Dùng bậy chữ tình, nhầm về tình, chàng đi buôn bán
Mến yêu gái nhã, gặp cuộc nhã, nàng mải ngâm thơ
Tiết Bàn nghe thấy Tương Liên trốn đi rồi mới đỡ giận. Mấy hôm sau, hắn bớt đau, nhưng thương tích chưa lành, đành phải giả ốm ở nhà, không dám ló mặt đến thăm bè bạn.
Thấm thoát đã đến tháng mười, trong số người làm công ở các cửa hiệu, cuối năm tính tiền xong, họ muốn về nhà, nên phải sửa rượu tiễn. Trong đó có một người tên là Trương Đức Huy, từ bé vẫn làm quản lý cho hiệu cầm đồ của nhà Tiết Bàn. Gia tài hắn có đến hai, ba nghìn vàng. Năm nay hắn cũng muốn về quê, sang xuân mới đến, liền nói với Tiết Bàn:
– Năm nay giấy sắc và các loại hương khan hiếm, sang năm tất phải đắt. Ra giêng tôi sẽ cho đứa con lớn của tôi đến trông nom cửa hiệu, trước tết Đoan Ngọ, tôi tiện đường đi mua một số giấy sắc và hương bánh về bán. Trừ nộp thuế và tiêu pha, ít nhất cũng có thể được lãi gấp mấy lần.
Tiết Bàn nghe nói, nghĩ bụng: “Giờ mình bị đòn, không mặt mũi nào nhìn thấy người ngoài, muốn tránh đi ít lâu, nhưng không có chỗ, nếu ngày nào mình cũng giả cách ốm, chẳng lẽ cứ ốm mãi sao được. Vả chăng mình đã lớn rồi, vẫn văn dốt vũ dát, nói là đi buôn, nhưng cân kẹo, bàn tính không sờ đến bao giờ; thổ ngơi, phong tục, đường sá xa gần cũng chẳng biết gì cả. Chi bằng ta thu xếp ít tiền vốn, đi theo Trương Đức Huy độ một năm, lỗ lãi không cần, hãy tránh đi cho đỡ xấu hổ đã. Mặt khác, đi ra để xem phong cảnh các nơi cũng hay”. Đến khi tan tiệc, hắn liền vui vẻ bảo Trương Đức Huy hãy chờ một vài ngày nữa, hắn cùng đi một thể.
Đến tối, Tiết Bàn nói việc ấy với mẹ. Tiết phu nhân nghe nói tuy cũng thích đấy, nhưng lại sợ con ra ngoài sinh sự, còn việc tiêu mất tiền vốn chỉ là điều nhỏ thôi. Vì thế không muốn cho hắn đi và nói:
– Mày thế nào cũng phải ở gần tao, tao mới yên lòng. Vả chăng cũng không cần mày phải đi buôn, không phải chờ mấy trăm bạc lãi của mày mới có mà tiêu. Mày ở nhà yên phận làm ăn, còn hơn là được mấy trăm bạc lãi.
Nhưng khi nào Tiết Bàn lại chịu nghe, liền nói:
– Ngày thường mẹ vẫn bảo con không biết việc đời, cái này không biết, cái kia không haỵ Bây giờ con cố cắt đứt những việc chơi phiếm, để đi lập thân, học buôn học bán, mẹ lại không để cho con đi à! Vậy mẹ bảo con làm gì bây giờ? Con không phải là con gái, cứ giam hãm ở nhà, thì bao giờ mới khá ra được? Vả chăng Trương Đức Huy là người có tuổi, nhà ta quen ông ta từ lâu, việc gì con cũng hỏi ông ấy, thì nhầm thế nào được? Nhỡ con có sơ hở việc gì, ông ta tất phải khuyên bảo. Món hàng đắt rẻ thế nào, ông ấy thông thạo cả, cái gì con cũng hỏi ông ấy rồi mới mua, thì thuận lợi biết chừng nào! Thế mà mẹ lại không cho con đi! Mấy hôm nữa con không nói gì với nhà, cứ việc sửa soạn đi. Sang năm phát tài trở về, lúc đó mẹ mới biết tay con!
Nói xong, hắn hậm hực đi ngủ.
Tiết phu nhân liền bàn với Bảo Thoa. Bảo Thoa cười nói:
– Quả thực anh ấy muốn ra đời làm ăn đứng đắn thì cũng được đấy. Chỉ sợ Ở nhà nói hay, đến khi ra ngoài lại chứng nào tật ấy, thì khó mà ngăn giữ được. Thôi mẹ chẳng hơi đâu mà lo nhiều thế. Nếu anh ấy biết sửa lỗi, thì phúc cho cả đời anh ấy; bằng không mẹ cũng chẳng còn cách nào hơn. Ta chỉ biết hết sức người thôi, còn hay dở là nhờ trời. Giờ anh ấy đã lớn rời, mẹ không cho anh ấy đi ra khỏi cửa, không cho làm việc gì, năm nay ru rú trong nhà, sang năm cũng lại thế thôi. Anh ấy đã nói, có phần danh chính ngôn thuận, thì mẹ cũng nên nghĩ kỹ, bỏ ra một nghìn hay tám trăm lạng bạc giao cho anh ấy đi thử một chuyến xem sao. Dầu sao đã có bạn buôn giúp đỡ chắc họ cũng không nỡ lừa dối anh ấy đâu. Vả lại anh ấy đi ra ngoài, bên cạnh không có ai xúi giục làm bậy, không có chỗ dựa để cậy thần cậy thế. Mỗi người ở mỗi nơi thì còn ai sợ ai nữa? Có thì ăn, hết thì nhịn, chung quanh không có người nương tựa, biết thân như thế, anh ấy sẽ đỡ sinh chuyện cũng chưa biết chừng.
Tiết phu nhân ngẫm nghĩ một lúc, nói:
– Con nói phải đấy, để cho nó đi học khôn, có tốn ít tiền cũng đáng.
Đến sáng hôm sau, Tiết phu nhân sai người mời Trương Đức Huy đến, bảo Tiết Bàn thết rượu ở ngoài thư phòng, còn mình ngồi ở sau hành lang cách cửa số, dặn đi dặn lại, nhờ Trương Đức Huy trông nom con hộ. Trương Đức Huy vâng dạ luôn mồm. Ăn cơm xong, hắn cáo từ ra về, và nói:
– Ngày mười bốn này xuất hành rất tốt, xin cậu sắp sẵn hành lý, thuê một con lừa, đến sáng hôm ấy chúng ta cùng đi.
Tiết Bàn mừng lắm, kể lại cho Tiết phu nhân nghe.
Tiết phu nhân, Bảo Thoa và Hương Lăng cùng mấy bà già sửa soạn hành lý trong mấy ngày liền, sai bõ già của Tiết Bàn, và hai người hầu đã quen việc cùng hai đứa hầu cận đi theo, tất cả là sáu người. Thuê ba cỗ xe lớn chở hành lý, lại thuê bốn con lừa đi đường trường. Tiết Bàn cưỡi con lừa lớn màu xám của nhà nuôi, lại dắt thêm một con ngựa nữa đi theo. Mọi việc xong xuôi, Tiết phu nhân và Bảo Thoa suốt đêm khuyên bảo Tiết Bàn.
Đến ngày mười ba, Tiết Bàn sang chào mợ trước, rồi đi chào những người trong nhà họ Giả. Bọn Giả Trân cũng đều chào lại, không cần kể rõ. Đến sáng ngày mười bốn, Tiết phu nhân và Bảo Thoa tiễn Tiết Bàn ra cửa ngoài, hai mẹ con nhìn hắn đi khuất rỗi mới quay về.
Khi Tiết phu nhân vào kinh, chỉ mang theo bốn năm gia đinh người nhà, vài ba bà già và lũ hầu con thôi. Bây giờ trừ những người đi theo Tiết Bàn ra, ở nhà chỉ còn có vài đứa hầu trai. Vì thế, hôm đó Tiết phu nhân đến thu dọn ngay những đồ chơi và rèm màn ở thư phòng Tiết Bàn đem về, rồi gọi vợ của hai người hầu trai đi theo Tiết Bàn cũng vào trong nhà ngủ. Lại bảo Hương Lăng: “Xếp đặt cẩn thận trong nhà, khóa cửa lại, tối đến lên ngủ với ta”.
Bảo Thoa nói:
– Mẹ đã có những người này ở bên cạnh rồi, nên cho chị Lăng đến ở với con. Trong vườn vắng, đêm lại dài, đêm nào con cũng làm việc, nếu thêm được một người chẳng vui hay sao?
Tiết phu nhân cười nói:
– Phải đấy, ta quên mất, nên cho nó sang ở với con là phải. Hôm đó, ta đã bảo anh con: Văn Hạnh còn bé, nói trước quên sau, một mình Oanh Nhi hầu không xuể. Cần phải mua thêm cho con một con hầu nữa.
– Không biết lai lịch mà cứ mua người về, lỡ ra không vừa ý, tốn tiền không đáng kể, lại thêm bực mình nữa. Mẹ hãy để thong thả xem đã, biết rõ người rồi sẽ mua.
Vừa nói vừa bảo Hương Lăng thu dọn chăn đệm, hòm rương, sai một bà già và Trần Nhi mang đến Hành Vu Uyển, rồi Bảo Thoa và Hương Lăng cùng vào trong vườn.
Hương Lăng nói với Bảo Thoa:
– Tôi vẫn muốn nói với mẹ, khi cậu ấy đi rồi, tôi sẽ đến ở với cộ Nhưng lại sợ mẹ ngờ vực bảo tôi chỉ thích sang vườn để chơi đùa, không ngờ bây giờ cô lại nói cho.
Bảo Thoa cười nói:
– Tôi vẫn biết chị thích vườn này đã lâu, chỉ vì không có dịp thôi. Thỉnh thoảng đến một lần, chị lại vội vội vàng vàng, chẳng có thú gì. Vì thế, nhân dịp này, tôi xin cho chị Ở lâu, chừng một năm. Tôi thì có thêm bạn, chị thì được thỏa lòng.
– Cô ơi! Nhân dịp này, cô dạy tôi làm thơ nhé!
– Chị thật là được đất Lũng lại mong đất Thục 1. Tôi khuyên chị hãy thong thả. Hôm nay mới đến, trước hết chị ra phía cửa Đông, đến chào cụ, rồi chào tất cả mọi người, nhưng không nên nói cho họ biết vì cớ làm sao mà chị lại dọn sang ở bên vườn này. Có ai hỏi, chỉ nói là tôi bảo chị sang ở với tôi cho vui. Xong rồi chị vào vườn thăm các cô.
Hương Lăng vâng lời, khi sắp đi, thấy Bình Nhi vội vàng chạy đến. Hương Lăng liền hỏi thăm. Bình Nhi cũng cười đáp lại. Bảo Thoa cười bảo Bình Nhi:
– Hôm nay tôi đem chị Hương Lăng đến ở với tôi, định sang nói với mợ chị đây.
– Sao cô lại nói câu ấy? Làm tôi không thể trả lời được.
– Như thế mới đúng nhẽ. “Nhà phải có chủ, đền phải có ông từ chứ”. Tuy việc không to tát, nhưng cũng phải nói qua, để những người canh gác trong vườn biết là có thêm hai người, tiện cho họ trong khi đóng mở cửa ngõ. Chị về nói hộ, tôi khỏi phải sai người sang nữa.
Bình Nhi vâng lời, lại hỏi Hương Lăng:
– Chị đến ở đây sao không đi chào bà con hàng xóm?
Bảo Thoa cười nói:
– Tôi đang bảo chị ấy đi đấy.
Bình Nhi nói:
– Chị đừng đến nhà tôi vội, cậu Hai đương ốm nằm ở nhà đấy.
Hương Lăng vâng lời, đến chào Giả mẫu trước.
Bình Nhi thấy Hương Lăng đi rồi, liền kéo Bảo Thoa khẽ hỏi:
– Cô có nghe thấy bên nhà tôi mới xảy ra việc gì không?
– Không. Vì mấy hôm nay bận tiễn anh tôi đi, nên việc bên nhà các chị, tôi chẳng biết gì cả. Ngay các chị em mấy hôm nay tôi cũng không được gặp.
– Ông tôi vừa mới đánh cậu ấy một trận nhừ tử. Thế mà cô không biết à?
– Sáng ngày mới thoảng nghe, nhưng tôi chưa tin là thực. Tôi định sang thăm mợ chị, lại gặp chị đến. Tại sao ông lại đánh cậu ấy thế?
Bình Nhi nghiến răng nói:
– Chỉ vì lão Giả Vũ Thôn “Vũ xã” 2 nào ấy, bỗng dưng vác cái mặt vọ Ở đâu lần đến. Mới nhận họ chưa đầy mười năm, nó đã sinh ra bao nhiêu chuyện rắc rối! Mùa xuân năm nay, không biết ông tôi trông thấy mấy cái quạt cũ ở đâu khi về, xem tất cả những quạt ở nhà đều không có cái nào đẹp bằng. Thế là ông tôi lập tức sai người đi tìm các nơi. Ai ngờ có một tên oan gia không sợ chết, người ta đặt đùa cho nó cái hiệu thằng “ngốc đá”. Nó nghèo xác, cơm cũng không có mà ăn, nhưng trong nhà lại có đến hai mươi cái quạt. Nó chết cũng không chịu mang ra khỏi nhà. Cậu tôi nhờ người nói lót mãi mới được gặp; nói đến hai, ba lần, nó mới chịu mời đến nhà chơi và giở quạt ra cho xem qua một tí. Theo lời cậu tôi, hạng quạt ấy làm bằng loại trúc Tương phi 3 và ngọn trúc… lại đều có nét vẽ và chữ đề của người xưa. Cậu tôi về trình, ông tôi liền bảo đi mua, hết bao nhiêu tiền cũng trả cho nó. Nhưng thằng “ngốc đá” nói: “Tôi thà chết đói chết rét, chứ một nghìn lạng bạc một cái, cũng không bán”. Ông tôi không biết làm thế nào, ngày nào cũng cứ mắng cậu tôi là không làm được việc gì. Cậu ấy đã hứa đưa trước cho nó năm trăm lạng bạc, sau mới lấy quạt, nhưng nó nhất định không bán, chỉ nói: “Muốn lấy quạt thì hãy giết tôi trước đã!” Cô thử nghĩ xem còn có cách gì nữa không? Ngờ đâu lão Vũ Thôn là hạng không có lương tâm, nghe thấy thế, liền bày mưu vu cho nó thiếu tiền công, bắt nó đến cửa quan, bảo: Mày thiếu tiền công, phải bán gia tài để nộp Rồi tịch thu số quạt, tính thành quan giá, mang đi! Hiện giờ thằng “ngốc đá” không biết còn sống hay chết. Ông tôi mới hỏi cậu tôi: “Sao người ta lại lấy đước về đây?” Cậu ấy chỉ nói có một câu: “Vì một việc nhỏ làm người ta khuynh gia bại sản cũng không phải là giỏi”. Ông tôi nổi giận, bảo là cậu ấy đem lời chẹn họng ông tôi. Đó là việc lớn thứ nhất. Mấy ngày sau, lại có mấy việc nhỏ nữa, tôi không nhớ hết; vì thế ông tôi góp cả tội lại, đánh cậu tôi một trận. Chẳng biết đánh đấm thế nào, không đánh bằng roi, bằng vọt, bạ cái gì ông tôi đánh cái ấy, làm mặt cậu tôi bị toạc hai chỗ. Thấy nói bên bà dì có một thứ thuốc chữa khỏi vết đòn, nên đến nhờ cô tìm hộ cho tôi xin một viên.
Bảo Thoa sai Oanh Nhi lấy hai viên thuốc đưa cho Bình Nhi, rồi nói:
– Như thế tôi không sang nữa, nhờ chị về nói hộ, tôi gửi lời hỏi thăm.
Bình Nhi nhận lời rồi về.
Hương Lăng đi chào mọi người xong, về nhà ăn cơm chiều. Ăn xong, bọn Bảo Thoa đến cả đằng Giả mẫu, Hương Lăng liền sang quán Tiêu Tương. Bấy giờ Đại Ngọc đã đỡ nhiều rồi, thấy Hương Lăng vào ở trong vườn, tự nhiên cũng vui thêm. Hương Lăng cười nói:
– Em sang ở đây, lúc nào rỗi, đến nhờ cô dạy làm thơ thì phúc cho em lắm.
Đại Ngọc cười nói:
– Chị đã muốn làm thơ thì phải gọi tôi bằng thầy. Tôi không giỏi, cũng dạy nổi chị.
– Nếu thực thế, em xin gọi cô là thầy, xin cô đừng ngại.
– Làm thơ có gì khó mà phải học? Chẳng qua chỉ có khai, thừa, chuyển, hợp, trong đó thừa và chuyển đều là hai vế đối nhau, chữ bằng đối với chữ trắc, hư đối với hư, thực đối với thực. Nếu được câu hay khác thường thì bằng trắc hư thực không cần phải đối nhau cũng được.
– Thảo nào khi rảnh, em thường lấy quyền thơ cũ ra xem mấy bài, có câu đối nhau rất chỉnh, có câu lại không đối. Lại nghe người ta nói, các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần, chỉ có các chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu là phải rõ ràng. Xem thơ của cổ nhân, có khi đúng như thế, có khi những chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu lại không thế. Vì vậy lúc nào em cũng lấy làm ngờ. Bây giờ cô nói, thì ra khuôn phép ấy không cần lắm, chỉ cần lời và câu văn cho mới lạ là hay thôi.
– Đúng đấy. Nhưng lời và câu văn là việc phù du, cần nhất phải đặt từ cho sát. Nếu từ sát thực thì lời và câu văn không cần điêu luyện cũng vẫn haỵ Như thế gọi là: “Không nên lấy lời hại ý”.
– Em chỉ thích câu thơ của Lục Phóng Ong 4, lời rất thiết thực:
Rèm mau không cuộn hơơng còn mãi,
Nghiên cổ hơi sâu mực đọng nhiều.
– Chớ nên xem loại thơ ấy. Vì chị chưa biết làm thơ, nên thấy những câu nông cạn đã thích ngaỵ Nếu mắc vào khuôn sáo ấy thơ sẽ không tiến được nữa. Chị hãy nghe tôi: chị thích học, ở đây tôi có toàn tập thơ Vương Ma Cật, chị hãy chịu khó nghiền ngẫm kỹ càng một trăm bài thơ ngũ ngôn của ông ta, rồi sau đọc một trăm hai mươi bài thất ngôn của Đỗ Phủ, sau nữa lại đọc độ một, hai trăm bài thất ngôn tuyệt cú của Lý Bạch. Phải lót dạ thơ của ba thi hào ấy đã, sau mới xem đến thơ của Đào Uyên Minh, Ứng Dịch, Lưu Vũ Tích, Tạ Diểu, Nguyễn Tịch, Dữu Lượng, Bão Chiếu. Chị là người thông minh nhanh nhẹn, học chừng trong một năm sẽ thành nhà thơ.
– Cô ơi, đã thế cô cho em mượn sách mang về, đến đêm em đọc mấy bài.
Đại Ngọc bảo Tử Quyên đưa tập thơ ngũ ngôn của Vương Ma Cật cho Hương Lăng và bảo:
– Chị xem những bài nào có khuyên đỏ là tôi đã chọn rồi, có bài nào học bài ấy. Nếu không hiểu nghĩa, chị sẽ hỏi cô Bảo, hoặc gặp tôi, tôi sẽ giảng cho.
Hương Lăng cầm tập thơ về Hành Vu Uyển, chẳng nhìn đến công việc gì, thắp ngay đèn đọc hết bài này đến bài khác. Bảo Thoa mấy lần giục cũng không đi ngủ. Bảo Thoa thấy Hương Lăng mài miệt quá, đành phải để tùy ý.
Một hôm, Đại Ngọc vừa rửa mặt chải đầu xong, thấy Hương Lăng cười hớn hở đem đến giả tập thơ cũ, và mượn tập thơ Đỗ Phủ. Đại Ngọc cười nói:
– Nhớ được tất cả bao nhiêu bài rồi?
– Nhưng bài có khuyên đỏ, em đọc hết cả.
– Đã lĩnh hội được ít nào chưa?
– Em đã lĩnh hội được một ít, nhưng chưa biết có đúng không. Em nói cho cô nghe nhé.
– Cần phải nhận xét bàn bạc mới tiến được. Chị hãy nói cho tôi nghe nào.
– Cứ ý em thì những chỗ hay của bài thơ, có nhiều ý tứ không thể nói ra được, nhưng ngẫm nghĩ lại rất thiết thực; có nhiều câu thơ như là vô lý, nhưng nghĩ rất có lý có tình.
– Nói thế là chị đã có ít nhiều thi tứ rồi đấy! Nhưng do đâu mà chị biết được như thế?
– Em xem bài “Ngoài cửa ải” có câu:
Bãi rộng khói đùn làn thẳng tắp;
Sông dài ác xế mặt tròn vành.
Em nghĩ khói thì “thẳng” thế nào được? Mặt trời tất nhiên là “tròn” rồi. Thế thì chữ “thẳng” như là vô lý, mà chữ “tròn” hình như rất tục. Nhưng sau gấp sách lại ngẫm nghĩ, hình như mắt trông thấy hẳn cái cảnh ấy. Muốn tìm hai chữ khác thay vào nhưng không sao tìm được. Lại còn câu:
Trắng xóa sông ngòi khi ác lặn;
Xanh lè giời đất lúc trào dâng.
Hai chữ “trắng” và “xanh, mới nghe cũng hình như vô lý, nhưng nghĩ kỹ ra thì chỉ có hai chữ ấy mới hình dung hết được phong cảnh. Đọc lên thấy nặng chình chịch như miệng ngậm quả trám ấy. Lại có câu:
Mặt trời rớt lại rơi đầu bến;
Đám khói trơ ra bốc giữa làng.
Chữ “rớt” và chữ “trơ” sao mà họ khéo nghĩ được như vậy. Năm trước, khi chúng em lên kinh, một hôm về chiều, thuyền đậu trên bờ, người vắng, chỉ có mấy cái cây, đằng xa có mấy nhà đang nấu cơm chiều, khói bốc lên màu xanh biếc lẫn với đám mây. Ngờ đâu đêm qua đọc đến hai câu thơ này, mắt em như lại trông thấy cảnh ấy.
Đang nói chuyện thì Bảo Ngọc và Thám Xuân đến, đều vào ngồi nghe Hương Lăng nói về thợ Bảo Ngọc cười nói:
– Đã thế thì không cần phải xem thơ nữa. Chỗ lãnh hội không phải ở đâu xa xôi, cứ nghe nói hai câu ấy đủ biết về chị đã nắm được mấu chốt của cách làm thơ rồi.
Đại Ngọc cười nói:
– Chị bảo mấy chữ “đám khói trơ ra” là hay, nhưng chị chưa biết đó là bắt chước ý câu thơ của người trước. Tôi cho chị xem câu này, so với câu kia nhẹ nhàng và thiết thực hơn.
Nới xong, liền đưa cho Hương Lăng xem câu thơ của Đào Uyên Minh:
– Thế thì chữ “trơ” là do ý hai chữ “trơ vơ” mà ra!
Bảo Ngọc cười to nói:
– Thế là chị đã hiểu lắm rồi, không cần phải giảng giải nữa. Nếu còn giảng giải đâm ra loãng mất. Bây giừ chị cứ làm thơ đi, nhất định là hay.
Thám Xuân cười nói:
– Ngày mai tôi viết thêm một cái thiếp, mời chị vào thi xã.
Hương Lăng nói:
– Cô ơi, sao cứ trêu chọc em thế? Chẳng qua thích thơ, em học để mà chơi đấy thôi.
Thám Xuân, Đại Ngọc đều cười nói:
– Ai chẳng chơi? Không lẽ chúng tôi mới là người biết làm thơ à? Nếu bảo chúng tôi biết làm thơ, tiếng đồn ra khỏi vườn này, có lẽ người ta cười đến vỡ bụng mất!
Bảo Ngọc nói:
– Thế là mình coi rẻ mình rồi. Hôm trước tôi ra bàn việc vẽ với các ông họa sư ở ngoài kia, họ nghe thấy chúng ta mở thi xã đều xin tôi đưa tập thơ cho họ xem. Tôi viết mấy bài đưa cho họ, ai cũng phải thán phục. Họ đã chép để mang đi khắc rồi.
Thám Xuân, Đại Ngọc hỏi:
– Có thật thế không?
– Tôi mà nói dối thì cũng như con vẹt trên cây này.
– Anh thật bậy quá! Đừng nói thơ chẳng ra thơ, mà có ra thơ chăng nữa cũng không nên mang bút tích của chúng tôi ra ngoài.
– Sợ cái gì? Nếu bút tích của những người trong khuê các trước kia không truyền ra ngoài, bây giờ biết sao được những bài thơ của họ.
Chợt thấy Tích Xuân sai Nhập Họa đến mời Bảo Ngọc. Bảo Ngọc vừa đi thì Hương Lăng lại xin đổi lấy tập thơ Đỗ Phủ, và nói với Đại Ngọc, Thám Xuân:
– Xin hai cô ra đầu bài cho em về làm thử; làm xong, nhờ hai cô chữa hộ.
Đại Ngọc nói:
– Đem qua trăng đẹp quá, tôi đang định làm một bài, nhưng chưa nghĩ xong. Chị làm đi. Hạn vần thập tứ hàn, chị muốn dùng chữ nào trong vần ấy thì dùng.
Hương Lăng mừng quá, mang tập thơ về, nghĩ một lúc, làm được hai câu. Nhưng lại tiếc thơ Đỗ Phủ, nên mải miết đọc vài bài, không thiết đến ăn uống, nằm ngồi cũng không yên. Bảo Thoa nói:
– Làm gì chị phải đeo khổ vào mình thế? Chỉ tại cái cô Tần cám dỗ chị, để tôi kể tội cho nó. Xưa nay chị vốn là ngớ ngẩn, giờ đến việc này, lại cảng ngớ ngẩn thêm.
– Cô ơi! Cô đừng làm rầy tôi nữa.
Hương Lăng vừa nói vừa đưa bài thơ mới làm cho Bảo Thoa xem. Bảo Thoa cười nói:
– Bài này không được, không phải lối làm như thế. Nhưng đừng xấu hổ, cứ mang sang cho cô Đại Ngọc, xem cô ta bảo thế nào.
Hương Lăng cầm bài thơ sang đưa cho Đại Ngọc, Đại Ngọc xem thơ thấy:
Đêm lạnh vừng trăng đừng giữa giời,
Tròn xoe trong vắt bóng chơi vơi.
Nhà thơ hứng quá trừmg đôi mắt,
Khách ẩn buồn tênh lảng một nơi.
Lầu thúy gương đâu treo xế cạnh,
Rèm châu băng những giắt bên ngoài.
Đêm nay đuốc bạc chi cần đốt,
Bức vẽ lan can đã sáng ngời. 5
Đại Ngọc cười nói:
– Ý tứ thì có, nhưng lời không được nhã, chỉ vì chị xem thơ ít nên bị nó gò bó. Bỏ bài này đi, chị làm bài khác. Cần phải mạnh dạn mà làm.
Hương Lăng nghe nói, lẳng lặng về nhà, không buồn vào buồng, lại đến gốc cây bên bờ ao, khi thờ thẫn trên hòn đá, khi ngồi xuống vạch đất. Những người qua lại đều lấy làm lạ. Bọn Lý Hoàn, Bảo Thoa, Thám Xuân và Bảo Ngọc đều đứng ở sườn núi đằng xa nhìn mà cười. Thấy Hương Lăng lúc cau mày, lúc mỉm cười một mình, Bảo Thoa cười nói:
– Chị này nhất định điên rồi! Đêm qua chị ta lầm rầm đến tận canh năm mới ngủ. Nằm được một lúc giời sáng, đã lại thấy dậy rồi, vội vàng chải đầu sang ngay bên cô Tần. Khi về thẫn thờ một lúc, làm được một bài nhưng không hay, chắc bây giờ chị ta lại làm bài khác đấy.
Bảo Ngọc cười nói:
– Thật đúng là “đất thiêng thì người giỏi!” Trời đã sinh ra người, không bao giờ bỏ phí tính tình của người. Ngày thường chúng ta vẫn phàn nàn, tiếc cho chị ấy là người tục! Ngờ đâu bây giờ lại thế này! Mới biết trời đất rất công bằng.
Bảo Thoa cười nói:
– Anh chịu khó được như chị ấy, thì học cái gì mà chẳng thành tài?
Bảo Ngọc không trả lời. Chọt thấy Hương Lăng hớn hở chạy sang bên Đại Ngọc. Thám Xuân cười nói:
– Chúng ta đi sang đó, xem thơ của chị ta có hay không?
Liền cùng nhau đến quán Tiêu Tương, thấy Đại Ngọc đang xem và giảng giải bài thơ của Hương Lăng. Mọi người hỏi Đại Ngọc:
– Thơ làm ra sao rồi?
– Kể ra chị ta cũng đáng khen rồi đấy, nhưng vẫn chưa được. Bài thơ này lại gọt quá, còn phải làm lại.
Mọi người xem, thì thấy:
Bạc hay là nước dọi ngoài song,
Mâm ngọc nhìn xem giữa ánh hồng.
Hương đượm hoa mai màu nhạt nhạt,
Móc tan tơ liễu sợi thòng thòng.
Thềm vàng xoa phấn thừa, đâu đấy?
Giàn ngọc dây sương nhẹ phải không?
Tỉnh giấc lâu tây người vắng ngắt,
Ngoài rèm còn đấy mảnh gương trong.
Bảo Thoa cười nói:
– Không phải là vịnh trăng. Theo tứ bài này, dưới chữ trăng phải thêm chữ “sắc” nữa mới được. Chị xem đấy, câu nào cũng là vịnh “sắc trăng” cả. Nhưng thôi, xưa nay thơ vẫn là nói phiếm hết, chị cứ làm ít lâu nữa, thơ sẽ hay đấy.
Hương Lăng vẫn cho bài thơ này đã hay lắm rồi, giờ nghe nói thế, đâm ra cụt hứng, không chịu bỏ qua, lại muốn nghiền ngẫm ngaỵ Thấy các chị em đang cười nói, Hương Lăng ra đứng trước cây trúc dưới thềm, dốc cả tâm trí vào thơ, tai không cần nghe, mắt không cần nhìn đến nhưng sự việc ở chung quanh. Một lúc Thám Xuân đứng ở trong cửa sổ cười nói:
– Cô Lăng ơi, hãy “nhàn nhàn” một tí đã.
Hương Lăng giật mình trả lời:
– Chữ “nhàn” ở vần thập ngũ san kia, cô nhầm rồi.
Mọi người nghe nói, cười ầm lên. Bảo Thoa nói:
– Thực là con ma thơ! Chỉ tại con Tần cám dỗ chị ấy.
Đại Ngọc cười nói:
– Thánh nhân nói “dạy người không biết chán”, chị ta cứ hỏi đến tôi, lẽ nào tôi lại không bảo?
Lý Hoàn cười nói:
– Chúng ta kéo chị ấy đến nhà cô Tư xem bức vẽ, để chị ấy tỉnh lại mới được.
Nói xong, đứng dậy, kéo Hương Lăng đi sang Ngẫu Hương tạ. Vào đến ổ Noãn Hương, thấy Tích Xuân đang mệt, nằm ngủ trưa trên giường, bức vẽ dựng cạnh vách, ngoài có the phủ. Mọi người gọi Tích Xuân dậy, mở the ra xem, thấy mười phần mới vẽ xong được bạ Trong bức vẽ có mấy vị mỹ nhân, Hương Lăng liền chỉ vào đó nói:
– Vị này là các cô, vị kia là cô Lâm.
Thám Xuân cười nói:
– Những người nào biết làm thơ, đều được vẽ vào bức tranh này, chị cố học thơ đi.
Mọi người cười đùa một lúc, rồi đâu lại về đấy.
Hương Lăng trong bụng lúc nào cũng nghĩ đến thợ Buổi tối ngồi thờ thẫn ở trước đèn cho đến hết canh ba mới lên giường nằm, hai mắt cứ trừng trừng cho đến canh năm mới ngủ được một tí.
Một lúc trời sáng, Bảo Thoa trở dậy. Lắng nghe Hương Lăng đang ngủ say, nghĩ bụng: “Chị ta trằn trọc, cả đêm không biết đã làm xong thơ chưa? Bây giờ chắc mệt, ta đừng gọi vội”. Bỗng thấy Hương Lăng nói mê:
– Đã xong thơ chưa? Lòng thành của chị đã thấu đến trời rồi. Khéo không thơ chẳng học nổi, lại đeo cái ốm vào người đấy!
Vừa nói vừa đi rửa mặt chải đầu, rồi cùng chị em sang bên Giả mẫu. Nguyện Hương Lăng cố chí mài miệt học làm thơ, tinh thần để cả vào đấy, ban ngày chẳng nghĩ được câu gì, chợt trong giấc mộng, lại nghĩ được cả tám câu. Rửa mặt chải đầu xong, chị ta vội vàng viết ngay ra, đem đến đình Thấm Phương, thấy Lý Hoàn cùng các chị em vừa ở bên Vương phu nhân về, Bảo Thoa nói với họ là chị ta ngủ mê cũng làm thợ Mọi người đang cười, ngẩng đầu lên, đã thấy Hương Lăng đến rồi, liền tranh nhau xem thơ.
1 Ý nói được cái nọ lại mong cái kia.
2 Nguyên văn: Vũ thôn “phong thôn”.
3 Vợ vua Thuấn là Tương phu nhân. Khi vua Thuấn chết, bà khóc nhiều quá, nước mắt nhỏ vào cành trúc đến đâu thì có vần đến đấy, nên gọi là Tương phi trúc.
4 Tức Lục Du, người đời Tống, làm thơ rất giỏi.
5 Nguyên văn “Hàn”, vì hạn chế của dịch, phải dịch theo vần khác.
Hương Lăng thấy mọi người đang cười mình, liền đi lại cười nói:
– Các cô xem bài thơ này được thì tôi còn học nữa; nếu không, tôi cũng chán chết về thơ thôi.
Nói xong đưa bài thơ cho Đại Ngọc và mọi người xem, thì thấy:
Tinh hoa đâu để giấu cho mình.
Bóng vẫn run run vẻ vẫn xinh.
Nghìn dặm chày vang khi giặt lụa,
Nửa vừng gà giục lúc dòn canh.
Sáo nghe mặt nước thu buồn ngắt,
Áo tựa bên lầu đêm vắng tanh.
Hãy hỏi mình xem này chị Nguyệt,
Khi tròn khi khuyết mãi sao đành.
Mọi người xem xong cười nói:
– Bài này không những hay mà lại có ý mới mẻ khéo léo. Mới biết tục ngữ nói “Đời không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền”. Nhất định chúng tôi phải mời chị vào thi xã.
Hương Lăng nghe nói, trong bụng vẫn không tin, cho là bọn họ nói dối, lại cứ xoắn hỏi Đại Ngọc và Bảo Thoa.
Chợt bọn a hoàn và bà già vội vàng chạy đến, cười nói:
– Có các cô các mợ nào đến chơi ấy, chúng tôi không biết là ai; các cô các mợ về mà nhận bà con.
Lý Hoàn cười nói:
– Làm gì có chuyện ấy? Các người cứ nói rõ xem, bà con của ai nào?
– Hai cô em của mợ đều đến; lại có một cô nữa, nói là em của cô Tiết, còn một cậu thì nghe nói là em của cậu Tiết. Tôi đi mời bà dì đây! Mợ và các cô hãy về trước.
Nói xong họ đi thẳng. Bảo Thoa cười nói:
– Không lẽ là Tiết Khoa nhà chúng tôi và em gái nó đến chơi chăng?
Lý Hoàn cười nói:
– Có lẽ thím tôi cũng lại vào Kinh đây? Tại sao bọn họ lại cùng đi với nhau một chuyến? Chuyện này cũng lạ thật.
Mọi người sang bên Vương phu nhân, thấy chật ních cả nhà. Lại có chị dâu của Hình phu nhân đem con gái là Tụ Yên đến Kinh nhờ vả Hình phu nhân. Vừa gặp lúc anh Phượng Thư là Vương Nhân cũng vào Kinh, nên hai nhà cùng đến một lúc. Đi đến nửa đường khi thuyền đậu lại, gặp thím của Lý Hoàn đem theo hai con gái cô lớn là Lý Văn, cô nhỏ là Lý Ỷ, cũng lên Kinh. Mọi người kể chuyện, té ra đều là chỗ bà con cả. Vì thế ba nhà cùng đi một đường. Sau lại có em họ Tiết Bàn là Tiết Khoa, mang theo em gái là Tiết Bảo Cầm vào Kinh để đính hôn, vì trước đây cha hắn đã hứa gả Bảo Cầm cho con quan hàn lâm họ Mai. Nay nghe Vương Nhân vào Kinh, nên hắn đem em gái đi theo. Hôm nay mọi người cùng đến, người nào hỏi thăm vào nhà bà con người ấy.
Giả mẫu và Vương phu nhân rất đỗi vui mừng, Giả mẫu cười nói:
– Thảo nào, đêm qua ngọn đèn cứ nở hoa mãi, thì ra báo điềm cho ngày hôm nay.
Mọi người kể lể chuyện nhà, thu nhận quà bánh, rồi mời khách ở lại cơm rượu, Phượng Thư tất nhiên đã bận lại càng bận thêm. Lý Hoàn và Bảo Thoa kể lể những chuyện xa cách lâu ngày với thím và các chị em. Đại Ngọc thấy thế, trước còn vui, sau nghĩ người ta đều có bà con, chỉ mình là trơ trọi, nước mắt tự nhiên lại chảy ra. Bảo Ngọc hiểu ý, khuyên ngăn an ủi mãi mới thôi.
Bảo Ngọc vội về viện Di Hồng, cười bảo Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Tình Văn:
– Các chị không đi mà xem! Ai ngờ anh ruột chị Bảo như thế, mà em con nhà chú hình dáng đi đứng khác hẳn. Thật giống hệt em ruột chị Bảo vậy. Còn lạ hơn nữa là ngày thường các chị nói chị Bảo rất đẹp, nay hãy so với cô em chị ấy xem. Lại còn hai cô em chị Cả nữa, tôi không thể tả ra hết được! Trời ơi! Có bao nhiêu tinh hoa đúc ra được lớp người đẹp đẽ tuyệt vời như vậy! Thế mới biết tôi là “con ếch dưới giếng”. Ngày thường cứ nói mấy người ở đây đẹp có một không hai, ngờ đâu không phải tìm đâu xa, chỉ ở trong vùng này cũng mỗi người mỗi vẻ. Giờ tôi lại hiểu thêm được một bậc nữa. Ngoài mấy người này ra, biết đâu chẳng có những người đẹp hơn nữa?
Bảo Ngọc nói rồi lại cười một mình.
Tập Nhân thấy Bảo Ngọc nói có ý vớ vẩn, không thèm đi xem. Bọn Tình Văn đi xem về ngặt nghẽo cười bảo Tập Nhân:
– Chị đi mà xem! Cháu gái Hình phu nhân, em gái cô Bảo, hai em gái mợ Cả, trông đều ngồn ngộn như đám hành non.
– Phải đấy. Vì chúng ta có hứng mở thi xã nên quỷ thần xui khiến những người ấy đến đây. Có điều, không hiểu họ đã biết làm thơ chưa?
– Em có hỏi, họ đều nói nhũn, nhưng xem ra có lẽ ai cũng biết cả. Nếu họ chưa biết cũng chẳng khó gì. Anh cứ xem Hương Lăng đủ biết.
Tập Nhân cười nói:
– Nghe đâu em cô Bảo đẹp lắm, cô Ba xem thấy thế nào?
– Đúng đấy. Cứ theo ý tôi, ngay chị Bảo và những người ở đây cũng không ai bằng.
Tập Nhân lấy làm lạ, cười nói:
– Lạ nhỉ! Ở đâu còn tìm người đẹp hơn thế nữa? Tôi phải đi xem mới được.
Thám Xuân nói:
– Cụ mới trông thấy Bảo Cầm đã mừng rối lên, bắt mẹ tôi phải nhận cô ấy làm con nuôi. Cụ định mang cô ấy về nuôi đấy.
Bảo Ngọc cười hỏi:
– Em nói có thực không?
– Khi nào em lại nói dối. – Lại cười nói – Giờ cụ đã có cô cháu gái đẹp ấy, chắc sẽ bỏ quên anh là cháu giai!
– Cái đó không sao, đúng lẽ ra cũng nên thương cháu gái hơn mới phải. Mai là ngày mười sáu, chúng ta nên mở thi xã đi thôi.
– Cô Lâm vừa ốm khỏi, chị Phượng cũng ốm, được người nọ lại mất người kia.
– Chị Phượng không biết làm thơ, thiếu chị ấy cũng không sao.
– Thôi hãy cố chờ mấy hôm nữa, để những người mới đến làm quen với nhau đã, chúng ta sẽ mời họ chẳng hơn ư? Hiện giờ chị Lý và chị Bảo chắc không còn bụng nào nghĩ đến chuyện làm thơ nữa. Vả chăng Tương Vân chưa đến, cô Tần mới khỏi, còn những người khác đều chưa hợp lệ. Chi bằng hãy chờ Tương Vân sang, mấy người mới đến dần dần quen thuộc nhau, cô Tần khỏi hắn, chị Lý và chị Bảo trong bụng thư thái. Hương Lăng làm thơ đã khá, bấy giờ chúng ta mới họp thi xã thực đầy đủ, như thế chẳng vui hơn ư? Nay chúng ta hãy sang bên cụ nghe ngóng xem, cô em chị Bảo nhất định ở lại nhà chúng ta rồi, còn ba cô kia nếu không ở lại, chúng ta xin với cụ cho họ Ở trong vườn, như thế lại thêm được mấy người nữa, chẳng hay hay sao.
Bảo Ngọc hớn hở cười nói:
– Em nghĩ sáng suốt quá. Anh thực là hồ đồ, chỉ mừng hão một lúc, chứ không nghĩ được đến đấy.
Nói xong. hai anh em sang bên Giả Mẫu. Quả nhiên Vương phu nhân đã nhận Tiết Bảo Cầm làm con nuôi. Giả mẫu rất là vui mừng, không cho Bảo Cầm sang ở bên vườn, bắt phải ngủ ở đây với mình. Tiết Khoa thì đến ở buồng của Tiết Bàn. Giả mẫu bảo Hình phu nhân:
– Chị không cần phải mang cháu gái chị về nhà vội, cứ để nó ở trong vườn chơi mấy hôm đã. Anh và chị dâu Hình phu nhân vì nhà túng thiếu, chuyến này vào Kinh cốt để nhờ Hình phu nhân giúp đỡ cho nhà cửa và tiêu phạ Nay nghe nói thế, lẽ nào họ lại không vui lòng.
Hình phu nhân liền giao Hình Tụ Yên cho Phượng Thự Phượng Thư nghĩ chị em trong vườn thì nhiều, tính tình mỗi người một khác, sợ Hình Tụ Yên ở riêng một nơi không tiện. Chi bằng đưa nó đến ở với Nghênh Xuân, sau này nó có điều gì không vừa lòng. Hình phu nhân có biết cũng chẳng liên lụy gì đến mình.
Từ đó trở đi, trừ khi Hình Tụ Yên về nhà không kể, nếu ở lại trong vườn Đại Quan độ một tháng trở lên, Phượng Thư cũng cấp tiền lương cho cô ta như Nghênh Xuân. Phượng Thư thấy Tụ Yên tâm tính ôn hòa, đáng mến, không giống như Hình phu nhân và cha mẹ nó, lại nhà nghèo vất vả, nên thương nó hơn các chị em khác. Hình phu nhân thì chẳng để ý gì đến.
Giả mẫu và Vương phu nhân vẫn mến Lý Hoàn là người hiền lành, góa chồng từ trẻ, mà vẫn giữ được tiết. Nay thấy bà thím của Lý Hoàn đến, liền không cho ra ở ngoài. Tuy bà thím không bằng lòng, nhưng vì Giả mẫu nhất định giữ lại nên đành phải mang Lý Văn, Lý Ỷ vào ở trong Đạo Hương thôn.
Công việc xếp đặt xong. Chợt Trung Tĩnh hầu là Sử Đỉnh phải đổi ra làm quan ở tỉnh ngoài, sắp sửa mang gia quyến đi nhậm chức. Giả mẫu không rời được Tương Vân, liền đem cô ta sang bên này và bảo Phượng Thư sắp đặt một chỗ cho ở. Sử Tương Vân xin đến ở với Bảo Thoa.
Bấy giờ trong vườn Đại Quan lại nhộn nhịp hơn trước: Lý Hoàn là đầu, còn nữa là Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Bảo Thoa, Đại Ngọc, Tương Vân, Lý Văn, Lý Ỷ, Bảo Cầm, Hình Tụ Yên, lại thêm Phượng Thư và Bảo Ngọc, tất cả mười ba người. Kể tuổi ra, Lý Hoàn lớn hơn, Phượng Thư thứ hai. Còn mấy người kia chỉ chừng mười lăm, mười sáu, mười bảy tuổi, hoặc cùng năm khác tháng, hoặc cùng ngày khác giờ, ngay bọn họ cũng không thể nhớ rõ ai là lớn, ai là bé được, thành ra bốn tiếng “chị”, “em”, “anh”, “em”, muốn gọi thế nào thì gọi.
Hương Lăng đang hăm hở thích làm thơ nhưng không dám quấy rầy Bảo Thoa. May sao có Sử Tương Vân đến, Tương Vân rất thích nói chuyện, tránh sao Hương Lăng chả lại nhờ chỉ bảo cách làm thở Tương Vân thấy vậy càng cao hứng, suốt ngày đêm trò chuyện huyên thiên. Bảo Thoa cười nói:
– Điếc tai quá, không thể chịu được. Chúng mình là gái lại thích thơ, coi việc làm thơ là chính, như vậy chỉ tổ làm cho bọn có học cười thôi, họ lại cho là mình không biết yên phận. Một mình Hương Lăng đang làm nhộn nhà rồi, lại thêm cái lưỡi gầu dai của cô nữa, luôn mồm luôn miệng nào là thơ của Đỗ Công Bộ 1 uất ức âm thầm; thơ của Vi Tô Châu 2 thanh đạm tao nhã; thơ của Ôn Bát Soa 3 đẹp nhời; thơ của Lý Nghĩa Sơn 4 kín đáo sắc sảo. Cô bỏ hai nhà thơ hiện đại không nói, lại cứ nhắc đến những nhà thơ trước làm gì?
Tương Vân nghe xong cười hỏi:
– Hai nhà thơ hiện đại là ai?
Bảo Thoa cười nói:
– Nỗi lòng chật vật của Hương Lăng ngốc và lời nói ba hoa của Tương Vân điên.
Hương Lăng và Tương Vân nghe vậy đều cười ầm lên.
Chợt Bảo Cầm khoác áo đi mưa vàng xanh lấp lánh, không biết làm bằng thứ gì, từ ngoài đi vào. Bảo Thoa hỏi:
– Cái áo này em lấy ở đâu đấy?
– Vì trời xuống tuyết, cụ tìm cái này cho em đấy.
Hương Lăng đứng lên xem, nói:
– Thảo nào, trông đẹp quá, dệt bằng lông công đấy.
Tương Vân cười nói:
– Có phải lông công đâu? Là lông mào vịt trời đấy. Thế mới biết cụ thương cô thực. Người thương Bảo Ngọc đến thế cũng không cho anh ấy.
Bảo Thoa cười nói:
– Tục ngữ nói rất đúng: “Mỗi người có một số phận riêng”. Tôi không ngờ nó đến đây, lại được cụ thương như thế.
Tương Vân nói:
– Cô ở bên nhà cụ, hoặc sang bên vườn, nơi nào cũng tha hồ chơi đùa ăn uống. Còn khi đến nhà bà Hai, người ở nhà, cô có thể ngồi lâu nói cười không sao, nếu người đi vắng, cô đừng nên vào. Vì ở đấy họ đều xấu bụng, chỉ muốn trêu chọc chúng ta thôi.
– Cứ tưởng chị là người vô tâm, mà hóa ra con người hay để ý. Thực ra chị có để ý đấy, nhưng có gì lại nói tuột ra. Em Cầm nhà tôi cũng giống chị. Trước đây, chị muốn nhận tôi làm chị, bây giờ tôi bảo chị nên nhận nó là em đi.
Tương Vân lại nhìn Bảo Cầm cười nói:
– Chỉ có cô ấy mới đáng mặc cái áo này, chứ người khác thì không xứng.
Lúc đó Hổ Phách chạy đến cười nói:
– Cụ bảo: Cô Cầm hãy còn bé, cô Bảo không được thằng thúc cô ấy quá. Cô ấy thích cái gì. muốn cái gì cũng nên chiều, đừng xét nét lắm.
– Phúc em đấy! Thôi về đi, kẻo lại bảo là chị quấy rầy em. Thật không ngờ chị lại không bằng em.
Đương nói thì Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến. Bảo Thoa vẫn còn cười đùa. Tương Vân cười nói:
– Chị Bảo ơi, tuy chị nói đùa, nhưng biết đâu có người lại thật lòng nghĩ như thế đấy.
Hổ Phách cười nói:
– Kể ra cũng chẳng ai bực tức đâu. có chăng chỉ người này thôi.
Miệng nói tay chỉ vào Bảo Ngọc. Bảo Thoa, Tương Vân đều cười nói:
– Anh ấy không phải là người như thế đâu.
Hổ Phách lại cười nói:
– Không phải cậu đấy thì là cô này.
Vừa nói, vừa chỉ vào Đại Ngọc. Tương Vân không nói gì, Bảo Thoa cười nói:
– Cũng không đúng nữa. Em tôi cũng như em cô ấy, có lẽ cô ấy lại vui thích hơn tôi nữa kia, việc gì mà bực tức. Chị nghe chị Vân nói nhảm, chẳng có gì đứng đắn cả.
