Tích Xuân đang ngồi nghĩ các thế cờ, bỗng nghe ngoài sân có tiếng Uyên Ương gọi Thái Bình. Thái Bình ra, cùng Uyên Ương vào. Uyên ương đi với một a hoàn nhỏ, mang đến một cái túi nhỏ bằng lụa vàng. Tích Xuân cười hỏi:
– Việc gì thế?
– Vì sang năm cụ tám mươi mốt tuổi, đã hứa làm một đàn chay công đức chín đêm ngày và viết ba ngàn sáu trăm năm mươi mốt bộ kinh “Kim cương”. Đã phát ra ngoài cho mọi người viết rồi, nhưng tục ngữ thường nói: Kinh kim cương cũng như cái vỏ ngoài của nhà Đạo, “Tâm kinh” mới là phần cốt yếu 1. Cho nên khi viết kinh Kim cương phải viết “Tâm kinh” vào, càng thêm công đức. Cụ nghĩ rằng “Tâm kinh” đã quan trọng, đức Phật Quan Âm lại là một vị nữ bồ tát, vì thế cần có các cô, các mợ, bà con ruột thịt viết cho được ba trăm sáu mươi lăm bộ. Như vậy, vừa thành kính, vừa trong sạch. Trong nhà chúng ta, trừ mợ Hai bận việc nhà, không có thì giờ rảnh lại không biết viết. Ngoài ra, những người biết viết, bất luận là viết được nhiều hay ít, đến cả mợ Trân và các dì, đều chia phần viết cả. Người trong nhà này cố nhiên là không cần phải nói nữa.
Tích Xuân nghe xong gật đầu nói:
– Việc khác tôi làm không nổi, chứ viết kinh thì tôi rất thành tâm. Chị để đấy ngồi uống trà đã.
Uyên Ương để cái bao vàng lên trên yên rồi cùng Tích Xuân ngồi xuống.
Thái Bình bưng một chén trà lại. Tích Xuân cười, hỏi Uyên Ương:
– Chị có viết không?
– Cô lại nói đùa. Trước đây mấy năm tôi còn viết lách, chứ ba bốn năm nay, cô có thấy tôi cầm đến bút đâu?
– Làm việc này là có công đức đấy.
– Tôi cũng có một việc: Lâu nay, sau khi hầu cụ đi nghỉ, tôi đọc kinh đếm gạo, đọc đã được hơn ba năm rồi. Gạo ấy tôi cất sẵn, chờ khi nào cụ làm chay, tôi sẽ đem số gạo góp vào để cúng Phật và bố thí cho người nghèo. Thế cũng là một chút lòng thành của tôi.
– Như vậy nếu cụ thành đức Phật Quan Âm, chị sẽ là cô Long Nữ.
– Làm gì được thế? Có điều ngoài cụ ra, tôi không hề hầu hạ được ai, chẳng hiểu vì kiếp trước duyên phận ra sao?
Nói đến đấy chị ta muốn ra về, lại gọi a hoàn nhỏ mở bao lụa vàng, lấy đồ đựng ở trong ra và nói:
– Xếp giấy trắng này là để viết “Tâm kinh”!
Lại cầm lên một bó hương, nói:
– Hương này để thắp khi viết kinh.
Tích Xuân nhận lấy cả.
Uyên Ương từ giã Tích Xuân, cùng a hoàn nhỏ về trình Giả mẫu. Thấy Giả mẫu đang cùng Lý Hoàn chơi song lục 2 Uyên Ương đứng một bên xem. Con súc sắc của Lý Hoàn gieo xuống gặp may đánh mất mấy con cờ của Giả mẫu. Uyên Ương chỉ nhoẻn miệng cười.
Bỗng thấy Bảo Ngọc ở ngoài vào, trong tay xách hai cái lồng nhỏ, trong lồng có mấy con dế, nói:
– Cháu nghe nói đêm bà ngủ không được, cháu đưa cái này đến để bà giải trí.
Giả mẫu cười:
– Mày đừng nhân lúc bố mày không ở nhà mà đùa nghịch.
– Cháu có đùa nghịch gì đâu?
– Mày không đùa nghịch, thì sao không ở phòng học đọc sách, lại lôi cái vật ấy về làm gì?
– Không phải cháu lôi về đâu. Hôm trước thầy học bảo em Hoàn, cháu Lan làm câu đối. Em Hoàn đối không được, cháu gà cho nó. Nó đối rồi thầy khen mấy câu. Nó cảm ơn cháu, mới mua cái này tạ ơn cháu, nay cháu đem biếu bà.
– Ngày nào nó cũng học kia mà? Sao mà đối không được? Đã đối không được thì cứ để cụ Nho đánh cho nó mấy cái tát tai, xem nó có xấu hổ không! Còn mày như thế vẫn chưa biết thân, không nhớ lúc bố mày ở nhà, có gọi mày làm thơ làm từ, thì run như cầy sấy đấy à? Sao giờ lại nói láo! Cái thằng Hoàn kia lại càng hư thân: đã nhờ người ta làm hộ, lại tìm cách đưa lễ đưa lạt. Mới mấy tuổi ranh mà đã làm cái lối thậm thậm thụt thụt ấy. Sao mà không biết xấu. Lớn lên rồi không biết còn ra thế nào nữa.
Câu nói ấy làm cho cả nhà đều bật cười. Giả mẫu lại hỏi:
– Còn thằng Lan nữa? Có làm được không? Hay là lại thằng Hoàn làm hộ cho nó, vì nó lại nhỏ hơn thằng Hoàn, có phải thế không?
Bảo Ngọc cười nói:
– Cháu Lan không nhờ ai làm, mà chính cháu tự đối lấy.
– Tao không tin; nếu không thì cũng là mày tinh ma làm thay cho nó. Giờ đây mày chẳng khác gì lạc đà lẩn trong bầy dê. Mày lớn hơn cả, mày lại biết làm văn làm bài nữa.
Bảo Ngọc cười:
– Thật tình là cháu Lan tự làm lấy. Thầy học còn khen nó sau này thế nào cũng làm nên. Nếu bà không tin thì gọi nó đến hỏi sẽ biết.
– Nếu quả như thế, thì tao mới mừng. Tao chỉ sợ mày nói dối thôi. Thế thì sau này nó có thể nên danh phận đấy.
Nói đến đó Giả mẫu nhìn Lý Hoàn rồi nhớ đến Giả Châu, nên lại nói tiếp:
– Thế thì anh mày chết đi, chị dâu mày nuôi nấng nó bấy lâu cũng không uổng công mà sau này cũng làm nổi cho anh mày được.
Nói vừa dứt lời Giả mẫu bất giác ứa nước mắt. Lý Hoàn nghe nói cũng động lòng, nhưng thấy Giả mẫu đang buồn, vội vàng nín khóc và khuyên:
– Đó là phúc thừa của bà. Chúng cháu nhờ lộc bà đấy thôi. Mong sao cháu nó được như lời bà nói, thì phúc cho chúng cháu lắm. Thế thì đáng lý bà phải vui chứ, sao bà lại buồn.
Rồi ngoảnh lại nói với Bảo Ngọc:
– Sau này chú đừng có khen cháu như thế nữa. Cháu mới mấy tuổi đầu chứ đã biết gì. Chẳng qua là chú thương cháu, chứ cháu đã hiểu gì đâu? Rồi nay thế này mai thế khác nhỡ đâm ra kiêu kỳ ngông ngược, thì làm gì tấn tới được.
Giả mẫu nói:
– Chị nói cũng phải, nhưng nó còn nhỏ, đừng ép nó quá, trẻ con nhút nhát mà kiềm thúc nó lắm thì nó sinh bệnh sinh tật, học hành không biết có được gì không, trở lại bao nhiêu công lao vứt hết.
Giả mẫu nói đến đó, Lý Hoàn nín không được nữa, nước mắt chảy ròng ròng, vội vàng chùi đi.
Lúc đó lại thấy Giả Hoàn và Giả Lan cũng đều đến hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu. Giả Lan chào mẹ rồi trở lại đứng hầu bên mình Giả mẫu.
Giả mẫu nói:
– Ta nghe chú mày nói, mày đối được câu đối, được không?
Giả Lan chỉ nhoẻn miệng cười, không nói gì cả.
Uyên Ương đi vào thưa:
– Cơm chiều đã dọn xong.
Giả mẫu nói:
– Đi mời dì Tiết lại đây.
Hổ Phách liền sai người sang nhà Vương phu nhân mời Tiết phu nhân.
Bảo Ngọc và Giả Hoàn lui ra, Tố Vân cùng bọn a hoàn nhỏ tới cất bàn song lục đi. Lý Hoàn vẫn ở lại để hầu Giả mẫu ăn cơm chiều. Giả Lan cũng theo mẹ đứng đấy. Giả mẫu nói:
– Mẹ con cháu ở đây ăn cơm với ta.
Lý Hoàn vâng lời. Một lát, dọn cơm ra, bỗng thấy a hoàn về trình:
– Bà Hai bảo cháu về trình với cụ, mấy hôm nay dì Tiết qua một chốc rồi về, không thể ở lại hầu chuyện cụ được. Hôm nay sau bữa ăn sớm đã về nhà rồi.
Giả mẫu bảo Giả Lan ngồi cạnh mình rồi mọi người ăn cơm. Giả mẫu ăn cơm xong, súc miệng rửa tay. Đang nằm nghiêng trên giường, nói chuyện phiếm, bỗng thấy có một a hoàn nhỏ nói gì với Hổ Phách. Hổ Phách liền tới thưa với Giả mẫu:
– Ông Cả bên phủ ĐSng hỏi thăm sức khỏe cụ.
– Mày ra nói với anh ấy rằng anh ấy lo liệu việc nhà cũng mệt rồi, về nghỉ thôi, ta biết rồi đấy.
A hoàn nhỏ vâng lời nói với bà già, bà già nói lại với Giả Trân, Giả Trân mới lại ra. Ngày hôm sau, Giả Trân qua thu xếp mọi việc. Bọn hầu trai ở ngoài lần lượt đến trình báo công việc.
Có một người nói:
– Ngoài trang trại đưa quả tươi đến.
Giả Trân hỏi:
– Giấy kê lễ vật đâu?
Tên hầu trai vội vàng đưa giấy tới. Giả Trân xem thì thấy trong giấy chỉ ghi một số quả tươi, một ít rau và ít nhiều thức ăn nhà quê. Giả Trân xem xong, hỏi:
– Lâu nay ai coi giữ việc này?
– Ông Chu Thụy.
Giả Trân liền bảo Chu Thụy:
– Anh chiếu số đếm lại rõ ràng, giao vào trong nhà. Để ta sao lại một bản, chờ sau đối chiếu. – Rồi gọi: – Bảo nhà bếp, dọn mâm cơm hạng bét thêm một ít món ăn, chiếu lệ thưởng cho người đưa quả ăn và cho lão ta một ít tiền.
Chu Thụy vâng lời, cho người đem các vật ấy đến nhà Phượng Thư, chiếu tờ kê của trang trại giao lại rõ ràng rồi lui ra.
Một chốc thấy Chu Thụy lại vào thưa với Giả Trân:.
– Ông có đếm qua số quả tươi vừa rồi không ạ?
– Ta hơi đâu mà đếm những thứ ấy. Đã giao giấy kê cho anh thì anh cứ theo đó mà đếm.
– Con đã đếm qua, không thừa không thiếu. Ông đã có giấy sao, thì nên gọi người đưa quả vào hỏi nó xem giấy kê ấy là giả hay thật.
– Anh nói cái gì thế? Chẳng qua mấy thứ quả tươi, có quan trọng gì? Ta có nghi ngờ gì anh đâu.
Đang nói thì Bào Nhị ở ngoài chạy vào, cúi lạy rồi thưa:
– Xin ông Cả cứ cho con hầu hạ bên ngoài như trước.
– Cái gì thế?
– Con ở đây cũng không nói năng gì được.
– Anh có chuyện gì phải nói?
– Tội gì để con ở đây làm cho người ta rác mắt?
Chu Thụy tiếp lời:
– Tôi ở đây quản lý việc tô tức, tiền bạc ở các trang trại ra vào mỗi năm có đến năm ba chục vạn. Các ông các bà, các mợ xưa nay chẳng hề quở trách một lời, huống gì đến những vật nhỏ mọn ấy. Cứ như Bào Nhị nói thì ruộng đất, nhà cửa, tài sản của nhà ông lớn đây, đều bị bọn tôi xoáy sạch.
Giả Trần nghĩ thầm: “Chắc là Bào Nhị ở đây gây ra việc cãi cọ, chi bằng bảo nó đi ra”. – Liền nói với Bào Nhị: – Cút mau!
Rồi lại bảo với Chu Thụy:
– Anh cũng chẳng cần phải nói nữa, cứ đi làm việc của anh thôi.
Hai người nghe nói đều đi ra. Giả Trân vừa vào thư phòng nghỉ, thì nghe ngoài cửa ồn ào liền sai người ra hỏi, một lát họ vào thưa lại:
– Bào Nhị và con nuôi Chu Thụy đánh nhau.
– Con nuôi Chu Thụy là ai?
– Tên nó là Hà Tam, xưa nay vốn là người không ra gì, ngày nào nó cũng ở nhà uống rượu gây chuyện, thường cứ đến ngồi lì ngoài cửa này. Vừa rồi nó thấy Bào Nhị và Chu Thụy cãi nhau, nó cũng dây vào.
– Thế là đáng ghét thật! Bắt Bào Nhị và thằng Hà Tam nào đó trói cả lại cho tao! Chu Thụy đâu rồi?
– Khi hai người đánh nhau thì anh ta chạy mất.
– Bắt lại đây cho tao. Như thế còn ra thể thống gì nữa.
Người nhà vâng lời. Trong khi ồn ào như thế, thì Giả Liễn về. Giả Trân đem câu chuyện vừa rồi nói lại cho Giả Liễn nghe.
Giả Liễn nói:
– Như thế còn ra cái gì nữa.
Liền sai thêm người đi bắt Chu Thụy. Chu Thụy biết tránh cũng không xong, đành để họ đến bắt. Giả Trân nói:
– Trói tất cả lại cho ta.
Giả Liễn quát bảo Chu Thụy:
– Câu chuyện của chúng mày vừa rồi chẳng ra cái quái gì. Ông Cả đã phân giải là được rồi, sao chúng mày lại còn ra ngoài đánh nhau? Chúng mày đánh nhau đã không phải. lại còn kéo cả cái thằng Hà Tam vô loài nào đó đến gây chuyện. Mày không đe nó lại bỏ đi là nghĩa lý gì?
Liền sai người dẫn Hà Tam và Bào Nhị đến, đánh cho mỗi người năm chục roi, rồi đuổi ra. Xong đó, Giả Liễn và Giả Trân mới bàn đến những việc quan trọng.
Sau đó, bọn người hầu xôn xao bàn tán: Có người nói Giả Trân thiên vị; có người nói ông ta không biết cách dàn xếp; có người nói ông ta không phải là người tốt, trước đây với chị em họ Vưu đã gây ra bao nhiêu chuyện xấu, chẳng phải do ông ta xúi giục cậu Hai gọi Bào Nhị đến hầu là gì? Bây giờ ông ta chê mắng Bào Nhị, chắc là vì vợ Bào Nhị hầu hạ không chu đáo chứ gì! Nhiều người lắm miệng, bàn tán xôn xao.
Từ khi Giả Chính coi việc bộ công, trong nhà có nhiều người nhờ đó mà phát tài. Giả Vân nghe vậy cũng muốn kiếm chút việc làm. Liền tìm mấy người thợ ở ngoài, bàn định xong xuôi mua một ít hàng mới, định tìm cách chạy chọt với Phượng Thư.
Hôm đó Phượng Thư ở trong nhà nghe bọn a hoàn nói:
– Cậu Cả và cậu Hai đều nổi giận, đang đánh người ở ngoài kia.
Phượng Thư chẳng biết vì sao, đang định cho người ra hỏi, thì thấy Giả Liễn đã vào kể lại câu chuyện vừa rồi cho Phượng Thư nghe. Phượng Thư nói:
– Việc ấy tuy chẳng quan trọng gì, nhưng cái thói ấy nhất thiết không thể để kéo dài. Giờ đây là lúc nhà mình đang thịnh vượng mà chúng dám đánh nhau như thế, sau này đến lượt bọn con cháu coi việc nhà thì chúng lại càng khó trị. Năm trước tôi ở bên phủ Đông, chính mắt trông thấy Tiều Đại uống rượu say mềm, nằm giữa thềm nhà, chẳng kể người trên kẻ dưới, cứ chửi bừa. Nó dù có công đến đâu đi nữa, nhưng giữa chủ nhà với đầy tớ cũng phải có thể thống mới được. Không phải tôi hay nói, chứ chị cả Trân thật là người thực thà quá, dung túng cho bọn người nhà hoành hành, không sợ gì phép vua lẽ trời nữa. Giờ lại nẩy ra thằng Bào Nhị nào đấy. Tôi nghe nói hắn là người đắc lực của cậu và anh Trân, vì sao hôm nay lại đánh hắn?
Giả Liễn nghe nói chạnh lòng, cảm thấy thẹn, liền tìm lời nói lảng rồi mượn cớ có việc bỏ ra ngoài. Tiểu Hồng vào thưa:
– Cậu Hai Vân ở ngoài muốn vào gặp mợ.
Phượng Thư nghĩ bụng: “Hắn lại tới đây làm gì?” Liền nói:
– Gọi cậu ấy vào đây.
Tiểu Hồng đi ra, nhìn Giả Vân mỉm cười. Giả Vân vội vàng sấn lại gần, hỏi:
– Cô thưa hộ cho tôi rồi à?
Tiểu Hồng đỏ mặt, nói:
– Tôi thấy anh bận nhiều việc.
– Nào có việc gì đâu mà dám đến đây làm phiền cô? Năm trước khi cô còn ở bên nhà chú hai Bảo, tôi mới cùng cô…
Tiểu Hồng sợ người ta trông thấy, không đợi Giả Vân nói xong hỏi:
– Năm ấy tôi đổi cho anh cái khăn lụa, anh có thấy không?
Giả Vân nghe nói đến câu đó, mừng quá như mở cờ trong bụng, vừa muốn nói nữa thì thấy một a hoàn nhỏ ở trong đi ra.
Giả Vân vội vàng cùng Tiều Hồng đi vào. Hai người đi song song gần nhau. Giả Vân khẽ nói:
– Chốc nữa cô đưa tôi ra, tôi sẽ nói chuyện với cô một điều.
Tiểu Hồng nghe nói, má đỏ ửng lên, nhìn Giả Vân một cái im lặng không đáp. Hai người đến cửa phòng Phượng Thư.
Tiểu Hồng vào trình trước rồi trở ra vạch màn, lấy tay vẫy, và nói:
– Mợ bảo mời cậu Hai vào.
Giả Vân mỉm cười theo Tiểu Hồng vào. Thấy Phượng Thư, Giả Vân hỏi thăm sức khỏe, và nói:
– Mẹ cháu gửi lời hỏi thăm thím.
Phượng Thư cũng hỏi thăm mẹ hắn, rồi nói:
– Cháu tới có việc gì?
– Trước đây cháu được thím thương đến, trong lòng không bao giờ quên, thường cứ băn khoăn muốn kiếm cái gì giả ơn thím, nhưng lại sơ thím ngờ vực. Nay gặp Tiết trùng dương, gọi là có chút lễ mọn, ở đây vật gì cũng có, chẳng qua gọi tỏ chút lòng thành của cháu mà thôi. Không biết thím có nhận không?
– Có việc gì cháu cứ ngồi đã rồi hãy nói.
Giả Vân ngồi xuống, vội vàng đưa gói lễ vật để lên trên bàn. Phượng Thư nói:
– Cháu có dư dật gì đâu, bày vẽ làm gì cho tốn tiền? Thím cũng chẳng cần lễ vật của cháu. Hôm nay cháu đến đây muốn xin điều gì cứ nói thật đi.
– Cháu có dám xin gì đâu, chẳng qua nghĩ đến ơn của thím, trong bụng không đành đó thôi.
– Sao lại nói thế. Nhà cháu chật vật, thím còn lạ gì, lẽ nào lại vô cớ đi lấy của cháu? Nếu cháu muốn thím nhận những vật ấy, thì phải nói rõ ràng. Cứ giấu đầu giấu đuôi như thế thì thím không nhận đâu.
Giả Vân chẳng biết làm thế nào, đành đứng dậy, cười lấy lòng và nói:
– Không phải cháu dám mơ tưởng gì đâu, nhưng mấy hôm trước đây cháu nghe nói ông lớn trông coi tất cả mọi công trình xây dựng lăng tẩm nhà vua, cháu có mấy người bạn, trước đây đã từng làm nhiều công trình rất là chu tất. Ý cháu muốn nhờ thím thưa với ông nhà một lời, may ra chúng cháu được phép nhận làm một vài việc; nếu được thế thì không bao giờ cháu quên ơn thím. Hoặc giả trong nhà ta có việc gì dùng đến cháu, cháu cũng có thể hầu thím được.
– Việc khác thì thím cũng còn có thể nhận lời được, chứ công việc ở cửa quan trước là do các quan trên bàn định, sau là các thư lại nha dịch lo liệu. Người khác mó tay vào đấy sao được? Ngay cả người nhà ta đây cũng chẳng qua là theo hầu ông lớn đấy thôi. Chú Hai của cháu có đi cũng chỉ là làm riêng việc nhà mình, đâu dám nhúng tay vào việc công. Còn việc nhà đây thì bề bộn lung tung, ngay cả bác Trân cũng đe nẹt không nổi nữa là. Cháu tuổi còn trẻ, thứ bậc trong họ lại thấp, không phải là người làm được những việc ấy đâu. Vả lại công việc ở cửa quan cũng gần xong rồi, chỉ còn những việc lặt vặt. Cháu ở nhà làm việc gì chẳng được? Không lẽ không có cơm ăn à? Thím nói thật đấy, cháu về nghĩ lại mà xem. Thím biết bụng cháu. Những lễ vật này cháu đem về, lấy ở đâu thì trả lại cho người ta.
Đang nói chuyện thì thấy người vú bế Xảo Thư vào. Xảo Thư ăn mặc loè loẹt, tay cầm đồ chơi, cười nói bi bô chạy lại gần Phượng Thư. Giả Vân trông thấy, chạy lại cười, nói:
– Em đấy à? Em muốn lấy gì không?
Xảo Thư khóc oà lên. Giả Vân liền lùi lại. Phượng Thư vội vàng ẵm con vào lòng mà nói:
– Con đừng sợ! Đây là anh Vân của con đấy mà, sao lại lạ?
Giả Vân nói:
– Mặt mũi em xinh xắn như thế, sau này thế nào cũng có phúc to.
Xảo Thư ngoảnh mặt lại nhìn Giả Vân một cái, lại khóc lên luôn mấy lần. Giả Vân thấy tình cảnh này, ngồi lại không tiện, đứng dậy cáo từ. Phượng Thư nói:
– Cháu đem lễ vật về thôi.
– Một chút quà mọn này mà thím không nhận cho ư?
– Cháu không cầm về thì thím cũng cho người đưa đến nhà. Này cháu, cháu đừng làm như thế. Cháu có phải là người ngoài đâu. Ở đây có dịp tốt thì thím sẽ cho người gọi cháu, còn không có việc gì thì thím cũng chịu thôi, có phải là cần lễ vật mới được đâu.
Giả Vân thấy Phượng Thư nhất định không nhận, mặt đỏ bừng, đành phải nói miễn cưỡng:
– Thôi để lần sau cháu sẽ tìm thứ gì dùng được đem biếu thím vậy.
Phượng Thư gọi Tiểu Hồng:
– Em cầm gói lễ vật đưa anh Vân ra.
Giả Vân vừa đi vừa nghĩ thầm: “Người ta bảo mợ Hai ghê gớm mình không tin, nay quả thế thật. Lời nói như đinh đóng cột chẳng hớ một tý nào. Chả trách không có con trai là phải. Cái con Xảo Thư kia lại càng lạ, nó thấy mình như có tiền oan nghiệt chướng gì chẳng bằng. Ta thật đen đủi phí cả một ngày.”
Tiểu Hồng thấy Giả Vân không xin xỏ được gì, cũng hơi buồn, cầm gói lễ vật đi theo. Giả Vân đỡ lấy, mở gói ra, chọn hai cái đưa cho Tiểu Hồng. Tiểu Hồng không nhận, nói:
– Anh đừng làm thế, mợ tôi biết thì cả hai người đều chẳng ra sao.
– Cô cứ cầm lấy, sợ cái gì? Mợ ấy biết sao được. Nếu cô không nhận tức là không coi tôi ra gì.
Tiểu Hồng mới nhận lấy rồi mỉm cười nói:
– Ai cần những vật này của anh để làm gì?
Nói vậy, má cô ta lại đỏ ứng lên. Giả Vân cũng cười, nói:
– Tôi cũng không phải là vì mấy vật ấy. Vả chăng, mất vật ấy có đáng là bao.
Hai người vừa nói thì đã đi ra đến cửa trong. Giả Vân đem những vật còn lại đút vào trong học. Tiểu Hồng giục:
– Thôi, anh về, có việc gì cứ đến tìm tôi. Giờ tôi ở trong nhà đây. Kể ra cũng tiện lợi.
Giả Vân gật đầu nói:
– Mợ Hai ghê gớm lắm, tôi tiếc không đến được luôn. Những điều tôi vừa nói với cô, chắc cô cũng hiểu rõ. Có dịp rảnh, tôi sẽ nói chuyện với cô.
Tiểu Hồng thẹn đỏ mặt lên, nói:
– Thôi, anh về, lần sau cũng nên năng đi lại với mợ ấy. Ai bảo anh hay xa người ta?
– Biết rồi đấy.
Giả Vân vừa nói vừa đi ra khỏi ngõ. Tiếu Hồng đứng ngoài cửa ngẩn người ra nhìn, đến khi hắn đi xa mới quay vào. Phượng Thư ở trong nhà dặn làm cơm chiều, lại hỏi:
– Đã nấu cháo chưa?
Bọn a hoàn vội vàng đi hỏi rồi về trình:
– Nấu rồi ạ!
– Nhớ sắp lấy vài đĩa thức ăn ướp ở miền Nam đưa về.
Thu Đồng vâng lời, gọi bọn a hoàn sửa soạn sẵn sàng. Bình Nhi chạy lại, cười nói:
– Tôi quên mất. Lúc giữa trưa, khi mợ đang ở bên nhà cụ, bà sư ở am Thủy Nguyệt cho người đạo bà đến xin mợ hai bình dưa muối miền Nam và xin chi trước tiền lương vài tháng, nói là bà ta không được khỏe. Tôi có hỏi đạo bà: “Tại sao bà sư không được khỏe?” Bà ta nói: “Cách đây bốn năm hôm, ban đêm trong bọn ni cô và đạo sĩ nhỏ có mấy đứa bé gái nằm ngủ không chịu tắt đèn. Bà sư nói mấy lần không được. Một đêm đến khoảng canh ba, thấy bọn chúng còn để đèn, bà sư bảo tắt đi, đứa nào đứa nấy ngủ lỳ ra, không trả lời. Bà sư bất đắc dĩ, phải tự mình dậy thổi đèn hộ. Khi quay lại thấy có hai người, một trai một gái, ngồi trên giường mình. Bà ta hỏi là ai! Bỗng họ đưa một cái dây thắt vào cổ bà ta. Bà ta kêu la ầm ĩ. Mọi người nghe tiếng, thắp đèn chạy đến, thấy bà ta đã nằm lăn giữa đất, nước bọt trào ra đầy miệng. May mà cứu lại được. Bây giờ chưa ăn được gì, nên mới cho người đến xin dưa muối. Tôi thấy mợ không ở nhà, không tiện cho. Tôi nói: “Mợ bây giờ ở bên nhà, đang bận, để về tôi sẽ thưa lại”, rồi tôi bảo họ về. Vừa rồi nghe nói món ăn miền Nam, tôi sực nhớ đến, không thì cũng quên mất.
Phượng Thư nghe xong, ngẩn người ra một lúc rồi nói:
– Dưa miền Nam hình như còn thì phải, bảo người đưa cho bà ta một ít. Còn tiền thì đến hôm sau bảo anh Cần đến nhận.
Vừa lúc đó lại thấy Tiểu Hồng vào thưa:
– Vừa rồi cậu Hai cho người về nói, đêm hôm nay cậu ấy có việc ở ngoài thành, không thể về được, nói để ở nhà biết.
Phượng Thư nói:
– Nghe rồi.
Bỗng một a hoàn nhỏ từ phía sau chạy đến giữa sân, thở hồng hộc, miệng la ầm lên. Bình Nhi ở ngoài đón hỏi, rồi cùng bọn a hoàn nói gì lầm rầm với nhau. Phượng Thư hỏi:
– Chúng mày nói gì thế?
Bình Nhi nói:
– Con nhỏ này nhát gan, nói chuyện ma quỷ.
– Đứa nào thế?
A hoàn nhỏ đi vào. Phượng Thư hỏi:
– Có chuyện ma quỷ gì thế?
– Cháu vừa ra nhà sau bảo người làm việc vặt đưa thêm than. Bỗng nghe trong ba gian nhà không có tiếng sột soạt, cháu tưởng là mèo hay chuột gì phá; lại nghe “hà” một tiếng giống như người thở, cháu sợ quá, vội chạy về đây.
Phượng Thư quát mắng:
– Nói nhảm! Ở đây nhất thiết không được nói chuyện ma quỷ. Tao xưa nay không tin những chuyện ấy. Mày cút mau đi!
A hoàn nhỏ đi ra. Phượng Thư liền gọi Thái Minh xem lại sổ tiêu dùng lặt vặt trong ngày ấy. Lúc đó đã gần canh hai, Phượng Thư nghỉ một lát, nói vài câu chuyện phiếm, đoạn bảo mọi người đi nghỉ, còn mình cũng nằm xuống nghỉ. Chừng canh ba, Phượng Thư đang thiu thiu, giở ngủ giở thức, bỗng thấy rùng mình tỉnh dậy, càng nằm càng thấy trong mình rờn rợn. Liền gọi Bình Nhi và Thu Đồng lại cùng nằm. Hai người chẳng hiểu vì sao. Thu Đồng lâu nay vốn không ưa Phượng Thư, vì việc chị hai họ Vưu, nên Giả Liễn không yêu Thu Đồng. Phượng Thư cố tìm cách mơn trớn, nên Thu Đồng cũng khuây lòng. Nhưng chị ta chỉ có tình nghĩa ngoài mặt, khác xa Bình Nhi. Nay thấy Phượng Thư khó ở đành phải bưng tới một chén trà, Phượng Thư uống một hớp, rồi nói:
– Cám ơn em, ngủ đi thôi, chỉ để Bình Nhi ở đây là được rồi.
Thu Đổng muốn tỏ ra ân cần liền nói:
– Mợ ngủ không được thì để hai đứa chúng tôi chia nhau ngồi thức cũng được.
Phượng Thư vừa nói vừa nằm ngủ. Thu Đồng và Bình Nhi thấy Phượng Thư đã ngủ, xa xa tiếng gà đã gáy, liền để cả áo nằm nghỉ. Một lát thì trời sáng, vội vàng dậy hầu Phượng Thư chải tóc rửa mặt.
Phượng Thư vì việc đêm qua, tâm thần hoảng hốt không yên, nhưng tính thích tỏ ra cứng rắn, nên vẫn gượng dậy. Đang ngồi bực mình thì thấy một a hoàn nhỏ ở ngoài sân hỏi:
– Cô Bình ở nhà đấy không?
Bình Nhi lên tiếng. A hoàn ấy vạch màn bước vào. Thì ra Vương phu nhân cho nó đến tìm Giả Liễn. Nó nói:
– Bên ngoài có người đến trình việc quan rất cần. Ông lớn vừa đi vắng, nên bà lớn gọi cậu Hai qua ngay.
Phượng Thư nghe nói, giật mình, chưa biết là việc gì.
1 Thứ trò chơi tương tự đánh cờ. Có một cái bàn trên bàn, mỗi bên có 16 quân, người chơi gieo hai hạt xúc xắc, rồi cứ xem điểm số gieo được mà cho quân đi, ai đi đến đối phương trước là thắng.
Phượng Thư vừa ngủ dậy đang bực mình. lại nghe a hoàn nói như vậy, giật mình vội vàng hỏi:
– Việc quan gì thế?
– Cháu cũng chẳng biết. Vừa rồi thấy người hầu trai ở cửa trong vào, thưa với ông lớn, có việc quan rất khẩn cấp, nên bà lớn bảo cháu đi tìm cậu Hai.
Phượng Thư nghe nói là việc trong bộ Công, mới hơi yên tâm liền nói:
– Em về thưa với bà, cậu Hai chiều hôm qua ra ngoài thành có việc cần, đến nay vẫn chưa về, nên cho người tìm cậu Cả Trân thôi.
A hoàn vâng lời đi ra.
Một chốc Giả Trân đến, gặp người trong bộ, hỏi rõ ràng, rồi vào nhà nói với Vương phu nhân:
– Người trong bộ đến trình: Hôm qua Ty coi sông có tâu: Ở miền Nam vỡ đê, ngập mất mấy phủ, châu, huyện, cần phải chi tiêu công quĩ, sửa sang đê điều. Các quan trong bộ Công lại phải đi trông nom lo liệu. Vì thế trong bộ cho người đến báo tin với ông lớn.
Nói xong Giả Trân lui ra. Giả Chính về, người nhà trình lại tất cả. Từ đó cho đến mùa đông, ngày nào Giả Chính cũng bận việc quan. Nhờ vậy việc học của Bảo Ngọc cũng hơi lỏng lẻo. Nhưng Bảo Ngọc cũng sợ Giả Chính biết, nên thường thường vẫn phải tới trường, ngay cả chỗ Đại Ngọc cũng không mấy khi đến.
Một hôm, vào trong tuần tháng mười. Bảo Ngọc ngủ dậy, đi học. Trời bỗng trở lạnh, thấy Tập Nhân đã sắp sẵn một gói áo quần, nói với Bảo Ngọc:
– Hôm nay trời lạnh lắm, buổi sớm và buổi chiều phải mặc cho ấm.
Nói xong, chị ta đem gói áo ra, chọn một chiếc cho Bảo Ngọc mặc, lại gói một chiếc nữa, bảo a hoàn nhỏ đem giao cho Bồi Dính và dặn:
– Trời lạnh, coi chừng sắp sẵn, để khi cậu cần mà thay.
Bảo Ngọc đến trường đang làm bài, bỗng nghe gió thổi sột soạt trên cửa sổ. Đại Nho nói:
– Tiết trời thay đổi rồi!
Ông ta mở cửa sổ ra xem thì thấy về phía tây bắc, trong đám mây đen, dần dần bay về phía đông nam.
Bồi Dính chạy vào nói với Bảo Ngọc:
– Cậu ạ, trời lạnh rồi, mặc thêm áo vào.
Bảo Ngọc gật đầu. Bồi Dính đem áo tới. Trông thấy áo, Bảo Ngọc bỗng ngẩn người. Bọn học trò nhỏ đều chăm chú nhìn, thì ra cái áo ấy chính là áo lông công năm trước Tình Văn đã mạng cho.
Bảo Ngọc nói:
– Tại sao lại mang cái áo ấy đến? Ai đưa cho mày thế?
– Các chị ở trong ấy gói đưa cho cháu đấy.
– Ta không lạnh lắm, chưa mặc đâu, hãy gói lại thôi.
Giả Đại Nho tưởng là Bảo Ngọc thấy áo quí không dám mặc, nên trong bụng cũng mừng là Bảo Ngọc biết tiết kiệm. Bồi Dính nói:
– Cậu mặc lấy kẻo bị lạnh cháu lại mắc lỗi. Cậu thương cháu với.
Đại Nho tưởng Bảo Ngọc xem sách, nên cũng không chú ý. Đến chiều tan học, Bảo Ngọc nói dối người mệt, xin phép nghỉ một ngày. Đại Nho nhiều tuổi, ngày thường chỉ làm bạn với mấy đứa trẻ cho đỡ buồn, lại đau yếu luôn nên bớt một cậu học trò cũng đỡ lo một tý. Vả lại ông ta cũng biết Giả Chính bận việc. Giả mẫu thì nuông chiều cháu, cho nên thấy Bảo Ngọc xin nghỉ, liền gật đầu cho ngay.
Bảo Ngọc chạy một mạch về nhà, vào chào Giả mẫu và Vương phu nhân, cũng nói như vậy. Mọi người tất nhiên đều tin. Bảo Ngọc ngồi một chốc rồi về trong vườn. Thấy bọn Tập Nhân. Bảo Ngọc không cười nói như mọi ngày, cứ mặc cả áo nằm xuống giường. Tập Nhân nói:
– Cơm chiều dọn rồi, cậu ăn ngay hay để lát nữa?
– Tôi trong bụng không được khoan khoái, không ăn đâu. Các chị ăn đi thôi.
– Thế thì cậu cũng nên thay cái áo kia ra. Áo ấy không chịu được giày vò như thế đâu.
– Không cần thay.
– Áo này là thứ mềm mỏng, mà cậu xem đấy, những đường kim mũi chỉ thật là công phu, không nên giày vò như thế.
Bảo Ngọc nghe nói hợp với ý nghĩ của mình liền thở dài một tiếng và nói:
– Thế thì chị gói lại mà cất đi, từ nay tôi không mặc nữa đâu.
Nói xong đứng đậy cởi áo ra. Tập Nhân định đến đỡ lấy thì Bảo Ngọc đã gấp lại rồi.
Tập Nhân nói:
– Tại sao hôm nay cậu lại siêng năng cẩn thận như thế?
Bảo Ngọc không đáp, xếp áo xong rồi hỏi:
– Cái gói áo này đâu rồi?
Xạ Nguyệt vội vàng đưa cái gói lại để Bảo Ngọc tự gói lấy tử tế rồi chị ta ngoảnh lại nháy mắt nhìn Tập Nhân mà cười.
Bảo Ngọc cũng không để ý, ngồi buồn rũ ra! Bỗng nghe tiếng chuông đồng hồ lớn “keng keng” đánh mấy tiếng. Bảo Ngọc cúi đầu nhìn cái đồng hồ nhỏ trong người thì đã chỉ đến khắc thứ hai đầu giờ Dậu rồi. Một lúc sau, bọn a hoàn nhỏ thắp đèn lên. Tập Nhân nói:
– Cậu không ăn cơm thì húp lấy nửa bát cháo nóng, đừng nhịn như thế, nhịn đói sinh ốm lại làm tội chúng tôi.
Bảo Ngọc lắc đầu nói:
– Tôi không đói, ăn gắng vào lại càng khó chịu.
– Đã thế thì cậu ngủ sớm đi.
Tập Nhân và Xạ Nguyệt buông màn giải nệm tử tế. Bảo Ngọc nằm xuống nhưng cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đến gần sáng mới mơ màng ngủ thiếp đi, chừng gần ăn xong bữa cơm thì lại tỉnh dậy. Lúc đó Tập Nhân và Xạ Nguyệt đều đã dậy. Tập Nhân nói:
– Đêm qua tôi nghe cậu cứ trằn trọc mãi đến tận canh năm, tôi không dám hỏi. Sau đó tôi ngủ quên mất, không biết cậu có ngủ được không?
– Tôi cũng ngủ được một lát, không biết tại sao lại thức dậy liền.
– Cậu xem có khó ở không?
– Có gì đâu, nhưng chỉ thấy trong lòng buồn bực.
– Thế thì hôm nay có học không?
– Hôm qua tôi đã xin nghỉ một ngày. Tôi định đi chơi trong vườn một hôm cho khuây khỏa, nhưng lại sợ lạnh. Chị bảo chúng nó dọn một gian nhà, bày một cái lư hương, để bút nghiên giấy mực ở đấy, rồi các chị cứ làm công việc của mình, tôi phải ngồi yên một buổi mới được, đừng bảo chúng nó tới quấy rầy tôi.
Xạ Nguyệt đỡ lời:
– Cậu cần yên tĩnh để làm bài, ai dám đến quấy rối nữa.
Tập Nhân nói:
– Như thế cũng tốt, đỡ phải lạnh, ngồi yên một lát tâm thần cũng thư thái đấy.
– Nhưng cậu đã không muốn ăn cơm thì hôm nay định ăn gì nói cho sơm sớm, để bảo nhà bếp làm.
– Cái đó tùy thôi, đừng làm ồn lên, nhưng phải có mấy thứ quả để vào trong nhà cho thơm.
– Ở phòng nào hơn? Các phòng đều không được sạch sẽ, chỉ có cái phòng trước kia chị Tình Văn ở, lâu nay bỏ không. Xem chừng còn sạch sẽ hơn, nhưng hơi lạnh.
– Không hề gì, đem chậu than vào đấy là được.
Tập Nhân vâng lời.
Đang nói chuyện thì thấy một a hoàn nhỏ mang đến một khay trà, trong có một cái bát và một đôi đũa ngà. Nó đưa cho Xạ Nguyệt và nói:
– Đây là chị Hoa bảo làm nên bà già ở nhà bếp đưa đến.
Xạ Nguyệt đỡ lấy, thấy một bát canh yến sào, liền hỏi Tập Nhân:
– Chị dặn họ làm đấy à?
– Chiều qua cậu Hai không ăn cơm, lại trằn trọc suốt đêm, sáng nay chắc là đói, cho nên tôi bảo bọn a hoàn nhỏ nói với nhà bếp làm đấy.
Tập Nhân vừa nói vừa gọi bọn a hoàn nhỏ dọn ra. Xạ Nguyệt hầu cho Bảo Ngọc ăn và súc miệng xong, thấy Thu Văn chạy vào nói:
– Phòng bên kia đã dọn xong, chờ một chốc than bén, cậu hãy sang.
Bảo Ngọc gật đầu, nhưng trong lòng vẫn băn khoăn, không buồn nói năng gì. Một lúc a hoàn nhỏ đến mời và nói:
– Bút nghiên đều sắp đặt tử tế rồi.
Bảo Ngọc gật đầu nói: “Biết rồi”.
Lại một a hoàn nhỏ vào nói:
– Cơm sáng có rồi, cậu định ăn ở phòng nào?
– Mang vào đây thôi, bày vẽ làm gì.
A hoàn nhỏ vâng lời đi ra. Một lúc cơm bưng lên. Bảo Ngọc nói với Tập Nhân và Xạ Nguyệt:
– Trong bụng tôi sao mà buồn bực thế? Ăn một mình sợ nuốt không trôi. Hai chị cùng ngồi ăn với tôi có thể ngon miệng, tôi ăn được nhiều cũng nên.
Xạ Nguyệt cười nói:
– Đó là cậu cao hứng nói như thế chứ chúng tôi đâu dám.
Tập Nhân nói:
– Thực ra thì cũng được, chúng ta đã nhiều lần ngồi chung uống rượu với nhau. Có điều một đôi khi làm cậu đỡ buồn thì được chứ cứ thế mãi thì còn ra thể thống gì nữa?
Nói đoạn ba người ngồi xuống. Bảo Ngọc ngồi giữa, Tập Nhân và Xạ Nguyệt ngồi hai bên, cùng ăn cơm. Ăn xong, a hoàn bưng trà súc miệng, rồi dọn mâm đi. Bảo Ngọc tay bưng chén trà, lặng lẽ như nghĩ ngợi gì, lại ngồi một lúc rồi hỏi:
– Nhà bên kia dọn xong chưa?
Xạ Nguyệt nói:
– Đã nói xong rồi, bây giờ cậu lại còn hỏi.
Bảo Ngọc ngồi một lát rồi qua phòng bên kia, tự mình thắp một nén hương, bày lên mấy thứ quả, bảo mọi người đi ra, đóng cửa lại. Bọn Tập Nhân ở ngoài im lặng, không một tiếng động. Bảo Ngọc đưa ra một tờ hoa tiên đỏ, miệng khấn mấy câu rồi cầm bút viết:
“Chủ nhân Viện Di Hồng kính đôi giấy này để linh hồn chị Tình biết. Chén chè nén hương, ngõ hầu tới hưởng!”
Từ rằng:
Cùng sát cánh, tình khăng khít đôi ta,
Ngờ đâu đất bằng nổi phong ba,
Cho thân kia bỗng hóa hồn ma!
Cùng ai chuyện đượm đà?
Nước chảy xuôi lại quay ngược được a?
Cỏ hoài mộng khó mong tìm được,
Áo thúy vân còn khoác đây mà!
Lệ chảy lòng xót xa!
