Chương 98: Giáng Châu đau buồn, hồn về nơi ly hận – Thần Anh mang bệnh, lệ tràn cõi tương tư

Giáng Châu đau buồn, hồn về nơi ly hận

Thần Anh mang bệnh, lệ tràn cõi tương tư

Bảo Ngọc gặp Giả Chính rồi về phòng, càng thấy đầu choáng mắt hoa, chân tay rời rạc, cơm cũng không ăn, liền nằm ngủ ly bì, mời thầy đến xem mạch, cho thuốc uống, cũng chẳng thấy công hiệu gì, ngay đối với người trong nhà cũng không nhận ra được ai nữa. Nhưng khi đỡ, anh ta ngồi dậy thì xem bộ như là người khỏe. Tình trạng ấy kéo dài luôn mấy hôm. Hôm ấy vừa đến ngày làm lễ “hồi môn”. Nếu không làm lễ hồi môn về thăm Tiết phu nhân thì thật khó coi. Nhưng nếu về lại không tiện. Thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế, ai cũng biết bệnh Bảo Ngọc vì nhớ Đại Ngọc mà sinh ra. Nhưng không muốn nói rõ, lại sợ anh ta tức uất, có thể xảy ra nguy hiểm. Về phần Bảo Thoa lại là cô dâu mới, cũng khó khuyên lơn an ủi, việc này cần có Tiết phu nhân sang mới được.

Giả mẫu sợ không về hồi môn thì Tiết phu nhân trách giận, liền bàn cùng Vương phu nhân và Phượng Thư:

– Ta xem Bảo Ngọc như người mất hồn, nhưng đi đứng thì không sợ đâu. Bây giờ nên dùng hai cỗ kiệu nhỏ, sai người dìu đi, rồi cho vợ chồng nó đi qua vườn mà sang để đúng với lễ về hồi môn. Sau đó, mời dì sang an ủi Bảo Thoa, còn chúng ta thì hết sức tìm cách chạy chữa cho Bảo Ngọc, như thế có phải cả hai đường đều trọn vẹn không?

Vương phu nhân vâng lời, lập tức sắm sửa. May được Bảo Thoa là cô dâu mới, Bảo Ngọc thì điên dại, bảo gì làm nấy. Bảo Thoa hiểu rõ như thế, trong bụng chỉ trách mẹ quá hấp tấp, nhưng đã đến nông nỗi này, cũng không nói nữa. Riêng Tiết phu nhân thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế, trong bụng phàn nàn, nhưng đành phải làm qua loa cho xong chuyện.

Trở về nhà, bệnh Bảo Ngọc càng thêm trầm trọng đến nỗi hôm sau không ngồi dậy được nữa. Bệnh cứ một ngày một nặng thêm, thậm chí cháo và nước cũng không nuốt được.

Bọn Tiết phu nhân đều cuống quít mời đủ danh y các nơi, nhưng không ai hiểu bệnh gì. Chỉ có một ông thầy thuốc nghèo túng ở một ngôi chùa đổ nát ngoài thành là họ Tất, biệt hiệu Tri Am, xem mạch và đoán là do mừng buồn đột ngột, ấm lạnh thất thường, ăn uống lỗi thời, lo giận uất tích, chính khí bế tắc. Nói tóm lại là bệnh nội thương kiêm ngoại cảm. Rồi ông ta cho phương thuốc. Chiều hôm ấy uống vào, đến sau canh hai, quả nhiên tỉnh táo hơn. Bảo Ngọc liền đòi uống nước. Giả mẫu và Vương phu nhân mới yên lòng, mời Tiết phu nhân dẫn Bảo Thoa đến bên nhà Giả mẫu tạm nghỉ.

Bảo Ngọc trong chốc lát tỉnh táo, tự nghĩ khó sống, khi thấy mọi người ra khỏi, chỉ có Tập Nhân ở đấy, liền gọi chị ta tới gần, cầm tay khóc và nói:

– Tôi hỏi chị, tại sao chị Bảo lại đến đây? Tôi nhớ cha tôi cưới cô Lâm cho tôi, tại sao chị Bảo đuổi cô ta đi mà ngồi ở đây? Tôi định nói, lại sợ mếch lòng chị ta. Các chị có biết cô Lâm khóc như thế nào không?

Tập Nhân không dám nói rõ, đành phải trả lời:

– Cô Lâm đang ốm.

– Để tôi đi thăm cô ta một tý.

Nói xong, Bảo Ngọc định đứng dậy, ngờ đâu mấy ngày không ăn uống, người không sao cử động được. Bảo Ngọc liền khóc và nói:

– Tôi chết mất! Có một câu nói tâm tình nhờ chị trình lại với cụ: Thế nào cô Lâm cũng phải chết! Tôi bây giờ cũng không thể sống được. Hai người ốm ở hai nơi đều phải chết! Chết như thế càng khó sắp đặt, chi bằng dọn một căn nhà bỏ không, khiêng tôi và cô Lâm đến đấy, khi sống cùng sống một nơi cho dễ thuốc thang hầu hạ, mà có chết cũng để quan tài một nơi cho tiện. Chị nghe lời này của tôi thì cũng không đến nỗi uổng mối tình đôi ta trong mấy năm nay.

Tập Nhân nghe vậy nghẹn ngào đau xót. Giữa lúc ấy, Bảo Thoa cùng Oanh Nhi đến. Nghe vậy, Bảo Thoa liền nói:

– Cậu ốm không lo tĩnh dưỡng, tại sao lại nói những lời không tốt lành ấy? Bà vừa hơi yên tâm một chút cậu lại sinh chuyện. Cả đời bà, chỉ có thương mình cậu, nay đã hơn tám mươi tuổi đầu không mong sắc tặng của cậu, nhưng rồi đây cậu được nên người, bà trông thấy cũng vui, không uổng công lao khó nhọc của người. Còn mẹ thì không cần phải nói. Mẹ dồn cả tâm huyết, tinh thần suốt một đời người, chỉ nuôi nấng được một mình cậu, nếu dở chừng cậu chết đi thì sau này mẹ sẽ ra thế nào? Tôi dầu bạc phận cũng không đến nỗi như thế. Cứ xem ba việc ấy thì dầu cậu có muốn chết, trời cũng chẳng cho chết, cho nên cậu nhất định không thể chết được đâu. Cậu cứ yên tâm tĩnh dưỡng ít ngày, phong tà tan đi, chính khí đầy đủ, thì những bệnh kia đều sẽ hết…

Bảo Ngọc nghe nói, chẳng biết trả lời ra sao, một hồi lâu mới cười hì hì mà nói:

– Đã lâu nay chị không nói chuyện với tôi, bây giờ lại nói những câu đạo lý lớn lao như thế, định để cho ai nghe đấy?

Bảo Thoa nghe câu ấy liền nói:

– Nói thật với cậu, trước đây hai ngày, khi cậu còn ốm mê không biết gì, em Lâm đã chết rồi.

Bảo Ngọc bỗng ngồi phắt dậy, ngơ ngác hỏi to:

– Em Lâm chết thật rồi à?

– Chết thật rồi. Ai lại độc mồm độc miệng đi rủa người ta chết bao giờ? Bà và mẹ biết anh em cậu thân mật, khi nghe tin cô ấy chết, thế nào cậu cũng muốn chết, nên không nói với cậu đấy thôi.

Bảo Ngọc nghe nói, khóc ầm lên rồi ngã vật xuống giường, bỗng thấy trước mặt tối đen, không nhìn rõ phương hướng, bụng đang hoảng hốt thì thấy trước mặt như có người đi tới. Bảo Ngọc mơ màng hỏi:

– Xin hỏi: ở đây là chỗ nào?

Người kia nói:

– Đây là đường đi xuống âm ty. Tuổi thọ của anh chưa hết, sao lại tới đây?

– Tôi vừa nghe có người bạn chết, nên tìm hỏi đến đây, không ngờ bị lạc đường.

– Bạn anh là ai?

– Cô Lâm Đại Ngọc ở Cô Tô.

Người kia cười nhạt nói:

– Lâm Đại Ngọc, sống không giống người, chết không giống quỷ, không hồn không phách, tìm ở đâu thấy được. Đại phàm hồn phách người ta, tụ lại thì thành hình, tan ra thì thành hơi, khi sống thì tụ lại, khi chết thì tan ra. Người thường cũng khó lòng tìm thấy, huống nữa là Lâm Đại Ngọc. Anh về mau đi thôi.

Bảo Ngọc nghe nói ngẩn người ra một lúc, rồi hỏi:

– Đã nói chết thì tan ra, sao lại còn có “âm ty”?

– Âm ty bảo có thì có, bảo không thì không! Vì người đời say đắm về thuyết sống chết nên đặt chuyện ra để khuyên răn đời đấy thôi. Người ta nói trời rất giận những người ngu, hoặc không chịu biết thân biết phận; hoặc tuổi thọ chưa hết mà tự mình làm chết non, hoặc ham mê dâm dục, nóng nảy làm càn, vô cớ mà tự vẫn nên đặt ra địa ngục này, giam cầm những hồn phách ấy, phải chịu vô cùng khổ sở để đền cái tội khi còn ở trên dương gian. Nay anh đi tìm Đại Ngọc là vô cớ mà tự hãm mình đấy. Vả chăng Đại Ngọc đã về Thái Hư ảo cảnh, muốn tìm thì phải dốc lòng tu dưỡng rồi cũng có lúc gặp nhau. Nếu không yên phận thì sẽ chịu cái tội tự mình chết non, bị giam vào âm ty, chỉ có thể gặp cha mẹ mà thôi, không thể gặp Đại Ngọc được 10.

Người ấy nói xong, lấy ra một hòn đá trong ống áo, nhằm bụng Bảo Ngọc mà ném.

Bảo Ngọc vừa nghe câu chuyện xong, lại bị hòn đá ném trúng bụng, sợ quá muốn về nhà ngay, chỉ giận không biết đường. Đang lúc dùng dằng, bỗng nghe bên kia có người gọi anh ta, anh ta ngoảnh lại thì chẳng phải ai, mà là Giả mẫu, Vương phu nhân, Bảo Thoa, Tập Nhân đang vây bọc chung quanh, vừa khóc vừa gọi, còn mình thì vẫn nằm ở trên giường, nhìn lại thấy đèn sáng trên bàn, giăng soi ngoài cửa, vẫn là cõi đời gấm vóc, thế giới phồn hoa. Té ra là giấc chiêm bao. Cả người anh ta mồ hôi lạnh toát, cảm thấy trong lòng tỉnh táo. Nghĩ kỹ không còn biết làm thế nào, chỉ còn thở dài.

Bảo Thoa vốn biết Đại Ngọc đã chết rồi, nhưng bọn Giả mẫu không cho ai nói với Bảo Ngọc, sợ bệnh Bảo Ngọc nặng thêm khó chữa. Riêng Bảo Thoa biết rất rõ bệnh Bảo Ngọc là vì Đại Ngọc mà ra, còn chuyện mất ngọc chỉ là việc phụ, cho nên cô ta muốn nhân dịp nói rõ, dù Bảo Ngọc có đau đớn chốc lát, nhưng rồi trong lòng dứt khoát, thần hồn ổn định, mới dễ chữa được. Giả mẫu và Vương phu nhân không hiểu dụng ý của Bảo Thoa trách cô ta hấp tấp. Sau thấy Bảo Ngọc tỉnh lại, họ mới yên lòng, lập tức sai người ra thư phòng mời thầy thuốc họ Tất vào xem mạch.

Thầy thuốc xem mạch xong, nói:

– Lạ thật! Bây giờ xem ra mạch trầm và yên, tinh thần đã an, khí uất đã tan, ngày mai dùng thuốc điều trị, có thể khỏe được.

Nói xong, ông ta đi ra. Mọi người đều an tâm ra về. Ban đầu Tập Nhân cũng trách Bảo Thoa đáng lẽ không nên để lộ chuyện, nhưng không tiện nói ra. Lúc vắng người, Oanh Nhi cũng nói với Bảo Thoa:

– Cô nóng quá!

Bảo Thoa nói:

– Mày biết cái gì? Hay dở đã có ta.

Bảo Thoa mặc cho người ta chê bai, không hề để ý, chỉ dò xem tâm bệnh của Bảo Ngọc, dùng cách chữa ngầm.

Qua một hôm, tinh thần của Bảo Ngọc đã thấy dần dần tỉnh táo, mặc dầu có khi nghĩ đến Đại Ngọc, thần sắc vẫn còn ngơ ngẩn. Nhờ có Tập Nhân từ từ khuyên giải:

– Ông lớn chọn cô Bảo là người hiền hậu, không bằng lòng cô Lâm vì cô Lâm tính tình kỳ quặc, sợ dễ chết non. Cụ sợ cậu không rõ dở hay đang ốm lại đâm ra hoảng hốt, nên gọi Tuyết Nhạn đến lừa cậu…

Bảo Ngọc vẫn cứ đau lòng và chảy nước mắt. Muốn tìm cách chết, nhưng lại nghĩ đến câu chuyện trong chiêm bao vừa rồi, sợ bà và mẹ giận, không thể đi cho đành. Lại nghĩ Đại Ngọc đã chết, Bảo Thoa là người hạng nhất, mới tin rằng “nhân duyên vàng đá” quả nhiên định sẵn, do đó cũng khuây khỏa ít nhiều.

Bảo Thoa xem chừng không ngại gì lắm, trong lòng cũng yên. Trước hết, cô ta chăm chú làm tròn bổn phận gia đình đối với Giả mẫu và Vương phu nhân rồi sau tìm cách làm cho Bảo Ngọc khuây khỏa. Bảo Ngọc tuy chưa thể ngồi dậy luôn, nhưng thường thấy Bảo Thoa ngồi trước giường nên tật cũ lại nổi lên.

Bảo Thoa thường đem những lời khuyên giải: “Cần nhất là phải giữ gìn thân thể. Cậu với tôi đã là vợ chồng, có phải chỉ trong một lúc đâu”. Bảo Ngọc tuy không bằng lòng, lắm nỗi ban ngày thì Giả mẫu, Vương phu nhân, Tiết phu nhân thay phiên nhau ở đó, ban đêm Bảo Thoa đi ngủ riêng một mình. Giả mẫu lại sai người hầu hạ nên phải an tâm tĩnh đường. Bảo Ngọc lại thấy Bảo Thoa tính nết dịu dàng, dần dần cũng đem lòng yêu mến Đại Ngọc chuyển sang Bảo Thoa một phần nào.

Chính đêm Bảo Ngọc làm lễ thành hôn ban ngày Đại Ngọc đã mê sảng đi rồi, chỉ còn thở thoi thóp. Lý Hoàn và Tử Quyên khóc lóc, chết đi sống lại. Đến chiều bệnh tình lại có vẻ dịu đi. Đại Ngọc hơi hé mắt, hình như muốn uống nước. Lúc đó, Tuyết Nhạn đã đi, bên mình chỉ có Lý Hoàn và Tử Quyên. Tử Quyên liền lấy thìa bạc nhỏ múc chè quế viên hòa với nước quả lê đổ cho cô ta hai ba thìa. Đại Ngọc nhắm mắt nghỉ một lát, trong lòng như mê như tỉnh. Lúc ấy Lý Hoàn thấy Đại Ngọc hơi tỉnh lại biết đó là lúc hồi dương 11 trước khi tắt thở, nhưng còn có thể nửa ngày nữa mới chết, nên trở về thôn Đạo Hương lo liệu công việc một lát. Đại Ngọc mở mắt ra nhìn chỉ thấy Tử Quyên và bà vú cùng mấy a hoàn nhỏ, liền một tay nằm lấy tay Tử Quyên, cố hết sức nói:

– Ta là người bỏ đi rồi! Em hầu ta mấy năm nay, ta cũng định rồi chúng ta ở chung một chỗ, không ngờ ta…

Nói đến đó lại thở dốc lên, nhắm mắt nằm nghỉ. Tử Quyên thấy Đại Ngọc nắm chặt tay mình không chịu buông cũng không dám động đậy, xem bộ dạng cô ta có phần khá hơn buổi sớm, tưởng rằng có thể khỏe trở lại. Tử Quyên nghe nói câu ấy lại cảm thấy lạnh buốt cả người. Hồi lâu Đại Ngọc lại nói:

– Em ơi, ta ở đây không có ai là bà con, thân ta vốn trong sạch, thế nào em cũng bảo họ phải đưa ta về!

Nói đến đó lại nhắm mắt không nói nữa, tay dần dần nắm chặt lại, hơi thở hổn hển nhưng thở ra thì mạnh thở vào thì nhẹ, rồi thở dốc lên rất dữ.

Tử Quyên hoảng sợ, vội vàng sai người đi mời Lý Hoàn.

Vừa khi đó Thám Xuân cũng đến. Tử Quyên thấy Thám Xuân vội vàng nói khẽ:

– Cô Ba ơi! Nhìn cô Lâm chút này!

Nói đến đó, nước mắt chảy như mưa. Thám Xuân bước tới, sờ tay Đại Ngọc thì đã lạnh rồi, con mắt cũng không có thần.

Thám Xuân và Tử Quyên đang khóc và gọi người múc nước lau rửa cho Đại Ngọc, thì Lý Hoàn đã vội vàng chạy đến. Ba người gặp nhau, không kịp nói chuyện.

Đang lau rửa, chợt thấy Đại Ngọc buột miệng kêu:

– Bảo Ngọc! Bảo Ngọc! Anh thật… 12

Nói đến tiếng “thật”, cả người toát mồ hôi lạnh ra, không nói gì nữa. Bọn Tử Quyên vội vàng đỡ lấy, mồ hôi càng toát ra, người lạnh dần.

Thám Xuân và Lý Hoàn cuống quít, gọi người vén tóc, mặc áo, chỉ thấy hai con mắt của Đại Ngọc trợn ngược một cái. Thương ôi!

Hương hồn một mối tan theo gió,

Sầu nặng ba canh giấc mộng xa.

Lúc Đại Ngọc tắt thở, chính là giờ ăn cưới của Bảo Thoa. Bọn Tử Quyên đều khóc ầm lên. Lý Hoàn, Thám Xuân nghĩ Đại Ngọc hàng ngày thật đáng thương yêu, mà giờ đây lại càng tội nghiệp, nên đều đau lòng khóc mãi. Vì quán Tiêu Tương cách phòng cưới của Bảo Ngọc rất xa, nên không ai nghe thấy. Mọi người đang khóc lóc thảm thiết thì xa xa thoảng nghe có tiếng âm nhạc vọng đến, lắng tai nghe lại thoảng như không. Thám Xuân và Lý Hoàn chạy ra ngoài, chỉ thấy gió lay cành trúc, giăng xế đầu tường, cảnh tượng rất là thê lương ảm đạm! Họ gọi vợ Lâm Chi Hiếu đến, đặt cho Đại Ngọc nằm ngay ngắn rồi cắt người coi sóc chờ đến sáng mới đưa tin cho Phượng Thư biết.

Phượng Thư thấy Giả mẫu và Vương phu nhân đang rối rít. Giả Chính thì sắp lên đường. Bảo Ngọc càng mê mẩn, chính là lúc bối rối vô cùng, nếu nói việc Đại Ngọc chết, sợ Giả mẫu và Vương phu nhân càng thêm đau xót, không khéo đâm ốm. Phượng Thư đành phải một mình vào vườn. Đến quán Tiêu Tương, Phượng Thư cũng khóc một hồi, gặp Lý Hoàn, Thám Xuân, Phượng Thư biết là mọi việc đều đã đầy đủ liền nói:

– Tốt lắm! Nhưng tại sao vừa rồi các người không nói, làm cho tôi hoảng lên?

Thám Xuân nói:

– Vừa rồi trong lúc tiễn cha tôi lên đường, nói làm sao được?

– Thôi chị và cô thương lấy cô ta với. Tôi còn phải về bên ấy chạy chữa cho của oan gia kia. Nhưng việc này thật rắc rối. Hôm nay mà không trình rõ thì không được, nếu trình rõ thì lại sợ cụ không sao chịu nổi.

Lý Hoàn nói:

– Thím về đó, liệu chừng mà làm, có tiện thì trình mới được.

Phượng Thư gật đầu, vội vàng ra về. Đến chỗ Bảo Ngọc, nghe thầy thuốc nói không can gì. Giả mẫu và Vương phu nhân đã hơi yên tâm. Phượng Thư tránh mặt Bảo Ngọc, thong thả đem chuyện Đại Ngọc nói rõ. Giả mẫu và Vương phu nhân nghe nói đều giật mình. Giả mẫu nước mắt giàn giụa, nói:

– Thật là ta làm nó chết đấy! Nhưng con bé ấy cũng ngốc quá!

Giả mẫu muốn vào vườn khóc Đại Ngọc, nhưng lại lo cho Bảo Ngọc, nên nghĩ khó xử. Bọn Vương phu nhân nín khóc cùng nhau khuyên Giả mẫu:

– Thân thể của cụ là quan hệ hơn cả, còn việc sang bên kia thì cũng không cần.

Giả mẫu không biết làm thế nào, đành phải để một mình Vương phu nhân đi, và nói:

– Chị sang bên ấy, khấn với linh hồn cháu Lâm, không phải ta nỡ lòng không đến đưa cháu, chỉ vì thân sơ có khác. Cháu là cháu ngoại ta, cũng là chỗ thân thiết, nhưng so với Bảo Ngọc thì nó còn thân hơn. Nếu Bảo Ngọc có mệnh hệ nào thì ta mặt mũi nào mà thấy cha nó?

Nói đến đó Giả mẫu lại khóc. Vương phu nhân khuyên:

– Cụ rất yêu cô Lâm, nhưng sống chết là do ông trời định sẵn. Giờ đây cô ta đã chết rồi, mình có hết lòng cũng không làm thế nào được, chi bằng dùng lễ hạng nhất để tống táng cô ta, một là gọi tỏ tấm lòng của chúng ta; hai là âm hồn của bà cô và cháu ngoại cũng được yên nơi chín suối.

Giả mẫu nghe đến đó, càng khóc rống lên. Phượng Thư sợ Giả mẫu thương cảm quá, lại biết Bảo Ngọc cũng không tỉnh táo lắm, liền âm thầm sai người đến nói dối: “Bảo Ngọc đang tìm bà đấy.”

Giả mẫu nghe nói, mới nín khóc mà hỏi:

– Lại có việc gì thế?

– Có việc gì đâu, chắc là chú ấy nhớ bà đấy thôi.

Giả mẫu vội vàng vịn vào vai Trân Châu đi sang. Phượng Thư cũng theo sau. Đi được nửa đường, gặp Vương phu nhân ở bên kia đi về nói lại đầu đuôi cho Giả mẫu nghe, cố nhiên Giả mẫu lại thương xót, nhưng vì định sang nhà Bảo Ngọc, đành phải ngậm buồn nuốt lệ mà nói:

– Đã thế thì ta cũng không qua nữa, mặc các người lo liệu lấy thôi. Ta mà nhìn thấy nó thì lòng càng đau xót. Vậy các người lo liệu sao cho chu tất là được.

Vương phu nhân và Phượng Thư nhất nhất vâng lời, Giả mẫu mới sang Bảo Ngọc. Thấy Bảo Ngọc, Giả mẫu hỏi:

– Cháu làm gì mà tìm ta?

Bảo Ngọc cười nói:

– Đêm hôm qua cháu thấy em Lâm đến nói định về Nam. Cháu nghĩ không ai giữ được, nên nhờ bà giữ cô ấy lại hộ cháu.

Giả mẫu nghe nói, trả lời:

– Được! Cháu cứ yên lòng.

Tập Nhân đỡ Bảo Ngọc nằm xuống.

Giả mẫu đi ra, đến phòng Bảo Thoa. Lúc đó Bảo Thoa chưa về lễ hồi môn, cho nên thấy ai cũng có vẻ bẽn lẽn. Thấy Giả mẫu mặt đầy ngấn lệ, cô ta bưng trà lại. Giả mẫu bảo ngồi xuống, Bảo Thoa nghiêng mình ngồi hầu. rồi hỏi:

– Nghe nói em Lâm ốm, không biết đã đỡ chưa?

Giả mẫu nghe câu ấy, nén không được, nước mắt ròng ròng liền nói:

– Cháu ơi, ta nói với cháu, cháu đừng nói lại với thằng Bảo Ngọc, chính vì em Lâm cháu nên mới làm cho cháu chịu bao sự thiệt thòi! Giờ cháu là cháu dâu rồi, nên ta mới nói với cháu: Hiện nay em Lâm cháu đã chết hai ba ngày rồi, chết đúng cái giờ cưới cháu đấy. Giờ đây bệnh của Bảo Ngọc cũng là vì con bé ấy. Cháu trước cũng ở trong vườn, chắc cũng rõ điều đó.

Bảo Thoa nghe nói, má đỏ ửng lên, nghĩ đến Đại Ngọc chết, lại rơi nước mắt.

Giả mẫu nói chuyện một lúc rồi về. Từ đó Bảo Thoa cứ nghĩ đi nghĩ lại, tìm một kế nào đó, nhưng không dám hấp tấp, chờ khi về hồi môn rồi, mới nghĩ ra một kế như vừa kể ở trên. Quả nhiên lúc này thấy Bảo Ngọc khá hơn trước ít nhiều và sau này nói chuyện, mọi người cũng không cần phải để ý như trước.

Riêng phần Bảo Ngọc, tuy bệnh tình đã ngày một đỡ dần, nhưng mối si tình không sao gỡ sạch, nhất định cứ đòi đi khóc Đại Ngọc một chuyến. Giả mẫu biết bệnh Bảo Ngọc chưa hết, không muốn cho nghĩ ngợi miên man. Khốn nỗi lòng anh ta uất ức khó chịu, bệnh cứ khi tăng khi giảm thất thường. Thầy thuốc cũng đoán ra tâm bệnh ấy, nên bảo cứ để cho anh ta được cởi mở nỗi uất ức rồi lại dùng thuốc điều trị thì mau khỏe hơn. Bảo Ngọc nghe nói, lập tức đòi qua quán Tiêu Tương.

Giả mẫu đành phải bảo người nhà đưa cái ghế trúc đến, đỡ Bảo Ngọc ngồi lên, Giả mẫu và Vương phu nhân liền đi trước.

Đến quán Tiêu Tương, thấy quan tài của Đại Ngọc, Giả mẫu nghẹn ngào khóc hết nước mắt. Bọn Phượng Thư khuyên lơn mãi mới nín. Vương phu nhân cũng khóc một hồi. Lý Hoàn mời Giả mẫu và Vương phu nhân vào nhà trong tạm nghỉ, nước mắt hãy còn lã chã không thôi.

Bảo Ngọc đến nơi, nghĩ lại khi mình chưa ốm, vẫn thường đến đây, ngày nay nhà còn kia, người đâu mất, trước đây thân mật dường nào, mà nay kẻ khuất người còn, tránh sao khỏi nỗi lòng thương cảm. Nhịn không được anh ta khóc òa lên. Sợ Bảo Ngọc mới ốm dậy mà đau thương quá độ, ai nấy đều tới khuyên can. Bảo Ngọc khóc lóc chết đi sống lại. Mọi người đỡ anh ta đi nghỉ. Những người đi theo như Bảo Thoa, đều khóc rất thảm thiết. Bảo Ngọc đòi gọi cho được Tử Quyên tới để hỏi rõ khi cô Lâm chết có nói những gì. Từ Quyên vẫn giận Bảo Ngọc, nay thấy thế, trong lòng cũng đã nguôi nguôi, lại có Giả mẫu và Vương phu nhân ở đây, nên không dám trách móc gì Bảo Ngọc, liền đem chuyện cô Lâm ốm trở lại, đốt khăn tay, đốt tập thơ như thế nào và những câu nói của cô ta trước khi tắt thở đều kể lại tường tận. Bảo Ngọc lại khóc lóc đến nỗi khản cả tiếng. Thám Xuân nhân tiện cũng nói đến chuyện khi Đại Ngọc sắp chết dặn đưa linh cữu về Nam. Giả mẫu và Vương phu nhân lại khóc lần nữa. May được Phương Thư khéo léo tìm lời khuyên giải, mới dần dần dẹp đi. Rồi họ mời bọn Giả mẫu ra về. Bảo Ngọc không thể nào bỏ cho dứt, nhưng vì Giả mẫu bắt buộc mãi, đành phải miễn cưỡng về phòng.

Giả mẫu là người nhiều tuổi, từ khi Bảo Ngọc bị ốm, đêm ngày không yên, hôm nay lại khóc lóc một trận, cảm thấy nóng đầu choáng váng, mặc dù vẫn lo cho Bảo Ngọc, không thể đành tâm, nhưng cũng không thể gắng gượng được nữa, đành phải về phòng nằm nghỉ. Vương phu nhân lại đau bụng khó chịu, cũng về phòng ngay, sai Thái Minh sang giúp Tập Nhân trông nom và dặn:

– Nếu Bảo Ngọc lại thương khóc, thì mau mau báo cho ta biết.

Bảo Thoa biết Bảo Ngọc trong lúc này thế nào cũng không quên Đại Ngọc được, nên chỉ dùng lời bóng gió khuyên răn. Bảo Ngọc lại sợ Bảo Thoa lo lắng, nên cũng đành yên tâm nuốt lệ. Nghĩ một đêm, người cũng tạm yên ổn. Sáng sớm hôm sau, mọi người đến thăm, thấy Bảo Ngọc thân hình hư nhược, nhưng về phần tâm bệnh thì bớt được mấy phần. Từ đó họ chăm lo tẩm bổ thêm, làm cho Bảo Ngọc dần dần trở lại khỏe hẳn. Giả mẫu may không sinh ốm, chỉ có Vương phu nhân bụng đau vẫn chưa khỏi. Hôm đó Tiết phu nhân sang thăm, thấy tinh thần Bảo Ngọc hơi khá, thì cũng yên lòng.

Một hôm, Giả mẫu mời riêng Tiết phu nhân qua bàn bạc, và nói:

– Tính mệnh của Bảo Ngọc thật là nhờ dì cứu cho. Giờ đây chắc không can gì nữa, chỉ thiệt thòi cho con cháu thôi. Nay Bảo Ngọc đã điều dưỡng hơn ba tháng, thân thể bình phục như thường, lại hết tang quí phi rồi, chính nên làm lễ hợp hoan, nhờ dì lo liệu và chọn ngày nào tốt thì làm.

Tiết phu nhân nói:

– Ý cụ rất hay, phải hỏi tôi làm gì? Con Bảo tuy vụng về nhưng trong lòng rất sáng suốt, tính tình của cháu, ngày thường cụ cũng đã biết rồi. Mong vợ chồng nó hòa thuận với nhau, từ nay cụ cũng đỡ lo; chị tôi cũng thỏa dạ, mà tôi cũng được yên lòng. Xin cụ cứ định ngày đi. Thế có mời bà con không?

– Việc này là một việc quan hệ thứ nhất trong đời của Bảo Ngọc và cháu, huống chi đã tốn bao nhiêu công phu xoay xở bây giờ mới được yên ổn, thể nào ta cũng phải vui nhộn mấy ngày. Bà con thì đều mời hết. Một là thỏa lòng mong ước, hai là chúng ta uống ly rượu mừng, cũng không uổng công tôi lo lắng bấy lâu.

Tiết phu nhân nghe xong, cố nhiên là vui mừng, liền nói ra ý của mình định sắm đồ nữ trang cho con. Giả mẫu nói:

– Chúng ta thân lại thêm thân. Tôi nghĩ cũng không cần như thế. Nếu nói là đồ dùng thì trong nhà chúng nó đã đầy ứ lên rồi; hoặc giả trong bụng con Bảo có thích cái gì thì dì cho nó mấy cái. Nhưng tôi xem con Bảo không phải là đứa hay nghĩ ngợi, chứ như tính khí con cháu ngoại nhà tôi thì khác hẳn, nên nó không thọ.

Nghe vậy, Tiết phu nhân cũng chảy nước mắt.

Vừa lúc ấy Phượng Thư đi vào, cười nói:

– Bà và cô lại nghĩ gì thế?

Tiết phu nhân nói:

– Ta với cụ nói đến em Lâm chị nên đau lòng.

Phượng Thư cười, nói:

– Bà và cô đừng đau lòng. Cháu vừa nghe được câu chuyện buồn cười, nói cho bà và cô nghe.

Giả mẫu lau nước mắt, nói:

– Không biết mày định chọc người nào đây? Mày cứ nói đi để ta và dì nghe. Nếu nói mà không cười được, ta không nghe đâu.

Trước khi nói, Phượng Thư dang hai tay ra, khom lưng lại mà cười, chưa biết là chị ta nói chuyện gì.

_________________

Chương 99: Giữ phép công bọn hầu ác cùng nhau phá lệ

Giữ phép công bọn hầu ác cùng nhau phá lệ

Xem tin báo ông cậu già đâm ra lo phiền

Phượng Thư thấy Giả mẫu và Tiết phu nhân nghĩ đến Đại Ngọc mà đau lòng, liền nói:

– Cháu có câu chuyện buồn cười nói cho bà và cô nghe.

Chưa kể chuyện chị ta đã cười trước, rồi nói:

– Bà và cô thử nghĩ xem câu chuyện này ở đâu? Chính là chuyện của cô dâu chú rể mới nhà ta đấy.

Giả mẫu nói:

– Làm sao rồi?

Phượng Thư giơ tay ra:

– Một người ngồi như thế này, một người đứng như thế này, một người ngoảnh đi như thế này, một người xoay lại như thế này, một người lại…

Nói đến đó Giả mẫu đã cười ồ lên và bảo:

– Mày nói rõ đi thôi! Đó không phải chuyện hai vợ chồng nhà nó, mà chỉ là mày chọc cho người ta khó chịu đấy.

Tiết phu nhân cũng cười, nói:

– Cháu cứ nói thẳng đi thôi, đừng làm trò nữa.

Phượng Thư mới nói:

– Cháu vừa đến nhà chú Bảo, nghe có tiếng mấy người đang cười, cháu tưởng là ai, khi nhòm vào song cửa, thì ra em Bảo đang ngồi bên cạnh giường; chú Bảo đang đứng dưới đất. Chú Bảo cứ nắm ống áo em Bảo mà nói: “Chị Bảo! Sao chị không biết nói nữa? Chị chỉ nói một câu thì nhất định bệnh tôi khỏi hẳn.” Em Bảo cứ ngoảnh mặt tránh mãi. Chú Bảo lại vái rồi nắm lấy tay áo em Bảo. Em Bảo hoảng lên, giật một cái, chú Bảo vì mới ốm dậy, chân còn yếu, liền ngã đè lên mình em Bảo. Em Bảo cuống quít đỏ mặt lên, và nói: “Cậu bây giờ lại càng lẩn thẩn hơn trước…”

Nói đến đó Tiết phu nhân và Giả mẫu đều cười rũ rượi.

Phượng Thư lại nói:

– Chú Bảo đứng dậy, cười nói: “May ngã một cái mới làm cho tiếng nói của chị bật ra được?”

Tiết phu nhân cười, nói:

– Đó là con Bảo quái gở như thế thôi. Điều đó có can gì? Đã là vợ chồng thì cười cười nói nói có sợ gì. Nó lại không thấy anh Liễn và cháu à?

Phượng Thư mặt đỏ, nói:

– Cô nói gì thế? Cháu nói câu chuyện vui để cho cô đỡ buồn, mà cô lại đem cháu ra làm trò cười.

Giả mẫu cũng cười, nói:

– Phải như thế mới được. Vợ chồng tuy cần hòa thuận, nhưng cũng phải có chừng mực. Ta yêu con Bảo chỉ vì có cái đức tính tôn trọng ấy. Ta vẫn lo thằng Bảo còn điên điên, dại dại, nay cháu thấy thế, thì ra nó đã tỉnh táo hơn trước nhiều rồi. Cháu thử nói xem có chuyện gì buồn cười nữa không?

Phượng Thư nói:

– Mai đây chú Bảo làm lễ hợp hôn, rồi bà thông gia bế cháu ngoại, lúc bấy giờ không phải là chuyện buồn cười nữa hay sao.

Giả mẫu cười nói:

– Ta với dì còn đang tưởng nhớ em Lâm cháu, mày đến chọc chúng ta cười đã đành, sao lại còn văng tục ra nữa. Mày không để cho chúng ta tưởng nhớ em Lâm à? Mày đừng có hí hửng cho lắm, em Lâm giận mày đấy. Sau này mày đừng vào vườn một mình, coi chừng nó nắm lấy, nó không nghe cho đâu!

Phượng Thư cười nói:

– Khi gần chết, cô ta nghiến răng nghiến lợi chỉ giận chú Bảo, chứ có giận cháu đâu.

Giả mẫu và Tiết phu nhân nghe nói, vẫn cho là chuyện đùa, nên không để ý, rồi nói:

– Thôi cháu đừng có vơ quàng vơ xiên nữa, ra bảo các ông ngoài ấy chọn ngày tốt để làm lễ hợp hoan cho Bảo Ngọc thôi.

Phượng Thư vâng lời, nói chuyện một lúc nữa, rồi ra ngoài bảo người xem ngày tốt, để bày cỗ bàn, hát xướng và mời khách. Bệnh Bảo Ngọc tuy đã lành, có lúc Bảo Thoa cao hứng, dở sách ra bàn luận với chồng về việc sách vở. Cái gì Bảo Ngọc thường thấy thì nhớ được, còn nói về trí thông minh thì khác trước xa. Chính anh ta cũng không hiểu ra sao. Bảo Thoa biết vì mất ngọc thông linh nên mới như thế. Chỉ có Tập Nhân vẫn thường nói:

– Tại sao mà khiếu thông minh của cậu trước kia mất đâu cả? Đáng lẽ ra cậu quên cái tật xấu kia đi thì tốt hơn, đằng này, tính khí vẫn như cũ, mà sao riêng về đạo lý lại mù mờ như thế?

Bảo Ngọc nghe nói, cũng không giận, chỉ cười hì hì. Có lúc Bảo Ngọc cứ tùy ý chơi đùa, may nhờ Bảo Thoa khuyên lơn, cũng đỡ phóng túng ít nhiều. Tập Nhân đỡ phải nói năng, chỉ biết hết sức hầu hạ. Các a hoàn khác ngày thường vốn mến phục đức tính hiền hậu của Bảo Thoa, nên thảy đều vui vẻ yên lặng.

Nhưng Bảo Ngọc vốn không ưa động không ưa tĩnh, thường cứ muốn vào vườn chơi. Bọn Giả mẫu sợ anh ta cảm nắng cảm lạnh, lại sợ anh ta nhìn cảnh thương tình. Tuy linh cữu Đại Ngọc đã đem để vào cái am ngoài thành, nhưng quán Tiêu Tương vẫn còn đó; người mất nhà còn, tránh sao khỏi gây nên bệnh cũ? Vì thế mọi người không cho anh ta vào vườn. Đã thế trong số các chị em, Bảo Cầm đã về nhà Tiết phu nhân rồi, Tương Vân thì vì Sử hầu vào kinh, gọi về nhà, mà lại gần ngày về nhà chồng, nên chỉ có lần ăn cưới Bảo Ngọc, và lần bày tiệc rượu mừng là đến và cũng chỉ ở bên nhà Giả mẫu. Vì nghĩ rằng Bảo Ngọc đã lấy vợ, mà mình cũng sắp về nhà chồng, cho nên cô ta không cười đùa như trước. Có lúc cô ta đến chơi, thì cũng chỉ nói chuyện với Bảo Thoa; khi gặp Bảo Ngọc chẳng qua chỉ chào hỏi mà thôi. Hình Tụ Yên thì sau khi Nghênh Xuân về nhà chồng rồi, liền về ở với Hình phu nhân. Chị em họ Lý cũng đều ra ngoài, đôi khi đến chơi với thím Lý, cũng chẳng qua đến chỗ các bà và bọn chị em, chào hỏi xong, liền đến chỗ Lý Hoàn, ở một vài hôm rồi về ngay. Vì thế ở trong vườn bây giờ chỉ có Lý Hoàn, Thám Xuân và Tích Xuân.

Giả mẫu muốn đưa cả bọn Lý Hoàn ra, nhưng vì sau khi Nguyên phi qua đời, trong nhà việc này việc khác xảy ra luôn, không lúc nào rảnh mà lo việc ấy. Hiện nay khí trời ngày một nóng thêm, trong vườn còn ở được, nên chờ đến mùa thu sẽ dời.

