Hồi 37: Tống Giang cười nói gợi tức Đới Tung – Lý Quỳ hung hăng đánh với Trương Thuận

Bấy giờ Tiết Cấp đương ngồi vắt vẻo trên sảnh, thấy Tống Giang đi đến, liền quát hỏi rằng:

– Đứa nào là thằng tù mới vào ở đây?

Tụi bài đầu trỏ vào Tống Giang mà đáp rằng:

– Bẩm chính là người này đây.

Tiết Cấp lại quát luôn rằng:

– Thằng lùn đen kia, mầy cậy thế ai, mà đến đây không đưa nộp tiên lệ cho ta?

Tống Giang điềm nhiên mà đáp rằng:

– Phàm sự nhân tình là đó người ta tình nguyện, có lẽ nào lại bức bách người ta được. Gớm nhà bác giỏi thực.

Những người đứng xem hai bên, nhìn thấy vậy, thì toát mồ hôi mà sợ thay cho Tống Giang.

Tiết Cấp lại quát lên rằng:

– À! Thằng giặc tù này vô lễ thực, dám gọi ta là nhà bác này… Chúng bay đâu lôi cổ đánh đủ trăm roi cho ta xem. Chúng nghe nói, đều có lòng thương nể Tống Giang, liền lẳng lặng mà trốn đi, bỏ một mình Tiết Cấp và Tống Giang ở đó, Tiết Cấp liền lấy làm giận, liền vác roi đến toan đánh TốngGiang.

Tống Giang ung dung hỏi rằng:

– Tiết Cấp ơi! Ông định đánh tôi, vậy tôi có tội gì?

Tiết Cấp thét to lên rằng:

– Thằng giặc tù này, mầy tức là hàng hóa ở trong tay tao, ho một tiếng cũng là tội rồi.

Tống Giang nói:

– Phải ông muốn nói thế nào thì nói, nhưng tôi tội cũng không đến nỗi chết nào?

– Tội mầy không đến nỗi chết, nhưng ta định đánh chết mầy, thì cũng như đánh chết con ruồi vậy.

Tống Giang nghe nói, cười nhạt mà rằng:

– Tôi đây chỉ vì không đưa tiền đút lót, mà đến nỗi đánh chết, vậy thì những kẻ giao thông với Ngô Học Cứu ở Lương Sơn Bạc sẽ xử ra sao?

Tiết Cấp nghe nói đến câu ấy thì vội vất roi xuống đất mà hỏi luôn rằng:

– Nhà ngươi nói gì thế?

– Tôi nói cái người giao thông với Quân Sư Ngô Học Cứu, việc gì mà hỏi tôi?

Tiết Cấp cuống người lên, nắm lấy Tống Giang mà hỏi luôn rằng:

– Bác là ai? Sao lại nói câu ấy?

Tống Giang nói rằng:

– Thưa ngài, tôi là Tống Giang ở Vận Thành đây.

Người kia cả kinh, vội vàng lạy rạp xuống mà rằng:

– Té ra huynh trưởng chính là Cập Thời Vũ Tống Công Minh, tôi không được biết.

Nói đoạn liền bảo Tống Giang rằng:

– Ở đây không tiện nói chuyện, xin mời huynh trưởng vào trong thành, ta sẽ đàm đạo với nhau.

Tống Giang đáp rằng:

– Vâng, xin Tiết Cấp hãy đợi cho một lát, để Tống Giang về xếp dẹp bên phòng rồi sẽ đi theo.

Nói đoạn, vội vàng về phòng lấy bức thư của Ngô Dụng thu vào trong bọc, rồi lấy một ít tiền, rồi đóng cửa giao cho bài đầu coi giữ, mà quay ra theo Tiết Cấp vào trong thành Giang Châu. Khi vào trong thành, tìm vào ngồi ở một tửu lâu rất kín, rồi Tiết Cấp hỏi Tống Giang rằêng:

– Huynh trưởng gặp Ngô Học Cứu ở đâu?

Tống Giang lấy bức thư trong bọc đưa ra cho Tiết Cấp. Tiết Cấp bóc xem hết lượt, rồi cất thư vào túi, mà cúi xuống lạy Tống Giang.

Tống Giang vội đáp lễ lại mà rằng:

– Vừa rồi chúng tôi nói năng có điều không phải, xin ngài tha lỗi cho.

Tiết Cấp nói:

– Mấy hôm trước tiểu đệ chỉ nghe nói, có một người họ Tống đến đây, mọi khi thì vẫn thường lệ mỗi người tù đi đến, phải nộp tiền năm lạng, mà ngày nay đến ngót nửa tháng trời, vẫn chưa thấy nộp nên đệ muốn đến hỏi xem sao? Ai ngờ lại chính là nhân huynh ở đó. Dám xin nhân huynh tha tội ấy cho…

– Sai Bát cũng thường nói đến đại danh luôn luôn, Tống Giang này vẫn định đến chào, song không biết túc hạ trọ ở đâu, và cũng không có việc gì dám đi vào trong thành, nên đành phải đợi khi túc hạ ra đây, rồi sẽ bái kiến. Không phải là năm lạng bạc không thể đưa đi được, song cũng chắc rằng, thể nào nhân huynh cũng có phen qua đến ở đây, cho nên mới chậm trễ như vậy. Nay được gặp ngài ở đây, thực là thỏa lòng vô hạn.

Tiết Cấp này tức là Viện Trưởng Đới Tung, làm Tiết Cấp coi ngục ở hai viện Giang Châu, mà Ngô Dụng đã nói với Tống Giang khi ở Lương Sơn vậy. Nguyên thuộc về đời nhà Tống, các người làm Tiết Cấp ở mạn Kim Lăng đều gọi là Gia Trưởng, còn mạn Hồ Nam đều gọi là Viện Trưởng. Vì thế người ta gọi Đới Tung là Viện Trưởng Giang Châu. Đới Tung có thuật rất kỳ lạ, mỗi khi có văn thư cần cấp, thì buộc hai cái giáp mã vào trái chân làm phép thân hành, thì có thể đi một ngày được năm trăm dặm, nếu buộc bốn cái vào hai chân, thì có thể đi một ngày tới tám trăm dặm, nhân thế người ta gọi là Thần hành Thái Bảo Đới Tung.

Bấy giờ Đới Tung cùng Tống Giang chuyện trò với nhau, hai người đều lấy làm thỏa tình thích ý, rồi gọi các thứ rượu nhắm lên cùng uống rượu làm vui.

Trong khi uống rượu Tống Giang kể hết mọi chuyện đi đường cho Đới Tung nghe, Đới Tung cũng kể chuyện nhân tình, cùng Ngô Học Cứu cho Tống Giang nghe, rất là mật thiết.

Khi uống được vài tuần rượu, chợt nghe dưới gác có tiếng người huyên náo ầm ầm, rồi thấy tên tửu bảo lật đật lên nói với Đới Tung rằng:

– Người này chỉ có Viện Trưởng ngăn bảo thì mới được, vậy xin nhờ Viện Trưởng xuống bảo giúp cho.

Đới Tung hỏi:

– Ai ở dưới ấy?

– Bẩm ngài chính là Thiết Ngưu (con trâu sắt) Lý Đại Ca vẫn theo Viện Trưởng mọi khi, hiện đương tìm chủ hàng để vay tiền ở dưới ấy.

Đới Tung cười rằng:

– Lại thằng cha ấy lăng nhăng ở đây rồi, ta tưởng là ai…? Xin huynh trưởng ngồi đây, để tôi xuống bảo anh này mấy câu, rồi sẽ đi lên ngay.

Nói xong đứng dậy đi xuống gác một lúc, rồi dẫn một anh chàng to lớn đen chũi cùng đi lên gác.

Tống Giang thấy vậy lấy làm kinh ngạc, hỏi Đới Tung rằng:

– Dám thưa Viện Trưởng Đại Ca này là ai?

Đới Tung đáp:

– Người này là một người coi ngục ở trong lao tiểu đệ; họ Lý tên Quỳ, người huyện Nghị Thủy đất Nghi Châu, thuộc Bách Thượng. Anh ta có một tên lạ là Hắc Toàn Phong (Gió lốc đen) Lý Quỳ, và người làng anh ta thường gọi là Thiết Ngưu Lý Quỳ, sau có tội đánh chết người, phải trốn đi nơi khác; Nay dẫu được ân xá, song vẫn lưu lạc giang hồ, mà vẫn chưa về được cố hương. Anh ta tính hay chè rượu, thường dùng hai cái búa để đánh nhau, các ngón côn quyền cũng giỏi, hiện đương theo việc ở đây.

Bấy giờ Lý Quỳ trông thấy Tống Giang bèn hỏi Đới Tung rằng:

– Ca Ca ơi! Anh chàng đen sì đó là ai?

Đới Tung nghe hỏi thì cười bảo Tống Giang rằng:

– Áp Ty coi đấy, hắn lỗ mãng đến thế thì thôi, không còn biết một tý gì gọi là lễ phép.

Lý Quỳ lại hỏi Đới Tung rằng:

– Tôi hãy hỏi Ca Ca thế nào là lỗ mãng?

– Chính phép ra có hỏi đến ai, phải nói rằng: Vị quan nhân này là ai? Thì mới phải, nay ngươi đường đột hỏi ngay rằng: “Anh chàng đen sì đó là ai?” Như thế có phải là lỗ mãng không? Ta bảo cho mà biết: Vị nhân huynh chính là người nghĩa sĩ, mà mọi khi ngươi vẫn ước ao định đến bái kiến đó.

– Có phải là Sơn Đông Cập Thời Vũ Hắc Tống Giang không?

Đới Tung quát lên rằng:

– Đồ quái này, không biết gì cả, sao dám gọi sỗ sàng thế? Không cúi xuống mà lạy đi, còn đợi đến bao giờ?

Lý Quỳ nói:

– Có quả là Tống Công Minh, thì tôi sẽ lạy, còn người khác thị làm gì? Tiết Cấp đừng đánh lừa tôi, cho tôi lạy xằng lạy bậy rồi lại cười tôi.

Tống Giang liền đáp lên rằng:

– Tôi chính là Sơn Đông Hắc Tống Giang đây.

Lý Quỳ nghe nói vỗ tay kêu rằng:

– Trời ơi! Bố tôi sao không nói trước cho Thiết Ngưu mừng?

Nói đoạn liền phủ phục xuống để lạy Tống Giang. Tống Giang vội vàng đáp lễ mà nói rằng:

– Xin mời tráng sĩ ngồi đây một thể.

Đới Tung cũng bảo Lý Quỳ rằng:

– Anh đến ngồi bên cạnh tôi đây mà hầu rằng:

Lý Quỳ ngồi xuống bên cạnh Đới Tung, rồi nói rằng:

– Uống rượu bằng chén nhỏ phiền lắm, không chịu được, xin lấy chén lớn ra đây.

Tống Giang hỏi Lý Quỳ rằng:

– Vừa rồi làm sao mà Đại Ca giận dữ ở dưới nhà như thế?

Lý Quỳ đáp rằng:

– Tôi có một đĩnh bạc lớn đem đổi lấy mười đĩnh bạc con, tiền hết mất cả rồi, nay định đến mượn chủ hàng mười lạng bạc con để chuộc bạc lớn về cho hắn, và chỉ dùng một ít, ai ngờ anh ta lại nhất định không cho mượn! Tôi tức mình đương định đánh cho một mẻ tan nát cửa nhà mới thôi… Cũng may lại bị Ca Ca tôi gọi lên đây, chứ không thì…

– Đại Ca chỉ cần mười lạng bạc, hay là phải tiền lãi nữa?

– Tiền lãi tôi đã có rồi, bây giờ chỉ cần mười lạng bạc để đi chuộc ngay thôi.

Tống Giang nghe nói, liền móc túi lấy ra mười lạng bạc đưa cho Lý Quỳ, mà nói rằng:

– Đại ca cầm tiền mà đi chuộc về.

Đới Tung thấy vậy, toan ngăn lại thì Tống Giang đã trao tay cho Lý Quỳ mất rồi.Lý Quỳ tiếp được món tiền, liền đứng dậy nói rằng:

– Tốt lắm, hai vị Ca Ca hãy đợi tôi một lát, tôi chuộc bạc đem về trả ngay, rồi xin theo Tống Ca Ca ra ngoài thành đánh chén.

Tống Giang nói:

– Hãy ngồi một lát rồi sẽ đi.

Lý Quỳ nói:

– Tôi chỉ đi một lúc rồi lại đến đây ngay.

Nói xong đẩy rèm đi thẳng xuống lầu.

Bấy giờ Đới Tung bảo với Tống Giang rằng:

– Huynh trưởng đưa tiền cho hắn làm gì? Vừa rồi tôi toan giữ, thì huynh trưởng đã đưa ra mất rồi.

Tống Giang nói:

– Tại sao lại thế?

– Hắn ta dẫu là người trung trực nhưng tính ham uống rượu, thích đánh bạc, còn có bao giờ có được một đĩnh bạc mà đổi ra, cái đó hắn nói dối đấy. Bây giờ đi vội đi vàng thế, tức là đi đánh bạc.. Nếu được ra tất đem tiền đến trả, huynh trưởng, mà nhược bằng bị thua mất, thì còn đào đâu ra mười lạng bạc mà trả lại, thế có phải thêm bất tiện cho Đới Tung này lắm không?

Tống Giang cười rằng:

– Huynh trưởng hà tất nghĩ như thế, mấy lạng bạc ấy có làm gì, để mặc cho anh ta đánh bạc, thua hết thì thôi. Tôi xem người ấy là một người trung trực lắm…

– Hắn ta võ nghệ cũng khá, chỉ có một điều là tính thô mật lớn, không cần gì ai, ở đất Giang Châu này, mỗi đám tù tội, thì lại đánh đập tất cả đám coi ngục, làm cho tôi nhiều phen cũng liên lụy đến hắn… Giữa đường thấy sự bất bình là thế nào cũng đánh cho những bọn cường ngạnh, vì thế khắp trong thành Giang Châu ai ai cũng sợ. Nói đoạn Tống Giang bảo với Đới Tung rằng:

– Chúng ta uống mấy chén rượu nữa, rồi đi chơi ngoài thành một lúc cho vui.

Đới Tung nói:

– Tiểu đệ quên đi mất, để rồi xin dẫn nhân huynh đi xem Giang Cảnh mới được.

– Tôi đến đây cũng muốn đi xem phong cảnh bên sông một lượt, nhưng chưa có dịp nao được đi, vậy xin uống rồi ta đi một thể. Nói đoạn hai người cùng ngồi nói chuyện với nhau.

Khi đó Lý Quỳ vớ được món tiền của Tống Giang ra đi, nghỉ khẩm lẩm trong bụng rằng:

– Tống Giang Ca Ca thực là quý hóa, xưa nay chưa từng chơi thân với mình, mà bỗng dưng cho mượn ngay mười lạng bạc, thế mới biết trọng nghĩa khinh tài, tiếng đồn đáng lắm. Chỉ hiềm vì mình mấy hôm nay đánh bạc thua mãi, không có một đồng nào để làm hảo hán mà mời ông ta đi đánh chén được! Bây giờ ta có mười lạng bạc này, nếu đánh được bạc, thì sẽ để mấy quan tiền mời ông ta đi chén vậy.

Chàng nghĩ vậy, liền vội vội vàng vàng đi ra ngoài thành, vào nhà Tiểu Trương Ất để đánh bạc. Khi vào đến sòng bạc, chàng ta vất mười lạng bạc xuống đất mà gọi lên rằng:

– Chờ tôi với.

Tiểu Trương Ất can:

– Đại Ca hãy khoan, để tiếng sau sẽ đánh.

Lý Quỳ nói:

– Không, tôi cần đánh tiếng bạc này mới được.

– Đại Ca hãy đứng ngoài, mà nghe nước bạc xem sao?

– Tôi không cần nghe ngóng gì cả, đánh là đánh luôn, này năm lạng bạc một tiếng này đây.

Nói xong cướp giựt lấy tiền mọi ở tay người khác, rồi hỏi lên rằng:

– Tôi cóp với ai đây?

Tiểu Trương Ất nói rằng?

– Đại Ca đánh năm lạng, thì cóp với tôi.

Lý Quỳ vỗ tay reo:

– Được lắm… được lắm…

Vừa reo dứt lời, thì nhà cái mở bạc.

Lý Quỳ bị thua, Tiểu Trương Ất liền vớ lấy bạc của Lý Quỳ. Lý Quỳ vội kêu rằng:

– Chỗ ấy của tôi mười lạng bạc đấy.

Tiểu Trương Ất đáp rằng:

– Nếu vậy còn năm lạng đánh tiếng nữa, được thì tôi trả lại cả.

Lý Quỳ lại kéo lấy tiền mọi, rồi reo lên rằng:

– Được… Vừa reo xong thì lại thua tiếng nữa.

Tiểu Trương Ất cười rằng:

– Tôi đã bảo rằng: Cướp tiền mọi làm gì, hãy nghỉ thì không. Không nghe tôi, thành ra thua luôn hai tiếng rồi.

Lý Quỳ bảo với Tiểu Trương Ất rằng:

– Tiền ấy của người khác đấy.

Tiểu Trương Ất nói rằng:

– Của ai thì mặc, đã đánh thua rồi, còn nói gì nữa?

– Thôi anh hãy cho tôi mượn, rồi sáng mai trả vậy.

– Nói bông làm gì thế? Trong đám bạc đến cha con cũng mặc kệ, nữa là… Bác đánh thua rồi, còn…

Lý Quỳ nghe đến đó, xắn áo lên rồi quát hỏi rằng:

– Có trả hay là không?

Tiểu Trương Ất thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:

– Lý Đại Ca mọi khi đánh bạc sòng phẳng lắm, sao hôm nay lại giở giọng như thế? Lý Quỳ lặng ngắt xông vào vồ lấy đĩnh bạc của mình, rồi lại cướp thêm mươi lạng bạc nữa của kẻ khác, mà đùm vào vạt áo, trợn mắt bảo chúng rằng:

– Lão gia mọi khi rất sòng phẳng, nhưng hôm nay hãy tạm không sòng phẳng một hôm…

Tiểu Trương Ất vừa toan chạy đến cướp lại, thì bị Lý Quỳ đá hất ra ngoài. Bọn mười ba mười bốn con bạc khác lại túm đến toan để cướp, cũng bị Lý Quỳ đá bên tả đánh bên hữu, làm cho các cậu phải trốn dạt cả, mà không dám thò ra nữa. Lý Quỳ đi ra ngoài cửa, người coi cửa hỏi rằng:

– Đại Lang đi đâu bây giờ đó?

Lý Quỳ lặng ngắt không trả lời, giơ cẳng đạp anh kia một cái rồi tung cửa đi ra. Bọn kia kéo ra theo lẽo đẽo ở đằng sau mà kêu lên rằng:

– Lý Đại Ca vô lý quá, lại cướp cả tiền của chúng tôi như thế?

Lý Quỳ cứ lẳng lặng rảo cẳng đi mau, không một anh nào dám đi gần đến gót. Đương khi lật đật vội vàng, thì thấy người ở đằng sau Lý Quỳ, nắm cánh tay mà quát lên rằng:

– Sao ngươi được cướp tiền của người ta?

Lý Quỳ miệng đáp lên rằng:

– Việc gì đến anh mà rối?

Vừa nói vừa quay cổ nom lại, thì thấy Đới Tung cùng Tống Giang ở đó, Lý Quỳ vội vàng sợ hãi ra mặt mà nói lên rằng:

– Xin Ca Ca tha lỗi cho, mọi khi Thiết Ngưu này vẫn sòng phẳng lắm, nhưng hôm nay lỡ đánh bạc thua mất tiền của Ca Ca, lại không có tiền mời Ca Ca đi đánh chén, nên phải liều mà giở ngón không sòng phẳng một hôm nay vậy.

Tống Giang nghe nói cả cười mà rằng:

– Hiền đệ có cần tiền, cứ hỏi tôi mà lấy. Bây giờ đánh thua, phải trả người ta mới được.

Lý Quỳ bất đắc dĩ lại phải bỏ vạt áo lấy tiền ra hết, đưa cho Tống Giang. Tống Giang cầm lấy tiền, gọi Tiểu Trương Ất lại để giao trả.

Trương Ất chạy lại nhận tiền mà nói rằng:

– Thưa hai ngài, chúng tôi chỉ xin số tiền của chúng tôi, còn mười lạng bạc của Lý Ca đánh thua, thì tôi xin tình nguyện trả lại cho đỡ lôi thôi.

Tống Giang nói:

– Người cứ cầm lấy không hề chi.

Trương Ất nhất định không dám nhận, Tống Giang liền hỏi rằng:

– Các người có ai bị đánh đau không?

– Bẩm có anh làm hồ lỳ, anh ra tiền mọi, và hai anh canh cửa, bị đánh ngã nằm ở trong kia.

– Nếu vậy thì cầm tiền này chia đều cho họ, còn Lý Ca thì khắc ta ngăn giữ, hắn không đến nữa đâu…

Trương Ất nhận tiền rồi lạy tạ ra về. Tống Giang quay ra bảo với Đới Tung rằng:

– Chúng ta đi uống rượu với Lý Ca một lúc đã.

Đới Tung vâng lời mà rằng:

– Ở bên bờ sông phía trước mặt kia, có Tỳ Bà Đình tửu điếm, là một nơi cổ tích của Bạch Lạc Thiên về đời Đường ngày trước, chúng ta đến đây uống rượu xem phong cảnh cho vui.

Tống Giang nói:

– Ta nên mua các thức nhắm ở trong thành đem ra đó.

Đới Tung nói:

– Hiện bây giờ có người bọn hàng rượu rồi, cần gì phải mua nữa.

Nói đoạn ba người cùng dắt nhau ra Tỳ Bà Đinh. Khi tới nơi thấy khu đình ở cạnh bến Tầm Dương, một bên là nhà của chủ nhân, trên Đình Tỳ Bà có tới mười bàn ăn, rất là rộng rãi. Đới Tung vào chọn một bàn sạch sẽ, nhường Tống Giang ngồi cánh trên, tự mình mình ngồi giữa, để Lý Quỳ ngồi dưới, rồi gọi tửu bảo sai dọn rượu lên.

Tên tửu bảo mang lên mở hai chai Ngọc Hồ Xuân Tửu, là một thứ rượu có tiếng nhất ở đất Giang Châu.

Lý Quỳ bảo với tửu bảo rằng:

– Lấy chén lớn rót lên đây, uống chén con lách tách khó chịu.

Đới Tung thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:

– Anh nhà quê lắm, thôi, lặng im mà uống rượu đi thôi.

Tống Giang lại bảo tửu bảo rằng:

– Hai chúng ta đây để chén con cũng được, còn Đại Ca kia thì phải lấy chén lớn ra.

Tửu bảo vâng lời, lấy chén lớn ra để lên trước mặt Lý Quỳ, rồi rót rượu mà đem các thức nhắm lên.

Lý Quỳ cười mà nói rằng:

– Thực là Tống Giang Ca Ca quý hóa quá? Người ta nói không sai một chút nào… Chưa chi đã biết ngay tính của tiểu đệ… Kết bái được một vị Ca Ca như thế, thực cũng đáng đời.

Tống Giang nhân có Lý Quỳ trong bụng vui thích, uống luôn mấy chén rượu, rồi hỏi Đới Tung rằng:

– Ở đây có cá tươi hay không?

Đới Tung đáp:

– Huynh trưởng không trông đầy sông toàn là thuyền đánh cá đó sao? ở đây chính là một nơi cá gạo sẵn sàng, làm chi không có.

– Giá được một thứ thang cá nấu cay, mà ăn cho giã rượu thì hay lắm.

Đới Tung liền gọi tửu bảo sai làm ba bát thang cả đem lên; Để một lát tên tửu bảo bưng ba bát thang lên. Tống Giang nom thấy bát đĩa sang trọng khác hắn hàng quán mọi nơi, thì trong lòng lấy làm dễ chịu, liền cầm đũa mời Đới Tung và Lý Quỳ cùng ăn.

Lý Quỳ không dùng đến đũa, thò ngay tay vào bát, vớ lấy khúc cá giơ lên mồm mà cắn nhai rau ráu, Tống Giang nhịn cười không được, gắp vài ba miếng cá, và húp vài ba húp thang, rồi đặt xuống mà không ăn nữa.

Đới Tung thấy vậy, liền hỏi Tống Giang rằng:

– Thứ cá này chắc hẳn hơi có mùi, nhân huynh không xơi được hẳn?

– Vâng, tôi uống rượu chỉ ưa thích thứ cá rất tươi, thứ cá này không được tốt.

– Có lẽ thế, tiều đệ ăn cũng không được.

Lý Quỳ ăn hết bát thang của mình, rồi nói với hai người rằng:

– Hai vị Ca Ca không ăn, để tôi xin ăn hộ.

Nói đoạn giơ tay vớ lấy bát thang của Tống Giang, vớt cá ăn một lúc rồi lại vớ lấy bát thang của Đới Tung mà vớt cá ăn hết, nước nhỏ tòng tõng xuống bàn.

Tống Giang thấy Lý Quỳ ăn luôn ba bát cá như vậy, liền gọi tửu bảo đến mà rằng:

– Đại Ca đây đương đói, ngươi thái hai cân thịt lên để đây, rồi lát nữa ta trả tiền luôn một thể.

Tửu bảo đáp rằng:

– Hàng tôi chỉ có thịt dê, không có thịt bò, ngài muốn xơi thịt dê, thì tôi mang lên.

Lý Quỳ nghe nói liền cầm bát thang ném vài mặt tên tửu bảo ướt be bét cả người.

Đới Tung thấy vậy quát lên rằng:

– Ngươi lại làm gì thế?

Lý Quỳ đáp rằng:

– Thằng này vô lễ quá, nó cho là ta chỉ biết ăn thịt bò, mà không bán thịt dê cho ta.

Tửu bảo nói:

– Chúng tôi chỉ hỏi một câu như vậy, nào có dám nói gì đâu.

Tống Giang bảo tửu bảo rằng:

– Ngươi cứ đi thái thịt đem đây, rồi ta trả tiền.

Tên tửu bảo bấm lòng chịu nhịn, quay ra thái ba cân thịt rồi đem bầy lên bàn. Lý Quỳ thấy thái thịt lên, không kịp chào mời đến ai. Vội giơ năm ngón tay bốc ăn luôn một lúc hết cả ba cân thịt.

Tống Giang thấy vậy khen rằng:

– Tốt thực, thực là hảo hán đó.

Lý Quỳ nói rằng:

– Tống Ca Ca biết ý của tiểu đệ chăng? Đệ ăn thịt không thích bằng ăn cá.

Đới Tung gọi tửu bảo đến mà bảo rằng:

– Vừa rồi mấy bát thang hơi xấu mùi, không ăn được, có thứ nào tươi tốt, làm bát khác lên đây, để quan nhàn này xơi cho giã rượu?

Tửu bảo cười rằng:

– Không giấu gì Viện Trưởng, cá này thực là để từ tối hôm qua, còn công cá tươi hôm nay, thì vẫn còn sống ở trong thuyền: Chưa thấy chủ hàng cá đến bán, cho nên chưa mua được cá tốt.

Lý Quỳ đứng phắt lên nói rằng:

– Để tôi ra tảo vài con về cho Ca Ca đánh chén.

Đới Tung nói:

– Thôi đừng đi nữa, để cho tửu bảo đi mua lại vài con cũng được.

Lý Quỳ nói:

– Những anh đánh cá trên thuyền lẽ nào không cho mình được? Để tôi xin đi lấy về đây.

Nói xong ngoắt đi thẳng, không ai ngăn cản được. Đới Tung nói với Tống Giang rằng:

– Xin huynh trưởng tha lỗi cho, tiểu đệ dẫn những con người ấy đến đây, không còn biết chút gì… Thực là xấu hổ quá.

Tống Giang nói:

– Tính anh ta như thế, bắt đổi làm sao được! Tôi thấy những người thế, trong bụng lại càng kính trọng lắm.

Nói đoạn hai người cùng ngồi trò chuyện vui cười với nhau.

Bên kia Lý Quỳ chạy ra bờ sông, thấy một dẫy thuyền có tới bảy tám mươi chiếc, đều buộc túm ở dưới gốc cây liễu, còn các người trên thuyền, kẻ thì nằm gối đầu bên mạn thuyền để ngủ, kẻ thì ngồi trên mũi thuyền và lưới, kẻ thì lội tắm bì bõm ở dưới nước với nhau. Bấy giờ đương giữa tháng năm, mặt trời đã gần xế về tây, mà không thấy chủ nhân về để bán cá.

Lý Quỳ đi đến nơi quát lên rằng:

– Thuyền chúng bây có cá tươi không, bắt cho ta vài con. Tụi phường chài đáp rằng:

– Chúng tôi đợi mãi, mà chưa thấy chủ nhân về đấy, không dám mở khoang thuyền ra bây giờ. Ông coi, bao nhiêu phường buôn vẫn ngồi đợi trên bờ đó.

Lý Quỳ nói:

– Đợi chủ nhân cốc nào, hãy bắt lên đây cho ta hai con.

Đám phường chài lại đáp rằng:

– Chúng tôi chưa đốt vàng chưa dám mở khoang thuyền, bắt thế nào được cá đưa cho ông?

Lý Quỳ thấy vậy, vội nhảy xuống thuyền, đám chài không ai dám ngăn giữ lại, chàng không hiểu đầu đuôi ra sao, hăm hở cúi xuống khoang thuyền, cầm cái phên trúc toan nhắc lên để bắt. Tụi phường chài vội kêu lên. Lý Quỳ cũng không thôi. Chàng ta nhắc phên lên, rồi thò tay xuống bắt, không thấy hơi một con cá nào, chàng tức mình rồi nhảy sang thuyền khác rồi cứ làm như thế.

Nguyên bọn chài lưới dưới sông lớn, đều để lỗ trống to ở sau thuyền cho nước sông ra vào được sống cá, rồi lấy cái phên trúc chắn ngang cho cá khỏi ra, Lý Quỳ không biết đầu đuôi ra thế nào, cứ phăm phăm rút cái phên trúc kia lên; làm cho cá ở trong đề thoát ra cả sông, mà không còn một con nào nữa. Khi đó Lý Quỳ nhảy sang thuyền khác, lại toan rút phên trúc lên, thì bọn tám chín mươi đứa phường chài, đều đổ xô vào xuống thuyền, vớ lấy sào để đánh Lý Quỳ.

Lý Quỳ thấy vậy, nóng tiết lên, liền cởi phăng áo ngoài, trong buộc độc cái khăn tay nòng nọc, rồi giơ hai tay khoa bắt từng năm sáu cái sào một, mà bẻ gãy răng rắc cả ra. Bọn phường chài thấy thế cả kinh, vội cởi dây thuyền mà đẩy ra cả một lượt. Lý Quỳ không biết làm thế nào được liền vớ năm sào gậy, nhảy tót lên bờ, nhè đám lái buôn mà đánh rối tít cả lên.

Đương khi đánh đuổi ầm ầm, thì bỗng có một người ở một con đường nhỏ đằng kia đi đến. Chúng trông thấy kêu lên rằng:

– Kìa, chủ nhân đã đến kia, anh chàng đen lớn này đương cướp cá, đuổi hết các thuyền ở đây.

Người kia lật đật hỏi rằng:

– Anh đen lớn nào mà vô lễ thế?

Chúng trỏ vào Lý Quỳ mà nói rằng:

– Kìa, hắn đương đuổi đánh ầm ầm ở trên bờ kia.

Người kia chạy đến chỗ Lý Quỳ mà quát lên rằng:

– Thằng cha nào gan hùm mật báo hay sao, dám thiện tiện đến quấy rối nghề nghiệp của lão gia đó.

Lý Quỳ nghe nói, quay cổ lại nhìn, thấy anh chàng mình cao hơn sáu thước tuổi ngoại ba mươi, ba chòm râu đen quanh miệng, đầu đội khăn sa xanh, lóng lánh miếng xuyên tâm đỏ, mặc áo trắng, thắt lá đáp, chân đi đôi giày gai, tay cầm cái cân đưa cho mọi người phường buôn, rồi sấn vào quát hỏi Lý Quỳ rằng:

– Thằng này mầy đánh ai?

Lý Quỳ chẳng nói chẳng rằng, múa luôn sào trúc, rồi quay sang đánh nghiến anh kia. Anh kia sấn vào cướp lấy sào trúc. Lý Quỳ liền túm lấy tóc anh kia. Anh kia cúi rạp xuống dưới, toan làm ngã Lý Quỳ song không thể nào làm núng được cái sức khỏe như trâu ấy, liền giơ quyền mà đánh luôn mấy cái, nhưng Lý Quỳ cũng không coi vào đâu.

Người kia lại giơ chân lên đá, bị Lý Quỳ dìm đầu xuống, rồi giơ những quả thủ cứng như sắt mà đánh vào lưng huỳnh huỵch, anh chàng kia không sao cựa dậy được.

Lý Quỳ đương đánh đấm hăng hái, thì bỗng có người đến ôm giữ sau lưng, và một người giằng tay ra rồi bảo rằng: – Không làm thế được…

Lý Quỳ ngẩng trông lên, chính là Tống Giang cùng Đới Tung đến đó, chàng bèn chịu phép buông ra, mà không dám đánh nữa. Người kia được thoát thân, vội vàng chạy thẳng, không kịp trông lại làm chi.

Bây giờ Đới Tung trách mắng Lý Quỳ rằng:

– Ta đã bảo đừng đi lấy cá, quả nhiên lại đánh nhau ở đây rồi. Ngộ nhỡ ra đánh chết người ta, thì có phải ở tù đền mạng không?

Lý Quỳ đáp rằng:

– Bác sợ tôi làm liên lụy đến bác chăng? Dẫu tôi có đánh chết một đứa, thì tôi nhận tội cả chứ sao?

Tống Giang gạt đi mà rằng:

– Thôi anh em đừng cãi nhau nữa, lấy áo vải, rồi đi uống rượu với nhau thôi.

Lý Qùy chạy ra gốc liễu, nhặt lấy cái áo vải, rồi thắt lưng vào quay ra theo Tống Giang, Đới Tung.

Vừa đi được vài bước, chợt nghe sau lưng có tiếng gọi:

– Thằng cha đen chũi kia, phen này ta quyết được thua với mày?

Lý Quỳ nghe nói quay lại xem, thấy người kia cởi trần trùng trục thắt một cái khố nhà chài, mình trắng phau phau như tuyết, đầu không đội khăn, bỏ lộ miếng yểm đỏ ra ngoài, mà quát lên rằng:

– Đồ béo đen chết vằm chết mổ kia, lão gia có sợ mày, thì không phải là hảo hán, mà thằng nào chạy, cũng không phải là tay hảo hán.

Lý Quỳ nghe vậy cả giận, thét lên một tiếng rất to, quăng ngay áo xuống đất, rồi chạy thốc trở lại bờ phía sông. Anh chàng kia chở thuyền gần tới bờ, tay cầm sào giữ lấy thuyền, rồi miệng thì quát mắng ầm ĩ cả lên, Lý Qùy cũng quát lên rằng:

– Có phải hảo hán, thì lên bờ đây.

Anh chàng đứng dưới thuyền kia, vác sào trúc nhè vào chân Lý Quỳ mà đánh. Lý Quỳ nóng tiết, liền nhảy thốc sang thuyền cự lại. Anh chàng kia thấy Lý Quỳnhảy xuống thuyền, liền chống gậy lên bờ đẩy mạnh một cái, thuyền trôi vèo ra ngoài giữa sông.

Lý Quy tuy có biết lội, song không lấy gì làm thạo cho lắm, liền luống cuống chân tay, không biết làm sao cho được. Bấy giờ anh chàng kia không chưởi mắng chi nữa, liền quay lại bảo Lý Quỳ rằng:

– Ta không cần đánh làm chi, hãy cho uống nước một dạo đã, phen này quyết được thua với mày xem sao?

Đoạn rồi xông vào nắm lấy thắt lưng Lý Quy ømà mắng rằng:

– Ta không cần đánh làm chi, hãy cho uống một dạo nước đã.

Nói xong núng nính hai chân đánh trành thuyền cho lộn nhào đi, rồi hai người cùng lăn cả xuống nước.

Tống Giang cùng Đới Tung vội vàng chạy theo bờ sông thì đã thấy chiếc thuyền đánh ụp ở giữa giòng sông, hai người đứng trên bờ kêu khổ, mà không biết làm sao cứu được.

Bấy giờ có tới ba bốn trăm người kéo đến, đều đứng vây dưới gốc cây liễu ở bờ sông để xem. Anh chàng kia vật lộn Lý Quỳ ở dưới nước, lúc thì xách Lý Quỳ lên mặt nước, lúc lại dìu nghỉm Lý Quỳ xuống dòng sông một anh trắng phau như tuyết, một anh đen thui thủi như than, cùng nhau chìm nổi xuống lên, sôi hẳn khúc sông lên ở đó.

Bọn trên bờ thấy vậy, liền vỗ tay reo hò mà bảo nhau rằng:

– Anh chàng đen đen chui chũi, hôm nay có sống sót được, thì cũng đầy bụng nước, chứ chẳng chơi.

Tống Giang cùng Đới Tung thấy thế lực Lý Quỳ đã núng, đã bị anh kia xách lên dìm xuống tái nhợt cả mặt, thì đều lấy làm ái ngại, liền toan nhờ người để cứu hộ.

Đới Tung hỏi đám người đứng đó rằng:

– Người đàn ông trắng trẻo đó là ai?

Trong đám ấy có người đáp rằng:

– Vị hảo hán ấy là Trương Thuận, làm chủ phường cá ở sông này.

Tống Giang nghe nói chợt nhớ ra mà hỏi lại rằng:

– Có phải anh ta biệt hiệu là Lãng Lý Bạch Điều đó không?

Chúng đáp rằng:

– Chính phải đấy.

Tống Giang liền bảo với Đới Tung rằng:

– Nếu quả thị là hắn ta, thì tôi có bức thư của anh hắn ta, là Trương Hoành gửi đến đây.

Đới Tung nghe nói, vội đứng trên bờ kêu lên rằng:

– Trương Nhị Ca hãy khoan tay, có gia thư của bác Trương Hoành gửi đến đây. Người đen lớn ấy là anh em tôi đó, tha cho hắn ta, rồi lên bờ tôi sẽ nói chuyện.

Đương khi ấy Trương Thuận nghe tiếng Đới Tung gọi, thì trong bụng nhận hiểu liền, buông tha Lý Quỳ ra, rồi lội thẳng lên bờ chào Đới Tung mà rằng:

– Xin Viện Trưởng tha lỗi cho tiện nhân đây.

Đới Tung nói:

– Túc hạ hãy nể tôi, cứu cho người kia lên bờ, rồi sẽ dẫn cho gặp người khác nữa.

Trương Thuận vâng lời, rồi nhảy tòm xuống sông lội ra để cứu. Bấy giờ Lý Quỳ ngoi ngóc cổ cố nhoài để lên. Trương Thuận liền rẽ nước lội ra nắm lấy một tay Lý Quỳ kéo thẳng vào bờ, chẳng khác gì đi trên mặt đất vậy. Các người đứng bên sông thấy vậy, đều khen réo ầm ĩ cả lên, Lý Quỳ cũng chỉ ngây người đứng nhìn, mà không nói được câu gì cả.

Trương Thuận xách Lý Quỳ lên bờ, Lý Quỳ chỉ dúm người lại miệng thở hồng hộc mà nôn nước ra ầm ầm.

Đới Tung bảo rằng:

– Bây giờ hãy đến tất cả Tỳ Bà Đinh rồi sẽ nói chuyện.

Trương Thuận, Lý Quỳ nghe nói, liền tìm áo mặc vào, rồi cùng Tống Giang, Đới Tung đi lên Tỳ Bà Đinh.

Khi tới nơi, Đới Tung bảo Trương Thuận rằng:

– Nhị Ca có biết tôi chăng?

Trương Thuận đáp:

– Tiện nhân có được biết Viện Trưởng, song không được bái kiến bao giờ.

Đới Tung lại trỏ Lý Quỳ mà hỏi Trương Thuận rằng:

– Mọi ngày túc hạ có biết người này không? Hôm nay sao lại xung đột như thế vậy?

Trương Thuận đáp:

– Chúng tôi lạ gì mà không biết Lý Đại Ca, có điều chưa đối thủ với nhau lần nào cả.

Lý Quỳ nói:

– Hôm nay anh dìm tôi giỏi thực…

Trương Thuận nói:

– Thế thì bác đánh tôi chẳng kém gì.

Đới Tung cười rằng:

– Vậy từ nay hai người phải kết làm anh em mới được. Người ta thường nói: Không đánh hau, sao bỗng biết nhau, là thế đó.

Lý Quỳ bảo Trương Thuận rằng:

– Anh đừng gặp tôi ở trên bộ thôi.

Trương Thuận nói:

– Tôi chỉ đợi bác ở dưới nước là được rồi.

Đới Tung trỏ vào Tống Giang mà bảo Trương Thuận rằng:

– Tôi không biết là ai, mà không thấy ở đây bao giờ.

Lý Quỳ vội nhảy lên mà rằng:

– Ca Ca đây là Hắc Tống Giang đó.

Trương Thuận nói:

– Có phải Sơn Đông Cập Thời Vũ, Vận Thành Tống Áp Ty không?

Đới Tung nói:

– Chính phải là Công Minh Ca Ca đó.

Trương Thuận nghe vậy, liền cúi đầu xuống lạy mà nói rằng:

– Chúng tôi được nghe danh đã lâu… Bọn giang hồ ai cũng xưng tụng đức tính của nhân huynh, ngài là một người sơ tài trọng nghĩa xưa nay.

Tống Giang khiêm tốn đáp rằng:

– Túc hạ hay quá lời, tôi đây có đức tính gì mà đáng nói? Bữa trước tôi qua núi Yết Dương, ở nhà Hỗn Long Giang Lý Tuấn mấy ngày, sau qua bến Tầm Dương, tương hội với anh em Mục Hoằng lại được gặp lệnh huynh là Trương Hoành ở đó. Lệnh huynh có viết bức gia thư gửi sang túc hạ, song tôi còn để ở trong dinh, không mang đến đây, hôm nay nhân cùng Đới Viện Trưởng cùng Lý Đại Ca ra đây uống rượu ngắm cảnh bên sông, tôi uống mấy chén rượu, chợt nghĩ ăn cá tươi, Lý Ca hăm hở đi lấy, không ai ngăn cản được. Dè đâu Lý Ca lại sinh sự lôi thôi, khiến cho tôi lại gặp được túc hạ ở đây, thực là một sự không ngờ, như vậy. Hôm nay trời cho tôi được gặp ba vị hào kiệt, không biết rằng hạnh phúc đến đâu, vậy xin cùng nhau uống mấy chén rượu cho vui một thể.

Nói xong lại gọi tửu bảo dọn thứ khác lên.

Trương Thuận nói rằng:

– Ca Ca thích xơi cá tươi, để tôi xin đi lấy vài con về đây. Lý Quỳ nói:

– Để tôi cùng đi với bác.

Đới Tung quát lên rằng:

– Ngươi lại thế rồi, uống nước chưa thích hay sao?

Trương Thuận dắt tay Lý Quỳ, rồi cười mà bảo rằng:

– Tôi với bác cùng ra lấy cá phen này, xem họ nói ra sao? Nói đoạn, hai người cùng ra bến sông, Trương Thuận huýt một tiếng còi thì bao nhiêu thuyền chài ở trên sông, đều chở vào bờ cả. Trương Thuận hỏi rằng:

– Thuyền nào có cá chép tốt không đấy?

Lũ thuyền chài nhao nhao lên trả lời rằng có, rồi cùng nhau bắt đến mươi con đem lên cho Trương Thuận.

Trương Thuận chọn lấy bốn con sâu vào cành liễu, đưa cho Lý Quỳ đem về trước, rồi tự mình kiểm điểm bạn buôn, và cho hàng chài cân cá lên bán, rồi đi vào sau.

Khi vào tới Tỳ Bà Đinh, Tống Giang tạ ơn, mà rằng:

– Túc hạ cho nhiều quá: Chỉ dùng một con cũng đủ.

Trương Thuận đáp:

– Có làm gì những cái vặt; Huynh trưởng xơi không hết, thì đem về làm cơm xơi cũng được chứ sao?

Nói đoạn hai người chia thứ tự cùng ngồi, Lý Quỳ nhận hơn tuổi ngồi thứ ba, để Trương Thuận ngồi thứ tư, đoạn gọi tửu bảo mở hai chai Ngọc Hồ Xuân Tửu nữa, và đem các thứ hoa quả sơn hào hải vị lên. Trương Thuận sai tửu bảo đem một con cá chép để nấu thang, và lấy con cá để hấp với rượu, rồi bốn người ngồi uống rượu để cùng nói chuyện với nhau.

Đương khi chuyện trò vui vẻ, thì có một người con gái, vào vòng đôi tám thanh xuân, mình mặc áo sa mỏng, đi vào trước bàn ăn, chào bốn người cất tiếng lên hát.

Bấy giờ Lý Quỳ đương thích khoe khoang những ngón hào kiệt của mình, bỗng bị con hát cất tiếng hát lên, lam cho ba người kia bỏ câu chuyện mà lắng tai nghe vào đó, thì lấy làm tức bực vô cùng liền đứng phắt dậy giơ hai ngón tay mà tát vào mặt người con gái. Người con gái kêu lên một tiếng, rồi ngã lăn xuống đất.

Mọi người vội vàng chạy túm đến, thì thấy người con gái đã xám hẳn mặt lại, mà nằm lặng ra đó, như người sắp chết, chủ nhân thấy vật, liền ngăn giữ bốn người lại, rồi định đi trình quan.

Mới hay:

Ai không nhiệt huyết ở đời,

Xưa nay đã dễ mấy người có tâm?

Muốn tìm cho gặp tri âm,

Dẫu rằng thủy tích sơn thâm cũng liều.

Cạnh tranh đời đã xoay chiều,

Phải đem tâm huyết mà liều mới ngoan.

Nặng nề thay gánh giang san,

Ở đời nhu nhược phổng toàn được chăng?

Lời bàn của Thánh Thán:

Tả Tống Giang lấy đồng tiền ra để giao du, bỗng đâu tiếp tả ra một Thiết Ngưu Đại Ca, khéo thay dùng bút! Đã khiến cho Tống Giang thẹn với trước ngọc vàng châu báu, tệ hơn là mắng, đau hơn là đánh, nguy hơn là chết vậy. Thấy kẻ kia cần tiền đánh bạc, thì cho tiền đến sòng; thấy kẻ kia ăn cá, cũng thích nói ra, khiến cố đi tìm… Nếu hết thảy vật trong thiên hạ, thả cho thiên hạ chung nhau và dùng, thì sao khỏi những kẻ biển lận ở đời, vì sao lại không tin nổi đời có những tay khẳng khái không thèm!!! Nào phải không cho tiền mà chịu oán, hãy cho tiền thì mới mang ơn, như thế thì quyền thuật của Tống Giang, gặp con người ấy chẳng còn giá trị?

Tống Giang chỉ tung tiền, kẻ kia cũng cho là chỉ mua chuộc phường võ phu ăn tục làm liều, lưới chài sòng bạc… Chả hơn gì họ; Nếu họ gặp thời, chẳng vì tiền nong cá thịt, những kẻ kia cũng chẳng qua là bọn khiến người ta cảm vậy, Tống Giang không tung tiền ra, cũng sợ người ta oán vậy. Nay kẻ kia cũng không ơn với oán gì, không gặp Tống Giang như vậy, thì có hàng rượu hay không hàng rượu cũng thế, có sòng bạc hay không sòng bạc cũng vậy, con người của trong ngoài thành Giang Châu cũng vậy mà thôi, há phải đợi Tống Giang mua chuộc hảo hán, thì Lý Quỳ mới được tiền sử dụng, thế thì trước khi Tống Giang chưa đến Giang Châu, kẻ kia chẳng được uống rượu, chẳng được ăn thịt vậy ư? Sòng bạc của Trương Tiểu Ất cũng không mở nổi ra ư? Suốt thiên này tả ra con người Lý Quỳ như thế để nảy rõ ra một Tống Giang, thực là tuyệt thế diệu bút.

Từng chỗ tả Đới Tung khác hẳn Tống Giang, làm cho Tống Giang càng khẳng khái, và càng giả dối, đều do ngọn bút Thợ Lòng.

Tả Lý Quỳ thô mãng, không khó bằng tả từng chỗ nói liều của con người thô mãng, vì những kẻ nói liều của thiên hạ, hay giả cách thô mãng, như con người Tống Giang đối với sự đó, chẳng thẹn mình đến chết vậy thay!

Hồi 38: Gác Tầm Dương đề thơ tâm huyết – Chốn Lương Sơn nghe nỗi kinh hoàng

Bấy giờ Tống Giang cùng Đới Tung thấy chủ hàng toan đi trình quan thì lấy lời xếp dẹp im đi, rồi nhất diện dùng các phép để cứu người con gái tỉnh dậy.

Sau bố mẹ người con gái đến đó, nghe nói đến tên Hắc Toàn Phong thì lặng người kinh sợ, mà không dám phàn nàn nói một câu gì.

Tống Giang hỏi mụ già rằng:

– Nhà mụ tên họ chi? Người ở đâu?

Mụ già đáp rằng:

– Chúng tôi là người họ Tống, quê ở Kinh Sư, hai vợ chồng già; chỉ có một người con gái này, phải cho đi hát xướng kiếm ăn. Nhân vì tính nó cấp bách, không hiểu các ngài đương nói chuyện, nên mới đường đột vô lễ, để đến Ca Ca đánh đập như vậy, thực đau đớn cho mẹ con tôi quá nỗi!

Tống Giang nghe nói liền bảo rằng:

– Ngươi cho người theo đến nhà ta, ta sẽ cho hai mươi lạng bạc để làm vốn kiếm ăn, rồi kiếm người tử tế, gả bán cho nó nương tựa, khỏi phải đi hát xướng khó nhọc như thế nữa.

Hai vợ chồng mụ già cảm tạ mà nói rằng:

– Chúng tôi đâu dám xin ngài nhiều thế.

Tống Giang nói:

– Được, ta đã hứa, là ta cho đủ, không ngại điều chi. Bảo con ngươi cứ theo ta mà lấy.

Hai người vâng lời cảm tạ vô cùng, Đới Tung trách giận Lý Quỳ mà rằng:

– Hắn đi đến đâu, chỉ chực sinh sự đánh nhau, để Ca Ca phí tổn biết bao nhiêu tiền bạc… !

Lý Quỳ nói rằng:

– Tôi chỉ sẽ để tay vào một tí, mà nó đã ngã ngay, xưa nay chưa thấy đứa nào yếu đuối thế bao giờ? Bây giờ cho bác đánh tôi trăm cái tát vào mặt tôi, xem tôi có cần gì không?

Tống Giang cùng mọi người nghe nói, đều cười ồ cả lên, Trương Thuận gọi tửu bảo lên bắt tính tiền hàng để nhận trả.

Tống Giang nhất định không nghe mà rằng:

– Tôi mời bác đến đây uống rượu, có lẽ nào lại để bác trả tiền cho tiện.

Trương Thuận cũng nhất quyết trả tiền, mà rằng:

– Mấy khi tôi gặp được Ca Ca…khi ngài còn ở Sơn Đông, hai anh em tôi đã bao phen toan may trời xui nhân huynh đến đây, cho chúng tôi được gặp, xin nhân huynh cứ cho thế mới được.

Đới Tung cũng khuyên Tống Giang rằng:

– Trương Nhị Ca đã có lòng kính đãi như thế, xin nhân huynh cũng nể lòng mà nhận lời cho là hơn.

Tống Giang vâng lời mà đáp rằng:

– Nếu vậy thì lần sau tôi xin đáp lễ lại.

Trương Thuận cả mừng, liền xâu hai con cá, rồi cùng Đới Tung, Lý Quỳ, và lão già họ Tống kia, mà cùng đưa chân Tống Giang về dinh. Khi về đến phòng giấy trong dinh, Tống Giang lấy ra hai mươi lạng bạc, đưa cho lão già họ Tống về trước, rồi cùng ngồi nói chuyện với nhau.

Một lát trời gần tối, Tống Giang liền lấy bức thư của Trương Hoành, đưa cho Trương Thuận, rồi Trương Thuận để hai con cá lại cho Tống Giang, và từ biệt ra về. Tống Giang lại lấy một đĩnh năm mươi lạng bạc đưa cho Lý Quỳ mà bảo rằng:

– Anh em hãy cầm lấy để mà tiêu dùng.

Lý Quỳ nhận lấy, rồi cùng Đới Tung từ biệt Tống Giang mà trở về trong thành. Bấy giờ Tống Giang đem một con cá đưa biếu Quản Doanh, còn một con để nấu canh ăn. Tống Giang ăn cá tươi ngon miệng, ham ăn cá nhiều đến nỗi canh tư đêm ấy sinh ra chứng đau bụng đi rửa. Từ đấy đến sáng, chàng đi tả có tới hai mươi lần, mê mệt nằm ở trong phòng không sao dậy được. Các người trong doanh vẫn yêu thích Tống Giang là người tử tế xưa nay, liền đem cơm cháo mà chữa chạy đỡ vực Tống Giang.

Ngày hôm sau, Trương Thuận thấy lính Tống Giang thích ăn cá tươi, lại xách vào hai con nữa để biếu, và tạ ơn bức thư Trương Hoành một thể. Khi vào tới nơi, thấy Tống Giang đương bị bệnh nằm ở bên giường, các tù đồ hầu hạ trông nom ở trong phòng, liền nói với Tống Giang để mời thầy về chữa.

Tống Giang bảo Trương Thuận rằng:

– Tôi chỉ vì ăn nhiều cá, sinh ra thương thực mà đau bụng, vậy bất tất phải uống thuốc, chỉ uống một thang hòa hợp, cũng có thể khỏi được ngay.

Nói đoạn, bảo Trương Thuận đem hai con cá, một con đưa cho Vương Quản Doanh, một con đưa cho Triệu Sai Bát, Trương Thuận vâng lời đem biếu hai người: Rồi quay ra cân một thang thuốc hào hợp đem đến, bảo tù đồ sắc thuốc cho Tống Giang rồi mới trở về.

Ngày hôm sau, Đới Tung mua sắm rượu chè, dắt Lý Quỳ đem đến phòng giấy, định để thiết đãi cảm vừa khỏi, nên không dám thiết, bèn cùng nhau ngồi ở ngoài phòng để ăn uống, đến chiều ai nấy về nhà.

Tống Giang tĩnh dưỡng được dăm bảy ngày, thấy trong mình đã hơi khoe khỏe, thì có ý mong Đới Tung đến chơi, mà không thấy đến, Ngày hôm sau Tống Giang lại đi vào thành để tìm Đới Tung. Khi tới trong thành hỏi thăm nhà Đới Viện Trưởng, thì phố sá đều nói rằng:

– Ông ta không có vợ con nhà cửa, chỉ trú tạm ở am Quan Âm bên cạnh vách miếu Thành Hoành gần đó.

Tống Giang vội vàng tìm tới nơi, thì đã thấy khóa cửa đi vắng. Chàng liền quay ra tìm hỏi nhà Hắc Toàn Phong, thì thấy nói rằng anh ta không có nhà cửa, cũng không trọ ở đâu, vẫn cứ quanh quẩn ở trong nhà lao, khi rồi thì lại ở chỗ này vài hôm, ở chỗ khác vài hôm, không biết đâu mà tìm được.

Tống Giang nghe nói, thì lại hỏi thăm nhà Trương Thuận, thì có người nói, hắn vẫn ở làng xóm ngoài thành, chỉ trừ khi có thu nhặt tiền nong mới vào thành mà thôi. Tống Giang lại vội vàng quay ra nẻo bờ sông để tìm Trương Thuận.

Chàng đương một mình vơ vẩn, xem ngắm cảnh vật bên sông, chợt thấy một tòa tửu lâu ở trước mặt, bên cửa treo một lá cờ viết mấy chữ “Hiệu Chính sông Tầm Dương” giữa lúc hiên chạm treo một biển để ba chữ “Lầu Tầm Dương” chữ của ông Tô Đông Pha viết rất lớn.

Nghĩ đoạn liền bước tới nơi, thấy hai bên cửa đỏ bên lầu đều có biển trắng, mỗi bên viết năm chữ: “Lầu lớn trong thiên hạ: Rượu ngon nhất thế gian!”

Tống Giang lên trên gác, chọn một chỗ ngồi, gần phía ngoài sông, rồi tựa hàng lan can, nom ra phong cảnh khen ngợi vô cùng. Một lát tên tửu bảo chạy lên bảo rằng:

– Quan nhân định đợi ai, hay tiêu khiển một mình?

Tống Giang nói:

– Ta còn đương đợi hai ông khách nữa, mà chưa thấy đến. Ngươi hãy lấy một be rượu và một ít thức nhắm lên đây, đừng lấy cá mới được.