Viết xong Bảo Ngọc châm vào đầu nén hương đốt ngay và ngồi yên lặng chờ cho nén hương cháy hết mới mở cửa ra. Tập Nhân nói:
– Sao cậu lại ra? Chắc buồn quá chứ gì?
Bảo Ngọc cười, rồi vờ nói:
– Ban nãy trong lòng tôi thấy buồn phiền, mới tìm chỗ yên lặng để ngồi một lúc. Nay đã đỡ rồi, nên ra ngoài dạo chơi đấy.
Nói xong đi một mạch đến quán Tiêu Tương, vừa đến sân đã hỏi:
– Cô Lâm có ở nhà không?
Tử Quyên ở trong hỏi: “Ai đấy?” Rồi vạch màn trông ra cười nói:
– Té ra cậu Hai. Cô tôi ở trong nhà. Mời cậu vào chơi.
Bảo Ngọc cùng Tử Quyên đi vào. Đại Ngọc ngồi ở phòng trong nói với ra:
– Chị Quyên mời cậu Hai vào trong này ngồi.
Bảo Ngọc vào đến cửa phòng trong, thấy một đôi câu đối viết trên giấy tím vẽ rồng mây bằng vàng:
Trăng trong vẫn đó ngoài song biếc
Người cũ còn đâu trên sử xanh.
Bảo Ngọc nhìn thấy, cười rồi đi vào, hỏi:
– Cô em làm gì thế?
Đại Ngọc đứng dậy, bước ra mấy bước, cười nói:
– Mời anh ngồi. Em đang viết kinh, còn hai hàng nữa thôi. Chờ em viết xong sẽ nói chuyện.
Đoạn gọi Tuyết Nhạn pha trà.
– Em cứ ngồi mà viết cho xong đi.
Bảo Ngọc vừa nói vừa ngắm nghía bức tranh treo giữa nhà vẽ Hằng Nga có một người hầu gái; và một nàng tiên cũng có một người hầu gái bưng một cái gì dài dài như cái bọc áo.
Ngoài hai vị tiên ra chỉ điểm xuyết đám mây, không có gì khác. Lối vẽ hoàn toàn sơ sài giống lối phác họa của Lý Long Miên ngày xưa, bên trên đề mấy chữ: “Đấu hàn đồ” 1 Liền hỏi:
– Bức tranh này có phải mới treo lên không?
Đại Ngọc nói:
– Vâng. Hôm qua chúng nó dọn dẹp nhà cửa, em chợt nhớ đến, mới lấy ra treo lên đấy.
– Tích ấy ở đâu ra?
– Anh biết thừa, còn hỏi người ta.
– Trong chốc lát, tôi chưa nghĩ ra. Cô nói cho tôi biết với.
– Anh lại không nghe câu thơ: “Thanh Nữ, Tố Nga không sợ rét; Dám đua vẻ đẹp trước trăng sướng” à?
– Ừ nhỉ! Cảnh này mới mẻ và nhã thật! Lúc này đem ra treo lại càng hợp.
Nói đoạn chạy lại nhìn ngang nhìn ngược các nơi. Tuyết Nhạn bưng trà đến. Bảo Ngọc uống trà. Chờ một chốc Đại Ngọc mới viết xong kinh, rồi đứng dậy nói:
– Xin lỗi.
Bảo Ngọc cười, nói:
– Cô vẫn giữ cái lối khách sáo ấy.
Bảo Ngọc nhìn kỹ thấy Đại Ngọc mặc cái áo lông thêu hoa, ngoài khoác cái khăn choàng bàng da cáo trắng, đầu búi tóc, cài chiếc trâm vàng, không cắm hoa, bên dưới mặc quần bông thêu thật chẳng khác gì:
Cây ngọc rỡ ràng phơi trước gió;
Sen vàng thơm ngát nở bên sương.
Bảo Ngọc hỏi:
– Hai ngày nay em có gảy đàn không?
– Không, vì em viết kinh đã giá cả tay rồi, còn gảy đàn sao được nữa.
– Không gảy cũng được. Tôi nghĩ, đàn tuy là vật thanh cao, nhưng không phải thứ hay ho gì. Xưa nay người ta gảy đàn sinh ra lo buồn oán giận, chưa hề thấy ai gảy đàn mà được giàu sang sống lâu cả. Vả lại, muốn gảy thì phải nhớ bản đàn, nên mất công. Theo tôi, em vốn đã yếu, đừng nên bận lòng về việc đó.
Đại Ngọc nghe nói, nhoẻn miệng cười. Bảo Ngọc chỉ tay lên vách, hỏi:
– Có phải cái đàn này không? Sao mà ngắn thế?
– Đàn này không phải ngắn đâu, vì khi em còn nhỏ, học gảy các đàn khác đều không vừa tầm, nên làm riêng cái này. Tuy không phải là thứ gỗ đồng khô sém đuôi 2, nhưng các bộ phận hạc tiên, phượng vĩ phối hợp rất chỉnh tề; long trì, nhạn túc 3 cao thấp đúng cách thức. Anh thử xem cái vằn gỗ 4 có phải như lông trâu không? Vì thế cho nên âm vận cũng trong trẻo.
– Mấy hôm nay em có làm thơ không?
– Từ khi lập thi xã tới nay em chẳng mấy khi làm.
– Thôi, em đừng giấu tôi nữa, tôi nghe em hát câu gì… “Hoài công lo lắng, sao bằng trăng giữa trời kia lòng trong trắng” phổ vào đàn nghe rất réo rắt. Có phải thế không?
– Anh ở đâu mà biết?
– Hôm nọ tôi ở Lục Phong hiên qua đây, nghe em gảy, tôi sợ làm gián đoạn, cho nên im lặng nghe một hồi rồi đi. Tôi đang muốn hỏi em: tại sao đoạn trước đều bằng cả, mà đoạn sau lại bỗng chuyển sang trắc, là có ý gì?
– Đấy là âm điệu tự nhiên trong đáy lòng người ta, làm thế nào thì nó ra thế, chứ có nhất định sao được.
– Thế à! Đáng tiếc tôi không phải là tri âm, nghe cũng uổng thôi! Xưa nay tri âm dễ có mấy người?
Bảo Ngọc nghe xong biết lời nói của mình nông nổi quá lại sợ chạnh lòng Đại Ngọc. Ngồi một chốc, Bảo Ngọc thấy trong lòng có nhiều câu muốn nói, nhưng không biết nói gì. Về phần Đại Ngọc thì câu vừa rồi chẳng qua buột miệng nói ra, nay nghĩ lại thấy có phần lạnh nhạt quá, nên cũng ngồi im. Bảo Ngọc đoán chừng Đại Ngọc nghi ngờ gì mình liền thẫn thờ đứng dậy nói:
– Thôi, em hãy ngồi, tôi còn đến đằng cô Ba một tý.
– Anh gặp cô Ba, nhờ hỏi thăm hộ tôi một tiếng.
Bảo Ngọc nhận lời rồi đi ra.
Đại Ngọc đưa ra đến cửa phòng rồi đi vào, buồn bực ngồi một mình, nghĩ bụng: “Gần đây Bảo Ngọc nói chuyện nửa úp nửa mở, khi thân mật khi lạnh lùng, không biết là ý tứ gì?”
Đại Ngọc đang ngồi nghĩ ngợi, thì thấy Tử Quyên chạy lại nói:
– Cô không viết kinh nữa à? Tôi cất bút nghiên đi nhé?
– Tôi không viết nữa đâu. Chị cất đi thôi.
Nới xong cô ta chạy vào phòng, nằm trên giường, suy nghĩ. Tử Quyên vào hỏi:
– Cô uống trà nhé?
– Không uống đâu. Tôi nằm một tý. Chị ra ngoài thôi.
Tử Quyên vâng lời đi ra, thấy Tuyết Nhạn đang ngẩn người đứng một mình ở đây. Tử Quyên lại gần hỏi:
– Mày cũng đang có tâm sự gì phải không?
Tuyến Nhạn nghe nói, giật nảy mình nói:
– Đừng làm ồn lên, hôm nay tôi nghe một câu chuyện, tôi nói với chị, xem có lạ không? Nhưng chị đừng có nói với ai đấy!
Nói đến đó, Tuyết Nhạn hất hàm về phía trong nhà, ra hiệu, rồi đi trước gật đầu bảo Tử Quyên theo ra. Đến phía thềm bên ngoài, Tuyết Nhạn nói nhỏ:
– Chị có nghe nói cậu Bảo hỏi vợ không?
Tử Quyên nghe vậy cũng giật mình, và hỏi:
– Câu nói ấy ở đâu mà ra? Có lẽ không thật đâu.
– Sao lại không thật? Ai cũng biết cả, chỉ chúng mình là không nghe thấy thôi.
– Mày nghe ở đâu thế?
– Chị Thị Thư nói đấy. Nghe đâu là con quan phủ, gia tư cũng giàu, người lại đẹp.
Bỗng thấy Đại Ngọc ho một tiếng, hình như đã dậy. Tử Quyên sợ Đại Ngọc nghe thấy, liền nắm lấy Tuyết Nhạn xua tay ra hiệu rồi trông vào trong nhà. Thấy trong nhà vẫn im lặng. Tử Quyên lại khẽ hỏi nhỏ Tuyết Nhạn:
– Thị Thư nói như thế nào?
– Hôm trước cô bảo tôi đến cảm ơn cô Ba. Cô Ba đi đâu vắng, chỉ có Thị Thư ở nhà. Chúng tôi ngồi nói chuyện, tình cờ nhắc đến chuyện cậu Bảo hay nghịch ngợm. Chị ta nói: “Cậu Bảo chẳng biết rồi ra thế nào, chỉ biết chơi đùa, không ra dáng người lớn. Đã dạm vợ rồi mà còn ngốc nghếch như thế. Tôi hỏi chị ta: “Có chắc chắn không?” Chị ta nói: “Chắc chắn rồi, ông Vương nào đó làm mối. Ông Vương là bà con bên phủ Đông, cho nên không cần phải thăm dò, nói là xong ngay.”
Tử Quyên, cúi đầu nghĩ ngợi: “Chuyện này lạ thực!” Rồi lại hỏi:
– Tại sao trong nhà không thấy ai nói đến?
– Thị Thư cũng nói, ý cụ cho rằng: nói lộ ra sợ cậu Bảo Ngọc lại nghĩ vơ nghĩ vẩn cho nên không nhắc đến. Thị Thư nói với tôi rồi dặn đi dặn lại, nhất thiết đừng nói lộ ra, để họ lại cho là mình bép xép.
Nói đến đó, Tuyết Nhạn lấy tay chỉ vào trong nhà:
– Vì thế, trước mặt cô, tôi cũng không hề nhắc đến. Nay chị hỏi không lẽ tôi giấu chị.
Vừa nói đến đó thì nghe con vẹt bắt chước tiếng người, gọi: “Cô về rồi, pha nước mau lên”. Tử Quyên và Tuyết Nhạn giật nẩy mình, ngoảnh lại chẳng thấy có ai, liền mắng con vẹt mấy tiếng. Hai người vào nhà thì thấy Đại Ngọc vừa ngồi xuống ghế, đang thở hổn hển.
Tử Quyên ân cần hỏi han. Đại Ngọc hỏi:
– Hai chị đi đâu? Gọi không thấy người nào cả.
Nói đoạn, đi vào vật mình ngả lưng lên giường và bảo buông màn. Tuyết Nhạn và Tử Quyên vâng lời đi ra. Hai người nghi ngờ là câu chuyện vừa rồi, bị cô ta nghe được, chỉ còn cách là đừng nhắc nhở gì đến.
Ngờ đâu Đại Ngọc vốn đã sẵn một bầu tâm sự, lại nghe trộm được câu chuyện của Tử Quyên và Tuyết Nhạn. Tuy nghe không rõ lắm, nhưng cũng đã hiểu được bảy tám phần. Cô ta thấy hình như bị ai vứt xuống bể. Nghĩ trước, nghĩ sau, thật là đúng như trong giấc chiêm bao ngày trước, muôn sầu nghìn tủi, chất chứa trong lòng. Suy tính trước sau, chi bằng chết đi cho rảnh, để đừng trông thấy cái chuyện bất ngờ, lại càng khó chịu. Cô ta lại nghĩ đến cảnh khổ của mình không cha không mẹ và quyết định từ nay về sau hàng ngày mình cứ giày vò thân mình, như thế một năm, năm bảy tháng, thế nào cũng thoát khỏi nợ đời. Đại Ngọc định ý như thế, nên chăn cũng không đắp, áo cũng không mặc, cứ nhắm mắt lại giả ngủ.
Tử Quyên và Tuyết Nhạn tới hầu mấy lần, không thấy Đại Ngọc động đậy gì cả, lại không dám gọi. Bữa cơm chiều hôm ấy, Đại Ngọc cũng không ăn. Sau khi lên đèn, Tử Quyên vạch màn ra xem, thấy Đại Ngọc đã ngủ rồi; chăn, nệm đều tụt xuống dưới chân. Tử Quyên sợ cô ta lạnh, nhè nhẹ đắp chăn lên. Đại Ngọc cứ nằm im, chờ Tử Quyên ra rồi lại tụt chăn xuống.
Tử Quyên hỏi Tuyết Nhạn:
– Câu chuyện vừa rồi thật hay giả đấy?
– Sao lại không thật?
– Tại sao Thị Thư biết?
– Vì Tiểu Hồng nghe bên nhà nói rồi thuật lại.
– Lúc nãy chúng ta nói chuyện, không khéo cô nghe được thì phải. Mày xem vẻ mặt cô vừa rồi, chắc không phải là tự nhiên mà thế. Từ nay về sau, chúng ta đừng nhắc chuyện ấy nữa.
Nói xong, hai người cùng thu xếp định đi nghỉ. Tử Quyên vào xem, thấy chăn nệm của Đại Ngọc tụt xuống, lại nhè nhẹ kéo lên.
Hôm sau, vừa hửng sáng, Đại Ngọc đã thức dậy, cũng không gọi ai, chỉ một mình ngồi ngẩn người ra. Tử Quyên tỉnh dậy, thấy Đại Ngọc đã dậy rồi, sợ hãi hỏi:
– Sao cô dậy sớm thế?
– Ngủ sớm thì dậy sớm chứ sao đâu?
Tử Quyên vội vàng đứng dậy, đánh thức Tuyết Nhạn, hầu hạ Đại Ngọc chải đầu rửa mặt.
Đại Ngọc soi gương, ngơ ngẩn nhìn mình. Nhìn một lúc, nước mắt chảy ràn rụa, ướt đẫm khăn. Thật là:
Đem bóng gầy này soi mặt nước;
Mình thương tớ với, tớ thương mình.
Tử Quyên đứng một bên cũng không dám khuyên, sợ vô tình làm Đại Ngọc thêm nhớ lại chuyện cũ. Một lát sau, Đại Ngọc chải đầu rửa mặt qua loa, ngấn lệ trong mắt vẫn còn chưa ráo, lại ngồi một lát rồi gọi Tử Quyên:
– Chị đốt hương lên.
– Cô chẳng ngủ được mấy tý, đốt hương làm gì? Định viết kinh phải không?
Đại Ngọc gật đầu, Tử Quyên nói:
– Hôm nay cô dậy sớm quá, giờ lại viết kinh, e mệt đấy.
– Sợ gì! Viết xong sớm chừng nào hay chừng ấy. Vả lại tôi cũng không phải là thích viết kinh, chỉ là mượn công việc viết lách để giải buồn. Sau này các chị thấy nét chữ của tôi cũng như thấy mặt tôi vậy.
Nói đến đó, nước mắt lại chảy ròng ròng.
Tử Quyên nghe đoạn, chẳng những không khuyên, lại cũng chảy nước mắt, không nín được nữa. Đại Ngọc đã định sẵn chủ ý. Từ đó về sau, cố ý giày vò thân mình, chẳng nghĩ gì đến cơm nước, ngày một yếu dần. Mỗi khi Bảo Ngọc đi học về, cũng thường nhân lúc rảnh đến hỏi thăm. Nhưng Đại Ngọc biết mình đã lớn, tuy có nhiều điều muốn nói nhưng không thể dùng tình tứ khêu gợi như khi còn nhỏ, vì thế nỗi niềm tâm sự không thể nói ra. Bảo Ngọc muốn dùng lời nói thực để an ủi, thì lại sợ Đại Ngọc đâm giận, bệnh càng thêm nặng. Hai người gặp mặt nhau, chỉ dùng những lời khuôn sáo mà khuyên lơn an ủi, thật là: “thân quá hóa sơ”.
Giả mẫu và Vương phu nhân thương yêu Đại Ngọc nhưng chỉ biết mời thầy chữa bệnh và cho rằng đó là bệnh thường, biết sao được căn bệnh trong đáy lòng cô ta. Bọn Tử Quyên tuy hiểu ý, cũng không dám nói. Từ đó Đại Ngọc càng ngày càng yếu dần. Sau độ nửa tháng tỳ vị càng hư, cháo cũng không ăn được nữa.
Hằng ngày nghe ai nói gì Đại Ngọc cứ tưởng như họ nói chuyện Bảo Ngọc cưới vợ; thấy người trong Viện Di Hồng không kể trên dưới đều có vẻ lo liệu cho Bảo Ngọc cưới vợ. Tiết phu nhân đến thăm, Đại Ngọc không thấy Bảo Thoa, lòng lại càng ngờ vực. Do đó càng không muốn để ai đến thăm cũng không chịu uống thuốc, chỉ muốn mau chết. Trong khi mơ ngủ, Đại Ngọc thường nghe như có người gọi “mợ Hai Bảo”. Trong lòng ngờ vực nên thấy gì cũng đâm nghi ngờ. Hôm ấy, Đại Ngọc không ăn được nữa, cháo cũng không nuốt vào, chỉ còn hơi thở thoi thóp chờ chết.
1 Ngày xưa Thái Ung thấy người ta đốt gỗ cây đồng khô, ông biết là gỗ tốt có thể dùng làm đàn, liền xin về làm một cây đàn; tiếng rất trong, nhưng đầu đuôi bị cháy sém, nên gọi là tiểu vĩ cầm (đàn sém đuôi).
2 Hạc tiên, phương vĩ, long trì, nhạn túc, đều là những danh từ riêng dùng để chỉ các bộ phận trên cây đàn.
3 Vằn gỗ trên đàn, cái nào như lông trâu là thứ đàn tốt.
Từ khi Đại Ngọc quyết định tự hại thân mình, dần dần ốm liệt, cuối cùng không ăn uống được nữa. Trước đấy, trong khoảng mười ngày, bọn Giả mẫu thay phiên nhau đến trông nom, có đôi khi Đại Ngọc còn nói một vài câu, nhưng hôm ấy thì rất ít nói. Tâm thần có lúc mê man, cũng có lúc tỉnh táo. Bọn Giả mẫu thấy bệnh tình như không phải vô cớ mà sinh ra, nên đã tra hỏi bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn một vài lần, nhưng hai người không dám nói rõ. Tử Quyên cũng muốn hỏi lại Thị Thư đầu đuôi câu chuyện, nhưng cứ sợ càng rõ sự thật thì Đại Ngọc càng mau chết, nên khi gặp Thị Thư, chị ta không hề nhắc đến chuyện ấy. Về phần Tuyết Nhạn thì biết rõ chính vì mình buột miệng mà gây nên cơ sự dường này. Chị ta chỉ tiếc không có thể có ngàn miệng để thốt rằng “tôi không nói”, cho nên lại càng không dám nhắc đến chuyện ấy.
Đến hôm Đại Ngọc không ăn uống được nữa, Tử Quyên nghĩ không còn hy vọng, ngồi bên cạnh khóc lóc một hồi, rồi đi ra nói trộm với Tuyết Nhạn:
– Em vào trong nhà mà ngồi, trông nom cô cho cẩn thận, để chị đi trình với cụ, bà Hai và mợ Hai, chứ xem quang cảnh hôm nay thì không phải như mọi ngày nữa đâu.
Tuyết Nhạn vâng lời. Tử Quyên đi ra. Tuyết Nhạn ở trong phòng ngồi bên Đại Ngọc, thấy cô ta mê man im lìm. Tuyết Nhạn còn trẻ chưa bao giờ thấy quang cảnh ấy, nên cứ tưởng rằng như thế là đã chết rồi, trong lòng vừa thương vừa sợ, chỉ mong sao Tử Quyên về nhanh cho. Đang khi sợ hãi, thì nghe ngoài cửa sổ có tiếng chân đi, Tuyết Nhạn chắc là Tử Quyên đã về, trong lòng mới yên, vội vàng đứng dậy vạch màn ra chờ. Bỗng nghe ở ngoài có tiếng vạch màn sột soạt, một người đi vào, thì ra đó là Thị Thư.
Số là Thị Thư được Thám Xuân sai đến hỏi thăm Đại Ngọc. Thấy Tuyết Nhạn vạch màn. chị ta liền hỏi:
– Cô ra sao rồi?
Tuyết Nhạn gật đầu bảo Thị Thư vào. Thị Thư bước vào không thấy Tử Quyên. Nhìn Đại Ngọc thì chỉ còn chút hơi tàn thoi thóp, chị ta giật mình sợ hãi, liền hỏi:
– Chị Tử Quyên đâu rồi?
– Đi báo với trên nhà rồi.
Lúc bấy giờ Tuyết Nhạn tưởng rằng Đại Ngọc chẳng biết gì nữa, lại thấy Tử Quyên cũng không ở đấy, liền khẽ nắm tay Thị Thư mà hỏi:
– Trước đây chị nói với tôi, ông Vương nào đó làm mối cho cậu Hai Bảo có thật không?
– Sao lại không thật.
– Bao giờ thì đi dạm đấy?
– Làm gì mà đã nhất định được? Trước đây tôi nói với chị là tôi nghe chị Tiểu Hồng kể lại. Sau tôi đến bên nhà mợ Hai, thấy mợ ấy đang nói với chị Bình rằng: “Đó chẳng qua là bọn gia khách muốn mượn việc để xu nịnh với ông lớn để sau này dễ nhờ vả đó thôi. Chưa nói là bà Cả cũng cho rằng không tốt, chứ nếu bà Cả có bằng lòng cho rằng là tốt đi nữa, thì con mắt của bà ấy cũng làm gì mà biết được người tốt người xấu? Hơn nữa trong lòng cụ đã định sẵn người rồi, người ấy cũng ở trong vườn này, bà Cả biết sao được. Chẳng qua vì ông lớn nói, nên cụ bất đắc dĩ phải hỏi qua đấy thôi. Tôi lại nghe mợ Hai nói: Việc của cậu Bảo, cụ đã quyết định cho cậu ấy lấy người thân thích, dù cho ai đến mối lái, cũng chẳng ăn thua.
Tuyết Nhạn nghe nói đến đó, quên không nghĩ gì nữa, liền nói:
– Nói cái gì thế? Thế mà làm chết oan đời của cô tôi rồi!
– Tại sao thế?
– Chị còn không biết à! Cũng vì trước đây tôi với chị Tử Quyên nói đến câu chuyện ấy, cô tôi nghe, nên mới nông nỗi này.
– Chị nói khe khẽ chứ, coi chừng cô nghe thấy đấy.
– Cô tôi mê man chẳng còn biết gì nữa, coi chừng, chẳng qua cũng trong vài hôm thôi.
Hai người đang nói thì thấy Tử Quyên vén màn vào nói:
– Chết chưa? Các chị muốn nói chuyện sao không đi ra ngoài mà nói, lại nói ở đây! Cứ làm thế thì cô tôi chết đi còn gì.
Thị Thư nói:
– Tôi không ngờ có việc lạ như thế.
– Thôi đi chị, tôi nói chị đừng giận. Chứ chị thì biết cái quái gì? Biết thì đã không mách lẻo những chuyện ấy.
Ba người đang nói, bỗng nghe Đại Ngọc ho một tiếng. Tử Quyên vội vàng chạy lại đứng trước giường. Thị Thư và Tuyết Nhạn cũng đều đứng im. Tử Quyên khom lưng đứng sau Đại Ngọc hỏi khẽ:
– Cô uống một hớp nước nhé!
Đại Ngọc ừ một tiếng nho nhỏ, Tuyết Nhạn vội vàng rót nửa chén nước sôi, Tử Quyên đỡ lấy, Thị Thư cũng đi lại gần. Tử Quyên lắc đầu ra hiệu cho Thị Thư bảo đừng nói. Thị Thư đành đứng im. Một chốc Đại Ngọc lại ho. Tử Quyên nhân dịp hỏi:
– Cô uống nước nhé!
Đại Ngọc lại khẽ ừ, ý muốn cất đầu dậy, nhưng cất sao nổi. Tử Quyên bò lên giường, ghé lại bên mình, tay bưng nước, thử xem nóng hay lạnh, đưa lại bên môi, đoạn đỡ đầu Đại Ngọc lại bên chén uống một hớp. Tử Quyên định cất chén đi, nhưng Đại Ngọc còn muốn uống hớp nữa. Tử Quyên đỡ lấy chén. Đại Ngọc lại uống một hớp đoạn lắc đầu không uống nữa, thở một hơi mạnh rồi lại nằm xuống. Hồi lâu, Đại Ngọc hé mắt, nói:
– Vừa rồi có phải chị Thị Thư nói chuyện đấy không?
– Dạ phải.
Lúc đó Thị Thư chưa đi ra, vội vàng bước lại hỏi thăm. Đại Ngọc mở mắt ra nhìn, gật gật đầu, nghỉ một tý rồi nói:
– Chị về gửi lời hỏi thăm cô nhà nhé!
Thị Thư thấy thế, tưởng Đại Ngọc ghét mình, đành phải khe khẽ lui ra.
Thì ra, Đại Ngọc tuy bệnh nặng, nhưng vẫn còn tỉnh táo. Ban đầu Thị Thư và Tuyết Nhạn nói chuyện, cô ta cũng nghe lơ mơ được một đôi câu, tuy làm như không biết, nhưng thì ra thì cũng không có tinh thần để nghĩ đến nữa. Đến khi nghe câu chuyện của hai người cô ta mới hiểu rõ là việc Bảo Ngọc dạm vợ trước đây chỉ mới bàn thôi, chứ chưa quyết định. Lại nghe Thị Thư nói theo lời Phượng Thư thì ý định của cụ là định dạm người thân thích; người này lại ở trong vườn, vậy chẳng phải mình, còn ai nữa? Nghĩ vậy, Đại Ngọc bỗng thấy khoan khoái tỉnh táo ra nhiều, nên vừa uống xong hai hớp nước lại muốn hỏi chuyện Thị Thư. Vừa lúc ấy thì Giả mẫu, Vương phu nhân, Lý Hoàn, Phượng Thư, nghe Tử Quyên nói, đều vội vàng đến thăm. Trong bụng Đại Ngọc đã hết ngờ vực, tất nhiên không muốn chết nữa. Mặc dù thân thể yếu đuối, tinh thần bạc nhược, cô ta cũng gắng gượng trả lời một vài câu. Phượng Thư thấy thế, liền gọi Tử Quyên hỏi:
– Cô cũng chẳng đến nỗi nào. Tại sao chị lại làm chúng tôi thất kinh thế?
– Ban đầu thấy rất nguy kịch, chúng cháu mới đi trình. Khi về thấy cô cháu đỡ nhiều, thật là kỳ quặc.
Giả mẫu cười, nói:
– Cháu cũng đừng có trách nó. Nó biết cái gì? Thấy nguy thì nó đi trình, đó là nó biết việc đấy. Bọn trẻ con đừng có vụng miệng biếng chân là được.
Nói chuyện một lát, chắc Đại Ngọc không can gì, bọn Giả mẫu ra về cả. Thật là:
Bệnh tim lấy thuốc tim mà chữa,
Cởi nhạc là người buộc nhạc đây.
Bệnh Đại Ngọc dần dần khỏi. Tuyết Nhạn và Tử Quyên đều thầm cảm ơn đức Phật. Tuyết Nhạn nói với Tử Quyên:
– Cũng lạ! Thực là may cô đã khỏi. Nhưng khi ốm cũng lạ mà khỏi ốm cũng lạ!
– Ốm thì có gì mà lạ, chỉ khi khỏe mới thật là lạ. Chắc cậu Bảo với cô ấy là đôi nhân duyên trời định. Người ta hay nói: “Sự đời đa đoan”. Lại nói: “Cá đã cắn câu, khó lòng giữ nổi”. Cứ thế suy ra, lòng người ý trời, thật là duyên lành xe lại. Nhớ năm nọ, tôi nói cô Lâm sắp về Nam, cậu Bảo suýt chết, trong nhà cuống cả lên; nay chỉ vì một câu nói, lại làm cô Lâm chết đi sống lại. Thật đúng câu: “Duyên nợ ba sinh, trăm năm định sẵn”.
Hai người chuyện trò với nhau rồi cũng cười. Tuyết Nhạn lại nói:
– May sao cô khoẻ được, sau này chúng ta đừng nói nữa, dù mắt trông thấy cậu Bảo cưới con gái nhà ai, tôi cũng không dám hé răng nói nửa lời.
– Phải đấy.
Chẳng những Tuyết Nhạn; Tử Quyên bàn bạc thầm, mà đến cả mọi người cũng đều thấy Đại Ngọc bệnh lạ lùng, khỏi cũng lạ lùng, nên họ tụm năm tụm ba, lao xao bàn tán. Ít lâu, cả Phượng Thư cũng biết. Hình phu nhân và Vương phu nhân thì có phần ngờ vực, còn Giả mẫu cũng đã đoán được tám chín phần, một hôm bọn Hình phu nhân, Vương phu Nhân, cùng Phượng Thư đều ở trong phòng Giả mẫu nói chuyện phiếm, nhân nói đến bệnh tình của Đại Ngọc. Giả mẫu nói:
– Ta đang định nói với các người, thằng Bảo và con Lâm từ nhỏ ở chung một chỗ, ta tưởng rằng chúng nó còn trẻ con, không ngại gì. Sau này nghe nói con Lâm khi thì đau, khi thì khỏe, chính vì chúng nó đã hiểu biết ít nhiều sự đời. Cho nên ta nếu cứ để chúng ở chung một chỗ mãi, sợ không ra thể thống gì, các người nói sao?
Vương phu nhân nghe nói, ngẩn người ra một chốc rồi đáp:
– Cô Lâm là người biết cân nhắc. Còn thằng Bảo thì ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, chẳng biết giữ ý giữ tứ gì cả. Cứ nhìn bề ngoài, chúng đều ra vẻ trẻ con. Bây giờ bỗng dưng tách một đứa ra khỏi vườn, chẳng phải là lộ hình tích hay sao? Người xưa nói: “Trai lớn lấy vợ, gái khôn lấy chồng”. Cụ lo liệu việc của chúng đi thôi.
Giả mẫu cau mày nói:
– Con Lâm tính tình tinh ranh, đó cũng là điều tốt của nó, nhưng ta không muốn dạm nó cho Bảo Ngọc, cũng chỉ vì điều đó. Vả lại nó yếu đuối như thế, sợ không thọ. Chỉ có con Bảo là tốt hơn hết.
Vương phu nhân nói:
– Chẳng những cụ nghĩ như thế, mà chúng con cũng đều nghĩ như thế cả. Nhưng đối với cô Lâm, cũng cần kén rể cho cô ta mới được. Con gái đã lớn, ai mà chẳng có tâm sự? Nếu nó có tình riêng với thằng Bảo, khi nghe nói thằng Bảo cưới con Bảo, tất sẽ xảy ra chuyện không hay.
Giả mẫu nói:
– Thế nào cũng cưới vợ cho thằng Bảo đã rồi mới kén chồng cho con Lâm được. Không đời nào lại lo việc người ngoài trước rồi mới đến người nhà. Vả lại, con Lâm còn kém thằng Bảo hai tuổi, theo như ý các người thì đừng cho nó biết việc dạm vợ cho thằng Bảo là được.
Phượng Thư liền dặn bọn a hoàn:
– Chúng mày nghe chưa? Việc cậu Bảo dạm vợ không được nói ồn lên. Đứa nào bép xép thì liệu hồn đấy.
Giả mẫu lại nói với Phượng Thư:
– Cháu Phượng này! Từ khi cháu không được khỏe, cháu không trông nom gì đến việc trong vườn, ta nói với cháu cần phải chú ý mới được. Không những việc này, chứ năm trước đây, bọn chúng uống rượu đánh bạc, đều không phải là việc vừa đâu. Cháu phải cẩn thận, chịu khó để ý cấm ngặt bọn chúng mới được. Ta xem chúng chỉ nghe theo cháu mà thôi.
Phượng Thư vâng lời. Mấy người lại nói chuyện một lúc rồi ai về nhà nấy.
Từ đó Phượng Thư thường đến vườn trông nom mọi việc. Một hôm vào vườn, vừa đến bãi Tử Lăng, bỗng nghe một bà già đang làm ầm lên. Phượng Thư đến nơi, bà kia mới biết, liền khép nép chào. Phượng Thư nói:
– Bà làm gì mà ầm lên thế?
– Nhờ ơn các mợ bảo tôi ở đây trông nom hoa quả. Tôi không hề có gì sai lầm, không ngờ con a hoàn của cô Hình bảo tôi là kẻ trộm.
– Tại sao vậy?
– Hôm qua cháu Hắc nhà chúng tôi theo tôi vào đây chơi một lúc. Nó không biết gì, lại vào bên nhà cô Hình xem. Tôi bảo nó về. Hôm nay sáng dậy nghe a hoàn cô Hình nói mất trộm đồ vật. Tôi hỏi nó mất gì, nó liền hỏi vặn tôi.
– Nó mới hỏi bà một tiếng, thì đã đến nỗi gì mà bà phải giận.
– Vườn này là vườn của các mợ, chứ không phải là vườn nhà họ. Chúng tôi đều là ngtời mợ sai khiến, khi nào lại nhận cái tiếng ăn trộm ấy.
Phượng Thư nhổ toẹt vào mặt bà ta, rồi quát:
– Bà đừng có quen thói la xa lát xát trước mặt tôi! Bà coi vườn ở đây, các cô lại mất trộm, đáng lẽ các bà phải hỏi cho ra mới được. Tại sao lại nói nhảm nhí như thế? Gọi bà Lâm đến đây, đuổi cổ nó ra!
A hoàn vâng lời sắp đi thì thấy Hình Tụ Yên vội vàng chạy đến, đón Phượng Thư rồi cười, nói:
– Mợ không nên làm thế, không hề gì cả, việc đã qua rồi.
Phượng Thư nói:
– Cô ạ, có phải vì thế đâu. Chưa nói gì đến công việc, chỉ về phận sự bà ấy cũng không có lý được nói như thế!
Tụ Yên thấy bà già quỳ dưới đất xin tha, liền mời Phượng Thư vào trong nhà ngồi. Phượng Thư nói:
– Tôi biết cả rồi. Bọn ấy trừ tôi ra thì không kể gì trên dưới cả.
Tụ Yên cứ xin hộ cho bà già mãi, và nói tại con a hoàn mình dại, Phượng Thư nói:
– Ta nể mặt cô Hình tha cho bà một lần này.
Bà già đứng dậy lạy tạ Phượng Thư và Tụ Yên, rồi đi ra.
Phượng Thư cười, hỏi Tụ Yên:
– Cô mất cái gì?
– Có gì quan trọng đâu, tôi mất một cái áo lót màu hồng đã cũ. Tôi bảo nó tìm, không thấy thì thôi. Con bé không hiểu việc lại đi hỏi bà già ấy, tất nhiên bà ta không chịu nhịn. Chẳng qua vì con bé dại dột, tôi đã mắng nó mấy câu. Việc đã qua rồi mợ không nên nhắc lại nữa.
Phượng Thư nhìn Tụ Yên, thấy trong người có mặc áo bông, áo dạ, nhưng đều rung rúc, chưa chắc đủ ấm, chăn nệm thì phần nhiều mỏng manh! Những đồ bài trí trên bàn ở trong phòng, là những đồ của Giả mẫu đưa đến, nhưng đều thu cất sạch, chưa hề động đến một tý gì. Phượng Thư rất mực kính mến, liền nói:
– Một cái áo, tuy không quan trọng gì, nhưng trời lạnh, lại là áo mặc lót, tại sao cô không hỏi? Quân láo lếu kia ghê thật!
Phượng Thư đi đến các nơi, ngồi một lúc, rồi ra về. Tới phòng, gọi Bình Nhi lấy một chiếc áo lót lụa tây cải hoa đỏ, một chiếc áo da bọc lụa màu hoa tùng, một chiếc quần bông bọc gấm thêu hoa, màu lam, một chiếc áo khoác bằng da chuộc bạch, gói lại cẩn thận đưa cho Tụ Yên. Lúc đó, Tụ Yên vừa bị bà già kia đay nghiến một hồi, tuy có Phượng Thư đến đe nẹt, nhưng trong lòng vẫn khó chịu, nghĩ bụng: “Các chị em ở trong vườn này, bọn người hầu không ai dám động đến, duy có mình là chúng nói thế này thế khác, lại giữa lúc chị Phượng đi đến trông thấy”. Tụ Yên càng nghĩ càng thấy khó coi, lại càng không thể nói ra. Vừa đang nghẹn ngào muốn khóc, bỗng thấy Phong Nhi ở bên nhà Phượng Thư đưa gói áo đến. Tụ Yên trông thấy, nhất định không chịu nhận.
Phong Nhi nói:
– Mợ Hai dặn cháu thưa với cô; nếu cô chê áo cũ, thì sau xin đưa áo mới đến.
Tụ Yên cười nói:
– Cám ơn mợ có lòng tốt. Nhân khi tôi mất áo, mợ lại đưa áo đến, tôi quyết không dám nhận. Chị cứ đưa về. Tôi xin gửi lời đa tạ mối thịnh tình của mợ, thế là tôi nhận rồi đấy.
Nói đoạn lại biếu Phong Nhi một cái túi. Phong Nhi đành phải đem gói áo về. Chẳng mấy chốc lại thấy Bình Nhi và Phong Nhi đến. Tụ Yên vội vàng đón chào mời ngồi. Bình Nhi cười nói:
– Mợ tôi nói cô thật khách sáo quá.
– Không phải khách sáo, tôi thật không đành lòng.
– Mợ tôi nói: Nếu cô không nhận quần áo này thì hẳn là chê cũ, hay là xem mợ tôi không ra gì. Vừa rồi mợ tôi bảo, nếu tôi lại mang về, thì mợ tôi không bằng lòng đâu.
Tụ Yên đỏ mặt và cảm ơn:
– Nếu như thế, tôi không dám từ chối.
Tụ Yên mời họ uống trà một chốc rồi mới về.
Bình Nhi và Phong Nhi về gần đến nhà thì vừa gặp một bà già ở bên Tiết phu nhân sang, đón lại chào hỏi:
– Bà đi đâu thế? Bà tôi và cô tôi bảo sang hỏi thăm sức khỏe các bà, các mợ các cô. Vừa rồi tôi hỏi thăm, nghe nói cô vào trong vườn, chắc sang bên cô Hình phải không?
– Sao bà biết?
– Tôi vừa nghe nói, thật mợ Hai và các cô ăn ở khiến người ta phải cảm động!
– Mời bà về bên nhà chơi đã.
– Tôi còn bận, xin để hôm khác.
Nói đoạn, bà già ra về.
Binh Nhi về nhà trình lại với Phượng Thư.
Lúc này trong nhà Tiết phu nhân thường bị Kim Quế làm ầm lên như vỡ chợ, nên khi nghe bà già kể lại chuyện Hình Tụ Yên, mẹ con Bảo Thoa đều ứa nước mắt. Bảo Thoa nói:
– Chỉ vì anh Cả không ở nhà nên để cô Hình phải chịu khổ thêm ít ngày nữa. May được chị Phượng ăn ở đúng mực, nhưng dẫu sao cô ấy vẫn là người nhà mình, ta phải để ý mới được.
Hai mẹ con đang bàn tán thi thấy Tiết Khoa vào nói:
– Những người bấy lâu nay giao du với anh Cả đều là hạng không ra gì! Không có một người nào đứng đắn, toàn là lũ chó má cả. Xem chừng thì họ chẳng lo gì cho mình đâu, chẳng qua họ chỉ đến dò la tin tức đó thôi. Hai hôm nay đều bị tôi đuổi đi cả. Sau này dặn người canh cửa đừng cho bọn họ vào nữa.
– Bác tuy có con trai nhưng giờ cũng như không. Dù quan trên có y án cho nó thì cũng là người bỏ đi, Cháu tuy là bậc cháu, nhưng xem ra còn hiểu biết hơn anh cháu nhiều, sau này bác sẽ nhờ vào cháu. Từ nay cháu phải chịu khó học cho khá lên. Vả lại người mà bác định hỏi cho cháu bây giờ nhà cửa sa sút, không được như trước nữa. Con gái nhà người ta đi lấy chồng, không phải là chuyện dễ. Ai cũng thế, cho con gái lấy chồng, chẳng gì hơn ngoài việc mong có một con rể tài giỏi thì con gái sẽ được sung sướng một đời. Nếu con Hình mà cũng như cái đồ này…
Nói đến đó, bà ta giơ tay chỉ vào trong nhà, rồi lại tiếp:
– Bác cũng chẳng buồn nói nữa. Con Hình thật là người biết giữ kẽ, biết tính toán, yên phận nghèo nàn trước cảnh giàu sang, mong sao việc nhà chúng ta qua khỏi, để lo việc cho cháu, cũng là xong được một điều lo lắng của ta.
Tiết Khoa nói:
– Em Cầm chưa về nhà chồng, đó mới là việc bác phải lo. Còn việc cháu có kể gì?
Nói chuyện phiếm một lúc, rồi Tiết Khoa trở về phòng mình. Ăn cơm chiều xong, anh ta nghĩ Hình Tụ Yên ở trong vườn họ Giả, rút cục vẫn là ở nhờ nhà người ta; vả lại cô ta nghèo, ăn tiêu hàng ngày như thế nào, không nói cũng đủ biết. Cô ta là chỗ quen biết trước đây trên quãng đường vào Kinh, dung mạo và tính tình cô ta mình đều rõ cả. Thật là trời ở không công: như hạng Kim Quế thì lại sinh vào con nhà giàu, được nuông chiều sinh ra đanh đá; còn hạng người như Hình Tụ Yên lại chịu khổ chịu sở. Chẳng biết lúc Diêm Vương định số mệnh thì định như thế nào? Ngẫm nghĩ mãi, bực mình cũng muốn làm một bài thơ để tỏ cái nỗi uất ức trong lòng, chỉ bực mình không có thì giờ. Bất đắc dĩ, Tiết Khoa phải viết quấy phá mấy câu:
Rồng không nước tựa cá phơi khô,
Hiu quạnh đôi nơi những thẫn thờ.
Cùng ở bùn lầy nhiều nỗi khổ,
Biết bao giờ đến cõi thanh hư!
Viết xong, xem lại một lượt. Tiết Khoa định dán lên tường, nhưng lại lưỡng lự nghĩ thầm: “Lỡ người ta trông thấy, họ sẽ cười chết”. Tiết Khoa lại đọc một lần nữa, rồi nghĩ: “Kệ họ! Ta cứ dán lên, đọc cho đỡ buồn”. Rồi đọc một lần cuối cùng, thấy chẳng hay ho gì, bèn đem gấp vào trong sách. Tiết Khoa nghĩ bụng: “Mình nay đã lớn, trong nhà lại gặp tai bay vạ gió, không biết ngày nào thu xếp xong, khiến cho cô ta chiếc thân liễu yếu nơi buồng the, đành chịu phận cô đơn vắng vẻ!”
Tiết Khoa đang nghĩ ngợi, thấy Bảo Thiềm đẩy cửa vào, miệng cười ranh mãnh, tay bưng một cái hộp, đặt lên trên bàn. Tiết Khoa đứng dậy mời ngồi. Bảo Thiềm nhìn Tiết Khoa rồi cười nói:
– Đây là bốn đĩa quả và một hồ rượu, mợ Cả bảo đưa biếu cậu.
Tiết Khoa cười:
– Cảm ơn chị Cả! Bảo đứa nhỏ nào đưa đến cũng được, sao lại phiền đến chị?
– Cậu nói hay lắm! Người nhà cả, sao cậu lại nói giọng khách sáo thế? Vả lại, việc cậu Cả nhà ta làm cho cậu phải lo lắng, lâu nay mợ Cả muốn tìm món gì tạ ơn cậu. Nhưng lại sợ người ta ngờ vực. Cậu chẳng lạ gì người trong nhà chúng ta “miệng thơn thớt, bụng ớt cay”, biếu chút lễ vật chẳng có gì là quan trọng, nhưng rồi họ lại bĩu mồm bĩu miệng, bàn ra tán vào. Vì thế hôm nay mợ tôi chỉ đưa mấy thứ quà nhỏ mọn và một hồ rượu, bảo tôi đưa đến biếu cậu.
