Chương 38: Lâm Tiêu Tương đứng đầu những thơ ngâm cúc – Tiết Hành Vu mỉa đời trong bài vịnh cua

Lâm Tiêu Tương đứng đầu những thơ ngâm cúc

Tiết Hành Vu mỉa đời trong bài vịnh cua

Bảo Thoa và Tương Vân bàn nhau xong. Hôm sau Tương Vân đến mời Giả mẫu sang thưởng hoa quế. Bọn Giả mẫu đều nói: “Nó đã thích như vậy, chúng ta cũng nên sang quấy cho vui”. Đến trưa, Giả mẫu dẫn Vương phu nhân, Phượng Thư và mời cả Tiết phu nhân sang bên vườn.

Giả mẫu hỏi:

– Ngồi chỗ nào đây?

Vương phu nhân nói:

– Người thích chỗ nào thì ngồi chỗ ấy.

Phượng Thư nói:

– Đã bày sẵn ở Ngẫu Hương tạ rồi. Ở đấy có hai cây quế, hoa nở rất đẹp, nước sông lại trong biếc, ngồi trên nhà thủy tạ chẳng sáng sủa hay sao? Nhìn mặt nước, mắt càng sáng ra.

Giả mẫu nói: “Tốt đấy”. Liền dẫn mọi người đến Ngẫu Hương tạ. Ngẫu Hương tạ làm ở giữa hồ, bốn mặt có cửa sổ, hai bên có hành lang từ ngoài vào bờ, có cầu quanh cọ Khi mọi người đi qua cầu tre, Phượng Thư vội đỡ Giả mẫu và nói:

– Xin bà cứ bước bạo lên, không việc gì đâu, cầu tre thì cứ kẽo kẹt như thế đấy.

Một lúc vào đến trong nhà, trông thấy hai cái án bằng tre, đặt ở ngoài hiên: một cái bày bát đũa, đồ đùng uống rượu, một cái bày khay trà, đồ trà và các thứ đĩa chén. Bên này có mấy a hoàn đương quạt lò hâm rượự Giả mẫu cười nói:

– Ở đây cái gì cũng sạch sẽ cả, trà uống chắc ngon.

Tương Vân cười nói:

– Đó là chị Bảo cháu xếp đặt hộ cả đấy.

– Con bé ấy rất chu tất, việc gì cũng nghĩ đâu vào đấy cả.

Vừa nói Giả mẫu vừa nhìn lên trên cột, thấy đôi câu đối khảm xà cừ sơn đen, liền bảo Tương Vân đọc:

Sen ấu hương thơm xông nhịp trúc;

Phù dung bóng ngả dọi chèo lan.

Giả mẫu nghe xong, ngẩng lên nhìn cái biển, rồi quay lại bảo Tiết phu nhân:

– Ta lúc bé ở nhà cũng có một cái thủy tạ như thế này, gọi là Chẩm Hà các. Khi ấy ta cũng bằng trạc tuổi các chị em nó bây giờ, ngày nào ta cũng dắt mấy người đến đây chơi. Một hôm trượt chân ngã xuống hồ, suýt chết đuối, may vớt lên được, nhưng bị một cái đanh đâm thủng đầu: bây giờ hãy còn một lỗ thủng to bằng đầu ngón tay ở trên mái tóc. Lúc ấy ai cũng bảo đã bị ngâm nước và gió lạnh thì nguy to, nhưng rồi cũng chẳng việc gì.

Phượng Thư cười nói:

– Nếu lúc bấy giờ bà không sống được, thì bây giờ ai hưởng cái phúc tầy đình này chỏ Thế mới biết ngay từ bé phúc bà cũng đã to rồi. Quỷ thần xui khiến, cho bà một cái lỗ thủng để chứa phúc thọ đấy! Trên đầu đức lão thọ tinh cũng có cái lỗ thủng, là vì chứa nhiều phúc thọ quá, nên mới lồi ra thế!

Giả mẫu và mọi người đều cười rũ rượi. Giả mẫu nói:

– Con khỉ nảy nói nhảm quen mồm, mày cứ đem ta ra làm trò cười! Tức quá, ta phải tát cho mày vỡ mồm ra mới được!

Phượng Thư nói:

– Chốc nữa ăn cua, sợ lạnh chăng, nên làm trò cho bà cười nhiều, để người nóng lên, có ăn thêm mấy con nữa cũng chả việc gì.

Giả mẫu cười nói:

– Từ giờ trở đi, bắt mày ngày đêm theo ta, không được về nhà để mày làm cho người ta cười luôn mới được.

Vương phu nhân cười nói:

– Vì bà nuông nó quá, nên nó hỗn quen đi. Bây giờ bà lại nói thế, sau này nó còn coi ai ra gì nữa.

Giả mẫu cười nói:

– Ta lại thích nó như thế. Vả chăng, nó không phải là đứa không biết tôn ti trật tự, thì những lúc ở trong nhà, không có người lạ, bà cháu mẹ con cũng nên cười nói cho vui, miễn là biết giữ lễ phép, việc gì phải bắt chúng nó cứ len lét như sợ quỷ thần ấy?

Mọi người vào cả trong hiên uống nước, Phượng Thư vội đi bày đũa bát. Bàn trên có Giả mẫu, Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc, Bảo Ngọc. Bàn bên đông: Tương Vân, Vương phu nhân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân. Cái bàn nhỏ để ở cạnh phía tây là chỗ ngồi của Lý Hoàn và Phượng Thư nhưng cả hai đều không dám ngồi, chỉ đứng bên cạnh bàn Giả mẫu và bàn Vương phu nhân. Phượng Thư nói:

– Cua không được mang nhiều lên, cứ để nguyên cả trong cái nồi nước nóng, chỉ mang lên mười con, ăn hết lại lấy.

Rồi đi rửa tay, đứng trước mặt Giả mẫu gỡ cuạ Lượt đầu mời Tiết phu nhân. Tiết phu nhân bảo:

– Để tôi gỡ lấy ăn thì ngon hơn, không cần ai mời.

Phượng Thư lại đưa cho Giả mẫu, rồi đưa đến Bảo Ngọc, lại bảo hâm rượn mang lên. Sau sai bọn hầu nhỏ sắp sẵn nước đậu xanh đun với hoa cúc và nhị quế để rửa tay.

Tương Vân ngồi tiếp khách, chỉ ăn một miếng rồi đứng dậy đi mời mọi người; lại ra ngoài sai người mang hai khay cua đưa cho dì Triệu và dì Chụ Lại thấy Phượng chạy đến bảo:

– Cô tiếp không quen, cứ đi ăn đi, để tôi hộ cho, xong rồi tôi sẽ ăn.

Tương Vân không nghe, sai người bày hai mâm rượu ở bên hành lang, mời Uyên Ương, Hổ Phách, Thái Hà, Thái Vân, Bình Nhi ngồi ăn. Uyên Ương nói:

– Mợ Hai phải đứng hầu đấy, chúng tôi ăn trước sao được?

Phượng Thư nói:

– Các em cứ ăn đi, việc gì đã có ta cáng đáng hết.

Sau đó Tương Vân lại vào chỗ ngồi.

Phượng Thư và Lý Hoàn đều ăn vài miếng qua loa. Phượng Thư lại ra thù tiếp như trước. Một lát, ra ngoài hiên. Bọn Uyên Ương đang ăn uống vui vẻ, thấy Phượng Thư đến, đều đứng dậy nói:

– Mợ lại đến đây làm gì? Để cho chúng tôi được ăn thỏa thích một lúc nào.

Phượng Thư cười nói:

– Con Uyên Ương tệ thật. Tao hầu thay mày, mày chẳng biết cảm ơn, lại còn oán tao à! Hãy rót một ly rượu cho tao uống đã.

Uyên Ương rót một ly rượu đưa lên mồm Phượng Thự Phượng Thư ngẩng cổ uống một hớp hết ngaỵ Hổ Phách và Thái Hà lại mỗi người rót một chén nữa đưa đến, Phượng Thư cũng uống hết. Bình Nhi gỡ sẵn một con cua đưa đến. Phượng Thư nói:

– Đổ thêm tý giấm gừng.

Ăn xong, Phượng Thư cười nói:

– Thôi chúng bay cứ việc ăn đi nhé, tao đi đây.

Uyên Ương cười nói:

– Không biết xấu! Ăn cả phần của chúng tôi.

Phượng Thư cười nói:

– Mày đừng có gây chuyện với tao nữa! Mày biết cậu Liễn đã yêu mày, sắp sửa xin nói với cụ cho mày làm vợ hai đấy!

Uyên Ương đỏ mặt lên, bĩu môi lắc đầu nói:

– Ái chà! Làm mợ mà cũng nói nhưng câu ấy à! Tôi không lấy cái tay tanh này bôi lên mặt mợ thì không chịu.

Nói xong, Uyên ương chạy đến chực bôi. Phượng Thư nói:

– Chị Ơi, tha cho tôi lần này.

Hổ Phách cười nói: Dù con Uyên Ương có muốn chăng nữa, nhưng khi nào con Bình lại chịu buông thạ Các chị xem đấy, chưa ăn hết hai con cua, nó đã húp hết một bát giấm rồi!

Bình Nhi tay đang gỡ cua, thấy Hổ Phách chế giễu mình, liền cầm con cua định trát vào mặt Hổ Phách, vừa cười vừa chửi:

– Tao sẽ lôi lưỡi con ranh này ra…

Hổ Phách cũng cười, rồi tránh ra một bên. Bình Nhi vồ không trúng, đâm nhào về phía trước, trát ngay lên mặt Phượng Thự Phượng Thư đương đùa với Uyên Ương, bất thình lình giật nẩy mình kêu lên một tiếng “Ái chà”. Mọi người không nhịn được, đều cười rộ lên. Phượng Thư vừa cười, vừa mắng:

– Con đĩ chết đâm này. Ăn lắm mờ mắt. Mày trát vào con mẹ mày à?

Bình Nhi vội chạy đến lau cho Phượng Thư, rồi đi bưng nước đến rửa. Uyên Ương nói:

– A di đà phật! Thực là quả báo trước mắt.

Giả mẫu ở bên trong nghe thấy, hỏi dồn:

– Cái gì đấy? Sao mà vui thế? Nói lên để chúng ta cười với.

Bọn Uyên Ương lại nói to:

– Mợ Hai đến ăn cướp cua, Bình Nhi tức quá, trát đầy gạch cua vào mặt chủ nó, thành ra chủ nhà và đầy tớ đánh nhau.

Giả mẫu và bọn Vương phu nhân đều cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:

– Chúng bay xem nó cũng đáng thương. Chân cua, yếm cua đâu, đem cho nó ăn một ít.

Bọn Uyên Ương cười nói to

– Chân cua đầy một bàn đấy. Mợ Hai cứ việc ăn cho chán đi.

Phượng Thư cười, đi rửa mặt xong lại đến hầu Giả mẫu.

Đại Ngọc không dám ăn nhiều, chỉ ăn một tý thịt cua đứng dậy đi ra chỗ khác. Giả mẫu cũng không ăn nữa.

Mọi người đều đi rửa tay, rồi người đi xem hoa, người đi xem cá, chơi đùa một lúc, Vương phu nhân nói với Giả mẫu:

– Chỗ này gió to, lại mới ăn cua xong, mời cụ về nhà nghỉ, nếu còn cao hứng, ngày mai lại đến.

Giả mẫu cười nói:

– Phải ấy. Các người đương cao hứng, một mình ta về, sợ mất vui. Đã thế chúng ta cùng về cả.

Giả mẫu quay lại dặn bọn Tương Vân không nên mời Bảo Ngọc, Đại Ngọc ăn nhiều quá. Tương Vân vâng lời. Giả mẫu lai dặn Tương Vân và Bảo Thoa:

– Hai cháu cũng đừng nên ăn nhiều. Cái này ngon thực, nlưng ăn nhiều không tốt đâu, sẽ đau bụng đấy.

Hai người xin vâng, tiễn chân Giả mẫu ra ngoài vườn rồi lại trở vào, bảo bày lại bàn ăn. Bảo Ngọc nói:

– Không cần bày nữa, chúng ta hãy đi làm thơ, cứ để một cái bàn to ở giữa, đem bày tất cả rượu và món ăn ra đấy, không phải xếp đặt chỗ ngồi, ai thích ăn gì đến đấy mà ăn, rồi lại đi ra ngồi chỗ khác, như thế chẳng tiện hay sao?

Bảo Thoa nói:

– Phải đấy.

Tương Vân nói:

– Còn có những người khác nữa kia mà. Liền sai bày một bàn, chọn những cua nóng, mời bọn Tập Nhân, Thị Thư, Nhập Họa, Oanh Nhi và Thúy Mặc đến ăn. Lại giải hai chiếc chiếu hoa ở dưới cây quế cạnh sườn núi, mời bọn bà già và a hoàn nhỏ đến ngồi, tùy ý ăn uống, khi nào gọi sẽ đến.

Tương Vân mang đầu bài thơ ra, lấy kim gài lên tường, mọi người xem đều khen:

– Mới lạ đấy, chỉ sự khó, không chắc đã làm nổi!

Tương Vân lại nói:

– Không việc hạn vần.

Bảo Ngọc nói:

– Thế mới đúng. Tôi cũng không thích hạn vần.

Đại Ngọc vì không uống được nhiều rượu, lại không ăn cua, sai người mang cái đèn có đệm gấm đến ngồi tựa ở bao lan, buông cần câu cá.

Bảo Thoa tay cầm cành hoa quế, ngắm nghía một lúc, rồi nghiêng người ra ngoài cửa sổ, bứt những nhị quế thả xuống mặt nước để cho cá đến đớp.

Tương Vân thì ngẩn người ra một lúc rồi đi mời bọn Tập Nhân, và bảo bọn người ngồi ở sườn núi cứ việc ăn uống cho thỏa thích.

Thám Xuân, Lý Hoàn và Tích Xuân ngồi dưới cây liễu xem le cò.

Nghênh Xuân ngồi một mình ở dưới bóng hoa, lấy kim châm hoa mạt ly.

Bảo Ngọc lúc xem Đại Ngọc câu cá, lúc ngoảnh sang cạnh Bảo Thoa cười nói mấy câu; sau lại đến xem bọn Tập Nhân ăn cua, rồi cũng ngồi tiếp và uống vài ngụm rượu. Tập Nhân lại bóc thịt cua cho Bảo Ngọc ăn.

Đại Ngọc bỏ cần câu xuống, đi đến bàn ăn, cầm lấy cái nậm nhỏ bằng bạc chạm hoa mai, chọn một cái chén nhỏ bằng đá hồng, vẽ hình tàu chuối. A hoàn thấy thế, biết là cô ta muốn uống rượu, vội chạy lại rót. Đại Ngọc nói:

– Các chị cứ việc ăn đi, để tôi tự rót lấy uống mới thú.

Đại Ngọc rót nửa chén, nhưng thấy rượu vàng, liền nói:

– Tôi mới ăn một tý thịt cua, bụng đã thấy hơi đau, nếu được uống thứ rượu hâm nóng uống ngay thì tốt.

Bảo Ngọc liền nói:

– Có rượu nóng đây.

Rồi sai người mang ngay cái nậm rượu nóng ngâm bằng hoa hợp hoan đến.

Đại Ngọc uống một ngụm rồi bỏ xuống, Bảo Thoa cũng chạy đến, cầm ly rượu, uống một tợp, rồi nhúng bút đến cạnh tường ngoặc một cái dưới đầu bài thứ nhất là ức cúc, ở dưới viết thêm chữ: Hành.

Bảo Ngọc vội nói:

– Chị Ơi! Bài thứ hai tôi đã nghĩ được bốn câu rồi, để phần tôi làm nhé!

Bảo Thoa cười nói:

– Tôi chưa chắc đã làm nổi một bài anh làm gì mà cuống lên thế.

Đại Ngọc cứ lẳng lặng mang bút đến ngoặc vào bài thứ tám là Vấn cúc, và bài thứ mười một là Cúc mộng, dưới viết thêm chữ Tiêu.

Bảo Ngọc cũng cầm bút ngoặc đầu bài thứ hai là Phỏng cúc, dưới viết thêm chữ Giáng.

Thám Xuân chạy lại xem rồi nói:

– Không ai làm bài Trâm cúc, để tôi làm vậy.

Lại trỏ vào Bảo Ngọc cười nói:

– Vừa nói là không được động đến những chữ trong khuê các, anh nên cẩn thận đấy.

Tương Vân chạy lại ngoặc luôn hai bài thứ tư và thứ năm là Đối cúc và Cung cúc, dưới viết thêm chữ Tương.

Thám Xuân nói:

– Chị phải đặt biệt hiệu mới được.

Tương Vân cười nói:

– Bên nhà tôi bây giờ tuy còn vài nơi hiên quán, nhưng tôi không ở đấy. Nếu mượn mà đặt hiệu chẳng có thú gì.

Bảo Thoa cười nói:

– Vừa rồi cụ có nói bên nhà chị cũng có một cái thủy đình gọi là Chẩm Hà các, thế không phải của chị là gì? Giờ tuy không còn nữa, nhưng chị vẫn là chủ cũ chứ.

Mọi người đều nói: “Đúng đấy”.

Bảo Ngọc không chờ Tương Vân chữa lại, liền đi xóa ngay chữ Tương đổi là chữ Hà.

Ước chừng chưa ăn xong bữa cơm, mười hai bài thơ đều đã làm xong, ai nấy đều viết ra giấy cẩn thận, đưa cho Nghênh Xuân. Nghênh Xuân lấy ngay một tờ hoa tiên vờn tuyết viết tinh tả ra, thơ của người nào, dưới đề biệt hiệu người ấy.

Bọn Lý Hoàn xem từ bài đầu trở xuống:

ỨC CÚC

Ngóng gió tây về luống ngẩn ngơ,

Nhìn lau liễu tốt ruột vò tơ.

Vườn hoang, giậu vắng thu đâu nhỉ,

Trăng lạnh, sương trong mộng thấy chưa?

Lòng vướng vít theo đàn nhạn khuất,

Tai văng vẳng lọt tiếng chày thưa.

Thương mình gầy cũng vì hoa đấy,

Này tiết trùng dương 1 hãy đợi chờ.

Hành Vu quân

PHỎNG CÚC

Gặp buổi sương tan hãy dạo chơi,

Thôi đừng rượu thuốc đắm say hoài

Dưới trăng hoa nở chừng bao giống,

Bên giậu thu về đã mấy nơi?

Dép nhẹ nhàng đi tình lại đượm,

Thơ run rẩy mãi hứng chưa vơi.

Hoa vàng ví biết thương thi khách,

Hứng rượu hôm nay chớ phụ người.

Di Hồng công tư?

CHỦNG CÚC

Vườn thu cào sẵn khách dời chân,

Giồng khắp bên rào khắp dưới sân.

Nhờ được mưa đêm tươi vẻ lại,

Dính đầy sương sớm nở hoa dần.

Thu nhìn mát rượi thơ nghìn vận,

Hương rót say sưa rượt một tuần.

Thương tiếc thì nên chăm tưới bón,

Hãy cùng ngõ giếng lánh hồng trần.

Di Hồng công tư?

ĐỐI CÚC

Trồng ở vườn riêng quý tựa vàng,

Khóm vàng khóm trắng đủ đôi hàng.

Bù đầu lẩn thẩn ngồi gần giậu,

Ôm gối nghêu ngao hát những hương.

Đời được mấy người xa thói tục,

Đây là một bạn biết lòng chăng.

Bóng thu loang loáng đừng nên phụ,

Ngơ ngẩn nhìn nhau tiếc tấc gang.

Chẩm Hà cựu hữu

CUNG CÚC

Rượu ngọt đàn hay đón bạn hiền,

Lả lơi trên án bóng thuyền quyên.

Hương pha mùi móc người xa mấy,

Mắt ngắm cành thu sách quẳng liền.

Sương đẫm màu kia mơ chửa tỉnh,

Vườn chơi chiều nọ nhớ hay quên.

Ngông đời ta lại như ai đấy,

Đào lý xuân kia cũng biếng nhìn.

Chẩm Hà cựu hữu

VỊNH CÚC

Sớm tối ma thơ lẩn quất hoài,

Quanh rào tựa đá khẽ ngâm chơi.

Sương kề ngọn bút thơ giàu tứ,

Trăng rọi trên môi giọng ngát mùi.

Mối hận ngấm ngầm đề chật giấy,

Lòng thu giãi tỏ biết chăng ai?

Phẩm bình từ lúc nhờ Đào lệnh 2

Cao tiết nghìn thu rộn khắp nơi.

Tiêu tương phi tư?

HỌA CÚC

Thơ rồi lại vẽ thực ngông cuồng,

Xanh đỏ lòng sao khéo vẩn vương?

Chụm lá vẩy ra nghìn giọt mực,

Trổ hoa nhuộm hẳn mấy hằn sương.

Nhạt nồng vẻ trội hoa vờn gió,

Gân guốc tay đưa thu đượm hương.

Đừng tưởng vườn đông mà hái bậy,

Dáng bình ta thưởng tiết trùng dương!

Hành Vu quân

VẤN CÚC

Chẳng biết thu đâu để hỏi chào,

Vườn đông lẩm nhẩm chắp tay vào.

Xa đời ngất ngưởng cùng ai đấy?

Biếng nở lừ đừ khéo chậm sao?

Vườn móc sân sương buồn kể mấy?

Nhạn về sâu ốm nhớ chăng nào?

Đừng cho không đáng cùng đời truyện,

Biết nói thì đây truyện chút nao.

Tiêu Tương phi tư?

TRÂM CÚC

Nay cắm mai trồng bận suốt ngày,

Lầu gương nào phải ngắt về bầy,

Yêu hoa công tử thành đeo bệnh,

Ngông chén Đào công lại quá say.

Tóc ngắn móc giây đường hẻm lạnh,

Khăn đầu hương nhuộm hạt sương bay.

Mắt đời ưa thích gì cao khiết.

Họ vỗ tay cười cũng mặc thây.

Tiêu Hạ khách

CÚC ẢNH

Gương thu từng lớp ngất lưng trời,

Lẩn lút trong vườn dạo bước chơi.

Đèn vướng hàng song rời rạc chiếu,

Trăng luồn khe giậu lập loè soi.

Bóng còn thoảng đó hồn dừng lại,

Sương vẩn in đây mộng tỉnh rồi.

Giữ lấy mùi thơm đừng xéo nát,

Mắt say nhập nhoạng mặc thây người.

Chẩm Hà cựu hữu

CÚC MỘNG

Bên rào say giấc tiết thu trong,

Trăng đấy hay mây hãy đợi cùng.

Hoa bướm tiên nào màng Tất lại 3

Nặng thề bạn những nhớ Đào công.

Mơ màng theo nhạn đàn xao xác,

Sửng sốt thương sâu tiếng não nùng,

Tỉnh giấc, nỗi niềm ai đã tỏ?

Cỏ khô khói lạnh ngổn ngang lòng!

Tiêu Tương phi tư?

TÀN CÚC

Móc đọng sương rơi luống phũ phàng,

Chén mừng tiểu tuyết tiết vừa sang.

Cuống vàng nhàn nhạt hương thoang thoảng,

Lá héo lơ thơ nhánh ngổn ngang.

Trăng xế nửa giường sâu rít giọng,

Mây đùn nghìn dặm nhạn thưa hàng.

Thu sau lại hẹn ta cùng gặp,

Tạm biệt xin lòng chớ vấn vương!

Tiêu Hạ khách

Mọi người xem bài nào khen bài nấy, mãi không dứt lời. Lý Hoàn cười nói:

– Tôi cứ công bằng mà bình ra đây. Tất cả các bài, bài nào cứng có câu hay, nhưng bài Vịnh cúc thứ nhất, bài Vấn cúc thứ hai, bài Cúc mộng thứ bạ Đầu bài mới, thơ làm mới, từ lại càng mới, nên phải để Tiêu Tương phi tử đứng đầu. Rồi lần lượt đến các bài Trâm cúc, Đối cúc, Cung cúc, Họa cúc, ức cúc.

Bảo Ngọc mừng lắm, vỗ tay nói:

– Rất là công bằng.

Đại Ngọc nói:

– Thơ của tôi cũng không hay lắm, vì lắt léo quá.

Lý Hoàn nói:

– Hay ở chỗ lắt léo mà không ra vẻ rườm rà và trúc trắc.

Đại Ngọc nói:

– Cứ tôi xem thì hay nhất là câu Vườn chơi chiều nọ nhớ hay quên, câu ấy ngụ ý “đánh phấn ở mặt sau”. Nguyên câu “mắt ngắm cảnh thu sách quẳng liền” đã hay lắm. Vì Cung cúc tả hết rồi, không còn nói vào đâu nữa, nên phải quay lại nhớ đến nhũng khi chưa bẻ cắm, ý tứ thực là sâu xa.

Lý Hoàn cười nói:

– Vẫn biết thế, nhưng cái câu… trên môi giọng ngát mùi của cô cũng địch được câu ấy rồi.

Thám Xuân lại nói:

– Dù sao cũng phải chịu thơ Hành Vu quân là sâu sắc. Những chữ thu đâu nhỉ, mộng thấy chưa thực như đã vẽ ra được chữ ức.

Bảo Thoa nói:

– Những chữ tóc ngắn móc giây… khăn đầu hương nhuộm… của cô hình dung tứ Trâm cúc rất mầu nhiệm, không còn hở một chút nào.

Tương Vân cười nói:

– Những chữ cùng ai đấy, khéo chậm sao làm cho hoa cúc khó mà trả lời được.

Lý Hoàn cười nói:

– Nếu vậy thì những chữ bù đầu lẩn thẩn… Ôm gối nghêu ngao… cũng có ý không lúc nào rời hoa cúc ra được. Hoa cúc có hay, chắc cũng lấy làm chán chường lắm.

Mọi người nghe vậy đều cười.

Bảo Ngọc cười nói:

– Chuyến này tôi lại hỏng thi rồi. Có lẽ những chữ chừng bao giống, đã mấy nơi, dép nhẹ nhàng đi, thơ run rẩy đọc đều không phải là thăm cúc và câu nhớ mưa đêm dính sương sớm đều không phải là trồng cúc hay sao? Nhưng chỉ bực một nỗi là không bằng được những câu trăng rọi trên môi giọng ngát mùi, ôm gối nghêu ngao ngát những hương, và tóc ngắn, khăn đầu, cuống vàng nhàn nhạt, lá héo lơ thơ, thu đâu nhỉ, mộng thấy chưa đấy thôi.

Lại nói:

– Ngày mai rỗi, tôi sẽ làm đủ mười hai bài.

Lý Hoàn nói:

– Thơ của chú cũng hay đấy, nhưng không bằng nhưng bài kia mới và nhã hơn.

Mọi người bàn tán một lúc, rồi ra ngồi quanh vào cái bàn lớn, lại ăn một chập thịt cua nữa.

Bảo Ngọc cười nói:

– Hôm nay cầm càng cua, thưởng hoa quế, cũng phải có thợ Tôi đã làm rồi, có ai dám làm nữa không?

Nói xong, liền rửa tay rồi cầm bút viết.

Mọi người xem thấy:

Dưới bóng quế, càng cầm tay,

Ngông lên gừng dấm chua cay thưởng tràn.

Vương tôn sẵn rượu càng ham,

Anh chàng không ruột, bò ngang đi đời!

Quên của lạnh, mải ăn hoài,

Mùi tanh tay dính rửa rồi vẫn tanh.

Người đời chỉ thích ăn sành,

Kìa Pha tiên 4 cũng lo quanh suốt đời.

Đại Ngọc cười nói:

– Hạng thơ này một lúc tôi làm trăm bài cũng được.

Bảo Ngọc cười nói:

– Cô bây giờ đã hết tài kiệt sức, không làm được nữa rồi, lại vẫn còn chê bai người ta.

Đại Ngọc nghe nói, không thèm trả lời, hơi ngẩng cổ lên, khe khẽ ngâm, rồi viết ngay ra một bài.

Mọi người xem thấy:

Giáo trường giáp sắt còn đây,

Nếm mùi trên chỗ mâm bày sáng choang.

Ngọc non đầy ắp đôi càng,

Mai trồi đỏ chói, mùi hương ngát lừng.

Đẫy đà tám vế còn chăng,

Giúp vui nghìn chén, ai nâng đến mời?

Gặp khi ngon miệng đẹp trời,

Quế vờn vã gió, cúc cười cợt sương.

Bảo Ngọc xem xong, khen lấy khen để. Đại Ngọc liền xé và sai người đem đốt đi, rồi cười nói:

– Bài của tôi không bằng của anh, để tôi đốt đi; bài của anh hay đấy, hơn cả bài thơ cúc họa vừa rồi, anh nên giữ lại để cho mọi người xem.

Bảo Thoa cười nói:

– Tôi cũng cố gắng làm một bài, nhưng chưa chắc đã hay, hãy viết ra đây làm trò cười thôi.

Nói xong, viết ra cho mọi người xem.

Chén mời dưới bóng quế đồng,

Trùng dương khao hát, khắp vùng Trường An,

Trên đường nào thấy dọc ngang,

Khen chê chỉ thấy đen vàng trông ra.

Mới xem bốn câu trên này, mọi người khen tuyệt. Bảo Ngọc nói:

– Mắng một cách đau đớn thật. Thơ tôi đáng đốt đi thôi.

Rồi đến bốn câu dưới:

Rửa tanh rượu với cúc xoa,

Muốn phòng chứng lạnh thì ta thêm gừng,

Vò dốc cạn mùi còn chăng?

Bến trăng kia những lúa lừng mùi thơm.

Mọi người xem xong, đều nói:

Đây mới là một bài thơ ăn cua tuyệt diệu! Đề mục nhỏ mà ngụ ý lớn, thực là bực đại tài. Nhưng có điều gì mỉa mai người đời ác quá.

Lúc đó thấy Bình Nhi lại chạy vào vườn, không biết có việc gì.

1      Ngày mồng 9 tháng Chín.

2      Tức Đào Tiềm, người đời Tấn. Vì ông làm quan lệnh ở Bành Trạch, nên cũng gọi là Đào Bành Trạch.

3      Tức Trang Chu, người đời chiến quốc, làm lại ở Tất viên, nên người ta gọi là Tất lại.

4      Người đời Tống, tu luyện thành tiên. Đời sau cũng có người gọi Tô Đông Pha là Pha Tiên.

_________________

Chương 39: Già nhà quê hay nói huênh hoang – Cậu có tình cứ tìm ngành ngọn

Già nhà quê hay nói huênh hoang

Cậu có tình cứ tìm ngành ngọn

Mọi người thấy Bình Nhi đến, đều hỏi:

– Mợ chị Ở nhà làm gì mà không thấy đến?

– Mợ ấy có được rỗi đâu? Vì ở nhà không có món gì ăn ngon, lại không thể sang đây được, nên mợ ấy bảo tôi đến hỏi xem có còn cua hay không, xin mấy con mang về nhà ăn.

Tương Vân nói:

– Có nhiều lắm!

Liền sai người mang cái làn đựng mười con cua lớn.

Bình Nhi nói:

– Cho thêm mấy con cua cái nữa.

Mọi người lại kéo Bình Nhi ngồi xuống. Bình Nhi không chịu ngồi. Lý Hoàn cười nói:

– Thì cứ ngồi xuống đã nào.

Rồi kéo Bình Nhi ngồi xuống, rót một ly rượu, đưa lên miệng cô tạ Bình Nhi vội hớp một ngụm, định đi ngaỵ Lý Hoàn bảo:

– Chưa cho cô đi vội. Cô mới chỉ biết có mợ Phượng nhà cô thôi còn tôi thì cô không thèm nghe lời gì cả.

Liền quay bảo bọn bà già:

– Hãy mang làn cua này sang biếu mợ Phượng, và nói rằng ta còn giữ cô Bình ở lại chơi.

Một lúc, bà già mang cái làn về nói:

– Mợ Hai nói: các mợ và các cô đừng cười, hãy nếm món này đã. Trong làn này đựng bánh xốp và bánh cuốn mỡ gà của của bà mợ đưa sang cho các mợ và các cô ăn.

Bà ta lại ngoảnh vào nói với Bình Nhi:

– Mợ bảo rằng: Sai chị đi mà chị cứ tham ăn, không chịu về ngaỵ Mợ lại dặn chị uống ít rượu chứ.

Bình Nhi cười nói:

– Tôi uống nhiều thì làm gì tôi!

Vừa nói vừa uống rượu vừa ăn cuạ Lý Hoàn ôm lấy Bình Nhi, cười nói:

– Đáng tiếc dáng điệu mặt mũi thế này mà số phận lại kém cỏi, chỉ là người hầu hạ trong nhà thôi! Người ngoài ai trông thấy, chẳng bảo cô là hạng các mợ, các bà.

Bình Nhi vừa uống rượn với bọn Bảo Thoa, Tương Vân, vừa quay lại cười nói:

– Xin mợ đừng sờ vào người tôi đâm ngứa ngáy khó chịu.

Lý Hoàn hỏi:

– Ái chà! Đeo cái gì mà rắn thế này?

– Chùm chìa khóa đấy.

– Có cái gì quan hệ sợ người ta ăn trộm mà phải đeo luôn trong người thế? Ngày thường tôi vẫn nói với mọi người, có Đường Tăng 1 đi lấy kinh, thì phải có con ngựa trắng chở kinh; có Lưu Trí Viễn ra đánh dẹp thiên hạ, thì phải có con hồ tinh cho mũ giáp. Có mợ Phượng thì phải có cô Bình! Cô là chìa khoá của mợ cô rồi, lại còn dùng chìa khóa này làm gì nữa?

Bình Nhi cười nói:

– Mợ uống rượu lại mang tôi ra làm trò cười.

Bảo Thoa cười nói:

– Mợ ấy nói thực đấy. Khi chúng tôi ngồi rỗi, thường hay bàn tán mấy người trong bọn các chị, thấy là mỗi người một vẻ trăm người chưa chọn được một.

Lý Hoàn nói:

– Việc lớn, việc nhỏ đều do ông trời định sẵn cả. Ví như bên nhà cụ, không có chị Uyên Ương thì làm thế nào nổi việc? Từ bà Hai trở xuống, có ai dám trái lời cụ đâu? Thế mà cô ta lại dám cãi lại, cụ vẫn chỉ nghe cô ta thôi. Những quần áo của cụ không ai nhớ được, cô ta vẫn nhớ rành rọt. Nếu không có cô ta trông nom, thì không biết người ta đã lừa gạt mất bao nhiêu rồi! Vả chăng bụng cô ta lại thẳng thắn, thường hay nói tốt cho người, chứ không bao giờ cậy thế khinh rẻ một ai.

Tích Xuân cười nói:

– Hôm nọ cụ vừa nói, cô ta còn hơn chúng tôi nữa đấy.

Bình Nhi nói:

– Chị ấy là người tốt, chúng tôi bì thế nào được.

Bảo Ngọc nói:

– Chị Thái Hà ở nhà mẹ tôi cũng là người thực thà.

Thám Xuân nói:

– Bề ngoài thì thực thà, thế mà trong bụng lại biết suy tính lắm đấy. Mẹ hiền như bụt, chả để ý đến việc gì, mà cô ta thì việc gì cũng biết, cái gì cũng phải nhắc. Cha ở nhà cũng như đi vắng, bất cứ việc lớn việc nhỏ, cô ta đều biết hết, nếu mẹ quên thì sau đó cô ta nhắc ngay.

Lý Hoàn nói:

– Còn nói gì nữa.

Rồi trỏ Bảo Ngọc nói:

– Chúng ta hãy xem, trong nhà chú Hai đây, nếu không có chị Tập Nhân thì sẽ ra sao? Dù thím Phượng có tài như Bá Vương nước Sở 2 cũng cần phải có hai cánh tay để cất cái vạc nghìn cân. Không có cô Bình, thì việc nhà thím ấy làm thế nào mà trông nom xuể được?

Bình Nhi nói:

– Lúc trước bên nhà đưa sang bốn a hoàn, nhưng người chết, người thì đi, chỉ còn một mình tôi bồ côi bồ cút ở lại đây thôi.

Lý Hoàn nói:

– Đó là phúc cho nhà cô, nhưng cũng là phúc cho nhà thím Phượng. Trước kia cậu Cả nhà còn sống, thì có thiếu gì người hầu? Các cô thử xem, tôi có phải là người hẹp lượng không biết dung kẻ dưới đâu? Thế mà ngày nào họ cũng cứ tỏ ra không vừa ý. Vì thế, khi cậu ấy mất rồi, nhân thấy họ còn trẻ tuổi, tôi đều cho về cả. Nếu được người nào biết nghĩ thủy chung ở lại, thì bây giờ tôi cũng còn có kẻ đỡ chân đỡ tay.

Nói xong, mắt Lý Hoàn đỏ ngầu lên.

Mọi người đều can:

– Còn kể ra làm gì cho đau lòng! Thôi chúng ta đi về là hơn.

Nói xong, đều đi rửa tay, rồi cùng nhau sang thăm Giả mẫu và Vương phu nhân. Bọn bà già và a hoàn quét dọn nhà cửa, thu xếp bát đĩa. Tập Nhân và Bình Nhi cùng đi ra.

Tập Nhân mời Bình Nhi vào nhà mình uống trà. Bình Nhi nói: “Không uống đâu, sau sẽ đến chơi”. Nói xong muốn đi ngaỵ Tập Nhân liền gọi lại hỏi:

– Tại sao tiền lương tháng này, ngay người trong nhà cụ và bà Hai vẫn chưa giả?

Bình Nhi quay lại gần Tập Nhân, thấy không có ai, khẽ nói:

– Thôi, chị đừng hỏi nữa, chậm lắm là hai hôm sẽ phát thôi. Tiền lương tháng này mợ tôi đã chi ra rồi, nhưng lại đem cho người khác vaỵ Phải chờ đi thu lãi ở các nơi về đủ số rồi mới phát. Chị đừng nên nói cho một ai biết nhé!

– Không lẽ mợ ấy còn thiếu tiền tiêu. Sao nỡ đang tâm làm như vậy?

– Mấy năm nay mợ ấy chỉ lấy món tiền ấy ra cho vay, mà đã thu được hàng nghìn bạc lãi rồi đấy.

– Mợ chị lấy tiền lương của chúng tôi đem ra cho vay lấy lãi, làm chúng tôi phải ăn chực nằm chờ!

– Sao chị lại nói câu tệ bạc thế? Chị mà còn thiếu tiền à?

– Tôi hiện giờ chưa cần, nhưng muốn sắp sẵn cho một người.

– Chị có việc gì cần tiêu, thì tôi có mấy lạng, hãy lấy mà tiêu, sau này trừ tiền lương cũng được.

– Bây giờ tôi chưa cần, sau này tiêu gì, tôi sẽ cho người sang vay chị.

Bình Nhi nhận lời, chạy về nhà không thấy Phượng Thư đâu, chợt thấy già Lưu và thằng Bản lần trước đến xin tiền đã ngồi ở nhà bên kia rồi, lại có vợ Trương Tài và vợ Chu Thụy ngồi tiếp; có mấy a hoàn đứng dưới đất đương dốc táo, dưa và rau ở túi ra. Mọi người thấy Bình Nhi vào, đều đứng dậy cả. Già Lưu vì lần trước đến, đã biết Bình Nhi là người thế nào rồi, nên vội bước xuống hỏi:

– Cô vẫn được mạnh luôn? Cả nhà tôi đều gửi lời hỏi thăm cộ Từ lâu muốn đến thăm sức khỏe mợ nhà và cô, nhưng vì bận mùa. Năm nay mới gặt được mấy hộc thóc, hoa quả, rau dưa đều tốt cả. Nhưng thứ này là của mới, tôi không dám mang đi bán, chọn thứ ngon đem đến biếu mợ và cộ Các cô ngày nào cũng ăn chán những đồ cao lương mỹ vị, giờ nếm món rau nhà quê xem sao. Đó là tấm lòng thành của người nghèo chúng tôi.

Bình Nhi vội nói:

– Đa tạ lòng bà!

Rồi mời già Lưu ngồi. Bình Nhi cũng ngồi xuống, lại mời thím Trương và thím Chu cùng ngồi, và sai a hoàn nhỏ đi pha nước. Vợ Trương Tài và vợ Chu Thụy đều cười nói:

– Hôm nay trông cô có vẻ hồng hào tươi tỉnh, khóe mắt cũng đỏ lên.

Bình Nhi cười nói:

– Phải đấy! Xưa nay tôi không biết uống rượu, mợ Cả và các cô cứ kéo lại vật nài cho được, bất đắc dĩ tôi phải uống hai chén, thành ra đỏ cả mặt.

Vợ Trương Tài cười nói:

– Tôi muốn uống quá, lại chẳng có ai mời. Ngày mai có ai mời cô, cho tôi đi theo với.

Mọi người đều cười ầm lên.

Vợ Chu Thụy nói:

– Sáng hôm nay tôi trông thấy thứ cua to quá, chỉ hai con là đủ một cân. Thế mà những hai ba giỏ lớn, có nhẽ đến bảy tám mươi cân.

Vợ Trương Tài nói:

– Từ trên chí dưới, ai cũng ăn cả, thì chừng ấy chưa chắc đã đủ.

Bình Nhi nói:

– Ở đâu mà ai cũng ăn. Chẳng qua chỉ nhưng người có tên có tuổi mới được ăn vài con, còn thì có người vớ được, có người không vớ được con nào.

Già Lưu nói:

– Giá cua năm nay mỗi cân là năm phân, mười cân thì phải năm đồng, năm năm hai mươi lăm, ba năm mười lăm, lại thêm rượu và đồ ăn khác nữa, cộng tất cả ít ra cũng phải hơn hai mươi lạng bạc đấy. 3

A di đà phật! Món tiền này, người nhà quê chúng tôi có thể ăn được một năm!

Bình Nhi hỏi:

– Bà đã được gặp mợ ấy chưa?

– Đã gặp rồi, mợ ấy bảo tôi hãy chờ ở đây.

Nói xong, già Lưu ra ngoài cửa trông trời, nói:

– Trời đã chiều rồi, chúng tôi xin về đây. Nếu không ra được ngoài thành, lại khốn khó đấy!

Vợ Chu Thụy nói:

– Để tôi đi xem hộ bà.

Nói xong chạy đi, một chốc mới về, cười nói:

– Phúc nhà bà đấy, sao mà hai người lại hợp duyên với nhau thế.

Bọn Bình Nhi hỏi: “Thế nào”. Vợ Chu Thụy cười nói:

– Mợ Hai đang hầu cụ, tôi khẽ đến trình: “Già Lưu muốn về, vì sợ tối không ra được cửa thành”. Mợ Hai bảo: “Khen cho bà ấy, đường xa thế mà mang được nhiều thứ đến biếu. Bây giờ muộn rồi, bảo bà ấy ngủ lại một đêm, ngày mai sẽ về”. Thế không phải là hợp duyên với mợ Hai à? Việc ấy đã đành, không ngờ cụ nghe thấy, liền hỏi già Lưu là ai? Mợ Hai kể rõ gốc tích. Cụ bảo: “Ta muốn nói chuyện với những người già cả, bảo bà ấy đến đây”. Thế không phải là duyên số trên trời, không hẹn mà gặp sao?

Vợ Chu Thụy liền giục già Lưu đi ngay.

Già Lưu nói:

– Người ngợm tôi thế này, đến đó sao tiện? Thôi chị nói hộ là tôi đã về rồi!

Bình Nhi nói:

– Không việc gì đâu, bà cứ đến, cụ tôi vốn mến người già, thương người nghèo, chứ không như những hạng người điêu trá đâu. Bà sợ, tôi và dì Chu sẽ đưa bà đến.

Nói xong, liền cùng vợ Chu Thụy đưa già Lưu sang bên nhà Giả mẫu.

Bọn đầy tớ bé ngồi gác ở cửa ngoài, thấy Bình Nhi đến, đều đứng dậy cả. Có hai đứa chạy theo Bình Nhi gọi: “Cô ơi!”

Bình Nhi hỏi:

– Muốn nói việc gì.

– Bây giờ chiều rồi, mẹ tôi ốm, tôi phải đi mời thầy thuốc, xin cô cho tôi nghỉ nửa ngày, có được không?

