Chương 108: Tiệc bày vui gượng, viện Hoành Vu mừng ngày sinh – Chết vẫn say đời, quán Tiêu Tương nghe quỉ khóc

Tiệc bày vui gượng, viện Hoành Vu mừng ngày sinh

Chết vẫn say đời, quán Tiêu Tương nghe quỉ khóc

Giả chính trước đây đã từng tâu xin đem nhà cửa và vườn Đại Quan nhập vào của công. Trong cung không nhận, nhưng trong vườn không có người ở, nên đành phải khóa lại. Vì vườn ấy nối liền với nhà ở của Vưu thị và Tích Xuân, rộng rãi nhưng rất vắng vẻ, cho nên ông ta phạt Bao Dũng vào coi vườn hoang.

Hồi đó Giả Chính coi việc nhà, vâng lời Giả mẫu bớt dần người ở, mọi việc đều giảm bớt, nhưng vẫn không duy trì nổi.

May được Phượng Thư là người Giả mẫu yêu, bọn Vương phu nhân tuy không thích lắm, nhưng về phần lo liệu việc nhà, thì chị ta còn có thể ra sức, nên vẫn giao cho chị ta trông nom việc nhà.

Gần đây sau khi gia tài bị tịch thu, mọi việc xoay xở khó khăn, thường thường chật vật. Người ở các phòng vốn ăn tiêu rộng rãi quen, bây giờ so với trước mười phần bớt đến bảy, làm gì mà chu đáo được. Vì thế họ oán trách luôn. Phượng Thư cũng không dám từ chối, vẫn mang bệnh hầu hạ Giả mẫu.

Cách ít lâu, bọn Giả Xá và Giả Trân đến chỗ làm việc nhờ có tiền tiêu, tạm được yên ổn. Họ viết thư về, đều nói bình yên rỗi rãi, ở nhà không cần phải lo nghĩ. Do đó Giả mẫu yên tâm. Bọn Hình phu nhân và Vưu thị cũng đỡ lo. Sau khi về nhà chồng, Sử Tương Vân về thăm nhà, rồi đến hỏi thăm sức khoẻ của Giả mẫu. Giả mẫu nhân nhắc đến việc chồng chị ta tốt. Sử Tương Vân kể lại việc bên nhà mình được bình yên như thế nào và xin cụ cứ yên lòng. Lại nhắc đến chuyện Đại Ngọc qua đời, ai nấy đều rơi nước mắt. Giả mẫu lại nghĩ đến chuyện Nghênh Xuân khổ sở, càng thêm thương cảm. Tương Vân khuyên giải một hồi, đến các nhà chào hỏi xong, lại về nghỉ ở phòng Giả mẫu.

Nói về nhà họ Tiết thì Tiết Bàn làm cho nhà tan người chết, năm nay tuy hoãn việc xử quyết phạm nhân, nhưng sang năm không biết có được giảm tội hay không. Giả mẫu nói

– Cháu còn chưa biết, chứ vừa rồi vợ thằng Bàn chết một cách mờ ám. Suýt nữa lại có chuyện không hay. May nhờ đức Phật có mắt, bắt con hầu của nó tự xưng ra. Mụ Hạ kia không làm được gì, mới phải đứng ra xin thôi việc khám nghiệm. Bà dì của cháu mới thu xếp để cho chôn cất. Bây giờ bà ta ở với cháu Khoa. Thằng cháu ấy cũng tốt. Nó nói anh ở nhà giam chưa xong việc nên nó không chịu cưới vợ. Cháu Hình ở bên nhà bà Cả cũng rất khổ. Còn cô Cầm thì vì ông nhạc chết chưa hết tang nên nhà họ hai cung chưa cưới. Cháu xem, thật là sáu họ cùng tận như nhau. Nhà họ Tiết thì như thế, còn bên ngoại nhà bà Hai thì từ khi ông cậu Cả chết rồi, anh con Phượng cũng chẳng ra người; ông cậu Hai là người keo kiệt, lại vì tiền công chưa hồi xong, cũng túng thiêu. Nhà họ Chân từ khi bị tịch thu rồi, không nghe tin tức gì nữa.

Tương Vân nói

– Chị Thám Xuân đi, có thư từ gì không?

Giả mẫu nói

– Theo ông Hai về nói thì từ khi đi lấy chồng, chị Ba cháu ở miền biển rất tốt. Nhưng không có thư, ta cũng ngày đêm tưởng nhớ. Vì ở nhà đây luôn xảy ra bao nhiêu việc không tốt, nên ta cũng không thể nghĩ đến nó nữa. Việc hôn nhân của con Tư cũng

chưa bàn đến. Còn thằng Hoàn thì ai có công hơi đâu mà nhắc đến nữa? Nhà chúng ta hiện nay so với lúc cháu còn ở đây khổ hơn nhiều. Chỉ tội nghiệp chị Bảo nhà cháu từ khi về đây chưa hề được ngày nào thư thái. Anh Hai cháu thì vẫn điên điên, dại dại, biết làm sao bây giờ.

– Cháu từ lúc nhỏ, lớn lên ở đây, tính khí những người bên này cháu đều biết cả. Bây giờ xem ra đều thay đổi hết. Cháu tưởng là lâu ngày đến, họ xa lạ mình, nhưng nghĩ cho kỹ thì không phải. Khi gặp cháu xem chừng ai cũng vui vẻ như trước, nhưng không biết tại sao nói chuyện một lúc là nảy ra đau lòng, vì thế cháu chỉ ngồi chốc lát là về đây ngay.

– Tình cảnh hiện giờ về phần ta thì chẳng nói làm gì, nhưng chúng nó là những người trẻ tuổi kể thì cũng buồn thật? Ta đang định nghĩ cách gì để cho chúng vui một ngày mới được, có điều không làm sao có đầu óc vui nhộn ấy.

– Cháu nghĩ ra rồi

“Ngày kia không phải là ngày sinh chị Bảo à? Để cháu ở thêm một hôm mừng tuổi cho chị ta, mọi người cùng vui một ngày, không biết bà nghĩ thế nào?

– Rõ là lẩn thẩn quá? Cháu không nhắc thì ta quên mất. Ngày kia không phải là ngày sinh của nó à! Để mai ta sẽ xuất tiền ra sắm sửa đồ mừng cho nó. Khi nó còn chưa kết hôn với cháu Bảo, ta đã làm lễ sinh nhật nó mấy lần. Thế mà từ khi nó về

đây ta lại không làm. Thằng Bảo Ngọc trước rất lanh lợi, hay quấy gì đây nhà có việc không hay làm nó chẳng buồn nói năng gì nữa. Chỉ có vợ cháu Châu là vẫn giỏi. Khi giàu nó cũng như thế, khi nghèo nó cũng như thế, sống lặng lẽ với cháu Lan, thật là đáng khen?

– Người khác không đến nỗi lắm, riêng chị hai Liễn thì hình dáng cũng đổi khác, ăn nói cũng không lanh lợi nữa. Để đến mai cháu sẽ trêu họ xem họ làm thế nào. Có điều ngoài miệng không ai nói gì, nhưng trong bụng họ sẽ oán trách cháu. Vừa nói đến đó, má Tường Vân đỏ ửng lên.

Giả mẫu hiểu ý nói

– Sợ cái gì? Bọn chị em cháu trước kia đều ở một chỗ. Vui đùa với nhau đã quen, cứ việc cười cười, nói nói đừng có để bụng những điều ấy. Con nghĩ ta giàu cũng vậy, nghèo cũng vậy cần phải biết hưởng giàu sang, biết chịu nghèo hèn mới đúng. Chị

Bảo cháu từ khi nhỏ đến giờ là người có độ lượng rộng rãi. Trước kia nhà nó khá như thế, nó cũng không hề có chút gì kiêu căng, về sau nhà nó bị suy sút, nó vẫn bình thản ung dung. Bây giờ tới nhà chúng ta đây, Bảo Ngọc đối đãi với nó tử tế, nó cũng vui vẻ như thường, có lúc đối đãi nó không được tử tế, nó cũng không có gì là buồn rầu. Ta xem con bé ấy thật là người có phúc. Chị Lâm nhà cháu, tính khí rất là nhỏ nhen, lại hay nghi ngờ, vì thế mà không thọ. Con Phượng cũng đã từng trải nhiều, không nên hơi thấy sóng gió đã đổi thay như vậy. Nếu nó không có kiến thức như thế thì cũng là nhỏ nhen. Hôm sau ngày sinh nhật của con Bảo ta bỏ tiền ra làm cho thật vui để nó cũng được vui vẻ một ngày.

– Bà nói rất phải, nên mời hết bọn chị em đến cả, để cùng nhau nói chuyện.

– Cố nhiên là phải mời.

Giả mẫu cao hứng bảo Uyên ương

– Mày đem một trăm lạng bạc ra bảo bọn đầy tớ bắt đầu từ ngày mai sửa soạn cơm rượu hai ngày.

Uyên ương vâng lời, gọi bà già đem bạc giao ra.

Ngày hôm sau, truyền lời ra, sai người đi đón Nghênh Xuân, mời Tiết phu Nhân và Bảo Cầm, báo cho cả Hương Lăng sang, lại mời thím Lý nữa. Chẳng bao lâu, bọn Lý Văn, Lý Ỷ đều đến cả.

Bảo Thoa vốn không biết, nghe a hoàn bên nhà Giả mẫu đến mời, và nói

– Dì đã đến, mời mợ Hai sang. Bảo Thoa vui mừng, ăn mặc như thường, đi sang, định gặp mẹ mình, thì thấy Bảo Cầm và Hương Lăng đều ở đấy. Lại thấy bọn thím Lý cũng đến cả, nghĩ bụng chắc là những người này biết việc nhà mình xong xuôi rồi nên đến hỏi thăm. Bảo Thoa liền đến hỏi thăm thím Lý, chào Giả mẫu, nói chuyện với mẹ mấy câu, rồi cùng chị em họ Lý thăm hỏi nhau.

Tương Vân đứng bên cạnh nói

– Mời các bà ngồi xuống, để chị em chúng tôi mừng tuổi cho chị.

Bảo Thoa nghe nói ngẩn người ra, nghĩ ngợi một lúc

“không phải ngày mai là sinh nhật của mình à?”. Chị ta liền nói:

– Chị em đến thăm bà là phải, còn nói là vì sinh nhật của tôi thì nhất định không dám.

Đang lúc đó thì Bảo Ngọc cũng đến hỏi thăm sức khỏe Tiết phu Nhân và thím Lý. Thấy Bảo Thoa đang khiêm nhượng, anh ta trong bụng đã tính toán sẵn việc ăn mừng sinh nhật của Bảo Thoa, nhân vì trong nhà công việc rối ren, nên cũng không

dám nhắc với Giả mẫu. Nay thấy bọn Tương Vân định mừng, anh ta liền vui mừng, nói

– Ngày mai mới đúng là sinh nhật. Cháu đang định thưa với bà đấy.

Tương Vân cười nói

– Khéo trơ chưa? Bà còn đợi anh nói nữa à? Anh thử nghĩ xem những người này vì sao mà đến đây? Đó là vì bà mời đến đấy.

Bảo Thoa nghe nói, trong bụng chưa tin. Lại nghe Giả mẫu nói với mẹ nàng

– Tội nghiệp con Bảo về làm dâu một năm nay, trong nhà cứ xảy ra hết việc này đến việc khác, chưa khi nào làm được lễ sinh nhật cho nó. Hôm nay tôi làm lễ sinh nhật cho cháu, mời dì và các bà đến chúng ta nói chuyện cho vui.

Tiết phu Nhân nói

– Cụ giờ đây mới được yên tâm. Nó là con cháu, chưa có gì hiếu kính cụ, mà lại làm cho cụ bận lòng!

Tường Vân nói

– Cụ yêu nhất là anh Hai, không lẽ lại không yêu chị Hai hay sao. Vả lại, chị Bảo cũng đáng được cụ làm lễ sinh nhật.

Bảo Thoa cúi đầu không nói gì.

Bảo Ngọc nghĩ thầm

– Mình tưởng cô Sử đi lấy chồng rồi, thế nào cũng đổi tính khí đi, nên mình không dám gần, mà chắc cô ta cũng chẳng còn để ý gì đến mình; nhưng nghe lời nói của cô ta, thì ra vẫn giống như trước. Không hiểu sao mà cô nhà mình 1 về nhà chồng rồi

xem chừng e lệ hơn trước, nói cũng không ra câu nữa?

Bỗng thấy a hoàn nhỏ vào nói

– Cô Hai đã về.

Sau đó, Lý Hoàn và Phượng Thư đều đến. Mọi người chào hỏi nhau.

Nghênh Xuân nhắc đến việc cha ra đi, và nói

– Cháu đã định về gặp một chút, nhưng anh ấy không cho về nói là nhà ta đang lúc đen đủi, đừng có vương lấy vào mình. Cháu cãi không được nên không về, rồi khóc luôn hai ba ngày.

Phượng Thư nói

– Hôm nay sao họ lại cho cô về?

Nghênh Xuân nói

– Anh ấy lại bảo, ông Hai lại được tập chức, có thể đi lại không can gì, nên mới cho tôi về – Nghênh Xuân nói rồi lại khóc.

Giả mẫu nói

– Ta buồn quá, nên hôm nay làm sinh nhật cho cháu dâu để cười nói cho khuây khỏa, chúng mày lại nhắc đến chuyện buồn ấy làm cho ta bực thêm.

Nghênh Xuân không dám nói nữa. Phượng Thư tuy vẫn cố gắng tìm một vài câu bông đùa, nhưng lời bông đùa không được hóm hỉnh nên không làm cho người ta cười như trước. Giả mẫu trong bụng muốn Bảo Thoa vui, cố ý trêu cho Phượng Thư nói. Phượng Thư cũng biết ý của Giả mẫu nên hết sức cố gắng nói

– Hôm nay bà hơi vui vẻ. Các người xem, những người này đã lâu không ở một chỗ. hôm nay đông đủ…

Chị ta nói đến đó, ngoảnh cổ lại, thấy mẹ chồng mình và Vưu thị không ở đây, liền ngậm miệng không nói nữa. Giả mẫu nghe đến hai chữ “đông đủ” cũng nghĩ đến bọn Hình phu nhân, liền cho người đi mời. Bọn Hình phu nhân, Vưu thị và Tích Xuân nghe nói Giả mẫu gọi, đành phải đến, nhưng trong bụng cũng không vui. Họ nghĩ rằng, gia nghiệp đã suy tàn, vẫn còn làm lễ sinh nhật cho Bảo Thoa, thế là Giả mẫu vẫn thiên vị, cho nên dẫu có đến cũng buồn rũ, chẳng vui vẻ gì. Giả mẫu hỏi đến Hình Tụ Yên, Hình phu nhân vờ nói là ốm không đến được. Giả mẫu hiểu ý, biết là có Tiết phuNhân ở đấy, cô ta đến có điều bất tiện, nên cũng không nhắc nữa.

Một lúc sau, bày biện cỗ rượu. Giả mẫu nói

– Cũng đừng đưa gì ra ngoài, hôm nay chỉ mẹ con mình vui với nhau thôi.

Bảo Ngọc tuy đã lấy vợ, nhưng vì Giả mẫu thương yêu nên anh ta vẫn la cà ở trong này; có điều anh ta không ngồi chung với bọn Tương Vân, Bảo Cầm, mà ngồi riêng một chỗ gần bên Giả mẫu. Anh ta lần lượt rót rượu, mời thay cho Bảo Thoa.

Giả mẫu nói

– Giờ đây cứ ngồi xuống uống rượu đã, đến chiều tối hãy đến các nơi làm lễ. Nếu bây giờ làm lễ ngay, thì mọi người lại phải giữ gìn khuôn phép làm cho ta mất hứng, chẳng còn thú vị gì nữa.

Bảo Thoa vâng lời ngồi xuống. Giả mẫu lại nói với mọi người

– Hôm nay chúng ta cũng dễ dãi một chút. Ai nấy chỉ để một vài người hầu hạ thôi. Ta sẽ bảo Uyên ương dẫn bọn Thái Vân, Oanh Nhi, Tập Nhân, Bình Nhi cùng vào phía sau ngồi uống rượu.

Bọn Uyên Ương nói

– Chúng cháu chưa lạy mừng mợ Hai, mà đã uống rượu thì sao cho phải.

Giả mẫu nói

– Ta bảo thì chúng mày cứ việc đi, khi nào gọi hãy đến.

Bọn Uyên Ương vâng lời.

Lúc đó Giả mẫu mới mời bọn Tiết phu Nhân uống rượu.

Nhưng thấy ai nấy đều có vẻ không vui mừng như trước. Giả mẫu sốt ruột nói

– Các bà làm sao thế? Phải vui lên một chút mới được chứ!

Từơng Vân nói

– Chúng cháu vừa ăn vừa uống, còn muốn làm sao nữa?

Phượng Thư nói

– Bọn họ lúc nhỏ đều hồ hởi, bây giờ giữ gìn thể diện không dám nói càn, nên bà nhìn thấy họ im lặng.

Bảo Ngọc nói nhỏ với Giả mẫu

– Nói thì chẳng có gì mà nói, nếu nói nữa sẽ chạm đến điều không hay, chi bằng bà bảo họ làm tửu lệnh thôi.

Giả mẫu vểnh tai lên nghe, rồi cười nói

– Nếu mà làm tửu lệnh thì lại phải gọi con Uyên ương.

Bảo Ngọc nghe xong, không chờ nói lại, liền chạy ra phía sau tìm Uyên ương và nói

– Cụ muốn làm lệnh, nên bảo gọi chị.

Uyên Ương nói

– Ông trẻ ơi, để chúng tôi uống ly rượu cho khoan khoái, tội gì lại đến quấy thế?

Bảo Ngọc nói

– Cụ bảo gọi chị đấy mà. Tôi có làm gì đâu.

Uyên ương chẳng có cách gì liền nói

– Các chị cứ việc uống đi, tôi đi một chốc sẽ trở lại.

Rồi cô ta đến liên phòng Giả mẫu. Giả mẫu nói

– Mày đã tới đấy là ở đây định làm lệnh đấy..

– Nghe cậu Bảo nói cụ gọi, cháu mới lại đây, không biết cụ định làm lệnh gì? Lệnh mà hiền quá thì buồn, bạo quá cũng không hay, mày thừ nghĩ cách chơi gì cho mới lạ thì tốt.

Uyên ương nghĩ một lát rồi nói

– Bây giờ dì đã có tuổi, không chịu bận lòng, chi bằng lấy hộp xúc xắc ra, mọi người gieo lấy tên khúc hài để dành hơn thua mà uống rượu thôi.

– Cái đó cũng được.

Liền sai người lấy hộp xúc xắc để trên bàn.

Uyên ương nói

– Giờ gieo bốn hộp xúc xắc, ai gieo không ra tên khúc hài thì phải uống một chén rtợu phạt, ai gieo ra được thì mọi người phải uống một chén, gieo rồi sẽ định.

Mọi người nghe xong, đều nói

– Cách ấy dễ dàng, chúng tôi đều xin theo.

Uyên ương liền sửa soạn để làm lệnh. Mọi người bảo chị ta uống một chén, rồi bắt đầu đếm từ chị ta thì vừa đúng Tiết phu Nhân gieo trước. Tiết phu Nhân gieo một cái là bốn con “yêu”.

Uyên Ương nói

– Cái đó có tên đấy gọi là ” Bọn ông già ở núi Thương sơn ” 2, ai có tuổi đều phải uống một chén.

Do đó Giả mẫu, thím Lý, Hình phu nhân và Vương phu nhân đều phải uống.

Giả mẫu cất chén định uống. Uyên ương nói

– Dì gieo thì dì còn phải nói ra tên khúc bài, và người ngồi dưới phải nói tiếp một câu thiên gia thi. Nếu nói không ra, phải phạt một ly rượu.

Tiết phu Nhân nói

– Chị lại định trêu tôi rồi, tôi làm gì mà nói được?

Giá mẫu nói

– Không nói thì cũng buồn tẻ quá, phải nói một câu. Người ngồi dưới là tôi. Nếu nói không ra, thì tôi cũng uống hầu dì một chén.

Tiết phu Nhân nói

– Tôi nói câu ” Tới già đủng đính khóm hoa “.

Giả mẫu gật đầu đọc tiếp

– “Nhân lúc thanh nhàn nói thiếu niên “.

Nói xong hộp xúc xắc chuyển đến Lý Văn. Lý Văn gieo được hai con “tứ” và hai con “nhị”. Uyên ương nói

– Cũng có tên đấy. Đó gọi là Lưu Nguyễn vào Thiên Thai ” 3.

Lý Văn liền nói

– “Hai người vào tới nguồn đào “.

Người ngồi dưới là Lý Hoàn nói

– ” Tìm tới đào nguyên để lánh Tần “.

Mọi người đều uống một ngụm rượu. Hộp xúc xắc lại đến trước mặt Giả mẫu. Giả mẫu gieo được hai con ” nhị ” và hai con tam, bà ta nói

– Cái này thì phải uống rượu thôi.

Uyên ương nói

– Có tên đấy, đó gọi là “Chim én dắt con”.

Mọi người đều phải uống một chén. Phượng Thư nói

– Chim con thì chim con, nhưng bay mất một ít rồi.

Mọi người lườm chị ta một cái. Phượng Thư liền im lặng. Giả mẫu nói:

– Ta nói gì đây. Nói câu “ông dắt cháu ” thôi!

Người ngồi dưới là Lý Ỷ, liền đọc

– ” Ngắm xem con bé ngắt cành liễu tơ! “

Mọi người đều khen hay. Bảo Ngọc chỉ mong đến lượt mình được nói. Nhưng cái hộp lệnh không đến cho. Đang nghĩ ngợi thì hộp lệnh vừa đến trước mặt, anh ta gieo được một con “nhị”, hai con tam”, một con ” yêu”, liền hỏi

– Cái này cái gì?

Uyên ương cười nói

– Đó là cái “hỏng”! Uống trước một chén mà gieo lại đi thôi.

Bảo Ngọc đành phải uống rượu và gieo lại. Lần này anh ta gieo được hai con “tam”, hai con “tứ”. Uyên ương nói

– Có tên rồi đấy. Cái này gọi là Trương Sương vẽ mày cho vợ 4.

Bảo Ngọc biết là cô ta bỡn mình. Bảo Thoa cũng đỏ má lên. Phượng Thư không hiểu lắm, còn nói

– Chú Hai nói nhanh lên, để xem nhà dưới là ai? Bảo Ngọc thấy khó nói đành phải nhận. Chịu phạt thôi, tôi cũng chằng có nhà dưới nào.

Hộp lệnh ấy đến phiên Lý Hoàn. Lý Hoàn gieo một cái.

Uyên ương nói

– Mợ gieo được ” Mười hai thoa vàng”.

Bảo Ngọc nghe nói, chạy lại bên Lý Hoàn xem, thì thấy hai bên hồng lục đối nhau, liền nói

– Cái này trông rất đẹp.

Anh ta chợt nghĩ đến “giấc mộng mười hai thoa ” liền ngơ ngẩn lui về chỗ ngồi, nghĩ bụng:”mười hai thoa ” ấy nói là ở Kinh Lăng. Sao bọn người nhà mình giờ đây tan tác chỉ còn lại mấy người. Anh ta lại nhìn bọn Bảo Thoa, Tường Vân, tuy còn ở đó nhưng không thấy Đại Ngọc nữa. Anh ta cố nín không được, nước mát muốn rơi xuống, nhưng sợ người ta nhìn thấy, liền giả vờ nói trong người bị sốt xin phép đi cởi áo, rồi để thẻ xuống đi ra ngoài.

Tường Vân thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế, tưởng là anh ta gieo không được quân tốt, mà lại bị người khác gieo được, trong bụng không vui, nên mới bỏ đi. Chị ta lại sợ cái lệnh này không thú, cho nên hơi chán.

Lý Hoàn nói

– Tôi không nói nữa. Người trong tiệc cũng không đầy đủ, chi bằng phạt tôi một chén.

Giả mẫu nói

– Cái lệnh này cũng không vui lắm, chi bằng nghỉ đi để cho Uyên ương gieo thử xem ra cái gì?

A hoàn nhỏ đem cái hộp để trước mặt Uyên ương. Uyên Ương vâng lời, liền gieo được hai con “nhị “. Một con “ngũ” còn một con nữa cứ xoay trong hộp. Uyên ương gọi

” Đừng có ngũ đấy?”, con xúc xắc lại cứ xoay ra con ngũ”. Uyên ương nói

– Nguy rồi? Tôi thua rồi!

Giả mẫu nói

– Không thành cái gì à?

Uyên ương nói

– Tên thì có. Nhưng tôi không nói ra được tên khúc bài.

Giả mẫu nói

– Mày cứ nói tên ra, tao bịa hộ cho.

Uyên ương nói

– Đó là “Sóng vỗ bèo trôi! “

Giả mẫu nói

– Cái đó cũng không khó. Ta nói thay cho mày là

“Mùa thu gộc ấu cá dong chơi”.

Người ngồi dưới Uyên ương là Tương Vân liền nói

– ” Mùa thu, bến Sở ngâm câu bạch bình “.

Mọi người đều nói

– Câu này rất là đúng.

Giả mẫu nói

– Lệnh này xong rồi. Chúng ta uống thêm vài chén, rồi ăn cơm thôi.

Bà ta ngoảnh lại nhìn Bảo Ngọc còn chưa vào, liền hỏi

– Bảo Ngọc đi đâu mà còn chưa vào!

Uyên ương nói

– Đi thay áo rồi.

Giả mẫu nói

– Ai theo đi.

Oanh Nhi đi tới thưa

– Cháu thấy cậu Hai đi ra. Cháu bảo chị Tập Nhân theo đi.

Giả mẫu và Vương phu nhân mới yên lòng. Chờ một chốc. Vương phu nhân bảo người đi tìm, a hoàn nhỏ đến phòng mời, thấy con Năm đang cắm nến ở đấy, liền hỏi

– Cậu Bảo đi đâu rồi.

– Đang uống rượu ở bên nhà bà cụ đấy.

– Tôi ở bên nhà cụ bà sang. Bà lớn bảo tôi tới đây tìm, không lẽ cậu ta ở bên ấy mà lại bảo tôi đến tìm hay sao?

– Thế thì không biết. Mày đi tìm ở chỗ khác vậy.

A hoàn nhỏ chẳng có cách gì, đành phải trở về, vừa gặp Thu Văn liền hỏi

– Chị thấy cậu Hai ở đâu không?

– Tôi cũng đi tìm. Các bà đang chờ cậu ta tới ăn cơm.

– Không biết lúc này mà cậu ta đi đâu thế?

– Em mau mau về trình với cụ bà, đừng nói cậu ấy không ở nhà, chỉ nói là cậu ta uống rượu và hơi khó chịu, không ăn cơm nữa, nằm nghĩ một chốc sẽ tới, xin mời cụ bà và các bà ăn cơm đi thôi.

A Hoàn nhỏ nghe lởi về nói với Trân Châu. Trân Châu thưa với Giả mẫu. Giả mẫu nói

– Nó xưa nay vốn ít ăn, không ăn cũng thôi, bảo nó cứ nghĩ, không cần phải qua đây, có vợ nó ở đây cũng được rồi.

Trân Châu liền nói với a hoàn nhỏ

– Em nghe rõ chưa?

A hoàn nhỏ vâng lời, không tiện nói rõ. Chỉ đi vòng ra ngoài mặt lát rồi trở lại thưa

“Con đã nói rồi”.

Mọi người cũng không để ý, ăn cơm xong, họ ngồi rải rác nói chuyện phiếm.

Nhắc lại Bảo Ngọc bỗng chốc thương tâm bỏ đi ra ngoài, đang bổi rồi chưa biết làm gì bỗng thấy Tập Nhân chạy theo hỏi

– Cậu làm sao thế?

– Chẳng làm sao cả, trong bụng tôi buồn bức. Giờ đây sao không nhân khi họ đang uống rượu, chúng mình đến chỗ mợ cả Trân chơi một tí.

– Mợ cả Trân ở đây rồi. Còn tìm ai nữa?

– Không cần phải tìm ai, chỉ xem chị Cả ở đấy, nhà cửa như thế nào thôi.

Tập Nhân đành phải đi theo, vừa đi vừa nói chuyện. Hai người đi đến nhà Vưu thị, thấy có cái cửa nhỏ nửa mở ra nửa khép.

Báo Ngọc cũng không vào, lại thấy hai bà già coi cửa vườn đang ngồi trên ngưỡng cửa nói chuyện. Bảo Ngọc hỏi

– Cái cửa nhỏ này vẫn mở à?

Bà già nói

– Cửa này ngày nào cũng đóng. Hôm nay có người ra nói chờ sẵn xem cụ bà có dùng quả cây trong vườn chăng, nên mới mở cửa để đợi.

Bảo Ngọc liền thong thả đi lại bên ấy, quả nhiên thấy cái cửa nách hé mở. Bảo Ngọc vừa định đi vào, thì Tập Nhân nắm lại và nói

– Cậu đừng có vào. Trong vườn chẳng sạch sẽ gì, thông thường không có ai đến đó. Cậu đừng vào mà lại gặp phải gì đấy!

Bảo Ngọc trong lúc ngà ngà say, nói

– Tôi sợ gì những thứ ấy.

Tập Nhân cứ cố giữ không cho vào. Bà già coi cửa chạy lại nói

– Bây giờ trong vườn yên lặng rồi. Từ hôm nọ đạo sĩ bắt yêu quái đi khi hái hoa, hái quả, chúng tôi thường vẫn đi một mình. Nếu cậu Hai muốn vào, để chúng tôi theo đi. Có nhiều người, còn sợ cái gì!

Bảo Ngọc vui mừng. Tập Nhân giữ lại cũng không tiện, đành phải đi theo.

Bảo Ngọc vào vườn, thấy cỏ hoa khô héo, đầy vẻ thê lương, màu sắc các đình đài phai nhạt đã lâu. Xa xa trông thấy một lùm trúc xanh, vẫn còn tươi tốt. Bảo Ngọc nghĩ một tí rồi nói:

– Tôi từ khi ốm, dời ra khỏi vườn ở tại phía sau luôn mấy tháng nay, họ không cho tôi đến đây. Cảnh vật bỗng chốc trở nên hoang vắng. Chị xem chỉ có mấy cây trúc kia vẫn còn xanh tươi, đấy không phải là quán Tiêu Tương à?

Tập Nhân nói

– Mấy tháng nay cậu không đến đây, ngay đến phương hướng cũng quên mất. Chúng ta chỉ lo nói chuyện, không biết đã đi qua Viện Di Hồng rồi.

Nói đến đó, chị ta ngoảnh lại, lấy tay chỉ và nói

– Chỗ kia mới là quán Tiêu Tương.

Bảo Ngọc theo hướng tay Tập Nhân chỉ, rồi nói

– Chẳng phải đã đi qua mất rồi à? Chúng ta trở lại xem một chút đi.

Tập Nhân nói

– Trời tối rồi, thế nào cụ cũng chờ ăn cơm, cậu nên về đi. Bảo Ngọc không nói gì, cứ theo đường cũ đi tới. Kể ra Bảo Ngọc tuy rời vườn Đại Quan đã gần một năm, nhưng không lẽ đã quên mất đường? Chỉ vì Tập Nhân sợ anh ta thấy quán Tiêu Tương, nhớ đến Đại Ngọc thì lại đau lòng, nên muốn dùng lời nói cho qua đi. Sau thấy Bảo Ngọc cứ đi vào trong. Tập Nhân lại sợ anh ta mắc lây tà khí, nên nói dối là đã đi qua rồi, có biết đâu bụng Bảo Ngọc chỉ nghĩ đến quán Tiêu Tương. Lúc đó Bảo Ngọc cứ vội vàng đi tới. Tập Nhân đành phải theo. Bỗng thấy anh ta dừng lại, hình như có nghe gì, hay thấy gì. Tập Nhân liền hỏi

– Cậu nghe gì đấy?

– Trong quán Tiêu Tương có người ở à?

– Hình như không có người ở.

– Rõ ràng tôi nghe có người khóc ở trong ấy. Sao lại không có người?

– Đó là cậu ngờ vực đấy thôi. Thường khi cậu đến đây, hay nghe cô Lâm thương khóc, nay vẫn còn tưởng như thế.

Bảo Ngọc không tin, còn muốn nghe nữa. Bọn bà già chạy đến nói

– Cậu về mau đi thôi, trời đã chiều rồi. Chỗ khác chúng tôi còn dám đi, chứ ở đây đường xá hẻo lánh, lại nghe người ta nói từ sau khi cô Lâm chết, thường nghe có tiếng khóc ở chỗ này, cho nên chẳng ai dám đi.

Tập Nhân và Bảo Ngọc nghe nói đều giật mình kinh sợ.

Bảo Ngọc nói

– Đúng rồi!

Nói đoạn anh ta khóc:

– Em Lâm ơi! Em Lâm ơi! Thật là anh đã làm hại em? Em đừng oán anh. Đó là do cha mẹ làm chủ, không phải là anh phụ lòng!

Bảo Ngọc càng nói càng đau lòng rồi khóc to lên.

Tập Nhân còn chưa biết làm thế nào, thì thấy Thu Văn dẫn mấy người chạy đến, nói với Tập Nhân

– Chị to gan thật? Sao lại đi cùng cậu Hai tới đây? Cụ và bà lớn sốt ruột sai người kiếm hết mọi nơi. Vừa rồi có người ở bên cửa nách nói là chị với cậu Hai vào trong này, cụ bà và bà lớn sợ quá mắng tôi và bảo tôi dẫn người theo đến đây. Còn không về mau đi à!

Bảo Ngọc vẫn còn khóc lóc thảm thiết. Tập Nhân cũng không kể gì anh ta đang khóc, liền cùng với Thu Văn dắt về ngay. Một mặt thì lau nước mắt cho anh ta và nói cho biết cụ bà đang hoảng sợ.

Bảo Ngọc chẳng biết làm sao đành phải quay về. Tập Nhân biết là Giả mẫu lo lắng, nên vẫn đưa Bảo Ngọc đến bên nhà Giả mẫu. Mọi người đang chờ đó chưa về.

Giả mẫu nói

– Tập Nhân này? Ngày thường thấy mày có ý tứ nên ta mới giao phó Bảo Ngọc cho mày. Sao hôm nay mày lại đem nó vào trong vườn? Bệnh nó mới khỏi, nếu mà chạm phải cái gì, lại sinh chuyện, thì làm thế nào?

Tập Nhân cũng không dám cãi, chỉ cúi đầu im lặng. Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc thần sắc ủ ê, trong bụng cũng lo sợ.

Bảo Ngọc sợ Tập Nhân mang lỗi, liền nói

– Giữa ban ngày, sợ cái quái gì. Cháu vì lâu này không vào vườn chơi. Nay nhân lúc hơi rượu đi một lát có chạm phải cái gì đâu.

Phượng Thư vốn đã bị một vố khiếp quá ở trong vườn, nghe nói đến đó, sởn gáy lên và nói

– Chú Bảo to gan thật!

Tương Vân nói

– Không phải gan to, mà đó là lòng thật. Không biết anh ấy lại định gặp thần phù dung hay là tìm vị tiên nào đấy?

Bảo Ngọc nghe nói, cũng không trả lời. Chỉ có Vương phu nhân hoảng quá, không nói một câu nào.

Giả mẫu hỏi

– Cháu vào vườn không sợ à? Không cần nói nữa, sau muốn đi chơi thì phải đem thêm người mới được. Nếu không phải là cháu sinh chuyện thì mọi người đã về rồi. Thôi. về đi ngủ một đêm cho ngon, ngày mai đến đây sớm, ta định bù thêm cho các người vui một ngày nữa đấy. Đừng vì nó mà lại xảy ra chuyện.

Mọi người nghe nói, cáo từ Giả mẫu rồi ra về. Tiết phu Nhân đến nghĩ ở nhà Vương phu nhân. Sử Tương Vân vẫn nghỉ ở phòng Giả mẫu, Nghênh Xuân qua nghỉ ở bên Tích Xuân. Còn tất cả thì đều về nhà.

Riêng có Bảo Ngọc về đến phòng mình, cứ than thở mãi.

Bảo Thoa biết rõ duyên cớ cũng cứ để mặc, nhưng sợ anh ta lo buồn, bệnh cũ trở lại, liền vào trong nhà, gọi Tập Nhân lại hỏi cặn kẽ về tình hình Bảo Ngọc vào vườn thế nào.

1      Chỉ Bảo Thoa

2      Đời Hán Cao đế, có bốn ông già ở ẩn trong núi Thương.

3      Theo truyền thuyết, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào khoảng đời Hán, nhân ngày đoan ngọ, vào núi Thiên Thai hái thuốc, gặp tiên, rồi lấy nhau. Sau Lưu, Nguyễn về nhà. Đến khi quay lại thì không tìm ra lối nữa.

4      Trương Sương người đời Hán Tuyên đế, nổi tiếng là người vẽ lông mày cho vợ.

_________________

Chương 109: Hồn thơm chờ đợi, con Nam may được yêu nhầm – Oan án trả xong, Nghênh Xuân trở về cõi lạc

Hồn thơm chờ đợi, con Nam may được yêu nhầm

Oan án trả xong, Nghênh Xuân trở về cõi lạc

Bảo Thoa gọi Tập Nhân hỏi rõ duyên cớ. Sợ Bảo Ngọc đau xót sinh bệnh, liền vờ đem chuyện lúc Đại Ngọc chết bàn với Tập Nhân. Chị ta nói:

– Người ta sống ở đời thì có tình có ý. Sau khi chết rồi thì tình ý đều hết. Chứ không phải lúc sống thế nào thì khi chết cũng thế. Người sống dù có mơ tưởng đến họ, người chết cũng không hề biết. Vả lại, nếu cô Lâm đã thành tiên rồi thì cô ta xem người trần là hạng dơ bẩn, đời nào lại ở trên đời này? Đó chỉ vì tự lòng người ta ngờ vực nên mới bị tà ma quấy nhiễu đấy thôi.

Bảo Thoa tuy nói chuyện với Tập Nhân, nhưng cốt là để cho Bảo Ngọc nghe. Tập Nhân hiểu ý cũng nói:

– Đúng đấy, nếu nói là linh hồn cô Lâm còn ở trong vườn thì sao bọn mình là người thân, chẳng bao giờ thấy chiêm bao lần nào cả?

Bảo Ngọc ở ngoài nghe nói, nghĩ bụng

– Lạ thật? Từ lúc em Lâm chết đi, ngày nào ta lại chẳng mơ tưởng mấy lần. Thế sao không thấy chiêm bao? Chắc là cô ta lên trời rồi. Coi bọn phàm phu tục tử mình đây, không có thể thông cảm với thần minh, cho nên không hề hiện ra trong lúc chiêm bao. Hôm nay ta thử nằm ngủ ở ngoài, sau khi vừa ở trongvườn về, có lẽ em Lâm cũng hiểu rõ lòng ta mà chịu gặp ta ở trong giấc mơ chăng. Ta sẽ hỏi cô ta ở đâu, để ta thường thường tế lễ. Nếu quả cô ta không nhìn đến cái hạng nhơ bẩn như ta và

không hề ứng vào chiêm bao thì ta cũng chàng tưởng nhớ cô ta nữa.

Bảo Ngọc định sẵn như vậy. liền nói

– Đêm nay tôi nghỉ ở nhà ngoài, các chị cứ để mặc tôi.

Bảo Thoa cũng không ép, chỉ nói

– Cậu cũng đừng có nghĩ ngợi lan man đấy. Cậu lại không thấy mẹ vì cậu đi vào vườn mà đến nỗi hoảng sợ nói không ra lời hay sao? Bây giờ cậu không giữ gìn thân thể, nếu mà bà biết, lại bảo chúng tôi không tận tâm.

Bảo Ngọc nói

– Tôi nói chơi thế thôi, tôi ngồi một chốc rồi sẽ vào. Mợ cũng mệt rồi, cứ đi ngủ trước đi thôi.

Bảo Thoa biết anh ta thế nào cũng vào, giả vờ nói

– Tôi đi ngủ trước, bảo chị Tập Nhân hầu cậu.

Bảo Ngọc nghe nói, chính hợp ý mình. Chờ Bảo Thoa nằm rồi, anh ta liền bảo Tập Nhân và Xạ Nguyệt giải riêng một bộ chăn nệm rồi sai vào xem mợ Hai đã ngủ hay chưa. Bảo Thoa cố ý vờ ngủ, kỳ thực cũng suốt đêm không yên.

Bảo Ngọc tưởng là Bảo Thoa ngủ rồi, liền nói với Tập Nhân

– Các chị ai nấy cứ đi ngủ thôi, tôi không hề có thương cảm gì cả. Nếu các chị không tin thì cứ hầu hạ cho tôi ngủ rồi hãy vào đừng làm kinh động đến tôi là được.

Tập Nhân quả nhiên hầu cho Bảo Ngọc nằm xuống, sắp sẵn trà nước, đóng cửa tử tế, vào nhà trông nom một chốc rồi ai nấy nằm giả ngủ, chờ xem Bảo Ngọc có việc gì thì lại ra.

Bảo Ngọc thấy Tập Nhân vào rồi. liền bảo hai bà già canh đêm ra ngoài. Anh ta khẽ ngồi dậy lầm rầm khấn khứa mấy câu rồi mới nằm xuống. Ban đầu anh ta ngủ không được, sau cố định thần rồi ngủ quên lúc nào không biết. Ngủ suốt đêm cho tớitrời sáng mới tỉnh dậy, dụi mắt một lát, không hề thấy chiêm bao gì cả. Anh ta liền thở dài và nói

– Thật là “Cách năm sống thác đôi nơi, thấy đâu hồn phí vãng lai giấc nồng? “.

Trái lại, Bảo Thoa suốt đêm không ngủ. Nghe Bảo Ngọc ở ngoài đọc hai câu ấy. liền đỡ lời:

– Cậu nói câu ấy tục quá. Nếu em Lâm còn sống thì lại đâm giận đấy.

Bảo Ngọc nghe nói, cảm thấy khó coi, đành phải ngượng ngùng dậy đi vào nhà trong và nói

– Tôi định vào trong nhà, không biết thế nào mà ngủ quên đi mất.

Bảo Thoa nói

– Cậu vào hay không, can gì đến tôi?

Tập Nhân cũng không ngủ, nghe hai người nói chuyện liền dậy pha trà. Bỗng thấy Giả mẫu sai a hoàn nhỏ sang hỏi:

– Cậu Bảo đêm qua ngủ có yên giấc không? Nếu ngủ yên thì mau mau chải đầu rửa mặt cùng mợ Hai đi sang ngay.

Tập Nhân nói

– Em về thưa với cụ

đêm qua cậu Bảo ngủ rất yên giấc. Chốc nữa sẽ tới.

A hoàn nhỏ ra về.

Bảo Thoa vội vàng chải đầu rửa mặt. Bọn Oanh Nhi và Tập Nhân đi theo. Trước hết đến chỗ Giả mẫu làm lễ rồi đến chào Vương phu nhân và Phượng Thư. Chào hỏi xong lại đến chỗ Giả mẫu thì thấy Tiết phu Nhân cũng đã đến. Mọi người hỏi:

– Đêm qua Bảo Ngọc có khỏe không?

Bảo Thoa nói

– Về rồi ngủ ngay. Không xảy ra việc gì.

Mọi người yên lòng rồi cùng nhau nói chuyện suông.

Bỗng thấy a hoàn nhỏ vào nói

– Cô Hai định về. Nghe nói người bên cậu Tôn đến chỗ bà Cả nói những gì gì. Rồi bà Cả sai người đến chỗ cô Tư bảo đừng giữ cô Hai lại nữa. cứ để cho cô ấy về. Hiện giờ cô Hai đang khóc ở bên nhà bà Cả. Có lẽ cô ấy sắp đến đây từ biệt cụ bà đấy.

Giả mẫu nghe xong, trong lòng bực tức. Ai nấy đều nói:

– CÔ Hai là người tốt, sao lại gặp phải thằng chồng như thế. Suốt đời không sao mở mày mở mặt ra được. Nhưng làm sao được bây giờ?

Đang nói thì Nghênh Xuân đi vào, mắt đầy ngấn lệ, nhưng vì là ngày sinh nhật của Bảo Thoa. đành phải nuốt lệ từ biệt mọi người định về. Giả mẫu biết cô ta khổ, nhưng giữ lại không tiện, chỉ nói

– Cháu về cũng được, nhưng đừng có buồn. Gặp phải con người như thế cũng chẳng biết làm thế nào. Mấy ngày nữa, ta sẽ cho người đến đón cháu về chơi.

Nghênh Xuân nói

– Bà bao giờ cũng thương cháu, nhưng nay không thể được. Thương hại cho cháu từ nay không còn có ngày trở về đây nữa đâu!

CÔ ta nói đến đó lại ứa nước mắt.

Mọi người đều khuyên

– Có gì mà không được. Có phải như em Ba nhà cô ở quá xa thì gặp mặt mới khó chứ.

Bọn Giả mẫu nghĩ đến Thám Xuân. Ai nấy đều ứa nước mắt. Vì là ngày sinh nhật của Bảo Thoa, họ đành phải đổi buồn làm vui và nói

– Cái đó cũng không khó, cốt sao miền biển yên lặng. Bên nhà thông gia được đổi về kinh thì sẽ gặp mặt thôi.

Mọi người đều nói

– Đúng như thế đấy.

Nghênh Xuân đành ngậm buồn từ biệt. Mọi người tiễn cô ta ra rồi trở về chỗ Giả mẫu. Từ sáng đến chiều, cùng nhau vui một ngày nữa. Họ thấy Giả mẫu mệt nhọc nên đều ra về.Riêng Tiết phu Nhân từ biệt Giả mẫu rồi đến bên nhà Bảo Thoa nói:

– Anh con thì hết năm nay phải chờ đến khi ơn vua đại xá, giảm nhẹ án tích mới có thể chuộc tội được. Trong lúc này, một mình mẹ bơ vơ khổ sở biết làm thế nào? Mẹ định cưới vợ cho anh Hai con, con nghĩ có nên không?

