Hình phu nhân và Vương phu nhân nghe Vưu thị nói, biết không thể giữ Tích Xuân được. Vương phu nhân đành nói
– Cô muốn làm việc thiện. Đó là do cái duyên nợ từ kiếp trước. Chúng tôi không thể giữ được. Chỉ có điều nhà ta thế này mà con gái đi tu, thì còn ra thể thống gì nữa. Nay chị dâu cô đã bằng lòng cho cô đi tu cũng là việc tốt. Nhưng ta còn muốn nói một câu. Cô không cần phải cắt tóc, đi tu chỉ cốt ở lòng, chứ có phải ở tóc đâu? Cô xem cô Diệu Ngọc cũng là người đi tu đấy ; không biết cô ta vì sao động lòng phàm tục, nên mới xảy ra nông nỗi như thế? Nếu cô cứ một mực khăng khăng thì chúng tôi sẽ xem cái phòng tôi đây như là buồng tu của cô. Cũng phải gọi những người hầu hạ cô đến hỏi xem ai muốn theo thì không được nói đến việc lấy chồng, ai không theo thì sẽ định liệu. Tích Xuân nghe nói vậy, khóc, lạy tạ hai bà Lý Hoàn và Vưu thị.
Vương phu nhân nói xong, liền hỏi bọn Thái Bình, ai muốn theo cô đi tu. Bọn họ thưa
– Các vị cắt ai thì người ấy đi.
Vương phu nhân biết là họ không thuận, đang muốn tìm người. Bấy giờ Tập Nhân đứng sau lưng Bảo Ngọc cầm chắc Bảo Ngọc sẽ khóc to lên, không khéo bệnh lại phát. Nào ngờ Bảo Ngọc lại nói
– Thật là hiếm có!
Tập Nhân nghe vậy càng thêm đau xót. Bảo Thoa tuy không nói gì. Nhưng gặp việc cũng để ý thăm dò, thấy Bảo Ngọc vẫn mê không tỉnh, đành chỉ khóc thầm.
Vương phu nhân đang muốn gọi các a hoàn đến hỏi, thấy Tử Quyên đến quỳ xuống thưa
– Vừa rồi bà lớn hỏi các chị theo hầu cô Tư, ý bà lớn định thế nào?
Vương phu nhân nói
– Việc ấy ta bắt buộc sao được. Ai vui lòng đi cứ nói ra.
Tử Quyên thưa
– Cô đi tu tất nhiên là do lòng thành của cô, chứ không phải là do ý muốn của các chị. Cháu có lời xin trình với bà lớn. Không phải cháu có ý chia rẽ các chị ấy đâu. Người nào có bụng của người ấy. Cháu đã hầu hạ cô Lâm mấy lâu, cô ấy đối đãi với cháu thế nào, chắc bà lớn đã biết. Thực là ơn nặng như núi, không biết lấy gì báo đáp. Cô ấy mất đi, cháu chỉ ân hận không chết theo được. Đó là vì cô ta không phải người trong nhà này, mà cháu lại chịu ơn chủ nhà nhiều quá, không thể làm thế được. Nay cô Tư đã muốn đi tu. Cháu xin hai vị cho cháu được theo hầu cô Tư suốt đời. Không biết hai vị có y cho không? Nếu được như vậy thì thực là phúc cho cháu.
Hai bà còn chưa trả lời. Bảo Ngọc nghe vậy, sực nhớ đến Đại Ngọc, đau lòng chảy nước mắt. Mọi người còn muốn hỏi, thì anh ta đã cười ha hả chạy lại thưa
– Đáng lý con không nên nói. Nhưng vì Tử Quyên là người trước kia nhờ mẹ sai đến hầu trong nhà con, nên con mới dám nói, xin mẹ y cho chị ấy, để cái lòng tốt của chị ấy được trọn vẹn.
Vương phu nhân nói
– Trước kia chị em mầy đi lấy chồng, thì mầy khóc lóc dở chết dở sống. Nay thấy cháu Tư đi tu, mày không những không can, còn cho là việc tốt. Bụng dạ mầy bây giờ ra thế nào? Thực là ta không hiểu nổi.
Bảo Ngọc thưa
– Việc cô Tư tu hành đã được các vị y cho rồi. Ý cô ấy cũng đã nhất định. Nếu thế, thì con sẽ có lời trình với mẹ, nếu chưa nhất định thì con không dám nói.
Tích Xuân nói
– Anh Hai nói rõ buồn cười! Rồi không nhất định, làm sao chuyển được lòng các thím, tôi có thể nói như lời Tử Quyên. Nếu cho đi tu thì phúc cho tôi. Nếu không cho, thì tôi chỉ liều chết. Chứ đâu sợ gì. Anh Hai muốn nói gì cứ nói đi. Đây tôi cũng không phải tiết lộ điều bí mật gì đâu.
– Việc này cũng đã nhất định rồi. Tôi sẽ ngâm một bài thơ để các người nghe.
Mọi người nói
– Trong lúc người ta đang buồn đứt ruột đi. Anh lại làm thơ để trêu người ta à?
– Không phải tôi làm thơ. Đây là bài thơ tôi đã xem thấy ở một chỗ nào. Hãy lắng mà nghe.
Mọi người nói
– Được. Anh cứ đọc đi. Nhưng không được luôn miệng nói nhảm đấy.
Bảo Ngọc cũng không phân trần gì, liền đọc lên
– Biết ai hay xuân canh chóng giờ,
Thời trang dồi lấy áo cà sa.
Thương thay con gái ni là khuê các,
Một ngọc đón anh cạnh Phật đà.(!)
Lý Hoàn và Bảo Thoa nghe xong, lấy làm lạ, nói
– Nguy rồi! Cậu này lại bị ma ám rồi?
Vương phu nhân nghe nói, lắc đầu than thở, rồi hỏi
– Bảo Ngọc. Mầy thấy bài thơ ấy ở đâu?
Bảo Ngọc không tiện nói ra, liền thưa
– Mẹ không cần hỏi. Con trông thấy ở một nơi nọ.
Vương phu nhân ngẫm nghĩ ý nghĩa, lại khóc oà lên và nói
– Hôm trước mầy bảo là mầy nói chơi. Thế vì sao bỗng dưng lại có bài thơ ấy. Thôi! Tao biết rồi. Tao làm thế nào bây giờ đây? Tao cũng hết cách rồi, đành phải để mặc cho chúng bây đi thôi. Nhưng hãy đợi tao nhắm mắt đã, rồi đứa nào cứ làm theo ý của đứa ấy!
Bảo Thoa tìm cách khuyên can Vương phu nhân. Nhưng trong bụng đau như dao cắt, cầm lòng không nổi, cũng khóc òa lên. Tập Nhân đã khóc suýt ngất đi, may có Thu Vân dìu lấy. Bảo Ngọc không khóc cũng không khuyên can, chỉ ngồi yên. Giả Lan, Giả Hoàn nghe vậy liền bỏ đi ra. Chỉ có Lý Hoàn hết sức khuyên giải
– Cũng vì chú Bảo thấy cô Tư đi tu, chắc là đau lòng quá, không kịp suy trước nghĩ sau, mới nói ra những câu điên dại ấy. Điều đó không có gì đích xác. Còn việc Tử Quyên xin mẹ có cho hay không, để bảo chị ấy đứng dậy.
Vương phu nhân nói
– Có gì mà cho với không? Dù sao thì chủ ý người ta đã định, cũng không thể giữ lại được. Như thằng Bảo Ngọc nói, việc gì cũng đã có tiền định.
Tử Quyên nghe xong, gục đầu xuống lạy. Tích Xuân lạy tạ Vương phu nhân. Tử Quyên cũng lạy Bảo Ngọc và Bảo Thoa. Bảo Ngọc niệm phật và nói
– Thật là hiếm có! Không ngờ cô lại đi trước!
Bảo Thoa tuy cứng rắn, nhưng cũng không giữ vững được. Tập Nhân thì không ngại có Vương phu nhân đang ngồi trên, cứ nức nỡ khóc và nói
– Tôi cũng bằng lòng theo cô Tư đi tu!
Bảo Ngọc cười
– Chị cũng đi, có lòng tốt, nhưng chị không có cái phúc ấm đâu!
Tập Nhân khóc, nói lại
– Thế thì tôi sẽ chết mất.
Bảo Ngọc nghe vậy, lại thấy đau lòng, nhưng không nói ra được. Bấy giờ đã đến canh năm, Bảo Ngọc mời Vương phu nhân đi nghỉ. Bọn Lý Hoàn đều ra về. Bọn Thái Bình hãy tạm theo hầu Tích Xuân. Sau đó lấy ai sẽ hay. Tử Quyên suốt đời hầu Tích Xuân không hề thay đổi.
Giả Chính rước linh cữu Giả mẫu theo đường về Nam, gặp lúc có thuyền bè của quan quân đi đánh giặc về, kéo qua miền ấy. Đường sông mắc nghẽn, thuyền không đi nhanh. Giả Chính sốt ruột. May sao nghe tin quan thống chế Trấn Hải được chỉ triệu vào kinh. Giả Chính chắc Thám Xuân cũng theo về thăm nhà, nên trong lòng đỡ bực bội. Chỉ có một điều là chưa biết rõ ngày lên đường, nên cũng sốt ruột. Ông ta thấy số tiền đi đường không đủ, bất đắc dĩ viết thư sai người cầm đến chỗ Lại Thượng Vinh, mượn năm trăm lạng bạc, dặn phải cho người đón đường đưa bạc đến, để kịp tiêu dùng. Cách vài hôm sau, thuyền Giả Chính vừa đi được hơn mười dặm, thì người nhà trở về, đưa bức thư của Lại Thượng Vinh, trong thư kể tình cảnh túng thiếu và đưa đến năm mươi lạng bạc.
Giả Chính xem xong giận lắm, liền sai người nhà đem bạc và thư trả lại cho Lại Thượng Vinh. Bảo anh ta không cần phải phiền lòng. Người kia đành phải trở lại chỗ lại Thượng Vinh. Lại Thượng Vinh nhận được thư và số bạc, trong bụng buồn bực, biết mình làm việc không chu đáo, liền thêm một trăm lạng nữa, van nài anh kia mang về, và nhờ nói hộ ít lời. Không ngờ anh kia không chịu mang đi, ném bạc lại dưới đất rồi ra về. Lại Thượng Vinh trong bụng băn khoăn, liền viết thư về nhà bày tỏ với cha là Lại Đại, bảo ông ta tìm cách xin nghỉ, rồi xin chuộc thân ra khỏi nhà chủ. Lại Đại nhờ bọn Giả Tường, Giả Vân trình với Vương phu nhân xin cho ra. Giả Tường biết chắc không được. Hôm sau, hắn bịa ra nói Vương phu nhân không cho. Lại Đại một mặt xin phép nghỉ việc, một mặt sai người đến chỗ Lại Thượng Vinh, bảo anh ta cáo bệnh từ quan mà về. Việc này Vương phu nhân không biết gì cả. Giả Vân nghe lời nói dối của Giả Tường, trong lòng không còn mong gì nữa. Vả lại mấy hôm nay hắn đánh bạc lại thua mất khá nhiều, không có gì mà trả, liền đến bàn với Giả Hoàn.
Giả Hoàn không có đồng tiền nào. Tuy trước kia dì Triệu có dành dụm được ít nhiều, nhưng hắn đã tiêu xài hết sạch, thì còn giúp ai được. Hắn nhớ đến việc Thượng Thư lúc trước đối đãi với mình khắc bạc. Nhân lúc Giả Liễn đi vắng, hắn định làm hại Xảo Thư để cho hả giận. Hắn gọi Giả Vân đến, cố trách móc
– Anh là hạng người nhiều tuổi, có việc kiếm được tiền thì bỏ không dám làm. Lại di hại đến tôi là một thằng kiết.
– Chú Ba nói rõ buồn cười? Chúng ta chơi đùa một chỗ với nhau. Có cách gì kiếm được tiền đâu?
– Không phải hôm trước có người nói đức vương ở tỉnh, ngài muốn mua một nàng hầu à? Sao các anh không bàn với cậu Vương đem dâng Xảo Thư cho ngài.
– Chú tôi nghe câu này sợ chú giận, đức vương bỏ tiền ra mua người, đời nào nghĩ đến việc đi lại với bọn chúng ta. Giả Hoàn ghé vào tai Giả Vân nói nhỏ mấy câu. Giả Vân gật đầu, nhưng cũng cho lời Giả Hoàn là chuyện trẻ con không đáng kể.
Khi ấy vừa lúc Vương Nhân đến hỏi
– Các anh bàn bạc chuyện gì đấy? Định giấu tôi à?
Giả Vân liền nói thầm về những chuyện Giả Hoàn vừa nói.
Vương Nhân vỗ tay bảo
– Việc này quả là một việc tốt, lại có bạc đấy. Chỉ sợ các anh không làm được thôi, nếu các anh dám làm, thì tôi đây là cậu ruột nó, cũng làm chủ được. Cần nhất là cậu Hoàn phải nói với bà Cả, còn tôi cũng sẽ nói với cậu Cả Hình. Khi các bà hỏi đến, các anh cứ kéo hùa nhau tán vào là xong.
Bọn Giả Hoàn định đâu vào đấy rồi, Vương Nhân liền đi kiếm cậu cả Hình, còn Giả Vân đi trình với Hình phu nhân và Vương phu nhân, nói toàn những chuyện tốt đẹp như hoa như gấm. Vương phu nhân nghe cũng xuôi tai, nhưng vẫn không tin. Còn Hình phu nhân nghe nói cậu cả Hình đã biết rõ, trong bụng thích lắm, liền cho người đi tìm ông ta đến hỏi. Ông này đã nghe lời Vương Nhân, và cũng mong được chia số bạc, liền nói với Hình phu nhân
– Đức Vương ấy quả là một người rất sang trọng. Nếu nhận lời gả nơi ấy, tuy không phải là làm vợ chính, nhưng chắc sau khi cháu về nhà người ta, thì anh nhà đây sẽ được phục chức, và thanh thế phủ ta sẽ lại rầm rộ.
Hình phu nhân vốn là người không biết suy trước nghĩ sau, mới nghe ông cậu ngốc ấy nói lừa đã động lòng ngay, liền cho người đi mời Vương Nhân đến hỏi. Hắn ta lại tán tỉnh thêm. Thế là Hình phu nhân sai người ra thúc giục Giả Vân đi nói việc
ấy. Vương Nhân lập tức bảo người đến chỗ công quán đức vương để nói chuyện. Đức vương ấy không rõ đầu đuôi, liền sai người đi xem mặt. Giả Vân lại luồn lọt nói riêng với người xem mặt
– Việc này nguyên là giấu hết mọi người trong phủ, chỉ nói người vương phủ đến xem mặt thôi. Chờ khi xong rồi, bà nội cô ta sẽ đứng làm chủ ; ông cậu ruột sẽ đứng làm mối, thì còn sợ gì.
Người xem mặt nhận lời. Giả Vân liền đưa tin cho Hình phu nhân và trình với Vương phu nhân. Bọn Lý Hoàn và Bảo Thoa không rõ duyên cớ, chỉ cho là việc tốt lành, nên đều mừng rỡ.
Một hôm quả có mấy người đàn bà đến. Họ đều ăn mặc lộng lẫy. Hình phu nhân mời vào nói qua mấy câu chuyện suông. Họ biết Hình phu nhân là một bà mệnh phụ, nên không dám khinh nhờn. Hình phu nhân vì là việc chưa chắc chắn, nên
không nói cho Xảo Thư biết, chỉ bảo có bà con đến thăm, và gọi Xảo Thư ra chào.
Xảo Thư vẫn còn trẻ con, nên không để ý, liền theo bà vú đi ra. Bình Nhi không đành lòng, cũng đi theo. Hai người ăn mặc theo lối trong cung. Thấy Xảo Thư, họ liền nhìn khắp người, từ trên xuống dưới, rồi đứng dậy cầm tay Xảo Thư nhìn lại một lượt. Họ ngồi một lúc rồi về. Xảo Thư thấy vậy, xấu hổ trở về phòng buồn bực. Cô ta nhớ lại mình không có bà con nào như thế, liền hỏi Bình nhi.
Bình Nhi thấy quang cảnh này đã đoán được tám, chín phần, chắc là người đến xem mặt. Nhưng cậu Hai không ở nhà, bà Cả lại đứng làm chủ, vẫn chưa rõ là người ở phủ nào. Nếu là nhà thông gia ngang hàng thì không thể có cái lối xem mặt như thế. Nhìn qua bộ dạng mấy người ấy, không giống chính dòng vương phủ ở đây, mà hình như hạng người ở ngoài. Bấy giờ chưa vội nói với cô ta biết. Hãy dò la cho rõ ràng hãy hay.
Bình Nhi trong bụng để ý nghe ngóng. Các a hoàn và bà già lâu nay ở dưới quyền Bình Nhi sai bảo, nên khi Bình Nhi hỏi đến, thì họ kể rõ hết cả bao nhiêu tin đồn nghe được ở ngoài. Bình Nhi hoảng sợ, chưa biết định liệu ra sao. Chị ta không cho Xảo Thư biết vội, rồi đến nói với Lý Hoàn và Bảo Thoa, nhờ hai người trình với Vương phu nhân.
