau, bỗng cất tiếng ca ngợi: “Khinh công hai vị ca ca thật là tuyệt diệu, chẳng phí mảy may hơi sức mà đi nhanh được đến thế! Tiểu đệ phải cố gắng lắm mới đuổi theo được.”

Kể về dáng vẻ thì khinh công ba người này khác nhau rất xa. Trương Tam, Lý Tứ vẫn giữ được thái độ ung dung nhàn hạ không có vẻ gì lật đật hấp tấp, còn Thạch Phá Thiên thì sải bước thật dài, hai tay vung vẩy, người cúi lom khom, chẳng khác người bị giặc đuổi phải chạy thục mạng tháo thân. Có điều hai gã kia thấy chàng đang chạy gấp như vậy mà giọng nói vẫn khoan thai như lúc bình thường, thì không khỏi đem lòng thán phục nội lực của chàng.

Thạch Phá Thiên thấy hai gã chạy theo con đường chàng đã đi qua, tức là đường dẫn tới thôn chài của bọn Thiết Xoa Hội đang ẩn trốn. Hai gã cứ đi mỗi lúc một gần tới đó, chàng không chịu được liền lên tiếng nhắc: “Nhị vị ca ca! Trước mặt là nơi nguy hiểm, không đi được đâu. Chúng ta nên tìm đường khác mà đi, kẻo mất mạng oan.”

Trương Tam, Lý Tứ cùng dừng bước, xoay mình lại. Lý Tứ cất tiếng hỏi: “Tại sao ngươi nói phía trước là chỗ nguy hiểm?”

Thạch Phá Thiên cũng dừng lại nói: “Phía trước là một xóm chài nhỏ bé gọi là Hồng Liễu Cảng. Tại đó có nhiều hán tử giang hồ đang ẩn nấp, không muốn để người ngoài hay biết hành tung. Nếu họ thấy chúng ta thì không chừng sẽ hạ sát ngay để khỏi bị tiết lộ bí mật.”

Lý Tứ mặt lạnh như tiền hỏi: “Ngươi làm sao biết được?” Thạch Phá Thiên liền đem những chuyện mình vì sao mà lên chiếc thuyền đầy tử thi, nấp dưới đáy thuyền nghe bọn người Thiết Xoa Hội nói chuyện ra sao, theo thuyền vào tới thôn chài thế nào, lược thuật lại một lượt.

Lý Tứ lại nói: “Bọn họ trốn trong xóm chài là vì khiếp sợ hai vị sứ giả Thưởng Thiện, Phạt Ác. Chuyện đó có liên can gì đến chúng ta đâu, họ giết ba người chúng ta làm gì chứ?”

Thạch Phá Thiên xua tay lia lịa nói: “Không! Không! Bọn người đó cực kỳ hung dữ, động tay là giết người. Vì họ sợ bí mật này bị lộ ra ngoài mà hạ sát cả người cùng hội. Ca ca hãy xem đây. Tiểu đệ sở dĩ mình mẩy vấy đầy máu, là vì bọn họ giết chính hai người trong bọn, rồi máu nhỏ xuống quần áo của tiểu đệ. Lúc đó tiểu đệ đang trốn dưới đáy thuyền, không dám nhúc nhích chút nào.”

Lý Tứ nói: “Tiểu đệ đã sợ như thế, thì đừng đi theo chúng ta nữa là xong.”

Thạch Phá Thiên nói: “Hai vị ca ca cũng đừng đi nữa thì hơn. Vụ này… vụ này… chẳng phải chuyện chơi đâu”.

Trương Tam, Lý Tứ quay mình lại không nói gì nữa, cứ đi về phía trước, bụng bảo dạ: “Thật uổng cho thằng lỏi này nội lực thâm hậu. Võ công nó đã kém cỏi mà lại nhát gan như chuột nhắt.” Ngờ đâu hai gã vừa đi được vài trượng, lại thấy Thạch Phá Thiên rảo bước đuổi theo. Trương Tam hỏi: “Ngươi đã sợ bọn Thiết Xoa Hội giết người, thì còn theo chúng ta làm chi?”

Thạch Phá Thiên nói: “Chúng ta đã có lời thề, có nạn cùng chịu có phước cùng hưởng. Hai vị ca ca đã nhất định đi, dĩ nhiên tiểu đệ phải đi theo để cùng hai vị chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Nam tử hán đại trượng phu đã nói ra rồi, không thể nuốt lời được.”

Lý Tứ trầm giọng hỏi: “Hừ! Mấy chục mũi cương xoa của bọn Thiết Xoa Hội sẽ cùng phóng tới, cắm vào mình ngươi giống như một con nhím. Ngươi không sợ ư?” Thạch Phá Thiên nhớ tới tiếng rú thê thảm của hai người trong Thiết Xoa hội bị giết lúc chàng trốn dưới đáy thuyền, bất giác dựng tóc gáy. Lúc này trong xóm chài trước mặt có ít ra là một hai trăm người đang ẩn nấp. Dù hai vị huynh trưởng mới kết nghĩa võ công có cao cường đến đâu, nhưng phe mình cả thảy chỉ có ba người, nhất định phải lâm vào tình trạng quả bất địch chúng.

Lý Tứ thấy Thạch Phá Thiên sợ xám mặt lại, liền cười lạnh nói: “Hai chúng ta tự ý dấn thân vào chỗ chết, chẳng muốn lôi theo một người nữa làm chi. Ngươi hãy ngoan ngoãn nghe lời ta quay về đi. Nếu chuyến này mà chúng ta không chết, thì mười năm sau lại được trùng phùng.”

Thạch Phá Thiên xua tay nói: “Hai vị ca ca có thêm một tay phụ lực há chẳng tốt hơn ư? Chúng ta ít người không địch nổi số đông, nếu gặp nguy cấp thì cứ chạy trốn, đâu có nhất định phải chết?”

Lý Tứ chau mày nói: “Đánh thua bỏ chạy thì đâu phải là anh hùng hảo hán? Hay nhất là ngươi đừng đi theo để làm mất mặt chúng ta.”

Thạch Phá Thiên nói: “Được! Nếu vậy thì tiểu đệ không bỏ chạy là xong.”

Trương Tam, Lý Tứ không còn cách nào bỏ rơi Thạch Phá Thiên được, đành nhìn nhau gượng cười rồi cất bước. Trong lòng chúng vẫn nghĩ: “Thì ra thằng ngốc này cũng rất có nghĩa khí, chịu dấn thân vào chỗ nguy hiểm, còn hơn rất nhiều anh hùng hào kiệt đã thành danh trong võ lâm”.

Chẳng mấy chốc, ba người đã đi đến xóm chài.

Hồi 12: Hai tấm bài đồng

Thạch Phá Thiên không thấy chiếc thuyền đầy xác chết đâu nữa, trong xóm chài cũng yên lặng như tờ không một bóng người. Chàng cứ đi một bước, tim lại thót một cái, sắc mặt cũng trắng bệch hẳn, lẩm nhẩm tự trấn an: “Chắc là họ đã trốn hết rồi, nên không phát hiện ra chúng ta”.

Trương Tam, Lý Tứ đưa mắt ngắm nghía địa hình xung quanh, rồi đi đến trước một căn nhà lá nhỏ. Trương Tam đưa tay ra đẩy cửa, rồi đi thẳng vào bếp. Gã lại đảo mắt nhìn quanh một lượt, suy nghĩ một chút rồi ôm lấy một cái lu lớn đựng đầy nước xoay qua một bên. Dưới đáy lu lộ ra một vòng sắt lớn. Lý Tứ nắm lấy vòng sắt kéo mạnh một cái. Bỗng nghe tiếng lách cách, một tấm thiết bản bỗng dời qua, để lộ ra một cái cửa lớn.

Trương Tam nhảy xuống trước, Lý Tứ nhảy theo sau. Thạch Phá Thiên thấy chuyện ly kỳ bí hiểm bèn tắc lưỡi. Chàng biết chắc đây là nơi ẩn thân của bọn người hung dữ Thiết Xoa Hội, bèn mở miệng khuyên: “Hai vị ca ca, không thể xuống đó được.” Nhưng câu nói còn chưa dứt thì Trương Tam, Lý Tứ đã không thấy bóng đâu nữa, chàng chỉ còn cách lấy hết can đảm nhảy xuống theo.

Phía trước là một con đường mòn, Thạch Phá Thiên bước theo sau hai người một cách cẩn thận, mới vài bước đã nghe có tiếng người quát hỏi: “Ai đó?” Tiếp theo có tiếng gió rít lên, hai thanh thiết xoa sáng loáng đâm thẳng tới Trương Tam. Trương Tam vung hai tay ra vỗ lên cán thiết xoa. Gã vận nội lực mà chấn động, hai người cầm xoa bên trong lộn đi một vòng, lăn xuống đất mà chết.

Trên tường con đường hầm đó có đặt những cây đèn sáp rất lớn. Cứ đi được vài trượng lại có một khúc quanh, mỗi khúc quanh lại có hai gã hán tử canh giữ. Cứ mỗi lần Trương Tam vung tay một cái là hai gã cầm thiết xoa lại mất mạng. Gã ra tay cực kỳ thần tốc chuẩn xác, nhanh chóng điêu luyện, chưa phải xuất đến hai chiêu.

Thạch Phá Thiên há hốc mồm ra, không ngậm lại được. Chàng nghĩ bụng: “Không hiểu Trương đại ca sử dụng pháp thuật gì. Nếu đó là võ công, thì so với Đinh Bất Tam, Đinh Bất Tứ gia gia hay Bạch đại hiệp, đại ca mình còn lợi hại hơn nhiều.”

Giữa lúc chàng đang phân vân chưa quyết, bỗng nghe tiếng huyên náo, một số đông người từ phía trong đường hầm xông ra. Trương Tam, Lý Tứ vẫn từ từ từng bước, tiến về phía trước. Bọn người xông tới đột nhiên đứng lại, nét mặt người nào cũng lộ vẻ kinh hãi sợ sệt. Trương Tam hỏi: “Tổng đà chúa hiện có ở đây không?”

Một người thân hình cao lớn rẽ đám đông tiến ra, chắp tay nói: “Tại hạ là Uông Đắc Thắng, thủ lĩnh của Thiết Xoa Hội nhỏ xíu này. Đại giá hai vị giáng lâm, bọn tiểu nhân không kịp nghênh tiếp thật là đắc tội. Xin mời hai vị vào đại sảnh dùng mấy chén rượu nhạt tẩy trần. À! Đây lại còn một vị khách quý nữa. Xin mời cả ba vị vào trong.”

Trương Tam, Lý Tứ gật đầu. Thạch Phá Thiên thấy cảnh sắc xung quanh rất kỳ lạ, chàng thầm nghĩ: “Trong đường hầm vừa rồi, Trương đại ca đã giết một lúc mười hai tên tráng hán của Thiết Xoa Hội, dĩ nhiên bọn họ chẳng chịu bỏ qua.” Lòng chàng cực kỳ hồi hộp, chỉ muốn quay lưng chạy trốn. Nhưng chàng thấy Trương Tam, Lý Tứ vẫn thản nhiên chẳng để ý gì, tiếp tục rảo bước tiến về phía trước. Chàng cũng chẳng thể nào một mình lùi ra, đành bấm bụng đi theo, không giữ nổi cho toàn thân không run rẩy.

Tổng đà chủ Uông Đắc Thắng của Thiết Xoa Hội ở phía trước cung kính đi trước dẫn đường. Hai bên đường hầm có rất đông người trong Thiết Xoa Hội xếp hàng, người nào tay cũng cầm thiết xoa. Mũi xoa sắc nhọn dị thường, lập lòe ánh sáng. Trương Tam, Lý Tứ cùng Thạch Phá Thiên đi vào giữa hai hàng môn hạ Thiết Xoa Hội.

Qua mấy khúc quanh nữa, trước mặt đột nhiên sáng lòa, ba người đã đến trước tòa đại sảnh. Trên tường hai bên sảnh đường cắm rất nhiều đèn đuốc, sáng trưng như ban ngày. Chung quanh sảnh đường cũng đầy những hán tử tay cầm thiết xoa, thỉnh thoảng Thạch Phá Thiên cũng chạm phải mục quang mấy người. Mắt họ lộ vẻ hung dữ khiến chàng vội quay đi không dám nhìn tiếp.

Uông Đắc Thắng nghiêm trang mời Trường Tam, Lý Tứ ngồi lên trên. Hai gã Trương Lý cũng chẳng khiêm nhường gì, đi thẳng vào chỗ rồi ngồi xuống. Trương Tam cười, trỏ chiếc ghế bên mình nói: “Tiểu huynh đệ! Tiểu đệ ngồi xuống đây đi!”

Thạch Phá Thiên vâng lời ngồi xuống ghế. Sau đó, Uông Đắc Thắng mới ngồi vào chủ vị để tiếp khách. Lát sau, mấy gã hán tử mình mặc áo xanh không đeo binh khí bưng rượu thịt lên. Trương Tam, Lý Tứ cùng rung tay trái một cái, trong tay áo bào mỗi gã bắn ra một vật, rớt xuống trước mặt Uông Đắc Thắng nghe chát một tiếng. Đây là hai tấm bài đồng, chìm xuống mặt bàn rất tề chỉnh, tựa như do bàn tay thợ khéo khảm vào.

Một tấm bài đồng thì khắc bộ mặt tươi cười, còn tấm kia khắc bộ mặt giận dữ. Hai tấm bài đồng này giống hệt như hai tấm đã gắn vào cửa khoang thuyền đựng đầy xác chết của bang Phi Ngư. Uông Đắc Thắng vừa ngó thấy hai tấm đồng bài đã sợ xám mặt lại, đứng phắt dậy. Những tiếng xoang xoảng lập tức vang lên, hơn trăm hán tử chung quanh đều rung động thiết xoa. Những vòng sắt trên thiết xoa vang lên những tiếng chói tai, người nào cũng tiến ra một bước.

Thạch Phá Thiên la lên: “Úi chà!” Chàng rất muốn đứng dậy chạy ra ngoài, trong lòng nghĩ: “Cái sảnh đường này lại chìm trong lòng đất, thật là khó thoát thân.” Chàng đưa mắt nhìn Trương Tam, Lý Tứ, thì thấy một gã cười hì hì, một gã vẻ mặt lầm lì không lộ vẻ gì. Thạch Phá Thiên không còn làm gì được, chỉ còn cách ngồi xuống.

Uông Đắc Thắng cất giọng thản nhiên nói: “Đã là như vậy, còn gì để nói nữa?”

Trương Tam mỉm cười nói: “Uông tổng đà chủ! Ông là truyền nhân duy nhất của Phục Hổ Môn ở Sơn Tây, công phu Song Đoản Xoa trên thế gian chỉ có một mình ông biết sử dụng. Chúng ta đến đây là để mời ông đến Hiệp Khách Đảo dùng một chén cháo lạp bát, chứ không có ý gì khác. Tổng đà chúa bất tất phải đa nghi.”

Uông Đắc Thắng ngần ngừ một lúc rồi vỗ tay xuống bàn đánh chát một tiếng, hai tấm bài đồng bắn lên. Hắn giơ tay ra đón lấy cất vào trong bọc rồi nói: “Họ Uông này nhất định sẽ tới.”

Trương Tam giơ ngón tay cái lên nói: “Đa tạ Uông tổng đà chúa! Như vậy là anh em ta chẳng đến nỗi trở về tay không.”

Trong đám đông bỗng có tiếng người la lên: “Uông tổng đà chúa là thủ lĩnh của chúng ta. Đại đa số huynh đệ của Thiết Xoa Hội đã kết nghĩa sinh tử, không thể để tổng đà chúa mất mạng một mình vì tất cả anh em.” Thạch Phá Thiên vừa nghe thanh âm đã nhận ra ngay đó là “Hồ đại ca”, gã đã giết hai người trong khoang thuyền lúc trước. Chàng biết gã là người hung dữ xảo trá, bất giác sinh lòng khiếp sợ, trống ngực đánh thình thình.

Uông Đắc Thắng nhăn nhó cười nói: “Đi càng nhiều thì mất mạng càng lắm, phỏng có ích gì? Ý ta đã quyết, Hồ huynh đệ đừng nói nhiều nữa”. Nói xong hắn cầm hồ rượu rót mời Trương Tam, nhưng tay run bần bật làm vãi rượu ra cả mặt bàn.

Trương Tam mỉm cười nói: “Ta thường nghe nói Uông tổng đà chúa nổi tiếng anh hùng, giết người không gớm tay, sao hôm nay lại ra chiều hoảng hốt như vậy?” Gã nói xong, nâng chén rượu lên toan uống thì đột nhiên nghe có tiếng loảng xoảng, chén rượu rớt xuống đất vỡ tan tành. Sau đó gã nghiêng người đi gục xuống ghế.

Thạch Phá Thiên kinh hãi gọi: “Đại ca! Đại ca làm sao thế?” Chàng lại quay sang hỏi Lý Tứ: “Nhị ca! Huynh ấy… huynh ấy…” Chàng chưa dứt lời, người Lý Tứ cũng từ từ tụt xuống gầm bàn. Thạch Phá Thiên kinh hãi vô cùng, chân tay luống cuống.

Lúc đầu Uông Đắc Thắng còn cho là Trương Tam, Lý Tứ cố ý đóng kịch, nhưng hắn nhìn kỹ thấy Trương Tam mặt đỏ như máu, thở hồng hộc, còn Lý Tứ hai mắt trắng dã, nét mặt xám đen, hiển nhiên đều đã trúng phải kịch độc. Uông Đắc Thắng cả mừng nhưng cũng chưa dám hành động ngay. Hắn giả vờ hỏi: “Hai vị làm sao rồi?”

Chỉ thấy Lý Tứ nằm co quắp dưới gầm bàn, bắt đầu co giật. Thạch Phá Thiên kinh hãi vô cùng, vội đưa tay ra nâng Lý Tứ dậy hỏi: “Nhị ca! Huynh… huynh… trong người khó chịu hay sao?” Chàng có biết đâu vừa rồi Trương Tam, Lý Tứ uống rượu với mình là thứ rượu có chất kịch độc, mỗi người đã uống đến tám chín hớp. Với công lực của họ, nếu chỉ uống ba hớp rồi vận nội lực đề kháng ngay thì không hại gì lắm. Nhưng hai gã uống liền bảy tám hớp vào trong bụng thì lại quá nhiều. Lúc đó hai gã còn miễn cưỡng chống chọi được, lại tự khen công lực của mình lúc này tăng tiến, nên uống nhiều rượu độc như vậy mà ruột không bị quặn đau.

Họ không biết đó là do đã uống thuốc giải phòng ngừa. Thuốc giải này chỉ có thể giữ cho chất độc tạm thời không phát tác ra, chờ nội lực phát huy hóa giải dần dần rượu thuốc để tăng cường nội lực, chỉ có công hiệu trấn áp chứ không có công hiệu giải độc. Nếu không thì uống thuốc giải thì sẽ làm mất đi dược tính của loại rượu thuốc quý như thế này, há chẳng đáng tiếc hay sao? Lúc hai gã chạy nhanh, chất độc trong rượu đồng thời phát tác, biến cố lúc này thật sự là ở ngoài dự định.

Lúc nãy Trương Tam, Lý Tứ thấy trong bụng đau kịch liệt, toàn thân tê liệt. Hai người đều biết tình thế rất là nguy cấp, lập tức vận chân khí của đan điền để cô lập rượu độc trong bụng, mong rằng có thể hóa giải được chút ít, nếu để kịch độc phát ra e rằng trái tim phải ngừng đập ngay. Nhưng chất độc phát tác không sớm không muộn đúng vào lúc này, thật đã giao tính mạng của họ vào tay của người khác. Cho dù họ kiềm chế nổi rượu độc trong bụng, cũng khó mà tránh khỏi động thủ của Thiết Xoa Hội. Hai gã đều nghĩ: “Chúng ta một đời tung hoành thiên hạ, không ngờ hôm nay phải chết tại đây.”

Uông tổng đà chúa của Thiết Xoa Hội cùng bọn Hồ đại ca thấy Trương Tam, Lý Tứ đột nhiên ngã lăn xuống đất, trán toát mồ hôi, da mặt co rúm lại, bộ dạng cực kỳ đau khổ thì hết thảy đều kinh hãi. Mọi người từng bị oai danh hai nhân vật này khủng bố tinh thần, nên tuy thấy cơ hội ngàn năm một thuở mà nhất thời cũng chưa dám vọng động.

Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Đại ca! Nhị ca! Hai vị uống rượu say quá, hay là đột nhiên trở bệnh?” Trương Tam Lý Tứ đều không trả lời, vẫn nửa nằm nửa ngồi, gấp rút vận nội công chống lại chất độc trong bụng. Chỉ trong nháy mắt, trên đầu hai người đều bốc ra những làn khói trắng.

Uông Đắc Thắng thấy trên đầu hai người bốc ra khói trắng liền hiểu ngay, khẽ cất tiếng gọi: “Hồ huynh đệ! Nếu hai vị này không bị tẩu hỏa nhập ma thì cũng bị bạo bệnh đột ngột phát ra. Họ đang gấp rút vận nội công điều trị, các anh em xông vào lẹ đi!”

Hồ đại ca mừng rỡ khôn xiết, nhưng chưa dám xông vào động thủ. Gã cầm lấy một cây Thiết Xoa, vận kình liệng vào Trương Tam nghe vù một tiếng. Trương Tam không còn sức đỡ gạt, chỉ hơi nghiêng người đi một chút. Sột một tiếng vang lên, ngọn thiết xoa đã cắm vào vai hắn, máu tươi bắn ra tung tóe.

Thạch Phá Thiên kinh hãi la lên: “Ngươi… ngươi làm gì vậy? Ngươi dám hai đại ca ta ư?” Bọn Thiết Xoa Hội một là thấy chàng nhỏ tuổi, hai là thấy chàng hoảng sợ tới tay chân bủn rủn, nên chẳng ai coi chàng vào đâu. Chúng thấy Hồ đại ca mới phóng một ngọn Thiết Xoa đã đâm trúng Trương Tam, đối phương không còn sức đỡ gạt mà cũng không tránh được, đều phấn khởi tinh thần.

Bỗng nghe luôn mấy tiếng vun vút, ba ngọn thiết xoa đồng thời nhằm Thạch Phá Thiên phóng tới. Chàng vung tay trái ngang ra, gạt bay mất hai ngọn, còn tay phải chụp lấy ngọn thiết xoa thứ ba. Chàng lạng người đi một cái, đứng chắn phía trước hai gã Trương Tam, Lý Tứ. Đang lúc hỗn loạn, lại năm ngọn thiết xoa nữa phóng tới. Thạch Phá Thiên đã có ngọn thiết xoa trong tay liền vung loạn xạ lên, gạt những cây thiết xoa bay đi chỗ khác. Hai ngọn thiết xoa văng ngược lại, một cây đánh trúng vào đầu một tên hội chúng, một cây đâm thủng bụng một gã khác.

Uông Đắc Thắng thấy nơi này chật hẹp không tiện thi triển thiết xoa, nếu tiếp tục hỗn chiến thế này thì nhiều huynh đệ của mình phải bị thương oan uổng. Hắn liền la lên: “Các anh em dừng tay lại, để ta thu thập tên tiểu tặc này trước rồi sẽ nói chuyện sau.” Dứt lời, hắn đưa hai tay vào dưới ống quần, sờ vào bắp chân một cái rồi lại đứng thắng lên, hai tay đã có thêm một cặp cương xoa rất nhỏ, sáng lấp lánh.

Bọn Thiết Xoa Hội lui hết lại phía sau, đứng tựa vào tường đồng thanh reo hò: “Chúng ta hãy coi tổng đà chúa thu thập tên tiểu tặc này!” Nhà mật thất này ở dưới hầm, thanh âm không truyền ra ngoài được nên nghe rất chói tai.

Uông Đắc Thắng vọt người đi một cái, nhảy đến chỗ Thạch Phá Thiên nhanh như điện chớp. Hai cây cương xoa một trên một dưới chia ra đâm vào tay mặt và sau lưng Thạch Phá Thiên. Chàng không ngờ đối phương tấn công mau lẹ như vậy, la lên một tiếng “úi chà” rồi bước tới một bước, cánh tay mặt và sau lưng đồng thời trúng thiết xoa.

Ngọn thiết xoa chàng cầm trong tay bị rơi xuống đất nghe choang một tiếng. Uông Đắc Thắng thấy võ công đối phương chẳng cao cường gì, cũng yên tâm được vài phần. Miệng hắn hò hét, rồi lại xông vào tấn công như gió táp mưa sa. Cánh tay phải của Thạch Phá Thiên bị thương rất nhẹ, chỗ lưng bị đâm thì đau hơn một chút. Chàng lập tức vừa xông lên trước vừa nghiêng người để tránh né, phóng chưởng ngược lại đánh vào sau lưng đối thủ. Đây là một chiêu mà Đinh Bất Tứ đã dạy chàng.

Uông Đắc Thắng là thủ lĩnh Thiết Xoa Hội, giỏi nhất là công phu tiểu xảo nhảy nhót và đánh giáp lá cà. Hắn thấy Thạch Phá Thiên lúc xuất chiêu tư thế rất khó coi, nhưng khi cất tay cất chân thì kình phong rít lên veo véo, biết chàng nội lực rất lợi hại, trong lòng cũng hơi kiêng nể. Hắn bèn thi triển hết sở học từ trước đến giờ, múa tít cặp cương xoa nhỏ, chiêu nào cũng nhằm đâm vào các huyệt đạo trọng yếu trong người Thạch Phá Thiên.

Trương Tam, Lý Tứ vừa vận nội khí để chống lại chất độc trong bụng, vừa nhìn Thạch Phá Thiên đấu với Uông tổng đà chủ. Họ biết rằng chuyện sống chết của mình hôm nay hoàn toàn quyết định ở chỗ Thạch Phá Thiên có thắng được hay không. Hai người thấy chàng đã bỏ lỡ vô số cơ hội thì cảm thấy vừa tiếc rẻ vừa lo lắng, nhưng lại không dám chú ý quá, sợ nội tức của mình tiêu tan mất.

Thạch Phá Thiên cùng Uông tổng đà chúa chiến đấu một lúc nữa, chân phải của chàng lại bị đâm sượt qua. Chàng la lên một tiếng “úi chà” rồi vung tay phải đánh ra. Uông Đắc Thắng đột nhiên ngửi thấy trong chưởng phong đối phương có mùi hương nồng nặc, rồi đầu óc hắn choáng váng, tức thì ngã lăn xuống đất.

Thạch Phá Thiên kinh ngạc đến ngẩn ra, nhảy lùi lại phía sau. Gã họ Hồ lập tức nhảy tới thì thấy mặt Uông Đắc Thắng tím đen lại, hiển nhiên trúng phải chất kịch độc. Gã để tay lên mũi họ Uông thì không thấy hơi thở nữa, thì ra đã tuyệt khí chết rồi. Hồ đại ca vừa kinh hãi vừa giận dữ gầm lên: “Thạch tiểu tử kia! Ngươi dám dùng chất độc để hại người, ta phải liều mạng với ngươi… Các anh em xông cả vào đi! Tổng đà chúa đã bị thằng giặc con này ám toán chết rồi”

Bọn hội chúng của Thiết Xoa Hội la ó om sòm, đồng thời vung thiết xoa lên lăn xả vào Thạch Phá Thiên. Chàng cứ đứng chắn trước người Trương Tam, Lý Tứ, không dám tránh ra chỗ khác, chỉ sợ mình dời đi một chút là hai vị nghĩa huynh phải mất mạng ngay dưới mấy chục ngọn thiết xoa. Giữa lúc nguy cấp, chàng đoạt được một ngọn thiết xoa rồi sử dụng Kim Ô đao pháp vung lên đỡ gạt. Nội lực chàng vận vào thiết xoa cực kỳ hùng hậu, ai đụng phải đều bị hất văng đi.

Chỉ trong chớp mắt, mười mấy ngọn thiết xoa đã bị Thạch Phá Thiên gạt rời khỏi tay bắn văng đi. Một tên đứng gần nhất, rớt mất thiết xoa liền nhảy xổ vào, vung hai tay lên xòe ngón ra nhằm chụp xuống mặt Thạch Phá Thiên. Chàng thấy gã khí thế hung hãn liền vung tay trái lên gạt nghe “chát” một tiếng! Mười đầu ngón tay gã này vang lên những tiếng lắc cắc, hình như đã gãy hết, người thì lăn xuống dưới đất nằm bất động. Đang lúc hỗn chiến, không ai rảnh rỗi mà xem kỹ gã còn sống hay chết rồi.

Bảy tám tên khác sấn gần vào tấn công Thạch Phá Thiên, kẻ cầm thiết xoa người dùng tay không. Thạch Phá Thiên vẫn không dám lùi lại một bước, hễ thấy ai nhảy xổ tới gần là tung chưởng đánh ra. Không hiểu vì lẽ gì mà mỗi phát chưởng là đối phương lập tức ngã xuống, thật là hiệu nghiệm như thần.

Thạch Phá Thiên đánh ngã được sáu tên, bỗng nghe một tên la lớn: “Độc chưởng của thằng lỏi này ghê gớm vô cùng, các anh em phải cẩn thận!”

Lại có người kêu: “Vương tam ca, Tôn lão lục đều trúng độc chưởng mà chết rồi! Anh em cẩn…” Gã này nói chưa dứt lời đã ngã lăn xuống đất nghe huỵch một tiếng, ngọn thiết xoa cầm trên tay vập mạnh vào mặt. Hiển nhiên gã chưa trúng phải chưởng lực của Thạch Phá Thiên mà cũng trúng độc chết liền.

Bọn hội chúng Thiết Xoa Hội trong đại sảnh đều rất hoảng hốt, tên nào cũng lộ vẻ khủng khiếp đến cùng cực, cứ lùi dần từng bước ra sau. Bỗng những tiếng “binh binh”, “huỵch huỵch” nổi lên không ngớt, người nọ tiếp theo người kia ngã lăn ra. Có kẻ xoay mình muốn chạy trốn, nhưng chỉ chạy được một hai bước rồi cũng ngã ra. Chỉ trong khoảnh khắc, trong đại sảnh có đến hơn trăm tên tráng hán nằm ngổn ngang dưới đất, chỉ còn bốn tên công lực cao nhất còn đứng vững được, vừa đưa tay lên bịt miệng vừa chạy bán sống bán chết ra ngoài. Nhưng vừa chạy tới cửa nhà đại sảnh, cả bốn gã đồng thời lăn ra chết nốt.

Thạch Phá Thiên thấy tình trạng này mà cực kỳ kinh hãi, mắt trợn ngược lên, miệng há hốc ra. So với hôm trước chàng nhảy lầm xuống thuyền xác chết ở đảo Tử Yên, thì lần này còn khủng khiếp gấp mười lần. Hôm trước những xác chết trong thuyền đó là bang chúng bang Phi Ngư đã chết từ trước, còn lần này vô số hội chúng Thiết Xoa Hội đang khỏe mạnh bỗng chết lăn ra trước mắt chàng, thật không hiểu trúng độc hay bị tà ma hãm hại mà chết.

Thạch Phá Thiên sực nhớ tới bọn chúng đã kêu la độc chưởng của mình lợi hại, liền đưa bàn tay lên xem thì thấy trong hai lòng bàn tay đều có một vừng mây đỏ hồng như máu, bên cạnh vừng mây đỏ lại có vô số vết màu lam rất đẹp. Lúc chàng kết bái huynh đệ cùng Trương Tam và Lý Tứ, trong lòng bàn tay đã có những vết xanh đỏ này nhưng rất nhỏ, không hiểu đã lớn như thế này từ bao giờ. Nhưng chàng xem một lúc thì không khỏi buồn nôn, vì nhận ra lòng bàn tay mình trông như lưng con rết độc, lại còn ngửi thấy một mùi kỳ lạ, nửa như thơm tho, nửa như tanh tưởi.

Thạch Phá Thiên quay lại ngó Trương Tam, Lý Tứ thì thấy hai người thần sắc đã bình ổn hơn, khói trắng trên đầu mỗi lúc một dày đặc thêm. Trên vai Trương Tam vẫn còn ngọn thiết xoa cắm vào. Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Ta hãy nhổ ngọn thiết xoa cho đại ca đã rồi sẽ tính.” Chàng liền nắm lấy ngọn thiết xoa từ từ giật ra, một tia máu tươi cũng vọt ra theo. Thạch Phá Thiên vội bịt lấy, rồi xé vạt áo buộc vết thương lại.

Chàng bỗng nghe Trương Tam hít một hơi chân khí rất sâu, chậm chạp lắp bắp: “Ngươi… nghe… ta… nói… theo lời của ta… lời ta…” Gã nói đã nhát gừng mà thanh âm lại rất nhỏ, hết sức khó nghe. Nguyên Trương Tam trúng độc cũng tương tự như Lý Tứ, nhưng vì vết thương trên vai chảy máu nhiều nên chất độc cũng theo ra một ít, nói chuyện được trước.

Thạch Phá Thiên vội gật đầu đáp: “Vâng! Đại ca cứ dặn.”

Trương Tam nói: “Ngươi… tay trái… đặt… vào… lưng… của ta… huyệt… huyệt Linh Đài”. Gã vừa nói vừa phải điều hòa chân khí, nói hết câu phải mất một lúc lâu. Gã từ từ dạy cho Thạch Phá Thiên cách vận nội lực giúp mình ép chất độc trong cơ thể ra ngoài, khi dạy xong thì đầu toát mồ hôi ướt đẫm, mặt đỏ như sắp ứa máu ra.

Thạch Phá Thiên không dám chần chờ, lập tức theo lời dặn bảo của Trương Tam mà hành động. Chàng cởi áo ngoài của gã ra, đặt tay trái vào huyệt Linh Đài, tay phải vào huyệt Đản Trung, thúc đẩy nội lực vào người gã bằng tay trái, lại vận khí vào tay phải để hút chất độc ra ngoài.

Quả nhiên chẳng bao lâu sau, một luồng nhiệt khí nóng bỏng nhỏ như sợi tơ từ người Trương Tam tiết vào lòng bàn tay phải chàng. Cứ như thế, một chưởng đẩy vào, một chưởng hút ra, chàng đang vận dụng toàn lực thì đột nhiên nghe thấy có tiếng bước chân sột soạt, hơn mười người từ ngoài cửa tiến vào. Bọn người này đều cầm thiết xoa trong tay, dĩ nhiên là hội chúng Thiết Xoa Hội.

Đây là bọn canh giữ bên ngoài, chờ đã lâu mà chẳng nghe động tĩnh gì, bèn tiến vào thám thính. Chúng không ngờ anh em đồng hội đã chết hết, đang kinh hãi vô cùng thì nhìn thấy Thạch Phá Thiên cùng Trương Tam, Lý Tứ ngồi dưới đất, hiển nhiên đều bị nội thương. Chúng đồng thanh hô lên một tiếng rồi cầm thiết xoa nhằm ba người đâm tới.

Thạch Phá Thiên đã toan đứng lên chống cự, không ngờ mười mấy người này xông tới trước mặt chàng còn cách chừng hơn trượng thì đột nhiên lảo đảo như say rượu, rồi tên nào cũng bủn rủn nhào xuống, không kêu được tiếng nào đã chết thẳng cẳng. Thạch Phá Thiên kinh hãi, trống ngực đánh thình thình tưởng như trái tim sắp văng ra miệng. Chàng run giọng nói: “Đại ca… Trong nhà này hình như có ác quỷ… Chúng ta đi nhanh thôi.”

Trương Tam lắc đầu. Lúc này chất độc trong người gã đã tiết ra đến phân nửa, bụng không đau kịch liệt như trước. Gã cố gắng nói: “Ngươi… ngươi dùng thủ pháp vừa rồi làm cho… cho nhị ca…”

Thạch Phá Thiên vâng dạ rồi lại theo phương pháp mà Trương Tam đã truyền thụ để giải độc cho Lý Tứ, nhưng lần này một tia khí mát lạnh tiết ra bàn tay chàng. Sau thời gian chừng ăn xong bừa cơm, chất độc trong người Lý Tứ cũng giảm bớt đi nhiều. Chàng lại quay sang hút chất độc cho Trương Tam.

Chàng cứ lần lượt giải độc cho mỗi gã ba lần, tuy chất độc trong nội thể hai người chưa ra hết sạch, nhưng không có gì đáng ngại nữa. Trương Tam, Lý Tứ cũng muốn giữ lượng thuốc còn lại để giúp cho công lực mạnh lên, chỉ cần từ từ dung hòa là được.

Hai gã đảo mắt nhìn quanh thấy xác chết ngổn ngang, lại nghĩ tới tình cảnh nguy hiểm vừa qua thì không khỏi cảm thấy mình rất may mắn. Họ biết vừa rồi Thạch Phá Thiên giải độc cho mình, lại hút không ít chất độc vào bàn tay, chỉ sợ có gì nguy hiểm thì phải tìm phương pháp giải độc cho chàng. Nhưng cử chỉ Thạch Phá Thiên vẫn bình thường chẳng có chi khác lạ, không có vẻ gì là trúng độc. Hai gã không hiểu nổi chàng thiếu niên này đã uống được thứ linh chi tiên thảo gì mà không sợ ngay cả chất độc ghê gớm như vậy, nhưng vừa mừng cho chàng lại vừa âm thầm cảm kích.

Ta nên biết rằng mình Thạch Phá Thiên uống hết quá nửa hai bầu rượu độc, còn Trương Tam, Lý Tứ hai người uống không tới một nửa. Hiện giờ có đến bảy tám phần mười chất độc đã xâm nhập vào cơ thể chàng. Bọn Thiết Xoa Hội sở dĩ gặp phải chưởng phong của chàng liền chết ngay, là bởi chất kịch độc trong người chàng tiết ra ngoài, về sau chất độc lan ra cả sảnh đường, người nào hít phải là mất mạng ngay. Nhưng việc này không dễ giải thích, chàng đã không hỏi thì bọn họ cũng không nhắc lại làm chi.

Trương Tam nói: “Nhị đệ! Tam đệ! Chúng ta đi thôi!” Rồi gã đứng lên đi trước, Lý Tứ cùng Thạch Phá Thiên theo sau. Ba người ra đến bên ngoài đường hầm, bỗng nhìn thấy mấy chục người đứng lấp ló xung quanh, người nào tay cũng cầm thiết xoa.

Bọn này thấy ba người đi ra liền la lên một tiếng rồi kéo lại vây quanh. Một tên quát hỏi: “Tổng đà chúa đâu? Sao chưa ra đây?”

Trương Tam mỉm cười đáp: “Tổng đà chúa còn ở trong đó.”

Người đó lại hỏi: “Thế sao các ngươi lại ra trước?”

Trương Tam lại mỉm cười đáp: “Cái đó thì chính ta cũng không rõ. Các ngươi tự vào đó mà xem thử.” Rồi gã vươn tay nắm lấy ngực tên này, liệng vào trong đường hầm. Bọn kia thấy thế kinh hãi la hoảng, vung thiết xoa phóng tới Trương Tam. Trương Tam không né tránh, lại vươn hai tay ra nắm lấy hai người khác liệng về phía sau.

Thạch Phá Thiên đứng bên cạnh, thấy Trương Tam chỉ thò tay ra đã chộp trúng người rồi ném đi, bất kể đối phương tránh né như thế nào cũng không thoát khỏi. Chàng càng nhìn càng kinh ngạc, nghĩ thầm: “Thì ra võ công đại ca cao cường đến thế. Trước nay mình chưa thấy cao thủ nào hơn được huynh ấy.”

Lý Tứ vẫn đứng chắp hai tay sau lưng, không thèm tiến ra trợ giúp. Trương Tam liệng hết người này đến người kia, lại chọn bắt những người xa nhất trước, thành ra bức bách cả toán phải tiến lại phía cửa đường hầm. Có người la lên: “Trốn đi thôi!” rồi chạy thẳng vào đường hầm. Cả bọn chẳng nghĩ ngợi gì nữa, cũng chạy ùa theo.

Thạch Phá Thiên vội kêu lên: “Trong ấy nguy hiểm lắm! Không thể vào được!” Nhưng bọn kia đời nào chịu nghe lời chàng?

Trong lòng Thạch Phá Thiên nảy sinh ra nhiều mối nghi ngờ. Chàng tự hỏi: “Tại sao bọn Thiết Xoa Hội người nào cũng đột nhiên ngã lăn ra chết? Tại sao đại ca cùng nhị ca lại bị trúng độc đau bụng một cách đột ngột? Tại sao đại ca lại xua bọn người này vào trong đường hầm?” Mấy nghi vấn này, chàng không biết nên hỏi vấn đề nào trước. Chàng đành cất tiếng gọi: “Đại ca, nhị ca…”

Thạch Phá Thiên chưa dứt lời, bỗng nghe Trương Tam hỏi: “Ái chà! Bên kia có ai tới đó?”

Thạch Phá Thiên ngoảnh mặt lại nhìn, chẳng thấy bóng một người nào, liền hỏi lại: “Có ai đến đâu?”

Không thấy Trương Tam trả lời, chàng quay người lại thì không khỏi giật mình kinh hãi. Trương Tam, Lý Tứ đều mất dạng, tưởng chừng như đã ẩn thân trốn ở đâu đó. Thạch Phá Thiên kinh hãi lớn tiếng gọi: “Đại ca! Nhị ca! Hai vị đâu rồi?” Chàng gọi luôn mấy câu vẫn không thấy tiếng người đáp lại.

Xóm chài này toàn là nhà tranh vách đất, Thạch Phá Thiên chạy xộc vào bảy tám nhà tìm kiếm, nhưng nhà nào cũng không có một bóng người. Lúc này mặt trời mới mọc, ánh dương quang rọi tỏ khắp nơi, cả thôn xóm vắng ngắt, chỉ còn lại một mình chàng.

Thạch Phá Thiên nhớ tới cảnh tượng rất nhiều người bị thảm tử dưới đường hầm thì trong lòng lại kinh hãi. Chàng la lên một tiếng rồi ù té chạy ra ngoài.

Thạch Phá Thiên chạy được hơn mười dặm mới bước chầm chậm lại. Chàng đưa lòng bàn tay lên xem thì áng mây hồng cùng những vân xanh biếc đã mất đi đến quá nửa, không ghê gớm như lúc nãy nữa, nên cũng yên tâm được mấy phần.

Chàng chưa biết, khi mình không vận kình vào bàn tay thì chất độc lại theo kinh mạch từ từ chạy trở vào nội thể. Về sau, hằng ngày chàng hành công luyện khí, chất kịch độc cũng tiêu tan dần, công lực cũng nhờ đó mà gia tăng. Phải mất bảy lần bảy là bốn mươi chín ngày, chất độc mới được hóa giải hết.

* * *

Thạch Phá Thiên cứ thuận đường mà đi, chẳng để ý gì đến phương hướng. Chàng đi chừng nửa ngày lại đến bờ sông Trường Giang, bèn tiếp tục theo đường lớn ven sông đi xuống hạ lưu. Vào khoảng giữa trưa Thạch Phá Thiên tới một thị trấn nhỏ, chàng mua mì ăn qua loa rồi lại đi về hướng Đông. Lúc này chàng không có gì phải lo lắng, cứ tùy ý mà cất bước.

Trời đã xế chiều, trước mắt chàng hiện ra một khu rừng, trong rừng ẩn hiện một bức tường màu vàng. Đó là một tòa miếu viện của đạo giáo rất rộng rãi. Từ ngoài cổng đi vào là một con đường lớn và bằng phẳng, lát những phiến đá xanh. Từ trong cửa có hai đạo nhân đội mũ vàng lưng đeo trường kiếm đi ra, vừa thấy Thạch Phá Thiên liền rảo bước tới gần.

Một đạo nhân đứng tuổi hỏi trống không: “Làm gì đó?” Y thấy Thạch Phá Thiên còn nhỏ tuổi, áo quần dơ dáy, quê mùa cục mịch, không có vẻ hào hoa phong nhã, nên lời nói không lịch sự chút nào.

Thạch Phá Thiên chẳng lấy thế làm khó chịu, mỉm cười đáp: “Tại hạ thuận chân đi tới đây chứ không có mục đích gì hết. Đây là chùa của hòa thượng phải không? Ta có ít bạc đây, mua gì cùng ăn với các vị được chăng?”

Đạo nhân tức giận nói: “Tiểu tử hỗn láo này chỉ ăn nói bậy bạ. Ngươi xem ta có phải là hòa thượng không? Đây đâu phải là tiệm bán thức ăn, mua bán gì ở đây? Đi nhanh lên! Nếu lại còn đến miếu ta ăn nói càn rỡ nữa, thì ta phải đánh cho què.” Đạo nhân kia ít tuổi hơn, cầm lăm lầm trường kiếm, vẻ mặt hung dữ. Bộ dạng y như chỉ chực vung kiếm ra giết người.

Thạch Phá Thiên nói: “Tại hạ đói bụng lắm rồi, mới hỏi các vị mua chút gì ăn, chứ không phải đến đây tỉ võ. Có lý đâu lại vô cớ đánh chết các vị?” Chàng nói rồi quay lưng đi.

Đạo nhân trẻ tuổi tức giận nói: “Ngươi nói cái gì?” Rồi cất bước rượt theo.

Thạch Phá Thiên vì thành thực chất phác mà nói vậy. Chàng vừa ở trong đại sảnh của bọn Thiết Xoa Hội, vung tay một cái là chết một người, trong lòng hãy còn hối hận vô cùng. Thực tình chàng không muốn động thủ với người khác, thấy đạo nhân trẻ tuổi đang muốn đánh nhau, chàng sợ lại phải giết người một cách vô duyên vô cớ, nên lập tức co giò chạy thẳng vào rừng.

Thạch Phá Thiên trốn sâu vào trong rừng rồi, vẫn còn nghe tiếng hai đạo nhân cười ha hả. Đạo nhân trung niên nói: “Thằng lỏi này vừa hỗn xược vừa nhút nhát, mình mới la một câu đã cúp đuôi chạy mất.”

Thạch Phá Thiên thấy hai đạo nhân không đuổi theo nữa, mà trời cũng đã gần tối, bèn định kiếm mấy trái cây rừng ăn cho đỡ đói. Nhưng trong khu rừng này chỉ toàn là cây thông cây sam, thuộc họ tùng bách không có trái. Thạch Phá Thiên chạy tới một trái núi nhỏ, quay đầu nhìn bốn phía thì vẫn còn trông thấy tòa miếu của bọn đạo nhân kia dựa vào thành núi, trước sau và hai bên có đến mười mấy gian. Ở một gian nhà phía sau khói trắng vẫn bốc lên nghi ngút, chàng chắc họ đang thổi cơm làm thức ăn.

Thạch Phá Thiên căng mắt lên nhìn, thì thấy gần tòa miếu đó còn có mấy nhà khác nữa. Chàng nhìn thấy khói lửa, trong bụng lại càng thấy cồn cào, thầm nghĩ: “Mấy đạo nhân vừa rồi thật là hung dữ, vừa mở miệng đã muốn đánh nhau. Chi bằng ta lẻn vào gian nhà phía sau, có gì cứ lấy trộm mà ăn, khi bỏ đi sẽ để lại chút ít bạc, cũng không bị gọi là tiểu tặc.” Chàng liền vòng quanh khu rừng đi tới phía sau miếu, lần theo tường nhắm đúng nơi có khói bốc lên mà đi. Bỗng chàng thấy cổng sau miếu chỉ khép hờ, liền lạng người một cái tiến vào.

Lúc này trời đã tối mịt. Thạch Phá Thiên vào trong cổng thấy một cái sân rộng. Chàng nghe có tiếng người lao xao xen lẫn với tiếng nồi chảo khua loảng xoảng. Thức ăn trong chảo nóng kêu xèo xèo, mùi thơm ngào ngạt bay ra tận ngoài này. Chàng vào đến trong sân, liền nhận ra khu này là nhà bếp. Thạch Phá Thiên nuốt nước bọt, theo hành lang từ từ đến trước cửa nhà bếp, núp ở một con đường nhỏ tối thui, nghĩ bụng: “Mình hãy chờ xem cơm canh chín rồi họ đem đi đâu đã. Nếu không có ai thì mình lấy trộm một bát thịt rồi chạy đi, như vậy khỏi phải đánh nhau giết người.”

Một lúc sau quả nhiên có ba người từ trong bếp đi ra, toàn là tiểu đạo sĩ. Người đi trước cầm đèn lồng, còn hai người đi sau mỗi người bưng một cái khay. Mùi thơm ở trong khay tỏa ra bốn phía, hiển nhiên đựng đầy những thức ăn ngon. Thạch Phá Thiên không ngớt nuốt nước bọt, lẹ làng cất bước len lén theo sau.

Ba chú tiểu đạo sĩ theo đường hẻm, qua một dãy hành lang, đi vào sảnh đường. Hai chú đặt cơm canh xuống bàn rồi trở gót đi ra. Còn một chú vẫn ở lại xếp đặt bàn ghế cho ngay ngắn, bày đũa chén ra, có ba bàn tất cả.

Thạch Phá Thiên nấp ngoài cửa sổ, ghé mắt nhìn vào trong sảnh đường không chớp. Sau một lúc khá lâu, chú tiểu đạo sĩ lui vào hậu đường. Chàng không chần chờ nữa, lẹ bước chạy vào sảnh đường, chụp ngay lấy một miếng thịt bò trong bát canh nhét vào trong miệng, hai tay lại bẻ lấy chiếc đùi gà luộc. Miếng thịt bò đút vào miệng vừa nuốt xuống bụng, bỗng chàng nghe ngoài cửa sổ có tiếng người nói: “Sư đệ! Sư muội! Xin mời qua bên này.” Rồi có tiếng bước chân vang dội, mấy người đang đi đến sảnh đường.

Thạch Phá Thiên thầm la: “Hỏng bét!”. Chàng cầm chiếc đùi gà trên tay, trong lúc gấp rút vẫn còn lấy một thỏi bạc đặt trên bàn rồi toan chạy vào sau hậu đường. Nhưng chàng lại nghe thấy tiếng bước chân từ hậu đường đi ra, đưa mắt nhìn quanh sảnh đường một lượt thì thấy trống rỗng không có chỗ nào ấn nấp được. Chàng không nén nổi, thầm kêu khổ: “Chẳng lẽ lại phải đánh nhau ư?”

Thạch Phá Thiên nghe thấy mấy người kia đã đi đến cửa, nhớ lại cảnh bọn Thiết Xoa Hội thảm tử dưới đường hầm mà ghê rợn. Chàng vẫn nghĩ là không chừng có yêu ma quỷ quái ám hại, chưa chắc là họ đã chết về tay mình, nhưng trong lòng vẫn thầm sợ hãi nên không dám thử lần nữa một cách khinh suất. Trước tình thế cấp bách, chàng đưa mắt nhìn lên xà nhà thì thấy trên tường treo một tấm biển lớn. Chàng không kịp nghĩ nhiều, tung mình nhảy vọt lên kèo nhà, chui vào sau tấm biển, ngả người nằm xuống vừa đủ che mình, động tác chỉ trong nháy mắt.

Thạch Phá Thiên vừa nấp sau tấm biển thì cửa sảnh đường mở ra, mấy người tiến vào. Bỗng chàng nghe có tiếng người nói: “Chúng ta là chỗ sư huynh sư đệ, thế mà sư ca cứ làm như khách khứa, bày đặt thết tiệc linh đình làm chi.” Thạch Phá Thiên nghe thanh âm rất quen thuộc, bèn ghé mắt vào khe hở bức hoành phi nhìn xuống, thì thấy bên dưới có đến mười mấy đạo nhân đang mời hai người khách một nam một nữ vào chỗ ngồi. Hai người này chính là vợ chồng Thạch trang chúa ở Huyền Tố Trang. Thạch Phá Thiên vốn rất cảm kích hai vị này, nhất là Thạch phu nhân Mẫn Nhu. Ngày trước bà đã có ơn tặng bạc và dạy chàng kiếm pháp, chàng vừa nhìn thấy bà ta đã cảm thấy ấm áp trong lòng.

Một vị lão đạo sĩ râu tóc bạc phơ lên tiếng: “Sư đệ sư muội từ xa tới đây, ngu huynh mừng rỡ khôn xiết. Đây chỉ là chén rượu nhạt tẩy trần, sao lại dùng đến hai chữ yến tiệc?” Đột nhiên lão ngó thấy trên bàn nước canh rơi vãi tung tóe, một bát lớn chỉ còn lại ít nước, còn đùi gà hay giò heo trong đó đã không cánh mà bay, cạnh đó lại có một thỏi bạc, thật sự không biết nói gì.

Lão đạo sĩ chau mày nghĩ thầm: “Bọn tiểu đạo sĩ sao lại sơ suất thế này? Chúng không chịu trông coi, để mèo nhảy vào ăn vụng hết cả.” Nhưng trước mặt quý khách, lão không tiện đem chuyện nhỏ mọn mà trách mắng thuộc hạ. Giữa lúc ấy lại có một chú tiểu đạo sĩ bưng thức ăn lên. Mọi người nhìn vào bát canh kia đều không khỏi khó chịu, bèn vội thu dọn lại, không ai nói năng gì cả.

Lão đạo sĩ trịnh trọng mời vợ chồng Thạch Thanh ngồi vào thủ tọa. Lão ngồi cạnh đó, rồi nhẹ nhàng phẩy tay áo bào úp lên thỏi bạc, khi tay áo rời khỏi bàn thì thỏi bạc cũng không còn ở đó nữa. Khoảng giữa có một bàn riêng cho ba đạo nhân đứng tuổi. Ngoài ra còn hơn hai mươi đạo nhân ngồi ở bàn ngoài.

* * *

Rượu đã ba tuần, lão đạo sĩ mới nói: “Tám năm trời không gặp, mà sư đệ cùng sư muội còn ra vẻ phong lưu hơn ngày trước. Chỉ có ngu huynh là đã già nua tuổi tác, sức lực hao mòn.”

Thạch Thanh đáp: “Sư ca tuy râu tóc hơi bạc một chút, song tinh thần vẫn còn tráng kiện lắm.”

Lão đạo sĩ nói: “Cái gì mà bạc một chút? Trong lòng ngu huynh lo nghĩ muôn phần, một đêm cũng đủ bạc hết đầu. Giả tỉ sư muội sư đệ đến trước đây ba ngày, thì râu tóc ngu huynh mới hoa râm mà thôi.”

Thạch Thanh hỏi: “Phải chăng sư huynh lo lắng về vụ hai vị sứ giả Thưởng Thiện, Phạt Ác?”

Lão đạo sĩ buông một tiếng thở dài rồi đáp: “Ngoài việc này ra, trong thiên hạ không còn việc thứ hai có thể khiến cho Thiên Hư đạo nhân Thượng Thanh Quán này chỉ trong vài ngày đã già đi hai mươi tuổi.”

Thạch Thanh nói: “Vợ chồng tiểu đệ đang ở Hồ Sào, nghe tin hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác tái xuất giang hồ, võ lâm lại gặp phải một cơn kiếp nạn, liền đi suốt đêm đến đây, chỉ muốn chưởng môn sư ca và các vị sư huynh đệ thương nghị một phương sách hoàn thiện. Thượng Thanh Quán chúng ta gần mười năm nay rất nổi tiếng trong giang hồ. Cây cao hứng gió mạnh, thuyền to chịu sóng lớn, hai sứ giả Thiện Ác này không chừng sẽ chiếu cố đến chúng ta. Vợ chồng tiểu đệ muốn ở lại một vài tháng, giả tỉ hai vị ấy có tới thăm thì vợ chồng tiểu đệ tuy chẳng làm nên trò trống gì, nhưng cũng được vì sư môn mà gắng sức liều mình.”

Thiên Hư khẽ thở dài, rồi móc trong bọc ra hai tấm bài đồng, đặt xuống mặt bàn kêu lách cách.

Thạch Phá Thiên ở ngay trên đầu bọn họ nên nhìn thấy rõ mồn một. Hai tấm bài đồng đó một tấm khắc bộ mặt tươi cười, còn một tấm khắc bộ mặt nhăn nhó, y như những tấm bài đồng mà chàng đã thấy qua. Bất giác chàng cũng hơi run rẩy, tự hỏi: “Sao lão đạo nhân này cũng có hai tấm bài đồng?”

Thạch Thanh “ủa” lên một tiếng rồi nói: “Té ra hai vị sứ giả Thiện Ác đã qua đây. Vợ chồng tiểu đệ ngựa không dừng vó, người chẳng nghỉ ngơi mà cũng tới chậm mất rồi. Việc này xảy ra vào hôm nào? Sư ca… sư ca ứng phó với hai vị như thế nào?”

Thiên Hư đạo nhân hãy còn hoang mang chưa kịp trả lời, thì một đạo nhân đứng tuổi ngồi cạnh lão kính cẩn đáp thay: “Vụ này đã xảy ra ba hôm trước đây. Chưởng môn sư ca là bậc đại nhân đại nghĩa, đã nhận lời lên Hiệp Khách Đảo để ăn cháo Lạp Bát.”

Thạch Thanh nhìn thấy hai tấm bài đồng, lại thấy mọi người vô sự thì mười phần đã đoán được bảy tám. Ông đứng lên, xá dài Thiên Hư đạo nhân rồi nói: “Sư ca một mình gánh hết trọng trách, bảo toàn cho toàn thể Thượng Thanh Quán. Tiểu đệ tự cảm thấy rất hổ thẹn, xin đa tạ trước, lại còn có lời thỉnh cầu không biết có nên nói ra hay không, xin sư ca đừng trách.”

Thiên Hư đạo nhân mỉm cười, đáp lễ rồi nói: “Lúc này mọi sự trong thiên hạ đối với ngu huynh chỉ còn như đám mây nổi. Hiền đệ có điều chi sai bảo, ngu huynh cũng cố gắng làm theo.”

Thạch Thanh nói: “Sư ca nói vậy là ưng thuận rồi phải không?”

Thiên Hư nói: “Đương nhiên là ưng thuận. Nhưng chưa hiểu hiền đệ muốn điều chi?”

Thạch Thanh nói: “Tiểu đệ to gan lớn mật, thỉnh cầu sư ca giao phó chức vụ chưởng môn cùng mọi việc trong Thượng Thanh Quán này cho vợ chồng tiểu đệ cùng nhau gánh vác.”

Thạch Thanh vừa nói câu này, tất cả đạo nhân ngồi trong đại sảnh đều thay đổi sắc mặt. Thiên Hư còn đang trầm ngâm chưa kip trả lời thì Thạch Thanh lại nói tiếp: “Sau khi vợ chồng tiểu đệ giữ chức chưởng môn, sẽ lên Hiệp Khách Đảo để ăn cháo Lạp Bát.”

Thiên Hư đạo nhân bật lên tràng cười ha hả, nhưng trong tiếng cười chứa đựng đầy nỗi đau khổ, cặp mắt long lanh ngấn lệ. Lão nói: “Thịnh tình của hiền đệ, ngu huynh đã hiểu. Nhưng ngu huynh giữ chức chưởng môn ở Thượng Thanh Quán này đã mười mấy năm, khắp võ lâm đều biết cả. Thế mà nay gặp lúc gian nguy lại trốn tránh rút lui, thì mặt mũi của Thiên Hư từ nay đem giấu vào đâu được?”

Thiên Hư nói đến đây, đưa tay nắm lấy tay Thạch Thanh rồi tiếp: “Hiền đệ! Hai người chúng ta tuổi tác chênh lệch cũng nhiều, hiền đệ lại là người ngoài cõi tục nên ít được ở gần nhau, nhưng hiền đệ với ta là chỗ thâm giao. Võ công và nhân phẩm của hiền đệ đúng là hạng nhất trong bản môn, trước nay ngu huynh rất lấy làm kính phục. Giả tỉ không có cái hẹn ước ngày mùng tám tháng chạp này, hiền đệ muốn làm chưởng môn bản phái thì ngu huynh lập tức nhường ngay. Song tình thế hôm nay đã khác rồi, ngu huynh không thể nào ưng thuận chuyện này được. Ha ha, ha ha.” Lão chấm dứt câu nói bằng mấy tiếng cười đầy vẻ thê lương.

Thạch Phá Thiên không hiểu cháo Lạp Bát trên Hiệp Khách Đảo đó là thứ gì, nhưng lúc ở Thiết Xoa Hội từng nghe đại ca nói đến. Hôm nay Thiên Hư đạo nhân vừa mới nhắc tới cái hẹn đi ăn cháo Lạp Bát thì thần sắc biến đổi rất nhiều, chẳng lẽ đó là một thứ kịch độc làm mất mạng hay sao?

Bỗng nghe Thiên Hư lại nói: “Hiền đệ! Ngu huynh một đêm lo nghĩ đến bạc đầu, không phải vì chuyện tham sống sợ chết. Năm nay ngu huynh đã sáu mươi hai tuổi, có chết cũng là thọ lắm rồi. Điều mà ta trằn trọc lo nghĩ, là phải tìm phương pháp để cho võ lâm cứ mười năm khỏi một lần kiếp nạn, đồng thời cố duy trì cho uy danh bản phái khỏi bị tan tành, đó mới thật là việc khó. Ba mươi năm qua, Hiệp Khách Đảo đã ba lần mời dự yến tiệc Lạp Bát, anh hùng hào kiệt các môn các phái các bang các hội, đã đi dự hội đó không ai được trở về. Ngu huynh chết đi cũng không có gì đáng tiếc, nhưng chúng ta cũng nên nghĩ một biện pháp nào cho vẹn toàn mới được.”

Thạch Thanh cũng cười ha hả, nâng chung rượu trước mặt lên uống cạn sạch rồi nói: “Sư ca! Vợ chồng tiểu đệ không biết tự lượng sức mà xin sư ca nhường lại ngôi vị, chẳng phải là để thay mặt sư ca đi chịu chết, mà là đi để thám thính cho biết rõ thực hư. Không chừng ông trời che chở, giúp tiểu đệ khám phá ra được chân tướng sự việc cũng nên. Tuy tiểu đệ không dám nói là có thể trừ mối hại lớn cho võ lâm, nhưng nếu tìm ra những bí hiểm bên trong để võ lâm thiên hạ cùng nhau hiệp sức thương lượng, chẳng lẽ không thể địch nổi bọn người trên Hiệp Khách Đảo hay sao?”

Thiên Hư từ từ lắc đầu nói: “Không phải ngu huynh cứ phô trương cái hay cái giỏi của người mà coi thường hiền đệ. Nhưng phương trượng Diệu Đế của chùa Thiếu Lâm, đạo trưởng Ngu Trà của phái Võ Đang, Thanh Không đạo nhân phái Thanh Thành, ai cũng võ công quán thế, mưu trí hơn người, lại đem theo bao nhiêu tay cao thủ xuất chúng, đi rồi cũng mất tích luôn, chẳng một ai trở về. Ôi! Võ công hiền đệ tuy cao thâm nhưng rốt cuộc… rốt cuộc cũng không thể so sánh với những vị cao nhân tiền bối như phương trượng Diệu Đế, đạo trưởng Ngu Trà.”

Thạch Thanh nói: “Về điểm này thì tiểu đệ cũng đã tự biết, nhưng chuyện thành bại thì một nửa trông vào bản lãnh, còn một nửa tùy theo may rủi. Muốn diệt trừ đại họa này thì chắc là không được, nhưng tìm cách dò xét bí mật thì chưa chắc đã hoàn toàn vô vọng.”

Thiên Hư vẫn lắc đầu nói: “Chức chưởng môn Thượng Thanh Quán từ trăm năm nay đều do đạo nhân chấp chưởng. Sau khi ngu huynh chết, đã chỉ định sư đệ Xung Hư lên tiếp nhiệm. Sau này nếu vợ chồng hiền đệ ra sức chống đỡ cho bản phái khỏi suy vong mai một trong giang hồ, thì ngu huynh cũng lấy làm cảm kích lắm rồi.” Thạch Thanh nói tới nói lui mãi mà Thiên Hư vẫn không chịu ưng theo. Mọi người đều dừng chén, quên cả ăn uống.

Thạch Phá Thiên nhè nhẹ xé chiếc đùi gà bỏ vào miệng, sợ nhai thì phát ra tiếng động nên đành cứ thế mà nuốt chửng vào bụng. Cặp mắt chàng vẫn nhìn chằm chằm xuống dưới qua kẽ hở. Chàng thấy Thạch phu nhân Mẫn Nhu vẫn lắng tai nghe trượng phu cùng Thiên Hư nói chuyện mà không xen vào câu nào. Bà từ từ đưa tay ra cầm lấy hai tấm bài đồng, xem một lúc rồi thuận tay toan cho vào bọc. Xung Hư ngồi cạnh la lên: “Sư muội để xuống.”

Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Để muội giữ giúp sư ca thì cũng vậy thôi.”

Xung Hư đạo nhân thấy dùng lời nói không cản trở được bà, bèn đưa tay toan đoạt lấy. Ngay lúc đó Thạch Thanh đưa đũa ra gắp một miếng lươn, dùng cánh tay phải để cản trở Thiên Hư. Thạch phu nhân rút tay lại để tránh né bàn tay của Xung Hư, vẫn nắm miếng bài đồng mà nói: “Cứ để muội giữ cho.” Bà giơ tay trái lên, bốn ngón tay bật vào cổ tay Xung Hư như gảy đàn tì bà. Xung Hư lập tức phóng chỉ tay trái ra, nhằm điểm vào tay mặt Thạch phu nhân, cổ tay phải của Thạch phu nhân nhẹ nhàng uốn đi tránh né, ngón giữa tay trái búng một luồng kình phong vào trước ngực Xung Hư.

Xung Hư đã nhận lệnh của Thiên Hư đạo nhân tiếp nhiệm chức quán chủ Thượng Thanh Quán, sẽ là chưởng môn của mọi đệ tử cả đạo lẫn tục trong phái này. Ông ta biết vợ chồng Thạch Thanh vì nghĩa khí mà muốn đi chịu nạn, hoàn toàn vì lòng tốt. Nhưng hai tấm bài đồng này lại có quan hệ đến tính mạng hết thảy đạo sĩ trong chùa. Thiên Hư đạo nhân đã tiếp nhận đồng bài, nếu để nó lọt vào tay người khác thì toàn thể quán này có thể mất mạng. Vì thế mà Xung Hư chẳng nể nang gì, cố xuất thủ tranh đoạt với Thạch phu nhân. Lão nhìn thấy ngón tay của đối phương điểm đến, tức thì đưa chưởng ra cản trở.

Cả hai người vẫn ngồi yên không rời khỏi chỗ, mà trong chớp mắt đã giao thủ đến bảy tám chiêu. Cả hai cùng học một thầy, đều sử dụng cầm nã thủ pháp của bản môn, tuy không có ý đả thương đối phương, nhưng ra tay cực kỳ mau lẹ. Cự ly chỉ hơn một thước, họ phải dùng toàn lực để đối phó.

Hai người trước kia là bạn đồng song, từng tỉ thí võ công rất nhiều lần. Nhưng từ khi chia tay tới nay đã hơn hai chục năm, trong thời gian này tuy có mấy lần gặp mặt nhau, nhưng chưa động thủ trở lại bao giờ. Lúc này hai người đột nhiên giao thủ, trong lòng đều ngấm ngầm thán phục nhau.

Trên ba bàn tiệc có tổng cộng mười sáu người, đều quan sát cuộc tỉ đấu không chớp mắt. Bọn này đều là cao thủ bản môn, ai cũng biết mười năm nay vợ chồng Thạch Thanh đã lừng lẫy tiếng tăm trên chốn giang hồ. Họ thấy Mẫn Nhu cùng Xung Hư tranh đoạt bài đồng mà vẻ mặt vẫn thản nhiên, hai người đem những tinh hoa về võ công bản phái phát huy đến mức ly kỳ tuyệt diệu, chẳng ai là không tán thưởng.

Mười mấy chiêu đầu hai người ở vào thế quân bình. Nhưng Thạch phu nhân đang cầm hai tấm bài đồng, tay trái chỉ sử được quyền, không thể thi triển hết những phép cầm nã câu trảo tuyệt diệu của bản môn nên uy lực bị giảm đi rất nhiều. Hai bên trao đổi mấy chiêu nữa, Xung Hư vận nội lực vào tay trái đè vào cánh tay trái Thạch phu nhân, còn năm ngón tay bên phải nhằm chụp tới bài đồng.

Thạch phu nhân biết rằng phen này chắc chắn phải để ông ta nắm lấy thẻ bài. Nếu hai người lại vận nội lực tranh đoạt, thì một là có vẻ khó coi, hai là mình dù sao cũng là nữ nhân, nội lực không bằng Xung Hư sư ca. Bà liền buông tay ra cho hai tấm bài đồng rớt xuống, cố ý giao cho trượng phu.

Thạch Thanh đưa tay ra toan chụp lấy thì đột nhiên hai luồng kình phong xô đến trước mặt, chính là Thiên Hư đạo nhân đã đẩy chưởng lực ra. Tuy hai luồng kình phong này không có vẻ bá đạo, nhưng lực đạo rất nặng, nếu không chống đỡ tất bị trọng thương. Giả tỉ lúc này Thạch Thanh đã cầm bài đồng vào tay rồi thì cũng đành để rớt xuống, ông chỉ còn cách phóng chưởng ra đỡ.

Giữa lúc Thạch Thanh chậm tay một chút, người ngồi dưới Thiên Hư là Chiếu Hư đạo nhân đã thò tay ra chụp lấy đồng bài. Bài đồng vừa lọt vào tay Chiếu Hư, vợ chồng Thạch Thanh cùng Thiên Hư, Xung Hư đều nổi lên cười ha hả rồi dừng tay lại.

Xung Hư và Chiếu Hư khom lưng cúi mình thi lễ nói: “Sư đệ, sư muội! Đừng trách nhé!”

Vợ chồng Thạch Thanh đứng lên đáp lễ. Thạch Thanh nói: “Sao hai vị sư huynh lại nói vậy? Chính vợ chồng tiểu đệ mới là người lỗ mãng. Chưởng môn sư huynh nội lực thâm hậu đến như vậy, còn gấp mười lần tiểu đệ. Chuyến đi này dĩ nhiên nguy hiểm, nhưng sư huynh muốn giữ mình rút lui thì chưa hẳn đã là vô vọng.” Thạch Thanh vừa rồi đối chưởng với Thiên Hư, biết ngay nội lực chưởng môn sư huynh còn thâm hậu hơn mình rất nhiều.

Thiên Hư nhăn nhó cười nói: “Ngu huynh chỉ mong được như lời sư đệ. Xin mời, xin mời.” Rồi lão nâng ly uống một hơi cạn sạch.