Chị ta nói đến đó lại cười, lườm Tiết Khoa một cái rồi tiếp:
– Sau này cậu đừng nói thế nữa, khó coi lắm. Chúng tôi chẳng qua là hạng người dưới, đã hầu hạ cậu Cả được thì hầu hạ cậu Hai cũng chẳng hề gì?
Tiết Khoa vốn người thực thà, lại còn trẻ tuổi, chưa từng thấy Kim Quế và Bảo Thiềm đối với mình như thế bao giờ, nghe Bảo Thiềm nói vì việc của Tiết Bàn mà đến thì cũng có tình, có lý liền nói:
– Chị để quả đó, còn rượu thì chị đem về thôi. Xưa nay tôi uống rượu rất ít, khi gặp việc ngẫu nhiên uống một chén chứ ngày thường rỗi rãi tôi có uống được đâu. Không lẽ chị Cả và chị lại không biết hay sao?
– Việc khác còn có thể được, chứ việc này thì tôi không dám vâng lời. Cậu còn lạ gì tính khí của mợ Cả, nếu tôi đem về, mợ ấy sẽ không nói là cậu không uống mà lại nói là tôi không chịu tận tâm.
Tiết Khoa chẳng biết làm thế nào, đành phải để lại.
Bảo Thiềm đang định ra, lại chạy ra cửa ngoài nhìn ngang nhìn ngược rồi ngoảnh lại nhìn Tiết Khoa cười, giơ tay chỉ vào phía trong mà nói:
– Không khéo mợ Cả còn thân hành đến cảm ơn cậu nữa kia.
Tiết Khoa chẳng biết Bảo Thiềm có ý gì mà có vẻ trơ tráo liền bảo:
– Nhờ chị nói hộ với chị Cả, trời rét lắm, coi chừng kẻo bị lạnh đấy. Chỗ chị em trong nhà, cần gì phải như thế.
Bảo Thiềm không đáp, cười rồi đi ra.
Tiết Khoa ban đầu cho rằng Kim Quế quả thực cảm ơn về việc của Tiết Bàn, nên đem quả và rượu biếu mình. Cái đó cũng có lý. Đến khi thấy Bảo Thiềm thậm thậm thụi thụi có vẻ không đứng đắn, trong bụng cũng đoán ra một vài phần, nhưng lại nghĩ: “Chị ta là bậc chị dâu, có lẽ nào lại có tình ý gì. Hoặc giả, Bảo Thiềm không đứng đắn, tự mình không tiện nói ra, mới mượn tiếng Kim Quế cũng chưa biết chừng. Dù sao, nó cũng là người hầu anh mình, như thế cũng không tốt”. Bỗng lại nghĩ: “Kim Quế ngày thường không có gì là khuôn phép của con nhà khuê các, khi thích lên thì ăn mặc lộng lẫy khác thường, cứ cho mình đẹp, biết đâu không nảy lòng bậy bạ. Nếu không thì chắc giữa chị ta với em Cầm có điều gì không bằng lòng với nhau, nên bày ra mưu kế thâm độc, định đầy mình xuống vũng nước bẩn, để mình mang tiếng oan, cũng chưa biết chừng!” Nghĩ đến đó, Tiết Khoa đâm ra sợ hãi. Đang khi lo nghĩ chưa biết làm thế nào, bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng cười khanh khách làm anh ta giật nẩy mình.
Tiết Khoa đang ngờ vực, bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng cười khanh khách, liền giật nẩy mình, nghĩ bụng: Không phải Bảo Thiềm chắc là Kim Quế. Mình cứ mặc họ, xem họ giở trò gì? Giờ lâu lại thấy im lặng. Tiết Khoa cũng không dám uống rượu, ăn quả, bèn đóng cửa lại. Vừa định cởi áo đi nằm, bỗng nghe ở mảnh giấy dán cửa sổ có tiếng động khe khẽ. Tiết Khoa vừa bị Bảo Thiềm quấy rầy xong, trong bụng lo lắng không biết nên làm thế nào. Thấy tờ giấy dán cửa sổ rung động, nhìn kỹ lại im lặng, không có gì, Tiết Khoa đâm ra ngờ vực, ngồi trước đèn suy nghĩ miên man; lại cầm lên một quả, lật đi lật lại xem kỹ. Chợt ngoảnh đầu lại thấy mảnh giấy trên cửa sồ ướt một chỗ, hắn liền chạy lại ghé mắt nhìn, bất thình lình ở ngoài có người thổi phụt vào một cái, làm hắn giật mình. Nghe ngoài có tiếng cười khanh khách, Tiết Khoa vội vàng thổi tắt đèn, nín hơi nằm. Bỗng bên ngoài có tiếng người nói:
– Cậu Hai không ăn quả uống rượu mà đã đi ngủ?
Đúng là giọng của Bảo Thiềm, Tiết Khoa giả vờ ngủ không đáp. Một lát lại nghe có tiếng nói tức tối:
– Thiên hạ lại có hạng người vô tình đến thế?
Tiết Khoa nghe câu ấy giống như giọng nói của Bảo Thiềm, mà cũng giống như giọng nói của Kim Quế, lúc đó mới rõ ý tứ của bọn họ. Tiết Khoa trằn trọc mãi đến canh năm mới ngủ.
Giời vừa sáng thì thấy có người gõ cửa. Tiết Khoa vội hỏi: Ai thế? Chẳng thấy ai trả lời, Tiết Khoa đành phải dậy mở cửa ra xem thì thấy Bảo Thiềm đầu vấn tóc, che bụng, mình mặc một cái áo chẽn viền gấm, thắt lưng màu hoa tùng đã hơi cũ, bên dưới chỉ mặc cái quần lót màu thạch lựu, chân đi đôi giày đỏ mới thêu. Thì ra nó sợ người ngoài trông thấy, nên chưa kịp chải đầu rửa mặt đã vội đến lấy đồ đựng quà hôm qua đưa đến. Tiết Khoa thấy nó ăn mặc như thế, lòng cũng nao nao, liền cười hỏi:
– Chị dậy sớm thế?
Bảo Thiềm đỏ mặt không nói, chỉ đem các thứ quả trút chung vào cái đĩa lớn, rồi bưng lấy hộp đi ra.
Tiết Khoa thấy thế, biết là vì câu chuyện đêm qua, nghĩ bụng: Cũng được, nếu chị ta giận, bỏ hẳn cái thói ấy đi, không đến quấy rầy nữa, mình cũng rảnh. Nghĩ như thế hắn thấy yên tâm, sai người múc nước rửa mặt, định ngồi yên trong nhà vài hôm, một là để khoan khoái tinh thần, hai là sợ đi ra lại có người tìm hỏi lôi thôi.
Những kẻ trước kia đi lại với Tiết Bàn, thấy nhà họ Tiết thiếu người, chỉ còn có một mình Tiết Khoa coi việc, tuổi lại còn trẻ, nên họ sinh lòng dòm ngó. Có người muốn luồn lụy để chạy chọt; có người biết làm đơn hoặc quen một vài người thơ lại, muốn nhận việc lo lót trên dưới ; thậm chí có người định nhân dịp này bớt xén; có người lại bịa đặt những chuyện không đâu để dọa dẫm hắn, thật là mỗi người một cách. Tiết Khoa thấy bọn họ thì tránh xa, nhưng lại không dám từ chối thẳng, sợ gây ra tai vạ bất ngờ, cho nên cứ ngồi lì trong nhà để chờ giấy tờ trình lên quan trên xem sao.
Đêm qua Kim Quế sai Bảo Thiềm đưa rượu và quả cho Tiết Khoa để dò la ý tứ. Bảo Thiềm trở về kể lại bộ dạng của Tiết Khoa cho Kim Quế nghe. Kim Quế thấy việc này không ổn, sợ vỡ chuyện, bị Bảo Thiềm khinh, định kiếm chuyện lấp liếm cho qua; nhưng lại không nở bỏ người ấy đi, thành ra trong bụng lúng túng, chỉ ngồi thừ người ra. Còn Bảo Thiềm cũng nghĩ rằng Tiết Bàn khó lòng về nhà, đang định tìm con đường khác. nhưng lại sợ Kim Quế bắt tội, nên không dám để lộ ra. Nay thấy Kim
Quế lâm như thế, tức là đã mở đường trước rồi. Nó định nhân gió buông buồm, nắm Tiết Khoa vào tay mình trước, không sợ Kim Quế cản trở nữa, nên dùng lời khêu gợi. Xem Tiết Khoa không phải là người vô tình, nhưng cũng khó bắt mồi, nên nó không
dám sỗ sàng. Sau thấy Tiết Khoa tắt đèn đi ngủ, nó bực bội quay về nói lại với Kim Quế, xem Kim Quế có cách gì không, rồi sẽ liệu. Đến khi thấy Kim Quế ngồi thừ ra, hình như không có mưu kế gì cả. Bảo Thiềm đành phải dọn dẹp cùng Kim Quế đi ngủ. Nhưng cả đêm nó không sao ngủ được, nghĩ mãi mới ra một kế: “Chi bằng sáng dậy mình giả làm bộ đi lấy hộp đựng ăn mặc quần áo hoa hòe lộng lẫy, cũng không chải đầu rửa mặt cho thêm vẻ yêu kiều, để ý xem Tiết Khoa ra sao, còn mình thì giả làm bộ giận dỗi không thèm nhìn. Nếu Tiết Khoa có lòng ăn năn, thế nào
hắn cũng dời thuyền theo bến, thì lo gì mình chả vớ được trước.” Bảo Thiềm định sẵn mưu mô như thế. Khi vào phòng Tiết Khoa lấy hộp, thấy hắn vẫn giữ ý như đêm qua, không có tình tứ gì cả, đành phải lấy giả làm thật, bưng cái hộp về, nhưng lại cố ý để hồ rượu lại, lần sau lấy cớ đến ve vãn. Về đến phòng, bỗng thấy Kim Quế hỏi:
– Cô đem quà đi, có ai thấy không?
– Không ạ.
– Cậu Hai cũng không hỏi gì à?
– Không ạ.
Kim Quế suốt đêm không ngủ, cũng không tìm ra được kế gì trong bụng nghĩ thầm: ” Mình làm việc ấy giấu người khác chứ không thể giấu Bảo Thiềm được. Chi bằng ta chia cho nó một phần thì nó không nói gì nữa. Vả lại, mình không thể đi được thế nào cũng phải nhờ nó làm tay trong. Tốt hơn cả là cùng nó bàn định kế hoạch cho ổn thỏa.” Kim Quế nghĩ vậy rồi cười hối:
– Cô xem cậu Hai là người thế nào?
– Xem ra là người hồ đồ lắm.
Kim Quế nghe nói. liền cười:
– Tại sao cô dám nói xấu các cậu như thế?
– Cậu ta phụ lòng mợ thì tôi có quyền nói chứ!
– Cậu ta phụ lòng tôi như thế nào, cô nói xem nào?
– Mợ đưa của ngon cho cậu ta ăn mà cậu ta không ăn, không phải phụ lòng mợ là gì.
Nói đến đó Bảo Thiềm lườm Kim Quế một cái rồi cười.
– Cô đừng nghĩ tầm bậy. Tôi đưa quà cho cậu ta là vì việc cậu Cả. Cậu ta không ngại khó nhọc cho nên tôi mới kính trọng, lại sợ người ngoài nói nhảm, nên mới hỏi cô. Cô nói những câu ấy với tôi tôi chẳng hiểu ra thế nào cả.
– Mợ đừng ngờ vực, tôi là người hầu mợ. không lẽ lại có hai lòng hay sao? Nhưng việc ấy phải thật kín đáo mới được ; nếu lộ ra thì chẳng phải chuyện chơi đâu.
Kim Quế thấy má mình nóng bừng lên, liền nói:
– Con này tệ thật! Chừng bụng mày cũng thích cậu ấy rồi nên đem tao ra làm bung xung phải không?
– Mợ nghĩ thế thôi, chứ riêng tôi thì tôi bực thay cho mợ. Nếu mợ thích cậu Hai thì tôi sẽ có một cách. Mợ nghĩ mà xem, mèo nào lại chẳng ăn vụng mỡ? Cậu ấy chẳng qua chỉ sợ việc không kín đáo xẩy ra chuyện không hay thì bẽ mặt đấy thôi. Theo ý
tôi mợ đừng có vội. Ngày thường cậu ta thiếu thốn cái gì, mợ cứ để ý trông nom giúp. Cậu ta là em chồng, lại chưa có vợ, nếu mợ tận tâm giúp đỡ ít nhiều, ăn ở cho thân mật, người khác cũng chẳng nói được gì. Ít lâu cậu ấy cảm ơn mợ, thế nào cũng đến tạ ơn. Lúc đó, mợ lại sấp sẵn ít món ăn trong nhà, tôi sẽ giúp mợ đổ rượu cho cậu ấy say mèm đi, thì cậu ấy có chạy đằng trời? Nếu cậu ta không bằng lòng thl chúng ta sẽ dọa là cậu ấy đến đùa ghẹo mợ. Cậu ta sợ, thế nào cũng phải nghe theo chúng ta. Nếu không nghe thì cũng chẳng phải là con người nữa, mà chúng mình cũng không đến nỗi muối mặt một cách vô ích! Mợ thấy thế nào?
Kim Quế mới nghe mấy câu ấy, hai gò má đỏ ửng lên, cười và mắng
– Con ranh này. Chắc mày đã thầm vụng với nhiều thằng con trai rồi thì phải! Chả trách khi cậu Cả ở nhà, không rời được mày!
Bảo Thiềm bĩu môi một cái, cười nói:
– Thôi đi! Người ta đang bày vẽ cho mợ. Mợ lại nói với chúng tôi những câu ấy!
Từ đó về sau, Kim Quế cứ một mực níu chặt lấy Tiết Khoa, không nghĩ gì đến việc làm ầm ĩ, nên trong nhà hơi được yên tĩnh. Ngày hôm đó, Bảo Thiềm vào phòng Tiết Khoa lấy hồ rượu, vẫn làm ra vẻ đứng đắn, mặt mày có vẻ nghiêm chỉnh lắm.
Tiết Khoa liếc mắt trong thấy, trong lòng ăn năn: ” Có lẽ mình nghi bậy cho họ cũng chưa biết chừng. Nếu quả như vậy thì mình đã phụ lòng tốt của họ, biết đâu vài hôm nữa họ chả quấy rầy, như thế chẳng phải là vì mình gây nên sao?”
Vài ngày sau, trong nhà rất yên tĩnh, Tiết Khoa hễ gặp Bảo Thiềm thì chị ta cúi đầu mà đi, không hề ngước mắt nhìn ; gặp Kim Quế thì lại hết sức thân mật. Tiết Khoa thấy thế lại càng áy náy trong lòng.
Mẹ con Bảo Thoa thấy mấy hôm nay Kim Quế yên tĩnh, đối đãi với mọi người, lại có vẻ thân mật thì đều cho là việc hiếm có. Tiết phu nhân mừng rỡ nghĩ bụng: “Chắc là khi Tiết Bàn cưới vợ có xung khắc gì đó, cho nên mấy năm trời be bét như thế. Nay xảy tai vạ, may nhờ trong nhà mình có tiền lại được phủ Giả giúp sức, nên mới có hy vọng. Thế rồi bỗng nhiên con dâu yên tĩnh khác trước, hoặc giả thằng Bàn đến lúc gặp may cũng chưa biết chừng. Bà ta cho là đều lạ lùng hiếm có.
Ngày hôm đó, sau khi ăn cơm. Tiết phu nhân vịn vai a hoàn Đồng Quý định đến phòng Kim Quế chơi. Đến giữa sân, chợt nghe có tiếng đàn ông đang nói chuyện với Kim Quế. Đồng Quý nhanh ý:
– Bà đã đến mợ Cả ạ.
Vừa nói thì Tiết phu nhân đã đến cửa phòng, bỗng thấy có bóng người chạy trốn phía sau cửa. Tiết phu nhân giật mình bước lui ra.
Kim Quế nối:
– Mời mẹ vào trong nhà ngồi, không có ai lạ, đó là em nuôi của con. Nó ở thôn quê. không quen gặp người lạ. Hôm nay nó mới đến, nên chưa kịp đến chào mẹ.
– Có phải là cậu thì mời cậu ra nói chuyện chứ can gì.
Kim Quế liền gọi em ra chào Tiết phu nhân. Hắn vái chào và hỏi thăm sức khoẻ, Tiết phu nhân cũng chào hỏi lại rồi ngồi nói chuyện.
Tiết phu nhân nói:
– Cậu tới kinh bao lâu rồi?
Hạ Tam nói:
– Tháng trước đây mẹ cháu không có người trông nom việc nhà, gọi cháu đến lập tự. Hôm trước cháu tới kinh ; hôm nay đến thăm chị cháu.
Tiết phu nhân thấy hắn có vẻ không đứng đắn, nên chỉ ngồi một lát rồi đứng dậy nói:
– Mời cậu ngồi chơi.
Lại ngoảnh lại bảo Kim Quế:
– Cậu mới đến lần đầu, mời ở đây ăn cơm đã rồi hãy về.
Kim Quế vâng lời, đoạn tiễn Tiết phu nhân ra về. Kim Quế thấy mẹ chồng đi về rồi. liền nói với Hạ Tam:
– Em hãy ngồi đã. Hôm nay thế là đã rõ ràng minh bạch rồi đấy. Khỏi để cậu Hai nhà đây phải xét hỏi. Bây giờ chị nhờ em mua cho một ít đồ vật, nhưng đừng cho ai biết. – Chị cứ giao mặc em. Chị muốn gì. Có tiền là sẽ mua được tất.
– Đừng có nói láo, mua mà bị họ lừa cho thì chị không nhận đâu.
Hai người lại cười cợt hồi lâu. Sau đó Kim Quế ngồi ăn cơm với Hạ Tam, lại bảo hắn mua mấy thức hàng, dặn dò một lúc Hạ Tam ra về.
Từ đó Hạ Tam đi lại luôn luôn. Tuy có một ông già canh cửa, nhưng biết hạ Tam là cậu nên cũng không mấy khi trình với Tiết phu nhân. Do đó, sau này xảy ra lắm chuyện rắc rối.
Một hôm Tiết Bàn gửi thư về, Tiết phu nhân mở ra bảo Bảo Thoa xem, thấy trong thư viết: ” Con ở trong huyện cũng không đến nỗi khổ. Xin mẹ cứ yên tâm. Hôm qua nghe ông thơ lại ở huyện nói, trên phủ đã y án, chắc là ta đã lo lót đến nơi. Không ngờ khi phủ tư lên trên đạo lại bác đi. May nhờ ông thơ lại coi việc văn thơ ớ huyện có lòng tốt, tức khắc làm một công văn trình lên, ở đạo lại có công văn gửi xuống quở trách quan huyện. Hiện giờ trên đạo định bắt lên xét hỏi lại. Nếu bị giải lên đạo thì con lại chịu khổ. Chắc nhà ta chưa lo lót ở đạo. Vậy tiếp thư này mẹ mau mau nhờ người lo với quan đạo, lại phải bảo em Khoa đến đây ngay, không thì sẽ bị giải
đi. Tiền lo thiếu không được đâu! Hỏa tốc! Hóa tốc! “
Tiết phu nhân nghe đọc xong lại khóc một hồi. Bảo Thoa và Tiết Khoa vừa khuyên vừa nói:
– Việc này không nên để chậm!
Tiết phu nhân đành phải bảo Tiết Khoa đi lo liệu mọi việc rồi sai người sắm sửa hành lý, cân một số bạc cùng một người làm việc ở hiệu đi ngay đêm ấy. Tuy có người nhà lo liệu mọi việc. Nhưng Bảo Thoa lại sợ họ thu xếp không đến nơi đến chốn, nên tự tay giúp họ thu xếp, sắm sửa, đến canh tư mới đi nghỉ. Bảo Thoa con nhà giàu, được nuông chiù quen, qua một đêm lo lắng khó nhọc, đến hôm sau đâm phát nóng, không ăn uống được gì. Oanh Nhi liền trình với Tiết phu nhân. Tiết phu nhân liền tới xem thì thấy Bảo Thoa mặt đỏ bừng, người nóng như lửa. Không nói năng gì cả. Tiết phu nhân rụng rời tay chân khóc đến nỗi chết đi sống lại. Bảo Cầm chạy lại khuyên giải. Thu Lãng thấy thế cũng nước mắt ràn ruạ. Cứ đứng một bên khóc. Bảo Thoa nói
không được, chân tay cũng không cử động được. mắt khô mũi ngạt. Mọi người vội vàng mời thầy thuốc đến chữa. Bảo Thoa dần dần tỉnh lại. Tiết phu nhân và mọi người mới hơi yên tâm. Lúc đó cả hai phủ Vinh, Ninh đều đã biết.
Trước hết. Phượng Thư sai người đưa thuốc thập hương phản hổn đan. Sau đó
Vương phu nhân lại đưa “chí bảo đan” đến. Giả mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân và bọn Vưu Thị đều sai a hoàn đến thăm hỏi, nhưng đều giấu không cho Bảo Ngọc biết. Chữa luôn bảy tám ngày vẫn không bớt. Cuối cùng, Bảo Thoa nghĩ đến Lãnh hương hoàn, ăn hai viên, bệnh mới khỏi. Khi Bảo Ngọc biết, thì Bảo Thoa cũng đã khỏi bệnh rồi nên cũng không đến thăm.
Tiết Khoa lại viết thư về. Tiết phu nhân xem qua. Nhưng sợ Bảo Thoa lo lắng, nên không cho biết. Rồi đến cầu cứu với Vương phu nhân, và kể bệnh tình Bảo Thoa.
Tiết phu nhân về rồi. Vương phu nhân lại xin với Giả Chính.
Giả Chính nói:
– Việc này bên trên có thể nhờ được, còn bên dưới thì khó, cần phải lo lót mới xong.
Vọng phu nhân lại nhắc đến việc Bảo Thoa và nói:
– Con cháu ấy, cũng khổ lắm. Đã là người nhà mình cũng nên cưới về sơm sớm, đừng để nó bị dày vò…
– Tôi cũng nghĩ như thế. Nhưng bên nhà họ công việc rối bời, và lại gần hết nửa đông. Năm hết tết đến. Ai cũng phải lo liệu nhiều việc nhà. Vậy mùa đông này hãy dạm hỏi cho nhất định. Mùa xuân sang năm sẽ đưa lễ. Rồi sau ngày sinh nhật cụ, sẽ
định ngày cưới. Bà hãy đem những việc ấy nói cho dì Tiết biết đã.
Vọng phu nhân vâng lời. Hôm sau, Vương phu nhân đem lời của Giả Chính nói lại
cho Tiết phu nhân nghe. Tiết phu nhân cũng cho là phải.
Sau bữa ăn. Vương phu nhân cùng đi với Tiết phu nhân sang nhà Giả mẫu. Mọi người mời nhau ngồi. Giả mẫu hỏi:
– Bà dì mới sang à.
– Cháu sang từ chiều hôm qua. Vì trời tối chưa đến thăm sức khỏe cụ được.
Vương phu nhân đem câu chuyện Giả Chính nói chiều hôm qua, thuật lại cho Giả mẫu nghe. Giả mẫu rất mừng.
Đang nói chuyện thì Bảo Ngọc đến. Giả mẫu liền hỏi:
– Cháu ăn cơm chưa?
– Cháu vừa về. Ăn cơm xong lại định đi học, nhưng đến đây để hầu bà đã. Nghe nói dì đến, nên cháu qua đây chào dì.
Nói đến đó. Bảo Ngọc lại hỏi Tiết phu nhân:
– Chị Bảo đã thật khỏe chưa?
Tiết phu nhân cười nói:
– Khỏe rồi.
Lúc đó mọi người đang nói chuyện, thấy Bảo Ngọc đến nên đều im không nói nữa. Bảo Ngọc ngồi một lát. Thấy Tiết phu nhân không tỏ vẻ thân mật như trước, trong bụng ngờ vực. ” Dù rằng dì ấy đang lo lắng, nhưng không lẽ tất cả đều không nói năng gì… ” Bảo Ngọc nghĩ vậy rồi đi học. Chiều về gặp mọi người rồi đi đến quán Tiêu Tương. Bảo Ngọc vén màn bước vào. Tử Quyên ra đón. Thấy trong nhà không có ai. Bảo Ngọc hỏi:
– Cô gì đâu?
– Cô tôi lên trên nhà. Nghe nói dì Tiết đến. Cô tôi đi hỏi thăm sức khỏe rồi! Cậu Hai không lên trên nhà à?
– Tôi cũng có lên nhưng không thấy cô đâu cả.
– Cô tôi không ở đấy à?
– Không. Vậy cô ấy đi đâu?
– Thế thì tôi cũng không biết được.
Bảo Ngọc vừa muốn đi ra. Bỗng thấy Đại Ngọc cùng Tuyết Nhạn thướt tha đi vào. Bảo Ngọc nói:
– Cô em về đây rồi.
Liền đi theo Đại Ngọc trở lại.
Đại Ngọc đi vào nhà trong, mời Bảo Ngọc ngồi. Tử Quyên lấy một cái áo khoác ngoài cho Đại Ngọc thay rồi Đại Ngọc ngồi xuống, hỏi Bảo Ngọc:
– Anh lên trên ấy có gặp dì không?
– Gặp rồi.
– Dì có nói gì đến tôi không?
– Dì chẳng những không nói gì đến cô, mà ngay đối với tôi cũng không thân mật như trước. Tôi hỏi bệnh chị Bảo. Dì chỉ cười không đáp. Không lẽ dì giận tôi mấy hôm nay không đến hỏi thăm chị ấy hay sao?
– Anh có đến hỏi thăm chị Bảo không?
– Mấy hôm đầu tôi không biết. Hai hôm nay tôi biết, nhưng không đi.
– Thế là thế nào?
– Vì họ không bảo tôi đi. Mẹ tôi không bảo tôi đi. Cha tôi cũng không bảo tôi đi. Tôi đâu dám đi. Nếu cái cửa nhỏ kia còn qua lại được như trước thì một ngày đến hỏi thăm chị ấy mười lần cũng không khó gì. Bây giờ muốn qua bên ấy phải đi vòng ra
ngoài, cho nên không tiện.
– Chị Bảo làm sao biết được duyên cớ ấy?
– Chị Bảo là người biết lượng thứ cho tôi.
– Anh đừng có nghĩ lầm. Chị Bảo càng không thể lượng thứ cho anh được. Không phải dì ốm mà là chị ấy ốm. Lâu nay chúng ta ở chung trong vườn, làm thơ, thưởng hoa, uống rượu, vui vẻ biết mấy! Giờ ở cách biệt ra, anh cũng biết nhà chị ấy xảy ra
tai nạn, chị ấy lại ốm đến thế mà anh cứ như người dưng. Làm sao chị ấy không giận được?
– Thế thì không lẽ chị Bảo lại không than với tôi nữa à: “Chị ta có thân với anh hay không, tôi không biết, tôi chỉ theo lý mà nói thôi.”
Bảo Ngọc nghe nói, trừng mắt nhìn, ngần ngơ một lúc. Đại Ngọc thấy thế cũng mặc kệ, gọi người đốt hương và mở sách ra xem. Bỗng thấy Bảo Ngọc cau mày dậm chân mà nói.
– Tôi nghĩ: sinh ra mình để làm gì. Trong trời đất này chẳng có tôi càng rảnh.
– Đã có mình thì sẽ có nhiều người, đã có nhiều người thì sinh ra vô số chuyện phiền não: Sợ hãi, lừa dối, tơ tưởng cỏn biết bao nhiêu điều rắc rối khác nữa. Điều tôi vừa
nói là câu chuyện đùa, chẳng qua anh thấy dì Tuyết thẩn thờ, buồn bả. Tại sao anh lại có thể ngờ cho chị Bảo được? Dì qua đấy là vì việc anh Tiết Bân, nên bụng dạ như tơ vò, còn đầu óc đâu mà chuyện trò với anh, chỉ vì anh khéo nghĩ vơ nghĩ vấn, đâm ra ngớ ngẩn đấy thôi.
Bảo Ngọc nghe thấy sáng ra, liền cười nói:.
– Đúng lắm, đúng lắm. Cô thông minh hơn tôi nhiều. Chả trách năm trước, lúc tôi tức giận, cô hỏi tôi mấy câu đạo lý nhà Phật tôi đối đáp không được là phải. Dù tôi là ông Phật mình mình vàng trượng sáu (Theo sách Phật, phật tổ như lai tu hanh, mình vàng trượng sáu) cũng là một nhánh của cô mà hóa ra đấy.
Đại Ngọc nhân dịp liền nói:
– Giờ tôi hỏi anh, anh trả lời nhé.
Bảo Ngọc ngồi xếp tròn, chắp tay nhắm mắt, nhếch mép lên má nói:
– Cô nói đi..
– Chị Bảo thân với anh thì anh sẽ như thế nào? Nếu chị Bảo không thân với anh thì anh thế nào? Chị Bảo trước kia thân với anh, nay không thân nữa thì anh sẽ như thế nào? Chị Bảo nay thân với anh sau này không thân với anh nữa, thì anh sẽ như
thế nào? Nếu anh muốn thân với chi mà chị ta lại không thân với anh thì anh sẽ như thế nào? Nếu anh không muốn thân với chị ta. Chị ta lại muốn thân với anh thì anh sẽ như thế nào?
Bảo Ngọc ngớ ngẩn một lúc. Bỗng phá lên cười, nói:
– Dù cho nước Nhược (nước Nhược ở cõi trên, không chứa nổi vật gì. Thuyền bè qua lại đều đắm cả) ba ngàn. Tôi chỉ lấy một bầu mà thôi.
– Nếu bầu trôi theo nước thì anh làm thế nào?
– Không phải bầu trôi theo nước, mà nước tự chảy. Bầu cứ trôi đấy thôi.
– Nếu như nước đứng mà ngọc chìm thì anh làm thế nào?
– Lòng thiền đã hóa tơ vương bụi, Vờn gió thu chi nữa giá cô – Điều răn thứ nhất của đạo thiền là không được nới dối.
– Trên có Tam Bảo.(Những câu Đại Ngọc nói có ý khêu gợi Bảo Ngọc, nếu gặp tại vạ gì không lấy được nhau thì sẽ liều thân.)
Đại Ngọc cúi đầu im lặng. Bỗng nghe ngoài thềm có tiếng quạ kêu quạc, quạc rồi bay về phía đông nam.
Bảo Ngọc nói:
– Tiếng kêu ấy chả biết lành hay dữ?
– Lành dữ là ở người. Không phải ở tiếng chim.
Bỗng thấy Thu Văn chạy đến nói:
– Mời cậu đi về, ông lớn sai người vào vườn, hỏi cậu đi học đã về chưa. Chị Tập Nhân nói đã về rồi. Vậy cậu về nhanh.
Bảo Ngọc sợ hãi vội vàng đi ra. Đại Ngọc cũng không dám giữ lại.
Bảo Ngọc ở quán Tiêu Tương đi ra, vội vàng hỏi Thu Văn:
– Ông lớn gọi tôi làm gì?
– Ông lớn có gọi gì đâu. Chị Tập Nhân bảo tôi mời cậu. Sợ cậu không chịu về, nên nói dối cậu đấy thôi.
Bảo Ngọc nghe nói mới yên lòng, liền nói:
– Các chị gọi tôi cũng được. Nhưng sao lại dọa tôi?
Đang chuyện trò thì đã về đến Viện Di Hồng. Tập Nhân hỏi:
– Từ nãy cậu đi đâu?
– Tôi ở bên cô Lâm. Nhân nói đến việc chị Bảo bên nhà anh Tiết nên ngồi lâu.
– Nói những việc gì nào?
Bảo Ngọc đem việc hai người nói chuyện theo kiểu sách Phật kể lại cho Tập Nhân nghe. Tập Nhân nói:
– Cậu thật chẳng ra sao cả. Đáng lẽ nói chuyện nhà, chuyện thơ văn có được không. Sao lại nói đến chuyện nhà Phật.
– Hai người có phải đi tu đâu?
– Chị không biết. Chúng tôi có chuyện riêng của chúng tôi người ngoài không thể nói xen vào được.
– Các người nói chuyện nhà Phật. Nói lung tung, rồi lại khiến chúng tôi không còn biết mối nào mà gỡ.
– Trước kia tôi còn ít tuổi. Cô Lâm cũng hãy trẻ con, có khi tôi không để ý, nói những câu không suy nghĩ: nên cô ta mới giận. Nay tôi ăn nói giữ gìn, cô ta cũng chẳng có gì mà giận nữa. Nhưng lâu nay cô ta ít qua đây. tôi lại bận học hành, tình cờ gặp nhau, có vẻ xa lạ thế nào ấy.
– Phải như thế mới được. Cả hai người đều đã lớn, cứ làm như trẻ con thì coi sao được.
Bảo Ngọc gật đầu nói:
– Tôi cũng biết thế. Thôi. Đừng nói việc ấy nữa. Tôi hỏi chị nhé. Bên cụ có sai người đến nói gì không?
– Không thấy nói gì.
– Chắc là cụ quên rồi đấy. Ngày mai có phải là mùng một tháng mười một không? Năm nào bên cụ cũng có sẵn tục lệ. cứ đến ngày đó là bày biện tiệc tiểu hàn. Bà con ngồi lại với nhau, uống rượu nói chuyện vui. Hôm nay tôi đã xin phép nhà trường rồi. Thế thì ngày mai có nên đi học hay không? Nếu đi thì chẳng hóa mình bịa ra mà xin phép, nếu không đi, ông nhà mà biết thì lại bảo là lười học.
– Cứ ý tôi cậu đi học là phải. Mới được mấy bữa. Chưa chi đã muốn nghỉ. Tôi khuyên cậu cũng nên chăm chỉ hơn nữa mới được. Hôm qua nghe bà Hai nói anh Lan học rất chăm, ở trường học về, dọc đường vẫn đọc sách làm văn. Đêm nào cũng đọc đến canh tư mới đi ngủ. Cậu lớn hơn anh ấy nhiều, lại là bậc chú. Nếu không theo kịp, thì sẽ làm cho cụ bà giận, chi bằng ngày mai cậu cứ đi học thôi.
Xạ Nguyệt nói:
– Trời rét như thế này, đã xin phép rồi lại đi học, thì ở trường người ta sẽ nói: “đã thế thì đừng xin phép. Rõ ràng là xin phép quấy để lần lựa trốn học.” Theo ý tôi. được nghỉ một ngày thì cứ nghỉ đã. Dù sao cụ có quên đi, ở đây chúng ta lại không sửa được hội Tiêu hàn hay sao? Chúng ta cũng cứ bày ra hội lại không hơn à?
Tập Nhân nói:
– Chị cứ làm đầu têu thế thì cậu Hai còn chịu đi gì nữa.
– Tôi thì vui được ngày nào hay ngày ấy, bằng đâu được chị. Cố giữ tiếng tốt để một tháng kiếm thêm hai lạng bạc.
Tập Nhân nhổ toẹt nói:
– Đồ ranh con! Người ta nói chuyện đứng đắn. Mày lại vơ quàng chuyện ở đâu vào!
– Tôi không vơ quàng đâu. Tôi nói đây là vì chị đấy.
– Vì tôi cái gì?
– Khi cậu Hai đi học thì chị cứ lẩm bẩm nhắc nhở luôn, chỉ trông mong sao cho cậu Hai về sơm sớm để mà cười mà nói. Bây giờ chị lại làm ra bộ mình trong sạch lắm. – – – Tội gì thế? Tôi biết thừa đi rồi!
Tập Nhân định mắng Xạ Nguyệt thì thấy Giả mẫu sai người đến nói:
– Cụ bảo ngày mai cậu Hai đừng đi học. Cụ sẽ mời dì Tiết sang để giải buồn. Có lẽ các cô đều về cả. Đã mời cô Sử, cô Hình, cô Lý rồi. Nghe nói là dự tiệc vui “Tiêu hàn” gì đấy.
Bảo Ngọc nghe chưa dứt lời, đã mừng rỡ bảo:
– Tôi đã nói mà! Bà tôi rất là cao hứng! Ngày mai không đi học, việc này rõ ràng lắm rồi.
Tập Nhân cũng không tiện nói gì nữa. Người a hoàn kia ra về.
Bảo Ngọc chăm học một ngày chỉ mong được nghỉ chơi một ngày, lại nghe nói Tiết phu nhân sang, nghĩ thế nào Bảo Thoa cũng đến, nên trong bụng vui mừng liền nói:
– Đi ngủ mau, mai còn dậy sớm.
Hôm sau Bảo Ngọc dậy sớm đi đến thăm Giả mẫu. Giả Chính và Vương phu nhân. Trước đó, Bảo Ngọc đến trình với Giả Chính về việc là bảo hôm nay nghĩ học. Giả Chính cũng không nói gì. Bảo Ngọc từ từ đi ra mấy bước liền chạy một mạch đến phòng Giả mẫu. Tới nơi Bảo Ngọc thấy chưa có ai đến, chỉ có vú nuôi và mấy a hoàn bên nhà Phượng Thư dắt Xảo Thư đến hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu, và nói:
– Mẹ chắt bảo chắt đến hỏi thăm sức khỏe của cố. Nói chuyện với cố một lát rồi mẹ chắt sẽ đến.
Giả mẫu cười nói:
– Chắt ngoan lắm. Cố dậy đã sớm. Chờ mãi chả ai đến. Chỉ có chú Hai chắt đến thôi.
Vú nuôi nói với Xảo Thư:
– Em hỏi thăm sức khỏe chú đi.
Xảo Thư vâng lời. Bảo Ngọc cũng nói:
– Cháu cũng ngoan chứ?
– Hôm qua nghe mẹ cháu nói, muốn mời chú tới nói chuyện.
– Nói chuyện gì?
– Mẹ cháu nói. Cháu học mặt chữ với bà Lý mấy năm, không biết có nhớ chữ nào không. Cháu nói cháu nhớ cả, để cháu chỉ cho mẹ cháu xem. Mẹ cháu bảo cháu chỉ sai nên không tin, lại bảo cháu chơi cả ngày, làm gì mà nhớ được mặt chữ. Cháu
xem những chứ ấy cũng chẳng khó khăn gì. Ngay sách Nữ hiếu kinh cũng dễ đọc thôi. Mẹ cháu bảo cháu nói dối, định mời chú lúc nào rảnh, đến xem cháu học thế nào.
Giả mẫu nghe xong cười. nói:
– Chắt ạ, mẹ chắt không biết chữ, cho nên bảo chắt nói dối. Hôm sau nói với chú đến tra xem thì mẹ cháu sẽ phải tin thôi.
Bảo Ngọc hỏi:
– Cháu học được mấy chữ rồi?
– Cháu học được hơn ba ngàn chữ rồi. Đã đọc một quyển Nữ hiếu kinh. Trước đây nửa tháng. Cháu lại đọc Liệt nữ truyện.
– Cháu đọc có hiểu không? Nếu không hiểu thì để chú giảng cho mà nghe.
Giả mẫu nói:
– Làm chú cũng nên giảng cho cháu nó nghe.
Bảo Ngọc nói:
– Các bà hậu phi của vua Văn Vương chẳng cần phải kể làm gì. Bà Khương hậu 1 rút trâm chịu tội. Bà Vô Diệm 2 nước Tề, dù xấu xí, lại tài trị nước yên nhà. Đó là những người hiền tốt trong số các bà hậu phi đấy. Nếu nói đến tài thì phải kể đến Tào Đại Cô, Ban Tiệp Dư. Thái Vãn Cơ. Tạ Đạo Uẩn 3 Mạnh Quang quần vải thoa gai, vợ Bảo Tuyên 4 thang nồi gánh nước. Mẹ Đào Khản 5 cắt tóc bán lấy tiền thếch khách. Lại có những người lấy bút lau dạy con. 6 Những người ấy không chê nghèo đói đấy. Lại có những người chịu khổ như công chúa Nhạc Xương 7, gương vỡ lại lành ; Tô Huệ 8 thêu gấm thành thơ. Người có hiếu thì rất nhiều, như Mộc Lan 9 đi lính thay cha, Tào Nga 10 gieo mình xuống nước với thây cha, khó mà nói hết được. Lại như chuyện nước Ngụy nàng Tào Thị 11 cầm dao cắt mũi và còn nhiều người giữ trinh tiết nữa. Người đẹp thì Vương Tường, Tây Tử, Phàn Tố. Tiểu Man 12 Giáng Tiên. Hay ghen thì có người cạo trọc đầu nàng hầu 13 Hay là oán giận như Lạc Thẩn cũng không là ít. Còn như Văn Quân, Hồng Phật đều là những bậc hào kiệt trong đám con gái.
Giá mẫu nghe đến đây liền nói:
– Đủ rồi đấy, đừng nói nữa. Cháu nói nhiều quá, nó nhớ sao được!
Xảo Thư nói:
– Những điều chú Hai vừa nói, cũng có chuyện cháu đọc rồi, cũng có chuyện cháu chưa đọc. Chuyện nào cháu đọc rồi, chú Hai nói là cháu nhớ ngày.
Báo Ngọc nói:
– Còn mặt chữ thì nhắc là cháu nhớ rồi, không cần phải xem lại nữa. Ngày mai chú còn phải đi học.
Xảo Thư nói:
– Cháu còn nghe mẹ cháu nói. Chị Tiểu Hồng trước ở bên nhà chú được mẹ cháu gọi sang, vẫn chưa có người thế vào cho chú. Mẹ cháu nói định đưa chị Năm nhà bà Liễu nào đó đến, không biết chú có bằng lòng không?
Bảo Ngọc nghe nói càng vui mừng, cười nói:
– Cháu nghe mẹ cháu nói à? Muốn thế ai thì thế, cần gì hỏi. Cha có bằng lòng không.
Bảo Ngọc lại cười nói, với Giả mẫu:
– Cháu xem con bé này còn nhỏ mà đã thông minh như thế có lẽ sau này nó hơn cả chị Phượng nữa đấy; mà lại hơn ở chỗ biết chữ.
Giả mẫu nói:
– Con gái biết chữ cũng tốt, nhưng nữ công may vá là cần hơn nhất.
Xảo Thư nói:
– Cháu cũng học bà Lưu biết tết hoa này, thêu thùa này, tuy chưa khéo, nhưng đã làm được ít nhiều.
Giả mẫu nói:
– Trong gia đình ta, cố nhiên là không phải cái gì mình cũng làm lấy. Nhưng có biết thì sau mới khỏi bị người ta bắt nạt.
Xảo Thư vâng lời, còn muốn nhờ Bảo Ngọc giảng giải liệt nữ truyện. Nhưng thấy Bảo Ngọc ngồi ngẩn người nên không dám hỏi nữa.
Về phần Bảo Ngọc, nghe nói con Năm sắp vào Viện Di Hồng nên cứ ngồi nghĩ vơ nghĩ vẩn. Lần đầu tiên con Năm ốm không vào được, lần thứ hai, vì Vương phu nhân đuổi Tỉnh Văn nên ai là người có nhan sắc đều không dám chọn vào. Sau đó Bảo Ngọc đến nhà Ngô Quỳ thăm Tỉnh Văn gặp con Năm cũng theo mẹ đưa đồ vật cho Tình Văn. Thấy nó có vẻ thướt tha xinh đẹp, nay được Phượng Thư nhớ đến, định đem nó thế chân Tiểu Hồng, thật là điều mừng ngoài ý nghĩ của mình, nên Bảo Ngọc đâm ra ngớ ngẩn.
Giả mẫu đợi mãi không thấy ai đến, lại cho a hoàn đi mời. Ngay sau đó, chị em Lý Hoàn,Thám xuân,Tích Xuân, Tương Văn, Đại Ngọc đều đến. Mọi người hỏi thăm Giả mẫu và chào hỏi nhau. Chỉ có Tiết phu nhân chưa đến. Giả mẫu lại sai người đi mời lần nữa, rồi Tiết phu nhân và Bảo Cầm đến. Bảo Ngọc hỏi thăm sức khỏe Tiết phu nhân và chào hỏi Bảo Cầm, chỉ không thấy Bảo Thoa và Hình Tụ Yên. Đại Ngọc hỏi:
– Tại sao chị Bảo không đến?
Tiết phu nhàn nói dối Bảo Thoa trong người không được khỏe. Còn Hình Tụ Yên thì biết Tiết phu nhân ở đấy cho nên không đến.