Bảo Ngọc xưa nay biết rõ Đại Ngọc có tính hẹp hòi, nhưng chưa biết câu chuyện giữa Đại Ngọc và Bảo Thoa. Nay thấy Giả mẫu thương Bao Cầm quá, Bảo Ngọc sợ Đại Ngọc trong bụng khó chịu, giờ thấy Tương Vân nhắc đến, Bảo Thoa lại đưa thêm, nhưng nét mặt Đại Ngọc không có gì thay đổi, lại hùa theo với Bảo Thoa, nên Bảo Ngọc trong bụng không hiểu ra sao, liền nghĩ: “Xưa nay hai người này không như thế bao giờ, nay xem ra lại thấy họ đối xử với nhau tốt hơn người khác nhiều”. Một chốc lại thấy Đại Ngọc gọi Bảo Cầm là em, chứ không gọi đến tên họ, coi như chị em ruột vậy. Bảo Cầm lại trẻ người hăng hái, thông minh nhanh nhẹn, từ bé đi học, nay đến phủ Giả mới vài ngày, đã quen biết hầu hết mọi người, thấy đám chị em không phải là bọn gái khinh bạc, đối xử tử tế với chị mình, nên không dám khinh nhờn ai. Cô ta lại rất kính mến Lâm Đại Ngọc là người xuất sắc nhất. Bảo Ngọc thấy vậy, trong bụng càng lấy làm lạ.
Sau khi chị em Báo Thoa đến nhà Tiết phu nhân. Tương Vân về nhà Giả mẫu. Đại Ngọc về buồng nghỉ. Bảo Ngọc liền đến tìm Đại Ngọc, cười nói:
– Trước anh xem Tây Sương ký có mấy câu rõ nghĩac anh thường nói để mà cười, em lại sinh ra tức giận. Bây giờ nghĩ lại còn có một câu không hiểu, anh đọc ra đây, em giảng cho anh nghe nhé.
Đại Ngọc nghe nói, biết Bảo Ngọc lại có ý tứ gì đây, liền cười nói:
– Anh cứ đọc cho em nghe đi.
– Trong khúc “Náo giản” có một câu rất hay: “Tự bao giờ Mạnh Quang đỡ án trước Lương Hồng?” 5 Câu này chẳng qua là điển có sẵn, nhưng ba chữ “tự bao giờ” ý hỏi rất thú vị. Vậy thì họ đỡ án tự bao giờ? Em nói cho anh nghe.
Đại Ngọc nghe xong. cười nói:
– Nguyên câu hỏi ấy là haỵ Họ hỏi cũng hay, nay anh hỏi lại càng hay.
– Trước kia em cứ ngờ anh, bây giờ chắc em không ngờ nữa.
– Ngờ đâu chị Bảo thực là người tốt, trước em vẫn cứ cho chị ta là hạng ác ngầm.
Rồi Đại Ngọc đem việc nói nhầm tửu lệnh, Bảo Thoa dặn bảo thế nào, khi có bệnh, Bảo Thoa đến chuyện trò và cho yến sào ra sao, kể hết cho Bảo Ngọc nghe. Bảo Ngọc mới biết rõ đầu đuôi, liền cười nói:
– Đã biết mà, anh đang băn khoăn về việc “Tự bao giờ Mạnh Quang đỡ án trước Lương Hồng” thì ra đỡ từ lúc “Đồ trẻ con nói chẳng nể lời” 6 ấy.
Nhân câu chuyện Bảo Cầm, Đại Ngọc nghĩ ngay mình không có chị em, nên lại không cầm được nước mắt. Bảo Ngọc vội vàng khuyên:
– Thật là em chuốc lấy phiền não vào người. Em thử nhìn xem, năm nay lại gầy hơn năm ngoái đấy. Thế mà không biết giữ gìn, hàng ngày bỗng dưng vô cớ, em cứ phải khóc được một lúc mới coi như xong việc một ngày.
Đại Ngọc gạt nước mắt nói:
– Gần đây em cảm thấy trong lòng chua xót, nước mắt ít hơn năm ngoái. Lòng càng đau xót, thì nước mắt lại càng ít đi!
– Vì em khóc quen rồi, nên ngờ thế thôi, chứ nước mắt có bao giờ ít đi.
Đương nói chuyện, một a hoàn đưa cái áo khoác da vượn đến, nói:
– Mợ Cả vừa cho người đến bảo: “Giờ đã có tuyết, muốn bàn ngày mai mời mọi người đến làm thơ đấy.”
Bỗng cả a hoàn của Lý Hoàn đến mời Đại Ngọc. Bảo Ngọc liền rủ Đại Ngọc cùng đến Đạo Hương thôn. Đại Ngọc thay đôi giày da dê thêu hoa nạm kim tuyến, khoác một cái áo da cáo trắng, ngoài bằng lông chim màu đỏ, thắt một cái dây lưng như ý xanh vàng lấp lánh, đầu đội mũ che tuyết. Hai người giẫm tuyết cùng đến, đã thấy bọn chị em ở cả đấy rồi. Người nào cũng mang áo khoác màu đỏ, bằng lông chim, riêng Lý Hoàn mặc một cái áo nỉ rộng, Tiết Bảo Thoa mặc một cái áo gấm thêu hoa. Hình Tụ Yên vẫn mặc áo thường, không có áo đi mưa.
Một lúc, Tương Vân đến, khoác một cái áo của Giả mẫu cho, bên ngoài bằng da con rái cá, bên trong bằng da chuột đen, đầu trùm một cái khăn kiểu Chiêu Quân dệt bằng da vượn màu đỏ giát vàng, lại quấn một cái khăn quàng cổ, bằng da rái cá. Đại Ngọc cười nói:
– Các chị xem kìa, Tôn Hành Giả đến đây rồi. Cũng một thứ áo che tuyết, mà nó cố ý làm ra vẻ tao nhã lắm đấy.
Tương Vân cười nói:
– Các chị xem bên trong tôi mặc đây này.
Vừa nói vừa cởi áo ngoài ra, thấy bên trong mặc một cái áo ngắn kín vạt bằng da chuột bạch đã hơi rung rúc, cổ áo giát vàng, tay áo hơi hẹp, thêu rồng bằng chỉ ngũ sắc, mặc cái quần đoạn thủy hồng lót bằng da cáo, lưng thắt một cái dây dài năm màu tết hình con bướm, chân đi đôi giày da hươu. Trông người càng tỏ ra thướt tha uốn éo, như lưng ong mình vượn, dáng hạc hình vẹ Mọi người cười nói:
– Cô ấy thích mặc kiểu cậu bé, vì kiểu ấy trông sắc sảo lanh lợi hơn là kiểu cô bé.
Tương Vân cười nói:
– Hãy bàn việc làm thơ đi! Cho tôi biết ai là chủ đây?
Lý Hoàn nói:
– Theo ý tôi, hôm qua là ngày chính đã qua, nếu lại chờ đến ngày chính nữa, sợ lâu quá. Nay lại có tuyết, chi bằng chúng ta họp nhau đầy đủ, vừa để mừng khách mới đến, vừa để làm thợ Chị em nghĩ thế nào?
Bảo Ngọc nói ngay:
– Chị nói rất phải nhưng hôm nay đã muộn, ngày mai lỡ không có tuyết thì còn thú gì.
Mọi người đều nói:
– Mai chắc chưa tạnh, có tạnh nữa thì trong đêm nay tuyết còn xuống cũng đủ thưởng rồi.
Lý Hoàn nói:
– Họp ở đây cũng được, nhưng ra Lư Tuyết am tốt hơn. Tôi đã sai người đào lò sưởi rồi, chúng ta sẽ đến đấy sưởi lò làm thợ Cụ chưa chắc đã thích đến. Vả chăng đây là cuộc chơi đùa của chúng tao chỉ nên cho thím Phượng biết thôi. Chị em mỗi người bỏ ra một lạng, đưa lại đây cho tôi.
Rồi trỏ Hương Lăng, Bảo Cầm, Lý Văn, Lý Ỷ, Tụ Yên nói:
– Năm người này không phải góp, trong bọn chúng ta, cô Hai ốm, cô Tư xin nghỉ, đều không kể, còn bốn phần của chị em mang lại dây, tôi bỏ thêm năm, sáu lạng là đủ.
Bọn Bảo Thoa nhận lời, rồi bàn đến việc ra đầu bài và hạn vần, Lý Hoàn cười nói:
– Tôi đã định trước rồi. Để đến ngày mai thế nào sẽ biết.
Nói xong, mọi người chuyện phiếm, một lúc, rồi sang bên Giả mẫu.
Cả đêm, Bảo Ngọc thắc thỏm không sao ngủ được. Hôm sau, trời vừa sáng, đã trở dậy mở màn ra xem thì cửa sổ còn đóng, nhưng trông sáng lóa cả mắt, trong bụng ngần ngại, thầm trách trời đã lạnh và mặt trời đã lại mọc rồi. Bảo Ngọc vội đứng dậy, mở cửa sổ, từ trong cửa kính nhìn ra, té ra không phải ánh sáng mặt trời, mà là tuyết rơi đêm qua đọng dày gần một thước, trên trời còn trắng xóa như bông. Bảo Ngọc sung sướng lắm, gọi người dậy, rửa mặt súc miệng xong, mặc cái áo bằng da cáo khổ rộng màu tím lại thêm cái áo bằng da con cắt bể, thắt lưng, ngoài khoác cái áo tơi giát ngọc, đội nón mây vàng, đi đôi guốc gỗ đường, vội vàng đến Lư Tuyết am. Nhìn ra ngoài cửa, bốn bề trắng xóa một màu, xa xa là tùng xanh trúc biếc, chẳng khác nào mình đứng trong chậu pha lê vậy. Bảo Ngọc đi đến dưới dốc núi vừa vòng qua chân núi, đã ngửi thấy mùi hương lạnh. Quay lại, am Lũng Thúy của Diệu Ngọc ngay đó có mấy chục cây hồng mai, đỏ thắm như son, chiếu xuống màn tuyết càng thêm chói lọi, trông rất đẹp mắt. Bảo Ngọc đứng lại ngắm nghía một lúc rồi mới đi. Thấy trên cầu Phong Yên có một người che dù đi đến, đó là người của Lý Hoàn sai đi mời Phượng Thự Bảo Ngọc đến Lư Tuyết am, thấy bọn bà già a hoàn đương quét tuyết dọn đường. Am này làm dựa vào núi trông ra sông, một dãy mấy gian nhà gianh tường đất, cửa trúc giậu găng, mở cửa ra đã có thể buông câu, bốn mặt lau sậy che kín, có một lối quanh co lách qua lau sậy đi ra, đến ngay cái cầu trúc ở Ngẫu Hương tạ. Các bà già, a hoàn thấy Bảo Ngọc mặc áo tơi, đội nón đến, đều cười nói:
– Chúng tôi vừa nói chỉ thiếu có một ông câu cá thôi, giờ đủ cả rồi. Các cô ăn cơm xong mới đến, cậu vội vã quá.
Bảo Ngọc nghe nói, đành quay trở về. Đến đình Thấm Phương, thấy Thám Xuân ở Thu Sảng trai ra, khoác cái áo tơi màu đỏ, đội mũ quan âm, vịn vào vai a hoàn, đằng sau có một người đàn bà che dù lụa xanh. Bảo Ngọc biết Thám Xuân đến nhà Giả mẫu liền đứng lại chờ, rồi hai người cùng đi ra vườn. Bảo Cầm đương rửa mặt chải đầu và thay quần áo ở trong buồng.
Một lúc, chị em đến đủ cả. Bảo Ngọc kêu đói cứ đòi ăn cơm. Chờ mãi mới có cơm bưng lên, món đầu là dê bao tử hầm với sữa. Giả mẫu nói:
– Đó là vị thuốc của người già đấy. Những thứ chưa ra bóng mặt trời thì các cháu còn bé không nên ăn. Hôm nay có món thịt hươu tươi, các cháu hãy chờ mà ăn.
Mọi người vâng lời.
Bảo Ngọc không chờ được, lấy nước chè chan vào cơm, ăn với thịt gà rừng, và lấy và để cho xong bữa. Giả mẫu nói:
– Ta biết các cháu hôm nay có việc bận, nên chẳng thiết gì đến ăn.
Liền gọi:
– Để lại món thịt hươu, đến chiều cho chúng nó ăn.
Phượng Thư vội nói:
– Hãy còn nhiều, cứ ăn cho hết đi.
Tương Vân bàn với Bảo Ngọc:
– Có thịt hươu mới, chi bằng chúng ta xin một miếng mang vào vườn, rồi vừa ăn vừa chơi.
Bảo Ngọc xin Phượng Thư một miếng, sai bà già mang vào trong vườn.
Mọi người đến Lư Tuyết am để nghe Lý Hoàn ra đầu bài và hạn vần, nhưng không thấy Tương Vân và Bảo Ngọc đâu. Đại Ngọc nói:
– Hai người ấy cùng đi với nhau, sẽ sinh lắm chuyện. Nhất định bây giờ họ chỉ bàn tính cái món thịt hươu đấy thôi.
Đương nói thì thím Lý chạy đến xem và hỏi Lý Hoàn:
– Tại sao một cậu đeo ngọc, một cô đeo kỳ lân vàng, trông vẻ thanh tú, lại không phải thiếu ăn, thế mà họ đương bàn với nhau ăn thịt sống đấy. Tôi không tin, thịt sống lại ăn được à?
Mọi người đều cười:
– Khá thật! Gọi ngay hai đứa về đây!
Đại Ngọc cười nói:
– Chỉ tại cô Vân bày chuyện ra thôi. Tôi đoán không sai mà!
Lý Hoàn vội chạy đi tìm hai người, bảo:
– Hai đứa chúng bay muốn ăn thịt sống, ta đưa đến chỗ cụ cho mà ăn, chỉ sợ không ăn hết cả con hươu thôi. Sau này có sinh bệnh cũng chả việc gì đến tạ Tuyết xuống nhiều, lạnh dữ, khéo lại làm tội ta đấy!
Bảo Ngọc vội cười nói:
– Có ăn thịt sống đâu! Chúng tôi nướng rồi mới ăn đấy.
Lý Hoàn nói:
– Thế thì được.
Rồi thấy bọn bà già mang lò sắt, xiên sắt, vỉ sắt đến, Lý Hoàn nói:
– Cẩn thận đấy, lỡ đứt tay lại khóc!
Phượng Thư ở nhà đường bận việc phát tiền thưởng hàng năm, nên sai Bình Nhi đi trả lời là không đến được. Tương Vân gặp Bình Nhi, khi nào cho về ngay? Bình Nhi vốn thích chơi đùa, ngày thường ở với Phượng Thư cũng cứ chơi bừa bãi, giờ thấy thế, càng vui, liền tháo ngay vòng ở tay ra, ba người ngồi quanh lò lửa, Bình Nhi muốn nướng ba miếng ăn trước. Bảo Thoa, Đại Ngọc ngày thường đã trông quen rồi, không lấy làm lạ. Bảo Cầm và thím Lý cho là việc chưa từng có. Thám Xuân cùng Lý Hoàn đã bàn nhau ra bài hạn vần rồi. Thám Xuân cười nói:
– Các chị ngửi xem, ở đây cũng sực cả mùi thơm, tôi đi ăn đây.
Nói xong, chạy ngay đến chỗ mấy người nướng thịt. Lý Hoàn cũng theo ra nói:
– Khách đến đủ cả rồi, các người còn ăn chưa chán à?
Tương Vân vừa ăn vừa nói:
– Ăn đến món này muốn uống rượu. Có uống rượu mới ra thơ chứ. Nếu không cò món thịt hươu này, hôm nay chắc không làm được thơ.
Chợt thấy Bảo Cầm mặc báo cừu thêu đàn le, đứng đó cười. Tương Vân cười nói:
– Đồ ngốc! Lại đây mà nếm xem!
Bảo Cầm cười nói:
– Bẩn lắm!
Bảo Thoa cười nói:
– Em thử nếm xem, ngon lắm đấy! Chị Lâm người yếu, ăn không tiêu, chứ không thì chị ấy cũng thích lắm!
Bảo Cầm nghe nói, đến ăn một miếng thấy ngon, lại ăn nữa.
Phượng Thư cho a hoàn đến gọi Bình Nhị Bình Nhi nói:
– Mày cứ về trước đi, cô Sử còn giữ tao ở lại đây.
A hoàn về. Một lúc thấy Phượng Thư khoác áo tơi đến, cười nói:
– Ăn gì ngon thế, lại không gọi tôi?
Nói xong liền ngồi xuống ăn. Đại Ngọc cười nói:
– Ở đâu kéo đến một lũ ăn mày thế kiả Thôi, thôi! Hôm nay Lư Tuyết am thực là đốn kiếp, chỉ tại con Vân làm hại thôi. Ta phải khóc cho Lư Tuyết am mới được.
Tương Vân cười nhạt:
– Chị biết cái gì: “Là danh sĩ thật phải phong lưu”. Các người chỉ giả làm bộ thanh cao, đáng ghét nhất! Bây giờ chúng tôi ăn uống nhồm nhoàm, tuy tanh hôi thật, nhưng chốc nữa sẽ là bụng gấm miệng thêu cả đấy.
Bảo Thoa cười nói:
– Lát nữa làm thơ không hay, sẽ móc hết thịt ra, rồi lấy lau sậy dính tuyết tọng vào họng họ để cho hết kiếp đi.
Ăn xong, mọi người đi rửa tay.
Bình Nhi định đeo vòng vào tay, thấy thiếu một cái, tìm trước tìm sau, chẳng thấy đâu cả. Mọi người đều lấy làm lạ. Phượng Thư cười nói:
– Cái vòng đi đâu, tôi đã biết rồi. Các chị cứ việc làm thơ, chúng ta cũng không cần phải tìm. Độ ba ngày nữa thế nào cũng thấy.
Nói xong lại hỏi:
– Các chị hôm nay làm thơ gì đấy? Cụ bảo bây giờ gần hết năm, sang giêng nên bày cuộc đố thơ đèn để mọi người cùng vui.
Mọi người đều cười nói:
– Phải đấy, thế mà quên mất. Bây giờ làm sẵn mấy bài thật hay, để ra giêng chơi.
Nói xong mọi người cùng vào nhà có lò sưởi ngầm. Ở đây mâm bát hoa quả đã bày đủ cả, trên tường đã dán đầu bài, vần thơ và thể lệ làm thợ Bảo Ngọc, Tương Vân vội đến xem, thấy đầu đề: Tức cảnh liên cú ngũ ngôn bài luật nhất thủ, hạn nhị tiêu vận. 7 Nhưng dưới chưa kê thứ tự. Lý Hoàn nói:
– Tôi không quen làm thơ mấy. Tôi chỉ xướng ra ba câu thôi, còn sau ai nghĩ được trước làm trước.
Bảo Thoa nói:
– Phải viết thứ tự ra chứ.
1 Tức Đỗ Phủ.
2 Tức Vi Ứng Vật, người đời Huyền Tông và Đức Tông nhà Đường.
3 Tức Ôn Đình Quân người đời nhà Đường,làm thơ rất nhanh, xoa tay tám lần là làm xong bài thơ, vì thế người ta gọi là Ôn Bát Soa.
4 Đã chú thích ở hồi 40.
5 Mạnh Quang là vợ Lương Hồng, nhà nghèo, nhưng vẫn kính trọng nhau như chủ với khách. Khi đưa đồ ăn cho chồng, Mạnh Quang dâng khay lên đến tận lông mày.
6 Chữ trong “Tây Sương ký”
7 Một bài thơ Đường luật 5 chữ, tả cảnh trước mắt, mỗi người nối một câu, hạn vần “nhị tiêu”.
Nói xong, liền bảo mọi người rút thăm. Người bắt đầu chính là Lý Hoàn, rồi theo thứ tự mà rút.
Phượng Thư nói:
– Đã thế tôi cũng đọc một câu.
Mọi người đều cười nói:
– Thế thì càng hay.
Bảo Thoa viết một chữ “phượng” ở trên chữ “Đạo Hương lão nông”. Lý Hoàn giảng nghĩa đầu bài cho Phượng Thư nghe.
Phượng Thư nghĩ một lúc, cười nói:
– Chị em đừng cười tôi nhé, tôi chỉ có một câu nôm na thôi, còn sau không biết gì hết.
Mọi người đều cười nói:
– Càng nôm na càng haỵ Chị cứ đọc ra đây, rồi đi làm việc của chị.
Phượng Thư cười nói:
– Khi tuyết xuống thế nào cũng có gió bấc. Đêm qua nghe gió bấc thổi, tôi có một câu: “một đêm gió bấc ào ào”, được hay không, tôi cũng chẳng cần.
Mọi người nhìn nhau cười nói:
– Câu này tuy nôm na, nhưng chưa nói hết ý. Đó chính là biết cách mở đầu bài thơ đấy. Không những hay, mà còn để lại rất nhiều ý tứ cho người làm sau. Vậy cứ lấy câu này làm đầu, Đạo Hương lão nông tiếp luôn đi.
Phượng Thư cùng thím Lý và Bình Nhi lại uống hai ly rượu rồi đi.
Tương Vân đâu có chịu kém. Vả lại, không ai nhanh bằng cô ta, nên đều trừng mắt nhìn cô ta đọc:
Áo bông này thiếp gửi đưa tới chàng.
Tổ xây kiến khéo lo lường,
Bảo Thoa khen hay luôn miệng, rồi đọc tiếp:
Cành kìa lá nọ xem nhường lung lay.
Sáng trong nhẹ bước đường mây,
Đại Ngọc:
Uốn lưng thoăn thoắt múa may giữa trời.
Đòi khi trà đắng thưởng chơi,
Đại Ngọc vừa đọc vừa đẩy Bảo Ngọc bảo đọc tiếp. Bảo Ngọc đương mải nhìn Bảo Cầm, Bảo Thoa, Đại Ngọc hùa nhau đấu với Tương Vân, rất lấy làm thú, còn nghĩ gì đến thơ nữa. Bây giờ bị Đại Ngọc đẩy, mới đọc:
Rắc đầy hoa muối nhớ lời ca xưa.
Câu buông, tơi khoác trên bờ,
Bảo Cầm:
Tiếng tiêu văng vẳng vọng qua rừng nào.
Voi quỳ nghìn ngọn núi cao,
Tương Vân:
Một đường rắn lượn ngoằn ngoèo đằng xa.
Hoa này lạnh mới chồi hoa,
Bảo Thoa cùng mọi cười đều khen haỵ Thám Xuân đọc tiếp:
Màu này nào sợ sương sa kém màu.
Trong nhà sẻ lạnh xôn xao,
Tương Vân đương khát, vội đi uống nước, bị Tụ Yên đọc cướp:
Cú già trên núi nghẹn ngào buồn tênh.
Trên thềm lên xuống lượn quanh,
Tương Vân vội vất chén nước xuống, đọc luôn:
Nước ao mặc sức bập bềnh khắp nơi.
Trong veo khi mới sáng trời,
Đại Ngọc:
Đến đêm khuya lại tơi bời bay cao.
Lòng thành biết lạnh đâu nào.
Tương Vân:
Điềm lành sua nóng tan vào từng mây.
Nằm khèo ai hỏi ta đây,
Bảo Cầm vội đọc:
Chơi ngông có bạn rủ ngay đi cùng.
Dây lưng trắng đứt trên không,
Tương Vân:
Lụa giao chợ bể chớ mong sánh cùng.
Đại Ngọc ngắt ngay Tương Vân:
Vẻ buồn che kín lầu hồng,
Tương Vân đọc cướp:
Giỏ bầu nghèo xác nhớ ông Nhan Hồi.
Bảo Cầm cũng không chịu thua, đọc ngay:
Trà pha nước mới gần sôi,
Tương Vân thấy thế, rất lấy làm thú, vừa cười vừa đọc:
Lá tươi nấu rượu lá đời nào khô?
Đại Ngọc cười đọc:
Chổi đâu sư muốn quét chùa,
Bảo Cầm cười đọc:
Đàn vui đâu để trẻ khua gậy tìm.
Tương Vân cười ngặt nghẽo, định đọc luôn một câu.
Mọi người cười hỏi:
– Cô định đọc câu gì đây?
Tương Vân đọc:
Hạc trên lầu đã ngủ yên,
Đại Ngọc ôm bụng cười rồi đọc to:
Quen người, mèo cũng ủ rền nệm nhung.
Bảo Cầm:
Trong trăng sóng bạc trập trùng,
Tương Vân:
Thành mây thấp thoáng vầng hồng trên cao.
Đại Ngọc:
Hương mai hãy nhấm xem nào,
Bảo Thoa cười khen hay rồi đọc:
Rượu pha nước trúc nhấp vào càng say.
Bảo Cầm:
Uyên ương lưng ướt đầm dây,
Tương Vân:
Kìa chim phỉ thúy dính đầy cả đuôi.
Đại Ngọc:
Tiếng đâu như gió thổi ngoài,
Bảo Cầm:
Tiếng đâu sầm sập như trời đổ mưa.
Tương Vân gục xuống, cười rũ rượi. Mọi người thấy ba người này đối chọi nhau, không ai nghĩ đến làm thơ, chỉ nhìn mà cười. Đại Ngọc lại giục Tương Vân đọc luôn nữa và bảo:
– Mày đến lúc tài cùng lực kiệt rồi sao? Tao xem mày còn nỏ mồm nữa thôi?
– Mày có giỏi gieo hết cả vần nhị tiêu tao mới phục.
Tương Vân đứng dậy cười nói:
– Không phải làm thơ đâu, tôi đọc liều đấy thôi.
Mọi người cười nói:
– Chính là tự cô nói ra đấy!
Thám Xuân nghĩ mình không thể đọc chen vào chỗ nào được nữa, liền viết ra rồi nói:
– Chưa kết thúc đâu.
Lý Văn cầm lấy đọc một câu:
Sớm nay hỏi đã vui chưa?
Lý Ỷ đọc kết một câu:
Mượn thơ để chúc Đường Ngu thanh bình.
Lý Hoàn nói:
– Thôi đủ rồi! Tuy chưa làm hết vần nhưng gò ép mãi, nặn thêm ra lại không hay.
Nói xong, mọi người lại bình phẩm một lần nữa, có thơ Tương Vân là nhiều hơn. Họ đều cười nói:
– Đó là công lao của miếng thịt hươu đấy.
Lý Hoàn cười nói:
– Cứ theo từng câu mà cắt nghĩa, đều liền mạch cả, chỉ có Bảo Ngọc là hỏng thôi.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi vốn không biết làm thơ liên cú, phải nơi nới cho tôi mới được.
Lý Hoàn cười nói:
– Không lẽ lần nào họp thi xã cũng nới cho chú, khi chú bảo vần khó, khi làm dở bài, nay lại bảo không biết làm liên cú. Hôm nay nhất định tôi phải phạt chú. Tôi vừa trông thấy những cây hồng mai trong am Lũng Thúy rất đẹp, muốn bẻ một cành để cắm lọ, nhưng tôi ghét Diệu Ngọc, không muốn gặp cô tạ Bấy giờ chú phải đến đấy lấy một cành mang về thưởng chơi.
Mọi người đều nói:
– Cách phạt này vừa nhã lại vừa thú!
Bảo Ngọc thấy thế cũng thích, nhận lời đi ngaỵ Tương Vân, Đại Ngọc đều nói:
– Ngoài ấy lạnh lắm, anh uống một ly rượu nóng rồi hãy đi.
Lúc đó Tương Vân đã hâm sẵn bình rượu rồi. Đại Ngọc cầm lên rót đầy một chén lớn. Tương Vân cười nói:
– Anh uống ly rượu này của chúng tôi, nếu không lấy được hoa về, sẽ lại phạt thêm!
Bảo Ngọc uống ngay một chén, rồi đi ra ngoài tuyết.
Lý Hoàn sai người đi theo. Đại Ngọc ngăn lại nói:
– Không cần. Có người nữa đi theo sẽ không lấy được hoa đâu.
Lý Hoàn gật đầu nói: “Phải đấy”.
Rồi sai a hoàn mang đến một cái bình vẽ một mỹ nhân nhún vai, đổ nước vào để chờ cắm cành mai, lại cười nói:
– Nếu mang về, ta phải làm bài thơ vịnh hồng mai mới được
Tương Vân nói:
– Tôi làm trước một bài.
Bảo Thoa cười nói:
– Hôm nay không cho cô làm nữa! Cô cướp mất cả để người khác ngồi không thì chẳng có thú gì. Khi nào Bảo Ngọc về sẽ bắt phạt cậu ta cứ nói là không biết liên cú. Đã vậy bắt cậu ta phải làm bài thơ này.
Đại Ngọc cười nói:
– Phải lắm. Tôi không có ý định ấy. Những người vừa rồi không liên cú được nhiều, bây giờ phải làm thơ hồng mai.
Bảo Thoa cười nói:
– Phải lắm. Vừa rồi các cô Hình, cô Lý không được thi tài, và lại là khách. Cô Cầm, cô Tần và cô Vân làm tranh mất nhiều, chúng ta không ai nên làm nữa, cứ để cho các cô ấy làm mới phải.
Lý Hoàn nói:
– Cô Ỷ không quen làm thơ lắm, nên để cho em Cầm làm thôi.
Bảo Thoa đành phải nhận lời, rồi nói:
– Thế thì dùng ba chữ “hồng mai hoa” làm vận, mỗi người làm một bài thất ngôn: cô Hình làm vần “hồng”, cô Lý làm vần “mai” cô Cầm làm vần “hoa”.
Lý Hoàn nói:
– Nếu tha cho Bảo Ngọc, tôi không phục.
Tương Vân nói:
– Có một đầu bài hay lắm, bắt anh ấy làm.
Mọi người hỏi: “Đầu bài gì?”
Tương Vân nói:
– Bắt anh ấy làm bài thơ “Đến thăm Diệu Ngọc xin cành hồng mai”, như thế chẳng thú lắm hay sao?
Mọi người đều nói: “Thú đấy!”
Nói chưa dứt lời thì Bảo Ngọc hớn hở cầm cành hồng mai về. Bọn a hoàn vội ra đỡ lấy cắm vào lọ, mọi người đều đến ngắm nghía. Bảo Ngọc cười nói:
– Bây giờ chị em thưởng ngoạn đi, không biết mất bao nhiêu hơi sức mới xin được đấy!
Thám Xuân đã mang một cốc rượu ấm đến. Bọn a hoàn đi lấy nón, áo tơi rồi đập tuyết đi. Người hầu ở các nhà đều mang thêm quần áo đến. Tập Nhân cũng sai người mang cái áo khoác da cáo còn rung rúc đến. Lý Hoàn sai người mang một khay khoai luộc, hai mâm cam, quất và trám đưa cho Tập Nhân. Tương Vân nói lại cho Bảo Ngọc biết đầu bài thơ vừa rồi, và giục làm ngay, Bảo Ngọc nói:
– Xin các chị em đừng hạn vần, để tôi chọn lấy.
Mọi người đều nói:
– Anh muốn làm vần nào thì làm.
Mọi người vừa nói, vừa ngắm cành mai. Cành cao gần hai thước, bên cạnh có một nhánh đâm ngang dài độ hai, ba thước. Nhánh ấy lại có nhiều nhánh nhỏ đâm ra, nhánh như ly cuộn tròn, nhánh như giun nằm thẳng, nhánh khẳng khiu như cái bút, nhánh rườm rà như rừng cây. Thật là hoa khoe son phấn, hương lấn huệ lan. Mọi người xem đều khen ngợi. Ngờ đâu Tụ Yên, Lý Văn, Bảo Cầm đã làm xong thơ, viết ra cả rồi. Mọi người theo thứ tự xem chữ hồng, chữ mai, chữ hoa. Đầu tiên là bài Hồng mai hoa của Hình Tụ Yên.
Kìa đào kia hạnh chửa đâm bông.
Mai đã ngoài sương cợt gió đông,
Đại Dĩu 2 hồn bay xuân khó biết,
La Phù 3 ráng phủ mộng chưa thông.
Cuống xanh đuốc rợi tô màu đẹp,
Rượu choáng tiên dìu vượt quãng không.
Nhìn kỹ sắc này hồ dễ có,
Ở hàng băng tuyết nhạt pha nồng.
Lý Văn:
Bạch mai biếng vịnh, vịnh hồng mai,
Đón khách say hoa, trổ mọi tài.
Mặt lạnh nổi hằn dây những máu,
Lòng chua thành bụt giận gì ai.
Uống nhầm viên thuốc xương thay hẳn,
Ăn trộm đào tiên kiếp đổi rồi.
Giang Bắc, Giang Nam xuân chói lọi,
Bướm ong thôi chớ đắn đo hoài.
Bảo Cầm:
Cành lá lơ thơ hoa chói màu,
Chị em trang điểm khéo đua nhau.
Cửa cong sân vắng trời tan tuyết,
Nước chảy non cao ráng dọi đầu,
Mộng kín lạnh lùng vang sáo ngọc,
Chèo tiên ngào ngạt lướt sông Ngâu.
Dao đài kiếp trước là ai đấy,
Sắc tướng này xem có khác đâu.
Mọi người xem xong, đều cười khen ngợi và cho bài cuối cùng hay hơn. Bảo Ngọc thấy Bảo Cầm trẻ hơn cả lại có tài nhanh nhẹn. Đại Ngọc, Tương Vân mỗi người rót một ly rượu nhỏ mừng Bảo Cầm, Bảo Thoa cười nói:
– Cả ba bài đều có câu haỵ Ngày thường các chị trêu tôi chán rồi, bây giờ lại trêu đến em nó.
Lý Hoàn lại hỏi Bảo Ngọc:
– Chú đã làm xong thơ chưa?
Bảo Ngọc vội nói:
– Tôi đã làm xong rồi, nhưng khi xem ba bài này lại sợ quá quên mất cả. Để tôi nghĩ lại xem.
Tương Vân nghe nói, liền cầm cái đũa đồng gõ vào lồng ấp cười nói:
– Tôi gõ hết hồi mà anh không làm xong thì lại phải phạt đấy.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi có thơ rồi.
Đại Ngọc cầm bút cười nói:
– Anh đọc đi, em viết hộ.
Tương Vân gõ một cái, cười nói:
– Thế là hết một hồi rồi.
Bảo Ngọc cười nói:
– Có thơ rồi, em viết đi.
Mọi người nghe Bảo Ngọc đọc:
Thơ chửa làm xong rượu chửa mời.
Đại Ngọc viết rồi lắc đầu cười nói:
– Câu mở đầu thường lắm.
Tương Vân lại nói:
– Đọc nhanh lên!
Bảo Ngọc cười đọc:
Tìm xuân, hỏi chạp tới bồng lai.
Đại Ngọc, Tương Vân đều gật đầu cười nói:
– Cũng hơi có tứ đấy.
Bảo Ngọc lại đọc:
Cần chi Đại Sĩ lưng bình móc,
Xin hẳn Sương Nga một nhánh mai.
Đại Ngọc viết rồi lấc đầu nói:
– Chỉ khéo vặt đấy thôi.
Tương Vân lại gõ một cái, Bảo Ngọc cười đọc:
Gạt tuyết đỏ đi đời bớt lạnh,
Kéo mây tía xuống bụi thêm mùi.
Nhà thơ ai tiếc thân gầy guộc,
Áo dính đầy rêu trước phật đài.
Đại Ngọc viết xong, Tương Vân đương bàn thơ, thấy mấy a hoàn chạy đến nói:
– Cụ đến đấy!
Mọi người vội ra đón, cười nói:
– Sao người cao hứng thế?
Nói xong, trông đằng xa thấy Giả mẫu khoác áo che tuyết đội mũ bằng lông chuột, ngồi trên kiệu nhỏ, che dù xanh, bọn Hổ Phách, Uyên Ương và năm sáu a hoàn, cầm dù đỡ kiệu đi đến. Bọn Lý Hoàn vội chạy ra đón. Giả mẫu bảo họ đứng lại, nói:
– Thôi, các cháu cứ đứng ở đấy được rồi.
Giả mẫu xuống kiệu cười nói:
– Ta trốn mẹ mày và cháu Phượng đến đây. Tuyết xuống nhiều, ta ngồi kiệu không sao, chứ không nên để cho mẹ con nó phải dầm tuyết.
Mọi người vâng dạ, đều cầm lấy áo tơi và đỡ Giả mẫu xuống.
Giả mẫu vào trong nhà, cười nói:
– Hoa mai đẹp nhỉ! Các cháu chỉ biết vui lấy một mình ta không tha cho đâu!
Lý Hoàn sai người lấy một cái nệm da chó sói đến trải giữa. Giả mẫu ngồi xuống cười nói:
– Các cháu cứ việc chơi đùa ăn uống. Mùa này ngày ngắn, ta không muốn ngủ trưa. Đánh một hồi bài, chợt nghĩ đến các cháu, nên ta lại đây để góp vui.
Lý Hoàn lại mang cái lồng ấp đến. Thám Xuân lấy riêng đũa chén, rót rượu ấm mời Giả mẫu. Giả mẫu uống một hớp, hỏi:
– Ở mâm kia có những thứ gì đấy?
Mọi người liền bưng lại, nói:
– Đây là món gà gô om rượu.
Giả mẫu nói:
– Được rồi, xé một miếng đùi mang lại đây.
Lý Hoàn vâng lời đi rửa tay, xé một miếng mang đến.
Giả mẫu nói:
– Các cháu cứ ngồi xuống, coi như ta không đến đây mới được, nếu không ta sẽ về ngay.
Mọi người nghe nói, mới theo thứ tự ngồi xuống. Lý Hoàn ngồi ở tận bên dưới. Giả mẫu hỏi:
– Các cháu chơi gì đấy?
– Chúng cháu đang làm thơ.
– Làm thơ chẳng bằng làm mấy câu đố đèn để ra giêng chơi.
Mọi người vâng lời.
Cười nói một lúc, Giả mẫu nói:
– Chỗ này ẩm ướt, các cháu đừng ngồi lâu, sợ bị cảm lạnh. Nhà cháu Tư ấm hơn, chúng ta đến xem bức vẽ của nó xem cuối năm liệu có xong được không.
Mọi người cười nói:
– Cuối năm nay xong thế nào được? Có lẽ đến tiết đoan ngọ sang năm mới xong.
– Như thế sao được? Thật lại tốn công hơn là làm cái vườn này.
Nói xong, Giả mẫu ngồi vào kiệu, mọi người đi theo, qua Ngẫu Hương tạ, đi vào một con đường hẹp, hai bên đông tây đều là cửa đi ra phố, trên cửa lầu, trong ngoài đều có biển đá. Đi vào cửa tây, có biển phía ngoài khắc hai chữ xuyên vân, biển bên trong khắc hai chữ độ nguyệt. Lên đến thềm, vào cửa giữa hướng nam, Giả mẫu xuống kiệu. Tích Xuân ra đón. Đi qua dãy hành lang, đến buồng ngủ Tích Xuân. Dưới mái treo cái biển có chữ Noãn Hương ổ, đã có mấy người đứng mở bức rèm da vượn màu đỏ, hơi ấm bốc ngay lên mặt.
Mọi người vào trong nhà, Giả mẫu không ngồi, hỏi ngay Tích Xuân:
– Vẽ đến đâu rồi?
– Trời lạnh lắm, keo rắn lại không chảy, sợ vẽ không đẹp nên cháu phải cất đi.
– Cuối năm nay thế nào cũng phải xong, cháu đừng giở lối lười ra; hãy mang ra vẽ đi cho ta.
Nói chưa dứt lời, thấy Phượng Thư mặc áo nhung màu tía, cười hì hì đi vào, nói:
– Hôm nay bà lẻn đi một mình, chẳng nói cho ai biết, làm cháu phải đi tìm mãi!
Giả mẫu thấy Phượng Thư, trong bụng mừng lắm, nói
– Ta sợ cháu rét, nên không cho cháu biết. Cháu thật là con ma khôn, cũng biết tìm đến đây. Cứ lý ra có phải hiếu kính ở chỗ ấy đâu.
Phượng Thư cười nói:
– Có phải là cháu hiếu kính mà đi tìm bà đâu? Vì cháu đến đó, thấy im lặng như tờ, hỏi bọn hầu nhỏ, chúng không chịu bảo, cháu đành phải vào vườn tìm. Đương lúc nghi hoặc thấy có hai sư cô đến, cháu mới hiểu là các sư cô chắc lại đến đòi tiền sớ hay tiền hương đèn hàng năm gì chăng, chả vì cứ cuối năm là bà tiêu nhiều, nên phải đi trốn nợ. Cháu hỏi sư cô, quả thế thật. Cháu đã giả tiền lễ hàng năm cho họ về rồi. Thế là chủ nợ đã đi bà không cần phải trốn nữa. Cháu đã nấu sẵn gà gô non, mời bà về xơi cơm chiều, nếu để chậm sợ quá lửa mất.
Phượng Thư nói một câu làm mọi người lại cười ầm lên.
Phượng Thư không chờ Giả mẫu trả lời, cứ sai người khiêng kiệu đến. Giả mẫu cười, vịn tay Phượng Thư bước lên kiệu, dẫn mọi người, cười nói ra đến cửa Đông, nhìn lên xem bốn mặt đều trắng xóa như trát phấn, dát bạc. Trông thấy Bảo Cầm mặc áo cừu thêu đàn le, đang đứng đợi ở sau sườn núi, sau lưng có một a hoàn, bưng cái lọ cắm cành hồng mai. Mọi người đều cười nói:
– Thảo nào thiếu hai người, thì ra họ đến chờ ở đây, lại cũng đi kiếm hoa mai rồi!
Giả mẫu mừng quá, cười nói:
– Các cháu hãy nhìn xem, trên sườn núi tuyết này, có dáng người như thế, ăn mặc quần áo như thế, đằng sau lại có hoa mai như thế liệu giống cái gì?
Mọi người đều cười nói:
– Giống bức tranh Diễm tuyết đồ của Cừu Thập Châu 4 treo ở nhà cụ.
Giả mẫu lắc đầu, cười nói:
– Bức vẽ ấy đâu có quần áo như thế này? Người cũng không được đẹp như thế!
Nói chưa dứt lời, thấy phía sau Bảo Cầm có một người mặc áo da vượn màu đỏ đi đến. Giả mẫu hỏi:
– Lại cô ả nào nữa đấy?
– Chúng cháu ở đây cả, chắc là cậu Bảo Ngọc.
– Ta càng ngày càng sinh lóa mắt.
Hai người đi đến, chính là Bảo Ngọc và Bảo Cầm. Bảo Ngọc cười bảo bọn Bảo Thoa, Đại Ngọc:
– Tôi vừa đến am Lũng Thúy, cô Diệu Ngọc gửi biếu chị em mỗi người cành mai, tôi đã sai người đưa đến nhà rồi.
Mọi người đều cười nói:
– Cám ơn cậu có lòng nghĩ đến chúng tôi.
Mọi người ra khỏi cửa vườn, đến buồng Giả mẫu. Ăn cơm xong, lại chuyện trò một lúc. Chợt thấy Tiết phu nhân đến, nói:
– Tuyết xuống nhiều quá! Suốt ngày không đến thăm cụ được. Hôm nay sao người không cao hứng? Đáng lẽ người nên đi thưởng tuyết mới phải.
Giả mẫu cười nói:
– Sao lại không cao hứng? Tôi đã đến chỗ chị em chúng nó thưởng tuyết một lúc rồi.
Tiết phu nhân cười nói:
– Chiều hôm qua tôi định đến mượn dì nó cái vườn một ngày, bày vài bàn rượu, mời cụ hôm nay đến đó thưởng tuyết. Nhưng thấy người đã đi nghỉ rồi, tôi lại nghe cháu Bảo nói là người không được khoan khoái. Vì thế tôi không dám quấy rầy. Nếu biết thế này, tôi phải đến mời người mới phải.
Giả mẫu cười nói:
– Bây giờ là tháng mười mới bắt đầu có tuyết, sau này còn nhiều, sẽ còn làm phiền đến bà dì, lúc ấy cũng chưa muộn.
Tiết phu nhân cười nói:
– Được như vậy cũng bõ lòng thành kính của tôi.
Phượng Thư cười nói:
– Chỉ sợ dì lại quên chăng? Chi bằng bây giờ dì cân ngay năm mươi lạng bạc giao cho cháu, khi nào có tuyết, cháu sẽ sắm sửa tiệc rượu. Như thế, người không phải để ý đến và cũng không quên được nữa.
Giả mẫu cười nói:
– Đã vậy bà dì cứ giao hẳn cho nó năm mươi lạng và nó sẽ chia đôi mỗi người một nửa. Hôm nào có tuyết, tôi giả cách người khó ở để lấp liếm cho xong chuyện. Như thế bà dì không phải bận lòng, mà tôi và cháu Phượng sẽ được hưởng món lộc đó.
Phượng Thư vỗ tay cười nói:
– Hay lắm! Bà nói rất hợp ý cháu.
Mọi trời đều cười.
Giả mẫu cười nói:
– Hừ! Không biết xấu! Cứ định nhờ bão bẻ măng. Sao mày chẳng nói: bà dì là khách, đến ở nhà ta, chúng ta nên bày tiệc mời bà dì mới phải, lẽ nào để bà dì tốn tiền! Mày lại còn giở mặt ra đòi bà dì năm mươi lạng bạc, thật không biết xấu hổ!
Phượng Thư cười nói:
– Bà tinh lắm, cháu mới nói thử đấy thôi. Nếu bà dì nhẹ dạ bỏ ra năm mươi lạng bạc, bà sẽ chia ngay cho cháu đấy. Bây giờ bà đắn đo biết là không ăn thua gì, nên trở mặt đem cháu ra làm bung xung, nói những câu ra vẻ đứng đắn. Thế thì bây giờ cháu cũng không lấy bạc của bà dì nữa, cháu sẽ ứng tiền ra làm tiệc rượu mời bà đến ăn, rồi lại gói thêm năm mươi lạng bạc nữa đem biếu bà, coi như bà phạt cháu hay ôm đồm những việc không đâu. Thế có được không?
Mọi người nghe nói cười lăn ra.
Nhân nói tới việc Bảo Cầm bẻ cành mai dưới tuyết, đẹp hơn trong tranh, Giả mẫu lại hỏi tỉ mỉ về ngày sinh tháng đẻ cùng tình cảnh gia đình của Bảo Cầm. Tiết phu nhân biết ý, có lẽ lại muốn dạm hỏi cho Bảo Ngọc đây, trong bụng cũng rất vui, nhưng đã trót hẹn gả cho nhà họ Mai rồi; vì Giả mẫu chưa nói rõ, nên tự mình cũng không tiện nói ra, cứ nửa kín nửa hở nói với Giả mẫu:
– Tiếc rằng cháu nó kém phúc! Cha cháu mất năm trước rồi. Từ bé cháu vất vả nhiều, theo cha đi khắp đó đây, hễ nó buôn bán ở đâu là đem gia quyến đi theo. Năm nay chơi tỉnh này một năm, sang năm chơi tỉnh khác mấy tháng, vì thế trong nước mười phần cháu đi tới năm sáu. Mấy năm trước đây, cha cháu đã hứa gả cháu cho con quan hàn lâm họ Mai. Năm sau cha cháu mất, rồi mẹ cháu lại bị bệnh suyễn…
– Thực không may! Tôi đang định làm mối cho cô ấy, đã lại nhận lời người khác mất rồi!
Giả mẫu cười hỏi:
– Cháu muốn làm mối cho ai?
– Bà không cần phải nghĩ nữa. Trong bụng cháu đã nhằm sẵn rồi. Hai người ấy xứng đôi lắm. Nhưng bây giờ đã có người khác hỏi, nói cũng vô ích, thà chẳng nêu ra cho xong.
Giả mẫu cũng biết ý Phượng Thư, thấy đã gả cho người khác nên không nói nữa. Mọi người lại nói chuyện phiếm một lúc mới về.
Hôm sau tạnh tuyết. Ăn cơm xong, Giả mẫu lại dặn Tích Xuân:
– Bất cứ lạnh hay ấm, cháu phải vẽ đi, cuối năm chưa xong cũng được. Có điều cần nhất là cháu phải theo đúng cảnh Bảo Cầm cùng a hoàn và hoa mai, mà vẽ thêm vào đấy.
Biết là khó, Tích Xuân cũng vẫn phải nhận lời. Một lúc, mọi người đến xem, thấy Tích Xuân đang ngồi thừ người ra. Lý Hoàn cười bảo mọi người:
– Chúng ta hãy nói chuyện với nhau, để cho cô ấy nghĩ. Hôm nọ cụ bảo phải làm mấy bài thơ đố đèn, về đến nhà không ngủ được, tôi đã đặt hai câu đố về “Tứ thư”. Còn cô Ỷ và cô Văn mỗi người cùng đặt hai câu.
Mọi người đều cười nói: “Cái đó cần phải làm. Chị hãy nói trước để chúng tôi đoán”.
Lý Hoàn cười đọc:
– Quan âm vị hữu thế gia truyền 5, đố một câu ở trong “Tứ thư”.
Tương Vân liền đọc câu:
– Tại chỉ ư chí thiện 6
Bảo Thoa cười nói:
– Cô hãy nghĩ nghĩa ba chữ thế gia truyền đã rồi hãy đoán.
Lý Hoàn cười nói:
– Nghĩ nữa đi.
Đại Ngọc cười nói:
– Tôi đoán nhé. Có phải là câu “tuy thiện vô trưng” 7 hay không?
Mọi người đều cười nói:
– Câu ấy phải đấy.
Lý Hoàn lại đọc:
– Cỏ xanh ao nọ gọi tên gì?
Tương Vân nói:
– Nhất định là “lau sậy” có đúng không?
– Cô đoán tài đấy. Còn câu của cô Văn là “Nước trôi bên đá dòng càng lạnh”, đố tên một người xưa.
Thám Xuân cười hỏi:
– Có phải là Sơn Đào 8 không?
– Đúng đấy.
Lý Hoàn lại nói:
– Câu đố của cô Ỷ là một chữ “huỳnh” (đom đóm), đoán ra một chữ.
Mọi người đoán một lúc, Bảo Cầm nói:
– Chữ này ý tứ rất sâu. Không biết có phải chữ “hoa” là hoa cỏ không 9?