Thạch Phá Thiên thấy Mẫn Nhu muốn đoạt bài mà không được. Chàng cũng không biết hai tấm bài đồng đó có quan hệ gì, nhưng nhớ Thạch phu nhân đã có nhiều ơn huệ với mình, bèn nghĩ bụng: “Đạo sĩ kia đã đoạt mất bài đồng của phu nhân. Để lát nữa ta sẽ đi đoạt hai tấm đồng bài đó lại cho bà.”

Bỗng thấy Thạch Thanh đứng lên nói: “Rất mong sư ca đi chuyến này được bình yên trở về. Tiểu đệ có thằng con bị người ta bắt đi, bây giờ phải lo đi cứu, phen này không thể đoàn tụ lâu ngày cùng các vị sư huynh sư đệ. Vậy tiểu đệ xin cáo từ.”

Các đạo nhân nghe Thạch Thanh nói vậy đều giật mình. Thiên Hư nói: “Nghe nói lệnh lang của hiền đệ vào làm môn hạ phái Tuyết Sơn. Oai danh của vợ chồng hiền đệ cộng thêm vào thanh thế của phái Tuyết Sơn, vậy mà có kẻ to gan lớn mật dám cướp lệnh lang đem đi ư?”

Thạch Thanh thở dài nói: “Câu chuyện này dài lắm. Đại khái là tiểu đệ bất tài vô đức, không dạy dỗ con đến nơi đến chốn, nên nó đã có những hành động càn rỡ. Tiểu đệ không dám trách ai.” Ông thị phi hết sức phân minh, tuy Huyền Tố Trang của mình đã bị Bạch Vạn Kiếm đốt cháy rụi, nhưng cũng tự biết tai vạ này là do mình gây nên, tuyệt không oán trách phái Tuyết Sơn.

Xung Hư đạo nhân dõng dạc nói: “Sư đệ! Sư muội! Kẻ địch đã cướp lệnh lang của các vị, thì cũng là coi Thượng Thanh Quán chẳng vào đâu. Bất luận hắn là một nhân vật ghê gớm thế nào, dù ngu huynh chẳng được tích sự gì, nhưng cũng quyết giúp hiền đệ một tay.” Y ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Vợ chồng sư đệ đã bị người ta bắt mất con mà vẫn quay về sư môn để chung lo kiếp nạn, đủ thấy tình nghĩa thâm trọng vô cùng. Chẳng lẽ bấy nhiêu đạo sĩ mũi trâu chúng ta lại không có lòng dạ con người hay sao?”

Xung Hư nói vậy, vì y tưởng đối thủ đã chẳng sợ vợ chồng Thạch Thanh, lại coi thường cả phái Tuyết Sơn người nhiều thế mạnh, thì tất phải là một nhân vật vô cùng lợi hại. Y chưa biết người cướp con Thạch Thanh lại chính là nhân vật phái Tuyết Sơn.

Thạch Thanh một là không muốn phô bày chuyện xấu xa của nhà mình, hai là không muốn Thượng Thanh Quán đang lâm đại nạn lại kết oán với phái Tuyết Sơn cho thêm cường địch, bèn nói: “Thịnh tình của các vị sư huynh khiến cho vợ chồng tiểu đệ cảm kích vô cùng. Việc này tạm thời còn chưa rõ ràng, vậy chờ khi tìm ra manh mối, nếu vợ chồng tiểu đệ thế cô không đủ sức, nhất định sẽ về cầu cứu các vị sư huynh sư đệ giúp đỡ một tay.”

Xung Hư nói: “Thế cũng được. Nhưng khi ấy hiền đệ hiền muội bất tất phải thân hành đến, chỉ đưa tin lại thì Thượng Thanh Quán sẽ gửi lực lượng đến mà trợ giúp.”

Vợ chồng Thạch Thanh chắp tay ngỏ lời cảm tạ, nhưng trong bụng lại âm thầm đau khổ vô cùng. Họ cùng nghĩ: “Dù phái Tuyết Sơn có đem con mình ra băm vằm mổ xẻ thì vợ chồng ta cũng phải ráng chịu, quyết chẳng dám đến Thượng Thanh Quán mà xin viện trợ.”

Vợ chồng Thạch Thanh cáo từ ra đi. Bọn Thiên Hư, Xung Hư và toàn thể đạo nhân đều tiễn chân ra ngoài sảnh đường. Thạch Phá Thiên thấy mọi người đi xa rồi, liền chui ra khỏi bức hoành. Chàng xoay mình bám vào xà nhà rồi nhảy xuống mé ngoài tường, bụng bảo dạ: “Thạch trang chúa và Thạch phu nhân nói là có cậu con bị người cướp đi, chẳng hiểu kẻ nào đã hạ thủ? Tấm bài đồng kia chỉ là một món đồ chơi, cướp lại hay không cũng chẳng quan hệ gì. Xem ra sư huynh sư muội của họ rất có tình nghĩa, giành nhau đồng bài chỉ là đùa giỡn mà thôi. Thạch phu nhân đối với mình rất tốt, mình nên giúp bà ta đi tìm kiếm cậu con là hơn. Mình phải đến hỏi bà ấy trước, xem con trai của bà chừng bao nhiêu tuổi, hình dạng thế nào, bị ai cướp đi.”

Nghĩ tới đó, chàng lập tức nhảy vọt lên đứng trên ngọn cây, nhìn về phía đông bắc thấy mười mấy chiếc đèn lồng xếp thành hàng hai. Quần đạo Thượng Thanh Quán đang tiễn chân vợ chồng Thạch Thanh ra khỏi cửa sơn môn. Thạch Phá Thiên nghĩ thầm: “Vợ chồng Thạch trang chúa cưỡi ngựa đi rất mau, vậy mình phải cố gắng đi tắt chặn đầu mới được.” Chàng nhìn rõ đường đi của vợ chồng Thạch Thanh, rồi từ trên cây nhảy xuống, theo sườn núi mà rượt theo.

Chàng chưa chạy ra khỏi cổng Thượng Thanh Quán đã nghe có tiếng người quát: “Ai đó? Đứng lại!” Nguyên lúc Thạch Phá Thiên trốn sau bức hoành, chàng ngừng hơi nín thở nên chẳng phát ra mảy may tiếng động, mọi người trong sảnh đường đều chưa phát giác ra. Nhưng bây giờ chàng chạy nhanh quá, mà quần đạo Thượng Thanh Quán toàn là những tay cao thủ, lập tức biết ngay có người ngoài đến. Ban đầu họ vẫn làm ngơ, chờ cho vợ chồng Thạch Thanh lên ngựa đi xa rồi mới chia nhau chạy đi đón đường.

Trong bóng tối, Thạch Phá Thiên bất thình lình thấy kiếm quang vọt lên, rồi hai đạo nhân chống kiếm đứng chắn trước mặt. Ánh sao lờ mờ chiếu vào lưỡi kiếm lóe lên một chút, Thạch Phá Thiên tinh mắt nhận ra người đứng bên trái chính là Chiếu Hư. Trong bụng mừng thầm, chàng cất tiếng hỏi: “Chiếu Hư đạo chưởng đấy ư?”

Chiếu Hư sửng sốt đáp: “Đúng vậy. Các hạ là ai?”

Thạch Phá Thiên đưa tay phải ra nói: “Đưa hai tấm bài đồng cho tại hạ.”

Chiếu Hư tức giận quát lên: “Ta cho ngươi cái này!” Rồi y vung kiếm lên chém vào chân chàng. Giới luật của Thượng Thanh Quán rất nghiêm ngặt, không được giết càn người vô tội. Hiện y chưa biết rõ lai lịch đối phương như thế nào, tuy Thạch Phá Thiên vừa mở miệng đã đòi đồng bài là phạm vào một điều tối kỵ, nhưng chiêu kiếm này của Chiếu Hư cũng chưa dám đâm vào chỗ trọng yếu trên người Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên né người đi tránh khỏi, đưa tay phải chụp xuống vai đối phương. Chiếu Hư thấy thủ pháp Thạch Phá Thiên rất nhanh nhạy liền vung thanh kiếm chuyển hướng nhằm vào vai phải chàng. Thạch Phá Thiên vội cúi đầu xuống luồn dưới lưỡi kiếm, nhưng sợ lưỡi kiếm hớt vào đầu mình nên bất giác vận khí vào tay phải giơ lên đỡ.

Chiếu Hư bỗng thấy mùi tanh xông thẳng vào mũi, đầu óc choáng váng, lập tức ngã lăn ra đất. Thạch Phá Thiên còn đang đứng ngẩn ngơ thì đạo nhân thứ hai đã phóng kiếm đến sau lưng chàng. Chàng tự biết bàn tay của mình quả là quái dị, cứ động thủ là giết người, không dám vung chưởng ra phản kích nữa, vội nhảy vọt về phía trước. Roạt một tiếng vang lên, vạt áo sau lưng chàng đã bị mũi kiếm của đạo nhân kia quét rách một đường. Y thấy Chiếu Hư hôn mê ngã lăn ra bất tỉnh, không hiểu đối phương đã dùng cách nào để hạ thủ, vì nóng lòng cứu đồng đạo nên vội vã phóng kiếm ra đâm vào Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên nhảy xéo đi để tránh né, trong lúc gấp rút chàng vội lượm lấy thanh trường kiếm của Chiếu Hư đã quăng xuống đất vừa rồi. Chàng thấy kiếm thế của đối phương rất lợi hại, bèn dùng kiếm làm đao để thi triển Kim Ô đao pháp. Nghe choang một tiếng, chàng đã vung kiếm lên gạt lưỡi kiếm của đối phương phóng tới. Nội lực trong tay Thạch Phá Thiên thật là kỳ lạ, đạo nhân không nắm chặt được, thanh kiếm văng đi mất.

Võ công Thượng Thanh Quán không chỉ sở trường về kiếm pháp, mà cầm nã thủ pháp phái này cũng vào hạng nhất võ lâm. Đạo nhân này mất binh khí mà vẫn không sợ hãi chút nào, vọt người nhảy xổ vào Thạch Phá Thiên, hai bàn tay biến thành trảo, nhằm đâm vào những huyệt đạo trọng yếu trên ngực và bụng chàng. Ta nên biết rằng đạo nhân tay không mà đối địch với Thạch Phá Thiên cầm kiếm trong tay, cần phải đánh giáp lá cà khiến đối phương khó bề thi triển vũ khí, mới có cơ thủ thắng được.

Thạch Phá Thiên la lên: “Không được!” Chàng vung tay trái đẩy đạo nhân ra, nhưng lúc ấy nội lực chàng đã phát huy, chất kịch độc đã ra đến lòng bàn tay. Đạo nhân này vừa bị đẩy, lập tức ngã lăn xuống đất nằm co rúm lại.

Thạch Phá Thiên vừa dậm chân vừa la hoảng: “Trời ơi! Thật tình ta không muốn hại ông.” Bỗng chàng nghe tiếng la ó khắp xung quanh, quần đạo bốn mặt đang tiến gần vào. Thạch Phá Thiên vội thò tay vào sờ trong bọc Chiếu Hư, quả nhiên có hai tấm bài đồng. Chàng liền lấy ra bỏ vào túi mình, rồi co giò chạy về hướng vợ chồng Thạch Thanh đã đi trước.

Thạch Phá Thiên chạy một mạch mười mấy dặm, mà vẫn không thấy tiếng vó ngựa chi hết thì tự hỏi: “Chẳng lẽ Thạch trang chúa và Thạch phu nhân đi nhanh đến thế ư? Mình đuổi nữa chưa chắc đã ăn thua gì. Hay là mình đuổi không đúng đường, hai ông bà không đi theo con đường lớn này ư?” Tuy chàng nghĩ vậy nhưng vẫn tiếp tục rượt theo, thêm mấy dặm nữa thì đột nhiên nghe tiếng ngựa hí. Chàng liền ngẩng đầu nhìn về phía phát ra thanh âm thì thấy một đôi ngựa buộc vào dưới gốc cây liễu. Đôi ngựa này một đen một trắng, đúng là ngựa của vợ chồng Thạch Thanh.

Thạch Phá Thiên mừng rỡ vô cùng, móc túi lấy hai tấm bài đồng ra cầm sẵn trong tay. Chàng toan cất tiếng gọi thì đột nhiên nghe thanh âm Thạch Thanh từ xa vọng lại: “Sư muội! Tiểu tặc này cứ nấp nánh rượt theo chúng ta hoài, chắc là có lòng đen tối. Chi bằng chúng ta đuổi gã đi thôi.”

Thạch Phá Thiên vừa nghe thấy đã giật mình kinh hãi, tự hỏi: “Hai người không thích ta đi theo hay sao?” Tuy chàng nghe thấy thanh âm Thạch Thanh nhưng chưa nhìn thấy hai người. Chàng chỉ sợ Thạch phu nhân động thủ đánh chàng, nếu chàng lâm vào tình trạng bắt buộc phải trả đòn, không cẩn thận làm chết Thạch phu nhân thì còn ra thế nào? Chàng vội ẩn mình vào trong đám cỏ rậm, định bụng nếu Mẫn Nhu sấn lại thì chàng sẽ liệng bài đồng cho bà, rồi xoay người chạy trốn.

Bỗng nghe đánh vù một tiếng, một bóng người đứng nấp phía sau cây lớn ở bên trái nhảy vọt ra, tay cầm trường kiếm trỏ vào bụi cỏ rậm, quát lên: “Thằng lỏi này! Ngươi theo bọn ta làm chi? Ra đây mau!” Bóng người đó chính là Mẫn Nhu.

Thạch Phá Thiên toan lên tiếng thì từ trong bụi cỏ rậm vọt ra ba tiếng veo véo, có người phóng ám khí bắn tới Mẫn Nhu. Bà rung thanh trường kiếm trong tay một cái, gạt được ám khí rớt xuống, thì một hán tử áo xanh từ trong bụi rậm nhảy ra. Gã cầm đơn đao trong tay, nhằm bổ xuống Mẫn Nhu. Diễn biến này hoàn toàn ngoài dự tính của Thạch Phá Thiên, chàng chưa biết trong bụi cỏ rậm này lại có người mai phục.

Thân thủ tên này cực kỳ nhanh nhẹn, múa thanh đơn đao rít lên veo véo. Mẫn Nhu chỉ vung kiếm đỡ gạt chứ không trả đòn. Thạch Thanh cũng từ sau gốc cây chạy ra, trường kiếm vẫn cài sau lưng. Ông đứng xem hai bên động thủ một lúc rồi lên tiếng: “Huynh đệ! Ngươi là đồ đệ của Lô Thập Bát trên núi Thái Sơn phải không?”

Hán tử cũng quát lại: “Phải thì đã sao?” Tay gã vẫn tới tấp ra chiêu không chậm lại chút nào.

Thạch Thanh mỉm cười nói: “Lô Thập Bát tuy chưa có giao tình gì với chúng ta, nhưng cũng chẳng có gì xích mích. Người theo dõi chúng ta sáu bảy dặm đường là có dụng ý gì?”

Hán tử nói: “Ta không rảnh để nói chuyện với ngươi…” Tuy Mẫn Nhu ra tay hời hợt, trông bề ngoài chẳng có chi mãnh liệt, nhưng bà đã bức bách hán tử phải luống cuống chân tay.

Thạch Thanh cười nói: “Đao pháp của Lô Thập Bát còn cao thâm hơn bọn ta, nhưng ngươi chưa học được tới ba phần mười bản lãnh của sư phụ, thì hạ đao dừng tay lại là hơn.” Thạch Thanh vừa dứt câu này thì Mẫn Nhu phóng kiếm đâm trúng vào cổ tay hán tử. Bà lại lạng người chuyển đến sau lưng gã, xoay ngược đốc kiếm điểm trúng vào huyệt đạo gã.

“Choang” một tiếng vang lên, thanh đơn đao trong tay hán tử rớt xuống đất, đại huyệt sau lưng lại bị phong tỏa không nhúc nhích được nữa. Thạch Thanh mỉm cười nói: “Tên họ bằng hữu là gì?”

Gã hán tử này hết sức quật cường, tuy bị kiềm chế mà không tỏ vẻ gì khiếp sợ, vẻ mặt vẫn hung hăng. Gã nói: “Ngươi muốn giết thì cứ việc giết, hà tất phải hỏi nhiều làm chi?”

Thạch Thanh mỉm cười nói: “Bằng hữu không chịu nói thì cũng chẳng quan hệ gì, nhưng lén gia nhập vào bang hội nào khác, chẳng lẽ không sợ lệnh sư biết ra hay sao?”

Hán tử lộ vẻ kinh dị hỏi lại: “Sao ngươi lại biết?”

Thạch Thanh đáp: “Tại hạ cùng lệnh sư là Lô Thập Bát lão sư vốn chẳng có hiềm khích gì. Mà cho dù ông ấy có phái người theo dõi hành tung vợ chồng tại hạ, ha ha, chẳng giấu gì ông bạn, lệnh sư cũng coi trọng bọn tại hạ đôi chút, quyết chẳng khi nào phái ông bạn làm chuyện này.”

Hiển nhiên là Thạch Thanh muốn bảo với hán tử này rằng võ công gã còn kém lắm, dĩ nhiên sư phụ gã không sai gã đi làm một việc quá khả năng. Hán tử mặt tím bầm, may mà trong đêm tối không ai nhìn rõ.

Thạch Thanh đưa tay vỗ vai gã hai cái rồi nói: “Vợ chồng tại hạ làm việc gì cũng quang minh lỗi lạc, không cần lén lút, dù ai hay biết cũng chẳng sợ gì. Ngươi muốn biết hành tung vợ chồng ta, thì ta cũng không ngại nói cho ngươi biết. Vừa rồi chúng ta lên Thượng Thanh Quán thăm Thiên Hư đạo trưởng. Ngươi cứ về nói cho lệnh sư biết, Thạch Thanh và Mẫn Nhu hồi còn nhỏ tuổi đã từng học võ ở chùa Thượng Thanh, Thiên Hư đạo trưởng là sư huynh chúng ta. Hiện giờ chúng ta định đến thành Lăng Tiêu trên núi Tuyết Sơn để bái yết chưởng môn phái Tuyết Sơn là Uy Đức tiên sinh. Ngươi còn điều gì muốn hỏi thì cứ việc nói ra.”

Hán tử kia thấy tứ chi tự nhiên hết tê dại, hiển nhiên Thạch Thanh vỗ vai hai cái là để giải huyệt đạo cho mình. Gã không khỏi sinh lòng kính phục, chắp tay nói: “Thạch trang chúa lấy nhân nghĩa đối đãi với mọi người, tiếng đồn quả đã không sai. Vãn bối tự biết mình mạo phạm.”

Thạch Thanh đáp: “Nói quá lời rồi.”

Hán tử cũng không dám lượm thanh đơn đao dưới đất lên, nhìn về phía Thạch phu nhân chắp tay xin lỗi: “Vãn bối thật là đắc tội.” Rồi gã trở gót đi luôn.

Thạch phu nhân cũng khoanh tay đáp lễ. Hán tử vừa đi được mấy bước thì Thạch Thanh lại lên tiếng: “Bằng hữu! Bang chúa của quý bang đã có tung tích gì chưa?”

Hán tử giật mình kinh hãi, quay lại hỏi: “Ông… ông biết cả rồi ư?”

Thạch Thanh khẽ thở dài nói: “Ta chưa biết. Chưa có tin tức phải không?”

Hán tử lắc đầu nói: “Chưa có tin tức gì.”

Thạch Thanh nói: “Vợ chồng ta cũng đang muốn kiếm nó.” Ba người nhìn nhau một lúc, rồi hán tử lại trở gót ra đi.

Mẫn Nhu đợi hán tử đi xa rồi mới nói: “Sư ca! Phải chăng gã là người bang Trường Lạc?” Thạch Phá Thiên nghe đến ba chữ “bang Trường Lạc”, bất giác chấn động trong lòng.

Thạch Thanh nói: “Lúc gã xoay mình bước đi vạt áo bay lên, ta nhìn thoáng qua góc vạt áo bào có thêu một đóa hoa vàng, nhưng không rõ lắm. Ta buột miệng hỏi câu đó thì quả nhiên không lầm. Gã… gã theo dõi chúng ta thật ra cũng chỉ vì… Ngọc nhi. Nếu mình sớm biết vậy thì chẳng làm khó dễ gã.”

Mẫn Nhu nói: “Bọn họ… trong bang của họ đối với Ngọc nhi cũng rất trung thành”.

Thạch Thanh nói: “Ngọc nhi đã bị Bạch Vạn Kiếm bắt đi, Trường Lạc bang tất nhiên cố gắng phái người đi tìm kiếm.”

Mẫn Nhu hỏi: “Bang Trường Lạc người nhiều thế lớn, ở đâu cũng có tai mắt mà sao lại không được tin tức gì?” Ngừng một lát, bà lại hỏi bằng một giọng thê lương: “Sao sư ca biết là… họ vẫn chưa được tin tức gì?”

Thạch Thanh nắm lấy tay vợ, kéo bà cùng sánh vai ngồi xuống gốc cây liễu, nói bằng một giọng ấm áp: “Nếu bọn họ đã được tin tức của Ngọc nhi, tất không phái người theo dõi hành tung những nhân vật giang hồ. Vừa rồi gã đệ tử của Lô Thập Bát vô cớ theo dõi bọn ta, thì ngoài việc dò la tung tích bang chúa gã còn có chuyện gì nữa?”

Chỗ vợ chồng Thạch Thanh ngồi chỉ cách bụi cỏ rậm mà Thạch Phá Thiên ẩn náu không đầy hai trượng, nên tuy hai vợ chồng nói chuyện thì thầm mà chàng cũng nghe rõ mồn một. Kể ra thì bản lãnh của hai vợ chồng Thạch Thanh đáng lý phải phát hiện Thạch Phá Thiên từ lúc chàng còn ở đằng xa chạy tới thì mới phải. Nhưng lúc đó cả hai người đang chú ý đến gã hán tử theo dõi hành tung mình ở phía sau, vả lại nội công Thạch Phá Thiên rất cao thâm, chân bước không phát ra thanh âm khó mà phát giác. Khi hán tử kia đi rồi, hai người lại không ngờ trong bụi cỏ rậm còn có một người khác.

Thạch Phá Thiên nghe hai vợ chồng Thạch Thanh nói những gì là bang chúa bang Trường Lạc, rồi lại bị Bạch Vạn Kiếm bắt đi, thì tưởng như họ đang nói về chính mình. Nhưng lúc chàng nghe hai ông bà nói đến Ngọc nhi nào đó, thì biết là không phải mình rồi, thế là thân thế mình vẫn còn nguyên vẹn những nghi ngờ. Bây giờ đang núp trong bụi cỏ mà đột nhiên xuất hiện thì không khỏi bẽ bàng, nên chàng cứ đánh bạo núp trong đó lắng nghe cho biết rõ.

Lúc này bốn bề chỉ còn tiếng côn trùng rên rỉ, ngọn gió lay động đầu cành, vợ chồng Thạch Thanh ngồi yên không nói chuyện nữa. Thạch Phá Thiên thì sợ bị bại lộ hành tung, nín hơi không dám thở mạnh. Hồi lâu, chàng mới nghe Thạch phu nhân buông tiếng thở dài, rồi tiếp theo là tiếng khóc thút thít rất khẽ.

Thạch Thanh chậm rãi lên tiếng: “Vợ chồng mình bôn tẩu giang hồ làm điều nghĩa hiệp, suốt đời chưa có chuyện gì trái với lương tâm. Nhất là mấy năm nay vì muốn giữ an toàn cho Ngọc nhi, mình lại càng cố gắng làm nhiều việc thiện. Nhưng nếu ông trời thật sự muốn bắt vợ chồng mình tuyệt tự, thì sức người không thể thắng trời được. Huống chi Ngọc nhi là đứa con hư đốn, thà chẳng có con còn hơn. Chúng mình coi như chưa sinh ra nó là xong.”

Mẫn Nhu nhỏ nhẹ nói: “Ngọc nhi tuy bướng bỉnh từ thuở nhỏ nhưng nó… nó cũng là bảo bối của chúng ta. Cũng vì Kiên nhi chết thảm về tay người nên chúng ta lại càng thương yêu Ngọc nhi hơn, mới gây nên cái vạ ngày nay. Nhưng… nhưng tiểu muội cũng chẳng oán thán gì. Có điều ngày đó trong tòa miếu nhỏ, tiểu muội thấy nó cũng chưa đến nỗi hư hỏng cùng cực. Giả tỉ tiểu muội không lỡ tay đâm nó một kiếm, thì không chừng… không chừng…” Bà nói tới đây lại nghẹn ngào, trong lòng đau xót không biết đến đâu mà kể.

Thạch Thanh nói: “Ta vẫn khuyên muội đừng đau lòng vì việc đó. Giả tỉ hôm ấy chúng mình có cứu được nó, thì cũng khó mà đảm bảo được bọn họ không đoạt lại. Mà chuyện này cũng kỳ lạ, bọn người phái Tuyết Sơn đột nhiên biến đi đâu cả. Trên giang hồ, các phái võ Trung Nguyên cũng chẳng một ai biết tin tức. Sư muội! Sáng mai chúng ta khởi hành đến thành Lăng Tiêu. Tới đó thì tốt xấu mới biết rõ ràng.”

Mẫn Nhu nói: “Nếu bọn mình không tìm được mấy tay viện thủ đắc lực, thì làm sao dấn thân vào chỗ đầm rồng hang cọp như thành Lăng Tiêu mà cứu Ngọc nhi ra được?”

Thạch Thanh thở dài nói: “Việc cứu người đâu thề dễ dàng được. Nếu dọc đường không cứu được, thì Ngọc nhi về đến thành Lăng Tiêu chẳng khác gì dê vào miệng cọp, khó mà sống sót.”

Mẫn Nhu không đáp. Bà lấy khăn tay lau nước mắt, một hồi lâu mới nói: “Tiểu muội xem chừng vụ này cũng không phải hoàn toàn là lỗi của Ngọc nhi. Sư ca cứ xem Ngọc nhi sử Tuyết Sơn kiếm pháp thô thiển như vậy, đủ biết phái đó không truyền thụ võ công cho nó đến nơi đến chốn. Mặt khác Ngọc nhi là đứa nhỏ cao ngạo, vì hiếu thắng mà nó nhất định đã kết oán với nhiều người. Mấy năm nay chắc nó cũng đã khổ lắm rồi.” Nói đến đây, trong âm thanh của bà lại lẫn vào những tiếng khóc.

Thạch Thanh nói: “Chuyện này là tại ta lầm lẫn, bây giờ rất hối hận với muội. Ngày đó ta chủ trương đưa nó đến học võ nghệ phái Tuyết Sơn, tuy nàng không nói ra, nhưng ta cũng biết lòng nàng rất quyến luyến không nỡ xa nó. Ta không ngờ Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý nổi tiếng hào kiệt, lại là chỗ thâm giao với mình, mà lại đối xử với Ngọc nhi như thế.”

Mẫn Nhu nói: “Việc này trách sư ca thế nào được? Sư ca đưa Ngọc nhi lên thành Lăng Tiêu cũng hoàn toàn vì tiểu muội. Dù sư ca chẳng nói ra, nhưng tiểu muội đâu phải là không biết? Muốn báo thù cho Kiên nhi thì một mình tiểu muội không đủ sức, mà đến lúc tối hậu sư ca lại không tiện động thủ. Hơn nữa kẻ đối đầu lại biết rõ võ công bản môn, nhất định nó phá giải được. Nếu Ngọc nhi học được kiếm pháp phái Tuyết Sơn thì mẹ con tiểu muội hợp lực, có thể khắc chế được kẻ địch. Ngờ đâu… ngờ đâu… ôi!”

Thạch Phá Thiên nghe hai người nói chuyện, phần lớn chẳng hiểu gì, chỉ nghĩ bụng: “Thạch phu nhân đang thương nhớ con trai đến thế. Dường như con bà bị phái Tuyết Sơn bắt về thành Lăng Tiêu, chi bằng ta theo tới đó để giúp hai vị cứu người. Rõ ràng bà vừa muốn kiếm vài người giúp sức.”

Chàng còn đang ngẫm nghĩ, bỗng nghe từ xa văng vẳng có tiếng vó ngựa chừng hơn mười con chạy tới rất nhanh. Vợ chồng Thạch Thanh cũng nghe thấy, không nói chuyện về đứa con nữa, ngồi yên chờ đợi.

* * *

Chẳng mấy chốc tiếng vó ngựa đã tới gần, rồi có tiếng người la lên: “Đây rồi.” Một người khác gọi to: “Thạch sư đệ! Mẫn sư muội! Chúng ta có mấy lời muốn nói!”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu nhận ra thanh âm Xung Hư, đều lấy làm kinh ngạc, nhảy vọt ra. Thạch Thanh lên tiếng: “Xung Hư sư huynh? Trong quán có chuyện gì chăng?”

Bỗng thấy bọn Thiên Hư, Xung Hư cùng mười mấy sư huynh đệ đều cỡi ngựa đến nơi. Trong bọn có hai đạo nhân phải ôm một người trong lòng, lúc này trời chưa sáng nên không nhìn rõ hai người được ôm là ai. Xung Hư hơi thở còn hổn hển đã lớn tiếng gọi: “Thạch sư đệ! Mẫn sư muội! Lúc nãy trong quán hai ngươi đã không đoạt được đồng bài Thưởng Thiện Phạt Ác, sao lại còn dùng ngụy kế để cướp đem đi? Cướp đồng bài chẳng nói làm chi, nhưng sao lại hạ thủ đánh chết Chiếu Hư, Thông Hư hai vị sư đệ? Chuyện này… chuyện này thật là không biết nói sao!”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu nghe Xung Hư nói vậy đều giật mình kinh hãi. Thạch Thanh nói: “Chiếu Hư, Thông Hư hai vị sư huynh bị người ta hạ độc thủ ư? Chuyện này… chuyện này… là như thế nào? Hai vị bị người ta đánh chết rồi ư?” Ông rất quan tâm đến sự an nguy của hai vị sư huynh, trong lúc hốt hoảng cũng không kịp biện giải cho chính mình.

Xung Hư hầm hầm tức giận, nói tiếp: “Không hiểu ngươi đã cấu kết với bọn hạ lưu nào mà lại dùng đến chất kịch độc, mọi người võ lâm đều ghê tởm. Hai sư đệ tuy chưa tắt thở, nhưng e rằng sắp nguy đến nơi rồi.”

Thạch Thanh nói: “Để tiểu đệ xem sao đã.” Ông vừa nói vừa đi lại gần, muốn xem hai người Chiếu Hư, Thông Hư bị ra sao. Nghe soạt soạt mấy tiếng, mấy đạo nhân đã rút kiếm ra khỏi vỏ để chặn đường.

Thiên Hư thở dài bảo: “Tránh ra! Thạch sư đệ đâu phải con người như vậy!” Mấy đạo nhân hắng giọng một tiếng rồi thu kiếm về nhường lối. Thạch Thanh lấy đá lửa trong bọc ra thắp sáng, soi vào mặt Chiếu Hư, Thông Hư thì thấy mặt hai đạo nhân này xám đen, đúng là trúng phải chất kịch độc. Ông lại đưa tay lên mũi thì thấy chỉ còn thoi thóp thở, tính mạng nguy trong khoảnh khắc.

Ta nên biết võ công chùa Thượng Thanh có chỗ hơn người. Chiếu Hư, Thông Hư đều có nội lực rất thâm hậu, cũng chưa bị độc chưởng của Thạch Phá Thiên chạm trực tiếp vào người, chỉ hít phải độc khí mà thôi, nhưng cũng đã ngất đi ngã lăn xuống đất. Tuy vậy, nhưng hai đạo nhân này không thể chống nổi một giờ hay ba khắc nữa.

Thạch Thanh liền quay lại hỏi: “Sư muội! Sư muội thử xem đây là độc thủ của phái nào?” Ông vừa quay đầu lại, đã thấy bảy tám vị sư huynh sư đệ chống kiếm bao vây hai vợ chồng mình vào giữa.

Mẫn Nhu thấy quần đạo có ý thù nghịch mình, nhưng vẫn lờ đi như không thấy. Bà cầm lấy bó đuốc trong tay Thạch Thanh, bước lại gần hai đạo nhân xem xét. Bà thấy mũi hai người cũng thở ra hơi độc làm mình hơi chóng mặt, bất giác lùi lại một bước, trầm ngâm nói: “Trên giang hồ chưa thấy thứ thuốc độc này. Xin sư huynh cho biết hai vị sư ca đây đã trúng độc trong trường hợp nào, bị địch nhân bỏ thuốc độc vào thức ăn hay là trúng ám khí có chất độc của kẻ địch? Trong mình có thương tích gì không?”

Xung Hư giận dữ nói: “Chúng ta làm sao mà biết được, đang định tìm đến hỏi các ngươi. Ngươi lại còn làm bộ ôn nhu, ra vẻ người tốt. Ta chắc là lúc ăn cơm, ngươi tranh không được bài đồng liền bỏ thuốc độc vào rượu. Không thế thì sao người khác không trúng độc, mà Chiếu Hư mới bị trúng độc chỉ vì giữ hai tấm bài đồng ở trong mình. Hơn nữa… hơn nữa cả hai tấm bài đồng trong bọc của y cũng bị các ngươi lấy cắp mất.”

Mẫn Nhu tức đến xám mặt, nhưng bản tính bà ôn nhu, từ thuở nhỏ lại đối với các vị sư huynh sư đệ một niềm khiêm cung lễ nhượng, nên không muốn cãi nhau với họ. Cặp mắt bà long lanh ngấn lệ, cơ hồ sắp trào ra. Thạch Thanh biết trong vụ này có chuyện hiểu lầm trọng đại, tự nhủ: “Vợ chồng mình vừa đến Thượng Thanh Quán tranh đoạt bài đồng không được, mà bây giờ Chiếu Hư vừa mất bài đồng vừa trúng kịch độc, chẳng trách họ chẳng đem lòng hoài nghi vợ chồng mình.” Ông bèn đưa tay trái ra nắm lấy tay phải vợ để an ủi, trong lòng cũng bàng hoàng khôn xiết.

Mẫn Nhu nói: “Tiểu muội… tiểu muội…” Bà chỉ nói được hai tiếng “tiểu muội” đã bật lên tiếng khóc. Con người tinh thâm kiếm thuật, vốn là một nữ kiệt oai danh chấn động võ lâm, nhưng lúc bị oan ức nặng nề thì cũng chẳng khác gì một nữ nhân nhu nhược tầm thường.

Xung Hư tức giận nói: “Ngươi cứ khóc nữa đi, thử xem hai vị sư đệ của ta có sống lại được không, hay chỉ như mèo khóc chuột?”

Xung Hư chưa dứt lời, chợt nghe phía sau có tiếng người quát: “Sao các vị chưa phân rõ trắng đen đã đổ oan cho người khác một cách hồ đồ?” Thanh âm này vang dội, chứng tỏ nội lực ghê gớm vô cùng. Ai nấy đều ngoảnh đầu lại xem, thì thấy một hán tử quần áo tả tơi đứng cách chừng vài trượng.

Lúc này phương Đông đã hừng sáng, mọi người trông rõ đây là một thiếu niên. Thạch Thanh và Mẫn Nhu vừa thấy chàng thiếu niên này, bất giác mừng rỡ vô cùng. Mẫn Nhu ồ lên một tiếng, gọi: “Con… con…” Bà từng trải giang hồ, đã nhiều lịch duyệt, nên không thốt ra hai tiếng Ngọc nhi.

Thiếu niên đó chính là Thạch Phá Thiên. Thì ra chàng nấp trong bụi cỏ rậm nghe bọn đạo nhân trách mắng vợ chồng Thạch Thanh, ban đầu thì nghĩ nếu mình lộ diện sẽ khó lòng tránh khỏi động thủ với bọn đạo sĩ này, thì đôi độc chưởng của mình lại phải giết nhiều người, thật là không muốn chút nào. Nhưng về sau Xung Hư mỗi lúc một hung dữ với Thạch phu nhân khiến bà phải khóc, chàng không nhịn được nữa mới phải nhảy ra.

Xung Hư lớn tiếng quát hỏi: “Ngươi là ai? Sao dám bảo chúng ta vu oan cho họ?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân không lấy đồng bài của các ngươi, mà các ngươi lại cứ đổ tội cho các vị. Như thế không phải oan uổng cho người tốt sao?”

Xung Hư chống kiếm tiến lên một bước nói: “Thằng lỏi này biết gì mà đứng đây nói năng bừa bãi?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Đương nhiên là ta biết.” Chàng muốn nói rõ chính mình đã lấy bài đồng, nhưng sợ nói ra thì đối phương nhất định phải đòi lại. Nếu mình không trả thì đi đến chỗ động thủ, lại phải giết người nên chàng đành giấu giếm không nói ra.

Xung Hư động tâm nghĩ thầm: “Không chừng gã thiếu niên này biết rõ những chuyện ngoắt ngoéo bên trong.” Y liền hỏi: “Vậy thì ai lấy?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Chẳng cần biết là ai, nhưng không phải Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân đã lấy. Các vị mạo phạm đến người khác, khiến cho Thạch phu nhân uất ức đến phát khóc, thế là không phải. Các vị nên xin lỗi Thạch phu nhân đi là hơn.”

Mẫn Nhu đột nhiên thấy cậu con cưng ngày mong đêm nhớ bấy lâu được bình yên vô sự, trong lòng đã vui mừng khôn xiết. Bây giờ bà nghe chàng bảo Xung Hư phải xin lỗi mình, rõ ràng có ý bênh vực mẫu thân.

Thạch phu nhân sinh được hai cậu con đã hao tốn bao nhiêu tâm huyết, chảy bao nhiêu nước mắt. Đến bây giờ bà mới được nghe con nói một câu bênh vực cho mình, trong lòng được an ủi vô cùng. Thế là hơn hai chục năm trời tân khổ cũng không đến nỗi uổng phí hoàn toàn. Thạch Thanh thấy vợ vui mừng lộ ra sắc mặt, nước mắt không nén nổi phải lăn dài xuống má, dĩ nhiên hiểu rõ tâm ý của bà. Ông nắm chặt tay vợ, bụng bảo dạ: “Ngọc nhi tuy là đứa con hư đốn về mọi phương diện, nhưng đối với mẫu thân lại rất là hiếu thảo.”

Xung Hư thấy Thạch Phá Thiên ăn nói ngang ngạnh thì không khỏi nổi cơn thịnh nộ. Lão lớn tiếng hỏi: “Ngươi là ai? Căn cứ vào đâu mà bắt bần đạo xin lỗi Thạch phu nhân?”

Mẫn Nhu đang hoan hỉ vô cùng, không để ý chuyện Xung Hư trách oan mình nữa, mà chỉ lo con trai cùng sư huynh gây chuyện xích mích, làm tổn thương đến hòa khí sư môn. Bà vội đỡ lời: “Chẳng qua Xung Hư sư huynh có điều nhầm lẫn trong chốc lát mà thôi. Chúng ta đều là người một nhà, nói rõ ràng là được rồi, hà tất phải xin lỗi.” Bà lại quay sang Thạch Phá Thiên dịu dàng nói: “Các vị đây đều là sư bá sư thúc, con mau mau cúi đầu hành lễ.”

Thạch Phá Thiên đối với Mẫn Nhu vốn rất có tình cảm. Bây giờ chàng thấy bà nét mặt dịu hiền, nước mắt chạy quanh, nhìn mình đầy vẻ trìu mến, thật không khỏi xúc động. Suốt đời chàng chưa được ai có lòng thành thực thương yêu như vậy. Bất giác bầu nhiệt huyết của chàng nổi lên bừng bừng, giả tỉ bà sai bảo chàng làm điều gì, dù chết chàng cũng chẳng từ nan, huống chi dập đầu mấy cái phỏng có chi đáng kể? Chàng không ngần ngại gì cả, hai chân quỳ mọp ngay xuống, dập đầu nói: “Thạch phu nhân bảo tại hạ lạy chào các vị.”

Bọn Thiên Hư, Xung Hư đều ngẩn người ra. Họ thấy Thạch Phá Thiên đối với Mẫn Nhu một lòng kính thuận, đều phỏng đoán: “Vợ chồng Thạch Thanh có hai đứa con thì một bị kẻ thù giết chết, còn một bị người ta cướp đi mất. Gã thiếu niên này chắc là đệ tử của họ.”

Xung Hư tuy bản tính nóng nảy, nhưng cũng là một đạo nhân đức hạnh. Lão thấy Thạch Phá Thiên thi hành đại lễ thì cơn giận lập tức nguội bớt mấy phần, nghiêng mình xuống ngựa, vừa giơ tay ra nâng chàng dậy vừa nói: “Bất tất phải khách khí như vậy.”

Ngờ đâu Thạch Phá Thiên nghe Thạch phu nhân bảo mình sụp lạy thì phải lạy cho xong, Xung Hư đưa tay ra đỡ mà chàng không đứng lên ngay. Xung Hư thấy người chàng nặng như núi, không nhúc nhích chút nào. Bất giác lão lại nổi giận, quát hỏi: “Ta là trưởng bối, ngươi dám cậy mình nội công thâm hậu mà khoe bản lãnh trước mặt ta chăng?” Lão liền hít một hơi chân khí, vận nội lực vào hai cánh tay, hết sức đẩy mạnh một cái muốn hất chàng văng đi.

Vợ chồng Thạch Thanh thấy thế không khỏi hồi hộp. Vì là chỗ đồng môn, họ nhìn rất rõ Xung Hư vận chân lực vào cánh tay để hất chàng đi. Thạch Thanh hắng giọng một tiếng, trong lòng đã hơi tức giận, nhưng lại nghĩ rằng ông ấy là sư huynh, nên phải để con mình chịu thiệt thòi một chút. Mẫn Nhu thì la lên: “Xin sư ca lưu tình một chút.”

Bỗng nghe một tiếng vù, người Xung Hư vọt lên không, bị hất về phía sau. May mà lão đụng mạnh vào con ngựa, hai chân loạng choạng rồi dùng phép Thiên Cân Trụy mới đứng vững lại được. Con ngựa bị đụng phải hí lên một tiếng dài, hai chân trước khuỵu xuống.

Thì ra nội lực Thạch Phá Thiên cực kỳ thâm hậu. Xung Hư vận sức hất chàng lên, chẳng làm chàng chuyển động được chút nào, mà chính mình lại bị hất lộn ngược ra sau. Diễn biến này mọi người đều trông rõ mồn một, ai nấy đều giật mình kinh hãi. Vợ chồng Thạch Thanh đã cùng Thạch Phá Thiên trao đổi kiếm pháp trong tòa miếu thổ địa ngoài thành Dương Châu, biết nội lực chàng thâm hậu, nhưng không ngờ bản lãnh chàng lại đến mức độ này. Chỉ sức phản kích đã đủ hất một tay cao thủ hạng nhất Thượng Thanh Quán tung lên không rồi văng đi.

Xung Hư đứng vững lại được, bèn rút trường kiếm ở sau lưng ra cầm tay. Lão tức quá, cười gằn nói: “Giỏi, giỏi, giỏi!” Lão khen luôn ba tiếng rồi lại điều hòa hơi thở, nói: “Sư đệ cùng sư muội quả nhiên đã dạy được một tên đệ tử khác thường. Ta phải lãnh giáo gã mấy chiêu.” Lão nói xong, vung kiếm lên đâm thẳng vào ngực Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên lùi lại một bước, vừa xua tay lia lịa vừa nói: “Không, không! Ta không đánh nhau với ông.”

Thiên Hư đã thấy rõ võ công của Thạch Phá Thiên ghê gớm khác thường, bụng bảo dạ: “Xung Hư sư đệ đứng vào hàng sư bá mà lại đi tỉ đấu với sư diệt. Thắng chẳng vinh gì, mà thua thì lại bị người khác chê cười.” Lão thấy Thạch Phá Thiên lùi lại nhượng bộ rất trúng ý mình, bèn nói: “Cùng là người trong nhà, tỉ đấu làm chi? Dù có nghiên cứu võ nghệ thì đâu phải vội vàng gì lắm?”

Thạch Phá Thiên nói: “Phải rồi! Các vị là chỗ sư huynh sư đệ với Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân. Nếu tại hạ xuất thủ đánh chết các vị thì thật là không nên không phải.” Thạch Phá Thiên chẳng hiểu gì nhân tình thế thái, chỉ lo độc chưởng của mình phóng ra làm chết đối phương, nên buột miệng nói thẳng tuột ra.

Quần đạo Thượng Thanh Quán đều tự phụ võ công cao cường, lại không hiểu được hảo ý của chàng. Nghe thấy câu này thì không ai không giận dữ, trong mười mấy người đã có bảy tám người tức tối đến nỗi râu tóc dựng ngược cả lên. Thạch Thanh cũng quát lên: “Ngươi nói gì đó? Không được nói bậy.”

Xung Hư đã tuân lời chưởng môn sư huynh, thu kiếm lại lùi ra. Nhưng lão nghe Thạch Phá Thiên nói câu này chẳng coi quần đạo vào đâu, công nhiên nhục mạ thì nhẫn nại làm sao được? Lão lại tiến ra, quát lên: “Hay lắm! Ta thử xem ngươi có đánh chết hết được bọn ta không. Xuất chiêu đi!”

Thạch Phá Thiên không ngớt xua tay đáp: “Ta không động thủ với ông.”

Xung Hư lại càng căm tức hơn, quát lên: “Hừ! Kể cả ta mà ngươi cũng không thèm động thủ hay sao?” Chưa dứt lời, lão đã rút kiếm nhằm đâm vào vai Thạch Phá Thiên.

Lão thấy Thạch Phá Thiên tay không binh khí, nên nhằm đâm vào chỗ không phải huyệt đạo trọng yếu. Xung Hư là một tay cao thủ kiếm thuật ở Thượng Thanh Quán, tuy kinh nghiệm lâm địch không bằng vợ chồng Thạch Thanh, nhưng ra chiêu mau lẹ hoàn toàn không thua kém gì.

Thạch Phá Thiên hoàn toàn không né tránh. Chỉ nghe sột một tiếng, vai chàng đã trúng kiếm ứa máu tươi ra. Mẫn Nhu la hoảng: “Trời ơi!”

Xung Hư quát: “Lấy kiếm cho gã!”

Thạch Phá Thiên bụng bảo dạ: “Lão là sư huynh của Thạch phu nhân, mà vừa rồi mình đã giết lầm mất hai vị sư huynh của bà. Nếu bây giờ mình giết lão nữa thì thật là không tốt, lại có lỗi với Thạch phu nhân. Nếu lão phóng kiếm đâm mình mà mình vung chưởng ngăn chặn thì dĩ nhiên gạt được, nhưng bàn tay mình có chất kịch độc, phóng chưởng ra thì nguy hiểm vô cùng.” Chàng nghĩ vậy nên hai tay vẫn nắm chặt lại chắp sau lưng, nhất định ai nói gì thì nói cũng không chịu xuất thủ.

Quần đạo Thượng Thanh Quán thấy bộ điệu Thạch Phá Thiên như vậy thì lại tưởng chàng ra vẻ khinh thị bọn mình. Tuy họ đều là người tu hành đã quen nhẫn nhịn, nhưng cũng không khỏi tức giận. Có người tức giận la lên: “Xung Hư sư huynh! Thằng lỏi này ngông cuồng quá lắm, phải cho gã một bài học!”

Xung Hư hỏi: “Thật ngươi không thèm động thủ với ta ư?” Lão lại đâm luôn hai kiếm veo véo, chiêu thức cực kỳ mau lẹ. Thạch Phá Thiên không thạo về kiếm pháp, dù có chuyển động né tránh cũng không kịp, nên lại trúng kiếm vào cả vai trái và trước ngực.

May mà Xung Hư ra chiêu còn có ý lưu tình, chỉ muốn bức bách Thạch Phá Thiên phải ra tay, chứ không có ý lấy mạng chàng. Mũi kiếm của lão vừa đâm trúng vào da thịt liền rụt về ngay, nên chàng bị thương rất nhẹ. Mẫn Nhu thấy cậu con yêu liên tiếp trúng ba nhát kiếm thì trong lòng đau xót vô cùng. Bà thấy Xung Hư lại phóng kiếm đâm tới nữa, liền vung kiếm lên gạt đánh choang một tiếng.

Tiếp theo là những tiếng choang choảng không ngớt, nổ như bắp rang. Chớp mắt hai bên đã trao đổi mười ba chiêu. Xung Hư liên tiếp tấn công mười ba chiêu, Mẫn Nhu cũng liên tiếp đỡ gạt mười ba chiêu. Hai người đều là cao thủ bản môn, thi triển công phu Thượng Thanh Khoái Kiếm như sao nhảy múa. Những tia lửa bắn tóe ra bốn phía như chớp nhoáng.

Mười ba chiêu kiếm vừa sử xong, quần đạo cùng Thạch Thanh không nhịn được đều reo lên: “Tuyệt diệu!” Những người có mặt tại đây, trừ Thạch Phá Thiên ra, đều là những tay kiếm thủ nổi tiếng của Thượng Thanh Quán. Họ thấy mười ba chiêu kiếm của Xung Hư tấn công cực kỳ nhanh nhẹn sắc bén, còn mười ba chiêu kiếm của Mẫn Nhu phòng thủ dày khít, vô cùng nghiêm cẩn kín đáo. Một người tấn công một người phòng thủ đã phát huy kiếm thuật bản môn đến chỗ tinh diệu, nên quần đạo trông thấy đều khoan khoái trong lòng.

Thiên Hư biết rằng nếu hai bên còn đấu nữa thì cũng khó mà phân thắng bại. Lão liền hỏi: “Mẫn Nhu sư muội! Có phải sư muội định che chở cho gã thiếu niên này không?” Mẫn Nhu không đáp, đưa mắt nhìn Thạch Thanh hỏi ý.

Thạch Thanh nói: “Thằng nhỏ này không biết tôn trọng trưởng bối, lớn mật càn rỡ, cần phải răn dạy. Gã đã trúng phải ba nhát kiếm của Xung Hư sư huynh, nay mà sư huynh còn kiếm hạ lưu tình, không thì gã đã bỏ mạng rồi. Thằng nhỏ này công phu thô thiển như vậy thì làm sao đáng tiếp chiêu với Xung Hư sư huynh? Ngươi mau mau qua đây sụp lạy sư bá mà tạ tội đi!”

Xung Hư lớn tiếng nói: “Rõ ràng gã coi bọn Thượng Thanh chúng ta không vào đâu nên không thèm động thủ. Nếu không phải thế thì sao gã dám nói nếu ra tay là đánh chết hết bọn ta?”

Thạch Phá Thiên lại xòe bàn tay ra nhìn, thấy trong lòng bàn tay đã hiện lên đám mây đỏ và những vân xanh thì thở dài nói: “Hai bàn tay của ta cứ thường xuyên gây ra tai họa, động cái là đánh chết người.”

Quần đạo Thượng Thanh Quán đều biến sắc. Thạch Thanh cũng tưởng chàng kiêu ngạo khinh người mà nói năng láo lếu, không nén nổi giận dữ hét lên: “Thằng lỏi này quả không biết trời cao đất dày là gì. Vừa rồi Xung Hư sư bá hạ thủ lưu tình nên mới không giết ngươi, chẳng lẽ ngươi không biết hay sao?”

Thạch Phá Thiên nói: “Tại hạ… tại hạ cũng không muốn giết chết ông ấy, cũng là hạ thủ lưu tình.” Thạch Thanh nổi giận, muốn lập tức nhảy đến tát chàng mấy cái cho hả dạ. Nhưng thân hình của ông mới hơi nhúc nhích thì Mẫn Nhu đã biết ý, lập tức nắm lấy tay trái chồng giữ lại. Tuy bà chẳng vận kình lực gì, nhưng Thạch Thanh cũng không động đậy nữa.

Xung Hư vừa rồi đâm Thạch Phá Thiên trúng luôn ba kiếm, lại thấy chàng né tránh vụng về dường như không hiểu chỗ tinh diệu về kiếm pháp của bản môn, nhưng nội lực lại rất ghê gớm. Cứ nhìn võ công thì chắc chắn chàng không phải là đệ tử của vợ chồng Thạch Thanh, nên trong lòng lão không khỏi sinh nghi. Lúc chàng giơ bàn tay lên xem, lão ngửi thấy thoang thoảng có mùi tanh tưởi, lại càng nghi hoặc hơn liền quát hỏi: “Thằng lỏi kia! Ngươi là đồ đệ của ai mà ăn nói lớn lối đến thế?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Ta… ta… ta là khai sơn đệ tử phái Kim Ô.”

Xung Hư ngẩn người, nghĩ bụng: “Phái Kim Ô nào? Làm gì có Kim Ô với Ngân Ô? Trong võ lâm ta chưa nghe thấy ai nhắc đến, chắc thằng lỏi này lại nói nhăng rồi.” Lão liền cười lạnh nhạt nói: “Ta cứ tưởng các hạ là cao đồ của Thạch sư đệ, thực ra không phải người trong nhà. Vậy chẳng có điều gì đáng ngại nữa.”

Lão quay lại, đưa mắt nhìn hai sư đệ đứng bên cạnh. Hai đạo nhân này hiểu ý, liền xoay kiếm lại sử chiêu Triều Bái Kim Đỉnh, một người hướng về Thạch Thanh còn một người hướng về Mẫn Nhu. Triều Bái Kim Đỉnh là một chiêu kiếm để kính lễ đối phương của Thượng Thanh Quán, thường chỉ áp dụng với những nhân vật danh vọng trong võ lâm. Người sử chiêu trỏ mũi kiếm xuống đất, tay trái nắm kiếm quyết giữ thế thủ, bề ngoài thì như hành lễ mà thực ra là phòng thủ cực kỳ nghiêm mật trong phạm vi năm thước về phía trước. Địch chưa động thủ thì mình cũng chưa động thủ, nếu địch tấn công thì mình lập tức phản kích được ngay.

Vợ chồng Thạch Thanh dĩ nhiên hiểu ý hai vị đạo nhân này muốn giám sát mình. Nếu mình lại vung kiếm ra để che chở cho Ngọc nhi thì lập tức trường kiếm trong tay hai đạo nhân sẽ vung lên ứng chiến, còn nếu mình không ra chiêu thì hai đạo nhân này giữ nguyên thế thủ, vĩnh viễn không cử động. Họ làm như vậy là có ý giữ cho khỏi tổn thương đến nghĩa khí đồng môn.

Mẫn Nhu đưa mắt nhìn Linh Hư sư huynh đứng trước mặt. Bà tự nhủ: “Năm xưa lúc mình còn ở Thượng Thanh Quán học nghệ, thì Linh Hư sư huynh chân tay vụng về, kiếm thuật còn kém mình xa. Thế mà chiêu Triều Bái Kim Đỉnh của y thủ thế rất vững chắc, không phải tầm thường. Nếu mình động thủ thì trong vòng ba bốn chục chiêu chưa chắc đã đả bại y được.”

Bà còn đang ngẫm nghĩ thì Xung Hư đã vung kiếm lên quát tháo: “Nếu ngươi còn không chịu động thủ, thì ta phải đâm chết tên ác đồ của phái Kim Ô này.” Xung Hư vừa nhấn mạnh ba chữ “phái Kim Ô” vừa đưa mắt nhìn vợ chồng Thạch Thanh, để nhắc ông biết là vụ này không dính líu gì đến tình đồng môn, khiến hai người khỏi trở mặt.

Thạch Thanh băn khoăn suy tính: “Nếu phen này con mình lại không chịu trả đòn, thì Xung Hư nhất định tự ái mà đâm nó trọng thương. Còn nếu nó chịu phản công tỉ đấu, thì Xung Hư cũng biết vợ chồng mình có ý che chở cho nó, chắc sẽ hạ thủ không đến nỗi quá tay, điểm tới là thôi. Chi bằng mình dạy cho nó bớt ngông cuồng, lại thêm phần hữu ích.” Ông liền bảo: “Hài tử! Sư bá muốn chỉ điểm võ công cho ngươi, như vậy cũng rất có ích. Sư bá không đả thương ngươi đâu, ngươi đừng sợ chi hết, mau lấy binh khí ra chống chọi đi!”

Thạch Phá Thiên thấy bốn phương tám hướng đều có kiếm quang của Xung Hư bao phủ, hàn khí rần rần quạt vào mặt, khiến chàng không khỏi kinh hãi vô cùng. Hơn nữa chàng đã bị Xung Hư đâm trúng ba nhát liền, cũng biết là kiếm pháp của đối phương cực kỳ lợi hại. Bây giờ chàng nghe Thạch Thanh bảo mình lấy binh khí ra chống đỡ thì trong bụng mừng thầm, tự nhủ: “Phải rồi! Nếu mình dùng binh khí chống đỡ thì chất độc trong bàn tay không đến nỗi phóng ra làm chết lão.”

Chàng nhìn xuống đất thấy có một thanh đơn đao của gã đệ tử Lô Thập Bát bỏ lại, vội la lên: “Được! Được! Tại hạ xin trả đòn. Ông… ông đừng phóng kiếm đâm tôi, hãy đợi tại hạ cúi xuống lượm thanh đao đã. Nếu đạo trưởng thừa lúc tại hạ cúi xuống mà phóng kiếm đâm vào lưng là không đàng hoàng đâu.”

Xung Hư thấy chàng ăn nói buồn cười, bèn hừ một tiếng, lùi lại hai bước rồi cắm lưỡi kiếm xuống đất nghe soạt một tiếng. Lão nói: “Ngươi coi Xung Hư ta là hạng người nào? Chẳng lẽ ta đi đánh lén một thằng lỏi hay sao?” Lão chắp hai tay sau lưng chờ Thạch Phá Thiên cúi xuống lượm đao, bụng bảo dạ: “Té ra thằng lỏi này sử đao, vậy đúng không phải là đệ tử của vợ chồng Thạch sư đệ. Nhưng không hiểu tại sao Thạch sư đệ lại bảo nó kêu mình bằng sư bá?”

Thạch Phá Thiên đang cúi xuống lượm đao, đột nhiên động tâm nghĩ thầm: “Lát nữa đánh nhau đến lúc khẩn yếu, không chừng mình lại bất cẩn phóng chưởng ra đánh chết người thì sao? Chi bằng mình phải cột tay trái vào người trước, mới thật là bình yên vô sự.” Nghĩ vậy, chàng đứng thẳng người lên nhìn Xung Hư nói: “Xin lỗi. Đạo trưởng hãy chờ tại hạ một chút.”

Rồi chàng cởi dây lưng ra, tay trái buông dọc theo người, tay phải dùng dây lưng cột lại. Mọi người giương mắt lên nhìn, không hiểu chàng làm gì mà quái dị như vậy. Thạch Phá Thiên siết chặt dây lưng cho tay trái không cử động được rồi mới cúi xuống lượm đao, ngẩng lên nói: “Được rồi, bây giờ chúng ta tỉ đấu. Như thế này thì ta không sợ lỡ tay đánh chết ông nữa.”

Thạch Phá Thiên nói câu này khiến Xung Hư tức muốn ngất đi. Lão thấy chàng cột cánh tay trái lại rồi mới tỉ võ với mình thì thật là khinh người đến cực điểm. Quần đạo chùa Thượng Thanh đều lớn tiếng quát mắng, Thạch Thanh và Mẫn Nhu cũng la lên: “Con cái vô lễ, mau cởi dây lưng ra.”

Thạch Phá Thiên chần chừ một chút thì kiếm của Xung Hư đã đâm thẳng đến soạt một tiếng. Chàng không kịp tuân theo lời Mẫn Nhu nữa, vội giơ đao lên cản trở. Xung Hư đã biết nội lực của chàng rất mạnh nên không dám để đơn đao đụng vào trường kiếm của mình, lập tức biến chiêu, đâm veo véo luôn sáu bảy kiếm. Tay chân Thạch Phá Thiên luống cuống cả lên, đừng nói đến tiếp chiêu, ngay cả kiếm đối phương chém vào đâu cũng không nhìn rõ. Chàng la thầm trong bụng: “Ta chết chắc rồi!” Thanh đao trong tay chém ra loạn xạ, hoàn toàn không thành chương pháp gì cả, bảy mươi ba đường Kim Ô đao pháp vừa mới học đã quên mất sạch, cứ như đã gửi trả cho Sử bà bà hết rồi. May mà Xung Hư biết nội lực của chàng lợi hại, tuy thấy đao pháp sơ suất lung tung, nhưng khi chàng vung đao chém tới thì lão phải né tránh, thủy chung không dám dùng kiếm đỡ gạt. Lão chỉ sợ trường kiếm bị chàng đánh văng đi, lúc đó thật không còn mặt mũi nào nữa.

Thạch Phá Thiên chém loạn xạ một hồi đã thấy Xung Hư lùi lại. Chàng định thần được một chút, bảy mươi ba chiêu Kim Ô đao pháp dần dần trở về trong đầu. Nhưng Xung Hư tuy lùi lại mà xuất chiêu vẫn cực kỳ nhanh chóng. Thạch Phá Thiên nghĩ: “Nếu ta dùng đao pháp của Sử bà bà đã dạy để chống đỡ thì chắc chắc không xong, vì Kim Ô đao pháp chỉ chuyên để khắc chế kiếm pháp phái Tuyết Sơn mà thôi, gặp phải kiếm pháp khác hẳn như Thượng Thanh kiếm pháp này thì không thể nào dùng được.” Trong lòng chàng vẫn hoảng loạn, nhưng lúc này đã đỡ nguy hiểm nên cứ thuận tay mà vung múa thanh đao.

Được một lúc, chàng đột nhiên nhớ lại lúc ở trên đảo Tử Yên, chiêu cuối cùng của Bạch Vạn Kiếm đánh mình đại bại chỉ vì mình không biết kiếm pháp của đối phương. Lúc này chàng hoàn toàn không biết kiếm pháp của đạo sĩ này, đã không biết thì không thèm nhìn còn hơn, cứ việc sử dụng đao pháp của mình. Chàng bèn đem bảy mươi ba đường Kim Ô đao pháp ra thi triển loạn xạ, nội lực phát huy thành một vòng kín bao bọc toàn thân, Xung Hư không có cách nào tấn công vào được.

Bọn đạo sĩ và vợ chồng Thạch Thanh đều âm thầm kinh hãi. Xung Hư vừa sợ vừa giận, lại thêm mấy phần kinh ngạc. Đao pháp của các phái lớn trong võ lâm, lão hầu như đều biết, nhưng lúc này đao pháp của Thạch Phá Thiên hết sức ấu trĩ, thi triển lung tung hoàn toàn không theo đạo lý căn bản của võ học. Đáng lẽ lão phải đánh bại được chàng ngay, nhưng chính lão lại liên tiếp gặp nguy hiểm, thật không thể nào lý giải được.

Đánh được mười mấy chiêu nữa, Xung Hư đã thập phần lo lắng. Lão đâm lẹ một kiếm tấn công vào giữa ngực đối phương. Ngay lúc này Thạch Phá Thiên vung đao chém ngược lại, hai người xuất thủ đều rất nhanh nên đao kiếm chạm nhau nghe xoảng một tiếng. Xung Hư đã có phòng bị nên cố nắm trường kiếm thật chặt không đến nỗi văng đi. Nhưng nội lực của Thạch Phá Thiên quá mạnh, nên mọi người la lên kinh hãi, nhìn thấy thanh kiếm trong tay Xung Hư bị bẻ cong lại, trên lưỡi kiếm đầm đìa máu tươi. Thì ra lão đã bị chấn động đến toác hổ khẩu chảy máu. Xung Hư kinh hãi vô cùng, thầm nghĩ: “Thanh danh một đời mình đành buông theo dòng nước chảy, còn luyện kiếm làm gì nữa, còn làm chưởng môn Thượng Thanh Quán sao được nữa.” Trong lúc giận dữ, lão hất tay ném thanh kiếm cong vòng đến Thạch Phá Thiên, hai bàn tay biến thành trảo, chuyển thân nhảy xổ tới.

Thạch Phá Thiên vung đao hất thanh kiếm cong đó văng ra, rồi nhất thời không biết phải đối phó thế nào. Chàng hơi ngần ngừ một chút đã để lộ nhiều chỗ sơ hở trước ngực. Hai tay Xung Hư liền nắm được hai chỗ yếu huyệt trước ngực chàng.

Chiêu thức này của Xung Hư là một chiêu thí mạng, phép cầm nã của Thượng Thanh Quán lại là một trong những tuyệt học bản môn. Ngờ đâu hai tay lão vừa chạm vào huyệt đạo Thạch Phá Thiên liền bị nội lực của chàng hất ngược lại. Phen này lão sử kình rất mạnh, nên phản lực lại càng mạnh hơn, tự biết không thể đứng vững được, nhưng nếu để ngồi bệt xuống đất thì mất thể diện vô cùng.

Thiên Hư đạo nhân nhảy vọt tới trước, đưa tay ra đẩy vào vai Xung Hư để giảm bớt lực đạo phản kích. Xung Hư phải nhảy lộn người ra sau rồi mới đứng lại được. Mặt lão xám ngắt, không còn chút huyết sắc.

Thiên Hư rút trường kiếm ra nói: “Quả nhiên anh hùng phát xuất tự thiếu niên. Bần đạo rất lấy làm thán phục, muốn lãnh giáo mấy chiêu, nhưng e rằng tuổi già sức kém không phải là đối thủ của các hạ.” Thiên Hư nói xong, từ từ phóng kiếm ra.

Thạch Phá Thiên vung đao lên gạt, bỗng thấy đao mình chạm vào kiếm đối phương mà cứ như chạm phải bông gòn, kình lực đã vận vào lưỡi đao bị tiêu tan không còn chút nào, nên không nén nổi phải la lên “Ái chà! Kỳ lạ quá!”

Thì ra Thiên Hư biết nội lực của Thạch Phá Thiên rất lợi hại, nên lão sử chiêu kiếm này để hóa giải kình lực đối phương. Nhưng chính tay lão cũng bị chấn động mạnh đến tê nhức, trước ngực cũng thấy ngâm ngẩm đau thì thầm kinh hãi, chỉ sợ mình đã bị nội thương. Đến chiêu thứ hai lão cứ đâm tới, Thạch Phá Thiên lại vung đao lên gạt. Lão không dám phá nội kình của đối phương nữa, chuyển kiếm xéo đi đâm tới.

Thiên Hư tuy đã ngoại lục tuần mà chân tay mau lẹ chẳng kém gì hồi niên thiếu, xuất chiêu mãnh liệt lợi hại vô cùng. Thạch Phá Thiên thì không chiết giải chiêu thức với lão, mở mắt tỉ đấu nhưng nhìn mà không thấy, giống như nhắm mắt để tự luyện đao vậy. Bất kể chiêu kiếm của đối phương là trong hư có thực hay là trong thực có hư, chàng cũng mặc kệ. Kiếm chiêu đâm đến trước ngực mình cũng được, mà đâm lên trên vai mình cũng thế thôi, chàng cứ việc tuần tự xuất chiêu Mai Tuyết Phùng Hạ, Bào Ngư Chi Tứ, Hán Tướng Đương Quan, Thiên Quân Áp Đà…

Trận tỉ đấu này thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Thiên Hư có tấn công xảo diệu thế nào đi nữa, Thạch Phá Thiên cũng coi như không biết, cứ tiếp tục tự luyện đao. Hai người tỉ đấu trong khoảnh khắc đã qua lại hơn hai chục chiêu, đao phong kiếm khí không ngớt quạt ràn rạt ra ngoài. Vòng người đứng xem chung quanh mỗi lúc một giãn rộng ra. Bọn Linh Hư hai người đứng giám thị vợ chồng Thạch Thanh để ngăn cản hai ông bà ra tay viện trợ Thạch Phá Thiên, nhưng chúng thấy Thiên Hư cùng Thạch Phá Thiên tỉ đấu kịch liệt cũng không tự chủ được, mắt cứ chăm chú nhìn vào trường đấu.

Lúc này Thạch Phá Thiên đã hết sợ hãi, nên bộ Kim Ô đao pháp vận dụng mỗi lúc một thông thạo hơn, chiêu số cũng khá tinh diệu. Nội lực chàng theo đó mà gia tăng. Thiên Hư lúc đầu còn chống chọi được, nhưng mỗi lần chiết giải chiêu thức của đối phương lại thấy kình lực chàng mạnh thêm một phần, tựa như không bao giờ cùng tận, không bao giờ khô kiệt. Kiếm chiêu của lão tuy chiếm được thượng phong, nhưng hai chân mỗi lúc một bải hoải, cánh tay mỗi lúc lại thêm tê nhức, càng lúc càng thấy đón đỡ khó khăn hơn.

Lúc này vợ chồng Thạch Thanh đã nhìn rõ, nếu tiếp tục đấu nữa thì Thiên Hư phải đi đến chỗ thất bại. Nhưng nếu họ lên tiếng ngăn trở cậu con thì khác nào bảo chàng nhường nhịn một cách công khai, làm tổn thương đến thể diện Thiên Hư. Hai người không biết làm thế nào mới phải, bất giác cảm thấy lo lắng.

Thạch Phá Thiên càng đánh càng hăng, từng đao từng đao áp bức đối phương mãnh liệt. Đột nhiên mọi người thấy đầu gối bên phải Thiên Hư nhũn ra cơ hồ khuỵu xuống. Lão phải gắng gượng đứng thẳng dậy, sắc mặt biến đổi rất nhiều.

Thạch Phá Thiên cũng đã thấy rõ đối phương kém thế, liền nhớ tới lúc trên đảo Tử Yên, A Tú từng dặn chàng: “Khi ca ca động thủ với người ta thì nên hạ thủ lưu tình, nếu tha được thì tha, đó là tốt nhất.” Thạch Phá Thiên nhớ tới lời dặn dò dịu dàng của nàng, trước mặt như hiện ra con người thuần hậu ôn nhu. Lập tức chàng cầm ngang lưỡi đao hất về phía trước.

Thiên Hư thấy chàng đẩy đao tới còn cách xa mà kình phong đã ép làm mình khó thở, lão vội lùi lại hai bước, chân loạng choạng, người lảo đảo. Lão than thầm: “Gã mà tiến thêm hai bước nữa, thì mình không đủ khí lực để lùi nữa.” Nhưng Thạch Phá Thiên lại phóng đao về bên trái ra một hư chiêu, rồi thu đao lại đâm vào chỗ trống ở bên phải, lại xoay thẳng đao ra trước mặt rồi đưa thẳng lưỡi đao bổ xuống.