Vương phu nhân biết việc này không hay, liền nói rõ với Hình phu nhân. Khốn nỗi H nh phu nhân cứ tin lời em và Vương Nhân, lại ngờ cho Vương phu nhân không có lòng tốt, liền nói
– Cháu nó đã lớn rồi. Hiện nay thằng Liễn không ở nhà, việc ấy tôi vẫn làm chủ được. Vả lại ông cậu nó và cậu ruột nó đều đã nghe ngóng kỹ càng chẳng lẽ lại không đích xác hơn người ngoài hay sao. Việc này dù sao tôi cũng đã bằng lòng. Nếu có điều gì không hay, thì tôi và cháu Liễn cũng không dám trách đến người khác.
Vương phu nhân nghe vậy, trong bụng giận thầm, miễn cưỡng chuyện trò vài câu rồi ra về, nói lại với Bảo Thoa và rơi nước mắt. Bảo Ngọc khuyên giải
– Mẹ không nên lo phiền làm gì. Con xem việc ấy cũng không xong đâu. Đó chẳng qua là do số phận của cháu Xảo Thư, xin mẹ đừng nghĩ đến là xong.
Vương phu nhân nói
– Hễ mày mở miệng ra là nói nhảm? Người ta nói xong là họ sẽ đón dâu về nhà ngay. Nếu sự việc đúng như lời Bình Nhi, thì anh hai Liễn mầy sau này không trách ta hay sao? Dù nó không phải cháu gái nhà mình, chỉ là con của nhà thân thích đi nữa, cũng nên gả cho xứng đáng mới phải. Cô Hình Tụ Yên là do chúng ta làm mối, gả cho cậu hai Tiết đấy. Họ ăn ở với nhau rất là hòa thuận, như thế không tốt sao. Cô Bảo Cầm thì nhà họ Mai cưới về rồi, nghe nói trong nhà ăn mặc đầy đủ, cũng rất tốt. Còn cô Sứ Tương Vân là do ông chú cô ta đứng gả, lúc đầu cũng khá, nay chồng bị bệnh lao mà chết, cô ấy quyết chí ớ góa, kể ra cũng khổ. Bấy giờ nếu đem cháu Xảo Thư gả nhầm cho người ta, thì thật là ta đã xấu bụng với nó.
Đang nói chuyện thì Bình Nhi đến thăm Bảo Thoa và cũng để dò la ý kiến của Hình phu nhân. Vương phu nhân thuật lại những lời của Hình phu nhân. Bình Nhi đứng ngây người một lúc rồi quỳ xuống kêu van
– Việc trăm năm của cô Xảo đều trông nhờ ở bà lớn cả? Nếu tin theo lời người ta thì không những suốt đời cô ấy chịu khổ mà đến khi cậu Hai về đây cũng không biết ăn nói ra sao?
Vương phu nhân nói
– Cháu là người thông hiểu, đứng dậy ta nói cho mà nghe. Xảo Thư vốn là cháu gái của bà Cả. Bà ấy đứng ra làm chủ. Ta ngăn cản sao được?
Bảo Ngọc khuyên
– Không ngại gì, chỉ cốt việc cho rõ ràng là được.
Bình Nhi sợ Bảo Ngọc điên dại, lại làm ồn lên, nên không nói gì, chỉ trình với Vương phu nhân rồi ra về.
Vương phu nhân nghĩ lại buồn bực, cảm thấy đau lòng gọi a hoàn đến đỡ, gắng gượng về nằm trong buồng, không gọi Bảo Ngọc và Bảo Thoa đến, và nói
– Ngủ một chốc là đỡ thôi.
Nhưng trong người lại cứ buồn bực. Nghe nói thím Lý đến chơi, cũng không kịp tiếp. Giả Lan đến hỏi thăm và trình
– Sớm hôm nay ông nội có sai người mang một bức thư về do bọn hầu nhỏ ở ngoài đưa vào. Mẹ cháu nhận được, định sang hầu, nhân có bà thì cháu đến chơi nên bảo cháu đem thư trình bà trước, lát nữa mẹ cháu xin sang hầu bà. Mẹ cháu còn bảo bà thím cháu cũng định sang thăm. Nói xong, hắn đưa bức thư lên.
Vương phu nhân vừa cầm thư vừa hỏi
– Bà thím của cháu đến có việc gì?
– Cháu cũng không biết rõ. Chỉ nghe bà thím cháu nói, bên nhà mẹ chồng dì Ba cháu có đưa tin gì đến.
Vương phu nhân nghe xong, nhớ lại lần trước mình nói dùm để dạm Lý Ỷ cho Chân Bảo Ngọc. Sau đó đã đưa đi lễ hỏi. Chắc là bây giờ bên nhà họ Chân muốn đón dâu về, cho nên thím Lý đến đây bàn. Bà ta gật đầu, và bóc thư ra, thấy trong thư viết
“Gần đây trên các đường sông đều đầy cả thuyền của quan quân len bể đi đánh giặc về nên không thể vượt lên đi nhanh được. Nghe con Thám Xuân sẽ theo cha chồng và chồng về kinh, không biết đã có tin chưa? Trước đây tiếp được giấy trình của cháu Liễn, biết rằng ông Cả không được khỏe mạnh, nhưng cũng không biết đã có tin gì đích xác chưa? Bảo Ngọc và cháu đã gần đến kỳ thi, cần phải chăm chỉ học, chớ có lười biếng. Sau khi rước linh cữu của mẹ về nhà rồi tôi còn phải ở lại ít ngày. Tôi vẫn mạnh khỏe, không cần phải để ý lo nghĩ. Thư nay truyền cho bọn Bảo Ngọc biết. Sau đó là ngày tháng và chữ ký, và viết thêm: ” Giả Dung sẽ có thư riêng “.
Vương phu nhân xem xong, đưa lại cho Giả Lan và đặn
– Cháu cầm đến đưa cho chú Hai xem, rồi giao lại cho mẹ cháu.
Đang nói thì Lý Hoàn cùng thím Lý đến hỏi thăm. Vương phu nhân mời ngồi. Thím Lý kể lại việc nhà họ Chân muốn cưới Lý Ỷ. Mấy người cùng nhau bàn định một lúc. Lý Hoàn hỏi
– Mẹ đã xem thư của cha gửi về chưa!
Vương phu nhân nói
– Đã xem rồi.
Giả Lan cầm thư đưa cho mẹ. Lý Hoàn xem thư rồi nói
– Cô Ba về nhà chồng đã mấy năm rồi, vẫn chưa về thăm nhà; nay sắp sửa vào kinh, chắc mẹ cũng được yên lòng.
Vương phu nhân nói
– Ta đau lòng, nay con Thám Xuân sắp trở về. Trong bụng cũng đỡ nhớ, nhưng không biết bao giờ nó mới tới.
Thím Lý hỏi thăm sức khỏe của Giả Chính trong lúc đi đường. Lý Hoàn ngoảnh lại bảo Giả Lan
– Con đã thấy chưa? Kỳ thi gần đến nơi. Ông con lo nghĩ như thế đấy. Con cầm ngay bức thư đưa cho chú Hai xem.
Thím Lý nói
– Hai chú cháu nó chưa vào trường giám, làm sao đi thi được?
Vương phu nhân nói
– Ông nó khi sắp đi nhận chức quan lương đạo, đã nộp tiền giám sinh 1 cho cả hai chú cháu nó rồi.
Thím Lý gật đầu. Giả Lan liền cầm bức thư đi tìm Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc đưa Vương phu nhân về, đang ngồi nghiền ngẫm “thiên thu thủy” 2. Bảo Thoa ở trong đi ra, thấy anh ta xem sách có vẻ say mê. Đến nhìn mới biết quyển sách này, trong bụng rất là buồn bực. Nàng nghĩ thầm
“Cậu ta cứ cho những chuyện lánh đời né tục là việc quan trọng. Cứ cái tình hình này thì thật không ổn!” Nhìn thấy thế, Bảo Thoa biết là không khuyên nổi, liền ngồi lại bên người Bảo Ngọc, cứ nhìn sửng sốt, Bảo Ngọc thấy thế, liền hỏi
– Mợ sao thế?
– Tôi nghĩ cậu cùng tôi đã kết nghĩa vợ chồng, thì cậu là người tôi nương tựa suốt đời, vốn không phải chỉ vì lòng tình dục. Chuyện vinh hoa phú quý, chẳng qua cũng thoáng qua như mây khói mà thôi. Nhưng các bậc thánh hiền đời xưa, vẫn xem phẩm cách con người là chính.
Bảo Ngọc chưa nghe hết, đã đặt quyển sách xuống mỉm cười
– Nghe mợ nói về phẩm cách con người, lại nhắc đến thánh hiền đời xưa gì đó. Mợ biết thánh hiền đời xưa có nói câu “chớ làm sai tấm lòng đứa trẻ mới sinh” hay không? Đứa trẻ mới sinh có gì đáng quý? Chẳng qua chỉ vì nó không hiểu, không
biết, không tham, không ghét mà thôi. Chúng ta sinh ra đã đắm đuối trong vòng tham, giận, ngây, yêu. Chẳng khác gì bùn lầy. Làm thế nào thoát khỏi cái lưới ấy của cõi trần. Cho hay người xưa tuy đã nói qua bốn chữ “tụ tán phù sinh” 3. Nhưng chưa làm cho một ai tỉnh ngộ cả. Đã muốn nói về nhân phẩm thì thử hỏi ai là kẻ đạt được cái trình độ sơ sinh?
– Cậu đã nói đến “tấm lòng đứa trẻ”, thì nên biết thánh hiền đời xưa cho rằng trung hiếu chính là tấm lòng đứa trẻ, chứ không phải tránh đời xa người, không chỉ vương vấn vào cái gì mới là tấm lòng đứa trẻ. Các bậc thánh hiền như Nghiêu, Thuấn, vua Thang, Chu Công, Khổng Tử, lúc nào cũng nghĩ đến cứu dân giúp đời. Gọi là tấm lòng đứa trẻ. Không qua tóm tắt trong hai chữ “bất nhẫn” mà thôi. Còn theo lời cậu vừa nói, thì là nỡ lòng bỏ cả thiên luân, còn ra đạo lý gì?
Bảo Ngọc gật đầu cười
– Nghiêu, Thuấn cũng không ép được Sào Phủ, Hứa Do. Võ Vương, Chu Công cũng không ép được Bá Di Thúc Tề 4
Bảo Thoa không đợi nghe hết câu, liền nói
– Những câu nói ấy của cậu lại càng không đúng. Ai cũng là Sào, Hứa, Di, Tề cả, thì sao đến nay người ta lại khen Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng là bậc thánh biền? Vả lại cậu ví mình như Di, Tề thì thật không đúng. Di, Tề vì sinh vào cuối đời nhà
Thương, gặp phải nhiều việc khó xử, nên mới có cớ để trốn tránh. Chứ bây giờ gặp đời vua thánh, nhà ta mấy đời đội ơn triều đình, cha ông được hưởng biết bao điều sung sướng… Vả lại, cậu từ khi lọt lòng đến giờ, bà trước kia và cha mẹ đều xem như một hòn ngọc quý. Cậu vừa nói những câu ấy, thử nghĩ lại xem có đúng hay không.
Bảo Ngọc nghe xong, không trả lời, cứ ngẩng đầu lên mỉm cười. Bảo Thoa lại khuyên
– Cậu đã đuối lý thì tôi khuyên cậu từ sau nên hồi tâm lại. Cố sức học hành, nếu mà thi đậu, sau đó mà thôi, cũng không đến nổi uổng phí ơn trời đức tổ?
Bảo Ngọc gật đầu, than thở rồi nói
– Thi đậu à, kể ra thì cũng không phải là việc gì khó đâu. Nhưng những câu mợ nói “sau đó mà thôi” và “không uổng ơn trời đức tổ”, thì xem ra cũng đúng đấy.
Bảo Thoa chưa kịp trả lời, thấy Tập Nhân đến nói
– Vừa rồi mợ Hai nói đến các bậc thánh hiền đời xưa, tôi cũng chẳng hiểu gì. Tôi chỉ nghĩ bọn chúng tôi khó nhọc vất vả theo hầu cậu Hai từ thuở bé, hết sức lo lắng săn sóc. Nói đúng ra, đó vẫn là bổn phận phải làm, nhưng cậu cũng nên xét lại một chút. Vả lại mợ Hai đã thay cậu giữ trọn đạo hiếu đối với ông lớn và bà lớn. Dù cậu không để ý đến tình vợ chồng đi nữa, thì cũng không nên phụ tấm lòng tốt của người ta. Còn chuyện thần tiên là câu chuyện hoang đường, có ai mắt thấy vị thần tiên nào đi xuống cõi trần đâu? Không biết cái ông sư ấy ở đâu đến, nói nhảm mấy câu, mà cậu cho là thực. Cậu là người có học, không lẽ coi lời nói của ông sư trọng hơn lời dạy của cha mẹ hay sao?
Bảo Ngọc nghe xong, cúi đầu không đáp. Tập Nhân đang muốn nói nữa, bỗng nghe phía ngoài có tiếng bước chân, rồi từ cửa sổ có tiếng hỏi vào
Bảo Thoa cũng đứng dậy. Giả lan đi vào, đến chào Bảo Ngọc và Bảo Thoa, có vẻ vui mừng lắm, lại chào cả Tập Nhân. Tập Nhân cũng chào lại. Giả Lan đưa bức thư cho Bảo Ngọc xem. Bảo Ngọc cầm thư đọc rồi nói
– Cô Ba cháu về thăm à?
– Ông đã viết trong thư như thế, chắc là sẽ về.
Bảo Ngọc gật đầu không đáp, lặng lẽ dường như đang nghĩ ngợi gì. Giả Lan hỏi
– Chú đã xem rồi chứ. Đoạn cuối bức thư, ông dặn cậu cháu ta lo học hành đấy. Cháu sợ lâu nay chú không làm bài vở gì thì phải?
Bảo Ngọc cười
– Ta cũng muốn tập làm mấy bài cho thành thạo, để đi kịp đời kiếm chút công danh.
– Chú đã định như thế, thì nên nghĩ sẵn mấy đầu bài. Cháu sẽ cùng chú tập làm, để vào trường thi quấy quá cho xong, nếu phải nộp quyển trắng thì không những người ta chê cười cháu, mà chê cười cả chú nữa đấy.
– Cháu không đến nổi thế đâu.
Giả Lan nói xong, Bảo Thoa mời ngồi. Bảo Ngọc vẫn ngồi ở chỗ cũ. Giả lan ngồi ghé một bên. Hai chú cháu bàn chuyện văn bài một lúc, mặt mày vui vẻ. Bảo Thoa thấy hai chú cháu đang chuyện trò thích thú như vậy, bèn đi vào trong nhà, nghĩ bụng
“xem bộ dạng cậu Bảo bây giờ, có lẽ đã tỉnh ngộ rồi. Nhưng theo lời cậu ta vừa nói, thì cậu ta chỉ đồng ý mấy tiếng “sau đó mà thôi”. Không rõ là có ý tứ gì.”
Trong lúc Bảo Thoa đang còn phân vân, Tập Nhân thấy Bảo Ngọc thích bàn văn chương, và nhắc đến việc đi thi, thì lại mừng rỡ nghĩ bụng “A di đà phật? Mợ ấy giảng như giảng sách tứ thư, cậu ta mới vỡ lẽ ra được.”
Bảo Ngọc và Giả Lan còn đang nói chuyện văn bài, thì Oanh Nhi pha trà đưa đến. Giả Lan đứng dậy cầm lấy chén trà, lại nói một hồi về những phép tắc vào trường thi và việc mời Chân Bảo Ngọc cùng đến họp bạn. Bảo Ngọc hình như rất thích.
Một lát sau, Giả Lan ra về, để lại bức thư cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cầm bức thư cười tủm tỉm, đưa cho Xạ Nguyệt cất đi, rồi ra cất bộ sách Trang Tử, lại soạn những bộ sách trước đây thích đọc nhất như Tham đồng khế 5, Nguyên mệnh bao 6, Ngũ đăng hội nguyên 7…gọi bọn Xạ Nguyệt. Thu Văn, và Oanh Nhi xếp vào một chỗ.
Bảo Thoa thấy hành động lần này của Bảo Ngọc, rất lấy làm lạ, muốn dò thử xem, liền cười hỏi
– Không xem những sách ấy là đúng rồi. Nhưng cần gì cậu lại phải chuyển đi nơi khác?
Bảo Ngọc nói
– Bây giờ tôi mới hiểu rõ, những thứ sách ấy đều chằng ra gì, tôi phải đốt hết đi cho rảnh.