Giả Chính đem theo mấy người giúp việc giấy tờ từ kinh đi. Ngày đi đêm nghỉ. Đến tỉnh Giang Tây, yết kiến quan trên xong, Giả Chính đến nơi làm việc làm lễ nhận ấn, lập tức điều tra các kho lương thực trong các châu, các huyện. Giả Chính xưa nay làm quan ở kinh, chức lang trung cũng là chức quan rảnh. Dù có lúc ra làm quan ở ngoài nhưng lại là giáo chức, không liên quan gì đến việc cai trị. Vì thế những điều xấu xa như khấu bớt lương gạo, bóp nặn dân đen, tuy có nghe người ta bàn tán, nhưng bản thân chưa hề trải qua, chỉ một lòng muốn làm ông quan tốt. Ông ta liền cùng bọn giúp việc bàn bạc, yết thị nghiêm cấm những điều xấu xa kia, và hiểu thị hễ tra ra thì sẽ trình quan trên trị tội. Ban đầu mới đến, quả nhiên bọn lại dịch đều sợ, liền dùng đủ cách để xoi bói, kiếm chác, nhưng lại gặp phải Giả Chính là người cố chấp. Bọn người nhà theo hầu Giả Chính lúc ở kinh không hề được chút lợi lộc gì cả, trông mong mãi mới được chủ nhà bổ nhậm quan ngoài, bèn mượn tiếng để vay nợ sắm sửa áo quần cho có thể diện. Họ cứ nghĩ hễ đến chỗ làm quan là sẽ kiếm chác dễ dàng. Không ngờ Giả Chính có cái thói ngây ngô, thật thà muốn trừng trị những thói tệ, các quan châu huyện đưa lễ vật đến ông ta nhất thiết không nhận. Bọn thư biện trong bụng tính thầm: “Mình chỉ gắng nửa tháng nữa là áo quần cầm hết, mà nợ họ cũng giục gấp, biết làm thế nào? Mình thấy rõ những đồng bạc trắng xóa trước mặt mà không sao nắm được.” Bọn lính lệ cũng nói:

– Các ông chẳng mất vốn mất lãi gì, chứ bọn chúng tôi mới thật là oan! Bỏ ra bao nhiêu tiền, lo một chức canh cửa, nay đã hơn một tháng, chằng hề vớ được một đồng xu, chắc chắn theo hầu vị chủ này không làm gì mà được vốn. Ngày mai chúng tôi kéo cả bè lên xin nghỉ hết.

Ngày hôm sau bọn lính hầu quả nhiên đến họp đủ mặt và xin nghỉ. Giả Chính chẳng biết ra sao, liền nói:

– Muốn đến cũng do các anh, muốn đi cũng do các anh, đã chê ở đây không tốt thì cứ tùy ý thôi.

Bọn lính hầu vùng vằng hờn giận đi ra, chỉ còn lại bọn người nhà. Họ liền bàn với nhau:

– Người đi được thì đi rồi, còn bọn mình không đi được, cũng phải nghĩ cách gì chứ!

Trong đó có một người coi cửa, tên gọi Lý Thập nói:

– Các anh chẳng biết nhẫn nại gì hết, có việc gì mà hoảng lên thế? Vì trước có người đầu xâu của họ ở đấy không lẽ tôi lại ra lo thay cho họ. Bây giờ họ đều đói chạy hết cả rồi. Các anh hãy xem cái bản lĩnh của tôi đây, thế nào ông chủ cũng phải theo tôi cho mà xem. Nhưng các anh phải đồng lòng, cùng giúp nhau kiếm ít tiền về nhà mà tiêu. Nếu các anh không theo tôi, tôi cũng mặc, tôi cũng chẳng cần gì các anh!

Mọi người đều nói:

– Ông Thập này! Ông chủ đang tin ông hơn, nếu ông để mặc thì chúng tôi chết mất.

Lý Thập nói:

– Đừng có cái lối thấy tôi giơ mặt ra, được tiền được bạc rồi lại bảo tôi ăn phần hơn. Cái trò rối từ trong nhà rối ra khó coi lắm đấy.

Mọi người đều nói:

– Ông cứ yên tâm, làm gì có việc ấy. Dầu cho chẳng được bao lăm, còn hơn là cứ phải moi tiền lưng ra.

Đang nói thì thấy người thư biện ở phòng lương thực chạy đến tìm ông Hai Chu. Lý Thập ngồi trên ghế, vắt chân chữ ngũ, ưỡn bụng ra, nói:

– Tìm ông ta làm gì?

Người thư biện buông tay xuống, cười lấy lòng mà nói:

– Ông lớn tới nhậm chức đã hơn một tháng, các quan châu huyện thấy giấy cáo thị của ông lớn nghiêm ngặt, biết rằng khó lòng nói chuyện, cho nên đến bây giờ còn chưa mở kho. Nếu quá hạn vận tải, thì các ông đến đây làm gì?

– Anh đừng có nói bậy! Ông lớn ta là người có căn cơ, đã nói thế nào là làm thế ấy. Hai hôm nay đáng lẽ ra đã gửi công văn đi thúc giục rồi, vì tôi nói hãy hoãn lại ít hôm, cho nên mới tạm dừng lại. Vậy thì anh tìm ông Hai Chu để làm gì?

– Cũng chỉ là dò xem việc gửi công văn thúc giục ra sao thôi, có việc gì khác đâu.

– Lại nói bậy! Vừa rồi tôi nói gửi công văn thúc giục, rồi anh cũng luôn miệng nói nhảm. Đừng có cái thói thầm thầm thụt thụt đến bàn việc gì đó. Tôi sẽ trình với quan đánh anh và đuổi anh đi đấy.

– Nhà tôi ở nha môn đây đã ba đời, cũng có ít nhiều thể diện với người ngoài; trong nhà cũng đủ ăn, có thể giữ gìn khuôn phép hầu hạ quan lớn cho đến khi ngài thăng quan tiến chức chứ không đến nỗi như những kẻ chờ có gạo mà bỏ vào nồi ấy.

Rồi anh ta chào:

– Chào ông Hai, tôi đi đây.

Lý Thập đứng dậy, cười vui vẻ nói:

– Ông này thật không biết đùa! Người ta vừa nói mấy câu đã nóng mặt.

– Không phải tôi nóng mặt, nếu tôi nói gì nữa, lại không liên lụy đến thanh danh của ông Hai à?

Lý Thập lại gần nắm tay người thư biện nói:

– Ông họ gì?

– Không dám, tôi họ Thiềm, tên là Hội, lúc nhỏ cũng có ở kinh mấy năm.

– Ông Thiềm này! Tôi nghe tiếng ông đã lâu, anh em chúng tôi đều như nhau cả. Có việc gì, chiều tới, chúng ta nói chuyện.

– Ai chẳng biết ông Lý là người biết việc, ông vừa dọa tôi một tiếng mà tôi đã khiếp run lên đấy.

Nói xong, hai người cùng cười rồi chia tay nhau.

Đêm ấy Lý Thập cùng người thư biện bàn bạc lầm rầm đến nửa đêm. Hôm thứ hai, Lý Thập tìm lời để dò Giả Chính, bị ông ta mắng cho một trận nên thân. Cách hôm sau Giả Chính có việc đi chào khách dặn dò người nhà chờ sẵn. Mọi người vâng lời. Chờ một lúc lâu, đồng hồ đã đánh ba tiếng, trên công đường không thấy trống đánh, gọi mãi mới có người tới. Giả Chính từ trong bước ra, chỉ có một người nha dịch đi dẹp đường. Giả Chính cũng không hỏi, từ dưới thềm, bước lên kiệu ngồi, chờ bọn phu kiệu một hồi lâu mới đủ người khênh kiệu ra trước cửa nha môn, pháo chỉ nổ một tiếng. Tất cả bọn nhạc công chỉ có một người đánh trống và một người thổi kèn.

Giả Chính nổi giận, nói:

– Mọi hôm còn khá, sao hôm nay không ai đến như thế?

Ngước mắt nhìn bọn coi việc thì kẻ trước người sau, rời rạc không ra hàng ngũ gì cả. Giả Chính đành phải miễn cưỡng đi chào khách, rồi về, truyền gọi bọn làm lo buổi hầu đến định đánh. Người nói vì không có mũ; người nói vì áo lính đem cầm mất; lại có người nói, ba hôm nay không có cơm ăn nên khênh không được. Giả Chính tức giận đánh mấy người, rồi cũng cho qua. Cách mấy hôm, người đầu bếp lên lấy tiền, Giả Chính đem số bạc ở nhà đến, giao cho anh ta. Sau đó cảm thấy mọi việc không vừa ý, so với lúc ở kinh thì khó khăn hơn nhiều, ông ta không biết làm thế nào, liền gọi Lý Thập đến hỏi:

– Bọn người theo ta đến đây, sao đều thay đổi tính cách như thế? Anh phải trông nom chứ. Hiện nay số bạc đưa đến, đã tiêu hết rồi. Bạc lương trong kho thì đang còn chậm, phải sai người về kinh lấy.

Lý Thập thưa:

– Hôm nào tôi chẳng nhắc nhở họ! Nhưng không biết tại sao bọn họ lại thờ ơ, làm tôi cũng không có cách nào, ông lớn bảo về nhà lấy bạc thì lấy bao nhiêu? Bây giờ nghe nói ở nhà quan tiết độ mấy hôm nay làm lễ sinh nhật, các quan phủ, quan đạo đều đưa lễ mừng hàng ngàn vạn lạng bạc. Đây ta định mừng bao nhiêu?

– Sao không nói sớm?

– Ông lớn là người rất sáng suốt. Chúng ta mới bắt đầu đến đây lại không năng đi lại với các quan khác, ai chịu tin cho mình biết? Họ chỉ trông cho ông lớn đừng đi mừng quan tiết độ, để mong giành chức quan của ông lớn.

– Nói nhảm! Chức quan của ta là do hoàng thượng trao cho, không lẽ vì việc ta không đi mừng sinh nhật quan tiết độ mà họ có thể cách chức ta à?

– Ông lớn nói cũng đúng. Nhưng kinh đô cách đây xa lắm, trăm việc đều do quan tiết độ tâu lên, ông ta nói tốt thì được tốt ông ta nói xấu thì phải chịu xấu. Đến khi rõ việc ra thì đã chậm rồi. Ngay cả cụ và bà lớn ai chẳng muốn cho ông lớn làm quan tỉnh ngoài vẻ vang hiển hách?

Giả Chính nghe mấy câu ấy, trong bụng cũng đã hiểu, liền nói:

– Ta định hỏi anh sao anh không nói trước?

– Tôi vốn không dám nói, nay ông lớn đã hỏi đến, không nói thì ra tôi không có lương tâm mà nói ra thì sợ ông lớn lại nổi giận.

– Cốt sao anh nói cho có lý.

– Bọn thơ lại và nha dịch, đều mất tiền để mua việc làm ở nha môn này, ai lại không nghĩ đến việc phát tài, ai lại không phải nuôi sống gia đình kia chứ? Từ khi ông lớn nhậm chức tới nay, chưa hề thấy làm việc gì cho nước nhà, mà đã nghe người ta bàn tán đầy đường.

– Dân gian nói những gì?

– Dân gian nói: “Đại phàm các quan mới nhậm chức, cáo thị càng nghiêm ngặt thì càng nghĩ đến cách xoay tiền. Vì các quan châu huyện sợ hãi sẽ phải đưa tiền bạc nhiều.” Lúc thu lương thực, bọn nha dịch cứ nói, theo lệnh cấm của quan đạo mới, không dám lấy tiền, nhưng họ lại dây dưa làm khó dễ. Nhân dân ở hương thôn chỉ muốn mất một ít tiền để mau xong việc. Vì thế họ không khen ông lớn là tốt mà lại cho là không am hiểu dân tình. Như quan lớn nọ người họ ta 13 là người ông lớn rất thân, chẳng mấy năm đã leo lên chức cao nhất. Đó cũng chỉ vì ông ta thông hiểu cách làm việc, biết làm cho trên hòa dưới thuận đó thôi.

Giả Chính nghe đến đấy, quát:

– Nói nhảm! Ta mà không thông hiểu cách làm việc à? Nếu nói trên hòa dưới thuận thì bảo ta cũng như họ, cũng phường mèo chuột chung giường hay sao?

– Tôi vì hết lòng trung thực không chút giấu giếm mới dám nói ra. Nếu ông lớn cứ thế mà làm, đến khi công chẳng thành, danh chẳng đạt, lại bảo là tôi không có lương tâm. Thực ra tôi có dám giấu ông lớn gì đâu?

– Theo anh nên thế nào?

– Cũng chẳng có gì khác, ông lớn nên nhân khi còn khỏe mạnh, trong nhà có người giúp đỡ, cụ bà còn sáng suốt, mà chăm lo lấy việc mình là hơn. Nếu không thì không đầy một năm nữa, tiền nhà cũng hết, mà từ trên đến dưới ai cũng oán giận, sẽ cho rằng ông lớn làm quan ngoài, tất nhiên là kiếm được tiền mà thu giấu đi để tiêu riêng. Nhỡ ra gặp một vài việc khó khăn thì ai còn chịu giúp ông lớn nữa. Lúc bấy giờ không những không làm được việc gì, có ăn năn cũng không kịp.

– Cứ như anh thì ta phải làm ông quan tham nhũng à? Việc mất mạng không quan hệ bằng bôi nhọ công nghiệp của ông cha mới được hay sao?

– Ông lớn là người rất sáng suốt, lại không thấy mấy vị quan phạm tội năm xưa hay sao? Mấy vị đó đều thân với ông lớn, ông lớn thường nói họ làm quan thanh liêm giờ đây thanh danh của họ ra sao rồi? Lại có mấy vị thân thích, xưa nay ông lớn cứ nói họ là không tốt. Thế mà tới nay người thì đổi đến nơi tốt người thì thăng chức. Cho nên cốt làm sao cho khéo là được. Ông lớn nên biết: Cũng phải lo cho dân mà cũng phải lo cho chức quan của mình. Nếu như ý ông lớn, không cho phép các quan châu huyện được một đồng tiền, thì những công việc bên ngoài ai lo cho? Chỉ cốt sao bề ngoài ông lớn vẫn giữ được tiếng thanh liêm, còn những việc quanh co ở bên trong cứ mặc chúng tôi lo liệu không can ngại gì đến ông lớn cả. Chúng tôi đã theo hầu chủ, thì thế nào cũng phải đem hết lương tâm ra mà làm việc.

Giả Chính bị Lý Thập nói cho một hồi, trong bụng bối rối, liền nói:

– Ta cần phải giữ gìn tính mệnh. Các anh mà gây chuyện ra thì ta không biết đến đâu.

Nói xong, ông ta vào phòng trong.

Từ đó, Lý Thập làm mưa làm gió, cấu kết trong ngoài kéo bè kéo cánh lừa phỉnh Giả Chính làm việc, quả nhiên việc gì cũng chu đáo, việc gì cũng vừa lòng. Vì thế Giả Chính chẳng những không nghi, mà lại tin cậy. Lúc đó cũng có mấy nơi phát giác, nhưng quan trên thấy Giả Chính chất phác trung hậu, nên cũng không tra xét. Riêng có bọn môn khách giúp việc giấy tờ là nhìn xa thấy rộng, gặp dịp cũng có đem lời khuyên can. Nhưng Giả Chính không tin, nên cũng có người từ việc mà đi; cũng có người thân thiết với Giả Chính thì ở trong giúp đỡ. Nhờ vậy việc chuyên chở xong xuôi, không bị thiệt hại và quá thời hạn.

Một hôm, Giả Chính rảnh việc, ngồi trong phòng xem sách. Bỗng phòng công văn trình lên một bức thư, ngoài bì đề là: “Công văn của quan Tổng chế trấn thủ các xứ ở Hải Môn đệ gởi nha môn quan lương đạo tỉnh Giang Tây”. Giả Chính mở ra xem thấy viết:

“Kim Lăng bạn cũ, lân lý tình sâu. Năm trước khi về làm việc ở kinh, mừng được gần gũi bên cạnh, lòng yêu rủ tới, hứa kết Châu Trần, đến nay cảm kích không quên. Chỉ vì được điều ra làm quan miền ven biển, chưa dám vội vã nài xin, trong dạ băn khoăn, than thở vì nỗi không có duyên gặp gỡ. Nay nghe ngựa xe xa tới, thực là thỏa dạ bình sinh. Đương định sang mừng, thì thơ tiên đến trước. Chốn biên đình thêm phần rạng rỡ, kẻ vũ phu này xiết đỗi đội ơn. Tuy cách bể khơi, cũng nhờ phúc âm. Mong không bỏ nơi thấp hèn, dây leo nương tựa. Cháu bé đã dược đoái thương, thục nữ vẫn nghe nết tốt. Nếu dược nhận lời, xin nhờ người mối. Đường sá dầu xa, nước sông cũng tiện; dám đâu trăm cỗ rước dâu, xin dọn thuyền tiên để đợi. Thư tiên một bức, kính chúc thăng quan và cầu xin y ước. Đang khi cầm bút, khôn xiết mong chờ.

Em là Chu Quỳnh cúi đầu.”

Giả Chính xem xong, nghĩ bụng: “Nhân duyên con cái, quả nhiên là có tiền định. Năm trước vì thấy ông ta làm quan ở kinh, lại là người làng, xưa nay thân thiết với nhau, lại thấy thằng con xinh xắn nên ở trong tiệc rượu đã nói đến chuyện này. Nhưng vì chưa nhất định, nên cũng không nói với người nhà. Sau đó ông ta được điều đi làm quan ở miền ven biển, hai bên cũng không nói đến nữa. Không ngờ nay mình thăng nhậm đến đây, ông ta lại viết thư đến hỏi. Ta xem đôi bên cũng môn đăng hộ đối mà con ông ta cùng với Thám Xuân thì cũng vừa đôi. Nhưng vì ta chưa đưa gia quyến đến đây, đành phải viết thư bàn với người nhà đã.”

Giả Chính đang lưỡng lự thì thấy ngoài cửa lại đưa vào một công văn, mời lên tỉnh họp bàn công việc. Giả Chính đành phải sắp xếp lên tỉnh, chờ quan tiết độ sai phái. Một hôm ở tỉnh rảnh việc ngồi trong công quán, thấy trên bàn chồng nhiều giấy báo tin tức việc quan, Giả Chính lấy xem hết. Xem đến một tờ thuộc bộ hình, thấy viết như thế này: “Xin báo về việc tên hành thương là Tiết bàn quê ở Kim Lăng… ” Giả Chính giật nẩy mình: “Nguy to? Đã đệ án lên rồi!” Liền chú ý xem tiếp thì ra việc Tiết Bàn đánh chết Trương Tam, đút lót cho bọn nhân chứng, bịa đặt ngộ sát. Giả Chính vỗ bàn nói:

– Thôi, thế là hết!

Lại xem xuống phần dưới, thấy viết:

– Theo tờ tư của viên kinh doanh tiết độ sứ: “Nguyên Tiết Bàn vốn người Kim Lăng, đi qua huyện Thái Bình, nghỉ ở hàng nhà họ Lý mà không quen biết gì với người bán rượu ở hàng ấy là Trương Tam cả. Ngày tháng năm nọ, Tiết Bàn bảo chủ hàng dọn rượu để cùng uống với Ngô Lương, người ở huyện Thái Bình. Tiết Bà bảo Trương Tam lấy rượu, nhưng chê không ngon, bắt đổi thứ tốt, Trương Tam nói: “Rượu đã mua rồi… không thể đổi được” Tiết Bàn thấy anh ta ương ngạnh, cầm bát rượu hắt vào giữa mặt, không ngờ hắt mạnh quá, lại vừa gặp khi Trương Tam đang cuối xuống nhặt đũa, thành ra nhỡ tay, đập đúng thóp Trương Tam. Y đầu chảy máu, một chốc thì chết. Chủ hàng là họ Lý tới chữa không kịp, liền tin cho mẹ Trương Tam biết. Mẹ anh ta đến xem, thấy con đã chết, liền trình lý dịch địa phương, lên huyện trình báo. Viên tri huyện trước tới khám nghiệm. Người khám thương tích nói bị thương một chỗ, xương vỡ một tấc ba phân, và một chỗ bện sườn, rồi tư lên phủ xét lại. Quan phủ cho rằng Tiết Bàn thực vì hắt rượu nhỡ tay, ném bát đánh lầm, làm chết Trương Tam, chiếu theo tội ngộ sát, cho phép nộp tiền chuộc tội, theo luật đấu sát. Chúng tôi xét kỹ những lời khai của các người làm chứng và bà con người chết, trước sau không ăn khớp nhau. Lại tra luật đấu sát có ghi chú: “Tranh nhau gọi là đấu, đánh nhau gọi là ẩu”. Phải thật không có tranh nhau, đánh nhau gì mà bất thình linh bị chết thì mới khép vào án ngộ sát được, Vậy nên giao cho quan tiết độ ở đấy xét rõ sự tình định án cho đúng mà trình lên. Nay cứ tờ sớ của quan tiết độ, thì Tiết Bàn vì Trương Tam không chịu đổi rượu, liền nắm lấy tay Trương Tam và đánh một đấm vào bên sườn. Trương Tam mắng lại, bị Tiết Bàn ném bát rượu, làm bị thương nặng ở thóp, xương nát óc chết tươi tức khắc. Như thế thì cái chết của Trương Tam là do Tiết Bàn dùng bát rượu đánh bị thương nặng mà gây nên. Cần phải bắt Tiết Bàn đền mạng, chiếu luật đấu sát, khép Tiết Bàn vào tội giảo giám hậu Ngô lương khép tội trượng đồ. Các quan phủ huyện xét hỏi không thật, xin nên… ” Dưới bài báo này chua: “Bài này chưa hết”.

Giả Chính vì Tiết phu nhân nhờ mình nên đã xin với tên tri huyện. Nếu họ xin chiếu chỉ nhà vua xét hỏi việc này sẽ liên lụy đến mình, ông ta lo lắng, liền tìm tờ báo tiếp sau đó mở xem, thì lại không đúng, đành cứ lục đi lục lại, xem hết chồng báo rút cục chẳng có tờ nào tiếp theo tờ báo đã đọc, trong bụng bối rối ngờ vực càng thêm lo sợ, ông ta đang bực mình thì thấy Lý Thập đi vào nói:

– Mời ông lớn vào hầu, trong nha môn đã đánh hai hồi trống.

Giả Chính vẫn cứ ngơ ngác như không nghe gì cả. Lý Thập lại mời lần nữa. Giả Chính nói:

– Việc này biết xử trí ra sao?

Lý Thập nói:

– Ông lớn có điều gì lo nghĩ thế?

Giả Chính đem việc xem báo nói cho anh ta nghe.

Lý Thập nói:

– Ông lớn cứ yên tâm, nếu trong bộ định thế là còn nhẹ cho cậu Tiết đấy! Khi ở kinh, tôi nghe nói cậu Tiết ở trong hàng rượu gọi một số đàn bà con gái đến, uống rượu say rồi gây chuyện, đánh anh hầu rượu chết tươi. Tôi lại nghe nói chẳng những đã nhờ quan huyện, mà còn nhờ cậu Hai Liễn, tung ra một số tiền, thông đồng với các nha môn. Không biết tại sao mà ở bộ không làm cho xong. Nay việc dù vỡ lở, quan bênh vực cho nhau, nhiều lắm chỉ phạm cái tội xét không đúng, bị cách chức là cùng, đời nào họ chịu nhận câu chuyện ăn tiền ấy? Ông lớn không cần lo lắng làm gì, để chúng tôi dò xem, đừng làm nhỡ việc quan trên.

Giả Chính nói:

– Các anh làm gì mà biết? Tiếc thay cho quan tri huyện chỉ vì một chút tình mà làm mất cả chức quan còn không biết có mang tội hay không?

– Bây giờ lo nghĩ cũng vô ích, ngoài kia người ta chờ chực đã lâu rồi, mời ông lớn đi ngay thôi.

_________________

Chương 100: Làm hỏng mất dịp tốt, Hướng Lăng gây mối oán thù – Thương em lấy chồng xa, Bảo Ngọc cảm tình ly biệt

Làm hỏng mất dịp tốt, Hướng Lăng gây mối oán thù

Thương em lấy chồng xa, Bảo Ngọc cảm tình ly biệt

Giả chính tới hầu quan tiết độ, đến nửa ngày vẫn không thấy ra, bên ngoài bàn tán xôn xao. Lý Thập cũng không dò ra việc gì, liền nghĩ đến câu chuyện trên tờ quan báo cũng đâm hoảng. Chờ mãi mới thấy Giả Chính đi ra, Lý Thập chạy lại đón. Không kịp chờ về nhà, đến chỗ vắng người, Lý Thập hỏi ngay:

– Ông lớn vào lâu thế, có việc gì quan trọng không?

Giả Chính cười nói:

– Không có việc gì, chỉ vì quan Tổng chế Trấn Hải là bà con với quan tiết độ, nên viết thư nhờ người nâng đỡ cho ta, vì thế nói chuyện lâu và người còn bảo: “Chúng ta bây giờ cũng là bà con rồi”.

Lý Thập nghe nói, trong lòng mừng rỡ, càng bạo gan, liền hết sức xúi giục Giả Chính nên bằng lòng việc hôn nhân ấy.

Giả Chính nghĩ bụng: “Không biết Tiết Bàn can ngại như thế nào, ở tỉnh ngoài tin tức không thông, khó bề lo liệu. Khi về đến nha môn của mình, Giả Chính sai người nhà về kinh thăm dò, nhân tiện trình Giả mẫu biết, nếu như Giả mẫu bằng lòng, thì đón cô Ba về đây. Người nhà vâng lời, về kinh trình lại với Vương phu nhân, rồi vào bộ lại hỏi dò, thì nghe nói phần Giả Chính chẳng bị liên quan gì, chỉ có quan tri huyện Thái Bình bị cách chức. Người ấy lập tức biên tờ thiếp cho Giả Chính yên lòng, còn mình ở lại chờ tin.

Tiết phu nhân vì vụ án mạng của Tiết Bàn, mất không biết bao nhiêu tiền bạc cho các quan, mới được định tội ngộ sát tư lên. Bà ta định gán hiệu cầm đồ cho người ta, để dành bạc chuộc tội. Không ngờ bộ hình bác lời xét ấy đi. Bà ta lại phải nhờ người vung ra một số tiền nữa mà vẫn không ăn thua gì, vẫn bị khép vào tội chết, giam lại để chờ mùa thu sẽ xét.

Tiết phu nhân vừa giận vừa thương, ngày đêm khóc lóc. Bảo Thoa thường thường qua lại khuyên giải:

– Anh Cả thật là vô phúc! Thừa kế cơ nghiệp của ông cha to lớn như thế, đáng lẽ phải yên phận làm ăn mới phải. Trước kia ở phương Nam đã làm bậy bạ, câu chuyện chị Hương Lăng đã là quá lắm. May nhờ có thế lực bà con, tốn mất một số tiền bạc, thế đã là vô cớ đánh chết người. Đáng lẽ anh ấy phải sửa lỗi, ăn ở đứng đắn, và lo phụng dưỡng mẹ già. Ai ngờ tới kinh lại vẫn như thế. Vì anh mà mẹ phải bao phen tức giận, khóc hết bao nhiêu nước mắt. Cưới vợ cho anh chỉ cốt sao cho cả nhà được yên ổn qua ngày. Không ngờ số mệnh như thế, lấy phải người vợ lại là người lắm chuyện, cho nên anh mới bỏ nhà ra đi. Thật đúng như tục ngữ nói: “Oan oan tương báo” chẳng được bao lâu đã lại xảy ra việc này! Mẹ và anh Hai không phải là không hết lòng. Mất tiền không nói lại còn phải lạy lục xin xỏ người ta. Khốn nỗi số mệnh của anh như thế, cũng chỉ là mình làm mình chịu. Nuôi con cốt để nhờ vả khi tuổi già sức yếu, dầu là con nhà nghèo hèn cũng biết kiếm bát cơm về nuôi mẹ, có ai lại phá sạch tư gia, bắt mẹ già phải khóc lóc chết đi sống lại như thế? Con nói không phải, chứ anh làm như thế, thật không phải là con, mà chẳng khác gì kẻ oan gia thù địch. Mẹ còn không hiểu điều đó, chứ khóc đêm khóc ngày. Đã thế lại còn bị chị ấy trêu tức nữa. Con lại không ở luôn nên này để khuyên giải. Thấy mẹ như thế thì con yên lòng sao được? Nhà con tuy nói là ngơ ngẩn, cũng không chịu chơ về. Hôm trước, cha con sai người về nói, xem tờ quan báo sợ quá, nên cho người về lo liệu. Con nghĩ anh con gây ra chuyện, khiến bao người để tâm lo lắng. May con ở gần đây, vẫn còn như đang ở với mẹ, chứ nếu phải đi xa quê cách biệt, nghe được tin này, có lẽ con nhớ mẹ mà chết mất! Con xin mẹ hãy di dưỡng tinh thần, nhân khi anh con còn sống đây, hỏi lại sổ sách các nơi, có ai nợ mình, hoặc mình nợ ai, cũng nên mời người đồng sự cũ đến tính toán xem còn có đồng nào nữa không.

Tiết phu nhân khóc lóc nói:

– Mấy hôm nay vì việc anh con, nên mỗi khi con về không ngoài việc con khuyên mẹ hoặc mẹ nói việc quan cho con nghe. Con không biết, chứ cái tên “mua hàng cho nhà vua” ở kinh đã bị xóa rồi; hai hiệu cầm đồ đã bán cho người ta và tiêu hết tiền rồi. Còn một hiệu nữa thì người coi việc trốn mất, hao hụt đến mấy ngàn bạc và đang xảy ra kiện cáo. Anh Hai con ngày nào cũng ở ngoài lục lọi sổ sách, số tiền ở kinh đã mất đến mấy vạn lạng bạc, đành phải rút số bạc chung vốn ở Nam lên và bán nhà ở đi mới đủ. Hai hôm trước đây còn nghe tin đồn nhảm, nói hiệu cầm đồ chung vốn ở miền Nam cũng vì lỗ vốn phải đương cửa. Nếu quả thế, mẹ còn sống làm sao được nữa!

Nói đến đó, bà ta lại khóc ầm lên. Bảo Thoa cũng khóc, và khuyên:

– Việc tiền bạc mẹ lo lắng cũng không ăn thua, đã có anh Hai lo liệu. Chỉ đáng giận bọn làm công thấy tình cảnh nhà mình suy sụp họ bỏ cả đi, mỗi người mỗi nẻo. Con nghe nói họ về hùa với người khác đến dọa dẫm chúng ta. Thế mới biết anh lớn chừng ấy tuổi đầu mà giao du toàn những bọn tham ăn tục uống, khi nguy cấp hoạn nạn thì chẳng có một người nào nhìn. Nếu mẹ thương con, xin mẹ nghe lời con, mẹ đã có tuổi cần phải giữ gìn đôi chút. Đời mẹ chắc không đến nỗi phải chịu đói, chịu rét đâu. Có ít quần áo đồ đạc trong nhà này, mẹ cứ để mặc chị ấy. Kể ra cũng chẳng còn cách nào hơn. Bọn bà già và người nhà xem chừng họ cũng không muốn ở đây nữa, ai đáng về thì cho họ về. Chỉ đáng thương chị Hương Lăng khổ một đời người, đành cứ để theo mẹ. Nếu thiếu thốn gì, bên con có, cũng có thể đưa sang ít nhiều, chắc nhà con cũng không nói gì đâu. Chị Tập Nhân cũng là người thực thà đứng đắn. Mỗi lần chị ta nghe việc của anh con, hễ nhắc đến mẹ là chị ấy khóc. Nhà con cứ tưởng là vô sự, nên không lo lắm; nếu mà biết rõ thì cũng khiếp đến chết đi được.

Tiết phu nhân không chờ con gái nói xong, vội bảo:

– Con ơi, con đừng nói với chồng con! Vì cô Lâm, chồng con định liều cả cuộc đời, mãi bây giờ mới đỡ ít nhiều. Nếu lại để nó sợ lỡ xảy ra việc gì, chẳng những con đeo phiền não, mà mẹ cũng hết nơi nương tựa.

– Con cũng nghĩ thế, nên không hề nói với nhà con.

Đang nói chuyện thì thấy Kim Quế chạy đến gian phòng bên ngoài, vừa khóc vừa kêu:

– Tao không cần sống nữa đâu! Chồng thì nắm chắc phần chết rồi! Nay chúng ta phá một trận, rồi kéo cả lên pháp trường liều mạng một phen!

Vừa nói, chị ta vừa đập đầu vào bức ván ngăn nhà, đầu tóc rũ rượi. Tiết phu nhân tức quá, trợn ngược mắt lên, không nói gì. May có Bả Thoa một điều gọi chị, hai điều gọi chị, đem lại hơn lẽ thiệt ra khuyên. Kim Quế nói:

– Cô ơi, giờ đây cô không phải như trước nữa. Hai vợ chồng cô sống vui vẻ, còn tôi là con người cô đơn trơ trọi, thì giữ thể diện làm gì?

Chị ta nói xong, định chạy ra đường về nhà mẹ. Nhờ có đông người giữ lại, khuyên lơn một hồi lâu chị ta mới im. Bảo Cầm sợ quá, từ đó không dám gặp chị ta nữa. Những khi Tiết Khoa ở nhà thì chị ta lại bôi son đánh phấn, rẽ tóc rẽ mày, ăn mặc rất là lả lơi kỳ quái, rồi lượn qua ngoài phòng Tiết Khoa thường cố ý ho một tiếng. Có khi biết rõ Tiết Khoa ở trong phòng, chị ta cũng cứ vờ hỏi ai ở trong ấy? Lúc gặp Tiết Khoa thì chị ta thướt tha nũng nịu, hỏi han vờ vẩn, vui giận thất thường.

Bọn a hoàn trông thấy, vội vàng tránh ra. Chính chị ta cũng không biết gì cả, chỉ một lòng một dạ định làm cho Tiết Khoa mê mẩn để giở mưu kế của Bảo Thiềm. Tiết Khoa chỉ có cách tránh, lỡ gặp chị ta, sợ chị ta bướng bỉnh, liều lĩnh nên cũng phải chiều chuộng ít nhiều. Kim Quế mê mệt sắc đẹp của Tiết Khoa, càng nhìn càng yêu, càng nghĩ càng mê, còn phân biệt sao được việc Tiết Khoa thật hay giả. Có điều là bất cứ cái gì Tiết Khoa đều nhờ Hương Lăng cất; áo quần giặt giũ, may vá, cũng nhờ Hương Lăng; khi hai người ngẫu nhiên nói chuyện, thấy Kim Quế đến, lại vội vàng lảng ra. Thấy vậy Kim Quế càng nổi cơn ghen, muốn lên tiếng quở trách Tiết Khoa, nhưng lại không nỡ, đành phải đem lòng tức giận ngấm ngầm, trút hết lên người Hương Lăng. Nhưng sợ đụng chạm đến Hương Lăng, lại mang lỗi với Tiết Khoa, thành ra Kim Quế cứ phái cắn răng mà nhịn.

Một hôm, Bảo Thiềm chạy đến, cười hì hì nói với Kim Quế:

– Mợ có thấy cậu Hai không?

– Không.

– Tôi đã bảo cái lối đứng đắn giả vờ của cậu Hai nhà ta là không tin được. Trước đây chúng ta đưa rượu đến cậu ấy bảo không hay uống, nhưng vừa rồi tôi thấy cậu ta sang bên nhà bà, mặt đỏ gay, người bốc lên mùi rượu. Mợ không tin, chốc nữa đứng trong cửa nhà ta đây mà chờ. Cậu ấy ở bên kia qua đây, mợ thử gọi lại hỏi. Xem cậu ấy nói thế nào?

Kim Quế nghe nói, trong bụng tức giận, liền nói:

– Cậu ta làm gì mà đã ra ngay. Họ đã không có tình nghĩa, mình còn hỏi làm gì?

Bảo Thiềm nói:

– Nếu khốn tử mình sẽ liệu (á(hậu ấy tử tế thì mình cũng tử tế,

Kim Quế nghe nói có lý, liền bảo Bảo Thiềm:

– Mày xem cậu ấy đã ra chưa?

Bảo Thiềm vâng lời đi ra. Kim Quế giở hộp gương ra soi, xoa một ít phấn lên môi, rồi cầm lấy một cái khăn lụa, vừa định đi ra lại quên mất cái gì trong bụng chẳng biết làm thế nào. Bỗng nghe Bảo Thiềm ở ngoài nói:

– Cậu Hai hôm nay cao hứng thật! Uống rượu ở đâu về đấy?

Kim Quế nghe nói, biết là Bảo Thiềm cốt gọi mình ra, liền vội vàng vén màn đi ra, thì thấy Tiết Khoa đang nói với Bảo Thiềm:

– Hôm nay là sinh nhật của ông Trương. Tôi bị họ ép không chối được, phải uống nửa chén, đến bây giờ má đang nóng bừng lên đấy.

Nói chưa xong, Kim Quế đã đỡ lời:

– Cố nhiên là uống rượu nhà người ta thú vị hơn là uống rượu ở nhà mình.

Tiết Khoa bị chị ta nói chọc, má càng đỏ lên, vội vàng chạy lại cười lấy lòng mà nói:

– Chị nói gì thế?

Bảo Thiềm thấy hai người nói chuyện với nhau, liền lẩn tránh vào trong nhà. Ban đầu Kim Quế định vờ làm bộ trách Tiết Khoa mấy câu, khốn nỗi khi thấy gò má anh ta đỏ lên, hai mát lờ đờ lại có vẻ thùy mị rất đáng yêu thì tính khí kiêu căng của mình đã hay đi đường nào hết. Chị ta liền cười nói:

– Nói như thế thì phải có người bắt ép chú mới chịu uống à?

Tiết Khoa nói:

– Tôi làm gì mà uống được?

– Không uống cũng tốt, còn hơn anh chú cũng vì uống th ra chuyện không hay, rồi sau này lấy mợ ấy về, lại như tôi đây phải chịu cô đơn góa bụa trong khi chồng vẫn sống.

Nói đến đó, đôi con mắt của chị ta lim dim và hai gò má cũng ửng đỏ lên. Tiết Khoa nghe câu nói càng có vẻ bậy bạ, định bỏ chuồn. Kim Quế biết ý, nhưng đời nào lại chịu, liền chạy nắm lấy tay. Tiết Khoa hoảng lên, nói:

– Chị ơi! Phải đứng đắn chứ!

Nói đến đó, cả người run lẩy bẩy.

Kim Quế cứ trơ trẽn nói:

– Chú cứ vào đây, tôi nói với chú một câu chuyện rất quan hệ.

Đang khi giằng nhau, bỗng sau lưng có người gọi:

– Mợ ơi! Hương Lăng đến đấy.

Kim Quế giật nẩy mình, ngoảnh cổ nhìn thì đó là Bảo Thiềm. Bảo Thiềm đang vạch rèm ra xem hai người. Khi ngước đầu lên thấy Hương Lăng từ bên kia lại, nên vội vàng báo cho Kim Quế biết. Kim Quế sợ quá, buông tay ra. Tiết Khoa nhân đấy chạy thoát. Hương Lăng đang đi không để ý, bỗng nghe Bảo Thiềm kêu lên, mới thấy Kim Quế đang nắm lấy Tiết Khoa, cố sống cố chết kéo vào trong nhà. Hương Lăng sợ quá, tim đập thình thình, vội vàng quay trở về.

Kim Quế vừa sợ vừa tức, ngơ ngác nhìn Tiết Khoa chạy đi, đứng sững ra một lúc lâu, “hừ” lên một tiếng, rồi tiu nghỉu trở về phòng. Từ đó chị ta căm giận Hương Lăng đến xương tủy.

Hương Lăng định đến bên Bảo Cầm, nhưng vừa ra khỏi cửa nách nhìn thấy thế, sợ quá bỏ chạy về.

Hôm ấy, Bảo Thoa ở bên nhà Giả mẫu, nghe Vương phu nhân nói với Giả mẫu về việc định gả Thám Xuân. Giả mẫu nói:

– Đã là người làng thì hay lắm, nhưng nghe nói thằng bé ấy đã đến nhà ta, tại sao anh ấy không nhắc đến?

– Ngay chúng con cũng không biết.

– Tốt thì tốt đấy, nhưng đường xa quá. Hiện nay anh ấy làm quan ở đấy, nhưng sau này anh ấy đổi đi nơi khác thì con nhà mình chẳng lẻ loi sao?

– Hai nhà đều làm quan, thì cũng không thể nói trước được! Chưa chừng bên kia đổi về đây cũng nên. Nếu không thì “lá rụng rồi cũng xuống gốc cây”, biết đâu sau này chả có ngày lại gặp được nhau. Vả lại, nhà con làm quan ở đấy, quan trên đã nói, không lẽ không gả? Chắc là ý nhà con đã quyết, nhưng không dám làm chủ, nên mới sai người về trình với cụ.

– Các người bằng lòng càng hay, nhưng con Ba đi lần này, không biết vài ba năm có về nhà được hay không? Cứ thế chắc gì ta được gặp nó một lần nữa.