– Chúng bay giỏi thật, đã bàn soạn với nhau rồi hay sao? Cứ mỗi ngày là một đứa xin nghỉ, không xin phép mợ, lại cứ quấy rầy tao. Hôm trước thằng Trụ xin đi, cậu Hai gọi nó không thấy, tao phải nói đỡ, cậu ấy mắng tao che chở cho nó. Bây giờ mày cũng lại thế à?

Vợ Chu Thụy nói:

– Mẹ nó ốm thật đấy, xin cô nói đỡ, để cho nó về.

Bình Nhi nói:

– Ngày mai phải đến sớm nhé, nghe chưa? Ta còn cần đến mày. Hay lại ngủ cho đến khi mặt trời dọi vào đít rồi mới dẫn xác đến? Nhân tiện mày về bảo cho thằng Vượng biết là mợ truyền số tiền lãi còn lại, ngày mai không mang trả, thì mợ không thèm lấy nữa đâu! Để nó tiêu cả.

Thằng nhỏ mừng nhảy lên, vâng dạ rồi đi.

Bình Nhi đến buồng Giả mẫu, bấy giờ các chị em ở trong vườn Đại Quan đều đứng hầu cả đấy. Già Lưu đi vào, thấy trong nhà người nào cũng đeo châu ngọc, mặc gấm vóc, lộng lẫy như hoa, không phân biệt ai ra ai nữa. Chỉ thấy một vị lão bà ngồi tựa trên giường, đằng sau có một a hoàn lộng lẫy như một mỹ nhân, mình đầy the lụa, đang ngồi hầu bóp chân. Phượng Thư đang đứng bên cạnh cười cười nói nói. Già Lưu biết ngay là Giả mẫu, vội lại gần lạy mấy lạy, rồi nói:

– Chúc lão thọ tinh mạnh khỏe luôn.

Giả mẫu gật đầu hỏi thăm, và sai vợ Chu Thụy lấy ghế cho ngồi. Thằng Bản rụt rè, không biết chào hỏi gì cả.

Giả mẫu hỏi:

– Bà này, năm nay bà bao nhiêu tuổi rồi?

Già Lưu vội đứng dậy thưa:

– Tôi năm nay bảy mươi lăm tuổi.

Giả mẫu ngoảnh vào nói với mọi người:

– Nhiều tuổi hơn ta thế mà trông người vẫn còn sắc sảo? Ta đến tuổi ấy không biết còn làm được gì không?

Già Lưu cười nói:

– Kiếp chúng tôi là kiếp người chịu khổ, chịu sở; còn cụ sinh ra là để hưởng phúc. Chúng tôi mà cũng như cụ, thì công việc đồng áng ai làm cho.

– Mắt và răng bà còn khá không?

– Còn khá, nhưng năm nay cái răng bên hàm trái đã thấy lung lay.

– Tôi già rồi, không làm gì nữa; mắt mờ, tai điếc, tính lại hay quên. Ngay các bà là chỗ họ hàng, tôi cũng không nhớ hết. Mỗi khi bà con đến chơi, nói ra sợ người ta cười, tôi cũng chả biết ai vào ai, chẳng qua có cái gì ăn được thì ăn vài miếng, rồi ngủ một giấc; lúc nào buồn thì chơi đùa với con, với cháu cho qua.

Già Lưu cười nói:

– Thế là cụ có phúc đấy. Chúng tôi mong thế cũng chẳng được

– Phúc gì? chẳng qua là hạng già bỏ đi đấy thôi!

Câu nói ấy làm cho mọi người cười ầm lên.

Giả mẫu lại cười nói:

– Tôi vừa thấy cháu Phượng nói, bà có mang cho nhiều thứ rau dưa, tôi đã bảo nó cất đi rồi. Tôi đang muốn ăn rau dưa chính trong vườn nhổ ra, chứ mua ở ngoài thì không được ngon.

Già Lưu nói:

– Đó là vật nhỏ mọn quê mùa, chẳng qua ăn lấy thứ tươi thôi. Chúng tôi chỉ muốn ăn thịt cá, nhưng chẳng có mà ăn.

Giả mẫu lại nói:

– Bây giờ đã nhận bà con, thì không nên về không, đừng ngại gì cả, hãy ở lại chơi vài hôm. Ở đây cũng có vườn, có hoa quả, ngày mai bà đến nếm thử xem, rồi mang về một ít, thế mới là có đi có lại chứ.

Phượng Thư thấy Giả mẫu vui vẻ, liền mời già Lưu ở lại, và nói:

– Nhà chúng tôi tuy không rộng bằng vườn trại của bà, nhưng cũng có vài gian buồng để không, bà ở lại vài hôm, kể chuyện mới chuyện cũ ở quê ta cho bà tôi nghe.

Giả mẫu cười nói:

– Cháu Phượng đừng mang bà ấy ra làm trò cười. Bà ấy là người nhà quê thực thà, không quen lối đùa cợt của nhà mày đâu!

Liền sai người lấy hoa quả cho thằng Bản. Thằng Bản thấy đông người, sợ không dám ăn. Giả mẫu lại sai người cho nó tiền, bảo bọn hầu bé đưa nó ra ngoài chơi. Già Lưu uống nước xong, kể những chuyện tai nghe mắt thấy ở thôn quê cho Giả mẫu nghe. Giả mẫu càng lấy làm thích.

Đến chiều, Phượng Thư sai người mời già Lưu đi ăn cơm. Giả mẫu lại chọn vài món ăn của mình, sai người đưa cho già Lưu. Phượng Thư biết già Lưu hợp tính Giả mẫu, nên ăn cơm xong lại bảo già đến ngaỵ Uyên Ương sai bà già đưa già Lưu đi tắm rửa, lấy hai bộ quần áo của mình thường mặc đưa cho già thaỵ Già Lưu xưa nay có được thấy thế này bao giờ, vội thay quần áo, đến ngồi trước giường Giả mẫu, rồi lại moi chuyện ra nói. Bấy giờ chị em Bảo Ngọc đương ngồi cả đấy. Họ xưa nay chưa hề được nghe, nên cảm thấy thay hơn cả người mù kể chuyện.

Già Lưu tuy là người nhà quê, nhưng cũng am hiểu ít nhiều. Vả tuổi đã già, trò đời đã từng trải, lại thấy Giả mẫu và đám chị em đều thích nghe, nên dù hết chuyện, cũng vẫn cứ bịa ra để nói:

– Chúng tôi ở nhà quê, cày cấy trồng trọt, hàng năm, hàng ngày, suốt cả bốn mùa, dầm mưa dãi nắng, có lúc nào được ngồi rỗi đâu? Quanh năm lấy đầu bờ làm quán mát nghỉ ngơi, thì còn thiếu gì chuyện kỳ quặc trên đời! Cũng như mùa đông năm ngoái, tuyết rơi ròng rã mấy ngày, mặt đất ngập đến ba bốn thước. Hôm ấy tôi dậy sớm, chưa ra cửa, đã nghe thấy bên ngoài có tiếng rút củi sột soạt. Tôi đoán có người ăn cắp củi, nhìn qua cửa sổ, lại không phải là người trong trại.

Giả mẫu nói:

– Chắc là người qua đường lạnh quá, thấy củi chất đấy, rút ra để đốt chứ gì?

– Không phải là người qua đường, chuyện thế mới lạ chứ. Cụ thử đoán xem là ai? Nguyên là một cô gái rất đẹp, độ mười bảy, mười tám tuổi, đầu chải bóng nhoáng, mặc áo đỏ và quần hoa trắng…

Già Lưu vừa nói đến đấy, bỗng bên ngoài có tiếng ồn ào lại có người nói:

– Không việc gì đâu, đừng làm cụ sợ.

Giả mẫu nghe thấy liền hỏi:

– Cái gì thế?

A hoàn nói:

– Chuồng ngựa phía nam bị cháy, nhưng không việc gì, đã dập tắt được rồi.

Giả mẫu xưa nay vẫn hay nhát, liền đứng dậy vịn vào người hầu đi ra ngoài hè xem, thấy góc đông nam hãy còn ngọn lửa. Giả mẫu sợ quá, vừa niệm phật, vừa sai người đi thắp hương khấn thần hỏa. Bọn Vương phu nhân vội lại an ủi: “Đã dập tắt được rồi, xin cụ cứ vào”.

Giả mẫu chờ cho lửa tắt hẳn rồi, mới dẫn mọi người vào.

Bảo Ngọc lại hỏi già Lưu:

– Tại sao cô gái ấy lại rút củi trong đám tuyết, lỡ bị lạnh sinh ốm thì sao?

Giả mẫu nói:

– Vừa rồi vì câu chuyện rút củi, nên xảy ra việc cháy, mày lại còn hỏi làm gì? Thôi! Thôi! Đừng nhắc đến nữa, hãy nói chuyện khác đi.

Bảo Ngọc nghe nói không vui, nhưng cũng phải thôi.

Già Lưu nghĩ một lúc, rồi nói:

– Cái trại ở bên đông trại chúng tôi có một bà cụ già đã ngoài chín mươi tuổi. Ngày nào cũng ăn chay niệm Phật. Không ngờ cảm động đến đức Phật Quan Âm, đêm về báo mộng rằng: “Số ngươi đáng phải tuyệt tự, nhưng vì ngươi có lòng thành nên ta đã tâu với đức Ngọc Hoàng cho ngươi đứa cháu giai”. Cụ già ấy chỉ có một người con, người con ấy chỉ đẻ có một đứa cháu gái thôi. Ngờ đâu đứa cháu ấy đến năm mười bảy, mười tám tuổi thì chết mất. Bà ấy khóc lóc không biết bao nhiêu mà kể. Về sau quả nhiên lại đẻ được một đứa cháu nữa. Bây giờ nó đã mười ba, mười bốn tuổi, người kháu khỉnh, thông minh, lanh lẹ. Như thế thì thần phật có nhẽ cũng có đấy nhỉ!

Câu chuyện ấy hợp ý Giả mẫu và Vương phu nhân đều thích nghe cả. Bảo Ngọc lại chỉ thích chuyện rút củi thôi, nên trong lòng nghĩ vơ nghĩ vẩn. Thám Xuân liền hỏi:

– Hôm nọ cô Sử đã mời chúng ta, bây giờ chúng ta nên bàn nhau mở một cuộc thi thơ, để trả lại bữa tiệc, và cũng mời cụ đến thưởng hoa cúc một thể, có nên không?

Bảo Ngọc cười nói:

– Cụ đã bảo phải làm bữa tiệc để mời lại cô Sử và cho chúng ta đến tiếp. Chúng ta hãy ăn tiệc của cụ đã, rồi sẽ mời sau cũng không muộn.

Thám Xuân nói:

– Càng ngày trời càng rét thêm, chưa chắc cụ đã thích.

Bảo Ngọc nói:

– Cụ lại thích mưa, thích tuyết. Chúng ta chờ lúc bắt đầu có tuyết, mời cụ thưởng tuyết chả hơn ư? Khi đó chúng ta ngâm thơ dưới tuyết, lại càng thú lắm.

Đại Ngọc cười nói:

– Chúng ta ngâm thơ dưới tuyết ư? Cứ ý tôi, chi bằng kiếm một bó củi rồi chúng ta rút củi dưới tuyết, lại còn thú hơn.

Nghe nói câu ấy, bọn Bảo Thoa đều cười. Bảo Ngọc lườm Đại Ngọc một cái, không nói gì. Một lúc họ về cả, Bảo Ngọc dắt già Lưu ra chỗ vắng người, hỏi kỹ:

– Cô gái ấy là ai?

Già Lưu đành phải đặt chuyện ra nói:

– Ở đồi phía bắc bên trại tôi, có một ngôi miếu nhỏ, không phải là thờ thần phật nào cả. Khi trước có một ông già nào ấy…

Già Lưu nói đến đấy, lại nghĩ tên tuổi ông già.

Bảo Ngọc nói:

– Không cần phải nhớ tên tuổi, chỉ kể chuyện là đủ.

Già Lưu nói:

– Ông già ấy không có con trai, chi sinh được một cô gái, nghe đâu như tên là cô Dính Ngọc, văn hay chữ tốt; hai vợ chồng ông già yêu quý như ngọc báu. Thật là đáng tiếc! Cô gái ấy đến năm mười bảy tuổi thì bị bệnh chết.

Bảo Ngọc nghe đến đấy, giậm chân thở dài, lại hỏi:

– Thế rồi sau này việc ra làm sao?

– Vì hai vợ chồng ông già quá thương con, mới làm một ngôi miếu đắp tượng rồi cho người đèn hương thờ phụng. Bây giờ lâu ngày, người đã chết, miếu đã đổ, và tượng cũng đã hóa thành yêu tinh rồi.

Bảo Ngọc liền nói:

– Không phải hóa thành yêu tinh, những người như thế không bao giờ chết đâu.

– A di đà phật! Thật thế à? Nếu cậu không nói, thì tôi cho là cô gái ấy đã hóa thành yêu tinh rồi. Cô ta thường hiện ra người, vào các thôn các trại chơi. Tôi nói cái người rút củi, chính là cô gái đấy. Người trong trại chúng tôi đang bàn nhau đập tượng, san phẳng miếu đi.

– Không nên. San phẳng miếu là tội to lắm đấy.

– Cậu nói tôi mới haỵ Ngày mai về, tôi sẽ ngăn họ đừng phá nữa.

– Bà tôi và mẹ tôi đều là người từ thiện, tất cả lớn, bé trong nhà, ai cũng thích làm việc thiện, nhất là việc xây đền đúc tượng. Ngày mai tôi sẽ làm một tờ phả khuyến, đi quyên hộ bà. Bà sẽ làm bà từ, tu sửa lại miếu, đắp lại tượng. Hàng tháng, tôi cho bà một món tiền đèn nhang, như thế có được không?

– Nếu được thế, tôi nhờ phúc cô ấy, cũng có ít tiền tiêu.

Bảo Ngọc lại hỏi tên đất, tên trại, đi lại xa gần, ở vào địa phận nào. Già Lưu thuận miệng nói bừa ra. Bảo Ngọc tin là thực, về buồng suy nghĩ suốt đêm. Sáng hôm sau, Bảo Ngọc cho Dính Yên mấy trăm đồng tiền, theo lời già Lưu kể, bảo nó đi xem trước thế nào rồi sẽ về trình.

Dính Yên đi rồi, Bảo Ngọc băn khoăn chờ mãi không thấy về, nóng ruột quá, đi quanh đi quẩn, cứ như kiến bò trên miệng nồi nóng, mãi đến lúc mặt trời xế bóng, mới thấy Dính Yên hớn hở trở về. Bảo Ngọc liền hỏi:

– Có tìm thấy không?

– Cậu nghe không rõ, để cháu phải đi tìm mãi! Cái miếu ở chỗ nào ấy, chứ không phải như lời cậu đã dặn. Cháu tìm hết cả ngày, khi đến cái đồi ở góc đông bắc, mới thấy có một ngôi miếu đổ.

Bảo Ngọc nghe nói mừng rỡ, liền nói:

– Có nhẽ già Lưu đã nhiều tuổi, nên nhớ nhầm đấy. Mày thấy thế nào?

– Cửa miếu này cũng hướng về phía nam, cũng đổ nát cả ròi, cháu tìm hết hơi mới thấy, cháu reo lên: “Đúng rồi”, vội vàng đi vào, trông thấy pho tượng, cháu sợ quá, chạy ra ngaỵ Pho tượng ấy trông hệt như người sống vậy!

Bảo Ngọc mừng quá, cười nói:

– Tượng ấy hóa thành người, tất nhiên là có ít nhiều sinh khí!

Dính Yên vỗ tay nói:

– Có phải cô gái đâu! Là một vị Ôn thần mặt xanh tóc đỏ!

Bảo Ngọc nghe nói, quát lên một tiếng:

– Đồ ăn hại! Có việc ấy mà cũng không làm nổi!

Dính Yên bực lên, nói:

– Không biết cậu xem sách nào, hay là nghe ai nói bậy, rồi tin là thực, sai cháu đi làm cái việc không đâu, rồi bảo cháu là đồ ăn hại?

Bảo Ngọc liền vỗ về:

– Đừng nóng thế, hôm khác rỗi, mày lại đi tìm một lượt nữa. Nếu tìm không thấy, tất nhiên là họ nói dối ta; nếu có thực thì chả phải mày làm được một việc âm đức hay sao? Thế nào ta cũng sẽ trọng thưởng cho.

Chợt đứa hầu bé canh cửa ngoài vào trình:

– Các cô bên nhà cụ đang chờ cậu ở ngoài cửa đấy. Chưa biết là việc gì.

1      Tức Thích Huyền Trang, người đời Đường, sang Ấn Độ lấy kinh. Vua không cho đi, ông ta trốn ra cửa Ngọc Quan, rồi đến Thiên Trúc, vào chào Thượng tọa giới hiền. Người cho vào nước Chi Lạ Vua nước ấy cấp cho Đường Tăng con tuấn mã chở kinh về, tất cả hơn 600 bộ.

2      Hạng Võ nước Sở, rất khỏe, một tay nhấc được vạc nặng nghìn cân.

3      Đây là lối nói của một bà già nhà quê, không biết cách tính toán thế nào.

Chương 40: Vườn Đại Quan, Sử thái quân hai lần mở tiệc – Gieo súc sắc, Kim Uyên Ương ra lệnh đố thơ

Vườn Đại Quan, Sử thái quân hai lần mở tiệc

Gieo súc sắc, Kim Uyên Ương ra lệnh đố thơ

Bảo Ngọc nghe nói liền ra xem, thấy Hổ Phách đứng ở ngoài bình phong nói:

– Có việc chờ cậu đấy. Cậu ra ngay.

Bảo Ngọc đi lên nhà trên, thấy Giả mẫu và Vương phu nhân cùng các chị em đương bàn chuyện bày việc mời lại Sử Tương Vân. Bảo Ngọc nói:

– Theo ý cháu, đã không có khách ngoài, thì đồ ăn không cần định số trước, ngày thường ai thích ăn gì, cứ làm món ấy thôi, không cần phải bày tiệc. Trước mặt mỗi người, để một cái kỷ cao, đặt một cái hộp có nhiều ngăn, để món ăn vào đó và một cái bình, để ai nấy tự rót rượu lấy mà uống, như thế chẳng nhã hay sao?

Giả mẫu nói:

– Phải đấy.

Liền sai người truyền nhà bếp: “Ngày mai cứ theo số người, chọn nhưng món gì chúng ta thích ăn thì đặt cả vào khaỵ Bữa cơm sáng cũng bày ở trong vườn luôn”.

Khi bàn bạc xong thì trời đã tối.

Sáng hôm sau, khí trời trong sáng. Lý Hoàn dậy sớm đang trông nom cho bọn bà già và người hầu quét trước nhà cửa, lau chùi bàn ghế, sắp sẵn rượu chè, mâm bát, thì thấy Phong Nhi dắt già Lưu và thằng Bản đến nói:

– Mợ Cả bận lắm nhỉ?

Lý Hoàn cười nói:

– Hôm qua tôi đã bảo mà! Bà đừng vội, không về ngay được đâu!

– Cụ cứ giữ tôi lại, cho tôi cùng vui nhộn một hôm.

Phong Nhi mang mấy cái chìa khóa lớn nhỏ lại, nói:

– Mợ tôi bảo, những kỷ cao ở ngoài sợ không đủ, nên mở cửa lầu lấy mấy cái xuống để dùng một bữa. Nhẽ ra mợ tôi đến lấy thì phải, nhưng đương hầu chuyện bà Hai, vậy nhờ mợ mở cửa hộ, và cho người lên mang xuống.

Lý Hoàn sai Tố Vân cầm lấy chìa khóa lại sai bà già ra gọi mấy đứa hầu nhỏ ở cửa ngoài vào. Lý Hoàn đứng ở dưới lầu Đại Quan, sai người lên mở gác Xuyết Cẩm, rồi bọn hầu nhỏ, bà già, a hoàn, chạy lên, cứ từng cái một, mang hơn hai mươi cái xuống.

Lý Hoàn nói:

– Phải cẩn thận đấy, đừng có chạy vội như ma đuổi, làm sứt những miếng gỗ chạm trổ xung quanh thì khốn đấy.

Rồi quay lại già Lưu, cười nói:

– Bà thử trèo lên mà xem.

Già Lưu không nói gì, dắt ngay thằng Bản trèo lên thang, đi vào trong gác, thấy đen ngòm những bình phong, bàn ghế và các thứ đèn hoa, màu sắc chói lọi, cái gì cũng lạ mắt. Già Lưu không sao nhận ra được, luôn miệng mô phật mấy tiếng. Sau đó, đóng cửa gác lại, mọi người đều xuống. Lý Hoàn nói:

– Phòng khi cụ cao hứng, nên mang cả thuyền nhỏ, sào, chèo, màn xuống để sẵn đó.

Mọi người vâng lời, lại mở cửa gác mang các thứ xuống, rồi sai đám hầu nhỏ gọi các lái thuyền ra bến, chống hai cái thuyền về.

Đương lúc nhộn nhạo, thi Giả mẫu dẫn mọi người đến. Lý Hoàn vội ra đón, cười nói:

– Bà cao hứng thật, bây giờ đã đến rồi. Cháu tưởng bà chưa chải đầu, vừa ngắt mấy bông hoa cúc định đưa sang.

Bích Nguyệt bưng cái khay xanh biếc kiểu lá sen đến, trong đựng mấy cành hoa cúc. Giả mẫu chọn một cành cúc đỏ cài lên mái tóc, quay lại trông thấy già Lưu, liền cười nói:

– Lại đây mà cài hoa lên đầu.

Nói chưa dứt lời, thì Phượng Thư đã kéo già Lưu đến, cười bảo “Để tôi trang điểm cho bà”. Liền cầm cả khay hoa cắm ngang cắm dọc, loạn xạ lên đầu già Lưu. Giả mẫu và mọi người không nhịn cười được. Già Lưu cũng cười:

– Không biết cái đầu tôi đã tu hành được phúc đức thế nào mà giờ đẹp đẽ như vậy.

Mọi người cười nói:

– Sao bà không rút hoa ném vào mặt nó, để nó cắm loạn xạ lên đầu bà như con ma già ấy.

Già Lưu cười nói:

– Tôi tuy già, nhưng thời trẻ cũng có vẻ phong lưu, cũng thích hoa thích phấn, nay hãy để cho bà già này làm đỏm một tý!

Họ vừa nói chuyện vừa đi, đã đến đình Thấm Phương. Bọn a hoàn mang cái nệm gấm rải lên ghế ở cạnh lan can. Giả mẫn ngồi dựa vào lan can, bảo già Lưu ngồi bên cạnh, hỏi:

– Cái vườn này có đẹp không?

Già Lưu niệm Phật:

– Chúng tôi người nhà quê, cứ đến cuối năm thì ra tỉnh mua tranh về dán. Lúc rồi, cả nhà xem tranh đều nói: làm thế nào mà được đi chơi ở trong bức vẽ này, cứ nghĩ là bức vẽ chẳng qua bày đặt ra thôi, chứ có chỗ nào thật đẹp như thế. Ngờ đâu, hôm nay vào đây xem, lại đẹp gấp mười bức vẽ! Làm thế nào có người vẽ cho một bức hệt như cái vườn này, để tôi mang về nhà cho mọi người xem, thì chết cũng đáng đời!

Giả mẫu nghe nói, chỉ vào Tích Xuân, cười nói:

– Bà xem đứa cháu gái tôi biết vẽ đấy, để ngày mai nó vẽ cho bà một bức, có được không?

Già Lưu nghe nói, mừng quá, vội chạy lại ôm lấy Tích Xuân nói:

– Cô ơi! Cô mới chừng ấy tuổi, mà vừa xinh đẹp lại có tài vẽ chẳng phải là thần tiên giáng thế hay sao?

Giả mẫu và mọi người đều cười. Họ nghỉ một lúc rồi dẫn già Lưu đi xem các nơi, trước hết là quán Tiêu Tương. Vừa vào đến cửa, thấy hai bên đường trúc rủ rườm rà, rêu xanh phủ kín, ở giữa có một con đường đá nhỏ quanh cọ Già Lưu mời Giả mẫu và mọi người đi lên đường đá, còn mình thì đi sang bên mé đường đất. Hổ Phách kéo già Lưu lại bảo:

– Bà già, bà cứ đi lên trên này, đi vào rêu trơn trượt ngã đấy.

Già Lưu nói:

– Không việc gì, tôi đi quen rồi, các cô cứ đi lên trên, không thì giày của các cô sẽ dính bùn.

Già Lưu cứ cắm đầu nói chuyện, không ngờ trượt chân ngã “oách” một cái. Mọi người đều vỗ tay cười. Giả mẫu cũng cười và mắng bọn chúng:

– Lũ ranh này! Không đỡ bà ấy lên lại đứng mà cười!

Già Lưu đã bò dậy, cũng cười theo:

– Vừa mới nói xong, chính mình lại vả vào miệng mình.

Giả mẫu hỏi:

– Có sái lưng không? Bảo a hoàn nó bóp cho!

– Thế chả hóa ra tôi yếu lắm hay sao? Một ngày ít ra cũng ngã đến vài lần. Lúc nào cũng phải đấm bóp thì làm thế nào được!

Tử Quyên vén rèm lên, bọn Giả mẫu vào ngồi. Đại Ngọc tự đi pha một chén trà, để vào cái khay mời Giả mẫu uống.

Vương phu nhân nói:

– Chúng tôi không khát, cô đừng pha nữa.

Đại Ngọc nghe nói, liền sai a hoàn mang cái ghế dựa của mình thường ngồi ở trước cửa sổ xuống, mời Vương phu nhân ngồi. Già Lưu trông thấy cái bàn ở dưới cửa sổ có để nghiên bút, trên tủ lại có nhiều sách, liền nói:

– Chắc là buồng đọc sách của cậu nào đây?

Giả mẫu cười, trỏ vào Đại Ngọc, nói:

– Chính là nhà của con cháu ngoại tôi đấy.

Già Lưu để ý nhìn Đại Ngọc một lúc, rồi nói:

– Có gì là giống buồng thêu của một vị tiểu thư đâu? So với buồng sách lịch sự nhất lại còn đẹp hơn!

Giả mẫu hỏi:

– Sao không thấy Bảo Ngọc?

Bọn a hoàn thưa:

– Cậu ấy đang chèo thuyền ở hồ.

Giả mẫu nói:

– Ai sắp sẵn thuyền thế?

Lý Hoàn thưa:

– Khi mở lầu lấy đồ xuống, cháu đoán là bà thích đi thuyền, nên cũng sắp sẵn trước.

Giả mẫu muốn nói nữa, nhưng có người vào trình:

– Có Tiết phu nhân đến.

Mọi người đứng cả lên, Tiết phu nhân đã vào đến nơi, ngồi xuống, cười nói:

– Hôm nay cụ cao hứng quá, đã đến đây rồi.

Giả mẫu nói:

– Tôi vừa nói ai đến chậm phải phạt, thế mà bà dì lại đến chậm.

Mọi người cười nói một lúc. Giả mẫu nhân trông thấy bức màn the treo trên cửa sổ đã cũ, liền bảo Vương phu nhân:

– Bức màn này khi mới treo, trông đẹp đấy, nhưng để lâu phai màu. Ngoài sân không có cây đào cây hạnh nào, mà trúc đã có lá xanh rồi. Cứ treo màn xanh không ăn màu. Ta nhớ nhà ta có những bức màn treo cửa sổ bốn năm màu kia mà. Ngày mai, bảo lấy thay bức màn này đi.

Phượng Thư nói:

– Hôm nọ cháu mở buồng kho, thấy trong hòm lớn có mấy tấm the “thuyền dực” 1: màu ngân hồng, tấm thì dệt lối hoa chiết chi, tấm thì Lưu vân biển bức 2, tấm thì bách điệp xuyên hoa 3, màu vừa tươi, lại nhã, nhũn nhẹ. Nhưng không thấy thứ the như bà nói. Nếu có thứ ấy, đem ra làm nệm gấm thì chắc đẹp lắm.

Giả mẫu cười nói:

– Hừ! Người ta bảo mày cái gì cũng biết, cái gì cũng từng trải cả. Thế mà ngay thứ the ấy mày cũng không nhận ra được, rồi lại còn nói láo!

Mọi người đều cười, nhân nói:

– Chị đã từng trải đến mấy cũng còn kém cụ? Sao cụ không dạy bảo chị ta để cho chúng tôi cũng được nghe nhờ?

Phượng Thư cười nói:

– Bà ơi. Bà dạy cháu với!

Giả mẫu cười nói với Tiết phu nhân và mọi người:

– Loại the này có từ khi các người chưa đẻ kia. Chẳng trách được nó cho là thứ the “thuyền dực”, vì hai thứ gần giống nhau. Ai không biết thì bảo là the “thuyền dực”, nhưng tên nó là “nhuyễn yên la” 4 kia.

Phượng Thư nói:

– Cái tên ấy cũng dễ nghe. Cháu đã lớn bằng này rồi, kể ra cũng đã được xem hàng mấy trăm thứ the, nhưng chưa được nghe tên ấy bao giờ.

Giả mẫu cười nói:

– Mày đã bao nhiêu tuổi? Biết được bao nhiêu thứ thẻ Lại dám nói láo! Loại nhuyễn yên la này chỉ có bốn màu: một là vũ quá thiên thanh 5, hai là thu hương sắc 6, ba là tùng lục, bốn là ngân hồng. Nếu đem ra làm màn hay che cửa sổ, trông xa như khói mù ấy, cho nên gọi là nhuyễn yên lạ Màu ngân hồng lại có tên là hà ảnh sa 7 nữa. Bây giờ ngay the trong nội phủ nhà vua thường dùng, cũng không có thứ nào như thế.

Tiết phu nhân cười nói:

– Không cứ chị Phượng, chính tôi cũng chưa nghe thấy bao giờ.

Phượng Thư bảo người đi lấy một tấm mang đến. Giả mẫu nói:

– Chính thứ này đây! Lúc trước chỉ để che cửa sổ thôi, sau chúng ta đem ra làm chăn, làm màn, cũng thấy đẹp. Ngày mai lấy mấy tấm ra, đưa một tấm màn ngân hồng cho nó che cửa sổ.

Phượng Thư vâng lời. Mọi người tấm tắc khen đẹp. Già Lưu cũng ghé mắt vào xem, niệm phật luôn mồm, nói:

– Chúng tôi muốn may quần áo cũng không có, nay lại đem ra che cửa sổ, có đáng tiếc không?

Giả mẫu nói:

– Thứ này may quần áo không đẹp.

Phượng Thư kéo cái nẹp áo bông bọc the màu đại hồng đang mặc trong mình ra, nói với Giả mẫu và Tiết phu nhân:

– Thử xem cái áo của cháu đây này.

Giả mẫu và Tiết phu nhân đều nói:

– Hạng này tốt nhất đấy, ngay những thứ nhà vua dùng trong nội phủ cũng không đẹp bằng.

Phượng Thư nói:

– Tấm the mỏng này có gì mà lại bảo là nhà vua dùng trong nội phủ cũng không đẹp bằng.

Giả mẫu nói:

– Cố tìm xem, may còn, sẽ mang cả ra đây, biếu già Lưu hai tấm. Có hạng vũ quá thiên thanh, thì làm cho ta một cái màn treo. Còn thừa ít nào tìm thêm cái lót mà may áo khoác vai cho bọn a hoàn, chứ để lâu mục ra mất.

Phượng Thư vâng lời, rồi sai người cất đi.

Giả mẫu cười nói:

– Ở đây chật lắm, ta ra chỗ khác chơi.

Già Lưu cười nói:

– Người ta thường nói “con quan thì ở nhà quan”. Hôm qua thấy trong phòng cụ bày những tủ to, hòm to, bàn to, giường to, trông thực oai vệ. Chỉ cái hòm còn to và cao hơn gian nhà của chúng tôi. Chẳng trách được, sau nhà phải để cái thang. Tôi nghĩ không ai lên buồng phơi phóng đồ lề, thì để thang ở đấy làm gì? Sau tôi mới nghĩ ra, chắc là để trèo lên mở hòm lấy đồ đạc. Không có thang thì lên thế nào được? Giờ trông thấy cái nhà nhỏ này, lại còn gọn gàng hơn. Đồ đạc đầy nhà, cái gì cũng đẹp cả, không biết những thứ ấy tên là gì? Tôi càng nhìn, càng không muốn dời chân khỏi chỗ này!

Phượng Thư nói:

– Còn chỗ đẹp hơn kia, tôi sẽ đưa bà đi xem một lượt.

Mọi người ra khỏi quán Tiêu Tương, trông xa thấy một đám người chèo thuyền ở giữa hồ, Giả mẫu nói:

– Họ sắp sẵn thuyền cả rồi, chúng ta xuống chơi một lát.

Nói xong đi thẳng đến bến Lục Tư ở Tử Lăng châu. Gần đến nơi, đã thấy mấy bà già bưng đến những khay sơn năm màu thếp vàng. Phượng Thư vội hỏi Vương phu nhân:

– Sáng nay dọn cơm ở đâu?

– Hỏi cụ xem người bảo ngồi ở đâu thì dọn.

Giả mẫu nghe nói, quay lại bảo:

– Chỗ cô Ba tiện hơn, cứ dọn cơm ở đấy. Chúng ta sẽ đi thuyền đến.

Phượng Thư nghe nói, quay lại cùng Lý Hoàn, Thám Xuân, Uyên Ương và Hổ Phách dẫn những người bưng cơm đi theo đường tắt đến Thu Sảng trai, bầy bàn ăn ở Hiểu Thúy đường. Uyên Ương cười nói:

– Ngày thường chúng ta nói các ông ở ngoài, khi uống rượu ăn cơm đều có người giúp vui. Hôm nay chúng ta cũng có vị gia khách đàn bà đấy.

Lý Hoàn là người trung hậu, không để ý đến câu nói ấy. Phượng Thư hiểu ngay là ám chỉ già Lưu, liền cười nói:

– Hôm nay chúng ta sẽ mang bà ấy ra làm trò cười.

Hai người bàn bạc với nhau. Lý Hoàn cười bảo:

– Các cô chẳng tử tế tý nào cả. Có phải trẻ con đâu mà vẫn hay đùa thế. Coi chừng cụ mắng cho đấy!

Uyên Ương cười nói:

– Không việc gì đến mợ, đã có tôi.

Bọn Giả mẫu đến, ai nấy tiện đâu ngồi đấy. A hoàn rót nước trà đưa mời. Mọi người uống xong, Phượng Thư tay cầm cái khăn có bọc mấy đôi đũa mun bịt bạc, bày lên các bàn. Giả mẫu bảo:

– Mang một cái bàn nhỏ gỗ nam lại đây, mời già Lưu ngồi cạnh ta.

Mọi người liền mang lại. Phượng Thư đưa mắt cho Uyên Ương. Uyên ương kéo già Lưu ra ngoài, khẽ dặn mấy câu, lại nói:

– Đó là khuôn phép nhà chúng tôi, nếu nhầm thì người ta cười cho đấy.

Dặn xong về chỗ ngồi.

Tiết phu nhân ăn cơm rồi, xin kiếu, ngồi ra một bên uống nước.

Giả mẫu dẫn Bảo Ngọc, Tương Vân, Đại Ngọc và Bảo Thoa cùng ngồi một bàn. Vương phu nhân dẫn ba chị em Nghênh Xuân ngồi một bàn. Bàn già Lưu kê sát bàn Giả mẫu. Ngày thường, Giả mẫu ăn cơm, đều có a hoàn nhỏ đứng sẵn bên cạnh, cầm ống nhổ, phất trần, khăn taỵ Đúng ra Uyên Ương không phải làm những việc ấy, nhưng hôm nay cũng đến cầm cái phất trần phe phẩy. Bọn a hoàn biết cô ta muốn trêu chọc già Lưu, nên lánh mặt đi, Uyên Ương vừa đứng hầu, vừa đưa mắt nhìn già Lưu. Già Lưu nói: “Cô cứ yên tâm”.

Già Lưu vào chỗ ngồi, cầm đũa lên, nhưng nặng chình chịch, không vừa taỵ Vì Phượng Thư và Uyên Ương đã bàn với nhau từ trước, lấy riêng cho già Lưu một đôi đũa ngà già bốn cạnh có bịt vàng. Già Lưu thấy đôi đũa, nói:

– Cái nạng này còn nặng hơn cả cái xẻng của nhà chúng tôi, thế này thì cầm sao được! Mọi người nghe vậy cười ầm lên.

Rồi một người đàn bà bưng một cái quả đứng ở đấy, một a hoàn đến mở nắp, trong có hai cái bát đồ ăn. Lý Hoàn bưng một bát đặt lên bàn Giả mẫu. Phượng Thư lại chọn một bát trứng bồ câu đặt ở bàn già Lưu.

Giả mẫu ở bên này nói sang: “Xin mời. Già Lưu đứng dậy nói to:

– Già Lưu, già Lưu, ăn khỏe như trâu; ăn phàm như lợn không hề ngẩng đầu.

Rồi bà phùng má trợn mắt, chẳng nói một câu. Mọi người trước còn ngẩn người ra nhìn, sau trên dưới đều cười ầm lên. Tương Vân không nhịn nổi, cười phì cả cơm ở mồm ra. Đại Ngọc cười sặc sụa, gục xuống bàn chỉ kêu “úi chà!”. Bảo Ngọc lăn vào lòng Giả mẫu, Giả mẫu cười ôm lấy Bảo Ngọc, gọi “Cháu của bà ơi!” Vương phu nhân cười trỏ tay vào Phượng Thư nhưng không nói được câu gì. Tiết phu nhân không nhịn được cười phun cả nước trà ra quần Thám Xuân. Tích Xuân đứng dậy vịn vào vú em, bảo xoa hộ bụng. Khắp xung quanh ai cũng lăn ra cười, có người lẻn ra ngoài cửa, có người nhịn cười đi thay quần áo cho các cộ Chỉ có Phượng Thư và Uyên Ương vẫn nhịn cười, luôn miệng mời già Lưu.

Già Lưu cầm đũa, nhưng khó gắp quá, lại nói:

– Giống gà nhà này đẹp quá, đẻ được nhưng quả trứng nhỏ xinh xắn thế này. Khéo thật, tôi hãy đâm một quả đã!

Mọi người vừa ngớt cười xong, nghe thấy câu nói ấy lại cười ầm lên. Giả mẫu cười chảy cả nước mắt, không thể nhịn được; Hổ Phách đứng đằng sau đấm lưng. Giả mẫu cười nói:

– Chắc lại con ranh Phượng bày trò ra đây? Từ nay nói gì thì cũng đừng tin nữa.

Già Lưu đang khen trứng gà nhỏ đẹp, muốn đâm một quả. Phượng Thư cười nói:

– Mỗi quả trứng gà một lạng bạc đấy! Bà ăn đi, để nguội không ngon đâu.

Già Lưu giơ đũa định gắp, nhưng gắp thế nào được? Khua ngầu cả bát lên, mãi mới gắp lên được một quả, vừa mới ngẩng cổ định ăn, thì quả trứng lại rơi tuột xuống đất mất.

Già Lưu vội đặt đũa xuống, định lấy tay nhặt, nhưng những người đứng đấy đã nhặt đi rồi. Già Lưu thở dài:

– Thế là mất toi một lạng bạc.

Mọi người không ai để ý đến ăn, chỉ nhìn già Lưu mà cười. Giả mẫu nói:

– Hôm nay ai mang đôi đũa đấy ra đây? Không phải mời khách ngoài, bày tiệc to mà! Thôi lại chỉ con Phượng bày trò ra đây! Không đem thay đôi khác đi à!

Những người hầu không ai sắp đôi đũa ngà này cả, chỉ có Phượng Thư và Uyên Ương đem ra, nay thấy thế, họ liền cất đi rồi lấy đôi đũa gỗ mun bịt bạc đến đổi.

Già Lưu nói:

– Bỏ đũa vàng lại mang đũa bạc đến, cũng vẫn không bằng đũa chúng tôi cầm vừa tay hơn.

Phượng Thư nói:

– Trong đồ ăn lỡ có chất độc, lấy đũa bạc thử thì biết ngay.

Già Lưu nói:

– Trong đồ ăn này mà có độc, thì những thứ đồ ăn của chúng tôi đều là nhân ngôn cả! Dù độc chết người tôi cũng cứ ăn.

Giả mẫu thấy già Lưu vui vẻ như thế, ăn có vẻ ngon lành, liền sai người mang những đồ ăn của mình sang, lại bảo vú già gắp đồ ăn vào bát cho thằng Bản.

Ăn xong, bọn Giả mẫu vào buồng Thám Xuân nói chuyện, ở ngoài xếp dọn bàn ăn rồi lại bày một bàn khác. Già Lưu trông thấy Lý Hoàn cùng Phượng Thư ngồi ăn, thở dài nói:

– Cái khác không nói làm gì, tôi chỉ thích cách làm việc trong nhà các mợ! Chẳng trách được, người ta thường nói: “Lễ ở nhà quan ra”.

Phượng Thư cười nói:

– Bà đừng nghĩ ngợi gì nhé, vừa rồi chẳng qua để mọi người cùng vui đấy thôi.

Nói chưa dứt lời, thì Uyên Ương chạy lại, cười nói:

– Bà đừng giận, tôi xin lỗi bà.

Già Lưu cười nói:

– Cô nói gì thế? Chúng ta đều làm cho cụ vui lòng cả, có điều gì đáng giận? Trước cô dặn tôi, tôi cũng hiểu rồi, chẳng qua làm cho mọi người cùng vui đấy thôi. Nếu giận thì tôi đã chẳng nói.

Uyên Ương liền mắng người hầu:

– Tại sao chưa pha trà cho già uống?

Già Lưu vội nói:

– Cô ấy đã pha trà cho tôi uống rồi. Cô cứ đi ăn cơm đi.

Phượng Thư kéo Uyên Ương ngồi xuống bảo:

– Cô ngồi đây ăn với chúng tôi, đỡ phải phiền nữa.

Uyên Ương ngồi xuống, bọn bà già lấy thêm bát đũa. Ba người ăn xong, già Lưu cười nói:

– Tôi thấy các cô chỉ ăn có một tý đã xong rồi, như thế không đói à! Chẳng trách được, gió thổi một cái cũng ngã!

Uyên Ương hỏi:

– Hôm nay đồ ăn còn thừa nhiều, họ đi đâu cả?

Bọn bà già nói:

– Họ đều chưa về, còn ngồi chờ cả ngoài kia, đem phân phát cho họ ăn.

Uyên Ương nói:

– Họ ăn không hết chừng ấy đâu, lấy vài món mang sang cho Bình Nhi bên nhà mợ Hai.

Phượng Thư nói:

– Bình Nhi ăn cơm sáng rồi, không cần phải mang cho nữa.

Uyên Ương nói:

– Nếu nó không ăn thì cho mèo nhà mợ ăn.

Bà già chọn hai món để vào quả mang sang. Uyên Ương hỏi:

– Chị Tố Vân đi đâu?

Lý Hoàn nói:

– Nó đã ngồi ăn cả đây rồi, còn hỏi làm gì?

Uyên Ương nói:

– Thế thì thôi.

Phượng Thư nói:

– Tập Nhân không ở đây, cô bảo người đưa hai món sang cho cô ấy ăn.

Uyên Ương liền sai người mang sang hai món.

Uyên Ương lại hỏi bọn bà già:

– Cái quả đựng đồ ăn để lát nữa trở về uống rượu, đã sắp sẵn chưa?

– Có nhẽ phải chờ một lúc nữa.

– Nhanh lên một tý.

Bà già vâng lời.

Bọn Phượng Thư vào buồng Thám Xuân, thấy các chị em đang cười đùa. Thám Xuân vốn thích rộng rãi, ba gian nhà ở đều để thông luôn. Giữa nhà kê một cái bàn to bằng đá Đại Lý, trên bàn có các loại bút thiếp của cái bậc danh nhân, cùng mấy chục cái nghiên báu, và các thứ ống bút; bút cắm ở ống như rừng cây. Một bên bày cái lọ sứ Như Châu to bằng cái đấu, cắm đầy hoa cúc trắng như thủy tinh. Phía tường bên Tây treo một bức họa “Yên vũ đồ” của Mễ Tương Dương 8.