Bảo Ngọc buồn bực vì Bảo Thoa không đến. Nhưng thấy Đại Ngọc ở đó, cũng tạm gác tấm lòng nhớ Bảo Thoa. Chẳng bao lâu Hình Phu Nhân và Vương phu nhân cũng đến. Phượng Thư thấy các bà đến rồi, mình đến sau sợ khó coi, đành phải sai Bình Nhi đến xin phép trước.
– Mợ cháu định đến thì trong người phát sốt. Một chốc nữa sẽ đến sau.
Giả mẫu nói
– Nếu người nó không khoẻ thì không đến cũng được. Bây giờ chúng ta nên ăn cơm đi.
Bọn a hoàn vần các chậu than ra phía sau, rồi đặt hai bàn ăn lên trước giường của Giả mẫu. Mọi người theo thứ tự ngồi xuống ăn. Cơm xong, họ lại vây quanh lò than ngồi nói chuyện suông.
Phượng Thư sở dĩ không đến, trước hết là nghĩ mình đến sau Hình phu nhân, và Vương phu nhân thì sợ khó coi, sau nữa là vị vợ Lai Vượng đến nói
– Bên nhà cô Nghênh Xuân sai người đến hỏi thăm mợ, lại nói là không đến bên nhà ông Cả, chỉ đến chỗ mợ thôi.
Phượng Thư nghe nói đâm bực mình, nghĩ không biết có việc gì đây, liền cho gọi ngừơi ấy vào hỏi
– Cô ở bên nhà có khoẻ không?
– Có việc gì đâu. Tôi không phải là người cô Nghênh Xuân sai đến, mà là mẹ Tư Kỳ nhờ đến xin với mợ một việc.
– Tư Kỳ từ hôm bị đuổi ra, cả ngày cứ khóc lóc. Bỗng một hôm người anh ngoại đến. Bà mẹ chị ta giận lắm, nói anh ấy làm hại Tư Kỳ, rồi nắm lại định đánh; anh ta không dám nói năng gì. Ai ngờ Tư Kỳ nghe thấy vội vàng chạy ra, chẳng quản gì xấu hổ, nói với mẹ
” Con vì anh ấy mà phải về đây. Con cũng giận anh ta tệ bạc. Nay anh ấy đã đến, mẹ hỏi xem thế nào. Nếu anh ấy không thay lòng đổi dạ, con xin chắp tay lạy mẹ. Mẹ cứ xem như con đã chết rồi. Anh ấy đi đâu, con theo đến đấy, dầu có ăn mày ăn xin con cũng cam lòng. Bà mẹ nghe nói giận quá, vừa khóc vừa mắng: “Mày là con gái tao. tao nhất định không gả cho nó. Mày dám làm gì? Không ngờ con Tư Kỳ lú lẫn ấy nghe nói thế, đâm đầu vào tường, vỡ óc, máu chảy chết tươi. Mẹ chị ta cứu không được khóc ầm lên, định bắt anh kia đền mạng. Anh kia cũng lạ, nói một cách điềm nhiên: “Bà đừng hoảng lên làm gì.Tôi ở ngoài làm ăn phát tài, vì nhớ chị ấy nên mới về đây. Lòng tôi thực thà như thế. Nếu bà không tin thì xem đây!” Nói xong, hấn lấy cái hộp trong bọc ra, toàn là đồ trang sức bông vàng và hạt châu. Bà mẹ Tư Kỳ mừng híp cả mắt nói: Mày đã có lòng. Sao không nói trước? Anh kia nói: “Con gái thường trăng hoa yếu đuối, thay đổi tính tình. Nếu tôi nói có tiền thì cô ta có thể vì ham tiền mà theo tôi. Nay cô ấy như thế thật là hiếm có. Tôi xin để đồ trang sức lại cho bà. Tôi đi mua quan tài về liệm cô ấy.” Bà mẹ Tư Kỳ nắm được mớ đồ trang sức, cũng chẳng nghĩ gì đến con gái nữa, cứ mặc cho anh kia đi. Không ngờ anh ta lại mua về những hai cỗ quan tài. Mẹ Tư Kỳ thấy thế, lấy làm lạ hỏi: “Tại sao anh lại phải mua hai cỗ quan tài?” Anh ta cười: “Một cỗ không đủ. Phải hai cỗ mới được. Mẹ Tư Kỳ thấy anh ta không khóc, cứ tưởng anh ta đau xót quá, đâm ra ngớ ngẩn. Không ngờ liệm Tư Kỳ xong. Anh ta chẳng khóc lóc gì cả, lừa lúc không có ai, liền cầm con dao nhỏ đâm ngay vào cổ họng chết tươi. Mẹ Tư Kỳ thấy vậy hối hận quá, khóc lóc không biết bao nhiêu mà kể. Bây giờ xóm giềng biết chuyện định báo quan. Bà ta hoảng sợ, nhờ tôi đến xin mợ nói giúp cho. Sau này bà ta xin lạy tạ.
Phượng Thư nghe nói lấy làm lạ, nói:
– Cái con ngốc lại khéo gặp thằng ngốc như thế, chả trách hôm lục soát các đồ tang vật. Nó vẫn bình tĩnh xem như chẳng có việc gì. Quả là một người tính tình cứng rắn! Kể ra thì tôi cũng chẳng công đâu mà dây vào những việc ấy. Có điều như chị vừa nói đó việc này cũng đáng thương. Thôi thì chị về nói với bà ấy để tôi bàn với cậu Hai sẽ sai anh Lai Vượng đến thu xếp cho xong.
Phượng Thư cho người ấy về rồi, mới sang nhà Giả mẫu.
Một hôm Giả Chính đang ngồi đánh cờ với Thiềm Quang, được thua không xê xích nhau mấy. Chỉ còn một góc chưa rõ ra sao, đang còn giằng co nhau. Bỗng thấy người hầu trai vào trình:
– Ở ngoài, cậu cả Phùng muốn vào gặp ông lớn.
– Mời vào đây.
Người hầu trai ra mời. Phùng Tử Anh đi vào. Giả Chính vội vàng ra đón, mời vào thư phòng ngồi. Tử Anh thấy ông ta đang đánh cờ, liền nói:
– Xin bác cứ việc đánh. Cháu cũng tới xem chơi.
Thiềm Quang nói:
– Cờ của tôi thì kém lắm, chẳng có gì đáng xem cả.
Tử Anh nói:
– Ông nói khiêm tốn! Xin cứ đánh thôi.
Giả Chính nói:
– Có việc gì cần không?
Tử Anh nói:
– Không có việc gì cần. Bác cứ đánh, cháu ngồi xem, học ít nước.
Giả Chính nói với Thiềm Quang:
– Cậu Cả đây là bạn thân của chúng tôi, nếu không có gì cần. Thì chúng ta đánh cho xong ván này rồi sẽ nói, bây giờ cậu Cả ngồi đây xem cho vui.
Tử Anh hỏi:
– Có đánh cuộc không?
Thiềm Quang nói:
– Có đấy.
Tử Anh nói:
– Nếu có đánh cuộc thì không nên nói nhiều.
Giả Chính nói:
– Nói nhiều cũng không can gì. Ông ta có thua mười lạng bạc đi nữa cũng chẳng chịu đưa ra đâu. Sau này chỉ có cách phạt ông ta phải sửa bữa chén thôi.
Thiềm quang cười nói:
– Cái ấy thì được lắm.
Tử Anh nói:
– Bác và ông Thiềm đánh ngang quân phải không?
Giả Chính nói:
– Trước kia đánh ngang quân, ông ta thua; giờ chấp cho hai quân, ông ta cũng thua, thường lại xin hoãn đôi nước, không cho hoãn thì ông ta cứ cuống lên.
Thiềm Quang cũng cười nói:
– Làm gì có thế.
Giả Chính nói:
– Anh cứ nhìn mà xem.
Vừa nói vừa đánh xong ván cờ. Tính ra thì Thiềm Quang thua mất bảy quân.
Phùng Tử Anh nói:
– Ván cờ này mà thua là vì bí nước. Cờ bác ít bí nước, cho nên chồng.
Giả Chính nói với Tứ Anh:
– Xin lỗi. Bây giờ chúng ta nói chuyện thôi.
Tử Anh nói:
– Cháu mấy hôm nay không gặp hai bác. Vậy một là đến thăm. Hai là có ông quan quen biết ở tỉnh Quảng Tây vừa đến kinh bệ kiến Hoàng thượng. Ông ta có đưa đến bốn thứ hàng nước ngoài, có thể làm vật tiến cống được. Một cái bình phong có hai mươi bốn bức, đều bằng gỗ đàn chạm, ở giữa tuy không phải ngọc, nhưng là thứ đá rất quý. Trên mặt đá chạm trổ sông núi, người, lâu đài, hoa cỏ, chim chóc. Một bức có năm sáu mươi hình người, đều là con gái, mặt đồ trong cung gọi là Sáng mùa xuân trong cung Hán. Những hình người ấy, mặt mày mũi miệng, taychân, nếp áo đều chạm rất kỹ càng tinh xảo. Cách bố trí và điểm xuyết đều rất khéo léo công phu. Cháu nghĩ ở trong vườn Đại Quan nhà bác đặt bức bình phong này là rất hợp. Lại có một cái đồng hồ cao chừng hơn ba thước, có một đứa trẻ con cầm cái thẻ giờ, đến giờ nào nó báo giờ ấy. Trong đồng hồ lại có người máy đánh bài nữa. Hai cái ấy nặng nề nên không đưa đến. Hiện cháu đem đến đây hai cái lại còn hay hơn.
Nói đoạn, hắn lấy bên mình ra một cái hộp gấm, ngoài bọc mây tầng lụa, mở ra thì thấy tầng thứ nhất là một cái hộp pha lê ở trong lót bằng lụa đỏ, trên đặt một hạt châu lớn, chói lói rực rỡ. Từ Anh nói:
– Theo ông ta nói thì cái này là hạt châu mẹ.
Nói đến đấy hắn bảo đưa lại đây cái khay. Thiềm Quang vội vàng cầm cái khay trà sơn đen.
– Cái này có được không?
Phùng Tử Anh nói:
– Được đấy.
Thế rồi hắn lại lấy trong bọc ra một cái gói bằng lụa trắng, đem những hạt châu nhỏ đựng trong gói đó tung ra giữa khay, đặt hạt châu mẹ vào giữa, rồi để khay lên trên bàn. Bỗng thấy những hạt châu nhỏ lăn lại bên hạt châu lớn, giơ cao hạt
châu lớn lên thì bao nhiêu hạt châu nhỏ đều gần liền với hạt châu lớn, chẳng sót một hạt nào.
Thiềm Quang nói:
– Lạ thật!
Giả Chính nói:
– Gọi là hạt châu mẹ cũng có lý. vì nó là mẹ của các hạt châu kia.
Phùng Tử Anh quay lại bảo đứa hầu trai đi theo:
– Cái tráp kia đâu rồi?
Người hầu vội vàng đưa lại một cái tráp bằng gỗ hoa. Mở ra xem thì thấy trong tráp lót gấm, trên gấm chồng một xếp lụa màu lam.Thiềm Quang nói:
– Cái này là cái gì?
Phùng Từ Anh nói:
– Cái này gọi là Trướng giao, ở trong tráp lấy ra thì xếp lại chiều dài không đầy năm tấc chiều dầy không đầy nửa tấc. Phùng Tử Anh đem giăng ra từng lớp, giăng đến lớp thứ mười thì trên bàn đã chật không có chỗ để trải ra nữa. Phùng Tử Anh nói:
– Các ngài xem đấy, trong này còn có hai xếp nữa, cần phải có một cái nhà thật cao mới giăng ra hết được. Trướng này dệt bầng thứ tơ giao. Khi trời nóng, treo ở trong nhà, không một con ruồi con muỗi nào vào được, vừa nhẹ lại vừa sáng.
Giả Chính nói:
– Đừng giăng ra làm gì. Sợ xếp lại tốn công.
Thiềm Quang và Phừng Tử Anh xếp lại cẩn thận và cất đi. Phùng Tử anh nói:
– Bốn vật này giá cũng không cao lắm, được hai vạn lạng bạc thì ông ta sẽ bán. Hạt châu mẹ giá một vạn lạng, trướng giao năm ngàn lạng, bức bình phong và cái đồng hồ giá năm ngàn lạng.
Giả Chính nói:
– Tiền đâu mà mua nổi!
– Nhà bác đây là chỗ quốc thích, không lẽ trong cung không dùng được à?
– Cố nhiên là dùng được. Nhưng làm gì có số tiền to như thế. Để tôi bảo đem vào nhà trong cho cụ tôi xem.
– Phải đấy.
Giả Chính liền gọi Giả Liễn đem hai vật báu ấy vào trong nhà. Giả mẫu mời bọn Hình phu nhân, Vương phu nhân, Phượng Thư đến và đem hai vật ấy cho họ xem.
Giả Liễn nói:
– Còn hai vật nữa, một cái bình phong và một cái đồng hồ. Tất cả giá bán là hai vạn lạng bạc.
Phượng Thư vội đỡ lời:
– Các vật ấy cố nhiên là tốt. Nhưng ta làm gì có thừa tiền ấy. Chúng ta lại không phải là quan tổng đốc, tuần phủ ở ngoài quan hải sẵn đưa vật tiến cống.. Lâu nay cháu đã nghĩ nhiều, như nhà mình đây. Cần có những thứ gì làm căn cơ lâu dài mới được: hoặc là ruộng tế tự, hoặc là trang trại giúp người nghèo trong họ, hoặc là dựng một ít nhà cửa ở nơi nghĩa địa. Sau này con cháu nhỡ có gặp việc không may, cũng còn có chút căn cơ, không đến nỗi ngặt; ý cháu như thế không biết ý bà và các ông các mẹ nghĩ như thế nào. Nếu chú ở ngoài muốn mua thì cứ mua. Giả mẫu cùng mọi người đều bảo.
– Nói thế cũng đúng đấy.
Giả Liễn nói:
– Trả lại cho họ thôi. Chú bảo đưa cho bà xem, vì có thể dâng vào cung, chứ ai nói mua để ở nhà. Bà còn chưa nói, mà mợ đã thốt ra một tràng khó chịu.
Nói đoạn, hắn liền đưa hai đồ vật ấy ra và nói với Giả Chính:
– Bà không mua.
Rồi hắn lại nói với Phùng Tử Anh:
– Hai vạt này tốt thì tốt thật, Nhưng ở nhà tôi không có tiền mua. Tôi xem có ai mua sẽ tin cậu biết.
Phùng Từ Anh đành phải cất đi rồi ngồi lại nói chuyện suông, cảm thấy không có hứng thú gì nên định ra về.
Giả Chính nói:.
– Cậu ở đây ăn cơm đã rồi hãy về.
– Thôi ạ, khi nào đến cũng làm phiền bác.
– Sao lại nói thế?
Đang nói thì có người vào thưa:
– Ông Cả đến.
Giả Xá vào đến nơi. Mọi người chào hỏi lẫn nhau. Một chốc bưng rượu lên, đồ nhắm bày ra la liệt. Mọi người cùng ngồi uống rượu. Sau bốn năm tuần rượu, lại nhắc đến chuyện món hàng nước ngoài. Phùng Tử Anh nói:
– Những đồ vật ấy vốn khó bán, trừ những nhà như nhà bác đây mới có thể mua được, ngoài ra thì cũng khó:
Giả Chính nói:
– Không nhất thiết như thế.
Giá Xá nói:
– Nhà chúng tôi đây không phải như trước nữa, chẳng qua chỉ có cái bộ mặt bề ngoài đó thôi.
Phùng Tử Anh lại hối:
– Ông Cả Trân ở phủ Đông có khỏe không? Trước đây tôi gặp ông ta, nhân tiện nói đến việc nhà. Nghe nói cô dâu mới sau này kém mợ Tần trước nhiều. Thế thì người mới cưới sau này con cái nhà ai? Tôi cũng quên không hỏi?
Giả Chính nói:
– Nhà cháu dâu chúng tôi đây cũng là một đại gia ở vùng này. Con gái ông Hồ, trước đã làm quan ở đạo Kinh Kỳ.
Phùng Tử Anh nói:
– Tôi có biết ông ta, xem chừng gia giáo của nhà ông ấy cũng chẳng ra sao..Nhưng mà thôi, cốt sao cô con khá là được.
Giả Liễn nồi:
– Nghe người ở nội các nói ông Giả Vũ Thôn lại sắp được thăng chức đấy.
Giả Chính nói:
– Thế cũng tốt, nhưng chưa biết có chắc hay không?
Giả Liễn nói:
– Có lẽ chắc đấy.
Phùng Tử Anh nói:
– Hôm nay tôi ở trong bộ lại cũng nghe nói như thế. Vậy là ông Vũ Thôn có phải là người họ bác không?
Giả Chính nói:
– Phải.
Phùng Tử Anh nói:
– Là bà con có để trở hay không?
Giả Chính nói:
– Chuyện này kể ra thì dài lắm. Ông ta vốn quê quán ở phủ Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang. Sau dời sang ngụ ở Tô Châu, ban đầu lận đận mãi. Ở đấy có ông Chân Sĩ ẩn thân, với ông ta hay giúp đỡ. Sau ông ta đỗ tiến sĩ, được bổ làm tri huyện, cưới người a hoàn họ Chân làm vợ. Bà Cả lúc này không phải là vợ chính. Không ngờ ông Chân Sĩ ẩn lại gặp tai nạn, gia đình tan tác, ông ấy cũng lưu lạc chẳng biết ở đâu. Sau khi ông Giả Vũ Thôn bị cách chức, còn chưa quen biết gì với nhà chúng tôi. Nhân lúc người em rễ tôi là Lâm Như Hải giữ chức diêm chính ở Dương Châu, có mời ông ta đến dạy cháu ngoại của chúng tôi. Khi ông ta nghe tin được phục chức, định lên kinh, thì vừa gặp lúc cháu ngoại chúng tôi cũng định về kinh thăm bà con. Ông Lâm liền nhờ ông ta trông nom hộ và viết một bức thư nhờ tôi giúp ông ta. Lúc đó, tôi thấy ông ta người cũng đứng đắn, cho nên hay đi lại. Không ngờ ông ta cũng có cái lạ là các vị thế trong họ chúng tôi, kể từ dòng chữ Đại trở xuống, từ nhân khẩu nhà cửa cho đến mọi việc ăn ở, điều gì ông ta cũng thông thuộc rõ ràng. Vì thế, chúng tôi càng cảm thấy thân mật.
Nói đến đấy Giả Chính lại cười:
– Mấy năm nay, kể ra ông ta cũng chịu khó luồn lọt đấy. Từ chức tri phủ thăng chức ngự sử, chẳng mấy chốc leo đến lại bộ thị lang, rồi binh bộ thượng thư. Vì can chút việc bị giáng ba cấp nay lại sắp thăng đấy.
Phùng Tử Anh nói:
– Đời người ta sướng khổ, công danh lên xuống, rốt cuộc cũng là việc khó định trước.
– Việc trong thiên hạ đều theo một nguyên lý như nhau cả. Ví như hạt chậu vừa rồi, hạt châu lớn cũng giống như con người có phúc, những hạt châu nhỏ đều nhờ khí thiêng của nó hộ vệ cho. Nếu hạt châu lớn mà không còn thì các hạt châu nhỏ kia cũng chẳng bíu vào đâu. Cũng giống như nhà người ta, khi người chủ nhà gặp việc không may thì cốt nhục cũng chia ly, bà con cũng rời rạc, cho đến bầu bạn tốt cũng đều tan tác, sướng khổ xoay vần trong nháy mắt, chúng khác gì như mây mùa xuân hay lá mùa thu! Các ông nghĩ xem, làm quan có gì là thú vị? Được như Vũ Thôn là khá lắm rồi. Như nhà họ Chân kia, ví với nhà chúng ta, không khác gì mấy. Trước đây cũng công lao, cũng thế tập cũng ăn ở như nhau. chúng tôi cũng thường thường qua lại. Mấy năm gần đây, gia đình họ tới kinh, còn sai người đến nhà chúng tôi hỏi thăm. rất là thân mật. Thế rồi chả bao lâu, gia tài ở nguyên quán bị tịch thu, đến nay tin tức vắng bặt. Không biết hiện nay tình cảnh ra sao bụng tôi thật là băn khoăn tưởng nhớ. Như vậy có đáng sợ không?
Giả Xá nói:
– Nhà chúng ta thì chừng như thế đâu.
Phùng Tử Anh nói:
– Thật thế. Quý phủ đây thì không sợ: thứ nhất là có quý phi ở trong cung ; thứ hai là bà con nhiều, bạn bè tốt ; thứ ba là ở trong phủ đây, từ cụ bà cho đến các cậu, không có người nào điêu ngoa khắc bạc.
Giả Chính nói:
– Dầu không có ai điêu ngoa khắc bạc đi nữa. Nhưng không có đức hạnh tài năng, cứ ngồi xuống mà sống bằng tô thuế, sao cho xứng đáng?
Giả Xá nói:
– Chúng ta không cần nói những việc ấy. Uống rượu thôi!
Mọi người lại uống mấy ly rượu nữa rồi dọn cơm ăn. Ăn uống xong, tên hầu nhỏ nhà họ Phùng chạy lại nói thầm bên tai Phùng Tử Anh. Phùng Tử anh liền muốn cáo từ.
Giả Xá hỏi người hầu nhỏ:
– Mày nói gì thế?..
Người hầu nhỏ thưa:
– Bên ngoài trời đã đổ tuyết. Mõ khắc canh đã bắt đầu rồi.
Giả Chính sai người ra xem. thì tuyết đã đổ xuống dầy hơn một tấc.
Giả Chính hỏi:
– Hai vật kia đã thu xếp tử tế chưa?
Phừng Tử Anh nói
– Thu xếp tử tế rồi. Nếu quý phủ dùng, thì giá cả cố nhiên là có thể bớt ít nhiều.
Giả Xá và Giả Chính sai Giả Liễn tiễn chân Phùng Tử Anh ra về.
1 Khương Hậu là vợ vua Tuyên vương nhà Chu. Vua tuyên vương thường dậy muộn ra hầu chậm. Khương hậu cho là tội tự mình rút trâm, bỏ trang sức chịu tội.
2 Bà Chung Lý Xuẩn là vợ của vua Tuyên vương nước Tề, can ngăn vua Tề chăm nom công việc nước nhà. Bà được phong là Vô Diềm quân.
3 Tào Đại Cô tức Ban Chiêu, em Ban cố đời Hán, Ban Cố soạn bộ Hán thư chưa xong thì mất. Vua Hán cho Ban Chiêu làm tiếp. Ban Tiệp Dư là cung nữ đời Hán thánh đế giỏi về thi ca. Thái Văn Cơ tức là Thái Diễm đời Hán giỏi về âm nhạc. Tạ Đạo Ủân là con gái Tạ Dịch đời Tấn, có tài hùng biện.
4 Mạnh Quang người Đông hán, ba mươi tuổi mới lấy chồng. Nàng ăn mặc lộng lẫy. Chồng bảy ngày không nói chuyện với nàng. Sau hỏi ra ăn mặc đồ vải, hết sức kính trọng chồng.
5 Đời Hậu hán, Bảo tuyên lấy Hòang Thiếu Quân. Khi về nhà chồng, Thiếu Quân đưa về những quần áo đẹp, của rất nhiều. Bảo tuyên nói: “Nàng sống cảnh giàu sang đã quen. Nay ta nghèo hèn, không dám nhận những thứ ấy.” Thiếu Quân bèn thay quần áo vải, tự tay múc nước làm việc như mọi người.
6 Đời Tần, mẹ Đào Khăn thường mời những người có danh tiếng đến nhà đế con học tập và kết bạn. Một hôm Phạm Quỳ đến chơi, bà ta không có tiền, liền cắt tóc bán cho người hàng xóm đế lấy tiền làm cơm rượu tiếp khách.
7 Âu Dương Tu đời Tống, bố chết sớm, nhà nghèo, mẹ thường lấy vây lau vạch xuống đất thành chữ cho con học.
8 Nhạc Xương công chúa là con vua Trần. Nàng lấy Trần Đức Ngổn. biết nước Trần sắp mất. hai người không thể sống chung với nhau được. Liền bẻ mảnh gương làm đôi. Hẹn ngày nào đó sẽ gặp. Sau nàng bị Dương Tố bắt về làm nàng hầu, rất đỗi yêu mến. Đúng hẹn, Đức Ngổn đến kinh ; thấy người bán hai mảnh gương, đem kháp thấy đúng. Nhân đề thơ, công chúa đọc thơ xong, khóc lóc không ăn uống gì. Dựơng Tố biết chuyện ; liền gọi Đức ngôn vào cho hai vợ chồng lại đoàn viên như cũ.
9 Tô Huệ người đời Tấn, thương chổng đi xa, nàng dệt bức gấm thành thơ
gửi cho chồng.
10 Mộc lan không biết ở thời đại nào, thương cha già ; nàng ra lính thay cha, mười hai năm trời ở nơi biên giới.
11 Tào Nga, người Đông Hán. Cha Tào Nga chết đuối không tìm thấy xác. Nàng mới mười bốn tuổi, cứ theo bờ sông khóc. Sau nàng nhảy xuống sông chết. Ít ngày sau, người ta thấy xác Tào Na ôm xác cha nối trên mặt nước.
12 Tào Thị tên là Lệnh Nữ lấy em Tào Sáng. Chồng nàng chết sớm. Người chú định đem nàng về gả chồng. Nghe tin, nàng cắt hai tai. Sau Tào Sáng bị giết, người chú lại định gã chồng cho nàng. Nhân lúc không đề phòng, nàng vào nhà ngủ đắp chăn kín rồi cắt mất mũi.
13 Vương Tường tức Vương Chiêu Quân. Phàn Tố, Tiểu Man là gái hầu của Bạch Cư Dị.
14 Nhiệm Hoàn đời Đường ; được vua yêu và cho hai cung nữ. Vợ Nhiệm Hoàn là Liễu Thị có tính cả ghen. bắt cạo trọc đầu hai cung nữ. Vua Đường nghe thấy cho Liễu thị chai rượu và dặn: “Uống vào sẽ chết, nếu thôi ghen thì đừng uống.” Liễu thị lạy và nói: “Tôi cùng Nhiệm Hoàn trước đây đều sống cảnh nghèo hèn ; nay được vinh hiển, lại đâm có nhiều người yêu, chẳng thà chết đi cho xong”. Nàng uống hết chai rượu. Té ra không phải là thuốc độc.
Sau khi Phùng Tử Anh về. Giả Chính gọi người canh cửa vào hỏi
– Hôm nay bên phủ Lâm An Bá mời ta đến uống rượu. Anh có biết có việc gì không?
Người canh cửa nói:
– Chúng con hỏi thì ra không có việc vui mừng gì cả. Chẳng qua có một ban hát trẻ vừa đến phủ Nam An Vương, ai cũng khen là hay, cụ Lâm An Ba cao hứng bày việc hát trò hai ngày, mời các vị quen biết đến xem cho vui. Có lẽ ta không cần đưa lễ đến.
Giả Xá hỏi Giả Chính:
– Mai chú có đi không?
– Người ta có lòng tốt, mình không đi, coi sao tiện?
Vừa nói thì ngoài cửa có người vào thưa:
– Có người thơ lại đến mời ông lớn ngày mai đến nha môn. Quan trên có việc sai phái, cần phải đến sớm một tí.
Giả Chính nói
– Biết rồi.
Vừa nói đến đó thì hai người nhà coi việc địa tô ở trại đi vào cúi đầu hỏi thăm sức khỏe rồi đứng hầu một bên.
Giả Chính nói
– Các anh là người ở trại Hách phải không?
Hai người vâng dạ. Giả Chính cũng không hỏi nữa, rồi cùng Giả Xá nói chuyện. Một chốc người nhà thắp đèn, đưa Giả Xá về.
Lúc đó Giả Liễn mới gọi bọn coi địa tô, bảo
– Có việc gì các anh nói đi.
Người kia nói
– Địa tô tháng mười, con đã đòi đủ đưa về. Đáng lẽ ngày mai có thể tới đây. không ngờ những người bắt xe ở ngoài kinh đô không cho phân trần gì cả, đem các vật chở trên xe đổ xuống đất. Con bảo họ, đây là xe của phủ ta thu tô, không phải là xe buôn bán, nhưng họ không nghe. Con bảo bọn kia cứ đẩy xe đi, mấy người nha dịch đánh họ một trận túi bụi, rồi lấy đi hai cỗ. Vì thế con phải về trước trình. Xin sai người đến nha môn đòi lại xe mới. Vả lại, cũng nên trừng trị bọn sai dịch một phen. Chúng coi trời bằng vung, chẳng có phép tắc gì cả. Cậu chưa biết đấy. Tội nghiệp nhất là những xe buôn bán! Chúng cứ vất bừa hàng hóa của người buôn xuống đất rồi kéo xe chạy. Nếu ai nói năng là chúng đánh cho vỡ đầu xẻ tai.
Giả Liễn nghe nói quát mắng
– Như thế còn ra gì nữa!
Bèn viết ngay một tờ thiếp, gọi người nhà đến bảo
– Mày cầm thiếp này đến nha môn đòi lấy xe và cả những đồ vật trên xe cho ta. Nếu thiếu một vật gì là ta không nghe đâu. Và mau mau gọi Chu Thụy vào đây.
Người nhà gọi Chu Thụy. Chu Thụy không có ở nhà. Lại gọi Lại Vượng. Lại Vượng cũng đi vắng đâu chưa về. Giả Liễn nói
– Bọn vô loại này. chẳng đứa nào ở nhà. Hàng năm chúng nó ăn lương mà không chịu trông nom công việc gì cả.
Rồi bảo bọn hầu trai
– Chúng bay mau mau tìm họ về cho ta.
Nói xong hắn về phòng ngủ.
Hôm sau, Lâm An Bá sai người đến mời. Giả Chính nói với Giả Xá
– Tôi bận việc ở nha môn, cháu Liễn phải ở nhà chờ việc bắt xe, cũng không đi được. Vậy bác đem cháu Bảo Ngọc đi, gọi là thù tiếp cho qua chuyện.
Giả Xá gật đầu nói
– Thế cũng được.
Giả Chính sai người bảo Bảo Ngọc
– Hôm nay con theo bác sang bên phủ Lâm An Bá nghe hát. Bảo Ngọc mừng rỡ thay áo quần, dẫn bọn Bồi Dính, Tảo Hồng. Sử Dược ra chào và hỏi thăm Giả Xá rồi lên xe đến phủ Lâm An Bá..
Người canh cửa vào trình, một lúc đi ra nói
– Ông lớn bảo mời vào.
Giả Xá dẫn Bảo Ngọc đi vào trong sân, thấy khách khứa ồn át. Giả Xá dẫn Bảo Ngọc đến chào Lâm An Bá và các vị tân khách, rồi cùng nói chuyện một lúc. Bỗng thấy một người coi ban hát cầm một bản kê tên các vở hát, và một cái hốt ngà 1, cúi mình chào các tân khách, và nói
– Xin các vị chấm vở hát.
Trước hết, mời các vị khách qúy chấm. Đến lượt mình, Giả Xá cũng chấm một vở. Người coi hát thấy Bảo Ngọc, vội bước tới, cúi chào và nói
– Xin cậu chấm cho vài vở.
Bảo Ngọc thấy người ấy mặt trắng như dồi phấn, môi đỏ tựa tô son, đẹp như hoa sen trên mặt hồ, thướt tha như cây ngọc rung rinh trước gió, thì ra chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Tưởng Ngọc Hàm. Hôm trước Bảo Ngọc nghe nói anh ta dẫn một ban
hát nhỏ vào kinh, nhưng không đến chỗ nhà mình. Lúc đó, trông thấy Ngọc Hàm, Bảo Ngọc định đứng dậy, nhưng không tiện, đành chỉ cười, hỏi
– Anh về đây đã bao lâu?
Tưởng Ngọc Hàm nhìn hai bên một cái, rồi cười khẽ và nói:
– Cậu không biết sao?
Bảo Ngọc thấy người đông, khó lòng nói chuyện, chỉ chấm quàng một vở.
Tưởng Ngọc Hàm đi rồi, liền có mấy người bàn tán
– Người ấy là ai?
Có người nói
– Anh ta lâu nay đóng vai nữ, bây giờ tuổi đã lớn, không chịu đóng vai ấy nữa, chỉ ở trong phủ coi ban hát thôi. Và trước đây có đóng vai học trò. Tuy gom góp được một số tiền, trong nhà đã có hai ba cưả hàng, nhưng anh ta chưa chịu bỏ nghề, vẫn
cứ coi ban hát như trước.
Có người nói
– Chừng anh ta cưới vợ rồi thì phải.
Có người nói
– Anh ta chưa lấy vợ, vì cho rằng
việc lấy vợ quan hệ cả một đời người. Không cứ gì là tôn ti, sang hèn, cần phải xứng đáng mới được. Vì thế, đến nay anh ta vẫn chưa lấy vợ.
Bảo Ngọc nghĩ thầm: Không biết sau này con gái nhà ai lấy anh này? Nếu lấy được con người xinh đẹp như thế, cũng không uổng một đời “.
Lúc đó, bắt đầu hát, gồm đủ các điệu Côn, điệu Dặc, điệu cao và điệu tuồng, rất là vui nhộn. Đến trưa, bày tiệc uống rượu.
Giả Xá lại xem một lúc nữa rồi định về. Lâm An Bá tới giữ lại và nói
– Trời còn sớm, nghe Kỳ Quan nói có vở “Chiếm Hoa Khôi” 2 là vở hay nhất của họ đấy.
Bảo Ngọc nghe nói cứ mong sao Giả Xá khoan về. Giả Xá nghe vậy cũng ngồi ráng lại một lúc. Quả Nhiên thấy Tưởng Ngọc Hàm đóng vai anh chàng họ Tần bán dầu phô diiễn cái vẻ nâng niu hoa khôi sau khi say rượu, biểu lộ cái tình tứ tiếc ngọc thương hoa rất mực khéo léo. Sau đó, hai người cùng uống, cùng hát, hết sức thiết tha trìu mến.
Bảo Ngọc không nhìn hoa khôi mà cứ đăm đăm đôi mắt nhìn thẳng vào anh chàng họ Tần. Hơn nữa, tiếng hát của Tưởng Ngọc Hàm trong trẻo véo von theo đúng phách địêu là mcho đầu óc Bảo Ngọc ngây ngất say sưa. Sau vở hát ấy, Bảo Ngọc càng thấy Tưởng Ngọc Hàm là người rất chung tình, bọn con hát tầm thường không thể sánh được. Bảo Ngọc liền nghĩ
“Trong sách Nhạc Ký nói
‘Tình động trong lòng nên biểu hiện ra ở tiếng nói, tiếng nói thành văn chương nên gọi là âm điệu. Vì thế, muốn biết tiếng, biết âm, biết nhạc, cần phải nghiền ngẫm rất nhiều.’ Ngùôn gốc của thanh âm không thể không xét kỹ. Thơ và từ chỉ có thể truyền đạt tình cảm, không thể làm cho nó ăn sâu vào xương vào tuỷ. Sau này có lẽ mình cần phải nghìên ngẫm về môn âm luật.”
Bảo Ngọc đang nghĩ ngợi mơ màng thì Giả Xá đứng dậy cáo từ. Chủ nhà không thể giữ lại. Bảo Ngọc chẳng biết làm sao, đành phải theo về.
Tới nàh, Giả xá về nhà mình, còn Bảo Ngọc thì tới gặp Giả Chính. Giả Chính vừa ở nha môn về, đang hỏi Giả Liễn về việc bắt xe. Giả Liễn nói
– Hôm nay sai người cầm thiếp đi, quan huyện đi vắng. Bọn người nhà ông ta nói:”Việc này quan huyện tôi không biết, và cũng không cho bài ra bắt xe. Đó là bọn côn đồ ở ngoài tìm cách lừa dối để lấy tiền. Đã là của ở phủ ông lớn thì chúng tôi sẽ lập tức sai người tra xét. Ngày mai nhất định sẽ đưa cả xe và đồ vật đến, nếu chậm trễ một chút, sẽ bẩm với quan tôi nghiêm ngặt trừng trị. Lúc này quan tôi còn vắng, Xin quan lớn thấu tình cho. Nếu có thể, không cho quan chúng tôi biết thì lại càng hay”.
Giả Chính nói
– Đã không có bài quan thì bọn nào lại dám gây chuyện như thế?
Giả Liễn nói
– Chú không biết, chứ ở ngoài kia đều như thế cả. Chắc rằng đến mai thế nào họ cũng đưa đến trả.
Giả Liễn nói xong đi ra. Bảo Ngọc tới chào. Giả Chính hỏi mấy câu rồi bảo sang nhà Giả mẫu.
Vì hôm qua, không gọi được ai, nên Giả Liễn bắt bọn người nhà hôm nay phải đến chực đầy đủ. Giả Liễn quát mắng một trận rồi gọi đại tổng quản là Lại Đại đến bảo
– Anh đem danh sách người nhà soát lại một lượt rồi viết một tờ thông báo cho bọn họ biết. Nếu đứa nào chưa hề xin phép mà tự ý bỏ ra ngoài, gọi cũng không đến, để nhỡ việc công, thì sẽ đánh đòn và đuổi ngay.
Lại Đại vâng dạ, ra ngoài nhắc nhở mọi người, ai nấy đều răm rắp tuân theo.
Được ít hôm, thấy một người đầu đội mũ lông, mặc áo vải xanh, đi giày rách, đến ngoài cửa chào mọi người. Bọn đầy tớ ngắm kỹ bộ dạng anh ta một lúc rồi nói
– Anh ở đâu đến thế?
– Tôi ở bên phủ Chân miền Nam tới, có cả lá thư của ông tôi nữa, nhờ các anh trình với ông lớn giúp.
Mọi người thấy anh ta là người nhà họ Chân đến, mới đứng dậy mời ngồi, và nói
– Anh đi mệt, hãy ngồi đây để chúng tôi vào trình.
Nói xong, một người vào thưa với Giả Chính và trình bức thư lên. Giả Chính mở thư ra xem. Thư viết
– ” Tình xưa nghĩa cũ, thân thiết từ lâu, xa tưởng dung nghi, nhớ mong khôn xiết! Em nay kém tài mắc tội, xét mình muốn chết khôn đền, ơn rộng được tha, chịu tội ớ ngoài bờ cõi. Hiện nay cửa ngõ điêu tàn, người nhà tan tác. Có tên đầy tớ Bao Dũng, vẫn từng sai khiến bấy lâu, tuy chẳng tài giỏi gì, nhưng tính nết hiền lành trung hậu. Nếu được anh thu dùng sai bảo, có chỗ nương thân, thương đến phận bọt bèo, thì em xin đội ơn khôn xiết! Những điều
chi tiết, xin sẽ nói sau! “
Chân Ứng Gia cúi đầu.
Giả Chính xem xong, cười
– Ở đây đã thừa người, nhà họ Chân lại đưa người đến, nhưng ta từ chối cũng không tiện. – Liền bảo người canh cửa
– Gọi anh ấy vào đây, ta sẽ tùy tài mà dùng.
Người canh cửa đi ra dẫn Bao Dũng vào yết kiến Giả Chính. Anh ta sụp lạy ba lạy rồi đứng dậy nói
– Ông con gửi lời hỏi thăm sức khỏe ông lớn.
Rồi lại cúi mình chào nói
– Con là Bao Dũng, xin kính thăm sức khỏe ông lớn.
Giả Chính cũng hỏi thăm sức khỏe ông Chân. Khi nhìn kỹ thì thấy Bao Dũng mình cao hơn năm thước, vai rộng, lưng bằng, mày rậm, mất lồi, trán cao, râu dài. Hình thù cục mịch, đen đủng, buông tay đứng hầu. Giả Chính hỏi
– Anh lâu nay vẫn ở trong nhà ông Chân hay mới đến mấy năm?
– Con lâu nay vẫn ở trong nhà ông Chân.
– Tại sao bây giờ lại xin ra?
– Con không chịu ra. Nhưng ông con cứ bảo con ra, ông con nói rằng
“con không chịu đi đâu là phải, nhưng bên nhà ông lớn đây thì cũng như ở nhà”, nên con mới đến.
– Nhà ông chủ anh đáng lẽ không nên có việc ấy để đến nông nỗi nước này.
– Lẽ ra con không được nói. Thực ra ông con chỉ vì tốt quá. Với ai cũng thật thà, nên mới mang lấy vạ vào thân.
– Thật thà là tốt nhất còn gì?
– Vì thật thà quá nên không ai ưa, mà lại làm cho người ta chán cũng có.
Giả Chính cười rồi nói
– Đã thế thì trời cũng sẽ không phụ ông ta.
Bao Dũng còn muốn nói nữa thì Giả Chính lại hỏi
– Nghe nói cậu con bên phủ nhà anh cũng gọi là Bảo Ngọc phải không?
– Dạ. vâng ạ!
– Cậu ta có lo cố gắng để tiến thủ gì không?
– Ông lớn mà hỏi đến cậu ấy thì thật là một câu chuyện lạ. Tính khí cậu ta cũng như ông nhà con, hết sức thực thà, lúc nhỏ chỉ thích chơi với các chị em, ông bà con đánh mấy bận cậu ấy cũng không sửa được. Năm nọ bà con vào kinh, cậu ta bị ốm nặng đã chết đi nửa ngày. Làm cho ông con không còn hồn vía. Các đồ khâm liệm đều đã sắm đủ, may sao lại khỏi. Cậu con kể lại rằng cậu ấy đến một cái lầu, gặp một cô gái. Cô ta dẫn đến một cái miếu, thấy có mấy cái tủ, trong tủ thấy có ấy quyển sổ.
Lại đến một cái nhà, thấy vô số con gái. Họ bỗng hóa ra ma quỷ, cũng có người thì hóa ra bộ xương người. Cậu ấy sợ quá khóc ầm lên. Ông con biết cậu tỉnh lại, vội vàng chạy chữa, dần dần khỏe hắn. Ông con lại bảo cậu ấy chơi bời với bọn chị em. Nhưng tính khí của cậu ấy lại đổi hẳn. Cậu ấy không thiết gì đến tất cả những trò chơi trước khi chưa ốm, chỉ chăm đọc sách. Dẫu có ai đến rủ rê. Cậu ấy cũng chẳng mảng lòng. Bây giờ dần dần cậu ấy đã giúp ông nhà con lo liệu được ít việc nhà.
Giả Chính nghĩ ngợi một lát rồi nói
– Anh hãy đi nghỉ. Chờ có việc, ta sẽ giao cho làm.
Bao Dũng vâng lời theo người nhà đi ra. Một hôm Giả Chính dậy sớm, vừa định đi đến nha môn làm việc, bỗng thấy bọn coi cửa to nhỏ chuyện gì với nhau, hình như có ý muốn cho Giả Chính biết, nhưng lại không dám nói rõ, chỉ lầm rầm hàn tán với nhau. Giả Chính gọi lại hỏi
– Bọn bay có việc gì mà thậm thậm thụt thụt như thế?
– Chúng con không dám nói.
– Tại sao lại không dám nói?
– Sáng nay chúng con dậy mở cửa, thấy ngoài cửa dán một tờ giấy trắng, trong đó viết nhiều chuyện bậy bạ.
– Sao lại có chuyện như thế? Nó viết thế nào?
– Nó nói chuyện bẩn thỉu ở am Thủy Nguyệt.
– Đưa đây ta xem.
– Chúng con định bóc xuống, nhưng nó dán chặt quá, không bóc được, đành phải sao chép lại rồi rửa sạch vết đi. Vừa rồi anh Lý Đức lại bóc được một tờ đưa cho chúng con xem, cũng in như tờ dán trên cửa này, chúng con không dám dấu ông lớn.
Nói xong, họ trình tờ giấy lên. Giả Chính cầm xem, thấy viết
– “Tây bồi thảo cân ” 3 đang tủôi xanh.
Trong am Thủy Nguyệt coi ni tăng.
Một người con trai, nhiều gái trẻ
Đĩ thỏa, cờ bạc, lắm trò ranh.
Con em hư hỏng cho coi việc.
Câu chuyện lạ đời trong phủ Vinh! “
Giả Chính xem xong tức quá, đầu choáng, mắt hoa, liền bảo bọn họ không được rêu rao lên, khẽ sai người đi tìm ở các tường xung quanh hai phủ Vinh và Ninh xem còn có giấy như thế nữa không. Đoạn, ông tạ lại cho người gọi Giả Liễn. Giả Liễn vội vàng đến, Giả Chính hỏi
– Lâu nay cháu có xem xét gì đến bọn ni cô và đạo cô ở am Thủy Nguyệt không?
– Thưa không. Lâu nay cháu Cần ở đó trông nom.