Nói đến đó, Giả mẫu chảy nước mắt.

– Con gái lớn, thế nào cũng phải lấy không. Dù gả cho người cùng quê cùng quán, nếu không làm quan thì thôi, chứ đã làm quan, thì ai dám chắc ở gần một chỗ? Cốt sao con nó có phúc là tốt. Ví như con Nghênh Xuân thì gả gần đấy, nhưng vợ chồng lại hay đánh nhau, thậm chí cơm nó cũng không cho ăn. Nhà ta đưa cái gì đưn, con Nghênh Xuân cũng không nhận được. Gần đây nghe nói lại càng tệ lắm, mà họ cũng chẳng cho con kia về. Hễ hai vợ chồng cãi nhau là thằng kia lại nói nhà mình tiêu mất tiền của nó. Thật đáng thương con bé không biết đến bao giờ mới mở mày mở mặt ra được! Hôm trước đấy, nhớ đến nó, con cho người sang thăm, con Nghênh Xuân trốn ở trong phòng bên cạnh, không chịu ra. Bọn bà già đòi vào cho được, thì thấy trời lạnh như thế mà nó chỉ mặc một cái áo cũ. Nó nước mắt lưng tròng, nói với bọn bà già: “Các bà về đừng nói chuyện khổ của tôi. Đây cũng là do số phận của tôi mà ra. Các bà về dặn bên nhà đừng đưa áo xống, đồ vật gì đến, chẳng những tôi không được nhận mà lại thêm trận đòn. Nó cho là tôi về mách!” Cụ thử nghĩ xem chính là gần mà mắt trông thấy đấy, nếu không tử tế càng thêm khó chịu. Thế mà bà Cả cũng không để ý, ông Cả cũng cứ điềm nhiên. Hiện giờ, con Nghênh Xuân so với bọn a hoàn hạng ba ở nhà chúng ta đây cũng còn kém xa. Con nghĩ con Thám Xuân tuy không phải con đẻ ra, nhưng nhà con đã biết anh rể rồi, chắc là có tốt mới gả. Vậy xin cụ cho chọn ngày tốt, sai mấy người đưa cháu đến nơi làm việc của nhà con, nên như thế nào, chắc nhà con cũng sẽ lo liệu chu đáo.

Giả mẫu nói:

– Đã có anh ấy làm chủ thì chị cứ thu xếp cho ổn thỏa, chọn ngày tốt đưa nó đi, thế là xong việc.

Vương phu nhân vâng lời. Bảo Thoa nghe nói, cũng không dám lên tiếng, nhưng trong bụng xót thầm: “Trong các cô ở nhà mình cô Ba là trội hơn cả, nay lại gả đi xa, thì người ở đây thật là càng ngày càng ít.”

Thấy Vương phu nhân đứng dậy cáo từ ra về, Bảo Thoa cũng đưa ra, rồi quay ngay về phòng mình, không nói cho Bảo Thoa biết. Thấy Tập Nhân đang làm việc một mình, Bảo Thoa liền đem câu chuyện vừa rồi nói với Tập Nhân, Tập Nhân cũng rất lấy làm áy náy.

Về phần dì Triệu, nghe tin Thám Xuân lấy chồng xa, lại càng vui mừng, nghĩ bụng: “Cái con này ở nhà chẳng coi mình ra gì. Nó có coi mình là mẹ nó đâu. Nó không coi mình bằng con hầu của nó. Nó lại cứ về hùa với trên bênh vực người ngoài. Có nó ở đây, ngay thằng Hoàn cũng không mở mặt ra được. Bây giờ cha nó đem đi, mình càng rảnh rang. Hòng gì sau này nó hiếu thảo với mình nữa. Mong sao nó cũng như con Nghênh Xuân mình mới hả dạ.”

Dì Triệu vừa nghĩ vừa chạy đến bên Thám Xuân mừng cho cô ta, và nói:

– Cô ơi! Cô là người sắp bay cao rồi. Về nhà chú rể tất nhiên là tốt hơn ở đây, chắc cô cũng bằng lòng. Tôi sinh ra cô bấy lâu, chưa hề nhờ được gì, dù cho tôi có bảy phần xấu, cũng còn ba phần tốt, đừng có đi rồi cô bỏ quên ngay tôi.

Thám Xuân nghe nói chẳng có nghĩa lý gì cả, nên chỉ cúi đầu làm việc, không nói nửa lời. Dì Triệu thấy cô ta không thèm để ý liền vùng vằng bỏ đi.

Thám Xuân vừa tức, vừa buồn cười, lại vừa đau xót, nên cũng ngồi chảy nước mắt. Ngồi một lúc rồi cô ta buồn rầu đi sang bên nhà Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc hỏi:

– Em Ba, anh nghe khi em Lâm chết, em ở bên ấy, đâu như lúc em Lâm chết có tiếng âm nhạc xa xa. Có lẽ cô ta là người khác thường cũng chưa biết chừng?

Thám Xuân cười:

– Đó là bụng anh nghĩ thế thôi. Nhưng đêm ấy cũng lạ, tiếng nhạc gì, không giống như tiếng ta thường nghe. Lời anh nói có lẽ đúng.

Bảo Ngọc nghe nói, càng cho là thật. Anh ta lại nghĩ trước đây khi thần hồn của mình đang phiêu dạt, từng nghe một người nói: “Sinh không giống người, chết không giống quỉ”, chắc cô ta là nàng tiên xuống trần cũng nên. Lại nhớ đến năm nọ trong khi hát trò, họ đóng vai Hằng Nga, thướt tha lộng lẫy, yêu kiều biết chừng nào!” Một lúc sau, Thám Xuân ra về. Bảo Ngọc muốn Tử Quyên đến ở, lập tức trình Giả mẫu cho người đi gọi. Khốn nỗi Tử Quyên không bằng lòng, dù cho Giả mẫu và Vương phu nhân sai đến ở. Không có cách gì từ chối, nhưng ở trước mặt Bảo Ngọc, chị ta cứ than vắn thở dài. Khi vắng người, Bảo Ngọc nắm lấy tay chị ta, ôn tồn hỏi nhỏ chuyện Đại Ngọc nhưng không bao giờ Tử Quyên trả lời tử tế. Bảo Thoa thầm khen chị ta có lòng thủy chung, không hề quở giận. Tuyết Nhạn tuy có giúp sức đêm Bảo Ngọc rước dâu nhưng Bảo Thoa thấy tâm địa của con này không được ngay thẳng lắm, nên trình với Giả mẫu và Vương phu nhân đem gả cho một người hầu trai, đi ở nơi khác. Mụ vú họ Vương thì vẫn nuôi để tiện việc sau này đưa linh cữu Đại Ngọc về Nam. Bọn a hoàn nhỏ như Anh Kha thì lại về hầu Giả mẫu như trước. Bảo Ngọc nhân nhớ Đại Ngọc, từ cái nọ ra cái kia lại nghĩ đến những người theo hầu Đại Ngọc cũng đều tan tác các nơi, do thêm buồn bực, không biết làm thế nào; nhưng nghĩ lại Đại Ngọc đến chết vẫn còn tỉnh táo, chắc là thoát khỏi cõi trần trở về cõi tiên, nên lại vui vẻ. Bỗng nghe Tập Nhân và Bảo Thoa đang bàn về chuyện Thám Xuân đi lấy chồng, Bảo Ngọc nghe rồi kêu “ái chà” một tiếng, ngã lăn ra giường mà khóc. Bảo Thoa, Tập Nhân sợ quá, vội vàng chạy lại đỡ dậy, và hỏi:

– Cậu sao thế?

Bảo Ngọc nghẹn ngào không ra tiếng, im lặng giờ lâu mới nói:

– Giờ đây không thể sống được nữa! Chị em mỗi người tan tác mỗi nơi. Em Lâm đã thành tiên, chị lớn đã chết, hàng ngày không được với nhau một chỗ, thế cũng đành. Chị Hai thì gặp phải cái thằng bậy bạ không ra người. Nay em Ba lại đi lấy chồng xa, không sao gặp mặt được nữa? Cô Sử thì không biết sẽ phải đi đâu? Em Tiết thì đã có nhà chồng. Bấy nhiêu chị em, chẳng nhẽ không để một ai ở nhà sao? Còn lại một mình tôi để làm gì?

Tập Nhân vội vàng đem lời khuyên giải.

Bảo Thoa xua tay nói:

– Chị không cần khuyên, để tôi hỏi cậu ấy.

Rồi quay lại hỏi Bảo Ngọc:

– Theo ý cậu đòi đám chị em phải ở nhà làm bạn với cậu cho đến già, đừng ai nghĩ gì về việc lấy chồng phải không? Nếu là người khác còn có thể nói cậu có ý nghĩ gì. Còn các chị em của cậu không cần nói là không gả chồng xa, dẫu có chăng nữa thì cha làm chủ, cậu còn có cách gì? Cậu nghĩ trong thiên hạ này chỉ có một mình cậu yêu chị em hay sao? Nếu ai cũng như cậu cả, ngay tôi đây cũng không làm bạn với cậu được nữa. Người ta đi học là cốt cho sáng lẽ, tại sao cậu càng học lại càng lẩn thẩn thế? như tôi với cô Tập Nhân mỗi người đi mỗi nơi, để cho cậu đem hết chị em đến nhà mà ở với nhau.

Bảo Ngọc nghe nói, hai tay nắm lấy Bảo Thoa, Tập Nhân và nói:

– Tôi cũng biết vậy, Nhưng tại sao mà tan tác sớm như thế? Chờ lúc tôi hóa thành tro rồi hãy tan, cũng chưa muộn mà!

Tập Nhân bưng miệng anh ta lại và nói:

– Lại nói nhảm rồi, mới hai ngày nay, người cậu hơi khá, mợ Hai đã ăn được ít nhiều cơm. Nếu bây giờ cậu lại làm hỏng chuyện thì tôi cũng mặc kệ đấy.

Bảo Ngọc thấy hai người nói đều có lý, nhưng trong lòng chẳng biết nên như thế nào, đành phải nói:

– Tôi cũng hiểu rõ như thế nhưng trong bụng cứ rối cả lên.

Bảo Thoa cũng để mặc, nhưng ngấm ngầm bảo Tập Nhân đem thuốc viên “định tâm” cho anh ta uống, và khuyên giải từ từ.

Tập Nhân muốn nói với Thám Xuân, lúc ra đi bất tất phải từ biệt Bảo Ngọc. Bảo Thoa nói:

– Sợ gì việc đó? Hãy thư thả mấy hôm để cậu ấy tỉnh táo đã rồi để cho anh em họ nói chuyện với nhau. Vả lại cô Ba rất sáng suốt, không phải hạng người giả vờ, làm bộ, thế nào cũng có những lời khuyên răn, sau này cậu ấy sẽ không như thế nữa đâu.

Đang nói thì bên Giả mẫu sai Uyên Ương tới nói:

– Nghe nói bệnh cũ của Bảo Ngọc lại phát. Bảo Tập Nhân khuyên dỗ an tôi, nói với cậu ấy đừng có lo nghĩ vớ vẩn.

Bọn Tập Nhân vâng lời, Uyên Ương ngồi một lúc rồi về. Giả mẫu lại nghĩ Thám Xuân sắp đi xa, đồ tư trang tuy chưa cần sắm đầy đủ, nhưng nhất thiết mọi vật cần dùng đều phải sắm sửa, liền gọi Phượng Thư đến, nói rõ ý định của Giả Chính, rồi bảo chị ta lo liệu, Phượng Thư vâng lời.

Chương 101: Vườn Đại Quan đêm trăng rợn hồn ma – Chùa Tán Hoa quẻ thần ghê điềm lạ

Vườn Đại Quan đêm trăng rợn hồn ma

Chùa Tán Hoa quẻ thần ghê điềm lạ

Phượng Thư về nhà, thấy Giả Liễn vẫn chưa về, liền bảo đầy tớ sắm sửa hành lý và các đồ cần dùng của Thám Xuân. Lúc đó trời đã bắt đầu tối. Phượng Thư sực nghĩ đến Thám Xuân, muốn đến thăm, liền gọi Phong Nhi và hai a hoàn nữa đi theo, một người thứ ba cầm đèn lồng đi trước.

Ra khỏi cửa, thấy bóng trăng đã lên, chiếu sáng như nước. Phượng Thư liền cho người cầm đèn về. Đến dưới cửa sổ phòng trà, nghe bên trong có người nói rì rầm như khóc, như cười lại như bàn bạc cái gì, chắc lại bọn bà già trong nhà bàn tán chuyện gì đây, trong lòng Phượng Thư tức bực, liền bảo Tiểu Hồng:

– Mày vờ như không để ý.,vào hỏi dò và nói khéo cho ra đầu đuôi.

Tiểu Hồng vâng lời đi.

Phượng Thư cùng Phong Nhi đến trước cửa vườn. Cửa chưa đóng, chỉ khép hờ. Hai thầy trò vừa đẩy cửa đi vào. Bóng trăng trong vườn càng sáng lung linh; bóng cây che khắp mặt đất im bặt tiếng người, cảnh tượng rất là thê lương tịch mịch. Hai người vừa muốn đi theo con đường đến Thu Sảng trai, bỗng có tiếng gió vi vút thổi qua, lá cây trên cành rơi xuống, cả vườn nổi lên một loạt những tiếng lắc cắc. Trên cành cây có tiếng sột soạt, làm cho chim quạ đậu đó đều giật mình hay lên. Phượng Thư vừa mới uống rượu, gặp gió, cảm thấy trong mình rởn gai. Phong Nhi đi sau cũng rụt cổ nói

– Rét thật!

Phong Thư chịu không nổi. liền hảo Phong Nhi

– Mau về đem cái áo khoác da trắng tới đây, ta chờ mày ở nhà cô Ba.

Phong Nhi cũng muốn về nhà mặc thêm áo, chỉ chờ lệnh là vội vàng chạy về.

Phượng Thư cất bước đi chưa xa, bỗng đằng sau có tiếng “phì phì” như là người nào ngửi hít cái gì, chị ta sợ dựng tóc gáy. Ngoảnh đầu lại thì thấy một vật gì đen lù lù hai tròng con mắt lóng lánh như ngọn đèn, đang ở sau giơ mũi lên định hít chị ta. Phượng Thư sợ khiếp vía, buột miệng kêu “ai!”. Thì ra đó là một con chó to. Con chó ấy cụp đuôi chạy một mạch lên núi đất mới đứng lại rồi quay về phía Phượng Thư mà giơ chân lên.

Phượng Thư hoảng sợ, lật đật đi tới Thu Sảng trai. Lúc gần đến cửa, vừa vòng qua trái núi, thì thấy có bóng người thoáng qua trước mặt. Phượng Thư trong bụng ngờ vực, còn cho

đó là một a hoàn ở phòng nào, liền hỏi

– Ai thế?

Hỏi luôn hai tiếng, chẳng thấy có ai ra. Chị ta hồn xiêu phách lạc, mơ mơ màng màng hình như sau lưng có người nói

– Cháu đây mà, thím không nhận được sao?

Phượng Thư vội vàng ngoảnh đầu lại nhìn thì thấy người ấy hình dung yểu điệu, áo quần bảnh bao, trông rất là quen thuộc, nhưng không nhớ ra người ở nhà nào, phòng nào. Lại nghe người ấy nói

– Bụng thím chỉ nghĩ đến việc hưởng vinh hoa phú quý, còn câu nói của cháu năm nọ về việc “lập cơ nghiệp muôn đời” thì vứt xuống bi*n đ*ng cả rồi.

Phượng Thư nghe nói, cúi đầu nghĩ ngợi, vẫn không nhớ ra là ai. Người ấy cười nhạt, nói:

– Hồi đó, thím yêu cháu như thế nào? Nay thím quên cả rồi à?

Phượng Thư nghe nói, mới nhớ ra người ấy là Tần thị, vợ trước của Giả Dung, liền nói

– Ái chà! Chị đã chết rồi, sao lại đến đây?

Rồi chị ta nhổ toẹt một cái, quay người định đi. Không ngờ vấp phải hòn đá, ngã lăn ra và cảm thấy mình y như trong giấc chiêm bao tỉnh dậy. Mồ hôi tuôn ra như tắm. Lúc đó Phượng Thư sợ dựng tóc gáy, nhưng vẫn tỉnh táo, vừa thấy Tiểu Hồng và Phong Nhi thấp thoáng đi đến, Phượng Thư sợ bị họ cười, vội vàng đứng dậy, và nói

– Bọn chúng mày làm gì mà đi lâu thế? Mau đưa áo lại đây cho ta.

Phong Nhi chạy lại hầu chị ta mặc, còn Tiểu Hồng thì tới đỡ chị ta đi.

Phượng Thư nói

– Ta vừa đến đấy, họ ngủ cả rồi, ta đi về thôi.

Rồi vội vàng cùng hai a hoàn về nhà. Lúc đó Giả Liễn đã về, Phượng Thư thấy thần sắc chồng có vẻ thay đổi, không như mọi hôm, định hỏi, nhưng lại biết tính tình thường ngày của chồng, nên không dám hỏi đột ngột, đành phải đi ngủ.

Đến canh năm Giả Liễn vội dậy, định tới nhà viên thái giám tổng lý trong nội là Cừu Thế An để dò hỏi công việc. Nhưng vì còn sớm, thấy trên bàn có tờ háo hôm qua mới đưa đến liền cầm lên xem.Trong báo ghi việc thứ nhất là: “Bộ lại tâu xin chọn gấp viên lang trung, vâng chỉ theo lệ cũ mà làm việc” – Việc thứ hai là: “Bộ hình dâng lên một bản tấu của quan tiết độ sứ Vân Nam là Vương Trung nói về việc mới bắt được một bọn phạm tội đưa trộm súng và thuốc đạn ra khỏi biên giới, gồm mười tám người, người thứ nhất tên là Bào Âm, là người nhà quan thái sư Trấn quốc công Giả Hóa “. Giả Liễn ngẫm nghĩ một chút rồi xem tiếp. Việc thứ ba là: “Tờ tâu của quan thứ sử Tô Châu là Lý Hiếu hạch về tội thả lỏng bọn gia nô, cậy thế lăng nhục quan dân, đến nỗi vì hiếp dâm không được mà giết chết ba người trong nhà tiết phụ. Hung phạm là Thì Phúc, xưng là người nhà Giả Phạm thế tập chức hàm bực ba”.

Giả Liễn thấy tin ấy, trong bụng bứt rứt, định xem tiếp việc thứ ba, lại sợ chậm mất không gặp được Cừu Thế An. Giả Liễn mặc áo không kịp ăn uống gì. Vừa lúc Bình Nhi bưng trà lại anh ta uống hai hớp, rồi ra ngoài cưỡi ngựa đi ngay. Bình Nhi liền cất áo quần của hắn vừa thay.

Lúc đó Phượng Thư còn chưa dậy. Bình Nhi nói

– Đêm nay tôi nghe mợ ngủ không được, để tôi đấm hộ cho mà chợp mắt một tý.

Phượng Thư cũng không nói gì. Bình Nhi biết chị ta bằng lòng, liền bò lên giường, ngồi bên người, đấm nhè nhẹ. Phượng Thư có vẻ muốn ngủ, bỗng nghe bên kia Xảo Thư khóc. Phượng

Thư lại mở mắt. Bình Nhi liền nói sang

– Già Lý ơi! Già làm sao thế. Em khóc rồi phải dỗ và ru nó đi chứ. Già cũng mê ngủ thật!

Già Lý ở bên kia mơ màng tỉnh dậy, nghe Bình Nhi nói thế, trong bụng tức tối, liền phát bẳn vỗ mạnh mấy cái, miệng càu nhàu:

– Đồ ranh con chết non này! Cứ ỳ xác ra không chịu ngủ, nửa đêm gà gáy, khóc con mẹ mày đấy.

Bà ta vừa nói vừa nghiến răng, nhắm mình con bé véo một cái, con bé khóc thét lên.

Phượng Thư nghe thấy, nói:

– Chết chưa! Chị xem mụ ấy lại đay nghiến con bé rồi! Chị qua bên kia, đánh chết con mụ ác nghiệt cho tôi, rồi bế con bé lại đây.

Bình Nhi cười, nói

– Mợ đừng giận, mụ ta làm gì dám đay nghiến em bé? Chắc là không cẩn thận chạm phải nó đó thôi. Bây giờ đánh mụ ta mấy cái cũng chẳng quan hệ gì, nhưng đến hôm sau vắng mình, người ta lại bàn tán, bảo nửa đêm gà gáy cũng lôi người ra

đánh.

Thượng Thư nghe nói. im lặng một hồi lâu, rồi thở dài nói

– Chị thử nghĩ xem: giờ đây có phải là lúc nhà mình đang thịnh vượng không? Sau này ta chết đi, bỏ lại con bé ấy, thì chưa biết nó đến thế nào!

Bình Nhi cười, nói

– Mợ nói cái gì vậy? Mới canh năm tảng sáng, tại sao lại nghĩ đến việc chết chóc?

Phượng Thư cười nhạt, nói

– Chị chưa hiểu điều đó, chứ tôi thì đã biết rõ rồi. Tôi cũng chẳng sống được lâu nữa đâu! Tuy rằng mới có hai mươi lăm tuổi đầu, nhưng cái gì người ta chưa thấy mình cũng đã thấy, cái gì người ta chưa ăn mình cũng được ăn, về phần ăn mặc cũng được đầy đủ, tất cả những cái gì trên đời này có, mình đều có cả. Tức khí cũng chán rồi, tranh hơn cũng đủ rồi, dù phần chữ “thọ” có thiếu một chút cũng thôi.

Bình Nhi nghe nói, bất giác mắt đỏ hoe. Phượng Thư cười

– Chị đừng giả bộ từ bi! Tôi chết các chị lại càng mừng. Các chị lại một lòng một dạ ăn ở vui vẻ với nhau khỏi phải nhìn tôi như cái gai trong mắt. Chỉ có một việc, các chị biết điều thì thương lấy con bé là được!

Bình Nhi càng thêm nước mắt dầm dề. Phượng Thư cười, nói

– Thôi đừng bêu xấu nữa! Tôi đã chết ngay đâu mà chị khóc sớm thế! Tôi không chết, khéo chị lại khóc cho tôi chết đấy!

Bình Nhi nghe nói, vội vàng nín khóc, và nói

– Mợ nói làm người ta đau lòng!

Chị ta vừa nói vừa đấm, Phượng Thư mới mơ màng ngủ đi.

Bình Nhi ở trên giường vừa bước xuống, thì nghe tiếng chân đi bên ngoài, không ngờ Giả Liễn đi chậm. Cừu Thế An đã vào chầu. Giả Liễn không gặp, phải trở về, trong bụng đang bực nên vào đến nhà liền hỏi Bình Nhi

– Chúng nó còn chưa dậy à?

– Chưa ạ.

Giả Liễn vừa đi vào vừa hất cái màn rồi cười nhạt và nói

– Giỏi thật! Giờ mà còn chưa dậy, bỏ mặc tất cả hay sao!

Rồi hắn lại giục pha trà uống. Bình Nhi vội rót một chén trà đưa lại. Nguyên là bọn a hoàn và bà già thấy Giả Liễn đi rồi, đều lăn ra ngủ, không ngờ hắn đã về, nên chưa hề sắm sửa gì cả. Bình Nhi liền đưa thứ trà hâm lại đến. Giả Liễn nổi giận, giơ chén trà lên, vứt đánh chát một tiếng chén trà vỡ tan.

Phượng Thư giật mình, sợ toát mồ hôi kêu: “Ái chà”, mở mắt ra thì thấy Giả Liễn giận hầm hầm, ngồi một bên. Bình Nhi thì đang khom lưng nhặt những mảnh chén vỡ. Phượng Thư nói:

– Sao cậu lại về ngay thế?

Hồi lâu không thấy Giả Liên trả lời, chị ta đành phải hỏi lại lần nữa. Giả Liễn to tiếng:

– Mợ không muốn cho tôi về, thế muốn tôi chết ở ngoài ấy à?

Phượng Thư cười nói

– Sao lại nói thế? Mọi hôm không thấy cậu về mau như hôm nay. Tôi hỏi một tiếng, có gì mà giận.

Giả Liễn lại gào lên:

– Không gặp thì làm gì mà chẳng về mau.

Phượng Thư cười:

– Không gặp thì phải chịu phiền một tý, mai đi sớm hơn, tự nhiên sẽ gặp.

– Mình rõ thật ăn cơm nhà vác ngà voi! Việc ở nhà chất đống, chẳng ma nào giúp, vô duyên vô cớ đi lo việc cho người, chạy mất mấy ngày hôm nay, chẳng được cái gì cả. Thế mà chính người đương sự lại ở nhà phè phởn, sống chết chẳng hay. Còn nghe nói định khua chuông gõ trống, tiệc tùng, hát xướng làm lễ sinh nhật nữa đấy! Rõ thật chạy uổng chân.

Hắn vừa nói vừa nhổ toẹt xuống đất, lại mắng Bình Nhi.

Phượng Thư nghe nói, tức nghẹn cổ họng, định cãi lại, nhưng nghĩ ngợi một chút, lại nín nhịn, rồi miễn cưỡng cười lấy lòng, nói:

– Tội gì mà cậu nổi giận như thế? Sáng dậy tinh sương đã hò hét với tôi làm gì? Ai bảo cậu chuốc lấy việc người ta? “Đã trót thì trét”, phải lo liệu giùm người ta. Tôi chưa thấy ai có việc rầy rà, mà còn có gan bày ra tiệc tùng hát xướng.

– Mợ cũng nói thế à? Đến mai mợ thử hỏi xem?

Phượng Thư lấy làm lạ. nói

– Hỏi ai?

– Hỏi ai à. Hỏi ông anh mợ ấy!

– Anh tôi ấy à?

– Không phải anh ấy thì còn ai nữa!

– Anh ấy có việc gì mà bảo cậu chạy hộ.

– Mợ còn như người ở trong hũ ấy!

– Thật là kỳ quặc! Tôi chả biết một chút gì cả.

– Mợ làm gì mà biết được? Việc này ngay cả thím và dì cũng không biết. Một là vì tôi sợ thím và dì lo lắng; hai là mợ lại đang mệt cho nên tôi bảo im đi, không cho trong này biết. Việc ấy nói ra thật người ta phải giận! Hôm nay mợ không hỏi thì tôi cũng không tiện nói ra. Mợ thử nghĩ xem, ông anh mợ làm việc có ra người nữa không! Mợ có biết bên ngoài họ gọi anh ta là gì không?

– Họ gọi anh ta là gì?

– Họ gọi anh ta là gì à? Họ gọi anh ta là “Vương nhân” 1

Phượng Thư phì cười:

– Anh ấy không gọi là Vương Nhân thì gọi là gì nữa?

– Mình đoán xem chữ Vương này viết như thế nào? Đó là chữ “Vong Nhân” tức là quên mất hết cả nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

– Người đâu lại độc mồm độc miệng rủa người ta như thế?

– Không phải họ rủa anh ta đâu! Hôm nay tôi nói thẳng cho mợ biết, kẻo mợ không biết ông anh mợ hay hớm như thế nào. Mợ cũng biết anh ta làm lễ sinh nhật cho chú Hai anh ta đấy chứ!

Phượng Thư nghĩ ngợi một lúc, rồi nói:

– Ái chà! Thế à! Tôi quên hỏi cậu: sinh nhật cậu Hai có phải là về mùa đông không? Tôi nhớ năm nào chú Bảo Ngọc cũng đi dự lễ. Trước đây ông lớn được thăng chức, bên cậu Hai đưa phường hát sang mừng, tôi còn nói trộm: “Cậu Hai keo cú, không bì được với cậu Cả” 2. Bọn họ trong nhà cũng còn như gà chọi ấy. Chẳng thế mà vừa rồi lúc cậu Cả qua đời, cậu Hai là em ruột lại còn ra mặt nhận thầu các việc đấy. Vì thế, hôm ấy tôi nói nhân ngày sinh nhật của chú ấy, nhà mình mừng trả lại một ban hát để khỏi mắc nợ bà con. Nay lại làm lễ sinh nhật sớm như thế, không biết là có ý gì.

– Mợ thực như còn mê ngủ ấy! Ông anh mợ khi đến kinh, nhân dịp đám ma của cậu Cả, liền bày ra lễ điếu. Anh ta sợ chúng ta cản trở nên không bàn gì đến, quả nhiên vớ được mấy ngàn lạng bạc. Sau cậu Hai trách anh ta, bảo không nên vơ vét hết cả như thế, anh ta không biết làm thế nào, liền giả cách mượn tiếng ngày sinh nhật của cậu Hai, lại tung lưới ra định vơ một món nữa, để cho cậu Hai khỏi giận. Thật là anh ta không quản gì bà con bạn hữu, mùa đông hay mùa hạ, người ta biết hay không. Rõ thật xấu hổ! Mợ có biết tôi dậy sớm làm gì không? Hiện nay có việc xảy ra ở miền biển, quan ngự sử tâu lên, hạch cậu Cả làm thiếu hụt công quỹ. Nay cậu Cả đã chết, nên bắt em là Vương Tử Thắng, cháu là Vương Nhân bồi thường. Hai chú cháu hoảng lên, đến tìm tôi nhờ nói giúp. Tôi thấy họ khiếp sợ, vả chăng việc này lại quan hệ đến thím và mợ, nên mới nhận lời. Tôi định tìm ông thái giám họ Cừu làm tổng lý trong nội lo liệu giúp, hoặc giả xê xích giữa quan sau và quan trước như thế nào đó cho xong. Không ngờ tôi đến chậm, ông ta vào chầu mất. Mình thì uổng công dậy sớm, chạy vạy, còn bọn họ ở nhà lại lo bàn bạc bày đặt tiệc tùng hát xướng đấy. Mợ bảo thế có tức hay không?

Phượng Thư nghe nói, mới biết Vương Nhân như thế, nhưng tính chị ta vốn hay bào chữa “cái tốt phô ra, xấu xa đậy lại” nên nghe Giả Liễn nói như thế, liền bảo:

– Anh ấy có thế nào đi nữa, cũng là anh vợ của cậu. Vả lại việc này, cậu Cả đã mất và cậu Hai đang sống đó đều cảm ơn cậu. Chẳng biết nói gì, việc nhà tôi, tôi đành phải ba luồn bảy lụy nhờ cậu, chả lẽ lại làm lụy người khác, để khi vắng mặt họ chửi tôi à?

Nói xong, chị ta chảy nước mắt, lật chăn lên, ngồi dậy, búi tóc, mặc áo.

– Mợ không cần như th,. đó là vì anh mợ không ra hồn người, chứ tôi có nói gì mợ đâu. Đã thế tôi đi ra, mợ lại ốm, tôi đã dậy rồi mà chúng nó còn ngủ, cha ông nhà ta có cái thói ấy không? Bây giờ mợ làm như con người vô sự, chẳng phải trông nom việc gì. Tôi mới nói một câu mà mợ đã dậy: đến mai kia tôi có quở trách họ, không lẽ mợ đều chịu thay cho họ sao? Thật chẳng ra sao cả!

Phượng Thư nghe vậy, mới nín khóc, nói:

– Trời không còn sớm nữa, tôi cũng nên dậy. Cậu đã nói thế, thì cậu để tâm lo liệu giùm cho họ. Đó là tình nghĩa của cậu đối với tôi. Vả chăng, cũng không riêng một mình tôi, bà Hai nghe vậy chắc cũng mừng.

– Phải rồi, biết rồi đấy! Mợ chẳng phải dạy tôi nữa.

Bình Nhi nói

– Mợ dậy sớm làm gì? Hôm nào mợ cũng dậy vào giờ nhất định kia mà. Không biết cậu mang cái nóng nảy ở đâu về, lại đem chúng tôi ra mà giày vò cho hả giận. Tội gì thế! Mợ thật đã hết lòng hết sức với cậu rồi, có việc gì mà không phải do mợ ra tay cáng đáng? Tôi nói không phải, chứ cậu đã ngồi hưởng sẵn bao nhiêu, lần này lo giúp cho mợ một tý việc, lại dính líu đến mấy tầng, mà đã làm bộ làm tịch như thế, rõ không sợ người ta chán ngán? Mà nào có phải việc riêng gì một mình mợ! Chúng tôi dậy chậm, cậu giận là phải, đằng nào chúng tôi cũng chỉ là tôi tớ. Còn mợ đây vất vả mãi nên đã mang ốm, thì làm gì cho thêm khổ! – Chị ta nói rồi, mắt đỏ lên.

Giả Liễn vốn đang bực sẵn, nhưng địch sao nỗi vợ cả, nàng hầu vừa xinh đẹp lại ăn nói mềm mỏng, sắc sảo như thế. Hắn liền cười nói

– Đủ rồi! Thôi, thôi! Một mình mợ ấy cũng đã đủ không cần cô phải nói nữa. Đằng nào tôi cũng là người ngoài, bao giờ tôi chết đi, các người sẽ rảnh rang.

Phượng Thư nói:

– Cậu đừng nên nói thế, ai biết được ai ra sao? Cậu không chết, khéo tôi chết đấy! Chết sớm ngày nào càng được rảnh rang ngày ấy.

Nói đến đó, Phượng Thư lại khóc oà lên. Bình Nhi phải khuyên một hồi.

Lúc ấy trời đã sáng trưng, ánh nắng mặt trời xuyên ngang cửa sổ. Giả Liễn cũng không tiện nói nữa, đứng dậy đi ra.

Phượng Thư đang gội đầu rửa mặt, chợt thấy a hoàn nhỏ bên nhà Vương phu nhân qua nói:

– Bà lớn bảo hỏi mợ Hai xem hôm nay mợ có qua bên nhà ông cậu không? Nếu mợ đi thì gọi mợ Hai Bảo cùng đi một thể.

Phượng Thư vì câu chuyện vừa rồi đã chán ngấy, giận họ nhà mình làm cho mình bẽ mặt, lại thêm một mẻ sợ trong vườn đêm qua, thật không còn đầu óc nữa, liền nói:

– Mày về thưa với bà lớn, ta còn một vài việc chưa làm xong, hôm nay không thể đi được. Vả lại việc nhà họ cũng chẳng phải là quan trọng gì. Mợ Hai Bảo muốn đi thì cứ đi thôi.

A hoàn nhỏ vâng lời rồi về trình lại.

Thượng Thư chải đầu thay áo xong, nghĩ bụng: dầu mình không đi cũng nên tin cho người ta biết. Vả lại, Bảo Thoa vẫn còn là cô dâu mới, ra ngoài, tất nhiên mình phải trông nom một chút. Vì thế chị ta qua gặp Vương phu nhân, mượn cớ để thoái thác, rồi đi sang phòng Bảo Ngọc. Thấy Bảo Ngọc ăn mặc chỉnh tề nằm nghiêng trên giường, hai mắt chằm chằm nhìn Bảo Thoa

chải đầu, Phượng Thư đứng bên cửa, Bảo Thoa ngoảnh lại mới thấy, vội vàng đứng dậy mời ngồi. Bảo Ngọc cũng bò dậy. Phượng Thư cười, ngồi xuống.

Bảo Thoa trách bọn Xạ Nguyệt:

– Các chị thấy mợ Hai đi vào, sao không báo gì cả.

Xạ Nguyệt cười nói

– Mợ Hai đi vào, liền xua tay bảo đừng nói.

Phượng Thư nói với Bảo Ngọc

– Chú chưa đi, còn chờ gì nữa? Chẳng có ai lớn người còn tính khí trẻ con như thế. Người ta chải đầu, chú bò lại xem cái gì? Cả ngày ở chung chạ trong nhà, còn nhìn chưa chán à? Không sợ bọn a hoàn họ cười cho hay sao?

Nói xong, chị ta cười khì, rồi lại nhìn Bảo Ngọc mà bĩu môi. Bảo Ngọc tuy khó chịu nhưng không để ý. Bảo Thoa thì thẹn đỏ mặt, im lặng cũng khó coi, nhưng chẳng biết nói gì cho phải. Thấy Tập Nhân bưng trà đến, cô ta cũng vờ vẫn đưa túi

thuốc ra.

Phượng Thư đứng dậy cười, cầm lấy và nói:

– Em Hai ạ, em cứ mặc áo mau lên, để mặc chúng tôi.

Bảo Ngọc cũng lăng xăng tìm cái này, tìm cái nọ. Phượng Thư nói:

– Chú đi trước đi thôi, đời nào lại có cái lý các cậu chờ các mợ cùng đi bao giờ?

Bảo Ngọc nói:

– Tôi chỉ ngại cái áo này không đẹp, không bằng mặc cái áo lông công của cụ cho năm trước, đẹp hơn.

Phượng Thư liền trêu Bảo Ngọc:

– Thế sao chú lại không mặc?

– Mặc áo ấy hơi sớm quá.

Phượng Thư chợt nhớ ra, biết mình lỡ lời. May mà Bảo Thoa cũng là bà con bên ngoại của họ nhà Vương, nhưng trước mặt bọn a hoàn cũng thấy khó coi. Tập Nhân đỡ lời:

– Mợ Hai không biết đấy, chứ cô mặc được, cậu ấy cũng không mặc.

Phượng Thư nói:

– Sao thế?

– Thưa mợ, cậu tôi, làm việc gì cũng thực là kỳ quặc. Năm nọ nhân ngày sinh nhật ông cậu Hai, cụ cho cậu tôi cái áo ấy, không ngờ hôm đó áo bị cháy mất một chỗ. Lúc ấy mẹ tôi ốm nặng, tôi không ở nhà. Hồi đó hãy còn mồ ma chị Tình Văn. Nghe nói chị ấy ốm, nhưng suốt đêm vẫn mạng lại cái chỗ cháy ấy, hôm sau cụ mới không nhận thấy. Năm ngoái, một hôm cậu ấy đi học, trời lạnh tôi bảo Bồi Dính đem cái áo ấy đi cho cậu ấy mặc, không ngờ cậu thấy nó, lại nhớ tới Tình Văn, cho nên nhất định không mặc nữa, bảo tôi cất cho cậu ấy suốt đời.

Phượng Thư không đợi nói xong, liền bảo:

– Cô nhắc đến Tình Văn, tôi cũng thương cho nó! Con bé ấy mặt mũi thân hình đều khá, chỉ có mồm miệng sắc sảo. Thế rồi không biết bà Hai nghe lời bịa đặt ở đâu làm cho nó phải chết. Lại còn một việc, hôm nọ tôi thấy con gái mụ Liễu ở nhà bếp, gọi con Năm đó. Con bé ấy giống hệt như Tình Văn. Trong bụng tôi định gọi nó vào đây. Tôi hỏi mẹ nó, mẹ nó rất mừng.Tôi nghĩ con Tiểu Hồng ở phòng chú Bảo sang hầu bên tôi, mà tôi chưa trả người cho chú ấy, nên định đem con Năm thế vào. Nhưng chị Bình lại nói: “Hôm nọ bà Hai đã dặn, những người giông giống Tình Văn, không sai đến ở nhà chú Bảo”, cho nên tôi phải gác lại. Bây giờ, chú Bảo đã có vợ, thì còn sợ gì nữa? Để tôi gọi nó vào đây. Không biết chú Bảo có bằng lòng không? Nếu chú ấy mà nhớ Tình Văn thì chỉ nhìn con Năm là được.

Bảo Ngọc đã định đi, nhưng nghe nói đến chuyện ấy lại ngẩn người ra. Tập Nhân nói:

– Sao lại không bằng lòng, đáng lẽ đã gọi nó đến rồi, chỉ vì lời nói của bà Hai đấy thôi.

Phượng Thư nói:

– Đã thế, thì mai tôi cho nó đến, bà Hai hỏi thì đã có tôi.

Bảo Ngọc nghe nói. mừng rỡ vô cùng, qua nhà Giả mẫu. Còn Bảo Thoa thì thay quần áo.

Phượng Thư thấy hai vợ chồng họ yêu quý quấn quít nhau như thế, nghĩ đến bộ dạng Giả Liễn vừa rồi, thật là đau lòng, không thể ngồi rán nữa, bèn đứng dậy cười nói với Bảo Thoa:

– Em với chị sang bên cụ đi.

Rồi chị ta đi ra. Hai người đến gặp Giả mẫu. Bảo Ngọc cũng đang trình với Giả mẫu việc đi qua nhà ông cậu.

Giả mẫu gật đầu nói:

– Cháu đi đi thôi, nhưng đừng uống nhiều rượu và về sớm một chút, người cháu mới khỏe đấy.

Bảo Ngọc vâng lời đi ra. Vừa đến giữa sân, lại quay lại ghé vào tai Bảo Thoa nói mấy câu, chẳng biết là nói gì. Bảo Thoa cười

– Phải rồi, cậu đi nhanh lên thôi.