Cả ba đao này đều là hư chiêu, nhưng nội lực chàng phóng ghê gớm quá, hất tung cát bụi bay lên mờ mịt. Thiên Hư thở lên hồng hộc, còn đang kinh hãi thì thấy Thạch Phá Thiên thu đao về, lùi lại hai bước đứng yên. Rồi lão lại nghe chàng nói: “Kiếm pháp của đạo trưởng tinh diệu, tại hạ khâm phục vô cùng. Hôm nay chúng ta khó lòng phân thắng bại được, vậy ngừng tay đừng tỉ đấu nữa, cùng hòa hảo với nhau có nên chăng?”

Thiên Hư tựa hồ không tin vào tai mình nữa, cứ đứng ngẩn người ra không biết nói gì. Thạch Thanh mỉm cười, bây giờ mới trút bỏ được mối lo âu, chẳng khác chi cất được gánh nặng. Mẫn Nhu thì vui vẻ lộ ra ngoài mặt, hớn hở tươi cười.

Cả hai vợ chồng thấy võ công con mình cao thâm, đã là vui mừng rồi. Nhưng họ còn vui mừng hơn ở chỗ lúc chàng sắp thắng lại có ý nhân nhượng, rất hợp ý vợ chồng mình lúc nào cũng để cho người ta còn chút thể diện.

Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Thằng con này chỉ nói lung tung! Ngươi nói cái gì mà đạo trưởng với tại hạ? Sao không gọi lão nhân gia bằng sư bá và tự xưng là tiểu điệt?” Câu này bà vừa nói vừa cười, biểu lộ rất nhiều tình cảm. Trong đó bao hàm nỗi vui mừng, cả tấm lòng người từ mẫu dịu dàng, thật không thể nào tả xiết.

Thiên Hư thở phào một cái rồi than thở: “Sông Trường Giang sóng sau xô sóng trước. Chúng ta già mất rồi, chắc chắn không thể nào chống đỡ nổi chàng thiếu niên này.”

Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Hài tử! Ngươi đã đắc tội với sư bá, mau mau ra bái tạ đi.” Thạch Phá Thiên vâng lời bỏ thanh đơn đao xuống, cởi cánh tay trái bị cột bằng dây lưng ra, rồi cung kính bước lên phía trước cúi mình thi lễ.

Mẫn Nhu rất lấy làm đắc ý. Bà dịu dàng nói: “Chưởng môn sư ca! Đây chính là đứa con láo xược của vợ chồng tiểu muội, từ nhỏ ít được cha mẹ dạy dỗ nên phạm lắm lỗi lầm. Xin sư ca miễn trách cho.”

Thiên Hư không khỏi ngạc nhiên đáp: “Té ra đây là lệnh lang của vợ chồng sư đệ? Không ngờ, thật là không ngờ! Lúc trước sư đệ đã nói là lệnh lang bị người cướp đi, chuyện đó chỉ là lời đồn không đúng sự thật ư?”

Thạch Thanh đáp: “Tiểu đệ khi nào dám dối trá sư huynh? Thằng nhỏ này đã bị người ta cướp đi thật. Tiểu đệ cũng chưa hiểu nó làm thế nào mà thoát hiểm được, trong lúc vội vàng cũng chưa kịp hỏi.”

Thiên Hư gật đầu nói: “Thế thì được rồi. Bản lãnh của lệnh lang như vậy thì thoát thân cũng chẳng khó gì. Có điều võ công của nó không phải là do sư đệ cùng sư muội đích thân truyền dạy, mà trong đao pháp cũng chẳng có mấy chiêu số về kiếm pháp của phái Tuyết Sơn. Song nội lực nó thì thật là ghê gớm, không biết đến đâu mà lường. Nhất là chiêu thức cuối cùng thật sự là hiếm thấy.”

Thạch Phá Thiên nói: “Phải rồi! Chiêu đó tiểu điệt học được của A Tú. Nàng bảo khi nào người ta đánh không lại mình thì nên hạ thủ lưu tình, nếu tha được phải tha ngay. Chiêu thức đó kêu bằng Bàng Xao Trắc Kích, vừa nhượng bộ đối phương lại vừa giữ được mình không để đối phương gia hại.”

Thạch Phá Thiên vốn là người tính tình ngay thẳng, mở miệng nói thao thao bất tuyệt chẳng nể nang gì. Sắc mặt Thiên Hư lúc đỏ hồng lúc trắng bệch ra vẻ bẽ bàng, không biết ẩn vào đâu cho được. Thạch Thanh quát lên: “Chỉ nói bậy bạ.”

Thạch Phá Thiên nói: “Con không dám nói nữa. Nếu con sớm nghĩ đến hai bàn tay có chất độc mà cột lại từ trước, chỉ dùng đơn đao động thủ cùng người thì không đến nỗi… không đến nỗi…” Chàng nói tới đây, chợt nghĩ ra nếu mình thừa nhận đã đánh chết Thông Hư, Chiếu Hư thì nhất định phải gặp rắc rối, liền im miệng không nói nữa.

Nhưng Thiên Hư đã động tâm, thét lên: “Bàn tay ngươi có độc ư? Hai vị đạo trưởng Chiếu Hư và Thông Hư trúng phải chất độc của ngươi mà chết phải không? Hai tấm bài đồng là do ngươi lấy cắp ư?” Quần đạo đã tra kiếm vào vỏ, bây giờ lại rút trường kiếm ra, nổi lên những tiếng loảng xoảng.

Thạch Phá Thiên thở dài nói: “Đáng lẽ cháu không muốn hại chết họ. Chẳng ngờ vừa giơ tay lên là các vị đã ngã lăn ra, không nhúc nhích được nữa.”

Xung Hư tức giận đến cực điểm, nhìn Thạch Thanh lớn tiếng hỏi: “Thạch sư đệ! Bây giờ phải xử trí thế nào, sư đệ nói cho ta hay?”

Thạch Thanh ruột rối như bòng bong, ngoảnh đầu nhìn lại thấy Mẫn Nhu nước mắt chạy quanh, vẻ mặt cực kỳ hoảng loạn. Ông cắn răng nói: “Chúng ta phải lấy nghĩa khí sư môn làm trọng. Thằng súc sinh này đi đến đâu là gieo tai rắc họa đến đó, vợ chồng tiểu đệ không thể che chở được. Xin chưởng môn sư ca cứ việc xử trí.”

Xung Hư nói: “Hay lắm!” Lão vung trường kiếm lên, toan xông lại tấn công.

Mẫn Nhu vội la lên: “Khoan đã!”

Xung Hư nhìn bà, lạnh lùng hỏi: “Sư muội còn gì để nói?”

Mẫn Nhu run run đáp: “Hai vị sư huynh Chiếu Hư và Thông Hư hiện giờ chưa chết, không chừng… không chừng còn có thể cứu được.”

Xung Hư ngửa mặt lên trời cười ha hả, rồi lạnh nhạt nói: “Hai vị sư đệ đã trúng phải chất kịch độc như vậy, khi nào còn sống được? Sư muội nói câu này có phải để giải buồn cho người khác hay không?”

Mẫn Nhu cũng biết là vô vọng. Bà nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Hài nhi! Trong lòng bàn tay hài nhi có chất độc gì vậy? Liệu còn cách nào giải được không?” Bà vừa hỏi vừa chạy đến bên chàng, nói tiếp: “Ta chắc rằng trong bọc hài nhi phải có thuốc giải.” Bà giả vờ đưa tay ra mò vào bọc áo chàng, nhưng lại nói thầm vào tai: “Trốn mau đi, trốn mau đi! Gia gia cùng má má không cứu được hài nhi đâu.”

Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi la lên: “Gia gia má má ư? Ai là gia gia má má của con?”

Xung Hư đã nhắc đi nhắc lại mấy lần hai chữ “lệnh lang”, song Thạch Phá Thiên không hiểu “lệnh lang” là tiếng xưng hô con trai người đối diện. Còn vợ chồng Thạch Thanh kêu chàng bằng “hài nhi”, chàng lại cho đây là một tiếng thông thường để gọi người nhỏ tuổi. Chàng chưa ngờ tới chuyện vợ chồng Thạch Thanh lại nhận lầm mình là con trai.

Giữa lúc ấy, chàng cảm thấy sau lưng mình nhói lên một cái. Thì ra Thạch Thanh đã dí mũi kiếm vào sau lưng chàng, rồi nói: “Sư muội! Chúng ta không thể vì thằng súc sinh này mà bỏ mất nghĩa khí sư môn. Nó không trốn được đâu.” Giọng nói của Thạch Thanh đầy vẻ đau khổ.

Mẫn Nhu run run hỏi: “Hài nhi! Hai vị sư bá đã trúng kịch độc, Con thật sự… thật sự không có thuốc để giải cứu hay sao?”

Linh Hư đứng bên Mẫn Nhu thấy sắc mặt bà xám ngắt thì nghĩ ngay đến chuyện bọn nữ nhân chuyện gì cũng dám làm. Y sợ bà động thủ ngăn cản hoặc vung kiếm tự tử, liền đưa năm ngón tay ra nắm lấy cổ tay bà rồi đoạt lấy thanh trường kiếm. Lúc này, Mẫn Nhu để hết tâm thần vào Thạch Phá Thiên, không lưu ý đến những chuyện chung quanh, vì thế mà Linh Hư đạo nhân đoạt được thanh trường kiếm trong tay bà một cách dễ dàng.

Thạch Phá Thiên thấy Linh Hư tấn công Mẫn Nhu liền la lên: “Lão làm gì thế?” Chàng vươn tay phải ra toan đoạt lại thanh trường kiếm cho Mẫn Nhu. Linh Hư rút kiếm ra khỏi vỏ, kiếm phong vừa đụng vào bàn tay Thạch Phá Thiên, chàng hạ thấp tay xuống, xoay lại toan nắm lấy cổ tay Linh Hư. Đây là chiêu thức Cửu Liên Hoàn trong mười tám đường cầm nã thủ mà Đinh Đang đã truyền dạy cho chàng. Trong chiêu lại có chiêu, tất cả thay đổi chín lần.

Cửu Liên Hoàn tuy là một chiêu cầm nã kỳ diệu, nhưng làm sao qua mặt được một tay cao thủ trong Thượng Thanh Quán? Linh Hư quát lên một tiếng: “Hay lắm!”, đồng thời xoay kiếm lại gạt. Đột nhiên người y lảo đảo rồi ngã lăn ra.

Thì ra chất độc trong bàn tay Thạch Phá Thiên đã nhân lúc chàng thi triển Cầm Nã Thủ mà xô ra. Khi Linh Hư quát lên một tiếng rồi hít vào một hơi chân khí, liền bị trúng độc ngay. Quần đạo cực kỳ kinh hãi, không tự chủ được đều lùi lại mấy bước. Ai nấy cả kinh thất sắc tưởng chừng như gặp phải ma quỷ.

Thạch Phá Thiên biết mình lại gây ra đại họa. Chàng thấy quần đạo tuy lùi ra nhưng đều lăm lăm trường kiếm trong tay, chuyển động thân hình vây mình vào giữa. Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Nếu mình muốn xông ra khỏi vòng vây, nhất định lại làm mấy người mất mạng.” Chàng đưa mắt nhìn Linh Hư thì thấy hai tay y đang ôm bụng quằn quại, rõ ràng đang đau bụng không thể chịu được.

Quần đạo Thượng Thanh Quán đều nội lực thâm hậu, không phải như quần chúng Thiết Xoa Hội vừa trúng độc là chết ngay, nên còn chống đỡ được mấy giờ. Thạch Phá Thiên nhớ lại hai vị nghĩa huynh là Trương Tam, Lý Tứ sau khi trúng độc trong đại sảnh dưới địa đạo cũng có vẻ đau bụng kịch liệt như thế. Sau đó Trương Tam dạy chàng phương pháp cứu trị, nên đã giải được chất kịch độc trong nội thể hai người. Chàng lập tức nâng Linh Hư ngồi dậy.

Quần đạo bốn phía vung kiếm lên, kiếm quang lấp loáng. Mọi người thủ thế, tưởng chừng như muốn đâm tới Thạch Phá Thiên, nhưng chàng đang vội cứu người nên hoàn toàn không để ý đến. Chàng ấn tay trái vào huyệt Linh Đài ở sau lưng, tay phải vào huyệt Đản Trung trước ngực Linh Hư, theo phương pháp Trương Tam đã truyền thụ, tay trái thúc đẩy chân khí vào nội thể y, còn tay phải hút chất độc ra.

Quả nhiên chỉ trong thời gian uống cạn tuần trà, Linh Hư thở phào một cái, cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Thằng lỏi chết đâm này!”

Mọi người đều nổi tiếng hoan hô như sấm dậy. Linh Hư ngoác miệng ra mà chửi tục, thật không đúng với phong độ của người xuất gia phải thanh tu. Nhưng câu chửi này khiến cho ai nấy đều biết rằng tính mạng của y đã vãn hồi được.

Mẫn Nhu mừng đến rơi nước mắt. Bà nói: “Hài tử! Hai vị sư bá Chiếu Hư và Thông Hư đã trúng độc, con mau cứu trị cho hai vị đi.” Bà chưa dứt lời đã thấy hai đạo nhân ôm Chiếu Hư và Thông Hư chỉ còn thoi thóp thở đến trước mặt Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên lại làm theo phương pháp vừa rồi. Nhưng hai vị này đã trúng độc khá lâu, nên chàng cứu trị mỗi người phải mất thời gian cháy tàn nén hương mới hút được chất độc ra. Lúc Chiếu Hư tỉnh lại cũng lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó!” Thông Hư lại còn chửi tệ hại hơn: “Đồ chó lộn giống, lớn mật dám phóng độc vào ông nội nó.”

Vợ chồng Thạch Thanh mừng rỡ khôn xiết, dù nghe hai vị sư ca chửi bậy có liên quan đến mình, nhưng cũng không lấy thế làm bất mãn mà chỉ cười thầm, nghĩ bụng: “Hai vị sư ca đã tu hành bấy lâu, lúc bình thời thì phong độ chính khí như bậc cao nhân đắc đạo, mà lúc nóng tiết lên cũng buông lời thô tục.”

Mẫn Nhu lại bảo: “Hài tử! Hai tấm đồng bài của sư bá có phải con đã lấy đi hay không? Con trả lại cho sư bá đi, má má không cần đâu.”

Thạch Phá Thiên kinh hãi lẩm bẩm “Má má ư?” Chàng lấy bài đồng trong bọc ra trả lại cho Chiếu Hư rồi lẩm nhẩm tự hỏi: “Bà là… bà là… má má của ta ư?”

Thiên Hư đạo nhân buông một tiếng thở dài, nhìn Thạch Thanh, Mẫn Nhu nói: “Sư đệ, sư muội! Chúng ta cáo biệt từ đây!” Lão nghĩ rằng không còn có ngày gặp nhau nữa, nên không dùng câu “hậu hội hữu kỳ”. Thiên Hư nói xong liền dẫn quần đạo cáo từ đi ngay.

Hồi 13: Tình cốt nhục

Thạch Phá Thiên cứ ngẩn ngơ nhìn Mẫn Nhu, trong lòng đầy mối nghi ngờ. Mẫn Nhu hai mắt đẫm lệ, mỉm cười nói: “Thằng con ngốc nghếch này! Ngươi… ngươi không nhận ra gia gia cùng má má ư?” Rồi bà giang hai tay ra ôm chàng vào lòng.

Thạch Phá Thiên từ ngày có hiểu biết, chưa được người nào thương mến thật tình. Trong lúc này, lòng chàng đối với Mẫn Nhu vừa cảm kích lại vừa kính yêu, xiết bao xúc động, không biết nói thế nào cho phải. Hồi lâu chàng mới ấp úng: “Ông ấy… Thạch trang chúa là gia gia của cháu ư? Cháu thật sự chưa biết. Nhưng… nhưng… bà không phải má má của cháu. Cháu đang đi tìm má má đây.”

Mẫn Nhu thấy Thạch Phá Thiên không nhìn nhận mình thì lòng se thắt lại, cơ hồ sa lệ. Bà nói: “Thật là tội nghiệp! Chuyện này không thể trách con được. Đã xa cách bấy nhiêu năm, con không nhận ra được gia gia, má má nữa là phải. Khi con rời Huyền Tố trang mới đứng đến bụng má má, mà bây giờ đã cao hơn cả gia gia rồi. Tướng mạo con cũng biến đổi khá nhiều. Hôm gặp con trong miếu Thổ địa, nếu gia gia không biết trước con đã bị Bạch Vạn Kiếm bắt đi thì khó mà nhận ra con được.”

Thạch Phá Thiên càng nghe Mẫn Nhu nói càng thấy ngạc nhiên. Mẫu thân chàng mập mạp thấp lùn, da mặt vàng khè, bé nhỏ hơn Mẫn Nhu nhiều. Khi nào chàng nhìn lầm được? Chàng ấp úng nói: “Thạch phu nhân! Phu nhân nhận lầm rồi. Cháu… cháu không phải là con của phu nhân đâu.”

Mẫn Nhu quay lại nhìn Thạch Thanh, không kìm nổi đôi dòng nước mắt, run rẩy nói: “Thanh ca! Thanh ca xem thằng nhỏ này…”

Thạch Thanh thấy Thạch Phá Thiên không nhìn nhận cha mẹ thì nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này tâm địa sâu xa, không muốn nhận cha mẹ hẳn là có thâm ý chi đây. Không chừng vì gã đã gây nên đại họa ở thành Lăng Tiêu, làm điều càn rỡ ở bang Trường Lạc mà danh tiếng xấu xa, nên không còn mặt mũi nào nhìn nhận cha mẹ nữa, lại sợ chúng ta trách phạt. Có khi gã lại sợ làm liên lụy đến cha mẹ cũng nên.” Ông nghĩ vậy liền hỏi: “Vậy ngươi có phải là Thạch bang chúa ở bang Trường Lạc không?”

Thạch Phá Thiên nói: “Ai cũng kêu cháu là Thạch bang chúa, nhưng thực ra không phải. Họ nhận lầm mà thôi.”

Thạch Thanh lại hỏi: “Thế tên ngươi là chi?”

Thạch Phá Thiên vẻ mặt bâng khuâng nói: “Cháu cũng không biết. Má má thường kêu cháu là Cẩu Tạp Chủng.”

Vợ chồng Thạch Thanh đưa mắt nhìn nhau, cùng nhận thấy Thạch Phá Thiên nói rất thành khẩn, hoàn toàn không có ý gì là lừa dối hay giấu giếm. Thạch Thanh đưa mắt ra hiệu cho Mẫn Nhu, rồi hai người lùi ra xa hơn mười bước. Thạch Thanh hỏi nhỏ: “Thằng nhỏ này có đúng là Ngọc nhi hay không? Chúng ta đã nghe nói Ngọc nhi làm bang chúa bang Trường Lạc. Nhưng người đã làm chúa tể một bang, khi nào lại ngớ ngẩn thế được?”

Mẫn Nhu nghẹn ngào đáp: “Ngọc nhi xa lìa song thân đã mười mấy năm, khi lớn lên thì thân hình cùng tướng mạo thay đổi rất nhiều. Nhưng, nhưng… tiểu muội nhận thấy nó đúng là con của chúng ta.”

Thạch Thanh nghĩ ngợi một lúc lâu, lại hỏi: “Trong lòng muội không có chút nào hoài nghi ư?”

Mẫn Nhu đáp: “Hoài nghi thì có, nhưng không hiểu tại sao tiểu muội vẫn tin chắc nó… nó đúng là con của chúng ta. Còn vì lý do gì, thì muội thật sự không thể nghĩ cho rõ được.”

Thạch Thanh sực nhớ ra một chuyện, liền nói: “Ồ! Đúng rồi! Sư muội có nhớ chuyện con tiểu tiện nhân kia đã hạ thủ hại mình không? Ngày đó…”

Đây là những việc mà vợ chồng họ suốt đời không thể quên được, nhưng không ai muốn nhắc tới. Thạch Thanh cũng chỉ nói có một câu, rồi thôi không nói tiếp nữa. Mẫn Nhu hiểu ra, bèn đáp: “Đúng rồi! Để muội kể lại cho nó biết.” Bà lại bên khối đá lớn ngồi xuống, quay lại nhìn Thạch Phá Thiên vẫy tay nói: “Hài tử, lại đây! Má má có câu chuyện này muốn nói với hài nhi.”

Thạch Phá Thiên vâng lời tiến lại. Mẫn Nhu trỏ phiến đá lớn bảo chàng ngồi xuống bên cạnh, rồi nói: “Hài tử! Lúc con mới lên một tuổi, một con nữ tặc đến gia hại má má. Gia gia con vắng nhà, còn má má mới sinh hạ em con chưa đầy một tháng, thì làm gì đủ hơi sức để đối phó với con nữ tặc kia? Con nữ tặc này tàn ác vô cùng, chẳng những định giết má má, mà còn muốn sát hại cả con cùng em con nữa.”

Thạch Phá Thiên khiếp sợ hỏi ngay: “Thế rồi y có giết chết cháu không?” Rồi chàng bật cười nói tiếp: “Cháu thật là hồ đồ. Dĩ nhiên là y chưa giết chết con.”

Mẫn Nhu vẫn không cười. Bà nói tiếp: “Má má tay trái bồng con, tay phải cầm kiếm, cố gắng duy trì tính mạng mấy mẹ con. Con nữ tặc kia võ công thật là ghê gớm, may mà đến lúc nguy cấp thì gia gia con về tới nơi. Con nữ tặc liền phóng ra ba mũi Kim Tiền Tiêu. Má má hất được hai mũi đi, còn mũi thứ ba bắn trúng vào sau mông con. Má má vừa hốt hoảng vừa mệt nhọc, ngất đi. Con nữ tặc thấy gia gia con về đến, liền bỏ trốn. Không ngờ lòng dạ nó rất là ác độc, lúc chạy trốn còn tiện tay bồng em con đi. Gia gia con vội lại cứu má má, trong lòng vẫn lo sợ nữ tặc còn có đồng đảng ẩn núp gần đó, sẽ thừa cơ giết hại má má, nên gia gia không dám rượt theo. Vả lại gia gia con nghĩ rằng nữ tặc kia… nữ tặc kia thật sự cũng chẳng hại con nít làm gì, bắt đi chỉ để hăm dọa mà thôi. Ngờ đâu đến ngày thứ ba, con nữ tặc kia cho người đưa thi thể em con đến trả. Ở chỗ trái tim đứa bé chưa đầy tháng còn cắm hai thanh đoản kiếm, một thanh hắc kiếm và một thanh bạch kiếm. Trên hai thanh kiếm lại khắc tên gia gia và má má vào…”

Mẫn Nhu kể tới đây, nước mắt tuôn ra như mưa. Thạch Phá Thiên nghe chuyện, khí tức xông lên tận cổ. Chàng nói: “Mụ nữ tặc này thật là ác quá! Đứa con nít đã biết gì, mà mụ cũng hạ độc thủ sát hại? Nếu không thế thì cháu đã có một đứa em rồi, như thế hay biết bao nhiêu? Thạch phu nhân! Sao má má cháu không kể cho cháu biết?”

Mẫn Nhu sa lệ nói: “Hài tử! Chẳng lẽ con thật sự đã quên cả người mẹ đã sinh ra con sao? Ta… ta chính là má má của con.”

Thạch Phá Thiên nhìn chăm chú vào mặt Mẫn Nhu, rồi từ từ lắc đầu đáp: “Không phải đâu! Phu nhân nhận lầm rồi.”

Mẫn Nhu nói: “Năm xưa mụ nữ tặc đã phóng Kim Tiền Tiêu trúng vào mông trái của con. Bây giờ tuy con đã lớn rồi, nhưng mũi tiêu kia nhất định hãy còn dấu vết. Con hãy cởi áo ra để mẹ xem thử.”

Thạch Phá Thiên ấp úng: “Hài nhi… hài nhi…” Chàng nghĩ tới trên vai mình có vết răng Đinh Đang cắn vào, trên đùi có vết kiếm thành sáu đóa tuyết hoa của Liêu sư thúc đâm vào, đều là những chuyện mà chàng không biết chi hết, nhưng lúc cởi áo ra xem lại thì vết sẹo còn rành rành trên da thịt. Chuyện này chàng đã nghĩ mãi mà vẫn không hiểu nổi. Bây giờ Thạch phu nhân lại nói chàng có vết thương do Kim Tiền Tiêu phóng trúng mông, chàng lại sợ có vết tiêu thật cũng chưa biết chừng.

Thạch Phá Thiên liền thò tay sờ vào mông trái của mình, thấy dường như chẳng có vết thương nào hết. Nhưng hai lần trước chàng đã thấy đúng rồi, nên trong lòng không khỏi hồi hộp, vẻ kinh hãi lộ ra ngoài mặt.

Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Ta là mẹ ruột sinh ra con, chẳng biết đã phải thay đổi tã lót đến bao nhiêu lần thì còn gì phải thẹn nữa? Thôi được! Hài nhi cứ để gia gia xem thử.” Bà nói xong, quay lưng tránh ra mấy bước.

Thạch Thanh nói: “Hài tử! Con cởi quần ra để gia gia xem cho.” Thạch Phá Thiên lại thò tay xuống sờ vào mông của mình lần nữa, vẫn chẳng thấy vết sẹo gì. Bấy giờ chàng mới cởi dây lưng kéo trễ quần xuống, quay đầu nhìn lại thì thấy trên mông trái quả có một vết thẹo dài chừng bảy tám phân. Nhưng vì lâu ngày quá nên dấu vết chỉ còn lờ mờ, nhìn kỹ mới thấy.

Thạch Phá Thiên kinh hãi vô cùng. Chàng tưởng chừng như trời đất quay cuồng, tựa hồ mình đã biến thành một con người xa lạ nào khác mà mình chẳng biết chi hết. Chàng sợ quá không nhịn được, bỗng khóc òa lên.

Mẫn Nhu vội quay lại, Thạch Thanh nhìn bà gật đầu, ra hiệu chàng đúng là Ngọc nhi. Mẫn Nhu vừa hớn hở vui mừng lại vừa thương xót Thạch Phá Thiên. Bà ôm chặt chàng vào lòng, sa lệ dỗ dành: “Ngọc nhi! Ngọc nhi! Con đừng sợ hãi gì hết. Dù gặp việc tày đình, cũng có gia gia cùng má má che chở cho con.”

Thạch Phá Thiên vừa khóc vừa nói: “Bao nhiêu việc về trước con chẳng nhớ tí gì hết, không biết bà là má má, ông là gia gia của con. Con không biết trên mông mình có vết thẹo như thế. Con chẳng nhớ gì… chẳng biết tí gì hết…”

Thạch Thanh hỏi: “Công lực của Ngọc nhi thâm hậu như vậy là đã học được ở đâu?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Con cũng không biết.”

Thạch Thanh lại hỏi: “Vậy công phu độc chưởng Ngọc nhi mới học mấy hôm nay là do ai truyền thụ?”

Thạch Phá Thiên lại càng kinh hãi đáp: “Không có ai dạy cho con cả. Sao… sao bất luận điều gì con cũng thấy mơ hồ. Chẳng lẽ con thật sự đúng là Thạch Phá Thiên, là Thạch bang chúa ư? Con họ Thạch, và là con ruột của hai vị ư?”

Thạch Phá Thiên sợ đến tái mặt, hai tay nắm lấy cạp quần để quần khỏi bị rơi xuống. Chàng quên mất cả chuyện cột dây lưng quần lại. Vợ chồng Thạch Thanh thấy chàng sợ hãi đến mức như vậy cũng lộ vẻ cực kỳ thương xót. Mẫn Nhu không ngừng xoa đầu chàng, dịu dàng khuyên dỗ: “Ngọc nhi! Ngọc nhi! Con đừng sợ hãi gì.”

Thạch Thanh cũng dẹp bao nhiêu phẫn hận mấy năm nay sang một bên, bụng bảo dạ: “Mình đã thấy có người vì bị trọng thương ở đầu, hoặc vì bị bệnh nặng mà mất trí quên hết những việc trước đây. Chứng này, gọi là Ly hồn chứng gì gì đó, rất khó chữa trị cho phục hồi như cũ. Chẳng lẽ… Ngọc nhi mắc phải chứng bệnh này hay sao?” Ông chỉ nghĩ bụng vậy thôi, chứ không dám nhắc đến chuyện này cùng vợ. Ngờ đâu chính Mẫn Nhu cũng nghĩ thế, bất giác hai người đưa mắt nhìn nhau rồi cùng buột miệng lên tiếng: “Ly hồn chứng.”

Thạch Thanh đã nghe nói những người mắc phải chứng bệnh này thì càng tra hỏi càng bệnh nặng hơn, chỉ có cách nói xa nói gần để từ từ trợ giúp người ta lấy lại trí nhớ. Ông liền nói bằng một giọng rất ngọt ngào: “Hôm nay chúng ta cốt nhục trùng phùng, thật là vui mừng không sao nói hết. Hài tử! Con chắc chắn đã đói bụng rồi. Chúng ta đi về phía trước mua ít rượu thịt mà ăn nhé.”

Thạch Phá Thiên vẫn như người mất hồn, tự mình nói mình nghe: “Con… Rốt cuộc con là ai?”

Mẫn Nhu đưa tay ra thắt dây lưng cẩn thận lại cho Thạch Phá Thiên, rồi hỏi bằng một giọng rất dịu dàng: “Hài nhi! Con có bao giờ bị té nặng mà đau đầu không? Đã từng động thủ với ai rồi bị người ta đả thương vào đầu không?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Không có! Không có!”

Mẫn Nhu lại hỏi: “Vậy mấy năm nay con có bị trọng bệnh, sốt cao quá không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Bị bệnh thì có. Mấy tháng trước con bị phát sốt, toàn thân nóng như bị thiêu đốt trong một lò lửa lớn, rồi sau lại lạnh toát cả người. Ngày ấy… con đang ở trong núi, ngất đi rồi không biết gì nữa.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu hỏi ra căn bệnh của Thạch Phá Thiên thì trong bụng mừng thầm, đồng thời thở phào nhẹ nhõm. Mẫn Nhu chậm rãi nói: “Hài nhi bất tất phải lo ngại. Chỉ vì con bị bệnh nặng, sốt cao quá đâm ra mê sảng, nên quên hết những việc ngày trước mà thôi. Dần dần rồi con sẽ khỏi.”

Thạch Phá Thiên nửa tin nửa ngờ, ngập ngừng hỏi: “Bà là má má cháu thật ư? Thạch… Thạch trang chúa là gia gia của cháu ư?”

Mẫn Nhu nói: “Đúng thế! Hài nhi! Gia gia con cùng ta đi kiếm con khắp nơi, may ông trời thương xót khiến cho ba người cả nhà ta đoàn tụ. Hài nhi… sao hài nhi không gọi gia gia?”

Thạch Phá Thiên tin là Mẫn Nhu không lừa gạt mình, mà chính mình lại chưa biết cha, nên chỉ chần chừ một chút rồi hướng về phía Thạch Thanh cất tiếng gọi: “Gia gia!”

Thạch Thanh mỉm cười bảo chàng: “Hài nhi gọi má má đi!”

Thạch Phá Thiên nghe Thạch Thanh bảo mình kêu Mẫn Nhu bằng má má, thì lấy làm khó nghĩ hơn. Chàng nhớ rõ tướng mạo má má chàng khác hẳn Mẫn Nhu. Mấy năm trước đây má má đã bỏ chàng ra đi không thấy trở về. Bà ta tóc đã hoa râm rồi chứ không còn đen láy như Mẫn Nhu. Tính tình của má má lại nóng nảy dữ dội, động mở miệng là chửi mắng, động cất tay là đánh đập, đâu có dịu dàng ôn hòa như Mẫn Nhu? Nhưng chàng thấy vẻ mặt Mẫn Nhu ra chiều khao khát, đợi một lúc chưa thấy chàng kêu bằng má má thì hai mắt đỏ hoe. Thạch Phá Thiên thấy thế trong lòng không nỡ, khẽ cất tiếng gọi: “Má má!”

Mẫn Nhu mừng rỡ, đưa tay ôm Thạch Phá Thiên vào lòng thủ thỉ: “Con ngoan, con ngoan của ta!” Hai hàng châu lệ chảy xuống ròng ròng.

Khóe mắt Thạch Thanh cũng ướt, nhưng ông nghĩ bụng: “Thằng nhỏ này đã có những hành vi tội lỗi ở thành Lăng Tiêu và bang Trường Lạc, tội thật đáng chết, làm sao gọi là con ngoan được?” Nhưng ông lại nghĩ chàng vì mắc bệnh mà đổi tính, nhất thời không nên nổi giận. Rồi ông tự nhủ: “Con người phạm tội biết hối cải là quý. Sau này mình giáo huấn đàng hoàng, biết đâu nó chẳng ăn năn hối cải?”

Ông lại nghĩ tới chàng từ nhỏ phải xa rời cha mẹ, bản thân mình không chăm nom dạy dỗ thì cũng phải gánh một phần tội lỗi. Có điều Huyền Tố Song Kiếm thanh danh lừng lẫy mà sinh hạ ra thằng nhỏ bất tiếu này, thật là xấu hổ với bạn hữu giang hồ.

Trong lòng Thạch Thanh cùng lúc nổi lên rất nhiều tư tưởng như sóng cồn, vui mừng cũng có mà tức giận cũng có. Mẫn Nhu nhìn sắc mặt trượng phu, liền hiểu rõ tâm sự ngay. Bà chỉ sợ Thạch Thanh tra vấn đến tội lỗi của con, liền nói: “Thanh ca! Ngọc nhi! Ta đói lắm rồi! Chúng ta mau đi kiếm gì ăn đi.” Rồi bà chúm môi huýt một tiếng sáo, đôi tuấn mã một trắng một đen chạy lại ngay.

Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Hài nhi! Con cùng má má cỡi con ngựa trắng.” Thạch Thanh thấy vợ đã mười mấy năm trời ít khi vui vẻ được như hôm nay. Ông cũng bất giác hớn hở trong lòng, mỉm cười nhảy vọt lên lưng con ngựa đen. Thạch Phá Thiên cùng Mẫn Nhu cưỡi chung con ngựa trắng, men theo con đường lớn chạy về phía trước.

Thạch Phá Thiên xiết nỗi hoài nghi. Chàng tự hỏi: “Thạch phu nhân đúng là má má của mình hay sao? Nếu đúng, thì người nuôi mình từ nhỏ đến lớn không phải là má má ư?”

Đôi ngựa chạy được mấy dặm, bỗng thấy bên đường có một ngôi chùa nhỏ. Mẫn Nhu nói: “Chúng ta hãy vào chùa vái lạy đức Bồ Tát.” Bà nói xong, xuống ngựa đi vào. Thạch Thanh cùng Thạch Phá Thiên cũng theo sau.

Thạch Thanh vốn biết vợ mình trước nay không tin ở quỷ thần, thế mà hôm nay bà tiến vào điện rồi quỳ xuống trước một pho tượng Phật, khấu đầu không ngớt. Ông quay lại nhìn Thạch Phá Thiên, trong lòng đột nhiên vô cùng cảm kích, tự nhủ: “Thằng nhỏ này tuy là một đứa hư đốn, đã làm rất nhiều việc bừa bãi, nhưng thực ra mình còn thương yêu nó hơn cả tính mạng của mình. Nếu có người định sát hại nó, thì ta nhất định phải liều mạng bảo toàn cho nó. Hôm nay phụ tử được trùng phùng, trời phật đối với Thạch Thanh này cũng là ơn trọng như núi.” Ông nghĩ vậy, cũng quỳ xuống dập đầu hành lễ.

Thạch Phá Thiên đứng bên, nghe Mẫn Nhu cầu khẩn rất khẽ: “Xin Phật Như Lai phù hộ, che chở cho hài nhi của đệ tử được mau lành bệnh. Nó còn nhỏ dại chưa biết gì đã làm nên tội nghiệt. Kẻ làm mẹ là đệ tử xin gánh vác hết mọi trách phạt, dù sấm sét búa rìu đệ tử cũng cam lòng chịu đựng, quyết không thoái thác. Chỉ cầu mong con của đệ tử từ nay về sau biết hối cải làm lại cuộc đời, không bị tai nạn gì, mãi mãi bình an hỉ lạc.”

Mẫn Nhu chỉ lâm râm cầu khẩn rất khẽ, nhưng Thạch Phá Thiên nội công cao cường, mắt tinh tai thính khác hẳn người thường, nên chàng nghe rõ hết từng chữ. Bất giác bầu nhiệt huyết của chàng sôi lên sùng sục, tự nhủ: “Nếu Thạch phu nhân không phải là mẹ ruột của mình thì đâu có tốt với mình đến thế? Vậy mà mình còn không chịu kêu người bằng má má, thì thật là hồ đồ đến cực điểm.” Trong lòng xúc động, chàng nhảy xổ đến sau lưng Mẫn Nhu, ôm lấy hai vai bà gọi luôn mấy tiếng: “Má má! Má má! Má má đúng là mẫu thân của hài nhi!”

Vừa rồi chàng xưng hô một cách miễn cưỡng lẽ nào Mẫn Nhu lại không hiểu? Bây giờ bà nghe chàng gọi mình một cách thương yêu thành thực, phát xuất tự đáy lòng, liền quàng tay lại ôm lấy Thạch Phá Thiên gọi nhỏ: “Con trai tội nghiệp của má má!”

Thạch Phá Thiên bỗng nhớ tới người mẹ đã ở với mình mười mấy năm trong núi hoang. Tuy bà ta đối với chàng chẳng có tình cảm gì, nhưng mẹ con đã nương tựa nhau mà sống bấy nhiêu năm, lòng chàng vẫn quyến luyến không lúc nào quên. Chàng không nhịn được liền hỏi: “Vậy má má trước kia của hài nhi bây giờ ở đâu? Chẳng lẽ… chẳng lẽ người đã lừa gạt hài nhi hay sao?”

Mẫn Nhu nhẹ nhàng xoa đầu chàng nói: “Má má của hài nhi ngày trước hình dạng thế nào? Hài nhi thử nói cho ta nghe.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Người… đầu tóc đã đốm bạc, thấp hơn má má chừng nửa cái đầu. Người không biết võ công nhưng rất hay nổi giận. Người hay trợn mắt nhìn con, thường đánh mắng con.”

Mẫn Nhu hỏi: “Bà ấy xưng là mẹ của con, vậy cũng kêu con là hài tử hay sao?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Không! Người kêu con bằng Cẩu Tạp Chủng.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu bất giác động tâm nghĩ bụng: “Người đàn bà kia kêu Ngọc nhi bằng Chó Lộn Giống, tức là rất căm giận vợ chồng mình. Chẳng lẽ mụ… mụ… chính là người đàn bà đó?”

Mẫn Nhu vội hỏi: “Phải chăng người đàn bà đó mặt trái xoan, nước da trắng trẻo, tướng mạo rất đẹp, khi cười trên mặt có một lúm đồng tiền?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Không phải! Má má đó người mập mạp, nước da nửa vàng nửa đen, suốt ngày cằn nhằn, rất ít khi cười. Còn má lúm đồng tiền là cái gì?”

Mẫn Nhu thở phào một cái rồi nói: “Thì ra không phải là bà ấy. Hài nhi! Tối hôm ấy trong miếu Thổ Địa, má má không cẩn thận để mũi kiếm đâm trúng hài nhi. Vết thương đó thế nào?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Thương thế nhẹ lắm, chỉ qua mấy ngày là khỏi.”

Mẫn Nhu lại hỏi: “Hài nhi làm thế nào mà trốn thoát được khỏi tay Bạch Vạn Kiếm? Con trai chúng ta thật là giỏi, ngay cả Khí Hàn Tây Bắc cũng không giữ được.” Câu sau cùng, dĩ nhiên là Mẫn Nhu nói với Thạch Thanh, giọng điệu đầy vẻ đắc ý.

Hôm ở trong miếu Thổ Địa, Thạch Thanh cùng Bạch Vạn Kiếm đã tỉ đấu có đến hàng ngàn chiêu, ông rất bội phục kiếm thuật tinh thâm của Bạch Vạn Kiếm. Bây giờ ông nghe vợ nói vậy thì không ra vẻ tán đồng, liền bảo: “Đừng khen con quá, coi chừng lại nuông chiều mà làm hư nó.”

Thạch Phá Thiên nói: “Không phải tự hài nhi trốn thoát được, mà là nhờ Đinh Bất Tam gia gia cùng Đinh Đinh Đang Đang cứu ra.”

Vợ chồng Thạch Thanh nghe đến tên Đinh Bất Tam đều giật mình kinh hãi, vội hỏi Thạch Phá Thiên cho rõ sự tình. Câu chuyện này khá dài, Thạch Phá Thiên lần lượt đem thuật lại từ gốc đến ngọn, Đinh Bất Tam cùng Đinh Đang đã cứu chàng, về sau Đinh Bất Tam muốn giết chàng. Đinh Đang dạy chàng cầm nã thủ pháp, Đinh Đang liệng chàng sang thuyền khác…

Mẫn Nhu lại hỏi đến những việc về trước. Thạch Phá Thiên liền kể lại những việc chàng cùng Đinh Đang bái thiên địa, lúc trở về bang Trường Lạc bị Bạch Vạn Kiếm bắt, gặp Sử bà bà cùng A Tú trên sông Trường Giang, cùng Đinh Bất Tứ tỉ võ, Sử bà bà lúc ở trên đảo Tử Yên thu chàng làm đại đệ tử phái Kim Ô. Chàng lần lượt kể đến những việc gặp chiếc thuyền chở xác chết bọn Phi Ngư Bang, rồi cùng Trương Tam Lý Tứ kết bái huynh đệ, đại náo Thiết Xoa Hội rồi lạc vào Thượng Thanh Quán.

Lúc Thạch Phá Thiên gặp những tay kỳ sĩ giang hồ, chàng cứ lơ mơ chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, nên bây giờ thuật lại không khỏi có nhiều chỗ lẫn lộn. Nhưng Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu chất vấn từng chút một, trong mười phần hai người cũng hiểu đến tám chín. Hai người càng nghe càng lấy làm kinh ngạc, đầu óc mỗi lúc một thêm nặng nề.

Thạch Thanh lại hỏi đến Thạch Phá Thiên đã vào bang Trường Lạc trong trường hợp nào. Thạch Phá Thiên liền kể lại chuyện bắt chim sẻ trên Ma Thiên Nhai, rồi thuật ngược lại việc xảy ra ở quán bánh tiêu tại Hầu Giám Tập và được Mẫn Nhu tặng bạc. Những chuyện Tạ Yên Khách cướp mất hai thanh kiếm Hắc Bạch của song thân, lão đưa chàng về Ma Thiên Nhai làm gì, nhất nhất chàng thuật lại hết.

Vợ chồng Thạch Thanh không ngờ đứa ăn xin dơ dáy năm xưa đã gặp ở Hầu Giám Tập lại chính là con mình. Mẫn Nhu hồi tưởng đến tình cảnh thằng nhỏ ăn xin lưu lạc gian truân, lòng bà se lại. Thạch Thanh nghĩ thầm: “Tính ra thì mình gặp Ngọc nhi ở Hầu Giám Tập đúng vào thời kỳ Ngọc nhi trốn khỏi thành Lăng Tiêu chưa lâu. Vậy mà sao bọn Cảnh Vạn Chung cũng không nhận ra nó?” Thạch Thanh nghĩ tới đây liền ngắm kỹ lại diện mạo Thạch Phá Thiên.

Ngày ở Hầu Giám Tập, chàng còn là một gã ăn xin nhỏ tuổi, ông chỉ nhớ mang máng gã mặc áo quần lam lũ, mặt mũi lem luốc. Thạch Thanh bèn cho là khi chàng ở thành Lăng Tiêu trốn đi, dọc đường để mặt mũi dơ dáy ăn xin, không chừng lại còn cố ý bôi bùn đất lên mặt để bọn Cảnh Vạn Chung không nhận diện được. Còn vợ chồng mình đã không gặp nó nhiều năm, trẻ con thay đổi rất nhanh, không nhận ra cũng là dễ hiểu.

Ông lại hỏi tiếp: “Hôm đó ở ngoài tiệm bán bánh tại Hầu Giám Tập, thấy sư thúc Cảnh Vạn Chung cùng các vị tới nơi, Ngọc nhi có sợ không?” Mẫn Nhu vốn không muốn chồng nhắc tới chuyện phái Tuyết Sơn, nhưng bây giờ ông đã nói ra thì không ngăn trở được nữa. Bà chau mày, ra chiều lo lắng cho cậu con cưng sắp bị người cha nghiêm khắc truy vấn.

Bỗng nghe Thạch Phá Thiên nói: “Cảnh Vạn Chung đại hiệp là sư thúc của hài nhi thật hay sao? Khi ấy con không biết họ đến bắt mình, nên chẳng sợ chi hết.”

Thạch Thanh hỏi: “Khi ấy Ngọc nhi không biết họ đến bắt mình sao? Ngươi… ngươi không biết Cảnh Vạn Chung là sư thúc mình thật ư?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Hài nhi không biết.”

Mẫn Nhu thấy mặt chồng như phủ một đám mây mờ, biết ông đang tức giận vô cùng nhưng còn cố nén. Bà liền nói: “Hài nhi! Con người ta ai mà không phạm lỗi lầm, nhưng có lỗi mà biết hối cải thì thật là chuyện tốt. Những hành động trước kia hài nhi đã làm, đương nhiên không có cách nào sửa chữa được nữa. Nhưng gia gia cùng má má thương yêu con hơn cả tính mạng mình, vậy con đừng giấu giếm điều chi, cứ kể hết mọi việc cho gia gia má má nghe. Phong sư phụ đối đãi với con thế nào?”

Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Phong sư phụ? Phong sư phụ là ai?” Chàng nhớ lại lúc ở trong miếu Thổ Địa đã nghe song thân cùng Bạch Vạn Kiếm nhiều lần nhắc đến tên Phong Vạn Lý, liền hỏi tiếp: “Có phải là Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý không? Hài nhi đã nghe gia gia cùng má má nhắc đến tên, nhưng chưa từng gặp mặt ông ta.”

Vợ chồng Thạch Thanh đưa mắt nhìn nhau. Thạch Thanh lại hỏi: “Còn Bạch gia gia? Lão gia này tình tình nóng nảy lắm phải không?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Hài nhi không quen biết Bạch gia gia nào, chưa từng gặp ông ấy.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu lại hỏi đến những chuyện trong thành Lăng Tiêu phái Tuyết Sơn, thì Thạch Phá Thiên không biết chi hết. Mẫn Nhu nói: “Sư ca! Chứng bệnh này chắc xuất phát ngay từ lúc đó.”

Thạch Thanh gật đầu rồi lẳng lặng không nói gì nữa. Hai người cùng bụng bảo dạ: “Lúc Ngọc nhi ở thành Lăng Tiêu trốn đi, nếu không phải vì rớt xuống núi tuyết mà chấn thương ở đầu óc, thì cũng vì sợ hãi quá độ mà sinh ra mất trí, quên sạch những việc đã qua. Nó có nói đến vụ ở Ma Thiên Nhai và bang Trường Lạc bị bệnh phát hàn phát nhiệt, nhưng gốc bệnh thì chắc đã mang trong người từ mấy năm trước rồi.”

Mẫn Nhu lại dò hỏi đến những việc thuở nhỏ của chàng, Thạch Phá Thiên cứ nói lui nói tới những chuyện trong núi hoang, nào là đi săn thú bẫy chim, nào là dẫn con A Hoàng đi chơi. Rút cục bà chẳng tìm ra được điều gì mới mẻ, tựa hồ mười mấy năm trời từ ngày sơ sinh đến lúc khôn lớn đối với chàng chỉ là một quãng thời gian trống rỗng.

Thạch Thanh lại lên tiếng: “Ngọc nhi! Có một việc rất trọng đại, quan hệ đến sự sống chết an nguy của hài nhi. Ta cần biết là hài nhi đã học võ công phái Tuyết Sơn đến đâu rồi.”

Thạch Phá Thiên ngơ ngẩn đáp: “Lúc hài nhi ở trong miếu Thổ Địa thấy bọn họ luyện kiếm, chỉ nhớ được chút ít mà thôi. Có phải họ nổi giận về chuyện con học lỏm võ nghệ mà định giết con không? Gia gia! Vị Bạch đại hiệp đó cứ nói con là đệ tử phái Tuyết Sơn, con không hiểu là vì lý do gì. Nhưng trên đùi con quả có dấu vết do kiếm thuật phái Tuyết Sơn lưu lại.”

Thạch Thanh quay lại bảo vợ: “Sư muội! Để ta thử kiếm pháp nó xem sao.” Đoạn ông rút kiếm ra nói: “Ngọc nhi hãy dùng kiếm pháp phái Tuyết Sơn tỉ đấu với gia gia, không được giấu giếm.” Mẫn Nhu đưa thanh trường kiếm của mình cho Thạch Phá Thiên, gắng mỉm cười để trấn an chàng.

Thạch Thanh từ từ phóng kiếm đâm tới. Thạch Phá Thiên vung kiếm lên gạt. Chàng sử chiêu Sóc Phong Đột Khởi trong kiếm pháp phái Tuyết Sơn. Chiêu này tuy hơi giống nhưng không đúng hẳn, để lộ hàng trăm chỗ sơ hở.

Thạch Thanh hơi nhíu cặp lông mày. Ông không để hai thanh kiếm chạm vào nhau, vừa biến chiêu vừa bảo: “Ngọc nhi trả đòn đi!” Thạch Phá Thiên dạ một tiếng, nghiêng chếch thanh kiếm đi rồi bổ xuống. Chiêu này chàng đã dùng kiếm làm đao, thi triển Kim Ô Đao Pháp chứ không phải là kiếm pháp.

Thạch Thanh phóng kiếm đâm tới từ từ tới, trong lòng nghĩ: “Thằng nhỏ này dù có tinh ranh đến đâu cũng đừng hòng thi triển võ công mà lừa gạt ta. Con người khi đã đến lúc cách cái chết chỉ chừng sợi tóc, thì tất nhiên không thể sử kiếm một cách giả dối.” Sau đó, những kiếm chiêu của Thạch Thanh đều nhằm yếu huyệt mà phóng tới. Trong lòng Thạch Phá Thiên đã hơi hoang mang, bỗng dưng thi triển những chiêu thức đã đấu với Xung Hư, Thiên Hư, dùng kiếm làm đao mà sử dụng Kim Ô đao pháp.

Thạch Thanh phóng kiếm nhanh như gió, mỗi lúc một thêm thần tốc. Thạch Phá Thiên biết đây là mình chiết chiêu với gia gia, sử dụng Kim Ô đao pháp hoàn toàn không dùng nội lực, chiêu thức của chàng đương nhiên không có chút oai lực nào.

Giả tỉ Thạch Phá Thiên không phải là con Thạch Thanh mà là đối thủ của ông thì đã mất mạng rồi. Đến chiêu thứ mười ông có thể xuyên kiếm qua ngực chàng, đến chiêu thứ hai mươi ba có thể đưa kiếm hớt đứt đầu chàng. Đến chiêu thứ hai mươi tám thì Thạch Phá Thiên lại càng sơ hở. Dưới bụng, vai trái, đùi phải, trước ngực, cả bốn chỗ đều khó lòng tránh khỏi mũi kiếm của đối phương.

Thạch Thanh đưa mắt nhìn vợ lắc đầu. Ông rung lưỡi kiếm, nhằm đâm vào bụng, phía dưới mỏ ác. Thạch Phá Thiên chân tay luống cuống, đưa kiếm lên gạt bừa một cái, bật lên một tiếng choang. Thanh kiếm trong tay Thạch Thanh lập tức bị bắn văng đi, đồng thời ông bị tức ngực nghẹn thở, phải lùi lại đến bốn năm bước. Luồng đại lực của Thạch Phá Thiên xô đẩy ông loạng choạng đến mức đứng không vững.

Thạch Phá Thiên la hoảng: “Gia gia! Gia gia làm sao thế?” Chàng liệng trường kiếm đi, hấp tấp chạy lại nâng đỡ phụ thân. Thạch Thanh thấy đầu óc choáng váng, vội phong tỏa hơi thở, xua tay ra hiệu cho chàng đừng đến gần.

Thì ra lúc Thạch Phá Thiên luống cuống vận sức đỡ gạt, chất kịch độc trong người chàng tự nhiên bị luồng nội lực xô đẩy mạnh mà phát tán ra ngoài. May mà Thạch Thanh đã biết trước, nín hơi không hô hấp nên mới không bị trúng độc nặng. Nhưng ông cũng bị một ít chất độc thấm vào nội thể nên đầu óc hơi choáng váng.

Mẫn Nhu rất lo lắng cho trượng phu, vừa chạy lại nâng đỡ Thạch Thanh, vừa hỏi Thạch Phá Thiên: “Gia gia chỉ muốn thử võ công của hài nhi, mà sao hài nhi lại ra tay nặng đến thế?”

Thạch Phá Thiên kinh hãi vô cùng, ấp úng: “Gia gia! Con… con không phải rồi. Gia gia! Gia gia không bị thương chứ?”

Thạch Thanh thấy chàng tỏ tình thân thiết một cách chân thành, thì trong lòng hoan hỉ, được an ủi rất nhiều. Ông mỉm cười, điều hòa hơi thở một chút rồi nói: “Gia gia không hề gì. Sư muội! Muội đừng phiền trách Ngọc nhi. Đích xác là nó không học được kiếm pháp phái Tuyết Sơn. Giả tỉ nó biết chiêu thức thì đã không đến nỗi vô lễ với ta. Nhưng nội lực nó thật là ghê gớm, trong võ lâm chẳng có mấy người hơn được nó.”

Mẫn Nhu biết chồng mình trước nay ít khi ca tụng võ công ai. Bây giờ bà nghe ông khen cậu con cưng thì mặt mày hớn hở nói: “Nhưng võ công nó thật là kỳ cục, phải được gia gia huấn luyện thêm mới xong.”

Thạch Thanh mỉm cười đáp: “Lúc ở trong miếu Thổ Địa, Nhu muội đã huấn luyện nó rồi. Xem chừng đối với đứa con nghịch ngợm này thì nghiêm phụ không khéo bằng từ mẫu được.”

Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Cha con hai người đều đói cả rồi. Chúng ta đi ăn cơm thôi!”

* * *

Ba người đưa nhau vào thị trấn ăn một bữa cơm ngon. Hôm nay Mẫn Nhu vui mừng khôn xiết, ăn được nhiều hơn một chén. Ba người ăn xong lại vào một khu núi hoang, Thạch Thanh đem những chỗ vi diệu về kiếm pháp giải thích từng chiêu từng thức cho Thạch Phá Thiên nghe.

Thạch Phá Thiên mấy tháng nay đã gặp được rất nhiều cao thủ, lĩnh ngộ được không ít võ học. Bây giờ chàng lại được Thạch Thanh là một tay kiếm pháp siêu quần chỉ điểm cho, nên mau chóng hiểu rõ và quán thông tất cả. Sử bà bà tuy nhận chàng làm đồ đệ nhưng ở cạnh nhau chẳng được bao lâu, mới dạy xong bảy mươi ba chiêu Kim Ô đao pháp đã chia tay. Huống hồ Sử bà bà cũng chưa từng chỉ điểm cặn kẽ như Thạch Thanh, tựa hồ chỉ mong chàng khắc chế được kiếm pháp phái Tuyết Sơn, hoàn toàn không có mong muốn gì khác. Trong lúc dạy đao, bà nói tới nói lui toàn là chuyện làm sao đánh bại kiếm pháp của phái Tuyết Sơn, không giống như Thạch Thanh dạy rõ đạo lý võ học trong binh khí và quyền cước.

Vợ chồng Thạch Thanh thay nhau chỉ điểm cho chàng đến nơi đến chốn, vạch cho chàng thấy những chỗ sơ hở khi xuất chiêu. Ngày trước ở trong miếu Thổ Địa, Mẫn Nhu đã truyền dạy kiếm pháp cho chàng nhưng không tiện lên tiếng nên kết quả kém hôm nay rất nhiều.

Thạch Phá Thiên gặp chỗ nào nghi vấn khó hiểu cũng lập tức hỏi lại. Vợ chồng Thạch Thanh nghe chàng hỏi, thì biết rằng kể cả những đạo lý thô thiển nhất của võ học chàng cũng hoàn toàn không biết, nên càng hiểu rõ thì càng trách phái Tuyết Sơn ích kỷ, dạy dỗ con mình không đúng cách. Hai người giận dữ vô cùng.

Thạch Phá Thiên nội lực bền bỉ, chuyên tâm luyện kiếm từ trưa đến tối chẳng thấy mệt nhọc chút nào. Chàng luyện võ cả nửa ngày trời mà mặt vẫn không đỏ, vẫn giữ được hơi thở điều hòa. Vợ chồng Thạch Thanh thay phiên nhau dạy chàng đến lúc cả hai mệt lả, mồ hôi đầy người.

Thạch Phá Thiên cứ thế học võ công được bảy tám ngày, tiến bộ rất mau. Chàng cũng lĩnh hội không ít kiếm pháp của Thượng Thanh Quán do cha mẹ truyền thụ. Trong những ngày này, vợ chồng Thạch Thanh cứ thừa lúc bữa ăn hay nghỉ giải lao mà dẫn dụ chàng nhắc tới những chuyện ngày xưa, mong rằng có thể giúp chàng khôi phục lại trí nhớ. Nhưng những việc sau khi tỉnh lại ở tổng đà bang Trường Lạc thì chàng kể ra vanh vách, dù là việc nhỏ cũng thuật lại được rõ ràng. Còn những việc hồi nhỏ ở Huyền Tố Trang, hoặc lúc học võ ở thành Lăng Tiêu thì chàng cứ ngơ ngác chẳng biết gì cả.

Một hôm sau giờ ngọ, ba người ăn cơm xong lại đến dưới gốc cây liễu chỗ hàng ngày luyện kiếm ngồi nói chuyện. Mẫn Nhu lượm một cành cây nhỏ viết xuống đất bốn chữ Hắc Bạch Phân Minh rồi hỏi Thạch Phá Thiên: “Ngọc nhi! Con còn nhớ được bốn chữ này không?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Hài nhi không biết chữ.” Vợ chồng Thạch Thanh giật mình kinh hãi vì con mình trước khi rời khỏi nhà đã được Mẫn Nhu dạy hơn ngàn chữ, nào Tam Tự Kinh, nào Đường thi đã đọc làu làu, thế mà bây giờ lại nói không biết chữ.

Hắc Bạch Phân Minh là bốn chữ viết trên bức hoành phi lớn treo ở giữa sảnh đường tại Huyền Tố Trang, do một danh gia trong võ lâm viết để tặng Thạch Thanh. Bốn chữ này rất hợp với ngoại hiệu Hắc Bạch Song Kiếm, lại ngụ ý khen vợ chồng họ chủ trì công lý, nâng đỡ kẻ yếu, áp chế cường đồ. Năm Thạch Phá Thiên bốn tuổi đã biết bốn chữ này, Mẫn Nhu đã ôm con vào lòng, hai vợ chồng đều khen nó thông minh. Lúc này bà viết mấy chữ này mong gợi cho chàng từ đó mà nhớ lại việc cũ. Ngờ đâu Thạch Phá Thiên đã quên mất cả bốn chữ mình học hồi bốn tuổi.

Mẫn Nhu lại cầm cành cây vạch xuống đất một chữ “nhất” rồi mỉm cười hỏi: “Chữ này thì Ngọc nhi còn nhớ không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Hài nhi không biết chữ nào hết. Chưa có ai dạy con học chữ.” Trong lòng Mẫn Nhu đau khổ vô cùng, mắt bà long lanh như sắp phải trào lệ ra ngoài.

Thạch Thanh bảo: “Ngọc nhi! Con qua bên kia ngồi nghỉ đi!” Thạch Phá Thiên vâng lời, nhưng chàng lại cầm kiếm đem ra chỗ khác luyện tập.

Thạch Thanh khuyên nhủ vợ: “Sư muội! Ngọc nhi đã bị bệnh nặng lắm, không thể một sớm một chiều mà chữa khỏi được.” Ông ngừng một chút rồi nói tiếp: “Vả lại, Ngọc nhi mà quên hết những việc đã qua, cũng chưa chắc là hoàn toàn không tốt. Thằng nhỏ này trước kia rất phù phiếm hiếu động. Bây giờ tuy nó có hơi… hơi tâm thần bất ổn, nhưng lại thành thực hơn trước nhiều. Thế là tốt hơn đấy chứ.”

Mẫn Nhu nghe Thạch Thanh nói rất có lý liền đổi buồn làm vui, nghĩ bụng: “Không biết chữ thì đã sao? Cùng lắm ta lại dạy cho nó từ đầu là xong.” Bà nghĩ tới những lúc vui vẻ năm xưa khi ngồi dạy dỗ con thì trong lòng nảy ra bao mối yêu thương. Tuy hiện giờ cậu con đã trưởng thành, nhưng trong lòng bà thì nó vẫn ngây thơ ấu trĩ, hồ đồ chẳng biết gì. Bây giờ bà lại cảm thấy vừa hoan hỉ vừa thương xót.

Đột nhiên Thạch Thanh lên tiếng: “Có một điều mà ta vẫn không sao hiểu được, là thằng nhỏ này phải bị ly hồn chứng lúc rời khỏi thành Lăng Tiêu, về sau nó lại mắc chứng hàn nhiệt chi đó thì bất quá cũng làm cho bệnh tật trầm trọng hơn mà thôi. Nhưng… nhưng…”

Mẫn Nhu nghe giọng điệu chồng có vẻ lo lắng, cũng không khỏi hoang mang hỏi lại: “Sư ca đang nghĩ tới chuyện gì vậy?”

Thạch Thanh nói: “Ngọc nhi về văn tài thì không biết một chữ, về võ công cũng chẳng lấy gì làm cao minh, chỉ được nội công thâm hậu mà thôi. Còn về lịch duyệt, mưu cơ thì nó lại càng tệ hại. Thế mà mấy năm nay bang Trường Lạc lại trở nên một bang phái lớn trên chốn giang hồ, chỉ trong tám chín năm đã khởi nên đại nghiệp. Sao họ có thể…”

Mẫn Nhu gật đầu nói: “Đúng vậy! Làm sao họ lại đưa một đứa con nít lên làm bang chúa?”

Thạch Thanh trầm ngâm một chút rồi nói: “Lần trước chúng ta qua Từ Châu, được nghe Lỗ Đông Tam Hùng nói đến người sáng lập Trường Lạc Bang tên là Tư Đồ Hoành, làm bang chúa cũng không giỏi giang gì, nhưng phó bang chúa là Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch lại là một tay kiệt hiệt. Rồi không hiểu sao chức bang chúa lại giao cho một thiếu niên tên là Thạch Phá Thiên. Lỗ Đông Tam Hùng còn nói bang chúa bang Trường Lạc tên gọi Thạch Phá Thiên, là người mê hoa đắm sắc, hành vi xảo trá, võ công cao cường. Đáng lẽ không ai biết được lai lịch của hắn, nhưng về sau một nữ đệ tử phái Tuyết Sơn là Hoa Vạn Tử nhận ra hắn đúng là Thạch Trung Ngọc, một tên phản đồ phái đó. Lúc đó phái Tuyết Sơn đang đi đến bang Trường Lạc để đòi người. Nhưng bây giờ chúng ta có thấy nó hành vi xảo trá, võ công cao cường gì đâu? Tám chữ này thật không xứng với nó chút nào.”

Mẫn Nhu nhíu mày nói: “Chúng ta cứ tưởng Ngọc nhi tuy còn nhỏ tuổi mà đã mưu cơ quỷ quyệt ghê gớm, nếu võ công nó lại cao cường thì làm bang chúa cũng chẳng có chi kỳ lạ. Lúc đó chúng ta cũng chẳng hoài nghi gì, chỉ bàn cách cứu nó ra để khỏi mắc vào độc thủ của phái Tuyết Sơn. Nhưng tình trạng như thế này thì…” Bà trầm ngâm một lúc, đột nhiên cao giọng nói tiếp: “Sư ca! Trong vụ này nhất định có một âm mưu gì ghê gớm lắm. Sư ca thử nghĩ xem, Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch là một người rất tinh tế thâm trầm, có thể làm việc này…”

Bà nói tới đây bỗng trong lòng phát sợ, giọng nói cũng run rẩy đi. Thạch Thanh hai tay chắp sau lưng, từ từ dạo bước quanh gốc cây liễu, miệng không ngớt lẩm bẩm: “Bảo nó làm bang chúa là vì cái gì… vì cái gì?” Ông đi quanh gốc liễu được năm vòng, tự nhiên trong đầu vụt nảy ra một tia sáng, rồi hiểu rõ mọi sự. Ông thấy mọi chi tiết đều rất phù hợp, chỉ vì câu chuyện đáng sợ quá nên chưa dám nói ra.

Thạch Thanh đi quanh gốc cây hết vòng thứ bảy, quay lại nhìn vợ thì thấy mục quang Mẫn Nhu cũng hướng về phía mình. Bốn mắt chạm nhau, đều lộ ra thần sắc vô cùng sợ hãi. Hai vợ chồng sững sờ nhìn nhau một chập, rồi đột nhiên cùng nói lên: “Thưởng Thiện Phạt Ác!”

Bốn chữ “Thưởng Thiện Phạt Ác” vang lên, Thạch Phá Thiên đứng đằng xa cũng nghe rõ. Chàng vội chạy lại hỏi: “Gia gia! Má má! Thưởng Thiện Phạt Ác là cái gì vậy? Lúc ở Thiết Xoa Hội hài nhi đã nghe thấy người ta nói tới, cả những vị đạo trưởng ở chùa Thượng Thanh cũng đề cập đến mấy lần.”

Thạch Thanh không trả lời câu hỏi của chàng. Ông hỏi lại: “Lúc Ngọc nhi cùng bọn Trương Tam, Lý Tứ kết nghĩa anh em, họ có biết Ngọc nhi là bang chúa bang Trường Lạc không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Họ không nói gì tới chuyện đó, chắc là không biết.”

Thạch Thanh lại hỏi: “Tình hình lúc Ngọc nhi cùng họ thách nhau uống rượu độc ra sao? Ngọc nhi hãy kể tỉ mỉ cho ta nghe.”

Thạch Phá Thiên kinh ngạc hỏi: “Đó là rượu độc ư? Sao hài nhi uống vào lại chẳng việc gì?” Rồi chàng đem chuyện gặp Trương Tam, Lý Tứ ra sao, tình hình uống rượu ăn thịt thế nào, thuật lại từ đầu đến cuối.

Thạch Thanh lẳng lặng nghe chàng kể hết, suy nghĩ một lúc lâu rồi nói: “Ngọc nhi! Có việc này ta cần nói rõ cho con biết, bây giờ may ra còn có thể cứu vãn được. Ngọc nhi bất tất phải kinh hãi và hoảng sợ…” Ông ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Ba mươi năm trước đây, trong võ lâm có rất nhiều môn phái lớn cùng bang hội lớn. Những vị thủ lĩnh của các môn phái bang hội này đều kẻ trước người sau nhận được thiệp mời, mời họ vào ngày tám tháng chạp năm đó đến Hiệp Khách Đảo ngoài Nam Hải để ăn cháo Lạp Bát.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Đúng rồi! Nhiều người nghe nói tới chuyện đến Hiệp Khách Đảo để ăn cháo Lạp Bát thì rất sợ hãi, không biết là lý do gì. Cháo Lạp Bát có độc hay sao?”

Thạch Thanh nói: “Chuyện đó thì không ai biết được. Các thủ lĩnh của môn phái cùng bang hội lớn này nhận được thiệp mời bằng đồng bài đó…”

Thạch Phá Thiên hỏi xen vào: “Họ dùng đồng bài làm thiếp mời ư? Có phải là hai tấm bài đồng đó không?”

Thạch Thanh đáp: “Đúng lắm, chính là hai tấm bài đồng mà Ngọc nhi đã lấy được trong mình Chiếu Hư sư bá. Trên một tấm khắc bộ mặt tươi cười tức là Thưởng Thiện, còn tấm kia khắc bộ mặt tức giận hung dữ là Phạt Ác. Người đưa bài đồng là hai gã thiếu niên một mập một gầy.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Thiếu niên ư?” Chàng nghĩ ngay đến Trương Tam Lý Tứ, nhưng gọi họ là thiếu niên thì không đúng.

Thạch Thanh nói: “Đây là chuyện ba mươi năm về trước, khi ấy họ còn nhỏ tuổi. Những vị thủ lĩnh các bang các phái khi nhận được đồng bài đó, hỏi chủ nhân mời khách là ai, thì hai vị sứ giả kia chỉ đáp: “Khi tới nơi dĩ nhiên sẽ biết rõ”. Rồi họ còn nói: “Người nhận được thiếp mời mà đến nơi đúng hẹn thì bình yên vô sự, còn không thì cả môn phái bang hội chẳng thể tránh khỏi đại họa lâm đầu.” Dĩ nhiên người ta phải tự hỏi nên đi hay không đi.”

“Người nhận được bài đồng đầu tiên là Húc Sơn đạo trưởng của phái Thanh Thành ở Xuyên Tây. Ông ta cười rộ lên rồi nắm hai tấm bài đồng trong tay, vận nội lực bóp bẹp, vo viên lại. Đạo trưởng khét tiếng về nội công trên giang hồ lúc bấy giờ, tin chắc rằng hai gã thiếu niên ngông cuồng kia thấy vậy phải lùi bước. Ngờ đâu hai gã thiếu niên đó vừa thấy bài đồng bị bóp nát thì đột nhiên phóng ra bốn chưởng đánh vào trước ngực Húc Sơn đạo trưởng, giết chết vị lãnh tụ ở Xuyên Tây.”

Thạch Phá Thiên “ồ” lên một tiếng rồi hỏi: “Họ hạ thủ ác độc đến thế ư?”

Thạch Thanh lại nói tiếp: “Lúc ấy dĩ nhiên là quần đạo phái Thanh Thành hợp lực lại để công kích. Ngày ấy võ công hai gã thiếu niên còn chưa ghê gớm bằng sau này, thế mà chúng đoạt được hai thanh trường kiếm, hạ sát ba vị đạo nhân rồi mới bỏ đi. Phái Thanh Thành thanh thế lẫy lừng, Húc Sơn đạo trưởng danh vọng hơn đời, thế mà chịu để hai gã thiếu niên hỗn xược đến tận nơi hạ sát chưởng môn cùng môn hạ rồi yên ổn bỏ đi. Vụ này chỉ nửa tháng sau là đồn đại khắp giang hồ.”