Lý Ỷ cười nói: “Phải đấy”.
Mọi người hỏi: “Đom đóm với hoa có liên can gì với nhau?”
Đại Ngọc cười nói:
– Hay lắm! Đom đóm không phải là cỏ hóa ra à?
Mọi người hiểu ý, đều cười nói: “hay”
Bảo Thoa nói:
– Những câu này tuy hay đấy, nhưng không hợp với ý cụ. Chi bằng chúng ta tìm những vật gần gũi dễ trông thấy để người nhã hay người tục đều thưởng thức được cả mới vui.
Mọi người đều nói
– Cũng nên làm câu đố những vật gì gần gũi dễ thấy mới phải.
Tương Vân nghĩ một lúc, cười nói:
– Tôi đặt một khúc hát “điểm giáng thần” 10 thật là một vật tục, các chị thử đoán xem. – Nói xong liền đọc:
Suối khe nỡ bỏ mà đi,
Bụi hồng nào có thú gì mà chơi?
Hão huyền danh lợi một đời.
“Việc sau” thôi thế thì thôi còn gì.
Mọi người đều không hiểu, nghĩ một lúc, có người đoán là ông sư, có người đoán là đạo sĩ, có người đoán là con rối. Bảo Cầm cười một lúc rồi nói:
– Không đúng cả. Tôi đoán trúng rồi, nhất định là con khỉ nuôi để làm trò chơi.
Tương Vân cười nói: “Đúng đấy”.
Mọi người nói:
– Câu đầu đúng, nhưng câu cuối cùng cắt nghĩa thế nào?
Tương Vân nói:
– Con khỉ nào để chơi mà chẳng chặt đuôi?
Mọi người đều cười nói:
– Nó đặt câu đố cũng lắt léo kỳ quái quá!
Lý Hoàn nói:
– Hôm qua bà dì nhân nói cô Cầm trải đời nhiều, đi đây đi đó cũng nhiều, cô cần phải làm câu đố. Vả chăng làm thơ cô lại hay, tại sao không biên mấy câu đố để cho chúng tôi đoán?
Bảo Cầm nghe nói, gật đầu mỉm cười, đang nghĩ. Bỗng Bảo Thoa đọc ngay một bài:
Gỗ đàn gỗ tử chạm trồng lên.
Thợ giỏi nào đây xếp đặt nên?
Mưa gió lưng trời dù tạt lại.
Chùa đâu nghe được tiếng chuông rền?
(Là một vật gì?)
Mọi người đang đoán, Bảo Ngọc cũng lại đọc một bài:
Tiên tục hai nơi khéo viển vông,
Ngọc đâu hòa nhịp vẳng trên không.
Tiếng loan tin hạc nghe cho kỹ.
Cũng thở than đi đáp tấm lòng.
Đại Ngọc cũng đọc một bài:
Ngựa tốt cần chi phải buộc thừng?
Lên thành xuống trại dáng hung hăng,
Gió mây chuyển động tùy tay chủ,
Núi cưỡi lưng ngao cũng khó bằng.
Thám Xuân cũng có một bài, định đọc, thì Bảo Cầm chạy đến cười nói:
– Từ bé tôi đã đi nhiều nơi, đã xem nhiều cổ tích. Tôi chọn mười nơi, làm ra mười bài hoài cổ. Thơ tuy quê, nhưng ghi lại được việc trước, và ám chỉ được mười vật thường trông thấy, các chị thử đoán xem.
Mọi người nghe xong, đều nói:
– Thế càng hay lắm. Sao không viết ra cho chị em xem?
1 Nguyên văn mỗi câu năm chữ. Muốn đọc dễ hiểu, chúng tôi xin dịch ra
thể lục bát.
2 Núi Đại Dĩu cao tuyệt vời có nhiều hồng mại và bạch mai.
3 Cát Hồng đời Tấn tu tiên ở núi này.
4 Ông tên là Cửu Anh, người quận Thái Thương, nhà Minh, có tài vẽ, nhất là vẽ nữ sĩ, thì thần thái rất sinh động.
5 Đây là câu đố, chưa rõ nghĩa là gì.
6 Chữ ở sách Đại học, nghĩa là cốt ở chỗ làm điều lành.
7 Chữ trong sách Trung dung. Nghĩa là: tuy làm điều lành nhưng không có báo ứng.
8 Sơn Đào người đời Tấn. Theo nghĩa chữ Hán, “sơn” là núi, “đào” là sóng. Có nghĩa là nước ở trong núi. Đúng với nghĩa câu đố “nước ở bên đá chảy ra”.
9 Theo chữ Hán, chữ “hoa” trên là bộ “thảo”, dưới là chữ “hóa”. Tục truyền giống đom đóm là do cỏ mục hóa ra, tức là chữ “thảo” và chữ “hóa”, cho nên đố chữ “huỳnh”, đoán chữ “hoa” là đúng.
Mọi người thấy Bảo Cầm lấy đề ở những nơi cổ tích trong các tỉnh mà mình đã đi qua, làm thành mười bài tuyệt cú hoài cổ, trong thơ ám chỉ mười vật, nên đều nói “Thế thì rất là mới lạ!”
Rồi tranh nhau xem:
1. Xích Bích hoài cổ:
Xích Bích sông kia nước chẳng trôi,
Truyền trơ tên họ chở đi thôi.
Ầm ầm gió thảm theo làn khói,
Biết mấy hồn thiêng quẩn đấy rồi.
2. Giao Chỉ hoài cổ:
Cột đồng đứng vững với thành vàng,
Tiếng rộn ngoài xa khắp bốn phương.
Mã Viện từ đây công rất lớn.
Cần chi nhờ đến sáo Trương Lương?
3. Chung Sơn hoài cổ:
Lợi danh ai nỡ buộc vào thân?
Bỗng chốc lôi nhau xuống cõi trần.
Dùng dẳng suốt đời không dứt được,
Cho người chế giễu lại băn khoăn.
4. Hoài Âm hoài cổ:
Tráng sĩ nên ngừa chó cắn càn,
Vua Tề là lúc sắp vào quan.
Bảo cho đời tục đừng khinh vội,
Một bữa cơm khi chết vẫn ơn.
5. Quảng Lăng hoài cổ:
Ve kêu quạ đậu chóng làm sao,
Giờ cảnh đê Tùy cảnh thế nào?
Vì nỗi xa hoa xưa chiếm hệt,
Cho đời mai mỉa miệng nhao nhao.
6. Đào Diệp độ hoài cổ:
Hoa tàn cỏ héo đợi trên ao,
Rời rã cành đào với lá đào.
Người cũ Lục triều giờ vắng cả,
Ảnh đề chỉ thấy vách treo cao.
7. Thanh Trửng hoài cổ:
Sông hắc mênh mông khéo nghẹn dòng,
Khúc đầu gạn hệt nỗi đau lòng;
Ngán cho chế độ vua nhà Hán,
Cậy gạo muôn năm đáng thẹn thùng.
8. Mã Ngôi hoài cổ:
Phấn son lặng lẽ đẫm mồ hôi,
Thoắt giã thân kia xuống bể khơi.
Vì dấu phong lưu còn sót lại.
Áo quần khe ấy vẫn thơm hoài.
9. Bồ Đông tự hoài cổ:
Tiểu hồng hèn hạ phận tôi đòi,
Lẻn lút đưa đi ghép lứa đôi;
Thôi mẫu dù tra ra việc ấy,
Ả kia đã bị rủ đi rồi.
10. Mai Hoa quán hoài cổ:
Nếu không bên liễu cũng bên mai,
Ai vẽ thuyền quyên vẽ cũng tài.
Sum họp Xuân Hương đừng nghĩ vội,
Gió tây lại vắng một năm trời.
Mọi người xem xong đều khen haỵ Bảo Thoa nói:
– Sự tích tám bài đều có chép ở trong sử, còn hai bài cuối không có sách nào chép, chúng tôi không hiểu rõ, chi bằng làm lại hai bài khác thì hơn.
Đại Ngọc vội ngăn lại:
– Chị Bảo thật là “gắn phím gẩy đàn”, câu nệ vẽ vời quá. Dù trong sử sách không chép, các truyện ngoài cũng không nói đến, nên không biết đầu đuôi ra sao, nhưng chúng ta chẳng đã xem thấy ở hai vở hát là gì? Đến đứa trẻ lên ba cũng còn biết nữa là.
Thám Xuân nói:
– Chị nói phải đấy.
Lý Hoàn lại nói:
– Vả chăng sách không chép thật, nhưng chính cô ấy đã đi đến các nơi đó. Xưa nay thường hay đồn nhảm nghe nhảm, những kẻ muốn bới việc thường cố ý bày ra chuyện cổ tích để lừa dối người đời. Ví như năm trước tôi vào kinh, thấy ba, bốn chỗ là mộ Quan Công. Sự nghiệp Quan Công trong sử đều chép rõ, nhưng sao lại có nhiều mộ thế? Chắc là người đời sau kính mến nhân phẩm Quan Công khi còn sống, rồi từ chỗ kính mến ấy họ bày đặt ra đấy thôi. Khi xem đến bộ Quảng dư ký, không chỉ riêng Quan Công, cả những người có danh tiếng xưa nay cũng có nhiều mộ. Trong nhiều cổ tích không tra cứu vào đâu được. Hai bài thơ này tuy không có căn cứ thực, nhưng nghe người kể chuyện, hát tuồng, hay xem thẻ, cũng đều nói đến. Những câu tục ngữ trước cửa miệng, bất kỳ trẻ, già, trai, gái ai ai mà chả biết, chả nói được? Vả chăng, nó có phải sách nhảm như những vở kịch Mẫu đơn đình, Tây sương ký đâu mà sợ? Vì vậy cứ nên để lại hai bài thơ ấy cũng không sao.
Bảo Thoa nghe nói mới thôi. Mọi người đoán một lúc, đều không đúng cả.
Mùa đông ngày ngắn, đã đến bữa cơm chiều, mọi người đều đi ăn cả. Có người trình Vương phu nhân:
– Anh Tập Nhân là Hoa Tự Phương đứng ở ngoài trình mẹ hắn ốm nặng, nhớ con gái lắm. Vì vậy hắn đến xin cho em gái về thăm nhà.
Vương phu nhân nói:
– Đó là tình mẹ con, lẽ nào ta lại không cho nó về!
Rồi sai người đến bảo Phượng Thư thu xếp cho Tập Nhân. Phượng Thư vâng lời, về nhà sai vợ Chu Thụy đến dặn:
– Chị cùng một người đàn bà và hai đứa a hoàn nhỏ đi theo Tập Nhân về. Chị cắt bốn người có tuổi đi theo xe. Các chị ngồi xe lớn, còn bọn a hoàn ngồi xe nhỏ.
Vợ Chu Thụy sắp đi, Phượng Thư lại bảo:
– Tập Nhân xưa nay vẫn quen lối giản dị, chị nói rằng tôi bảo chị ấy phải mặc bộ quần áo lịch sự, mang theo một bọc quần áo to và đẹp, lồng ấp cũng phải đem cái đẹp. Khi sắp đi, chị bảo chị ta phải đến đây cho tôi xem.
Vợ Chu Thụy vâng lời đi.
Một lúc ăn mặc xong, Tập Nhân đến, hai a hoàn cùng vợ Chu Thụy mang lồng ấp và bọc quần áo theo sau. Phượng Thư thấy trên đầu Tập Nhân cài mấy cành thoa vàng giắt hạt châu, rất là lộng lẫy; mặc cái áo da chuột bạch thêu hoa đào, quần bông màu thông lục thêu kim tuyến, ngoài khoác áo da chuột đen trong lót đoạn xanh. Phượng Thư cười nói:
– Ba bộ quần áo này đều là của u cho chị, còn đẹp lắm; nhưng áo khoác thì xoàng quá, bây giờ lạnh chị nên mặc thêm một cái áo lông nữa.
Tập Nhân cười nói:
– Bà Hai vừa cho tôi cái áo da chuột đen, lại còn một cái áo da chuột bạch nữa, người bảo cuối năm sẽ thêm cái áo lông.
Phượng Thư cười nói:
– Tôi cũng có một cái áo lông, nhưng vì lông đã thò ra ngoài, không được đẹp, tôi đương định thay, nay tôi hãy để cho chị mặc. Đến cuối năm bà cho chị cái khác, tôi sẽ đổi. Như thế cũng coi như chị đã giả tôi rồi.
Mọi người đều cười nói:
– Mợ thì cứ quen nói thế. Ngày thường mợ hay rộng rãi, không biết đã phải bù đắp ngấm ngầm cho bà bao nhiêu rồi. Những khoản bù không đâu ấy còn tính toán với bà sao được. Bây giờ mợ lại đem những chuyện bủn xỉn nói ra để làm trò cười.
Phượng Thư nói:
– Khi nào bà nghĩ đến chuyện ấy. Thật ra nó cũng chả phải là việc chính. Nhưng nếu tôi không trông nom vào đấy, thì còn ra thể diện nhà đại gia sao được. Thà mình tôi chịu thiệt, để mọi người ăn mặc tử tế, miễn sao tôi cũng được tiếng tốt, chứ các chị ăn mặc xấu xí như con ma ấy, thì người ta cười tôi trước, bảo tôi cai quản trong nhà lại để các chị như ăn mày cả một lũ.
Mọi người đều than thở:
– Có ai sáng suốt được như mợ! Trên được lòng bà, dưới biết thương yêu người hầu.
Phượng Thư sai Bình Nhi mang cái áo màu thạch thanh thêu tám chùm hoa mặc ngày hôm trước ra, đưa cho Tập Nhân. Lại trông thấy cái bọc áo nhỏ màu xam xám lót lụa đỏ, trong bọc chỉ có hai cái áo da bọc lông đã mặc dở chừng và cái áo khoác bằng dạ Phượng Thư lại sai Bình Nhi đưa ra một cái bọc lụa màu trắng bọc thêm cái áo đi tuyết. Bình Nhi lấy ra một cái áo da vượn cũ màu đỏ, một cái nữa dệt bằng lông chim màu đỏ hơi rung rúc. Tập Nhân nói:
– Một cái còn không mang nổi nữa là.
Bình Nhi cười nói:
– Chị lấy cái áo da vượn này. Nhân tiện tôi lấy cái áo kia ra bảo người đưa cho cô Hình Tụ Yên. Hôm qua tuyết xuống nhiều, người ta ai cũng mặc áo da vượn, hoặc áo lông, hàng mười bộ quần áo, màu đỏ rọi xuống tuyết trắng, trông rất lịch sự! Chỉ có cô ta là mặc mấy cái quần áo cũ, xo vai rụt cổ, trông thực đáng thương! Giờ tôi mang cái áo này cho cô ấy.
Phượng Thư cười nói:
– Của tôi mà chị tự tiện mang cho người tạ Một mình tôi phung phí chưa đủ, lại còn thêm chị nhắc đi nữa, càng tốt.
Mọi người cười nói:
– Đó cũng là vì ngày thường mợ có bụng hiếu kính bà, thương yêu kẻ dưới; nếu mợ là người bủn xỉn, cái gì cũng cóp nhặt cho mình, không nghĩ đến kẻ dưới, thì cô ấy đâu dám như thế?
Phượng Thư cười nói:
– Cho nên có nó là biết lòng tôi ít nhiều thôi.
Nói xong, lại dặn Tập Nhân:
– Bà nhà chị khỏe thì thôi, nếu có mệnh hệ nào, chị cứ ở lại cho người về bảo tôi, tôi sẽ sai người mang chăn màn đến chọ Chị đừng nên dùng chăn màn và gương lược của ai.
Lại dặn vợ Chu Thụy:
– Chắc các chị đã biết khuôn phép nhà này rồi, tôi không phải dặn nhiều nữa.
Vợ Chu Thụy nói:
– Biết rồi ạ. Chúng tôi đến đấy, sẽ bảo người nhà họ phải tránh. Nếu cần ở lại, sẽ ở riêng một, hai gian buồng trong.
Nói xong, cùng Tập Nhân đi ra, lại dặn dò đám hầu nhỏ sắp sẵn đèn lồng, rồi lên xe đến nhà Hoa Tự Phương.
Phượng Thư lại gọi hai bà già ở viện Di Hồng đến bảo:
– Tập Nhân chưa về ngay được đâu. Ngày thường các người biết a hoàn lớn nào thạo việc thì sai đến trực đêm nhà chú Bảo. Các người phải trông nom cẩn thận, không được để chú ấy làm càn.
Hai bà già vâng lời đi ra, một lúc về trình:
– Đã cắt Tình Văn và Xạ Nguyệt ở trong nhà rồi, bốn người chúng tôi sẽ thay phiên nhau trực đêm.
Phượng Thư gật đầu, lại bảo:
– Tối đến bảo chú ấy phải đi ngủ sớm, sáng ra phải dậy sớm.
Bọn bà già vâng lời rồi về trong vườn.
Một lúc, vợ Chu Thụy về báo tin cho Phượng Thư biết:
– Mẹ Tập Nhân đã chết rồi, Tập Nhân không thể về được.
Phượng Thư đến trình Vương phu nhân, rồi sai người đến vườn Đại Quan lấy chăn nệm và hộp trang điểm của Tập Nhân. Bảo Ngọc trông cho Tình Văn, Xạ Nguyệt sửa soạn đâu vào đấy. Sau khi đưa người mang đi rồi, Tình Văn, Xạ Nguyệt cởi đồ trang sức và đi thay quần áo. Sau đó Tình Văn cứ ngồi sưởi ở cạnh lò. Xạ Nguyệt cười nói:
– Hôm nay chị đừng giở lối tiểu thư ra nữa, hãy mó tay vào việc một tí.
– Bao giờ các chị đi hết, tôi sẽ làm cũng chưa muộn. Có các chị Ở đây ngày nào, tôi hãy chơi cho thỏa ngày ấy đi.
– Chị Ơi, tôi đi trải giường đây, chị cao hơn tôi hãy bấm cái bấm ở trên đầu giá gương, để buông cái phủ gương xuống.
Nói xong, liền đi trải giường cho Bảo Ngọc. Tình Văn “hừ” một tiếng, cười nói:
– Người ta vừa mới ngồi ấm được một tí, chị lại đến quấy rầy!
Bấy giờ Bảo Ngọc đang ngồi buồn, nghĩ mẹ Tập Nhân không biết sống chết ra sao. Thấy Tình Văn nói thế, liền đứng ngay dậy, bấm cái nút cho vải phủ gương buông xuống, rồi đi đến cười nói:
– Tôi đã làm xong cả rồi, các chị cứ ngồi đấy cho ấm.
Tình Văn cười nói:
– Ngồi ấm mãi thế nào được. Tôi vừa nghĩ ra, còn chưa mang lồng ấp vào đây.
Xạ Nguyệt nói:
– Khen cho chị lại nghĩ đến điều đó. Ngày thường cậu ấy có dùng lồng ấp đâu, vì đã có lò sưởi, không lạnh như ở trong nhà trong, nên hôm nay không cần.
Bảo Ngọc cười nói:
– Đêm nay hai chị ngủ ở đằng này cả, bên ngoài chỗ tôi nằm không có người, tôi sợ lắm không ngủ được.
Tình Văn nói:
– Tôi ngủ ở đây, cậu bảo chị Xạ Nguyệt ra bên ngoài mà ngủ.
Khi nói chuyện thì đã hết canh hai, Xạ Nguyệt đã buông rèm màn xuống, cất đèn, thắp hương, sắp sửa cho Bảo Ngọc đi nằm, rồi hai người mới đi ngủ. Tình Văn ngủ ngay cạnh lò sưởi, Xạ Nguyệt ra ngủ ở ngoài noãn các.
Đến canh ba, Bảo Ngọc nằm mê, gọi Tập Nhân hai tiếng liền, không ai trả lời. Tỉnh dậy, biết là Tập Nhân không ở nhà.
Bảo Ngọc bật cười.
Tình Văn cũng tỉnh dậy gọi Xạ Nguyệt:
– Ngay cả tôi cũng đã tỉnh dậy. Thế mà nó nằm ngay ở bên cạnh đó lại không biết một tý gì, thật là cái thây chết!
Xạ Nguyệt giở mình ngáp dài, cười nói:
– Cậu gọi Tập Nhân, việc gì đến tôi.
Liền hỏi:
– Cậu cần gì?
– Tôi muốn uống nước.
Xạ Nguyệt dậy, chỉ mặc một cái áo bông lụa hồng. Bảo Ngọc nói:
– Khoác áo da của tôi mà đi, cẩn thận kẻo lạnh đấy.
Xạ Nguyệt nghe nói, quay lại khoác cái áo bằng da con rái cá lót bông của Bảo Ngọc, đi xuống rửa tay, rót một chén nước nóng, lấy ống nhổ cho Bảo Ngọc súc miệng, sau mới lấy chén ở tủ chè xuống, tráng qua nước sôi, rót nửa chén trà đưa cho Bảo Ngọc uống. Xạ Nguyệt cũng súc miệng, uống nửa chén nước. Tình Văn cười nói:
– Em ơi, cho chị một chén!
– Càng ngày chị càng lên mặt!
– Em ơi, tối mai em đừng làm gì, để chị hầu em cả đêm, có được không?
Xạ Nguyệt đành phải lấy nước súc miệng và rót nửa chén nước trà cho Tình Văn uống. Xạ Nguyệt cười nói:
– Cậu và chị Tình Văn đừng ngủ vội, hãy nói chuyện đi, tôi đi ra ngoài một lúc rồi về.
Tình Văn cười nói:
– Ngoài ấy có ma đang đợi em đấy.
Bảo Ngọc nói:
– Ngoài ấy trăng sáng lắm. Chúng tôi nói chuyện, chị cứ việc đi.
Vừa nói vừa ho mấy tiếng.
Xạ Nguyệt mở cửa đi ra đằng sau, vén màn nhung lên xem, thấy trăng sáng thực. Xạ Nguyệt đi ra, Tình Văn định chạy theo dọa đùa chơi. Tình Văn cậy mình xưa nay khỏe hơn mọi người, không sợ rét, chỉ mặc một cái áo lót, không mặc áo ngoài, rón rén bước khỏi lò sưởi. Bảo Ngọc ngăn lại:
– Thôi đi, trời rét đấy, không phải chuyện đùa đâu!
Tình Văn xua tay đi theo ra cửa, thấy trăng sáng lung linh. Bỗng có một cơn gió nhẹ, lạnh buốt đến xương, rởn cả gai ốc trong bụng nghĩ: “Chẳng trách người ta nói mình đương nóng không nên ra gió. Cơn gió này ghê thật!” Đương định dọa Xạ Nguyệt, thấy Bảo Ngọc ở trong gọi to:
– Chị Tình Văn ra đấy!
Tình Văn vội quay về cười nói:
– Nào đã dọa chết nó đâu? Cậu lại có vẻ lo lắng thắc thỏm như đàn bà ấy.
Bảo Ngọc cười nói:
– Không phải tôi sợ bị dọa chết chị ta đâu, một là chị bị lạnh không nên, hai là chị ta bất thình lình kêu lên, làm người khác giật mình tỉnh dậy, họ có biết là mình đùa đâu, lại cho là Tập Nhân mới đi vắng một đêm đã thấy ma thấy mãnh rồi. Chị đi lại kéo cái chăn lên cho tôi một tý.
Tình Văn chạy lại kéo chăn, rồi ủ ngay tay vào đó. Bảo Ngọc cười nói:
– Tay chị lạnh quá! Tôi đã bảo chị khéo bị rét mà!
Lại thấy hai má Tình Văn đỏ ửng lên, đặt tay vào, thấy lạnh giá. Bảo Ngọc nói:
– Mau mau vào chăn đây mà ủ đi.
Nói chưa dứt lời, thấy tiếng cửa kêu cạch một cái, Xạ Nguyệt hớt hải chạy vào cười nói:
– Tôi sợ đến rùng mình! Trông thấy cái gì như người chồm chỗm trong bóng tối ở đằng sau núi ấy. Tôi định kêu, té ra con gà rừng tọ Trông thấy người nó mới bay ra chỗ sáng. Nếu kêu bừa lên, lại làm ầm ĩ cả nhà.
Vừa nói vừa đi rửa tay, lại cười nói:
– Cậu bảo Tình Văn ra đấy, sao tôi không trông thấy nó. Chắc nó lại định ra dọa tôi chứ gì?
Bảo Ngọc cười nói:
– Chả phải chị ấy đương ủ ở trong chăn đấy à? Nếu tôi không gọi mau, thế nào chị cũng bị giật mình.
Tình Văn cười nói:
– Tôi không cần phải dọa, con ranh ấy đã sợ run lên rồi.
Vừa nói vừa chui vào trong chăn, Xạ Nguyệt nói:
– Chị cứ ăn mặc cụt lủn đi ra ngoài phải không?
Bảo Ngọc cười nói:
– Ăn mặc như thế mà cũng đi ra ngoài đấy!
Xạ Nguyệt nói:
– Chị thì chết cũng chả cần phải chọn ngày. Hãy ra đây đứng một lúc xem lại không rét xé da ra à?
Nói xong mở nắp lò sưởi ra, cầm cái gạt than vùi than hồng xuống, bỏ thêm hai viên nữa, đậy nắp lại, rồi đến sau bình phong khêu đèn lên, xong mới đi ngủ.
Tình Văn lúc nãy bị lạnh, bây giờ ấm lên, hắt hơi mấy tiếng. Bảo Ngọc thở dài:
– Thế nào? Lại bị cảm rồi đấy.
Xạ Nguyệt cười nói:
– Sớm dậy chị ta đã kêu khó chịu, cả ngày không muốn ăn cơm, bây giờ lại không biết giữ mình, còn định chòng ghẹo người tạ Ngày mai mà ốm thực là thân làm tội thân!
Bảo Ngọc hỏi:
– Đầu có nóng không?
Tình Văn ho hai tiếng, nói:
– Không can gì, đâu đã yếu ớt đến thế.
Bỗng đồng hồ nhà ngoài keng keng hai tiếng, bà già canh đêm ho, rồi nói:
– Các cô đi ngủ, mai hãy cười đùa.
Bảo Ngọc khẽ cười, nói:
– Chúng ta đừng nói chuyện nữa, kẻo họ lại nói cho đấy.
Hôm sau trở dậy, quả nhiên Tình Văn thấy mũi tắc, tiếng nặng, chân tay rời rạc. Bảo Ngọc nói:
– Đừng ai nói ầm lên đấy! Lỡ bà biết, lại bắt về nhà nghỉ. Ở nhà vẫn tốt, nhưng sợ lạnh, không bằng ở đây. Chị cứ vào nằm trong nhà, tôi sẽ cho người đi mời thầy thuốc lẻn vào cửa sau xem bệnh cho.
Tình Văn nói:
– Dù thế mặc lòng, cậu cũng nên nói cho mợ Cả biết. Nếu không chốc nữa thầy thuốc đến, mợ ấy hỏi sẽ nói thế nào?
Bảo Ngọc nghe nói có lý, liền gọi một bà già bảo:
– Bà đi trình với mợ Cả là chị Tình Văn chỉ bị cảm lạnh qua loa, không nặng đâu. Chị Tập Nhân đi vắng, nếu chị ấy về nhà nghỉ, ở đây không còn ai trông nom. Tôi sẽ cho mời một thầy thuốc đi luồn cửa sau vào xem bệnh cho chị ấy, đừng nên để bà Hai biết.
Bà già đi một lúc về nói:
– Mợ Cả dặn là cho uống hai thang thuốc, khỏi thì chớ, nếu không, nên cho chị ấy về nhà nghỉ. Thời tiết bây giờ không tốt, lây sang người khác không sao, chứ lây sang các cô thì rầy rà lắm.
Tình Văn nằm ở trong noãn các đương ho, nghe thấy thế, tức kêu rầm lên:
– Tôi có bị bệnh dịch đâu mà sợ lây đến người khác? Tôi thử đi ra khỏi chỗ này, xem các người suốt đời có nhức đầu chóng mặt hay không?
Rồi định trở dậy, Bảo Ngọc vội ngăn lại cười nói:
– Đừng nóng thế, đó là mợ ấy sợ bà biết sẽ bị mắng, nên dặn qua đấy thôi. Chị xưa nay tính hay gắt, chắc bị bốc hỏa lên rồi.
Ngay lúc ấy có người vào trình “Thầy thuốc đã đến”. Bảo Ngọc đứng dậy nép vào đằng sau tủ sách. Mấy bà già ở cửa sau, đưa thầy thuốc vào. A hoàn ở trong nhà đều lẩn đi hết, mấy bà già buông màn thêu màu hồng ở noãn các xuống. Tình Văn nằm ở trong màn thò tay ra. Thầy thuốc trông thấy tay có để hai móng dài độ hai, ba tấc, nhuộm màu hoa kim phượng, liền quay đầu đi. Bà già vội mang một mảnh lụa che lên taỵ Thầy thuốc bắt mạch một lúc rồi ra nhà ngoài bảo bọn bà già:
– Bệnh của tiểu thư là ngoại cảm nội trệ. Mấy hôm nay thời tiết không tốt, chắc là bị cảm hàn xoàng thôi. May tiểu thư ngày thường ăn uống điều dộ, bệnh không đến nỗi nặng lắm, chẳng qua vì khí huyết yếu sẵn, nên cho uống vài thang sơ tán là khỏi.
Bấy giờ Lý Hoàn đã sai người bảo a hoàn ở cổng sau và các nơi tránh đi, nên thầy thuốc thấy trong vườn không có một người con gái nào. Một chốc ra cửa vườn, vào ngồi ở buồng canh của bọn hầu nhỏ để kê đơn. Bà già nói:
– Thầy đừng đi vội, cậu Hai tôi tính hay lôi thôi, sợ còn muốn hỏi gì chăng.
Thầy thuốc vội hỏi:
– Vừa rồi không phải là cô, mà là cậu à? Nhà ấy là buồng thêu, buông màn xuống để xem mạch, sao lại bảo là cậu.
Bà già cười nói:
– Thầy ơi! Thảo nào đứa bé vừa nói: Hôm nay mời một thầy thuốc mới đến xem mạch, nên người không biết trong nhà chúng tôi! Nhà ấy là nhà của cậu tôi, còn người bị bệnh là a hoàn trong nhà, lại là “đại thư” kia đấy, có phải là buồng thêu của tiểu thư nào đâu? Nếu tiểu thư ốm, thày đâu lại được vào dễ dàng như thế?
Nói xong cầm đơn thuốc đi.
Bảo Ngọc xem đơn, thấy có kê các vị tử tô, cát cánh, phòng phong, kinh giới; sau lại kê chỉ thực, ma hoàng. Bảo Ngọc liền nói:
– Chết thật! Hắn chữa bệnh cho con gái như là chữa cho con trai vậy, dùng thế nào được? Chị ấy có uất trệ chăng nữa, cũng không được dùng chỉ thực, ma hoàng. Ai mời hắn thế? Tống cổ ngay nó đi! Mời một thầy thuốc quen đến đây.
Bà già nói:
– Tôi không biết thuốc thày này có hay gì không. Bây giờ sai đứa hầu nhỏ đi mời thầy thuốc họ Vương đến cũng được. Nhưng còn thày này, thế nào cũng phải trả tiền xe cho họ, vì khi mời không nói cho phòng tổng quản biết.
– Giả cho nó bao nhiêu?
– Giả ít không tiện, xoàng ra cũng phải một lạng mới đúng lẽ của nhà ta.
– Trả thầy thuốc họ Vương bao nhiêu?
– Thầy thuốc họ Vương và thầy thuốc họ Trượng, mỗi khi đến xem bệnh, không phải trả tiền vặt, chẳng qua một năm bốn mùa, đưa lễ một lần thôi, đó là lệ nhất định hàng năm, còn thày này mới đến, nên trả cho họ một lạng.
Bảo Ngọc liền sai Xạ Nguyệt đi lấy tiền. Xạ Nguyệt nói
– Không biết chị Hoa cất ở đâu.
– Tôi vẫn thấy chị ấy lấy tiền ở cái hòm khảm xà cừ nhỏ, tôi và chị đi tìm xem.
Hai người vào buồng để đồ đạc của Tập Nhân, mở hòm khảm ra, thấy ngăn trên để bút mực, quạt, bánh hương túi và khăn mặt; ngăn dưới để mấy chuỗi tiền. Mở ngăn kéo ra, thấy trong hộp nhỏ có mấy cục bạc và một cái cân tiểu lỵ Xạ Nguyệt lấy một cục bạc và cái cân, hỏi Bảo Ngọc:
– Cái hoa một lạng ở chỗ nào?
– Chị hỏi tôi hay thật, cứ làm như là người mới đến ấy.
Xạ Nguyệt cũng cười, rồi định đi hỏi người khác. Bảo Ngọc nói:
– Chọn cục nào to nhất trả cho hắn. Đây không phải là buôn bán, tính toán làm gì!
Xạ Nguyệt nghe nói, bỏ cân xuống, chọn một cục, nhấc đi nhấc lại, cười nói:
– Có nhẽ cục này một lạng đây. Thà cho hơn một tí, kẻo thầy kiết ấy không cười chúng ta không biết cân, lại cho là chúng ta bủn xỉn.
Bà già đứng ở cửa cười nói:
– Đó là một thỏi năm lạng, đã cắt đi một nửa rồi, cục này ít nhất cũng phải hai lạng đấy! Giờ không có dao chặt, cô hãy cất nó đi, chọn một cục nào nhỏ hơn.
Xạ Nguyệt đã khóa hòm, đi ra cười nói:
– Ai còn tìm được nữa, nhiều ít bà cũng cứ mang đi cho xong!
Bảo Ngọc nói:
– Bảo Dính Yên đi mời thầy thuốc khác đến.
Bà già cầm lấy cục bạc đi ra. Một lúc Dính Yên mời thầy thuốc họ Vương đến, ông ta trước xem mạch, sau gọi bệnh, khác hẳn thầy thuốc lúc nãy.
Trong đơn quả nhiên không có những vị chỉ thực, ma hoàng, lại kê những vị đương quy, trần bì, bạch thước, đồng cân đồng lạng cũng bớt hơn đơn trước. Bảo Ngọc vui mừng nói:
– Đây mới là thuốc cho con gái uống. Tuy có sơ tán, nhưng không mạnh quá. Năm ngoái tôi cũng bị cảm hàn, ăn uống không tiêu, ông ta xem mạch xong, bảo tôi không nên dùng những vị thuốc hùm thuốc beo như ma hoàng, thạch cao, chỉ thực. Tôi và các chị cũng như hoa hải đường trắng mới nở mà mùa thu vừa rồi cháu Vân đem đến biếu ấy. Tôi còn không dùng, thì các chị dùng thế nào được? Cũng như những cây dương lớn, người ta trồng ở trên mả, cành lá xanh tốt thực, nhưng ruột thì rỗng.
Xạ Nguyệt cười nói:
– Mồ mả ngoài đồng không lẽ chỉ có cây dương, mà không có cây tùng cây bách à? Người ta ghét nhất là cây dương, cây to như thế lại chỉ có một tí lá. Không có một tí gió nào, nó cũng cứ rào rào luôn. Thế mà cậu cứ so sánh với cây dương, thực là hèn quá!
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi không dám ví với tùng bách. Ngay Khổng Tử cũng còn nói “năm rét mới biết tùng bách héo sau” 1. Tùng bách là hai thứ cây cao nhã, người không biết xấu hổ mới đem nó ra ví bậy thôi.
Nói xong, thấy bà già mang thuốc về, Bảo Ngọc sai lấy cái ấm bạc đến, sắc ngay ở lò sưởi. Tình Văn nói:
– Cứ đưa cho phòng trà họ sắc! Chứ sắc ở đây mùi thuốc xông lên, chịu thế nào được.
Bảo Ngọc nói:
– Mùi thuốc còn thơm hơn các mùi hoa đấy! Ngay thần tiên còn hái thuốc, sắc thuốc, bậc cao nhân dật sĩ cũng hái thuốc trị bệnh nữa là. Thuốc là một thứ rất quí! Tôi nghĩ trong nhà này mùi thơm gì cũng có, chỉ còn thiếu mùi thuốc thôi, bây giờ có đủ cả.
Bảo Ngọc lại bảo Xạ Nguyệt sắp sửa các thứ, sai bà già đưa cho Tập Nhân, khuyên bảo chị ta ít khóc chứ. Mọi việc xong xuôi, Bảo Ngọc mới sang bên Giả mẫu và Vương phu nhân hỏi thăm rồi ăn cơm.
Phượng Thư bàn với Giả mẫu và Vương phu nhân:
– Ngày vừa ngắn, vừa lạnh, từ nay trở đi, chị Cả cứ cho các cô ăn cơm ở trong vườn. Khi nào trời ấm sẽ sang đây cũng được.
Vương phu nhân cười nói:
– Chị bàn thế phải đấy. Khi có gió tuyết cũng tiện. Bụng vừa đói vừa lạnh, lại ăn thức ăn vào, không tốt lắm đâu. Chi bằng lấy năm gian nhà ở phía sau cửa vườn và hai người trong bọn đàn bà canh đêm ở bên ấy ra thổi nấu cho chị em họ ăn. Các thứ rau tươi đã chia phần rồi, do phòng tổng quản chi ra, hoặc lấy tiền, hoặc lấy món ăn. Còn các thứ dã vị như gà rừng, hươu, nai… cứ chia phần cho họ là được.
Giả mẫu nói:
– Ta cũng muốn thế, nhưng sợ thêm bếp lại thêm việc.
Phượng Thư nói:
– Cũng chẳng thêm việc gì đâu, bên này thêm thì bên kia bớt đi. Nếu sợ bận việc để các cô ấy bị lạnh, người khác còn khá, chứ em Lâm thì chịu làm sao được? Ngay cả chú Bảo cũng không thể chịu nổi. Vả chăng, tất cả các cô chẳng ai được mạnh.
Giả mẫu nói:
– Phải đấy. Lần trước ta cũng định nói, nhưng vì thấy các người bận nhiều việc. Nay lại thêm việc này ra, tuy các người không dám oán trách gì, nhưng sẽ cho ta chỉ biết thương lũ cháu nhỏ, không nghĩ đến các người phải bận rộn việc nhà. Chị đã nói thế thì làm ngay đi.
Lúc ấy Tiết phu nhân và thím Lý đều ngồi ở đấy, Hình phu nhân và Vưu Thị cũng đến hỏi thăm chưa về. Giả mẫu bảo Vương phu nhân:
– Câu này ta để bụng từ lâu, nay mới nói ra: một là, ta sợ con Phượng lên mặt, hai là sợ mọi người không phục. Bây giờ các người đều ở đây, cũng đã từng qua cảnh làm dâu làm con cả, liệu có ai nghĩ được chu đáo như nó không?
Tiết phu nhân, thím Lý và Vưu Thị đều cười nói:
– Thực là hiếm có! Người khác chỉ nói khéo bề ngoài thôi, chứ thím ấy mới thực biết thương đến các cô các chú, biết hiếu thuận với cụ.
Giả mẫu gật đầu nói:
– Tôi tuy thương nó, nhưng lại sợ nó sắc sảo quá cũng không tốt đâu.
Phượng Thư vội cười nói:
– Bà nói nhầm rồi. Người ta thường nói: thông minh sắc sảo quá sợ không sống lâu. Nói thế rồi tin là thế. Nhưng chỉ có bà là không nên nói thế và cũng không nên tin thế. Bà thông minh sắc sảo gấp mười cháu, sao lại được phúc thọ song toàn như thế? Có lẽ ngày sau cháu lại còn được hơn bà nữa kia. Cháu sẽ sống một nghìn tuổi, chờ khi bà về chầu trời rồi cháu mới chết.
Giả mẫu cười nói:
– Mọi người đều chết, chỉ trơ lại bà cháu ta là hai con yêu già, còn có gì là thú nữa!
Mọi người ra về, riêng có chị em Bảo Thoa ở lại ăn cơm với Giả mẫu. Bảo Ngọc chợt nhớ đến Tình Văn, liền về vườn trước. Vừa đến nhà, thấy mùi thuốc thơm sực, không có một người nào, chỉ trơ Tình Văn nằm ở trên giường, mặt đỏ bừng, người nóng giật. Bảo Ngọc đến lò sưởi hơ tay rồi thò vào chăn sờ trên người Tình Văn thấy nóng như lửa, liền nói:
– Người khác bỏ đi cũng được, chứ Xạ Nguyệt, Thu Văn sao lại vô tình bỏ cả đi thế?
Tình Văn nói:
– Thu Văn thì tôi bảo đi ăn cơm, còn Xạ Nguyệt thì chị Bình vừa đến tìm đi. Hai người thậm thụt, không biết nói gì. Chắc họ nói chuyện tôi ốm, không chịu dời ra khỏi nhà này chứ gì.
Bảo Ngọc nói:
– Chị Bình không phải là người như thế đâu. Vả chăng chị ta không biết chị Ốm, chắc tìm Xạ Nguyệt để nói chuyện gì đấy, ngẫu nhiên thấy chị Ốm, liền thuận miệng nói là đến thăm chị, đó cũng là câu chuyện mà người ta hay xử khéo đấy thôi. Chị không chịu dời khỏi nhà này có can gì đến chị ấy. Các chị xưa nay vẫn tử tế với nhau, quyết không nên vì chút việc không đâu để mất tình thân.
Tình Văn nói:
– Cậu nói phải đấy, nhưng chỉ ngờ tại sao tự nhiên chị ta lại giấu tôi?
– Để tôi ra phía cửa sau, đứng dưới cửa sổ nghe xem họ nói những gì, sẽ về bảo chị.
Nói xong, Bảo Ngọc đi ra cửa sau, đứng nấp dưới cửa sổ nghe, thấy Xạ Nguyệt khẽ hỏi:
– Làm sao mà chị lại tìm được?
Bình Nhi nói:
– Hôm ấy, khi rửa tay không thấy, mợ Hai không cho nói ra. Khi ra khỏi vườn, liền truyền ngay cho bọn bà già ở các nơi phải hết lòng dò xét. Chúng tôi chỉ ngờ cho a hoàn của cô Hình, vì nó vốn nghèo, từ bé không trông thấy cái vòng ấy bao giờ, nên nghĩ có nhẽ nó lấy, không ngờ lại là người ở bên nhà các chị. Hôm ấy già Tống bên này cầm cái vòng đến, bảo là con hầu nhỏ Trụy Nhi ăn cắp, già ấy trông thấy, định đến trình với mợ Hai, may mợ ấy không có nhà. Tôi vội cầm lấy vòng, nghĩ cậu Bảo lúc nào cũng để ý đến các chị, muốn cho hơn người. Năm trước có con Lương ăn trộm ngọc, việc này đã bẵng đi hai năm, những lúc rỗi vẫn có người nhắc đến cho hả dạ. Bây giờ lại xảy ra một con ăn trộm vòng vàng, mà lại ăn trộm của người nhà. Cậu ấy thì thế, mà người nhà lại làm cái việc “vả vào miệng mình”. Vì thế tôi phải dặn dò già Tống, nhất thiết không được nói cho cậu Bảo biết, cũng không nên nói với người khác nữa, cứ im đi như không, nếu cụ và bà Hai biết, người sẽ nổi giận. Hơn nữa, chị Tập Nhân và các chị cũng đâm ngượng mặt. Cho nên tôi chỉ trình mợ Hai rằng: Khi sang bên mợ Cả về, không ngờ cái vòng tuột ra, rơi xuống bãi cỏ, tuyết phủ lên không tìm thấy. Nay tuyết tan, nắng chiếu xuống, màu vàng đỏ ối, thì nó vẫn còn đấy, tôi lại tìm được. Mợ Hai cũng tin thế, nên tôi đến bảo các chị: từ nay trở đi phải để ý không nên sai nó đi đâu. Đợi chị Tập Nhân về, các chị bàn với nhau tìm cách đuổi nó đi là xong.
Xạ Nguyệt nói:
– Con ranh ấy đã trông thấy những của ấy rồi, làm sao còn híp mắt lại!
– Cái vòng ấy có nặng bao nhiêu đâu! Nguyên là của mợ Hai, gọi là vòng râu tôm, chỉ có hạt châu nặng thôi. Con ranh Tình Văn tính nóng như lửa, nếu nó biết sẽ không nhịn được đâu. Nó cáu lên sẽ lại đánh mắng làm to chuyện. Vì thế tôi chỉ bảo riêng chị phải để ý đấy thôi.
Nói xong Bình Nhi ra về.
Bảo Ngọc nghe nói, vừa mừng, vừa giận, vừa than thở: mừng vì Bình Nhi biết thể tất bụng mình; giận vì con Trụy Nhi ăn cắp; than thở vì con Trụy Nhi người lanh lẹn như thế lại làm những việc xấu xạ Bảo Ngọc về buồng kể hết những lời của Bình Nhi cho Tình Văn nghe, rồi nói:
– Chị Bình bảo chị nóng tính, lại đang ốm, nghe thấy sợ Ốm thêm, vì vậy chờ chị khỏi sẽ nói.
Tình Văn giận quá, mày ngài dựng ngược, mắt phượng tròn xoe, muốn gọi ngay con Trụy Nhi đến, Bảo Ngọc khuyên:
– Bây giờ lại làm ầm lên thì chẳng hóa ra phụ lòng chị Bình đối với tôi và chị hay sao? Chi bằng hãy nhận lấy tấm lòng tốt của chị ấy, rồi sau tìm cách đuổi nó đi là xong.
– Việc ấy có gì đáng tức? Chị cứ nên tĩnh dưỡng đi.
Tình Văn uống nước thuốc thứ hai, đến đêm tuy ra được ít mồ hôi, nhưng chưa thấy bớt, người vẫn nóng hực, nhức đầu, ngạt mũi, nặng tiếng. Hôm sau thầy thuốc họ Vương lại đến xem mạch, gia giảm một vài vị. Nóng tuy đỡ nhưng đầu vẫn nhức. Bảo Ngọc liền bảo Xạ Nguyệt lấy thuốc xông mũi đến cho Tình Văn ngửi, nếu hắt hơi được mấy cái thì nhẹ ngaỵ Xạ Nguyệt đi lấy cái hộp pha lê nhỏ giát vàng đưa cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc mở ra, thấy hình một cô gái bé tóc vàng, mình trần, hai bên nách lại có cánh, trong đó đựng thuốc tây hạng tốt nhất. Tình Văn chỉ mải nhìn hình cô gái, Bảo Ngọc nói:
– Ngửi đi, để hả hơi thì không tốt.
Tình Văn liền lấy móng tay khêu một tí để vào mũi chẳng thấy gì, lại khêu thêm một tí nữa, ngửi thấy một mùi cay gắt xông lên tận óc, hắt hơi năm sáu cái liền, nước mắt nước mũi chảy giàn giụa. Tình Văn cất hộp đi, cười nói:
– Cay lắm! Không chịu được! Cho tôi ít giấy.
A hoàn nhỏ đã mang sẵn tập giấy đến. Tình Văn lấy từng tờ ra hỉ mũi.
Bảo Ngọc cười hỏi Tình Văn:
– Thế nào?
– Dễ chịu hơn. Nhưng thái dương hãy còn nhức.
– Cứ chữa thuốc tây có lẽ khỏi đấy.
Nói xong Bảo Ngọc liền bảo Xạ Nguyệt:
– Chị đến đằng mợ Hai bảo là tôi nói: “Đằng ấy thường có thứ thuốc cao “Y phơ na” của ngoại quốc dùng để chữa nhức đầu cho tôi một ít.”
Xạ Nguyệt vâng lời đi một lúc, cầm nửa miếng về. Rồi lấy một mảnh lụa hồng, cắt hai miếng tròn bằng đầu ngón tay, hơ cho thuốc cao chảy, lấy trâm dàn mỏng ra, Tình Văn soi gương rồi xoa lên hai bên thái dương. Xạ Nguyệt cười nói:
– Ốm như con ma bù đầu, bây giờ dán cái này lên, xem lại có vẻ xinh! Mợ Hai dán luôn trông quen mắt nên không khác mấy.
Xạ Nguyệt lại nói với Bảo Ngọc:
– Mợ Hai bảo: ngày mai là sinh nhật ông cậu, bà bảo cậu phải đi dự lễ. Vậy cậu định mặc quần áo gì, để tôi sắp sẵn; sớm mai khỏi phải bận.
– Tiện cái gì thì mặc cái ấy thôi. Quanh năm chỉ bận về sinh nhật, biết bao giờ cho xong.
Bảo Ngọc đứng dậy đi đến nhà Tích Xuân xem vẽ. Vừa đến ngoài cửa, thấy a hoàn của Bảo Cầm là Tiểu Loa ở đằng kia đi tới, Bảo Ngọc vội chạy đến hỏi:
– Chị đi đâu?
– Hai cô tôi đều ở cả bên nhà cô Lâm, giờ tôi cũng đi sang đó.
Bảo Ngọc nghe nói, cùng Tiểu Loa quay sang quán Tiêu Tương, gặp cả chị em Bảo Thoa và Tụ Yên đều ở đây. Bốn người đương ngồi xung quanh lò sưởi nói chuyện việc nhà việc cửa. Tử Quyên thì ngồi thêu ở trước cửa sổ noãn các. Trông thấy Bảo Ngọc, mọi người cười nói:
– Lại thêm một người nữa. Không có chỗ cho anh ngồi đâu.
Bảo Ngọc cười nói:
– Thật là một bức tranh đồng khuê tập diễm! 1 Rất tiếc tôi đến chậm quá! Nhưng dầu sao nhà này cũng ấm hơn các nhà khác, ngồi ở ghế cũng không thấy lạnh.
Nói xong liền ngồi vào chỗ Đại Ngọc thường ngồi, là chỗ ghế dựa có trải tấm đ chuột giọ Nhân thấy trong noãn các có một cái chậu bằng ngọc thạch, trong chậu trồng mấy cụm thủy tiên giống một giò, chỗ nhặt chỗ thưa, Bảo Ngọc khen nức nở:
– Hoa này đẹp nhỉ! Nhà này càng ấm, mùi hoa càng đượm! Tại sao hôm qua tôi không trông thấy?