Rồi chị ta giục Bảo Ngọc đi. Giả mẫu cùng Phượng Thư và Bảo Thoa vừa nói được mấy câu, thì thấy Thu Văn vào nói

– Cậu Hai sai Bồi Dính về mời mợ Hai.

Bảo Thoa nói:

– Cậu ấy lại quên cái gì mà bảo nó trở về?

Thu Văn nói:

– Tôi bảo a hoàn nhỏ đi hỏi Bồi Dính, thì nó nói là cậu Hai quên không dặn trước. Cậu ấy bảo tôi về thưa với mợ Hai rằng: nếu mợ đi thì đi mau lên, nếu không đi thì đừng có đứng trước gió đấy.

Giả mẫu, Phượng Thư và bọn a hoàn, bà già đứng đấy đều cười ồ.

Bảo Thoa đỏ mặt, “xì” Thu Văn một cái và nói:

– Khéo cái con vớ vẩn này! Thế mà mày cũng hốt hoảng chạy về nói à?

Thu Văn cũng cười, rồi về bảo a hoàn nhỏ đi ra mắng Bồi Dính, Bồi Dính vừa đi vừa ngoảnh lại nói:

– Cậu Hai vội vàng bắt tôi xuống ngựa cho được và bảo về nói, nếu tôi không nói, sau này cậu hỏi ra, thế nào cũng mắng tôi. Giờ tôi nói cũng bị mắng!

A Hoàn nhỏ cười, chạy về nói lại. Giả mẫu nói với Bảo Thoa

– Cháu đi đi thôi, đừng để nó nhớ đấy.

Bảo Thoa nghe nói, không thể đứng lại được nữa, lại bị Phượng Thư trêu cho một mẻ, thấy khó coi quá, đành phải ra đi.

Lúc đó vừa thấy ni cô ở chùa Tán Hoa là Đại Liễu đến. Cô ta hỏi thăm sức khoẻ Giả mẫu, chào Phượng Thư rồi ngồi xuống uống trà. Giả mẫu hỏi:

– Sao lâu nay ni cô không đến?

– Vì mấy hôm nay, ở miếu làm chay, có mấy bà quan thường nghỉ lại đó, nên không được rảnh. Hôm nay có ý đến trình với cụ: ngày mai có một nhà làm chay, không biết cụ có thích hay không? Nếu thích thì xin mời cụ tới vãn cảnh chùa chơi.

– Tại sao phải làm chay?

– Tháng trước đây, ở phủ cụ Vương không được yên ổn, thấy ma thấy quỷ gì ấy. Ban đêm bà lớn nằm mơ thấy quan lớn về. Vì thế, hôm qua đến miếu nói với chúng con, định hứa nguyện đốt hương trước đức phật “Tán Hoa” làm một đàn chay thủy lục bốn mươi chín ngày, để xin ngài phù hộ cho người nhà yên ổn. Người chết lên trời, người sống được phúc. Do đó con không được rảnh dể tới hỏi thăm cụ.

Phượng Thư ngày thường rất ghét những việc ấy. Nhưng từ hôm nọ thấy ma, trong lòng cứ ngờ vức. Giờ nghe Đại Liễu nói thế, bỗng tâm tính ngày thường thay đổi đi một nửa, đã có vài phần tin, liền hỏi Đại Liễu:

– Phật “Tán Hoa” là ai? Tại sao ngài lại đuổi được tà, trừ được quỷ?

Đại Liễu nghe hỏi, biết rằng chị ta đã có ý tin, liền nói:

– Mợ muốn hỏi đức Phật ấy thì tôi xin nói cho mợ biết. Đức Phật “Tán Hoa” nguồn gốc rất sâu, đạo hạnh rất lạ, sinh ra ở nước Đại Thụ phương tây. Cha mẹ ngài làm nghề hái củi. Khi

sinh ngài, đầu có ba sừng, trán mọc bốn mắt, mình cao tám thước, hai tay dài chấm đất. Cha mẹ ngài cho là yêu tinh, đem vứt vào núi băng. Ai ngờ trên núi ấy có một con khỉ già đắc đạo, đi ra kiếm ăn, thấy trên đầu đức Phật, có làn khói trắng xông lên ngất trời, hùm beo đều phải xa lánh. Con khỉ biết người này có lai lịch khác thường, liền bế về trong động nuôi nấng. Không ngờ đức

Phật đã mang sẵn tính chất thông minh, biết giảng đạo Phật, ngày nào cũng cùng con khỉ tham thiền, đàm đạo, nói làu làu làm cho hoa trời bay xuống phất phới. Sau một ngàn năm, ngài bay lên thành Phật. Đến nay trên núi còn thấy chỗ giảng kinh, hoa trời man mác, ai cầu gì cũng linh ứng. Ngài thường hiện hình, cứu vớt tai nạn cho người ta. Vì thế người đời mới dựng miếu tô tượng phụng thờ.

Phượng Thư nói:

– Điều đó có gì làm bằng cứ?

– Mợ lại khéo bài bác. Cần gì phải có bằng cứ mới rõ là Phật. Nếu mà nói dối, thì cũng chỉ lừa được một vài người thôi, không lẽ xưa nay bao nhiêu người sáng suốt cũng đều bị lừa cả ư? Mợ nghĩ xem, chỉ có nhà Phật là từ xưa tới nay, khói nhang không dứt, thế thì phải có gì linh nghiệm trong việc hộ nước giúp dân, người ta mới tin phục chứ?

Phượng Thư nghe nói rất có lý, liền bảo:

– Đã thế thì ngày mai tôi đi xem. Trong miếu bà có thẻ không? Tôi đến xin một quẻ. Nếu mà trên thẻ nói rõ được việc trong bụng tôi, thì từ nay tôi sẽ tin.

– Thẻ của miếu chúng tôi rất là linh nghiệm. Ngày mai mợ đến xin một quẻ thì biết.

Giả mẫu nói:

– Thế thì cháu cứ đợi cho đến ngày kia là ngày mùng một sẽ đi xin.

Nói xong, Đại Liễu uống nước rồi đến gặp Vương phu nhân hỏi thăm sức khỏe và về.

Đến tảng sáng ngày mồng một, Phượng Thư miễn cưỡng sai người sửa soạn xe ngựa, dẫn Bình Nhi và nhiều đầy tớ khác đến chùa Tán Hoa. Đại Liễu cùng bọn ni cô đón vào chùa. Sau khi uống trà xong, Phượng Thư liền rửa tay đến trên điện lớn thắp hương. Phượng Thư cũng không để ý gì, đi xem tượng thánh, chỉ một lòng thành kính, khấu đầu rồi giơ ống thẻ lên, đem những việc thấy ma và thân thể đau ốm khấn vái một hồi. Vừa lắc được mấy cái, bỗng “soạt” một cái trong ống bật ra một chiếc thẻ. Phượng Thư lại khấu đầu rồi nhặt lên xem thì thấy viết:

“Quẻ thứ ba mươi ba, thượng thượng đại cát”.

Đại Liễu vội vàng xem sổ thì thấy trên thẻ viết: “Vương Hy Phượng mặc áo gấm về làng”.

Phượng Thư thấy mấy chữ ấy, giật nẩy mình, vội hỏi Đại Liễu:

– Xưa cũng có người gọi ta Vương Hy Phượng à?

– Mợ rất là thông hiểu xưa nay, không lẽ cũng không biết chuyện ông Vương Hy Phượng đời nhà Hán đi cầu quan à?

Chu Thụy đứng một bên cười, nói:

– Năm trước cô xẩm họ Lý đã kể câu chuyện ấy. Chúng tôi thấy cô ấy kể cũng trùng tên với mợ, nên tôi không cho kể nữa.

Phượng Thư cười:

– Ừ, phải đấy, thế mà tôi quên mất.

Chị ta nói xong, xem phía dưới, thấy viết:

Năm xa làng nước trọn đôi mươi,

Áo gấm nay về vườn cũ chơi.

Ong đã hái hoa thành được mật,

Vì ai cay đắng, ngọt vì ai?

Người đi đến. Âm tín chậm. Việc kiện nên giải hoà. Việc hôn nhân hãy bàn lại.

Phượng Thư xem xong cũng không rõ ràng lắm.

Đại Liễu nói:

– Xin mừng cho mợ, thẻ này rất hay. Mợ từ lúc nhỏ, sinh trưởng ở đây, đã khi nào về Nam Kinh đâu. Giờ đây, ông lớn làm quan ngoài, hoặc giả đón gia quyến đến, rồi nhân tiện về thăm nhà, thế chẳng phải là mợ “mặc áo gấm về làng” đó sao?

Cô ta vừa nói, vừa sao ra một bản thẻ khác, trao cho a hoàn.

Phượng Thư cũng nửa tin nửa ngờ. Đại Liễu dọn cổ chay ra, Phượng Thư chỉ nếm một tý, rồi đặt đũa xuống định về, lại đưa số tiền hương đèn. Đại Liễu giữ mãi không được, đành phải để cho chị ta về. Phượng Thư về đến nhà, gặp Giả mẫu và Vương phu nhân hỏi đến thẻ rồi bảo người giảng nghĩa, tất cả đều rất lấy làm mừng: “Hoặc giả ông lớn thật có ý định như thế thì chúng ta đi một chuyến cũng hay”

Phượng Thư thấy mọi người nói thế, nên cũng tin.

Một hôm Bảo Ngọc ngủ trưa dậy, không thấy Bảo Thoa, đang định hỏi thì Bảo Thoa đi vào. Bảo Ngọc hỏi:

– Đi đâu mãi không về?

– Tôi xem quẻ thẻ cho chị Phượng một chốc.

Bảo Ngọc nghe nói, liền hỏi. Bảo Thoa đọc lên một lượt những lời trong quẻ thẻ. Rồi nói

– Trong nhà, ai cũng nói tốt, theo ý tôi thì trong bốn chữ “áo gấm về làng” còn có duyên cớ khác, sau này sẽ rõ.

Bảo Ngọc nói:

– Mợ cứ hay nghi, giải nghĩa lệch lạc ý thánh, bốn chữ “áo gấm về làng” từ xưa tới nay, đều cho là tốt, nay mợ lại nói là có duyên cớ! Theo như mợ nói, thì bốn chữ “áo gấm về làng” ấy còn có cách giảng giải khác nữa hay sao?

Bảo Thoa đang định giảng thêm, thì thấy bên nhà Vương phu nhân sai người sang mời mợ Hai. Bảo Thoa liền đi sang ngay.

1      Theo âm Trung Quốc thì chữ Vương và chữ Vong đều đọc như nhau, cho nên mượn chữ “Vương nhân” đồng âm để rủa Vương Nhân là người quên mất nhân nghĩa.

2      Tức Vương Tử Đằng.

_________________

Chương 102: Phủ Ninh Quốc, ruột thịt bị tai ương – Vườn Đại quan, phù thủy trừ yêu quái

Phủ Ninh Quốc, ruột thịt bị tai ương

Vườn Đại quan, phù thủy trừ yêu quái

Vương phu nhân sai người đến gọi Bảo Thoa. Bảo Thoa vội vàng đến hỏi thăm sức khỏe. Vương phu nhân nói:

– Em Ba con sắp đi lấy chồng, con là chị dâu, phải dặn dò, bảo ban nó, cũng là tình chị em. Vả lại nó là con bé hiểu biết, ta xem con cũng hòa hợp với nó. Nhưng nghe nói thằng Bảo nghe em nó sắp đi, cứ khóc mãi. Con cũng phải khuyên nó mới được. Hiện nay ta cứ nay ốm mai đau, chị Hai con thì ba bữa khỏe, hai bữa ốm, con có hiểu việc đôi chút, cũng nên nhìn ngó công việc, đừng chỉ lặng thinh, sợ làm mất lòng người ta. Việc nhà sau này con đều phải lo cả.

Bảo Thoa vâng lời. Vương phu nhân lại nói

– À, còn một việc nữa, chị Hai con hôm qua đem con gái nhà mụ Liễu đến, nói cho vào hầu các con.

– Hôm nay chị Bình mới đưa đến, nói là theo ý của mẹ và chị Hai.

– Phải đấy. Chị Hai con nói với ta, ta thấy điều đó cũng không quan hệ gì, bác đi không tiện. Nhưng có một điều, ta thấy con bé ấy, bộ dạng mặt mày không phải là người yên phận lắm đâu Trước đây vì bọn a hoàn ở nhà Bảo Ngọc cứ như là yêu tinh, ta mới đuổi đi mấy đứa. Con cũng đã biết điều đó, cho nên mới dọn về nhà ở. Giờ đây đã có con, cố nhiên là không phải như trước nữa. Ta nói với con, chẳng qua phải để ý một chút đấy thôi. Trong nhà các con, chỉ có con bé Tập Nhân còn có thể dùng được.

Bảo Thoa vâng lời, lại nói vài câu nữa rồi về. Sau khi ăn cơm, Bảo Thoa sang nhà Thám Xuân, cố nhiên là ân cần khuyên giải, không cần phải nói kỹ.

Ngày hôm sau, Thám Xuân định lên đường, lại qua từ giã Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cố nhiên là khó lòng chia tay. Thám Xuân lại đưa chuyện cương thường đại thể ra nói, ban đầu Bảo Ngọc cúi đầu làm thinh, sau lại đổi buồn làm vui, hình như có ý tỉnh ngộ. Thấy vậy, Thám Xuân yên lòng, từ biệt mọi người, ngồi kiệu lên đường.

Trước kia bọn chị em đều ở trong vườn Đại Quan, nhưng từ khi Giả Phi chết rồi, vườn cũng không sửa sang lại nữa. Đến khi Bảo Ngọc cưới vợ, Đại Ngọc chết. Tương Vân, Bảo Cầm về

Nhà, trong vườn ít người, tiết trời lại lạnh, nên bọn chị em Lý Hoàn, Thám Xuân, Tích Xuân đều dời về chỗ cũ. Nhưng gặp lúc hoa nở trăng trong, họ vẫn hẹn nhau vào vườn dạo chơi như trước. Nay Thám Xuân đi rồi, Bảo Ngọc thì từ lúc ốm không ra khỏi cửa, càng chẳng có ai cao hứng nữa. Vì thế, trong vườn vắng vẻ chỉ có mấy người ở đấy trông nom.

Hôm nọ, Vưu thị qua đưa Thám Xuân lên đường, vì trời đã chiều, muốn khỏi phải đi xe, liền qua cái cửa trong vườn năm kia mở thông sang phủ Vinh mà về. Chị ta cảm thấy lâu đài còn nguyên như cũ, mà cảnh vật rất đỗi thê lương, một dãy tường hoa chẳng khác gì nương vườn trồng trọt, trong lòng buồn bã, hình như áy náy vì việc gì. Khi về đến nhà, người chị ta phát nóng. Gắng gượng một vài ngày rồi cũng phải nằm xuống. Ban ngày còn nhẹ, đến đêm người nóng lạ thường. Nói mê nói sảng liên miên. Giả Trân vội vàng mời thầy xem bệnh. Thầy thuốc nói vì bị cảm, nay bệnh đã truyền vào túc dương minh vị kinh 1 cho nên mới nói nhảm như thấy cái gì, phải hạ thì mới yên được.

Vưu thị uống luôn hai thang không bớt chút nào, mà lại phát điên lên. Giả Trân cuống quít, liền bảo Giả Dung:

– Con đi ra ngoài kia xem có thầy thuốc giỏi thì mời mấy người đến xem.

– Ông thầy này trước đây là đắt khách nhất đấy, chỉ sợ bệnh mẹ con không thể chữa bằng thuốc được.

– Nói nhảm! Không uống thuốc thì không lẽ cứ để mặc đấy à?

– Không phải con nói không chữa, nhưng vì hôm trước mẹ đi sang phủ tây, rồi sau về qua vườn. Khi về đến nhà thì người phát nóng, không khéo gặp phải ma quái gì đấy. Ngoài kia có ông Mao Bán Tiên là người phương Nam, bói rất linh ứng, chi bằng mời ông ta đến bói xem, nếu đoán ra việc gì thì theo ông ta mà làm; nếu không ăn thua, sẽ mời thầy thuốc giỏi khác.

Giả Trân nghe nói, lập tức cho người mời vào. Mao Bán Tiên đến, ngồi trong thư phòng uống nước xong, liền hỏi:

– Quý phủ gọi tôi, không hiểu hỏi việc gì? Giả Dung nói:

– Mẹ tôi bị bệnh, xin thầy bói cho một quẻ.

– Đã thế thì lấy nước sạch rửa tay, bày hương án ra, để tôi bói một quẻ xem.

Một lúc người nhà bày đặt xong, ông ta kéo cái ống thẻ ở trong bọc ra, đến trước hương án, kính cẩn vái một cái, trong tay lắc ống thẻ, miệng khấn: “Thái cực lưỡng nghi, hun đúc giao cảm, sinh ra đồ thư mà biến hoá vô cùng. Thần thánh xuất hiện, nên thành tâm cầu thì thế nào cũng ứng. Nay có tín chủ Giả mỗ, nhân vì mẹ đau, thành tâm xin các vị Phục Hy, Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử, bốn vị thánh nhân, chứng giám ở trên, thành cảm thiêng liêng, có dữ báo dữ, có lành báo lành, xin trước ba hào nội tượng”.

Ông ta móc tiền trong ống gieo lên trên khay và nói:

– Thiêng lắm, hào thứ nhất là “giao”. – Lại cầm ống lắc một cái nữa, đổ ra nói: – “đơn” – đến hào thứ ba lại là “giao” 2

Ông ta nhặt tiền lên, miệng khấn: “Nội hào đã cho, nay xin ba hào ngoại tượng, để xong một quẻ”. Khi gieo xong rồi thì ra quẻ “đơn chiết đơn” 3

Mao Bán Tiên cất ống và thẻ, tiền đi, ngồi xuống, nói:

– Mời ngồi, mời ngồi để tôi xem cho kỹ, quẻ này là quẻ “Vị tế” 4 “thế hào” là hào thứ ba, “ngọ hoả” gặp lúc hao tài tốn của, nhất định là có việc gì xúi quẩy. Nay ngài hỏi bệnh cho mẹ dung thần là hào đầu, thật là hào “phụ mẫu”, động sinh ra “quan quỉ”, trên năm hào lại có một tầng “quan quỉ” nữa, cho nên theo tôi thì bệnh bà nhà ta khá nặng đấy. Nhưng còn may, còn may, giờ đây còn nước “tý hợi ngưng đọng”, “dần mộc” động sinh ra hoả, trên “thế hào” động sinh ra “tứ tôn”, trở lại “khắc quỉ”. Vả lại “nhật nguyệt sinh thần”, cách hai ngày nữa, tý thủy “quan quỉ”, đụng chỗ không thì đến ngày tuất sẽ khỏi. Nhưng trên hào “phụ mẫu” “biến quỉ”, chỉ e ông cụ nhà ta cũng có quan ngại ít nhiều. Ngay cả “thế hào của bản thân, kiếp cũng quá nặng đến ngày thủy vượng thổ suy cũng không tốt.

Ông ta nói xong, liền vểnh râu ngồi yên.

Giả Dung ban đầu thấy ông ta giở trò ma, trong bụng nhịn không được, chỉ muốn cười, sau nghe ông ta giảng lý trong quẻ rất rõ ràng, lại nói sợ cha mình cũng không yên, liền hỏi:

– Thầy đoán rất tài, nhưng không biết mẹ tôi bị bệnh gì?

– Cứ như quẻ này, “thế hào” thủy hoả khắc nhau, tất nhiên là hàn hỏa ngưng kết. Nếu muốn đoán cho rõ ràng, bói cỏ thi 5 cũng không rõ lắm, phải dùng “đại lục nhâm”, thì mới đoán được đúng.

– Thầy cũng đều biết cả à?

– Cũng biết ít nhiều.

Giả Dung liền xin ông ta xem cho một quẻ và báo ra một giờ. Ông ta liền vẽ lên cái khay, bày các thần tướng ra mà tính thì là bạch hổ trong cung tuất. Quẻ này gọi là “phách hoả”. Bạch hổ tức là hung tướng, nếu gặp vượng khí sẽ bị dẹp lại không thể làm hại. Nay lại gặp “tử thần” “tử sát”, và thời lệnh giam hâm thành ra hổ đói, tất sẽ làm hại người. Cũng như phách thần bị kinh sợ mà tiêu tán, cho nên gọi là “phách hoá” 6. Quẻ này đoán rằng con người bị mất vía, lo phiền liên miên, bị bệnh thì sẽ chết, kiện thì bị lo sợ. Cứ tượng mà xét thì ngày chiều hổ tới nên nhất định mắc bệnh vào lúc chiều tối. Trong tượng lại nói: “Phàm ai mà bói đúng quẻ này thì nhất định là nơi vườn cũ có hổ nấp làm dữ, hoặc là có hình dáng, có tiếng động”. Nay ngài vì cha mẹ mà bói, đúng vào câu: hổ ở dương thì đàn ông phải lo, ở âm thì đàn bà phải lo. Quẻ này rất là hung dữ, nguy hiểm!

Giả Dung nghe chưa xong, trên mặt thất sắc nói:

– Thầy nói rất đúng, nhưng so với quẻ trước, xem ra không hợp lắm, như thế có can gì không?

– Ngài đừng có vội, để tôi thong thả xem lại đã.

Ông ta cúi đầu xuống, lầm rầm một lúc rồi nói:

– May lắm, có cứu tinh rồi! Tính ra thì ở cung “Tỵ”, có quỉ thần giải cứu, gọi là “phách hoá hồn quý”, trước lo mà sau mừng, không can gì đâu, cần phái cẩn thận ít nhiều là được.

Giả Dung trả tiền bói rồi tiễn ông ta ra.

Giả Dung vào nhà thưa với Giả Trân

– Bệnh mẹ mắc phải là do hồi chiều tối ở bên vườn vì gặp “phục thi bạch hổ” nào đó.

– Mày nói mẹ mày hôm trước đi qua vườn mà về, khéo không lại gặp cái gì ở đấy cũng nên. Mày có nhớ việc thím Hai mày vào vườn về rồi bị ốm không? Thím ấy tuy không thấy gì, nhưng sau bọn a hoàn và bà già đều nói lúc đó trên núi có một vật gì lông lá xồm xoàm, mắt như cái đèn lồng to tướng lại biết nói nữa. Nó đuổi thím Hai, làm thím Hai về rồi khiếp mà sinh ốm.

– Con vẫn còn nhớ. Con còn nghe Bồi Dính bên nhà chú Bảo nói, chị Tình Văn thì làm thần hoa phù dung ở trong vườn, khi cô Lâm chết thì giữa trời có tiếng âm nhạc, nhất định cô ta cũng trông coi hoa gì rồi đấy. Trong vườn nhiều yêu quái như thế thì nguy thật! Trước kia, người nhiều, dương khí thịnh, đi lại luôn không ngại gì, nay gặp lúc vắng vẻ mà mẹ đi qua đó, không biết lại giẫm phải hoa gì cũng nên, không thì cũng lại gặp phải vị nào rồi đấy? Quẻ ấy bói cũng đúng đấy.

– Thế ông ta bảo có can gì không?

– Cứ như ông ta nói thì đến ngày tuất sẽ khỏi. Chỉ mong sao cho khỏi được hai ngày hoặc chậm lại hai ngày thì hay.

– Thế là thế nào?

– Nếu ông ta mà đoán đúng thì sợ cha cũng không được yên.

Đang nói chuyện thì nghe bên trong nhà kêu:

– Mợ đòi ngồi dậy sang bên vườn, bọn a hoàn giữ không được.

Giả Trân chạy vào yên ủi thì nghe Vưu thị miệng nói lảm nhảm:

– Người mặc áo đỏ đến gọi ta! Người mặc áo xanh đến đuổi ta.

Bọn a hoàn đứng đấy vừa sợ vừa buồn cười.

Giả Trân liền sai người đi mua ít vàng giấy, đưa vào vườn đốt. Quả nhiên đêm ấy Vưu thị đổ mồ hôi, bệnh giảm được đôi phần. Đến ngày tuất, dần dần khoẻ hẳn. Từ đó, một đồn mười, mười đồn trăm, ai cũng nói trong vườn Đại Quan có quỉ. Bọn coi vườn sợ quá. không còn dám sửa sang cây cối, vun tưới cỏ rau gì cả. Trước thì ban tối không ai dám qua lại, đến nỗi chim muông lấn người, gần đây, thậm chí ban ngày cũng hai ba người cầm khí giới mới dám đi. Cách đó ít lâu, quả nhiên Giả Trân cũng ốm, nhưng không mời thầy thuốc chữa nữa, nhẹ thì đến vườn đốt vàng xin khất, nặng thì bói toán cầu cúng. Giả Trân khỏi thì bọn Giả Dung nối tiếp nhau ốm. Mấy tháng trời liên tiếp như vậy, làm cho cả hai phủ đều sợ. Từ đó, nghe tiếng chim kêu, gió thổi, và từng gốc cây ngọn cỏ, người ta cũng cho là yêu tinh cả. Các khoản cho thầu trong vườn nhất thiết bỏ hết, tiền chi tiêu hàng tháng, các phòng đều phải tăng thêm, làm cho phủ Vinh càng

chật vật. Bọn coi vườn không còn mơ ước gì nữa, ai cũng muốn bỏ đó mà đi, thường bịa ra những chuyện yêu quái để đòi dời ra. Sau đó họ đóng chặt cửa vườn lại, không ai dám vào, làm cho lầu cao gác rộng, quán ngọc đài dao đều trở thành nơi chim muông nương đậu.

Anh ngoại Tình Văn là Ngô Quý nhà ở ngay trước cửa vườn. Từ khi Tình Văn chết, nghe nói cô ta làm thần hoa, cho nên cô vợ anh ta cứ tối đến là không dám ra khỏi cửa. Hôm đó, Ngô Quý đi ra mua đồ vật, cô vợ anh ta bị cảm sẵn, ban ngày uống lầm thuốc nên đến đêm Ngô Quý về nhà, thì thấy vợ đã chết nằm trên giường. Người ngoài thấy mụ ta là người không đứng đắn, liền bịa chuyện nói là yêu quái leo tường ra hút hết tinh cho nên chị ta chết. Giả mẫu nghe nói, hoảng sợ, liền sai một số người vây kín lấy phòng ở của Bảo Ngọc, chia canh tuần phòng nghiêm ngặt. Bọn a hoàn nhỏ, đứa thì nói thấy người mặt đỏ, đứa thì nói thấy người con gái rất đẹp, bàn tán không ngớt, làm cho Bảo Ngọc luôn luôn khiếp sợ. May được Bảo Thoa vững vàng, nghe bọn a hoàn nói nhảm, liền doạ đòi đánh, nên những lời nói bịa đặt ấy cũng ngày một đỡ. Khốn nỗi, người ở các phòng đều sợ người, sợ quỉ, nơm nớp không yên, nên phải thêm người canh đêm, do đó, sự ăn tiêu càng tốn.

Chỉ có Giả Xá không tin lắm, bảo:

– Cái vườn yên tĩnh như thế, làm gì có ma quỉ.

Ông ta liền chọn ngày gió mát, ấm trời, dẫn một số người nhà cầm khí giới, vào vườn dò xem có động tĩnh gì không. Mọi người khuyên, ông ta không nghe. Khi vào vườn, quả nhiên âm khí ghê người. Giả Xá mạnh dạn tiến vào, nhưng bọn người đi theo thì đều so đầu rụt cổ. Trong đó, có một anh trẻ tuổi, bụng đã khiếp sợ, bỗng nghe “soạt” một tiếng, ngoảnh nhìn thì thấy một vật gì năm sắc chói lọi hay qua. Anh ta khiếp quá, kêu cái “ái chà” một tiếng, hai chân mềm nhũn, liền ngã ngay xuống. Giả Xá ngoảnh lại hỏi thì anh ta hồi hộp thưa:

– Chính mắt cháu trông thấy một con yêu tinh mặt vàng râu đỏ, áo tía xiêm xanh chạy vào hốc núi sau rừng cây.

Giả Xá nghe nói cũng hơi chột dạ, liền hỏi:

– Chúng bay đều thấy cả à?

Có mấy người cùng nói hùa theo:

– Sao lại không thấy, nhưng vì có ông lớn ở đấy, chúng con không dám kinh động, còn giữ vững tinh thần được.

Giả Xá nghe nói sợ hãi, cũng không dám đi nữa vội vàng trở về, dặn bọn hầu nhỏ không được nhắc đến, cứ nói đi xem khắp nơi chẳng thấy có gì. Thực ra thì trong bụng ông ta cũng tin, định đến phủ Chân Nhân mời pháp sư đến đuổi ma. Ngờ đâu bọn người nhà dầu không có chuyện chúng cũng còn bịa ra, huống gì bây giờ chúng thấy Giả Xá cũng sợ, nên chẳng những không giấu mà lại còn bịa đặt ra nhiều điều làm cho ai nghe cũng phải lè lưỡi.

Giả Xá chẳng biết làm thế nào, đành phải mời đạo sĩ đến vườn hoá phép trừ tà. Đạo sĩ chọn ngày tốt, trước hết lập một đàn tràng ở điện “Tỉnh thân “, trên hay tượng Tam thanh; hai hên bày hình ảnh hai mươi tám vị sao và bốn đại tướng là Mã, Triệu, Ôn, Chu; bên dưới bày tranh ba mươi sáu thiên tướng. Hương hoa đèn đuốc bày khắp cả nhà. Chuông trống và các đồ pháp bảo bày

la liệt hai bên. Các thứ cờ cắm theo màu sắc năm phương. Ty đạo kỷ sắp đặt bốn mươi chín vị đạo sĩ làm người chấp sự, để riêng một ngày làm lễ tĩnh đàn. Ba vị pháp quan hành hương lấy nước xong, rồi mới nổi hiệu trống lên. Các vị pháp sư đều đội mũ thất tinh, mặc áo pháp y cửu cung bát quái, đi giày đằng vân, tay cầm hốt ngà, liền dâng biểu mời các vị thánh. Lại đọc một ngày kinh Động Nguyên, để trừ tai, đuổi tà, và tiếp phúc, rồi sau đó ra bảng triệu tướng. Trên bảng viết: đại pháp sư, linh bảo phù lục diễn giáo ba cõi Thái ất, Hỗn nguyên, Thượng thanh, ra lệnh cho các thần ở địa phương đều đến nghe lệnh sai khiến”.

Ngày hôm ấy, các người trên dưới ở hai phủ, cậy có pháp sư bắt yêu, đều vào vườn xem, ai cũng nói:

– Pháp lệnh lớn thật! Gọi thần sai tướng rầm lên như thế, bất luận yêu quái nhiều hay ít cũng đều sợ chạy hết.

Mọi người đều chen nhau đến trước đàn. Đạo sĩ nhỏ dựng cờ và phướn lên đứng theo năm phương, chờ chực hiệu lệnh của pháp sư. Ba vị pháp sư, một vị tay cầm bảo kiếm và bưng nước phép; một vị cầm cờ đen có vẽ thất tinh và một vị cầm roi đánh yêu quái bằng gỗ đào, đều đứng ở trước đàn. Bỗng thấy pháp khí dừng lại rồi thì bên trên đánh ba tiếng lệnh, trong miệng pháp sư đọc câu thần chú, cờ năm phương bày rải rác ra xung quanh. Pháp sư bước xuống đàn, gọi người nhà dẫn đi đến các chỗ lầu gác, đình, đài, nhà cửa, hiên phòng, cho đến chân núi, bến nước, rảy nước phép, rồi dùng gươm chỉ vẽ một chốc, trở về đánh luôn mấy tiếng lệnh, đem cờ thất tinh tung lên. Các đạo sĩ thì đem cờ và phướn nhóm lại một chỗ. Pháp sư lại cầm roi đánh

yêu quái đánh luôn ba cái vào giữa khoảng không. Bọn người nhà đều cho là bắt được yêu quái, giành nhau lại xem. Khi đến tận nơi thì chẳng thấy hình dáng tiếng tăm gì cả. Chỉ thấy bọn pháp sư gọi các đạo sĩ đưa bình.lọ đến bắt yêu quái nhốt lại, dán giấy lên trên. Pháp sư dùng bút son viết bùa sai người mang về giữ lại ở một cái tháp trong chùa rồi hạ đàn và làm lễ tạ thần tướng. Giả Xá kính cẩn tạ ơn các pháp sư.

Anh em Giả Dung sau đó cứ cười mãi, nói

– Bày biện một cách đồ sộ như thế, bọn mình cứ tưởng là bắt được yêu quái cho nhìn một tý xem ra làm sao, ai ngờ lại có thế thôi, biết họ có thật bắt được yêu quái không?

Giả Trân nghe nói, mắng

– Đồ ngu! Yêu quái khi nhóm lại thì thành hình, khi tan ra thì thành khí, hiện nay có biết bao nhiêu thần tướng ở đây, yêu quái còn dám hiện hình ra à? Cốt sao thu lấy khí yêu, không cho nó quấy nhiễu nữa, thế là pháp lực đấy.

Mọi người nửa tin nửa ngờ, hãy chờ xem không thấy hiệu nghiệm gì rồi sẽ nói.

Bọn người dưới biết là yêu quái bị bắt, trong bụng hết nghi ngờ, nên không sợ sệt như trước nữa, về sau quả nhiên chẳng có ai nhắc đến. Bọn Giả Trân khỏi bệnh, bình phục như cũ đều cho là nhờ có thần lực của pháp sư. Riêng có một tên hầu nhỏ cười và nói:

– Trước kia ma quái như thế nào, tôi cũng chả biết, còn như hôm theo ông lớn vào vườn, thì rõ ràng là một con gà trống rừng bay qua, thằng Thuyên khiếp sợ, mù mắt, nói như chuyện thật? Bọn chúng tôi nói dối dùm cho nó, ông lớn cho là thật, làm chúng mình được xem một đàn tràng vui nhộn.

Mọi người nghe nói, nhưng chẳng ai dám tin. Rút cục vẫn không ai vào ở trong vườn.

Một hôm Giả Xá rảnh việc, đang định gọi người dọn vào trông nom trong vườn, sợ đêm hôm có quân gian trốn núp ở đó. Vừa muốn truyền lời ra gọi, bỗng thấy Giả Liễn đi vào hỏi thăm sức khoẻ và thưa:

– Hôm nay con sang bên nhà cậu Cả, nghe có tin bịa đặt nói là chú Hai bị quan tiết độ hạch về tội không chịu xem xét để bọn tuỳ thuộc thu thuế lương gạo quá nặng, tâu xin cách chức.

Giả Xá nghe xong, giật mình, nói:

– Có lẽ là tin bịa đặt thôi? Hôm trước chú Hai viết thư về, nói Thám Xuân ngày nọ đến nơi, chọn ngày giờ tốt đưa em mày tới miền biển, dọc đường gió yên sóng lặng, cả nhà không cần lo nghĩ. Lại còn nói quan tiết độ nhận làm bà con, thết tiệc chúc mừng, lẽ nào đã làm bà con rồi lại còn hặc nhau? Hãy khoan nói gì cả, con cứ đến bộ lại dò cho rõ ràng rồi về nói với ta.

Giả Liễn tất tưởi ra đi, chưa đến nửa ngày đã về, thưa lại:

– Con vừa đến bộ lại dò xem thì quả nhiên chú Hai bị hặc. Bản tâu dâng lên, may nhờ ân đức của hoàng thượng, không giao xuống bộ, liền xuống chiếu chỉ nói: “Không xem xét bọn quan dưới thu thuế lương gạo quá nặng, làm hại nhân dân, tội đáng cách chức. Nhưng nghĩ rằng mới làm quan ngoài, chưa quen việc cai trị nên bị bọn quan dưới che giấu. Vậy chỉ giáng ba cấp, gia ân cho vẫn làm chức viện ngoại bộ công như trước và truyền phải về kinh ngay”. Tin này là đúng đấy. Lúc con đang nói chuyện ở bộ lại thì có một viên tri huyện ở Giang Tây được đưa vào bệ kiến cũng vừa đến đó. Nói đến chú Hai nhà ta, ông ta rất là cảm kích. Ông ta nói chú Hai là một vị quan rất tốt, nhưng dùng người không đúng. Bọn người nhà ở ngoài rêu rao lừa dối, khinh rẽ viên chức ở dưới, làm chú Hai mang tiếng. Quan tiết độ biết đã lâu, ngài cũng nói. Chú Hai là người tốt, không hiểu sao bây giờ ông ta lại hặc. Chắc là quan tiết độ thấy tệ quá, sợ sau này xảy ra vạ lớn, cho nên mượn việc không xét người dưới mà hặc để giảm nhẹ tội, cũng chưa biết chừng.

Giả Xá ngắt lời bảo Giả Liễn:

– Con hãy đi trình với thím Hai. Khoan trình với bà là được.

Giả Liễn liền đi ra trình lại với Vương phu nhân.

1      Một danh từ Đông y, nghĩa là đường kinh lạc từ dạ dày đi xuống chân.

2      Thầy bói dùng ba đồng tiền gieo xuống khay: ngửa cả ba đồng là “giao”, sấp một đồng là “đơn”, sấp hai đồng là “sách”, sấp ba đồng là “trùng”, rồi theo đó mà tính ra là quẻ gì.

3      “Đơn chiết đơn” là cách tình các quẻ đơn trong kinh Dịch.

4      Tên một quẻ trong kinh Dịch.

5      Bói cỏ thi là đếm cây cỏ thi để mà bói theo phép kinh dịch.

6      Các chữ như thế hào, bạch hổ, phách hoả, tử thần, tử sát, v.v.. đều là danh từ riêng trong phép bói toán đời xưa.

Chương 103: Giở kế độc ác, Kim Quế tự giết mình

Giở kế độc ác, Kim Quế tự giết mình

Không hiểu đạo thiền, Vũ Thôn gặp người cũ

Giả Liễn sang nhà Vương phu nhân nói rõ đầu đuôi. Đến hôm sau anh ta vào trong bộ thu xếp ổn thỏa rồi, về nhà đem việc thu xếp ở bộ lại nói với Vương phu nhân. Vương phu nhân liền hỏi:

– Cháu dò chắc rồi à? Nếu quả như thế, chú cũng bằng lòng, mà cả nhà cũng yên tâm. Còn làm quan ngoài thì thật là không làm được! Nếu không gặp việc như thế mà về thì có lẽ bọn tầm bậy kia còn chôn cả mạng chú đi nữa kia.

– Sao thím biết?

– Từ khi chú Hai cháu đi làm quan ngoài tới nay, chẳng thấy gửi một đồng tiền nào về nhà, mà lại lấy mất bao nhiêu tiền nhà đem đi. Cháu xem đấy, bọn đi theo chú thì chồng ở ngoài chưa được mấy lâu mà vợ ở nhà đã hoa vàng xuyến bạc, trang điểm lộng lẫy. Không phải chúng ở ngoài che mắt chú mà làm tiền là gì? Thế mà chú cháu cũng để mặc cho chúng làm bậy. Nếu xảy ra chuyện chẳng lành thì chẳng những mất chức quan của mình, mà cả chức quan của cha ông để lại cũng mất luôn nữa.

– Thím nói cũng phải. Vừa rồi cháu nghe chú bị hặc, cũng sợ cuống lên. Đến khi dò hỏi rõ ràng mới yên tâm. Cháu cũng muốn chú làm quan ở kinh yên ổn mấy năm, mới giữ tròn được thanh danh cả đời người. Dầu cụ có nghe thấy, chắc cũng yên lòng, chỉ cần thím lựa lời nói cho nhẹ nhàng một chút.

– Ta hiểu rồi, cháu lại đi dò hỏi thêm nữa xem.

Giả Liễn vâng lời, định ra đi. Bỗng thấy một bà già ở bên nhà Tiết phu nhân, ra vẻ hoảng hốt, chạy đến. Vào đến nhà Vương phu nhân, bà ta cũng không hỏi thăm sức khỏe, mà nói ngay:

– Bà nhà chúng tôi bảo đến trình với bà lớn ở đây, bên nhà chúng tôi nguy lắm, lại xảy ra việc rồi!

Vương phu nhân vội hỏi:

– Có việc gì thế?

– Nguy lắm, nguy lắm!

Vương phu nhân hừ một tiếng, bảo:

– Đồ lẩm cẩm! Có việc gì quan hệ thì mụ cứ nói ra xem nào?

– Cậu Hai nhà tôi đi vắng, không có người đàn ông nào ở nhà, việc này xảy ra biết làm thế nào! Nhờ bà lớn cho mấy cậu sang lo liệu giùm cho.

Vương Phu nhân nghe nói, chẳng hiểu ra sao, hoảng lên nói:

– Mời các cậu sang để làm gì chứ?

– Mợ cả nhà tôi chết mất rồi!