Bảo Thoa cũng không nghe rõ lắm, chỉ lõm bõm mấy chữ “không tính phật” và “có thuốc tiên.” Trong bụng lại đâm ra ngờ vực hãy chờ xem bộ dạng cậu ta như thế nào. Bảo Ngọc sai bọn Xạ Nguyệt, Thu Vân thu xếp một gian nhà yên tĩnh, rồi chọn những sách hay về loại ngữ lục và các thể thơ theo lối thi cử đem để trong gian nhà ấy. Anh ta lại tỏ ra vẻ thực sự yên tĩnh đọc sách. Bấy giờ Bảo Thoa mới yên tâm. Tập Nhân chưa hề nghe thấy việc ấy bao giờ, nên cười nói với Bảo Thoa
– Tóm lại nhờ lời lẽ của mợ thông suốt, nên chỉ bàn luận một hồi, đã khuyên giải được cậu Hai. Đáng tiếc hơi chậm một chút, ngày vào trường thi đã gần đến rồi.
Bảo Thoa gật đầu mỉm cười
– Chỉ mong từ sau cậu ấy một lòng đi con đường chính, không dính dáng đến những thứ tà ma như trước, thế là tốt rồi!
Chị ta nói đến đó, thấy trong buồng không có ai, lại gọi nhỏ
– Lần này cậu ấy tỉnh ngộ là rất hay. Nhưng còn có một chuyện, sợ lại mắc bệnh cũ, ham chơi bời với chị em bạn gái, thì lại không tốt.
– Mợ nói cũng đúng, cậu Hai từ khi nghe theo vị hòa thượng mới tỏ ra lạnh nhạt với đám chị em. Nếu cậu ấy không tin ông ta nữa, sợ lại mắc phải bệnh cũ đấy. Theo ý tôi thì cậu Hai không để ý đến mợ và tôi lắm đâu. Nhà này trừ Tử Quyên đi rồi, chỉ còn bốn chị em chúng nó. Trong đó có con Năm hơi ranh mãnh, nghe nói mẹ nó đã thưa với mợ Cả, nói với mợ, xin nó về để gả chồng, nhưng vài hôm nay nó vẫn còn ở đây. Xạ Nguyệt và Thu Vân tuy không có điều gì, nhưng mấy năm lại đây cậu Hai cũng hay đùa bỡn với chúng. Bây giờ nhìn lại, chỉ có Oanh Nhi là cậu Hai không hề để ý lắm. Vả lại Oanh Nhi tính cũng đứng đắn. Tôi nghĩ những việc pha trà múc nước, chỉ cần bảo Oanh Nhi cùng bọn a hoàn nhỏ hầu là đủ, không biết ý mợ nghĩ sao?
– Tôi cũng lo về việc ấy. Cô nói thế cũng được đấy.
Từ đó, Oanh Nhi cùng các a hoàn nhỏ được cắt vào hầu hạ Bảo Ngọc. Bảo Ngọc vẫn không ra khỏi cửa phòng, ngày nào cũng chỉ sai người đến hỏi thăm Vương phu nhân. Vương phu nhân thấy anh ta như thế, vui sướng vô cùng.
Đến ngày mồng ba tháng tám, đúng ngày “lễ minh thọ” 8 của Giả mẫu. Bảo Ngọc sang cúng rồi về ngay, lại vào ngồi trong gian nhà kín. Cơm xong, Bảo Thoa, Tập Nhân, cùng bọn chị em đều theo Hình phu nhân và Vương phu nhân ngồi nói chuyện. iphiếm ở nhà trước. Bảo Ngọc một mình ngồi yên lặng trong gian nhà kín. Bỗng thấy Oanh Nhi bưng đến một mâm các thứ dưa quả thưa
– Đây là lễ vật cúng bà. Bà lớn bảo người đưa sang để cậu xơi.
Bảo Ngọc đứng dậy nhận, rồi lại ngồi xuống nói
– Để lại đó.
Oanh Nhi vừa đặt dưa xuống, vừa khẽ nói với Bảo Ngọc
– Bà lớn đang khen cậu Hai ở bên ấy đấy.
Bảo Ngọc mỉm cười.
Oanh Nhi lại nói
– Bà lớn bảo lần này cậu Hai cố hết sức học hành, nay mai vào trường thi đậu rồi, sang năm lại thi đậu tiến sĩ, rồi ra làm quan, thì thực không uổng công ông lớn và bà lớn trông mong cậu.
Bảo Ngọc chỉ gật đầu cười mỉm.
Oanh Nhi bỗng nhớ lại câu nói của Bảo Ngọc hồi năm nọ, khi mình đến bện dây giúp, liền nói
– Nếu quả cậu Hai thi đậu, thì thật là cô tôi tốt phúc! Cậu còn nhớ năm nọ ở trong vườn, khi cậu bảo tôi đến bện cái dây kiểu hoa mai, cậu có nói
sau này không biết cô tôi cùng với tôi đến nhà một người nào tốt phúc. 9 Thế thì bây giờ cậu là người tốt phúc đấy nhỉ?
Bảo Ngọc nghe đến đó, lại cảm thấy động lòng trần tục, liền định thần nín thở, mỉm cười nói
– Theo như cô, thì tôi và cô của cô đều là người có phúc, còn cô thì sao?
Oanh Nhi đỏ mặt, gượng cười thưa
– Chúng tôi chẳng qua chỉ làm a hoàn suốt đời, còn có phúc phận gì?
– Nếu quả suốt đời được làm a hoàn, thì phúc ấy còn to hơn phúc của chúng tôi nữa đấy!
Oanh Nhi nghe câu ấy, giống lời nói điên, sợ mình lại gây ra bệnh của Bảo Ngọc, định bỏ đi. Bỗng thấy Bảo Ngọc cười rồi nói
– Cô bé ngây ngô ơi, để ta nói cho mà nghe!
Chưa biết Bảo Ngọc sẽ nói ra những chuyện gì.
[1] Theo chế độ khoa cử đời Thanh, những người học thi Quốc tử giám gọi là giám sinh. Có tư cách giám sinh mới được đi thi cử nhân. Nhưng hầu hết chỉ cần quyên nạp một số liền là được.
[2] Một thiên trong “Nam hoa kinh ” của Trang Tử.
Đoạn này bảo là muôn dặm giáo lời như Phật nói chuyện Bảo Tháp.
[3] Gặp nhau chỉ để chia ly. Cuộc đời chớp nhoáng.
[4] Sào Phủ và Hứa Do là những người cao sĩ đời nhà Đường. Ở ẩn trong núi,vua Nghiêu nhường thiên hạ cho Sào Phủ. Sào Phủ không nhận, nhượng lại cho Hứa Do. Hứa Do cũng không chịu, rồi bỏ trốn đi cày. Bá Di và Thúc Tề là con vua Cô Trúc đời nhà Thương. Anh em nhưng ngôi Vua cho không nhận rồi đều bỏ trốn. Khi Chu Võ Vương đánh Trụ, Bá Di, Thúc Tề can không được, liền bỏ vào trong núi Thú Dường ăn rau mà chết đói….
[5] Sách này có hai loại, một loại nói về phép luyện đan của Đạo học.một loại bàn về đạo lý nhà Phật
[6] Một thứ sách chuyên nói về những điềm lạ lùng, những ước đoán trước.
[7] Sách chép về hệ thông tông phái của Phật giáo- Công danh có số, thi đậu hay hỏng, cũng không phải do học, sớm hay muộn.
Oanh Nhi nghe những câu của Bảo Ngọc, không hiểu ra sao, định bỏ đi, bỗng Bảo Ngọc gọi lại bảo
– Cô bé ngây ngô ơi, để ta nói cho mà nghe? Cô của cô đã có phúc phận, thì cô đi theo cô ta tức là cũng có phúc phận rồi, không nhờ cậy chị Tập Nhân được đâu. Vậy từ nay về sau cô hãy hết lòng hầu hạ cô ta nhé. Ngày sau mà có điều gì hay, thì cũng không uổng công cô đã chịu khó theo hầu cô ta mấy lâu.
Oanh Nhi nghe câu nói, đoạn đầu thì có vẻ có nghĩa, đoạn sau hình như vô nghĩa, liền nói
– Tôi hiểu rồi, cô tôi đang chờ tôi đấy. Khi nào cậu muốn ăn quả, thì sai a hoàn nhỏ đến gọi tôi.
Bảo Ngọc gật đầu. Oanh Nhi đi ra Bảo Thoa và Tập Nhân đều về phòng nghỉ.
Mấy hôm sau đến ngày vào trường thi. Mọi người chỉ trông mong hai chú cháu Bảo Ngọc làm văn bài cho hay, để được đậu cao ; còn Bảo Thoa thì nhận thấy Bảo Ngọc tuy học tập chăm chỉ, nhưng những lúc vô tình hoặc hữu ý, lại tỏ ra lạnh nhạt. Chị ta để ý đến Bảo Ngọc sắp vào trường thi, việc thứ nhất là hai chú cháu đều đi thi lần đầu, ra chỗ đông người chen chúc, sợ bị thất lạc; vì hai là Bảo Ngọc sau khi ông sư đi rồi, vẫn không ra khỏi cửa, học hành lại vui vẻ. Thấy sự thay đổi quá nhanh chóng và quá tốt đẹp như thế, chị ta cũng có phần ngờ vực, sợ lại có biến cố gì chăng. Vì vậy trước khi vào trường thi một hôm, chị ta một mặt sai Tập Nhân dẫn các a hoàn nhỏ cùng bọn Tố Vân sắp đặt đồ đạc chu đáo cho hai chú cháu. Chị ta nhìn qua một lượt, bảo cắt đặt cẩn thận đâu vào đấy. Một mặt lại đi sang Lý Hoàn, cùng Lý Hoàn đến trình Vương phu nhân, chọn mấy người lão thành biết việc trong nhà theo hầu, cứ nói là sợ người ngựa chen chúc dẫm phải.
Hôm sau Bảo Ngọc và Giả Lan mặc quần áo không cũ, không mới, vui vẻ đến chào Vương phu nhân.Vương phu nhân dặn
– Hai chú cháu mầy vừa mới đi thi lần đầu. Nhưng chúng mầy đã lớn đến chừng ấy, vẫn chưa bao giờ rời ta. Dù có những lúc không ớ với ta, cũng có bọn a hoàn, người hầu quây quần chung quanh, chứ có đêm nào nằm ngủ riêng một mình đâu?
Ngày nay chú cháu ra đi, cô quạnh lủi thủi, xung quanh không có bà con, cần phải giữ gìn cẩn thận đấy. Gắng làm văn bài xong cho mau mà ra trường, rồi tìm người nhà về cho sơm sớm, để mẹ và vợ các con được yên lòng.
Vương phu nhân nói xong, không khỏi thương xót. Giả Lan nghe đến đâu vâng dạ đến đấy; còn Bảo Ngọc không hề hé môi, đợi Vương phu nhân nói xong, liền đến quỳ xuống, nước mắt đầy tròng, gục đầu lễ ba lễ rồi thưa
– Mẹ sinh con ra, đời con không có gì báo đáp. Chỉ có lần này vào trường, con xin cố sức làm văn trài, may đậu được cử nhân, để mẹ được vui mừng. Thế là việc cả đời con được trọn vẹn rồi. Dù con có điều gì không hay, cũng có thể chuộc lại.
Vương phu nhân nghe xong, càng thấy thương tâm, bảo
– Con có bụng nghĩ như thế là giỏi. Chỉ tiếc rằng bà không sống để trông thấy mặt con nữa.
Bà ta vừa nói vừa kéo Bảo Ngọc dậy, nhưng anh ta cứ quỳ mãi, rồi lại thưa
– Dù bà trông thấy hay không, người cũng vẫn biết rõ. Đã biết rõ, đã vui mừng, thì dù người không trông thấy cũng như đã trông thấy. Chẳng qua hai bên chỉ cách biệt về thể xác, chứ không cách biệt về tinh thần.
Lý Hoàn thấy Vương phu nhân cùng Bảo Ngọc như thế, một là sợ lại gây ra bệnh cũ của Bảo Ngọc, hai là xem tình hình này cũng không có vẻ tốt lành lắm. Nên vội vàng đến trình
– Thưa mẹ. Đây là việc rất vui mừng, sao mẹ lại thương tâm như thế? Vả lại chú Bảo gần đây đã hiểu lẽ phải trái, dốc lòng hiếu thuận, lại chịu ra sức học hành. Chỉ mong chú ấy đem cháu vào trường thi. lo làm văn bài cho hay, thu xếp về nhà cho sớm, rồi sao lại bài thi đem nhờ các bậc thế giao xem hộ, chờ cho đến khi hai chú cháu đều có tin mừng là được.
Đoạn chị ta gọi người đến đỡ Bảo Ngọc dậy.
Bảo Ngọc quay lại vái Lý Hoàn và nói
– Xin chị cứ yên tâm. Hai chú cháu chúng tôi nhất định sẽ đậu cả. Sau này cháu Loan còn làm nên, rồi chị sẽ được đội mũ cánh phượng, mặc áo ráng đỏ 1 nữa đấy.
Lý Hoàn cười
– Chỉ mong được như lời chú nói, cũng không uổng công!
Chị ta nói đến đó, lại sợ gây ra mối thương tâm của Vương phu nhân, liền dừng lại. Bảo Ngọc cười, nói
– Chỉ cần có đứa con nối nghiệp tổ tiên là được. Dù anh Cả không trông thấy, cũng coi như là việc đời sau của anh ấy đã đầy đủ rồi.
Lý Hoàn thấy trời đã muộn nên không chịu nói hết lời với Bảo Ngọc, chỉ có gật đầu. Bảo Thoa nghe nói, rất là sửng sốt nghĩ bụng
“Không những lời nói của Bảo Ngọc mà những câu của Vương phu nhân và Lý Hoàn cũng đều là những điềm không tốt.” Nhưng chị ta không dám thật thà nói ra, chỉ ứa nước mắt không nói gì.
Bảo Ngọc đến trước mặt chị ta, vái một vái dài. Mọi người thấy anh ta làm điều quái gỡ như vậy, không hiểu sao, cũng không dám nói. Bỗng thấy Bảo Thoa nước mắt ròng ròng, ai cũng lấy lại lạ. Rồi lại nghe Bảo Ngọc nói
– Thưa chị? Tôi phải đi đây. Chị nên chăm lo hầu mẹ, đợi tin mừng của tôi.
– Đến giờ ra đi rồi. Cậu không cần nói những câu lảm nhảm ấy nữa.
Anh ta quay lại thấy mọi người đều đông đủ cả, chỉ thiếu Tích Xuân và Tử Quyên, liền nói
– Nhờ thay lời tôi nói hộ với cô Tư và chị Tử Quyên. Dù sao cũng sẽ gặp lại là được.
Mọi người nghe lời của Bảo Ngọc hình như đúng, lại hình như điên. Họ chỉ cho rằng anh ta xưa nay chưa ra khỏi nhà, chỉ vì mấy câu nói của Vương phu nhân gợi ra cả, chi bằng thúc giục anh ta đi mau là xong việc. Họ bèn nói
– Đã có người chờ sẵn cậu ngoài kia rồi, nếu còn dùng dằng nữa, sợ lại lỡ mất thì giờ.
Bảo Ngọc ngửa mặt cười to:
– Đi thôi, đi thôi! Không cần dùng dằng lôi thôi. Xong việc rồi.
Mọi người cũng cười, bảo
– Đi mau lên thôi.
Chỉ có Vương phu nhân và Bảo Thoa thì lại thấy như cảnh sinh ly tử biệt, nước mắt không biết ở đâu cứ chảy ròng ròng, khóc không ra tiếng. Còn Bảo Ngọc lại có vẻ hí hớn như người điên, từ đó bước ra cửa đi mất. Thế là
Danh lợi đi tìm nơi tột bực!
Củi lồng thoát khỏi cửa đầu tiên.
Khoan nói việc Bảo Ngọc và Giả Lan đi thi. Hãy nói Giả Hoàn trông thấy hai chú cháu họ ra đi thì vừa tức giận, lên giọng thánh tướng, nói thầm
– Ta cũng phải báo thù cho mẹ ta mới được! Nay trong nhà không có một người đàn ông nào, nếu bác Cả bên kia cũng nghe lời ta thì còn sợ gì ai!
Hắn nghĩ rồi liền chạy đến bên Hình phu nhân hỏi thăm và tâng bốc mấy câu.
Hình phu nhân tất nhiên vui thích, liền nói
– Cháu như thế mới là hiểu lẽ phải chứ? Như việc con cháu Xảo Thư, đáng lẽ do ta làm chủ, thế mà anh hai Liễn cháu cứ lẩn thẩn, lại bỏ mẹ đẻ đi nhờ người khác?
– Ở bên kia họ cũng đã nói. Họ chỉ biết có nhà bác đây thôi, nếu xong việc thì sẽ sắp sửa một món lễ vật to để đưa biếu bác đây. Bác được người cháu rể như đức vương ấy thì còn lo gì bác Cả không làm quan to chứ. Không phải là cháu nói xấu mẹ cháu đâu, bên ấy họ có chị cả là Nguyên Phi, nên họ ra cách khinh rẻ người ta, khiến ai nấy rất là khó chịu. Sau này cháu Xảo Thư không nên mất hết lương tâm như thế. Để cháu hỏi nó xem.