Tửu bảo vâng lời đi xuống gác; một lát mang lên một be rượu Lam Kiều Phong Nguyệt, và lấy các thức rau quả, thịt gà dê bày lên bàn. Tống Giang nom thấy bàn đỏ đũa đỏ thức ăn sạch sẽ ngon lành, thì trong bụng vui mừng mà rằng: “Thế này mới thực là phong cảnh Giang Châu! Ta tuy bị tội đến đây, song ngắm những sơn thủy thế này, dẫu đến danh sơn cổ tích xứ mình, cũng không sao mà ví được? “

Chàng nghĩ vậy liền rót rượu vui uống một mình, mà bất giác say sưa quá độ. Bấy giờ trong bụng nghĩ rằng: Ta sinh ở đất Sơn Đông lớn lên ở đất Vận Thành, làm Lại xuất thân, kết thúc kể biết bao giang hồ hảo hán. Trong bấy nhiêu lâu tuy chưa lưu được một cười hư danh, song hiện nay công nghiệp cũng chẳng ăn thua, lại còn bị tội đày ải đến đây, khiến cho ta bao giờ về được cố hương mà trông thấy phụ huynh tôn tộc!

Nghĩ đến đó thì lấn lòng cố quân tha hương, xúc cảnh hứng hoài, bất giác trông ngắm giang hồ mà tầm tã đôi hàng lụy nhỏ. Chàng liền nghĩ một bài tức cảnh “Tây giang nguyệt” rồi gọi tửu bảo mượn bút nghiên để viết.

Chợt đâu đứng lên nom hai bên vách phấn, thấy có nhiều văn thơ của người xưa đề vịnh, chàng liền nghĩ thầm trong bụng rằng: “Tiện đây bất nhược ta viết ngay lên vách phấn, để làm di tích ở đất Giang Châu, sau này dù có hiển vinh qua đến đất này, trông thấy mấy câu ở trên vách phấn kia, cũng đủ nhắc lại cho ta biết cái cảnh huống ấy bây giờ, thế này thực là cùng cực.”

Chàng nghĩ đoạn, liền nhân lúc tửu hứng, mài mực đặc, lấy bút đẵm, rồi viết lên vách phấn mấy câu:

Thủa nhỏ theo đòi kinh sử,

Lớn lên thông thạo quyền mưu,

Khác nào hổ mạnh nấp hang sâu,

Kín nanh dấu vuốt ai biết đâu?

Chẳng may thời vận cơ cầu.

Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang Châu,

Một mai may báo được oan cừu,

Máu nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau.

Tống Giang viết xong, xem ngắm một mình lấy làm vui mừng thích chí, lại ngồi uống luôn mấy chén rượu nữa, rồi múa chân múa tay cười nói một mình, xuống dưới bài Tây giang tử.

Tâm ở Giang Đông thân ở Ngô,

Mấy phen than thở mấy giang hồ,

Ngày sau như thỏa lòng non nước,

Mới biết Hoàng Sào cũng trượng phu.

Viết cạn lại thêm mấy chữ “Vận Thành Tống Giang đề” ở dưới, rồi vất bút xuống bàn, một mình ngồi ngâm đọc hồi lâu. Lại uống thêm mấy chén rượu đầy, nghe chừng rượu đã quá say liền gọi tửu bảo lên tính trả tiền hàng, còn thừa lại thưởng thêm cho tửu bảo, rồi đứng dậy giũ áo mà đi xuống lầu. Bấy giờ chang tử vội vội vàng vàng đi về phong giấy, mở cửa vào phòng nằm vật xuống ngủ thẳng một giấc đến canh năm mới tỉnh dậy, không còn nhớ chi đến sự đề thơ ở gác Tầm Dương.

Năm canh say tỉnh mơ màng,

Sơn Đông chí ấy, Tầm Dương thân rày.

Giang hồ trải mấy đắng cay,

Biết rằng non nước vơi đầy ra sao?

Đối ngạn với đất Giang Châu có một thành nhỏ, là thành Vô Vị Quân, có ông Thông Phán tại gia là Hoàng Văn Bính ở đó. Hoàng Văn Bính tuy có học hành kinh sử, song tính người siểm nịnh, tâm địa hẹp hòi, xưa nay thường hay ghen ghét tài năng; hại kẻ hơn mình, mà xoay kẻ kém mình, chỉ quanh năm quấy nhiễu chốn hương thôn, không ai là không khinh ghét. Nhân chàng ta biết Xài Cứu Phủ là con quan Xái Thái Sư đương triều nên thường thường đi lại mà tán hót phỉnh phờ, để kiếm đường kiếm lối ra làm quan.

Một hôm, Hoàng Văn Bình đương ngồi buồn bã ở nhà, không có cách gì tiêu khiển, chàng liền dẫn hai đứa đầy tớ theo hầu đi mua một lễ vật để qua sông vào hầu Tri Phủ. Bất đồ hôm đó, trong phủ có mở tiệc công yến, chàng ta sợ tai tiếng, không dám đem vào, liền thầy trò cùng quay ra thuyền để trở về.

Khi đến trước lầu Tầm Dương, Hoàng Văn Bính thấy khí trời hơi có phần nóng bức, bèn lững thững quay vào trong lầu chơi ngắm, mà chưa quyết ra về. Chàng ta lên gác dạo mát hồi lâu, chợt nom lên vạch phấn ở gần phía lan can, thấy có nhiều thơ đề vịnh, xem ra cũng có bài nghe được, cũng có bài lôi thôi lốn thốn, đọc chẳng thành câu. Chàng vừa cười nhạt vừa xem đọc một mình, chợt xem đến bài “Tây giang từ” và bốn câu thơ của Tống Giang, thì bỗng cả kinh mà nói một mình rằng:

– Quái lạ! Có lẽ là thơ phản trắc? Ai viết ở đây như thế?

Chàng nói xong liền xem xuống dưới có năm chữ ” Vận Thành Tống Giang đề” thì lại ngâm một lượt mà rằng: ” Thủa nhỏ theo dõi kinh sư. Lớn lên thông thạo quyền mưu ” Đọc đến đó, chàng bèn cười nhạt mà rằng:

– Anh này cũng tự phụ lắm đây…

Lại đọc tiếp rằng: “Khác nào hổ mạnh nấp rừng sâu. Kín nanh, dấu vuốt ai biết đâu?”. Đọc đến đó, thì ngảnh cổ lên mà rằng:

– Anh này ra dáng không theo bổn phận của mình…

Lại đọc tiếp luôn: “Chẳng may thời vận cơ cầu. Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang Châu”.

Chàng lại cười mà rằng:

– Tưởng cao thượng quái gì? Té ra thằng tù xung quân ở đây.

Lại đọc: (Một mai may báo được oan cừu. Máu nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau…)

Chàng lắc đầu nói rằng:

– Thằng này định bào thù ai mà lại chực sinh sự ở đây? Ôi cha! Một thằng tù xung quân, thì phỏng làm gì được?

Nói đoạn lại đọc bốn câu thơ: (Tâm ở Sơn Đông, thân ở Ngô. Mấy phen than thở với giang hồ.)

– Phải, hai câu này có thể tha thứ được.

Lại đọc luôn rằng: “Ngày sau như thỏa lòng non nước. Mới biết Hoàng Sào cũng trượng phu.”

Đọc đến đó thì lắc đầu lè lưỡi mà rằng:

– Thằng cha này xấc thực, nó định làm hơn họ Hoàng Sào, chắc là định mưu phản nghịch chứ không sai.

Nói xong lại đọc đến năm chữ “Vận Thành Tống Giang đề” thì lại nghĩ thầm trong bụng: Tên anh này nghe cũng quen quen…chừng như có chỉ là một anh tiêu lại thì phải… ? 

Nghĩ đoạn lại gọi tên tửu bảo lên mà hỏi rằng:

– Hai bài thơ này ai đề vào đây ngươi có biết đích xác không?

Tửu bảo đáp rằng:

– Hôm qua có người khách vào uống rượu một mình rồi viết lên đó.

– Người như thế nào?

– Người ấy béo đen thâm thấp, trên mặt có thích kim ấn, có lẽ ở trong lao thành đi ra thì phải.

Hoàng Văn Bính nghe nói, gật đầu đắc ý, nhờ tửu bảo cho mượn bút nghiên, chép mấy câu thơ bỏ vào túi áo, rồi dặn tửu bảo phải giữ gìn cẩn thận mà không được xóa đi. Đoạn rồi xuống lầu trở về thuyền nghỉ.

Sáng hôm sau, thầy trò lại dậy sớm, khệ nệ mang lễ vật vào biếu Tri Phủ. Bấy giờ Tri Phủ đương ngồi ở nhà trong, nghe nói là có Hoàng Văn Bính đến, liền cho lính mời vào tiếp chuyện. Hoàng Văn Bính đưa tặng lễ vật, rồi hai người cùng ngồi nói chuyện rất là mật thiết.

Hoàng Văn Bính nói với Tri Phủ rằng:

– Hôm qua chúng tôi đã định vào chầu Tướng Công, song nghe nói trong phủ đương có yến tịch, nên lại phải hoãn đến ngày hôm nay mới dám vào hầu…

Xài Tri Phủ nói:

– Thông Phán với tôi là chỗ tâm phúc với nhau, ngài cứ vào chơi có gì mà ngại. Từ nay xin ngài chớ nệ làm chi, phải lấy tình thân mới được.

Hoàng Văn Bính vâng lời rồi lại hỏi rằng:

– Dám thưa Tướng Công, lâu nay trên Thái Sư Ân Tướng có sai người qua đây chăng?

– Hôm trước mới có thư đến đây.

Tri Phủ nói xong, thì tả hữu pha trà lên, hai người cùng uống, Hoàng Văn Bính lại hỏi luôn rằng:

– Chẳng hay lâu nay trong kinh sư có tin tức gì lạ không? Tri Phủ nói rằng:

– Tôi vừa mới nhận được thư của tôn gia nói rằng:

Mới đây Tôn Thái Tử Viện Tư Thiên Giám có tâu rằng: Nhân thế Gia Tôn tôi có dặn phái giữ gìn trong hạt, cho khỏi sự mang tiếng mang tai…

Hoàng Văn Bính nghe đến đó, thì nghĩ thầm một lúc, rồi cười mà nói với Tri Phủ rằng:

– Dám thưa Âm Tướng, nếu vậy thì việc này cũng không phải ngẫu nhiên mà thôi…

Nói đoạn liền móc túi lấy mảnh thơ biên lúc nãy, đưa trình Tri Phủ mà rằng:

– Không ngờ việc đó lại chính ở đây rồi…

Xài Cửu xem thơ xong liền nói rằng:

– Cái này là thơ mưu phản đây mà…Thông Phán bắt được ở đâu thế?

Hoàng Văn Bính liền đem chuyện đến chơi lầu Tầm Dương, bắt được hai thơ trên vách, nói cho Tri Phủ nghe. Xài Cửu Tri lại hỏi rằng:

– Vậy thì người nào viết bài này?

– Bẩm Tướng Công, họ đã viết rõ ràng là Vận Thành Tống Giang đề ở đó.

– Vậy Tống Giang là người nào?

– Bẩm trong thơ nói là: “Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang Châu”? Thì có lẽ hiện là tù tội trong đám lao thành thì phải?

Tri phủ gạt đi mà rằng:

– Một thằng tù thì làm được gì mà sợ!

Hoàng Văn Bính so vai rụt cổ kêu rằng:

– Chết nỗi! Tướng Công đừng coi là thường mới được! Vừa rồi Tướng Công nghe đọc bốn câu ca dao, của trẻ con, chính là ứng vào hắn đó.

– Thế nào mà bảo rằng ứng vào hắn được?

– Bẩm Âm Tướng: Hao nước vì Gia Mộc, là nói tốn tiền của nước nhà vì chữ Gia bên trên chữ Mộc, tức là chữ Tống đó. Câu thứ hai Binh đao bởi Thủy Công, là nói người này gây việc binh đao, tức là người chữ Thủy bên chữ Công, chính là chữ Giang vậy. Nay người này họ Tống tên Giang, mà lại làm thơ mưu phản như thế, thì quả nhiên lạc vào thiên số chứ chẳng sai…

Tri Phủ nghe nói đến đó, thì lại hỏi luôn rằng:

– Vậy còn hai cầu Ngang dọc ba mươi sáu. Khắp loạn đất Sơn Đông, là nghĩa làm sao!

– Cái đó hoặc là đến năm sáu sáu, hay là số vận sáu sáu cũng nên. Còn câu Khắp loạn đất Sơn Đông, thì Vận Thành chính thuộc về Sơn Đông đó. Bốn câu ấy quả nhiên ứng vào người ấy chứ không sai.

– Nhưng không chắc ở đây có người ấy hay không?

– Chiều hôm qua tôi đã hỏi tên tửu bảo, nói rằng hắn mới viết hôm kia xong.. Cái đó xin ân tướng sai đem sổ lao thành lên tra một lượt, xem có hay không là biết ngay lập tức…

Tri Phủ khen là phải, liền gọi người nhà vào kho lấy sổ lao thành, đem ra để tra. Tra mãi đến cuối sổ qủa nhiên thấy tên Tống Giang ở huyện Vận Thành, mới đến đây ở Giang Châu vào độ tháng năm vừa rồi.

Hoàng Văn Bính thấy vậy, liền bảo với Tri Phủ rằng.

– Người này đích xác là ứng vào câu ca dao ấy, không phải chuyện chơi, xin Tướng Công hãy cho người bắt giam riết, rồi sau sẽ liệu, nếu để chậm trễ lỡ ra lộ chuyện mất chăng?

Tri Phủ cho lời nói của Hoàng Văn Bính là phải, liền ra sảnh đường cho đòi Tướng Công hai viện là Đới Tung lên, mà truyền lệnh rằng:

– Người lập tức phải đem lính xuống lao thành, bắt tên đề thơ phản loạn trên lầu Tầm Dương, là Tống Giang ở huyện Vận Thành đến đây cho ta…

Đới Tung vâng lời quay ra, thì trong bụng lấy làm sợ hãi kinh ngạc, vội vàng điểm lấy mấy người coi lao dặn về lấy binh khí và nhất tề đến miếu Thành Hoành, để đi làm việc. Khi chúng vâng lời đi rồi, Đới Tung bèn làm phép thân hành, đi thẳng ra lao thành, đến chỗ phòng giấy để thăm Tống Giang. Bấy giờ Tống Giang đang nằm một mình ở trong phòng, chợt thấy Đới Tung đến, liền vội vàng đón vào mà hỏi rằng:

– Hôm trước tôi vào trong thành tìm mãi không gặp Viện Trưởng, sau nhân buồn quá, một mình lững thững trên lầu Tầm Dương uống mấy chén rượu, thành ra mệt nhọc say sưa mãi đến ngày nay vẫn còn chưa tỉnh.

Đới Tung hỏi:

– Hôm ấy Ca Ca viết những câu gì trên gác thế?

– Bấy giờ say rượu viết liền, tôi có nhớ được đâu?

– Vừa rồi Tri Phủ bắt tôi phải sai đem lính đến bắt tên phản tặc đề thơ ở lấu Tầm Dương, là Tống Giang, tôi lấy làm kinh ngạc quá chừng, không biết vì lẽ gì mà đến thế? Hiện tôi đã bảo lính đón đợi ở miếu Thanh Hoàng, rồi tôi cất lẻn đến đây báo cho Ca Ca biết…Làm cách nào mà giải thoát được đây?

Tống Giang nghe nói, gãi đầu gãi tai mà kêu lên rằng:

– Nếu vậy thì phen này ta nguy với họ mất.

Đới Tung nói rằng:

– Tôi có một kế nay, thì may ra mới thoát được. Bây giờ thể nào tôi cũng phải dẫn người đến bắt, không sao mà trốn được, vậy huynh trưởng nên bỏ xõa tóc rồi phóng uế vung vãi ra phòng, để giả làm người điên, hễ tôi đến thì cứ nói càn nói dở, nói láo nói lếu, cho họ yên chí là chứng điên, thì bấy giờ nói với Tri Phủ may ra mới có thể thoát được.

Nói xong thì Đới Tung từ biệt, rồi vội vàng trở về miếu Thanh Hoàng để đem lính đến bắt.

Khi đem lính vào đến lao thành, Đới Tung làm bộ quát to lên rằng:

– Tên nào là Tống Giang mới đến ở đất này?

Tụi bài đầu thấy đới Trung hỏi vậy, liền dẫn vào phòng giấy của Tống Giang. Bấy giờ thấy Tống Giang rũ rợi đầu tóc, phóng uế khắp cả nhà nằm ngồi be bét cả lên.

Khi Tống Giang trông thấy Đới Tung cùng bọn lính Đới Tung lại giả vờ quát lên rằng:

– Lũ chúng bay là người nào?

Đới Tung lại giả vờ quát lên rằng:

– Bắt lấy thằng này cho ta.

Tống Giang trợn mắt lên, đánh khắp cả mọi người, rồi lảm nhảm nói rằng:

– Ta đây là con rể Ngọc Hoàng Thượng Đế, bố vợ ta sai đem mười vạn thiên binh, đến giết hết mọi người ở Giang Châu, hiện có Diêm La Đại Vương làm tiên phong, Ngũ Đạo Tướng Quân làm hợp trận, cho ta một tay kim ấn nặng tám trăm cân, giết hết chúng bay đây.

Tụi lính nghe thấy vậy bảo với Đới Tung rằng:

– Anh này điên mà, chúng tôi bắt làm gì?

Đới Tung làm ra bộ nghĩ ngợi, rồi bảo với chúng rằng:

– Nếu vậy, ta về bẩm với Tri Phủ xem sao? Nếu ngài có định bắt thì ta lại đến đây cũng được.

Nói đoạn dẫn lính về trong thành báo với Tri Phủ rằng:

– Tên Tống Giang hiện bị chứng điên, nói càn nói bậy mình mẩy nhơ bẩn thối tha, chúng tôi không dám bắt lên để nộp.

Tri Phủ nghe nói, chưa kịp hỏi rõ ra sao, thì đã thấy Hoàng Văn Bính đứng nấp ở đằng sau binh phong chạy ra mà nói rằng:

– Tướng Công chớ nên tin thơ như thế, chữ như thế, không phải là một thằng điên viết rồi. Cái này tất nhiên là có giả dối chi đây, xin ngài cứ hạ lệnh cho bắt, nếu không đi được, thì khiêng hắn về đây.

Xài Tri Phủ lấy làm phải, truyền lệnh cho Đới Tung:

– Bắt vấn như thế nào, phải bắt về cho kỳ được.

Đới Tung vâng lệnh lui ra, trong bụng lấy làm băn khoăn đau đớn, liền đem lính đến lao thành mà bảo với Tống Giang rằng:

– Công việc nguy lắm rồi, huynh trưởng cứ đến đấy xem sao.

Nói đoạn sai lấy cái bồ lớn, bỏ Tống Giang vào đấy, rồi khiêng giải vào phủ. Khi vào tới phủ, Tống Giang đứng ở dưới thềm, trợn mắt nhìn Xài Tri Phủ mà quát hỏi rằng:

– Bây là người nào, dám bắt hỏi ta? Ta là rể Ngọc Hoàng Thượng Đế, cho ta đem năm vạn thiên binh, đến giết thành Giang Châu, có Diêm La Đại Vương làm tiên phong, Ngũ Đạo Tường Quân làm hợp hậu, sắc cho ta một tay kim ấn, nặng tám trăm cân để giết các ngươi. Ta truyền cho ngươi chỉ một lát nữa gọi là chết hết.

Xài Cửu nghe vậy, không biết xử trí làm sao?

Hoàng Văn Bính lại tán với Tri Phủ rằng:

– Xin tướng công cho đòi Sai Bát và Bài Đầu ở bản doanh đến, để hỏi xem tên này mới có chứng điên, hay là từ khi mới đến đây đã thế? Nếu vẫn có chứng điên từ khi mới đến đây thì sẽ tha cho, bằng không thì tất là giả dối…

Tri Phủ nghe nói lấy làm phải, liền cho đòi Quản Doanh, Sai Bát đến mà hỏi. Hai anh em kia không dám man trá Tri Phủ, liền bẩm rằng:

– Tên ấy nguyên trước đến đây, không có chứng điên, chứng đó chứng mới phát ra mấy hôm nay.

Tri Phủ thấy nói vậy, bèn đùng đùng nổi giận, thét lính đem Tống Giang ra tra đánh. Đới Tung thấy thế, chỉ cắn răng kêu khổ, mà không biết làm cách gì để cứu ra cho được. Tống Giang trước còn hàm hồ nói bậy nói xằng, sau bị đánh tấn dữ dội, bắn máu xé thịt, không sao mà giấu cho nổi, đành phải thú thực là say rượu viết càn, thực không có chủ ý mưu mô chi cả. Tri Phủ liền lấy lời cung, rồi sai đóng gông tử tù nặng hai mươi nhăm cân, mà cho giam xuống đại lao. Bấy giờ Tống Giang đau đớn ê chề, không sao mà nhắc chân đi được, Đới Tung liền hết sức trông coi, dặn bảo các lính canh ngục, đều phải trông nom tử tế, và hằng ngày sắp sẵn cơm nước để cung đãi Tống Giang.

Dây đâu ai buộc vào thân,

Anh hùng là kiếp nợ nần với ai?

Bắc thang lên hỏi ông trời?

Văn chương là giống hại người đó ru?

Khi đó Xài Tri Phủ lưu Hoàng Văn Bính ở chơi, mà tạ ơn rằng:

– Nếu không có Thông Phán là người cao kiền viễn thức, thì có lẽ hạ quan cũng mắc lừa dối của họ chứ không chơi.

Hoàng Văn Bính hót luôn rằng:

– Việc này không thể chậm được! Ngài nên lập tức sai người về kinh sẻ báo cho Ân Tướng, để tỏ ra rằng ngài đây là người mẫn cán, đã làm được những việc to ích nước lợi nhà như vậy, và nên bẩm xem ý kiến Ân Tướng, muốn bắt sống tên phản tặc thì ta đóng cũi mang đi, bằng không thì sẽ xử quyết ngay đây, để khỏi điều rắc rối về sau mới được.

Xài Tri Phủ lại gật gù khen phải mà bảo Hoàng Văn Bính rằng:

– Tôi xin viết một phong thư gửi về, kể rõ công lao của Thông Phán, để gia nghiêm tâu với Thánh Thượng, phong cho ngài làm nơi phủ huyện nào đó, để hưởng sự vinh hoa.

Hoàng Văn Bính khúm núm tạ ơn mà rằng:

– Chúng tôi là môn hạ ở đây, thế nào cũng xin kết cỏ ngậm vành để báo đáp.

Nói xong liền giục Tri Phủ viết gia thư, đóng ấn tín vào, rồi lại hỏi rằng:

Tướng Công định sai ai là người tâm phúc để cho đi mới được?

Tri Phủ nói:

– Ở đây có một người Lưỡng Viện Tiếp Cấp tên là Đới Tung, anh ta có phép thần hành, một ngày có thể đi tới tám trăm dặm đường, nếu sai anh ta chỉ trong mười hôm, là có thể trở về ngay được.

– Nếu được người đi nhanh như thế, thì còn gì hơn nữa.

Đoạn rồi Hoàng Văn Bính ở đó, đến ngày hôm sau mới từ giã Tri Phủ mà trở về Vô Vị Quân. Khi Hoàng Văn Bính trở về, Xài Tri Phủ liền sắp lấy hai hòm kim ngân châu báu, niêm phong cẩn thận, rồi sáng sớm hôm sau gọi Đới Tung lên mà bảo rằng:

– Ta có một phong gia thư và một ít lễ vật, để đưa mừng sinh nhật phụ thân ta ở kinh sư, ngày rằm tháng sáu, song nay ngày tháng đã gần bách tới nơi, vậy chỉ có ngươi là người nhanh nhẹn, ngươi nên hết sức giúp ta, rồi ta trọng thưởng cho. Ta chắc rằng ngươi có phép thần hành như vậy, thì cũng chẳng bao lâu mà được tới nơi, vậy ngươi chớ nên trì trệ mà lỡ công việc của ta mới được.

Đới Tung nghe nói, bất đắc dĩ phải vâng lời, liền nhận thư tín và hòm đồ trở về chỗ trọ. Đoạn rồi chàng lẻn đến nhà lao bảo với Tống Giang rằng:

– Việc này huynh trưởng cứ phòng tâm, hiện nay Tri Phủ sai tôi vào kinh sư, chỉ mươi hôm là về đây, vậy khi đến cứu Ca Ca, may ra có phần thoát được. Ở nhà Ca Ca nên giữ gìn cẩn thận, còn cơm nước ăn uống, thì tôi đã giao cho Lý Quỳ trông coi khuya sớm, không có điều gì là trở ngại, Ca Ca cứ vững tâm đợi mấy hôm tiểu đệ về sẽ biết. Nói đoạn gọi Lý Quỳ đến mà dặn rằng:

– Tống Ca Ca vì viết câu thơ phản nghịch, bị phải Quan Tư giam cầm, còn trước đây lại bị sai phái vào kinh, vậy ngươi phải ở nhà sớm khuya cơm nước hầu hạ Ca Ca, chớ nên trễ nãi nghe chưa?

Lý Quỳ gật gù mà rằng:

– Viết mấy câu thơ đã làm gì nên tội? Những thằng đại giạ, đại ác, đại phản, vô vạn, đây kia cũng làm quan to tướng thì sao? Việc này bác cứ đi vào Đông Kinh, để mặc tôi trông nom cho Ca Ca, không cần nghĩ đến làm gì? Tử tế thì cùng tử tế, bằng không thì hai cái búa lớn kia, chém cho nó chết hết là xong.

Đới Tung lại dặn rằng:

– Anh em phải rất cẩn thận, chớ nên uống rượu lắm mà để lỡ mất việc làm ăn của Tống Ca Ca.

Lý Quỳ đáp rằng:

– Ca Ca cứ phóng tâm mà đi, bất tất phải nghi ngại dặn dò cho lắm, từ nay trở đi, tôi xin nhịn rượu, để sớm khuya hầu hạ Tống Ca Ca, rồi khi nào Ca Ca về đây, sẽ uống rượu cũng được chứ sao?

Đới Tung cả mừng mà rằng:

– Nếu quả nhiên anh em giữ được như vậy, thì tôi còn lo ngại điều chi?

Nói xong từ biệt ra đi, rồi từ đó Lý Quỳ chừa rượu, mà sớm khuya hầu hạ Tống Giang, không hề lúc nào sao nhãng.

Nước non trói nặng lời nguyền,

Lẽ nào nguy hiểm mà quên tâm thần?

Ai về nhắn bảo thế nhân,

Những người chướng trực là thần lương tâm.

Bấy giờ Đới Tung từ biệt Tống Giang cùng Lý Quỳ, một mình kíp vội ra về, thay giầy gai, quấn lá đáp, mặc áo vàng. Đổi khăn mới, giắt tuyên bài vào lưng, bỏ thư vào túi, rồi quảy hai cái hòm đi ra ngoài thành. Khi ra đến ngoài thành, chàng liền lấy bốn mảnh giáp mã, buộc vào hai bên chân mỗi bên hai miếng, rồi trong miệng lẩm nhẩm đọc mấy câu thần chú mà vùn vụt đi khỏi Giang Châu.

Chiều hôm ấy, Đới Tung vào nghỉ trong hàng, rồi cởi giáp mã ra, mà lấy giấy tiền, đốt khấn cẩn thận, sáng hôm sau cơm nước vừa xong, chàng lại buộc giáp mã quảy hòm ra đi thực sớm. Trong khi đi chỉ nghe tiếng gió thổi vù vù bên tai, sức chạy thực nhanh, không hề dính chân xuống đất.

Đi luôn hai ngày trời, đến ngày thứ ba, khí trời càng nóng bức khó chịu, chàng vừa đi vừa khát nước. Chừng tới ba bốn trăm dặm đường, mà không có hàng quán nào để nghỉ ngơi ăn uống. Chàng đi mãi đến gần trưa, trong bụng đương đói khát lạ chừng, chợt trông thấy có một hàng rượu ở bên hồ rộng, gần khoảng rừng trước mặt, chàng vội đi vào đó để nghỉ.

Khi tới nơi, thấy một ngôi hàng rộng rãi sạch sẽ, trong có mươi bộ bàn ghế sơn dầu, kê theo một dãy cửa sổ chạy dài; chàng bèn quảy hòm vào chọn một chỗ mát mẻ, rồi cởi áo và thắt lưng mà treo lên trên chấn song cửa sổ.

Đoạn rồi có tên tửu bảo chạy đến mà hỏi rằng:

– Ngài lấy bao nhiêu rượu, ngài xơi thịt dê, thịt bò, hay thịt lợn?

Đới Tung nói rằng:

– Rượu đây không uống mấy, có cơm nước gì thì đem lên đây.

– Bẩm, hàng tôi có rượu có cơm, có cả bánh bao, bánh bún, ngài muốn xơi gì?

– Ta không ăn các thức cá thịt được, vậy có thứ canh gì để ăn không?

– Bẩm canh đậu có được không?

– Tốt lắm, lấy ra đây.

Tửu bảo vâng lời, quay vào nhà trong một lúc, rồi đem một bát canh đậu phụ, lau đôi đũa và rót lên ba chén rượu lớn. Đới Tung đương khi đói khát, vớ được rượu, canh liền ăn uống một lúc, rồi toan gọi lấy cơm để ăn một thể. Dè đâu vừa húp xong bát canh, thì thấy trời xoay đất chuyển, đầu choáng váng, rồi ngã lăn ra một bên ghế.

Giữa lúc ấy có một người là Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý chạy ra, quát bảo chúng rằng:

– Hãy đem hai cái hòm vào trong kia, rồi sờ xem nó có gì thì lột lấy.

Nói đoạn thì có hai tên người nhà chạy đến móc túi lấy ra một gói giấy bọc một phong thư, đưa cho Chu Quý. Chu Quý cất lấy xem thấy có một bức gia thư, ngoài đề mấy chữ: “Bình an gia tín…Con là Xài Đức Chương, trăm lạy kính dâng phụ thân soi xét”.  Chu Quý xem xong lại bóc thư ra đọc, trong thư nói đến chuyện Tống Giang đề thơ phản loạn ứng với lời ca dao, hiện đã bắt giam trong ngục, để đợi lệnh thi hành, liền lấy làm ngạc nhiên kinh sợ, mà chạy vào trong phòng để xem.

Bấy giờ hai tên người nhà, đã vác Đới Tung vào nhà mổ, đặt nằm vật lên trên bàn mổ, rồi tháo cởi xống áo ra để mổ. Cởi đến xuống lưng, thì thấy có một cái tuyên bài dắt ở đó. Chu Quý cầm lấy xem, thấy mặt trên sơn son thiếp bạc, khắc mấy chữ: Giang Châu Lưỡng Viện Tiếp Cấp Đới Tung.

Chàng thấy vậy bụng hơi ngờ ngợ, bèn bảo với chúng rằng, “Hãy khoan tay, không nên hạ thủ vội.. Ta nghe quân sư thường nói, ở đất Giang Châu có một người tên là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung, là một người bạn rất thân của quân sư xưa nay, vậy chẳng hay là người này chăng? Nếu vậy thì sao lại đưa thư để mưu hại Tống Giang… ? Việc này may vào tay ta, ta hãy hỏi rõ xem sao? ” Nói đoạn sai chúng lấy thuốc giải độc, đổ cho Đới Tung uống, mà cứu tỉnh dậy.

Được một lúc Đới Tung bừng mắt tỉnh dậy, trông thấy Chu Quý đương cầm bức thư của Xài Tri Phủ ở trong tay, thì quát lên rằng:

– Anh này là anh nào? Sao dám to gan đánh thuốc mê cho ta, rồi lại bóc thư tín của phủ Thái Sư như thế? Phổng đáng tội gì?

Chu Quý cười mà rằng:

– Bức thư khốn nạn này đã thấm vào đâu? Chúng tôi đây chính muốn đối đầu với Đại Tống Hoàng Đế, chứ xé một bức thư của Thái Sư thì có cần gì?

Đới Tung nghe nói cả kinh, liền hỏi rằng:

– Hảo hán đại danh là gì? Xin ngài cho tôi được biết?

– Tôi là Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý, là tụi hảo hán Lương Sơn Bạc đây.

– Nếu có phải ngài ở Lương Sơn Bạc, thì tất nhiên có biết Ngô Học Cứu tiên sinh…

– Ngô Học Cứu là quân sư coi giữ binh quyền trong đại trại tôi, sao túc hạ lại không biết ông ấy?

– Ông ấy với tôi là một người quen biết đã lâu.

– Nêú vậy huynh trưởng có phải là Thần Hành Thái Bảo Đới Viện Trưởng ở Giang Châu, mà quân sư tôi thường nói chuyện đó chăng?

– Vâng, chính là tôi đây.

Chu Quý lại hỏi:

– Hồi trước Tống Công Minh đi đày sang đất Giang Châu, quân sư có gửi giấy sang nói chuyện cùng túc hạ, vậy ngày nay chẳng hay vì cớ gì mà toan hại túc mệnh Tống Công Minh đi như thế?

Đới Tung nói rằng:

– Tống Giang với tôi là chỗ anh en rất thân, vì ông ta viết mấy câu thơ phản nghịch, tôi hết sức cứu gỡ chưa được, cho nên nay phải vào kinh để lo liệu cho ông ta, có khi nào lại nỡ làm hại?

– Vậy ông thử nom trong thư của Sài Tri Phủ xem sao?

Đới Tung cầm thư xem, thì giật mình kinh sợ, liền đem đầu đuôi câu chuyện, kể từ khi gặp Tống Giang, đến khi xẩy ra việc đề thơ ở lầu Tầm Dương thuật cho Chu Quý nghe.

Chu Quý bảo với Đới Tung rằng:

– Nếu vậy xin Viện Trưởng hãy lên chơi sơn trại, để bàn với các đơn vị Đầu Lĩnh xem sao? Nói đoạn liền sai dọn tiệc rượu tiếp phong, rồi vào Thủy Đình bắn mũi tên ra hiệu. Được một lát, có tên tiểu lâu la chở thuyền ra đón Chu Quý bèn mời Đới Tung mang các hòm kim ngân xuống thuyền, rồi cùng nhau vào bến Kim Sa.

Khi Ngô Dụng được tin báo, vội vàng đi xuống cửa quan để nghinh tiếp Đới Tung, đôi bên hớn hở vui mừng, rồi dẫn vào đại trại để chào các vị Đầu Lĩnh, Chu Quý đem các chuyện của Đới Tung đã nói, mà thuật lại cho mọi vị Đầu Lĩnh nghe.

Tiều Cái nghe nói lấy làm kinh hoàng tức bực, mời Đới Tung ngồi vào khách vị mà hỏi thăm các việc Chu Quý, Đới Tung lại thuật một lượt kỹ càng cho Tiều Cái nghe.

Tiều Cái cả kinh, bàn với các vị Đầu Lĩnh, định lấy quân đi đánh lấy Giang Châu, để cứu Tống Giang ngay lập tức. Quân sư Ngô Dụng can rằng:

– Ca Ca không nên tháo thức làm chi, đây đến Giang Châu đường xa dặm thẳng, nếu nay cả giấy binh mã thì e khi rút dây lại động đến rừng, mà lỡ ra thêm hại cho Tống Công Minh. Vậy việc này chỉ nên dùng kế, không nên dùng bằng sức mạnh, thì mới có thể được. Tôi đây dẫu bất tài, song xin hiến một kế này, chỉ trông vào Đới Viện Trưởng là có thể cứu Tống Ca ra được.

Tiều Cái nói:

– Quân sư có kế sách gì?

Ngô Dụng nói:

– Hiện nay Sài Tri Phủ giao cho Đới Viện Trưởng đem thư vào kinh, để chờ tin Thái Sư phúc đáp. Vậy nhân bức thư này ta phải đem kế trả kế, mà viết một phong thư khác cho Viện Trưởng mang về; Trong thư bảo Sài Tri Phủ phải bắt sống Tống Giang đem giải cẩn thận, cho tới kinh sư để tra hỏi đầu đuôi sẽ xử rồi quyết. Đoạn rồi đợi khi chúng giải qua đây, ta sẽ cho người xuống cướp, như thế có lẽ tiện hơn.

Tiều Cái nói:

– Nếu không giải qua lối này, thì có lỡ mất việc không?

Công Tôn Thắng ứng lên rằng:

– Cái đó khó chi, ta cứ cho người đi thám thính trước, họ đi lối nào, ta đón cướp lối ấy cũng được, chỉ sợ họ không giải đi mà thôi.

Tiều Cái nói:

– Như thế thì hay lắm, song lấy ai là người viết được giống Sài Thái Sư bây giờ?

Ngô Dụng nói:

– Việc ấy tôi đã nghĩ rồi. Hiện nay thiên hạ đương thích viết chữ Tứ thể, là bốn lối chữ của bốn nhà, Tô Đông Pha, Hoàng Lỗ Trực Mễ Nguyên Chương, và Sài Kính ở đương triều, cho nên thường gọi là Tô, Hoàng, Mễ, Xài, là tứ tuyệt ở Tống Triều. Khi còn nhỏ tôi có quen một người học trò ở thành Tế Châu là Tiêu Nhượng, viết lối các chữ rất giỏi người ta thường gọi là Thánh Thủ Thư Sinh (học trò tay thánh). Anh ta võ nghệ cũng khá, mà viết chữ lối của Sài Kính lại càng hệt lắm, vậy muốn phiền Viện Trưởng qua đó, nói dối anh ta, để mời sang viết văn bia, ở nhạc miếu Thái An Châu, rồi đưa trước năm mươi lạng bạc, rủ cho anh ta đi ra rồi sau sẽ bắt cả vợ con đến đây, mà rủ cùng nhập đảng, như thể phổng có gọn không?

Tiều Cái nói:

– Người viết chữ đã đành có, nhưng còn ấn tín thì sao?

– Phải lắm, cái đó đệ cũng nghĩ cả rồi. Tiểu đệ có quen một người Kim tên là Đại Kiện, hiện nay mở hàng làm ấn tín ở phủ Tế Châu khắc ngọc chạm đá rất khéo, mà võ nghệ cũng không kém ai, người ta thường gọi là Ngọc Tỷ Tượng (thợ thay ngọc) xưa nay. Vậy ta nên lừa cả anh ấy lên đây, rồi lưu luôn ở sơn trại, sau này tất nhiên cũng có dụng cho mình…

Tiều Cái khen rằng:

– Nếu thế thì diệu lắm, ta phải làm mau mau mới được.

Nói xong liền sai dọn rượu thiết đãi Đới Tung, và lưu lại nghỉ ở sơn trại một đêm. Sáng hôm sau Ngô Dụng nhờ Đới Tung ăn mặc ra dáng Thái Bảo, dắt lấy hơn trăm lạng bạc để tìm hai người. Đới Tung vâng lời, rồi buộc giáp mã vào chân, rồi xuống núi mà đi mau sang đất Tế Châu. Phút chốc Đới Tung tới thành Tế Châu, hỏi thăm vào nhà Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng, ở trước cửa văn miếu về bên đông phủ Tế Châu. Khi đi đến cửa, Đới Tung gặng lên một tiếng rồi hỏi rằng:

– Tiêu Tiên sinh có nhà không?

Bấy giờ thấy một thầy đồ trong nhà chạy ra, nhìn Đới Tung bằng một cách ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Thái Bảo ở đâu tới, việc gì cần đến chúng tôi?

Đới Tung nghe nói liền vái chào rồi nói rằng:

– Chúng tôi là nhà sãi ở nhạc miếu Thái An châu, nhân miếu chúng tôi sửa lại nhà lầu Ngũ Nhạc, các cụ chúng tôi định khắc tấm bia công đức, vậy cho chúng tôi đưa năm mươi lạng bạc, để đến nói với tiên sinh, lập tức đến miếu giúp việc cho, nhật kỳ chúng tôi đã chọn, sợ chậm trễ thì lỡ việc.

Tiêu Nhượng nói rằng:

– Chúng tôi đây chỉ biết viết, còn sự khắc chạm thì tất phải tìm người thợ tốt mới được.

Đới Tung đáp rằng:

– Tôi có đem năm mươi lạng bạc để mời Ngọc Tú Tượng Kim Đại Kiện đây, nhật kỳ hiện nay đã ngặt lắm, xin ngài làm ơn chỉ dẫn giúp tôi.

Tiêu Nhượng nhận lấy năm mươi lạng bạc, liền dẫn Đới Tung đi tìm nhà Kim Đại Kiện. Vừa ra khỏi cửa Văn Miếu, thì thấy Tiêu Nhượng trỏ tay bảo Đới Tung rằng:

– Ngọc Tú Tượng Kim Đại Kiện đương đi kia.Nói đoạn liền gọi Đại Kiện đến chào Đới Tung nói chuyện cho nghe.

Kim Đại Kiện nói có năm mươi lạng bạc đưa đó, thì vui mừng hớn hở liền bảo với Tiêu Nhượng cùng với Đới Tung đến tửu điếm đãi rượu.

Bấy giờ Đới Tung đưa năm mươi lạng bạc cho Kim Đại Kiện rồi nói rằng:

– Hiện nay đã chọn ngày tháng, không thể chậm trễ được, vậy xin hai ngài đi giúp ngay cho.

Tiêu Nhượng nói:

– Hôm nay khí trời nóng bức có đi cũng không đến nơi ngay được, không may lỡ độ đường, thì không tiện vậy xin để đến mai sẽ đi sớm thì hơn.

Kim Đại Kiện cũng lấy làm phải, mà bàn với Đới Tung hoãn để đến mai đi sớm. Tối hôm ấy Tiêu Nhượng lưu Đới Tung nghỉ ở nhà một đêm, sáng hôm sau Kim Đại Kiện sắm sửa đồ đạc đến sớm để cùng đi.

Khi ra ngoài thành được mươi dặm đường. Đới Tung bảo với hai người kia rằng:

– Các ông cứ lững thững đi thong thả, để tôi đi trước nói với các cụ tôi cho người đến đón mới được. Nói xong liền rảo cẳng đi trước mà bỏ mặc hai người đi sau.

Hai người kia lững thững đi tới giờ Mùi, ước được bảy tám mươi dặm đường, bỗng thấy phía trước mặt có tiếng còi thổi, rồi có một bọn hảo hán chừng bốn năm mươi người, ở trong sườn núi xông ra.

Bọn hảo hán đó là Vương Nụy Hổ đứng đầu, chạy ra quát lên rằng:

– Hai anh này đi đâu qua đây! Các con! Bắt nó đem về moi ruột cho ta uống rượu…

Tiêu Nhượng đáp rằng:

– Hai anh em tôi đi lên Thái An Châu để làm bia, không có tiền nong chi cả, hiện đây chỉ có mấy cái quần áo mà thôi.

Vương Nụy Hổ thét lên rằng:

– Ta đây không cần gì tiền của xống áo, chỉ cần được hai bộ gan ruột thông minh của các ngươi đều nhắm rượu thôi?

Tiêu Nhượng cùng Kim Đại Kiện cả giận, liền dỡ tài võ nghệ, vác gậy lên mà xông đánh Vương Nụy Hổ, Vương Nụy Hổ cũng giơ đao lên đỡ, đánh nhau tới năm bảy mươi hiệp, rồi vác đao chạy thẳng qua núi.

Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện vừa toan vác gậy đuổi theo thì bỗng thấy trống chiêng ầm ĩ, rồi có hai bọn người ở hai sườn núi đổ ra. Hai bọn này bên tả có Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn, bên hữu có Mô Trước Thiên Đỗ Thiên, dẫn Bạch Diện Lang Quân Trịnh Thiên Thọ, mỗi ngươi đem tới ba mươi tên lâu la đổ ùa ra, bắt hai người kia mà đem vào rừng.

Khi vào tới trong rừng, bốn vị hảo hán bảo với hai người kia rằng:

– Chúng tôi đây là phụng tướng lệnh của Tiều Thiên Vương, mời các ông lên núi nhập đảng, không có việc chi mà các ông sợ.

Tiểu Nhượng nghe nói thì cười mà hỏi rằng:

– Chúng tôi sức không trói nổi con gà, chỉ biết ăn nói ngủ kỹ còn biết việc gì, mà sơn trại dùng đến chúng tôi?

Đỗ Thiên nói:

– Cái đó quân sư Ngô Dụng vốn quen biết các ông, và biết tài võ nghệ của các ông, cho nên mới sai Đới Tung đi đón về đây.Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện nghe nói đến đó, thì ngơ ngác nhìn nhau, mà không biết nói sao cho được.

Khi đi tới hàng rượu của Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý, Chu Quý liền đãi rượu tiếp phong, rồi bắn tên gọi thuyền ra, để đưa vào đại trại. Bấy giờ Tiều Cái, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh đều vui mừng đón tiếp, đặt tiệc khỏan đãi, và đêm chuyện muốn viết thư giả mạo để nói cho hai người nghe.

Hai người nghe nói, vội túm vào trách Ngô Dụng rằng:

– Chúng tôi ở đây với các ngài, cũng không ngại gì, song còn cách xử trí…Nói đoạn, cùng nhau chè chén đến đêm mới nghỉ.

Sáng hôm sau, thấy tụi lâu la báo…Ngô Dụng liền bảo Tiêu Nhượng và Kim Đại Kiện rằng:

– Xin hai vị hiền đệ ra tiếp lấy bảo quyên vào đây. Hai người nghe nói bụng còn bán tín vàn nghi, mà cùng nhau ra đón xem sao? Khi đến lưng chừng núi, quả nhiên thấy có mấy cỗ kiệu đưa vợ con đến đó. Hai người lấy làm ngạc nhiên, liền hỏi xem đầu đuôi thế nào?

Vợ con đều đáp rằng:

– Khi hai người đi rồi, thì thấy có người đem kiệu đến mà nói rằng: “Gia Trưởng đi đường bị trúng thử mà chết, phải báo vợ con đến để cứu”. Rồi khi ra đến ngoài thành, thì kiệu phu cứ vùn vụt đến đây, không sao mà bắt trở lại được.

Tiêu Nhượng cùng Kim Đại Kiện nghe nói đến tắc lưỡi ngây người, đành phải bấm bụng dẫn vợ con vào ở trong sơn trại.

Bấy giờ Ngô Dụng mời hai người ra đi để bàn việc viết thư khắc ấn, giả làm thư tín của phủ Thái Sư gửi trả lời cho Sài Cửu Tri Phủ, để Tống Công Minh, Tiêu Nhượng cùng Kim Đại Kiện đều vâng lời, rồi một người đem ra viết, và một người khắc con dấu tên húy của Sài Kính để đóng.

Khi các việc đã xong, liền đặt tiệc tiễn tặng Đới Tung và dặn dò cặn kẽ để đem về trình Sài Tri Phủ. Đới Tung vâng lĩnh các lễ, nhận lấy phong thư rồi từ biệt các vị Đầu Lĩnh xuống thuyền mà ra tửu điếm.

Khi ra tới nơi, Đới Tung liền buộc mỗi bên hai miếng giáp mã, mà đi gấp đường trở về Giang Châu.

Bấy giờ Ngô Dụng cùng các vị Đầu Lĩnh đưa chân Đới Tung ra đến bến rồi trở vào cùng ngồi uống rượu với nhau. Đương khi uống rượu, bỗng dưng Ngô Dụng kêu lên rằng:

– Nguy mất rồi…Nguy mất rồi…

Các vị Đầu Lĩnh đều lấy làm ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Việc chi mà quân sư kêu như vậy?

Ngô Dụng đáp rằng:

– Cái phong thư vừa rồi, tất là nguy đến tính mệnh cho Đới Tung mất… !

Chúng cả kinh hỏi luôn rằng:

– Có điều gì lầm lỗi hay sao?

– Tôi vội qúa không kịp nghĩ trước trông sau, trong thư có một chỗ hớ to, chắc là nguy mất… !

Tiêu Nhượng nói:

– Tôi viết chữ rất hệt chữ Thái Sư, vả chăng lời lẽ cũng không sai điều gì, vậy có chi là hớ, xin quân sư chỉ giáo cho.

Kim Đại Kiện cũng nói rằng:

– Tôi cũng khắc dấu hệt lắm, không nào sai một tí bao giờ!

Ngô Dụng có ý nghĩ ngợi mà rằng:

– Có một chỗ hớ to, rất là nguy hiểm, các ông không biết tới, để tôi xin nói cho các ông nghe.

Mới hay:

Việc đời lầm lỡ một ly;

Cái cơ nguy hiểm có khi muôn vàn,

Phải điều vụng chẳng hay toan,

Để cho thịt nát xương tàn nữa sao?

Phải làm cho biết mưu cao,

Thử xem trời giết anh hào được chăng!

Lời bàn của Thánh Thán:

Hỡi này chỉ do một đoạn văn tả Hoàng Văn Bính đọc đến phản thư, rồi tán ra ý nghĩa, để đưa đến Tống Giang phạm tội, rất là thác lạc phù sơ, còn ngoài ra chỉ tự sự theo, thấy cũng rõ ràng nhanh ứng vậy.

Sau khi uống rượu ở lầu Tầm Dương, chợt tả ra Tống Giang đi tả, đấy dụng bút của tác giả làm ra thảm đạm, để về sau nửa uống rượu một mình lầu bến Tầm Dương thổ lộ can trường (đáy lòng)! Cho nên lần sau tả Tống Giang đi tìm ba người để đi uống rượu mà không được gặp, kể cũng tả nhiều lời, nhưng phải làm cho rõ cái buồn của Tống Giang, để xảy ra đề thơ cảm khái.

Tả ra Tống Giang hồi từng chỗ trọ của ba người, thấy rõ bọn hảo hán bốn bể không nhà, rất khéo thay ngọn bút, để rồi vào lầu bến nước, uống rượu ngâm thơ; như kiểu Tào Tháo phú yến Trường Giang, khiến độc giả xem đến càng thêm khẳng khái.

Đến hồi tả chuyện con hát, chỉ làm cho rõ con người Lý Quỳ và Tống Giang xử sự mà thôi, không có gì chiếu ứng về sau nữa.

Hồi 39: Cướp nghĩa đảng – Anh hùng mến anh hùng

Bấy giờ, Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh đều ngơ ngác vội vàng, cùng túm nhau để hỏi xem lầm lỡ vì đâu? Quân sư Ngô Dụng liền bảo mọi người rằng:

– Trong bức thư lúc nãy, vì chúng tôi vội vàng không kịp nghĩ cho đóng dấu khắc có bốn chữ “Hàn Lâm Sài Kính” như thế, quả nhiên Đới Tung bị nguy với Quan Tư, chứ không khi nào tránh khỏi.

Đại Kiện nói rằng:

– Cái đó chính là lối con dấu của Sài Thái Sư, vẫn dùng để đóng vào các văn trát xưa nay, không lẽ nào mà hỏng được.

Ngô Học Cứu nói:

– Cái đó các ông không biết. Xưa nay cha viết thư cho con không khi nào phải đóng dấu tên huý của mình, bởi vậy tôi chắc khi Đới Tung tới nơi, tất bị họ tra hỏi mà vỡ chuyện ra mất.

Tiểu cái lo sợ mà rằng:

– Nếu vậy ta nên cho hai người theo gọi về đây, để viết lại mới được.

Ngô Dụng cười rằng:

– Bây giờ theo thế nào được? Ông ta làm phép thần hành đi từ bấy đến, giờ có tới năm sáu trăm dặm rồi, còn ai theo kịp. Việc này tất phải kiếm cách cứu mau, không có thì nguy cả đến nơi.

Tiều Cái hỏi:

– Vậy quân sư định có cách gì để cứu?

Ngô Dụng ghé vào tai Tiều Cái mà hỏi rằng:

– Bây giờ phải thế này…thế này…chủ tướng nên ám truyền hiệu lệnh cho các tướng đi mau mới được.

Tiều Cái nghe nói cả mừng, liền truyền lệnh cho các tướng, lập tức sắm sửa chu tất rồi cùng nhau xuống thuyền mà kéo sang Giang Châu.

Bên kia Đới Tung đi ước chừng đúng hạn thì về đến đất Giang Châu liền đem thư vào trình với Sài Cửu Tri Phủ.

Tri Phủ thấy Đới Tung về, trong bụng lấy làm vui mừng hớn hở, bèn thưởng cho ba cốc rượu rồi nói rằng:

– Ngươi vào đó có gặp Thái Sư không?

Đới Tung bẩm rằng:

– Chúng tôi vào đó có một tối, rồi vội về ngay, nên không kịp gặp Ân Tướng.

Tri Phủ nghe nói liền bóc thư ra xem, thấy trên nói đã thu nhận đủ các đồ lễ vật, rồi đoạn nữa nói chuyện Tống Giang, phải sai người lập tức đóng xe tù về kinh sư, giải về cho cẩn thận, còn đoạn cuối cùng nói đến Hoàng Văn Bính, nay mai sẽ tâu Thiên Tử, tất nhiên cũng có hồng ân. Tri Phủ xem xong cả mừng, lấy ra một đĩnh hai mươi nhăm lạng bạc thưởng cho Đới Tung rồi nhất diện sai đóng xe tù và bàn định chọn người để áp giải Tống Giang.

Đới Tung từ tạ Tri Phủ rồi trở ra mau mua các thức rượu thịt đem vào ngục thiết đãi Tống Giang, và nói hết mọi chuyện cho Tống Giang biết. Cách hai hôm sau, Sài Tri Phủ đã thôi thúc đóng xe tù, vừa toan sai người khởi trình áp giải Tống Giang, thì bỗng thấy nói có quan Thông Phán Hoàng Văn Bính vào hầu. Tri Phủ nghe nói, liền cho mời vào trong để nói chuyện.

Hoàng Văn Bính đưa tặng các đồ lễ vật, nịnh hót mấy câu, đoạn rồi cùng ngồi nói chuyện.

Tri Phủ bảo với Hoàng Văn Bính rằng:

– Tôi mừng cho ngài, nay mai, tất có việc vinh thăng tới nơi.

Hoàng Văn Bính hớn hở hỏi rằng:

– Sao Tướng Công lại biết trước?

– Hôm qua có người đem thư về, nói rằng tên Tống Giang thì cho giải vào kinh sư, còn Thông Phán thì thế nào cũng có thăng thưởng đến nơi, hiện có gia thư đó, Thông Phán xem qua thì biết đoan đích.

– Nếu thế, thì toàn là ân đức của Tướng Công, chúng tôi biết lấy gì mà báo đền cho được. Nhưng nếu phải là gia thư, thì khi nào tôi dám mạn phép mà xem như vậy?

– Được, Thông Phán với tôi là chỗ tâm phúc. Thông Phán cứ xem cho biết rõ…có hề chi?

Nói đoạn liền lấy thư đưa cho Hoàng Văn Bính xem. Hoàng Văn Bính cầm lấy thư xem hết đầu chí đuôi, rồi xem đến ngoài phong bì thấy có dấu đóng ở đó vẫn còn mới mẻ sáng sủa, thì lắc đầu mà bảo Thông Phán rằng:

– Phong thư này có lẽ không được đích thực…

Tri Phủ nói:

– Mọi khi không có đóng dấu bao giờ, nhưng hôm nay có lẽ là tiện có con dấu cho nên đóng vào đó hẳn?

Hoàng Văn Bính lại tán rằng:

– Tôi nói câu này, xin Tướng Công bỏ ngoài tai cho. Bức thư này tức là người man trá Tướng Công đây. Hiện nay thiên hạ thịnh hành bốn lối chữ, Tô, Hoàng, Mễ, Sài, vậy thì lối chữ của ân tướng Thái Sư, ai mà không viết giống. Còn như con dấu Hàn lâm này, là khi còn làm chức Hàn Lâm, hay dùng để đóng vào giấy má, cho nên thiên hạ ai mà không biết. Đến như hiện nay ngài làm chức Thái Sư Thừa Tướng, thì có khi nào lại còn dùng con dấu ấy nữa. Huống chi Tướng Công là chỗ con cháu trong nhà thì có cần chi phải cần đến con dấu có tên huý của ngài vào đây. Thái Sư là thực cao kiến viễn thức nhất trong thiên hạ, không lẽ ngài lại lầm đến thế? Xin Tướng Công cho đòi người đưa thư đến đây, mà hỏi kỹ càng xem có gặp người nào ở trong Phủ Thái Sư không? Bằng lúng túng không trả lời được, thì quả nhiên là giả mạo không sai…Cái đó Tướng Công nên cẩn thận…

Sài Tri Phủ nghe nói liền đáp rằng:

– Nếu vậy cũng không khó gì, anh ta từ nhỏ đến nay, chưa qua Đông Kinh một lượt nào, để ta hỏi qua mấy câu là biết được ngay.

Nói đoạn liền lưu Hoàng Văn Bính ngồi chơi ở đằng sau bình phong, rồi cho gọi Đới Tung lên đến công đường. Sài Tri Phủ liền hỏi ngay rằng:

– Hôm nọ ngươi đi khó nhọc ta chưa kịp hỏi hết đầu đuôi trong phủ Thái Sư, vậy khi tới đó ngươi đi vào cửa nào?

Đới Tung bẩm rằng:

– Khi chúng tôi vào tới nơi, thì trời đã nhá nhem tối, cũng không trông rõ đó là cửa gì?

– Ở trong phủ có ai ra tiếp?

– Rồi sau nghỉ ở đâu?