Vương phu nhân nghe nói, nhổ toẹt một cái rồi nói:

– Cái thứ đàn bà ấy chết đi thì thôi, có đáng gì mà cũng làm rầm lên như thế?

– Không phải chết bình thường mà là chết một cách ám muội. Nhờ bà lớn mau cho người sang lo liệu hộ.

Bà ta nói xong định chạy về.

Vương phu nhân vừa tức, vừa buồn cười, liền nói:

– Bà già này rõ lẩn thẩn! Anh Liễn ạ, anh sang xem, đừng nghe cái mụ ngu ngốc ấy.

Bà già kia không nghe câu “cho người sang”, mà chỉ nghe “đừng nghe mụ ấy “, liền đâm giận, bỏ chạy về.

Bên này Tiết phu nhân đang lúc cuống quít, chờ mãi không thấy ai đến. Vừa thay bà già về, bà ta hỏi ngay

– Dì sai ai đến?

Bà già thở dài:

– Người ta khi có việc nguy cấp mới biết. Bà con thân thiết xem chừng cũng chẳng ăn thua gì? Dì chẳng những không chịu giúp đỡ nhà ta mà còn mắng tôi là ngu ngốc?

Tiết phu nhân nghe nói vừa tức vừa hoảng, liền bảo:

– Dì không nhìn thì cô nói thế nào?

– Dì đã không nhìn thì chắc rằng cô nhà ta lại càng không nhìn nốt, nên tôi không đến nói.

Tiết phu nhân nhổ toẹt một cái và nói:

– Dì là người ngoài. Cô là con ta, sao lại không nhìn được.

Bà già nghe nói mới nhớ ra:

– Phải rồi! Đã thế thì để tôi đi nói.

Đang nói thì thấy Giả Liễn đến chào Tiết phu nhân, ngỏ lời hỏi thăm rồi nói:

– Thím cháu nghe nói mợ nó mất đi, hỏi bà già không rõ gì cả. Thím cháu rất sốt ruột, sai cháu sang hỏi lại cho rõ ràng, và bảo cháu ở đây lo dùm, nên như thế nào, dì cứ nói để liệu.

Tiết phu nhân đang tức, ngồi khóc thầm, nghe Giả Liễn nói, vội vàng trả lời:

– Thật làm phiền cậu. Tôi đã nói dì đối đãi với tôi rất tử tế nhưng con mụ già ấy nói không rõ, suýt nữa làm hỏng việc. Mời cậu ngồi xuống để thong thả, tôi nói cho cậu nghe.

Đoạn lại nói tiếp:

– Không có việc gì khác, chỉ vì con dâu tôi chết không phải bình thường!

– Chắc là vì chú em mang tội, mợ ta buồn giận mà chết chứ gì?

– Nếu đượcc như thế thì đã phúc! Mấy tháng trước đây, ngày nào nó cũng cứ đi chân không, bỏ xoã tóc làm như con điên. Sau nghe em cậu 1 bị tội chết, nó có khóc một trận, nhưng sau đó lại bôi son đánh phấn. Tôi nói thì nó làm ầm lên. Không chịu nổi nên tôi cứ để mặc. Hôm gần đây không biết tại sạo nó bảo con Hương Lăng đến ở chung với nó. Tôi bảo nó: “Mày có con Bảo Thiềm rồi, còn gọi con Hương Lăng làm gì? Vả lại mày vẫn không thích con Hương Lăng, tội gì mà làm cho thêm tức giận? Nó nhất định không nghe. Tôi không biết làm thế nào, đành phải bảo Hương Lăng tới phòng nó. Tội nghiệp con Hương Lăng, không đám cưỡng lời tôi, phải mang bệnh mà đến. Ai ngờ nó đãi Hương Lăng rất tốt, tôi cũng vui mừng. Cô em của cậu 2 biết thế liền nói: “Chỉ sợ chẳng phải tốt thật đâu”. Tôi cũng không để ý. Mấy hôm đầu, Hương Lăng ốm nằm. nó tự tay đi nấu canh cho Hương Lăng ăn. Không ngờ Hương Lăng vô phúc, vừa bưng canh thì tay nó bị bỏng, vỡ cả bát canh. Tôi chắc rằng nó sẽ giận lây Hương Lăng. Nhưng nó không giận rồi tự lấy chổi quét sạch. múc nước chùi đất. Hai đứa vẫn tử tế với nhau như thường. Chiều hôm qua, nó lại bảo con Bảo Thiềm làm hai bát canh để ăn chung với Hương Lăng. Cách một lúc thấy bên nhà nó ồn lên. Con Bảo Thiềm hoảng hốt kêu to. Sau đó con Hương Lăng cũng

kêu và vịn tường đi ra gọi người. Tôi vội vàng sang thì thấy con dâu tôi lỗ mũi con mắt đều chảy máu, đang vật vã giữa đất, hai tay cào bụng, hai chân giãy đành đạch, làm cho tôi chết khiếp đi được. Tôi xem bộ dạng thì rõ là nó uống phải thuốc độc. Bảo Thiềm liền khóc lên và níu lấy Hương Lăng, nói là Hương Lăng bỏ thuốc độc giết chết mợ nó. Tôi xem Hương Lăng không phải là người như thế. Vả chăng nó ốm, dậy cũng không được, làm sao mà bỏ thuốc độc giết được người. Khốn nỗi, con Bảo Thiềm cứ nói chắc chắn như thế. Cậu Hai xem, tôi làm thế nào bây giờ. Tôi đành phải bảo bọn bà già trói con Hương Lăng lại, giao cho con Bảo Thiềm và khoá trái cửa phòng lại. Tôi và em hai cậu 3, ngồi giữ suốt đêm, chờ cho bên phủ mở cửa mới đi nói được. Cậu Hai ạ! Cậu là người thông hiểu, việc này bây giờ làm thế nào đây?

Giả Liễn nói:

– Bên nhà họ Hạ đã biết chưa!

– Cũng phải xử trí thế nào cho rõ ràng đã rồi mới báo tin cho họ được.

– Theo tôi thì việc này phải báo quan mới xong. Chúng ta cố nhiên là nghi cho con Bảo Thiềm. Nhưng người ta sẽ hỏi tại sao con Bảo Thiềm lại bỏ thuốc độc giết chết cô nó. Nếu mà gán cho Hương Lăng thì đáng còn có lý.

Đang nói chuyện thì thấy bọn con gái hầu ở bên Phủ Vinh đi vào thưa:

– Mợ Hai chúng tôi đến đấy!

Giả Liễn tuy là anh chồng, nhưng vì hai bên đã biết nhau từ lúc nhỏ, nên cũng không cần tránh. Bảo Thoa vào chào mẹ và Giả Liễn, rồi vào nhà trong ngồi với Bảo Cầm.

Tiết phu nhân theo vào, đem chuyện vừa rồi nói lại cho Bảo Thoa nghe, Bảo Thoa liền nói:

– Nếu bắt trói Hương Lăng thì ra mình cũng nói Hương Lăng bỏ thuốc giết người à? Mẹ nói canh ấy do Bảo Thiềm nấu thì nên trói nó lại mà hỏi, một mặt cho người báo tin với nhà họ Hạ; một mặt đi báo quan mới phải.

Tiết phu nhân nghe nói có lý, liền hỏi Giả Liễn. Giả Liễn nói:

– Em Hai nói rất phải. Việc báo quan thì tôi phải đi, phải dặn trước những người bộ hình thì khi khám nghiệm và lấy khẩu cung họ mới giúp đỡ mình. Còn việc trói Bảo Thiềm, tha Hương Lăng thì hơi khó.

Tiết phu nhân nói:

– Không phải là tôi muốn trói Hương Lăng, nhưng sợ Hương Lăng trong khi ốm lại bị oan, hoảng lên mà tự tử, thì lại thêm một nhân mạng nữa, nên mới trói mà giao cho Bảo Thiềm, đó cũng là có ý.

Giả Liễn nói:

– Tuy nói như vậy, nhưng làm như thế thì lại hoá ra mình giúp cho Bảo Thiềm rồi. Nếu tha thì tha cả; trói thì trói cả; vì ba người ấy ở chung một chỗ. Chỉ nên sai người yên ủi riêng Hương

Lăng là được.

Tiết phu nhân liền sai người mở cửa đi vào. Bảo Thoa sai mấy người đàn bà theo đến giúp sức trói Bảo Thiềm.

Lúc đó, thấy Hương Lăng đã khóc lóc, chết đi sống lại. Còn Bảo Thiềm thì hớn hở đắc ý, sau nó thấy người ta định trói mình thì gào lên, nhưng người Phủ Vinh quát nạt, rồi trói lại và mở cửa ra để sai người trông nom cho tiện.

Người tin cho nhà họ Hạ cũng đã đi. Nhà họ Hạ trước kia không ở trong kinh, nhân vì gần đây cảnh nhà sa sút, lại nhớ con gái nên mới dọn ra ở kinh. Người cha đã mất, chỉ còn có mẹ, lại lập tự Hạ Tam là một đứa tầm bậy, phá sạch cơ nghiệp. Hắn cũng thường đến nhà họ Tiết. Kim Quế vốn là người dâm đãng, chịu cảnh phòng không sao nỗi. Chị ta ngày ngày tơ tưởng Tiết Khoa không được, nên có vẻ như người đói không chọn thức ăn. Nhưng khốn nỗi, Hạ Tam lại là một thằng ngốc, tuy có hiểu biết ít nhiều, nhưng cũng chưa dám ăn nằm với nhau. Vì thế, Kim Quế thường về nhà, giúp hắn ít nhiều tiền bạc.

Hôm đó, Hạ Tam đang mong Kim Quế về, thì thấy người nhà họ Tiết đến, bụng hắn nghĩ thầm: “Chừng lại mang cái gì về đây?” Không ngờ nghe nói là cô uống thuốc độc chết, hắn liền nổi nóng, kêu gào ầm ĩ. Mẹ Kim Quế nghe nói cũng vừa khóc vừa gào:

– Con gái ta ở nhà nó vô duyên vô cớ, tại sao lại uống thuốc độc?

Bà ta vừa kêu vừa khóc, rồi cùng người con đi ngay không chờ thuê xe nữa. Họ Hạ nguyên là một nhà buôn bán, nay không có tiền thì còn giữ sĩ diện gì. Con bà ta chạy trước, còn bà ta thì cùng một bà già ăn mặc rách rưới ra khỏi cửa, dọc đường phố, vừa khóc vừa kêu rồi thuê một cái xe xộc xệch đi thẳng đến nhà họ Tiết. Vào nhà, bà ta cũng chẳng bắt chuyện với ai, liền gọi: “Con ơi, con hỡi!” và bắt đền người.

Lúc đó Giả Liễn còn đến bộ hình nhờ người ta giúp đỡ, ở nhà chỉ có Tiết phu nhân, Bảo Thoa và Bảo Cầm, họ chưa bao giờ thấy cái cảnh tượng như thế, nên đều khiếp sợ không dám lên tiếng. Muốn nói phải chăng với bà ta, nhưng bà ta không chịu nghe, cứ một mực nói:

– Con gái tôi ở nhà bà có được sung sướng gì đâu? Hai vợ chồng nó bấy nay cứ sớm tối đánh chửi nhau như mổ bò. Các người lại không để cho hai vợ chồng nó ở một chỗ, bàn cách đem rể tôi nhốt vào nhà giam, lâu ngày không thấy mặt nữa. Mẹ con các người có bà con tốt, hưởng ung sướng đã đành,sợ để nó đấy gai mắt, nên sai người đánh thuốc giết chết nó đi, rồi nói là nó uống thuốc độc! Con tôi làm sao mà lại uống thuốc độc?

Vừa nói bà ta vừa đâm bổ đến trước mặt Tiết phu nhân. Tiết phu nhân đành phải lùi lại sau, nói:

– Bà thông gia này! Bà hãy nhìn con một chút, hỏi lại con Bảo Thiềm rồi hãy nói nhảm cũng chưa muộn!

Bảo Thoa và Bảo Cầm vì có đứa con nuôi họ Hạ ở ngoài nên không tiện ra can ngăn, bênh vực, chỉ ở trong nhà hoảng hốt.

May sao Vương phu nhân cho vợ Chu Thụy đến trông nom. Mụ vừa vào cửa, trông thấy một bà già, đang chỉ vào mặt Tiết phu nhân vừa khóc vừa mắng. Vợ Chu Thụy biết là mẹ Kim Quế, liền chạy lại nói:

– Đây là bà thông gia đấy à? Mợ cả uống thuốc độc có can gì đến bà dì chúng tôi đâu? Bà không được làm ầm ĩ như thế!

Mẹ Kim Quế hỏi:

– Bà là ai?

Tiết phu nhân thấy có người, mạnh dạn hơn, liền nói:

– Bà này người bên phủ Giả, là bà con chúng tôi đấy?

– Ai không biết nhà bà có bà con nương tựa. Có như thế mới bắt thằng rể tôi vào nhà giam được chứ? Không lẽ bây giờ để cho con gái tôi chết oan hay sao?

Nói đến đó, bà ta liền nắm lấy Tiết phu nhân mà bảo:

– Bà giết con gái tôi bằng cách nào, để cho tôi xem!

Vợ Chu Thụy khuyên:

– Bà cứ đi xem, không cần phải lôi lôi kéo kéo nữa.

Rồi mụ giơ tay đẩy ra. Con nuôi họ Hạ liền chạy lại, quát:

– Nhà mụ cậy thế bên phủ Giả, đến đánh mẹ tôi à?

Nói xong, nó vác ghế ném một cái. nhưng không trúng. Bọn người theo hầu Bảo Thoa nghe bên ngoài làm ồn lên, vội vàng ra xem, sợ vợ Chu Thụy bị lép vế, đều kéo bè, nửa khuyên nửa quát. Mẹ con nhà họ Hạ nổi khùng lên, nói:

– Biết thế lực của phủ Vinh rồi đấy! Nhưng con gái nhà chúng tao đã chết rồi, giờ đây chúng tao không cần gì đến tính mạng nữa.

Nói xong, chúng định chạy lại liều mạng với Tiết phu nhân. Người ở đấy tuy nhiều nhưng không sao cản nổi. Đúng như người xưa nói: “Một người liều mạng, muôn người khó chống”. Đang lúc gay go thì Giả Liễn dẫn bảy tám tên gia nhân đến. Trông thấy thế, Giả Liễn bảo kéo con họ Hạ ra và nói:

– Các ngươi không được làm càn, có điều gì cứ nói tử tế. Mau mau dọn dẹp trong nhà, các quan trong bộ hình sắp đến khám nghiệm rồi đấy.

Mẹ Kim Quế đang hung hăng, chợt thấy Giả Liễn đến quát nạt, mọi người đều buông tay đứng hầu. Bà ta thấy tình hình này cũng không biết Giả Liễn là người nào ở bên phủ Giả. Lại

thấy con mình đã bị mọi người tóm lấy, và nghe nói hộ hình sắp đến khám. Bà ta vốn định hễ thấy xác của con là trước hết làm cho một trận tan nát rồi mới đi kêu oan. Không ngờ ở đây họ đã đi báo quan trước, nên bà ta cũng non đi ít nhiều.

Tiết phu nhân khiếp sợ, đâm ra ngơ ngác, vợ Chu Thụy nói:

– Bọn họ đến, không nhìn con gái họ mà lại dày vò dì. Chúng tôi có lòng tốt đến khuyên, lại có một tên đầu bò ở đâu chạy đến, đánh bậy, nói bậy ở giữa chỗ các mợ. Thì ra không còn có phép vua gì nữa.

Giả Liễn nói

– Giờ đây không cần nói lý với nó nữa, chỗc nữa sẽ đánh nó và hỏi: đàn ông thì có chỗ của đàn ông. Trong này đều là các cô các mợ cả, vả có mẹ nó rồi lại không nhìn được chị nó hay sao? Nó chạy vào đây để mà ăn cướp à?

Bọn người nhà vừa đổ vừa tìm cách đe nẹt nó. Vợ Chu Thụy cậy có nhiều người, liền nói:

– Bà Hạ! Bà không hiểu gì cả? Đã đến đây bà cũng nên hỏi cho rõ đen trắng chứ? Cô gái nhà bà tự mình uống thuốc độc mà chết, không thì cũng là con Bảo Thiềm giết chết chủ nhà. Tại sao bà không hỏi rõ ràng, không nhìn xác chết con gái mà đã vu vạ cho người ta? Không lẽ chúng tôi lại chịu cho con dâu tự nhiên vô cớ mà chết oan hay sao? Hiện nay đã bắt Bảo Thiềm trói lại rồi. Vì cô gái nhà bà muốn lây bệnh, gọi Hương Lăng đến ở chung một nhà, cho nên cả hai người đều bị bắt giữ lại ở đây. Chúng tôi vẫn định chờ bà đến chính mắt trông thấy bộ hình khám nghiệm rồi hỏi cho ra manh mối mới được!

Bà mẹ Kim Quế lúc bấy giờ thế cô, đành phải theo vợ Chu Thụy đến phòng con gái, thì thấy chị ta đầy mặt máu đen, nằm sóng sượt trên giường. Bà ta liền khóc và gào. Bảo Thiềm thấy người nhà nó đến, cũng gào lên:

– Cô nhà ta có bụng tốt đối với con Hương Lăng, bảo nó ở chung, ai ngờ nó lại thừa dịp thuốc chết cô!

Lúc đó, người nhà họ Tiết đều ở đấy, liền đồng thanh quát bảo:

– Nói nhảm! Hôm qua mợ ăn phải canh mới bi chết. Canh ấy không phải là mày nấu hay sao?

Bao Thiềm nói:

– Canh thì do tôi nấu, khi bưng lên, tôi có việc đi ra, không thiết Hương Lăng dậy bỏ gì nào trong ấy.

Bà mẹ Kim Quế chưa nghe nói hết, đã vội chạy lại chỗ Hương Lăng. Mọi người ngăn lại. Tiết phu nhân liền nói:

– Xem bộ dạng này thì bị thạch tín thuốc chết đấy. Vật này trong nhà quyết không có, bất luận là Hương Lăng hay Bảo Thiềm thế nào cũng có đứa mua cho nó. Chốc nữa ra bộ hình hỏi, sẽ không chối được. Giờ hãy đem con dâu đặt nằm ngay ngắn để quan đến khám.

Bọn bà già tới sửa sang ngay ngắn. Bảo Thoa nói:

– Chốc nữa toàn là đàn ông vào đấy. Các bà hãy đi thu xếp các đồ dùng của phụ nữ lại.

Khi xem thì thấy dưới nệm giường có cái gói giấp vo tròn thành một cục. Bà mẹ Kim Quế trông thấy, liền nhặt lên mở ra xem, thấy không có gì, liền vứt đi. Bảo Thiềm trông thấy, nói:

– Bằng cứ ở đây rồi! Tôi biết gói giấy ấy: Mấy hôm trước đây, chuột phá dữ lắm, mợ về bên nhà nhờ cậu tìm cho, đem về để trong hộp đồ trang sức. Chắc là Hương Lăng trông thấy, rồi dùng nó để thuốc chết mợ. Nếu không tin thì các bà xem trong hộp trang sức xem còn có nữa không?

Bà mẹ Kim Quế nghe lời nói của Bảo Thiềm, lấy hộp ra thì chỉ có mấy cái trâm bạc. Tiết phu nhân liền nói:

– Tại sao những đồ trang sức khác đâu không còn nữa?

Bảo Thoa gọi người mớ rương và tủ ra, đều trống không, liền nói:

– Đồ đạc của chị, ai lấy đi thế? Cái này thì phải hỏi Bảo Thiềm mới được.

Bà mẹ Kim Quế trong bụng hơi lo, thấy Tiết phu nhân tra hỏi Bảo Thiềm, liền nói:

– Đồ đạc của cô nó, nó biết sao được.

Vợ Chu Thụy nói

– Bà đừng nói thế. Tôi biết cô Bảo ngày nào cũng ở cạnh mợ cả, sao lại không biết?

Bảo Thiềm thấy hỏi găng quá, chối quanh cũng không được đành phải nói:

– Mợ thường mang về bên nhà, tôi giữ được à?

Mọi người liền nói

– Giỏi thật! Phỉnh lấy của con gái hết rồi, bảo con tự tử để vu vạ cho chúng tôi? Giỏi thật! Chốc nữa, quan khám xong có hỏi. chúng tôi cứ nói như thế.

Bảo Thoa bảo người nhà:

– Ra ngoài kia, nói với cậu Hai Liễn. Đừng có thả người nhà họ Hạ ra.

Trong này bà mẹ Kim Quế cuống lên, liền mắng Bảo Thiềm:

– Con ranh kia đừng có nói nhảm, cô đem đồ đạc về nhà bao giờ thế?

Báo Thiềm nói:

– Giờ đây đồ đạc là việc nhỏ, đền mạng cho cô là việc lớn.

Bảo Cầm nói:

– Có đồ đạc là có người đền mạng? Mau mau nói với anh Hai Liễn hỏi cho rõ việc con nhà họ Hạ mua thạch tín, để chốc nữa trả lời với bộ hình cho tiện.

Bà mẹ Kim Quế hoảng hốt nói:

– Con Bảo Thiềm nhất định là bị quỉ ám, nói nhảm, nói bậy. Cô nhà ta có mua thạch tín bao giờ? Nói như thế, thì nhất định là Bảo Thiềm thuốc chết đấy!

Bảo Thiềm tức quá, kêu ầm lên:

– Người khác vu vạ cho tôi đã đành, sao bà cũng vu vạ cho tôi? Nhà bà chẳng đã thường nói với cô tôi rằng: chẳng tội gì mà chịu khổ, phá cho nó một trận. Người mất, của hết, rồi cứ cuốn đồ đạc vào một gói, đi lấy chồng khác tốt hơn. Bà có nói câu ấy không?

Bà mẹ Kim Quế còn chưa trả lời, thì vợ Chu Thụy đã nói ngay:

Đấy là người nhà bà nói đấy nhé. còn chối đằng trời.

Bà mẹ Kim Quế tức quá. nghiến răng nghiến lợi, mắng

Bải Thiềm

Tao đối xử với mày không đến nỗi tệ bạc? Sao mày dám buông lời định chôn chết tao? Chốc nữa hầu quan, tao sẽ nói là mày thuốc chết cô đấy!

Bảo Thiềm tức trợn mắt. nói

– Xin bà lớn thả Hương Lăng ra, không việc gì mà làm tội oan người khác. Lúc hầu quan tôi sẽ có cách nói.

Bảo Thoa bắt được đầu mối, liền sai người thả Bảo Thiềm ra, và nói:

– Chị là người sáng suốt, linh lợi, tội gì mà chịu oan. Có việc gì thì cứ nói trắng ra cho mọi người rõ, có phải là xong việc không?

Bảo Thiềm cũng sợ đến cửa quan sẽ chịu khổ, liền nói:

– Mợ cả chúng tôi ngày nào cũng oán trách, nói: “Mình thế này, làm sao lại gặp phải bà mẹ đui mắt, không gả mình cho cậu Hai, lại gả cho con người u mê bậy bạ ấy? Nếu mà được ở chung với cậu Hai một ngày, thì có chết cũng cam! Hễ nói đến đó mợ lại giận Hương Lăng. Ban đầu tôi cũng chẳng để ý, sau thấy mợ thân mật với Hương Lăng, tôi tưởng là Hương Lăng bày

vẽ gì cho mợ ấy rồi. Không ngờ việc nấu canh hôm qua có dụng ý không tốt.

Bà mẹ Kim Quế nói chẹn ngay:

– Lại càng nói nhảm! Nếu nó muốn thuốc Hương Lăng, sao lại thuốc lấy mình?

Bảo Thoa liền hỏi:

– Chị Hương Lăng, hôm qua chị có ăn canh không?

Hương Lăng nói

– Mấy hôm trước đây, tôi ốm không cất đầu dậy được, mơ bảo tôi ăn canh, tôi không dám nói không ăn, vừa định gượng dậy thì bát canh đã đổ mất, trở lại làm cho mợ phải dọn dẹp khó khăn, trong lòng tôi áy náy mãi. Hôm qua, nghe gọi tôi ăn canh, tôi ăn không được, không biết làm thế nào, lúc đang định ăn thì đầu lại choáng váng. Thấy chị Bảo Thiềm bưng đi, tôi đang mừng thầm, vừa nhắm mắt thì mợ ăn canh và bảo tôi nếm thử, tôi cũng cố gắng nuốt hai ngụm.

Hương Lăng nói chưa xong thì Bảo Thiềm đã đỡ lời:

– Phải rồi, tôi nói thật ra thôi. Hôm qua mợ bảo tôi làm hai bát canh, nói là để ăn chung với Hương Lăng. Tôi tức quá, nghĩ bụng: “Hương Lăng là cái thứ gì mà mình phải nấu canh

cho nó ăn? Tôi cố ý bỏ thêm mắm muối vào một bát, làm dấu sẵn: chính là để cho Hương Lăng ăn. Tôi vừa định bưng lên thì mợ ngăn lại, bảo ra ngoài gọi đứa bé thuê chiếc xe, hôm nay về bên nhà. Tôi đi ra nói xong trở về, thì thấy cái bát nhiều muối để trước mặt mợ. Tôi sợ để mợ ăn thấy mặn thì lại mắng tôi. Đang lúng túng không biết làm thế nào mà mợ đi ra, tôi nhân khi mợ sơ ý không nhìn thấy, liền đánh tráo bát canh chỗ Hương Lăng qua chỗ mợ. Thật cũng là số mệnh xui nên như thế. Mợ trở vào cầm bát canh đến bên giường Hương Lăng, quát: “Mày phải nếm một tý chứ?” Hương Lăng cũng không biết mặn, hai người đều ăn xong. Tôi còn cười Hương Lăng miệng không biết mùi gì, ai ngờ cái mợ chết tiệt ấy muốn thuốc Hương Lăng, chắc chắn là nhân lúc vắng tôi, mợ rắc thạch tín vào, cũng không biết là tôi đánh tráo bát. Thật là: “Lẽ trời rõ rệt, mình lại tự hại mình vậy!”

Mọi người nghe nói, nghĩ lại trước sau, thật là không sai một chút nào, liền tha Hương Lăng ra, đỡ cho cô ta nằm lên giường như trước.

Bà mẹ Kim Quế có tật giật mình, việc lại rõ ràng, còn toan chối cãi. Bọn Tiết phu nhân mỗi người một điều, định bắt con bà ta đền mạng cho Kim Quế.

Đang lúc lời qua tiếng lại ồn ào thì Giả Liễn ở ngoài kêu lên:

– Không cần nói nhiều làm gì, mau mau thu xếp cẩn thận, quan lớn bộ hình sắp đến đấy?

Mẹ con họ Hạ hoảng sợ, nghĩ rằng đường nào mình cũng phải chịu thiệt, bất đắc dĩ quay lại xin với Tiết phu nhân:

– Muôn ngàn đều không phải, cũng là do con gái tôi hư thân. Đó là tự nó làm nó chịu, nếu để bộ hình khám nghiệm thì thể diện nhà ta cũng khó coi. Xin bà thôi việc ấy đi cho!

Bảo Thoa nói

– Cái đó không được, đã cáo quan rồi, làm sao mà thôi được?

Bọn vợ Chu Thụy vừa dọa vừa khuyên:

– Nếu muốn thôi việc, chỉ có cách bà Hạ tự mình đứng ra xin đừng khám, chúng tôi không nói gì phải trái là thôi.

Giả Liễn ở ngoài cũng dọa thằng con. Thằng này tình nguyện đến gặp quan bộ hình, làm giấy cam kết xin đừng khám.

Mọi người đều bằng lòng. Tiết phu nhân sai người mua quan tài chôn cất Kim Quế.

Giả Vũ Thôn được thăng chức phủ doãn ở kinh và coi luôn việc thu thuế. Một hôm Vũ Thôn đi khám đất ruộng khai khẩn ở ngoài kinh đô, dọc đường qua huyện Tri Cơ, đến bến Cấp Lưu, đang định đi đò sang bờ bên kia, nhưng chờ dân phu nên tạm dừng kiệu lại. Vũ Thôn thấy bên đường có một toà miếu nhỏ, tường vách sụp đổ, để lộ ra mấy cây thông già, xem bộ cũng xanh um cổ kính, ông ta xuống kiệu, thong thả đi vào, thấy trong miếu tượng thần đã bị tróc mất lớp sơn trên mình, nhà cửa xiêu vẹo, một bên bia đá đã vỡ, dấu chữ lờ mờ, xem không rõ nữa. Ông ta định đi ra sau miếu thì thấy có một cây bách xanh biếc, dưới có một gian nhà tranh, trong nhà có một vị đạo sĩ, đang nhắm mắt ngồi nhập định. Vũ Thôn lại gần thì thấy người này diện mạo rất quen, mường tượng hình như đã gặp ở nơi nào, nhưng nghĩ không ra. Người đi theo định quát. Vũ Thôn ngăn lại, rồi thong thả đi tới nơi, gọi:

– Vị đạo sĩ già ơi!

Đạo sĩ hé mở hai mắt, khẽ cười và nói:

– Quan lớn có việc gì?

– Tôi từ kinh đô ra tra xét công việc, dọc đường qua đây, thấy vị đạo sĩ già yên lặng tu hành, có vẻ đắc đạo, chắc là đạo hạnh sâu rộng. Tôi muốn đánh bạo xin ngài dạy bảo.

Đến có chỗ đến, đi có phương đi.

Vũ Thôn biết người này chắc có lai lịch gì đây, liền vái dài một cái và hỏi:

– Đạo sĩ già bắt đầu đi tu từ đâu mà làm nhà ở đây? Miếu này tên là gì? Trong miếu cả thảy có mấy người? Hoặc muốn tu thật, thiếu gì núi cao? Hoặc muốn kết duyên sao không chọn chỗ đường lắm ngã?

– “Hồ Lô” 4 còn có thể yên mình, hà tất phải làm nhà ở núi cao. Miếu mất tên đã lâu, bia vỡ còn đấy, hình bóng theo nhau, hà tất phải tu hành mộ hoá 5. Có phải như bọn “Ngọc ở trong hòm chờ giá bán, thoa nằm trong hộp đợi thời bay” đâu. 6

Vũ Thôn vốn là người thông minh, ban đầu nghe nói hai chữ “Hồ lô”, sau lại nghe câu “thoa. ngọc”, chợt nhớ đến việc Chân Sĩ Ẩn, lại ngắm nghía kỹ người đạo sĩ một hồi nữa, thấy dung mạo của ông ta vẫn giống như trước, liền đuổi người đi theo ra, và hỏi:

– Ngài có phải là Chân lão tiên sinh không?

Đạo sĩ kia mỉm cười, và nói:

– “Chân” là gì, “Giả” là gì. Phải biết rằng “Chân” tức là “Giả”, “Giả” tức là “Chân”.

Vũ Thôn nghe nói đến chữ “Giả”, càng không nghi ngờ gì nữa, liền lại vái chào và nói:

– Học sinh này từ khi nhờ tiên sinh khảng khái giúp đỡ, vào kinh may mắn thi đậu, được bổ nhậm ở quý huyện, mới biết lão tiên sinh đã thoát nơi phàm tục, lên đến cõi tiên. Học sinh tuy băn khoăn tưởng nhớ, nhưng nghĩ mình là kẻ tục, lại ở chốn phong trần, không thể nào được thấy mặt tiên. May sao lại gặp ở đây, xin tiên ông dạy bảo cho kẻ ngu muội này. Nếu được tiên ông đoái đến, học sinh xin thờ phụng để sớm tối được nghe lời dạy bảo.

Vị đạo sĩ kia đứng dậy đáp lễ, nói:

– Bần đạo ngoài cái chiếu bồ ra, không còn biết trong thiên hạ này có vật gì. Những điều quan lớn nói vừa rồi, bần đạo này không hiểu gì cả.

Nói xong, lại ngồi xuống như trước.

Vũ Thôn trong lòng ngờ vực, nghĩ thầm:

– Nếu không phải là Sĩ Ẩn thì sao diện mạo nói năng giống hệt như thế? Từ khi cách biệt đến nay đã mười chín năm, mà sắc mặt như cũ, chắc là ông ta tu luyện thành công cho nên không chịu nói rõ việc trước. Nhưng mình đã gặp ân nhân, không thể để lỡ mất dịp. Xem chừng thì không thể lấy việc giàu sang làm cho ông ta động lòng, còn về chuyện vợ con, lại càng không cần nói nữa.

Vũ Thôn nghĩ rồi. lại nói:

– Tiên sư đã không chịu nói rõ việc trước, trong lòng kẻ học sinh này sao đành được?

Vũ Thôn đang định nói thì thấy người nhà vào thưa:

– Trời sắp tối, mời quan lớn mau mau qua sông.

Vũ Thôn bối rối chưa biết nghĩ sao, thì người đạo sĩ kia nói:

– Mời quan lớn mau qua bờ bên kia, sẽ có lúc gặp mặt, chậm trễ thì sẽ nổi sóng gió. Nếu quả có lòng tưởng đến thì ngày khác bần đạo này sẽ xin chờ ở bến đò để nói chuyện.

Nói xong, ông ta nhắm mắt lại, ngồi im.

Vũ Thôn chẳng có cách gì, đành phải cáo từ đi ra. Đang định đi qua đò, thì thấy một người chạy đến như bay.

1      Tức Tiết Bàn.

2      Tức Bảo Thoa.

3      Tức Bảo Cầm.

4      Cái bầu. Ở đây có ý nhắc đến cái miếu Hồ Lô mà Vũ Thôn trọ trước kia.

5      Mộ hoá là một danh từ đạo Phật, nghĩa là tìm người có duyên tu hành, có khi chỉ việc tìm kiếm vật chất.

6      Hai câu thơ cũ của Giả Vũ Thôn ngâm hồi ở trong miếu Hồ Lô (xem hồi một)

Chương 104: Kim cương say, cá nhỏ gây thành sóng lớn

Kim cương say, cá nhỏ gây thành sóng lớn

Công tử ngốc, thương thừa nhớ lại tình xưa

Giả Vũ Thôn vừa định qua đò, bỗng thấy một người đến trước mặt và nói:

– Bẩm ông lớn, cái miếu ngài vừa dạo chơi đó bốc cháy rồi.

Vũ Thôn ngoảnh lại nhìn thì thấy lửa cháy ngất trời, gió bay đầy đất. Vũ Thôn nghĩ thầm:

– Lạ thật! Mình vừa đi ra, chưa xa bao nhiêu, lửa ở đâu đã cháy? Phải chăng là Sĩ Ẩn hoá kiếp ở đấy? Muốn quay trở lại, nhưng lại sợ lỡ chuyến qua sông; nhưng nếu không quay lại, thì không đành lòng. Nghĩ một lát ông ta liền hỏi:

– Vừa rồi anh có thấy người đạo sĩ đi ra không?

– Con theo ông lớn đi ra, con đau bụng, đi rẽ ra một chút. Khi ngoảnh lại thấy một đám lửa đỏ rực. Thì ra trong miếu ấy bị cháy, nên chạy đến báo với ông lớn chứ không hề thấy có người đi ra.

Vũ Thôn có ý ngờ vực, nhưng ông ta là người ham mê danh lợi, đâu có chịu quay lại xem, liền bảo người kia:

– Anh ở đây chờ lửa cháy tàn, vào xem người đạo sĩ có ở đó nữa hay không, rồi lập tức về báo cho ta biết.

Người kia đành phải vâng lời, ở lại chờ xem.

Vũ Thôn qua sông rồi đi tra xét qua loa mấy nơi, gặp công quán liền vào nghỉ. Hôm sau Vũ Thôn lại đi một độ đường nữa, vào cửa kinh đô, bọn nha dịch đón tiếp, tiền hô hậu ủng. Vũ Thôn ngồi trong kiệu, nghe thấy bọn dẹp đường đi phía trước gào thét, liền hỏi việc gì. Họ dắt một người đến quỳ ở trước kiệu, và bẩm:

– Thằng này say rượu, không biết tránh lại còn xông vào. Chúng con quát, nó lại mượn cớ say rượu làm ầm lên, nằm ngay ra giữa đường, nói là chúng con đánh nó.

Vũ Thôn liền nói

– Ta cai trị địa phương này, chúng mày đều là dân của ta, biết ta đi qua, cứ uống rượu mà không chịu tránh, lại còn dám vu vạ à?

Người kia nói

– Tôi uống rượu là tiền của tôi. Tôi nằm là nằm đất vua. Dầu cho quan lớn cũng không can thiệp được.

Vũ Thôn nổi giận:

– Thằng này trong mắt không còn pháp luật kỷ cương gì cả! Hỏi xem tên nó là gì?

Người kia trả lời:

– Tên gọi là “thần rượu” Nghê Nhị.

Vũ Thôn nghe xong nổi giận bảo:

– Chúng bay đánh cho nó một trận, xem có phải là “Thần rượu” không?

Bọn thủ hạ đè Nghê Nhị xuống đánh cho mấy roi thật đau. Nghê Nhị đau quá, tỉnh cả rượu, van lạy xin tha.

Vũ Thôn ngồi trong kiệu cười khà khà:

– Cái đồ “kim cương” gì mà như thế! Ta hãy chưa đánh màỵ vội, cho người giải vào nha môn rồi thong thả sẽ hỏi mày sau.

Bọn nha dịch vâng lời, trói Nghê Nhị lại bắt đi. Nghê Nhị van xin cũng không ăn thua.

Vũ Thôn vào cung phục mệnh rồi về nha môn, cố nhiên là không còn thì giờ đâu nghĩ đến việc ấy nữa. Những người ở ngoài phố tụm năm tụm ba đồn đại với nhau.

– Nghê Nhị cậy thế cậy mạnh, mượn rượu vu vạ cho người ta, chuyến này lọt vào tay cụ lớn Giả có lẽ khó mà được tha!

Câu chuyện ấy đồn đến tai vợ và con gái Nghê Nhị. Đêm ấy quả nhiên không thấy lão về. Con gái lão đến tìm ở các sòng bạc. Người ở các sòng bạc đều nói như thế. Con gái lão liền khóc lóc Mọi người đều nói:

– Cô đừng có hoảng. Cụ già là người cùng họ với phủ Vinh. Có cậu Hai gì ở phủ Vinh quen biết cha cô. Cô cùng mẹ đi tìm cậu ta nhờ nói dùm cho thì sẽ được tha ngay.

Con gái Nghê Nhị nghĩ lại mới nhớ: “Phải đấy, cha mình thường nói có quen với cậu Hai họ Giả kề bên nhà, sao mình lại không đi tìm cậu ta?” Cô ta vội vàng về nói với mẹ, rồi hai mẹ con đi tìm Giả Vân. Hôm đó vừa lúc Giả Vân đang ở nhà, thấy hai mẹ con nó đến, liền mời ngồi. Mẹ Giả Vân rót nước mời uống. Mẹ con họ Nghê kể rõ chuyện Nghê Nhị bị cụ lớn Giả bắt, và nói:

– Nhờ cậu Hai nói giúp một tiếng để được tha ra.

Giả Vân nhận lời, và nói:

– Có gì cái quái ấy, tôi đến phủ Tây nói một tiếng thì sẽ được tha ngay. Cụ Giả hoàn toàn nhờ bên phủ tây nhà tôi mới làm được quan to như thế, chỉ cần sai người đi nói một tiếng là xong thôi.

Mẹ con họ Nghê mừng rỡ, về nhà, liền đến phủ nói cho Nghê Nhị biết, bảo ông ta đừng sợ, đã xin với cậu Hai Giả, cậu ta sốt sắng nhận lời, hứa nói giúp, sẽ được tha đấy. Nghê Nhị nghe nói cũng mừng.

Ngờ đâu Giả Vân từ hôm đưa lễ, Phượng Thư không nhận. Anh ta thấy khó coi, nên cũng không hay qua phủ Vinh. Bọn coi cửa ở phủ Vinh thường chiều đón ý chủ mà làm việc. Chủ muốn cho ai đến thì người ấy mới có thể diện. Khi đến, họ mới vào báo. Nếu chủ nhà có vẻ không để ý thì dù là bà con trong họ, họ cũng không báo, cứ kiếm cớ đẩy đi cho xong chuyện. Hôm ấy Giả Vân đến Phủ, nói:

– Tôi muốn vào hỏi thăm sức khoẻ của cậu Hai Liễn.

Bọn coi cửa nói:

– Cậu Hai không ở nhà, khi nào cậu ấy về chúng tôi sẽ nói hộ.

Giả Vân định nói xin vào hỏi thăm sức khỏe của mợ Hai, lại sợ bọn coi cửa chán ghét, đành phải quay ra. Hắn về đến nhà lại bị mẹ con nhà họ Nghê đến giục và nói:

– Cậu Hai thường nói bên quí phủ không cứ là cửa quan nào, nói một tiếng ai cũng nghe. Giờ đây cụ Giả cũng là người họ của quí phủ, lại không phải là việc gì thì lớn lắm, mà còn xin không được, chẳng hoá ra chúng tôi uổng công xin với cậu Hai sao?