Bảo Thoa nói

– Mẹ khiếp sợ vì chuyện vợ anh Cả nên đối với việc anh Hai cũng đâm ra ngờ vực. Theo ý con thì lo cưới đi là phải. Cô Hình thì mẹ đã biết. Ở bên ấy cũng rất khổ. Cưới về tuy nói là nhà mình nghèo, nhưng còn hơn phải ở nhờ nhà người ta.

– Khi nào tiện, con thưa với cụ rằng nhà ta không có người, xin chọn ngày rước dâu.

– Mẹ cứ bàn với anh Hai, chọn được ngày tốt rồi sang thưa với cụ và bà Cả, cưới về đi, thế là xong việc.

– Hôm nay nghe nói cô Sử cũng về. cụ bà định giữ em con ở lại đây mấy hôm cho nên nó ở lại. Mẹ nghĩ em con cũng chưa biết sớm muộn sẽ về nhà người ta, chị em cũng nên trò chuyện với nhau thêm ít hôm.

– Phải đấy. Tiết phu Nhân lại ngồi một lát rồi ra cáo từ mọi người ra về.

Đêm ấy. Bảo Ngọc về phòng. nghĩ bụng

“Đêm qua Đại Ngọc không ứng mộng, có lẽ vì cô ta đã thành tiên, không chịu đến gặp hạng người nhơ bẩn như mình. Hay là có thể vì tính mình nôn nóng cũng chưa biết chừng”. Anh ta liền nghĩ một cách, rồi

nói với Bảo Thoa

– Đêm qua tôi ngẫu nhiên ngủ ở ngoài, hình như yên giấc hơn ngủ ở trong nhà. Sáng nay thức dậy, cảm thấy trong bụng yên tĩnh hơn. Ý tôi muốn ngủ ở ngoài vài hôm, chỉ sợ các chị lại ngăn cản tôi.

Bảo Thoa nghe nói, biết rõ lúc súc miệng anh ta ngâm mấy câu thơ ấy, tất nhiên là vì việc Đại Ngọc. Nhưng nghĩ lại cái tính si ngốc của anh ta không thể nào khuyên được, chi bằng cứ để cho anh ta ngủ ở ngoài vài đêm, để tắt hẳn cái lòng mơ tưởng

ấy đi. Vả lại đêm qua thấy anh ta ngủ yên giấc. Chị ta liền nói

– Rõ buồn cười. Cậu muốn ngủ ngoài thì cứ ngủ. Chúng tôi ngăn cậu làm gì. Nhưng đừng có nghĩ ngợi lung tung, sinh chuyện ma quỷ là được.

Bảo Ngọc cười nói

– Nào ai nghĩ gì đâu?

Tập Nhân nói:

– Tôi khuyên cậu nên ngủ trong nhà thôi. Ngủ ngoài, nhỡ khi trông nom không chu đáo, gặp phải lạnh thì lại không hay.

Bảo Ngọc chưa kịp trả lời, Bảo Thoa liền liếc mắt ra hiệu. Tập Nhân hiểu ý liền nói

– Thôi cũng được. Bảo một người theo hầu, đến đêm tiện việc pha trà lấy nước cho cậu.

Bảo Ngọc cười nói

– Vậy thì chị theo tôi thôi.

Tập Nhân nghe nói, đâm ngượng, má đỏ ửng lên, không nói gì cả.

Bảo Thoa vốn biết Tập Nhân là người đứng đắn, liền nói

– Chị ấy với tôi đã quen rồi, cứ để theo tôi thôi. Bảo Xạ Nguyệt và con Năm trông nom cậu là được. Vả lại chị ấy hôm nay bận rộn suốt ngày, cũng mệt rồi, để cho chị ấy nghỉ một chút.

Bảo Ngọc đành phải cười mà đi ra.

Bảo Thoa bảo Xạ Nguyệt và con Năm soạn sửa chăn nệm cho Bảo Ngọc nằm ở ngoài. Lại dặn hai người

– Phải tỉnh ngủ, để khi cậu cần trà nước.

Hai người vâng lời đi ra, thấy Bảo Ngọc ngồi ngay ngắn trên giường. nhắm mắt chắp tay, y như ông sư. Hai người không dám nói, chỉ nhìn anh ta mà cười. Bảo Thoa lại bảo Tập Nhân ra ngoài trông nom. Tập Nhân thấy thế cũng buồn cười, liền gọi

– Cậu nên đi ngủ đi. sao lại ngồi như thế?

Bảo Ngọc mở mắt. thấy Tập Nhân, liền nói:

– Các chị cứ ngủ đi thôi. Tôi ngồi một lát sẽ ngủ.

– Vì hôm qua cậu như thế làm cho mợ Hai suốt đêm không ngủ. Nay cậu lại như thế này thì còn ra sao nữa?

Bảo Ngọc nghĩ mình không ngủ thì họ sẽ không chịu ngủ, nên soạn sửa nằm xuống. Tập Nhân lại dặn dò bọn Xạ Nguyệt mấy câu mới đi vào đóng cửa mà ngủ.

Ngoài này, Xạ Nguyệt và con Năm cũng sắm sửa chăn nệm, chờ cho Bảo Ngọc nằm rồi ai nấy đều nằm xuống.

Không ngờ Bảo Ngọc muốn ngủ cũng không ngủ được, thấy hai người sửa soạn chăn nệm, chợt nhớ lại chuyện năm nọ lúc Tập Nhân không ở nhà, Tình Văn và Xạ Nguyệt hầu hạ mình, đang đêm Xạ Nguyệt ra ngoài, Tình Văn định đi dọa chị ta, nhưng vì không mặc áo, cảm lạnh, sau này cũng vì bệnh ấy mà chết. Nghĩ đến đó, anh ta lại tưởng nhớ đến Tịnh Văn. Chợt nghĩ đến Thượng Thư nói con Năm giống Tịnh Văn như lột, vì thế anh ta đem lòng nhớ tưởng nhớ Tình Văn chuyển sang con Năm.

Bảo Ngọc giả vờ ngủ, mắt nhìn trộm con Năm. Càng nhìn càng giống Tình Văn. Tự nhiên tình si trở lại. Anh ta để ý nghe nhà trong đã im lặng, biết là ngủ rồi, nhưng không biết Xạ Nguyệt đã ngủ hay chưa, liền cố ý gọi vài tiếng thì thấy Xạ Nguyệt không trả lời.

Con Năm thấy Bảo Ngọc gọi. liền hỏi

– Cậu cần gì?

– Tôi muốn súc miệng một tý.

Con Năm thấy Xạ Nguyệt đã ngủ, đành phải dậy cắt lại ngọc nến, rót một chén trà, một tay bưng ống nhổ. Vì dậy vội vàng nên chị ta chỉ mặc một cái áo lót bằng lụa màu đào hồng trên đầu búi tóc vấn lên qua loa. Bảo Ngọc trông kỹ. hệt như

Tình Văn sống lại. Bỗng lại nhớ đến câu nói của Tình Văn: “Nếu biết mắc phải tiếng hão thì thà làm thật cho xong”. Nghĩ như thế, cho nên anh ta cứ nhìn trừng trừng con Năm, cũng không đón lấy chén trà.

Sau khi Phượng Quan đi rồi, con Năm cũng không nghĩ gì đến chuyện vào ở nữa. Rồi nghe nói Phượng Thư gọi mình vào hầu Bảo Ngọc, thì nó lại nóng lòng trông đợi hơn là Bảo Ngọc trông nó vào. Không ngờ sau khi vào, thấy Bảo Thoa và Tập Nhân đều là người đứng đắn, trong lòng nó kính mến ; lại thấy Bảo Ngọc điên điên dại dại. không còn dáng điệu đẹp đẽ như trước. Vả chăng, nghe nói Vương phu nhân đuổi hết bọn con gái hay cười đùa với Bảo Ngọc nên nó đã gác hết mọi niềm tâm sự tư tình của một cô gái. Khốn nổi cái anh ngốc ấy đêm nay lại cứ xem nó là Tình Văn mà một mực yêu đương. Nó thẹn quá, hai má đỏ ửng, lại không dám lên tiếng to, đành phải nói khẽ

– Cậu súc miệng này?

Bảo Ngọc cười rồi cầm lấy chén trà vào tay, cũng không biết có súc miệng hay không. chỉ cười và hỏi

– Chị thân với chị Tịnh Văn phải không?

Con Năm nghe nói, không hiểu đầu đuôi ra sao, liền nói:

– Cũng là chị em cả, sao lại không thân?

Bảo Ngọc lại hỏi khẽ

– Chị Tình Văn ốm nặng, tôi đến thăm, chị cũng đến thăm phải không?

Con Năm mỉm cười, gật đầu, Bảo Ngọc nói

– Chị có nghe chị ta nói gì không?

Con Năm lắc đầu

– Không.

Bảo Ngọc lúc đó quên bẵng, liền kéo tay nó. Con Năm đỏ mặt lên, trống ngực đánh thình thịch, nói khẽ

– Cậu có việc gì cứ nói. đừng lôi kéo như thế.

Bảo Ngọc mới buông tay và nói

– Chị ta nói với tôi rằng

Nếu biết mắc phải tiếng hão thì thà làm thật sự cho xong, tại sao mà chị không nghe?

Nghe câu ấy, rõ ràng là Bảo Ngọc có ý trêu ghẹo mình.

Con Năm không dám làm gì, liền nói

– Đó là chị ta không biết thẹn. Bọn con gái chúng tôi mà nói câu ấy được à?

Bảo Ngọc nóng lên nói

– Sao chị cũng làm ra vẻ cụ đồ như thế! Tôi thấy người chị giống hệt như chị ta, tôi mới nói câu ấy. Sao chị lại đem những lời nói ấy mỉa mai chị ta.

Lúc ấy trong bụng con Năm không biết Bảo Ngọc có ý tứ gì liền nói

– Đêm khuya rồi, cậu nằm ngủ thôi, đừng ngồi thế mãi, sợ mắc phải lạnh đấy. Vừa rồi mợ Hai và chị Tập Nhân dặn gì, cậu không nhớ à?

– Tôi không lạnh.

Nói đến đó, Bảo Ngọc chợt nghĩ con Năm không mặc áo ngoài, sợ cũng bị lạnh như Tình Văn năm nọ. liền hỏi

– Sao chị không mặc áo vào mà đã lại đây?

– Cậu gọi gấp quá. làm gì có thì giờ mặc áo. Nếu biết nói chuyện như từ nãy đến giờ thì tôi cũng đã mặc áo rồi.

Bảo Ngọc nghe nói, vội vàng lấy cái áo bông màu nguyệt bạch đang đắp đưa cho nó, bảo khoác vào người. Nó không chịu cầm và nói

– Cậu đắp lấy thôi, tôi không lạnh. Tôi lạnh đã có áo của tôi

Nói xong, nó trở lại chỗ nằm, kéo một chiếc áo dài khoác lên người, lắng nghe một lúc, thấy Xạ Nguyệt đang ngủ say, mới thong thả trở lại và nói:

– Cậu đêm nay định dượng thần phải không?

Bảo Ngọc cười nói

– Nói thật với chị chứ có dượng thần gì đâu! Ý tôi là muốn gặp tiên đấy.

Con Năm nghe nói, trong bụng càng nghi ngờ, liền hỏi

– Gặp tiên nào?

– Chị muốn biết thì chuyện này dài lắm. Chị ngồi xuống sát đây tôi nói cho mà nghe. Con Năm đỏ mặt lên. cười nói

– Cậu nằm ở đó, tôi ngồi sao tiện.

– Điều đó có làm gì? Năm nọ trời lạnh. tôi cùng chị Tình Văn và chị Xạ Nguyệt chơi đùa. Tôi sợ chị ta lạnh. còn kéo chung vào trong một chăn đấy. Người ta không cần vờ làm bộ mới được.

Con Năm thấy Bảo Ngọc nói câu nào cũng ra vẻ trêu ghẹo mình, có biết đâu đó là lòng thực của anh chàng ngốc. Lúc đó, nó lui ra cũng dở, đứng lại cũng dở, ngồi xuống cũng dở, rất là bối rối. Nó lườm một cái, nhoẻn miệng cười và nói

– Cậu đừng nói nhảm nữa, nhỡ người ta nghe thấy còn ra cái gì. Chẳng trách người ta nói cậu chỉ chăm nom đến bọn con gái! Mợ Hai và chị Tập Nhân đều đẹp như tiên mà cậu lại hay đi dan díu với người khác. Sau này mà cậu còn nói những câu

chuyện ấy nữa thì tôi thưa lại với mợ Hai. Xem cậu còn mặt mũi nào mà nhìn người ta.

Đang nói thì nghe bên ngoài “thịch” một tiếng làm cho hai người giật mình. Trong nhà Bảo Thoa ho. Bảo Ngọc vội vàng dẩu môi ra hiệu. Con Năm cũng tắt phụt đèn, khe khẽ nằm xuống. Thì ra Bảo Thoa và Tập Nhân đêm qua không ngủ, cả ngày lại mệt cho nên ngủ say, không hề nghe họ nói chuyện. Lúc đó trong sân có tiếng động. Chợt tỉnh dậy lắng tai nghe thì chẳng có tăm hơi gì.

Lúc bấy giờ. Bảo Ngọc đang nằm trên giường, trong bụng nghi ngờ

“phải chăng là em Lâm tới đây, thấy mình nói chuyện với con Năm, rồi cố ý doạ mình?” Anh ta cứ nằm trằn trọc, nghĩ ngợi lan man đến canh năm mới mơ màng ngủ đi.

Con Năm bị Bảo Ngọc quấy rầy một lúc lâu, lại nghe Bảo Thoa ho, trong bụng lo lắng ngờ vực, chỉ sợ Bảo Thoa nghe thấy nên cũng lo trước nghĩ sau, suốt đêm không ngủ. Hôm sau chị ta dậy sớm, thấy Bảo Ngọc đang ngủ say, liền nhẹ nhàng quét dọn

nhà cửa. Xạ Nguyệt tỉnh dậy. liền hỏi

– Sao chị dậy sớm thế? Chả nhẽ cả đêm chị không ngủ hay sao?

Con Năm nghe câu ấy. hình như Xạ Nguyệt đã biết, nên chỉ ngượng ngùng cười gượng, không nói gì cả. Một lúc Bảo Thoa và Tập Nhân đều dậy. Hai người mở cửa ra, thấy Bảo Ngọc đang ngủ, trong bụng cũng bực. Nghĩ sao anh ta ngủ ngoài hai

đêm lại yên giấc như thế?

Đến khi Bảo Ngọc tỉnh giấc, thấy mọi người đều dậy, vội vàng bò dậy, dụi mắt, nghĩ lại thì đêm qua cũng không hề thấy chiêm bao gì cả, thật là trời tiên cõi tục cách nhau xa vời! Rồi anh ta thong thả bước xuống giường. Nhớ đến câu nói của con

Nam đêm qua

“Bảo Thoa và Tập Nhân đều đẹp như tiên”, câu nói ấy thật không sai. Anh ta cười, nhìn Bảo Thoa chằm chằm.

Bảo Thoa thấy anh ta có vẻ ngơ ngác, tuy biết là vì việc Đại Ngọc, nhưng cũng không đoán ra là có chiêm bao hay không? Chỉ thấy anh ta cứ nhìn mình lấy làm khó coi, liền hỏi

– Đêm qua, cậu có gặp tiên không?

Bảo Ngọc nghe nói, cho rằng câu chuyện đêm qua bị Bảo Thoa nghe được, bèn cười và miễn cưỡng trả lời:

– Làm gì có chuyện ấy?

Con Năm nghe câu ấy thì động lòng, càng hối hận, cũng không tiện nói gì, đành chờ xem Bảo Thoa có tỏ vẻ gì không?

Bỗng thấy Bảo Thoa cười và hỏi con Năm.

– Chị có nghe cậu Hai trong khi ngủ nói chuyện với ai không?

Bảo Ngọc nghe nói, không thể ngồi yên, ngượng ngùng ra khỏi phòng. Con Năm má ửng đỏ, đành phải trả lời một cách bâng quơ

– Vào khoảng nửa đêm, cậu Hai có nói mấy câu, tôi cũng không nghe rõ, nào là “mang tiếng hão”. nào là “làm thật sự” gì đó tôi cũng không hiểu, chỉ khuyên cậu Hai nên ngủ đi. Sau đó, tôi ngủ rồi, không biết cậu Hai có nói gì không?

Bảo Thoa cúi đầu nghĩ ngợi

“Những câu ấy rõ ràng là vì Đại Ngọc, nếu cứ để cho cậu ta ngủ ở ngoài mãi, vốn sẵn lòng tà, sợ lại vướng lấy chuyện yêu ma. Vả lại, bệnh cũ của cậu ta, vốn là vì nặng tình với chị em. Vậy phải có cách làm cho cậu ta xoay lòng chuyển dạ, thì sau này mới khỏi sinh chuyện”. Nghĩ đến đó. chị ta đỏ mặt, liền thờ thẫn vào phòng, chải đầu rửa mặt.

Hai ngày vừa rồi, Giả mẫu vì cao hứng ăn hơi nhiều, chiều hôm ấy trong người thấy khó ở; hôm thứ hai cảm thấy đầy bụng. Bọn Uyên ương định thưa với Giả Chính, nhưng Giả mẫu không cho, và nói:

– Hai hôm nay ta tham ăn nhiều quá, nhịn đói một bữa thì khỏi chúng bay đừng làm ồn lên.

Bọn Uyên ương cũng không nói với ai.

Chiều hôm đó, Bảo Ngọc về phòng, thấy Bảo Thoa đi hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu và Vương phu nhân cũng vừa về.

Bảo Ngọc nghĩ đến việc ban đêm, nên lúc sáng dậy, có vẻ hổ thẹn. Bảo Thoa thấy bộ dạng như thế cũng biết là anh ta bẽ bàng vì việc gì. Bảo Thoa lại nghĩ Bảo Ngọc là người si tình, muốn trị bệnh ấy, không gì hơn lại lấy si tình mà trị. Nghĩ ngợi một lúc rồi chị ta hỏi Bảo Ngọc

– Cậu hôm nay vẫn ngủ ở ngoài chứ?

Bảo Ngọc cảm thấy khó coi, liền nói:

– Trong ngoài gì thì cũng thế.

Bảo Thoa ý muốn nói nữa, nhưng nói ra không tiện.

Tập Nhân nói

– Thôi đi, thế là nghĩa lý gì? Tôi không tin cậu ngủ yên giấc như thế!

Con Năm nghe nói liền đỡ lời

– Cậu Hai ngủ ở ngoài cũng chẳng có việc gì khác, chỉ hay nói mơ làm cho người ta không hiểu đầu đuôi gì, lại không dám cãi lại.

Tập Nhân liền nói

– Để đêm nay tôi dời ra nằm giường ấy, xem có nói mơ hay không. Các chị cứ đem chăn nệm của cậu trải vào nhà trong là được

Bảo Thoa nghe nói cũng không lên tiếng. Về phần Bảo Ngọc thì đã xấu hổ, còn đâu dám cãi lại, nên liền thuận cho dọn vào trong nhà. Bảo Ngọc tự thấy mình có lỗi, muốn yên ủi Bảo Thoa. Bảo Thoa lại sợ Bảo Ngọc uất ức thành bệnh. chi bằng tỏ

ra tình âu yếm cho anh ta được gần gũi để làm cái kế “dời hoa nọ chắp cành kia “. Do đó, đêm ấy Tập Nhân dời ra ngoài nằm. Bảo Ngọc cố nhiên trong lòng ăn năn hổ thẹn, Bảo Thoa cũng muốn lung lạc Bảo Ngọc. Từ khi làm lễ cưới đến nay mới thật là mây mưa tình đượm, ân ái triền miên, khí âm dương bắt đầu kết hợp lại (I) Đó là câu chuyện sau này.

Sáng hôm sau, Bảo Ngọc và Bảo Thoa cùng thức dậy.

Bảo Ngọc chải đầu rửa mặt rồi qua nhà Giả mẫu trước. Giả mẫu vì thương yêu Bảo Ngọc, lại thấy Bảo Thoa hiếu thuận, chợt nhớ đến một vật, liền bảo Uyên ương mở rương lấy ra một viên ngọc đời ông cụ để lại. Tuy nó không bằng viên ngọc của Bảo Ngọc, nhưng nếu đeo trên mình thì cũng là vật hiếm có.

Uyên ương tìm viên ngọc ra đưa cho Giả mẫu và nói

– Vật này hình như cháu chưa bao giờ trông thấy. Đã bao nhiêu năm rồi mà cụ còn nhớ được như thế, bảo để ở hộp nào trong rương nào. Cháu theo lời cụ mà tìm là thấy ngay. Bây giờ cụ bảo lấy ra làm gì?

Giả mẫu nói

– Mày biết sao được. Viên ngọc này nguyên là cố của ta cho ông ta. Khi ta xuất giá, ông ta thương ta liền gọi đến trao tận tay cho ta và nói: “Viên ngọc này là người đời Hán đeo, rất quý giá. Cháu cầm lấy cũng như là trông thấy ta “. Lúc đó, ta còn nhỏ,

cầm lấy ngọc cũng chẳng cho ra gì, liền vứt vào trong rương. Khi ề đây ta thấy đồ vật của nhà mình cũng nhiều. viên ngọc ấy cũng chẳng đáng gì. nên ta không bao giờ đeo. vứt vào rương, đến nay đã hơn 60 năm. Bây giờ thấy cháu Bảo hiếu thuận với ta như thế mà lại mất viên ngọc, ta sực nhớ lại mới lấy ra để cho nó, cũng giống như ông cố ta cho ta ngày trước.

Một lúc sau. Bảo Ngọc tới hỏi thăm sức khỏe. Giả mẫu liền vui mừng nói

– Cháu lại đây, bà cho xem cái này.

Bảo Ngọc đi tới trước giường. Giả mẫu liền cầm viên ngọc ấy trao cho anh ta. Bảo Ngọc đi lấy xem thì thấy viên ngọc ấy to chừng ba tấc, hình như quả dưa, màu sắc đỏ sẫm, rất là tươi. Bảo Ngọc tấm tắc ngợi khen.

Giả mẫu nói

– Cháu thích à? Đó là ông ta cho ta. nay ta giao lại cho cháu đấy.

Bảo Ngọc cười rồi lạy tạ, lại định đem cho mẹ anh ta xem. Giả mẫu nói

– Mẹ cháu xem sẽ nói với cha cháu rồi lại bảo là ta yêu cháu hơn yêu con. Vì xưa nay chưa hề ai trông thấy của này.

Bảo Ngọc cười rồi đi ra. Bọn Bảo Thoa cũng nói mấy câu rồi cáo từ ra về.

Từ đó. Giả mẫu luôn hai ngày không ăn uống, lại thêm nhức đầu chóng mặt và ho. Hình phu nhân,Vương phu nhân và Phượng Thư đến hỏi thăm sức khỏe, thấy tinh thần Giả mẫu vẫn khá, nên chỉ cho người nói với Giả Chính. Giả Chính lập tức vào

hỏi thăm. rồi ra mời thầy thuốc đến xem mạch. Một chốc, thầy thuốc đến xem xong. Nói là người già, ăn uống bị ngừng trệ, và bị cảm hàn, chỉ uống tiêu dao và phát tán một chút là khỏi. Thầy thuốc kê đơn. Giả Chính xem, biết là những vị thuốc thường, liền sai người sắc cho Giả mẫu uống. Sau đó. sớm chiều nào Giả Chính cũng vào thăm. Uống luôn ba ngày. chẳng thấy bệnh bớt chút nào.

Giả Chính lại sai Giả Liễn đi tìm thầy thuốc giỏi và nói

– Cháu mau đi tìm thầy thuốc giỏi đến xem bệnh cho bà. Mấy ông thầy nhà mình hay mời. ta thấy chẳng ra sao cả. Bây giờ cháu đi tìm thầy khác.

Giả Liễn nghĩ ngợi một lát rồi nói:

– Cháu còn nhớ lúc em Bảo ốm, có mời một người không làm nghề thuốc mà chữa khỏi. Chi bằng bây giờ đi tìm thầy ấy.

Giả Chính nói

– Nghề thuốc rất khó, càng là ông thầy không đông khách lại càng eo tài. Cháu cứ cho người đi mời ngay.

Giả Liễn vâng lời. vội vàng đi. Một lúc trở về nói:

– Thầy Lưu gần đây ra ngoài thành dạy học. Chừng hơn mười ngày mới về một lần. Bây giờ chờ không được. đã mời một thầy khác, cũng sắp đến đấy.

Giả Chính nghe nó, đành phải chờ.

Từ khi Giả mẫu ốm, tất cả đàn bà con gái trong nhà ngày nào cũng đến hỏi thăm. Một hôm, mọi người đều đang ở đấy thì thấy bà già coi cửa nách trong vườn vào nói:

– CÔ Diệu Ngọc ở am Lũng Thúy trong vườn nghe cụ bà ốm nên đến hỏi thăm.

Mọi người nói

– CÔ ta không hay đến, hôm nay tới đây, các người mau mau ra mời vào.

Phượng Thư đến bên giường thưa lại với Giả mẫu. Tụ Yên là người bạn quen cũ của Diệu Ngọc nên ra đón trước. Thấy Diệu Ngọc đầu đội mũ Diệu Thường ( 1), mình mặc áo trừu màu nguyệt bạch, bên ngoài khoác áo cà sa dài bằng đoạn xanh viền

biên, lưng thắt dây tơ màu thu hương. bên dưới mặc cái quần là trong, có vẽ màu mực nhạt, tay cầm chuỗi tràng hạt. CÔ ta thướt tha đi đến, theo sau là một người hầu gái. Tụ Yên chào hỏi và nói

– Lúc ở bên vườn, tôi đến thăm cô luôn. Gần đây trong vườn ít người, một mình khó đi. Cái cửa nách đấy lại thường đóng, nên mấy lâu nay không được gặp cô. Hôm nay được gặp thật là may mắn.

Diệu Ngọc nói

– Trước kia các chị là người sống trong cảnh náo nhiệt. nên tuy ở vườn ngoài tôi cũng không tiện qua lại. Nay nghe nói việc nhà ở đây không được tốt, cụ bà lại ốm. Một phần cũng nhớ chị và luôn tiện đến thăm cô Bảo. Tôi có kể gì cửa các người

đóng hay không. Tôi muốn đến thì đến, tôi không muốn đến thì mặc ai muốn cho tôi đến cũng vô ích.

Tụ Yên cười nói

– Cô vẫn giữ cái tính khí ấy?

Hai người vừa đi vừa nói chuyện, đã đến phòng Giả mẫu.

Mọi người thấy cô ta, đều chào hỏi. Diệu ngọc đến trước giường Giả mẫu, hỏi thăm và nói mấy câu chuyện suông. Giả mẫu liền nói

– Cô là một nữ bồ tát. CÔ xem bệnh tôi có khỏe được hay không

Diệu Ngọc nói

– Người từ thiện như cụ bà, tuổi thọ còn nhiều. Chẳng qua bị cảm trong chốc lát. Uống mấy liều thuốc chắc sẽ khỏi. Người có tuổi không nên quá lo nghĩ.

Giả mẫu nói

– Tôi không phải vì thế mà sinh ốm đâu. Tôi là người rất ưa vui. Giờ đây bệnh cũng chẳng sao. Có điều trong bụng cứ đầy tức khó chịu. Vừa rồi. ông thầy thuốc nói vì tức giận sinh bệnh. Cô cũng biết đấy. ai dám làm cho tôi giận? Có phải là cách xem

mạch của ông ta kém không? Tôi đã nói với cháu Liễn. chỉ có ông thầy trước kia nói bị cảm mạo và ăn không tiêu là đúng hơn. Ngày mai cứ mời thầy ấy đến.

Giả mẫu nói đến đó. lại bảo Uyên ương

– Mày dặn nhà bếp làm một mâm cơm chay cho tinh khiết mời sư phụ ở đây xơi cơm.

Diệu Ngọc nói

– Tôi đã ăn cơm trưa rồi. tôi không ăn gì đâu.

Vương phu nhân nói

– CÔ không ăn cũng được, chúng ta ngồi rốn một chốc nói chuyện phiếm cho vui.

Diệu Ngọc nói

– Đã lâu tôi không gặp các vị cho nên hôm nay đến thăm một chút.

CÔ ta lại nói chuyện một hồi nữa định về, chợt thấy Tích Xuân đứng đấy, liền hỏi

– Cô Tư sao mà gầy gò thế? Đừng có ham vẽ quá mà mệt.

Tích Xuân nói

– Đã lâu nay tôi không vẽ nữa. Cái phòng ở bây giờ không còn sáng láng như hồi ở trong vườn, nên không còn hứng thú gì mà vẽ.

– Bây giờ cô ở đâu?

– Chính là ngôi nhà ở cái cửa phía đông mà cô vừa đi qua đấy. Cô muốn đến chơi cũng rất gần.

– Lúc nào thích. tôi sẽ đến thăm.

Bọn Tích Xuân tiễn Diệu Ngọc đi ra, vừa quay trở về.

Bỗng nghe a hoàn nói thầy thuốc đang ở trong nhà Giả mẫu. Mọi người hãy tạm ra về.

Không ngờ bệnh Giả mẫu càng ngày càng nặng. Mời thầy chữa chạy đều không công hiệu. về sau lại thêm chứng đi ngoài. Giả Chính hoảng sợ, biết là bệnh khó chữa, liền sai người đến nha môn xin phép nghỉ. Ngày đêm cùng Vương phu nhân hầu hạ

thuốc thang. Một hôm thấy Giả mẫu ăn uống được đôi chút. trong bụng mới hơi dễ chịu. Bỗng thấy có một bà ở ngoài cửa thò đầu vào dòm. Vương phu nhân bảo Thái Vân ra hỏi xem ai. Thái Vân thấy là người đi theo hầu Nghênh Xuân khi về nhà họ Tôn, liền hỏi:

– Bà đến làm gì?

– Tôi đến đây đã lâu, tìm chẳng được chị nào. Sốt ruột quá nhưng lại không dám hấp tấp.

– Bà sốt ruột vì việc gì Không nhẽ lại vì chuyện cậu rể hành hạ cô tôi à?

– CÔ nguy lắm rồi? Hôm trước đây lại xảy ra chuyện cãi vã. Cô khóc suốt một đêm. Hôm qua đờm tắc lên cổ. Bọn họ không chịu mời thầy thuốc. Hôm nay lại càng nguy cấp.

– Cụ bà đang ốm bà đừng có làm ầm lên.

Vương phu nhân sợ Giả mẫu nghe lại sinh buồn, vội vàng bảo Thái Vân đưa bà ta ra ngoài mà nói. Không ngờ Giả mẫu trong khi ốm, lòng rất yên tĩnh, nên cũng nghe, liền hỏi:

– Con Nghênh Xuân sắp chết à?

Vương phu nhân thưa

– Không phải đâu! Bọn bà già không biết hay dở, nói là hai hôm nay cô ta hơi mệt, sợ là không thể khỏi ngay, đến đây hỏi thăm thầy thuốc.

Giả mẫu nói

– Ông thầy xem bệnh cho ta khá đấy, mau mau mời ông ta đi

Vương phu nhân liền bảo Thái Vân

– Mày bảo bà già kia đi thưa với bà Cả.

Bà già đi ra. Trong này Giả mẫu thấy thương hại nói

– Ba đứa cháu gái ta, một đứa hưởng hết phúc đã chết rồi; con Ba lấy chồng xa không được gặp mặt, con Nghênh Xuân chịu khố, còn mong may ra qua khỏi được. Không ngờ còn trẻ như thế mà đã phải chết, để lại người nhiều tuổi như ta đây, sống làm cái gi.

Bọn Vương phu nhân và Uyên ương khuyên giải một hồi.

Lúc đó, bọn Bảo Thoa và Lý Hoàn không ở trong phòng. Phượng Thư thì dạo này lại ốm. Vương phu nhân sợ Giả mẫu đau xót thêm bệnh, liền sai người gọi bọn họ đến hầu, còn bà ta thì về phòng mình gọi bọn Thái Vân đến quở

– Mụ ấy không hiểu gì cả! Sau này ta ở nhà cụ bà thì chúng mày dù có việc gì cũng đừng tới nói.

Bọn a hoàn vâng lời. Không ngờ bà già kia vừa đến bên nhà Hình phu nhân thì người bên ngoài đã đưa tin vào nói: “Cô Hai chết rồi!”

Hình phu nhân nghe nói cũng khóc một hồi. Hiện giờ Giả Xá không ở nhà, đành phải bảo Giả Liễn qua thăm. Mọi người đều biết Giả mẫu ốm nặng nên không ai đám trình lại. Đáng thương cô gái xinh đẹp như hoa, lấy chồng vừa được hơn một năm, không ngờ bị họ nhà Tôn giày vò đến nơi phải chết. Lại vừa gặp ỉúc Giả mẫu ốm nặng, không ai dám rời bước, đành để mặc nhà họ Tôn tống táng qua loa.

Bệnh tình của Giả mẫu ngày một nặng thêm. Bà ta chỉ nhớ bọn cháu gái. Nhớ Tương Vân, liền sai người đến thăm. Người đi thăm về khẽ tìm Uyên ương. Vì Uyên ương ở luôn bên Giả mẫu. Bọn Vương phu nhân cũng đều ở đấy. Đến đó không tiện, người ấy liền ra phía sau tìm Hổ Phách và nói với chị ta

– Cụ bà nhớ cô Sử, bảo tôi đi thăm. Không ngờ cô Sử đang khóc lóc thảm thiết, nói là cậu rể bị bệnh đột ngột. Các thầy thuốc xem đều nói sợ không khỏi được. Nếu dở chứng lao sẽ còn kéo dài bốn năm năm, vì thế trong bụng cô Sử lo sợ. Cô ta cũng biết cụ bà ốm, nhưng không sang thăm được. CÔ ta còn bảo tôi đừng nói chuyện ấy với cụ bà. Nếu cụ bà có hỏi thì nhờ các chị tìm cách mà thưa lại mới được.

Hổ Phách nghe nói. đằng hắng một cái, không nói gì. Hồi lâu mới nói

– Chị ra đi thôi.

Hổ Phách thưa lại thì không tiện, định bàn với Uyên Ương liệu cách nói dối, vì thế chị ta mới đến bên giường Giả mẫu, nhưng thấy sắc mặt Giả mẫu đã thay đổi hẳn, người đứng chật nhà, nói thầm với nhau: “xem chừng nguy lắm” vì thế Hổ Phách cũng không dám nói nữa.

Giả Chính khẽ bảo Giả Liễn tới bên cạnh, rồi ghé vào tai dặn mấy câu Giả Liễn vâng lời, khe khẽ đi ra, gọi tất cả bọn người nhà lại và nói

– Các người mau mau chia nhau đi lo liệu việc cụ thôi. Đầu tiên phải đem quan tài ra xem, để may đồ tang cho đúng. Rồi đến các phòng đo kích thước, áo quần của mọi người, ghi chép rõ ràng, bảo bọn thợ may may áo tang ngay. Những người

coi việc làm rạp cũng bàn định sẵn. Nhà bếp cũng phải thêm mấy người nữa.

Bọn Lại Đại nói:

– Thưa cậu, những việc ấy không cần cậu phải bận tâm, chúng tôi đã tính toán đầy đủ cả rồi, nhưng khoản tiền ấy thì lấy vào đâu?

Giả Liễn nói

– Khoản tiền ấy không cần lấy ở ngoài. Cụ bà đã để dành lại rồi. Vừa rồi, ý ông lớn muốn lo liệu cho tử tế, tôi nghĩ bên ngoài cũng phải cho đẹp mặt mới được.

Lại Đại vâng lời, phái người chia nhau đi lo liệu.

Giả Liễn lại về phòng mình mà hỏi Bình Nhi:

– Mợ hôm nay ra sao?

Bình Nhi ngoảnh vào trong ra hiệu và nói

– Cậu vào mà xem.

Giả Liễn đi vào thì thấy Phượng Thư đang định mặc áo, nhưng vì mệt quá, không mặc được, tạm dựa vào cái bàn mà nghỉ.

Giả Liễn nói

– Sợ mợ không tĩnh dưỡng được nữa đâu. Việc bà chỉ ngày một ngày hai thôi. Mợ không thể nào vắng mặt được. Mau mau bảo người thu xếp đồ đạc trong nhà rồi nên gắng gượng mà sang. Nếu có việc, tôi với mợ còn về nhà được hay sao?

Phượng Thư nói:

– Nhà mình đây còn có cái quái gì nữa mà thu xếp? Chẳng qua chỉ còn một ít đồ đạc, sợ cái gì? Cậu sang trước đi. nhỡ ông Hai gọi. Tôi thay áo rồi sẽ sang sau.

Giả Liễn đi trước tới phòng Giả mẫu nói nhỏ với Giả Chính:

– Mọi người đều cắt đặt xong xuôi rồi.

Giả Chính gật đầu. Bên ngoài lại báo tin:

– Thầy thuốc đã đến.

Giả Liễn đón vào xem mạch, hồi lâu thầy thuốc ra nói nhỏ với Giả Liễn

– Mạch của cụ bà kém lắm, cần phải đề phòng.

Giả Liễn hiểu ý, nói cho bọn Vương phu nhân biết.

Vương phu nhân vội vàng đưa mắt cho Uyên ương, hảo cô ta sắp đặt sẵn sàng quần áo của cụ bà. Uyên ương vội vàng đi sửa soạn. Giả mẫu mở mắt đòi uống nước. Hình phu nhân liền bưng lại một chén nước sâm. Giả mẫu vừa ghé miệng uống. liền nói

– Không cần cái ấy, rót một chén trà lại đây ta uống.

Mọi người không dám trái lời, vội vàng đưa trà lại. Giả Mẫu uống một hớp lại đòi uống hớp nữa, liền nói:

– Ta muốn ngồi dậy.

Giả Chính nói

– Mẹ cần cái gì cứ nói, không cần phải ngồi dậy thì hơn.

Giả mẫu nói:

– Ta uống hớp nước, trong bụng hơi đỡ, nên muốn ngồi dựa một tý để nói chuyện với các con.

Bọn Trân Châu lấy tay nhẹ nhàng đỡ dậy, xem chừng tinh thần của Giả mẫu lúc đó hơi khá.

Chương 110: Sử Thái quân tuổi già về nơi địa phủ – Vương Hy Phượng sức kiệt làm mất lòng người

Sử Thái quân tuổi già về nơi địa phủ

Vương Hy Phượng sức kiệt làm mất lòng người

Giả mẫu ngồi dậy và nói

– Ta về nhà đây đã hơn sáu mươi năm, phúc cũng hưởng hết rồi. Từ cha con đến con cháu cũng đều tốt cả. Nhất là Bảo Ngọc, ta thương yêu nó lâu nay…

Nói đến đó, bà ta mở to mắt nhìn khắp mọi nơi, Vương phu nhân đẩy Bảo Ngọc đến trước giường.

Giả mẫu giơ tay từ trong chán ra. nấm lấy Bảo Ngọc và nói

– Cháu ơi, cháu phải làm nên mới được.

Bảo Ngọc miệng vâng dạ, trong lòng đau xót, nước mắt trào ra nhưng lại không dám khóc, đành phải đứng đấy. Giả Mẫu lại nói:

– Ta trông thấy đứa chắt nữa thì sẽ an tâm. Chắt Lan đâu rồi?

Lý Hoàn cũng đẩy Giả Lan lại gần.

Giả mẫu buông Bảo Ngọc nắm lấy Giả Lan và nói

– Chắt phải hiếu thuận với mẹ nhé? Sau này chắt nên người cũng phải để cho mẹ chắt mở mày mở mặt một chút? Con Phượng đâu rồi?

Phượng Thư đang đứng một bên, vội vàng chạy lại trước mặt và nói

– Cháu đây ạ.

– Cháu ơi. cháu thông minh quá, sau này nên tu lấy phúc nhé! Ta cũng không hề tu gì, chẳng qua lòng ngay thiệt đấy thôi. Những việc ăn chay niệm phật, ta cũng không hay làm. Năm trước đây ta có bảo viết kinh Kim Cương đưa cho mọi người, không biết đã đưa xong chưa?

– Chưa ạ.

– Phải làm xong cho sớm mới phải. Ông Cả nhà ta và cháu Trân thì ở ngoài vui vẻ rồi, ta chỉ giận là con Sử vô tình, tại sao nhất định không đến thăm ta?

Bọn Uyên ương biết rõ duyên cớ nhưng đều không dám nói.

Giả mẫu lại nhìn Bảo Thoa, thở dài, sắc mặt đỏ lên. Giả Chính biết là Giả mẫu sắp tắt thở, vội vàng bưng nước sâm đến. Giả mẫu đã cắn chặt răng và nhắm mắt lại ; một lát lại mở to mắt nhìn khắp nhà. Vương phu nhân và Bảo Thoa chạy lại, nhè nhẹ

đỡ lấy. Hình phu nhân và Phượng Thư vội vàng mặc áo. Bọn Bà già đã đặt giường và trải chăn nệm sẵn sàng. Nghe trong cổ Giả mẫu hơi khò khè và trên mặt mỉm cười, rồi tắt thở, thọ tám mươi ba tuổi. Bọn bà già vội vàng đặt nằm lên giường. Bọn Giả Chính quỳ một hên ở ngoài. Bọn Hình phu nhân quỳ một bên ở nhà trong. Mọi người đều cất tiếng khóc. Người nhà ở ngoài đều đã sắp đặt mọi việc sẵn sàng. Khi nghe tin trong này truyền ra thì khắp trong ngoài, cánh cửa mở toang, dán toàn giấy trắng. Lập tức đựng rạp tang và lầu tế ở ngoài cửa lớn. Ngay đó các người trên dưới đều mặc đồ tang.

Giả Chính báo tin về việc mẹ chết. Bộ lễ tâu lên. Nhà vua là người rất nhân hậu. Nghĩ bà ta dòng dõi nhà công thần, lại là bà nội của Nguyên phi nên ban thưởng một ngàn lạng bạc, và sai bộ lễ chủ tế. Người nhà báo tang đi các nơi. Bà con bạn hữu tuy biết họ Giả đã suy, nhưng nay thấy nhà vua ban ơn hậu hĩ, nên đều đến thăm viếng. Chọn giờ tốt nhập liệm, rồi đặt linh cữu giữa nhà chính.

Giả Xá không ở nhà. Giả Chính làm trưởng ; Bảo Ngọc, Giả Hoàn và Giả Lan là cháu chắt ruột lại còn ít tuổi nên đều phải ở luôn bên linh cữu. Giả Liễn tuy cũng là cháu ruột. nhưng phải cùng với Giả Dung lo cắt đặt người nhà làm việc. Tuy có mời một số đàn ông, đàn bà họ ngoại đến trông nom, nhưng bọn Hình phu nhân, Vương phu nhân, Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa, đều phải ở bên linh sàng khóc lóc ; Vưu thị tuy có thể trông nom nhưng từ khi Giả Trân đi rồi, chị ta ở nhờ phủ Vinh, lâu nay việc gì cũng không dám đảm đang. Vả lại việc ở đây cũng không thông thạo lắm. Vợ Giả Dung thì không cần phải nói nữa. Tích Xuân còn ít tuổi, tuy rằng lớn lên ở nhà này, nhưng đối với việc nhà, cô ta không biết gì cả. Thành ra, ở trong chẳng có

một người nào trông nom. Chỉ có Phượng Thư là người có thể trông nom công việc bên trong. Vả lại Giả Liễn làm chủ ở ngoài, trong ngoài do hai vợ chồng trông nom cũng là hợp lý. Trước kia, Phượng Thư cậy tài, nghĩ rằng khi bà cụ chết, mình sẽ có dịp để trổ tài làm việc. Hình phu nhân và Vương phu nhân vốn biết chị ta đã từng lo việc tang Tần thị nên tin rằng thế nào chị ta cũng làm được chu đáo, vì thế hai người vẫn bảo Phượng Thư coi hết mọi việc bên trong. Phượng Thư không thể từ chối, cố nhiên là phải nhận lời. Chị ta nghĩ

“Việc nhà đây vốn do mình coi, bọn người nhà đều là tay chân của mình. Người nhà của bà Cả và chị Trân vốn khó sai bảo, thì nay đều đi cả rồi. Khoản tiền dù không có đối bài, nhưng đã sẵn sàng từ trước. Việc ở ngoài lại do cậu ấy lo liệu. Mặc dầu người mình không được khỏe, nhưng cũng

không đến nỗi để người ta chê bai. Thế nào cũng còn lo liệu chu tất hơn khi ở phủ Ninh nữa.”Trong bụng chị ta đã định sẵn, chờ đến ngày mai nhận việc rồi sáng hôm sau sẽ cắt đặt công việc. Chị ta sai vợ Chu thụy chuyển lời ra để lấy danh sách gia nhân vào xem.

Phượng Thư xem kỹ thì thấy hầu trai chỉ có hai mươi mốt người, hầu gái chỉ có mười chín người, còn đều là bọn a hoàn. Tính hết các phòng, số a hoàn cũng chỉ có hơn ba mươi người, thật khó cắt đặt công việc. Chị ta nghĩ: “lần này là việc bà mình, mà lại không đông người bằng ở phủ đông trước kia”. Rồi chị ta lại cho gọi thêm mấy người ở các trại đến, nhưng cũng vẫn không đủ sai khiến

Phượng Thư đang suy tính thì thấy một a hoàn nhỏ đến nói:

– Chị Uyên ương nói muốn gặp mợ.

Phượng Thư đành phải sang thì thấy Uyên ương khóc lóc, nước mắt dầm dề. Chị ta nắm ngay lấy Phượng Thư và nói

– Mời mợ ngồi, cho tôi lạy mợ, tuy rằng trong khi có tang không làm lễ. nhưng tôi vẫn cần phải lạy.

Uyên Ương nói rồi quỳ xuống. Phượng Thư vội vàng đỡ lấy và nói

– Lạy lục gì thế? Có việc gì chị cứ nói cho rõ.