Đại Ngọc cười nói:
– Đó là vợ Lại Đại, tổng quản nhà anh, cho cô Bảo Cầm, có hai chậu thủy tiên, hai chậu lạp mai. Cô ấy đem cho em một chậu thủy tiên, cho cô Thám một chậu lạp mai. Em vốn không muốn lấy, lại sợ phụ lòng cô ấy. Giờ anh thích, xin biếu lại anh, có được không?
– Ở nhà anh cũng có hai chậu, nhưng không đẹp bằng chậu này. Cô Bảo Cầm đã cho em, sao em lại cho người khác? Không thể thế được.
– Em ngày nào cũng không rời khỏi lò thuốc, đã quen mùi thuốc lắm rồi, lại còn ngạt thêm mùi hoa nữa thì chịu sao nổi, chỉ tổ ốm thêm thôi. Vả chăng nhà này sực những mùi thuốc làm hỏng mất mùi hoa đi. Anh mang về bên ấy để cho hoa được trong sạch, không bị mùi khác lẫn vào.
– Nhà anh hôm nay cũng có người ốm, đương sắc thuốc đấy. Em không biết à?
– Anh nói mới lạ chứ. Em vô tình nói câu ấy, chứ biết đâu được việc bên anh? Anh không đến sớm mà nghe truyện cổ tích, bây giờ lại ra vẻ nhớn nhơ nhớn nhác.
– Ngày mai chúng ta mở thi xã, lại có đầu bài rồi, cứ vịnh ngay thủy tiên và lạp mai là được.
– Thôi, thôi! Em không dám làm thơ nữa, làm lần nào cũng bị phạt, thực xấu hổ quá.
Nói xong liền giơ tay che mặt. Bảo Ngọc cười nói:
– Việc gì lại đem anh ra làm trò đùa? Chính anh còn chưa sợ xấu hổ mà em lại che mặt đi.
Bảo Thoa cười nói:
– Lần sau tôi sẽ mời họp thi xã, có bốn đầu bài thơ, và bốn đầu bài từ, ai nấy đều phải làm hết. Đầu bài thơ là Vịnh đồ thái cực, hạn vần nhất tiên, thơ ngũ ngôn, bao nhiêu chữ ở trong vần nhất tiên phải làm hết, không được bỏ sót một chữ nào.
Bảo Cầm cười nói:
– Nghe đã đủ biết chị không thích mời họp thi xã rồi, rõ ràng là chị tìm cách làm khó cho người ta thôi. Như vậy là gò ép chỉ lấy những câu ở trong kinh Dịch xoay đi xoay lại mà điền bừa vào, còn thú gì nữa! Khi tôi lên tám tuổi, theo cha tôi sang miền bể tây mua hàng. Ngờ đâu ở đó có một cô gái nước Chân Chân, mới mười lăm tuổi, nét mặt đẹp như một vị mỹ nhân ở bức tranh vẽ của phương tây, tóc vàng, tết hai đuôi sam, trên đầu cài đầy những mã não, san hô, ngọc mắt mèo và ngọc xanh, mình mặc áo giáp dệt kim tuyến, tay áo bầng gấm, đeo dao găm có bịt vàng khảm ngọc. Thực ra người vẽ trong bức tranh cũng không đẹp bằng! Có người nói cô ta thạo chữ Trung Quốc, giảng được nghĩa ngũ Kinh, biết làm thơ và điền từ. Vì thế, cha tôi nhờ một người thông ngôn, xin viết cho một bài thơ do cô ta làm.
Mọi người đều lấy làm lạ. Bảo Ngọc cười nói:
– Em ơi, mang ngay ra đây cho anh xem.
Bảo Cầm nói:
– Em còn để ở Nam Kinh, lấy thế nào được.
Bảo Ngọc nghe nói, rất lấy làm thất vọng, liền nói:
– Thực là vô phúc, tôi không được trông thấy của quí trên đời!
Đại Ngọc cười kéo Bảo Cầm, nói:
– Em đừng nói dối chúng tạ Chắc khi đến đây thế nào em cũng mang theo những thứ ấy đi, không khi nào lại để ở nhà. Ai thì tin, chứ chị không bao giờ tin đâu.
Bảo Cầm đỏ mặt lên, cúi đầu mỉm cười không nói gì. Bảo Thoa cười nói:
– Chỉ có cô Tần mới quen nói những câu như thế. Kể mày cũng tinh ranh quá lắm đấy!
Đại Ngọc cười nói:
– Em đã mang đến đây thì cho các chị xem với.
Bảo Thoa cười nói:
– Một đống hòm xiểng hãy còn bỏ lổng chổng ở đó. Chưa thu xếp xong, đã biết ở đâu mà tìm? Để ít lâu thu dọn xong, sẽ lấy ra cho mọi người xem.
Lại bảo Bảo Cầm:
– Nếu em còn nhớ, sao không đọc cho các chị nghe?
Bảo Cầm nói:
– Em nhớ bài thơ ấy là một bài ngũ ngôn. Con gái nước ngoài mà biết được như thế cũng là hiếm có đấy.
Bảo Thoa nói:
– Em đừng đọc vội, gọi cả chị Vân đến đây nghe một thể.
Liền bảo Tiểu Loa:
– Mày sang bên nhà, nói là có một mỹ nhân nước ngoài đến chơi, làm thơ giỏi lắm, mời cô “điên thơ” sang nghe, và dắt cả con “ngốc thơ” sang nữa.
Tiểu Loa cười rồi đi. Một lúc nghe thấy Tương Vân cười, hỏi:
– Mỹ nhân nước ngoài nào đến đấy?
Vừa nói, vừa cùng Hương Lăng đi vào. Mọi người cười nói:
– Chưa thấy mặt đã thấy tiếng rồi.
Bảo Cầm mời ngồi, rồi đem câu chuyện lúc nãy kể lại cho hai người nghe. Tương Vân cười nói: “Đọc mau lên”.
Bảo Cầm đọc:
Lầu son đêm trước mơ màng,
Đêm nay thơ lại ngâm vang trong thuyền.
Bể khơi ngùn ngụt mây đen,
Quẩn quanh khí núi tỏa trên rừng dày.
Trăng kia xưa vẫn thế này,
Bể tình sao lại khi đầy khi vơi.
Hán Nam trải mấy xuân rồi,
Lòng này thắc thỏm dễ nguôi được nào. 2
Mọi người nghe xong, đều nói: “Khó được có người như thế! Giỏi hơn cả người Trung Quốc chúng ta!”
Nói chưa dứt lời, thì Xạ Nguyệt chạy đến thưa:
– Bà sai người đến bảo cậu Hai sáng mai phải sang bên ông cậu, nói là bà không được khoẻ, nên không sang được.
– Chúng tôi không đi. Hôm qua đã cho mang đồ lễ sang rồi.
Mọi người nói chuyện một lúc rồi mới về.
Bảo Ngọc nhường chị em đi trước, còn mình ở lại sau. Đại Ngọc gọi Bảo Ngọc lại hỏi:
– Tập Nhân độ bao giờ thì về?
– Chắc phải chờ tống táng xong.
Đại Ngọc còn muốn nói nữa, nhưng không nói ra được, đứng ngẩn người một lúc, rồi nói:
– Thôi anh về đi.
Bảo Ngọc cũng cảm thấy trong bụng có nhiều điều muốn nói, nhưng không biết nói thế nào, nghĩ một lúc, cười nói:
– Thôi có chuyện gì ngày mai sẽ hay.
Bảo Ngọc xuống thềm, cúi đầu định đi, nhưng lại quay lại hỏi:
– Bây giờ đêm càng dài, một đêm em ho mấy lần? Tỉnh dậy mấy lần?
Đại Ngọc nói:
– Đêm qua đã đỡ rồi, chỉ ho có vài lần thôi, nhưng ngủ được có một trống canh tư, đã lại dậy rồi.
Bảo Ngọc cười nói:
– Anh có câu chuyện quan hệ muốn nói, bây giờ mới nhớ ra.
Vừa nói, Bảo Ngọc vừa ghé lại gần, khẽ bảo:
– Anh nghĩ đến việc chị Bảo Thoa cho em yến sào…
Chợt thấy dì Triệu đến thăm Đại Ngọc:
– Mấy hôm nay cô đã đỡ chưa?
Đại Ngọc biết ngay là dì Triệu ở bên Thám Xuân về, qua đó tiện đường rẽ vào hỏi lấy lệ, liền mời ngồi, rồi nói:
– Cám ơn dì nhớ đến cháu, trời lạnh thế mà cũng đến.
Rồi bảo pha nước và đưa mắt cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc hiểu ý liền đi ra.
Đến bữa cơm chiều, Vương phu nhân lại dặn Bảo Ngọc mai phải đi sớm. Bảo Ngọc về nhà, trông cho Tình Văn uống thuốc. Đêm hôm ấy, Bảo Ngọc vẫn để Tình Văn ngủ trong noãn các, tự mình đến ngủ phía ngoài Tình Văn. Bảo Ngọc lại sai mang lò sưởi ra phía trước noãn các. Xạ Nguyệt ngủ ngay ở cạnh lò sưởi.
Sớm hôm sau, trời chưa sáng, Tình Văn đã gọi Xạ Nguyệt “Dậy đi thôi ngủ mãi chưa chán à. Em ra bảo người sắp trà nước cho cậu Bảo, rồi chị đánh thức cậu ấy dậy thì vừa”. Xạ Nguyệt vội mặc áo đứng dậy, nói:
– Chúng ta hãy gọi cậu ấy dậy thay quần áo, phải khênh lò sưởi đi, rồi hãy gọi bọn bà già vào; vì họ thường nói, không nên cho cậu ấy ngủ ở trong nhà này, sợ bị lây bệnh. Bây giờ thấy chúng ta ngủ cả một chỗ, chắc họ lại eo sèo.
Tình Văn nói:
– Chị cũng nghĩ thế.
Hai người vừa mới gọi, thì Bảo Ngọc đã tỉnh, vội đứng dậy mặc quần áo. Xạ Nguyệt sai bọn hầu nhỏ đến thu xếp đâu vào đấy mới sai bọn Thu Văn vào hầu. Bảo Ngọc rửa mặt chải đầu xong, Xạ Nguyệt nói:
– Trời u ám lắm, chỉ sợ có tuyết, cậu nên mặc thêm một cái áo da nữa.
Bảo Ngọc gật đầu, liền đi thay quần áo. A hoàn nhỏ để chén nước trà sen Phúc Kiến vào cái khay bưng lên, Bảo Ngọc uống hai ngụm. Xạ Nguyệt lại mang đến cái đĩa nhỏ đựng gừng chế, Bảo Ngọc nhấm một miếng, dặn dò Tình Văn, rồi sang bên Giả mẫu.
Giả mẫu chưa dậy, nhưng biết Bảo Ngọc đã đến, liền sai mở cửa gọi vào, Bảo Ngọc thấy Bảo Cầm nằm sau lưng Giả mẫu, quay mặt vào trong chưa dậy. Thấy Bảo Ngọc mặc cái áo chẽn bằng lụa dệt lông màu hồng thẫm, ngoài khoác áo da vượn màu đỏ kép đoạn, Giả mẫu hỏi:
– Có tuyết đấy à?
– Nặng trời lắm, nhưng chưa có tuyết.
Giả mẫu liền gọi Uyên Ương đến bảo:
– Mang cái áo lông công hôm nọ ra cho cậu mặc.
Uyên Ương vâng lời đem đến, Bảo Ngọc trông thấy cái áo màu vàng choáng lộn, màu xanh lấp lánh, không giống cái áo thêu đàn le của Bảo Cầm. Giả mẫu cười nói:
– Áo này gọi là tước kim nê, người nước Nga La Tư dệt bằng sợi lông công đấy. Hôm nọ cho em cháu cái áo lông vịt trời còn cái này thì để cho cháu.
Bảo Ngọc cúi đầu tạ Ơn, rồi mặc vào người. Giả mẫu cười nói:
– Sang cho mẹ cháu xem đã rồi hãy đi.
Bảo Ngọc vâng lời đi ra, thấy Uyên Ương đứng ở dưới sân dụi mắt. Từ hôm Uyên Ương thề không đi lấy chồng, đến nay vẫn không chịu nói chuyện gì với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc ngày đêm áy náy, bây giờ lại thấy chị ta định tránh mình, liền chạy đến cười hỏi:
– Chị Ơi, xem tôi mặc cái áo này có đẹp không?
Uyên Ương hất tay, chạy vào nhà Giả mẫu. Bảo Ngọc đành sang cho Vương phu nhân xem, lại trở về trong vườn cho Tình Văn, Xạ Nguyệt xem, rồi mới đến trình Giả mẫu:
– Mẹ cháu đã xem rồi, bảo là quý lắm, dặn cháu phải mặc cẩn thận đừng làm hư hỏng.
Giả mẫu nói:
– Chỉ còn có cái này thôi, nếu cháu làm hư hỏng thì không còn cái nào khác nữa. Bây giờ muốn may riêng cho cháu một cái cũng không thể nào có được.
Nói xong, lại dặn dò: “không được uống nhiều rượu, phải nhớ về sớm”.
Bảo Ngọc vâng liền mấy câu. Bà già vừa theo ra đến ngoài hiên, thì anh vú của Bảo Ngọc là Lý Quý, Vương Vinh, cùng Trương Nhược Cẩm, Triệu Diệu Hoa, Tiền Thăng và Chu Thụy đem theo bốn đứa hầu nhỏ nữa là Dính Yên, Bạn Hạc, Sừ Dược, Tảo Hồng đeo bọc áo, ôm nệm thắng một con ngựa trắng có yên chạm, dây cương tết hoa, cả bọn đã đứng chực ở ngoài từ lâu. Bà già lại dặn dò một hồi, sáu người đều vâng lời, rồi giữ yên và thả bàn đạp xuống. Bảo Ngọc thong thả lên ngựa, Lý Quý, Vương Vinh bịt hàm thiếc ngựa lại, Tiền Thăng, Chu Thụy đi trước dẫn đường, Trương Nhược Cẩm, Triệu Diệc Hoa thì đi sát hai bên. Bảo Ngọc ngồi trên ngựa cười nói:
– Anh Chu, anh Tiền, chúng ta đi sang cửa bên kia, đừng đi qua thư phòng của ông, khỏi phải xuống ngựa.
Chu Thụy nghiêng người cười nói:
– Ông lớn có ở thư phòng đâu, ngày nào cũng khóa cửa, cậu không phải xuống ngựa nữa.
Bảo Ngọc cười nói:
– Cửa khóa cũng phải xuống ngựa.
Tiền Thăng, Lý Qùy đều cười nói:
– Cậu nói phải đấy. Nếu mượn cớ, lười không chịu xuống, nhỡ ra ông Lại và ông Lâm trông thấy, tuy không nói năng gì, nhưng cũng khuyên bảo mấy câu. Có điều gì không phải lại đổ diệt cho chúng tôi, bảo chúng tôi không nhắc cậu giữ.
Bọn Chu Thụy, Tiền Thăng liền đi thẳng ra cửa bên cạnh. Họ đang nói chuyện, ngẩng mặt lên, thấy Lại Đại đi đến, Bảo Ngọc ghìm ngựa định xuống. Lại Đại vội đến ôm lấy chân. Bảo Ngọc đứng thẳng trên bàn đạp cười, kéo tay, nói mấy câu. Rồi lại thấy đứa hầu nhỏ dẫn hai, ba mươi người cầm chổi và thúng đi đến. Trông thấy Bảo Ngọc, họ đều buông tay đứng sát vào tường, chỉ đứa dẫn đầu trong bọn vái lạy, hỏi thăm. Bảo Ngọc không biết tên họ nó, cũng mỉm cười gật đầu. Khi ngựa đi qua rồi, nó mới dẫn cả bọn đi. Ra đến ngoài cửa bên cạnh, đã có mấy người hầu và phu ngựa của bọn Lý Qúy sắp sẵn mười con ngựa chực ở đấy rồi. Vừa ra khỏi cửa, bọn Lý Qúy lên ngựa đi trước, cả đoàn vùn vụt chạy theo.
Ở nhà, Tình Văn uống thuốc không thấy bớt, nóng ruột mắng thầy thuốc ầm lên: “Chỉ biết lừa người ta lấy tiền! Chứ không có thang nào hay cả”. Xạ Nguyệt cười khuyên bảo:
– Chị nóng nảy quá. Tục ngữ nói: “Bệnh đến nhanh như núi đổ, bệnh khỏi chậm như kéo tơ”. Có phải là thuốc tiên của Lão quân đâu mà khỏi ngay được? Chị cứ nên tĩnh dưỡng vài hôm tự khắc khỏi. Chị càng nóng càng thêm khó chữa.
Tình Văn lại mắng đám hầu nhỏ:
– Chuồn đi đâu cả rồi! Thấy ta ốm chúng bay bỏ đi hết. Mai kia khỏi, ta sẽ lột xác chúng bay ra!
A hoàn nhỏ là Định Nhi sợ quá vội vàng đến hỏi:
– Cô bảo gì?
– Chúng nó chết cả rồi, chỉ còn một mình mày hay sao?
Đương nói thì con Trụy Nhi cũng chạy đến. Tình Văn nói:
– Kìa đồ ranh con này! Không gọi nó chẳng thèm đến! Tao phát tiền lương đây! Chia hoa quả đây! Mày vào ngay đi! Đứng sát lại đây một tí. Tao có phải là hùm ăn thịt mày đâu mà sợ!
Trụy Nhi đành phải đứng sát lại. Nhân lúc bất ngờ, Tình Văn nhoài người ra, túm lấy tay nó, rồi cầm cái trâm dài ở cạnh gối đâm bừa vào tay nó và mắng:
– Để cái tay này làm gì? Không biết cầm cái kim sợi chỉ, chỉ biết ăn vụng thôi. Mắt ốc nhồi, chân choi choi, nói như vẹt, chả đâm cho nát ra thì để làm gì.
Trụy Nhi đau quá, kêu ầm lên. Xạ Nguyệt vội gỡ ra, và ấn Tmh Văn nằm xuống:
– Chị vừa ra được ít mồ hôi, lại muốn chết à. Khi nào khỏi, đánh nó bao nhiêu chẳng được? Làm gì mà phải ồn lên?
Tình Văn sai người gọi già Tống đến, nói:
– Cậu Bảo vừa mới bảo tôi, nói cho các bà biết, con Trụy lười lắm, cậu ấy sai gì nó cũng vênh mặt lên, không chịu làm, ngay chị Tập Nhân bảo gì, nó cũng lẩm bẩm chửi vụng. Hôm nay thế nào cũng phải đuổi nó đi, ngày mai cậu Bảo về sẽ trình bà sau.
Già Tống thấy thế, biết ngay là việc ăn cắp vòng bị lộ chuyện, liền cười nói:
– Tuy thế mặc lòng, cũng nên chờ cô Hoa về, nói cho biết đã, rồi hãy đuổi nó đi.
Tình Văn nói:
– Cậu Bảo dặn tôi, hôm nay thế nào cũng đuổi nó đi, việc gì phải chờ cô “hoa” với cô “nụ”? Chúng tôi đã có cách! Mau mau gọi người nhà nó mang nó về.
Xạ Nguyệt nói:
– Thế cũng được. Sớm muộn nó cũng phải về, cho về sớm ngày nào càng bớt chuyện ngày ấy.
Già Tống nghe thấy nói thế, đành phải đi gọi mẹ Trụy Nhi đến. Mẹ nó sắp xếp đồ đạc xong, đến hỏi Tình Văn:
– Sao các cô lại làm thế? Cháu nó có điều gì không phải, các cô dạy bảo, việc gì lại đuổi nó đỉ Cũng nên để thể diện cho tôi một tí chứ.
Tmh Văn nói:
– Thôi, chuyện này chờ Bảo Ngọc về hãy nói, không việc gì đến chúng tôi.
Người kia cười nhạt:
– Tôi đâu lại dám hỏi cậu ấy? Việc gì mà cậu ấy chẳng nghe các cổ Dù cậu ấy bằng lòng, mà các cô không bằng lòng, thì cũng chưa chắc đã ăn thua! Ví như vừa rồi vắng mặt cậu ấy cô cũng gọi thẳng ngay tên cậu ấy ra; các cô gọi thế được, chứ chúng tôi mà gọi thế, người ta lại cho là quân hỗn láo!
Tình Văn nghe nói, càng tức, mặt đỏ bừng lên, nói:
– Tôi gọi tên cậu ấy đấy. Chị đến mà mách cụ và bà Hai, bảo tôi hỗn, xin tống cổ tôi đi!
Xạ Nguyệt nói:
– Chị Ơi, chị cứ mang nó về, có điều gì hãy nói sau. Ở đây có phải là chỗ để chị giảng giải lễ phép đâu?
– Chị có thấy ai giảng giải lễ phép với chúng tôi không? Không cứ chị, ngay đến mợ Lại và mợ Lâm cũng phải nể chúng tôi ít nhiều. Còn việc gọi tên cái, là do cụ dặn chúng tôi từ khi cậu ấy còn bé đến giờ. Chắc các chị cũng biết: vì sợ khó nuôi, nên cụ cho viết tên cái cậu ấy dán ra khắp nơi để mọi người đều gọi, như thế mới dễ nuôi. Ngay đứa gánh nước, đứa hót phân, đứa ăn mày cũng đều gọi được cái tên cậu ấy, huống chi là chúng tôi? Hôm nọ mợ Lâm chỉ gọi một tiếng “cậu” thôi, cụ cũng mắng đấy. Đó là một việc. Hai nữa là, chúng tôi ở đây thường phải hầu chuyện cụ và bà Hai, nếu không gọi thẳng tên ra, chẳng nhẽ lại gọi là “cậu” à? Ngày nào không gọi mấy trăm lượt hai chữ “Bảo Ngọc”? Thế mà chị lại còn bới chuyện ấy ra! Ngày nào chị rỗi, đến chỗ cụ và bà Hai mà nghe chúng tôi gọi tên cái cậu ấy ra thì sẽ rõ. Vì chị không được hầu gần cụ và bà Hai, quanh năm chỉ đứng ở ngoài cửa thứ ba, chẳng trách không biết được khuôn phép của chúng tôi ở trong này! Đây không phải là chỗ chị đứng đâu! Nếu đứng một lúc nữa, chúng tôi không cần phải nói gì, cũng sẽ có người đến hỏi chị. Chị hãy mang nó về đi, muốn phân trần điều gì, cứ đến nói với mợ Lâm, nhờ mợ ấy nói với cậu Bảo. Trong nhà này hàng nghìn người, người nọ chạy đến, người kia chạy đến, chúng tôi nhận mặt, hỏi tên sao xiết!
Tình Văn nói xong, liền sai a hoàn nhỏ lấy vải lau nền nhà.
Người đàn bà kia nghe nói, không biết trả lời thế nào, cũng không dám đứng lâu, ức quá, mang Trụy Nhi về. Già Tống liền nói:
– Chả trách chị không biết khuôn phép gì là phải. Con gái chị Ở nhà này mấy lâu, lúc ra về, cũng nên cúi đầu chào các cô ấy. Các cô ấy không cần đồ lễ gì khác, chỉ cúi đầu chào là đủ rồi. Bảo đi là cắm cổ đi ngay?
Trụy Nhi nghe nói, đành phải quay lại cúi đầu chào Xạ Nguyệt và Tình Văn, rồi đi chào bọn Thu Vân, nhưng không ai thèm nhìn. Người đàn bà ấy hậm hực thở dài, không dám nói, đành nuốt giận ra về.
Tình Văn vừa bị nhiễm gió, vừa nổi giận, nên càng thấy người khó chịu. Vật vã mãi đến lúc lên đèn mới nằm yên. Bảo Ngọc vừa về đến cửa đã thở dài dậm chân. Xạ Nguyệt vội hỏi đầu đuôi, Bảo Ngọc nói:
– Hôm nay cụ vui, cho tôi cái áo khoác này, ngờ đâu không cẩn thận, để vạt sau cháy một miếng, may trời đã tối, cụ và bà không để ý đến.
Vừa nói vừa cởi áo ra, Xạ Nguyệt xem thì có một chỗ cháy bằng ngón tay, liền nói:
– Chắc là lửa ở lồng ấp bắn vào. Nhưng không gì đâu, khẽ mang ra cho thợ may nào khéo mạng lại là được.
Xạ Nguyệt liền gói áo vào trong bọc, gọi một bà già đến mang đi thuê mạng, và bảo:
– Làm thế nào đến sáng mai phải xong, nhất thiết không được nói cho cụ và bà biết!
Bà già đi một lúc lại mang áo về, nói:
– Không những thợ mạng, mà đến thợ may giỏi, thợ thêu, thợ nữ công, tôi đều đi hỏi hết, họ không biết là thứ hàng gì nên không dám nhận.
Xạ Nguyệt nói:
– Thế thì làm thế nào bây giờ? Ngày mai không mặc cũng được.
Bảo Ngọc nói:
– Cụ và bà nói ngày mai là ngày chính tiệc, phải mặc áo này. Mới hôm đầu đã bị cháy rồi, thật là chán quá!
Tình Văn nghe xong, không nhịn được, trở mình lại nói:
– Mang lại đây tôi xem nào! Số không được mặc cái áo ấy thì thôi! Bây giờ lại còn làm rối lên!
Bảo Ngọc cười:
– Nói thế cũng đúng đấy.
Rồi đưa áo cho Tình Văn, lại mang đèn đến để nhìn kỹ một lượt. Tình Văn nói:
– Đó là chỉ kim tuyến bằng lông công đấy. Nay cũng lấy chỉ làm tuyến bằng lông công mạng từng hàng cho khít nhau thì cũng có thể nhuế nhóa được.
Xạ Nguyệt nói:
– Có sẵn chỉ lông công đấy, nhưng ở đây ngoài chị ra còn ai biết mạng nữa.
Tình Văn nói:
– Biết nói sao đây, tôi cũng đành liều mà làm vậy.
Bảo Ngọc nói:
– Thế sao được? Chị vừa mới đỡ mệt một tí, đã làm việc thế nào được?
Tình Văn nói:
– Tôi biết thân tôi, cậu không cần phải để ý quá.
Tình Văn đứng dậy quấn tóc, khoác áo, thấy người loạng choạng mắt hoa đầu váng, không thể gượng được. Nhưng nếu không làm, sợ Bảo Ngọc sốt ruột đành phải cắn răng ngồi làm, và bảo Xạ Nguyệt xâu chỉ hộ. Tình Văn lấy một sợi ướm thử rồi cười nói:
– Tuy không giống lắm, nhưng đính vào cũng không khác mấy.
Bảo Ngọc nói:
– Thế cũng đẹp lắm rồi, tìm đâu cho được thợ may Nga La Tư bây giờ?
Tình Văn liền tháo vải bọc ở trong ra, lấy cái vòng tre tròn bằng miệng chén, đính vào mặt trái, lấy dao xén chung quanh chỗ rách cho phẳng, rồi lấy kim khâu hai đường, chia ra ngang dọc. Cứ mạng hai mũi, lại phải ngắm mỗi phía một lượt. Khốn nỗi đầu nhức, mắt hoa, người mệt mỏi, tinh thần bải hoải, mới mạng được dăm mũi, Tình Văn đã phải gục xuống gối nghỉ một lúc. Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, lúc hỏi có muốn uống nước không? Lúc bảo hãy nghỉ một tí. Lúc lấy áo da khoác lên lưng hoặc lấy gối cho cô ta dựa, làm Tình Văn bực mình phải nói:
– Ông trẻ ơi, ông cứ đi ngủ đi, thức đến nửa đêm, ngày mai mắt hõm lại, thì làm thế nào.
Bảo Ngọc thấy Tình Văn nói vậy, đành phải vội vàng nằm xuống, nhưng không ngủ được. Một lúc nghe đồng hồ điểm bốn tiếng, thì vừa mạng xong áo. Tình Văn lấy bàn chải nhỏ khẽ chải cho những lông tơ còn lù xù. Xạ Nguyệt nói:
– Tốt lắm rồi, không nhìn kỹ thì chẳng biết được đâu.
Bảo Ngọc vội cầm lấy xem, cười nói:
– Thật giống như hệt.
Tình Văn ho mấy lần, mãi mới mạng xong, rồi nói:
– Mạng xong rồi đấy, nhưng vẫn không giống. Thôi tôi cũng chẳng biết làm thế nào được nữa!
Rồi “úi chà” một tiếng, nằm vật xuống ngủ.
1 Các cô gái đẹp họp trong buồng mùa đông.
2 Nguyên văn là thơ ngũ ngôn, vì hạn chế về vần, chúng tôi dịch theo thể lục bát.
Bảo Ngọc thấy Tình Văn mạng xong áo, thì đã kiệt sức rồi, liền sai a hoàn nhỏ thay nhau đến đấm cho cô tạ Độ ăn xong bữa cơm thì trời đã sáng. Bảo Ngọc chưa đi vội, sai người mời thấy thuốc ngay. Một lúc, thầy thuốc họ Vương đến xem mạch, có ý ngờ, hỏi:
– Hôm qua đã khá kia mà, sao hôm nay mạch lại phù hư vi xúc 1 thế này? Có phải ăn uống nhiều quá không? Nếu không thì do nghĩ quá, tinh thần mỏi mệt. Bệnh ngoại cảm thì nhẹ thôi, nhưng sau khi ra mồ hôi mà không biết điều dưỡng thì bệnh nặng chứ không phải vừa đâu.
Thầy thuốc kê đơn. Bảo Ngọc xem thấy đã rút bớt những vị sơ tán, lại thêm những vị ích thần dưỡng huyết như phục linh, địa hoàng, đương quỵ Bảo Ngọc vừa sai người đi sắc thuốc, vừa thở dài:
– Bây giờ làm thế nào đây? Nếu có mệnh hệ nào thì tội ở ta cả.
Tình Văn nằm ở trên gối, nói:
– Cậu Hai ạ! Cậu cứ làm việc của cậu đi! Tôi mắc phải bệnh lao đâu mà sợ?
Bảo Ngọc không biết làm thế nào, đành phải đi vậy.
Đến trưa Bảo Ngọc kêu người mệt, cáo từ ra về. Bệnh Tình Văn tuy nặng thực, nhưng may xưa nay chị ta là người chỉ dùng sức lực chứ không hay dùng đến trí óc, ăn uống lại thanh đạm, không bao giờ no quá hoặc đói quá. Hơn nữa, lối bí truyền trong nhà họ Giả là: không cứ người nào, hễ hơi bị cảm gió ho khan một tí là phải nhịn cơm, rồi sau mới uống thuốc. Vì thế khi Tình Văn bắt đầu ốm, đã nhịn đói hai, ba ngày, rồi lại uống thuốc điều dưỡng cẩn thận, cho nên tuy có nhọc mệt, nhưng được tẩm bổ trong mấy ngày, dần dần, cũng đỡ. Độ này các chị em trong vườn dầu ăn cơm ở buồng mình, thổi nấu rất tiện, Bảo Ngọc muốn có canh có riêu đều sẵn cả.
Sau khi chôn cất mẹ xong, Tập Nhân đã về. Xạ Nguyệt liền đem việc Trụy Nhi ăn cắp, việc Tình Văn đuổi nó đi, kể lại đầu đuôi cho Tập Nhân nghe. Tập Nhân không nói gì chỉ bảo: “Chị ấy cũng nóng nảy quá.”
Vừa qua, Lý Hoàn bị cảm, Hình phu nhân đau mắt, nên bọn Nghênh Xuân, Tụ Yên sớm tối hầu hạ thuốc thang; em thím Lý lại đón thím ấy và Lý Văn, Lý Ỷ về nhà mấy hôm. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân thường buồn rầu nhớ mẹ, Tình Văn lại chưa khỏi hẳn, vì thế chẳng ai nghĩ đến việc thi xã cả, mấy kỳ bỏ qua không họp.
Sang tháng chạp, gần hết năm, Vương phu nhân và Phượng Thư bận sắm sửa đồ tết. Vương Tử Đằng được thăng chức Đô Kiểm Điểm chín tỉnh. Giả Vũ Thôn được bổ chức Đại Tư Mã, bàn bạc quân cơ, tham dự triều chính.
Giả Trân mở cửa nhà thờ, sai người quét dọn, bày các đồ thờ và rước thần chủ ra. Lại quét dọn nhà trên, lấy chỗ treo ảnh tổ tiên. Bấy giờ hai phủ Vinh, phủ Ninh, trong ngoài trên dưới, đều bận rộn tíu tít cả.
Hôm đó trong phủ Ninh, Vưu Thị đương cùng vợ Giả Dung sửa soạn đồ thêu và lễ vật đem sang tết Giả mẫu, thì a hoàn bưng vào một cái khay đựng những thỏi vàng nhỏ để làm món mừng tuổi và nói:
– Hưng Nhi trình mợ: một gói vàng vụn hôm nọ là một trăm tám mươi ba lạng sáu đồng bảy phân, màu sắc không đều nhau, đúc được tất cả hai trăm hai mươi thỏi nhỏ.
Nói xong, nó đưa khay vào. Vưu thị xem một lượt, thấy cái thì kiểu hoa mai, cái kiểu hoa hải đường, cái kiểu “bút đĩnh như ý” 2, cái kiểu “bát bảo liên xuân” 3. Vưu thị sai cất đi và bảo “Hưng Nhi mang những thỏi bạc đến đây mau.”
A hoàn vâng lời đi ra.
Một lúc Giả Trân vào ăn cơm, vợ Giả Dung tránh đi một nơi. Giả Trân hỏi Vưu thị:
– Tiền thưởng tế xuân của chúng ta đã lĩnh chưa?
– Hôm nay tôi đã sai thằng Dung đi lĩnh rồi.
– Nhà ta tuy không phải chờ mấy lạng bạc ấy mới có tiêu, nhưng ít nhiều cũng là ơn vuạ Đi lĩnh ngay mang về đây, rồi đưa sang bên cụ để mua đồ lễ, tỏ lòng trên đội ơn vua, dưới nhờ phúc tổ. Chúng ta cúng tổ hàng vạn bạc cũng không sợ, nhưng không bằng mấy lạng bạc này, vừa có thể diện lại được thấm nhuần ơn vuạ Ngoài một vài nhà như chúng ta ra, còn những nhà thế tập nghèo kiết, nếu không có số bạc này, thì lấy gì mà cúng tổ tiên và ăn tết? Thực là ơn vua rộng rãi, nghĩ rất chu đáo.
– Đúng đấy.
Họ đương nói chuyện, thì một người vào trình: “Cậu Cả đã về.”
Giả Trận bảo: “Gọi vào.”
Giả Dung xách một cái túi nhỏ bằng vải vàng đi vào. Giả Trân hỏi:
– Tại sao mày đi mất cả ngày?
– Hôm nay không lĩnh ở bộ Lễ, lại lĩnh ở kho Quang Lộc Tự, nên phải đến đó. Các vị Ở đó đều hỏi thăm sức khỏe chạ Lâu ngày không được gặp, các ông ấy rất nhớ.
– Họ nhớ gì ta! Giờ đã đến cuối năm rồi, nếu không nhớ đồ tặng, thì cũng nhớ bữa chén của ta đấy thôi.
Giả Trân nhìn vào cái bọc vải vàng trên có bốn chữ niêm phong “Ơn vua lâu dài”. Một bên có dấu của bộ Lễ. Lại có một hàng chữ nhỏ viết: Ninh Quốc Công là Giả Diễn, Vinh Quốc Công là Giả Pháp đời đời được lĩnh thưởng để tế xuân, tất cả là hai phần, thành bao nhiêu lạng bạc, ngày… tháng… năm… chức hậu bổ thị vệ long cẩm úy là Giả Dung đã nhận đủ. Viên tự thừa giữ việc này ký tên đóng dấu.
Giả Trân ăn cơm xong, súc miệng, đi giày, đội mũ, bảo Giả Dung mang theo gói bạc đến trình Giả mẫu và Vương phu nhân, lại sang trình Giả Xá và Hình phu nhân, rồi mới về nhà.
Lấy bạc ra rồi, Giả Trân sai đem bỏ cái túi vải vào lư hương lớn ở nhà thờ đốt đi. Lại bảo Giả Dung:
– Mày sang thím Hai xem, tháng giêng này bên ấy đã định ngày mời uống rượu tết chưa? Nếu định ngày rồi, phải bảo thư ký kê rõ vào giấy mang về đây, để đến khi chúng ta mời, khỏi bị trùng. Năm ngoái không để ý đến việc này, thành ra mấy nhà mời trùng nhau. Người ta có cho là chúng ta vô ý đâu, lại bảo hai nhà đã bàn định sẵn, sợ tốn kém mời vờ đấy thôi.
Giả Dung vội vâng lời đi ngaỵ Một lúc cầm về cái giấy kê ngày bên ấy mời uống rượu tết. Giả Trân xem xong, bảo:
– Đưa cho Lại Thăng xem, nếu mời người ta uống rượu, phải tránh những ngày đã kê trên này.
Giả Trân ngồi ở trên nhà trông cho bọn hầu nhỏ khênh dọn bình phong, lau chùi bàn ghế và đồ thờ bằng vàng bạc. Bỗng thấy đứa hầu nhỏ cầm một cái thiếp và quyển sổ vào trình:
– Tên quản lý họ O ở Hắc Sơn thôn đã đến.
Giả Trân nói:
– Thằng già chết chém này sao hôm nay mới đến?
Giả Dung vội cầm lấy thiếp và sổ mở ra đưa lên. Giả Trân chắp hai tay ra sau lưng nhìn vào tay Giả Dung, thấy trong thiếp hồng viết: “Con là quản lý O Tiến Hiếu, cúi đầu chúc ông bà và các cô các cậu mạnh khỏe. Xuân mới được mọi sự tốt lành, bình an, vinh quý, thăng quan tiến chức, vạn sư như ý.” Giả Trân cười nói:
– Người nhà quê mà nói có văn vẻ đấy.
Giả Dung cũng cười nói:
– Không cần gì văn, chỉ cốt lời chúc tốt lành thôi.
Rồi hắn giở sổ ra xem, thấy viết:
Hươu to 30 con, hươu nhỏ 50 con, hoẵng 50 con, lợn xiêm 20 con, lợn đồ 20 con, lợn nhớn 20 con, lợn rừng 20 con, lợn nhà ướp 20 con, dê rừng 20 con, dê non 20 con, dê đồ 20 con, dê ướp 20 con, cá chép 200 con, các loại cá 200 cân, gà, vịt, ngỗng còn sống mỗi thứ 200 con, gà rừng, thỏ mỗi thứ 200 đôi, tay gấu 20 đôi, gân hươu 20 cân, hải sâm 50 cân, lưỡi hươu 50 cái, lưỡi bò 50 cái, trùng trục khô 20 cân, hạt thông, hạt đào, hạt mận mỗi thứ 2 túi, tôm to 50 đôi, tôm khô 200 cân, than hoa tốt nhất 1000 cân, than vừa 2000 cân, than củi 30.000 cân, gạo tám tiến 2 gánh, gạo cẩm 50 hộc, gạo nếp trắng 50 hộc, gạo ré muộn 50 hộc, các thứ hoa màu mỗi thứ 50 hộc, gạo thường 1000 gánh, rau dưa khô một xe, các thứ lúa gạo súc vật bán đi, tính thành tiền là 2.500 lạng. Ngoài ra còn biếu riêng cậu cả mấy giống này để chơi: hươu sống 2 đôi, thỏ trắng 4 đôi, thỏ đen 4 đôi, gà cẩm kê sống 2 đôi, vịt tây 2 đôi.
Giả Trân xem xong nói: “Cho nó vào”. Một lúc thấy O Tiến Hiếu vào, quỳ lạy ở ngoài thềm. Giả Trân sai người đỡ hắn dậy, cười nói:
– Chú hãy còn khỏe nhỉ.
– Nhờ ơn đức của ông, con hãy còn đi được.
– Con chú lớn rồi, sao không bảo nó đi cho.
– Không dám giấu gì ông: con đi quen rồi, nếu không đi buồn không chịu được. Các cháu đứa nào mà chẳng muốn đến xem phong cảnh nơi đế độ Nhưng vì chúng còn trẻ tuổi, sợ đi đường có sự gì luống cuống. Để mấy năm nữa sẽ cho chúng đi, con mới yên tâm.
– Chú đi mất mấy ngày?
– Thưa ông, năm nay tuyết xuống nhiều quá, sâu đến bốn, năm thước, hôm nọ mới trời ấm tuyết tan, vì thế đường khó đi phải chậm lại mất mấy ngày. Đi mất một tháng hai ngày. Năm hết tết đến, con sợ Ông nóng ruột, nên phải đi gấp cho kịp.
– Ta đã nói mà, sao hôm nay chú mới đến? Ta vừa xem đơn thì ra năm nay chú lại định giở ngón bớt xén thì phải?
O Tiến Hiếu vội bước đến gần nói:
– Thưa ông, năm nay mùa màng xấu quá. Từ tháng ba đến hết tháng tám mưa luôn, không lúc nào tạnh được năm, sáu ngày. Đến tháng chín có một trận mưa đá, một vùng gần hai ba trăm dặm, người, nhà cửa, súc vật, lương thực bị hại hàng nghìn hàng vạn, nên mới có thế này. Con không dám nói man.
Giả Trân cau mày nói:
– Ta tưởng ít ra chú cũng phải mang nộp 5000 lạng bạc, chứ có ngần ấy thì làm được cái gì. Bây giờ chỉ còn có tám, chín trại thôi, năm nay có đến hai trại kêu bị hạn, bị lụt, chú lại bớt xén, định không cho ta ăn nữa hay sao?
O Tiến Hiếu nói:
– Ruộng đất của ông còn khá đấy, chứ chỗ anh em con ở cách chỗ con chỉ độ một trăm mẫu, thì lại kém xạ Họ trông nom tám trại thuộc phủ bên kia, so với trại của con trông nom còn rộng gấp mấy lần, thế mà những món đưa đến chẳng qua chỉ đáng hai, ba nghìn lạng bạc thôi, cũng vì bị mất mùa.
– Thực vậy. Bên ta còn có thể được, vì không có việc gì đặc biệt phải tiêu nhiều, chẳng qua chỉ để dùng trong một năm thôi. Ta tiêu rộng tý nào tốn tý ấy, bớt được chừng nào đỡ chừng ấy. Vả chăng những lệ thường hàng năm như tết nhất, mời mọc, ta chịu dày mặt một chút là xong, bì sao được với phủ bên kia. Ở bên ấy số hoa lợi vẫn như cũ, mà mấy năm nay lại nhiều việc phải tiêu đến tiền, nhất định không thể thiếu được, phải bù ra rất nhiều, nếu không lấy ở các người thì còn hỏi vào đâu?
– Bên ấy có nhiều việc, nhưng có xuất lại có nhập. Nhà vua và quý phi chẳng lẽ lại không chu cấp cho hay sao?
Giả Trân nghe nói, cười bảo Giả Dung:
– Chúng mày nghe đấy, nó nói có đáng buồn cười không?
Giả Dung vội cười nói:
– Các chú là người ở nơi rừng sâu bể thẳm, biết đâu được những việc ấy? Chẳng lẽ quý phi lại lấy tiền ở kho nhà vua ra cho chúng ta à? Dù người có muốn chăng nữa, cũng không làm chủ được. Kể ra thì thời nào tiết ấy cũng có thưởng đấy, nhưng chẳng qua chỉ cho một ít vóc nhiễu, đồ cổ, đồ chơi. Có chăng cũng chỉ được một trăm lạng vàng, đáng giá hơn một nghìn lạng bạc, thấm vào đâu? Trong hai năm nay, năm nào mà chẳng phải bù ra mấy nghìn lạng bạc. Năm đầu, quý phi về thăm nhà, kể cả việc làm vườn hoa, chú tính xem phải tiêu hết bao nhiêu thì đủ biết. Vài năm sau nếu người lại về thăm nữa, có lẽ đến nghèo xác mất!
Giả Trân cười nói:
– Vì thế bọn người nhà quê là người thực thà, họ chỉ biết việc bề ngoài chứ biết đâu được bên trong. Lấy hoàng bá làm dùi khánh, chỉ đẹp dáng bề ngoài, bên trong thì đắng ngắt.
Giả Dung vừa cười, vừa nói với Giả Trân:
– Quả là bên ấy cũng kiệt thật. Hôm nọ con nghe thấy thím Hai bàn khẽ với Uyên Ương phải ăn cắp những đồ của cụ đem đi cầm.
Giả Trân cười nói:
– Đó là thím Phượng giở trò ma đấy thôi, lẽ nào lại kiết đến thế? Chắc là thím ấy biết công việc phải tiêu nhiều, tất phải bù vào nhiều, nhưng không biết nên bớt món tiền nào, mới bày ra cách này, muốn người ta biết là mình kiết đến như thế. Ta đã tính rồi, chưa đến nỗi túng thiếu lắm đâu.
Nói xong liền sai người tiếp đãi O Tiến Hiếu tử tế.
Giả Trân lại sai người mang lễ vật của O Tiến Hiếu đem đến để lại mấy thứ cúng tổ, rồi chọn mỗi thứ một ít cho Giả Dung mang sang biếu phủ Vinh. Lại bớt đủ số cho nhà dùng, còn thừa thì theo thứ tự chia ra từng phần, để ở dưới thềm, sai người gọi con cháu trong họ đến để nhận phần. Sau đó, phủ Vinh cũng đưa đến nhiều lễ vật cúng tổ và biếu Giả Trân. Giả Trân trông cho người nhà bầy biện đồ thờ xong, rồi đi giày, khoác áo da, sai người trải một cái thảm da chó sói ở trên thềm, chỗ có ánh mặt trời, để sưởi nắng, và xem con cháu đến lĩnh phần. Thấy Giả Cần cũng đến lĩnh. Giả Trân gọi lại bảo:
– Sao mày cũng đến đây? Ai gọi mày đến?
Giả Cần buông thõng tay thưa:
– Cháu nghe nói bác gọi chúng cháu đến lĩnh phần, cháu đến chứ không ai gọi cả.
Giả Trân nói:
– Những thứ này là ta định để cho chú bác anh em không có công ăn việc làm. Hai năm trước, mày chưa có việc, ta cũng đã cho rồi. Bây giờ mày đã được làm công việc ở phủ bên kia, trông nom bọn hòa thượng, đạo sĩ ở miếu, ngoài tiền lương hàng tháng, số tiền phát cho bọn hòa thượng cũng qua tay mày, thế mà mày vẫn còn đến lĩnh phần. Sao tham quá thế? Mày thử nghĩ xem: mày ăn mặc có khác gì bọn người sẵn tiền trong tay không? Trước mày nói không có việc làm, bây giờ thì thế nào? Vẫn còn kém trước nữa à?
Giả Cần nói:
– Vì nhà cháu nhiều miệng ăn, phải tiêu nhiều.
Giả Trân cười nhạt:
– Mày lại cứ chống chế mãi với ta! Mày tưởng ta không biết những việc mày làm ở trong miếu à! Ở đấy, mày làm ông lớn, không ai dám trái lời. Trong tay có tiền, lại ở xa chúng ta, mày tha hồ làm vương làm tướng, đêm nào cũng tụ tập những bọn vô lại, cờ bạc trai gái đủ thứ, nên mới xác như vờ, lại còn dám đến đây lĩnh phần nữa à? Mày chẳng lĩnh được gì đâu, có lĩnh trận đòn thì lĩnh! Để xong tết, ta sẽ bảo chú Hai đuổi mày đi.
Giả Cần đỏ mặt, không dám nói gì. Có người đến trình:
– Bên Bắc phủ vương đem câu đối và túi đến.
Giả Trân sai Giả Dung ra tiếp và nói là mình đi vắng. Giả Dung đi ra.
Giả Trân đuổi Giả Cần đi, xem mọi người lĩnh phần xong, rồi về nhà ăn cơm với Vưu thị. Hôm sau lại càng bận việc.
Đến ngày hai mươi chín tháng chạp, các thứ bày biện đầy đủ. Trong hai phủ, chỗ thờ thần cửa, câu đối, bài treo, đều sơn lại một màu bóng loáng. Bên phủ Ninh, từ cửa ngoài, nghi môn, nhà khách, noãn các, nhà trong, cửa thứ ba, cửa nghi môn trong, cửa cấm vào đến chính đường, suốt một dãy các nhà chính đều mở toang cả. Dưới thềm, hai bên đốt hai hàng nến to và cao đỏ chói như hai con rồng vàng. Hôm sau Giả mẫu ngồi kiệu bát cống dẫn những người có phong cáo theo phẩm cấp, mặc triều phục vào cung làm lễ triều hạ. Ăn yến xong, trở về, đến noãn các bên phủ Ninh, xuống kiệu. Những con cháu không theo vào chầu, đều xếp hàng đứng chực trước cửa, để Giả mẫu dẫn vào nhà thờ.
Bảo Cầm lần đầu được vào xem nhà thờ họ Giả, để ý ngắm nghĩa mãi. Nhà thờ này dựng ở bên tây phủ Ninh, trong một cái vườn riêng phía trong hàng rào sơn đen, có năm gian cửa lớn, trên treo bức hoành viết bốn chữ Giả thị tôn tử 4, bên cạnh viết “Diễn thánh công Khổng Kế Tông viết”, hai bên có đôi câu đối:
Lấm đất óc gan, muôn họ thấm nhuần ơn bảo dưỡng.
Ngập trời công đức, trăm năm nghi ngút lễ chưng thường.
Đó cũng là chữ viết của Diễn Thánh công. Đi vào trong sàn, giữa có đường mai võng lát đá trắng, hai bên đều là tùng bách um tùm, trên nguyệt đài bầy những đỉnh vạc bằng đồng cổ. Trước nhà bái đường treo bức hoành vàng chạm chín con rồng, viết chữ Tinh huy phụ bật 5. Đó là chữ của đức vua trước viết. Hai bên có đôi câu đối:
Sự nghiệp sáng soi cùng nhật nguyệt,
Công danh truyền mãi đến nhi tôn.
Cũng là chữ vua viết.