“Hai mươi hôm sau, Điêu lão tiêu đầu của Tây Trúc tiêu cục ở Dự Châu mở đại tiệc mừng thọ lục tuần, khách khứa đến rất đông. Hai gã thiếu niên kia đột ngột đến nơi, đưa bài đồng ra. Tân khách vốn đang xôn xao bàn luận về vụ này, vừa thấy chúng đến liền nổi lòng công phẫn, nhất tề bao vây lại tấn công. Không ngờ hai gã thiếu niên này lại ung dung chạy thoát. Ba hôm sau, Điêu lão tiêu đầu cùng ba mươi mạng người của Tây Trúc tiêu cục đều bị giết sạch không rõ ràng. Ngay bọn tiêu sư, chạy cờ cũng phải chết, chỉ còn lại những người già yếu và đàn bà trẻ con. Ngay cổng chính Tây Trúc tiêu cục có đóng hai tấm bài đồng này.”

Thạch Phá Thiên thở một hơi rồi nói: “Hài nhi lần đầu được nhìn thấy hai tấm bài đồng này là đóng trên cửa khoang thuyền đựng đầy xác chết của Phi Ngư Bang. Không ngờ rằng… không ngờ rằng đó là thiếp mời của Diêm Vương gửi tới.

Thạch Thanh nói: “Vụ này truyền tụng ra ngoài, mọi người đều muốn thỉnh chưởng môn nhân Diệu Đế đại sư của phái Thiếu Lâm ra mặt lãnh đạo võ lâm đối phó. Không ngờ khi đến Thiếu Lâm Tự thì những tăng nhân trong chùa nói là phương trượng đại sư đã ra ngoài vân du chưa về. Họ nói chuyện ấp úng, xem ra có vẻ không thật. Mọi người liền lên Võ Đang định tìm chưởng môn nhân là Ngu Trà đạo chưởng, không ngờ những đạo nhân trong Chân Võ Quán cũng buồn rầu nói là chưởng môn đã xuất quan rồi. Mọi người đều phải suy nghĩ là hai cao thủ tuyệt đỉnh võ lâm này đồng thời đột nhiên mất tích, nếu không phải là trúng độc thủ của sứ giả Hiệp Khách Đảo, thì cũng đã đi trốn tai họa này rồi. Thiện Bản trưởng lão của Ngũ Đài Sơn và Khổ Bách đạo trưởng của phái Côn Lôn bèn ra mặt mời các chưởng môn phái lớn trong võ lâm cùng thương nghị tìm cách đối phó. Họ bèn cử người đi khắp nơi để điều tra lại lịch của hai sứ giả này.”

“Hai vị sứ giả thật là thần xuất quỷ mạt, khi đối phương có chuẩn bị đề phòng thì tìm đâu cũng không thấy bóng hai người, nhưng khi cảnh giới vừa hơi lỏng lẻo là chúng không biết từ ở đâu chui ra để truyền hai miếng lệnh câu hồn. Hai người này chẳng những hành tung xuất quỷ nhập thần, bản lãnh cao cường mà còn thiện nghề dùng độc. Thiện Bản trưởng lão, Khổ Bách đạo nhân vừa nhận được đồng bài là lập tức hủy đi. Ngay lúc ấy thì họ không sao, nhưng sau một tháng thì hai người kế tiếp nhau phát bệnh kỳ quái mà chết. Mọi người đều cho là Thiện Bản trưởng lão cùng Khổ Bách đạo nhân võ công quá cao, hai sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác biết mình không thể dùng võ công để thủ thắng. Họ liền bôi chất kịch độc trên bài đồng, ai sờ vào sẽ bị nhiễm độc chết người.”

Thạch Phá Thiên nghe mà không khỏi nổi da gà. Chàng nói: “Chẳng lẽ hai vị nghĩa huynh Trương Tam, Lý Tứ của hài nhi lại là… lại là hạng người độc ác đó ư? Họ kiếm chuyện rắc rối với các môn phái, bang hội rốt cuộc là vì lý do gì?”

Thạch Thanh lắc đầu nói: “Ba mươi năm nay, cũng không ai hiểu được chuyện này cho thấu đáo. Diệu Đế phương trượng phái Thiếu Lâm, Ngu Trà đạo trưởng phái Võ Đang, hai người tự nhiên mất tích. Nhiều năm sau mới lộ ra chút xíu tin tức, quả nhiên hai vị này đã được mời đi Hiệp Khách Đảo. Ngoài chùa Thiếu Lâm đã có trận ác đấu bảy ngày bảy đêm, còn trên núi Võ Đang thì không có động thủ, chắc là Ngu Trà đạo trưởng vừa rút kiếm ra đã thua rồi. Một tăng một đạo này võ công trên giang hồ khó ai sánh kịp. Lại thêm vào Húc Sơn đạo nhân phái Thanh Thành, Điêu lão tiêu đầu của Tây Trúc tiêu cục, Thiện Bản đại sư của phái Ngũ Đài, Khổ Bách đạo nhân của phái Côn Lôn, bốn vị kế tiếp nhau mắc độc thủ. Các nhân vật võ lâm khác tự biết võ công của mình so với sáu cao thủ này còn kém rất xa, nên khi nhận được đồng bài thì có người đồng ý đi ăn cháo Lạp Bát. Hai vị sứ giả bèn nói: “Các vị chịu ghé thăm, Hiệp Khách Đảo vinh hạnh vô cùng. Đến ngày ấy tháng ấy, các vị hãy tới chỗ này chỗ nọ, sẽ có người đón tiếp xuống thuyền.” Trong năm đó, có cả thảy mười bốn vị chưởng môn, bang chúa bị hai sứ giả ra mặt tấn công hoặc ngấm ngầm ám toán, dùng ám khí có mà hạ độc cũng có. Lại có ba mươi bảy người đồng ý đi dự tiệc, nhưng ba mươi bảy người này đi rồi không thấy tung tích đâu nữa. Đến nay đã ba chục năm vẫn chưa nhận được tin tức gì.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Hiệp Khách Đảo ở chỗ nào ngoài Nam Hải? Sao không tụ họp đông người tới đó để cứu ba mươi bảy người kia ra?”

Thạch Thanh nói: “Người ta đã đem ba chữ Hiệp Khách Đảo hỏi khắp các vị lão luyện về nghề hàng hải mà chưa một ai nghe thấy. Dường như không có đảo này, chỉ là chuyện hai gã thiếu niên kia bịa đặt ra. Thế rồi từng năm này cứ trôi qua, chỉ trừ con cháu thân nhân mấy chục gia đình đó là còn nhớ tới, ngoài ra ai cũng lãng quên dần đi. Không ngờ qua mười năm sau, hai tấm bài đồng này lại xuất hiện trên chốn giang hồ.”

“Lần này võ công hai sứ giả lại tiến bộ rất nhiều. Mới trong vòng mười ngày mà ba môn phái, hai bang hội lớn đã bị giết sạch hơn trăm người vì không chịu dự yến tiệc. Vụ này làm cho giang hồ náo động, nên mọi người đã mời ba vị trưởng lão của phái Nga Mi ra mặt, triệu tập ba mươi mấy cao thủ mai phục ở tổng đà Hồng Thương Hội tỉnh Hà Nam để chờ hai tên hung thủ này đến. Ngờ đâu hai sứ giả lại né tránh Hồng Thương Hội, thậm chí không bước chân vào tới địa phận tỉnh Hà Nam, cứ tiếp tục đem bài đồng đưa đi các nơi khác. Thủ lĩnh nào chịu tiếp đồng bài, nhận lời đi phó hội, là cả môn phái bang hội từ trên xuống dưới đều được vô sự. Nếu không, thì bất luận đề phòng nghiêm mật đến đâu, sớm muộn cũng mắc phải độc thủ của hai người.”

“Năm đó Sa bang chúa Hắc Long Bang tiếp được đồng bài. Ngay lúc đó ông ta trả lời là đồng ý, nhưng ngấm ngầm phái người đến thông tri cho Hồng Thương Hội biết. Ba mươi mấy cao thủ lập tức lên đường đến chỗ hẹn để mai phục, chẳng hiểu bị tiết lộ cơ mưu thế nào mà chẳng thấy ai đến đón. Mọi người phòng thủ mấy ngày, rồi hết người nọ đến người kia trúng độc mà chết. Số người còn lại sợ quá phải giải tán, nhưng chưa về đến nhà, dọc đường đã nghe tin hoặc là toàn gia ngộ hại, hoặc là toàn bang bị tru diệt. Vì thế mà không ai dám phản kháng nữa, hễ nhận được đồng bài thì cứ theo lệnh mà đi. Năm ấy tổng cộng có bốn mươi tám người lên thuyền đến đảo Hiệp Khách, nhưng ra đi rồi không thấy tung tích đâu nữa, từ đó đến giờ không có chút tin tức nào. Đây thật sự là một kiếp nạn trong võ lâm, ai nghĩ tới cũng không khỏi khủng khiếp than thầm.”

Thạch Phá Thiên rất muốn không tin, nhưng chính mắt chàng đã thấy một thuyền đầy xác chết của bang chúng Phi Ngư Bang, cùng toàn thể hội chúng Thiết Xoa Hội bị giết sạch. Lúc Thiết Xoa Hội bị tiêu diệt, chính chàng đã vô ý trợ lực cho Trương Tam, Lý Tứ. Nghĩ tới đó, chàng không khỏi run sợ.

Thạch Thanh lại kể tiếp: “Mười năm sau nữa, phái Vô Cực tại Giang Tây nhận được đồng bài mời khách của đảo Hiệp Khách đầu tiên. Các vị thủ lĩnh những môn phái bang hội lớn đã bàn định với nhau từ một năm trước, bất luận là ai tiếp được bài đồng đều ưng thuận đi phó hội. Họ đồng ý phen này cùng đến đảo Hiệp Khách xem cho rõ, phải vào hang cọp mới bắt được cọp con. Hết thảy mọi người đồng tâm hiệp lực, may rủi gì cũng quyết trừ khử cho bằng được kẻ thù chung của võ lâm. Vì thế mà năm ấy, bài đồng đưa đến đâu cũng vô sự, không một người nào bị giết. Tất cả năm mươi ba người nhận được đồng bài đều đi dự hội hết. Những người này đều là anh hùng hảo hán, có kẻ võ công tuyệt thế, có người mưu trí hơn đời, nhưng sau khi ra đi rồi cũng mất tích, từ bấy đến nay chẳng thấy chút tăm hơi.”

“Đảo Hiệp Khách quấy nhiễu giang hồ như vậy, khiến cho bao nhiêu nhân tài trong võ lâm có cũng như không, khắp thiên hạ không có một người học võ nào có kế sách hay, đành chịu mười năm một lần để cho họ muốn chém thì chém, muốn giết thì giết. Thượng Thanh Quán của chúng ta vốn ẩn náu trong bóng tối, trước nay không đụng chạm với một ai trên chốn giang hồ. Gia gia cùng má má tuy học võ công tại Thượng Thanh Quán, nhưng ra ngoài hành đạo cũng chỉ dùng danh hiệu Huyền Tố Trang mà thôi. Các vị sư bá sư thúc của con tuy võ công cao cường, nhưng rất ít khi cùng người động thủ. Người ngoài đều cho là các đạo nhân ở Thượng Thanh Quán chỉ chuyên tu tâm dưỡng tánh, không hiểu võ công…”

Thạch Phá Thiên hỏi xen vào: “Phải chăng là các vị sợ Hiệp Khách Đảo?”

Thạch Thanh lộ vẻ khó chịu, ngần ngừ một chút rồi nói: “Các vị sư bá sư thúc hoàn toàn không tranh chấp gì với thế gian, là những đạo sĩ xuất gia thanh tu, không muốn tranh danh đoạt lợi. Nhưng nói là họ sợ Hiệp Khách Đảo cũng không phải là sai. Trong võ lâm, bất luận bang to phái lớn, người nhiều thế mạnh, võ công cao cường, hễ ai nghe nhắc tới ba chữ Hiệp Khách Đảo cũng phải chau mày. Thật không ngờ Thượng Thanh Quán đã giữ gìn nghiêm cẩn đến thế mà cũng không thoát khỏi kiếp vận này.” Ông nói xong, thở dài một tiếng.

Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Gia gia, má má muốn làm chưởng môn Thượng Thanh Quán, phải chăng là để đi Hiệp Khách Đảo thám thính thực hư? Nhưng ba toán người đầy bản lãnh đã ra đi không một ai về được, thì đủ biết là chuyện này cực kỳ khó khăn.”

Thạch Thanh nói: “Dĩ nhiên là khó rồi. Nhưng chúng ta lấy việc cứu khốn phò nguy làm tôn chỉ, huống chi lại là chuyện có liên quan đến sư môn của mình, chẳng lẽ phủi tay đứng nhìn hay sao? Ta và má má của con đều nghĩ, chẳng lẽ ông trời không có mắt, cứ để kẻ ác hoành hành mãi? Võ công của gia gia và má má mà so với Diệu Đế, Ngu Trà, đương nhiên khó mà sánh kịp. Nhưng trước nay tà không thắng chính, không chừng ông trời sẽ mượn tay cha mẹ con mà diệt được Hiệp Khách Đảo, ít ra là khám phá được những bí mật của Hiệp Khách Đảo.”

Ông nói đến đây quay sang nhìn vợ, cả hai cùng nghĩ: “Chúng ta liều mạng xả thân định làm việc lớn này, thật ra cũng vì con. Con gian dâm, phạm thượng, khi sư, thực sự không còn chỗ dung thân trong võ lâm. Vợ chồng ta không còn mặt mũi mà gặp bằng hữu giang hồ, đành lên Hiệp Khách Đảo. Nếu mưu sự không thành đương nhiên mất mạng, nếu có thể lập công cho đồng đạo võ lâm, thì thiên hạ có thể tha lỗi mà không truy cứu tội lỗi của con nữa.” Những điều này thật hết sức đau khổ, họ cũng không muốn nói rõ cho Thạch Phá Thiên biết.

Thạch Phá Thiên suy nghĩ hồi lâu rồi hỏi: “Hai vị nghĩa huynh Trương Tam, Lý Tứ của hài nhi có phải là sứ giả ở Hiệp Khách Đảo được đi đưa bài đồng không?”

Thạch Thanh đáp: “Đúng là như thế, không còn nghi ngờ gì nữa!”

Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Họ đã là người ác, tại sao còn kết bái huynh đệ với hài nhi?”

Thạch Thanh bỗng thấy buồn cười, đáp: “Khi đó Ngọc nhi ngốc nghếch, đưa ra đề nghị ngớ ngẩn đó khiến họ không tiện từ khước. Huống hồ họ phát thệ đó là giả dối, đâu phải là chuyện thật?”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Sao gia gia lại nói là thề giả?”

Thạch Thanh đáp: “Trương Tam, Lý Tứ chắc là tên giả. Họ cứ thề ẩu Trương Tam thế này, Lý Tứ thế nọ thì đã chết ai? Tên họ đã giả, thì bất luận họ nói gì cũng là giả hết.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Thì ra là thế.” Chàng nghĩ đến chuyện hai vị nghĩa huynh đã lừa dối mình thì cũng hơi buồn, nhưng lại cho rằng lập luận của gia gia chưa chắc đã đúng, không chừng họ thật sự là Trương Tam, Lý Tứ thì sao? Chàng bèn nói: “Lần sau gặp họ, con sẽ hỏi cho rõ ràng.”

Mẫn Nhu từ nãy vẫn ngồi yên không lên tiếng, bây giờ bỗng nói xen vào: “Ngọc nhi! Lần sau gặp họ, con phải cẩn thận lắm mới được. Hai người này giết người không nháy mắt. Tỉ đấu đường hoàng không được, thì họ tìm cách ám toán. Ám toán không được thì họ dùng thuốc độc, thật là hung ác đến cực độ.”

Thạch Thanh cũng bảo: “Ngọc nhi phải nhớ lấy lời của mẹ. Đừng nói là con quá thật thà trung hậu, cho dù những người linh mẫn nhạy bén gấp mười con mà gặp phải hai gã sứ giả này cũng khó tránh khỏi độc thủ, thật sự là không thể đề phòng được. Lần sau mà con gặp họ thì lập tức phải xuất chiêu sát thủ, ra tay trước là hơn. Dù chỉ giết được một gã cũng là trừ mối đại hại, tạo phúc cho võ lâm rồi.”

Thạch Phá Thiên ngần ngừ một chút rồi nói: “Hài nhi đã kết nghĩa huynh đệ với họ. Họ là đại ca nhị ca của con, không thể giết được.”

Thạch Thanh buông tiếng thở dài rồi không nói gì nữa. Dường như ông hối hận vì đã lỡ lời bảo con giết nghĩa huynh, làm điều bất nghĩa. Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Sư ca! Chính sư ca cũng nói là Ngọc nhi thật thà trung hậu. Vậy con chúng ta đã ngoan rồi, có đúng thế không?”

Thạch Thanh gật đầu đáp: “Đúng là nó thật sự ngoan ngoãn rồi. Nhưng vì thế mà có người lợi dụng nó để gánh thay tai họa cho họ.” Rồi ông hỏi Thạch Phá Thiên: “Ngọc nhi! Ngọc nhi có biết bang Trường Lạc đưa con lên làm bang chúa là có dụng ý gì không?”

Thạch Phá Thiên vốn không phải là người ngu dốt. Chỉ vì hồi bé chàng ở với mẫu thân tại chốn thâm sơn cùng cốc, lớn lên một chút lại ở với Tạ Yên Khách tại Ma Thiên Nhai, hai người này đều ít khi chuyện trò với chàng, vì thế mà chàng ít hiểu nhân tình thế thái. Bây giờ chàng nghe Thạch Thanh diễn thuyết một phen, lập tức tỉnh ngộ. Chàng thất thanh la lên: “Họ tôn hài nhi làm bang chúa phải chăng… phải chăng là để hài nhi chết thay cho họ?”

Thạch Thanh thở dài nói: “Có thể là vậy. Hiện giờ chưa biết rõ đầu đuôi, chúng ta cũng không nên vội lấy bụng dạ tiểu nhân mà đo lòng người quân tử. Nhưng nếu không phải vậy thì bang Trường Lạc thiếu gì anh hùng hảo hán, lại phải tôn Ngọc nhi là một gã thiếu niên không hiểu việc đời lên làm bang chúa? Bang Trường Lạc mới quật khởi mấy năm gần đây, các lãnh tụ trong bang thấy đã gần đến hạn kỳ đồng bài của Hiệp Khách Đảo tái xuất giang hồ, lần này Trường Lạc Bang nhất định sẽ nhận được thiệp mời. Vì thế mà họ đã chuẩn bị trước một người để làm bang chúa, đến lúc gặp chuyện thì đứng ra gánh lấy kiếp nạn này.”

Thạch Phá Thiên trong lòng thật sự hoang mang, chàng không ngờ lòng người lại hiểm độc đến thế. Nhưng suy luận của gia gia lại hợp tình hợp lý, ai cũng chẳng thể không tin được.

Mẫn Nhu cũng nói: “Hài nhi! Bang Trường Lạc nổi tiếng là một bang phái tệ hại trên giang hồ. Tuy họ cũng không phải chỉ làm việc ác như đốt nhà giết người, nhưng những chuyện lấy mạnh hiếp yếu, giành giật cướp bóc cũng không phải là ít. Hơn nữa, họ cũng không chịu giữ điều nhân nghĩa nên trong võ lâm có rất nhiều người chán ghét bang này. Bọn hương chủ đà chủ trong bang đó, phần nhiều cũng không phải là người tốt. Giả tỉ họ đã sắp xếp cạm bẫy để con chui vào, thì cũng là chuyện dễ hiểu, chẳng lấy chi làm kỳ lạ.”

Thạch Thanh hắng giọng một tiếng rồi nói: “Nếu họ muốn chọn một người ngoài bang để làm bang chúa thì Ngọc nhi quả là thích hợp. Ngọc nhi đã quên hết chuyện cũ, những sóng gió hiểm nghèo trên chốn giang hồ lại hoàn toàn không hiểu. Chỉ có điều họ không bao giờ ngờ tới cậu tiểu bang chúa này lại là con trai của Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu ở Huyền Tố Trang. Vì thế mà mưu tính của họ tưởng đã là như ý, rốt cuộc không được như ý lắm”. Ông nói tới đây, tay cầm thanh kiếm vung lên trỏ về phía Đông, phía tổng đà của bang Trường Lạc.

Mẫn Nhu nói: “Chúng ta đã biết được gian mưu của họ thì chẳng còn lo gì nữa. May ở chỗ Ngọc nhi cũng chưa nhận được tấm bài đồng đó. Thanh ca! Hiện giờ nên làm thế nào?”

Thạch Thanh suy nghĩ một chút rồi nói: “Bây giờ ba chúng ta cùng đến bang Trường Lạc để nói huỵch toẹt việc này ra. Có điều mình tới đó thì bọn họ thẹn quá hóa giận, khó mà tránh khỏi đánh nhau, bên mình chỉ có ba người không thể địch nổi. Hơn nữa, cũng nên có mấy nhân vật nổi danh trong võ lâm đứng ra làm chứng, để tránh khỏi phiền lụy sau này cho Ngọc nhi.”

Mẫn Nhu nói: “Ngân kích Dương Quang đại ca ở phủ Tùng Giang, Giang Nam giao du rất rộng, lại là bạn thân với chúng ta. Chúng ta nên nhờ ông ra mặt để mời đông đảo võ lâm đồng đạo đến bang Trường Lạc một phen.”

Thạch Thanh cả mừng nói: “Kế ấy tuyệt diệu. Bạn bè võ lâm một giải Giang Nam chắc cũng nể mặt vợ chồng mình, mời họ đi là phải.”

Vợ chồng Thạch Thanh nổi tiếng hào hiệp trong võ lâm. Hai mươi năm nay, hai ông bà luôn trọng nghĩa khinh tài, cứu giúp người hoạn nạn, nâng đỡ kẻ khốn cùng. Chỉ có vợ chồng ông cứu giúp người ta, chứ ông bà chưa từng cầu cạnh ai việc gì. Bây giờ ông bà cần trợ giúp, chắc chắn chỉ cần hô lên một tiếng là tập hợp được rất đông.

Hồi 14: Tứ đại môn phái ở Quan Đông

Một nhà ba người nhằm phía Đông Nam mà đi tới phủ Tùng Giang. Đi được ba ngày, một hôm đến tối thì tới trấn Long Câu, ba người liền vào một khách điếm thuê phòng trọ. Vợ chồng Thạch Thanh thuê phòng thượng hạng, còn Thạch Phá Thiên ngủ ở một gian nhỏ riêng biệt. Mẫn Nhu rất thương yêu con trai, cũng muốn thuê một gian phòng lớn liền vách rộng rãi hơn cho chàng ở, nhưng những phòng tốt đều có người trọ cả rồi nên đành chịu vậy.

Tối hôm ấy, Thạch Phá Thiên ngồi xếp bằng trên giường vận công. Chàng thấy toàn thân chân khí đầy rẫy, tinh thần rất sảng khoái. Chàng giơ tay lên ánh đèn nhìn xem, thì thấy những vệt đỏ vệt xanh đã lờ mờ như có như không. Chàng không hiểu là chất độc trong hai bầu rượu đã tiêu hóa khiến cho nội lực mạnh thêm rất nhiều, lại cho là mình cố gắng vận công mấy ngày liền khiến phần chất độc mười đã ép ra đến tám chín, trong lòng rất mừng rỡ. Sau đó chàng ngủ thiếp đi.

Thạch Phá Thiên ngủ tới nửa đêm, bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng gõ nhẹ lách cách. Chàng liền trở mình ngồi dậy, khẽ lên tiếng hỏi: “Ai đó?” Chàng lại nghe thấy cách cách cách, ba tiếng gõ đều đặn. Tiếng gõ kiểu này nghe rất quen tai, bất giác chàng giật mình, hỏi lại: “Có phải Đinh Đinh Đang Đang đó không?”

Ngoài cửa sổ, Đinh Đang khẽ lên tiếng đáp: “Dĩ nhiên là tiểu muội, Thiên ca còn tưởng là ai nữa?”

Thạch Phá Thiên nghe rõ thanh âm Đinh Đang thì vừa vui mừng vừa sợ sệt. Trong lúc thảng thốt chàng chưa biết nói thế nào, bỗng nghe đánh roạt một tiếng, giấy dán cửa bị chọc thủng, rồi một cánh tay thò qua cửa sổ vào, nắm lấy tai chàng giật mạnh một cái.

Đinh Đang lại lên tiếng hỏi: “Sao chưa chịu mở cửa?”

Thạch Phá Thiên nhịn đau không dám lên tiếng, sợ kinh động đến song thân. Chàng vội mở cửa sổ ra. Đinh Đang nhảy vào, cười khanh khách hỏi: “Thiên ca! Thiên ca có nhớ tiểu muội không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Ta… ta… ta…”

Đinh Đang nhõng nhẽo nói: “Được rồi! Thiên ca không nhớ tiểu muội, có đúng thế không? Thiên ca chỉ nhớ đến tân nương tử mới bái thiên địa sau này chứ gì?”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Ta bái thiên địa với ai? Khi nào?”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Chính mắt tiểu muội đã nhìn thấy, còn cãi nữa ư? Thôi được, tiểu muội cũng không trách làm chi, vì Thiên ca đã quen tính phong lưu, mà tiểu muội cũng thích như vậy. Vị tiểu cô nương đó đâu rồi?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Ta có thấy đâu. Lúc sau ta quay về sơn động kiếm hoài mà không thấy đâu nữa.” Chàng nhớ đến vẻ thẹn thùng hiền dịu của A Tú, chợt nghĩ mình sau này khó mà gặp lại nàng, bất giác trong lòng cảm thấy có gì mất mát.

Đinh Đang cười hì hì nói: “Tiểu muội cầu đức Bồ Tát hộ trì, mong Thiên ca vĩnh viễn không gặp cô ta nữa.”

Thạch Phá Thiên lại nghĩ: “Nhất định ta sẽ tìm được A Tú.” Câu này dĩ nhiên chàng không thể nói với Đinh Đang được, nên hỏi qua chuyện khác: “Gia gia của muội đâu rồi? Lão nhân gia vẫn mạnh khỏe chứ?”

Đinh Đang thò tay ra kéo tai chàng một cái, nũng nịu nói: “Huynh không chịu hỏi muội khỏe hay không… Trời ơi, đồ quỷ chết đâm.” Thì ra nội lực trong người Thạch Phá Thiên phát động đã làm cho hai ngón tay nàng bật ngược lại.

Thạch Phá Thiên bèn hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang có khỏe không? Hôm trước ta bị Đinh Đinh Đang Đang liệng xuống sông, may mà rớt trúng vào thuyền mới không bị chết chìm.” Chàng lại nghĩ ngay đến đã cùng nằm chung với A Tú, lại băn khoăn tự hỏi A Tú đi đâu rồi, sao nàng không đợi mình. Mấy ngày nay chàng siêng năng học võ nên dáng dấp A Tú vừa xuất hiện trong đầu là biến mất ngay. Lúc này gặp phải Đinh Đang, chàng bỗng thấy không thể nào quên được A Tú, cứ mải nghĩ đến nàng.

Đinh Đang nói: “Sao lại nói là may mà rớt trúng vào thuyền? Chính tiểu muội cố ý liệng huynh vào đó, chẳng lẽ Thiên ca chưa biết ư?”

Thạch Phá Thiên nói: “Dĩ nhiên ta biết Đinh Đinh Đang Đang đối đãi với ta rất tốt. Có điều… có điều… có cái gì đó rất khó nói ra.”

Đinh Đang phì cười nói: “Thiên ca cùng tiểu muội đã là vợ chồng, còn có điều gì khó nói?” Hai người sóng vai ngồi xuống giường, sát hẳn vào nhau.

Thạch Phá Thiên ngửi thấy mùi hương thoang thoảng trên người Đinh Đang thì không khỏi khoan khoái trong lòng. Nhưng chàng lại nghĩ, nếu A Tú thấy mình ngồi chung với Đinh Đinh Đang Đang như thế này, nhất định sẽ rất buồn rầu. Chàng đưa cánh tay phải lên, muốn quàng qua vai Đinh Đang, nhưng chỉ nhẹ nhàng chạm vào một cái rồi rút tay lại.

Đinh Đang hỏi: “Thiên ca! Thiên ca nói thật đi, tiểu muội đẹp hơn hay là cô vợ mới của Thiên ca đẹp hơn?”

Thạch Phá Thiên thở dài đáp: “Ta có cô vợ mới nào đâu? Ta chỉ có muội… chỉ có một người vợ là muội mà thôi!” Nói xong chàng lại thở ra một hơi nữa, thầm nghĩ: “Nếu A Tú chịu làm vợ mình thì thật là mừng đến chết được. Nhưng không biết mình còn gặp nàng hay không, cũng không biết nàng có chịu làm vợ mình hay không.”

Đinh Đang giơ tay ra ôm lấy cổ chàng, đột nhiên đặt một cái hôn lên môi lang quân, rồi cốc vào đầu chàng một cái mà nói: “Chỉ có một cô vợ là tiểu muội, chê là ít quá phải không? Tại sao lại thở dài?”

Thạch Phá Thiên biết rằng nàng hiểu được tâm sự của mình, khó chịu đến nỗi mặt đỏ bừng lên. Rồi chàng lại bị nàng ôm chặt, thật không biết làm thế nào mới phải. Muốn đẩy ra thì sợ mất đi cảm giác ôn nhu, muốn ôm vào thì lại không dám. Đinh Đang tuy trước nay quen táo tợn muốn sao làm vậy, nhưng dẫu sao vẫn còn là khuê nữ. Vừa rồi nàng không nén được hôn Thạch Phá Thiên một cái, cũng tự cảm thấy xấu hổ. Nàng liền co người nằm vào một góc giường, kéo chăn trùm kín người đi.

Thạch Phá Thiên do dự một chút rồi khẽ cất tiếng gọi: “Đinh Đinh Đang Đang! Đinh Đinh Đang Đang!” Đinh Đang vẫn không trả lời. Thạch Phá Thiên trong lòng chỉ nghĩ đến A Tú, đột nhiên hiểu được ánh mắt của nàng nhìn mình ngày trước. Hôm đó, ở trong rừng nơi Tử Yên đảo, rõ ràng nàng tự ý gọi mình bằng đại ca. Trong lòng chàng mừng rỡ vô cùng, nghĩ bụng: “A Tú chịu làm vợ của ta.” Rồi chàng lại nghĩ: “Nhưng biết đi đâu mà tìm nàng bây giờ?” Chàng lại thở một hơi dài, rồi ngồi vào ghế, gục đầu xuống bàn mà ngủ.

Đinh Đang thấy chàng nhường giường cho mình thì thấy cũng hơi dễ chịu một chút, nhưng không khởi có phần thất vọng. Nàng nghĩ: “Dù sao thì mình cũng đã tìm được chàng.” Mấy ngày nay nàng bôn ba vất vả, bây giờ trong lòng nhẹ nhàng không còn gì phải suy nghĩ, nên chẳng mấy chốc đã đi vào giấc mộng.

* * *

Hai người ngủ cho đến sáng, bỗng nghe có tiếng gõ cửa nhẹ nhàng, rồi giọng Mẫn Nhu gọi: “Ngọc nhi đã dậy chưa?”

Thạch Phá Thiên nghe tiếng gọi, vội đáp: “Má má!” Chàng ngồi nhỏm dậy, đưa mắt nhìn thấy Đinh Đang thì không khỏi chân tay luống cuống.

Mẫn Nhu lại gọi: “Ngọc nhi! Mở cửa ra, mẹ có chuyện muốn nói đây.” Chàng dạ một tiếng, do dự giây lát rồi định rút then mở cửa.

Đinh Đang thẹn quá. Nàng cùng Thạch Phá Thiên đêm khuya chung phòng, tuy hai người vẫn còn giữ lễ, nhưng người ngoài thấy tình trạng này ai mà tin được? Huống chi đây lại là mẹ chồng, nhất định bà sẽ coi thường. Nàng quay đầu lại mở cửa sổ toan nhảy vọt ra ngoài, nhưng liếc mắt nhìn thấy Thạch Phá Thiên thì lại nghĩ bụng: “Dễ gì mà tìm thấy Thạch lang? Phen này chia tay, biết ngày nào mới lại được gặp nhau?” Nàng liền giơ tay ra hiệu cho chàng đừng mở cửa.

Thạch Phá Thiên khẽ nói: “Má má ta đó, không sao đâu.” Hai tay chàng đã chạm vào then cửa.

Đinh Đang nghĩ nhanh như chớp: “Nếu là người khác còn không đáng ngại, nhưng bà là mẫu thân chàng thì lại cần phải giữ gìn.” Nàng toan nhảy qua cửa sổ để trốn chạy thì đã không kịp nữa.

Đinh Đang vốn là một vị cô nương chẳng biết sợ trời sợ đất là gì. Nhưng nàng nghĩ tới chuyện giáp mặt mẹ chồng trong tình trạng khó xử này, không khỏi toàn thân nóng bừng.

Nàng thấy Thạch Phá Thiên muốn rút then cửa, thì trong lúc gấp rút bèn đưa tay trái ra chiêu Hổ Trảo Thủ nắm lấy huyệt Linh Đài, tay phải sử chiêu Ngọc Nữ Niêm Châm điểm vào huyệt Huyền Khu sau lưng Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên chỉ thấy hai chỗ huyệt đạo bị tê đi một chút rồi bất động. Đinh Đang bồng chàng lên, chui vào gầm giường.

Mẫn Nhu là người từng trải giang hồ, vừa nghe tiếng cậu con khẽ rên lên một tiếng, biết ngay là có chuyện rồi. Bà nóng ruột cứu con, huých mạnh vai vào cánh cửa một cái cho then cửa gãy ra. Mẫn Nhu bước vào phòng, thấy cửa sổ mở toang mà chẳng thấy con mình đâu. Bà liền lớn tiếng gọi: “Sư ca! Mau vào đây!”

Thạch Thanh cầm kiếm chạy tới. Mẫn Nhu run rẩy nói: “Ngọc nhi… Ngọc nhi đã bị người ta cướp đem đi rồi!” Bà vừa nói vừa trỏ tay vào cửa sổ. Hai người đồng thời dí đầu ngón chân xuống đất, song song bay qua cửa sổ. Một bóng đen, một bóng trắng như đôi chim khổng lồ vọt ra, thân pháp tuyệt đẹp. Đinh Đang núp dưới gầm giường nhìn thấy, không khỏi khen thầm.

Những cao thủ giàu kinh nghiệm giang hồ như vợ chồng Thạch Thanh, đáng lẽ không bị mắc lừa một cách dễ dàng như vậy, chỉ vì trong lòng nao núng nên tinh thần rối loạn. Mẫn Nhu thấy con trai yêu quý mất tích, trong lòng đã sẵn thành kiến, bà đoán ngay rằng nếu không phải phái Tuyết Sơn thì cũng là bang Trường Lạc đã đến bắt cóc con mình đi. Bà phá cửa vào phòng chỉ sau tiếng rên của Thạch Phá Thiên một khoảnh khắc, nghĩ rằng đuổi nhanh thì kịp, nên bà không kịp quan sát kỹ trong phòng một lần nữa.

Thạch Phá Thiên tuy bị Đinh Đang nắm lấy yếu huyệt, nhưng nội lực chàng ghê gớm nên tự thúc đẩy khai thông được ngay. Có điều người chàng đang bị Đinh Đang ôm chặt, mà chàng cũng không muốn lên tiếng hô hoán song thân. Chàng còn đang ngần ngừ, vợ chồng Thạch Thanh đã bay qua cửa sổ ra ngoài.

Gầm giường đầy bụi cát, Thạch Phá Thiên hít phải hắt hơi luôn ba tiếng. Chàng dắt tay Đinh Đang từ dưới gầm giường chui ra, thì thấy nàng mặt mũi đỏ bừng, ra chiều bẽn lẽn vô cùng. Thạch Phá Thiên nói: “Đó là gia gia cùng má má của ta.”

Đinh Đang đáp: “Tiểu muội biết rồi. Chiều hôm qua, tiểu muội đã nghe thấy Thiên ca gọi hai vị đó.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Đợi lát nữa gia gia cùng má má quay về, Đinh Đinh Đang Đang có ra tương kiến không?”

Đinh Đang ngoẹo đầu nói: “Tiểu muội không muốn gặp gia gia và má má của huynh. Họ đã coi thường ông nội tiểu muội, thì dĩ nhiên cũng coi thường cả tiểu muội.”

Mấy hôm nay Thạch Phá Thiên được ở chung với cha mẹ, nghe chuyện trò khá nhiều. Chàng biết hai ông bà quang minh chính đại, chủ trương làm điều nghĩa hiệp, khác hẳn lối hành sự của Đinh Bất Tam. Chàng im lặng một lát rồi hỏi: “Vậy thì phải làm sao?”

Đinh Đang cũng nghĩ bụng: “Vợ chồng Thạch Thanh chẳng mấy chốc sẽ quay trở lại.” Nàng liền bảo: “Thiên ca qua phòng tiểu muội, để tiểu muội bàn một việc.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi lại: “Đinh Đinh Đang Đang cũng trọ trong khách điếm này ư?”

Đinh Đang cười nói: “Đúng thế! Muội muốn nửa đêm đến bắt chồng, không ở đây thì còn ở đâu?”

Dứt lời, nàng vẫy Thạch Phá Thiên rồi nhảy qua cửa sổ xuống sân, đi qua một khu vườn, nhìn quanh bốn phía không thấy ai, liền đẩy cửa vào một căn phòng nhỏ.

Thạch Phá Thiên vào theo, không thấy Đinh Bất Tam thì rất yên tâm. Chàng hỏi: “Gia gia của Đinh Đinh Đang Đang đâu?”

Đinh Đang đáp: “Tiểu muội trốn đi một mình, gia gia không có ở đây.”

Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Tại sao lại thế?”

Đinh Đang “hứ” một tiếng rồi đáp: “Tiểu muội đến đây tìm Thiên ca, gia gia mà biết nhất định không cho đi. Vì thế tiểu muội phải đi một mình.”

Thạch Phá Thiên cảm động nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Muội đối với ta thật hết lòng.”

Đinh Đang mỉm cười hỏi lại: “Tối hôm qua Thiên ca ăn nói chẳng có tình cảm gì, mà hôm nay lại nồng nhiệt đến thế?”

Thạch Phá Thiên cười đáp: “Đinh Đinh Đang Đang đã nói mà, chúng ta là vợ chồng thì có gì mà không nói được?” Đinh Đang lại đỏ mặt lên.

Bỗng nghe ngoài sân có tiếng người ồn ào, Thạch Thanh lớn tiếng nói: “Đây là tiền trả tiền phòng tiền cơm.” Tiếp theo tiếng vó ngựa vang lên, vợ chồng Thạch Thanh dắt ngựa đi mau ra khỏi điếm.

Thạch Phá Thiên chạy theo hai bước rồi dừng lại, sau đó quay đầu hỏi Đinh Đang: “Đinh Đinh Đang Đang có biết Tùng Giang phủ ở chỗ nào không?”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Tùng Giang phủ là một nơi đô hội, sao lại không biết?”

Thạch Phá Thiên nói: “Gia gia cùng má má của ta đang đến Tùng Giang phủ để kiếm một người tên gọi Ngân kích Dương Quang gì đó. Vậy chúng ta cũng theo tới đó.” Chàng gặp Đinh Đang, lại không nỡ chia tay.

Đinh Đang nghĩ thầm: “Chàng ngốc này không biết đường đi. Tùng Giang phủ ở về hướng đông nam, chi bằng ta dẫn chàng chạy về ngả đông bắc. Như vậy mỗi lúc một xa song thân của chàng, không sợ phải chạm mặt nữa.”

Nàng nghĩ vậy mà đắc ý trong lòng, không nén nổi phải mỉm cười. Khóe miệng nàng tươi như hoa nở, Thạch Phá Thiên nhìn không chớp mắt. Đinh Đang cười nói: “Thiên ca chưa trông thấy tiểu muội bao giờ hay sao mà cứ nhìn mãi như thế?”

Thạch Phá Thiên nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Nàng thật là xinh đẹp, so với má má ta còn đẹp hơn nhiều.” Chàng lại nghĩ thầm: “Không biết so với A Tú thì ai đẹp hơn?”

Đinh Đang cũng cười hì hì nói: “Thiên ca! Huynh cũng đẹp lắm, đẹp hơn cả gia gia của muội.” Nàng nói xong, nổi lên tràng cười khanh khách.

Hai người trò chuyện một lúc, Thạch Phá Thiên lại nhớ tới song thân liền nói: “Gia gia má má mà không tìm thấy ta, nhất định phải lo lắng. Chúng ta phải rượt theo ngay mới được.”

Đinh Đang nói: “Được lắm! Thiên ca thật là một người con hiếu thuận.” Hai người trả tiền cơm tiền trọ xong, bước ra khỏi quán đi ngay.

Chủ quán cùng bọn tiểu nhị thấy hôm qua Thạch Phá Thiên theo vợ chồng Thạch Thanh vào ngủ trọ, mà bây giờ lại từ phòng một cô gái xinh đẹp đi ra thì ngấm ngầm kinh ngạc. Họ thi nhau bàn tán về chuyện này đến mười mấy ngày. Những câu chuyện của họ càng lúc càng thêm thắt những chi tiết kỳ dị, phần lớn đều là đoán mò.

Thạch Phá Thiên cùng Đinh Đang ra khỏi Long Câu trấn, nhằm phía Đông mà đi. Được chừng ba dặm thì tới ngã ba đường, Đinh Đang không ngần ngừ chút nào, nhằm phía đông bắc thẳng tiến.

Thạch Phá Thiên yên trí nàng biết đường, cứ sóng vai mà đi. Chàng nói: “Gia gia má má cưỡi ngựa tốt chạy nhanh. Nếu người không dừng lại ăn uống nghỉ ngơi, thì mình không rượt theo kịp được.”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Đến Dương gia ở Tùng Giang phủ là gặp ngay. Song thân Thiên ca đã là người lớn, chẳng lẽ còn sợ lạc đường hay sao?”

Thạch Phá Thiên nói: “Song thân ta đã đi khắp thiên hạ rồi, làm sao mà lạc đường được?”

Hai người vừa đi vừa nói chuyện rất là vui vẻ. Thạch Phá Thiên ở với song thân mấy hôm được giáo huấn khá nhiều, nên đã hiểu đôi chút việc đời. Đinh Đang thấy tính tình ngốc nghếch của chàng đã giảm được nhiều, trong bụng mừng thầm tự nhủ: “Thạch lang sau khi lâm trọng bệnh, bao nhiêu việc cũ đều quên hết. Nhưng những việc mới đây chỉ nhắc một lần là chàng nhớ ngay.” Thế rồi dọc đường nàng đem lề lối giang hồ, nhân tình thế thái nói cho chàng nghe rất nhiều.

* * *

Vào đúng giờ ngọ, hai người tới một thị trấn nhỏ, định nghỉ chân ăn uống. Đinh Đang tìm một tiệm cơm, đi vào phòng lớn thì thấy ba dãy bàn ghế mộc mạc đã đầy những khách ngồi. Hai người liền tìm vào một bàn nhỏ trong góc phòng. Phạn điếm này tuy không rộng lắm, nhưng gã tiểu nhị đang mải lấy cơm canh cho khách ngồi ở ba bàn lớn, chưa rảnh để hỏi đến hai người.

Đinh Đang thấy bên bàn lớn có đến mười tám mười chín người, trong đó có ba cô gái tuổi tác không còn trẻ, mà nhan sắc cũng tầm thường. Bọn khách này đều giắt binh khí trong mình, nói giọng Liêu Đông, uống rượu bằng bát to, nhai ngấu nghiến những miếng thịt lớn, người nào cũng lộ vẻ sảng khoái.

Nàng nghĩ bụng: “Bọn giang hồ này nếu không phải người trong tiêu cục, thì cũng là hào khách lục lâm.” Nàng đảo mắt nhìn qua một vòng rồi không để ý đến nữa, bụng bảo dạ: “Ta cùng Thiên ca sóng vai đi đường lại cùng ngồi bàn ăn uống, như thế kể ra còn khoái hơn bọn họ nhiều.” Bụng dạ nàng đang hoan hỉ, nên dù không thấy tiểu nhị đến mời mọc, mà cũng không lấy làm bực tức.

Bỗng nghe ngoài cửa có người lên tiếng: “Hay lắm! ớ đây có đủ rượu thịt, lão gia đói lắm rồi!” Thạch Phá Thiên nghe giọng nói rất quen. Chàng nhìn ra thấy một lão già đang rảo bước tiến vào, chính là Đinh Bất Tứ.

Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi la thầm: “Hỏng bét rồi!” Chàng ngoảnh đầu nhìn vào trong, không dám đối diện với lão.

Đinh Đang nhỏ nhẹ nói: “Tứ gia gia tiểu muội đã đến! Thiên ca đừng nhìn ông ấy, để tiểu muội cải trang đã.” Nàng không đợi Thạch Phá Thiên trả lời, chuồn ngay ra nhà sau.

Đinh Bất Tứ thấy bốn bàn đều đã có người ngồi cả. Bàn của Thạch Phá Thiên tuy có chỗ trống nhưng trên bàn không có cả chén đũa lẫn thức ăn, lão bèn ngồi vào một cái ghế dài cạnh chiếc bàn gỗ mộc đó. Lão đưa vai trái huých một đại hán ngồi cạnh xích ra.

Đại hán tức giận cũng dùng sức hất lại, nghĩ bụng: “Lão già này được mấy hơi mà chịu nổi cái huých của ta, nhất định phải lăn kềnh ra.” Ngờ đâu gã vừa đụng đến người Đinh Bất Tứ thì bị một luồng kình lực vô cùng mãnh liệt hất ngược lại. Gã ngồi không vững, mông đít phải nhổm lên, người xiêu vẹo đi.

Đinh Bất Tứ vội đưa tay trái kéo gã lại rồi nói: “Đừng khách sáo, cứ ngồi chung với ta!” Nhờ lão kéo lại, gã đại hán mới khỏi ngã. Gã này tức giận mặt xám xanh, nhưng không biết làm thế nào.

Đinh Bất Tứ lại nói: “Xin mời! Xin mời! Chúng ta bất tất phải khách sáo.” Lão bưng bát rượu lên ngửa cổ uống một hơi cạn sạch, lại cầm đũa của người khác gắp một miếng thịt bò lớn cho vào mồm nhai ngấu nghiến hết sức ngon lành.

Những người ngồi ở ba bàn đó đều không biết lão là ai, nhưng thấy đại hán kia võ công không tệ mà bị lão huých suýt ngã lăn ra, thì cũng biết lai lịch lão này không phải tầm thường.

Đinh Bất Tứ cứ một mình vừa ăn vừa uống ra vẻ khoan khoái. Cả ba bàn đến mười tám, mười chín người đều dừng lại không ăn uống nữa, giương mắt nhìn lão. Đinh Bất Tứ hỏi: “Sao các vị không uống rượu?” Rồi lão cầm lấy bát rượu trước mặt một lão già gầy nhom và thấp lùn, uống ừng ực một hơi hết nửa bát, đoạn vuốt râu nói: “Rượu này hơi chua, không ngon lắm.”

Lão lùn ốm nén giận hỏi: “Xin tôn giá cho biết quý tính đại danh là gì?”

Đinh Bất Tử cười ha hả nói: “Các hạ đã không biết họ tên lão phu, thì bản lãnh cũng không khá lắm.”

Lão già kia nói: “Bọn tại hạ sinh sống ở đất Quan Đông, nên ít biết đến danh hiệu các bậc anh hùng hảo hán bên trong quan nội. Tại hạ là Liêu đông hạc Phạm Nhất Phi.”

Đinh Bất Tử mỉm cười nói: “Các hạ đen đủi thế kia, chẳng giống bạch hạc chút nào mà lại giống quạ đen. Nên đổi ngoại hiệu thành Liêu đông nha là hay nhất.”

Phạm Nhất Phi tức quá không nhịn được nữa, vỗ bàn đứng dậy hét lớn: “Chúng ta chưa từng quen biết nhau. Ta kính nể chòm râu bạc của ngươi nên không muốn tranh chấp làm chi, không ngờ ngươi lại dám ngạo mạn với lão gia!”

Một hán tử trung niên thân hình cao lớn ngồi ở bàn khác, đột nhiên lên tiếng: “Phải chăng lão già đó ở bang Trường Lạc?”

Thạch Phá Thiên nghe họ nói đến ba chữ “bang Trường Lạc” trong lòng chợt nhói lên một cái. Bỗng chàng thấy Đinh Đang đầu đội mũ, mình mặc áo vải thâm, trá hình làm tiểu nhị trong tiệm cơm này trở ra ngồi cạnh. Thạch Phá Thiên hết sức ngạc nhiên, không hiểu chỉ trong chớp nhoáng mà nàng lấy đâu ra được bộ quần áo này.

Đinh Đang mỉm cười, ghé tai chàng nói khẽ: “Tiểu muội đã điểm huyệt một tên tiểu nhị để lột quần áo gã mặc vào, không cho Tứ gia gia nhận ra. Thiên ca! Để tiểu muội trang điểm cho huynh một tí.” Dứt lời, nàng giơ hai bàn tay đầy lọ chảo thoa vào mặt Thạch Phá Thiên khiến mặt chàng đen thui rất khó coi, rồi lại tự bôi lên mặt mình. Trong tiệm cơm này tuy khá đông người, nhưng mọi tửu khách đều đang chú mục nhìn Đinh Bất Tứ, không ai để ý đến hai người giở trò ngáo ộp.

Đinh Bất Tứ liếc mắt nhìn gã đại hán cao lớn, mỉm cười lạnh nhạt nói: “Ngươi là môn hạ Thanh Long Môn ở Cẩm Châu có phải không? Thằng lỏi này dám đeo cây roi chín khúc trên lưng, nghênh ngang vào đất Trung Nguyên, thật sự không muốn sống nữa hay sao?”

Hán tử này chính là chưởng môn của Thanh Long Môn ở Cẩm Châu tên gọi Phong Lương. Cửu Tiết Tiên là thứ binh khí gia truyền của hắn. Phong Lương nghe Đinh Bất Tứ nói đến lai lịch môn hạ nhà mình thì cũng mừng thầm, bụng bảo dạ: “Lão này mới thấy cây Cửu Tiết Tiên mình cài sau lưng, đã nhận ra môn phái của mình rồi. Không ngờ ở Trung Nguyên cũng có người biết đến tiếng tăm môn phái mình.” Hắn liền đáp: “Tại hạ là Phong Lương ở Cẩm Châu, giữ chức chưởng môn phái Thanh Long. Còn tôn tính đại danh lão gia là gì?” Giọng điệu của hắn rất khách sáo.

Đinh Bất Tứ vỗ bàn quát lớn: “Tức chết đi được! Tức chết đi được! Tức chết đi được!” Lão nói luôn ba câu “Tức chết đi được!” rồi lại nâng chén lên uống rượu, sắc mặt vẫn mỉm cười chẳng có vẻ gì là tức giận. Mọi người đều không hiểu lão nói “Tức chết đi được!” là ý gì.

Bỗng nghe lão lớn tiếng tự nói một mình: “Cửu Tiết Tiên linh động phi thường, là con rồng trong các thứ binh khí. Nó thật là một thứ khí giới khó luyện đến chỗ tinh vi, nhưng bất luận là trường thương đại kích hay song đao đơn kiếm, nó đều đỡ gạt được một cách linh diệu. Tức chết đi được! Tức chết đi được!”

Phong Lương lại càng mừng rỡ hơn, trong lòng nghĩ: “Lão này xem chừng kính phục cây Cửu Tiết Tiên của ta lắm, quả là một bạn tri âm của võ công bản môn.” Hắn thấy Đinh Bất Tứ lại nói một hồi “Tức chết đi được!”, ngạc nhiên hỏi: “Tại hạ không hiểu vì lẽ gì mà lão gia nổi nóng?”

Đinh Bất Tứ không thèm nhìn mặt Phong Lương, cứ ngẩng đầu trông lên kèo nhà, tự nói một mình: “Lão gia thấy ai vung côn hay múa đao cũng không bực mình, nhưng hễ thấy kẻ nào cầm cây Cửu Tiết Tiên là tức lộn ruột, không tài nào nhịn được. Mẹ kiếp! Huynh đệ họ Bành ở Trường Sa dám sử dụng Cửu Tiết Tiên, năm ngoái lão gia đánh cho nát đầu. Ở Tứ Xuyên có một tên quan võ họ Chương dám sử dụng Cửu Tiết Tiên, lão gia cũng đánh cho nát đầu. Lại còn một cô gái ở Phụng Dương tỉnh An Huy dám sử dụng Cửu Tiết Tiên, lão gia không muốn đánh đàn bà con gái, nên chỉ chặt mất hai tay, để thị không còn sử dụng được con rồng trong binh khí đó nữa.”

Mọi người nghe lão nói đều ngấm ngầm kinh hãi. Họ đã hiểu lão này muốn kiếm chuyện với Phong Lương, tuy ăn nói như kẻ điên khùng, nhưng không phải là chuyện đùa. Huynh đệ họ Bành ở Trường Sa tức là Bành Trấn Giang, Bành Trấn Hồ quen sử dụng Cửu Tiết Tiên, năm ngoái bị giết chết, những người này ở Liêu Đông cũng đã nghe đồn.

Phong Lương căm tức đến sắc mặt xám xanh, nắm lấy chuôi roi, hỏi lại: “Tại sao tôn giá lại thù ghét cây Cửu Tiết Tiên như vậy?”

Đinh Bất Tứ cười ha hả đáp: “Chỉ nói bậy bạ! Lão gia đâu có ghét cây Cửu Tiết Tiên?” Bỗng thấy lão thò tay vào bọc, rồi nghe soạt một tiếng, đã cầm một cây nhuyễn tiên trong tay. Cây roi này cũng có chín khúc, ánh hoàng kim lấp loáng, rõ ràng đúc bằng vàng. Đầu roi hình con rồng, thân roi lóng lánh nhiều màu sắc vì có khảm bạch kim cùng ngọc quý. Cây roi vung lên, khí thế mãnh liệt vô cùng, lại trông rất đẹp mắt.

Mọi người đều chợt thót tim một cái: “Té ra chính lão cũng sử cây Cửu Tiết Tiên.”

Đinh Bất Tứ lại nói: “Thằng nhãi này võ công chưa học được ba thành, đã cả gan dùng đến cây Cửu Tiết Tiên. Nếu ngươi động thủ với người khác, không bị đánh cho bò lê bò càng thì cũng nằm mọp tại chỗ, khó mà đi bộ về nhà. Như vậy há chẳng làm cho người khác coi thường cây Cửu Tiết Tiên hay sao? Lão gia đã nghe nói ở Cẩm Châu vùng Quan Đông có bang Thanh Long, con mẹ nó, bang này đã bảy tám đời sử dụng Cửu Tiết Tiên do tổ tiên truyền lại. Lão gia chỉ muốn đến tận nơi giết sạch cả họ cả lũ nhà nó cho bõ tức. Chỉ vì đất Quan Đông rét quá, mà lão gia lại ngại đường xa ngàn dặm nên chưa tìm đến mà thôi. May mà thằng lỏi này lại dắt Cửu Tiết Tiên tự lần mò vào đất Trung Nguyên này, thật là tuyệt diệu! Ngươi còn không mau mau tìm dây tự treo cổ lên đi, còn chờ đợi cái gì nữa?”

Bây giờ Phong Lương mới hiểu: “Thì ra lão này sử cây Cửu Tiết Tiên, nên không muốn ai khác sử dụng khí giới giống như lão. Thế thì ngang chướng thật!”

Phong Lương còn chưa kịp trả lời, thì phía tây đã có người cất giọng sang sảng: “Ái chà! May mà lão tặc này không dùng đơn đao.”

Đinh Bất Tứ đưa mắt nhìn người vừa nói, thì thấy hắn mặt vuông chữ điền, bộ râu quai nón che kín già nửa mặt. Lão bèn hỏi: “Nếu ta sử dụng đơn đao thì sao?”

Hán tử râu quai nón nói: “Thì ta đây cũng sử dụng đơn đao, lão tặc mà ngang ngược như vậy thì phải giết ta trước đã. Cho dù ngươi giết được ông nội của ngươi, nhưng còn hàng ngàn hàng vạn người sử đơn đao thì làm sao ngươi giết cho sạch được?” Hắn nói xong liền rút đơn đao đeo sau lưng ra, cắm phập xuống mặt bàn. Thanh đao này màu nửa vàng nửa tím, sống dày lưỡi mỏng, chuôi đao quấn dây thao tía. Đao cắm xuống làm cả cái bàn to phải rung động, bát chén khua lên loảng xoảng không ngớt. Như vậy đủ thấy thanh đao này rất nặng nề, và nội lực hán tử thực là ghê gớm.

Hán tử này là Tử kim đao Lữ Chính Bình, chưởng môn Khoái Đao Môn trên núi Trường Bạch. Bỗng nghe tiếng lóc cóc, Đinh Bất Tứ lại cuộn cây roi cất vào bọc. Tay trái lão vòng qua một cái, rút thanh đao đang cài trên lưng của hán tử ngồi cạnh, cầm trong tay rồi hỏi: “Giả tỉ lão gia sử dụng đơn đao thì đã sao? Úi chà! Không được rồi! Thật tức đến chết người!”

Đơn đao là loại binh khí rất phổ biến trong võ lâm. Trong mười chín người ngồi đây thì có đến mười một người mang đao trên người. Họ nhìn thấy Đinh Bất Tứ cướp đao hết sức mau lẹ thì đều kinh hãi, không giữ bình tĩnh được nữa. Ai nấy đều nắm lấy chuôi đao của mình.

Đinh Bất Tứ lại nói: “Ngoại hiệu của lão gia là Nhất Nhật Bất Quá Tứ, mà ở đây lại có những mười một thằng tiểu tặc sử đơn đao, lại thêm một gã cầm Cửu Tiết Tiên, vậy lão gia phải chia làm ba ngày mới giết hết.”

Nghe lão tự xưng là Nhất Nhật Bất Quá Tứ, có người bỗng buột miệng kêu lên: “Lão… lão là Đinh Bất Tứ!”

Đinh Bất Tứ cười ha hả rồi lớn tiếng nói: “Hôm nay lão gia chưa giết ai, vậy có thể hạ sát bốn tên tiểu tặc. Bốn tên nào thích chết thì cứ tự động xưng tên ra. Nếu không, thì chỉ còn một cách. Ngoài tên sử dụng Cửu Tiết Tiên này, tất cả những người khác phải ngoan ngoãn dập đầu lạy ta mười lạy, kêu ta bằng ông nội, thì ta sẽ tha không giết.”

Bỗng nghe có tiếng cười gằn, rồi có bốn người đứng phắt dậy, rảo bước ra ngoài cửa quán, đứng thành hàng chữ nhất. Ngoài Phong Lương, Phạm Nhất Phi, Lữ Chính Bình còn một nữ nhân đứng tuổi.

Thiếu phụ này không cầm binh khí. Ra đến ngoài cửa, bà hất vạt áo ra, để lộ hai hàng đoản đao sáng loáng cài vào đai lưng thêu hoa, cả thảy đến hơn ba chục lưỡi, lưỡi dài nhất cũng chỉ chừng nửa thước.

Phạm Nhất Phi tay trái cầm đôi Phán Quan Bút, dõng dạc lên tiếng: “Tại hạ là Liêu đông hạc Phạm Nhất Phi chưởng môn Hạc Bút Môn, cùng Phong Lương huynh đệ chưởng môn Thanh Long Môn, Lữ Chính Bình huynh đệ chưởng môn Khoái Đao Môn, nữ trang chúa Hàn Mai Trang là Phi hoàng đao Cao Tam nương tử, dẫn môn hạ đi từ Quan Đông vào Trung Nguyên hội ước. Bốn môn phái ở Quan Đông của chúng ta cùng với nhà họ Đinh trước nay không thù không oán, mà sao lão gia lại kiếm chuyện để nhục mạ?”

Đinh Bất Tứ coi như không nghe thấy hắn nói gì, cứ ngoảnh đầu ngắm nghía Cao Tam nương tử hồi lâu rồi chê: “Không đẹp! Xấu quá!” Lão vừa chê bai vừa nhìn Cao Tam nương tử lắc đầu lia lịa, cứ như đang thưởng thức bức tranh gì đó mà không ưng ý vậy. Mọi người thấy vẻ mặt cùng thái độ khả ố, đều biết là lão chê bai Cao Tam nương tử cốt để kiếm chuyện.

Cao Tam nương tử tính nóng như lửa, bản lãnh kinh người mà cũng rất tự cao tự đại. Phụ thân, bố chồng cùng sư phụ của bà đều là những nhân vật rất có quyền thế ở Quan Đông. Hàn Mai Trang của bà lại có hàng muôn khoảnh ruộng tốt, đủ cả trường đua ngựa, thành diễn võ, cùng rừng núi không biết bao nhiêu mà kể. Vì thế tuy bà là một quả phụ nhưng tiếng tăm lừng lẫy, địa vị đứng vào hàng nhất nhì ở đất Quan Đông. Bất luận bạch đạo hay hắc đạo, từ quan chí dân, ai cũng nhường nhịn bà mấy phần. Đinh Bất Tứ dám buông lời càn rỡ ngạo mạn, thật là chuyện sỉ nhục bà chưa từng phải chịu.

Hơn nữa Cao Tam nương từ hồi còn trẻ cũng nổi tiếng là người đẹp trong võ lâm ở Quan Đông. Hiện nay bà xấp xỉ tứ tuần, tuổi thanh xuân đã qua rồi, nhưng bà quyết không để ai dị nghị đến dung nhan của mình. Phong tục đất Quan Đông rất thuần hậu, nữ nhân đoan trang thùy mị. Trước mặt mà khen họ đẹp đã là khiếm lễ, huống chi là buông lời chê bai suồng sã.

Cao Tam nương tử giận tái mặt, lớn tiếng gọi: “Đinh Bất Tứ! Ngươi hãy ra đây!”

Đinh Bất Tứ từ từ bước ra ngoài cửa điếm, hỏi: “Chính là bốn người các ngươi ư?” Đột nhiên bạch quang lóa mắt. Năm lưỡi phi đao chia ra trên dưới tả hữu phóng tới rất nhanh. Phi đao tuy ngắn mà đao phong rít lên rùng rợn, chẳng kém gì kình phong phát ra do trường kiếm đại đao vũ lộng.

Đinh Bất Tứ thét lên: “Người không đẹp, nhưng đao pháp đẹp!” Lão lại thò tay phải vào trong bọc móc cây Cửu Tiết Tiên ra. Ánh vàng vừa nhoáng lên, bốn lưỡi phi đao đã bị gạt rơi xuống. Đinh Bất Tứ thấy lưỡi phi đao thứ năm bay thẳng đến trước mặt, lão liền há miệng ra cắn lấy để phô trương tài nghệ.

Phong Lương, Phạm Nhất Phi và Lữ Chính Bình đều khiếp sợ, nhưng đều vung binh khí tấn công vào hai bên Đinh Bất Tứ. Lão bèn nghiêng người né tránh lưỡi đao của Lữ Chính Bình chém tới, phóng cước đá vào cổ tay Phạm Nhất Phi buộc hắn phải thu phán quan bút về. Cây roi trong tay lão múa lên vàng chói, gạt cây roi của Phong Lương.

Phong Lương vừa ra khỏi cửa điếm đã để hết tinh thần phòng bị. Hắn biết rằng lão này chú trọng nhất là mình, còn những người kia chỉ là phụ họa. Hắn thấy cây roi của Đinh Bất Tứ quét tới, liền rung tay một cái, dựng đứng cây roi lên. Ngọn Cửu Tiết Tiên của Phong Lương duỗi thẳng ra, nhằm đâm vào ngực Đinh Bất Tứ.

Đây là chiêu Tứ Dĩ Tân Phục trong phép đánh trường thương. Hắn vận chân lực rất mạnh vào cây Cửu Tiết Tiên, biến roi thành thương để sử dụng. Thương pháp của phái Thanh Long ở Cẩm Châu vốn không phải tầm thường, Phong Lương lại biết đối phương là một tay kình địch nên vừa động thủ đã thi triển tuyệt kỹ ngay.

Đinh Bất Tứ nhổ lưỡi phi đao xuống, mở miệng khen: “Thằng lỏi này bản lãnh cũng tàm tạm.” Lão vươn tay phải ra, định bắt lấy đầu roi của Phong Lương. Phong Lương giật mình kinh hãi vội thu roi về. Đinh Bất Tứ lại vươn tay theo định chụp lấy, thì ngay lúc ấy Lữ Chính Bình vung đao nhằm chém vào cánh tay lão. Đinh Bất Tứ vừa thu chưởng về, lại nghe tiếng veo véo, Cao Tam nương tử vừa phóng thêm một lưỡi phi đao.

Thấy bốn người liên thủ tấn công, Đinh Bất Tứ lập tức ngưng cười đùa cợt nhả, tập trung tinh thần tiếp chiến. Cây Cửu Tiết Tiên của lão múa lên thành một vòng kim quang hộ vệ toàn thân. Lão nghĩ thầm: “Phen này mình gặp phải bốn phái ở Quan Đông đều là những tay võ công thâm hậu, thế mà mình coi thường họ quá. Giả tỉ lấy một chọi một thì lão gia coi bọn này chẳng đáng vào đâu, nhưng bọn chúng liên thủ quần công, lấy nhiều đánh ít thì mình phải cẩn thận.”

Chuyến này bốn môn phái lớn ở Quan Đông hẹn nhau cùng tới Trung Nguyên. Trước khi khởi hành, bốn chưởng môn đã hội họp ở Hàn Mai Trang hơn một tháng, nghiên cứu kỹ ưu khuyết điểm của võ công bốn phái, bàn tính khi lâm địch thì sẽ cứu viện lẫn nhau bằng cách nào. Việc chuẩn bị của họ quả nhiên hữu dụng, vừa tới Giang Nam thì bốn người đã phải sóng vai cự địch.

Lúc này Lữ Chính Bình và Phạm Nhất Phi xông vào cận chiến, còn Phong Lương sử Cửu Tiết Tiên chỉ tìm cơ hội để né tránh cây roi của lão, cố đánh vòng để tập kích vào ngang người Đinh Bất Tứ. Cao Tam nương lại đứng đằng xa, tìm chỗ sơ hở để phóng phi đao, khiến cho Đinh Bất Tứ phải phân tâm né tránh. Trong bốn người này thì chiêu số của Phạm Nhất Phi lão luyện nhất, Lữ Chính Bình có sức lực hùng mạnh nhất. Mỗi nhát đao của họ Lữ chém ra nặng tới tám chín chục cân.

Thạch Phá Thiên cùng Đinh Đang đứng ở phía sau mọi người theo dõi trận chiến. Sau khi qua lại ba bốn chục chiêu, bỗng nhiên Lữ Chính Bình cùng Phạm Nhất Phi cùng gấp rút tấn công. Đinh Bất Tứ vung roi lên để gạt hai người ra. Phong Lương liền phóng roi quất lên đầu lão.

Đinh Bất Tứ cúi đầu xuống né, bỗng nghe đánh véo một tiếng, hai lưỡi phi đao phóng tới nơi. Giữa lúc hoang mang, lão vội ngửa người về phía sau, hai lưỡi phi đao lướt qua chỉ cách cổ họng chừng vài tấc. Đinh Bất Tứ tuy né khỏi, nhưng chòm râu bạc cũng bị phi đao hớt mất mấy chục sợi. Những sợi râu này bay phất phới trước mặt lão.

Mười mấy người đứng gần cửa điếm theo dõi cuộc chiến đều lớn tiếng hoan hô: “Phi đao của Cao Tam nương tử thật là tuyệt diệu!”

Đinh Bất Tứ ngấm ngầm kinh hãi trong lòng, nghĩ bụng: “Mụ này đáo để thật! Nếu không hạ độc thủ ngay, e rằng hôm nay Đinh Bất Tứ mỗ phải gặp bất lợi.” Lão đột nhiên hú lên một tiếng dài, vung cây Cửu Tiết Tiên ra. Tay trái lão lại thi triển Cầm Nã Thủ Pháp giữa làn bóng roi dày đặc.

Cây Cửu Tiết Tiên đánh ra ngoài xa, còn tay trái tấn công nơi gần mình. Chỉ một tay trái lão cũng đủ bắt Lữ Chính Bình cùng Phạm Nhất Phi phải thủ nhiều công ít. Đám đệ tử bốn môn phái lớn tại Quan Đông bỗng ngưng hò hét cổ vũ, bây giờ trong lòng chúng lại có phần lo âu.

Từ lúc Đinh Bất Tứ thi triển Cầm Nã Thủ Pháp, Thạch Phá Thiên chăm chú theo dõi, rất lấy làm thích thú. Những thủ pháp này lão đã truyền thụ cho chàng hôm ở trên sông Trường Giang. Có điều hôm đó chàng chưa hiểu nhiều về đạo lý võ học, chỉ thuộc lòng chiêu thức chứ không biết đường vận dụng. Mấy hôm nay song thân luyện kiếm pháp cho chàng, dĩ nhiên chàng tiến bộ rất nhiều về kiếm thuật. Kiếm thuật đã tinh thông thì những môn khác cũng am hiểu hơn, về quyền cước cũng nhập tâm được nhiều. Chàng thấy tay trái Đinh Bất Tứ chợt nắm chợt đẩy, chợt móc chợt xô, đánh ra những đòn vừa kỳ diệu vừa hiểm độc, bất giác vừa kinh hãi vừa mừng thầm.

Năm người đang chiến đấu đến chỗ hăng say, đột nhiên Đinh Bất Tứ đưa tay trái ra chụp vào bả vai của Lữ Chính Bình. Họ Lữ vội xoay đao lại hớt vào tay Đinh Bất Tứ. Thạch Phá Thiên giật mình, biết rằng khi nhát đao này chém ra, Đinh Bất Tứ sẽ trở tay đánh ngược một chưởng, chắc chắn trúng vào mặt Lữ Chính Bình. Chưởng lực của lão rất hiểm độc, tính mạng Lữ Chính Bình khó mà giữ được.

Thạch Phá Thiên nhịn không nổi, vội la lên: “Lão sắp đánh vào mặt ông!” Nội lực chàng đầy rẫy, tiếng thét lấn át cả tiếng gió rít vù vù của binh khí, mọi người nghe rất rõ ràng.

Lữ Chính Bình là tay võ nghệ cao cường. Hắn nghe thấy tiếng Thạch Phá Thiên la lên liền tỉnh ngộ ngay, vội vàng buông đao ra, lăn xuống đất mấy vòng. Tuy hắn biến chiêu thần tốc nhưng trước mặt vẫn bị chưởng phong của Đinh Bất Tứ quạt tới, cơ hồ ngạt thở, da mặt rát như bị dao cứa, đau đớn vô cùng.