Uyên ương vẫn quỳ. Phượng Thư kéo dậy. Uyên ương nói

– Cụ bà mất. tất cả mọi việc trong ngoài đều do cậu và mợ lo liệu. Tiền bạc thì cụ bà đã để lại. Suốt đời cụ bà cũng không hề xa phí gì, giờ đây xảy đến việc lớn này, nhất thiết xin mợ lo liệu cho có bề thế một tý mới được. Vừa rồi tôi nghe ông lớn nói những “thi vân, tử viết” gì đó. tôi cũng không hiểu. Lại nghe nói

“đám tang. thà buồn thương hơn là bày biện linh đình”. Tôi lại càng không rõ ràng. Tôi hỏi mợ Hai Bảo, thì mợ ấy nói

“ý của ông lớn cho rằng, tang của cụ bà chỉ cần thương buồn

mới là thực hiếu, không nên nghĩ đến việc xa phí nhiều để rầy thể diện.” Tôi nghĩ người như cụ bà, sao lại không nên làm cho có thể diện. Tôi tuy là con hầu, dám nói sao được? Nhưng mà cụ bà lâu nay thương yêu mợ và tôi, giờ đến khi chết lại không để cho người được mát mặt một chút hay sao? Tôi nghĩ mợ là người có tài lo liệu việc lớn, cho nên tôi mời mợ đến làm chủ. Tôi sống theo hầu cụ bà. Nay cụ bà chết rồi, tôi cũng xin đi theo hầu cụ bà! Nếu công việc không lo liệu ra sao, thì sau này tôi còn mặt mũi nào mà gặp cụ bà nữa?

Phượng Thư nghe câu nói kỳ quặc, liền nói

– Chị cứ yên tâm, muốn cho có thể diện thì khó gì. Tuy ông lớn nói muốn tằn tiện, nhưng nề nếp cũng phải giữ. Dẫu có đem hết số tiền ấy lo về việc cụ bà thì cũng là phải.

– Cụ bà trối lại rằng

những cái gì còn thừa sẽ để lại cho chúng tôi. Nếu mợ tiêu không đủ thì xin cứ đem những cái ấy bán đi mà bù vào. Dầu ông lớn có nói gì. cũng không thể trái lời trối lại của cụ bà. Vả lại lúc cụ bà dặn dò không phải là ông lớn

cũng ở đó và cũng nghe thấy hay sao?

– Chị lâu nay vốn rất sáng suốt, tại sao giờ đây lại cuống quít lên như thế?

– Không phải tôi cuống quít, nhưng vì bà Cả thì cứ để mặc, ông lớn thì sợ tiếng tăm. Nếu trong bụng mợ mà cũng nghĩ như ông lớn cho là nhà đã bị tịch thu mà đám tang còn linh đình như thế, không khéo sau này sẽ bị tịch thu nữa. Rồi không nghĩ gì

đến cụ bà, thì còn ra thế nào? Tôi là con hầu, hay dở cũng không can gì, rút cục vẫn là quan hệ đến tiếng tăm ở đây!

– Tôi biết rồi. Chị cứ yên lòng. Đã có tôi.

Uyên ương hết sức cảm tạ và căn dặn mãi.

Phượng Thư đi ra, nghĩ bụng: “con Uyên ương kỳ quặc thật? chẳng biết ý nó như thế nào? Cứ lý ra thì việc của bà mình cần phải có thể diện mới được. Chà? Hãy mặc nó, mình cứ theo khuôn khổ nhà mình trước mà làm”. Rồi chị ta sai vợ Lai Vượng chuyển lời ra mời cậu Hai vào. Một lát Giả Liễn đi vào, hỏi

– Tìm tôi làm gì? Mợ ở trong này trông nom đôi chút là được. Đã có ông Hai làm chủ, ông nói thế nào thì mình cứ làm thế.

– Cậu cũng nói như thế, có phải là lời của Uyên ương ứng nghiệm rồi đấy không?

– Uyên ương nói cái gì?

Phượng Thư đem chuyện Uyên ương mời mình qua thuật lại đầu đuôi. Giả Liễn nói

– Lời nói của bọn chúng kể làm gì! Vừa rồi chú gọi tôi đến bảo: “Việc của bà đáng lẽ phải làm cho thật bề thế, nhưng người biết ra thì nói là tiền của bà để lại lo cho mình, người không biết lại nói chúng mình thu giấu đi, nên bây giờ rất là dư dật. Số bạc của bà dùng không hết, ai còn dám lấy, vẫn cứ phải dùng cho bà. Bà ở phương Nam tuy có đất mộ, mà chưa có lăng tẩm. Linh cữu của bà cần đưa về Nam. Dành số bạc đó để xây dựng một ít nhà cửa bên lăng tổ, còn thừa thì mua ít ruộng tế, rồi

chúng ta về ở đấy cũng hay; dầu không về thì để cho những người nghèo đói trong họ đến ở. Cũng tiện cho việc lo hương khói cúng tế.” Mợ nghĩ xem, nói thế không phải là đúng đắn hay sao? Không nhẽ đem xài hết cả đi hay sao?

– Bạc đã phát ra chưa?

– Ai thấy bạc biếc gì đâu. Tôi thấy mẹ nghe lời nói của chú thì hết sức xui giục thím và chú, cho rằng: “ý ấy rất hay”. Thế thì bảo tôi còn biết làm thế nào. Hiện nay việc làm rạp bên ngoài cần phải chi mấy trăm bạc mà cũng chưa có đồng nào. Tôi

đi hỏi thì họ nói có đấy, nhưng bảo bên ngoài hãy biện lấy, rồi sau sẽ tính. Mợ nghĩ xem, bọn tôi tớ, thằng nào có tiền thì chuồn mất rồi. Theo số mà gọi, người thì nói ốm, người thì nói xuống trại, còn lại mấy người không chuồn được thì chỉ có tài bòn tiền, làm gì chịu xuất tiền.

Phượng Thư nghe nói. ngơ ngác một hồi lâu, rồi nói

– Thế thì còn lo liệu quái gì được?

Đang nói thì thấy một a hoàn đến nói:

– Bà Cả bảo hỏi mợ Hai, nay đã đến ngày thứ ba rồi, mà trong này còn rối beng. Cúng cơm rồi còn bắt bà con chờ hay sao? Gọi một hồi lâu, được thức ăn thì thiếu cơm, lo liệu thế nào lại như thế?

Phượng Thư vội vàng đi vào quát bảo người tới hầu, làm qua loa cho xong bữa cơm sớm. Ngày hôm đó. bà con lại tới rất đông, mà bọn người nhà bên trong đều trừng mắt trợn mày, đứng ỳ ra đó. Phượng Thư đành phải ở đấy trông nom. Lại nhớ đến cắt đặt người làm việc, chị ta vội vàng đi ra, bảo vợ Lai Vượng gọi bọn hầu gái đến đầy đủ, chia công việc cho tất cả mọi người. Họ vâng dạ nhưng vẫn đứng im. Phượng Thư nói

– Bây giờ là lúc nào rồi mà các người còn chưa dọn cơm?

Mọi người nói

– Dọn cơm thì dễ, nhưng phải đưa đồ đạc trong ấy ra, chúng tôi mới sắp đặt được chứ.

Phượng Thư nói

– Đồ lẩn thẩn! Khi chia công việc cho các người xong rồi thì thế nào cũng có

Họ đành phải miễn cưỡng vâng lời.

Phượng Thư lập tức lên nhà trên để lấy các vật cần dùng, định đi hỏi Hình phu nhân và Vương phu nhân. Nhưng thấy người đông khó nói, mà xem chừng trời đã xế bóng rồi, chị ta đành phải đi tìm Uyên ương, định lấy một số đồ đạc của Giả mẫu để lại.

Uyên ương nói

– Mợ còn hỏi tôi à? Năm nọ cậu Hai đem cầm đi, đã chuộc về chưa?

– Không cần đồ vàng đồ bạc, chỉ cần một số đồ thường dùng thôi.

– Những cái bên nhà bà Cả và mợ Trân dùng, lấy ở đâu ra đấy?

Phượng Thư nghĩ lại, quả nhiên không sai. Đành phải chạy đi tìm bọn Ngọc Xuyến và Thái Vân ở bên nhà Vương phu nhân, lấy được một số đồ đạc, vội vàng bảo Thái Minh ghi sổ rồi phát cho mọi người giữ lấy.

Uyên ương thấy Phượng Thư luống cuống như thế. gọi trở lại cũng không tiện, nghĩ bụng: “Mợ ta trước kia làm việc lanh lợi và chu đáo biết dường nào, sao nay bị lúng ta lúng túng như thế? Mình xem ba bốn hôm nay, mợ ấy cứ lẩm ca lẩm cẩm.

thật là phụ lòng thương yêu của cụ bà!” Chị ta nghĩ vậy. chứ có biết đâu, Hình phu nhân khi nghe lời nói của Giả Chính, hợp với ý mình, đang lo cho việc nhà sau này khó khăn. chỉ trông mong để lại ít nhiều mà lo liệu việc sau. Vả lại việc của Giả mẫu vốn là do con trưởng làm chủ, Giả Xá tuy không ở nhà, nhưng Giả Chính là người câu nệ, gặp việc gì cũng cứ nói

” Hỏi bà Cả xem sao?” Hình phu nhân vốn biết Phượng Thư ăn tiêu rộng rãi. Giả Liễn thì lại hay dở trò ma, nên cố chết nắm chặt lấy.

Uyên ương chỉ nghĩ trong số bạc ấy đã phát ra rồi. Nên thấy Phượng Thư lúng túng như thế thì cho là không chịu hết lòng, liền ngồi bên linh sàng của Giả mẫu khóc lóc kể lể luôn miệng.

Hình phu nhân nghe trong lời khóc của chị ta có ý oán trách. Bà ta không nghĩ đến việc mình không cho Phượng Thư tùy ý làm việc, lại nói đổ

– Con Phượng quả thật không chịu hết lòng?

Đến đêm, Vương phu nhân gọi Phượng Thư đến và nói

– Nhà mình tuy nói là sa sút, nhưng thể diện bên ngoài cũng phải giữ. Hai ba hôm nay người qua kẻ lại, ta xem bọn người kia trông nom không đến nơi đến chốn. Chắc là chị không đặn dò họ. Chị phải chịu khó lo hộ mới được?

Phượng Thư nghe nói, ngơ ngác một lúc, định nói rõ rằng không đủ tiền bạc chi tiêu, nhưng việc tiền nong là việc ở người khác lo còn Vương phu nhân nói đây là việc trông nom không cllu đáo Vì vậy Phượng Thư chỉ đứng im không dám cãi lại.

Hình phu nhân ngồi một bên, nói

– Đúng lý ra thì bọn con dâu chúng ta đây phải lo liệu, chứ không phải là việc của cháu dâu. nhưng bọn chúng ta không rành nên phải nhờ chị. Chị đừng có làm cái lối buông phóng tay đấy

Phượng Thư mặt đỏ bầm lên, đang định trả lời, thì nghe bên ngoài tiếng nhạc nổi lên, đã đến lúc hoàng hôn phải đốt vàng. Mọi người đều cất tiếng khóc, nên không nói được. Phượng Thư vốn nghĩ chốc nữa sẽ nói, nhưng Vương phu nhân giục chị ta

đi lo liệu và nói

– ở đây đã có chúng ta rồi. Chị mau mau đi lo liệu việc ngày mai đi thôi.

Phượng Thư không dám nói nữa, đành phải buồn rầu nuốt lệ đi ra, rồi cho gọi mọi người đến đầy đủ. Dặn dò một hồi và nói

– Các bà, các thím thương tôi với. Tôi đã bị trên quở trách, là vì các người không trông nom đầy đủ, làm cho người ta chê cười. Ngày mai các người cố chịu khó nhọc thêm một tý.

Bọn người nhà trả lời

– Mợ lo liệu công việc, không phải chỉ mới một lần này. Chúng tôi có dám ngang trái đâu. Nhưng mà công việc lần này, bề trên làm lôi thôi quá? Ngay như việc hầu hạ bữa cơm này, người thì ăn ở đây; người thì đòi ăn ở nhà. Mời được bà này, thì mợ kia lại không đến. Việc linh tinh như thế, làm sao cho chu đáo được? Xin mợ hãy khuyên các cô kia đừng bới móc quá mới được

– Thứ nhất là bọn a hoàn của cụ bà khó nói, mà bọn a hoàn của các bà cũng thế, thì còn bảo tôi nói với ai nữa?

– Trước đây ở phủ Đông chẳng qua mợ chỉ làm thay, mà còn đánh, còn mắng họ, đanh thép như thế. Ai dám không nghe? Bây giờ lại không trị nổi các cô ấy à?

Phượng Thư thở dài

– Việc ở phủ Đông, tuy ta làm thay. Các bà cũng có ở đấy, nhưng không ai nói gì. Giờ đây việc của nhà mình, lại là việc chung, ai nói cũng được. Vả chăng việc tiền nong ở ngoài cũng chẳng thuận tiện gì. Ngay ở trong rạp cần có một vật, chuyển lời ra gọi mãi mà bên ngoài vẫn chẳng thấy đưa vào. Bảo tôi còn có cách nào nữa?

– Cậu Hai ở ngoài. còn sợ không đưa vào đầy đủ hay sao?

– Còn nhắc cái đó nữa à? Cậu ấy ở ngoài ấy cũng lúng túng. Trước hết là tiền không có trong tay, muốn làm việc gì là phải trình báo thì thuận tiện sao được?

– Số tiền của cụ bà không ớ trong tay cậu Hai à?

– Chốc nữa các người hỏi mấy người coi việc thì rõ.

– Chẳng trách chúng tôi nghe bọn đàn ông bên ngoài oán trách, nói: “Việc lớn như thế này mà bọn mình không sờ mó được được chút gì. Chỉ chịu khổ suông, thì người ta dốc lòng sao được?”

– Bây giờ không cần nói nữa. Công việc trước mắt các người để ý cho với. Nếu để bề trên còn quở trách thì tôi không nghe cho đâu.

– Mợ định như thế nào. chúng tôi dám oán trách đâu? Nhưng mà bề trên mỗi người mỗi ý, chúng tôi thật khó mà lo liệu chu đáo được.

Phượng Thư nghe nói cũng chẳng có cách gì. đành phải năn nỉ với họ

– Các bà ạ? Ngày mai hãy giúp tôi một hôm. Tôi làm cho các cô ấy một mẻ thì mới xong.

Mọi người nghe lời đi ra.

Phượng Thư trong bụng uất ức càng nghĩ càng tức. Mãi đến khi trời sáng lại phải dậy trông nom. Chị ta định răn bảo bọn người ở các nhà. lại sợ Hình phu nhân đâm giận ; muốn nói với Vương phu nhân thì khốn nổi lại bị Hình phu nhân ton hót, xui giục. Bọn a hoàn thấy Hình phu nhân không bênh vực Phượng Thư, nên càng giày vò chị ta. May có Bình Nhi bày tỏ hộ cho Phượng thư. Chị ta nói

– Mợ Hai cũng chỉ cốt trông nom lo liệu cho tử tế. nhưng vì ông lớn và các bà dặn bảo bên ngoài không được xa phí. cho nên mợ Hai cũng không thể lo liệu cho đến nơi đến chốn được.

Bình Nhi nói đi nói lại mấy lần. nên họ mới hơi yên.

Mọi việc như mời hòa thượng đọc kinh sám hối, điếu tế cúng cơm liên tiếp không ngớt, nhưng rút cục vì chi tiêu keo sẻn quá nên không ai chịu hăng hái, chẳng qua chỉ làm qua loa cho xong chuyện. Liên tiếp mấy ngày, các vi vương phi và các hà

quan tới rất đông. Phượng Thư cũng không thể lên trên trông nom, chỉ ở dưới nhà sắp đặt. Gọi được người này thì người khác chạy mất. Phượng Thư hết gào thét lại van xin. làm xong việc này lại lo đến việc khác, chưa nói bọn Uyên ương thấy việc đinh đám chẳng ra sao đâm bực mình. mà chính trong lòng Phượng Thư rất là áy náy. Hình phu nhân tuy nói là dâu cả, nhưng cứ lấy cớ bốn chữ “thương xót là hiếu” nên việc gì cũng cứ để mặc. Vương phu nhân đành phải theo Hình phu nhân mà làm. Còn các người khác thì không cần phải nói nữa.

Chỉ có Lý Hoàn thấy rõ nỗi khổ tâm của Phương Thư. nhưng lại không dám nói, chỉ than thở một mình

tục ngữ có câu: “hoa mẫu đơn dầu đẹp, toàn nhờ lá xanh nâng niu. Các bà mà không nhờ thím Phượng thì đời nào họ còn giúp cho nữa? Nếu cô Thám Xuân ở nhà còn khá. nhưng bây giờ chỉ còn có mấy người nhà thím ấy lo suông; trước mặt sau lưng, ai cùng oán trách. Họ nói một đồng tiền không vớ được, thể diện cũng chẳng còn chút nào! Ông lớn thì chỉ một mực lo tròn chữ hiếu. Mọi việc

không thông hiểu lắm. Việc lớn như thế. không bỏ ra ít tiền mà lo liệu thì xong. được hay sao? Thật đáng thương cho thím Phượng ăn lo mấy năm trời, không ngờ nay đến việc cụ bà. có lẽ không gĩư được thể diện nữa đấy”.

Vì thế. nhân lúc rảnh, chị ta gọi người nhà lại và dặn:

– Bọn các người đừng có bắt chước người ta quấy rầy mợ Hai Liễn. Đừng tưởng rằng các người mang áo tang, ngồi khóc lóc bên linh cữu là việc lớn đâu. Nếu thấy họ lo liệu không kịp thì phải dúng tay và làm giúp cũng là nên. việc là việc chung, mọi người đều phải ra sức.

Những người vốn phục Lý Hoàn đều vâng lời và nói:

– Mợ cả nói rất đúng, chúng tôi cũng không dám như thế. Nhưng nghe giọng nói cô Uyên ương xem chừng oán trách mợ Hai LIễn đấy.

Lý hoàn nói:

– Tôi cũng nói với cô Uyên ương rồi, Tôi bảo mợ Hai lIễn hoàn toàn không phải không hết lòng với việc cụ bà, nhung tiền bạc không ở trong tay mợ ấy, bảo nàng dâu có khéo mấy cũng không thể nấu cháo nếu không có gạo. Nay Uyên Uơng đã biết rồi nên cũng không trách mợ ta nữa. Nhưng bộ dạng Uyên ương không giống như trước, thật là kỳ quái. Lúc cụ bà thương yêu, chị ta không hề làm oai phúc gì cả, bây giờ cụ bà chết rồi, chị ta không có người để dựa nữa, thế mà tôi xem tính khí chị ta lại không hiền lành như trước. Trước đây tôi lo thay cho chị ta, bây giờ may mà ông Cả không có nhà, nếu không thì lại xảy ra chuyện.

Đang trò chuyện thì Giả Lan chạy đến nói:

– Mẹ đi ngủ đi thôi. Từ sáng đến giờ người qua khách lại, mẹ mệt lắm rồi, nên nghỉ một chút. Mấy ngày nay con không sờ đến sách, hôm nay ông bảo con về nhà ngủ, con mừng quá, phải ôn lại một vài quyển mới được, kẻo đến khi hết trở lại quên hết.

Lý hoàn nói:

– Con ạ, đọc sách cố nhiên là rất phải, nhưng hôm nay hãy nghỉ đã, chờ đưa đám cố xong sẽ học.

– Mẹ muốn ngủ thì con ngủ, nhưng nằm trong chăn ôn nhớ lại cũng được.

Mọi người nghe nói đều khen:

– Anh giỏi thật. sao mới chừng ấy tuổi mà lúc nào cũng nhớ đến sách? Chẳng bù với cậu hai bảo, có vợ rồi mà vẫn tính khí trẻ con. Mấy hôm nay theo ông lớn quỳ. xem chừng cậu ta khó chịu lắm, chỉ mong ông lớn quay người đi một tý là chạy đi tìm mợ Hai. không biết rầm rầm rì rì nói những chuyện gì. Thậm chí cậu ấy làm cho mợ Hai cũng không nhìn nữa. Cậu ấy lại đi tìm cô Cầm. Cô Cầm cũng tránh đi. CÔ Hình cũng ít nói chuyện với cậu ta lắm. Chi có người họ nhà mình là cô Hỷ và cô Tư nào

đó cứ một anh hai anh, trò chuyện thân mật với cậu ta. Chúng tôi xem chừng cậu hai Bảo trừ việc quấn quít với các mợ, các cô ra, có lẽ trong bụng chẳng nghĩ đến việc gì khác. Thật là phụ lòng cụ bà đã trót thương yêu cậu ta lớn bằng chừng ấy. Thật cậu ấy không bằng anh Lan lấy một ly. Mợ Cả sau này không phải lo gì nữa.

Lý Hoàn nói

– Nó dù khá, nhưng vẫn còn nhỏ. Chỉ lo khi nó lớn lên, nhà mình chẳng biết rồi ra thế nào! Còn thằng Hoàn thì các người xem ra sao?

– Cái anh ấy thì lại càng chẳng ra gì nữa. Hai mắt cứ y như là mắt khỉ sống, hết liếc bên này lại liếc hên kia. Tuy là gào khóc ở đây, nhưng khi thấy các mợ các cô đến, anh ta ở trong màn tang cứ liếc mắt nhìn trộm!

– Thực ra thì tuổi nó cũng lớn rồi. Trước đây nghe nói định dạm vợ cho nó đấy. nhưng bây giờ lại phải chờ rồi. ái chà? Còn có một việc: những người của nhà chúng ta đây, tôi xem thì nói cũng không hết lời được! Hãy khoan nói chuyện dông dài, hôm sau đi đưa đám thì xe cộ các phòng như thế nào?

– Mợ hai Liễn mấy hôm nay công việc bối rối, như người mất hồn, cũng không thấy nhắc nhở gì cả. Hôm qua nghe bọn đàn ông ở ngoài nói: “cậu Hai sai cậu Tường lo liệu, bảo rằng xe nhà mình không đủ, mà người đẩy xe cũng ít, phải đi mượn xe

của nhà bà con đấy.”

– Xe cũng mượn được à?

– Mợ lại nói đùa rồi, sao lại không mượn được? Nhưng hôm đó tất cả bà con đều dùng xe, chỉ sợ khó mượn, có lẽ phải thuê nữa ấy.

– Xe những người bề dưới ngồi thì đành phải thuê, còn xe trắng người bề trên ngồi cũng thuê được hay sao?

– Hiện giờ bà Cả, mợ Cả ở phủ Đông và mợ Dung bé đều không có xe, không thuê thì làm gì có?

Lý Hoàn nghe nói, than thở:

– Trước kia hễ thấy các mợ, các bà con nhà mình ngồi xe thuê thì bọn mình đều chê cười, giờ đây đến lượt mình rồi? Các chị ngày mai nói với các anh: “sửa soạn xe ngựa của chúng tôi cho sớm để khỏi chen chúc.”

Mọi người vâng lời đi ra.

Sử Tương Vân vì chồng ốm, sau khi Giả mẫu chết chỉ đến có một lần. Bấm đốt ngón tay, hôm sau là ngày đưa đám, không thể không đến, lại thấy chồng đã mắc bệnh lao, tạm thời chưa can gì, nên trước hôm đưa đám một ngày thì cô ta sang. Nghĩ đến

ngày thường Giả mẫu thương yêu mình, lại nghĩ đến số mình khổ sở vừa lấy được người chồng tài mạo song toàn, tính tình hòa nhã, không ngờ mắc phải chứng bệnh oan nghiệt, chỉ còn chờ từng ngày mà thôi, nên càng thêm đau xót. Cô ta khóc mãi đến nửa đêm. bọn Uyên ương cố khuyên lơn an ủi mãi.

Bảo Ngọc nhìn thấy cô ta, cũng khôn xiết đau lòng, nhưng tới khuyên thì không tiện, thấy cô ta án mặc đồ trắng, son phấn không xoa, mà so với lúc chưa đi lấy chồng còn đẹp hơn nhiều. Ngoảnh lại, thấy bọn Bảo Cầm cũng đều ăn mặc đồ trắng

mà phong vận tuyệt vời. Riêng nhìn đến Bảo Thoa thì thấy chị ta mặc toàn đồ tang, cái dáng điệu phong nhã so với khi ăn mặc hoa hòe lại càng khác hẳn. Bảo Ngọc nghĩ bụng

” Người xưa nói

muôn hồng ngàn tía. rút cục phải nhường hoa mai làm đầu. Xem ra thì chẳng những hoa mai nở sớm, mà bốn chữ “Sạch, trắng, trong, thơm” thật không có gì bì kịp. Nhưng nếu lúc này mà có em Lâm, cũng ăn mặc như thế, thì không biết còn xinh đẹp đến thế nào nữa!

Bảo Ngọc nghĩ đến đó, cảm thấy trong lòng chua xót, nước mắt trào ra. Nhân tiện có việc tang Giả mẫu. nên cất tiếng khóc to lên cũng không ngại gì.

Mọi người đang khuyên Tương Vân, thì thấy phía ngoài lại thêm một người khóc nữa. Ai cũng tưởng là anh ta nghĩ đến Giả mẫu thương yêu, cho nên khóc lóc. Không biết rằng hai người đều có nổi đau xót riêng của mình. Lần khóc này làm cho cả nhà

ai cũng đều rơi lệ. Tiết phu Nhân và thím Lý khuyên mãi mới thôi.

Ngày sau là ngày chực đêm càng thêm nhộn nhịp. Hôm đó Phượng Thư không gắng gượng nổi, cũng chẳng có cách gì đành phải cố hết sức, đến nỗi gào mãi khản cả cổ, bôi bác qua loa nửa ngày: Đến buổi chiều. bà con bạn hữu đến càng đông,

công việc càng tới tấp, nhìn trước mất sau. Phượng Thư đang hoảng lên, thì thấy một a hoàn nhỏ chạy tới, nói

– Mợ Hai ở đây à? Chẳng trách bà Cả nói

trong nhà nhiều người mà trông nom không xiết, mợ Hai thì tránh đi cho khỏe rồi.

Phượng Thư nghe câu nói ấy, cố gắng nén nỗi bực tức, nước mắt trào ra, cảm thấy trước mặt tối sầm, trong cổ ngòn ngọt, liền hộc máu tươi ra, người đứng không vững, ngã xuống đất. May có Bình Nhi vội vàng chạy lại đỡ lấy, thấy Phượng Thư cứ hộc mãi ra từng cục máu.

_________________

Chương 111: Gả Uyên Ương theo chủ lên chầu trời – Hầu chó lớn đem người về cướp của

Gả Uyên Ương theo chủ lên chầu trời

Hầu chó lớn đem người về cướp của

Phượng Thư nghe a hoàn nhỏ nói, vừa sốt ruột vừa tức giận, lại đau lòng, bất giác thổ ra một cục máu rồi mê man ngồi phệt xuống đất. Bình Nhi vội vàng tới đỡ và gọi người từ từ dìu về phòng. Đặt nằm trên giường, rồi lập tức bảo Tiểu Hồng rót một chén nước đưa lên miệng Phượng Thư.

Phượng Thư nhấp một miếng nhưng vẫn nằm mê mệt. Thu Đồng qua nhìn một tí rồi đi ra. Bình Nhi cũng không gọi lại.

Thấy Phong Nhi đứng một bên. Bình Nhi liền nói

– Mau mau đi báo tin cho hai bà biết.

Phong Nhi liền đem việc Phượng Thư thổ huyết không thể trông coi công việc, trình lại với Hình phu nhân và Vương phu nhân. Hình phu nhân tưởng là Phượng Thư giả ốm để trốn tránh. Trong bụng không tin lắm. Nhưng lúc ấy bà, con, đàn bà đều ở đấy nói ra không tiện, nên chỉ nói

– Bảo chị ta nghỉ thôi.

Mọi người cũng không nói gì. Đêm ấy, cố nhiên là bà con bạn hữu qua lại không ngớt, may nhờ được mấy người bà con trông nom hộ. Bọn người nhà thấy Phượng Thư không ở đấy, cũng có người thừa cơ nghỉ trộm, làm bừa bãi lung tung, không ra sự thể gì cả.

Đến canh hai, sau khi khách xa đã về, liền sửa soạn làm lễ từ linh 1 Bọn con cháu đàn bà ở trong màn tang đều khóc. Uyên Ương khóc lóc mê đi. Mọi người vực chị ta dậy, xoa bóp một hồi mới tỉnh. Chị ta cứ nói

– Lâu nay cụ thương yêu tôi, giờ tôi nhất định đi theo cụ.

Mọi người cho rằng người ta đến lúc thương khóc quá, thì hay nói thế, nên cũng không để ý. Đến lúc làm lễ từ linh, trên dưới cả thảy có hơn trăm người, chỉ thiếu Uyên Ương. Mọi người vì đang rối rít nên cũng không hỏi đến. Đến lúc tất cả bọn Hổ Phách khóc tế, không thấy Uyên Ương, cứ tưởng rằng chị ta khóc mệt quá, tạm nghỉ ở nơi nào đó, nên cũng không nói gì. Làm lễ từ linh xong, Giả Chính ở ngoài gọi Giả Liễn hỏi

– Việc đưa đám, và bàn việc cắt người coi nhà.

Giả Liễn nói

– Ở nhà thì cắt cháu Vân trông nom, bất tất phải đưa đám; về người hầu thì cắt cả nhà Lâm Chí Hiếu ở lại trông nom các việc dỡ rạp. Nhưng không biết ở trong thì cắt ai coi nhà?

Giả Chính nói

– Nghe mẹ cháu nói vợ cháu ốm không đi được, thì để nó ở nhà. Chị cả Trân lại nói vợ cháu đau nặng lắm, phải bảo con Tư ở cùng, dẫn mấy người a hoàn và bà già trông nom ở nhà trên mới được.

Giả Liễn nghe nói, nghĩ bụng

” Chị cả Trân và cô Tư không hòa hợp với nhau. nên xui giục không cho cô ta đi. Nếu trên ấy mà để cô ta trông nom, thì cũng không ăn thua. Vợ mình lại ốm, cũng khó mà trông coi được.

Giả Liễn nghĩ một lát rồi nói

– Tức là làm lễ đưa linh cữu ra khỏi nhà. Chú hãy nghỉ một chút, để cháu vào bàn cho rõ ràng rồi sẽ thưa lại.

Giả Chính gật đầu, Giả Liễn liền vào nhà trong. Không ngờ lúc đó Uyên Ương khóc một trận. rồi nghĩ bụng

“Mình suốt đời theo hầu cụ bà, thân mình cũng chưa biết sau này ra sao. Giờ đây ông Cả tuy không ở nhà, nhưng cách ăn tiền của bà Cả như thế, mình cũng lấy làm gai mắt quá. Ông Hai là người không nhìn đến công việc, rồi sau này chẳng khác thời loạn ai nấy cũng sẽ xưng vương xưng tướng cả. Chúng mình lại không bị họ hành hạ hay sao. Rồi đứa thì lấy làm lẽ mọn, đứa thì gả cho bọn hầu trai. Mình thật không thể nào chịu được sự đày đọa ấy, chi bằng chết đi cho rảnh! Nhưng giờ đây biết chết bằng cách nào? Uyên Ương vừa nghĩ vừa chạy vào gian trong nhà Giả mẫu. Vừa bước qua cửa thì thấy bóng đèn ảm đạm thấp thoáng có một người con gái tay cầm cái dây lưng, bộ dạng hình như muốn thắt cổ. Uyên Ương cũng không sợ, nghĩ bụng

” Người ấy là ai! Cũng đồng bụng với ta mà lại đi trước ta vào con đường ấy rồi ” Cô ta liền hỏi

– Chị là ai? Hai chúng mình cũng đồng một lòng, muốn chết thì ta cùng chết một chỗ.

Người ấy không nói gì. Uyên Ương chạy đến xem thì không phải là người ả hoàn trong nhà này. Nhìn kỹ, cảm thấy khí lạnh rởn người, bỗng chốc không thấy đâu nữa.

Uyên Ương ngơ ngác một hồi, lui ra ngồi trên mép giường, nghĩ kỹ một lúc, rồi nói

– Thôi? Phải rồi! Chị ấy là mợ cả Dung bên phủ Đông đấy! Mợ ấy chết rồi, sao lại đến đây? Nhất định là đến gọi ta đây. Nhưng tại sao chị ta lại thắt cổ?

Uyên ương nghĩ một lát, lại lẩm bẩm một mình

– Chắc là mợ ấy bày vẽ cho ta cách chết đấy.

Uyên Ương nghĩ như thế, thấy hơi lạnh thấu vào xương, liền đứng dậy vừa khóc vừa mở hộp trang sức, lấy cái nắm tóc đã cắt từ năm xưa giấu vào trong người rồi cởi dây lưng ra, theo đúng chỗ Tần thị đứng vừa rồi mà buộc lên, chị ta lại khóc lóc một hồi nữa. Khi nghe bên ngoài khách đã tan rồi. Sợ có người nên vội vàng đóng cửa lại, rồi đặt một cái ghế đứng lên trên lồng vòng dây lưng thắt vào cổ.

Sau đó lấy chân đẩy cho cái ghế đổ lăn. Thương thay? Thế là chị tắt thở. Hồn thiêng thoát ra ngoài xác thịt! Đang lúc hồn phách của Uyên Ương chưa thiếp đi đâu. thì thấp thoáng trông thấy Tần thị ở đằng trước. Chị ta vội vàng theo lại. và nói

– Mợ cả Dung ơi, chờ tôi với.

Người kia nói

– Tôi chẳng phải là mợ cả Dung nào cả, mà là em gái nàng tiên Cảnh Ảo. Tên là Khả Khanh đây.

– Chị rõ ràng là mợ cả Dung. Sao lại nói không phải?

– Việc này cũng có duyên cớ, để tôi nói với chị sẽ rõ. Nguyên trong cung Cảnh Ảo.Tôi vốn đứng đầu trong lớp chung tình, trông coi duyên nợ gió trăng. Khi xuống trần gian, phải làm người tình nhân thứ nhất, để đưa bọn con gái si tình mau mau về ty tình. Vì thế tôi phải treo mình trên xà nhà thắt cổ. Nhưng tôi hiểu rõ tình đời thoát ra bể ái, về với trời tình ; nên tuy si tình trong Thái hư ảo cảnh, không có người trông coi. Nay nàng tiên Cảnh Ảo đã lấy chị xung vào, thay tôi trông coi ty ấy. Cho nên sai tôi đi dẫn chị đến đây.

– Tôi là người rất vô tình. Tại sao lại cho tôi là người có tình?

– Chị còn chưa biết. Người đời đều cho việc dâm dục là tình, vì thế mà gây ra chuyện thương phong bại tục, lại còn tự cho là trăng gió đa tình. Không quan hệ gì. Họ không hiểu mừng, giận, buồn, vui chưa lộ ra thì đó là tính. Mà lúc đã lộ ra rồi. thì đó là tình. Đến như tình của tôi và chị, chính là cái tình chưa lộ ra. Cái tình như bông hoa còn đang nụ. Nếu chờ phát tiết ra rồi, thì cái tình ấy không phải là chân tình nữa.

Hồn của Uyên ương gật đầu hiểu ý. Nên theo Tần Khả Khanh mà đi, ở trong này Hổ Phách dự lễ từ linh xong, nghe Hình phu nhân và Vương phu nhân cắt người coi nhà. Chị ta định đi hỏi Uyên Ương xem ngày mai ngồi xe ra sao, liền vào nhà Giả mẫu tìm khắp nơi không thấy, lại tìm nốt gian bên trong. Vừa đến nơi, thấy cửa khép lại, chị ta ghé nhìn qua khe cửa thấy bóng đèn le lói mờ mờ tỏ tỏ, trong bụng khiếp sợ, và cũng không nghe trong nhà có tiếng tăm gì, liền chạy trở ra và nói

– Con ranh chạy đi đâu rồi?

Vừa lúc đó thì gặp Trân Châu. Hổ Phách liền hỏi

– Chị có thấy chị Uyên Ương không?

– Tôi cũng đang tìm chị ấy. Các bà đang chờ chị ta nói chuyện đấy. Chắc lại ngủ ở gian nhà trong chứ gì.

– Tôi đã nhìn trong nhà không có, đèn thì không ai cắt hoa, tối lờ mờ đáng sợ. Tôi không vào. Bây giờ chúng mình cùng đi vào xem sao?

Bọn Hổ Phách vào đặng cắt hoa đèn thì Trân Châu nói

– Ai đem cái ghế chân vứt ở đây, tí nữa làm tôi vướng ngã?

Nói xong, ngước mắt nhìn lên, bỗng chị thét to một tiếng

– Ôi trời!

Rồi ngã ngửa ra sau, đè lên người Hổ Phách. Hổ Phách cũng trông thấy, liền gào to lên, hai chân mềm nhũn không đi được nữa. Người bên ngoài nghe thấy, liền chạy vào xem. Mọi người kêu ầm lên, rồi báo cho Hình phu nhân và Vương phu nhân

biết. Vương phu nhân và Bảo Thoa nghe nói, đều khóc lóc tới xem. Hình phu nhân nói

– Tôi không ngờ Uyên Ương có chí khí như thế? Mau mau cho người đi trình ông lớn.

Bảo Ngọc nghe được tin ấy, khiếp quá, hai mắt trợn ngược lên. Bọn Tập Nhân vội vàng đỡ lấy và nói

– Cậu muốn khóc thì cứ khóc, đừng có nín hơi.

Bảo Ngọc cố liều khóc oà lên. Anh ta nghĩ bụng

– Chị Uyên ương. Người như thế mà lại chết một cách lạ nhỉ? Thật là khí thiêng trong trời đất, chỉ vun đúc riêng vào những người con gái! Chị ta như thế là chết đúng chỗ rồi đấy. Bọn mình rốt cuộc chỉ là những đồ dơ đục, trong số con cháu bà, ai mà theo kịp chị ta?”.

Nghĩ đến đó, anh ta lại đâm ra vui mừng. Lúc đó Bảo Thoa nghe Bảo Ngọc khóc ầm lên, liền đi ra. Khi đến nơi thì thấy anh ta lại cười.

Bọn Tập Nhân hoảng sợ nói

– Nguy to? Cậu lại muốn điên rồi!

Bảo Thoa nói

– Không can gì đâu. Cậu ấy đang nghĩ gì đấy thôi.

Bảo Ngọc nghe nói, càng thích thú với lời nói của BảoThoa, nghĩ bụng

“Rốt cuộc chỉ có chị ta là hiểu bụng mình, người khác làm gì mà biết”. Bảo Ngọc đang nghĩ ngợi lan man thì bọn Giả Chính vào. Giả Chính đau xót than thở

– Con bé giỏi quá! Thật không uổng mẹ thương yêu nó lâu nay.

Rồi ông ta bảo Giả Liễn

– Đi ra bảo người mua quan tài và nhập liệm ngay trong đêm nay, ngày mai cùng đưa theo và đặt ở sau quan tài của bà để cho trọn tấm lòng của nó.

Giả Liễn vâng lời đi ra.

Ở trong này, ông sai người đem xác Uyên ương xuống và đặt vào nhà trong.

Bình Nhi nghe xong, liền đi qua cùng tất cả bọn Tập Nhân và Oanh Nhi khóc lóc rất là thảm thiết. Trong bọn đó riêng có Tứ Quyên cũng nghĩ đến số phận của mình, chưa biết sau này ra sao cả. Giận mình không biết theo cô Lâm mà đi, để

trọn ơn nghĩa tớ thầy, lại cũng được nơi chết xứng đáng. Giờ đây ở trong nhà Bảo Ngọc cũng là ở sướng. Tuy rằng Bảo Ngọc vẫn thân mật dịu dàng, nhưng rốt cuộc cũng chẳng ra sao. Do đó chị ta lại càng khóc lóc thảm thiết.

Vương phu nhân lập tức cho người gọi chị dâu Uyên Ương vào, bảo chị ta trông coi việc nhập liệm. Lại bàn với Hình phu nhân, trích trong số tiền của Giả mẫu. cho chị ta một trăm lạng bạc và nói

– Chờ lúc rảnh sẽ đem tất cả đồ đạc của Uyên Ương cho nhà chị ta hết.

Chị dâu Uyên Ương khấu đầu đi ra, lòng vui mừng, nói

– Thật cô nhà mình là người có chí khí, có phúc phận, đã được tiếng tốt, lại được tống táng tử tế!

Một bà già đứng bên cạnh nói

– Thôi đi chị! Bây giờ chị đem cô em bán đi một trăm lạng bạc thì vui mừng như thế. Chứ nếu năm nọ mà gả cho ông Cả chưa biết chị được bao nhiêu bạc. Chắc chị lại càng đắc ý hơn nữa đấy.

Câu nói ấy chạm vào lòng chị ta. Chị ta đỏ mặt bỏ đi nơi khác.

Vừa ra đến cửa thứ hai, thì thấy Lâm Chí Hiếu dẫn người khiêng quan tài vào. Chị ta đành phải theo vào giúp việc nhập liệm và giả vờ gào khóc mấy tiếng.

Giả Chính nghĩ Uyên ương chết vì Giả mẫu, nên thắp ba tuần hương. Vái một vái và nói

– Chị ta là người chết theo cụ, không thể xem như ả hoàn, bọn bậc dưới chúng bay đều nên làm lễ.

Bảo Ngọc nghe nói, mừng không kể xiết. Liền chạy lại kính cẩn khấu đầu mấy cái.

Giả Liễn nghĩ chị ta ngày thường tử tế. Cũng định tới làm lễ, nhưng Hình phu nhân nói

– Một vị chủ nhà làm lễ là được rồi, đừng làm quá phận. Nó không đương nổi, thì lại không được siêu sinh.

Giả Liễn nghe nói không tiện tới làm lễ nữa. Bảo Thoa nghe vậy trong lòng áy náy liền nói

– Đối với chị ấy, tôi đáng lẽ không nên làm lễ, nhưng bà qua đời, chúng ta đều có duyên nợ chưa dứt ra được, nên không dám làm càn. Chị ấy thay chúng ta làm tròn đạo hiếu ; chúng ta cũng nên nhờ chị ấy thay chúng ta hầu hạ bà trên trời. Đó cũng là để tỏ hết chút lòng thành của chúng ta.

Nói xong, Bảo Thoa vịn vào Oanh Nhi đi đến trước linh cữu vừa rót rượu, vừa khóc sướt mướt. Rót rượu xong, chị ta lạy mấy lạy, khóc lóc thảm thiết một hồi.

Thấy vậy, cũng có người nói hai vợ chồng Bảo Ngọc đều là si ngốc, cũng có người nói hai vợ chồng họ bụng dạ tử tế ; cũng có người nói chị ta là người biết lễ. Giả Chính thì lấy làm vừa lòng.

Lúc đó đã hàn định xong, người coi nhà vẫn là PhượngThư, và Tích Xuân. Còn lại thì đều đi theo linh cữu. Suốt đêm không ai dám ngủ.

Vừa đến canh năm, người ngoài đã đến đầy đủ. Đến đầu giờ Thìn thì phát dẫn. Giả Chính làm con trưởng, ăn mặc đồ tang và khóc lóc hết đạo làm con. Linh cữu ra khỏi cửa, liền có lễ tế trên đường đi của các nhà. Dọc đường quang cảnh như thế

nào không cần nói kỹ. Độ nửa ngày, đến chùa Thiết Hạm, đặt linh cữu ở đấy. Đàn ông đều phải ngủ lại trong miếu.

Ở nhà, bọn Lâm Chí Hiếu dẹp đồ đi. Lắp cánh cửa lại tử tế quét dọn sân nhà sạch sẽ, cắt người tuần phòng, tối đến cầm canh và thức đêm trông nom.

Ở phủ Vinh vẫn có cái lệ bắt đầu đến canh hai thì đóng cửa thứ hai lại. Đàn ông không được vào, chỉ có đàn là canh phòng mà thôi.

Cách một đêm, tinh thần của Phượng Thư tuy đã dần dần tỉnh táo, nhưng vẫn chưa đi được. Chỉ có Bình Nhi cùng Tích Xuân đi đến các nơi một lượt, dặn dò những người canh đêm, rồi ai về phòng ấy.

Năm ngoái khi Giả Trân sang coi hộ việc nhà. Con nuôi của Chu Thụy là Hà Tam, đánh nhau với Bào Nhị, nên bị Giả Trân đánh cho một trận, đuổi ra ở ngoài. Từ đó hắn suốt ngày sống ở sòng hạc. Gần đây nghe tin Giả mẫu chết, hắn chắc mừng

là có ít nhiều việc có thể nhận làm. Không ngờ thăm dò mấy ngày, chẳng vớ được món gì, hắn liền than thở trở về sòng bạc, rầu rầu ngồi xuống. Bọn người kia liền hỏi

– Anh Ba! Anh không xuống mà gỡ vốn à?

Hà Tam nói

– Cũng tường là gỡ vốn, nhưng không có tiền.

– Anh đến chỗ nhà ông Chu mấy hôm nay, chắc vớ được bao nhiêu tiền trong phủ ấy rồi, lại vờ làm bộ túng bẩn với chúng tôi à?

– Các anh đừng nói nữa. Vàng bạc của bọn họ không biết là mấy trăm vạn. Nhưng cứ cất giấu đi không chịu tiêu. Sau này không phải cháy nhà thì cũng bị mất trộm, khi đó họ mới chịu.

– Anh lại nói láo chứ nhà họ bị tịch thu rồi làm gì mà còn nhiều vàng bạc thế?

– Các anh còn chưa biết. Số của bị tịch thu đó chỉ là những thứ vứt không hết đấy thôi. Giờ đây, cụ bà chết, còn để lại rất nhiều vàng hạc, bọn họ không tiêu một đồng, còn để cả trong nhà cụ bà, chờ đưa đám về rồi mới chia nhau.

Trong bọn họ có một người nghe xong để ý, gieo qua loa mấy hột xúc xắc, rồi nói

– Tôi thua mất mấy đồng tiền cũng chẳng thèm gỡ vốn nữa, đi ngủ thôi.

Nói xong hắn liền chạy ra, nắm lấy Hà Tam và nói

– Anh Ba, tôi nói với anh câu này.

Hà Tam theo ra. Người ấy nói

– Anh là người khôn ngoan, mà lại chịu túng bấn như thế. Tôi cũng giận thay cho anh?

– Số tôi túng bẩn còn biết làm cách gì?

– Vừa rồi anh nói đến tiền bạc của phủ Vinh nhiều như thế, sao không đi kiếm một ít mà tiêu?