Giả Vân bẽ mặt quá, nhưng vẫn nói cứng:

– Hôm qua bên nhà chúng tôi có việc, chưa đi được; hôm nay sai người đi thế nào cũng được tha ngay. Việc ấy có to tát gì!

Mẹ con họ Nghê nghe nói cũng tin là thực. Không ngờ gần đây Giả Vân không được vào cửa chính nữa, hắn liền quanh ra phía sau, định vào vườn tìm Bảo Ngọc, nhưng cửa vườn khóa kỹ, lại đành phải buồn rầu lủi thủi ra về. Giả Vân nghĩ bụng: “Năm mình vay Nghê Nhị ít bạc, mua hương liệu đưa đến, họ mới cho mình coi việc trồng cây. Bây giờ mình không có tiền lo lót thì họ từ chối. Kể ra họ chẳng có tài gì, chẳng qua chỉ vung tiền của cha ông ra cho người ngoài vay lấy lời. Nhưng nhà nghèo khổ như nhà mình, muốn vay một lạng cũng không được. Họ tưởng là giữ được suốt đời không nghèo đấy hẳn. Họ có biết đâu tiếng tăm bên ngoài không tốt, mình không nói đấy thôi, chứ nếu nói ra thì những việc kiện cáo và nhân mạng biết bao nhiêu mà kể”. Giả Vân vừa đi vừa nghĩ, về đến nhà, đã thấy mẹ con họ Nghê đang chờ. Giả Vân hết cách che đậy, liền nói:

– Phủ tây đã sai người đi nói, nhưng họ bảo là Giả đại nhân không nghe. Bây giờ mẹ con bà phải nhờ Lãnh Tử Hưng là con rể người đầy tớ nhà ta là Chu Thụy, mới ăn thua.

Mẹ con họ Nghê nghe xong, liền nói:

– Thể diện như cậu Hai còn không ăn thua, nếu mà nhờ đến đầy tớ thì lại càng không ăn thua nữa.

Giả Vân bẽ mặt quá, nổi nóng nói:

– Các người không biết, chứ bây giờ đầy tớ lại hơn chủ nhà nhiều đấy?

Mẹ con họ Nghê nghe nói, chẳng còn cách gì đành phải cười nhạt mấy tiếng và nói:

– Thật phiền cho cậu Hai phải tốn công chạy vạy mất mấy ngày? Chờ ông nhà tôi ra, sẽ xin đến tạ ơn.

Mẹ con họ Nghê ra về đi nhờ người khác. Nghê Nhị được thả ra. Hắn chỉ bị đánh mất gậy, chứ cũng chẳng có tội gì.

Nghê Nhị về nhà, vợ con hắn kể cho hắn ta nghe chuyện Giả Vân không chịu xin dùm. Hắn đang uống rượu, nghe nói, tức quá, định đi tìm Giả Vân, nói:

– Thằng bé đê tiện vô lương tâm kia? Trước kia nhà nó không có cơm ăn, muốn chạy chọt vào phủ kiếm việc làm, nhờ tao giúp cho. Giờ đây tao có việc, nó lại bỏ mặc. Giỏi thật! Nếu tao mà nói ra thì ngay cả hai phủ kia cũng đừng hòng được vô sự!

Vợ con hắn vội vàng khuyên:

– Chà! Ông cứ nốc rượu rồi vào nói những câu chẳng còn trời đất nào. Hôm trước chẳng phải vì say rượu gây ra tai vạ mà bị đánh hay sao? Vết thương vẫn chưa khỏi, ông đã lại nói nhảm rồi!

– Không, nhẽ mình bị đánh rồi sợ họ à? Chỉ sợ không lần ra được đầu mối thôi? Khi ở nhà giam, tôi quen biết mấy người bạn có nghĩa khí. Nghe họ nói thì họ Giả chẳng những ở nhiều trong kinh thành này mà còn ở rải rác các tỉnh cũng không phải ít. Hôm trước đây có mấy người nhà họ Giả bị giam trong ngục, tôi nghĩ nhà họ Giả ở đây, tuy bọn ít tuổi, và lũ đầy tớ không tốt, nhưng những người nhiều tuổi thì còn khá, tại sao lại phạm tội? Tôi hỏi dò thì nghe nói là bọn ấy cùng một họ với họ Giả nhưng đều ở tỉnh ngoài. Họ đã bị xét hỏi kỹ càng rồi mới giải vào đây định tội. Tôi nghe vậy mới an tâm, còn thằng ranh con Giả Vân, đã quên ơn phụ nghĩa như thế, thì tôi sẽ mách với người bạn nói nhà hắn cậy thế khinh người như thế nào, đặt nợ nặng lãi bóc lột dân đen như thế nào, lấy ép vợ người như thế nào, để họ tung,chuyện đồn đại đến tai quan đô ngự sử trị cho hắn một phen thì mới biết tay lão Nghê Nhị này!

Vợ hắn nói

– Ông uống rượu rồi ngủ đi thôi. Họ cướp con gái nhà ai? Làm gì có việc ấy? Đừng nói nhảm nữa.

– Bà mày ở nhà làm gì biết việc bên ngoài? Năm trước lôi ở trong sòng bạc gặp thằng Trương nói vợ nó bị nhà họ Giả cướp mất. Nó còn bàn với tôi, tôi trở lại khuyên nó mới im chuyện 1. Không biết thằng Trương hiện giờ đi đâu, hai năm nay không thấy. Nếu gặp mặt nó, tôi sẽ bày cho nó một cách, để thằng Hai Giả ranh con kia sẽ chết với tôi cho mà xem! Muốn tốt thì liệu mà lễ lạy ông Nghê đây mới xong.

Nói xong, hắn ta ngả mình ra, miệng còn lảm nhảm một hồi nữa mới ngủ. Vợ con hắn chỉ cho là câu nói khi say rượu nên cứ thây kệ. Hôm sau dậy sớm, Nghê Nhị lại đến sòng bạc.

Giả Vũ Thôn về đến nhà, nghĩ một đêm, rồi đem chuyện dọc đường gặp Chân Sĩ Ẩn nói cho vợ nghe. Vợ hắn liền trách:

– Tại sao không quay lại xem?

Nói xong, nước mắt ròng ròng. Vũ Thôn nói:

– Ông ta là người ngoài cuộc, không chịu ở một chỗ với chúng mình đâu.

Đang nói chuyện thì bên ngoài chuyển lời vào bẩm:

– Người hôm trước ông lớn dặn đi xem tình hình miếu bị cháy đã trở về.

Vũ Thôn khoan thai bước ra. Người nha dịch kia hỏi thăm sức khoẻ rồi nói:

– Con vâng lệnh ông lớn quay lại không đợi lửa cháy tàn, liền xông vào trong lửa để tìm vị đạo sĩ kia. Không ngờ chỗ ông ta ngồi cũng cháy mất rồi. Con chắc là vị đạo sĩ kia đã bị chết cháy. Bức tường bị đổ về phía sau mà vị đạo sĩ chẳng thấy tăm tích đâu cả. Chỉ có cái chiếu bồ và cái bầu thì còn nguyên vẹn. Con tìm xác ông ta khắp nơi, nhưng chẳng thấy một mẩu xương nào. Con sợ ông lớn không tin, định đem cái chiếu bồ và cái bầu về làm chứng, ai ngờ vừa cầm lấy thì nó đều hoá ra tro cả.

Vũ Thôn nghe xong, trong bụng biết Sĩ Ẩn đã thành liên, liền bảo người nha dịch đi ra. Lúc về phòng ông ta cũng không nhắc đến chuyện Sĩ Ẩn đã hoá kiếp, sợ vợ không hiểu đâm ra thương cảm. Ông ta chỉ nói rằng không thấy dấu vết gì cả, chắc là vị đạo sĩ đã chạy trước rồi.

Vũ Thôn ra ngoài, một mình ngồi ở thư phòng, đang suy nghĩ về câu nói của Sĩ Ẩn. Chợt có người nhà lên trình:

– Trong nội có chỉ truyền ông vào xét công việc. Vũ Thôn vội vàng lên kiệu vào trong nội thì nghe người ta nói:

– Hôm nay quan lương đạo tỉnh Giang Tây là Giả Chính bị hặc về kinh, đang vào triều tạ tội.

Giả Vũ Thôn vội vàng đến nội các, gặp các vị đại thần rồi xem chỉ ý nhà vua nói về khoản xử lý công việc miền ven biển không tốt. Sau đó ông ta vội vàng ra ngoài tìm Giả Chính, trước hết nói mất câu ngỏ ý, đáng tiếc cho Giả Chính, rồi sau đó chúc mừng và hỏi thăm chuyện đi đường.

Giả Chính cũng kể lại kỹ lưỡng chuyện sau khi cách biệt tới nay.

Giả Vũ Thôn nói:

– Sớ tạ tội ông đã dâng lên chưa?

– Đã dâng lên rồi, chờ xem chỉ ý nhà vua giao xuống.

Đang nói, thì nghe trong cung truyền chỉ nhà vua gọi Giả Chính. Giả Chính vội vàng vào. Các quan thân thiết với Giả Chính đều ở đấy chờ tin. Một hồi lâu, mới thấy Giả Chính ra, trên đầu mồ hôi đầm đìa. Mọi người đón hỏi:

– Chỉ ý nói việc gì?

Giả Chính lè lưỡi nói:

– Khiếp quá! Khiếp quá! Cảm ơn các vị đại nhân có lòng lo lắng đến tôi, may mà không việc gì.

– Chỉ ý hỏi về những việc gì?

– Hỏi về vụ án mạng trộm súng ở tỉnh Vân Nam. Trong tờ tâu nói rõ là người nhà quan nguyên thái sư Giả Hóa. Hoàng thượng nhớ đến tên cụ tổ nhà tôi nên mới hỏi. Tôi vội vàng khấu đầu tâu rõ: cụ tổ nhà tôi là Đại Hóa. Hoàng thượng bật cười, lại hỏi: “Người trước đây bổ thượng thư bộ binh, sau dáng xuống phủ doãn, có phải cũng gọi là Giả Hóa không?”

Lúc ấy Giả Vũ Thôn cũng đứng một bên, nghe nói giật nẩy mình, liền hỏi:

– Ông lớn tâu như thế nào?

– Tôi thong thả tâu: “Quan thái sư Giả Hoá là người Vân Nam; còn người hiện làm phủ doãn cũng họ Giả thì ở Chiết Giang”. Hoàng thượng lại hỏi: Giả Phạm bị thứ sử Tô Châu tâu hặc đó, là người họ nhà ngươi à? Tôi khấu đầu tâu “Vâng”. Hoàng thượng liền đổi sắc mặt truyền: “Thả bọn gia nô cưỡng chiếm vợ con dân lành, còn ra sự thể gì nữa?” Tôi không dám tâu gì. Hoàng thượng lại hỏi: “Giả Phạm là người thế nào với nhà người?” Tôi vội vàng tâu: “Là người họ xa” Hoàng thượng hừ một tiếng rồi truyền chỉ cho ra. Có lạ không.

Mọi người nói:

– Cũng kỳ thật? Làm sao mà một lúc có những hai việc liền?

Giả Chính nói:

– Sự việc thì chẳng có gì lạ, chỉ lạ ở chỗ đều là người họ Giả không tốt. Kể ra thì họ chúng tôi người nhiều, và đã lâu đời nên chỗ nào cũng có. Hiện giờ tuy chẳng có việc gì, nhưng rốt cục Hoàng thượng nhớ lấy một chữ “Giả” là không hay.

– Thật là thật, giả là giả, chứ sợ gì?

– Trong bụng tôi chỉ trông sao đừng phải làm quan, nhưng không dám cáo lão. Hiện nay ở nhà chúng tôi hai chức thế tập, điều đó cũng chẳng biết làm thế nào.

Vũ Thôn nói:

– Nay ông lớn lại làm ở bộ công, chắc làm quan ở kinh thì chẳng có việc gì.

Giả Chính nói

– Làm quan ở Kinh tuy là vô sự, nhưng tôi đã làm quan ngoài hai lần rồi, thì cũng không thể nói được nữa.

Mọi người nói:

– Phẩm hạnh và việc làm của ông lớn, chúng tôi đều kính phục. Ông Cả cũng là người tốt, chỉ cần kiềm thúc các cháu cho nghiêm một chút là được.

Giả Chính nói:

– Tôi vì ít khi ở nhà, nên không xem xét đến việc các cháu mấy, trong bụng tôi rất lấy làm áy náy. Hôm nay các vị nhắc đến, chúng ta đều là chỗ thân, hoặc giả nghe nhà cháu ở phủ đông có việc gì không làm đúng khuôn phép chăng?

Mọi người nói:

– Cũng không nghe việc gì khác. Chỉ có mấy ông thị lang không được vừa ý lắm, và trong bọn nội giám cũng có vài người không bằng lòng. Chắc cũng chẳng sợ gì đâu, nhưng cần dặn dò bên nhà cháu ngài, phải để ý đến mọi việc là được.

Mọi người nói xong, vái chào nhau rồi ra về.

Giả Chính về nhà, con cháu đều ra đón. Trước hết Giả Chính hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu, sau đó con cháu đến hỏi thăm sức khỏe của Giả Chính, rồi cùng nhau về phủ. Bọn vương phu nhân cũng đến đón tiếp ở nhà Vinh Hi. Giả Chính trước hết đến lạy chào Giả mẫu, trình qua về chuyện sau khi xa cách. Giả mẫu hỏi tin tức của Thám Xuân. Giả Chính đem chuyện cưới Thám Xuân trình lại rõ ràng, và nói thêm:

– Con lên đường gấp quá, không kịp đến đó từ biệt. Tuy con không chính mắt trông thấy, nhưng nghe người bên nhà thông gia đến nói thì rất tốt. Ông bà hên nhà thông gia đều nói, xin gửi lời hỏi thăm sức khỏe của bà, và còn nói, mùa đông năm nay hoặc mùa xuân sang năm, có thể đổi về kinh. Được như thế thì rất tốt. Nhưng bây giờ nghe nói miền biển có việc, chỉ sự đến lúc đó lại không đổi về được.

Giả mẫu lúc đầu cho là Giả Chính bị giáng về kinh. Thám Xuân ở nơi đất khách xa xôi, không ai là bà con quen biết nên trong lòng thương cảm; sau nghe Giả Chính nói rõ việc quan, lại biết Thám Xuân khỏe mạnh nên cũng đổi buồn làm vui, liền cười bảo Giả Chính đi ra. Sau đó, anh em Giả Chính gặp nhau, bọn con cháu lạy chào, định đến sáng ngày mai thì bái yết từ đường.

Giả Chính về đến phòng, bọn Vương phu nhân chào hỏi, rồi Giả Liễn và Bảo Ngọc lại lạy chào lần nữa. Giả Chính thấy Bảo Ngọc so với lúc mình lên đường thì quả nhiên mặt mũi đầy đặn hơn, xem bộ cũng yên tĩnh, chứ không hề biết anh ta ngây dại, cho nên rất mừng, không buồn bực về việc bị giáng. Giả Chính nghĩ thầm: may nhờ mẹ mình khéo lo liệu. Lại thấy Bảo Thoa thì chín chắn; Giả Lan thì văn nhã tươi đẹp, ông ta vui mừng lộ ra nét mặt. Riêng Giả Hoàn là vẫn như trước, nên không yêu lắm. Nghỉ ngơi một hồi, Giả Chính sực nhớ: “Sao mà hôm nay thiếu một người?” Vương phu nhân biết ông ta nhớ đến Đại Ngọc, vì thư nhà trước kia không nói đến. Hôm nay ông ta lại vừa về nhà, đang lúc vui mừng, nói thẳng ra không tiện, nên chỉ nói

là Đại Ngọc đang ốm. Không ngờ trong bụng Bảo Ngọc đã như dao đâm, chỉ vì cha mới về, đành phải dằn lòng ngồi hầu.

Vương phu nhân bày tiệc tẩy trần, rồi con cháu dâng rượu. Phượng Thư tuy là cháu dâu, nhưng hiện coi việc nhà, nên cũng theo bọn Bảo Thoa dâng rượu.

Giả Chính cho dâng một tuần rượu, rồi bảo mọi người về nghỉ. Lại bảo bọn người nhà, không phải chờ chực, đợi đến sáng mai khi bái yết từ đường xong rồi sẽ vào chào.

Dặn dò xong, Giả Chính cùng Vương phu nhân nói qua về chuyện sau khi từ biệt, những việc khác Vương phu nhân đều không dám nói. Giả Chính lại nhắc đến chuyện Vương Tử Đằng, Vương phu nhân cũng không dám tỏ ra đau buồn. Giả Chính lại nói việc Tiết Bàn, Vương phu nhân chỉ nói đó là tự nó làm nó chịu; rồi nhân tiện đem việc Đại Ngọc chết nói cho Giả Chính biết. Giả Chính giật nẩy mình, chảy nước mắt và than thở mãi. Vương phu nhân nín không được cũng phải khóc. Bọn Thái Vân đứng bên, vội vàng kéo áo bà ta. Vương phu nhân nín khóc, lại nói mấy câu chuyện vui mừng, rồi đi ngủ.

Sáng hôm sau, Giả Chính đến từ đường làm lễ, bọn con cháu đều đi theo. Ông ta ngồi trong phòng một bên từ đường, gọi Giả Liễn và Giả Trân đến, hỏi việc trong nhà. Giả Trân lựa việc

gì nên nói thì nói. Giả Chính bảo:

– Ta mới về nhà, cũng không tiện tra hỏi cặn kẽ, nhưng nghe bên ngoài người ta nói, bên nhà anh càng lộn xộn hơn trước, mọi việc phải cẩn thận mới được. Anh bây giờ cũng nhiều tuổi rồi, phải dạy bảo con cái, đừng để chúng ra ngoài gây chuyện. Anh Liễn cũng nghe đấy. Không phải là ta vừa về đã trách đến các anh đâu, nhưng ta có nghe, nên mới nói. Các anh cần phải cẩn thận mới được.

Bọn Giả Trân mặt đỏ bừng lên, chỉ trả lời “Vâng”, không dám nói gì khác. Rồi Giả Chính cũng bỏ qua.

Giả Chính trở về phủ tây, người nhà lạy chào xong, Giả Chính lại vào nhà trong, bọn hầu gái làm lễ.

Bảo Ngọc nhân hôm qua Giả Chính hỏi đến Đại Ngọc, Vương phu nhân trả lời là bị ốm, trong lòng đau xót âm thầm, và khi Giả Chính bảo về phòng, dọc đường đã nhỏ khá nhiều nước mắt. Về đến phòng, thấy Bảo Thoa đang nói chuyện với Tập Nhân, anh ta buồn bực, một mình ngồi ở nhà ngoài. Bảo Thoa bảo Tập Nhân bưng trà ra. Biết anh ta sợ cha tra hỏi bài học, nên mới thế, đành phải tới an ủi. Bảo Ngọc mượn cớ ấy nói với Bảo Thoa:

– Đêm nay mợ ngủ trước đi, tôi cần nghỉ ngơi một chốc. Giờ đây không thể như trước nữa, nói điều này quên điều khác, cha mà biết thì sẽ không hay. Mợ ngủ trước đi, bảo Tập Nhân ngồi với tôi một lát.

Bảo Thoa nghe cũng có lý, liền vào phòng ngủ trước. Bảo Ngọc khẽ bảo Tập Nhân, nhờ gọi Tử Quyên đến muốn hỏi câu chuyện. Nhưng Tử Quyên hễ gặp tôi thì khi nào vẻ mặt cũng giận, cần có chị đến khuyên giải trước để chị ta nghe ra mới được.

Tập Nhân nói

– Cậu nói muốn nghỉ ngơi, tôi cũng mừng. Tại sao lại nghỉ ở chỗ ấy? Có chuyện gì ngày mai cậu hỏi không được à?

– Tối hôm nay tôi mới rảnh, nếu ngày mai mà ông lớn bảo làm việc gì thì tôi không còn lúc nào rỗi nữa. Chị ơi, chị mau mau gọi chị ấy lại đây.

– Nếu không phải mợ Hai gọi thì chị ta không tới đâu.

– Vì thế phải có chị đến nói rõ trước với chị ta mới được.

– Cậu bảo tôi nói với chị ấy như thế nào?

– Chị còn chưa biết bụng tôi và bụng chị ta à? Cũng đều là vì cô Lâm cả thôi. Chị cũng biết tôi không phải là người phụ bạc. Nhưng bây giờ, các người làm cho tôi thành ra một người phụ bạc rồi?

Nói đến đó Bảo Ngọc lại nhìn vào nhà trong, lấy tay chỉ và nói:

– Tôi vốn không bằng lòng chị ấy, chỉ vì bà và bọn họ bày mưu lập kế, tự dưng làm chết cô Lâm. Dầu cô ta chết thì cũng cho tôi nhìn một chút chứ. Nói thật ra cô ta có chết cũng không oán trách gì tôi. Chắc chị cũng đã nghe bọn cô Ba nói, cô Lâm lúc chết rất giận tôi. Tử Quyên vì chuyện cô Lâm cũng giận tôi hết sức. Chị thử nghĩ tôi có phải là người vô tình không? Tình Văn chỉ là một a hoàn, cũng chẳng có gì tốt cho lắm, mà chị ta chết đi, tôi nói thật với chị, tôi còn làm văn tế chị ta nữa đấy. Việc đó chính mắt cô Lâm cũng trông thấy. Giờ đây cô Lâm chết, không lẽ lại không bằng Tình Văn hay sao? Thế mà đến cả chuyện tế cô ta, tôi cũng không tế được một lần nào. Nếu cô Lâm có thiêng vẫn còn biết đến thì thế nào cô ta lại chẳng giận tôi!

– Cậu muốn tế thì cứ tế ai ngăn cấm cậu?

– Tôi từ khi khoẻ dậy, cũng định làm một bài văn tế, không biết tại sao bây giờ không còn chút thông minh nào nữa. Muốn tế người khác, thì làm qua loa đi cũng được, chứ tế cô Lâm mà lời văn quê kệch một chút là nhất định không được. Vì thế tôi muốn gọi Tử Quyên đến để hỏi rõ tâm sự của cô Lâm, vì chị ta biết rõ cô ấy. Khi tôi chưa ốm thì trong đầu óc còn nghĩ ra, từ khi đau, tôi không nhớ gì nữa. Chị nói cô Lâm đã khoẻ rồi, sao bỗng chốc lại chết? Khi cô ta còn khoẻ, tôi không đến thì cô ta nói gì? Lúc tôi đau, cô ta không đến, thì cô ta nói những gì? Những đồ dùng của cô ta tôi lừa lấy được, mợ Hai nhà chị nhất thiết không cho tôi động đến, không biết là có ý gì?

– Mợ Hai chị sợ cậu thương tâm mà thôi, còn có ý gì nữa?

– Tôi không tin, cô Lâm đã nghĩ đến tôi, tại sao khi chết lại đốt tập thơ đi, không để lại cho tôi làm kỷ niệm? Lại nghe nói khi cô ta chết, trên trời có tiếng nhạc, nhất định cô ta đã thành thần, hoặc đã lên tiên. Tôi tuy đã thấy quan tài, nhưng không biết trong quan tài có cô ta hay không?

– Cậu nói rõ vớ vẩn! Người không chết làm sao lại đặt chiếc quan tài không, làm như người chết được?

– Không phải đâu! Phàm người thành tiên thì hoặc đem cả hình hài, hoặc trút bỏ hình hài để lên tiên – Chị ơi, chị cứ gọi Tử Quyên lại đây!

– Bây giờ hãy để tôi đến bày tỏ tấm lòng của cậu, nếu chị ta chịu đến còn khá; không đến thì còn phải nói nhiều. Dầu cho chị ta có đến, nhưng thấy cậu chị ta cũng không chịu nói kỹ đâu. Theo ý tôi, ngày mai chờ khi mợ Hai lên trên nhà, tôi sẽ hỏi lại chị ta cho thật tường tận rồi có rỗi tôi sẽ thong thả nói lại với cậu.

– Chị nói cũng phải, nhưng chị không biết tôi sốt ruột lắm.

Hai người đang nói chuyện thì thấy Xạ Nguyệt ra bảo:

– Mợ Hai nói đã đến canh tư rồi, mời cậu vào đi ngủ thôi. Chị Tập Nhân chắc là thích nói chuyện, say sưa quá quên mất cả giờ giấc rồi đấy.

Tập Nhân nghe xong, liền nói:.

– Đến giờ ngủ rồi, có chuyện gì mai hãy nói.

Bảo Ngọc chẳng biết làm thế nào, đành phải đi vào, lại ghé vào tai Tập Nhân nói nhỏ:

– Ngày mai thế nào cũng đừng quên nhé.

– Biết rồi. Xạ Nguyệt vênh mặt lên cười nói:

– Hai người lại thầm thụt gì rồi đây. Đã thế sao không nói rõ với mợ Hai, rồi đến bên chị Tập Nhân mà ngủ? Mặc cho các người nói chuyện một đêm, chúng tôi cũng thây kệ.

Bảo Ngọc xua tay nói:

– Không cần nói làm gì.

Tập Nhân tức giận nói:

– Con ranh con này, mày lại nói điêu, đến mai tao sẽ xẻo cái miệng mày ra!- Rồi chị ta ngoảnh lại nói với Bảo Ngọc:

– Cũng là tự cậu cả đấy. Nói chuyện mất những bốn canh mà vẫn chẳng ra đầu cuối gì cả.

Chị ta vừa nói, vừa đưa Bảo Ngọc vào phòng, rồi ai về phòng người ấy.

Đêm đó, Bảo Ngọc không ngủ, đến ngày mai vẫn còn tơ tưởng việc ấy. Bỗng nghe bên ngoài truyền lời vào:

Bà con bạn hữu nhân ông lớn mới về, đều muốn đưa ban hát đến làm lễ mừng. Ông lớn từ chối mãi, bảo không cần phải hát xướng, để nhà ta dọn rượu mời bà con bạn hữu tới nói chuyện cho vui. Đã định đến ngày kia dọn rượu mời khách vì thế đến nói cho trong nhà biết.

1      Đây là chuyện của Giả Liễn chứ không phải Giả Vân.

Chương 105: Quân Cẩm y khám biên phủ Ninh quốc – Quan ngự sử tâu hặc châu Bình An

Quân Cẩm y khám biên phủ Ninh quốc

Quan ngự sử tâu hặc châu Bình An

Giả chính đang bày tiệc mời khách uống rượu, bỗng thấy Lại Đại vội vàng chạy vào nhà Vinh Hi thưa:

– Có quan Cẩm y vệ là ông Triệu dẫn mấy vị ty thuộc, nói đến chào mừng. Con hỏi tên họ chức tước để vào trình. Ông Triệu nói: “Chúng tôi là chỗ rất thân thiết, không cần phải làm như thế”. Ông ta vừa nói vừa xuống xe đi vào, mời ông lớn và các vị mau ra đón tiếp.

Giả Chính nghe nói, nghĩ bụng: “Mình với ông Triệu, không hề đi lại, sao ông ta cũng đến? Hiện giờ đang có khách, mời ông ta ở lại không tiện, mà không mời cũng không tiện”

Giả Chính đang ngẫm nghĩ, thì Giả Liễn nói:

– Chú mau mau đi ra thôi. Còn nghĩ ngợi nữa thì người ta vào đến nơi mất.

Đang nói thì thấy người nhà ở cửa thứ hai vào thưa:

– Ông Triệu đã vào đến cửa thứ hai rồi.

Bọn Giả Chính vội vàng bước ra đón, thì thấy Triệu Toàn mặt mày hớn hở không nói gì cả, lên thẳng nhà khách, có năm sáu vị ty thuộc đi theo, cũng có người quen, cũng có người không quen, nhưng không ai nói một câu. Bọn Giả Chính trong bụng băn khoăn, không biết ra sao, đành phải theo vào mời ngồi.

Bà con bạn hữu cũng có người biết mặt Triệu Toàn, nhưng thấy ông ta cứ vác mặt lên, không để ý đến ai, chỉ cầm lấy tay Giả Chính cười và nói mấy câu thăm hỏi. Thấy quang cảnh không tốt, có người tránh vào nhà trong, có người thì buông tay đứng hầu.

Giả Chính đang định nói chuyện, thì thấy người nhà hoảng hốt chạy vào báo:

– Đức Tây Bình vương đã đến.

Giả Chính vội vàng ra đón, đã thấy đức vương đi vào. Triệu Toàn bước nhanh lại hỏi thăm sức khoẻ, rồi bẩm:

– Vương gia đã đến, các vị đi theo, hãy dẫn bọn phủ dịch canh giữ các cửa trước và sau.

Các quan vâng lời đi ra.

Bọn Giả Chính biết là chuyện không hay, vội vàng quỳ xuống đón tiếp. Tây Bình vương giơ hai tay đỡ dậy, rồi cười bảo:

– Không có việc gì thì không dám đến đây đường đột; nay vâng chỉ nhà vua giao công việc phải làm. Vậy đòi ông Xá ra nhận chỉ. Hiện nay cả nhà yến tiệc chưa tan, chắc là có bà con bạn hữu ở đây, như vậy không tiện. Vậy mời các vị bà con bạn hữu đều về đi, chỉ giữ người trong nhà này ở lại chờ thôi.

Ông Triệu thưa:

– Vương gia tuy ban ơn như thế, nhưng vị vương gia làm việc ở phủ bên đông thẳng thắn, chắc đã niêm phong cửa ngõ rồi.

Mọi người nghe vậy biết là việc này liên can đến cả hai phủ, chỉ lo không biết làm thế nào để thoát thân. Lại thấy vương gia cười bảo:

– Các vị cứ đi ra. Gọi người đưa họ ra cho ta và nói với quan viên ở phủ Cẩm y rằng: đây đều là bạn hữu thân thích, bất tất phải tra xét, mau mau thả cho họ ra.

Bọn bạn bè quen thuộc nghe nói, liền chạy một mạch như bay, riêng Giả Xá và Giả Chính khiếp sợ, mặt tái mét, người run lẩy bẩy.

Được một lát thấy vô số vệ quân tiến vào, canh giữ các cửa. Tất cả người nhà từ trên đến dưới, không được đi đâu một bước. Triệu Toàn liền trở mặt, trình với Vương gia:

– Mời Vương gia tuyên đọc chỉ ý để bắt tay làm việc.

Bọn vệ quân đều xắn áo giơ tay chờ chỉ ý.

Tây Bình vương thong thả nói:

– Bản chức vâng chỉ ý nhà vua, dẫn quan Cẩm y phủ là Triệu Toàn đến tra xét gia sản của Giả Xá.

Bọn Giả Xá nghe nói, đều sụp lạy dưới đất. Vương gia liền đứng phía trên, nói:

– Có chỉ ý truyền rằng: Giả Xá giao thông với quan ngoài, ỷ thế ức hiếp kẻ yếu, phụ ơn của trẫm, và làm nhơ nhuốc đến công đức của cha ông. Nên cách chức thế tập đi – Khâm thử.

Triệu Toàn liền gọi ngay:

– Bắt Giả Xá đưa ra, còn nữa thì canh giữ lấy.

Lúc đó, Giả Xá, Giả Chính, Giả Liễn, Giả Trân, Giả Dung, Giả Tường, Giả Chi, Giả Lan đều ở đấy, chỉ trừ Bảo Ngọc nói dối bị ốm, ở lẩn bên nhà Giả mẫu. Giả Hoàn thì xưa nay ít khi ra tiếp khách cho nên họ chỉ canh giữ có mấy người đó.

Triệu Toàn lập tức gọi người nhà, truyền bảo các viên ty thuộc, dẫn bọn vệ quân chia đi từng phòng khám xét tài sản và ghi sổ. Câu nói ấy chẳng quan hệ lắm, nhưng đối với bọn Giả Chính thì từ trên đến dưới đều hồi hộp nhìn nhau; còn bọn vệ binh và người nhà họ thì hớn hở xoa tay, định tới các nơi để hành động ngay.

Tây Bình Vương bảo:

– Nghe nói ông Xá và ông Chính ở chung mà ăn riêng. Vậy cứ theo chỉ ý, chỉ tra xét gia tư của Giả Xá, ngoài ra thì hãy niêm phong từng phòng lại, để chúng ta tâu lên, rồi chờ trên định đoạt.

Triệu Toàn đứng dậy thưa:

– Trình với Vương gia: Giả Xá và Giả Chính chưa chia gia tài. Nghe nói hiện giờ người cháu là Giả Liễn coi chung việc nhà, không thể không khám xét hết thảy.

Tây Bình Vương nghe xong, cũng không nói gì. Triệu Toàn liền nói:

– Đức Vương cho phép tôi thân đến khám xét nhà Giả Xá và Giả Liễn mới được.

Tây Bình vương vội nói:

– Khoan đã. Hãy tin cho người nhà trong biết, bảo bọn đàn bà con gái tránh đi rồi hãy khám xét cũng không muộn.

Nói chưa dứt lời, bọn gia nô và vệ quân của Triệu Toàn đã dắt người trong nhà đưa đường, chia đi khám xét các nơi.

Vương gia quát:

– Không được làm ồn, để bản chức tự mình đi khám xét!

Nói xong Vương gia từ từ đứng dậy dặn bảo:

– Những người đi theo ta. Không một đứa nào được đi đâu, đều phải đứng đấy mà chờ. Chốc nữa xem xét xong sẽ về trình để ta ghi sổ.

Đang nói thì thấy một viên quan ty cẩm y quỳ xuống bẩm:

– Ở trong kia xét được đồ quần áo ngự và nhiều vật cấm không dám tự tiện động đến, xin Vương gia chỉ bảo.

Một chốc lại có một nhóm người đón Tây Bình vương mà trình:

– Ở nhà phía đông, xét ra được hai rương văn khế nhà và ruộng đất, một rương phiếu vay nợ, đều là lấy lãi trái phép.

Triệu Toàn liền nói:

– Đồ bóc lột nặng lãi! Tịch thu hết là phải. Mời Vương gia ngồi xuống đây, bọn chúng tôi đi tra soát cho hết, để chờ định đoạt.

Đang nói thì thấy quan trưởng sử ở vương phủ tới bẩm:

– Quân canh cửa chuyển lời vào thưa: chúa thượng đặc phái Bắc Tĩnh Vương đến đây truyền chỉ ý, xin mời Vương gia ra tiếp.

Triệu Toàn nghe nói, nghĩ bụng:

– Rõ đen đủi, gặp phải vị vương mù mở này! Bây giờ vị vương kia đến, mình sẽ dễ ra oai đây.

Ông ta vừa nghĩ, vừa chạy ra đón, thì thấy Bắc Tĩnh vương đã đến nhà khách lớn, rồi đứng ngoảnh mặt ra ngoài mà truyền:

– Có chỉ ý, Triệu Toàn ở phủ Cẩm y nghe truyền.

Rồi ông ta lại nói:

– Vâng chỉ: giao quan Cẩm y chỉ bắt Giả Xá xét hỏi; ngoài ra giao Tây Bình vương tuân theo chỉ ý mà làm. Khâm thử.

Tây Bình vương nhận được chỉ ý, rất là vui mừng, liền cùng Bắc Tĩnh vương ngồi xuống, sai Triệu Toàn giải Giả Xá về phủ. Bọn người đang khám xét ở trong, nghe nói Bắc Tĩnh vương đến, đều kéo nhau ra. Khi nghe nói Triệu Toàn đi rồi, mọi người tiu nghỉu, đành phải đứng hầu chờ lệnh. Bắc Tĩnh vương liền chọn hai người ty thuộc thực thà và hơn mười người vệ quân già; còn nữa, đuổi ra hết.

Tây Bình vương nói:

– Tôi đang tức về lão Triệu, may được Vương gia đến truyền chỉ ý, không thì ở đây sẽ bị thiệt hại nặng.

Bắc Tĩnh vương nói:

– Tôi ở trong triều, nghe nói vương gia vâng chỉ khám xét nhà họ Giả, tôi rất yên lòng, chắc là ở đây không đến nỗi thiệt hại lắm. Không ngờ lão Triệu làm càn như thế. Nhưng không biết hiện ông Chính và Bảo Ngọc ở đâu? Trong ấy không biết đã bị tan tác như thế nào rồi?

Mọi người thưa:

– Giả Chính thì bị giữ lại ở phòng dưới, còn trong nhà thì đã bị khám xét lung tung.

Bắc Tĩnh vương liền bảo bọn ty thuộc:

– Mau mau đưa Giả Chính tới đây, ta hỏi chuyện.

Mọi người vâng lời, dẫn Giả Chính đến, Giả Chính quỳ xuống, ứa nước mắt, xin nhờ ơn trên giúp đỡ. Bắc Tỉnh vương liền đứng dậy, nắm lấy và nói:

– Ông đừng lo.

Rồi nói rõ chỉ của vua. Giả Chính cảm kích chảy nước mắt, hướng về phía bắc tạ ơn, rồi lại đứng dậy chờ lệnh. Vương gia nói:

– Ông Chính, vừa rồi lúc ông Triệu ở đây, bọn vệ quân trình bẩm có những đồ cấm và văn tự cho vay nặng lãi, chúng tôi cũng khó che giấu. Đồ cấm vốn là sắm cho quý phi, chúng tôi tâu rõ cũng không can gì chỉ có khế cho vay nợ thì phải nghĩ cách gì mới được? Bây giờ ông hãy dẫn bọn ty thuộc đem gia sản ông Xá ra trình, thế là xong. Nhất thiết không được giấu giếm mà mang lấy tội.

Giả Chính thưa:

– Kẻ phạm tội này đâu dám giấu giếm, nhưng di sản ông cha chúng tôi thật chưa hề chia, duy có những đồ đạc ở trong nhà người nào là của riêng người ấy mà thôi.

Hai vị vương gia liền nói:

– Việc ấy cũng không can gì, chỉ đem những đồ vật bên nhà ông Xá giao ra là được.

Vương gia lại dặn bọn ty thuộc theo lệnh mà làm, không được lục soát lung tung. Bọn ty thuộc vâng lệnh đi ra.

Bên nhà Giả mẫu thì bọn đàn bà cũng đang bày yến tiệc trong nhà. Vương phu nhân nói:

– Bảo Ngọc không ra ngoài ấy, coi chừng cha mày giận đấy!

Phượng Thư đang ốm, vừa thở hổn hển vừa nói:

– Tôi xem chừng chú Bảo cũng không phải là sợ người, có lẽ chú ấy thấy ngoài kia người tiếp khách nhiều rồi, nên ở trong này trông nom. Nếu ông lớn nghĩ ở trong này thiếu người, thì thím nói chú Bảo ra, như thế không hơn à!

Giả mẫu cười, nói:

– Con Phượng ốm như thế mà miệng lưỡi còn khéo léo sắc sảo.

Đang lúc cao hứng thì thấy người nhà bên Hình phu nhân hoảng hốt chạy thẳng đến và gào lên:

– Cụ bà, bà lớn ơi, nguy… nguy to! Vô số kẻ cướp đi giày đội mũ đến rồi!Họ dốc rương đổ hòm ra cướp hết cả đồ đạc!

Bọn Giả mẫu nghe nói ngơ ngác. Lại thấy Bình Nhi đầu bù tóc rối, tay dắt Xảo Thư la khóc om sòm, chạy đến nói:

– Nguy to rồi! Tôi đang cùng em Xảo ăn cơm, bỗng thấy Lai Vượng bị người ta trói lại dẫn đến, nói: “Cô mau mau chuyển lời vào mời các bà tránh đi. Ngoài kia Vương gia sắp tới tịch biên gia sản đấy”. Tôi nghe nói, suýt chết khiếp! Đang định vào phòng lấy đồ vật quan trọng, thì bị một bọn người xô bừa đổ nhào ra. Ở đây, ai có cái gì nên mang, nên mặc thì thu xếp mau lên.

Hình phu nhân và Vương phu nhân nghe nói, hồn vía lên mây, không biết nên làm thế nào. Riêng có Phượng Thư, lúc đầu trợn trừng trợn trạc rồi sau ngã lăn ra đất. Giả mẫu nghe chưa xong, khiếp quá, nước mắt đầm đìa, không còn nói ra lời.

Lúc đó những người trong nhà, lôi kéo nhau rối rít cả lên. Lại nghe tiếng thét:

– Bảo đàn bà con gái tránh đi, vương gia vào đấy.

Bọn Bảo Thoa, Bảo Ngọc còn chưa biết làm thế nào. Lũ a hoàn, bà già còn đang kéo nhau lung tung. Chợt thấy Giả Liễn thở hồng hộc chạy vào nói:

– May lắm! May lắm! Nhờ Vương gia cứu cho chúng ta rồi.