Hai bên treo hai câu đối, bút tích của ông Nhan Lỗ công 9: Phong lưu cảnh đượm màu mây khói, chất phác người quen thú suối rừng. Trên án đặt một cái đỉnh lớn, trên cái giá gỗ đàn tía ở bên tả đặt một cái mâm sứ lớn, trên mâm bày mấy chục quả phật thủ vàng tươi; trên cái giá sơn ở bên hữu treo một cái khánh Tị Mục 10 bằng ngọc trắng, bên cạnh treo một cái dùi nhỏ.

Thằng Bản đã hơi quen rồi, nó định lấy dùi gõ khánh, bọn a hoàn vội ngăn lại. Nó lại muốn ăn phật thủ, Thám Xuân chọn cho một quả, nói:

– Để chơi thôi, không ăn được.

Trông thấy ở phía đông kê một cái giường cao chân, trên treo màn the màn xanh có thêu hoa cỏ, sâu bọ, thằng Bản chạy đến xem rồi nói:

– Đây là con cào cào, đây là con châu chấu.

Già Lưu tát nó một cái, mắng:

– Đồ con nhà hèn hạ! Làm ồn cả lên! Cho mày đến xem, mày lại dám hỗn thế à!

Thằng Bản khóc ầm lên, mọi người dỗ mãi nó mới nín.

Giả mẫu đứng trong màn cửa sổ nhìn ra sân sau, nói:

– Cây ngô đồng ở thềm đằng sau đẹp nhỉ, chỉ phải tội nhỏ thôi.

Chợt có một cơn gió thổi qua, vẳng nghe thấy tiếng đàn sáo. Giả mẫu hỏi:

– Nhà ai cưới vợ đấy? ở đây gần phố nhỉ?

Vương phu nhân nói:

– Ở ngoài phố thì nghe thế nào được? Đó là mười mấy cô gái bé của chúng ta đang tập đàn hát đấy.

Giả mẫu cười nói:

– Họ tập hát sao không bảo đến đây mà tập. Họ được chơi, chúng mình được vui, chả hơn ư?

Phượng Thư liền sai người đi gọi, rồi bảo người bày bàn, và trải thảm đỏ ra.

Giả mẫu nói:

– Bày ở nhà thủy tọa Ngẫu Hương tạ, nhờ có tiếng nước chảy lại càng vui tai. Chốc nữa chúng ta sẽ uống rượu ở tầng dưới Xuyết Cẩm các, vừa rộng rãi, vừa nghe được gần. Mọi người đều khen phải. Giả mẫu ngoảnh về phía Tiết phu nhân cười nói:

– Thôi chúng ta đi chơi, bọn chị em nó không thích đông người đến đâu, vì sợ bẩn nhà. Chúng ta biết thừa đi rồi, hãy ra ngồi thuyền uống rượu đi.

Mọi người đứng dậy định đi ngaỵ Thám Xuân cười nói:

– Sao bà lại nói thế? Mong bà, cùng dì và mẹ đến ngồi chơi còn chưa được nữa là.

Giả mẫu nói:

– Con cháu Ba còn khá, chỉ có hai cháu Ngọc là đáng ghét. Chốc nữa uống rượu say, chúng ta đến nhà chúng nó quấy chơi.

Mọi người đều cười ầm lên, rồi đi ra cả. Không mấy chốc đã đến bến Hành Diệp. Mấy cô lái thuyền được kén ở Cô Tô về đã chèo hai chiếc thuyền gỗ đương đến. Mọi người đỡ Giả mẫu, Vương phu nhân, già Lưu, Uyên Ương và Ngọc Xuyến lên một chiếc thuyền, Lý Hoàn cũng lên theo. Phượng Thư lên đứng ở đầu thuyền định chở đi. Giả mẫu ở trong khoang nói:

– Đừng đùa nhé! Đây không phải là sông, nhưng cũng có chỗ sâu đấy. Mày vào ngay trong này cho tao!

Phượng Thư cười nói:

– Sợ gì! Bà cứ yên tâm.

Nói xong, liến lấy sào đẩy ra đến giữa hồ. Thuyền nhỏ, người nhiều, Phượng Thư thấy choáng váng, vội đưa sào cho cô lái rồi ngồi xuống.

Chị em Nghênh Xuân cùng Bảo Ngọc lên một chiếc thuyền khác đi tới, còn bọn bà già, a hoàn cứ đi theo dọc bờ sông.

Bảo Ngọc nói:

– Những lá sen tàn này thật đáng ghét, sao không sai người nhặt hết đi.

Bảo Thoa cười nói:

– Mấy lâu nay những người coi vườn có được rỗi đâu, ngày nào chúng ta cũng đi chơi, họ còn thì giờ đâu mà đi nhặt được nữa?

Đại Ngọc nói:

– Xưa nay tôi không thích thơ Lý Nghĩa Sơn 11 chỉ thích có một câu của ông ta là: Sen tàn nghe rốn tiếng mưa thụ Bây giờ các người lại không để lại những lá sen tàn à!

Bảo Ngọc nói:

– Câu ấy hay thật! Từ giờ trở đi, chúng ta không sai người nhặt đi nữa.

Mọi người đi đến dưới kênh La Cảng ở bến Hoa Tự, thấy bóng mát lạnh toát người, hai bên bờ sông cỏ úa ấu tàn, càng gợi tình thụ Giả mẫu thấy trên bờ có những nhà mát rộng rãi, liền hỏi:

– Đây có phải là nhà cô Tiết đấy không?

Mọi người thưa: “Vâng”. Giả mẫu bảo đỗ thuyền vào bờ, theo bậc đá trèo lên, cùng đến Hành Vu uyển, thấy sực nức mùi thơm. Những cỏ lạ dây tiên càng lạnh bao nhiêu, lại càng xanh tốt bấy nhiêu, nó đã ra quả như hạt đậu san hô, trĩu xuống đáng yêu. Vào đến trong nhà, thấy trắng tinh, không có một thứ đồ chơi nào cả. Trên án chỉ bày một cái lọ sành Châu Định, cắm vài cành cúc, cùng mấy bộ sách, hộp trà và chén trà thôi; trên giường treo cái màn the xanh, chăn đệm thì mộc mạc xuềnh xoàng lắm.

Giả mẫu than thở:

– Con bé này thực thà quá! Không bày biện gì cả. Tao cũng không để ý đến. Tất nhiên đồ đạc của nhà cháu không mang đến đây được, nhưng sao không hỏi dì cháu đưa cho mấy thứ mà bày?

Giả mẫu sai Uyên Ương về mang mấy thứ đồ cổ đến; lại mắng Phượng Thư:

– Mày là đồ keo kiệt, không mang đến đây cho em được mấy thứ đồ chơi.

Vương phu nhân và Phượng Thư đều cười nói:

– Cô ấy không thích. Chúng tôi đã cho mang đến, nhưng cô ấy đều giả lại cả.

Tiết phu nhân cười nói:

– Khi nó ở nhà cũng không thích những đồ ấy.

Giả mẫu lắc đầu nói:

– Không thể thế được. Dù cháu không muốn bày vẽ, nhưng có bà con đến chơi thì coi sao được; vả lại nhà ở của các cô mà giản dị quá cũng nên kiêng. Các cô mà ở như vậy thì bọn già chúng ta chỉ đáng ở chuồng ngựa thôi. Các người thử xem những phòng thêu của các tiểu thư ngày trước ở trong sách và trên sân khấu, đẹp đẽ diêm dúa biết là nhường nào. Bọn chị em bây giờ tuy không dám ví với những bậc tiểu thư ngày trước, nhưng cũng không nên xuềnh xoàng quá. Đồ đạc có sẵn cả, tại sao không đem bày? Nếu muốn giản dị thì bày ít đi mấy thứ cũng được. Xưa nay ta rất khéo trang trí nhà cửa, bây giờ già rồi, không hơi đâu nghĩ đến những việc ấy nữa. Chị em chúng nó cũng nên học cách trang trí cho đẹp. Mình mà tục, thì dù có bày đồ đẹp chăng nữa cũng bằng thừa. Nhưng ta xem chị em chúng nó không phải là bọn tục đâu. Bây giờ để ta trang trí cho, vừa đường hoàng lại thanh nhã. Ta có vài thứ của riêng, giờ vẫn cất đi không cho thằng Bảo trông thấy; nó thấy thì mất toi.

Nói xong, gọi Uyên Ương đến bảo:

– Mày về lấy cái chậu cây bằng đá, cái bình phong bằng lụa và cái đỉnh đá màu vân ám đến đây. Cứ bày ba cái ấy ở trên bàn là đủ. Rồi vất cái màn này đi, lấy cái màn lụa trắng vẽ thủy mạc treo vào đấy.

– Nhưng thứ ấy đều cất ở trên lầu phía đông, không biết ở hòm nào, để thư thả tìm xem, ngày mai sẽ mang đến.

– Hôm nào cũng được, nhưng đừng có quên.

Giả mẫu ngồi chơi một lúc rồi đi đến dưới gác Xuyết Cẩm. Bọn con hát lên chào và hỏi “Diễn vở gì?” Giả mẫu nói:

– Chọn nhưng vở nào các em đã đóng quen rồi thì diễn.

Bọn con hát diễn xong, mọi người mới trở về Ngẫu Hương tạ.

ở đây Phượng Thư đã cho người bày biện đầy đủ. Trên kê hai cái giường, trên giường trải nệm gấm, trước mỗi cái giường để hai cái kỷ sơn; cái chạm kiểu hoa hải đường, cái kiểu hoa mai, cái kiểu lá sen, cái kiểu hoa quỳ; cái vuông, cái tròn, không cái nào giống cái nào. Trên kỷ đầu để một lư hương và một cái quả. Hai cái giường bốn cái kỷ ở trên là chỗ Giả mẫu và Tiết phu nhân ngồi. Phía dưới một cái ghế, hai cái kỷ là chỗ Vương phu nhân ngồi. Còn thì mỗi người một ghế một kỷ. Bên đông là chỗ già Lưu ngồi, dưới đó là Vương phu nhân. Bên tây là Tương Vân, rồi Bảo Thoa, Đại Ngọc, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, cứ theo thứ tự mà ngồi, cuối cùng là Bảo Ngọc. Hai cái ghế của Lý Hoàn và Phượng Thư để ở bậc thứ ba, bên ngoài cái tủ the để bậc thứ hai. Kiểu kỷ thế nào, kiểu quả cũng thế. Mỗi người một bình rượu nhỏ bằng đồng đen chạm và một cái chén pha lê.

Mọi người ngồi xong, Giả mẫu cười nói:

– Trước hết, chúng ta mỗi người uống hai chén. Hôm nay cứ phải có “tửu lệnh” mới có ý nghĩa.

Tiết phu nhân cười nói:

– Cụ chắc có nhiều tửu lệnh hay, các cháu hiểu thế nào được? Người định để cho các cháu say, các cháu xin uống thêm mấy chén nữa.

Giả mẫu cười nói:

– Dì hôm nay nói nhún quá, chắc là chê tôi già rồi.

Tiết phu nhân cười nói:

– Không phải là nói nhún, sợ không theo nổi lệnh, lại làm trò cười thôi.

Vương phu nhân cười nói:

– Nếu không theo nổi, thì uống thêm một chén, say rồi đi ngủ, còn ai cười chúng mình vào đâu?

Tiết phu nhân gật đầu cười nói:

– Xin theo lệnh. Nhưng cụ phải uống trước một ly rượu lệnh mới được.

Giả mẫu cười nói:

– Đúng thế.

Liền uống một chén.

Phượng Thư vội đến cười nói:

– Đã ra tửu lệnh, nên cho Uyên Ương đứng hành lệnh mới phải.

Mọi người đều biết tửu lệnh của Giả mẫu là do Uyên Ưống nhắc trước, nên khi nghe xong, đều nói: “Phải lắm”.

Phượng Thư kéo Uyên ương đến. Vương phu nhân cười nói:

– Đã được cử ra hành lệnh, không có nhẽ cứ phải đứng mãi.

Liền quay lại bảo a hoàn nhỏ: “Lấy một cái ghế nhỏ để ở trước bàn hai mợ mày”.

Uyên Ương rụt rè, xin phép ngồi xuống, rồi uống một ly rượu, cười nói:

– Tửu lệnh phải nghiêm như quân lệnh, không cứ sang hèn, đều do tôi làm chủ cả. Trái lời tôi phải phạt.

Vương phu nhân cười nói:

– Đúng thế, hãy nói đi.

Uyên Ương chưa kịp nói, già Lưu đã đứng dậy xua tay nói:

– Đừng trêu chọc người ta! Tôi đi về đây.

Mọi người đều cười nói:

– Không thể thế được.

Uyên Ương quát sai bọn hầu nhỏ ra kéo già Lưu vào ghế. Già Lưu kêu lên:

– Thôi tha cho tôi!

Uyên Ương nói:

– Bà còn nói nữa sẽ phải uống một bình.

Già Lưu mới chịu thôi. Uyên Ương nói:

– Bây giờ tôi nói cách chơi bằng con bài. Từ cụ trở xuống đến già Lưu, đều phải theo lệnh. Ví dụ tôi gọi tên một phu bài, tôi sẽ tách riêng ba con ra, bắt đầu nói con thứ nhất, rồi đến con thứ hai. Nói đến lượt ai, người đó sẽ nói một câu, phải đúng vần. Nếu sai sẽ bị phạt một ly rượu.

Mọi người cười nói:

– Lệnh hay lắm, nói mau đi.

Uyên Ương nói:

– Đây có một phu bài. Bên trái là quân thiên.

Giả mẫu nói: Trời xanh đứng ở bên trên.

Mọi người nói: “Hay”.

Uyên Ương nói:

– Ngũ lục đứng ở trung gian.

Giả mẫu nói:

– Lục kiều mai nở hương tràn thấu xương.

– Một quân lục hợp yêu.

– Một vành đỏ chói đương treo giữa trời.

– Hợp thành con quỷ bù đầu.

– Quỷ này ôm chặt đùi sau Chung Quỳ.

Mọi người cười rộ, khen ngợi. Giả mẫu uống một chén.

Uyên Ương lại nói:

– Lại có một phu bài. Bên trái quân đại trường ngũ đây.

Tiết phu nhân nói:

– Hoa mai trước gió tung bay từng chùm.

– Bên phải là quân đại ngụ trường.

– Tháng mười hai nức mùi hương trên ngàn.

– Giữa có quân tạp thất đây.

– Chức Ngưu thất tịch đêm ngày gặp nhau.

– Hai chàng dạo Ngũ Nhạc chơi,

– Cuộc vui tiên cảnh, dưới đời kém xa.

Mọi người khen hay, rồi Tiết phu nhân cũng uống một chén.

Uyên Ương lại nói:

– Đây là một phu bài nữa. Trường yêu bên trái hai vần.

Tương Vân nói:

– Hai vầng nhật nguyệt sáng trưng trần hoan.

– Trường yêu bên phải lập lòe.

– Tiếng hoa rụng xuống nào nghe thấy gì.

– Giữa con yêu tứ nữa đây.

– Kìa cây hồng hạnh tựa mây bên giời.

– Hợp thành một quả anh đào.

– Vườn qua lại để chim vào tha ra.

Nói xong, Tương Vân uống một ly rượu.

Uyên Ương lại nói:

– Lại có một phu bài nữa. Bên trái là quân trường tam.

Bảo Thoa nói:

– Một đôi chim yến kêu ran trên xà.

– Bên phải là quân tam trường.

– Gió đua thủy hạnh thòng lòng dây xanh.

– Giữa là tam lục chín khuyên.

– Núi Tam Sơn ngả ngoài miền trời xanh.

– Thuyền neo dây sắt chơi vơi.

– Nơi nào sóng gió là nơi buồn rầu.

Nói xong, uống một chén.

Uyên Ương lại nói:

– Quân thiên bên trái đây rồi.

Đại Ngọc nói:

– Ngày vui cánh đẹp tự trời biết sao.

Bảo Thoa nghe thấy câu ấy, quay lại nhìn. Đại Ngọc chỉ sợ bị phạt, nên không để ý.

Uyên Ương nói:

– Giữa bình gấm đẹp lạ lùng.

– Song the nào thấy ả Hồng báo tin.

– Nhị lục tám điểm đều nhau.

– Trước sân ngọc điện sắp chầu hai bên.

– Họp thành lẵng hái hoa rừng.

– Gánh hoa thược dược thơm lừng gậy tiên.

Nói xong uống một chén.

Uyên Ương nói:

– Bên trái tứ ngũ chín hoa.

Nghênh Xuân nói:

– Hoa đào đẫm mưa màu càng thắm.

Mọi người cười nói: Đáng phạt! Sai vần rồi, lại không đúng nghĩa.

Nghênh Xuân cười, uống một ly rượu phạt.

Nguyên vì Phượng Thư và Uyên Ương đều muốn nghe già Lưu nói để cười, cố ý bảo Nghênh Xuân nói sai đi. Đến lượt Vương phu nhân, thì Uyên Ương đọc giúp, sau đến già Lưu. Già Lưu nói:

– Chúng tôi ở nhà quê, khi nào rỗi, cũng thường họp mấy người chơi lối này, nhưng nghe không haỵ Thôi để tôi thử nói xem.

Mọi người cười nói:

– Dễ thôi, bà cứ nói đi, không việc gì.

Uyên Ương cười nói:

– Bên trái đại tứ là “người”.

Già Lưu nghe rồi, nghĩ mãi mới nói:

– Là người nhà quê chăng?

Mọi người cười vỡ nhà.

Già Lưu cười nói:

– Chúng tôi người nhà quê chẳng qua chỉ nói chuyện nhà quê, các cô các mợ đừng cười.

Uyên Ương nói:

– Giữa quân tam tứ đỏ xanh.

Già Lưu nói:

– Sâu trên đống lửa cháy thành ra tro.

Mọi người cười nói: “Phải đấy, hợp với cảnh bà đấy”.

Uyên Ương cười nói:

– Bên phải yêu tứ đẹp thay.

Già Lưu nói:

– Bó kia củ cải, bó này tỏi tươi.

Mọi người lại cười.

Uyên Ương cười nói:

– Hợp vào thành một cành hoa.

Già Lưu xoa tay ra vẻ muốn cười nhưng lại nhịn, rồi nói:

– Đến khi hoa rụng lại là quả dưa.

Mọi người nghe nói, không nhịn được, đều cười ầm lên. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng ồn ào.

1      The mỏng như cánh ve sầu.

2      Dơi bay theo đám mây.

3      Trăm con bướm hút nhị hoa.

4      Thứ the mềm và mỏng như làn khói.

5      Mưa tạnh trời xanh.

6      Màu hoa mùa thu.

7      Thứ the màu rán trời.

8      Mễ Tương Dương tên là Mễ thị, tên chữ là Nguyên Chương, người đất Tương Dương, đời nhà Tống. Văn hay chữ tốt, lại có tài riêng về sơn thủy nhân vật, thích chơi đồ đá lạ vàng quý. Oâng đã làm những bộ sách như Bảo tấn anh quang tập, Như sử, Họa sử, Nghiên sử.

9      Tức Nhan Chân Khanh (xem chú thích hồi 37).

10      Hai khánh chồng lên nhau, như giống cá hai mặt ở bên phải.

11      Tức Lý Thương Ân, người đời Đường, có lối thơ chải chuốt tình tứ.

_________________

Chương 41: Am Lương Thúy, Bảo Ngọc thưởng trà ngon – Viện Di Hồng, già Lưu say rượu ngủ

Am Lương Thúy, Bảo Ngọc thưởng trà ngon

Viện Di Hồng, già Lưu say rượu ngủ

Già Lưu xoa tay nói:

– Đến khi hoa rụng lại là quả dưa.

Mọi người cười ầm lên. Già Lưu uống chén rượn rồi nói đùa:

– Hôm nay xin nói thực: Tôi chân tay thô kệch, lại uống nhiều rượu không cẩn thận lỡ đánh vỡ chén sứ thì không tiện. Xin cho tôi một cái chén gỗ, có đánh rơi xuống đất cũng không can gì.

Mọi người lại cười. Phượng Thư nói:

– Bà muốn dùng chén gỗ à? Tôi sẽ lấy chọ Nhưng có điều này phải nói trước: chén gỗ không như chén sứ đâu, nó có từng bộ một, phải uống hết mới được.

Già Lưu trong bụng ngần ngừ: “Vừa rồi chẳng qua ta nói đùa cho vui đấy thôi, biết đâu họ lại có thực. Ta thường đến ăn tiệc ở các nhà thân hào trong làng, trông thấy chén vàng chén bạc, chứ có chén gỗ bao giờ: A! Đúng rồi! chắc là thứ bát gỗ của trẻ con dùng. Họ làm thế, chẳng qua lừa ta uống thêm vài bát đó thôi. Nhưng không sao, rượu ngọt như nước đường, uống thêm một ít cũng chẳng hại gì.” Nghĩ vậy già liền nói:

– Cứ mang lại đây tôi sẽ liệu.

Phượng Thư liền bảo Phong Nhi:

– Lấy bộ chén gốc trúc mười cái để trên giá sách trước mặt lại đây.

Phong Nhi định đi, Uyên Ương cười nói:

– Tôi biết rồi. Nhưng mười cái chén ấy hãy còn bé. Vả chăng mợ vừa bảo lấy chén gỗ, bây giờ lại lấy chén gốc trúc, như thế thì khó coi. Chi bằng lấy bộ mười cái chạm bằng rễ cây hoàng dương, đem đến đây, dốc hết cả cho bà ấy.

Phượng Thư cười nói: “Càng tốt”.

Uyên Ương sai người mang đến. Già Lưu trông thấy vừa sợ vừa mừng: sợ là phải uống mười chén lớn nhỏ một lúc, cái lớn vừa bằng cái chậu, cái nhỏ nhất cũng to gấp đôi cái chén mình cầm trên tay; mừng là thấy những chén chạm trổ rất đẹp, một màu non nước, cỏ cây và người, lại có đề chữ đóng dấu, liền nói:

– Đem cái chén nhỏ đến đây thôi.

Phượng Thư cười nói:

– Ở đây sức rượu kém cả, nên không ai dám dùng bộ chén ấy. Vì bà thích, tôi phải đi tìm mãi mới thấy, nhất định là bà phải lần lượt uống hết mười chén mới được.

Già Lưu sợ hãi vội nói:

– Không dám đâu, xin mợ tha cho.

Giả mẫu, Tiết phu nhân và Vương phu nhân biết già Lưu đã có tuổi, không uống nổi, liền cười nói:

– Nói thế cho vui đấy thôi, bà không nên uống nhiều. Uống một chén đầu là đủ.

Già Lưu nói:

– A di đà phật! Tôi xin uống chén nhỏ, còn chén nhớn thì cất đi, để tôi mang về nhà uống dần.

Mọi người lại cười ầm lên.

Uyên Ương không làm thế nào được, đành phải sai người rót một chén lớn. Già Lưu bưng lấy định uống. Giả mẫu và Tiết phu nhân đều nói:

– Uống thong thả chứ, không thì sặc đấy.

Tiết phu nhân lại sai Phượng Thư đưa đồ ăn đến.

Phượng Thư cười nói:

– Bà muốn ăn món gì, cứ nói, tôi sẽ gắp cho.

Già Lưu nói:

– Tôi biết tên món gì mà gọi? Cái gì cũng ngon cả.

Giả mẫu cười nói:

– Gắp cà xào cho bà ấy ăn.

Phượng Thư vâng lời, gắp miếng cà xào đưa vào mồm già Lưu, cười nói:

– Ngày nào bà cũng ăn cà, giờ thử nếm xem món cà ở đây chúng tôi làm có ngon hay không?

Già Lưu cười nói:

– Đừng đánh lừa tôi, nếu cà mà ngon thế này, thì chúng tôi chỉ giồng cà thôi, không cần giồng các thứ ăn khác.

Mọi người cười nói:

– Cà thật đấy, chúng tôi không nói dối bà đâu.

Già Lưu lấy làm lạ nói:

– Cà thật đấy à? Tôi ăn từ nãy đến giờ, vẫn không biết mùi gì cả! Mợ gắp ít nữa cho tôi, đến miếng này tôi nhai kỹ xem.

Phượng Thư lại gắp một miếng đưa vào mồm già Lưu. Nhai một lúc lâu, già Lưu cười nói:

– Cũng hơi có mùi cà, nhưng không phải là cà. Mợ bảo cách cho tôi, khi về tôi cũng học nấu món ăn này.

Phượng Thư cười nói:

– Có khó gì đâu cứ đến tháng tư tháng năm, bà hái cà về gọt vỏ bỏ núm, chỉ lấy ruột thôi, đem thái nhỏ như sợi tóc, phơi thật khộ Sau đó bắt một con gà mẹ, ninh ra nước và hấp cà lên, xong đem ra phơi, chín lần phơi, chín lần hấp, lại đem phơi thật khô, rồi bỏ vào trong lọ sứ bịt thật kín. Khi ăn sẽ lấy một thìa trộn với thịt gà xào mà ăn.

Già Lưu lắc đầu lè lưỡi nói:

– Phật tổ ơi! Thế thì phải hết đến non chục con gà mới nấu được một bát. Chẳng trách ngon là phải!

Già Lưu vừa cười vừa thong thả uống hết một ly rượu, rồi cứ ngắm nghía mãi cái chén. Phượng Thư cười nói:

– Nếu chưa đủ hứng, thì bà uống thêm một chén nữa.

Già Lưu nói:

– Không uống được nữa, say chết mất! Tôi thích cái chén này quá, không biết họ làm bằng gỗ gì!

Uyên Ương cười nói:

– Bà uống hết rượu rồi, cũng không biết cái chén này người ta làm bằng gỗ gì à?

Già Lưu nói:

– Không trách được các cô không biết là phải. Các cô ở trong nhà vàng cửa gấm, biết sao được các thứ gỗ? Chúng tôi quanh năm làm quen với rừng. Khi buồn ngủ lấy gỗ mà gối, lúc mệt lấy gỗ mà nằm dựa lưng, năm mất mùa đói kém phải ăn đến cả nó. Mắt lúc nào cũng trông thấy gỗ, tai lúc nào cũng nghe thấy gỗ, miệng lúc nào cũng nói đến gỗ. Vì thế thứ gỗ nào tốt, xấu, thật, giả, tôi đều biết cả, để tôi thử nhận xem.

Già Lưu vừa nói vừa ngắm nghía cái chén một lúc nói:

– Nhà các người thế này, khi nào có chăng đồ xấu. Những thứ gỗ xoàng chắc các người chẳng chịu sắm đâu. Tôi cầm thấy nó nặng chình chịch ấy. Nếu không phải là gỗ dương, cũng là gỗ thông vàng.

Mọi người nghe nói lại cười ầm lên.

Một bà già chạy đến trình Giả mẫu:

– Các cô đã đến Ngẫu Hương tạ cả rồi, xin cụ truyền cho hát ngay hay phải chờ lúc nữa.

Giả mẫu cười nói:

– Ta quên khuấy đi mất, bảo chúng nó cứ hát đi.

Bà già vâng lời đi ra.

Một lúc tiếng sênh, tiếng sáo lộn ràng, đàn địch vang dậy. Lại gặp buổi trời trong gió mát, điệu nhạc văng vẳng luồn qua khe rừng bến nước vọng lại, làm cho mọi người tâm thần sảng khoái. Bảo Ngọc không nén nổi lòng, liền cầm cái hồ rót một ly rượu uống hết. Đang định uống thêm chén nữa, bỗng thấy Vương phu nhân cũng sai người đi lấy rượu ấm, Bảo Ngọc vội mang ngay ly rượu của mình đưa đến tận miệng Vương phu nhân. Vương phu nhân uống hai hớp.

Một lúc, rượu ấm mang đến, Bảo Ngọc lại về chỗ cũ. Vương phu nhân cầm lấy hồ rượu, nói: “Mời bà dì mày ngồi. Ai ở đâu về đấy.” Vương phu nhân mới đưa cái hồ cho Phượng Thư, rồi tự mình ngồi xuống. Giả mẫu cười nói:

– Hôm nay thú quá, mọi người đều uống hai chén.

Rồi cầm chén mời Tiết phu nhân, lại bảo Tương Vân và Bảo Thoa:

– Hai chị em mày mỗi người phải uống một chén. Em Lâm mày không uống được nhiều cũng bắt phải uống.

Giả mẫu tự mình uống cạn chén trước, Tương Vân, Bảo Thoa, Đại Ngọc cũng đều uống cả.

Già Lưu nghe nhạc vui tai, lại có rượu mừng quá, múa chân múa tay lên. Bảo Ngọc liền đến cười bảo Đại Ngọc:

– Em xem già Lưu kìa.

Đại Ngọc cười nói:

– Ngày trước nhạc nhà vua vừa nổi lên, thì trăm muông nhảy múa. Bây giờ mới chỉ có một con trâu thôi.

Chị em đều cười.

Một lúc nhạc im. Tiết phu nhân cười nói:

– Mọi người uống rượu cả rồi, xin ra ngoài chơi một lúc.

Giả mẫu cũng thích ra chơi. Thế là cả nhà đều theo ra ngoài ngắm cảnh. Giả mẫu muốn đưa già Lưu đi dạo chơi, liền kéo già đến trước núi, dưới cây, quanh quẩn một lúc, bảo cho già biết cây này tên là gì, đá này tên là gì, hoa này tên là gì. Già Lưu đều ghi nhớ cẩn thận, nói:

– Ngờ đâu ở trong thành này, không những người, đến cả giống chim sẻ cũng sang trọng. Giống chim sẻ được ở trong nhà cụ cũng sinh khôn ra, và cũng biết nói.

Mọi người không hiểu, hỏi:

– Chim sẻ nào sinh khôn và biết nói?

Con chim có lông xanh, mỏ đỏ đậu ở cái cầu vàng ngoài hiên kia là con vẹt tôi đã biết rồi. Còn con quạ đen đầu có mào đang ở trong lồng kia cũng biết nói đấy.

Mọi người lại cười ầm lên.

Bọn a hoàn đem món điểm tâm đến. Giả mẫu nói:

– Mới uống vài ly rượu, chưa đói. Thôi cứ mang đến đây, ai muốn ăn gì thì ăn.

A hoàn khiêng đến hai kỷ, bày hai cái hộp nhỏ. Mở ra, mỗi hộp đựng hai thứ. Một hộp đựng hai món hấp: bánh hấp ngọt bột ngó sen có mùi hoa quế, và bánh cuốn mỡ ngỗng. Còn hộp nữa đựng hai thứ bánh rán: một thứ là bánh miến hấp, lớn độ một tấc. Giả mẫu hỏi:

– Bánh nhân gì đấy?

Bà già thưa:

– Nhân cua đấy ạ.

Giả mẫu cau mày nói:

– Bây giờ ngấy mỡ lắm rỗi, ai ăn được món ấy nữa.

Lại trông thấy món mì xào với mỡ, Giả mẫu cũng không thích, liền mời Tiết phu nhân ăn. Tiết phu nhân cầm một miếng bánh hấp ngọt. Giả mẫu cầm một cái bánh cuốn, nếm một miếng, còn thừa một nửa gọi cho a hoàn.

Già Lưu thấy bánh mỳ hấp trong suốt, lóng lánh, đủ màu đủ vẻ, lại cầm một cái bánh kiểu hoa mẫu đơn, cười nói:

– Các cô gái khéo nhất ở làng tôi cũng không cắt được cái hoa đẹp như thế này! Tôi muốn ăn nhưng lại tiếc, gói đưa về nhà để cho họ bắt chước cắt hoa thì tốt hơn.

Mọi người đều cười, Giả mẫu cười nói:

– Khi về tôi sẽ cho bà một vò mang về. Bây giờ bánh còn nóng, bà hãy ăn đi.

Mọi người chỉ lấy một vài cái nào mình thích ăn thôi.

Già Lưu xưa nay chưa từng được ăn những thứ này bao giờ, vả bánh làm lại khéo léo, xinh xắn, nên cùng thằng Bản ăn mỗi thứ mấy cái, đã vơi mất nửa mâm. Còn thừa, Phượng Thư sai dồn lại hai mâm và một hộp cho bọn Văn Quan ăn.

Bỗng vú em ẵm cháu Đại Thư đến. Mọi người đùa với nó một lúc, Đại Thư đương ôm quả bưởi chơi, thấy thằng Bản ôm quả phật thủ, nó đòi ngaỵ A hoàn dỗ đi lấy quả khác, nó chờ không được, khóc ầm lên. Mọi người lấy quả bưởi đưa cho thằng Bản rồi lấy quả phật thủ của thằng Bản đưa cho nó. Thằng Bản chơi quả phật thủ đã lâu rồi, lúc ấy hai tay lại đương cầm bánh ăn, trông thấy quả bưởi vừa thơm, vừa tròn, lại càng thích, định làm quả cầu để đá, nên không lấy quả phật thủ nữa.

Giả mẫu uống nước xong, dẫn già Lưu đến am Lũng Thúy. Diệu Ngọc đón chào. Mọi người vào đến sân, thấy hoa tươi cây tốt, Giả mẫu cười nói:

– Bọn họ tu hành rỗi việc, hay sửa sang, trông đẹp hơn các nơi nhiều.

Vừa nói vừa đi lên thiền đường bên đông. Diệu Ngọc cười mời vào trong nhà, Giả mẫu nói:

– Chúng tôi vừa uống rượn, ăn thịt xong, trong nhà thờ Phật vào sợ mắc tội; ngồi ở đây thôi. Người cứ mang trà ngon ra, chúng tôi uống một chén rồi đi.

Bảo Ngọc để ý xem cách tiếp đãi của Diệu Ngọc như thế nào, thấy Diệu Ngọc mang cái khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ vàng “vân long hiến thọ”, trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm màu dâng lên. Giả mẫu nói:

– Tôi không uống trà Lục An đâu.

– Tôi đã biết rồi. Đây là trà “Lão quân my” 1 đây.

– Pha bằng nước gì?

– Nước mưa năm ngoái đấy.

Giả mẫu uống nửa chén rồi đưa cho già Lưu, nói:

– Bà thử nếm trà này xem.

Già Lưu uống một hơi, cười nói:

– Ngon có ngon, nhưng hơi nhạt. Pha đặc một tí thì hơn.

Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Sau đều uống trà rót vào bát trắng có nắp.

Diệu Ngọc kéo áo Bảo Thoa và Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc cũng khe khẽ đi theo. Diệu ngọc mời hai người vào buồng bên cạnh. Bảo Thoa ngồi ở trên giường, Đại Ngọc ngồi ở chiếu tụng kinh của Diệu Ngọc. Diệu Ngọc lấy bếp lò đun nước, pha một ấm trà khác. Bảo Ngọc khẽ chạy đến, cười nói:

– Các cô uống trà riêng đấy à?

Hai người đều cười nói:

– Anh lại đến uống gạ! Đây không có trà cho anh uống đâu.

Diệu Ngọc đang định ra lấy chén, thấy bà già đã thu dọn ấm chén ở ngoài sân. Diệu Ngọc vội nói:

– Đừng cất cái chén sứ Châu Thành vội, hãy để ở ngoài ấy.

Bảo Ngọc hiểu ý, biết là già Lưu uống chén ấy, sợ bẩn nên cô ta không dùng nữa. Sau Diệu Ngọc lại mang hai cái chén khác ra, một cái có quai, trên khắc ba chữ lệ “cô kiều trác” 2, bên cạnh có một hàng chữ nhỏ, viết chân phương “Vương Khải trân ngoạn” 3 ; lại có một hàng chữ nhỏ nữa viết “Tống Nguyên Phong ngũ niên tứ nguyệt My Sơn Tô Thức kiến ư bí phủ” 4. Diệu Ngọc rót một chén đưa cho Bảo Thoa. Còn một chén dáng như cái bát nhưng mà nhỏ, cũng có ba chữ “điểm tế kiều” 5 khắc lối triện. Diệu Ngọc pha trà vào chén và đưa mời Đại Ngọc, rồi lấy cái chén ngọc xanh của mình thường dùng pha cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cười nói:

– Người ta thường nói “thế pháp bình đẳng” 6, sao hai cô được dùng đồ cổ quý, mà tôi lại phải dùng đồ tục này?

Diệu Ngọc nói:

– Thế là đồ tục à? Không phải tôi nói liều đâu, nhà cậu chưa chắc đã tìm ra được cái đồ tục này!

– Tục ngữ nói “Vào làng phải theo làng”, đến đây thì nhưng đồ vàng ngọc châu báu đều cho là tục cả.

Diệu Ngọc nghe nói thích lắm, lại lấy ra một cái chén lớn làm bằng gốc trúc chạm rồng cuộn ngoằn ngoèo nhiều khúc, cười nói:

– Chỉ còn có một cái chén nhớn này thôi, cậu có thể uống hết được không?

– Uống hết được.

– Dù uống hết, cũng chẳng phí trà đâu cho cậu uống. Cậu không nghe người ta nói: “Uống chén thứ nhất là để thưởng thức mùi vị trà, chén thứ hai là phường ngu xuẩn uống cho khỏi khát, đến chén thứ ba là con trâu con lừa uống rồi”. Bây giờ cậu uống cả một chén lớn này còn ra cái gì nữa.

Bảo Thoa, Đại Ngọc và Bảo Ngọc nghe xong đều cười ầm lên. Diệu Ngọc cầm bình nước chỉ rót độ một chén con vào chén lớn, Bảo Ngọc nhấm nháp từng tí, thấy hương vị mát nhẹ, khen ngợi không ngớt. Diệu Ngọc nghiêm nét mặt nói:

– Cậu nhờ phúc của hai cô mới được uống trà này, chứ một mình cậu thì tôi không mời đâu.

Bảo Ngọc cười nói:

– Tôi biết lắm, vì thế tôi không cám ơn người, chỉ cám ơn hai cô thôi.

Diệu Ngọc nói: “Đúng đấy”.

Đại Ngọc hỏi:

– Đây cũng là nước mưa năm ngoái phải không?

Diệu Ngọc cười nhạt:

– Cô mà lại là người rất tục, ngay nước uống không biết nếm. Đó là tuyết ở trên hoa mai mà năm năm về trước tôi lấy ở chùa Huyền Mộ Bàn Hương đấy, chỉ chứa được đầy một lọ hoa màu xanh thôi. Tôi chôn xuống đất để dành mãi, không uống, đến hè năm nay mới đào lên. Tôi chỉ uống một lần, nay là lần thứ hai cô nếm cũng không biết à? Nước mưa năm ngoái làm gì có hương vị mát dịu như thế? Uống thế nào được?

Bảo Thoa biết Diệu Ngọc có tính dở hơi, không thích nói nhiều, cũng không thích ngồi lâu; uống nước xong, rủ Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc nói với Diệu Ngọc:

– Cái chén bà già uống lúc nãy, tuy bẩn, nhưng vất đi thật đáng tiếc! Cứ ý tôi, nên cho bà già nghèo ấy đem bán cũng có thể sống qua ngày. Người thấy có được không?

Diệu Ngọc nghĩ một lúc gật đầu nói:

– Thôi được. May tôi chưa uống đến cái chén ấy bao giờ. Đã uống rồi thì tôi đập đi, không khi nào đem cho bà ấy. Cậu muốn cho bà ấy, xin mang ngay đi.

– Như thế là phải. Khi nào người lại thèm nói chuyện với bà ấy? Nếu nói chuyện với bà ta thì người cũng bị bẩn lây. Cứ đưa cho tôi là được.

Diệu Ngọc sai người mang cái chén đưa cho Bảo Ngọc, Bảo ngọc cầm lấy rồi nói:

– Khi chúng tôi ra về, sẽ bảo mấy đứa hầu nhỏ ra sông gánh mấy thùng nước rửa nhà, có được không?

– Thế thì tốt. Nhưng cậu dặn họ, gánh nước về cứ để ở chân tường ngoài cửa thôi, đừng mang vào đây.

– Đúng thế.

Rồi Bảo Ngọc cầm lấy cái chén đưa cho người nhà Giả mẫu và bảo:

– Ngày mai già Lưu về, mày đưa cái này cho già ấy.

Ngay lúc đó, Giả mẫu đã ra, muốn về. Diệu Ngọc cũng không giữ lại, đưa Giả mẫu ra đến cửa ngoài, rồi quay lại đóng cửa.

Giả mẫu thấy người mệt, liền bảo Vương phu nhân và chị em Nghênh Xuân mời Tiết phu nhân uống rượu, còn mình vào nằm nghỉ ở Đạo Hương thôn. Phượng Thư sai người mang cái ghế trúc nhỏ đến, Giả mẫu ngồi vào đó, bảo hai bà già kiệu đi. Phượng Thư, Lý Hoàn và bọn a hoàn theo sau.

Tiết phu nhân cũng cáo từ ra về. Vương phu nhân cho bọn Văn Quan về, rồi phân phát những hộp bánh còn lại cho đám a hoàn ăn. Còn mình nhân tiện cũng nằm ngả xuống giường của Giả mẫu vừa ngồi, sai một đứa nhỏ hầu nhỏ bỏ rèm xuống, bóp chân và dặn:

– Cụ có gọi gì thì bảo ta ngay.

Nói xong lăn ra ngủ.

Bảo Ngọc, Tương Vân trông thấy bọn a hoàn để những hộp bánh ở trên hòn đá, có đứa ngồi trên hòn đá, có đứa ngồi dưới đất, có đứa dựa vào cây, có đứa ngồi trên bờ hồ, rất là thỏa thích. Một lúc, Uyên Ương đến dắt già Lưu, mọi người lại đều theo đi dạo chơi. Đi đến dưới bức hoành có bốn chữ “Tỉnh thân biệt thự ” 7, già Lưu nói:

– Úi chà! Có ngôi đền lớn thế này kia à!

Già liền cúi đầu lạy. Mọi người cười ngặt nghẹo. Già Lưu hỏi:

– Cười cái gì thế? Những chữ ở trên bức hoành này tôi đọc được cả. Ở nhà quê chúng tôi có nhiều đền miếu, cũng có bức hoành như thế này. Chữ này là tên cái đền đây.

Mọi người cười hỏi:

– Bà biết đây là đền gì?

Già Lưu ngẩng đầu lên trỏ vào chữ nói:

– Đây không phải là “Ngọc Hoàng bảo điện” à!

Mọi người vỗ tay cười ầm lên. Họ đương định làm trò cười nữa. Nhưng già Lưu thấy bụng sôi sùng sục, vội kéo một a hoàn nhỏ, bảo lấy vài tờ giấy rồi cởi quần ra. Mọi người vừa cười vừa quát:

– Chỗ này không đi được đâu!

Liền sai một bà già đưa già Lưu đi về phía đông bắc. Bà già trỏ chỗ cho già Lưu, rồi lẩn đi một nơi.

Già Lưu uống nhiều rượu, không hợp với tỳ vị, lại ăn nhiều đồ mỡ, đâm khát, uống nhiều nước trà nên đi lỏng, phải ngồi mất lúc lâu. Khi ở nhà xí ra, lại bị gió. Hơn nữa, tuổi già, nên vừa đứng dậy, bà đã mắt hoa đầu váng, không nhận được lối đi. Nhìn chung quanh chỗ nào cũng cây cối um tùm, nhà cửa san sát, bà không tìm ra lối về, đành lững thững đi theo con đường đá. Khi đến trước một căn nhà, bà nghĩ bụng: “Ở đây cũng có giàn đậu à?” Liền theo hàng rào hoa đi vào một cái cửa tròn, thấy trước mặt có cái ao, bờ xây đá, rộng độ bảy tám thước, sông biếc nước trong, trên có cái cầu đá trắng bắc ngang.

Già Lưu trèo lên cầu, đi theo đường đá, quanh mấy vòng đến một ngôi nhà, liền đi vào, thấy một em gái bé đứng đó, hớn hở cười. Già Lưu vội cười nói:

– Các cô bỏ tôi để tôi lần mò mãi mới đến đây.