– Anh ơi, vàng bạc của họ tuy nhiều, nhưng hôm kia mình đi xin một vài đồng, đời nào họ cho.

– Họ không cho, mình lại không biết lấy hay sao?

Hà Tam nghe câu nói ấy có ngụ ý, vội vàng hỏi

– Theo ý anh thì làm thế nào mà lấy được?

– Tôi đã nói anh là người không có tài, nếu như tôi thì tôi đã lấy được rồi.

– Anh có tài gì mà lấy?

Người ấy liền nói khẽ

– Anh mà muốn phát tài, thì chịu khó đi đẫn đường. Tôi có một số bạn, đều là dân tài nghệ tuyệt vời. Đừng nói là bọn họ đi đưa đám rồi. Ở nhà chỉ còn mấy người đàn bà, chứ dù có bao nhiêu đàn ông đi nữa cũng không sợ!…Chỉ sợ anh non gan không dám chơi thôi.

– Làm gì mà dám với không dám? Anh tưởng tôi sợ cái lão cha nuôi ấy hẳn.Tôi nghĩ đến tình nghĩa của mẹ nuôi. Tôi mới nhận ông ấy là cha nuôi đấy thôi! Câu nói của anh vừa rồi, tôi chỉ sợ làm không nổi, thì lại xảy ra nguy hiểm. Bọn họ thì cửa quan nào lại không quen? Chưa nói là lấy không được. Chứ có lấy được cũng sẽ sinh chuyện.

– Như thế là vận đỏ của anh đến rồi đấy? Bọn bạn tôi, còn cả người ở ven biển nữa, hiện nay đều ở đây cả. Nếu công việc xong xuôi, chúng mình ở đây cũng vô ích, chi bằng mọi người đều đi xuống ven biển mà tiêu xài cho sướng, thế chẳng tốt hay sao? Nếu anh không dứt tình với bà mẹ nuôi được thì đem cả bà ta đi, cả lũ chúng mình chơi cho thích, có tốt không?

– Ông cả, ông say rồi à? Nói nhảm gì thế?

Nói xong, hắn ta dắt người ấy đến một nơi vắng vẻ. Hai người bàn bạc một hồi, rồi mỗi người đi một nơi.

Bao Dũng từ lúc bị Giả Chính quát mắng, sai đi coi vườn. Lúc việc tang Giả mẫu xảy ra, vì bận rộn nên không sai khiến gì anh ta. Anh ta cũng không để ý, cứ làm lấy mà ăn, buồn thì nằm ngủ, thức dậy thì hoa dao múa gậy, chẳng ai gò bó gì. Hôm đưa đám Giả mẫu. Anh ta cũng biết, nhưng vì không ai sai phái, nên cứ tha hồ rong chơi. Bỗng thấy một ni cô, dẫn một đạo bà tới gõ cửa cánh trong vườn. Bao Dũng chạy lại hỏi

– Bà vãi. Bà đi đâu?

Người đạo bà nói

– Hôm nay nghe nói việc cụ đã xong, mà không thấy cô Tư đi đưa đám, chắc là coi nhà. Sợ cô ta hiu quạnh, nên sư phụ chúng tôi tới thăm cô ta một chút.

– Chủ nhà đều đi vắng. Cửa vườn do tôi trông coi. Mời các bà về đã. Nếu muốn đến thì chờ các vị chủ nhà về hãy đến.

– Anh quay mặt đi đâu thế? Anh dám cản việc đi lại của chúng tôi à?

– Tôi ghét bọn các bà. Tôi không cho các bà đến, thì các bà làm gì nào?

Người đạo bà tức quá, gào lên

– Thật là ngược đời. Ngay cả khi sinh thời cụ bà cũng không thể ngăn cấm được chúng ta đi lại. Mày là tên cướp ở đâu đến mà láo xược như thế. Ta cứ đi xem nào!

Nói xong bà ta liền dang tay đập mạnh mấy cái lên vòng cửa. Diệu Ngọc giận quá, không nói năng gì, đang định quay về không ngờ bà già coi cửa thứ hai, nghe có người cãi nhau, vội vàng mở cửa ra xem. Thấy Diệu Ngọc đã quay ra, biết chắc là vì Bao Dũng làm mất lòng cô ta. Lâu nay bọn bà già đều biết các bà và Tích Xuân chơi thân với cô ta, sợ sau này cô ta nói, người coi cửa không cho vào, thì sẽ mang lỗi, nên bà ta vội vàng chạy lại nói

– Không biết cô đến. Chúng tôi mở cửa quá chậm. Cô Tư chúng tôi đang ở nhà và đang nhớ cô đấy. Xin mời cô mau mau trở lại. Chú canh cửa là người mới đến, không biết công việc của chúng tôi. Để rồi thưa với bà lớn, đánh cho nó một trận rồi đuổi đi là xong.

Diệu Ngọc tuy nghe nói, vẫn không thèm nhìn. Nhưng bà già coi cửa cứ theo nằn nì mãi. Sau mới nói rõ việc sợ mình bị lỗi và hoảng sợ toan quỳ xuống. Diệu Ngọc chẳng biết làm thế nào, đành phải theo bà ta trở vào. Bao Dũng thấy tình hình như

thế cố nhiên là không tiện ngăn lại, tức quá, trợn mắt thở dài mà vô.

Diệu Ngọc dẫn đạo bà vào nhà Tích Xuân hỏi thăm rồi nói chuyện suông. Tích Xuân nói

– Tôi ở nhà coi nhà, đành phải gắng cho qua mấy đêm nhưng vì mợ Hai ốm, một mình tôi vừa buồn vừa sợ. Nếu được một người ở đây thì tôi cũng yên lòng. Bây giờ trong nhà không có người đàn ông nào cả. Hôm nay cô đến, chơi với tôi một

đêm. Chúng ta đánh cờ nói chuyện, có được không?

Diệu Ngọc định về, nhưng thấy Tích Xuân tội nghiệp lại nhắc đến chuyện đánh cờ, đâm ra cao hứng, nên nhận lời rồi sai đạo bà về lấy đồ trà và áo nệm, bảo con hầu đưa đến, để ngồi nói chuyện một đêm.

Tích Xuân hết sức vui mừng, nên sai Thái Bình lấy nước mưa vũ thủy cất dành năm trước, sửa soạn pha trà. Diệu Ngọc đã có đồ trà riêng. Đạo bà đi chưa bao lâu thì lại có một người hầu đến, đưa sang các vật của Diệu Ngọc hàng ngày thường dùng. Tích Xuân tự đi pha trà. Hai người chuyện trò hồi lâu rất hợp ý tâm đầu. Khoảng canh một, Thái Bình đặt bàn cờ ra, hai người đánh cờ. Tích Xuân thua luôn hai ván. Diệu Ngọc lại nhượng bốn con. Tích Xuân ăn không được nửa con.

Đánh cờ đến khoảng canh tư, lúc đó thật là trời đất bao la, bốn bề lặng lẽ. Diệu Ngọc nói

– Đến canh năm, tôi phải nhập định, đã có người hầu. Cô cứ đi nghỉ.

Tích Xuân còn tiếc, chưa muốn nghỉ. Nhưng thấy Diệu Ngọc muốn đi dưỡng tinh thần, nài ép không tiện. Hai người đang định đi nghỉ, chợt nghe bọn canh đêm trong nhà trên phía đông kêu ầm lên một loạt. Bọn bà già ở nhà Tích Xuân cũng tiếp lời gào lên

– Nguy to? Có người nào đấy!

Bọn Tích Xuân và Thái Bình khiếp sợ quá, lại nghe bọn đàn ông canh đêm ở ngoài kêu ầm lên.

Diệu ngọc nói

– Nguy to rồi! Chắc là có cướp!

Nói xong, vội vàng đóng cứa lại, che bóng đèn đi, từ trong song cửa sổ nhìn ra ngoài, thì thấy mấy người đàn ông đứng ngoài sân. Sợ quá, cô ta không dám lên tiếng, quay lại chống tay, khe khẽ bò lại, và nói

– Nguy to! Ngoài kia có mấy người đàn ông to lớn đứng đấy.

Nói chưa xong, lại nghe trên nhà có tiếng rầm rầm không ngớt. Bên đó có bọn người canh đêm ở ngoài chạy vào kêu bắt kẻ cướp. Một người nói

– Đồ đạc ở nhà trên mất hết cả rồi, mà không thấy người nào cả. Phía đông đã có người chạy đi tìm. Bọn mình đi sang phía tây xem. Bà già ở phòng Tích Xuân nghe đúng người của mình rồi, liền ở nhà ngoài nói vọng ra

– Ở đây có mấy người leo lên nhà.

Bọn người canh đêm đều nói

– Các anh trông kìa? Chúng đang ở đấy!

Rồi họ đều kêu ầm lên. Bỗng thấy trên mái nhà bay xuống rất nhiều mảnh ngói, không ai dám lại gần. Đang lúc họ chưa biết làm thế nào, bỗng thấy cửa nách

bên vườn đánh sầm một cái, một người cao lớn, tay cầm côn gỗ, tung cửa chạy vào. Mọi người khiếp sợ, chạy trốn không kịp.

Chợt nghe người ấy kêu to.

– Đừng để cho đứa nào thoát! Các anh đều theo tôi lại đây?

Bọn người nhà nghe nói, càng khiếp sợ run rẩy không chạy được nữa. Người ấy cứ đứng đấy kêu ầm lên. Trong bọn người nhà có một người mắt hơi tinh, nhận ra anh ta. Các bạn có biết là ai không? Anh ta chính là Bao Dũng mà nhà họ Chân cử

đến. Thấy anh ta, bọn người nhà hơi vững dạ, liền run lập cập và nói

– Có một thằng chạy rồi? Có thằng thì đang ở trên mái nhà đấy.

Bao Dũng giậm chân một cái, nhảy thót lên mái nhà, đuổi theo bọn cướp. Bọn cướp biết rõ nhà họ Giả không có đàn ông. Ban đầu chúng đứng ngoài sân nhìn trộm vào phòng Tích Xuân, thấy có một ni cô tuyệt đẹp, liền nảy ra ý dâm dục. Chúng lại khinh người trong nhà đều là con gái đang khiếp sợ, nên định phá cửa mà vào. Vì thấy bên ngoài có người đuổi theo, chúng liền leo lên mái nhà. Thấy ít người, chúng định chống cự. Chợt một người nhảy lên mái nhà đuổi theo. Bọn cướp thấy chỉ có một người, càng không để ý, liền rút đao chống đở. Bao Dũng hết sức đánh một côn, một tên ngã lăn xuống dưới nhà, còn các tên khác chạy như bay, vượt qua tường, qua vườn mà ra. Bao Dũng cũng chạy theo đuổi hết. Không ngờ trong vườn đã nấp sẵn mấy tên, chờ để chuyển của đã cướp được. Bọn chúng đã chuyển được một số. Thấy đồ đảng của chúng chạy ra, chúng liền giơ khí giới lên để hộ vệ. Khi thấy chỉ có một người đuổi theo, chúng nghĩ rằng ít không địch nổi nhiều, nên chúng trở lại đón đánh, Bao Dũng thấy thế nổi giận nói

– Bọn giặc cỏ này! Chúng mày dám địch với ông à?

Bọn giặc nói

– Một người trong bọn chúng ta bị nó đánh ngã, không biết chết hay sống. Chúng ta phải cướp nó ra mới được.

Bao Dũng nghe tiếng, vội chạy lại đánh. Bọn giặc bốn năm tên múa khí giới vây chặt lấy Bao Dũng đâm chém lung tung. Bọn canh đêm ở ngoài cũng đều mạnh dạn đuổi tới. Bọn giặc thấy đánh không nổi, đành phải bỏ chạy.

Bao Dũng còn định đuổi nữa, nhưng chạm phải một cái rương. Anh ta đứng lại nhìn, nghĩ bụng: đồ đạc chưa mất, mà bọn giặc đã trốn xa, nên cũng không đuổi nữa, liền bảo mọi người thắp đèn lên soi. Thấy dưới đất chỉ có mấy cái rương không, anh ta sai người đưa cất đi. Bao Dũng muốn chạy ngay lên nhà trên.

nhưng không thuộc đường lối. Đi đến bên nhà Phượng Thư, thấy đèn đuốc sáng trưng, anh ta liền hỏi:

– Ở đây có cướp không?

Bình Nhi ở trong nhà run rẩy trả lời

– Ở đây không mở cửa, chỉ nghe nhà trên kêu la nói có kẻ cướp. Anh đến đấy xem.

Bao Dũng chưa tìm ra lối, thì xa xa thấy bọn canh đêm đi đến, liền theo họ cùng tìm đến nhà trên. Tới nơi, thấy cửa ngõ mở toang bọn canh đêm đang khóc lóc ở đấy.

Một lát sau Giả Vân và Lâm Chí Hiếu vào, thấy mất cướp, mọi người đều hoảng lên. Vào trong xem xét, thì thấy cửa phòng Giả mẫu đã mở tung. Đem đèn soi, thấy khóa bị bẻ gãy. Vào tròng phòng thấy rương tủ đều bị mở toang. Họ liền mắng

bọn đàn bà canh đêm

– Các người đều là người chết cả. Kẻ trộm vào, các người không biết à?

Bọn người canh đêm khóc lóc và nói

– Mấy đứa chúng tôi chia phiên nhau mà canh. Vào khoảng canh hai và canh ba, cứ đi đi lại lại, không khi nào nghỉ chân. Các người kia thì canh vào khoảng canh tư và canh năm. Chúng tôi vừa mới thay bạn ra nghỉ thì nghe bọn họ kêu lên,

nhưng không thấy người nào. Chúng tôi vội vàng thắp đèn lên soi thì không biết đồ đạc đã mất từ hao giờ. Xin các ông hỏi bọn canh lúc canh tư và canh năm xem.

Lâm Chí Hiếu nói

– Bọn chúng bây đứa nào cũng muốn chết cả, chốc nữa sẽ nói. Giờ đây chúng ta hãy đến xem các nơi đã.

Bọn đàn ông canh đêm dẫn họ đến nhà Vương thị, thấy cửa đóng chặt. Có mấy người ở trong nói ra

– Chúng tôi chết khiếp mất!

Lâm Chí Hiếu hỏi

– Ở đây không mất đồ đạc gì chứ?

Người trong nhà ấy mới mở cửa ra và nói

– Không mất gì cả.

Lâm Chí Hiếu lại dẫn người đi đến nhà Tích Xuân, thì nghe nhà nói

“Nguy to! Cô chết khiếp mất. Tỉnh dậy đi cô!” Lâm Chí Hiếu gọi người mở cửa, hỏi làm sao thế? Bà già trong nhà mở cửa và nói

– Kẻ cướp đánh nhau ở đây, làm cho cô chết khiếp. May có cô Diệu và chị Thái Bình cứu cô tỉnh lại, còn đồ đạc thì không mất gì.

Lâm Chí Hiếu nói

– Kẻ cướp đánh nhau với ai?

Người đàn ông canh đêm nói

– May nhờ ông Bao lên mái nhà đánh cho chúng bỏ chạy, lại còn nghe nói đánh ngã một tên nữa đấy.

Bao Dũng nói

– Tên bị đánh ngã đang nằm trong cửa vườn đấy. Các người mau mau đến xem.

Bọn Giả Vân chạy đến đấy thì quả nhiên thấy có một người nằm dưới đất, chết rồi, nhìn kỹ thì giống như con nuôi của Chu Thụy. Mọi người trông thấy lấy làm lạ, liền sai một người canh giữ, lại bảo hai người đến xem cửa trước và cửa sau thì vẫn khóa như cũ. Lâm Chí Hiếu liền sai người mở cửa, báo cho quan doanh biết. Quan doanh lập tức đến tra khám dấu vết bọn cướp, thì ra bọn chúng theo con đường ống phía sau mà vào, trèo lên mái nhà phía tây, dẫm ngói nát tan tành, rồi một mạch đi qua vườn sau mà ra.

Bọn canh đêm đồng thanh nói

– Đấy không phải là kẻ trộm mà là kẻ cướp.

Quan doanh hoảng lên, nói

– Nó không hề đốt đuốc cầm gậy, sao lại cho là kẻ cướp được?

Bọn người canh nói

– Bọn tôi đuổi chúng. Chúng ở trên mái nhà ném ngói xuống. Bọn tôi không đến gần được, may nhờ ông Bao nhà chúng tôi nhảy lên mái nhà đánh cho chúng bỏ chạy. Đuổi đến trong vườn, còn có mấy tên đánh nhau với ông Bao, chúng đánh không nổi ông Bao, thì mới bỏ chạy.

Quan doanh nói

– Ấy đấy nếu là kẻ cướp, chẳng lẽ không đánh nổi người của các anh hay sao? Thôi không cần nói nữa, mau mau, tra xét rõ đồ đạc, trình đơn mất của, để chúng tôi báo lên trên là được.

Bọn Giả Vân lại đến nhà trên, thấy Phượng Thư mặc dầu ốm cũng gắng gượng đi sang. Tích Xuân cũng đã đến. Giả Vân hỏi thăm sức khỏe Phượng Thư và chào hỏi Tích Xuân, rồi mọi người cùng xem xét các đồ đạc bị mất. Vì Uyên Ương đã chết, bọn Hổ Phách lại đi đưa đám, đồ đạc của Giả mẫu, chưa hề thấy con số rõ ràng, lâu nay cứ niêm phong lại, nên bây giờ biết đằng nào mà tra ra? Mọi người đều nói

– Đồ đạc rương tủ rất nhiều, bây giờ sạch không, đủ biết thời gian chúng lấy không phải là ngắn. Không biết bọn canh đêm trông nom cái nỗi gì? Vả lại người bị đánh chết lại là con nuôi Chu Thụy, chắc thế nào bọn chúng cũng thông đồng với nhau.

Phượng Thư nghe nói, tức quá, mắt trợn ngược lên, liền quát

– Bắt cả bọn đàn bà canh đêm trói lại, giao cho trong doanh xét hỏi.

Bọn ấy kêu khóc ầm ĩ, quỳ xuống van lạy mãi.

Chương 112: Sống đầy oan nghiệt, Diệu Ngọc bị giặc cướp đi

Sống đầy oan nghiệt, Diệu Ngọc bị giặc cướp đi

Chết vì hiềm thù, dì Triệu sa xuống âm phủ

Phượng Thư bảo trói bọn đàn bà canh đêm giao cho quan doanh tra hỏi, chúng qùy lạy xin tha tội.

Lâm Chí Hiếu cùng Giả Vân nói

– Ông lớn sai chúng ta coi nhà, vô sự là may, bây giờ sinh chuyện, trên dưới đều có lỗi, ai cứu được các người. Nói đến chuyện con nuôi Chu Thụy thì ngay từ bà lớn cho đến những người bên trong bên ngoài đều có liên can cả.

Phượng Thư thở hổn hển nói:

– Đó là do số mệnh xui nên nói với chúng nó làm gì? Đem chúng nó đi là xong. Còn những đồ đạc bị mất thì anh trình với quan doanh. Đồ đạc của cụ, chờ hỏi các bà mới biết. Để chúng tôi mời ông lớn về rồi sẽ lập tờ khai đưa tới. Trong nha

môn quan văn, cũng trình báo như thế.

Bọn Lâm Chí Hiếu và Giả Vân vâng lời đi ra.

Tích Xuân không nói gì, chỉ khóc than

– Những việc như thế này, xưa nay tôi chưa từng nghe, làm sao lại nhè vào hai đứa chúng ta ; sau này chú và thím về, tôi còn mặt mũi nào nữa. Đem nhà cửa giao phó cho chúng mình. Bây giờ xảy ra tình cảnh này còn tưởng sống nữa hay sao?

Phượng Thư nói

– Có phải chúng mình muốn như thế đâu. Hiện còn có bọn canh đêm ở đó chứ.

Tích Xuân nói.

– Chị còn có thể nói được. Vả lại chị còn ốm, chứ tôi thì chẳng nói được gì. Thật là chị Cả tôi làm hại tôi! Chị ấy xúi giục tôi coi nhà. Giờ đây thể diện của tôi thật chẳng còn gì.

Nói xong, cô ta lại khóc lóc thảm thiết.

Phượng Thư nói

– Cô đừng nghĩ như thế. Nếu nói mất thể diện thì hai đứa mình cũng đều như nhau. Nếu cô nghĩ lẩn thẩn như thế, tôi lại càng không thể chịu nổi.

Hai người đang nói, bỗng nghe ngoài sân có người kêu rầm lên

– Tôi nói bọn sư vãi kia là không chơi với họ được. Ở nhà họ Chân chúng tôi xưa nay nhất thiết không cho họ đến cửa. Không ngờ ở đây lại khác. Hôm trước quan tài cụ bà vừa đưa ra thì một ni cô nào đó trong am, cố chết đòi vào cho được. Tôi quát nạt không cho vào, bọn bà già ở cửa hông còn mắng tôi, lạy lục mời ni cô ấy vào. Cái cửa hông ấy lúc mở lúc đóng, không biết để làm gì. Tôi không yên tâm không dám ngủ. Đến canh tư, chợt nghe ở đấy kêu ầm lên. Tôi tới gọi cửa thì lại không mở. Tôi nghe tiếng kêu gấp quá, hèn đập cửa mà vào. Thấy sân nhà phía tây có người đứng đấy, tôi liền chạy lại đánh chết nó. Bây giờ tôi mới biết là nhà cô Tư. Ni cô kia chính ở nhà ấy. Hôm nay trời chưa sáng nó đã chuồn mất, không phải ni cô ấy đã dẫn kẻ cướp vào là gì?

Bọn Bình Nhi nghe xong đều nói

– Đứa nào mà vô phép vô tắc thế. Cô và mợ đều ở đây, lại dám ở ngoài kêu gào bậy bạ!

Phượng Thư nói

– Các chị chừng cũng nghe nó nói đến phủ Chân. Thôi, lại cái thằng đáng ghét mà nhà họ Chân tiến cử đến đây thôi.

Tích Xuân nghe rõ ràng, trong lòng lại càng khó chịu.

Phượng Thư liền hỏi Tích Xuân

– Thằng kia nói ni cô nào? Ni cô nào mà lại ở bên nhà cô thế?

Tích Xuân liền nói rõ câu chuyện Diệu Ngọc đến thăm, và cô ta giữ lại đánh cờ và thức đêm. Phượng Thư nói

– Té ra là cô ấy à? Cô ấy đời nào lại thế! Việc ấy nhất định là không có. Nhưng nếu cho cái thằng đáng ghét ấy rêu rao lộ chuyện ra, ông Hai biết được thì cũng không hay.

Tích Xuân càng nghĩ càng sợ, đứng dậy định đi. Phượng Thư tuy ngồi không nổi, nhưng sợ Tích Xuân sợ hãi, sinh chuyện không hay, đành phải bảo cô ta khoan đi và nói

– Hãy xem cho họ thu xếp những đồ còn lại, sai người canh giữ, chúng mình mới đi được.

Bình Nhi nói

– Chúng ta không nên thu xếp, phải chờ người trong nha môn đến tra xét xong mới tiện. Chúng ta chỉ nên trông nom mà thôi. Nhưng không biết đã có người đi báo với ông lớn chưa?

Phượng Thư nói

– Chị sai một bà già đi hỏi xem.

Một chốc người kia về nói

– Ông Lâm Chí Hiếu thì không thể đi được, vì người nhà còn phải chờ các quan đến khám, còn người khác thì sợ, nói không rõ ràng, nên cậu hai Vân đã đi rồi.

Phượng Thư gật đầu rồi buồn bực ngồi cạnh Tích Xuân.

Bọn cướp kia nguyên là do Hà Tam rủ đến cướp được một số vàng bạc của báu, chuyển ra rồi không thấy đuổi theo, chúng biết đều là hạng người vô dụng, nên định qua nhà bên tây lấy nữa. Chúng ở ngoài cửa sổ trông vào, thấy dưới đèn có hai người con gái đẹp. Một cô gái và một ni cô. Bọn cướp sinh lòng bất lương, không kể gì tính mệnh, định đạp cửa mà vào. Thấy Bao Dũng đuổi, chúng mới mang của cải chạy, nhưng không thấy Hà Tam. Bọn chúng trốn ở nhà chủ chứa, đến ngày sau đó dò la tin tức biết Hà Tam đã bị đánh chết. Người nhà họ đã trình báo với các nha môn văn võ, chúng thấy không thể trốn tránh ở đây được nữa. Bàn nhau tìm cách nhập bọn với đám giặc lớn ở ven biển. Nếu chậm trễ, khi giấy truy nã đưa ra, thì sẽ không thể nào lọt khỏi các nơi quan ải. Trong bọn chúng, có một tên rất to gan, nói

– Chúng mình đi thì đi. Nhưng tôi không tài nào bỏ được người ni cô kia. Nó đẹp quá! Không biết là con chim non ở am nào đấy?

Một người nói

– Ái chà? Tôi nhớ ra rồi? Chắc là ni cô ở am Lũng Thúy nào đó trong vườn nhà họ Giả. Năm trước có tin đồn cô ta dan díu với cậu Hai Bảo nào đó trong nhà họ. Sau đó, chẳng biết vì sao lại mắc bệnh tương tư, mời thầy uống thuốc. Nhất định là cô ấy rồi?

Người kia nghe xong, nói

– Chúng mình hôm nay hãy trốn tránh một ngày. Bảo anh cả đem tiền sắm sửa một ít hàng hóa, ngày mai lúc chuông sáng đánh, chúng mình lần lượt ra khỏi cửa quan, các anh chờ tôi ở cái bãi cách ngoài cửa quan hai mươi dặm.

Bọn giặc bàn xong, chia của, rồi phân tán mỗi người đi mỗi nơi. Bọn Giả Chính đưa quan tài đến chùa làm lễ xong. Bà con bạn hữu ra về. Giả Chính ở gian nhà ngoài giữ linh. Bọn Hình phu nhân và Vương phu nhân thì ở nhà trong, suốt đêm khóc lóc.

Đến ngày thứ hai, lại bày lễ cúng bái. Đang lúc dọn cơm thì thấy Giả Vân đi vào. đến khấu đầu trước bàn thờ Giả mẫu, rồi vội vàng đến trước mặt Giả Chính, quỳ xuống, hỏi thăm sức khỏe, thở hổn hển, trình lại đầu đuôi việc mất cướp tối qua, đồ

đạt của cụ bà ở nhà trên đều mất hết. Bao Dũng đuổi theo đánh chết một tên, đã đi trình báo với các nha môn văn võ. Giả Chính nghe nói, ngẩn người ra. Bọn Hình phu nhân và Vương phu nhân ở trong nhà nghe vậy đều khiếp sợ mất vía, không nói gì cả, chỉ biết khóc lóc.

Sau một hồi. Giả Chính hỏi

– Đơn kê khai mất trộm như thế nào?

– Người ở nhà đều không biết mất những gì nên vẫn chưa khai.

– Thế thì còn khá, nhà mình mới bị soát nhà, nếu khai ra những vật quý thì lại mang tội. Gọi cháu Liễn mau.

Lúc đó, Giả Liễn còn dẫn bọn Bảo Ngọc đi lễ ở nơi khác.

Giả Chính sai người chạy theo tìm về.

Giả Liễn nghe nói điên tiết lên, trông thấy Giả Vân, anh ta cũng không kể gì Giả Chính ở đó, liền mắng cho hắn một trận thậm tệ

– Đồ khốn nạn vô dụng? Tao đem giao cho mày một việc quan trọng như thế,

bảo mày đốc xuất người nhà canh tuần đêm hôm. Mày là người chết rồi hay sao. Thế mà còn vác mặt đến báo tin.

Nói xong, anh ta nhắm vào mặt Giả Vân nhổ toẹt một cái. Giả Vân đứng yên, không dám nói lại một lời. Giả Chính nói

– Cháu mắng nó cũng vô ích.

Giả Liễn vội quỳ xuống thưa

– Việc ấy bây giờ làm thế nào?

Giả Chính nói

– Cũng chẳng có cách gì, chỉ còn báo quan để tầm nã kẻ cướp. Có điều là chúng ta chưa hề động đến đồ đạc của bà để lại. Cháu nói cần bạc, nhưng ta nghĩ bà mới chết được mấy ngày, ai nở động đến bạc của người. Ta vẫn tưởng rằng, khi xong việc, tính toán sổ sách, sẽ trả cho người ta, còn nữa thì sẽ tậu một ít ruộng ở đây và xây phần mộ Phương Nam. Tất cả các thứ đều chưa biết là bao nhiêu. Bây giờ các nha môn văn võ đòi kê đơn mất trộm. Nếu khai ra một số đồ vật quý giá thì sợ không tiện. Nếu khai vàng bạc là bao nhiêu, áo quần là bao nhiêu, thì lại không có số mục rõ ràng, khai man không thể được. Buồn cười cho cháu, nay lại như người mất hồn, không biết lo liệu gì cả.

– Cháu quỳ ở đấy làm gì?

Giả Liễn cũng không dám trả lời, đành phải đứng dậy đi. Giả Chính hỏi

– Cháu đi đâu thế?

Giả Liễn trở lại thưa

– Cháu đi về nhà lo liệu đâu đó rồi sẽ lại.

Giả Chính “hừ” một tiếng. Giả Liễn cúi đầu xuống, Giả Chính nói

– Cháu vào thưa với mẹ cháu gọi một vài đứa a hoàn của bà cùng về, rồi bảo chúng nó nhớ lại cho kỹ mà khai.

Giả Liễn trong bụng biết rõ ràng là đồ đạc Giả mẫu đều do Uyên Ương trông nom, nay chị ta chết rồi còn biết hỏi ai. Dầu có hỏi bọn Trân Châu thì làm gì chúng nhớ được rành mạch. Nhưng anh ta không dám cãi. Vội vàng vâng dạ rồi quay vào nhà trong. Hình phu nhân và Vương phu nhân oán trách một hồi, rồi bảo Giả Liễn đi mau về hỏi những người coi nhà

– Rồi đây họ còn mặt mũi nào mà trông thấy chúng ta?

Giả Liễn đành phải vâng lời đi ra, một mặt sai người sắm xe sửa soạn đưa bọn Hổ Phách vào thành ; còn mình thì cỡi lừa cùng mấy đứa hầu trai phi nhanh về nhà. Giả Vân cũng không dám thưa lại với Giả Chính, lẻn chuồn ra cỡi ngựa chạy theo

Giả Liễn. Giả Liễn về đến nhà, Lâm Chí Hiếu hỏi thăm sức khỏe rồi đi theo vào trong. Giả Liễn vào nhà trên của Giả mẫu, gặp bọn Phượng Thư, Tích Xuân ở đấy, trong lòng tức giận, nhưng không tiện nói ra, liền hỏi Lâm Chí Hiếu

– Người ở nha môn đã đến khám chưa?

Lâm Chí Hiếu tự biết có lỗi, liền quỳ xuống trả lời

– Nha môn văn võ đều đến khám cả các dấu vết vào ra và xác chết.

Giả Liễn giật mình. hỏi

– Lại khám xác chết nào?

Lâm Chí Hiếu liền thưa lại việc Bao Dũng đánh chết một tên đồ đảng của giặc, giống như con nuôi Chu Thụy.

Giả Liễn nói

– Gọi thằng Vân tới đây.

Giả Vân đi vào, quỳ xuống nghe chỉ bảo.

Giả Liễn nói

– Lúc mày gặp ông lớn, sao không thưa việc con nuôi Chu Thụy theo bọn cướp bị Bao Dũng đánh chết?

– Người canh đêm nói giống như nó, cháu sợ không đúng nên không dám thưa.

– Đồ ngu? Nếu mày nói thì ta đã đem Chu Thụy về nhận, có phải là biết rõ ngay không?

Lâm Chí Hiếu nói

– Bây giờ người ở nha môn đem xác chết đặt ở cửa chợ để gọi người nhận rồi.

Giả Liễn nói

– Lại càng lẩn thẩn nốt! Đời nào có người đi ăn cướp, bị người ta đánh chết, lại đòi đền mạng bao giờ?

Lâm Chí Hiếu nói

– Không cần người ta nhận, tôi cũng nhận ngay được là nó.

Giả Liễn nghe xong nghĩ ngợi và nói

– Phải đấy? Ta nhớ năm nọ anh Trân định đánh con Chu Thụy, phải nó đấy không?

Lâm Chí Hiếu nói?

– Chính nó đánh nhau với Bào Nhị, cậu cũng thấy đấy.

Giả Liễn nghe nói tức giận, định đánh bọn canh đêm.

Lâm Chí Hiếu nằn nì

– Xin cậu bớt giận. Những người canh đêm ấy, được lệnh sai phái, đâu dám lười biếng. Nhưng vì theo nề nếp của phủ nhà ta, nên không một người đàn ông nào dám vào. Chúng tôi ở ngoài cùng anh Vân lúc nào cũng đi tra xét, thấy ba lần cửa vẫn đóng chắc chắn, những cửa bên ngoài không hề mở một lớp nào. Bọn cướp đi theo con đường ống phía sau mà vào.

Giả Liễn hỏi

– Bọn đàn bà canh đêm ở trong nhà đâu rồi?

Lâm Chí Hiếu thưa

– Đã vâng lệnh mợ, trói bọn đàn bà canh đêm lại, chờ cậu tra hỏi.

– Bao Dũng đâu rồi?

– Anh ta lại qua bên vườn rồi.

– Đi gọi anh ta đến đây.

Bọn hầu trai liền dẫn Bao Dũng đến, Giả Liễn nói

– Còn may có anh ở đấy, nếu không có lẽ tất cả đồ đạc trong nhà đều bị cướp hết.

Bao Dũng đứng im lặng. Tích Xuân sợ Bao Dũng kể lại chuyện kia ra, trong bụng hoảng hốt. Phượng Thư cũng không dám nói gì. Bỗng nghe bên ngoài nói

– Chị Hổ Phách đã về.

Mọi người gặp nhau lại khóc một hồi.

Giả Liễn sai người soát những đồ đạc còn lại, thì thấy chỉ còn một ít áo quần, vải, bông và rương tiền chưa động đến, còn các đồ vật khác đều mất hết. Giả Liễn càng hoảng, nghĩ đến số tiền làm rạp ở ngoài., số tiền tiêu của nhà bếp đều chưa đưa ra, rồi đây không biết lấy gì mà trả cho người ta. Bọn Hổ Phách đi vào khóc lóc một lúc, thấy rương tủ đều mở toang, không sao mà nhớ hết đồ đạc trong ấy, đành phải ước lượng phỏng đoán, kê bừa một tờ khai đồ đạc đã mất, sai người đưa đến các nha môn văn võ. Giả Liễn lại sai người canh giữ. Còn Phượng Thư và Tích Xuân thì ai về phòng nấy.

Giả Liễn không dám nghỉ ở nhà, cũng không kịp trách Phượng Thư, liền cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Phượng Thư ở nhà lại sợ Tích Xuân tìm cách tự tử, nên sai Phong Nhi qua an ủi. Vào khoảng canh hai, trong phủ Vinh lúc đó, đúng như người ta nói giặc đi rồi, mới lo đóng cửa? Mọi người càng thêm cẩn thận, không hề dám nghỉ. Tên trộm cướp kia một lòng luyến tiếc Diệu Ngọc, biết rằng bọn đàn bà ở trong am ít ỏi rất dễ bắt nạt. Chờ đến canh ba đêm vắng, nó mang theo dao ngắn và một ít muội hương trèo lên tường cao. Xa xa trông thấy trong am Lũng Thúy, bóng đèn còn sáng, nó liền lẻn xuống, nấp ở chỗ hẻo lánh ở ngoài phòng. Chờ đến canh tư, thấy bên trong chỉ còn một ngọn đèn lớn. Một mình Diệu Ngọc ngồi nhập định trên cái nệm. Cô ta nghĩ một lát rồi thở than

– Ta từ Nguyên Mộ tới kinh, vốn định để chút tiếng tăm về sau, vì ở đây mời, không thể bỏ đi nơi khác. Hôm trước vì lòng tốt đi thăm cô Tư. Không ngờ lại phát bực với tên ngu xuẩn kia. Đến đêm lại bị một trận khiếp sợ. Hôm nay về đây, ngồi trên nệm không yên, cảm thấy lòng dạ nơm nớp run sợ.

Nhưng vì ngày thường ngồi nhập định một mình, nên hôm nay cô ta cũng không chịu gọi người ngồi cùng. Ai ngờ đến canh năm, trong người thấy sởn gai lên, đang định gọi người thì nghe ngoài cửa có tiếng động. Diệu Ngọc nghĩ đến việc đêm

hôm trước càng thêm sợ hãi, đành phải gọi người. Ngờ đâu bọn bà già đều không trả lời. Một mình cô ta ngồi đấy, bỗng ngửi thấy một mùi hương thấu vào óc, chân tay tê mê, không thể cử động, miệng cũng không nói nên lời, trong bụng lại càng hoảng hốt. Chợt thấy một người cầm một con dao sáng quắc đi vào. Lúc bấy giờ Diệu Ngọc vẫn tỉnh táo, chỉ không cử động được, nghĩ bụng

“Nó muốn giết mình chăng? Nhưng đã quyết liều mạng, nên cũng không sợ”. Nào ngờ tên kia giắt dao vào sau lưng, giơ tay ra, nhẹ nhàng ôm Diệu Ngọc dậy, đùa cợt một hồi rồi cõng lên trên lưng. Lúc bấy giờ Diệu Ngọc mê man ngây ngất. Thương thay! Một người con gái trong sạch, bị kẻ cướp dùng muội hương làm cho mê mẩn, để mặc cho nó trêu đùa. Tên giặc kia cõng Diệu Ngọc đến bên tường sau vườn, dùng thang dây leo qua. Bên ngoài đã có đồ đảng của nó đem xe chờ sẵn. Người kia để Diệu Ngọc vào trong xe, ngoài treo một chiếc đèn lồng có dấu hiệu quan chức rồi vội vàng đi đến cửa thành. Lúc ấy chính là giờ mở cửa. Quan coi thành chỉ nghĩ là người có việc quan đi ra ngoài nên cũng không kịp tra hỏi. Ra khỏi thành rồi, tên kẻ cướp giục ngựa đi, chừng hai mươi dặm, đến một nơi cùng bọn đồ đảng gặp mặt rồi chia đường đi về miền biển Nam Hải. Không biết sau khi Diệu Ngọc bị cướp đi, có cam chịu nhơ nhớp hay không chịu khuất phục mà chết, chẳng rõ ra sao, khó lòng đoán ra được. Trong am Lũng Thúy có một ni cô thường theo Diệu Ngọc, cô ta ngủ ở phía sau nhà. Đêm đó, ngủ đến canh năm, nghe phía trước có tiếng người, cứ cho là Diệu Ngọc ngồi nhập định không yên. Sau nghe có tiếng chân của đàn ông và cửa sổ rung động, cô ta định dậy xem, nhưng người bủn rủn không nói ra được, lại không nghe Diệu Ngọc nói năng gì, cô ta cứ giương to đôi mắt lắng nghe. Đến lúc trời sáng, cô ta mới thấy tỉnh táo, khoác áo đứng dậy, gọi đạo bà sấm sửa trà nước, còn mình thì ra phía trước để gặp Diệu Ngọc. Không ngờ chẳng thấy Diệu Ngọc đâu cả. Cửa sổ thì mở toang ra. Cô ta lấy làm lạ, nghĩ lại tiếng động ban đêm rất là ngờ vực, trong bụng nghĩ thầm

– Còn sớm như thế mà cô ấy đã đi đâu?

Cô ta chạy ra ngoài sân thì thay một cái thang dây dựa bên tường, dưới đất lại có một cái bao dao, một cái tay nải, liền nói

– Nguy to? Đêm qua rõ ràng là bọn cướp đốt muội hương rồi?

Cô ta vội vàng gọi mọi người dậy xem xét, thì thấy cửa am vẫn đóng chặt. Bọn bà già và gái hầu đều nói

– Đêm qua ngửi phải hơi than, sáng nay đều dậy không được. Trời đang sớm như thế, gọi chúng tôi làm gì?

Người ni cô nói

– Sư phụ không biết đi đâu mất?

Sư phụ ngồi nhập định ở gác Quan âm kia.

– Các bà còn mơ ngủ à? Thử tới mà xem.

Mọi người chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, cũng đều hoảng hốt, mở cửa am ra. Tìm khắp trong vườn. Lại ngờ cô ta đến bên nhà cô Tư. Họ liền tới gõ cửa hông, lại bị Bao Dũng mắng cho một trận.

– Sư cô Diệu ngọc chúng tôi chẳng biết đêm qua đi đâu, nên phải đi tìm. Nhờ ông mở cửa hông để chúng tôi hỏi xem có đến đấy hay không?

– Sư phụ các bà dẫn bọn giặc đến ăn cướp của chúng tôi. Đã cướp được rồi thì đi theo bọn giặc mà hưởng đấy!

– A di đà phật? Nói như thế coi chừng phải xuống địa ngục cắt lưỡi đấy.

Bao Dũng nổi giận, nói

– Nói nhảm. Các bà mà còn lôi thôi nữa thì tôi đánh đấy.

Mọi người chỉ lấy lòng và vật nài

– Nhờ ông bảo mở cửa cho chúng tôi xem một tí, nếu không có thì sẽ không dám làm phiền đến ông nữa..

– Các bà không tin thì cứ đi mà tìm, nếu không có thì chốc nữa sẽ nói chuyện với các bà.

Bao Dũng nói xong, gọi mở cửa hông. Mọi người tìm đến nhà Tích Xuân.

Tích Xuân đang buồn bực nhớ đến việc sáng hôm ấy Diệu Ngọc ra về, không biết có nghe câu nói của Bao Dũng không, chỉ sợ mình lại mang lỗi, sau này cô ta không chịu đến, thì người tri kỹ của mình không còn ai nữa. Hiện giờ gặp mọi

người, mình thật khó coi. Cha mẹ chết sớm, chị dâu lại ghét mình. Trước kia có bà, còn thương mình ít nhiều, bây giờ bà cũng chết rồi, để lại một mình bơ vơ khổ sở, rốt cuộc biết làm thế nào. Cô ta lại nghĩ đến chị Nghinh Xuân bị dày vò mà chết, chị Sử làm bạn với người mợ, chị Ba đi xa, đều là do số mệnh xui nên, không thể tự do được. Chỉ có một mình Diệu Ngọc, như hạc nội mây ngàn, không gì ràng buộc. Nếu mình được như cô ta, thì phúc không phải nhỏ. Nhưng mình là con gái nhà thế gia, làm sao thỏa ý muốn được. Lần này coi nhà lại mang lỗi lớn, còn mặt mũi nào nữa. Lại sợ các thím không rõ tâm sự của mình. Việc tương lai rồi chưa hiểu sẽ ra sao? Tích Xuân nghĩ đến đó, liền định cắt tóc đi tu. Bọn Thái Bình nghe thấy, vội vàng tới khuyên, nào ngờ cô ta đã cắt mất một nửa mái tóc. Thái Bình càng hoảng sợ và nói

– Việc này chưa xong, đã xảy ra việc khác, biết làm sao bây giờ.

Đang lúc ồn ào, bỗng thấy đạo bà ở bên am sang tìm Diệu Ngọc. Thái Bình hỏi rõ nguyên do, giật mình và nói

– Hôm trước về rồi sư cô có sang nữa đâu?

Tích Xuân ở trong nhà nghe nói, vội vàng hỏi

– Cô ấy đi đâu mất à?

Đạo bà kể rõ chuyện đêm qua, nghe thấy tiếng động, bị hơi than xông ngạt. Sáng nay không thấy Diệu Ngọc. Trong am lại thấy có thang dây và bao dao. Tích Xuân sợ hãi ngờ vực, chẳng hiểu ra sao, chợt nghĩ đến câu nói của Bao Dũng, chắc là bọn trộm trông thấy cô ta, rồi đêm qua bắt cóc đi cũng chưa biết chừng. Nhưng cô ta xưa nay rất là cao thượng, trong sạch, có đâu lại chịu thế mạng mình? Tích Xuân liền hỏi

– Tại sao các người đều không nghe gì cả?

– Sao lại không nghe, nhưng chúng tôi đều giương mắt ra mà không nói được nửa lời. Chắc là bọn giặc đốt muội hương. Cô Diệu chắc đã bị bọn giặc làm cho mê mẩn, không nói năng được. Bọn giặc nhất định đông, cầm dao cầm gậy bứt bách. Cô ta còn dám kêu la nữa à?

Đang nói thì Bao Dũng lại ở chỗ cửa hông gào to

– Trong này mau mau đuổi bọn đạo bà bậy bạ ấy ra đi. Đóng cửa hông mau lên?

Thái Bình nghe nói sợ mình mang lỗi, đành phải giục bà già đi ra, bảo người đóng cửa hông lại. Tích Xuân càng thêm khổ sở. Bọn Thái Bình lấy lễ khuyên giải mãi và quấn nửa mái tóc còn lại cho cô ta. Mọi người bàn với nhau việc này bất tất nói lộ ra làm gì. Đến chuyện Diệu Ngọc bị bắt cũng làm như không biết. Chờ ông lớn bà lớn về hãy nói. Tích Xuân từ đó kiên quyết đi tu. Giả Liễn trở lại chùa Thiết Hạm thưa lại với Giả Chính việc về nhà tra hỏi những người canh đêm, và kê khai những đồ mất trộm. Giả Chính hỏi

– Khai như thế nào?

Giả Liễn đem trình đơn kê những đồ vật mà Hổ Phách nhớ được và nói thêm

– Trong ấy những vật Nguyên Phi cho, đều chưa rõ ràng, còn những vật hiếm có không tiện khai ra thì để khi cháu hết tang sẽ đi nhờ người ta dò hỏi kỹ lưỡng, thế nào cũng tìm ra.

Giả Chính nghe nói, vừa lòng, liền gật đầu, không nói gì. Giả Liễn vào trong nhà, gặp Hình phu nhân,Vương phụ nhân và bàn

– Nên khuyên chú sớm liệu về nhà mới được, nếu không thì rối như tơ vò ấy cả.

Hình phu nhân nói

– Phải đấy. Chúng ta ở đây cũng cứ hốt hoảng lo sợ.

Giả Liễn nói

– Điều đó chúng con không dám nói, cần phải có ý của thím thì chắc chú sẽ nghe theo.