Mọi người đang định hỏi, Giả Liễn thấy Phượng Thư chết nằm giữa đất, vừa khóc vừa gọi rối rít; lại thấy Giả mẫu cũng khiếp ngất đi, thở không được nữa, hắn càng hoảng lên. May nhờ có Bình Nhi gọi Phượng Thư tỉnh dậy, sai người vực lên giường. Giả mẫu cũng tỉnh lại, khóc lóc mê mẫn, nằm ở trên giường, Lý Hoàn khuyên lơn an ủi mãi. Sau đó Giả mẫu bình tĩnh lại, Giả Liễn mới nói rõ việc hai vương gia ban ơn, nhưng sợ Giả mẫu và Hình phu nhân nghe tin Giả Xá bị bắt, sẽ sợ chết khiếp, nên không dám nói rõ, đành phải đi ra lo liệu công việc. Hắn vào đến nhà, thấy đồ đạc bị cướp gần hết, rương hòm đều bị phá tung.

Giả Liễn đang hoảng hốt, hai mắt trợn ngược, ngẩn ngơ rơi nước mắt, thì lại nghe bên ngoài gọi, đành phải đi ra. Lúc đó thấy Giả Chính đang cùng bọn ty thuộc khai các đồ đạc, một người xướng:

– Đồ thủ sức bằng vàng đỏ cộng một trăm hai mươi cái, có đủ các thứ châu báu. Hạt trân châu mười ba chuỗi. Mâm vàng nhạt hai chiếc. Bát vàng hai đôi, thìa vàng bốn mươi chiếc, bát bạc lớn tám mươi cái. Mâm bạc hai mươi chiếc. Đũa ngà bịt vàng hai nắm. Hồ rượu mạ vàng hai cái. Chén mạ vàng ba đôi. Khay trà hai cái. Đĩa bạc bảy mươi sáu cái. Chén rượu bằng bạc ba mươi sáu cái. Da cáo đen mười tám tấm. Da cáo xanh sáu tấm. Da điêu ba mươi sáu tấm. Da cáo vàng ba mươi tấm. Da cầy mười hai tấm. Da ngoài màu xám sáu mươi tấm. Da cáo màu xám bốn mươi tấm. Da dê màu vàng sẫm hai mươi tấm. Da hồ ly hai tấm. Áo da cáo vàng hai chiếc. Da cáo trắng nhỏ hai mươi mảnh. Nỉ ngoại ba mươi thước. Len hai mươi ba thước. Nhung mười hai thước. Áo lót da chuột thơm mười chiếc. Da chuột đậu bốn mảnh. Nhung ngỗng trời một cuộn. Da hươu rằn một tấm. Áo lót da cáo hai cái. Da cầy một cuộn. Nệm lông vịt bảy bộ. Da chuột xám một trăm sáu mươi tấm. Da lợn rừng tám tấm. Da hổ sáu tấm. Da hải báo ba tấm. Da hải long mười sáu tấm. Da dê màu gió bốn mươi mảnh. Da dê màu đen sáu mươi ba tấm. Mũ da cáo màu huyền mười bộ. Mũ hình dao mười hai bộ. Mũ da điêu hai bộ. Da cáo nhỏ mười sáu tấm. Da cầy sông hai tấm. Da rái cá hai tấm. Da mèo ba mươi lăm tấm. Vải Nhật mười hai thước. Đoạn tơ một trăm ba mươi cuộn. The lụa một trăm tám mươi cuộn. Tơ lông ba mươi cuộn. Nhung tây ba mươi cuộn. Đoạn thêu tám cuộn. Vải mỏng ba bó. Vải nhiều màu ba bó. Áo da nhiều màu một trăm ba mươi chiếc. Áo lụa kép bông ba trăm bốn mươi chiếc. Đồ chơi bằng ngọc ba mươi hai cái. Đai chín bộ. Đồ dùng bằng đồng và thiếc trên năm trăm cái. Đồng hồ mười tám cái. Hạt Triều châu chín chuỗi. Áo thêu các màu ba mươi tư chiếc. Nệm dựa bằng đoạn thêu thượng hạng ha bộ. Áo quần cung trang tám bộ. Đai ngọc một chiếc. Đoạn vàng mười hai cuộn. Bạc Triều châu năm ngàn hai trăm lạng. Vàng đỏ năm mươi lạng. Tiền bảy ngàn quan 1. Tất cả đồ dùng trong nhà đều niêm phong và vào sổ. Các toà nhà của vua cho phủ Vinh đều phải kê khai. Những tờ văn khế về nhà cửa ruộng đất, giấy tờ của người nhà, cũng đều niêm phong cả.

Giả Liễn đứng bên nghe trộm. không thấy xướng đến đồ vật của mình, trong bụng đang ngờ vực. Bỗng nghe hai vương gia hỏi Giả Chính:

– Khi tịch biên gia sản trong đó có giấy cho vay nợ, rõ ràng là bóc lột. Vậy do ai làm? Ông Chính cứ khai thực mới được.

Giả Chính nghe nói, quỳ giữa đất, đập đầu và nói:

– Thật kẻ phạm tội này không coi việc nhà, nên không biết gì hết, xin hỏi cháu là Giả Liễn sẽ rõ.

Giả Liễn vội vàng đi tới, quỳ xuống bẩm:

– Hòm văn khế ấy đã lục soát được ở trong nhà kẻ phạm tội này thì còn đâu dám chối cãi. Chỉ xin Vương gia rộng thương cho. Còn chú kẻ phạm tội này thật là không biết gì đến.

Hai Vương gia nói:

– Cha anh đã bị tội, thì phải xử chung vào một án. Bây giờ anh nhận lấy, cũng là phải lẽ. Hãy cho người giữ Giả Liễn lại, còn tất cả đều nhốt lỏng ở trong nhà. Ông Chính phải cẩn thận chờ chỉ nhà vua. Chúng tôi vào cung phúc chỉ 2. Ở đấy đã có quan quân canh giữ.

Nói đoạn, hai vương gia lên kiệu ra cửa. Bọn Giả Chính quì ở cửa thứ hai tiễn đưa. Bắc Tĩnh vương giơ tay lên nói:

– Xin cứ yên lòng.

Xem mặt Vương gia tỏ vẻ thương hại.

Lúc bấy giờ, tinh thần Giả Chính mới ổn định, nhưng hãy còn ngơ ngác. Giả Lan liền nói:

– Mời ông vào trong nhà xem cụ một chút.

Giả Chính nghe nói, vội vã đứng dậy đi vào, thì thấy bọn đàn bà con gái ở các cửa sổ cứ nhao nhao lên, không biết là họ định làm gì. Giả Chính cũng không có bụng dạ nào mà xét hỏi, một mạch đi thẳng vào phòng Giả mẫu, thì thấy người nào người nấy, nước mắt đầm đìa. Vương phu nhân và Bảo Ngọc ngồi vây chung quanh Giả mẫu, lặng lẽ không nói gì. Mọi người chảy nước mắt, còn Hình phu nhân thì ngồi khóc sướt mướt. Thấy Giả Chính đi vào, mọi người đều nói:

– Hay lắm! Hay lắm!

Họ liền nói với Giả mẫu:

– Ông lớn vẫn vào đây như thường. Không cai gì cả. Xin cụ cứ yên lòng.

Giả mẫu chỉ hơi thở thoi thóp, hé mở hai mắt ra nói:

– Con ơi, không ngờ mẹ lại còn thấy con!

Nói chưa dứt lời, Giả mẫu đã khóc ầm lên. Thế rồi cả nhà đều khóc. Giả Chính sợ mẹ khóc mãi sinh ốm, liền cầm nước mắt lại mà nói:

– Mẹ cứ yên tâm. Việc vốn không nhỏ, nhưng nhờ ơn của chúa thượng, của hai vị Vương gia rủ lòng thương. Anh Cả tuy tạm thời bị bắt hỏi, nhưng khi sự việc rõ ràng, chúa thượng sẽ còn ban ơn. Giờ đây tất cả của cải còn lại trong nhà này, không động chạm đến nữa đâu.

Giả mẫu thấy Giả Xá không ở đấy thì lại đau lòng. Giả Chính yên ủi mãi mới thôi. Mọi người đều không dám ra về. Riêng có Hình phu nhân về đến nhà mình, thấy cửa đã khoá chặt và niêm phong, bọn a hoàn và bà già đều bị nhốt vào mấy gian nhà. Chẳng biết đi vào đâu, bà ta liền khóc rống lên, đành phải đi sang nhà Phượng Thư, thì thấy bên cửa thứ hai cũng có giấy niêm phong, chỉ cửa trong nhà là còn mở; phía trong có tiếng khóc nghẹn ngào không ngớt. Hình phu nhân đi vào, thấy Phượng Thư mặt xanh như tàu lá, nhắm mắt nằm yên. Bình Nhi ngồi một bên khóc thầm. Hình phu nhân trung là Phượng Thư chết rồi, lại khóc ầm lên. Bình Nhi đón lại và nói:

– Bà đừng khóc. Khi khiêng mợ cháu về, tưởng là đã chết, nhưng để yên một chốc lại tỉnh lại, khóc lên mấy tiếng, bây giờ đờm đã hạ, hơi thở điều hòa, tinh thần hơi bình phục. Xin hà cũng

nên yên nghỉ một tý; nhưng không biết cụ thế nào rồi?

Hình phu nhân cũng không trả lời, lại đi sang nhà Giả mẫu. Thấy trước mắt đều là người nhà của Giả Chính, nghĩ đến mình thì chồng con bị bắt, dâu ốm nguy cấp, con gái chịu khổ, hiện nay thân mình chẳng biết về đâu. Trước cảnh đó ai chẳng khuyên lơn, an ủi. Bọn Lý Hoàn sai người thu xếp nhà cửa, mời Hình phu nhân tạm nghỉ. Vương phu nhân sai người hầu hạ.

Giả Chính ở ngoài thậm thọt lo âu, cứ xoắn râu, xoa tay chờ chỉ của nhà vua. Chợt nghe bọn lính canh ở ngoài thét ầm lên.

– Anh là người bên nào? Đã đụng phải chúng ta đây thì ghi vào sổ, bắt lấy nộp cho các quan ở phủ Cẩm y.

Giả Chính đi ra ngoài xem, thấy là Tiều Đại. liền hỏi:

– Tại sao anh lại chạy đến đây!

Tiều Đại thấy hỏi, liền kêu trời kêu đất khóc mà nói:

– Ngày nào tôi cũng khuyên can mấy ông hư thân ấy, họ lại cho tôi là kẻ oan gia. Ông lại không biết Tiều Đại này theo hầu cụ cố trước đây đã từng chịu khổ như thế nào hay sao? Hôm nay đến tình cảnh này: cậu cả Trân và anh Dung đều bị Vương gia nào bắt đi cả rồi; các bà trong nhà đều bị nha dịch trong phủ nào đó lôi đi đến nỗi đầu bù tóc rối, đem nhốt vào một gian nhà không; bọn chó má ấy đều lồng lên như lang như hổ, có gì chúng lục soát ra để vào một chỗ; đồ gỗ thì chúng đánh nát bét, đồ sứ thì chúng đập cho vỡ đi. Chúng nó lại còn định trói cả tôi. Tôi sống đã tám chín mươi tuổi đầu, chỉ có đi theo cụ cố trói người ta, đâu lại để cho họ trói mình? Tôi nói tôi là người phủ tây, rồi bỏ đi ra. Bọn họ không nghe, bắt giải đến đây, ai ngờ ở đây cũng thế. Giờ đây tôi cũng không cần sống nữa, quyết liều mạng với bọn này thôi!

Tiều Đại nói xong, liền đập đầu. Bọn nha dịch thấy ông ta tuổi già, lại nghe hai vương gia dặn, nên cũng không dám làm dữ, liền nói:

– Ông già yên lặng một chút. Đây là chúng tôi vâng lệnh nhà vua. Ông hãy nghĩ một chút, để chờ tin tức.

Gỉa Chính nghe nói, tuy để mặc ông ta, nhưng bụng như dao cắt, liền nói:

– Thế là hết! Thế là hết! Không ngờ nhà mình suy sụp đến thế này!

Đang khi hoảng hốt, chờ tin trong cung, bỗng thấy Tiết Khoa thở hồng hộc chạy vào, nói:

– Chà! Khó khăn lắm mới vào đây được! Bác ở đâu rồi?

Giả Chính nói:

– Cháu đến đúng lúc quá! Ngoài ấy sao mà họ cho cháu vào?

– Cháu năn nỉ mãi và cho họ một ít tiền nên mới vào được

Giả Chính đem việc bị lục soát nhà nói cho anh ta biết, nhờ anh ta dò la tin tức và nói:

– Đang lúc cấp bách này cũng không kịp đưa tin cho bà con bạn hữu, chỉ có cháu là có thể thông tin được.

– Việc ở đây cháu chưa biết rõ; còn việc ở phủ đông thì cháu đã nghe nói rồi.

– Vậy thì phạm tội gì thế?

– Hôm nay cháu nhân việc đi dò tin về tội của anh cháu, thấy trong nha môn nói có hai vị ngự sử nghe tin đồn đại anh cả Trân quyến rũ con nhà thế gia đánh bạc. Khoản này còn nhẹ. Còn có một khoản nặng là cường chiếm vợ lương dân làm lẽ, người ta không theo, liền áp bức người ta chết. Quan ngự sử kia sợ không chắc, bắt Bào Nhị nhà mình đem đi, lại còn kéo ra một người họ Trương nữa. Chỉ sợ ngay cả đô sát viện cũng có lỗi, vì họ Trương trước đã kiện rồi.

Giả Chính nghe chưa hết, liền giẫm chân, nói:

– Còn gì nữa! Thôi! Thôi!

Ông ta thở dài, rồi nước mắt chảy xuống ròng ròng. Tiết Khoa yên ủi mấy câu, lại ra ngoài dò la. Cách độ nửa ngày, anh ta trở vào, nói:

– Tình hình không tốt, cháu đi dò ở bộ hình, không nghe tin hai vương gia phúc chỉ, chỉ nghe nói hôm nay Lý ngự sử hặc quan châu Bình An xu nịnh các quan trong kinh, chiều theo ý quan trên, làm hại nhân dân, gồm mấy khoản lớn. Giả Chính vội vàng nói:

– Việc người ta thì mặc kệ, cháu chỉ dò xem việc nhà mình như thế nào thôi.

– Nói đến Bình An châu tức là có việc chúng ta đấy, ông quan trong kinh bị hặc tức là ông Cả nhà ta. Người ta tố cáo ông Cả bao thầu trong việc kiện tụng. Tình hình như lửa cháy đổ thêm đầu. Các quan trong triều đều lo trốn tránh không kịp, ai còn dám đưa tin. Còn bọn bà con bạn hữu vừa ở đây ra về, người thì về nhà, người thì dừng lại chỗ xa để nghe ngóng. Đáng giận là những người trong họ đây, dọc đường đều nói: “Công nghiệp cha ông để lại, bây giờ gây ra biến cố này, không biết thế tước ấy sẽ bay đến đầu người nào, để chúng mình được mở mắt một chút…”

Giả Chính chưa nghe xong liền giẫm chân nói:

– Đó là vì ông Cả nhà ta hồ đồ quá. Bên phủ đông cũng không ra thể thống gì cả! Giờ đây bà và chị Liễn không biết chết hay sống! Cháu lại cứ đi dò xem, để ta vào bên chỗ bà xem một chút. Nếu có tin gì cho biết sớm một tý thì tốt.

Đang nói thì nghe nhà trong kêu ầm lên:

– Cụ bà nguy lắm rồi.

Giả Chính vội vàng chạy vào.

1      Trong bảng kê này có một số không rõ là vật gì, chúng tôi lược đi không dịch.

2      Sau khi vâng chỉ nhà vua đi làm việc xong, trở về tâu lại với vua.

_________________

Chương 106: Gây tai ương, Vương Hy Phượng xiết bao hổ thẹn – Tránh hoạ hoạn, Giả thái quân cầu khấn phật trời

Gây tai ương, Vương Hy Phượng xiết bao hổ thẹn

Tránh hoạ hoạn, Giả thái quân cầu khấn phật trời

Giả chính nghe nói Giả mẫu nguy cấp, vội vàng vào xem, thấy Giả mẫu khiếp sợ, khí ngược lên cổ. Vương phu nhân và Uyên Ương gọi mãi mới tỉnh, rồi cho uống thuốc viên “sơ khí an thần”. Dần dần Giả mẫu hơi đỡ nhưng cứ thương tâm chảy nước mắt. Giả Chính đứng môột bên khuyên

– Bọn chúng con hư thối, gây nên tai vạ, để mẹ chịu sợ hãi. Mẹ có thư thái ít nhiều thì bọn con mới có thể ở ngoài lo liệu ; nếu mẹ có mệnh hệ nào thì tội chúng con lại càng thêm nặng!

Giả mẫu nói

– Ta sống đã hơn tám mươi tuổi. Từ khi còn là con gái, về nhà chồng, đều nhờ phúc ấm cha ông, chưa bao giờ thấy việc như thế này. Giờ già rồi, nếu nhìn thấy các con chịu tội, bụng ta sao đành? Chi bằng nhắm mắt để mặc các con.

Nói rồi lại khóc.

Lúc đó Giả Chính bối rối vô cùng. Bỗng nghe bên ngoài nói

“Thưa ông lớn, trong cung có tin ra”.

Giả Chính vội vàng đi ra, thì thấy quan trưởng sử phủ Bắc Tĩnh vương đến nói

– Xin mừng cho ngài.

Giả Chính cảm ơn, mời ngồi và hỏi

– Vương gia có chỉ dụ gì?

– Vương gia chúng tôi và Tây Bình quận vương vào nội phúc chỉ tâu rõ việc quan lớn sợ hãi, và lời cảm kích ơn vua. Chúa thượng rất thương và nghĩ tới quí phi mất chưa bao lâu, không nỡ làm tội, nên vẫn gia ân cho ngài nhậm chức viên ngoại bộ công như cũ. Gia sản bị niêm phong, chỉ đem phần của Giả Xá nhập vào của công, còn nửa đều trả lại, và truyền chỉ cho ngài phải tận tâm làm chức vụ. Chỉ có khế cho vay, thì sai Vương gia chúng tôi tra xét. Nếu có khoản nào lấy lãi nặng quá lệ, thì đều nhập vào của công, còn những khoản lấy lãi đúng lệ, cùng giấy tờ nhà cửa ruộng đất, đều trả lại hết. Giả Liễn thì bị cách chức tha về.

Giả Chính nghe xong, liền đứng dậy sụp lạy cảm tạ ơn vua, lạy tạ ơn Vương gia, và nói

– Xin quan trường sứ bẩm giúp

“sáng mai tôi sẽ đến cửa cung tạ ơn và đến Vương phủ lạy tạ.”

Viên trướng sứ ra về.

Một lát, chỉ vua truyền ra, quan thừa biện tuân theo chỉ ý, tra rõ tất cả, cái gì nhập vào của công thì nhập ; cái gì trả lại thì trả. Tha Giả Liễn ra, còn bao nhiêu đàn ông đàn bà thuộc về nhà Giả Xá, thì đều kê sổ nhập quan. Đáng thương trong nhà Giả Liễn, ngoài những giấy tờ hợp lệ được trả lại, còn nửa tuy chưa xung công hết cả, nhưng đã bị bọn người tra soát cướp hết, chỉ trơ lại đồ dùng mà thôi.

Giả Liễn ban đầu sợ phạm tội, sau được tha, đã là may mắn. Đến khi nghĩ lại những của cải dành dụm mấy năm nay cùng với của riêng của Phượng Thư, gần năm bảy vạn lạng bạc, một lúc hết sạch, làm sao khỏi đau lòng. Vả lại cha thì đang bị giam ở phủ Cẩm y; Phượng Thư thì ốm nguy ngập, nên hắn vừa buồn bả vừa đau xót. Lại thấy Giả Chính rưng rưng nước mắt, gọi hắn mà bảo

– Ta vì bận việc quan, không trông nom việc nhà được, mới bảo vợ chồng cháu đến coi giúp. Việc cha cháu làm, đã đành khó lòng khuyên can, còn việc cho vay lấy lãi ấy, thì do ai làm? Vả lại việc ấy không phải là hạng nhà chúng ta nên làm. Nay bị xung công, tuy tiền bạc không quan hệ, nhưng tiếng tăm đồn đại thì còn ra gì nữa.

Giả Liễn quỳ xuống thưa

– Cháu lo việc nhà thật là không dám có chút gì tư túi. Sổ sách ra vào có bọn Lại Đại, Ngô Tân Đăng, Đái Lương ghi chép. Chú gọi bọn ấy tra hỏi thì rõ. Hiện mấy năm nay. bạc ở kho chi nhiều thu ít, tuy chưa phải bù nhưng ở các nơi đã thiếu hụt nhiều. Xin chú hỏi thím thì biết. Còn những món tiền cho vay lấy lãi ấy, ngay cháu cũng không hiểu là bạc ở đâu, phải hỏi bọn Chu Thụy và Lai Vượng mới biết.

– Cứ như cháu nói, ngay cả việc trong nhà cháu còn không biết, thì những việc trên việc dưới, cháu lại càng không biết nữa! Bây giờ ta cũng không tra hỏi cháu làm gì. Hiện nay cháu là người vô tội, phải mau mau dò la tin tức về cha cháu và việc anh Trân xem sao?

Giả Liễn trong lòng uất ức, nước mắt dàn dụa, vâng lời đi ra. Giả Chính than thở luôn miệng, nghĩ bụng

“Cha ông mình khó nhọc về việc nhà vua, lập nên công nghiệp mới được hai chức thế tước, nay đều phạm tội, đều bị cách cả. Xem chừng

bọn con cháu, không một đứa nào nên thân! Trời ơi là trời! Họ Giả nhà mình sao đến nỗi suy sụp như thế? Mình tuy nhờ ơn trên thương đến, trả lại gia sản, nhưng rồi việc ăn tiêu cả hai nơi, phải dồn về một chỗ. Một mình ta chèo chống sao nỗi? Vừa rồi thằng Liễn nói lại càng lạ

“chẳng những trong kho không có bạc mà lại còn nợ nần thiếu thốn. Thì ra mấy năm nay chỉ có tiếng hão bên ngoài. Mình sao mà ngu dại đến như thế? Nếu thằng Châu còn sống thì còn có người giúp đỡ. Bảo Ngọc tuy lớn cũng là vô dụng”. Giả Chính nghĩ đến đó, nước mắt đầm đìa thấu áo, rồi lại nghĩ

“Mẹ mình tuổi cao như thế, con cháu chưa phụng dưỡng được một ngày nào mà lại làm cho mẹ già khiếp sợ chết đi sống lại tội này mình còn biết để cho ai. “

Giả Chính đang một mình buồn bã, bỗng thấy người nhà vào bẩm

– Bà con bạn hữu đến hỏi thăm.

Giả Chính cảm ơn hết thảy mọi người và nói

– Trong nhà gặp lúc không may, chỉ vì tôi không biết dạy bảo con cháu, cho nên đến nông nỗi này.

Có người nói

– Từ lâu chúng tôi đã biết. ông Cả làm việc không được đứng đắn. Anh cả Trân bên kia lại càng kiêu căng phóng túng. Nếu vì làm việc quan lầm lẫn mà phải lỗi, thì cũng không hổ, bây giờ mình gây nên vạ, lại làm liên lụy đến ông Hai.

Có người nói

– Người ta làm xằng cũng nhiều, nhưng cũng không thấy quan ngự sứ hặc tâu. Nếu không phải là ông cả Trân làm mếch lòng bạn bè, thì đâu đến nỗi như thế!

Có người nói

– Cũng không nên trách quan ngự sử. Chúng tôi nghe chính là người nhà ở phủ đây cùng mấy thằng vô lại ở ngoài làm ầm ĩ lên. Quan ngự sử sợ hặc tâu không thật, cho nên dỗ chúng nói ra. Tôi nghĩ quí phủ đây đối đãi với tôi tớ rất khoan dung, làm sao còn có việc ấy?

Có người nói

– Bọn đầy tớ không thể nuôi đứa nào hết. Hôm nay ở đây đều là bạn bầu thân thiết cả, tôi mới dám nói. Ngay khi ngài làm quan ngoài, tôi cũng không thể tin chắc rằng ngài không ham tiền. Tiếng tăm ở ngoài sở dĩ không tốt, đều là do bọn tôi tớ gây ra. Ngài cũng nên để ý đề phòng. Nay tuy không động đến gia sản của ngài, nhưng nếu gặp lúc chúa thượng ngờ vực, thì sẽ không hay.

Giả Chính nghe nói, trong lòng hoảng sợ, liền hỏi

– Các vị nghe tiếng tăm của tôi ra sao?

Mọi người nói

– Chúng tôi tuy không biết sự thực. Nhưng nghe người ngoài nói lúc ngài làm quan lương đạo, có bảo bọn người nhà đòi tiền thế nào đó.

Giả Chính nghe xong, liền nói

– Tôi thật thề với trời xưa nay chưa hề dám nghĩ đến chuyện đó. Nhưng vì bọn tôi tớ ớ ngoài lừa gạt người ta mà gây nên chuyện, thì tôi cũng phải chịu tội.

Mọi người nói

– Giờ đây sợ cũng vô ích, chỉ cần đem bọn người nhà xét tra cho nghiêm ; nếu có đứa nào chống lại chủ nhà, xét cho ra mà nghiêm trị là được.

Giả Chính nghe nói gật đầu. Vừa lúc đó thấy người ngoài cửa vào thưa

– Cậu Tôn sai người đến nói bận việc không đến được, cho người đến hỏi thăm, và bảo ông lớn phải nhận trả số bạc mà ông Cả nợ của cậu ta.

Giả Chính trong lòng bực bội, chỉ nói

– Biết rồi!

Mọi người đều cười nhạt và nói

– Người ta hảo Tôn Thiệu Tổ bà con với ngài là người gàn dở. Quả thật là đúng! Hiện nay ông nhạc bị soát nhà, chàng rễ chẳng những không đến trông nom giúp đỡ mà lại vội vàng đến đòi nợ. Thật là vô lý!

Giả Chính nói

– Bây giờ hãy chưa cần nói. Việc hôn nhân ấy là do anh tôi làm sai. Cháu gái tôi chịu khổ đã đủ bây giờ lại quàng đến cả tôi đấy.

Đang nói thì thấy Tiết Khoa đi vào thưa

– Tôi dò nghe Triệu Toàn ở phủ Cẩm y nhất định đòi trị tội như lời quan ngự sử hặc, sợ rằng ông Trân và ông Cả sẽ bị tội nặng.

Mọi người đều nói

– Ông lớn cần phải đi xin với Vương gia, làm sao kiếm cách cứu vãn mới được. Nếu không thì cả hai nhà sẽ tan tành.

Giả Chính vâng lời và cảm tạ, rồi mọi người ra về.

Lúc đó, chừng vừa lên đèn, Giả Chính vào thăm Giả mẫu, thấy Giả mẫu hơi đỡ. Về đến phòng ông ta oán trách vợ chồng Giả Liễn không biết gì hết. Bây giờ xảy ra chuyện cho vay lấy lãi, làm cả nhà mang tiếng. Bây giờ mới biết rõ Phượng Thư làm. Ông ta rất tức tối, nhưng thấy Phượng Thư hiện đang ốm nặng, chị ta cái gì đều bị mất hết. Cố nhiên trong lòng đau đớn. Vì vậy cũng không tiện quở trách, đành tạm nín nhịn không nói gì.

Hôm sau, Giả Chính vào cung tạ ơn và đến các phủ Bắc Tĩnh và Tây Bình lạy tạ. Xin hai Vương gia xét thương anh và cháu mình. Hai vương gia đều nhận lời. Giả Chính lại đến nhà các quan đồng liêu thân thiết xin họ giúp đỡ. Giả Liễn thấy tình hình cha và anh xem chừng không xong, chẳng biết làm thế nào đành phải về nhà. Bình Nhi ngồi trông nom Phượng thư và khóc lóc. Thu Đồng ngồi ở buồng bên cạnh oán trách Phượng Thư. Giả Liễn chạy đến một bên, thấy Phượng Thư chỉ còn thoi thóp, dầu có bao nhiêu lời trách móc, cũng không thể nói ra.

Bình Nhi khóc nói

– Nay đã đến nỗi này, của cải mất rồi, không thể trở lại được nữa. Mợ như thế này, cũng phải mời thầy thuốc xem một chút mới được chứ!

Giả Liễn đâm cáu

– Chà! Mạng tao đây khó lòng mà giữ trọn. Còn trông coi đến nó được à?

Phượng Thư nghe nói, hé mắt ra nhìn một cái, tuy không nói gì, nhưng nước mắt trào ra. Thấy Giả Liễn ra rồi, chị ta bèn nói với Bình Nhi

– Chị đừng có u mê không hiểu nữa. Đã đến nỗi nước này. Chị còn lo đến ta làm gì? Ta chỉ mong chết ngay bây giờ càng hay. Chỉ cần chị còn nhớ đến ta, sau ta chết rồi, chị nuôi nấng con Xảo cho khôn lớn, ta ở nơi âm ty cũng cảm kích tình nghĩa của chị.

Bình Nhi nghe nói, càng khóc nức nở. Phượng Thư lại nói:

– Chị cũng là người hiểu đời. Dù họ không đã động đến ta. Nhưng thế nào cậu ấy cũng oán trách ta. Việc này tuy bên ngoài gây nên, nhưng nếu ta không tham lãi, thì cũng chẳng có việc gì đến ta. Giờ đây uổng phí bao nhiêu tâm lực suốt đời lo dành phần hơn người ta. Nay trở lại thua kém họ! Ta còn mang máng nghe nói việc của anh cả Trân là do cưỡng ép vợ lương dân làm vợ lẽ. Nó không theo nên bức hiếp nó đến chết. Trong việc này lại có người họ Trương. Chị nghĩ xem còn có ai nữa? Việc ấy mà xét ra, thì cậu Hai nhà ta không sao tránh khỏi tội. Lúc đó ta còn mặt mũi nào mà nhìn người ta nữa? Ta muốn chết ngay. Nhưng lại không chịu nỗi những việc nuốt vàng sống, hoặc uống thuốc độc. Chị còn muốn mời thầy thuốc làm gì. Thế có phải chị không thương ta mà lại làm hại ta không.

Bình Nhi càng nghe càng đau xót, nghĩ lại cũng khó xử, chỉ sợ Phượng Thư tìm cách tự tử, nên cứ ngồi giữ miết không rời. May mà Giả mẫu không biết rõ đầu đuôi, nên gần đây trong người có hơi đỡ. Lại thấy Giả Chính vô sự, Bảo Ngọc và Bảo Thoa ngày nào cũng ở luôn bên cạnh mình, nên cũng hơi yên lòng. Giả mẫu xưa nay vốn yêu Phượng Thư, liền bảo Uyên Ương

– Mày đem một ít đồ vật của riêng ta cho con Phượng, và đem một ít tiền giao cho con Bình để lo hầu hạ con Phượng chu đáo rồi thong thả ta sẽ xếp đặt.

Giả mẫu lại bảo Vương phu nhân trông nom Hình phu nhân. Lúc đó phủ Ninh đã xung công, tất cả của cải, nhà cửa, đất đai và bọn gia nô đều ghi sổ tịch thu hết. Giả mẫu sai người đưa xe đón Vưu thị và con dâu qua bên này, phủ Ninh tấp nập như thế mà nay chỉ còn lại mẹ con Vưu thị và Bội Phượng, Giải Loan, ngay một người hầu cũng không có. Giả mẫu chỉ cho một ngôi nhà để ở liền vách với chỗ ở của Tích Xuân. Lại sai bốn bà già và hai a hoàn hầu hạ. Tất cả vật dụng cơm nước đều do nhà bếp lớn chia phần đưa đến. Áo quần đồ đạc thì do Giả Mẫu đưa cho. Còn nhưng món tiêu dùng lặt vặt cũng do phòng kế toán chu cấp theo như tiền lương tháng của mỗi người bên phủ Vinh. Tiền tiêu dùng của bọn Giả Xá, Giả Trân và Giả Dung ở phủ Cẩm y thì phòng kế toán không biết lấy ở khoản gì ra mà chi nữa. Hiện giờ Phượng Thư không còn gì; Giả Liễn ở ngoài mắc nợ rất nhiều. Giả Chính không hiểu việc nhà, chỉ cho rằng đã giao cho người ta, tự nhiên có kẻ trông nom. Giả Liễn không còn cách gì. Nghĩ đến các nhà thân thiết thì nhà Tiết phu nhân đã suy sụp. Vương Tử Đằng đã chết, còn các nhà bà con káhc thì đều không thể giúp đỡ cho mình. Hắn đành phải sai người ngấm ngầm tới các trại bán đỡ ruộng đất lấy vài ngàn lạng để tiêu phí trong nhà giam. Bọn tôi tớ thấy chủ thất thế, cũng nhân dịp làm càn, giả danh mượn trước một số địa tô ở trại phía đông để tiêu vụng.

Giả mẫu thấy chức tước của cha ông để lại bị cách mất, con cháu đang bị giam, chờ ngày tra hỏi. Hình phu nhân và Vưu thị đêm ngày khóc lóc. Phượng Thư bệnh tình nguy cấp, tuy có Bảo Ngọc, Bảo Thoa ở bên cạnh, nhưng chỉ có thể khuyên giải chứ không thể chia nỗi lo âu được. Vì thế, đêm ngày phiền muộn, lo trước nghĩ sau, nước mắt không bao giờ khô.

Một hôm, trời đã về chiều. Giả mẫu bảo Bảo Ngọc về phòng, rồi một mình gắng gượng dậy. Bà ta bảo bọn Uyên Ương đi thắp hương ở các phật đường, lại bảo thắp hương ở giữa sân, rồi chống gậy đi ra. Hổ Phách biết là Giả Mẫu định lễ phật, liền trải nệm hồng ra. Giả mẫu thắp hương, quỳ xuống sụp lạy mấy lần, niệm phật một hồi, rồi ứa nước mắt khấn trời đất

– Trời phật ở trên, tôi là họ Sử, dâu nhà họ Giả, thành kính cầu khẩn, xin đức phật rủ lòng từ bi. Nhà họ Giả chúng tôi mấy đời nay không dám ngang tàng làm bậy. Tôi giúp chồng dạy con, tuy không làm được điều thiện, cũng không dám làm điều ác. Chắc là vì bọn con cháu kiêu sa dâm dật, phí phạm của trời đến nỗi cả nhà bị khám xét. Hiện nay con cháu bị giam, chắc hẳn dữ nhiều lành ít, đó đều là tội tại một mình tôi không biết dạy bảo chúng nó cho nên đến nông nỗi này. Giờ đây tôi xin trời phù hộ người bị giam gặp dữ hoá lành ; người có bệnh mau mau mạnh khỏe, dầu cả nhà có tội, tôi tình nguyện xin chịu một mình. Chỉ mong tha thứ cho bọn con cháu. Nếu trời thương tôi thành tâm kính cẩn, thì xin cho tôi chết sớm, mà khoan dung tội lỗi cho bọn con cháu?

Giả mẫu lâm râm cầu khẩn đến đó, rồi bất giác thương tâm nghẹn ngào khóc lóc.

Bọn Uyên ương, Trân Châu vừa khuyên giải vừa dìu vào phòng.

Vương phu nhân dẫn Bảo Ngọc, Bảo Thoa tới hỏi thăm sức khoẻ. Thấy Giả mẫu thương khóc, ba người cũng đều khóc lóc. Bảo Thoa lại có một nỗi khổ tâm khác – anh mình đang bị giam, sau này xử án không biết có được giảm nhẹ hay không? – Cha mẹ chồng tuy rằng vô sự, nhưng gia nghiệp đã tiêu điều ; Bảo Ngọc vẫn còn rồ dại, không có chút chí khí, nghĩ đến việc chung thân sau này, lại càng khóc lóc thảm thiết hơn. Giả mẫu và Vương phu nhân, Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa như thế, cũng có một nỗi thương cảm riêng, nghĩ bụng

“Bà tuổi già. không được yên tâm. Cha và mẹ thấy quang cảnh này ắt phải đau lòng. Bọn chị em tan tác chia phôi càng ngày càng ít. Nhớ lại hồi ở trong vườn ngâm thơ lập xã, vui vẻ biết chừng nào? Từ khi em Lâm qua đời, mình buồn bực cho đến nay, lại có chị Bảo làm bạn khóc lóc luôn cũng không tiện. Vả lại thấy chị ta lo cho anh, nhớ đến mẹ, đêm ngày mặt ủ mày chau. Nay thấy chị ta khóc lóc thảm thiết, trong lòng lại càng không nỡ. Do đó Bảo Ngọc cũng nức nở khóc. Bọn Uyên ương, Thái Vân, Oanh Nhi, Tập Nhân trông thấy ai nấy cũng đều có mối lo buồn riêng, nên đều đua nhau khóc. Các a hoàn thấy vậy thương tâm cũng khóc lên, không còn có ai khuyên giải. Tiếng khóc cả nhà như rung trời chuyển đất, bọn bà già canh đêm hoảng sợ, vội vàng tin cho Giả Chính biết.

Giả Chính đang buồn bực ở thư phòng, nghe bọn người nhà Giả mẫu báo tin, trong bụng hoảng hết, vội vàng chạy vào.

Xa xa nghe tiếng khóc vang lên rất đông. Giả Chính tưởng là Giả mẫu có việc gì, hồn phách rụng rời. Chạy vội vào, thấy mọi người ngồi thừ ra khóc, ông ta mới yên lòng, liền nói

– Cụ thương tâm thì cả nhà nên khuyên giải mới phải. Tại sao lại kéo bè mà khóc như thế?

Mọi người nghe tiếng Giả Chính vội vàng nín khóc, nhìn nhau ngơ ngác. Giả Chính lại gần yên ủi Giả mẫu và trách mắng bọn họ mấy câu. Mọi người đều nghĩ thầm: “bọn mình vốn sợ bà thương tâm, nên đến khuyên giải, tại sao lại quên bẳng đi; cùng nhau khóc lóc như vậy.”

Đang lúc ngẩn ngơ thì thấy một bà ở bên nhà Sử hầu đi vào hỏi thăm sức khoẻ của Giả mẫu và mọi người xong, liền nói.

– Ông lớn, bà lớn và cô nhà chúng tôi sai chúng tôi đến nói

” Nghe thấy bên phủ đâu có việc, nhưng vốn không quan hệ gì chẳng qua bị kinh khủng trong một lúc thôi. Sợ ông bà lo phiền, cho nên bảo chúng tôi đến thưa chuyện.” Ông Hai ở đây

chẳng có gì đáng sợ. Cô chúng tôi vốn muốn sang đây, nhưng vì chẳng bao lâu nữa thì về nhà chồng, nên không sang được.

Giả mẫu nghe nói, không tiện cảm ơn, chỉ nói

– Các bà về nói hộ, chúng tôi có lời hỏi thăm sức khoẻ.

Đây là vận nhà chúng tôi gặp bước như thế. Cảm ơn ông bà bên nhà tưởng đến. Hôm khác sẽ xin qua tạ ơn. Cô nhà các bà về nhà chồng, chắc chú rễ thì không cần phải nói nữa, còn gia tư nhà họ ra sao?

Hai người đàn bà thưa

– Gia tư thì cũng chẳng sao. Nhưng cậu rể người rất xinh xắn, tính lại hiền hoà. Chúng tôi đã thấy mặt mấy lần, xem chừng không khác cậu Bảo đây mấy, và nghe nói, văn tài cũng giỏi.

Giả mẫu nghe xong, vui mừng nói

– Thế thì tốt lắm! Đó là phúc của cô ấy. Nhưng mà nề nếp nhà chúng ta còn theo lễ phương Nam. Vì thế chúng ta không được thấy mặt chú rể mới. Hôm trước tôi còn nghĩ đến người bên họ ngoại nhà tôi. Tôi chỉ yêu nhất là cháu nó, một năm ba trăm sáu mươi ngày thì ở đây đến trên hai trăm ngày. Nay đã lớn như thế, tôi định kiếm cho nó một người chồng tốt. Nhưng vì chú nó không ở nhà, tôi không tiện làm chủ. Cháu nó đã có phúc lấy được chú rể tốt, thì tôi cũng yên lòng. Tháng này nó về nhà chồng, tôi vốn định qua uống ly rượu mừng, không ngờ nhà chúng tôi xảy ra việc thế này, lòng tôi nóng như nước sôi, đâu còn sang bên ấy được? Các bà về nói tôi có lời hỏi thăm. Mọi người bên này cũng đều gửi lời hỏi thăm. Các bà lại nói hộ với cháu nó đừng nghĩ gì đến tôi. Tôi nay đã hơn tám mươi tuổi, dầu có chết cũng không phải thiếu phúc nữa. Mong sao cho cháu nó về nhà người ta, vợ chồng hòa thuận, bách niên giai lão là tôi yên lòng.