– Bẩm, hôm đó chúng tôi đến trước phủ, tìm một người canh gác đưa thư vào, sau người canh gác trở ra nhận các lễ vật rồi bảo chúng tôi đi hàng trọ để nghỉ. Sáng hôm sau đầu trống canh năm, chúng tôi lại vào chực ở cửa phủ, thì thấy tên người nhà đưa bức hồi thư ấy ra, chúng tôi sợ lỡ kỳ hẹn lập tức về ngay, không kịp hỏi han chi cả.

– Tên người nhà canh gác đó thế nào? Trắng hay đen, gầy hay béo, to lớn hay thấp lùn, có râu hay không?

– Bẩm, bấy giờ đường mờ tối, chúng tôi trông không được rõ lắm…Chỉ trông thoáng thấy anh ta tầm thước không lớn không bé, đã hơi có tuổi, loáng nhoáng vài cái râu…

Tri Phủ nghe đến đó quát lên rằng:

– Lính đâu! Trói cổ thằng này lại cho ta.

Vừa nói dứt lời thì lính tráng dạ vâng, đổ ra trói Đới Tung lại. Đới Tung lấy làm ngạc nhiên mà kêu lên rằng:

– Chúng tôi có tội gì?

Tri Phủ quát lên rằng:

– Tội mầy đáng chết…nhà tao có lão họ Vương, thì đã chết rồi, hiện nay có tên tiểu vương canh gác hãy còn trẻ tuổi, sao ngươi lại nói là đã nhiều tuổi và có râu. Vả chăng tên tiểu vương cũng không khi nào được vào phủ bao giờ, xưa nay phàm có thư tín ở các nơi đưa đến, thì tất do qua tay Trương Cán Biện, đến tay Lý Đô Quản, rồi mới vào đến trong phủ, vậy có nhanh ra cũng phải ba ngày mới lấy được hồi thư mang về. Huống chi ta đưa mấy hòm lễ vật như vậy, lẽ đâu lại không có ai là người ở trong nhà, ra hỏi cặn kẽ đầu đuôi, mà lại nhận liều lĩnh thế được? Cái đó tất là ngươi man trá chi đây, muốn sống phải nói thực cho ta biết.

Đới Tung kêu lên rằng:

– Chúng tôi vì vội vàng, mong cho chóng việc, nên không kịp xét hỏi đầu đuôi, chứ thực có điều chi dám man trá.

Tri Phủ thét tả hữu mà rằng:

– Quân này gan tướng cướp đây, không tra tấn sao có chịu thú…Chúng đâu đem tra đánh xem sao?

Lính tráng nghe nói, biết chừng không thể nào nể được Đới Tung, liền vâng lời đem ra tra tấn. Đới Tung bị đòn vọt đau đớn, từ chối không xong, bất đắc dĩ phải tiêu xưng ra bức thư giả mạo.

Tri Phủ quát hỏi rằng:

– Bức thư ấy ở đâu mà đến đây được?

Đới Tung nói rằng:

– Khi chúng tôi đi qua đất Lương Sơn, bị bọ cướp bắt lên núi, sau chúng lần được bức thư, liền cướp lấy cả hai hòm châu báu, rồi tha cho về. Chúng tôi biết thế trở về không được, đã toan liều tử tử ngay, song họ nhất định giữ gìn cẩn thận, rồi viết phong thư ấy, mà bắt phải đem về…Nhân chúng tôi cũng sợ quở phạt đến thân, cho nên phải mạn phép Ân Tướng mà nói liều như vậy, xin Ân Tướng xét cho.

Tri Phủ nói:

– Việc đó chắc là man trá không sai, vậy tất nhiên còn có tính gì khác, ngươi phải nói cho rõ. Ta quyết rằng ngươi thông đồng với bọn Lương Sơn để cướp hai hòm châu báu của ta, muốn sống phải thú mau mới được. Chúng đâu đánh nữa cho ta xem.

Đới Tung bị tra khảo lần nữa, song chàng nhất định đau, mà không dám đem chân tình ra thổ lộ. Tri Phủ tra hỏi hồi lâu, thấy lời lẽ trước sau như một, liền bất đắc dĩ sai đóng gông Đới Tung, mà cho giam xuống ngục.

Khi tra hỏi xong rồi. Tri Phủ liền vào nhà trong cảm tạ Hoàng Văn Bính mà rằng:

– Việc này nếu không có Thông Phán chỉ giáo cho, thì tất là nguy hiểm chứ không chơi.

Hoàng Văn Bính lại nói với Tri Phủ rằng:

– Người ấy chắc là thông đồng với bọn Lương Sơn Bạc để mưu việc phản nghịch, vậy nếu không sớm liệu trừ đi, thì tất là sinh sự về sau…

Tri Phủ nói:

– Bây giờ chỉ đem hai thằng ấy kết án mà xử tử ngay đi, rồi sẽ biểu tấu triều đình mới được.

– Tướng Công nghĩ thế thực phải lắm, làm như vậy một là triều đình cũng biết được tài mẫn cán của Tướng Công, hai là bọn Lương Sơn khỏi đến đây để cướp ngục, thì tất nhiên khỏi sinh nhiễu loạn về sau.

– Vâng, việc đó tôi phải biểu tấu triều đình, rồi xin để bảo cử cho Thông Phán một thể.

Hoàng Văn Bính nghe nói cả mừng, so vai rụt cổ nịnh hót một hồi lâu mới đứng lên từ tạ ra về.

Gớm quân khốn nạn đê hèn,

Tài thua sức kém còn ghen ghét người.

Rồi đây lay đất chuyển trời.

Tiền nhân phổng thoát với đời được chăng?

Mấy hôm sau, Tri Phủ gọi người Khổng Mục là người làm văn án lên, truyền lập án Tống Giang cùng Đới Tung, để đến ngày sau nữa đem ra chém.

Người Khổng Mục này là một người họ Hoàng, vốn thân mật với Đới Tung xưa nay, song cũng không có cách gì cứu gỡ cho được, liền bẩm với Tri Phủ rằng:

– Ngày mai là ngày kỵ nhật của quốc gia, ngày kia là ngày tết Trung Nguyên rằm tháng Bảy, đều không nên hành hình cả, đến ngày thứ ba cũng là ngày cảnh mệnh của nhà nước, vậy thì để năm hôm nữa thì mới có thể thi hành được. Tri Phủ nghe nói cũng cho là phải, liền theo lời Khổng Mục mà để đến sáu hôm sau.

Sáng sớm hôm thứ sáu, Tri Phủ sai quét dọn pháp trường, ở sau con đường chữ thập, rồi kiểm điểm bộ binh cùng các tay đao trượng, ước hơn năm trăm người, đều tề tựu ở trước nơi nhà ngục.

Vào khoảng giờ Tỵ hôm ấy, ngục quan vào bẩm với Tri Phủ để ra giám trảm. Hoàng Khổng Mục đem bản án lên trình quan Phủ, rồi viết hai chữ “Trảm” rất to, mà niêm yết ra ngoài pháp trường. Bấy giờ các Tiết Gấp và cùng Lao Tử ở đất Giang Châu, ai cũng lấy làm phàn nàn thương tiếc cho Đới Tung, mà không còn kế chi cứu được. Khi các công việc sửa soạn xong, lệnh quan trên bắt Tống Giang, Đới Tung đem búi ngược tóc lên, cắm bông hoa giấy đỏ lên đầu, dắt đến trước mặt thân án, cho mỗi người ngồi ăn bát cơm từ giã với đời, rồi sáu bảy mươi tên ngục tốt cùng dong ra ngoài pháp trường.

Bấy giờ nhân dân ở đất Giang Châu, kéo đàn kéo lũ đi xem, không biết mấy ngàn người mà kể. Chúng dong phạm nhân ra đến pháp trường, rồi đặt Tống Giang ngồi quay mặt sang Nam, Đới Tung ngồi quay mặt sang Bắc, để đợi đến giờ Ngọ là quan giám trảm.

Bọn nhân dân kéo đi xem, ngửa trông thấy trên bản án viết có mấy câu rằng:

– “Phủ Giang Châu xử hai tên phạm; Một tên là Tống Giang ngâm thơ phản nghịch, kết bọn Lương sơn để gây một đường rối loạn, tội nên xử trảm. Một tên là Đới Tung, thông với Tống Giang, đưa thư cho bọn Lương Sơn Bạc để mưu phản lại triều đình, tội nên xử tử. Giám trảm quan là Sài mỗ, Tri Phủ Giang Châu”.

Được một lát Tri Phủ cỡi ngựa ra đứng ở pháp trường, để đợi báo đúng giờ là truyền cho hạ thủ. Chợt đâu thấy bên đông pháp trường có bọn ăn mày chen vào xem chém, tụi thổ binh ngăn cản không xong, đôi bên liền ầm ĩ cả lên.

Đương khi ấy, thì phía bên tây lại có bọn bán thuốc cao len vào. Bọn thổ binh thấy vậy quát lên rằng:

– Chúng bây người ở đâu? Có biết gì không? Ai cho phép len vào đây để xem?

Lũ đánh gậy bán thuốc cao đáp lên rằng:

– Chúng tôi đây đến phủ huyện nào, mà không vào xem được. Dẫu cho Thiên Tử chém người, cũng còn cho người dân vào xem, huống chi một chỗ đất cỏn con này, mà lại không vào xem được hay sao?

Giám Trẩm Quan nghe thấy vội quát lên rằng:

– Đuổi chúng nó ra, không cho chen vào đấy.

Chưa dứt lời, thì đã thấy phía bên Nam pháp trường có một tụi phu gánh cũng sấn sỉ mà cùng nhau chen vào.

Lũ thổ binh quát hỏi rằng:

– Chúng bây người ở đâu? Mà dám chen vào đây?

Bọn phu gánh đáp rằng:

– Chúng tôi gánh các đồ vật, để đưa cho Tri Phủ Tướng Công đây.

Bọn thổ binh ngăn lại mà rằng:

– Có phải là người nhà quan Phủ, thì bây giờ cũng không đi qua đây được.

Bọn phu gánh thấy vậy, liền hạ gánh xuống, rồi đứng len lỏi vào trong đám đông người để xem. Chợt đâu thấy phía Bắc, có một đám buôn, kéo hai xe gỗ đến, đẩy xô mọi người mà toan vào pháp trường. Tụi thổ binh thét mắng đuổi ra mà rằng:

– Các anh đi đâu thế này.

Lũ lái buôn đáp rằng:

– Chúng tôi phải đi có việc cần, xin các ông cho phép chúng tôi đi qua đây…

Lũ thổ binh lại quát mắng rằng:

– Các anh nói lạ, ai cho các anh đi lối này? Có vội kiếm lối khác mà đi.

Bọn lái buôn cười rằng:

– Các bác nói dễ nghe chưa? Chúng tôi ở Kinh Sư đến đây, còn biết lối cóc nào nữa? Chỉ có một con đường lớn này phải cho đi mới được.

Nói xong toan chen lấn đi vào, song bọn thổ binh nhất định không nghe, mà cố dồn để đuổi ra. Đám lái buôn bất đắc dĩ phải dừng xe lại, rồi trèo lên xe để xem. Được một lát, trong pháp trường có người báo lên rằng:

– Bây giờ đúng giờ Ngọ ba khắc rồi.

Giám Trảm Quan nghe báo, liền truyền lệnh rằng:

– Cho phép chém.

Bọn lính coi tù vâng lệnh tháo gông cho tội nhân, rồi hai người hành hình cầm đao ra để chém.

Bấy giờ bọn lái buôn đứng trên xe kia, nghe thấy ba tiếng “Cho phép chém”,một người thì lấy thanh la ở trong bọc ra mà đánh lên mấy tiếng rất to, rồi bỗng dưng tứ phía đều nhao nhao lên như vỡ chợ vậy. Đoạn rồi ở trên gác hàng nước, bên cạnh con đường Thập Tự, có một anh chàng cởi trần trùng trục, mình đen chùi chũi, tay cầm hai cây búa, thét lên một tiếng như sấm động vang trời, mà nhảy ngay xuống pháp trường, vung cái búa lên chém luôn hai người hành hình, rồi quay ra đuổi chém Giám Trảm Quan. Bọn thổ binh thấy vậy, vội vàng xô nhau để ngăn cản, song không sao mà chống cự cho nổi, chúng liền hớt hơ hớt hãi túm đến cứu Giám Trảm Quản, là Sài Tri Phủ để chạy trốn cho mau.

Khi đó lũ ăn mày ở phía Đông, đều tuốt dao nhọn ở trong mình ra, để đánh giết thổ binh. Phía bên Tây, tụi đánh gậy bán thuốc cao, đám phu gánh bên Nam cũng múa đòn gánh lên, gặp ai thì phang cho người ấy, làm cho bọn lính ngục, và thổ binh ngã chết không biết bao nhiêu mà kể. Còn bọn lái buôn ở phía Bắc, thì nhảy xuống xe, quay xe ngăn lấy lối đi, rồi hai anh xông vào cướp lấy Tống Giang cùng Đới Tung, còn bọn người thì hoặc bắn cung, hoặc ném đá, hoặc đánh gươm giáo, mà giết hại thổ binh chết như canh hẹ.

Nguyên bọn lái buôn này là Tiều Cái, Hoa Vinh, Hoàng Tín, Lã Qương, Quách Thịnh. Bọn phu đánh gậy bán thuốc cao là Yên Thuận, Lưu Đường, Đỗ Thiên, Tống Vạn. Bọn phu gánh là Chu Quý, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Thạch Dũng. Và bọn ăn mày kia là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất cùng Bạch Thắng, cộng tất cả là mười bảy vị Lương Sơn Bạc, hơn một trăm lâu la giả dạng làm các hạng người, mà đánh cướp pháp trường ở đó.

Khi ấy Tiều Cái trông thấy anh chàng đen lớn; vác hai cây búa xông pha tả hữu, đánh giết ầm ầm, thì trong bụng lấy làm ngờ ngợ, không biết là ai. Sau lại nhớ ra khi trước Đới Tung thường nhắc đến tên anh Hắc Toàn Phong Lý Quỳ, đi lại với Tống Giang rất là thân ái, liền hỏi to lên rằng:

– Hảo hán kia có phải là Hắc Toàn Phong đó chăng?

Anh chàng kia không trả lời, cứ lẳng lặng vác hai cây búa mà chém giết loang loáng như sét đánh ngang trời. Tiều Cái biểu hai người cõng Tống Giang cùng Đới Tung phải theo sau anh chàng to lớn ấy mà chạy.

Đương lúc bấy giờ, trên con đường chữ Thập kia, vô luận là quân dân lính tráng, hoặc người bị thương, hoặc người bị giết, nằm vật ngổn ngang không biết tới đâu mà kể. Còn bọn đàn anh và tụi lâu la kia, đều theo anh chàng đen lớn mà chạy ra ngoài thành, và để cho bọn Hoa Vinh, Hoàng Tín, Quách Thịnh, bốn người cầm bốn tay cung đi sau, mà bắn chặn lấy đường; khiến cho quân dân ở đất Giang Châu không có ai dám gan theo đuổi.

Khi đó chàng đen lớn kia, vừa đi vừa chém, máu me đầm đìa khắp cả chân tay, mà vẫn còn hăng hái chém giết.

Tiều Cái liền cầm đao thét lên rằng:

– Đại Hán kia, không can thiệp gì đến nhân dân, không được chém người ta nữa.

Anh chàng kia im lặng không thèm nghe đến, cứ phăm phăm múa đôi đại phủ mà chém rẽ người ta để đi. Ước chừng đi được bảy tám dặm đường, thì có một giải trường giang chắn ngang trước mặt, Tiều Cái lấy làm lo sợ, không còn biết lối nào mà chạy trốn cho thoát.

Bấy giờ anh chàng đen lớn kia nói lên rằng:

– Không ngại gì hãy đem Ca Ca vào trong miểu kia đã. Chúng nghe nói, liền kéo nhau để xem, thấy bên sông có một tòa cổ miếu, hai bên cửa vẫn đóng chặt. Chàng đen lớn kia vác đôi phủ, đến chém phá tung cửa ra cho mọi người vào.

Khi vào tới nơi, thấy thông xanh liễu tốt cây cỏ um tùm, trước cửa có cái biển thiếp vàng bốn chữ “Bạch Long Thần Miếu” rất to, bọn tiểu lâu la cõng Tống Giang cùng Đới Tung đặt nghỉ ở đó.

Lúc ấy Tống Giang mới mở mắt ra, trông thấy Tiều Cái cùng mọi người thì gạt hai hàng lệ mà nói rằng:

– Chẳng hay là gặp nhau trong giấc chiêm bao?

Tiều Cái an ủi Tống Giang mà rằng:

– Đó chẳng qua nhân huynh không chịu ở sơn trại, cho nên mới xảy ra như vậy…Song không biết rằng anh chàng đen lớn ra sức cứu giúp kia là ai?

Tống Giang đáp rằng:

– Ấy chính là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đấy, anh ta đã mấy lần xui tôi vượt ngục mà ra, song tôi sợ không sao mà chạy thoát được, nên không dám nghe lời.

Tiều Cái kính phục mà khen rằng:

– Được một người cố công ra sức, không ngại búa rìu can đảm như thế, thực là hiếm có.

Hoa Vinh liền bảo chúng lấy quần áo đưa cho Tống Giang và Đới Tung mặc, rồi cùng ngồi bàn định với nhau.

Đương khi ấy trông thấy Lý Quỳ tay cầm đôi phủ, ở dưới hành lang chạy lên, Tống Giang liền gọi mà hỏi rằng:

– Anh em đi đâu thế?

Lý Quỳ đáp rằng:

– Tôi đi tìm thằng coi miếu để giết nó đi một thể, nó làm cái gì mà ban ngày ban mặt cũng cứ đóng cửa, không biết rằng nó trốn đi đâu mà tìm mãi không thấy… ?

Tống Giang gạt đi mà rằng:

– Ngươi hãy đến đây để chào các Ca Ca Đầu Lĩnh đã.

Lý Quỳ nghe nói, liền vứt đôi phủ xuống mà quay mặt vào Tiều Cái rồi quỳ vội mà rằng:

– Xin Ca Ca chớ cười Thiết Ngưu này lỗ mãng.

Nói đoạn lại quay ra chào hỏi mọi người, và nhận được Chu Quý là người đồng hương, thì đôi bên lấy làm hoan hỷ vô cùng.

Bấy giờ Hoa Vinh nói với mọi người rằng:

– Vừa rồi Ca Ca truyền lệnh cho anh em cứ theo Lý Ca mà chạy, vậy bây giờ đến đây trước mặt có con sông ngăn trở, mà thuyền bè không có, thì đi làm sao được?

Lý Quỳ ứng lên rằng:

– Cái đó không cần, tôi với các bác, ta hãy kéo cả vào thành, tìm thằng Sài Tri Phủ, mà giết phăng nó đi rồi sẽ liệu.

Đới Tung vội ngăn rằng:

– Làm như thế không được, trong thành có tới bảy tám trăm quân, nếu mình sấn vào, thì lỡ ra nguy mất.

Nguyễn Tiểu Ngũ nói lên rằng:

– Ở bến sông xa kia có mấy chiếc thuyền để anh em tôi lội sang cướp đem về đây, mà chở người vào thành, thì có lẽ tiện hơn.

Tiều Cái khen phải mà rằng:

– Nếu thế thì còn gì hơn nữa. Nói đoạn thì ba anh em họ Nguyễn cởi trần cầm đao, nhảy xuống sông mà bơi cướp lấy thuyền.

Ba người lội dưới sông, thì thấy mấy chiếc thuyền kia thổi còi lên hiệu mà kẽo kẹt chèo thuyền, thấy mỗi thuyền, mỗi người cầm một thứ binh khí trong tay hết thẩy.

Chúng thấy thế, đều kinh ngạc mà nhao nhao cả lên. Tống Giang nghe thấy chúng kinh hãi, thì cũng than thân gặp bước cùng đường, bèn chạy ra trước cửa miếu bên sông, nom thấy một đại hán đứng ở trên thuyền, tay cầm binh khí mặc giáp có kính đỏ, yểm tâm, coi rất hùng dũng, thổi sáo mà tới.

Tống Giang nom xem nhận ra là Trương Thuận, bèn vẫy tay gọi.

– Anh em đến cứu tôi với!

Trương Thuận biết là Tống Giang gọi đến, liền chèo thuyền nhanh tới bờ. Ba anh em họ Nguyễn lui bước lại, rồi lũ Trương Thuận lên tới miếu. Tống Giang đón tiếp. Trương Thuận dẫn đến mươi người khỏe mạnh ở dưới thuyền lên. Lại thấy cả Trương Hoành, dẫn Mục Hoằng, Mục Xuân, và Tiết Vĩnh, và một số trang khách ở dưới thuyền lên. Đến chiếc thuyền thứ ba, thấy Lý Tuấn, dẫn Lý Lập, Đồng Uy, Đồng Mãnh, và mươi người trang khách khỏe mạnh, đều cầm thương gậy lên bờ.

Trương Thuận gặp được Tống Giang lấy làm mừng rỡ, khóc mà sụp lạy nói rằng:

– Từ khi nghe tin Ca Ca bị bắt, khiến tôi ngồi đứng không yên, mà không còn cách nào cứu được. Lại nghe cả Đới Viện Trưởng cũng bị giam giữ, mà tôi tìm Lý Đại Ca cũng chả thấy đâu. Sau chúng tôi đến nhà Mục Thái Công, rủ những anh em quen biết, đem số trang khách, để phá ngục Giang Châu cứu lấy Ca Ca và Đới Viện Trưởng.

– Nào ngờ nhân huynh đã được các vị hào kiệt cứu ra, còn họp ở chốn này, vậy dám hỏi các vị hảo hán đây có phải là những nghĩa sĩ của Tiểu Thiên Vương ở Lương Sơn Bạc chăng?

Tống Giang bèn trỏ vào Tiều Cái mà giới thiệu rằng:

– Đây là Tiều Thiên Vương Ca Ca, cùng các vị nghĩa sĩ, vậy xin các anh em hãy vào trong miếu, để cùng nhau gặp mặt.

Bấy giờ lũ Trương Thuận chín người, lũ Tiều Cái mười bảy người, và Tống Giang, Đới Tung, cùng Lý Quỳ, cộng tất cả hai mươi chín người, đều hội họp ở Bạch Long miếu. Sau khi hai mươi chín vị làm lễ ra mắt nhau; thì tiểu lâu la vào miếu báo rằng:

– Nay thành Giang Châu, khua chiêng dóng trống, cờ xí rợp trời, sửa soạn binh mã đuổi theo để đánh, gần tới miếu Bạch Long, việc nguy cấp lắm.

Lý Quỳ nghe nói, thét lên một tiếng, cầm hai đại phủ mà đi, ra khỏi cửa.

Tiều Cái gọi lại nói rằng:

– Nếu muốn rửa hận giết đám tham tàn, thì Tiều Cái xin cùng các vị hảo hán, cùng nhau ra sức giết lũ quan quân, mới trở về Lương Sơn Bạc.

Chúng anh hùng đều nói lên:

– Theo lệnh.

Lúc ấy một trăm năm mươi người đón đánh quan quân thành Giang Châu, khiến cho máu chảy đầy sông, xương phơi khắp chốn.

Thực là:

Anh hùng mới thực anh hùng,

Đất bằng nổi sóng đùng đùng bởi đâu?

Quyền môn muốn những đè đầu,

Ngán lời cẩu trệ vuốt râu báo hùm!

Lời bàn của Thánh Thán:

Theo phép nhà văn tả việc gấp, không thể dài lời nhiều bút, vì dùng nhiều bút, thì việc thấy hoãn đi không còn gấp nữa. Thế mà sách này không thế, tả việc gấp, vẫn dùng nhiều bút mực với nhiều lời, vì rằng dùng ít bút mực, thì việc gấp giải đi. Đây tả việc gấp vẫn nhiều lời, toàn là những lời của việc gấp, như con người mưu nghịch Tống Giang, Đới Tung quyết không đợi mãi, dẫu được Hoàng Khổng mục kéo dài ra năm ngày, cho đến ngày cuối cùng, đã thành mây cùng nước tận, bấy giờ chỉ đợi đến giờ Ngọ ba khắc, thì phải khai đao, thì phải kết thúc.

Thế mà đoạn văn ấy tả ra, nào là buổi sáng ăn cơm sớm, rồi sửa soạn pháp trường, nào là thổ binh mang khí giới chỉnh tề, đến giờ Tỵ ngục quan bẩm trình quan Giám Trảm, Khổng Mục cũng trình mọi công việc tới kỵ Nào là tả Tống Giang, Đới Tung xõa tóc cắm bông koa giấy, trước khi xử trảm cho uống rượu, ăn cơm bữa cuối cùng từ giã cõi đời. Nào là số sáu bảy mươi kẻ ngục tốt, đều đổ cả ra. Rồi lại tả trên đường Thập Tự giáo mác chung quanh, một kẻ quay mặt về Nam, một kẻ quay mặt về Bắc, để đợi Giám Trảm Quan đi tới. Nào tả số người ra vào chen xem, chưa thấy quan Giám Trảm tới. Trước khi đó tuyên án xử trảm hai người, tên mỗ vì phạm tội này, theo luật phải xử trảm… Tên mỗ vì phạm tội này, theo luật phải xử trảm… Một lát sau Quan Phủ tới, dừng ngựa lại đợi đến giờ Ngọ ba khắc thì xử trảm. Quan Giám Trảm đã tới, chỉ đợi đến giờ, khiến độc giả xem tới ba chữ “Ngày thứ sáu” phải đến khiếp lên, đọc một câu thấy khiếp một câu, đọc một chữ mà kinh một chữ… Đoạn văn có tả kỹ càng như thế, làm sống lại cảnh kinh người, mới thấy đoạn văn sau biến ra kỳ tuyệt. Hồi này rất khéo, ở chỗ tới ngày mai xử quyết như sấm nhanh không kịp bịt tai. Thế mà bây giờ đã có người báo cho Sơn Bạc, há phải tới nơi không phép Rút Đường. Nào ai biết hai người có tình phận với Lương Sơn Bạc, nay ở hồi trước Ngô Dụng đã dự đoán việc sai lầm, vội vàng trao kế cho đám hảo hán hạ sơn, khi đi đường vài ngày, thì vừa gặp Khổng mục xin hoãn được năm ngày, khiến mấy đám tới nơi, đến thời vừa việc, đã nên khéo léo! Lại tả sau khi việc Đới Tung lộ ra, không nói đến hai tay Lý Quỳ, Trương Thuận, chả những không thấy, còn chép thêm mọi người (đám ngục tù và người quen thuộc) thương xót, cho thấy khác đi, khiến độc giả cũng thêm buồn, tới khi đọc đến chàng đại hán đen chũi to lớn, chẳng ngờ khiếp vía sởn gai. Và sau Trương Thuận chèo thuyền đi đến, laị làm cho người ta không mơ tưởng tới, mới thấy rõ kỳ văn.

Hồi 40: Tống Giang mưu đánh Quân Vô Vị – Trương Thuận bắt sống Hoàng Văn Bính

Bấy giờ quân mã thành Giang Châu bị bọn hảo hán Lương Sơn Bạc đánh riết, phải rút lui về thành, bọn Lương Sơn theo đuổi đến thì cửa thành đã đóng giữ kiên cố, ném đá bắn tên ra, bọn hảo hán vây hãm vài ngày, xét đánh thành không tiện, mới rút lui về miếu Bạch Long để xuống thuyền, Tiều Cái kiểm điểm số quân đầy đủ, rồi xuống thuyền lại gặp gió xuôi, nên đi nhanh chóng. Ba chiếc thuyền chở đầy người ngựa, thẳng tới Mục Gia Trang, mới dẫn chúng lên bờ. Mục Hoằng mời các vị hảo hán vào trang yên nghỉ. Mục Thái Công ra đón mời bọn Tống Giang vào.

Mục Thái Công nói:

– Các vị Đầu Lĩnh mấy hôm nay khó nhọc, hãy vào ở trang đây tạm nghỉ và sửa sang quần áo, khí giới, nhất diện sai người giết bò, lợn, gà, vịt, cùng bầy các trức trân hào dị vị để thiết đãi.

Trong khi chè chén chuyện trò. Tiều Cái nói anh em họ Mục rằng:

– Nếu không được hai vị Ca Ca đem không xuống cứu, thì chúng tôi tất bị bắt chứ không chơi.

Mục Công hỏi rằng:

– Vì cớ sao, các ông lại đi đường ấy?

Lý Quỳ đáp luôn rằng:

– Chúng tôi chỉ chọn chỗ nào đông người, là chém giết để đi, rồi sau họ đến đuổi chúng tôi, có ai lại gọi nó đến bao giờ?

Chúng nghe nói đều vỗ tay cả cười. Tống Giang đứng dậy nói với mọi người rằng:

– Tống Giang tôi nếu không được các ngài cứu giúp, thì tất là cùng với Đới Viện Trưởng chịu chết trong cơn phí mạnh, vậy ân đức ngày nay như trời như bể, biết bao giờ báo đáp cho xong? Chỉ giận tên Hoàng Văn Bính đã mấy phen độc hại chúng tôi, nếu không làm cho chúng nó biết tay, thì tấm lòng phẫn hận bao giờ nguôi được. Vậy xin các vị hảo hán hãy rộng ơn đến đánh Vô Vi Quân, để bắt giết tên Hoàng Văn Bính, thì lòng này mới được nguôi ngoai một chút, các ngài nghĩ sao?

Tiều Cái đáp rằng:

– Chúng ta đi thế này, chỉ khả dĩ làm một lần thì được, nếu làm đến hai lần thì tất là nguy hiểm, vì hiện nay họ phải phòng bị sẵn sàng, khó lòng mà đánh được. Vậy bắt buộc hãy cùng về sơn trại, rồi cùng với Ngô Học Cứu, Công Tôn Thắng và bọn Lâm Xung, Tân Minh đến cứu, như thế thì tiện hơn.

Tống Giang nói:

– Nếu đã trở về sơn trại, thì không còn thể nào mà lại đây được. Vì một sự đường sá xa xôi, hai là đất Giang Châu tất nhiên tư giấy má đi các nơi mà canh phòng cẩn mật, thì bấy giờ còn làm gì được nữa? Vậy nay có muốn hạ thủ, thì nhân lúc họ chưa kịp phòng bị là hơn.

Hoa Vinh nói:

– Ca Ca nghĩ thế tất là phải lắm, nhưng còn ngại vì nỗi không ai thuộc đường sang đó, thì làm sao cho tiện? Việc này tất phải có người đến dò tin tức trong thành và xem xét đường đi lối lại thế nào, cùng là nhà cửa Hoàng Văn Bính ở đâu, rồi mới có thể thi hành được.

Tiết Vĩnh đứng lên nói rằng:

– Chúng tôi xưa nay từng đi lại đất Vô Vị Quân, đường lối rất là quen thuộc, vậy chúng tôi xin đi thám thính một phen, chẳng hay các ngài có thuận thế cho không

Tống Giang mừng rỡ mà rằng:

– Nếu được hiền đệ đi giúp hộ cho, thì còn gì bằng nữa!

Tiết Vĩnh vâng lời, liền ăn uống xong rồi từ biệt mọi người, một mình đi dò thăm tin tức. Bấy giờ bọn Tống Giang và các vị Đầu Lĩnh ở lại Mục Gia Trang, sắm sửa các đồ khí giới cung tên, cùng thuyền bè, để đợi ngày đi đánh Vô Vị Quân.

Cách hai hôm sau thấy Tiết Vĩnh dắt một người về đến gia trang, mà vào lạy chào Tống Giang, Tống Giang vội đáp lễ mà hỏi Tiết Vĩnh rằng:

– Vị tráng sĩ này là ai?

Tiết Vĩnh đáp rằng:

– Người này họ Hầu tên Kiện, quê ở Hồng Đô, vốn làm nghề thợ may, mà võ nghệ cũng giỏi. Trước đây có theo học Tiết Vĩnh này, người ta thấy tính khí nhanh nhẹn mà người lại đen, nên thường gọi một tên là Thông Tý Viên (Vượn nhanh tay hiện nay làm thợ may cho Hoàng Văn Bính ở Vô Vị Quân. Nhân vậy tiểu đệ mời vào đây để hỏi chuyện cho rõ…

Tống Giang nghe nói cả mừng liền mời cùng ngồi để bàn định các việc. Người này nguyên là một vị sao Địa Sát, nên tình nghĩa rất am hợp với nhau, mà không chút gì trái ý.

Khi đó Tống Giang hỏi đến tin tức ở thành Giang Châu, cùng đường lối đến Vô Vị Quân.

Tiết Vĩnh đáp rằng:

– Hiện nay Xài Tri Phủ kiểm điểm các quan quân cùng dân chúng, bị chết mất hơn năm trăm người, còn bị đạn và trúng thương, không biết đến đâu mà kể? Nay đương hai người dâng biểu cáo cấp với triều đình, và đóng kín cổng thành tra hỏi rất là cẩn thận. Tôi xét ra việc Ca Ca bị hại, không can thiệp gì đến Xài Tri Phủ, nguyên chỉ tại tên Hoàng Văn Bính, tam tứ phen thúc bách Tri Phủ để thi hành thủ đoạn, nên mới xảy ra đến thế. Nay chẳng may bị ta đánh cướp pháp trường, thì trong thành đều nhao nhao sợ hãi mà canh giữ, không còn trễ nãi chút nào. Còn về tình thế Vô Vị Quân, thì may được Hầu Kiện đây, nên mới biết rõ tất cả đầu đuôi.

Tống Giang quay sang hỏi Hầu Kiện rằng:

– Sao quan bác lại biết rõ đầu đuôi ở đấy?

Hầu Kiện đáp:

– Tôi thủa nhỏ thích nghề gươm giáo, sau nhờ được Tiết sư phụ dạy bảo nên trong lòng không dám quên ơn. Mới đây Hoàng Thông Phán có thuê tôi về may vá ở trong nhà, nhân lại được gặp sư phụ tôi, nói đến đại danh của ngài, và kể câu chuyện vừa mới xảy ra, nên tôi lại càng sốt lòng muốn bái kiến tôn nhan, mà vội đến đây để báo các tin tức. Nguyên Hoàng Văn Bính có một người anh ruột là Hoàng Văn Hoa, cùng một cha mẹ sinh ra. Song Hoàng Văn Hoa là người phúc đức hiền lành, bình sinh chỉ hay sửa cầu làm quán, tô tượng đúc chuông,, cứu kẻ bị nguy khốn, giúp người khổ sở, cả trong thành Vô Vị ai cũng gọi ông ta là Hoàng Diện Phật (Phật mặt vàng). Còn Hoàng Văn Bính thì dẫu là một anh Thông Phán tại gia, song trong bụng rất thâm độc, xưa nay chỉ quen hãm hại người ta, bởi vậy khắp trong thành ai ai cũng gọi ông ta là Hoàng Phong Thích (Nọc ong vàng). Hai anh em ông ta ở làm hai dinh, cách nhau có một cái ngõ. Về phía bắc ở gần thành là nhà Hoàng Văn Bính, còn nhà Hoàng Văn Hoa ở gần đường cái. Chúng tôi ở đấy thường thấy Hoàng Thông Phán nói chuyện, là việc đó Xài Tri Phủ bị người ta man trá, sau ông ta chỉ dẫn cho ra, và bảo Tri Phủ hãy chém những người ấy đi rồi sau sẽ biểu tâu triều đình. Bấy giờ Hoàng Văn Hoa biết chuyện, vẫn thường mắng nhiếc ông ta là đồ vô phúc, độc ác, không can thiệp đến mình, cũng làm hại người ta, lỡ ra lẽ trời báo ứng, thì tội ấy ai mang? Đến hai ngày nay nghe nói bị cướp pháp trường, thì Hoàng Văn Bính sợ hãi cuống cuồng hiện còn vào dò tin tức, để bàn định với Xài Tri Phủ ở đất Giang Châu, đến nay cũng chưa thấy về.

Tống Giang hỏi:

– Nhà Hoàng Văn Bính với nhà anh hắn ta cách nhau xa hay gần?

– Nguyên là một nhà ngăn ra làm đôi, khoảng giữa chỉ cách một cái vườn mà thôi.

– Nhà anh ta có bao nhiêu người? Tất cả có mấy gian phòng?

– Nhà ấy tất cả trai gái có tới bốn năm mươi người, Tống Giang nghe đến đó, có vẻ vui mừng mà rằng:

– Thực là trời cho ta được báo thù, nên mới đưa người dẫn lối đến đây, song việc này tất phải nhờ anh em hết sức ra tay mới được…

Mọi người đều vỗ tay mà rằng:

– Chúng tôi xin liều chết xông pha, để khu trừ gian nhũng, mà báo thù rửa hận cho Ca Ca…

Tống Giang lại nói rằng:

– Việc này là chỉ tại Hoàng Văn Bính, chứ không can thiệp gì đến thành Vô Vi; Vả chăng anh hắn là người nhân đức thì ta cũng không nên hại đến, để thiên hạ chê cười. Anh em đi đó, chớ làm một điều chi tàn hại đến dân mới được…Nay tôi có một kế này, mong anh em hết sức giúp tôi cho xong việc…

Các vị Đầu Lĩnh đều đồng thanh mà rằng:

– Chúng tôi xin vâng lệnh Ca Ca chỉ giáo.

Tống Giang lại nói rằng:

– Việc này tất phải phiền đến Thái Công, sắp cho tám chín mươi túi cát, hơn trăm bó cỏ không, và trăm chiếc thuyền lớn, hai chiếc thuyền nhỏ, để nhờ Trương Thuận, Lý Tuấn cưỡi hai chiếc thuyền con, còn trăm chiếc thuyền lớn thì xin để Trương Hoành, ba anh em họ Nguyễn, Đồng Mãnh, cùng mọi người bạo nghề thủy thủ coi giữ giúp cho như thế mới có thể thi hành được.

Mục Hoằng đáp rằng:

– Hiện ở nhà tôi có đủ các thức túi vải cỏ khô, cùng những người quen nghề thủy thủ, xin Ca Ca cứ sai dùng cho được việc.

Tống Giang lại bảo với mọi người rằng:

– Nay phiền Hầu huynh dẫn Tiết Vĩnh, Bạch Thắng vào thành Vô Vi Quân trước, đợi đến canh ba tối ngày mai, hễ nghe thấy tiếng chim đeo nhạc bay lên, thì Bạch Thắng lên thành cắm một lá cờ lụa trắng ở gần nhà Hoàng Văn Bính, để ra hiệu cho biết lối lên thành…Thạch Dũng, Đỗ Thiên thì giả làm ăn mày nấp ở bên tả gần thành, cứ nom lửa làm hiệu mà xông ra giết bọn canh cửa…Còn Lý Tuấn với Trương Thuận thì đi lại coi sóc trên sông, để đợi khi tiếp ứng…

Tống Giang cắt đặt xong rồi, Tiết Vĩnh, Bạch Thắng vâng lời đi trước Thạch Dũng, Đỗ Thiên giả dạng ăn mày đi sau, đều thắt khí giới trong mình cả. Đoạn rồi đem các đồ cỏ khô túi cát xếp đặt lên thuyền và sửa soạn các đồ khí giới cùng các vị hảo hán, chia nhau xuống phục dưới thuyền. Tiều Cái, Tống Giang cùng Hoa Vinh, xuống thuyền Đồng Uy; Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ xuống thuyền Trương Hoành; Đới Tung, Lưu Đường, Hoàng Tín, xuống thuyền Nguyễn Tiểu Nhị; Lã Phương, Quách Thịnh, Lý Lập xuống thuyền Nguyễn Tiểu Ngũ; Mục Hoằng, Mục Xuân, Lý Quỳ, xuống thuyền Nguyễn Tiểu Thất. Còn Chu Quý, Tống Vạn ở nhà Mục Thái Công để dò xem tin tức Giang Châu. Lại sai Đồng Mãnh chở chiếc thuyền con đi trước, để dò thăm đường đất. Còn bao nhiêu bọn lâu la cho nấp ở trong thuyền, rồi đêm hôm đó sai thủy thủ cùng trang khách, nhổ sào mà kéo thẳng đến Vô Vi Quân.

Bấy giờ cuối tháng bảy, đêm hiu gió lạnh, trăng sáng bên sông, bóng nước non xanh, trên dưới một mầu xanh biếc. Vào khoảng cuối trống canh một, các thuyền đã đến bến sông Vô Vị, chọn một nơi ngàn lau rậm rạp mà đậu vào ở đó.

Được một lát thấy Đồng Mãnh chèo thuyền tới nơi báo rằng:

– Trong thành hiện vẫn còn im phăng phắc, không có điều chi là trở ngại cả. Tống Giang nghe báo, liền gọi thủ hạ cho khiêng túi cát cùng cỏ khô, để lên bộ mà lên tới thành.

Khi nghe tiếng trống đã điểm canh hai, Tống Giang cho đem cả cỏ khô túi cát xếp ở bên thành, để Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn cùng Đồng Uy, Đồng Mãnh ở lại coi thuyền và tiếp ứng, còn bao nhiêu các vị hảo hán đều sửa soạn quân khí mà đi lên thành. Khi đến cửa Bắc, còn cách độ nửa dặm đường, Tống Giang sai thả chim đeo nhạc bay lên. Đoạn thấy có một ngọn trúc buộc lụa trắng, phất phơ dựng ở trước ngọn gió trên thành, Tống Giang lại sai quân sĩ chất túi cát vào bên thành, rồi cho vác cỏ khô đem cả lên thành.

Bấy giờ thấy Bạch Thắng ở trong chạy ra tiếp ứng, trỏ bọn hảo hán mà rằng:

– Nhà Hoàng Văn Bính ở ngay ngõ kia.

Tống Giang hỏi ngay Bạch Thắng rằng:

– Tiết Vĩnh, Hầu Kiện ở đâu bây giờ?

Bạch Thắng đáp rằng:

– Hiện bây giờ cả hai đã vào nhà Hoàng Văn Bính chỉ đợi Ca Ca đến đó thôi.

Tống Giang lại hỏi:

– Thạch Dũng, Đỗ Thiên ở đâu?

Bạch Thắng đáp rằng:

– Hai người ấy hiện ở bên tả thành để đợi.

Tống Giang nghe nói liền dẫn bọn hảo hán vào thành, thẳng lẻn vào nhà Hoàng Văn Bính. Khi tới nơi, thấy Hầu Kiện đương nấp ở hiên phòng, Tống Giang khẽ gọi ghé tai mà bảo thầm rằng:

– Anh ra cửa sau mở cửa cho quân sĩ mang cỏ khô chất vào trong và bảo Tiết Vĩnh đem lửa đốt lên, rồi đến cửa nhà Hoàng Văn Bính kêu lên rằng:

– “Nhà quan nhân bên kia bị cháy, cho đem các đồ vật sang gửi” Để họ mở cửa ra, rồi ta có cách.

Tống Giang lại bảo các vị hảo hán chia làm hai đầu để coi giữ.

Bấy giờ Hầu Kiện đến mở cửa vườn sau, cho quân sĩ đem cỏ vất vào, tìm lửa đưa cho Tiết Vĩnh đốt. Đoạn rồi Hầu Kiện chạy lẻn ra đập cửa sau nhà Hoàng Văn Bính mà nói lên rằng:

– Nhà quan nhân bên kia bị cháy, có ít đồ đạc, cho đem sang để nhờ, xin mở cửa ra cho mau…

Trong nhà nghe thấy tiếng gọi, vội vàng trở dậy, liền trông sang bên cạnh vách thấy lửa sáng rực trời, liền hất hải mở cửa đi vào. Bọn Tiều Cái, Tống Giang thừa thế kéo ùa vào, rồi ai nấy ra tay chém giết, thấy người nào vào là trừ ngay người ấy, bốn năm mươi người lớn nhỏ trong nhà Hoàng Văn Bính, không còn sống sót một ai, chỉ còn sống sót Hoàng Văn Bính tìm không thấy. Các vị hảo hán liền thu thập các đồ hòm siểng gia tài cùng các đồ kim ngân bảo vật, là của khoét hại dân gian khi trước, mà kêu báo hiệu nhau lên thành.

Đương khi ngọn lửa mới nổi, thì bọn Thạch Dũng, Đỗ Thiên rút dao ra giết chết người lính canh cửa, rồi thấy dân sự nhao nhao bảo nhau đi ra lấy khao lấy thanh để đến chữa cháy. Thạch Dũng, Đỗ Thiên bèn quát lên bảo rằng:

– Chúng bay đi về ngay nhà không có việc chi mà lại chạy ra đó.

Tụi dân chúng thấy vậy, có kẻ còn đương nghi ngờ, thì bỗng thấy Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đương múa đôi đại phủ mà hăng hái xông vào; Bấy giờ ai nấy kinh sợ bảo nhau vác khí giới mà chạy trốn hết cả. Mặt thành đằng sau, cũng có mấy tên lính vác câu liêm, mỏ mác ra để cứu lửa, song bị Hoa Vinh bắn chết một người đi đầu, còn thì bị Lý Quỳ thét đuổi, rồi kéo nhau chạy trốn cả.

Khi đó Tiết Vĩnh lại đem lửa đến châm trước đốt sau, đốt hết cả nhà Hoàng Văn Bính, lửa cháy dần dật sáng một góc trời, như ban ngày vậy. Lý Quỳ đuổi hết lính rồi, quay ra giơ đại phủ chém đứt then sắt, phá tung cửa thành cho một nửa bọn người đi ra, còn một nửa thì trèo thành mà ra. Khi ra tới ngoài, đã thấy ba anh em họ Nguyễn và Trương Hoành, Đồng Uy, Đồng Mãnh, đều tới nơi tiếp ứng, để đem các đồ vật mà xếp xuống thuyền.

Bấy giờ mọi người ở Vô Vi Quân, đều biết tiếng bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc đã đánh cướp pháp trường và giết quan quân ở đất Giang Châu không biết đâu mà kể, bởi vậy anh nào cũng xanh mặt chùn gan, nấp vào một xó mà không dám theo đuổi lôi thôi. Còn bọn Tống Giang tuy đã đốt hại được nhà Hoàng Văn Bính, song hiện chưa bắt được chính kẻ oan cừu là Hoàng Văn Bính thì trong lòng còn căm tức chưa yên, mà đành phải xuống thuyền kéo về gia trang họ Mục.

Nói về quan lính thành Giang Châu, trông thấy bên thành Vô Vi bị cháy, thì vội vàng vào báo cho Tri Phủ biết. Bấy giờ Hoàng Văn Bính còn đương ngồi bàn việc cùng Tri Phủ ở trong nhà, bỗng nghe tin báo như vậy thì hoang mang bẩm với Tri Phủ rằng:

– Nếu làng tôi bị cháy, thì tôi phải xin phép về ngay mới được.

Tri Phủ nghe nói, cũng vội vội vàng vàng sai mở cổng thành, rồi sai bắt một chiếc thuyền quan để đưa tiễn về. Hoàng Văn Bính bái tạ Tri Phủ, hất hải đem người xuống thuyền, giục ra sức chèo mau, để về Vô Vi Quân.

Đi được một quãng, thấy lửa càng ngày càng lớn sáng cả góc trời, bọn lái đò bảo nhau rằng:

– Ngọn lửa kia ở vào bên bắc thành Vô Vi đó.

Hoàng Văn Bính nghe nói trong lòng càng nóng nẩy sổi nổi, thúc giục đi mau về xem. Khi đến giữa sông có một chiếc thuyền nhỏ, kẽo kẹt chèo qua trên mặt nước, rồi một lát lại thấy chiếc thuyền con nữa chèo đến.

Bất đồ khi chiếc thuyền gần tới nơi, thì đâm chạm vào chiếc thuyền quan, bọn lái đò bèn quát lên rằng:

– Thuyền bè ở đâu, sao lại chèo chở cập quạng thế?

Vừa nói dứt lời thì có anh chàng to lớn, tay cầm gậy móc đứng bên thuyền kia, mà đáp lên rằng:

– Cháy ở đâu thế?

Đại hán kia nói rằng:

– Nhà Hoàng Văn Bính ở cửa Bắc, bị bọn hảo hán Lương Sơn Bạc, giết hết người nhà, cướp hết của cải, rồi đốt cả nhà ở đó.

Hoàng Văn Bính nghe vậy, kinh hoảng cả người, vội buột mồm kêu lên rằng:

– Khổ chưa!

Đại hán kia nghe tiếng kêu, liền vất móc ra níu thuyền quan, rồi nhảy tót sang thuyền, Hoàng Văn Bính nhân trí khôn, vội vàng quay chạy lại sau thuyền, mà nhảy tòm xuống nước. Chợt đâu thấy ai ở dưới nước nhô lên, nắm chặt lấy lưng Hoàng Văn Bính mà kéo bỏ lên thuyền. Đại hán ở trên thuyền thấy vậy liền quay lại tiếp bắt, rồi đem Hoàng Văn Bính trói ghi hắn lại.

Nguyên người lặn xuống dưới nước đó là Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận, còn người cầm gậy móc trên thuyền ấy là Hỗn Giang Long Lý Tuấn. Khi đó bọn lái đò trong thuyền quan, thấy hai người hùng dũng như vậy, thì kinh hoàng sợ hãi, chỉ cúi đầu xuống mà kêu lạy xin tha.

Lý Tuấn liền bảo rằng:

– Ta không giết các ngươi làm chi. Đây ta chỉ bắt Hoàng Văn Bính mà thôi, các ngươi mau đi về, bảo với thằng đầu lừa là thằng Xài Tri Phủ ở Giang Châu rằng: Chúng ta là hảo hán Lương Sơn Bạc, hãy gởi cái đầu lừa ấy đấy, rồi nay mai ta đến lấy nghe chưa?

Bọn lái đò run lên cầm cập vâng lời răm rắp. Lý Tuấn, Trương Thuận bắt Hoàng Văn Bính lôi sang thuyền mình cho thuyền quan chèo đi rồi cũng cùng chèo mà đưa nhau về Mục Gia Trang.

Khi về tới bến, đã thấy các vị Đầu Lĩnh đứng đợi trên bờ, mà mang cả hòm tiền nong lên đó. Bọn hảo hán thấy nói là bắt được Hoàng Văn Bính, thì ai nấy đều hớn hở vui mà nói lên rằng:

– Ta đương muốn giáp mặt người ấy, để hỏi mấy câu đây.

Lý Tuấn, Trương Thuận giải Hoàng Văn Bính lên bờ, cho mọi người xem mặt, rồi cùng nhau kéo vào Mục Gia Trang. Bấy giờ Chu Quý, Tống Vạn tiếp mọi người vào trong thảo sảnh, rồi Tống Giang sai đem Hoàng Văn Bính lên, lột hết cả quần áo ướt, trói ra ngoài gốc cây dương liễu, đoạn rồi các vị Đầu Lĩnh theo thứ tự mà ngồi.

Tống Giang lấy rượu ra uống mừng, trên Tiều Cái dưới đến Bạch Thắng, tất cả hơm ba mươi vị hảo hán, đều cất chén cui mừng suốt lượt.

Khi uống rượu xong, Tống Giang trỏ vào mặt Hoàng Văn Bính mà rằng:

– Đồ khốn nạn, ta với người xưa nay có điều gì thù oán, mà ngươi nỡ tâm tàn hại, đôi ba phen xui giục Xài Tri Phủ, để giết hại chúng ta là nghĩa lý gì? Ngươi đã đọc sách thánh hiền, sao còn chứa lòng hung ác, làm những sự tàn nhẫn đê bèn như thế? Ta có giết cha mẹ nhà ngươi đâu mà ngươi nỡ giết ta? Anh ngươi là Hoàng Văn Hoa với người cùng một mẹ sinh ra, sao ông ta từ thiện như thế kia, khiến được khắp thành ai cũng xưng là Hoàng Diện Phật, đêm nay ta cũng không hề dám động đến nhà ông ta. Đến như ngươi thì toàn thị ỷ quyền ỷ thế, hãm hại lương dân, mà làm cho đám tham quan, nên người quen đó ai cũng gọi như là Nọc ong vàng. Vậy ngày nay ta bắt được đây, thì ta hãy nhổ hộ cái nọc ấy đi xem sao?

Hoàng Văn Bính nói rằng:

– Tôi đây biết tội đã nhiều, chỉ xin một chết là xong.

Tiều Cái nói rằng:

– Nếu mầy biết tội, thì mày không dám làm như thế.

Tống Giang liền hỏi rằng:

– Trong anh em ai ra hạ thủ cho ta?

Nói vừa dứt lời, thì Lý Quỳ nhảy lên đáp rằng:

– Tôi xin hạ thủ, để tôi xem thịt nó có béo, thì đem nướng mà đánh chén.

Tiều Cái khen phải mà rằng:

– Dao nhọn và lò lửa đây cắt ra từng miếng thịt mà nhắm rượu, cho hả lòng hiền đệ ta.

Đoạn rồi Lý Quỳ vác con dao nhọn, đến trước mặt Hoàng Văn Bính, cười mà nói rằng:

– Thằng này mọi khi hay nấp ở xó nhà Xài Tri Phủ, hay nói chuyện thay đen đổi trắng. Chàng cắt mãi hết thịt đùi rồi, mới mổ bụng moi gan, để lên các vị Đầu Lĩnh làm thang tỉnh rượu.

Khi các vị giết xong Hoàng Văn Bính, liền cùng nhau vào thảo đường để mừng rỡ Tống Giang. Bấy giờ Tống Giang quỳ xuống đất trước các vị Đầu Lĩnh cũng vội vàng quỳ xuống, mà đồng thanh hỏi rằng:

– Ca Ca có việc gì, xin cứ nói cho chúng tôi nghe?

Tống Giang nói rằng:

– Tống Giang tôi là kẻ bất tài, thủa nhỏ học nghề làm lại bước ra đời đã chăm chăm kết giao với các vị hảo hán anh tài, song chỉ vì chí hèn sức kém, mà không sao cho được thỏa dạ bình sinh. Mới đây bị đầy sang đất Giang Châu, Tiều Đầu Lĩnh và các vị hào kiệt đã hết lòng giữ lại, duy Tống Giang nhân vì kính giữ lời cha, nên không dám dấn thân vào nơi phi pháp. Song cũng may, vì đó mà qua bến Tầm Dương lại gặp được biết bao nhiêu hào kiệt, trong lòng thực vui vẻ khôn cùng. Ngờ đâu sau lại vì con say rượu nói càn, để suýt lụy đến tính mạng Đới Viện Trưởng ở đây, tội ấy tưởng không bao giờ thoát được. Nay may có các vị anh em không vì cơn nguy hiểm, xông pha vào nơi miệng rắn hang hùm, mà cố sức cứu toàn tính mệnh, và báo được oan cừu, ân đức thực không kém chi trời bể, song ngày nay đã làm nên tội ác, giết hại hai chốn châu thành, việc ấy tất nhiên thân tấu triều đình, mà lôi thôi lắm chuyện. Vậy ngày nay Tống Giang dẫu không muốn nương tựa các vị Ca Ca ở trên núi Lương Sơn Bạc, cũng không còn trốn tránh đi cho được, song không biết ý kiến các vị mới đây nghĩ sao? Nếu có đồng ý như vậy, thì lập tức thu thập để đi, bằng không cũng xin tùy ý, kẻo nấn ná ở đây, sợ khi lỡ sự ra thì…Vừa nói đến đó, thì thấy Lý Quỳ nhảy lên mà kêu rằng:

– Đi tất cả…Đi tất cả…Ai không đi theo, thì xin tặng một nhát búa của ta là xong.

Tống Giang nói:

– Lý Quỳ thô mãng quá, việc này phải hỏi ý kiến tất cả anh em, có bằng lòng mới được.

Chúng nghe nói, liền bàn với nhau rằng:

– Bây giờ đã giết hại bao nhiêu quan quân nhân mã, quấy rồi cả hai chốn kinh thành, tất nhiên họ phải tâu với triều đình mà đem quân truy nã, nếu vậy không theo huynh trưởng mà đồng sinh đồng tử với nhau, thì cũng không còn trốn đâu cho được.

Tống Giang nghe vậy cả mừng mà bái tạ mọi người. Đoạn rồi cho Chu Quý, Tống Vạn trở về báo cho sơn trại biết trước, rồi các vị hảo hán chia làm năm đội mà kéo đi sau: Đội thứ nhất: Tiều Cái, Tống Giang, Hoa Vinh, Lý Quỳ, Đới Tung, đội thứ nhì: Lưu Đường, Đỗ Thiên, Thạch Dũng, Tiết Vĩnh, Hầu Kiện; đội thứ ba: Lý Tuấn, Đồng Mãnh; đội thứ tư: Hoàng Tín, Trương Thuận, Trương Hoành, cùng ba anh em họ Nguyễn. Đội thứ năm: Mục Hoằng, Mục Xuân, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Bạch Thắng. Tất cả năm đội hai mươi tám vị Đầu Lĩnh, đem hơn một nghìn người, cùng các tài vật lấy ở nhà Hoàng Văn Bính mà xếp vào xe mang đi.

Mục Hoằng dẫn Mục Thái Công, cùng các người nhà xếp hết tài vật châu báu lên xe; người nào không muốn theo, thì cho tiền đi tìm chủ khác, còn người nào muốn theo, đều cho nhập vào một bọn, bốn đội trước thứ tự đi trước, rồi Mục Hoằng thu thập xong đâu vào đấy, cho mồi lửa đốt hết trang viện, bỏ hết ruộng đất, mà kéo nhau lên núi Lương Sơn.