Hình phu nhân bèn cùng Vương phu nhân bàn bạc xong xuôi. Qua một đêm, Giả Chính cũng không yên lòng, sai Bảo Ngọc vào nói

– Hôm nay mời mẹ và bác về nhà, vài ba hôm nữa lại tới. Người nhà ngoài này đều cắt đặt xong rồi. Trong ấy mẹ và bác lo cắt đặt người đi thôi.

Hình phu nhân cắt bọn Anh Kha ở lại trông nom hương đèn ; bọn vợ Chu Thụy coi chung mọi việc ; nên các người khác đều ra về. Lúc đó mọi người vội vàng sắm sửa xe ngựa. Bọn Giả Chính từ biệt trước linh vị của Giả mẫu, lại khóc một hồi.

Lúc họ đứng dậy định đi thì thấy Dì Triệu vẫn còn lom khom giữa đất không dậy. Dì Chu tưởng dì Triệu còn khóc, liền tới dắt dậy, không ngờ dì Triệu miệng sùi bọt, mắt trợn ngược, lưỡi lè ra ngoài, làm cho bọn người nhà giật mình. Giả Hoàn

chạy lại, kêu rầm lên. Dì Triệu tỉnh lại rồi nói

– Ta không về đâu. Ta theo cụ bà về Nam đây!

Mọi người nói

– Cụ bà đâu có cần dì theo hầu?

Dì Triệu nói

– Ta theo cụ bà suốt đời. Ông Cả còn không chịu để yên, dùng mưu thần chước quỷ làm hại ta! Ta tưởng nhờ phép Mã đạo bà để làm cho hả giận. Kết quả mất đi một số bạc, chẳng làm chết đứa nào. Giờ đây ta về, không biết rồi lại có ai làm hại ta!

Mọi người ban đầu tưởng là hồn Uyên ương nhập vào dì ta. Sau nghe nói đến việc Mã đạo bà thì lại hình như không phải. Hình phu nhân và Vương phu nhân đều không nói gì. Chỉ có bọn Thái Vân cầu khẩn để xin hộ cho dì ta

– Chị Uyên ương ơi, chị chết là tự mình chứ có can gì đến dì Triệu. Chị tha dì ấy ra.

Vì thấy Hình phu nhân ở đây, nên bọn họ cũng không dám nói gì khác.

Dì Triệu nói

– Ta không phải là Uyên ương. Ta là do Diêm vương sai người đến bắt đi, để hỏi về cái án tại sao cùng Mã đạo bà dùng phép ma làm hại người.

Nói đến đó, dì ta lại van lơn

– Mợ Hai Liễn ơi? Trước mặt quan lớn đây bớt lời xúc xiểm đi cho với! Tôi dầu có ngàn ngày không tốt cũng còn có một ngày tết. Mợ Hai ơi! Mợ Hai thân yêu ơi! Thật không phải tôi định hại mợ ; chỉ vì trong một lúc rồ dại tôi trót nghe lời con ở già đấy thôi.

Bà ta đang kêu la, thì Giả Chính sai người đến gọi Giả Hoàn. Bọn bà già đều trình

– Dì Triệu bị trúng tà, cậu Ba đang ở lại trông nom.

Giả Chính nói

– Làm gì có chuyện ấy. Chúng ta đi trước đây.

Thế rồi bọn đàn ông đều ra về trước. Dì Triệu ở đấy vẫn cứ nói nhảm, không sao tỉnh lại được. Hình phu nhân sợ dì ta còn nói chuyện gì nữa, liền bảo

– Sai thêm người ở đây trông nom dì ấy, chúng ta đi trước. Về đến thành, sẽ cho thầy thuốc đến xem bệnh.

Vương phu nhân vốn ghét dì Triệu, nên cũng bỏ lơ không nhìn. Bảo Thoa là người trung hậu, tuy nghĩ đến việc dì ta làm hại Bảo Ngọc. Nhưng rốt cuộc vẫn không đành lòng, liền dặn riêng dì Chu ở đấy trông nom. Dì Chu cũng là người tốt nhận lời ngay.

Lý Hoàn nói

– Tôi cũng ở đây thôi.

Vương phu nhân nói

– Bất tất phải thế.

Thế rồi mọi người đều định đứng dậy ra về.

Giả Hoàn hoảng lên nói

– Tôi cũng ở đây à?

Vương phu nhân quát

– Cái thằng lẩn thẩn? Mẹ mày chưa biết sống chết ra sao, mày còn định về à?

Giả Hoàn không dám nói gì nữa, Bảo Ngọc nói

– Em ạ, em không về được đâu, để anh vào thành, sẽ sai người đến thăm em.

Nói xong, mọi người đều lên xe về nhà. Trong chùa chỉ còn bọn dì Triệu, Giả Hoàn, Anh Kha. Bọn Giả Chính và Hình phu nhân về đến nhà, vào nhà trên, khóc lóc một hồi. Lâm Chí Hiếu dẫn bọn người nhà đến hỏi thăm sức khỏe rồi quỳ xuống. Giả Chính quát

– Cút đi ngày mai sẽ hỏi chúng mày!

Ngay hôm ấy, Phượng Thư mấy lần mê man, không thể ra đón, chỉ có Tích Xuân trông thấy mọi người thì có vẻ hổ thẹn. Hình phu nhân cũng không nhìn. Vọng phu nhân thì vẫn đối đãi như thường. Lý Hoàn và Bảo Thoa nắm tay cô ta, nói mấy câu. Riêng có Vưu thị thì nói

– Cô ơi cô thật chịu khó trông nom mấy ngày trời.

Tích Xuân mặt mày đỏ tía, không nói lại một câu. Bảo Thoa kéo Vưu thị và đưa mắt lườm chị ta rồi ai về nhà nấy. Giả Chính nhìn qua một lượt, thở dài không nói gì cả. Rồi đến thư phòng, trải chiếu xuống đất mà ngồi, gọi bọn Giả Liễn. Giả Dung, Giả Vân đến dặn dò mấy câu. Bảo Ngọc định ở lại thư phòng hầu Giả Chính. Giả Chính nói

– Không cần.

Giả Lan thì vẫn theo mẹ anh ta. Đêm ấy không có chuyện gì.

Sáng hôm sau, Lâm Chí Hiếu vào quỳ ở thư phòng. Giả Chính hỏi lại đầu đuôi việc mất trộm. Lâm Chi Hiếu lại khai Chu Thụy ra và nói

– Nha môn bắt được Bào Nhị, xét được trong mình nó có những đồ vật đã kê trong đơn mất trộm, hiện đang tra tấn, định bắt nó khai ra bọn trộm cướp.

Giả Chính nghe xong, giận lắm, nói

– Đầy tớ phụ ơn, đem kẻ cướp về ăn cướp của nhà, thật là ngược đời.

Ông ta sai người lập tức ra ngoài thành, trói Chu Thụy đưa đến nha môn tra hỏi. Lâm Chí Hiếu vẫn cứ quỳ đấy, không dám dậy. Giả Chính nói

– Anh còn quỳ làm gì?

Lâm Chí Hiếu nói

Bọn chúng tôi đáng chết, xin ông lớn ban ơn..

Đang nói thì bọn Lại Đại cùng các người nhà đều vào hỏi thăm sức khỏe và đưa sổ sách lo việc tang trình lên. Giả Chính nói:

– Giao cho cậu Liễn tính toán rõ ràng rồi trình với ta.

Đoạn ông ta quát mắng, Lâm Chí Hiếu đứng dậy đi ra. Giả Liễn quỳ một chân xuống bên Giả Chính nói câu gì. Giả Chính trợn mắt và bảo

– Nói nhảm! Không lẽ bị mất cướp rồi bắt phạt bọn đầy tớ phải xuất tiền bạc lo cho bà hay sao?

Giả Liễn đỏ mặt lên, không dám nói năng gì, đứng dậy nhưng cũng không dám cử động. Giả Chính hỏi

– Nhà cháu ra sao rồi?

Giả Liễn lại quỳ xuống và nói

– Xem chừng thì không có hy vọng gì.

Giả Chính thở dài, nói

– Ta không ngờ vận nhà suy bại đến thế. Vả lại mẹ thằng Hoàn đang còn ốm ở trong chùa, cũng chẳng biết mắc chứng bệnh gì. Các cháu có hiểu hay không?

Giả Liễn cũng không dám nói gì. Giả Chính bảo

– Cháu chuyển lời ra ngoài, bảo người dẫn thầy thuốc đến thăm bệnh cho nó.

Giả Liễn vội vàng vâng lời đi ra, sai người đưa thầy thuốc đến chùa Thiết Hạm xem bệnh cho dì Triệu.

Chương 113: Ăn năn lỗi trước, Phượng Thư nhờ cậy già Lưu – Quên hẳn hiềm xưa, Tử Quyên cảm thương Bảo Ngọc

Ăn năn lỗi trước, Phượng Thư nhờ cậy già Lưu

Quên hẳn hiềm xưa, Tử Quyên cảm thương Bảo Ngọc

Dì Triệu mắc bệnh ở chùa Thiết Hạm, thấy ít người lại, càng nói nhảm. Mọi người đều ngơ ngác khiếp sợ. Hai người đàn bà đỡ cho dì Triệu quỳ ở dưới đất. Dì ta nói rồi lại khóc, có lúc bò ra giữa đất xin tha tội và nói

– Ông đánh tôi chết mất! Ông râu đỏ ơi. Tôi không dám nữa đâu!

Có lúc lại chắp lai tay kêu đau. Con mắt lồi ra, miệng chảy máu tươi, đầu bù tóc rối, ai cũng sợ hãi, không dám lại gần.

Lúc trời gần tối, tiếng nói của dì Triệu càng khan dần, y như quỷ gào, không có ai dám đứng trước bà ta. Đành phải gọi mấy người đàn ông can đảm vào ngồi đấy. Có lúc dì Triệu chết đi được một lúc lại sống lại, suốt đêm cứ như thế. Đến hôm thứ hai. Bà ta không nói nữa, chỉ làm như bị ma ám, tự tay xé tung áo quần, để lòi bụng ra hình như có ai xúi cởi áo quần. Tội nghiệp dì Triệu, tuy không nói gì nhưng xem có vẻ đau đớn khổ sở! Đang khi nguy cấp thì thầy thuốc đến. Thầy thuốc cũng không xem mạch, chỉ dặn

– Lo liệu việc hậu sự đi thôi.

Nói xong, liền đứng dậy đi ra. Người nhà đưa thầy ta đến, cứ nằn nì

– Nhờ thầy xem qua mạch một tí, để tôi tiện về bẩm với chủ nhà.

Thầy thuốc lấy tay sờ một cái, thì không còn có mạch nhảy nữa. Giả Hoàn nghe nói, mới khóc rống lên. Mọi người chỉ lo săn sóc Giả Hoàn, còn dì Triệu thì chẳng có ai nhìn. Chỉ có dì Chu nghĩ bụng

” Cái kiếp vợ mọn, chẳng qua như thế! Vả lại bà ta còn có con đấy. Chứ lúc mình chết, chưa biết sẽ ra sao? “

Dì Chu càng khóc lóc thảm thiết.

Người nhà chạy về trình. Giả Chính liền sai người đến chùa, theo lệ cũ mà lo liệu. Cùng Giả Hoàn ở lại ba ngày, rồi đều về. Người kia vâng lời ra đi. Ở đấy, một người truyền mười, mười người truyền trăm, ai cũng biết chuyện dì Triệu độc ác làm hại người, bị âm ty tra tấn mà chết. Họ lại nói

– Mợ hai Liễn cũng nguy rồi. Sao lại nói là mợ hai Liễn kiện?

Lời đồn ấy đến tai Bình Nhi. Chị ta hoảng sợ, xem bộ dạng Phượng Thư cũng khó lòng khỏi được. Vả lại gần đây, Giả Liễn không hề âu yếm như trước nữa. Công việc lại nhiều, thành ra việc Phượng Thư đau ốm hình như không liên can gì đến hắn. Ở trước mặt Phượng Thư, Bình Nhi chỉ một mực khuyên lơn, an ủi. Lại thêm Hình phu nhân và Vương phu nhân về nhà mấy hôm nay, chỉ sai người qua hỏi, không hề thân hành đến thăm, Phượng Thư càng thêm đau xót. Giả Liễn về nhà cũng chẳng nói một câu nào thân mật. Phượng Thư chỉ mong sao cho chóng chết, hễ sực nghĩ đến, trong lòng lại thấy ma quỷ kéo đến. Chị ta thấy chị Hai họ Vưu từ sau phòng đi tới, dần dần lại gần trước giường và nói

– Chị ơi, lâu nay không gặp nhau, em rất tưởng nhớ. Nhưng muốn gặp cũng không được. Giờ đây khó khăn lắm mới vào được đây thăm chị. Chị thật đã đem hết tâm lực mà cậu Hai lẩn thẩn kia lại không biết cảm ơn tấm lòng tốt của chị. Đã thế lại oán trách chị làm việc quá khắc bạc, làm mất con đường tương lai của cậu ta, để cậu ta không mặc mũi nào nhìn thấy người khác nữa. Em thật tức thay cho chị.

Phượng Thư mơ màng trả lời

– Giờ đây chị cũng phàn nàn tâm địa chị hẹp hòi quá. Em không nghĩ đến mối thù xưa mà còn đến thăm chị à.

Bình Nhi ở bên nghe nói, liền hỏi

– Mợ nói gì thế?

Phượng Thư tỉnh dậy, nghĩ lại chị hai Vưu đã chết, chắc là chị ta đến đòi đền mạng. Bị Bình Nhi gọi tỉnh dậy, trong lòng Phượng Thư sợ hãi, nhưng không chịu nói ra, đành miễn cưỡng trả lời

– Ta tâm hồn rối loạn, chắc là nói mơ, em đấm bóp cho ta một chút.

Bình Nhi leo lên giường đang đấm, thì thấy một a hoàn nhỏ đi vào, nói bà cụ Lưu đã đến. Bọn bà già đưa vào hỏi thăm sức khỏe của mợ.

Bình Nhi vội vàng tụt xuống, và hỏi

– Bà ấy đâu rồi?

– Bà ta không dám vào ngay. Còn chờ mợ truyền bát.

Bình Nhi nghe nói gật đầu, nghĩ bụng mợ ấy đang ốm, chắc là không muốn gặp ai, liền nói

– Mợ đang nghỉ ngơi để di dưỡng tinh thần, bảo bà ta hãy chờ đấy, và em có hỏi bà ta đến có việc gì không?

– Bọn họ hỏi rồi, không có việc gì, bà ta chỉ nói, nghe tin cụ bà qua đời. Nhưng vì không ai báo tin, nên đến chậm.

A hoàn nhỏ đang nói thì Phượng Thư nghe thấy liền bảo

– Chị Bình. Người ta có lòng tốt đến thăm, không nên lạnh nhạt với họ. Chị đi mời bà Lưu vào đây, ta nói chuyện với bà ấy một chút.

Bình Nhi đành phải ra mời bà Lưu vào trong này ngồi. Phượng Thư vừa muốn nhắm mắt, lại thấy một trai một gái chạy đến, hình như muốn trèo lên giường, Phượng Thư vội vàng gọi Bình Nhi và hỏi

– Người đàn ông ở đâu mà chạy đến đây thế?

Gọi luôn hai tiếng, thì thấy Phong Nhi và Tiểu Hồng chạy vào nói

– Mợ muốn lấy gì?

Phượng Thư giương mắt nhìn một cái, chẳng thấy người nào, trong bụng biết rõ, nhưng không chịu nói ra, liền hỏi Phong Nhi

– Con Bình đi đâu rồi?

– Không phải là mợ đã bảo chị ấy đi mời bà Lưu rồi à?

Phượng Thư nằm yên không nói gì. Chợt thấy Bình Nhi cùng bà Lưu dẫn một đứa gái nhỏ đi vào, và nói

– Mợ ở đâu?

Bình Nhi dẫn bà ta đến bên giường. Bà Lưu liền nói

– Xin hỏi thăm sức khỏe mợ.

Phượng Thư giương mắt nhìn, bất giác đau lòng, liền nói

– Bà có khỏe không? Sao đến bây giờ mới tới? Xem kìa, cháu ngoại bà cũng lớn ngần ấy rồi đấy.

Bà Lưu thấy Phượng Thư mình gầy như que củi, tinh thần hoảng hốt, trong bụng cũng thương xót, liền nói

– Mợ ơi? Sao mới mấy tháng không thấy mà đã ốm đến thế? Thật tôi u mê đáng chết, sao không sớm đến hỏi thăm mợ!

Bà ta liền bảo con Thanh hỏi thăm sức khỏe. Con Thanh chỉ cười. Phượng Thư trông thấy, cũng rất thương yêu, liền bảo Tiểu Hồng dỗ dành nó.

Bà Lưu nói

– Người trong trại chúng tôi không hay ốm, nếu mà ốm thì sẽ cầu thần hứa hẹn, chứ xưa nay không biết uống thuốc. Tôi nghĩ bệnh của mợ đây chắc mắc phải ma quỷ gì đấy thôi.

Bình Nhi nghe câu nói ấy không đúng lý, vội vàng ở sau kéo trộm áo bà ta. Bà Lưu hiểu ý liền không nói nữa. Không ngờ câu nói ấy lại hợp ý Phượng Thư. Chị ta liền gắng gượng nói

– Già ơi, già là người có tuổi, nói không sai. Dì Triệu mà trước kia già đã gặp, nay cũng chết rồi, già có biết không?

Bà Lưu lấy làm lạ, và nói

– A di đà phật? Người mạnh khỏe như thế, sao đã chết sớm? Tôi nhớ bà ta cũng có mặt anh con nhỏ, bây giờ biết làm thế nào?

Bình Nhi nói

– Sợ cái gì? Còn có ông lớn và bà lớn đấy.

Bà Lưu nói

– Cô ạ cô biết sao được? Mẹ đẻ chết đi là không hay, người không mang nặng đẻ đau thì ăn thua gì?

Câu nói ấy lại làm cho Phượng Thư buồn, nghẹn ngào nức nở khóc lên. Mọi người đều tới khuyên giải. Xảo Thư thấy mẹ nó khóc lóc, liền chạy đến trước giường, giơ tay cầm lấy tay Phượng Thư, rồi cũng khóc lên.

Phượng Thư vừa khóc vừa hỏi

– Con đã gặp bà Lưu chưa?

– Chưa.

– Bà ta đặt tên cho con, cũng như mẹ nuôi đấy. Con tới hỏi thăm sức khỏe bà đi.

Xảo Thư liền chạy đến trước mặt, bà Lưu vội vàng nắm lấy và nói

– A di đà phật? Đừng làm tôi chết mất! Cô Xảo ơi đã hơn năm nay tôi không đến, cô còn nhận được tôi không?

– Sao lại không nhận được? Năm nọ khi gặp bà ở trong vườn, tôi còn nhỏ. Năm trước bà đến, tôi xin bà con châu chấu già, bà chưa cho tôi, chắc là quên rồi.

Bà Lưu nói

– Cô ơi! Tôi già lẩm cẩm mất rồi, nếu nói đến châu chấu thì ở trang trại chúng tôi rất nhiều, có điều cô không đến chỗ đó được thôi. Nếu cô đến thì muốn lấy một xe châu chấu cũng không khó gì,

Phượng Thư nói

– Bà đem nó về với.

Bà Lưu cười và nói

– Vô là thân ngàn vàng, lớn lên trong lụa là, ăn toàn thức ăn ngon, đến chỗ chúng tôi thì lấy gì cho cô chơi, lấy gì cho cô ăn. Thế lại không làm tôi chết mất à!

Bà ta lại cười và tiếp luôn

– Đã thế, thì để tôi làm mối cho cô một nơi. Chỗ chúng tôi tuy nói là đất trang trại, nhưng cũng có nhà giàu lớn, có mấy ngàn thửa ruộng, mấy trăm trâu bò, tiền bạc cũng nhiều ; có điều không có vàng, có ngọc như đây. Mợ thì cố nhiên không coi

những hạng nhà ấy ra gì; chỉ chúng tôi con nhà trang trại thấy những nhà giàu như thế, cũng cho là người trên trời rồi đấy.

Phượng Thư nói

– Bà cứ nói đi, tôi bằng lòng sẽ gả.

– Nói chơi đấy thôi, ngay những nhà quan quyền sang trọng như nhà mợ đây, sợ mợ cũng chẳng chịu gả, đời nào lại gả cho con nhà trang trại? Dầu cho mợ bằng lòng, các bà ở trên cũng không thuận.

Xảo Thư thấy bà ta nói đến chuyện ấy, đứng nghe không tiện, liền chạy đi trò chuyện với con Thanh. Hai cô gái nhỏ nói chuyện hợp ý nhau, dần dần quen nhau.

Bình Nhi sợ bà Lưu nói nhiều làm phiền Phượng Thư, liền kéo bà ta và nói

– Bà nhắc đến bà lớn, mà bà chưa sang bên ấy. Tôi ra gọi người đưa bà sang gặp một chút, cũng không uổng công đi chuyến này.

Bà Lưu muốn đi ngay, Phượng Thư nói

– Vội gì? Bà hãy ngồi xuống. Tôi hỏi bà – gần đây ăn tiêu có được đầy đủ không?

Bà Lưu cảm ơn mãi và nói

– Chúng tôi mà không nhờ mợ. – Nói đến đó, bà ta chỉ con Thanh và nói tiếp – thì cha mẹ nó đến chết đói mất. Bây giờ tuy nói con nhà trang trại khổ, nhưng trong nhà cũng đã tậu được mấy mẫu ruộng, lại đào một cái giếng, trồng một ít rau, bầu, dưa. Quanh năm cũng bán được nhiều tiền, đủ cho bọn chúng tôi ăn rồi. Hai năm nay, mợ lại thường cho ít nhiều quần áo vải bông, ở trang trại chúng tôi như thế cũng tạm cho là đầy đủ. A di đà Phật! Trước đấy bố nó vào trong thành, nghe nói ở nhà mợ đây xảy ra việc không may, tôi gần chết khiếp đi được; may có người lại nói, không phải ở đây tôi mới yên lòng. Sau lại nghe nói ông lớn đây được thăng chức, tôi lại vui mừng, định đến mừng ngay, vì việc cấy hái đang bận rộn nên đi không được. Hôm qua lại nghe nói cụ bà quy tiên. Tôi đang hái đậu ở ngoài đồng. nghe vậy, sợ quá không tài nào cầm nổi quả đậu nữa, đến khóc một hồi lâu, rồi nói với người rể tôi

” Thôi, tao cũng không giúp đỡ công việc cho chúng mày được nữa. Không biết tin đồn có đúng hay không, nhưng tao cũng phải vào thành thăm một chút! ” Rể tôi và con tôi cũng không phải là hạng người bạc bội, nghe nói thế chúng cũng khóc một hồi. Hôm nay trời chưa sáng, chúng nó đã giục tôi vào đây. Đến nơi tôi chẳng quen ai, cũng chẳng biết dò la ở đâu. Tôi đi một mạch tới cửa sau. Thấy tất cả các tượng thần ở cửa đều dán giấy trắng tôi sợ quá. Vào cửa rồi tôi đi tìm chị Chu, tìm không được, vừa gặp một cô, cô ta nói

” Chị Chu có lỗi, bị đuổi ra rồi. ” Tôi lại chờ một hồi lâu, gặp một người quen, mới vào được đây. Không ngờ mợ cũng ốm như thế!

Nói xong, bà ta chảy nước mắt ra. Bình Nhi sốt ruột, không chờ bà ta nói xong, liền nắm lấy tay dắt đi và nói

– Bà nói chuyện một hồi lâu khô cả cổ, chúng ta đi uống chén trà đã.

Rồi chị ta dắt bà Lưu xuống ngồi ở nhà dưới. Còn con Thanh thì ở bên chỗ Xảo Thư. Bà Lưu nói

– Trà thì không cần, nhờ cô bảo người dẫn tôi sang chào bà lớn và đi khóc cụ bà một chút.

Bình Nhi nói

– Bà đừng vội. Hôm nay cũng không ra khỏi thành kịp. Vừa rồi tôi sợ bà nói sơ ý làm mợ tôi khóc, nên mới giục bà ra. Bà đừng nghĩ gì.

– A di đà Phật! Cô ơi, cô quá lo đấy thôi, tôi cũng biết rồi. Nhưng bệnh mợ thì làm thế nào bây giờ? Bà xem có cần gì không?

– Nói ra thì có tội, chứ tôi xem chừng nguy lắm đấy!

Đang nói thì nghe Phượng Thư gọi. Bình Nhi đến bên giường thì Phượng Thư lại không nói gì cả. Bình Nhi đang hỏi Phong Nhi thì Giả Liễn vào. Hắn nhìn lên giường, cũng không nói gì, đi vào nhà trong hầm hầm ngồi xuống. Chỉ có Thu Đồng theo vào, rót chén trà ân cần thăm hỏi, rồi nhỏ to câu chuyện, chẳng biết là nói những gì. Một chốc, Giả Liễn gọi Bình Nhi tới hỏi

– Mợ không uống thuốc à?

– Không uống. Biết làm thế nào bây giờ?

– Ta biết sao được? Chị đưa cái chìa khóa tủ lại đây.

Bình Nhi thấy Giả Liễn có vẻ tức giận, cũng không dám hỏi, đành phải đi ra, ghé bên tai Phượng Thư nói nhỏ mấy câu. Phượng Thư im lặng, Bình Nhi liền đưa một cái hộp nhỏ để bên mình Giả Liễn rồi đi ngay.

Giả Liễn nói

– Ma bắt chị rồi à? Chị để đấy bảo ai mở?

Bình Nhi nén giận, mở hộp lấy chìa khóa ra mở tủ rồi hỏi:

– Cậu lấy cái gì?

– Chúng mình còn cái gì nữa.

Bình Nhi tức phát khóc lên, bèn nói

– Có việc gì cậu cứ nói cho rõ ràng, tôi có chết cũng cam lòng!

Giả Liễn nói

– Còn phải nói nữa? Việc trước kia do các người gây ra, giờ đây việc của cụ còn thiếu mất bốn năm ngàn bạc. Chú bảo đem sổ sách công để xoay tiền. Chị xem còn có nữa không? Nợ nần bên ngoài còn không biết lấy gì mà trang trải đây. Ai bảo tôi nhận lấy cái danh hão này! Đành phải đem những vật dụng mà bán đi để bù vào thôi? Chị không bằng lòng hay sao?

Bình Nhi nghe xong, không nói một câu nào, liền khuân hết đồ vật trong tủ ra. Bỗng thấy Tiểu Hồng chạy sang nói

– Chị Bình đến mau! Mợ nguy lắm rồi.

Bình Nhi cũng không kể gì Giả Liễn nữa, vội vàng chạy sang, thì thấy Phượng Thư giơ tay bắt chuồn chuồn giữa không, Bình Nhi nắm lấy tay, vừa khóc vừa gọi. Giả Liễn cũng chạy sang nhìn rồi dậm chân, và nói

– Cứ thế này là định giết tôi đấy?

Nói xong, hắn chảy nước mắt.

Phong Nhi vào nói

– Ngoài kia đang tìm cậu Hai đấy.

Giả Liễn đành phải đi ra.

Ở trong này Phượng Thư càng nguy cấp. Bọn Phong Nhi khóc ầm lên. Xảo thư nghe tiếng chạy lại. Bà cụ Lưu cũng vội vàng chạy đến trước giường. Miệng niệm Phật, phù phép gì một lát; quả nhiên Phượng Thư hơi đỡ hơn. Một lúc Vương phu nhân nghe a hoàn nói, cũng qua thăm, thấy Phượng Thư có phần yên tĩnh, cũng tạm yên lòng. Bà ta thấy bà Lưu liền hỏi

– Bà cụ có khỏe không? Đến đây từ bao giờ?

– Xin hỏi thăm sức khỏe của bà lớn.

Rồi hai người cũng không kịp nói chuyện gì, chỉ bàn tán về bệnh Phượng Thư. Trò chuyện một hồi lâu. Thái Vân vào nói

– Ông lớn mời bà lớn.

Vương phu nhân dặn dò Bình Nhi mấy câu rồi ra về. Sau một hồi nguy cấp, Phượng Thư lại hơi tỉnh táo. Thấy bà Lưu ngồi đấy trong bụng chị ta tin việc bà ấy nói chuyện cầu thần cầu thánh, liền tìm cách bảo bọn Phong Nhi ra ngoài, rồi gọi

bà Lưu lại nói cho bà ta biết tâm thần mình không yên, hình như trông thấy ma quỷ. Bà Lưu bèn kể lại ở trang trại có vị bồ tát nào thiêng liêng ngôi đền nào linh ứng. Phượng Thư nói

– Nhờ bà cầu hộ cho tôi, cần tiền cúng lễ thì có đây, chị ta liền rút một chiếc vòng vàng trong cổ tay ra trao cho bà cụ.

– Mợ ạ. Không cần cái ấy đâu. Người ở trang trại chúng tôi hứa nguyện rồi mà bệnh khỏi thì chỉ tiêu mấy trăm đồng tiền là được làm gì cần đến như thế? Ngay cả tôi cầu hộ cho mợ đây. cũng là khấn trước đấy thôi, chờ mợ khỏe rồi, muốn cúng bao nhiêu thì mợ tự đi cúng lấy thôi.

Phượng Thư biết rõ lòng tốt của bà ta, nài ép không tiện, đành phải để lại, và nói

– Bà ạ..Tính mạng của tôi xin giao phó cho bà. Con Xảo nhà tôi, trăm chứng ngàn tật, nay cũng giao phó cho bà luôn?

Bà Lưu thuận miệng vâng lời, và nói

– Đã vậy tôi xem trời còn sớm, có thể ra thành kịp, để tôi đi ngay. Sau này mợ khỏi rồi, sẽ mời đi lễ tạ.

Phượng Thư bị mấy hồn oan quấn quít, đâm ra sợ hãi, chỉ trông mong bà ta đi cầu ngay cho, liền nói

– Nếu bà chịu hết lòng hộ tôi, tôi ngủ được một giấc yên ổn, thì tôi rất cảm ơn bà. Còn cháu ngoại bà thì bảo nó ở lại đây với tôi.

– Con cái nhà trang trại, không biết gì. Ở đây chỉ thêm sinh chuyện người ta chê cười, tôi đưa nó về là hơn.

– Bà quá lo. Đã là bà con thì sợ gì điều ấy. Nhà chúng tôi đây hiện nay túng thiếu nhưng thêm một người ăn. Có đáng là bao.

Bà Lưu thấy Phượng Thư thật tình. Bảo con Thanh ở đây mấy hôm, trong nhà đỡ tốn miệng ăn thì cũng thích. Nhưng sợ nó không chịu ở. Chi bằng gọi nó tới hỏi, nếu bằng lòng thì để ở lại. Rồi bà ta nói với con Thanh mấy câu. Con Thanh chơi với Xảo Thư đã quen, Xảo Thư lại không bằng lòng cho nó về. Con Thanh cũng muốn ở lại. Bà cụ liền dặn dò mấy câu, rồi từ biệt Bình Nhi, vội vàng ra thành.

Am Lũng Thúy nguyên là đất của phủ Giả. Khi làm vườn tỉnh thân, họ liền bao cả am ấy vào trong vườn. Lâu nay tiền ăn tiêu và hương dầu không hề động đến tiền lương của phủ Giả. Bây giờ Diệu Ngọc bị cướp. Bọn ni cô trình báo đến cửa quan.

Một là phải chờ xem quan trên tầm nã trộm cướp ra sao ; hai là cơ nghiệp của Diệu Ngọc không tiện bỏ đi, nên vẫn để lại như cũ. Họ chỉ trình cho phủ Giả biết tình hình mà thôi. Lúc bấy giờ người trong phủ Giả tuy ai cũng biết. Nhưng vì Giả Chính mới có tang, vả lại trong bụng lo lắng không yên, nên không ai dám đem

việc không quan trọng ấy trình với ông ta. Chỉ có Tích Xuân biết rõ việc này, thì ngày đêm áy náy. Việc Diệu Ngọc bị kẻ gian bắt cóc dần dần đồn đến tai Bảo Ngọc. Có người nói

“Diệu Ngọc động lòng tình dục, bỏ đi theo người.” Bảo Ngọc nghe tin rất là buồn bực nghĩ bụng

” Chắc cô ta bị bọn cướp bắt đi. Con người ấy nhất định không chịu, thế nào cũng chết chứ không chịu nhục? ” Nhưng không thấy rõ kết quả ra sao, trong lòng anh ta rất là áy náy, ngày nào cũng thở vắn than dài. Anh ta lại nói

– Con người như thế, thường tự xưng là “Người ngoài cửa “, sao mà kết cục lại như thế?

Rồi anh ta lại nghĩ

” Trước kia trong vườn vui vẻ biết bao! Từ khi chị Hai về nhà chồng tới nay, người thì chết, người thì đi lấy chồng, mình tưởng Diệu Ngọc là người không vướng chút bụi trần, thế nào cũng giữ được lâu dài. Ngờ đâu sóng gió

bất thường, so với em Lâm chết càng kỳ quái! Do đó một nghĩ đến hai, hai nghĩ đến ba, anh ta nghĩ lại việc xưa rồi nhớ đến câu nói của Trang tử cuộc đời hư vô mịt mùng. Người ta sinh ra ở đời khó lòng tránh khỏi cảnh mây tan gió cuốn”. Bảo Ngọc nghĩ như thế, bất giác khóc to lên. Bọn Tập Nhân cho là bệnh điên anh ta lại phát, nên tìm mọi cách ôn tồn khuyên giải. Ban đầu Bảo Thoa không biết là duyên cớ vì đâu, cũng dùng lời khuyên răn. Khốn nỗi Bảo Ngọc cứ uất ức không cởi mở ra được, nên tinh thần đâm ra hoảng hốt. Bảo Thoa nghĩ không hiểu vì lý do gì sao dò la mãi, mới biết là vì Diệu Ngọc bị bọn cướp bắt, không biết đi đâu. Bảo Thoa cũng thương cảm, nhưng thấy Bảo Ngọc buồn phiền, phải dùng lời ngay lẽ thẳng khuyên giải. Chị ta nói

– Cháu Lan từ khi đi đưa đám tang về. Tuy không đi học, nhưng ngày đêm vẫn mải miết học hành. Nó là chắt đầu của bà. Bà xưa nay trông mong cho cậu nên người. Cha ngày đêm lo lắng cho cậu. Thế mà cậu cứ ngây ngây, dại dại, làm hư hỏng mình. Chúng tôi đây làm bạn với cậu sau này sẽ ra sao đây?

Câu nói ấy làm cho Bảo Ngọc không biết trả lời ra sao. Hồi lâu mới nói

– Tôi có để ý gì đến việc người ta đâu. Tôi chỉ buồn vì vận nhà mình suy sụp!

Bảo Thoa nói

– Lại còn phải nói! Cha và mẹ vốn muốn cho cậu nên người để nối nghiệp ông cha. Thế mà cậu cứ mê man không tỉnh, thì làm thế nào?

Bảo Ngọc nghe chừng nói không vừa ý mình, liền dựa lên bàn mà ngủ. Bảo Thoa cứ để mặc, bảo bọn Xạ Nguyệt hầu, rồi đi vào đi ngủ.

Bảo Ngọc thấy lúc đó trong nhà vắng người, nghĩ bụng

“Từ khi Tử Quyên đến đây, mình chưa hề cùng chị ta nói chuyện tâm tình. Bộ chị ta lạnh nhạt như thế, mình rất lấy làm băn khoăn. Chị ta lại không phải như bọn Xạ Nguyệt, Thu Văn mà mình có thể bảo ban gì cũng được. Nhớ lại năm nọ khi mình ốm, chị ta ở với mình một độ lâu, có một cái gương nhỏ của chị ta hiện nay còn ở trong người mình. Chị ta cũng không phải là người vô tình. Bây giờ không biết vì sao, chị ta thấy mình cứ tỏ vẻ lạnh lùng, nhạt nhẽo. Nếu nói là vì vợ mình rất thân với em Lâm, và xem ra đối với Tử Quyên cũng khá. Lúc mình đi vắng, Tứ Quyên với nó cũng cười cũng nói không có chuyện gì ; chỉ khi mình đến là Tử Quyên chạy đi nơi khác. Chắc là Tử Quyên giận về chỗ em Lâm mới chết, mình đã cưới vợ. Chao ôi! Tử Quyên! Tử Quyên! Chị là người con gái thông minh như thế, mà không nghĩ cho nỗi khổ tâm của tôi. Rồi anh ta lại nghĩ – Đêm nay người thì ngủ, người thì làm việc, chi bằng nhân dịp này mình đi tìm Tử Quyên, xem chị ta có nói gì không. Nếu mình còn có điều gì không phải thì cứ xin lỗi chị ta cũng được.”

Bảo Ngọc nghĩ thế rồi bước nhẹ ra cửa phòng, đi tìm Tử Quyên. Phần Tử Quyên ở gian trong nhà phía tây. Bảo Ngọc nhè nhẹ đi đến dưới cửa sổ, thấy bên trong còn có bóng đèn, liền dùng lưỡi liếm cho rách giấy cửa sổ nhìn vào trong, thấy Tử

Quyên một mình khêu đèn ngồi ngơ ngẩn, chẳng làm gì cả.

Bảo Ngọc bèn gọi nhỏ

– Chị Tử Quyên ơi! Chị chưa ngủ à?

Tử Quyên nghe gọi, giật nẩy mình, ngơ ngác một hồi lâu, rồi mới hỏi

– Ai đấy?

– Tôi đây.

Tử Quyên nghe giống như tiếng Bảo Ngọc, liền hỏi

– Cậu Bảo đấy à?

Bảo Ngọc ở ngoài ừ một tiếng nhỏ. Tử Quyên hỏi

– Cậu đến có việc gì?

– Chị yên tâm, tôi muốn nói chuyện với chị. Chị mở cửa ra, tôi vào phòng chị ngồi một chút.

Tử Quyên im lặng một chốc, rồi nói

– Trời khuya rồi, mời cậu về đi, có chuyện gì ngày mai hãy nói. Bảo Ngọc nghe nói, lạnh ngắt nửa con người, muốn vào thì sợ Tử Quyên chưa chắc đã chịu mở cửa, muốn trở về thì mối tình thầm kín trong lòng càng bị lời nói của Tử Quyên khêu gợi. Bất đắc dĩ, anh ta phải nói

– Tôi cũng chẳng nói gì nhiều, chỉ hỏi chị một câu.

– Đã là một câu thì xin cứ nói ngay đi.

Bảo Ngọc đứng hồi lâu không nói gì cả..

Tử Quyên ở trong nhà, không nghe Bảo Ngọc nói, biết anh ta vốn có bệnh ngây, sợ trách móc nặng lời sẽ gợi bệnh của anh ta lên, thì lại không hay, liền đứng dậy lắng nghe một lát rồi lại hỏi

– Cậu đi rồi hay còn đứng ngây người ra đấy? Có chuyện gì không nói đi, cứ đứng ì ra đó mà trêu tức người ta? Đã trêu chết một người rồi, không lẽ lại định trêu chết một người nữa hay sao? Tội tình gì mà như thế?

Nói xong, chị ta cũng ghé vào lỗ giấy Bảo Ngọc liếm rách mà trông ra ngoài. Thấy Bảo Ngọc vẫn ngơ ngác đứng nghe ở đấy. Tử Quyên không tiện nói thêm nữa, quay lại cắt hoa đèn.

Bỗng nghe Bảo Ngọc thở dài một tiếng và nói

– Chị Tử Quyên ơi! Xưa nay chị vốn không phải là người ruột gan sắt đá như thế, sao mà gần đây chẳng hề nói một câu tử tế nào? Tôi cố nhiên là đồ dơ- đục, không đáng cho các chị nhìn tới, nhưng nếu tôi có điều gì không phải, mong chị cứ nói rõ ra, thì dẫu suốt đời chị không nhìn tôi, tôi chết đi cũng thỏa lòng?

Tử Quyên nghe xong, cười nhạt và nói

– Cậu Hai chỉ có câu chuyện ấy thôi à? Hay còn có gì nữa? Nếu chỉ có câu chuyện ấy, thì lúc cô tôi còn sống. Tôi nghe đã nhàm tai rồi ; nếu chúng tôi có chỗ nào sai lầm thì tôi là người bà lớn sai đến, cậu Hai cứ trình lại với bà lớn. Đằng nào chúng

tôi cũng là bọn con hầu, có đáng kể gì?

Tử Quyên nói đến đó, giọng đã nghẹn ngào, vừa nói vừa sụt sùi. Bảo Ngọc ở ngoài biết chị ta đau lòng mà khóc, liền hoảng lên dậm chân và nói

– Nói cái gì thế? Sự việc của tôi, chị ở đây đã mấy tháng trời, còn có gì chưa biết rõ hay sao? Dầu người khác không chịu nói hộ với chị cho tôi, không lẽ chị còn không để cho tôi nói, định bắt tôi chết đi à?

Nói xong, anh ta cũng khóc nức nở.

Bảo Ngọc đang đứng khóc ở đấy, bỗng nghe sau lưng có một người nói tiếp

– Cậu bảo ai nói hộ cho cậu? Mình mang lỗi với người ta thì mình phải nài xin lấy chứ? Người ta có nể mặt hay không thì mặc người ta, tại sao lại lôi cả bọn người vô can như chúng tôi vào đấy?

Câu nói ấy làm cho cả hai đều giật mình. Các bạn thử nghĩ người đó là ai? Đó là Xạ Nguyệt. Bảo Ngọc cảm thấy khó coi. Chợt nghe Xạ Nguyệt nói tiếp

– Rút cục lại làm sao thế? Một người xin lỗi. Một người cứ để mặc. Cậu phải mau mau van xin đi chứ! Chà? Chị Tử Quyên nhà mình cũng độc ác quá! Ngoài này trời lạnh như thế, người ta van xin mãi cũng không lay chuyển gì cả!

Rồi chị ta lại nói với Bảo Ngọc

– Vừa rồi mợ Hai nói trời khuya lắm rồi, tường là cậu đi đâu, té ra cậu lại một mình đứng dưới thềm cái phòng này làm gì?

Tử Quyên ở trong nhà nói tiếp

– Thế này là nghĩa lý gì? Mời cậu Hai đi về, có điều gì ngày mai hãy nói. Tội tình gì thế?

Bảo Ngọc còn muốn nói nữa, nhưng thấy Xạ Nguyệt ở đấy, nói không tiện, đành phải cùng Xạ Nguyệt đi về, và nói

– Thôi! Thôi! Đời này kiếp này tôi cũng khó mà giải tỏ nỗi lòng! Chỉ có trời già biết cho mà thôi!

Anh ta nói đến đó, chẳng biết nước mắt từ đâu tuôn ra như suối. Xạ Nguyệt nói

– Cậu Hai ạ, cậu nghe tôi khuyên mà dập tắt tấm lòng ấy đi thôi. Cứ nhỏ nước mắt suông như thế, cũng đáng tiếc đấy.

Bảo Ngọc cũng không nói lại, đi vào trong nhà, thấy BảoThoa đã ngủ rồi. Bảo Ngọc cũng biết là Bảo Thoa giả vờ ngủ. Chỉ có Tập Nhân nói một câu

– Có chuyện gì ngày mai cậu nói không được hay sao? Lại cứ chạy đến đấy mà quấy rầy, sinh ra…

Chị ta thôi không nói nữa, dừng một lát, mới nói tiếp

– Trong người cậu không thấy làm sao chứ?

Bảo Ngọc chỉ lắc đầu không nói gì. Tập Nhân liền dọn giúp cho Bảo Ngọc nằm xuống. Suốt đêm anh ta không ngủ, điều đó không cần phải nói.

Tử Quyên bị Bảo Ngọc gợi chuyện ra, trong lòng lại càng khó chịu, khóc suốt một đêm, nghĩ bụng

” Bảo Ngọc rõ ràng là vì ốm mê man, bị họ bày mưu lập kế mà sinh việc ấy. Sau đó anh ta rõ chuyện, bệnh cũ lại phát, thường thường nhớ nhung khóc lóc, không phải là hạng người quên tình phụ nghĩa. Hôm nay anh ta tỏ rõ mối tình âu yếm như thế, lại càng làm cho mình khó chịu. Chỉ đáng thương cô Lâm nhà mình thật là kém phúc. Xem như thế thì duyên phận con người đều đã định từ trước. Khi duyên phận chưa đến thì ai nấy đều ngây ngất mơ tưởng, đến lúc khôn làm sao được thì người hồ đồ sẽ không nghĩ gì nữa, còn người tình sâu nghĩa nặng rút cục cũng chỉ trông trăng đón gió, khóc lóc than phiền mà thôi. Đáng thương người chết chưa chắc đã biết gì, mà người sống thật là đau lòng xót ruột, không bao giờ nguôi. Kể ra thì con người không bằng cỏ, cây, hòn đá, không hay biết gì, thế mà lại được rãnh rỗi.” Chị ta nghĩ đến đó, tấm lòng chua xót, chốc lát trở nên nguội lạnh. Tử Quyên vừa định thu xếp đi ngủ, thì nghe bên nhà phía đông có tiếng ồn ào.

_________________

Chương 114: Vương Hy Phượng trải qua cơn ảo nhớ lại Kim Lăng – Chân ứng Gia được đội ơn vua về chầu ngọc khuyết

Vương Hy Phượng trải qua cơn ảo nhớ lại Kim Lăng

Chân ứng Gia được đội ơn vua về chầu ngọc khuyết

Bảo Ngọc, Bảo Thoa nghe nói bệnh Phượng Thư nguy cấp vội vàng ngồi dậy. A hoàn cầm đèn chờ sẵn. Đang định đi ra, thì thấy bên Vương phu nhân sai người đến nói

– Mợ hai Liễn nguy lắm rồi, nhưng chưa tắt thở. Mợ và cậu hãy khoan sang. Bệnh mợ hai Liễn có phần kỳ quặc ; từ canh ba đến canh tư, đòi hỏi luôn miệng, đòi thuyền đòi kiệu, nói là để về Kim Lăng nhập vào cuốn sổ gì đấy. Mọi người không hiểu. Mợ ta cứ kêu van khóc lóc. Cậu hai Liễn chẳng biết làm thế nào, đành phải sai người đi bẻ thuyền và kiệu giấy. Thuyền và kiệu chưa về, mợ ta cứ thở hổn hển chờ. Bà lớn sai chúng tôi đến đây, nói cậu mợ chờ mợ ấy tắt thở rồi hãy sang.