– Cháu biết thằng Cần có trông nom được hay không?
– Chú hỏi như thế, chắc hẳn cháu Cần có việc gì lôi thôi ở đấy.
Giả Chính thở dài
– Cháu xem cái giấy này viết gì đây!
Giả Lĩên xem xong nói
– Lại có những việc như thế này à?
Đang nói, bỗng thấy Giả Dung chạy đến, cầm một phong thư, trên đề
“Gửi ông Hai – Mật”. Mở ra xem thì lại một bức nặc danh giống như lá thư dán trên cửa.
Giả Chính nói
– Mau mau gọi Lại Đại đem ba bốn cổ xe đến am Thuỷ Nguyệt, kéo bọn ni cô, đạo cô về đây, không được nói lỡ chuyện, chỉ nói là trong phủ gọi.
Bọn ni cô và đạo cô nhỏ ở am Thuỷ Nguyệt, lúc đầu mới đến, đều do một ni cô già cai quản, hàng ngày dạy một ít kinh. Về sau Nguyên phi không dùng nữa, nên việc học tập của họ ngày một lười dần. Bọn con gái nhỏ ấy dần dần lớn lên, đều biết đôi chút tình đời. Giả Cần lại là người phong lưu, nghĩ rằng bọn Phương Quan đi tu chỉ là vì tính trẻ con, liền đến tìm cách đùa ghẹo. Không ngờ Phương Quan quả thật thành tâm tu hành. Giả Cần không dỗ dành được nó, liền đem mối tình ấy khêu gợi bọn ni cô, đạo cô. Trong bọn ni cô có con Thám Hương và trong bọn đạo cô có con Hạc Tiên là có vẻ yêu kiều xinh đẹp. Giả Cần liền dan díu với chúng, lúc nhàn rỗi cũng dạy họ đàn hát. Vào khoảng giữa tháng mười. Giả Cần lãnh lương tháng cho các ni cô ở am Thuỷ Nguyệt, liền nghĩ ra một kế, bảo bọn họ
– Tôi đem tiền lương ra cho các cô, bây giờ trở vào thành không kịp, đành phải nghỉ lại đây. Trời rét quá, làm thế nào bây giờ? Hôm nay tôi có đưa theo ít rượu quả, chúng ta uống rượu một đêm có được không?
Bọn con gái đều cao hứng, liền bày đặt bàn, mời bọn ni cô ở am lại. Chỉ có Phương Quan không đến. Giả Cần uống vài ly rượu, liền bảo chơi tửu lệnh. Bọn Thám Hướng nói
– Chúng tôi đều không biết tửu lệnh ra sao cả. Chi bằng chơi đánh toan, ai thua phải phạt một ly rượu, như thế không khoái chí hơn sao?
Người ni cô ở am ấy nói
– Trời mới trưa, uống bậy, nói bậy như thế, khó coi lắm. Hãy uống tạm vài chén. ai muốn về thì về, ai muốn tiếp cậu Cần thì đến tối, tha hồ mà uống tôi cũng mặc.
Đang nói thì thấy đạo bà vội vàng chạy vào nói
– Bỏ mau đi, ông Lại ở trong phủ đã đến!
Bọn ni cô vội vã thu dọn rồi bảo Giả Cần tránh đi. Giả
Cần nhân uống mấy ly rượu, hăng lên nói
– Tôi đưa lương tháng đến, sợ cái gì?
Nói chưa xong, đã thấy Lại Đại đi vào. Lại Đại thấy thế giận lắm. Nhưng vì Giả Chính dặn
“không được lộ chuyện”, nên đành giả vờ cười hỏi vớ vẩn
– Cậu Cần cũng ở đây à?
Giá Cần vội vàng đứng dậy nói
– Ông Lại đến dây làm gì thế?
– Được cậu ở đây càng hay, mau mau bảo bọn ni cô và đạo cô thu xếp lên xe vào thành. trong cung truyền gọi đấy.
Giả Cần không biết vì sao, còn muốn hỏi kỹ. Lại Đại nói
– Trời chiều rồi. Mau lên để vào thành cho kịp.
Bọn con gái đành phải cùng nhau lên xe. Lại Đại cưỡi lừa vội vàng dẫn họ vào thành.
Từ lúc nghe thấy việc ấy, Giả Chính giận quá, không đến nha môn nữa. Một mình ngồi trong thư phòng than thở. Giả Liễn cũng không dám đi đâu. Bỗng thấy người coi cửa vào thưa:
– Trong nha môn đêm nay đáng lẽ ông Trương phải túc trực. Nhưng ông Trương ốm, có đưa tin đến nhờ ông lớn thay hộ mỗi đêm.
Giả Chính định chờ Lại Đại về để xử việc Giả Cần. Không ngờ lúc đó lại phải đến nha môn túc trực, trong bụng bực bội cũng chẳng nói năng gì.
Giả Liễn tới thưa
– Lại Đại sau bữa cơm trưa mới đi ra, am Thủy Nguyệt lại cách thành những hai mươi dặm, dẫu đi nhanh, cũng đến canh hai mới về đến nhà. Hôm nay chú lại phải đến phủ túc trực giúp cho người ta. Vậy xin chú cứ đi. Lại Đại mà về thì cháu bảo anh ta giữ bọn chúng lại. Đừng nói gì cả. Đợi ngày mai chú về sẽ phân xử. Nếu thằng Cần có đến, cũng không cần nói rõ. Xem ngày mai khi gặp chú. Nó sẽ nói thế nào?
Giả Chính nghe nói có lý, đành phải đi túc trực ở nha môn. Giả Liễn nhân lúc rỗi định về phòng, vừa đi vừa giận thầm. Vì việc dùng Giả Cần là do vợ mình, muốn trách vợ thì hiện vợ vẫn ốm đành phải tạm thời chịu nhịn.
Bọn người hầu cứ thế một truyền mười, truyền đến nhà trong. Bình Nhi biết trước, vội vàng nói với Phượng Thư. Phượng Thư hôm nọ bị khiếp sợ quá, ngủ không được, trong mình mỏi mệt sững sờ, đang nghĩ đến câu chuyện ở chùa Thiết Hạm. Nghe nói ở bên ngoài có người dán giấy nặc danh, chị ta giật nẩy mình hỏi
– Giấy dán nói việc gì?
Bình Nhi buột miệng trả lời, vì không để ý nên nói lầm
– Có gì quan trọng đâu. Chỉ là câu chuyện ở am Mạn Đầu đấy thôi.
Phượng Thư vốn lo lắng sẵn, nghe nói là câu chuyện ở am Mạn Đầu. Có tật giật mình, sợ quá, nói không ra lời, hỏa bốc mạnh, mắt hoa, ho sù sụ, khạc ra một cục máu. Bình Nhi hoảng hốt lên nói
– Ở am Thủy Nguyệt thì chẳng qua là việc bọn ni cô, đạo cô đấy thôi. Mợ làm gì mà hoảng lên thế?
Phượng Thư thấy nói là am Thủy Nguyệt, tinh thần mới trấn tĩnh liền nói
– Ái chà. Đồ ngu ngốc ở đâu! Thế thì am Thủy Nguyệt hay là am Mạn Đầu?
– Ban đầu tôi nghe lầm, nói là am Mạn Đầu. Sau mới vỡ lẽ không phải là am Mạn Đầu mà là am Thủy Nguyệt, nên vừa rồi tôi quen miệng nói lầm là am Mạn Đầu.
– Ta cũng biết là am Thủy Nguyệt. Chứ am Mạn Đầu thì can gì đến ta! Việc ở am Thủy Nguyệt nguyên là ta bảo cháu Cần trông nom, chắc hẳn nó hớt xén lương tháng của họ chứ gì?
– Tôi nghe hình như không phải là chuyện lương tháng mà là câu chuyện bẩn thỉu.
– Kệ xác nó! Cậu Hai đâu rồi?
– Nghe nói ông lớn nổi giận nên cậu Hai cũng phải ở luôn bên ấy. Tôi nghe câu chuyện rắc rối, có dặn bọn họ không được làm ầm lên. Không rõ các bà đã biết chưa. Lại nghe nói ông lớn sai ông Lại đi bất bọn con gái ấy rồi. Giờ để tôi ra ngoài nghe ngóng xem sao. Theo ý tôi mợ hiện ốm, đừng nên nghĩ đến việc
vớ vẩn của họ.
Đang nói thì Giả Liễn đi vào, Phượng Thư định hỏi nhưng thấy chồng sắc mặt hầm hầm, nên vờ làm như không biết.
Giả Liễn ăn cơm chưa xong thì Lai Vượng vào nói
– Ngoài ấy mời cậu.
Lại Đại đã về rồi.
Giả Liễn nói
– Thằng Cần có đến không?
– Có ạ.
– Anh đi ra nói với Lại Đại là ông lớn đi vắng, hãy đem bọn con gái ấy giữ tạm trong vườn đợi mai ông lớn về sẽ đưa vào cung. Chỉ bảo thằng Cần ở lại trong thư phòng chờ tôi.
Lai Vượng vâng lời đi ra.
Giả Cần vào thư phòng, thấy bọn người hầu thì thầm chỉ trỏ với nhau, chẳng biết họ nói gì. Xem tình hình này, Giả Cần thấy không phải trong cung gọi người, muốn hỏi thì lại không tiện, trong bụng nhờ vực, bỗng thấy Giả Liễn đi ra. Giả Cần hỏi thăm sức khỏe rồi buông tay đứng hầu, nói
– Không biết quý phi truyền gọi bọn con gái vào cung tức khắc có việc gì, làm chúng cháu phải chạy bở hơi tai. May hôm nay cháu lại đưa tiền tháng cho họ, còn chưa về liền cùng ông Lại đi về đây. Chắc chú đã biết.
– Tao biết thế nào được. Chỉ mày mới biết chứ!
Giả Cần không biết đầu đuôi ra sao cũng không dám hỏi nữa. Giả Liễn nói
– Việc mày làm giỏi thật? Ông đang giận đầy ruột đấy!
– Nào cháu có làm gì đâu. Tiền tháng này cũng phát đầy đủ; bọn con gái thì kinh kệ cũng đều thuộc cả.
Giả Liễn thấy nói không ngờ đến việc xảy ra, lại hàng ngày hay chung chạ cười đùa với nhau, liền thở dài một tiếng nói:
– Tao muốn tát cho mày một cái! Mày xem đây này?
Nói xong. Hắn rút cái giấy nặc danh ở trong ống giày vứt ra cho nó xem.
Giả Cần cầm xem xong, tái mặt đi, nói
– Ai làm thế này? Cháu có làm gì bậy bạ đâu mà họ giết cháu? Mỗi tháng cháu chỉ đưa tiền đi một lần. Đâu có những việc ấy? Nếu ông về, đánh hỏi cháu, thì cháu đến chết mất? Mẹ cháu mà biết lại càng đánh chết cháu.
Nói đến đó, hắn thấy không có ai, liền quỳ xuống, kêu xin
– Chú ơi? Chú cứu cháu với?
Hắn gục đầu lạy lia lịa, nước mắt chảy tràn trề. Giả Liễn
nghĩ thầm
– Chú mình rất ghét những chuyện này. Nếu hỏi ra mà có thật, thì chắc chú giận lắm. Việc này vở lở ra đã rất khó coi, lại làm cho đứa dán thư nặc danh càng đắc ý. Sau này việc nhà mình còn nhiều, chi bằng nhân khi chú đi vắng, mình cùng Lại Đại bàn bạc, cho qua quýt đi thì có thể yên ổn vô sự. Vả lại hiện nay chẳng có ai chứng kiến việc này cả.
Giả Liễn nghĩ vậy rồi nói
– Mày đừng có giấu tao nữa? Việc mày làm vụng trộm. Mày tưởng tao không biết à. Muốn vô sự thì khi ông có đánh hỏi. Mày phải nhất định cắn răng chối hết mới được. Đồ mặt dày kia! Dậy đi?
Nói xong, Giả Liễn sai người gọi Lại Đại. Một chốc, Lại
Đại đến. Giả Liễn đem chuyện ấy bàn với ông ta. Lại Đại nói
– Cậu Cần làm thật khó coi quá. Hôm nay lúc tôi đến am, thì bọn họ đang uống rượu. Câu chuyện viết trên thư nặc đanh nhất định là có.
Giả Liễn nói
– Thằng Cần đã nghe chưa? Không lẽ ông Lại cũng vu cho mày à?
Lúc đó.. Giả Cần mặt đỏ lên, không dám nói một lời. Giả Liễn lại phải nắm tay Lại Đại xin hộ
– Ông giúp nó một tí. Ông sẽ nói là tìm nó ở nhà đến. Ông đưa nó đi và nói là không gặp tôi. Đến mai ông thưa với ông lớn cũng không cần hỏi đến bọn con gái nữa. Chỉ gọi bà mối đến đem bán họ đi là xong. Lúc nào quý phi cần đến, chúng ta lại đi mua.
Lại Đại nghĩ bụng nếu sinh chuyện ra cũng vô ích. Chỉ thêm mang tiếng xấu, nên đành vâng lời.
Giả Liễn bảo Giả Cần
– Mày đi theo ông Lại, nghe ông ta bày vẽ cho. Rồi cứ thế mà làm.
– Giả Cần cúi đầu tạ ơn rồi theo Lại Đại đi ra, đến chỗ vắng người. Giả Cần lại sụp lạy Lại Đại. Lại Đại nói
– Cậu ơi cậu làm khó coi quá. Không biết mang tội với ai mới sinh ra chuyện thế này. Cậu nghĩ xem có ai thù oán gì cậu không.
Giả Cần nghĩ một lúc. Thân không có ai thù oán cả, đành phải tiu nghỉu đi theo Lại Đại.
1 Ngày xưa những người diễn kịch viết các tên vở vào cái hốt ngà đưa cho
người xem chấm vở nào là họ hát vở ấy.
2 Lấy tích Tần Trọng, một anh bán dầu, lấy được nàng Dao Cầm là một hoa khôi trong đám làng chơi.
3 “Tây bồi” là chừ ” Giả “. “Thảo cân” là chử Cầm. Tức là nói về Giả Cần.
Lại Đại dắt Giả Cần ra, chờ Giả Chính về phân xử. Đêm ấy chẳng có việc gì. Bọn ni cô, đạo cô được vào vườn, hết sức vui mừng, muốn đi chơi khắp vườn và sửa soạn để mai vào cung.
Không ngờ Lại Đại dặn bọn bà già coi vườn và bọn hầu trai canh giữ, chỉ đem cho họ một ít cơm nước, chứ không cho đi đâu nửa bước. Bọn con gái kia chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, đành phải ngồi đợi chí đến lúc trời sáng. Bọn a hoàn trong vườn tuy có biết việc đem bọn ni cô, đạo cô đến để trong cung sai khiến, nhưng cũng
không rõ đầu đuôi cho lắm.
Đến sáng hôm sau, Giả Chính hết phiên ra về, thì trên bộ đưa xuống sổ sách chi tiêu về công trình kiến trúc hai tỉnh, cần phải kiểm tra lập tức, nên không thể về nhà ngay. Giả Chính liền sai người về báo Giả Liển:
– Khi Lại Đại về thì phải tra hỏi rõ ràng, nên xử trí ra sao thì cứ xử trí, đừng có đợi ta.
Giả Liễn vâng lời, mừng thầm cho Giả Cần. Sau lại nghĩ:
– Nếu mình xử trí mà không có một tí dấu nào hết gì thì sợ chú ngờ vực; chi bằng cứ trình với thím, theo ý thím mà làm, dầu không hợp với ý của chú, mình cũng không đến nỗi chịu lỗi. Hắn bèn vào trình với Vương phu nhân:
– Hôm qua chú thấy giấy nặc danh, rồi nổi giận, đã bắt thằng Cần và bọn ni cô, đạo cô về phủ để tra xét. Hôm nay chú bận không có thì giờ tra hỏi, nên bảo cháu thưa với thím nên xử trí ra sao?
Vuơng phu nhân nghe vậy, ngạc nhiên bảo:
– Cháu nói gì thế? Nếu thằng Cần mà như thế, thì còn ra người nhà mình sao được? Nhưng cái quân nào dán giấy nặc danh ấy cũng đáng ghét! Những việc ấy có phải là việc nói càng được đâu. Cháu hỏi thằng Cần xem có thật như thế hay không?
– Cháu cũng hỏi nó rồi, chưa nói là nó không làm, dầu có làm đi nữa thì một người đã làm bậy, khi nào nó lại chịu nhận? Nhưng cháu nghĩ thằng Cần cũng không dám làm việc ấy. Nó cũng biết rằng có khi quý phi còn gọi đến bọn cô gái ấy, nếu sinh chuyện ra thì làm thế nào? Theo ý cháu, muốn tra hỏi nó cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng tra hỏi ra rồi thì xử trí ra sao?
– Giờ bọn con gái ấy đâu rồi?
– Cháu đều giữ chặt ở trong vườn?
– Họ có biết không?
– Họ cũng chí huyết là sắm sửa để vào cung thôi, chứ bên ngoài không ai nói gì cả.
– Phải đấy! Bọn ấy một giờ cũng không nên giữ lại. Trước kia ta đã bảo cho chúng nó về, các anh không nghe. Giờ đây chẳng xảy ra chuyện là gì? Cháu bảo Lại Đại đem bọn chúng ra hỏi xem nhà nó có còn bà con nào không, và đem giấy tờ cũ tra xét, rồi chịu tốn mấy chục lạng bạc, thuê chiếc thuyền, sai người đưa họ về quê, cẩn thận trả lại tất cả giấy tờ cho họ, cứ làm như thế là xong chuyện. Nếu vì một vài đứa
không tốt mà bắt cả bọn đều phải hoàn tục thì sẽ mắc tội đấy. Nếu giao họ cho bọn bà mối, ở đây luỵ mình, không đòi tiền nhưng bọn họ thế nào cũng đem đi bán, còn ai sống chết mặc kệ. Thằng Cần thì cháu mắng cho nó một trận, bảo nó biết: “Ngoài lúc tế tự hiếu hỷ, còn cấm không được đến đây. Coi chừng mà chạm phải cơn giận của chú thì liệu hồn, kẻo chạy không kịp đấy.” Cháu cũng nói với phòng kế toán bớt khoản chi tiêu ấy đi, rồi sai người truyền cho am Thủy Nguyệt biết rằng: “ông lớn bảo từ nay ngoài những khi đốt vàng thăm mộ, nếu các cậu có ai đến đấy thì không được tiếp đón, hễ còn một chút tiếng xấu tung ra, thì ngay cả ni cô già cũng phải đuổi đấy.
Giả Liễn vâng lời đi ra, thuật lời Vương phu nhân cho Lại Đại biết và nói:
– Ý của bà lớn bảo ông cứ làm như thế. Xử trí xong, ông nói lại với tôi, để tôi thưa lại với bà lớn. Ông xử trí nhanh lên. Khi ông lớn về, ông cứ theo như lời bà lớn mà trình.
Lại Đại nghe xong liền nói
– Bà lớn thật là nhân từ như đức Phật! Bọn người như thế mà còn sai người đưa về! Bà lớn đã có lòng tốt thì ta cũng phải chọn người tốt mà giao việc. Anh Cần thì xin cậu bảo ban giúp. Còn cái thằng dán giấy thì để tôi tìm cách tra cho ra, trị nó một mẻ mới được.
Giả Liễn gật đầu nói:
– Phải đấy.
Liền gọi Giả Cần đến xử lý. Lại Đại cũng vội lĩnh ni cô ra theo ý Vương phu nhân mà làm.
Đến chiều, Giả Chính về. Giả Liễn và Lại Đại trình lại.
Giả Chính vốn là người không hay sinh chuyện, nghe nói xong cũng cho qua. Riêng có bọn vô lại nghe nói phủ Giả cho ra hai mươi bốn con gái trẻ, ai mà chẳng mơ tưởng. Rút cuộc, bọn con gái ấy có về được đến nhà hay không, không ai biết và cũng khó lòng mà đoán trước được.
Tử Quyên thấy Đại Ngọc bệnh đã khỏi, ở trong vườn cũng chẳng có việc gì. Nghe nói sắp sứa đưa bọn ni cô vào cung, chị ta không biết là việc gì, liền đến bên nhà Giả mẫu để dò xem. Vừa gặp khi Uyên Ương rảnh việc đi ra, hai người ngồi nói chuyện phiếm, khi nhắc đến việc ni cô. Uyên ương lấy làm lạ nói:
– Tôi chẳng nghe gì cả, để rồi hỏi mợ Hai thì biết.
Đang nói thì có hai người đàn bà bên nhà Phó Thí sai sang hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu. Uyên ương định mời lên nhà. Hai người thấy Giá mẫu đang ngủ trưa, liền nói chuyện với Uyên ương một lúc rồi ra về.
Tử Quyên hỏi:
– Người nhà ai sai đến thế
Uyên ương nói:
– Thật đến chán! Nhà họ có cô con gái cũng khá xinh, họ rất nhát ra hàng của quý, ở trước mặt cụ, khi nào hỏi cũng khoe cô nhà họ xinh đẹp tử tế, lại biết giữ gìn lễ độ, ăn nói dễ nghe, tay chân khéo léo, biết viết chiết tính, thờ người trên rất hiếu kính, đôí đãi với người dưới rất hiền hòa. Khi nào đến là họ bịa ra một tràng những điều như thế để cho cụ nghe. Tôi nghe đến phát ngấy. Bọn bà già ấy thật làm cho người ta phái chán. Thế mà cụ lại hay nghe những chuyện ấy! Cụ thì không kể gì, chỉ lạ cho cậu Bảo, thường ngày thấy bà già thì ghét, nhưng hễ thấy bọn ấy thì lại ưa. Chị bảo có lạ không. Vừa rồi, bọn họ còn đến nói: “Cô nhà họ hiện nay có rất nhiều nhà đến dạm, nhưng ông nhà hơi tiếc không bằng lòng gả cho ai cả, chỉ muốn thông gia với những nhà như nhà chúng ta. Bọn họ khoe khoang, nịnh hót làm cụ cũng phải xiêu lòng.
Tứ Quyên nghe nói, ngẩn người ra, vờ hỏi:
– Nếu cụ thích, sao không dạm cho cậu Bảo?
Uyên ương vừa muốn nói rõ duyên cớ thì nghe trên nhà gọi: “Cụ đã dậy”. Uyên ương vội vàng lên nhà. Tử Quyên đành phải đứng dậy ra về. Chị ta vừa đi vừa nghĩ:”Cả thiên hạ phải chăng chỉ có một mình Bảo Ngọc? Người này cũng muốn, người khác cũng muốn. Cô nhà mình lại càng đâm ra mê mẩn. Xem tâm tình cô ta, nhất định là cô ta nhắm vào Bảo Ngọc rồi. Lần này lượt khác, đâm ra bệnh tật, không phải là vì việc ấy thì còn là gì nữa. Câu chuyện “vàng hạc” trong nhà này còn rộn lên chưa ra sao giờ đây lại thêm một cô Phó nào đó nữa, thì thật đến nguy! Mình xem chừng thì bụng cậu Bảỏ Ngọc cũng nhắm vào cô mình. Nhưng giờ đây nghe Uyên Ương nói thì lại ra thấy người này yêu người ấy? Có phải là phụ lòng cô mình không!”
Tử Quyên lúc đầu chỉ nghĩ đến chuyện Đại Ngọc, nhưng khi nghĩ sâu chút nữa, thì ngay cả thân mình cũng chưa biết ra sao, thành ra cứ ngơ ngẩn. Chị ta nghĩ nên khuyên Đại Ngọc đừng có uổng công nghĩ ngợi, nhưng lai sợ cô ta buồn giận: mà
để vậy thì thật tội nghiệp. Nghĩ quanh nghi quẩn, bất giác thấy bực bội, rồi lại tự gắt thầm:” Mày lo hộ cho người ta làm gì. Nếu quả thật cô Lâm mà lấy cậu Bảo Ngọc thì tính tình cô ta cũng khó mà hầu hạ. Tính tình Bảo Ngọc tốt, nhưng lại tham nhiều nuốt không trôi “. Mình khuyên người ta đừng bận lòng vô ích, mà chính mình mới thật đang bận lòng vô ích đấy. Từ nay về sau, mình chỉ hết lòng hầu hạ cô, còn việc khác thì thây kệ”.
Tử Quyên nghĩ thế, trong lòng cảm thấy khoan khoái. Khi về đến quán Tiêu Tương thi thấy Đại Ngọc đang ngồi một mình trên giường xem lại những bản thơ văn làm từ lúc trước. Đại Ngọc ngước mắt thấy Tử Quyên, liền hỏi:
– Chị đi đâu về đấy?
– Hôm nay tôi đi thăm bọn chị em một tí.
– Chị đi tìm chị Tập Nhân à?
– Tôi tìm chị ta làm gì?
Đại Ngọc nghĩ lại: “Chẳng biết tại sao, mình lại buột miệng nói câu ấy?” Tự mình cảm thấy khó coi, liền gắt:
– Chị tìm chị ấy hay không thì có can gì đến tôi. Thôi đi rót cho tôi chén trà.
Đang cười thầm trong bụng rồi đi pha trà. Bỗng nghe trong vườn có tiếng xôn xao, chẳng biết vì sao. Tứ Quyên một mặt đi pha trà, một mặt sai người đi dò xem. Người ấy về nói:
– Cây hải đường ớ Viện Di Hồng có mấy chồi khô đã lâu, cũng chẳng có ai bón tưới. Hôm qua cậu Bảo đến xem có một chồi đâm cành hình như lại nẩy mầm. Chẳng người nào tin, cứ để mặc. Hôm nay nó bỗng nở ra một bông hoa rất đẹp. Mọi người đều lấy làm lạ đua nhau đến xem. Cả cụ và bà Hai nghe tin cũng đến. Vì thế mợ Cả sai người quét dọn lá trong vườn, nên họ đang gọi nhau đến.
Đại Ngọc nghe nói, biết là Giả mẫu đến, liền đi thay áo và bảo Tuyết Nhạn đi dò xem.
– Nếu cụ đến thì về ngay, tin cho ta biết.
Tuyết Nhạn đi một lát, chạy về nói:
– Cụ bà Hai và nhiều người khác đều đến cả. Mời cô đi thôi.
Đại Ngọc soi gương, vuốt lại mái tóc một tí, liền vịn vai Tử Quyên cùng đến Viện Di Hồng thì thấy Giả mẫu đã ngồi trên cái giường Bảo Ngọc thường nằm rồi Đại Ngọc liền nói:
– Xin chúc bà mạnh khỏe. Rồi cô ta lùi lại chào Hình phu nhân, Vương phu nhân. Đại Ngọc cùng mấy chị em Lý Hoàn, Thám Xuân, Hình Tụ Yên chào hỏi nhau. Chỉ có Phượng Thư không đến. Sứ Tương Vân thì vì ông chú được đổi về kinh nên sai người đón cô ta về ; Tiết Bảo Cầm thì theo chị là Bảo Thoa về ở bên nhà ; bọn chị em họ Lý vì thấy trong vườn dạo này xảy ra nhiều việc, nên thím Lý đem ra ngoài ở. Vì thế, hôm nay Đại Ngọc chỉ thấy có mấy người..
Mọi người nói cười một lúc, bàn tán câu chuyện hoa nở kỳ quặc. Giả mẫu nói:
– Hoa này đáng lẽ nở vào vòng tháng ba. Bây giờ tuy vào tháng mười một. Nhưng vì tiết trời chậm, cũng còn như là tháng mười, chính tiết tiểu dương xuân, còn ấm áp, cho nên hoa nở cũng phải.
Vương phu nhân nói:
– Bà từng trải nhiều, nói rất đúng. Việc này cũng chẳng lấy gì làm lạ.
Hình phu nhân nói:
– Tôi nghe nói cây này đã chết khô một năm nay, tại sao lại nở ra hoa trái mùa? Thế nào cũng có duyên cớ gì đây.
Lý Hoàn cười nói:
– Bà và mẹ nói đều đúng cả. Cứ ý nghĩ dại dột của con thì chắc là chú Bảo sắp có việc mừng, cho nên hoa đến báo tin trước.
Thám Xuân tuy không nói, nhưng trong bụng nghĩ thầm: “chắc là không phải điềm tốt. Vật gì cũng thế, thuận thì tốt, nghịch thì xấu. Cỏ cây biết vận trời, nẩy nở không đúng thời, chắc là yêu quái gì đây”. Nhưng cô ta không nói ra.
Riêng có Đại Ngọctrong lòng xúc động, liền cao hứng nói:
– Ngày xưa nhà họ Điền có cây Kinh. Khi ba anh em ra ở riêng cây ấy chết khô ; sau đó, anh em họ cảm động lại ở chung với nhau như trước, thì cây Kinh sống lại. Đủ biết cây cối cũng gắn bó với người. Nay anh Hai chăm chỉ học hành. Cậu mợ vui mừng, cho nên cây này cũng sống lại và nở hoa.
Giả mẫu và Vương phu nhân nghe vậy vui mừng liền nói:
– Cháu Lâm so sánh có lý lắm.
Đang nói thì bọn Giả Xá, Giả Chính, Giả Hoàn và Giả Lan đều đến xem hoa. Giả Xá nói:
– Chắc là hoa báo điềm xấu, theo ý tôi thì nên chặt đi.
Giả Chính nói:
– Người ta hay nói thấy vật quái không lấy làm quái thì vật quái ấy cũng mất”. Cần gì mà chặt. Cứ mặc nó thôi.
Giả mẫu nghe thế liền nói:
– Người nào nói nhảm đấy. Người ta có việc tốt đẹp, quái với quỷ gì. Việc tết thì các người đều hưởng. Việc không tốt thì một mình ta chịu cho, không được nói bậy.
Giả Chính nghe thế, không dám nói gì, liền cùng Giả Xá đi ra.
Giả mẫu cao hứng liền gọi bọn nhà bếp mau sắm sửa tiệc rượu để cùng thưởng hoa. Lại bảo:
– Đại Ngọc, cháu Hoàn, cháu Lan, mỗi đứa làm một bài thơ mừng. Cháu Lâm vừa ốm dậy không bắt lo lắng suy nghĩ, có cao hứng thì sửa chữa thơ cho họ.
Giả mẫu lại nói với bọn Lý Hoàn:
– Các cháu đều cùng uống rượu với ta.
Lý Hoàn vâng dạ rồi ngoảnh lại cười bảo Thám Xuân:
– Tại cô sinh chuyện ra cả.
– Đã không bảo chúng tôi làm thơ, sao lại bảo chúng tôi sinh chuyện?
– Thi xã hải đường chẳng phải do cô lập ra à? Nay cây
hải đường này cũng định vào thi xã đấy.
Mọi người nghe nói đều cười. Một lúc cỗ rượu bày ra, ai nấy đều muốn lấy lòng Giả mẫu, nên đều nói những câu vui mừng cả. Bảo Ngọc đứng dậy rót rượu, làm ngay bốn câu thơ, viết ra đọc cho Giả mẫu nghe:
Cây hải đường kia bỗng héo hoài
Giờ sao hoa nở, nở vì ai?
Phải chăng thềm bắc dâng điềm thọ,
Ngày nhân dương 1 về nở trúc mai.
Lý Hoàn cũng làm một bài, viết ra và đọc:
Gíap xuân cây cỏ nẩy mầm,
Trái tiết cây đường vẫn có hoa.
Mới biết trên đời bao việc lạ,
Tháng đông hoa nở có nhà ta.
Giả Lan viết lại tử tế, trình lên Giả mẫu, Giả mẫu bảo Lý Hoàn đọc:
Khói đọng trước sân màu đẹp úa,
Sương đầm sau tuyết vẻ hồng tươi,
Đừng cho hoa nọ loài vô giác,
Vui góp thêm vào chén họp vui.
Giả mẫu nghe xong, nói:
– Ta không hiểu thơ lắm, nhưng nghe ra thì thơ chắt Lan hay ; thơ cháu Hoàn không hay. Thôi các cháu lại đây ăn cơm.
Bảo Ngọc thấy Giả mẫu vui, càng thêm hào hứng, nhân nghĩ thầm năm Tĩnh Văn chết, cây hải đường khô. Nay cây hải đường tươi lại. Người trong viện chắc ít ai nấy cùng được mạnh khỏe cả, chỉ tiếc Tĩnh Văn không sống lại được như hoa mà.
thôi “.
Bảo Ngọc lại đổi vui làm buồn. Bỗng lại nhớ đến hôm trước đây, Xảo Thư nhắc đến việc Phượng Thư định đem con Năm vào nhà mình, liền nghĩ: hoặc giả hoa này vì con Năm mà nở cũng chưa biết chừng?” Rồi anh ta lại đổi buồn làm vui, cười nói như thường.
Giả mẫu ngồi một lúc rồi vịn vai Trân Châu đi về. Vương phu nhân cũng theo sang. Bỗng thấy Bình Nhi cười hớn hở chạy lại đón, và nói:
– Mợ cháu biết cụ thưởng hoa ở đây. Nhưng không sang được nên bảo cháu qua hầu hạ cụ và bà. Lại còn có hai tấm lụa hồng đưa biếu cậu Bảo, bọc bông hoa ấy gọi là lễ mừng.
Tập Nhân tới nhận và đưa trình Giả mẫu xem. Giả mẫu cười và nói:
– Thật là con Phượng làm việc gì cũng đường hoàng mới mẻ, rất có thú vị.
Tập Nhân cười nói với Bình Nhi:
– Nhờ chị về, thay lời cậu Bảo cám ơn mợ Hai dùm. Nếu có điều đáng mừng thì cũng là mừng chung.
Giả mẫu nghe xong cười nói:
– Ái chà! Thế mà ta quên mất. Cháu Phượng tuy ốm mà vẫn nghĩ chu đáo. Món lễ nó đưa cũng khéo đấy.
Giả mẫu vừa nói vừa cùng mọi người đi ra.
Bình Nhi nói riêng với Tập Nhân: “Mợ Hai nói, hoa nở kỳ quá, nên bảo chị cắt một mảnh lụa đỏ treo lên trên, thì sẽ ứng vào siệc vui mừng, và sau này cũng đừng cho là việc lạ mà bàn tán mãi.”
Tập Nhân vâng lời, tiễn Bình Nhi đi ra.
Hôm đó Bảo Ngọc đang mặc một chiếc áo da lông, nghỉ ở nhà, nghe nói hoa nở, vội vàng ra xem. Anh ta xem hoa ngắm nghía ngây ngất rồi đâm ra nghĩ ngợi. Say sưa nhìn cánh hoa quên hết cả những chuyện mừng vui, tan họp. Bỗng nghe nói Giả mẫu sắp đến, liền mặc chiếc áo da cáo và khoác một chiếc áo ngồi bằng da cáo màu huyền, đi ra đón tiếp Giả mẫu. Nhân vì thay áo vội vàng, nên không kịp đeo viên ngọc thông linh. Đến khi Giả mẫu về rồi. Bảo Ngọc lại mặc áu như cũ. Tập Nhân thấy trên cổ Bả Ngọc không đeo ngọc, liền hỏi:
– Viên ngọc đâu rồi?
Vừa rồi vội vàng thay áo, tôi gỡ ra để trên bàn chứ không đeo.
Tập Nhân ngoảnh nhìn trên bàn không thấy viên ngọc, tìm khắp nơi chẳng thấy đâu có. Tập Nhân sợ toát mồ hôi. Bảo Ngọc nói:
– Đừng có hoảng lên, nó chỉ trong nhà này thôi, hỏi những người hầu thì biết.
Tập Nhân tưởng là bọn Xạ Nguyệt giấu đi để để doạ mình, liền cười nói:
– Con ranh kia! Mày định đùa à? Mày giấu viên ngọc đâu rồi? Khéo mà mất thì cả tụi đừng có hòng sống đấy!
Xạ Nguyệt nghiêm nét mặt nói:
– Chị nói cái gì thế? Chơi đùa cũng tùy cái chứ. Việc này có phải là chuyện trẻ con đâu. Chị đừng có nói nhảm. Chị lú lẫn rồi đấy! Thử nhở lại xem để ở đâu. Bây giờ lại vu vạ cho người ta à?
Tập Nhân thấy họ nói như thế, biết không phải chúng đùa, liền hoảng lên nói:
– Trời Phật ơi! Ông trẻ ơi ông để ở đâu rồi?
Bảo Ngọc nói:
– Tôi nhớ rõ ràng là để trên bàn. Các chị tìm lại xem.
Tập Nhân và Xạ Nguyệt cũng không dám nói cho người ngoài biết, cứ đi tìm các nơi. Tìm mãi hơn nửa ngày vẫn không thấy tăm hơi. Họ tìm khắp rương, đổ cả tráp ra, không có chỗ nào là không lục đến. Sau nghi cho những người đến vừa rồi, không biết ai đà lấy đi chăng. Tập Nhân nói:
– Những người đến đây, ai lại không biết viên ngọc ấy là bản lệnh của con người. Còn dám lấy làm gì? Các chị hãy khoan nói lộ ra. Mau mau đi hỏi các nơi nếu có cô nào đùa lấy đi thì lạy lục họ mà xin về đây. Nếu là bọn a hoàn nhỏ lấy trộm, hỏi ra được cũng đừng trình báo trên nhà biết. Bất luận chúng muốn cái gì cũng đổi, miễn sao tìm thấy viên ngọc là được. Đây không phải là việc nhỏ. Mất cái này còn nguy hiểm hơn mất cả cậu Hai nữa kia đấy.
Bọn Xạ Nguyệt và Thu Văn vừa đi ra. Tập Nhân lại theo ra dặn:
– Những người vừa ăn cơm ớ đây thì hãy khoan hỏi. Hỏi không ra lại sinh nhiều chuyện không hay.
Bọn Xạ Nguyệt nghe lời, chia nhau đi tìm hỏi. Người nào người nấy chẳng hiểu ra sao đều sợ hãi nghi ngờ. Hai người vội vàng trở về, ngơ ngác nhìn nhau. Bảo Ngọc cũng sợ ngẩn người ra.
Tập Nhân hoảng lên khóc không ra nước mắt. Không biết tìm ớ đâu, lại không dám đi trình. Những người ở Viện Di Hồng đều ngẩn ra như tượng gỗ.
Khi các người đang ngơ ngác thì các nơi nghe tin đều chạy đến. Thám Xuân bảo đóng cửa vườn, gọi hai bà già dẫn hai a hoàn đến các nơi tìm lại lần nữa. Một mặt họ báo tin cho các người: “Hễ ai tìm được. sẽ có trọng thưởng”. Một là muốn khỏi
mang vạ lây. Hai là nghe nói có thưởng to, nên ai nấy đều ra sức tìm kiếm khắp nơi, cả từ các hố xí. Ai ngờ viên ngọc ấy chẳng khác gì cái kim thêu, tìm một ngày trời chẳng thấy tăm tích. Lý Hoàn hoảng lên nói:
– Việc này không phải là việc chơi. Tôi xin nói một câu vô phép đây.
Mọi người nói:
– Câu gì?
– Sự tình đã đến nước này, cũng không quản gì nữa. Hiện nay ở trong vườn, ngoài chú Bảo ra thì đều là đàn bà con gái cả. Xin các chị, các em, các cô bảo bọn a hoàn theo hầu đều cởi áo để khám xét. Nếu vẫn không ớm ra, thì bọn a hoàn đi xiết bọn bà già và bọn a hoàn làm việc nặng. Không biết như thế có được
không?
Mọi người đều nói:
– Nói thế cũng có lý. Hiện nay đông người lắm chuyện, ngay gian lẫn lộn, làm như thế, họ cũng khỏi phải tai tiếng.
Riêng Thám Xuân không nói gì cả.
Bọn a hoàn đều bằng lòng.
Bình Nhi nói:
– Xin khám tôi trước.
Rồi đến mọi người đều lần lượt cởi áo. Lý Hoàn lục soát cẩn thận.
Thám Xuân gắt:
– Chị Cả. Chị làm cái trò chẳng có thể thống gì cả. Đời nào ăn trộm lại còn giấu ở trong người. Viên ngọc ấy ở trong nhà là bảo bối, nhưng đưa ra ngoài người ta không rõ thì chỉ là vật bỏ đi. Ai ăm trộm nó làm gì? Tôi nghĩ thế nào cũng có người chơi ác đấy.
Mọi người nghe nói thế, lại không thấy Giả Hoàn ở đấy, mà hôm qua thì nó chạy lung tung khắp nhà, nên ai cũng nghi cho nó, có điều không dám nói rõ. Thám Xuân lại nói:
– Chơi ác chỉ có tiếng Hoàn thôi. Các chị cho người khẽ bảo nó tới đây, khuyên nó đưa ra, rồi dọa đừng để nó rêu rao lộ chuyện. Thế là xong việc. Mọi người đều gật đầu khen phải. Lý Hoàn nói với Bình Nhi:
– Việc này phải nhờ chị đi dùm mới xong.
Bình Nhi vâng lời, vội vàng ra đi. Một chốc cùng Giả Hoàn đến. Mọi người làm bộ như không có chuyện gì, gọi người pha trà để săn trong phòng, rồi đều kiếm cớ lánh đi một nơi, chỉ để Bình Nhi dỗ nó.
Binh Nhi cười nói với Giả Hoàn:
– Viên ngọc của anh Hai của cậu mất rồi, cậu có thấy không?
Giả Hoàn nghe nói, mặt đỏ lên, trừng mắt nói:
– Người ta mất đồ vật, sao chị lại gọi đến, nghi ngờ tra hỏi tôi? Tôi là kẻ trộm đã can án hay sao?
Bình Nhi thấy thế, không dám hỏi nữa, liền cười lấy lòng nó, nói:
– Không phải thế đâu. Vì nghĩ cậu Ba cất đi để dọa chúng nó chơi, cho nên tôi hỏi xem có thấy không, để cho bọn chúng biết đường mà ớm.
– Ngọc của anh ta thì ở trong nhà anh ta, thấy hay không cứ hỏi anh ta. Sao lại hỏi tôi? Các chị đều chiù chuộng nâng niu anh ta, được cái gì chẳng thấy hỏi tôi, mà hễ mất cái gì là cứ đến vặn vẹo tôi.
Nói xong, nó đứng dậy bỏ đi. Mọi người không tiện giữ lại.
Bảo Ngọc hoảng lên nói:
– Chỉ vì cái quái ấy mà sinh chuyện! Tôi không cần mà các chị cũng đừng tìm nữa, thấy Hoàn đi ra, thế nào nó cũng làm ầm lên, thế chẳng phải là sinh chuyện không?.
Bọn Tập Nhân hoảng sợ, khóc van:
– Ông trê ơi, ông cho viên ngọc mất đi, không quan hệ gì, chứ trên nhà mà biết thì bọn chúng tôi đều phải tan xương nát thịt đấy. Mọi người càng thêm hoảng sợ, biết rằng việc này không thể che giấu được nữa, đành phái bàn cách để trình với Giả mẫu.
Bảo Ngọc nói:
– Các chị cũng không phải bàn bạc gì, chỉ nói tôi đập vỡ đi là xong.
Bình Nhi nói:
– Cậu ơi! Cậu nói chơi đấy chớ! Bề trên sẽ hỏi tại sao mà đập vỡ, thì các chị ấy cũng chết thôi! Giả sử cụ hỏi đập vỡ thì mảnh ở đâu, ta sẽ trả lời ra sao?
Bảo Ngọc nói:
– Hay nói đổ là tôi ra ngoài làm rơi mất.
Mọi người nghĩ một lúc rồi nói:
– Câu nói ấy còn có thể lấp liếm cho qua đi được, nhưng hai hôm nay cậu không đi học, cũng không đi đâu kia mà.
– Sao lại không? Hôm kia tôi có đi xem hát ở phủ Lâm An Bá. Cứ nói hôm ấy tôi làm rơi mất là xong.
Thám Xuân nói:
– Thế cũng không ổn. Mất từ hôm kia, sao không trình ngay.
Mọi người đang nghĩ ngợi miên man, định bịa đặt để nói dối. Bỗng nghe tiếng dì Triệu vừa la vừa khóc, chạy đến nói:
– Các chị mất đồ vật, tại sao không đi tìm, lại sai người tra khảo riêng thằng Hoàn? Tôi dắt thằng Hoàn tới đây giao cho các chị, là người hay nịnh hót bề trên, muốn giết, muốn mổ nó, tùy ý các chị.
Nói đến đó, dì Triệu đẩy Giả Hoàn một cái và quát:
– Thằng giặc này, thú tội mau đi!
Giả Hoàn nổi cáu cũng khóc ầm lên. Lý Hoàn đang định khuyên giải thì nghe a hoàn nói:
– Bà Hai đã đến.