Bấy giờ năm đội lục tục tiến đi, mỗi đội cách nhau ước chừng hai mươi dặm đất. Đội thứ nhất, Tiều Cái, Tống Giang, Hoa Vinh, Đới Tung, Lý Quỳ, cưỡi năm con ngựa, dẫn xe cộ cùng người đi theo.

Đi được ba ngày đường, đến một nơi gọi là Hoàng Môn Sơn, Tống Giang ngồi trên mình ngựa bảo với Tiều Cái rằng:

– Tòa núi này nom hình thế cổ quái lắm, tất là có bọn giặc cướp ở đây, vậy ta nên cho người đi thúc nhân mã bốn đội sau lên đây, rồi sẽ cùng đi một thể.

Vừa nói dứt lời, thì thấy trên góc núi trước mặt, có tiếng thanh la ấm ỹ cả lên, Tống Giang lại nói rằng:

– Đó! Có sai đâu, ta hãy thong thả đợi bọn sau lên, rồi sẽ đánh cho nó một mẻ.

Nói đoạn Hoa Vinh cầm cung ra tay, Đới Tung cầm đao lớn, Lý Quỳ cầm đôi đại phủ, vây quanh Tống Giang để cùng xốc ngựa đi lên. Đi được mấy bước, thấy bên góc núi có bốn vị hảo hán, dẫn bốn năm trăm tiểu lâu la, cầm các đồ binh khí xông ra mà quát lên rằng:

– Lũ ngươi quấy rối đất Giang Châu đánh Vô Vi Quân, giết hại biết bao nhiêu quan quân dân chúng, lại toan về núi Lương Sơn. Bốn anh em ta đợi đã lâu, có biết phép ra cứ để Tống Giang lại đó; thì ta tha tất cả cho mà đi.

Tống Giang nghe nói, liền xông ra nhảy xuống ngựa, quỳ xuống đất mà nói rằng:

– Tôi là Tống Giang bị người ta vu oan hãm hại, không biết kêu nói vào đâu, may được hào kiệt bốn phương có lòng thương, mà cứu cho toàn tính mệnh, nay qua đây không biết là nơi nào, lỡ xúc phạm đến bốn vị anh hùng, vậy xin bốn ngài đón tay làm phúc, tha cho một chút thân tàn, thực là vạn phúc.

Bốn vị hảo hán kia nghe Tống Giang nói, liền nhảy xuống ngựa, vất bỏ quân khí ra, rồi chạy lại quỳ xuống đất mà rằng:

– Bốn anh em chúng tôi, chỉ được nghe tiếng Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh, mà không sao cho được gặp mặt? Nay nói Ca Ca ở đất Giang Châu bị hãm hại, anh em chúng tôi đã bàn nhau toan kéo đến phá nhục để cứu Ca Ca, song không biết có đích thực hay không, nên chưa dám động. Mới đây sai tiểu lâu la đi đến Giang Châu thám thính, mới biết đã có các vị hảo hán đánh cướp pháp trường, làm cho náo động đất Giang Châu, mà cứu Ca Ca về trấn Yết Dương, và đốt giết nhà Hoàng Thông Phán ở Vô Vi Quân, rồi sắp sửa kéo về đại trại. Nhân vậy chúng tôi đoán chắc thế nào Ca Ca cũng qua đến lối này, nên phải hỏi kỹ càng cho đích xác, rồi mới dám nói ra như thế, dám xincc thứ lỗi cho. Nay may được Ca Ca qua tới chốn này xin mời Ca Ca vào chơi tiểu trại, gọi là dâng chén rượu tiếp phong, và xin đón các vị hảo hán cùng quá chân vào đó, rồi sẽ khởi trình…

Tống Giang cả mừng, rồi đứng dậy đỡ bốn vị hảo hán lên; mà hỏi họ tên. Người thứ nhất họ Âu tên Bằng, tự là Vân Kim Xí; quê ở Hoàng Châu, vốn coi quân bộ ở Đại giàn khi trước, sau nhân trái ý với quan trên, mà phải bỏ trốn vào nơi rừng núi; Người thứ hai họ Tưởng tên Kính, vốn người Hồ Nam, ở đất Đàm Châu, nguyên là tay cử tử xuất thân, sau vì thi cử không đỗ, liền bỏ văn sang võ, theo họ lược thao, tinh giỏi tính toán võ nghệ không kém ai, binh pháp cũng hơi thạo, nhân thế người ta thường gọi là Thần Toán Tư (tính toán như Thần): Còn người thứ ba họ Mã tên Lân, quê ở Kim Lăng, Kiến Khang, là một tay nhàn lãng xuất thân, thổi thiết địch hay, múa đại đao giỏi, mấy trăm người cũng không ai dám đến gần, nhân thế người ta đặt là Thiết Địch Tiên; Người thứ tư họ Đào tên Tôn Vượng, quê ở Quảng Châu, vốn xưa là người điền hộ, khiến cây thiết tiêu rất khỏe, múa lân đao cũng giỏi, người ta thường gọi là Cửu Vĩ Quy (rùa chín đuôi).

Bấy giờ bốn vị hảo hán đón tiếp Tống Giang, hai tiểu lâu la đem một bầu rượu, hai mâm thịt và một khay qủa ra, để nâng chén tiếp phong. Trước hết mời Tiều Cái, Tống Giang, sau mời Hoa Vinh, Đới Tung, sau đến Lý Quỳ, và cùng thi lễ chào nhau.

Được một lát đội quân mã thứ hai kéo đến, bốn vị hảo hán lại mời uống rượu, rồi đón cả lên núi. Đoạn rồi sai mổ trâu giết ngựa làm tiệc, và cho đón các vị hảo hán ở ba đội đi sau, cùng lên núi dự tiệc.

Trưa hôm ấy các vị đã tề tựu, cùng nhau ngồi uống rượu ở trên Tụ Nghĩa Sảnh núi Hoàng Môn. Sau Tống Giang nói với mọi người rằng:

– Phen này Tống Giang lên Lương Sơn Bạc nương nhờ Tiều Thiên Vương Ca Ca, vậy chả hay bốn vị hảo hán có thể bỏ đất này mà cùng đi đến đó được không?

Bốn tay hảo hán đồng thanh đáp rằng:

– Nếu hai vị nghĩa sĩ có lòng yêu đến cho theo, thì chúng tôi tình nguyện đi hầu dưới trướng.

Tống Giang, Tiều Cái cả mừng nói rằng:

– Bốn ngài đã nghĩ đến đại nghĩa mà bằng lòng như vậy, thì xin mau mau thu thập đi ngay mới được.

Nói đoạn lại cùng nhau rượu chè vui vẻ mà ở đó một đêm.

Sáng hôm sau, bọn Tống Giang Tiều Cái lại chia làm năm đội lục tục ra đi, còn bốn vị hảo hán ở Hoàng Môn Sơn cũng thu thập tài bạch kim ngân, kiểm điểm bốn năm trăm lâu la, rồi đốt bỏ sơn trại mà đi vào đội thứ sáu.

Tống Giang thấy được bốn tay hảo hán quy phục thì trong lòng lấy làm mừng rỡ, vừa đi vừa nói chuyện với Tiều Cái rằng:

– Tiểu đệ từ khi ngang dọc giang hồ, dẫu bị bao phen kinh sợ, song cũng may mà kết giao được bao nhiêu hảo hán ở trên đời, như thế thực là thỏa lòng quá đỗi. Phen này cùng lên sơn trại với Ca Ca, tất phải đồng tâm hiệp lực, mà sống chết có nhau, thì sau này mới khỏi phụ cái công giang hồ chìm nổi mà khỏi thẹn với đời…

Tiều Cái nghe nói, cũng lấy làm vui mừng, rồi hai người chuyện trò với nhau, mà gần tới sơn trại lúc nào cũng không biết.

Các vị Đầu Lĩnh coi trại ở Lương Sơn Bạc là Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, cùng hai người Đầu Lĩnh mới là Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện, khi thấy Chu Quý, Tống Vạn về báo tin, thì hàng ngày lại sai tiểu Đầu Mục chở thuyền ra hàng rượu của Chu Quý để đón tiếp.

Ngày hôm ấy các đội đi đến nơi, liền xuống thuyền vào bến Kim Sa, rồi lên ngựa, đi về đại trại. Khi tới Đại Quan đã thấy bọn sáu người Ngô Học Cứu đem rượu ra tiếp phong, rồi cùng đi vào Tụ Nghĩa Sảnh.

Vào tới nơi, đã thấy bàn ghế chỉnh tề, khói hương nghi ngút tại Tụ Nghĩa Sảnh, Tiều Cái liền mời Tống Giang làm chủ sơn trại, để ngồi vào ghế giữa.

Tống Giang khiêm tốn không nhận mà rằng:

– Tống Giang tôi đã nhờ các vị có lòng thương, mà cứu cho thoát nạn, vậy chức Chủ trại đây, nguyên là Ca Ca phải giữ, có lẽ nào lại nhượng cho tôi? Nếu Ca Ca không ưng thuận mà cố nhường cho thì đệ xin chết trước cho xong, không bao giờ lại dám mang tâm như thế!

Tiều Cái không nghe mà nói rằng:

– Hiền đệ bất tất như thế? Hồi trước nếu không có hiền đệ ra tay gánh vác mà cứu cho bảy anh em chúng tôi, thì còn đâu có được ngày nay, vậy ngôi Chủ trại ở đây hiền đệ không có thể nhường lại cho ai được nữa…

Tống Giang lại nói rằng:

– Nói về niên sỉ, thì nhân huynh hơn Tống Giang đây mươi tuổi, vậy Tống Giang ngồi đó, chẳng hóa ra hổ thẹn lắm sao.

Nói xong liền cố nhường Tiều Cái ngồi vào ghế thứ nhất, tự mình ngồi ghế thứ hai, và để Ngô Học Cưú ngồi ghế thứ ba, Công Tôn Thắng ngồi ghế thứ tư. Đoạn rồi Tống Giang nói với mọi người rằng:

Bây giờ chưa phân công lai trên dưới, vậy các Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc ngày trước, xin cứ ngồi bên hữu, còn các vị Đầu Lĩnh mới đến sau, xin ngồi về phía bên tả, đến khi có công cán thế nào; sẽ phân định thứ tự về sau.

Chúng nghe nói đều vâng lời ngồi chia ra hai bên. Dãy bên tả có Lâm Xung, Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đỗ Thiên, Tống Vạn; Chu Quý. Dãy bên hữu thì các vị Đầu Lĩnh tính tuổi cao thấp, rồi suy nhượng với nhau mà ngồi. Thoạt đầu Hoa Vinh ngồi trên, rồi đến Tần Minh, Hoàng Tín, Đới Tung, Lý Quỳ, Lý Tuấn, Mục Hoằng, Trương Hoành, Trương Thuận, Yến Thuận, Lã Phương, Quách Thịnh, Tiêu Nhượng, Vương Nụy Hổ, Tiết Vĩnh, Kim Đại Kiện, Mục Xuân, Lý Lập, Âu Bằng, Tưởng Kính, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Mã Lân, Thạch Dũng, Hầu Kiện, Trịnh Thiên Thọ, Đào Tôn Vượng cùng ngồi một hàng. Hai bên cộng tất cả hai mươi bốn vị hảo hán, đều hớn hở, vui mừng, mở cờ dóng trống, cùng ngồi uống rượu với nhau.

Bấy giờ Tống Giang lại đem chuyện mình kể cho các vị Đầu Lĩnh nghe mà nói rằng;

– Việc tôi chẳng qua vì tên Hoàng Văn Bính, vẽ hươu vẽ vượn, tán nghĩa mấy câu ca dao,mà bảo với tên Xài Tri Phủ là hai câu dưới, ứng vào độ số tôi là loạn ở đất Sơn Đông, rồi xui Tri Phủ tiền trảm hậu tấu, nên mới như thế. Nếu không có anh em nhiệt tâm mau cứu cho thì còn khi nào được trông thấy Lương Sơn Bạc mà bàn định công việc sau này nữa.

Lý Quỳ nghe nói, vội nhảy lên mà nói rằng:

– Phải đấy, Ca Ca chính là hợp ý trời đấy. Nay dẫu bị chút khó nhọc, song thằng giặc già Hoàng Văn Bính tôi đã giết, thực là khoái lắm! Túng sử cho chúng tôi có ít quân mã, chúng tôi làm phản chơi cũng được, đã sao? Khi đó Tiều Cái Ca Ca làm Đại Tống Hoàng Đế, Tống Giang Ca Ca làm Tiểu Tống Hoàng Đế, Ngô Dụng Tiên Sinh làm thừa Tướng, Công Tôn Đạo Nhân làm Quốc sư, còn chúng tôi đều làm Tướng Quân; kéo binh mã thẳng vào kinh sư mà cướp lấy đế vị, chẳng thú lắm hay sao? Như thế há không hơn ở vũng nước này?

Đới Tung nghe nói quát lên rằng:

– Thiết Ngưu làm chi mà nói thoắng lên thế? Nay ngươi đến đây, không thể còn giữ tính nết như ở Giang Châu được, phải nghe hiệu lệnh của các vị Đầu Lĩnh Ca Ca, không được nói càn nói dỡ…Nếu còn nói luôn, là hãy cắt đầu làm lệnh, để răn người sau đó.

Lý Quỳ tắc lưỡi mà rằng:

– Chết nỗi! Nếu cắt đầu tôi, thì bao giờ lại mọc được cái đầu lớn như thế nữa? Đã vậy tôi chỉ uống rượu thì thôi, chứ làm gì?

Các vị hảo hán đều vỗ tay cười ầm cả lên.

Tống Giang lại tiếp luôn đến chuyện cự địch quan quân mà rằng:

– Khi trước tôi mới nghe nói, đã hơi kinh sợ, ai ngờ ngày nay quả nhiên lại đến lần tôi ở đây…

Ngô Dụng nói:

– Nếu trước huynh trưởng nghe lời anh em mà ở lại sơn trại đây, thì có phải lã đỡ được bao nhiêu sự rắc rối; Cái đó cũng là số trời đã định, không thế hẳn cũng không xong.

Tống Giang lại hỏi:

– Hoàng An bây giờ ở đâu?

Tiều Cái nói:

– Ông ta đến đây được vài ba tháng thì bị bệnh chết ngay.

Tống Giang nghe nói, lấy làm thương tiếc vô cùng. Ngày hôm ấy các vị Đầu Lĩnh uống rượu với nhau, đến khi tận hưởng mới thôi.

Tiều Cái lại xếp đặt cho Mục Thái Công và gia quyến họ Mục ở vào một nơi, rồi đem cả tài vật lấy ở nhà Hoàng Văn Bính, mà thưởng cho các bọn lâu la. Đoạn rồi đem hòm châu báu của Xài Tri Phủ ngày trước trao trả cho Đới Viện Trưởng.

Đới Tung nhất định không chịu nhận, bèn cho chứa vào kho, để trữ làm công của sơn trại. Tiều Cái lại bắt tiểu lâu la lên bái kiến bọn Đầu Lĩnh mới, rồi nhất diện giết trâu dê, ăn mừng luôn trong mấy hôm trời, và nhất diện sửa sang phòng ốc trước sau, để các vị Đầu Lĩnh ở, cùng là sức cho lâu la chỉnh bị thành quách rất là cẩn thận.

Cách ba hôm sau, một bữa Tống Giang đương ngồi dự tiệc bỗng dưng ra nét mặt lo nghĩ, rồi đứng dậy nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:

– Tống Giang tôi còn có việc này, muốn xin phép anh em đi trong mấy hôm, không biết rằng các vị có ưng thuận cho không?

Các Đầu Lĩnh nghe nói đều ngạc nhiên, không hiểu việc chi, àm cùng xúm nhau vào để hỏi…

Mới hay:

Xương tan máu đẫm Giang Thành,

Đoái trông ngọn sóng bất bình còn đâu?

Trăm năm trong cuộc bể dâu,

Tử sinh vinh nhục cùng nhau mấy người,

Tiếng thơm ai để trên đời,

Có chăng riêng bạn anh tài biết cho…

Rồi đây ngang dọc giang hồ,

Anh hùng gây dựng cơ đồ khó chi!

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi trên tả Ngô Dụng cướp pháp trường Giang Châu, đều gọi mọi người trao cho một kế, đến khi cướp pháp trường, mới đột nhiên nảy ra bốn hạng người; Hồi này tả Tống Giang đánh thành Vô Vi Quân, lại đem bí quyết nói ra, không giấu nửa lời hay một chút, đều là đặc biệt khác nhau, các nhà văn đều có phép, đã tỉnh càng làm cho tỉnh, đã tăng lại phải cho tăng, đã tả Tống Giang định kế rõ ràng, lại tả từng người y kế, nếu không tả ra, chỉ nói một câu, khi đã tả ra lại nói mấy lần, đó là đặc biệt khác với tục bút. Không thể không biết cho ra.

Một việc đánh thành Vô Vi Quân, đã ở trong định kế rõ rệt, rồi sau mới chép rõ ra, chỉ nói ra nhiều chữ “Thấy” đếm cho đủ số người mà thôi; Ví như khéo đánh cờ, thế trận bầy ra đấy, rồi chỉ thấy dùng một con hai con, đánh cướp từng chỗ, khiến cho toàn cục phải biến động theo, văn chương như thế, mới là diệu bút.

Tả Tống Giang bấy lâu từng nói ra mồm, theo lời cha dặn: Thà chết không làm nghề lạc thảo, thế mà trước kia, đã thu thập lũ tám người, Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Hồ, Lã Phương, Quách Trịnh, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Thạch Dũng, nhặt lại đem về sơn trại, đến lúc này lại thu thâoh mười sáu người, Đới Tung, Lý Quỳ, Trương Hoành, Trương Thuận, Lý Tuấn, Lý Lập, Mục Hoằng, Mục Xuân, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Tiết Vĩnh, Hầu Kiện, Âu Bằng, Tưởng Kính, Mã Lân, Đào Tôn Vượng, nhặt lại đem về sơn trại. Hai bên đều chép lớn ra cho rõ trung gian kế sảo. Đó là pháp của Sử Gia án mà không quyết đoán vậy. Tả Tống Giang dùng những quyền trá, lại tiếp tả ngay Lý Quỳ nói thẳng lời thô, độc giả thấy Lý Quỳ thô trực, cho rõ Tống Giang quyền trá ngõ hầu nhận thấy ra.

Tả Tống Giang khi tới Lương Sơn, đã vội đổi thay phép cũ, theo ý của mình làm mới, đã áp ngầm mọi người, lấn rõ Tiều Cái, lộ chân tướng con người, không ngờ trong việc bút mực, có sức làm ra như thế.

Hồi 41: Hoàn đạo đồn, nhận ba quyền thiên thư – Tống Công Minh gặp Cửu Thiên Huyền Nữ

Khi đó Tống Giang nói với các vị hảo hán rằng:

– Tôi nhờ được anh em cứu vớt lên đây, mấy ngày nay yến ẩm nhàn dung thực là vui vẻ. Song còn một nỗi phụ thân xa cách, không biết ở nhà sự thể ra sao? Nhất lỡ mà phủ Giang Châu tâu với kinh sư, rồi sức giấy ra để bắt, thì tất nhiên nguy hiểm đến phụ thân. Vậy ngày nay tôi xin trở về cố quận, đón lão thân lên cùng ở đây, thì trong lòng mới khỏi áy náy. Việc đó chẳng hay anh em có cho phép thế chăng?

Tiều Cái nghe nói đáp rằng:

– Việc đó là một điều nhân luân rất trọng lẽ đâu dám giữ hiền đệ ở đây vui thú một mình, mà để riêng cho lão thân khổ sở? Song vì nỗi mấy hôm nay anh em khó nhọc, người ngựa trong trị chưa được nghỉ ngơi, vậy xin hãy hoãn lại trong hai hôm nữa, sẽ điểm quân mã đem về để đón, thì có lẽ tiện hơn…

Tống Giang nói:

– Nhân huynh dạy, hãy khoan trong mấy hôm nữa, kể cũng là phải, song chỉ e nay mai có giấy sức đến nơi, thì trong nhà rất nguy hiểm. Vậy việc này không thể nào để chậm lại được, và cũng không phải cần đem quân mã làm chi, chỉ một mình Tống Giang tôi lẻn về cố quận, cùng với Tống Thanh đưa lão thân lên đây, như thế thì mới im lặng mà không ai biết được. Bằng nay lại kéo nhau ầm ầm đến đó, thì tất nhiên náo động đến dân làng, mà không khéo lại xảy ra lắm điều không tiện, cũng nên…

– Đành vậy, nhưng lỡ khi hiền đệ xảy ra chuyện gì ở giữa đường, thì lấy ai cứu được?

Tống Giang quả quyết mà rằng:

– Vì bằng có gì việc phụ thân mà chết, thì còn có hối hận làm chi?

Nói đoạn nhất định xin đi, bọn Tiều Cái không giữ lại được, đành phải để mặc cho tùy ý. Bấy giờ Tống Giang ăn uống xong, liền đội nón dắt dao, cầm thanh gậy ngắn, rồi từ giã các vị mà đi xuống núi. Các vị Đầu Lĩnh cũng đưa chân ra tới bến Kim Sa rồi mới trở về.

Một mình Tống Giang xuống thuyền, ra đến hàng rượu Chu Quý, rồi xăm xăm lên đường cái, mà theo lối trở về Vận Thành.

Sông Ngô bể Sở tung hoành.

Phần du muôn dặm sinh thành bao công?

Sao cho phụ tử trùng phùng,

Giang san này hội vầy vùng thiếu chi?

Một buổi sớm kia, Tống Giang đã về đến Tống Gia Thôn, không dám đường đột vào ngay gia trang, đành phải tạm lánh một nơi, đợi đến tối mới trở về thăm hỏi. Khi đến cửa, chàng gõ mấy tiếng, thì thấy Tống Thanh chạy ra đón tiếp.

Tống Thanh có vẻ ngạc nhiên hỏi rằng:

– Sao Ca Ca lại dám về đây như thế?

Tống Giang đáp rằng:

– Ta về để đón gia phụ cùng em đi đây.

– Chết nỗi! Công việc Ca Ca làm ở Giang Châu đã lừng lẫy cả lên, quan Huyện nay đương phái hai tên Đô Đầu họ Triệu; cứ hằng ngày đến canh giữ ở đây, chỉ đợi công văn ở Giang Châu đến, là bắt cả phụ thân cùng em mà cho vào ngục cả, rồi sau sẽ lùng bắt Ca Ca. Hiện bây giờ ngày nào cũng có hơn trăm thổ binh đến vây bọc xung quanh, Ca Ca phải đi tìm ngay bọn Lương Sơn về, mà cứu lấy cha em mới được.

Tống Giang nghe nói giật mình kinh sợ, không dám bước chân vào nhà, vội vàng lại phải quay đi, mà theo đường về Lương Sơn Bạc.

Đêm hôm ấy trăng sáng mờ mờ, đường đi không rõ, một mình Tống Giang hết sức mải miết tìm lối vắng vẻ mà rảo đi cho chóng.

Đi được hơn một trống canh, thì chợt thấy đằng sau có tiếng reo hò ầm ĩ cả lên. Tống Giang lấy làm kinh lạ, quay đầu lại nom, thấy cách một hai dặm đường sau, có một lũ đóm đuốc đi theo, miệng kêu lên:

– Tống Giang đừng chạy nữa.

Tống Giang nghe vậy, vừa mải miết chạy, vừa nói thầm trong bụng rằng:

– Chỉ vì ta không nghe lời Tiều Cái, nên quả nhiên họa hoạn đến nơi…Trăm lạy Hoàng Thiên, cứu cho Tống Giang thoát nạn.

Chàng vừa chạy vừa trông, được một lát thì bỗng thấy mây mù tan tác…Hiện ra một bóng Hằng Nga, chói lọi, rồi lần lần đi đến một thôn, tục gọi là thôn Hoàng Đạo, thôn này trước sau toàn thị non cao, xung quanh có nước, khoảng giữa có một con đường đi thẳng vào thôn, không còn lối nào rẽ đi được. Tống Giang nhận biết đường đó khó đi, đã toan quay đi trở lại, song đã thấy bọn kia ồ ập lối ngoài, mà soi đuốc soi đóm sáng như ban ngày vậy. Chàng thấy thế lại rảo bước mau vào trong thôn để trốn tránh.

Khi đi qua một khu rừng, thấy có một tòa cổ miếu ở đó, chàng liền lất tay đẩy cửa đi vào, tìm đến đằng sau điện mà định ẩn thân ở đó. Chàng trông trước trông sau, thấy địa thế không thể nào ẩn được, trong bụng còn đương hoảng hốt kinh hoàng, thì đã thấy phía ngoài có tiếng nói lên rằng:

– Chỉ ở trong miếu này thôi.

Tống Giang nghe nói cuống cả người lên, định tìm chỗ nấp mà không chỗ nào nấp được. Chợt trông thấy trên điện có một chỗ gác con con, làm bàn thờ ơ ûđó chàng liền sờ tay vén màn thờ, nhẩy tót lên dựng gậy vào một xó, rồi ngồi thu gọn lỏn vào đó mà run lên cầm cập.

Bấy giờ ánh sáng ở ngoài, đã dần dần đi vào tới nơi chàng bèn ngó cổ ra xem, thì thấy Triệu Năng, Triệu Đắc dẫn bốn năm mươi người cầm đóm đuốc đi vào soi xét các nơi. Khi soi gần đến trên điện, thì Tống Giang vừa run vừa nói một mình rằng:

– Phen này tất ta nguy hiểm mất…Xin thần minh phù hộ cho tôi…Lạy thần minh phù hộ cho tôi…Trăm lạy thần minh phù hộ cho tôi.

Được một lát chúng soi quanh quẩn không thấy gì, liền lướt qua mà không soi vào bàn thờ nữa.

Bấy giờ Tống Giang mới hơi vững dạ khỏi run, mà nói rằng:

– Thực là trời thương!

Vừa nói đó, thì Triệu Năng, Triệu Đắc lại đi vào, cầm đóm đuốc đi đến bàn thờ để soi, Tống Giang thấy vậy lại run lêm cầm cập, như là sắp chết đến nơi. Triệu Đắc một tay cầm bó đuốc, một tay cầm thanh đao, gẩy bàn thờ để soi. Dè đâu khói lửa bốc lên, làm cho bụi bặm ở trên rơi xuống, rơi ngay vào giữa mắt Triệu Đắc, chàng ta liền nhắm mắt lại, mà vất ngay bó đuốc xuống đất, đạp dọi tắt đi, mà chạy ra ngoài cửa điện.

Khi ra tới cửa, Triệu Đắc bảo với bọn thổ binh rằng:

– Thằng cha ấy không có ở trong miếu, mà đây cũng không có lối cửa đi vào, không biết rằng nó trốn đi đâu cho được?

Bọn thổ binh nói:

– Chắc có lẽ nó chạy vào đám rừng kia hẳn; Nhưng ở đấy thì cũng khó lòng tẩu thoát được. Cả thôn chỉ có một con đường ra vào, trong tuy có núi cao rừng lớn, song cũng hết đường mà lên…Đô Đầu cứ giữ riết ngoài cửa thôn, cho hắn ta có cánh, cũng khó lòng bay đâu cho thoát…Chỉ sáng mai là thế nào ta cũng lùng bắt được.

Triệu Năng, Triệu Đắc khen phải, liền dẫn tụi thổ binh ra đi.

Bấy giờ Tống Giang lại đỡ run sợ nói một mình rằng:

– Hú vía! Thực là thần minh đã phù hộ cho ta, sau này được toàn sự nghiệp, ta sẽ sửa lại miếu, tô lại tượng.

Nói chưa dứt lời, thì lại thấy tên thổ binh kêu lên rằng:

– Đô đầu lại mà xem, trên cửa miếu có in hai vết bàn tay vào bụi, tất nhiên là hắn mới đẩy cửa đi vào trong miếu đây.

Triệu Năng nghe nói, vội vàng đến xem, rồi lại dẫn người vào miếu để tìm, Tống Giang thấy vậy, lại run lên như cầy sấy, chắc rằng cái chết đến nơi, chúng vào đến miếu tìm trước sau, trông trên trông dưới, chỉ còn thiếu nước lật gạch lên là cùng. Khi soi đến trên điện, Triệu Năng bảo với chúng rằng:

– Chỉ còn chỗ bàn thờ lúc nãy xem chưa kỹ, để tôi tìm lại lượt nữa xem sao?

Nói đoạn một tên thổ binh cầm đóm giơ lên, Triệu Năng kéo màn ra, rồi năm bảy người ngó cổ lên để nom…

Vừa khi chúng nom vào, bỗng thấy một trận ác phong thổi tắt bó lửa rồi thấy hắc khí vây kín quanh miếu, giáp mặt cũng không trông rõ được nhau, Triệu Năng kêu lên rằng:

– Quái lại! Sao lại có trận ác phong bất thình lình như vậy? Cái này chắc là thần linh trách giận ta, sao được nom dòm vào đó hẳn? Thôi chúng ta ra canh giữ cửa thôn, để sáng mai sẽ tìm cũng được.

– Chỉ còn chỗ bàn thờ chưa tìm được kỹ, hay là ta xỉa giáo vào xem có gì không?

Triệu Năng khen phải, rồi hai người toan quay lại để xỉa giáo vào xem. Dè đâu lại nghe thấy đằng xa sau điện, bỗng nổi một trận quái phong, ném tung cát đá, làm cho một tòa cổ miếu như là chuyển động ầm ầm, rồi thấy mây đen mờ mịt bao bọc xung quanh, khiến người đứng đó ai cũng sởn gai đứng tóc, mà kinh sợ vô cùng.

Triệu Năng biết sự bất thường, liền gọi Triệu Đắc mà bảo rằng;

– Thôi Thần Minh có ý không bằng lòng, chúng ta đi đi thôi.

Nói đoạn anh nào anh nấy vội vàng cướp lối mà chạy ra. Bấy giờ bọn thổ binh mải chạy đến nỗi vấp ngã, sướt da toạc thịt, mà vẫn phải gắng gượng để đi. Khi ra đến cửa miếu, bỗng nghe thấy phía trong có tiếng người kêu ầm lên rằng:

– Tha cho chúng tôi.

Triệu Năng nghe tiếng kêu, vội chạy vào xem, thấy ba bốn tên ngã lăn ở sân miếu, rễ cây quấn cả lấy áo xống, rồi tay cầm dao tay bứt áo miệng kêu van, mà vẫn không sao dậy được.

Tống Giang ngồi trong bàn thờ nghe thấy vậy, cũng lấy làm quái lạ, mà vừa run vừa nhịn cười không được. Triệu Năng thấy chúng như vậy, phải vội vàng cởi áo cho mấy đứa thổ binh ấy mà dắt ra.

Sau có mấy đứa thổ binh đi trước nói với chúng rằng;

– Tôi vẫn bảo ở đây thiêng lắm, các anh không nghe cứ làm liều làm lĩnh, để thiệt hại đến thân… !

Bây giờ cứ ra ngoài cửa thôn mà canh giữ thì hơn, nó trốn đi đâu cho được mà sợ?

Triệu Năng, Triệu Đắc lấy làm phải, bèn dẫn chúng ra cửa thôn để đón. Bấy giờ Tống Giang lại hơi hơi tỉnh hồn, mà nói lẩm bẩm rằng:

– Nhờ thần thánh không bị họ bắt được bây giờ, nhưng biết làm thế nào mà ra khỏi cửa thôn này được?

Chàng đương nghĩ ngợi vẩn vơ; thì chợt nghe thấy dưới miếu có người đi ra, chàng lại run lên bấn bật mà kêu khổ một mình. Đoạn rồi liếc mắt trông ra thấy hai Thanh Y Đồng Tử đi thẳng vào dưới bàn thờ nói lên rằng:

– Tiểu đồng vâng pháp chỉ Nương Nương, mời Tinh chủ đến nói chuyện.

Tống Giang ngồi lặng ngắt; không dám nói năng chi cả.

Hai Đồng Tử ở ngoại lại nói luôn rằng:

– Nương Nương cho mời, xin Tinh Chủ đi ngay cho…

Tống Giang cứ lặng yên không dám đáp.

Đồng Tử lại nói:

– Xin Tinh Chủ chớ chậm trễ, Nương Nương đợi đã lâu rồi.

Tống Giang bấy giờ mới nghe rõ, không phải là tiếng đàn ông, chàng liền chui ở trong ngầm ngai ra, rồi nom xuống dưới, thì thấy hai người Thanh Y Nữ Tử, đương đứng chực ở bên giường thờ ở dưới, chàng thấy vậy cả kinh, nom kỹ thì té là hai pho tượng đất ở đó.

Chợt lại thấy có tiếng thỏ thẻ nói rằng:

– Dám thưa Tốâng Tinh Chủ, Nương Nương tôi xin mời vào nói chuyện.

Tống Giang cả gan vén màn nom rõ ra ngoài, lại thấy hai người nữ Đồng búi tóc áo xanh, vái chào cúi rạp mình xuống, chàng liền hỏi rằng:

– Hai vị tiên đồng ở đâu đến đây?

Nữ Đồng nói:

– Chúng tôi vâng pháp chỉ Nương Nương, đón mời Tinh Chủ vào cung.

Tống Giang đáp rằng:

– Tiên Đồng lầm rồi, tôi đây họ Tống tên Giang, có phải là Tinh Chủ nào đâu?

– Không, không phải là chúng tôi lầm, xin Tinh Chủ đi ngay cho, Nương Nương đợi đây đã lâu rồi.

– Nương Nương nào? Tôi có được bái kiến bao giờ mà dám đến?

– Xin Tinh Chủ cứ đến đó, rồi sẽ biết, bất tất ngài phải hỏi…

– Nương Nương ở đâu?

– Hiện ở trong cung sau kia.

Nói đoạn liền thúc giục Tống Giang mà dẫn đi, Tống Giang xuống điện đi theo, tới một cơi cánh cửa ở trước bức tường sau điện, thì hai tên Thanh Y trỏ bảo Tống Giang rằng:

– Xin Tinh Chủ cứ lối này mà đi.

Tống Giang bước ra khỏi cửa, thấy trăng sao sáng quắc, gió thoảng mùi hương, bốn mặt toàn là cây xanh cảnh tốt, khác hẳn trần gian. Chàng thấy vậy tự nghĩ trong bụng: Nếu ta biết được rằng có chỗ này, thì đến ngay đây mà ẩn nấp, có lẽ khỏi bị những sự lôi thôi như lúc nãy.

Chàng vừa đi vừa xem, thấy hai bên trồng toàn thông lớn quá ôm. ở giữa có một con đường mai rùa rộng rãi. Được một lát đi bộ hơn dặm đường, bỗng nghe thấy tiếng nước khe róc rách, rồi thấy có một tòa cầu đá xanh hiện ra trước mặt. Hai bên cầu có lan can đỏ, trên bờ trồng toàn hoa tươi cỏ lạ, trúc đẹp tùng xanh, cùng các giống liễu rất đẹp. Dưới khe có ngọn nước trắng như tuyết, ở trong động chảy ra, trông càng ngoạn mục vô cùng? Khi qua cầu thấy hai bên trồng toàn cây lạ. Phía giữa có cửa chắn song, Tống Giang đi vào cửa chắn song, ngẩng nom xem thấy cung điện nguy nga, thì tự nghĩ một mình, quái lạ! Ta đã ở đất Vận Thành, xưa nay chưa từng nghe nói, trong có chỗ này bao giờ? Chàng nghĩ vậy, thì trong lòng nghi hoặc, không dám bước chân đi.

Thanh Y lại thúc giục mà rằng:

– Xin mời Tinh Chủ cứ đi luôn vào.

Nói đoạn lại dẫn chàng vào trước sân Rồng, Tống Giang nom quanh thấy hai bên hành lang, toàn cột sơn son đỏ chói. Chính giữa có tòa điện lớn đèn nến sáùng choang như ban ngày vậy.

Thanh Y dẫn vào qua sân Rồng, đi lên Nguyệt Đài, thì chợt nghe có mấy người Thanh Y trên thềm điện nó rằng:

– Nương Nương có lệnh mời, xin Tinh Chủ lên ngay.

Tống Giang vào đến điện lớn, nghe trong mình sợ hãi, đứng sởn tóc gáy, mà trông dưới thềm toàn thị vẽ Rồng, sơn Phượïng, lạ mắt vô cùng. Chợt thấy Thanh Y vào trong rèm tâu rằng:

– Chúng tôi vâng lệnh đi đón Tống Tinh Chủ đã về đây.

Tống Giang đến trước rèm liền cúi mình trước sập ngự lạy chào hai lạy, rồi phủ phục nói rằng:

– Chúng tôi là kẻ hạ dân mê muội, không được biết uy thánh thượng, xin ngài lấy lượng Trời bể mà nhủ thương cho.

Nói đoạn thì thấy trong rèm truyền chỉ ra rằng:

– Mời Tinh Chủ hãy ngồi.

Tống Giang nghe nói, không dám cất đầu lên, sau thấy sai bốn người Thanh Y nâng dậy, mà mời ngồi lên đôn gấm. Tống Giang vâng lời, miễn cưỡng ngồi xuống đôn. Đoạn nghe tiếng cuốn rèm lên, bọn Thanh Y liền quấn rèm vắt lên trên móc vàng, rồi thấy Nương Nương hỏi lên rằng:

– Tinh Chủ lâu nay có được an khang không?

Tống Giang nghe hỏi, vội đứng dậy vái lạy mà rằng:

– Chúng tôi là kẻ dân thứ, đấu dám ngửa liếc Thánh Dung…

Nương Nương lại nói lên rằng:

– Tinh Chủ đã đến đây, bất tất phải quá khiêm như vậy.

Bấy giờ Tống Giang nghe nói, mới chịu ngẩng đầu lên trông, thấy trên điện chạm vàng lóng lánh, pha lẫn ánh đèn Long Phượng sáng choang, hai bên Thanh Y nữ đồng cầm hốt bưng khuê, cùng cầm cờ quạt đứng hầu, chính giữa kê giường thất bảo cửu long, Nương Nương mình mặc áo tơ vàng thêu đỏ, tay cầm Bạch Ngọc Khuê Chương, mắt sáng thiên nhiên, mặt tiên chính đại, ngồi trên giường, bảo Thanh Y rót rượu đem mời Tống Giang. Bọn Thanh Y Nữ Đồng vâng lời đem bình rượu ra rót vào chén, rồi một người nữ đồng lớn nhất bưng ra để mời.

Tống Giang đứng dậy đỡ lấy chén rượu rồi quỳ xuống mà uống một hơi. Bấy giờ nghe chừng hơi rượu thơm Tiêu Ha xông bốc khắp cả người không khác gì lễ hồ gội đầu, cam lộ rưới ruột vậy. Lại có một người Thanh Y bưng mâm táo tiên lên mời. Tống Giang run run sợ sợ, e khi lỡ làng vô lễ, bèn rón rén cất lấy một quả để ăn, rồi giữ cái hạt táo ở trong tay. Thanh Y Nữ Đồng lại rót chén rượu nữa đẻ mời, Tống Giang nâng lấy uống một hơi hết, rồi Nương Nương lại truyền lệnh mời luôn chén nữa, Tống Giang uống hết chén rượu thứ ba, rồi Thanh Y lại đưa mâm táo xuống mời, chàng lại cất lấy hai quả táo nữa mà ăn.

Khi ăn uống xong, Tống Giang nghe trong người nong nóng, phảng phất có hơi rượu, chàng vội vàng sợ có điều thất lễ, liền đứng dậy vái mà nói rằng:

– Kẻ thần hạ không uống được rượu, xin Nương Nương tha phép cho.

Nương Nương nghe nói truyền rằng:

– Tinh Chủ không xơi được rượu thì thôi, không dám miễn cưỡng làm chi. Thanh Y đây? Lấy ba quyển Thiên Thư đưa cho Tinh Chủ.

Thanh Y vâng lời, liền quay vào trong bình phong bưng ra một cái mâm, một bệ vóc vàng, ba quyển Thiên Thư, mà đưa cho Tống Giang, Tống Giang giơ tay nâng lấy, trông chừng quyển sách bề dài độ năm tấc, bề rộng độ ba tấc, song không dám mở xem, bèn đứng dậy lạy nhận mà bỏ vào trong bọc.

Nương Nương phán bảo với Tống Giang rằng:

– Tống Tinh Chủ ơi! Ta truyền cho ngươi ba cuốn Thiên Thư này, ngươi khá thay trời làm Đạo, làm chúa phải hết lòng trung nghĩa, làm tôi phải hết sức yêu dân, bỏ đường tà theo đường chính, chớ nên xao nhãng sai lầm mới được.

Tống Giang cúi lạy vâng lời, Nương Nương lại phán rằng:

– Đức Ngọc Hoàng nhận thấy Tinh Chủ chưa dứt lòng ma, chưa tu trọn Đạo, nên tạm phạt xuống nơi trần thế, không bao lâu lại được trở về Tiên Cung. Vậy Tinh Chủ chớ nên đổi dạ thay lòng, mà lỡ ra tội xuống Phong Đô, thì ta đây cũng khó lòng cứu nổi. Ba cuốn sách này phải xem cho kỹ, mà thuộc cho kỹ, chỉ nên cùng với sao Thiên Cơ mà xem, còn không thể cho người nào khác xem được. Khi công việc xong tất phải đốt đi, chớ để làm chi ở nơi trần thế, ngững lời ta dặn, phải nhớ chớ quên. Hiện nay tiên phàm đôi ngả không thể ở lâu, vận ngươi nên mau mau trở về, rồi sau đây lầu ngọc cửa vàng, tất lại có phần hậu hội…

Nói đoạn sai Đồng Nữ kíp dẫn Tống Giang về, Tống Giang lạy Nương Nương, rồi theo chân lũ Thanh Y Nữ Đồng, mà đi ra ngoài điện.

Khi đi qua cửa chấn song, ra đến bên cầu đá, Thanh Y bảo với Tống Giang rằng:

– Vừa rồi Tinh Chủ bị cơn nguy hiểm, nếu không có Nương Nương bảo hộ, thì tất là bị bắt…Sáng ngày mai thì Tinh Chủ khắc được thoát nạn ấy ngay. Kìa Tinh Chủ nom dưới cầu có hai con Rồng đùa giỡn với nhau kìa.

Tống Giang đứng tựa lan can, quay xuống khe xem, quả thấy hai con Rồng đương lượn đùa dưới nước, rất là lạ mắt xưa nay. Chàng đương xem ngắn ngẩn ngơ, bỗng bị Thanh Y đẩy ngã xuống nước, rồi kêu lên một tiếng, đập đầu phải cạnh bàn thờ, mà mở mắt ra nom thì là giấc mộng.

Bấy giờ Tống Giang ngó cổ nom ra. Thấy bóng trăng đương sáng, trời đêm chừng canh ba, bàn tay chàng vẫn có ba hạt táo, mà trong bọc cũng có ba quyển Thiên Thư, mùi rượu thơm tho vẫn còn trong miệng, thực là một sự quái kỳ, không biết ra sâo mà đoán được?

Chàng nghĩ quanh nghĩ quẩn một mình:

– Rõ là mộng mà không phải mộng, những lời dặn dò vẫn nhớ không quên, Thiên Thư còn đây, hột táo còn đó, sao lại cho là mộng được! Nếu không phải là mộng thì rõ ràng ta vẫn ở đây sao lại thấy cung điện lâu đài như thế? Cái đó chẳng hay thần thánh thiêng liêng mà ứng hiện cho ta được biết đấy chăng?

Nghĩ đoạn liền mở màn cho sáng để xem, thì thấy trên ngai Cửu Long có một bức tượng Nương Nương không khác cho người lúc nẫy. Chàng lại tưởng tượng:

– Nương Nương gọi ta là Tinh Chủ, có lẽ kiếp trước ta cũng không tầm thường hẳn? Ba quyển Thiên Thư cho ta, tất là có dụng, mà những lời dặn bảo ta vẫn nhớ không quên…Thanh Y Nữ Đồng lại bảo ta là sáng mai thoát nạn, vậy bây giờ sắp sáng, ta thử đi ra xem sao?

Chàng nghĩ vậy liền vớ lấy thanh gậy, rũ sạch áo xống, rồi nhẩy xuống điện đi theo lối tả lang, mà ra ngoài cửa miếu. Bấy giờ ngẩn nom thấy có biển để khắc bốn chữ vàng “Miếu Bà Huyền Nữ”, thì giơ tay lên trán mà rằng:

– Té ra là miếu Cửu Thiên Huyền Nữ Nương Nương ở đây. Người đã truyền cho ta ba cuốn Thiên Thư, mà cứu được tính mệnh cho ta, sau này, dù có mở mặt với đời, tất xin sửa lại miếu điện để tạ ơn tế độ từ bi mới được…

Nói xong liền xăm xăm tìm lối đi ra cửa thôn. Đi khỏi mới được mấy bước, bỗng nghe thấy đằng xa có tiếng ầm ầm vang động, chàng liền đứng dừng lại mà rằng:

– Nếu ta ra đấy tất nhiên bị họ bắt được, vậy chi bằng nấp ở bên cạnh đường rồi sau sẽ liệu.

Chàng nghĩ vậy bèn lẻn vào sau gốc cây bên đường để nấp. Vừa khi ấy, mấy tên thổ binh chạy vội chạy vàng, ngã xiêu ngã vẹo, miệng kêu lên rằng:

– Xin thần thánh cứu vớt tôi với…

Tống Giang thấy vậy, nghĩ thầm rằng:

– Quái lạ! Chúng định đón ngoài cửa thôn để bắt ta, cớ sao lại nhẩy vào đây mà kêu lên như thế?

Vừa nghĩ vậy thì lại thấy Triệu Năng cũng lật đật chạy vào, miệng cũng kêu lên rằng:

– Xin thần thánh cứu mạng cho tôi.

Tống Giang lại nói lẩm bẩm một mình:

– Không biết chúng làm gì mà nói lên như thế? Nói đoạn đã thấy một đại hán sồng sộc ở ngoài đuổi vào. Đại hán này cởi trần trùng trục, bắp thịt nổi lên như bắp chuối, hai tay cầm hai đại phủ, miệng thét mắng ầm ầm:

– Những thằng ranh kia chạy đi đâu?

Tống Giang định tình nom lại, thì chính là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở đó. Chàng lại mơ mơ màng màng tưởng lại trong mộng, quanh quẩn không dám đi ra. Bấy giơ Triệu Năng chạy đến trước cửa miếu, vướng phải gốc cây thông, bị ngã xuống đất. Lý Quỳ liền sấn ngày vào, một chân dận lên xương sống, một tay giơ đại phủ lên để chém. Lý Quỳ vừa toan hạ tay xuống, thì thấy Âu Bằng, Đào Tôn Vượng, đều khoác nón cầm đao ở phía sau chạy đến, Lý Quỳ sợ hãi người chạy đến tranh công, liền giơ búa chém Triệu Năng một nhát xả làm đôi, rồi quay ra đuổi giết thổ binh, chạy giạt ra các ngả.

Tống Giang thấy vậy cũng chưa dám thò ra. Chợt lại thấy có ba hảo hán nữa, là Lưu Đường, Thạch Dũng và Lý Lập cùng xông đến mà đánh đuổi thổ binh. Khi thổ binh đuổi giết giặc gần hết mà sao không thấy Tống Giang, cả bọn đang ngơ ngác đi tìm, bỗng thấy Thạch Dũng kêu lên rằng:

– Ai đứng nấp đằng sau gốc cây kia?

Bấy giờ Tống Giang nghe nói mới dám thò mặt ra, nói với sáu người kia rằng:

– Xin cảm tạ anh em, đã có lòng thương mà cứu tính mạng cho tôi, không biết lấy chi đền báo?

Sáu tay hảo hán trông thấy Tống Giang, đều cả mừng mà nói rằng:

– Ca Ca đây rồi, phải đi báo cho Tiều Đầu Lĩnh biết…Mau….

Thạch Dũng, Lý Lập nghe nói liền quay đi báo. Tống Giang hỏi Lưu Đường rằng:

– Sao các bác biết tôi ở đây, mà đến để cứu?

Lưu Đường đáp rằng:

– Từ khi Ca Ca bước chân đi khỏi Lương Sơn, Tiều Đầu Lĩnh cùng Ngô Quân Sư lấy làm áy náy không yên, liền sai Đới Viện Trưởng lập tức đi theo để thám thính. Sau Tiều Đầu Lĩnh cũng không được yên tâm, lại đem chúng tôi đem quân đi tiếp ứng, chỉ sợ Ca Ca lỡ gặp không may, thì không lấy chi mà giúp đỡ. Khi chúng tôi đi đến nửa đường gặp Đới Tung nói rằng:

– “Có hai tên nào đem thổ binh đi đuổi Ca Ca” Bởi vậy Tiều Đầu Lĩnh cả giận, cho Đới Tung về sơn trại, chỉ để quân sư, Công Tôn Thắng tiên sinh, ba anh em họ Nguyễn, cùng Lã Phương, Quách Thịnh, Chu Quý, Bạch Thắng, ở lại coi trại, còn bao nhiêu anh em là phải đến đây để tìm Ca Ca cả. Tới đây thấy người ta nói là chúng đuổi Ca Ca vào trong thôn này để chẹn bắt. Nhân thế chúng tôi đã giết hết cả thổ binh canh giữ cửa thôn, chỉ còn sót mấy thằng vào đây, là Lý Ca đuổi giết đó thôi…

Vừa nói đến đó, thì đã thấy Thạch Dũng dẫn Tiều Cái, Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín, Tiết Vĩnh, Tương Kính, cùng Mã Lân đi đến. Một đằng Lý Lập dẫn Lý Tuấn, Mục Hoằng, Trương Thuận, Mục Xuân, Hầu Kiện, Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện, đến chào hỏi Tống Giang.

Tiều Cái bảo với Tống Giang rằng:

– Tôi đã bảo hiền đệ, không nên đi một mình; hiền đệ không nghe tôi nói, có phải suýt nữa thì nguy hiểm lắm không?

Tống Giang tạ ơn mọi người, rồi nói với Tiều Cái rằng:

– Tiểu đệ vì còn chút lão thân ở đó, cho nên mới dám mạo hiểm mà đi như vậy, xin nhân huynh cũng lượng tình xét cho.

Tiều Cái nói:

– Tôi xin nói tin này cho hiền đệ mừng: Hiện tôi đã sai Đới Tung đem Đỗ Thiên, Tống Vạn, Vương Nuy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Đồng Uy, Đồng Mãnh đi đón tôn nghiêm, và cả gia quyến đưa về sơn trại, bây giờ hiện đương ở đó rồi, không còn ngại điều chi nữa.

Tống Giang nghe nói cả mừng, lạy tạ Tiều Cái mà rằng:

– Nhân huynh rộng lòng ân đức như vậy, Tống Giang dẫu chết, cũng không còn chi hối hận…

Nói đoạn các vị Đầu Lĩnh cùng lên ngựa đi ra cửa thôn, mà kéo về sơn trại, Tống Giang ngồi trên mình ngựa, thường giơ tay lên trán, khấn trời đất tạ ơn Thần Minh, xin đến sau sẽ tới nơi trả nghĩa.

Khi về đến Lương Sơn Bạc, Ngô Học Cứu đem các Đầu Lĩnh ỏ trại ra bến Kim Sa, đón tiếp, rồi cùng vào Tụ Nghĩa Sảnh. Bấy giờ các vị Đầu Lĩnh chào hỏi xong rồi, Tống Giang liền nói với Tiều Cái, cho mời Tống Thái Công ra để hỏi chuyện.

Được một lát thấy Thiết Phiến Tử Tống Thanh đưa Thái Công ra đến cửa sảnh, rồi dắt xuống kiệu mà mời vào, Tống Giang trông thấy Thái Công thì vội vàng mừng rỡ, cúi lạy hai lạy mà nói rằng:

– Con là thằng bất hiếu, làm cho liên lụy đến cha, xin cha tha tội ấy cho…

Tống Thái Công bảo với Tống Giang rằng:

– Hai anh em thằng Triệu Năng, ngày nào cũng đem người coi giữ nhà ta, chỉ đợi công văn ở Giang Châu đến, là bắt bố con ta mà giải quan ngay. Hôm đó nghe thấy tiếng con gọi cửa ở đằng sau, thì đã có tám chín tên thổ binh chực ở thảo sảnh đằng trước…rồi không biết nó theo đi đâu?

Đến trống canh ba lại thấy hơn hai trăm người đến mở cửa trong, đem ta lên kiệu, rồi bảo với Tứ Lang thu thập hòm siểng, đốt bỏ gia trại mà đi. Đoạn rồi cứ kéo một mạch, cho thẳng đến đây, ta không còn kịp hỏi đầu đuôi chi cả.

Tống Giang đáp rằng:

– Hôm nay cha con mình được đoàn viên thấy mặt, toàn là nhờ ơn các vị anh em đây cả.

Nói đoạn gọi em là Tống Thanh ra để chào mừng các vị Đầu Lĩnh. Các vị Đầu Lĩnh đều đến lạy chào Tống Thái Công, rồi nhất diện sai giết trâu ngựa, để mừng cuộc đoàn viên cho nhà họ Tống. Trong mấy ngày trời, các vị Đầu Lĩnh cùng Tiều Cái lần lượt chúc mừng Tống Giang rất là vui vẻ.

Công Tôn Thắng thấy vậy, động lòng nhớ đến lão mẫu ở Kế Châu, bấy lâu xa cách, chưa biết tin tức ra sao, liền nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:

– Bần đạo nhờ ơn các vị hào kiệt lưu giữ ở đây, tình nghĩa anh em cũng không khác gì xương thịt. Song từ khi bần đạo theo Tiều Đầu Lĩnh đến nay, chỉ đam mê trong cuộc yên vui, mà chưa kịp về thăm lão mẫu, và lâu nay không được trở về hầu hạ tôn sư.Vậy phen này muốn xin phép các ngài cho bần đạo về nhà dăm tháng, rồi sau xin lại đến đây, để cho tấm lòng cố quốc tha hương khỏi chiều áy náy, chẳng hay các vị có ưng ý cho không?

Tiều Cái đáp rằng:

– Trước vẫn nghe tiên sinh nói chuyện, là còn có lệnh từ, mà dưới gối thiếu người phụng dưỡng, vậy ngày nay lẽ nào dám giữ tiên sinh. Xong hãy xin tiên sinh trọn cuộc vui mừng cho Tống Ca Ca, rồi sáng mai sẽ đi cũng được.

Công Tôn Thắng nghe nói tạ ơn Tiều Cái rồi cùng nhau lại yến ẩm một hôm, sáng sớm hôm sau, sức sơn trại bày tiệc ngoài cửa quan để tiễn chân Công Tôn Thắng. Công Tôn Thắng lại ăn mặc ra lối Vân Du Đạo Nhân, bụng thắt hầu bao lưng đeo đôi kiếm thư hùng, vai khoác nón lá, tay cầm cái quạt mai rùa, mà đi xuống núi.

Các vị Đầu Lĩnh ra ngoài cửa quan nâng chén tiễn hành suốt lượt, rồi Tiều Cái nói với Công Tôn Thắng rằng:

– Nhất diện tiên sinh đi phen này, chớ nên thâùt tín mới được. Lẽ ra chúng tôi cũng không để cho tiên sinh đi, song còn có lệnh từ ở nhà, nên không dám khiên lưu trở lại, vậy ngoài hạ trăm ngày, thì xin ngài lại dời gót tới đây, kẻo anh em mong đợi.

Công Tôn Thắng đáp rằng:

– Bần đạo được các vị hào kiệt quả yêu, lẽ nào lại dám thất tín cho đang; Vậy bần đạo xin về hỏi thăm mẹ già và yết kiến Chân Nhân, rồi thế nào cũng xin trở về sơn trại…

Tống Giang nói:

– Sao tiên sinh không mang một vài người đi, để đón cả lệnh từ lên đây, mà sớm khuya phụng dưỡng có hơn không?

Công Tôn Thắng cảm tạ mà rằng:

– Lão mẫu tôi sinh bình thích nơi thanh tĩnh, ở đây nhiều sự kinh nguy, nên không dám đón đến đây được. Vả chăng ở nhà có ruộng rừng nhà trại cũng đủ nói ấm thân già, vậy tôi xin về qua thăm viếng, rồi lại xin đến đây, cùng các ngài tụ nghĩa.

Tống Giang đáp rằng:

– Nếu như vậy xin tiến sinh sớm đến ngay cho mới được.

Nói đoạn Tiều Cái lấy ra một mâm vàng để tặng, Công Tôn Thắng từ chối mà rằng:

– Chúng tôi không cần chi lắm, chỉ xin đủ tiền hành lý mà thôi.

Tiều Cái nhất định không nghe, sai gói một nửa kim ngân cho Công Tôn Thắng, Công Tôn Thắng bất đắc dĩ vâng lĩnh, rồi bái biệt mọi người mà xuống thuyền ra bến, trông chừng thẳng trỏ Kế Châu.

Bấy giờ các vị Đầu Lĩnh đương sắp trở về sơn trại, thì bỗng thấy Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đứng dưới cửa quan mà khóc lên rưng rức, Tống Giang vội vàng hỏi rằng:

– Anh em có việc chi mà phiền não như vậy?