Giả mẫu nói đến đó, lại rơi nước mắt.

Người đàn bà kia nói

– Cụ bà không cần phải thương tâm. Cô tôi về nhà chồng, đến hôm làm lễ hồi môn rồi thế nào cũng cùng cậu rể tới chào cụ lúc đó cụ thấy mặt sẽ vui mừng đấy.

Giả mẫu gật đầu.

Người đàn bà kia đi ra rồi, cũng không ai nghĩ đến chuyện ấy nữa, chỉ có Bảo Ngọc nghe rồi ngẩn người ra một lúc, nghĩ bụng cứ thế này, ngày này qua ngày khác, mình khó mà sống nổi. Tại sao người ta sinh ra con gái cứ lớn lên lại phải đi

lấy chồng? Khi đã lấy chồng thì hình như biến thành một con người khác. Em Sử như thế, lại bị chú ép gả cho người ta, sau này cô ta có gặp mình cũng sẽ không nhìn ngó gì đến nữa. Ta nghĩ một con người mà đã đến lúc không ai nhìn đến thì còn sống mà làm gì? ” Nghĩ đến đó, Bảo Ngọc lại thương tâm, nhưng thấy Giả mẫu vừa mới yên lặng nên không dám khóc nữa, đành chỉ ngồi buồn rũ.

Được một lúc, Giả Chính không đành lòng, lại vào thăm Giả mẫu. Thấy mẹ đã hơi đỡ, ông ta liền gọi Lại Đại bảo đem sổ những người nhà coi việc trong toàn phủ điểm lại một lượt. Trừ bọn người thuộc về Giả Xá đã xung công, còn lại hơn ba mươi nhà, cả trai gái gồm hai trăm mười hai người. Giả Chính bảo gọi bốn mươi mốt người đàn ông hiện đang làm việc trong phủ vào hỏi về việc tiêu dùng may năm nay. thu vào bao nhiêu, chi ra bao nhiêu. Giả Chính xem thì thấy tiền thu không đủ chi, lại thêm mấy năm nay, tiêu dùng về việc trong cung. Trong sổ có nhiều khoản phải vay mượn bên ngoài. Lại tra về khoản địa tô tỉnh Đông thì thấy mấy năm gần đây địa tô nạp vào không bằng một nửa so với đời cha ông, mà tiêu dùng lại nhiều hơn gấp mười lần. Giả Chính không xem thì thôi, xem rồi hoảng lên, giẫm chân nói

– Chết thật! Ta tưởng là cháu Liễn coi việc thế nào cũng biết lo lắng, ai ngờ mấy năm nay, năm Dần đã tiêu lan sang tiền năm Mão. Thế mà vẫn tô điểm bề ngoài. Cho bổng lộc thế chức 1 là việc không quan hệ gì, làm gì mà chẳng suy sụp! Bây giờ mình mới biết dành dụm thì đã muộn rồi.

Nghĩ đến đó, ông ta cứ đi đi lại lại, chẳng còn biết làm cách nào.

Mọi người biết.Giả Chính không quen việc nhà, có sốt ruột cũng vô ích, liền nói

– Ông lớn không cần phải lo phiền, nhà nào cũng như thế cả. Nếu tính tổng cộng lại thì ngay nhà đức vương cũng không đủ tiêu, chẳng qua chỉ trau chuốt bộ mặt ngoài, đến đâu hay đây thôi. Giờ đây ông lớn nhờ ơn chúa thượng mới có chút gia sản này. Nếu bị xung công hết, không lẽ ông lớn không ăn tiêu nữa.

Giả Chính quát

– Nói nhảm! Bọn tôi tớ chúng bay là đồ vô lương tâm cả! Lúc chủ nhà còn khá thì chúng bay tiêu pha bừa bãi, đến khi hết sạch, mỗi đứa bỏ đi mỗi nơi. Kể gì chủ nhà chết với sống? Giờ đây chúng bay nói không bị tịch thu niêm phong là tốt, nhưng chúng bay biết sao được tiếng tăm ở bên ngoài. Gốc đã khó giữ thì còn chịu sao nổi bọn chúng bay ở ngoài làm càn, nói láo, lừa gạt người ta? Khi xảy ra chuyện thì chúng bay đổ vào đầu chủ nhà là xong! Giờ nghe nói việc ông Cả, anh Trân là do Bào Nhị. Người nhà chúng ta rêu rao lộ chuyện. Nay xem sổ này không có tên Bào Nhị nào cả, là tại làm sao.

Mọi người thưa

– Tên Bào Nhị không ở trong danh sách này. Trước kia hắn ở bên phủ Ninh. Vì cậu Hai thấy hắn ta thật thà mới gọi hai vợ chồng hắn qua bên này. Sau vợ chết, hắn lại về phủ Ninh. Lúc ông lớn bận việc ở cửa quan, cụ bà, bà lớn, các ông đều đi lên lăng. Cậu Trân coi hộ việc nhà, đem hắn sang, sau đó hắn lại đi ngay. Mà năm nay ông lớn không coi việc nhà, làm gì mà biết những chuyện ấy! Ông lớn cứ tưởng rằng trên danh sách không có tên chỉ có một người ấy thôi, không biết rằng là cũng có tôi tớ của họ, rồi tôi tớ cũng lại có tôi tớ nữa đấy.

Giá Chính nói

– Thế thì chết thật!

Rồi ông ta nghĩ rằng trong một lúc chưa có thể xử trí dứt khoát, đành phải quát mọi người lui ra, nhưng trong bụng đã có ý sẵn sàng, hãy chờ xem quan trên xét hỏi bọn Giá Xá ra sao rồi sẽ định sau.

Một hôm, Giả Chính đang ngồi trù tính ở thư phòng, bỗng một người vội vàng chạy vào trình

– Xin mời ông lớn vào cung mau để hầu chuyện.

Giả Chính nghe nói trong bụng hoảng hốt, đành phải đi vào cung.

1      Tức là đời đời nối chức.

Chương 107: Cho của thừa, Giả mẫu hiểu nghĩa lớn – Phục chức cũ, Giả Chính đội ơn trời

Cho của thừa, Giả mẫu hiểu nghĩa lớn

Phục chức cũ, Giả Chính đội ơn trời

Giả chính vào triều, gặp các vị đại thần viện khu mật, lại gặp các vị vương gia, Bắc Tỉnh vương nói:

– Hôm nay chúng tôi gọi ông đến theo chỉ ý, hỏi ông mấy việc.

Giả Chính vội vàng quỳ xuống.

Các đại thần liền nói

– Những việc anh ông giao thông với quan ngoài, cậy thế mạnh áp bức người hèn, dung túng con cháu đánh bạc, cưỡng chiếm vợ lương dân làm lẽ, nó không theo, bức hiếp đến chết, ông có biết không!

Giả Chính thưa

– Tôi từ khi đội ơn Chúa thượng, nhậm chức học chính xong, đi tra xét việc phát chẩn, hết mùa đông năm kia mới về nhà. Sau đó lại được sai đi làm các việc công trình, rồi được nhậm chức lương đạo tỉnh Giang Tây, bị hặc về kinh, vẫn làm ở bộ Công, đêm ngày không dám lười biếng. Tất cả mọi việc trong nhà, tôi đều không để ý xem xét. Tôi thật là u mê không biết dạy bảo con cháu, phụ ơn thánh thượng, dám xin Chúa thượng trị tội nặng.

Bắc Tỉnh Vương cứ thế mà tâu lên. Được một lát, trong cung truyền chỉ vua ra, Bắc Tỉnh Vương thuật lại rằng

– Chúa thượng nhân việc ngự sứ hặc tâu Giả Xá giao thông với quan ngoài, cậy mạnh áp bức người hèn, theo lời quan ngự sử kia tâu lên thì Giả Xá đi lại với Châu Bình An, bao thầu trong việc kiện tụng. Sau khi tra hỏi Giả Xá theo lời khai của Giả Xá thì Châu Bình An vốn là chỗ bà con thông gia qua lại, chưa hề có can thiệp đến việc quan. Quan ngự sứ kia cũng không nêu ra được chứng cứ rõ rệt. Duy có việc cưỡng bức lấy quạt của anh chàng Thạch ngốc nào đó là có thật. Nhưng đó chỉ là đồ chơi, không thể xem như việc công bức lấy của cải của lương dân. Anh chàng Thạch ngốc kia tự tử cũng là do nó điên dại mà làm như thế, không phải việc bức bách làm cho người ta chết. Nay hoàng thượng khoan hồng, đày Giả Xá ra nơi đài trạm 1 làm việc để chuộc tội. Còn khoản hặc Giả Trân cưỡng chiếm vợ lương dân làm vợ lẽ, nó không theo bức hiếp nó phải chết thì xét theo nguyên án ở đô sát viện, thấy chị Hai họ Vưu là vợ chưa cưới của Trương Hoa, hứa gả từ khi ở trong thai, vì anh ta nghèo khổ tự nguyện thoái hôn. Mẹ chị Vưu bằng lòng gả cho em Giả Trân làm vợ lẽ, không phải là cưỡng chiếm. Đến khoản chị Ba họ Vưu tự vẫn, tự ý đem chôn, không báo quan thì xét như sau

“Chị Ba họ Vưu là em vợ Giả Trân. Nguyên Giả Trân muốn gả chồng cho chị ta, nhân vì người ta đòi lại vật đính hôn rồi người ngoài lại rêu rao nói xấu, nên cô ta hổ thẹn tự tử, không phải là Giả Trân bức bách mà chết. Giả Trân là một viên chức thế tập, chẳng biết pháp luật, chôn trộm mạng người, đáng lẽ phải trị tội nặng. Nhưng nghĩ anh ta vẫn là con cháu nhà công thần, không nỡ làm tội nên cũng theo lệ khoan hồng, cách chức thế tập, sai tới ven biển làm việc để chuộc tội. Giả Dung tuổi trẻ, không liên can gì được tha bổng. Giả Chính coi việc nhà không đúng đắn, nhưng vì làm quan ngoài đã lâu, mọi việc cũng siêng năng cẩn thận nên miễn tội.

Giả Chính xem xong, cảm kích chảy nước mắt, sụp lạy lia lịa, lại xin vương gia tâu hộ lòng thành của mình.

Bắc Tỉnh vương nói

– Ông nên lạy tạ ơn trên, còn tâu gì nữa?

Giả Chính nói

– Kẻ phạm tội này đội ơn trời không xử tội nặng, đội ơn trả lại giả sản, thật là trong lòng hổ thẹn, sẽ đem tất cả gia tài bổng lộc do tổ tiên để lại, dành dụm và sắm sửa ra đều đưa vào của công.

Bắc Tĩnh vương nói

– Chúa thượng đãi người dưới nhân từ, dùng hình sáng suốt cẩn thận, thưởng phạt không sai. Nay đã đội ơn cao sâu, trả lại tài sản, hà tất ông phải tâu thêm làm gì.

Các quan khác cũng đều nói

– Bất tất phải tâu điều đó.

Giả Chính liền tạ ơn, lại lạy tạ vương gia rồi đi ra. Sợ Giả mẫu lo lắng, ông ta vội vàng về nhà. Bọn người nhà không biết nhà vua cho gọi Giả Chính vào là việc lành hay dữ, nên đều ở ngoài nghe ngóng. Khi thấy Giả Chính về nhà, ai nấy mới đỡ lo, nhưng không dám hỏi. Giả Chính vội vàng đến chỗ Giả mẫu kể lại việc được ơn trên khoan hồng tha thứ như thế nào. Giả mẫu tuy yên lòng nhưng nghĩ lại

“hai thế chức đều bị cách. Giả Xá phải đi đài trạm làm việc, Giá Trân phải đi ra ven biển, nên đau lòng khóc lóc.

Hình phu nhân và Vưu thị nghe thấy, khóc lóc mãi không thôi. Giả Chính nói

– Xin mẹ cứ yên lòng. anh Cả tuy phải đi làm việc ở nơi đài trạm, nhưng cũng là làm việc cho nhà nước, không đến nổi chịu khổ ; chỉ cần làm cho chu đáo là có thể phục chức. Còn cháu Trân đang ít tuổi, cũng phái cố sức làm việc. Nếu không như thế, thì mặc dầu cha ông có công đức để lại cũng không hưởng được lâu.

Ông ta lại nói thêm mấy lời an ủi.

Giả mẫu xưa nay vốn không ưa Giả Xá lắm, còn Giả Trân bên phủ Đông thì lại xa cách thêm một tầng. Chỉ có Hình phu nhân và Vưu thị thì cứ khóc mãi.

Hình phu nhân nghĩ bụng

“gia sản sạch không, chồng tuổi già lại phải đi xa, tuy có thằng Liễn, nhưng xưa nay nó vốn về hùa với chú nó ; nay việc gì cũng nương tựa vào chú Hai, vợ chồng nhà nó tất nhiên lại càng theo về bên ấy. Chỉ trơ lại một mình cô độc khổ sở, biết làm thế nào Vưu thị thì xưa nay một mình trông coi việc nhà ở phủ Ninh. Ngoài Giả Trân, chị ta là người được tôn quý hơn cả. Vợ chồng lại vốn thuận hòa. Nay Giả Trân mắc tội phải đi xa, gia tài bị tịch thu hết, sống nương nhờ phủ Vinh. Tuy rằng được Giả mẫu thương yêu, nhưng dẫu sao cũng vẫn là ăn nhờ ở đậu. Lại đèo thêm Bội Phượng, Giai Loan nữa và vợ chồng Giả Dung, đều là người không biết sinh cơ lập nghiệp.” Chị ta lại nghĩ

“em Hai và em Ba chết đều do chú Liễn gây nên, giờ đây bọn họ yên ổn vô sự, vợ chồng vẫn sum họp như thường, còn mình thì chỉ sót lại mấy đứa, làm sao sống cho qua ngày?” Nghĩ đến đó, chị ta lại khóc lóc thảm thiết.

Giả mẫu không nở lòng, liền hỏi Giả Chính.

– Anh Cả con và cháu Trân hiện đã thành án, có thể về nhà được không? Còn thằng Dung không việc gì, chắc cũng được tha chứ?

– Nếu như lệ đã đặt thì anh Cả không về nhà được. Nhưng con đã nhờ người ta thể theo tình riêng, cho anh Cả và cháu Trân về nhà, để tiện việc sắp sửa hành lý. Trong nha môn đã nhận lời. Chắc là cháu Dung sẽ cùng ông và cha nó đều về một thể. Xin mẹ cứ yên lòng, để con lo liệu.

– Ta mấy năm nay già cả, chẳng còn ra người nữa, việc nhà cũng không khi nào hỏi đến. Giờ đây bên phủ Đông bị tịch thu hết, nhà cửa cũng xung công, không còn phải nói. Kho bạc phủ Tây của chúng ta và đất đai ở phủ Đông, anh có biết còn lại bao nhiêu không? Hai chú cháu chúng nó ra đi cũng phải cấp cho chúng mấy ngàn bạc mới được chứ?

Giả Chính đang không biết tính làm sao, nghe Giả mẫu nói, nghĩ bụng

“Nếu nói rõ ra thì sợ mẹ lo. Nhưng nếu không nói rõ, thì sợ sau này, và ngay bây giờ cũng không biết lo liệu ra sao, ông ta liền thưa

– Nếu mẹ không hỏi thì con cũng không dám nói. Nay mẹ đã hỏi đến việc đó, và hiện giờ cháu Liễn cũng ở đây, con có thể nói, hôm qua con đã xét việc ấy rồi – bạc ở kho đã hết sạch, chẳng những đã tiêu hết, còn thiếu hụt phải mắc nợ nữa. Giờ đây việc của anh Cả nếu không bỏ tiền ra lo nhờ người ta, mặc dù nói chúa thượng khoan hồng, nhưng e rằng chú cháu nó vẫn có điều không hay. Ngay số bạc ấy bây giờ cũng chưa biết lấy vào đâu. Còn hoa lợi đất đai tỉnh Đông thì tô năm Dần đã tiêu sang tô năm Mão. Trong một lúc cũng khó lòng mà xoay xở. Chỉ có cách bán những quần áo và đồ trang sức, nhờ ơn trên không động đến để làm phí tổn cho anh Cả và cháu Trân thôi. Còn việc ăn tiêu sau này sẽ liệu cách.

Giả mẫu nghe nói hoảng hốt, chảy nước mắt, và nói

– Làm sao thế? Nhà mình mà đến nông nỗi ấy à. Ta tuy chưa từng trải, nhưng nghĩ bên nhà ta ngày trước so với bên này còn hơn gấp mười. Cũng chỉ vì lo tô điểm hảo bộ mặt bề ngoài, nên sau mấy năm không xảy ra việc như ở bên này. Nhưng cũng đã suy sụp. Không đầy hai năm là sạch cả! Theo như anh nói, thì nhà mình không thể chèo chống được một vài năm nữa à.

– Nếu hai thế bổng 2 không mất thì bên ngoài còn có cách xoay xở, giờ đây người ta không còn nhìn vào cái gì làm đảm bảo thì còn ai chịu giúp đỡ.

Giả Chính nói đến đó, nước mắt tràn ra

– Nghĩ đến bà con, những nhà nhờ tiền của mình thì nay đều cùng túng. Những nhà không nhờ gì mình lại không chịu giúp đỡ. Hôm qua con cũng chưa tra xét kỹ, chỉ xem danh sách bọn người nhà. Chưa nói đến tiền tiêu trên đây chẳng biết lấy vào đâu mà người hầu hạ bên dưới cũng không nuôi được nhiều như thế.

Giá mẫu đang lo lắng, thì thấy bọn Giả Xá, Giả Trân, Giả Dung đi vào hỏi thăm sức khỏe. Giả mẫu thấy quang cảnh như thế, một tay nắm Giả Xá, một tay nắm Giả Trân, khóc oà lên.

Hai người tỏ vẻ hỗ thẹn, lại thấy Giả mẫu khóc lóc, đều quỳ xuống đất. vừa khóc vừa nói

– Con cháu chúng con hư thân, làm hỏng mất sự nghiệp của cha ông, lại làm cho mẹ phải đau lòng, tội chúng con thật là chết không có chỗ chôn!

Mọi người thấy quang cảnh như thế, lại đua nhau khóc ầm lên. Giả Chính đành phải khuyên giải

– Bây giờ trước hết phải kiếm tiền tiêu cho hai chú cháu đã. Xem chừng chỉ ở nhà được một vài ngày, chậm thì người ta không nghe cho đâu.

Giả mẫu nín khóc và nói

– Thôi hai con hãy về chuyện trò với vợ đã.

Rồi bà ta lại dặn Giả Chính

– Việc này không chờ được lâu đâu! Chắc xoay xở bên ngoài cũng không ăn thua, nhỡ lại qua mất hạn trên định thì làm sao được? Đành để ta liệu hộ cho thôi. Vả chăng trong nhà cứ rối bời lên thế này, cũng không phải là cách lâu dài.

Giả mẫu vừa nói vừa gọi Uyên Ương đến dặn. Bọn Giả Xá ra ngoài lại cùng Giả Chính khóc lóc một hồi, kể lể những chuyện trước đây tự ý làm càn, sau này ăn năn – và giờ đây phải ly biệt nhau. Rồi ai nấy vợ chồng cùng nhau khóc lóc. Giả Xá

tuổi đã già, còn có thể dứt tình ra đi. Chỉ có Giả Trân và Vưu thị làm sao rời nhau cho đành? Bọn Giả Liễn, Giả Dung cũng chỉ biết nắm lấy cha mà khóc lóc. Dầu nói là nhẹ hơn tội xung quân, nhưng vẫn là cảnh sinh ly tử biệt, việc đã đến thế đành phải bẩm bụng cho qua.

Giả mẫu gọi Hình phu nhân và Vương phu nhân cùng bọn Uyên Ương mở rộng đổ hộp lấy ra hết cả những đồ vật dành dụm từ khi làm dâu đến nay, lại gọi bọn Giả Xá, Giả Chính, Giả Trân đến chia cho từng phần rõ ràng. Giả mẫu cấp cho Giả Xá ba ngàn lạng và nói

– Số bạc hiện có ở đây, anh đem đi hai ngàn làm tiền tiêu để một ngàn cho chị ấy tiêu riêng. Đây có ba ngàn lạng cho cháu Trân, nhưng chỉ được đưa đi một ngàn lạng, để lại hai ngàn lạng cho vợ cháu giữ lấy. Ai nấy tự lo lấy sinh sống. Nhà cửa thì ở chung với nhau, cơm nước thì ăn riêng. Việc hôn nhân của con Tư sau đây cũng là việc của ta. Tội nghiệp con Phượng lo liệu bấy lâu bây giờ sạch không, cũng cho nó ba ngàn lạng, giao cho nó giữ lấy không cho cháu Liễn tiêu. Giờ đây nó còn ốm mê mệt thì bảo con Bình đến mà nhận về. Đây là xiêm áo của cha ông để lại cả áo quần và đồ trang sức của ta dùng khi còn nhỏ, nay ta không dùng đến. Đồ đàn ông thì bảo ông Cả, cháu Liễn, cháu Trân, cháu Dung đem ra mà chia nhau. Đồ đàn bà thì bảo bà Cả, vợ cháu Trân và con Phượng đem mà chia nhau. Đây có năm trăm lạng bạc giao cho cháu Liễn, sang năm đưa linh cữu con Lâm về Nam.

Giả mẫu phân phát xong, lại nói với Giả Chính

– Anh nói còn mắc nợ người ngoài, việc đó cũng không thiếu được. Anh bảo đem số vàng này bán đi mà trả cho người ta. Đó là bọn chúng nó phá mất của ta đấy. Anh cũng là con ta, ta không hề có thiên vị. Bảo Ngọc đã nên cửa nên nhà, những vàng bạc và đồ vật còn lại đây ước chừng mấy ngàn lạng, đều đã cho nó cả. Vợ cháu Châu xưa nay ăn ở hiếu thuận với ta, thằng chắt Lan cũng tốt, ta cũng chia cho mẹ con nó ít nhiều. Thế là công việc của ta xong xuôi.

Bọn Giả Chính thấy Giả mẫu phân xử sáng suốt như thế, đều quỳ xuống khóc và nói:

– Tuổi già như thế, bọn chúng con chưa có chút gì hiếu thuận. Giờ đây lại chịu ơn của người thế này. Thật bọn chúng con lấy làm xấu hổ!

Giả mẫu nói

– Đừng nói nhảm! Nếu không, xảy ra tai vạ này thì ta còn cất đi đấy. Có điều hiện giờ người nhà nhiều quá, chỉ có mình anh Hai đi làm việc, thì để lại ít người là đủ. Anh nên dặn ngay bọn coi việc gọi mọi người đến đầy đủ rồi phân phối cho thỏa đáng. Nhà nào cũng có người để sai bảo là được. Giá hôm nọ bị tịch thu cả thì làm sao nữa. Trong nhà ta đây cũng phải bảo họ sắp xếp đứa nào nên gả thì gả đi; đứa nào cho về thì cho về. Bây giờ tuy nhà này không xung công, nhưng anh cũng nên giao cái vườn đi mới phải. Còn đất ruộng thì giao cho cháu Liễn xem xét đâu đấy. Chỗ nào nên bán thì bán đi, chỗ nào nên để lại thì để lại. Nhất thiết đừng có làm cái lối tô điểm cái vỏ bề ngoài nữa. Ta cũng nói trắng ra cho mà biết, chứ bên nhà bà Hai còn giữ mấy lạng bạc của nhà họ Chân phương Nam, cũng nên sai người đưa trả đi. Giả phỏng lại xảy ra việc gì thì không phải là bọn họ tránh vỏ dưa lại dẫm phải vỏ dừa hay sao.

Giả Chính vốn là người không biết lo liệu việc nhà, khi nghe Giả mẫu nói, thì nhất nhất vâng lời, nghĩ bụng

“Mẹ mình thật là người biết xử trí việc nhà, chỉ tại bọn mình hư thân làm hỏng hết đấv thôi”. Giả Chính thấy Giả mẫu nhọc mệt, liền mời nghỉ ngơi để di dưỡng tinh thần. Giả mẫu lại nói

– Những đồ vật của ta còn lại cũng chẳng là bao. Chừng khi ta chết, để sử dụng vào việc hậu sự cho ta. Còn thừa bao nhiêu thì cho bọn a hoàn hầu hạ ta.

Bọn Giả Chính nghe đến đó, càng thêm thương cảm. Mọi người đều qùy xuống nói

– Xin mẹ bớt lo. Mong sao cho bọn con nhờ phúc ấm của mẹ ít lâu nữa, được ơn trên thương đến, lúc bấy giờ, sẽ lo lắng trông nom việc nhà để chuộc lỗi trước là phụng thờ mẹ đến trăm tuổi.

Giả mẫu nói

– Ta mong sao cho được như thế mới tốt. Ta có chết đi cũng còn mặt mũi mà nhìn cha ông. Các người đừng tưởng rằng ta là người chỉ biết hưởng phú quý mà không chịu được bần cùng! Chẳng qua mấy năm nay thấy bọn các người làm ra vẻ bề thế ta đành cứ để mặc, nói nói cười cười, di dưỡng con người đấy thôi. Ngờ đâu vận nhà suy sụp đến nông nỗi này! Nếu nói đến việc tiếng cả nhà không thì ta đã biết lâu rồi. Nhưng vì ăn ở quen nết, trong một lúc khó lòng thay đổi mà thôi. Nay nhân dịp này thu hẹp lại, giữ lấy nếp nhà, nếu không người ta sẽ chê cười cho. Các người còn chưa biết, chỉ tường rằng ta thấy cùng túng thì hoảng lên muốn chết. Bụng ta nghĩ là nghĩ đến công nghiệp vô cùng lớn lao của cha ông. Ngày nào ta cũng trông nom cho các người hơn cha ông, biết giữ được thanh danh. Ai ngờ hai chú cháu nhà nó lại làm cái trò như thế.

Giả mẫu đương nói miên man thì thấy bọn Phong Nhi hoảng hốt chạy đến trình với Vương phu nhân

– Hôm nay mợ chúng tôi nghe thấy việc ngoài như thế, khóc lóc một hồi, bây giờ thở không được. Chị Bình bảo tôi đến trình bà lớn.

Phong Nhi nói chưa xong. Giả mẫu nghe thấy liền hỏi

– Nó thế nào rồi?

Vương phu nhân trả lời thay

– Hiện giờ nghe nói nó nguy cấp.

Giả mẫu đứng dậy nói

– Chà? Cái bọn oan gia này, làm ta chết mất!

Nói xong bảo người dìu đi, định thân hành đến thăm.

Giả Chính vội vàng ngăn lại và khuyên

– Mẹ nãy giờ đau lòng mãi, lại lo liệu công việc, bây giờ cần nghỉ một chút. Dầu cháu nó có việc gì thì chỉ bảo nhà con qua thăm đựơc. Mẹ hà tất phải đi sang làm gì? Nếu mẹ lại thương cảm nữa thì có việc gì không hay, con biết xử trí ra sao?

Giả mẫu nói

– Các anh cứ đi, chốc nữa sẽ lại đây, ta có chuyện muốn nói.

Giả Chính không dám nói nhiều, đành phải đi ra, lo liệu việc anh và cháu lên đường, lại báo Giả Liễn chọn người theo hầu.

Giả mẫu gọi Uyên Ương sai người mang những đồ vật cho Phượng Thư theo bà ta đi sang. Lúc đó Phượng Thư đang bị khí quyết 3. Bình Nhi khóc lóc sưng cả mắt. Nghe nói Giá mẫu dẫn bọn Vương phu nhân đến, chị ta vội vàng ra đón tiếp. Giả mẫu liền hỏi

– Giờ nó ra sao rồi?

– Giờ đã hơi đỡ. Cụ đã đến đây, xin mời vào thăm mợ ấy một chút.

Nói xong, Bình Nhi theo Giả mẫu vào, rồi vội vàng chạy trước, khẽ vạch màn ra. Phượng Thư mở mắt nhìn, thấy Giả mẫu đi vào trong bụng rất là hổ thẹn. Ban đầu chị ta tưởng bọn Giả mẫu giận mình, không còn yêu thương nữa, sống chết cũng mặc. Không ngờ thấy Giả mẫu thân hành đến thăm, trong bụng chị ta khoan khoái, cảm thấy nhẹ nhàng, liền muốn gắng gượng ngồi dậy. Giả mẫu bảo Bình Nhi giữ lại và nói

– Đừng có gắng dậy! Cháu có đỡ không?

Phượng Thư rưng rưng nước mắt, nói

– Cháu hơi đỡ rồi. Từ khi nhỏ cháu qua đây, bà và thím yêu cháu biết chừng nào. Ngờ đâu phúc phận của cháu mỏng manh, bị ma quỉ xui giục, như người mất hồn. Đối với bà và cha mẹ chồng, cháu chưa tròn chút lòng hiếu thảo để người vui lòng.

Thế mà bà và thím còn cho cháu là người, bảo giúp đỡ lo liệu, việc nhà để đến nỗi cháu làm cho thất điên bát đảo, giờ cháu còn mặt mũi nào nhìn thấy bà và thím nữa. Hôm nay bà và thím lại thân hành đến đây, cháu làm sao cho xứng đáng, chỉ sợ sống được ba hôm thì lại giảm đi hai hôm thôi.

Nói xong, chị ta nghẹn ngào nức nở.

Giả mẫu nói

– Những việc ấy là do bên ngoài gây ra, can gì đến cháu. Ngay cả những đồ vật của cháu bị người ta lấy đi cũng chẳng đáng kể. Hiện giờ ta đưa đến cho cháu một ít đồ vật, cháu hãy xem đây.

Nói đến đó, bà ta hầu đưa đồ vật đến cho Phượng Thư xem. Phượng Thư vốn là người tham lam không biết chán, của cải bị tịch thu hết sạch, cố nhiên là đau xót, lại sai người ta trách móc, chính là lúc không muốn sống nữa. Nay thấy Giả mẫu vẫn thương mình. Vương phu nhân cũng không trách giận mà vẫn đến an ủi mình, lại nghĩ đến Giả Liễn không bị can gì, trong bụng cũng đỡ lo. Chị ta liền dập đầu trước Giả mẫu và nói

– Xin bà yên lòng, nếu nhờ phúc ấn của bà mà bệnh cháu khỏe được thì cháu tình nguyện làm con hầu sai vặt, hết lòng hết sức hầu hạ bà và thím.

Giả mẫu nghe chị ta nói ra vẻ thương tâm. Bất giác rơi nước mắt. Bảo Ngọc xưa nay là người chưa từng trải qua sóng gió bao giờ, trong lòng chí huyết yên vui, không biết lo lắng, bây giờđi đến đâu cũng đều là chuyện khóc lóc, nên lại càng ngơ ngác, thấy người ta khóc cũng khóc theo. Phượng Thư thấy mọi người lo buồn, lại phải gắng gượng nói mấy câu an ủi Giả mẫu và năn nỉ

– Mời bà và thím về, khi nào cháu đỡ, cháu sẽ qua bái tạ.

Nói xong, chị ta ngước đầu lên. Giả mẫu bảo Bình Nhi

– Con hầu hạ cho tử tế, thiếu cái gì sang bên ta mà lấy.

Nói đến đó, Giả mẫu cùng bọn Vương phu nhân toan về phòng mình, thì nghe hai ba chỗ có tiếng khóc. Giả mẫu trong lòng thương hại, liền bảo Vương phu nhân về, và bảo Bảo Ngọc- cháu sang chào bác và anh, tiễn đưa một lúc rồi về

ngay.

Giả mẫu nằm trên giường chảy nước mắt; may có bọn Uyên ương dùng đủ mọi cách để khuyên giải, nên cũng tạm yên.

Chuyện biệt ly đau thương của bọn Giả Xá, hãy tạm gác lại đã. Nay nói đến bọn người nhà theo đi, chẳng có ai bằng lòng cả, trong họ không khỏi oán giận, kêu van rầm trời. Thật là sinh ly còn đau buồn hơn là tử biệt. Người nhìn thấy lại càng đau lòng hơn người trong cuộc. Cả một tòa phủ Vinh đầy những người khóc kêu gào.

Giả Chính là người rất giữ khuôn phép, về mặt cương thường luân lý cũng rất chu đáo. Sau khi cầm tay từ biệt bọn Giả Xá, ông ta tự cưỡi ngựa đi trước ra đếnngoài thành, nâng chén tiễn đưa lại dặn dò

– Nhà nước bao giờ cũng thương đến con nhà công thần, phải ra sức báo đền cho xứng đáng…

Bọn Giả Xá gạt nước mắt, chia tay từ biệt.

Giả Chính dẫn Bảo Ngọc về nhà, chưa kịp vào cửa thì khi ấy ở ngoài có một số người đang lao nhao nói

– Hôm nay có chỉ nhà vua cho Giả Chính thưa kế chức Vinh quốc công.

Bọn người ấy đòi tiền mừng. Nhưng những người canh cửa cãi

– Chức thế tập của nhà đây, thì người nhà đây thừa kế, có gì mà bảo tin mừng!

Bọn người kia nói

– Vinh dự của chức thế tập. So với bất cứ quan chức lại càng khó hơn. Ông Cả nhà các anh làm mất đi, không mong gì lại được nữa. Nay nhờ ơn thánh thượng như trời bể. Lại cho anh Hai thừa kế. Đó là việc nghìn năm hiếm có, sao lại không cho tiền mừng?

Hai bên đang cãi cọ nhau thì Giả Chính vừa về. Người nhà trình lại, ông ta cũng mừng, nhưng vì do anh mình phạm tội, nên mới đến thế. Nghĩ cảm cảnh lại chảy nước mắt. Ông ta vội vàng chạy vào báo với Giả mẫu. Giả mẫu cố nhiên là mừng rỡ liền nắm lấy Giả Chính nói mấy câu dặn dò phải siêng năng cố gắng để báo ơn vua.

Vương phu nhân đang sợ Giả mẫu đau lòng, đến để yên ủi nghe nói lại được phục chức thế tập cũng lấy làm mừng. Chỉ có Hình phu nhân và Vưu thị trong lòng đau khổ, nhưng không tiện nói ra.

Bọn bà con bạn hữu ở ngoài quen thói xu phụ thế lợi. Ban đầu thấy nhà họ Giả có việc đều tránh xa không đến ; nay thấy Giả Chính được tập chức, biết là vua còn yêu, nên mọi người đều đến mừng. Ngờ đâu Giả Chính tính tình thật thà, thấy mình thừa kế chức tước của anh nên trong bụng đâm ra buồn bực, chỉ biết cảm kích ơn vua mà thôi. Hôm sau, Giả Chính vào cung tạ ơn, lại làm tờ tâu xin đem nhà vườn được trả lại nộp vào của công.

Trong nội đình xuống chỉ bảo không cần phải như thế. Giả Chính mới yên tâm về nhà.Từ sau tuân theo phận sự của mình mà làm công việc. Nhưng cảnh nhà tiêu điều, tiền thu vào không đủ chi ra. Giả Chính lại không biết đưa đón với bên ngoài. Bọn người nhà thấy Giả Chính thật thà. Phượng Thư tâm đau không thể trông nom việc nhà. Giả Liễn thì ngày càng túng thiếu, khó lòng tránh khỏi việc cầm nhà bán đất. Mấy tên người nhà có tiền, sợ Giả Liễn làm rầy rà, đều vờ ra bộ túng bấn để trốn tránh, thậm chí họ xin phép nghỉ rồi không đến, ai nấy lo tìm đường khác làm ăn.

Riêng có Bao Dũng tuy là người mới đến, lại gặp lúc phủ Vinh rắc rối, anh ta vẫn hết lòng lo lắng công việc. Thấy bọn người kia lừa dối chủ nhà, anh ta thường thường bực bội. Nhưng không thể nói được, nên đâm ra tức giận, hằng ngày cứ ăn rồi lại ngủ. Bọn người kia giận anh ta không chịu hùa theo mình, liền nói với Giả Chính rằng anh ta cả ngày chỉ uống rượu sinh sự, không làm việc gì cả.

Giả Chính nói

– Hãy mặc kệ đấy.. Anh ta là do họ Chân cử đến, không tiện nói ra. Thôi đành như thêm một người ăn nữa, tuy nói là túng, nhưng cũng không chi một người.

Ông ta cũng không bảo đuổi đi.

Bọn người kia lại nói với Giả Liễn về Bao Dũng như thế nào. Nhưng Giả Liễn cũng không dám tự mình tác oai tác phúc đành để mặc đấy.

Một hôm, Bao Dũng bực mình, uống mấy ly rượu, rồi đi chơi rong ở con đường trước phủ Vinh. Bỗng thấy hai người đang nói chuyện với nhau. Một người nói

– Anh xem? Tòa phủ lớn như thế, trước đây bị tịch biên, không biết nay ra sao rồi?

Người kia nói

– Nhà họ làm gì mà suy sụp được? Nghe nói có bà quí phi là con gái nhà ấy, tuy bà ta chết rồi, nhưng vẫn có thế lực. Vả lại, hồi thường thấy những người qua lại với họ đều là các bậc vương, công, hầu, bá cả, thiếu gì người giúp đỡ? Ngay quan phủ doãn lệnh này, trước nhận chức ở bộ hình, cũng là một nhà với họ đấy.

Không nhẽ có những người như thế mà không bênh vực được hay sao?

Một người lại nói

– Anh ở đây mà chẳng hiểu gì cả. Người khác không nói làm gì, chứ ông Giả ấy thì lại ghê lắm! Tôi thường thấy ông ta qua lại với hai phủ. Trước đây quan ngự sử tuy có hặc chúa thượng còn bảo quan phủ doãn tra cứu rõ ràng sự thực rồi mới xử. Anh có biết ông ta làm thế nào không? Ông vốn nhờ ơn cửa hai phủ, nhưng sợ người ta nói bênh vực người cùng họ, liền chơi một vố rất đau, cho nên hai phủ mới đến nỗi bị tịch biên đấy.

– Anh nói thế tình ngày nay có ghê hay không?

Hai người ấy vô tâm nói chuyện suông, không biết ở bên cạnh có người theo nghe được rõ ràng. Bao Dũng trong bụng nghĩ thầm

“thiên hạ lại có hạng người như thế! Nhưng không biết họ là bà con thế nào với ông lớn nhà mình. Ta mà gặp thì ta đánh cho một trận bỏ xác, có xảy ra việc thì ta chịu tội “.

Bao Dũng say rượu đang nghĩ ngợi lung tung, chợt nghe bên kia có tiếng dẹp đường đi tới. Bao Dũng đứng xa xa, nghe hai người kia thì thầm nói với nhau

– Người đi tới là Giả đại nhân đấy.

Bao Dũng nghe nói trong bụng tức giận, nhân có hơi men. liền quát to

– Đồ vô lương tâm! Tại sao mà quên ơn họ Giả nhà ta!

Vũ Thôn ngồi trong kiệu, nghe một chữ giả, liền để ý xem, thấy là một người say rượu, cũng không để ý, cứ việc đi qua. Bao Dũng đang say, chẳng hiểu hay dở, liền hớn hở thích chí đi về trong phủ, hỏi lại người bạn,mới biết ông quan mình

vừa gặp là do phủ Vinh đề cử lên. Anh ta khoe

– Ông ấy không nghĩ đến ơn xưa, lại làm hại nhà mình. Khi nãy gặp ông ấy, tôi mắng cho mấy câu, ông ấy không dám nói gì.

Bọn người nhà ở phủ Vinh vốn ghét Bao Dũng, nhưng không làm sao được, vì chủ nhà cứ để mặc anh ta. Nay thấy anh ta gây chuyện, nhân khi Giả Chính rảnh việc, họ liền đem chuyện anh ta uống rượu sinh sự trình với Giả Chính.

Lúc bấy giờ, Giả Chính đang sợ tiếng tăm, nghe bọn người nhà nói, liền nổi giận, gọi Bao Dũng đến mắng mấy câu!

Vì không tiện trách phạt nặng nên cho anh ta ra coi vườn, không cho đi lại bên ngoài. Bao Dũng là người tính khí thẳng thắn, đến ở với chủ, thì hết lòng giúp chủ, không ngờ Giả Chính nghe lời người khác lại mắng anh ta. Anh ta cũng không dám cãi lại, đành phải thu xếp đồ đạc, vào vườn trông nom và vun tưới cây cỏ.

1      Nơi biên phòng ngày xưa.

2      Bỗng lộc tập chức.

3      Bị khí ngược lên, giá lạnh chân tay.