Bọn Tập Nhân không biết lẫn tránh vào đâu. Bảo Ngọc vội vàng ra đón. Dì Triệu cũng tạm im lặng và theo ra. Vương phu nhân thấy mọi người đều có vẽ lo sợ mới tin câu chuyện vừa rồi là có thật, liền hỏi:
– Viên ngọc ấy mất thật à?
Mọi người đều không dám lên tiếng. Vương phu nhân vào ngồi trong nhà, gọi Tập Nhân ra hỏi. Tập Nhân hoảng sợ, vội vàng quỳ xuống, ứa nước mắt, định thưa lại.
Vương phu nhân nói:
– Mày đứng dậy, mau mau sai người đi tìm cho kỹ, cuống quít lên thì được cái gì? Tập Nhân nghẹn ngào nói không ra lời. Bảo Ngọc sợ Tập Nhân nói thẳng ra, liền nói:
– Thưa mẹ, việc này không can gì đến Tập Nhân. Hôm trước đi nghe hát ở Phủ Lâm An Bá, con trót đánh rơi ở ngoài đường:
– Tại sao lúc đó không tìm ngay?
– Con sợ chúng biết nên không nói, đã bảo bọn Bồi Dính tìm khắp nơi rồi.
– Nói nhảm! Hiện nay không phải là phiên Tập Nhân hầu hạ thay quần áo cho con hay sao? Lúc con về, các vật như khăn tay, túi thêu, thiếu cái gì nó phải hỏi rõ, huống chi viên ngọc, lẽ nào nó lại không hỏi?
Bảo Ngọc không biết trả lời thế nào.
Dì Triệu nghe nói đắc ý, vội đỡ lời:
– Đồ vật đánh rơi ở ngoài cũng vu vạ cho thằng Hoàn…
Nói chưa dứt lời. Vương phu nhân quát:
– Người ta đang rối chuyện này, dì lại nói những điều không liên quan gì đến công việc hết.
Dì Triệu im lặng không dám nói nữa. Lý Hoàn, Thám Xuân cứ sự thực thưa lại với Vương phu nhân. Vương phu nhân hoảng hốt cháy nước mắt, định trình rõ với Giả mẫu, rồi sai người sang hỏi những người hôm qua cùng đến với Hình phu nhân.
Phượng Thư đang ốm, nghe nói Bảo Ngọc mất ngọc, biết rằng Vương phu nhân đã qua bên ấy, nghĩ tránh cũng không được liền vịn vai Phong Nhi vào trong vườn. Lúc ấy Vương phu nhân đứng dậy định về. Phượng Thư miệng run run nói:
– Thím mạnh giỏi.
Bọn Bảo Ngọc đều chạy lại hỏi thăm sức khỏe của Phượng Thư. Vương phu nhân nói:
– Chị cũng nghe nói à? Có phải là việc lạ không? Vừa mới lo ra một tí đã mất ngay, tìm không thấy đâu nữa. Chị thử nghĩ xem, kể từ các a hoàn bên cụ, cho đến Bình Nhi nhà chị, ai là người không cẩn thận, ai là người có bụng dạ độc ác như thế.
– Ta định trình với cụ phải tra hỏi cho ra mới được, không thì làm mất bản mệnh của thằng Bảo Ngọc đấy!
Phượng Thư nói:
– Nhà ta nhiều người lắm chuyện. Người xưa hay nói: “Biết người biết mặt. Biết lòng làm sao?” Chắc đâu ai cũng là người tốt? Nhưng nếu làm rầm lên, người ta biết thì cái đứa trộm ngọc sợ bị cụ tra ra, nó sẽ chết không có chỗ chôn, đâm liều, đem tiêu hủy viên ngọc đi cho mất tích, thì còn biết tìm vào đâu nữa.
Theo ý tôi, cứ nói là chú Bảo vốn không thích gì viên ngọc ấy, mất đi cũng không quan hệ gì, cốt sao mọi người giữ kín đáo một tí, đừng để cụ và ông lớn biết là được. Mặt khác, ta ngấm ngầm sai người đi tìm hỏi các nơi, lừa cho họ đưa ra, sẽ vừa tìm thấy ngọc, vừa bắt được kẻ trộm. Chẳng hay thím nghĩ thế nào?
Vương phu nhân nghĩ ngợi một lức rồi nói:
– Chị nói cũng có lý, nhưng giấu ông nhà sao được?
Liền gọi Giả Hoàn lại bảo:
– Anh Hai mày mất viên ngọc, chỉ hỏi qua mày một câu, sao mày lại làm ầm lên? Nếu người ta nghe thấy, hủy hoại viên ngọc đi thì mày có sống được không?
Giả Hoàn khiếp sợ, vừa khóc vừa nói:
– Từ nay con không dám làm ầm lên nữa.
Dì Triệu nghe nói như thế cũng không còn dám hé răng.
Vương phu nhân liền dặn dò mọi người:
– Ta cho còn có nơi chưa tìm đến, chứ trong nhà này nó bay đi đâu được? Nhưng không được rêu rao ra ngoài. Hạn cho Tập Nhân trong ha ngày phải tìm cho ra. Không tìm ra thì có lẽ cũng không giấu được nữa. Lúc bấy giờ cả nhà đừng có hòng sống yên ổn.Nói xong hà ta bảo Phượng Thư cùng đi sang nhà Hình
phu nhân để bàn chuyện đi tìm viên ngọc.
Ở bên này, bọn lý Hoàn bàn tán xôn xao, truyền gọi cả những người coi vườn đến, bảo khóa cửa vườn lại, rồi gọi vợ Lâm Chí Hiếu nói nhỏ đầu đuôi với bà ta và bảo:
– Dặn người ở cửa trước cửa sau, trong ba ngày, bất luận là trai gái, tất cả những người hầu hạ, ở trong thì đi lại được, còn ở ngoài thì nhất luật cấm. Cứ nói rằng trong này bị mất đồ vật, chờ khi nào ớm được mới cho người đi ra.
Vợ Lâm Chí Hiếu vâng lời nói:
– Trước đây ở nhà tôi cung mất một vật chẳng quan trọng gì nhưng ông Lâm nhà tôi cứ muốn cho rõ ràng, liền ra phố ớm một ông thầy đoán chữ tên gọi là lão Lưu “mồm sắt” gì đó, viết ra một chữ là ông ta đoán rất rõ ràng, cứ thế về tìm quả nhiên thấy ngay.
Tập Nhân nghe nói như thế, liền nằn nì với bà ta:
– Bà Lâm ạ. Phiền bà mau mau về nhờ ông hỏi hộ chúng tôi xem.
Vợ Lâm Chí Hiếu vâng lời ra đi. Hình Tụ Yên nói:
– Bọn đoán chữ xem quẻ ở ngoài không ăn thua đâu. Khi ở miền Nam tôi nghe nói. Diệu Ngọc chiếu cầu tiên, sao không nhờ cô ta cầu để hỏi xem. Vả lại nghe nói viên ngọc ấy vốn có phép tiên mầu nhiệm, chắc có thể hỏi ra được.
Mọi người đều lấy làm lạ, nói:
– Chúng ta thường gặp cô ấy luôn, sao không bao giờ nghe cô ta nói?
Xạ Nguyệt vội vàng nói với Tụ Yên:
– Người khác mà nói thì cô ta không bằng lòng đâu. Tôi xin cúi đầu lạy cô, nhờ cô đi ngay cho! Nếu hỏi ra được manh mối, thì trọn đời tôi không quên ơn cô.
Nói xong, vội vàng khấu đầu làm lễ. Tụ Yên vội vàng ngăn lại.
Bọn Giả mẫu đều giục Tụ Yên đi mau đến am Lũng Thúy nhờ Diệu Ngọc cầu tiên giúp cho.
Vừa lúc ấy thì vợ Lâm Chí Hiếu vào nói:
– May lắm các cô ạ! Ông Lâm nhà tôi đi đoán chữ về nói viên ngọc ấy nhất định sẽ không mất, sau này thế nào cũng có người đưa trả.
Mọi người nghe nói đều nửa tin nửa ngờ, riêng Tập Nhân và Xạ Nguyệt thì mừng rú lên. Thám Xuân hỏi:
– Đoán chữ gì.
Vợ Lâm Chí Hiếu nói:
– Họ nói nhiều lắm tôi không nhớ hết chỉ nhớ là nói chữ “thưởng”, có nghĩa là thưởng cái gì cho người ta đấy. Ông Lưu “mồm sắt” chẳng hỏi han gì, nói ngay: “mất đồ vật phải không?”
Lý Hoàn nói:
– Thế đã giỏi rồi.
– Ông ta còn bảo chữ “thưởng” phía trên là chữ “tiểu” phía dưới là chữ “khẩu”. có nghĩa là vật ấy có thể ngậm ở trong mồm được, nhất định là loại hạt châu, hòn ngọc gì đấy.
Mọi người nghe đều khen:
– Thật là thần tiên! Thế rồi ông ta nói gì nữa?
– Ông ta nói chữ “bối ” liền bên dưới chữ thưởng nếu tách ra thì không thành chữ “kiến”, chẳng phải mất đi là gì. Vì bên trên chữ ấy có thể ngắt ra thành chữ “đương” cho nên ông ta bảo “mau mau đến hiệu cầm đồ mà tìm.” Ông ta lại nói chữ “thưởng” thêm chữ “nhân” vắt bên thành ra chữ “thường”, có nghĩa là trả lại cho nên tìm đến hiệu cầm đồ, sẽ có người. Có người thì sẽ chuộc được, chẳng phải được người ta trả lại là gì?
Mọi người đều nói:
– Đã thế, thì hãy bắt đầu tìm ở các hiệu gần đây đã. Chẳng qua chỉ có mấy hiệu cầm đồ, tìm cho hết thế nào cũng có. Khi đã tìm được viên ngọc thì tìm người cũng dễ thôi.
Lý Hoàn nói:
– Quý hồ tìm được ngọc. Không cần tìm người cũng được. Bà Lâm này, nhờ bà đem câu chuyện đoán chữ mau mau đến thưa với mợ Hai rồi nhờ mợ ấy trình với bà Hai, để người yên lòng. Rồi bảo mợ Hai mau mau sai người đi tra xét ngay.
Vợ Lâm Chí Hiếu vâng lời đi ra.
Mọi người hơi yên tâm. Chỉ ngồi thờ thẫn chờ Hình Tụ Yên về. Đang ngơ ngẩn chờ đợi thì thấy Bồi Dính ở ngoài cửa vẫy tay gọi a hoàn nhỏ ra mau. A hoàn nhỏ vội vàng chạy ra. Bồi Dính liền nói:
– Cô mau mau vào thưa cậu Hai và các bà, các mợ, các cô trong này là có việc mừng to như trời ấy!
A hoàn nhỏ nói:
– Anh nói mau đi. Sao còn lằng nhằng thế?
Bồi Dính vừa cười vừa vỗ tay nói:
– Tôi nói với cô. Cô vào trình lại. Cả hai đứa chúng ta đều được thưởng đấy! Cô thử đoán xem việc gì? Viên ngọc của cậu Bảo ấy, tôi nắm được tin đích xác rồi.
Bồi Dính ở ngoài cửa nói với a hoàn nhỏ rằng đã tìm thấy viên ngọc của cậu Bảo Ngọc rồi. A hoàn vội vàng về tin với Bảo Ngọc. Mọi người giục Bảo Ngọc ra hỏi, còn họ đều đứng chờ ở hành lang. Bảo Ngọc cũng thấy yên tâm, liền chạy ra cửa hỏi:
– Mày lấy được ở đâu thế? Đưa đây nhanh lên.
– Lấy thì chưa lấy được, còn phải chờ người ta đứng nhận nữa kia.
– Mày nói nhanh lên, vì sao mà biết, để tao sai người đi lấy.
– Lúc nãy cháu ở ngoài này nghe nói ông Lâm đi nhờ thầy đoán chữ, cháu liền đi theo. Nghe nói phải tìm ở các hiệu cầm đồ, cháu không đợi thầy ấy nói xong liền chạy đến mấy hiệu cầm đồ, ra mẫu cho họ xem. Có một nhà nói “có”. Cháu bảo đưa cho xem. Họ đòi biên lai. Cháu hỏi: “Cầm bao nhiêu tiền?” Họ nói: “Có viên thì cầm ba trăm đồng! Có viên thì cầm năm trăm đồng. Hôm trước có một người cũng đem một viên ngọc như thế cầm ba trăm đồng tiền hôm nay lại có một người cũng đem viên ngọc như thế cầm năm trăm đồng tiền”.
Bảo Ngọc không đợi nó nói hết lời liền bảo:
– Mày đem mau ba trăm hoặc năm trăm đồng tiền đi chuộc về đây, chúng ta xem có đúng hay không?
Tập Nhân đứng trong gắt:
– Cậu đừng có nghe nó! Lúc nhỏ, tôi nghe anh tôi nói, có người thường bán những viên ngọc nhỏ. Khi thiếu tiền tiêu, họ đem đi cầm, chắc rằng hiệu cầm đồ nào cũng có.
Lúc đầu, mọi người nghe vậy đang kinh ngạc, đến khi nghe Tập Nhân nói, nghĩ lại, ai cũng bật cười và nói: “Mời cậu Hai vào thôi, đừng có nghe cái thằng dại ấy nữa. Thứ ngọc nó nói đấy chắc không đúng đâu”. Bảo Ngọc cũng cười. Bỗng thấy Hình Tụ Yên về. Số là Tụ Yên đến am Lũng Thúy gặp Diệu Ngọc, không kịp nói chuyện phiếm, liền nhờ cô ta cầu tiên ngay. Diệu Ngọc cười nhạt rồi nói:
– Tôi đi lại với cô là vì biết cô không phải là hạng người ham danh lợi. Hôm nay sao lại nghe những lời đồn nhảm ở đâu, tới quấy rầy tôi thế. Vả lại tôi cũng không hiểu cầu tiên là thế nào.
Nói xong, toan bỏ đi. Tụ Yên trong lòng ân hận mình đã trót đến, nghĩ thầm: “mình biết tính khí cô ta như thế. Nhưng đã lỡ nói ra, không có lẽ về suông. Mình cứ nói cho ra lẽ là cô ta có biết cầu tiên, thì cũng không tiện”. Tụ Yên đành phải nói rõ cho cô ta nghe là việc này có quan hệ đến tính mệnh bọn Tập Nhân. Thấy Diệu Ngọc hơi cảm động, Tụ Yên hến đứng dậy lạy mấy lạy. Diệu Ngọc thở dài:
– Hà tất chị phải lo hộ cho người ta như thế! Từ khi tôi tới kinh đô đến nay, chưa hề ai rõ tôi biết cầu tiên. Nay cô tung chuyện ra, sợ sau này họ đến quấy rầy, tôi không được ở yên.
Tụ Yên nói:
– Tôi cũng chỉ vì không đành tâm trong phút chốc, lại biết thế nào cô cũng mở lòng từ bi. Nếu sau này có ai đến nhờ cô thì bằng lòng hay không là tùy cô, ai dám bắt buộc?
Diệu Ngọc cười, rồi gọi đại bà thắp hương. Cô ta mở rương lấy bàn cát và sọt ra, viết mấy đạo bùa, bảo Tụ Yên làm lễ. Cầu khân xong, cô ta đứng dậy, cùng Tụ Yên cầm sọt, không bao lâu cái sọt viết mấy câu rất mau như sau:
Ôi! Đến không dấu vết đi cũng không,
Dưới núi Thanh Ngạnh dựa cây thông.
Muốn theo tìm, núi muôn trùng.
Vào cửa ta đây góp nhau cùng.
Viết xong, cái sọt dừng lại. Tụ Yên hỏi:
– Cầu vị tiên gì?
Diệu Ngọc nói:
– Cầu đức Quải tiên 1 đấy.
Tụ Yên chép lại câu thơ tiên cho, rồi nhờ Diệu Ngọc đoán hộ. Diệu Ngọc nói:
– Điều đó không thể được, ngay tôi cũng chẳng hiểu. Cô cứ cầm về, ở nhà họ, thiếu gì người thông minh.
Tụ Yên đành phải về. Vừa vào đến sân, mọi người đã hỏi ngay: “Thế nào?” Tụ Yên không kịp trả lời, đưa bản sao bài thơ cho Lý Hoàn. Bọn chị em và Bảo Ngọc dành nhau xem, đều đoán: “Muốn tìm ngay thì không thể được, nhưng mất thì không
mất, chưa biết đến lúc nào đó, không tìm mà lại thấy. Nhưng núi Thanh Ngạnh không biết ở đâu?”
Lý Hoàn nói:
– Đó là lời nói bóng của tiên, ở nhà mình đây làm gì mà có núi Thanh Ngạnh? Chắc là có ai sợ bị xét ra, đem vất vào dưới hòn đá núi, có cây thông nào đó cũng chưa biết chừng. Chỉ có câu: Vào cửa ta đây ” là nói vào cửa nhà ai?”
Đại Ngọc nói:
– Cầu vị tiên nào?
Tụ Yên nói:
– Cầu vị Quải tiên.
Thám Xuân nói:
– Nếu là cửa tiên thì khó vào lắm!
Tập Nhân trong lòng hoảng hốt, liền bắt bóng bắt gió tìm lung tung, không có một hòn đá nào là không lục tìm, nhưng chẳng hề thấy. Khi về nhà, Bảo Ngọc cũng không hỏi có tìm thấy hay không, chỉ cười khì. Xạ Nguyệt hoảng lên nói:
– Ông trẻ ơi! Thật là ông bỏ mất ở đâu, hãy nói rõ ra. Chúng tôi dù có chịu tội, cũng trắng ra trắng, đen ra đen chứ!
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi nói bỏ mất ở ngoài, các chị không nghe ; bây giờ chị lại hỏi tôi, tôi biết sao được?
Lý Hoàn và Thám Xuân nói:
– Hôm nay xoay mãi từ sáng đến giờ đã canh ba rồi. Cô Lâm mệt quá đã bỏ về rồi. Chúng ta cũng nghỉ một chút, ngày mai lại tìm thôi.
Nói xong, mọi người ra về. Bảo Ngọc cũng nằm ngủ. Tội nghiệp Tập Nhân suốt đêm khóc rồi lại nghĩ, không sao ngủ được.
Đại Ngọc về nhà, sực nhớ đến câu chuyện “vàng ngọc” trước đây lại đâm ra mừng rỡ, nghĩ bụng lời nói của hòa thượng và đạo sĩ thật không tin được. Nếu thật “vàng” và “ngọc” là có duyên, thì sao Bảo Ngọc lại làm mất ngọc đi được? Hoặc vì mình mà duyên “vàng” “ngọc” của họ bị chia rẽ cũng chưa biết chừng!”. Nghĩ vậy Đại Ngọc thấy yên tâm, chẳng kể gì cả ngày khó nhọc, lại đem sách ra xem. Tử Quyên thì lại thấy mệt, luôn luôn giục Đại Ngọc đi ngủ.
Đại Ngọc nằm xuống lại nghĩ đến việc hoa hải đường, nghĩ thầm trong bụng viên ngọc ấy là tự trong thai mang ra, không phải là vật tầm thường, đến hay đi đều có quan hệ. Nếu hoa ấy là điềm tốt thì không mất ngọc. Xem thế thì hoa ấy nở là điềm không lành. “Có lẽ anh ấy gặp việc không lành chăng?” Cô nghĩ như thế lại cảm thấy thương tâm. Nhưng khi nghĩ đến việc hôn nhân thì hình như hoa ấy lại nên nở, mà viên ngọc lại nên mất. Đại Ngọc cứ nghĩ vơ nghĩ vẩn, khi buồn khi vui, mãi đến canh năm mới ngủ.
Hôm sau Vương phu nhân sai người đến các hiệu cầm đồ tra hỏi. Phượng Thư thì ngấm ngầm kiếm cách dò tìm. Luôn mấy ngày xoay xở không có chút manh mối gì.
Cũng may là Giả mẫu và Giả Chính chưa biết. Bọn Tập Nhân ngày nào cũng sợ nơm nớp. Bảo Ngọc mấy ngày liền không đi học, cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, chẳng nói chẳng rằng, bơ phờ ủ rũ. Vương phu nhân nghĩ anh ta vì mất ngọc mà như thế nên cũng không để ý.
Một hôm Vương phu nhân đang bực mình, thì thấy Giả Liễn tới hỏi thăm sức khỏe, rồi cười hớn hở nói:
– Hôm nay nghe nói ông Giả Vũ Thôn sai người đến báo tin với chú rằng: “Ông Cậu 2 nhà ta được thăng chức nội các đại học sĩ, vâng chỉ vào kinh, định đến ngày hai mươi tháng giêng năm sau làm lễ tuyên ma 3. Công văn đã do trạm gửi đi rồi. Trạm này mỗi ngày đi ba trăm dặm. Chắc rằng ông Cậu đêm ngày đi gấp. chỉ già nửa tháng là có thể đến nơi. Cháu đến trình để thím rõ.
Vương phu nhân nghe nói hết sức vui mừng. Bà ta đang lo nghĩ bên ngoại ít người, nhà họ Tiết lại suy sụp, em thì làm quan ở tỉnh ngoài, không chăm nom cho mình được. Nay nghe nói em được thăng chức về kinh, nhà họ Vương vinh hoa rực rỡ, sau này Bảo Ngọc sẽ có nơi nương tựa, nên tạm bỏ qua việc mất ngọc. Suốt ngày chỉ trông em trai mau mau tới kinh.
Một hôm Giả Chính đi về, nước mắt ràn ruạ, thở hổn hển mà nói:
– Mau mau đi thưa với cụ, sắm sửa vào cung ngay! Đừng đem theo nhiều người, chỉ một mình bà theo hầu cụ vào cung.
Nghe nói quí phi bỗng mắc bệnh nặng. Hiện nay thái giám đang chờ ở ngoài. Ông ta nói là Viện thái y đã tâu rõ, đó là chứng đàm quyết 4 không thể nào chữa được.
Vương phu nhân nghe nói, khóc ầm lên. Giả Chính nói:
– Lúc này chưa phải là lúc khóc. Mau đi vào trình với cụ. Nói cho nhẹ nhàng, đừng làm cụ chết khiếp đấy!
Giả Chính nói rồi đi ra, dặn người nhà chờ sẵn. Vương phu nhân nín khóc, vào mời Giả mẫu, chỉ nói Nguyên phi có bệnh muốn vào cung hỏi thăm. Giả mẫu nghe nói, miệng niệm Phật và nói:
– Lại ốm nữa. Lần trước đã làm cho ta khiếp vía, sau mới biết là nghe lầm. Lần này mong rằng lại lầm nữa thì may mắn lắm.
Vương phu nhân vừa trả lời, vừa giục bọn Uyên Ương mở rương lấy quần áo mặc cho Giả mẫu. Bà ta cũng vội vàng về phòng, ăn mặc tề chỉnh, rồi trở sang chờ Giả mẫu. Sau đó, hai người ra nhà ngoài rồi lên kiệu vào cung.
Nguyên Xuân từ khi được chọn vào cung Phượng Tảo, được nhà vua rất yêu thương, dần dần thân thể béo ra, nên đi đứng cũng mệt. Mỗi ngày có lúc nhọc mệt thì thường sinh ra chứng đờm. Hôm trước hầu tiệc trở về, gặp phải lạnh, bệnh trở lại. Không ngờ lần này bệnh rất nặng, đờm tắc nghẹt, chân tay giá lạnh. Cung nhân tâu lên,vua cho gọi thái y chữa chạy, ngờ đâu thuốc uống không vào, dùng luôn mấy liều thuốc thông quan cũng không thấy có hiệu quả. Bọn nội quan lo sợ, tâu xin sắp sẵn hậu sự. Vì thế, truyền gọi bà con họ Giả vào thăm.
Giả mẫu và Vương phu nhân vào thấy Nguyên phi hỉ đờm tắc đầy miệng, không nói năng được. Trông thấy Giả mẫu, Nguyên Xuân muốn khóc, nhưng không có nước mắt. Giả mẫu lại gần hỏi thăm, nói vài câu an ủi. Một chốc ở ngoài đệ hàn danh sách của bọn Giả Chính vào. Cung tần tâu lên. Lúc đó mắt Nguyên phi không ngoảnh nhìn được nữa, dần dần sắc mặt thay đổi. Bọn nội quan và thái giám định tâu lên ngay cho vua biết, sợ rằng nhà vua bảo các cung phi khác đến trông nom, nếu để bà con họ ngoại ở lâu không tiện, nên mời ra ngồi chờ ở cung ngoài.
Giả mẫu và Vương phu nhân nỡ nào rời ngay nhưng vì lễ nghi của nhà vua như thế, đành phải đi ra, cũng không dám khóc lóc chỉ đau xót trong lòng mà thôi.
Ngoài cửa cung, có các quan đứng chờ tin tức. Chẳng bao lâu thấy có thái giám đi ra, lập tức truyền gọi khâm thiên giám. Giả mẫu biết là có chuyện chẳng lành, nhưng vẫn chưa dám nhúc nhích. Một lát, thái giám nhỏ truyền dụ ra:
– Giả nương nương qua đời!
Năm ấy là năm Giáp Dần Tiết lập xuân vào ngày mười tám tháng mười hai, mà ngày Nguyên phi mất là ngày mười chín tháng mười hai theo thời tiết thì đã qua năm Mão tháng dần thọ bốn mươi hai tuổi.
Giá mẫu đau xót, đành phải lên kiệu về nhà. Bọn Giả Chính được tin cũng thương khóc từ dọc đường về đến nhà. Hình phu nhân, Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Ngọc ra ngoài nhà lớn chia đứng hai hên đón tiếp hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu, Giả Chính và Vương phu nhân, rồi mọi người khóc lóc.
Hôm sau, sáng dậy, những người có phẩm cấp đều vào cung dự lễ tang. Giả Chính là quan bộ công, tuy rằng việc gì cũng làm theo quy chế sẵn có, nhưng các quan trên cũng chìu ý, chăm sóc ông ta ít nhiều. Bọn đồng sự cũng cứ hỏi ông ta rồi mới làm. Vì thế, ông ta bận cả hai nơi, không phải như đám tang Thái hậu và Chu phi trước.
Giả phi không có con cái, chỉ đặt thụy hiệu “Hiền thục quý phi” theo quy chế của nhà vua.
Nhưng người nhà họ Giả, đàn ông đến đàn bà, ngày nào cũng vào cung rất là bận rộn. May mà gần đây, Phượng Thư đã khá, trông nom việc nhà được. Chị ta lại còn phải sắp đặt việc đón tiếp và mừng Vương Tử Đằng sắp vào kinh. Anh ruột Phượng Thư là Vương Nhân biết chú được vào nội các cũng đem gia quyến vào kinh. Phượng Thư trong lòng vui mừng, dầu có ít nhiều lo lắng, nhưng thấy người nhà mình đông đúc như thế, cũng tạm khuây. Vì thế, trong người so với trước, có phần khá hơn.
Vương phu nhân thấy Phượng Thư lại lo liệu việc nhà như trước, san sẻ một nửa công việc của mình, lại thấy ông em sắp vào kinh. Mọi việc yên ổn, nên cảm thấy được yên tĩnh ít nhiều. Chỉ có Bảo Ngọc là người không có chức vị gì. Anh ta lại cũng không đi học. Đại Nho biết trong nhà anh ta có việc nên cũng để mặc. Giả Chính thì bận, cố nhiên là anh ta không có thì giờ tra hỏi đến.
Đáng lẽ ra thì nhân cơ hội này Bảo Ngọc có thể tha hồ vui chơi với bọn chị em. Không ngờ từ sau khi mất ngọc, Bảo Ngọc đâm ra uể oải, ăn nói cũng lẩn thẩn chứ không như trước. Ngay cả lúc bọn Giả mẫu khi đi khi về, nếu có ai bảo đến hỏi thăm thì anh ta cũng đến. Nhưng nếu không ai nói thì cũng thôi. Bọn tập Nhân trong bụng lo lắng, nhường lại không dám nói động đến, sợ anh ta giận. Hàng ngày cơm nước đưa lên trước mặt thì anh ta cũng ăn, không đưa đến cũng không đòi hỏi.
Tập Nhân thấy tình hình này, không giống con người tức giận, mà giống người có bệnh. Nhân lúc rảnh, Tập Nhân đến quán Tiêu Tương nói với Tử Quyên:
– Chẳng hiểu cậu Hai có vẻ như thế nào ấy, nhờ cô khuyên giải cho.
Tử Quyên nói ngay với Đại Ngọc. Nhưng Đại Ngọc nghĩ đến việc hôn nhân của Bảo Ngọc nhất định là mình rồi. Giờ đây gặp anh ta thấy khó coi. “Nếu anh ta đến đây, vốn ăn ở với nhau một chỗ từ khi nhỏ, tất nhiên không thể bỏ anh ấy được nhưng
bảo mình đi tìm anh ấy thì nhất định không được”. Vì thế Đại Ngọc không chịu đến.
Tập Nhân lại nói riêng với Thám Xuân. Không ngờ Thám Xuân trong bụng biết rõ rằng hoa hải đường nở quái gở, viên ngọc mất càng lạ lùng, tiếp đó là Nguyên Phi qua đời, nên đoán biết việc nhà không lành. Ngày ngày buồn bực, còn bụng dạ nào khuyên Bảo Ngọc. Vả lại, dù là anh em đấy, nhưng trai gái vẫn phải phân biệt, nên chị ta đến một vài lần, thấy Bảo Ngọc ra chiều uể oải. Do đó cũng không năng qua lại nữa.
Bảo Thoa cũng biết việc mất ngọc. Nhân vì hôm nọ, Tiết phu nhân sau khi bằng lòng về việc hôn nhân giữa chị ta với Bảo Ngọc, liền về nhà nói với con. Tiết phu nhân còn nói rõ:”Tuy dì có nói, nhưng mẹ cũng chưa nhất định nhận lời, còn nói đợi anh con về đã. Con có bằng lòng không?”
Bảo Thoa nghiêm nét mặt nói:
– Mẹ nói thế không đúng. Việc của con gái là do cha mẹ làm chủ; giờ cha con mất rồi, mẹ nên làm chủ lấy ; không nữa thì hỏi anh con. Sao lại hỏi con?
Tiết phu nhân thấy vậy càng thêm yêu mến con gái, nghĩ rằng chị ta được nuông chiù quen từ lúc nhỏ, nhưng vẫn trong trắng khiêm nhường. Vì thế, bà ta không nhắc đến Bảo Ngọc trước mặt Bảo Thoa. Cố nhiên Bảo Thoa cũng không khi nào nhắc đến hai tiếng “Bảo Ngọc”. Nay nghe nói mất ngọc, tuy chị ta rất là nghi ngờ sợ hãi, nhưng hỏi ra không tiện, đành chỉ nghe người khác bàn tán làm như không can gì đến mình cả.
Tiết phu nhân cũng có sai người qua hỏi thăm tin tức một vài lần. Nhân vì việc của con là Tiết Bàn ; nên bà ta bực bội, chỉ mong sao ông anh đến kinh đô để nhờ cứu vớt cho con khỏi tội.
Lại biết Nguyên Phi đã mất, nhà họ Giả công việc bận rộn, may được Phượng Thư đã khỏe trông nom việc nhà. Vì thế cũng không năng qua bên ấy.
Chỉ khổ cho Tập Nhân. Chị ta hết sức dịu dàng hầu hạ, khuyên lơn là an ủi. Nhưng Bảo Ngọc vẫn không hiểu gì. Chị ta đành chỉ nói thầm mà thôi.
Qua mâý ngày, linh cửu của Nguyên Phi đã đưa vào tẩm miếu. Bọn Giá mẫu phải đi đưa đám mất mấy hôm. Không ngờ Bảo Ngọc càng ngày càng ngớ ngẩn sốt nóng chẳng phải, đau ốm cũng không, nhưng ăn không ngon, ngủ không yên, thậm chí nói năng cũng không ra đầu ra đuôi gì nữa cả. Bọn Tập Nhân và Xạ Nguyệt càng hoảng sợ đã thưa với Phượng Thư mấy lần. Đôi khi Phượng Thư cũng qua thăm, ban đầu tưởng chỉ là anh ta không tìm được ngọc nên đâm tứt. Nhưng giờ đây xem ra thì giống như người mất hồn nên đành phải hàng ngày mời thầy thuốc chạy chữa. Uống luôn mấy thang thuốc, bệnh tình chẳng bớt chút nào, mà lại có phần tăng thêm. Hỏi đau chỗ nào thì Bảo Ngọc cũng không nói. Mãi đến khi việc tang Nguyên Phi xong. Giả mẫu nhớ Bảo Ngọc, thân hành vào vườn thăm hỏi. Vương phu nhân cũng theo sang. Bọn Tập Nhân bảo Bảo Ngọc ra đón và hỏi thăm sức khỏe. Bảo Ngọc tuy nói là có bệnh. Nhưng hằng ngày vẫn dậy đi lại. Bây giờ Tập Nhân bảo ra đón Giả mẫu thì anh ta cũng theo lời hỏi thăm sức khỏe như thường. Chỉ có điều là tất cả điều do Tập Nhân đứng bên bày vẽ cho. Giả mẫu thấy thế liền nói:
– Tưởng là cháu ốm như thế nào nên ta sang thăm. Nay thấy bộ dạng cháu vẫn thường, lòng ta cũng đỡ lo.
Vương phu nhân thấy thế cố nhiên vẫn yên lòng. Nhưng Bảo Ngọc chẳng trả lời gì cả, chỉ cười hì hì. Bọn Giả mẫu vào nhà trong ngồi nói chuyện với Bảo Ngọc. Hễ Tập Nhân bày cho câu gì thì anh ta nói câu ấy, khác hẳn ngày thường, giống hệt người ngây vậy.
Giả mẫu càng nhìn càng đâm nghi ngờ, liền nói:
– Khi ta mới đến, chẳng thấy nó có bệnh gì. Giờ nhìn kỹ thì bệnh này quả là nặng thật. Bộ dạng như là người mất hồn ấy. Vì sao mà sinh ra như thế?
Vương phu nhân biết không thể giấu được, lại thấy bộ dạng Tập Nhân rất đáng thương hại, đành phải đem những lời Bảo Ngọc trước đây nói với Giả mẫu. “Bảo Ngọc xem trò ở Phủ Lâm An Bá, đánh rơi mất viên ngọc “. Bà ta cũng nơm lớp lo ngại, chỉ sợ Giả mẫu bực lên, lại nói thêm:
– Hiện đã sai người tìm khắp nơi, phụ tiên, đi bói, đâu đâu cũng nói là tìm ở hiệu cầm đồ. Thế nào rồi cũng thấy.
Giả mẫu nghe nói hoảng hốt vùng đứng dậy, nước mắt ràn ruạ nói:
– Ngọc ấy mất làm sao được! Các người thật không hiểu gì cả! Nhưng chẳng nhẽ cha nó cũng bỏ qua đi à?
Vương phu nhân biết Giả mẫu giận, liền bảo bọn Tập Nhân quỳ xuống, rồi dịu dàng cúi đầu xuống thưa:
– Con sợ cụ kinh hoảng, ông con giận, nên đều không dám trình báo.
Giả mẫu thở dài và nói:
– Viên ngọc là cái bản mệnh của thằng Bảo. Vì mất đi cho nên nó mời mất hồn mất vía như thế! Để thế được à? Viên ngọc này cả thành ai cũng biết. Đời nào nhặt được họ lại để cho các người tìm ra. Mau mau sai người mời cha nó đến để ta nói chuyện.
Vương phu nhân và Tập Nhân đều sợ khiếp vía, liền van
– Bà mà giận, khi nhà con về thì càng sinh to chuyện. Hiện nay Bảo Ngọc đang ốm, xin cứ giao cho chúng con cố sức tìm kiếm.
– Các người sợ cha nó đâm giận thì đã có ta đây.
Liền bảo Xạ Nguyệt sai người đi mời. Một lúc người đi mời về thưa:
– Ông lớn đang đi tạ khách chưa về.
Giả mẫu nói:
– Không cần anh ấy cũng được. Chúng bây cứ nói là ta bảo tạm thời chưa cần trách phạt bọn người hầu. Ta bảo thằng Liễn tới, viết giấy treo giải thưởng, dán ở chỗ lúc trước nó qua lại nói rằng: “Ai nhặt được ngọc đưa đến sẽ thưởng một vạn lạng bạc, ai biết người ta nhặt được, đưa tin đến rồi tìm ra được thì thưởng năm ngàn lạng.” Nếu quả có người nhặt được đưa đến thì không nên tiếc bạc. Làm như thế chắc sẽ tìm được. Nếu cứ để mấy người nhà mình tìm thì suốt đời rồi cũng không ra.
Vương phu nhân cũng không dám nói rõ. Giả mẫu sai người nói với Giả Liễn, giục anh ta cứ thế mà làm.
Giả mẫu lại bảo:
– Dọn tất cả đồ dùng và dắt Bảo Ngọc đến chỗ ta ở, chỉ sai Tập Nhân và Thu Văn theo sang. Còn nửa đều ở lại trong vườn mà coi nhà.
Bảo Ngọc nghe nói cũng chẳng hỏi lại gì cả, chỉ một mực cười khì. Giả mẫu liền dắt Bảo Ngọc đứng dậy. Bọn Tập Nhân nâng đỡ và cùng đi ra ngoài vườn.
Về đến phòng mình Giả mẫu bảo Vương phu nhân ngồi, xem mọi người dọn dẹp cho Bảo Ngọc ở vào phòng bên trong, rồi hỏi Vương phu nhân:
– Chị biết ý ta không? Ta nghĩ trong vườn ít người, cây hoa ở Viện Di Hồng bỗng dưng chết đi rồi lại nở, có vẻ quái gở. Trước kia, nhờ có viên ngọc, trị được tà ma, nhưng bây giờ ngọc đã mất rồi, sợ tà khí dễ dàng xâm phạm. Vì thế, ta đưa nó đến đây ở chung một chỗ. Mấy ngày sắp đến, không cần bảo nó đi ra ngoài. Thầy thuốc có đến thì bảo cứ ở đây mà xem.
Vương phu nhân nghe nói, liền đỡ lời:
– Cụ nghĩ rất phải. Bây giờ Bảo Ngọc ở chung với cụ, cụ là người có phúc lớn, có gì cũng trấn áp được.
– Phúc với phận gì! Chẳng qua nhà ta ở có phần sạch sẽ yên tĩnh hơn, kinh kệ cũng nhiều, có thể tụng niệm để trấn lĩnh tâm thần. Chị thử hỏi Bảo Ngọc xem có thích ở đây không?
Bảo Ngọc nghe nói cứ cười hoài. Tập Nhân bảo nói tốt, Bảo Ngọc cũng nói tốt.
Vương phu nhân thấy dạng bộ như thế ứa nước mắt, nhưng ở chỗ Giả mẫu không dám khóc ra tiếng. Giả mẫu biết Vương phu nhân hoảng sợ, liền nói:
– Chị cứ về thôi. Ở đây đã có ta lo liệu. Đến tối anh ấy về thì bảo không cần đến gặp ta. Các người cứ đừng nói gì là được.
Sau khi Vương phu nhân về. Giả mẫu bảo Uyên ương tìm chút thuốc an thần, theo lời chỉ dẫn của thầy thuốc cho Bảo Ngọc uống.
Chiều hôm ấy, Giả Chính về nhà, ngồi trong xe nghe người đi đường nói với nhau.
– Người ta ai muốn phát tài cũng rất dễ dàng.
Người kia hỏi:
– Dễ cái gì?
– Hôm nay nghe nói cậu con ở trong phủ Vinh mất ngọc gì đó, dán giấy nói rõ hình dạng lớn nhỏ và màu sắc của viên ngọc, hứa rằng ai nhặt được đưa đến sẽ thưởng một vạn lạng bạc, ai đưa tin cũng thưởng năm ngàn lạng đấy.
Giả Chính tuy không rõ, nhưng trong bụng lấy làm lạ. Về đến nhà, liền gọi người coi cửa hỏi về việc đó. Người coi cửa nói
– Chúng con trước đây cũng không biết. Giữa trưa hôm nay, cậu Hai Liễn truyền lời cụ, bảo người đi dán chúng con mới biết.
Giả Chính than thở:
– Thật là nhà đến lúc suy, đẻ ra cái của nợ ấy! Lúc mới đẻ đã đồn đại khắp phố, được mười mấy năm trời thì tiếng đồn đã hơi đỡ, bây giờ lại viết giấy lung tung để tìm ngọc, còn ra cái lề lối gì nữa.
Nói xong, ông ta vội vàng vào trong nhà hỏi Vương phu nhân. Vương phu nhân nói rõ đầu đuôi cho Giả Chính nghe. Giả Chính biết là do ý định của Giả mẫu, không dám chống lại, chỉ trách Vương phu nhân mấy câu, rồi ra ngoài bảo người nhà ngấm ngầm bóc cái giấy ấy đi, đừng cho cụ biết. Không ngờ giấy ấy đã bị bọn vô lại bóc mất rồi.
Cách ít lâu, có người đến cửa phủ Vinh nói muốn đưa viên ngọc đến. Người nhà nghe vậy mừng lắm, liền bảo:
– Đưa đây tôi trình cho.
Người ấy rút trong bọc ra một tờ giấy treo giải thưởng, chỉ
cho người coi cửa xem và nói:
– Đây không phải là giấy treo giải thưởng của phủ nhà các ông à. Trong giấy nói rõ ai đưa ngọc đến thì thưởng một vạn lạng bạc. Hai ông ạ! Giờ các ông thấy tôi nghèo. Nhưng chốc nữa tôi lĩnh được bạc, tức là ông nhà giàu đấy. Các ông đừng có coi khinh tôi.
Bọn người canh cửa thấy anh ta nói giọng cứng lắm, liền bảo:
– Thì anh hãy cho chúng tôi xem một tí, mới tiện vào trình chứ.
Người ấy ban đầu không chịu, sau nghe nói có lý liền đưa viên ngọc ra, đặt trong bàn tay giơ lên một cái mà nói:
– Có đúng không?
Bọn người nhà này lâu nay hầu hạ ở ngoài, chỉ huyết có ngọc. Nhưng cũng không mấy khi được thấy ; bây giờ mới thấy hình dạng viên ngọc ấy, vội đàng chạy vào trong, có vẻ tâng công tranh nhau báo trước.
Hôm đó, Giả Chính và Giả Xá đều đi vắng, chỉ có Giả Liền ở nhà. Bọn người coi cửa vào thưa. Giả Liễn hỏi:
– Có thật thế không?
Người coi cửa nói:
– Chúng con chính mắt trông thấy rồi, nhưng anh ta không chịu đưa, đòi gặp chủ nhà. Một tay giao bạc, một tay giao ngọc.
Giả Liễn cũng mừng, vội vàng vào thưa với Vương phu nhân và trình ngay với Giả mẫu, làm cho Tập Nhân mừng quá, chắp tay niệm Phật. Giả mẫu không hề đổi lời. vội vàng nói ngay:
– Mau mau bảo cháu Liễn mời người ấy vào thư phòng, đem ngọc xem, rồi giao bạc ngay cho người ta.
Giả Liễn theo lời, mời người ấy vào, lấy lễ khách mà tiếp ôn tồn cám ơn và nói:
– Xin mượn viên ngọc đem vào nhà trong cho người chủ viên ngọc xem. Còn bạc thì không kém một ly.
Người ấy đành phải đưa ra một cái bao lụa hồng. Giả Liễn mở ra xem, quả nhiên một viên ngọc, đẹp sáng chói lọi. Giả Liễn xưa nay vốn không đề ý, bây giờ thì cầm xem kỹ. Xem đi xem lại những chữ trên viên ngọc, cũng phảng phất nhận ra được, nào là “trừ tà chuỳ ” gì gì ấy. Giả Liễn xem xong mừng quá, liền gọi người nhà tiếp đãi rồi vội vàng đưa viên ngọc vào cho Giả mẫu và Vương phu nhân xem. Phượng Thư thấy Giả Liễn vào. liền giật ngay lấy ngọc, không dám xem trước, đưa ngay đến tay Giả mẫu. Giả Liễn cười nói:
– Chút việc như thế, mợ cũng không để tôi tâng công!
Giả mẫu mở ra xem thì thấy viên ngọc mờ tối hơn trước, liền lấy tay lau. Uyên Ương đem kính lại. Giả mẫu đeo kính lên xem một hồi rồi nói:
– Lạ thật! Viên ngọc thì vẫn đúng. Nhưng tại sao sắc ngọc khác trước.