Bảo Ngọc nói

– Thế cũng lạ thật? Chị ấy đi Kim Lăng làm gì?

Tập Nhân nói khẽ

– Không phải năm trước cậu đã thấy chiêm bao. Tôi còn nhớ cậu nói có những mấy cuốn sổ à? Phải chăng là mợ hai Liễn đi đến chỗ ấy?

Bảo Ngọc nghe xong, gật đầu nói

– Phải đấy! Đáng tiếc tôi không nhớ những lời ghi trong mấy cuốn sổ ấy nữa. Xem như thế thì người ta ai cũng có số cả. Nhưng không biết em Lâm thì đi chỗ nào? Bây giờ nghe chị nói, tôi hơi hiểu rồi. Nếu lại được thấy chiêm bao mấy lần nữa, thế nào tôi cũng xem cho kỹ, có lẽ chẳng phải bói cũng đã biết trước.

Tập Nhân nói

– Cậu lẩn thẩn thế tôi không thể nói chuyện được. Tôi ngẫu nhiên nhắc đến một câu, mà cậu đã cho là thật? Cậu có biết trước thì liệu còn cách gì nữa.

Bảo Ngọc nói

– Chỉ sợ không biết trước thôi, nếu biết trước thì tôi cũng không cần gì lo lắng hão cho các người!

Hai người đang nói chuyện, thì Bảo Thoa chạy đến hỏi

– Hai người nói gì đấy?

Em chính là ánh sáng của anh, vạn năm không bao giờ đổi thay, bây giờ và mãi mãi.

Người đàn ông đẹp trai lạnh lùng ném tờ chi phiếu vào mặt, yêu cầu cô kết hôn. Nhưng đằng sau sự lạnh lùng có 1 bí mật…

Shopee Sale: Top 10 thực phẩm chức năng bảo vệ sức khỏe cả gia đình – Giá sale đến 40%

Mang mối thù gia tộc, cô bắt đầu thân phận mới để gả cho con trai kẻ thù, nhưng tình cảm lại là bài toán không đoán được
Bảo Ngọc sợ chị ta tra hỏi, liền trả lời

– Đang bàn chuyện chị Phượng.

– Người ta sắp chết rồi. Các người cứ bàn chuyện chị ấy làm gì. Năm trước cậu cứ nói tôi nguyền rủa chị ấy, chứ quẻ thẻ thần phải ứng nghiệm đấy à?

Bảo Ngọc nghĩ một lát, rồi vỗ tay và nói

– Phải đấy? Xem như thế thì mợ có thể biết trước được. Tôi hỏi mợ có biết tương lai của tôi sẽ như thế nào không?

Bảo Thoa cười và nói

– Lại nói nhảm rồi, tôi chẳng qua cứ lời trên quẻ thẻ chị ấy xin mà nói bừa ra đấy thôi, thế mà cậu lại cho là thật. Cậu thật giống như chị Hai nhà tôi. Lúc cậu mất ngọc, chị ta đi nhờ Diệu Ngọc cầu tiên, tiên viết chữ ra, mọi người không hiểu. Khi

vầng người, chị ta còn nói với tôi. Diệu Ngọc biết trước như thế nào, tham thiền ngộ đạo như thế nào, bây giờ chính Diệu Ngọc mắc nạn lớn, mà bản thân cô ấy lại không biết? Thế lại cho là biết trước à? Ngay cả tôi ngẫu nhiên nói đúng việc của mợ Hai, thực ra thì làm sao biết số chị ấy như thế nào? Ngay cả số tôi, tôi cũng chẳng biết nữa là. Những việc như thế, vốn là chuyện hoang đường, tin làm sao được?

Bảo Ngọc nói

– Đừng nhắc chuyện chị ấy nữa, mợ chỉ nói chuyện em anh thôi. Từ khi nhà ta luôn luôn có việc, lãng quên việc của cô ta. Một việc lớn như thế. Sao bên nhà lại làm qua loa xong chuyện? Cũng không mời mọc bà con chúng bạn gì cả.

Bảo Thoa nói

– Cậu nói như thế lại viễn vông rồi. Bà con nhà chúng tôi, chỉ có nhà mình đây và nhà họ Vương là gần gũi. Nhà họ Vương hiện chẳng có ai là người đứng đắn, còn nhà mình thì mắc việc tang bà, nên cũng không mời ; chỉ có anh Liễn là còn lo liệu việc này việc khác. Bà con nơi khác cũng có một vài nhà. Cậu không sang làm sao mà biết. Kể ra số phận chị Hai nhà tôi cũng chẳng khác tôi mấy, từ khi hứa gả cho anh Hai tôi, mẹ tôi vốn định cưới cho anh ấy thật đường hoàng. Nhưng một là vì anh Cả tôi đang bị giam, anh Hai cũng không chịu làm to; hai là vì việc nhà mình đây; ba là vì chị Hai ở bên nhà bà Cả khổ quá, lại bị khám xét, bà Cả hết sức cay nghiệt, chị ấy không thể chịu nổi. Vì thế tôi nói với mẹ tôi chịu làm qua loa bôi bác mà cưới về cho xong. Tôi xem chị Hai tôi giờ đây thật là yên tâm vui vẻ, hiếu kính mẹ tôi, so với dâu thật còn hơn gấp mười, đối đãi với anh Hai cũng giữ hết đạo làm vợ. Lại rất thân mật với chị Hương Lăng. Khi anh Hai tôi đi vắng, hai người ăn ở vui vẻ hòa thuận, tuy trong nhà có phần túng thiếu, nhưng gần đây mẹ tôi có phần ung dung hơn trước. Chỉ khi nào nghĩ đến anh Cả tôi là mẹ tôi không khỏi đau lòng. Anh Cả tôi cũng thường sai người về nhà lấy tiền tiêu, may nhờ anh Hai tính toán công nợ ở ngoài, lo tiền gởi cho. Tôi nghe nói có mấy ngôi nhà trong thành đã cầm đi rồi, còn lại một ngôi, bây giờ đang định dọn đến đấy ở.

Bảo Ngọc nói

– Tại sao lại định dọn đi? Ở chỗ này mợ qua lại cũng tiện, nếu dọn đi xa, mợ muốn đến phải mất một ngày.

Bảo Thoa nói

– Tuy nói là bà con, nhưng ai ở nhà nấy thì vẫn tiện hơn, lẽ nào lại ở nhà bà con suốt đời?

Bảo Ngọc còn định nói tại sao không nên dọn đi, thì thấy Vương phu nhân cho người đến nói

– Mợ hai Liễn đã mất. Tất cả mọi người đều qua bên ấy rồi. Mời cậu Hai và mợ Hai sang ngay.

Bảo Ngọc nghe nói, không nín được nữa, dẫm chân định khóc. Bảo Thoa cũng thương xót, lại sợ Bảo Ngọc thương tâm, liền nói

– Đừng khóc ở đây, sang bên ấy mà khóc luôn thể.

Rồi hai người đi một mạch đến nhà Phượng Thư, thì thấy có nhiều người đang đứng vây quanh mà khóc. Bảo Thoa tới nơi, thấy Phượng Thư chết rồi, đã đặt nằm trên giường, liền oà khóc to. Bảo Ngọc cũng nắm lấy tay Giả Liễn, khóc lóc thảm thiết. Giả Liễn lại khóc lóc lúc lâu. Bọn Bình Nhi thấy không có ai khuyên giải, đành phải cố nhịn đau thương mà tới khuyên. Mọi người đều thương khóc mãi.

Giả Liễn cuống quít sai người gọi Lại Đại đến, bảo ông ta lo liệu việc tang, còn mình thì thưa lại đầu đuôi với Giả Chính, rồi đi lo liệu công việc. Nhưng vì trong nhà thiếu thốn, nên việc gì cũng chật vật. Nhớ lại ngày thường Phượng Thư ăn ở quí hóa, hắn càng không sao cầm được nước mắt. Lại thấy Xảo Thư khóc lóc, chết đi sống lại, càng thêm thương tâm. Hắn khóc cho đến sáng, rồi sai người đi mời cậu cả là Vương Nhân đến.

Sau khi Vương Tử Đằng chết. Vương Tử Thắng lại là người bất tài. Vương Thân tha hồ càn dở làm cho bà con nội ngoại xích mích lẫn nhau. Nay nghe em gái chết, hắn ta đành phải chạy đến, khóc lóc một hồi. Thấy ở đấy mọi việc đều bôi bác qua loa, trong bụng hắn ta không bằng lòng, nói

– Em gái tôi ở nhà các người khó nhọc vất vả trông coi việc cửa việc nhà mấy năm nay, chẳng có điều gì sai lầm. Nhà các người cần phải tống táng cho ra trò mới phải. Tại sao đến giờ mà mọi việc vẫn chưa đầy đủ?

Giả Liễn vốn không bằng lòng với Vương Nhân, thấy hắn nói những câu nhảm nhí. Biết hắn chẳng hiểu gì, nên cũng không để ý. Vương Nhân liền gọi cháu ngoại là Xảo Thư lại, và nói

– Lúc mẹ cháu còn sống, ăn ở không chu đáo, chỉ biết một mực chiều chuộng bà mà khinh thường bọn chúng ta. Cháu này! Cháu đã lớn rồi. Cháu thấy cậu xưa nay có nhờ vả gì nhà cháu không? Bây giờ mẹ cháu chết rồi. Mọi việc cháu phải nghe lời cậu. Bà con bên ngoại nhà cháu chỉ có cậu đây và cậu Hai của cháu thôi. Cha cháu người như thế nào, cậu cũng biết cả. Anh ta chỉ có kính trọng người khác thôi. Năm nọ dì Vưu nào đó chết đi, cậu tuy không ở Kinh nhưng nghe nói cha cháu mất khá nhiều tiền. Nay mẹ cháu chết, cha cháu lại lo liệu qua loa như thế. Cháu cũng không biết khuyên cha cháu à?

Xảo Thư nói

– Cha cháu cũng muốn lo liệu cho chu đáo. Nhưng bây giờ không bì với trước được. Hiện giờ trong tay không có tiền, mọi việc đều phải dè sẻn ít nhiều.

– Đồ đạc của nhà cháu còn ít à?

– Năm trước bị tịch thu hết, còn đâu nữa?

– Cháu cũng nói như thế à? Cậu nghe nói cụ bà lại cho một số đồ vật, cháu nên đưa ra mới phải.

Xảo Thư nói cha mình đã dùng đi rồi thì không tiện, nên chỉ chối là không biết. Vương Nhân liền nói

– Chà? Tao biết rồi, chẳng qua mày muốn để dành sau này làm đồ hồi môn đấy thôi.

Xảo Thư nghe nói, không dám trả lời. Tức quá nghẹn ngào khóc lên. Bình Nhi giận quá nói

– Cậu có điều gì thì chờ cậu Hai chúng tôi vào hãy nói. Cô mới chừng ấy tuổi. đã hiểu cái gì?

Vương Nhân nói

– Bọn các người thì chỉ trông chờ cho mợ Hai chết đi, để dễ làm vương làm tướng! Tôi có đòi gì đâu. Lo liệu cho chu đáo là thể diện của các người đấy thôi. Nói xong, hắn hầm hầm ngồi xuống.

Xảo Thư trong bụng rất bực bội, nghĩ thầm

“Cha mình không phải người phụ bạc. Khi mẹ mình đang còn, cậu lấy không biết bao nhiêu là đồ vật, thế mà bây giờ lại chối trơn đi như thế.” Vì thế, cô ta không trọng cậu lắm. Ngờ đâu Vương Nhân trong bụng suy nghĩ, em gái mình dành dụm không biết bao nhiêu, tuy nhà bị khám xét, nhưng tiền bạc có phải ít đâu. Chắc là sợ mình đến vòi vĩnh nên bày trò nói như thế. Con bé kia cũng không giúp mình được gì. Từ đó Vương Nhân cũng ghét cả Xảo Thư. Giả Liễn chẳng hề biết gì, chỉ loay hoay kiếm tiền để tiêu. Mọi việc ở ngoài, bảo Lại Đại lo liệu ; bên trong cũng cần tiêu khá nhiều tiền, không thể một lúc kiếm đâu ra được. Bình Nhi biết hắn hoảng hốt liền can

– Cậu Hai cũng không nên hủy hoại đến thân thể lắm?

– Còn thân với thể gì! Hiện giờ tiền tiêu hàng ngày không còn nữa, việc này biết lo liệu làm sao? Thế mà lại có hạng người lẩn thẩn cứ ở đây quấy rầy. Chị cứ nghĩ xem còn cách gì nữa?

– Cậu cũng đừng hoảng lên, nếu không có tiền tiêu thì tôi còn ít nhiều đồ vật. May mà năm trước không bị tịch thu, cậu cần thì đem cầm đi mà tiêu.

Giả Liễn nghe nói, nghĩ bụng, thế thật may quá, liền cười và nói

– Thế thì càng tốt, đỡ cho tôi khỏi phải chạy vay nơi này nơi khá. Chờ khi nào tôi kiếm được tiền sẽ trả lại cho chị.

– Của tôi cũng là của mợ cho, trả với vay gì! Cốt làm sao lo liệu việc này cho dễ coi một chút là được.

Giả Liễn rất là cảm kích, liền đem đồ vật của chị ta cầm đi mà tiêu. Mọi việc cùng bàn hạc với chị ta mà làm! Thu Đồng thấy vậy, trong bụng khó chịu, thường nói ra miệng

– Mợ Hai chết rồi. Con Bình muốn leo lên đấy? Tôi là người của ông lớn. Sao nó lại vượt cả tôi?

Bình Nhi cũng biết ý, nhưng cứ để mặc. Giả Liễn lúc đó biết rõ, nên càng ghét Thu Đồng, gặp việc gì buồn bực thì đem Thu Đồng ra hành hạ. Hình phu nhân biết thế, lại bảo Giả Liễn không tốt. Giả Liễn đành phải chịu nhịn.

Linh cữu của Phượng Thư để hắn mười ngày rồi mới đưa đi. Giả Chính chịu tang mẹ, nên chỉ ở thư phòng bên ngoài. Lúc bấy giờ bọn môn khách đều dần dần từ biệt đi nơi khác, chỉ có Trình Nhật Hưng còn ở đấy, thường ngồi tiếp chuyện. Giả Chính nói

– Vận nhà không may. Chết luôn mấy người, ông Cả và anh Trân lại còn ở ngoài. Cảnh nhà càng ngày càng gặp khó khăn. Ruộng đất ở ngoài trại Đông cũng chẳng biết ra làm sao. Thật là gay?

Trình Nhật Hưng nói

– Tôi ở đây đã mấy năm, cũng biết người nhà ở phủ đây không ai là không tư túi. Năm nào họ cũng bòn của về nhà thì cố nhiên ở phủ đây càng ngày càng thiếu hụt. Lại thêm phải chi tiêu cho bên ông Cả và ông Trân nữa. Bên ngoài, còn có ít nhiều nợ, vừa rồi lại mất trộm một ít, trông mong các nha môn truy lùng đám cướp để lấy lại của, là việc rất khó. Ông lớn nếu muốn cho việc nhà ổn định, chỉ có cách gọi hết những người coi việc nhà đến, sai một người tâm phúc tra xét rõ ràng các nơi; ai nên cho về thì cho về, ai nên ở lại thì ở lại ; chỗ nào bị thiếu hụt mất mát, thì bắt những người đã làm trước phải bồi thường. Như thế mới được rõ ràng. Cái vườn lớn kia, không ai dám tấu, nhưng trong đó có nhiều món lợi, thế mà lại không cắt người coi sóc. Mấy năm trước đây khi ông lớn đi vắng, bọn họ bịa đặt ra ma quỷ làm cho không ai dám vào vườn. Đó đều do bọn người nhà gây chuyện. Lúc này nên tra xét lại bọn tôi tớ, tốt thì dùng, không tốt thì đuổi đi. Thế mới là hợp lý.

Giả Chính gật đầu nói

– Tiên sinh cũng chưa biết hết! Chẳng cần nói người nhà, ngay cả cháu mình, cũng không thể tin cậy được! Nếu bảo tôi tra xét lấy thì làm thế nào mà việc gì cũng tai nghe mắt thấy được hết? Vả lại tôi lại đang có tang, không có thể trông nom được

những việc ấy. Tôi xưa nay lại không hay xem xét việc nhà. Cái gì có, cái gì không, tôi cũng không hề biết đến.

– Ông lớn là người nhân đức, nếu như ở nhà khác mà gặp tình cảnh thế này, dầu cho có túng thiếu đi nữa, năm năm mười năm cũng còn không sợ. Chỉ bắt bọn quản gia mà lấy cũng đủ. Tôi nghe nói người nhà của ông còn có người làm tri huyện kia mà.

– Tiêu tiền của bọn người nhà thì còn ra gì nữa. Chỉ có cách tự mình biết tiết kiệm ít nhiều là hơn. Những sản nghiệp trong sổ sách, nếu mà có thật thì còn khá, chỉ sợ có danh mà không có thực thôi.

– Ông lớn nói rất đúng. Nhưng ông lớn có hiểu vì sao vãn sinh này lại nói ông cần phải xem xét không?

– Chắc là tiên sinh có nghe được việc gì chăng?

– Tôi có biết ít nhiều về mánh khóe của những người coi việc ở đây nhưng cũng không dám nói ra.

Giả Chính nghe nói, biết ngay là trong lời nói ấy thế nào cũng có duyên cớ, liền than thở

– Nhà chúng tôi từ cha ông tới nay, đều là nhân hậu, chưa hề đối đãi khắc bạc với người dưới. Tôi xem giờ đây bọn người ấy mỗi ngày mỗi khác! Đến ngay tôi mà chúng vẫn lên mặt chủ nhà, thực làm cho người ta chê cười!

Hai người đang nói chuyện thì người canh cửa vào thưa

– Cụ Chân ở Giang Nam đã đến.

Giả Chính hỏi

– Cụ Chân đến kinh làm gì?

– Con đã hỏi rồi. Nghe nói là nhờ ơn Hoàng thượng cho phục chức.

– Không cần nói nữa. Mày ra mời vào mau.

Người kia đi ra, mời vào ông Chân tức là cha Chân Báo Ngọc, tên là Chân Ứng

Gia, tức là Hữu Trung, cũng người Kim Lăng, và là con cháu nhà công thần. Ông ta vốn có bà con với phủ Giả. Xưa nay vẫn thường đi lại. Năm trước vì phạm lỗi, bị cách chức, bị tịch thu gia sản. Nay gặp lúc hoàng thượng tưởng nhớ đến công thần, trả lại chức thế tập và gọi vào kinh bệ kiến. Ông ta biết Giả mẫu vừa mất, liền sắm sửa lễ vật, chọn ngày đến chỗ để linh cữu để viếng, vì thế đến nhà hỏi thăm trước.

Giả Chính có tang, không thể ra đón xa, chỉ đứng bên ngoài cửa thư phòng. Chân Ứng Gia vào gặp, vừa buồn vừa vui. Vì trong lúc có tang, Giả Chính không tiện hành lễ, nên hai người cầm tay nhau nói mấy câu chuyện xa cách tưởng nhớ, rồi đôi bên khách chủ cùng ngồi. Dâng trà xong, hai bên lại nói về chuyện sau khi xa cách. Giả Chính hỏi

– Ông vào bệ kiến bao giờ?

– Hôm trước.

– Chúa thượng đã có ơn hậu, chắc là có chỉ dụ khoan hồng.

– Ơn chúa thượng thật là cao hơn trời, có ban khá nhiều chỉ ý.

– Có chỉ ý gì hay?

– Gần đây bọn giặc ở đất Việt lăng loàn. Một dãy ven biển, nhân dân không yên. Chúa thượng đã sai An Quốc công đi đánh dẹp. Biết tôi quen thuộc nơi này, nên chúa thượng sai tôi qua đó vỗ yên dân chúng. Nhưng phải lên đường ngay. Hôm qua nghe nói cụ bà quy tiên, tôi kính cẩn sắm nén hương đến trước linh vị người cúng viếng, đặng tỏ chút lòng thành.

Giả Chính vội vàng khấu đầu bái tạ, và nói

– Ông đi lần này, chắc là trên thỏa lòng thánh thượng, dưới yên ổn nhân dân. Công lao rất lớn chính là ở chuyến đi này. Mắt tôi không được nhìn thấy tài cao. Xin chờ nghe tin báo tiệp. Quan trấn hải thống chế hiện nay là thông gia nhà tôi. Thế nào

cũng nhờ ông để ý giúp đỡ.

– Ông với quan thống chế bà con thế nào?

– Năm trước, lúc tôi nhậm chức lương đạo tỉnh Giang Tây, có gả con gái cho quan thống chế. Chúng kết hôn đã ba năm rồi. Vì công việc miền biển chưa xong, sau đó bọn giặc biển lại nhóm họp làm loạn. cho nên tin tức không thông. Tôi rất nhớ cháu. Chờ khi nào việc vỗ yên dân chúng xong. Xin ông tiện dịp qua thăm cháu một chút. Tôi xin viết vài chữ nhờ người nhà của ông đưa đi luôn thể. Tôi rất lấy làm cảm kích!

– Ai lại không thương cảm. Tôi cũng đang có việc muốn nhờ ông. Vừa rồi đội ơn thánh thượng triệu vào kinh, vì cháu còn trẻ tuổi, trong nhà lại thiếu người, nên phải đem cả gia quyến cùng vào kinh. Tôi vì lệnh trên gấp rút, nên phải đi luôn cả đêm ngày để đến trước. Gia quyến còn đi chậm lại sau. Ít hôm nữa mới tới kinh. Tôi vâng chỉ ra đi, không dám ở lại lâu. Sau này gia quyến của tôi tới kinh, thế nào cũng đến tôn phủ đây. Và chắc sẽ bảo cháu tới hầu. Nếu cháu có thể dạy bảo được thì gặp nơi nào có thể kết hôn, xin ông lưu ý cho, tôi rất lấy làm cảm kích.

Giả Chính đều vâng lời.

Chân Ứng Gia lại nói mấy câu chuyện nữa rồi định đứng dậy ra về, và nói

– Ngày mai tôi sẽ xin gặp lại ở ngoài thành.

Giả Chính thấy ông ta công việc vội vàng, liệu chừng không thể ngồi lâu được nữa, đành phải tiễn khỏi thư phòng. Giả Liễn và Bảo Ngọc đã chờ sẵn ở đấy để tiễn thay. Nhưng vì Giả Chính không gọi, nên chưa dám vào. Khi Chân Ứng Gia đi ra, hai người tới hỏi thăm sức khỏe. Ứng Gia chợt thấy Bảo Ngọc, hết sức sửng sốt, nghĩ bụng

“Anh này tại sao lại giống hệt Bảo Ngọc nhà mình, chỉ có khác là mặt đồ trắng thôi.” Ông ta liền hỏi

– Bà con thân thiết, lâu ngày không gặp nhau. Các cậu đây tôi đều không nhận ra ai được nữa cả.

Giả Chính vội vàng chỉ Giả Liễn mà nói

– Đây là cháu Hai Liễn. Con anh Xá nhà tôi.

Lại chỉ Bảo Ngọc mà nói

– Đây là cháu thứ hai của tôi, tên gọi là Bảo Ngọc.

Ứng Gia vỗ tay và nói

– Lạ thật! Lúc tôi ở nhà nghe nói ông có cậu con quý. Khi đẻ ngậm hòn ngọc, tên là Bảo Ngọc. Vì là trùng tên với thằng cháu nhà tôi, nên trong bụng tôi rất lấy làm lạ. Sau nghĩ việc ấy cũng thường, nên không để ý. Không ngờ hôm nay gặp mặt, chẳng những diện mạo giống nhau, mà bộ điệu đi đứng cũng hệt nhau, thì càng lạ quá!

Ứng Gia lại hỏi tuổi Bảo Ngọc, và nói

– Cháu nhà tôi kém cậu em đây một tuổi.

Giả Chính lại nhắc đến chuyện năm trước bên quý phủ tiến cử Bao Dũng, và đã hỏi đến việc cậu em bên nhà cùng thằng cháu đây trùng tên. Ứng Gia vì để ý vào Bảo Ngọc, nên cũng không kịp hỏi Bao Dũng hay dở như thế nào, cứ nói luôn miệng

– Thật là lạ lùng! Rồi ông ta cầm tay Bảo Ngọc, ngỏ ý ân cần. Nhưng lại sợ An Quốc công khởi hành rất gấp, cần phải sắm sửa để đi xa, nên đành miễn cưỡng chia tay. Giả Liễn và Bảo Ngọc tiễn chân. Dọc đường, ông ta lại hỏi Bảo Ngọc mấy câu rồi sau đó mới lên xe mà đi. Giả Liễn và Bảo Ngọc trở vào gặp Giả Chính thuật lại những chuyện Ứng Gia vừa hỏi. Giả Chính bảo hai người về nhà.

Giả Liễn lại xoay xở để cho xong số tiền tiêu về đám tang Phượng Thư.

Bảo Ngọc về phòng mình, nói chuyện với Bảo Thoa

– Anh Chân Bảo Ngọc mà ta thường nhắc đến, tôi cứ nghĩ là không thể gặp được. Hôm nay lại gặp bố anh ta rồi. Nghe ông ta nói ít ngày nữa Chân Bảo Ngọc cũng lên kinh, và sẽ đến chào cha. Ông ta cũng nói Chân Bảo Ngọc giống hệt tôi, tôi vẫn không tin. Nếu hôm sau anh ta đến nhà mình, các chị đến xem có thật giống tôi không?

Bảo Thoa nói

– Ái chà! Cậu nói rõ vớ vẩn! Người con trai nào giống mình cậu cũng bàn tán, lại bảo chúng tôi ù lì xem mặt nữa kia!

Bảo Ngọc nghe nói, biết mình lỡ lời, đỏ mặt, định tìm lời phân giải.

Chương 115: Tri lời thiên lệnh, Tích Xuân thề vẫn giữ chí xưa – Tên người dù giống nhau, Bảo Ngọc không coi là tri kỷ

Tri lời thiên lệnh, Tích Xuân thề vẫn giữ chí xưa

Tên người dù giống nhau, Bảo Ngọc không coi là tri kỷ

Bảo Ngọc biết mình lỡ lời, bị Bảo Thoa bẻ lại, đang tìm cách lấp liếm. Bỗng thấy Thu Vân đến thưa

– Ông lớn ở nhà ngoài gọi cậu đấy.

Bảo Ngọc vội vã đi ngay đến chỗ Giả Chính. Giả Chính nói

– Ta gọi mầy không có việc gì khác là hiện mầy đang có tang, không thể đến trường học, vậy ở nhà mầy phải cố chăm lo ôn lại bài vở. Nhân dịp này ta rỗi rãi, cứ vài ba ngày, mầy làm vài bài văn đưa tới, ta xem mầy học hành có tấn tới không.

Bảo Ngọc đành phải vâng lời. Giả Chính lại nói

– Tao cũng bảo em Hoàn và cháu Lan phải ôn tập bài vở. Nếu bài vở của mầy mà kém chúng nó thì thật không ra thể thống gì.

Bảo Ngọc không dám nói, chỉ dạ một tiếng, đứng yên.

Giả Chính bảo

– Thôi, cho về.

Bảo Ngọc lui ra, vừa gặp bọn Lại Đại đem sổ đến trình. Bảo Ngọc chạy một mạch về phòng, Bảo Thoa hỏi lại, biết rõ là Giả Chính bắt anh ta làm bài, trong lòng cũng mừng. Riêng Bảo Ngọc không thích nhưng cũng không dám lười biếng. Đang định ngồi một lúc để cho tâm hồn thư thái, bỗng thấy hai ni cô ở am Địa Tạng đến. Trông thấy Bảo Thoa, hai ni cô liền nói

– Xin đến chào mợ Hai.

Bảo Thoa ra vẻ thờ ơ nói

– Hai cô vẫn mạnh khỏe chứ?

Rồi gọi người hầu pha trà cho các sư phụ uống, Bảo Ngọc cũng muốn bắt chuyện với các ni cô, nhưng thấy Bảo Thoa có vẻ chán ngấy bọn họ nên cũng không tiện xen vào. Các ni cô thấy Bảo Thoa ra chiều lạnh nhạt, cũng không ngồi lâu, cáo từ xin về.

Bảo Thoa nói

– Ngồi chơi lúc nữa.

– Chúng tôi bấy lâu bận việc công đức ở chùa Thiết Hạm nên không đến thăm các bà và các mợ được. Hôm nay đến hầu bà và mợ rồi phải đến thăm cô Tư nữa.

Bảo Thoa gật đầu, để họ đi. Đến phòng Tích Xuân, các ni cô trông thấy Thái Bình liền hỏi

– Cô ở đâu?

– Đừng nhắc đến nữa. Cô tôi mấy hôm nay chẳng thiết ăn uống gì cả, chỉ nằm một chỗ.

– Sao thế?

– Nói ra thì dài lắm. Các cô vào thăm, có lẽ cô tôi sẽ nói chuyện đấy.

Tích Xuân nghe tiếng, vội ngồi dậy hỏi

– Hai cô vẫn khỏe mạnh đấy chứ? Gần đây thấy nhà chúng tôi sa sút, chắc các cô không đến nữa?

– A di đà phật? Dù có cho hay không thì cũng vẫn là thí chủ. Đó là không nói chúng tôi tu ở trong am nhà ta, chịu nhiều ơn huệ của cụ. Nay nhân việc tang của cụ, chúng tôi đã gặp đủ các bà và các mợ, chỉ còn thiếu cô thôi, nên nhớ cô, hôm nay chúng tôi cốt đến thăm cô đấy.

Tích Xuân nhân tiện hỏi thăm các cô tu trong am Thủy Nguyệt. Các ni cô nói

– Trong am có xảy ra chút việc không hay, nên lâu nay không cho người ngoài ra vào.

Đoạn họ lại hỏi Tích Xuân

– Hôm trước nghe nói sư phụ Diệu Ngọc ở am Lũng Thúy đã đi theo người ta phải không?

– Câu nói ấy ở đâu ra thế? Ai nói coi chừng sẽ bị cắt lưỡi đấy? Người ta bị kẻ cướp bắt đi, sao lại nói bậy như vậy?

– Sư phụ Diệu Ngọc là người kỳ quặc, chúng tôi sợ cô ta bày đặt ra thôi. Trước mặt cô, nói ra thì không tiện, chứ cô ta có phải như bọn quê mùa chúng tôi đâu. Chúng tôi chỉ biết tụng kinh niệm Phật, sám hối cho người khác, và cũng tu lấy thiện quả cho mình.

– Như thế nào là thiện quả?

– Những người ăn ở phúc đức như nhà ta đây thì không kể, còn các nhà khác thì dù là mệnh phụ, tiểu thư cũng khó lòng giữ trọn vinh hoa suốt đời. Đến lúc gặp tai nạn, sẽ không tài nào cứu vớt được. Chỉ có đức Phật Quan âm đại từ đại bi thấy người khổ nạn mới rủ lòng từ bi ớm phương cứu giúp. Vì thế xưa nay người ta vẫn gọi bà là đức Phật Quan âm đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn. Chúng tôi là người tu hành, so với các bậc phu nhân, tiểu thư thì chịu khổ nhiều hơn, nhưng lại ít gặp tai nạn. Dù không được thành Phật thành tiên, nhưng cũng cố tu để kiếp sau họa may làm con trai. Như thế đã là phúc rồi, không đến nỗi như cái kiếp con gái bây giờ, bao nhiêu nỗi uất ức lo buồn, đều không thể nói ra được. Thưa cô, cô còn chưa biết hay sao? Dù là bậc tiểu thư đi nữa, nhưng đã lấy chồng thì suốt đời chỉ biết theo người ta mà thôi. Nhưng đã tu thì phải tu cho đứng đắn. Sư phụ Diệu Ngọc cứ cho mình tài giỏi hơn chúng tôi, cứ chê bọn chúng tôi là tục. Biết đâu có tục mới có “duyên lành”. Còn mình, rốt cuộc lại gặp phải điều khổ lớn!

Tích Xuân nghe các sư cô nói rất hợp với ý của mình, nên cũng không ngại có bọn a hoàn ở đó, kể chuyện Vưu thị đối xử với mình thế nào. Hôm trước mình ở lại coi nhà trong lúc đám tang như thế nào, đoạn chỉ món tóc trên đầu, nói

– Các cô xem tôi còn luyến tiếc cái hố lửa này không? Tôi rắp tâm từ lâu, chỉ vì chưa biết tìm ra con đường nào đó thôi.

Các ni cô nghe vậy, giả bộ làm kinh hoảng

– Cô đừng nói thế chứ! Mợ Cả Trân mà nghe thấy thì nhất định mắng chúng tôi chết mất và sẽ đuổi chúng tôi ra khỏi am đấy. Cô là người phẩm cách như thế, gia đình như thế, ngày sau lấy chồng sẽ suất đời hưởng vinh hoa phú quý…

Tích Xuân không đợi họ nói hết lời, mặt đỏ lên, bảo

– Chị cả Trân đuổi được các cô. Tôi lại không đuổi được các cô hay sao?

Các ni cô biết Tích Xuân một lòng muốn đi tu, liền tìm lời nói khích

– Chúng tôi lỡ lời, xin cô đừng chấp. Các bà và các mợ đời nào lại chiều theo ý muốn của cô? Lại xảy ra chuyện lôi thôi thì thật không ra làm sao. Chúng tôi nói vậy cũng là vì cô đấy.

Tích Xuân nói

– Việc này chờ xem sao đã.

Thấy câu chuyện không hay. Bọn Thái Bình liền đưa mắt ra hiệu. Họ hiểu ý, cũng sợ, nên không dám gợi chuyện, liền cáo từ ra về.

Tích Xuân cũng không mời lại, chỉ cười nhạt, nói

– Xem chừng trong thiên hạ chỉ có một cái am Địa Tạng của các cô hay sao?

Các in cô không dám trả lời. Thấy vậy. Thái Bình sợ mang lỗi, liền đến trình với Vưu thị

– CôTư khăng khăng đòi cắt tóc đi tu. Mấy hôm nay không phải cô ấy đau ốm đâu mà chỉ vì than thân tủi phận đấy thôi. Mợ nên đề phòng, kẻo xảy ra việc rồi lại đổ tội cho chúng cháu.

Vưu thị nói

– Lẽ nào cô ấy lại muốn đi tu. Chỉ vì cậu nhà đi vắng nên cô ấy cố ý làm ra thế, để tỏ ra chẳng ăn ở được với ta. Thôi thì cứ mặc cô ấy!

Bọn Thái Bình không biết làm thế nào, đành chỉ tìm lời khuyên giải. Không ngờ Tích Xuân vẫn không chịu ăn uống gì, chỉ nói đến việc cắt tóc đi tu. Bọn Thái Bình không thể làm thinh, đành phải đi trình các nơi. Hình phu nhân và Vương phu nhân cũng khuyên can nhiều lần, nhưng Tích Xuân vẫn một mực không nghe. Hai người đang định trình với Giả Chính, bỗng bên ngoài có tin truyền vào

– Bà lớn họ Chân dẫn công tử Bảo Ngọc đến.

Mọi người vội vàng ra đón, mời bà Chân vào phòng Vương phu nhân. Hai bên chào hỏi, hàn huyên. Vương phu nhân sực nhớ người ta nói Bảo Ngọc giống hệt con mình nên mới mời anh ta vào để xem mặt. A hoàn đi ra một lúc trở lại nói

– Cậu Chân đang ở thư phòng hầu chuyện ông lớn. Ông lớn rất vừa lòng nên có sai người đến mời cậu Hai, cậu Ba và cả anh Lan cũng ra ngoài ấy ăn cơm. Ăn xong, cậu Chân sẽ xin vào hầu. Sau đó trong nhà cũng dọn cơm ăn.

Số là Giả Chính trông thấy diện mạo của Chân Bảo Ngọc giống hệt con mình. Khi hỏi đến văn chương, anh ta đối đáp như nước chảy, nên trong lòng rất là yêu mến, bèn cho gọi bọn Bảo Ngọc ra cốt để khuyên răn họ. Đồng thời, cũng muốn nhân đó so sánh giữa hai người xem sao. Bảo Ngọc vâng lời, mặc bộ đồ trắng, dẫn em và cháu đi ra. Trông thấy Chân Bảo Ngọc, Giả Bảo Ngọc thân mật như bạn cũ. Chân Bảo Ngọc cũng tưởng chừng như mình đã gặp Giả Bảo Ngọc ở đâu rồi. Hai chào hỏi nhau xong. Giả Hoàn và Giả Lan cũng đến chào. Giả Chính trải chiếu ngồi dưới đất 1, muốn mời Chân Bảo Ngọc ngồi trên ghế, nhưng anh ta là bậc con, đời nào dám ngồi, liền trải nệm ra ngồi giữa đất. Nay Bảo Ngọc đến, nhất định không thể ngồi chung với Giả Chính được. Chân Bảo Ngọc lại là hàng em, càng không thể để Giả Bảo Ngọc cứ đứng mãi đấy. Giả Chính thấy không tiện, chuyện trò vài câu rồi đứng dậy, bảo người nhà dọn cơm và nói

– Tôi xin lỗi để các em ngồi tiếp. Anh em nói chuyện với nhau. Mong cậu dạy bảo cho.

Chân Bảo Ngọc khiêm tốn từ tạ

– Xin bác cho tùy tiện. Chính cháu cũng muốn học hỏi các anh đây!

Giả Chính đáp lại vài lời rồi đi vào thư phòng. Chân Bảo Ngọc muốn tiễn ra cửa. Giả Chính ngăn lại. Bọn Bảo Ngọc ra đứng ngang ngưỡng cửa thư phòng đợi Giả Chính đi rồi mới trở vào mời Chân Bảo Ngọc ngồi. Hai bên nói những lời khách sáo một lúc. Đại khái

“bấy lâu nghe tiếng. vẫn mong gặp mặt” v. v.

Giả Bảo Ngọc gặp Chân Bảo Ngọc liền nhớ lại cuộc gặp gỡ trong giấc mộng khi trước. Lại vốn biết Chân Bảo Ngọc là người như thế nào, nên chắc rằng anh ta sẽ cùng một ý nghĩ như mình, và nghĩ rằng mình đã gặp được người tri kỷ. Nhưng vì mới gặp nhau lần đầu, không thể ăn nói vội vàng, lại có Giả Hoàn, Giả Lan ngồi đó, nên Bảo Ngọc đành phải hết lời khen ngợi

– Nghe tiếng anh đã lâu, chưa có dịp được gần. Hôm nay gặp mặt, trông anh thật là hạng thần tiên giáng thế!

Chân Bảo Ngọc thường ngày cũng đã biết Giả Bảo Ngọc là người như thế nào. Hôm nay gặp mặt, quả là không sai, nghĩ bụng

“Anh này chỉ có thể cùng chung học, chứ không thể cùng đi một đạo với mình. Anh ta không những trùng tên mà diện mạo lại như nhau. Âu cũng là linh hồn cũ trên hòn đá “tam sinh” đây mà.

Nay ta có hiểu biết ít nhiều lý lẽ, sao không đưa ra giảng giải cho anh ấy nghe. Nhưng vì mới gặp lần đầu, chưa biết anh ấy có suy nghĩ như mình hay không, nên phải để thư thả đã.”

Chân Bảo Ngọc nói

– Tài danh của anh, em đã biết từ lâu. Anh thực là học thanh nhã, mười người mới có một. Còn em đây chỉ là hạng ngu dại, tầm thường, thế mà lại được trùng tên với anh, em cảm thấy đã làm nhơ bẩn đến cái tên Bảo Ngọc ấy.

Giả Bảo Ngọc nghe xong, nghĩ bụng

” anh này quả cùng một ý nghĩ với mình. Nhưng anh ta với mình đều là con trai, có đâu được trong sạch như đám con gái. Vì sao anh ta lại xem mình như con gái?” Nghĩ vậy, rồi đáp

 Anh quá lời khen. Tôi đâu dám nhận. Tôi là hạng rất ngu, rất bẩn, chẳng qua chỉ là một hòn đá thô kệch đó thôi. Tôi dám đâu sánh với anh có đủ phẩm cách thanh cao, thực là người xứng đáng với hai chữ ấy.

Chân Bảo Ngọc nói

– Hồi còn bé, em chưa biết cân nhắc, cứ cho mình có thể mài dũa được. Không ngờ vận nhà gặp cơn sa sút, nên vài năm nay em lại càng kém xa ngói gạch. Tuy em không dám khoe đã từng trải hết mùi cam khổ. Nhưng về nhân tình thế thái thì em cũng đã hiểu được ít nhiều. Anh là con nhà phú quý, mặc đẹp ăn sang. Việc gì cũng được vừa lòng, chắc rằng áng văn chương cũng như tài kinh bang tế thế của anh phải hơn hẳn mọi người. Vì vậy bác mới thương yêu, coi như hòn ngọc quý. Cho nên vừa rồi em bảo anh thật xứng đáng với cái tên Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc lắng nghe, thấy trong lời lẽ chẳng khác gì khuôn sáo của bọn “mọt ăn lộc nước”, nên đương nghĩ cách trả đũa.

Giả Hoàn chưa được nói chuyện với Chân Bảo Ngọc, trong bụng thấy ấm ức. Trái lại, Giả Lan nghe vậy, thấy rất hợp ý mình, liền đỡ lời

– Anh khiêm tốn quá đấy thôi. Văn chương cũng như tài kinh bang tế thế tất phải do rèn luyện mà ra mới là thực học. Cháu còn nhỏ tuổi, chưa hiểu rõ văn chương là gì. Nhưng cứ nghiền ngẫm thì thấy thú vị lắm. Cho hay danh tiếng còn quý gấp trăm lần cái trò ăn ngon mặc đẹp.

Giả Bảo Ngọc nghe vậy càng không thích, nghĩ rằng

“không biết thằng bé này học cái lối gàn dở ấy từ bao giờ?” Và nói

– Tôi nghe anh nói ghét bọn tục, chắc trong lòng anh thế nào cũng có những ý nghĩ khác người. Hôm nay may mắn được tiếp mong anh dạy bảo cho những điều “siêu phàm nhập thánh”, để từ nay em rửa sạch được lòng trần, mở rộng được tầm con mắt. Không ngại anh lại cho em là một phường ngu xuẩn, nên đã đem cái chuyện của bọn tục khách ra nói với em.

Chân Bảo Ngọc nghe vậy, trong bụng hiểu rằng

“anh ta biết rõ tính tình của mình lúc còn nhỏ nên mới ngờ mình giả dối. Thôi mình cứ nói thẳng, may ra anh ta sẽ là bạn tri âm của mình thì hay lắm. Nghĩ rồi nói

– Anh nói thật là sâu sắc. Từ bé em đã ghét cay ghét độc những câu khuôn sáo cũ rích ấy. Chỉ vì mỗi năm một lớn, thân phụ em lại về hưu, nhác tiếp khách, thường giao việc ấy cho em. Nhờ vậy, em gặp dược các bậc đại nhân, những vị đã làm rạng rỡ cha ông, danh tiếng lẫy lừng. Em lại thấy người ta viết sách viết văn, không ngoài chữ trung chữ hiếu. Bản thân mình có lập nên dược sự nghiệp đạo đức và văn chương mới khỏi uổng cái cơ hội được sinh ra trong thời vua thánh trị vì. Và cũng không phụ công ơn cha nuôi thầy dạy. Vì thế, bao nhiêu chuyện thoát phàm tục đi vào cõi thánh mơ tưởng hão huyền ngây ngô của em hồi bé dần dần thì vứt bỏ hết. Nay em cũng muốn đi tìm thầy hỏi bạn, dạy bảo cho mình khỏi bề ngu tối. May mắn được gặp anh, chắc rằng, anh sẽ hết lòng chỉ bảo giúp. Những câu em nói đây, thực quả không phải là những lời khách sáo dâu.

Giả Bảo Ngọc càng nghe càng phát ngấy, không tiện tỏ vẻ lạnh nhạt, đành phải nói đưa đẩy cho qua chuyện. May sao có người trong nhà ra nói

– Nếu các cậu xơi cơm rồi. Xin mời cậu Chân vào trong nhà chơi.

Bảo Ngọc nghe vậy, nhân tiện mời Chân Bảo Ngọc vào. Chân Bảo Ngọc đi trước, bọn Giả Bảo Ngọc theo sau vào chào Vương phu nhân. Giả Bảo Ngọc thấy có bà Chân ngồi trên liền đến chào. Giả Hoàn, Giả Lan cũng đến chào. Chân Bảo Ngọc đến chào Vương phu nhân. Lúc đó, hai bà mẹ cùng nhận mặt hai cậu con. Mặc dầu Giả Bảo Ngọc đã có vợ, nhưng Chân phu nhân nhiều tuổi, lại là bà con lâu đời, thấy Giả Bảo Ngọc mặt mày in hệt con mình, tự nhiên tỏ ra thân yêu vồn vã. Vương phu nhân càng không cần phải nói, cứ cầm tay Chân Bảo Ngọc hỏi hết chuyện này sang chuyện nọ và nhận thấy anh ta có phần chín chắn hơn con mình. Nhìn lại Giả Lan, mặt mày thanh tú, tuy không bằng hai chàng Bảo Ngọc, nhưng cũng không kém bao nhiêu. Riêng Giả Hoàn thì dáng người thô kệch, nên bà ta không khỏi có lòng thiên vị. Thấy hai chàng Bảo Ngọc cùng ở một nơi, mọi người đều đến nhìn rồi nói

– Lạ thật! Tên giống nhau đã đành, sao người lại in hệt như nhau? May mà Bảo Ngọc nhà ta mặc đồ tang, nếu hai người cũng ăn mặc như nhau thì khó mà phân biệt. Trong đám này có Tử Quyên nảy ra một ý nghĩ ngây ngô. Nhớ đến Đại Ngọc, chị ta nghĩ bụng

“Chỉ tiếc cô Lâm chết rồi! Nếu không, lấy Chân Bảo Ngọc chắc cô ta cũng bằng lòng đấy”. Bỗng nghe Chân phu nhân nói với Vương phu nhân

– Hôm trước nghe ông nhà tôi về bảo “Bảo Ngọc nhà tôi cũng đã lớn, muốn nhờ ông lớn bên này tìm hộ một nơi.”