Lý Quỳ sùi sụt đáp rằng:

– Khổ quá cho tôi! Người thì mời bố đến đây, người thì trở về thăm mẹ, chỉ duy Thiết Ngưu này là một kẻ ở dưới đất chui lên mà thôi.

Tiều Cái thấy vậy, cũng xúm lại hỏi rằng:

– Vậy hiền đệ định những thế nào?

Lý Quỳ nói:

– Tôi chỉ có một mẹ già ở nhà, còn Ca Ca tôi thì đi làm thuê suốt ngày, lấy ai mà nuôi nấng trông nom cho được tử tế? Bây giờ tôi cũng muốn đón về đây, để cùng hưởng yên vui, nhưng không biết rằng có được chăng?

Tiều Cái đáp rằng:

– Hiền đệ nói phải lắm, để ta sai mấy người cùng đi với người thì mới được.

Tống Giang vội gạt đi rằng:

– Không được, Lý Quỳ vốn tính hục hặc xưa nay, nếu trở về cố hương, tất nhiên lại có điều sinh cự, mà sai người đi với hắn cũng không xong…Vả chăng hắn đã giết hại bao nhiêu người ở đất Giang Châu, ai mà không biết, hiện nay tất là Quan Tư sức giấy đi tầm nã khắp cả mọi nơi, và sức về nguyên quán để bắt, ngộ lỡ ra về đó người ta tóm được, thì bấy giờ sẽ xử trí ra sao? Việc đó phải đợi cho chuyện thực im lặng, rồi sẽ trở về đón rước, cũng chưa chậm gì mà sợ… !

Lý Quỳ nghe nói kêu lên mà rằng:

– Ca Ca xử thế không được công bằng lắm…Phụ thân Ca Ca còn biết đón lên đây để cùng khoái hoạt, còn mẹ tôi thì bắt để ở nhà cho khổ sở đói rét, như thế thì ức Thiết Ngưu này quá chừng…

Tống Giang đáp:

– Nếu hiền đệ quyết chí đòi đi, thì phải nghe ta ba điều này mới được…

Lý Quỳ vâng lời mà rằng:

– Thế nào xin Ca Ca cứ nói…Dẫu trăm điều tôi cũng vâng theo được cả…

Cho hay:

Ngổn ngang nỗi nước tình nhà,

Tắc lòng trung hiếu cũng là lòng trung,

Tử phần cách trở non sông,

Nỡ nào vui thú đỉnh chung cho đành;

Thế gian bao kẻ bạc tình,

Trông gương trước chẳng thẹn mình lắm ru?

Nam nhi chí ở giang hồ,

Sinh thành liệu phải đền bù ai ơi!

Lời bàn của Thánh Thán:

Thánh thán này cho rằng: Viết văn càng đến những chỗ khỏ tả ra bao nhiêu càng thấy cái tài của văn hào ngần ấy, vì rằng đến chỗ khó khăn mà tả được thoát ra, mới thấy cái khéo, mà bao nhiêu cái khéo ở đời, thường thấy nảy ra trong những cái khó khăn, tức hiểm tuyệt mới thấy diệu tuyệt, diệu tuyệt chỉ nảy ra trong hiểm tuyệt mà thôi.

Nay đọc một hồi Hoàng Đạo Thôn, thấy tả Tống Giang lẩn trốn, bọn quan binh lùng bắt mấy lần, trở ra lại trở vào hai ba lần, đoán rằng Tống Giang chỉ lẩn vào trong miếu, mà chưa tìm hết, thì chính phạm nhân ở trong miếu ấy thực, thế mà mỗi lần vào lại bị một trở ngại lạ lùng, rồi đến bỏ đi, không còn tin phạm nhân ở trong ấy nữa, Tống Giang mới trốn thoát sau này; Khiến ta thấy rằng cơ xếp đặt hóa công; đã nên kỳ tuyệt, có những cái biến bất ngờ, thì tài tử tạo ra văn, cũng phải khéo tả ra, nhưng một hóa công xếp đặt chuyện đời, mà người đời không tưởng tượng, mới có thể viết nên một áng kỳ văn.

Một đoạn văn tróc nã, khéo về khẩn cấp kinh hãi; một đoạn văn mộng được Thiên Thư, khéo về trang thần; một đoạn văn quần hùng tới cứu, lại khéo về kinh hãi khẩn trương, ba đoạn khác nhau bút pháp ly kỳ.

Sách này sau khi tả Tống Giang quyền bá, lại tả đến Lý Quỳ thành thực để phản chiếu rõ ra, sau khi Tống Giang đón cha thì Lý Quỳ đón mẹ, cùng một đạo con, cùng một chữ hiếu, suy ra thiên hạ ai cũng một lòng nghĩ đến cha mẹ như ai, còn Lý Quỳ muốn đón mẹ, thì lại gặp như sao? Ta nên nhận xét những lời Tống Giang bảo Lý Quỳ, khiến Lý Quỳ tức mà nói lại, xét trong văn tự, rõ Tống Giang không tốt, thì không ai mắng Tống Giang, không sấm sét nào đả đến Tống Giang, thiết tưởng Tống Giang cũng nên thẹn với lòng mình mà chết mới phải?

Trước đoạn văn Lý Quỳ đón mẹ, lại mượn Công Tôn Thắng về thăm mẹ để dẫn ra, khi Lý Quỳ thấy kẻ đón cha, trong cảnh khốn nguy, chưa dám nghĩ tới, sau thấy kẻ được về thăm mẹ, mới động tấm lòng, một tấm lòng thực Lý Quỳ lạn mạn, một vì Tống Giang dụng ý đón cha, chưa đủ động đến Lý Quỳ, sau thêm Công Tôn Thắng xin về thăm mẹ, mới động đến Lý Quỳ, mới thấy Tống Giang quyền bá vô dụng; Kinh Dịch nói: Trung Phù, ý rằng có đức tin, thì cảm động đến cả vật vô tri, Trung Phù,vốn vô vi, mà hóa hành cho cả thiên hạ, thì ra Tống Giang chỉ giả dối đối với thiên hạ, còn giảng đến đạo lớn làm sao, mà vẫn rằng: Thay Trời làm Đạo?

Tự mình đón cha, thì rằng dù chết cũng không oán; Kẻ khác đón mẹ, lại rằng lỡ gặp hại thì sao? Đức Thánh dạy rằng: Trung với thứ, khi đã không hết lòng với người, thì đến mình cũng chả thành thực; không ngờ lại có một thiên luận đạo rất hay này. Giống như Tỳ Quan chép sử.

Hồi 42: Thương mẫu thân, Lý Quỳ giết bốn hổ – Cứu đồng đảng, Chu Quý dốc một lòng

Bấy giờ Tống Giang bảo với Lý Quỳ rằng:

– Gia Trưởng đi đường bị trúng thử mà chết, phải báo vợ con đến để cứu – Nếu ngươi nhất định ra đi, thì phải nghe ta ba điều này; Một là từ nay đi qua đâu, ngươi không được uống rượu; Hai là tính ngươi nóng nảy xưa nay, tất không ai chịu cùng đi với ngươi, vậy ngươi phải chịu khó đi một mình cho được việc; Ba là hai cây đại phủ của ngươi, từ nay không được mang đi nữa. Đi đường ngươi phải cẩn thận giữ gìn, về mau mới được.

Lý Quỳ đáp rằng:

– Tưởng chi, chứ có ba việc ấy, thì làm gì không giữ nổi, xin xuống cứ yên tâm, để cho tôi đi ngay bây giờ cho chóng…

Nói xong liền lấy dao giắt vào bao, tay cầm một thanh đao lớn, lấy một đĩnh bạc lớn, và dăm ba lạng bạc lẻ, rồi uống mấy chén rượu từ tạ, mà chào các vị Đầu Lĩnh đi ra.

Tiều Cái, Tống Giang cùng mọi người tiễn chân ra bến Kim Sa, rồi trở về Đại Sảnh cùng ngồi nói chuyện với nhau.Tống Giang có ý lo ngại, mà nói với mọi người rằng:

– Lý Quỳ đi phen này, tất nhiên lại sinh sự, chứ không chơi, vậy trong đám anh em có ai là đồng hương với hắn, thì xin đi theo để dò la tin tức giúp cho?

Đỗ Thiên nói rằng:

– Đây có Chu Quý là người ở huyện Nghi Thủy ở đất Nghi Châu, có lẽ đồng châu với Lý Quỳ đó.

Tống Giang nghe nói kêu lên rằng:

– Chết nỗi! Thế mà tôi quên hẳn, khi ở Bạch Long Miếu, Lý Quỳ đã nhận Chu Quý là người đồng hương…Vậy cho tìm Chu Quý lên đây mới được.

Nói đoạn liền sai tiểu lâu la tửu điếm, để mời Chu Quý về trại. Khi Chu Quý về tới nơi, Tống Giang nói rằng:

– Nay Lý Quỳ về nhà đón mẹ, song vì hắn ta tính khí hung hăng, nên không muốn cho ai cùng đi với hắn. Nhưng ta e khi đi đường, hoặc có xảy ra việc gì bất lợi, vậy hiền đệ là người đồng hương, nên rảo qua về đó, để xem tin tức ra sao?

Chu Quý đáp rằng:

– Tiểu đệ là người ở huyện Nghi Thủy, có người em là Chu Phú mở tiệm rượu ở ngoài Tây Môn bản huyện, còn Lý Quỳ là người ở bên Đổng Miếu, thuộc về thôn Bách Trượng cùng huyện với tôi, có người anh là Lý Đạt vẫn đi làm thuê xưa nay, nhưng tính nết Lý Quỳ vẫn hục hặc tư thủa nhỏ, đánh chết người rồi lại trốn tránh giang hồ, cho nên không về nhà được? Nay Ca Ca sai tiểu đệ đi thám thính, thì lại càng tiện lắm, vì tiểu đệ cũng muốn về thăm anh em một thể, song còn ở dưới hàng, thì lấy ai trông coi cho được?

Tống Giang nói:

– Việc ấy sẽ có người, ta sẽ khắc cho Hầu Kiện, Thạch Dũng hãy thay đỡ mấy hôm, ngươi cứ đi ngay cho được việc.

Chu Quý vâng lời, bái biệt các vị Đầu Lĩnh, quay về tửu điếm trao hàng hóa cho Hầu Kiện, Thạch Dũng, rồi thu thập hành lý mà đi.

Từ đó Tống Giang lại cùng Tiều Cái hằng ngày ở trong trại đánh chén làm vui, rồi lại cùng Ngô Học Cứu, đem ba cuốn Thiên Thư ra để học tập với nhau.

Bây giờ nước thẳm non sâu,

Nợ xưa hồ sạch, đường sau còn dài…

Đem thân luyện với cơ trời,

Rồi ra chữ Mệnh, chữ Thời hỏi chi

Nói về Lý Quỳ từ khi lìa đất Lương Sơn, thẳng lối trở về Nghi Thủy. Đi đường cẩn thận không hề động chút men. Một hôm về tới đám người đứng túm đen túm đỏ, đương xem bản yết thị ở đó, Lý Quỳ chen vào để nghe, thấy có người đọc lên rằng:

– “Tên chính tặc thứ nhất, là Tống Giang, người huyện Vận Thành…Tên tùng đảng thứ nhì là Đới Tung; làm Lưỡng Viện Áp Ngục ở đất Giang Châu…Tên tùng đảng thứ ba là Lý Quỳ, người huyện Nghi Thủy, đất Nghi Châu… “

Lý Quỳ nghe thấy đương nóng ruột gan, chưa biết nghĩ ra thế nào, thì chợt có một người chạy đến ôm chặt sau ngang lưng mà bảo rằng:

– Trương Đại Ca làm gì ở đây?

Lý Quỳ nghe nói, vội quay lại nom, té ra là Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý ở đó, chàng liền hỏi rằng:

– Bác đến đây làm gì thế?

Chu Quý nói:

– Anh hãy ra đằng này tôi nói chuyện.

Nói xong hai người cùng chạy ra đến hàng rượu ở một thôn gần đó, rồi tìm vào một chỗ tĩnh mà nói chuyện với nhau.

Chu Quý trỏ vào Lý Quỳ mà bảo rằng:

– Anh quái! To gan thực, trên bảng người ta yết thị rõ ràng, thưởng một vạn quan, bắt được Tống Giang;và thưởng năm ngàn quan bắt được Đới Tung; và thưởng ba ngàn quan bắt được Lý Quỳ, thế mà anh dám lần vào đứng đấy xem…, lỡ ra có kẻ bắt được thì sao?

– Tống Công Minh Ca Ca sợ anh hay lôi thôi, nên không dám cho người cùng đi với anh, sau lại e anh đến đây, lỡ ra sinh sự thì khốn, nên mới cho tôi đi theo để dò thăm tin tức, vậy tôi đi sau anh một ngày mà sao anh bây giờ cũng mới đến đây?

Lý Quỳ đáp rằng:

– Vì Ca Ca dặn tôi không được uống rượu, cho nên mới đi chậm như thế! Nhà anh ở chỗ nào, sao anh lại biết chỗ hàng rượu này được?

– Hàng rượu này của người anh em tôi là Chu Phú đây, tôi vốn là người ở đất này, sau vì buôn bán thua lỗ, nên phải lên núi Lương Sơn, đến nay mới về quê thăm nhà một lượt.

Nói đoạn liền gọi Chu Phú ra chào Lý Quỳ, và sai người nhà làm rượu khỏan đãi.

Bấy giờ Lý Quỳ bảo với Chu Quý rằng:

– Ca Ca dặn tôi không được uống rượu, nhưng nay đã về đến đây rồi, thì uống rượu một vài chén cũng được chứ sao?

Chu Quý cũng chiều lòng, mà mặc cho Lý Quỳ uống rượu. Hôm đó Lý Quỳ ăn uống xong, bèn ở tửu điếm Chu Phú một tối, rồi tờ mờ sáng hôm sau trở dậy mà trở về làng.

Chu Quý dặn Lý Quỳ rằng:

– Bây giờ anh đừng đi đường tắt, cứ theo lối cây đa lớn, rồi rẽ sang bên đông, đi thẳng đường cái về ngay Bách Thượng Thôn, để đón mẫu thân mà về ngay sơn trại mới được.

Lý Quỳ đáp rằng:

– Tôi phải đi đường tắt cho chóng đến nhà, chứ hơi đâu mà đi đường cái cho tốn công.

– Đi đường tắt có nhiều cọp, lại thường có bọn cướp ở đó, đi sao cho tiện?

Lý Quỳ cả quyết mà rằng:

– Bác tính tôi đây còn sợ gì những giống ấy?

Nói đoạn liền khoác nón giắt dao, từ biệt Chu Phú cùng Chu Quý mà đi.

Đi được mươi dặm đường, thì trời vừa rạng sáng, chợt thấy một con thỏ trắng chạy qua trước mặt, Lý Quỳ liền ra sức đuổi riết, rồi cười nói rằng:

– Con quái này lại làm cho mình phải chạy một thôi đường thẳng.

Chàng nói xong lại rảo cẳng chạy mau, đến gần một chỗ có tới năm sáu mươi cây lớn, mọc chùm dúm vào với nhau, lá vàng đỏ ối cả lên. Chợt đâu thấy có một đại hán quát lên rằng:

– Anh nào đi đó, biết điều thì đưa tiền mãi lộ lại đây, không thì ta lột hết bây giờ?

Lý Quỳ nghe nói, ngẩng lên nom thì thấy người ấy đầu đội khăn mỏ rìu bằng lụa hồng, mình mặc áo vải ngắn, tay cầm đôi đại phủ, mặt bôi lọ lem như Quỷ vậy.

Chàng thấy vậy bèn quát lên rằng:

– Thằng này ở đâu, dám đến đây cướp bóc thế này?

Anh kia cười nhạt đáp rằng:

– Mày muốn nghe tên họ của ta, cho vỡ mật nát hồn hay sao? Lão gia đây chính là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đó…có khôn hồn, thì để tiền mãi lộ và hành lý lại đây, ta sẽ tha cho mà đi.

Lý Quỳ nghe vậy cả cười mà rằng:

– Thằng này gớm thực, mày là người ở đâu đến đây, mà dám mạo xưng tên họ lão gia để làm càn như thế?

Nói đoạn giơ dao lên, xông vào đánh anh kia, anh kia chống cự nhưng không nổi, vội đâm đầu để chạy, bất đồ bị Lý Quỳ chém cho một nhát vào trái chân, nằm lăn xuống đất.

Đoạn rồi Lý Quỳ lấy chân đạp lên bụng mà thét hỏi rằng:

– Đã biết lão gia hay chưa?

Anh kia biết thực là Lý Quỳ ở đó, liền kêu van lên rằng:

– Chúng tôi cũng họ Lý, nhưng thực sự không phải Hắc Toàn Phong, sau thấy Gia Gia là một người có tiếng trong đám giang hồ, hể nói đến tiếng Gia Gia là người phải sợ, mà Quỷ cũng phải khiếp; nhân thế chúng tôi học lỏm tên ngài để kiếm ăn cho tiện. Hễ khi nào có một người khách một đi qua đây, nghe thấy nói đến ba chữ Hắc Toàn Phong là họ phải bỏ hành lý mà chạy trốn ngay lập tức, không hề phải giết hại đến ai, còn chúng tôi đây tên là Lý Quỷ, người ở gần thôn đây…

Lý Quỳ quắc mắt thét lên rằng:

– Đồ gian tặc vô lễ này, dám ở đây cướp bóc làm xằng;học lối song phủ của ta để làm nhơ bẩn danh hiệu của ta…Nay ta gặp ngươi ở đây, hãy cho nếm một miếng búa của ta, cho mà biết phép.

Nói đoạn giơ tay cầm lấy cây song phủ toan chém giết Lý Quỷ. Lý Quỷ vội vàng năn nỉ mà kêu van lên rằng:

– Gia Gia ôi! Nếu Gia Gia giết tôi tức là giết cả hai người chúng tôi đó.

Lý Quỳ nghe nói, dừng tay lại mà hỏi rằng:

– Thế nào là giết cả hai người chúng mày?

– Bẩm Gia Gia! Nguyên con cũng không phải là nghề ăn cướp, song vì trong nhà còn mẹ già hơn chín mươi tuổi, không ai nuôi nấng trông nom, bởi thế con phải mượn tiếng Gia Gia, dọa nạt người ta để kiếm tiền đem về nuôi mẹ, chứ không có bụng nào giết hại đến ai. Nay nếu Gia Gia không thương tình mà chém chết con đây, thì mẹ con tất là chết đói, xin Gia Gia xét thương cho…

Lý Quỳ vốn là tay giết người không nháy mắt, song nghe thấy lời nói thảm thương như vậy, thì hơi động tấm lòng, mà tự nghĩ một mình rằng:

– Ta đây cốt về nhà để tìm thân mẫu, vậy mà ta lại giết mẹ người khác, thì trời đất nào chứng giám cho ta… Thôi, bất nhược tha cho nó làm phúc…

Nghĩ đoạn liền tha cho Lý Quỷ dậy, Lý Quỷ vội vàng tay cầm búa, mà cúi lạy ta Lý Quỳ.

Lý Quỳ bảo Lý Quỷ rằng:

– Ta tức là Hắc Toàn Phong đây, từ đây ngươi không được làm mất danh giá tên ta mới được.

Lý Quỷ đáp rằng:

– Con ngày nay được ngài tha thứ cho thế này, con xin về nhà xoay làm nghề khác, còn khi nào dám giả danh hiệu Gia Gia như thế nữa.

Lý Quỳ lại nói rằng:

– Ngươi đã có lòng hiếu thuận như thế, thì ta cho ngươi mười lạng bạc đây, đem về mà làm nghề khác kiếm ăn.

Nói xong lấy ra một đĩnh bạc mà đưa cho Lý Quỷ, Lý Quỷ lạy tạ rồi đi. Bấy giờ Lý Quỳ cười nói một mình rằng:

– Thằng quái thế! Vô phúc lại gặp ngay tay mình…Nhưng nói là người hiếu thuận như thế nếu mình giết nó, thì tất trái lòng trời đất…Phen này chắc nó phải tìm nghề khác kiếm ăn, chứ khi nào còn dám làm như thế nữa.

Chàng lẩm bẩm một mình, rồi lại vác dao theo con đường nhỏ bên cạnh núi mà đi. Chàng đi mãi đến gần trưa, nghe trong bụng vừa đói vừa khát, mà bốn mặt toàn thị non cao đường tắt, không có một hàng rượu nào để nghỉ. Đi một lát, chợt thấy ở khuỳnh núi phía trước, có một cái nhà nhỏ cỏn con ở đó, Lý Quỳ liền xăm xăm chạy vào đến nơi, thì có một người đàn bà môi son mặt phấn, mái tóc giắt một bông hoa, ở trong nhà chạy ra để hỏi.

Lý Quỳ dựng thanh đao xuống rồi nói rằng:

– Thưa nàng tôi đi lỡ đường qua đây, không có hàng quán nào để ăn uống, vậy xin đưa một ít tiền nàng làm ơn để cho tôi một ít cơm rượu, ăn uống qua loa cho đỡ đói…

Người đàn bà thấy tướng dạng Lý Quỳ hung ác thì không dám từ chối, liền đáp rằng:

– Nhà tôi đây không có rượu, ngài có xơi cơm, thì tôi xin thổi giúp ngài?

– Vâng, được lắm, tôi đương đói, thì xin nàng nấu nhiều nhiều vào cho.

– Nấu một thưng gạo có đủ không?

– Không được, cứ nấu cho tôi ba thưng.

Người đàn bà vâng lời, quay vào nhóm bếp lên, rồi lấy gạo ra vo ở khe suối mà đem về nấu.

Bấy giờ Lý Quỳ quay ra nẻo đằng sau để đi rửa, chợt thấy một đại hán xiêu xiêu vẹo vẹo, ở lối sau đi về. Đoạn rồi thấy người đàn bà đi ra cửa sau toan lên núi hái rau, khi mở cửa trông thấy đại hán kia thì hỏi rằng:

– Đại Ca đi đâu mà chân khấp khiễng thế?

Đại hán kia đáp rằng:

– Đại Tẩu ơi! Hôm nay suýt nữa thì nguy hiểm mất. Mình tưởng rằng vớ được món khách nào đi một mình thì bở, ai ngờ đợi mãi nửa tháng trời chẳng gặp được một ai…, mãi đến sáng hôm nay lớ đớ vớ được một người, tưởng là ai, chính là bố Hắc Toàn Phong đi đến. Mình vừa mới gặp hắn ta, bị hắn ta chém ngay một nhát nào cẳng, rồi toan giết ngay; Sau phải nói dối là nhà có mẹ già không ai nuôi nấng…Hắn tưởng thực mới tha cho, rồi lại cho mình một đĩnh bạc, mà dặn tìm nghề khác mà nuôi mẹ, đành phải nấp vào xó rừng ngủ một giấc, rồi bây giờ mới dám về đây.

Chị chàng kia nói rằng:

– Nói se sẽ chứ, vừa rồi có một đại hán đen béo đi vào nhà trong, nhờ tôi nấu cơm hộ đây kia…không khéo hắn ta đấy cũng nên? Bây giờ đương ngồi ở trước cửa đấy, thử chạy lên mà nom xem có phải không? Nếu phải hắn ta, thì đem bỏ thuốc mê vào rau cho hắn ăn, rồi hắn lăn queo ra đấy, là ta bóc lột lấy tiền tiêu, và đem xuống huyện nộp lấy tiền thưởng, để mà buôn bán với nhau, can chi mà phải ăn cướp thế này nữa!

Lý Quỳ nghe rõ những lời như vậy, thì tự nghĩ một mình rằng:

– Quân này gớm thực, mình tha không giết nó, lại cho nó một đĩnh bạc, thế mà nói lại đem tâm định hại mình…Thằng này thực là không thể nào mà dung được.

Nghĩ đoạn liền vội đi ra bên cạnh cửa sau. Chàng vừa đi đến nơi, thì vừa gặp Lý Quỳ toan bước ra cửa, chàng bèn nắm chặt lấy cánh tay, rồi vật lăn xuống đất. Mụ đàn bà thấy vậy, thì vội vàng chạy ra lối cửa sau mà trốn mất.

Lý Quỳ dằn Lý Quỷ xuống, tuốt dao nhọn dắt ở trong mình ra, cắt xọet lấy đầu, rồi quay lại tìm chị đàn bà. Khi ra tới ngoài không thấy chị đàn bà kia đâu nữa, chàng bèn quay vào trong, tìm thấy hai thúng, đựng mấy cái quần áo cũ, ở dưới có ít bạc vụn, mấy cái vòng cái thoa để đó. Lý Quỳ vớ lấy các cái ấy, rồi lại ra chỗ xác Lý Quỷ, lần lấy đĩnh bạc cho hắn lúc nãy, mà bọn vào khăn gói cẩn thận. Đoạn rồi lần đến bếp, thấy nồi cơm đã chín, không còn có một chút gì để làm thức ăn. Chàng dở cơm ra ăn mấy miếng, rồi nom ra cái xác chết mà cười nói rằng:

– Mình ngu xuẩn thực! Thịt bỏ đây kia, mà không ăn là nghĩa lý gì?

Nói đoạn liền xăm xăm vác dao ra cắt mấy miếng thịt đùi Lý Quỷ, lấy nước rửa sạch, rồi đem vào đống than lửa vừa nướng vừa ăn, ăn một lúc no nê rồi đem xác Lý Quỷ vất vào giữa nhà, mà châm một mồi lửa đốt lên, rồi đem dao khoác gói ra đi.

Khi về tới Đổng Miếu, mặt trời đã xế non tây, Lý Quỳ liền đi thẳng vào nhà, đẩy cửa bước vào, thấy mẹ già đã mù cả hai mắt, mà đương ngồi niệm Phật ở trên giường.

Người mẹ thấy tiếng kẹt cửa, bèn hỏi lên rằng:

– Ai vào đó?

Lý Quỳ chạy đến gần mà đáp rằng:

– Thưa mẹ thúng, đựng mấy cái quần a, Thiết Ngưu con đã về đây.

– Con ta đấy à? Con đi đâu lâu thế? Anh con ở nhà đi làm thuê mướn cũng chỉ đủ nuôi miệng, không lấy đâu được mà cung phụng cho mẹ tử tế…Mẹ thường thường lại nhớ đến con, khóc mãi thành ra hỏng cả đôi mắt đây…Con ơi! Lâu nay con thế nào?

Lý Quỳ nghe hỏi, thì nghĩ thầm rằng:

– Nếu ta nói đi lạc thảo ở Lương Sơn, thì tất mẹ ta không bằng lòng…Bất nhược ta nói dối cho xong…

Nghĩ đoạn liền đáp rằng:

– Thiết Ngưu con bây giờ được làm quan, con định đón mẹ đi đây…

Người mẹ nói:

– Nếu thế thì hay lắm, nhưng mẹ đi thế nào được mà đi hỡi con?

– Thiết Ngưu xin cõng mẹ ra đến đường cái, rồi tìm xe đi là được rồi…

– Con hãy đợi anh con về, tìm hỏi xem sao?

– Thưa mẹ đợi anh con làm gì, để con xin cõng mẹ đi thôi?

Lý Quỳ nói xong, vừa toan cõng mẹ đi, thì thấy Lý Đạt xách một cái lẵng cơm ở ngoài đi về, Lý Quỳ vội vàng cúi lạy mà rằng:

– Ca Ca lâu nay em không được gặp.

Vừa nói dứt lời, thì Lý Đạt hất ngay rằng:

– Mày còn về đây làm gì nữa? Lại định làm khổ đến người ta nữa hay sao?

Người mẹ nghe tiếng Lý Đạt thì phân thuyết rằng:

– Thiết Ngưu bây giờ nó làm quan rồi, nó về đón ta đấy mà…

Lý Đạt nói:

– Mẹ đừng tin đồ thối thây làm gì…Lớp trước nó mới đi đánh nhau giết người, làm cho tôi phải bị gông bị trói khổ nhục trăm chiều…Sau nó lại nhập đảng với bọn Lương Sơn, mà đánh cướp pháp trường, phá hại ở đất Giang Châu, rồi lên ở Lương Sơn làm giặc, quan hiện đương tư giấy truy nã các nơi không được, vừa rồi tôi suýt nữa cũng bị Quan Tư bắt bớ, sau nhờ có ông tài chủ chống chế giúp cho, nói là nó đi mười mấy năm nay, không thấy về nhà, mà cũng không biết nó ở đâu, cái đó là đứa nào gian trá, hoặc trùng tên trùng họ mà khai liểu khai lĩnh là quê quán ở đây thôi. Rồi lại đút lót tiền khắp cả mọi nơi bây giờ mới thoát thân được. Hiện nay Quan Tư đương treo giải thưởng ba ngàn quan bạc để bắt nó đây kia… Đồ ấy không chết đi, lại còn về nhà này để nói láo hay sao?

Lý Quỳ nói:

– Ca Ca không nên nóng tính, bây giờ anh em ta cùng lên ở núi cả, có thú hơn không?

Lý Đạt cả giận toan xông lại đánh Lý Quỳ, song sợ sức mình yếu đuối không thể nào địch nổi Lý Quỳ. Liền vất lẵng cơm xuống đất, rồi quay đi thẳng.

Lý Quỳ thấy vậy, trong bụng ám tưởng rằng:

– Anh này đi tất là báo người về bắt ta đây, nếu ta không chạy mau, thì khó lòng mà thoát được!.. Ừ…Xưa nay anh ta chưa được trông thấy thoi bạc lớn bao giờ, nay ta để lại đây cho một đĩnh bạc lớn năm mươi lạng, thì khi trở về trông thấy, tất là không đuổi bắt ta nữa.

Nghĩ đoạn liền cởi khăn gói lấy ra một đĩnh bạc rất lớn bỏ ở giường, rồi gọi mẹ mà nói rằng:

– Con xin cõng mẹ đi thôi.

– Con cõng mẹ đi đâu?

– Mẹ bất tất phải hỏi, con cứ cõng mẹ đi, hễ được sung sướng thì thôi….

Nói đoạn cõng mẹ lên lưng, rồi một tay cầm dao bước ra cửa theo lối tắt mà đi.

Suối rừng lặn lội sá chi,

Quyết đem tấc cỏ đền nghìn ba xuân,

Bâng khuâng bước một ngại ngần,

Ai ơi! Hiếu tử trung thần được bao

Bấy giờ Lý Đạt căm giận Lý Quỳ, vội vàng đến báo với tài chủ, đem mấy tên trang khách về nhà để bắt. Khi về tới nơi, thấy Lý Quỳ cùng mẹ đều mất cả, duy còn có đĩnh bạc để chơ vơ ở giữa giường, Lý Đạt liền tự nghĩ một mình rằng: Thằng này để bạc đây, rồi cõng mẹ đi, tất có bọn Lương Sơn Bạc đến đây bàn với hắn, nếu bây giờ ta đuổi, thì không khéo bị nguy chứ chẳng chơi. Thôi, nếu mà nó mang mẹ đi, chắc cũng được là khoái hoạt, không cần gì mà phải đuổi theo cho bận.

Chàng nghĩ vậy, liền bảo với đám trang khách rằng:

– Thiết Ngưu nó cõng mẹ tôi đi, không biết rằng đi vào lối nào? Ở đây đường ngang ngõ tắt cũng nhiều, khó lòng mà tìm được hắn, thôi đành mặc thây hắn là xong.

Bọn trang khách thấy Lý Đạt nói vậy, thì cũng lảng vảng quanh quẩn một lúc, rồi kéo nhau đi cả.

Nói về Lý Quỳ một mình cõng mẹ ra đi, trong bụng còn e sợ Lý Đạt đuổi theo, chàng bèn lặn lội lần theo những đường hẻo lánh trong non, mà không dám thò ra lối rộng. Chàng đi mãi đến tối, mới tới núi Nghi Lĩnh, xung quanh không xó nóc nhà nào ở đó, đành phải cõng mẹ đi sang bên kia núi, để tìm nơi ngủ trọ.

Bấy giờ trăng sao vằng vặc phong cảnh vắng teo, người mẹïthì hai mắt mù lòa, không biết rằng trời đã tối khi Lý Quỳ cõng mẹ đến sườn núi, người mẹ bảo với Lý Quỳ rằng:

– Con ơi! Con kiếm cho mẹ hớp nước để mẹ uống…

– Thưa mẹ, để qua núi này tìm nhà trọ, rồi ăn uống một thể.

– Khốn nạn! Trưa hôm nay mẹ đã ăn cơm khô, bây giờ khát lắm, không chịu được con ạ!

– Vâng, con cũng khát cháy cả cổ đây, nhưng cũng đợi qua núi, thì mới có nước được.

Người mẹ lại kêu rằng:

– Ta chết khát mất con a, con cứu cho mẹ với.

Lý Quỳ lại kêu lên rằng:

– Con cũng mệt lắm rồi, biết làm thế nào được?

Nói đoạn lại mải miết mà cõng mẹ đi lên. Khi lên đến đỉnh núi, thấy bên cạnh cây thông có một phiến đá xanh rất lớn, chàng liền đặt mẹ xuống đó, rồi để thanh đao vào một bên mà dặn mẹ rằng:

– Mẹ dầu lòng ngồi đây một lát, để con đi kiếm nước về mẹ xơi.

Đoạn rồi quay ra nghe thấy xa xa có tiếng suối chảy róc ra róc rách, chàng bèn lần hết chân núi nọ, đến chân núi kia, tìm đến bên khe mà uống nước. Chàng vốc uống xong rồi, không biết làm cách thế nào, để đem nước về cho mẹ uống. Chợt đứng lên trông trước trông sau, thấy gần đấy có một tòa miếu nhỏ, chàng liền víu cây vạch lá để đi tìm đồ múc nước. Khi lên tới nơi, mở cửa ra xem, thì nhận ra là tòa miếu Đại Thánh Tứ Châu, trước cửa có một cái lư hương bằng đá để đó.

Lý Quỳ chạy đến đấy nhắc lên, thì thấy nặng trĩu không nhắc lên được. Chàng cúi xuống nom, té ra một cái lư hương chạm liền mặt cái bệ khá to, chàng liền sốt tiết, bế hẳn cả bệ đá lên, đem đến bên cạnh thềm đá ghè một cái, gẫy hẳn cái lư hương ra ngoài, đoạn rồi xách lư hương xuống núi vơ nắm cỏ, cọ rửa sạch sẽ, rồi múc một lư nước mà đem về cho mẹ. Khi lận đận về đến chỗ hòn đá dưới gốc cây thông, thì bỗng thấy chỉ còn thanh đai ở đó, mà mẹ biến đi đâu mất. Lý Quỳ gọi luôn mấy tiếng “mẹ về xơi nước”. Cũng không thấy tăm hơi đâu cả. Chàng lấy làm kinh ngạc vất lư hương xuống đó, rồi lẩn thẩn đi tìm khắp bốn bên cũng không thấy dấu tích.

Được một lát trông thấy trên vùng cỏ gần đó, có vết máu đầm đìa mới chảy, chàng liền giật mình sợ hãi, mà lần theo vết máu để xem. Khi đi đến cái cửa hang kia, thấy hai con hổ đương gặm một cái đùi người, chàng lấy làm tức bực vô cùng, nói một mình rằng: Ta từ Lương Sơn Bạc về đến cố hương, trăm nghìn vất vả, chỉ cốt để mời được mẫu thân đi, ai ngờ lại đem đến đây cho chúng ăn thịt…Trời ơi! Con hổ đương gặm cái đùi kia, qủa nhiên là đùi mẹ ta rồi…

Nói đến đó, thì máu nóng nổi lên đùng đùng, râu vểnh ngược lên, rồi vác đao xông vào, chém luôn hai con hổ.

Sao cho trọn đạo làm con,

Dẫu rằng thịt nát xương mòn sá chi?

Hai con hổ thấy Lý Quỳ vác đao xông vào, thì cũng nhe lanh giơ vuốt lên chống cự, sau bị Lý Quỳ chém chết một con, còn một con thì chui lọt trong hang mất. Lý Quỳ thấy vậy, nói lên rằng:

– Chính con súc sinh này, mày ăn thịt mẹ ta đây…

Nói đoạn rồi vất đao xuống, rồi rút dao lưng ra. Bấy giờ con hổ cái kia đương đi đến cửa hang, quay đuôi vào khua hang một cái, rồi chui đút đít vào trong hang trước.

Lý Quỳ ngồi trong cạnh hang nom rõ cẩn thận, liền cầm quay mũi dao ra, nhè giữa đít con hổ mà đâm một cái thật mạnh. Dè đâu khiến con dao mạnh quá, đến nỗi cả chuôi dao ngập vào đít con hổ, mà không sao rút ra được, con hổ cái bị một nhát đâm đau quá, bèn nhảy ra cửa hang, rồi nhảy vót ra bến khe, Lý Quỳ thấy vậy, liền vớ ngay thanh đao, rồi đi ra cửa hang để đuổi. Vừa khi ra đến bến gốc cây trước cửa hang, lại thấy một trận cuồng phong đưa đến, làm cho rụng lá cây, như rào rào mưa xuống. Đoạn rồi có tiếng gầm thét rất to, rồi thấy một con hổ bờm trắng ở đâu hiện ra, mà xông vào để vồ lấy Lý Quỳ.

Bấy giờ trăng sáng như đèn, Lý Quỳ trông rõ hẳn hoi, liền ung dung đưa mũi dao lên đó để đón con hổ, hổ ta vừa nhảy chồm vào, thì bị nhay mũi dao đâm trúng vào dưới cổ, liền vội vàng lui ra được mấy bước, rồi lại gầm lên mấy tiếng mà chết ngay ra đấy.

Lý Quỳ giết luôn bốn con hổ, rồi lại vác đao đi vào trong hang, soi bói khắp cả, không còn con nào nữa, mới chịu lui gót ra đi. Bấy giờ nghe trong người cũng đã nhọc nhằn mỏi mệt, chàng liền tìm đến miễu Tứ Châu Đại Thánh nằm ngủ một giấc cho đến sáng.

Sáng hôm sau chàng trở dậy, thu nhặt mấy mảnh xương tàn của mẫu thân, bọc vào một cái áo vải, rồi đem đến sau miếu Tứ Châu Đại Thánh, mà moi đất để chôn. Chôn lấp xong rồi, chàng òa lên khóc thảm thương. Được một lát thì nghe trong bụng đói khát khó chịu, liền khoác khăn gói vác thanh đao, rồi tìm đường đi xuống núi.

Đi được một quãnh, bỗng gặp một bọn năm bảy người phường săn, cũng đi đến đó. Bọn săn trông thấy Lý Quỳ máu me be bét ở quần áo, thì cùng nhau cả kinh mà hỏi lên rằng:

– Bác kia có phải là Sơn Thần hay Thổ Địa ở đây, mà dám đi lững thững một mình vậy?

Lý Quỳ nghe hỏi, trong bụng nghĩ thầm:

– “Hiện nay huyện Nghi Thủy đương thưởng tiền để bắt ta, nế nói thực ra, tất là nguy mất… “

Nghĩ đoạn chàng liền đáp rằng:

– Tôi là hành khách qua đường, đêm qua đi tới núi này, vì mẹ tôi khát nước, phải đi tìm nước về cho mẹ uống. Dè đâu về được đến nơi thì bị hổ ăn mất mẹ, tôi tức mình lần đến hang hùm, giết chết cả bốn con lớn nhỏ, rồi lần vào miếu nằm mãi đến giờ mới dậy đây.

Bọn phường săn nghe nói cho là không thực, liền đáp lại rằng:

– Bác nói lạ! Một mình bác mà giết nổi bốn con hổ…Đến ông Lý Tồn Hiếu, hay là ông Tử Lộ phục sinh, cũng chỉ đánh được một con là cùng. Như hai con hổ con thì không kể, còn hai con hổ lớn thì không thể nói chuyện chơi được…Chúng tôi đây cũng chỉ vì hai con súc sinh ấy, mà bị đòn vọt kể biết bao lần…Trên núi Nghi Lĩnh này từ khi có hai con hổ ấy tới nay ai đã dám đi qua bao giờ…Bác nói lòe chúng tôi, có khi nào chúng tôi tin được?

Lý Quỳ cười nói rằng:

– Tôi là người ở xa đến đây, mà nói lòe các anh để làm gì? Các anh không tin, thì tôi dẫn đi cho mà xem.

Bọn kia hớn hở nói rằng:

– Nếu quả thế thì càng hay lắm, rồi chúng tôi xin trọng thưởng cho bác. Nói xong huýt còi để gọi bọn săn đến.

Một lát thấy bốn năm mươi người, đều vác gậy, móc, gươm, giáo đến, rồi kéo nhau theo Lý Quỳ mà đi lên núi. Khi đi đến hang hổ, quả nhiên thấy một con hổ con chết ở cửa hang, và một con chết ở trong hang, còn con hổ cái thì chết ở bên khe núi, và con hổ đực lớn, thì chết ở gốc cây trước cửa miếu Tứ Châu Đại Thánh. Chúng nom thấy rõ ràng như vậy, thì anh nào anh nấy vui mừng, cùng nhau đem thừng ra trói hổ, khiêng xuống, mời Lý Quỳ nhận tiền thưởng, và nhất diện sai báo cho Lý Trưởng biết.

Bấy giờ Lý Trưởng cùng kỳ mục trong làng đều ra đón tiếp, rồi đem tất cả về nhà một người Đại Hộ trong làng là Tào Thái Công để nghỉ. Lão này vốn là tay Huyện Lại xuất thân nhà cũng hơi giàu có, tính hay nói nghĩa, mà trong bụng thì rất độc ác nham hiểm, xưa nay chỉ kết đảng với lũ đầu bướu, mà vu oan giá vạ kiếm ăn quanh chốn dân gian, ai ai cũng ghét mà không sao động đến bao giờ. Hôm đó lão Tào Thái Công ra tiếp đón Lý Quỳ, mời vào thảo đường ngồi chơi, rồi lân la hỏi chuyện đánh hổ, Lý Quỳ liền đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại hết cho mọi người khác nghe. Chúng nghe nói ai cũng lắc đầu lè lưỡi mà kính phục vô cùng.

Tào Thái Công lại hỏi đến tên tuổi, Lý Quỳ đáp rằng:

– Tôi họ Trương, nguyên trước không có tên, chỉ gọi là Trương Đại Đảm thôi.

Tào Thái Công nghe nói khen rằng:

– Vâng, ngài như thế thì đại đảm (to mật) thực. Nếu không đại đảm thì làm sao giết được bốn con cọp như thế?

Nói đoạn liền sai người nhà làm cơm để thiết đãi, hôm đó các phụ nhữ dân gian nghe nói có một người giết bốn con hổ, khiêng về để ở nhà Tào Thái Công, thì ai nấy nô nức mà kéo nhau đi xem.

Trong đám ấy có người vợ của Lý Quỷ về ở nhà cha mẹ gần đấy, cũng kéo đến để xem. Bấy giờ Thái Công đương thiết rượu Lý Quỳ ở thảo đường, vợ Lý Quỷ trông thấy biết rõ là Lý Quỳ, liền vội vàng về báo với bố mẹ rằng:

– Anh chàng đen lớn đánh hổ ở đằng kia, tức là anh Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở Lương Sơn Bạc, vừa mới giết chồng tôi và đốt nhà tôi hôm nọ đấy.

Bố mẹ chị chàng kia nghe nói, lập tức đến báo cho Lý Trưởng biết, Lý Trưởng nói rằng:

– Nếu có phải hắn ta là Lý Quỳ, thì chính là anh chàng đánh chết người ở thôn Bách Trượng ngày xưa rồi. Anh ta trốn tránh giang hồ mãi, mới rồi làm một việc ác phạm rất to, Quan Tư hiện đương thưởng tiền để bắt…Nếu quả thị anh ta ở đấy, thì ta cho mời vào Tào Thái Công lên đây để bàn định xem sao.

Nói đoạn liền sai người mời Tào Thái Công đến có sự rất cần. Khi Tào Thái Công đến nơi, Lý Trưởng nói rằng:

– Anh chàng đánh hổ đó, chính là anh Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở thôn Bách Trượng bên kia núi đấy. Hiện nay Quan tư đường cho lùng bắt mà chưa được, vậy ta xử ra sao?

Tào Thái Công nói:

– Có phải là đích xác anh ta thì bắt được ngay, có khó gì, chỉ sợ không phải, thì lại lôi thôi đến mình vô ích…ta thử nhận kỹ xem.

Lý Trưởng nói:

– Hiện có vợ Lý Quỷ hắn nhận được mặt kia…Hôm qua anh ta đến nhờ vợ Lý Quỷ nấu cơm rồi giết Lý Quỷ đấy mà.

– Nếu vậy thì cứ thiết rượu anh ta, rồi hỏi anh ta xem định lên huyện lấy thưởng, hay là chỉ định lấy thưởng của hàng thôn. Nếu anh ta không chịu lên huyện lấy thưởng, thì đích xác là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ rồi…Bấy giờ ta sẽ đổ rượu cho uống thực say, rồi trói để đó cho lên huyện báo, thế là vững chắc, chả còn trốn đi đâu được.

Mấy người bàn định xong rồi, Tào Thái Công về trước tiếp đãi Lý Quỳ. Bấy giờ Tào Thái Công mời Lý Quỳ cởi bỏ dao lưng ra, và cất dao đi để uống rượu cho vui.

Lý Quỳ lấy làm thích chí nói rằng:

– Được lắm! Con dao lưng của tôi vẫn còn đâm ở đít con hổ đó, đây chỉ còn có bao dao thôi, lúc nào phanh xác con hổ đó ra ra, thì lấy con dao trả lại cho tôi nhé.

Tào Thái Công vâng lời mà rằng:

– Vâng, cái đó ngài không cần nghĩ đến, nhà tôi cũng có dao tốt, sẽ xin tặng ngài một con để ngài đeo.

Lý Quỳ bèn cởi bao dao và khăn gói mà đưa cho trang khách cất đi, rồi dựng thanh đao vào một bên mà uống rượu.

Bầy giờ Tào Thái Công sai bưng mâm thịt lớn, lấy hồ rượu lớn, chén lớn, rồi Lý Trưởng cùng bọn săn đều lần lượt mà khuyên mời Lý Quỳ.

Một lát Tào Thái Công hỏi Lý Quỳ rằng:

– Nay ngài định cho khiêng hổ xuống huyện lấy thưởng, hay là ngài lấy tiền thưởng ở hàng thôn đây?

Lý Quỳ đáp:

– Tôi là người khách qua đây, đương vội nhiều công việc, không cần đi lấy thưởng ở đâu, các ngài có lòng tặng đãi thế nào cũng được, bằng không thì tôi cũng vui lòng, trừ thú dữ giúp cho…

Tào Thái Công nói:

– Có khi nào lại dám thế, để lát nữa chúng tôi xin thu tiền ở hàng thôn, xin đưa tặng ngài, rồi chúng tôi sẽ đem hổ xuống huyện để lãnh thưỏng.

Lý Quỳ nói:

– Ở đây có cái áo vải nào cho tôi mượn một cái.

Tào Thái Công vâng lời, sai người lấy áo vải xanh ngắn đưa ra cho Lý Quỳ thay. Khi Lý Quỳ thay bỏ quần áo máu me ra, thì bỗng thấy có tiếng trống chiêng kèn sáo ở cửa đi vào, rồi thấy các nhà kéo đến để mời rượu. Bấy giờ Lý Quỳ cứ điềm nhiên mời cốc nào uống cốc ấy, không nhớ gì đến lời Tống Giang dặn khi trước cả. Chàng uống được một lúc thì say sưa lảo đảo chân đứng chân không yên, chúng liền vựa vào nhà trong luôn, mà đặt nằm trên một cái ghế, đoạn rồi thấy chúng lấy dây thừng trói chặt Lý Quỳ vào, mà bảo Lý Trưởng đi lên báo huyện. Lý Trưởng liền làm một lá đơn, và dẫn vợ Lý Quỷ làm nguyên cáo, cùng mọi người nữa đền đến trình huyện.

Tri Huyện nghe báo kinh mà rằng:

– Tên Lý Quỳ là một đứa mưu phản, chớ để cho nó trốn thoát mất mới được.

Chúng bảo thầm:

– Hiện đã trói chặt để ở trong thôn, song sợ anh ta khỏe quá, không ai dám bén mảng tới gần, nên chưa dám giải đi…Vậy xin quan cho lính về bắt giải cho tiện…

Tri Hụyện vội gọi Đô Đầu là Lý Vân đến mà truyền rằng:

– Hiện nay bọn kỳ dịch ở Nghi Lĩnh, đã bắt trói được Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở đó, vậy ngươi phải mang nhiều lính đi, rồi hộ giải cẩn thận mà đem nó về đây, chớ để động dạng đến hương thôn mà lỡ ra nó trốn mất thì nguy…

Lý Đô Đầu vâng lệnh lui ra, tuyển lấy ba mươi tên thổ binh lão luyện, cùng sắm sửa các đồ quân khí mà đi đến Nghi Lĩnh.

Huyện Nghi Thủy vốn là một nơi huyện nhỏ, hễ động có việc gì là lao xao đồn đại, khắp trong huyện ai ai cũng phải biết tin. Bởi vậy sau khi Lý Vân đem lính đi, thì phố phường chợ búa đâu đâu cũng kháo nhau đến chuyện thôn Nghi Lĩnh đã bắt được Lý Quỳ, và quan huyện đã sai Lý Đô Đầu đem lính đi hộ giải mang về.

Bấy giờ Chu Quý đương vơ vẫn ở ngoài cửa nhà Chu Phú, bỗng nghe tin ấy liền vội vàng báo cho Chu Phú biết và nói rằng:

– Tống Công Minh vẫn sợ anh ta đi yên ổn, nên mới sai tôi dò tin tức, nay hắn ta bị bắt như vậy mà mình không cứu được, thì mặt nào về sơn trại mà không thấy Tống Ca Ca, như vậy biết làm sao cho được?

Chu Phú nghĩ một lúc rồi nói rằng:

– Được rồi không cần…Lý Đô Đầu là một người võ nghệ cao cường, ba bốn mươi người cũng khó gần ông ta… ? Huống chi ta có hai người thì làm gì được. Nhưng việc này ta có thể lấy mẹo mà thi hành, thì cũng có phần không sợ; Nguyên trước Lý Vân vẫn thương yêu tôi, thường có dạy tôi học võ, vậy nay ta cứ thi hành kế này, thì có thể được. Nhưng sau đây tất phải bỏ chỗ này mới xong…

Chiều hôm nay ta lấy mươi bình rượu, và nấu lấy vài ba mươi cân thịt, rồi đem cho thuốc mê vào đó, đến sáng mai sẽ gánh ra giữa đường đón ông ta; Đợi khi ông ta giải Lý Quỳ đi qua, sẽ dâng chén rượu mừng, để cho họ mê một lượt, rồi thả cho Lý Quỳ ra, như thế có được không?

Chu Quý khen rằng:

– Được lắm, ta phải làm mau mau mới được.

Chu phú nói:

– Nhưng mà Lý Vân lại không biết uống rượu, dẫu hắn có nhấp vào một tý lại tỉnh ngay ra thì sao? Vả chăng lỡ ra sau này hắn biết thì ở đây sao được?

Chu Quý nói rằng:

– Cần gì, em ở đây bán rượu cũng không ăn thua. Bất nhược đem cả vợ con lên Lương Sơn Bạc ở với ta, mà chia của vải vóc nhiễu, có sướng hơn không? Đêm nay cứ bảo người nhà thuê xe, cho vợ con xếp hết đồ đạc, để sáng mai cùng đợi nhau ở ngoài mười dặm, mà cùng đi cả cho xong. Trong bọc của ta có ít thuốc mê kia, đem làm ngay đi mới được. Nếu Lý Vân không biết uống rượu thì ta mời ăn thêm mấy miếng thịt cũng đủ mê rồi, mà cũng đủ cứu Lý Quỳ, đem về sơn trại rồi, cần gì?

Chu Phú vâng lời, liền cho người gọi một cỗ xe, xếp dẹp gói ghém hòm siểng đặt cả lên xe, còn các đồ vô dụng, thì bỏ lại cả đó. Đoạn rồi cho vợ con lên cả trên xe, mà dặn người nhà theo xe ra đi trước.

Bấy giờ hai anh em Chu Phú, Chu Quý đem thịt nấu thái ra từng miếng lấy hai gánh rượu cho cả thuốc mê vào, và sắp sẵn các đồ hoa quả ra để đó. Vào khoảng canh tư hai anh em gánh cả ra nơi đường núi vắng vẻ mà ngồi đợi Lý Vân. Khi mặt trời vừa sáng, xa nghe tiếng thanh la rộn rịp, rồi thấy Lý Vân dẫn bọn thổ binh giải Lý Quỳ đến.

Nguyên đêm hôm ấy bọn thổ binh chè chén ở trong thôn nói say rồi, đến canh tư mới trói Lý Quỳ, mà theo Lý Vân giải về huyện.

Bấy giờ Lý Đô Đầu cưỡi ngựa đi sau, để cho bọn thổ binh cùng huynh dịch trong thôn, dong Lý Quỳ đi trước. Khi đến chỗ vắng vẻ Chu Phú liền đến trước ngựa Lý Đô Đầu mà nói rằng:

– Dám bẩm sư phụ, tiểu đồ có lòng thành kính, đón đợi ở đây, để dâng mấy chén tiếp phong, vậy xin sư phụ dừng chân mà chứng giám cho.

Nói đoạn liền múc chén rượu dâng lên Lý Vân. Đoạn rồi Chu Quý đem mâm thịt, và bọn người nhà bưng hoa quả lên.

Lý Vân thấy vậy, vội vàng nhảy xuống ngựa mà nói rằng:

– Hiền đệ làm chi quá phiền như thế?

Chu Phú nói:

– Dám bẩm sư phụ: Chúng tôi gọi là tỏ lòng thành kính xin ngài nhận cho…

Lý Vân nể lòng nhận lời, cất lấy chén rượu xong, không hề nhấp một chút nào.

Chu Phú lại quỳ xuống mà nói rằng:

– Tiểu đồ vốn biết tính sư phụ, không xơi rượu xưa nay, song hiện nay là chén rượu mừng, xin ngài nhận cho nửa chén làm vui.

Lý Vân không thể từ chối được, bất đắc dĩ phải nâng chén rượu mà uống hai hớp cho Chu Phú bằng lòng, Chu Phú lại nói.

– Sư phụ không hay xơi rượu, xin ngài nhắm vài miếng thịt cho đỡ say.

Lý Vân từ chối rằng:

– Tôi xin vô phép, hiện tôi ăn uống hãy còn no lắm.

Chu Phú lại nói:

– Sư phụ xơi cơm từ đêm bây giờ đi đường cũng đã đói rồi, xin ngài xơi tạm mấy miếng thịt cho chúng tôi mừng lòng.

Nói xong liền chọn hai miếng thịt ngon đưa lên để mời. Lý Vân thấy Chu Phú ân cần như vậy, lại phải nể lòng mà ăn luôn hai miếng thịt.

Đoạn rồi Chu Phú đem rượu mời tất cả đám huynh địch, cùng lũ đi săn, mỗi người đều uống luôn ba chén, còn Chu Quý thì đem mồi cho bọn thổ binh uống. Bấy giờ lũ kia xúm lại để ăn uống, còn một mình Lý Quỳ nằm trói tròn ở đó, mở mắt trông thấy rõ hai anh em Chu Phú, Chu Quý đương đứng để mời rượu, thì trong lòng biết ngay là mưu kế, liền giả vờ kêu lên rằng:

– Các ông cho tôi ăn uống với…

Chu Quý nghe nói cũng giả vờ quát lên rằng:

– Mày là một thằng bội bạc, ai thừa thịt rượu mà cho mày được? Im mồm đi thôi.

Khi ăn uống xong rồi, Lý Vân quay lại thét bọn thổ binh, cùng mọi người mà thúc giục ra đi. Dè đâu trông thấy bọn thổ binh cùng mọi người đều đã thấy anh nào anh nấy đờ mặt ngây người, nhìn nhau mà ngã vật lảo đảo ra đó.

Lý Vân thấy vậy, vội quát lên rằng:

– Trúng kế rồi. Chàng nói xong, vừa toan chạy đến để xem, thì bỗng thấy tự mình cũng lờ đờ nghiêng ngả, mà nằm vật ra đất.

Bấy giờ Chu Phú, Chu Quý đến giơ đao mà quát lên rằng:

– Lũ chúng bây đừng chạy nữa…

Nói đoạn liền đuổi đám trang khách chưa được uống rượu, mà chém bừa cả đi, duy còn anh nào chạy nhanh thì mới thoát được.

Lý Quỳ thấy vậy cũng quát lên một tiếng, cựa mình đứt cả dây trói, rồi trở dậy cướp thanh đao mà toan xông đến để chém Lý Vân, Chu Phú vội vàng ngăn lại mà bảo Lý Quỳ rằng:

– Không thể được, người ấy là sư phụ tôi đó, không thể giết được…Cứ chạy đi cho thoát thôi.