Lữ Chính Bình lăn ra xa mấy trượng rồi nhảy vọt lên, toàn thân dính đầy đất cát, trống ngực đánh thình thình, thật là một phen hú vía. Vừa rồi hắn chỉ cách cái chết chừng sợi tóc, nếu không được người ngoài nhắc nhở thì không tài nào tránh thoát phát chưởng ghê hồn của Đinh Bất Tứ. Lữ Chính Bình lăn ra ngoài vòng chiến, thì Phạm Nhất Phi lại mấy lần liên tiếp gặp nguy hiểm.

Lữ Chính Bình hít mạnh một hơi, la lên: “Ném đao cho ta!” Đệ tử của hắn lập tức quẳng đao tới, Lữ Chính Bình đưa tay đón lấy, lại xông vào tấn công.

Lúc này cây roi vàng của Đinh Bất Tứ đã quấn lấy cây roi của Phong Lương. Đinh Bất Tứ vận nội lực giật mạnh một cái, kéo người Phong Lương bay lên không, hướng vào mũi đao của Lữ Chính Bình. Lữ Chính Bình vội xoay đao né tránh.

Thạch Phá Thiên vội kêu lên: “Ông họ Phạm phải cẩn thận! Lão sắp chụp vào yết hầu!” Phạm Nhất Phi giật mình, không kịp suy nghĩ gì nữa, vội đưa cặp Phán Quan Bút hộ vệ yết hầu. Quả nhiên Đinh Bất Tứ vươn năm ngón tay chụp tới nghe xoẹt một tiếng. Năm ngón tay của lão lướt qua da yết hầu Phạm Nhất Phi, quẹt thành năm đường rướm máu, thật là sống chết chỉ cách nhau chút xíu mà thôi.

Thạch Phá Thiên hô lên hai câu đã cứu được hai mạng người. Quần hào đất Quan Đông ai cũng cảm kích quay lại nhìn, thì thấy mặt chàng trát đầy lọ chảo, chứng tỏ không muốn ai biết mặt mình.

Đinh Bất Tứ lớn tiếng thóa mạ: “Mẹ kiếp! Quân chó lộn giống nào lắm mồm thế? Có giỏi thì ra đây tỉ đấu với lão gia”.

Thạch Phá Thiên nhìn Đinh Đang lè lưỡi ra nói: “Lão… lão nhận ra rồi!”

Đinh Đang nói: “Ai bảo Thiên ca nhiều chuyện? Chẳng qua Tứ gia gia quen miệng mà thóa mạ là cẩu tạp chủng, chưa chắc đã nhận biết Thiên ca.”

Lúc này Lữ Chính Bình cùng Phạm Nhất Phi liên tục đánh rát mấy chiêu, Cao Tam nương tử cũng liên tiếp phóng phi đao hỗ trợ, Phong Lương cũng gỡ được Cửu Tiết Tiên ra. Thế là năm người lại đấu với nhau. Đinh Bất Tứ nóng ruột muốn biết kẻ nào đứng ngoài la hét làm khó dễ lão, nên xuất thủ càng lúc càng nhanh.

Thạch Phá Thiên không nỡ thấy mấy hảo hán đất Quan Đông vô cớ mà mất mạng, mà cũng nổi tính trẻ nít hiếu sự. Mỗi khi thấy bọn Lữ Chính Bình sắp gặp nguy hiểm, chàng lại kêu lên để vãn hồi tình thế. Trong thời gian ăn xong bữa cơm, chàng đã cứu Lữ Chính Bình ba lần, Phạm Nhất Phi bốn lần, Phong Lương ba lần.

Đinh Bất Tứ càng lúc càng giận dữ, liên tiếp sử dụng những hiểm chiêu. Lão nhảy vọt lên không, cây roi vàng xoáy tít lên cao, nhảy xổ vào Cao Tam nương tử, tay trái từ trên cao quạt xuống. Đó là chiêu Thiên Mã Hành Không, thân thủ cực kỳ quái dị. Nhờ Thạch Phá Thiên vội la lên cảnh giác nên Cao Tam nương tử mới tránh kịp, nhưng vai phải bà cũng bị ngón tay của Đinh Bất Tứ quét trúng, cánh tay phải không giơ lên được nữa.

Tay phải bị mất kình lực rồi, bà lại dùng tay trái rút đoản đao liệng ra vun vút, ba lưỡi phi đao chia ra bắn tới Đinh Bất Tứ. Cửu Tiết Tiên của Đinh Bất Tứ cuộn ngược lại quấn lấy hai lưỡi phi đao. Lão há miệng ra cắn lấy mũi đao thứ ba, rồi vẫy roi bắn hai mũi phi đao qua Phong Lương và Lữ Chính Bình. Đồng thời lão nhảy vọt lên không, cây Cửu Tiết Tiên từ trên không đánh xuống.

Cao Tam nương tử uốn lưng đi tránh khỏi Cửu Tiết Tiên. Bỗng nghe mọi người lớn tiếng la hoảng, tiếp theo bà thấy đỉnh đầu mình bị giật mạnh, người không đứng vững bay vọt lên không. Thì ra cây roi của Đinh Bất Tứ đã quấn được búi tóc của Cao Tam nương tử rồi giật bà lên không như câu cá vậy.

Bọn Phong Lương ba người kinh hãi vô cùng. Cả bốn người hợp lực với nhau còn bị đối phương bức bách nguy hiểm vô cùng, nếu Cao Tam nương tử gặp nạn thì ba người chắc chắn không chống cự nổi. Ba người liền liều mình nhảy xổ vào tấn công Đinh Bất Tứ.

Đinh Bất Tứ vận một hơi chân khí, thổi phù lưỡi phi đao đang cắn trong miệng nhằm vào bụng Cao Tam nương tử. Tay trái lão sử dụng Cầm Nã Thủ, nào chụp, nào vỗ, nào móc, liên tiếp phóng ra những chiêu ác liệt khiến cho ba người nhảy vào tiếp cứu lại phải lùi ra.

Cao Tam nương tử đang lơ lửng trên không, khó mà tránh khỏi lưỡi đao của đối phương. Bà nhắm mắt lẩm bẩm: “Bọn đạo tặc chết dưới phi đao của ta đã ít ra là bảy tám chục mạng. Hôm nay ta gặp báo ứng, rốt cuộc lại mất mạng bởi phi đao của chính mình.”

Nhưng thật là may mắn, cây Cửu Tiết Tiên của Đinh Bất Tứ quấn được hai mũi phi đao rồi chia ra bắn vào Phong Lương cùng Lữ Chính Bình, nhưng lại lướt qua bên mình Thạch Phá Thiên. Chàng thấy tình thế nguy cấp, muốn nhắc nhở thì không kịp nữa, bèn vươn tay ra bắt lấy hai lưỡi phi đao rồi tiện tay ném ra. Chàng chưa bao giờ phóng ám khí, chỉ quơ tay bừa mà nắm được phi đao, khi phóng ra cũng hết sức vụng về. Nhưng nội lực chàng rất hùng hậu nên phi đao bắn ra cực kỳ mau lẹ.

Nghe choang một tiếng, một lưỡi đụng vào phi đao đang bắn tới bụng Cao Tam nương tử, còn lưỡi kia cắt đứt mái tóc của bà. Cao Tam nương tử rơi từ trên cao mấy trượng xuống, chân vừa chạm đất đã vội nhảy ra sau mấy trượng, sợ đến tái mặt.

Diễn biến này ngay cả Đinh Bất Tứ cũng phải kinh ngạc. Lão quay người lại hét lên: “Bằng hữu nào dám cản trở ta đó? Có giỏi thì ra mặt đấu với ta ba trăm hiệp, còn giấu đầu hở đuôi như vậy thì đâu đáng là hảo hán?” Lão trợn mắt lên nhìn Thạch Phá Thiên, nhưng mặt chàng bôi đầy lọ chảo nên không nhận ra.

Lão nghe Thạch Phá Thiên liên tiếp la lối làm hỏng kế hoạch của mình, dường như chiêu thức nào của mình cũng bị đối phương biết trước. Vừa rồi chàng bắt được hai lưỡi phi đao cũng chưa lấy gì làm lạ, nhưng chàng ném ra đẩy được phi đao của lão đi, thì nội lực quả thật phi thường. Hai lưỡi đao của lão bị văng ra xa ngoài mấy trượng, không còn thấy tung tích đâu nữa. Đinh Bất Tứ tuy rất giận dữ, nhưng cũng tự biết mình không bì kịp kình lực của đối phương, nên lão nói chuyện cũng lịch sự hơn, không nói những gì là “gia gia”, là “thằng lỏi”.

Thạch Phá Thiên gấp rút cứu người không kịp suy tính kỹ, nhưng ném hai lưỡi đao ra quả nhiên có hiệu quả. Chàng vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nên khi chụp ném phi đao đã bị cắt hai đường trên tay, máu chảy đầm đìa mà chẳng thấy đau đớn gì. Chàng thấy Đinh Bất Tứ chăm chăm nhìn mình chất vấn, quên cả mặt mình đã được Đinh Đang bôi lọ, bèn rụt rè đáp: “Gia gia! Là cháu… là Đại Tống Tử đây.”

Đinh Bất Tứ ngẩn người ra một chút rồi cười ha hả nói: “Ha ha! Cứ ngỡ là ai, té ra là đòn bánh tét lớn này.” Lão nghĩ bụng: “Thằng lỏi này đã học võ công của mình, chẳng trách nó nhìn ra chiêu thức mà la lối phá hoại. Như vậy chẳng có chi là lạ.” Lão hết sợ lại chuyển sang tức giận, quát mắng: “Thằng lỏi kia! Sao ngươi lại can thiệp vào việc của gia gia?” Lão vung roi lên vù một tiếng, nhằm quật vào đầu Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên mượn luồng kình phong của cây Cửu Tiết Tiên nhảy tung người lên tránh đi rất xa, nhưng thân pháp rất khó coi. Đinh Bất Tứ đánh một đòn không trúng lại càng thêm tức giận. Lão đánh luôn ba roi liên hoàn veo véo, chiêu số cực kỳ xảo diệu, nhưng đều bị Thạch Phá Thiên tránh khỏi.

Nội lực của Thạch Phá Thiên đã đến cảnh giới thân tùy tâm chuyển, muốn sao được vậy. Chàng muốn chuyển người qua trái qua phải, lên trên xuống dưới đều như ý, nhưng vẫn còn sợ hãi oai phong của Đinh Bất Tứ nên chỉ tránh né chứ không dám đánh trả.

Đinh Bất Tứ thầm ngạc nhiên, nghĩ bụng: “Ta chưa dạy thằng lỏi này công phu Cửu Tiết Tiên, mà sao nó cũng biết chiêu số mà tránh né?” Lão múa roi mỗi lúc một mau lẹ hơn, tạo thành một đám mây vàng bao phủ quanh người Thạch Phá Thiên, nhưng rốt cuộc vẫn không làm gì được chàng.

Lão nghĩ bụng: “Trên đảo Tử Yên, thằng Đại Tống Tử này đã liên thủ với Bạch Vạn Kiếm, khiến ta và lão tam phải bối rối. Không phải, chỉ có lão tam thua đến mất hết thể diện, còn Đinh Lão Tứ ta chẳng thèm tính toán với hậu bối, nên đã vỗ đít bỏ đi một cách ung dung tiêu sái, thằng lỏi này sợ lão gia đến mất mật, không dám đuổi theo. Nhưng quả là nó cũng có chỗ kỳ lạ.”

Những người đứng xem đều thấy Thạch Phá Thiên né bên này trốn bên kia trong bóng roi trùng trùng quét ngang đánh dọc, thường xuyên gặp nguy hiểm, lắm lúc sống chết cách nhau sợi tóc. Trong tay mọi người đều toát mồ hôi lạnh.

Thạch Phá Thiên thì lại nghĩ: “Sao Đinh tứ gia lại không đánh mình thật sự? Chẳng lẽ lão có ý trêu cợt mình, chỉ vung roi đánh lướt bên cạnh ta chứ không cố ý đánh trúng vào người?” Chàng có biết đâu rằng Đinh Bất Tứ đã thi triển đến mười thành công phu, mà rốt cuộc vẫn không đụng được vào người chàng.

Đinh Đang vốn biết vị Tứ gia gia này rất lợi hại. Nàng thấy lão thi triển thần oai, chiêu nào cũng muốn đánh cho trượng phu mình đến gân tan xương gãy. Nàng càng theo dõi càng thấy hồi hộp lo lắng, bèn la lên: “Thiên ca! Mau mau trả đòn đi, không thì hỏng bét!”

Mọi người nghe rõ thanh âm trong trẻo của một cô gái mà lại phát ra từ miệng một gã tiểu nhị, đã thấy kỳ lạ lại càng kỳ lạ hơn, nhưng cứ mải theo dõi Đinh Bất Tứ điên cuồng vung Cửu Tiết Tiên đánh vào Thạch Phá Thiên, nên không có thời gian để kinh ngạc nữa.

Thạch Phá Thiên lại nghĩ: “Sao Đinh Đang lại nói là hỏng bét? Phải rồi! Hôm trước mình cùng các vị đạo trưởng Thượng Thanh Quán động thủ, mình cột một tay lại, họ cho là mình coi thường nên sinh lòng căm tức. Mẫu thân đã dặn, khi cùng người động thủ ra chiêu thì coi thường đối phương là điều tối kỵ. Mình đánh thắng người thì không sao, nhưng ngôn ngữ cử chỉ tỏ ý khinh mạn là khiến cho đối phương phải chịu nhục nhã, từ đó gây thù kết oán. Bây giờ mình chỉ né tránh chứ không trả đòn, chắc cũng là coi thường Đinh tứ gia rồi.”

Thạch Phá Thiên nghĩ vậy liền vung cả hai tay ra chụp xuống trước ngực Đinh Bất Tứ. Chiêu thức chàng thi triển đây là một trong mười tám đường Cầm Nã Thủ Pháp mà Đinh Đang đã truyền thụ cho. Đinh Bất Tứ làm gì chẳng biết môn võ công tổ truyền của nhà họ Đinh này, lập tức né tránh ra. Mười tám đường Cầm Nã Thủ Pháp này được nội lực cực kỳ thâm hậu của Thạch Phá Thiên sử dụng lại càng uy lực vô song. Nào móc, nào chụp, nào cầm, nào kích, nào chém thẳng, nào bẻ cong, chiêu nào cũng phát ra kình phong rít lên veo véo, mãnh liệt khôn lường.

Đinh Bất Tứ kinh hãi la thầm: “Mình gặp quỷ rồi! Mình gặp quỷ rồi!”

Hai bên đấu tiếp mười hai chiêu, Thạch Phá Thiên xoay tay lại sử dụng biến thế thứ năm trong chiêu Phụng Vĩ Thủ, chụp được ngọn cây Cửu Tiết Tiên. Đinh Bất Tứ cố gắng vận động nội lực để giật lại mà không thấy nhúc nhích chút nào. Lão quát to lên một tiếng rồi vận hết sức bình sinh, đem toàn lực kéo lùi về phía sau, nghĩ bụng: “Mình đã tuyên bố không cho người ta sử dụng Cửu Tiết Tiên, mà lại để cây Cửu Tiết Tiên của chính mình cho thằng tiểu tử hậu sinh này đoạt mất, thì từ nay về sau còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa?”

Lão nghĩ vậy nên phát huy công lực đến tột độ, bao nhiêu khớp xương trong mình đều bật lên những tiếng răng rắc. Thạch Phá Thiên thấy lão nhất quyết đoạt lại Cửu Tiết Tiên thì bụng bảo dạ: “Lão đã muốn giật lại binh khí thì mình buông tay ra là xong.”

Chàng vừa buông tay thì những tiếng binh binh, rắc rắc vang lên. Người Đinh Bất Tứ bật ngửa về phía sau đụng vào tòa phạn điếm làm đổ mất nửa bức tường, bàn ghế bát đĩa vỡ nát vô số. Tiếp theo bốn tiếng rú thê thảm khô khốc nổi lên. Một tên đệ tử ở Quan Đông và ba người dân thường bị ngã lăn ra, sau lưng máu chảy đầm đìa.

Thạch Phá Thiên vội chạy lại xem thì thấy bốn người bị mảnh bát hoặc đầu đũa đâm vào lưng, còn Đinh Bất Tứ không biết biến đâu mất rồi. Thì ra lão biết mình không địch nổi nên gấp rút bỏ chạy, nỗi giận dữ không có chỗ nào phát tiết, bèn tiện tay chụp lấy mấy mảnh bát vỡ và đũa tre phóng trúng bốn người.

Bọn Phạm Nhất Phi chạy lại nâng đỡ bốn người kia, thì thấy họ đều bị đánh trúng yếu huyệt, tắt thở cả rồi. Mọi người thấy Đinh Bất Tứ hung ác như vậy đều không khỏi kinh hãi. Họ cùng nghĩ: “Nếu không có chàng thiếu hiệp kia trượng nghĩa ra tay thì lúc này bốn xác chết nằm dưới đất không phải là bốn người này, mà là bốn người chưởng môn chúng ta.”

Họ liền hướng về Thạch Phá Thiên sụp xuống lạy, đồng thanh hỏi: “Thiếu hiệp trượng nghĩa ra tay, ân đức này vĩnh viễn không quên. Xin thiếu hiệp cho biết danh tính đại danh.”

Thạch Phá Thiên đã được mẫu thân chỉ điểm về lễ tiết giang hồ. Chàng cũng sụp lạy đáp lễ rồi nói: “Không dám, không dám! Việc nhỏ xíu này chẳng đáng nhắc tới làm gì. Tại hạ họ Thạch, tiện danh là Trung Ngọc.” Tiếp theo chàng lại thỉnh giáo danh tính bốn vị. Bọn Phạm Nhất Phi xưng tên xong, lại hỏi đến tên họ Đinh Đang.

Thạch Phá Thiên liền đáp: “Cô ấy là Đinh Đinh Đang Đang, là… là… là…” Chàng ấp úng một hồi rồi đỏ mặt lên, không nói thêm nữa.

Bọn Phạm Nhất Phi đều là tay lịch duyệt, biết một đôi thanh niên nam nữ phải hóa trang mà kết bạn đồng hành, dĩ nhiên là có chỗ bẽn lẽn khó nói ra. Mọi người thấy Thạch Phá Thiên ra chiều hổ thẹn cũng không hỏi nữa. Đinh Đang nói: “Chúng ta đi thôi!”

Thạch Phá Thiên vội đáp: “Phải, phải!” Chàng chắp tay từ biệt mọi người, rời khỏi đó.

Bọn Phạm Nhất Phi không ngớt lời cảm tạ, bảo nhau đưa chân hai người đến ngoài thị trấn. Họ còn muốn thỉnh giáo môn phái sư phụ Thạch Phá Thiên, nhưng thấy Đinh Đang không ngớt đưa mắt ra hiệu cho chàng, hiển nhiên không muốn người ngoài quấy nhiễu, nên chỉ đồng thanh nói: “Ơn đức của Thạch thiếu hiệp, kiếp này khó lòng báo đáp. Ngày sau nếu thiếu hiệp có điều gì sai khiến, thì huynh đệ ở Quan Đông chúng ta dù phải nhảy vào đống lửa cũng không dám từ nan.”

Thạch Phá Thiên nhớ lại lời mẫu thân chỉ giáo về cách đối đáp, liền lên tiếng: “Chúng ta đều là bằng hữu trong võ lâm, đương nhiên phải giúp đỡ lẫn nhau. Các vị khách sáo như vậy khiến cho tiểu đệ rất lấy làm xấu hổ. Hôm nay được kết bạn với các vị, tiểu đệ thật là mừng rỡ khôn xiết!”

Bọn Phạm Nhất Phi được chàng cứu mạng vốn đã muôn phần cảm kích, bây giờ lại thấy chàng còn trẻ mà võ công cao cường, bản tính khiêm nhường hòa nhã thì lại càng bội phục, quyến luyến không muốn chia tay.

Đinh Đang nghe chàng ăn nói lịch sự thì vui mừng hớn hở, tự nhủ: “Ai bảo Thạch lang của ta là chàng ngốc? Võ công của chàng đã hơn hẳn Tứ gia gia, còn đầu óc càng ngày càng sáng suốt.” Nàng khoan khoái trong lòng, nỗi hân hoan lộ ngay ra mặt. Tuy nàng có bôi lọ chảo lên mặt, nhưng mọi người chỉ chú ý đều nhận ra đây là một cô gái rất đẹp. Nhưng trên đầu nàng đội một cái nón rách nát, mặc áo dính đầy dầu mỡ, sờn bóng lên như người mua bán, nên mọi người không khỏi tức cười.

Cao Tam nương tử nắm lấy tay nàng mỉm cười nói: “Chú tiểu nhị này đã xinh đẹp, mà lại đeo vòng vàng dát minh châu. Tiểu nhị ở Giang Nam thật khác với ở đất Quan Đông chúng ta.”

Mọi người nghe nói đều nổi lên cười ha hả. Đinh Đang không nhịn được cũng cười khúc khích, nghĩ thầm: “Vừa rồi mình thấy Tứ gia gia, luống cuống chạy đi cải trang mà quên chưa tháo hoa tai xuống.”

Cao Tam nương tử thấy có tới mấy trăm người dân trong thị trấn kéo đến, nhưng chỉ đứng xa nhìn chứ không dám tới gần. Bà hiểu rằng vừa xảy ra một trường ác đấu, Đinh Bất Tứ lại giết mất ba người dân, bá tánh ở đây tất cho bọn mình là lục lâm giết người cướp của. Bà liền nói: “Chỗ này không thể ở lâu được, chúng ta phải đi thôi.”

Bà quay lại bảo Đinh Đang: “Tiểu muội! Tiểu muội cứ cải trang thế này thì bẩn cả y phục bên trong. Ta có mang rất nhiều quần áo để thay đổi, nếu tiểu muội không chê thì tìm vào khách điếm nào mà tắm gội rồi thay quần áo đi. Tiểu muội! Xem chừng tiểu muội là một tiểu mỹ nhân ở Giang Nam, tỷ tỷ chưa thấy ai xinh đẹp bằng. Sau khi tiểu muội trở lại chân tướng nữ nhân, chắc chắn diễm lệ như tranh vẽ vậy. Tỷ tỷ thật sự muốn xem, để sau này trở về Quan Đông có thể khoe với bạn bè thân thích là đã từng đến Giang Nam, thấy mỹ nhân như thế nào.”

Cao Tam nương tử nói chuyện ngon ngọt nghe rất ngọt tai, Đinh Đang khoan khoái không bút nào tả xiết. Nàng mỉm cười nói: “Tiểu muội không biết trang điểm, tỷ tỷ đừng chê cười nhé.”

Cao Tam nương tử nghe vậy biết nàng đã đồng ý, nên vẫy tay gọi: “Chúng ta đi thôi.” Mọi người liền rầm rộ dắt ngựa tới noi, mời Thạch Phá Thiên cùng Đinh Đang lên ngựa trước, rồi mới lục tục lên ngựa theo sau. Họ đem theo cả xác chết tên đệ tử ở Quan Đông ra khỏi thị trấn.

Về tuổi tác và võ công thì Phạm Nhất Phi đứng nhất đoàn người này, song mọi phí tổn của chuyến đi Trung Nguyên này đều do Hàn Mai Trang đài thọ. Cao Tam nương tử tính tình hào phóng, tiêu tiền như rác, nên trở thành thủ lĩnh. Mọi người đều cưỡi ngựa khỏe của Liêu Đông, chốc lát đã đi được mấy chục dặm.

Thạch Phá Thiên khẽ hỏi Đinh Đang: “Đường này có đến Tùng Giang Phủ không?” Đinh Đang mỉm cười gật đầu. Thực ra Tùng Giang Phủ ở về phía Đông Nam mà mọi người lại đi về phía Đông Bắc, tức là mỗi lúc một xa vợ chồng Thạch Thanh hơn.

* * *

Trời đã xế chiều, đoàn người đi đến một thị trấn lớn là Bình Dương Trại. Mọi người tìm vào một khách điếm lớn nhất trong thị trấn. Hán tử bị Đinh Bất Tứ giết là thuộc Khoái Đao Môn, nên Lữ Chính Bình cùng đệ tử bản môn trông nom tang ma. Họ làm lễ tế rồi hỏa táng, thu lấy tro tàn.

Cao Tam nương tử ở trong phòng giúp Đinh Đang thay đổi quần áo. Bà thấy Đinh Đang tuy ăn vận y phục của thiếu phụ, song thái độ cùng cử chỉ hiển nhiên là một thiếu nữ khuê các thì âm thầm khen ngợi. Hôm ấy bọn quần hào Quan Đông giết heo mổ dê, bày đại tiệc. Họ mời Thạch Phá Thiên ngồi vào chủ tọa.

Đinh Đang không muốn tiết lộ mối quan hệ giữa mình và Đinh Bất Tứ. Mỗi khi Cao Tam nương tử cùng bọn Phạm Nhất Phi hỏi Thạch Phá Thiên cùng nàng lai lịch thế nào, sư môn là ai, thì hai người chỉ đáp cho xuôi chuyện. Quần hào thấy hai người không chịu nói nên không dám hỏi nhiều.

Cao Tam nương tử thấy Thạch Phá Thiên cùng Đinh Đang ra chiều thân mật, có lúc Đinh Đang nhìn chàng biểu lộ mối tình đằm thắm thì nghĩ bụng: “Ân công cùng tiểu muội này chắc là có tư tình với nhau rồi bỏ nhà ra đi. Chúng ta phải biết điều, không nên làm trở ngại đến việc riêng của hai người.”

Bọn Phạm Nhất Phi ở Quan Đông xưng hùng, xưng bá đã mấy đời nay. Chuyến này họ xuống Trung Nguyên vừa gặp phải Đinh Bất Tứ đã suýt phải chết hết, dĩ nhiên trong lòng cảm thấy thất vọng. Nhất là Lữ Chính Bình bị chết mất một tên đệ tử đắc lực, lại càng u uất. Nhưng trước mặt Thạch Phá Thiên cùng Đinh Đang, hắn đành miễn cưỡng ăn no uống say một bữa.

Sau khi tan tiệc, Cao Tam nương tử đưa mắt ra hiệu cho Phạm Nhất Phi, cùng nhau dắt Đinh Đang và Thạch Phá Thiên vào một gian phòng trên lầu. Phạm Nhất Phi tươi cười đi ra ngoài, rồi Cao Tam nương tử cười nói: “Ân công! Ân công thử xem cô dâu mới này có đẹp không?”

Thạch Phá Thiên mặt đỏ bừng lên, liếc mắt nhìn Đinh Đang thì thấy nàng hai má ửng hồng, thu ba nồng nàn gờn gợn, bất giác tim đập thình thình. Hai người cùng ngoảnh đầu nhìn đi chỗ khác, lùi lại hai bước đứng tựa vào tường.

Cao Tam nương tử cười khanh khách nói: “Hôm nay hai vị đã vào tới động phòng hoa chúc mà còn mắc cỡ nỗi gì? Đứng xa mà nhìn như vậy, có phải là kính nhau như khách hay không?” Tay trái bà khép cửa phòng, tay phải vung lên đánh véo một tiếng, một lưỡi phi đao bay ra cắt đứt đôi ngọn nến đang cháy dở. Dư lực lưỡi phi đao hãy còn mãnh liệt, xuyên thủng cánh cửa sổ ra ngoài. Trong phòng tối đen như mực.

Cao Tam nương tử mỉm cười nói: “Chúc hai vị trăm năm hòa hợp, hạnh phúc đến thuở bạc đầu.” Binh một tiếng, bà đóng cửa phòng lại.

Thạch Phá Thiên cùng Đinh Đang nóng cả mặt mày, tâm tình lai láng. Nhưng đột nhiên Thạch Phá Thiên lại nghĩ đến A Tú, giả tỉ nàng thấy được tình hình lúc này, chắc chắn sẽ rất giận. Lỡ mà về sau nàng không chịu làm vợ của mình nữa, thì biết làm thế nào?

Bất thình lình ngoài sân có tiếng đàn ông quát lên: “Đã là anh hùng hảo hán thì phải nên đao kiếm đường hoàng, đối diện tỉ đấu một trận. Ngấm ngầm phóng phi đao ra ngoài, phỏng có khác gì chó cắn trộm người?”

Đinh Đang khẽ la lên một tiếng rồi chạy đến trước mặt Thạch Phá Thiên. Hai người nắm lấy tay nhau rồi không nhịn được phải cười thầm, nghĩ bụng: “Lưỡi đao này là do Cao Tam nương tử phóng ra để tắt nến giúp mình, không ngờ lại khiến người khác hiểu lầm.”

Thạch Phá Thiên toan mở miệng đính chính, thì bỗng một bàn tay mềm mại bịt lấy miệng chàng, không cho lên tiếng.

Lại nghe người ngoài sân cất tiếng mắng: “Thứ phi đao này hiểm độc lắm, chắc là do con tiện nhân mặt dày ở Quan Đông phóng ra. Ta nghe nói ở Liêu Đông có Hàn Mai Trang gì gì đó, chủ nhân là mụ góa họ Cao võ công tầm thường, chuyên dùng phi đao để ám toán người. Khách giang hồ Trung Nguyên chúng ta làm gì có loại ám khí tồi tệ đến như vậy?”

Cao Tam nương tử phóng đao ra gây sự hiểu lầm, bèn nghĩ: “Ít đi một chuyện thì hơn là nhiều thêm một chuyện”. Bà cũng chẳng muốn đa sự làm gì, cứ để họ nói mấy câu cho sướng miệng. Ngờ đâu người kia lại thóa mạ thẳng vào mặt mình, bà bèn tự hỏi: “Không hiểu hắn nhận ra đó là phi đao của mình, hay là chỉ gặp đâu nói đấy?”

Người kia lại càng thóa mạ thậm tệ hơn: “Đất Quan Đông là xứ đèo heo hút gió, chẳng thiếu gì giặc cỏ cướp đường. Con mẹ nó! Có thằng cha ở Mạn Đao Môn gì đó, sử đao chậm như rùa, chỉ chuyên dùng chất độc hại người. Lại còn môn phái Thanh Xà Môn chi chi đó, chuyên nghề bắt rắn độc đem đi làm xiếc xin ăn. Sau cùng là gã họ Phạm ngoại hiệu là Nhất Phi Lạc Thủy, quen dùng đôi đũa để gắp phân, khiến cho người ta phải cười đến trẹo quai hàm.”

Người kia đứng ngoài sân lớn tiếng la ó om sòm, khiến cho quần hào Quan Đông chẳng ai là không biến sắc. Họ biết gã cố ý đến đây gây sự với mình.

Lữ Chính Bình cầm thanh Kim Đao xồng xộc chạy ra ngoài viện, thấy một hán tử nhỏ bé thấp lùn đang khoa chân múa tay chửi bới. Lữ Chính Bình quát hỏi: “Ông bạn! Ông bạn đến đây ăn nói hồ đồ là có dụng ý gì?”

Người kia nói: “Có dụng ý gì đâu? Lão gia thấy bọn Quan Đông chó chết, ghét cay ghét đắng muốn chém chết rồi treo lên xà nhà.”

Lữ Chính Bình nói: “Hay lắm! Bọn Quan Đông chó chết ở cả đây, ngươi cứ lại mà chém!” Rồi lão lạng người đi một cái đã đến kế bên hán tử, vung thanh Tử Kim Đao ra, một đao lập tức chặt người đó ra làm hai khúc. Nửa người trên bắn ra xa hơn trượng, máu văng tung tóe khắp mặt đất.

Lúc này Phạm Nhất Phi, Phong Lương và Cao Tam nương tử cũng đã xuống sân đứng nhìn, thật không hiểu hán tử thấp lùn bé nhỏ kia học võ công kiểu gì mà bị Lữ Chính Bình một đao chém làm hai khúc. Mọi người kinh hãi vô cùng, Lữ Chính Bình lại càng kinh dị. Hán tử này ăn to nói lớn, coi bốn môn phái lớn ở Quan Đông chẳng ra gì. Ai cũng tưởng dù gã không có bản lãnh siêu quần thì ít ra cũng phải đấu được mấy chiêu với Lữ Chính Bình, ngờ đâu gã lại chẳng biết chút võ công nào.

Quần hào đang ngơ ngác nhìn nhau, bỗng nghe trên nóc nhà có tiếng người lạnh lùng nói: “Công phu tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Lữ đại hiệp tại Khoái Đao Môn ở Quan Đông chỉ vung một đao là chém đứt đôi tên tiểu nhị bưng cơm trong phạn điếm.”

Quần hào Quan Đông ngẩng đầu trông về phía phát ra thanh âm thì thấy một người mặc áo bào xám, hai tay chắp sau lưng, đứng trên nóc nhà. Mọi người vừa nhìn thấy liền tỉnh ngộ hiểu ngay. Người vừa bị Lữ Chính Bình giết là một tên tiểu nhị trong quán trọ, chắc là đã nhận tiền của người này mà chửi bới một phen, nào ngờ mất mạng.

Cao Tam nương tử vung tay lên một cái, mấy tiếng veo véo rít lên, ba lưỡi phi đao theo tiếng gió vọt tới người đó. Hắn vươn tay trái ra chụp lấy chuôi một lưỡi đao, rồi nhảy sang trái tránh hai lưỡi kia. Hắn lại cười khanh khách rồi nói: “Đại giá bốn môn phái lớn ở Quan Đông đã tới cả đây. Bọn ta muốn mời các vị đến khu rừng ở phía Bắc thị trấn, cách đây mười hai dặm. Nếu các vị không dám tới đó thì thôi, cũng chẳng sao.” Rồi không chờ bọn Phạm Nhất Phi trả lời, hắn đã từ trên nóc nhà nhảy xuống, chạy đi như bay.

Cao Tam nương tử hỏi: “Chúng ta có nên đi không?”

Phạm Nhất Phi đáp: “Bất luận đối phương là ai, nhưng họ đã khiêu khích bọn Quan Đông chúng ta, thì chúng ta không thể không đi.”

Cao Tam nương tử nói: “Không sai! Chúng ta không thể làm mất thanh danh võ lâm Quan Đông được.” Bà đến trước cửa sổ phòng Thạch Phá Thiên, dõng dạc nói: “Thạch ân công cùng tiểu muội! Chúng ta đã có hẹn ước với người ta, phải đi trước một bước. Sáng mai sẽ cùng nhau uống rượu ở ngoài thị trấn này.”

Bà ngừng lại một chút, không nghe tiếng Thạch Phá Thiên trả lời, liền nói tiếp: “Chỗ này đã xảy ra án mạng, không khỏi có chuyện rắc rối. Vậy sáng mai hai vị cũng nên thượng lộ sớm đi, để khỏi bị liên lụy.” Bà không mời hai người cùng đi phó ước, trong lòng nghĩ: “Ban ngày ác chiến cùng Đinh Bất Tứ, bốn người mình mới được Thạch Phá Thiên cứu mạng. Nếu bây giờ lại mời chàng cùng đi, chẳng khác nào nhờ chàng bảo vệ, hiển nhiên bốn môn phái lớn ở Quan Đông toàn là đồ bị thịt”.

Lúc này người trong khách sạn đã phát hiện tên tiểu nhị bị giết, hô hoán lên ầm ĩ. Có người la lên: “Cường đạo đến giết người! Cứu mạng! Cứu mạng!” Có người thì la: “Mau đi báo quan.” Có người lại khẽ nói: “Đừng lên tiếng, bọn cướp còn chưa đi.”

Thạch Phá Thiên thấp giọng hỏi Đinh Đang: “Bây giờ phải làm sao?”

Đinh Đang thở dài nói: “Dù sao thì cũng không thể ở đây được nữa. Chúng ta đi theo họ xem sao.”

Thạch Phá Thiên nói: “Chúng ta cũng không biết đối phương là ai, hay là Đinh Bất Tứ gia gia?”

Đinh Đang nói: “Tiểu muội cũng không biết. Chúng ta cũng đừng lộ diện, không chừng là gia gia tiểu muội cũng nên.”

Thạch Phá Thiên “ồ” lên một tiếng kinh hãi rồi nói: “Nếu thế thì hỏng rồi! Ta… ta không đi là hơn.”

Đinh Đang bảo: “Chàng ngốc ơi! Nếu là gia gia tiểu muội, thì bây giờ chúng ta chuồn đi cũng không sao. Hiện nay võ công Thiên ca đã cao cường như vậy, gia gia không giết được huynh nữa. Tiểu muội thì chẳng lo chút nào, mà Thiên ca lại sợ cuống lên.”

Hai người còn đang bàn định bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, quần hào Quan Đông lục tục ra khỏi phạn điếm. Cao Tam nương tử lớn tiếng nói: “Đây là hai trăm mười lạng bạc. Mười lạng là tiền ăn tiền phòng, còn hai trăm lạng là chi phí để tống táng cho gã tiểu nhị. Vụ giết người này là do một tên giữ ngựa ở Sơn Đông tên gọi Vương Đại Hổ gây ra, không liên lụy đến ai cả.”

Thạch Phá Thiên khẽ hỏi: “Tại sao lại xuất hiện một tên Vương Đại Hổ ở Sơn Đông?”

Đinh Đang đáp: “Đó là tên giả. Họ chỉ nói cho có chuyện, để sáng mai khách sạn đi báo quan thì cứ vậy mà trình.”

Hai người ra khỏi quán trọ liền thấy hai con ngựa yên cương sẵn sàng chờ ngay trước cửa. Họ biết là quần hào Quan Đông để lại cho mình, liền nhảy vọt lên lưng, gia roi chạy về hướng Bắc.

Hồi 15: Chân tướng

Thạch Phá Thiên cùng Đinh Đang cho ngựa chạy theo quần hào Quan Đông, cách một quãng xa. Đi khỏi thị trấn hơn mười dặm, quả nhiên thấy phía trước có một khu rừng thông tối mịt. Hai người bỗng nghe tiếng Phạm Nhất Phi dõng dạc nói: “Bằng hữu phương nào mời bọn tại hạ đến đây? Bọn tại hạ là Hàn Mai Trang, Khoái Đao Môn, Thanh Long Môn, Ngọa Hổ Môn ở Quan Đông đến bái sơn.”

Đinh Đang nói: “Chúng ta trốn ở bụi cỏ này xem thử, có phải là gia gia hay không.” Hai người liền tung mình xuống ngựa, khom thấp người xuống, lẻn vào ẩn sau một tảng đá lớn bên bụi cỏ.

Phạm Nhất Phi nghe tiếng vó ngựa biết là hai người cũng đến rồi, nhưng không quay sang chào hỏi. Lão cứ chăm chú nhìn vào trong rừng. Bốn vị chưởng môn đứng một hàng ở phía trước, còn mười mấy tên đệ tử đứng sau, cách hơn một trượng. Bốn bề vẫn im lặng như tờ, không thấy động tĩnh chi hết.

Mảnh trăng lưỡi liềm không sáng lắm chiếu xuống rừng thông, ánh vào mặt người một màu xanh nhợt nhạt. Sau một lúc lâu, bỗng nghe trong rừng thông nổi lên một tiếng sáo, bên trái bên phải đều có một hàng hán tử áo đen chạy ra.

Mỗi hàng đều có năm sáu chục người, cả hai bên cộng trên một trăm người. Họ đi quanh ra phía sau quần hào rồi vòng lại, thành thế bao vây bọn Phạm Nhất Phi cùng Thạch Phá Thiên và Đinh Đang. Hơn trăm người này đứng lại, ai nấy lăm lăm cầm binh khí trong tay, không nói nửa lời. Tiếp theo lại có mười hán tử áo đen từ trong rừng đi ra, đứng thành hàng chữ nhất.

Thạch Phá Thiên vừa trông thấy họ liền khẽ kêu lên một tiếng. Thì ra mười người này là chánh phó hương chủ tại Ngũ đường bang Trường Lạc, trong đó có cả bọn Mễ Hoành Dã, Trần Xung Chi, Triển Phi. Mười người này đứng yên, rồi lại thêm một người nữa từ trong rừng đi đến. Lão chính là Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch.

Bối Hải Thạch ho hắng rồi lên tiếng: “Các vị chưởng môn bốn môn phái lớn ở Quan Đông có lòng chiếu cố, anh em tệ bang không dám ngồi yên ở Tổng đà để chờ đợi, nhất định phải ra đây nghênh đón. Có điều các vị đến hơi muộn, khiến cho tệ bang từ trên xuống dưới rất đỗi nóng lòng lo lắng.”

Phạm Nhất Phi nghe lão vừa nói vừa ho luôn miệng thì biết ngay là Bối Hải Thạch, một nhân vật lừng tiếng võ lâm. Lão nghĩ bụng: “Phen này chúng ta chính là đang tìm Trường Lạc Bang. Dù danh tiếng bang này rất lớn, nhưng bây giờ cũng yên tâm rồi. Họ đúng là người bang Trường Lạc, thì dù mình có phải quyết đấu một trận sinh tử vinh nhục cũng không sao, còn đỡ hơn phải đánh với loại người chẳng liên can chút nào như Đinh Bất Tứ.”

Lão nghĩ đến Đinh Bất Tứ, không khỏi run tay đôi chút, bèn ôm quyền nói: “Té ra là Bối tiên sinh đường xa đến đây tiếp đón, khiến cho anh em tại hạ áy náy vô cùng. Tại hạ là Ngọa hổ cân Phạm Nhất Phi.” Tiếp theo hắn giới thiệu bọn Lữ Chính Bình, Phong Lương, Cao Tam nương tử.

Thạch Phá Thiên thấy bọn họ ăn nói khách sáo, lịch sự thì nghĩ bụng: “Thì ra không phải là đi đánh nhau!” Rồi chàng ghé tai bảo Đinh Đang: “Họ toàn là người trong nhà cả, chúng ta ra đó hội diện đi.”

Đinh Đang kéo tay chàng lại, rỉ tai: “Khoan đã! Hãy thong thả chờ xem sao rồi hãy tính.”

Bỗng nghe Phạm Nhất Phi lại nói: “Bọn tại hạ đã hẹn đến quý bang bái sơn, nhưng dọc đường gặp chuyện bất ngờ phải nán lại, thành ra đến chậm. Xin Bối đại phu cùng các vị hương chủ tha lỗi.”

Bối Hải Thạch nói: “Không sao! Không sao! Nhưng đáng tiếc là tệ bang chúa chờ đợi lâu ngày mà không thấy đại giá quang lâm, cứ tưởng các vị đã bãi bỏ cuộc ước hội này. Bang chúa đã bận việc khác, nên không đợi được nữa.”

Phạm Nhất Phi ngẩn ra nói: “Không hiểu Thạch anh hùng đi đâu? Chẳng nói giấu gì Bối tiên sinh, sở dĩ bọn tại hạ lặn lội đường xa vạn dặm đến Trung Nguyên, chỉ là mong gặp Thạch anh hùng ở quý bang. Nếu không được cùng người hội diện thì bọn tại hạ rất lấy làm thất vọng.”

Bối Hải Thạch lại ho mấy tiếng, không đáp. Phạm Nhất Phi ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Bọn tại hạ có mang theo một ít thổ sản của Quan Đông, mấy tấm da điêu cùng vài cân nhân sâm để tặng Thạch anh hùng, Bối tiên sinh cùng chư vị hương chủ. Lễ mọn chẳng có chi đáng kể, xin các vị niệm tình đường xa diệu vợi mà vui lòng nhận cho.” Lão vừa nói vừa vẫy tay ra hiệu cho ba tên đệ tử cởi bọc trên lưng ngựa xuống.

Ba tên này tháo bọc xong, khom lưng đặt trước mặt Bối Hải Thạch. Bối Hải Thạch mỉm cười nói: “Thế này… thế này là quá khách sáo rồi! Các vị đã có thịnh ý hậu tặng, tệ bang mà khước từ thì không đủ cung kính, mà nhận lấy thì cũng không khỏi hổ thẹn. Vậy xin đa tạ, đa tạ!”

Bọn Mễ Hoành Dã nhận lấy ba cái bao đó, đem về bên mình. Phạm Nhất Phi lại cởi một gói nhỏ ở bên mình ra, bưng cả hai tay tiến lên ba bước, dõng dạc nói: “Tư Đồ bang chúa của quý bang hồi còn ở Quan Đông, đã không khinh rẻ mà có giao tình với tại hạ và mấy vị đây. Đây là một củ nhân sâm ngàn năm đã thành hình, uống vào được thêm tuổi thọ. Vật hiếm này xin để tặng Tư Đồ đại ca.” Hắn hai tay kính cẩn đặt cái gói xuống, đưa mắt nhìn Bối Hải Thạch.

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên tự hỏi: “Sao lại còn Tư Đồ bang chúa nào nữa?”

Bối Hải Thạch lại húng hắng ho mấy tiếng rồi thở dài nói: “Tệ bang chúa trước kia là Tư Đồ đại ca, mấy năm nay gặp chuyện không được như ý nên sinh lòng chán nản, không muốn lo lắng những việc trong bang nữa. Vì thế Tư Đồ đại ca đã đem đại sự trong bang giao lại cho Thạch bang chúa, rồi vào núi ẩn cư. Lâu nay không được tin tức gì, huynh đệ trong bang lúc nào cũng tưởng nhớ ông ấy. Món hậu lễ này của các vị mà muốn gửi đến tay lão gia, cũng không phải dễ dàng gì.”

Phạm Nhất Phi lại hỏi: “Không biết Tư Đồ đại ca ẩn cư nơi đâu? Cũng không hiểu vì lẽ gì mà người phải đi ẩn lánh?” Giọng nói lão đã lộ vẻ chất vấn.

Bối Hải Thạch mỉm cười nói: “Tại hạ chỉ là thuộc hạ dưới trướng Tư Đồ bang chúa, nên việc riêng của lão gia cũng không biết được nhiều. Phạm huynh cùng mấy vị đã là bạn tri giao của Tư Đồ bang chúa, tại hạ cũng mong được thỉnh giáo vì lẽ gì mà bang Trường Lạc đang lúc hưng thịnh, thanh thế nổi như cồn, mà Tư Đồ bang chúa lại giao trọng trách cho Thạch bang chúa. Chuyện đó, không chừng các vị còn hiểu rõ hơn tại hạ.” Lão hỏi câu này là kế phản khách vi chủ, hất ngược lại những lời chất vấn của Phạm Nhất Phi vào đầu hắn.

Phạm Nhất Phi ấp úng: “Chuyện này… Chuyện này chúng ta làm sao biết được”.

Bối Hải Thạch nói: “Khi Tư Đồ bang chúa bàn giao trọng trách, huynh đệ bọn tại hạ hoàn toàn không biết gì về võ công và nhân phẩm Thạch bang chúa. Mọi người thấy ông ta còn nhỏ tuổi, lại không có danh vọng gì trong võ lâm, mà đứng ra thống lĩnh quần hào thì thật sự mà nói, trong lòng mọi người có chỗ không phục. Nhưng từ khi Thạch bang chúa lên nhận nhiệm vụ này, người đã làm cho bản bang được nhiều việc lớn. Như vậy đủ chứng tỏ Tư Đồ bang chúa có mắt tinh đời, quả là anh hùng biết anh hùng. Lão nhân gia chẳng những võ công cao hơn người một bậc, mà kiến thức cũng không phải tầm thường. Nếu không thế thì sao ông ấy lại giao hảo với các vị anh hùng ở Liêu Đông? Ha ha…”

Câu nói của Bối Hải Thạch có ngụ ý bảo bọn kia: Nếu các ngươi cho là Tư Đồ bang chúa kém cỏi không biết nhìn người, thì các ngươi cũng chẳng ra gì. Lữ Chính Bình đột nhiên nói xen vào: “Bối đại phu! Bọn tại hạ ở Quan Đông đã nhận được tin tức, nên lặn lội đường xa ngàn dặm vào đến Trung Nguyên để điều tra cho rõ thực hư.”

Bối Hải Thạch lạnh nhạt nói: “Ở xa vạn dặm thì chắc có lắm lời đồn đại. Không biết quý vị đã nghe lời đồn đại như thế nào”.

Lữ Chính Bình đáp: “Chân tướng còn chưa rõ ràng, lời đồn đại đó có đáng tin hay không thì cũng khó nói. Bọn tại hạ đã nghe một vị hảo bằng hữu nói rằng Tư Đồ đại ca bị… bị…” Mục quang hắn bỗng sáng rực lên, dõng dạc nói tiếp: “…bị gian nhân ở bang Trường Lạc sát hại. Đại ca chết một cách không minh bạch, ngôi bang chúa lọt vào tay một thiếu niên tham dâm hiếu sắc, ngang ngược bạo tàn. Ông bạn này nói rất nghiêm chỉnh, nhất định không phải là lời nói dối. Bọn tại hạ nghĩ đến tình thâm giao với Tư Đồ đại ca ngày trước, tuy tự biết võ công cùng danh vọng không đáng hỏi tới việc lớn của quý bang, nhưng vì nóng lòng bạn bè mà không tránh khỏi… không tránh khỏi có điều mạo muội.”

Bối Hải Thạch cười lạnh nói: “Lời nói của Lữ huynh rất có lý. Rõ ràng không tránh khỏi có điều mạo muội.”

Lữ Chính Bình nóng mặt nghĩ thầm: “Người ta đồn Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch hết sức điêu ngoa tinh quái, quả nhiên danh bất hư truyền.” Hắn liền lớn tiếng nói: “Chuyện quý bang tôn ai làm bang chúa, dĩ nhiên người ngoài không được xen vào. Bọn Quan Đông chúng ta chỉ muốn lấy tình võ lâm đồng đạo mà hỏi quý bang hai chuyện. Tư Đồ đại ca còn sống hay chết? Ông ấy không làm bang chúa quý bang nữa là cam tâm tình nguyện hay bị người ta áp bức?”

Bối Hải Thạch đáp: “Bối mỗ tuy chẳng đáng gì, nhưng trên giang hồ cũng có chút hư danh, lời đã nói ra thì không sửa lại được. Nếu các vị cứ nhất định cho là Bối mỗ nói dối, thì Bối mỗ chỉ còn cách nói dối đến cùng mà thôi. Quý vị đều là nhân vật nổi tiếng võ lâm, lại nhiệt tâm vì bạn hữu, ai mà chẳng kính phục? Nhưng về việc này thì thật tình mà nói, các vị còn có nhiều chỗ chưa thông suốt.”

Từ trước đến nay Cao Tam nương tử chỉ quen nghe lời tâng bốc. Phen này bà thấy Bối Hải Thạch ra điều mạt sát, không khỏi lửa giận bốc lên ùn ùn, lớn tiếng nói: “Bọn người hại chết Tư Đồ đại ca, e rằng chủ mưu chính là họ Bối này. Bọn ta đến Trung Nguyên là để báo thù cho Tư Đồ đại ca, lão đừng hòng sống yên lành trở về nữa. Lão là nam tử hán là đại trượng phu, đã có gan làm thì phải có gan chịu. Ta chỉ hỏi lão một câu: Tư Đồ đại ca còn sống hay đã chết?”

Bối Hải Thạch vẫn trả lời chậm rãi: “Bối mỗ bệnh tật liên miên bao nhiêu năm nay, sống không sống được chết chẳng chết cho, ở lại trên đời này cũng chẳng có chi hứng thú nữa. Cao Tam nương tử muốn giết thì cứ việc xuất thủ.”

Cao Tam nương tử giận dữ nói: “Thế mà còn gọi là võ lâm tiền bối, để cho lão nương phải nặng lời thế này. Thôi được, lão không chịu nói thì đi kêu thằng lỏi họ Thạch ra đây, để lão nương chất vấn một phen.” Bà nghĩ rằng Bối Hải Thạch là con cáo già, đấu khẩu không lại lão, mà đấu võ thì e rằng không chọi nổi đông người như vậy. Còn Thạch bang chúa là loại tiểu tử hậu sinh, dù nó không nói thực nhưng quan sát nét mặt thế nào cũng lộ ra manh mối.

Trần Xung Chi đang đứng cạnh Bối Hải Thạch, bỗng mỉm cười nói: “Chẳng giấu gì Cao Tam nương tử, bang chúa chúng ta tuy rất thích nữ nhân, nhưng lão nhân gia chỉ chuộng những cô gái trẻ đẹp dịu dàng phong nhã mà thôi. Mời ông ta đến hội kiến với Cao Tam nương tử thì… hà hà… chỉ sợ rằng ông ấy… hà hà…”

Trần Xung Chi nói mấy câu này cực kỳ tiết mạn. Gã có ý mạt sát Cao Tam nương tử vừa xấu xa vừa hung dữ, Thạch bang chúa không thèm ngó tới. Đinh Đang trong bóng tối không khỏi cười thầm, khẽ hỏi: “Thực ra dung mạo Cao tỷ tỷ cũng rất xinh đẹp. Tỷ tỷ đã lọt vào mắt huynh rồi có phải không?”

Thạch Phá Thiên bảo: “Đừng nói nhảm! Coi chừng bà ta phóng phi đao vào muội đấy.”

Đinh Đang mỉm cười hỏi: “Giả tỉ bà ấy phóng phi đao bắn tiểu muội thì Thiên ca bênh ai?” Thạch Phá Thiên còn chưa trả lời, Cao Tam nương tử đã giận dữ phóng phi đao ra. Ánh ngân quang lấp loáng, mấy mũi phi đao phóng về phía Trần Xung Chi.

Trần Xung Chi né được hết, rồi mỉm cười nói: “Nương tử thấy ta nói đúng ý rồi chăng?” Gã lại tiếp tục buông lời khinh bạc.

Phạm Nhất Phi bỗng lên tiếng: “Khoan rồi hãy động thủ.” Nhưng Cao Tam nương tử đang cáu giận không dằn lòng được, vẫn tiếp tục liệng phi đao ra. Bà phóng mỗi lúc một mau.

Trần Xung Chi tránh được sáu ngọn, đến ngọn thứ bảy tránh không kịp nữa. Chỉ nghe một tiếng “phập”, chân phải gã bị trúng phi đao, khuỵu ngay gối xuống. Cao Tam nương tử cười lạnh hỏi: “Ngươi quỳ xuống để xin tha mạng phải không?”

Trần Xung Chi cả giận, rút đao xông lại chém luôn. Phong Lương vội rút roi ra gạt lưỡi đao. Thấy sắp ẩu đả tới nơi, Thạch Phá Thiên vội lớn tiếng la lên: “Đừng đánh nhau nữa! Đừng đánh nhau nữa! Các vị muốn gặp tại hạ, thì đã gặp được rồi đây.”

Chàng nói xong, dắt tay Đinh Đang từ sau tảng đá lớn đi ra, nhô lên hụp xuống mấy cái đã đứng giữa đám đông. Trần Xung Chi và Phong Lương đều nhảy lùi lại. Bỗng nghe quần hào bang Trường Lạc lớn tiếng hoan hô như sấm dậy. Ai nấy đều khom lưng nói: “Bang chúa giá lâm!”

Bọn Phạm Bất Phi đều giật mình kinh hãi. Họ thấy bang chúng bang Trường Lạc đều lộ vẻ thành kính, tuyệt không có ý gì giả dối, liền bụng bảo dạ: “Ân công đã tự xưng là họ Thạch. Tuy người trẻ tuổi nhưng võ công cực cao, làm bang chúa bang Trường Lạc chẳng có chi là lạ, chỉ đáng trách mình không nghĩ ra trước mà thôi. Nhưng chàng tự xưng là Thạch Trung Ngọc, còn chúng ta lại nghe nói bang chúa của Trường Lạc Bang gọi là Thạch Phá Thiên gì đó. À, chàng tên là Thạch Trung Ngọc, lấy hiệu là Phá Thiên, cũng là chuyện bình thường.”

Cao Tam nương tử áy náy nói: “Thạch… Thạch ân công… Té ra là người… người là bang chúa bang Trường Lạc… Bọn tại hạ thật là lỗ mãng, nếu biết sớm như thế thì khi nào còn không tin nữa?”

Thạch Phá Thiên mỉm cười nói với Bối Hải Thạch: “Bối tiên sinh! Không ngờ lại gặp các vị ở đây. Mấy vị này đều là bạn của ta, không nên làm tổn thương hòa khí.”

Bối Hải Thạch thấy Thạch Phá Thiên đến thì mừng rỡ khôn xiết. Lão cùng quần hào Quan Đông vốn không có hiềm khích gì, liền khom lưng nói: “Bang chúa thân hành đến đây chủ trương đại cuộc, thật không còn gì tốt bằng. Mọi việc đều nhờ bang chúa giải quyết cho.”

Cao Tam nương tử nói: “Bọn tại hạ đã nghe lầm lời của người khác, tưởng rằng Tư Đồ đại ca bị người ta hại chết, cho nên mới hẹn ước cùng quý bang. Ngờ đâu tân bang chúa lại là Thạch ân công. Ân công nghĩa khí cao ngất trời xanh, chẳng khi nào lại làm chuyện mờ ám với Tư Đồ đại ca. Nhất định là Tư Đồ đại ca thấy Thạch ân công tuổi trẻ tài cao, võ nghệ cao cường hơn cả ông ta, nên mới thoái vị để nhường ngôi cho bậc hiền tài. Chẳng hiểu Tư Đồ đại ca có được mạnh giỏi không?”

Thạch Phá Thiên không biết đáp sao, bèn quay lại hỏi Bối Hải Thạch: “Tư Đồ… Tư Đồ bang chúa…”

Bối Hải Thạch nói: “Tư Đồ bang chúa tiền nhiệm của bản bang đã vào ẩn cư tại chốn thâm sơn, không muốn gặp người ngoài. Nếu không thế thì các vị vượt ngàn dặm tới đây, dĩ nhiên lão phu phải dẫn đi hội kiến.”

Lữ Chính Bình nói: “Vừa rồi tại hạ có lời lỗ mãng với Bối tiên sinh, thật là đáng chết. Bây giờ xin có lời từ tạ.” Hắn nói xong xá dài, rồi lại nói: “Có điều Tư Đồ đại ca cùng bọn tại hạ là chỗ thâm giao, tình nghĩa không phải tầm thường. Chuyến này bọn tại hạ đến Trung Nguyên chỉ để gặp mặt đại ca, mong rằng ân công cùng Bối tiên sinh cầu khẩn hộ. Tư Đồ đại ca không muốn gặp người ngoài, nhưng bọn tại hạ tự xét không phải là người ngoài.” Hắn nói xong, chăm chú nhìn Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên quay lại hỏi Bối Hải Thạch: “Vị Tư Đồ tiền bối đó ở xa hay gần? Phạm đại ca cùng các vị này lặn lội đường xa đến thăm ông ấy, nếu không được gặp há chẳng làm họ thất vọng ư?”

Bối Hải Thạch hết sức khó chịu. Lời bang chúa phán ra phải là mệnh lệnh, trước mặt người ngoài lại không tiện nhắc nhở. Lão liền nói: “Bên trong có chuyện quan hệ, nhất thời không thể trình bày được. Các vị đường xa diệu vợi đến đây thăm hỏi, bang Trường Lạc dĩ nhiên phải tỏ chút tình địa chủ. Tổng đà tệ bang cách đây chẳng xa là mấy, xin mời quý khách giá lâm tệ bang dùng chén rượu nhạt, thong dong nói chuyện sau cũng không muộn.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Tổng đà cách đây không xa ư?”

Bối Hải Thạch lộ vẻ kinh ngạc đáp: “Từ đây đi về hướng Đông Bắc, theo đường mòn đến tổng đà ở Trấn Giang, chỉ có năm mươi dặm đường mà thôi.”

Thạch Phá Thiên quay người lại nhìn Đinh Đang. Nàng cười khúc khích rồi đưa tay che miệng. Bọn Phạm Nhất Phi đang muốn hỏi tung tích của bang chúa Tư Đồ Hoành, đồng thanh đáp: “Bọn tại hạ đã đến Giang Nam, dĩ nhiên là phải tới tổng đà quý bang để bái sơn.”

Đoàn người liền nhắm phía Đông Bắc thẳng tiến, trời sáng rõ thì về đến tổng đà bang Trường Lạc ở Trấn Giang. Quản sự cùng nhân viên bang Trường Lạc ân cần tiếp đãi quần hào ở Liêu Đông.

* * *

Thạch Phá Thiên cùng Đinh Đang sánh vai đi vào trong phòng. Thị Kiếm thấy bang chúa trở về thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Cô thấy bang chúa dắt tay thiếu nữ xinh đẹp cùng đi đã quá nhiều rồi, liền nghĩ bụng: “Bang chúa vừa đỡ bệnh được một chút thì tật cũ lại tái phát. Trước kia mình cứ tưởng y sau cơn trọng bệnh đã biến đổi tính nết. Hừ! Chứng nào tật ấy, y mà biến tính thì mặt trời phải mọc ở hướng Tây.”

Thạch Phá Thiên rửa mặt xong, vừa uống một chén trà đã nghe Bối Hải Thạch đứng ngoài cửa lên tiếng: “Thị Kiếm cô nương! Nhờ cô nương vào bẩm với bang chúa, có Bối Hải Thạch cầu kiến.”

Thạch Phá Thiên không chờ Thị Kiếm vào bẩm đã vén màn bước ra nói: “Bối tiên sinh! Ta đang định hỏi tiên sinh về chuyện Tư Đồ bang chúa, rốt cuộc là như thế nào?”

Bối Hải Thạch nói: “Mời bang chúa dời gót qua bên này!” Đoạn lão dẫn Thạch Phá Thiên đi băng qua vườn hoa, vào tòa bát giác đình ở cạnh vườn cúc. Lão chờ Thạch Phá Thiên an tọa rồi mới ngồi xuống nói: “Bang chúa sau khi lâm trọng bệnh, những việc đã lâu trước kia đương nhiên khó mà nhớ hết.”

Thạch Phá Thiên đã được nghe song thân phân tích rõ ràng chuyện quần hào bang Trường Lạc đưa chàng lên làm bang chúa là có dụng tâm hiểm ác, cốt để chàng đứng ra gánh lấy tai nạn cho bang họ, hy sinh tính mạng để giải trừ kiếp vận cho toàn bang. Có điều chàng thấy Bối Hải Thạch trước nay đối xử với mình rất cung kính. Lúc ở Ma Thiên Nhai, chàng bị hàn nhiệt giáp công cũng may mà được ông ta cứu trợ, sau này lại liên tục chữa trị rất chu đáo. Tuy vì mục tiêu ích kỷ, nhưng dù sao ông ta cũng đã cứu mạng chàng. Nếu lúc này chàng chất vấn thẳng thừng, không khỏi làm cho ông ta khó chịu. Hơn nữa những chuyện trước đây chàng hoàn toàn không biết, cũng phải hỏi cho rõ ràng. Nghĩ vậy, chàng bèn nói: “Đúng vậy! Xin Bối tiên sinh thuật rõ đầu đuôi cho ta nghe!”

Bối Hải Thạch nói: “Tiền nhiệm bang chúa Tư Đồ Hoành, ngoại hiệu Bát Trảo Kim Long, là sư thúc của bang chúa. Bang chúa còn nhớ không?”

Thạch Phá Thiên kinh ngạc hỏi: “Ông ấy là sư thúc của ta ư? Ta… sao ta chẳng nhớ chút gì. Lão nhân gia ở môn phái nào?”

Bối Hải Thạch đáp: “Tư Đồ bang chúa không bao giờ nói đến lai lịch sư môn, bọn thuộc hạ là người dưới nên không tiện hỏi nhiều. Ba năm trước đây, bang chúa phụng mệnh sư phụ…”

Thạch Phá Thiên ngắt lời: “Ta phụng mệnh của sư phụ ư? Sư phụ ta là ai?”

Bối Hải Thạch lắc đầu rồi nói tiếp: “Căn bệnh này của bang chúa thật là trầm trọng, ngay cả sư phụ cũng quên mất. Sư phụ bang chúa là ai, thuộc hạ làm sao biết được. Lần trước Bạch Vạn Kiếm ở phái Tuyết Sơn cứ nói bang chúa là đệ tử phái Tuyết Sơn tại thành Lăng Tiêu, bọn thuộc hạ cũng nghi hoặc không tin. Chiêu số võ công của bang chúa hình như không giống của phái đó.”

Thạch Phá Thiên nói: “Sư phụ của ta ư? Ta chỉ bái Sử bà bà ở phái Kim Ô làm sư phụ, nhưng đó là việc mới đây.” Chàng giơ ngón tay lên gõ gõ vào đầu mình, cảm thấy những việc mà mình nhớ được hoàn toàn không phù hợp với sự thật. Trong lòng rất phiền não, chàng lại hỏi: “Ta phụng mệnh sư phụ rồi sao nữa?”

Bối Hải Thạch nói: “Bang chúa phụng mệnh sư phụ đến nương nhờ Tư Đồ bang chúa, xin người dẫn tiến vào chốn giang hồ, xây dựng công danh. Chẳng bao lâu, bản bang xảy ra một chuyện rắc rối trọng đại. Chuyện này phát khởi khi bàn đến vụ hai sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đưa thẻ đồng mời đi dự yến. Về vụ này bang chúa còn nhớ không?”

Thạch Phá Thiên nói: “Thẻ đồng của Thưởng Thiện Phạt Ác thì ta có hơi biết. Nhưng cuộc thương nghị đó ra sao? Trong đầu ta không còn chút bóng dáng gì về vụ này nữa.”

Bối Hải Thạch nói: “Bản bang có lệ cứ mỗi năm mở đại hội toàn bang một lần, vào ngày mồng ba tháng ba. Hết thảy đà chúa, hương chủ, phân đà chúa các nơi đều về tổng đà Trấn Giang để hội họp, bàn bạc những công việc trọng đại trong bang. Trong đại hội ba năm trước, đột nhiên Hà hương chủ đề cập đến chuyện bản bang mấy năm gần đây rất hưng thịnh, ba năm nữa thì những tấm đồng bài mời dự yến sẽ lại xuất hiện trên giang hồ. Đến lúc đấy bản bang khó lòng tránh được, nên phải dự tính trước sẽ đối phó bằng cách nào, tránh chuyện khi nước đến chân mới nhảy.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Đúng vậy! Thẻ đồng của Thưởng Thiện Phạt Ác tới nơi, nếu bang chúa không tiếp nhận lời mời đi ăn cháo Lạp Bát thì toàn bang từ trên xuống dưới đều bị thảm họa giết cho tận tuyệt. Chuyện này chính mắt ta đã thấy rồi.”

Bối Hải Thạch động tâm hỏi lại: “Bang chúa đã đích thân nhìn thấy đồng bài rồi ư?”

Thạch Phá Thiên nói: “Thực ra ta không phải là bang chúa của các vị. Có điều ta đã được thấy người của hai bang Phi Ngư Bang và Thiết Xoa Hội đều bị giết sạch sành sanh.” Trong lòng chàng nghĩ: “Ôi chao, đại ca nhị ca cũng quá ác độc. Thì ra chuyện Phi Ngư Bang và Thiết Xoa Hội vì không chịu nhận đồng bài mà toàn bang bị giết chết cũng đã đồn đại đến tổng đà bang Trường Lạc rồi.”

Bối Hải Thạch thở dài nói: “Bọn thuộc hạ đã liệu trước sẽ có ngày nay. Năm ấy Hà hương chủ đưa vụ này ra hội nghị, thực cũng không phải là lo chuyện vu vơ như người nước Kỷ lo trời sập, có đúng thế không? Nhưng Tư Đồ bang chúa vừa nghe tới, lập tức nổi trận lôi đình. Lão nhân gia bảo Hà hương chủ có ý khuấy động nhân tâm, mưu đồ bất chính, liền hạ lệnh bắt giam ông ta lại. Ai nấy đều xin tha cho Hà hương chủ, Tư Đồ bang chúa tuy ngoài miệng ưng thuận, nhưng đến nửa đêm ngấm ngầm hạ sát. Ngày hôm sau ông ta nói là Hà hương chủ sợ tội mà tự sát.”

Thạch Phá Thiên nói: “Tại sao lại thế? Xem ra Tư Đồ bang chúa cùng Hà hương chủ đã có thù hằn từ trước, nên tìm cớ để giết y.”

Bối Hải Thạch lắc đầu nói: “Cái đó thì không phải. Nguyên nhân chính là Tư Đồ đồ bang chúa không muốn ai đề cập đến vụ này.”

Thạch Phá Thiên gật đầu. Chàng vốn có tư chất thông minh, chỉ vì ít giao tiếp nên ít hiểu biết thế thái nhân tình. Gần đây chàng ở với vợ chồng Thạch Thanh cùng Đinh Đang lâu ngày, đã biết phỏng đoán tâm sự người khác. Chàng nghĩ thầm: “Tư Đồ bang chúa biết, hễ tiếp bài đồng phó yến tất phải mất mạng trên hải đảo, đi không trở về, nhưng không tiếp bài đồng thì huynh đệ toàn bang từ trên xuống dưới phải mất mạng vì mình. Vụ này chắc ông ta cũng lo lắng nhiều năm rồi, nhưng không muốn để người khác đem vấn đề nan giải này ra bàn luận trước mặt bang chúng.”

Bối Hải Thạch lại nói tiếp: “Các huynh đệ đến hội họp đều biết Hà hương chủ bị Tư Đồ bang chúa giết chết. Hà hương chủ chết đã đành, nhưng từ đó có thể đoán rằng khi có thẻ đồng mời đi dự yến, Tư Đồ bang chúa đã quyết định không chịu tiếp, nhất định không chịu hy sinh thân mình để đánh đổi lấy sự bình yên cho toàn bang. Khi đó anh em mỗi người một tâm sự, đều hồi hộp lo sợ không dám nói gì. Chỉ có bang chúa là thẳng thắn đứng ra chất vấn sư thúc.”

Thạch Phá Thiên kinh ngạc hỏi lại: “Là ta ư? Ta đứng dậy để chất vấn ông ấy ư?”

Bối Hải Thạch đáp: “Đúng thế. Lúc ấy bang chúa nói rất rõ ràng: “Sư thúc! Sư thúc đã là chủ một bang thì phải có mưu lược nhìn xa trông rộng, suy nghĩ kỹ càng để tính toán việc lâu dài cho bổn bang. Kỳ hạn hai sứ giả Thiện Ác tái xuất giang hồ cũng không còn xa lắm, Hà hương chủ nhắc đến việc này cũng chỉ vì lo cho vận mệnh huynh đệ toàn bang, mà sư thúc lại bức bách ông ta tự sát, e rằng mọi người trong bang không phục”. Tư Đồ bang chúa lập tức biến sắc quát lên: “Tiểu tử cả gan! Tổng đà bang Trường Lạc há phải là nơi để ngươi nói chuyện? Bang Trường Lạc tự tay ta sáng lập ra, thì ta có thể tự tay hủy diệt đi, không để người khác nhiều chuyện được”.