Em bé chẳng trả lời gì cả. Già Lưu chạy lại nắm lấy tay nó, “chát” một tiếng, bà vấp phải bức ván, bươu cả đầu. Nhìn kỹ hóa ra một bức vẽ. Già Lưu nghĩ bụng: “Bức vẽ sao lại nổi lên thế này?” Liền sờ tay thấy phẳng lì. Già Lưu gật đầu thở dài một tiếng rồi quay người đi đến một cái cửa nhỏ, trên treo rèm lụa màu xanh cải hoa. Già Lưu vén rèm đi vào, ngẩng đầu nhìn, bốn bên tường vách lộng lẫy, đàn, gươm, lư hương, bình hương, đều đặt vào lòng tường; lồng gấm, chao lụa, vàng ngọc sáng choang, cả gạch lát cũng đều chạm hoa xanh làm hoa cả mắt. Già Lưu lần cửa đi ra, nhưng nào có thấy? Bên trái đặt giá sách, bên phải đặt bình phong. Lần sau bình phong mới thấy một cái cửa, có một bà già ở trước mặt đi tới. Già Lưu lấy làm lạ, trong bụng hoảng lên đoán chừng: “Có lẽ là bà thông gia chăng?” Liền hỏi: “Bà cũng đến đấy à? Chắc thấy tôi đi mấy hôm nay không về, nên phiền bà phải đi tìm! Cô nào dẫn bà đến đây thế?”

Thấy bà già ấy chỉ cười mỉm, già Lưu cười nói: “Bà thật chả ra ngoài bao giờ, thấy vườn đây có hoa đẹp, là cố sống cố chết cắm đầy cả đầu.”

Bà già vẫn không nói câu gì. Già Lưu nghĩ ngay: “Thường nghe nói các nhà giàu sang có tấm gương để mặc áo, có lẽ mình đứng ở trước gương hay sao đây?” Liền giơ tay ra sờ, và nhìn kỹ thì chính là bức vách chạm bóng bốn mặt và lắp gương giữa. Già Lưu bỗng cười lên rồi nói: “Thế này thì đi ra thế nào được?”

Cái gương này có nút bấm, có thể đóng mở được, không ngờ già Lưu sờ đúng vào chỗ bấm, cái gương gạt sang một bên, hé ra một cái cửa.

Già Lưu mừng mừng sợ sợ, chạy ra. Chợt thấy một cái giường rất lịch sự đặt đó. Lúc này già Lưu hãy còn say rượu,đi mãi đã mệt, liền ngồi thịch xuống giường, định nghỉ một lát, không ngờ mệt quá, hai mắt lim dim, hễ mở ra là nó díp lại, vừa ngả người xuống, bà đã ngủ thiếp ngay trên giường.

Mọi người chờ mãi không thấy già Lưu về, thằng Bản cứ khóc ầm lên. Ai nấy đều cười nói:

– Hay bà ấy rơi vào trong chuồng xí rồi? Phải sai người đi tìm xem.

Hai bà già đi tìm về nói: “Không thấy đâu cả”. Mọi người đều chia các ngả đi tìm. Tập Nhân nói:

– Chắc là bà ấy say rượu, đi lạc đường. Nếu theo con đường này bà ấy sẽ lạc vào nhà sau đến giàn hoa, lần theo cửa sau, thế nào đám hầu nhỏ cũng biết, không đi theo lối giàn hoa, lại đi về phía tây nam, bà ấy quanh ra thì chớ, bằng không sẽ vẫn lẩn quẩn ở đấy! Tôi phải đi tìm xem sao?

Tập Nhân trở về viện Di Hồng, gọi bọn hầu nhỏ, chúng đều lẻn đi chơi cả.

Tập Nhân đi vào cửa buồng, vòng qua bức ngăn bằng gấm, nghe tiếng gáy khò khò, vội chạy lại, ngửi thấy hơi rượu sặc sụa. Nhìn vào nhà, thấy già Lưu đương dang tay, ruỗi chân nằm ngủ trên giường. Tập Nhân sợ quá, chạy vào lay lấy lay để. Già Lưu giật mình tỉnh dậy, trố mắt nhìn, thấy Tập Nhân, liền loạng choạng bò dậy nói:

– Cô ơi! Tôi đáng chết! May chưa làm bẩn giường.

Rồi lấy tay phẩy giường.

Tập Nhân sợ Bảo Ngọc biết, xua tay bảo già Lưu không được nói, vội lấy ba bốn nắm hương bách hợp bỏ vào cái đỉnh gần đấy rồi đậy nắp lại. May mà già Lưu không nôn ra đấy. Tập Nhân khẽ cười bảo:

– Không việc gì đâu, có tôi đây. Già theo tôi ra ngoài này.

Ra đến buồng bọn hầu trẻ. Tập Nhân bảo già Lưu ngồi đấy rồi dặn:

– Bà cứ nói là say rượu, nằm ngủ gật trên hòn đá, thế là được.

Già Lưu vâng lời. Tập Nhân lại cho uống hai chén nước trà, già Lưu mới tỉnh rượu, liền hỏi:

– Chỗ ấy là buồng thêu của cô nào mà lịch sự thế? Khác nào được lên trời vậy!

Tập Nhân mỉm cười nói:

– Buồng ấy à? Là buồng ngủ của cậu Bảo đấy.

Già Lưu sợ quá không dám nói nữa. Tập Nhân đưa già Lưu đi ra đằng trước, gặp mọi người chỉ nói: “Bà ấy ngủ ở trên bãi cỏ, tôi đưa về đây”.

Mọi người đều không để ý đến.

1      Lông mày ông già, tức là ché búp trắng như tuyết.

2      Chén hình quả bầu.

3      Đồ chơi quý của Vương Khải ngày xưa.

4      Tháng tư năm Nguyên phong thứ năm đời Tống, ông Tô Thức người ở 

My Sơn tìm thấy trong bí phủ.

5      Có tâm linh thông cảm với nhau. Kiều: một thứ chén xưa hơi lớn hơn 

cái chén uống rượu.

6      Chữ trong kinh phật, nghĩa là: tăng tục đều bình đẳng với nhau.

7      Xem chú thích hồi 17.

Chương 42: Giải mối ngờ, Bảo Thoa ngỏ lời thân thiết

Một lúc, Giả mẫu tỉnh dậy, cơm chiều đã dọn ra ở Đạo Hương thôn. Nhân người mệt, Giả mẫu không muốn ăn, liền ngồi vào ghế trúc nhỏ sai người kiệu về phòng nghỉ và cho Phượng Thư đi ăn cơm. Các chị em lại trở về trong vườn. Ăn cơm xong, ai về nhà nấy. Già Lưu dắt thằng Bản đến nói với Phượng Thư:

– Sáng sớm mai tôi phải về. Tôi ở chơi đây mới vài ba hôm, nhưng những cái xưa nay chưa từng nghe, chưa từng thấy, chưa từng ăn, giờ đã đều được qua cả. Từ cụ đến các mợ, các cô, ngay cả các chị a hoàn cũng thương tôi là người già nghèo khổ. Tôi về, không biết lấy gì tạ Ơn, chỉ định ngày ngày thắp hương niệm phật, khấn người phù hộ cho cụ cùng các mợ, các cô sống lâu trăm tuổi, để tỏ lòng thành kính của tôi.

Phượng Thư cười nói:

– Bà đừng mừng vội, vì bà mà cụ tôi bị cảm, khó ở; cả cháu Đại Thư nhà tôi cũng bị cảm siết đấy.

Già Lưu thở dài:

– Cụ già rồi, không quen khó nhọc!

Phượng Thư nói:

– Xưa nay cụ tôi chưa từng cao hứng như thế bao giờ. Thỉnh thoảng người có đến chơi vườn, chẳng qua tới một vài chỗ, ngồi một lúc rồi về ngaỵ Hôm qua vì bà ở đây, muốn cho bà đi chơi khắp nơi, thành ra người đi quá nửa vườn. Lúc tôi đi tìm bà, ở nhà bà Hai cho cháu Đại Thư ăn miếng bánh, ngờ đâu nó đứng ở chỗ gió thành ra bị sốt.

Già Lưu nói:

– Chị bé nhà không quen ra vườn, chứ các cháu nhà tôi khi mới biết đi, bệ mả nào mà nó chẳng trèo lên? Có lẽ cảm gió đấy. Tôi sợ chị ấy người xinh xắn, con mắt sáng sủa, hoặc đi gặp phải ma chăng. Cứ ý tôi, nên giở quyển sách bói ra xem có phải gặp ma không.

Phượng Thư chợt nhớ ngay ra, sai ngay Bình Nhi mang quyển Ngọc Hạp và bảo Thái Minh đọc. Thái Minh giở một lúc rồi đọc: “Ngày 25 tháng 8, bệnh nhân mắc bệnh ở phía đông nam, gặp phải thần hoa. Lấy bốn mươi tờ giấy tiền ngũ sắc, tống tiễn ra khỏi nhà độ mươi bước về phía đông nam, bệnh sẽ khỏi.”

Phượng Thư cười nói:

– Đúng lắm, trong vườn này làm gì mà chẳng có thần hoa? Chỉ sợ cụ cũng lại gặp ma thôi.

Rồi sai người đi lấy hai tập giấy tiền, gọi hai người đến tiễn ma cho Giả mẫu và cháu Đại Thự Quả nhiên cháu ngủ yên.

Phượng Thư cười nói:

– Các bà đã có tuổi nên kinh nghiệm nhiều, con bé cháu nhà tôi bị bệnh luôn, không biết vì duyên cớ gì?

Già Lưu nói:

– Cái ấy cũng có lẽ. Trẻ con nhà giàu sang, khi mới đẻ ra đều yếu ớt cả, nên hay đau ốm luôn. Vả lại trẻ con mà nâng giấc quá không nên. Từ giờ trở đi, mợ cũng nên ít chiều chuộng chị ấy thì hơn.

Phượng Thư nói:

– Cũng có lẽ đấy. Giờ tôi sực nhớ đến, cháu chưa có tên, xin bà đặt tên cho cháu để cháu nhờ lộc của bà. Vả lại, tôi nói bà đừng giận, bà là người nhà quê bị nghèo khổ, được người nghèo khổ đặt tên cho nó thì mới đáng đầu đáng số.

Già Lưu nghĩ một lúc cười nói:

– Chị ấy đẻ bao giờ?

– Ngày sinh nó chả lấy gì làm tốt, nó đẻ “đúng vào” 1 ngày mồng 7 tháng 7.

– Như thế tốt lắm, cứ đặt tên cho chị ấy là Xảo Thư là được. Thế gọi là “lấy độc trị độc, lấy lửa trị lửa” đấy. Mợ cứ theo cái tên của tôi đặt cho, thì thế nào chị ấy cũng sống lâu trăm tuổi. Sau này lớn lên, sinh cơ lập nghiệp, hoặc có lúc gặp việc không may cũng tai qua nạn khỏi, gặp dữ hóa lành, đó đều nhờ chữ “Xảo” cả.

Phượng Thư mừng lắm, cảm tạ và nói:

– Chỉ cần cho nó được như lời bà nói là tốt rồi.

Liền gọi Bình Nhi đến dặn:

– Ngày mai chúng ta có việc bận. Bây giờ nhân lúc rỗi, chị sửa soạn sẵn những thứ biếu già Lưu để sáng mai bà ấy về lúc nào thì về.

Già Lưu nói:

– Tôi không dám nhận nhiều đâu. Đã đến quấy quả mấy hôm nay lại mang nhiều thứ về, trong bụng tôi không đành tí nào!

– Không có gì đâu, chẳng qua những đồ thường thôi. Xấu hay tốt bà cứ mang về để cho làng xóm nhìn vào, càng thêm vui vẻ thế mới bõ công ra tỉnh chứ!

Một lát, Bình Nhi lại nói:

– Bà lại đây mà xem.

Già Lưu theo Bình Nhi vào trong nhà, thấy các món chất đầy nửa giường. Bình Nhi trỏ từng thứ cho già Lưu xem, rồi nói:

– Đây là tấm lụa xanh mà bà thích hôm trước, mợ tôi còn cho riêng bà tấm lụa nguyệt bạch dày để may kép. Đây là hai tấm trừu bằng tơ, may quần áo đều đẹp cả. Còn gói này có hai tấm trừu để cuối năm may quần áo mặc tết. Cái này là hộp đựng các thứ bánh có thứ bà ăn rồi, có thứ bà chưa ăn, đem về bày ra đĩa mời mọi người, ngon hơn bánh mua nhiều. Hai cái túi này là của bà mang đến hôm nọ, bây giờ một túi tôi đựng hai đấu gạo tám ngự, đem nấu cháo thì quý lắm; còn túi này đựng các thứ quả tươi và khô hái ở vườn nhà. Cái bọc này có tám lạng bạc là của mợ tôi biếu riêng bà. Hai bọc này, mỗi bọc năm mươi lạng, cộng tất cả là một trăm lạng, là của bà Hai biếu bà mang về hoặc làm vốn buôn nhỏ, hoặc mua mấy mẫu ruộng để sau này khỏi phải vay mượn bà con bạn hữu.

Bình Nhi khẽ cười nói:

– Hai cáo áo và hai cái quần, cùng bốn cái khăn chít đầu, một bọc nhung, là của tôi biếu riêng bà. Những quần áo này đã cũ, nhưng tôi cũng không mặc mấy. Nếu bà chê xấu thì tôi không dám biếu nữa.

Bình Nhi nói một câu, già Lưu lại niệm Phật một câu, kể ra đã niệm đến mấy nghìn câu. Lại thấy Bình Nhi biếu riêng mấy thứ và tỏ ra khiêm tốn, già Lưu cười nói:

– Sao cô lại nói thế? Những thứ này cũng rất đẹp, tôi dám chê vào đâu? Tôi có tiền cũng chưa chắc đã mua được. Thật khó nghĩ quá: nhận thì ra người tham, không nhận thì phụ lòng cô.

– Bà đừng nói khách sáo nữa, chỗ người nhà với nhau, nên tôi mới dám xử thế. Bà cứ yên tâm nhận lấy, tôi còn có cái muốn xin bà nữa đấy. Đến cuối năm, bà mang ra cho chúng tôi ít rau, đậu, cá, bầu, vừa khô vừa tươi, ở đây chúng tôi ai cũng thích ăn những thứ ấy. Thế là đủ rồi. Các thứ khác không cần, bà đừng bận lòng nghĩ ngợi.

Già Lưu cám ơn luôn miệng và nhận lời, Bình Nhi nói:

– Thôi, bà đi ngủ đi, tôi sẽ thu xếp hộ, để sẵn cả đây. Sáng mai tôi bảo đứa hầu bé thuê xe chở đi, bà không phải bận lòng.

Già Lưu cảm động lắm, cám ơn không ngớt lời, rồi mới cáo từ Phượng Thư, sang nhà Giả mẫu. Sáng hôm sau dậy rửa mặt, chải đầu xong, định ra về.

Lúc này Giả mẫu khó ở, mọi người đều đến hỏi thăm, rồi ra bảo đi mời thày thuốc. Một lúc bà già trình: “Thày thuốc đã đến”. Bà già mời Giả mẫu vào ngồi trong màn, Giả mẫu nói:

– Ta già thế này, không đẻ được ra nó hay sao. Lại sợ nó à? Chẳng cần phải buông màn nữa, ta cứ ngồi ở đây cho nó xem.

Bọn bà già lấy một cái bàn nhỏ, đặt cái gối lên, rồi sai người mời thày thuốc vào.

Một lúc, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung đưa thày thuốc họ Vương vào. Thày thuốc không dám đi đường giữa, chỉ đi bên cạnh, theo Giả Trân bước lên thềm, có hai bà già đứng hai bên vén rèm, hai bà già nữa dẫn vào. Bảo Ngọc ra đón. Giả mẫu mặc chiếc áo khoác bằng da dê trắng, trong lót nhiễu xanh, ngồi trên sập. Hai bên có bốn a hoàn bé chưa để tóc, cầm phất trần, ống nhổ đứng hầu; lại có năm, sáu bà già đứng xếp hàng hai bên; đằng sau cái tủ bích sa, thấp thoáng có nhiều người mặc đồ xanh đỏ và đeo vàng ngọc. Thày thuốc không dám ngẩng đầu lên, chạy lại cúi chào.

Giả mẫu thấy ông ta mặc áo lục phẩm, biết ngay là thày thuốc trong cung, mỉm cười hỏi:

– Quan cung phụng khỏe chứ?

Rồi hỏi Giả Trân:

– Quan cung phụng họ gì?

– Họ Vương.

– Ngày trước ở thái y viện có ông Vương Quân Hiệu xem mạch rất giỏi.

Vương thái y liền cúi đầu mỉm cười nói:

– Đó là ông chú của vãn sinh.

Giả mẫu cười nói:

– Nếu thế cũng là người quen từ lâu.

Giả mẫu từ từ để tay lên trên gối. Bà già cầm một ghế nhỏ để chếch trước cái bàn. Vương thái y ngồi ghé xuống một bên, nghiêng đầu xem mạch tay này một lúc, rồi đến tay kia. Xem xong đứng dậy cúi đầu đi ra. Giả mẫu cười nói:

– Phiền người quá. Anh Trân mời thái y ra ngồi chơi xơi nước.

Giả Trân, Giả Liễn vâng lời, mời Vương thái y ra ngoài thư phòng. Vương thái y nói:

– Cụ không có bệnh gì khác, chỉ cảm phong hàn qua loa thôi. Không cần phải uống thuốc, chỉ ăn uống thanh đạm một tí và giữ người cho ấm là được. Giờ tôi kê đơn, người thích uống thì uống một thang, không thích thì thôi.

Ông ta uống nước, rồi kê đơn, đương định cáo từ ra về, chợt vú em bế cháu Đại Thư đến, cười nói:

– Nhờ người xem cho cô bé nhà tôi.

Vương thái y đứng dậy đến gần vú em, tay trái cầm tay cháu Đại Thư, tay phải bắt mạch, lại sờ đầu, bảo cháu thè lưỡi ra xem, cười nói:

– Tôi nói thì cô bé sẽ mắng tôi: cứ cho nhịn ăn hai bữa là khỏi, không cần phái thuốc thang gì. Tôi đưa cho viên thuốc, trước khi ngủ mài với nước gừng cho cô bé uống là khỏi.

Nói xong cáo từ ra về. Bọn Giả Trân mang đơn thuốc vào trình Giả mẫu, để ở trên án rồi đi ra.

Vương phu nhân và chị em Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa thấy thầy thuốc đã về, mới ở sau tủ đi ra. Vương phu nhân ngồi một lúc rồi về buồng.

Già Lưu thấy rỗi, mới đứng dậy cáo từ Giả mẫu, xin về. Giả mẫu nói:

– Khi nào rỗi, bà lại ra chơi.

Lại bảo Uyên Ương đi tiễn chân già Lưu: “Ta không được khỏe không đi tiễn được”.

Già Lưu tạ Ơn cáo từ, cùng Uyên Ương đi ra. Đến buồng dưới, Uyên ương trỏ một bọc để ở trên giường nói:

– Đây là mấy bộ quần áo của cụ, ngày sinh nhật năm ngoái, người ta dâng người đấy. Người xưa nay không mặc quần áo may ở ngoài bao giờ, bỏ đấy phí của. Người chưa mặc lần nào. Hôm qua bảo tôi mang hai bộ ra đưa cho bà đem về, bà mặc hay cho ai tùy ý. Trong hộp này đựng những bánh mà bà thích ăn. Hộp trong bao này là những thứ thuốc bà xin hôm nọ đây: mai hoa điểm thiệt đan, tứ kim đĩnh, hoạt lạc đan, thôi sinh bảo mệnh đan, thứ gì cũng có. Mỗi thứ có một cái đơn bọc ngoài, tôi gói chung vào một gói. Còn đây là hai túi đựng đồ chơi.

Uyên Ương lại cởi nút lấy hai thoi bút đĩnh như ý đưa cho già Lưu xem, rồi cười nói:

– Bà mang cái túi về, còn cái này để lại cho tôi nhé.

Già Lưu mừng quá không ngờ lại được như thế, cứ niệm Phật luôn mồm, vội nói: “Cô cứ để lại mà dùng”.

Uyên Ương vừa cười vừa gói vào cho già Lưu và nói:

– Nói đùa bà thế thôi, chứ tôi có cái đẹp hơn kia. Thôi, bà mang về để đến cuối năm cho đám trẻ con.

Lúc đó lại thấy a hoàn nhỏ đem cái chén sứ Châu Thành đến đưa cho già Lưu và nói: “Cậu Bảo cho bà đây”.

Già Lưu cầm lấy, nói:

– Sao lại có chuyện như thế. Tôi tu từ kiếp nào mà được như thế này!

Uyên Ương nói:

– Hôm nọ tôi bảo bà đi tắm rửa, quần áo đưa cho bà thay là của tôi đấy. Nếu bà không chê xấu, tôi còn mấy cái nữa, cũng xin biếu bà.

Già Lưu cám ơn. Uyên Ương vào lấy ngay mấy cái quần áo ra, bọc cẩn thận. Già Lưu lại muốn vào trong vườn từ tạ Vương phu nhân, Bảo Ngọc và các cô, Uyên Ương nói:

– Không cần phải vào nữa. Hôm nay họ không tiếp ai đâu, để sau tôi nói hộ bà cũng được. Khi nào rỗi, bà lại chơi nhé.

Uyên Ương gọi một bà già dặn:

– Ra cửa ngoài gọi hai đứa hầu bé đến đây mang những cái này ra hộ bà ấy.

Bà già vâng lời. Uyên Ương lại cùng già Lưu đến nhà Phượng Thư lấy các đồ để ở góc cửa, sai bọn hầu nhỏ khuân ra, rồi đưa già Lưu lên xe.

Bọn Bảo Thoa ăn cơm sáng xong, đến hỏi thăm Giả mẫu. Khi về vườn đến chỗ rẽ, Bảo Thoa gọi Đại Ngọc: “Cô Tần, theo ta vào đây, có câu chuyện muốn hỏi”.

Đại Ngọc cười, theo Bảo Thoa đến Hành Vu Uyển. Vào phòng, Bảo Thoa ngồi xuống cười bảo: “Sao mày không quỳ xuống? Ta định tra xét một việc!”

Đại Ngọc không hiểu tại sao, cười nói:

– Xem kìa, con Bảo này điên rồi! Ta có việc gì mà mày tra xét?

– Gớm thật, cô tiểu thư nghìn vàng ơi! Cô gái cấm cung ơi! Miệng cô đã nói những câu gì? Thôi hãy nói thực ra đi.

Đại Ngọc không hiểu, chỉ cười, nhưng trong bụng cũng có ý ngờ ngợ và nói:

– Nào tôi có nói gì đâu? Chẳng qua chị bắt nọn tôi đấy thôi. Có điều gì sai chị hãy nói cho tôi nghe nào.

– Cô lại còn giả vờ à! Trong cuộc tửu lệnh hôm nọ, cô nói gì thế? Tôi không biết những câu ấy ở đâu ra à?

Đại Ngọc nghĩ mãi mới nhớ hôm nọ mình không giữ gìn, có đọc hai câu trong chuyện “Mẫu đơn đình” và “Tây sương ký” 2, tự nhiên mặt đỏ lên, liền chạy lại ôm lấy Bảo Thoa cười nói:

– Chị Ơi! Vì em quên đi, buột miệng đọc ra, chị bảo mới rõ. Từ giờ trở đi em không dám đọc những câu ấy nữa!

– Tôi cũng không hiểu, nghe thấy cô đọc hay quá, nên bây giờ hỏi lại cô.

– Chị Ơi! Xin chị đừng nói với người khác, từ nay em không đọc những câu ấy nữa!

Bảo Thoa thấy Đại Ngọc thẹn đỏ mặt lên, cứ van xin mãi, nên cũng không hỏi vặn nữa, liền kéo Đại Ngọc ngồi xuống uống nước trà, và ân cần khuyên bảo:

– Cô cho tôi là người thế nào? Xưa nay tôi vốn bướng bỉnh. Từ khi bảy, tám tuổi, tôi đã làm rầy rà người tạ Nhà tôi vốn là nhà nho, ông cha cũng rất thích chứa sách. Khi trước nhà đông người, anh chị em tôi cùng ở một nơi, không ai thích xem sách đứng đắn cả. Có người thích thơ, có người thích từ, như “Tây sương”, “Tỳ bà”, “Nguyên nhân bách chủng”, bộ gì cũng có. Họ cứ xem giấu chúng tôi, chúng tôi cũng xem giấu họ. Sau thầy tôi biết, đứa bị đánh, đứa bị mắng, sách lại bị đốt bị xé mất hết. Vì thế bọn con gái chúng ta không biết chữ càng tốt. Đám con trai học không hiểu nghĩa lý thì thà không học còn hơn; huống chi là tôi với cổ Ngay đến việc làm thơ, viết chữ, đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải là phận sự của bọn con trai nữa. Người con trai đọc sách phải hiểu nghĩa lý để ra giúp nước trị dân mới đúng. Bây giờ không thấy những người như thế nữa, càng đọc sách bao nhiêu họ càng hư hỏng bấy nhiêu. Đó không phải là sách làm hư hỏng họ, tiếc rằng chính họ đã bôi nhọ sách. Bởi thế không bằng đi cày, đi buôn còn hơn. Còn bọn chúng ta, chỉ nên biết việc thêu thùa may vá mới phải, thế mà còn học đòi mấy chữ. Đã trót biết chữ thì nên chọn sách đứng đắn mà xem, chứ xem loại sách nhảm, sẽ đổi hẳn tâm tính đi, không thể sửa lại được.

Đại Ngọc cứ ngồi im cúi đầu uống nước, trong bụng thầm phục Bảo Thoa, chỉ trả lời một câu “phải” mà thôi. Chợt thấy Tố Vân đến nói:

– Mợ tôi mời hai cô đến bàn việc cần. Cô Hai, cô Ba, cô Tư, cô Sử, cậu Bảo cũng đương chờ đấy.

Bảo Thoa hỏi:

– Lại có việc gì?

Đại Ngọc nói:

– Chúng ta đến đấy sẽ biết.

Đại Ngọc, Bảo Thoa sang Đạo Hương thôn. Mọi người đã ở cả đấy.

Lý Hoàn trông thấy hai người đến, cười bảo:

– Thi xã chưa mở đã có người chực trốn việc rồi. Cô Tư xin nghỉ một năm đấy!

Đại Ngọc cười nói:

– Chỉ vì hôm nọ cụ nói một câu, bảo cô ta phải vẽ một bức tranh trong vườn, thành ra cô ta vịn cớ xin nghỉ.

Thám Xuân cười nói:

– Đừng trách cụ, cũng chỉ vì một câu nói của già Lưu đấy thôi.

Đại Ngọc cười nói:

– Đúng đấy! Đúng là vì câu nói của bà ấy đấy. Không biết bà ta là bà già nhà nào? Cứ gọi bà ta là “con cào cào mẹ” mới phải!

Mọi người cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:

– Tất cả chuyện trên đời này, hễ đến miệng chị Phượng là xong hết. Nhưng may chị ấy không thông chữ lắm, nên những câu nói của chị ấy đều là tục, chỉ để cười đùa thôi. Con Tần này miệng lưỡi mới là quỷ quái. Nó dùng lối bút pháp kinh xuân thu, nhặt nhưng tiếng tục ở nơi đầu đường xó chợ rút ra những lời chủ chốt, bớt chỗ rườm rà, rồi tô điểm thêm lên, nên nói câu nào ra câu ấy. Ba chữ “cào cào mẹ” đủ vẽ ra được cái hình ảnh hôm nọ. Kể ra nó nghĩ cũng nhanh đấy!

Mọi người đều cười nói:

– Lời giảng giải của cô cũng chằng kém gì hai cô kia.

Lý Hoàn nói:

– Tôi mời chị em đến đây để bàn xem nên cho cô ấy nghỉ bao nhiêu ngày? Tôi cho cô ấy nghỉ một tháng, nhưng cô ấy kêu ít, thế thì các cô định thế nào?

Đại Ngọc nói:

– Cứ lẽ ra thì một năm cũng chẳng lấy gì làm nhiều, cái vườn này một năm mới xây dựng xong. Bây giờ muốn vẽ cũng phải mất hai năm, vì còn phải mài mực dầm bút, trải giấy, tô màu, lại còn phải…

Nói đến đây, Đại Ngọc không nhịn được, lại cười nói:

– Lại còn phải theo đúng kiểu, thong thả vẽ, thế mà không đến hai năm à.

Mọi người nghe nói đều vỗ tay cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:

– Câu cuối cùng “lại còn phải theo đúng kiểu, thong thả vẽ” hay lắm. Vì thế, những câu nói đùa hôm nọ tuy buồn cười thật, nhưng nghĩ lại chẳng có gì là thú. Chúng ta nghĩ kỹ xem, mấy câu nói của cô Tần tuy chẳng có gì cả, nhưng lại có nhiều ý vị làm cho tôi cười lăn ra được!

Tích Xuân nói:

– Vì chị Bảo khen nó, nên nó càng làm bộ, giờ lại mang tôi ra làm trò cười.

Đại Ngọc kéo Tích Xuân, cười nói:

– Tôi hãy hỏi cô, giờ chỉ vẽ cái vườn thôi, hay là vẽ cả mọi người chúng tôi ở trong vườn ấy?

– Trước chỉ định vẽ cái vườn không thôi, nhưng hôm nọ cụ lại bảo, vẽ cái vườn không, thành ra vẽ kiểu nhà mất. Người bảo tôi phải vẽ cả người nữa, như là bức tranh hành lạc mới đẹp. Tôi cũng không biết vẽ tỉ mỉ những lâu đài và nhân vật, nhưng không dám trái lời, vì thế khó nghĩ quá.

Đại Ngọc nói:

– Vẽ nhân vật thì còn dễ, chứ sâu bọ thì không vẽ nổi đâu.

Lý Hoàn nói:

– Cô nói câu ấy lại không thông rồi. Trong ấy làm gì phải vẽ đến sâu bọ? Hoặc chỉ tô điểm một vài con chim thôi.

Đại Ngọc cười nói:

– Sâu khác chẳng vẽ thì thôi, chứ con “cào cào mẹ” hôm nọ, không vẽ thì thiếu mất điển tích đấy.

Mọi người nghe nói đều cười ầm lên. Đại Ngọc vừa ôm bụng cười vừa nói:

– Thôi cô cứ vẽ đi, tôi đã có sẵn cả chữ đề rồi. Tôi sẽ đặt tên bức tranh là “Huề hoàng đại tước đồ” 3.

Mọi người nghe nói càng cười ngặt nghẹo. “Thình” một tiếng, không biết là cái gì đổ, mọi người vội nhìn thì ra Tương Vân ngồi ngả người về đằng sau cười sặc sụa, không dè chừng, ghế chệch chân nghiêng về một bên, cả người lẫn ghế đều lăn ra. May có ván vách giữ lại, nên không ngã xuống đất. Mọi người trông thấy càng cười rộ lên. Bảo Ngọc vội đến đỡ dậy, mới dần dần bớt cười.

Bảo Ngọc đưa mắt cho Đại Ngọc, Đại Ngọc hiểu ý, chạy vào nhà trong bỏ cái khăn che gương ra soi, thấy hai bên mái tóc hơi xõa, liền mở hộp trang sức của Lý Hoàn lấy cái lược ra, soi gương chải lại đầu, xong chạy ra chỉ vào Lý Hoàn nói:

– Tưởng chị bảo chúng tôi học thêu thùa, học điều hay lẽ phải, ai ngờ chị lại gọi chúng tôi đến để cười đùa ầm ĩ thế này à?

Lý Hoàn cười nói:

– Các cô xem cô ta nói điêu thế kia. Chính cô ta làm đầu têu cho người ta cười, lại đổ lỗi cho tôi! Giận quá! Tôi chỉ mong sau này cô vớ một bà mẹ chồng cay nghiệt và mấy cô chị em chồng đanh ác, xem cô còn điêu được như thế nữa hay không?

Đại Ngọc đỏ mặt lên, kéo Bảo Thoa nói:

– Thôi chúng ta cho cô ấy nghỉ một năm.

Bảo Thoa nói:

– Tôi cứ công bằng mà nói, các chị nghe xem sao: con bé Ngẫu Tạ tuy biết vẽ, nhưng cũng chỉ vẽ được mấy nết tả ý thôi. Bây giờ vẽ cái vườn, nếu trong bụng không có một hiểu biết rộng thì vẽ sao nổi. Cái vườn này cũng giống như bức tranh, nào là đá núi, cây cối, nào là lâu đài nhà cửa, gần xa, thưa nhặt, đừng ít quá cũng đừng nhiều quá mà phải đúng mức. Nếu cứ theo thế vẽ lên trên giấy thì đẹp làm sao được. Phải xem khuôn khổ tờ giấy, nên để xa gần, nhiều ít thế nào, nên chia phần chính phần phụ ra sao, chỗ nào đáng thêm thì thêm, chỗ nào đáng bỏ, đáng bớt thì bỏ đi, bớt đi, cái gì đáng để lộ mới để lộ. Bắt đầu phải vẽ phác rồi ngắm nghía tính toán cẩn thận, mới thành công được bức vẽ. Điều thứ hai là, lâu đài nhà cửa phải chia giới hạn, sơ ý một tí là bao lan cũng lệch, cột cũng nghiêng, cửa sổ sẽ dựng ngược lên, thềm cũng không đúng chỗ, thậm chí bàn ghế cũng chen lên tường, chậu hoa bày ở trên màn. Như thế chẳng phải là vẽ ra một bức tranh để cười ư? Điều thứ ba là, phải xếp đặt nhân vật thưa hay nhặt, cao hay thấp, đều cho đúng chỗ. Nếp quần, dây lưng, ngón tay, bước chân cũng rất quan trọng; nếu sai một nét, không sưng tay cũng hóa kiễng chân, đến như bộ mặt mái tóc chỉ là việc nhỏ. Cứ như ý tôi, vẽ bức tranh này khó lắm đấy. Cho phép một năm thì nhiều quá, một tháng thì ít quá, cứ cho nghỉ nửa năm, lại giao cậu Bảo phải đến giúp đỡ cô ấy. Không phải vì cậu Bảo biết vẽ mà đến dạy cô ấy đâu. Như vậy lại càng hỏng việc. Chỉ cần chỗ nào cô ấy không biết hay xếp đặt lúng túng, cậu Bảo sẽ mang ra hỏi các vị họa sư bên ngoài, cho dễ làm việc.

Bảo Ngọc mừng lắm nói:

– Câu đó rất đúng. Ông Thiềm Tử Lượng vẽ lâu đài rất đẹp, ông Trình Nhật Nhưng vẽ mỹ nhân càng tuyệt, tôi sẽ đi hỏi hai ông ấy.

Bảo Thoa nói:

– Tôi đã bảo anh là người không có việc mà lại bận rộn. Vừa mới nói thế anh đã chực đi hỏi người ta rồi. Để bàn tính đã rồi hãy đi. Trước hết nên vẽ bằng giấy gì?

Bảo Ngọc nói:

– Ở nhà có giấy tuyết lãng, vừa rộng khổ, vừa ăn mực.

Bảo Thoa cười nhạt:

– Anh thật là vô dụng! Giấy tuyết lãng để viết chữ, để vẽ bức họa tả ý, hoặc để người biết vẽ sơn thủy vẽ tranh sơn thủy nhà Nam Tống, giấy vừa ăn mực mà lại không nhăn nhòe. Nếu vẽ vườn này bằng giấy ấy thì không ăn màu, lại khó khô, vẽ cũng không đẹp, phí cả giấy. Tôi bảo anh cách này: trước khi xây dựng cái vườn đã có một bức bản đồ vẽ tỉ mỉ rồi. Tuy là thợ vẽ vẽ ra, nhưng khuôn khổ, phương hướng đều rất đúng cả. Anh vào xin bà Hai bức vẽ ấy, đem ra xem rộng hẹp thế nào, rồi bảo chị Phượng cho một mảnh lụa, mang ra bên ngoài cho các họa sư bảo họ cứ theo khuôn khổ bức vẽ ấy, thêm bớt thành một bức vẽ, sau thêm nhân vật vào là được. Ngay đến pha màu thanh lục, màu kim nhũ, ngân nhũ, cũng phải nhờ họ pha chọ Còn phải có một cái lò, chuẩn bị nấu keo, lấy keo ra rửa bút, rồi kê một cái bàn sơn dầu rải thảm lên trên. Ngay đĩa và bút của nhà cũng không đủ, phải sắm một ít mới được.

Tích Xuân nói:

– Tôi làm gì có đồ vẽ? Chẳng qua vẽ bằng bút thường thôi. Còn màu sắc thì chỉ có màu đỏ, màu xanh, màu vàng, màu son. Bút cũng chỉ có hai cái để tô màu.

Bảo Thoa nói:

– Sao cô không bảo trước? Những thứ ấy bên tôi có, chỉ sợ cô không dùng đến, cho cũng phí thôi. Tôi vẫn cất đi, khi nào cô dùng, tôi sẽ đưa chọ Những thứ ấy chỉ để vẽ quạt thôi, nếu vẽ bức to thì cũng đáng tiếc. Giờ tôi kê hộ cái đơn, cô theo đơn đó xin với cụ mua chọ Các chị em chưa chắc đã biết hết đâu, tôi đọc cho cậu Bảo viết.

Bảo Ngọc đã sắp sẵn bút mực để ghi, sợ không nhớ hết, giờ thấy Bảo Thoa nói thế, mừng lắm, liền cầm bút lắng tai nghe.

Bảo Thoa đọc:

– Bút quét loại nhất bốn chiếc, loại nhì bốn chiếc, loại ba bốn chiếc; bút chấm loại lớn bốn chiếc, loại vừa bốn chiếc, loại nhỏ bốn chiếc; bút vắt ngòi lớn mười chiếc, vắt ngòi nhỏ mười chiếc; bút kẻ mày mười chiếc, bút tô màu loại lớn hai mươi chiếc, loại nhỏ hai mươi chiếc; bút vẽ mặt mười chiếc, bút cành liễu hai mươi chiếc; son nhọn đầu, son nam, thạch hoàng, thạch thanh, thạch lục, quản hoàng, mỗi thứ bốn lạng; quảng hoa tám lạng, bột chì bốn hộp, phấn yên chi mười hai thếp; bột đỏ, bột lá mạ mỗi thứ hai trăm thếp; keo quảng quân, phèn lọc mỗi thứ bốn lạng. Keo phèn để quét lụa không kể, cứ đưa lụa cho họ để họ quét lấy. Những thuốc pha màu ấy, chúng ta phải nghiền nhỏ lọc sạch. Như thế vừa chơi vừa dùng, cô có thể dùng trọn đời cũng đủ. Lại phải lấy vợt lụa mau bốn cái, vợt lụa thưa hai cái; gác bút bốn cái, bát nghiền to nhỏ bốn cái, bát sành lớn hai mươi cái, đĩa to năm tấc mười cái đĩa sành trắng hai mươi cái, lò hai cái, nồi đất lớn nhỏ bốn cái, vại mới hai cái, thùng đựng nước mới hai cái, túi vải trắng dài một thước bốn cái, than xốp hai mươi cân, than gỗ liễu vài cân, hòm ba ngăn một cái, lụa dày một trượng, gừng sống hai lạng, tương nửa cân.

Đại Ngọc cười nói:

– Chảo một cái, bàn sản một cái.

Bảo Thoa nói:

– Để làm gì?

– Chị bảo cần có gừng sống và tương thì tôi bảo lấy chảo hộ chị để nấu những thứ màu ấy mà ăn.

Mọi người đấu cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:

– Cô thì biết cái gì? Những cái đĩa sành ấy không chịu được lửa, nếu không lấy nước gừng và tương xát dưới đáy trước mà đem đốt, gặp lửa một cái là nó nổ ngay.

Mọi người đều nói: “Phải đấy”.

Đại Ngọc xem đơn một lượt, kéo Thám Xuân khẽ nói:

– Cô xem vẽ một bức vẽ mà phải dùng đến vại và hòm, thực là lẩn thẩn. Chắc cái đơn này sắm cả đồ cưới của cô ấy đấy.

Thám Xuân không nhịn cười được, nói:

– Chị Bảo sao không véo mồm nó một cái? Nó đang đặt chuyện để chế giễu chị đấy.

Bảo Thoa cười nói:

– Không phải hỏi, mồm chó làm gì có ngà voi?

Vừa nói, vừa chạy đến vật Đại Ngọc xuống giường, định véo vào mặt. Đại Ngọc cười rồi van lạy:

– Chị Ơi, tha cho em! Em trẻ người non dạ, nói không biết cân nhắc, làm chị thì phải dạy bảo em chứ? Chị không tha cho em thì em còn cầu cứu ai được nữa?

Mọi người không biết câu nói có ý, đều cười nói:

– Câu nói đáng thương thực! Ngay chúng tôi cũng động lòng, thôi tha cho nó.

Bảo Thoa nguyên chỉ định đùa Đại Ngọc thôi, nhưng sau nghe Đại Ngọc nhắc lại câu chuyện lần trước về việc xem sách nhảm, nên không tiện đùa nữa, liền buông ra. Đại Ngọc cười nói:

– Đấy là chị đấy, chứ phải em thì em không tha đâu!

Bảo Thoa cười, trỏ Đại Ngọc nói:

– Không trách cụ thương cô, mọi người yêu cô tinh lanh, ngay tôi cũng phải thương cộ Đến đây tôi sửa lại tóc cho.

Đại Ngọc quay người lại, Bảo Thoa lấy tay sửa hộ tóc. Bảo Ngọc ngồi ở bên cạnh nhìn, thấy càng đẹp, bất giác hối hận: “Không nên để Bảo Thoa vuốt tóc cho Đại Ngọc, cứ để thế rồi mình đến vuốt ve cho thì hơn”. Đương nghĩ vớ vẩn, thấy Bảo Thoa nói:

– Viết xong rồi, ngày mai vào trình cụ. Thứ gì trong nhà có rồi thì thôi, thứ gì chưa có, xin tiền đi mua, tôi sẽ pha hộ.

Bảo Ngọc vội cất đơn đi. Mọi người lại nói phiếm một lúc nữa, sau bữa cơm chiều lại đến buồng Giả mẫu hỏi thăm. Giả mẫu nguyên không có bệnh gì, chỉ vì mệt, lại hơi cảm một tí, nghỉ ngơi một ngày, uống một vài chén thuốc phát tán, đến chiều lại khỏe như thường.

1      Nguyên văn là “Khả xảo”, già Lưu nghe vậy mới đặt tên là “Xảo Thư”.

2      Khi Uyên Ương đọc “tửu lệnh”, Đại Ngọc theo lệnh hai câu thơ lấy trong “Mẫu đơn đình” và “Tây Sương ký”: “Ngày vui cảnh đẹp tự giời biết sao” và “song the nào thầy ả Hồng báo tin” (xem hồi 40).

3      Bức tranh vẽ mang con cào cào đi cắn.

Chương 43: Ngồi rỗi bày trò, góp tiền ăn sinh nhật – Mối tình không dứt, vốc đất viếng oan hồn

Ngồi rỗi bày trò, góp tiền ăn sinh nhật

Mối tình không dứt, vốc đất viếng oan hồn

Vương phu nhân thấy Giả mẫu hôm ấy ở vườn Đại Quan chỉ bị cảm xoàng, không đến nỗi nặng, mời thầy thuốc uống vài thang là khỏi, nên mới bảo Phượng Thư sắp sửa đồ vật gửi cho Giả Chính. Đương khi bàn bạc thì Giả mẫu cho người lại gọi, Vương phu nhân dẫn Phượng Thư đến, hỏi:

– Hôm nay cụ đã khoan khoái hẳn chưa?

– Khá lắm rồi. Vừa rồi chị đưa sang bát canh thịt gà rừng tôi nếm thấy ngon, lại ăn vài miếng thịt, trong bụng dễ chịu.

Vương phu nhân cười nói:

– Đó là canh chị Phượng nấu dâng cụ đấy. Chị ấy thành tâm hiếu thảo, không uổng công cụ ngày thường thương yêu chị ấy.