– Cháu cũng nên nói cho nó biết, nó mới hiểu rõ lòng tốt của cháu. Dù cha nó ở nhà e cũng không thể tìm ra được mối nhà thông gia sang trọng như thế? Vậy mà cái con Bình u mê kia lại bảo là không được. Nó nói mẹ cháu cũng không bằng lòng. Xem ra chỉ vì họ sợ chúng ta lại được sung sướng đấy thôi. Việc này nếu để chậm, đến khi anh Hai cháu về, anh ấy sẽ nghe người ta, lại không xong đâu.
– Bên kia đã nhất định rồi, chỉ chờ bác đưa canh thiếp sang là được. Theo khuôn phép của vương phủ, chỉ trong ba ngày là rước dâu về. Nhưng còn một điều, sợ bác không bằng lòng; bên kia họ bảo không nên cưới cháu gái một viên quan phạm tội về làm vợ, chỉ có thể lặng lẽ đón đi thôi ; đợi khi bác trai được tha, lại làm quan, hai bên sẽ mở tiệc mừng vui vẻ.
– Việc ấy có gì mà không được? Theo lễ cũng phải làm như thế.
– Đã thế thì xin bác giao canh thiếp cho cháu là được.
– Cháu rõ lẩn thẩn! Trong này đều là đàn bà cả, cháu ra bảo cháu Tường viết cho một cái thiếp là xong.
Giả Hoàn nghe nói, vui mừng khôn xiết, vội vàng vâng dạ đi ra, kiếm Giả Vân nói chuyện. Lại nhờ Vương Nhân đến công quán đức vương ấy làm giấy tờ, để nhận số bạc. Ngờ đâu những câu chuyện vừa rồi đã bị a hoàn hầu Hình phu nhân nghe được. A hoàn này trước đây nhờ Bình Nhi mới được chọn vào hầu, nay nhân lúc rảnh, nó chạy đến chỗ Bình Nhi kể lại rành mạch.
Bình Nhi biết việc này không hay, và nói rõ với Xảo Thư. Xảo Thư khóc suốt đêm, chỉ nói chờ cha về làm chủ, chứ không thể nghe theo lời bà được. Nay lại nghe nói thế, nó khóc òa lên, định đến cãi lại với bà. Bình Nhi ngăn nó lại
– Cô hãy khoan đã? Bà là bà nội của cô. Bà bảo cậu Hai không ở nhà, thì bà đứng làm chủ được. Đã thế lại còn có ông cậu ruột đứng làm mối nữa. Họ vào bè với nhau, một mình cô nói làm sao lại? Tôi thì đã đành là bậc dưới, không thể nói nổi. Bây giờ cô nên nghĩ cách nào, chứ nhất thiết không được nông nỗi.
A hoàn ấy bảo
– Các cô nên định liệu mau mau, không thì họ sẽ đón đi đấy!
Bình Nhi ngoảnh lại, thấy Xảo Thư quỵ khóc sướt mướt, vội vàng đỡ dậy nói
– Cô ơi, khóc cũng không ăn thua gì đâu! Hiện nay không thể đợi cậu Hai được. Nghe câu chuyện họ nói…
Chưa nói dứt lời, thấy bên Hình phu nhân đã sai người sang báo
– Việc vui mừng của cô tới nơi rồi? Bảo chị Bình soạn sửa tất cả những đồ vật gì cô cần dùng. Còn lễ vật tư trang sẽ đợi khi cậu Hai về mới sắm sửa.
Bình Nhi đành phải vâng lời. Lúc ấy lại thấy Vương phu nhân đến, Xảo Thư liền ôm chặt lấy bà ta cứ lăn vào lòng mà khóc. Vương phu nhân cũng khóc và nói
– Cháu không cần nóng nảy! Ta vì cháu đã phải chịu bao nhiêu câu nói của bà cháu, nhưng xem chừng thì không thể xoay chuyển lại được nữa. Chúng ta cứ nhận lời rồi tìm cách tạm hoãn, và lập tức sai người đi đến nơi cha cháu nói rõ việc ấy.
Bình Nhi thưa
– Bà còn chưa biết sao. Sớm nay cậu Ba đã trình với bà Cả là khuôn phép trong Vương phủ chỉ trong ba ngày phải rước dâu về. Bây giờ bà Cả đã bảo cậu Vân viết thiếp rồi, như thế đợi cậu Hai sao kịp.
Vương phu nhân nghe đến tiếng cậu Ba, tức quá, nói không ra lời, ngẩn người ra một lúc, giục bảo đi tìm Giả Hoàn.
Một hồi lâu, có người vào trình
– Sáng hôm nay cậu Ba cùng cậu Tường và ông Vương Nhân đi đâu rồi.
– Còn thằng Vân đâu?
– Không biết ạ.
Mọi người đều trợn trừng trợn trạc không còn cách gì.
Vương phu nhân cũng khó cãi nhau với Hình phu nhân, nên ai nấy đành ôm đầu mà khóc. Trong lúc đang bối rối, chợt có bà già vào trình
– Người canh cửa sau báo tin bà Lưu lại đến.
Vương phu nhân nói
– Nhà chúng ta đang gặp lúc bối rối như thế này, còn rảnh rang đâu mà tiếp khách, nói thế nào đó cho bà ấy về đi thôi.
Bình Nhi thưa
– Bà lớn nên cho mời vào. Bà ấy là mẹ nuôi của cô Xảo, cũng nên nói qua cho bà ấy biết.
Vương phu nhân không nói gì. Người nhà dẫn bà Lưu vào. Hai bên chào hỏi xong, bà Lưu trông thấy người nào con mắt cũng đỏ hoe, chẳng hiểu ra sao, bà ta chậm rãi một lúc rồi hỏi
– Làm sao thế? Chắc là bà lớn và cô lại nhớ đến mợ Hai?
Xảo Thư nghe nhắc đến mẹ mình, càng khóc to lên. Bình Nhi nói
– Bà đừng nói chuyện suông nữa. Bà đã là mẹ nuôi của cô, cũng nên biết việc này.
Rồi chị ta kể hết đầu đuôi, làm bà Lưu khiếp sợ sửng sốt.
Một lúc sau bà ta bỗng phá lên cười
– Chị là người lanh lợi như thế mà chưa nghe khúc “Cổ nhi từ” 2 à. Việc ấy còn có nhiều cách, khó khăn gì đâu.
Bình Nhi vội hỏi
– Bà ơi. bà có cách gì, xin nói mau lên?
– Việc ấy có gì khó khăn đâu? Không để cho một người nào trong bọn họ biết, rồi thình lình trốn đi lã xong.
– Bà nói bậy rồi? Con nhà chúng tôi thể diện như thế này, trốn đi đâu được?
– Chỉ sợ các cô không chịu đi thôi, nếu đi thì cứ đến chỗ quê tôi. Tôi sẽ dấu kín cô Xảo đi, rồi bảo cô ấy tự tay viết một bức thư. Tôi lập tức bảo anh rể tôi tìm người, mang ngay đến chỗ cậu Hai, chắc cậu ấy sẽ về ngay, như thế không được ư?
– Nếu bà Cả biết thì sao?
– Khi tôi đến bà lớn biết không?
– Bà Cả ở nhà phía trước. Bà ta đối đãi với người dưới rất khắc nghiệt, có tin tức gì không ai báo cho bà ấy cả. Nếu bà đi vào cửa trước thì họ biết ; nhưng bà lại đi cửa sau, thì không can gì.
– Các cô định bao giờ đi, thì tôi bảo anh rể tôi đem xe đến đón.
– Còn đợi đến bao giờ nữa? Thôi mời bà hãy ngồi đây đã.
Rồi chị ta vội vàng đi vào, tránh những người đứng xung quanh, trình rõ những lời bà Lưu vừa nói với Vương phu nhân. Vương phu nhân nghĩ một lúc, thấy không ổn. Bình Nhi nói
– Chỉ có cách ấy thôi. Vì là bà lớn nên cháu mới dám nói rõ. Bà lớn cứ giả làm như không biết, rồi cứ vờ hỏi bà Cả. Còn chúng cháu ở bên này sẽ sai người đi, chắc cậu Hai cũng về nhanh.
Vương phu nhân không nói gì, chỉ thở dài. Xảo Thư nghe vậy, liền thưa với Vương phu nhân
– Xin bà cứu lấy cháu! Dù sao lúc cha cháu trở về, cũng chỉ biết ơn bà mà thôi.
Bình Nhi nói
– Không cần phải nói nữa, xin mời bà lớn về đi thôi. Chỉ nhờ bà lớn sai người đến coi nhà cho.
Vương phu nhân nói
– Phải kín đáo một tí. Nhớ mang theo áo quần chăn nệm của chúng cháu đấy.
Bình Nhi nói
– Phải đi nhanh mới kịp, nếu để họ giao giá xong trở về thì rắc rối đấy.
Câu nói ấy như giục giã Vương phu nhân. Bà ta nói
– Phải rồi, các cháu cứ soạn sửa nhanh lên! Đã có ta đây!
Sau đó Vương phu nhân trở về, lại sang bên Hình phu nhân nói chuyện suông, để giữ bà ta lại. Bên này Bình Nhi bảo người sắp sửa ra đi, và dặn dò
– Đừng giấu diếm gì. Nếu có người trông thấy thì cứ nói là bà Cả truyền bảo, cần một cỗ xe để đưa bà Lưu về.
Rồi lại đem tiền lót cho người canh cửa sau, bảo thuê xe đến. Bình Nhi cải trang cho Xảo Thư giả làm con Thanh, cháu gái bà Lưu, rồi vội vàng lên xe đi ngay. Sau đó Bình Nhi làm bộ tiễn khách, nhân lúc người ta không để ý, cũng nhảy lên xe đi
luôn. Số là gần đây cửa sau phủ Giả tuy mở, nhưng nhà rộng, đầy tớ ít, nên chỉ một vài người canh, trông nom không xuể, rất là trống trải. Vả lại Hình phu nhân là người không biết thương kẻ dưới. Người trong nhà tuy biết việc ấy không hay, nhưng họ lại nhớ ơn Bình Nhi ăn ở tử tế, nên thông đồng với nhau, để mặc cho
Xảo Thư đi. Hình phu nhân vẫn còn ngồi nói chuyện với Vương phu nhân, có để ý gì đến việc ấy. Riêng Vương phu nhân là không yên tâm chút nào. Bà ta nói chuyện một lúc, rồi lặng lẽ sang ngồi bên phòng Bảo Thoa, lòng lo ngay ngáy. Bảo Thoa thấy Vương phu nhân sắc mặt hoảng hốt, liền hỏi
– Trong bụng mẹ nghĩ việc gì phải không?
Vương phu nhân nói thầm việc ấy với Bảo Thoa, Bảo Thoa nói
– Làm liều quá. Bây giờ phải sai cháu Vân mau mau sang đình chỉ bên kia đi mới yên chuyện.
– Ta cho tìm thằng Hoàn không thấy đâu cả.
– Mẹ cứ vờ như không biết, để con tìm người sang nói cho bác biết mới được.
Vương phu nhân gật đầu; mặc cho Bảo Thoa tìm người. Số là đức vương này muốn mua mấy người con gái để hầu hạ, vì chưa tin lời người mối, nên mới sai người đi xem mặt. Người đi xem về bẩm rõ. Đức vương hỏi đến con nhà dòng dõi
thế nào, họ không dám dấu đành phải nói thực. Đức vương nghe xong, biết rõ nhà ấy đã mấy đời có công và có họ ngoại với nhà vua, nên bảo
– Không xong đâu! Việc ấy phạm lệ cấm đấy, suýt nữa làm hỏng việc lớn! Vả lại ta về chầu vua đã xong, phải chọn ngày lên đường. Nếu có người nào nói đến việc ấy nữa, phải đuổi đi ngay.
Hôm ấy vừa lúc Giả Vân và Vương Nhân đưa canh thiếp đến, bỗng thấy người trong cửa phủ ra nói
“vâng mệnh đức vương truyền, người nào còn dám đem
người trong phủ Giả mạo nhận là con gái nhà thường dân thì phải bắt lấy để trị tội. Hiện nay đương đời thái bình, ai dám to gan như vậy.” Nghe vậy, Vương Nhân khiếp sợ, cúi cổ bỏ trốn, oán trách người đã nói lộ chuyện, rồi cả bọn cụt hứng ra về. Giả Hoàn ở nhà chờ tin, nghe Vương phu nhân truyền gọi, hắn lo cuống quít. Bỗng thấy Giả Vân về một mình, hắn vội đón lại hỏi
– Đã xong chưa?
Giả Vân hoảng hốt dẫm chân nói
– Không xong rồi. không xong rồi! Chẳng biết đứa nào đã để lộ chuyện ra.
Rồi hắn kể lại chuyện đã bị mắng nhiếc. Giả Hoàn tức giận sửng sốt, nói
– Ban sáng tôi đến trình với bác việc tốt đẹp như thế, giờ biết xử trí ra sao đây? Thực là bọn các anh chôn sống tôi rồi?
Bỗng nghe phía trong có tiếng kêu ầm lên, gọi tên bọn Giả Hoàn và nói
– Bà Cả và bà lớn đang gọi đấy.
Hai người đành phải thất thểu đi vào. Liền thấy Vương phu nhân nổi giận hầm hầm nói
– Chúng mày làm việc giỏi nhỉ? chúng mày bức bách con Xảo Thư và con Bình chết đâu rồi. Mau mau tìm thấy chúng về ngay cho ta.
Hai người đều quỳ xuống. Giả Hoàn không dám nói gì.
Giả Vân cúi đầu thưa
– Chúng cháu không dám làm việc gì. Chỉ tại cậu cả Hình và cậu Vương nói là làm mối cho em Xảo Thư, chúng cháu mới dám trình với các vị. Bà Cả bằng lòng, mới gọi cháu viết canh thiếp đưa đi. Người ta còn không muốn lấy nữa là, sao lại buộc cho chúng cháu là bức bách em?
Vương phu nhân nói
– Chúng Hoàn đã thưa với bà Cả là nội trong ba ngày họ sẽ đón đi. Lại có cái thói làm mối làm manh như thế à? Thôi ta cũng không cần hỏi nữa, chúng mày phải đem cháu Xảo Thư trả ngay cho ta, đợi ông lớn về đây rồi sẽ nói chuyện!
Hình phu nhân cũng không nói được một câu, chỉ chảy nước mắt. Vương phu nhân mắng Giả Hoàn
– Cái dì Triệu ấy là đồ bậy bạ sinh ra thằng con cũng bậy bạ nốt!
Bà ta nói xong bảo a hoàn đến đỡ, rồi đi về phòng. Giả Hoàn, Giả Vân và Hình phu nhân chỉ oán trách lẫn nhau. Mấy người bảo nhau
– Bây giờ chưa cần oán trách vội. Chắc Xảo Thư không đến nỗi chết đâu, lại con Bình đem nó trốn đi ở một nhà bà con nào đó thôi.
Hình phu nhân cho gọi mấy người canh gác cửa trước, cửa sau đến, mắng và hỏi
– Chúng mày có biết Xảo Thư và Bình Nhi đi đâu không?
Nào ngờ bọn đầy tớ đều một loạt thưa
– Bà Cả không cần phải hỏi chúng con. Xin hỏi mấy ông quản gia sẽ rõ. Xin bà Cả đừng nóng nảy, đợi khi bà lớn chúng con hỏi đến, chúng con sẽ có lời thưa lại. Nếu cần đánh, cần phạt, chúng con đều sẵn sàng xin chịu. Từ khi cậu Hai đi vắng, ở ngoài kia họ làm bậy bạ vô cùng. Tiền gạo hàng tháng của chúng con họ không phát. Họ đánh bạc uống rượu, chơi trai, lại còn dắt cả gái ở ngoài về nữa. Đó chẳng phải các ông ấy làm hay sao?
Những câu ấy làm cho bọn Giả Vân ngậm miệng không nói lại được. Bên Vương phu nhân lại sai người sang thúc giục
– Các cậu phải đi tìm về mau.
Bọn Giả Hoàn cuống quít chỉ giận không có lỗ nẻ để chui xuống.Chúng lại không dám tra hỏi những người bên nhà Xảo Thư. Chúng biết người ta đều căm ghét, chắc là họ đã đem Xảo Thư giấu di đâu rồi, nhưng điều đó không dám trình với Vương phu nhân. Chúng đành phải đi đến các nhà thân thích để nghe ngóng, vẫn chẳng ăn thua gì. Trong mấy ngày liền, bên trong thì Hình phu nhân, bên ngoài thì bọn Giả Hoàn, đều rối rít lên, đêm ngày không yên.
Đến ngày ra trường thi, Vương phu nhân trông đợi Bảo Ngọc và Giả Lan về nhà. Đợi mãi đến trưa cũng không thấy về. Vương phu nhân, Lý Hoàn và Bảo Thoa hoảng hốt, sai người đến nhà trọ nghe ngóng. Một bọn đi, bặt không tin tức.