Trước năm gian chính điện, treo bức hoành sơn xanh vẽ rồng uốn khúc, viết bốn chữ Thận chung truy viên 6. Bên cạnh lại có đôi câu đối:
Con cháu từ đây nhờ phúc đức,
Nhân dân giờ vẫn nhớ Vinh Ninh.
Đều là chữ vua viết cả.
Bên trong đèn đuốc sáng trưng, trượng thêu màn gấm, tuy có bày thần chủ, nhưng trông không rõ.
Những người họ Giả chia bên “chiêu” bên “mục” 7 xếp hàng đứng yên. Giả Kính chủ tế, Giả Xá bồi tế, Giả Trân dâng rượu, Giả Liễn, Giả Tôn dâng lụa, Bảo Ngọc bưng hương, Giả Xương, Giả Lăng rải thảm tế, giữ cái lư đốt văn. Bọn nhạc công tấu nhạc. Ba lần dâng rượu, hương bái xong, đốt lụa rót rượu. Lễ xong, âm nhạc ngừng lại, lui ra. Mọi người theo Giả mẫu đến trước chỗ bày ảnh ở trên chính đường, màn gấm treo cao, bình phong căng rộng, hương bay nghi ngút, nến thắp sáng trưng. Chính gian giữa, treo hai bức chân dung của Vinh Quốc công và Ninh Quốc công, đều mặc áo mãng bào đeo đai ngọc; hai bên lại có mấy bức chân dung của các vị liệt tổ.
Bọn Giả Hành, Giả Chỉ đứng xếp hàng từ cửa trong ra mãi đến ngoài thềm chính đường. Ngoài bạo cửa là chỗ Giả Kính, Giả Xá; trong bạo cửa là chỗ đàn bà đứng. Bọn người nhà và hầu bé đều đứng ngoài nghi môn. Cứ một món ăn dâng lên đến cửa nghi môn, là bọn Giả Hành, Giả Chỉ đỡ lấy, theo thứ tự đưa đến tay Giả Kính. Giả Dung là cháu trưởng chi trưởng, nên được đứng với đám đàn bà ở trong bạo cửa. Mỗi lần Giả Kính đưa món ăn đến trao cho Giả Dung, Giả Dung đưa lại cho vợ, vợ hắn lại đưa cho Phượng Thư và Vưu Thị; khi đưa đến trước bàn thờ, thì Vương phu nhân nhận lấy đưa cho Giả mẫu. Giả mẫu đặt lên bàn thờ. Hình phu nhân đứng ở phía tây bàn thờ, ngoảnh mặt sang phía đông, cùng Giả mẫu dâng cỗ lên. Đến khi dâng cỗ và chè rượu xong, Giả Dung mới lui ra ngoài, đứng hàng đầu chỗ bọn Giả Cần.
Lúc này Giả Kính đứng đầu hàng người có tên theo chữ “văn” ở bên. Giả Trân đứng đầu hàng người có tên theo chữ “ngọc” ở bên, cuối nữa là Giả Dung đứng đầu hàng người có tên theo bộ “thảo đầu”. Bên tả hàng “chiêư”, bên hữu hàng “mục”. Trai ở bên đông, gái ở bên tây. Khi Giả mẫu thắp hương lạy rồi, mọi người đều quỳ xuống làm cho năm gian nhà lớn, ba gian bái đường, hiên trong hiên ngoài, thềm trên thêm dưới, hai dãy thềm đỏ đều như hoa như gấm, chật ních không chỗ nào hở. Ngoài nhạc vàng vòng ngọc khẽ chạm leng keng và giày dép sột soạt khi đứng khi quỳ ra, còn đều im lặng như tờ. không một tiếng động.
Một lúc lễ xong, bọn Giả Kính, Giả Xá lui ra đi sang phủ Vinh, chờ làm lễ mừng Giả mẫu. Bên phòng Vưu thị, dưới đất trải đầy thảm đỏ, giữa nhà để một chậu than lớn tráng vàng. Trên giường chính giữa trải một cái nệm da vượn đỏ mới, đặt một cái gối dựa màu đỏ thêu kiểu vân long bổng thọ 8 ; ngoài nệm ngồi lại có cái bao bằng da cáo đen đặt ở trên và cái nệm ngồi bằng da cáo trắng. Vưu thị mời Giả mẫu ngồi lên đó. Hai bên lại trải nệm da, mời mấy bà bác bà thím ngang hàng với Giả mẫu cùng ngồi. Bọn Hình phu nhân thì ngồi ở một cái giường nhỏ cũng trải nệm da, có bức vách chắn ngang. Ở hai bên, có mười hai cái ghế sơn chạm đối mặt nhau, đều trải nệm lông chuột đen, dưới mỗi cái ghế có một lò sưởi bằng đồng, để cho chị em bọn Bảo Cầm ngồi. Vưu thị pha trà dâng Giả mẫu, vợ Giả Dung dâng mời các bà ngang hàng với Giả mẫu, sau Vưu thị lại dâng mời Hình phu nhân, vợ Giả Dung lại dâng bọn chị em. Phượng Thư, Lý Hoàn thì đứng ở ngoài chực sẵn.
Dâng nước trà xong, bọn Hình phu nhân đứng dậy hầu Giả mẫu uống. Giả mẫu cùng chị em nhiều tuổi nói chuyện phiếm mấy câu rồi sai sắp kiệu. Phượng Thư vội đỡ Giả mẫu lên. Vưu thị cười nói:
– Cháu đã sắp sẵn cơm chiều để mời bà xơi rồi. Hàng năm bà không hề hạ cố đến các cháu. Bây giờ dùng cơm chiều rồi bà hãy về. Nếu không thì chẳng hóa ra các cháu không bằng thím Phượng hay sao?
Phượng Thư đỡ Giả mẫu, cười nói:
– Mời bà về nhà xơi cơm, mặc kệ chị ấy.
Giả mẫu cười nói:
– Bên này chị còn phải soạn sửa cúng tế tổ tiên, bận rộn lắm rồi, giữ ta ở lại để thêm bận à? Vả chăng hàng năm ta không ăn ở đây, các chị cũng cứ mang sang biếu, vậy cứ biếu đi, ta không ăn hết, để dành đến ngày mai, như thế chẳng ăn được nhiều hơn ư?
Mọi người nghe vậy đều cười. Giả mẫu lại dặn: “Đêm đến phải cắt người đèn hương cẩn thận, không được sơ suất đấy”, Vưu thị vâng lời, Giả mẫu đi ra ngoài, đến trước noãn các, bọn Vưu thị tránh ra sau bình phong, bọn hầu nhỏ mới dẫn phu kiệu đến mời Giả mẫu lên kiệu. Vưu thị cũng theo bọn Hình phu nhân đến phủ Vinh.
Kiệu ra khỏi cửa ngoài. Dọc đường, bên đông bầy nghi trượng và nhạc khí của phủ Ninh, bên tây bày nghi trượng và nhạc khí của phủ Vinh. Những người đi đường đều phải lùi lại, không được qua đấy.
Về đến phủ Vinh, cửa lớn, cửa chính cũng đều mở suốt vào tận phía trong. Giả mẫu không xuống kiệu ở noãn các nữa, mà đi qua nhà khách, vòng sang phía tây, đến thẳng nhà chính. Mọi người xúm theo đến gian giữa nhà Giả mẫu, cũng có nệm gấm màn thêu, mọi thứ đều mới cả, ở giữa để lò lửa đốt hương tùng bách và cây bách hợp. Giả mẫu vào ngồi, bọn bà già trình: “Các cụ bà đến làm lễ”. Giả mẫu đứng dậy định ra đón, thấy mấy bà chị em nhiều tuổi đến nơi. Mọi người cầm tay nhau cười và mời nhau một lúc. Họ uống trà xong rồi đi. Giả mẫu đưa ra đến cửa nghi môn mới về chỗ ngồi. Bọn Giả Kính và Giả Xá dẫn các con em đến. Giả mẫu cười nói:
– Cả năm làm phiền các người rồi, thôi đừng làm lễ nữa.
Một bên trai, một bên gái, tốp này đến tốp khác, lũ lượt vào làm lễ; bên tả bên hữu đều đặt ghế đối nhau, rồi cứ theo thứ tự lớn bé ngồi nhận lễ. Bọn hầu nhỏ và a hoàn trong hai phủ cũng theo thứ tự trên dưới đứng làm lễ. Sau đó phân phát tiền thưởng tết, túi và thỏi vàng, thỏi bạc cho mọi người. Bữa tiệc hợp hoan bày ra, trai ngồi bên đông, gái ngồi bên tây; uống rượu đồ tô 9, ăn canh hợp hoan 10, quả cát tường 11 và bánh như ý, xong rồi Giả mẫu vào trong nhà nghỉ, mọi người mới đi ra.
Tối hôm ấy, các nơi thờ phật và thờ vua bếp đều thắp hương cúng lễ. Ngoài sân nhà chính của Vương phu nhân, bày vàng hương ngựa giấy cúng trời đất. Cửa giữa vườn Đại Quan treo đèn lồng, rọi sáng hai bên, các ngả đường lại đều có giồng cây đèn. Kẻ trên người dưới đều ăn mặc như hoa như gấm. Suốt đêm, tiếng cười nói ồn ào, pháo nổ không dứt. Đến canh năm ngày hôm sau. Giả mẫu cùng mọi người theo phẩm tước mặc triều phục, bày toàn bộ nghi trượng vào cung chào mừng và chúc thọ Nguyên Xuân. Ăn yến xong, Giả mẫu trở về phủ Ninh tế tổ, rồi mới về nhà. Nhận lễ mừng xong, Giả mẫu thay áo đi nghỉ. Bạn bè đến mừng tết đều không tiếp, chỉ ngồi nói chuyện với Tiết phu nhân và thím Lý, hoặc đánh cờ, đánh bài với bọn Bảo Ngọc và chị em Bảo Thoa, Bảo Cầm, Đại Ngọc.
Vương phu nhân và Phượng Thư ngày nào cũng bận về mọi khách đến uống rượu tết, nhà trong nhà ngoài, chỗ nào cũng bày bàn rượu, bạn bè đi lại không ngót. Bận rộn suốt bảy, tám ngày mới xong.
Lại sắp đến tết nguyên tiêu, hai phủ Vinh, Ninh đều thắp đèn kết hoa. Ngày mười một, Giả Xá mời Giả mẫu, hôm sau Giả Trân lại mời Giả mẫu. Vương phu nhân và Phượng Thư, ngày nào cũng có người mời uống rượu tết.
Đến chiều hôm rằm, Giả mẫu sai người bày mấy bàn tiệc ở phòng khách lớn, thuê một bọn con hát, treo đầy đèn hoa các màu, dẫn các con cháu trai gái hai phủ Vinh, Ninh đến ăn tiệc. Giả Kính xưa nay không uống rượu, ăn mặn, vì thế không mời. Đến ngày mười bảy, tế tổ xong, Giả Kính liền ra ngoài thành tu đạo. Trong mấy hôm ở nhà, ông ta cũng chỉ ngồi yên lặng trong gian nhà kín, không hỏi đến việc gì.
Giá Xá lĩnh đồ thưởng của Giả mẫu xong, cáo từ ra về. Giả mẫu biết ông ta ở đấy cũng không tiện, nên để mặc cho về.
Giả Xá về đến nhà, cùng bọn gia khách thưởng đèn uống rượu, đàn sáo rộn tai, gấm thêu hoa mắt, cuộc vui của ông ta khác hẳn bên này.
Giả mẫu cho bày hơn mười bàn rượu ở nhà khách, bên cạnh mỗi bàn đặt một cái kỷ. Trên kỷ đặt lư hương, bình hoa, đốt hương bách hợp của vua ban; lại có những chậu cảnh nhỏ dài độ tám tấc, rộng bốn năm tấc, cao hai ba tấc, trong chồng núi giả, đều trồng cỏ hoa tươi tốt; lại có khay chè sơn hay những bộ chén rót nước trà ngon hạng nhất. Một loạt đều làm bằng gỗ đàn tía chạm trổ, viền rèm lụa đỏ, đính ngọc, thêu hoa và đề thợ Nguyên cái rèm này là do tay cô gái Cô Tô, tên là Tuệ Nương thêu ra. Vì cô ta cũng là con nhà thư hương thế hoạn, rất giỏi nghề vẽ, chẳng qua ngẫu nhiên thêu thùa vài thứ để chơi, chứ không phải thứ đem ra ngoài bán. Những hoa thêu trên, theo cành cây hoa lá của các nhà danh họa từ đời Đường, Tống, Nguyên, Minh để lại, nên cách thức, màu sắc đều đậm đà, tinh xảo không một ai có thể sánh kịp. Mỗi một cành hoa bên cạnh lại có một bài thơ, từ, ca, phú của người xưa và đều thêu chữ nổi bằng nhung đen. Hơn nữa cả từ nét ngoặc, nét chấm, to, nhỏ, liền, cách, đều giống hệt như chữ viết, không phải lối thêu chữ bán rao có thể sánh kịp. Cô ta không vì nghề này kiếm lợi, nên tiếng đồn khắp nơi, ít người mua được. Rất nhiều nhà danh gia thế hoạn cũng không có của này. Vì vậy đời sau gọi là nàng Tuệ Tú. Gần đây, có những kẻ trục lợi, cũng bắt chước lối thêu của cô ta để lừa người kiếm tiền. Tuệ nương đến mười tám tuổi thì chết, nên sau không tìm đâu ra bức thêu nào như vậy. Nhà nào có một vài bức, đều giữ gìn rất cẩn thận. Có một số nhà văn “múa rối”, nhân tiếc sắc đẹp của nàng, liền tung tin rằng nàng thêu chữ chưa hết vẻ đẹp, so sánh đường kim thêu với chữ “Tú” có vẻ hơi vội vã. Rồi cùng mọi người bàn bạc, đem đổi chữ “Tú” thành chữ “Văn”, nên người đời mới gọi là “Tuệ Văn”. Nếu phải là bức thêu của nàng Tuệ Văn thì giá đắt vô ngần. Trong phủ Giả có ba bức, năm ngoái đã tiến vua hai bức, chỉ còn lại cái rèm này có mười sáu dải, Giả mẫu cất giữ rất cẩn thận, không hay bày ra nhà khách, chỉ để trong phòng riêng, khi cao hứng bày tiệc rượu mới đem ra dùng.
Trong các bình cổ nhỏ có đủ các màu đều cắm cây tuế hàn tam hữu 12 và hoa ngọc đường phú quý 13. Hai bàn phía trên là chỗ ngồi của Tiết phu nhân và thím Lý; bên đông bày riêng một tiệc có cái giường nhỏ chân thấp chạm quỳ long hộ bình 14 có đủ cái tựa lưng, gối dài, nệm dạ Trên giường bày một cái kỷ nhỏ, sơn son thếp vàng rất đẹp, và nhẹ. Trên kỷ bày chén trà, ống nhổ, khăn mặt và cái hộp kính.
Giả mẫu nằm nghiêng trên giường, cười nói với mọi người một lúc, lại đeo kính nhìn lên sân khấu rồi nói với Tiết phu nhân và thím Lý:
– Tha lỗi cho tôi già rồi mình mẩy hay đau, để tôi vô phép nằm nghiêng tiếp chuyện.
Lại sai Hổ Phách ngồi lên giường, cầm cái nắm tay “mỹ nhân” 15 đấm đùi. Cạnh giường không đặt bàn rượu, chỉ có một cái kỷ cao, trên bày giá cao, lọ cao và lư hương, ngoài ra lại có một cái bàn nhỏ cao rất xinh trên bày bát đũa. Bên cạnh bày một bàn rượu cho Bảo Cầm, Tương Vân, Đại Ngọc, Bảo Ngọc cùng ngồi. Khi đồ ăn mang lên, đều đưa Giả mẫu xem trước, món nào thích để lên trên bàn nhỏ nếm một ít, còn lại đưa ra bàn bốn người ngồi gần đấy, như thế cũng xem như ngồi một bàn với Giả mẫu. Phía dưới mới là chỗ của Hình phu nhân và Vương phu nhân; dưới nữa là chỗ ngồi của bọn Vưu Thị, Lý Hoàn, Phượng Thư và vợ Giả Dung; bên tây là chỗ ngồi của Bảo Thoa, Lý Văn, Lý Ỷ, Tụ Yên và chị em Nghênh Xuân. Trên xà nhà, hai bên treo từng chùm đèn pha lệ Trước mỗi bàn rượu đặt một cây đèn sơn đen hình lá sen rũ xuống, trên lá sen cắm sáp. Cây đèn này là của bên Tây Dương, làm bằng pha lê, có thể quay vặn được. Lúc này, đèn xoay lá sen cho ánh sáng hắt ra ngoài để xem hát được rõ. Bao nhiêu cánh cửa và cửa sổ đều được lấy xuống và treo vào đó bằng các đèn hoa trong cung chọ Trong thềm, ngoài thềm và giàn hoa hai bên hiên đều treo đèn lồng, đèn pha lê, đèn che lụa, hoặc thêu, hoặc vẽ bằng lụa, bằng giấy, thứ gì cũng có. Mấy bàn ở trên hiên là chỗ ngồi của Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Tôn, Giả Dung, Giả Cần, Giả Vân, Giả Xương, Giả Lăng.
Giả mẫu sai người đi mời các người trong họ. Nhưng bọn họ có người đã già, không thích ồn ào, có người đi vắng, có người ốm đau, muốn đến cũng không đến được. Lại có người ghen giàu thẹn nghèo không chịu đến, có người thì ghét Phượng Thư, tức giận không đến; lại có người e lệ nhút nhát, không quen chỗ đông người. Vì thế họ tuy to, nhưng về phía đàn bà chỉ có mẹ Giả Lam là họ Lâu dắt Giả Lam đến, về phía đàn ông chỉ có Giả Cần, Giả Vân, Giả Trong và Giả Lăng đến, bốn người hiện đương giúp việc cho Phượng Thự Kể ra người không đông mấy, nhưng tiệc nhỏ trong gia đình cũng đủ náo nhiệt lắm rồi.
Vợ Lâm Chi Hiếu dẫn sáu người đàn bà, cứ hai người một khênh ba cái bàn nhỏ đến, mỗi bàn trải một tấm thảm đỏ, trên để những tiền đồng mới đúc xâu bằng dây đỏ. Vợ Lâm Chi Hiếu bảo mang hai cái đặt ở cạnh bàn rượu của Tiết phu nhân và thím Lý, còn một cái đặt ở cạnh giường Giả mẫu. Giả mẫu nói: “Để ở giữa nhà kia”. Những người đàn bà ấy đã quen khuôn phép nhà này, họ đặt bàn xuống, rút dây đỏ đi, rồi bỏ tiền ra để ở trên bàn.
Lúc đó, đương hát vở Tây lâu hội 16. Khi sắp tan hát, đứa đóng vai Vũ Thúc Dạ giận dỗi bỏ đi, đứa đóng vai Văn Báo liền nói đùa: “Anh giận bỏ đi mặc anh. Hôm nay đúng ngày rằm tháng giêng, trong nhà cụ Ở phủ Vinh ăn tiệc, tôi còn phải cưỡi ngựa này, đến xin mấy thứ quả để ăn mới được”. Câu nói ấy làm cho Giả mẫu cười ầm lên. Bọn Tiết phu nhân đều nói: “Thằng ranh con này đáng thương thật!” Phượng Thư liền nói:
– Nó mới có chín tuổi thôi.
Giả mẫu cười nói:
– Nó khéo nói đấy!
Rồi gọi một tiếng “thưởng”. Liền có ba người đàn bà cầm sẵn các cái giỏ nhỏ, chạy mau đến bàn, mỗi người bốc tiền bỏ vào một giỏ rồi chạy ra trước sân khấu nói:
– Cụ, bà dì, và các bà trong họ thưởng cho Văn Báo mua quả ăn đây.
Nói xong họ vất tiền lên sân khấu, chỉ nghe thấy tiếng “loảng xoảng”, tiền rơi khắp nơi. Giả Trân và Giả Liễn đã sai bọn hầu nhỏ sắp sẵn những thúng tiền lớn khênh ra.
1 Phù hư vi xúc: danh từ mạch lý của Đông y, ý nói khí huyết suy nhược.
2 Một thứ đồ chơi làm bằng vàng bạc hay ngà voi, có chạm cỏ chi, hoặc đám mây, để mừng tặng nhau.
3 Tiếng của nhà Phật, là tám thứ quý báu.
4 Nhà thờ họ Giả.
5 Sao Phụ bật sáng ngời.
6 Cẩn thận việc về sau, tưởng nhớ người đã khuất.
7 Theo điển tế tự của Trung Quốc thời trước, trong nhà thờ thủy tổ ở giữa, hai bên hàng chiêu ở bên tả, hàng mục ở bên hữu, chiêu thuộc hàng cha, mục thuộc hàng con.
8 Rồng mây chúc thọ.
9 Một thứ rượu nấu bằng cỏ đồ tô, uống vào ngày nguyên đán để trừ dịch khí.
10 Canh nấu bằng hoa hợp hoan, một thứ hoa màu đỏ, sớm nở tối cụp, tượng trưng cho sự đoàn kết.
11 Quả ăn vào được phúc lành.
12 Ba người bạn trong mùa rét: tùng, bách, mai.
13 Hoa mẫu đơn.
14 Giống thú trông giống con rồng, có một chân đỡ lấy cái bình phong.
15 Một cái dùi nhỏ bằng gỗ bọc da hình như nắm tay người con gái, dùng để đấm mình.
16 Tên vở kịch của Viên Vu Lệnh nhà Thanh soạn, diễn điển Vu Quyên cùng Mục Tố Huy khi tan khi hợp.
Giả Trân, Giả Liễn sắp sẵn tiền vào trong thúng lớn, nghe thấy Giả mẫu nói thưởng, liền sai người hầu ném tiền ra, tiếng loảng xoảng khắp trên sân khấu. Giả mẫu thích lắm. Hai người đứng dậy, người hầu mang bình đựng rượu bằng bạc mới hâm lên, Giả Liễn cầm lấy, đi theo Giả Trân vào phía trong. Giả Trân đến trước bàn thím Lý, cúi xuống lấy chén, quay lại Giả Liễn vội rót một chén; sau cùng rót đến bàn Tiết phu nhân. Tiết phu nhân và thím Lý vội đứng dậy cười nói:
– Mời hai cậu cứ ngồi, cần gì phải giữ lễ nghi quá?
Lúc đó, trừ Hình phu nhân và Vương phu nhân, các người dự tiệc đều đứng dậy chắp taỵ Giả Trân, Giả Liễn đến trước giường Giả mẫu, vì giường thấp, hai người phải quỳ xuống. Giả Trân cầm chén quỳ ở phía trước, Giả Liễn cầm bình rượu quỳ ở phía sau. Tuy chỉ có hai người dâng rượu thôi, nhưng anh em bọn Giả Tôn cũng đều đứng dậy xếp hàng đi theo; thấy hai người quỳ, quỳ họ cũng đều quỳ. Bảo Ngọc cũng vội quỳ theo. Tương Vân khẽ đẩy Bảo Ngọc cười nói:
– Bây giờ anh cũng theo người ta mà quỳ làm gì? Đã thế thì anh cũng đi rót một tuần rượu có hơn không?
Bảo Ngọc cười nói:
– Chốc nữa sẽ rót.
Đợi hai người rót rượu xong, họ mới đứng dậy. Giả Trân lại rót rượu mời Hình phu nhân và Vương phu nhân. Sau đó cười nói:
– Còn các cô thì làm thế nào đây?
Giả mẫu nói:
– Các anh cứ đi ra để mặc cho họ được thoải mái hơn.
Bọn Giả Trân mới lui ra.
Đêm chừng đã sang canh hai, tuồng hát đang diễn tích “Bát nghĩa quan đăng” 1. Giữa lúc vui, Bảo Ngọc đứng dậy đi ra ngoài. Giả mẫu hỏi:
– Đi đâu? Ở ngoài đốt pháo dữ lắm, không cẩn thận tàn lửa rơi vào người thì bỏng đấy!
Bảo Ngọc cười nói:
– Cháu không đi xa đâu, chỉ ra đây một tí rồi về ngay thôi.
Giả mẫu sai bọn bà già theo hầu cẩn thận. Khi Bảo Ngọc ra, chỉ có Xạ Nguyệt, Thu Văn mấy a hoàn nhỏ đi theo. Giả mẫu liền hỏi:
– Sao không thấy Tập Nhân? Bây giờ nó đã ra vẻ lớn rồi, chỉ ngồi sai đám hầu nhỏ đi thôi.
Vương phu nhân đứng dậy cười nói:
– Hôm nọ mẹ nó chết, nó có tang, nên không tiện đi ra ngoài.
Giả mẫu gật đầu cười nói:
– Đã đi hầu thì không thể nói hiếu với không hiếu được. Nếu nó còn ở hầu ta, liệu bây giờ có thể tránh được chỗ này không? Việc ấy cũng như đã thành lệ rồi.
Phượng Thư vội chạy lại cười nói:
– Đêm hôm nay dù chị ta không có tang nữa, ở trong vườn này cũng phải trông nom đèn đuốc pháo hoa cho khỏi áy náy. Đã có hát xướng, người trong vườn ai chẳng lẻn đến xem? Chị ấy cẩn thận, nên ở nhà trông nom các nơi. Khi tan hát, chú Bảo về ngủ, mọi thứ đã được sắp đặt đầy đủ. Nếu chị ấy cĩmg đến đây, không ai để ý đến công việc, tan hát ra về, chăn đệm thì lạnh, nước trà không có, cái gì cũng thiếu cả. Vì thế cháu bảo chị ấy trông nhà, không cần đến nữa, để khi về, các cái được sắp đặt đầy đủ mọi người khỏi phải lo toan, lại trọn đạo hiếu của chị ấy, như thế chả hơn hay sao? Nay bà muốn gọi chị ấy, cháu bảo đi gọi ngay.
Giả mẫu bảo:
– Cháu nói phải đấy. Cháu nghĩ rất là chu đáo, đừng gọi nó nữa. Nhưng mẹ nó mất bao giờ? Sao ta lại không biết?
– Hôm nọ Tập Nhân có đến trình, bà đã lại quên rồi à?
Giả mẫu nghĩ một lúc, cười nói:
– Ta nhớ ra rồi. Bây giờ trí nhớ ta kém lắm!
Mọi người đều cười nói:
– Cụ nhớ đâu đến những việc ấy.
Giả mẫu thở dài:
– Từ bé nó hầu ta một dạo, rồi hầu cháu Vân, sau đến hầu thằng quỷ Bảo Ngọc này, làm nó phải chịu dãi dầu mấy năm nay! Nó không phải là bọn hầu sinh trưởng trong nhà này, chưa được nhờ vả ta mấy, khi mẹ nó chết, ta định cho nó mấy lạng bạc để chi phí chôn cất, thế rồi cũng quên đi.
Phượng Thư nói:
– Hôm nọ mẹ con đã cho chị ấy bốn mươi lạng bạc, thế là được rồi.
Giả mẫu gật đầu nói:
– Nếu thế thì thôi. Hôm trước mẹ Uyên Ương chết, ta nghĩ bố mẹ nó đều ở cả bên nam, không cho nó về chịu tang. Bây giờ chúng nó muốn giữ lễ, sao không cho hai đứa đến ở một chỗ làm bạn với nhau?
Bèn sai bà già mang hoa quả, đồ ăn và đồ điểm tâm đến cho hai người ăn. Hổ Phách cười nói:
– Còn phải chờ đến bây giờ nữa. Chị ta đã đến đấy từ lâu rồi.
Sau đó mọi người lại uống rượu xem hát.
Bảo Ngọc đi một mạch về trong vườn, bọn bà già thấy cậu ta về buồng, không đi theo nữa, chỉ ngồi sưởi ngoài phòng trà cửa vườn và uống rượu, đánh bài với bọn con gái ở đó. Bảo Ngọc vào đến nhà, thấy đèn sáng trưng, nhưng không có tiếng người. Xạ Nguyệt nói:
– Có lẽ họ ngủ cả rồi hay sao? Chúng ta khẽ đến dọa chơi.
Hai người rón rén đi lẻn vào vách giường, thấy Tập Nhân cùng một người nữa đương nằm đối diện với nhau trên giường, đằng kia có hai bà già ngồi ngủ gật.
Bảo Ngọc cứ tưởng hai người đã ngủ, vừa muốn đi vào, bỗng nghe Uyên Ương ho một tiếng nói:
– Việc đời khó mà định trước! Cứ lẽ ra, một mình chị Ở đây bố mẹ Ở nơi khác, hàng năm các cụ phải chạy ngược chạy xuôi không có chỗ nhất định, tưởng là khi bà cụ mất, chị không thể về tống táng được. Ngờ đâu bà cụ mất ở đây, chị lại được về đưa đám!
Tập Nhân nói:
– Đúng đấy, tôi cũng không ngờ được nhìn thấy mặt mẹ tôi. Khi đến trình bà Hai lại được thưởng bốn mươi lạng bạc. Như thế cũng bõ công cha mẹ nuôi nấng. Tôi thật không dám mơ ước gì hơn.
– Ai ngờ chị ta đã lại đây rồi. Nếu ta vào, chị ấy bực mình sẽ chạy về mất, chi bằng chúng ta quay lại, để cho họ được yên tĩnh nói chuyện với nhau. Tập Nhân đương lúc buồn, may được Uyên Ương đến rất tốt.
Họ lại khe khẽ đi ra. Bảo Ngọc đến phía sau núi, đứng lại vén vạt áo lên. Xạ Nguyệt và Thu Văn cũng đứng lại, quay mặt đi, khẽ cười nói:
Hai đứa hầu ở đằng sau biết là Bảo Ngọc đi giải, liền chạy về phòng trà sấp sẵn nước rửa.
Bảo Ngọc đang đi, có hai người đàn bà đón hỏi: “Ai đấy?” Thu Văn nói:
– Cậu Bảo đấy, đừng làm ầm lên cho cậu ấy sợ.
Bọn đàn bà vội cười nói:
– Chúng tôi không biết, ngày tết lại sinh chuyện rồi. Các cô mấy ngày hôm nay vất vả quá.
Nói xong họ đã đi đến trước mặt. Bọn Xạ Nguyệt hỏi:
– Bà mang gì đấy?
– Đồ ăn của cụ sai mang sang cho cô Kim và cô Hoa đấy.
– Ngoài ấy hát vở “bát nghĩa” chứ có hát vở “hỗn nguyên hạp” 2 đâu, mà lại nảy ra cô Kim với Hoa?
Bảo Ngọc nói:
– Mở hộp ra cho tôi xem nào.
Thu Văn, Xạ Nguyệt mở hai cái hộp ra, hai người đàn bà liền ngồi xuống. Bảo Ngọc thấy trong hộp đựng những hoa quả bánh trái ngon nhất trong bữa tiệc, liền gật đầu rồi đi. Bọn Xạ Nguyệt vội đậy nắp hộp lại, cũng đi theo. Bảo Ngọc cười nói:
– Hai người này xem ra tính tình ôn hòa. nói năng vui vẻ, họ ngày nào cũng khó nhọc, thế mà lại bảo các chị vất vả suốt ngày; như thế là họ không tự khoe công lao mình đấy.
Xạ Nguyệt nói:
– Hai người này tết thì tốt thật đấy, nhưng không biết điều cũng lại ra trò.
Bảo Ngọc nói:
– Các chị là người hiểu biết, họ là người quê mùa đáng thương, nên chăm lo họ mới phải.
Vừa nói vừa đi ra cửa vườn.
Bọn bà già đương uống rượu đánh bài, thỉnh thoảng cũng chạy ra nhòm ngó, thấy Bảo Ngọc đi ra, họ cũng theo ra. Đến thềm hoa, thấy hai đứa hầu nhỏ, một bưng chậu, một cầm khăn tay và lọ sáp thơm đứng chờ ở đó từ lâu. Thu Văn dúng tay vào chậu nước, nói:
– Chúng bay càng lớn càng đoảng, sao nước lạnh thế này?
Bọn hầu nhỏ cười nói:
– Thưa cô, trời này cháu sợ nước lạnh nên rót nước sôi đấy. Thế mà lại lạnh mất rồi.
Bỗng có một bà già mang bình nước sôi đi qua, đứa hầu nhỏ liền nói:
– Bà ơi, cho tôi ít nước để pha.
– Chị Ơi, nước pha trà của cụ đấy, chị nên đi múc lấy, có to chân lên đâu mà sợ!
Thu Văn nói:
– Nước của ai tôi cũng không cần! Nếu bà không đưa, cứ để ấm nước chè của cụ ra để rửa tay!
Bà già quay lại, nhìn thấy Thu Văn, liền đồ ra ít nước nóng. Thu Văn nói:
– Đủ rồi! Bà đã già mà chẳng biết gì cả! Ai chẳng biết là của cụ! Không lấy được, chúng tôi lại dám xin à?
Bà già cười nói:
– Tôi mắt lóa, không nhận ra được cô.
Bảo Ngọc rửa tay xong, bảo đứa hầu nhỏ cầm hộp sáp đổ vào tay cho xoa. Nhân có nước nóng. Thu Văn, Xạ Nguyệt cũng rửa tay rồi theo Bảo Ngọc đi.
Bảo Ngọc lấy một bình rượu nóng, bắt đầu rót mời từ thím Lý. Tiết phu nhân và thím Lý đều cười và mời ngồi, Giả mẫu nói:
– Cháu còn bé, cứ để cho nó rót, chúng ta phải uống cạn chén này.
Rồi Giả mẫu cầm chén uống trước. Hình phu nhân và Vương phu nhân đều vội uống. Tiết phu nhân và thím Lý cũng phải cạn chén. Giả mẫu lại bảo Bảo Ngọc:
– Cháu rót cả cho các chị em nữa, không được rót bừa, bảo họ đều phải uống hết.
Bảo Ngọc vâng lời, theo thứ tự rót đến Đại Ngọc. Đại Ngọc không uống, cầm chén lên đưa vào mồm Bảo Ngọc, Bảo Ngọc uống một hơi hết ngaỵ Đại Ngọc cười nói: “Cám ơn anh”.
Bảo Ngọc lại rót hộ cho cô ta một chén. Phượng Thư cười nói:
– Chú Bảo không được uống rượu nguội, cẩn thận đấy kẻo lại run tay, sau không viết được chữ, không giương được cung đâu.
– Em có uống rượu nguội đâu.
– Tôi vẫn biết chú không uống rượu nguội. Đó là tôi dặn qua đấy thôi.
Bảo Ngọc lại đi rót rượu mời mọi người ngồi phía trong, riêng có vợ Giả Dung thì sai a hoàn rót; sau ra ngoài hiên rót mời bọn Giả Trân. Một lúc sau rồi về chỗ.
Sau khi mang đồ nước lên, lại tiếp đến dâng lễ nguyên tiêu. Giả mẫu liền bảo: “Hãy cho nghỉ hát. Lũ con trẻ đáng thương thực, cho chúng nó một ít canh nóng, đồ ăn nóng rồi sẽ lại hát”.
Lại sai mang hoa quả và đồ lễ nguyên tiêu cho chúng ăn.
Lúc nghỉ hát, bà già dẫn đến hai cô xẩm kể chuyện, thường vẫn ra vào trong phủ. Hai người đặt hai cái ghế ở bên cạnh, Giả mẫu bảo họ ngồi và đưa đàn tì bà cho họ gẩy. Giả mẫu hỏi thím Lý và Tiết phu nhân: “Thích nghe tích gì?” Hai người đều thưa: “Tích gì cũng được”. Giả mẫu liền hỏi:
– Gần dây có học thêm được chuyện nào mới không?
Hai cô xẩm thưa:
– Có một chuyện về đời Ngũ đại cuối nhà Đường.
Giả mẫu hỏi tên là vở gì. Cô xẩm thưa:
– Vở Phượng cầu loan.
Giả mẫu nói:
– Cái tên cũng hay đấy, nhưng do đâu mà có chuyện ấy? Hãy nói qua cho ta nghe, hay thì hãy kể.
Cô xẩm thưa:
– Cuối đời Đường, có một vị hương thân, người Kim Lăng, tên gọi Vương Trung, đã từng làm tể tướng hai triều vuạ Sau cáo lão về nhà, chỉ có một vị công tử tên là Vương Hy Phượng.
Mọi người nghe nói cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:
– Thế không trùng tên với con Phượng nhà ta à?
Một bà già vội đứng dậy đẩy cô xẩm nói:
– Đó là tên mợ Hai đấy, không được nói bậy!
Giả mẫu nói:
– Cứ việc nói đi.
Cô xẩm cười đứng dậy nói:
– Chúng cháu thật đáng chết! Không biết là tên mợ Hai!
Phượng Thư cười nói:
– Sợ gì! Cứ nói đi. Nhiều người trùng tên trùng họ chứ.
Cô xẩm lại nói:
– Năm ấy vị hương thân họ Vương cho công tử lên Kinh thị Một hôm mưa to, công tử vào trú ở một cái trại. Ngờ đâu trong trại ấy cũng có một vị hương thân họ Lý, là bạn thân với vị hương thân họ Vương, liền giữ công tử ở lại thư phòng. Vị hương thân họ Lý không có con trai, chỉ có một tiểu thư tên gọi là Sồ Loan, cầm kỳ thi họa, món gì cũng giỏi.
Giả mẫu nói:
– Chẳng trách được gọi là phượng cầu loan. Thôi không cần nói nữa, ta đã đoán ra rồi. Chắc là Vương Hy Phượng muốn lấy Sồ Loan làm vợ chứ gì?
Cô xẩm cười nói:
– Cụ đã xem tích này rồi thì phải?
Mọi người đều nói:
– Truyện nào mà cụ chẳng xem! Dù chưa xem, người cũng đoán ra được.
Giả mẫu cười nói:
– Truyện ấy cũng cùng một lối như các truyện khác thôi, chỉ kể những giai nhân tài tử, chẳng có thú gì. Nói con gái nhà người ta rất tệ mạt, lại còn bảo là “giai nhân”! Toàn là đặt chuyện, không căn cứ vào đâu cả. Cứ mở mồm ra là con nhà “hương thân”, bố không phải thượng thư tất là tể tướng. Hễ là tiểu thư thì nhất định được yêu quí như ngọc. Tiểu thư ấy tất là hạng thông văn chương, biết lễ nghĩa, vào bực giai nhân hiếm có. Rồi thấy đứa con trai nào xinh đẹp, không kể họ hàng, bạn bè, lại nghĩ ngay đến việc trăm năm của mình, quên cả bố mẹ, bỏ cả sách vở, ma chẳng ra ma, giặc chẳng ra giặc, như thế có giống bậc giai nhân một tí nào không? Dù có học giỏi đến đâu, mà làm những việc như thế, cũng không thể gọi là giai nhân được! Ví như một người con trai học hành rất giỏi mà đi làm giặc, thì phép vua có coi là tài tử mà tha tội cho không? Thế mới biết bọn làm sách chỉ tự mình bưng miệng mình. Vả chăng, đã nói là nhà thư hương thế hoạn, tiểu thư nhà đại gia ấy lại thông sách vở, biết lễ nghĩa, mà bà mẹ cũng vậy, dù khi đã cáo lão về nhà rồi, tất nhiên cũng còn nhiều bà già bà vú a hoàn theo hầu, thế mà trong truyện hễ xảy ra các việc như vậy, thì lại chỉ có một a hoàn hầu cận tiểu thư biết thôi! Các người thử nghĩ xem, những người hầu khác thì làm việc gì? Có phải là sách chép đầu Ngô mình Sở không?
Mọi người đều cười nói:
– Cụ thực moi ra hết những chuyện nói nhảm.
Giả mẫu cười nói:
– Việc ấy cũng có duyên cớ. Trong số người viết truyện, có một hạng thấy người ta phú quý, đem lòng ghen ghét, hoặc mong muốn điều gì không được, nên viết ra sách nói xấu. Lại có một hạng người nữa, đọc lệch truyện đi, tự mình cũng mong sao được gặp giai nhân, nên viết ra truyện để mua vui. Chứ họ có biết rõ được đạo lý con nhà thi thư thế hoạn là thế nào đâu. Không nói đến những hạng con nhà đại gia trong các truyện, chỉ nói ngay những nhà bậc bình thường như nhà chúng ta dây, cũng không hề có những truyện như thế. Đừng để cho họ lau láu cái mồm! Vì thế, nhà chúng ta xưa nay có cho ai kể những chuyện ấy đâu. Ngay trong đám a hoàn cũng vậy. Mấy năm nay ta già rồi, con cháu lại ở xa, khi buồn ta bảo người kể mấy câu cho qua, nhưng hễ cháu nó đến, là ta lại bắt họ thôi ngay.
Thím Lý và dì Tiết đều cười nói:
– Đó thực là khuôn phép nhà đại gia. Ngay nhà chúng cháu cũng không cho trẻ con nghe những chuyện nhảm ấy.
Phượng Thư chạy lại rót rượu, cười nói:
– Thôi, thôi! Rượu nguội mất rồi, xin bà uống một chén cho ráo cổ, rồi hãy vạch hết chuyện nhảm ấy ra. Hồi này có thể gọi là hồi “vạch chuyện nhảm”, chuyện xảy ra đúng giờ này, ngày này, tháng này, năm này, nơi này, triều đại này. Bà ơi! Mở miệng khó nói được hai việc “Hai bông hoa nở chung một cành”, “Thực giả chưa cần nói rõ” 3, cháu hãy sắp đặt người xem đèn, xem hát đã. Bà mời hai vị thân thích đi uống ly rượu, xem vài vở hát rồi sẽ vạch những chuyện nói nhảm từ mấy đời trước ra có được không?
Phượng Thư vừa rót rượu vừa cười, mọi người nghe vậy đều cười lăn ra.
Hai cô xẩm cũng cười nói:
– Mợ nói khéo quá! Mợ mà kể truyện thì thật chúng tôi hết chỗ kiếm ăn!
Tiết phu nhân cười nói:
– Chị nói ít chứ! Bên ngoài có khách, không như lúc thường đâu.
Phượng Thư cười nói:
– Bên ngoài chỉ có một mình anh Trân thôi, chúng tôi kể là anh em, từ lúc bé vẫn thường đùa ngịch với nhau. Mấy năm nay, vì đã có chồng, nên tôi phải giữ phép anh chồng em dâu, chứ không còn như khi nhỏ nữa. Trong nhị thập tứ hiếu có chuyện “múa áo ban” 4 các anh ấy không mặc áo hoa múa cho cụ tôi vui thì tôi phải khó khăn mới làm cho cụ tôi cười, để ăn thêm được một ít, cho cả nhà vui mừng. Đáng ra phải cảm ơn tôi mới phải, không lẽ lại cười tôi à?
Giả mẫu cười nói:
– Hai ngày hôm nay ta chưa có một trận cười nào thỏa thích, may có nó nói ra làm ta cười một trận, uống thêm ly rượu nữa.
Giả mẫu uống xong lại sai Bảo Ngọc:
– Đến mời chị cháu một chén.
Phượng Thư cười nói:
– Không cần chú ấy mời, cháu đến nhờ lộc bà đây.
Phượng Thư đến uống hết ly rượu còn thừa của Giả mẫu, và đưa chén cho a hoàn, bảo lấy chén khác đã ngâm nước nóng mang đến. Các người trong tiệc cũng đều đứng dậy thay chén đã ngâm nước nóng, rót rượu mới vào, rồi lại trở về chỗ ngồi.
Cô xẩm thưa:
– Cụ không nghe chuyện, chúng cháu xin gẩy một khúc hát để người nghe.
– Các người hãy họa bài “Tướng quân lệnh” cho ta nghe.
Hai người liền so dây gẩy đàn, Giả mẫu hỏi:
– Giờ đã canh mấy rồi?
Bọn bà già thưa:
– Canh ba.
Giả mẫu nói:
– Thảo nào đã thấy hơi lạnh.
Bọn a hoàn đã mang sẵn quần áo. Vương phu nhân cười nói:
– Xin cụ vào ngồi ở giường ấm trong noãn các. Hai vị này không phải là người lạ, để các con tiếp cũng được.
– Đã thế thì chúng ta cùng vào cả, có ấm hơn không?
– Sợ trong ấy không đủ chỗ ngồi.
– Ta đã có cách. Bây giờ không cần nhiều bàn nữa, chỉ dùng độ hai ba chiếc đặt liền nhau, mọi người ngồi quây quần một chỗ, vừa thân mật lại ấm áp.
Mọi người đều nói
“Thế mới vui chứ!”
Nói xong liền đứng dậy. Bọn đàn bà dọn hết bàn tiệc đi, dồn làm ba bàn lớn, lại đặt hoa quả cỗ bàn mới vào. Giả mẫu nói:
– Không phải câu nệ gì, ta cắt đặt đâu, các người phải ngồi đấy.
Nói xong, mời Tiết phu nhân và thím Lý ngồi đối diện bàn trên, còn mình ngồi trông ra hướng tây. Bảo Cầm, Đại Ngọc, Tương Vân cho ngồi liền bên cạnh, rồi bảo Bảo Ngọc:
– Cháu ngồi cạnh mẹ cháu.
Bảo Ngọc ngồi ở khoảng giữa Hình phu nhân và Vương phu nhân. Chị em Bảo Thoa ngồi ở phía tây. Theo thứ tự, Lâu thị ngồi kèm thêm Giả Huân; Vưu Thị và Lý Hoàn ngồi với Giả Lan; vợ Giả Dung ngồi ở ghế ngang phía dưới.
Giả mẫu nói:
– Anh Trân đẫn bọn anh em về đi, ta sắp đi ngủ đây.
Bọn Giả Trân vâng lời đi vào, Giả mẫu nói:
– Thôi anh về đi, không cần phải vào nữa, kẻo ngồi rồi lại phải đứng dậy. Anh về mà nghỉ, ngày mai còn có việc cần.
Giả Trân vâng lời, cười nói:
– Xin để cháu Dung ở lại rót rượu mới phải.
– Phải đấy, ta quên mất nó.
Giả Trân dẫn bọn Giả Liễn đi ra. Hai người rất mừng. Giả Trân sai người đưa Giả Tôn và Giả Hoàng về nhà rồi hẹn Giả Liễn đi mau vui ở chỗ khác.
Giả mẫu cười nói:
– Giờ ta mới nghĩ ra, ở đây đông người góp vui nhưng không có một đôi vợ chồng nào. Ta quên đi mất, bây giờ có vợ chồng chắt Dung, thế là song toàn rồi. Dung ơi! Mày cùng ngồi một chỗ với vợ mày, như thế mới thực là đoàn viên chứ.
Bọn bà già đem trình đơn hát, Giả mẫu cười nói:
– Bà cháu chúng ta đang vui, lại làm ồn lên. Vả chăng bọn trẻ con này phải thức đêm, trời lại lạnh, chi bằng cho chúng nó nghỉ, gọi bọn con hát gái của nhà ta đến đây diễn vài vở và cũng để cho chúng nó nghe luôn.
Các bà già vâng lời đi ra, một mặt bảo người đến vườn Đại Quan gọi bọn con gái hát, một mặt ra cửa thứ hai truyền cho những người hầu vào chờ sẵn đấy. Bọn người hầu đến buồng hát, cho những người lớn trong ban về hết, chỉ để trẻ con ở lại thôi.
Một lúc, người giáo tập ở viện Lê Hương dẫn bọn Văn Quan mười hai đứa từ cửa nách bên hè đi vào. Họ không kịp mang rương hòm, chỉ có các bà già đem theo mấy bọc quần áo, vì biết Giả mẫu chỉ thích nghe dăm ba vở thôi. Các bà già dẫn Văn Quan vào chào, chắp tay đứng yên. Giả mẫu cười nói:
– Trong tháng giêng này, thầy các người không cho ra nghỉ chơi à! Bây giờ các người hát vở gì? Vừa rồi hát tám khúc “bát nghĩa” nhộn lắm, làm ta nhức cả đầu. Nên hát khác gì êm ái thì hơn. Các người xem, dì Tiết và thím Lý đều có ban hát cả, đã nghe bao nhiêu vở hát hay rồi; các cô kia cũng đã xem và nghe nhiều khúc hát haỵ Còn bọn con hát này lại là một ban hát có tiếng xưa nay, tuy chúng nó còn bé, nhưng hát khá hơn người lớn. Chúng ta đừng chịu mang tiếng, phải hát vở gì cho thật mới. Bây giờ Phương Quan hãy hát vở “tầm mộng” dùng đàn và tiêu sáo không cần sênh phách.
Văn Quan cười nói:
– Cụ dạy rất đúng. Vở hát của chúng tôi chắc không lọt tai các vị mấy, chẳng qua giọng vịt đực, khàn khàn trong cổ họng thôi.
Giả mẫu nói: “Đúng đấy”.
Thím Lý và Dì Tiết đều cười nói:
– Con bé ranh thật! Mày cũng biết theo cụ đi đùa chúng ta à?
Giả mẫu nói:
– Chúng ta gặp thế nào vui thế, chứ không phải kiểu buôn bán kiếm lời, nên không cần phải hợp thời lắm.
Nói xong lại bảo Qùy Quan:
– Hát vở “Huệ minh hạ thư” 5 cũng không cần phải vẽ mặt. Chỉ hát hai vở này để cho hai bà thêm vui thôi. Nếu không cố hát cho hay thì ta không bằng lòng đâu.
Lũ Văn Quan vâng lời đi ra, sắm sửa lên sân khấu, trước hết hát vở “tầm mộng”, sau hát vở “hạ thư”. Mọi người ngồi rất im lặng. Tiết phu nhân cười nói:
– Tôi đã xem hàng mấy trăm ban hát, chưa bao giờ lại chỉ dùng tiêu với sáo.
Giả mẫu nói:
– Có đấy như vừa rồi vở “Sở giang tình” trong “Tây lâu” thường chỉ có vai nam thổi tiêu hòa nhịp thôi. Vở này ít khi đem ra họa chung. Đó là tùy người nghe có quen hay không đấy thôi, chứ có gì là lạ.