Vương phu nhân xem một hồi cũng nhận không ra, liền gọi Phượng Thư lại xem. Phượng Thư xem rồi nói:
– Giống thì giống, nhưng sắc không đúng lắm chi bằng nói chú Bảo tự xem lấy thì biết.
Tập Nhân đứng một bên nhìn, cảm thấy chưa chắc đã đúng, nhưng vì mong mỏi quá, nên cũng không dám nói là không giống. Phượng Thư cầm viên ngọc ở trong tay Giả mẫu, rồi cùng Tập Nhân đưa lại cho Bảo Ngọc xem. Lúc đó, Bảo Ngọc vừa ngủ dậy.
Phượng Thư nói với anh ta:
– Ngọc của chú tìm được đây rồi.
Bảo Ngọc mắt còn ngái ngũ lờ đờ, cầm lấy viên ngọc trong tay cũng không thèm nhìn, vứt ngay xuống đất và nói:
– Các người lại lừa tôi!
Nói rồi chỉ cười khẩy.
Phượng Thư vội vàng nhặt viên ngọc lên và nói
– Lạ thật! Sao chú không nhìn mà biết?
Bảo Ngọc cũng không trả lời chỉ nồgi cười.
Vương Phu Nhân lúc đó cũng vào trong phòng, thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế liền nói
– Thôi, không cần nói nữa. Viên ngọc kia là một vật kỳ quái. Nó mang viên ngọc từ trong thai ra, thế nào nó cũng biết. Chắc là người ta thấy hình dáng nói trên giấy niêm yết của ta rồi theo mẫu mà làm ra đấy thôi.
Lúc đó mọi người đều vỡ lẽ. Giả Liễn ở phòng ngoài, nghe như thế liền nói
– Đã không đúng thì đưa đây để tôi hỏi nó. Việc người ta như thế này mà nó còn dám đến đánh lừa à?
Giả Mẫu vội gạt đi
– Cháu Liễn đem trả cho nó, bảo nó đi về thôi. Nó là một người cùng cực quá, không có cách gì nữa, thấy nhà mình có việc ấy, mới tìm cách lừa gạt một ít tiền đó thôi. Bây giờ không may nó đã mất tiền toi lại không lừa được chúng ta. Theo ý ta cũng đừng nên làm tội nó, cứ đem trả cho nó, bảo là không phải của nhà ta, rồi cho nó vài lạng bạc. Làm như vậy, thì người ngoài nghe thấy có tin tức gì, họ mới dám đưa lại cho mình. Nếu mình làm tội nó thì sau dầu có được viên ngọc thật đi nữa, cũng không ai dám đưa đến.
Giả Liễn vâng lời đi ra. Ngừơi kia chở mãi chẳng thấy ai, trong lòng hồi hộp, bỗng thấy Giả Liễn hầm hầm đi ra.
1 Một nhân vật thần thoại trong số bát tiên mà người Trung Quốc nói đến và vẽ thành tranh.
2 Tức Vương Từ Đằng.
3 Khi sắp phong chức tể tướng, thì viết tờ chiếu bằng giấy to đọc cho các quan nghe, cho nên gọi là “tuyên ma”.
Giả Liễn cầm viên ngọc giả hầm hầm đi ra thư phòng.
Người kia thấy sắc mặt hắn, trong lòng đã lo sẵn, liền đứng ngay dậy. Y đang định nói thì Giả Liễn cười nhạt bảo:
– Đồ khốn nạn, to gan thật? Đây là nơi nào mà mày dám đến lừa dối như thế?
Rồi hắn ngoảnh lại gọi:
– Những người hầu đâu rồi?
Bên ngoài bọn hầu dạ ran như sấm. Giả Liễn nói:
– Lấy dây trói nó lại, đợi ông lớn về trình rõ, sẽ giải nó vào cửa quan.
Bọn hầu răm rắp trả lời:
– Thưa, sẵn sàng rồi ạ!
Miệng nói như thế, nhưng họ vẫn đứng im.
Người kia khiếp sợ, tay chân run lẩy bẩy, thấy tình cảnh này biết rằng khó lòng tránh được pháp luật, liền quỳ xuống sụp lạy kêu van
– Xin ông bớt giận, thật là con cùng cực quá, không biết làm thế nào, mới nghĩ ra việc làm vô liêm sỉ ấy. Viên ngọc này là con mượn tiền người ta làm ra, giờ đây con cũng không dám lấy lại nữa, xin biếu các cậu em trong phủ chơi thôi.
Nói xong, người kia sụp lạy lia lịa.
Giả Liễn quát:
– Mày liều thật! Nhà chúng tao đây thiếu gì cái đồ vứt đi không đắt ấy!
Đang lúc ầm ĩ thì Lại Đại đi vào, cười nói với Giả Liễn:
– Xin cậu bớt giận, quân này có đáng kể gì, tha cho nó, bảo nó cút đi thôi.
Giả Liễn nói:
– Thật đáng ghét quá.
Lại Đại và Giả Liễn vờ làm bộ vừa dọa vừa dỗ. Bọn người hầu ở ngoài đều gắt:
– Đồ chó, mày lại còn không lạy tạ cậu và ông Lại mà cút cho mau, còn chờ mấy cái đá nữa à?
Người kia vội vàng sụp lạy hai lạy, rồi ôm đầu chạy ra.
Từ đó, tiếng ấy đồn ra ngoài phố, ai cũng nói:
– Giả Bảo Ngọc thành Bảo Ngọc giả.
Hôm đó, Giả Chính đi chào khách trở về, mọi người thấy giữa tiết hoa đăng, sợ Giả Chính sinh giận chăng, nên cũng không trình lại những việc đã qua. Vì gần đây Nguyên Phi chết, bận rộn mất mấy hôm, rồi Bảo Ngọc lại ốm, cho nên tuy lệ thường có bày tiệc ăn uống, nhưng ai nấy đều không vui vẻ, nên không có việc gì đáng nói.
Đến ngày mười bảy tháng giêng, Vương phu nhân đang ngóng trông Vương Tử Đằng vào kinh, bỗng thấy Phượng Thư đến trình:
– Hôm nay cậu Hai ở ngoài nghe người ta đồn: ông cậu nhà ta đi gấp vào kinh, đến một chỗ cách kinh thành hơn hai trăm dặm thì bị bệnh mất giữa đường, thím có nghe nói không?
Vương phu nhân giật nẩy mình bảo:
– Ta không nghe nói. Chiều qua cũng không nghe ông nhà nói. Vậy thì chị nghe ở đâu thế?
– Con nghe người lạ nói, họ nghe tin ở nhà ông Trương trong Viện khu mật.
Vương phu nhân ngẩn người ra một lúc, nước mắt ròng ròng. Bà ta lau nước mắt nói:
– Chị về bảo anh Liễn hỏi cho rõ ràng rồi nói lại với tôi.
Phượng Thư vâng lời.
Vương phu nhân khóc thầm một mình, thương con gái, khóc em, lại lo cho Bảo Ngọc, việc này tiếp đến việc khác, đều là những chuyện đau lòng, làm sao chịu nổi. Vì thế đâm ra chứng đau bụng.
Giả Liễn đi hỏi rõ về trình lại:
– Ông cậu đi đường nhọc mệt, ngẫu nhiên cảm bệnh phong hàn, đến vùng đồn Thập Lý mời thầy thuốc điều trị. Khốn nỗi ở đó không có thầy thuốc giỏi, uống lầm thuốc, chỉ một thang là chết ngay. Nhưng không biết gia quyến đã đến đây chưa?
Vương phu nhân nghe nói, liền nổi cơn đau bụng, ngồi không được, bảo bọn Thái Vân đỡ lên giường nằm, gượng gạo gọi Giả Liễn đi trình với Giả Chính và dặn:
– Anh mau mau sắm sửa hành lý, đi đến đấy, lo liệu giúp việc chôn cất, xong rồi về ngay nói cho chúng ta biết, và cũng để cho chị ấy yên lòng.
Giả Liễn không dám trả lời, liền cáo từ Giả Chính rồi đi. Giả Chính cũng đã nghe tin, trong bụng rất là đau xót. Lại biết rằng Bảo Ngọc mất ngọc, mê mẩn tâm thần, thuốc thang không công hiệu, còn Vương phu nhân thì đau bụng.
Lúc bấy giờ vừa gặp dịp xét công lao các quan, Bộ công liệt Giả Chính vào hạng nhất. Tháng hai bộ Lại dẫn vào bệ kiến. Hoàng thượng nghĩ Giả Chính cần kiệm cẩn thận, liền bổ chức lương đạo tỉnh Giang Tây. Giả Chính tạ ơn rồi tâu rõ ngày lên đường nhậm chức. Tuy có bạn hữu và bà con đến mừng, nhưng vì trong nhà có người đang yếu, nên Giả Chính cũng chẳng bụng dạ nào tiếp, lại cũng không dám ở nhà lâu.
Giả Chính đang phân vân chưa biết làm thế nào thì thấy bên nhà Giả mẫu có người sang nói:
– Xin mời ông lớn sang.
Giả Chính vội vàng đi vào, thấy Vương phu nhân đang ốm cũng ngồi ở đấy.
Giả Chính hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu. Giả mẫu bảo ông ta ngồi xuống rồi nói:
– Anh sắp đi nhậm chức, ta có nhiều điều muốn nói với anh, không biết anh có nghe hay không?
Giả mẫu nói đến đó thì nước mắt giàn giụa, Giả Chính vội vàng nói:
– Mẹ có việc gì cứ nói, con đâu dám trái lời.
Giả mẫu nghẹn ngào nói:
– Ta nay đã tám mươi mốt tuổi, anh lại đi làm quan ở ngoài. Vì có anh Cả, nên anh không thể viện cớ cớ mẹ già mà xin ở lại được. Nay anh ra đi, thằng Bảo là đứa ta yêu nhất, thế mà nó lại ốm mê mệt, chưa biết rồi ra sao. Hôm nay ta bảo mụ Lai Thăng ra gọi người xem bói cho nó, thầy bói đoán rất giỏi. Ông ta bảo: “Cần phải cưới người vợ thuộc mệnh kim về nâng giấc và cũng để “xung hỷ” 1 thì mới khỏe được, nếu không sợ khó mà qua khỏi”. Ta biết anh không tin những chuyện ấy, nên gọi anh đến bàn. Vợ anh cũng ở đây. Hai vợ chồng cũng nên bàn xem: có muốn cho thằng Bảo khỏe hay không? Hay là để mặc nó?
Giả Chính vội vàng nói:
– Trước kia mẹ thương con như thế, không lẽ con lại không thương nó hay sao? Chỉ vì thằng Bảo không chịu chăm chỉ học hành, nên con hay giận nó, chẳng qua cũng là giận “sắt không thành thép” đấy thôi. Nay mẹ muốn cưới vợ cho nó, cũng là việc phải, lẽ nào con lại trái lời. Giờ đây nó ốm con cũng băn khoăn lo lắng, nhưng vì không cho nó gặp con, con cũng không dám nói. Con cũng muốn nhìn một chút xem nó ốm đau ra sao?
Vương phu nhân thấy Giả Chính nói đến đó, mắt cũng hơi đỏ lên, biết rằng ông ta trong lòng đau xót, liền cho người đưa Bảo Ngọc đến.
Bảo Ngọc tới gặp cha, Tập Nhân nhắc hỏi thăm sức khỏe thì hỏi. Giả Chính thấy Bảo Ngọc gầy gò, cặp mắt đờ đẫn, như người có bệnh điên, liền bảo người hầu vực vào trong nhà. Ông ta nghĩ bụng: “Mình năm nay gần sáu mươi tuổi, bổ quan ngoài không biết mấy năm nữa mới về được. Nếu quả thật nó có mệnh hệ nào thì tuổi già không ai nối dõi. Đành rằng mình có cháu, nhưng đã cách một tầng rồi. Mẹ mình lại rất yêu Bảo Ngọc, nếu có điều gì nhầm nhỡ, tội mình lại chẳng nặng hơn hay sao?” Nhìn lại Vương phu nhân thì nước mắt lưng tròng, lại càng lo lắng cho sức khỏe của vợ. Giả Chính liền đứng dậy nói:
– Mẹ đã già, nếu mẹ muốn lo cho nó, con đâu dám trái lời? Mẹ định làm thế nào thì cứ làm. Nhưng không biết đã nói với bên dì chưa?
Vương phu nhân nói:
– Dì đã nhận lời rồi, nhưng vì việc thằng Bàn chưa xong, nên lâu nay không nhắc đến.
– Đó là việc khó xử nhất. Anh đang còn ở trong nhà giam thì em xuất giá làm sao được. Vả lại mặc dầu việc Quý phi chết không cản trở gì việc cưới hỏi, nhưng theo lệ, Bảo Ngọc phải chịu tang chín tháng đối với người chị đã xuất giá, như vậy hiện giờ nó cũng chưa cưới vợ được. Về phần con thì ngày lên đường đã tâu rồi, không dám chậm trễ, trong mấy ngày nay thì lo liệu làm sao cho kịp?
Giả mẫu ngẫm nghĩ: “Nói như thế quả đúng đấy. Nhưng nếu chờ cho qua mấy việc kia, cha nó lại đi mất rồi, nhỡ ra bệnh nó càng ngày càng thêm nặng thì làm thế nào. Thôi đành phải chịu làm trái lễ phần nào mới được”. Rồi nói:
– Nếu anh bằng lòng lo vợ cho nó thì ta đã có cách, nhất định các việc kia thì không trở ngại gì. Bên dì thì ta với chị ấy sẽ qua nói chuyện. Chỗ thằng Bàn thì nhờ thằng Khoa nói hộ. Cứ nói rõ là cốt để cứu tính mệnh cho thằng Bảo nên mọi việc phải tòng quyền. Như thế chắc nó cũng bằng lòng. Còn việc cưới vợ trong lúc có tang chị thì thật là không được. Vả lại Bảo Ngọc đang ốm, cũng chưa thể làm lễ thành hôn, chẳng qua là để xung hỷ đó thôi. Hai nhà chúng mình đều bằng lòng, hai đứa nó lại sẵn có nhân duyên “vàng ngọc”, chả cần làm lễ hợp hôn cũng được. Rồi chọn ngày tốt đưa lễ theo như lệ thường của nhà mình. Liền đó lại định ngày đưa dâu, theo như cách thức trong cung, bất tất phải dùng âm nhạc, chỉ dùng mười hai đôi đèn hoa, một cỗ kiệu tám người đón dâu về, rồi chiếu theo nề nếp miền Nam, cũng lễ gia đường, cũng ngồi giường buông màn 2 thế chẳng phải là cưới vợ rồi hay sao? Con Bảo rất thông minh, sáng suốt không cần phải lo. Trong đó lại có con Tập Nhân cũng là đứa biết việc, lại có người hiểu biết luôn luôn khuyên nó thì càng hay. Vả chăng thằng Bảo và con Bảo xưa nay vẫn thân với nhau. Hơn nữa bà dì thường nói: “Cái khóa vàng của con Bảo trước đây đã có một vị hòa thượng nói rằng chỉ chờ người có ngọc sẽ là vợ chồng.” Thì biết đâu con Bảo về đây lại không nhờ cái khóa vàng mà tìm được viên ngọc kia. Thế rồi mỗi ngày nó một khá dần, không phải phúc cho nhà mình sao? Giờ đây chỉ cần dọn dẹp nhà cửa, bày biện các phòng cho tử tế. Các phòng này thì phải do anh chị định mới được. Tất cả bạn bè thân thích không cần mời ai, cũng không cần bày biện tiệc tùng làm gì. Chờ lúc Bảo Ngọc thật khỏe, hết trở rồi, khi ấy hãy bày tiệc mời khách. Làm như thế thì việc gì cũng kíp. Anh cũng có thể nhìn thấy việc hôn nhân của hai con, để đi nhậm chức cho yên tâm.
Giả Chính nghe nói, tuy không bằng lòng, nhưng vì đó là ý định của Giả mẫu, nên không dám trái lời, đành phải nói miễn cưỡng:
– Mẹ nghĩ rất phải, lại rất chu đáo, nhưng phải dặn mọi người trong nhà không được rêu rao cho bên ngoài biết, nếu không thì sẽ có lỗi đấy. Chỉ sợ bên dì không bằng lòng thôi. Nếu dì bằng lòng, cũng chỉ có thể theo như ý mẹ mà lo liệu.
Giả mẫu nói:
– Thôi anh cứ ra, bên dì đã có ta.
Giả Chính vâng lời lui ra, trong bụng áy náy, nhưng vì bận việc đi nhậm chức, vào bộ lĩnh giấy tờ, bạn bè lại tiến cử người giúp việc, phải tiếp chuyện luôn, đành phải phó mặc việc cưới của Bảo Ngọc cho Giả mẫu, Vương phu nhân và Phượng Thư. Ông ta chỉ cho Bảo Ngọc một tòa nhà hai mươi gian sau nhà Vượng Hy, cạnh phòng ở của Vương phu nhân, còn các việc khác đều không nhìn đến. Tất cả đều do Giả mẫu quyết định, rồi sai người nói với ông ta, và ông ta cứ bảo là rất tốt.
Sau khi Bảo Ngọc gặp Giả Chính, Tập Nhân vực anh ta về nằm trên giường. Vì có Giả Chính ở ngoài, nên không ai dám nói chuyện với Bảo Ngọc. Anh ta nằm ngủ mê mệt. Những lời nói của Giả mẫu và Giả Chính, Bảo Ngọc chẳng hề nghe một câu nào. Tập Nhân thì lại lẳng lặng nghe rất rõ. Trước đây Tập Nhân cũng có nghe ít nhiều, nhưng còn không rõ, chỉ thấy Bảo Thoa không sang, nên cũng hơi tin. Nay nghe những câu nói ấy, trong bụng mới thật rõ ràng đích xác. Tập Nhân cũng rất mừng, nghĩ bụng: “Thật là con mắt bề trên rất tinh, dạm hỏi như thế mới đáng. Mình cũng có phúc, nếu cô ta về đây thì mình cũng đỡ được một phần gánh nặng. Có điều trong bụng cậu ấy chỉ có mê cô Lâm mà thôi, may mà cậu ấy chưa biết, nếu biết ra, chưa biết dằn vặt đến thế nào?” Tập Nhân nghĩ đến đó, lại đổi mừng thành lo, nghĩ bụng: “Việc này biết làm thế nào bây giờ? Cụ bà và bà Hai làm sao biết được những ý nghĩ của họ. Trong lúc cao hứng, họ tưởng nói cho cậu ấy biết thì bệnh sẽ khỏi. Nhưng nếu cậu ấy vẫn một lòng như trước thì làm thế nào. Mới lần đầu tiên thấy cô Lâm, cậu ấy đã đòi vứt ngọc, đập ngọc. Rồi như mùa hè năm trước ở trong vườn, cậu ấy nhận lầm mình là cô Lâm, thốt ra những lời ân ái. Sau đó, Tử Quyên chỉ nói đùa mấy câu, cậu ấy đã khóc lóc, chết đi sống lại. Nay nếu nói với cậu ta dạm cô Bảo, bỏ cô Lâm thì trừ phi là cậu ta mê man không biết gì, chứ nếu còn hơi tỉnh táo, thì không những không thể xung hỷ mà sợ lại chóng chết nữa kia! Mình mà không nói rõ thì chẳng phải làm hại một lúc cả ba người hay sao?”
Tập Nhân đã sẵn có ý định ấy, chờ cho Giả Chính đi ra liền gọi Thu Văn đến trông nom Bảo Ngọc, còn mình thì đi ra gặp Vương phu nhân, mời bà ta vào cái nhà sau phòng Giả mẫu để nói chuyện. Giả mẫu tưởng là Bảo Ngọc nói gì nên không để ý, còn ngồi tính toán việc đưa và rước dâu như thế nào.
Tập Nhân cùng Vương phu nhân vào nhà sau, chị ta liền qùy xuống mà khóc. Vương phu nhân chẳng hiểu vì sao, đưa tay kéo chị ta dậy nói:
– Tự dưng vô cớ, sao con lại như thế? Có việc gì oan ức đứng dậy mà nói.
– Việc này đáng lẽ con không nên nói, nhưng giờ đây không có cách nào khác nữa.
– Con cứ nói xem nào?
– Cụ và bà đã định việc hôn nhân của cậu Bảo, thật là việc rất tốt. Nhưng con nghĩ, bà xem thử cậu Bảo thân với cô Bảo hay là thân với cô Lâm hơn?
– Chúng nó từ lúc nhỏ ở với nhau một chỗ, nên ta xem thằng Bảo có phần thân với cô Lâm hơn.
– Không phải chỉ thân mà thôi đâu.
Tập Nhân liền đem tình hình giữa Bảo Ngọc và Đại Ngọc kể rõ đầu đuôi, và nói thêm:
– Những việc ấy chính mắt bà lớn đã thấy, chỉ có câu chuyện mùa hè trước đây, con chưa hề dám nói với ai.
Vương phu nhân nắm tay Tập Nhân nói:
– Ta nhìn bề ngoài cũng đã biết được một vài phần, nay con lại nói như thế thì thực là đúng rồi. Nhưng vừa rồi những lời nói của ông lớn, chắc Bảo Ngọc cùng đều nghe cả. Vậy con xem thần sắc nó ra sao?
– Cậu Bảo giờ đây có ai nói chuyện với thì chỉ cười, nếu không ai nói thì cứ ngủ hoài, cho nên những câu chuyện vừa rồi cậu ấy không hề nghe biết gì cả.
– Việc này biết làm thế nào bây giờ?
– Con nói thế thôi, bà lớn cần phải trình với cụ, nghĩ một kế gì cho vẹn toàn mới được.
– Đã thế thì con cứ đi làm việc của con. Lúc này trong nhà đông người hãy khoan nhắc đến việc ấy, chờ có dịp rảnh ta sẽ trình với cụ tùy cách lo liệu.
Nói xong, bà ta lại trở sang phòng Giả mẫu.
Giả mẫu đang bàn với Phượng Thư, thấy Vương phu nhân đi vào liền hỏi:
– Con Tập Nhân nói gì mà thầm thầm thụt thụt thế?
Vương phu nhân nhân dịp liền nói rõ tâm sự của Bảo Ngọc cho Giả mẫu rõ. Giả mẫu nghe nói im lặng một lúc lâu. Vương phu nhân và Phượng Thư cũng không nói nữa. Một chốc Giả mẫu than thở:
– Việc này đối với con Lâm cũng dễ thôi, chẳng sao cả. Nhưng nếu thằng Bảo Ngọc mà thật như thế thì cũng khó liệu đấy.
Phượng Thư nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
– Khó thì cũng không khó. Tôi mới nghĩ được một cách, không biết cô 3 có bằng lòng không?
Vương phu nhân nói:
– Chị có cách gì cứ nói cho cụ nghe, chúng ta bàn bạc cho kỹ rồi sẽ làm.
– Theo ý cháu thì việc này chỉ có cách đánh tráo mà thôi. Bây giờ không kể là chú Bảo có hiểu hay không hiểu, mọi người chúng ta cứ rêu rao lên là ông lớn làm chủ, cưới cô Lâm cho chú ấy xem thần sắc chú ấy như thế nào. Nếu chú ấy không hề để ý gì cả thì bất tất phải dùng cách này, nếu mà chú ấy có ý vui mừng thì việc này phải mất công sắp đặt mới được.
Vương phu nhân nói:
– Nếu như nó vui mừng thì chị định tính cách nào?
Phượng Thư ghé lại bên tai Vương phu nhân nói phải làm như thế. Vương phu nhân gật đầu mấy cái rồi cười nói:
– Cũng được.
Giả mẫu liền hỏi:
– Mẹ con nhà mày làm cái trò quỷ gì thế. Nói ta nghe rõ xem nào!
Phượng Thư sợ Giả mẫu không hiểu, để lộ mưu mô, liền ghé bên tai Giả mẫu nói thầm mấy cầu. Quả nhiên Giả mẫu chưa hiểu được ngay. Phượng Thư lại cười nói mấy câu nữa. Giả mẫu cười nói:
– Như thế cũng được, nhưng thật tội cho con Bảo. Nếu mà rêu rao ra thì con Lâm sẽ ra sao?
Phượng Thư nói:
– Những câu nói ấy chỉ nói cho một mình chú Bảo nghe, nhất thiết không hở ra với một người nào, thì ai biết được!
Đang nói chuyện thì a hoàn vào trình:
– Cậu Hai Liễn đã về.
Vương phu nhân sợ Giả mẫu hỏi Giả Liễn, liền đưa mắt ra hiệu với Phượng Thư. Phượng Thư đi ra đến lấy Giả Liễn rồi vĩu môi ra hiệu. Hai vợ chồng hắn cùng đến chờ ở nhà Vương phu nhân. Một lúc Vương phu nhân về, thấy Phượng Thư đã khóc đỏ cả hai mắt. Giả Liễn hỏi thăm sức khỏe rồi kể lại chuyện đến đồn Thắp Lý lo liệu đám ma Vương Tử Đằng cho Vương phu nhân nghe. Giả Liễn lại nói thêm:
– Có chiếu chỉ nhà vua truy phong chức hàm nội các, cho thụy hiệu là Văn Cần Công, bảo người nhà đưa linh cữu về quê, truyền cho quan lại dọc đường trông nom lo liệu. Ngày hôm qua, linh cữu bắt đầu ra đi, gia quyến đã bắt đầu khởi hành về Nam rồi. Mợ 4 có gửi lời về hỏi thăm sức khỏe và nói không ngờ giờ đây lại không thể vào kinh, có bao nhiêu câu chuyện không thể nói được. Mợ lại nghe nói anh Cả nhà cháu 5 cũng định vào kinh, nếu dọc đường gặp nhau, thì sẽ bảo anh ấy đến chỗ nhà ta nói lại.
Vương phu nhân nghe xong, đau xót vô cùng.
Phượng Thư khuyên lơn một hồi và nói:
– Mời thím hãy nghỉ một chốc, đến đêm ta lại bàn chuyện chú Bảo.
Phượng Thư nói xong cùng Giả Liễn về phòng, đem câu chuyện vừa rồi kề cho hắn biết và bảo hắn sai người sắp xếp nhà mới cho Bảo Ngọc.
Một hôm Đại Ngọc ăn cơm sáng xong, cùng Tử Quyên sang nhà Giả mẫu hỏi thăm sức khỏe, đồng thời để đi dạo cho khuây. Vừa ra khỏi quán Tiêu Tương được mấy bước bỗng nhớ lại quên mất cái khăn tay. Đại Ngọc liền bảo Tử Quyên về nhà lấy còn mình thì thong thả vừa đi vừa chờ. Đến sau núi đá, bên cầu Thấm Phương, chỗ trước kia cùng chôn hoa với Bảo Ngọc, bỗng nghe ở đấy có tiếng người nức nở. Đại Ngọc dừng chân lại nghe, nhưng không nhận ra tiếng của ai, lại cũng không nghe rõ người ấy vừa khóc vừa kể lể những gì, trong lòng rất là ngờ vực. Đại Ngọc liền thong thả lại gần, thì thấy một a hoàn mày rậm, mắt to đang khóc ở đấy. Lúc chưa trông thấy người ấy, Đại Ngọc ngờ là a hoàn lớn nào đó có tâm sự không nói ra được nên đến đấy khóc. Đến khi trông thấy, Đại Ngọc lại buồn cười, nghĩ bụng: “Đồ ngu xuẩn này, làm gì có tình với tứ. Chắc là con này giận gì bọn a hoàn lớn đấy thôi”. Cô ta nhìn kỹ lại không biết là người nào. Người con gái ấy thấy Đại Ngọc đến, không dám khóc nữa, liền đứng dậy lau nước mắt.
Đại Ngọc hỏi:
– Sao vô cớ lại ra đây mà khóc?
Người con gái ấy nghe hỏi lại chảy nước mắt nói:
– Cô Lâm! Cô thử nghĩ mà xem: họ nói chuyện cháu không biết, dù có nói sai một câu, chị cháu cũng không nên đánh cháu kia mà?
Đại Ngọc nghe không hiểu nó nói gì, liền cười hỏi:
– Chị mày là ai?
– Chị cháu là Trân Châu.
Đại Ngọc nghe nói biết nó là người bên nhà Giả mẫu, lại hỏi:
– Mày tên gì?
– Tên cháu là con Ngốc.
Đại Ngọc cười rồi lại hỏi:
– Vì sao chị mày đánh mày? Mày nói sai câu gì thế?
– Vì việc gì à? Chỉ vì câu chuyện cậu Bảo nhà ta ăn cưới cô Bảo đấy thôi.
Đại Ngọc nghe câu ấy, tim đập thình thình, như sét đánh bên tai. Một lát sau, tinh thần hơi bình tĩnh, liền bảo người a hoàn ấy:
– Đi lại đây với ta.
Người a hoàn theo Đại Ngọc đến góc bên kia, chỗ chôn hoa đào năm trước, thấy vắng vẻ im lặng. Đại Ngọc hỏi:
– Cậu Bảo lấy cô Bảo, tại sao mà họ đánh mày?
– Cụ, bà Hai và mợ Phượng Thư bàn với nhau, nhân lúc ông lớn sắp lên đường, gấp rút bàn với dì Tiết để cưới cô Bảo. Thứ nhất là muốn xung hỷ gì đó cho cậu Bảo, thứ hai…
Nói đến đó, nó lại lườm Đại Ngọc mà cười rồi nói tiếp:
– Lo xong việc này, còn phải kén chồng cho cô Lâm nữa.
Đại Ngọc nghe nói vậy đã ngơ ngác cả người, nhưng nó vẫn cứ nói tiếp:
– Cháu cũng không biết họ bàn bạc như thế nào mà không cho nói đến chuyện ấy, chừng họ sợ cô Bảo hổ thẹn thì phải. Cháu chỉ nói chơi với chị Tập Nhân một câu: “Chúng ta rồi đây càng thêm nhộn nhịp, vừa là cô Bảo, vừa là mợ Hai Bảo, biết gọi thế nào cho tiện?” Cô thử nghĩ xem, nói như thế, động chạm gì đến chị Trân Châu kia chứ? Thế mà chị ta chạy lại tát cháu một cái bảo là cháu nói bậy, không nghe bề trên dặn bảo, định đuổi cháu đi. Cháu có biết bề trên tại sao không cho nói đâu. Các chị không bảo cho cháu biết, lại đi đánh cháu!
Nó nói đến đó lại khóc oà lên.
Lúc bấy giờ, trong lòng Đại Ngọc rối như mớ bòng bong, trăm mối tơ vò, ngọt, bùi, chua, cay lẫn lộn.
Nghỉ một chút rồi cô ta run run nói:
– Mày đừng nói bậy nữa. Nếu còn nói bậy, họ nghe được, họ lại đánh cho đấy. Về đi thôi!
Đại Ngọc định trở về quán Tiêu Tương, nhưng cảm thấy người mình nặng trĩu, hai chân mềm nhũn như mớ bông, đành phải gắng gượng đi từ từ từng bước một. Đi một lúc lâu vẫn chưa đến cầu Thấm Phương, thì ra chân yếu đi đã chậm lại mê man bước như cái máy, đi quanh về bên kia mới quay lại, nên đường đi lại xa ra nhiều. Vừa về đến cầu Thấm Phương, Đại Ngọc thuận đường, đi luôn vào trong.
Tử Quyên trở về lấy khăn tay ra, chẳng thấy Đại Ngọc đâu cả, đang nhìn quanh quẩn, thấy Đại Ngọc sắc mặt tái đi, chân tay bủn rủn, hai mắt sững sờ, đang loay hoay ở đấy, lại thấy phía trước có một a hoàn chạy, nhưng xa quá, không nhận ra ai. Tử Quyên ngờ vực và lấy làm lạ, đành phải chạy lại hỏi khẽ:
– Sao cô lại trở về? Hay định đi đâu thế?
Đại Ngọc hình như chỉ nghe loáng thoáng, liền buột miệng trả lời:
– Ta đi tìm Bảo Ngọc đây.
Tử Quyên nghe nói chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, đành phải dìu cô ta qua nhà Giả mẫu. Đại Ngọc đi đến cửa Giả mẫu, trong lòng hơi tỉnh táo, ngoảnh lại thấy Tử Quyên đang dìu mình liền đứng lại hỏi:
– Chị làm cái gì thế?
Tử Quyên cười nói:
– Cháu về lấy khăn tay đưa đến, thấy cô đang ở bên cầu, cháu chạy lại hỏi, cô chẳng để ý gì cả.
Đại Ngọc cười:
– Tôi tưởng là chị đi thăm cậu Bảo, không thì sao lại tới đây?
Tử Quyên thấy cô ta trong lòng mê mẩn, biết ngay là đã nghe con a hoàn kia nói gì rồi, nên chỉ gật đầu mỉm cười mà thôi. Nhưng Tử Quyên lại sợ cô ta khi gặp Bảo Ngọc, một người đã ngây ngây dại dại, một người lại mơ mơ màng màng, nhỡ thốt ra những lời không nhã nhặn thì biết làm thế nào? Bụng tuy nghĩ thế, nhưng cũng không dám trái lời, đành phải dìu cô ta đi vào.
Lúc đó, lại rất lạ, Đại Ngọc không phải yếu đuối như trước nữa. Cũng không cần Tử Quyên vén màn, tự mình vén màn lên. Vào nhà thấy im lặng, Giả mẫu đang ngủ trưa, bọn a hoàn, người thì bỏ đi chơi, người thì ngủ, người thì ở lại chờ hầu Giả mẫu. Tập Nhân nghe tiếng mở màn, ngó ra ngoài xem, thấy Đại Ngọc liền nói:
– Mời cô vào trong này ngồi.
Đại Ngọc cười nói:
– Cậu Bảo ở nhà không?
Tập Nhân không hiểu đầu đuôi, đang định trả lời thì thấy Tử Quyên ở đằng sau vỉu môi ra hiệu, rồi chỉ vào Đại Ngọc và xua tay. Tập Nhân chẳng hiểu ra sao cũng không dám nói.
Đại Ngọc cũng chẳng để ý, cứ đi thẳng vào phòng. Bảo Ngọc đang ngồi đấy, cũng không đứng dậy mời, cứ nhìn Đại Ngọc mà cười hì. Cả hai người chẳng chào hỏi, chẳng nói năng mời mọc gì cả, chỉ có nhìn nhau mà cười một cách ngây ngô.
Tập Nhân thấy tình hình như thế, trong bụng bối rối, nhưng chẳng biết làm thế nào. Bỗng nghe Đại Ngọc hỏi:
– Anh Bảo, anh vì sao mà ốm thế.
Bảo Ngọc cười, nói:
– Tôi vì cô Lâm mà ốm đấy.
Tập Nhân và Tử Quyên đều khiếp sợ thất sắc, vội vàng lựa lời nói lảng. Thế rồi Đại Ngọc và Bảo Ngọc cũng chẳng nói gì cứ ngồi cười ngây ngô như trước. Tập Nhân thấy thế, biết rằng hiện giờ trong bụng Đại Ngọc cũng mê mẩn chẳng khác gì Bảo Ngọc, liền bảo nhỏ với Tử Quyên:
– Cô mới khỏe, để tôi bảo em Thu Văn cùng chị dìu cô về nghỉ thôi.
Rồi chị ta ngoảnh lại bảo Thu Văn:
– Em cùng chị Tử Quyên đưa cô Lâm về, đừng có nói nhảm đấy.
Thu Văn cười, không nói gì rồi cùng Tử Quyên đỡ Đại Ngọc dậy. Đại Ngọc cũng đứng dậy và cứ nhìn Bảo Ngọc vừa cười vừa gật đầu.
Tử Quyên giục:
– Cô về nhà nghỉ thôi.
Đại Ngọc nói:
– Phải đấy, giờ đến lúc ta về đây.
Đại Ngọc nói đến đó, liền quay gót đi ra, vẫn không cần bọn a hoàn dìu dắt, tự mình đi nhanh hơn ngày thường. Tử Quyên và Thu Văn vội vàng chạy theo. Đại Ngọc ra khỏi cửa nhà Giả mẫu, cứ một mực đi thẳng. Tử Quyên vội vàng dìu lại và nói:
– Cô ơi, đi đường này chứ?
Đại Ngọc chỉ cười rồi theo Tử Quyên đi về quán Tiêu Tương.
Khi đã gần đến cửa, Tử Quyên nói:
– A di đà Phật! May đến nhà rồi!
Nói chưa xong thì thấy Đại Ngọc ngã sấp xuống, oẹ một cái, miệng nhổ ra một cục máu tươi.
Đại Ngọc về đến cửa quán Tiêu Tương, nghe Tử Quyên nói, xúc động trong lòng, miệng hộc máu ra, choáng váng muốn ngã, may có Tử Quyên và Thu Văn vực dậy, dìu vào trong nhà.
Sau khi Thu Văn về, Tử Quyên và Tuyết Nhạn ngồi bên cạnh trông nom, thấy cô ta tỉnh dần, hỏi Tử Quyên:
– Các chị ngồi khóc gì đấy?
Tử Quyên thấy cô ta nói được, người đã tỉnh táo, mới yên lòng, liền nói:
– Vừa rồi cô ở bên nhà cụ về, xem chừng mệt lắm, làm cho chúng tôi khiếp quá, chẳng biết thế nào, nên mới khóc.
Đại Ngọc cười nói:
– Tôi đã chết đâu được!
Nói chưa xong, lại thở hổn hển một hồi.
Số là hôm nay Đại Ngọc nghe được câu chuyện kết hôn giữa Bảo Ngọc và Bảo Thoa – điều này vốn là tâm bệnh mấy năm nay của cô ta, nên tức giận quá, đâm ra mê mẩn. Đến khi hộc máu ra rồi, trong lòng cô ta mới dần dần tỉnh lại, câu chuyện vừa rồi không hề nhớ một tý gì cả. Nay thấy Tử Quyên khóc, mới mơ màng nhớ tới lời nói của con Ngốc. Bây giờ Đại Ngọc không cảm thấy đau xót nữa, chỉ mong chết cho mau, để hết nợ tình.
Tử Quyên và Tuyết Nhạn đành phải ngồi đấy trông nom, muốn đi nói với Giả mẫu thì sợ lại bị Phượng Thư quở mắng như lần trước là vô cớ làm ầm ĩ lên.
Giả mẫu đang nghỉ trưa, thấy Thu Văn về, thần sắc hoảng hốt, liền hỏi:
– Làm sao thế?
Thu Văn vội vàng đem việc vừa rồi trình lại rõ ràng. Giả mẫu sợ quá, nói:
– Thế thì chết thật!
Và vội vàng cho gọi Vương phu nhân và Phượng Thư đến, nói rõ cho hai người biết. Phượng Thư nói:
– Cháu đã dặn dò cả rồi, ai lại làm lộ chuyện ra thế? Thật là khó xử!
Giả mẫu nói:
– Hãy khoan nghĩ gì việc ấy, thử qua xem thế nào đã.
Nói xong, Giả mẫu cùng Vương phu nhân và Phượng Thư qua quán Tiêu Tương. Tới nơi, thấy Đại Ngọc sắc mặt tái xanh không có hột máu, nằm mê man, thở thoi thóp, cứ chốc chốc lại ho. A hoàn đưa ống nhổ ra thì thấy toàn là đờm lẫn máu. Mọi người thấy vậy đều hoảng hốt. Bỗng Đại Ngọc hé mắt ra, trông thấy Giả mẫu ở một bên, liền thở hổn hển nói:
– Bà ơi, bà thực hoài công thương cháu!
Giả mẫu nghe vậy rất là khó chịu liền nói:
– Cháu ơi, cháu cứ nằm yên, không sợ gì đâu?
Đại Ngọc mỉm cười, nhắm mắt lại.
A hoàn ở ngoài vào trình với Phượng Thư:
– Thầy thuốc đã đến.
Mọi người tránh ra một bên. Thầy thuốc cùng Giả Liễn đi vào xem mạch rồi nói:
– Cũng chưa can gì lắm. Đây là khí uất làm thương tổn đến can, can không giữ được máu cho nên thần kinh rối loạn. Bây giờ phải dùng thứ thuốc giữ âm cầm máu mới mong khỏi được.
Thầy thuốc họ Vương nói xong, cùng Giả Liễn đi ra kê đơn bốc thuốc.
Giả mẫu thấy thần sắc của Đại Ngọc nguy lắm, liền đi ra bảo bọn Phượng Thư:
– Không phải là ta rủa nó, chứ bệnh tình con bé này nặng lắm, sợ khó khỏi. Các người cũng nên lo đồ hậu sự cho nó, mượn cách xung xem sao, may ra mà khỏe thì chúng mình cũng được rảnh rang, lỡ có xảy ra việc gì cũng không đến nỗi nước đến chân mới nhảy. Vả lại hai hôm nay, nhà mình còn lắm việc nữa kia đấy.
Phượng Thư vâng lời, Giả mẫu lại hỏi Tử Quyên một hồi, nhưng cuối cùng cũng chẳng biết ai để lộ chuyện.
Giả mẫu buồn bực nói:
– Trẻ con từ khi nhỏ ở với nhau một chỗ, thân thiết nhau là lẽ thường, nhưng bây giờ khôn lớn đã hiểu việc đời, cũng nên phân biệt mới đúng là thân phận người con gái; xứng đáng với lòng yêu thương của ta. Nếu bụng nó có ý nghĩ gì khác thì còn ra người thế nào nữa? Có phải là ta hoài công thương nó không. Xem như điều các người nói đó thì ta có phần không an tâm.
Về đến nhà, Giả mẫu lại gọi Tập Nhân đến hỏi. Tập Nhân nói lại đầu đuôi những điều đã nói với Vương phu nhân hôm trước và tình hình của Đại Ngọc vừa rồi. Giả mẫu nói:
– Vừa rồi, ta thấy nó vẫn còn tỉnh táo. Chuyện ấy ta thật không thể nào hiểu được. Nhà chúng ta đây, việc khác cố nhiên không có, còn cái thứ tâm bệnh ấy lại càng không thể có. Con Lâm nếu mắc bệnh khác thì mất bao nhiêu tiền ta cũng bằng lòng, nhưng nếu là bệnh ấy thì chẳng những không chữa được mà ta cũng chẳng thương.
Phượng Thư nói:
– Việc em Lâm bà cũng không cần lo liệu, đã có anh Hai nó ngày nào cũng đi với thầy thuốc đến trông nom. Việc quan trọng là bên nhà cô cháu. Sáng nay nghe nói nhà cửa đã gần xong xuôi cả rồi. Giờ đây có lẽ bà và thím qua bên ấy, cháu cũng theo sang để cùng bàn bạc. Có điều bên nhà cô cháu, có em Bảo ở đấy, nói chuyện không tiện, chi bằng mời cô cháu đêm nay sang đây cùng bàn bạc cho xong, thế là có thể lo liệu được.
Giả mẫu và Vương phu nhân đều nói:
– Cháu nói phải đấy! Hôm nay muộn quá, đến mai ăn cơm xong, tất cả mẹ, con, bà cháu ta sẽ sang bên ấy.
Nói xong, Giả mẫu ăn cơm chiều, Vương phu nhân và Phượng Thư về nhà.
Hôm sau Phượng Thư ăn cơm sớm rồi qua nhà Giả mẫu, muốn thử Bảo Ngọc xem thế nào, liền đi vào phòng anh ta và nói:
– Có điều rất mừng chú Bảo ạ! Ông nhà đã chọn ngày tốt cưới vợ cho chú, chú có thích không?
Bảo Ngọc nghe nói cứ nhìn Phượng Thư mà cười và khẽ gật đầu.
Phượng Thư cười nói:
– Cưới cô Lâm cho chú có được không?
Bảo Ngọc càng cười to lên. Phượng Thư thấy thế cũng không dám đoán ra anh ta tỉnh hay mê, liền nói tiếp:
– Ông nhà nói chú mà lành mạnh thì mới cưới cô Lâm cho, nếu cứ ngớ ngẩn như thế thì không cưới đâu.
Bảo Ngọc bỗng nghiêm nét mặt:
– Tôi không ngớ ngẩn đâu, chị mới là ngớ ngẩn.
Rồi đứng dậy nói:
– Tôi đi thăm em Lâm, bảo cho cô ta yên lòng.
Phượng Thư vội cản lại nói:
– Em Lâm đã biết rồi. Bây giờ sắp làm cô dâu mới, cô ta thẹn không chịu gặp chú đâu.
– Cưới về đây thì rồi cô ta có phải gặp tôi hay không?
Phượng Thư nghe nói vừa lo lắng, nghĩ bụng: “Lời nói của Tập Nhân quả nhiên không sai. Nghe nhắc đến em Lâm, tuy chú ấy vẫn còn nói nhảm, nhưng xem bộ tỉnh hơn nhiều. Nếu thật tỉnh rồi, sau này cưới về không phải là cô Lâm, vỡ lở câu chuyện ra thì điều rắc rối này mới thật khó xử.”