Sau đó lại sai bọn khác đi, cũng không thấy về nốt. Ba người ruột nóng như lửa, đợi mãi đến xế chiều, mới thấy một mình Giả Lan về. Mọi người vui mừng hỏi
– Còn chú Bảo đâu?
Giả Lan không kịp chào hỏi mọi người, liền khóc oà
– Chú Bảo lạc mất rồi!
Vương phu nhân nghe vậy, ngẩn người đi một lúc lâu, không nói năng gì, rồi ngã sóng sượt giữa giường. May có bọn Thái Vân ở phía sau đỡ dậy, cố hết sức mới gọi tỉnh lại được. Bà ta cứ khóc. Bảo Thoa thì trợn ngược mắt lên Bọn Tập Nhân đều nước mắt đầm đìa. Lý Hoàn khóc và mắng Giả Lan
– Đồ ngốc! Mày ở với chú Hai một chỗ. Sao chú ấy lại lạc mất?
Giả Lan nói
– Ở nhà trọ, con với chú Hai cùng ăn cùng ngủ một nơi. Khi vào trường, hai người lúc nào cũng gần gũi nhau. Sáng hôm nay chú Hai làm bài thi xong sớm, còn chờ cháu. Chúng cháu đi nộp quyển một lần, rồi cùng ra cửa. Nhưng đến khi chen nhau ở cửa long môn, cháu ngoảnh lại không thấy chú ấy đâu nữa. Người nhà đi đón đều lại hỏi cháu. Anh Lý Quý còn nói, có trông thấy cậu Hai chỉ cách nhau vài bước, không biết làm sao chen một cái rồi không thấy đâu cả. Hiện giờ bọn Lý Quý đang chia nhau đi tìm. Cháu cũng đem người đi tìm khắp các nơi, không thấy, nên đến bây giờ mới về.
Vương phu nhân khóc lóc, không nói được ra lời. Bảo Thoa trong bụng đã hiểu rõ tám, chín phần. Tập Nhân thì cứ gào khóc mãi. Bọn Giả Tường không đợi ai sai bảo, cũng chia nhau đi tìm. Đáng thương cho mọi người trong phủ Vinh, ai ai cũng dỡ sống dỡ chết, uổng công sửa soạn bữa tiệc để đón tiếp người đi thi về.
Giả Lan cũng quên hẳn mỏi mệt, muốn tự mình đi tìm. Nhưng Vương phu nhân ngăn lại nói
– Cháu ơi! Chú đã lạc mất rồi, lại còn để mất cả cháu nữa sao? Thôi cháu cứ đi nghỉ ngơi đã.
Nhưng Giả Lan nào chịu nghe? Bọn Vưu thị phải hết sức khuyên can mãi. Trong mấy người đó chỉ một mình Tích Xuân là hiểu rõ, nhưng không chịu nói ra, cô ta vờ hỏi Bảo Thoa
– Anh Hai có mang viên ngọc đi không?
– Đó là vật tùy thân của cậu ấy, sao lại không mang đi?
Tích Xuân nghe xong không nói gì.
Tập Nhân nhớ lại việc mất viên ngọc lúc trước, cũng đoán chừng là vị hoà thượng tác quái, nên bụng đau như cắt, nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào khóc mãi. Chị ta nghĩ lại mối tình Bảo Ngọc đối với mình khi trước. Có lúc mình trêu tức
cậu ta, tuy cậu ta giận, nhưng cũng có chỗ tốt làm cho người ta phải hồi tâm lại, còn tấm lòng thể tất ôn tồn thì không cần phải nói nữa, có lúc mình trêu quá, cậu ta thề sẽ đi tu, không ngờ ngày nay lại ứng với câu nói ấy.”
Hãy gác chuyện Tập Nhân nghĩ ngợi bực mình. Hôm ấy đã đến canh tư, vẫn không được tin gì về Bảo Ngọc cả. Lý Hoàn sợ Vương phu nhân thương xót sinh ốm, nên hết sức khuyên giải và đưa bà ta về phòng. Mọi người đều theo đến hầu, chỉ một
mình Hình phu nhân về nhà. Giả Hoàn thì trốn tránh không dám ra. Vương phu nhân bảo Giả Lan về và nằm suốt đêm không ngủ.
Sáng hôm sau tuy có người nhà trở về, nhưng ai nấy đều nói
– Tìm khắp nơi không ai thấy bóng dáng Bảo Ngọc đâu cả.
Tiết phu nhân, Tiết Khoa, Sử Tương Vân và thím Lý lũ lượt đến thăm và hỏi tin. Qua mấy ngày liền như thế, Vương phu nhân khóc đến nổi bỏ cả ăn uống. Người đã sắp nguy. Bỗng có người nhà vào trình
– Có một người ở miền bể, nói là người nhà quan thống chế sai đến và thưa, cô Ba nhà ta ngày mai sẽ về kinh.
Vương phu nhân nghe nói Thám Xuân về kinh, tuy nhiên không khuây hẳn nỗi mong nhớ Bảo Ngọc, nhưng cũng hơi được yên tâm.
Đến hôm sau, quả nhiên Thám Xuân về. Mọi người ra đón từ xa, trông Thám Xuân lại càng xinh đẹp, ăn mặc lộng lẫy hơn trước. Thấy Vương phu nhân dáng người tiều tụy và ai nấy đều khóc sưng mắt lên, cô ta cũng khóc to một lúc lâu rồi mới
chào hỏi mọi người. Thám Xuân thấy Tích Xuân ăn mặc theo lối nhà tu, trong bụng rất là khó chịu. Lại nghe nói đến việc Bảo Ngọc bị lạc, trong nhà xảy ra nhiều chuyện không hay nên mọi người lại khóc. May có Thám Xuân khôn khéo, kiến thức cao, đem lời khuyên giải dần dần, bọn Vương phu nhân mới khuây khỏa ít nhiều.
Sáng hôm sau nữa thì chồng Thám Xuân đến, biết trong nhà xảy ra nhiều việc, nên để chị ta ở lại khuyên giải. Các a hoàn, bà già theo hầu Thám Xuân, nay được gặp lại, chị em cùng nhau kể lể tâm tình sau khi xa cách. Từ đó người trên kẻ dưới, ngày đêm chỉ chờ tin tức Bảo Ngọc.
Một hôm, đã quá canh năm, có mấy người nhà ở ngoài vào cửa thứ hai báo tin mừng. Mấy a hoàn nhỏ xô nhau chạy vào, không kịp nói với các a hoàn lớn, liền chạy thẳng vào nhà trong trình
– Xin mừng bà lớn và các mợ!
Vương phu nhân đoán chừng đã tìm thấy Bảo Ngọc, liền đứng dậy vui vẻ hỏi
– Tìm thấy nó ở đâu? Bảo nó vào đây mau!
Người ấy thưa
– Đã đậu cử nhân thứ bảy.
Câu nói ấy lại làm cho Vương phu nhân khóc to lên. Lý Hoàn nói
– Từ xưa đã có nhiều vị thành Phật thành tiên, quả là vứt bỏ hết cả giàu sang chức tước.
Vương phu nhân khóc
– Nếu nó bỏ cha mẹ mà đi, tức là bất hiếu, sao lại thành Phật thành tiên được.
Thám Xuân nói
– Người đời không nên có cái gì kỳ lạ quá. Anh Hai khi mới sinh đã có sẵn viên ngọc, ai cũng bảo là việc tốt ; nhưng nay xét lại cũng vì có viên ngọc ấy mà không tốt. Nếu mấy ngày nữa không tìm thấy, tức là có duyên cớ. Con nói xin mẹ đừng giận, mẹ cứ nên xem như không sinh ra anh ấy là được. Nếu quả anh ấy có duyên kiếp từ trước, tu được thành chánh quả, cũng là do mẹ tích phúc mấy đời đấy.
Bảo Thoa nghe xong không nói gì. Tập Nhân không nén được nữa đâm ra đau ruột, choáng đầu, ngã nhào xuống. Vương phu nhân thấy thế thương hại, sai người vực chị ta về nhà. Giả Hoàn thấy anh và cháu đều thi đậu, lại thêm việc Xảo Thư, nên trong bụng rất là khó chịu, chỉ oán trách Giả Tường, Giả Vân. Hắn lại nghĩ Thám Xuân nay về thăm nhà, tất không chịu bỏ qua việc ấy, nhưng cũng không dám bỏ trốn, vì vậy mấy hôm nay cứ như cá nằm trên thớt.
Hôm sau Giả Lan đành phải đi tạ ơn trước. Lại biết Chân Bảo Ngọc cũng thi đậu, mọi người cùng nhau tỏ tình đồng khoa. Khi nhắc đến việc Bảo Ngọc vì mê mẫn bị lạc, Chân Bảo Ngọc tỏ lời than thở yên ủi.
Quan chấm trường xem các quyển thi đậu, tâu tới nhà vua mở ra xem, thấy những bài văn lấy đậu đều là đúng đắn thông suốt. Thấy Giả Bảo Ngọc đậu thứ bảy là người Kim Lăng; Giả Lan đậu thứ một trăm ba mươi cũng là người Kim Lăng, nhà vua truyền chỉ xuống hỏi
“Hai người họ Giả ở Kim Lăng có phải cùng họ với Giả phi không?” Quan đại thần vâng mệnh ra truyền gọi Gả Bảo Ngọc và Giả Lan vào hỏi. Giả Lan trình rõ việc Bảo Ngọc sau khi ra khỏi trường, đi lạc mất và khai rõ cha ông ba đời, rồi quan đại thần thay lời tâu lên.
Nhà vua rất là thánh minh nhân đức. Người nhớ đến công ơn họ Giả, truyền xuống các quan đại thần xét và tâu lên. Các quan xét kỹ và tâu rõ. Nhà vua rất là thương xót, sai một vị quan xét lại bản án Giả Xá phạm tội đầu đuôi thế nào, rồi tâu lên. Nhà vua lại xem một bản tâu về “các việc sắp đặt sau khi đã dẹp yên bọn giặc ven biển và rút quân về”, trong bản án ấy nói rõ hiện nay bể lặng sông yên, muôn dân làm ăn vui vẻ. Nhà vua rất vui, truyền các quan cửu khanh kê rõ công lao để định thưởng, và ban ơn đại xá cả thiên hạ.
Bọn Giả Lan sau khi vào hầu xong ra về, liền đến chào lạy các quan chấm trường, lại nghe tin trong triều có ban ơn đại xá liền trình với bọn Vương phu nhân. Cả nhà đều vui mừng, chỉ mong chờ Bảo Ngọc trở về. Tiết phu nhân lại càng vui vẻ hơn, liền lo việc chuộc tội cho Tiết Bàn.
Một hôm, người nhà báo có cụ Chân và chồng cô Ba đến mừng. Vương phu nhân sai Giả Lan ra tiếp. Một lúc sau Giả Lan vào, cười vui vẻ trình với Vương phu nhân
– Thưa các bà, có tin mừng, cụ Chân ở trong triều nghe nói đã có chỉ truyền, ông Cả được tha tội hẳn. Bác Trân không những được tha tội, vẫn còn được tập chức Ninh quốc công hạng ba. Còn thế chức bên phủ Vinh thì vẫn do ông nội chúng ta tập, chờ khi hết hạn nghỉ tang rồi sẽ thăng chức lang trung bộ công. Bao nhiêu gia sản bị tịch thu, đều trả lại hết. Nhà vua xem văn chương của chú Hai, rất vui thích. Người ban hỏi biết rõ là em đức bà Nguyên phi, Bắc Vĩ anh vương lại tâu về phẩm cách chú Hai cũng tốt nên vua truyền chỉ đòi vào chầu. Các quan đại thần tâu
“Theo lời người cháu là Giả Lan đã trình, thì anh ta đã đi lạc mất sau khi ra khỏi trường, hiện đang tìm hỏi khắp nơi”. Nhà vua đã xuống chỉ, truyền các nha môn năm doanh đều để ý tìm tòi. Chỉ đã xuống rồi. Xin bà cứ yên lòng. Đội ơn nhà vua như thế, lẽ nào lại không tìm được!
Nghe nói, bọn Vương phu nhân mới chúc mừng nhau và tỏ vẻ vui mừng. Chỉ có bọn Giả Hoàn vẫn cuống quít đi tìm Xảo Thư khắp nơi.
Xảo Thư đi theo bà Lưu, cùng Bình Nhi ra khỏi thành. Khi về đến thôn trại, bà Lưu cũng không dám khinh rẻ Xảo Thư. Bà ta quét dọn gian phòng nhà trên, mời Xảo Thư và Bình Nhi ở. Hàng ngày bà ta cung cấp các món ở thôn quê, nhưng cũng sạch sẽ lại có con Thanh làm bạn, nên họ cũng tạm khuây khỏa.
Trong thôn đó có mấy nhà giàu. Biết có một vị tiểu thư phủ Giả đến nhà già Lưu, ai nấy đều chạy lại xem. Họ cho là nàng tiên trên trời sa xuống. Rồi có người đưa món ăn thức quả đến, có người đưa các thứ dã vị đến, cũng khá nhộn nhịp. Trong
số ấy có một nhà rất giàu là họ Chu, gia tài tới hàng vạn, ruộng đất có đến nghìn khoảnh. Nhà ấy chỉ có một con trai, dáng người văn nhã thanh tú, mới mười bốn tuổi. Cha mẹ anh ta rước thầy về dạy học, khoa mới rồi thi đậu tú tài. Hôm nọ mẹ anh ta trông thấy Xảo Thư, trong bụng tấm tắc khen ngợi, nghĩ bụng
“Chúng mình là người ở thôn trại, làm gì mà sánh đôi được với vị tiểu thư con nhà thế gia như vậy?”. Rồi bà ta cứ ngẩn người ra.
Già Lưu đã dò biết tâng sự bà ấy. liền nói
– Tôi biết bụng bà rồi, để tôi làm mối hộ cho.
Bà Chu cười
– Thôi bà đừng lừa tôi nữa. Họ là con nhà như thế nào, đời nào chịu gả cho chúng tôi là người ở thôn trại.
– Thì cũng cứ nói thử xem.
Thế rồi hai người đi hai nơi.
Già Lưu nhớ đến phủ Giả, liền bảo Bản Nhi vào thành nghe ngóng. Một hôm vừa đi đến phố Ninh Vinh. Bỗng thấy có nhiều xe kiệu ở đó. Bản Nhi đến chỗ gần xung quanh lắng nghe. Hắn nghe nói hai phủ Ninh, Vinh đã được trả lại chức quan, trả lại gia sản. Nay trong phủ lại sắp trở nên thịnh vượng. Chỉ có cậu Bảo Ngọc thi đậu cử nhân, rồi không biết đi đâu mất. Bản Nhi trong bụng vui mừng, đã định trở về. Lại thấy có mấy con ngựa chạy đến rồi một người đến trước cửa xuống ngựa.
Bỗng thấy người canh cửa ra chào, hỏi thăm, và nói
“Cậu Hai đã về! Mừng quá? ông Cả đã mạnh khỏe rồi chứ?” Người ha hả cười bảo
“Khỏe rồi? Lại vừa có ân chỉ tha tội, người cũng sắp về đấy.” Cậu ta lại hỏi
“Mấy người kia làm chuyện gì đấy”. Người canh cửa thưa. “Đó là các quan đến truyền chỉ, cho đi nhận lại gia sản”. Người kia vui mừng cuống quít đi vào. Bản Nhi đoán chừng đó là Giả Liễn. Anh ta không nghe ngóng nữa, vội quay về thưa với bà ngoại.
Già Lưu nghe nói mừng rỡ, nở từng khúc ruột, đến chỗ Xảo Thư kể lại một lượt những điều Bản Nhi vừa nói.
Bình Nhi cười bảo
– Thật là nhờ già bày ra cách ấy. Nếu không thì cô tôi cũng không còn gặp được dịp vui vẻ này nữa.
Xảo Thư lại càng vui mừng. Đang nói chuyện, thì người đưa tin cho Giả Liễn cũng về, và nói
– Cậu Hai rất là cảm kích, dặn tôi sau khi về đến nhà, phải đưa cô về phủ mau. Lại còn thưởng cho tôi mấy lạng bạc nữa.
Bà Lưu nghe nói rất mừng, liền cho người đi tìm hai cỗ xe, rồi mời Xảo Thư và Bình Nhi lên xe về. Bọn Xảo Thư ở trong nhà bà Lưu đã quen, nên cứ dùng dằng không chịu chia tay. Con Thanh lại khóc lóc, giận không sao giữ họ lại được nữa. Già Lưu thấy chúng không nỡ xa nhau, nên cho con Thanh đi theo vào thành, rồi mấy người đi một mạch về phủ Vinh.