Lý Quỳ nói:

– Nhưng còn Tào Thái Công chưa giết được thì chưa hả lòng. Nói đoạn liền vác đao đến chém Tào Thái Công, vợ Lý Quỷ cùng Lý Trưởng ở đó. Bấy giờ máu nóng càng hăng, sẵn dao ở tay bèn đến thổ binh cùng mấy anh phường sẵn mà chém suốt một lượt rồi lại quay ra toan tìm lũ chạy trốn để chém.

Chu Phú quát lên rằng:

– Thôi, không can thiệp gì đến người ta, không nên giết liều thế nữa.

Lý Quỳ nghe Chu Phú mới ngừng tay không giết, đến đám thổ binh bóc lột mấy cái quần để mặc, rồi ba người cùng vác đao quay ra để đi.

Chu Phú chợt bảo với hai người rằng:

– Hỏng, ta làm thế này thì nguy cho sư phụ mất…Khi ông ta tỉnh dậy, tất nhiên không dám về huyện mà đuổi chúng ta hẳn…Hay các anh cứ đi trước, để tôi đợi ông ta một lúc vậy. Ông ta không những là có ân nghĩa dậy tôi ngày trước, vả chăng lại làm người trung thực đáng kính, tôi xin đợi đây, khi ông ta đuổi rồi, tôi sẽ rủ lên Lương Sơn, mà nhập bọn một thể cho xong.

Chu Quý nói:

– Được lắm, em với Lý Huynh cứ đợi đây, để tôi theo đám xe một mình vậy.

Nói đoạn liền xăm xăm ra đi trước.

Bấy giờ Chu Phú và Lý Quỳ ngồi đợi bên đường; Được một lát quả nhiên Lý Vân tay vác thanh đao, hất ha hất hải đuổi theo mà kêu lên rằng:

– Lũ giặc kia muốn sống thì đừng chạy nữa!

Lý Quỳ thấy Lý Vân ra dáng dữ tợn hung hăng, liền bỏ mặc Chu Phú vác đao ra đánh với Lý Vân.

Mới hay:

Sóng đời mấy đạo xông pha,

Liều thân vì nước vì nhà tới đây?

Trời công kia lẽ có hay,

Bỗng đem oan nghiệt trói tay anh chàng!

Sinh thành thôi đã phụ công,

Từ đây ngang dọc non sông tha hồ…

Lời bàn của Thánh Thán:

Theo Nho giáo Trung Thứ vốn đạo làm người, Trung làm theo đúng lòng mình, Thứ, coi lòng người khác cũng như lòng mình, ai chả muốn hay ai không muốn tốt, Trung Thứ vốn đạo nhất quán của nho Tông.

Chưa có ai Trung rồi mà chẳng Thứ. Trái lại kẻ chẳng Thứ có đâu Trung? Xem Tống Giang chẳng muốn Lý Quỳ về đón mẹ, tức đã không hiếu thuận với cha rồi, đấy kinh nghiệm chẳng Thứ tất không Trung vậy. Lại xem Lý Quỳ nhớ mẹ một lòng, đã đoán ra con người không giết kẻ nuôi mẹ, đấy kinh nghiệm đã Trung bao giờ cũng Thứ.

Hồi này từng chỗ đem Tống Giang, Lý Quỳ hai người tương hình đối tả, muốn cho rõ ác của Tống Giang ra, vốn không bàn vậy. Tại sao coi nhẹ hai chữ Trung Thứ đánh giá Lý Quỳ? Lại không biết, Trung Thứ tính trời, già tám mươi tuổi còn nói là chưa làm nổi được, thế mà đầy tuổi tôi oa oa có thể y theo, mới đem hai chữ Trung Thứ cho Lý Quỳ kia cho rõ Trung Thứ để theo, không phải Lý Quỳ không làm theo nổi.

Tống Giang đón cha, trong thôn găp thần, Lý Quỳ đón mẹ, trong rừng gặp hổ, hai vế đối nhau.

Tống Giang trong lòng đen tối, đón cha gặp được Huyền Nữ. Lý Quỳ trong lòng sơn thắm, đón mẹ gặp Bạch Thỏ, lại đôi vế đối nhau.

Tống Giang gặp thần, nhận ba cuốn Thiên Thư. Lý Quỳ gặp hổ, thấy hai tay bản phủ, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang gặp Thiên Thư, chính tự mình đem đi. Lý Quỳ có đại phủ lại không tự đem đi, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang đến điều không thực, Lý Quỳ bỗng đâu có giả, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang đón cha được ăn táo; Lý Quỳ đón mẹ được ăn thịt Quỷ, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang có cha chẳng muốn con làm cường đạo; Lý Quỳ có mẹ chẳng được thấy con làm quan, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang có cha chẳng nỡ thấy con cường đạo. Lý Quỳ có mẹ chẳng ngờ chết với hùm beo, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang khi đón cha về, đem cuốn giả thư. Lý Quỳ khi đón mẹ về, dẫn hai kẻ chân hổ (Chu Phú, Lý Quỳ), lại hai vế đối nhau.

Cha Tống Giang sống không bằng chết. Mẹ Lý Quỳ chết hay hơn sống, lại hai vế đối nhau. Tống Giang có em theo giặc; Lý Quỳ có anh lương dân, lại hai vế đối nhau. Hồi thứ hai mươi hai tả Võ Tòng đả hổ, kể đã gớm ghê, chợt đâu thiên này tả Lý Quỳ một đêm giết bốn hổ lại càng kinh khiếp! Từng câu từng chữ diễn tả ra xuất sắc, hai người thấy khác nhau, bút mực tả ra xuất diệu nhập thần, đến thế không còn gì hơn nữa.

Hồi 43: Cẩm Bảo Tử ngõ hẻm gặp Đới Tung – Bệnh Quan Sách, dương oai gặp Thạch Tú

Khi đó Lý Quỳ xông ra đánh nhau với Lý Vân, vừa được dăm bảy hiệp, thì Chu Phú đã vác dao ra ngăn giữ hai bên mà nói lên rằng:

– Khoan, hãy khoa, nghe tôi nói đã.

Lý Quỳ cùng Lý Vân đều dừng tay lại, Chu Phú nói rằng:

– Xin sư phụ nghe lời tôi nói: Tôi đây nhờ ơn sư phụ dạy bảo đã nhiều, trong lòng nào phải không biết ơn sư phụ, song lúc này anh tôi là Chu Quý, hiện đương làm Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, nay vâng tướng lệnh của Cập Thời Vũ Tống Công Minh, đi theo Lý Quỳ đến ở đất này. Song chẳng may mới rồi Lý Quỳ bị bắt, anh tôi sợ về Lương Sơn không biết nói với Tống Công Minh thế nào cho được. Bởi vậy chúng tôi phải làm như thế, để cứu lấu Lý Ca Ca cho thoát nạn.

Vừa rồi Lý Ca Ca toan sát hại sư phụ, song chúng tôi không cho như thế, nhất định không nghe hắn, để đợi sư phụ tỉnh rồi sẽ thưa chuyện. Tiểu đồ thiết tưởng sư phụ là bậc thông minh hiểu biết, chắc rằng cũng đã xét đoán trong lòng, vậy hiện nay sư phụ đã đánh sổng mất Lý Quỳ, và đã làm chết hại bao người ở đó, thì phỏng chừng sư phụ có trở về huyện lị được không? Điều đó chắc là nguy lắm. Vậy bất nhược tiện đây sư phụ lến Lương Sơn Bạc cùng chúng tôi, để nhập bọn với Tống Công Minh, thì lại là thượng sách? Chẳng hay sư phụ nghĩ sao.

Lý Vân ngần ngại một lát, rồi bảo với Chu Phú rằng:

– Nhưng mà hiền đệ ơi! Chỉ sợ họ không dung bọn mình mà thôi.

Chu Phú cười mà rằng:

– Chết nỗi! Sư phụ không biết tiếng Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh, là người trọng nghĩa sơ tìa, chỉ hay chiêu hiền nạp sĩ xưa nay hay sao?

Lý Vân nghe nói thở dài một tiếng mà rằng:

– Bây giờ có nước không được về, có nhà không được ở, còn biết làm sao cho tiện… ! May mà tôi đây chưa có vợ con bận rộn, không còn ai liên lụy đến thân, cũng không sợ gì Quan Tư bắt bớ…Thôi thì xuống đất lên trời đi đâu cũng xin theo một thể.

Bấy giờ Lý Quỳ cười mà bảo rằng:

– Thế mà Ca Ca không bảo cho Lý Quỳ trước, có phải là chào nhau vui vẻ…khỏi phải đánh nhau không?

Nói đoạn Lý Vân cùng hai người, rảo bước đi theo Chu Quý. Đi đến nửa đường bốn người cùng gặp nhau, rồi cùng áp xa trượng trở về Lương Sơn Bạc. Khi về gần đến Lương Sơn, thì bỗng gặp Mã Lân, Trịnh Thiên Thọ, đương đi đón. Hai người cùng báo với Chu Quý rằng:

– Tiều Đầu Lĩnh với Tống Đầu Lĩnh, thấy các bác đi lâu, cho nên phải cho chúng tôi đi theo để dò thăm tin tức…Nay các bác đã về tới đây, vậy chúng tôi phải xin về báo cho hai ngài biết trước…

Nói đoạn hai người cùng về trước.

Đến hôm sau bốn vị hảo hán cùng gia quyến Chu Quý đều tới Lương Sơn Bạc, Chu Quý liền dẫn cả vào Tụ Nghĩa Sảnh, rồi đưa Lý Vân vào chào Tống Giang và Tiều Cái, cùng các vị Đầu Lĩnh trước, mà giời thiệu rằng:

– Ông này là Lý Vân, biệt hiệu là Thanh Nhỡn Hổ, vốn là Đô Đầu ở huyện Nghi Thủy xưa nay.

 Dương Lâm vâng lời bảo làm cơm chay hai người cùng ăn, rồi đi nghỉ với nhau.

Sáng hôm sau hai người lại dậy sớm ăn cơm uống nước rồi sắp sửa cùng đi.

Dương Lâm nói với với Đới Tung rằng:

– Nhân huynh dùng phép Thần Hành để đi, thì tiểu đệ làm sao theo cho kịp được?

Đới Tung cười mà bảo rằng:

– Phép Thần Hành của tôi có thể đem cả người khác theo cũng được, nay tôi buộc cho bác hai miếng giáp mã vào chân, rồi làm phép cẩn thận, thì bác đi đứng cũng được nhanh nhẹn như tôi, không khác gì cả. Không thế thì theo thế nào cho kịp tôi.

– Chỉ sợ tiểu đệ là người phàm tục, không thể nào làm thế nào được thì sao?

– Không hề chi? Phép này tôi thường để đem người ta đi luôn luôn…Duy trong khi đi, phải ăn chay mới được.

Nói đoạn liền đem theo hai miếng giáp mã buộc vào chân cho Dương Lâm, và buộc hai miếng vào chân mình mà làm phép Thần Hành để cùng nhau ra đi. Trong khi đi đường, hai người cùng nhau kể chuyên giang hồ, rất là vui thú. Trưa hôm ấy, đi đến một con đường trạm, chung quanh toàn thị núi lớn non cao, Dương Lâm bảo với Đới Tung rằng:

– Ca Ca ơi! Trước mặt chỗ này có một tòa núi cao to đẹp, sơn thủy hữu tình, tục gọi là Ẩm Mã Xuyên, xưa nay vẫn có một bọn cướp to ở đó, song không biết bây giờ thế nào?

– Hai người vừa nói chuyện, vừa đi đến bên núi, thì chợt thấy có tiếng trống ầm ĩ, rồi có một bọn hơn trăm lâu la, kéo ra chận ngang lấy giữa lối đường đi. Trong bọn đó có hai tay hảo hán, mỗi người cầm một thanh đao quát lên:

– Hai người nào? Đi đầu kia, hãy dừng lại đã. Biết điều để tiền mãi lộ đó, ta sẽ tha cho…

Dương Lâm nghe nói cười bảo Đới Tung rằng:

– Ca Ca đứng đó, để tôi giết hai thằng xuẩn hán này cho Ca Ca xem.

Nói rồi múa gươm xông vào để đánh. Hai hảo hán kia thấy thế lực Dương Lâm hùng dũng, thì đều chạy đến để xem, rồi có một anh nói lên rằng:

– Hãy khoan, người này có phảilà Dương Lâm Ca Ca đó chăng?

Bấy giờ Dương Lâm dừng tay lại, nhìn kỹ hai người mới biết là quen thuộc. Hai người ấy trông rõ Dương Lâm, thì cũng vui mừng hớn hở, rồi bảo nhau cùng đến vái chào.

Dương Lâm liền gọi Đới Tung mà bảo rằng:

– Mời huynh trưởng hãy đến đây, để nói chuyện với hai anh em ông này đã.

Đới Tung hỏi:

– Hai vị tráng sĩ này là ai? Sao lại biết được hiền đệ?

Dương Lâm trỏ vào người đứng trên mà bảo với Đới Tung rằng:

– Ông này là người ở phủ Tương Dương, họ Đặng tên Phi, vì hai con mắt đo đỏ, nên người ta thường gọi là Hỏa Nhỡn Toan Nghê (Sư tử mắt đỏ), ông ta khiến cây thiết liên rất giỏi không mấy người là dám đến gần. Anh em đã xa nhau năm năm mà không được gặp, hôm nay cũng là bất ý, không ngờ lại gặp ở đây…

Nói đến đó, thì Đặng Phi hỏi ngay Dương Lâm rằng:

– Vị quan trưởng này là ai? Tất không phải là bậc tầm thường hẳn?

Dương Lâm nói:

– Vị nhân huynh đây là Thần Hành Thái Bảo cùng bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc đấy.

Đặng Phi lại hỏi:

– Có phải ngài là Đới Viện Trưởng, đã có tiếng trong đám giang hồ, đi nhanh một ngày tám trăm dặm đó chăng?

Đới Tung đáp rằng:

– Vâng, chính là tôi đây…

Hai người kia nghe nói, vội vàng cúi chào mà rằng:

– Chúng tôi nghe tiếng ngài đã lâu, nay được gặp đây thực là may mắn lắm.

Đới Tung vội đáp lễ mà hỏi rằng:

– Còn ngài này là ai, xin cho tôi biết?

Đặng Phi nói rằng:

– Người này là anh em tôi, họ Mạnh tên Khang, người châu Chân Định, có nghề đóng thuyền rất giỏi. Dạo trước vì việc nhà nước lấy đá hoa, bắt đóng thuyền lớn, sau bị Quan Tư trách phạt, anh ta liền nóng máu giết ngay bản quan, rồi trốn tránh giang hồ trong mấy năm dòng dã, vì anh ta người cao lớn trắng trẻo, nên người ta thường gọi Ngọc Phan Can Mạch Khang.

Đới Tung nghe nói cả mừng, rồi cùng nhau chụyện trò rất là tương đắc. Dương Lâm bèn hỏi hai người kia rằng:

– Hai bác tụ nghĩa với nhau được bao nhiêu lâu rồi?

Đặng Phi đáp rằng:

– Chúng tôi đến đây đã được hơn một năm rồi. Hồi nửa năm trước có một người họ Bùi tên Tuyên, nguyên người phủ Kinh Triệu, làm chức Khổng Mục ở phủ ấy, rất là thông minh trung trực, một ly không hề xâm phạm của ai, người phủ vẫn gọi ông ta là Thiết Diện Khổng Mục (Khổng Mục mặt sắt), ông ta lại giỏi nghề quyền võ đao thương, trí dũng có thừa, sau vì triều đình sai một quan tham tàn đến đó, liền bắt ông ta đày ra đảo Sa Môn. Khi đi qua đây, chúng tôi liền giết hai tên công sai, rồi cứu ông ta, mời lên núi lưu lại để làm chủ trại. Ông ta múa song kiếm rất tài, hiện bây giờ đương ở trong sơn trại. Vậy xin đón hai vị nghĩa sĩ qua chơi một lát cho vui.

Nói đoạn sai tiểu lâu la dắt ngựa đến để mời Đới Tung, Dương Lâm lên trại. Đới Tung, Dương Lâm tháo giáp mã ra, rồi cùng lên ngựa, mà theo hai người kia cùng đi. Được một lát đi đến trước cửa trại, bốn người cùng xuống ngựa đi vào. Bấy giờ Bùi Tuyên nghe báo, liền ra cổn g đón tiếp Đới Tung, Dương Lâm mà mời vào trong Sảnh Tụ Nghĩa.

Đới Tung thấy Bùi Tuyên quả nhiên tướng mạo đường đường, mặt mày trắng trẻo, thì trong lòng lấy làm vui mừng vô hạn.

Khi vào tới Tụ Nghĩa Sảnh, Bùi Tuyên mời Đới Tung ngồi giữa: Dương Lâm ngồi thứ nhì, còn Đặng Phi với Mạnh Khang thì ngồi dưới. Đoạn rồi sai làm tiệc lên để thiết đãi. Trong khi dự tiệc Đới Tung đem hết chuyện trọng nghĩa khinh tài của Tiều Cái, Tống Giang, tấm lòng liêu lạc của các vị Đầu Lĩnh trong Lương Sơn Bạc, cùng là địa thế tình hình ở đất Lương Sơn, kể cho mọi người nghe, và khuyên nhủ Bùi Tuyên cùng vào đấy nhập đảng.

Bùi Tuyên có ý cảm phục mà rằng:

– Chúng tôi ở đây tuy không có gì, song cũng đã trù tính được vài ba trăm cỗ ngựa, vài mươi xe của cải và cũng được dăm ba tiểu lâu la cùng lương thảo có được ít nhiều. Vậy ngài có lòng yên để giới thiệu cho chúng tôi được theo đòi lên sơn trại, thì còn gì hơn nữa.

Đới Tung cũng cả mừng mà rằng:

– Tiều Thiên Vương cùng Tống Công Minh tôi đối đãi với người ta, hông hề có chút gì là khác dạ, nay được các ngài tới đó, thì thực là thêu gấm thêm hoa, ai không lấy làm quý hóa, vậy xin các ngài cứ thu thập hanh lý trước, đợi khi tôi cùng Dương Lâm sang Kế Châu tìm Công Tôn Thắng Tiên Sinh về đây, rồi ta sẽ kéo nhau đi cả cho vui.

Chúng đều cả mừng, cùng ngồi uống rượu với nhau, đến khi gần sáng mới dọn vào Đoạn Kim Đình để ngồi.

Khi vào tới nơi, Đới Tung nom khắp phong cảnh Ẩm Mã Xuyên, rồi nức nở khen rằng:

– Chỗ này thực là non cao nước cuốn, đẹp đẽ vô cùng, hai ngài làm gì mà lại được chỗ sơn thủy đẹp đẽ như thế?

Đặng Phi đáp rằng:

– Chỗ này nguyên trước có mấy thằng ngư xuẩn ở với nhau, sau anh em tôi mới đánh cướp mà chiếm lấy ở đây.

Nói đoạn cùng nhau cười ồ cả lên, rồi lại ngồi xuống đánh chén. Bùi Tuyên đứng dậy, múa song kiếm để uống rượu cho vui, Đới Tung thấy vậy khen ngợi luôn mồm. Đoạn rồi chiều hôm ấy Đới Tung cùng Dương Lâm đều nghỉ chơi ở trong sơn trại.

Sáng hôm sau Đới Tung xin phép để cùng với Dương Lâm ra đi. Ba vị hảo hán hết lòng cầm giữ không được, đành phải đưa chân xuống núi, rồi trở về thu thập để đợi kỳ cùng lên sơn trại.

Bấy giờ Đới Tung cùng Dương Lâm từ giã đất Ẩm Mã Xuyên, rồi cùng nhau đi ròng rã hơn mấy hôm trời, mới tới thành Kế Châu. Khi tới nơi tìm vào hàng cơm yên nghỉ.

Dương Lâm bảo với Đới Tung rằng:

– Công Tôn Thắng Tiên Sinh là một người tu hành học đạo, tất nhiên là ở chốn sơn lâm tĩnh mịïch, chứ không khi nào chịu ở trong thành, vậy ta nên tìm hỏi ở ngoài có lẽ tiện hơn.

Đới Tung nghe nói khen phải, bèn cùng nhau lần mò khắp cả ngoài thành, để dò hỏi thăm nhà Công Tôn Thắng. Hai người thăm hỏi suốt một ngày trời, không hề gặp ai biết nhà Công Tôn Thắng.

Sáng hôm sau lại kéo nhau đến khắp xóm làng phố sá ở quanh đó, mà hỏi han, song không ai biết đến. Đến ngày thứ ba, Đới Tung bảo với Dương Lâm rằng:

– Ta cứ vào trong thành, họa may có người biết được ông ta cũng nên.

Nói đoạn hai người cùng vào trong thành Kế Châu để hỏi. Khi vào tới nơi, tìm mấy người già cả để hỏi, có người nói là có lẽ ông ta ở núi to chùa lớn, ở ngoài thành chứ trong thành thì không thấy có.

Đới Tung, Dương Lâm nghe nói, lại cùng nhau vơ vẫn loanh quanh, không biết vào đâu mà thăm hỏi. Khi hai người đương đi trên phố, bỗng nghe có tiếng kèn trống vang lừng, rồi thấy một đám rước con con đi đến.

Trong đám rước có hai tên lính coi ngục đi trước. Một tên mang các đồ lễ vật hoa hồng, và một tên bưng các đồ vóc đoạn thuê vẽ. Rồi có một người áp ngục tướng mạo đường hoàng, mình lộ những nét hoa rực rỡ, mày ngài mắt phượng, nét mặt hơi vàng, có mấy hàng râu lún phún, che lọng đi sau.

Người này họ Dương tên Hùng, nguyên quán đất Hà nam, nhân theo một người anh em họ sang làm Tri Phủ Kế Châu, rồi loanh quanh lưu lạc ở đó. Sau có một ông ông Tri Phủ mới đến, nhân biết Dương Hùng, liền cho làm Áp ngục lưỡng viện, và kiếm cả chức việc hành hình. Dương Hùng võ nghệ rất khá, nết mặt hơi vàng, nên người ta thường gọi là Bệnh Quan Sách Dương Hùng. Bấy giờ Dương Hùng vừa mới đi xử trảm ở pháp trường về; có một tên ngục tốt vác thanh đao đi sau, và các người quen biết, đều mang lễ vật ra mừng rất nhiều.Khi qua phía trước mặt Đới Tung thấy có một đám người ra để nâng chén mừng. Đoạn rồi bên kia đường có một toán bảy tám người cũng lẻn ra trước mặt Dương Hùng.

Bọn này có một anh đi đầu, tên là Tích Sát Dương Trương Bảo, vốn là quân coi giữ thành trì ở đất Kế Châu, sau thường dắt đám vô lại đi kiếm chác tiền nong, để chơi bời phung phí, Quan Tư cấm mãi không xong.

Trương Bảo vốn biết Dương Hùng ở nơi khác đến đó, mới có lòng khinh bỉ mà không coi vào đâu, hôm đó thấy Dương Hùng được nhiều người đưa các đồ vóc đoạn, nên dắt mấy thằng vô lại đánh chén ngà say, rồi đến đó để toan sinh sự. Bấy giờ Trương Bảo gạt rẽ đám đông người ra, rồi đến trước mặt Dương Hùng mà kêu lên rằng:

– Xin chào Tiết Cấp.

Dương Hùng thấy vậy, liền đáp rằng:

– Không dám, mời Đại Ca đến xơi rượu.

Trương Bảo nói:

– Tôi đây không cần uống rượu, chỉ đến vay Tiết Cấp dăm bảy chục quan tiền để tiên thôi.

Dương Hùng cười rằng:

– Tôi xưa nay tuy có biết Đại Ca, song chưa từng giao thiệp đến tiền nong bao giờ, sao Đại Ca lại hỏi như thế?

– Bác bây giờ lừa dối được nhiều tài vật của dân chúng như vậy, phải cho tôi mượn mới được chứ…

– Không, cái đó do người ta có lòng tốt mang đến cho tôi, sao lại bảo là lừa dối được. Anh đừng đến đây nói càn, tôi với đám quân vệ các anh có can thiệp gì?

Trương Bảo lặng ngắt không trả lời, rồi ra bảo bọn kia xông vào mà cướp lấy các đồ mừng.

Dương Hùng thấy vậy thét lên rằng:

– Quân này vô lễ thực… !

Nói đoạn toan xông lại để đánh mấy đứa cướp đồ. Dè đâu Trương Bảo ôm chặt lấy bụng, rồi đằng sau có hai đứa ông chặt lấy tay, không làm sao mà cựa được.Bọn lính canh ngục thấy vậy, đều kinh sợ bỏ chạy mất cả.

Khi đó có một đại hán gánh một gánh củi, vừa đi đến đó; Đai Hán thấy bọn kia giữ chặt lấy Dương Hùng, thì đặt ngay gánh củi xuống, rồi gạt rẽ người ra mà xông vào can rằng:

– Các anh này làm sao lại giằng co với Tiết Cấp như thế?

Trương Bảo quay lại quắc mắt lên mà rằng:

– Thằng ăn mày này, việc gì đến mày, mà mầy dám hỏi chúng tao?

Đại Hán nghe nói cả giận, liền giơ tay tát Trương Bảo một cái ngã lăn xuống đất, mấy đứa kia thấy vạy, vừa toan túm lại để đánh, bất đồ bị Đại Hán tông cho mỗi đứa một quả đậm, ngã xiêu vẹo ra cả.

Bấy giờ Dương Hùng mới được thoát thân, liền dỡ tài nghệ mà đánh cho bọn kia, không còn anh nào mà ngóc đầu lên được. Trương Bảo thấy thế nguy bách, liền bò dậy theo mấy anh cướp đồ mà chạy thẳng. Dương Hùng lấy làm tức giận, cũng đuổi theo vào trong ngõ để bắt.

Bấy giờ Đại Hán kia vẫn còn hăng hái, đánh đập mọi người ở trên đường cái, Đới Tung, Dương Lâm thấy vậy, lấy làm kính phục mà khen rằng:

– Giữa đường thấy sự bất bình, mà cũng tuốt gươm ra sức, thế mới thực là hảo hán.

Nói đoạn liền cùng can Đại Hán kia mà nói rằng:

– Xin hảo hán khoan tay, tên thủ phạm đã chạy mất rồi, còn đánh đập làm chi cho mệt, hảo hán đến đằng kia nói chuyện cho vui.

Đoạn rồi Dương Lâm gánh đỡ gánh củi, còn Đới Tung thì dắt tay hảo hán mà mời bào trong tửu điếm. Khi tới nơi dla đặt gánh củi ở trước cửa, rồi ba người cùng vào trong, tìm chỗ để ngồi.

Đại Hán kia chấp tay nói rằng:

– Xin cảm tạ hai người, sao ngài lại có lòng hạ cố đến tôi như thế?

Đới Tung đáp rằng:

– Anh em chúng tôi thấy ngài là bậc nghĩa khí, giữa đường trừ việc bất bình, chỉ e khi lỡ quá tay đến nỗi thiệt hại đến nhân mạng, nên chúng tôi muốn mời ngài đến đây, xơi mấy chén rượu để nói chuyện nhân thể.

Đại Hán kia lại cảm tạ mà rằng:

– Các ngài có lòng cản ngăn, lại cho vào đây ăn uống thực là quá đáng.

Dương Lâm nói:

– Chúng tôi đây là bốn bể anh em cả, có làm chi mà ngài phải nói thế? Xin mời ngài ngồi.

Nói rồi hai người nhường Đại Hán ngồi trên, Đai Hán khiêm tốn hồi lâu, rồi Đới Tung, Dương Lâm ngồi về một vế và mời Đại Hán ngồi một bên. Đoạn rồi Dương Lâm lấy một lạng bạc đưa cho tửu bảo, sai dọn rượu lên để ba người cùng uống.

Khi uống được vài tuần rượu, Đới Tung hỏi người kia rằng:

– Dám thưa tráng sĩ quý quân ở đâu, cao tính đại danh là gì, xin cho tôi biết?

Người kia đáp rằng:

– Chúng tôi họ Thạch tên Tú, quê ở phủ Kim Lăng, từ thuở nhỏ theo đòi võ nghẹ, tính thích trừ những việc bất bình. Ai ai cũng gọi là Tiểu Mạnh Tam Lang. Sau theo chú đi buôn ngựa, bất đồ giữa đường chú mất tiêu hết tiền nong, đành phải lưu lại ở đất Kế Châu mà hái củi kiếm ăn cho qua ngày tháng. Nay gặp các ngài đây, dám xin hỏi các ngài ở đâu?

Đới Tung đáp:

– Hai anh em chúng tôi ở phương xa tới đây, có chút việc riêng nhận thấy tráng sĩ là một người hào kiệt, đành chịu bán củi kiếm ăn, thì bao giờ cho được phát đạt? Vậy bất nhược liều thân dấn với giang hồ, mà hưởng sự khoái hoạt sau này có thú hơn không?

– Tôi chỉ biết mấy miếng còn quyền, thì làm gì mà phát đạt với khoái họat được?

– Thời buổi này đương lúc mơ màng lốn thốn, triều đình đã chẳng ra gì, mà gian thần lại càng lộng, kẻ hay người dở nào ai đã phân biệt được ai; Vậy tôi thiết tưởng ngài nên đến Lương Sơn Bạc, nhập bọn với Tống Công Minh mà chia vàng sẻ áo, đợi lúc triều đình chiêu an, sẽ cùng về quy phục, như thế có hợp lẽ hay hơn.

Thạch Tú thở dài mà rằng:

– Tiểu đệ cũng có ý thế, nhưng nào ai tiến cử lên cho.

Đới Tung nói:

– Nếu tráng sĩ muốn đi, thì tôi xin tiến dẫn cũng được.

– Chẳng hay quý tính cao danh hai ngài là gì?

– Tôi là Đới Tung làm Viện Trưởng ở Giang Châu khi trước, còn người anh tôi đây là Dương Lâm…

– Vậy ngài có phải là Thần Hành Thái Bảo đã từng có tiếng giang hồ xưa nay hẳn?

– Vâng, chính tôi đây.

Nói đoạn liền bảo Dương Lâm mở bao phục lấy ra một đĩnh bạc hai mươi lạng để thiết đãi Thạch Tú.

Thạch Tú từ chối mãi không được, sau phải vâng lời nhận vậy.

Bấy giờ Thạch Tú biết rõ Đới Tung là Lương Sơn Bạc, thì trong bụng vui mừng, toan giải bày tâm phúc và thương thuyết để nhập bọn một thể. Chợt đâu thấy Dương Hùng đem một bọn hơn hai mươi công sai đi vào hàng rượu để tìm hỏi. Đới Tung, Dương Lâm thấy vậy cả kinh, liền bắt chợt lúc đông người mà lẻn đi mất.

Hai người đi xong thì Thạch Tú vội vàng đứng dậy, để đón tiếp Dương Hùng mà hỏi rằng:

– Tiết Cấp đi đâu, có việc gì thế?

Dương Hùng cười đáp rằng:

– Kìa Đại Ca, tôi tìm mãi không thấy, sao lại ngồi uống rượu ở đây? Bấy giờ tôi mải miết đánh mấy thằng để cướp lại lễ vật các thứ, thành ra Túc Hạ đi ngay, tôi không được biết. Sau có người nói là có hai vị khách nào tiếp đón Túc Hạ đến uống rượu ở đây nên tôi phải đến đây để tìm…

Thạch Tú nói:

– Vâng, vừa rồi có mấy ông khách ở đằng xa, bảo đến đây uống vài chén rượu…cũng không biết rằng Tiết Cấp cho tim…

Dương Hùng cả mừng liền hỏi đến tên họ và quê quán của Thạch Tú, Thạch Tú lai đem câu chuyện của mình bấy lâu nói cho Dương Hùng nghe.

Dương Hùng hỏi:

– Hai người đương uống rượu với Túc Hạ đi đâu cả rồi.

– Hai ông ấy thấy Tiết Cấp dẫn người đến, tưởng là lại sinh sự đánh nhau, nên các ông ấy bỏ chạy cả rồi.

Dương Hùng nói:

– Nếu vậy thì tôi xin ngồi đây, tiếp rượu Túc Hạ cho vui.

Nói xong gọi tửu bảo lấy hai vò rượu, rót cho lũ công sai, mỗi người ba chén để cùng uống rồi đi về trước, Dương Hùng thì ngồi lại tiếp rượu Thạch Tú. Bấy giờ bọn người kia đi cả rồi, Dương Hùng liền nói với Thạch Tú rằng:

– Tôi nói câu này, xin Tam Lang tha lỗi cho: Tam Lang ở đây tất là không có thân thuộc họ hàng nào, vậy xin kết làm anh em chả hay Tam Lang có bằng lòng không?

Thạch Tú cả mừng mà rằng:

– Vậy xin hỏi Tiết Cấp năm nay bao nhiêu tuổi?

– Tôi năm nay hai mươi tám tuổi.

– Tiểu đệ năm nay hai mươi tám tuổi, vậy xin Tiết Cấp cho tiểu đệ bái làm Ca Ca.

Nói đoạn liền lạy Dương Hùng bốn lạy, mà tự nhận làm đàn em. Dương Hùng cả mừng sai tửu bảo dọn rượu lên hai người cùng uống.

Đương khi uống rượu, chợt thấy bố vợ Dương Hùng là Phan Công dẫn năm bẩy người đi tìm đến đó. Dương Hùng thấy vậy liền đứng lên hỏi rằng:

– Thái Sơn tới đây có việc gì vậy?

Phan Công đáp:

– Ta nghe nói ngươi đánh nhau với ai, nên ta đemn đến xem sao?

– Vâng, vừa rồi có tên Trương Bảo rắc rối lôi thôi, song nhờ có Thạch Huynh đây đánh cho nó một mẻ siêu hồn bạt phách đi rồi, nay con đã nhận Thạch Huynh làm anh em kết nghĩa, xin mời Thái Sơn ngồi chơi xơi rượu cho vui.

Phan Công nghe nói ra dáng vui mừng, liền ngồi xuống bên cạnh Thạch Tú, rồi gọi tửu bảo lấy thêm đôi đũa chén ba người cùng uống rượu. Khi đó Phan Công thấy tướng mạo Thạch Tú ra dáng anh hùng trưởng đại, thì trong bụng càng lấy làm mừng rỡ mà rằng:

– Con rể tôi có được một anh em như thúc thúc, để trông nom giúp đỡ cho, thì bao giờ đứa nào dám xấc láo nữa! Chẳng hay xưa nay thúc thúc có buôn bán những nghề gì.

Thạch Tú nói:

– Phụ thân tôi ngày trước có làm nghề mổ thịt lợn, song đến tôi thì lưu lạc giang hồ, không sao nối nghiệp được…

– Vậy thì thúc thúc có biết những việc ấy không?

Thạch Tú cười rằng:

– Từ nhỏ ăn cơm nhà hàng thịt, làm chi mà không biết nghề mổ lợn… ?

Phan Công nói:

– Tôi đây ngày trước cũng là chân đồ tể xuất thân, nhưng nay già yếu không làm được nữa. Còn con rể tôi đây thì lại theo đòi việc quan trong phủ, cho nên phải bỏ hẳn cái nghề ấy, kể cũng tiếc lắm…

Nói đoạn ba người cùng uống rượu say rồi mới trả tiền ra về. Dương Hùng bảo Thạch Tú bỏ vất gánh củi đó, rồi mới về nhà nói chuyện.

Khi về tới nhà, Dương Hùng liền gọi vợ mà bảo rằng:

– Đại tẩu ra chào thúc thúc mau lên..

Bấy giờ có tiếng đàn bà ở trong hỏi lên rằng:

– Đại Ca có thúc thúc nào mà bắt tôi ra chào?

Dương Hùng nói:

– Bất tất phải hỏi, cứ ra chào đi đã.

Nói dứt lời,, thì có người đàn bà ở trong rón rén đi ra.

Thạch Tú thấy vậy liền vội vàng đến trước mặt vái chào mà rằng:

– Xin mời tẩu tẩu ngồi. Nói xong liền cúi rạp xuống để lạy.

Nguyên người này là con gái Phan Công, sinh giữa mồng bảy tháng bảy nên mới đặt là Sảo Vân. Trước đây đã lấy một người lại mực ở Kế Châu là Vương Áp Ty, sau được hai năm thì Vương Áp Ty mất, nàng lại mới lấy Dương Hùng chừng được ngót một năm nay.

Bấy giờ nàng thấy Thạch Tú lại chào, thì có ý khiêm tốn mà rằng:

– Chúng tôi còn ít tuổi, đâu dám mạn phép nhận như vậy?

Dương Hùng nói:

– Chú ấy là anh em kết nghĩa với ta đó. Đại tẩu là đàn chị cứ nhận lễ cho mới được.

Thạch Tú lễ xong bốn lễ, thì Sảo Vân lại đáp lại hai lạy, rồi mời vào trong nhà ngồi chơi, và sai dọn một gian phòng để lưu Thạch Tú ở lại.

Sáng hôm sau Dương Hùng sai người lấy đồ hành lý của Thạch Tú gửi ở hàng cơm để đem về nhà, rồi chàng lại vào phủ hầu việc quan mà lưu Thạch Tú ở đó.

Kể cho non nước gần xa

Cùng nói tâm huyết, cùng là tương thân.

Về phần Đới Tung, Dương Lâm từ khi ở tửu điếm đi ra, hai người lại trở về hàng cơm nghỉ trọ rồi sáng hôm sau lại đi tìm hỏi nhà Công Tôn Thắng, luôn trong hai ngày mà không ai biết đến. Sau bất đắc dĩ phải cùng nhau thu thập trở về, để báo cho sơn trại biết.

Đường đi qua Ẩm Mã Xuyên, hai người cùng nhau vào rủ đám Bùi Tuyên sắm sửa nhân mã, giả danh làm quan quân đi tuần tiễu, mà cùng nhau kéo đến Lương Sơn. Khi về tới Đại trại, các vị Đầu Lĩnh thấy Đới Tung rủ được nhiều người nhập đảng, thì ai nấy có vè vui mừng mà cùng nhau yến ẩm làm vui. Từ đó sơn trại lại càng thêm hưng thịnh vô cùng.

Nói về bố vợ Dương Hùng là Phan công, từ khi có Thạch Tú ở đó trong lòng cũng có phần vui vẻ thêm lên, liền bàn với Thạch Tú để mở ngôi hàng thịt lợn mà rằng:

– Về phía sau nhà tôi đây, là một nơi ngõ hẹp có một gian nhà bỏ không, lại có cả giếng nước gần đó. Vậy tiện đây ta nên mở một lò lợn và dọn phòng trong đó cho thúc thúc ở, để trông nom cho tiện, thúc thúc nghĩ sao?

Thạch Tú cũng ưng thuận mà rằng:

– Nếu như vậy, thì rất tiện lợi, còn gì hơn nữa?

Phan Công nghe nói, liền bảo Thạch Tú giữ coi sổ sách xếp đặt công việc, và cho tìm các người thạo việc khi trước, đến để sắm sửa các thứ quầy, dao, bàn, đá, mua mười lăm con lợn về đó, rồi chọn ngày tốt để khai trương.

Ngày hôm khai trương, các bạn bè hàng xóm láng giềng đến mừng rỡ chè chén rất là đông đúc, nên việc buôn bán cũng nhờ đó, mà càng ngày càng thêm phát đạt, khiến cho Phan Công được vui vẻ trong lòng, mà Thạch Tú cũng được no lòng hể hả.

Thấm thoát trong hai tháng trời, bấy giờ đương độ thu tàn đông tới một hôm Thạch Tú dậy sớm từ lúc canh năm, đi mua lợn ở huyện khác đến ba ngày mới về. Khi về tới nhà thấy cửa hàng đóng kín, mà các khí cụ trong nhà cũng thấy thu xếp đi đâu hết cả.

Thạch Tú vốn là người tinh ý, thấy vậy thì tự nghĩ trong bụng rằng:

– Người ta thường nói: Người nào tử tế suốt đời! Hoa nào thắm mãi không phai bao giờ? Lâu nay Ca Ca đi việc quan vắng, tất là tẩu tẩu ở nhà thấy ta ăn mặc lành lặn thế này, lại có lòng ngờ vực chi đây. Lại nhân ta đi có việc ba hôm nay mới về, thì sao khỏi có sự dị nghị, mà hoãn việc buôn bán này đi? Thôi ta không nên đợi cho họ đến tận nơi, phải tự xử mình trước đi mới được.

Nghĩ đoạn liền đem lợn bỏ vào chuồng, rồi vào phòng thu xếp hành lý, và biên một tờ đơn hàng cẩn thận để đem ra nói chuyện với Phan Công. Khi tới nhà ngoài đã thấy PhanCông sai dọn rượu cơm ngồi đợi ở đó.

Phan công thấy Thạch Tú vào, liền kiếm lời an ủi mà rằng:

– Thúc thúc đi lâu tất là khó nhọc, xin thúc thúc ngồi xơi rượu, rồi nghĩ một lát đã.

Thạch Tú cung kính đáp rằng:

– Xin rước trượng nhân xơi rượu, chúng tôi đi về đó là thường, có làm chi mà dám kể công lao khó nhọc! Xin trượng nhân hãy nhận cái đơn hàng này cho, chúng tôi biên chác rất là minh bạch, nếu có một chút gì tâm tư ý, thì nguyện xin trời chu đất triệt không tha…

Phan Công có vẻ ngạc nhiên mà rằng:

– Sao thúc thúc lại nói những lời như vậy, ở nhà nào có việc gì đâu?

Thạch Tú nói:

– Chúng tôi xa bỏ làng nước từ năm lên sáu lên bảy đến nay, nay muốn về thăm quê quán một phen, vậy xin tính toán trả lại cửa hàng, rồi sáng mai tôi xin từ Ca Ca để đi sớm.

Phan Công biết ý Thạch Tú, liền cười mà nói rằng:

– Thúc thúc lầm rồi…Thúc thúc khoan tâm, để lão phân giải điều này thúc thúc nghe…

Cho hay:

Lợi danh đã mẩn mê người,

Hỏi rằng Bảo, Quản, trên đời mấy tay,

Giang hồ quen thú tỉnh say,

Dẫu sao Nam, Bắc, Đông, Tây ngại gì?

Ở đời trước liệu cơ vì,

Anh hùng tiến thoái tùy nghi mới là…

Vi chăng bốn bể một nhà,

Thì trong thanh khí dễ mà dám quên?

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này giở lên về trước chép Tống Giang đã tới Lương Sơn, bao nhiêu mối đầu đã kết lại, không dừng được nảy ra câu chuyện Đới Tung đi tìm Công Tôn Thắng, để lại mở đầu mối diễn ra, bèn chuyển ra tả đến một thiên gấm vóc văn chương của Dương Hùng, Thạch Tú, cho đến hồi Tam đả Chúc Gia Trang, vô số chuyện kỳ quan, chính một hồi này, đón tiếp một khoảng kéo dài ra vậy. Xét ra những ai ham chơi thắng cảnh danh sơn hãy chịu khó lần mò;Ham ăn thịt béo, hãy chịu khó đun bếp; Ham xem thú trăng hoa, hãy chịu khó đêm khuya; Ham thấy mỹ nhân, hãy chịu khó chải chuốt, nay một hồi này, xin độc giả chịu khó đọc qua.

Tác giả tả một bước đường đi của một hồi này, thấy rất nhiều đoạn văn tự nhỏ, ua chuyện Lý Vân tới Ngô Dụng chỉnh đốn cơ đồ, phát lạc Đầu Lĩnh, rồi Đới Tung đi qua Kế Châu nghe dư luận Lý Quỳ; Nào gặp Dương Hùng; Nào hẹn bọn Bùi Tuyên; Sau cùng đến chuyện Thạch Tú…, đều thấy một cái khéo của một gò cào khe thấp, không phải như mọi sách, chỉ chép một mạch thẳng, như đi giữa chốn Bình Nguyên.

Hồi 44: Phòng riêng ton tót, Dương Hùng gặp gái voi dày – Đêm vắng xông pha, Thạch Tú giết sư hổ lửa

Bấy giờ Phan Công bảo với Thạch Tú rằng:

– Mấy hôm thúc thúc đi vắng nay về thấy đồ đạc hàng họ thu dọn cả vào, nên thúc thúc có lòng nghi ngờ mà muốn bỏ đi chăng? Thúc thúc không nên nghĩ thế, dẫu không mở cửa hàng, mà nuôi thúc thúc ở trong nhà cũng được, chứ có điều chi mà ngại? Nhưng không phải, chẳng giấu gì thúc thúc. Con cháu nhà tôi, trước đã lấy Vương Áp Ty đã mất,đến nay đã trọn hai năm, nhân gọi là làm chút lễ mọn, để trả nghĩa chồng xưa cho cháu, nên mấy hôm nay phải xếp dọn nghỉ hàng để mua sắm các đồ lễ vật, chứ có phải có tình ý gì khác đâu? Đến ngày mai đây, đón các sư về làm lễ, thế nào cũng phải nhờ đến thúc thúc trông coi tiếp đãi giúp cho, xin thúc thúc vui lòng mà tin tôi mới được.

Thạch Tú nói:

– Nếu quả vậy, thì tôi xin lưu lại ở đây, để giúp đỡ trượng nhân, không dám phàn nàn chi cả.

Phan Công lại nói:

– Từ nay trở đi, xin thúc thúc chớ chấp nê điều gì, trước sau bao giờ chúng tôi cũng thế mà thôi.

Nói đoạn liền bảo Thạch Tú cùng ngồi ăn cơm uống rượu. Sáng sớm hôm sau, có mấy người thầy cúng mang lễ vật đến, thiết lập đàn tràng, sắp sửa các đồ đèn nên hoa hương, trống chuông cảnh mõ, và bày dọn cỗ chay để cúng.

Bấy giờ Dương Hùng ở phủ đi về, bảo Thạch Tú rằng:

– Hiền đệ ơi! Hôm nay tôi phải đến phiên coi ngục, không thể nào mà trở về nhà được, vậy các công việc ở nhà, xin hiền đệ trông nom giúp đỡ cho.

Thạch Tú vui vẻ đáp rằng:

– Xin Ca Ca cứ đi việc quan, các công việc ở nhà để giao cho tiểu đệ.

Nói đoạn Dương Hùng từ biệt mà đi vào phủ. Đương khi Dương Hùng đi rồi, một mình tgt đứng đợi đón tiếp ở nhà ngoài, chợt thấy có một vị sư trẻ tuổi đi vào, rồi thấy một người thầy cúng gánh đôi cái quả theo sau, Thạch Tú liền vái chào vị sư, mời vào ở đó, rồi bảo cho Phan Công biết.

Phan Công nghe nói, vội vàng chạy ra để đón tiếp. Vị sư kia thấy Phan Công ra tới nơi, liền đứng dậy vái chào mà rằng:

– Đã lâu nay không thấy can gia đến vãn cảnh ngoài chùa…

Phan Công cười đáp rằng:

– Lão tôi vì mở thêm cửa hàng, nên bạn không đi đâu được.

– Hôm nay là ngày giỗ hết Áp Ty, chúng tôi cũng không có gì đem vào dâng biếu, vạy gọi là có chút lễ mọn, xin cụ chấp nhận lấy cho.

– Chết nỗi! Sao sư phụ lại xử phiền như thế?

Nói xong bảo Thạch Tú bưng lễ vật vào trong nhà, rồi gọi người pha nước ra mời nhà sư uống.

Bấy giờ vợ Dương Hùng ở trên gác đi xuống, hỏi Thạch Tú rằng:

– Ai đưa lễ vật đến đó, thúc thúc?

Thạch Tú ngẩng nom chị chàng kia, cũng ăn mặc loàng xoàng, không ra dáng một ngày đại hiếu, liền đáp rằng:

– Có một vị sư gọi lão trượng nhà ta là can gia đưa đến đây.

Chị chàng kia nghe nói cười mà rằng:

– Chắc lại sư huynh Bùi Như Hải đó hẳn? Ông ấy là một vị rất trung thành xưa nay…Nguyên trước là con ông chủ hiệu họ Bùi, sau mới xuất gia ở chùa Báo Ân đó. Sư phụ ông ta vốn là người môn đồ nhà này, cho nên mới bái phụ thân tôi làm can gia đấy. Pháp danh ông ta là Hải Công, hơn tôi hai tuổi, nên vẫn gọi sư huynh…Ông ta tụng kinh niệm Phật rất tốt tiếng, rồi chiều nay thúc thúc nghe mà xem.

Thạch Tú nghe nói, trong bụng có điều ngờ ngợ, song không dám nói ra cũng phải ứng đáp qua loa cho xong chuyện.

Đoạn rồi chị chàng kia, đi ra nhà ngoài để chào vị sư, Thạch Tú liền khoanh tay lững thững bước ra theo, nấp ở trong mành để xem. Khi chị chàng ra tới nhà ngoài, thì hòa thượng kia vội vàng đứng dậy chạy đến trước mặt, mà chấp tay vái chào rất là lễ phép.

Chị chàng cũng cúi chào lại, rồi nói rằng:

– Sao sư huynh lại còn phiền…em cho lễ vật như thế?

Vị sư đáp:

– Dám thưa hiền muội, có chi mà dám gọi là phiền?

– Đã đành vậy, nhưng chùa chiều có gì mà phải như thế, cho phí tổn vô ích.

– Ngoài chùa tôi mới sửa xong Thủy Lục Đường, muốn mời hiền muội cùng ra vãn cảnh một hôm, chi sợ Tiết Cấp không bằng lòng.

– Có lẽ đâu Tiết Cấp nhà tôi khi nào lại nghĩ đến những việc đó. Vả trước đây khi lão nương tôi mất, tôi có hứa ra dâng lễ huyết bồn ngoài chùa, vậy nay mai thể nào tôi cũng phải ra chùa, để nhờ sư huynh dâng lễ giúp cho.

– Vâng, cái đó xin sẵn lòng, hiền muội sai bảo việc chi. Như Hải này cũng xin hết sức giúp ngay.

Chị đàn bà lại nói:

– Xin sư huynh niệm nhiều kinh cho mẫu thân tôi, thì hay lắm!

Nói dứt lời thì thị nữ bưng trà ra. Chị đàn bà lấy khăn tay lau lại miệng chén cẩn thận, rồi hai tay bưng chén nước đưa lại để mời nhà sư, nhà sư giơ tay tiếp lấy chén trà, hai con mắt trừng trừng nhìn vào mặt chị chàng kia. Chị chàng cũng cười tít đi, mà đưa mắt liếc trả lại nhà sư rất là khả ố.

Thạch Tú đứng trong rèm thấy vậy, trong bụng lẩm bẩm bảo một mình rằng: Xưa nay chị chàng này vẫn hay cợt nhả cười đùa, ta vẫn tưởng là chỗ chị em thân nên mới xử sự nhả như thế…Ai ngờ người đàn bà này cũng là một tụi bất lương đây…Được, nếu gặp vào tay Thạch Tú này, thì tất phải vì Dương Hùng mà làm cho vỡ lẽ mới được.

Chàng nghĩ như vậy, liền vén rèm sồng sộc đi ra, Chú sư hổ mang thấy Thạch Tú bước ra, bèn đặt chén trà xuống, rồi nói rằng:

– Xin mời Đại Lang ngồi chơi.

Chị chàng kia nhanh mồm nói luôn rằng:

– Thúc thúc đây là anh em kết nghĩa với Tiết Cấp nhà tôi đó.

Nhà sư hỏi ngay rằng:

– Đại Lang quý quan ở đâu? Đại danh quý tính là gì?

Thạch Tú nói:

– Tôi ấy à? Tôi họ Thạch tên Tú, người phủ Kim Lăng bình sinh chi hay ra sức giúp người, nên họ thường gọi là Tiểu Mạnh Tam Lang. Tôi là một anh lỗ mãng, nhỡ có điều gì đường đột, xin Hòa Thượng đừng chấp…

Nhà sư vội vàng đáp rằng:

– Không dám, có điều gì mà Đại Lang dạy thế? Tôi xin phép đi đón chư tăng để cúng bây giờ đây?

Nói đoạn hất hả chạy đi ra cửa.

Chị chàng kia dặn với rằng:

– Sư huynh đi mau rồi về đây cho.

Sư ta vội vàng cắm cổ đi, không dám ngoẳng cồ lại mà nói nửa lời nữa. Chị chàng thấy nhà sư đi rồi, liền quay gót trở vào nhà trong. Bấy giờ Thạch Tú đứng ở trước cửa thở dài một tiếng, rồi cúi đầu xuống mà nghĩ ngợ một mình, ra chiều khó chịu vẫn vơ…Hồi lâu bọn sãi chùa đến, sắp sửa lễ vật rồi lên đèn hương ở đạo tràng. Được một lát thì nhà sư hổ mang kai dẫn chư tăng đến làm lễ. Phan Công nhờ Thạch Tú tiếp đãi nước nôi một lúc, rồi chư tăng cùng vào đạo tràng mà lên hiệu thỉnh Phật.

Bấy giờ sư hổ mang kia, cùng một nhà sư trai trẻ nữa, khua chiêng gõ mõ sái tĩnh đàn tràng, dâng sớ cúng Phật, rồi đọc kinh siêu độ vong linh. Khi đó chị chàng ra quỳ ở trước pháp đàn tay nâng lư hương để dâng lễ Phật. Nhà sư kia thì hết sức cổ vũ mà khua tiêu gõ cảnh để đọc các bài châm ngôn, rất là êm ái dễ nghe.

Được một lúc, các sư đi vào nhà trong thụ trai. Sư hổ mang ta lẻn lại đi sau, thỉnh thoảng liếc mắt chị chàng kia, rồi đôi bên cười cợt tống tình, rất nên chiều đắc ý. Thạch Tú trông thấy bao nhiêu như vậy, thì trong lòng lại càng tức tối khó chịu, song không dám nói ra.

Khi các sư ra đến nhà ngoài, cùng ngồi uống mấy chén rượu suông, rồi người nhà dọn cỗ chay ra, Phan Công mời qua một lượt, rồi trong mình mệt nhỏtự đi vào phòng nghỉ trước.

Hồi lâu các sư thụ trai xong rồi, lại bắt đầu ra đạo trang để cúng. Bấy giờ Thạch Tú tức bực trong lòng, bèn nói dối là đau bụng, rồi cũng đi nằm một chỗ. Các sư ra đến pháp đan, noi chuông rung trống đọc kinh Thiên Vương làm lễ Triệu Vong, rồi cùng nhau tham lễ Tam Bảo. Mãi đến đầu trống canh ba, các sư đã nhọc nhằn khẳng tẳng, duy còn sư hổ mang ta vẫn dùng hết tinh thần để đọc kinh niệm Phật, mà kêu lòng ân ái của ả voi giày.

Ả kia đương đứng ở trong mành, càng nghe thấy vậy, thì lửa dục càng thêm rung động, liền sai thì nữ mời nhà sư vào ở trước rèm để nói chuyện. Khi ấy nhà sư vừa đọc kinh, vừa chạy đến trước rèm, rồi chị chàng đứng trong rèm nắm lấy áo nhà sư mà nói rằng:

– Ngày mai sư huynh đến lấy tiền công đức, xin sư huynh nhắc đến việc huyết bồn cho…

Nhà sư nói rằng:

– Được. Anh đây nhớ lắm…Mong hoàn tâm nguyện, thì hoàn ngay chứ sao… ?

Nói xong lại bảo chị ả kia rằng:

– Thúc thúc nào ở đâu? Người ấy trông ghê lắm đây…

Chị chàng lắc đầu nói:

– Sợ gì hắn, hắn có phải là anh em ruột thịt gì mà sợ!

Nhà sư gật gù khen phải mà rằng:

– Nếu vậy mới có thể yên tâm được.

Nhà sư vừa nói vừa đưa tay ra bấm tay chị chàng kia một cái, rồi cười mà đi ra cúng đàn.

Khi đó Thạch Tú nằm ở trong nhà trong thấy rõ ràng như vậy, trong lòng lại càng băn khoăn khó chịu vô cùng. Vào khoảng canh năm cúng lễ đã xong, hóa đốt vàng mã, rồi các sư làm lễ tạ đàn mà trở về chùa. Chị chàng kia cũng lên gác đi nghỉ.

Bấy giờ Thạch Tú tức giận nghĩ thầm trong bụng:

– Ca Ca ta là một người hào kiệt, gặp phải con vợ như thế, thực là mất cả thể diện chứ không chơi.

Chàng nghĩ vậy, đành phải nên lòng, mà đi vào phòng ngủ. Sáng hôm sau Dương Hùng về nhà, ăn uống cơm nước xong xuôi, lại lẳng lặng đi vào trong phủ, không hề ai nói việc chi. Khi Dương Hùng đi rồi, lại thấy nhà sư hổ mang kia, đã thay mặc bộ quần áo nhà chùa, rất chỉnh đốn mà đến nhà Phan Công.

Chị đàn bà nghe nói nhà sư đến, lại vội vàng ở trên gác đi xuống, rồi đón mời nhà sư vào xơi nước.

Chị chàng nói với nhà sư rằng:

– Cái qua thực là phiền huynh quá, tiền công đức cũng chưa đưa hầu người…

Nhà sư vội đáp rằng:

– Cái đó cần gì…Duy hôm qua có nói về việc lễ huyết bổn, vậy xin hỏi hiền muội, nếu định làm lễ ngay, thì trong chùa tôi hiện đương tụng kinh chỉ phải viết thêm một lá sớ nữa để dâng là đủ.