Vương phu nhân vốn yêu Chân Bảo Ngọc, liền thuận miệng nói ngay

– Tôi cũng muốn làm mối cho cậu em bên nhà đấy. Nhà chúng tôi có bốn cô

“Ba cô đầu thì một cô đã chết. Một cô đã đi lấy chồng không nói làm gì. Còn cô em gái anh cả Trân chúng tôi lại kém những mấy tuổi, e cũng không đẹp đôi. Chỉ có hai cô em họ chị dâu Cả nhà tôi, vẻ người đoan chính. Cô Hai đã hứa gả cho người ta rồi, còn cô Ba thì thật là tốt đôi vừa lứa với cậu em đây. Để mai kia tôi làm mối cho. Nhưng chỉ hiềm nhà người ta hiện nay có phần sa sút.

Chân phu nhân nói

– Bà lớn khách sáo làm gì. Nhà chúng tôi hiện nay thì có cái gì kia chứ. Chỉ sợ người ta chê nghèo thôi.

Vương phu nhân nói

– Hiện nay quý phủ vâng mệnh ra làm quan, sau này không những sẽ trở lại như cũ mà chắc còn thịnh vượng hơn trước nhiều.

Chân phu nhân nói

– Được như lời bà lớn thì hay quá. Vậy nhờ bà lớn làm mối hộ cho.

Chân Bảo Ngọc thấy hai bà nói đến chuyện dạm vợ cho mình, liền cáo từ đi ra. Bọn Giả Bảo Ngọc cũng phải theo đến thư phòng. Thấy Giả Chính ở dấy, Chân Bảo Ngọc đứng lại nói chuyện mấy câu. Bỗng thấy người nhà họ Chân đến thưa với Chân Bảo Ngọc

– Bà sắp ra về, xin mời cậu đi ngay.

Chân Bảo Ngọc cáo từ đi ra. Giả Chính sai Bảo Ngọc, Giả Hoàn và Giả lan cùng tiễn ra ngoài. Từ hôm được gặp thân phụ Chân Bảo Ngọc. Giả Bảo Ngọc biết rằng Chân Bảo Ngọc sắp vào kinh nên ngày đêm mong đợi. Nay được gặp mặt, trong lòng khấp khởi, tưởng sẽ gặp người tri kỷ. Không ngờ nói chuyện với nhau hồi lâu, vẫn thấy loạc choạc. Rồi Bảo Ngọc buồn rầu về phòng chẳng nói chẳng rằng, người như mất hồn. Bảo Thoa liền hỏi

– Anh Chân Bảo Ngọc có thật giống cậu không?

– Diện mạo thì hệt nhau. Nhưng xem cách nói năng chẳng qua chỉ là ” con mọt ăn lộc ” mà thôi.

– Cậu lại đặt điều cho người ta rồi. Sao lại biết anh ta là ” con mọt ăn lộc? “

– Nói chuyện với anh ta chẳng có câu nào là tâm đầu ý hợp cả, chỉ rặt văn chương với kinh bang tế thế, và trung hiếu gì đó. Hạng người như thế không phải là ” con mọt ăn lộc ” thì là gì? Đáng tiếc hắn sinh ra mặt mày hệt như tôi. Tôi nghĩ đã có nó rồi thì tôi cũng chẳng cần đến diện mạo của tôi nữa.

Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc lại nói ngớ ngẩn, liền bảo

– Cậu nói rõ buồn cười. Tại sao cậu lại không cần đến diện mạo. Vả lại lời nói của người ta là đúng. Làm con trai phải lo lập thân, làm cho rạng rỡ tiếng tăm chứ? Ai lại như cậu, chỉ toàn là những tâm tình yếu đuối và ý nghĩ riêng tây. Cậu không thấy là mình không có chí khí cứng rắn gì hết, lại bảo người ta là ” con mọt ăn lộc ” à?

Bảo Ngọc nghe Chân Bảo Ngọc nói đã ngấy lắm rồi, nay lại bị Bảo Thoa trách móc cho một trận, trong bụng càng không thích, rồi cứ buồn rầu mê mẩn, bất giác bệnh cũ trở lại. Anh ta chẳng nói chẳng rằng, chỉ cười luôn, miệng như ngây như dại. Bảo Thoa không hiểu, cứ tưởng vì mình lỡ lời nên anh ta cười nhạt cũng không để ý. Nào ngờ hôm ấy Bảo Ngọc lại trở lại bệnh ngây. Bọn Tập Nhân cố chọc cũng chẳng nói năng gì. Cách một đêm. Sớm hôm sau ngủ dậy, anh ta vẫn cứ ngây ngô, lại giống như bệnh lần trước.

Vương phu nhân thấy Tích Xuân định cắt tóc đi tu. Vưu thị không ngăn lại được, xem chừng nếu không chiù cô ta thì cô ta sẽ tự tử. Mặc dù ngày đêm có người canh giữ, nhưng cũngkhông thể kéo dài được mãi. Vì vậy Vương phu nhân nói với Giả Chính. Giả Chính thở dài, dẫm chân nói

– Bên phủ Đông không biết làm thế nào mà đến nông nỗi thế này?

Lại gọi Giả Dung đến nói một hồi, bảo về nói với mẹ hắn, nên cố hết sức khuyên giải

” nếu nó cứ khăng khăng một mực thì sẽ không phải là con gái nhà này nữa. ” Nào ngờ Vưu thị không khuyên can còn khá, chứ hễ khuyên can thì cô ta lại cứ đòi chết, và nói

– Sinh ra con gái, rút cục không thể nào ở nhà cha mẹ suốt đời. Nếu tôi gặp cảnh ngộ chị Hai, chỉ làm cho chú và thím đau lòng rồi rút cục cũng chết. Nay cứ xem như là tôi đã chết, để mặc cho tôi đi tu, thì đời tôi sẽ được trong sạch. Thế là chú

thương tôi đấy. Vả chăng tôi đi tu cũng không phải là ra khỏi nhà. Am Lũng Thúy là thuộc về phủ chúng ta, tôi sẽ ra tu ở đó. Dù tôi có làm sao thì các người cũng còn chăm sóc được. Hiện nay người coi nhà cho Diệu Ngọc còn ở đó. Các người hãy chiù tôi thế là tôi được yên thân ; nếu không thì tôi cũng không có cách gì khác, chỉ chết mà thôi. Nếu tôi được thỏa lòng mong ước thì đến khi anh Cả trở về, tôi sẽ nói cho anh ấy biết rằng không phải các người bức bách gì tôi, lỡ bằng tôi chết đi, thì khi anh ấy về đây sẽ trách móc các người không lo cho tôi.

Vưu thị xưa nay vốn không hợp với Tích Xuân. Nhưng nghe cô ta nói, có vẻ có lý đành phải tới trình Vương phu nhân. Vương phu nhân lúc này đã sang bên Bảo Thoa. Thấy Bảo Ngọc như người mất hồn, bà ta nổi nóng, liền bảo Tập Nhân:

– Chúng mày không để ý gì cả. Cậu Hai bị bệnh cũng không sang trình ta biết.

Tập Nhân nói

– Bệnh của cậu Hai thì thường vẫn thế. Khi lành khi lại ốm. Ngày nào cậu ấy cũng sang hỏi thăm bên bà lớn như thường, vẫn yên lành chẳng có chuyện gì cả. Hôm nay mới đâm ra lẩn thẩn như thế. Mợ Hai đang định sang trình bà, nhưng lại sợ bà bảo chúng tôi chưa chi đã làm ầm ĩ cả lên.

Bảo Ngọc nghe Vương phu nhân mắng họ, trong bụng tỉnh táo. Sợ họ bị mắng oan, liền nói

– Xin mẹ cứ yên tâm. Con có đau ốm gì đâu. Chỉ thấy trong bụng hơi buồn bực mà thôi.

– Mày vốn đã có sẵn bệnh ấy, nên nói sớm đi, để mời thầy thuốc uống vài thang xem có khỏi không? Nếu lại để như hồi bị mất viên ngọc thì sẽ sinh ra nhiều chuyện.

– Nếu mẹ không yên tâm thì bảo mời thầy đến xem. Con sẽ uống thuốc.

Vương phu nhân liền bảo a hoàn truyền ra cho người đi mời thầy thuốc. Bà ta chỉ lo nghĩ về việc Bảo Ngọc nên quên hẳn việc Tích Xuân. Một lúc lâu, thầy thuốc đến xem bệnh và cho thuốc, rồi Vương phu nhân ra về.

Cách mấy hôm sau, bệnh Bảo Ngọc lại càng nặng, cơm cũng không ăn. Mọi người nhốn nháo cả lên. Lại vừa gặp lúc đoạn tang, cả nhà bận rộn. Không có người, đành phải gọi Giả Vân đến để tiếp thầy thuốc. Trong nhà Giả Liễn cũng không có ai coi sóc, nên mời Vương Nhân đến giúp đỡ lo liệu việc ngoài. Còn Xảo Thư thì cứ ngày đêm khóc mẹ, nên cũng ốm. Vì vậy, phủ Vinh rất là nhốn nháo.

Một hôm làm lễ đoạn tang xong về nhà, Vương phu nhân đến thăm Bảo Ngọc, thấy anh ta mê man bất tỉnh. Mọi người cuống quít không biết làm sao, vừa khóc vừa sai đi trình Giả Chính

– Thầy thuốc nói là không thể cho thuốc nữa. Chỉ nên sắp sửa hậu sự thôi.

Giả Chính than thở luôn miệng, đành phải thân hành đến thăm. Quả thấy khó khỏi được, liền bảo Giả Liễn đi sắp đặt công việc. Giả Liễn không dám trái lời, ra bảo người đi lo liệu. Nhưng trong nhà thiếu thốn, đang khó nghĩ. Bỗng thấy một người

chạy vào nói

– Cậu Hai ơi? Nguy to? Lại có chuyện rầy rà!

Giả Liễn không rõ việc gì, giật mình, trừng mắt hỏi

– Cái gì thế?

– Có một nhà sư đến trước cửa, tay cầm viên ngọc của cậu Bảo bị mất và nói đến lấy một vạn bạc thưởng.

Giả Liễn suýt một cái nói

– Tưởng là việc gì mà mày nhớn nhác như thế. Độ trước đã bị viên ngọc giả, mày không biết à? Mà dù có là viên ngọc thật đi nữa thì bây giờ người đã sắp chết còn cần nó làm gì?

– Con cũng đã nói rồi. Nhưng vị hòa thượng ấy bảo cứ đưa bạc cho ông ta là bệnh khỏi.

Đang nói lại thấy người ở ngoài xôn xao chạy vào nói

– Nhà sư hổ mang ấy cứ xông thẳng vào nhà, chúng tôi cản lại không được!

– Đâu lại có việc lạ lùng thế? Chúng mày không đuổi ông ta đi à?

Đang lúc ồn ào. Giả Chính thấy vậy, không biết tính sao. Trong nhà lại nghe tiếng kêu khóc

– Cậu Hai nguy rồi!

GiảChính lại càng bối rối. Bỗng thấy nhà sư ấy nói

– Muốn người sống thì đem bạc ra đây?

Giả Chính chợt nhớ lại hồi trước Bảo Ngọc bị bệnh, nhờ một vị hoà thượng chữa khỏi, bây giờ nhà sư lại đến, có lẽ cũng là cứu tinh đây. Nhưng nếu viên ngọc ấy là thật mà nhà sư cứ đòi cho được bạc thưởng thì làm thế nào?

Sau lại nghĩ

“Bây giờ hãy khoan để ý đến điều đó, nếu người khỏe được thì ta sẽ tính sau”. Ông ta liền sai người ra mời, thì nhà sư đi vào không chào hỏi, cũng không nói năng gì, cứ chạy thẳng vào trong nhà. Giả Liễn giữ lại, nói

– Trong nhà, đều là đàn bà con gái, hạng người như anh chạy vào làm gì?

Khắp nhà trong nhà ngoài, ai nấy đều vui mừng niệm Phật. Ngay cả Bảo Thoa cũng không e ngại có nhà sư ở đó nữa. Giả Liễn cũng chạy đến xem, quả thấy Bảo Ngọc đã tỉnh lại, trong bụng mừng rỡ, vội đi ra. Nhà sư chẳng nói chẳng rằng, vội

nắm tay Giả Liễn mà chạy. Giả Liễn đành phải đi theo, ra đến phía ngoài trình với Giả Chính. Giả Chính nghe nói mừng rỡ, liền đến chào hỏi và tạ ơn. Nhà sư đáp lễ rồi ngồi xuống. Giả Liễn trong bụng ngờ vực chắc là ông ta đòi cho được bạc mới chịu đi. Giả Chính nhìn kỹ thì không phải là nhà sư đã gặp lần trước, liền hỏi

– Hòa thượng tu hành ở chùa nào? Pháp hiệu là gì? Viên ngọc ấy tìm được ở đâu? Vì sao thằng con nhà tôi trông thấy mà sống lại được?

Ông ta mỉm cười trả lời

– Tôi cũng không biết rõ. Cứ đưa một vạn lạng bạc ra đây là được.

Giả Chính thấy ông ta thô kệch, cũng không dám trái ý, liền nói

– Xin vâng.

– Có thì đưa mau, tôi phải đi đây.

– Xin mời người ngồi nán lại một chốc, để tôi vào trong nhà xem đã.

– Ngài vào rồi ra mau cho.

Giả Chính không nói năng gì, đi ngay đến trước giường Bảo Ngọc. Bảo Ngọc thấy cha, muốn cố gắng ngồi, nhưng người còn yếu, không thể dậy được. Vương phu nhân giữ lại, bảo

– Đừng gượng dậy nữa.

Bảo Ngọc cười, cầm viên ngọc đưa cho Giả Chính xem và nói

– Bảo Ngọc về đây rồi!

Giả Chính nhìn qua, biết viên ngọc ấy có căn nguyên, cũng không xem kỹ, đoạn hỏi Vương phu nhân

– Bảo Ngọc đã khỏe rồi. Còn số bạc thưởng thì định thế nào?

Vương phu nhân nói

– Cứ đem tất cả những đồ đạc của tôi bán đi để trả cho ông ta là được.

Bảo Ngọc nói

– Con e rằng nhà sư ấy không phải cốt đòi số bạc đâu.

Giả Chính gật dầu

– Ta cũng cho là một người kỳ lạ, nhưng ông ta lại cứ cố đòi cho được số bạc.

Vương phu nhân nói

– Ông hãy ra tiếp ông ta rồi ta sẽ nói chuyện.

Giả Chính đi ra. Bảo Ngọc liền kêu đói, húp một bát cháo, lại đòi ăn cơm. Các bà già đưa cơm đến. Vương phu nhân còn chưa muốn cho ăn. Bảo Ngọc nói

– Không can gì đâu, con đã khỏe rồi.

Rồi anh ta bò dậy ăn một bát, quả thấy tinh thần dần dần khá lại, liền định ngồi thẳng dậy.

Xạ Nguyệt đỡ nhè nhẹ. Vì vui mừng quá chị ta lỡ lời nói

– Thật là bảo bối! Mới nhìn thấy đã lành bệnh. May mà hồi trước không đập vỡ đi!

Bảo Ngọc nghe vậy liền đổi thần sắc, bỏ viên ngọc ra rồi ngả người ra đằng sau. Chưa biết sống chết thế nào?

[1]      Theo tục phong kiến Trung Quốc. Khi có tang cha mẹ, thì lòng nằm đất đế tỏ lòng thương xót. Lúc này Giá Chính đang chịu tang Giá mẫu nên cũng trải chiếu ngồi giữa đất.

Chương 116: Được ngọc thiêng, nhận thấy duyên tiên nói ảo cảnh – Trọn đạo hiếu, đưa linh cữu mẹ về cố hương

Được ngọc thiêng, nhận thấy duyên tiên nói ảo cảnh

Trọn đạo hiếu, đưa linh cữu mẹ về cố hương

Bảo Ngọc nghe Xạ Nguyệt nói, liền ngả người ra đằng sau, mê man bất tỉnh, làm cho bọn Vương phu nhân khóc lóc ầm ĩ. Xạ Nguyệt biết mình lỡ lời, gây ra tai vạ, nhưng lúc đó, Vương phu nhân cũng không kịp mắng chị ta. Xạ Nguyệt vừa khóc vừa định sẵn trong bụng

“nếu cậu Bảo chết, mình sẽ tự tử theo”…

Vương phu nhân thấy gọi Bảo Ngọc không tỉnh lại, liền vội vàng bảo người ra mời nhà sư vào cứu chữa. Không ngờ lúc Giả Chính ở trong nhà đi ra thì không thấy nhà sư nữa. Giả Chính đang ngạc nhiên, bỗng nghe trong nhà ồn ào, vội vàng chạy vào. Trông thấy Bảo Ngọc lại mê man như trước. Hai hàm răng cắn chặt, mạch không đập, lấy tay sờ vào giữa rốn, thấy còn nóng. Giả Chính lại bảo đi mời thầy thuốc đến ngay, đổ thuốc cấp cứu. Có biết đâu hồn phách Bảo Ngọc đã lìa khỏi xác. Nhưng liệu Bảo Ngọc có chết thật không? Số là anh ta mơ mơ màng màng thấy mình đi ra ngoài. Gặp vị hòa thượng đưa trả viên ngọc đang còn ngồi đó, liền đến chào. Ông ta đứng dậy, dắt Bảo Ngọc đi với theo ông ta, cảm thấy trong người nhẹ nhàng như chiếc lá. Họ không ra cửa chính, nhưng cũng không biết là đi lối nào. Đi được một quãng, đến một nơi đồng không mông quạnh, thấy xa xa có một tòa lầu, giống như là đã nhìn thấy ở đâu rồi. Bảo Ngọc định hỏi, bỗng thấp thoáng có một người con gái đi lại Bảo Ngọc nghĩ bụng

“ở giữa chỗ đồng không vắng vẻ này làm gì có người xinh đẹp như thế? Chắc là thần tiên xuống trần!” Anh ta đến gần nhìn kỹ thì có vẻ quen quen, nhưng trong chốc lát không nhớ ra. Người con gái chỉ chào một tiếng rồi không thấy đâu nữa. Bảo Ngọc nhớ lại thì đó là cô Ba họ Vưu, càng thêm buồn bực

” Tại sao cô ta cũng ở chỗ này?” Anh muốn hỏi thì nhà sư đã dắt đến một cái lầu. Trên lầu có một tấm bảng viết bốn chữ lớn

“Chân như phúc địa” (cõi phúc của người tiên) và hai bên có đôi câu đối

Giả đi chân đến, chân hơn giả

Không nguyên là có, có nào không.

Đi khỏi cái lầu có tấm bảng ấy, thì đến một tòa cửa cung.

Trước cửa có viết ngang bốn chữ lớn

“phục thiện họa dâm” (lành được phúc, dâm bị họa), lại có một câu đối

Kiếp trước đời sau, dầu bậc trí hiền không hiểu thấu ;

Nhân nào quả ấy, dù người thân cận vẫn phải xa nhau.

Bảo Ngọc xem xong, nghĩ bụng

“à ra thế! Để ta hỏi thử những việc nhân quả, quá khứ, tương lai kia xem”. Đang nghĩ thì thấy Uyên Ương đứng ở đâu đó giơ tay vẫy đến, Bảo Ngọc lại nghĩ

“mình đi đã lâu, mà xem ra vẫn chưa ra khỏi vườn. Sao vườn này thay đổi đến thế?” Anh ta chạy theo, muốn nói chuyện với Uyên Ương, nào ngờ ngoảnh lại thì không thấy nữa. Trong bụng đâm ra ngờ vực, liền chạy đến chỗ Uyên Ương đứng lúc nãy, thì ra đó là một dãy đền miếu, tòa nào cũng có biển. Bảo Ngọc không để ý nhìn, cứ chạy thẳng đến chỗ Uyên Ương đứng thì thấy có một tòa miếu, cửa vào hé mở. Anh ta không dám hấp tấp bước vào, định hỏi vị hòa thượng nhưng ngoảnh lại thì ông ta đã biến mất.

Bảo Ngọc mơ màng trông thấy tòa miếu ấy đồ sộ, không giống cảnh trong vườn Đại Quan chút nào. Liền dừng lại, ngẩng đầu trông thấy cái biển đề bốn chữ

“Dẫn giác tình si” (Đưa kẻ si đến nơi giác ngộ). Hai bên có đôi câu đối

Cười, mừng, thương, tủi, đều là giả

Ham, muốn, nhớ nhung chỉ vì si.

Bảo Ngọc xem xong gật đầu thở dài. Đến tìm Uyên Ương để hỏi cho rõ đấy là chỗ nào. Nhưng nhìn kỹ thì ra một nơi rất quen thuộc. Anh ta liền đánh bạo, đẩy cửa vào, nhìn khắp trong nhà không thấy Uyên Ương đâu cả, chỉ thấy tối om, nên trong bụng sợ hãi. Bảo Ngọc đang muốn lui ra thì thấy có hơn mười cái tủ lớn hé mở. Bảo Ngọc sực nhớ lại

“ta hồi nhỏ đã mơ thấy đến một chỗ như thế này. Bây giờ lại được đến đây, thực là may lắm!” Trong lúc mơ màng quên cả Uyên Ương. không đi tìm nữa. Anh ta đánh liều mở cái tủ lớn đầu tiên xem thì thấy có mấy quyển sổ. Trong bụng càng thích, nghĩ rằng

“người ta chiêm bao, cứ bảo đó là chuyện giả. Nhưng biết đâu đã có cái mộng ấy thì phải có cái việc ấy! Ta thường nghĩ muốn thấy lại cái mộng ấy một lần nữa mà không mộng. Ngờ đâu hôm nay lại gặp mộng! Nhưng không biết cái sổ kia có phải là ta đã gặp rồi hay không? Anh ta liền giơ tay lên phía trên lấy một quyển, thấy có đề chữ

“Kim Lăng thập nhị thoa chính sách”. Bảo Ngọc cầm lấy quyển sổ, nghĩ bụng

“ta nhớ mang máng hình như đã thấy quyển sổ này, chỉ giận một điều là nhớ không rõ lắm”. Rồi mở trang đầu ra xem, thấy phía trên có bức vẽ nhưng dấu vẽ lờ mờ, nhìn không rõ. Phía sau có mấy hàng chữ cũng không rõ nhưng còn có thể đoán được. Nhìn kỹ thì hình như trên chữ “Đại Ngọc” lại có một chữ giống như chữ “lâm”, liền nghĩ bụng

“nhất định là nói về em Lâm rồi “. Lại cố xem kỹ nữa. Phía dưới còn thấy bốn chữ “trâm vàng trong tuyết”, anh ta lấy làm lạ, nói

“Làm sao lại giống như tên họ của vợ ta nhỉ?”… Bảo Ngọc liền chắp cả bốn câu trên dưới đọc một lượt và nói

“cũng không có ý nghĩa gì. Chỉ nói kín tên họ cô ta thôi, chẳng lấy gì làm lạ. Nhưng có chữ “thường” và chữ “than” thì không tốt. Như thế thì giải nghĩa ra sao? ” 1

Bảo Ngọc nghĩ đến đó, tự gắt với mình

“Ta đã xem trộm lại còn nghĩ vơ nghĩ vẩn. Nếu có ai đến thì còn xem sao được nữa?” Rồi lại xem tiếp, cũng không kịp nhìn kỹ mấy bức vẽ kia. Cứ xem từ trên xuống. Khi xem đến đoạn cuối, thấy có một câu gì như là “thỏ gặp hùm kia giấc mộng xuôi.” Chợt tỉnh ra, nói

– Đúng rồi! Quả là cơ trời không sai chút nào! Câu này chắc là nói về chị Nguyên Xuân rồi. Nếu thấy rõ ràng như thế thì ta phải biên lấy để nghiền ngẫm cho kỹ. Sau này những việc rủi may sống chết của chị em, mình đều biết hết. Ta trở về nhất định không tiết lộ ra, chỉ làm một người “chưa bói đã biết”, thế cũng đã được bao nhiêu điều suy nghĩ vớ vẩn. Rồi anh ta đi tìm khắp cũng không thấy bút nghiên gì cả. Bảo Ngọc sợ có người ngoài đến, lại vội xem, thấy một bức vẽ lờ mờ hình một người đang thả diều, cũng không để ý nhìn kỹ. Vội vàng xem suốt cả mười hai bài thơ, có bài nhìn qua đã biết. Có bài xem rồi nghĩ ra ngay, cũng có bài không hiểu rõ lắm, nhưng trong bụng nhớ rất kỹ. Anh ta vừa thở than vừa cầm lấy “Kim Lăng hựu phó sách” để xem. Khi xem đến cậu “Khen cho ưu linh phúc tết. Ngờ đâu công tử duyên ôi”, lúc đầu không hiểu gì cả. Sau thấy phía trên có hình khóm hoa và chiếc chiếu, anh ta liền khiếp sợ, khóc òa lên. Đang còn muốn xem nữa thì

nghe thấy có tiếng người bảo

– Anh lại ngây rồi. Cô Lâm mời anh đấy!

Nghe giống như giọng nói của Uyên Ương. Ngoảnh lại thì không thấy người đâu. Đang lúc nghi hoặc, bỗng thấy Uyên Ương đứng ngoài cửa vẫy. Bảo Ngọc mừng quá, chạy ra. Uyên Ương yêu kiều thướt tha đi trước. anh ta không sao theo kịp, liền cất tiếng gọi

– Chị ơi? Đợi tôi với!

Uyên Ương vẫn không để ý, cứ đi một mạch. Bảo Ngọc không biết làm sao, cố hết sức chạy theo. Bỗng lại thấy một khoảng mênh mông, lầu gạc nguy nga, cung điện sáng ngời. Thấp thoáng có nhiều cung nữ. Anh ta ham nhìn cảnh đẹp, quên mất Uyên Ương. Bảo Ngọc luôn chân đi vào cửa một tòa lầu. thấy trong đó có nhiều hoa quả lạ lùng, không biết tên là gì. Chỉ có một cái bờ rào hoa bằng đá trắng bao quanh một cây xanh, đầu lá hơi đỏ. Bảo Ngọc nghĩ thầm

“không biết là cây gì mà quý hóa như thế?” Bỗng thấy gió thổi nhẹ qua, cây xanh cứ lay động mãi. Tuy là một loài cây nhỏ, lại không có hoa, nhưng dáng điệu nó xinh đẹp làm cho anh ta thích thú say mê. Bảo Ngọc cứ sững sờ đứng nhìn. Bỗng nghe bên cạnh có một người bảo

– Giống ngu xuẩn ở đâu đến đây dòm ngó cây tiên thế?

Bảo Ngọc nghe xong, giật mình ngoảnh lại nhìn, thấy một vị tiên nữ, liền đến kính chào và nói

– Tôi đi tìm chị Uyên Ương, vào nhầm cõi tiên. Dám mong tha thứ tội.

– Xin hỏi nàng. Đây là chỗ nào? Sao chị Uyên Ương nhà tôi nói em Lâm gọi tôi? Xin nàng bảo cho tôi được rõ.

Người ấy trả lời

– Ai biết được chị em nhà anh? Ta là người coi giữ cây tiên, thì không để cho người trần được dừng lại ở đây.

Bảo Ngọc cũng muốn đi ra, nhưng không dứt được, đành phải nài xin

– Thưa tiên nữ, chắc nàng là một vị hoa thần. Không biết cây tiên ấy có những gì đáng quý?

– Anh muốn biết rõ cây ấy à? Nói ra thì câu chuyện cũng dài đấy. Nguyên cây ấy trước ở trên bờ sông Linh Hà, tên là cây giáng châu. Xưa kia nó bị khô héo, may gặp vị Thần Anh hằng ngày lấy nước cam lộ tưới cho nó nên được sống mãi. Sau nó xuống trần làm người, trả xong cái ơn tưới bón khi trước, nó đã trở về chân cảnh. Vì vậy, cảnh ảo hàng ngày sai ta trông nom không để cho bướm ong vương vấn đến 1. Bảo Ngọc nghe vậy không hiểu, trong bụng cứ tưởng là gặp được hoa thần. Hôm nay nhất định không bỏ lỡ dịp, liền hỏi

– Người trông coi cây ấy chính là nàng đây rồi. Nhưng còn biết bao nhiêu thứ hoa. Tất nhiên mỗi hoa phải có một vị coi riêng. Tôi cũng không dám hỏi nhiều, chỉ muốn biết vị tiên nào coi hoa phù dung?

– Chỉ có chủ nhân ta mới rõ, ta biết làm sao được.

– Chủ nhân của nàng là ai?

– Chủ nhân của ta là Tiêu Tương phi tử.

– Phải rồi? Nàng không biết vị phi tử ấy là em ngoại của tôi tên là Lâm Đại Ngọc à.

– Nói nhảm? Đây là nơi ở của các thần nữ thượng giới, tuy gọi là Tiêu Tương phi tử. Mhưng không phải như các bà Nga Hoàng và Nữ Anh đâu. Làm gì lại có họ hàng với người trần? Anh đến đây nói bậy vừa chứ? Coi chừng phải gọi lực sĩ ra đánh đuổi đấy!

Bảo Ngọc nghe vậy, đâm ra sửng sốt, nghĩ mình nhơ đục, đang định lui ra. Bỗng có người chạy đến bảo

– Ở trong truyền bảo mời vị Thần Anh thị giả vào.

Người kia nói

– Tôi vâng lệnh chờ từ lâu. Không thấy có Thần Anh thị giả đến, thì bảo tôi mời ở đâu?

– Chẳng phải mời người mới đi ra đó à!

Thị nữ ấy vội vàng chạy theo nói

– Xin mời Thần Anh thị giả ở lại.

Bảo Ngọc tưởng họ hỏi người khác, lại sợ người ta đuổi theo nên vội vàng chạy trốn. Đang chạy bỗng có người cầm cây kiếm, ngăn lại bảo

– Chạy đi đâu!

Bảo Ngọc khiếp sợ, đánh bạo ngẩng đầu lên thì không phải là ai khác mà chính là cô ba họ Vưu. Bảo Ngọc trông thấy mới hoàn hồn, liền kêu nài

– Chị ơi, sao chị bức bách tôi thế?

– Anh em nhà anh không có một người nào khá, làm hỏng danh tiết người ta, phá cuộc hôn nhân người ta? Hôm nay anh đến đây, không thể tha cho anh được?

Bảo Ngọc nghe rõ câu chuyện không hay, còn đang luống cuống, bỗng nghe phía sau có người gọi

– Chị ơi, mau mau cản lại? Đừng để cho nó chạy thoát?

Cô Ba Vưu nói

– Ta vâng lệnh phi tử, chờ đợi đã lâu. Hôm nay gặp đây, nhất định lưỡi kiếm này cắt đứt mối trần duyên của anh!

Bảo Ngọc nghe xong càng cuống quít. Lại không hiểu những câu nói ấy là có ý nghĩa gì, quay đầu định chạy. Không ngờ người nói phía sau đó không phải là ai lạ, mà chính là Tình Văn.

Bảo Ngọc trông thấy, vừa mừng vừa tủi, liền nói

– Tôi một mình lạc đường đến đây, gặp kẻ thù, muốn trốn về mà không thấy một chị em nào đi theo tôi cả. Bây giờ gặp chị, may quá! Chị Tình Văn ơi, mau mau dẫn tôi về nhà!

Tình Văn nói

– Thị giả đừng quản ngại, tôi đây không phải Tình Văn. Chính là người vâng mệnh phi tử, cốt đến mời thị giả vào chơi, chứ không có ý làm khó dễ gì đâu.

Bảo Ngọc rất đỗi ngờ vực, phải hỏi lại

– Chị bảo phi tử mời tôi. Vậy thì phi tử ấy là người nào?

– Bây giờ không cần phải hỏi, vào trong ấy sẽ rõ.

Bảo Ngọc không biết làm sao, đành phải theo đi, nhìn kỹ người ấy thì đúng là Tình Văn; gương mặt, tiếng nói quả không sai, nhưng sao lại nói không phải? “Ta bây giờ trong bụng mê mẩn. Hãy khoan để ý đến chị ta đã. Đợi khi vào trong ấy gặp phi tử nếu có điều gì không phải, ta sẽ van xin. Các cô gái vốn lòng từ bi, chắc sẽ tha thứ cho sự lầm lẫn của ta “. Trong khi nghĩ ngợi như vậy, không bao lâu đã đi đến một chỗ. Thấy có đền đài lộng lẫy, vẻ đẹp huy hoàng, giữa sân có một khóm trúc, ngoài cửa vài gốc tùng xanh. Dưới hành lang có mấy thị nữ đứng, đều trang điểm theo lối trong cung. Các thị nữ trông thấy Bảo Ngọc đến, liền khe khẽ hỏi

– Thần Anh thị giả đó à?

Người dẫn Bảo Ngọc đến trả lời

– Đúng đấy. Chị vào trình báo đi.

Một thị nữ cười rồi vẫy tay. Bảo Ngọc liền đi theo. Đi qua mấy gian phòng đến một phòng chính, thấy có rèm châu treo cao. Người thị nữ ấy nói

– Hãy đứng đó đợi truyền.

Bảo Ngọc nghe vậy, cứ việc im lặng đứng chờ ở ngoài. Thị nữ đi vào một lát bước ra, nói

– Mời thị giả vào.

Lại có một người khác cuốn rèm châu lên. Bỗng thấy một cô con gái đầu đội mũ hoa, mình mặc đồ thêu, ngồi đường hoàng ở trong. Bảo Ngọc vừa mới ngẩng đầu lên thấy là Đại Ngọc, bất giác nói lên

– Cô em ở đây mà để tôi mong nhớ mãi!

Thị nữ đứng ngoài rèm khẽ hét

– Thị giả này vô lễ! Mau mau đi ra?

Nói chưa dứt lời. Bỗng thấy một thị nữ buông rèm châu xuống. Bảo Ngọc bấy giờ muốn vào cũng không dám, muốn đi cũng không đành. Đang định hỏi rõ, nhưng thấy mấy thị nữ ấy cũng không quen biết, lại bị họ đuổi phải đi ra, còn muốn hỏi lại Tình Văn, nhưng ngoảnh nhìn thì không thấy Tình Văn đâu cả. Anh ta đành ngờ vực bực bội đi ra, lại không có ai dẫn đường.

Muốn tìm lối vào lúc trước lại không thấy. Bảo Ngọc đanh loay hoay. Chợt thấy Phượng Thư đứng dưới hành lang một gian phòng vẫy tay. Anh ta mừng quá, nói

– Chị ở đây à. Họ trêu đùa tôi đến thế. Cô Lâm cũng không chịu gặp tôi, không biết vì cớ gì.

Nói rồi chạy đến chỗ Phượng Thư đứng, nhìn kỹ ra thì không phải Phượng Thư mà lại là vợ trước Giả Dung là Tần thị.

Bảo Ngọc dừng lại, muốn hỏi chị Phượng ở đâu, Tần thị cũng không trả lời, bỏ đi vào trong nhà. Bảo Ngọc mơ mơ màng màng, không dám đi theo. Cứ đứng phía ngoài than thở

“Không biết ta đã làm điều gì sai trái mà không ai chịu nhìn đến

ta?” Anh ta khóc oà lên. Bỗng thấy có mấy lực sĩ khăn vàng cầm roi đến bảo:

– Anh ở đâu mà dám xông xáo vào nơi trời tiên cõi phúc của chúng tôi? Ra ngay đi!

Bảo Ngọc nghe xong không dám nói gì, đang tìm lối đi ra. Bỗng trông thấy xa xa một đám con gái vừa cười vừa nói đi tới. Nhìn ra thì giống như bọn Nghênh Xuân. Bảo Ngọc rất mừng và kêu lên

– Tôi lạc ở đây. Các chị đến cứu tôi với!

Đang gọi thì một lực sĩ ở phía sau chạy đến. Bảo Ngọc bí quá cứ việc chạy ra. Bỗng thấy đám con gái ấy biến thành ma quỷ cùng đến bắt anh ta. Bảo Ngọc đang lúc cấp bách, chợt trông thấy vị hoà thượng đã đưa trả viên ngọc. Ông ta trong tay cầm chiếc gương soi vào mặt Bảo Ngọc và bảo

– Ta vâng chỉ của Nguyên phi đến cứu anh đây?

Ma quỷ bỗng hiến hết, lại hiện ra cánh đồng hoang. Bảo Ngọc cầm tay ông ta nói

– Con còn nhớ. Chính sư phụ đã đem con đến chỗ này. Rồi một chốc không thấy sư phụ đâu nữa. Con gặp nhiều người thân thiết. Họ đều không nhìn con, bỗng lại biến thành ma quỷ. Vậy đó là cảnh mộng hay cảnh thực. Xin sư phụ chỉ bảo cho con được rõ.

– Khi anh đến đây đã xem trộm cái gì chưa?

Bảo Ngọc nghĩ lại

“ông ấy đã đưa ta đến chỗ trời tiên cõi phúc này, tất nhiên là bậc thần tiên. Ta nói dối ông ta sao được. Vả lại ta cũng đang muốn hỏi việc này cho rõ ràng” Anh ta liền nói

– Con cũng có xem qua nhiều quyển sổ.

– Thế còn sao nữa? Anh xem sổ rồi. Còn chưa hiểu rõ à?

– Phàm tình duyên trên đời đều là những thứ ma chướng ấy cả. Anh nên nhớ kỹ lại những việc đã qua. Sau này ta sẽ nói rõ với anh.

Nhà sư nói xong, cố xô Bảo Ngọc một cái và bảo

– Trở về đi.

Bảo Ngọc chân đứng không vững, liền ngã xuống, miệng kêu lên

– Ái chà?

Mọi người đang khóc lóc, chợt thấy Bảo Ngọc tỉnh lại. Vội vàng gọi. Bảo Ngọc mở mắt nhìn, thấy mình vẫn nằm trên giường, lại thấy Vương phu nhân và Bảo Thoa khóc sưng cả mắt. Anh ta định thần nhớ lại, nghĩ bụng

“đúng rồi. Ta chết rồi sống lại đây?” Anh ta cố nhớ lại những việc mà linh hồn đã từng trải qua, đều nhớ được hết, liền cười to

– Đúng rồi? Đúng rồi!

Vương phu nhân cho là bệnh cũ của Bảo Ngọc lại phát, phải mời thầy thuốc điều trị, liền bảo một a hoàn già đi mau đến trình Giả Chính

– Bảo Ngọc đã tỉnh lại. Lúc trước là vì ngất đi đó thôi, nay đã nói được. Không cần phải sắm đồ hậu sự nữa.

Giả Chính nghe xong vội đến xem, quả thấy Bảo Ngọc đã sống lại, liền bảo

– Thằng con si ngốc kia! Mày định dọa ai đấy?

Nói xong, bất giác chảy nước mắt, lại than thở vài câu, rồi trở ra, bảo người đi mời thầy xem mạch cho đơn.

Trong nhà, Xạ Nguyệt đang định tự tử, nay thấy Bảo Ngọc tỉnh lại, mới được yên tâm. Vương phu nhân gọi người bưng nước quế đến, bảo anh ta uống mấy ngụm. Bảo Ngọc dần dần tỉnh táo. Vương phu nhân mới yên tâm, cũng không trách móc gì Xạ Nguyệt, rồi gọi người đưa viên ngọc cho Bảo Thoa để đeo cho Bảo Ngọc. Vương phu nhân lại nghĩ đến việc vị hoà thượng liền nói

– Viên ngọc ấy không biết tìm được ở đâu. Lạ thực! Sao lúc thì đòi bạc, rồi bỗng chốc không thấy đâu nữa. Phải chăng là một vị thần tiên?

Bảo Thoa nói

– Nghĩ lại hình tích vị sư ấy khi đến cũng như khi đi thì viên ngọc này không phải là tìm được. Chưa biết chừng lần trước bị mất cũng là ông ta lấy đi đó thôi.

– Ngọc ở trong nhà, làm sao mà lấy đi được?

– Đã đưa đến được thì lấy đi cũng được chứ.

Tập Nhân và Xạ Nguyệt đều nói

– Năm trước khi mất viên ngọc, ông Lâm Chí Hiếu đi bói, sau mợ Hai về đây. chúng tôi đã thưa với mợ rằng bói được chữ “thưởng ” gì đó. Mợ Hai còn nhớ rõ không? 1

Bảo Thoa nhớ lại:

– Đúng rồi, nghe các cô nói khi ấy bói ra là phải đi tìm trong hiệu cầm đồ. Nay mới rõ, thì ra chính là chữ “thưởng” là hoà thượng ở trên đầu, thế không phải là “hoà thượng” đã lấy viên ngọc đi sao? Vị hoà thượng kỳ quặc thật?

– Năm trước Bảo Ngọc bị bệnh, một vị hoà thượng đến nói nhà ta có bảo bối, có thể chữa bệnh. Tức là nói viên ngọc ấy, ông ta đã hiểu rõ như thế. Tất nhiên là viên ngọc ấy vẫn có lai lịch. Vả lại chồng con khi sinh ra đã ngậm sẵn viên ngọc trong miệng. Xưa nay các con có thấy người thứ hai nào như thế không? Không biết sau này viên ngọc ấy sẽ ra sao! Cho đến cái anh này cũng chưa biết rồi ra thế nào! Dữ cũng do viên ngọc ấy, lành cũng do viên ngọc ấy…

Nói đến đó, bà ta bỗng ngừng lại, bất giác lại chảy nước mắt.

Bảo Ngọc nghe xong, bụng cũng hiểu rõ, lại nghĩ đến việc mình ngất đi một lúc, càng có nguyên do. Nhưng không nói gì trong bụng nhẩm lại rất kỹ.

Bấy giờ Tích Xuân mới nói

– Năm trước mất ngọc, nhờ sư Diệu ngọc cầu tiên có cho câu thơ

“dưạ núi Thanh Ngạnh dựa câu thông”. Lại còn có câu: “Vào cửa ta đây gặp nhau cùng”. Nghĩ lại ba chữ “vào cửa” ta cần đáng xét kỹ

“cửa nhà Phật rất lớn, chỉ sợ anh Hai không vào được thôi.”

Bảo Ngọc nghe xong cười nhạt. Bảo Thoa nghe nói bất giác cau mày sửng sốt. Vưu thị nói

– Cô này mở miệng ra là nói đến cửa nhà Phật. Còn chưa chịu bỏ ý muốn đi tu à?

Tích Xuân cười

– Không dấu gì chị. Tôi không ăn mặn đã lâu.

Vương phu nhân bảo

– A di đà Phật. Cháu ơi, nghĩ như thế không nên.

Tích Xuân nghe vậy cũng không nói gì.

Bảo Ngọc nhớ đến câu thơ

“một ngọn đèn xanh trước Phật bà”, 2 rồi thở dài luôn mấy tiếng. Chợt lại nhớ đến những chữ “một chiếc chiếu, một khóm hoa “, rồi đưa mắt nhìn Tập Nhân, bất giác chảy nước mắt.

Mọi người thấy Bảo Ngọc khi vui khi buồn, cũng không hiểu vì sao, chỉ cho đó là bệnh cũ. Có biết đâu Bảo Ngọc vì đã biết những điều bí ẩn, đã nhớ lại rành mạch nhưng câu thơ xem trộm trong các quyển sổ. Tuy không nói ra, nhưng trong lòng đã có ý định sẵn.

Người trong nhà thấy Bảo Ngọc chết rồi sống lại, tinh thần sáng suốt, lại uống thuốc luôn mấy hôm, nên mỗi ngày một khá. Dần dần bình phục như cũ. Còn Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc đã khỏi, hiện nay đang nghỉ ở nhà chịu tang cũng còn rảnh việc; nghĩ lại Giả Xá chưa biết lúc nào được thăm linh cữu của mẹ đã để lâu trong chùa. Vẫn không đành lòng, nên muốn rước linh cữu về miền Nam để an táng. Giả Chính liền gọi Giả Liễn đến để bàn. Giả Liễn thưa

– Chú nghĩ rất phải. Nay nhân dịp chịu tang, làm xong được việc lớn ấy càng hay. Nếu để đến sau này, chú lại ra làm quan, có lẽ sẽ không làm được vừa ý. Chỉ có điều cha cháu không ở nhà, mà cháu lại không dám vượt quyền. Ý định của chú rất hay ; nhưng muốn lo liệu việc ấy thì phải cần đến mấy nghìn lạng bạc. Nếu chỉ chờ nha môn tra ra của mất trộm thì không thể tra ra ngay được đâu.

Giả Chính nói

– Ý ta đã định rồi. Chỉ vì anh Cả đi vắng nên gọi cháu đến bàn xem nên làm thế nào. Cháu thì không thể đi ra khỏi nhà được vì trong nhà đây hiện giờ không có ai. Ta nghĩ mấy chiếc quan tài đều phải rước về. Một mình ta làm sao trông nom cho xuể. Ta định đem cháu Dung đi, vì có cả quan tài vợ nó cũng đưa theo. Lại còn quan tài của cháu Lâm nữa, theo lời bà trối lại, bảo phải đem theo đi với bà. Còn số tiền ấy thì ta nghĩ chỉ cần mượn tạm đâu đó mấy nghìn cũng cũng đủ.

– Nhân tình bây giờ rất là tệ bạc, chú thì đang về nghỉ chịu tang ; cha cháu thì còn ở ngoài. Thực cháu không thể vay mượn vào đâu được. Chỉ còn cách đem khế tờ nhà đất đi cầm mà thôi.

– Nhà cửa chúng ta ở đây đều do của công xây dựng ; động đến sao được?

– Nhà ở đã đành không thể động đến được. Nhưng còn mấy sở nhà ở ngoài, có thể đem cầm tạm, đợi sau chú ra làm quan sẽ chuộc lại cũng được. Hoặc là sau này cha cháu trở về, nếu được bổ dụng nữa thì cũng có thể chuộc lại. Chỉ ngại một điều là chú tuổi tác như thế mà chuyến đi này rất vất vả thì trong bụng cháu không đành!