Giả mẫu gật đầu cười nói:

– Đáng khen nó có lòng nghĩ đến tạ Nếu còn thịt sống, mang rán vài miếng rồi ướp muối, ăn với cháo thì ngon hơn. Canh ấy ngon thực, nhưng không hợp vị với cháo.

Phượng Thư nghe nói, sai người đến bảo nhà bếp. Giả mẫu lại cười bảo Vương phu nhân:

– Ta sai người gọi chị đến, nói chuyện. Đến ngày mồng hai này là sinh nhật của cháu Phượng. Hai năm trước ta vẫn muốn làm sinh nhật cho nó, nhưng cứ gần đến ngày lại bận việc, rồi quên khuấy đi. Năm nay con cháu đầy đủ chắc cũng rỗi việc, chúng ta nên làm một bữa tiệc cho vui.

Vương phu nhân cười nói:

– Con cũng nghĩ thế. Giờ cụ đã cao hứng thì nên bàn sẵn việc ấy đi.

– Ta nhớ mấy năm trước không cứ sinh nhật của cháu nào, đều đem lễ vật đến mừng, như thế vừa tục, mà tình lại thêm sợ Ta nghĩ một cách mới, vừa thân mật lại vui hơn.

– Cụ thấy nên làm thế nào thì làm.

– Nay chúng ta học lối nhà thường dân, mỗi người góp phần mình vào, được bao nhiêu tiền lấy cả ra sửa tiệc, như thế có được không?

– Tốt lắm. Nhưng không biết góp thế nào cho phải?

Giả mẫu nghe nói, rất vui, liền sai người mời Tiết phu nhân, Hình phu nhân, các cô, Bảo Ngọc, Vưu Thị, vợ Lại Đại và những người quản sự đến. Bọn a hoàn, bà già thấy Giả mẫu rất cao hứng, cũng đều vui mừng, vội chia nhau đi mời, đi báo tin các nơi.

Một lúc, già trẻ, trên dưới đến chật ních cả nhà. Tiết phu nhân ngồi đối diện với Giả mẫu; Hình phu nhân và Vương phu nhân ngồi hai cái ghế trước cửa buồng; chị em Bảo Thoa năm sáu người ngồi cả trên bục; Bảo Ngọc ngồi vào lòng Giả mẫu; còn những người khác đều đứng đầy cả nhà. Giả mẫu vội bảo mang mấy cái ghế nhỏ lại cho mẹ Lại Đại và mấy bà già có thể diện ngồi. Theo tục lệ phủ Giả, những người hầu bố mẹ mà đã có tuổi, thì có thể diện hơn những người chủ còn trẻ tuổi. Vì thế Vưu Thị, Phượng Thư phải đứng. Mẹ Lại Đại và ba bốn người già xin lỗi rồi ngồi xuống ghế. Giả mẫu cười kể lại câu chuyện lúc nãy cho mọi người biết. Nghe vậy, ai chẳng muốn góp vuỉ Những người thân với Phượng Thư thì bằng lòng, cũng có người lại muốn chiều chuộng Phượng Thự Vả chăng họ đều là những người có thể bỏ tiền được, nên vừa nghe thấy, ai nấy đều vui vẻ vâng lời.

Giả mẫu nói trước:

– Ta bỏ ra hai mươi lạng.

Tiết phu nhân cười nói:

– Tôi cũng theo cụ, xin bỏ hai mươi lạng.

Hình phu nhân, Vương phu nhân cười nói:

– Chúng con không dám sánh với cụ, xin kém một bực, mỗi người góp mười sáu lạng thôi.

Vưu Thị và Lý Hoàn cũng cười nói:

– Chúng cháu thế nào cũng phải kém một bực, mỗi người xin góp mười hai lạng.

Giả mẫu liền bảo Lý Hoàn:

– Cháu là đàn bà góa không làm gì, lấy tiền đâu ra mà góp. Thôi ta góp hộ cho.

Phượng Thư vội cười nói:

– Xin cụ đừng cao hứng quá, nên tính kỹ đã rồi hãy chuốc lấy việc. Một mình cụ đã phải nhận hai phần, bây giờ lại góp cho chị Lý. Lúc cao hứng cụ nói thế, chốc nữa nghĩ xót ruột lại lẩm bẩm: chỉ vì con Phượng mà ta phải tốn kém. Rồi ngon ngọt dỗ dành cháu phải bù ngấm bù ngầm ba bốn lần tiền vào đó. Cháu có phải mơ ngủ đâu!

Mọi người nghe nói cười ầm lên.

Giả mẫu cười nói:

– Cứ như ý cháu thì làm thế nào?

Phượng Thư cười nói:

– Chưa đến ngày sinh nhật, cháu đã thấy khó chịu rồi. Tự mình chẳng bỏ ra lấy một đồng, mọi người phải lo lắng hộ, như thế cháu chẳng đành lòng tí nào. Chi bằng để cháu góp hộ phần cho chị Lý. Đến hôm ấy cháu ăn thêm mấy miếng nữa, thế là sung sướng lắm rồi.

Bọn Hình phu nhân đều cho là phải, Giả mẫu mới nghe lời.

Phượng Thư lại cười nói:

– Cháu còn muốn nói một câu này nữa; riêng phần cụ đã hai mươi lạng, lại còn phải góp phần cho cô Lâm và chú Bảo; phần dì Tiết đã hai mươi lạng, lại phải góp cho cô Bảo, như thế là công bằng. Còn hai mẹ, mỗi vị có mười sáu lạng, phần mình đã ít lại không hề góp cho ai, như thế chẳng công bằng tý nào. Cụ chịu thiệt nhiều quá!

Giả mẫu cười ầm lên, nói:

– Cháu Phượng lúc nào cũng về hùa với tạ Nó nói rất phải. Nếu không có cháu thì ta bị bọn họ lừa rồi!

Phượng Thư cười nói:

– Xin cụ cứ bắt hai mẹ phải nhận phần của hai người kia, mỗi vị góp thêm một phần là đúng.

Giả mẫu nói:

– Công bằng lắm, cứ nên làm như thế.

Mẹ Lại Đại đứng dậy cười nói:

– Như thế là không đúng! Tôi tức thay cho hai bà. Một bên là nàng dâu, một bên là cháu gái nội, mà không về hùa với mẹ chồng và bà cô 1, lại đi bênh người khác, như thế là nàng dâu cũng như người ngoài, cháu nội thành ra cháu gái ngoại mất!

Giả mẫu và mọi người nghe nói cười ầm lên.

Mẹ Lại Đại lại hỏi:

– Các mợ góp mười hai lạng thì chúng tôi phải kém đi một bực chứ?

Giả mẫu nói:

– Không được, các bà tuy đáng kém một bực, nhưng tôi biết các bà đều là tài chủ cả. Địa vị tuy kém, nhưng tiền thì lại nhiều hơn họ. Các bà nên đóng bằng họ mới phải.

Giả mẫu lại nói:

– Còn các cô, chằng qua góp tý thôi, mỗi người góp một tháng lương là đủ.

Lại quay lại bảo Uyên Ương:

– Bọn chúng bay họp nhau lại bàn việc góp tiền đi.

Uyên Ương vâng lời, đi một lúc rồi dắt Bình Nhi, Tập Nhân, Thái Hà đến, lại còn mấy a hoàn nữa, người hai lạng, kẻ một lạng, ai nấy đều góp cả.

Giả mẫu hỏi Bình Nhi:

– Không nhẽ mày không làm sinh nhật cho chủ mày à? Sao lại góp vào đám này?

– Cháu làm riêng không kể, đây là việc công, cháu cũng xin góp một phần.

– Con bé này thế mới ngoan chứ.

Phượng Thư lại cười nói:

– Trên dưới góp đủ rồi. Còn hai bà dì, có đóng hay không, cũng nên hỏi một lời cho phải lẽ, nếu không các bà lại cho là khinh.

Giả mẫu nói:

– Phải đấy! Quên họ thế nào được? Chỉ sợ họ không được rỗi, bảo một đứa a hoàn đến hỏi xem.

A hoàn đi một lúc về trình: “Mỗi vị xin góp hai lạng.”

Giả mẫu vui cười nói:

– Mang bút giấy lại đây, tính xem được bao nhiêu.

Vưu thị khẽ mắng Phượng Thư:

– Con ranh con tham quá! Các bà các thím góp tiền lại làm sinh nhật cho mày, còn chưa đủ à? Sao mày kéo cả hai người nghèo xác này vào!

Phượng Thư khẽ cười nói:

– Đừng có nói bậy! Chốc nữa ra ngoài tôi sẽ kể tội cho chị! Họ làm gì mà khổ? Họ có tiền đem cho người khác cũng uổng, chi bằng giữ lại để chúng ta cùng vui.

Số tiền đã góp đầy đủ cộng lại được hơn một trăm năm mươi lạng.

Giả mẫu nói:

– Làm tiệc vui một ngày không hết đâu.

Vưu Thị nói:

– Không mời khách ngoài, tiệc rượu lại không tốn mấy, món tiền này tiêu làm ba ngày cũng đủ. Trước hết, hát không phải mất tiền, đỡ được món ấy.

Giả mẫu nói:

– Cháu Phượng xem bọn nào hát hay thì gọi!

Phượng Thư nói:

– Bọn hát ở nhà, chúng ta đã nghe chán rồi. Bây giờ chịu tốn ít tiền, gọi bọn khác đến hát.

Giả mẫu nói:

– Việc này ta giao cho vợ cháu Trân, đừng để cho cháu Phượng phải lo nghĩ đến, cho nó nghỉ một ngày mới phải.

Vưu thị vâng lời, nói chuyện một lúc, ai cũng biết Giả mẫu mệt, liền dần dần ra về.

Vưu Thị đưa Hình phu nhân, Vương phu nhân ra, rồi đến đằng Phượng Thư bàn việc làm sinh nhật, Phượng Thư nói:

– Chị không cần hỏi tôi, chỉ theo ý cụ mà làm là đủ.

– Cái con ranh này, mày tốt số quá! Tao tưởng có việc gì kia! Thành ra gọi chúng tao đến chỉ có việc ấy thôi. Góp tiền chưa đủ, lại còn phải lo liệu các cái nữa. Mày định tạ tao cái gì nào?

– Chị đừng giở trò nữa! Tôi có gọi chị đến đâu mà phải tạ! Nếu chị sợ phải lo thì vào trình với cụ sai người khác cũng được.

– Xem kìa, nó vênh cái mặt lên thế đấy! Tao bảo cho mày hay, hãy dẹp cái lối ấy đi. Nước đầy thì trào đấy!

Hai người lại nói chuyện một lúc nữa, Vưu Thị mới ra về.

Hôm sau, Vưu Thị vừa mới dậy rửa mặt, chải đầu, đã thấy có người mang tiền đến phủ Ninh, Vưu Thị hỏi:

– Ai mang tiền đến đấy?

– Già Lâm đấy.

– Gọi bà ấy vào.

Bọn a hoàn xuống buồng dưới gọi vợ Lâm Chi Hiếu lên.

Vưu Thị mời ngồi xuống ghế thấp, rồi vừa chải đầu vừa hỏi:

– Trong gói ấy có bao nhiêu tiền đấy?

– Tiền này là của bọn chúng tôi góp lại mang đến trước. Còn cụ và các bà chưa góp.

Đương nói thì bọn a hoàn đến trình:

– Bên bà Cả và Tiết phu nhân cho người mang phần tiền đến.

Vưu Thị cười mắng:

– Bọn ranh con này! Chỉ nhớ nhưng việc không đâu ấy thôi! Chẳng qua hôm qua cụ cao hứng, cố ý học cách nhà thường dân góp tiền, thế mà chúng mày cứ nhớ mãi, cho là việc to tát, sao không nhận lấy, mời họ uống nước trà rồi cho họ về.

Bọn a hoàn cười rồi mang tiền vào. Tất cả là hai gói, có cả phần tiền của Đại Ngọc và Bảo Thoa.

Vưu Thị hỏi:

– Còn thiếu ai nữa?

Vợ Lâm Chí Hiếu nói:

– Còn thiếu cụ, bà Hai, các cô và bọn chị em chúng tôi.

– Còn của mợ Cả các chị đâu?

– Mợ qua bên nhà, số tiền ấy mợ Hai đã cầm cả rồi.

Vưu Thị rửa mặt chải đầu xong, sai người kéo xe đến phủ Vinh. Trước hết đến buồng Phượng Thự Thấy Phượng Thư đã gói tiền cẩn thận, đương định đưa sang. Vưu Thị hỏi:

– Đã đủ cả chưa?

– Đủ rồi! Cầm đi, mất thì tôi không chịu lỗi đâu!

– Tao không tin, phải đếm ngay ở đây.

Vưu Thị đếm lại, thấy không có phần Lý Hoàn, cười nói:

– Mày lại định giở trò ma đấy! Sao không thấy phần chị Cả mày?

– Như thế không đủ à? Thiếu một phần cũng được, nếu không đủ tôi sẽ đưa sau.

– Hôm qua mày làm bộ trước mặt mọi người, bây giờ lại chối với tao, tao không nghe đâu. Tao cứ đến hỏi cụ.

– Chị ghê gớm lắm! Hễ sau này có việc gì tôi cứ làm cho rõ môn rõ khoai, lúc ấy chị đừng có trách.

– Thôi phần ấy không đưa cũng được. Nếu ngày thường mày không tử tế với tao, khi nào tao chịu nghe?

Nói xong, lấy phần Bình Nhi ra, và bảo:

– Bình Nhi! Lại lấy phần của mày về, hễ không đủ tao sẽ bù cho.

Bình Nhi hiểu ý, cười nói:

– Xin mợ hãy cứ tiêu đi, nếu thừa sẽ đưa lại cháu cũng được.

– Thế ra chỉ để cho chủ mày làm bậy, chứ không cho tao được làm ơn hay sao?

Bình Nhi đành phải nhận lấy tiền.

Vưu Thị lại nói:

– Tao xem chủ mày thật là khôn khéo! Vớ món tiền này định tiêu vào việc gì? Tiêu không hết sau này bỏ vào quan tài mà mang chôn à!

Nói xong, đi đến buồng Giả mẫu, hỏi thăm và nói mấy câu chuyện phiếm rồi đến buồng Uyên Ương bàn công việc. Vưu Thị nhất thiết đều theo ý Uyên Ương, cốt làm thế nào cho Giả mẫu vui lòng là được. Hai người bàn định xong xuôi. Khi trở về Vưu Thị lấy hai lạng bạc giả lại cho Uyên Ương, và nói: “Tiêu không hết đâu.”

Nói xong, đi đến buồng Vương phu nhân nói chuyện. Nhân lúc Vương phu nhân đi vào Phật đường, Vưu Thị giả lại phần tiền cho Thái Vân. Vì Phượng Thư không ở đấy, nên Vưu Thị giả cả hai phần tiền cho dì Chu và dì Triệu nữa. Họ không dám nhận. Vưu Thị nói:

– Đáng thương các dì quá, làm gì có tiền mà góp? Nếu thím Phượng biết thì tôi nhận cho.

Hai người cám ơn rối rít rồi nhận lấy món tiền.

Chả mấy lúc đã đến ngày mồng hai tháng chín. Người trong vườn đều nghe nói Vưu Thị bày biện linh đình lắm, không những có tuồng, còn có cả các trò chơi và cô gái mù kể chuyện nữa, nên ai đấy đều sắp sẵn đến xem để góp vui, Lý Hoàn lại bảo các chị em:

– Hôm nay là ngày họp thi xã, đừng ai quên đấy. Bảo Ngọc không thấy đến, chắc là không biết, hay lại ham chơi ở đâu mà quên hẳn việc này?

Nói xong, liền bảo a hoàn đi xem Bảo Ngọc làm gì, mời ngay lại đây. A hoàn đi một lúc về nói:

– Tập Nhân nói là cậu ấy đi từ sáng sớm rồi:

Mọi người đều lấy làm lạ, nói:

– Không lẽ cậu ấy lại đi vắng. Con a hoàn này lẩn thẩn lắm.

Rồi lại sai Thúy Mặc đi. Một lúc Thúy Mặc về, nói:

– Cậu ấy đi vắng thật. Nghe nói có người bạn nào chết, cậu ấy đi viếng tang đấy.

Thám Xuân nói:

– Nhất định không đúng. Dầu sao hôm nay anh ấy cũng không thể đi đâu được. Mày gọi Tập Nhân đến đây để tao hỏi.

Vừa nói xong, Tập Nhân đến, bọn Lý Hoàn đều nói:

– Dù hôm nay có việc gì, chú ấy cũng không nên ra khỏi nhà: một là ngày sinh nhật thím Hai, cụ rất cao hứng, mọi người trong hai phủ đều góp vui, thế mà chú ấy lại đi à? Hai là, hôm nay là ngày chính thi xã đầu tiên, chú ấy không xin phép lại dám tự tiện lẻn đi?

Tập Nhân thở dài nói:

– Chiều hôm qua cậu ấy nói sớm hôm nay có việc cần phải đến phủ Bắc Tĩnh vương, rồi về ngaỵ Tôi có khuyên cậu ấy đừng đi, cậu ấy nhất định không nghe. Sớm dậy, cậu ấy mặc quần áo trắng đi ra, chắc là trong phủ Bắc Tĩnh vương có người hầu nào mất, cũng chưa biết chừng.

Bọn Lý Hoàn nói:

– Nếu quả thực thế, chú ấy cũng nên đi, nhưng phải về ngay chứ.

Nói xong, mọi người lại bàn định: “Chúng ta cứ làm thơ trước đi, khi anh ấy về sẽ phạt.” Vừa lúc ấy, Giả mẫu sai người lại mời. Mọi người rủ nhau đến, Tập Nhân trình việc Bảo Ngọc đi vắng. Giả mẫu không vui, sai người đi đón.

Nguyên là Bảo Ngọc có một tâm sự riêng, hôm trước đã dặn Dính Yên:

– Ngày mai ta phải đi sớm, mày sắp hai con ngựa ở cửa sau chờ đấy, không cần người đi theo nữa. Mày bảo cả Lý Qúy biết là ta sang phủ Bắc Tĩnh vương. Nếu có ai đi tìm, bảo nó ngăn lại, không cần phải đi, cứ nói rằng phủ Bắc Tĩnh vương mời ta ở lại, thế nào ta cũng về ngay.

Dính Yên không hiểu đầu đuôi làm sao, đành phải vâng lời, sắp hai con ngựa từ sớm, chờ ở cửa sau vườn, Khi trời sáng, Bảo Ngọc mặc thuần đồ trắng từ cửa bên đi ra, không nói một lời, lên ngựa, cúi lưng phóng thẳng theo đường phố. Dính Yên đành cũng lên ngựa quất roi đi theo sau, rồi hỏi:

– Cậu đi đâu đấy?

– Đường này đi đâu?

– Đây là đường ra cửa bắc, đi đường này vắng lắm, chẳng có gì vui đâu.

– Chính ta muốn đến chỗ thanh vắng.

Nói xong, Bảo Ngọc cùng ra roi. Ngựa đã ngoặt qua hai quãng đường vòng, ra khỏi cửa thành.

Dính Yên càng ngơ ngác, đành cứ theo riết, đi một mạch đến bảy, tám dặm đường. Chỗ này người ở thưa thớt. Bảo Ngọc mới dừng ngựa, quay lại hỏi Dính Yên:

– Ở đây có bán hương không?

– Có, nhưng không biết cậu cần dùng thứ gì?

Bảo Ngọc nghĩ một lúc rồi nói:

– Thứ hương khác không tốt, phải có thứ đàn hương, vân hương, giáng hương mới được.

– Ba thứ hương này khó tìm lắm.

Bảo Ngọc có ý băn khoăn. Dính Yên thấy thế, liền hỏi:

– Cậu cần hương để làm gì? Cháu thấy cậu thường đeo hương tán sẵn ở trong túi, sao không lấy ra mà dùng?

Bảo Ngọc nhớ ra, đưa tay sờ vào cái túi đeo trong áo, thấy hai thỏi nằng nặng, mừng quá, nhưng lại sợ không được thành kính. Suy nghĩ: “Hương đeo trong mình còn tốt hơn là hương mua ở ngoài”. Rồi lại hỏi đến lư hương. Dính Yên nói:

– Thôi đi, ở nơi đồng không mông quạnh này làm gì có lử Muốn dùng lư sao cậu không bảo trước để cháu mang sẵn ở nhà đi có được không?

– Đồ gà mờ! Nếu mang được ở nhà đi thì chả phải chạy mửa mật như thế này.

Dính Yên nghĩ một lúc cười nói:

– Cháu nghĩ ra rồi, không biết bụng cậu thế nào. Cháu tưởng không những cậu cần cái ấy, mà còn cần cái khác nữa. Ở đây chắc không sẵn. Bây giờ chúng ta chịu khó đi đến am Thủy Tiên, chừng hai dặm thôi.

– Am Thủy Tiên ở đây à? Tốt lắm! Chúng ta đi đi.

Bảo Ngọc ra roi chạy trước, ngoảnh lại bảo Dính Yên:

– Sư cô ở am Thủy Tiên thường lui tới nhà ta, giờ đến đấy mượn cái lư hương chắc người cũng bằng lòng.

– Không cứ là nhà ta thường đến lễ ở đó mà ngay những chùa chúng ta không quen biết, họ cũng chẳng dám từ chối. Chỉ có một điều: cậu xưa nay vẫn ghét am Thủy Tiên, thế mà tại sao bây giờ thấy nói đến đấy, cậu lại vui mừng thế?

– Ngày thường ta rất ghét người đời không hiểu gì cả, bạ thần nào cũng cúng, miếu nào cũng xây. Đó đều là các cụ hoặc các bà ngày trước có tiền mà ngu xuẩn, hễ thấy nói có thần là xây miếu thờ ngaỵ Trong dã sử hay tiểu thuyết nói gì thì họ cho là có thực, chứ chẳng biết thần ấy là người nào. Ví như trong am Thủy Tiên thờ Lạc Thần 2, nên gọi là am Thủy Tiên, chứ làm gì có vị Lạc Thần. Đó là lời của Tào Tử Kiến bịa đặt ra, ai ngờ bọn ngu xuẩn lại đắp tượng để thờ. Giờ nhân tiện hợp với ý muốn của ta, nên đến đấy mượn để dùng thôi.

Nói xong hai người đã đến cửa am. Sư già thấy Bảo Ngọc đến bất ngờ, mừng quá như thấy rồng trên trời rơi xuống, liền chạy lại chào, rồi sai bà vãi đến giữ ngựa. Bảo Ngọc vào am, không lạy tượng Lạc Thần, chỉ đứng ngắm nhìn thôi. Tuy là tượng đất, nhưng cũng có cái dáng bay vút như chim hồng kinh, sợ uốn lượn như con rồng lẩn khúc, hoa sen mọc trên sóng biếc, mặt trời chiếu ráng sớm mai. Bảo Ngọc tự nhiên nước mắt nhỏ xuống.

Sư già mời vào uống nước, Bảo Ngọc mượn cái lư để đốt hương. Sư già đi một lúc, sắp cả hương và ngựa giấy mang đến. Bảo Ngọc nói:

– Các thứ tôi không dùng, chỉ dùng lư hương thôi.

Liền sai Dính Yên mang lư hương ra vườn sau, tìm một chỗ sạch sẽ, nhưng không được. Dính Yên hỏi:

– Trên bờ giếng kia có được không?

Bảo Ngọc gật đầu, cùng đi đến đó, đặt lư hương xuống. Dính Yên đứng sang một bên, Bảo Ngọc lấy hương ra đất, rơm rớm nước mắt, vái một cái rồi quay lại bảo cất đi. Dính Yên vâng lời, nhưng chưa cất, liền cúi đầu lễ mấy lễ và khấn:

– Tôi là Dính Yên đã hầu cận cậu Hai mấy năm nay, chỉ có ngày hôm nay đi lễ, cậu ấy không bảo gì tôi, mà tôi cũng không dám hỏi. Tuy tôi không biết tên tuổi vị âm hồn được tế này là gì, nhưng chắc là một vị chị em, vào bậc thông minh thanh nhã, có một không hai ở trên đời này. Tâm sự cậu Hai không nói ra được, vậy tôi xin khấn thay: cậu Hai tôi tưởng nhớ người như thế này, nếu người có linh thiêng, nên thường thường đến thăm nom cậu Hai tôi. Người ở cõi âm, phù hộ cho cậu Hai tôi kiếp sau sinh làm con gái, để cùng chị em các người vui đùa một nơi, không còn là hạng mày râu nhơ bẩn nữa.

Khấn xong, Dính Yên lạy mấy lạy rồi bò dậy.

Bảo Ngọc chưa nghe nó khấn hết, đã không nhịn được cười liền đá nó một cái và nói:

– Đừng nói bậy, người ta biết lại cười cho đấy!

Dính Yên đứng dậy, mang lư hương, cùng đi với Bảo Ngọc rồi nói:

– Cháu đã nói với nhà sư là cậu chưa ăn sáng, bảo họ tiện thể dọn mấy thứ, cậu chịu khó ăn tạm một ít. Cháu biết hôm nay ở nhà bày tiệc to, vui nhộn lắm, vì thế cậu mới lánh đến đây. Ở đây yên tĩnh một ngày cũng đủ vui rồi. Nếu cậukhông ăn thì không thể chịu được đâu.

– Không uống rượu vui, nghe hát, ở đây tùy tiện ăn một ít cũng chẳng sao.

– Thế mới phải. Nhưng cháu xin nói điều này: chúng ta đi đến đây, ở nhà tất có người không yên tâm. Nếu không, đến chiều về cũng chẳng sao. Nhưng vì có người không yên tâm, thì cậu nên về nhà ngay mới phải. Một là để cụ và bà Hai yên lòng, hai là lễ ở đây đã xong rồi, chẳng qua chỉ có thế thôi. Về nhà nghe hát uống rượu, dù không phải là ý muốn của cậu, nhưng cũng để hầu cha mẹ cho trọn đạo hiếu. Nếu chỉ vì việc lễ này, cậu không nghĩ đến cụ và bà đương mong đợi, thì âm hồn nào nhận lễ của cậu cũng không an tâm. Cậu nghe xem cháu nói thế có phải không?

Bảo Ngọc cười nói:

– Ta đoán được ý mày rồi, chắc mày nghĩ rằng chỉ có một mình mày đi theo ta thôi. Khi về mày sợ bị lỗi, nên giở những điều to lớn ra khuyên tạ Ta đến đây chỉ cốt làm lễ xong sẽ về uống rượu nghe hát, chứ không phải bỏ đi suốt ngày. Giờ đã thoa? được ý muốn rồi, nên về nhà mau để cho mọi người yên tâm.

– Thế phải lắm.

Hai người vào đến chùa, nhà sư đã dọn lên một mâm cơm chay.

Bảo Ngọc ăn qua loa một ít. Dính Yên cũng ăn. Xong rồi hai người lên ngựa theo đường cũ về nhà. Dính Yên ở đằng sau dặn:

– Cậu đi ngựa cẩn thận đấy. Con ngựa này không quen cưỡi mấy, phải cầm cương cho chặt.

Hai người về đến thành, vẫn theo cửa sau vội đi về viện Di Hồng. Bọn Tập Nhân đi vắng, chỉ có mấy bà già trông nhà, thấy Bảo Ngọc về, đều mừng rỡ, nói:

– A di đà phật! Cậu về rồi! Tý nữa thì chị Tập Nhân điên mất! Ở trên ấy đương uống rượu đấy, cậu lên ngay đi.

Bảo Ngọc nghe nói, vội cởi quần áo trắng ra, mặc quần áo đẹp, hỏi:

– Tiệc bày ở đâu?

– Ở nhà hoa lơn mới dựng.

Bảo Ngọc chạy vội đến nhà hoa, đã văng vẳng nghe thấy tiếng đàn sáo ca hát. Vừa đến bên nhà trống, thấy Ngọc Xuyến ngồi một mình ở dưới thềm sùi sụt khóc. Thấy Bảo Ngọc đến, Ngọc Xuyến thở dài một cái, chép miệng nói:

– Úi chà! Phượng hoàng đã đến rồi! Đi vào ngay đi! Chốc nữa không về có lẽ cả nhà nhao lên đấy.

Bảo Ngọc cười nói:

– Chị thử đoán xem tôi đi đâu nào?

Ngọc Xuyến quay đi, chỉ lau nước mắt thôi. Bảo Ngọc rầu rầu đi lên nhà hoa chảo Giả mẫu và Vương phu nhân. Mọi người mừng rỡ như được thấy chim phượng hoàng.

Bảo Ngọc vội đến chúc mừng Phượng Thự Giả mẫu và Vương phu nhân đều nói:

– Em mày chả biết hay dở gì cả. Có việc cần, sao không nói trước mà lại lẻn đỉ Thế còn ra làm sao nữa! Lần sau còn thế thì chờ bố mày về, ta sẽ mách nó đánh cho.

Giả mẫu lại mắng người hầu:

– Tại sao chúng mày cứ nghe lời nó? Nó bảo đi đâu cứ cúi đầu mà đi, không trình qua một tiếng?

Rồi lại hỏi Bảo Ngọc:

– Cháu đi đâu về đấy? Đã ăn uống gì chưa? Có bị sợ gì không?

– Người nàng hầu của Bắc Tĩnh vương Chết, hôm nay cháu đến chia buồn. Cháu thấy đức vương khóc nhiều quá, không tiện bỏ về ngay, vì thế phải ngồi lại một lúc.

– Từ nay cháu còn lẻn đi như thế, không trình ta trước, nhất định ta bảo bố mày đánh cho!

Bảo Ngọc vâng lời. Giả mẫu lại muốn đánh người đi hầu, nhưng mọi người khuyên:

– Xin cụ bớt giận, cậu ấy đã hứa xin chữa. Vả chăng cậu ấy đi về không xảy ra chuyện gì, cả nhà cũng nên yên lòng để vui một lúc.

Lúc đầu, Giả mẫu còn nóng ruột, giờ thấy Bảo Ngọc về vui quá, hết cả giận, nên việc công bỏ quạ Giả mẫu lại sợ Bảo Ngọc khó chịu, hoặc chưa ăn uống, hay đi đường bị sợ hãi, nên tìm hết cách dỗ dành. Tập Nhân cũng chạy đến phục dịch. Mọi người lại ra xem hát.

Hôm đó diễn vở Kinh thoa ký 3, Giả mẫu và Tiết phu nhân đều mủi lòng rơi lệ, có người cười, người giận, lại có người mắng nữa.

1      Tức Vương phu nhân.

2      Lạc Thần tên là Bật Phi, tương truyền là con gái họ Nhân. Khi Tào Tháo đánh Viên Thiệu, bắt được Nhân Thị mang về. Tào Thực xin không cho, đem cho con trưởng là Tào Phị Tào Phi lập Nhân Thị làm hoàng hậu, sau có tội bị chết. Tào Thực nhớ Nhân Thị quá khi đến bến Lạc Thủy thấy Nhân Thị hiện ra. Thào Thực vui mừng làm bài Lạc Thần Phú.

3      Tích vợ Vương Thạch Bằng là Tiến Ngọc Liên nghe đồn chồng lấy vợ lẽ, đâm đầu xuống sông tự tử, nhưng lại có người cứu. Vương Thạch Bằng cũng nghe đồn vợ đã chết rồi liền đặt một bàn tế.

Chương 44: Chuyện xảy bất ngờ, Phượng Thư đâm ghen – Mừng ngoài tưởng tượng, Bình Nhi trang điểm

Chuyện xảy bất ngờ, Phượng Thư đâm ghen

Mừng ngoài tưởng tượng, Bình Nhi trang điểm

Bảo Ngọc cùng chị em đang ngồi xem diễn vở Kinh thoa ký, Đại Ngọc xem đến hồi “Người chồng ra tế vợ”, liền bảo Bảo Thoa:

– Vương Thập Bằng không thông một tí nào. Tế chỗ nào chẳng được, lại cứ phải ra tận bờ sông? Tục ngữ nói: “Trông thấy vật lại nhớ đến người”, nước ở khắp mặt đất đều do một nguồn mà ra, múc một bát nước ở nơi nào cũng được, rồi nhìn vào đấy mà khóc, thế cũng đã hết lòng với người khuất rồi.

Bảo Thoa không trả lời, Bảo Ngọc nghe xong lại ngẩn người ra.

Giả mẫu nghĩ bụng: “Hôm nay khác mọi ngày, phải làm thế nào cho cháu Phượng vui suốt ngày mới được”. Nhưng vì người mệt, Giả mẫu đành chỉ ngồi ngả ở trên giường cùng Tiết phu nhân xem hát, muốn ăn gì thì chọn mấy thứ bày ở trên kỷ, vừa ăn vừa nói chuyện. Còn hai bàn rượu của mình thì đem thưởng cho bọn a hoàn và nhưng người đàn bà đứng hầu không có cỗ ăn, bảo họ mang ra thềm trước cửa sổ mà ngồi, muốn gì tùy ý, không cần phải câu nệ lễ phép. Vương phu nhân và Hình phu nhân ngồi trước cái bàn cao kê ở dưới. Các chị em ngồi ở mấy bàn rượu bên ngoài. Giả mẫu thỉnh thoảng dặn bọn Vưu Thị:

– Mời cháu Phượng ngồi vào ghế trên, rồi các chị thay ta tiếp nó, để bõ công nó vất vả quanh năm.

Vưu Thị vâng lời, cười nói:

– Thím ấy nói không quen ngồi cỗ trên, gò bó ngượng nghịu lắm. Ngay rượu cũng chẳng chịu uống.

Giả mẫu cười nói:

– Cháu không biết mời, để bà ra mời nó vậy.

Phượng Thư vội chạy lại cười nói:

– Xin bà đừng nghe chị ấy, cháu đã uống những mấy chén rồi.

Giả mẫu cười, sai bọn Vưu Thị:

– Kéo nó ra, ấn nó xuống ghế, các người phải thay nhau mời rượu, nếu nó vẫn không chịu uống, ta sẽ thân hành đến mời mới được.

Bọn Vưu Thị cười, rồi kéo Phượng Thư ngồi xuống, sai người lấy chén rót rượn, nói:

– Đầu năm chí cuối, thím hết lòng chiều chuộng cụ, bà Hai và chúng tôi. Tôi chẳng có gì đáp lại. Hôm nay xin thân rót ly rượu này chúc mừng thím. Ngoan này! Thím uống ngay ly rượu ở tay tôi đi.

Phượng Thư cười nói:

– Nếu chị có lòng kính tôi, thì quỳ xuống đây tôi mới uống.

– Đừng làm bộ nữa! Bảo cho mà biết: chăng dễ mà gặp được dịp này đâu. Mai sau liệu có được ngày nay mãi không? Hãy cố mà uống mấy chén.

Phượng Thư thấy không từ chối được, đành phải uống hai chén. Rồi đến bọn chị em lại mời, Phượng Thư đành phải uống hai hớp. Già Lại thấy Giả mẫu cao hứng, cũng phải góp vui, dẫn các già khác đến mời rượu. Phượng Thư không thể từ chối được, đành phải uống hai hớp. Bọn Uyên Ương cũng đến mời, Phượng Thư không uống được nữa, vội van vỉ:

– Các chị Ơi, tha cho tôi, ngày mai tôi sẽ uống.

Uyên Ương cười nói:

– Nếu thế thì chẳng hóa ra chúng tôi bẽ mặt lắm hay sao? Ngay đến bà Hai cũng còn có lòng vì nể giữ thể diện cho chúng tôi. Hôm nay đứng trước mọi người, mợ lại ra bộ bà chủ. Thế ra chúng tôi không đáng đến mời. Thôi, mợ không uống thì chúng tôi đi vậy.

Nói xong nguây nguẩy đi ra. Phượng Thư vội kéo lại cười nói:

– Chị Ơi, thôi để tôi uống vậy.

Liền rót đầy ly rượu uống hết. Uyên Ương mới cười, rồi về chỗ ngồi.

Phượng Thư đã say, trong bụng cồn cào khó chịu, muốn về nhà nghỉ, nhân thấy bọn con hát lên, liền bảo Vưu Thị:

– Sắp sẵn tiền thưởng ra, tôi phải đi rửa mặt đây.

Vưu Thị gật đầu, Phượng Thư thấy không ai để ý, liền đi ra ngoài theo thềm nhà sau đi về. Bình Nhi biết ý, vội theo ra, Phượng Thư vịn vào Bình Nhi, đi đến dưới thềm, thấy một đứa hầu bé trong nhà đứng ở đấy. Trông thấy hai người về, đứa hầu vội quay người chạy. Phượng Thư ngờ, gọi nó lại. Trước nó còn giả vờ như không nghe. Sau thấy Bình Nhi cũng gọi, không làm thế nào được, nó đành phải quay lại.

Phượng Thư càng ngờ, liền cùng Bình Nhi lên thềm gọi đứa bé ấy vào, rồi mở cánh cửa ra. Phượng Thư ngồi ngay ở trên thềm, bắt đứa bé quỳ xuống, rồi hét bảo Bình Nhi:

– Bảo hai đứa hầu ở cửa ngoài mang thừng roi vào đây, đem con ranh con này đánh chết đi cho tao. Nó chẳng biết tao là ai à?

Đứa bé hồn vía lên mây, vừa khóc vừa van lạy xin thạ Phượng Thư hỏi:

– Tao có phải là ma đâu. Mày trông thấy, không biết đứng lại, sao cứ chạy đi?

– Cháu thực không trông thấy mợ, và nhớ trong nhà không còn ai, nên mới chạy về.

– Trong nhà đã không có ai, thì ai bảo mày đến đây? Dù mày không trông thấy, nhưng tao và chị Bình ở đằng sau rát cổ gọi mày đến mười mấy lần, càng gọi mày càng chạy. Có xa xôi gì đâu mày điếc à? Lại còn cãi?

Nói xong, giơ tay tát một cái, đứa bé chúi đầu xuống, rồi lại tát một cái nữa, hai má nó sưng vù lên. Bình Nhi vội can:

– Thôi mợ ạ, không lại đau tay!

Phượng Thư nói:

– Đánh nữa đi, hỏi nó vì sao mà chạy, nó không nói thì đánh vỡ mồm nó ra.

Đứa bé trước còn chối cãi, sau thấy Phượng Thư bảo nung đỏ thanh sắt dí vào mồm, nó mới khóc nói:

– Cậu Hai ở nhà bảo cháu đến đây gác, thấy mợ về thì báo tin cho cậu biết. Không ngờ bây giờ mợ đã về.

Phượng Thư thấy câu nói có ý, liền hỏi:

– Bảo mày gác tao để làm gì? Không nhẽ lại cấm tao về à? Tất có duyên cớ làm sao đây. Mày phải nói ngay, tao sẽ thương mày, nếu không tao lấy dao xẻo thịt!

Nói xong, lấy cái trâm ở trên đầu ra đâm vào mồm đứa bé. Nó sợ quá, vừa tránh vừa khóc:

– Cháu xin nói thực, nhưng mợ đừng bảo là cháu nói!

Bình Nhi vừa ngăn Phượng Thư, vừa giục nó nói ngay đi. Đứa bé nói:

– Cậu Hai về đến nhà, ngủ một lúc mới dậy, cho người đến xem mợ đã sắp về chưa. Nghe nói mợ vừa mới vào tiệc, cậu ấy liền mở ngay hòm lấy hai nén bạc, hai cái trâm, hai tấm lụa, bảo cháu lẻn đưa cho vợ Bão Nhị và gọi nó lại. Nó nhận các thứ ấy rồi đi đến nhà tạ Cậu Hai bảo cháu đứng đây gác. Còn việc về sau thế nào cháu không biết.

Phượng Thư nghe nói, tức run người, đứng dậy đi thẳng về nhà. Vừa đến sân, thấy một đứa hầu đứng ở trong cửa ló đầu ra. Trông thấy Phượng Thư, nó cắm đầu chạy. Phượng Thư gọi hẳn tên nó, bảo đứng lại. Đứa bé này vốn láu lỉnh, thấy không chạy thoát, nên quay lại cười nói:

– Cháu đang định đi mách mợ, may mợ đã về.

– Mách tao việc gì?

– Cậu Hai ở nhà…

Rồi nó kể lại một lượt như đứa trước vừa nói.

Phượng Thư quát:

– Từ nãy mày làm gì? Bây giờ tao trông thấy rồi, mày mới tìm cách đổ quanh.

Nói xong, giơ tay tát một cái, làm cho đứa hầu ngã lạng choạng, Phượng Thư rón rén đi đến trước cửa sổ, nghe thấy ở trong có tiếng người đàn bà cười nói:

– Bao giờ bà vợ Diêm Vương của cậu chết đi thì hay!

– Nếu nó chết, ta lấy một mụ khác, cũng giống như thế, thì làm thế nào?

– Nếu nó chết thì đem cô Bình làm vợ cả, có lẽ còn hơn đấy.

– Nó chẳng để cho ta đụng chạm đến con Bình một tý nào, chính con Bình cũng ấm ức không dám nói ra. Số kiếp ra sao mà lại gặp phải sao Dạ Soa thế này!

Phượng Thư nghe nói, tức run người lên. Lại nghe thấy họ đều khen Bình Nhi, liền ngờ cho Bình Nhi ngày thường vắng mình, chắc cũng ngỏ lời oán trách. Hơi rượu càng hăng lên, không nghĩ ngợi gì cả. Phương Thư quay ngay người lại tát Bình Nhi hai cái; đạp cửa vào, không nói năng gì, túm lấy vợ Bão Nhị đánh xé. Lại sợ Giả Liễn trốn đi, liền đứng chặn lấy cửa và mắng:

– Con đĩ này! Mày đã cướp chồng chủ mày, lại định giết cả vợ chủ mày nữa à! Bình Nhi lại đây! Bọn đĩ này cùng về hùa với nhau để hại ta! Ngoài mặt thì vẫn thơn thớt dỗ dành ta.

Nói xong lại đánh Bình Nhi mấy cái. Làm Bình Nhi không có chỗ kêu oan, tức quá phát khóc lên và mắng:

– Các người đã làm việc xấu xa này, không dưng lại kéo cả tôi vào làm gì!

Nói xong, túm lấy vợ Bảo Nhị đánh xé.

Giả Liễn vì uống nhiều rượu, đang khi hứng lên, không đề phòng cẩn thận, thì Phượng Thư về, nên lính quýnh không biết làm thế nào; lại thấy Bình Nhi cũng to tiếng, thành ra hơi men càng hăng lên. Thấy Phượng Thư đánh vợ Bão Nhị, hắn vừa tức vừa xấu hổ, nhưng không tiện nói ra; bây giờ thấy Bình Nhi cũng đánh vợ Bảo Nhị, hắn đứng dậy đá rồi mắng:

– Con đĩ kia! mày cũng đánh người à!

Bình Nhi sợ quá, ngừng tay, khóc nói:

– Các người chuyện trò thầm vụng với nhau, tại sao còn kéo tôi vào?

Phượng Thư thấy Bình Nhi sợ Giả Liễn, càng tức, chạy lại đánh Bình Nhi, và bắt phải đánh vợ Bảo Nhị. Bình Nhi tức quá chạy đi tìm dao định tự tử. Bọn bà già và người hầu bên ngoài vội ngăn lại khuyên răn.

Phượng Thư thấy Bình Nhi đi tự tử, liền đập đầu vào Giả Liễn, kêu ầm lên:

– Chúng nó vào hùa với nhau để hại ta, bị ta bắt được, lại còn dọa ta! Cậu bóp chết tôi đi!

Giả Liễn tức quá, rút kiếm ở trên tường xuống, nói:

– Không cần phải tự tử! Tao điên tiết lên rồi đây! Giết tất cả rồi tao đền mạng, thế là hết chuyện!

Đương lúc ầm ĩ, thì bọn Vưu Thị đến nói:

– Làm cái gì đấy? Tự dưng vô cớ sao lại to tiếng thế?

Giả Liễn thấy có người đến, liền mượn hơi men càng làm già cứ đòi giết Phượng Thự Phượng Thư thấy người đến, không lồng lộn như trước nữa, liền bỏ mọi người, rồi khóc lóc ầm ĩ và chạy sang bên Giả mẫu.

Lúc đó tuồng đã tan, Phượng Thư chạy đến lăn vào lòng Giả mẫu nói:

– Bà cứu cháu với! Cậu Liễn định giết cháu đấy!