Lại trỏ Tương Vân nói:
– Hồi tôi còn nhỏ như nó, đã được xem một ban hát của bố nó cũng chỉ có một người đánh đàn, hòa vở “thính cầm” trong “Tây sương ký”. Vở “cầm khiên” trong “Ngọc trâm ký”, nghe ra như thực ấy. Vậy so với vở này thì thế nào?
Mọi người đều nói: “Thế lại càng khó mà bì nổi”.
Giả mẫu sai mấy người đàn bà đến bảo bọn Văn Quan đàn sáo hát khúc “đăng nguyệt viên”. Bọn đàn bà vâng lời đi. Vợ chồng Giả Dung rót một lượt rượu.
Phượng Thư thấy Giả mẫu cao hứng quá, liền cười nói:
– Nhân có các cô xẩm ở đây, chi bằng bảo họ đánh trống, chúng ta bày cuộc truyền cành mai làm lệnh “xuân hỷ thượng my sao” 6 có nên không?
Giả mẫu cười nói:
– Lệnh ấy hay đấy! Đúng với thời cảnh bây giờ.
Rồi sai người mang cái trống lệnh đóng đanh đồng sơn đen đến cho các cô xẩm đánh, và lấy một cành mai trên bàn tiệc ra. Giả mẫu cười nói:
– Hễ cành mai truyền đến tay ai mà ngừng trống thì người ấy uống một ly rượu, và phải nói một câu chuyện mới được.
Phượng Thư cười nói:
– Kể ra thì ai được như bà, muốn đọc cái gì có cái ấy ngaỵ Chúng cháu không làm được lại chẳng hóa ra mất vui sao? Phải làm thế nào để người nhã và người tục đều thưởng thức cả mới thú. Chi bằng trống dứt ở tay người nào, người ấy phải kể một câu chuyện cười.
Mọi người đều biết Phượng Thư ngày thường tài pha trò, trong bụng có vô số là chuyện vui mới lạ, nay thấy chị ta nói thế, không những người trong tiệc, ngay đám hầu lớn nhỏ ở đấy cũng đều thích cả. Chúng liền đi rủ chị gọi em: “Mợ Hai sắp nói pha trò đấy, mau đến mà nghe”. Một lúc sau, người đến đông nghịt cả nhà.
Đàn hát xong, Giả mẫu bảo mang ít hoa quả, chè thang cho bọn Văn Quan ăn. Rồi sai đánh trống. Các cô xẩm đã đánh quen, lúc thưa lúc nhặt, thánh thót như giọt đồng hồ, dồn dập như vó ngựa chạy, nhanh nhanh như điện vút quạ Bỗng nhiên tiếng trống dừng lại, cành mai đã đưa đến tay Giả mẫu, mọi người cười ầm lên. Giả Dung vội đến rót ly rượu. Mọi người cười nói:
– Cụ phải vui trước, để chúng cháu vui nhờ với.
Giả Dung cười nói:
– Cụ kể hay hơn chị Phượng nhiều, xin người nói lên, để chúng cháu được vui cười.
Giả mẫu cười nói:
– Rượu uống cũng được, nhưng kể chuyện vui thì hơi khó đấy.
Mọi người đều nói:
– Cụ kể hay hơn chị Phượng nhiều, xin người nói lên, để chúng cháu được vui cười.
Giả mẫu cười nói:
– Chẳng có chuyện gì mới lạ đáng buồn cười cả, thôi già này đành mặt dày kể một chuyện vậy: “Một nhà có mười người con giai, lấy mười người con dâu. Chỉ có người con dâu thứ mười là thông minh lanh lợi, mồm mép bẻo lẻo, bố mẹ chồng rất thương, suốt ngày cứ chê chín người con dâu kia không biết hiếu thuận. Chín người con dâu ấy ức quá, liền bàn với nhau: chín đứa chúng ta bụng rất hiếu thuận, nhưng mồm mép không bẻo lẻo bằng con ranh ấy, nên bố mẹ chỉ bảo nó tốt thôi. Nỗi uất ức này biết kêu ai cho được! Có người nghĩ ra một cách: Ngày mai chúng ta thắp hương khấn hỏi vua Diêm vương: đã cho chúng tôi sinh ra làm người, tại sao lại chỉ cho con ranh con ấy cái mồm lém lỉnh, còn chúng tôi thì đều ăn nói vụng về cả? Tám người kia nghe xong, lấy làm thích thú lắm, đều nói: nghĩ thế đúng đấy! Hôm sau, họ rủ nhau đến thắp hương ở miếu Diêm vương. Chín người đều nằm mộng dưới bàn thờ. Chín cái hồn cứ chơ vơ mãi, không thấy Diêm vương đến. Đương lúc sốt ruột thì Tôn Hành Giả cưỡi mây lộn xuống nhìn thấy chín cái hồn, liền cầm gậy bít vàng định đánh. Chín cái hồn sợ quá, quỳ xuống van xin. Tôn Hành Giả hỏi duyên cớ vì sao, chín cái hồn ấy vội tỉ mỉ thuật lại câu chuyện. Nghe xong, Tôn Hành Giả giậm chân thở dài: Việc này may gặp ta đây! Chứ gặp Diêm Vương thì người chẳng hiểu ra sao đâu. Chín cái hồn liền nói: Xin đức đại thánh rủ lòng từ bi cho chúng con được nhờ! Tôn Hành Giả cười nói: Việc này không khó gì đâu, hôm mười chị em chúng mày hóa kiếp làm người, vừa lúc ta đến điện Diêm vương, ta đái một bãi xuống đất, con em dâu bé chúng mày uống hết cả. Bây giờ chúng mày muốn khôn ngoan, lém lỉnh, sẵn nước đái đây ta đái cho mà uống.
Giả mẫu kể xong, mọi người đều cười ầm lên. Phượng Thư cười nói:
– Chuyện hay lắm! May mà các cháu đây đều là hạng mồm mép vụng về cả. Nếu không, cũng phải uống nước đái khỉ rồi đấy.
Lâu Thị, Vưu Thị đều ngoảnh lại Lý Hoàn, cười nói:
– Bọn chúng ta đây ai là người đã uống nước đái khỉ rồi? Đừng có giả vờ nữa!
Tiết phu nhân cười nói:
– Chuyện vui cốt ở chỗ đúng với cảnh mới đáng buồn cười.
Lúc đó lại đánh trống. Bọn hầu chỉ muốn nghe Phượng Thư nói chuyện cười, liền khẽ bảo cô xẩm, cứ nghe tiếng đằng hắng thì ngừng trống lai. Một lúc cành mai đã truyền đi hai lượt, vừa đến tay Phương Thư, bàn hầu nhỏ đằng hắng, cô xẩm ngừng trống lại. Mọi người đều cười nói:
– Tóm đúng cổ rồi! Thôi uống rượu rồi kể chuyện đi. Nhưng đừng làm người ta cười đứt ruột đấy!
Phượng Thư nghĩ một lúc, cười nói:
– Một nhà nọ ăn tết tháng giêng, cả nhà xem đèn uống rượu, rất là náo nhiệt. Nào cụ, nào bà, nào con dâu, cháu dâu, chắt dâu, cháu dâu họ, cháu họ, chắt họ, cháu nuôi, cháu dây mơ rễ mái, cháu gái, cháu gái ngoại, cháu gọi bằng bà dì, cháu gọi bằng bà cô… Úi chà! Thật là đông đúc nhộn nhịp!
Mọi người nghe vậy, cười lớn nói:
– Nghe cái miệng rông dài ấy, chưa biết lại định chọc người nào đấy!
Vưu Thị cười nói:
– Thím mà trêu tôi thì tôi xé mồm ra đấy!
Phượng Thư đứng dậy vỗ tay cười nói:
– Người ta đã phải nói khó nhọc, các người lại cứ quấy rối, thôi tôi không nói nữa.
Giả mẫu cười nói:
– Cháu cứ nói đi, sau đó thế nào?
Phượng Thư nghĩ một lúc rồi cười nói:
– Sau quây quần cả vào trong một nhà, uống rượu suốt đêm rồi đâu về đấy.
Mọi người thấy giọng nói có vẻ nghiêm chỉnh, ai nấy im lặng, ngồi ngây ra nghe, nhưng thấy Phượng Thư lạnh lùng ngừng hẳn lại không nói nữa. Tương Vân nhìn một lúc lâu. Phượng Thư cười nói:
– Lại kể một chuyện nữa về tết tháng giêng: Có mấy người mang cây pháo to ra ngoài thành, hàng vạn người đi theo để xem. Có một người sốt ruột không chờ được, liền lấy hương đốt vụng, thì “ầm” một tiếng. mọi người đều cười rộ lên, rồi về cả. Người khênh cây pháo lại oán trách người bán pháo cuộn không chắc, chưa đốt đã nổ rồi.
Tương Vân nói:
– Chẳng lẽ người ấy lại không nghe tiếng à?
Phượng Thư nói:
– Người đó là người điếc.
Mọi người nghĩ một lúc bỗng cười to, lại nghĩ đến câu chuyện trước chưa nói hết, liền hỏi:
– Câu chuyện nói trước rồi ra thế nào? Nói hết đi.
Phương Thư đập bàn nói:
– Khéo lôi thôi lắm! Ngày mai là ngày mười sáu, hết năm mới rồi, hết tết rồi, tôi phải trông nom cho người ta dọn dẹp đồ đạc còn biết sau đó ra thế nào nữa.
Mọi người nghe rồi lại cười ầm lên.
Phượng Thư cười nói:
– Đã canh tư rồi, cứ ý cháu thì bà đã mệt, chúng ta cũng nên như “thằng điếc đốt pháo” về đi là hơn.
– Con Phượng đúng càng ngày càng quen nói rông rài!
Rồi lại bảo:
– Nó đã nhắc đến cây pháo, thì chúng ta cũng lấy pháo ra đốt để giải rượu.
Giả Dung nghe nói, liền dẫn bọn người hầu dựng cái giá ở sân, rồi treo sẵn pháo lên. Thứ pháo này là của các nơi đem đến tiến cống, tuy không to lắm, nhưng làm rất công phụ Khi pháo nổ, sẽ có đủ những sự tích và đủ các màu sắc, lại kèm thêm pháo hoa. Đại Ngọc vốn người yếu sẵn, không chịu nổi những tiếng nổ to, Giả mẫu liền ôm cô ta vào lòng. Tiết Phu nhân cũng ôm lấy Tương Vân. Tương Vân cười nói:
– Cháu không sợ.
Bảo Thoa cười nói:
– Xưa nay nó vẫn thích đốt pháo lớn, còn sợ cái gì.
Vương phu nhân cũng ôm Bảo Ngọc vào lòng. Phượng Thư cười nói:
– Chúng tôi thì chẳng ai thương cả!
Vưu Thị cười nói:
– Có tôi đây, tôi ôm thím vào lòng nhé. Bây giờ lại làm nũng rồi đấy. Nghe nói nổ pháo thì thích như “uống nước đái con ong” ấy lại còn làm bộ.
Phượng Thư cười nói:
– Chờ xong đây, chúng ta sẽ về trong vườn đốt pháo nữa. Tôi còn đốt giỏi hơn bọn người hầu kia đấy.
Đương nói chuyện thì bên ngoài đã đốt luôn các thứ pháo. Nào là kiểu “mãn thiên tinh” (sao khắp trời), nào là “cửu long nhập vân” (chín con rồng lượn trong đám mây), nào là “bình địa nhất thanh lôi” (một tiếng sấm trên đất bằng), nào là “phi thiên thập hưởng” (mười tiếng nổ tung trên trời). Đốt pháo xong, lại sai bọn con hát nhỏ đánh một hồi trống “liên hoa lạc” (hoa sen rụng), rồi rắc đầy tiền trên sàn hát để đám trẻ con lên cướp làm trò vui.
Khi ăn cháo, Giả mẫu nói:
– Đêm dài quá đâm ra đói.
Phượng Thư vội nói:
– Đã sắp sẵn cháo vịt rồi.
– Ta ăn thứ gì thanh đạm thôi.
– Đã có thứ cháo gạo tám nấu với táo để cho các bà ăn chay.
– Ta ăn món ấy thôi.
Lúc đó bàn tiệc đã dọn đi cả, khắp trong ngoài lại bày đặt các món ăn thanh đạm. Ai muốn gì thì ăn. Súc miệng xong, ai nấy đều về.
Đến sáng hôm mười bảy, Giả mẫu lại sang phủ Ninh làm lễ chờ đóng cửa nhà thờ, thu dọn ảnh, xong mới về. Hôm ấy Tiết phu nhân lại mời Giả mẫu đến uống rượu tết. Ngày mười tám, nhà Lại Đại mời. Ngày mười chín nhà Lai Thăng bên phủ Ninh mời. Ngày hai mươi, nhà Lâm Chí Hiếu mời. Ngày hai mươi mốt, nhà Đan Đại Lương mời. Ngày hai mươi hai, nhà Ngô Tân Đăng mời. Có ngày Giả mẫu đi, có ngày Giả mẫu không đi. Khi cao hứng thì đợi cho tiệc tan mới về, không vui thì chỉ đến một lúc là về ngaỵ Các bạn hữu lại mời hoặc lại dự tiệc, Giả mẫu nhất thiết không tiếp, mặc cho Hình phu nhân, Vương phu nhân và Phượng Thư trông nom. Ngay Bảo Ngọc cũng chỉ đến nhà Vương Tử Đằng thôi, còn đều từ chối cả, chỉ nói là Giả mẫu giữ lại ở nhà để cho đỡ buồn.
1 Vở kịch do Từ Thúc Hồi đời nhà Minh soạn, diễn tích Triệu Thuẫn người nước Tấn đời Xuân Thu.
2 Một chuyện thần thoại diễn tích Kim Hoa nương nương.
3 Phượng Thư toàn dùng những câu cuối hồi các truyện ra để pha trò cười.
4 Chuyện ông Lão Lai đã 70 tuổi, còn mặc áo hoa sặc sỡ, múa hát để bố mẹ vui.
5 Trong Tây sương ký: Khi Tôn Phi Hổ đem quân đến vây chùa Tướng Quốc, chú tiểu Huệ Minh đã dũng cảm, cầm lá thư của Trương Sinh đưa đến Bạch Mã tướng quân, nhờ đem quân về giải vây, cứu thoát mẹ con Thôi Oanh Oanh trong tay giặc.
6 Vui mừng xuân đến cả cuối lông mày ý nói vui mừng quá.
Ngày tết đã quạ Lúc này trong cung có vị thái phi bị yếu do đức vua lấy đạo hiếu trị thiên hạ, nên các phi tần đều bớt món ăn, thôi trang điểm, không những không về thăm cha mẹ, mà mọi yến tiệc cũng đều bỏ cả. Vì vậy phủ Vinh trong đêm nguyên tiêu năm nay cũng không có buổi đố đèn. Tết vừa qua, Phượng Thư bị tiểu sản, phải nằm ở nhà một tháng, không trông nom được công việc, ngày nào cũng mời hai, ba thầy thuốc đến chữa. Phượng Thư cậy mình khỏe, tuy không đi ra ngoài,nhưng vẫn lo tính công việc, hễ nghĩ đến điều gì là sai ngay Bình Nhi sang trình Vương phu nhân. Ai can ngăn cũng không nghe. Vương phu nhân xem như mất một cánh taỵ Một người được bao nhiêu sức lực, nên việc gì quan trọng, bà ta mới nhìn đến, còn việc lặt vặt trong nhà đều giáo cho Lý Hoàn trông nom. Lý Hoàn vốn là người trọng đức không trọng tài, đâm ra nuông chiều người dưới quá. Vương phu nhân liền sai Thám Xuân hợp sức trông nom với Lý Hoàn. Cũng tưởng chỉ độ một tháng, Phượng Thư khỏi rồi, lại giao giả công việc cho chị ta; nào ngờ Phượng Thư vốn đã hư nhược, còn trẻ người, không biết giữ gìn, xưa nay lại hay khoe khôn cậy khéo, nên sức càng yếu thêm, tuy là tiểu sản, nhưng thực ra trong người hư nhược lắm rồi. Sau một tháng, lại thêm bênh rong huyết. Tuy chị ta không chịu nói ra, nhưng mọi người thấy mặt mũi vàng vọt, biết ngay là kém điều dưỡng. Vương phu nhân bắt phải uống thuốc và nghỉ ngơi, không được nghĩ đến việc gì cả. Phượng Thư cung sợ bệnh nặng thêm, người ta cười chê, nên cũng muốn nhân lúc rỗi để tĩnh dưỡng, chỉ bực mình không mau được khỏe như cũ. Ngờ đâu uống thuốc đến ba tháng, bệnh mới đỡ.
Vương phu nhân thấy Phượng Thư như thế, Thám Xuân và Lý Hoàn mới cáng đáng công việc, sợ trong vườn nhiều người, không trông nom xuể, bèn nhờ Bảo Thoa trông nom hộ các nơi cho cẩn thận, và dặn: “Bọn bà già thực vô dụng, ban ngày thì ngủ, đêm đến lại bài bạc. Ta biết cả rồi. Khi chị Phượng còn trông nom công việc, họ còn chút sợ hãi, bây giờ thì tha hồ bừa bãi. Cháu là người đứng đắn, các em cháu hãy còn bé cả, ta lại không có thì giờ, nhờ cháu chịu vất vả trông nom hộ ít ngày. Nếu xảy ra việc gì cháu đến nói với ta, chớ để khi cụ hỏi đến, lại không biết trả lời ra sao. Có người nào hư, cháu cứ răn bảo, nếu nói không nghe, sẽ nói cho ta biết, không nên để xảy ra to chuyện.” Bảo Thoa nghe nói, đành xin vâng lời.
Bấy giờ đã cuối xuân, Đại Ngọc lại ho trở lại. Tương Vân cũng bị cảm nằm ở Hành Vu Uyển, suốt ngày thuốc men không ngớt.
Thám Xuân và Lý Hoàn ở cách nhau, nên có việc gì, người đi lại trình báo rất không tiện. Họ bàn với nhau, cứ mỗi buổi sáng cùng đến bàn việc ở ba gian nhà hoa bên phía nam cửa vườn. Từ sau bữa cơm sáng, đến quá trưa họ mới về.
Ba gian nhà này là chỗ đứng chực của bọn thái giám trong dịp Qúy phi về thăm nhà. Sau đó bỏ không, chỉ để bọn bà già đến canh đêm. Bây giờ trời ấm, nên không cần phải sửa sang mấy, chỉ bày biện qua loa cho hai người ngồi thôi. Nhà này cũng có cái biển đề bốn chữ “phụ nhân dụ đức” (giúp nhân khuyên đức) người trông nhà thường chỉ gọi là “nhà bàn việc”. Hai người cứ giờ mão đến, giờ ngọ về. Bọn đàn bà giữ việc, đi lại trình báo không ngớt. Ban đầu, mọi người thấy một mình Lý Hoàn trông nom, trong bụng đều mừng thầm, vì Lý Hoàn xưa nay là người trung hậu, chỉ làm ơn chứ không hay phạt ai. Sau thêm Thám Xuân. Thấy vậy ai cũng yên trí đó là một cô tiểu thư trẻ tuổi, chưa từng ra khỏi buồng the, mà tính khí xưa nay lại hòa nhã điềm đạm. Vì thế công việc trễ nải hơn khi Phượng Thư trông nom. Nhưng sau ba, bốn ngày, qua mấy việc, dần dần thấy rõ Thám Xuân sành sỏi chẳng kém gì Phượng Thư, chỉ khác là tính tình hòa nhã, nói năng dịu dàng mà thôi.
Vừa hay trong mấy ngày liền, có hàng mười mấy nơi, nào là vương công hầu bá, quan viên thế tập hoặc là họ hàng, hoặc là bạn thân của hai phủ Vinh, Ninh, người được thăng chức đổi đi nơi khác, người bị giáng truất, hoặc có việc tang hay việc hôn, Vương phu nhân phải đi mừng, đi viếng, đưa đón không lúc nào rỗi, nên bên ngoài lại càng không có ai trông nom. Lý Hoàn và Thám Xuân ngày nào cũng phải ngồi ở nhà hoa, Bảo Thoa thì lên nhà trên trông nom, đến khi Vương phu nhân về mới nghỉ.
Ban đêm khâu vá, xong trước khi đi ngủ, họ ngồi kiệu dẫn những người canh trong vườn đi xem xét các nơi một lượt. Ba người này làm như thế, so với lúc Phượng Thư giữ việc lại có phần cẩn thận hơn. Vì thế các người hầu trong ngoài oán ngầm: “Một con quỉ dạ soa vừa ngã, thì ba sao thái tuế lại lên”, ngay đến cả việc uống trộm chơi trộm ban đêm cũng không được nữa.
Hôm ấy Vương phu nhân đi dự tiệc ở phủ Cẩm Hương Hầu, Lý Hoàn và Thám Xuân rửa mặt chải đầu xong, đứng chực để đưa ra cửa. Khi Vương phu nhân đi rồi, hai người mới về nhà hoa ngồi, vừa uống chén nước, thấy vợ Ngô Tân Đăng đến trình:
– Em dì Triệu là Triệu Quốc Cơ hôm nọ chết, đã trình cụ và bà Hai, người nói biết rồi, và bảo đến trình cô.
Nói xong, liền buông thõng tay đứng cạnh. Bấy giờ có nhiều người đến trình việc, đều thăm dò xem Lý Hoàn và Thám Xuân làm ăn thế nào. Nếu sắp đặt thỏa đáng, thì họ mới sợ, có thiếu sót điều gì, không những họ không phục, mà khi ra đến cửa ngoài lại còn nói nhiều câu chế giễu, để làm trò cười. Vợ Ngô Tân Đăng đã có ý định như vậy, nên trước đây đối với Phượng Thư, chị ta tỏ vẻ ân cần, đưa nhiều ý và tra lệ cũ ra, tùy Phượng Thư lựa chọn mà làm; nhưng bây giờ chị ta coi thường Lý Hoàn là người thực thà, Thám Xuân là cô gái trẻ tuổi, nên chỉ nói thõng một câu, để xem ý định của hai người ra sao.
Thám Xuân hỏi Lý Hoàn. Lý Hoàn nghĩ một lúc rồi nói:
– Hôm nọ thấy nói mẹ Tập Nhân chết, có giúp cho bốn mươi lạng bạc, bây giờ ta cũng nên giúp cho bốn mươi lạng.
Vợ Ngô Tân Đăng liền “vâng” một tiếng, rồi cầm thẻ đi lĩnh tiền. Thám Xuân nói:
– Chị khoan chi tiền. Tôi hỏi chị: Mấy năm trước, các bà dì ở trong nhà cụ, có người ở trong nhà, có người ở ngoài đến, hai hạng khác hẳn nhau. Khi có bà con chết thì người ở trong nhà được giúp bao nhiêu? Người ở ngoài được giúp bao nhiêu? Chị nói cho chúng tôi biết.
Nghe hỏi, vợ Ngô Tân Đăng cuống lên, cười nói:
– Việc ấy không can hệ gì, giúp nhiều hay ít, còn ai dám tị nạnh nữa.
Thám Xuân cười nói:
– Nói càn thế sao được! Cứ ý tôi thì giúp một trăm lạng mới phải! Nhưng nếu không theo lệ thì chẳng những các chị cười mà sau này tôi cũng ngượng mặt với mợ Hai nhà chị.
Vợ Ngô Tân Đăng cười nói:
– Đã thế thì tôi đi tra sổ cũ xem, bây giờ không nhớ được.
Thám Xuân cười nói:
– Chị giữ việc lâu nay, còn chưa nhớ được, lại đến làm khó dễ chúng tôi? Ngày thường chị đến trình với mợ Hai cũng phải đi tra sổ à? Nếu quả như thế thì mợ Hai không phải là người cay nghiệt, mà là người rộng lượng đấy. Thôi chị đi lấy sổ cho tôi xem! Nếu nhỡ việc một ngày, người ta không cho là các chị sơ suất, lại bảo chúng tôi hồ đồ.
Vợ Ngô Tân Đăng đỏ bừng mặt, quay ra. Các người đàn bà đứng đấy đều lè lưỡi. Rồi có mấy người nữa vào trình việc.
Một lúc vợ Ngô Tân Đăng mang sổ đến. Thám Xuân giở ra xem, có hai người ở trong nhà được giúp hai mươi bốn lạng, hai người ngoài đến được giúp bốn mươi lạng. Ngoài ra còn có hai người ở ngoài nữa: một người được giúp một trăm lạng, một người được giúp sáu mươi lạng. Hai món tiền này ở dưới đều chua rõ: một người phải rước linh cữu bố mẹ đi ra tỉnh khác, nên giúp thêm sáu mươi lạng; một người phải mua đất chôn nên giúp thêm hai mươi lạng. Thám Xuân đưa sổ cho Lý Hoàn xem, rồi nói:
– Giúp hai mươi lạng thôi. Để sổ này ở đây, chúng tôi còn phải xem lại.
Vợ Ngô Tân Đăng đi ra.
Bỗng thấy dì Triệu đến, Lý Hoàn, Thám Xuân vội mời ngồi. Dì Triệu nói:
– Người trong nhà này ai cũng muốn giúi đầu tôi xuống, các cô hãy làm thế nào cho tôi hả giận mới phải!
– Dì nói ai thế? Tôi thật không hiểu. Ai giúi đầu dì xuống? Xin cứ nói ra, tôi sẽ làm cho dì hả giận.
Dì Triệu nói:
– Chính cô giúi đầu tôi xuống, tôi còn biết kêu ai được nữa?
Thám Xuân đứng dậy nói:
– Tôi đâu dám thế.
Lý Hoàn vội đứng dậy khuyên ngăn. Dì Triệu nói:
– Các người hãy ngồi xuống để tôi nói. Tôi dãi dầu chịu đựng trong nhà này đã chừng này tuổi đầu, mới đẻ được cô và thằng em cô, thế mà bây giờ không bằng cả con Tập Nhân. Tôi còn mặt mũi nào nữa. Việc này không riêng gì tôi, mà cả cô cũng mất thể diện đấy.
Thám Xuân cười nói:
– Thế ra vì việc này à! Tôi nghĩ tôi không bao giờ dám làm việc gì phạm phép trái lễ.
Thám Xuân ngồi xuống, lấy sổ ra đọc cho dì Triệu nghe, lại nói:
– Đây là thể lệ của ông cha đặt ra từ trước, ai cũng phải theo thôi, thay đổi thế nào được? Không những riêng đối với chị Tập Nhân, mà sau này em Hoàn có lấy người hầu ở ngoài, tất nhiên cũng được đối đãi như Tập Nhân. Đây không phải là việc tranh giành hơn kém, dì không nên nói đến việc có thể diện hay mất thể diện. Họ là đầy tớ của bà Hai, tôi phải làm theo lệ cũ. Nếu tôi làm phải, họ sẽ đội ơn tổ tiên và bà Hai; nếu bảo tôi làm không công bằng, thì đó là tự họ hồ đồ không biết phúc phận dấy thôi, dù có oán trách tôi cũng mặc. Dù bà Hai có cho cả cái nhà đi nữa, tôi cũng chẳng được thể diện gì, mà không cho một đồng nào, tôi cũng chẳng mất thể diện. Cứ ý tôi, hiện giờ bà Hai đi vắng chưa về, dì nên yên tĩnh giữ sức khỏe, tội gì phải bận lòng thế. Bà Hai rất thương tôi, vì dì cứ hay tính chuyện, nên mấy lần người rất phiền lòng. Nếu tôi là con giai được ra ngoài lập công danh, thì đã đành đi một nhẽ. Nhưng tôi lại là con gái, ăn nói phải giữ gìn từng câu. Trong bụng bà Hai đã biết hết, vì người tin tôi nên mới bảo tôi trông nom việc nhà. Tôi chưa làm được cái gì đáng kể, dì đã đến giày vò tôi. Nếu bà Hai biết, sợ tôi khó xử không cho tôi trông nom nữa, thế mới thật là mất thể diện. Và ngay dì cũng mất thể diện nữa.
Thám Xuân vừa nói vừa khóc nức nở. Dì Triệu không trả lời được câu gì, chỉ nói:
– Bà Hai thương cô, cô càng nên dắt díu chúng tôi. Đằng này cô chỉ làm thế nào cho bà Hai thương, lại đâm ra quên hẳn chúng tôi đi.
Thám Xuân nói:
– Tôi quên sao được. Bắt tôi dắt díu cái gì? Cứ đi hỏi các người xem. Chủ nào mà chẳng thương những người làm được việc. Đã là người giỏi thì còn cần ai dắt díu nữa.
Lý Hoàn đứng ở bên cạnh cứ khuyên:
– Dì đừng nóng nảy thế, cũng không nên trách cô ấy. Dù trong bụng cô ấy muốn dắt díu chăng nữa, cũng không khi nào nói ra miệng được.
Thám Xuân nói:
– Chị Cả cũng hồ đồ! Tôi dắt díu được ai? Có các cô nhà nào lại đi dắt díu bọn đầy tớ? Họ hay dở thế nào, các người chắc cũng biết đấy, can gì đến tôi?
Dì Triệu tức tối hỏi:
– Ai bảo cô dắt díu người khác. Nếu cô không trông nom việc nhà, thì tôi chẳng đến hỏi làm gì. Bây giờ cô nói một là một, hai là hai. Cậu của cô chết, cô có cho thêm hai, ba mươi lạng, chẳng lẽ bà Hai lại không bằng lòng hay sao? Rõ ràng bà Hai tốt bụng, chỉ vì các người cay nghiệt đấy thôi. Đáng tiếc là bà Hai muốn ban ơn cũng không biết ban vào chỗ nào được! Cô cứ yên tâm! Việc này không phải tiêu tiền của cô đâu! Sau này cô đi lấy chồng, tôi còn mong gì cô nhìn ngó đến nhà họ Triệu nữa! Bây giờ chưa mọc cánh mà đã quên tổ chỉ chực chọn cây cao mà bay thôi.
– Ai là cậu tôi? Cậu tôi đã thăng chức tuần kiểm chín tỉnh rồi! Bây giờ lại còn một cậu nào nữa. Xưa nay tôi vẫn kính trọng lẽ phải, nhưng khi nào lại kính trọng đến những hạng thân thích như thế? Dì nói thế thì sao mỗi khi em Hoàn đi ra, Triệu Quốc Cơ lại phải đứng dậy? Lại phải theo hầu nó đi học? Sao không giở cái lối ông cậu ra! Ai chả biết dì đẻ ra tôi, cứ vài ba tháng lại tìm cách gây chuyện, đào bới nhau lên, sợ người ta không biết, nên cố ý bêu ra! Ai làm cho ai mất thể diện đây! May tôi là đứa biết điều, nếu hồ đồ không giữ lễ thì đã nóng máu lên rồi.
Lý Hoàn vội vàng khuyên mãi, dì Triệu vẫn cứ càu nhàu không thôi.
Chợt có người vào nói:
– Mợ Hai sai cô Bình đến có việc.
Dì Triệu mới ngậm miệng không nói nữa. Thấy Bình Nhi đến, dì Triệu liền cười, mời ngồi, lại vội vàng hỏi:
– Mợ nhà đã khỏi chưa? Tôi định sang thăm nhưng chưa có lúc rỗi.
Lý Hoàn thấy Bình Nhi đến, liền hỏi:
– Đến có việc gì đấy?
– Mợ tôi bảo: em dì Triệu chết rồi, sợ mợ và cô không biết lệ cũ. Nếu theo lệ thường thì chỉ được cấp hai mươi lạng thôi, nay tùy ý cô châm chước, thêm ít nhiều nữa cũng được.
Thám Xuân đã lau nước mắt, liền nói:
– Tự dưng vô cớ thêm cái gì? Ai là người “chửa hai mươi bốn tháng mới đẻ”? Hoặc chăng là người cõng chủ chạy trốn trước trận tiền? Mợ chị thật khéo quá: bảo tôi bỏ cả lệ đi. Mợ ấy muốn được tiếng tử tế thì cứ việc vung tiền của bà ra không hề đau xót để lấy lòng người tạ Nhờ chị nói với mợ ấy: tôi không dám tự ý thêm bớt gì cả. Mợ ấy muốn lấy ơn, chờ khi khỏi đến đây thêm bao nhiêu thì thêm.
Lúc Bình Nhi đến đã biết việc này, bây giờ nghe nói lại càng hiểu ý. Thấy Thám Xuân có vẻ tức giận, Bình Nhi không dám giở lối vui đùa như mọi ngày, cứ thõng tay đứng hầu một bên. Lúc đó Bảo Thoa ở trong buồng trên cũng xuống, Thám Xuân vội đứng dậy mời ngồi, chưa kịp nói câu gì, đã có người đàn bà đến trình việc. Thám Xuân vừa mới khóc xong, lên ba, bốn đứa hầu nhỏ bưng chậu nước, khăn mặt và gương đến. Thám Xuân đương ngồi xếp bằng tròn ở trên giường thấp, một đứa bưng nước đến trước mặt quỳ xuống giơ cao chậu lên; còn hai đứa cũng đều quỳ bên cạnh, đưa lên khăn mặt, gương soi và phấn sáp.
Bình Nhi thấy Thị Thư không có ở đây, liền đến vén tay áo, tháo vòng, lấy cái khăn tay to che vạt áo đằng trước cho Thám Xuân. Thám Xuân vừa mới thò tay vào chậu nước, đã có một người đàn bà đến trình:
– Thưa mợ, thưa cô, nhà học xin chi tiền học hàng năm cho cậu Hoàn và anh Lan.
Bình Nhi nói:
– Bà vội gì thế? Cô đang rửa mặt, bà có mở mắt nhìn thấy không! Sao không ra ngoài kia đứng chờ, lại còn trình cái gì? Trước mặt mợ Hai, bà cũng dám vô ý như thế à? Cô đây tuy rộng lượng thực, nhưng tôi mà về trình mợ Hai, nói là các bà không coi cô ra gì, có bị quở phạt thì đừng trách tôi!
Người đàn bà ấy sợ hãi, vội cười nói: “Tôi sơ suất quá!” Rồi vội vàng lui ra.
Thám Xuân xoa phấn rồi cười nhạt, bảo Bình Nhi:
– Chị đến chậm nên không biết có một việc đáng buồn cười. Ngay chị Ngô Tân Đăng là người làm việc đã lâu cũng không biết tra sổ rõ ràng, lại chực đến lòe tôi! May tôi hỏi đến, chị ta lại dám trơ mặt ra nói là quên. Tôi bảo chị ta, khi có việc đến trình mợ Hai, chị cũng nói là quên rồi đi lục sổ hay sao? Tôi chắc chủ chị không khi nào chịu để yên cho chị đi tìm!
Bình Nhi nói:
– Nếu chị ta có lần nào như thế, e gân chân bị cắt đứt từ bao giờ rồi. Cô đừng có tin. Họ thấy mợ Cả lành như bụt, cô lại là vị tiểu thư hay e lệ, cố nhiên họ sinh lười đến nói bậy đấy thôi.
Bình Nhi lại ngoảnh ra phía ngoài nói:
– Các người cứ việc hỗn láo đi! Chờ mợ Hai khỏi tôi sẽ mách cho.
Bọn đàn bà ở ngoài cửa đều cười nói:
– Cô là người biết điều. Tục ngữ nói “người nào làm bậy người ấy chịu”. Chúng tôi có dám dối trá gì chủ đâu. Nay cô chủ là một vị trẻ tuổi được chiều chuộng quen, cô ấy tức giận, thì chúng tôi chết không có chỗ chôn!
Bình Nhi cười nhạt:
– Các người hiểu nhẽ thế là phải.
Rồi lại cười nói với Thám Xuân:
– Cô đã biết đấy, mợ Hai bận lắm, làm gì mà trông nom đến những việc ấy! Thế nào cũng không tránh khỏi sơ suất. Tục ngữ nói “người bên cạnh nhìn rất rõ”. Cô để ý xem, trong mấy năm nay, có việc gì nên thêm nên bớt, mà mợ Hai chưa kịp làm, thì cô cứ sửa đổi lại. Một là có lợi cho bà Hai, hai là không phụ tình nghĩa cô đối với mợ tôi.
Bảo Thoa, Lý Hoàn nghe vậy đều cười, nói:
– Chị này giỏi thật! Không trách chị Phượng yêu chị. Chẳng có việc gì đáng thêm bớt cả, nhưng nghe chị nói, chúng tôi cũng phải tìm vài việc châm chước mà làm để khỏi phụ câu nói của chị.
Thám Xuân cười nói:
– Tôi tức đầy ruột, đang định đem chị ấy ra nói cho hả giận, nhưng nghe đến những lời của chị ấy, làm tôi quên hẳn những chuyện trước.
Thám Xuân liền gọi người đàn bà lúc nãy vào hỏi:
– Tiền học hàng năm của cậu Hoàn và anh Lan là dùng vào việc gì?
– Tiền ăn sáng và mua bút giấy hàng năm ở trong trường, mỗi người phải tiêu mất tám lạng bạc.
– Những tiền các cậu ấy tiêu, đều ở trong sổ lương hàng tháng, phần cậu Hoàn do dì Triệu lĩnh hai lạng, phần cậu Bảo Ngọc do Tập Nhân ở nhà cụ lĩnh hai lạng; phần anh Lan do mợ Cả lĩnh, làm gì mỗi người còn phải thêm tám lạng nữa! Thì ra đi học là chỉ vì tám lạng bạc ấy à! Từ nay trở đi bỏ khoản này đi. Chị Bình về trình với mợ chị rằng tôi bảo thế nào cũng phải bỏ món này.
Bình Nhi cười nói:
– Đáng lẽ bỏ lâu rồi. Năm ngoái mợ tôi đã bảo bỏ đi, nhưng vì cuối năm bận quá, quên khuấy đi mất.
Người đàn bà đó đành vâng lời đi ra. Lại có người đàn bà ở trong vườn Đại Quan bưng cơm đến. Thị Thư và Tố Vân mang một cái bàn nhỏ vào. Bình Nhi vội đứng dậy dọn cơm, Thám Xuân cười nói:
– Chị xong việc rồi thì về, ở đây làm gì nữa.
Bình Nhi cười nói:
– Tôi ở nhà không có việc gì. Mợ tôi bảo đến đây, một là để trình việc, hai là sợ những người ở đây chưa quen, nên sai tôi đến hầu mợ, hầu cô giúp các chị em.
Thám Xuân hỏi:
– Sao không mang đồ ăn của cô Bảo đến đây cùng ăn một thể?
A hoàn nghe nói, ra ngoài thềm bảo lũ đàn bà:
– Cô Bảo hôm nay cũng ăn cơm ở đây, bảo họ mang cơm đến.
Thám Xuân quát to:
– Mày không được sai bậy! Những người này đều là các bà trông nom công việc lớn trong nhà. Chúng mày không biết ai là người trên kẻ dưới, dám sai các bà ấy đi lấy cơm lấy nước à? Chị Bình đứng đấy, bảo chị ấy đi gọi hộ!
Bình Nhi vội vâng lời đi ra, đám đàn bà khẽ kéo lại:
– Việc gì cô phải đỉ Chúng tôi đã có người đi gọi rồi.
Vừa nói họ vừa lấy khăn tay phủi đất ở trên thềm, nói:
– Cô đứng mãi mỏi chân, hãy ngồi nghỉ ngoài nắng một lúc.
Bình Nhi ngồi xuống, có hai bà già ở phòng trà mang cái thảm rải ra và nói:
– Đá lạnh. Thảm này sạch sẽ đấy, mời cô ngồi tạm.
Bình Nhi gật đầu cười nói: “Cám ơn”.
Một người nữa lại pha một chén nước trà rất ngon đem đến, khẽ cười nói:
– Đây không phải là trà của chúng tôi thường dùng đâu. Trà này chỉ để pha cho các cô uống thôi, mời cô hãy uống một chén cho đỡ khát.
Bình Nhi nghiêng mình cầm lấy, rồi trỏ vào bọn đàn bà khẽ nói:
– Các người chẳng ra cái gì cả! Cô ấy là cô gái con nhà đại gia, không muốn ra oai nổi giận, đó là người biết giữ giá. Thế mà các bà lại khinh nhờn cô ấy. Nếu để cô ấy phải cáu lên, dù mang tiếng là người lỗ mãng, nhưng các bà lại bị thiệt rất nhiều! Cô ấy làm nũng, bà Hai cũng phải chiều một phần nào, mợ Hai cũng chẳng dám làm gì. Thế mà các bà lại cả gan không coi cô ấy ra gì, khác nào trứng chọi với đá?
– Chúng tôi khi nào dám cả gan thế? Đó đều tự dì Triệu gây ra!
– Thôi! Các bà ơi, “giậu đổ bìm leo”, dì Triệu vốn hay nông nổi, không biết nghĩ xa nghĩ gần, nên việc gì cũng chỉ đổ riệt cho dì ấy. Ngày thường các bà bụng dạ ghê gớm, chẳng coi ai ra gì, tôi đã biết từ mấy năm nay rồi. Ngay mợ Hai có tý gì sơ suất là các bà đã nghĩ cách định đè bẹp xuống. Đã thế, hễ sểnh ra là y rằng các bà tìm cách làm khó dễ. Đã nhiều lần mợ ấy chưa hỏi tội các bà đấy. Ai cũng cho là mợ ấy ghê gớm, các bà đều sợ cả nhưng chỉ có tôi biết là trong bụng mợ ấy cũng không phải là không gờm các bà. Hôm nọ chúng tôi đã bàn đến việc này. Nếu không trên thuận dưới hòa, rồi thế nào cũng sẽ sinh chuyện. Cô Ba hãy còn trẻ, các bà đều coi thường. Nhưng trong các cô lớn, cô bé ở đây, mợ Hai cũng phải nể dăm phần. Thế mà các bà lại không coi cô ấy ra gì à?
Chợt Thu Văn đi vào, bọn đàn bà vội chạy đến chào hỏi, rồi nói:
– Cô hãy ngồi nghỉ, trong nhà đã dọn cơm rồi. Chờ ăn xong, cô hãy vào trình việc.
Thu Văn cười nói:
– Tôi đâu có rỗi được như các bà, chờ thế nào được.
Thu Văn định vào ngay, Bình Nhi vội gọi giật lại. Thu Văn quay lại thấy Bình Nhi, cười nói:
– Chị đến đây canh gác gì ở ngoài vườn đấy?
Rồi quay lại ngồi vào thảm cạnh Bình Nhi, Bình Nhi khẽ hỏi:
– Trình việc gì?
– Tôi muốn hỏi xem tiền lương của cậu Bảo và tiền lương của chúng tôi bao giờ mới được lĩnh.
– Việc ấy có quan hệ gì. Cô về báo chị Tập Nhân rằng: hôm nay, dù có việc gì cũng chớ nên trình. Trình một việc là bị bác một việc, trình một trăm việc bị bác một trăm đấy!
– Tại sao thế?
Bình Nhi và bọn đàn bà đều kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Thu Văn nghe, và nói:
– Họ đương muốn moi những chỗ quan hệ và những người có thể diện ra mở đầu, tìm cách áp lép để làm gương cho mọi người đấy. Tội gì bây giờ cô lại đến trước để chạm vào cái đinh ấy. Nay cô đến trình, nếu họ bác lời cô để làm gương cho người khác, thì lại động đến cụ và bà Hai, nếu không nhè vào nhà các cô mà bác đi một vài việc, người ta lại bảo là thiên người nọ vị ngươi kia, ai dựa vào uy thế cụ và bà Hai thì không dám động đến, chỉ đem những người yếu thế ra làm bung xung đấy thôi. Cô xem đấy, việc của mợ Hai, họ còn bác đi vài khoản, có như thế mới chặn được họng mọi người chứ.
Thu Văn lè lưỡi cười nói:
– May gặp chị Ở đây, chứ không thì lại bị trát gio vào mặt rồi. Tôi phải mau mau về báo tin cho chúng nó biết.
Cơm của Bảo Thoa đã mang đến. Bình Nhi vội đứng dậy vào hầu. Lúc đó dì Triệu đã về rồi, ba người ngồi ở giường ăn cơm. Bảo Thoa ngoảnh về hướng nam, Thám Xuân ngoảnh về hướng tây, Lý Hoàn ngoảnh về hướng đông, bọn đàn bà ớ dưới thềm im lặng đứng chờ, bên trong chỉ có a hoàn hầu cận đứng hầu, người khác không ai dám vào cả.
Lũ đàn bà khẽ bàn tán với nhau:
– Chúng ta bỏ cái lối ấy đi, đừng giữ ý nghĩ xằng bậy nữa. Bà Ngô cũng còn bẽ mặt nữa là chúng mình đã thấm vào đâu.
Mọi người chờ họ ăn xong mới dám vào trình việc. Bây giờ ở phía trong thỉnh thoảng có tiếng đằng hắng khẽ, ngoài ra không ai nghe thấy chạm bát chạm đũa. Một lát sau, một a hoàn vén rèm lên, rồi hai a hoàn khiêng bàn ăn ra. Trong buồng trà, ba a hoàn bưng sẵn ba chậu nước rửa mặt, đi vào. Một lúc, họ mang chậu nước và ống nhổ ra, rồi Thị Thư, Tố Vân và Oanh Nhi mỗi người bưng một cái khay đựng ba tách nước có nắp vào. Sau khi bọn a hoàn kia ra, Thị Thư bảo đứa hầu nhỏ:
– Chúng bay phải hầu hạ tử tế, không được ngồi lảng một chỗ. Ta đi ăn cơm rồi sẽ về thay.
Bấy giờ mọi người mới rón rén đi vào trình việc, không dám nhâng nháo như trước nữa.
Thám Xuân vừa mới nguôi giận, nhân bảo Bình Nhi:
– Tôi có một việc quan hệ, muốn bàn mới mợ chị, nay mới nhớ ra. Chị về ăn cơm xong, lại đây ngaỵ Cô Bảo cũng còn ở đây, bốn chúng ta sẽ bàn với nhau, rồi hỏi mợ chị xem có nên làm hay không.
Bình Nhi vâng lời đi về. Phượng Thư hỏi:
– Làm sao đi lâu thế?
Bình Nhi cười, kể lại những việc vừa mới xảy ra. Phượng Thư cười nói:
– Cô Ba khá đấy! Ta nói không sai. Chỉ tiếc là cô ấy xấu số không phải bà Hai đẻ ra.
– Mợ cũng nói vớ vẩn. Cô ấy không phải bà Hai đẻ ra, nhưng ai dám coi cô ấy kém các cô kia?
– Chị biết đâu được! Con vợ lẽ cũng như con vợ cả thực, nhưng là con gái thì bì thế nào được với con trai. Sau này đến tuổi lấy chồng, những hạng khinh bạc thường hay dò hỏi con vợ cả hay con vợ lẽ, chỉ vì con vợ lẽ mà nhiều người không dạm. Chứ họ biết đâu người tử tế, thì dù đứa ở cũng còn gấp trăm lần cô tiểu thư kia. Sau này, người nào vô phúc kén chọn con vợ cả thì sẽ bị lầm, người nào có phúc không câu nệ con vợ lẽ mà lấy được cô ấy thì lại hóa may.
Phượng Thư lại cười nói với Bình Nhi:
– Chị đã biết mấy năm nay ta phải nghĩ ra bao nhiêu cách tằn tiện, bớt ăn bớt tiêu, có lẽ người trong nhà ai cũng giận ngầm ta cả. Bây giờ ta như người “cưỡi hổ” vậy, tuy biết thế, nhưng không thể nào rộng rãi được. Vả chăng trong nhà này chi nhiều thu ít, việc lớn nhỏ đều phải theo lệ của tổ tiên đặt ra, nhưng hoa lợi thu vào hàng năm lại kém trước nhiều. Rút bớt món tiêu đi, thì người ngoài chê cười, mà cụ và bà Hai cũng khó chịu, tôi tớ trong nhà cũng oán ta cay nghiệt. Nếu không tìm cách tằn tiện ngay từ bây giờ, mấy năm nữa sẽ phải bù mà hết thôi.
– Mợ nói cũng phải đấy! Sau này công việc ba, bốn cô, hai, ba cậu và cụ đều mợ phải lo cả.