“Tư Đồ bang chúa nói mấy câu này khiến các huynh đệ đều sợ run. Nhưng bang chúa lại nói: “Sư thúc! Sư thúc tiếp đồng bài thì cũng chết, mà không tiếp đồng bài cũng chết, chẳng khác gì nhau. Sư thúc không chịu tiếp nhận đồng bài chỉ khiến cho rất nhiều huynh đệ vì lòng trung nghĩa mà chết theo sư thúc, chẳng có ích lợi gì. Không bằng sư thúc khẳng khái tiếp thẻ bài để toàn bang yên ổn, thì toàn thể bang chúng vĩnh viễn nhớ tới ân nghĩa của sư thúc.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Câu này quả là không sai. Nhưng… nhưng… Bối tiên sinh… Ta làm gì có bản lãnh nói chuyện rõ ràng minh bạch như thế?”

Bối Hải Thạch mỉm cười nói: “Bang chúa hà tất phải quá khiêm tốn, chỉ vì sau trận bệnh nặng, trí nhớ chưa hoàn toàn hồi phục mà thôi. Sau này bang chúa khỏi hẳn, nói về tài biện luận thì dĩ nhiên bản bang không ai bị kịp, mà cả chốn giang hồ cũng khó có người sánh được.”

Thạch Phá Thiên bán tín bán nghi nói: “Có thật thế không? Rồi ta… ta… nói xong thì sao nữa?”

Bối Hải Thạch nói: “Tư Đồ bang chúa lập tức sắc mặt xám xanh, đập bàn quát tháo: “Mau… Mau trói thằng lỏi này lại cho ta!” Nhưng Tư Đồ bang chúa quát luôn mấy câu mà mọi người cứ ngơ ngác nhìn nhau, không ai cử động. Tư Đồ bang chúa càng giận dữ hơn, la lớn: “Phản rồi! Phản rồi! Bọn ngươi cấu kết với thằng lỏi này để phản ta phải không? Được! Các ngươi không động thủ thì để ta tự tay giết nó.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Huynh đệ trong bang có khuyên ngăn Tư Đồ bang chúa không?”

Bối Hải Thạch đáp: “Các anh em đều không phục, song chẳng một ai lên tiếng. Tư Đồ bang chúa rút phi trảo ra, tung người vọt khỏi chỗ ngồi nhằm bổ xuống bang chúa. Bang chúa né mình đi tránh khỏi. Tư Đồ bang chúa liên tiếp dùng những sát chiêu đánh tới, nhưng đều bị bang chúa tránh khỏi, mà thủy chung bang chúa vẫn không trả đòn. Bang chúa chỉ có hai tay không, mà phi trảo của Tư Đồ bang chúa lại là một tuyệt kỹ trên giang hồ, thế mà tránh né được bảy tám chiêu thật là không phải chuyện dễ. Khi đó Mễ hương chủ la lên: “Bang chúa! Lệnh sư điệt đã nhường bang chúa bảy tám chiêu mà không phản kích, một là y tôn trọng bang chúa là thủ lĩnh bản bang, hai là y kính trọng bang chúa là sư thúc. Nếu bang chúa còn tiếp tục ra chiêu độc địa để hạ sát y, thì thiên hạ phải kết tội vào bang chúa.” Tư Đồ bang chúa tức giận gầm lên: “Ai bảo gã không phản kích? Các ngươi đã muốn về hùa với gã thì cứ đồng tâm hiệp lực giết chết bản tòa đi, rồi tôn thằng lỏi đó lên làm bang chúa. Như vậy há chẳng thỏa mãn tâm nguyện mọi người ư?”

“Tư Đồ bang chúa tức giận quát mắng om sòm, tay vẫn không ngừng ra chiêu tới tấp, ra toàn những đòn hung hiểm, muốn dùng phi trảo để đoạt mạng của bang chúa. Triền hương chủ vừa la lên: “Thạch huynh đệ! Đón lấy thanh kiếm này!” vừa liệng lại cho bang chúa. Bang chúa vươn tay ra đón lấy kiếm, nhường thêm ba chiêu nữa rồi nói: “Sư thúc! Tiểu diệt đã nhượng bộ sư thúc hai chục chiêu rồi. Nếu sư thúc không dừng tay thì tiểu diệt bất đắc dĩ phải đắc tội với sư thúc.”

“Tư Đồ bang chúa ánh mắt rất dữ tợn, lại vung cương trảo chụp vào mặt bang chúa. Lúc đó trong đại sảnh có đến hai mươi mấy người đồng thanh la lên: “Đánh trả đi! Đánh trả đi! Đừng để ông ấy hại mình.” Bang chúa bèn nói: “Xin đắc tội!” rồi mới đưa kiếm ra đỡ phi trảo.”

Bối Hải Thạch thở ra một hơi dài rồi kể tiếp: “Thế là hai bên xảy cuộc động thủ, quyết đấu kịch liệt. Sau thời gian uống hết một tuần trà, mọi người đứng xem đều nhận ra bang chúa chưa dùng toàn lực, vẫn cố ý nhường nhịn Tư Đồ bang chúa. Nhưng ông ấy đang rất giận dữ, cố sống cố chết mà đánh chẳng dè dặt chút nào. Sau cùng bang chúa sử chiêu Thuận Thủy Thôi Chu, đâm mũi kiếm trúng vào cổ tay phải của ông ấy, khiến cây phi trảo rớt xuống đất. Bang chúa lập tức thu kiếm về, nhảy vọt ra xa ba thước. Tư Đồ bang chúa ngẩn người ra đứng đó, mặt nhợt nhạt cắt không ra máu, đưa mắt nhìn suốt lượt vào mặt từng người. Lúc ấy trong hội trường im phăng phắc không một tiếng động, chỉ nghe tiếng từng giọt máu tươi từ vết thương cổ tay Tư Đồ bang chúa tí tách nhỏ xuống đất. Sau một lúc lâu, Tư Đồ bang chúa thản nhiên cất tiếng: “Hay lắm! Hay lắm!” rồi rảo bước ra ngoài. Bốn mươi mấy người trong sảnh đường đưa mắt nhìn theo, nhưng chẳng một ai nói nửa lời.”

“Tư Đồ bang chúa ra đi chuyến này, ai cũng biết là y không còn mặt mũi nào trở về nữa. Trong bang chẳng thể một ngày không chủ, toàn bang đồng thanh kêu gọi bang chúa lên tiếp nhiệm. Khi ấy bang chúa đứng lên khiêm nhượng nói: “Tại hạ còn nhỏ tuổi, đã kém tài năng lại không đức độ, lẽ ra không dám đảm đương trọng trách này. Có điều ba năm nữa lại tới thời kỳ đồng bài Thưởng Thiện Phạt Ác xuất hiện trên giang hồ, nên tại hạ tạm thời giữ địa vị này. Khi thẻ đồng đưa tới bổn bang mời đi dự yến, tại hạ sẽ tiếp nhận không chút chau mày, nhận lời đi dự để tránh cho các vị một phen tai vạ.” Huynh đệ bản bang nghe bang chúa nói vậy thì đồng thanh hoan hô nhiệt liệt, quỳ xuống bái lạy. Nói thật, bang chúa một mình chống nổi Tư Đồ bang chúa thì võ công ai nấy đều tâm phục. Mà cho dù võ công bang chúa bình thường, chỉ cần ưng thuận gánh tai nạn cho bản bang, thì mọi người cũng sẽ vì tư tâm vị kỷ mà triệt để ủng hộ bang chúa lên cầm quyền bính trong bang.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Vì thế mà mấy phen ta ra ngoài, các vị phải hết sức lo lắng, chỉ sợ ta đi rồi không về nữa.”

Bối Hải Thạch hơi đỏ mặt lên nói: “Sau khi bang chúa lên giữ trọng nhiệm, đã có nhiều đóng góp cho bản bang, không ai dị nghị gì. Tuy bang chúa đối đãi với anh em trong bang có chỗ nghiêm khắc, nhưng anh em thấy lòng đại nhân đại nghĩa của bang chúa đã tình nguyện gánh tai họa cứu mạng cho mọi người, nên dù phải chịu đựng thể nào cũng không ai than phiền chi hết.”

Thạch Phá Thiên suy nghĩ một lát rồi nói: “Bối tiên sinh! Những việc đã qua ta đều không nhớ được nữa. Xin ông đừng có giấu giếm nữa, rút cuộc ta đã từng làm những chuyện sai lầm gì lớn?”

Bối Hải Thạch mỉm cười nói: “Nói là sai lầm lớn thì chưa chắc đã đúng. Có điều bang chúa đang còn niên thiếu, quen thói phong lưu lãng mạn thì tưởng chẳng có chi đáng kể. Vả lại đa số nữ nhân đều thuận tình tự nguyện, những chuyện cưỡng bách chỉ là số ít. Thanh danh bang Trường Lạc trước nay cũng chẳng trong trắng gì lắm, anh em trong bang có nghe tin gì cũng chỉ cười rồi bỏ qua mà thôi.”

Thạch Phá Thiên nghe xong toát mồ hôi ướt đẫm. Tuy Bối Hải Thạch khéo léo lựa lời chỉ nói phớt qua, nhưng hiển nhiên mấy năm gần đây chàng đã phạm rất nhiều tội lỗi về chuyện phong tình trăng gió. Thạch Phá Thiên nét mặt đăm chiêu, cố nhớ lại xem ngoài Đinh Đang ra còn cô gái nào mình lén lút vương víu tư tình mà không nhớ nổi chăng. Rồi đột nhiên trong lòng chàng lại nghĩ: “Giả tỉ A Tú nghe được chuyện này, chỉ cần nhìn ta một cái thì ta… thì ta…”

Bối Hải Thạch cất tiếng hỏi: “Bang chúa! Thuộc hạ còn có một câu, không biết có nên nói hay không.”

Thạch Phá Thiên vội đáp: “Chính ta đang muốn thỉnh giáo Bối tiên sinh. Xin ông cứ nói, càng thắng thắn càng tốt.”

Bối Hải Thạch nói: “Trường Lạc Bang của chúng ta thường có những vụ việc không thể đưa ra ánh sáng được, đó là chuyện không thể tránh khỏi. Nếu không thì hơn hai vạn huynh đệ toàn bang lấy đâu ra cơm ăn áo mặc? Chúng ta vốn không phải là hảo hán bạch đạo, kể ra chẳng cần đếm xỉa đến cái lối giả nhân nghĩa giả đạo đức thối nát của bọn họ. Nhưng… nhưng chẳng qua thê tử của huynh đệ trong bang rất là đông đúc. Theo ý kiến thuộc hạ thì đối với vợ con của anh em trong bang, bang chúa nên… nên tránh xa là hơn, để khỏi thương tổn hòa khí trong bang.”

Thạch Phá Thiên hổ thẹn mặt đỏ bừng lên. Chàng nhớ tới tối hôm đó bị Triển hương chủ đến hành thích, nói là chàng quyến rũ vợ gã. Chàng e rằng vụ này có thực, liền hỏi: “Bây giờ biết làm thế nào đây?”

Bối Hải Thạch lại nói: “Đinh Bất Tam lão tiên sinh hành vi cổ quái mà võ công lại cao thâm vô cùng. Bang chúa cùng tôn nữ lão đã đi lại với nhau, nếu sau này ruồng bỏ nàng thì e rằng Đinh lão tiên sinh chẳng chịu bỏ qua. Tuy rằng bang chúa không sợ ông ấy, nhưng như thế lại là gây thêm một tay cường địch.”

Thạch Phá Thiên ngắt lời: “Ta làm sao có thể ruồng bỏ Đinh cô nương được.”

Bối Hải Thạch mỉm cười nói: “Khi bang chúa đã ưa cô nào, thì xem cô ấy chẳng khác gì bảo bối, chỉ có điều không được lâu dài. Còn như vị Đinh cô nương này thì bang chúa có giao hảo cũng không sao, nhưng không nên bái đường thành thân, để tránh khỏi mắc vào tay lão Đinh.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Nhưng… nhưng ta đã cùng nàng bái đường thành thân rồi?”

Bối Hải Thạch đáp: “Khi đó bang chúa bị trọng bệnh chưa khỏi, đầu óc hãy còn hồ đồ nên chịu sự sắp đặt của lão họ Đinh, không thể coi là việc nghiêm chỉnh.”

Thạch Phá Thiên chau mày lại, nhất thời cũng khó trả lời. Bối Hải Thạch định bụng khuyên can đến mức độ này thôi, không dám tiến thêm một bước nữa. Lão nghĩ rằng mình là kẻ dưới, không nên quá trớn để cho bang chúa phải phiền lòng, liền lảng sang chuyện khác: “Bốn môn phái lớn ở Quan Đông rầm rầm rộ rộ kéo đến nhưng thấy mặt bang chúa là lập tức mềm nhũn ngay, một điều kêu bằng ân công, hai điều kêu bằng ân công, đủ biết oai đức cùng võ công của bang chúa đã tiến triển thần tốc. Thuộc hạ hết sức hoan hỉ, nhưng không hiểu vì duyên cớ gì.”

Thì ra những chuyện Thạch Phá Thiên đánh lui Đinh Bất Tứ, cứu tính mạng cho bọn Cao Tam nương tử, trong khi đi đường quần hào Quan Đông cũng đã thuật lại cho Trường Lạc Bang biết, lại còn thêm mắm thêm muối rất nhiều. Bối Hải Thạch không ngờ võ công của Thạch Phá Thiên lại cao cường đến thế, lập tức muốn hỏi nguyên do. Nhưng bản thân Thạch Phá Thiên cũng không hiểu lắm, nên cũng không thể nói cho rõ ràng được.

Bối Hải Thạch lại tưởng chàng muốn giấu giếm, bèn nói: “Những người này đều là nhân vật có danh vọng trong võ lâm. Bang chúa đã có đại ân với họ, thì có thể nhân cơ hội này để thu phục, rất hữu dụng cho bản bang. Nếu bọn họ có hỏi đến Tư Đồ tiền nhiệm bang chúa, thì bang chúa chỉ nên nói là ông ấy đã lui về ẩn dật. Còn những điều mà thuộc hạ vừa trình bày, thì bất tất bang chúa phải cho họ biết làm chi, để khỏi phát sinh những chuyện rắc rối không có lợi gì.”

Thạch Phá Thiên gật đầu đáp: “Bối tiên sinh nói rất phải.” Hai người lại chuyện vãn một lúc, rồi Bối Hải Thạch lấy trong bọc ra một bản danh sách, kể rõ những nhân viên quản sự ở sơn trại nào đưa đến bao nhiêu tiền bạc lúa gạo, ở bến cảng nào thu bao nhiêu tiền thuế hàng tháng.

Thạch Phá Thiên chẳng hiểu gì hết, chỉ gật đầu qua quít. Nhưng chàng nghe thì cũng hiểu bang Trường Lạc đã làm nhiều việc thương thiên hại lý, đúng như mấy ngày nay cha mẹ đã nói cho chàng biết. Bọn lục lâm đại đạo ở rất nhiều địa phương đều đưa vàng bạc châu báu, lương thực cùng gia súc đến đút lót bang Trường Lạc. Bang này cứ ngồi một chỗ mà chia của ăn cướp, những chỗ nào không chịu nghe hiệu lệnh thì Trường Lạc Bang sẽ đi tiêu diệt. Thạch Phá Thiên trong lòng cảm thấy có điều trái lẽ, nhưng không biết nói với Bối Hải Thạch thế nào cho phải.

Tối hôm ấy, tổng đà bày tiệc thết đãi quần hào Quan Đông. Thạch Phá Thiên, Bối Hải Thạch, Đinh Đang cùng ngồi vào thủ tọa để bồi tiếp. Rượu đã ba tuần, mọi người nói mấy câu xã giao rồi Phạm Nhất Phi lên tiếng: “Ân công là bậc kỳ tài, chỉnh đốn cho bang Trường Lạc trở nên hưng thịnh. Tư Đồ đại ca ắt hẳn cũng rất vui mừng.”

Bối Hải Thạch nói: “Tư Đồ tiền bang chúa hồi này chỉ lo câu cá trồng hoa, bất cứ ai cũng không thích gặp, quả là sống rất thanh nhàn thư thái. Những việc tục lụy của tệ bang, chúng ta đều không dám đi bẩm báo cho lão nhân gia biết.”

Phạm Nhất Phi toan kiếm lời để dò hỏi tin tức, thì đột nhiên Phó hương chủ Hổ Mãnh Đường hối hả chạy đến cạnh Bối Hải Thạch, ghé vào tai thì thầm mấy câu.

Bối Hải Thạch mỉm cười gật đầu nói: “Hay lắm! Hay lắm!” Rồi lão quay lại Thạch Phá Thiên cười nói: “Xin trình bang chúa rõ, hôm trước chúng ta bắt được bọn đệ tử phái Tuyết Sơn, hôm nay thành Lăng Tiêu lại phái người đến tiếp viện, mưu đồ cứu ra. Ngờ đâu trộm gà không được lại bị rách quần, lại bị chúng ta bắt thêm hai tên.”

Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi hỏi: “Lại bắt được bọn đệ tử phái Tuyết Sơn ư?”

Bối Hải Thạch mỉm cười đáp: “Ngày trước bang chúa cùng Bạch Vạn Kiếm rời khỏi tổng đà, huynh đệ toàn bang đều mong nhớ và lo lắng vô cùng. Ai nấy chỉ sợ bang chúa lấy lòng trung hậu đối đãi với người, dễ bị trúng kế của gã…” Vì trước mặt quần hùng Quan Đông, Bối Hải Thạch không tiện nói thẳng là Thạch Phá Thiên đã bị Bạch Vạn Kiếm bắt được, nên mới tìm lời nói vòng vo như vậy.

Ngừng một lát, Bối Hải Thạch lại nói tiếp: “Huynh đệ toàn bang được điều động ra ngoài để thám thính hành tung của bang chúa, chạm trán bọn đệ tử phái Tuyết Sơn ở gần đây, liền thi hành kế mọn bắt hết bọn chúng giam tại tổng đà. Chỉ tiếc là Bạch Vạn Kiếm hết sức tâm cơ, một mình chạy thoát.”

Đinh Đang đột nhiên hỏi xen vào: “Thế còn Hoa Vạn Tử cô nương thì sao?”

Bối Hải Thạch mỉm cười đáp: “Cô ta đi trong toán đầu, đã bị bắt từ trước. Khi đó Đinh cô nương cũng có mặt tại đây có phải không? Lần ấy tất cả bảy tên bị bắt.”

Bọn Phạm Nhất Phi nghe mà kinh hãi, lên tiếng: “Tuyết Sơn là một môn phái lừng lẫy tiếng tăm, không ngờ cũng bị đại bại về tay bang Trường Lạc.”

Bối Hải Thạch lại nói: “Chúng ta đã hỏi bọn thuộc hạ phái Tuyết Sơn về hành tung của bang chúa, thì chúng đều nói là đêm đó bang chúa tự bỏ đi khỏi miếu thổ địa, từ đó không được tin tức gì nữa. Anh em biết bang chúa vô sự mới yên lòng. Hiện giờ bọn đệ tử phái Tuyết Sơn kia nên tạm giam lại, hay nên giết đi, là tùy bang chúa phát lạc.”

Thạch Phá Thiên nghĩ thầm: “Gia má mình đã nói trước kia mình từng bái sư vào làm môn hạ phái Tuyết Sơn. Vậy những đệ tử phái này đều kể vào hàng sư thúc của mình, có lý nào lại giam giữ mà không tha, đừng nói đến chuyện sát hại.” Chàng nghĩ vậy liền nói: “Giữa phái Tuyết Sơn và chúng ta có chút xíu hiểu lầm. Hay là… hóa… hóa…”

Chàng muốn nói một câu thành ngữ, nhưng mới học chưa được bao lâu, nên nhất thời không thể nhớ ra Bối Hải Thạch liền đỡ lời nói tiếp: “Hóa địch thành bạn.”

Thạch Phá Thiên cả mừng hô lên: “Đúng thế. Hóa địch thành bạn. Bối tiên sinh! Chúng ta thả họ ra, mời lên đây cùng uống rượu có được hay không?” Nguyên chàng chưa hiểu hành động này có đúng lề lối võ lâm không, phải hỏi lại cho cẩn thận. Đồng thời chàng nghĩ rằng Bối Hải Thạch phải tốn nhiều sức lực mới bắt được bọn đệ tử phái Tuyết Sơn, thế mà mình tự ý buông tha một cách khinh suất thì không khỏi mang tiếng chuyên quyền. Tuy mọi người tôn chàng làm bang chúa, nhưng bất giác chính chàng lại không cảm thấy tất cả trên dưới trong bang đều phải tôn trọng hiệu lệnh của mình.

Bối Hải Thạch mỉm cười đáp: “Bang chúa khoan hồng đại lượng như vậy, thật là hảo sự trong võ lâm.” Rồi lão bảo: “Anh em dẫn những người phái Tuyết Sơn lên đây.”

Phó hương chủ vâng lời lui ra. Không bao lâu, có bốn tên bang chúng áp giải hai hán tử áo trắng vào. Hai hán tử này đều bị trói tay, áo trắng có vấy nhiều vết máu, hiển nhiên đã trải qua chiến đấu rồi bị thương. Phó hương chủ quát bảo: “Các ngươi tiến vào tham kiến bang chúa.”

Hán tử lớn tuổi hơn thì trợn mắt lên giận dữ, còn đại hán kia khoảng ba mươi tuổi lại la lớn: “Các ngươi mau mau chém quách lão gia đi cho xong! Các ngươi là những quân cường đạo, tội ác ngập đầu. Rồi đây sư phụ ta là Uy Đức tiên sinh sẽ tới băm vằm các ngươi làm muôn mảnh để trả mối thù này.”

Đột nhiên bên ngoài cửa sổ có tiếng người quát vang như sấm: “Thôi sư đệ! Sư đệ thóa mạ chúng như vậy thật là sướng miệng. Bọn chúng toàn là quân cường đạo chó má, đồ chó què ba cẳng!” Tiếp theo là những tiếng loảng xoảng từ xa tiến lại, hơn hai mươi tên đệ tử phái Tuyết Sơn chân tay đeo xiềng hiên ngang đi vào sảnh đường. Trong đám này có cả Cảnh Vạn Chung, Hô Diên Vạn Thiện, Văn Vạn Phu, Kha Vạn Quân, Vương Vạn Nhận, Hoa Vạn Tử. Cả nhân vật khinh công tuyệt đỉnh là Uông Vạn Dực cũng bị bắt.

Vương Vạn Nhận vừa tiến vào cửa liền ngoác miệng ra thóa mạ không ngớt, dùng đến những danh từ hết sức khinh bỉ. Có người lại thách thức: “Các người có bản lãnh thì đem nội lực hoặc đao thương ra mà động thủ, còn hèn hạ mà dùng muội hương hay thuốc mê để ám toán, thì chẳng khác gì bọn ăn trộm vặt hạng bét.”

Phạm Nhất Phi cùng Phong Lương đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ: “Nếu dùng muội hương thuốc mê để bắt người, thì thật chẳng vinh hạnh chút nào.”

Bối Hải Thạch liếc mắt nhìn bọn quần hào Quan Đông liền hiểu ngay tâm sự họ. Lão liền đứng dậy tươi cười nói: “Sở dĩ bọn tại hạ phải dùng đến muội hương thuốc mê, không phải vì sợ các vị võ công cao cường, mà vì nghĩ tình Thạch bang chúa cùng các vị đã có mối liên quan xưa cũ, nên không thể dùng đao kiếm đả thương các vị cho mất thêm hòa khí. Các vị đã nói thế, tỏ ra trong lòng không phục. Vậy bây giờ chúng ta làm thế này, các vị cứ từng người một ra đây đối chiêu với tại hạ. Bất cứ vị nào qua được mười chiêu, thì bang Trường Lạc chúng ta tự nhận là quân cường đạo, là đồ chó má. Thế có được không nào?”

Hôm trước tại tổng đà bang Trường Lạc, Bối Hải Thạch thi triển Ngũ Hành Lục Hợp Chưởng, bọn Kha Vạn Quân chỉ qua lại được vài ba chiêu là lập tức bị lão đánh ngã lăn. Nếu nói đến mười chiêu thì quả là việc khó vô cùng. Nhưng bọn đệ tử phái Tuyết Sơn mới bị bắt lại không biết công phu của lão cao như thế. Chúng thấy người lão nước da vàng ửng, gầy khẳng gầy kheo, chẳng khác con bệnh lâu năm thì chẳng sợ gì, bèn lớn tiếng nói: “Bọn bang Trường Lạc các ngươi chẳng qua chỉ ỷ vào nhiều người để thủ thắng, chứ chẳng có chi là tài giỏi. Đừng nói mười chiêu, mà cả trăm chiêu ngàn chiêu lão gia ta cũng dám tiếp đón như thường.”

Bối Hải Thạch mỉm cười nói: “Hay lắm! Hay lắm! Lão đệ đây quả nhiên là gan dạ hơn người. Vậy bây giờ chúng ta đánh cuộc, nếu lão đệ tiếp được mười chiêu của ta, thì bang Trường Lạc của chúng ta là quân cường đạo là đồ chó má, còn nếu lão đệ thua trong vòng mười chiêu thì phái Tuyết Sơn các vị cũng là quân cường đạo là đồ chó má, có được hay không?” Lão nói xong tiến gần lại, vung tay một cái, bao nhiêu dây trói trên người Thôi Vạn Niên đều đứt tung hết. Rồi lão mỉm cười nói: “Xin mời.”

Sau khi Thôi Vạn Niên bị trói đã giãy giụa mấy lần, biết là loại dây đó cực kỳ bền dai. Ngờ đâu lão già bệnh hoạn này chỉ quơ tay một cái nhẹ nhàng, những sợi dây gai mà mình không làm sao dứt đứt được lại trở thành bở rẹt như mì sợi. Sắc mặt gã biến đổi một cách thảm hại, thân hình run lên bần bật, khi nào còn dám động thủ với Bối Hải Thạch nữa.

Đột nhiên, bên ngoài sảnh đường có tiếng người dõng dạc: “Hay lắm! Hay lắm! Cuộc đánh đố này, chúng ta nhất định phải tiếp nhận.” Nghe thanh âm này, bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đều lộ vẻ vui mừng, còn bang chúng bang Trường Lạc lại rất kinh ngạc, ngay cả Bối Hải Thạch cũng hơi biến sắc.

Binh một tiếng, cánh cửa mở ra, một người rảo bước tiến vào, dáng điệu ngang nhiên, tư thế hào hùng, chính là Khí hàn tây bắc Bạch Vạn Kiếm. Hắn ôm quyền nói: “Tại hạ tuy bất tài, cũng muốn thử tiếp Bối tiên sinh mười chiêu.”

Bối Hải Thạch mỉm cười, tuy vẻ mặt vẫn trấn tĩnh nhưng trong lòng không khỏi hồi hộp. Lão nghĩ thầm: “Võ công thằng cha này không tệ, mình có hạ được hắn cũng phải ngoài trăm chiêu là ít. Trong vòng mười chiêu thì không tài nào thắng được.” Nhưng lão là tay ghê gớm, xoay chuyển ý nghĩ rất mau, chợt mỉm cười nói: “Vụ đánh cuộc mười chiêu chỉ là bắt nạt những sư đệ của Bạch đại hiệp mà thôi. Bạch đại hiệp đã đích thân đến đây thì cuộc đánh đố của ta phải thay đổi một tí. Nếu Bạch đại hiệp có hứng tỉ đấu cùng tại hạ, thì xin hẹn trước điểm tới là ngưng, và quyết thắng bại trong vòng hai ba trăm chiêu.”

Bạch Vạn Kiếm lạnh lùng nói: “Thế ra lời của Bối tiên sinh đã nói ra vẫn có thể sửa đổi được.”

Bối Hải Thạch cười ha hả nói: “Cuộc đánh đố mười chiêu chỉ là đối với bọn người tài nghệ kém cỏi mà ngông cuồng không biết tự lượng. Chẳng lẽ Bạch đại hiệp cũng thuộc vào loại người này hay sao?”

Bạch Vạn Kiếm đáp: “Giả tỉ bang Trường Lạc tự thừa nhận là quân cường đạo là đồ chó má, thì tại hạ chịu tiếng tài nghệ kém cỏi, ngông cuồng không biết tự lượng cũng chẳng sao.” Thì ra lúc Bạch Vạn Kiếm tiến vào sảnh đường, thấy Thạch Phá Thiên ngồi trên tiệc ung dung thoải mái, mà bọn sư đệ thì gã nào cũng toàn thân đeo xiềng xích, nét mặt tiều tụy, bất giác giận dữ không nén nổi. Hắn liền vớ lấy câu nói của Bối Hải Thạch, nhất địch bức bách lão phải tự nhận là quân cường đạo chó má cho hả giận.

Giữa lúc ấy, ngoài cửa đột nhiên lại có tiếng người dõng dạc: “Bọn tại hạ là Dương Quang ở phủ Gia Hưng, cùng Thạch Thanh, Mẫn Nhu ở Huyền Tố Trang đến đây thăm viếng.”

Thạch Phá Thiên nhận ra thanh âm Thạch Thanh thì mừng quýnh, vừa nhảy lên vừa la: “Gia gia! Má má!” Rồi chàng hối hả chạy ra.

Lúc chàng lướt qua bên mình Bạch Vạn Kiếm, hắn đưa tay ra chụp trúng ngay lấy cổ tay chàng. Cử động này vừa bất ngờ vừa nhanh chóng, Thạch Phá Thiên chưa kịp né tránh đã bị nắm lấy mạch môn. Nhưng chàng đang gấp rút muốn gặp cha mẹ, không suy nghĩ nhiều chỉ vung tay bừa một cái. Chân lực vừa tuôn ra, Bạch Vạn Kiếm lập tức thấy tê nhức nửa người, vội buông tay ra rồi lùi lại hai bước mới đứng vững lại được. Sắc mặt hắn thay đổi hẳn.

Bối Hải Thạch mỉm cười nói: “Quả nhiên võ nghệ cao cường!” Câu nói này đương nhiên là ca ngợi Thạch Phá Thiên, nhưng bên trong lại có ý châm chọc Bạch Vạn Kiếm là kẻ võ nghệ kém cỏi, ngông cuồng không biết tự lượng.

* * *

Thạch Phá Thiên hoan hỉ cùng vợ chồng Thạch Thanh tiến vào sảnh đường, có một lão già râu bạc thân hình cao lớn đi theo, lại còn năm người nữa.

Trấn Giang và Tùng Giang cách nhau không xa, quần hào bang Trường Lạc biết lão này là một nhân vật võ lâm nổi tiếng vùng Giang Nam tên gọi Ngân kích Dương Quang, lại nghe bang chúa kêu vợ chồng Thạch Thanh là gia má nên ai nấy đều đứng dậy. Thạch Phá Thiên nắm tay Mẫn Nhu ra vẻ hết sức thân thiết.

Mẫn Nhu nhẹ nhàng nhìn con, mỉm cười nói: “Sáng hôm qua ở trong khách điếm không thấy con, ta hồi hộp vô cùng. Gia gia con có nói, nếu có người ám toán thì con khó nỗi đề phòng, còn ngang nhiên bắt con đem đi thì không thể được. Ông bảo, đến bang Trường Lạc để nghe ngóng nhất định sẽ biết tin tức của con. Quả nhiên con ở đây thật.”

Đinh Đang vừa thấy vợ chồng Thạch Thanh đến, mặt đã đỏ như than hồng. Nàng ngoảnh mặt đi không dám nhìn thẳng, nhưng vẫn lắng tai nghe xem họ nói gì.

Vợ chồng Thạch Thanh, Dương Quang cùng Bối Hải Thạch và Phạm Nhất Phi, Lữ Chính Bình nhất nhất làm lễ tương kiến. Năm người đi sau Dương Quang đều là võ sư trứ danh ở Giang Nam, được lão cùng vợ chồng Thạch Thanh mời đến đây để làm chứng. Tất cả mọi người đều là nhân vật hữu danh trong võ lâm, những câu khách sáo như “cửu ngưỡng đại danh” vang lên rào rào như sấm động.

Khi giới thiệu, bọn Phạm Nhất Phi biết vợ chồng Thạch Thanh là song thân Thạch Phá Thiên lại càng kính cẩn thi lễ. Vợ chồng Thạch Thanh không biết nội tình bên trong, thấy đối phương khiêm cung lễ mạo lại càng đáp lễ kính cẩn hơn.

Bối Hải Thạch đột nhiên thấy có song thân Thạch Phá Thiên xuất hiện, lại là trang chủ Huyền Tố Trang lừng tiếng giang hồ. Tuy lão ta túc trí đa mưu, nhưng nhất thời cũng chưa biết phải làm gì. Thạch Phá Thiên nhìn Bối Hải Thạch hỏi: “Bối tiên sinh! Các vị anh hùng phái Tuyết Sơn này, chúng ta có thể thả được chưa?” Chàng không dám ra lệnh, để Bối Hải Thạch tùy nghi xử lý.

Bối Hải Thạch mỉm cười đáp: “Bang chúa đã có lệnh, dĩ nhiên các vị anh hùng phái Tuyết Sơn đều được thả ra.”

Lão nhấn mạnh bốn tiếng “các vị anh hùng” hết sức vang dội, hiển nhiên có ý châm biếm. Mười mấy bang chúng Trường Lạc Bang đồng thanh trả lời “Vâng! Bang chúa đã có lệnh, các huynh đệ hãy thả các vị anh hùng phái Tuyết Sơn ra.” Lập tức có người đem chìa khóa ra để mở những xiềng xích đang đeo vào người bọn đệ tử phái Tuyết Sơn.

Bạch Vạn Kiếm nắm chặt chuôi kiếm, lớn tiếng nói: “Khoan đã! Thạch… Thạch bang chúa, Bối tiên sinh, Ngân kích Dương lão anh hùng ở Tùng Giang Phủ, phu phụ Thạch trang chúa Huyền Tố trang! Tại hạ có điều muốn nói cho rõ ràng.” Ngừng lại một chút, hắn tiếp: “Chúng ta là người võ lâm, giả tỉ học nghệ không tinh mà bị bại về đao thương quyền cước thì phải để đối phương tha hồ giết hay làm nhục cũng được, quyết không oán hận. Nhưng bọn sư đệ tại hạ vì trúng phải thuốc mê của bang Trường Lạc mà bị bắt, như vậy là bang Trường Lạc đã dùng thủ đoạn đê hèn để làm tổn hại thanh danh phái Tuyết Sơn, đồng thời phá hoại cả danh dự bang Trường Lạc. Vừa rồi vị Bối tiên sinh này đã nói câu gì đó, bây giờ xin nói lại để mọi người cùng được nghe rõ.”

Bối Hải Thạch đằng hắng hai tiếng rồi mỉm cười nói: “Bạch huynh đệ…”

Bạch Vạn Kiếm giận dữ nói: “Ta không thèm hô huynh gọi đệ với bọn cẩu tặc không biết đếm xỉa đến mặt mũi của mình.”

Bối Hải Thạch lại nói: “Thạch bang chúa của chúng ta…”

Đến lượt Thạch Thanh xen vào ngắt lời: “Bối tiên sinh! Con của ta tuổi còn nhỏ chưa biết gì, khi nào lại có đủ tư cách làm bang chúa quý bang? Trước đây chưa bao lâu, nó lại bị trọng bệnh nên đã hoàn toàn quên hết những chuyện đã qua. Bên trong tất có những sự hiểu lầm trọng đại, vậy hai chữ Bang Chúa xin đừng nhắc đến. Tại hạ đã mời được sáu vị bằng hữu, ngay cả Dương lão anh hùng cũng đến đây, là có ý muốn phân giải về vụ này. Bạch đại hiệp! Quý phái cùng bang Trường Lạc có điều xích mích là một chuyện, còn đứa con bất hiếu của tại hạ có đắc tội gì với đại hiệp lại là chuyện khác, hai việc này xin phân biệt ra mà nói. Thạch mỗ tuy hết sức tầm thường trên chốn giang hồ, nhưng trước nay chưa nói câu nào giả dối với ai. Thằng nhỏ con của tại hạ thực tình đã quên sạch những việc đã qua.” Ông ngừng một chút rồi dõng dạc nói tiếp: “Nhưng những việc nó đã làm, bất luận còn nhớ hay đã quên, nhất định không thể cải xóa mà chối tội. Còn những việc người ngoài mượn tên tuổi của nó để hành động, thì không can dự gì đến con ta cả.”

Quần hùng trong sảnh đường ngơ ngác nhìn nhau, chẳng ai ngờ đột nhiên lại xảy ra những biến cố như thế này. Bối Hải Thạch cười khan: “Ha ha! Chuyện này phải nói từ đâu đây? Thạch bang chúa…” Trong lòng lão thầm kêu khổ.

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Gia gia ta nói không sai, ta không phải bang chúa của các vị. Chuyện này ta cũng đã từng nói nhiều lần rồi, nhưng các vị nhất định không tin.”

Phạm Nhất Phi nói: “Trong vụ này có điều gì bí ẩn, bọn tại hạ thật sự muốn cung kính lắng nghe. Bọn tại hạ chỉ biết bang chúa bang Trường Lạc là Tư Đồ Hoành đại ca, sao lại biến thành Thạch ân công đây?”

Dương Quang ngồi yên từ nãy đến giờ không nói gì, bây giờ mới vuốt râu lên tiếng: “Bạch đại hiệp! Đại hiệp bất tất phải nóng nảy. Ai phải ai quấy, võ lâm đương nhiên sẽ có công luận.” Tuy lão tuổi già mà tiếng nói oang oang như chuông đồng, trung khí rất dồi dào, chỉ tự nhiên nói mấy câu mà uy thế lẫm liệt, khiến người nghe phải kính phục. Lão nói tiếp: “Mọi việc chúng ta sẽ từ từ phân giải. Các vị này trên người hãy còn xiềng xích, hãy mở khóa trước đã.” Mấy tên đệ tử bang Trường Lạc thấy Bối Hải Thạch gật đầu, liền mở xiềng cho bọn đệ tử phái Tuyết Sơn.

Bạch Vạn Kiếm nghe Thạch Thanh cùng Dương Quang ra chiều hạch tội Bối Hải Thạch mà không có ý thù nghịch với mình, hết sức ngạc nhiên. Hắn đã tưởng bọn sư đệ của mình bị bang Trường Lạc bắt giữ, bên hắn người ít thế yếu, buông lời thóa mạ Bối Hải Thạch cũng chỉ là cứng đầu cứng cổ, không còn cách nào hơn. Vì muốn giữ thể diện cho phái Tuyết Sơn mà hắn bất đắc dĩ phải tỏ thái độ cứng rắn, dù chịu loạn đao phân thây cũng không để nhục đến sư môn. Nếu xảy cuộc chiến đấu thì hắn không nắm vững phần nào, chỉ một mình Bối Hải Thạch cũng chưa chắc gì đấu lại. Không ngờ vợ chồng Thạch Thanh cùng Dương Quang đến đây một cách đột ngột, cục diện bỗng nhiên chuyển biến. Bạch Vạn Kiếm bây giờ không nói gì nữa, im lặng đứng xem Bối Hải Thạch ứng phó như thế nào.

Thạch Thanh đợi đám đệ tử phái Tuyết Sơn được mở hết xiềng xích, chia nhau ngồi xuống, rồi lại nói tiếp: “Bối tiên sinh! Tiểu nhi tuổi còn non nớt, kiến thức cực kỳ nông cạn, nếu làm bang chúa quý bang há chẳng để anh hùng thiên hạ phải chê cười? Hôm nay trước mặt Dương lão anh hùng cùng những bằng hữu ở Giang Nam, Bạch sư phó cùng các vị huynh đệ phái Tuyết Sơn, và các vị bằng hữu bốn môn phái lớn ở Quan Đông, Thạch mỗ xin đem việc này ra trình bày dứt khoát. Kể từ ngày hôm nay, giữa con tại hạ là Thạch Trung Ngọc cùng bang Trường Lạc không còn mối liên quan nào hết. Những việc gì chính nó đã làm trong mấy năm nay, đương nhiên sẽ tính sổ rõ ràng tất cả, còn những việc do kẻ khác mượn danh nghĩa của nó để làm một cách mờ ám, nếu là việc tốt cũng không dám nhận, còn việc xấu thì lại càng không thể gánh vác.”

Bối Hải Thạch mỉm cười nói: “Mấy câu của Thạch trang chúa thật khiến cho bọn tại hạ không sao hiểu được. Thạch bang chúa tiếp nhiệm chức chưởng môn tệ bang đã ba năm nay, không phải chuyện một sớm một chiều.” Lão ho khan hai tiếng rồi nói tiếp: “Nhưng bọn tại hạ cũng chưa từng nghe bang chúa nói rằng song thân người chính là Huyền Tố Song Kiếm lừng lẫy giang hồ.” Rồi lão quay qua nói với Thạch Phá Thiên: “Bang chúa! Sao trước nay bang chúa không nói vụ này cho bọn thuộc hạ nghe? Nếu không thì Huyền Tố Trang cách đây cũng chẳng bao xa, lúc người lên nhậm chức bang chúa, bọn thuộc hạ dĩ nhiên phải đến thỉnh lệnh tôn cùng lệnh đường đại nhân đến đây chứng kiến đại lễ.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Ta… ta… ta cũng đâu có biết gì.”

Câu này vừa nói ra, hết thảy mọi người đều ngạc nhiên đồng thanh hỏi: “Tại sao chính bang chúa cũng không biết gì?”

Thạch Thanh đáp: “Hài nhi mới chịu một phen trọng bệnh, hoàn toàn quên hết những việc quá khứ, ngay cả song thân cũng không nhớ nữa. Thế thì làm sao trách nó được?”

Bối Hải Thạch bị Thạch Thanh làm cho bối rối, chưa biết trả lời thế nào cho phải. Những người có chức vị trong Trường Lạc Bang đều biết, sở dĩ mình lập Thạch Phá Thiên lên làm bang chúa chẳng qua chỉ để chàng đứng ra tiếp đón thẻ đồng của hai sứ giả Thiện Ác, nói trắng ra là muốn chàng làm con ma chết thay. Câu này người trong bang cũng chỉ ngầm hiểu với nhau chứ không tiện nói ra, thì sao có thể để người ngoài nghe thấy?

Bỗng lão nghe Thạch Phá Thiên nói rằng chính chàng cũng không biết vợ chồng Thạch Thanh là song thân của mình, liền nắm lấy cơ hội nói ngay: “Bang chúa thật sự đã bị một trận bệnh nặng, vừa nóng vừa lạnh, mê man rất nhiều ngày, nhưng đó mới là việc hai tháng trước đây. Còn khi người tiếp nhiệm ngôi bang chúa của bang Trường Lạc thì thân thể rất là khỏe khoắn, thần trí cực kỳ minh mẫn. Nếu không thì sao người có thể vung trường kiếm tiếp đón đến gần trăm chiêu phi trảo của Tư Đồ tiền bang chúa được? Nhân việc người đánh bại Tư Đồ tiền bang chúa mà được tôn lên chấp chưởng chức vụ bang chúa cho đến nay.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu hoàn toàn chưa nghe con trai nói đến việc này, hết sức ngạc nhiên. Mẫn Nhu liền hỏi: “Hài nhi! Chuyện này rốt cuộc là như thế nào?”

Chưởng môn của tứ đại môn phái ở Quan Đông nghe nói Thạch Phá Thiên đánh bại Tư Đồ Hoành cũng hết sức quan tâm, nghe Mẫn Nhu hỏi thì đều nhìn qua Thạch Phá Thiên.

Bối Hải Thạch lại nói: “Bọn tại hạ chỉ biết bang chúa họ Thạch, danh húy là Phá Thiên. Còn ba chữ Thạch Trung Ngọc thì chúng ta mới nghe thấy miệng Bạch đại hiệp cùng Thạch trang chúa nói ra mà thôi. Hay là Thạch trang chúa nhận lầm người rồi chăng?”

Mẫn Nhu lộ vẻ tức giận, xẵng giọng: “Đứa con đích thân ta đẻ ra, có lý nào lại nhận lầm?” Trước nay bà vốn hòa nhã dịu dàng, nhưng nghe thấy Bối Hải Thạch bảo cậu quý tử này chẳng phải là con mình, bà không nhịn được phải nổi cơn phẫn nộ.

Thạch Thanh thấy Bối Hải Thạch nói chuyện cũng mơ hồ, bèn nghĩ: “Vụ này rút cuộc cũng phải đưa ra ánh sáng.” Ông liền nói: “Bối tiên sinh! Chúng ta đã là những người quang minh chính đại thì bất tất phải nói những lời úp mở. Sở dĩ quý bang coi trọng thằng bé nhỏ tuổi còn non nớt chưa biết gì này, chẳng phải vì nó có hùng tài đại lược hay thần cơ diệu toán chi chi, mà chỉ muốn mượn cái mạng nhỏ bé của nó để gánh vác tai nạn khi nhận được thẻ đồng mời đi dự yến Lạp Bát. Tiên sinh nói xem có đúng thế không?”

Câu nói này của Thạch Thanh hết sức rõ ràng, thẳng vào những điều đang giấu dưới đáy lòng của Bối Hải Thạch. Họ Bối tuy là tay lão luyện mà sắc mặt cũng phải biến đổi, lão hắng giọng mấy tiếng, lại cười khổ mấy cái để kéo dài thời gian suy nghĩ xem phải trả lời như thế nào.

Bất thình lình có tiếng cười ha hả vang lên, rồi có người hỏi: “Quý vị đang ở đây đợi thiệp mời của Hiệp Khách Đảo có phải hay không? Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Thẻ đồng hiện ở đây rồi!” Trong nhà đại sảnh đột nhiên có hai người, một mập một gầy, y phục cực kỳ xa hoa. Hai người này đã đến từ bao giờ, chẳng một ai hay biết.

* * *

Thạch Phá Thiên vừa thấy hai người này đã mừng rỡ la lên: “Đại ca! Nhị ca! Đã lâu tiểu đệ không được gặp, hai vị ca ca vẫn mạnh khỏe chứ?” Vợ chồng Thạch Thanh đã nghe Thạch Phá Thiên kể chuyện chàng cùng Trương Tam, Lý Tứ kết làm anh em. Bây giờ họ thấy chàng kêu hai người mới đến bằng đại ca, nhị ca bất giác giật mình kinh hãi.

Thạch Thanh vội nói: “Hai vị đến vừa đúng lúc. Bọn tại hạ đang bàn đến việc bang chúa của Trường Lạc Bang, may mà có hai vị hiện diện để chứng kiến giúp cho.”

Lúc này Thạch Phá Thiên đã chạy đến chỗ Trương Tam Lý Tứ, nắm tay hai người rất thân mật.

Trương Tam mỉm cười nói: “Té ra tam đệ là bang chúa bang Trường Lạc! Ta chỉ sợ là mạo danh mà thôi!”

Mẫn Nhu thấy chuyện sống chết của con mình sắp quyết định trong khoảnh khắc, bà không nghĩ gì đến chuyện dịu dàng tế nhị nữa, vội xen vào: “Đúng thế! Bang chúa bang Trường Lạc nguyên là Tư Đồ Hoành tiên sinh. Bọn họ lừa gạt con tại hạ để đứng ra gánh lấy tai nạn này, xin đừng có coi là chuyện thật.”

Trương Tam nhìn Lý Tứ hỏi: “Lão nhị! Lão nhị tính thế nào?”

Lý Tứ cất giọng nham hiểm đáp: “Phải tìm cho được chính chủ!”

Trương Tam mỉm cười nói: “Đúng vậy! Ba người chúng mình kết nghĩa kim lan, đã ước hẹn với nhau có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu. Trường Lạc Bang muốn tam đệ chúng ta gánh lấy tai vạ này, thì chúng ta làm sao có mặt mũi làm anh nữa phải không?”

Mọi người thấy thân pháp phi thường của hai gã đột ngột xuất hiện thì biết ngay bản lãnh họ cao thâm đến mức không thể tưởng tượng được. Tướng mạo hai gã lại giống hệt như lời đồn về hai vị sứ giả Thiện Ác xuất hiện ba mươi năm trước đây, võ lâm nghe thấy đều phải bở vía. Quần hùng ai nấy sợ run. Cả Bối Hải Thạch, Bạch Vạn Kiếm là những tay cao thủ hạng nhất cũng không khỏi trống ngực đánh thình thình. Nhưng mọi người nghe họ xưng huynh gọi đệ với Thạch Phá Thiên, lại không biết là duyên cớ gì.

Trương Tam lại nói: “Anh em ta đã phụng mạng mời người đi dự yến Lạp Bát là vì lòng tốt, mà không hiểu tại sao chẳng ai chịu nể mặt, cứ đẩy qua đẩy lại khiến cho bọn ta phải cụt hứng. Hơn nữa chúng ta chỉ mời bang chúa các bang hội lớn, hay giáo chủ các đại giáo là những người có danh tiếng, còn những kẻ tầm thường thì hai thẻ đồng này đâu thể tùy nghi phân phát được? Hay lắm! Hay lắm! Hay lắm!”

Gã nói liền ba tiếng “Hay lắm!” rồi đảo mắt nhìn qua bọn Phạm Nhất Phi, Lữ Chính Bình, Phong Lương, Cao Tam nương tử, khiến cho bốn người này không khỏi nổi da gà. Lúc Trương Tam nhìn đến Cao Tam nương tử, mục quang gã dừng lại một lúc rồi mỉm cười, lại nói: “Hay lắm!”

Bọn Phạm Nhất Phi đều đã biết mình là chưởng môn bốn phái lớn ở Quan Đông, lần này cũng ở trong danh sách bị mời. Trương Tam nói luôn mấy câu “Hay lắm!”, chắc là có ý nói cả bốn người mình cũng đang có mặt ở đây, đỡ cho họ khỏi một phen lần mò lên tận Quan Đông giao thẻ.

Cao Tam nương tử lớn tiếng: “Ngươi cứ nói liền miệng mấy chữ “Hay lắm!” là có ý gì?”

Trương Tam mỉm cười đáp: “Hay lắm là hay lắm, chứ còn có ý gì nữa? Không phải là không hay lắm, cũng không phải là xấu lắm thì được rồi.”

Cao Tam nương tử quát lên: “Ngươi muốn giết thì giết, chứ lão nương không tiếp thẻ đồng đâu.” Bà vung tay phải một cái, tiếng gió rít lên veo véo. Hai ngọn phi đao bay thẳng tới Trương Tam.

Mọi người cả kinh thất sắc. Không ai ngờ chỉ nói một câu không hợp mà bà đã động thủ, chẳng sợ gì hai vị sứ giả Thiện Ác. Thực ra Cao Tam nương tử tuy tính tình nóng nảy, nhưng cũng không phải là hạng người vô tâm tầm thường. Bà nghĩ bụng: “Hai sứ giả Thiện Ác đã cố ý đưa thẻ đồng tới, thì bất luận thế nào cũng không tránh khỏi tai nạn này. Hiện giờ trong tổng đà bang Trường Lạc có rất nhiều cao thủ. Đồng bệnh tương lân, họ thấy mình động thủ thì chắc chẳng ai đứng ngoài nữa, chi bằng liều một phen còn hơn là để hai gã đi giết lần giết mòn. Nhân lúc người nhiều thế mạnh, bốn phái Quan Đông hợp lực với bang Trường Lạc, phái Tuyết Sơn, Huyền Tố Trang, Dương Quang cùng những hào kiệt Giang Nam, sau này hiếm có cơ hội như vậy nữa. Nhất định phải tập trung các lộ nhân mã để lấy nhiều đánh ít.”

Thạch Phá Thiên la lên: “Đại ca cẩn thận.”

Trương Tam mỉm cười nói: “Không hề gì đâu.” Hắn vẫy tay áo một cái, hai vật sắc vàng rực rỡ từ trong tay áo bỗng bay ra, đón đỡ hai ngọn phi đao. Đồng thép chạm nhau đánh “choang” một tiếng, hai vật màu vàng đang bay thẳng bỗng xoay ngang ra, đón lấy phi đao rồi đẩy ngược về phía Cao Tam nương tử. Cứ nghe tiếng gió cũng đủ biết lực đạo của vật thể bay này rất là lợi hại.

Cao Tam nương tử đưa hai tay ra đón lấy hai vật sắc vàng thì cảm thấy hai cánh tay đau đớn như dần, nửa người trên bị tê liệt hẳn. Bà cúi đầu nhìn xem, không khỏi hãi hùng. Hai vật màu vàng đón đỡ phi đao chính là hai tấm bài đồng truy hồn đoạt mạng Thưởng Thiện Phạt Ác.

Cao Tam nương tử đã nghe nói nhiều đến lề lối của hai sứ giả Thiện Ác. Đã đón tiếp bài đồng của họ, tức là nhận lời đi dự tiệc ở Hiệp Khách Đảo, nhất định không thể từ chối được nữa. Chỉ trong nháy mắt, mặt bà không còn chút huyết sắc, người run bần bật. Bà cười gằn nói: “Ha ha! Mời ta… đi ăn… cháo Lạt Bát ở Hiệp Khách Đảo…” Giọng nói bà cứ bật ra từng tiếng một nghe rất khổ sở, những người đứng bên nghe thấy đều bất giác phiền não theo.

Trương Tam vẫn mỉm cười nói: “Bối tiên sinh! Các vị bố trí cơ quan để lừa gạt tam đệ bọn ta mạo xưng làm bang chúa. Y là người trung hậu thực thà, không tránh khỏi bị lừa, nhưng Trương Tam Lý Tứ này lại không phải là hạng trung hậu thực thà như vậy. Chúng ta đã đi mời khách có lý đâu lại không điều tra minh bạch? Giả tỉ mời lầm người, để thiên hạ chê cười thì Trương Tam Lý Tứ còn mặt mũi nào vào Trung Nguyên nữa? Bang chúa của Trường Lạc Bang là ai, chúng ta đã biết rất rõ ràng. Lão nhị! Chúng ta đã tốn không ít công sức mới tìm được đến đây, nhất định phải mời một người chính thức. Có đúng thế không?”

Lý Tứ đáp: “Không sai. Đương nhiên phải mời hắn xuống đây.” Nói xong, gã vươn hai tay ra nắm lấy hai cái ghế tròn, liệng lên nóc nhà đánh véo một tiếng. Tiếp theo là những tiếng ầm ầm vang lên, nóc nhà thủng một lỗ hổng lớn. Đất cát rớt xuống lả tả, một vật gì đó cũng rớt xuống theo đánh huỵch một tiếng, lăn ra trước bàn tiệc.

Quần hào bất giác lùi lại hai bước. Thì ra vật từ trên nóc nhà rớt xuống lại là một người! Người này co rúm lại thành một khối lù lù nằm ở dưới đất.

Lý Tứ vung ngón tay trỏ bên trái ra điểm veo véo để giải khai huyệt đạo, người kia từ từ đứng dậy giơ tay lên dụi mắt, hoang mang nhìn bốn phía.

Mọi người đồng thanh la hoảng. Có người nói: “Hắn… hắn…” Có người nói: “Tại sao lại…” Có người nói: “Quái lạ… quái lạ…”

Lý Tứ vung tay lên không giải khai huyệt đạo. Gã dùng chỉ phong bắn vào huyệt đạo để giải huyệt cho người cách xa mấy thước thì thật là một bản lãnh tối cao vô thượng, trước nay ai cũng chỉ được nghe đồn chứ chưa ai chính mắt nhìn thấy.

Mọi người lại càng ngơ ngác kinh hãi vì thấy người kia ngũ quan cùng diện mạo giống hệt Thạch Phá Thiên, chỉ có điều toàn thân phục sức sang trọng. Hắn cất tiếng nói: “Ngươi… các ngươi đối xử với ta như thế sao?”

Trương Tam mỉm cười nói: “Thạch bang chúa! Ngươi giấu mình trong kỹ viện ở Dương Châu đã mấy tháng nay, vùi đầu không chịu ra, thật là hưởng phúc vô cùng. Bối tiên sinh đi tìm khắp nơi mà không thấy ngươi, nên chỉ còn cách tìm một người khác để mạo xưng bang chúa. Nhưng ngươi muốn qua mặt sứ giả của Hiệp Khách Đảo thì không dễ thế đâu. Chúng ta đến đây mời bang chúa đi ăn chén cháo Lạp Bát. Bang chúa có đi hay không?” Hắn nói xong, lấy hai tấm thẻ đồng từ trong tay áo ra cầm trong tay.

Thiếu niên đó lộ vẻ sợ hãi, lui lại mấy bước run rẩy nói: “Ta… Ta đương nhiên không đi. Tại sao ta… ta phải đi chứ?”

Thạch Phá Thiên kinh ngạc hỏi: “Đại ca! Chuyện này… chuyện này rốt cuộc là như thế nào?”

Trương Tam mỉm cười đáp: “Tam đệ! Tam đệ thử xem tướng mạo người này có giống tam đệ không? Trường Lạc Bang dựng hắn lên làm bang chúa vì muốn hắn nhận đồng bài này, nhưng hắn sợ chết nên đã lén lút trốn đi. Bối tiên sinh không làm gì được, lại gạt tam đệ làm bang chúa thay cho hắn. Nhưng… ha ha! Đại ca, nhị ca vẫn bắt được hắn đến đây, khiến cho tam đệ không được làm bang chúa bang Trường Lạc nữa. Tam đệ có trách bọn ta không?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu, mắt cứ nhìn người kia không chớp, một lúc lâu mới nói: “Má má! Gia gia! Đinh Đinh Đang Đang! Bối tiên sinh! Ta… ta đã nói cho các vị biết là đã nhận lầm người rồi. Ta không phải là hắn… Hắn mới là thật đó.”

Mẫn Nhu tiến lên một bước, cất giọng run run hỏi: “Ngươi… ngươi là Ngọc nhi ư?”

Người kia gật đầu nói: “Má má! Gia gia! Hai vị cũng đến đây ư?”

Bạch Vạn Kiếm tiến lên một bước, lạnh lùng hỏi: “Ngươi có nhận ra ta không?”

Người kia cúi đầu xuống hỏi: “Sư thúc… Các vị sư thúc… đều đã đến đây cả rồi ư?”

Bạch Vạn Kiếm cười ha hả rồi nói: “Phải lắm! Chúng ta ở cả đây.”

Bối Hải Thạch chau mày nói: “Hai vị này tướng mạo giống hệt nhau như đúc, thân hình tuổi tác lại như nhau. Vị nào là bang chúa bản bang, thuộc hạ thật sự không nhận ra. Thế mới biết thiên hạ bao la bát ngát, chẳng thiếu gì chuyện lạ. Ngài… ngài mới là Thạch bang chúa ư?”

Người kia gật đầu. Bối Hải Thạch lại nói: “Bấy lâu bang chúa đã đi đâu, chúng ta tìm khắp nơi cũng không ra. Sau này có người nói là bang chúa đang ở trên Ma Thiên Nhai, chúng ta liền đi mời về đây. Ha ha… thật là chuyện không ngờ được. Ha ha…”

Người kia nói: “Câu chuyện rất dài, thủng thẳng rồi sẽ nói.” Trong sảnh đường đột nhiên im phăng phắc không một tiếng động, mọi người nhìn Thạch Phá Thiên rồi lại nhìn bang chúa kia. Dung mạo của hai người thật sự rất giống nhau, nhưng khi đứng cạnh nhau thì cũng thấy chỗ khác, sắc mặt của Thạch Phá Thiên hơi đen, lông mày rậm rạp hơn, không tuấn tú thanh nhã như Thạch bang chúa, nhưng nếu không phải có mặt cùng một lúc thì khó mà phân biệt được. Qua một hồi lâu, bỗng nghe tiếng Mẫn Nhu khóc thút thít.

Bạch Vạn Kiếm nói: “Tướng mạo giống nhau đã đành, chẳng lẽ những vết kiếm trên đùi cũng hoàn toàn y hệt nhau? Trong vụ này tất có ẩn tình gì đó.”

Đinh Đang không nhịn được nữa, nàng lên tiếng: “Người này là giả. Thiên ca… thật sự vai bên trái… có một vết sẹo.”

Thạch Thanh cũng đầy lòng ngờ vực. Ông nói: “Hài nhi lúc còn nhỏ đã bị người ta dùng ám khí đả thương.” Ông lại nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Trên thân của người này cũng có vết ám khí đó. Vậy ai thật ai giả, cứ nhìn xem thì rõ.” Mọi người nhìn Thạch Phá Thiên lại nhìn gã thiếu niên phục sức xa hoa, trong lòng ai cũng nghi ngờ.

Trương Tam cười ha hả nói: “Kẻ đã ngụy tạo ra Thạch bang chúa, dĩ nhiên phải làm cho giống từng chút mới được. Người thật trong mình có dấu vết gì, thì người giả tất cũng có. Bốn chữ Trước Thủ Hồi Xuân ngoại hiệu của Bối đại phu này, chẳng lẽ tự nhiên mà có hay sao? Hắn nói là tam đệ của ta mê man nhiều ngày, dĩ nhiên trong lúc đó đã động thủ vào người tam đệ.” Đột nhiên hắn vọt người sang, đưa tay vuốt vào người gã thiếu niên phục sức sang trọng đó ba chỗ là vai trái, đùi trái, mông trái. Hắn chỉ vuốt một cái là quần áo của gã thiếu niên đó bị thủng ra ba lỗ tròn, để lộ da dẻ trắng nõn mịn màng.

Trên vai của gã có vết sẹo, dưới chân có vết thương, ở mông cũng có dấu, nghĩa là đúng như lời nói của ba người Đinh Đang, Bạch Vạn Kiếm và Thạch Thanh. Mọi người đều “ồ” lên một tiếng kinh ngạc. Họ kinh ngạc vì thủ pháp của Trương Tam cực kỳ tinh diệu, chỉ thuận tay vuốt qua một cái, không phương hại gì đến da thịt mà cắt đứt được mấy lần quần áo như là dùng kéo vậy. Họ còn kinh ngạc hơn, vì các dấu vết trong mình gã thiếu niên này quả nhiên giống hệt những dấu vết trong mình Thạch Phá Thiên.

Đinh Đang tiến lại, hỏi bằng một giọng run run: “Ngươi… huynh… quả nhiên chính là Thiên ca?”

Gã thiếu niên nhăn nhó cười nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Lâu ngày không được thấy nàng, ta nhớ nàng muốn chết, còn nàng chắc đã quẳng ta xa tít chín tầng mây rồi. Nàng không nhận ra được ta, còn ta dù xa cách hàng ngàn hàng vạn năm cũng vẫn có thể nhận ra nàng được.”

Đinh Đang nghe gã nói, vừa vui mừng lại vừa xúc động, sa lệ đáp: “Huynh… huynh mới đúng là Thiên ca. Hắn… hắn chỉ là một tên lừa gạt khả ố, làm sao mà nói được những câu chân thành như vậy. Suýt nữa tiểu muội bị gã lừa.” Nàng nói xong, trợn mắt lên nhìn Thạch Phá Thiên ra chiều căm giận, rồi giơ tay ra cầm lấy tay gã thiếu niên kia. Gã thiếu niên cũng nắm chặt lấy tay nàng, mỉm cười với nàng một cái. Đinh Đang mát gan mát ruột, chẳng khác được luồng gió xuân thổi vào. Mặt nàng hớn hở, vui mừng không bút nào tả xiết.

Thạch Phá Thiên tiến lên hai bước nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Ta cũng đã nói với muội từ trước rồi, ta không phải là Thiên ca của Đinh Đinh Đang Đang… Đinh Đang có giận ta hay không?”

Đột nhiên nghe đánh “bốp” một cái! Thạch Phá Thiên thấy mặt nóng ran, ăn một cái tát nảy đom đóm mắt. Đinh Đang tức giận mắng: “Tên lừa gạt này… úi chà…” Rồi nàng xoa tay nhăn nhó. Thì ra cái tát này nàng dùng sức mạnh quá, bị nội lực của Thạch Phá Thiên chấn ngược lại đau cả cánh tay.

Thạch Phá Thiên vội hỏi: “Tay của muội có đau lắm không?”

Đinh Đang tức giận quát lên: “Cút ngay! Cút ngay! Ta không muốn nhìn thấy mặt tên lừa đảo đê hèn này nữa.”

Thạch Phá Thiên vẻ mặt buồn rầu, miệng lẩm bẩm: “Ta… ta có cố ý lừa gạt nàng đâu?”

Đinh Đang giận dữ nói: “Ngươi còn cãi chối ư? Ngươi đã ngụy tạo ra vết thẹo trên vai mà còn nói là không cố ý lừa gạt ta?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Chính ta cũng không biết chuyện đó.”

Đinh Đang dậm chân nói: “Quân lừa gạt! Quân lừa gạt! Xéo đi!”

Thạch Phá Thiên mặt đỏ bừng lên, mắt chàng long lanh ngấn lệ muốn trào ra, nhưng chàng cố nén lòng, lùi lại. Thạch Thanh quay lại nói với Bối Hải Thạch: “Bối tiên sinh! Chuyện này… các vị đã tìm thấy chàng thiếu niên này ở đâu? Còn con trai ta đã bị cưỡng ép lên làm bang chúa quý bang trong trường hợp nào? Các bạn hữu võ lâm ở đây không phải là ít, Bối tiên sinh hãy giải thích rõ ràng để mọi người khỏi phải nghi ngờ.”

Bối Hải Thạch nói: “Chàng thiếu niên này tướng mạo giống hệt như Thạch bang chúa. Ngay cả Huyền Tố Song Kiếm là cha mẹ ruột mà còn không phân biệt nổi, thì bọn tại hạ là người ngoài đã nhận lầm tưởng cũng không đáng trách.”

Thạch Thanh gật đầu nghĩ bụng: “Câu này rất hợp lý.” Còn Mẫn Nhu nói: “Vợ chồng ta đã nhiều năm không gặp con trai, trẻ nhỏ khi lớn lên dĩ nhiên khó mà phân biệt được. Còn Bối tiên sinh mấy năm nay ngày nào cũng gặp nó, người thâm trầm như Bối tiên sinh đáng lẽ không thể nhận lầm.”

Bối Hải Thạch ho khan vài tiếng, cười khổ đáp: “Chuyện này… chuyện này cũng chưa chắc”. Ngày đó lão lên Ma Thiên Nhai gặp được Thạch Phá Thiên, biết ngay rằng không phải bang chủ của mình. Nhưng tìm khắp hết cả cũng không thấy Thạch Trung Ngọc đâu, trong lúc nóng lòng như lửa đốt, lão bèn nảy ra ý đưa Thạch Phá Thiên lên để thay thế. May mà lúc đó Thạch Phá Thiên đang bị hôn mê, nên chuyện sắp xếp quá dễ dàng. Nhưng chuyện này thì dù sao cũng không thể thừa nhận, nên lão bèn nói: “Thạch bang chúa tiếp nhiệm chức bang chúa tệ bang là do một cuộc tỉ đấu, bang chúa đả bại Tư Đồ tiền bang chúa rồi được toàn bang suy tôn lên. Thạch bang chúa! Việc này có đúng thế không? Hai chữ “cưỡng ép” từ đâu mà có?”

Chàng thiếu niên kia, chính là Thạch Trung Ngọc, cất tiếng đáp: “Bối tiên sinh! Chuyện đã đến nước này thì còn giấu giếm làm gì nữa. Ngày đó ta ở Hoài An đã đắc tội với ông, bị ông bắt lấy. Ông hứa nếu ta nghe lời ông sắp xếp thì sẽ được tha mạng, bảo ta gia nhập Trường Lạc Bang của các ông, yêu cầu ta đứng dậy trước mặt mọi người mà chất vấn Tư Đồ bang chúa sao lại ép Hà hương chủ tự sát, hỏi ông ta sao không chịu nhận bài đồng của Hiệp Khách Đảo, rồi động thủ cùng Tư Đồ bang chúa. Ta chỉ biết chút xíu võ công, làm sao có thể là đối thủ của Tư Đồ bang chúa? Vì thế Bối tiên sinh đã cùng tất cả các hương chủ trong lúc lộn xộn cùng xông lên, ngoài mặt là khuyên giải, nhưng thật ra là kiềm chế Tư Đồ bang chúa, ép ông ấy giận dữ bỏ đi. Từ đó Bối tiên sinh ông kêu ta làm bang chúa, tất cả mọi việc đều phải nghe lời ông dặn bảo, ngươi kêu ta làm việc này thì ta nhất định không dám làm việc khác. Ta thấy chẳng có thích thú gì, bèn chạy trốn đến Dương Châu rất là tiêu diêu khoái lạc, nào ngờ chẳng hiểu sao lại bị hai vị lão huynh này bắt đến đây, điểm huyệt đạo rồi đặt ta lên mái nhà. Bối tiên sinh! Chức bang chúa thật sự của bang Trường Lạc, phải là của tiên sinh. Còn cái chức bang chúa bù nhìn để người ta giật dây này, thì xin ông ra ơn mà miễn cho ta.”

Miệng lưỡi Thạch Trung Ngọc hết sức mềm dẻo, nói cũng có lý, nên mọi người đều ngẩn ra đứng nhìn.

Bối Hải Thạch sắc mặt xám xanh lại nói: “Ngày ấy bang chúa đã nói ra những gì, sao bây giờ lại nuốt vào hết rồi? Làm gì có chuyện khi hữu sự lại hối hận rồi thoái thác?”

Thạch Trung Ngọc nói: “Trời ơi! Lúc đó làm sao ta dám cãi lời của ông? Lúc này có song thân ta ở đây mà ông vẫn giận dữ nổi hung với ta như thế, thì cũng dễ hiểu vì sao ta không dám cãi.” Hắn biết hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đã đến đây, nếu không giũ nổi cái ngôi bang chúa này thì tính mạng khó mà giữ được, lại có song thân làm chỗ dựa, nên lời nói đã cứng rắn hẳn lên.

Mễ Hoành Dã lớn tiếng hét: “Bang chúa! Những câu này của ngươi thật là điên đảo thị phi. Ngươi làm bang chúa của bổn bang cũng đâu có phải là chuyện hai ba ngày gì? Ngày thường ngươi quen làm oai làm phước, phong lưu khoái lạc, hà hiếp con gái nhà lành, chẳng lẽ đều do Bối tiên sinh ép ngươi hay sao? Nếu không phải vì ngươi đã vỗ ngực thề thốt với mọi anh em rằng nhất định sẽ nhận đồng bài thiệp mời của Hiệp Khách Đảo, thì chúng ta làm sao có thể để yên cho ngươi quấy rối?”