Giả mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân vội hỏi “Sao thế?” Phương Thư khóc nói:

– Cháu về nhà thay quần áo, không ngờ cậu Liễn rước gái về trò chuyện. Cháu tưởng có khách đến chơi, sợ không dám vào; đứng ở ngoài nghe, thì ra cậu ấy đang bàn với vợ Bão Nhị, bảo là cháu ghê gớm lắm, định cho cháu uống thuốc chết đi, rồi lấy Bình Nhi làm vợ cả. Cháu tức quá, nhưng không dám cãi nhau với cậu ấy, chỉ đánh con Bình hai cái, hỏi nó vì sao định hại cháu. Cậu ấy xấu hổ nên chực giết cháu.

Giả mẫu nghe xong, tin là thực, nói:

– Như thế thì chịu sao được? Mau mau lôi cổ thằng khốn nạn ấy đến đây!

Nói chưa dứt lời, thấy Giả Liễn cầm kiếm chạy đến, có nhiều người theo sau. Giả Liễn xưa nay cậy Giả mẫu vẫn thương mình, ngay mẹ và thím cũng không nỡ ngăn cản, nên càng hung hăng chạy đến làm ầm lên. Hình phu nhân và Vương phu nhân trông thấy, giận quá vội ngăn lại mắng:

– Thằng khốn nạn này! Mày định làm loạn đấy à! Cụ ngồi kia kìa?

Giả Liễn lừ mắt nhìn, nói:

– Chỉ vì cụ nuông nó quá, nó mới dám thế. Nó mắng cả cháu nữa.

Hình phu nhân giận quá, giằng lấy kiếm quát:

– Mày bước ngay ra ngoài kia!

GIả Liễn giơ bộ mặt dày, lè nhè nói mãi.

Giả mẫu giận mắng:

– Tao biết mày không coi chúng tao ra gì! Gọi bố nó đến đây xem nó có bước hay không!

Giả Liễn thấy vậy, mới loạng choạng bước ra. Giận dỗi không về nhà, đi ra thư phòng phía ngoài.

Hình phu nhân và Vương phu nhân cũng trách Phượng Thự Giả mẫu nói:

– Việc có quan hệ gì đâu. Bọn trai trẻ chúng nó, thấy gái khác nào mèo thấy mỡ, giữ làm sao được? Lúc còn trẻ ai mà chẳng thế? Việc này lỗi tại ta bảo mày uống thêm vài ly rượu mày lại uống phải giấm chua! 1

Nói xong, mọi người cười ầm lên. Giả mẫu lại nói:

– Mày cứ yên tâm, mai ta sẽ bắt chồng mày đến xin lỗi, bây giờ đừng về mà nó bẽ mặt đấy.

Rồi lại mắng:

– Con Bình ranh con, ngày thường ta cứ tưởng nó khá, thế mà vắng mặt nó lại tệ thế!

Vưu Thị cười nói:

– Bình Nhi chẳng có lỗi gì, đó là thím Phượng giận cá chém thớt đấy thôi. Hai bên cãi nhau đều mang Bình Nhi ra hành hạ cho hả. Nó oan ức thế mà cụ lại còn mắng nó!

Giả mẫu nói:

– Phải đấy. Ta vẫn biết con bé ấy không phải là quân hay ton hót gì đâu. Đáng thương cho nó bị mắng oan.

Rồi gọi Hổ Phách đến bảo:

– Mày kể lại lời ta nói cho Bình Nhi nghe; ta biết nó bị Oan, ngày mai ta sẽ bắt chủ nó đến xin lỗi. Hôm nay là ngày sinh nhật của chủ nó, đừng để cho nó làm ầm lên.

Lý Hoàn đã dắt Bình Nhi vào vườn Đại Quan rồi. Bình Nhi nghẹn ngào không biết nói làm sao. Bảo Thoa khuyên:

– Chị là người hiểu biết, xưa nay mợ chị đối đãi với chị thế nào. Hôm nay mợ chị say rượu, không đem dằn vặt để hả giận, thì biết đem ai? Chị đừng để người ta cười mợ là quá saỵ Chị chỉ nghĩ cái oan lúc này, chả hóa ra những cái tốt của mình trước đây đều là giả dối hay sao?

Ngay lúc ấy Hổ Phách đến, kể lại những lời của Giả mẫu cho Bình Nhi nghe. Bình Nhi cảm thấy mình còn chút thể diện, dần dần nguôi giận, cũng không về nhà nữa.

Bọn Bảo Thoa nghỉ một lúc rồi đến thăm Giả mẫu và Phượng Thự Bảo Ngọc mời Bình Nhi đến viện Di Hồng. Tập Nhân ra đón, cười nói:

– Tôi định mời chị trước, nhưng vì mợ Cả và các cô đều mời, nên tôi đành phải để lại.

Bình Nhi cười nói:

– Xin cám ơn. Không biết chuyện này ở đâu mà ra! Bỗng dưng vô cớ tôi bị mắng oan một trận!

Tập Nhân cười nói:

– Mợ Hai xưa nay đối với chị vẫn tốt, chẳng qua nhất thời bực lên đó thôi.

– Mợ Hai có nói gì đâu, chỉ vì con đĩ nó làm tội tôi, nó mang tôi ra làm trò đùa. Lại còn cái cậu hồ đồ ấy quay ra đánh tôi nữa!

Bình Nhi ức quá, không cầm được nước mắt. Bảo Ngọc vội khuyên:

– Chị đừng buồn nữa, tôi xin lỗi thay cho hai người ấy.

Bình Nhi cười nói:

– Nào có việc gì đến cậu?

Bảo Ngọc cười nói:

– Anh em chị em chúng tôi cũng như là một, nếu họ có lỗi với ai, tôi cũng đáng xin lỗi thay cho họ.

Lại nói:

– Đáng tiếc bộ quần áo mới của chị bị lấm cả! Ở đây em Hoa của chị có quần áo, sao chị không lấy mà thay rồi đem phun rượu, là lại bộ quần áo và chị cũng nên chải lại đầu đi.

Vừa nói vừa sai bọn hầu nhỏ: “Múc nước rửa mặt và đốt bàn là đem đến đây!”

Bình Nhi xưa nay vẫn nghe nói Bảo Ngọc biết cách chiều chuộng bọn con gái. Bảo Ngọc ngày thường vì thấy Bình Nhi là nàng hầu yêu của Giả Liễn và lại là người tâm phúc của Phượng Thư nên không dám gần gũi. Bới vậy, thường ân hận không biết làm thế nào tỏ hết được lòng tốt của mình đối với chị tạ Bình Nhi thấy Bảo Ngọc ân cần như thế, nghĩ bụng: “Quả nhiên Bảo Ngọc đối xử chu tất quá, thật tiếng đồn không sai!”

Lại thấy Tập Nhân mở ngay hòm, lấy ra bộ quần áo ít hay mặc đến. Bình Nhi vội đi rửa mặt. Bảo Ngọc đứng bên cười nói:

– Chị cũng nên đánh tý phấn vào, kẻo người ta lại bảo giận nhau với chị Phượng đấy. Vả chăng hôm nay là ngày sinh nhật của chị ấy và cụ cũng đã sai người đến an ủi chị rồi.

Bình Nhi nghe nói có lý, liền đi tìm phấn, nhưng không thấy. Bảo Ngọc vội chạy đến đài trang, mở cái hộp sứ Châu Tuyên ra, trong hộp đựng một lượt mười thoi phấn hoa ngọc trâm, lấy ra một thoi đưa cho Bình Nhi, cười nói:

– Đây không phải là phấn thường đâu, là giống hoa dạ hương nghiền nát ra, chế với thứ bột thượng hảo hạng đấy.

Bình Nhi để lên trên tay xem, quả nhiên vừa nhẹ, vừa trắng, vừa đỏ, vừa thơm, xoa lên mặt thấy da mịn và mát, không bết như thứ phấn khác. Sau thấy một cái hộp ngọc trắng nhỏ, trong đựng một hộp sáp màu đỏ tươi như cao văn khôi, chứ không phải từng tờ một. Bảo Ngọc cười nói:

– Sáp bán ở hiệu không sạch, màu lại chóng baỵ Đây là hạng sáp tốt nhất, vắt nước ra, lọc sạch rồi hòa lẫn với sương ở trong hoa, đem nấu lên. Chỉ lấy cái trâm nhỏ khêu một tí xát vào môi; lại lấy một giọt hòa lẫn nước với sáp vào lòng bàn tay rồi xoa lên mặt cũng đủ.

Bình Nhi cứ theo thế trang điểm, thấy tươi đẹp khác thường và mùi thơm ngào ngạt. Bảo Ngọc lại lấy một cành hoa huệ Ở trong chậu dùng dao tre cắt đem cắm lên đầu cho Bình Nhị Chợt thấy Lý Hoàn cho người sang gọi, Bình Nhi vội vàng đi sang.

Bình Nhi là cô gái thông minh, xinh đẹp vào bậc nhất, chứ không như những bọn tục tằn ngu xuẩn. Thế mà Bảo Ngọc xưa nay không được gần gũi săn sóc, nên rất lấy làm ân hận. Vả hôm nay là ngày sinh nhật của Kim Xuyến, nên suốt ngày Bảo Ngọc không vui. Không ngờ sau khi xảy ra việc này, Bảo Ngọc được tỏ hết nỗi lòng với Bình Nhi, thực là một niềm vui mà trong đời chưa hề nghĩ đến. Vì thế cậu ta nằm ngả xuống giường, trong bụng lấy làm khoan khoái. Chợt nghĩ đến Giả Liễn chỉ biết thỏa lòng dục vọng của mình, chứ không biết nâng niu các bạn son phấn. Rồi nghĩ đến Bình Nhi không có cha mẹ, không có anh chị em, trơ trọi một mình, phải hầu hạ hai vợ chồng Giả Liễn. Giả Liễn thì thô tục, Phượng Thư thì tàn nhẫn, thế mà Bình Nhi vẫn chiều chuộng được chu tất. Hôm nay lại gặp bàn tay ác nghiệt, thực là mệnh bạc hơn cả Đại Ngọc! Nghĩ đến đây, Bảo Ngọc lại càng thương cảm. Rồi đứng dậy, thấy quần áo phun rượu đã gần khô, Bảo Ngọc liền đem đi là và gấp lại cẩn thận. Thấy cái khăn mặt của Bình Nhi bỏ quên đấy, hãy còn vết nước mắt. Bảo Ngọc giặt đi rồi đem phơi. Vừa mừng vừa thương, ngồi thừ ra một lúc, rồi sang thôn Đạo Hương nói chuyện, đến khi lên đèn mới về.

Bình Nhi ngủ lại nhà Lý Hoàn một đêm. Phượng Thư ngủ ở bên nhà Giả mẫu. Giả Liễn tối về, thấy vắng tanh, không tiện đi gọi, đành phải nằm ngủ trần một đêm. Hôm sau trở dậy, nghĩ đến việc hôm qua, thấy bẽ mặt, hắn hối hận không kịp. Hình phu nhân nhớ lại câu chuyện hôm qua, liền đến gọi Giả Liễn sang nhả Giả mẫu. Giả Liễn đành phải nuốt nhục theo sang, quỳ trước Giả mẫu.

Giả mẫu hỏi:

– Tại sao vậy?

– Hôm qua cháu say rượu quá, làm phiền lòng bà, hôm nay sang xin nhận tội.

– Đồ khốn nạn! Uống cho bứ họng ra, rồi không biết yên phận dẫn xác đi cho rảnh, lại còn đánh vợ! Ngày thường con Phượng ăn nói như Hạng Võ, thế mà hôm qua trông nó run sợ thực đáng thương! Nếu không có tao, mày sẽ giết nó thì bây giờ còn ra làm sao nữa.

Giả Liễn trong bụng ấm ức nhưng không dám cãi lại, chỉ đành nhận lỗi. Giả mẫu lại nói:

– Con Phượng và con Bình không đẹp à? Mày còn chưa chán sao? Hàng ngày mày cứ thậm thậm thụt thụt, bất cứ hạng bẩn thỉu nào cũng lôi về nhà. Lại vì con đĩ ấy mà đánh vợ, đánh người hầu, thế cũng đòi là cậu ấm con nhà quan, tự mình trát trấu vào mặt! Nếu mày biết sợ tao thì phải đứng dậy xin lỗi vợ mày đi, rồi dắt nó về nhà, tao mới vui lòng và tha tội cho mày. Không thì mày bước ngay, tao không dám nhận lễ lạy của mày nữa!

Giả Liễn nghe vậy, lại thấy Phượng Thư đứng ở bên cạnh khóc sưng cả mắt lên, không trang điểm son phấn, mặt vàng khè, so với ngày thường lại càng đáng thương đáng yêu. Bụng nghĩ: “Thôi chi bằng xin lỗi đi thì đôi bên lại được thuận hòa mà cụ cũng vui lòng.” Liền cười nói:

– Bà dạy thế nào cháu cũng phải vâng lời, nhưng chỉ sợ lại đâm nuông nó thôi.

Giả mẫu cười nói:

– Nói bậy! Tao biết nó là đứa có lễ phép, không hay va chạm đến ai. Nếu sau này nó có lỗi với mày tao sẽ làm chủ cho mày trị nó.

Giả Liễn nghe nói, đứng dậy vái Phượng Thư một cái, cười nói:

– Đó là tôi không phải, xin mợ Hai đừng giận nữa.

Cả nhà đều cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:

– Con Phượng không được giận nữa. Mày còn giận thì tao càng thêm bực.

Nói xong lại sai người đi gọi Bình Nhi đến, bảo Phượng Thư và Giả Liễn phải an ủi Bình Nhi mấy câu. Giả Liễn trôngthấy Bình Nhi, thực là “vợ cả không bằng nàng hầu, nàng hầu không bằng làm cách thầm vụng”. Thấy Giả mẫu bảo thế, Giả Liễn chạy ngay lại nói:

– Thực là tôi không phải, nên cô bị Oan, cũng vì tôi mà mợ ấy có lỗi với cô, về phần tôi xin lỗi đã đành, tôi lại xin lỗi thay mợ ấy nữa.

Nói xong, vái một cái, làm cho Giả mẫu cười, Phượng Thư cũng cười.

Giả mẫu lại bắt Phượng Thư đến an ủi Bình Nhi mấy câu. Bình Nhi vội chạy lại vái Phượng Thư, nói:

– Ngày sinh nhật của mợ, tôi làm cho mợ bực tức, tội tôi đáng chết.

Phượng Thư xấu hổ vì hôm qua uống nhiều rượn, không nghĩ đến tình nghĩa xưa nay, đâm ra nóng nảy, nghe người ngoài nói, vô cớ làm cho Bình Nhi bẽ mặt. Nay thấy thế, vừa xấu hổ vừa đau xót, vội đỡ Bình Nhi dậy, nước mắt nhỏ xuống. Bính Nhi nói:

– Tôi hầu mợ bấy nhiêu năn, không bao giờ mợ động đến nửa móng taỵ Hôm qua bị đòn, tôi cũng không dám oán mợ, chỉ vì con đĩ ấy làm hại, tránh nào mợ chả tức giận!

Nói xong nước mắt cũng tràn ra. Giả mẫu liền sai người đưa họ về nhà và nói:

– Đứa nào còn nhắc lại chuyện này phải đến trình ta ngay; bất kỳ là ai, ta cũng đánh cho một trận.

Ba người lại tạ Giả mẫu, Hình phu nhân và Vương phu nhân. Bà già vâng lời, đưa họ về nhà.

Về đến buồng, Phượng Thư thấy không có người liền nói:

– Tôi đâu phải giống vua Diêm Vương, giống quỷ Dạ Soa? Con đĩ ấy rủa tôi chết, cậu cũng theo nó rủa tôi. Nghìn ngày chả tử tế với nhau thì cũng phải có một ngày chứ. Tội nghiệp cho tôi không bằng cả con đĩ, thì còn mặt mũi nào sống ở trên đời nữa.

Nói xong lại khóc. Giả Liễn nói:

– Thế còn chưa đủ à? Mợ thử nghĩ xem hôm trước ai có lỗi nhiều? Hôm nay trước mặt mọi người, tôi phải quỳ, lại phải xin lỗi, như thế mợ đã hãnh diện rồi. Bây giờ lại còn cằn nhằn, chẳng lẽ lại bắt tôi quỳ nữa mới chịu thôi hay sao? Được đà lại cứ lên mặt mãi, như thế không tốt đâu!

Phượng Thư không nói lại được. Bình Nhi phì cười một tiếng. Giả Liễn cũng cười nói:

– Thế là xong. Tôi thật hết cách rồi!

Chợt một bà già đến trình:

– Vợ Bão Nhị thắt cổ chết rồi!

Giả Liễn, Phượng Thư đều giật nảy mình. Nhưng Phượng Thư vội làm ra vẻ cứng, liền quát:

– Nó chết thì thôi. Việc gì bà phải nhớn nha nhớn nhác.

Một lúc, vợ Lâm Chi Hiếu đến nói khẽ với Phượng Thư:

– Vợ Bảo Nhị thắt cổ chết rồi, họ hàng nhà nó định đi kiện mợ đấy!

– Càng hay, tôi cũng đang định đi kiện nó đây!

– Chúng tôi vừa khuyên họ một lúc, rồi lại dọa cho họ một trận, hứa sẽ cho họ ít tiền, nghe đã xuôi rồi.

– Tôi chẳng có đồng nào. Nếu có tiền cũng chẳng cho nó! Cứ bảo nó đi mà kiện! Đừng ai ngăn nó và cũng không cần phải dọa nó. Nó muốn đi kiện đâu thì đi. Nếu nó không kiện, tôi sẽ kiện lại nó là “mang xác người chết ra vu vạ!”

Vợ Lâm Chí Hiếu đương lúc khó nghĩ, thì Giả Liễn liếc mắt một cái, chị ta hiểu ngay, liền ra ngoài chờ.

Giả Liễn nói:

– Tôi đi ra xem sao?

Phượng Thư nói:

– Không được cho nó tiền!

Giả Liễn chạy ra bàn với Lâm Chí Hiếu, sai người đến vừa dỗ vừa dọa và cho hai trăm lạng bạc. Giả Liễn lại sợ sẽ còn xảy ra chuyện lôi thôi, liền sai người đến nói với bọn quan lại rồi gọi mấy người lính canh và người chôn cất đến giúp đỡ việc tang. Bọn kia thấy thế, muốn làm cho ra nhẽ, nhưng không dám, đành phải im hơi lặng tiếng vậy. Giả Liễn lại bảo Lâm Chí Hiếu biên hão hai trăm lạng bạc vào các khoản chi tiêu khác lấp liếm cho qua chuyện. Rồi lấy tiền riêng của mình cho Bão Nhị, an ủi nó, và nói: “Sau này ta sẽ hỏi cho mày một con vợ đẹp khác”. Bão Nhị vừa có thể diện, lại vừa được tiền, làm gì mà chẳng bằng lòng, nên vẫn chiều chuộng Giả Liễn như trước.

Ở nhà, Phượng Thư trong bụng vẫn lo, nhưng ngoài mặt lại làm ra bộ không thèm để ý đến. Nhân lúc vắng người, Phượng Thư cười bảo Bình Nhi:

– Hôm nọ ta uống nhiều rượu, em đừng giận nhé. Đánh vào đâu? Ta xem nào?

Bình Nhi nghe nói, mắt đỏ hoe lên, nhưng vội nhịn ngay:

– Đánh cũng chả đau lắm.

Rồi nghe ở ngoài có người nói:

– Các mợ các cô đến chơi đấy!

1      Ý nói hay ghen tuông.

Chương 45: Bạn kim lan ngỏ chuyện kim lan – Đêm mưa gió ngâm bài mưa gió

Bạn kim lan ngỏ chuyện kim lan

Đêm mưa gió ngâm bài mưa gió

Phượng Thư đang vỗ về Bình Nhi, thấy chị em đến chơi, liền mời ngồi. Bình Nhi đi pha trà. Phượng Thư cười nói:

– Sao hôm nay đến chơi đông, như là có thiếp mời ấy.

Thám Xuân cười nói:

– Chúng tôi đến đây có hai việc: một là việc của tôi; hai là việc của cô Tư, lại kèm theo cả lời của cụ nữa.

– Việc gì mà cần thế?

– Chúng tôi mở thi xã, lần đầu không được đủ, mọi người nể nhau nên sai cả lệ. Chị là người thành thật không thiên vị ai, nên tôi muốn mời chị làm “giám xã ngự sử”. Hai là cô Tư đang vẽ bức tranh cái vườn, không đủ đồ dùng, đã trình cụ rồi, người bảo: “Có lẽ dưới lầu còn những thứ ấy. Thử tìm xem, còn thì đem mà dùng, hết thì bảo người đi mua”.

Phượng Thư cười nói:

– Tôi chỉ biết ăn thôi, ngoài ra chẳng hiểu nếp tẻ gì cả.

– Chị không hiểu cũng không cần chị phải làm, chỉ nhờ chị xem xét trong đám chúng tôi có ai lười biếng đáng phạt thì phạt, thế là được rồi.

– Các cô đừng lừa tôi. Tôi đã đoán ra rồi. Đâu có phải mời tôi làm “giám xã ngự sử”? Rõ ràng là bảo tôi làm người lái “buôn đồng” để nộp tiền thôi. Các cô mở thi xã, tất phải thay phiên nhau làm chủ thết rượu. Vì không đủ tiền, nên bày ra cách này lôi tôi vào để lấy tiền đó thôi. Có phải thế không?

Mọi người đều cười nói: “Chị đoán đúng đấy!”

Lý Hoàn cười nói:

– Mày thật là người pha lê mà ruột thủy tinh!

Phượng Thư cười nói:

– Khen cho chị là chị cả! Các cô ấy muốn nhờ chị dìu dắt học hành, học khuôn phép, học may vá. Bây giờ mở thi xã hết bao nhiêu tiền mà chị không dám nhận. Cụ, bà Hai thì không nói làm gì, vì là các vị “phong quân” 1 già. Còn chị mỗi tháng được mười lạng bạc lương, so với chúng tôi nhiều hơn gấp hai lần. Thế mà Cụ và bà Hai cứ thương chị là đàn bà góa, không làm gì, không đủ tiền tiêu, lại có đứa con bé được thêm mỗi tháng mười lạng nữa, như thế thì lương bằng Cụ và bà Hai rồi còn gì. Chị lại được miếng vườn cho thuê, số tiền thưởng cuối năm chị cũng được nhiều hơn. Mẹ con, thầy tớ nhà chị tất cả chưa đầy mười người, ăn mặc các cái vẫn là của trong kho chi ra. Tính ra ít nhất chị cũng có bốn, năm trăm lạng bạc. Bây giờ mỗi năm chị bỏ ra độ một hay hai trăm lạng bạc cho họ vui chơi, kể cũng được mấy năm. Sau này họ lấy chồng rồi, chẳng lẽ chị còn phải bù nữa chăng? Bây giờ chị sợ phải tiêu tiền, xui họ đến quấy rầy tôi, để ăn cho núi lở non mòn, tôi lại chả biết hay sao?

Lý Hoàn cười nói:

– Các cô nghe đấy, tôi nói có một, nó đã điên lên nói ra hàng tràng những câu mất dạy! Thực là hạng lái buôn, chuyên nghề so kè tính toán, bủn xỉn từng ly từng tý! Cái hạng này may là một vị tiểu thư đẻ ra ở nhà thi thư, sĩ hoạn, lại được lấy chồng thế này mà cũng còn quá quắt như thế, nếu là con nhà nghèo hèn, làm hạng con hầu đứa ở, thì không biết đê tiện đến thế nào. Khắp gầm trời ai cũng kêu mày xoay xở quá lắm. Hôm qua lại đánh cả con Bình, sao mày bạo tay thế? Thật là đem rượu ngọt đổ vào bụng chó! Tức quá, tao chỉ muốn báo thù hộ con Bình thôi. Nghĩ mãi, không mấy khi gặp “ngày vui của con chó dài đuôi”, lại sợ cụ khó chịu, vì thế tao không nói ra, nhưng trong bụng vẫn tức. Thế mà hôm nay mày lại giở chuyện trêu tao. Kể ra mày xách giày cho con Bình cũng chưa đáng! Mày và con Bình nên đổi địa vị cho nhau mới phải!

Mọi người nghe nói đều cười ầm lên.

Phượng Thư cười nói:

– Ô! Tôi biết rồi! Thế ra các chị tìm tôi không phải vì thơ vì vè, chỉ để báo thù cho con Bình đấy thôi. Tôi thật không ngờ con Bình đã có một người để tựa lưng như chị. Tôi biết thế này, dù có ma quỷ kéo tay tôi đánh nó, tôi cũng không dám. Chị Bình lại đây, tôi xin lỗi chị trước mặt mợ Cả và các cô của chị, cứ cho tôi là “quá chén mất khôn thôi”!

Mọi người nghe nói đều cười ầm lên.

Lý Hoàn cười hỏi Bình Nhi:

– Thế nào? Tôi phải nói cho chị hả giận mới thôi!

Bình Nhi cười nói:

– Dù các mợ nói đùa, tôi cũng không dám nhận.

Lý Hoàn nói:

– Sao lại không dám! Đã có tôi đây! Thôi, đi lấy chìa khóa, bảo chủ chị mở cửa lấy các đồ dùng ra.

Phượng Thư cười nói:

– Chị Ơi! Chị hãy vào trong vườn với họ đã. Tôi vừa định mang sổ gạo ra tính với họ một lúc, mẹ tôi bên kia lại sai người sang gọi, không biết là bảo việc gì, tôi phải đi sang đó mới được. Lại còn quần áo cuối năm cho các cô, tôi phải sắp sẵn cho người ta may nữa.

Lý Hoàn cười nói:

– Mặc kệ! Thím cứ làm xong việc này cho tôi đi nghỉ, để các cô ấy khỏi quấy rầy tôi.

Phượng Thư vội cười nói:

– Chị Ơi! Hãy để cho em rỗi một tý đã, xưa nay chị vẫn thương em, sao bây giờ vì việc Bình Nhi, chị lại không thương em nữa? Chị thường khuyên em: “Tuy nhiều việc, nhưng cũng nên giữ gìn sức khỏe, được rỗi lúc nào cũng nên nghỉ ngơi”. Thế mà hôm nay chị lại bắt ép em quá như thế à. Vả chăng, những quần áo cuối năm của người khác mà chậm thì không can gì, chứ quần áo của các cô mà chậm thì trách cứ ở chị đấy. Chị đã chẳng chịu làm gì, lại không nói giúp lấy một lời, lẽ nào cụ chả trách chị. Tôi thà đành nhận lỗi một mình, chứ không khi nào dám làm lụy đến chị.

Lý Hoàn cười nói:

– Các cô nghe kìa, nó nói thế có được không? Thế mà vẫn cho nó là biết ăn nói đấy, Tôi hãy hỏi: thím có nhận trông nom việc thi xã này không?

Phượng Thư cười nói:

– Sao chị lại nói thế? Nếu tôi không tốn mấy đồng tiền cho thi xã thì chẳng hóa ra tôi là kẻ lật lọng ở vườn Đại Quan này, còn hòng ăn ở đây được nữa không? Sớm mai tôi xin đến nhậm chức. Xuống ngựa nhận ấn, là tôi bỏ ngay ra năm mươi lạng bạc để chị em làm tiền mở tiệc họp thi xã tiêu dần. Sau này tôi không biết làm thơ làm văn, chẳng qua chỉ là một người rất tục thôi. Giám sát hay chẳng giám sát nữa cũng được, đã có tiền, chẳng còn lo chị em đuổi tôi ra nữa!

Mọi người đều cười. Phượng Thư lại nói:

– Lát nữa tôi sẽ mở buồng gác, còn thứ gì cho người mang xuống để chị em xem. Thứ gì dùng được để lại mà dùng, thiếu gì cứ chiếu đơn của chị em cho người đi mua là được rồi. Lụa vẽ tôi sẽ cắt. Tấm bản đồ không để ở bên cụ đâu, anh Trân giữ đấy. Nói cho các người biết khỏi phải tìm tòi lôi thôi. Tôi bảo người đi lấy về và đưa cả lụa cho bọn thợ vẽ hồ nước phèn, có được hay không?

Lý Hoàn gật đầu cười nói:

– Thế thì cảm ơn thím. Được như thế là xong việc. Thôi chúng ta về đi, nếu thím ấy không sai người mang đến, tôi lại phải đến quấy rầy lần nữa.

Nói xong, dẫn các chị em về.

Phượng Thư nói:

– Việc này chẳng phải tại ai, đều tự chú Bảo bới việc ra cả.

Lý Hoàn nghe nói, quay lại cười nói:

– Chính vì chú Bảo mới đến đây, thế mà lại lãng quên đi! Cuộc họp thơ đầu tiên, chú ấy đã làm lỡ việc. Chúng tôi nể quá, nay thím bảo nên phạt như thế nào?

Phượng Thư nghĩ một lúc rồi nói:

– Chẳng có cách nào khác, chỉ bắt chú ấy quét một lượt các nhà cửa của chị em là đủ.

Mọi người đều cười nói: “Phạt thế phải lắm”.

Mọi người định ra về, thấy một a hoàn nhỏ dắt bà Lại đến. Phượng Thư vội đứng dậy cười nói: “Mời bà ngồi chơi”. Rồi họ đều ngỏ lời mừng bà ấy. Bà Lại ngồi xuống cạnh giường, cười nói:

– Tôi mừng, các vị chủ nhà cũng mừng. Nếu không nhờ được ơn chủ, thì tôi làm gì có việc mừng này? Hôm nọ mợ lại sai anh Thái mang đến cho đồ mừng. Cháu tôi đã bái vọng tạ Ơn rồi.

Lý Hoàn cười nói:

– Bao giờ anh ấy đi nhậm chức?

– Bao giừ nó đi thì đi, chứ tôi cô biết đâu? Hôm nọ nó đến lạy tôi, tôi cũng chăng biết nói gì hơn, chỉ dặn nó: “Cháu đừng tưởng được làm quan là tha hồ ngang tàng bậy bạ! Nay mày đã ba mươi tuổi, tuy là con nhà tôi tớ, nhưng vừa mới lọt lòng mẹ đã được ơn chủ buông tha ra, trên nhờ hồng phúc của chủ, dưới nhờ có bố mẹ, cũng như các cậu, mày được đọc sách biết chữ, có bà già, a hoàn, có vú nuôi nâng niu như chim phượng hoàng. Giờ nhớn như thế, liệu mày đã biết viết hai chữ “nô tài” 2 thế nào chưa? Hay chỉ biết hưởng phúc mà không hiểu ông mày, bố mày đã chịu bao nhiêu khổ nhục, hai ba đời người vất vả mới nặn ra được mày như thế này! Từ lúc bé, mày bị bao nhiêu là tai nạn, tốn kém bao nhiêu là tiền bạc, giá đúc lại cũng bằng người mày rồi ấy. Đến năm mày ngoài hai mươi tuổi, lại nhờ ơn chủ, quyên cho một chức. Mày có biết chính trong họ nhà chủ cũng còn bao nhiêu người nhịn đói nhịn khát đấy không? Mày là con nhà tôi tớ, giờ hồn đấy, khéo không lại hết phúc! Mười năm trời sung sướng không biết mày giở trò ma quỷ thế nào, van xin chủ, lại được ra làm quan. Chức quan huyện tuy nhỏ, nhưng trách cứ rất lớn. Làm quan ở vùng nào tức là cha mẹ dân vùng ấy. Nếu mày không biết làm tròn phận sự, hết lòng giúp nước thờ chủ, thì trời cũng không dung cho mày đâu!”

Lý Hoàn, Phượng Thư đều cười nói:

– Bà hay lo xa, chúng tôi xem anh ấy cũng tốt đấy chứ. Trước kia anh ấy còn đến đây vài lần, nhưng mấy năm nay không thấy anh ấy đến. Lễ sinh nhật cuối năm ngoái, chỉ thấy tên của anh ấy thôi. Hôm nọ anh ấy đến chào cụ và bà Hai khi ở bên nhà cụ, chúng tôi thấy anh ấy mặc quân phục mới, trông càng oai vệ và béo hơn trước nhiều. Giờ anh ấy được làm quan, bà nên vui mới phải, tội gì mà buồn? Nếu anh ấy không tốt, đã có cha mẹ anh ấy, bà cứ yên hưởng phúc nhà là đủ rồi. Khi nào rỗi, bà đi kiệu sang đánh bài với cụ chúng tôi, nói chuyện cho vui, ai nỡ khinh rẻ bà? Ở nhà lại có cửa cao lầu rộng, ai chả kính nể? Bà thật cũng như một vị phong quân già vậy.

Bình Nhi pha nước mang đến, bà Lại vội đứng dậy nói:

– Xin cô đừng làm phiền, cứ bảo đứa hầu nhỏ nào pha cũng được.

Bà ta ta uống nước vừa nói:

– Mợ không biết, đám trẻ con này cần phải dạy bảo nghiêm ngặt. Nghiêm như thế mà chúng còn lén lút làm bậy, để người nhớn phải bận lòng. Người biết ra bảo tính trẻ con bướng bỉnh; người không biết lại bảo là chúng nó cậy của, cậy thế khinh người, làm cho chủ nhà cũng mang tiếng. Nhiều khi tức quá, tôi không làm thế nào được, phải gọi bố chúng đến, mắng cho một trận mới yên.

Bà ta lại chỉ Bảo Ngọc nói:

– Cậu giận tôi cũng cứ nói, bây giờ hễ ông nhà có răn bảo cậu một chút, cụ đã chằm chặp bênh. Chứ khi ông nhà còn bé, bị cụ Ông đánh luôn, ai mà không biết? Ông nhà hồi còn bé có ngỗ ngược như cậu thế này đâu! Lại còn ông bác ở bên kia hay nghịch ngợm thực, nhưng không ru rú ở trong nhà như cậu, thế mà ngày nào cũng bị đòn. Lại còn ông thân của cậu Trân ở bên phủ Đông, tính nóng như lửa, hễ nổi cơn giận chẳng kể gì con, đánh như tra giặc vậy! Bấy giờ tôi mắt thấy tai nghe, thì bác Trân dạy con cũng theo khuôn phép của cụ trước, nhưng chỉ có cái là gặp đâu nói đấy. Chính bản thân bác ấy cũng không kiềm chế được mình, trách sao được con cháu nó không sợ? Cậu hiểu ra sẽ cho tôi nói là phải, không hiểu thì ngoài mặt không nói, nhưng trong bụng có lẽ cậu chửi thầm tôi đấy!

Chợt thấy vợ Lại Đại đến, rồi vợ Chu Thụy và vợ Trương Tài cũng đến trình việc. Phượng Thư cười nói:

– Nàng dâu đến đón mẹ chồng đấy.

Vợ Lại Đại cười nói:

– Không phải tôi đến đón mẹ tôi về đâu, đến dò xem các mợ các cô có nghĩ đến thể diện cho không?

Bà Lại nghe thấy thế cười nói:

– Tôi lẩn thẩn thật! Cái việc đáng nói lại không nói, chỉ nói những chuyện dây mơ rễ má đâu đâu ấy thôi. Vì cháu nó được bổ làm quan, bạn hữu đều định đến mừng, thế nào cũng phải bày tiệc rượu. Tôi nghĩ đã bày tiệc rượn, mời người nọ không mời người kia thì không tiện. Sau lại nghĩ, nhờ ơn chủ mới được vẻ vang thế này, dù sạt nghiệp tôi cũng vui lòng, vì thế tôi bảo bố nó phải bày tiệc rượu ba ngày liền. Hôm đầu bày mấy bàn rượu và một rạp hát ở vườn hoa, mời cụ, các bà, các mợ, các cô đến giải buồn một hôm; nhà khách bên ngoài cũng bày một rạp hát, mấy bàn rượu mời các ông, các cậu đến cho được thơm lây. Hôm thứ hai mời các bạn thân. Hôm thứ ba mời bè bạn hai phủ. Vui nhộn luôn ba ngày, gọi là nhờ hồng phúc của chủ, được chút thể diện.

Phượng Thư, Lý Hoàn đều cười nói:

– Định hôm nào đấy? Thế nào chúng tôi cũng sang. Chưa biết chừng cụ cao hứng cũng sang đấy.

Vợ Lại Đại vội nói:

– Chọn vào ngày mười bốn, xin các mợ nể lời bà tôi.

Phượng Thư cười nói:

– Ai không biết, chứ tôi thì nhất định đi. Nhưng phải nói trước, tôi không có lễ mừng, mà cũng không thưởng tiền gì cả. Chỉ ăn xong rồi về thôi, đừng cười nhé.

Vợ Lại Đại cười nói:

– Sao mợ lại nói thế? Khi mợ vui dù thưởng cho chúng cháu vài ba vạn bạc cũng có.

Bà Lại cười nói:

– Tôi vừa đến mời cụ, người đã nhận lời đi, thế mới biết tôi nói còn đắt nhời.

Nói xong, lại dặn một lượt nữa, rồi đứng dậy muốn về. Chợt trông thấy vợ Chu Thụy, lại nhớ ra một việc, bà Lại nói:

– Tôi còn có một điều muốn hỏi mợ: thằng bé con chị Chu phạm lỗi gì mà đuổi nó ra không dùng nữa?

Phượng Thư cười nói:

– Tôi đang định nói với nàng dâu của bà đấy. Nhưng lắm việc cũng quên đi mất. Chị Lại về bảo cho chồng chị biết, trong hai phủ không ai được chứa thằng con Chu Thụy nữa, bảo nó đi đâu thì đi.

Vợ Lại Đại đành phải nhận lời. Vợ Chu Thụy liền quỳ xuống van xin. Bà Lại vội nói:

– Việc gì thế? Nói ra để tôi bàn hộ.

Phượng Thư nói:

– Hôm nọ ngày sinh nhật tôi, trong nhà chưa ai uống rượu, con nó đã say khướt rồi. Bên nhà mẹ tôi đưa lễ sang, nó không ở ngoài trông nom, cũng không chịu mang lễ vật vào, lại ngồi mắng người tạ Hai người con gái mang đến, nó mới dẫn bọn trẻ con bưng vào. Bọn trẻ con bưng tử tế, còn nó thì đánh rơi một cái hộp bánh hấp đổ tung ra nhà. Người ta về rồi, tôi sai Thái Minh ra gọi, nó lại mắng Thái Minh một trận. Cái hạng ranh con láo lếu coi trời bằng vung ấy, không đuổi đi để làm gì?

Bà Lại nói:

– Tôi tưởng là việc gì, hóa ra việc ấy. Xin mợ hãy nghe lời tôi: nếu nó có lỗi, đánh mắng một trận để cho nó chừa đi thì phải hơn; chứ đuổi nó đi thì quyết không nên. Nó không phải như con đẻ của tôi tớ nhà ta, mà là người hầu của bà Hai đem sang. Nếu mợ đuổi nó đi, đối với bà Hai cũng khó coi. Theo ý tôi, mợ nên đánh nó mấy roi để bận sau nó chừa đi, rồi cứ cho nó ở lại. Dù không nể mẹ nó, cũng nên nể bà Hai chứ.

Phượng Thư nghe nói, liền bảo vợ Lại Đại:

– Đã thế, ngày mai bắt nó lại đây đánh bốn mươi trượng, từ nay cấm không cho uống rượu nữa.

Vợ Lại Đại vâng lời. Vợ Chu Thụy lạy tạ đứng dậy, muốn lạy tạ cả bà Lại, nhưng vợ Lại Đại kéo lên mới thôi. Sau đó ba người cùng đi ra. Bọn Lý Hoàn cũng về trong vườn.

Đến chiều, Phượng Thư sai người mang những đỗ vẽ vào trong vườn. Bọn Bảo Thoa chọn một lúc, chỉ dùng được một nửa. Còn thiếu một nửa, liền biên vào đơn đưa cho Phượng Thư theo thế mà mua.

Một hôm, thợ vẽ bên ngoài đã hồ lụa xong, kẻ thành mẫu mang vào. Bảo Ngọc hàng ngày đến giúp Tích Xuân. Bọn Thám Xuân, Lý Hoàn, Nghênh Xuân, Bảo Thoa cũng đến chơi, vừa xem vẽ vừa họp nhau nói chuyện.

Bảo Thoa thấy trời mát, đêm lại hơi dài, liền đến bàn với mẹ mang ít đồ thêu thùa sang. Ban ngày, hai lần sang thăm Giả mẫu và Vương phu nhân, có khi lại phải ngồi tiếp chuyện cho vui. Khi rỗi lại sang bên vườn nói chuyện phiếm với chị em, vì thế bận suốt ngày, đêm lại phải thắp đèn thêu thùa đến canh ba mới ngủ.

Đại Ngọc hàng năm cứ đến kỳ xuân phân, thu phân, là bệnh ho lại phát. Mùa thu năm nay, vì Giả mẫu cao hứng quá, phải dự tiệc vui hai lần, đâm ra mệt. Gần đây bệnh ho trở lại và nặng hơn trước, vì thế không ra ngoài được, chỉ tĩnh dưỡng ở trong buồng thôi. Lúc nào buồn thì mong chị em đến nói chuyện cho khuây khỏa; đến khi bọn Bảo Thoa tới thăm, nói được dăm ba câu lại uể oải không muốn tiếp. Mọi người đều biết Đại Ngọc đương ốm, vả lại ngày thường thân thể gầy yếu, hễ buồn phiền một tí là không chịu được, vì thế dù cô ta tiếp đãi không được chu tất cũng chẳng ai trách.

Hôm ấy, Bảo Thoa đến thăm Đại Ngọc, nhân nhắc đến bệnh, Bảo Thoa nói:

– Ở đây đã mời mấy thầy thuốc, nhưng có uống cũng không thấy khỏi, chi bằng mời một danh sư khác đến chữa thì hơn. Năm nào cứ đến mùa xuân, mùa hạ lại ốm, bé đã qua già chưa đến, cứ mãi thế này thì còn ra làm sao?

– Không ăn thua gì đâu. Tôi biết bệnh tôi không thể chữa được. Không cứ lúc có bệnh, ngay lúc khỏe trông thân hình tôi cũng đủ biết.

– Chính là như thế. Cổ nhân có câu “Có ăn được cơm mới sống”, nhưng ngày thường cô vẫn ăn cơm mà không bồi bổ được tinh thần khí huyết, tất không phải là việc tốt đâu.

Đại Ngọc thở dài nói:

– “Sống chết có số, phú quý ở trời”, người ta muốn cũng không được! Bệnh tôi năm nay xem ra có phần nặng hơn năm ngoái.

Trong khi nói chuyện, Đại Ngọc ho đến ba, bốn lần.

Bảo Thoa nói:

– Hôm nọ tôi xem đơn thuốc của cô, thấy nhiều nhân sâm, nhục quế lắm. Tuy bảo là ích khí bổ thần, nhưng không nên dùng vị nóng quá. Cứ ý tôi, trước hết phải bình can dưỡng vị. Can hỏa mà bình thì không khắc tỳ thổ, vị khí tự khắc không có bệnh, ăn uống vào mới có thể bổ dưỡng được. Cứ mỗi sáng lấy một lạng yến sào thượng hạng hòa với năm đồng cân đường miếng, lấy cái ấm bạc đun thành cháo, nếu ăn quen còn hay hơn thuốc, nó rất tư âm bổ khí.