– Ta đã nghĩ đến những việc ấy rồi, cũng có thể đỡ được chú Bảo và cô Lâm, một người lấy vợ, một người lấy chồng, có thể không phải tiêu tiền trong phủ, thế nào cụ cũng bỏ tiền riêng của mình ra chọ Cô Hai là người bên ông Cả, không phải tính đến. Cô Ba, cô Tư có tiêu hoang chăng nữa, cũng chỉ mỗi người độ vạn bạc thôi. Cậu Hoàn lấy vợ chỉ tiêu mất độ ba nghìn, nếu không đủ thì bớt đi một món gì đó là xong. Việc tống táng cụ sau này, cái gì cũng sắp sẵn cả rồi, chỉ phải tiêu những món lặt vặt chừng dăm, ba nghìn lạng. Nếu biết tằn tiện ngay từ bây giờ cũng đủ. Chỉ sợ tự nhiên xảy ra một vài việc, thì không biết xoay vào đâu được. Thôi, chúng ta chẳng nên quá lo đến việc sau này. Chị hãy đi ăn cơm rồi sang xem họ bàn việc gì. Đây cũng là một dịp maỵ Ta đang lo không có người giúp đỡ. Tuy có Bảo Ngọc đấy, nhưng chưa quen việc, có lôi kéo được hắn cũng chẳng ăn thua gì. Mợ Cả thì hiền như bụt, không làm được việc. Cô Hai lại càng không được, và cũng không phải là người trong nhà này. Cô Tư thì còn bé, Anh Lan và cậu Hoàn thì như con mèo nhỏ gặp trời lạnh chỉ chờ có bếp lửa là chui vào sưởi thôi. Thực là cùng một bụng mẹ đẻ ra, mà hai đứa con lại khác nhau một trời một vực! Nghĩ đến, ta càng không hiểu. Cô Lâm và cô Bảo thì khá đấy, nhưng đều là họ ngoại, không tiện trông coi việc nhà. Vả chăng một người như cái đèn mỹ nhân, gió thổi một cái là tắt, một người thì giữ gìn ý tứ, không phải việc của mình không bao giờ chịu hé răng, hỏi điều gì cứ nguây nguẩy lắc đầu. Như thế cũng khó mà bàn với cô ta được. Chỉ còn một mình cô Ba là khá cả trong lẫn ngoài, lại chính là người nhà này, bà lại rất thương cô ấy, chỉ vì dì Triệu hay sinh chuyện, nên bề ngoài bà có vẻ hững hờ, nhưng trong bụng lúc nào cũng thương yêu như Bảo Ngọc. Chứ không giống em Hoàn, chẳng ai thương được. Cứ ý ta thì đã đuổi nó bước đi từ lâu rồi. Nay cô ấy đã có ý định như thế, cũng nên chung sức mà làm, có hai người giúp đỡ nhau, ta không đến nỗi lẻ loi nữa. Theo lẽ phải và lương tâm mà nói, đã có cô ấy giúp, chúng ta càng đỡ phải lo nghĩ và cũng có lợi cho bà. Kể ra về mặt tâm tư nham hiểm, bấy lâu nay ta đã quá cay nghiệt, bây giờ cũng nên lùi bước nhìn lại xem, cứ khắc khổ mãi, để cho mọi người căm giận, ngoài miệng họ cười, nhưng trong bụng họ chứa đầy dao găm, mà hai người chúng ta chỉ có bốn con mắt và hai quả tim, có lúc không kịp đề phòng sẽ hỏng việc mất. Nhân lúc thuận chiều này, cô ấy đứng ra trông coi công việc, mọi người sẽ dẹp quên những nỗi tức giận ngày trước đối với chúng tạ Còn một việc nữa, tuy ta biết chị rất hiểu việc nhưng chỉ sợ trong lòng chị chưa dứt khoát, nay ta dặn chị, cô ấy tuy là tiểu thư, nhưng việc gì cũng hiểu thấu, ăn nói biết giữ gìn, lại là người có học. Như vậy cô ấy sẽ ghê gớm hơn tạ Tục ngữ nói: “Bắt giặc phải bắt tướng”. Muốn ra oai lần đầu, nhất định cô ấy phải kể đến ta trước. Nếu cô ấy có bác bỏ công việc gì của ta, chị cũng không nên cãi lại, cứ lễ phép nói rằng bác như thế mới phải. Nhất thiết đừng sợ ta mất thể diện mà chống lại cô ấy thì không hay đâu.
Bình Nhi không đợi Phượng Thư nói hết, cười nói:
– Chị xem người hồ đồ quá! Tôi làm trước rồi, bây giờ chị mới dặn!
– Ta sợ chị chỉ hiềm có ta, không biết đến ai, nên phải dặn thế; nếu đã biết trước, thì chị lại sáng suốt hơn ta đấy. Nhưng chị lại nóng rồi, sao cứ luôn mồm “chị chị” “tôi tôi” như vậy?
– Cứ gọi là “chị” đấy! Không bằng lòng thì mặt đây tát đi! Ai bảo là cái mặt này chưa từng bị tát hao giờ?
– Đồ ranh con này, định nhắc lại việc cũ đã từ bao giờ mới thôi? Xem ta ốm như thế này mà lại còn trêu tức à! Thôi, lại đây ngồi xuống, gặp lúc không có ai đến, chúng ta nên cùng ngồi ăn một chỗ.
Bọn Phong Nhi ba, bốn đứa mang cái làn nhỏ đến. Phượng Thư chỉ ăn cháo yến sào và hai đĩa đồ ăn ngon. Vì phần ăn hàng ngày đã rút bớt, Phong Nhi mang bốn món ăn của Bình Nhi bày lên bàn và xới cơm. Bình Nhi quỳ một chân lên mép giường, một chân đứng ở dưới, cùng Phượng Thư ăn cơm. Bình Nhi hầu Phượng Thư súc miệng xong, dặn dò Phong Nhi mấy câu rồi sang bên Thám Xuân. Đến nơi, thấy trong nhà im lặng, mọi người đã đi cả.
Bình Nhi hầu Phượng Thư ăn cơm súc miệng rửa tay xong mới đến đằng Thám Xuân, thấy ngoài sân im lặng chỉ có mấy bà già và a hoàn đứng bên cửa sổ chực hầu, đang bàn việc nhà, việc ngày tết đến uống rượu ở vườn nhà Lại Đại. Thấy Bình Nhi đến, Thám Xuân bảo ngồi xuống ghế thấp và nói:
– Có chuyện gì đâu. Nhân nghĩ đến việc chúng ta tiêu mỗi tháng hai lạng bạc, bọn a hoàn cũng đã có tiền lương tháng, thế mà hôm trước lại có người trình mỗi tháng chi hai lạng bạc cho mỗi người về tiền phấn sáp nữa. Số tiền này chẳng khác tám lạng bạc tiền học vậy, cứ chồng chất mãi lên. Việc này tuy nhỏ nhưng số tiền có chừng, xem ra chi tiêu như thế là không đúng, tại sao mợ chị không nghĩ đến việc ấy?
Bình Nhi cười nói:
– Việc ấy cũng có duyên cớ. Những thứ các cô dùng đã có lệ định sẵn, mỗi tháng các nơi phải mua đủ, bảo bọn đàn bà đưa đến cho chúng tôi giữ, chẳng qua chúng tôi chỉ sắp cho các cô dùng thôi. Chứ không phải hàng ngày nhận tiền rồi sai người đi muạ Vì thế mãi biện bên ngoài lĩnh tiền cả, rồi hàng tháng sai người theo các phòng giao cho chúng tôi. Số tiền hai lạng hàng tháng của các cô, không phải để mua những thứ ấy đâu, mà cốt để phòng khi các bà các mợ trông nom việc nhà đi vắng, hoặc bận việc, mà các cô dùng ngay đến tiền, thì đỡ phải sai người đi lấy. Làm như thế cốt để cho các cô khỏi phiền đấy thôi. Đủ biết số tiền này không phải để mua những thứ đó. Nhưng nay tôi để ý xem ra thì phần nhiều chị em ở các nhà đều lấy tiền đi mua các thứ. Tôi ngờ rằng, không phải bọn mãi biện ăn bớt hoặc để chậm ngày giờ, thì cũng chuốc lấy của xấu, nhuế nhóa cho xong chuyện.
Thám Xuân và Lý Hoàn đều cười nói:
– Chị cũng để ý thấy rõ việc ấy à? Việc ăn bớt chưa chắc có, chỉ là để chậm thì giờ thôi. Khi nào giục gấp, họ đem ở đâu về đều là những thứ có tên thôi, thực ra chẳng dùng gì được. Rồi vẫn phải lấy hai lạng bạc, sai con em các bà vú đi mua thứ khác về dùng. Người trong phủ đi bao giờ cũng vẫn mua phải hàng xấu, không biết họ làm ăn ra sao? Cứ cửa hàng bên ngoài bỏ đi là họ vác về cho chúng ta dùng.
Bình Nhi cười nói:
– Bọn mãi biện đi mua là cứ thế mãi. Người khác có mua được hàng tốt, thì họ lại không chịu, cứ bảo là người ta xấu bụng muốn tranh chức mãi biện của mình. Vì vậy ai nấy thà chịu lỗi với các mợ các cô, chứ không dám làm mất lòng họ. Chỉ khi nào các cô sai vú già đi mua, họ mới không dám lời ra tiếng vào.
Thám Xuân nói:
– Vì thế trong bụng tôi vẫn áy náy. Phải tiêu phí hai lần tiền mà đồ dùng vẫn vất đi một nửa, chi bằng bỏ cái khoản đưa bọn mãi biện mua ấy đi. Đó là việc thứ nhất. Việc thứ hai, năm ngoái chị cũng đi dự tiệc nhà Lại Đại đấy, chị xem vườn nhà ấy so với vườn nhà ta như thế nào?
– Không bằng một nửa vườn nhà, cây cối hoa quả cũng ít.
– Nhân lúc ta nói chuyện với lũ con gái nhà ấy, họ nói vườn ấy trừ số hoa để cài và măng rau, tôm cá để nhà ăn ra, còn cho người thầu. Một năm cũng thừa được hai trăm lạng. Từ hôm đó ta mới biết từ cái lá sen rách, cái rễ cỏ khô cũng đều đáng tiền cả.
Bảo Thoa cười nói:
– Thực là chuyện của con nhà phú quý! Các cô tuy là tiểu thư nghìn vàng, xưa nay không biết đến việc ấy, nhưng đã là người đọc sách biết chữ, lại không đọc đến thiên “bất tự khí” 1 của ông Chu Tử hay sao?
Thám Xuân cười nói:
– Đã đọc rồi, nhưng chẳng qua là lời nói phù phiếm, khuyên người ta phải cố gắng chứ có gì là thực tế?
Bảo Thoa nói:
– Ông Chu Tử mà là người phù phiếm à? Câu nói nào cũng sát thực tế đó. Cô mới nhận việc có mấy hôm mà lòng đã mê muội về lợi, cho ông Chu Tử là người phù phiếm. Nếu cô đi ra ngoài, thấy nhiều việc lợi hại lớn hơn nữa, có lẽ đến cả ông Khổng Tử cô cũng cho là người phù phiếm hết!
Thám Xuân cười nói:
– Chị là người thông thái như thế lại chưa xem sách Cơ Tử 2 à? Sách có nói: “Bước vào vòng lợi lộc, ở vào địa vị bàn mưu tính kế, thì quên hẳn lời Nghiêu, Thuấn, trái hẳn đạo Khổng, Mạnh”.
– Dưới còn câu gì nữa?
– Đây tôi chỉ cắt câu văn để lấy ý thôi. Nếu đọc xuống câu dưới thì chăng hóa ra lại tự mắng tôi à?
– Trên đời cái gì mà không dùng được, đã dùng được phải đáng tiền chứ. Khen cho cô là người thông minh, ngay những việc to tát, sờ sờ ra đấy, vẫn chưa từng trải.
Lý Hoàn cười nói:
– Bảo người ta đến, chẳng nói gì việc chính, lại mang học vấn ra cãi vã nhau.
Bảo Thoa nói:
– Trong học vấn tức là việc chính đấy. Nếu không nói đến học vấn thành ra sa vào hạng tục mất.
Ba người nói đùa một lúc rồi mới bàn đến việc chính.
Thám Xuân nói tiếp:
– Vườn của chúng ta rộng gấp đôi vườn nhà Lại Đại, cứ tính gấp đôi thôi, một năm cũng có thể được lợi bốn trăm bạc. Bây giờ cho người thầu, bủn xỉn quá, nhà chúng ta không đáng làm như vậy; nhưng không giao hẳn cho vài người trông nom, thì thững thứ đáng tiền bị hủy hoại đi, sẽ bỏ phí của trời. Chi bằng chọn mấy bà già thực thà ở trong vườn, biết việc trồng trái, cho họ đứng lên trông coi. Không bắt họ nộp tô nộp thuế, chỉ mỗi năm biếu xén ít nhiều gì đó. Làm như thế, một là trong vườn có người chuyên trách, sửa sang cây cối, mỗi năm một tốt hơn lên, không phải chờ đến lúc có việc mới cuống cuồng vội vã; hai là hoa màu không đến nỗi bị hủy hoại phí của; ba là bọn bà già được nhờ đấy mà kiếm ít tiền, cũng bỏ cái công vất vả trông nom vườn tược hàng năm; bốn là bớt được những món tiền thuê người sửa hoa, sửa núi, quét dọn. Đem chỗ thừa bù vào chỗ thiếu, như thế cũng được đấy.
Bảo Thoa đương đứng xem bức tranh trên vách, nghe vậy, gật đầu cười nói:
– Hay thật! Như thế thì “trong ba năm chẳng còn ai đói khát nữa.” 3
Lý Hoàn nói:
– Nghĩ hay đấy! Nếu làm được thế, chắc chắn bà cũng vui lòng. Sự bớt tiêu là việc nhỏ, nhưng trong vườn có người chuyên trách, quét dọn, lại được món tiền, tức là lấy quyền sai khiến, lấy lợi thúc giục, thì ai mà chẳng hết lòng làm việc.
Bình Nhi nói:
– Việc này chỉ cô là có thể nói được thôi. Mợ tôi tuy cũng muốn đấy, nhưng chưa chắc đã chịu ngỏ lời. Hiện giờ các cô đương ở cả trong vườn, đã không bày thêm được trò chơi để giúp vui lại còn sai người đến trông nom sửa sang, mong đỡ tốn tiền, nhất định mợ tôi không tiện nói ra.
Bảo Thoa chạy lại sờ vào mặt Bình Nhi, cười nói:
– Chị há mồm ra cho tôi xem lưỡi răng chị thế nào? Từ sáng đến giờ, cứ mỗi việc chị nói một giọng, không nịnh hót cô Ba, cũng không nói là mợ chị vụng tính. Hễ cô Ba nói một câu, chị lại có một câu đỡ ngaỵ Cứ việc gì cô Ba nghĩ được, là mợ chị cũng đã nghĩ đến rồi, nhưng chỉ vì có một nhẽ riêng không thể làm được thôi. Bây giờ lại nói là các cô ở trong vườn, không tiện vì sự bớt tiêu mà sai người đến trông nom. Chị em thử nghĩ câu nói ấy xem, nếu thực cho người ta trông nom để lấy tiền, thì ngay một cành hoa, một thứ quả, người ta cũng không cho động chạm đến. Về phần các cô, chắc cũng không ai dám nói gì, nhưng với các cô bé, sợ hàng ngày không khỏi sinh chuyện eo sèo với nhau. Chị ấy biết lo gần lo xa, không chống lại người ta, cũng không tự hạ mình, dù mợ chị ấy không tốt với chúng ta, nay nghe thấy tất nhiên phải xấu hổ mà ăn ở cho tốt, không bằng lòng cũng phải bằng lòng.
Thám Xuân cười nói:
– Sáng hôm nay tôi đang bực mình, nghe chị ấy đến, tôi nghĩ ngay đến chủ chị ấy ngày thường trông nom việc nhà để bọn người hầu lộng hành quen thân, nên lại càng bực thêm. Ngờ đâu chị ấy vào đến nơi, len lét như chuột sợ mèo đứng hầu hàng giờ, thực là đáng thương, rồi lại nói những câu như thế. Chủ chị ấy đối với tôi đã tử tế, chị ấy lại còn nói “không phụ tình nghĩa xưa nay cô đối với mợ tôi!” Nghe câu nói ấy, tôi không những hết giận mà lại còn xấu hổ và đau lòng nữa. Tôi nghĩ kỹ: mình là con gái, đương bực không có người đoái thương, thì còn có gì hay mà đối xử tử tế với người ta nữa?
Nói đến đây, Thám Xuân nước mắt chảy ròng ròng.
Lý Hoàn thấy Thám Xuân nói thiết tha như thế, lại nghĩ đến dì Triệu ngày thường sỉ vả cô ta, và ngay ở trước mặt Vương phu nhân cũng vì dì Triệu mà cô ta phải lụy lây, nên chảy nước mắt, liền khuyên:
– Nhân hôm nay vắng vẻ, chúng ta cùng bàn vài việc, làm thế nào thêm lợi bớt hại, để khỏi phụ lòng ủy thác của bà. Cô nhắc đến những việc không cần thiết ra làm gì.
Bình Nhi nói:
– Tôi đã hiểu rồi. Cô xem ai giỏi thì giao cho người ta đến trông nom là được.
Thám Xuân nói:
– Tuy thế, nhưng cũng phải về trình mợ chị trước đã. Ở đây chúng ta tìm tòi những món lợi nhỏ là không đúng, nhưng vì mợ chị là người hiểu việc nên mới làm như thế; nếu là một người hồ đồ hay ngờ vực ghen ghét, thì tôi không làm đâu, sẽ mang tiếng là tranh khôn, lẽ nào lại không bàn trước với mợ chị.
Bình Nhi cười nói:
– Đã thế để tôi về nói với mợ tôi.
Đi một lúc, Bình Nhi trở lại, cười nói:
– Tôi đã bảo là đi chỉ tốn công thôi. Việc hay như thế lẽ nào mợ tôi lại không bằng lòng!
Thám Xuân nghe nói, liền cùng Lý Hoàn sai người đem danh sách các bà già trong vườn đến xem. Hai người tính xong, chấm được mấy người. Rồi gọi họ đến, Lý Hoàn nói qua cho họ nghe. Ai nấy đều vui mừng. Có người nói:
– Cái rặng tre ấy cứ giao cho tôi sửa sang, một năm trừ măng ở trong nhà ăn rồi, còn có thể nộp thêm một số tiền nữa.
Người khác lại nói:
– Cái thửa đất trồng lúa kia xin giao cho tôi, hàng năm thóc gạo nuôi chim không phải lấy tiền ở trong phủ, tôi còn có thể nộp thêm một số tiền nữa.
Thám Xuân đang muốn nói, thì có người vào trình:
– Thầy thuốc đã vào vườn thăm cho cô Sử.
Bọn bà già ra đón, Bình Nhi liền nói:
– Chỉ miệng các bà thôi, thì một trăm người cũng không được trang trọng, sao không gọi vài người coi việc đi đón?
Người trình việc nói:
– Có bà Ngô và bà Đan đang chờ đón ở ngoài cửa Tụ Cẩm về phía tây nam rồi.
Bình Nhi thấy thế mới thôi.
Các bà đi rồi. Thám Xuân hỏi: “Việc ấy thế nào?” Bảo Thoa cười nói:
– Người nào trước trót lọt sau tất trễ nải, người khéo nói tất là hám lợi.
Thám Xuân gật đầu khen phải, liền trỏ mấy người ở trong danh sách cho Lý Hoàn, Bảo Thoa và Bình Nhi xem. Bình Nhi vội mang giấy bút đến. Ba người nói:
– Già Chúc là người đứng đắn, vả chăng chồng con bà ấy đời đời đều trông nom việc sửa sang rặng trẹ Bây giờ nên giao cả việc này cho bà ấy. Già Điền vốn là nhà làm ruộng, bao nhiêu lúa má rau cỏ ở Đạo Hương thôn, tuy để làm cảnh chơi, không cần phải bày biện nhiều lắm, nhưng nếu có bà ấy theo thời tiết chăm bón cẩn thận, thì chẳng hơn hay sao?
Thám Xuân lại cười nói:
– Tiếc rằng Hành Vu Uyển và viện Di Hồng, đất đai rộng thế mà chẳng có thứ gì đáng tiền!
Lý Hoàn cười nói:
– Hành Vu Uyển lại càng quan trọng hơn! Hiện giờ những hoa thơm cỏ thơm bán ở hiệu hàng hương, ở các chợ và các đền miếu, chẳng phải đều là những thứ ở trong đây hay sao? Tính ra, ở đấy lại càng thu được nhiều lợi hơn! Trong viện Di Hồng, không kể các thứ, chỉ riêng hoa hồng, hai mùa xuân hạ cũng có tới bao nhiêu bông! Lại còn các thứ hoa tường vi, nguyệt quý, bảo tường, kim ngân, đằng hoa ở chung quanh hàng rào, hái về phơi khô rồi bán cho hiệu chè, hiệu thuốc cũng được khá nhiều tiền đấy.
Thám Xuân cười, rồi gật đầu nói:
– Mẹ chị Oanh Nhi hầu cô Bảo biết hái đấy. Dạo trước bà ấy hái ít hoa về phơi khô, tết thành lẵng hoa, bầu rượu đem cho tôi chơi. Cô đã quên rồi à?
Bảo Thoa cười nói:
– Tôi vừa mới khen chị, giờ chị lại trêu chọc tôi.
Ba người đều lấy làm lạ hỏi:
– Thế là thế nào?
Bảo Thoa nói:
– Không thể làm thế được. Bên nhà các chị còn bao nhiêu là người thạo việc, lại nhàn rỗi chẳng làm lụng gì cả. Bây giờ tôi mà đưa người đến, tất nhiên họ sẽ coi thường. Tôi đã nghĩ hộ cho các chị một người. Bên viện Di Hồng có già Diệp là mẹ Dính Yên, bà ấy thực thà lắm, lại chơi thân với mẹ Oanh Nhi bên nhà tôi. Chi bằng giao việc này cho già Diệp, có điều gì bà ấy không biết, thì không cần chúng ta phải nhắc, bà ấy cứ đến bàn bạc với mẹ Oanh Nhi là được rồi. Nếu già Diệp không làm, mà giao cho người khác, thì đó là tùy tình riêng của họ, người ngoài có ai muốn nói nhảm gì cũng không thể oán chúng ta được. Làm như thế các chị được tiếng công bằng, lại thêm chạy việc.
Lý Hoàn và Bình Nhi đều nói: “Phải đấy”.
Thám Xuân cười nói:
– Dù thế, nhưng cũng còn sợ họ thấy lợi quên mất cả lẽ phải.
Bình Nhi cười nói:
– Không việc gì đâu. Hôm nọ Oanh Nhi còn nhận già Diệp làm mẹ nuôi, mời ăn mời uống, hai nhà đối đãi với nhau rất tử tế.
Thám Xuân nghe nói thế mới thôi. Họ lại bàn định với nhau chọn thêm mấy người nữa, đều là những người đã được chú ý từ trước, rồi lấy bút khuyên tên.
Một lúc sau, bà già vào trình “thầy thuốc đã về rồi” và đưa đơn thuốc lên. Ba người xem xong, sai người đưa ra ngoài lấy thuốc sắc cho Tương Vân uống. Thám Xuân, Lý Hoàn bảo cho mọi người biết:
– Người nào coi giữ chỗ nào, cứ theo mùa nào thức ấy trừ số trong nhà để dùng không kể, còn thì cho bán lấy lợi, cuối năm sẽ tính sổ.
Thám Xuân cười nói:
– Tôi lại nghĩ ra một việc: nếu cuối năm tính sổ, tất phải nộp tiền ở phòng thu chi, lại thêm một người giữ. Món tiền đã lọt vào tay họ, sẽ lại bị bớt xén một lần nữa. Bây giờ tôi nghĩ ra việc này, giao cho các bà, không qua tay bọn quản gia. Dù họ tức đấy nhưng cũng không dám nói. Đến cuối năm, các bà phải nạp tiền cho họ, chờ gì họ chẳng giở lối mè nheo? Vả chăng trong một năm bất cứ việc vì, chủ được một phần, họ cũng vớ nửa phần, đó là lệ cũ xưa nay ai cũng biết cả, ấy là chưa kể đến chỗ ăn vụng ăn trộm. Bây giờ việc trong vườn này là do chúng ta đặt ra, chứ không phải qua tay họ, thì hàng năm cứ nộp tiền vào nhà trong mới phải.
Bảo Thoa cười nói:
– Cứ ý tôi, nhà trong cũng không cần phải thu tiền, vì thu người này nhiều, người kia ít, lại thêm bận ra. Chi bằng hỏi họ xem ai nhận phần nào thì phải đứng ra gánh lấy một việc gì đó, chẳng qua cũng chỉ là những việc của các người ở trong vườn cần dùng thôi. Tôi tính hộ các chị em phải tiêu những món gì. Quanh quẩn cũng chỉ có mấy món như phấn, sáp, hương, giấy. Mỗi cô có mấy người hầu đều có lệ định sẵn; ngoài ra thì chổi quét, thúng hót rác, phất trần và đồ ăn của chim, hươu, thỏ trong các nhà. Những thứ này họ phải nhận hết, không phải ra lĩnh tiền ở phòng thu chi nữa. Chị thử tính xem, như thế đỡ được bao nhiêu?
Bình Nhi cười nói:
– Tuy mấy việc nhỏ mọn ấy, nhưng tính cả năm cũng đỡ được hơn bốn trăm lạng bạc đấy.
Bảo Thoa cười:
– Còn phải nói nữa! Một năm bốn trăm lạng, hai năm tám trăm lạng, cũng có thể thừa mua mấy gian nhà cho thuê, hay mấy mẫu ruộng xấu đấy, nhưng họ khó nhọc cả năm cũng nên cho họ kiếm ít lời để tiêu riêng việc nhà chứ! Chúng ta cốt để thêm món lợi, bớt tiêu phí, nhưng cũng không nên làm quá, bớt được vài trăm lạng bạc mà mất thể thống thì cũng không đúng. Vì thế làm việc này, phòng thu chi bên ngoài một năm đỡ phải tiêu tốn, năm trăm lạng bạc, cũng đỡ phần chật vật, mà những người ở bên trong và các bà già trước đây không có việc làm cũng sẽ kiếm được tý chút. Cây cối trong vườn mỗi năm cũng được tốt tươi thêm lên. Các chị cũng có các thức mà dùng, như thế không đến nỗi mất thể thống. Nếu chỉ vì bớt tiêu thôi, thì kiếm đâu mà chẳng ra tiền? Hễ có được món lợi gì cũng nộp vào của công cả, có lẽ cả trong lẫn ngoài, họ sẽ oán trách ầm lên, như thế chẳng mất thể thống của nhà các chị hay sao? Vả lại trong vườn này có mấy chục bà già, mà chỉ cho mấy người này, tất nhiên người khác sẽ oán trách là không công bằng. Như tôi nói lúc nãy, họ phải nộp có mấy thứ thôi, kể cũng rộng rãi đấy. Hằng năm trừ những thứ ấy ra, mỗi người thừa thiếu mặc, đều phải bỏ ra mấy quan tiền, rồi góp cả lại, đem chia đều cho các bà già ở trong vườn. Những người này tuy không trông nom việc ấy thật, nhưng ngày đêm họ đều phải hầu hạ Ở trong vườn, phải đóng cửa, mở cửa, thức khuya dậy sớm, khi mưa khi tuyết, các cô đi đâu họ phải khiêng kiệu, chèo thuyền, kéo xe đi tuyết, bao nhiêu việc khó nhọc, họ đều phải cáng đáng cả. Quanh năm họ chịu vất vả, nay trong vườn có món lợi, thì cũng phải cho họ được nhờ tý chút. Lại còn một chuyện rất nhỏ cũng cần nói toạc ra: các bà này chỉ biết vơ phần nhiều về mình, không chịu chia cho ai. Dù ngoài mặt chẳng ai dám nói ra, nhưng trong bụng họ sẽ không phục. Họ sẽ mượn việc công để làm việc tư, ngắt ít quả bẻ ít hoa, chắc các bà kia cũng chẳng kêu vào đâu được. Nay họ cũng được hưởng lợi một ít, thì chỗ nào các bà kia không trông nom xuể, sẽ có họ trông nom hộ.
Các bà già nghe thấy bàn định như thế, đã không bị phòng thu chi cai quản, lại không phải tính sổ với Phượng Thư, một năm chỉ phải bỏ ra mấy quan tiền thôi, họ đều vui vẻ nói:
– Chúng tôi bằng lòng! Như thế còn hơn là bị họ giày vò mà vẫn phải bỏ tiền ra nộp!
Những người không được trông nom vườn, thấy nói hàng năm không phải làm cũng được hưởng ít tiền, đều vui vẻ nói:
– Các bà kia làm lụng vất cả, đáng được món tiền để tiêu pha, chứ chúng tôi có làm gì đâu mà lại ngồi không hưởng lợi!
Bảo Thoa cười nói:
– Các bà không nên từ chối, đây là phần của các bà đáng hưởng. Chỉ cần các bà ngày đêm chịu khó đừng lười, đừng để mặc cho người ta uống rượu đánh bạc, thế là được rồi. Tôi cũng không muốn nhận trông nom việc này đâu, nhưng chắc các bà cũng đã biết, dì tôi phó thác tôi năm, bảy lần, và bảo: bây giờ mợ Cả thì bận, các cô hãy còn bé, nhờ tôi trông nom giúp. Tôi không nghe lời lại làm dì tôi bận lòng. Mẹ tôi hay ốm luôn, việc nhà lại bận, tôi vốn là người sốt sắng hão, ngay hàng xóm láng giềng có việc cần tôi cũng đến giúp đỡ huống chi là dì tôi ủy thác! Ai oán trách tôi cũng chẳng cần. Nếu chỉ cốt lấy tiếng khen, để họ rượu chè cờ bạc, sinh chuyện lôi thôi, thì tôi còn mặt mũi nào trông thấy dì tôi nữa? Khi đó ngay các bà cũng mất thể diện, có ăn năn cũng muộn. Các cô ở trong ấy, cái vườn hoa rộng ấy, đều nhờ các bà trông nom cả, vì tôi coi các bà là người hầu hạ đã ba, bốn đời, xưa nay vẫn giữ được khuôn phép, thì mọi người nên đồng lòng cùng nhau giữ lấy thể thống. Nếu các bà lại dung túng người khác, để mặc họ uống rượu đánh bạc, dì tôi nghe thấy, mắng bảo các bà còn khá, chứ đến tai mấy người quản gia, họ không cần trình dì tôi, cứ mắng thẳng các bà, chẳng hóa ra già không trót, vẫn bị bọn trẻ lên mặt dạy đời. Họ là quản gia, có quyền trông nom các bà thực, nhưng nếu mình giữ thể diện thì họ khinh rẻ sao được? Vì thế tôi nghĩ hộ các bà cách kiếm lời thêm, cũng muốn cho mọi người hết lòng cẩn thận trông nom cái vườn được chu tất, để những người coi việc, thấy cách sắp đặt cẩn thận chu đáo, họ không phải bận lòng đến, trong bụng lại chẳng kính phục hay sao! Như thế mới không phụ lòng tôi tính toán những việc có lợi cho các bà. Các bà nên nghĩ kỹ những lời tôi nói.
Mọi người đều vui vẻ thưa:
– Cô nói phải lắm. Từ nay các mợ các cô cứ yên tâm. Các mợ các cô có lòng thương đến chúng tôi như thế, nếu chúng tôi không thể tất lòng trên, thì trời đất cũng không dung.
Chợt vợ Lâm Chí Hiếu đến trình:
– Gia quyến bên phủ Chân ở Giang Nam đến kinh đô, vào cung triều hạ, hiện sai người mang lễ đến thăm.
Nói xong liền đưa tờ giấp kê đồ lễ lên. Thám Xuân cầm lấy xem: mười hai tấm đoạn thêu, mười hai tấm đoạn các thứ, mười hai tấm the các màu, mười hai tấm lụa, tất cả đều là đồ vua dùng. Hai mươi bốn tấm the đoạn, lụa các màu trong cung dùng.
Xem xong, Lý Hoàn và Thám Xuân nói:
– Thưởng cho họ phong bao 4 hạng nhất.
Rồi lại sai người đến trình Giả mẫu. Giả mẫu cho gọi Lý Hoàn, Thám Xuân, Bảo Thoa đến xem qua lễ vật. Lý Hoàn xếp cả vào một bên, dặn người giữ kho:
– Chờ bà Hai về xem rồi mới được cất đi.
Giả mẫu liền nói:
– Nhà họ Chân không như nhà khác đâu. Đã thưởng phong bao hạng nhất cho bọn đàn ông rồi, sợ chốc nữa họ lại sai bọn đàn bà đến hỏi thăm đấy, phải sắp sẵn phần thưởng.
Chưa nói dứt lời, đã có người vào trình: “Bốn người đàn bà ở phủ Chân đến hỏi thăm”. Giả mẫu sai người dẫn vào. Bốn người này trạc ngoài bốn mươi, ăn mặc chẳng khác bà chủ mấy. Chào hỏi xong, Giả mẫu sai lấy bốn cái ghế thấp cho họ ngồi. Bọn người tạ Ơn, chờ bọn Bảo Thoa ngồi rồi mới dám ngồi. Giả mẫu hỏi:
– Đến Kinh từ bao giờ?
Bốn người đứng dậy trình:
– Hôm qua vào Kinh, hôm nay bà tôi dẫn cô Ba vào cung “thỉnh an” 5, vì thế sai chúng tôi đến hầu cụ và hỏi thăm các cô.
– Mấy năm nay không thấy bà nhà vào Kinh, không ngờ bây giờ lại vào.
– Vâng, năm nay có chiếu chỉ gọi vào.
– Gia quyến vào cả à?
– Cụ bà, cậu cả, hai vị tiểu thư cùng các vị lệnh bà đều không ai vào, chỉ có một mình bà tôi dẫn cô Ba vào thôi.
– Cô ấy đã có người hỏi chưa?
– Chưa có.
– Cô Cả và cô Hai nhà các chị rất thân với nhà ta.
– Vâng. Hàng năm các cô viết thư về, nói vẫn nhờ quý phủ chăm sóc.
– Có gì là “chăm sóc”? Vừa là bạn thân, lại là họ hàng, tất phải như thế chứ. Cô Hai nhà các chị cũng tốt, tính nết nhũn nhặn, vì thế chúng ta mới đi lại thân mật luôn.
– Đó là cụ nói nhũn đấy.
– Cậu Cả các người cũng ở với cụ nhà à?
– Vâng ạ.
– Năm nay cậu ấy bao nhiêu tuổi rồi? Đã đi học chưa?
– Năm nay cậu ấy mười ba tuổi. Người vốn xinh xắn, nên cụ chúng tôi rất thương, từ bé tính bướng bỉnh, ngày nào cũng trốn học, ông bà chúng tôi không tiện quở mắng lắm.
– Cũng không phải như thằng cháu ta ở đây chứ? Cậu ấy tên là gì?
– Cụ chúng tôi quý cậu ấy như ngọc, lại người trắng trẻo, nên đặt tên là Bảo Ngọc.
Giả mẫu ngoảnh vào Lý Hoàn, cười nói:
– Thế ra cũng gọi là Bảo Ngọc?
Bọn Lý Hoàn vội khép nép cười:
– Từ xưa đến nay, hoặc đồng thời hay khác đời, có rất nhiều người trùng tên.
Bốn người cười nói:
– Khi đặt tên cậu ấy, chúng tôi trên dưới ai cũng ngờ ngợ, hình như có một nhà bạn thân nào cũng có người đặt tên như thế, chỉ vì đã mười năm nay không vào kinh, nên không nhớ rõ được.
Giả mẫu cười nói:
– Cháu ta đấy. Ai vào đây ta bảo.
Bọn đàn bà và a hoàn vâng lời đến gần mấy bước. Giả mẫu cười nói:
– Vào trong vườn gọi cậu Bảo Ngọc nhà ra đây, để cho bốn bà xem cậu Bảo này có bằng cậu Bảo nhà họ không.
Bọn bà già đi, một lúc đưa Bảo Ngọc đến. Bốn người trông thấy, đứng dậy cười nói:
– Làm cho chúng tôi giật nảy mình lên! Nếu chúng tôi không vào trong phủ này mà lại gặp ở chỗ khác, thì cho ngay là cậu Bảo nhà chúng tôi cũng theo vào Kinh đấy!
Họ đến kéo tay Bảo Ngọc, hỏi vắn hỏi dài. Bảo Ngọc cũng cười hỏi thăm họ. Giả mẫu cười nói:
– So với cậu nhà các người thế nào?
Lý Hoàn cười nói:
– Cứ theo như bốn bà này vừa mới nói, thì chắc hình dáng hai cậu giống nhau.
Giả mẫu cười nói:
– Đâu lại có việc khéo thế? Những trẻ con các nhà đại gia mới đẻ ra đã xinh đẹp, trừ những người trên mặt có tàn tật xấu lắm không kể, còn thì trông cũng xinh xắn cả, việc ấy cũng không có gì là lạ.
Bốn người cười nói:
– Giờ xem ra hình dáng hai cậu giống nhau, và theo cụ vừa nói, thì tính khí bướng bỉnh cũng giống nhau. Nhưng theo chúng tôi thì cậu đây tốt nết hơn cậu nhà chúng tôi đấy.
Giả mẫu cười nói:
– Thế nào?
– Vừa rồi chúng tôi kéo tay cậu ấy nói chuyện cũng đủ biết. Chứ cậu bên nhà chúng tôi thì đã cho chúng tôi sỗ sàng rồi. Đừng nói là kéo tay, ngay từ đồ dùng, chúng tôi động đến một tý là cậu ấy đã không bằng lòng. Những người cậu ấy sai bảo lại đều là bọn con gái cả.
Bốn người ấy chưa nói dứt lời, chị em Lý Hoàn đã không nhịn được, đều cười ầm lên. Giả mẫu cũng cười nói:
– Bây giờ chúng ta sai người đến thăm cậu Bảo nhà các người, nếu họ kéo tay cậu ấy, tất nhiên cậu ấy cũng phải cố nhịn. Chả cứ trẻ con nhà này hay bên ấy, dù chúng có bướng bỉnh ương gàn thế nào chăng nữa, khi gặp người lạ đến cũng phải giữ lễ phép đúng đắn. Dù đã không biết giữ lễ phép, cũng không khi nào để cho nó gàn bướng mãi được. Người lớn nuông chiều nó, cũng chỉ vì một là thấy nó có vẻ dễ coi, hai là nó biết giữ lễ phép hơn người lớn, ai trông thấy cũng phải yêu phải thương, nên mới chợp mắt bỏ qua, nuông chiều nó một chút. Nếu cứ một mực bất chấp kẻ quen người lạ, làm xấu mặt cả người lớn, thì dù xinh đến đâu cũng đáng đánh chết.
Bốn người đều cười nói:
– Cụ dạy phải lắm. Tuy cậu Bảo nhà chúng tôi tính nết ương gàn thật, nhưng khi có khách, cũng biết giữ lễ phép hơn cả người lớn, vì thế ai trông thấy cũng yêu, cứ bảo rằng: làm sao lại còn đánh cậu ấy? Có biết đâu khi ở nhà, cậu ấy coi trời bằng vung, cả gan dám nói những câu, dám làm những việc mà người lớn không hề dám nói, dám làm. Vì thế ông bà chúng tội giận lắm, nhưng cũng không biết làm thế nào. Trẻ con thì hay chơi bời lêu lổng, sợ phải đi học, những nết xấu ấy còn có thể sửa chữa được. Tệ nhất là cái tính ương gàn bướng bỉnh có ngay từ lúc mới lọt lòng, thì chịu làm sao cho được.
Chợt có người vào trình: “Bà Hai đã về”. Vương phu nhân vào hỏi thăm Giả mẫu, bốn người đứng chào, nói qua loa mấy câu chuyện. Giả mẫu bảo đi về nghỉ. Vương phu nhân dâng nước mời Giả mẫu rồi đi ra. Bốn người cũng cáo từ, đến chỗ Vương phu nhân nói chuyện việc nhà một lúc, rồi họ ra về.
Giả mẫu vui mừng, gặp ai cũng khoe: có một Bảo Ngọc nữa, hình dáng tính nết cũng như cháu tạ Mọi người đều nghĩ các nhà thế hoạn đại gia giống tên nhau cũng nhiều, bà nuông chiều cháu giai cũng là việc thường, chẳng có gì đáng lạ, nên cũng không để ý đến. Duy có Bảo Ngọc tính nết ngây thớ vẩn, cho là bốn người này nói thế để làm vui lòng Giả mẫu đấy thôi. Sau về trong vườn thăm bệnh Tương Vân. Tương Vân liền bảo:
– Thôi anh tha hồ mà đùa mà nghịch. Trước thì “một sợi không thành dây, một cây không thành rừng”, nay đã có bạn rồi. Cứ nghịch tràn đi, có bị đánh dữ thì lần đến với cái anh ở Nam Kinh kia.
Bảo Ngọc nói:
– Chuyện hoang đường mà cô cũng tin? Lại còn có Bảo Ngọc khác nữa à?
– Thế thì tại sao đời Liệt quốc có Lạn Tương Như, mà đời nhà Hán cũng có Tư Mã Tương Như.
– Cái ấy đã đành đi rồi, còn như hình dáng giống nhau như hệt thì làm gì có?
– Thế tại sao người nước Khuông trông thấy ông Khổng Tử lại cho là Dương Hóa? 6
– Khổng Tử và Dương Hóa mặt giống nhưng tên khác; Lạn và Tư Mã tên giống nhưng mặt lại khác. Riêng tôi và hắn không lẽ lại giống cả mặt lẫn tên?
Tương Vân không biết trả lời thế nào, liền cười nói:
– Anh chỉ cãi bướng, tôi không nói với anh nữa. Có cũng mặc, không cũng mặc, chẳng việc gì đến tôi.
Nói xong Tương Vân đi nằm.
Bảo Ngọc đâm ra ngờ ngợ: “Nếu bảo là không thì hình như cũng có, nếu bảo có thì mắt mình lại chưa trông thấy”.
Trong bụng bứt rứt, về buồng nằm ngẫm nghĩ mãi, đâm ra ngủ mê, thấy mình đi vào trong một vườn hoa, Bảo Ngọc lấy làm lạ nói:
– Trừ vườn Đại Quan của chúng ta ra, còn có cái vườn nào đây?
Đương lúc ngờ ngợ, thấy có mấy đứa gái bé đi đến, đều là a hoàn cả. Bảo Ngọc lại lấy làm lạ nói:
– Trừ Uyên Ương, Tập Nhân, Bình Nhi ra, còn đám nào đây?
Bọn a hoàn đó cười nói:
– Sao cậu Bảo Ngọc lại đến đây?
Bảo Ngọc cho là nói mình, chạy lại cười nói:
– Ngẫu nhiên tôi đi chơi đến đây, không biết là vườn hoa của vị thế giao 7 nào. Nhờ các chị đưa tôi đi xem.
– Thì ra không phải là cậu Bảo nhà chúng mình! Trông hắn cũng sạch sẽ ăn nói lại lém lỉnh đấy.
– Thế ra trong nhà đây cũng lại có cậu Bảo Ngọc à?
– Cụ và bà nhà chúng tao đặt tên hai chữ “bảo ngọc” cho cậu chúng tao, cốt để giữ gìn cho cậu ấy được sống lâu và tránh hết tai nạn. Cậu ấy cũng thích cho chúng tao gọi tên. Mày là thằng bé con ở đâu đến đây, cũng dám gọi bậy! Giờ hồn không chúng tao đánh cho nát xác ra!
Lại một a hoàn khác cười nói:
– Thôi chúng ta về đi, đừng để cậu Bảo Ngọc trông thấy.
Lại nói:
– Nói chuyện với thằng bé con thối này làm chúng mình cũng thối lây!
Bảo Ngọc buồn rầu nói:
– Xưa nay chưa từng bị ai đối xử tệ bạc với mình, sao bọn này lại như thế? Không lẽ lại có một người như ta à?
Vừa nghĩ vừa tiện bước đi đến một ngôi nhà, Bảo Ngọc lấy làm lạ nói:
– Trừ viện Di Hồng ra, lại còn có một cái nhà như thế này à?
Rồi lên thềm, vào hẳn phía trong, thấy trên giường có một người nằm, bên cạnh có mấy đứa con gái đương thêu thùa, cười đùa với nhau. Người trẻ tuổi nằm ở trên giường thở dài một tiếng, một a hoàn cười hỏi:
– Cậu Bảo, sao không ngủ mà lại thở dài thế? Chắc là vì cô em đương yếu, cậu mới buồn bực vớ vẩn chứ gì?
Bảo Ngọc nghe nói, giật mình thấy người trẻ tuổi trên giường nói:
– Ta thấy cụ nói, trong kinh cũng có một anh Bảo Ngọc tính nết cũng giống ta, ta vẫn không tin. Nhưng vừa rồi ta nằm mê đi vào một cái vườn hoa to ở trong kinh, bỗng gặp mấy chị đều cho ta là thằng ranh con bẩn thỉu, không thèm nhìn đến. Ta tìm mãi mới đến được cái buồng của anh ấy, thấy anh ấy đương nằm ngủ, nhưng chỉ có cái xác thôi, còn hồn thì đi đâu rồi ấy.
Bảo Ngọc nói:
– Tôi vì đi tìm Bảo Ngọc mới đến đây, thế ra anh là Bảo Ngọc à?
Người nằm trên giường vội chạy xuống kéo tay, cười nói:
– Thế ra anh cũng là Bảo Ngọc? Phải chăng là giấc chiêm bao?
– Sao lại là chiêm bao? Thực lắm đấy chứ!
Hai bên chưa nói dứt lời, có người đến bảo:
– Ông gọi cậu Bảo đấy.
Hai người đều sợ cuống lên. Một Bảo Ngọc chạy đi, một Bảo Ngọc vội gọi giật lại: “Bảo Ngọc, mau về đây!” “Bảo Ngọc, mau về đây!”
Tập Nhân ngồi bên cạnh thấy Bảo Ngọc nằm mê, gọi tên mình, liền đánh thức dậy, cười hỏi:
– Bảo Ngọc ở đâu?
Bảo Ngọc đã tỉnh, nhưng tinh thần hãy còn bàng hoàng, liền trỏ ra ngoài cửa nói:
– Hắn vừa mới đi kia kìa.
– Thôi, cậu nằm mê rồi. Cậu thử dụi mắt nhìn kỹ xem, đó là bóng cậu ở trong cái gương đấy.
Bảo Ngọc nhìn lên, thì ra cái gương lớn sừng sững đứng trước mặt. Không nhịn được, Bảo Ngọc bật cười. Một a hoàn đã đem sẵn nước và ống nhổ đến cho Bảo Ngọc súc miệng.
Xạ Nguyệt nói:
– Không trách được, cụ thường bảo: nhà có trẻ con không nên treo nhiều gương, vì người còn bé chưa cứng vía, soi gương nhiều, khi ngủ tất sợ hãi nói mệ Bây giờ lại đem kê giường ngủ ở trước cái gương lớn, lúc nhớ buông cái màn che xuống còn khá, sau này trời càng nóng, càng mệt, thì còn nghĩ gì đến buông màn gương nữa? Vừa rồi cũng là vì quên buông màn gương xuống. Khi nằm trước gương chơi đùa với bóng rồi ngủ đi, thành ra hay mê mẩn nói nhảm; nếu không thì sao mình lại gọi tên mình? Chi bằng ngày mai dời giường đi chỗ khác thì hơn.
Bỗng Vương phu nhân sai người đến gọi Bảo Ngọc.
1 Tức là Chu Hy, tên chữ là Trọng Hối, Hối Ông, Khảo Đình hay Chu Văn Công, là một nhà lý học đời Tống. Đời sau thường gọi là Khảo Đình học phái. Bất tự khí là không nên bỏ phí vật gì
2 Hình như tác giả bịa ra để cười cho vui, chứ không có người như thế.
3 Chữ trong sách Luận ngữ.
4 Tiền mừng tuổi, hoặc thưởng, ngoài gói bằng giấy đỏ.
5 Trong thời phong kiến, việc đến hỏi thăm vua chúa, hoàng hậu, hoặc quý tộc bậc cao, đều gọi là “thỉnh an”.
6 Trong sách Luận ngữ khi ông Khổng tử đến nước Khuông, người nước Khuông tưởng là Dương Hóa, liền đến vây lại.
Vương phu nhân muốn dẫn Bảo Ngọc đến chào Chân phu nhân. Bảo Ngọc nghe nói, rất vui, vội thay quần áo, theo Vương phu nhân đi ngay. Thấy phong cảnh nhà họ Chân cũng chẳng khác phong cảnh phủ Vinh và phủ Ninh mấy, có một vài nơi còn lịch sự hơn. Hỏi kỹ ra, cũng có một cậu tên là Bảo Ngọc. Chân phu nhân giữ lại ăn cơm, hết ngày mới về. Bảo Ngọc vẫn chưa tin. Tối về nhà, Vương phu nhân bảo phải sắp tiệc thật long trọng, tìm một ban hát có tiếng để mời mẹ con Chân phu nhân đến dự. Hai hôm sau, mẹ con Chân phu nhân không kịp cáo từ, trở về chỗ làm quan.
Hôm ấy Bảo Ngọc thấy Tương Vân gần khỏi, mới sang thăm Đại Ngọc. Gặp lúc Đại Ngọc đang ngủ trưa, Bảo Ngọc không dám đánh thức, nhân thấy Tử Quyên ngồi ở ngoài hiên thêu thùa, liền đến hỏi:
– Đêm hôm qua cô ấy đã đỡ ho chưa?
– Hơi đỡ rồi.
– A di đà phật! Thôi cũng nên khỏi đi!
– Cậu mà cũng niệm phật, thực là việc lạ!
– Người ta thường bảo “Bệnh gấp hay uống thuốc bừa”.
Bảo Ngọc thấy Tử Quyên mặc cái áo bông mỏng bọc lụa, ngoài khoác áo đoạn xanh, liền giơ tay xoa vào người cô ta vừa nói:
– Khí trời xấu mà mặc phong phanh thế này, ngồi ở trước gió, lỡ ra ốm thì lại khổ.
Tử Quyên nói:
– Từ nay trở đi, chúng ta có nói chuyện gì thì nói, chứ đừng táy máy chân taỵ Bây giờ đã lớn rồi, lỡ người ta trông thấy, không ra sao đâu, lại làm cho những kẻ bậy bạ nói vụng. Cậu không để ý đến việc ấy, cứ cợt nhả như lúc còn bé thế nào được? Cô tôi thường dặn chúng tôi không được đùa cợt với cậu. Gần đây, những khi cậu đến thăm, cô tôi cũng muốn tránh cậu nhưng sợ không tránh được đấy!
Bảo Ngọc thất thế, trong bụng như bị giội một chậu nước lạnh, đứng ngẩn người ra nhìn rặng trẹ Giữa lúc ấy già Chúc đương cuốc đất trồng tre và quét lá ở đấy. Như người mất hồn, Bảo Ngọc ngồi ngay trên hòn đá, nước mắt chảy ròng ròng. Một lúc lâu, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không biết làm thế nào. Tuyết Nhạn đến nhà Vương phu nhân lấy nhân sâm về qua đấy, thấy một người tay chống cằm, ngồi ngây ra trên hòn đá dưới gốc cây đào, không phải ai lạ, chính là Bảo Ngọc. Tuyết Nhạn ngờ ngợ: – “Trời lạnh thế này, cậu ấy ngồi một mình ở đấy làm gì? Mùa xuân này chỉ có những hạng rồ dại mới liều như thế, chẳng lẽ cậu ấy cũng mắc bệnh ngốc à?” Liền chạy lại, ngồi xuống cười nói:
– Cậu ngồi đây làm gì thế?