Giả Liễn trước kia được tin Giả Xá ốm nặng, liền đi đến chỗ bị đày. Cha con gặp nhau, khóc lóc một hồi, sau đó Giả Xá dần dần lành bệnh. Đến khi Giả Liễn tiếp thơ, biết rõ việc nhà, trình với Giả Xá rồi đi về, dọc đường nghe tin đại xá, lại đi gấp hai ngày nữa. Hôm nay về đến nhà, vừa gặp lúc vua ban ân chỉ. Trong nhà thì bọn Hình phu nhân đang lo không có người tiếp chỉ. Tuy có Giả Lan, nhưng vẫn còn ít tuổi. Bỗng nghe người báo tin, cậu hai Liễn đã về. Mọi người gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Chưa kịp nói chuyện, Giả Liễn liền ra nhà khách, vái chào quan khâm mạng. Vị quan ấy hỏi thăm sức khỏe Giả Xá, rồi bảo
– Ngày mai vào nội phủ lĩnh thưởng. Dinh thự bên phủ Ninh nay giao trả cho dọn về ở.
Rồi mọi người đứng dậy từ biệt. Giả Liễn tiễn họ ra cửa. Sau đó thấy có vài cỗ xe đến. Người nhà không cho đỗ lại. Đang cơn ồn ào thì Giả Liễn đã biết rõ đó là xe của Xảo Thư về, liền mắng bọn người nhà
– Bọn chúng bay là người vô lương! Nhân lúc ta đi vắng, chúng bây sinh lòng lừa dối hại chủ, bắt buộc con ta phải bỏ đi ; bây giờ người ta đưa về, bay lại muốn ngăn cản à? Có phải chúng bây thù oán gì ta không?
Bọn người nhà vốn sợ Giả Liễn trở về làm lôi thôi, nhưng cũng tưởng ít lâu rồi việc mới lộ, nào ngờ Giả Liễn lại nói ra rõ ràng như thế. Họ không hiểu ra sao, đành phải đứng lại thưa
– Sau khi cậu ra đi, bọn chúng cháu đứa thì ốm, đứa thì xin nghỉ. Việc ấy là do cậu Ba, cậu Tường và cậu Vân làm chủ, chứ không can gì đến chúng cháu cả.
Giả Liễn nói
– Đồ khốn nạn! Xong việc rồi ta sẽ nói chuyện với chúng bây. Mau ra đưa xe vào!
Giả Liễn đi vào, thấy Hình phu nhân cũng không nói gì, lại quay sang bên Vương phu nhân gục đầu quỳ xuống thưa
– Việc này đều nhờ ơn thím đùm bọc cả? Em Hoàn thì không cần phải nói nữa. Chỉ ghét cái thằng Vân, lần trước coi nhà, đã làm bậy bạ, nay cháu mới đi mấy tháng, nó đã gây ra chuyện như thế. Cháu xin trình trước với thím, cái giống người
ấy thì đuổi cổ đi, không cho nó đi lại nữa cũng đáng.
Vương phu nhân nói
– Cái thằng Vương Nhân đốn mạt ấy không biết vì sao cũng hư tệ như thế?
– Thím không cần phải nói. Cháu đã có cách.
Đang nói thì bọn Thái Vân vào trình
– Cô Xảo đã vào đây rồi.
Bấy giờ Xảo Thư vào chào Vương phu nhân. Tuy xa cách chưa bao lâu, nhưng nhớ lại tình cảnh lúc đi trốn, bất giác rơi nước mắt. Xảo Thư cũng khóc oà lên. Giả Liễn vội đến tỏ lời cảm tà bà Lưu. Vương phu nhân kéo bà cụ ngồi xuống, lại nhắc đến câu chuyện ngày trước. Giả Liễn trông thấy Bình Nhi, bề ngoài tuy không tiện nói, nhưng trong lòng rất là cảm kích, bất giác ứa nước mắt. Từ đó anh ta càng kính trọng Bình Nhi, định đợi Giả Xá trở về, sẽ lập Bình Nhi làm vợ chính. Đó là chuyện sau, chưa vội nhắc đến.
Về phần Hình phu nhân thì đang sợ Giả Liễn không tìm thấy Xảo Thư, chắc sẽ gây chuyện rắc rối ; lại nghe Giả Liễn đang ở bên Vương phu nhân, nên càng sốt ruột liền bảo a hoàn đi dò xem sao. A hoàn về trình
– Xảo Thư cùng bà Lưu đang nói chuyện ở bên ấy.
Hình phu nhân như tỉnh giấc mơ, biết là bọn họ chơi khăm. Lại oán trách Vương phu nhân. Bà ấy chỉ xúi cho mẹ con mình bất hòa với nhau? Nhưng vẫn không biết đứa nào đã đưa tin cho Bình Nhi? Đang tự hỏi thì thấy Xảo Thư cùng bà Lưu dẫn cả Bình Nhi đến, Vương phu nhân cũng đi theo sau. Trước hết họ đem những chuyện đó đổ tội cả cho Giả Vân và Vương Nhân, rồi nói
– Bà lớn nguyên chỉ nghe theo lời người ta, cũng muốn được việc tốt lành, biết đâu được bọn quỷ quái bên ngoài!
Hình phu nhân nghe nói, cảm thấy thẹn thùng, nghĩ lại ý định của Vương phu nhân là đúng, trong bụng cảm phục. Từ đó Hình phu nhân và Vương phu nhân lại vui vẻ với nhau. Bình Nhi trình với Vương phu nhân rồi dẫn Xảo Thư sang phòng của Bảo Thoa thăm hỏi. Mỗi người đều nhắc đến nỗi khổ của mình. Họ lại nói – Đội ơn hoàng thượng, phủ ta sẽ trở lại thịnh vượng. Chắc cậu Bảo cũng sẽ trở về.
Họ vừa nói đến câu ấy, thấy Thu Vân ra vẻ cuống quít sợ sệt chạy đến thưa
– Chị Tập Nhân nguy rồi! Không biết đã xảy ra việc gì?
[1] Ý nói được đội mũ mệnh phụ vì có con ra làm quan.
[2] Cố nhi từ hoặc cổ tử từ – tên một từ khúc đời xưa, vừa dùng lời nói vừa hát, do nhiều khúc điệu và nhiều đoạn văn xuôi kết hợp lại.
Bảo Thoa nghe Thu Vân nói đến Tập Nhân nguy cấp, vội đi xem. Xảo Thư và Bình Nhi cũng đi theo. Khi đến trước giường Tập Nhân, thấy cô ta bụng đau quặn, có lúc cứ thở dốc. Bảo Thoa dùng nước nóng đổ cho tỉnh lại, đỡ cô ta nằm xuống, rồi sai người đi mời thầy thuốc.
Xảo Thư nhân hỏi Bảo Thoa
– Chị Tập Nhân tại sao ốm đến như thế?
– Chiều hôm kia chị ấy khóc quá thương tâm, choáng váng ngã xuống. Bà sai người đỡ về. Chị ấy liền nằm lịm luôn. Vì ngoài nhà còn bận, chưa mời được thầy thuốc đến thăm, nên mới đến nổi thế.
Đang nói thì thầy thuốc đến. Bọn Bảo Thoa tạm lánh mặt. Thầy thuốc vào xem mạch, bảo bệnh này do uất ức mà ra, liền kê đơn rồi về. Số là Tập Nhân thoáng nghe nói, nếu Bảo Ngọc không về, sẽ cho người hầu trong nhà về hết. Chị ta cuống lên, lại càng ốm thêm. Sau khi thầy thuốc xem bệnh, Thu Văn lo sắc thuốc dùm. Chị ta nằm một mình, tâm thần chưa định, cứ tưởng như Bảo Ngọc đứng ở trước mặt. Lại thấp thoáng như thấy một vị hòa thượng, tay cầm một quyển sổ, mở ra xem rồi lại nói, “chị đừng có lầm, tôi không nhận các chị đâu.” Tập Nhân còn muốn nói chuyện với anh ta thì Thu Văn đến nói
– Thuốc được rồi. Chị uống đi.
Tập Nhân mở choàng mất nhìn, mới biết là chiêm bao, nhưng cũng không nói với ai. Uống thuốc xong, chị ta suy nghĩ một mình, “cậu Bảo chắc là đi theo vị hòa thượng rồi. Lần trước cậu ta định cầm viên ngọc đi ra, đó là ý muốn thoát thân. Lúc cậu ta bị mình giữ lại, xem bộ dạng không giống như ngày thường, cứ xô đẩy mình túi bụi, không nể nang chút nào ; sau lại đối đãi với mợ Hai càng lạnh nhạt và cũng không nhìn ngó gì đến các chị em khác. Đó là cậu ta đã ngộ đạo. Nhưng ngộ đạo mà bỏ mợ Hai đi thì làm thế nào!” Còn mình là người của bà lớn sai sang hầu cậu ấy tuy số tiền lương tháng chiếu theo lệ ấy mà lĩnh 1 nhưng thực ra trước mặt ông lớn, bà lớn mình chưa bao giờ được nhận rõ ràng là vợ lẽ của cậu ấy. Nếu ông lớn và bà lớn cho mình về, mình cố chết ở lại, thì sợ người ta chê cười. Mình mà về thì nghĩ đến mối tình cậu Bảo đối với mình, thực là không nỡ!… Chị ta nghĩ đi nghĩ lại, càng thấy khó xử. Lại nhớ đến giấc mộng vừa rồi, hình như Bảo Ngọc vô duyên với mình, chẳng thà chết quách đi cho rảnh.
Không ngờ sau khi uống thuốc, chứng đau bụng đã bớt nhiều, nằm mãi cũng khó coi, đành phải miễn cưỡng dậy. Qua vài ngày nữa, chị ta dậy hầu hạ Bảo Thoa. Bảo Thoa tưởng nhớ Bảo Ngọc, cứ khóc thầm, than thân tuổi phận. Bảo Thoa biết mẹ đang định lo việc chuộc tội cho anh, cần chạy vạy nhiều, nên cũng phải lo liệu giúp mẹ.
Giả Chính rước linh cữu của Giả mẫu, Giả Dung đưa quan tài của Tần thị, Phượng Thư và Uyên Ương, về đến Kim Lăng an táng xong. Sau đó Giả Dung lại đưa quan tài của Đại Ngọc đi an táng. Giả Chính thì lo việc xây đắp phần mộ.
Một hôm Giả Chính tiếp được thư nhà, lần lượt đọc từng hàng, trước xem thấy Bảo Ngọc và Giả Lan thi đậu, trong bụng vui mừng, sau xem đến chỗ Bảo Ngọc lạc mất, thì lại lo buồn, đành phải trở về nhà gấp. Dọc đường, lại nghe có chỉ ân xá, rồi
lại tiếp được thư nhà nói Giả Xá đã được tha tội phục chức, lại càng vui vẻ, liền đi luôn cả ngày đêm.
Một hôm đi đến trạm Côn Lăng, trời rét, tuyết xuống, thuyền đậu ở chỗ vắng vẻ. Giả Chính sai người lên bộ, đưa danh thiếp đi từ tạ bầu bạn, nói thuyền sẽ đi ngay, không dám phiền ai đến thăm hỏi. Khi ấy đầu thuyền chỉ để lại một đứa nhỏ để hầu. Giả Chính ở trong thuyền viết thư, định cho người đi bộ đem về nhà trước. Khi viết đến việc Bảo Ngọc, liền dừng bút lại, ngẩng đầu lên, bỗng thấy đầu thuyền lờ mờ có dáng một người trong bóng tuyết, đầu trọc chân trần, mình khoác chiếc áo đi mưa bằng lông vượn màu đại hồng, ngoảnh vào Giả Chính và sụp xuống lạy. Giả Chính chưa nhìn được rõ, vội ra đầu thuyền, muốn đến đỡ dậy để hỏi. Người ấy lạy bốn lạy, rồi đứng dậy chào theo lối nhà Phật. Giả Chính còn muốn vái đáp, chợt nhìn thấy trước mặt mình không phải ai lạ mà chính là Bảo Ngọc. Giả Chính kinh ngạc vô cùng, vội hỏi
– Có phải Bảo Ngọc không?
Người ấy không nói gì, như mừng như tủi. Giả Chính lại hỏi
– Nếu mày là Bảo Ngọc, thì sao lại ăn mặc như thế mà đến chỗ này?
Bảo Ngọc chưa kịp trả lời, bỗng thấy một nhà sư, một đạo sĩ đến đầu thuyền. Hai người nắm tay Bảo Ngọc nói
– Tục duyên đã hết, không đi nhanh lên à?
Nói rồi, ba người vùn vụt lên bờ đi. Giả Chính không kể đất trơn, vội vàng chạy theo. Thấy ba người đi trước, nhưng không sao theo kịp. Chỉ nghe một người nào trong bọn họ hát
Chỗ ta ở chừ, đỉnh núi thanh u,
Chỗ ta chơi chừ, cõi không mịt mù;
Ai đi cùng ta chừ, ta đi theo với?
Mênh mông mù mịt chừ, về nơi Đại hoang!
Giả Chính chạy đuổi theo, đến một cồn đất nhỏ, bỗng không thấy nữa. Giả Chính thở dốc lên, trong lòng ngờ vực. Lúc quay lại thì thấy tên hầu nhỏ cũng chạy theo sau. Giả Chính hỏi
– Mày có trông thấy ba người vừa rồi không?
– Có trông thấy. Vì cháu thấy ông lớn chạy theo, nên cháu cũng chạy. Nhưng rốt cuộc chỉ thấy ông lớn, chứ không thấy ba người kia nữa.
Giả Chính còn muốn chạy theo, nhưng chỉ thấy một cánh đồng tuyết tùng mênh mông, không có người nào, Giả Chính lấy làm kỳ lạ, đành trở về. Bọn người nhà về thuyền, thấy Giả Chính không ở trong khoang, hỏi bọn chèo thuyền họ nói ông lớn đang lên bộ theo nhà sư và đạo sĩ..Bọn họ cũng theo dấu chân trên tuyết đi tìm, xa xa trông thấy Giả Chính trở về. Họ đến đón rồi cùng về thuyền. Giả Chính ngồi xuống, thở một lát, rồi kể qua một lượt về việc trông thấy Bảo Ngọc. Mọi người nói, nên đi kiếm quanh miền này.
Giả Chính thở dài
– Chúng mày không hiểu rõ! Đó là chính mắt ta trông thấy, chứ có phải ma quỷ gì đâu. Vả lại nghe tiếng ca, có vẻ rất huyền diệu? Bảo Ngọc khi sinh ra, ngậm viên ngọc.. cũng đã kỳ lạ. Ta vẫn biết trước là điềm không tốt, chỉ vì cụ bà thương yêu nó, nên mới nuôi nó đến ngày nay. Còn vị hòa thượng và vị đao sĩ ấy, ta đã gặp ba lần, lần thứ nhất hai người ấy đến nói về sự linh thiêng của viên ngọc; lần thứ hai, lúc Bảo Ngọc ốm nặng, vị hòa thượng đến, cầm viên ngọc tụng niệm một hồi, thì Bảo Ngọc lành ; lần thứ ba, ông ta đưa viên ngọc đến trả, ngồi ở nhà khách, ta vừa ngoảnh đi một cái, bỗng không thấy đâu. Trong bụng ta lấy làm lạ. Nhưng cho là Bảo Ngọc thực có phúc phận, nên các bậc cao tăng tiên đạo đến phù hộ cho nó. Ngờ đâu nó là người đổi kiếp xuống cõi trần. Rốt cục lừa dối cụ bà suốt mười chín năm, đến nay ta mới biết rõ!
Ông ta nói đến đấy, nước mắt ròng ròng. Mọi người thưa
– Cậu Bảo nếu quả là một vị hòa thượng xuống trần gian, thì không nên đậu cử nhân. Vì sao thi đậu rồi mới bỏ đi?
– Các người biết sao được? Phàm các tinh tú trên trời, các cao tăng trên núi, hay những tinh linh trong động, đều có một tánh tình riêng. Các ngươi thử xem Bảo Ngọc thường có chịu đọc sách đâu ; nhưng hễ nó để bụng đến thì không có cái gì là không làm được. Còn tính khí của nó cũng không giống người ta!
Ông ta nói xong, lại than thở. Người nhà liền đem việc Giả Lan thi đậu, nhà lại thịnh vượng, để khuyên giải. Giả Chính viết tiếp bức thư, nói luôn cả việc ấy, và khuyên người nhà không cần nhớ nhung nữa. Ông ta viết xong, niêm phong lại, rồi bảo người nhà mang về trước, còn mình sẽ về sau.
Sau khi nghe tin đại xá,Tiết phu nhân sai Tiết Khoa đi giật tạm các nơi. Lại bòn nhặt thêm của nhà cho đủ số bạc để chuộc tội. Bộ hình chuẩn y, thu đủ số bạc, rồi làm công văn, tha cho Tiết Bàn về. Mẹ con anh em chị em trong nhà lại được gặp
– Nếu con mắc lại tật xấu như trước, nhất định bị băm vằm.