Thạch Trung Ngọc khó mà cãi được, bèn giả vờ không nghe, mỉm cười đáp: “Bản lãnh của Bối tiên sinh thật không phải tầm thường. Ta đã ẩn cư không ra mặt để khỏi chịu phiền phức, may được tiên sinh không biết đã tìm đâu ra thằng lỏi này đưa về, tướng mạo lại giống hệt ta. Gã đã muốn mạo xưng, thì để gã mạo xưng luôn đi càng hay, còn hỏi đến ta làm chi nữa? Gia gia! Má má! Nơi đây toàn chuyện thị phi, chúng ta đi sớm là hơn.” Mồm miệng gã ríu rít bẻo lẻo, so với Thạch Phá Thiên đúng là như trời như đất. Hai người vừa mở miệng nói chuyện là lập tức khác hẳn nhau.

Bọn Mễ Hoành Dã, Trần Xung Chi, Triển Phi lập tức quát lớn: “Ngươi muốn phủi tay bỏ đi ư? Đâu có dễ dàng như thế?” Bọn chúng đều rút binh khí ra cầm tay.

Trương Tam cười ha hả nói: “Thạch bang chúa! Bối tiên sinh! Chúng ta hãy lật bài ngửa ra mà nói chuyện cho rõ ràng. Với danh vọng và võ công của Thạch bang chúa cùng Tư Đồ Hoành, chưa xứng đáng để đến đảo ăn một chén cháo Lạp Bát đâu. Chỉ vì mấy năm gần đây Trường Lạc Bang đã làm rất nhiều việc ác trên giang hồ, hai người chúng ta đến đây là muốn Phạt Ác, thật cũng không muốn Thạch bang chúa nhận đồng bài thiệp mời này. Chẳng qua cái lệ trước nay đã vậy, nhất định phải hỏi trước một tiếng. Giả tỉ Thạch bang chúa không chịu tiếp nhận đồng bài thật ư? Hay lắm, hay lắm! Tốt hơn hết là ngươi đừng nhận.”

Bối Hải Thạch cùng mọi người bang Trường Lạc đều chấn động tâm thần. Họ biết rằng nếu Thạch Trung Ngọc không tiếp nhận thẻ đồng, hai gã sứ giả một mập một gầy này sẽ mở cuộc tàn sát. Lão mập kia vừa nói rất rõ ràng là chúng đến đây, muốn nhất là tiêu diệt Trường Lạc Bang. Vừa rồi hai gã chỉ phô trương một chút bản lãnh, toàn bang từ trên xuống dưới đã biết không ai địch nổi. Nhưng Thạch Trung Ngọc thì rõ ràng nói gì thì nói cũng không chịu làm bang chúa, thế thì phải làm sao đây?

Trong giây lát, nguyên cả đại sảnh hoàn toàn không có tiếng nói, tất cả mọi người đều nhìn chằm chằm vào Thạch Trung Ngọc.

Thạch Phá Thiên lên tiếng: “Bối tiên sinh! Đại ca của ta… không nói giỡn đâu, đã bảo giết người là giết người. Toàn bang Phi Ngư và hội Thiết Xoa đều bị hai vị đây giết sạch. Theo ý tại hạ thì bất luận ai làm bang chúa cũng được, trước hết là hãy tiếp nhận hai tấm thẻ đồng này đã để tránh khỏi tổn thương chết chóc. Đối với ta, hai bên cùng là huynh đệ tốt, nếu thực sự đánh nhau thì ta chẳng biết giúp bên nào cho phải.”

Bối Hải Thạch nói: “Đúng thế! Thạch bang chúa, tấm đồng bài này không thể không nhận”.

Thạch Phá Thiên nói với Thạch Trung Ngọc: “Thạch bang chúa! Bang chúa cứ tiếp nhận đồng bài này đi. Tiếp nhận là chết, nhưng không tiếp nhận thì cũng chết, lại còn hại cả huynh đệ toàn bang phải uổng mạng theo bang chúa. Chuyện này… chuyện này có phải là nhẫn tâm hay không?”

Thạch Trung Ngọc cười lạnh đáp: “Chuyện của người khác thì nói rất dễ. Nếu ngươi là người đại nhân đại nghĩa như vậy, sao không tiếp nhận hai thẻ đồng này để gánh tai nạn cho bang Trường Lạc đi, lại bắt ta phải nhận? Ha ha, thật là tức cười.”

Thạch Phá Thiên thở dài đưa mắt nhìn Thạch Thanh, Mẫn Nhu, rồi lại nhìn Đinh Đang, xong mới nói: “Bối tiên sinh! Các vị từ trước đến giờ đối đãi với ta rất tốt, chỉ vì mong ta giải trừ đại nạn này cho bang Trường Lạc. Nay Thạch bang chúa thật sự đã không chịu tiếp nhận, thì ta đành tiếp nhận vậy.” Chàng nói xong, tiến về phía Trương Tam, đưa tay đón lấy đồng bài trên tay gã.

Mọi người đều hết sức ngạc nhiên. Trương Tam rụt tay về nói: “Khoan đã!” Rồi gã quay lại nói với Bối Hải Thạch: “Thiệp mời đồng bài này Hiệp Khách Đảo phải giao cho bang chúa chính thức của quý bang. Vậy theo quý bang thì vị nào là bang chúa?”

Bọn Bối Hải Thạch kinh ngạc vô cùng, không ngờ Thạch Phá Thiên đã hiểu hết mưu đồ của họ mà vẫn liều mạng cho bản bang. Cho dù bọn người này đều là hạng hung hãn giảo quyệt, mà lúc này cũng không khỏi sinh lòng cảm kích. Thế rồi chẳng ai bảo ai, họ đều hướng về phía Thạch Phá Thiên khom lưng thi lễ nói: “Bọn thuộc hạ nguyện tôn đại hiệp làm bang chúa bản bang, nhất nhất tuân theo mệnh lệnh bang chúa, quyết không dám phản bội.” Mấy câu nói này thật là phát xuất tự đáy lòng.

Thạch Phá Thiên đáp lễ nói: “Không dám! Không dám! Chuyện gì ta cũng không biết, câu nào nói sai, việc nào làm sai, mong các vị miễn trách cho đã là hay lắm!”

Bọn Bối Hải Thạch đồng thanh trả lời: “Không dám.”

Trương Tam cười ha hả nói: “Huynh đệ, ngươi rốt cuộc là họ gì?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Ta thật sự không biết”. Rồi chàng nhìn qua Mẫn Nhu một cái, Thạch Thanh một cái, thấy ánh mắt hai người cũng đang nhìn chằm chằm vào mình đầy vẻ mến phục, bèn nói tiếp: “Ta… Ta thấy họ Thạch là tốt hơn.”

Trương Tam nói: “Hay lắm! Xin mời Thạch bang chúa của Trường Lạc Bang vào mùng tám tháng mười hai năm nay đến Hiệp Khách Đảo để ăn chén cháo Lạp Bát.”

Thạch Phá Thiên nói: “Dĩ nhiên là tiểu đệ sẽ đến bái yết hai vị ca ca.”

Trương Tam nói: “Với võ công như tam đệ thì rất xứng đáng để được ăn chén cháo Lạp Bát này, nhưng tiếc là Trường Lạc Bang từ nay về sau được phiêu diêu tự tại, tai qua nạn khỏi.”

Lý Tứ lắc đầu nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc!” Không biết gã tiếc vì mình không được tiêu diệt Trường Lạc Bang, hay là tiếc cho tính mạng của Thạch Phá Thiên phải mất uổng vì Trường Lạc Bang. Bọn Bối Hải Thạch đều cúi đầu, không dám đối diện với ánh mắt của Trương Tam và Lý Tứ.

Trương Tam, Lý Tứ đưa mắt nhìn nhau gật đầu một cái. Trương Tam giơ tay phải lên, hai tấm đồng bài từ từ bay về phía Thạch Phá Thiên. Hai tấm đồng này cũng không nhẹ lắm, nếu liệng mạnh rồi rít lên kình phong bay đi, thì chẳng lấy chi làm kỳ lạ. Nhưng nó lại từ từ vọt lên không rồi đi chậm chạp về phía trước, tựa hồ được treo trên hai sợi dây rất nhỏ không nhìn thấy. Nội lực như vậy thì thật là chưa ai từng thấy, cũng chưa ai từng nghe.

Mọi người đều giương mắt lên nhìn Thạch Phá Thiên. Đột nhiên Mẫn Nhu la lên: “Hài nhi! Chớ có tiếp nhận!”

Thạch Phá Thiên nói: “Má má! Hài nhi đã nhận lời rồi.” Chàng đưa hai tay ra, mỗi tay đón lấy một thẻ đồng, rồi nhìn Thạch Thanh nói: “Gia gia… Không… Thạch… Thạch trang chúa đã biết rõ là nguy hiểm mà còn định thay quán chủ Thượng Thanh Quán đến Hiệp Khách Đảo, khiến cho mọi người đều bội phục. Hài nhi… con cũng muốn học theo bài học này.”

Lý Tứ nói: “Hay lắm! Thật là tay anh hùng hiệp nghĩa, chúng ta đã không lầm mà kết bái anh em với tam đệ. Tam đệ, chúng ta phải nói trước, khi đến đảo Hiệp Khách rồi thì đại ca, nhị ca đối với tam đệ cũng như đối với mọi người, chứ không có chuyện chiếu cố đặc biệt gì đâu nhé.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Chuyện đó là lẽ đương nhiên!”

Lý Tứ nói: “Đây lại còn mấy tấm đồng bài để mời ba vị Phạm, Phong, Lữ ở Quan Đông cùng đến Hiệp Khách Đảo ăn chén cháo Lạp Bát. Ba vị có tiếp nhận hay không?”

Phạm Nhất Phi đưa mắt nhìn Cao Tam nương tử, bụng bảo dạ: “Ngươi đã nhận rồi, bốn phái lớn ở Quan Đông chúng ta tiến thoái có nhau, có lý nào tách riêng được. Thôi, cũng đành liều đem cái mạng già này qua đảo Hiệp Khách một phen.” Lão bèn nói: “Quý đảo đã coi trọng, Phạm mỗ có lý đâu không uống rượu mừng lại uống rượu phạt?”

Phạm Nhất Phi nói xong, tiến lên đón lấy hai thẻ đồng trong tay Lý Tứ. Phong Lương cười ha hả nói: “Đến mùng tám tháng mười hai hãy còn hai tháng nữa. Dù đến lúc ấy không thể không chết, cũng còn được sống thêm hai tháng nữa kia mà!” Rồi hắn cùng Lữ Chính Bình cũng tiếp thẻ đồng.

Trương Tam, Lý Tứ chắp tay thi lễ nói: “Các vị đã nể mặt, hết sức đa tạ.” Rồi chúng quay lại bảo Thạch Phá Thiên: “Tam đệ! Chúng ta còn có việc phải đi xa, hôm nay không thể cùng tam đệ uống rượu được. Bây giờ hãy tạm cáo biệt.”

Thạch Phá Thiên nói: “Đại ca cùng nhị ca hãy uống ba bát rồi hãy đi, vội gì? Bầu rượu của hai vị ca ca đâu rồi?”

Trương Tam cười nói: “Hết rồi! Hết rồi! Thứ rượu đó có phải một hai ngày mà chế được đâu, đeo hai cái bầu không thì chẳng thú gì. Hay lắm! Nhị đệ! Ba chúng ta cùng uống ba bát rượu này.”

Bang chúng bang Trường Lạc rót rượu bưng lại, Trương Tam, Lý Tứ cùng Thạch Phá Thiên mỗi người uống cạn ba bát.

Thạch Thanh cũng tiến lên một bước, dõng dạc nói: “Tại hạ là Thạch Thanh, trang chúa Huyền Tố Trang, muốn được cùng nhục tử đến đảo Hiệp Khách để xin một chén cháo Lạp Bát.”

Trương Tam nghĩ thầm: “Ba mươi năm nay, người võ lâm hễ nghe đến ba chữ Hiệp Khách Đảo, không ai không vỡ gan vỡ mật. Hôm nay bỗng nhiên có người tự nguyện tới đó, thật là chuyện lạ mới nghe thấy lần đầu.” Gã bèn đáp: “Thạch trang chúa, Thạch phu nhân, tại hạ phải xin lỗi rồi. Hai vị là môn hạ Thượng Thanh Quán, chưa từng lập riêng môn phái, chuyến này bọn tại hạ khó mà kính thỉnh được. Đối với Dương lão anh hùng cùng các vị khác thì cũng như thế.”

Bạch Vạn Kiếm hỏi: “Hai vị còn có việc làm, phải chăng… phải chăng là đến thành Lăng Tiêu?”

Trương Tam nói: “Bạch anh hùng đoán việc như thần. Bọn tại hạ quả nhiên đang định đến bái phỏng lệnh tôn là Uy Đức tiên sinh Bạch lão anh hùng.”

Sắc mặt của Bạch Vạn Kiếm lập tức thay đổi. Hắn tiến lên một bước, muốn nói gì nhưng lại thôi. Lát sau hắn mới nói: “Hay lắm!”

Trương Tam cười nói: “Nếu Bạch anh hùng về sớm thì chúng ta sẽ lại gặp nhau ở thành Lăng Tiêu. Xin mời, xin mời!” Rồi gã cùng Lý Tứ giơ tay lên một cái, hai người cùng quay lưng, từ từ bước ra cửa.

Cao Tam nương tử cất tiếng thóa mạ: “Đồ con rùa đê tiện!” Bà vung tay trái lên, bốn ngọn phi đao vọt tới sau lưng hai người. Bà cũng biết chẳng thể nào đả thương được họ, có điều trong lòng căm tức khó mà nguôi được, phóng mấy ngọn phi đao để hả giận một chút.

Bốn ngọn phi đao bay vèo tới sau lưng hai người, mà dường như họ không phát giác. Thạch Phá Thiên không nhịn được, la lên: “Hai vị ca ca cẩn thận!” Bỗng nghe đánh vù một tiếng, hai người bay vọt về phía trước, thần tốc phi thường. Mọi người vừa hoa mắt lên, bốn ngọn phi đao đã cắm vào khung cửa vang lên mấy tiếng chát chát, còn Trương Tam Lý Tứ không thấy đâu nữa.

Phi đao là một thứ ám khí trong tay liệng ra, thế mà khinh công hai người này còn nhanh hơn cả ám khí. Quần hào nhìn nhau thất sắc, tưởng chừng như gặp ma quỷ. Cao Tam nương tử lại thóa mạ bâng quơ: “Đồ con rùa…” Nhưng rồi bà cũng kinh hãi, mới thốt ra được ba tiếng đã dừng lại, không nói thêm được nữa.

* * *

Thạch Trung Ngọc đang dắt tay Đinh Đang từ từ lẻn ra cửa, định nhân lúc mọi người không chú ý mà chuồn đi. Chẳng ngờ Cao Tam nương tử phóng bốn ngọn phi đao, khiến ai nấy đều đưa mắt nhìn ra đó. Bạch Vạn Kiếm lớn tiếng quát: “Đứng lại đã!” Rồi hắn quay lại nói với Thạch Thanh: “Thạch trang chúa! Trang chúa nói đi.”

Thạch Thanh thở dài nói: “Thạch mỗ đã sinh phải… thằng con như vậy thì còn biết nói sao được nữa? Bạch sư huynh! Vợ chồng tiểu đệ sẽ dắt nhục tử đi theo sư huynh về thành Lăng Tiêu để thỉnh tội trước Bạch lão bá.”

Thạch Thanh nói xong câu này, Bạch Vạn Kiếm cùng bọn đồ đệ phái Tuyết Sơn chẳng ai là không kinh ngạc. Lúc trước vợ chồng họ đã cố gắng cứu một đứa con trai nhận lầm. Lúc này thằng con thật xuất hiện, thì họ lại ưng thuận đưa đến thành Lăng Tiêu chịu tội, phải chăng có điều chi man trá bên trong?

Mẫn Nhu đưa mắt nhìn Thạch Thanh, lúc này Thạch Thanh cũng đang nhìn vợ. Ánh mắt hai người vừa chạm nhau đã thấy ngay bạn đời đầy vẻ thê lương, không nỡ nhìn nhau nữa, liền ngoảnh mặt đi chỗ khác, đều bụng bảo dạ: “Thì ra thằng con của chúng ta lại là loại chẳng ra người như thế. Nó đã nhận làm bang chúa bang Trường Lạc, thế mà khi gặp tai họa lại rụt đầu rụt cổ mà trốn đi. Nhân phẩm nó đã như vậy thì dù bản lãnh có cao cường đến đâu cũng bị anh hùng hảo hán trên chốn giang hồ cười chê khinh bỉ.”

Hai vợ chồng Thạch Thanh mấy hôm nay ở gần Thạch Phá Thiên, cứ tưởng chàng sau khi bệnh nặng ký ức chưa phục hồi, lời lẽ cùng cử động có chỗ ngây ngô buồn cười, nhưng lại cảm thấy chàng tính tình thuần hậu, luôn luôn biểu lộ khí khái anh hùng hiệp nghĩa, nên trong lòng không khỏi vui mừng.

Mẫn Nhu lại càng hớn hở trong lòng. Thạch Phá Thiên như trẻ nít không hiểu nhiều về thế sự, bà lại càng cảm thấy chàng giống như đứa bé hồi tám tuổi quanh quẩn trong lòng mình, khiến bà nhớ lại bao nhiêu chuyện êm ái ngọt ngào. Không ngờ Thạch Trung Ngọc thật sự đã xuất hiện, tướng mạo tuy giống nhau nhưng hành vi lại khác hẳn, một kẻ đê hèn khiếp nhược, một kẻ dũng cảm gánh lấy tai nạn. Kẻ khiếp nhược lại là con thật của mình.

Mẫn Nhu vô cùng thất vọng về Thạch Trung Ngọc, nhưng dù sao nó cũng là con ruột bà sinh ra. Bà liền nhìn gã, vẫy tay dịu dàng nói: “Hài nhi! Con qua đây.”

Thạch Trung Ngọc đến trước mặt bà, mỉm cười nói: “Má má! Mấy năm gần đây hài nhi không gặp mặt má má, tưởng nhớ không lúc nào nguôi. Má má! Má má ngày càng trẻ đẹp ra, ai gặp cũng phải nói là tỷ tỷ của con, nhất định không ai tin là má má của con.”

Mẫn Nhu mỉm cười, nhưng trong lòng tức giận nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này chỉ được cái bẻm mép!” Nụ cười của bà chứa chất bao nỗi đau khổ.

Thạch Trung Ngọc lại nói: “Má má! Mấy năm trước hài nhi đã tìm được một đôi vòng bích ngọc, vẫn mang theo bên mình. Hài nhi chỉ mong một ngày được gặp má má để chính mình đeo vào tay cho má má.” Gã vừa nói vừa lấy trong bọc ra một cái bao bằng đoạn vàng, mở bao lấy ra một đôi vòng ngọc và một cành hoa bằng bảo thạch. Gã đeo đôi vòng vào tay cho mẫu thân.

Mẫn Nhu vốn là ưa đồ trang sức. Bà thấy đôi vòng bích ngọc trong bóng rất đẹp, nghĩ ngay đến lòng hiếu của cậu con nên cũng cảm thấy ấm áp, bớt giận vài phần. Nhưng bà ta lại không biết con mình bất cứ ở đâu cũng quen tính phong lưu, lúc nào cũng mang theo đồ nữ trang châu báu sang trọng, thấy cô gái nào đẹp đẽ liền lấy ra tặng để ve vãn lấy lòng.

Thạch Trung Ngọc quay lại cầm cành hoa cắm vào tóc Đinh Đang, nhẹ cười nói: “Đáng lẽ phải tìm một đóa hoa đẹp gấp mười lần thế này mới xứng với vẻ đẹp của Đinh Đinh Đang Đang. Nhưng trước mắt không biết làm sao được, đành cài tạm cho Đinh Đinh Đang Đang vậy.”

Đinh Đang cả mừng khẽ đáp: “Thiên ca! Huynh vẫn nói chuyện khéo như xưa!” Nàng giơ tay lên khẽ vuốt bông hoa đang cắm trên tóc của mình, liếc mắt nhìn Thạch Trung Ngọc đầy vẻ hớn hở vui mừng.

Bối Hải Thạch hắng giọng mấy tiếng rồi nói: “Chẳng mấy khi được Dương lão anh hùng, vợ chồng Thạch trang chúa, các vị anh hùng phái Tuyết Sơn cùng bốn môn phái lớn ở Quan Đông giá lâm đến đây. Những chuyện hiểu lầm đã được giải thích rõ ràng, xin để tệ bang được chỉnh đốn lại yến tiệc, cùng nhau uống say một bữa.”

Nhưng trong lòng vợ chồng Thạch Thanh, Bạch Vạn Kiếm và bọn Phạm Nhất Phi còn đầy rẫy tâm sự. Họ đều bụng bảo dạ: “Bang Trường Lạc các ngươi đã có người gánh giúp đại nạn nên mới vui vẻ thế. Chúng ta còn lòng dạ nào mà uống rượu của các ngươi nữa?”

Bạch Vạn Kiếm lên tiếng trước: “Hai vị sứ giả của Hiệp Khách Đảo đã nói là đến thành Lăng Tiêu, tại hạ phải lập tức lên đường trở về mới được. Hảo ý của Bối tiên sinh, tại hạ xin tâm lĩnh.”

Thạch Thanh nói: “Ba người bọn tại hạ cũng phải đi cùng Bạch đại hiệp.”

Bọn Phạm Nhất Phi cũng nói: “Ngày hẹn đi ăn cháo Lạp Bát không còn xa mấy, phải cáo từ để kịp trở về Quan Đông.” Tuy câu nói rất mơ hồ, nhưng ai cũng hiểu bọn họ hối hả quay về là để thu xếp hậu sự trước khi ra đi chịu chết.

Mọi người cáo từ rút lui. Thạch Phá Thiên ngẩn ngơ nhìn Bối Hải Thạch đi tiễn khách. Lòng chàng bỗng dưng thấy trống vắng, tủi thân nghĩ thầm: “Mình đã bảo là họ nhận lầm, nhưng Đinh Đinh Đang Đang cứ nhất định nói mình là Thiên ca của nàng, ông bà Thạch trang chúa cũng nhận mình là con của họ. Đùng một cái, mình trở nên cô độc, chẳng còn ai thân thiết nữa. Má má thật cũng không thích mình nữa, sư phụ là Sử bà bà và A Tú cũng không gặp được, ngay cả A Hoàng cũng khó mà tìm kiếm.”

Trước khi chia tay, bọn Phạm Nhất Phi còn hai ba lần cảm ơn chàng đã giải vây cho. Bạch Vạn Kiếm cũng nói: “Thạch bang chúa! Hôm trước tại hạ đã mấy lần đắc tội, thật là không phải, chỉ mong được tha thứ! Thạch bang chúa anh hùng hảo hán, lấy đức báo oán, trên Tử Yên Đảo cũng đã nhiều lần cứu giúp, tại hạ kính ngưỡng vô cùng. Chuyến này tại hạ phải về gấp, nếu may mà thoát chết thì ngày sau rất mong được cùng Thạch bang chúa kết giao bằng hữu.”

Thạch Phá Thiên ậm ừ trả lời, trong lòng chỉ muốn khóc òa lên. Vợ chồng Thạch Thanh lúc từ biệt Thạch Phá Thiên, thấy vẻ mặt chàng thê lương đau khổ thì trong lòng cũng xót xa vô hạn. Mẫn Nhu có ý muốn thu chàng làm nghĩa tử, nhưng nghĩ lại chàng là bang chúa một đại bang ở Giang Nam, địa vị còn cao hơn vợ chồng mình nhiều, võ công lại cao đến vậy, muốn nhận chàng làm nghĩa tử thì cũng khó mà mở miệng. Bà liền dịu dàng nói: “Thạch bang chúa! Mấy hôm trước đây vợ chồng ta đã nhận lầm bang chúa, thật là có chỗ bất kính. Mong rằng… mong rằng chúng ta còn có ngày gặp nhau.”

Thạch Phá Thiên vâng dạ rồi đưa mắt tiễn mọi người ra đi. Đoàn người mất hút rồi, chàng vẫn đứng ngây ra giữa cửa, ngơ ngẩn một mình.

Bối Hải Thạch cảm thấy vừa cảm kích vừa áy náy nên tạm thời tránh mặt. Còn những bang chúng khác lại cho rằng chàng đã tiếp đồng bài, tự biết lúc chết cũng không còn xa, nên không vui vẻ gì là phải. Chẳng ai dám đến gợi chuyện với chàng, chỉ lo bang chúa trút giận lên đầu mình thì thật là xui xẻo.

Hồi 16: Thành Lăng Tiêu

Tối hôm ấy, Thạch Phá Thiên đi ngủ sớm, nhưng chàng nằm trên giường mà ngổn ngang trăm mối tơ lòng, trằn trọc mãi đến nửa đêm mới thiếp đi được.

Chàng đang ngon giấc, bỗng ngoài cửa sổ có mấy tiếng gõ lách cách. Thạch Phá Thiên trở mình ngồi nhỏm dậy, sực nhớ những lần trước vào khoảng nửa đêm, mỗi khi Đinh Đang đến tìm mình cũng gõ cửa làm hiệu như vậy. Chàng buột miệng hỏi: “Có phải Đinh Đinh…”, chỉ nói mấy tiếng rồi im bặt. Bất giác chàng thở dài lẩm bẩm: “Mình phát điên rồi ư? Đinh Đinh Đang Đang đã theo ý trung nhân là Thiên ca của nàng đi rồi, còn trở lại tìm ta làm gì nữa?”

Bỗng cánh cửa từ từ mở ra, một thân hình yểu điệu ở ngoài nhảy vào, bật lên tiếng cười khúc khích, chẳng phải Đinh Đang thì còn ai nữa? Nàng đi đến trước giường, vừa cười vừa khẽ hỏi: “Sao Thiên ca chỉ gọi có nửa tên, Đinh Đinh Đang Đang biến thành Đinh Đinh?”

Thạch Phá Thiên vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Chàng “ồ” lên một tiếng rồi từ trên giường nhảy xuống hỏi: “Muội… Sao muội còn trở lại đây?”

Đinh Đang mỉm cười hỏi lại: “Tiểu muội nhớ Thiên ca, trở lại thăm không được hay sao?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Đinh Đinh Đang Đang đã gặp Thiên ca thật rồi, sao lại còn tìm tên lừa gạt này làm chi?”

Đinh Đang cười đáp: “Úi chà! Thiên ca lại giận rồi phải không? Thiên ca! Ban ngày tiểu muội tát Thiên ca một cái, Thiên ca còn giận tiểu muội không?” Nàng nói xong, đưa tay lên khẽ vuốt má Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên mũi ngửi thấy mùi hương thoang thoảng, mặt cảm thấy bàn tay mềm mại vuốt ve thì không khỏi rạo rực trong lòng. Chàng ấp úng: “Ta không giận Đinh Đinh Đang Đang! Đinh Đinh Đang Đang cũng không cần phải đến đây thăm ta. Muội đã nhìn lầm ta, nhưng ai cũng lầm, ta không trách. Chỉ cần Đinh Đinh Đang Đang không coi ta là kẻ lừa gạt là được rồi.”

Đinh Đang dịu dàng khẽ nói: “Kẻ lừa gạt, kẻ lừa gạt… Trời ơi! Nếu Thiên ca quả là anh chàng lừa gạt đó, thì không chừng tiểu muội lại thích hơn. Thiên ca! Trên thiên hạ rất có ít người chính nhân quân tử như huynh, đã cùng muội bái đường thành thân mà rút cuộc… rút cuộc vẫn không coi tiểu muội là người vợ thật sự.”

Thạch Phá Thiên toàn thân nóng ran, hổ thẹn nói: “Ta… ta không phải là người chính nhân quân tử. Chẳng phải là ta không nghĩ đến… nhưng mà ta… ta không dám. Cũng may… may mà chúng ta chưa có gì với nhau, nếu không… nếu không thì thật chẳng biết phải làm thế nào mới phải.”

Đinh Đang lùi lại một bước, ngồi xuống cạnh giường, hai tay ôm lấy mặt thút thít khóc. Thạch Phá Thiên chân tay luống cuống vội hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang! Làm sao thế?”

Đinh Đang vừa khóc vừa nói: “Tiểu muội… tiểu muội biết Thiên ca là người chính nhân quân tử. Nhưng người khác… người khác lại không nghĩ thế, tiểu muội có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng không rửa sạch chuyện này. Gã Thạch Trung Ngọc kia… y… y bảo tiểu muội đã cùng Thiên ca bái thiên địa rồi ngủ chung phòng, nên không chịu nhìn nhận tiểu muội nữa.”

Thạch Phá Thiên dậm chân nói: “Thế này… thế này thì biết làm sao đây? Đinh Đinh Đang Đang bất tất phải lo lắng, để ta đến nói với y. Ta phải đi nói với y cho rõ ràng, cái gì… cái gì kính trọng nhau như cái gì đó…”

Đinh Đang không nhịn được, đang khóc cũng phải bật cười nói: “Kính trọng nhau như khách. Nhưng không nói như vậy được, là vợ chồng rồi mới nói là kính trọng nhau như khách.”

Thạch Phá Thiên nói: “À ra thế! Xin lỗi, ta lại nói sai rồi. Ta nghe Cao Tam nương tử nói vậy, nhưng không hiểu rõ ý nghĩa của câu này lắm.”

Đinh Đang không nhịn được, lại bật khóc rồi dậm chân nhẹ nhẹ nói: “Muội hận huynh đến chết được. Huynh có nói với y, chắc chắn y cũng không tin đâu.”

Thạch Phá Thiên trong lòng hoan hỉ vô cùng, nghĩ thầm: “Y không lấy muội, thì ta sẽ lấy muội.” Nhưng chàng biết nghĩ như thế là không tốt, nên ngoài miệng lại nói khác đi: “Vậy thì biết làm thế nào? Biết làm thế nào? Hỡi ơi! Mọi việc đều tại ta không tốt, nên mới liên lụy đến Đinh Đinh Đang Đang.”

Đinh Đang vừa khóc vừa nói: “Giữa y với Thiên ca đã không thân thích lại không ân nghĩa, thế mà huynh lại đã cùng ý trung nhân của y làm lễ bái đường thành thân, động phòng hoa chúc. Vậy y không hận huynh thì còn hận ai nữa? Giả tỉ y… y không phải là Thạch Trung Ngọc mà là Phạm Nhất Phi, Lữ Chính Bình, là những người đã được huynh làm đại ân công cứu mạng, thì dĩ nhiên huynh nói gì y cũng tin.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Đúng lắm! Đinh Đinh Đang Đang! Ta cũng thấy là y nhất quyết không chịu tin ta, vậy chúng ta phải nghĩ cách hay hơn mới được! À, phải rồi! Huynh đi nhờ gia gia muội đến nói rõ cho y biết, có được hay không?”

Đinh Đang dậm chân, vừa khóc vừa nói: “Không được đâu! Không được đâu! Y… Thạch Trung Ngọc chỉ vài ngày nữa là mất mạng rồi. Thời gian ngắn như vậy, chúng ta biết đi đâu kiếm được gia gia.”

Thạch Phá Thiên vô cùng kinh hãi hỏi lại: “Sao chỉ mấy ngày nữa là y mất mạng?”

Đinh Đang đáp: “Bạch Vạn Kiếm ở phái Tuyết Sơn trước kia đã nhận lầm huynh là Thạch Trung Ngọc nên mới bắt huynh đi. May mà gia gia cùng tiểu muội cứu được huynh ra, nếu không thì hắn đã bắt huynh về thành Lăng Tiêu, dùng ngàn vạn lưỡi đao chém thành muôn đoạn. Huynh có nhớ hay không?”

Thạch Phá Thiên nói: “Dĩ nhiên là ta còn nhớ. Trời ơi, không được! Lần này chắc Thạch trang chúa cùng Bạch đại hiệp lại đưa y lên thành Lăng Tiêu.”

Đinh Đang vừa khóc vừa đáp: “Phái Tuyết Sơn căm hận y thấu xương tủy. Phen này y đến thành Lăng Tiêu thì còn sống làm sao được?”

Thạch Phá Thiên nói: “Đúng lắm! Phái Tuyết Sơn cứ đến bắt ta hết lần này tới lần khác, thì chuyện đó thật không phải là nhỏ. Có điều bọn họ nể mặt vợ chồng Thạch trang chúa, không chừng chỉ trách mắng “Thiên ca” của Đinh Đinh Đang Đang mấy câu là xong cũng nên.”

Đinh Đang nghiến răng nói: “Huynh nói thì dễ lắm. Nếu họ chỉ trách mắng, thì trách mắng ở đây được rồi, hà tất phải áp giải y đường xa vạn dặm về thành Lăng Tiêu. Phái Tuyết Sơn vì muốn bắt y mà đã chết mất bao nhiêu nhân mạng, huynh có biết không?”

Thạch Phá Thiên toát mồ hôi lạnh. Chàng biết phái Tuyết Sơn phái người đến Giang Nam lần này đúng là bị tử thương khá nhiều. Chưa kể những vụ trọng đại Thạch Trung Ngọc phạm tội tại thành Lăng Tiêu, chỉ một món nợ ở Giang Nam này cũng nhất định không thể chỉ trách mắng mấy câu là xong.

Đinh Đang lại nói tiếp: “Thiên ca! Y đúng là đã phạm tội, thì có phải chết cũng đành. Đáng tiếc hai mạng vợ chồng Thạch trang chúa là những người nhân hậu lại giàu lòng nghĩa hiệp, mà cũng phải chết chung với y.”

Thạch Phá Thiên nhảy dựng lên, run giọng hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang… nói sao? Vợ chồng Thạch trang chúa cũng phải đền mạng hay sao?” Lâu nay Thạch Thanh và Mẫn Nhu đối xử với chàng bằng một mối thâm tình. Tuy đó là do ông bà nhận lầm, nhưng họ cũng là những người tốt nhất ở trên đời đối với chàng. Vừa nghe nói đến chuyện hai ông bà sắp nguy đến tính mạng, chàng lo lắng vô cùng.

Đinh Đang nói: “Vợ chồng Thạch trang chúa là song thân của Thiên ca. Họ đưa Thiên ca đến thành Lăng Tiêu, chẳng lẽ là để xem Thiên ca chết? Dĩ nhiên hai người phải năn nỉ với Bạch lão tiên sinh. Nhưng nhất định Bạch lão tiên sinh không đồng ý, đòi giết Thiên ca. Vợ chồng Thạch trang chúa thương con như thế, cuối cùng nhất định sinh chuyện động võ. Huynh thử nghĩ mà xem, trong thành Lăng Tiêu có không biết bao nhiêu là cao thủ, lại chiếm được thượng phong về địa lợi. Vợ chồng Thạch trang chúa cùng Thạch Trung Ngọc nữa mới là ba người, đối địch với bọn họ làm sao cho nổi? Tiểu muội thấy Thạch phu nhân đối với huynh rất tốt, e rằng chính mẹ ruột của huynh cũng không thương yêu huynh đến thế. Bà ta… bà ta phen này chắc là phải chết tại thành Lăng Tiêu, muội cũng thấy đau xót vô cùng.” Đinh Đang nói xong, hai tay lại ôm mặt khóc thút thít.

Bầu máu nóng của Thạch Phá Thiên sôi lên sùng sục. Chàng nói: “Vợ chồng Thạch trang chúa có nạn, bất luận thành Lăng Tiêu hung hiểm tới đâu, ta cũng phải đi cứu viện mới xong. Nếu không cứu được hai vị, thì ta thà chết luôn tại đó, quyết không sống một mình. Đinh Đinh Đang Đang! Ta đi đây!” Chàng vừa nói xong, lập tức sải bước toan ra khỏi phòng.

Đinh Đang nắm tay áo chàng kéo lại, hỏi: “Huynh đi đâu thế?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Ta phải đuổi theo họ suốt đêm nay, để cùng vợ chồng Thạch trang chúa đến thành Lăng Tiêu.”

Đinh Đang nói: “Tiểu muội nghe nói Uy Đức tiên sinh Bạch lão gia võ công rất giỏi, lại thêm con của lão là Bạch Vạn Kiếm, đệ tử của lão là Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý đều là những cao thủ ghê gớm. Dù cho võ công huynh có cao hơn họ, nhưng trong thành Lăng Tiêu cơ quan trùng điệp, lưới đồng tên độc không biết bao nhiêu mà kể. Huynh vô ý giẫm lên thì dù có bản lĩnh bằng trời cũng phải chết đói mà thôi.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Chuyện đó thì ta không tính tới nữa làm gì.”

Đinh Đang nói: “Huynh cậy mạnh nóng nảy, chỉ là cái dũng của kẻ thất phu. Nếu huynh chết trong thành Lăng Tiêu thì liệu có cứu được vợ chồng Thạch trang chúa không? Huynh mà mất mạng thì tiểu muội cũng thương tâm vô cùng, cũng… cũng không muốn sống nữa.”

Thạch Phá Thiên nghe Đinh Đang nói năng tha thiết thì không khỏi động tâm hồi hộp. Chàng run run hỏi lại: “Sao… sao muội đối với ta tốt như thế. Ta không phải là… là Thiên ca thật sự của muội.”

Đinh Đang nghẹn ngào nói: “Hai người dáng vẻ hết sức giống nhau, trong lòng tiểu muội thật sự không thấy phân biệt gì. Huống chi tiểu muội cùng huynh đã gần gũi nhiều ngày, mà huynh đối với tiểu muội lại tốt đến thế. Gần mặt gần lòng, mấy chữ này chắc huynh cũng từng nghe rồi chứ?” Nàng nắm lấy hai tay Thạch Phá Thiên nói: “Thiên ca! Thiên ca hứa với tiểu muội đi, bất luận thế nào Thiên ca cũng không được chết!”

Thạch Phá Thiên nói: “Nhưng không thể không cứu vợ chồng Thạch trang chủ!”

Đinh Đang nói: “Tiểu muội có một kế, nhưng nói ra chỉ sợ Thiên ca nghi ngờ tiểu muội đem lòng hiểm độc. Muội thật không dám nói.”

Thạch Phá Thiên vội giục: “Nói nhanh lên đi! Sao muội lại có thể hiểm độc với ta được!”

Đinh Đang ngần ngừ rồi nói: “Thiên ca! Theo mưu kế của tiểu muội thì ép uổng Thiên ca nhiều, mà lại quá lợi cho Thạch Trung Ngọc. Bất cứ ai nghe được sẽ bảo là tiểu muội đang giương bẫy để huynh chui vào, thật không thể được. Mặc dù đó là một kế vẹn toàn, nhưng không được công bằng lắm.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Là kế gì vậy? Chỉ cần cứu được ông bà Thạch trang chúa, dù ta có bị ép uổng đến đâu cũng chẳng hề chi.”

Đinh Đang nói: “Thiên ca! Nếu Thiên ca muốn tiểu muội nói, thì tiểu muội đành phải chiều ý Thiên ca mà nói ra. Có điều tiểu muội cũng không muốn Thiên ca ưng thuận làm như thế. Trước hết tiểu muội hỏi Thiên ca, vì lẽ gì mà phái Tuyết Sơn lại thù ghét Thạch Trung Ngọc đến thế, cứ tìm cách giết y cho bằng được?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Dường như Thạch Trung Ngọc vốn là đệ tử phái Tuyết Sơn, đã trọng phạm quy củ của môn phái. Ở thành Lăng Tiêu y đã làm cho con gái Bạch đại hiệp phải thác oan, lại liên lụy cả đến sư phụ y là Phong Vạn Lý bị Bạch lão gia gia chặt mất một cánh tay. Không chừng y còn làm những việc xấu nào khác nữa.”

Đinh Đang nói: “Đúng thế! Vì Thạch Trung Ngọc hại chết người ta, nên bọn họ muốn giết y để thường mạng. Thiên ca có hại chết tiểu thư của Bạch đại hiệp không?”

Thạch Phá Thiên sửng sốt nói: “Ta… ta dĩ nhiên không làm chuyện đó. Ta chưa từng gặp tiểu thư của Bạch đại hiệp bao giờ.”

Đinh Đang nói: “Thế thì phải rồi. Kế hoạch của tiểu muội nghĩ ra cũng chẳng kỳ lạ gì lắm. Thiên ca hãy hóa trang làm Thạch Trung Ngọc, đi cùng ông bà Thạch trang chúa đến thành Lăng Tiêu. Đợi lúc bọn họ sắp giết Thiên ca, thì Thiên ca để lộ chân tướng, xung tên là Cẩu Tạp Chủng chứ không phải Thạch Trung Ngọc. Người bọn họ muốn giết là Thạch Trung Ngọc chứ không phải là huynh, nhiều lắm họ thóa mạ Thiên ca một trận về tội lừa gạt là cùng. Cuối cùng họ vẫn phải tha Thiên ca, không giết huynh đâu. Vợ chồng Thạch Thanh không cần ra tay, đương nhiên sẽ không bị mất mạng.”

Thạch Phá Thiên suy nghĩ một lúc nói: “Phương pháp này cũng rất hay. Nhưng thành Lăng Tiêu ở tận bên Tây Vực, đường xa ngàn dặm mà phải đi cùng bọn Bạch đại hiệp. Ta e rằng… e rằng chỉ nói vài câu là lộ tẩy. Đinh Đinh Đang Đang! Chắc muội cũng biết rằng ta đây miệng lưỡi vụng về, đâu có bằng anh chàng… Thạch Trung Ngọc đó được? Y thông minh lanh lợi gấp mấy lần ta.” Nói xong, chàng thở dài ra chiều buồn bã.

Đinh Đang nói: “Điều đó tiểu muội đã nghĩ đến rồi. Huynh chỉ cần bôi một chút thuốc vào cổ họng cho sưng lên, giả vờ bị phát ung nhọt, rồi đừng nói gì nữa. Sau khi hết sưng rồi, huynh cứ biến thành người câm, thì bất cứ sơ xuất gì cũng không thể có.” Nàng buông tiếng thở dài, rồi nhẹ nhàng nói tiếp: “Thiên ca! Biện pháp đó tuy là hay, nhưng khiến cho Thiên ca phải thiệt thòi, tiểu muội thật áy náy. Huynh biết đó, muội thà là chính mình chết đi, cũng không muốn để huynh bị đau khổ chút nào.”

Thạch Phá Thiên được nghe Đinh Đang nói chuyện yêu đương thương xót, lúc này đừng nói chuyện phải giả câm, cho dù được vì nàng mà chết thì chàng cũng dũng cảm bước lên không than một tiếng. Chàng nói: “Hay lắm! Ý kiến hay lắm! Nhưng làm thế nào tìm ra Thạch Trung Ngọc bây giờ?”

Đinh Đang nói: “Họ hiện ở thị trấn Hoành Thạch. Bây giờ chúng ta qua đó. Tiểu muội biết phòng ngủ của Thạch Trung Ngọc, chúng mình cứ len lén đi vào, Thiên ca đổi y phục cho y. Sáng sớm mai Thiên ca bắt đầu rên rỉ, nói là cổ họng phát ung nhọt. Rồi cứ chờ đến khi Bạch lão tiên sinh định giết, Thiên ca mới mở miệng lên tiếng.”

Thạch Phá Thiên vui mừng nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Biện pháp này rất tốt! Cũng may là Đinh Đinh Đang Đang nghĩ ra được!”

Đinh Đang lại dặn: “Dọc đường bất luận là ai hỏi, Thiên ca cũng đừng nói gì hết. Dù là với ông bà Thạch trang chúa, Thiên ca cũng đừng quá gần gũi. Bọn Bạch đại hiệp tinh quái lợi hại, chỉ cần huynh sơ hở một chút là họ sinh lòng ngờ vực ngay, như vậy không thể nào cứu được vợ chồng Thạch trang chúa nữa. Ôi, ông bà Thạch trang chúa anh hùng hiệp nghĩa, nếu để mất mạng trong thành Lăng Tiêu…” Nói nửa câu, nàng lại lắc đầu thở một hơi dài.

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Chuyện đó ta tự biết lo liệu. Dù họ có giết ta, ta cũng không mở miệng đâu. Chúng ta đi thôi!”

Đột nhiên có tiếng đẩy cửa rồi một thanh âm nữ nhân cất lên: “Thiếu gia! Thiếu gia đừng bị cô ta lừa gạt!” Đang lúc đêm tối, ngoài cửa chỉ thấy bóng lờ mờ một thiếu nữ, chính là Thị Kiếm.

Thạch Phá Thiên hỏi: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Thế nào là bị cô ấy lừa gạt?”

Thị Kiếm nói: “Tiểu tỳ đứng ngoài cửa phòng đã nghe hết rồi. Đinh cô nương đây chẳng tử tế gì đâu. Cô ta… cô ta chỉ muốn cứu Thiên ca của cô ấy thôi, nên gạt thiếu gia đi chết thay cho hắn.”

Thạch Phá Thiên nói: “Không phải đâu! Đinh cô nương nghĩ giúp ta biện pháp để cứu Thạch trang chúa và Thạch phu nhân thôi mà.”

Thị Kiếm nói: “Thiếu gia nên nghĩ cho kỹ. Cô ấy chẳng tử tế gì với thiếu gia đâu!”

Đinh Đang cười lạnh nói: “Vậy ư? Ngươi là kẻ thân cận với bang chúa mà lại ăn cháo đá bát, đến đây mà nhiều chuyện.”

Rồi nàng quay lại nói với Thạch Phá Thiên: “Thiên ca! Mặc kệ con tiểu tiện nhân này, Thiên ca mau mau đi lấy một ít muội hương của Trần hương chủ, nhớ kỹ đừng tiết lộ kế hoạch của chúng ta. Lấy được muội hương rồi, Thiên ca đừng trở về đây nữa, cứ chờ tiểu muội ngoài cửa lớn.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Lấy muội hương làm chi?”

Đinh Đang nói: “Rồi Thiên ca sẽ biết. Lẹ lên! Lẹ lên!” Thạch Phá Thiên gật đầu, đẩy cửa lui ra.

Đinh Đang cười nhạt bảo Thị Kiếm: “Con nha đầu này! Ngươi là người có lương tâm đấy!” Thị Kiếm bật lên tiếng la hoảng, xoay mình muốn chạy trốn. Đinh Đang khi nào để cho cô thoát được thân? Nàng nhảy xổ lại, phóng cả song chưởng ra đánh trúng lưng cô ấy. Thị Kiếm không kêu được một tiếng, tức thì mất mạng.

Đinh Đang toan nhảy cửa sổ ra luôn, song nàng chợt nhớ ra một chuyện, lại quay vào xé nát quần áo Thị Kiếm, rồi đặt thi thể lên giường Thạch Phá Thiên, kéo chăn đắp lên. Sáng hôm sau bang Trường Lạc phát giác ra vụ này sẽ cho là Thị Kiếm bị cưỡng gian, nhưng không chịu mà dùng sức chống cự, nên Thạch Phá Thiên nổi giận đánh chết. Mấy hôm sau không thấy Thạch Phá Thiên trở về, Bối Hải Thạch cũng cho là chàng xấu hổ tạm thời lánh mặt, nên không phái người đi tìm kiếm.

Đinh Đang dàn cảnh xong, lẻn ra ngoài cửa lớn đứng chờ. Một lát sau, Thạch Phá Thiên vượt tường trở ra nói: “Muội hương đã lấy được rồi!”

Đinh Đang khen: “Hay lắm!”

Hai người rảo bước ra đến bờ sông, xuống ngay con thuyền nhỏ. Đinh Đang chống thuyền đi chừng mấy dặm rồi bỏ thuyền lên bờ. Hai người đi tới một gốc liễu, đã thấy hai con ngựa buộc sẵn ở đó. Đinh Đang nói: “Lên ngựa đi!”

Thạch Phá Thiên mở miệng khen: “Đinh Đinh Đang Đang thật là chu đáo, ngay cả ngựa cũng chuẩn bị rồi.”

Đinh Đang đỏ mặt lên, nói gắt gỏng: “Cái gì mà chu đáo với chẳng chu đáo? Đây là ngựa của gia gia. Tiểu muội không ngờ Thiên ca lại vội đi cứu trợ vợ chồng Thạch Thanh đến thế!”

Thạch Phá Thiên không hiểu tại sao Đinh Đang đột nhiên lộ vẻ giận dữ, nhưng chàng không dám nói nhiều, lên ngựa đi ngay. Hai người đi luôn khoảng bốn canh mới đến thị trấn Hoành Thạch, liền xuống ngựa đi vào thành.

* * *

Đinh Đang dẫn chàng đến cổng khách sạn Tứ Hải, khẽ bảo: “Vợ chồng Thạch trang chúa cùng Thạch Trung Ngọc ngủ tại một trong hai gian phòng lớn hướng đông, ở gian thứ hai.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Cả ba người ngủ chung một phòng ư? Mình vào, lỡ làm kinh động đến ông bà thì sao?”

Đinh Đang nói: “Hừ! Người làm cha mẹ mà sợ con bỏ trốn, không biết nói sao với phái Tuyết Sơn, bèn ở cùng phòng để tiện ngày đêm kiểm soát. Họ chỉ cần giữ thể diện anh hùng nghĩa hiệp cho mình, còn con thì sống hay chết mặc kệ. Loại cha mẹ ấy, kể ra trên đời cũng hiếm.” Giọng nói Đinh Đang đầy vẻ bất bình.

Thạch Phá Thiên thấy nàng đột nhiên giận dữ, không biết nói thế nào, chỉ hỏi khẽ: “Bây giờ chúng ta phải làm gì đây?”

Đinh Đang nói: “Thiên ca đốt muội hương rồi nhét vào khe cửa sổ. Chờ muội hương cháy xong, vợ chồng Thạch trang chúa mê đi, rồi huynh đẩy cửa sổ tiến vào, ôm Thạch Trung Ngọc ra đây là được rồi. Khinh công của Thiên ca không phải tầm thường, có thể vượt tường vào mà bọn Bạch Vạn Kiếm không phát giác được. Còn tiểu muội kém cỏi, đành đứng chờ Thiên ca ở dưới hiên kia.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Như thế cũng được. Bọn Trần hương chủ từng dùng thuốc mê để bắt người phái Tuyết Sơn, chắc họ cũng dùng cách này phải không?”

Đinh Đang gật đầu mỉm cười nói: “Đây là tam pháp bảo của quý bang cực kỳ ghê gớm, linh nghiệm vô song. Không thì bọn đệ tử phái Tuyết Sơn há phải hạng tầm thường, đâu có thể bắt họ một cách dễ dàng như vậy? Dù sao, Thiên ca cũng phải cẩn thận chớ để phát ra tiếng động, vì vợ chồng Thạch trang chúa còn ghê gớm hơn bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nhiều.”

Thạch Phá Thiên ừ một tiếng rồi bật lửa lên thắp muội hương. Tuy ở ngoài chỗ trống mà hơi hương cũng đủ làm cho người ta phải nhức đầu, hoa mắt. Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi hỏi: “Cái này có thể làm chết người không?”

Đinh Đang đáp: “Họ đã dùng muội hương này để bắt bọn đệ tử phái Tuyết Sơn, chẳng hiểu có ai bị chết không?”

Thạch Phá Thiên nói: “Thế thì chắc là không rồi. Được lắm! Đinh Đinh Đang Đang ở đây chờ ta.”

Dứt lời, chàng đi đến chân tường, lẹ làng nhảy lên một cái đã vọt vào trong khách điếm, hoàn toàn không một tiếng động. Chàng tìm đến dưới cửa sổ căn phòng thứ hai dãy hướng đông. Thạch Phá Thiên dừng lại lắng tai nghe, thấy ba người hơi thở đều đặn đang giấc ngủ say. Chàng liền lè lưỡi thấm ướt giấy dán cửa sổ rồi khẽ chọc thủng một lỗ, cho muội hương vào lỗ hổng.

Thứ muội hương này cháy rất mau, chỉ trong khoảnh khắc đã cháy hết. Thạch Phá Thiên lại lắng tai nghe, bốn bề im lặng như tờ. Chàng liền vận nội lực đẩy nhẹ một cái cho gãy then cửa, rồi nhảy qua cửa sổ, tay trái chống lên thành cửa rồi nhẹ nhàng nhảy vào trong phòng. Nhờ ánh trăng lờ mờ bên ngoài chiếu vào, chàng nhìn rõ trong phòng chỉ kê hai chiếc giường. Vợ chồng Thạch Thanh ngủ trên giường phía bắc, còn Thạch Trung Ngọc ngủ trên giường phía nam, ba người đều ngủ say không nhúc nhích.

Thạch Phá Thiên bước lên hai bước, bỗng cảm thấy choáng váng, biết là mình đã hít phải muội hương. Chàng lập tức nín thở, ôm lấy Thạch Trung Ngọc nhẹ nhàng nhảy ra ngoài cửa sổ, lại vượt tường ra ngoài.

Đinh Đang đứng ngoài tường khẽ khen ngợi: “Nhanh quá, Thiên ca thật là giỏi. Chúng ta đi xa thêm một chút để khỏi làm kinh động đến bọn Bạch Vạn Kiếm.” Thạch Phá Thiên bèn ôm Thạch Trung Ngọc đi theo nàng ra xa mấy chục trượng.

Đinh Đang nói: “Thiên ca cởi bỏ y phục Thạch Trung Ngọc ra rồi đổi quần áo mình cho y, tất cả đồ đạc trong túi cũng phải đổi hết.”

Thạch Phá Thiên liền thò tay cởi áo Thạch Trung Ngọc. Chàng lại móc túi mình lấy cái hộp gỗ của Đại Bi lão nhân tặng, và cả hai tấm thẻ đồng. Chàng hỏi: “Cái này… cái này cũng giao cho y có phải không?”

Đinh Đang đáp: “Giao hết cho y. Thiên ca để lại trong mình, lỡ có người nhìn thấy há chẳng tiết lộ cơ mưu ư? Tiểu muội ra ngoài kia để trông chừng cho Thiên ca.”

Thạch Phá Thiên đợi Đinh Đang đi khuất mới cởi hết y phục ra để thay đổi với Thạch Trung Ngọc. Xong rồi chàng mới gọi: “Đổi xong cả rồi.”

Đinh Đang quay lại nói: “Từ giờ phút này, tính mạng Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân có bảo toàn được hay không là do Thiên ca giả trang thành Thạch Trung Ngọc giống hay khác.”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta nhất định sẽ cẩn thận.”

Đinh Đang lại lấy trong bọc ra một cái bình, đổ nước trong đó lên đầu Thạch Trung Ngọc, ngắm nghía hắn một chút rồi mới quay đầu lại, lấy ra một hộp thiếc nhỏ, mở nắp ra rồi thò tay móc một ít thuốc cao trong đó.

Nàng nói: “Thiên ca ngửng đầu lên, để muội bôi một ít cao lên cổ huynh!” Nàng bôi xong, lại nói: “Đến gần sáng, Thiên ca chùi sạch chỗ cao này đi, đừng để người ta trông thấy. Ngày mai Thiên ca sẽ thấy đau một chút, thật là ép uổng huynh rồi.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Không hề chi.” Bỗng chàng thấy Thạch Trung Ngọc hơi cục cựa, dường như sắp tỉnh dậy. Chàng vội nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Ta đi đây.”

Đinh Đang cũng giục: “Đi nhanh lên! Đi nhanh lên!”

Thạch Phá Thiên quay lưng đi về phía khách sạn. Được mấy trượng chàng quay đầu nhìn lại, thấy Thạch Trung Ngọc đã ngồi dậy, dường như đang thủ thỉ chuyện trò với Đinh Đang. Bỗng chàng nghe thấy tiếng Đinh Đang cười khúc khích, tuy tiếng cười rất khẽ nhưng đủ thấy tràn đầy vui vẻ.

Thạch Phá Thiên trong lòng đột nhiên cảm thấy hơi khó chịu. Chàng than thầm: “Từ đây trở đi, mình khó còn có dịp gặp gỡ Đinh Đang.” Chàng ngần ngừ một chút rồi lại nhảy vào khách sạn, đẩy cửa sổ vào phòng. Trong phòng hơi muội hương hãy còn nồng nặc, chàng cố nín thở, mở cửa sổ cho gió lạnh thổi vào.

Bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp vang lên mỗi lúc một xa. Chàng biết đó là Đinh Đang cùng Thạch Trung Ngọc cưỡi ngựa ra đi, bỗng tự hỏi: “Không hiểu bọn họ đi đâu? Đinh Đinh Đang Đang chắc là vui lắm. Mình mồm mép vụng về, nàng ở bên mình thường phải nổi giận.”

Thạch Phá Thiên đứng bên cửa sổ hồi lâu, thấy cổ họng bắt đầu đau liền lên giường nằm. Thứ thuốc của Đinh Đang quả nhiên linh nghiệm, mới chừng nửa giờ mà cổ họng chàng đã nhức nhối vô cùng, đưa tay lên sờ thì thấy nóng ran chẳng khác gì một cục than hồng, cổ chàng sưng vù lên.

Thạch Phá Thiên cố đợi đến tang tảng sáng mới kéo chăn đắp kín rồi chùi thuốc cao ở cổ đi, khẽ bật tiếng rên rỉ. Đó là Đinh Đang đã bày mưu cho chàng, khiến vợ chồng Thạch Thanh vội chú ý đến chỗ chàng bị đau đớn, lỡ có ngửi thấy mùi muội hương cũng chẳng để ý tra xét nữa.

Quả nhiên chàng rên la một lúc thì vợ chồng Thạch Thanh nghe tiếng. Mẫn Nhu vội hỏi: “Sao thế?” Bà trở mình ngồi dậy, hỏi tiếp: “Ngọc nhi! Trong mình con khó chịu hay sao?” Rồi không chờ Thạch Phá Thiên trả lời, bà khoác áo lại xem, thấy mặt chàng nóng bừng như lửa, cổ sưng vù lên thì không khỏi luống cuống. Bà la gọi: “Sư ca! Sư ca… lại đây mà xem!”

Thạch Thanh nghe tiếng vợ kêu la đầy vẻ hoang mang, vội nhảy đến bên giường cậu con. Ông thấy cổ chàng sưng đỏ lên cũng không khỏi lo lắng, bèn nói: “Đây chắc là quai bị rồi, nhưng chữa sớm thì cũng chẳng ngại gì.” Rồi ông hỏi Thạch Phá Thiên: “Hài nhi! Ngươi đau đớn ra sao?”

Thạch Phá Thiên chỉ rên lên mấy tiếng chứ không dám trả lời. Chàng nghĩ bụng: “Mình vì muốn cứu hai ông bà, mới làm ra chỗ sưng này để lừa gạt, không ngờ hai người quan tâm đến thế. Đủ biết tuy Thạch Trung Ngọc đã làm bao nhiêu việc sai trái, nhưng vẫn được thương yêu. Chỉ có mình là chẳng một ai dòm ngó đến.” Chàng nghĩ vậy không khỏi chua xót trong lòng, bất giác hai mắt hơi ướt.

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu thấy chàng như muốn khóc, lại cho là con đau đớn vô cùng, lại càng hoảng hốt. Thạch Thanh nói: “Ta đi kiếm y sinh về khám cho nó.”

Mẫn Nhu nói: “Ở thị trấn nhỏ bé này e rằng không có danh y. Chúng ta quay về Trấn Giang để nhờ Bối đại phu trị cho nó, có tiện hơn không?”

Thạch Thanh lắc đầu đáp: “Không! Làm thế, một là khiến bọn Bạch Vạn Kiếm sinh lòng ngờ vực, hai là sẽ bị Bối Hải Thạch coi thường.” Ông biết bọn Bối Hải Thạch đối với con mình cũng chẳng kính yêu gì, có khi nhân cơ hội này mà gia hại con mình cũng chưa biết chừng.

Ông liền rảo bước đi ngay. Mẫn Nhu nấu nước sâm thang cho Thạch Phá Thiên uống. Nhưng chất độc này lợi hại vô cùng, mà Đinh Đang lại thoa rất nhiều nên cổ họng chàng bị sưng cả ngoài lẫn trong, ngay cả nước cũng khó mà nuốt được. Mẫn Nhu lại càng lo lắng.

Chẳng bao lâu, Thạch Thanh dẫn một vị y sinh tuổi ngoại sáu mươi đưa về. Lão xem cổ họng Thạch Phá Thiên rồi bắt mạch hai cổ tay, lắc đầu lia lịa nói: “Sách thuốc nói rằng: Bệnh ung thư phát ra có sáu chứng bất trị, mà một là yết hầu sưng to khó lòng ăn uống. Mạch thế huynh đây vẫn mạnh, là điềm dương thịnh âm suy. Khí là dương mà huyết là âm. Huyết chạy trong mạch, khí vận ngoài mạch. Khí trúng tà uất kết thành đờm, để lâu ngày thấm vào trong mạch làm cho máu vẩn đục…”

Lão vẫn đang nói thao thao bất tuyệt thì Thạch Thanh hỏi xen vào: “Tiên sinh! Chứng ung thư của tiểu nhi mới phát khởi, dùng thuốc uống cho tan đi chắc là được chứ?”

Lão y sinh lúc lắc đầu nói: “Đúng là mạng của thế huynh đây còn lớn, nên mới phát bệnh ở ngay thị trấn Hoành Thạch này. Gặp được lão phu thì tính mệnh không đáng lo ngại nữa. Có điều cũng phải mấy ngày mới hết sưng khỏi bệnh.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu nghe nói tính mạng cậu con không đáng ngại mới yên tâm, vội xin thầy lang kê đơn cho thuốc. Lão trầm ngâm một lúc rồi kê đơn có những vị: Thược Dược, Đại Hoàng, Đương Quy, Cát Cánh, Phòng Phong, Bạc Hà, Mang Tiêu, Kim Ngân Hoa, Hoàng Kỳ, Xích Phục Linh.

Thạch Thanh cũng hơi biết về dược tính, thấy những vị này đều là tiêu độc hạ hỏa, liền cho là đúng thuốc. Ông bèn nói: “Tiên sinh thật là cao minh.” Rồi ông đưa hai lạng bạc, tiễn thầy lang ra về, còn mình tự đến tiệm mua thuốc.

Lúc Thạch Thanh đem thuốc về thì mọi người phái Tuyết Sơn đều đã biết tin. Bạch Vạn Kiếm nghi ngờ vợ chồng Thạch Thanh bày chuyện để tìm biện pháp cứu thằng con, bèn giả vờ đến phòng thăm bệnh, thực ra là để xem cho biết rõ tình hình. Hắn thấy cổ họng Thạch Phá Thiên sung lên khủng khiếp, mà Mẫn Nhu cũng hốt hoảng thật sự, thì không còn nghi ngờ gì nữa, trong lòng ngấm ngầm đắc ý. Hắn nghĩ thầm: “Thằng lỏi này giảo quyệt điêu ngoa, nếu đem về thành Lăng Tiêu chém một nhát chết tươi thì thật quá nhẹ nhàng. Thế này là ông trời muốn hành hạ gã đau khổ, để thêm phần báo ứng những việc gã đã làm.”

Nhưng Bạch Vạn Kiếm đứng trước mặt vợ chồng Thạch Thanh, không tiện thấy người bị tai họa mà vui mừng. Hắn liền tìm mấy câu an ủi Mẫn Nhu rồi lui ra khỏi phòng.

Thạch Thanh nhìn vợ nấu thuốc, rồi đút cho cậu con từng miếng. Ông nói: “Ta đã chuẩn bị một cỗ xe lớn ngoài kia. Trung Ngọc! Ngươi là nam tử trượng phu thì phải tự cường lên một chút. Cái bệnh nhỏ mọn này có chi đáng kể, đừng làm lỡ việc lớn của người khác. Chúng ta đi thôi!”

Mẫn Nhu ngần ngừ một chút rồi nói: “Thằng nhỏ bệnh nặng thế này mà cứ lên đường, e rằng có chuyển biến kịch liệt…”

Thạch Thanh nói: “Hai vị sứ giả Thiện Ác đã đến thành Lăng Tiêu đưa thẻ đồng mời đi dự yến, Bạch đại hiệp phải về cho kịp. Nếu không, Uy Đức tiên sinh cùng bọn họ động thủ mà không ai tương trợ, thì chúng ta lại càng có lỗi với lão nhân gia.” Mẫn Nhu gật đầu tỏ ý vâng lời, mặc áo vào cho Thạch Phá Thiên rồi cùng nhau ra khỏi khách sạn.

Mẫn Nhu cũng hiểu ý chồng. Bà biết việc đã đến thế này, tất Thạch Thanh chẳng chịu dẫn con lén lút chạy trốn. Hai sứ giả Thiện Ác đã lên đường đến thành Lăng Tiêu để đưa thẻ đồng bài. Bạch Tự Tại lại nóng tính vô cùng, trước giờ vẫn tự tôn tự đại, dĩ nhiên không chịu tiếp thẻ một cách dễ dàng và sẽ cùng Trương Tam Lý Tứ gây nên một cuộc ác đấu. Thạch Thanh muốn đến nơi cho kịp để đem toàn lực viện trợ phái Tuyết Sơn, dù chẳng may mà chết thì cũng là chuyện thường trong võ lâm. Cả ba người nhà họ Thạch có bỏ mạng ở thành Lăng Tiêu thì cũng là rửa bớt đi những tiếng ô nhục của con trai. May mà thắng được, Huyền Tố Trang hiệp lực với phái Tuyết Sơn đánh bại Trương Tam Lý Tứ, thì con trai mình lấy công chuộc tội, Bạch Tự Tại quyết không hạ thủ giết nó.

Ở tổng đà bang Trường Lạc, Mẫn Nhu đã chính mắt nhìn thấy võ công của Trương Tam Lý Tứ cao đến mức nào, cũng biết nếu động thủ thì thắng ít bại nhiều. Tuy nhiên thân người là bằng xương bằng thịt, dù ai bản lãnh cao cường đến đâu cũng không khỏi có chỗ sơ hở lỡ tay. Quyết một trận tử chiến để cầu may cũng còn có hy vọng hơn là cứ ngày đêm lo lắng ưu phiền, chẳng được ích gì.

Hai vợ chồng tâm ý tương thông, Thạch Thanh vừa nói đưa con đến thành Lăng Tiêu, Mẫn Nhu đã hiểu ngay suy nghĩ của chồng mình. Tuy bà thương con rất mực, song dù sao cũng là một nữ hiệp trong võ lâm, suy đi nghĩ lại nhận ra kế hoạch của chồng mình là tốt nhất, nên mãi đến giờ vẫn không phản đối câu nào.

Bạch Vạn Kiếm thấy vợ chồng Thạch Thanh không đếm xỉa gì đến bệnh tật của con trai, ép nó lên đường ngay, trong lòng hắn cũng không khỏi thán phục.

Y thuật của thầy lang tại thị trấn Hoành Thạch đúng ra chẳng cao minh lắm. Lão tưởng chỗ sưng đỏ ở cổ Thạch Phá Thiên là chứng ung thư phát ra, nhưng lão đã nói thì vợ chồng Thạch Thanh chẳng nghi ngờ chi nữa, bọn Bạch Vạn Kiếm đương nhiên càng không thể phát giác.

Tướng mạo Thạch Phá Thiên đã giống Thạch Trung Ngọc như đúc, mặc bộ quần áo sang trọng của Thạch Trung Ngọc vào lại càng rõ là một công tử sang trọng. Chàng nằm trong xe chẳng nói nửa lời, nên suốt dọc đường không hề lộ ra sơ xuất. Vợ chồng Thạch Thanh và con trai cách xa đã lâu ngày, nên cử chỉ cùng tập quán của gã thế nào, hai người chẳng biết chi hết. Dù ngẫu nhiên Thạch Phá Thiên có chỗ sơ hở, nhưng chỉ cần chàng không mở miệng, hai người dù sáng suốt hơn nữa cũng không tài nào nhận ra được.

Đoàn người đi rất gấp vì sợ bọn Trương Tam Lý Tứ đến thành Lăng Tiêu trước, sợ mọi người trong thành Lăng Tiêu phải gặp nguy hiểm, dọc đường không dám chần chừ chút nào. Khi tới địa giới tỉnh Hồ Nam thì vết thương trên cổ Thạch Phá Thiên đã bớt hẳn, nhưng chàng vẫn ú ớ không thốt ra lời nào. Thạch Thanh đã mấy lần tìm y sinh đến chẩn mạch cho chàng, song chẳng ai chữa cho chàng nói được. Ông đã không khỏi phiền lòng, Mẫn Nhu cũng nhiều lần phải rơi nước mắt.

Đến khi đoàn người về đến địa giới Tây Vực, bọn đệ tử phái Tuyết Sơn thông thuộc đường lối cứ tìm đường tắt mà đi. Dù Trương Tam Lý Tứ có mau lẹ đến đâu cũng không biết đường mòn, chắc cũng khó lòng đến trước được.

Mọi người càng về gần tới thành Lăng Tiêu lại càng yên dạ. Chỉ có vợ chồng Thạch Thanh mỗi khi nghĩ tới lúc ra mắt Uy Đức tiên sinh là trong lòng cực kỳ xao xuyến. Hai người sợ lão nổi giận lôi đình, lập tức đem Thạch Trung Ngọc ra xử tử, mà Trương Tam Lý Tứ lại không đến đúng lúc thì thật khó bề xử trí. Hai sứ giả mà đến sớm hơn dĩ nhiên là chuyện nguy hiểm, mà đến chậm hơn cũng thật là hỏng bét. Hai vợ chồng đã mấy phen ngấm ngầm thương lượng với nhau mà vẫn không tìm ra được kế gì hoàn hảo, đành phó thác mặc trời, sẽ tùy cơ ứng biến.

* * *

Đi thêm mấy ngày nữa, mọi người bắt đầu theo một con đường nhỏ lên núi. Lại thêm hai ngày nữa, địa thế mỗi lúc một cao dần. Giờ Ngọ hôm ấy, đoàn người đi tới một dãy nhà gỗ. Bạch Vạn Kiếm hỏi người canh gác dãy nhà này, biết gần đây không có người lạ nào lên thành Lăng Tiêu. Hắn hết sức yên tâm.

Tối hôm ấy, mọi người ngủ lại trong dãy nhà gỗ. Sáng hôm sau, ai nấy đều bỏ ngựa đi bộ lên núi. Từ đây đi về hướng tây, đường núi gập ghềnh hiểm trở, ngựa không đi được.

Mấy tên đệ tử phái Tuyết Sơn đi trước dẫn đường, trèo non vượt núi mà tiến. Mới đi chừng một giờ thì mặt đất đã đầy tuyết phủ. May mà mọi người ở đây toàn là những tay bản lãnh không phải tầm thường, thi triển khinh công mà trèo núi tuyết.