– Việc của bà nhất định phải làm. Chỉ cần cháu ở nhà cẩn thận lo lắng việc nhà chu đáo là được.

– Xin chú cứ yên tâm. Cháu tuy ngu dại, nhưng cũng quyết xin hết sức lo liệu. Vả lại, chú về Nam, chắc cũng phải đem nhiều người đi. Người ở nhà đây chẳng bao nhiêu, chỉ cần một số ít tiền cũng có thể xoay xở lo liệu. Nếu đi đường thiếu tiền tiêu thì khi qua chỗ Lại Thượng Vinh làm quan, chú có thể bảo anh ta giúp một ít.

– Việc của mẹ mình mà lại bảo người khác giúp làm gì?

Giả Liễn “dạ” rồi lui ra, thu xếp tiền bạc.

Giả Chính nói chuyện với Vương phu nhân, bảo ở nhà trông nom, còn mình chọn được ngày tốt sẽ rước quan tài đi xa. Bảo Ngọc lúc ấy đã bình phục như cũ. Giả Hoàn, Giả Lan cũng biết chăm học. Giả Chính dặn Giả Liễn phải để ý trông nom

– Năm nay vừa gặp khoa thi. Thằng Hoàn còn có tang, không vào thi được. Thằng Lan là hàng cháu, hết tang cũng có thể đi thi. Cần phải nhắn nhủ Bảo Ngọc đi thi với cháu, may đậu được một tên cử nhân cũng đủ chuộc lại tội lỗi của chúng ta.

Giả Liễn vâng lời.

Giả Chính lại dặn dò những người ở nhà, nói thêm mấy câu rồi đến bái biệt từ đường, sau đó ra ngoài thành, tụng kinh mấy hôm, rồi rước quan tài xuống thuyền cùng bọn Lâm Chí Hiếu ra đi. Giả Chính không muốn làm phiền các bà con bạn bè, chỉ có bọn đàn ông đàn hà trong phủ đi đưa một độ đường rồi trở về.

Bảo Ngọc vì Giả Chính dặn bảo đi thi. Vương phu nhân thỉnh thoảng cũng thúc giục và xét hỏi đến bài vở. Bọn Bảo Thoa,Tập Nhân thường thường khuyên bảo, việc ấy không cần kể rõ. Nào ngờ Bảo Ngọc sau khi lành bệnh, tuy tinh thần ngày càng khá hơn, nhưng ý nghĩ lại càng kỳ quặc, thay đổi khác hẳn. Không những anh ta chán ghét công danh quan chức mà đến cả tình duyên đối với con gái cũng lạt lẽo đi nhiều. Nhưng mọi người không ai để ý lắm. Bảo Ngọc cũng không nói ra.

Một hôm Tử Quyên đi đưa linh cữu Đại Ngọc trở về, buồn bã ngồi trong nhà khóc lóc, chị ta nghĩ bụng

“Bảo Ngọc thật vô tình! Thấy quan tài cô Lâm đưa về mà cũng không hề thương khóc. Thấy mình khóc lóc thế này cũng không đến yên ủi lại nhìn mình mà cười. Con người phụ bạc ấy trước kia chỉ khéo tìm lời ngon ngọt tán tỉnh mình. May mà đêm hôm nọ mình nghĩ vỡ lẽ ra được, nếu không thì đã mắc lừa cậu ta rồi! Nhưng có một điều không sao hiểu rõ. Bây giờ cậu ấy đối với bọn chị TậpNhân cũng có vẻ thờ ơ, mợ Hai vốn là người không ưa vồn vã, nhưng còn bọn Xạ Nguyệt lại không giận cậu ấy sao? Xem ra bạn gái phần nhiều là bọn si ngốc, đã uổng phí tâm lực bấy lâu nay, sau này không biết rồi ra thế nào?”…

Cô ta đang nghĩ thì vừa hay con Năm đến hỏi thăm. Thấy Tử Quyên nước mắt dàn dụa. Con Năm liền hỏi

– Chị lại khóc cô Lâm à? Người ta nói tai nghe không bằng mắt thấy, quả là đúng. Trước kia, nghe tiếng cậu Hai đối với chị em bạn gái rất là tốt. Mẹ tôi xin mãi mới đưa được tôi vào hầu. Không ngờ sau khi vào đây. Tôi đã hết lòng hết sức hầu hạ

những khi đau ốm, thế mà đến lúc lành bệnh, lại chẳng được một câu nói tử tế nào. Bây giờ thậm chí cậu ấy không thèm nhìn đến tôi nữa!

Tử Quyên nghe con Năm nói buồn cười, liền cười và mắng

– Con ranh! Mày muốn cậu Bảo đối đãi với mày như thế nào cơ? Đồ con gái không biết xấu hổ. Người ta đường hoàng là người hầu trong nhà mà cậu ấy còn xem như không, thì còn công hơi nào nhìn đến mày nữa?

Rồi cô ta lại cười, giơ đầu ngón tay quẹt vào má con Năm và hỏi

– Rút cục mày là hạng người gì của Bảo Ngọc?

Con Năm nghe nói, biết mình lỡ lời, liền đỏ mặt lên. Nó định nói là không phải mình muốn Bảo Ngọc đối đãi với mình như thế nào, mà chỉ muốn nói gần đây anh ta không biết thương kẻ dưới. Bỗng nghe ngoài sân có tiếng kêu lên

– Ông sư lại đến ngoài kia đòi một vạn lạng bạc đấy. Bà lớn sốt ruột bảo cậu Hai Liễn ra thương lượng với ông ấy, không may cậu Liễn lại đi vắng! Ông sư ở ngoài ấy nói nhiều chuyện điên rồ. Bà lớn bảo mời mợ Hai sang bàn.

Chương 117: Ngăn việc tu hành, hai gái đẹp cố giữ viên ngọc – Thích họp giữ việc nhà

Ngăn việc tu hành, hai gái đẹp cố giữ viên ngọc

Thích họp bạn xấu, một con hư coi giữ việc nhà

Vương phu nhân sai người đi mời Bảo Thoa sang để bàn. Bảo Ngọc nghe nói có ông sư ở ngoài, một mình vội vàng chạy ra, gọi ồn lên

– Sư phụ ở đâu?

Gọi một hồi lâu, không thấy vị hòa thượng, Bảo ngọc phải chạy ra phía ngoài, thấy Lý Quý cản đường không để cho ông ta đi vào, liền nói

– Bà lớn bảo ta ra mời sư phụ vào.

Lý Quý nghe nói buông tay ra, ông ta bèn ngất ngưởng đi vào.

Bảo Ngọc trông thấy hình dáng vị hòa thượng này giống hệt như người mình đã trông thấy khi ngất đi, trong bụng đã hiểu một phần, liền đến trước mặt kính chào, nói

– Thưa sư phụ, đệ tử xin lỗi ra tiếp chậm.

– Ta không cần các người phải tiếp đón, chỉ cần đem số tiền ra đây là ta sẽ đi.

Bảo Ngọc nghe giọng nói này không giống giọng nói của người có đạo hạnh. Lại trông thấy ông ta khắp đầu chốc lở, đầy mình bẩn thỉu rách rưới, bèn nghĩ thầm

“Người xưa nói – là chân nhân, thì không lộ tướng, lộ tướng không phải là chân nhân. Nay ta đã gặp thì không nên bỏ lỡ. Ta cứ nhận đưa số bạc tạ ông ta để thử dò ý định ông ta như thế nào.” Rồi anh ta nói

– Sư phụ không cần nóng vội, thân mẫu của đệ tử đang lo liệu số tiền. Mời sư phụ ngồi chở một lát. Đệ tử xin hỏi – có phải sư phụ từ Thái hư ảo cảnh đến đây không?

– Ảo cảnh nào? Chẳng qua là đến từ chỗ đến, đi từ chỗ đi mà thôi. Ta là người đưa trả viên ngọc. Vậy ta hỏi anh – viên ngọc ấy ở đâu mà đến?

Bảo ngọc trong chốc lát không thể trả lời được. Nhà sư cười

– Anh chưa biết từ đường nào đến đây, sao còn hỏi tôi. Bảo Ngọc vốn thông minh, lại từng được phép giác ngộ nên đã biết thấu cõi hồng trần, chỉ còn số phận của mình là chưa biết rõ. Nay nghe ông ta hỏi đến viên ngọc, cảm thấy như bị đánh một đùi trên đầu, nên trả lời

– Sư phụ không cần hỏi đến số bạc nữa, để đệ tử đem viên ngọc trả lại cho sư phụ.

Nhà sư cười nói

– Cũng nên trả lại cho ta rồi đấy.

Bảo Ngọc không đáp, chạy vào trong nhà, đến phòng mình, thấy Bảo Thoa và Tập Nhân còn sang bên Vương phu nhân, vội đến bên giường lấy viên ngọc rồi đi ra thì chạm phải Tập Nhân. Tập Nhân giật mình nói

– Bà bảo cậu ngồi tiếp ông sư là phải. Bà ở bên nhà thu xếp số bạc để đưa cho ông ta. Sao cậu lại vào đây làm gì?

– Chị mau mau đến trình bà, không cần sửa soạn số bạc, tôi cứ đem viên ngọc trả lại cho ông ta là xong.

Tập Nhân nghe vậy vội giữ lấy Bảo Ngọc nói

– Không được đâu? Viên ngọc ấy tức là bản mệnh của cậu, nếu ông ấy mang đi thì cậu lại ốm thôi.

– Giờ tôi không đau ốm nữa đâu. Tôi đã có quả tim rồi, còn dùng viên ngọc ấy làm gì.

Bảo Ngọc đẩy Tập Nhân rồi muốn chạy đi. Tập Nhân hoảng hốt vội kêu lên

– Thì cậu hãy trở lại để tôi nói với cậu một câu đã?

Bảo Ngọc quay cổ lại bảo

– Chẳng phải nói gì nữa.

Tập Nhân không ngần ngại gì nữa, vừa chạy theo vừa gọi to lên

– Lần trước mất viên ngọc, tí nữa là mất cả mạng tôi, rồi mới tìm thấy nó đấy. Nay cậu lại mang đi à. Thế thì cậu không sống được mà tôi cũng chết mất? Cậu muốn đem trả ngọc cho ông ấy thì hãy bắt tôi chết đi đã!

Nói xong. Tập Nhân chạy theo giữ lại. Bảo Ngọc điên tiết lên, bảo

– Chị chết haykhông cũng phải trả.

Rồi Bảo Ngọc thục mạng quay mình định chạy. Nhưng Tập Nhân hai tay cứ ôm lấy thắt lưng Bảo Ngọc, không chịu buông, vừa khóc vừa kêu, ngồi xệp xuống đất. Các a hoàn trong nhà nghe vậy, vội vàng chạy ra, trông thấy bộ dạng hai người rất

là ghê gớm, lại nghe Tập Nhân khóc và kêu

– Mau đi trình với bà lớn? Cậu Bảo định đem viên ngọc đi trả cho ông sư đấy!

A hoàn liền chạy ngay đi báo Vương phu nhân. Bảo Ngọc lại càng tức tối, ra sức bẻ tay Tập Nhân, nhưng Tập Nhân vẫn cứ cố cắn răng không chịu thả. Tử Quyên ở trong nhà nghe nói Bảo Ngọc định đem viên ngọc đi trả thì hoảng hốt hơn ai hết, tuy ngày thường chị ta tỏ ra lạnh nhạt với Bảo Ngọc. Nhưng lúc ấy quên đi đâu mất, vội vàng đến giúp sức ôm ghì lấy Bảo Ngọc. Bảo Ngọc tuy là con trai, đã cố sức giằng ra, nhưng bị hai người liều chết ôm chặt không thả, nên cũng khó thoát. Anh ta liền than thở

– Chỉ vì một viên ngọc mà các chị đều chết giữ lấy như thế. Nếu chính thân tôi bỏ đi thì các chị sẽ làm thế nào.

Tập Nhân và Từ Quyên nghe nói, bất giác khóc oà lên. Trong lúc đang giằng co như vậy thì Vương phu nhân và Bảo Thoa vội vàng chạy đến. Thấy quang cảnh ấy, Vương phu nhân khóc và quát

– Bảo Ngọc! mày điên rồi à?

Bảo Ngọc thấy Vương phu nhân đến, biết không thể thoát, liền đấu dịu cười và nói:

– Có gì cái chuyện ấy mà mẹ phải nóng nảy. Các chị ấy cứ làm nhớn nhác lên như thế đó thôi. Con nghĩ ông ấy không biết nể nang, cứ đòi một vạn lạng bạc, thiếu một lạng cũng không được. Con đâm tức, chạy về lấy viên ngọc định trả cho ông ta và sẽ nói đó là viên ngọc giả không dùng làm gì. Ông ấy thấy ta không quý viên ngọc thì ta có thể tùy trả cho ông ấy bao nhiêu cũng xong.

Vương phu nhân nói

– Ta tưởng mày muốn đem trả cho ông ấy kia. Thế thì cũng được. Nhưng sao không nói rõ cho chúng nó biết, để chúng nó kêu khóc ầm lên như thế còn ra thể thống gì nữa.

Bảo Thoa nói

– Cậu nói như vậy cũng được, chứ nếu đem viên ngọc trả cho ông sư thì không nên, xem ra ông ta cũng hơi kỳ quặc. Lỡ trả cho ông ta rồi, trong nhà xảy ra không yên, như thế chẳng lại sinh ra lắm chuyện! Còn như số bạc thì cứ đem những đồ trang sức của tôi cầm bán cũng còn đủ.

Vương phu nhân nghe vậy nói

– Thế cũng được, cứ làm như vậy.

Bảo Ngọc cũng không nói lại, Bảo Thoa đến cầm lấy viên ngọc trong tay Bảo Ngọc và nói

– Cậu cũng không cần đi ra, để tôi cùng mẹ đem bạc ra cho ông ta là xong.

Bảo Ngọc nói

– Viên ngọc không trả cho ông ta thì thôi, nhưng tôi cần phải gặp mặt ông ta một lần nữa mới được.

Bọn Tập Nhân vẫn không chịu buông ra. Cuối cùng, Bảo Thoa cả quyết nói

– Cứ buông ra để mặc cho cậu ấy đi.

Tập Nhân đành phải buông ra. Bảo Ngọc cười

– Té ra các chị chỉ trọng viên ngọc chứ không trọng người! Các chị buông tôi ra, tôi sẽ theo ông sư đi, xem các chị cứ giữ lấy viên ngọc, rồi sẽ ra sao?

Tập Nhân trong bụng hoảng sợ, muốn giữ Bảo Ngọc lại, nhưng vì trước mặt Vương phu nhân và Bảo Thoa, không tiện tỏ ra liều lĩnh. Vừa lúc đó, Bảo Ngọc được buông ra, liền bỏ chạy. Tập Nhân vội gọi a hoàn nhỏ ra cửa ngoài truyền lại cho bọn Bồi Dính

– Phải dặn ngoài kia trông nom cậu Hai. Cậu ấy hơi điên đấy?

A hoàn nhỏ vâng lời đi ra.

Vương phu nhân và Bảo thoa vào ngồi, hỏi Tập Nhân đầu đuôi ra sao. Tập Nhân bèn kể lại tỉ mỉ những câu nói của Bảo Ngọc. Vương phu nhân và Bảo Thoa rất là áy náy, lại bảo ra dặn mọi người phải lắng nghe xem vị hòa thượng nói những chuyện gì. Một lúc, a hoàn nhỏ vào trình với Vương phu nhân

– Cậu Hai quả là điên rồi! Các chú hầu nhỏ ngoài kia kể lại – trong nhà không chịu giao viên ngọc, cậu ấy không biết làm sao. Bây giờ cậu ấy tự đi ra, xin ông sư đem cậu ta đi.

Vương phu nhân nghe xong, nói

– Thế sao được! Ông sư ấy còn nói những gì?

– Ông sư bảo cần viên ngọc chứ không cần người.

Bảo Thoa hỏi

– Lại không đòi bạc nữa à?

– Không nghe nói. Sau rồi ông sư cùng cậu Hai vừa nói vừa cười, có nhiều chuyện lắm, nhưng các chú hầu nhỏ ngoài kia đều không hiểu hết.

Vương phu nhân nói

– Đồ ngu? Nghe không hiểu chứ kể lại thì kể được chứ.

Rồi bảo a hoàn nhỏ

– Mày đi gọi tên hầu nhỏ ấy vào đây.

A hoàn nhỏ vội đi gọi tên hầu nhỏ ấy vào. Nó đứng dưới hành lang từ ngoài cửa sổ chào Vương phu nhân. Vương phu nhân liền hỏi

– Vị hòa thượng và cậu Hai nói chuyện với nhau, chúng mầy không hiểu, chứ kể lại cũng không kể được à?

Tên hầu nhỏ thưa

– Chúng con chỉ nghe nói mấy tiếng như núi “Đại Hoang”. đỉnh “Thanh Ngạnh” và “Cõi Thái hư”, cắt đứt trần duyên” gì gì đó…

Vương phu nhân nghe cũng không hiểu. Bảo Thoa nghe xong khiếp sợ, trợn trừng trợn trạc, không nói ra được nửa lời.

Bảo Thoa đang định cho người dắt Bảo Ngọc vào, thì vừa thấy Bảo Ngọc cười hớn hở đi vào nói

– Tốt rồi! Tốt rồi!

Bảo Thoa vẫn còn sửng sốt. Vương phu nhân hỏi

– Mày điên điên dại dại nói những câu gì thế?

– Con nói đứng đắn. Mẹ lại bảo là điên. Ông ấy nguyên cớ kiếm con, chẳng qua ông ta muốn đến thăm con đó thôi. Có phải ông ta thật đến đòi bạc đâu? Ông ta chỉ đến bố thí cái thiện duyên đấy thôi. Vì thế sau khi nói rõ, ông ta liền vùn vụt

ra đi, thế không phải là tốt rồi à.

Vương phu nhân không tin, lại từ trong cửa sổ hỏi tên hầu nhỏ. Tên ấy vội vàng chạy ra hỏi người gác cửa rồi vào trình

– Ông ấy đi thực rồi và có dặn lại xin bà cứ yên tâm. Ông ấy không cần số bạc, chỉ cần cậu Hai thường năng tới chỗ ông ấy là được. Mọi việc đều phải tùy theo “nhân duyên”, đã có cái lẽ nhất định.

Vương phu nhân nói

– Thế ra ông ấy lại là một ông sư phúc đức! Chúng mày có nhớ ông ấy ở đâu không?

Người canh cửa nói

– Cháu đã hỏi thì ông ta nói cậu Hai nhà ta có biết đấy.

Vương phu nhân liền hỏi Bảo Ngọc

– Vậy ông ta ở chỗ nào?

Bảo Ngọc cười

– Chỗ ấy bảo xa thì xa. Bảo gần thì gần.

Bảo Thoa không đợi Bảo Ngọc nói hết, liền bảo

– Cậu hãy tỉnh lại chứ? Đừng quá mê mẩn! Lâu nay bà và mẹ chỉ thương một mình cậu, cha lại còn bảo cậu lo theo đòi để lập công danh nữa đấy.

Bảo Ngọc đáp

– Chuyện tôi vừa nói không phải là công danh à? Các người chưa biết “một người con cháu đi tu, bảy ông tổ được lên chầu trời” hay sao?

Vương phu nhân nghe đến đó, bất giác đau lòng nói

– Vận nhà chúng ta không biết rồi sẽ ra sao. Con Tư đã luôn miệng đòi đi tu, bây giờ lại thêm một thằng này nữa. Đời ta như thế này, còn sống để làm gì!

Bà ta nói xong, khóc òa lên. Bảo Thoa thấy Vương phu nhân thương tâm, đem hết lời khuyên giải. Bảo Ngọc cười

– Con nói đùa một câu mà mẹ lại cho là thực.

Vương phu nhân mãn khóc hỏi lại

– Những câu mầy nói đều là nói bậy cả chứ?

Đang lúc ồn ào, bỗng thấy a hoàn vào trình

– Cậu Hai Liễn đã về, nhìn sắc mặt đổi hẳn. Cậu ấy bảo mời bà đến để thưa chuyện.

Vương phu nhân lại sợ hãi, bảo

– Cứ mời anh ấy vào đây. Cô em dâu cũng là họ hàng cũ, không cần phải tránh.

Giả Liễn vào chào hỏi Vương phu nhân. Bảo Thoa cũng ra chào, hỏi thăm Giả Liễn. Giả Liễn thưa

– Cháu vừa mới tiếp được bức thư của cha cháu, nói bị ốm rất nặng, bảo cháu đi ngay, nếu chậm thì e không được gặp mặt.

Hắn nói đến đó, liền rơi nước mắt.

Vương phu nhân hỏi

– Trong thư nói đau bệnh gì?

– Lúc đầu do cảm mạo phong hàn, nay đã thành ra bệnh lao. Hiện rất nguy cấp, nên cha cháu sai một người đi suốt ngày đêm về đây báo, nếu cháu còn chần chừ một vài ngày thì sẽ không được gặp mặt. Giờ cháu đến trình thím, cháu thế nào cũng

phải đi. Chỉ có điều là trong nhà không có ai trông nom. Cháu Tường, cháu Vân tuy dại dột, nhưng cũng là đàn ông, khi có việc gì ở ngoài, chúng nó còn có thể truyền lời vào được. Còn trong nhà cháu thì cũng chẳng có chuyện gì. Con Thu Đồng ngày nào cũng kêu khóc, không muốn ở lại, cháu đã cho người đi gọi người nhà mẹ nó đem nó về. Như vậy thì Bình Nhi cũng đỡ tức tối. Tuy cháu Xảo không có người chăm nom, nhưng may còn có Bình Nhi là người không đến nỗi hư hỏng. Cháu Xảo cũng thông minh, nhưng tính khí bướng bỉnh hơn cả mẹ nó. Mong thím luôn luôn dạy bảo cho.

Hắn nói xong, quầng mắt đỏ lên, vội lấy cái khăn lụa buộc bao cau trong lưng ra lau mắt. Vương phu nhân nói

– Bà nội nó ở đấy mà lại gửi nhờ ta?

Giả Liễn nói khẽ

– Thím nói thế thì tội cháu thật đáng chết. Không cần phải nói gì cả, chỉ mong thím thương đến cháu là được.

Nói đoạn, hắn quỳ xuống. Vương phu nhân mắt đỏ lên nói

– Anh hãy đứng dậy! Thím cháu chuyện trò với nhau sao lại làm thế? Chỉ có một điều con cháu cũng đã lớn rồi, nếu bác có rủi ro thế nào thì lại nhẹ nhàng cho nó. Khi gặp nhà môn đăng hộ đối đến hỏi thì phải đợi anh về, hay là do bác gái ở nhà làm chủ?

– Hiện có thím và mẹ cháu ở nhà, thì tất nhiên là do hai người làm chủ, không cần đợi cháu.

– Anh cần phải đi thì viết ngay một tờ trình đưa tin cho chú, nói rằng ở nhà đây không có người, bác lại chưa biết ra sao. Xin chú thu xếp việc lớn giúp bà cho nhanh chóng rồi về nhà gấp.

Giả Liễn vâng dạ, đang định đi ra, nhưng lại quay trở vào thưa

– Số người hầu hạ của phủ ta, trong nhà còn đủ sai phái. Nhưng bên vườn không có người, rất là trống trải. Bao Dũng đã đi theo chủ nó rồi. Tiết Khoa đã dọn ra ở nhà riêng. Không ở cái nhà dì Tiết ở lúc trước. Một dãy nhà trong vườn đều bỏ không, chẳng ai nhìn ngó. Thím nên thỉnh thoảng sai người dến xem. Am Lũng Thúy nguyên là đất của phủ ta. Nay cô Diệu Ngọc không biết đi đâu rồi. Bao nhiêu nhà cửa ở đó, ni cô giữ nhà cho Diệu Ngọc. không dám làm chủ, chỉ mong có một người trong phủ đến trông coi.

– Việc của mình lo chưa xong, còn cáng lấy những việc khác sao được. Việc này đừng để cho con Tư biết. Nếu nó nghe thấy lại om sòm lên, đòi di tu đấy. Anh thử nghĩ gia thế chúng ta như thế nào? Mà để một cô con gái đi tu thì còn ra sao nữa?

– Thím không nhắc đến thì cháu cũng không dám nói. Cô tư vẫn là người của phủ Đông, cha mẹ không có ; anh ruột lại phải đi ra tỉnh ngoài, chị dâu cũng không nói nổi. Cháu nghe nói cô ta đã đòi chết đến mấy lần rồi. Bụng cô ấy đã vậy, nếu cứ

khăng khăng giữ lại, sợ sau này cô ta chết thật thì tai hại hơn là đi tu nữa đấy.

Vương phu nhân nghe xong gật dầu bảo

– Việc ấy ta cũng khó gánh nổi. Ta không làm chủ được, chỉ đành để mặc chị dâu nó thôi.

Giả Liễn lại nói thêm mấy câu nữa, rồi mới đi ra gọi người nhà đến cắt đặt rõ ràng, viết một phong thư rồi thu xếp đồ đạc để lên đường. Bọn Bình Nhi tất nhiên cũng có nhiều câu dặn dò. Riêng Xảo Thư thì đau xót vô cùng. Giả Liễn lại muốn gửi cho Vương phu nhân trông nom. Nhưng Xảo Thư không thuận. Cô ta lại nghe nói đã nhờ bọn Giả Tường, Giả Vân coi việc bên ngoài, trong bụng càng khó chịu, nhưng không nói ra được. Cô ta đành phải tiễn cha đi rồi cùng sống với Bình Nhi cho qua ngày tháng.

Phong Nhi và Tiểu Hồng từ khi Phượng Thư mất rồi, người thì xin nghỉ, ngươi thì cáo bệnh. Bình Nhi muốn đón một cô nào trong phủ đến ở chung, trước là để làm bạn với Xảo Thư. Sau nữa, để kèm cặp cô ta. Nhưng nghĩ mãi không có người nào. Chỉ có Hỷ Loan và cô Tít là hai người trước kia được Giả mẫu yêu chiều. Cô Tư thì vừa mới đi lấy chồng. Còn Ỷ Loan thì cũng đã có nơi, không bao lâu sẽ phải về nhà chồng; nên Bình Nhi cũng đành chịu.

Giả Vân và Giả Tường tiễn chân Giả Liễn đi rồi, vào chào Hình phu nhân và Vương phu nhân. Hai người thấy nhau ở thư phòng ngoài. Ban ngày thì họ cùng bọn người nhà đùa nghịch, có lúc kéo bè bạn đến thay phiên nhau làm chủ bữa tiệc thậm chí họp nhau đánh bạc, nhà trong làm sao mà biết được.

Một hôm cậu cả Hình và Vương Nhân đến trông thấy Giả Vân, Giả Trang tại đó, biết rằng bọn họ vui nhộn nên cũng mượn tiếng trông nom dùm rồi thường đến thư phòng ngoài bày trò đánh bạc, uống rượu. Trong số những người nhà đứng đắn thì

Giả Chính đã đem đi mấy người. Còn mấy người theo Giả Liễn, chỉ trơ lại con cháu các nhà họ Lại, họ Lâm mà thôi. Bọn thiếu niên ấy, nhờ ơn cha mẹ, chỉ quen ăn uống chứ làm gì biết lo liệu việc nhà. Vả lại, cha anh của họ đều đi vắng, nên họ như ngựa không cương. Đã thế lại có hai ông chủ xúi giục thêm, thì chuyện gì mà họ không thích làm. Bọn chúng làm cho phủ Vinh thật là hỗn độn. Chẳng còn kể đến trật tự, thể thống gì nữa.

Giả Tường muốn lôi kéo cả Bảo Ngọc. Giả Vân can

– Cậu Bảo là người không có số tốt, đụng đến cậu ấy làm gì. Năm kia tôi mách mối cho cậu ấy một nhà rất xứng đáng. Ông cha làm quan coi thuế ở tỉnh ngoài, ở nhà gồm những mấy hiệu cầm đồ, còn cô con gái thì đẹp hơn tiên. Tôi vội vàng viết một bức thư rất tỉ mỉ đưa cho cậu ấy. Nào ngờ cậu ta không có số tốt…

Hắn nói đến đó, liếc nhìn hai bên thấy không có ai, lại tiếp

– Bụng cậu ta đã trót gắn bó với thím Hai nhà mình rồi? Anh chưa nghe nói đấy thôi. Còn cả cô Lâm nữa. Kết quả cô Lâm mắc bệnh tương tư mà chết, ai cũng biết đấy? Việc ấy đã đành, cũng là do số phận cả. Không ngờ vì bức thư ấy mà cậu ta giận tôi không để ý gì đến tôi. Cậu ấy xem chừng rồi đây biết ai phải nhờ đến thể diện của ai?

Giả Tường nghe xong gật đầu, mới từ bỏ ý định của mình. Họ có biết đâu Bảo Ngọc từ ngày gặp ông sư đã muốn cắt đứt trần duyên. Nhưng vì còn có Vương phu nhân nên không dám làm theo ý muốn của mình. Tuy vậy, anh ta cùng bọn Bảo Thoa, Tập Nhân đã không hòa hợp lắm. Bọn a hoàn không hiểu, còn muốn khêu gợi cậu ta, nhưng Bảo Ngọc vẫn không thèm nhìn đến. Thậm chí cũng không nghĩ gì đến việc nhà nữa. Vương phu nhân và Bảo Thoa vẫn thường khuyên bảo anh ta đọc sách. Anh ta cũng làm bộ giả học, nhưng bụng chỉ nghĩ đến vị hòa thượng đã dẫn anh ta đến cảnh tiên. Cho nên gặp ai anh ta cũng cho toàn là người tục cả. Vì ở nhà khó chịu, Bảo Ngọc lúc rảnh lại đến Tích Xuân nói chuyện suông. Hai người hợp ý nhau, nên ý nghĩ của anh ta lại thêm chắc chắn hơn. Do đó, không còn để ý gì đến bọn Giả Hoàn, Giả Lan nữa.

Giả Hoàn nhân lúc cha không ở nhà, dì Triệu đã chết. Vương phu nhân lại không để ý lắm, liền theo bọn Gia Tường. Chỉ có Thái Vân năng khuyên can, nhưng lại bị Giả Hoàn mắng át. Ngọc Xuyến thấy Bảo Ngọc càng điên dại quá, nên nói với mẹ, nói xin cho về. Bây giờ hai anh em Bảo Ngọc và Giả Hoàn mỗi người một tính khí riêng, làm cho ai cũng chẳng buồn nhìn đến. Chỉ có Giả Lan thì nghe lời mẹ, cố gắng đọc sách làm bài đưa đến nhà trường xin Đại Nho chấm hộ. Vì gần đây Đại Nho già yếu chỉ nằm trên giường, nên anh ta đành phải chịu khó học lấy Lý Hoàn vốn là người trầm lặng, ngoài việc đi thăm Vương phu nhân và qua lại với Bảo Thoa thì không đi đâu một bước. Chỉ trông coi cho Giả Lan đọc sách thôi. Vì vậy tuy số người trong phủ Vinh không phải ít. Nhưng người nào lo việc người ấy, không ai chịu làm chủ ai cả. Giả Hoàn và Giả Tường thì càng bừa bãi, không ra thể thống gì, thậm chí còn cầm vụng bán trộm lung tung. Giả Hoàn lại chơi gái, đánh bạc, không việc gì là hắn không làm.

Một hôm cậu cả Hình và Vương Nhân đến uống rượu ở thư phòng của phủ Giả. Trong lúc thích thú, hai người bảo mấy tên hầu rượu hát hò để mời rượu. Giả Tường liền nói

– Các ông chơi tục quá, để tôi ra một cái lệnh.

Mọi người nói

– Cũng được.

Giả Tường nói

– Chúng ta hò theo lôi “nguyệt tự lưu trường”, rồi sẽ nói trước câu có chữ “nguyệt”, rồi đếm đến người nào thì người ấy uống rượu. Lại còn những câu đầu câu cuối lúc uống rượu cũng phải theo người ra lệnh. Ai không đúng sẽ phạt ba ly rượu lớn.

Mọi người đều bằng lòng. Giả Tường uống một ly rượu lệnh và đọc câu “phi vũ trường nhi túy nguyệt” (cất chén lên say với bóng trăng). Rồi theo thứ tự đếm đến Giả Hoàn.

Giả Tường nói

– Câu đầu phải có chữ “quế”.

Gả Hoàn liền đọc

– Lãnh lộ ô thanh thấp quế hoa” (sương lạnh không có tiếng làm ướt hoa quế) – – Nhưng còn câu cuối?

Giả Tường nói

– Phải đọc câu có chữ “hương”.

Giả Hoàn đọc

– “Thiên hương vân ngoại phiêu” (hương trời bay bổng ngoài tầng mây).

Cậu cả Hình nói

– Chán lắm! Chán lắm? Các anh biết được mấy chữ, lại giả làm bộ văn nhân. Cách ấy không được vui lại làm khó cho người ta. Chúng ta hò lệnh ấy đi, chỉ chơi đánh toan là bỏ. Người thua phải uống rượu, lại phải hát. Như thế gọi là “khổ trong cái khổ”. Nếu không ai biết hát thì nói câu chuyện vui cười cũng được chỉ cần cho vui thôi.

Mọi người đều nói

– Được đấy!

Mọi người đều đưa tay ra đánh toan ầm ì. Vương Nhân bị thua, uống một ly rượu, lại hát một bài. Mọi người đều bảo “được!”. Rồi lại đánh toan nữa. Tên hầu rượu thua, hát câu, “tiểu thư, tiểu thư nhiều duyên dáng”gì ấy. Sau hết, cậu cả Hình thua, họ bắt ông ta hát một bài. Ông ta nói

– Tôi hát không được. Để tôi nói chuyện vui cười thôi.

Giả Tường nói

– Nếu nói chuyện mà người ta không cười được thì anh bị phạt đấy!

Cậu cả Hình liền uống một ly rượu rồi kể

– Xin quý vị lắng nghe – trong thôn trang nọ có một tòa miếu Huyền Đế bên cạnh lại có một ngôi đền thờ thần thổ địa. Đức Huyền đế thường gọi thần thổ địa đến nói chuyện. Một hôm trong miếu Huyền đế mất tiền. Ngài liền gọi thần thổ địa đến

hỏi. Thổ địa bẩm, “Trong xứ này không có kẻ trộm. Chắc là vì các thần tướng không cẩn thận, để bọn thần ở ngoài đến lấy mất đồ đạc đấy thôi.” Huyền đế bảo, “Nói vậy, nhà ngươi là thân thổ địa, mất trộm không hỏi nhà ngươi thì còn hỏi ai? Nhà ngươi không đi lùng bắt kẻ trộm, lại nói thần tướng của ta không cẩn thận à?” Thổ địa bẩm, “tuy cũng vì tôi không cẩn thận, nhưng thực ra chỉ vì địa lý trong cái miếu không được hay.” Huyền đế bảo, “nhà ngươi cũng biết xem địa lý à?” Thổ địa bẩm, “xin để tiểu thần xem thử”. Thần thổ địa đi xem khắp nơi một lúc rồi trở vào bẩm, “sau lưng thần vị của ngài có hai cánh cửa đỏ, thế là không cẩn thận. Còn sau lưng chỗ ngồi của tiểu thần thì có tường xây, tất nhiên đồ vật không mất đi đâu được. Từ nay sau lưng thần vị của ngài cũng nên đổi lại xây tường thì được chắc chắn”. Đức Huyền đế nghe nói có lý, liền gọi thần tướng sai người đi xây tường. Các thần tướng than thở, ” hiện nay một nén hương cũng không ai thắp, còn lấy đâu ra ngói gạch và nhân công để xây tường.” Đức Huyền đế không biết làm sao, bảo các thần tướng kiếm cách, nhưng vị nào cũng chịu. Lúc đó tướng rùa ở dưới chân Đức Huyền đế đứng dậy bảo, “các chú không làm được trò trống gì? Ta định như thế này – các chú mở hai bức cửa đỏ đem xuống, đến đêm thì lấy cái bụng của ta mà lấp vào lỗ cửa hở, không phải là thành một bứ tường à?” Các thần tướng đều nói, “đã không tốn tiền lại vững chắc!” Thế rồi tướng rùa nhận lấy công việc ấy, trong miếu lại được yên tĩnh. Không ngờ mấy hôm sau trong miếu ấy lại mất đồ đạc. Các thần tướng liền gọi thổ địa đến hỏi, ” nhà người bảo xây được tường thì không mất đồ đạc nữa. Vì sao nay đã có tường rồi vẫn cứ bị mất?” Thổ địa nói, “cái tường ấy xây không được vững chắc!” Các thần tướng bảo, ” Nhà ngươi thử xem”. Thổ địa đến xem thì đó quả là một bức tường. Nhưng sao còn mất trộm? Thổ địa liền giơ tay sờ một cái rồi nói

“Tôi cứ tưởng là tường thật. Biết đâu lại là tường giả! ” ( Đây là một lối chơi chữ. Cậu cả Hình lấy chữ “tường” ra chế diễu Giá Tường.) Mọi người nghe xong, cười ồ lên. Giả Trang cũng không nhịn được cười, liền nói

– Ông cả ngốc ơi! Ông giỏi nhỉ? Tôi không chế diễu ông. Sao ông lại chế diễu tôi Mau đưa ly rượu đây, phạt một chén lớn.

Cậu cả Hình uống xong, đã hơi say. Mọi người uống thêm mấy chén nữa, đều say nhừ. Cậu cả Hình thì nói chuyện người chị mình không tốt. Vương Nhân thì nói cô em mình hư. Rồi đều trách móc thậm tệ. Giả Hoàn nghe vậy cũng nhân lúc hứng rượu nói Phượng Thư không ra gì, nào là cay nghiệt với chúng tôi, nào là đạp lên đầu chúng tôi. Mọi người đều nói

– Người ta ở đời. Cần phải có lòng nhân hậu. Xem như chị Phụng của ông, nhờ thế cụ bà ghê gớm như thế. Đến nay cũng cụt đuôi rồi. Chỉ còn lại một chút con gái, e cũng là báo ứng trước mắt đấy!

Giả Vân nhớ lại việc Phượng Thư đối đãi với mình không tử tế lại nghĩ đến việc Xảo Thư hễ trông thấy mình là khóc, nên cũng luôn miệng nói hấy. Chỉ có Giả Trang nói

– Uống rượu đi thôi! Nói chuyện người ta làm gì?

Hai người hầu rượu liền hỏi

– Cô con gái ấy nay bao nhiêu tuổi? Nhan sắc ra sao?

Giả Tường nói

– Nhan sắc thì tuyệt đẹp. Nó cũng đã mười ba mươi bốn tuổi rồi.

Người kia nói

– Tiếng rằng người đẹp như thế mà lại sinh vào trong phủ này. Nếu sinh một nhà thường dân, thì cha mẹ anh em đều được làm quan, mà lại phát tài nữa kia.

Mọi người lại hỏi

– Sao thế?

Người kia nói

– Nay có một đức vương ở tỉnh ngoài, là người rất đa tình, muốn chọn một vị vương phi. Nếu cô nào làm ngài vừa ý thì cha mẹ anh em đều được đi theo. Thế không phải là sung sướng hay sao?

Mấy người khác không ai để ý lắm, chỉ có Vương Nhân hơi động lòng, nhưng vẫn cứ uống rượu. Bỗng thấy anh em họ Lại, họ Lâm từ ngoài đi vào nói

– Các ông, các cậu vui quá nhỉ?

Mọi người đứng dậy nói

– Anh Cả, anh Ba. Sao bây giờ mới đến? Để chúng tôi chờ mãi.

Hai người trả lời

– Sớm hôm nay nghe tin đồn, nói trong phủ chúng ta lại xảy ra việc. Chúng tôi sốt ruột, liền đi dò la, thì ra không phải việc trong phủ ta.

Mọi người hỏi

– Không phải việc trong phủ ta là được rồi. Vì sao lại không đến ngay?

Hai người ấy nói

– Tuy không phải là việc phủ ta, nhưng người ấy cũng có hơi dính dáng đến chúng ta. Các vị có biết là ai không? Chính là ông Giả Vũ Thôn đấy. Hôm nay chính tôi ra xem, thấy ông ta mang xiềng, nghe nói bị giải đến tòa tam pháp để xét tội. Chúng tôi thấy ông ấy thoáng qua lại trong phủ ta. Sợ có việc gì, nên đi theo để dò la xem sao?

Giả Vân nói

– Anh Cả để ý đến việc ấy là phải lắm. Anh hãy ngồi xuống uống một chén đã rồi sẽ nói chuyện.

Hai người từ chối một lúc rồi mới ngồi uống rượu và nói tiếp

– Ông Vũ Thôn ấy vẫn là tay cừ, có tài xoay xở, chức quan cũng không phải nhỏ. Chỉ phải cái bệnh tham tiền, nên bị người ta tâu vua kể tội sách nhiễu bọn thuộc hạ. Hiện nay đức hoàng thượng rất sáng suốt và nhân từ, chỉ nghe nói đến tham, hoặc làm hại dân chúng, hoặc cậy thế lừa dối dân là người rất giận, cho nên đã hạ chỉ truyền bắt xét hỏi. Nếu xét đúng sẽ nguy, nhưng không có tang chứng, thì người ấy cũng sẽ không yên. Hiện nay là một thời buổi tốt, chỉ cần có phúc làm được quan là sướng rồi.

Mọi người nói

– Ông anh của anh là người có phúc, hiện làm tri huyện. Còn không sướng à?

Người họ Lại nói

– Anh tôi tuy đã làm tri huyện, nhưng xem cách làm ăn của anh ấy sợ chưa biết rồi sẽ ra sao?

Mọi người hỏi

– Anh ta cũng hay vòi vĩnh à.

Người họ Lại gật đầu rồi cầm ly rượu uống. Mọi người lại nói

– Còn nghe được chuyện gì mới lạ nữa không?

– Không có việc gì khác, chỉ nghe nói bắt được nhiều tên kẻ cướp ở ven biển và giải đến tòa tam pháp để xét tội. Sau đó xét ra có nhiều tên ẩn nấp ở trong thành, dò la tin tức, rồi nhân lúc sơ hở vào cướp giật nhà người ta. Bây giờ nghe đâu các vị quan to trong triều đều là văn hay võ giỏi, hết sức báo đáp ơn vua. Cho nên các ngài đi đến đâu, đã trừ hết bọn cướp rồi.

Mọi người hỏi

– Các anh nghe nói có bọn cưp ở trong thành. Không biết họ đã tra ra vụ cướp trong phủ chúng ta hay chưa?

Hai người kia trả lời

– Vẫn chưa thấy gì. Nhưng nghe đâu có người đồn rằng có một tên quê ở xứ này đã phạm tội ở trong thành, rồi bắt một người con gái chạy xuống miền bể. Người con gái ấy không chịu theo, bị tên cướp giết chết. Tên cướp ấy muốn chạy trốn ra ngoài cửa quan. Nhưng bị quan quân bắt lại và hành hình ngay tại chỗ.

Mọi người nói

– Cái cô Diệu Ngọc nào đó tu ở trong am Lũng Thúy của phủ ta, chẳng phải đã bị người nào bắt đi đấy sao? Có phải người con gái bị bất ấy chính là cô ta không!

Giả Hoàn nói

– Chắc là cô ta!

– Sao cậu biết được?

– Cái con Diệu Ngọc ấy thực đáng ghét. Suốt ngày nó hay làm bộ, nhưng hễ thấy anh Bảo Ngọc là nó vui tươi hớn hở; có gặp tôi thì nó không thèm nhìn. Nếu quả thực nó bị giết thì tôi cũng thỏa lòng!

Mọi người nói

– Người bị bắt cũng nhiều. Sao lại chắc là cô ta?

Giả Vân nói

– Cũng có phần đáng tin. Hôm trước có người nói một đạo bà trong am ấy nằm mộng thấy Diệu Ngọc bị người ta giết chết rồi.

Mọi người cười nói

– Chuyện chiêm bao ấy kể làm gì?

Cậu cả Hình nói

– Mặc họ mộng hay không mộng, chúng ta đi ăn cơm đi, rồi đêm nay quyết sát phạt nhau một trận.

Mọi người bằng lòng, ăn cơm xong, họ mở cuộc sát phạt nhau rất to. Đánh đến quá trống canh ba bỗng nghe phía trong kêu ồn lên

– Cô Tư cùng mợ cả Trân cãi nhau. Cô ấy đã cắt hết mớ tóc rồi chạy đến bên Hình phu nhân và Vương phu nhân lạy xin để cho cô ấy làm sư cô. Xin ra ở một nơi khác, nếu không cho cô ấy đi tu thì cô dọa sẽ tự sát. Hai bà không biết quyết định ra sao, bảo mới cậu Tường và cậu Vân vào trong nhà.

Giả Vân nghe nói biết việc này là do ý định của cô ta khi người ta giao cho cô ta ở lại coi nhà một mình, và chắc là khuyên can không nổi, liền bàn định với Giả Tường

– Bà lớn gọi chúng ta vào. Nhưng chúng ta không làm chủ được mà cũng chẳng chủ chiếc làm gì. Ta chỉ nên khuyên can, nếu không nghe thì để mặc họ. Chúng ta chỉ nên bàn nhau viết một bức thư gửi cho chú hai Liễn. Thế là tránh khỏi tai tiếng.

Hai anh bàn định xong rồi vào hầu hai bà, lại giả cách khuyên can một lúc. Nhưng Tích Xuân cứ một mực đòi đi tu, nếu không được đi ra khỏi nhà, cũng xin cho ở một gian nhà sạch sẽ, để tụng kinh niệm Phật.

Vưu thị thấy hai người không dám làm chủ, lại sợ Tích Xuân tự tử, nên đứng ra nói:

– Việc tội lỗi này tôi đành gánh hết. Người ta sẽ bảo tôi làm chị dâu không rộng lượng với cô em chồng, để cô ta phải đi tu thế là hết chuyện? Cô ra ở ngoài thì quyết không được ; nhưng ở lại trong phủ thì được. Trước mặt hai thím đây cứ xem như là ý định của tôi vậy. Cháu Tường viết một bức thư gửi cho cậu Trân và chú Liễn là được.

Bọn Giả Tường vâng lời chưa biết hai bà có thuận hay không?