Tiết phu nhân thấy thế, liền bịt miệng hắn lại, nói
– Chỉ cần con giữ chí cho vững là được, chứ mở miệng thề nguyền độc địa như thế làm gì? Riêng con Hương Lăng theo hầu con, đã chịu đựng biết bao nhiêu nỗi khổ. Vợ con thì chính tự nó làm hại đời nó. Nay trong nhà tuy túng thiếu, nhưng cũng còn có bát cơm ăn. Theo như ta nghĩ, thì ta coi Hương Lăng là con dâu rồi, không biết bụng con nghĩ sao.
Tiết Bàn gật đầu bằng lòng. Bọn Bảo Thoa cũng nói
– Thật đáng như thế.
Việc đó làm cho Hương Lăng đỏ ửng má, nói
– Đằng nào cũng là hầu hạ cậu cả, cần gì phải làm như thế?Người trong nhà liền gọi Hương Lăng là mợ cả, ai cũng mến phục.
Tiết Bàn liền đi lạy tạ bên phủ Giả. Tiết phu nhân và Bảo Thoa cũng theo sang. Khi gặp mọi người, hai bên đông đủ, lại cùng nhau chuyện trò một hồi.
Đang nói chuyện thì vừa lúc người nhà Giả Chính về đem trình bức thư và nói
– Ông lớn nay mai cũng về đấy.
Vương phu nhân bảo Giả Lan đọc thư. Giả Lan đọc đến đoạn Giả Chính đã trông thấy Bảo Ngọc, ai nghe cũng khóc. Vương phu nhân, Bảo Thoa và Tập nhân lại càng khóc nhiều. Mọi người lại nhắc lời Giả Chính dặn trong thư, “Bảo Ngọc chỉ là mượn bào thai giáng sinh. Trong nhà không cần phải thương nhớ.” Họ đem những câu ấy ra để khuyên giải, nếu làm quan mà gặp lúc vận mệnh không tốt, can phạm việc gì, đến nỗi tan nhà hại của, lại chẳng hay gì, thà rằng trong nhà mình có một vị Phật giáng sinh là hơn. Chỉ vì ông lớn bà lớn tích đức nên cậu ấy mới đầu thai vào nhà này. Không phải chúng tôi ăn nói không biết gìn trước giữ sau đâu. Lúc trước cụ bên phủ Đông cũng đã lu luyện đến mười mấy năm, mà vẫn không thành tiên được. Còn thành Phật thì lại càng khó nữa! Bà lớn nghĩ lại như thế, thì lòng sẽ nguôi nguôi.
Vương phu nhân khóc nói với Tiết phu nhân
– Bảo Ngọc bỏ tôi mà đi. Tôi còn giận nó đấy? Tôi lại phàn nàn cho con dâu xấu số, mới lấy nhau được một vài năm. Sao nó nỡ đành tâm bỏ ra đi được.
Tiết phu nhân nghe nói cũng thương tâm. Bảo Thoa khóc đến mê đi không biết gì cả. Khi đó bọn đàn ông đều ở nhà ngoài.
Vương phu nhân nói
– Suốt đời tôi cứ phải lo sợ về nó. Nó vừa mới lấy vợ, thi đậu cử nhân. Tôi lại biết con dâu đã có thai, mới hơi vui mừng một chút. Không ngờ lại kết thúc như thế! Nếu sớm biết vậy, thì không nên hỏi vợ cho nó, để khỏi làm hại đến con gái người ta!
Tiết phu nhân nói
– Điều đó đã có duyên phận nhất định. Khuôn phép nhà chúng ta đây còn nói gì khác nữa. May mà cháu nó đã có mang, sau sinh ra đứa cháu, chắc sẽ làm nên, thế là tốt phúc. Chị thử xem mợ cả kia. Cháu Lan đã đậu cử nhân, sang năm đậu tiến sĩ. Thế không phải sẽ làm quan sao? Mợ ấy trước kia đã chịu khổ, nay được sung sướng cũng là do mợ ấy đứng đắn tử tế. Con cháu nhà tôi, chị cũng đã biết, không phải là người khắt khe, nông nỗi, chị không cần phải lo nghĩ.
Vương phu nhân nghe Tiết phu nhân bàn giải một hồi, rất có lý, nghĩ bụng, “Bảo Thoa từ nhỏ đã có tính trầm tĩnh, ít hay ham muốn, rất thích giản dị mộc mạc, nên mới có việc như thế. Nghĩ lại người ta ở đời, đều do số mệnh định trước! Ta xem Bảo Thoa dù khóc lóc, cũng vẫn giữ nguyên được vẻ đoan trang, lại còn trở lại khuyên ngăn ta nữa. Điều đó thực là hiếm có! Không ngờ thằng Bảo Ngọc là người như thế, mà lại không được hưởng một chút phúc nào ở cõi trần.” Nghĩ một lúc, bà ta cũng thấy an tâm, rồi lại nghĩ đến phận Tập Nhân. “Nếu các a hoàn khác thì không có gì khó xử. Đứa lớn cho ra lấy chồng, đứa nhỏ cho ở lại hầu mợ Hai là được. Chỉ có Tập Nhân thì nên đối xử như thế nào đây?” Bấy giờ đông người bà ta chưa tiện nói, đành đợi đến tối bàn với Tiết phu nhân.
Hôm đó Tiết phu nhân cũng chưa về nhà, sợ Bảo Thoa khóc lóc nên ở lại trong nhà chị ta để khuyên giải. Bảo Thoa là người rất hiểu lẽ, biết suy trước nghĩ sau, “Bảo Ngọc là hạng người kỳ dị. Kiếp trước duyên xưa, đã sẵn như thế. Không thể oán trách ai được.” Bảo Thoa lại đem việc đạo lý ra nói một lượt. Mọi người đều yên lòng. Chị ta lại còn đem những câu đạo lý thưa lại với mẹ. Tiết phu nhân cũng được yên tâm, liền đến phòng Vương phu nhân, thuật lại những câu nói của Bảo Thoa. Vương phu nhân gật đầu than
– Nếu bảo là tôi không có đức, thì không đáng được người con dâu đứng đắn như thế.
Nói xong bà ta lại thấy đau lòng. Tiết phu nhân lại khuyên giải một lúc, rồi nhắc đến Tập Nhân, và nói
– Tôi thấy Tập Nhân gần đây gầy quá, vì nó một lòng tưởng nhớ cháu Bảo. Nếu là vợ chính, thì theo lẽ phải thủ tiết, vợ lẻ xin thủ tiết cũng có. Tập Nhân tuy được xem như một người vợ lẻ, nhưng đối với cháu Bảo, danh phận chưa có gì rõ ràng cả.
Vương phu nhân nói
– Tôi vừa nghĩ đến, đang muốn chờ dì để bàn định. Nếu cho về, sợ nó không thuận, lại đòi chết đòi sống ; muốn để nó ở lại cũng được, nhưng sợ ông lớn không nghe, cho nên việc này khó xử.
– Tôi xem chừng ông nhà cũng không muốn cho chị ta thủ tiết đâu. Vả chăng bác cũng chưa biết rõ việc Tập Nhân, cho rằng chẳng qua là một a hoàn. Lẽ nào lại ở lại? Chỉ cần chị gọi người nhà nó đến, dặn dò kỹ lưỡng, bảo tìm cho nó một nơi tử tế, lại cho nó khá nhiều lễ vật hồi môn. Con bé ấy cũng khá, lại còn trẻ. Thế cũng khỏi uổng công nó theo hầu chị bấy lâu, và như thế là chị đối đãi tử tế với nó rồi. Còn về phần Tập Nhân, tôi sẽ khuyên bảo nó cặn kẽ. Dù khi người nhà đến, cũng chưa cần cho nó biết trước. Đợi lúc người nhà nó đã bàn định xong nơi tử tế, chúng ta cũng còn phải dò la xem, nếu quả là một nhà đủ ăn đủ mặc, thằng chồng lại ra dáng người, thì sẽ cho nó về.
Vương phu nhân nghe vậy nói
– Dì nghĩ thế rất phải, nếu không thì ông lớn nhà tôi sẽ xử trí nông nỗi, thế chẳng phải là tôi lại làm hại một người nữa hay sao.
Tiết phu nhân nghe xong, gật đầu nói
– Thực đúng như vậy.
Lại nói chuyện vài câu rồi từ biệt Vương phu nhân trở về phòng Bảo Thoa.
Tiết phu nhân thấy Tập Nhân khóc sướt mướt, liền khuyên giải một hồi. Tập Nhân xưa nay vốn thực thà, đâu phải là người lanh mồm lém mép, nghe Tiết phu nhân nói một tiếng thì cô ta dạ một tiếng, rồi thưa
– Cháu là người bậc dưới, bà dì không xem thường cháu, mới nói với cháu những câu ấy. Lâu nay cháu không có việc gì dám làm trái ý bà.
Tiết phu nhân nghe cô ta nói, nghĩ thầm, “Thật là một con bé ngoan!” Trong bụng lại càng vui mừng.
Cách mấy ngày sau, Giả Chính về nhà, người nhà đều ra đón. Giả Chính thấy Giả Xá, Giả Trân đều đã về, anh em chú cháu gặp nhau, ai nấy cùng bày tỏ tình cảnh từ khi cách biệt. Sau đó đến lượt gia quyến vào chào. Nhắc đến Bảo Ngọc, mọi người đều thương xót. Giả Chính quát chặn đi và bảo
– Đó là lẽ nhất định! Từ nay ở bên ngoài chúng ta lo liệu việc nhà, ở bên trong các người cố sức giúp đỡ, nhất thiết không được bê trễ như trước nữa? Việc các phòng thì nhà nào lo việc nhà ấy, không cần phải đặt người coi chung. Còn việc nhà chúng ta đây, bên trong đều giao cho bà Cả, cứ nên theo lẽ phải mà làm.
Vương phu nhân lại thưa rõ việc Bảo Thoa đã có thai, và nói
– Rồi đây bọn a hoàn đều cho về cả.
Giả Chính nghe xong, giật đầu không nói gì.
Hôm sau Giả Chính vào triều xin các vị đại thần truyền bảo, và nói
– Đội ơn hoàng thượng, tôi rất là cảm kích. Nhưng vì chưa hết tang, thì cách tạ ơn nên như thế nào, xin các vị chỉ bảo cho.
Các triều thần hứa sẽ thay mặt tâu lên để đợi chỉ vua. Ơn vua rộng rãi, cho vào bệ kiến. Giả Chính vào triều tạ ơn xong, hoàng thượng lại ban xuống nhiều đạo chỉ, và hỏi đến việc Bảo Ngọc. Giả Chính cứ thực tâu lên. Hoàng thượng cho là lạ, bèn truyền chỉ, “văn chương của Bảo Ngọc trong sáng ly kỳ, chắc mẩm anh ta có tiên duyên kiếp trước nên mới như vậy. Nếu còn ở lại trong triều, thì có thể bổ dụng ; nhưng đã không dám nhận chức tước của thánh triều, thì ban thường cho đạo hiệu Văn diệu chân nhân.” Giả Chính lại gục đầu tạ ơn rồi lui.
Khi về đến nhà, Giả Liễn và Giả Trân ra đón. Ông ta kể lại một lượt những việc trong triều, mọi người đều vui vẻ. Giả Trân lại thưa
– Nhà cửa bên phủ Ninh đã thu xếp đâu vào đấy, rồi xin trình lại để dọn về ở. Còn am Lũng Thúy ở trong vườn, thì giao cho cô Tư làm nơi tu dưỡng.
Giả Chính không nói gì, hồi lâu mới dặn dò mấy câu về việc báo đáp ơn vua.
Giả Liễn lại nhân dịp thưa
– Việc hôn nhân của cháu Xảo, cha mẹ cháu đều bằng lòng gả cho nhà họ Chu.
Giả Chính hôm qua đã biết rõ đầu đuôi việc Xảo Thư liền nói
– Hai bác làm chủ là được rồi. Đừng bảo người ở thôn quê không tốt, miễn là người ta thanh bạch, thằng bé biết lo học hành, làm nên danh phận là được. Các quan trong triều đình, không lẽ đều là người thành thị cả sao?
Giả Liễn vâng dạ rồi lại thưa
– Cha cháu đã có tuổi. Vả lại có sẵn chứng đờm, cần phải tĩnh dưỡng ít năm, mọi việc nhờ chú làm chủ cho.
Giả Chính nói
– Nhắc đến việc về ở thôn quê tĩnh dưỡng, thì rất hợp ý ta, chỉ vì ta đội ơn vua rất nặng, chưa báo đáp được đấy thôi.
Giả Chính nói xong, vào nhà. Giả Liễn sai đi mời bà Lưu đến để nói về việc ấy.
Bà Lưu vào chào bọn Vương phu nhân, liền nói những chuyện sau này nào là được thăng quan, nào là nhà thịnh vượng, con cháu đông đúc… –
Đang nói chuyện thì a hoàn vào trình
– Vợ anh Hoa Tự Phương vào hầu.
Vương phu nhân hỏi mấy câu. Vợ Hoa Tự Phương liền kể lại việc người bà con làm mối Tập Nhân cho nhà họ Tưởng ở phía Nam ngoài thành. Anh ta có nhà, có đất, lại có cả cửa hiệu nữa. Người chồng có lớn hơn vài tuổi, nhưng chưa hề lấy vợ. Vả lại vẻ đẹp của anh ta thì thực trăm người khó lòng được một.
Vương phu nhân nghe cũng bằng lòng, bảo
– Cháu cứ về nhận lời đi, vài ngày nữa sẽ đến đây đón cô em cháu về.
Vương phu nhân lại sai người đi dò hỏi, họ đều nói thế.
Bà ta liền nói với Bảo Thoa, rồi lại nhờ Tiết phu nhân bảo riêng với Tập Nhân.
Tập Nhân khóc thương mãi, nhưng không dám trái lời, trong bụng nhớ lại năm nọ, sai khi Bảo Ngọc ra chơi nhà mình, chính mình đã nói dầu chết cũng không trở về nhà nữa, nay bà lớn đứng làm chủ, nếu mình ở vậy, thì sợ người ta bảo là không biết xấu hổ ; nếu bỏ ra về thì thực không đành lòng? Rồi cô ta nghẹn ngào khóc, không nói ra lời. Tiết phu nhân và Bảo Thoa lại cố khuyên giải, cô ta mới nghĩ lại
“nếu mình mà chết ở đây, lại làm uổng mất lòng tốt của bà lớn, mình phải về chết ở nhà mới được”. Tập Nhân bèn nuốt tủi vái chào mọi người. Khi các chị em chia tay, tất nhiên càng đau xót. Tập Nhân lên xe với tấm lòng quyết chết. Đến khi về chào anh chị, cũng cứ khóc lóc, không nói nên lời. Hoa Tự Phương liền đem những lễ cưới của nhà họ Tưởng và những món tư trang mới mua sắm cho cô ta xem, rồi bảo
– Vật này là bà lớn thưởng cho, vật là là ở nhà sắm lấy.
Tập Nhân càng khó nói. Ở nhà hai ngày, suy nghĩ lại, “anh mình xử sự cũng đúng, nếu mà chết ở trong nhà anh. Không phải là mình làm hại anh sao?” Tính trước nghĩ sau, đằng nào cũng khó. Thực là ruột rối như tơ vò, hầu như đứt đoạn, đành phải nín nhịn chịu vậy. Đến ngày rước dâu, Tập Nhân vốn không phải là tay gan dạ, nên cứ lủi thủi lên kiệu ra đi, trong bụng nghĩ, hãy sang bên kia rồi sẽ liệu. Không ngờ về đến nhà chồng, thấy họ Tưởng sắp đặt rất là chu đáo, việc gì cũng theo lề lối cưới vợ chính. Vừa mới vào nhà, thì đàn bà con gái hầu hạ đều gọi là “mợ”. Tập Nhân khi ấy muốn chết ở đó, nhưng lại sợ làm hại người ta, uổng mất tấm lòng họ đối xử tử tế với mình. Đêm ấy cũng vẫn cứ khóc, không chịu thuận theo. Người chồng lại tỏ ra dịu dàng, chiù theo ý chị ta.
Đến ngày thứ hai, Tập Nhân mở rương ra, người chồng trông thấy cái thắt lưng màu đỏ, mới biết chị ta là a hoàn của Bảo Ngọc 2. Nguyên trước đây người chồng chỉ nghe nói cô dâu là người hầu của Giả mẫu, cũng không ngờ người ấy là Tập Nhân. Khi đó Tưởng Ngọc Hàm nhớ đến mối ơn của Bảo Ngọc đối với mình. Cảm thấy rất là hổ thẹn, nên càng âu yếm ; rồi cả ý đưa ra cái thắt lưng màu xanh hoa thông mà Bảo Ngọc đã đổi cho mình. Tập Nhân nhìn thấy, biết anh chàng họ Tưởng này chính là Tưởng Ngọc Hàm, mới tin rằng nhân duyên của mình đã định từ trước. Chị ta mới bày tỏ hết tâm sự của mình. Tưởng Ngọc Hàm cũng than thở kính phục, không dám cưỡng ép, lại càng tỏ ra dịu dàng thể tất, làm cho Tập Nhân muốn chết cũng không chết được nữa.