Thạch Phá Thiên đi theo sau vợ chồng Thạch Thanh, không vượt lên trước mà cũng chẳng lùi lại xa ở sau. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu thấy bước chân chàng đều đặn, liền tự nhủ: “Nội lực thằng nhỏ này khá lắm, chẳng kém vợ chồng mình.” Nhưng hai người chợt nghĩ đến chuyện chẳng bao lâu nữa phải vào ra mắt Bạch Tự Tại, thì trong lòng lại hồi hộp.

Đi tới lúc xế chiều thì thấy phía trước có ngọn núi cao ngất trời. Trên đỉnh núi có đến mấy trăm gian phòng ốc, còn bên ngoài có một bức tường trắng vây quanh. Bạch Vạn Kiếm nói: “Thạch trang chúa! Đây chính là thành Lăng Tiêu. Ở nơi hang cùng núi hiểm này, vật gì cũng đơn giản thô sơ.”

Thạch Thanh khen: “Tòa thành này hùng cứ trên đỉnh núi cao ngất, đứng trên nhìn xuống quần sơn. Quả là địa thế tuyệt hảo, xứng với hai chữ Lăng Tiêu.” Ông đưa mắt nhìn sườn núi, thấy mây mù ùn ùn bốc lên bao phủ thành Lăng Tiêu, thành một vùng mây trắng mịt mờ.

Mọi người đi đến chân ngọn núi thì trời đã tối mịt, liền ngủ lại trong hai tòa thạch thất rất lớn. Hai gian nhà đá này là của phái Tuyết Sơn dựng lên để người lên núi có nơi tạm trú một đêm nghỉ mệt, sáng sớm hôm sau sẽ tiếp tục lên núi.

Hôm sau, mọi người lên đường từ lúc tảng sáng. Trái núi này đứng xa đã thấy cao ngất trời, lúc trèo lên lại càng hiểm trở. Đoàn người đều hiểu võ công mà dọc đường cũng phải nghỉ chân hai lần ở nhà trạm lưng chừng sườn núi, đến giờ Thân mới tới ngoài thành Lăng Tiêu.

Tòa thành này có đến mấy trăm gian phòng ốc. Chung quanh thành là bức tường trắng xóa cao tới hơn ba trượng, đứng dưới nhìn lên chỉ thấy toàn là tuyết. Thạch Thanh cất tiếng nói: “Bạch sư huynh! Tường thành toàn là băng tuyết đông cứng lại, rắn hơn sắt thép, người ngoài thực khó mà đánh vào được.”

Bạch Vạn Kiếm mỉm cười nói: “Tệ phái từ ngày đắp thành dựng phái tới nay đã một trăm bảy mươi mấy năm, chưa từng bị ngoại địch đánh vào. Về tháng trọng đông, có khi bọn sói đói đến bao vây nhưng cũng không vào được.” Hắn nói tới đây, thấy một cây cầu vẫn còn treo trên cao chưa hạ xuống, thì bực dọc lớn tiếng quát: “Hôm nay đến phiên ai trực? Không thấy bọn ta đã về đây hay sao?”

Bỗng trên mặt thành có một cái đầu thò ra hỏi: “Bạch sư bá cùng các vị sư bá sư thúc đã về đấy ư? Để tiểu điệt thông báo vào trong.”

Bạch Vạn Kiếm thét lên: “Vợ chồng Thạch Thanh trang chúa Huyền Tố Trang giá lâm, mau thả cầu treo xuống!”

Người kia đáp: “Vâng, vâng!” rồi thụt đầu vào, hồi lâu vẫn không thấy cây cầu hạ xuống.

Thạch Thanh thấy con hào bao quanh thành đầy băng tuyết mà rộng đến ba trượng, không dễ gì nhảy qua được. Thông thường, bên ngoài thành trì nào cũng có hào nước, ở đây khí hậu rét quá, nước đóng lại thành băng, nên con hào này phải đào rất sâu. Bờ hào cũng kết thành băng trơn tuột, bất luận là người hay thú đã rớt xuống hào thì khó mà lên được.

Bỗng nghe bọn Cảnh Vạn Chung, Kha Vạn Quân hò hét đệ tử phái Tuyết Sơn mở cổng thành. Bạch Vạn Kiếm thấy tình thế có vẻ khác thường, thì trong lòng rất lo lắng. Hắn cho rằng trong thành đã xảy ra biến cố gì, liền hạ giọng nói: “Các anh em hãy cẩn thận! Không chừng hai sứ giả ở đảo Hiệp Khách đã đến trước bọn ta rồi.”

Mọi người nghe nói đều giật mình kinh hãi, không tự chủ được nữa. Ai nấy thò tay ra nắm vào chuôi kiếm. Giữa lúc ấy những tiếng lách cách vang lên, cây cầu từ từ hạ xuống, trong thành có một người chạy ra. Người này mặc áo bào trắng, một tay áo buộc quặt ra sau lưng, hiển nhiên đã bị cụt một cánh tay. Hắn lớn tiếng la lên: “Té ra là Thạch huynh, Thạch tẩu giá lâm. Thật là khách quý! Khách quý!”

Thạch Thanh thấy Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý đích thân ra nghênh tiếp, nghĩ ngay y đã bị con mình liên lụy phải chặt cụt một cánh tay. Trong lòng ông vừa ân hận vừa hổ thẹn, vội chạy lại nói: “Phong nhị đệ! Vợ chồng ngu huynh đã mang theo nghịch tử đến lãnh tội trước Bạch sư bá cùng nhị đệ đây.” Nói xong, ông tiến lên phía trước quỳ gối để tạ lỗi.

Từ ngày Thạch Thanh nổi tiếng giang hồ, ông chưa từng thi hành đại lễ với người ngang hàng như hôm nay bao giờ. Chỉ vì ông thấy Phong Vạn Lý bị con mình tàn hại, không nén nổi nên phải quỳ xuống thi lễ.

Kiếm thuật của Phong Vạn Lý tinh thông chẳng kém gì Bạch Vạn Kiếm, nhưng bây giờ y bị cụt tay rồi, công trình khổ luyện hai mươi năm trời đã trôi theo dòng nước. Hai chữ kiếm thuật cũng khó mà nhắc đến được nữa.

Mẫn Nhu thấy chồng quỳ mọp mà cậu con cứ ngơ ngác đứng yên, bà vội kéo áo chàng rồi chính mình quỳ xuống bên cạnh Thạch Thanh.

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Y là sư phụ của Thạch Trung Ngọc, đệ tử ra mắt sư phụ dĩ nhiên phải quỳ lạy.” Chàng hiểu như vậy, nhưng sợ làm không giống Thạch Trung Ngọc để Phong Vạn Lý khám phá ra chỗ gian trá, nên cứ đứng ngơ ngác. Bây giờ chàng thấy Mẫn Nhu kéo áo không thể ngần ngừ được nữa, liền quỳ mọp xuống hùng hục dập đầu, bật lên những tiếng binh binh.

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn dọc đường chẳng thèm ngó tới chàng lần nào. Bây giờ chúng thấy chàng dập đầu lạy binh binh, đều bụng bảo dạ: “Tiểu tử này biết sắp chết đến nơi mới lạy lục kêu van, nhưng đâu có chuyện dễ dàng như thế được?”

Phong Vạn Lý nói: “Thạch huynh! Thạch tẩu! Thế này thì làm khó tiểu đệ rồi.” Rồi tức thì hắn cũng quỳ xuống đáp lễ. Vợ chồng Thạch Thanh cùng Phong Vạn Lý đứng dậy rồi, Thạch Phá Thiên vẫn còn quỳ mọp dưới đất.

Phong Vạn Lý không ngó sang chàng cái nào, nói với Thạch Thanh: “Thạch huynh! Thạch tẩu! Nhớ lại lần trước gặp nhau trên núi Thái Sơn cũng đã mười hai năm rồi, thế mà dung mạo hai vị chẳng khác ngày xưa. Dù tiểu đệ ở chốn biên cương hẻo lánh cũng được nghe hai vị chuyên làm điều nghĩa hiệp trong võ lâm, oai danh mỗi ngày một nổi như sóng cồn. Thật là đáng kính, đáng mừng!”

Thạch Thanh nói: “Ngu huynh dạy con không được đến nơi đến chốn, chút hư danh kia có chi đáng kể? Hôm nay thấy hiền đệ thế này, thật là xấu hổ vô cùng.”

Phong Vạn Lý cười ha hả nói: “Chuyện kết giao giữa chúng ta đạo cao nghĩa cả, tiểu đệ được hai vị không rẻ rúng, lại đã cùng nhau ngỏ lời phế phủ. Vậy thì hai vị có lầm lỗi gì cũng chẳng hề chi, mà tiểu đệ có đắc tội với hai vị cũng không sao, chẳng lẽ giữa chúng ta còn quan tâm đến những điều nhỏ nhặt nữa ư? Hai vị đường xa đến đây, mau vào thành để nghỉ ngơi đi.” Thạch Phá Thiên quỳ ngay đó, mà hắn cứ làm như trước mắt chẳng có một ai.

Thạch Thanh cùng Phong Vạn Lý sóng vai tiến vào, Mẫn Nhu mới dắt con đứng dậy. Bà nhăn tít cặp lông mày ra chiều lo lắng, vì thấy Phong Vạn Lý bề ngoài vồn vã mà giọng nói hờn giận sâu cay, không có vẻ gì khoan dung tội lỗi cho cậu con bà.

Bạch Vạn Kiếm giơ tay vẫy một tên đệ tử đứng bên cổng thành, khẽ hỏi: “Lão gia có khỏe không? Sau khi ta ra đi, trong thành có xảy ra chuyện gì không?”

Gã đệ tử kia ấp úng đáp: “Lão nhân gia… gần đây đột nhiên biến thành nóng tính… Sư bá đi khỏi rồi, trong thành không có chuyện gì xảy ra cả. Nhưng… nhưng…”

Bạch Vạn Kiếm nét mặt trầm hẳn xuống hỏi: “Nhưng làm sao?”

Gã đệ tử sợ đến run rẩy, đáp: “Trước đây năm ngày, lão gia nổi cơn thịnh nộ, đem Lục sư bá cùng Tô sư thúc ra hạ sát.”

Bạch Vạn Kiếm giật bắn người, vội hỏi: “Tại sao lại thế?”

Gã đệ tử đáp: “Đệ tử cũng không hiểu vì nguyên nhân gì. Rồi ngày hôm kia, lão gia lại hạ sát Yên sư thúc và chặt chân Đỗ sư bá.”

Bạch Vạn Kiếm nghe tới dây thì chẳng còn hồn vía nào nữa, trống ngực đánh thình thình. Hắn nghĩ bụng: “Bốn sư huynh Tô, Lục, Yên, Đỗ đều là những tay cao thủ bản phái, ngày thường rất được phụ thân thương yêu. Tại sao đột nhiên người lại hạ độc thủ?” Hắn vội kéo tên đệ tử sang một bên, chờ Mẫn Nhu cùng Thạch Phá Thiên đi xa rồi mới hỏi: “Rốt cuộc là vì lý do gì?”

Gã đệ tử nói: “Đệ tử thật sự không biết là nguyên nhân gì. Sau khi bốn vị sư bá sư thúc bị hạ sát, mọi người trong thành Lăng Tiêu đều bàng hoàng lo sợ. Tối hôm kia Trương sư thúc cùng Mã sư thúc cũng không từ biệt mà bỏ đi, chỉ để lại lá thư nói là xuống núi để tìm Bạch sư bá. Nay may được Bạch sư bá trở về, xin sư bá tìm lời khuyên giải lão nhân gia.”

Bạch Vạn Kiếm hỏi thêm mấy câu nữa, nhưng chẳng biết thêm được gì. Hắn liền rảo bước tiến vào đại sảnh, thấy Phong Vạn Lý đang ngồi tiếp vợ chồng Thạch Thanh dùng trà. Hắn nhìn vợ chồng Thạch Thanh nói: “Xin hai vị hãy ngồi chơi một chút, để tiểu đệ vào nội đường bái kiến gia nghiêm rồi mời lão nhân gia ra đây tiếp khách.”

Phong Vạn Lý chau mày nói: “Mấy hôm trước đây, sư phụ đột nhiên lâm trọng bệnh, chắc phải nghỉ ngơi mấy hôm mới tiếp khách được. Nếu không thì trước nay lão nhân gia rất quý trọng Thạch huynh, nghe nói Thạch huynh tới đây là đã ra tương kiến rồi.”

Bạch Vạn Kiếm ruột rối như mớ bòng bong, gượng gạo nói: “Để tiểu đệ thử vào xem.” Hắn hấp tấp đi vào nội đường, đến trước cửa phòng phụ thân, hắng giọng rồi cất tiếng gọi: “Gia gia! Hài nhi đã về đây.”

Bỗng thấy rèm vén lên, một thiếu phụ xinh đẹp ngoài ba chục tuổi đi ra. Nàng chính là Điệu Nương, cơ thiếp của Bạch Tự Tại. Điệu Nương vẻ mặt tiều tụy, vừa nhìn thấy Bạch Vạn Kiếm đã nói ngay: “Tạ ơn trời đất, đại thiếu gia đã về tới nơi. Ở nhà chúng ta khác nào con cua không chân, chẳng biết xoay trở làm sao cho được, cũng không biết phải làm gì cho đúng. Mấy hôm trước lão gia đột nhiên thần trí mê man, chúng ta đã cầu Thần bái Phật mà chẳng thấy linh nghiệm chi hết. Đại thiếu gia… Ngươi…”

Nàng nói tới đây, bỗng nghẹn ngào rồi bật khóc thút thít. Bạch Vạn Kiếm hốt hoảng nói: “Có chuyện gì mà gia gia phải giận dữ như thế?”

Điệu Nương vừa khóc vừa nói: “Không hiểu bọn đệ tử có nói gì thất thố mà lão nhân gia nổi trận lôi đình, hạ sát liền mấy người. Lão gia tức giận toàn thân run bần bật, khi trở về phòng thì mặt đã co rúm lại, sùi bọt mép rồi không nói được gì nữa. Mọi người đều cho là lão gia bị trúng gió, chẳng hiểu có đúng hay không?” Điệu Nương vừa kể vừa nức nở khóc sướt mướt.

Bạch Vạn Kiếm nghe nói phụ thân bị trúng gió thì lạnh người chẳng khác nào ngã xuống hố băng. Hắn không nói gì nữa, lớn tiếng kêu: “Gia gia!” rồi chạy vào trong phòng.

Bạch Vạn Kiếm thấy trên giường phụ thân trướng gấm buông rủ, góc phòng có siêu thuốc đang sôi sùng sục, bốc hơi nghi ngút vào mũi hắn. Bạch Vạn Kiếm lại gọi: “Gia gia!” rồi đưa tay vén màn lên.

Bạch Vạn Kiếm thấy phụ thân nằm yên không nhúc nhích, quay mặt vào phía trong, hình như không hít thở gì. Trong lúc kinh hãi vô cùng, hắn vội đưa tay ra sờ mũi phụ thân. Nhưng khi tay vừa đưa tới mặt cha, thì trong chăn có một vật thò ra, bật lên tiếng lách cách rồi kẹp chặt lấy tay hắn. Đó là hai gọng kềm thép, có mũi nhọn sắc bén.

Bạch Vạn Kiếm vội la hoảng: “Gia gia! Là con đây! Hài nhi đã về đây!” Giữa lúc ấy, đột nhiên ngực và bụng hắn bị hai ngón tay điểm trúng yếu huyệt, rồi hắn không nhúc nhích được nữa.

* * *

Vợ chồng Thạch Thanh đang ngồi uống trà trong nhà đại sảnh, Phong Vạn Lý ngồi phía dưới bồi tiếp, Thạch Phá Thiên thõng tay đứng sau phụ thân. Phong Vạn Lý chỉ hỏi han những việc gần đây trong võ lâm Trung Nguyên, tuyệt không nhắc nhở tới vấn đề chính.

Thạch Thanh để ý xem thái độ và sắc diện mọi người, nhận thấy trong thành Lăng Tiêu từ trên xuống dưới ai cũng ra chiều lo lắng vô cùng thì nghĩ bụng: “Chắc bọn họ đã biết tin sứ giả đảo Hiệp Khách sắp đến đây. Vụ này có quan hệ đến vinh nhục mất còn của phái Tuyết Sơn, dĩ nhiên ai cũng quan tâm lo lắng, không tránh khỏi sắc mặt ai cũng có phần căng thẳng.”

Sau một lúc khá lâu, vẫn không thấy Bạch Vạn Kiếm trở ra. Phong Vạn Lý lên tiếng: “Gia sư bị bệnh chuyến này thật khá nguy hiểm, chắc Bạch sư ca còn phải ở trong đó để thị phụng thuốc thang. Gia sư vốn nội công thâm hậu, thân thể cường kiện, mười mấy năm gần đây không bị cảm mạo ho hắng lần nào. Không ngờ ngày thường càng khỏe mạnh thì khi lâm bệnh lại càng trầm trọng, chỉ mong sao người sớm phục hồi.”

Thạch Thanh nói: “Bạch lão hiệp nội công thâm hậu, thiên hạ ít người bì kịp, mà tuổi tác cũng chưa cao lắm. Lão nhân gia chỉ điều dưỡng mấy hôm, cho dù không dùng thuốc cũng nhất định sẽ khỏe lại, hiền đệ chẳng nên lo lắng nhiều.” Tuy miệng ông nói vậy, nhưng trong bụng mừng thầm tự nghĩ: “Bạch lão hiệp đang bệnh, chưa thể đem con mình ra xử ngay được. Vậy là ông trời cũng còn thương mình, tốt xấu gì cũng thêm được mấy ngày, đợi Trương Tam, Lý Tứ tới đây. Lúc đó hết thảy mọi người chung lưng đấu cật quyết chiến một trận, Huyền Tố Trang và phái Tuyết Sơn sống chết có nhau, há chẳng là một chuyện hay?”

Mọi người đang nói chuyện thì trời đã tối mịt. Phong Vạn Lý sai người bày tiệc. Lần này Thạch Phá Thiên được ngồi vào ghế cuối cùng. Ngoài Phong Vạn Lý ra, còn bốn tên đệ tử phái Tuyết Sơn cùng ngồi ở chủ vị để tiếp khách, không có Cảnh Vạn Chung, Hoa Vạn Tử và bọn vừa trở về Tuyết Sơn. Có một gã trẻ tuổi tên Lục Vạn Thông mồm miệng nhanh nhảu, không ngớt khuyên mời chuốc chén. Cả Thạch Phá Thiên cũng uống cạn một chung, gã liền rót thêm rượu vào.

Mẫn Nhu uống ba chung rồi nói: “Tửu lượng của tại hạ kém lắm, xin cho ăn cơm thôi.”

Lục Vạn Thông nói: “Thạch phu nhân có điều chưa rõ. Tệ xứ địa thế ở trên cao nên khí hậu giá buốt khác thường, hơn nữa mây mù bao phủ quanh năm, khí hàn thấp rất nặng nề. Tuy hai vị nội công thâm hậu, hàn thấp không xâm nhập vào được, nhưng thứ Sâm Dương Ngọc Tửu này rất bổ ích, có thể làm cho cơ thề điều hòa. Đó là thứ rượu mà thành Lăng Tiêu không thể thiếu một ngày, hai vị nên uống thêm mấy chung.” Gã nói xong, lại rót rượu cho vợ chồng Thạch Thanh cùng Thạch Phá Thiên.

Mẫn Nhu thấy rượu ngọt nhưng hơi có vị cay, thì cho là có ngâm nhiều sâm. Bà nghe gọi là Sâm Dương Ngọc Tửu thì bụng bảo dạ: “Gã này nói năng khách sáo, bảo bọn mình nội công thâm hậu không sợ khí hàn thấp xâm nhập. Nhưng xem chừng nếu không uống thứ rượu mạnh này tất có hại cho cơ thể.” Bà uống luôn thêm hai chung nữa, thì cảm thấy nhiệt khí từ bụng dưới bốc lên, tiếp theo ngực nóng như lửa đốt. Bà vội vận khí để trấn áp rồi mỉm cười nói: “Phong hiền đệ! Thứ rượu này… mạnh ghê quá!”

Thạch Thanh bỗng đứng phắt dậy quát hỏi: “Đây là rượu gì?”

Phong Vạn Lý mỉm cười nói: “Đây là Sâm Dương Ngọc Tửu. Tính chất quả có mãnh liệt, nhưng đối với Huyền Tố song hiệp vang danh thiên hạ thì có ăn thua gì?”

Thạch Thanh giận dữ nói: “Ngươi… ngươi…” Người ông loạng choạng, té sấp xuống mặt bàn. Mẫn Nhu cùng Thạch Phá Thiên vội đưa tay ra nâng đỡ. Không ngờ cả hai người đồng thời mắt hoa đầu váng, thấy trời đất quay cuồng, đều ngã xuống đè lên người Thạch Thanh.

* * *

Không biết bao lâu, Thạch Phá Thiên mơ hồ hồi tỉnh. Ban đầu chàng cũng tưởng mình ngủ mơ, nhưng khi đưa tay định chống xuống đất mà ngồi dậy, thì đột nhiên cảm thấy hai cổ tay có đeo vật gì lạnh ngắt và cứng rắn. Trong lòng chàng không khỏi kinh hãi, đầu óc tỉnh táo hẳn lại, phát giác ra chân tay mình đều bị đeo xiềng. Chàng mở bừng mắt nhìn quanh, chỉ thấy một màu tối đen như mực, không biết mình hiện ở nơi đâu.

Thạch Phá Thiên đứng phắt dậy khoa chân bước đi hai bước. Bỗng nghe “bịch” một tiếng, trán chàng đã đập vào vách đá. Thạch Phá Thiên định thần từ từ lần bước, đưa tay ra sờ soạng bốn mặt toàn vách đá, mới biết là mình bị giam trong một gian thạch thất vuông chừng hơn một trượng. Mặt nền chỗ cao chỗ thấp gồ ghề, đều là những phiến đá lớn.

Chàng giương mắt thật to xem xét bốn mặt thì thấy góc bên trái có chút ánh sáng lọt vào. Té ra đây là một lỗ hổng vuông chừng một thước, mèo thì chui lọt chứ con chó cũng không luồn qua được. Thạch Phá Thiên giơ tay lên, dùng xiềng trên tay đập vào vách đá thì chỗ nào cũng phát ra những tiếng kình kịch nặng nề. Hiển nhiên vách đá kiên cố phi thường, khó lòng phá vỡ được.

Thạch Phá Thiên ngồi tựa vào vách suy nghĩ: “Tại sao ta lại ở chốn này? Bọn kia đã cho ta uống Sâm Dương Ngọc Tửu, nhất định rượu có chỗ quái lạ, chắc có pha thuốc mê gì đó, nên Thạch trang chúa mới choáng váng rồi ngã lăn ra bàn tiệc. Như thế thì phái Tuyết Sơn quyết tâm hạ sát Thạch Trung Ngọc, sợ vợ chồng Thạch trang chúa kháng cự nên đánh thuốc mê để cho ông bà ngã lăn ra. Nhưng sao bọn họ chưa giết ta ngay? Chắc Uy Đức tiên sinh đang lâm trọng bệnh nên họ còn giam mình mấy hôm, đợi lão khỏi rồi định đoạt.”

Chàng lại nghĩ bụng: “Lúc Uy Đức tiên sinh tra hỏi, mình sẽ nói rõ là Cẩu Tạp Chủng chứ không phải Thạch Trung Ngọc. Lão với mình chẳng có thù oán gì, sau khi tra xét rõ ràng tất buông tha mình. Nhưng còn vợ chồng Thạch trang chúa thì chưa chắc lão đã chịu tha. Không chừng lão giữ hai người trong thạch lao, đến khi Thạch Trung Ngọc đích thân đến đây mới thả. Thế thì không hiểu họ sẽ bị giam giữ đến năm nào tháng nào. Thạch phu nhân là con người văn nhã thanh lịch mà bị giam cầm trong thạch lao không thấy ánh mặt trời, chắc bà phẫn uất đến chết đi được. Ta phải tìm cách cứu bà cùng Thạch trang chúa ra khỏi chốn lao tù rồi mới cùng Bạch lão gia nói chuyện.”

Chàng vừa nghĩ đến chuyện cứu người bỗng thấy phiền muộn, tự hỏi: “Chính mình đã bị xiềng xích chân tay, làm sao có thể cứu người? Ngay cả tự cứu mình còn chưa được. Trong thành Lăng Tiêu này chỗ nào cũng là người phái Tuyết Sơn, còn ai chịu đến cứu mình?” Chàng giơ hai tay lên, cố vận nội lực mà giằng ra, nhưng chỉ nghe tiếng loảng xoảng không ngớt, còn xiềng sắt khóa sắt vẫn trơ ra chẳng hề hấn gì. Giữa xiềng tay và khóa chân lại còn mấy sợi dây sắt buộc liền vào nhau.

Giữa lúc Thạch Phá Thiên đang chán nản thất vọng, đột nhiên có ánh đèn sáng chiếu qua lỗ hổng, chắc là bên ngoài thạch thất có người cầm đèn đi tới. Tiếp theo, một chiếc bát đất nhét qua lỗ hổng đưa vào, trong có lưng bát cơm. Trên mặt bát cơm đặt mấy ngọn rau dưa và một đôi đũa tre cắm vào.

Thạch Phá Thiên không giả câm nữa, cất tiếng gọi: “Này này! Ta có điều muốn nói với Bạch lão nhân gia.”

Người bên ngoài bật lên mấy tiếng cười lạnh nhạt. Ánh đèn chiếu vào lỗ hông dần dần mờ khuất, hắn không nói nửa lời đã bỏ đi luôn.

Thạch Phá Thiên ngửi thấy mùi cơm, bỗng thấy bụng đói như cào liền lẩm bẩm: “Lúc ngồi tiệc ta ăn rất nhiều rau cải mà sao bây giờ bụng đã đói meo? Chắc mình đã ngất đi lâu lắm”. Chàng bưng bát cơm, lấy đũa và hết lưng bát cơm vào miệng không còn một hột.

Thạch Phá Thiên ăn hết cơm rồi để bát vào chỗ cũ. Mấy lần chàng cố sức cựa mạnh, rồi hiểu ra chân tay mình bị xiềng xích bằng thép nguyên chất, dù vận nội lực đến mấy cũng không thể bẻ cong đi được, chỉ tổ trầy da rách thịt mà thôi. Chàng lại đi sờ soạng thì tìm ra được chỗ cửa đá có kẽ hở. Chàng kê vai đẩy mạnh, nhưng cửa đá vẫn không nhúc nhích, thật không biết cửa đá này nặng bao nhiêu.

Thạch Phá Thiên buông một tiếng thở dài nghĩ bụng: “Trừ phi có người đến đưa mình ra, còn chẳng có cách nào khác nữa. Không hiểu bọn họ có làm khó dễ gì vợ chồng Thạch trang chúa không?” Đã không có cách thoát thân, chàng cũng không nghĩ ngợi gì nữa, bèn ngồi tựa vào vách đá mà ngủ.

Chàng ở trong thạch lao không biết thời khắc là gì nữa, đại khái một ngày mới có người mang cơm đến một lần. Thạch Phá Thiên chỉ thấy một cánh tay thò qua lỗ hổng để đưa bát cơm vào, rồi lấy cái bát sành lần trước ra.

Chàng ngồi trong thạch lao chợt nảy ra một ý nghĩ, liền chờ người đó hạ thấp tay đặt bát cơm xuống, nhảy xổ lại chộp lấy. Mấy tiếng loảng xoảng vang lên, cổ tay phải người kia đã bị nắm chặt.

Thạch Phá Thiên đã giỏi về phép cầm nã, lại thêm nội lực thâm hậu, một khi chàng nắm được thì dù là cao thủ võ lâm cũng không chịu nổi. Gã kia đau quá, rú lên như heo bị chọc tiết. Thạch Phá Thiên kéo thêm một cái, cả cánh tay gã bị rút vào trong động. Chàng thét lên: “Nếu ngươi la lớn thì ta sẽ rút cánh tay của ngươi ra.”

Gã kia liền van xin: “Tiểu nhân… không dám la… Xin mau mau buông tha ra đi.”

Thạch Phá Thiên lại quát: “Ngươi mở cửa thạch thất, ta sẽ thả ra.”

Gã kia đáp: “Được! Thiếu hiệp buông tay, tiểu nhân sẽ mở cửa.”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta buông tay rồi ngươi trốn đi thì sao? Không thể tha ngươi được.”

Gã kia nói: “Thiếu hiệp không buông tay thì làm sao tiểu nhân mở cửa được?”

Thạch Phá Thiên nghe gã nói có lý, nghĩ bụng: “Mình cứ nắm tay gã thì chẳng ích gì. Nhưng bắt được gã cũng không phải dễ dàng, khi nào lại buông tha một cách khinh xuất.” Chàng suy nghĩ một lúc rồi nói: “Ngươi đưa chìa khóa mở còng của ta vào đây!”

Gã kia ngập ngừng: “Chìa khóa ư? Cái đó… cái đó tiểu nhân không để trong mình. Tiểu nhân chỉ là một tên nhà bếp đưa cơm vào đây mà thôi.”

Thạch Phá Thiên nghe giọng điệu gã có vẻ thiếu thành thực, bèn bóp mạnh tay gã rồi nói: “Được lắm! Nếu thế thì ta hãy vặn đứt cổ tay ngươi trước đã.”

Gã kia đau quá, thét lên: “Trời ơi! Úi chà!” Rồi nghe đánh keng một tiếng, chiếc chìa khóa đã liệng vào. Gã này rất xảo quyệt, đang bị bức bách mà vẫn liệng chìa khóa vào một góc xa. Thạch Phá Thiên muốn thò tay ra lượm chìa khóa, thì phải buông gã ra mới được.

Chàng không biết làm thế nào, đành kéo cánh tay gã dài ra một chút, nhoài chân ra định khều lấy chìa khóa. Chàng kéo tay gã đến hai lần, mà chân vẫn còn cách chìa khóa đến mấy thước.

Gã kia đau quá, kêu thét lên: “Thiếu hiệp còn kéo nữa thì tiểu nhân gãy tay mất.” Thạch Phá Thiên cố gắng duỗi thẳng chân, nhưng giữa tay và chân lại có xiềng cột vào nhau nên cũng không làm sao đụng tới được cái chìa khóa. Chàng nhìn tới bàn chân của mình đang thò ra, chợt nghĩ được một kế.

Chàng bèn co chân trái lại cho chiếc giày tụt ra, nhắm đúng rồi hất chiếc giày tới tường vách. Chiếc giày đập vào vách rồi văng trở về, đồng thời hất cả chìa khóa lại. Thạch Phá Thiên thích quá reo lên một tiếng, rồi nhặt lấy chìa khóa cắm vào ổ khóa trên tay mình, vừa xoay một cái là chiếc khóa đã được mở ra. Chàng lại đổi tay mở cái còng bên tay kia, dùng nó khóa vào tay của gã kia.

Gã kinh hãi nói: “Ngươi… ngươi làm gì vậy?”

Thạch Phá Thiên cười nói: “Bây giờ ngươi đi mở cửa cho ta được rồi đấy.”

Chàng đưa cả dây sắt ra ngoài. Gã kia còn đang ngần ngừ thì Thạch Phá Thiên kéo mạnh xiềng sắt một cái, lôi tay gã trở vào trong thạch động. Chàng kéo mạnh quá khiến mặt gã vập vào vách đá, chảy máu mũi ra. Gã kia biết không thể kháng cự được, đành kéo lê sợi dây xích mà mở cửa thạch thất.

Cửa mở rồi, nhưng còn một đầu dây khóa vẫn còn buộc vào chân của Thạch Phá Thiên. Sợi dây xích luồn qua cái lỗ nhỏ, nối hai người vào nhau, Thạch Phá Thiên vẫn không có cách nào ra được. Chàng liền kéo dây xích lại nói: “Ngươi đưa chìa khóa mở xiềng chân cho ta.”

Gã kia vẻ mặt cực kỳ đau khổ nói: “Tiểu nhân thực tình không có. Tiểu nhân chỉ là một tên phu nấu bếp quét nhà mà thôi, còn có chìa khóa nào nữa đâu?”

Thạch Phá Thiên nói: “Được lắm! Để ta ra rồi sẽ tính.” Chàng liền kéo tay gã vào trong phòng rồi mở khóa cho gã. Gã kia được tự do rồi, vội chạy đi toan đóng cửa phòng lại. Nhưng Thạch Phá Thiên vừa lạng người đi một cái đã ra khỏi cửa phòng.

Chàng thấy gã này mặc áo bào trắng, mặt mũi sáng sủa, đúng là đệ tử chính thức của phái Tuyết Sơn, chứ không phải kẻ nấu bếp quét nhà. Chàng nắm lấy cổ gã xách lên quát hỏi: “Ngươi không mở khóa chân cho ta thì ta sẽ đập đầu ngươi vào tường đá này. Đập đủ một trăm cái rồi sẽ nói chuyện tiếp.” Rồi chàng dúi đầu hắn vào tường đá một cái.

Võ công gã này cũng không phải tệ, nhưng đã lọt vào tay Thạch Phá Thiên thì chẳng khác gì gà con bị quạ cắp, không thể gắng gượng được. Gã đành lấy chìa ra mở khóa chân cho chàng. Thạch Phá Thiên lại quát hỏi: “Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân bị bọn ngươi giam ở đâu? Mau dẫn ta tới đó!”

Gã kia nói: “Phái Tuyết Sơn cùng Huyền Tố Trang vốn không thù oán, đã thả vợ chồng Thạch trang chúa đi rồi. Còn giam giữ hai vị đó làm chi?”

Thạch Phá Thiên nửa tin nửa ngờ, liếc mắt thấy gã cứ lấm lét ngó về cái cửa đá ở đầu kia đường hầm thì nghĩ bụng: “Gã này nhất định là nói dối. Chắc vợ chồng Thạch trang chúa bị giam ở bên kia.” Chàng liền túm cổ gã nhấc bổng lên, rảo bước đi đến trước cánh cửa đó, quát lên: “Mở cửa này ra!”

Gã kia mặt tái mét, miệng ấp úng: “Tiểu nhân không có chìa khóa. Mà trong này không phải giam người, chỉ có một con sư tử và hai con cọp mà thôi, không thể mở được đâu.” Thạch Phá Thiên nghe nói bên trong nhốt sư tử cùng cọp thì rất lấy làm kỳ. Chàng dán tai vào vách đá để nghe ngóng, nhưng tuyệt không nghe thấy tiếng sư tử hay cọp gầm rống chi hết.

Gã kia giục: “Thiếu hiệp đã ra được rồi thì nên nhanh chóng chạy trốn đi, đừng chần chờ ở lại đây nữa. Nếu để người khác phát giác ra, tất lại bị bắt giữ.”

Thạch Phá Thiên lại lẩm bẩm: “Ngươi không phải là bạn ta, mà sao lại quan tâm đến ta như vậy? Ban đầu ta bảo ngươi mở khóa tay cùng cửa đá, ngươi nhất định không chịu, bây giờ ngươi lại khuyên ta trốn đi là nghĩa làm sao? Phải rồi! Vợ chồng Thạch trang chúa chắc là bị giam trong thạch thất này, không nghi ngờ gì nữa.” Chàng lại nhấc bổng gã lên, khẽ dúi đầu gã vào vách đá, quát hỏi: “Ngươi có mở hay không thì bảo. Ta muốn xem sư tử cùng lão hổ đó như thế nào.”

Gã kia kinh hãi nói: “Sư tử và lão hổ này hung dữ lắm, đã mấy ngày nay chưa được ăn. Bây giờ nó mà thấy người tất nhảy lại vồ.”

Thạch Phá Thiên nóng ruột cứu người, không muốn nghe hắn nói dông dài. Chàng liền xách chân gã giơ lên, dốc ngược đầu xuống lắc lắc mấy cái. Từ trong người gã phát ra những tiếng leng keng, rồi hai chiếc chìa khóa rơi ra. Thạch Phá Thiên cả mừng, đặt gã xuống một bên. Chàng lượm chìa khóa ấn vào lỗ khóa cửa đá. Mấy tiếng lách cách vang lên, khóa cửa mở ra.

Gã kia la lên một tiếng “Trời ơi!” rồi co giò chạy trốn.

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Hắn mà chạy đi thông báo thì phiền phức vô cùng.” Chàng liền rượt theo bắt lại, bỏ gã vào gian thạch thất đã giam mình, ném cả khóa chân khóa tay mình vào trong, rồi đóng cửa lại khóa chặt. Đoạn chàng quay lại cánh cửa ở đầu kia đường hầm, thò đầu vào lớn tiếng gọi: “Thạch trang chúa! Thạch phu nhân! Các người có ở đây không?”

Chàng gọi luôn hai tiếng, phía trong vẫn không có động tĩnh gì. Chàng liền mở rộng cửa ra thì thấy phía trong cách chừng hơn trượng còn một lần cửa đá nữa, liền lẩm bẩm: “Phải rồi! Thảo nào có những hai chìa khóa.” Chàng liền lấy chiếc chìa khóa kia, mở cánh cửa đá thứ hai. Cánh cửa vừa hé ra vài tấc, chàng lại gọi: “Thạch trang chủ!”

Đột nhiên bên trong có người lớn tiếng thóa mạ: “Đồ con cháu loài rùa! Ta sẽ chém tụi bay muôn đao nghìn kiếm, nhất định không để tụi bay chết được toàn thây.” Tiếp theo là những tiếng xiềng xích loảng xoảng vang lên. Mấy câu thóa mạ này thanh âm nặng nề, giọng nói cũng khàn khàn, khác hẳn khẩu âm trong trẻo vùng Giang Nam của Thạch Thanh.

Thạch Phá Thiên bụng bảo dạ: “Vợ chồng Thạch trang chúa không có ở đây, nhưng người này đã bị phái Tuyết Sơn giam giữ thì chắc cũng nên cứu ra.” Chàng bèn lên tiếng: “Ông đừng chửi nữa! Ta đến cứu ông ra đây.”

Người bên trong vẫn tiếp tục mắng nhiếc: “Ngươi là cái cóc gì mà dám đến đây nói bậy nói bạ lừa gạt lão phu? Lão phu… lão phu sẽ vặn đứt đầu của ngươi.”

Thạch Phá Thiên mỉm cười nghĩ bụng: “Người này tính khí nóng nảy quá. Lão đã bị giam vào thạch lao hắc ám không thấy ánh mặt trời, trách nào chẳng giận dữ đến thế.” Chàng liền lạng người vào trong cửa, cất tiếng hỏi: “Ông cũng bị xiềng xích chặt hay sao?”

Chàng vừa hỏi câu này thì trong bóng tối nghe đánh vù một cái, một vật gì rất nặng nề nhằm đánh xuống đầu chàng. Thạch Phá Thiên nghiêng người sang trái vừa kịp tránh thoát vật đó, chân đứng còn chưa vững thì yếu huyệt sau lưng đã bị nắm giữ. Tiếp theo một cánh tay to tướng đè vào cổ họng chàng, dùng sức xiết mạnh. Lực đạo của người này thật là ghê gớm. Thạch Phá Thiên lập tức thấy hơi thở khó khăn. Bên tai chàng nghe tiếng ù ù, lại nghe người đó chửi mắng nào là “loài rùa đen”, nào là “quân khốn nạn”.

Thạch Phá Thiên đang có ý cứu người, hoàn toàn không ngờ đối phương lại xuất thủ tấn công, mà cũng không ngờ trong nhà lao tối om này lại gặp một cao thủ lợi hại như thế. Chàng để mất tiên cơ bị người kiềm chế, không khỏi than thầm trong bụng: “Phen này chết mất.”

Chàng không biết làm thế nào, đành vận chân khí lên cổ để chống lại sức ép trên cánh tay của đối phương. Kể ra các bắp thịt nơi cổ rất mềm, không thể vận kình lực tới đó được. Nhưng nội lực Thạch Phá Thiên thâm hậu phi thường, càng lúc càng mạnh, đã đẩy cánh tay đối phương ra được vài phân. Chàng vội hít một hơi, đến khi cánh tay của người đó lại siết chặt vào thì tay phải của chàng đã đưa lên nắm được, rồi gạt hẳn cánh tay đó ra.

Thạch Phá Thiên lách được ra ngoài rồi nói: “Ta đang muốn cứu lão ra ngoài, sao lão lại động thủ đánh ta?”

Người kia la lên một tiếng kinh hãi, rồi ngập ngừng hỏi: “Ngươi… ngươi là ai mà nội công ghê gớm đến thế?” Lão trợn mắt há miệng ra nhìn Thạch Phá Thiên một hồi, rồi lại quát hỏi: “Tiểu tử này! Ngươi là ai?”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta là… ta…” Chàng ngập ngừng, không biết nên xưng danh là Cẩu Tạp Chủng hay cứ tiếp tục mạo nhận là Thạch Trung Ngọc.

Lão kia tức giận nói: “Ngươi dĩ nhiên là ngươi, chẳng lẽ ngươi lại không có tên họ hay sao?”

Thạch Phá Thiên nói: “Để tại hạ cứu lão ra khỏi nơi đây rồi sẽ thong thả nói chuyện.”

Lão kia cười ha hả nói: “Ngươi cứu ta ư? Ha ha! Ngươi nói vậy há chẳng làm cho thiên hạ phải cười đến trẹo quai hàm sao? Ta là hạng người thế nào? Ngươi là cái thá gì? Ngươi có chút bản lãnh mèo què mà đòi cứu ta ư?”

Lúc này hai cánh cửa đá đang mở lưng chừng, ánh sáng chiếu vào bên trong. Thạch Phá Thiên nhìn rõ thấy lão già này có chòm râu bạc, thân thể cao lớn, lưng hơi cong xuống tựa như căn thạch thất vừa thấp vừa hẹp này không đủ chứa thân hình to lớn của lão. Mục quang lão sáng như điện, biểu lộ vẻ uy mãnh phi thường.

Thạch Phá Thiên thấy lão đảo mắt ngó mình mà ớn da gà. Chàng nghĩ bụng: “Vừa rồi gã đệ tử phái Tuyết Sơn bảo trong này nhốt sư tử cùng lão hổ gì đó. Bây giờ xem bộ dạng lão này quả là chẳng khác gì mãnh thú.” Chàng không dám nói chuyện nhiều với lão, chỉ nói: “Để tại hạ đi kiếm chìa khóa mở xiềng xích chân tay cho lão gia.”

Lão kia tức giận nói: “Ai mượn ngươi đến lấy lòng ta? Ta thích ở đây tĩnh tu, nếu không thì thiên hạ này có ai giam giữ ta được? Thằng lỏi này không có mắt hay sao, chẳng lẽ ta lại bị nhốt trong này ư, có đúng thế không? Hà hà! Hôm nay gia gia mà không vui vẻ, thì chỉ một câu nói này cũng đủ cho gia gia chém ngươi ra làm bảy tám khúc.” Lão lại vung tay khiến cho xiềng xích bật lên những tiếng loảng xoảng, rồi nói tiếp: “Gia gia chỉ cần nổi nóng một chút là đủ làm cho những xích sắt này phải gãy vụn hết. Các loại khóa chân khóa tay, dưới mắt gia gia cũng coi như đậu hủ thôi.”

Thạch Phá Thiên không tin là thật, bụng bảo dạ: “Điệu bộ cùng lời nói của lão này chẳng khác gì kẻ điên khùng. Lão đã không muốn mình cứu, mà mình cứ miễn cưỡng mở xiềng xích cho lão, biết đâu lão chẳng nổi khùng đánh cả mình. Võ công lão cực kỳ cao thâm, mình chưa chắc đã thắng nổi lão. Thôi ta đi cứu Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân là việc khẩn yếu hơn.” Chàng liền nói: “Vậy thì tại hạ xin cáo từ thôi.”

Lão kia vẫn giận dữ nói: “Cút con bà mày đi! Gia gia tung hoành thiên hạ bấy lâu chưa từng gặp địch thủ, mà lại cần một thằng lỏi cứu ra hay sao? Thật là chuyện đáng cười nhất trong thiên hạ…”

Thạch Phá Thiên vội đáp: “Tại hạ biết mình đắc tội, xin lão gia miễn thứ.” Chàng nhẹ nhàng đóng cửa đá lại, theo đường hầm đi ra.

Đường hầm này khá dài. Chàng đi vòng vèo một lúc, rồi lại đi thêm mười trượng nữa mới đến tận cùng thì thấy hai bên tả hữu đều có cửa. Thạch Phá Thiên đẩy cửa bên trái thấy đóng chặt. Chàng liền quay sang đây cửa bên phải thì mở được ngay. Chàng liền tiến vào một gian nhà nhỏ, vừa đi mấy bước đến giữa nhà đã nghe bên trái có tiếng khí giới khua động chan chát, cuộc tỉ đấu có vẻ ác liệt vô cùng.

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Đây chắc là Thạch trang chúa đang cùng người tỉ đấu.” Chàng vội tiến về phía phát ra thanh âm. Tiếng binh khí vẫn vọng lại, nhưng trong lúc hấp tấp chàng không tìm thấy lối ra. Lòng đang lo lắng cho Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu, chàng nhìn vách ván phía trái thấy không dày lắm, liền tì vai huých mạnh một cái, vách ván lập tức vỡ tung.

Bây giờ tiếng khí giới nghe càng rõ. Trước mắt là một sảnh đường bé nhỏ, bốn hán tử áo trắng đang cầm trường kiếm vây đánh hai nữ nhân. Thạch Phá Thiên vừa ngó thấy hai nữ nhân này, bất giác lớn tiếng la gọi: “Sư phụ! A Tú!

Thì ra hai người này là Sử bà bà và A Tú.

* * *

Sử bà bà tay cầm đơn đao, còn A Tú múa tít trường kiếm, cả hai đầu tóc rối tung và đều bị thương mấy chỗ rồi, máu chảy ra ướt đẫm cả vạt áo. Hai người đang lâm vào tình thế rất nguy hiểm, tuy nghe tiếng Thạch Phá Thiên la gọi nhưng đang bị bốn hán tử vây đánh rất khẩn trương. Kiếm pháp của chúng cực kỳ lợi hại, hai người không dám ngoảnh đầu nhìn ra. Bỗng A Tú rú lên một tiếng, vai nàng bị trúng một kiếm.

Thạch Phá Thiên tay không khí giới, nhưng không kịp nghĩ ngợi gì nữa, nhảy xổ vào chụp tới cạnh sườn hán tử trung niên đang uy hiếp A Tú. Gã này nghiêng người đi tránh khỏi rồi xoay kiếm phản kích. Thạch Phá Thiên vung hữu chưởng lên, luồng kình phong xô ra đẩy thanh trường kiếm của đối phương sang một bên.

Chàng lại phóng tả chưởng nhằm đánh một lão già. Lão già này ra chiêu sau mà tới trước, trường kiếm của lão nhằm đâm vào bụng dưới Thạch Phá Thiên mau lẹ không thể tả được. May mà ngày trước Thạch Phá Thiên đã được Sử bà bà chỉ điểm cho những chỗ tinh vi trong kiếm pháp phái Tuyết Sơn. Chàng biết chiêu Lãnh Thượng Song Mai này tuy là một chiêu nhưng đâm tới hai lần, kiếm phóng ra rồi lại đâm bồi nhát nữa. Chàng hóp bụng vào tránh khỏi nhát kiếm thứ nhất rồi lập tức vung tay trái gạt xuống dưới, búng ngón tay giữa ra. Ngay lúc này nhát kiếm thứ hai của lão già đâm tới, tưởng chừng như thanh trường kiếm phải cắt đứt ngón tay chàng.

Bỗng nghe đánh “choang” một tiếng, thanh kiếm bị gãy làm hai đoạn. Lão già cũng bị chấn động, nửa người tê nhức, nửa thanh kiếm còn lại lão cũng không cầm vững được, để tuột tay rớt xuống. Lập tức lão tung mình nhảy vọt ra sau, mặt mày kinh hãi thất sắc. Thạch Phá Thiên thò tay trái ra nắm lấy sau lưng một người đang tấn công A Tú nhấc bổng lên, đưa ra đón thanh trường kiếm của một người khác. Người này giật mình kinh hãi, vội thu kiếm về.

Thạch Phá Thiên thừa thế đánh ra một chưởng trúng vào trước ngực đối phương. Gã loạng choạng lùi lại ba bước, lảo đảo mấy cái rồi ngồi phệt xuống. Thạch Phá Thiên lại dùng sức mạnh liệng hán tử đang cầm trong tay về phía người thứ tư, thế liệng cực kỳ cấp bách. Gã này đang mải đấu cùng Sử bà bà, toan né tránh thì đã không kịp nữa. Gã bị đụng mạnh vào người đồng bọn đang liệng tới, cả hai đều hộc máu tươi chết giấc.

Mới trong khoảnh khắc, cả bốn hán tử áo trắng đã bị Thạch Phá Thiên đánh cho tơi bời. Chỉ còn một mình lão già là chưa bị thương nhưng lão thấy Thạch Phá Thiên thần lực khủng khiếp thì hồn vía lên mây. Lão ấp úng: “Ngươi… ngươi…” Rồi đột nhiên lão tung mình chạy trốn, muốn vượt cửa mà ra.

Sử bà bà la lên: “Đừng để hắn tẩu thoát.” Thạch Phá Thiên quét ngang chân trái một cái trúng vào cặp giò lão kia. Cả hai đầu gối lão cùng bị trật khớp, ngã lăn xuống đất.

Sử bà bà mỉm cười nói: “Hảo đồ đệ! Khai sơn đệ tử phái Kim Ô ta quả nhiên tài giỏi.” A Tú sắc mặt lợt lạt, tay giữ vết thương trên vai. Cặp mắt trong sáng của nàng liếc nhìn Thạch Phá Thiên, khóe mắt ẩn hiện nỗi vui mừng khôn tả.

Thạch Phá Thiên nói: “Sư phụ! A Tú! Không ngờ chúng ta lại gặp nhau ở đây.” Sử bà bà nhanh chóng buộc vết thương cho A Tú, rồi A Tú lại xé một mảnh xiêm của mình buộc vết thương cho Sử bà bà. May mà những vết thương của hai người không nặng lắm, chẳng có chi đáng ngại.

Thạch Phá Thiên lại nói: “Ngày đó trên đảo Tử Yên đệ tử kiếm mãi không thấy sư phụ cùng A Tú cô nương. Từ đó ngày đêm lúc nào cũng tưởng nhớ hai vị, hôm này được trùng phùng, thật là may mắn… Tốt nhất là từ nay về sau chúng ta đừng tách rời nhau nữa.”

A Tú sắc mặt đang lợt lạt đột nhiên ửng hồng, từ từ cúi đầu xuống. Nàng biết Thạch Phá Thiên bản tính đôn hậu, không biết khéo nói, mấy câu này đều tự đáy lòng mà ra. Thấy chàng thổ lộ chân tình trước mặt Sử bà bà, nàng không khỏi thẹn thùng e lệ, nhưng trong thâm tâm cũng vui mừng khôn xiết.

Sử bà bà cười ha hả nói: “Nếu phen này đồ nhi lập được đại công, thì việc gì chưa chắc làm được, chứ việc này thì bà bà có thể đích thân hứa với ngươi.”

A Tú càng cúi đầu thấp hơn nữa. Nàng thẹn quá, mặt đỏ ra đến mang tai. Thạch Phá Thiên chưa hiểu Sử bà bà muốn nói gì, ngơ ngác hỏi lại: “Sư phụ hứa điều chi?”

Sử bà bà càng cười lớn hơn, đáp: “Ta hứa đem cô cháu gái này gả cho ngươi làm vợ. Ngươi có vui mừng mà ưng thuận không?”

Thạch Phá Thiên vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vội đáp: “Con… con đương nhiên rất vui mừng…”

Sử bà bà nói: “Nhưng ngươi phải lập công trước đã. Hiện nay phái Tuyết Sơn đang có nội biến trọng đại, chúng ta phải cứu lấy một người.”

Thạch Phá Thiên nói: “Đúng thế! Đệ tử đang định đi cứu Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân. Chúng ta mau đi kiếm hai vị đó đi.” Chàng nhớ tới Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đang ở nơi hiểm địa, lập tức lại thấy lo lắng trong lòng.

Sử bà bà nói: “Vợ chồng Thạch Thanh cũng đến thành Lăng Tiêu ư? Nhưng chúng ta hãy dẹp nội loạn đã, việc cứu vợ chồng Thạch Thanh còn là chuyện nhỏ. A Tú! Ngươi hãy giết bốn tên này trước.”

A Tú cầm thanh trường kiếm lên, nhìn lão già đứng tựa vào vách. Ánh mắt lão lộ vẻ van lơn, nàng không khỏi động lòng trắc ẩn. Nàng vừa được bà nội hứa hôn, trong lòng hết sức vui mừng lại càng không muốn giết người, liền nói: “Bà bà! Mấy người này không phải chủ mưu. Chi bằng hãy tạm khoan dung cho họ, đợi thẩm vấn rõ ràng rồi sẽ hạ sát cũng chưa muộn.”

Sử bà bà hắng giọng một tiếng rồi giục: “Lẹ lên! Đi lẹ lên! Đừng để lỡ việc lớn.” Lập tức bà cất bước đi ra, A Tú cùng Thạch Phá Thiên theo sau.

* * *

Sử bà bà đi rất nhanh qua mấy căn nhà, mỗi khi gặp ai lại ẩn mình vào khe cửa hoặc góc nhà để mà tránh né. Dường như đường lối ngõ ngách nơi này mụ rất thông thuộc.

Thạch Phá Thiên cùng A Tú sánh vai mà đi. Chàng khẽ hỏi: “Sư phụ muốn ta lập công gì vậy? Bây giờ chúng ta đi cứu ai?”

A Tú toan trả lời thì nghe tiếng bước chân vang lên, trước mặt có bốn năm người đi tới. Sử bà bà vội núp vào sau một cây cột. A Tú cũng kéo áo Thạch Phá Thiên ẩn vào sau cửa.

Bọn người kia vừa đi vừa nói chuyện. Một người nói: “Từ lúc chúng ta đồng tâm hiệp lực nhốt lão già điên đó được, ta mới yên dạ. Mấy hôm nay thật ta không nuốt nổi một miếng cơm, hễ ngủ đi một chút là lại mê hoảng giật mình tỉnh giấc.”

Một người nữa nói: “Nếu không đem lão khùng đó giết đi là để mối đại họa về sau. Tề sư bá vẫn do dự không quyết, không chừng việc này hỏng mất.”

Lại một người nữa cất giọng khàn khàn: “Thà rằng không làm, chứ đã làm là phải làm cho tới nơi. Ngay cả Tề sư bá chúng ta cũng làm sạch cho xong”

Một người nữa khẽ quát: “Khẽ mồm thôi! Việc này mà dám nói oang oang thế ư? Nếu bọn thủ hạ lão Tề mà nghe tiếng, chúng ta chưa kịp hành động thì cái đầu ngươi đã rụng trước rồi.”

Người nói tiếng khàn khàn dường như không phục. Gã nói: “Chúng ta cùng bọn môn hạ lão Tề đấu một trận cũng chưa chắc đã thua.” Tuy hắn nói bướng, nhưng cũng hạ giọng xuống nhiều. Bọn người kia đi mỗi lúc một xa.

Thạch Phá Thiên cùng A Tú đứng sát nhau, nấp ở sau cửa. Chàng thấy A Tú run bần bật, liền ghé tai hỏi: “A Tú! Muội sợ gì thế?”

A Tú đáp: “Tiểu muội… tiểu muội rất sợ. Bọn họ đông người, e rằng chúng ta không địch nổi.”

Sử bà bà từ sau cột đi ra, khẽ giục: “Đi mau!” Rồi bà ta khom lưng chạy lẹ về phía trước, Thạch Phá Thiên cùng A Tú cứ theo sau, đi qua một tòa viện, lại xuyên qua một dãy hành lang rồi núp vào một vườn hoa lớn.

Trong vườn hoa này mặt đất đầy tuyết phủ, có một con đường nhỏ trải đá dẫn tới tòa đại sảnh trong vườn. Sử bà bà tung người nấp vào sau một gốc cây lớn. Mụ vốc một nắm tuyết liệng vào phía ngoài nhà đại sảnh đánh bốp một tiếng. Cục tuyết vừa rớt xuống đất, mỗi bên nhà đại sảnh đều có người chống kiếm chạy ra tra xét.

Sử bà bà đứng yên không nhúc nhích, chờ cho hai người tới gần mới vung đơn đao lên chém “chát chát” hai tiếng. Mụ ra tay nhanh như điện chớp. Hai người chưa kịp kêu tiếng nào đã bị đao chém đứt yết hầu, mất mạng lập tức.

Đây là lần đầu Thạch Phá Thiên thấy Sử bà bà giết người, thật là tàn độc. Chiêu đao này Sử bà bà cũng đã từng dạy cho chàng, gọi là Xích Diêm Bạo Trượng. Chàng cũng biết sử chiêu này, nhưng không thể tưởng tượng là nó giết người mau lẹ đến thế, không nén nổi tim đập thình thình.

Lúc chàng định thần lại thì Sử bà bà đã kéo hai xác chết giấu vào sau tòa núi giả, rồi len lén tới ngoài sảnh đường, kề tai vào cửa sổ dán giấy lắng nghe động tĩnh. Thạch Phá Thiên cùng A Tú cũng đi tới đó, chỉ nghe bên trong có tiếng hai người đang tranh cãi kịch liệt. Tuy thanh âm không vang dội nhưng nghe giọng nói cũng đủ biết là họ đang giận dữ đến cực điểm.

Một người nói: “Thả hổ dễ nhưng trói hổ khó, chắc sư ca đã nghe câu đó rồi. Vụ này nếu chúng ta không liều mạng thì không xong. Người ta thường nói: Lượng nhỏ không quân tử, ít độc chẳng trượng phu. Sư ca cứ rụt rè theo lối đàn bà như thế, nếu để lão khùng trốn ra được ngoài thì mọi người phải chết không có đất chôn thây.”

Thạch Phá Thiên bụng bảo dạ: “Bọn họ nói lão khùng nào đây? Phải chăng là lão già trong thạch lao? Lão ta tính tình cổ quái, mình muốn cứu lão mà lão nhất định không chịu. Nếu đúng lão ta, thì quả nhiên võ công cực kỳ ghê gớm, chẳng trách ai cũng sợ hãi.”

Bỗng có tiếng người khác nói: “Lão khùng đó đã bị giam vào nơi nhốt mãnh thú, thì dù có bản lãnh thông thần cũng quyết không trốn thoát được. Bây giờ chúng ta muốn giết lão thì chỉ cất tay một cái là xong, mà chỉ cần không đưa cơm chín mười ngày thì lão cũng phải chết đói thôi. Nhưng muốn người ta không biết thì mình đừng làm, những lời đồn đại trong giang hồ rất đáng sợ. Vụ bạo hành phạm thượng này, đối với Liêu sư đệ là chuyện tầm thường, nhưng mặt mũi của chúng ta phải giấu vào đâu. Chẳng lẽ phái Tuyết Sơn bị hủy diệt như thế hay sao?”

Lão già họ Liêu cười lạnh đáp: “Ngươi đã sợ cái tội phản nghịch phạm thượng, thì ngay lúc ban đầu sao lại chủ mưu gây ra vụ này, bây giờ đã trót rồi lại còn muốn giá họa cho người khác. Trong thiên hạ đâu có chuyện dễ dàng đến thế? Tề sư ca! Tâm sự của sư ca làm gì tiểu đệ chẳng hiểu? Cứ nói cho rõ ràng đi, sư ca muốn làm ngụy quân tử giả đạo đức, nhưng lừa gạt ai được bây giờ?”

Lão già họ Tề nói: “Ta có tâm địa thế đâu mà Liêu sư đệ lại mạt sát ta quá đáng như vậy?”

Lão họ Liêu nói: “Lời tiểu đệ nói đâu có gì là mạt sát sư ca quá đáng? Tề sư ca ơi! Sư ca làm ra vẻ đạo đức, đem tội đại nghịch vô đạo đổ lên đầu kẻ khác. Sư ca dùng thủ đoạn bắn một phát tên trúng cả đôi điêu, rồi mình bình yên lên ngôi cao cả.” Lão nói tới đây dần dần lớn tiếng, ra chiều tức giận.

Lão họ Tề nói: “Sư đệ khéo giỡn hoài! Ta lấy tư cách gì mà lên ngôi cao cả? Theo thứ tự trên dưới thì còn Thành sư ca, đâu đã đến lượt ta?”

Bỗng nghe thanh âm khàn khàn của một lão già khác cất lên: “Các người tranh giành nhau là việc của các người, đừng lôi ta vào đó.”

Lão họ Liêu nói: “Thành sư ca! Sư ca vốn là người thật thà, Tề sư ca chẳng qua chỉ đem sư ca ra làm bia đỡ tên. Sư ca cứ nghĩ lại mà xem, đã làm con rối mà chính mình còn không biết ư?”

Thạch Phá Thiên nghe tiếng hô hấp trong sảnh cũng biết số người thật là không ít. Chàng bèn đưa ngón tay thấm ướt giấy dán cửa sổ, nhẹ nhàng đục thủng một lỗ, đưa mắt nhìn vào trong. Chàng không khỏi giật mình kinh hãi, thấy bên trong có đến hai ba trăm người, đủ cả trai gái trẻ già. Người nào cũng mặc áo bào trắng, sắc phục của đệ tử phái Tuyết Sơn.

Trong nhà đại sảnh có đặt năm cỗ ghế bành hướng ra ngoài. Chiếc ghế chính giữa hãy còn bỏ trống, còn bốn chiếc hai bên đã có người ngồi. Theo thanh âm ba lão vừa tranh luận mà nhận xét thì hai lão họ Thành, họ Liêu ngồi hai ghế bên trái. Còn hai ghế bên phải là lão họ Tề và một lão nữa, nước da xanh mét, mặt mày nhăn tít trông rất thiểu não.

Bỗng lão họ Liêu lại lên tiếng: “Lương sư đệ! Từ nãy đến giờ sư đệ vẫn chưa nói nửa lời, rút cuộc là có ý kiến gì?” Lão họ Lương buông một tiếng thở dài, lắc đầu, lại thở dài một tiếng nữa, vẫn không nói gì.

Lão họ Tề nói: “Lương sư đệ không nói chuyện, tức là không có ý kiến về vụ này.”

Lão họ Liêu tức giận nói: “Tề sư ca có phải là giun sán trong ruột Lương sư đệ đâu mà biết y không có ý kiến gì? Việc này bốn người chúng ta đã đồng tâm hiệp lực gây ra. Đại trượng phu đã làm là làm, nếu còn sợ đầu sợ đuôi thì đâu phải là anh hùng hảo hán?”

Lão họ Tề lạnh lùng nói: “Cả một đám chúng ta vì tham sinh úy tử mới gây ra vụ này, còn dám tự hào là anh hùng hảo hán ư? Nói đúng ra, đó là hành động bất đắc dĩ mà thôi.”

Lão họ Liêu lớn tiếng nói: “Vạn Lý! Ngươi nói xem, vụ này nên xử trí thế nào?”

Một người rẽ đám đông tiên ra, chính là Phong hoa thần long Phong Vạn Lý cụt một cánh tay. Hắn khom lưng đáp: “Đệ tử bất lực không lo chu toàn được việc này, gây nên đại họa thật là đáng chết ngàn lần, đâu dám còn sinh lòng phản nghịch? Đệ tử tán đồng ý kiến của Tề sư thúc, nhất định không nên hạ độc thủ với lão gia.”

Lão họ Liêu giận dữ hỏi: “Thế còn bọn đệ tử chi trưởng vừa từ Trung Nguyên về, thì phải xử lý thế nào?”

Phong Vạn Lý nói: “Nếu sư thúc cho phép đệ tử trình bày, thì theo ý kiến của đệ tử là hãy bắt họ giam cả lại, rồi toàn thể chúng ta sẽ từ từ thương nghị.”

Lão họ Liêu cười lạnh nói: “Lại còn phải từ từ thương nghị nữa ư? Ý kiến của ngươi, sư thúc đã hiểu rồi, còn tưởng che mắt được ta hay sao?”

Phong Vạn Lý nói: “Xin cho hỏi, câu này của sư thúc là có ý gì?”

Lão họ Liêu nói: “Bọn đệ tử chi trưởng các ngươi người nhiều thế mạnh, võ công lại cao, đương nhiên không chịu để lọt ngôi chưởng môn vào tay chi khác. Ngươi còn muốn trút cái tội phản nghịch lên đầu ta, đem đệ tử chi bốn chúng ta giết cho kỳ hết, là tự nhiên thiên hạ thái bình, chính mình an hưởng. Ha ha, làm sao để các ngươi tính toán như ý được?”

Rồi lão lớn tiếng hô: “Bọn đệ tử chi trưởng chính là mầm họa. Hôm nay chúng ta thà là không làm, đã làm thì phải làm cho trót, diệt cỏ phải diệt tận gốc. Các anh em hãy nhất tề động thủ, giết sạch bọn chi trưởng cho ta.” Lão hô xong, đưa tay ra sau lưng rút trường kiếm nghe soạt một tiếng.

Từ bốn phía nhà đại sảnh, hai ba chục người nhảy ra, tay cầm thanh trường kiếm đứng sánh vai bên Phong Vạn Lý. Sáu bảy chục người khác cũng lăm lăm trường kiếm trong tay, bao vây bọn kia. Thạch Phá Thiên suy nghĩ: “Xem chừng bên Phong đại hiệp ít người, khó lòng địch nổi số đông. Chẳng hiểu mình có nên ra tay tương trợ hay không?”

Phong Vạn Lý la lên: “Thành sư thúc! Tề sư thúc! Lương sư thúc! Các vị để mặc Liêu sư thúc hoành hành như vậy hay sao? Chi bốn tiêu diệt hết đệ tử chi trưởng, rồi sẽ lần lượt đến chi hai, chi ba và chi năm đấy.”

Lão họ Liêu hét lớn: “Động thủ!” Đoạn lão nhảy xổ ra, phóng kiếm đâm tới trước ngực Phong Vạn Lý. Họ Phong dùng tay trái rút kiếm để gạt thanh kiếm đâm tới. Bỗng nghe đánh choang một cái, tiếp theo là tiếng soạt soạt. Tay áo bên phải Phong Vạn Lý đã bị cắt đứt một mảnh lớn.

Phong Vạn Lý cùng Bạch Vạn Kiếm là hai nhân vật hạng nhất hạng nhì trong bọn đệ tử đời thứ hai phái Tuyết Sơn, kiếm thuật tinh thông chẳng kém gì bốn vị sư thúc họ Thành, họ Tề, họ Liêu, họ Lương. Nhưng Phong Vạn Lý đã cụt tay phải, sử kiếm bằng tay trái không được thuận lợi. Lão họ Liêu phóng kiếm đâm tới rất nhanh, hắn vẫn có thể gạt ra được, nhưng lão họ Liêu lại biến chiêu quét ngang. Phong Vạn Lý đã nhìn rõ đường kiếm của đối phương, nhưng tay kiếm của hắn không được linh diệu nên không đỡ kịp. May mà cánh tay phải đã bị chặt sẵn rồi, nên chỉ bị rách mất một miếng tay áo mà thôi.

Lão họ Liêu ra một chiêu đắc thủ liền phóng luôn chiêu thứ hai. Hai người đứng bên Phong Vạn Lý song song đưa kiếm lên gạt trường kiếm của lão. Lão họ Liêu thét lên: “Sao không động thủ?”

Sáu bảy chục đệ tử chi tư nhất tề reo hò cầm kiếm tấn công lên. Bọn đệ tử chi trưởng cũng chia nhau ứng chiến, một người phải chọi hai, có gã phải chọi ba. Ánh bạch quang chói mắt, tiếng khí giới chạm nhau loảng choảng đinh tai nhức óc. Đại sảnh của phái Tuyết Sơn đã biến thành bãi chiến trường.

Lão họ Liêu nhảy vào vòng chiến rồi, thấy bọn đệ tử chi hai, chi ba và chi năm đều đứng tựa lưng vào vách, chống kiếm bàng quang. Lão hiểu ngay tâm lý chúng liền giận dữ la lên: “Lão nhị! Lão tam! Lão ngũ! Các người lòng dạ thật là độc địa, muốn để chi bốn chúng ta và chi trưởng đánh nhau cho đến tan tành cả hai, rồi các người chiếm lấy tiện nghị. Hừ! Các người đừng mơ mộng nữa!”

Hai mắt lão vằn đỏ, vung trường kiếm nhằm đâm tới lão họ Tề. Hai người cùng vũ lộng trường kiếm đánh nhau. Kiếm thuật của lão Liêu hiển nhiên tinh thâm hơn lão Tề, qua lại mười mấy chiêu thì lão Tề phải thoái lui liên tiếp.

Bấy giờ lão họ Thành, tức nhị sư huynh, mới chống kiếm tiến ra nói: “Lão tứ! Có chuyện gì thì dùng lời lẽ nói với nhau. Cùng là sư huynh sư đệ trong nhà mà manh động như vậy thì còn ra thế nào?” Lão vung kiếm lên gạt thanh trường kiếm của lão Liêu. Tề lão tam nhân cơ hội này, phóng kiếm đâm lẹ vào bụng dưới lão Liêu. Lão định giết chết địch thủ thực sự, ra chiêu dứt khoát không chút nể nang.

Trường kiếm của lão Liêu đang dính vào trường kiếm của nhị sư huynh thành thế đấu nội lực, nên thấy kiếm của tam sư huynh đâm tới mà chẳng cách nào chống đỡ được.

Giữa lúc ấy lão họ Lương đột nhiên vừa phóng kiếm đâm vào sau lưng lão Tề vừa thở dài nói: “Tội nghiệt! Thật là tội nghiệt!” Lão họ Tề phải tự cứu mình, vội xoay kiếm lại đỡ.

Bọn đệ tử chi hai, chi ba và chi năm, thấy sư phụ đánh nhau loạn xà ngầu cũng đều xông lên trợ chiến. Chỉ trong khoảng khắc, nhà đại sảnh máu chảy đầm đìa, chân đứt tay gãy ngổn ngang, những tiếng rú thê thảm vang lên khắp bốn phía.

A Tú kéo tay Thạch Phá Thiên, run run nói: “Đại ca! Tiểu muội… tiểu muội sợ lắm!”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Rút cuộc là việc gì? Tại sao họ lại đánh nhau?”

Lúc này trong nhà đại sảnh, ai nấy chỉ lo thân mình, nên hai người ở ngoài cửa sổ nói chuyện mà họ chẳng hề để ý.

Sử bà bà cười lạnh nói: “Hay lắm! Đánh hay lắm! Bọn bay cứ giết nhau từng tên một, đến không còn tên nào ta mới vừa lòng”.