Bảo Ngọc trông thấy Tuyết Nhạn liền nói:
– Chị đến tìm tôi làm gì đây? Chị không phải là con gái à? Cô ấy đã giữ kẽ không cho các chị gần tôi, chị lại đến đây, nhỡ để người ta trông thấy, lại chẳng sinh chuyện đồn đại à? Thôi chị về ngay đi.
Tuyết Nhạn nghe nói, cứ tưởng Bảo Ngọc bị Đại Ngọc trêu tức, đành phải về nhà. Đại Ngọc hãy còn ngủ, Tuyết Nhạn đưa nhân sâm cho Tử Quyên. Tử Quyên hỏi:
– Bà đương làm gì?
– Đương ngủ trưa, vì thế phải chờ một lúc. Tôi kể cho chị nghe câu chuyện này đáng buồn cười: lúc chờ bà, tôi cùng chị Ngọc Xuyến nói chuyện ở dưới nhà, tự nhiên dì Triệu vẫy tôi đến. Tôi tưởng chuyện gì, té ra dì ấy xin phép bà về nhà túc trực đám ma người em, sáng mai thì đưa. Đứa hầu nhỏ theo dì ấy là Tiểu Cát Tường không có quần áo, muốn mượn cái áo lụa nguyệt bạch của tôi. Tôi nghĩ: bọn họ cũng được cấp hai cái áo như mọi người, sợ đem ra mặc đi đưa đám thì hỏng, nên không dám mặc áo của mình, lại đi mượn của người khác. Mượn làm hỏng áo cũng là việc nhỏ, nhưng tôi nghĩ xưa nay dì ấy đối với chúng ta chẳng tử tế gì. Vì thế tôi bảo: quần áo trâm vòng của tôi, cô tôi giao cho chị Tử Quyên giữ cả. Bây giờ tôi phải trình cô tôi như thế mất nhiều thì giờ lắm, lại làm lỡ việc của dì thôi. Chi bằng dì mượn chỗ khác là hơn.
– Con ranh này láu lắm. Mày không bằng lòng cho người ta mượn, lại đổ cho ta và cô, để người ta khỏi oán mày. Dì ấy đi bây giờ hay sáng mai?
– Đi ngay đấy, có lẽ bây giờ đã đi rồi.
Tử Quyên gật đầu. Tuyết Nhạn nói:
– Có lẽ cô còn chưa dậy, không biết ai làm cho cậu Bảo tức giận, đương ngồi khóc ở ngoài kia kìa!
– Cậu ấy ngồi ở đâu?
– Ở dưới cây đào sau đình Thấm Phương.
Tử Quyên vội bỏ đồ thêu xuống, dặn Tuyết Nhạn:
– Phải cẩn thận, ngồi chực đấy. Cô có hỏi thì nói ta ra ngoài một tí rồi về ngay.
Tử Quyên ra khỏi quán Tiêu Tương, chạy một mạch đi tìm Bảo Ngọc. Tử Quyên mỉm cười nói:
– Tôi nói câu ấy, chẳng qua cũng chỉ muốn giữ tiếng tốt cho cả mọi người thôi, thế mà cậu tức giận, ra ngồi chỗ gió máy mà khóc, lỡ ốm thì làm thế nào!
Bảo Ngọc cười nói:
– Ai tức? Tôi nghe chị nói cũng phải. Các chị bây giờ đối với tôi thế này, rồi người khác cũng thế, dần dần chẳng ai thèm nhìn đến tôi. Tôi nghĩ thế đâm ra tủi thân.
– Vừa rồi đứng đối diện nói chuyện, chị còn bỏ chạy sao bây giờ lại ngồi sát vào bên cạnh tôi?
– Cậu quên rồi à? Mấy hôm trước cậu và cô Lâm đương nói chuyện với nhau thì dì Triệu đi vào, giờ thấy dì ấy đi vắng, tôi mới đến hỏi cậu. Hôm nọ cậu mới nhắc một câu “yến sào”, rồi không nói gì nữa, bây giờ tôi muốn đến hỏi cậu việc ấy.
– Việc ấy không quan hệ gì, chẳng qua tôi nghĩ chị Bảo là khách đến ở đây, mà cô Lâm đã ăn yến sào thì phải ăn luôn, cứ xin mãi cũng ngượng. Món yến sào tuy không tiện xin bà, nhưng tôi đã bày tỏ với cụ biết, có lẽ người cũng đã bảo chị Phượng rồi. Tôi định nói với cô ấy, nhưng chưa nói hết. Bây giờ đâu như mỗi ngày đã cho cô ấy một lạng yến sào, thế là được rồi.
– Thế ra cậu nói hộ. Cảm ơn cậu đã hết lòng nghĩ đến cô tôi. Tôi cứ ngờ tại làm sao tự nhiên cụ lại nhớ đến, hàng ngày lại sai người mang sang cho cô tôi một lạng yến sào. Té ra là thế.
– Ngày nào cũng phải ăn cho quen, ăn độ hai, ba năm thì khỏe được.
– Ở đây ăn quen rồi, sang năm về nhà lấy tiền đâu mà ăn được thứ ấy.
Bảo Ngọc nghe nói giật mình hỏi:
– Ai về nhà?
– Cô tôi về Tô Châu.
– Chị lại nói hão rồi. Tô Châu là nguyên quán thực, nhưng bà cô tôi đã mất, không có người trông nom, nên phải đón cô ấy về ở đây. Thế thì sang năm về Tô Châu ở với ai? Chị lại nói dối rồi.
– Cậu khinh người quá! Chỉ có họ Giả nhà cậu là họ to người nhiều hay sao? Không lẽ trừ nhà cậu, các nhà khác chỉ có một bố, một mẹ, họ hàng không còn ai nữa à? Cô tôi đến đây là vì cụ thương cô ấy còn bé, tuy có chú bác, cũng không bằng bố mẹ nên mới đón về đây ở tạm mấy năm đấy thôi. Khi đi lấy chồng, thế nào cũng phải trở về nhà họ Lâm, chứ có nhẽ nào con gái nhà họ Lâm, lại suốt đời ở nhà họ Giả? Nhà họ Lâm tuy nghèo không có bát ăn, nhưng là dòng dõi thư hương, không khi nào chịu đem người nhà mình giao cho bà con để chịu tiếng chê cười. Vì thế sang năm sớm thì mùa xuân, muộn thì mùa thu, dù ở đây không ai đưa về, thì nhà họ Lâm chắc cũng có người đến đón. Đêm hôm nọ cô tôi bảo tôi nói với cậu, những đồ chơi lúc còn bé, có thứ gì của cô tôi đưa lại, cậu sẽ soạn ra để trả cô tôi; cô tôi cũng đã soạn sẵn những thứ cậu cho cô tôi rồi.
Bảo Ngọc nghe nói như sét đánh ngang tai. Tử Quyên thử ngồi xem Bảo Ngọc trả lời ra sao, nhưng chờ mãi chẳng thấy nói câu gì, đương định hỏi thì thấy Tình Văn đến tìm Bảo Ngọc nói:
– Cụ gọi đấy, ngờ đâu cậu lại ở đây!
Tử Quyên cười nói:
– Cậu ấy đến hỏi thăm bệnh cô tôi, tôi nói mãi cậu ấy cũng chẳng tin, thôi chị dẫn cậu ấy về đi.
Nói xong, liền đi về nhà.
Tình Văn thấy Bảo Ngọc đờ người ra, đầu toát mồ hôi, mặt xám nhợt, vội kéo về thẳng viện Di Hồng. Tập Nhân thấy th sợ quá, cho là bị cảm gió. Bảo Ngọc nóng không thì khá, đằng này hai mắt lại trợn lên, bọt mép xùi ra, đưa gối thì nằm, đỡ dậy thì ngồi; đưa nước thì uống, mê man chẳng biết gì cả. Mọi người thấy thế nháo cả lên, nhưng chưa dám đi trình Giả mẫu, vội sai người đi tìm già Lý trước.
Một lúc già Lý đến, nhìn hồi lâu, hỏi mấy câu, Bảo Ngọc cũng không trả lời; lấy tay sờ vào mạch, ấn mạnh hai cái vào huyệt nhân trung ở môi trên, vết ấn khá sâu mà cũng không thấy đau. Già Lý kêu lên một tiếng “úi chao, hỏng mất rồi!” Rồi ôm đầu khóc ầm lên.
Tập Nhân vội kéo già Lý lại hỏi:
– Già xem có đáng lo ngại hay không, hãy nói cho chúng tôi biết, để đi trình cụ và bà Hai, việc gì mà khóc ầm lên thế?
Già Lý đập giường vật gối nói:
– Hỏng cả rồi! Thôi uổng công tôi cả một đời!
Tập Nhân nghĩ già Lý là người đã già, nhiều kinh nghiệm, nên mời lại xem; giờ nghe thấy già nói thế, tin là thực, cũng khóc ầm lên. Tình Văn kể lại việc vừa rồi cho Tập Nhân biết, Tập Nhân chạy thẳng đến quán Tiêu Tương, thấy Tử Quyên đương hầu Đại Ngọc uống thuốc. Tập Nhân không kịp đắn đo gì, hỏi ngay Tử Quyên:
– Vừa rồi cô nói với cậu Bảo những câu gì thế? Cô đến mà xem! Cô đi mà trình cụ, tôi mặc kệ đấy!
Nói xong liền ngồi phịch xuống ghế.
Đại Ngọc thấy Tập Nhân nét mặt giận dữ, có ngấn nước mắt, bộ dạng khác hẳn, cũng đâm hoảng sợ, liền hỏi:
– Làm sao thế?
Tập Nhân lặng im một lúc rồi khóc:
– Không biết cô Tử Quyên nói những câu gì làm cậu ngốc ấy mắt đờ ra, tay chân lạnh toát, không nói dược nữa. Già Lý bấm cũng không biết đau. Các bà già đều nói là không ăn thua gì nữa, ở bên ấy đương khóc ầm lên. Có lẽ bây giờ thì chết rồi!
Đại Ngọc nghe nói thế, nghĩ già Lý là người có nhiều kinh nghiệm mà cũng nói là chết thì chắc là chết thật, liền “ọe” một tiếng, bao nhiêu thuốc vừa uống, mửa ra hết cả, ruột gan cồn cào, ho rũ rượu hồi lâu. Bỗng chốc mặt đỏ gay, tóc rối bù, mắt sưng húp, gân nổi lên, cứ gục đầu xuống mà thở. Tử Quyên vội đến đấm lưng. Đại Ngọc gục xuống gối thở một lúc, rồi đẩy Tử Quyên nói:
– Chị không phải đấm nữa! Cứ mang thừng đến thắt cổ tôi cho chết đi là hơn!
Tử Quyên nói:
– Tôi có nói gì đâu? Chẳng qua nói đùa mấy câu, cậu ấy lại tưởng thật.
Tập Nhân nói:
– Cô lại không biết cậu ngốc ấy, nói đùa câu gì cũng cho là thật à?
Đại Ngọc nói:
– Chị nói những câu gì, phải đến nói lại đi, cậu ấy mới tỉnh lại được.
Tử Quyên nghe nói liền bước xuống giường, cùng Tập Nhân đi đến viện Di Hồng. Giả mẫu và Vương phu nhân cũng đều ở cả đấy. Vừa trông thấy Tử Quyên, Giả mẫu mắt đã nảy lửa liền mắng:
– Con ranh con này nói những câu gì với nó đấy?
Tử Quyên vội trình:
– Con có dám nói gì đâu, chỉ nói đùa mấy câu thôi.
Bảo Ngọc vừa trông thấy Từ Quyên đã “úi chào” một tiếng, rồi khóc òa lên. Mọi người thấy thế mới yên tâm. Giả mẫu kéo Tử Quyên lại, vì cho là nó đã làm điều gì có lỗi với Bảo Ngọc, nên bắt xin lỗi. Không ngờ Bảo Ngọc nắm chặt lấy tay Tử Quyên không chịu buông, rồi nói:
– Cô có đi thì mang cả tôi đi nữa!
Mọi người không hiểu, hỏi kỹ mới vỡ chuyện Tử Quyên nói đùa Đại Ngọc sắp về Tô Châu. Giả mẫu nhỏ nước mắt nói:
– Ta cứ tưởng có việc gì quan hệ kia, té ra là một câu nói đùa, lại mắng Tử Quyên: – Con ranh này, ngày thường mày là đứa thông minh nhanh nhẹn, mày vẫn biết nó sẵn có tính ngớ ngẩn, sao tự nhiên lại lừa nó làm gì?
Tiết phu nhân khuyên:
– Cháu Bảo xưa nay là người thật thà, cô Lâm lại đến đây ở từ lúc bé, hai người cùng với nhau đến tận bây giờ, so với người khác thì thân mật hơn nhiều. Bây giờ đột nhiên lại nói dối là sắp đi, không cứ cháu là người thực thà ngớ ngẩn, ngay người lớn kiên gan đến đâu cũng phải thương tâm. Bệnh không quan hệ gì, cụ và dì cứ yên tâm, cho uống một vài thang thuốc là khỏi.
Lúc đó có người vào trình:
– Vợ Lâm Chi Hiếu và vợ Lại Đại đến hỏi thăm.
Giả mẫu nói:
– Cảm ơn các bà có lòng nghĩ đến, mời các bà vào chơi.
Bảo Ngọc nghe nói đến chữ “Lâm”, liền kêu ầm lên:
– Thôi hỏng rồi! Người nhà họ Lâm đã đến đón cô ấy về đấy, đuổi ngay họ đi!
Giả mẫu liền nói:
– Đuổi ngay họ đi!
Lại dỗ dành Bảo Ngọc:
– Đây không phải là người họ Lâm đâu, người họ Lâm chết hết cả rồi, không có ai đến đón nó nữa, cháu cứ yên tâm.
Bảo Ngọc nói:
– Dù ai cũng mặc! Trừ cô Lâm ra, không ai được gọi là họ Lâm cả!
Giả mẫu nói:
– Chẳng có ai là họ Lâm đến đây, bao nhiêu người họ Lâm đều đuổi đi cả rồi.
Giả mẫu lại dặn mọi người:
– Từ nay trở đi không được cho bà Lâm Chi Hiếu đến vườn này. Chúng bay cũng không được nói đến chữ “Lâm”. Nghe rõ lời ta dặn chưa?
Mọi người vâng lời, không ai dám cười.
Một lúc, Bảo Ngọc trông thấy trên cái tủ thập cẩm bày một cái thuyền bằng vàng của người nước ngoài đem đến, liền nói ầm lên:
– Kia có phải là cái thuyền đến đón cô Lâm không? Thuyền đậu ở đấy rồi!
Giả mẫu vội sai Tập Nhân lấy cái thuyền xuống. Bảo Ngọc giơ tay đòi. Tập Nhân đưa đến. Bảo Ngọc giấu ngay vào trong chăn cười nói:
Giả mẫu vội sai mời vào. Vương phu nhân, Tiết phu nhân và Bảo Thoa tạm lánh vào nhà trong. Giả mẫu ngồi cạnh Bảo Ngọc. Thầy thuốc họ Vương vào, thấy nhiều người, vội đến chào Giả mẫu, rồi cầm tay Bảo Ngọc bắt mạch một lúc. Tử Quyên đành phải cúi đầu xuống. Thầy thuốc họ Vương cũng không hiểu ra sao, đứng dậy nói:
– Cậu đây mắc bệnh “cấp thống mê tâm”. Cổ nhân thường đã nói: “Có nhiều chứng đờm mê khác nhau: có người vì khí huyết suy yếu, ăn uống không tiêu đâm mê, có người vì giận dỗi quá, đờm sộc lên đâm mê, có người bị đau khổ quá đờm tắc lại.” Đây cũng là chứng đờm mê do đau khổ bất chợt, chỉ chốc lát bị đờm tắc lại đấy thôi, nhẹ hơn các chứng đờm khác nhiều.
– Ông hãy nói cho tôi biết bệnh cháu có đáng lo ngại hay không, ai bảo ông đọc cả tràng sách thuốc ra?
Thầy thuốc họ Vương vội chắp tay cười nói:
– Không đáng ngại, không đáng ngại.
– Chắc không đáng ngại chứ?
– Thực không đáng ngại, nếu có việc gì xin trách cứ ở tôi.
– Quả vậy thì mời người ra ngồi chơi ngoài kia kê đơn. Chữa khỏi ta sẽ sắp sửa đồ lễ, bắt cháu phải thân hành đến tạ, nếu có xảy ra việc gì, ta sai người đến kéo đổ nhà thái y đấy.
Thầy thuốc họ Vương cứ cúi đầu cười nói:
– Không dám ạ, không dám ạ.
Vì ông ta nghe thấy Giả mẫu nói: “Sẽ sắp đồ lễ sai Bảo Ngọc đến tạ”, nên luôn miệng nói “không dám”, chưa nghe câu nói đùa là đến kéo đổ nhà thái y, nên vẫn cứ “không dám” mãi, Giả mẫu cùng mọi người đều cười ầm lên.
Một lúc, uống thuốc vào, Bảo Ngọc đã yên tĩnh hơn trước, nhưng vẫn không chịu buông Tử Quyên ra, cứ nói:
– Nếu buông ra, thế nào cô ấy cũng về Tô Châu.
Giả mẫu và Vương phu nhân không biết làm thế nào, đành phải cho Tử Quyên ở luôn đấy với Bảo Ngọc, rồi cho Hổ Phách đến hầu Đại Ngọc. Đại Ngọc lại thường cho Tuyết Nhạn đến thăm hỏi. Đến chiều, Bảo Ngọc đã đỡ, Giả mẫu và Vương phu nhân mới về nhà, nhưng một đêm sai người hỏi thăm đến mấy lần. Già Lý dẫn già Tống cùng mấy già khác đến trông nom cẩn thận. Tử Quyên, Tập Nhân và Tình Văn ngày đêm ở liền bên cạnh. Lúc nào Bảo Ngọc ngủ thì lại mơ mộng giật mình kinh hoảng, hết khóc Đại Ngọc đã đi, lại khóc có người đến đón. Những lúc ấy, Tử Quyên lại phải an ủi mới yên.
Giả mẫu lại sai lấy các thứ thuốc quí bí truyền như: “khư tà thủ linh đơn” và “khai khiếu thông thần tán” cho uống, hôm sau lại uống thuốc của thầy thuốc họ Vương, bệnh mới đỡ dần. Bảo Ngọc trong bụng đã tỉnh, nhưng vì sợ Tử Quyên về mất, nên cố ý làm ra dáng điên dại. Tử Quyên từ hôm ấy rất là hối hận, nên ngày đêm vất vả cũng không dám oán trách gì. Tập Nhân bây giờ đã yên lòng, cười bảo Tử Quyên:
– Bệnh này do cô gây ra, thì cô phải đến chữa. Chẳng có ai như cậu ngốc nhà ta “thấy gió cho là mưa”, nếu cứ mãi thế, chẳng biết rồi sẽ ra làm sao!
Bấy giờ Tương Vân đã khỏi, ngày nào cũng đến thăm Bảo Ngọc, thấy Bảo Ngọc đã tỉnh, liền diễn lại dáng dấp lúc mê cho Bảo Ngọc xem, làm Bảo Ngọc gục đầu xuống gối cười.
Trước kia Bảo Ngọc không biết mình ngây dại như thế, nên thấy người ta nói vẫn chưa tin. Lúc vắng người, Tử Quyên ngồi bên cạnh, Bảo Ngọc nắm tay hỏi:
– Sao chị lại nói dọa tôi thế?
– Chẳng qua tôi nói đùa thôi, cậu lại cho là thật.
– Chị nói có tình có lý, sao lại bảo là nói đùa?
– Những câu ấy tôi đặt ra cả đấy. Họ Lâm thực chẳng còn ai, còn chăng cũng chỉ là những người họ rất xa, mà không ở Tô Châu, đi tản mác ra các tỉnh cả rồi. Có ai đến đón, cụ cũng chẳng cho cô ấy đi nào.
– Dù cụ có cho cô ấy đi, tôi cũng chẳng nghe.
– Thật không nghe chứ? Chỉ sợ nói mồm thế thôi. Bây giờ cậu đã lớn, đã định nơi hỏi vợ rồi, vài năm nữa sẽ cưới, thì trong con mắt cậu còn biết đến ai nữa?
Bảo Ngọc lại giật mình hỏi:
– Ai hỏi vợ? Hỏi ai?
– Kỳ trong năm tôi nghe thấy cụ nói định hỏi cô Cầm cho cậu; nếu không thì sao lại thương cô ấy quá thế?
– Ai cũng bảo tôi ngớ ngẩn, nhưng thực ra chị lại ngớ ngẩn hơn tôi! Chẳng qua đó là câu nói đùa đấy thôi. Cô ấy đã nhận lời với nhà ông hàn lâm họ Mai rồi. Nếu định hỏi cô ta thì tôi đâu lại còn đến nỗi thế này? Trước kia tôi đã thề, đập cả hòn ngọc đi, chị chẳng ngăn tôi là gì? Tôi vừa ốm khỏi mấy hôm nay, chị lại đến chọc tức tôi. – Vừa nói Bảo Ngọc vừa nghiến răng nghiến lợi, lại nói: – Bây giờ tôi chỉ muốn chết ngay lập tức, moi hẳn ruột ra cho các chị xem, còn cả da và xương đều hóa ra một đống gio, rồi lại hóa ra một đám khói, gặp cơn gió to bay tan đi hết, thế là xong chuyện! – Nói xong lại khóc.
Tử Quyên vội bịt mồm Bảo Ngọc lại, lau nước mắt cho cậu ta, rồi cười nói:
– Cậu đừng có nóng nảy. Vì tôi sốt ruột, nên mới thử cậu đấy thôi.
Bảo Ngọc lại lấy làm lạ hỏi:
– Tại sao chị lại sốt ruột?
– Cậu cũng biết tôi không phải là người nhà họ Lâm, tôi cũng như chị Tập Nhân và chị Uyên Ương đấy thôi. Tôi tình cờ được sang ở với cô Lâm, cô ấy đối với tôi rất tử tế, coi tôi hơn những người hầu mang từ Tô Châu đến nhiều, chúng tôi không rời nhau một giờ một phút. Bây giờ cô ấy mà về thì tôi cũng phải đi theo. Nhà tôi ở cả đây, tôi không đi thì phụ mối tình bấy lâu chúng tôi ăn ở với nhau, mà đi ra thì phải bỏ cả gia đình. Vì thế tôi vẫn áy náy, cố bịa đặt những câu nói ấy để hỏi cậu. Ngờ đâu cậu lại ngốc nghếch làm nhộn lên như thế!
– Thế ra chị lo về việc ấy, chị lại là người ngốc nốt! Từ nay chị đừng lo nữa nhé! Tôi nói vắn tắt một câu cho chị nghe: sống chúng ta sống chung một chỗ; chết thì chúng ta cùng hóa ra gio, ra khói một chỗ, chị nghĩ thế nào?
Tử Quyên nghe nói, trong bụng đương đắn đo, chợt có người vào trình:
– Cậu Hoàn và anh Lan đến hỏi thăm.
Bảo Ngọc nói:
– Cứ ra bảo cảm ơn các cậu ấy. Ta vừa mới ngủ, không cần phải vào nữa.
Bà già vâng lời đi ra.
Tử Quyên cười nói:
– Bây giờ cậu đã khỏi rồi, nên để tôi về trông nom cô bên kia chứ?
– Phải đấy, hôm qua tôi đã định cho chị về, nhưng lại quên mất. Giờ tôi đã khỏi hẳn rồi, thôi chị về đi.
– Hôm nọ tôi trông thấy trong hộp đồ trang sức của chị có hai, ba cái gương, chị để lại cho tôi cái gương nhỏ hình hoa sen. Tôi sẽ để ở đầu giường để soi lúc đi ngủ và đi đâu mang theo cho nhẹ.
Tử Quyên đành phải để cái gương lại, sai người mang đồ đi trước, chào mọi người rồi về quán Tiêu Tương.
Mấy hôm thấy Bảo Ngọc như thế, Đại Ngọc đâm ra ốm thêm, khóc luôn mấy lần. Nay thấy Tử Quyên về, hỏi ra mới biết Bảo Ngọc đã khỏi, Đại Ngọc lại cho Hổ Phách về hầu Giả mẫu. Đêm khuya vắng người, Tử Quyên cởi áo đi ngủ, thủ thỉ cười nói với Đại Ngọc:
– Cậu Bảo thực tâm đấy, nghe thấy chúng ta sắp đi, đâm ra ốm ngay.
Đại Ngọc không trả lời. Tử Quyên ngừng một lúc, rồi lại nói một mình:
– Động không bằng tĩnh, 1 kể ra ở đây đối với chúng ta cũng tử tế đấy. Điều khác thì dễ, chứ cái việc từ bé đến lớn cùng ở với nhau một chỗ, cùng biết tính nết nhau, mới thực là khó.
Đại Ngọc gắt:
– Mấy hôm nay chị không biết mệt à, bây giờ không ngủ đi lại còn nói lảm, nói nhảm gì thế?
– Không phải tôi nói nhảm đâu, cũng là thực bụng vì cô đấy. Tôi buồn cho cô đã mấy năm nay, không có cha mẹ, anh em, ai là người biết thương mình? Gặp lúc này, cụ còn khỏe mạnh sáng suốt, cần phải lo việc lớn của mình đi. Tục ngữ nói “Tuổi già nóng lạnh bất thường”. Nếu cụ có mình nào, lúc đó dù có xong việc, cũng sợ chậm trễ ngày giờ, khó được như ý muốn. Bọn công tử vương tôn tuy nhiều, nhưng người nào mà chẳng năm thê bảy thiếp, nay đông mai tây? Dù họ có lấy được một bà tiên, cũng chỉ độ dăm ba đêm rồi lại gạt ra một nơi. Thậm chí nhiều người có mới nới cũ, trở mặt thù hận nữa. Nhà người ta có người, có thế, thì không sao, chứ như cô đây, cụ sống ngày nào còn khá, cụ mà chết đi thì mặc cho người ta hất hủi thôi. Vì thế tôi bàn với cô, cần phải lo liệu trước đi. Cô là người sáng suốt, chẳng lẽ không nghe câu tục ngữ: “Hàng vạn lạng vàng dễ kiếm, một người tri kỷ khó tìm” hay sao?
– Con này điên rồi! Sao mới đi có mấy ngày đã đổi hẳn tính nết thế? Ngày mai ta phải trình cụ cho mày về, ta không dám dùng mày nữa.
– Những câu tôi nói đều đúng cả, cốt nhắc cô để ý đấy thôi, chứ có bảo cô đi làm bậy gì đâu. Sao lại phải trình cụ, tôi bị mắng thì cô được lợi gì?
Nói xong liền đi ngủ.
Đại Ngọc ngoài miệng nói thế, nhưng trong bụng cũng có phần thương cảm, chờ Tử Quyên đi ngủ rồi, liền khóc suốt đêm, đến sáng mới chợp mắt. Hôm sau gượng dậy rửa mặt súc miệng ăn ít cháo yến sào. Rồi có Giả mẫu sang thăm và dặn dò mấy câu.
Ngày sinh nhật Tiết phu nhân đã đến, từ Giả mẫu trở xuống, ai cũng có lễ mừng; Đại Ngọc cũng phải đưa đến mừng hai thứ đồ thêu. Hôm ấy, Tiết Phu nhân sắp một ban hát nhỏ, mời Giả mẫu và Vương phu nhân đến dự. Chỉ có Bảo Ngọc và Đại Ngọc là vắng thôi. Đến chiều tàn tiệc, Giả Mẫu tiện đường đến thăm hai người một lần nữa rồi mới về nhà.
Hôm sau, Tiết phu nhân lại bảo Tiết Khoa mời những người làm công đến dự tiệc. Bận rộn đến ba, bốn ngày mới xong.
Tiết phu nhân trông thấy Hình Tụ Yên là người đoan trang nhã nhặn, nhưng là con nhà thanh bạch, một cô gái áo vải quần thô, nên muốn hỏi cho Tiết Bàn. Nhưng sợ Tiết Bàn là người lông bông, nhỡ lại làm khổ con gái nhà người tạ Đương lúc ngần ngại, chợt nghĩ ngay đến Tiết Khoa, xem hai người này giống như một đôi vợ chồng trời xe sẵn, liền bàn với Phượng Thự Phượng Thư cười nói:
– Xưa nay cô còn lạ gì tính mẹ chồng tôi, việc này để tôi liệu dần.
Nhân lúc Giả mẫu đến thăm, Phượng Thư liền nói:
– Cô cháu có một việc muốn nhờ bà, nhưng không tiện nói ra.
– Việc ấy rất tốt, có gì mà không tiện nói rả Để ta sẽ nói chuyện với mẹ chồng chị, thế nào mà chẳng bằng lòng.
Về nhà, cho người gọi Hình phu nhân đến, Giả mẫu tự nhận đứng ra làm mối. Hình phu nhân nghĩ: họ Tiết là nhà dòng dõi, hiện nay giàu có. Tiết Khoa kể ra cũng xinh trai, lại có Giả mẫu đứng ra làm mối. Được dịp liền nhận lời ngay.
Giả mẫu mừng lắm, sai người mời Tiết phu nhân đến. Hai người gặp nhau tất nhiên cũng có những câu đun đẩy. Hình phu nhân liền sai người đi nói việc ấy với vợ chồng Hình Trung. Vợ chồng y đến ở đây cốt là nhờ vả Hình phu nhân, thì làm gì mà chẳng bằng lòng, liền luôn miệng nói:
– Việc ấy hay lắm.
Giả mẫu cười bảo:
– Ta vốn hay hứng việc, xong rồi chả biết tạ bà mối được bao nhiêu?
Tiết phu nhân cười nói:
– Điều đó tất nhiên rồi, chỉ sợ tạ một vạn bạc, người cũng không thèm nhận thôi. Nhưng có một việc, cụ đã đứng lên làm mối thì phải tìm một vị chủ hôn mới được.
Giả mẫu cười:
– Gì chẳng có, chứ hạng què chân cụt tay thì nhà chúng ta cũng có vài mống.
Rồi sai người gọi mẹ con Vưu Thị đến. Giả mẫu nói rõ việc ấy cho họ nghe, hai người đều vội vàng ngỏ lời mừng.
Giả mẫu dặn:
– Khuôn phép nhà ta chị đã biết đấy, xưa nay hai nhà thông gia không hề so đọ về lễ cưới lễ xin. Bây giờ chị đứng ra lo liệu hộ ta, không nến dè sẻn quá, cũng không nên hoang phí quá, thu xếp việc hai nhà cho xong rồi trình ta biết.
Vưu Thị vội vâng lời. Tiết phu nhân mừng lắm, về nhà bảo viết thiếp mời, đưa sang phủ Ninh. Vưu Thị xưa nay vẫn biết tính nết Hình phu nhân, định không muốn nhận việc ấy, nhưng vì Giả mẫu phó thác nên phải vâng lời, đành cứ lựa theo ý Hình Phu nhân mà làm. Còn Tiết phu nhân là người thế nào cũng xong, nên cũng dễ nói.
Việc Tiết phu nhân hỏi Hình Tụ Yên làm nàng dâu, trong phủ ai cũng biết cả. Hình phu nhân muốn đón Hình Tụ Yên ra ngoài ở.
Giả mẫu nói:
– Điều đó có ngại gì. Hai đứa chúng nó có giáp mặt nhau đâu. Vả lại ngoài bà dì ra chỉ có một cô chị chồng, một cô em chồng, thì có can gì? Chúng nó là con gái cả, cũng nên cho chúng nó gần gũi nhau.
Hình phu nhân nghe vậy mới thôi.
Tiết Khoa và Tụ Yên trước kia có lần gặp nhau ở giữa đường, đại để hai bên đều bằng lòng nhau. Song Tụ Yên giữ kẽ, không muốn lui tới chuyện trò với chị em Bảo Thoa, hơn nữa Tương Vân hay chế giễu, nên càng giữ ý. Có diều Tụ Yên là người đọc sách hiểu lễ, dù là phận gái cũng không tỏ ra giả hổ giả thẹn, làm bộ làm dạng như ai. Bảo Thoa từ ngày gặp Tụ Yên, nghĩ đến cảnh nhà cô ta túng thiếu, bố mẹ người ta thì tuổi cao đức cả, bố mẹ cô ta chỉ rượu bét nhè, chẳng chăm nom gì con cái. Hình phu nhân đối với cô ta chẳng qua tình nghĩa bề ngoài, không phải thực bụng thương yêu. Vả lại, Tụ Yên ở chung với Nghênh Xuân, một người thì ý tứ đứng đắn, một người thì có xác không hồn, tự mình không trông nom chu tất nổi mình, còn trông nom người khác sao được. Vì vậy những đồ dùng hàng ngày có khi thiếu thốn, không ai săn sóc tới, Tụ Yên cũng không hề hé miệng nói với ai.
Bảo Thoa thường ngấm ngầm giúp đỡ, cũng không dám cho Hình phu nhân biết, vì sợ sinh ra lắm chuyện. Bây giờ duyên may run rủi, không ai ngờ hai nhà lại thành thông gia với nhau. Trong bụng Tụ Yên rất mến Bảo Thoa, cũng mến cả Tiết Khoa, nên khi chuyện trò với nhau, Bảo Thoa thường gọi ngay là em.
Một hôm, Bảo Thoa đến thăm Đại Ngọc, Tụ Yên cũng đến đó. Hai người gặp nhau ở giữa đường, Bảo Thoa mỉm cười gọi Tụ Yên lại, rồi hai người cùng đi đến sau vách đá. Bảo Thoa cười hỏi:
– Trời rét như thế này, sao em lại không mặc áo kép?
Tụ Yên cúi đầu không trả lời. Bảo Thoa biết ngay là có duyên cớ gì đây, liền cười hỏi:
– Chắc là tiền lương tháng này em không lĩnh được chứ gì? Chị Phượng kể cung vô tâm thật.
Tụ Yên nói:
– Chị ấy vẫn trả lương đúng ngày đấy! Nhưng vì cô em sai người đến bảo: một tháng không tiêu hết hai lạng bạc đâu, phải bớt một lạng đưa cho thày mẹ em, nếu cần cái gì, dùng của chị Hai cũng được. Chị thử nghĩ xem, chị Hai là người thực thà không để ý việc gì cả. Những thứ em dùng chị ấy không hề nói, nhưng bọn hầu có phải là hạng ít mồm đâu, người nào chả hay sinh chuyện. Dù ở ngay nhà ấy, em thật không bao giờ dám sai bảo họ. Cứ độ dăm ba ngày em lại phải bỏ ít tiền ra cho họ uống rượu, ăn quà sáng. Giờ lại bớt đi một lạng. Hôm nọ em phải đưa giấu cái áo bông cho người mang đi cầm, lấy mấy quan tiền về tiêu đấy.
Bảo Thoa thở dài:
– Hiện giờ gia quyến nhà họ Mai còn ở cả chỗ làm quan, năm sau mới về đây. Nếu họ Ở đây thì em Cầm về nhà chồng, rồi sẽ bàn đến việc của em ra khỏi chỗ này là yên chuyện. Nhưng bây giờ việc em Cầm chưa xong, chắc em Khoa cũng không dám cưới vợ trước. Thật là một việc khó xử. Nếu để chậm vài năm nữa, sợ em bị dãi dầu quá đâm ra ốm mất. Để chị bàn với mẹ chị xem. Số tiền một lạng bạc em cứ đưa phăng cho họ, thế là yên chuyện. Sau này em đừng cho bọn kia ăn uống nữa. Họ châm chọc gì mặc họ, em chẳng cần nghe, nói chán thì thôi. Nếu em có thiếu thứ gì, cứ đến bảo chị, đừng có e lệ. Từ ngày em đến đây, chị em ta vẫn tử tế với nhau, chứ có phải sau ngày dạm hỏi nhau mới thế đâu. Nếu em sợ người ngoài bàn tán, thì cứ khẽ sai a hoàn đến bảo chị là được.
Tụ Yên cúi đầu xin vâng.
Bảo Thoa lại trỏ viên ngọc đeo ở quần Tụ Yên hỏi:
– Ai cho em đấy?
– Chị Ba cho em đấy.
– Chị ấy thấy ai cũng có, chỉ một mình em là không, sợ người ta chê cười, nên mới đưa lại cho em. Đó là chị ấy thông minh chu tất đấy. Có điều em phải biết rằng, những đồ trang sức này là của các cô tiểu thư ở các nhà quan sang mới dùng. Em cứ nhìn chị xem, từ đầu đến chân, chị có những đồ trang sức lộng lẫy ấy đâu. Trước đây bảy tám năm, chị cũng có, nay kém trước nhiều. Vì thế cái gì thấy bớt thì tự mình bớt đi. Sau này đem về nhà chồng, có lẽ còn hàng hòm những đồ vô dụng. Chúng ta bây giờ không bì với họ được, phải theo nề nếp nhà mình.
– Chị đã nói thế, em sẽ về tháo viên ngọc ra là hơn.
– Em cũng đừng nên thế. Người ta cho mình, không đeo họ sẽ ngờ. Chị chẳng qua chợt nhắc đến thôi, sau này sẽ hay.
Tụ Yên xin vâng và hỏi:
– Bây giờ chị đi đâu?
– Chị đến quán Tiêu Tương đây. Em hãy về lấy cái phiếu cầm đồ đưa cho a hoàn mang đến, chị sẽ chuộc hộ cho, rồi đến tối sẽ sai người đưa lại, sớm tối phải mặc, nếu không thì bị gió lạnh không được đâu! Nhưng không biết em đem cầm ở hiệu nào?
– Đâu như hiệu Hằng Thư ở đường Cổ Lâu Tây ấy.
– Thế ra lại vào nhà mình rồi! Nếu bọn làm công biết thì họ sẽ bảo: người chưa đến mà quần áo đã đến trước.
Tụ Yên nghe vậy, biết ngay là hiệu của nhà Bảo Thoa, không nói gì cả, đỏ mặt lên, cười rồi chạy đi.
Bảo Thoa đến quán Tiêu Tương gặp Tiết phu nhân cũng đến thăm và đương ngồi nói chuyện với Đại Ngọc. Bảo Thoa cười nói:
– Mẹ đến lúc nào? Con không biết.
– Mấy hôm nay ta bận, không đến thăm cháu Bảo và cháu Đại được. Hôm nay đến thì cả hai cháu đều đã khá rồi.
Đại Ngọc mời Bảo Thoa ngồi rồi nói:
– Việc đời khó mà biết trước được. Cứ nói về việc dì và mợ Cả tôi lại thành ra thông gia với nhau?
Tiết phu nhân nói:
– Các cháu hãy còn bé, biết thế nào được? Người trước có nói “Nhân duyên nghìn dặm xe vào một dây”. Ông Nguyệt Lão trông nom việc nhân duyên, đã biên vào sổ trước, ngầm lấy một sợi dây tơ buộc chân hai người lại. Đã hợp duyên nhau thì dù hai nhà cách sông cách biển, hoặc thù hằn với nhau thế nào cũng có dịp thành vợ thành chồng. Việc này thực không ai ngờ đến. Có khi bố mẹ đôi bên đều bằng lòng, hoặc là luôn luôn ở gần nhau, tưởng thế nào cũng thành đôi thành lứa, nhưng ông Nguyệt không xe dây, cũng không thể sum họp với nhau được. Ví như việc hôn nhân của hai chị em cháu đây, bây giờ không biết ở gần trước mắt hay là ở tận góc biển chân trời!
Bảo Thoa nói:
– Mẹ động nói việc gì cũng kéo chúng con vào.
Vừa nói vừa gục vào lòng mẹ, cười nói:
– Thôi chúng ta về đi.
Đại Ngọc cười nói:
– Xem kìa! Lớn như thế kia rồi, hễ vắng dì thì ra vẻ đạo mạo, nhưng có dì, lại giở lối làm nũng.
Tiết phu nhân lấy tay xoa vào người Bảo Thoa, thở dài bảo Đại Ngọc:
– Chị cháu đây không khác gì chị Phượng ở bên cụ, hễ có việc quan trọng là ta phải bàn với nó; lúc không có việc gì nó cũng làm cho ta vui lên. Ta thấy nó như thế cũng khuây khỏa nỗi buồn rầu.
Đại Ngọc nhỏ nước mắt thở dài:
– Chị ấy lại giở những trò ấy ra để trêu tức cháu là người không có mẹ, cố ý nêu cái cảnh khổ của cháu ra.
Bảo Thoa cười nói:
– Mẹ Ơi, mẹ xem cô ấy quá quắt thế, lại bảo con hay làm nũng.
Tiết phu nhân nói:
– Không trách được em nó đau xót là phải, cha mẹ mất cả, không còn ai là người thân, nghĩ thật đáng thương.
Tiết phu nhân lại vỗ về Đại Ngọc, cười nói:
– Cháu ơi, đừng khóc nữa. Cháu thấy ta thương chị cháu, đâm ra buồn rầu, nhưng không biết bụng ta càng thương cháu lắm đấy! Chị cháu tuy không còn cha, nhưng có mẹ, có anh thì cũng hơn cháu. Ta thường nói với cha cháu, bụng ta thương cháu lắm, nhưng không tiện tỏ ra bên ngoài, ở đây lắm người nhiều lời, người nói tốt thì ít, nói xấu thì nhiều. Họ có biết đâu cháu không có chỗ nương tựa, đáng để cho người ta thương; chẳng qua thấy cụ thương cháu, họ cũng hùa theo đó thôi.
Đại Ngọc cười nói:
– Dì đã nói thế, ngày mai cháu xin nhận dì làm mẹ. Nếu dì không nhận, thì chỉ là dì thương miệng thương môi thôi.
– Không chê thì cháu cứ nhận.
Bảo Thoa vội vàng nói:
– Không nhận được đâu.
Đại Ngọc nói:
– Tại sao không nhận được?
– Tôi hãy hỏi cô, tại sao anh tôi chưa lấy vợ mà lại hỏi em Hình cho em tôi trước? Thế là vì lẽ gì?
– Anh ấy đi vắng, hay là ngày giờ không hợp, vì thế hỏi cho em trước.
– Không phải thế đâu. Anh tôi đã nhắm một chỗ rồi, chỉ chờ khi nào về thì lo đấy thôi, nhưng cũng không cần nói tên người ấy ra. Tôi bảo cô không nhận là mẹ được. Cô thử nghĩ xem.
Nói xong Bảo Thoa nháy mắt nhìn mẹ mà cười.
Đại Ngọc nghe thấy nói thế, liền gục đầu vào người Tiết phu nhân nói:
– Ngày mai mẹ cứ đến nói với cụ, xin cô ấy làm dâu, chẳng hơn đi tìm người ngoài à?
Đại Ngọc xông lên định túm lấy, Bảo Thoa cười nói:
– Mày điên à?
Tiết phu nhân vội cười ngăn lại, lấy tay gạt hai người ra. Bà ta lại bảo Bảo Thoa:
– Ngay cô Hình ta cũng còn sợ bị anh con giày vò, vì thế phải hỏi cho em con, huống chi cháu Lâm, ta không khi nào lại hỏi cho anh con đâu. Trước kia cụ định hỏi em con cho Bảo Ngọc, nhưng vì nó đã có người hỏi; nếu không thì cũng vừa đôi phải lứa đấy. Hôm nọ ta hỏi cô Hình cho em con, cụ còn nói đùa: “Ta định hỏi người nhà bên ấy, chưa hỏi được, ngờ đâu lại bị bên ấy sang hỏi một người nhà tạ” Tuy là câu nói đùa, nhưng nghĩ kỹ ra cũng có ý đấy. Bảo Cầm đã có nơi, ta không còn người nào gả cho bên ấy nữa. Nhưng chẳng lẽ không giúp được một câu nói hay sao? Ta xem Bảo Ngọc cũng xinh xắn, cụ lại thương nó, nếu tìm người ngoài, chắc cụ không bằng lòng, chi bằng hỏi em Lâm cho nó, như thế chẳng được vẹn toàn mọi mặt hay sao?
Đại Ngọc trước còn ngồi ngây ra nghe, sau thấy nói đến mình, liền đỏ mặt, kéo Bảo Thoa cười nói:
– Tôi chỉ đánh chị thôi! Tại sao chị khêu chuyện để dì nói như thế?
– Lạ thật! Mẹ tôi nói cô, việc gì cô lại đánh tôi?
Tử Quyên vội chạy lại cười nói:
– Dì đã có ý định như thế, sao không đến nói với cụ?
Tiết phu nhân cười nói:
– Con bé này vội cái gì thế! Chắc là mày muốn cô mày đi lấy chồng, để mày cũng đi kiếm một anh chồng nhỏ chứ gì?
Tử Quyên đỏ mặt cười nói:
– Dì già, nói lẫn rồi!
Đại Ngọc trước còn mắng:
– Việc gì đến con ranh con này!- Sau thấy thế cũng cười nói: – A di đà phật! Đáng! đáng! Đáng! Cũng bị trát gio vào mặt rồi đấy!
Mẹ con Tiết phu nhân và các bà già, a hoàn đều cười ầm lên và nói:
– Dì tuy nói đùa, nhưng không sai mấy. Lúc nào rỗi, dì đến bàn với cụ xem, rồi dì làm mối cho đôi bên nên vợ nên chồng, thật là ổn thỏa mọi đường.
Tiết phu nhân nói:
– Ta mà nói ra, nhất định cụ sẽ vui mừng.
Chợt Tương Vân đi vào, tay mang một phiếu cầm đồ, cười nói:
– Mảnh giấy nợ gì đây?
Đại Ngọc nhìn không biết là cái gì. Bọn bà già đứng đấy đều cười nói;
– Cái này hay lắm! Phải mất gì chúng tôi mới bảo cho!
Bảo Thoa vội cầm lấy xem, thì chính là cái phiếu cầm đồ của Tụ Yên vừa nói lúc nãy, liền gấp ngay lại.
Tiết phu nhân nói:
– Bà già nào đánh rơi cái giấy cầm đồ thì phải, tìm trả ngay cho họ, chắc rồi họ lại tìm cuống lên thôi. Cháu nhặt được ở chỗ nào đấy?
Tương Vân hỏi:
– Thế nào là giấy cầm đồ?
Bọn bà già cười nói:
– Cô này thật là ngớ ngẩn, đến tờ giấy cầm đồ cũng không biết!
Tiết phu nhân thở dài:
– Không trách được nó là tiểu thư ngàn vàng còn trẻ tuổi, thì làm gì biết được cái này? Nó có trông thấy cái này bao giờ đâu? Dù người trong nhà có, nó cũng chẳng được trông thấy. Đừng cười nó, tất cả các cô ở đây, xem ai cũng thành ngớ ngẩn cả.
Bọn bà già đều cười nói:
– Vừa rồi cô Lâm cũng chẳng nhận ra được. Không nói các cô làm gì, ngay đến cậu Bảo hay đi ra ngoài cũng chưa chắc đã trông thấy cái này.
Tiết phu nhân kể rõ đầu đuôi cho họ nghe. Tương Vân và Đại Ngọc cười nói:
– Hạng người này thật chỉ nghĩ cách kiếm tiền thôi. Hiệu cầm đồ của dì có cái này không?
Mọi người cười nói:
– Câu hỏi ngớ ngẩn nhỉ! Trên đời này “Quạ nào lại chẳng đen đầu”, làm gì có hai giống quạ?
– Đó là phiếu cầm quá hạn, đã xóa sổ từ bao giờ rồi. Hương Lăng nhặt lấy mang về lừa cho họ chơi đấy thôi.
Tiết phu nhân nghe thay thế cho là thật, nên không hỏi nữa. Một lúc sau có người vào trình:
– Mợ Cả ở phủ hên kia đến mời dì sang nói chuyện.
Tiết phu nhân đứng dậy đi. Bấy giờ trong nhà không có ai, Bảo Thoa mời hỏi Tương Vân:
– Nhặt được ở đâu thế?
– Con Triện Nhi, a hoàn của em dâu chị, lẻn đưa cái giấy ấy cho Oanh Nhị Oanh nhi gấp vào trong sách, tưởng là tôi không trông thấy. Chờ họ đi rồi, tôi giở ra xem, không biết là cái gì, thấy các chị Ở đây, nên cầm đến để cho xem.
Đại Ngọc liền hỏi:
– Không lẽ cô ấy cũng phải cầm quần áo à? Đã cầm rồi sao lại còn đưa giấy cho chị?
Bảo Thoa thấy hỏi thế, không tiện giấu, kể lại việc vừa rồi cho hai người nghe. Đại Ngọc nghe nói, “cùng chung cảnh ngộ, thỏ chết cáo thương”, cũng thở than thương cảm. Tương Vân tức quá nói:
– Để tôi đi hỏi chị Hai xem! Tôi sẽ mắng cho bọn bà già và a hoàn một trận để các chị hả giận, có đươc không?
Tương Vân định chạy đi ngaỵ Bảo Thoa kéo lại cười nói:
– Cô lại điên rồi, hãy ngồi xuống đây đã nào!
Đại Ngọc cười nói:
– Nếu là con trai, có lẽ cô sẽ sẵn sàng dẹp hẳn những nỗi bất bình; cô lại định đóng vai Kinh Kha, Nhiếp Chính 2 đó phải không? Thật đáng buồn cười!
Tương Vân nói:
– Đã không cho tôi đến hỏi chị Hai, thì ngày mai sẽ đón cô Hình đến ở với chúng ta có hơn không?
Bảo Thoa cười nói:
– Để ngày mai bàn xem đã.
Ngay lúc đó có người vào trình:
– Cô Ba và cô Tư đến chơi.
Ba người nghe nói liền im hẳn, không nhắc đến chuyện ấy nữa.
1 Ý nói đi không bằng ở lại.
2 Kinh Kha và Nhiếp Chính: hai người nghĩa hiệp đời Chiến Quốc. Kinh Kha nhận lời với con vua nước Yên, đến giết Tần Vương, không trúng, bị quân Tần giết chết. Nhiếp Chính nhận lời với Nghiêm Trọng Tử, giết vua Hàn Ai Hầu và Hiệp Lũy rồi cắt mũi khoét mặt tự tử.