Phượng Thư nín cười và nói:
– Chú có tử tế thì cô ta mới chịu gặp, nếu cứ ngây ngây dại dại thì cô ta không chịu gặp đâu.
– Tôi chỉ có một quả tim, trước đây đã giao cho em Lâm rồi. Nếu cô ta đến thì thế nào cũng mang tim sang và đặt nó vào lòng tôi.
Phượng Thư nghe nói câu ấy biết là nói điên, liền sang bên Giả mẫu vừa cười vừa kể lại. Giả mẫu nghe vậy vừa cười vừa thương, nói:
– Ta cũng đã nghe rồi. Bây giờ hãy để mặc nó, bảo con Tập Nhân yên ủi nó. Chúng ta đi thôi.
Nói đến đây thì Vương phu nhân vừa đến, rồi cùng nhau sang nhà dì Tiết. Tới nơi, họ chỉ nói “lo cho việc bên này nên đến thăm”. Tiết phu nhân rất cảm kích, nói chuyện Tiết Bàn một chốc rồi uống trà. Tiết phu nhân định cho người tin với Bảo Thoa. Phượng Thư vội vàng ngăn lại:
– Thôi, cô không cần phải nói với em Bảo làm gì.
Rồi chị ta lại cười, nói với Tiết phu nhân:
– Lần này cụ tôi đến đây, một là thăm cô, hai là cũng có câu chuyện cần, định mời cô sang bên nhà bàn bạc.
Tiết phu nhân nghe nói gật đầu: “Phải đấy”
Mọi người lại nói chuyện suông một lúc rồi về.
Chiều hôm ấy quả nhiên Tiết phu nhân sang gặp Giả mẫu rồi đến nhà Vương phu nhân. Chị em nhắc đến chuyện Vương Tử Đằng, lại khóc lóc một hồi. Rồi Tiết phu nhân nói:
– Vừa rồi tôi sang nhà cụ, cháu Bảo ra chào, thấy vẫn khỏe khoắn như thường, chỉ hơi gầy thôi, sao các người nói dễ sợ thế?
Phượng Thư nói:
– Thực ra thì cũng không sao, có điều bà cháu cứ lo lắng. Hiện giờ ông lớn cháu lại phải lên đường đi nhậm chức ở ngoài, chẳng biết bao giờ mới về. Theo ý cụ bà cháu, thứ nhất là để ông lớn cháu nhìn thấy chú Bảo nên cửa nên nhà, thì đi cũng yên lòng, thứ hai là nhân tiện cũng làm cách xung cho chú Bảo, mượn cái khóa vàng của cô Bảo trấn áp tà khí, có lẽ chú ấy sẽ khỏe hẳn.
Tiết phu nhân cũng bằng lòng, chỉ sợ Bảo Thoa còn có điều gì ấm ức trong lòng, liền nói:
– Thế cũng được, có điều chúng ta phải tính toán cho kỹ.
Vương phu nhân theo lời Phượng Thư, bàn với Tiết phu nhân, lại nói:
– Giờ bên nhà dì ít người, chi bằng tất cả đồ nữ trang hãy khoan sắm. Ngày mai bảo cháu Khoa đi nói với cháu Bàn. Một mặt ở đây làm lễ đưa dâu, một mặt tìm cách lo liệu việc quan cho nó.
Vương phu nhân không hề nói gì đến tâm sự của Bảo Ngọc, lại nói thêm:
– Dì đã bằng lòng gả thì cho rước dâu đi, công việc xong nhanh được ngày nào, chúng ta sớm yên tâm ngày ấy.
Đang nói thì Giả mẫu sai Uyên Ương qua hỏi tin. Tiết phu nhân tuy sợ Bảo Thoa có điều gì thắc mắc trong lòng, nhưng cũng chẳng có cách nào, lại thấy tình hình như thế, đành phải vâng lời.
Uyên Ương về trình với Giả mẫu. Giả mẫu rất mừng, lại sai Uyên Ương sang nhờ Tiết phu nhân nói rõ với Bảo Thoa khỏi để Bảo Thoa thắc mắc. Tiết phu nhân cũng vâng lời. Hai bên đều bàn định cho vợ chồng Phượng Thư đứng ra làm mối. Bàn xong, mọi người ra về, chị em Vương phu nhân lại nói chuyện đến nửa đêm mới ngủ.
Hôm sau, Tiết phu nhân về nhà, đem chuyện bàn ở bên này nói kỹ cho Bảo Thoa nghe, và nói thêm:
– Mẹ đã nhận lời rồi.
Bảo Thoa ban đầu cúi đầu không nói gì, sau lại chảy nước mắt ra. Tiết phu nhân lựa lời khuyên giải. Rồi Bảo Thoa trở về phòng mình. Bảo Cầm cũng theo đi để khuyên giải.
Tiết phu nhân lại nói cho Tiết Khoa biết, và bảo anh ta:
– Ngày mai cháu đi, một là xem quan xử ra sao, hai là tin cho anh cháu biết chuyện này rồi về mau.
Tiết Khoa đi bốn ngày rồi về trình với Tiết phu nhân:
– Việc anh Cả quan trên đã chuẩn y là bị lỡ tay đánh chết người, chờ xét qua một lần nữa sẽ bẩm lên trên. Anh Cả bảo chúng ta phải sắp sẵn tiền bạc chuộc tội, còn việc cô em thì anh ấy nói: “Mẹ làm chủ là tốt, gấp rút lo liệu như thế cũng đỡ được một ít bạc. Đừng có chờ đợi, nên lo liệu như thế nào thì cứ làm đi thôi”.
Tiết phu nhân nghe nói mừng rỡ vì Tiết Bàn có thể về nhà, nếu lo xong việc Bảo Thoa thì cũng yên tâm được nhiều. Cho nên xem bộ Bảo Thoa hình như bằng lòng, nhưng bà ta vẫn nghĩ: “Mặc dù thế, nó là con gái, xưa nay lại hiếu thuận và biết giữ lễ, biết mình nhận lời rồi thì nó cũng chẳng có thể nói gì”. Tiết phu nhân nghĩ thế rồi bảo Tiết Khoa:
– Cháu sắm một bức canh thiếp, viết tám chữ lên trên 6 rồi sai người đưa sang bên nhà cậu Hai Liễn hỏi rõ ngày đưa lễ để chúng ta có thể sắp đặt sẵn sàng. Chúng ta vẫn định không mời mọc bà con, bạn bè. Bạn bè của anh cháu như cháu đã nói, đều là hạng người tầm bậy. Còn bà con thì chỉ có hai nhà họ Giả và họ Vương. Nay họ Giả là họ giai, họ Vương thì ở kinh chẳng có ai. Việc gả cô Sử nhà họ chẳng mời nhà mình, nay nhà mình cũng không cần cho họ biết làm gì. Chỉ cần mời ông Trương Đức Huy đến, nhờ ông ta trông nom xếp đặt ít nhiều. Ông ta là người có tuổi, thế nào cũng hiểu việc hơn.
Tiết Khoa vâng lời, sai người đưa canh thiếp đi.
Hôm sau Giả Liễn đến gặp Tiết phu nhân, hỏi thăm sức khỏe rồi nói:
– Ngày mai là ngày tốt. Hôm nay đến trình với dì, xin đến ngày mai làm lễ nạp tài, mong dì thể tất cho.
Nói xong, bưng quyển thông thư 7 lại. Tiết phu nhân cũng nói ít câu khiêm tốn, rồi gật đầu nhận lời. Giả Liễn vội vàng về trình rõ với Giả Chính. Giả Chính nói:
– Cháu vào trình với cụ, đã không cho bà con bạn bè biết thì nên đơn giản là hơn. Còn về lễ vật thì mời cụ xem qua là được, không cần phải nói với ta.
Giả Liễn vâng lời, vào trong trình rõ với Giả mẫu. Trong này Vương phu nhân gọi Phượng Thư sai người đưa các lễ vật nạp tài cho Giả mẫu xem, và bảo Tập Nhân nói với Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc cười nói:
– Ở đây đưa vào trong vườn, rồi chốc nữa ở trong vườn lại đưa đến đây; người nhà mình đưa đi, người nhà mình lại nhận; tội gì mà làm như thế?
Giả mẫu và Vương phu nhân nghe xong, đều vui mừng và nói:
– Người ta bảo nó ngớ ngẩn, nhưng hôm nay sao lại sáng suốt như thế?
Bọn Uyên Ương nhịn cười không được, đành phải xướng rõ từng thứ cho Giả mẫu xem:
– Đây là vòng vàng đeo cổ. Đây là đồ đeo tay bằng vàng ngọc cộng tám mươi cái. Đây là vóc bốn mươi tấm. Đây là các thứ trừu và đoạn cộng một trăm hai mươi tấm. Đây là quần áo bốn mùa cộng một trăm hai mươi cái. Đây là bạc thay tiền dê, rượu vì không sắm các thứ đó.
Giả mẫu xem qua đều khen là tốt, rồi nói nhỏ với Phượng Thư:
– Cháu đi nói với dì rằng: không phải chỉ lễ suông như thế này đâu. Xin dì chờ lúc nào cháu Bàn được ra, sẽ thong thả sai người sắm sửa cho em nó. Còn chăn đệm đêm hợp hôn cũng để bên nhà chúng ta sắm thôi.
Phượng Thư vâng lời đi ra, bảo Giả Liễn qua bên kia trước, rồi chị ta dặn bọn Chu Thụy và Lai Vượng:
– Bất tất phải đi cửa chính, chỉ theo cửa nhỏ trong vườn trước kia thường mở mà đưa đi thôi. Ta cũng sẽ qua đấy. Cửa ấy xa quán Tiêu Tương, nếu người khác trông thấy thì dặn dò họ đừng có nói cho người ở quán Tiêu Tương biết.
Mọi người đều vâng lời, rồi đưa lễ đi.
Bảo Ngọc tưởng là thật, mừng quá, tinh thần có phần tỉnh táo hơn trước, nhưng ăn nói vẫn còn ngớ ngẩn. Những người đi đưa lễ về, đều không nói đến tên họ. Tuy trên dưới ai cũng biết, nhưng vì Phượng Thư đã dặn trước nên không ai dám tiết lộ.
Đại Ngọc tuy có uống thuốc, nhưng bệnh càng ngày càng nặng. Bọn Tử Quyên ở gần bên, tìm hết lời an ủi và nói:
– Sự tình đã đến nông nỗi này, không thể không nói nữa. Tâm sự của cô, chúng cháu đều biết. Còn như việc bất ngờ kia thật là không có. Cô không tin thử nhìn thân thể của cậu Bảo cũng đủ rõ. Bệnh nặng như thế, kết hôn làm sao được. Cô đừng nghe những lời nói nhảm, tự mình phải giữ lấy sức khỏe mới được.
Đại Ngọc mỉm cười, cũng không nói gì, rồi ho vài tiếng, khạc ra một ít máu.
Bọn Tử Quyên xem chừng cô ta chỉ còn thoi thóp, biết chắc không thể khuyên giải, đành nhìn nhau mà ứa nước mắt. Ngày nào bọn Tử Quyên cũng đi trình với Giả mẫu ba bốn lần. Uyên Ương đoán biết gần đây Giả mẫu thương yêu Đại Ngọc đã khác trước ít nhiều, nên cũng không mấy khi trình lại cho Giả mẫu biết. Vả lại, mấy hôm ấy Giả mẫu chỉ nghĩ đến Bảo Ngọc và Bảo Thoa nên không nghe nói đến Đại Ngọc, cũng không nhắc nhở lắm, chỉ bảo mời thầy đến chạy chữa mà thôi.
Trước đây, mỗi khi Đại Ngọc ốm, từ Giả mẫu đến những người hầu của các chị em vẫn thường đến hỏi thăm. Nay thấy tất cả mọi người trên dưới ở trong phủ Giả chẳng có ai qua lại, chẳng có lấy một người đến thăm nom, Đại Ngọc mở mắt ra chỉ có một mình Tử Quyên, tự nghĩ mình không thể sống được, bèn gắng gượng nói với Tử Quyên:
– Em ơi, em là người thân nhất của ta, tuy rằng mấy năm nay bà sai em hầu hạ ta, ta vẫn coi em như là em ruột…
Nói đến đó, Đại Ngọc hết hơi, nói không được nữa.
Tử Quyên nghe nói, trong lòng chua xót, nghẹn ngào nói chẳng nên lời. Một hồi lâu. Đại Ngọc vừa thở vừa nói:
– Em Tử Quyên ơi! Ta nằm khó chịu quá! Em đỡ ta dậy. Ta muốn ngồi nghỉ một chút.
Tử Quyên nói:
– Người cô mệt lắm, nếu ngồi dậy lại sợ mệt thêm.
Đại Ngọc nghe nói, nhắm mắt nằm im, một lúc sau lại đòi ngồi dậy. Tử Quyên không biết làm thế nào, đành phải cùng với Tuyết Nhạn vực cô ta dậy, lấy gối mềm đỡ hai bên. Tử Quyên đứng dậy một bên đỡ Đại Ngọc.
Đại Ngọc cảm thấy nửa người phía dưới ê ẩm, ngồi không vững, nhưng cũng cắn răng chịu rồi gọi Tuyết Nhạn lại bảo:
– Tập thơ của ta… – Vừa nói vừa thở.
Tuyết Nhạn đoán là cô ta đòi tập thơ vừa sửa chữa hôm nước liền lấy đưa đến trước mặt Đại Ngọc. Đại Ngọc gật đầu rồi đưa mắt nhìn cái rương.
Tuyết Nhạn không hiểu Đại Ngọc cần gì, cứ đứng ngẩn người ra. Đại Ngọc tức quá, hai mắt trợn ngược, lại nổi ho lên và khạc ra máu. Tuyết Nhạn vội chạy đi lấy nước. Đại Ngọc súc miệng, rồi nhổ vào ống nhổ. Tử Quyên lấy khăn lau miệng cho cô ta, Đại Ngọc liền nắm khăn mà chỉ cái rương rồi thở dốc, nhắm mắt lại, nói không được. Tử Quyên nói:
– Cô nằm thôi.
Đại Ngọc lại lắc đầu.
Tử Quyên nghĩ cô ta muốn cái khăn lụa, liền bảo Tuyết Nhạn mở rương, lấy ra một cái khăn lụa trắng. Đại Ngọc nhìn qua, vứt ra một bên, cố hết sức nói:
– Có chữ kia.
Lúc bấy giờ Tử Quyên mới hiểu rõ cô ta đòi cái khăn lụa cũ có đề thơ, đành phải bảo Tuyết Nhạn lấy ra đưa cho Đại Ngọc.
Tử Quyên khuyên:
– Cô nghỉ đi, tội gì làm mệt thân như thế Khi nào khỏe hãy xem.
Đại Ngọc cầm lấy cái khăn, cũng không xem, rồi giơ tay ra cố sức xé, nhưng tay chỉ run lẩy bẩy, không sao xé được. Tử Quyên biết là cô ta giận Bảo Ngọc, nhưng cũng không dám nói rõ, chỉ khuyên:
– Cô ơi, tội gì mà giận?
Đại Ngọc gật đầu nhè nhẹ, nhét cái khăn vào ống tay áo rồi bảo:
– Thắp đèn.
Tuyết Nhạn vội vàng vâng lời, thắp đèn lên.
Đại Ngọc nhìn một tý, nhắm mắt lại thở một hơi rồi nói:
– Đốt nồi than.
Tử Quyên tưởng là cô ta lạnh, liền nói:
– Cô nằm xuống rồi đắp thêm cái chăn thôi, không chịu nổi hơi than đâu.
Đại Ngọc lại lắc đầu. Tuyết Nhạn đành phải đốt nồi than, rồi đặt nó vào cái giá đặt dưới đất.
Đại Ngọc gật gật đầu như muốn bảo đưa nồi than lên trên giường. Tuyết Nhạn đành phải đưa nó lại và đi ra ngoài tìm cái bàn.
Đại Ngọc lại nhổm dậy. Tử Quyên đành phải đưa hai tay đỡ lấy. Đại Ngọc cầm cái khăn tay vừa rồi, nhìn ngọn lửa gật đầu, vứt cái khăn lên trên lửa.
Tử Quyên giật nẩy mình, muốn cướp lấy, nhưng hai tay không dám động đậy. Còn Tuyết Nhạn thì đã ra ngoài lấy cái bàn để nồi than. Cái khăn lụa đã bị cháy mất. Tử Quyên khuyên:
– Cô ơi! Làm sao thế?
Đại Ngọc cứ làm như không nghe gì, lại trở tay cầm tập thơ lên, nhìn một cái rồi lại vứt xuống.
Tử Quyên sợ cô ta lại đốt, vội vàng dùng người dựa lấy Đại Ngọc, giơ tay ra định nắm lấy tập thơ. Nhưng Đại Ngọc đã nhặt lên và vứt vào nồi than.
Tử Quyên cướp lại không được, đang hoảng lên thì Tuyết Nhạn đưa cái bàn vào, thấy Đại Ngọc vứt một cái, không biết là cái gì, vội vàng chạy lại cướp, nhưng giấy rơi vào lửa, chỉ nháy mắt là cháy bùng lên. Tuyết Nhạn cũng không nghĩ đến lửa bỏng, liền thò tay vào trong lò than kéo ra, rồi vất xuống dưới đất, hai chân giẫm lấy giẫm để, nhưng giấy cháy gần hết, chẳng còn bao nhiêu.
Sau đó, Đại Ngọc nhắm mắt lại, ngả người về đằng sau, suýt nữa thì đè cả Tử Quyên xuống. Tử Quyên gọi Tuyết Nhạn lại, hai người đỡ Đại Ngọc nằm xuống, tim Tử Quyên cứ hồi hộp đập mạnh. Chị ta muốn gọi người thì trời đã tối, không gọi người thì chỉ có mình với Tuyết Nhạn cùng mấy đứa a hoàn nhỏ, sợ đêm có chuyện gì thì nguy. Cả một đêm ấy thật là vất vả, đến sáng hôm sau thấy Đại Ngọc lại hơi đỡ. Sau bữa cơm lại ho, lại thổ huyết, có vẻ nguy cấp lắm.
Tử Quyên thấy vậy, liền gọi Tuyết Nhạn vào trong phòng trông nom, còn mình đi trình Giả mẫu. Không ngờ đến phòng Giả mẫu, thấy rất im lặng, chỉ có vài ba bà già và mấy người a hoàn làm việc nặng ở đấy coi nhà. Tử Quyên hỏi:
– Cụ đi đâu rồi?
Bọn họ đều trả lời:
– Không biết!
Tử Quyên đã đoán biết tám chín phần, nghĩ bụng: “Bọn họ sao lại lạnh nhạt, độc ác như thế?” Lại nghĩ đến Đại Ngọc mấy hôm nay không có lấy một người đến thăm, càng nghĩ càng thương, tức đầy cả ruột, quay người đi ra. Rồi chị ta lại nghĩ thầm: “Hôm nay để xem bộ tịch anh chàng Bảo Ngọc ra sao? Để xem anh ta thấy mình rồi làm ra sao? Năm nọ mình chỉ nói đùa một câu anh ta đã sinh ốm, thế mà bây giờ lại công nhiên làm việc này! Thật bụng dạ con trai lạnh lùng, chẳng khác gì mảnh băng, làm cho người ta phải nghiến răng tức giận!” Tử Quyên vừa nghĩ vừa đi, đã đến Viện Di Hồng. Thấy cửa viện đóng hờ, bên trong rất lặng lẽ. Cô ta chợt nghĩ ra: “Anh ta định cưới vợ, thế nào cũng có nhà mới, nhưng không biết nhà mới ấy ở vào chỗ nào?”
Tử Quyên đang nhìn quanh quẩn, thì thấy Mặc Vũ chạy như bay. Tử Quyên gọi nó dừng lại.
Mặc Vũ chạy lại cười hì hì:
– Chị đến đây làm gì?
Tử Quyên nói:
– Tôi nghe cậu Bảo cưới vợ, định đến xem đám cưới, không ngờ lại không ở đây, và cũng không biết bao giờ cưới.
Mặc Vũ nói nhỏ:
– Điều này chỉ nói với chị, đừng có mách với Tuyết Nhạn nhé. Bề trên dặn dò, ngay cả bọn các chị cũng không cho biết. Chính đêm hôm nay sẽ rước đâu. Đâu có phải ở đây, ông lớn đã sai cậu Hại Liễn thu xếp nhà cửa rồi.
Nói xong Mặc Vũ lại hỏi:
– Chị có việc gì không?
– Có việc gì đâu, em đi thôi.
Mặc Vũ lại chạy như trước.
Tử Quyên đứng ngơ ngẩn một lúc, chợt nghĩ đến Đại Ngọc không biết bây giờ chết hay sống, chị ta lại hai hàng nước mắt ròng ròng, nghiến răng tức giận nói: “Bảo Ngọc! Giờ đây cô ấy chết, anh tưởng đã tránh được rồi, không gặp mặt nữa đấy hẳn! Để ta xem, sau khi xong việc vui mừng của anh rồi, anh còn mặt mũi nào nhìn thấy ta nữa!”
Tử Quyên khóc lóc nghẹn ngào rồi chạy một mạch về nhà.
Chị ta chưa về đến quán Tiêu Tương đã thấy hai a hoàn nhỏ ở trong cửa ló đầu ra nhìn. Thấy Tử Quyên, một đứa kêu lên:
– Chị Tử Quyên đã về đấy à?
Tử Quyên biết là việc không lành, vội vàng xua tay bảo chúng đừng làm ầm lên. Đoạn vội chạy vào nhà xem, thấy Đại Ngọc can hỏa bốc lên, hai gò má đỏ ửng.
Tử Quyên biết tình thế nguy rồi, liền gọi bà vú của Đại Ngọc là Già Vương đến. Già Vương vừa nhìn thấy đã khóc ầm lên. Tử Quyên vốn nghĩ Già Vương là người có tuổi, có can đảm giúp đỡ được mình, không ngờ bà ta chẳng nghĩ được kế gì, lại làm Tử Quyên càng thêm hồi hộp. Bỗng chị ta nghĩ ra một người, vội vàng sai a hoàn đi mời. Người ấy là ai? Thì ra Tử Quyên nhớ đến Lý Hoàn là người ở góa. Bây giờ Bảo Ngọc cưới vợ, thế nào chị ta cũng tránh mặt. Vả lại, mọi việc trong vườn, trước đây đều do Lý Hoàn lo liệu. Vì thế Tử Quyên mới cho người đi mời.
Lý Hoàn đang ở nhà sửa thơ cho Giả Lan, bỗng thấy một a hoàn hớt hơ hớt hải chạy đến nói:
– Mợ Cả ạ! Có lẽ cô Lâm nguy lắm rồi! Ở bên ấy họ đã khóc cả rồi!
Lý Hoàn nghe nói giật nẩy mình, cũng không kịp hỏi lại, vội vàng đứng dậy đi ngay. Tố Vân và Bích Nguyệt đi theo. Chị ta vừa đi vừa chảy nước mắt, nghĩ bụng: “Chị em xưa nay cùng sống với nhau. Vả lại cô ta dung mạo tài tình, thật là trên đời ít có, họa chăng chỉ có Thanh Nữ và Tố Nga 8 giống được ít nhiều mà thôi. Ngờ đâu mới chừng ấy tuổi đầu, đã vội làm ma đất khách! Khốn nỗi, Phượng Thư lại bày ra cái mưu “thay rường đổi cột” nên mình cũng không tiện đến quán Tiêu Tương, thành ra tình nghĩa chị em, chưa thỏa chút nào, thật là tội nghiệp cho cô ta”.
Lý Hoàn đang nghĩ thì đã tới cửa quán Tiêu Tương.
Trong nhà lặng lẽ chẳng nghe tiếng gì. Lý Hoàn lo cuống lên. “Chắc là cô ta đã chết, họ đã khóc rồi, không biết áo quần và đồ khâm liệm đã sắp sẵn đầy đủ chưa?” Lý Hoàn vội vàng ba chân bốn cẳng bước vào nhà. Một a hoàn nhỏ đứng trong cửa trông thấy liền nói:
– Mợ Cả đã đến!
Tử Quyên vội vàng ở trong chạy ra. Vừa gặp mặt, Lý Hoàn vội hỏi:
– Cô ra sao rồi?
Tử Quyên chỉ nghẹn ngào trong họng, nói không ra lời, nước mắt giàn giụa, lã chã, một tay chỉ về phía Đại Ngọc.
Lý Hoàn thấy vậy, càng thêm đau lòng, cũng không hỏi. Vội vàng chạy lại, thấy Đại Ngọc không nói được nữa. Lý Hoàn sẽ gọi vài tiếng. Đại Ngọc hơi hé mắt ra, hình như còn biết, nhưng chỉ có mi mắt và môi hơi rung động, trong miệng còn thoi thóp thở, chứ không nói được, cũng không còn một giọt nước mắt nữa.
Lý Hoàn ngoảnh lại không thấy Tử Quyên, liền hỏi Tuyết Nhạn. Tuyết Nhạn nói:
– Chị ấy đang ở nhà ngoài.
Lý Hoàn vội vàng đi ra thì thấy Tử Quyên, đang nằm trên cái giường bỏ không ở nhà ngoài, mặt tái nhợt, mắt nhắm lại, nước mắt như mưa, làm cho cái nệm hoa viền gấm ướt mất một vạt lớn bằng cái bát. Nghe Lý Hoàn gọi, Tử Quyên mới từ từ mở mắt và nhổm dậy.
Lý Hoàn nói:
– Con ngốc này! Lúc này là lúc nào mà mày chỉ lo khóc? Áo xống của cô Lâm ở đâu rồi, không đưa ra thay cho cô ta, còn đợi lúc nào nữa. Không lẽ cô ta là một người con gái, lại để trần truồng như thế mà lìa bỏ cuộc đời à?
Tử Quyên nghe câu ấy càng khóc rống lên.
Lý Hoàn cũng vừa khóc vừa cuống quít, lau nước mắt, vừa vỗ vào tai Tử Quyên vừa nói:
– Em ơi! Em khóc làm rối cả ruột ta. Mau mau sửa soạn để khâm liệm cho cô ta đi thôi, để chậm lát nữa không kịp đâu!
Đang lúc rối rít thì thấy ở ngoài có một người lật đật chạy vào. Lý Hoàn giật mình, nhìn lại, thì ra Bình Nhi. Bình Nhi chạy vào thấy tình hình như thế, ngơ ngác sửng sốt. Lý Hoàn nói:
– Chị lúc này không ở bên ấy, đến đây làm gì?
Vừa nói đến đây thì vợ Lâm Chi Hiếu cũng chạy vào.
Bình Nhi nói:
– Mợ tôi không đành lòng, bảo tôi đến xem sao? Đã có mợ Cả ở đây thì mợ tôi chỉ lo việc bên kia thôi.
Lý Hoàn giật đầu. Bình Nhi nói:
– Tôi cũng vào xem cô Lâm một chút.
Nói đến đấy, chị ta vừa đi vào vừa chảy nước mắt.
Lý Hoàn ở ngoài nói với vợ Lâm Chi Hiếu:
– Bà đến vừa đúng lúc, mau mau đi ra ngoài xem sao, rồi nói với người coi việc sắp sửa hậu sự cho cô Lâm. Khi đã xong xuôi rồi, bà bảo họ tới nói lại với tôi, không cần đến bên kia làm gì.
Vợ Lâm Chi Hiếu vâng lời, nhưng vẫn đứng đấy. Lý Hoàn nói:
– Còn việc gì nữa?
– Vừa rồi mợ Hai và cụ bàn định bên kia có việc cần gọi cô Tử Quyên sang để sai bảo.
Lý Hoàn chưa kịp trả lời. Tử Quyên đã nói:
– Bà Lâm ơi, mời bà cứ đi trước. Chờ khi người chết rồi chúng tôi tự nhiên về cả, cần gì phải như thế?
Tử Quyên nói đến đó, nghĩ không tiện, liền đổi giọng:
– Vả lại chúng tôi ở đây phục dịch người ốm, trong người cũng không được sạch sẽ. Cô Lâm còn thở, có khi sẽ gọi đến tôi.
Lý Hoàn đứng một bên sẽ nói dàn hòa:
– Thật thế, cô Lâm và cô này là duyên nợ từ trước để lại. Tuyết Nhạn là người từ phương Nam đưa đến mà cô Lâm lại không để ý lắm, chỉ có Tử Quyên với cô ấy thì một phút cũng không rời nhau.
Vợ Lâm Chi Hiếu ban đầu nghe Tử Quyên nói, trong bụng cũng khó chịu, nhưng khi nghe Lý Hoàn nói rõ như thế, bà ta cũng chẳng biết nói gì nữa. Lại thấy Tử Quyên nước mắt giàn giụa nên bà ta chỉ mỉm cười đứng nhìn rồi lại nói:
– Những lời cô Tử Quyên nói không quan hệ, nhưng cô thì như thế được, chứ còn tôi thì làm sao mà trình lại với cụ và mợ Hai được.
Đang nói thì Bình Nhi ở trong lau nước mắt đi ra, liền hỏi:
– Bà nói trình với mợ Hai việc gì thế?
Vợ Lâm Chi Hiếu đem câu chuyện vừa rồi kể lại đầu đuôi. Bình Nhi cúi đầu nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
– Thế này thôi, gọi cô Tuyết Nhạn đi cũng được.
Lý Hoàn nói:
– Cô ấy cũng được à?
Bình Nhi ghé vào tai Lý Hoàn nói nhỏ mấy câu. Lý Hoàn gật đầu nói:
– Đã thế thì bảo Tuyết Nhạn qua bên ấy cũng được.
Vợ Lâm Chi Hiếu hỏi lại Bình Nhi:
– Cô Tuyết Nhạn có được không?
– Được đấy, cũng như nhau thôi.
– Đã thế thì cô bảo cô Tuyết Nhạn mau mau đi theo tôi. Tôi sẽ trình với cụ và mợ Hai. Đây là ý định của mợ Cả và cô, rồi chốc nữa cô lại trình với mợ Hai.
Lý Hoàn nói:
– Thôi được, bà chừng ấy tuổi đầu mà chút việc như thế cĩmg còn không làm nổi à?
Vợ Lâm Chi Hiếu cười nói:
– Không phải là tôi không làm nổi, nhưng vì một là việc này cụ và mợ Hai lo liệu như thế nào, tôi không được rõ lắm, hai là đã có mợ Cả và cô Bình rồi.
Đang nói thì Bình Nhi đã gọi Tuyết Nhạn ra. Số là mấy hôm nay, Đại Ngọc cho Tuyết Nhạn còn trẻ con, không biết gì, lên nó cũng đâm ra hờ hững. Nó lại sợ cụ và mợ Hai gọi, không đi không được, nên vội vàng sửa lại đầu tóc. Bình Nhi bảo nó thay quần áo mới rồi theo vợ Lâm Chi Hiếu đi.
Sau đó, Bình Nhi lại nói với Lý Hoàn mấy câu. Lý Hoàn lại dặn dò Bình Nhi qua bên ấy giục vợ Lâm Chi Hiếu mau mau nhắn ông ta sắm sửa hậu sự cho Đại Ngọc.
Bình Nhi vâng lời đi ra, vừa qua quãng đường, thấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn Tuyết Nhạn đi phía trước. Chị ta liền gọi bà ấy đứng lại và nói:
– Để tôi đưa em Tuyết đi cho. Bà về nói với ông Lâm lo liệu hậu sự cho cô Lâm. Còn ở chỗ mợ Hai, tôi sẽ trình hộ.
Bà Lâm vâng lời ra đi. Bình Nhi dẫn Tuyết Nhạn đến nhà mới, nói lại rõ ràng rồi đi làm việc.
Tuyết Nhạn thấy quang cảnh phòng mới của Bảo Ngọc, nghĩ đến cô mình, không khỏi đau lòng, nhưng vì đứng trước mặt Giả mẫu và Phượng Thư nên không dám để lộ nỗi buồn của mình. Tuyết Nhạn nghĩ bụng: “Chả biết họ dùng mình vào việc gì, để ta xem thử. Ngày thường Bảo Ngọc với cô mình gắn bó như keo với sơn, mà giờ đây không gặp mặt nhau nữa. Cũng không biết anh ta bệnh giả hay bệnh thật. Có lẽ anh ta sợ cô mình đâm giận, nên bịa chuyện mất ngọc, giả cách si ngốc làm cho cô mình nguôi lòng để rồi cưới cô Bảo cho tiện cũng nên. Để ta thử gặp anh ta, xem anh ta thấy mình rồi còn si ngốc nữa hay không? Chả nhẽ giờ đây còn vờ làm bộ si ngốc nữa hay sao?”
Tuyết Nhạn nghĩ như thế rồi lén vào cửa nhà trong xem trộm.
Lúc bấy giờ, Bảo Ngọc vì mất ngọc đâm ra mê mẩn, nhưng nghe nói mình được lấy Đại Ngọc làm vợ, thật là việc vui lòng thỏa dạ thứ nhất từ trước tới nay, từ trên trời đến cõi tục, nên người khỏe hẳn lên, duy chỉ không được lanh lợi như trước mà thôi. Vì thế, diệu kế của Phượng Thư thật là “bách phát bách trúng”. Bảo Ngọc chỉ mong được gặp Đại Ngọc ngay. Nghe người ta nói hôm nay làm lễ cưới, anh ta hoa chân múa tay, vui không kể xiết, dầu còn đôi câu nói dại dại ngây ngây, nhưng đã khác hẳn khi còn bệnh nặng. Trông thấy thế, Tuyết Nhạn vừa tức giận vừa đau lòng, nhưng hiểu sao được nổi lòng của Bảo Ngọc. Tuyết Nhạn liền bỏ đi ra.
Trong này Bảo Ngọc gọi Tập Nhân mau mau thay quần áo mới cho mình, rồi ngồi chờ trong nhà Vương phu nhân. Trông thấy Phượng Thư và Vưu Thị vội vàng lật đật, anh ta chờ mãi chẳng thấy đến giờ tốt, cứ hỏi Tập Nhân:
– Cô Lâm ở trong vườn, sao vẫn dằng dai mãi chưa đến?
Tập Nhân mỉm cười nói:
– Còn chờ giờ tốt chứ!
Lúc đó, lại nghe Phượng Thư nói với Vương phu nhân:
– Mặc dầu có tang, nếu gọi ban nhạc ở ngoài thì không nên, nhưng nề nếp nhà chúng ta, có lệ con dâu vào làm lễ nhà thờ, nếu lặng lẽ quá sợ không nên. Để cháu gọi bọn đàn bà con gái trong nhà đã học âm nhạc và học hát trò đến đánh đàn thổi sáo cho vui.
Vương phu nhân gật đầu nói:
– Cũng được.
Một lúc sau, một cỗ kiệu lớn đi từ cửa chính vào, ban âm nhạc trong nhà ra đón, mười hai đôi đèn hoa kiểu trong cung bày hàng đi vào, xem cũng có vẻ trang nhã mới mẻ. Người giúp lễ mời cô dâu xuống kiệu. Bảo Ngọc thấy cô phù dâu mặc áo đỏ, đỡ lấy cô dâu. Cô dâu đội khăn che đầu.
Người đỡ cô dâu đó là ai? Thì chính là Tuyết Nhạn.
Bảo Ngọc thấy Tuyết Nhạn, nghĩ bụng: “Sao Tử Quyên không đi mà lại là cô này?” Rồi lại nghĩ: “Phải rồi, Tuyết Nhạn nguyên là cô ta đưa từ phương Nam đến, Tử Quyên là người nhà mình, dĩ nhiên không cần cô ta đưa đến”. Vì thế, khi thấy Tuyết Nhạn, Bảo Ngọc vui mừng y như thấy Đại Ngọc.
Người giúp lễ xướng lễ, trước lạy trời đất rồi mời Giả mẫu ra lạy bốn lạy, lại mời vợ chồng Giả Chính lên nhà để vợ chồng mới làm lễ. Lễ xong, đưa vào động phòng. Ngoài ra, còn có những lễ như ngồi giường buông màn đều là theo lệ cũ đất Kim Lăng, không cần nói kỹ.
Giả Chính vốn không tin chuyện “xung hỷ”, chẳng qua vì Giả mẫu làm chủ, không dám trái lại mà thôi. Ai ngờ hôm nay thấy Bảo Ngọc như có vẻ khỏe thật, Giả Chính thấy thế cũng rất vui mừng.
Lúc cô dâu ngồi màn là phải cất cái khăn che đầu, Phượng Thư đã đề phòng sẵn, nên mời Giả mẫu và Vương phu nhân cùng vào để trông nom lúc đó, Bảo Ngọc vẫn còn phần nào ngây dại, liền chạy đến trước mặt cô dâu nói:
– Cô em có khỏe không? Đã mấy ngày không gặp nhau đội cái quái này làm gì?
Bảo Ngọc định cất cái khàn che đầu của cô dâu, làm cho Giả mẫu sợ toát mồ hôi. Báo Ngọc lại nghĩ: “Cô Lâm hay giận, không nên hấp tấp”. Lại nghỉ một chút. Anh ta nhịn không được, đành phải tới nơi cất cái khăn che đầu của cô dâu đi. Người phù dâu đỡ lấy khăn, Tuyết Nhạn chạy ra, bọn Oanh Nhi tới hầu.
Bảo Ngọc trừng mắt nhìn, thấy giống như Bảo Thoa, trong bụng không tin, một tay cầm đèn, một tay dụi mắt, trông kỹ lần nữa, thì chẳng phải Bảo Thoa là gì! Thấy cô ta ăn mặc lộng lẫy, thân thể đẫy đà, mái tóc rủ nghiêng, mặt mày e lệ. Rõ ràng:
Vẻ thanh nhã bông sen sương rủ,
Dáng yêu kiều hoa hạnh khói lồng.
Bảo Ngọc đứng ngẩn người ra một lúc, thấy Oanh Nhi đứng một bên mà không thấy Tuyết Nhạn. Lúc đó, trong lòng Bảo Ngọc rối loạn, cho là mình ở trong giấc chiêm bao, cứ đứng ngơ ngác. Mọi người đỡ lấy đèn, dìu Bảo Ngọc ngồi xuống, Bảo Ngọc hai mắt trợn ngược, chẳng nói nửa lời. Giả mẫu sợ Bảo Ngọc lại phát ốm, liền thân hành đến vỗ về. Phượng Thư và Vưu Thị mời Bảo Thoa vào nhà trong ngồi. Lúc đó, Bảo Thoa cố nhiên là ngồi cúi đầu không nói gì cả.
Một lát, Bảo Ngọc hơi tỉnh lại, thấy Giả mẫu và Vương phu nhân ngồi bên kia, liền khẽ hỏi Tập Nhân:
– Tôi ở chỗ nào đây, không phải là chiêm bao à?
Tập Nhân nói:
– Hôm nay là ngày vui của cậu. Sao lại nói nhảm, chiêm bao với chẳng chiêm bao! Ông lớn đang ngồi ngoài kia kìa!
Bảo Ngọc lại lấy tay chỉ vào nhà trong, hỏi khẽ:
– Cô gái đẹp ngồi trong ấy là ai?
Tập Nhân bưng lấy miệng nhịn cười, nói không ra lời, hồi lâu mới nói:
– Mợ Hai mới cưới đấy.
Mọi người ngoảnh đầu đi, không nhịn cười được.
Bảo Ngọc lại nói:
– Khéo lẩn thẩn thật! Chị nói mợ Hai là ai đấy?
– Cô Bảo đấy!
– Cô Lâm đâu rồi?
– Ông lớn làm chủ, cưới cô Bảo, sao lại nói bậy là cô Lâm?
– Ta vừa thấy cô Lâm, có cả Tuyết Nhạn nữa; sao lại nói không có? Các người đùa cái gì thế?
Phượng Thư liền chạy lại nói khẽ:
– Cô Bảo đang ngồi ở trong nhà đấy, đừng nói nhảm, làm cô ta mếch lòng thì cụ không nghe đâu.
Bảo Ngọc nghe nói, càng thêm mê mẩn. Vốn đã sẵn bệnh hôn mê, lại thêm đêm nay tình hình kỳ quặc, càng làm cho anh ta tình hình rối loạn. Anh ta không quản gì nữa, miệng đòi đi tìm cho được cô Lâm.
Giả mẫu tới an ủi. Nhưng khốn nỗi Bảo Ngọc không hiểu nữa. Lại có cả Bảo Thoa ngồi trong nhà không tiện nói rõ. Giả mẫu biết rằng bệnh cũ của Bảo Ngọc lại phát nên cũng không nói, đành phải thắp hương an thần khắp nhà để giữ vững thần hồn rồi dìu anh ta nằm ngủ.
Mọi người ngồi im lặng. Sau một lát, Bảo Ngọc ngủ mê mệt, bọn Giả mẫu mới hơi yên lòng, đành phải ngồi chờ trời sáng. Giả mẫu lại bảo Phượng Thư vào mời Bảo Thoa nằm nghỉ.
Bảo Thoa làm như không nghe gì chỉ, rồi cũng mặc cả áo đi nằm.
Giả Chính ở ngoài không biết nguyên do trong ấy ra sao, nhưng cứ quang cảnh tai nghe mắt thấy vừa rồi, trong bụng cũng khoan khoái. Vừa đúng ngày mai là ngày tốt lên đường, ông ta nằm nghỉ một lát rồi mọi người làm lễ chúc mừng tiễn đưa.
Giả mẫu thấy Bảo Ngọc nghỉ rồi, cũng về phòng nghỉ.
Sáng hôm sau Giả Chính làm lễ cáo từ ở nhà thờ, rồi đến từ biệt Giả mẫu và thưa:
– Con bất hiếu đi xa, mong mẹ yên tâm tĩnh dưỡng. Con đến chỗ làm việc sẽ biên thư về ngay, xin mẹ đừng lo nghĩ. Việc của Bảo Ngọc đã theo lời mẹ lo liệu xong xuôi, chỉ mong mẹ để ý dạy dỗ cho.
Giả mẫu sợ Giả Chính dọc đường không yên tâm, nên không nhắc đến chuyện Bảo Ngọc ốm trở lại, chỉ nói:
– Ta có một câu: Hôm qua Bảo Ngọc cưới vợ nhưng chưa phải là chung phòng. Hôm nay anh lên đường, đáng lẽ bảo nó đi đưa xa mới phải. Nhưng vì nó ốm, phải làm cách “xung hỷ” mới đỡ ít nhiều. Hôm qua nó lại mệt suốt ngày, đi ra ngoài sợ gặp gió. Vì thế, ta hỏi anh: Nếu bảo nó đi tiễn thì tức khắc cho gọi nó, nếu anh thương nó thì gọi người đưa nó đến để anh gặp nó một tí và bảo nó dập đầu làm lễ cũng như là nó tiễn đưa anh rồi.
Giả Chính nói:
– Bảo nó tiễn đưa làm gì? Chỉ cần từ nay về sau nó chăm chỉ học hành, còn mừng hơn là nó tiễn đưa.
Giả mẫu nghe nói mới đỡ lo, liền bảo Giả Chính ngồi xuống rồi gọi Uyên Ương, như thế như thế, đưa Bảo Ngọc đến đây, và bảo cả Tập Nhân theo đến.
Uyên Ương đi chẳng bao lâu đã dẫn Bảo Ngọc đến. Nghe Giả mẫu bảo làm lễ chào thì Bảo Ngọc chào. May lúc đó, Bảo Ngọc gặp bố, tinh thần hơi tỉnh táo một chút, cho nên cũng chẳng có gì sai lầm lắm.
Giả Chính dặn dò mấy câu, Bảo Ngọc vâng lời. Giả Chính bảo người nhà dìu anh ta về phòng.
Giả Chính về phòng Vương phu nhân, lại dặn dò phải hết sức dạy bảo con “nhất thiết không được thả lỏng như trước, khoa thi hương sang năm, thế nào cũng bảo nó đi thi.”
Vương phu nhân nhất nhất vâng theo, cũng không nhắc đến việc gì khác, và vội vàng sai người dẫn Bảo Thoa đến, làm lễ dâu mới tiễn chân, nhưng cũng không ra khỏi nhà, còn các người khác thì tiễn ra cửa thứ hai rồi về.
Giả Chính lại dặn dò Giả Trân một hồi rồi mọi người rót rượu tiễn chân. Một số con em và bạn hữu lớp trẻ đưa chân mãi đến mười dặm mới từ biệt.
Bảo Ngọc từ khi trở về phòng, bệnh cũ trở lại, càng thêm mê mẩn không ăn uống gì.