Đại Ngọc thở dài:

– Chị ngày thường đối với mọi người rất tốt, nhưng tôi là người đa nghi, cứ cho chị là ác ngàm. Từ hôm nọ, chị bảo tôi không nên xem sách nhảm, giờ lại khuyên tôi câu này, tôi rất là cảm động. Trước đây tôi nhầm, nhầm mãi đến bây giờ. Ngẫm nghĩ từ khi mẹ tôi chết, tôi không có anh chị em, năm nay đã mười lăm tuổi, không có một người nào dạy bảo tôi như lời chị nói hôm trước. Không trách được, cô Vân bảo chị là người tốt. Trước đây thấy cô ấy khen chị, tôi vẫn khó chịu; hôm nọ chính tôi gặp mới biết rõ. Ví như chị nói câu nào, tôi hay chấp nhặt, chị cũng không để ý, lại còn lấy những lời khuyên tôi. Thế mới biết là tự tôi nhầm. Nếu hôm nọ tôi không nhận ra, có lẽ hôm nay tôi cũng không nói với chị những câu này đâu. Vừa rồi, chị bảo tôi ăn cháo yến sào, tuy yến sào cũng dễ kiếm đấy, nhưng chỉ vì người yếu năm nào cũng mắc bệnh. Kể ra bệnh không lấy gì làm quan hệ, nhưng cũng phải mời thầy bốc thuốc, uống nhân sâm, nhục quế đủ làm nghiêng trời lệch đất rồi. Bây giờ lại giở cái món cháo yến sào mới lạ ra, bà tôi, dì tôi và chị Phượng thì chẳng nói gì đâu, nhưng đám bà già và a hoàn chắc sẽ cho tôi bới chuyện. Chị xem bọn họ thấy bà tôi thương Bảo Ngọc và Chị Phượng hơn, họ còn nhìn chòng chọc, bày chuyện nói vụng, huống chi là tôi? Vả chăng tôi không phải là chủ nhà, chỉ vì không có chỗ nương tựa, nên mới đến đây, họ đã khó chịu với tôi lắm rồi. Bây giờ tôi lại không biết điều, để cho người ta phải nguyền rủa mình nữa hay sao?

– Cô đừng nói thế, tôi cũng như cô.

– Chị sao lại ví với tôi? Chị còn có mẹ, có anh; ở nhà, chị có nhà có ruộng, đến đây lại có đất, có cửa hàng. Chị chẳng qua vì chỗ bà con nên mới đến đây, việc lớn nhỏ không phải nhờ ai một đồng nào, lúc nào muốn đi thì đi. Tôi không có một tí gì, ăn mặc tiêu pha lại đều được đối đãi như các cô ở nhà này. Như thế bọn tiểu nhân lẽ nào họ không chán ghét mình?

Bảo Thoa cười nói:

– Sau này chỉ tốn thêm một bộ đồ cưới thôi, bây giờ hãy chưa cần nghĩ đến.

Đại Ngọc đỏ mặt lên, cười nói:

– Tưởng chị đứng đắn, nên người ta mới kể những nỗi buồn phiền ra cho nghe, thế mà chị lại đem tôi ra làm trò cười!

– Tuy tôi nói đùa, nhưng là chuyện thực. Cô cứ yên tâm, tôi còn ở đây ngày nào, sẽ làm cho cô được khuây khỏa ngày ấy. Cô có điều gì bực tức khó khăn, cứ nói cho tôi biết, có thể đỡ đần được, thế nào tôi cũng đỡ đần cho cộ Tôi tuy có anh, chắc cô cũng đã biết anh tôi như thế nào rồi, tôi chỉ hơn cô ở chỗ còn mẹ thôi. Chúng ta là người cùng bệnh nên thương lẫn nhau. Cô là người hiểu đời, tội gì lại than thở như Tư Mã Ngưu 3 ngày trước? Câu vừa rồi cô nói phải đấy, “thêm một việc chẳng bằng bớt một việc”. Có lẽ nhà tôi còn yến sào, tôi sẽ về nói với mẹ tôi đưa đến cho cô mấy lạng, mỗi ngày bảo bọn a hoàn nấu lên, vừa tiện vừa không bận đến ai.

– Vật tuy nhỏ, nhưng chị có lòng tốt như thế, thật là đáng quý.

– Cái đó có gì đáng nói? Chỉ sợ không được vừa lòng mọi người thôi. Bây giờ sợ cô mệt, tôi về đây.

– Tối chị lại đến chơi nói chuyện với tôi.

Bảo Thoa nhận lời rồi về.

Đại Ngọc húp mấy ngụm cháo rồi nằm ngả ở trên giường. Không ngờ về chiều giở trời, mưa xuống tầm tã, mây kéo đùn đùn, khi mưa khi tạnh. Lúc ấy đã về chiều, trời tối sầm xuống, nước mưa nhỏ róc rách vào những cành trúc, càng thêm buồn tẻ. Biết Bảo Thoa không thể đến được, Đại Ngọc ngồi bên đến cầm quyển sách xem, quyển Nhạc phủ tạp cảo 4, trong đó có hai bài từ “thu khuê oán” và “biệt ly oán”. Đại Ngọc trong lòng cảm xúc, làm ngay một bài Đại biệt ly theo điệu “Xuân giang hoa nguyệt dạ” 5 đặt tên từ là “Thu song phong vũ tịch” 6 như sau:

Sang thu hoa cỏ úa vàng,

Đèn thu trằn trọc đêm trường đầy thu.

Song thu thu vẫn trơ trơ.

Lạnh lùng giờ lại gió mua thêm càng.

Đòi cơn mưa gió phũ phàng,

Sang thu tan giấc mơ màng từ đây.

Bận lòng nào nỡ ngủ say,

Bình kia bước tới, sáp này khêu cao,

Tờ mờ ngọn sáp dọi vào,

Này buồn, này giận nao nao khôn cầm.

Nhà nào gió chẳng tới thăm?

Nơi nào mưa chẳng rì rầm bên song?

Gió thu lạnh toát chăn hồng,

Mưa thu như giục tiếng đồng hồ reo.

Đêm đêm rả rích rì rào,

Trước đèn như muốn nghẹn ngào cùng ai.

Buồn tênh khói lạnh phía ngoài,

Trúc thưa cửa vắng bên tai lầm rầm.

Lúc nào gió tắt mưa cầm,

Thì đây lệ đã ướt đầm song the.

Ngâm xong, Đại Ngọc gác bút lên định đi ngủ, có a hoàn vào báo: “Cậu Bảo đã đến”. Nói chưa dứt lời, đã thấy Bảo Ngọc đội nón lá, khoác áo tơi đến, Đại Ngọc phì cười nói:

– Chàng đánh cá này ở đâu đến đây?

Bảo Ngọc liền hỏi:

– Hôm nay có đỡ chưa? Uống thuốc gì? Ăn được bao nhiêu cơm?

Vừa nói vừa bỏ nón xuống, cởi áo tơi ra, một tay cầm đèn, một tay che ánh đèn, soi vào mặt Đại Ngọc, nhìn một lúc rồi cười nói:

– Hôm nay thần sắc khá rồi đấy.

Khi Bảo Ngọc cởi áo tơi ra, Đại Ngọc thấy trong người cậu ta chỉ mặc một áo lụa đỏ ngắn hơi rung rúc, lưng buộc khăn xanh, mặc quần áo lụa xanh cải hoa, chân đi bí tất sợi dệt lẫn chỉ kim tuyến, đôi giày bươm bướm vờn hoa, Đại Ngọc hỏi:

– Trên đầu anh sợ mưa, sao dưới chân lại đi giày và bít tất này vẫn khô thế?

– Nguyên là anh mặc cái bộ như thế này. Vừa đi cả đôi guốc gỗ đường, lên đến thềm thì bỏ ra.

Đại Ngọc lại thấy áo tơi và nón rất tinh xảo nhẹ nhàng, không phải là đồ bán ở chợ, liền hỏi:

– Đan bằng cỏ gì thế? Thảo nào mặc những đồ này không lù xù như là lông dím.

– Ba thứ này là của Bắc Tĩnh vương chọ Khi trời mưa, Đức vương ở nhà thường dùng những thứ này, nếu em thích, anh sẽ kiếm một bộ đưa chọ Thứ khác không nói, chỉ có chiếc nón này là thích nhất: cái chóp ở trên có thể mở ra đóng vào được, gặp khi có tuyết đội mũ vào rút cái que cài ra, bỏ chóp trên đi, chỉ còn lại một cái vành thôi. Lúc có tuyết thì con trai con gái đều đội được cả. Anh đưa cho em một cái để mùa đông có tuyết sẽ đội.

Đại Ngọc cười nói:

– Em không cần, nếu đội cái này thành ra một bà đánh cá vẽ ở trong tranh hay là diễn ở trên sân khấu mất.

Nói đến câu này, Đại Ngọc mới nhớ ngay ra câu mình vừa nói ăn khớp với câu nói đùa Bảo Ngọc lúc nãy nên cứ hối mãi, rồi đỏ ửng mặt lên, gục xuống án ho.

Bảo Ngọc không để ý, thấy trên án có bài thơ, liền lấy ra xem, khen hay mãi. Đại Ngọc vội giật lấy đốt đi. Bảo Ngọc cười nói:

– Đốt cũng không can chi, anh đã thuộc hết rồi.

– Em khỏi nhiều rồi, cảm ơn anh hàng ngày lại thăm em mấy lần, mưa cũng lại. Bây giờ đêm khuya rồi, em muốn đi nghỉ, anh hãy về đi, mai lại đến.

Bảo Ngọc nghe nói, móc ra một cái đồng hồ vàng to bằng hạt đào để xem, thấy kim đã chỉ vào chỗ cuối giờ tuất đầu giờ hợi, vội vàng cất đi và nói:

– Đáng lẽ em đi nghỉ rồi, anh lại đến quấy rầy em một lúc.

Nói xong, đội nón khoác áo đi ra, bỗng quay lại hỏi:

– Em muốn ăn cái gì cứ nói, sáng mai anh sẽ trình với cụ. Anh nói lại không rõ ràng hơn bọn bà già à?

– Để đến đêm em nghĩ xem đã, sáng mai sẽ nói. Anh xem, lại mưa to rồi, về đi thôi. Có ai đi theo hầu đấy không?

Hai bà già trả lời:

– Thưa cô, đã có người ở ngoài này cầm dù và thắp đèn lồng rồi.

Đại Ngọc cười nói:

– Giời này mà thắp đèn lồng à?

Bảo Ngọc nói:

– Không việc gì, đèn kiểu sừng dê đấy, không sợ mưa.

Đại Ngọc nghe nói, lấy cái đèn pha lê hình quả cầu ở trên tủ sách xuống, sai thắp một cây nếp nhỏ, đưa cho Bảo Ngọc, nói:

– Đèn này sáng hơn đèn kia, dùng để đi mưa đấy.

– Anh cũng có một cái đèn kiểu này, nhưng sợ họ trượt chân ngã thì vỡ mất, nên không mang đi.

– Vỡ đèn hơn hay người ngã đáng kể hơn? Anh lại không quen đi guốc gỗ. Cái đến lồng kia để họ thắp mang đi trước, còn cái đèn này vừa nhẹ vừa sáng, chỉ để cho một người dùng khi đi mưa thôi. Anh cầm lấy cái đèn này thì hơn, ngày mai sẽ mang sang giả em. Nếu nhỡ tay đánh vỡ cũng chẳng là bao, việc gì mà lại giở cái lối “mổ bụng giấu ngọc” 7 ấy?

Bảo Ngọc nghe nói, cầm lấy đèn. Đằng trước, hai bà già che dù và cầm đèn sừng dê; đằng sau lại có hai a hoàn nhỏ che dù. Bảo Ngọc đưa cái đèn cho một a hoàn cầm, rồi vịn vào vai nó đi về.

Có hai bà già ở Hành Vu Uyển, cũng che dù, xách đến đến đưa cho Đại Ngọc một gói yến sào lớn, một gói đường mai hoa trắng và nói:

– Những thứ này tốt hơn của đi muạ Cô chúng tôi bảo: “Cô cứ ăn đi, hết lại đưa sang”.

Đại Ngọc nói: “Làm phiền cô nhà quá”. Rồi mời họ ra ngoài uống nước. Bà già cười nói:

– Chúng tôi không uống, còn phải đi có việc.

Đại Ngọc cười nói:

– Tôi cũng biết các bà bận. Hôm nay mát trời, đêm lại dài, càng nên chơi mấy ván bài.

Một bà già cười nói:

– Chẳng giấu gì, năm nay cũng có phần khá; vả chăng đêm nào cũng phải có mấy người canh, nếu để lỡ giờ không được, chi bằng họp nhau đánh bạc để vừa ngồi cầm canh vừa giải buồn. Đêm nay đến phiên tôi, hễ đóng cửa vườn là chúng tôi lại sắp đánh đấy.

Đại Ngọc cười nói:

– Phiền các bà phải đi giữa mưa vất vả, lại làm cho các bà lỡ dịp phát tài.

Rồi sai người đưa cho họ mấy trăm đồng tiền, đem mua rượu uống để chống lạnh. Hai bà già cười nói:

– Lại quấy quả cô phải thưởng rượu.

Nói xong, họ chào rồi ra ngoài nhận tiền, che dù ra về.

Tử Quyên cất yến sào rồi tắt đèn, buông rèm, hầu hạ Đại Ngọc đi ngủ. Đại Ngọc nằm nghĩ cảm ơn Bảo Thoa, lại mừng cho chị ta còn có mẹ có anh, một lúc lại nghĩ Bảo Ngọc thường ngày thân mật với chị ta, vẫn có chỗ đáng ngờ vực. Bỗng nghe giọt mưa róc rách trên tàu chuối và cành trúc, gió lạnh thổi qua màn, tự nhiên nước mắt Đại Ngọc lại tràn ra, đến canh tư mới ngủ được.

1      Thời phong kiến, những người được phong chức tước hoặc con làm quan to mà cha mẹ được phong, đều gọi là phong quân hoặc phong ông.

2      Những người làm tôi tớ cho bọn quý tộc địa chủ trong thời phong kiến.

3      Tư Mã Ngưu: học trò Khổng Tử, không có anh em nào.

4      Các bài thơ trong Nhạc phủ.

5      Đêm giăng hoa ở sông mùa xuân.

6      Buổi chiều mưa gió trước cửa sổ mùa thu.

7      Trọng của hơn người.

Chương 46: Người liều lĩnh khó thoát việc liều lĩnh – Gái Uyên Ương thề dứt bạn uyên ương

Người liều lĩnh khó thoát việc liều lĩnh

Gái Uyên Ương thề dứt bạn uyên ương

Phượng Thư thấy Hình phu nhân gọi, không biết là việc gì, liền mặc áo lên xe đi sang. Hình phu nhân đuổi những người trong nhà ra, rồi khẽ bảo Phượng Thư:

– Gọi con đến đây, vì có một việc khó nghĩ quá. Cha con bảo ta điều này, ta chưa biết nghĩ sao, hãy bàn với con trước. Cha con trông thấy con Uyên Ương ở đằng nhà cụ, muốn lấy nó làm nàng hầu bảo ta đến xin cụ. Ta nghĩ cũng là một việc thường, nhưng chỉ sợ người không chọ Con có cách gì giúp được việc này không?

Phượng Thư cười nói:

– Cứ ý con thì không nên đụng vào cái đinh ấy. Cụ mà dứt con Uyên Ương ra thì sẽ ăn không ngon ngủ không yên đâu. Vả chăng ngày thường lúc vui chuyện, người vẫn nói: cha con bây giờ đã có tuổi rồi, thế mà nàng hầu ở trong nhà cứ kè kè bên này một đứa bên kia một đứa. Điều thứ nhất là làm nhỡ nhàng con gái nhà người ta, điều thứ hai là không biết giữ gìn thân thể, việc quan làm cũng chẳng ra gì, cả ngày chỉ chè chén với bọn hầu trẻ! Mẹ nghe đấy, bà có ưa gì cha con đâu? Bây giờ muốn tránh đi chả được, lại còn định cầm gậy rơm thọc vào mũi hùm hay sao? Xin mẹ đừng giận, con không dám nói việc ấy đâu. Rõ ràng nói cũng chẳng ăn thua gì, mà lại gây thêm những điều không haỵ Cha con bây giờ đã già rồi, việc làm cũng có khi nhầm lẫn, mẹ nên khuyên ngăn mới phải. Nếu lúc còn trẻ mà làm những việc ấy thì cũng không sao. Bây giờ anh em con cháu hàng đàn rồi, lại còn gây chuyện như thế, chẳng khó coi với người ta lắm hay sao?

Hình phu nhân cười nhạt nói:

– Nhà quan năm thiếp bảy thê cũng là thường, riêng nhà ta lại không được à? Mẹ có ngăn cha con cũng chẳng nghe đâu. Con Uyên Ương dù là người hầu thân yêu của cụ, nhưng một ông con cả đầu râu đốm bạc; lại làm quan, muốn lấy nó làm nàng hầu, chắc nó cũng chả từ chối. Ta gọi chị đến đây, chẳng qua để bàn thôi, thế mà chị đã nói ra hàng tràng không nên. Lẽ nào ta lại bảo chị đỉ Tất nhiên ta phải đi lấy. Chị lại còn bảo ta không biết can ngăn. Chị không biết tính bố chồng chị à! Can không được lại đâm ra cãi nhau với ta thôi.

Phượng Thư thấy Hình phu nhân tính vốn khờ dại nhút nhát, chỉ tìm cách chiều chuộng Giả Xá để được yên thân, và tham vớ được nhiều tiền là thích, còn việc lớn nhỏ trong nhà đều mặc Giả Xá sắp đặt. Những khoản chi thu nào vào tay bà ta, thì tìm cách bớt xén thậm tệ. Bà ta thường lấy cớ Giả Xá hay hoang phí, ta phải tằn tiện, mới có thể bù vào. Trong bọn con gái, người hầu, không tin ai và cũng chẳng nghe ai. Phượng Thư biết bà ta lại giở tính, dù can ngăn cũng chẳng được nào, liền cười nói:

– Mẹ nói rất phải. Con hãy còn dại, chưa biết đắn đọ Con nghĩ rằng đã xin trước cha mẹ, thì không những một con a hoàn, dù người ngọc đi nữa cụ chả cho cha con còn cho ai? Những lời nói vắng mặt, tin làm sao được? Con thực là ngu ngốc! Ngay như cha con, khi có điều gì không phải, cha mẹ giận, muốn lôi ngay đến đánh chết, nhưng khi thấy mặt là xong hết, rồi lại lấy những vật quý đem ra chọ Cứ ý con, hôm nay cụ đang vui, mẹ đến xin ngay đi. Con hãy đến trước chuyện trò cho cụ vui, khi mẹ đến con sẽ kiếm cách đem tất cả người hầu trong nhà lảng ra một chỗ. Khi ấy mẹ tha hồ nói với người, nếu người cho càng hay, không cũng chẳng sao, chả ai biết cả.

Hình phu nhân thấy Phượng Thư nói thế, liền vui vẻ bảo:

– Ta định không nên thưa với cụ vội, nếu nói trước, người không nghe sẽ hỏng mất việc. Ta nghĩ nên bảo khẽ Uyên Ương trước đã. Dù nó xấu hổ, ta sẽ nhỏ to bảo nó rạch ròi, nó không nói gì tức là yên chuyện. Bấy giờ ta mới trình cụ, dù người không bằng lòng cũng không thể ngăn cấm được ý muốn của nó. Người ta thường nói “người đã định không nên giữ lại, như vậy mới là ổn thỏa”.

Phượng Thư cười nói:

– Mẹ nhiều mưu trí thực, thế là êm thấm vạn phần. Đừng nói là con Uyên Ương, dù ai đi nữa, cũng chẳng muốn trèo cao trông lên, để mong được mở mày mở mặt hay sao? Nó bỏ danh giá nửa bà chủ không làm, đâm đầu đi làm a hoàn, sau này lấy một thằng ranh con, thế là xong đời.

Hình phu nhân cười nói:

– Nói thế phải đấy. Không cứ con Uyên Ương, ngay cả đến những a hoàn lớn coi việc, ai mà chẳng thích được như thế? Giờ chị hãy sang trước đi, chớ để lộ chuyện đấy, ta ăn cơm xong sẽ sang ngay.

Phượng Thư nghĩ thầm: “Con Uyên Ương thực đáng ghét. Nhưng chắc đâu nó bằng lòng? Nếu mình sang trước, nó bằng lòng ra thì không có chuyện gì, nếu không bằng lòng, mẹ ta là người đa nghi, lại ngờ ta nói lộ chuyện, để cho nó làm bộ. Bấy giờ mẹ ta thấy đúng như lời ta nói, đâm xấu hổ, đem ta ra giày vò cho hả giận, như thế không haỵ Chi bằng ta cùng đến với mẹ ta, dù nó bằng lòng hay không, chắc mẹ chẳng ngờ đến ta”. Liền cười nói:

– Lúc nãy con vừa về đến nhà, bên nhà mợ con mang cho hai lồng gà gô, con đã bảo chúng nó quay rồi, định đến bữa cơm chiều đưa sang biếu mẹ. Khi mới đến cửa ngoài, thấy bọn hầu nhỏ kéo xe đi, nói: “Xe của mẹ bật mui, phải đem đi sửa”. Chi bằng bây giờ mẹ ngồi xe của con cùng đến thì hơn.

Hình phu nhân nghe nói, liền gọi người đến lấy quần áo thay, Phượng Thư vội vàng hầu hạ một lúc, rồi hai mẹ con cùng ngồi xe đi, Phượng Thư lại nói:

– Mẹ đến đằng cụ, nếu con cùng đi, người hỏi đến làm gì sẽ không tiện; vậy mẹ đến trước, con về thay quần áo rồi sẽ sang sau.

Hình phu nhân nghe nói có lý, liền một mình đến chỗ Giả mẫu, chuyện phiếm một lúc rồi ra, nói vờ là sang nhà Vương phu nhân. Theo lối cửa sau tìm đến buồng Uyên Ương, thì thấy nó đang ngồi thêu. Thấy Hình phu nhân đến, Uyên Ương đứng dậy. Hình phu nhân cười hỏi:

– Cô làm gì thế?

Vừa hỏi vừa cầm lấy bức thêu ở tay Uyên Ương ra xem, rồi nói:

– Ta xem hoa của cô thêu nào.

Ngắm một lúc rồi nói: “Đẹp lắm”. Liền bỏ bức thêu xuống, ngắm nghía suốt người Uyên Ương, thấy nó mặc áo lụa màu hoa sen rung rúc, đeo cái khoác vai bằng nhiễu xanh, mặc quần màu nước biển, thắt đáy lưng ong, mặt trái xoan, tóc đen láy, mũi dọc dừa, hai má có mấy nốt rỗ nhỏ.

Uyên Ương thấy Hình phu nhân nhìn mình, đâm ra ngượng, trong bụng lấy làm lạ, cười hỏi:

– Thưa bà, bây giờ giữa chừng giữa buổi, bà sang có việc gì?

Hình phu nhân đưa mắt, bọn người hầu lui ra ngoài. Hình phu nhân ngồi xuống, cầm lấy tay Uyên ương cười nói:

– Ta sang cốt để mừng cho cô đây.

Uyên Ương nghe nói, trong bụng đã đoán được vài ba phần, đỏ mặt cúi đầu, không nói câu gì. Hình phu nhân nói:

– Chắc cô cũng biết, ông nhà hiện giờ không có người hầu nào đáng tin cậy cả. Định bụng mua một người, nhưng lại sợ những người của bọn lái buôn đưa đến không được tử tế, nhỡ ra phải người có tật xấu gì, mua về được vài ba ngày lại đâm giở quẻ. Muốn tìm một người con gái ở ngay trong nhà, nhưng không có người nào khá cả: kẻ thì xấu người, kẻ thì xấu nết, được đằng nọ, hỏng đằng kia. Ta để ý đến nửa năm nay, chỉ có cô là hơn cả: dáng người đẹp, thạo công việc, tính nết ôn hòa, có thể tin cậy, thật là được cả người lẫn nết, ý ta muốn trình cụ lấy cô em về nhà. Cô không phải như người ở ngoài mới mua về, cứ về đến nhà là sẽ phong ngay làm dì Hai, vừa có thể diện, vừa được tôn quý. Tục ngữ nói: “người vàng lại đổi lấy vàng”, ngờ đâu lại vừa mắt ông nhà như thế! Bây giờ cô về bên nhà, sẽ được thỏa lòng mong muốn cao quý xưa nay, lại bịt miệng được những kẻ vẫn không ưa cộ Cô theo tôi về trình cụ đi.

Nói xong định kéo tay Uyên Ương đi.

Uyên Ương đỏ bừng mặt lên, giật tay lại không đi. Hình phu nhân tưởng cô ta xấu hổ, liền nói:

– Việc gì mà cô phải xấu hổ? Cô không phải nói câu gì cả, chỉ theo tôi đi là được rồi.

Uyên Uơng chỉ cúi đầu không đi. Hình phu nhân thấy thế liền hỏi:

– Không lẽ cô còn không bằng lòng hay sao? Nếu quả có thế thì cô khờ dại quá. Không muốn làm bà chủ, lại muốn làm con hầu à! Vài ba năm nữa, cô đi lấy một thằng bé con, đầy tớ lại hoàn đầy tớ. Nay về với chúng tôi, chắc cô đã biết tính tôi, hiền lành, hay dung kẻ dưới, ông nhà lại đối đãi tử tế với cộ Độ chừng một năm, năm bảy tháng sinh được đứa con, thế là cô bằng vai với tôi rồi. Cô muốn sai bảo người trong nhà ai chẳng phải nghẻ Danh giá bà chủ mà không chịu làm, sau này lỡ dịp có hối cũng muộn!

Uyên Ương vẫn cúi đầu, không chịu nói một câu. Hình phu nhân lại nói:

– Cô xưa nay là người nhanh nhẹn kia mà, sao bây giờ lại thẫn thờ ra thế? Có điều gì không bằng lòng cô cứ nói, tôi hứa sẽ làm cho cô được vừa ý”.

Uyên Ương vẫn không nói gì. Hình phu nhân lại cười nói:

– Chắc cô còn bố mẹ Ở nhà, tự mình không nói ra, sợ xấu hổ, phải chờ bố mẹ cô hỏi mới nói ra chăng? Như thế cũng đúng lý. Vậy để tôi đi hỏi, rồi bảo bố mẹ cô đến. Có điều gì cô cứ nói với bố mẹ cô cũng được.

Nói xong liền đi đến nhà Phượng Thư.

Phượng Thư đã thay quần áo xong, nhân tiện trong nhà vắng người, liền đem việc này nói cho Bình Nhi biết. Bình Nhi lắc đầu cười nói:

– Cứ ý tôi việc này chưa chắc đã ổn. Những khi vắng người, chúng tôi thường gợi chuyện, nhưng xem ý chị ta chưa chắc đã chịu. Thôi hãy cứ nói xem sao.

Phượng Thư nói:

– Bà Cả tất phải đến đây bàn việc ấy, nó bằng lòng còn khá nếu không, chỉ thêm bẽ mặt với các chị thôi, nghĩ cũng khó coi đấy. Chị đi bảo họ quay gà gô, làm thêm mấy món ăn nữa, sắp sửa bữa cơm rồi chị đi ra đâu đó, lúc nào bà ấy về hãy vào.

Bình Nhi nghe nói, truyền bảo bọn bà già, rồi đủng đỉnh đi qua bên vườn.

Uyên Ương thấy Hình phu nhân đi rồi, chắc thế nào cũng đến bàn với Phượng Thư và sẽ có người đến hỏi mình, chi bằng tránh đi một chỗ cho xong. Uyên Ương liền tìm Hổ Phách bảo:

– Cụ có hỏi tôi, chị cứ bảo tôi khó ở, sáng nay không ăn cơm, đi vào trong vườn chơi một chốc sẽ về.

Hổ Phách nhận lời. Uyên Ương qua vườn chơi, không ngờ lại gặp Bình Nhị Bình Nhi thấy không có ai, liền cười nói:

– Bà dì mới đã đến đấy à?

Uyên Ương đỏ mặt nói:

– Không trách được chúng mày thông đồng với nhau định kế hại tao! Tao sẽ đến làm to chuyện với mụ chủ nhà mày xem!

Bình Nhi thấy Uyên Ương giận dỗi ra mặt, tự hối mình đã lỡ lời, liền kéo chị ta đến gốc cây phong, ngồi xuống hòn đá, kể rõ đầu đuôi câu chuyện Phượng Thư vừa nói. Uyên Ương đỏ mặt lên, cười nhạt, bảo Bình Nhi:

– Tôi nghĩ chị em chúng ta vẫn ăn ở tốt với nhau: như các chị Tập Nhân, Hổ Phách, Tố Vân, Tử Quyên, Thái Hà, Ngọc Xuyến, Xạ Nguyệt, Thúy Mặc, cùng chị Thúy Lũ theo hầu cô Sử, chị Khả Nhân và chị Kim Xuyến đã chết rồi, chị Phiến Tuyết đã đi rồi, kể cả chị với tôi nữa tất cả hơn mười người, từ khi còn bé, điều gì mà chẳng nói với nhau, việc gì mà chẳng bàn với nhau? Bây giờ đã lớn cả rồi, ai có thân người ấy lo,nhưng bụng tôi thì vẫn như trước: có điều gì, việc gì, tôi không giấu các chị. Câu này thì tôi nói, chị hãy để bụng, đừng nói cho mợ Hai biết: đừng nói ông ấy muốn tôi làm vợ lẽ, chứ dù bây giờ, bà ấy chết đi, ông ấy mối lái năm lần bảy lượt lấy tôi về làm vợ cả, tôi cũng chẳng nghe!

Bình Nhi muốn nói nữa, thấy đằng sau núi có tiếng cười ha hả nói:

– Thật cái con không biết thẹn! Nói không biết ngượng mồm!

Hai người nghe nói giật nảy mình, vội chạy ra sau núi tìm, thấy Tập Nhân đang cười rồi chạy đến hỏi:

– Có việc gì thế? Nói cho tôi nghe với.

Rồi ba người cùng ngồi trên hòn đá, Bình Nhi kể lại chuyện vừa rồi cho Tập Nhân nghe. Tập Nhân nói:

– Nhẽ ra chúng ta không nên nói: lão già này thực là đê tiện quá! Hễ thấy ai hơi dễ coi là lão không chịu buông tha.

Bình Nhi nói:

– Chị đã không bằng lòng, tôi xin bảo cách cho chị.

Uyên Ương hỏi: “cách gì?”

– Chị cứ nói với cụ rằng, đã cho cậu Liễn rồi, như thế ông Cả sẽ không thể đòi nữa.

Uyên Ương nhổ toẹt một cái nói:

– Mày còn nhắc đến cái của ấy làm gì? Hôm trước chủ mày chả đã nói bậy đó sao? Không ngờ bây giờ tao mới rõ.

Tập Nhân cười nói:

– Chị không bằng lòng hai người kia, theo ý tôi, chị nên nói với cụ, nhờ người bảo rằng đã cho cậu Bảo rồi, như thế ông Cả cũng sẽ dứt lòng đòi hỏi.

Uyên Ương vừa tức vừa thẹn, vừa nổi nóng, liền mắng:

– Hai con khốn nạn này! Chúng mày không được chết tử tế đâu! Người ta có việc khó xử, tưởng chúng mày là người đứng đắn, nên bàn cách giúp, chúng mày chẳng nghĩ hộ được gì, lại thay nhau đem tao ra làm trò cười Chúng mày tưởng rằng rồi đây sẽ tốt cả đấy! Sẽ làm dì Hai cả đấy? Cứ ý tao, việc ở trên đời này chưa chắc đã được như ý cả đâu. Chúng mày hãy xếp lại, vừa vừa chứ, đừng có hí hửng vội.

Hai người thấy Uyên Ương nóng lên, liền cười nói:

– Chị đừng nên ngờ vực, chúng ta từ bé đến giờ đã thân mật với nhau như chị em ruột, chẳng qua lúc vắng người, chúng tôi nói đùa để cười cho vui đấy thôi. Chị định thế nào cứ nói cho chúng tôi biết, không ngại gì đâu.

– Chả có ý định gì. Tôi cứ không đi là xong.

Bình Nhi lắc đầu nói:

– Chị không đi, chưa chắc người ta đã để cho chị yên. Tính ông Cả thế nào, chị đã biết rồi đấy. Tuy chị là người hầu bên cụ, bây giờ lão chẳng dám làm gì chị đâu, nhưng không dễ chị theo hầu cụ suốt đời? Cũng có lúc phải đi chứ. Bấy giờ mà lọt vào tay lão thì không ra gì đâu!

Uyên Ương cười nhạt:

– Cụ còn sống ngày nào tôi nhất định không rời chỗ này! Nếu người quy tiên, thế nào lão ta cũng phải để tang ba năm, không có lẽ mẹ vừa chết lại đi lấy vợ lẽ! Chờ hết ba năm, xem cơ mầu thế nào bấy giờ sẽ liệu. Nếu khi nguy cấp khó xử, tôi đành cắt tóc đi tu! Không thì chết là cùng! Suốt đời chẳng lấy chồng đã làm sao? Lại càng khỏi vướng.

Bình Nhi và Tập Nhân cười nói:

– Con bé này thật không biết thẹn, thuận miệng cứ lau láu nói ra hết cả.

– Đã đến nông nỗi này thẹn mà làm gì? Các chị không tin, sau này sẽ biết! Bà ấy nói sẽ đi tìm bố mẹ tôi. Cứ cho đến tận Nam Kinh mà tìm!

Bình Nhi nói:

– Ông bà nhà chị đều trông nhà cho chủ ở Nam Kinh không đến đây bao giờ, lâu rồi cũng sẽ tìm được. Nhưng hiện giờ có anh và chị dâu chị Ở đây. Tiếc rằng chị là người sinh ra ở nhà này, chứ không như hai chúng tôi chỉ có một mình đến đây thôi.

Uyên Ương nói:

– Sinh ra ở nhà này thì đã làm sao? “Trâu không muốn uống nước cố đè sừng” liệu có được chăng? Tôi không bằng lòng chẳng lẽ giết cả bố mẹ tôi?

Đương nói thì chị dâu Uyên Ương đến. Tập Nhân nói:

– Bây giờ họ không tìm đến bố mẹ chị, chắc họ đã nói chuyện với chị dâu chị.

Uyên Ương nói:

– Con đĩ ấy chỉ chuyên làm nghề “bán rau chào khách”, nghe thấy vậy làm gì mà nó chẳng chiều chuộng đi ngay.

Vừa lúc ấy người chị dâu đến nơi, cười nói:

– Cô ở đây à? Tôi đi tìm mãi không thấy. Cô lại đằng này tôi nói câu chuyện.

Bình Nhi, Tập Nhân đều mời ngồi. Người chị dâu nói:

– Các cô cứ ngồi, tôi cùng cô em nói câu chuyện riêng.

Tập Nhân và Bình Nhi giả cách không biết, đều cười nói:

– Chuyện gì mà cần thiế? Chúng tôi thử đoán xem, chờ đoán xong rồi hãy đi.

Uyên Ương nói:

– Chuyện gì đấy? Chị cứ nói đi.

Người chị dâu cười nói:

– Cô cứ lại đây tôi sẽ nói, thế nào cũng có chuyện hay.

– Có phải là việc bà ấy đã nói với chị không?

– Cô đã biết lại còn hỏi vặn gì tôi! Mau mau lại đây! Tôi nói rạch ròi cho mà nghe. Việc vui mừng to như trời ấy!

Uyên Ương nghe nói, đứng ngay dậy, nhìn thẳng vào mặt chị dâu nhổ toẹt một cái, mắng:

– Thôi hãy ngậm ngay cái mồm l… ấy lại, cút khỏi chỗ này cho rảnh. Chuyện gì hay? Chuyện con khỉ ăn gừng! Chuyện gì mừng? Chuyện ông huyện về quê! 1 Thảo nào ngày thường các người cứ thèm thuồng bọn a hoàn nhà khác được làm bà trẻ, để cả nhà cậy thế làm càn, cả nhà đều được làm bà trẻ! Thấy thế là các người nóng mắt lên, chực đẩy tôi vào lò lửa. Nếu tôi đắc thế, các người ở ngoài tha hồ ngang tàng làm bậy, tự phong cho mình là ông cậu. Nếu tôi không ra gì, gặp lúc thất thế, các người sẽ rụt cổ lại, sống chết bỏ mặc tôi.

Uyên Ương vừa nói vừa khóc. Bình Nhi, Tập Nhân tìm cách khuyên giải. Người chị dâu ngượng mặt quá, liền nói:

– Bằng lòng hay không, cô cũng nói tử tế, việc gì mà phải xỉa xói nhau. Tục ngữ có câu: “Trước mặt người lùn chớ nói chuyện lùn”. Cô mắng tôi, tôi không dám nói lại; nhưng hai cô này có trêu ghẹo gì cô, thế mà cô cũng nhai nhải như bà trẻ thế này, bà trẻ thế nọ, như thế có ngượng mặt cho các cô không?

Bình Nhi, Tập Nhân vội nói:

– Chị đừng nói những câu như thế. Chị ấy có nói gì đến chúng tôi đâu, chị đừng có gắp chúng tôi vào. Chị đã thấy các ông bà nào cất nhắc chúng tôi lên làm bà trẻ chưa. Vả chăng hai người chúng tôi chẳng có anh em, bố, mẹ nào ở đây để nhờ thế lực chúng tôi mà làm bậy! Chị ấy muốn mắng người nào tha hồ mà mắng, chúng tôi không việc gì phải chạnh lòng.

Uyên Ương nói:

– Nó thấy tôi mắng, đâm ra xấu hổ, không biết làm thế nào cho khỏi bẽ mặt, mới kiếm lời xúc xiểm hai chị đấy thôi. May mà hai chị là người hiểu đời. Vì tôi quá nóng, nói không biết giữ lời, nó mới nhân đó bày chuyện.

Chị dâu cụt hứng, hầm hầm bỏ đi.

Uyên Ương tức quá vẫn còn mắng theo. Bình Nhi, Tập Nhân can ngăn một lúc mới yên. Bình Nhi hỏi Tập Nhân:

– Chị núp ở đây làm gì thế? Chúng tôi không trông thấy chị.

Tập Nhân nói:

– Tôi nhân sang buồng cô Tư thăm cậu Bảo. Không ngờ chậm một chút, nghe nói cậu ấy đã về rồi. Tôi đang ngờ, sao lại không gặp? Tôi định sang bên cô Lâm tìm, lại gặp người nhà cô ấy bảo là cậu ấy không sang đấy. Tôi ngờ cậu ấy đi ra ngoài vườn. Ngay lúc đó gặp chị Ở đằng kia lại. Tôi tránh ra một bên, chị không trông thấy. Sau chị Uyên Ương đến, tôi liền ở trong gốc cây chạy về phía sau núi giả, thấy hai chị đương ngồi nói chuyện. Thế mà bốn con mắt không trông thấy tôi.

Nói chưa dứt lời, chợt đằng sau có người nói:

– Bốn con mắt không trông thấy chị à? Giờ cả sáu con mắt cũng không trông thấy tôi đấy!

Ba người giật mình quay lại nhìn, té ra Bảo Ngọc.

Tập Nhân cười nói:

– Cậu ở đâu đến đây? Làm tôi tìm mãi.

– Tôi ở đằng cô Tư về, thấy chị đi đến, chắc là chị tìm tôi, nên tôi nép vào một chỗ để lừa chị. Trông thấy chị ngơ ngác đi qua, vào nhà rồi lại ra, gặp ai cũng hỏi, tôi buồn cười quá. Có ý chờ chị đến gần sẽ dọa lên một tiếng cho giật mình. Sau lại thấy chị cũng lẩn lẩn lút lút, biết là chị lại định dọa ai. Tôi ló đầu ra nhìn thấy hai chị kia, tôi liền đi vòng đến sau lưng chị. Chị đi rồi, tôi nấp vào chỗ của chị.

Bình Nhi cười nói:

– Chúng ta ra phía sau tìm xem chưa biết chừng lại vớ được một đôi nữa đấy.

Bảo Ngọc cười nói:

– Không còn ai nữa đâu.

Uyên Ương biết là Bảo Ngọc nghe hết chuyện này rồi, nên chỉ gục đầu xuống hòn đá giả cách ngủ. Bảo Ngọc lay dậy cười bảo:

– Đá này lạnh lắm, chúng ta về nhà ngủ chẳng hơn ư?

Nói xong, kéo Uyên Ương dậy, lại mời cả Bình Nhi về nhà uống nước, và cùng Tập Nhân khuyên Uyên Ương đi, Uyên Ương mới chịu đứng dậy. Bốn người cùng đến viện Di Hồng. Những câu chuyện vừa rồi, Bảo Ngọc đã nghe thấy cả, nên trong bụng cũng khó chịu thay cho Uyên Ương, cứ lặng lẽ nằm ngủ trên giường, mặc cho ba người cười nói ở nhà ngoài.

Hình phu nhân hỏi Phượng Thư về bố mẹ Uyên Ương, Phượng Thư nói:

– Bố nó tên là Kim Thái, hai vợ chồng đều trông nom nhà cửa ở Nam Kinh không hay về đây. Anh nó là Văn Tường, hiện giữ việc mua bán cho cụ. Chị dâu nó cũng trông coi việc giặt rửa ở nhà cụ.

Hình phu nhân sai người gọi vợ Kim Văn Tường đến, nói rạch ròi cho nghe. Chị ta lấy làm thích lắm, hăm hở đi tìm Uyên Ương, chắc mẩm nói một câu là xong ngay; ai ngờ bị Uyên Ương mắng cho một trận, lại bị Tập Nhân, Bình Nhi nói cho mấy câu, xấu hổ quá, về nói với Hình phu nhân:

– Chẳng ăn thua gì, tôi lại bị nó mắng cho một trận.

Vì có Phượng Thư ở đấy, chị ta không dám nói đến Bình Nhi chỉ nói:

– Tập Nhân lại hùn thêm vào, nói tôi nhiều câu chẳng ra gì, không thể kể với bà được. Bà bàn với ông đi mua đám khác vậy thôi. Chắc con ranh ấy chẳng có số tốt, mà nhà chúng tôi cũng chẳng làm gì có phúc lớn như thế.

Hình phu nhân nói:

– Việc gì đến con Tập Nhân? Sao nó lại biết được?

Rồi lại hỏi:

– Còn có ai ở đấy nữa không?

Vợ Kim Văn Tường nói:

– Còn có cô Bình nữa.

Phương Thư vội nói:

– Sao chị không lôi cổ nó về cho tôi? Tôi vừa mới đi khỏi, nó đã chạy biến rồi, về đến nhà chẳng thấy bóng vía đứa nào! Chắc nó cũng hùn thêm mấy câu chứ gì?

– Cô Bình không đứng gần đấy, tôi nhìn xa hình như cô ta, nhưng không chắc có đúng không, tôi đoán chừng đấy thôi.

Phượng Thư liền sai người:

– Mau đi gọi Bình Nhi, nói ta đã về rồi, bà cũng ở đây, bảo nó phải về ngay.

Phong Nhi liền thưa:

– Cô Lâm cho người mang giấy đến mời ba, bốn lần chị ấy mới đi. Lúc mợ vừa về đến cửa, tôi đi gọi chị ấy ngay. Nhưng cô Lâm nói: “về thưa với mợ, ta nhờ chị ấy một việc”.

Phượng Thư nghe vậy mới thôi, lại cố ý nói:

– Có việc gì mà ngày nào cũng nhờ nó thế?

Hình phu nhân không làm thế nào được, ăn xong cơm chiều rồi về nói với Giả Xá, Giả Xá nghĩ một lúc, liền gọi Giả Liễn đến bảo:

– Nhà cửa ở Nam Kinh còn có nhiều người khác trông nom, chứ không phải một mình Kim Thái, phải gọi ngay nó về đây.

Giả Liễn thưa:

– Lần trước ở Nam Kinh đưa tin về nói Kim Thái bị chứng đờm, thường mê man bất tỉnh, đã cho cả tiền mua sẵn áo quan rồi. Không biết bây giờ nó còn sống hay chết. Nếu nó sống cũng chẳng biết việc gì, gọi về cũng vô ích. Còn vợ nó thì lại điếc.

Giả Xá nghe xong quát mắng:

– Đồ ngu biết gì? Mày không cút ngay đi à?

Giả Liễn sợ quá lùi ra. Một lúc lại cho gọi Kim Văn Tường đến, Giả Liễn đành đứng chờ ngoài thư phòng, không dám về, cũng không dám gặp bố.

Một lúc, Kim Văn Tường đến. Bọn hầu nhỏ dẫn hắn vào cửa thứ hai, lâu lắm mới thấy hắn ra về. Giả Liễn không dám hỏi chuyện. Một lúc sau, thấy Giả Xá ngủ rồi mới dám về nhà. Đến tối, Phượng Thư kể lại chuyện, hắn mới hiểu rõ.