Chị chàng nói:

– Nếu vậy thì hay lắm, để tôi xin mời phụ thân tôi ra nói chuyện.

Nói đoạn liền sai thị nữ mời Phan Công đến, Phan Công tạ ơn nhà sư mà nói rằng:

– Đêm qua tôi mệt quá, không trông nom được chu tất, sau thúc thúc lại bị đau nghỉ, thành ra không có ai tiếp đãi, xin nhà sư bỏ lỗi đi cho.

Nhà sư đáp:

– Can gia dạy quá lời, có điều chi mà chúng tôi dám trách.

Chị chàng khốn nạn nói với Phan Công rằng:

– Con định dâng lễ huyết bồn cho mẫu thân, nhân thấy sự huynh nói ngoài chùa ngày mai cũng làm lễ, vậy bất nhược cha làm phụ ngay vào đấy thì tiện hơn. Nay để sư huynh về niệm Phật, rồi sáng mai hai cha con ta cùng ra làm lễ một thể.

Phan Công nói:

– Phải lắm, song chỉ sợ ngày mai không có ai trông nom nhà cửa cho…

– Việc đó đã có thúc thúc trông nom ở nhà, ngại gì…

– Phải con đã hứa đi như vậy, thì sáng mai thế nào cũng phải đi mới được.

Đoạn rồi chị chàng lấy tiền công quả đưa cho nhà sư mà nói rằng:

– Chúng tôi gọi là có chút lòng thành, xin sư huynh nhận lấy cho. Sáng mai chúng tôi sẽ xin đến chùa thụ lộc.

Nhà sư vâng lời, nhận lấy tiền, rồi nói với chị chàng kia rằng:

– Đa tạ tấm lòng bố thí, tôi xin đem về để biếu chư tăng…Sáng mai thể nào cũng mời can gia cùng hiền muội ra chùa chứng minh công đức.

Nói xong vái chào ra về. Chị chàng kia cũng đưa chân ra đến cửa, rồi mới trở vào. Bấy giờ Thạch Tú lại sửa soạn hàng họ, rồi giết lợn ra để bán hàng. Chiều hôm ấy Dương Hùng về tới nhà, khi cơm nước xong rồi, chị chàng kia xui Phan Công nói chuyện đi lễ chùa cho Dương Hùng biết.

Phan Công bèn đem chuyện bảo với Dương Hùng mà nói rằng:

– Sáng mai hai chúng tôi phải đi ra chùa Báo Ân làm lễ, còn công việc ở nhà đã nhờ thúc thúc Thạch Tú trông nom hộ.

Dương Hùng cũng ưng lời mà đáp rằng:

– Hiền thê đã hứa làm lễ, thì xin trượng nhân cứ cho đi, có điều chi mà ngại?

Sáng hôm sau Dương Hùng dậy sớm, vào làm việc quan trọng phủ, Thạch Tú thì dậy sớm để dọn hàng chị chàng kia cũng dậy sớm để chải đầu, bít chân, rửa mặt mũi, sửa xiêm áo, rồi giục con đòi làm cơm sớm để ăn; Phan Công cũng dậy sớm đi mua các đổ vàng hương lễ vật, và đi thuê một cỗ kiệu để đợi ở đó. Bấy giờ Thạch Tú còn bận bán hàng, cũng không kịp hỏi han đến các công việc sửa sang ở trong.

Khi cơm nước xong, thị nữ sắp đủ các lễ vật, rồi vào khoảng gần trưa, Phan Công thay xiêm áo chỉnh tề, mà nói với Thạch Tú rằng:

– Tôi bận việc phải đi chùa với cháu; xin thúc thúc ở nhà trông nom giúp cho, một lát chúng tôi xin về.

Thạch Tú đã hơi ngầm hiểu trong bụng, liền cười mà đáp rằng:

– Xin trượng nhân cứ xuống coi cho tẩu tẩu đi lễ, còn công việc ở nhà tôi xin cáng đáng.

Đoạn rồi chị chàng kia lên kiệu, Phan Công cùng bọn thị nữ đi theo kiệu, mà cùng tới chùa Báo Ân. Bấy giờ sư hổ mang ta đứng đón ở ngoài cổng chùa, khi thấy kiệu đi đến, trong bụng hớn hở vui mừng, chạy ra vái cháo rất cung kính.

Phan Công đáp lễ mà rằng:

– Thế này thực là phiền hòa thượng lắm.

Chị chàng kia ở trên kiệu bước xuống, vái chào nhà sư mà rằng:

– Chúng tôi đến đây phiền sư huynh đón tiếp, biết lấy gì mà đền ơn cho được?

Sư ta cung kính mà rằng:

– Không dám, có điều chi mà phiền? Tiều tăng này đã cùng với chúng tăng tụng kinh ở Thủy Lục Đường tử đầu trống canh năm tới giờ, chỉ còn đợi hiền muội đến chứng minh mà thôi.

Nói đoạn dẫn Phan Công cùng chị chàng kia lên Thủy Lục Đường, khi tới nơi, đã thấy lễ vật bày biện nghiêm trang, đèn nến huy hoàng, khói hương nghi ngút, có mười mấy vị sư đương ngồi đọc kinh ở đó.

Chị ả kia cúi chào cá vị sư, rồi vào lễ Tam Bảo, sư hổ mang ta lại quỳ xuống trước đàn tụng kinh sám hối làm lễ hóa vàng mà cùng thu trại. Bấy giờ chư tăng dẫn đồ đệ đi thụ trại một nơi, còn sư hổ mang kia thì mời Phan Công cùng chị chàng ta đến một tăng phòng rất sâu, đã đặt bày chỉnh đốn, rồi gọi đồ đệ pha nước đem lên. Được một lát thấy hai tên đồ đệ bưng một cái khay đỏ, đặt mấy cái chén trắng, pha một thứ trà thực ngon, đem lên để mời. Khi uống nước xong, nhà sư lại dẫn vào gian gác nho nhỏ, trong bày đồ đạc rất nhã, trên treo một bức thi hạo của danh nhân, giữa kê một cái án con để lò hương nghi ngút, mời Phan Công cùng chị ả ngồi một bên, và nhà sư ngồi vào một bên để tiếp. Chị chàng kia nói:

– Sư huynh ở đây thưc là vắng vẻ thư nhàn, rõ cảnh tượng một nhà tu hành lắm.

Sư ta đáp lại rằng:

– Xin hiền muội chớ cười ở đây sao ví được với nhà đằng ấy.

Phan Công nói:

– Chúng tôi đến đây, quấy quả hòa thượng mất cả ngày, bây giờ xin cáo về thôi…

Nhà sư có ý giữ lại mà nói rằng:

– Mấy khi can gia đã đến chơi, xin coi đây như một nhà vậy…Vả chăng hôm nay hiền muội cũng đã đưa tiền để làm lễ, xin can gia ngồi chơi xơi tạm lưng cơm chay đã…Sư đệ cho dọn cơm lên đây…

Nói đoạn thấy đồ đệ bưng ra hai mâm, toàn là quả ngon hoa lạ, cùng các thức ăn chay kỳ dị bày trên mặt bàn.

Chị chàng thấy vậy nói rằng:

– Sư huynh còn cho ăn uống thế này, thực là phiền quá?

Sư ta cười mà đáp rằng:

– Cũng gọi là có lưng cơm nhà chùa, lấy gì làm phiền phí, xin can gia hiền muội chứng giám cho.

Nói đoạn gọi đồ đệ rót rượu, rồi hai tay nâng chén đưa mời Phan Công mà nói rằng:

– Không mấy khi can gia đến đây, mời ngồi xơi chén rượu cho vui.

Phan Công cất chén rượu uống một hơi, rồi khen rằng:

– Rượu ngon lắm.

Nhà sư nói:

– Bữa trước có một ông thí chủ bảo nấu rượu theo cách rất ngon, ngày mai đem mấy bình đến, để biếu Tiết Cấp xơi.

Nói xong quay ra bảo chị chàng kia rằng:

– Nhà chùa không có gì trả ơn, xin mời hiền muội xơi chén rượu suông vậy.

Đoạn rồi sai rót rượu mời chị chàng, và mời cả đám thị nữ cùng uống.

Chị chàng uống một lượt rồi nói:

– Xin thôi, tôi không uống được rượu nữa.

Sư hổ man lại khéo mời rằng:

– Mấy khi nương tử quá chân đến đây xin mời thêm chén nữa.

Phan Công bảo gọi đám phu kiệu vào, cho mỗi người một chén rượu.

Nhà sư vội đỡ lời rằng:

– Xin can gia cứ xơi rượu, đám phu kiệu tiểu tăng đã cho người mời ăn uống ở ngoài kia rồi.

Nguyên sư hổ mang này có ý với chị chàng kia, nên có tìm thứ rượu rất ngon để mời Phan Công uống. Phan Công uống được mấy chén, thì say ngã ra đó, sư ta liền sai đồ đệ vực lên gian phòng một bên để nghỉ, rồi nói với chị chàng rằng:

– Xin nương tử xơi một chén nữa cho vui.

Chị chàng kia vốn đã sẵn có tình tứ trước, lại nhân trong người váng vất hơi men, liền ra bộ mờ mờ mịt mịt, cười nói mà rằng:

– Sư huynh cứ bắt em uống rượu làm gì thế?

Sư ta sẽ trả lời:

– Đó là tôi kính ái đến nương tử đấy.

– Thôi, rượu không uống được nữa đâu?

– Vậy xin mời nương tử đến phòng tiểu tăng mà xem răng Phật.

– Vâng, tôi đương muốn đi xem qua một lát.

Sư hổ mang liền dẫn chị chàng đến một gian đầu, là nơi phòng ngủ, bày biện rất là trang nhã dễ coi. Chị chàng thấy vậy đã hớn hở vui mừng, liền nói:

– Ngọa phòng ở chỗ này, thực là sạch sẽ dễ chịu…

Sư hổ mang cười mà đáp rằng:

– Ở đây chỉ thiếu một nương tử mà thôi.

Chị chàng cũng cười toét mồm ra mà nói rằng:

– Sao không kiếm lấy một người?

– Nào ai bố thí cho? Thôi, hãy theo tôi đi xem răng Phật.

Chị chàng quay ra bảo thị nữ rằng:

– Bay xuống xem ông đã tỉnh dậy chưa?

Thị nữ vâng lời đi xuống nom Phan Công. Sư hổ mang liền đóng cửa lầu lại.

Chị chàng kia cười mà hỏi rằng:

– Bắt tôi ở đây làm gì…làm gì thế?

Sư hổ mang nghe nói, lửa dục bốc lên đùng đùng, liền chạy đến ôm chặt lấy chị chàng kia mà nói rằng:

– Tôi kính mên nương tử biết bao nhiêu? Hai năm nay trong lòng xiết bao tơ tưởng, nay mới được nương tử đến đây, xin rộng lòng mà thương tôi với.

Chị chàng đáp rằng:

– Chồng tôi không phải là người vừa đâu, làm thế lỡ ra hắn biết thì nguy đấy.

Sư hổ mang quỳ xuống mà nói:

– Xin nương tử cứ thương tôi là hết.

Chị chàng kia giơ tay đỡ dậy đáp rằng:

– Sao anh khéo nhiễu người ta thế? Có sợ tôi lát cho mấy cái không?

Sư hổ mang cười khì khì mà đáp rằng:

– Nương tử đánh thề nào tôi cũng phải chịu, chỉ sợ nương tử không nỡ đánh thôi…

Bấy giờ chị chàng voi xé kia đã mê mẩn tâm thần, không sao giữ nổi liền ôm lấy nhà sư mà tảng lờ nói rằng:

– Tôi đánh thực chớ đánh bỡn à?

Sư ta thấy vậy, liền kéo đến giường nằm, đội bên hú hý với nhau rất là thỏa nguyện. Đoạn rồi sư ta bảo với chị chàng kia rằng:

– Nàng đã có lòng yêu tôi như vậy, dẫu chết cũng không lấy gì làm tiếc, song ngày nay chẳng qua cũng chỉ được thỏa lòng trong phút chốc, rồi sau đây tất là kín cổng cao tường, bao giờ cho gặp mặt, mà lỡ ra có khi nguy hiểm đến thân, vậy nàng có kế gì xin cứu cho tôi với…

– Được, cái đó không hề chi? Tôi đã nghĩ ra được một kế. Chồng tôi cứ một tháng là có tới hai mươi ngày vào ngủ trong nhà lao, vậy tôi có đứa con đòi rất thân mật, sẽ xin cho nó đợi ở vườn sau, hễ hôm nào chồng tôi đi vắng, thì kê án thắp hương làm hiệu, bấy giờ cứ lẳng lặng đi vào, không sợ chi cả. Nhưng chỉ e hồi canh năm mà ngủ quên thì rất nguy hiểm, vậy xin thuê một người đầu đà đi báo sáng, đến lối cửa sau mà đánh mõ báo sáng mà niệm Phật to lên, cho mình tỉnh dậy thì mới khỏi lộ sự ra được.

Sư hổ mang nghe nói cả mừng mà rằng:

– Phải lắm, diệu lắm, xin nàng cứ thế mà làm, tôi đây đã có người đầu đà, tức khắc tôi bảo đến canh gác ở đó.

– Thôi bây giờ không tiện ngồi dai, xin xuống kẻo người ta ngờ vực…những lời dặn phải nhớ nhé…

Chị chàng nói xong liền vuốt ve lại đường tóc, sửa sang lại má phấn rồi mở cửa lầu mà đi xuống. Khi xuống tới nơi, bảo thị nhi đánh thức Phan Công dậy để về.

Bấy giờ đám kiệu phu đã được ăn uống tử tế, cùng nhau ngồi đợi ở cả ngoài cổng chùa. Sư hổ mang đưa chân ra đến cổng chùa, rồi chị chàng kia lên kiệu mà cùng về với Phan Công.

Khi chị chàng về rồi, sư hổ mang liền tìm một người đầu đà báo sáng, đến để nói chuyện.Nguyên chùa đó vẫn có một người đầu đà, tên là Hồ Đạo, cứ mỗi sáng đấu trống canh năm lại vác mõ đi khua, để báo sáng cho mọi người tỉnh dậy tụng kinh và làm cơm.

Khi Hồ Đạo tới nơi, sư hổ mang ta rót mấy chén rượu để mời, và đưa một ít tiền cho Hồ Đạo.

Hồ Đạo đứng dậy mà nói rằng:

– Đệ tử vốn nhờ ơn sư phụ xưa nay, nào có công lao gì mà dám thụ lộc như vậy?

Sư ta cười bảo Hồ Đạo rằng:

– Ta xem ngươi là một kẻ chí thành, rồi ta sẽ xuất ít tiền mà mua hộ điệp cho ngươi, xung vào tăng ngạch, Nay hãy đưa cho ngươi một ít tiền này, để may quần áo mà mặc, ngươi cứ cầm lấy.

Hồ Đạo mọi khi vẫn được các đồ đệ ở đó, đãi cho ăn uồng, thỉnh thoảng lại dắt đi cúng lễ các nơi, cũng kiếm được chút tiền dư, nên trong lòng vẫn lấy làm cảm phục. Nay lại thấy cho tiền như vậy, thì tự nghĩ rằng:

“Nhà sư cho ta như thế này, tất có việc gì nhờ đến ta, vậy bất nhược ta hãy hỏi thử trước xem sao? “

Nghĩ đoạn liền nói rằng:

– Sư phụ có sai khiến việc gì, chúng tôi xin hết sức xin sư phụ nói cho biết…

– Ngươi đã có lòng tốt như thế, thì ta cũng không dám giâu làm gì, hiện nay con gái Phan Công muốn cùng ta đi lại, hẹn đêm đến thắp hương ở cửa sau làm hiệu cho ta vào. Song còn sợ lỡ khi có ai nghe ngóng, vậy ta phải phiền người đến đó dò trước, nếu qua không có ai, thì ta sẽ vào rồi đến sáng sớm canh năm ngươi lại tới cửa sau, nom khi vắng người thì gõ mõ niệm Phật cho to để ta ra về, như thế có được không?

Hồ Đạo vâng lời mà rằng:

– Việc đó có chi là khó, sư phụ đã sai, tôi xin vâng lĩnh.

Ngày hôm đó Hồ Đạo đến cửa sau nhà Phan Công để xin cơm chay. Chợt có đứa thị tỳ chạy ra hỏi rằng:

– Sao nhà chùa không đến cửa trước mà xin, mà lại vào cửa này?

Hồ Đạo lặng ngắt không trả lời, cứ niệm Phật to lên, cho trong nhà nghe tiếng, chị chàng voi xé kia, nghe thấy tiếng niệm Phật, liền vội vàng chạy ra hỏi rằng:

– Nhà chùa có phải là đầu đà báo sáng đó không?

Hồ Đạo đáp rằng:

– Chính tôi là đầu đà báo sáng, khua gọi người ta tỉnh dậy đây…Tôi đến phải đốt hương khẩn nguyện, thi Trời Phật mới chứng minh cho.

Chị chúng kia nghe nói cả mừng, liền bảo thị nhí vào lấy một quan tiền đồng thưởng cho Hồ Đạo. Hồ Đạo thấy thị nhi đi vào, liền hỏi thăm chị chàng kia rằng:

– Tôi là người tâm phúc của Hải Sư Phụ, đến để thăm đường trước đây…

– Được, tôi biết rồi, đêm náycư đến đây hễ có thắp hương thì báo cho sư huynh biết.

Hồ Đạo gật đầu lính ý. Thị nhi mang tiền ra cho Hồ Đạo, rồi chị chàng cùng thị nữ đều trở vào. Khi lên tới lấu, chị chàng đem chuyện tâm phúc giãi bày cho thị nhi biết, và dặn dò trông nom cẩn thận giúp cho.

Tối hôm đó Dương Hùng vừa đúng phiên vào ngủ trong lao, thị nhi liền bày án thắp hương để ra lối sau làm hiệu, rồi chị chàng voi xé sẽ đứng nấp ở bên để đợi. Vào khoảng cuối canh một, chợt thấy một người khăn áo chỉnh tề đi tót vào trong cửa. Thị nhi kính hỏi, người kia lặng ngắt không trả lời. Chị chàng thấy vậy, liền giơ tay bợp khăn người kia xuống, lộ cái đầu trọc tếu ra rồi sẽ mắng rằng:

– Cái quái này, sao mà ranh thế… ?

Nói đoạn dắt tay nhau cùng lên lấu. Thị nhi cũng cất hương vào, mà đi ngủ một chỗ.

Đêm hôm ấy hai anh chị ân ái tự tình với nhau, không có một điều chi trở ngại. Đương khi đôi bên mệt nhọc cùng thiếp đi một giấc nồng, bỗng nghe tiếng mõ lốc cốc cùng tiếng người niệm Phật ở sau thì hai người đều choàng dậy cả. Sư khốn nạn kia vội vàng đứng dậy mặc quần áo đội khăn, rồi bảo chị chàng rằng:

– Tôi xin về, rồi tối nay sẽ đến.

– Tối nào hễ trông thấy có thắp hương thì vào, đừng có sai lời mới được…Nếu không thắp hương thì chớ vào mà khốn đấy.

Nói đoạn nhà sư khốn nạn vâng lời, hất hải đi ra rồi. Thị nhi lại đóng cửa lại. Từ đó trở đi, cứ mỗi khi Dương Hùng vào ngủ trong lao vắng, là đôi bên lại dập dìu đi lại cùng nhau, tình ý rất nhiều thân mật. Phan Công thì chưa tối, đã đi nằm ngủ, còn hai đứa thị nhi cũng nằm cuộn tròn vào một giường, không biết tới chuyện chi, bởi vậy hai bên dan díu với nhau hơn một tháng trời, cũng không ai biết đến.

Về phần Thạch Tú từ khi nom thấy công chụyen chướng tai gai mắt, trong lòng vẫn băn khoăn khó chịu, song từ bấy cũng không thấy nhà sư đi lại thì lại không hiểu ý tứ sao. Sau đó, thỉnh thoảng chàng dậy sớm lại nghe thấy gõ mõ, và có tiếng người niệm phật ở phía dưới cửa sau thì trong bụng hơi lấy làm ngờ ngợ mà nói một mình rằng: “Lối ngõ sau đây là lối ngõ cụt, không còn ai ra vào đến đây, vậy sao lại có người nhà chùa đến gõ mõ niệm Phật làm chi? Việc này tất có duyên cớ chi đây ta thử dò xem mới được? “

Một đêm vào khoảng canh năm giữa đêm trung tuần tháng chạp, Thạch Tú đương trằn trọc ngủ không yên giấc, chợt thấy tiếng mõ kêu lốp cốp ở ngõ đi vào đến cửa sau, rồi có tiếng người niệm: “Phả độ chúng sinh, cứu khổ cứu nạn chư Phật Bồ Tát!” rất to.

Chàng nghe thấy vậy, bèn chạy ra chỗ khe cửa đứng nom, một lát thấy một người khăn áo chỉnh tề ở trong bước ra, cùng với anh đầu đà đi báo sáng cùng không đi, rồi lại thấy thị nhi chạy ra đóng cổng lại.

Thạch Tú thấy rõ ràng như vậy, trong lòng càng lấy làm tức giận, lẩm bẩm nói rằng:

– Ca Ca mình như thế, mà gặp đá phụ cư xử như thế phỏng có đáng tức hay không? Nếu ta không vì Ca Ca mà liệu lý sự này, thì quyết không phải là tay hảo hán…

Nói đoạn liền quay vào, đem thịt thà ra dọn hàng để bán buổi sáng. Hôm đó khi cơm nước xong, chàng ra đi đòi ít tiền hàng, rồi đi thẳng vào trong phủ để tìm Dương Hùng. Khi vào gần tới một chỗ ở trước cửa phủ, đã gặp Dương Hùng ở đó.

Dương Hùng hỏi Thạch Tú:

– Hiền đệ đi đâu thế?

Thạch Tú nói:

– Tôi đi hỏi ít tiền hàng, nhân thể vào thăm Ca Ca một thể.

– Lâu nay tôi bận việc quan, chưa hôm nào anh em ngồi uống rượu với nhau vài chén cho vui…Bây giờ hãy đến đây ngồi chơi một lát đã.

Nói đoạn liền dắt Thạch Tú đến một tửu lầu gần đó, tìm bào một gian gác tĩnh để ngồi, rồi gọi tửu bảo mang rượu nhắm lên để hai người cùng người cùng ngồi uống rượu. Uống được vài ba chén rượu, Dương Hùng thấy Thạch Tú chỉ cúi đầu nghĩ ngợi, thì trong lòng không được thích liền hỏi:

– Hiền đệ có chuyện gì không vui thế? Hay là ở nhà lại có điều chi trái ý với hiền đệ chăng.

– Không, trong nhà không có điều chi trái ý tôi. Tôi vẫn cảm ơn Ca Ca coi tôi như ruột thịt trong nhà, bởi vậy tôi có một câu chuyện muốn nói, nhưng…

Vừa nói đến đó, Dương Hùng lại tiếp luôn:

– Có việc gì xin hiền đệ cứ nói, sao lại câu lệ như người ngoài vậy.

– Tôi nói câu này thì Ca Ca bỏ qua cho: Ca Ca thì hằng ngày vào hầu việc quan trong phủ, không biết đâu đến công việc trong nhà…Tẩu tẩu không phải là một người có lương tâm, đã mấy phen tôi biết mà không dám nói. Tới nay bắt được quả tang, không thể nào mà cầm lòng cho đặng, nên phải tìm đến để nói cho Ca Ca nghe.

Dương Hùng nghe nói hỏi luôn rằng:

– Tôi làm gì có lắm mắt mà trông được cả đẳng sau lưng, vậy ai có đến đó, xin hiền đệ cứ nói cho tôi biết.

Thạch Tú liền đem chuyện từ khi nhà sư đến làm lễ, cho tới khi ra chùa Báo Ân, cùng là sáng sớm có người niệm Phật, rồi thấy nhà sư ở trong lầu đi ra, thuật hết cho Dương Hùng nghe mà nói rằng:

– Những hạng dâm phụ như thế, Ca Ca còn chứa làm chi cho bẩn nhà?

Dương Hùng nghe nói, bèn cả giận mà rằng:

– Đồ hèn mạt như thế, thì còn sao dung được!

Thạch Tú nói:

– Ca Ca hãy khoan, không nên nóng tính. Hôm nay về nhà cứ lặng ngắt làm thinh như mọi ngày, rồi đến chiều lại nói dối là phải vào ngủ trong lao, đợi đến canh ba sẽ trở về, gọïi cửa, tức đứa gian phu kia phải lòi ra ngay. Bấy giờ tôi xin nắm cổ nó lại để Ca Ca trị.

– Phải, làm thế có lẽ thông lắm.

– Nhưng Ca Ca phải kín mới được.

– Chắc hẳn rồi, để ngày mai ta sẽ thi hành.

Nói đoạn hai người cùng nhau uống mấy chén rượu nữa, rồi trả tiền đứng dậy đi xuống lầu. Khi đó chợt thấy bốn năm người ngu hầu chạy đến gọi Dương Hùng mà bảo rằng:

– Kìa Tiết Cấp, chúng tôi đương đi tìm mãi. Quan Phú đương ngồi ở vườn hoa, đợi Tiết Cấp đến đấu gậy với chúng tôi đấy. Đi…Tiết Cấp đi mau…

Dương Hùng nghe nói, bảo với Thạch Tú rằng:

– Thạch Ca về trước, tôi hãy vào hầu quan một lát đã.

Nói xong để mặc Thạch Tú về trước, rồi cùng tụi ngu hầu ra vườn hoa để đánh gậy. Tri Phủ ngồi xem đánh gậy một lát lấy làm thích chí ngợi khen, liền sai rót mười cốc lớn để thưởng cho Dương Hùng, Dương Hùng uống rượu lĩnh thưởng xong, rồi bái tạ Tri Phủ mà ra. Chúng trở lại đón Dương Hùng đi thiết rượu mãi đến gần tối, chén đã quá say mới đưa về nhà.

Khi về tới nhà, chị chàng kai đã thấy chồng say sưa mê mệt, liền cảm tạ mấy người đưa về đó, rồi cùng thị nhi dắt lên gác mà cởi khăn áo cho Dương Hùng đi nghỉ.Bấy giờ Dương Hùng đã say rượu bứ bừ, không còn nhớ đến lời dặn của Thạch Tú, liền đùng đùng nổi giận, trỏ vào mặt chị kia mà mắng rằng:

– Con hèn mạt này, đồ khốn nạn này, ta không thể nào dung được nữa…

Chị chàng kia thấy vậy, lấy làm kinh ngạc không dám nói câu gì, cứ lằng lặng mà phục dịch cho Dương Hùng ngủ. Dương Hùng vừa lim dim ngủ, vừa lảm nhảm luôn mồn mà mắng rằng:

– Đồ khốn nạn kia, đồ dâm phụ kia…mày…mày lại trêu vào miệng hùm à? Mày mà như thế, thì tao tha thế nào được…

Chị chàng lại im lặng, cố xoa vuốt cho Dương Hùng ngủ. Dương Hùng nói lảm nhảm một lúc rồi thiêm thiếp ngủ đi, mãi đến canh năm mới tỉnh dậy. Khi mở mắt tỉnh dậy, thấy trên án vẫn còn ngọn đèn nho nhỏ, chị kia còn nguyên khăn áo chỉnh tề, mà đem nước cho chàng uống.

Chàng cất lấy nước, uống xong liền hỏi:

– Đêm qua nàng không cởi xiêm áo mà ngủ hay sao?

Chị chàng đáp rằng:

– Tiếp Cấp uống rượu say quá, chỉ sợ nôn mửa ra đó, nên tôi vẫn phải ngồi ở cái chõng bên cạnh để xoa bóp, có dám cởi áo nằm ngủ ở đâu.

– Hôm qua tôi có nói mê mẩn gì không?

– Mọi khi uống rượu rất là thuần tính, hễ say là ngủ ngay lập tức, sao hôm qua say rượu thì khó chịu thế?

Dương Hùng lảng đi mà nói rằng:

– Đã lâu nay không ngồi uống rượu với Thạch Tú bữa nào, hôm nay ta ở nhà mời hắn uống rượu cho vui một thể.

Chị chàng kia làm bộ không nói gì, ngồi ở cái chõng một bên, giàn giụa hai hàng nước mắt, thở dài một tiếng rất vẻ đáng thương!

Dương Hùng lại nói:

– Đêm qua tôi say rượu có điều gì xúc phạm đâu? Sao nàng lại buốn bã làm vậy?

Chị chàng lặng ngắt, lau hai hàng nước mắt không trả lời. Dương Hùng hỏi luôn mấy tiếng nữa, chị chàng lại giả vờ bưng mặt khóc mà không nói gì cả.

Dương Hùng thấy vậy, liền kéo chị chàng lên giường mà hỏi:

– Làm sao nàng phiền não như thé?

Chị chàng ta khóc rưng rưng mà đáp rằng:

– Cha mẹ tôi ngày trước gả tôi cho Vương Áp Ty, cũng tưởng trăm năm xum họp với nhau, nào ai có ngờ là giữa đường đứt gánh…Ngày nay lại lấy được chàng là hào kiệt, cũng đã hơi hả trong lòng, dè đâu chàng lại hẫng hờ không thiết gì đến tôi cả.

– Quái lạ! Ai làm gì nàng mà kêu rằng tôi hờ hẫng không biết.

– Tôi cũng không muốn nói ra làm gì, nhưng không nói thì để lòng không đặng, mà nói ra đây; lại thêm tức bực cho chàng mà thôi.

– Hãy cứ nói, xem chuyện gì đã…

– Tôi nói đây, chàng biết mà để lòng mới được…Từ khi kết nghĩa với Thạch Tú, thọat trước anh ta còn tử tế, sau càng ngày càng sỗ sàng vô lễ mãi ra, thỉnh thoảng chàng đi vắng, thì anh ta lại đùa bỡn mà bảo tôi rằng: ” Ca Ca ngay nay khong ve tau na m motnh labuon han? ” Hắn đã đôi ba phen như thế, tôi cũng không thèm nói làm chi…Lại đến buổi sáng hôm qua, tôi đương đứng rửa mặt ở dưới bếp, hắn ở đâu chạy đến, nom trước nom sau, không thấy ai cả, liền thò tay sờ vào bụng tôi mà nói rằng: “Tẩu tẩu đã có mang chưa? ” Tôi tức giận quá, cầm tay hắn hắt ra, đã toan la thét ầm lên cho hắn một mẻ, nhưng sợ hàng xóm chê cười, nên phải cắn răng chịu vậy để đợi khi chàng về sẽ nói cho chàng biết. Ngờ đâu hôm qua về tới nhà đã say gí say gì, không còn biết làm sao nói chuyện được nữa…Tôi tức quá chừng, tôi đương muốn giết nó đi cho xong chuyện, lại còn đem tên Thạch Tú mà nói với tôi làm gì nữa…

Dương Hùng nổi giận đùng đùng mà rằng:

– “Vẽ hùm ai vẽ được xương. Biết người biết mặt ai lường được gan? “Thế mà nó dám xoen xoét với ta là thằng sư thế nọ, thằng sư thế kia, ai ngờ chính nó lại khốn nạn như thế? Nó có phải anh em ruột thịt gì mà cần, tống quách cổ đi cho rảnh.

Nói đoạn chờ cho đến sáng trở dậy bảo với Phan Công rằng:

– Con lợn mới giết đó đem thịt mà cất đi, từ nay không buôn bán gì nữa.

Đoạn rồi đem các đồ hàng hóa buôn bán đạp phá tan tành, không còn một chút gì để lại. Được một lát Thạch Tú trở dậy, đem thịt ra để bày hàng, thì bỗng thấy quầy bàn gãy nát tứ tung, thì sực nghĩ đến chuyện Dương Hùng, rồi cười mà nói rằng:

– Phải rồi, anh chàng này chắc đêm hôm qua say rượu, nói phọt ra hết rồi, chị chàng ấy làm kế phản gián cho anh em chia rẽ nhau đây…Được, nếu vậy đành chịu lui một bước, rồi sẽ liệu…

Nói đoạn về phòng thu xếp khăn gói, giắt lấy con dao lưng, rồi đã lánh mặt đi trước.

Thạch Tú đến nói với Phan Công rằng:

– Chúng tôi ở đây lâu ngày quấy quả thế, mãi cũng không tiện, vậy Ca Ca đã thu xếp cửa hàng không cho bán nữa, vậy tôi xin cáo từ để đi nơi khác.Các sổ sách tiền nong đã minh minh bạch bạch, không có chút gì là sai lầm. Nếu tôi có lòng nào gian tham vào đó, thì xin trời đất chứng minh.

Phan Công thấy con rể đã không ưng lòng lưu lại, cũng đánh để cho Thạch Tú ra đi, mà không biết nói sao được nữa.

Vì đâu tâm huyết tan tành?

Nghĩa kia so với chữ tình mà thua?

Mấy ai tri kỷ giang hồ?

Trông tu my chẳng thẹn thò lắm sao?

Khi đó Thạch Tú từ giã Phan Công đi đến một chỗ gần đó, tìm vào hàng cơm, thuê một gian phòng để trọ, rồi tự nghĩ một mình rằng: “Dương Hùng với ta kết nghĩa anh em, ta tất làm ra cho rõ việc này, không thì nguy hiểm đến tính mệnh anh ta mất. Anh ta tuy bây giờ cả nghe bà mà giận dữ với ta, song ta đây không chấp những chuyện nhỏ mà làm hại nghĩa lớn, vậy ta hãy ở đây dò thăm cho ra việc này, rồi sẽ nói cho hắn biết”

Chàng nghĩ vậy liền quyết chí đến cửa Dương Hùng để thám thính. Một buổi tối kia, có một tên lính ngục, mang chăn đệm của Dương Hùng vào nhà lao, Thạch Tú thấy vậy, đoán chắc là tối hôm đó Dương Hùng vào ngủ trong lao, chàng liền lập kế dậy sớm để đi bắt gian.

Tối hôm ấy Thạch Tú đi ngủ thật sớm, đầu trống canh năm thức dậy, rửa mặt súc miệng, rồi giắt con dao nhọn, mở cửa lẻn đi ra ngõ sau, nấp vào xó tối nhà Dương Hùng để đợi.

Vào khoảng giữa canh năm, chợt thấy người đầu đà vác một cái mõ gỗ đi đến đầu ngõ, rồi nghiêng nghé nom dòm hết chỗ nọ đến chỗ kia. Thạch Tú thấy vậy liền nhảy đến đằng sau đầu đà, một tay nắm chặt lấy đầu đà, một tay giờ dao kề vào cổ mà sẽ nói rằng:

– Muốn sống phải im, hễ kêu là ta giết ngay.Mày phải nói thực. Hòa thượng bảo mày đến đây làm gì?

Đầu đà cuống người lên, sẽ trả lời rằng:

– Hảo hán tha tôi, tôi xin thú thực…

– Nói mau, ta tha cho…

– Hải hòa thượng đi lại với con gái Phan Công, tối đến sai tôi tới đây, nom thấy hiệu hương, thì bảo cho hòa thượng vào, rồi đến canh năm lại bảo tôi đến đây nom thấy vắng người, thì khua mõ niệm Phật cho hòa thượng ra…

– Hiện bây giờ hắn ở đâu?

– Hiện còn nằm trong nhà Phan Công đó. Bây giờ tôi gõ mấy tiếng là ra ngay.

Thạch Tú nói:

– Vậy thì anh cho tôi mượn cái mõ và bộ quần áo của anh đã.

Nói đoạn giật lấy cái mõ ở tay đầu đà, đầu đà kinh sợ, cởi áo đưa cho Thạch Tú, Thạch Tú giơ dao đâm cho đầu đà một nhát vào cổ, ngã lăn ra đó, lấy áo của đầu đà mặc vào mình, rồi lau sạch lưỡi gươm mà gõ mõ đi vào ngõ.

Bấy giờ sư hổ mang ta đương ở trong lầu, nghe thấy tiếng gõ mõ, liền vội vàng đi ra. Thạch Tú ngoài này cứ gõ mõ tràn mãi không thôi.

Sư ta lẻn ra sẽ mắng luôn rằng:

– Gõ gì mà gõ mãi thế?

Thạch Tú lặng ngắt để cho sư hổ mang ra đến đầu ngõ, đá một cái lăn xuống đất, rồi đè chặt lấy mà bảo rằng:

– Im, hễ kêu to là ta giết. Để ta lột hết quần áo đã.

Sư hổ mang nhận ra là Thạch Tú thì lặng ngắt, cho lột quần áo mà không dám thở, Thạch Tú lột trần truồng hết cả, rồi lấy dao xỉa cho mấy nhát, kết quả tính mạng sư hổ mang. Đoạn rồi đem dao đến bỏ ở bên cạnh đầu đà, gói hai thứ xống áo lại mang tót về nhà trọ. Khi về tới nơi, chàng lại cài cửa đi vào, nằm nguyên như trước, không ai biết chuyện gì.

Giang hồ liếc mũi dao con,

Chuyện đời chướng mắt phỏng còn hay không?

Anh em đã trót đèo bòng,

Ai ơi nên phải giốc lòng cùng nhau.

Gần phố đó có anh Vương Công bán hàng cháo, sáng dậy dọn hàng thực sớm, quảy gánh xách đèn đi trước, một đứa bếù con theo sau, để cùng ra ngoài chợ. Khi đi đến chỗ xác chết, bị vấp một cái, ngã đổ gánh cháo ra đường.

Bấy giờ đứa bé con kêu lên rằng:

– Khổ chưa! Có nhà sư say nằm đây hẳn…

Vừa kêu dứt miệng thì lão Vương Công bò dậy, thấy hai bàn tay đầm đìa những máu, tanh sặc cả lên. Vương Công lấy làm kinh sợ kêu la ầm ĩ, rồi đôi bên phố xá vác đèn ra soi, thì thấy máu hòa với cháo lênh láng cả ra phố. Mà có hai cái xác chết nằm ở đó. Phố xá thấy vậy đều kinh ngạc hãi hùng, liền tóm lấy Vương Công để đem vào trình phủ.

Sóng oan chìm đắm bao người,

Lấy ai lấp phẳng tát vơi bể tình?

Tuồng gì là giống hôi tanh,

Làm cho đổ quán nghiêng thành như chơi.

Có thân nên sớm liệu đời,

Lẽ ra khôn lẽ kêu trời là oan!

Anh hùng gánh vác giang san,

Trăm năm hoa nở hoa tàn sá chi?

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này Thánh Thán bàn đến Đạo Phật rất dài, cho rõ rằng đạo Phật cao siêu bao nhiêu, dạy kẻ tu hành phải diệt dục thế nào, mới đáng một đệ tử Phật, để nảy ra một Bùi Như Hải, khoác áo tu hành, lại quá dâm ô hơn là phàm phu tục tử. Nay xin tóm tắt đại ý mà tạm dịch ra đây.

Sau khi Phật diệt độ rồi, thì mọi tội ác của tỳ khưu ỏ trong việc Phật, diễn ra, làm lắm điều đi đến diệt Pháp, ta muốn nói ra, dài quá không tiện, nay nhân chuyện hồi này mà bàn đến gửi vào.

Xét Đạo Phật vốn cao cả, rất nhiều pháp môn để tùy nghiệp duyên giải thoát chúng sinh, riêng về môn tu hành trực tiếp xuất gia, thấy phải ép xác minh như chết hẳn đời, để theo cho thành công quả lớn, cho nên tu phải pháp giới trang nghiêm, trường trai diệt dục, gọi là khổ hạnh…Thế mà bao nhiêu kẻ khoác áo thầy tu, bề ngoài thấy rất nghiêm trang, ai cũng chắc là đại đức, nghiêm cẩn, trong sạch, cao uý…với bao nhiêu hình thức, tin như Bồ Tát hiên thân…Ai ngờ, nào có ai ngờ bề trong khác hẳn, họ có rất nhiều mánh lới bịp bợm, lường gạt, đến ai cũng mắc, để làm cho thỏa mãn xác thân, đến khi Phật Trời tẩy uế, làm nổi bật tội ra, người đời mới lắc đầu le lưõi, trong đám tu hành lại gian tham quá phàm tục thế này…

Một đoạn văn tả Bùi Như Hải, tác giả đã đền nhan: Thạch Tú trí sát Bùi Như Hải, tức gợi ngay tên tục hắn mà tước bỏ pháp danh, cho rõ một thằng tục vậy? Tới khi hành văn, tả Bùi Như Hải thông gian cùng Phan Xảo Vân, bao nhiêu người nhộn nhịp xung quanh đám hiếu, từ trước tới sau không một ai có thề ngờ một nhà sư, cho đến lúc Xảo Vân lên chùa làm lễ, ngay ông bố theo, cũng không biết tới, con hầu thân lúc đó chưa hay, về sau nhà sư chỉ cho đầu đà biết, Xảo Vân chỉ cho con hầu cạnh được hay đề là những kẻ giúp sức mới có thể biết được, do đương cuộc nói để nhờ vào việc.

Thế mà bỗng đâu nảy ra một Thạch Tú, anh chàng ăn mặn nói ngay biết được rõ ràng, từ lúc đón sư về, tới khi vào đám lễ, Thạch Tú nhân ra hiệu bảo nhau…Chàng máu nóng đã nổi cơn điên rồi, mà không làm sao được ngứa mắt đến nỗi giả vờ đau bụng cho nguội; Khi Xảo Vân lên lễ chùa chàng đã sẵn nghi, chỉ mong bắt được qủa tang thì mạt sát. Sau khi dò ra biết tên đầu đà khi báo hiệu, thấy đôi trai gái đã tư thông, chàng nhịn sao được mà chả nói cho bạn biết? Dương Hùng vừa tin bạn rồi lại tin vợ, lại thấy một kẻ có vợ ngoại tình, cũng không còn ngờ vợ ngoại tình, đến nỗi đuổi bạn đi một cách gián tiếp, đôi trai gái kia lại càng già sự thông dâm.

Sau khi giết hai gã tình gian dâm ra đường, không ai biết được? Tòa án cũng đến chịu rằng ai giết nhà sư? Việc giết nhà sư về bí mật này đã đành Thạch Tú rất là tinh tế, Phan Xảo Vân cũng đoán nổi ra, Dương Hùng mới nghi ai vậy…Độc giả thấy một đoạn văn tả rất khéo thay!

Hồi 45: Núi Thúy Bình, Dương Hùng giết vợ – Điếm Chúc Gia, Thạch Tú đốt nhà

Khi đó mấy người ở phố xá túm lấy Vương Công cùng đem vào phủ quỳ xuống kêu với Tri Phủ rằng:

– Sáng ngày chúng tôi ra nghe tiếng kêu, vội chạy ra phố xem, thì thấy lão này đánh đổ cháo lên trên hai cái xác chết, một cái xác hoà thượng, một cái xác đầu đà, toàn thị trần truồng hết cả, và có con dao vất ở bên cạnh đầu đà, xin đến trinh quan biết.

Vương Công kêu rằng:

– Việc đó chúng tôi không biết đầu đuôi thế nào. Sáng ngày dậy sớm, đi với thằng bé gánh hàng đem ra chợ bán, bỗng tới đó bị vấp ngã, máu me dính bết ra người, bấy giờ mới biết có hai xác chết. Chúng tôi thấy thế lấy làm kinh sợ, kêu la ầm ĩ cho phố xá đổ ra, rồi kéo đến để trình quan lớn. Xin ngài lượng cả xét cho…

Quan Phủ nghe nói, liền sai nha lại dẫn tụi Vương Công cùng người hàng phố đến đó để khám nghiệm sự tình.

Khi chúng khám xong, về bẩm với Tri Phủ rằng:

– Nhà sư bị giết đó là hoà thượng Bùi Như Hải ở chùa Báo ân, còn người đầu đà, tức tên là Hồ Đạo ở đằng sau chùa. Nhà sư ấy không mặc một thứ vải lụa nào, trong mình có đến ba bốn nhát dao đâm. Hồ Đạo thì có để một con dao hành hung lên cổ, chỉ có một nhát thương rất nặng. Việc này chắc là Hồ Đạo cầm dao đâm giết nhà sư, rồi sợ tội vạ đến thân mà lại tự tử chết nốt.

Tri Phủ cho đòi chư tăng ở chùa đó đến để tra hỏi, đều không ai biết đầu đuôi ra sao cả.

Bấy giờ Khổng Mục bảo với Tri Phủ rằng:

– Cứ xét về hiện tình thế này, chắc là hai bên làm việc gì phi pháp, rồi tranh nhau mà lôi thôi sinh sự, không hề gì động đến Vương Công, vậy tha cho Vương Công trở về với hàng phố, để sau này có việc chi sẽ đòi hỏi đến. Còn hai cái xác kia, giao cho chùa Báo Aân phải đem quan quách để chôn đi một nơi rồi lập án cho là hai bên giết hại lẫn nhau, thế là công chính…

Tri Phủ khen là phải liền y lời, truyền cho theo đó thi hành.

Được ít bữa có kẻ hiếu sự ở gần phố đó, đặt ra câu hát cho trẻ con hát rằng:

Nực cười hoà thượng chùa Báo An,

Cũng là túc trái tiền nhân,

Lứa đôi thiện nam dỗ tín nữ,

Mong cho vui sướng lấy thân,

Ngờ đâu Cực Lạc Quan Âm vừa tiếp dẫn,

Bỗng đâu Huyết bồn Địa ngục đã sa chân!

Than ơi! Chữ Không, Sắc quả nhân không nhớ,

Kiếp hoá sinh kia tớ theo thầy!

Ví chăng xum họp rồng mây,

Thì chi đến nỗi đường giây máu tình?

Tưởng rằng: Chỉ có bà Mục Liên dẫn mẹ đến trời xanh;

Nào ai hay, sư hổ mang lại hoá kiếp bởi cô mình mình ơi!

Lại có mấy anh hiếu sự nữa, nghe mấy câu hát ấy, thì cũng tức tối trong lòng, mà đặt luôn một khúc “Lâm Giang Tiên” cho trẻ hát:

“Sắc giới phá tan, Dao oan kề cổ, Tiên nhân hậu quả, Thực rõ từng ly.”

Sinh thì diện mục gớm ghê,

Aùo quần trút sách dao kề một bên.

Sư cụ đêm nay tròn quả phúc,

Đêm qua sư bác vẫn như điên.

Đầu đà cũng quyết cùng nhau chết,

Cửa Phật khen ai khéo nặng nguyền… “

Đàn bà trẻ con thấy hai câu hát ấy, thì truyền tụng luôn mồm, làm cho phố xá ai ai cũng biết. Chi chàng kia thấy vậy, trong bụng càng lấy làm cay đắng xót xa, mà không dám hé miệng nói một câu gì vào đó.

Về phần Dương Hùng ở phủ Kế Châu khi đó, nghe thấy câu chuyện như thế, thì đoán chắc là Thạch Tú làm ra, liền tự ăn năn hối hận trong lòng rồi quay ra vơ vẫn đi tìm Thạch Tú, để hỏi xem đoan đích ra sao?

Chàng vừa đi đến phía trước cầu, đã thấy có tiếng người đằng sau họi lên rằng:

– Ca Ca đi đâu đấy?

Dương Hùng nghe gọi quay lại thấy Thạch Tú liền nói.

– Kìa hiền đệ, tôi đương tính đi tìm hiền đệ đây.

Thạch Tú nói:

– Ca Ca hãy đến chỗ này, tôi nói chuyện đã.

Nói đoạn dẫn Dương Hùng vào một hàng cơm, đến một chỗ phòng con để nói chuyện với nhau.

Thạch Tú bảo Dương Hùng rằng:

– Ca Ca, tôi nói có sai đâu?

Dương Hùng nói:

– Thôi, xin hiền đệ tha lỗi cho tôi. Vì hôm đó tôi say rượu nói liền, bị đứa gian phụ dò biết ý tứ, rồi nói xấu hiền đệ lắm câu không ra gì cả. Nay tôi tìm đến để xin lỗi với hiền đệ đây…

– Ca Ca ơi! Tôi dẫu là một đứa vô tài, song đầu đội trời, chân đạp đất, không khi nào làm càn bao giờ? Tôi chỉ sợ sau này lỡ Ca Ca lại trúng kế, nên đến tìm để bảo rõ cho Ca Ca biết, hiện có tang tích đây kia, tôi xin lấy Ca Ca xe.

Nói đoạn đem cả quần áo của hai người đã giết mà đưa cho Dương Hùng xem.

Dương Hùng xem xong bầng bầng nổi giận mà rằng:

– Để hôm nay về cắt đầu con dâm phụ kia, thìm mới hả lòng được.

Thạch Tú cười rằng:

– Anh lại thế rồi…Anh là một người làm việc quan, không biết pháp luật hay sao? Bây giờ không bắt được quả tang thì giết người ta thế nào được? Ngộ lỡ ra tôi nói xằng, thì có phải giết oan người ta không?

– Thế thì có thôi được hay sao?

– Bây giờ anh phải nghe tôi, mới có thể làm một anh con trai ở đời được…

– Thế nào hiền đệ cứ nói tôi nghe?

– Gần núi cửa đông đây có toà núi Thuý Bình Sơn, rất là tĩnh mịch, đến mai Ca Ca nói dối là đi lễ, rồi dắt tẩu tẩu và đứa thị nữ lên đó một thể. Đoạn rồi tôi đón ở đó, để ba mặt một lời đối chứng minh bạch, rồi Ca Ca sẽ làm giấy cho người ta về, thế là công bằng hơn cả.

– Hiền đệ bất tất phải thế, tôi biết rằng hiền đệ là người thủy chung, không khi nào có thế mà ngại. Cái đó toàn là con khốn nạn nó nói liều nói lĩnh ra cả.

– Đành vậy, nhưng tôi muốn cho Ca Ca biết rõ đầu đuôi, thì tôi mới hả.

– Hiền đệ đã định vậy, thì rất là có lý, sáng mai tôi xin dẫn nó đến đó, hiền đệ chớ sai lời mới được.

Thạch Tú cười mà đáp rằng:

– Nếu ngày mai tôi không đến đó, thì những lời nói của tôi là vất đi cả. Xin Ca Ca cứ y ước cho.

Nói đoạn Dương Hùng từ biệt Thạch Tú mà đi về trong phủ. Chiều hôm đó Dương Hùng về nhà vẫn cứ ung dung điềm đạm như mọi ngày, không có điều chi là ý khác. Sáng hôm sau chàng dậy sớm nói với vợ rằng:

– Đêm qua tôi nằm mê, thấy thần về báo mông, nói rằng: “Khi trước có hứa làm lễ, mà sao đến nay không đi trả lễ. Nguyên trước tôi có hứa đến lễ Nhạc miếu ngoài cửa đông, song lâu nay bận rộn chưa sao trả lễ được, vậy ngày nay tôi muốn cùng nàng ra để trả lễ một thể”.

Chị chàng kia đáp rằng:

– Tiết Cấp đi muốn mình có được không? Cần gì phải tôi đi nữa?

– Ngày trước tôi có hứa lễ, chính là ngày thành thân với nhau, vậy ngày nay phải cùng đi với nhau mới được.

– Nếu vậy ta cùng ăn cơm chay sớm, rồi tắm rửa mà đi một thể.

– Để tôi mua vàng hương với thuê xe, nàng ở nhà tắm rửa trước, rồi bảo thị nhí sắp sửa đợi tôi về là đi.

Nói đoạn đứng dậy đi ra hàng cơm tìm Thạch Tú hẹn rằng:

– Hôm nay cứ ăn cơm xong là tới đó cả.

Thạch Tú nói:

– Khi đến lưng chừng núi. Ca Ca nên cho đỗ kiệu xuống, rồi mấy người đi bộ lên núi, tôi sẽ chờ một chỗ vắng vẻ trên đó, chớ cho người lạ đi vào mới được.

Dương Hùng nhận lời, quay ra đi mua vàng hương thuê kiệu rồi trở về ăn cơm. Khi ăn cơm xong sắp sửa rồi lên kiệu, kiệu phu đã chực ở ngoài cửa.

Dương Hùng trở vào nói với Phan Công rằng:

– Xin trượng nhân trông nom nhà giúp, chúng con đi lễ một lát sẽ về.

Phan Công nói rằng:

– Tiếp Cấp đi lễ, nên mau mau trở về, kẻo lão mong đợi.

Nói đoạn chị chàng lên kiệu, rồi Dương Hùng cùng thị nữ đi bộ theo sau. Khi ra đến ngoài cửa đông. Dương Hùng dặn lũ phu kiệu khiêng kiệu lên núi Thuý Bình Sơn, rồi sẽ cho thêm tiền.

Nguyên Thuý Bình Sơn ở ngoài cửa đông Kế Châu, ước chừng hơn hai mươi dặm; trên đó toàn thị tha ma mộ địa, cỏ mọc xanh um, cành dương trắng xoá, không hề có chùa chiền nhà cửa ở trên.

Bấy giờ phu kiệu khiêng kiệu đến lưng chừng núi. Dương Hùng liền bảo hạ kiệu xuống, rồi rút then mở bức rèm giục chị chàng đi ra.

Chị Chàng hỏi:

– Đây là chỗ nào?

Dương Hùng đáp:

– Hãy cứ xuống sẽ biết.

Nói đoạn quay ra dặn bọn phu kiệu rằng:

– Các ngươi đợi ở đây, một lát ta cho tiền uống rượu, bất tất phải lên trên ấy.

Đám kiệu phu vâng lời, đứng đợi ở đó, Dương Hùng dẫn chị chàng kia, cùng thị nữ đi lên trên núi. Khi tới chỗ vắng vẻ, thấy Thạch Tú đã đứng đợi ở đó, chị chàng kia liền hỏi Dương Hùng rằng:

– Sao đi lễ lại không mang vàng hương lên đây?

Dương Hùng nói:

– Tôi cho người đem lên trước rồi.

Nói đoạn, liền dẫn chị chàng kia đến một nơi cổ mộ rất là hoàng tịch. Tới đó Thạch Tú bỏ khăn gói dao gậy xuống chỗ gốc cây, rồi chấp tay vái chị chàng kia mà rằng:

– Xin chào tẩu tẩu.

Chị chàng kia cũng vội vàng hỏi:

– Sao thúc thúc cũng ở đây? Nàng vừa hỏi vừa giật mình kinh sợ, không biết tại sao?

Thạch Tú đáp rằng:

– Tôi đợi tẩu tẩu ở đây đã lâu.

Đoạn rồi Dương Hùng quay lại hỏi chị chàng rằng:

– Bữa trước nàng nói với ta những chuyện thúc thúc làm xằng như thế nào? Hôm nay vắng vẻ nàng thuật lại rõ ràng cho ta nghe một lượt?

Chị chàng tái người đi mà đáp rằng:

– Việc đã qua rồi, còn nhắc lại làm chi nữa?

Thạch Tú trừng mắt hỏi:

– Tẩu tẩu nói thế nào?

– Thúc thúc việc gì đến đó, còn nói nữa làm chi… ?

Thạch Tú cười nhạt, rồi giở khăn gói lấy quần áo của Bùi Như Hải và Hồ Đạo ra, ném xuống đất mà hỏi rằng:

– Có biết quần áo nào đây không?

Chị chàng kia trông thấy, lại đỏ bầng mặt lên, mà không nói được câu gì nữa.

Thạch Tú cầm dao lưng ra tay, bảo với Dương Hùng rằng:

– Việc này chỉ hỏi con thị nữ sẽ biết.

Dương Hùng liền nắm đầu con thị nữ bắt quỳ xuống trước mặt quát lên hỏi rằng:

– Con khốn nạn này, những việc thông gian ở chùa…hẹn ước đốt hương như thế nào…cùng là đầu đà gõ mõ…thế nào, muốn sống nói thực cho ta nghe. Nếu sai một câu nào là ta cắt cổ băm nhừ ngay lập tức.

Thị nhi run rẩy kêu rằng:

– Bẩm ngài, việc không can thiệp gì đến tôi, ngài tha cho tôi xin kể ngài nghe.

Nói đoạn liền đem chuyện từ khi đến chùa lễ Phật, vào phòng xem răng Phật, đuổi thị nữ xuống nhà dưới, rồi đến ngày thứ ba có đầu đà đến xin kêu, sai lấy tiền đồng ra cho, rồi sau đợi Tiết Cấp đi vắng là thắp hương ra hiệu, và sáng dậy có người gõ mõ đánh thức thế nào…cho đến lúc thưởng cho mấy thứ nữ trang, bắt phải nói với Tiết Cấp là Thạch Tú đùa bỡn ghẹo thế nào…Nhất nhất thuật cho Dương Hùng, Thạch Tú cùng nghe…

Thạch Tú nghe đến đó, bèn hỏi Dương Hùng rằng:

– Ca Ca đã biết chưa? Những lời đó không phải là tiểu đệ xui nó được…Xin Ca Ca hỏi lại tẩu tẩu xem?

Dương Hùng lại nắm tay chị chàng kia, kéo lại mà quát lên rằng:

– Đồ súc sinh này, con kia có đã thú thực cả rồi, ngươi có chối được nữa không? Mau mau nói thực ra, kẻo không sống được bây giờ…

Chị chàng kia năn nỉ kêu rằng:

– Việc đó thực là tôi không phải, xin chàng nghĩ tình vợ chồng khi trước mà tha tội cho tôi?