Bạn đọc, việc đời tuy có tiền định, không biết làm thế nào ; nhưng những kẻ con hiếu, tôi trung, chồng nghĩa, vợ tiết, không phải ai cũng đổ vì ba chữ “bất đắc dĩ” được cả. Vì vậy Tập Nhân mới ở trong “Hựu phó sách”. Đó chính như câu thơ người đời xưa khi đi qua Đào hoa miếu đã nói
Khó nhất trên đời là cái chết.
Thương tâm đâu chỉ Tức phu nhân 3
Tập Nhân từ đó lại ở trong một cảnh ngộ khác, không cần nhắc đến nữa.
Giả Vũ Thôn trước đây can án tham lam, yêu sách, đã xét rõ và định tội. Nay gặp lúc đại xá, được tha về làm thường dân. Vũ Thôn cho gia quyến đi trước, mình chỉ đem theo một tên hầu nhỏ và một xe đồ đạc. Đi đến cửa sông Giác Mê ở bến Cấp Lưu, vừa gặp một đạo sĩ từ trong lều cỏ bên bến đi ra, chắp tay chào.
Vũ Thôn nhận ra người ấy là Chân Sĩ ẩn, vội vàng chào lại, Sĩ ẩn nói
– Giả tiên sinh, từ khi chia tay, vẫn mạnh khỏe chứ?
– Té ra lão tiên ông đây là Chân lão tiên sinh, sau lần trước gặp nhau ngài lại tránh mặt không nhận tôi? Sau nghe nói gian nhà cỏ bị cháy, tôi rất sợ hãi. Hôm nay may được gặp, càng thấy lão tiên ông là người đạo cao đức lớn. Chỉ vì kẻ quê hèn này là người hết sức ngu độn, không sửa đổi được chút nào, nên mới đến nông nỗi này!
– Khi trước người còn quan cao chức trọng, bần đạo đâu dám nhìn nhận? Vì là chỗ bạn cũ, nên bần đạo mới dám tặng vài lời. Không ngờ ngài lại bỏ quên bần đạo! Nhưng mà mọi việc giàu sang may rủi, không phải là ngẫu nhiên. Hôm nay chúng ta lại được gặp nhau, thực là một chuyện lạ? Ở đây cũng gần lều cỏ xin mời ngài vào lều nói chuyện một lát, không biết ý ngài thế nào?
Giả Vũ Thôn vui vẻ nhận lời. Hai người dắt tay nhau đi. Tên hầu nhỏ đẩy xe theo sau. Đến một gian nhà tranh, Sĩ ẩn mời vào. Vũ Thôn ngồi xuống. Tiểu đồng bưng trà lên. Vũ Thôn hỏi về việc tiên ông siêu thoát ra ngoài cõi trần như thế nào.
Sĩ ẩn cười bảo
– Chỉ trong ý nghĩ khác nhau là cõi trần đổi hẳn. Lão tiên sinh sống cảnh phồn hoa, có biết trong chốn giàu sang êm ấm có anh chàng Bảo Ngọc hay không?
– Sao lại không biết? Gần đây nghe tiếng đồn đại lung tung, bảo rằng anh ta cũng đã đem thân vào cửa Phật. Kẻ ngu muội này lúc trước cũng có gặp anh ta vài lần, nhưng không ngờ con người ấy mà lại kiên quyết từ bỏ được như thế.
– Không phải như vậy! Cái căn duyên lạ lùng ấy, tôi đã biết trước. Năm xưa khi tôi cùng tiên sinh trò chuyện trước cửa ngôi nhà cũ trong ngõ Nhân Thanh, tôi đã gặp anh ta một lần.
Vũ Thôn lạ lùng hỏi
– Kinh thành cách quí quán rất xa, sao lại gặp anh ấy được?
– Chúng tôi giao du với nhau trên tinh thần đã lâu.
– Đã vậy thì hiện nay Bảo Ngọc ở đâu, chắc tiên ông biết rõ?
Bảo Ngọc tức là viên bảo ngọc. Năm nọ, trước khi phủ Vinh và phủ Ninh bị khám xét. Bảo thoa và Đại Ngọc xa cách nhau, viên ngọc ấy đã ra khỏi cõi đời, một là để tránh khỏi tai vạ, hai là để nên đôi vợ chồng. Từ đó duyên nợ xong xuôi, hình và chất nhập lại làm một. Viên ngọc lại tỏ rõ linh thiêng, đậu cao, con quí, thế mới rõ đó là trời đất rèn đúc ra, khác hẳn mọi vật ở giữa trần gian. Trước kia Mang Mang đạo sĩ và Diễu Diễu chân nhân đem nó xuống cõi trần, đến nay duyên nợ đã hết, lại do hai vị ấy đem nó về chỗ cũ. Đó là nơi qui kết của Bảo Ngọc.
Vũ Thôn nghe xong, tuy không biết rõ hết cả, nhưng mười phần cũng hiểu được bốn năm, liền gật đầu than
– Thế mà kẻ ngu dốt này không hiểu! Nhưng tôi muốn xin tiên ông chỉ giáo cho điều này
Bảo Ngọc đã có lai lịch, tại sao lại còn mê mẩn vì tình? Rồi lại ngộ đạo mau mắn như thế?
Sĩ ẩn cười
– Việc này nói ra chưa chắc tiên sinh đã hiểu hết. Cõi Thái- hư ảo cảnh, tức là cõi phúc “chân như”. Bảo Ngọc đã hai lần mở cửa sổ vận mệnh ra xem, những việc nguyên do từ trước đến sao đều thấy rành rành, thì làm gì mà không ngộ đạo? Cây
giáng tiên đã về tiên giới, lẽ nào ngọc “thông linh” chẳng trở lại chốn xưa?
Vũ Thôn nghe xong, vẫn không hiểu rõ, nhưng biết đó là việc tiên cơ, không tiện hỏi thêm, rồi lại nói
– Về việc Bảo Ngọc, tôi đã được tiên ông dạy cho biết rồi. Nhưng còn con gái khuê các trong họ tôi nhiều đến thế, mà sao từ Nguyên phi trở xuống, người nào kết cục cũng chỉ bình thường thôi?
Sĩ ẩn than thở
– Lời nói của tôi, xin tiên sinh đừng lấy làm lạ, con gái trong họ ngài đều từ trong trời tình hiển khổ mà ra. Xưa nay con gái cố nhiên không thể mắc vào chữ “dâm”, mà cũng không được vấn vương đến chữ “tình”! Cho nên Thôi Oanh, Tô tiểu muội, chẳng qua là tiên nữ vướng lòng trần ; Tống ngọc, Tương Như, đều hạng văn nhân mang vạ miệng. Những kẻ đã trót dan díu đến chữ tình, kết cục sẽ không đáng nói đến nữa?
Vũ Thôn nghe đến đó, bất giác vuốt râu thở dài, rồi lại nói
– Xin hỏi tiên ông ; hai phủ Vinh, Ninh còn có thể trở lại thịnh vượng như trước không?
– Ở lành gặp phúc, dâm dục mang tai, xưa nay đã có lẽ nhất định. Hiện nay trong hai phủ Vinh và Ninh, người thiện tu phúc, người ác ăn năn tội lỗi. Sau này lan quế đua thơm, nghiệp nhà trở lại như trước, cũng là lẽ tất nhiên vậy.
Vũ Thôn gục đầu hồi lâu, rồi bỗng cười
– Phải rồi, phải rồi? Hiện nay trong phủ Giả có một anh tên là Lan đã đậu cử nhân, chính là ứng vào chữ “lan”. Vừa rồi tiên ông có nói “lan quế đua thơm”, lại nói Bảo Ngọc đậu thủ khoa và sinh quí tử”, có lẽ anh ta còn có đứa con trong thai, sau
này có thể phát đạt lên to chăng?
Sĩ ẩn mỉm cười nói
– Đó là việc về sau, không tiện nói trước.
Vũ Thôn còn muốn hỏi nữa, nhưng Sĩ ấn không đáp, rồi bảo người dọn cỗ mời Vũ Thôn cùng ăn, ăn xong, Vũ Thôn còn muốn hỏi việc chung thân của mình. Sĩ ẩn nói
– Lão tiên sinh hãy nghỉ tạm trong lều cỏ này. Tôi còn mắc mối trần duyên, hôm nay phải gỡ cho hết.
Vũ Thôn lấy làm lạ hỏi
– Tiên ông tu hành như thế, không biết vì sao lại còn mắc mối trần duyên?
– Thì cũng chẳng qua là chút tình riêng con cái mà thôi.
Vũ Thôn nghe nói, lại càng lấy làm lạ
– Xin tiên ông cho biết vì sao lại có câu nói ấy?
– Tiên sinh chưa biết rõ, con gái tôi là Anh Liên. Hồi con nhỏ gặp phải kiếp xấu. Khi tiên sinh mới ra làm quan, đã từng xử việc này. Nay nó lấy anh chàng họ Tiết, gặp lúc sinh đẻ khó, nên đã thoát kiếp, sinh được một đứa cháu cho nhà họ Tiết để nối dõi. Chính bây giờ là lúc nó trút hết nợ trần. Tôi phải đưa nó đi.
Ông ta nói xong, liền vẫy ống tay áo đứng dậy.
Vũ Thôn trong bụng mơ mơ màng màng, rồi nằm ngủ luôn trong lều cỏ ở cửa sông Giác Mê nơi bến Cấp Lưu. Sĩ ẩn độ thoát cho Hương Lăng, rồi đưa chị ta đến Thái
Hư ảo cảnh, giao cho nàng tiên Cảnh ảo để ghi sổ. Khi ông ta vừa đi qua một cái nhà bia, thì thấy một hòa thượng và một đạo sĩ thoăn thoắt bước tới, Sĩ ẩn đón lại hỏi
– Thưa hai vị chân nhân. Đáng mừng! Đáng mừng! Những mối tình duyên kết liễu đã giao lại xong xuôi chưa?
Hai vị ấy nói
– Tình duyên vẫn chưa xong, nhưng cái vật xuẩn ngốc ấy thì đã trở về rồi. Còn phải đưa nó về chỗ cũ, rồi ghi rõ những việc sau này của nó để không uổng công nó đã xuống cõi trần mấy lâu.
Sĩ ẩn nghe xong, vái chào tạm biệt Hòa thượng là đạo sĩ lại mang ngọc đến dưới núi Thanh Ngạnh, đặt viên bảo ngọc ấy ở chỗ Nữ Oa luyện đá vá trời, rồi đều vân du. Từ đó về sau
Sách ngoài trời chép chuyện ngoài trời,
Người hai kiếp làm người một kiếp.
Một hôm, Không Không đạo nhân lại đi qua núi Thanh Ngạnh, trông thấy viên đá chưa dùng “vá trời” hãy còn ở đó, trên mặt nét chữ vẫn nguyên như cũ, liền xem lại một lượt từ đầu đến cuối thấy sau bài kệ lại ghi chép nhiều chuyện “duyên nợ đã trải qua ở dưới trần”, liền gật đầu than
– Trước kia ta thấy đoạn văn lạ lùng của Thạch huynh, nghĩ rằng có thể đem làm chuyện lạ cho đời, nên ta sao chép lại, nhưng chưa thấy ghi rõ việc trở lại gốc cũ, không biết câu chuyện hay ho này được thêm vào lúc nào? Thế mới biết Thạch
huynh xuống trần một lần, đã tỏa ra chất sáng lóa, rồi lại tu hành trọn đạo, cũng có thể nói là không còn ân hận gì nữa? Chỉ sợ sau này ngày tháng trôi qua, nét chữ mờ đi không rõ, lại có sự gì sai lầm chăng. Chi bằng ta sao chép lại một lần nữa, rồi tìm một người thanh nhàn vô sự ở trên đời, nhờ họ truyền khắp, để cho người đời biết việc này lạ không ra lạ, tục không ra tục, thật không ra thật, giả không ra giả. Hoặc giả
“Cõi trần lật đật giấc mơ, đành phải mượn chim gọi lại. Thần núi say sưa mến khách từ nơi hóa đá bay về, cũng chưa biết chừng?”
Đạo nhân nghĩ xong, liền sao chép lại, rồi mang đến những nơi phồn hoa thịnh vượng tìm hỏi một lượt. Nhưng trong các chỗ ấy, nếu không phải là những kẻ tính toán lập công lập nghiệp thì lại là hạng người chạy vạy lo áo kiếm cơm, có ai rảnh
rỗi đâu mà đi nói chuyện với viên đá? Đạo nhân tìm mãi đến trong gian lều cỏ ở cửa sông Giác Mê nơi bến Cấp Lưu, thấy một người nằm ngủ. Chắc hắn ta là người rảnh rỗi, đạo nhân định đem chuyện Thạch đầu ký đã sao chép được cho hắn xem. Nào ngờ gọi mãi người ấy không tỉnh. Đạo nhân cố sức kéo. Hắn mới từ từ mở mắt ngồi dậy, rồi cầm lấy truyện ấy xem qua, lại đặt xuống nói
“Việc này tôi đã trông thấy và đã biết hết, bản sao chép của đạo nhân cũng không sai. Tôi xin chỉ cho đạo nhân một người, rồi nhờ người ấy truyền ra, thì có thể kết thúc được cái án mới mẻ này.”
Không Không đạo nhân vội hỏi là người nào. Người ấy nói
– Đạo nhân phải đợi cho đến năm nọ, tháng nọ, ngày nọ, đi đến một chỗ gọi là hiên Điệu Hồng, sẽ thấy ở đó có ông Tào Tuyết Cần, và bảo rằng
“Giả Vũ Thôn nói nhờ ông ta như thế như thế.”
Người trong lều nói xong, lại nằm xuống ngủ.
Không Không đạo nhân ghi nhớ kỹ những lời nói ấy. Sau đó không biết trải qua mấy đời mấy kiếp, quả thấy có hiên Điệu Hồng, và Tào Tuyết Cần đang ở đấy giở xem những sách cổ sử xưa nay. Không Không đạo nhân liền thuật lại câu nói của Giả Vũ Thôn rồi đem truyện Thạch đầu ký ra. Tào Tuyết Cần cười bảo
– Quả thực là Giả Vũ Thôn nói rồi! [4]
Không Không đạo nhân liền hỏi
– Tiên sinh vì sao biết được người ấy, mà chịu truyền thuật truyện này thay cho ông ta?
Tào Tuyết Cần cười nói
– Người ta gọi ngài là Không Không, quả nhiên trong bụng không có gì cả! Truyện này toàn là câu chuyện thêu dệt, thì cất sao khỏi những chỗ sai lầm, mâu thuẫn, chỉ để khi cơm no rượu say, đêm mưa đèn sáng, sẽ cùng mấy người chung chí hướng đọc với nhau, làm tiêu tan những nỗi hiu quạnh là được. Chứ cần gì phải có những bậc đại nhân bình phẩm và truyền khắp trên đời. Còn như ngài muốn dò xét từ ngành ngọn thì thật hết sức câu nệ. Chẳng khác “vạch vào thuyền để tìm gươm, gắn phím để gãy đàn vậy? “
Không Không đạo nhân nghe xong, ngửa mặt lên trời cười to rồi vứt bản sao lại, vùn vụt ra đi, vừa đi vừa nói
– Té ra toàn là chuyện bày đặt viễn vông cả? Không những người làm không biết, người chép không biết, mà cả người đọc cũng không biết nữa. Chẳng qua chỉ là thứ văn chương du ký, để cho thích thú tính tình mà thôi.
Nhưng ráng chiếu cố một đoạn nữa, vì những câu thơ ghi nhớ sẽ hiểu rõ hơn.
Người đời sau thấy bản truyền kỳ này, cũng đã viết bốn câu kệ, để bổ sung vào những lời nói từ đầu của tác giả.
Nói đến nỗi chua cay,
Hoang đường lại buồn thay.
Xưa nay đều cảnh mộng,
Chớ bảo người đời ngây.
[1] Ý nói theo lệ lương tháng của bọn vợ lẻ, mỗi tháng hai lạng.
[2] Việc Tưởng Ngọc Hàm tặng thắt lưng cho Bảo Ngọc và Bảo Ngọc đưa
thắt lưng ấy cho Tập Nhân, xin xem lại hồi thứ 28
[3] Sở Văn Vương lánh nạn, vợ vua nước Tần, Tức phu nhân bị bắt về làm thiếp, sinh được hai con. Sở Văn Vương hỏi phu nhân, sao vẫn không chịu nói năng gì. Phu nhân nói ” Tôi là một người đàn bà đã phải lấy hai lần chồng, chỉ còn khác một cái chết, có gì đáng nói nữa?” Đời sau tôn là Đào Hoa phu nhân, lập miếu thờ phụng.
[4] Cũng như chú thích ở hồi một. Chữ ” Giá ngữ thôn ngôn ” (nói bịa) với “Giá Vú Thôn ngôn” (Giá Vũ Thôn nói) đọc giống nhau. Tác giả lấy chữ “Giả Vũ Thôn ngôn” thay cho “Giá ngữ thôn ngôn”, chữ nọ đánh ra chữ kia.