Uyên Ương suốt đêm không ngủ. Đến hôm sau, người anh cô ta đến xin Giả mẫu cho cô ta về nhà chơi, Giả mẫu bằng lòng. Uyên Ương không muốn về, nhưng sợ Giả mẫu ngờ, nên đành phải đi. Người anh đem những lời của Giả Xá nói cho cô ta biết, lại hứa hẹn nào là được thể diện, được làm dì Hai, trông nom việc nhà. Uyên Ương chỉ cắn răng không bằng lòng. Người anh không biết làm thế nào, đành phải về trình Giả Xá. Giả Xá tức giận nói:

– Ta bảo cho mà biết, mày về bảo vợ mày rằng: xưa nay “chị hằng yêu tuổi trẻ” chắc nó chê ta già, có lẽ nó chỉ yêu các cậu trẻ thôi! Chắc chắn là nó đã nhắm vào Bảo Ngọc, có lẽ cả thằng Liễn nữa. Nếu nó có bụng ấy thì bảo nó hãy mau mau xếp lại. Ta muốn lấy, nó không bằng lòng, sau còn ai dám lấy nó nữa? Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai nó tưởng cụ thương nó, sau này sẽ chính thức gả nó cho một người ở ngoài phủ này. Bảo nó nghĩ kỹ đi: dù nó lấy ai nữa, cũng khó thoát khỏi tay ta! Trừ phi nó chết đi, hay suốt đời không lấy chồng, ta mới chịu! Nếu không, bảo nó nên mau mau nghĩ lại, sẽ có nhiều điều hay đấy.

Giả Xá nói một câu, Kim Văn Tường “vâng” một câu. Giả Xá lại bảo:

– Không được nói dối ta, ngày mai ta lại bảo bà mày đến hỏi thẳng Uyên Ương. Mày nói nó không bằng lòng, sẽ không có lỗi; nếu ta hỏi nó bằng lòng thì mày liệu hồn đấy!

Kim Văn Tường vâng dạ luôn mồm. Về đến nhà, không kịp bảo vợ đi nói, hắn tự mình đến bảo thẳng Uyên Ương; Uyên Ương tức quá không trả lời được câu gì. Nghĩ một lúc, Uyên Ương nói:

– Dầu tôi bằng lòng, cũng phải mang tôi đến trình cụ đã.

Người anh và chị dâu đều cho Uyên Ương đã nghĩ lại, vui mừng khôn xiết. Người chị dâu liền dẫn Uyên Ương đến trình Giả mẫu.

Vừa gặp lúc Vương phu nhân, Tiết phu nhân và bọn chị em Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa cùng mấy người đàn bà coi việc có thể diện đang nói chuyện vui ở đấy. Uyên Ương mừng lắm, kéo chị dâu vào quỳ trước mặt Giả mẫu, vừa khóc vừa kể lại những câu Hình phu nhân nói thế nào, chị dâu nói ở trong vườn thế nào, nay người anh lại nói như thế nào. “Vì cháu không bằng lòng, ông Cả bảo là cháu mê cậu Bảo Ngọc, nếu không thì cũng đợi lấy người ngoài, bảo cháu có chạy lên trời suốt đời cũng không thoát khỏi tay ông ấy. Thế nào ông ấy cũng báo thù! Lòng cháu đã lạnh tắt rồi! Cháu nói trước mặt mọi người ở đây, đừng nói là Bảo Ngọc, chứ dù “Bảo Kim”, “bảo Ngân”, “Bảo Thiên Vương”, “Bảo Hoàng Đế” nào nữa, cháu cũng chẳng lấy, cứ ở vậy suốt đời là xong chuyện! Nếu cụ ép quá, cháu đành một nhát dao là xong đời, chứ không thể nào tuân lời được. Tốt phúc ra, cháu được chết trước cụ, nếu không may, cháu cũng đành nhất định hầu hạ đến khi cụ quy tiên, cháu sẽ không về với bố mẹ và anh em cháu đâu, hoặc tự tử, hoặc gọt đầu đi tụ Nếu bảo cháu không thực bụng, chỉ tạm thời tình cách chống đỡ, thì đã có giời đất, quỷ thần, mặt trời, mặt trăng chứng minh, sẽ bóp cháu sưng cổ nổ hầu ra mà chết!

Trước lúc Uyên Ương đến, trong tay áo đã giấu sẵn một cái kéo, nay vừa nói vừa đưa kéo lên cắt tóc. Bọn bà già, a hoàn trông thấy vội giữ lại, thì đã cắt mất một nửa nắm rồi. May tóc cô ta quá rậm, cắt vẫn không việc gì, mọi người vội vàng giúp cô ta búi lên.

Giả mẫu nghe nới, giận quá, người run cầm cập, rít giọng nói:

– Ta chỉ còn có một người trông cậy được, chúng nó lại định tìm cách cướp đi.

Nhân thấy Vương phu nhân đứng bên cạnh, liền bảo:

– Các người xưa nay đều lừa ta cả! Ngoài mặt ra vẻ hiếu thảo trong bụng lại ngấm ngầm chực hại tạ Có của gì tốt cũng đến lấy, có người nào tốt cũng đến đòi; còn có một con bé, thấy ta yêu nó, tự nhiên các người đâm tức, định xách nó đi, để rồi tha hồ mà làm hại ta.

Vương phu nhân đứng dậy, không dám nói lại một câu gì. Tiết phu nhân thấy Vương phu nhân cũng bị quở, nên không tiện khuyên giải; Lý Hoàn vừa nghe thấy những câu nói của Uyên Ương, đã dẫn chị em đi ra rồi. Thám Xuân là người biết nghĩ: biết Vương phu nhân bị mắng oan không dám nói lại; Tiết phu nhân là em ruột Vương phu nhân, không tiện cãi hộ cho chị; Bảo Thoa cũng không thể nói hộ cho dì; Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Ngọc lại càng không dám lên tiếng; chỉ còn nhờ có bọn cháu gái; nhưng Nghênh Xuân thì thực thà, Tích Xuân hãy còn bé. Vì vậy, chị ta đang đứng ngoài cửa sổ nghe ngóng, vội chạy ngay vào cười nói với Giả mẫu:

– Việc này có liên can gì đến mẹ cháu đâu? Bà nghĩ lại xem: ông anh Cả muốn lấy người trong nhà, thì em dâu biết làm sao được? Mà dù có biết cũng phải chịu thôi.

Thám Xuân chưa nói dứt lời, Giả mẫu cười nói:

– Thật ta già lẫn rồi! Bà dì đừng cười tôi nhé? Chị bà là người rất hiếu thuận, không như chị dâu cả của tôi, một tí gì cũng sợ chồng, trước mặt mẹ chồng chẳng qua cũng chỉ dựa dẫm cho xuôi chuyện thôi. Thật là tôi nói oan cho chị ấy.

Tiết phu nhân chỉ vâng dạ, rồi lại nói:

– Cụ hơi thiên vị, có lẽ cũng vì thương con dâu út hơn.

Giả mẫu nói:

– Tôi không thiên vị đâu!

Lại nói:

– Bảo Ngọc, bà mắng nhầm mẹ cháu, sao cháu không nhắc để mẹ cháu bị mắng oan?

Bảo Ngọc cười nói:

– Không có nhẽ cháu lại bênh mẹ cháu mà nói bác giai và bác gái à? Chung quy cũng có người không phải, nhưng nếu mẹ cháu không nhận thì còn đổ cho ai? Cháu nhận lỗi về cháu chắc bà cũng chẳng tin nào.

Giả mẫu cười nói:

– Thế cũng có nhẽ. Nay cháu quỳ xuống trước mặt mẹ cháu nói: Mẹ đừng bực nữa, bà đã có tuổi rồi, xin mẹ hãy nhìn Bảo Ngọc này thôi.

Bảo Ngọc chạy đến quỳ xuống định nói, Vương phu nhân vội cười kéo Bảo Ngọc dậy:

– Đứng dậy, không thể thế được, lễ nào mày lại thay bà đến xin lỗi ta à?

Bảo Ngọc nghe nói liền đứng dậy:

Giả mẫu cười nói:

– Cháu Phượng cũng chẳng nhắc gì bà!

Phượng Thư cười nói:

– Cháu chưa vạch những điều không phải của bà ra, bà đã lại quặc cả cháu vào.

Giả mẫu nghe nói, cùng mọi người cười ầm lên:

– Thế mới lạ chứ! Ta cần nghe điều nào là điều không phải?

Phượng Thư nói:

– Ai bảo bà khéo chải chuốt cho người? Chải chuốt đến nỗi nó đẹp mơn mởn lên, trách nào người ta chả thích? May cháu là dâu đấy, chứ là cháu trai, thì cháu đòi bà đã lâu rồi, không còn chờ đến bây giờ.

– Đó là điều không phải của ta à?

– Đúng là điều không phải của bà.

– Đã thế thì ta không cần nó nữa, cháu đem nó về.

– Để cháu tu hết kiếp này, đến kiếp sau được làm con trai, cháu mới cần đến nó.

– Cháu mang nó về cho thằng Liễn, để xem ông bố chồng mặt dày của cháu còn đòi nữa hay thôi!

– Cháu Liễn không xứng đáng, nó chỉ xứng đáng với cháu và Bình Nhi là hai chiếc “bánh cháy” đấy thôi.

Mọi người nghe nói cười ầm lên.

A hoàn vào trình:

– Bà Cả đã đến.

Vương phu nhân vội ra đón.

1      Nguyên văn truyện con cắt của vua Huy Tông đời Tống, con ngựa của Triệu Tử Ngang và truyện quan trạng lên đậu mùa đang mưng.

_________________

Chương 47: Tiết Bàn đa tình bị đánh – Tương Liên sợ tội trốn đi

Tiết Bàn đa tình bị đánh

Tương Liên sợ tội trốn đi

Vương phu nhân thấy Hình phu nhân đến, liền ra đón. Hình phu nhân chưa hiểu Giả mẫu đã biết việc Uyên Ương, định đến thăm dò tin tức. Vào đến cửa, được bọn bà già khẽ mách, Hình phu nhân mới biết. Định quay về, nhưng người trong nhà đã trông thấy; lại thấy Vương phu nhân ra đón, nên đành phải vào chào Giả mẫu. Giả mẫu không thèm bắt lời. Hình phu nhân tự nghĩ xấu hổ. Phượng Thư mượn cớ tránh đi chỗ khác. Uyên Ương tức giận về buồng. Tiết phu nhân và Vương phu nhân sợ Hình phu nhân sượng mặt, cũng dần dần lui ra. Hình phu nhân đành phải ngồi lại. Giả mẫu thấy không có ai, mới bảo:

– Ta nghe nói, chị đi làm mối cho ông nhà chị phải không? Chị cũng làn hạng có đủ “tam tòng tứ đức” đấy. Nhưng cái hiền hậu của chị thật là quá đáng. Bây giờ nhà chị, con cháu đã đầy đàn rồi, thế mà chị còn sợ Ông ấy. Tại sao chị không can ngăn câu nào, cứ mặc cho ông ấy muốn giở tính gì thì giở.

Hình phu nhân đỏ bừng mặt lên, thưa:

– Con đã khuyên ngăn nhiều lần, mà không nghe. Mẹ còn lạ gì nữa? Con cũng bất đắc dĩ phải chiều đấy thôi.

Giả mẫu nói:

– Thế nó bắt chị giết người, chị cũng giết à? Chị thử nghĩ xem, em dâu chị xưa nay vốn là người thực thà, lại hay đau ốm. Nhưng có việc gì mà không qua nó. Tuy có con dâu chị giúp đỡ nhưng cứ “buông dầm cầm chèo”, trăm việc đến taỵ Mặc dù ta đã bớt việc cho nó nhiều rồi, nhưng cũng có khi cả hai người không nghĩ xiết, thì đã có con Uyên Ương cẩn thận, biết lo toan ít nhiều đến việc riêng của tạ Cái gì cần nó lấy ngay cho ta; cái gì đáng thêm, nó lựa dịp bảo họ thêm cho tạ Nếu không được con Uyên Ương thì các việc trong ngoài lớn nhỏ, chỉ có hai mẹ con nó, làm gì chằng có thiếu sót? Bây giờ lại còn để ta phải lo lắng, để ta ngày nào cũng tính toán đòi thứ này thứ nọ hay sao? Cả nhà này, chỉ còn một mình nó lớn tuổi, nó đã biết nết ta, hợp tính với ta, nó lại không hề mượn tiếng ta đòi bà này cho áo quần, bà nọ cho tiền bạc bao giờ. Vì thế mấy năm nay, hễ nó nói việc gì, thì từ em dâu chị, nàng dâu chị, cho chí lớn bé trong nhà, chẳng ai là không tin nó. Bởi vậy không những một mình ta nhờ cậy nó, mà cả em dâu chị, nàng dâu chị, cũng đỡ phải lo toan. Có con bé ấy, dù việc gì con dâu, cháu dâu không nghĩ xiết, ta cũng không phải thiếu thốn và cũng không có gì phải bực mình. Bây giờ lấy nó đi, các chị định cho ai đến hầu tả Dù các chị có đem đến một người đẹp như châu báu mà không biết nói năng gì thì cũng vô ích. Ta đang định sai người đến bảo ông chồng chị muốn lấy ai, ta có tiền đây, nó lấy tám nghìn, một vạn đi mua cũng được, chứ đòi con bé này thì không xong đâu! Để nó hầu hạ ta mấy năm, cũng như chính chồng chị giữ đạo hiếu hết lòng hầu hạ tạ Nay vừa hay chị đến đây, chị sẽ đem lời ta về nói cho chồng chị biết, để cho êm chuyện.

Nói rồi, gọi người đến bảo: “Mời bà dì và các cô đến đây, đang nói chuyện vui, sao lại về cả thế?”

A hoàn vội đi tìm. Mọi người lại đều sang cả. chỉ có Tiết phu nhân bảo a hoàn:

– Ta vừa sang rồi, giờ còn sang làm gì nữa? Chị về nói là ta đã ngủ rồi.

A hoàn nói:

– Trăm lạy bà dì! Ngàn lạy bà dì! Cụ cháu đang giận đấy! Nếu bà không sang thì làm sao cho êm chuyện được. Xin được thương các cháu với! Nếu bà ngại đi, cháu xin cõng bà sang.

Tiết phu nhân cười nói:

– Đồ ranh con! Việc gì phải sợ! Chẳng qua bị mắng mấy câu thôi.

Nói xong, đành cùng a hoàn đi sang. Giả mẫu mời ngồi, rồi cười nói:

– Chúng ta đánh bài chứ! Bà đánh bài cũng vẫn còn thấp, chúng ta ngồi một chỗ đừng để con Phượng ăn gian.

Tiết phu nhân cười nói:

– Phải đấy! Xin cụ xem hộ bài chọ Chỉ có bốn bà cháu đánh thôi, hay phải thêm một vài người nữa?

Vương phu nhân cười nói:

– Bốn người thôi!

Phượng Thư nói:

– Thêm một người nữa càng vui.

Giả mẫu nói:

– Gọi con Uyên Ương đến đây, cho nó ngồi tay dưới. Mắt bà dì đã kém, cho nó trông cả bài của hai chúng ta.

Phượng Thư cười bảo Thám Xuân:

– Các cô biết chữ, sao không đi học xem bói.

Thám Xuân nói:

– Thế mới lạ chứ, bây giờ chị không cố nghiền ngẫm để kiếm mấy đồng của bà, lại nghĩ đến xem bói?

Phượng Thư nói:

– Tôi đương muốn bói xem hôm nay thua hết bao nhiêu, chứ tôi lại còn mong gì được nữa! Cô thử xem, chưa đánh bài mà hai bên đã sẵn sàng mai phục cả rồi.

Giả mẫu và Tiết phu nhân cười ầm lên.

Một lúc, Uyên Ương đến ngồi ở dưới cánh Giả mẫu. Dưới cánh Uyên Ương là Phượng Thự Thảm đỏ giải ra, lần lượt trang bài, bắt cái. Năm người cầm bài lên đánh một lúc. Uyên Ương thấy bài của Giả mẫu đã thập thành, chỉ chờ một quân “nhị bính” thôi, liền ra hiệu cho Phượng Thự Đến lượt đánh ra, Phượng Thư cố ý ngần ngừ một lúc, rồi nói:

– Nếu cháu đánh quân này thì đúng vào quân chờ của dì. Nếu cháu không đánh thì dì không ù được.

Tiết phu nhân nói:

– Tôi không chờ quân của chị đánh ra đâu.

– Để rồi cháu xem bài dì.

– Chị cứ việc xem bài. Thôi hãy đánh đi, xem quân gì nào?

Phượng Thư liền để ngay quân bài ra trước mặt Tiết phu nhân. Tiết phu nhân xem là quân “nhị bính”, cười nói:

– Ta không cần quân này, chỉ sợ cụ ù đấy thôi!

Phượng Thư cười nói:

– Cháu đánh nhầm rồi!

Giả mẫu hạ ngay bài xuống, cười nói:

– Mày dám rút về à? Ai bảo mày đánh nhầm?

Phượng Thư nói:

– Cháu đã nói là phải bói một quẻ mới được! Tự mình đánh ra, không còn dám trách ai!

Giả mẫu cười nói:

– Thế là tự mày vả vào mồm lại còn hỏi mình xem có đúng hay không?

Lại cười bảo Tiết phu nhân:

– Không phải tôi thích được tiền, cốt để làm vui đấy thôi.

Tiết phu nhân cười nói:

– Chúng cháu ai mà chả nghĩ thế. Đâu lại có người vớ vẩn dám bảo cụ chỉ thích tiền.

Phượng Thư đang đếm tiền, nghe thấy nói thế, liền xâu tiền vào, cười bảo mọi người:

– Thế là tôi hòa vốn rồi! Bà không thích tiền, chỉ thích vui thôi. Tôi bủn xỉn thật, đánh thua là đếm tiền, thôi cất đi vậy.

Giả mẫu vẫn quen lối để Uyên Ương trang bộ bài, rồi cười nói với Tiết phu nhân. Nhưng không thấy Uyên Ương trang bài. Giả mẫu nói:

– Mày giận gì thế? Bài cũng chẳng buồn trang cho tao?

Uyên Ương cầm bài lên cười nói:

– Mợ không xỉa tiền ra cho bà?

Giả mẫu nói:

– Nó không xỉa tiền cho tao, thế là nó đếm hộ tao rồi đấy.

Liền sai a hoàn nhỏ lấy hết chuỗi tiền của Phượng Thư về. A hoàn cầm lấy chuỗi tiền, để bên cạnh Giả mẫu, Phượng Thư cười nói:

– Bà cho cháu xin lại chuỗi tiền! Cháu thua bao nhiêu bà lấy đủ số thôi, còn thừa bà trả lại cháu.

Tiết phu nhân cười nói:

– Chị Phượng này bủn xỉn thật, bà đùa đấy thôi!

Phượng Thư nghe nói, đứng dậy kéo Tiết phu nhân, quay lại trỏ vào cái hòm đựng tiền của Giả mẫu, cười nói:

– Dì xem kìa, không biết trong hòm này đã “đùa” bao nhiêu tiền của cháu rồi đấy! Chuỗi tiền này chơi chưa đầy nửa giờ, tiền ở trong hòm đã vẫy tay gọi, chờ khi nào chuỗi tiền này rơi vào hòm rồi thì chả cần đánh bài và bà cũng hết cả giận. Thế là bà lại sai cháu đi làm việc khác ngay.

Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Giữa lúc ấy Bình Nhi lại mang một chuỗi tiền đến, vì sợ không đủ đánh, Phượng Thư nói:

– Không cần phải để trước mặt ta, cứ để bên cạnh bà. Đưa cả số tiền một lúc cho gọn, không cần phải đưa hai lần, sợ số tiền ở trong hòm thêm bận việc.

Giả mẫu cười, bài ở trên tay rơi cả xuống bàn, liền đẩy Uyên Ương bảo:

– Mau đến rạch mồm nó ra coi!

Bình Nhi theo lời, đặt tiền xuống, cười một lúc mới về. Vừa đến cửa, Giả Liễn hỏi:

– Bà bây giờ ở đâu? Ông bảo ta mời về.

– Bà đứng hầu cụ lâu lắm, chẳng dám động đậy gì, cũng chỉ muốn có dịp là lẻn về thôi. Cụ tức giận mãi, may có mợ Hai pha trò một lúc mới hơi nguôi nguôi.

– Giờ ta sang hỏi cụ xem hôm mười bốn này có sang nhà Lại Đại không, để sắp kiệu sẵn. Ta đến vừa mời bà về, vừa góp vui, thế có được không?

– Cứ ý tôi, cậu không nên sang là phải, cả nhà này, ngay đến bà Hai và Bảo Ngọc cũng còn có lỗi nữa là, bây giờ cậu sang chỉ tội rước vạ vào mình mà thôi.

– Câu chuyện đã xong rồi, không lẽ lại còn kéo cả ta vào hay sao? Vả chăng việc này không liên can gì đến tạ Ông bảo ta phải đi tìm bà về. Nếu biết ta sai người khác đi, trong lúc ông đang giận, sẽ lại mượn cớ để mắng ta cho hả.

Bình Nhi thấy Giả Liễn nói có lý, cũng theo cả sang. Lên đến thềm, Giả Liễn rón rén đi, ngó đầu vào trong nhà, thấy Hình phu nhân đang đứng ở đấy. Phượng Thư trông thấy trước liền đưa mắt bảo hắn đừng vào; lại đưa mắt cho Hình phu nhân. Hình phu nhân không tiện đi ngay, liền rót một chén nước dâng Giả mẫu. Giả mẫu quay lại, Giả Liễn không kịp tránh. Giả mẫu liền hỏi:

– Ai ở ngoài kiả Trông như đứa bé con nào thò đầu vào đấy.

Phượng Thư đứng dậy nói:

– Cháu cũng thoáng nhìn thấy có bóng một người.

Vừa nói vừa đứng dậy đi ra.

Giả Liễn liền đi vào cười nói:

– Cháu đến hỏi xem hôm mười bốn này bà có đi chơi không để sắp sẵn kiệu.

Giả mẫu nói:

– Sao mày không vào ngay, lại thậm thụt ngoài ấy như con ma ấy?

– Thấy bà đang đánh bài, cháu không dám vào, gọi nhà cháu ra ngoài hỏi đấy thôi.

– Làm gì mà vội thế? Chờ khi nó về nhà, hỏi có được không? Sao trước kia không thấy mày cẩn thận như thế? Không biết mày đến đây để lắng tin hay dò xét việc gì! Cứ thập thò như ma, làm tao giật cả mình! Cái thằng đê tiện kia! Vợ mày đánh bài với tao, được lúc vắng nhà, mày hãy về mà bàn với con vợ Triệu Nhị tìm cách hại vợ mày đi!

Nói xong, mọi người cười ầm lên. Uyên Ương cười nói:

– Vợ Bão Nhị chứ! Bà lại kéo vợ Triệu Nhị vào.

Giả mẫu cười nói:

– Thế à? “Bão” hay “bội” tao nhớ thế nào được 1. Nhắc đến chuyện này làm tao thêm bực mình! Khi tao về nhà này làm chắt dâu, đến bây giờ tao cũng có chắt dâu rồi. Trước sau năm mươi tư năm, bao nhiêu việc rùng rợn quái gở đều đã qua cả, nhưng chưa từng gặp việc nào như thế! Mày còn không bước khỏi chỗ này à!

Giả Liễn không dám nói câu gì, vội chạy ra. Bình Nhi chờ ở ngoài cửa sổ, khẽ cười nói:

– Tôi đã bảo cậu không nghe, để đến nỗi sa vào lưới!

Đương nói thì Hình phu nhân cũng ra. Giả Liễn nói:

– Chỉ vì cha sinh chuyện, bây giờ trút cả tội cho mẹ con ta!

Hình phu nhân nói:

– Cái giống bất hiếu trời đánh này! Người ta chết thay cho cha còn được nữa là; mới bị mắng có mấy câu mà đã kêu ca ầm lên. Mày hãy liệu chừng! Mấy hôm nay bố mày tức giận, giờ hồn không lại bị đòn đấy!

– Thôi mẹ về đi, cha con bảo đi mời mẹ đã lâu rồi.

Nói xong Giả Liễn đưa mẹ hắn về nhà.

Hình phu nhân đem chuyện vừa rồi kể qua mấy câu, Giả Xá không còn cách gì, đâm ra xấu hổ. Từ đấy, liền cáo bệnh, không dám đến hầu Giả mẫu, chỉ sai Hình phu nhân và Giả Liễn hàng ngày đến thăm. Rồi sai người đi tìm kiếm các nơi, sau cùng, bỏ ra năm trăm lạng bạc, mua một đứa con gái mười bảy tuổi, tên là Yên Hồng đem về.

Thấm thoát đã đến ngày mười bốn. Tờ mờ sáng, vợ Lại Đại lại đến mời. Giả mẫu cao hứng, dẫn Vương phu nhân, Tiết phu nhân và chị em Bảo Ngọc đến vườn hoa nhà Lại Đại ngồi một lúc. Vườn hoa này tuy không bằng vườn Đại Quan, nhưng cũng rộng rãi ngăn nắp, rừng suối lâu đài, cũng có nhiều chỗ đẹp làm cho người ta say sưa mến cảnh. Ở bên ngoài, có Tiết Bàn, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung cùng mấy người họ gần đều đến cả. Lại Đại cũng mời mấy người quan lại đương chức và một số con nhà đại gia đến tiếp. Trong đám ấy có Liễu Tương Liên mà trước đây Tiết Bàn đã được gặp một lần, trong bụng vẫn quyến luyến không quên. Lại nghe thấy hắn thích chơi tuồng hát, và trong đó chơi toàn những vai học trò, vai nữ rất tài hoa. Tiết Bàn nhận nhầm hắn là con nhà ăn chơi, muốn kết thân với hắn, nhưng không có người đưa đón. May sao hôm đó gặp hắn, Tiết Bàn vui quá, mê tít. Bọn Giả Trân cũng hâm mộ tiếng hắn, liền mượn hơi men nói với hắn hát cho nghe hai vở. Sau lại sang ngồi bên cạnh, hỏi tẩn mẩn chuyện nọ chuyện kia.

Liễu Tương Liên nguyên là con nhà thế gia, vì học không đỗ lại gặp cha mẹ mất sớm. Hắn vốn tính hào hiệp, không câu nệ những việc vặt, lại thích chơi thương múa kiếm, rượu chè, cờ bạc, trai gái, đàn hát, cái gì cũng biết. Vì hắn trẻ tuổi xinh trai, những người không biết rõ tung tích, đều nhận nhầm là hạng phường chèo con hát. Con Lại Đại là Lại Thượng Vinh thường chơi thân với hắn, nên hôm nay cũng mời hắn đến dự tiệc. Không ngờ sau khi say rượu, người khác còn khá, chứ Tiết Bàn thì lại trở lại bệnh cũ. Vì thế, Liễu Tương Liên trong bụng không vui, định lừa dịp ra về cho xong chuyện. Không ngờ Lại Thượng Vinh đến nèo nằng mãi:

– Vừa rồi cậu Bảo dặn tôi; cậu ấy vừa vào đến cửa, tuy trông thấy anh, nhưng đông người không tiện nói chuyện, bảo tôi dặn anh, khi tan tiệc anh đừng về vội, cậu ấy có câu chuyện muốn nói với anh. Nếu anh nhất định đòi về, để tôi gọi cậu ấy ra, hai người gặp nhau đã, như thế thì không can gì đến tôi.

Nói xong, liền sai đứa hầu bé vào trong nhà bảo khẽ bà già mời cậu Bảo đến. Đứa bé vào một lát thì Bảo Ngọc đi ra. Lại Thượng Vinh cười bảo Bảo Ngọc:

– Thưa chú, tôi giao anh này cho chú, để tôi đi tiếp khách đây.

Nói xong đi ngay.

Bảo Ngọc kéo Liễu Tương Liên đến thư phòng bên cạnh hỏi chuyện:

– Lâu nay anh có đến thăm mộ Tần Chung không?

– Có đến. Hôm nọ mấy người chúng tôi đi săn, cách mộ anh ấy chỉ có vài dặm. Tôi nghĩ mùa hạ năm nay nhiều mưa, sợ mộ lở, liền lẻn đến đấy xem, thì có chỗ bị lở. Khi về nhà kiếm được mấy trăm đồng tiền, đến sáng hôm thứ ba, tôi thuê mấy người đến đắp lại tử tế rồi.

– Thảo nào. Tháng trước sen trong ao vườn Đại Quan nở hoa, tôi ngắt mười cái, sai Dính Yên đem đến viếng mộ anh ấy. Khi về tôi hỏi: trời mưa thế, mộ có bị lở không? Dính Yên nói: Không những không lở mà lại mới hơn trước. Tôi chắc là có người bạn nào đã đến sửa dọn. Tiếc rằng ngày nào tôi cũng bị giữ rịt ở nhà không được đi đâu, hơi làm việc gì người nhà cũng biết, không người này ngăn thì người khác khuyên, chỉ nói được chứ không làm được! Dù có tiền đấy, tôi cũng không được tiêu.

– Anh không cần phải để ý đến việc ấy, bên ngoài đã có tôi, chỉ cần anh có bụng nghĩ đến cậu ấy là được rồi. Tôi đã sắp sẵn một món tiền để đến ngày mồng một tháng mười sắp tới sẽ tiêu về việc thăm mộ. Anh cũng biết đấy, tôi nghèo rớt mồng tơi, trong nhà chung dành dụm được gì, hễ kiếm được đồng nào lại tiêu hết sạch. Nên nhân dịp này, tôi dành lại một món, để đến khi ấy khỏi phải chạy vạy.

– Cũng chính vì việc ấy mà tôi định sai Dính Yên đi tìm anh, nhưng anh không mấy khi ở nhà, biết anh thường nay đây mai đó, không ở chỗ nào nhất định.

– Anh không cần phải tìm tôi, tôi làm việc này chẳng qua chỉ vì hết lòng với bạn. Bây giờ tôi lại phải đi xa, có lẽ năm, ba năm tôi mới về.

Bảo Ngọc nghe nói, vội hỏi:

– Tại sao lại thế?

Liễu Tương Liên cười nhạt nói:

– Tâm sự của tôi, chờ khi đến nơi sẽ biết. Giờ xin tạm biệt.

– Không mấy khi được gặp nhau, anh nên đợi đến chiều chúng ta cùng về một thể có hơn không?

– Anh con nhà dì của anh vẫn giữ cái thói ấy, nếu tôi ngồi lại, không khỏi có chuyện, chi bằng tôi tránh đi là hơn.

Bảo Ngọc nghĩ một lúc, nói:

– Đã thế thì anh tránh hẳn đi là phải. Nhưng nếu anh quả thực định đi xa, cũng nên nói trước cho tôi biết, chứ nhất thiết đừng lẳng lặng mà đi!

Nói xong, nước mắt tràn ra.

Liễu Tương Liền nói:

– Thế nào tôi cũng phải từ biệt anh, nhưng anh đừng nói cho ai biết.

Nói xong liền đứng dậy chực đi, lại nói:

– Thôi anh vào đi, không cần phải tiễn tôi.

Vừa nói vừa ra khỏi thư phòng. Mới đi đến cửa ngoài, đã thấy Tiết Bàn đứng đấy gọi ầm lên:

– Ai cho chú Liễu đi đấy?

Liễu Tương Liên nghe hắn nói, bốc nóng lên, giận không đánh được một cái cho chết ngaỵ Nhưng rồi lại nghĩ, khi say rượu mà đánh người, chỉ làm ngượng mặt Lại Thượng Vinh, nên đành phải nén giận. Tiết Bàn thấy Liễu Tương Liên đi ra, mừng như được của báu, vội loạng choạng chạy theo nắm lấy cười hỏi:

– Em ơi! Đi đâu đấy?

– Đi một tí rồi về ngay.

– Em mà đi thì anh mất vui. Em thương anh với, hãy ngồi một tí đã. Có việc gì cần, em cứ giao cho anh, đừng vội vã như thế. Em có người anh này, thì muốn làm quan, phát tài, cái gì cũng dễ thôi!

Tương Liên thấy Tiết Bàn nói những câu khó chịu quá, trong lòng bực bội, nghĩ ngay một kế, liền kêu hắn ra chỗ vắng, cười nói:

– Anh thực bụng yêu em hay là nói dối em đấy?

Tiết Bàn nghe nói, trong lòng rạo rực, liếc mắt nói:

– Em ơi! Sao em lại hỏi anh câu ấy? Nếu có bụng giả dối, anh chết ngay ở đây!

– Đã thế, ở đây không tiện, anh hãy ngồi lại một chốc, rồi em đi trước, anh sẽ theo sau. Khi về nhà em, chúng ta nhất định uống rượu suốt đêm. Ở nhà em còn có hai đứa bé con rất đẹp, chưa hề tiếp khách bao giờ. Anh không cần phải mang ai đi theo, đến đấy có sẵn người hầu.

Tiết Bàn nghe nói, mừng quá tỉnh hẳn rượu, nói:

– Có thật thế không?

– Người ta thực bụng đối với anh, anh lại không tin à?

– Anh có phải thằng ngốc đâu, sao lại không tin? Nếu em đi trước, anh không biết chỗ, làm thế nào tìm được em?

– Nhà em ở ngoài cửa Bắc, anh có thể ra đó ngủ một đêm được không?

– Đã có em thì anh còn cần gì đến nhà nữa?

– Đã thế em chờ anh ở đầu cầu ngoài cửa Bắc. Chúng ta hãy vào uống rượu đã. Khi nào em đi rồi, anh hãy đi theo, như thế họ không để ý.

Tiết Bàn nhận lời.

Hai người lại vào uống rượu một lúc. Tiết Bàn không nén nổi, cứ đưa mắt nhìn Tương Liên, trong bụng càng nghĩ càng vui sướng, hết be rượu nọ đến be rượu kia, cứ tự rót uống, không cần phải ai mời. Không ngờ hơi men đã hăng lên tám chín phần. Thấy không ai để ý, Tương Liên đứng dậy đi ra ngoài cửa, bảo hầu nhỏ là Hạnh Nô:

– Mày về trước đi, tao đi ra ngoài thành đã rồi về sau.

Nói xong, cưỡi ngựa ra thẳng cửa Bắc, đến cầu chờ Tiết Bàn. Độ chừng ăn xong bữa cơm, thấy Tiết Bàn cưỡi ngựa chạy đến, phùng má trợn mắt, đầu lắc lư, hết nhìn bên nọ lại quay sang bên kia. Khi hắn đi đến trước ngựa Tương Liên, mắt cứ nhìn về đằng xa, không để ý đến xung quanh. Tương Liên vừa bật cười, vừa tức giận, liền lùi ngựa về đằng sau. Tiết Bàn đi mãi, thấy đã dần dần thưa vắng bóng người, liền quay ngựa trở lại gặp ngay Tương Liên. Hắn vui mừng như được ngọc báu, vội cười nói:

– Anh chắc em không khi nào sai hẹn.

– Đi mau lên, cẩn thận không có người ta trông thấy lại chẳng ra làm sao!

Nói xong Tương Liên tế ngựa đi trước. Tiết Bàn theo sát đằng sau.

Tương Liên thấy trước mặt vắng người, lại có một bãi sậy, liền xuống buộc ngựa vào cây, rồi cười bảo Tiết Bàn:

– Anh xuống ngựa đi, chúng ta hãy thề trước đã, nếu sau này ai thay lòng đổi dạ, nói cho người khác biết, sẽ chịu tội như lời thề.

– Em nói phải đấy.

Rồi cũng buộc ngựa vào cây, Tiết Bàn quỳ xuống thề:

– Nếu anh ngày sau thay lòng đổi dạ, nói cho người khác biết, thì trời tru đất diệt…

Nói chưa dứt lời, thấy đằng sau “choang” một tiếng như chùy sắt giáng xuống, Tiết Bàn mặt tối sầm lại, mắt nổ đom đóm, người lảo đảo, ngã lăn xuống đất. Biết hắn không chịu quen đòn, Tương Liên mới tát nhẹ mấy cái, hắn đã mặt mũi thâm tím như quả bồ quân. Tiết Bàn trước muốn chống đỡ, định đứng dậy, nhưng bị Tương Liên lấy chân đá một cái, lại ngã vật xuống. Hắn liền làu nhàu:

– Hai người đều bằng lòng cả! Nếu em không nghe thì cứ nói, việc gì lại lừa tôi đến đây để đánh tôi?

Rồi hắn mắng ầm lên. Tương Liên nói:

– Tao bảo cho thằng mù này! Mày có biết cụ Liễu là ai không? Mày không van xin, lại dám nói láo! Tao đánh chết mày cũng vô ích, chỉ đánh cho mày ốm đòn thôi.

Nói xong, lại lấy roi ngựa, đánh ba bốn chục roi vào lưng và đùi.

Tiết Bàn đã gần tỉnh rượu, đau quá không chịu nổi, kêu lên một tiếng “úi chao”. Tương Liên cười nhạt nói:

– Mới có thế thôi! Tao cứ tưởng mày dạn đòn!

Vừa nói vừa kéo chân trái Tiết Bàn dìm xuống bãi sậy, bùn lấm be bét, đầy người, lại hỏi:

– Mày đã biết tay tao chưa?

Tiết Bàn không trả lời, chỉ nằm gục xuống rên hừ hừ. Tương Liên lại vất roi đi, nắm tay đấm mấy quả. Tiết Bàn kêu rối rít lên:

– Xương tôi gãy cả rồi! Tôi biết em là người đứng đắn, chỉ vì tôi nghe người ta đồn nhầm đấy thôi!

– Không được kéo người ta vào. Mày chỉ được nói chuyện hiện giờ thôi.

– Hiện giờ tôi không có gì đáng nói cả? Chẳng qua em là người đứng đắn, tôi trót nhầm đấy thôi!

– Phải nói nhũn nữa, tao mới tha cho.

Tiết Bàn rén hừ hừ, nói: “Bạn ơi”. – Tương Liên lại đấm cho một quả nữa. Tiết Bàn kêu lên một tiếng, rồi nói: “Ông anh ơi” – Tương Liên lại đấm luôn cho hai quả nữa. Tiết Bàn vội kêu lên “úi chao ơi”, rồi nói:

– Ông ơi! ông tha cho con là thằng mù không có mắt! Từ nay trở đi, con kinh người, sợ lắm rồi.

– Mày phải uống hai ngụm nước bùn này đi!

– Nước này bẩn quá, con uống thế nào được?

Tương Liên lại giơ tay lên đấm. Tiết Bàn vội nói:

– Con xin uống… Con xin uống… –

Nói xong hắn đành phải cúi đầu xuống gốc sậy uống một ngụm, chưa kịp nuốt đã ọe ngay ra, bao nhiêu thức ăn mửa ra hết cả. Tương Liên nói:

– Mày phải ăn hết những đồ thối tha này tao mới tha cho!

Tiết Bàn lạy thì thụp nói:

– Xin ông làm phúc tha cho con, đến chết con cũng không ăn được đâu!

– Đồ thối xác này, làm bẩn lây cả đến tao!

Nói xong Tương Liên bỏ mặc Tiết Bàn ở đấy, rồi lên ngựa đi.

Tiết Bàn thấy Tương Liên đi rồi mới yên tâm, tự hối mình không nên nhận nhầm người tạ Muốn gượng đứng dậy, nhưng khắp người đau đớn không chịu được.

Bọn Giả Trân không thấy Tiết Bàn và Tương Liên ở trong tiệc, đi tìm các nơi cũng không thấy. Có người nói: “Thấy họ đi vội ra cửa Bắc rồi.” Đứa hầu nhỏ của Tiết Bàn xưa nay vẫn sợ hắn, thấy hắn bảo không được theo, nó còn dám đi sao được? Giả Trân không yên tâm, sai Giả Dung dẫn bọn hầu nhỏ đi tìm; ra thẳng cửa Bắc, đi qua cầu độ hai dặm đường, chợt trông thấy ngựa của Tiết Bàn buộc ở bên bãi sậy. Mọi người đều nói: “May quá! Có ngựa tất phải có người!” Rồi cùng đến chỗ buộc ngựa, nghe trong đám sậy có người rên rỉ. Mọi người chạy đến xem, thấy quần áo Tiết Bàn rách tươm, mặt mũi sưng vù lên, khắp người ướt như lợn sề đẫm bùn.

Giả Dung đã đoán được tám chín phần, liền xuống ngựa sai người kéo hắn lên, cười nói:

– Chú Tiết ngày nào cũng giở thói lẳng lơ, hôm nay lại lẳng lơ đến bãi sậy này, chắc hẳn ông long vương yêu chú là người phong nhã, muốn vời chú đến làm phò mã, chú đã va phải sừng rồng rồi đấy!

Tiết Bàn xấu hổ quá, không thể chui ngay xuống hố được, còn mặt mũi nào trên lên ngựa nữa. Giả Dung liền sai người ra cửa ô thuê một cái kiệu nhỏ cho Tiết Bàn ngồi, rồi cùng về trong thành. Giả Dung lại muốn khiêng hắn vào dự tiệc ở nhà họ Lại, nhưng Tiết Bàn vật vã van xin đừng cho ai biết. Giả Dung mới chịu thôi. Giả Dung lại đến nhà họ Lại trình Giả Trân việc này. Giả Trân cũng biết là hắn bị Tương Liên đánh, liền cười nói:

– Cho nó như thế mới đáng kiếp!

Đến chiều về, Giả Trân đến hỏi thăm, Tiết bàn nằm ở trong nhà, cáo ốm không ra.

Giả mẫu về rồi, mọi người đâu về đấy cả. Tiết phu nhân và Bảo Thoa về, thấy Hương Lăng khóc sưng cả mắt, hỏi nó đầu đuôi rồi vội đến thăm Tiết Bàn, thấy trên mặt và mình đầy thương tích, nhưng không đến nỗi sai gân gẫy xương gì.

Tiết phu nhân vừa thương vừa giận, mắng Tiết Bàn, rồi lại mắng Tương Liên, muốn nói với Vương phu nhân sai người đi bắt hắn. Nhưng Bảo Thoa ngăn lại nói:

– Việc này không quan trọng gì, chẳng qua họ uống rượu với nhau, quá say thường hay giở mặt. Kẻ say bị đánh đau cũng là lẽ thường. Vả chăng ai còn chả biết cái anh bạo thiên nghịch địa của nhà tạ Chẳng qua chỉ tại mẹ quá thương anh ấy thôi. Muốn hả giận cũng dễ, chờ năm, ba ngày nữa anh ấy khỏi, đi ra ngoài được, bên bác Trân và cậu Liễn chưa chắc đã chịu bỏ qua việc này, nhất định sẽ đứng ra dàn xếp, mẹ sẽ bắt hắn xin lỗi anh con ở trước mặt mọi người là được rồi. Nếu mẹ coi việc này là to tát, đi nói với mọi người chỉ tỏ ra mẹ quá nuông chiều, để anh ấy gây chuyện với người ta, nay anh ấy mới bị đánh đau một lần, mẹ đã làm ầm lên, dựa thần dựa thế bà con để đè nén người ta à.

Tiết phu nhân nói:

– Con ơi! Con nghĩ phải đấy, mẹ vì một lúc tức giận đâm ra hồ đồ.

Bảo Thoa cười nói:

– Thế mới được. Anh ấy không sợ mẹ, không nghe người ta khuyên ngăn, càng ngày càng ngông cuồng; có bị vài ba lần như thế mới chừa.

Tiết Bàn nằm trên giường, chửi mắng Tương Liên luôn miệng, lại sai người hầu đến phá nhà, đánh chết hắn, rồi đi kiện. Tiết phu nhân quát ngăn bọn hầu lại, bảo:

– Tương Liên lúc say rượu ngông cuồng, bây giờ tỉnh rượu hối lại sợ tội, đã trốn đi mất rồi.

1      “Bão” là ôm, “bội” là cõng. Người Trung Quốc thường dùng chữ trong khi khôi hài. Việc Giả Liễn ngoại tình với vợ Bão Nhị xem ở hồi 41.