Thạch Tú bảo với Dương Hùng rằng:

– Ca Ca không thể hàm hồ thế được, phải hỏi cho rõ đầu đuôi ra sao?

Dương Hùng lại quát lên rằng:

– Thế nào phải nói cho ta nghe?

Chị chàng lại phải đem đầu đuôi từ khi hai năm gặp gỡ đã có tư tình, bái kế Phan Công làm can gia, đến khi làm lễ ở nhà đôi bên cười cợt, bị Thạch Tú biết lại phải im đi, khi ra thắp hương ngoài đàn, đổi bên lại đến gần rèm chuyện hẹn nhau ra lễ ngoài chùa, khi ra lễ chùa, đánh lừa lên xem răng Phật, toan tính lâu dài cùng nhau, khi xui làm phản gián để đuổi Thạch Tú đi, khi yêu cầu để đem thị nhi ra cho hẹn cùng khi hẹn hò đi lại luôn luôn thế nào…thế nào…lại thuật hết một lượt nữa.

Thạch Tú nói:

– Còn khi nói với Ca Ca, tôi đùa bỡn thế nào nữa?

– Hôm đó Ca Ca say rượu về, mắng tôi mấy câu rất là đáng sợ, tôi đoán chắc là thúc thúc đã biết chuyện mà nói cho Ca Ca hay, vả chăng trước đó mấy hôm đã có người xui tôi làm cách đó, nhân thế tôi mới dụng kế để phản gián đôi bên, nhưng xin thú thực là thúc thúc không có chút gì như thế.

Thạch Tú nói với Dương Hùng rằng:

– Bây giờ thế đã ba mặt một lời rồi, còn cách xử trí thề nào xin tuỳ nhân huynh định liệu?

Dương Hùng nói:

– Hiền đệ hãy tháo hết nữ trang trên đầu, cởi hết áo xiêm hắn ra, để tôi sẽ có cách xử trí.

Thạch Tú vâng lời, tháo hết đồ trang sức, và lột áo chị chàng kia ra, Dương Hùng bèn cắt hai đoạn dải lưng buộc chị chàng vào gốc cây ở đó. Thạch Tú lại lột hết khăn áo của đứa thị nữ, và mọi đồ trang sức đưa cho Dương Hùng và nói rằng:

– Ca Ca nên nghĩ, những hạng người khốn nạn ấy, còn để làm gì nữa? Giẫy cỏ phải nhổ gốc mới được.

Dương Hùng nói:

– Đưa dao đây, tôi xử cho mới thích.

Thị nữ thấy nguy bách đến nơi, vừa mới toan kêu lên, thì bị Dương Hùng chém một nhát đứt ngay ra làm hai đoạn.

Chị ả bị trói ở gốc cây thấy vậy kêu lên rằng:

– Thúc thúc can giúp một tí.

Thạch Tú cười mà đáp rằng:

– Cái này có phải tự tôi đâu?

Dương Hùng cầm dao đến móc lưỡi chị chàng kia cắt đứt không cho kêu được nữa, rồi trỏ vào mặt mà nói rằng:

– Đồ hèn mạt này, mầy lừa dối ta, xuýt nữa không những là hại đến tình nghĩa anh em, mà sau này lại còn bị ngươi giết hại, vậy chắc là tâm, can, phủ tạng của ngươi, khác hẳn mọi người, để ta lấy thử ra xem sao?

Nói đoạn đưa dao rạch một nhát từ ngực xuống bụng, moi lấy gan treo lên cây tùng. Đoạn rồi đem quần áo bỏ xó với quần áo nhà sư, và lấy các đồ trang sức gói vào một gói bảo với Thạch Tú rằng:

– Bây giờ gian phu dâm phụ đã giết cả rồi, duy còn tôi với hiền đệ thì nương tựa vào đâu cho được?

Thạch Tú nói:

– Tôi có chỗ để an thân được, xin Ca Ca cùng đi ngay với tôi.

– Đi đâu bây giờ?

– Bây giờ Ca Ca đã giết người, nếu không lên nhập bọn ở đất Lương Sơn, thì còn đi đâu được?

– Đành vậy, nhưng hai anh em mình có quen biết mà họ dung nạp vào đó?

– Ca Ca nghĩ lầm rồi, hiện nay đám giang hồ thiên hạ, ai không biết tiếng Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh, là người chiêu hiền nạp sĩ, chuyên kết hảo hán xưa nay. Vả chăng tôi cùng nhân huynh lại biết đôi chút võ nghệ, như vậy thì làm chi đến đó, họ chẳng hoan nghênh?

– Tuy nhiên buổi ban đầu là còn khó, huống chi tôi đây là người làm việc quan, thì tất nhiên họ cũng nghi tâm, có khi nào chịu cho mình ở được?

Thạch Tú cười rằng:

– Ông ta ngày trước không làm Áp Ty hay sao? Tôi nói câu này cho Ca Ca vững dạ, trước đây anh em mình mới được gặp nhau trong hàng rượu, có hai người cùng ngồi ở đấy với tôi, rồi đứng dậy đi, chính một người là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung, ở Lương Sơn Bạc, và một người là Cẩm Báo Tử Dương Lâm, có cho em mười lạng bạc, hiện còn để trong bọc đó…Nay anh em ta lên đó, thì còn có điều chi mà ngại?

– Nếu quả có đường lối như vậy, thì tôi về thu thập hành lý rồi ta cùng đi…

– Ca Ca còn thu thập hành lý gì? Bầy giờ vào thành lỡ ra họ tóm được thì thoát làm sao? Hiện đây đã có các đồ nữ trang, tôi cũng có một ít tiền kia, thế là đủ rồi không cần nói chi phải đi đâu cho thêm sinh sự? Thôi Ca Ca cứ quyết chí đi ra sau núi, mà tên Lương Sơn Bạc ngay mới được.

Thạch Tú nói đoạn, khoác khăn gói lên vai, tay cầm lấy gậy rồi Dương Hùng lau dao giắt vào lưng, rồi vác thanh đao để cùng ra đi.

Chợt đâu có người trong bụi thông chạy ra kêu rằng:

– Giữa lúc thái bình thế này, mà dám cả gan giết người, rồi rủ nhau nhập cọn Lương Sơn Bạc hay sao? Ta đây biết hết chuyện rồi…

Dương Hùng, Thạch Tú nghe nói quay đầu lại xem, thì người kia đứng gần trước mặt mà cúi xuống lạy chào hai người. Nguyên người ấy họ Thời tên Thiên, tổ quân ở đất Cao Đường, lưu lạc đến đất Kế Châu, thường hay trèo tường khoét ngạch làm kế sinh nhai, người ta thường gọi là Cổ Thượng Tao Thời Thiên, trước đây đã bị Quan Tư ở phủ Kế Châu bắt được, sau có Dương Hùng cứu thoát cho ra, nên mới nhận biết Dương Hùng từ đó.

Bấy giờ Dương Hùng trông thấy Thời Thiên liền hỏi rằng:

– Ngươi ở đâu mà lại đến đây?

– Dám thưa Tiết Cấp Ca Ca, lâu nay tôi rất quẫn bách, không còn có chỗ kiếm ăn, đành phải quanh quẩn ở đây, đào mấy cái mộ cổ, để xem có cái gì khả dĩ dùng được chăng? Vừa rồi thấy Ca Ca hành sự ở đó, chúng tôi không dám thò ra để quấy nhiễu, sau nghe nói Ca Ca đinh lên Lương Sơn Bạc, nên mới dám ra đây để theo…Tôi thiết tưởng như tôi quanh quẩn ở đây, chẳng qua chỉ bắt con gà con qué, để kiếm ăn sinh nhai, thì bao giờ cho khá được, vậy hai vị Ca Ca cho chúng tôi đi theo một thể không biết rằng các ngài có ưng chăng?

Thạch Tú nghe nói đáp rằng:

– Nếu cùng là bọn giang hồ hản hán, thì cứ đến đấy cũng được chứ sao? Người ta đương chiêu hiền nạp sĩ kể biết bao nhiêu, có hẹp chi một mình mà không dung được…Xin cứ đi với chúng tôi một thể cho vui.

Thời Thiên nói:

– Các ngài có lòng thế, thì còn gì hơn nữa? Tôi có thuộc đường lối đi lên đó, để tôi xin dẫn các ngài đi cho gần…

Nói đoạn ba người liền theo lối sau núi mà cùng nhau rời gót về đất Lương Sơn.

Thanh đao đã đứt sự đời,

Bốn phương đâu chẳng là trời tương tri,

Giang hồ là chí nam nhi,

Lợi danh đắm đuối làm chi nhọc mình?

Khi đó hai tên phu kiệu đứng đợi ở lưng chừng núi mãi đến mặt trời sắp lặn về tây, mà cũng không thấy ba người trở xuống.

Trước còn bảo nhau ngồi đợi không dám đi lên, sau thấy quá lâu sốt ruột, không sao đợi được, bèn lần bước sau lên núi để tìm. Lên tới chỗ cổ mộ, bèn thấy đàn quạ kêu ríu rít ở đó. Hai anh ngẩng lên thì thấy đàn quạ đương xâu xé món ruột gan người mà ăn với nhau. Hai người thấy vậy lấy làm kinh ngạc không dám đứng lâu bèn chạy vội về báo cho Phan Công biết, rồi cùng vào trình phủ Kế Châu.

Quan phủ nghe trình, lập tức phái viên Huyện Uùy, đem nha lại tới Thuý Bình Sơn để khám.

Huyện Úy đi khám xét kỹ càng, rồi trở về báo rằng:

– Hiện có một người đàn bà là Xảo Vân bị giết ở dưới gốc cây tùng, một đứa thì bị giết ở bên cổ mộ, và một đống quần áo sư và quần áo đàn bà bỏ chung ở đó.

Quan Phủ nghe nói cả kinh, sịch nhớ đến việc Hải Hoà Thượng và Hồ đầu đà bữa trước, liền gọi Phan Công mà hỏi han sự thể xem sao?

Phan Công liền đem chuyện say rượu nằm ngủ ở chùa, cùng khi Dương Hùng nghe vợ xúi giục đuổi Thạch Tú đi, kể lại cho Tri Phủ nghe một lượt.

Tri Phủ nghe rõ đầu đuôi, liền bảo với mọi người rằng:

– Nếu vậy việc này tất là mụ kia thông dâm với nhà sư, mà đứa đầu đà cũng thị nứ đều là mối lái bên ngoài. Còn Thạch Tú tất là người giữa đường thấy sự bất bằng, mà giết hai người đi trước, rồi đến ngày nay Dương Hùng lại giết hai người này nữa.. Bây giờ cứ bắt được Dương Hùng, Thạch Tú thì biết được đầu đuôi ngay lập tức.

Dao oan đã đứt dây tình,

Thế gian hết chuyện bất bình từ đây!

Nói về Dương Hùng, Thạch Tú, Thời Thiên ba người cùng đi trong mấy hôm trời, khỏi địa phận Kế Châu, rồi sang đến đất Vận Châu. Một hôm trời gần tối, đi đến đất Hương Lâm, xa trông thấy một toà núi cao, trước mặt có một cái quán làm gần cạnh khe nước, ba người rảo bước cùng đến đó. Khi đến nơi tiểu nhị vừa toan đóng cửa, chợt thấy ba người đi vào liền hỏi:

– Các ngài ở đâu đến đây mà tồi như vậy?

Thời Thiên đáp:

– Ngày nay chúng tôi đi hơn trăm dặm đương, đến đây tối quá, xin ngủ nhờ một đêm.

– Các ngài chưa xơi cơm hay sao?

Thời Thiên nói:

– Mặc chúng tôi, chúng tôi đi nấu lấy cũng được.

– Vâng, hôm nay vắng khách, có hai cái nồi sạch để ở trong bếp, các ngài cứ lấy mà dùng.

– Ở đây có rượu thịt gì không?

– Sáng hôm nay có ít thịt, người trong thôn mua hết cả rồi…Bây giờ chỉ còn có một vò rượu thôi…Mà cũng không có một tí gì để ăn cơm hết cả.

– Được, hãy để tôi vay năm đấu gạo đầy đã, rồi tôi sẽ liệu.

Tiểu nhị lấy gạo đưa cho Thời Thiên đi nấu, còn Thạch Tú vào trong phòng xếp đặt hành lý để đó.

Đoạn rồi Dương Hùng lấy ra một cành thoa đưa cho tiểu nhị mà bảo rằng:

– Đây hãy gán trả món hàng rượu, còn thì sáng mai sẽ hay.

Tiểu nhị vâng nhận cành thoa, rồi đem hũ rượu mở ra, và lấy một cái môi đem bày trên bàn. Bấy giờ Thời Thiên mang thùng nước nóng lên cho Dương Hùng, Thạch Tú rửa mặt mũi chân tay, rồi nhất diệ múc rượu ra bảo tiểu nhị cùng ngồi uống rượu cho vui.

Đương khi uống rượu, Thạch Tú trông thấy dưới thềm có mười con dao thực tốt, liền hỏi tiểu nhị rằng:

– Ở đây làm gì có quân khí như vậy?

– Thưa ngài, cái đó là của ông chủ tôi để đấy…

– Ông chủ đây là ai?

– Ngài là bọn khách giang hồ, lại không biết chỗ này hay sao? Dãy núi cao ở trước mặt kia là Độc Long Sơn. Trong dãy núi có một cái gò rất cao là Độc Long Cương. Trên đó có nhà của chủ nhân ở, dài rộng ước ba mươi dặm, tên gọi là Chúc Gia Trang. Trang chủ Chúc Gia Trang Thái Công là Chúc Triều Phụng, có ba người con trai đã nổi tiếng là Chúc Gia Tam Kiệt. Chung quanh trang có tới năm bảy trăm nhà điền hộ, mỗi nhà đều cho hai thanh đao để ứng dụng. Chỗ này là điếm Chúc Gia, thường có mươi tên người nhà ra ngủ ở đây, nên phải để quân khí luôn ở đó…

– Để quân khí luôn ở đây để làm gì?

– Ở đây gần Lương Sơn Bạc, e khi họ đến đây quấy nhiễu vay lương, nên phải phòng bị sẵn sàng như thế.

– Tôi đưa tiền, anh để lại cho tôi một thanh đao có được không?

– Cái đó không thể được, các thanh đao đều chạm chữ hiệu cả, vả chăng ông chủ đây nghiêm lắm, nếu bán cho ngài, thì đòn chết.. Không thể được.

Thạch Tú cười rằng:

– Tôi nói đùa chứ…Bán thế nào được mà bán…Cứ uống rượu đi cho vui.

Tiểu nhị đứng dậy mà rằng:

– Tôi không uống được nữa, xin phép đi nghỉ trước, mời các ngài cứ xơi rượu cho.

Nói xong đi nghỉ trước, Dương Hùng cùng Thạch Tú uống được vài chén rượu nữa, rồi thấy Thời Thiên hỏi rằng:

– Ca Ca có muốn ăn thịt không?

Dương Hùng nói:

– Lúc nãy tiểu nhị nói rằng không có thịt, còn đào đâu ra được thịt?

Thời Thiên cười khì khì, rồi vào bếp các một con gà đại công kênh ra…

Dương Hùng lấy làm lạ, hỏi rằng:

– Kiếm đâu được gà thế?

Thời Thiên nói:

– Vừa rồi tiều đệ ra sau, thấy trong lồng có con gà, đương túng không có đồ nhắm xách ra ngoài khe giết thẳng, đem nước ra đó làm lòng, rồi đem vào luộc chín, không còn ai biết đó là đâu cả.

Dương Hùng cười rằng:

– Cái quái này đi đến đâu cũng giở ngõn ấy ra thì gớm thực.

Thạch Tú cũng cười mà rằng:

– Té ra anh vẫn không chịu bỏ nghề cũ đấy hẳn?

Nói đoạn ba người cùng cười khúc khích rồi đem gà xé ra đánh chén ăn cơm với nhau. Bấy giờ tên tiều nhị vừa chợp được một tý, trong bụng lấy làm sốt ruột, liều trở dậy soi khắp cả bếp để xem. Khi soi thấy so mấy cái lông gà và miếng xương đầu gà bỏ ở bếp, rồi lại thấy có nồi nước dùng ở trước cửa bếp, thì ngạc nhiên nghĩ lại mà vội vàng soi xem lồng gà.

Tiểu nhị soi gà thấy mất, bèn hất ha hất hải chạy vào bảo ba người rằng:

– Các ông vô lý quá, có con gà báo thức của nhà tôi, sao lại đem giết thịt đi thế?

Thời Thiên làm bộ ngạc nhiên nói:

– Anh này nói chuyện ma hay sao, gà của chúng tôi mua đến đấy chứ, ai biết gà của anh ở đâu?

– Con gà của tôi vừa rồi còn ở trong lồng, bây giờ đã mất, không ông bắt thì còn ai vào đây?

Thạch Tú bảo tiểu nhị:

– Thôi, không cần phải cãi, con gà đáng bao nhiêu tiền để tôi trả tiền cho.

– Con gà ấy là con gà báo sáng, nếu mất nó thì nguy ông trả đến mười lạng bạc tôi cũng không dám lấy…

Cứ trả lại con gà cho tôi.

Thạch Tú phát khùng mắng rằng:

– Mày nói loè ai, lão gia không trả, thì đã làm sao?

Tiểu nhị cười rằng:

– Các ông không nên đến đây mà bắng nhắng, điếm tôi đây không nhe các điếm khác đâu…lỡ bắt được đem lên trang thì dẫu cho bọn giặc ở Lương Sơn cũng đem giải đi cả.

Thạch Tú cả giận quát lên rằng:

– Chúng ta đây là hảo hán Lương Sơn Bạc, mày bắt được chúng ta lấy thưởng thì cứ bắt đi.

Dương Hùng cũng giận dữ mắng rằng:

– Chúng ta trả tiền cho mày tử tế rồi…bằng không trả thỉ mày bắt được ta sao?

Vừa nói dứt lời, thì tên tiểu nhị vừa chạy vừa kêu lên:

– Có giặc…Có giặc.

Đoạn rồi có bốn năm tên đại hán trần trùng trục chạy xông đến chỗ Dương Hùng, Thạch Tú. Thạch Tú thấy vậy giơ quyền lên tặng cho mỗi anh một cái, ngã lăn cả ra đó. Tên tiểu nhị vừa toan cất mồm kêu nữa, bị Thời Thiên tát cho một cái sưng vếu cả lên, không sao mà kêu được. Lũ kia cả sợ bò dậy mà kéo nhau chạy thẳng.

Dương Hùng bảo với hai người kia rằng:

– Chúng nó đi bây giờ, tất nhiên là báo người đến bắt chúng ta nên ăn cơm mau rồi đi mới được.

Nói đoạn ba người cùng ăn cơm xong, đều khoác khăn gòi đi giấu gai giắt dao lưng, rồi mỗi người đến giá chọn một thanh đao thật tốt để cầm.

Thạch Tú bảo với hai người rằng:

– Đánh nhau thì phải đánh, không thể tha nó được.

Nói đoạn liền xuống bếp thổi mồi lửa, đem lên châm mái nhà cho cháy tứ tung lên, rồi ba người theo lối đường cái mà rảo bước kéo đi cho chóng.

Được hai trống canh, chợt thấy đằng trước đằng sau đèn đuốc sáng trưng, rồi có tới hơn trăm người đuổi theo mà kêu ầm ĩ cả lên.

Thạch Tú bảo với Dương Hùng, Thời Thiên rằng:

– Ta phải tìm lối tắt mà chạy mới được.

Dương Hùng nói:

– Hãy khoan, cứ một đứa một đứa đến chém một đứa, hai đứa đến chém hai đứa; đợi đến khi sáng rồi ta sẽ đi…

Vừa rồi dứt lời, thì bốn mặt đổ đến ầm ầm như vỡ nước. Dương Hùng thì sấn lên trước, Thạch Tú thì ở đoạn sau, còn Thời Thiên đứng vào quãng giữa, ba người múa đáo đánh nhau với bọn trang khách.

Bọn kia hăng hái múa gươm giáo xông vào, bị Dương Hùng chém chết năm bảy người, còn anh nào ở phía trước đều chạy lùi hết cả. Mặt sau Thạch Tú lại chém chết mấy người, bọn kia cũng kính sợ mà gọi nhau chạy cho thoát nạn. Đằng này ba người lại hăng sức vác đao theo để đánh.

Đương khi cùng nhau theo đuổi, bỗng thấy tiếng kêu, ầm ĩ, rồi trong đám cỏ khô kéo ra hai vòng giây móc, móc lấy Thời Thiên co riết ngay vào trong đống cỏ. Thạch Tú thấy vậy, vừa toan quay mình lại cứu Thời Thiên, thì đằng sau lại quăng ra mấy vòng giây móc, chục kéo cả vào. May sao Dương Hùng nhanh mắt trông thấy giây móc tung ra, liền giơ dao chém đức phăng ra, ròi kêu hò ầm lên, mà kéo Thạch Tú uay chạy phía đông. Bấy giờ bọn trang khách đuổi bắt hai người không được, thì đành đem những người bị chém, và bắt Thời Thiên để đem vả về trang Chúc Gia, Dương Hùng, Thạch Tú chạy mãi đến sáng, thấy gần đó có một ngôi tửu điếm trong thôn, Thạch Tú liền bảo với Dương Hùng rằng:

– Anh em ta hãy đến trong tửu điếm kia, ăn uống xong rồi hỏi đường mà đi…

Nói xong hai anh em cùng vào tửu điếm, ngồi vào ghế, dựng đao vào một bên, rồi gọi tửu bảo dọn rượu và làm cơm cho hai người ăn.

Tửu bảo vâng lời, dọn các thức nhắm, hâm rượu mang lên. Hai người vừa toan cất rượu để uống, thì thấy có một Đại Hán mặt to tai lớn, mắt sắc, má cao hình dáng xấu xa, mình mặc áo vải, đầu đội khăn chữ Vạn, lưng thắt vải xanh, chân đi đôi giầy vải, chạy vào gọi lên rằng:

– Đại quan nhân bảo các anh gánh lên nộp trên trang đấy.

Điếm chủ nghe nói vội vàng ứng lên rằng:

– Vâng, tôi đã xếp gánh rồi, lát nữa xin đưa đến trang…

Đại Hán kia dặn lại rằng:

– Gánh mau đến…

Nói xong quay ra toan đi.

Khi đi qua trước mặt Dương Hùng cùng Thạch Tú, Dương Hùng nom dáng Đại Hán hơi quen liền gọi rằng:

– Tiểu Lang, anh đi đâu lại ở đây, sao không quay lại nhìn tôi một tí.

Người kia nghe nói nhìn lại Dương Hùng, rồi kêu lên rằng:

– Trời ơi! Sao ân nhân lại ở đây thế kia?

Nói đoạn chấp tay quay vào cúi lạy Dương Hùng.

Mới hay:

Trăm năm con Tạo bầy trò,

Nào ai biết trước mà lo chuyện đời?

Thế gian còn giống vô loài,

Lưỡi gươm còn dính máu người hôi tanh,

Anh hùng vững dạ dắt đanh,

Thành oan nghiệp phá tan tành mới thôi,

Rồi đây ngang dọc ngược xuôi,

Còn con người đó, còn vui tang bồng;

Lời bàn của Thánh Thán:

Trước kia có một hồi Võ Tòng giết gian phu đâm phụ.

Hồi này lại có Thạch Tú giết gian phu dâm phụ, cũng một oan đó chăng? Thưa rằng: Khác nhau vậy. Vì cái dâm của Kim Liên, dám đến nỗi giết Võ Đại, thì tội ác lớn lắm, nếu không mổ bụng moi gan, thì không rõ tội; Còn như Xảo Vân cũng có dâm đấy, song chưa đến nỗi giết Dương Hùng, mà gán cho ngày sau cũng đến tội giết Dương Hùng, theo lời Thạch Tú, chưa phải đúng lòng Xảo Vân muốn thế?

Vả chăng, Võ Tòng đối với Kim Liên, thì Võ Tòng đã chết, Võ Tòng chả thề không hỏi, thực ra Võ Tòng vạn bất đắc dĩ mới phải hỏi ra. Nếu Võ Đại còn, Võ Tòng không thể giết Kim Liên, vốn theo phép vậy; Nay Thạch Tú đối với Xảo Vân, đã bỏ đi rồi; còn chuyện gì nữa, lấy người họ Thạch giết vợ người họ Dương, thì phép ở đâu?

Xét ra Võ Tòng giết hai đứa, vì báo thù cho anh, chẳng dự cùng ai giết; Còn Thạch Tú giết bốn đứa, chẳng qua minh oan cho mình mà thôi, cùng với Dương Hùng mà vô dự vậy. Xem Xảo Vân bôi xấu Thạch Tú ấy, cũng như Kim Liên ngày trước bôi xấu Võ Tòng, song Võ Tòng vì chị dâu buộc phải hiềm nghi, mà im đi xa lánh, chẳng cần phải biện bạch làm gì, rồi thiên hạ sau này, không ai mà chẳng biết sáng tỏ như băng như ngọc. Còn Thạch Tú thì biện bạch, biện bạch sau lưng, rồi lại phải trước mặt, bắt con đòi biện bạch, rồi lại bắt Xảo Vân cũng thú thực ra, cần cho Dương Hùng biết lòng mình như băng như ngọc mới thôi. Hỡi ơi! Phải đâu Đại Trượng phu thiên hạ, sao có giống người độc ác đến như thế? Khiến ta càng lạ cho Thi Nại Am đem một tay ngoay một bút, đã tả một Võ Tòng, lại tả một Thạch Tú, sao lạ thế này? Phải chăng phải xảy chuyện này, để vơ vét lại lũ người trở về Sơn Bạc, mà Thạch Tú chủ tâm?

Hồi 46: Quỷ Kiểm Nhĩ nhờ thân giúp bạn – Tống Công Minh nổi giận dấy binh

Bấy giờ Dương Hùng thấy người kia lạy chào, liền chạy ra đỡ dậy rồi gọi Thạch Tú ra để tương kiến.

Thạch Tú hỏi Dương Hùng rằng:

– Vị tráng sĩ này là ai đó? Sao lại quen với Ca Ca?

Dương Hùng nói:

– Người anh em đây họ Đỗ tên Hưng, quê ở Trung Sơn Phủ. Vì tướng mạo thô mãng, nên người ta thường gọi là Quỹ Kiểm Nhĩ. Năm trước buôn bán ở Kế Châu, gặp lúc nóng tính đánh chết một người bạn buôn, bị Quan Tư bắt được.Sau tôi thấy giỏi nghề quyền võ nễ hết sức cứu ra…Ai ngờ nay cùng gặp nhau ở đây thực là may quá.

Đỗ Hưng hỏi:

– Ân nhân đi việc quan gì mà lại tới đây?

Dương Hùng sẽ ghé vào tai Đỗ Hưng, mà đem chuyện giết người ở Kế Châu và đốt nhà ở Chúc Gia Điếm cùng việc đánh nhau, và mất Thời Thiên mà kể cho nghe.

Đỗ Hưng thấy vậy nói:

– Nếu vậy ân nhân không cần, tôi sẽ có cách cứu được Thời Thiên cho ân nhân.

Dương Hùng nói:

– Xin mời hiền đệ hãy ngồi chơi uống mấy chén rượu một thể cho vui.

Nói đoạn kéo Đỗ Hưng vào, ba người cùng ngồi uống rượu với nhau.

Đỗ Hưng nói:

– Tiểu đệ từ khi ở đất Kế Châu, nhờ được ân nhân cứu thoát, tới đây nhờ được một vị quan nhân ở đây, có lòng yêu mến giữ ở trong nhà, để coi sóc các công việc. Hiện nay các công việc ở nhà đó, bất cứ hàng nghìn hàng vạn, đều giao phó mặt ở tay tôi, thủy chung rất là tín nhiệm, bởi vậy tôi cũng không muốn trở về cố hương làm chi nữa.

Dương Hùng lại hỏi:

– Vị quan nhân ở đây là ai?

– Quãng trước mặt đây có dãy núi Độc Long Cương, chia làm ba ngọn, trong đó có ba thôn trang, khoảng giữa Chúc Gia Trang, phía tây Hổ Gia Trang, bên đông này là Lý Gia Trang. Trong ba thôn ấy có với một hai vạn nhân mã, mà duy có Chúc Gia Trang là oanh liệt hơn cả. Thái Công ở Chúc Gia Trang là Chúc Triều Phụng, có ba người con trai là Chúc Long, Chúc Hồ và Chúc Bưu, gọi là Chúc Gia Tam Kiệt, lại có một ông giáo sư tên là Thiết Bổng Loan Đình Ngọc sức muôn không địch nổi, trong trang có tới hai nghìn trang khách thạo giỏi võ nghệ cả. Hổ Gia Trang thì Hổ Thái Công làm chủ, có một người con trai tên là Phi Thiên Hổ Hổ Thành, võ nghệ cũng hơi kha khá.Duy có một người con gái anh hùng nhất là Nhât Trượng Thanh Hổ Tam Nương, khiến đôi khẩu Nhật Nguyệt Đao ngồi trên mình ngựa không ai chống nổi. Còn thôn bên Đông tức là chủ nhân của tôi, họ Lý tên Ứng, hay khiến thanh gươm Hỗ Thiết Điểm Cương và trong lưng giắt năm con dao, giết người ngoài trăm bước như qủy thần biến hiện như vậy. Ba thôn ấy xưa nay giao ước với nhau, thề cùng sống chết, chỉ sợ bọn Lương Sơn Bạc quấy nhiễu vay lương, nên phải phòng bị cẩn thận, mà hẹn cùng nhau tiếp ứng cho nhau. Nay tôi xin dẫn hai ngài vào Đông Trang chào Lý chủ nhân tôi, rồi cần viết thư để cứu Thời Thiên thì tất được…

Dương Hùng hỏi:

– Có phải Lý Đại quan nhân là Phác Thiên Bằng Lý Ứng vẫn có tiếng trong đám giang hồ xưa nay không?

Đỗ Hưng nói:

– Chính ông ta đấy.

Thạch Tú nói:

– Xưa nay tôi vẫn nghe tiếng Phác Thiên Bằng Lý Ứng, là tay hảo hán ở Độc Long Cương, tới nay mới biết là ở đất này. Phải, ông ta có tiếng là người khá, chúng ta thử đến đấy xem.

Dương Hùng gọi tửu bảo tính trả tiền hàng. Đỗ Hưng nhất định không nghe nhân lấy để trả cả, rồi dẫn Dương Hùng, Thạch Tú cùng đến Đông Trang.

Được một lát đến một nơi trang viện rất lớn, xung quanh xe lừa chứa nước, trong có tường vôi cao ngất, cây liễu xanh um, trước cửa có đích kiều cho người qua lại. Đỗ Hưng dẫn hai người vào cổng, đi tới Đại S ảnh, thấy hai bên có hơn hai mươi cỗ giá cắm toàn gươm giáo quân khí sáng choang một dẫy.

Đỗ Hưng bảo với hai người:

– Các ngài hãy đứng đợi đây một lát, để tôi vào nói trước, và mời quan nhân ra tiếp kiến.

Đỗ Hưng đi vào một lát, thì thấy Lý Ứng ra, Đỗ Hưng bèn dẫn Dương Hùng, Thạch Tú lên sảnh để chào. Lý Ứng đáp lễ cẩn thận, rồi mời hai người ngồi chơi, gọi người nhà lấy rượu lên đãi.

Dương Hùng, Thạch Tú đứng dậy, kể chuyện Thời Thiên bị bắt cho Lý Ứng nghe, và kêu xin viết giấy để cứu cho Thời Thiên về.

Lý Ứng nhận lời, mời thầy đồ ở trong nhà viết hộ phong thư, ký tên đóng dấu tử tế, rồi sai người Phó chủ quân cỡi ngựa đem thư sang Chúc Gia Trang, để xin cho Thời Thiên về, Phó chủ quân đi rồi. Dương Hùng, Thạch Tú đều cúi đầu tạ bái Lý Ứng.

Lý Ứng bảo hai người rằng:

– Các ngươi cứ yên tâm, thư tôi đến nơi, là họ thả người về ngay.

Nói xong đứng dậy mời hai người vào nhà trong, thiết đãi cơm rượu tử tế. Khi cơm nước xong, Lý Ứng lại hỏi các môn võ nghệ, thấy hai người ứng đối giỏi giang, thì đem lòng kính mến vô cùng.

Vào khoảng gần trưa tên Phó chủ quản đến Chúc Gia Trang đi về, Lý Ứng cho gọi vào nhà trong để hỏi chuyện, Phó chủ quản nói:

– Chúng tôi sang đó, đưa thư vào tân Chúc Triều Phụng, Triều Phụng đã định tha cho đem về, sau ba người con thấy vậy ra dáng giận dữ, hục hặc mà giữ cả thư và người ở lại đó, rồi định để đem giải lên Châu…

Lý Ứng nghe nói cả kinh mà rằng:

– Hắn với nhà ta đây đã kết đồng sinh tử với nhau…Như thế tất tha người ta thì phải, lẽ đâu lại như thế được? Việc này chắc là ngươi ăn nói không khéo, cho nên sinh sự như vậy… ? Đỗ chủ quản phải sang đó nói rõ đầu đuôi cho Chúc Công biết mới xong.

Đỗ Hưng vâng lời mà rằng:

– Xin chủ nhân viết cho mấy chữ, thì may ra họ mới tin được.

Lý Ứng liền gọi hoa tiên, viết lên thư cẩn thận, niêm vào phong bì, rồi đóng dấu ký tên ra ngoài bì, giao cho Đỗ Hưng lên ngựa sang Chúc Gia Trang.

Lý Ứng lại bảo với Dương Hùng, Thạch Tú rằng:

– Hai ngài cứ vững tâm, phong thư này tới nơi tất là họ phải tha về.

Hai người cảm tạ, rồi cùng nhau ăn uống bữa chiều tại đó. Khi trời đã chiều hôm không thấy Đỗ Hưng trở về, Lý Ứng lấy làm sốt ruột, sai người đi dò xét xem sao? Được một lát thấy người báo Đỗ chủ quản đã về, Lý Ứng liền hỏi rằng:

– Có ai về đó nữa không?

– Bẩm, chỉ có một mình chủ quản về thôi…

Lý Ứng nghe nói lắc đầu mà rằng:

– Sao quái lạ thế? Mọi khi vẫn tử tế, sao mà hôm nay lại trở mặt như thế được?

Nói xong đứng đạy đi ra. Đại Sảnh. Dương Hùng, Thạch Tú cũng đứng dậy theo ra. Khi ra tới Đại Sảnh, thấy Đỗ Hưng xuống ngựa đi vào, mặt đỏ bầng bãi, hơi thở hồng hộc, không sao nói được nên lời.

Lý Ứng hỏi:

– Công việc thế nào; ngươi nói cho ta nghe?

Đỗ Hưng đứng một lúc, tỉnh người lại rồi mới nói rằng:

– Chúng tôi đi sang tới Chúc Gia Trang, khỏi lầu thứ ba thì gặp ba anh em Chúc Long, Chúc Hổ, Chúc Bưu ở đó. Chúng tôi cất tiếng chào, thì Chúc Bưu quát ngay lên rằng: “Đông Nhân chúng tôi có bức thư sang hầu”. Chúc Bưu nghe dứt lời, thì biến ngay sắc mặt mà mắng rằng: “Chủ nhân nhà anh không biết gì cả,…lúc sớm đã sai đứa đem thư sang, để xin tha cho tên Thời Thiên là giặc ở Lương Sơn, nhưng mà ta đây định đem lên giải phủ…Còn đến đây làm gì nữa… ?” Tôi lại nói: “Tên Thời Thiên không phải là giặc ở Lương Sơn, hắn là người ở Kế Châu đến thăm chơi với Đông Nhân của tệ trang đây, vậy để ngày mai Đông chủ tôi xin làm đền lại vào đó…Xin các ông rộng ơn mà tha hắn ra cho…” Ba anh em họ Chúc đều thét lên rằng: “Không tha…Không tha…” Tôi lại nói: “Xin quan nhan nom qua bc thcua ong chutoi sebiet”. Chúc Bưu cầm lấy thư không bóc ra xem,, vội xé nát cả thư mà sai thét người đuổi tôi cửa. Chúc Bưu, Chúc Hổ lại nói rằng: “Đừng nên trên tính nóng lão gia, gọi là…” Ba thằng súc sinh thực vô lễ quá, chúng tôi không dám nói ra đây…Hắn lại còn bảo rằng: “Không khéo thì Lý…cũng bọn giặc Lương Sơn, để ta bắt mà giải lên quan một thể…” Nói đoạn lại quát trang khách toan bắt cả tôi giữ lại ở đó, sau tôi nhảy tót lên ngựa phi thẳng một mạch về đây, trong lòng căm tức không biết tới đâu mà kể? Thực là uổng công giao kết bao lâu, tới nay không còn chút gì là tử tế cả…

Lý Ứng nghe nói, mặt bầng bầng như lửa cháy, không sao cầm đặng, liền thét trang khách mau mau đóng ngựa để đi.

Dương Hùng, Thạch Tú can rằng:

– Xin quan nhân hãy thư tâm lại, không nên vì chúng tôi, mà bỏ mất nghĩa khí của các ngài từ xưa tới nay.

Lý Ứng nhất định không nghe, vào phòng mặc áo giáp hoàng kim, trước sau có miếng yểm tâm bằng mặt thú, ngoài khoác áo đại hồng bào, lưng giắt năm khẩu phi đao, đầu đội mũ cánh phượng, tay cầm thanh giáo điểm cương, ra chọn lấy ba trăm trang khách để sắp cửa cùng đi. Đỗ Hưng cũng mặc giáp cầm thương lên ngựa, dẫn hai mươi quân kị đi theo? Dương Hùng, Thạch Tú cũng vác dao đi theo sau ngựa Lý Ứng, mà kéo thẳng sang Chúc Gia Trang. Khi mặt trời gấn tới núi Độc Long, Lý Ứng liền cho quân mã dàn thành trận thế, rồi gọi ba con họ Chúc ra mà mắng nhiếc.

Nguyên Chúc Gia Trang làm chính trêu núi Độc Long, xung quanh có hào rồng, trong có ba tầng thành xây toàn bằng đá rằn, cao ước hai trượng có hơn. Trước sau có hai tòa cửa, trong đều có địch kiều qua lại, bốn bên tường đều có quân khí sáng choang tại các điểm ở đó. Trên gác cổng để trống trận, cùng các đồ thanh la, đề phòng khi động dụng. Bấy giờ Lý Ứng trên mình ngựa, quát mắng mấy câu, thì thấy cửa trang tung mở, rồi thấy Chúc Bưu cưỡi ngựa đỏ, dẫn năm sáu mươi tên kị xông ra.

Lý Ứng trỏ mà mắng rằng:

– Quân kia! Miẹng chưa ráo hơi sữa, cha các ngươi đã với ta kết nghĩa cùng nhau, đồng sinh đồng tử để bảo vệ lấy thôn trang.Mọi khi nhà ngươi có việc gì, cần người ta phải trả, cần đồ đạc ta phải đưa, thế mà nay có một người quen, đã hai phen viết thư, ngươi cũng không trả, lại còn xé thư mà sỉ nhục đến tên ta là nghĩa lý gì vậy?

– Nhà ta tuy có giao kết, thề cùng đồng tâm sống chết, là cốt để trừ giặc Lương Sơn mà trừ giặc tai hại cho thiên hạ; Nay ngươi lại liên kết với giặc Lương Sơn, thì tất là trong lòng mưu phản, khi nào ta chịu tha cho…

– Bây bảo người gì ở Lương Sơn. Bay đổ cho người lương thiện như thế, phỏng đáng tội gì?

Chúc Bưu cười rằng:

– Tên giặc Thời Thiên đã thú nhận cả rồi, ngươi còn chống chế làm chi cho mệt? Không lui về thì ta bắt cả mà giải quan tất cả bây giờ?

Lý Ứng cả giận, vỗ ngựa múa gươm vào đánh Chúc Bưu, Chúc Bưu cũng phóng ngựa ra đánh Lý Ứng. Đôi bên đánh nhau trước mặt núi Độc Long chừng bảy tám mươi hiệp, thì Chúc Bưu không địch nổi Lý Ứng, bèn giật ngựa để chạy; Lý Ứng phóng ngựa đuổi theo.

Chúc Bưu ngồi trên mình ngựa, cắp giáo vào một bên, rồi tay tả cầm cung, tay hữu lấy tên, quay nhắm bắn vào Lý Ứng, Lý Ứng nghe tiếng dây cung bật, liền né mình để tránh, thì bị mũi tên bắn phải cánh tay giật mình ngã ngay xuống ngựa, Chúc Bưu liền quay lại hò người ra bắt. Dương Hùng, Thạch Tú thấy vậy, thét lên một tiếng, rồi múa dao xông vào để đánh Chúc Bưu, Chúc Bưu không địch nổi hai người, liền quay ngựa về để chạy, bị Dương Hùng chứm cho một nhát ở cẳng sau ngựa, con ngựa hăng máu đạp hất luôn mấy cái, làm cho Chúc Bưu ngã lăn xuống đất.

Tụi quân kỵ Chúc Gia Trang thấy vậy, đều bắn tên tua tủa. Dương Hùng, Thạch Tú mình không giáp che tên, đành bỏ Chúc Bưu mà chạy mau cho thoát, Đỗ Hưng cứu Lý Ứng vắt lên mình ngặ chạy về trước, còn Dương Hùng, Thạch Tú theo đám trang khách chạy về sau. Bọn nhân mã ccgt theo đuổi hai dặm, thấy trời đã tối, liền kéo nhau trở về mà không đuổi nữa. Đỗ Hưng đem Lý Ứng về tới nhà, vợ con đổ ra phục dịch, nhổ mũi tên lên, cởi áo giáp ra, đem thuốc kim sang rịt vào chỗ bị thương, rồi cùng nhau bàn chuyện Chúc Gia Trang.

Dương Hùng, Thạch Tú nói với Đỗ Hưng rằng:

– Việc này đã xẩy ra như thế, thì Thời Thiên khó lòng được thoát, thực anh em chúng tôi làm phiền lụy đến Đại quan nhân, không biết lấy gì mà báo đáp được. Vậy anh em chúng tôi phải trở về Sơn Bạc cầu cứu với Tiều Cái, Tống Giang cùng các vị Đầu Lĩnh đến đây để báo thù cho Đại quan nhân, và cứu Thời Thiên mới được..

Nói đoạn đến từ tạ với Lý Ứng để cin đi. Lý Ứng bảo với hai người rằng:

– Việc này không phải là tôi không dụng tâm, song sự xẩy ra như thế, thì không biết làm sao cho được, xin hai ngài tha lỗi cho.

Đoạn rồi gọi Đỗ Hưng lấy vàng bạc đưa tặng hai người Dương Hùng, Thạch Tú nhất định từ chối không nhận. Sau Lý Ứng cố vật nài mãi, hai người đành phải vâng nhận tiền nong, rồi cùng nhau bái tạ Lý Ứng mà đi ra. Đỗ Hưng đưa chân hai người ra đến đường cái, trỏ lối cho đi rồi từ biệt trở về thôn trại, Khi Dương Hùng, Thạch Tú đi gần tới Lương Sơn Bạc, xa xom thấy một tòa tửu điếm mới lập, có Thạch Dũng coi giữ ở đó.

Bấy giờ Thạch Dũng thấy hai người lạ mặt, hỏi thăm lối lên sơn trại, liền chạy đến hỏi rằng:

– Các ngài ở đâu đến đây? Hỏi thăm lên sơn trại có việc gì?

Dương Hùng đáp:

– Chúng tôi ở Kế Châu đến đây…

– Chẳng hay là Thạch Tú túc hạ đó chăng?

– Tôi là Dương Hùng, người anh em tôi đây là Thạch Tú…Sao Đại Ca lại biết đến tên Thạch Tú được?

Thạch Dũng vội vàng đáp rằng:

– Chết nỗi! Thế mà chúng tôi không biết, dạo trước Đới Tung Ca Ca có ở Kế Châu về, có thuật đến đại danh của huynh trưỏng, nay được ngài lên đây thực là may lắm.

Nói đoạn ba người cùng khiêm nhượng ngồi nói chuyện với nhau. Dương Hùng đem các chuyện trước thuật hết cho Thạch Dũng nghe. Thạch Dũng liền sai đem rượu tiếp phong ra mời hai người, rồi vào Thủy Đình bắn tên ra hiệu. Được một lát có tên tiểu lâu la ra chở một chiếc thuyền trong đám bụi lau ra để đưa cào sơn trại.Kế tới đến Thạch Dũng lên trại báo trước, rồi thấy Đới Tung, Dương Lâm xuống núi, để đón vào Đại trại. Bấy giờ các Đầu Lĩnh nghe nói, có hảo hán mới vào nhập đảng, thì bảo nhau tới Tụ Nghĩa Sảnh để tiếp đãi. Đới Tung. Dương Lâm dẫn Dương Hùng, Thạch Tú. Tiều Cái hỏi tung tích hai người, Dương Hùng liền đem chuyện thâm thúy về võ nghệ kể cho mọi người nghe, ai nấy đều lấy làm vui mừng, mà nhường ghế cùng ngồi nói chuyện.

Dần dà Dương Hùng kể đến chuyện đi qua Chúc Gia Trang, có người anh em là Thời Thiên, ăn cắp con gà của điếm, đến nỗi đốt nhà bị bắt sinh sự lôi thôi, kể hết cho các vị nghe mà nói rằng:

– Ba con nhà họ Chúc rất là vô lễ, trong khi đánh nhau với Lý Ứng chỉ một niềm chưởi mắng bọn hảo hán, ở Lương Sơn Bạc, mà thề quyết bắt cả tụi mà đem nộp quan thì mới thỏa, anh em chúng tôi nghe thấy vậy, rất là khổ cực trong lòng, song sức yếu thế cô đành phải chịu mà không làm sao được.

Tiều Cái nghe dứt lời, đùng đùng nổi giận mà quát lên rằng:

– Quân đâu! Đem chém hai người này đi cho ta.

Tống Giang nghe nói vội gạt đi rằng:

– Sao Ca Ca lại vội nóng thế? Hai vị tướng sĩ, xa xôi nghìn dặm tới đây, cũng cốt mong cùng mình, để đồng tâm hiệp lực, vậy chưa chi Ca Ca đã sai chém là nghĩa làm sao?

Tiều Cái nói:

– Bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc chúng ta, sau khi giết bỏ Vương Luân, đều lấy trung nghĩa làm trọng, mong cho thi hành ân đức ra khắp dân gian, anh em ở trên núi đi đâu, cũng không dám làm chi mất tiếng, mà các vị mới lên đây, cũng lừng lẫy ra tay hào kiệt, không hề chịu kém với ai? Nay hai người này dám đem danh nghĩa hảo hán Lương Sơn Bạc, đi ăn cắp con gà, để đến nỗi giảm mất giá trị anh em, vậy xin chém hai người để làm hiệu lệnh, rồi tôi sẽ đem quân đi đánh Chúc Gia Trang, cho khỏi mang tiếng Lương Sơn Bạc mới được…Chúng đâu, đem chém mau.

Tống Giang cản ngăn rằng:

– Không được! Ca Ca không nên thế. Ca Ca không nghe kỹ, vừa rồi hai hiền đệ đã nói: Vì Thời Thiên là hạng người thế nào, cho nên mới bị nạn Chúc Gia Trang như thế, có phải hai vị hiền đệ làm điếm nhục sơn trại đâu? Bình nhật tôi cũng thường nghe nói. Bọn Chúc Gia Trang lại muốn đối địch với sơn trại tađây, song xin Ca Ca hãy thư tâm bới giận, hiện nay sơn trại ta binh lương sẵn đủ không kém chi ai, vả chăng cũng không phải ta đây sinh sự, đó chẳng qua là họ muốn bới lông tìm vết gây chuyện với ta, bất nhược tiện đây ta trừ khử nó đi, để kiếm lấy mấy năm lương thực, chẳng hóa ra uy thế cho sơn trại ta lắm sao? Duy Ca Ca là ông chủ sơn trại không thể chốc lát mà khinh động ngay được, vậy tiểu đệ tuy là kẻ bất tài, cũng xin lĩnh một chi binh mã, nhờ anh em xuống núi một phen, nếu không trừ nổi Chúc Gia Trang, thì quyết thề không về sơn trại nữa. Tiểu đi phen này một là giữ lấy thanh giá cho sơn trại, hai là khỏi bị chúng sỉ nhục chê bai, ba là kiếm ít tiền nong để cùng chi dùng, mà bốn là mời Lý Ứng lên nhập đảng cho vui, xin Ca Ca nghĩ như thế mới được.

Ngô Học Cứu nói:

– Tống Minh Ca Ca dạy như thế tức phải…Có lẽ nào giết hại chân tay trong sơn trại cho đành.

Đới Tung nói:

– Nếu Tiểu Ca Ca không bằng lòng, thì xin chém ngay tiểu đề là hơn, chớ nên làm mất đường lối đi lại của anh hùng như thế.

Các Đầu Lĩnh cùng ra sức khuyên can, Bấy giờ Tiều Cái mới thư tâm mà tha cho Dương Hùng, Thạch Tú. Hai người cùng đem lời thành thực mà tạ cùng các vị Đầu Lĩnh.

Tống Giang lại đem lời nói với hai người:

– Hiền đệ chớ nên đem lòng nghi ngại, vì hiệu lệnh của sơn trại tất phải như thế, dẫu Tống Giang tôi có lỗi cũng phải chém ngay, chứ không thể nào tha được. Hiện nay mới lập Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyên là Quân Chính Tư, phàm các việc thưởng phạt, đều có điều lệ phân minh, xin hai hiền đệ biết cho.

Dương Hùng, Thạch Tú đều vâng lời tạ lại, rồi cùng ngồi, vào vai dưới Dương Lâm. Bấy giờ tiểu lâu la trong sơn trại vào để chào hai vị Đầu Lĩnh mới, nhất diện đặt tiệc ăn mừng, rồi dọn phòng cho hai người nghỉ, và cắt cho mỗi người mươi tên tiểu lâu la để hầu.

Sáng hôm sau khi yến tiệc xong, trong sơn trại lại tụ họp để thương nghị các việc, Tống Giang cho gọi Bùi Tuyên để chọn người đi xuống núi, mà các vị Đầu Lĩnh để cùng xuống đánh Chúc Gia Trang. Khi bàn định xong, ngoài Tiều Cái làm chủ sơn trại, thì có Ngô Học Cứu, Lưu Đưòng, ba anh em họ Nguyễn, cùng Lã Phương, Quách Thịnh ở lại coi giữ sơn trại, và các người coi giứ bến nước, trông tửu điếm đều giữ nguyên chức cũ. Lại cắt các vị Đầu Lĩnh mới đến là Mạnh Khang, để thay Mã Lân giám đốc thuyền chiến còn các vị Đầu Lĩnh chia làm hai đội chỉnh bị mà ra đi.

Đội thứ nhất Tống Giang, Hoa Vinh, Lý Tuấn, Mục Hoằng, Lý Quỳ, Dương Hùng, Thạch Tú, Hoàng Tín, Âu Bằng, Dương Lâm, dẫn ba nghìn tiểu lâu la, ba trăm quân mã xuống núi đi trước; Đội thứ nhì Lâm Xung, Tần Minh, Đới Tung, Trương Hoành, Trương Thuận, Mã Lân, Đặng Phi, Vương Nụy Hổ, Bạch Thắng, dẫn ba nghìn tiểu lâu la, cùng ba trăm quân kỵ, tiếp ứng đi sau. Lại định cho hai tiểu trại ở bến Kim Sa, và bến Áp Chủy chỉ để Tống Vạn và Trịnh Thiên Thọ coi giữ, còn thì phải vận lương đi tiếp ứng việc quân. Khi đó Tiều Cái đi đưa xuống khỏi núi rồi, Tống Giang cùng các vị Đầu Lĩnh kéo quân ra đi. Khi tới núi Độc Long còn cách chừng hơn một dặm, liền cho tiền quân hạ trại ở đó.

Tống Giang ngồi trong trướng bàn với Hoa Vinh rằng:

– Ta nghe đường vào Chúc Gia Trang rất là tào tạp khó hiểu; chưa có thể nào mà tiến binh được ngay. Vậy sai hai người đi dò là đường sá trước, rồi sẽ kéo binh đến đánh là hơn. Nhưng không biết trong đám anh em có ai là người đi được.

Vừa nói dứt lời, thì thấy Lý Quỳ đứng lên nói rằng:

– Dám bẩm Ca Ca, tôi bấy lâu rỗi rãi chưa giết một người nào. Vậy xin Ca Ca cho tôi đi trước.

Tống Giang nói:

– Ngươi đi không được, có phải là phá trận đánh giặc sẽ dùng người đi trước, còn việc đi do thám này, không thể dùng ngươi được.

Lý Quỳ cười mà rằng:

– Một cái xóm khốn nạ ấy, cần gì mà Ca Ca phải khó nhọc, cứ để cho tôi mang vài trăm lâu la sấn vào gặp thằng nào chém chết thằng ấy là xong, việc gì phải do thám cho phiền… ?

Tống Giang quát rằng:

– Không được nói càn, ngươi hãy đứng vào xó vách kia,, bao giờ gọi đến sẽ hay.

Lý Quỳ bất đắc dĩ phải chạy ra mà nói một mình rằng:

– Đánh một thôn con này, mà phải làm rộn lên như thế.

Tống Giang gọi Thạch Tú đến mà nói:

– Hiền đệ đã đi qua đó một lần, vậy hiền đệ khá cùng Dương Lâm đi do thám đường lối một phen xem sao?

Thạch Tú nói rằng:

– Hiện nay binh mã kéo đến ầm ầm như thế, tất trong họ phải phòng bị rất nghiêm, vậy chúng tôi phải ăn mặc giả dạng thế nào, thì mới vào lọt được?

Dương Lâm nói:

– Để tôi giả làm pháp sư đi giải ma, mình giắt đỏan đao tay cầm pháp hoàn, khua lắc ầm lên, rồi bác cứ nghe pháp hoàn mà đi gần nhau mới được.

Thạch Tú nói:

– Khi tôi ở Kế Châu hay đi bán củi, để tôi gánh một gánh củi, rồi cùng giắt đỏan đao vào lưng, nếu có động dụng việc gì, thì đòn gánh ta quay ra cũng được rồi.

Dương Lâm khen phải mà rằng:

– Nếu vậy anh em ta phải sửa soạn mau mau, để sáng mai đi sớm cho được việc.

Sáng hôm sau Thạch Tú gánh một gánh củi đi vào thôn trước. Khi đi được hơn hai dặm, thấy đường lối ngang tắt quanh co, bốn mặt đều có ao rãnh giống nhau,, cỏ cây rậm rạp, rất là khó hiểu. Thạch Tú đặt gánh củi đứng nghĩ một lát, thì thấy tiếng pháp hoàn leng keng ở phía sau. Đoạn rồi thấy Dương Lâm đầu đội nón chiên rách, mình mặc áo pháp sư cũ, tay cầm pháp hoàn vừa khua lắc vừa đi đến. Thạch Tú trông trước trông sau không thấy ai, liền gọi Dương Lâm mà bảo rằng:

– Ở đây đường tắt ao nhiều, không biết lối nào với lối nào đi về với Lý Ứng trước cả. Hôm ấy trời đã chiều hôm, họ quen đi vun vút, mình cũng không sao mà nhận được.

Dương Lâm nói:

– Không cần tìm đường tắt làm gì, mình cứ chọn những chỗ đường cái mà đi cũng được rồi.

Nói đoạn Thạch Tú lại gánh gánh củi lên vai, mà theo đường cái đi vào. Chợt thấy trước mặt có mấy nóc nhà, và mấy ngôi hàng thịt hàng rượu ở đó. Thạch Tú liền đến trước tửu điếm rồi đắt gánh xuống, vào nghỉ trong hàng, chàng nhác trông các cửa hàng đều để gươm giáo sáng quắc, người nào người ấy đều có hai miếng vải vàng ở đằng trước đằng sau, viết chữ Chúc rất lớn, cả các người qua lại ngoài đường cũng như thế cả.

Thạch Tú thấy vậy, liền chạy ngay đến trước mặt một người già cả, chấp tay vái chào mà hỏi:

– Thưa cụ, cụ làm ơn bảo cho chúng tôi: Phong tục ở đây là thế nào? Sao lại bày quân khí ngoài cửa như vậy?

Ông già hỏi:

– Bác là người ở đâu đến đây mà lại không biết? Nếu vậy bác phải đi mau mới được.

– Thưa cụ, tôi là bọn buôn táo ở Sơn Đông chẳng may mất cả vốn liếng, không dám về làng, phải đẵn củi đến đây để bán, nhưng không biết phong tục và đường lối ở đây, xin cụ bảo giúp cho.

– Thôi, anh hãy nấp vào một nơi, ở đây sắp sửa đánh nhau to đấy.

– Thưa cụ, đây là một chỗ thôn mạc tốt thế này, có việc gì mà đến đánh nhau to?

– Nếu quả thị bác không biết, để tôi nói cho mà nghe. Chỗ này gọi là Chúc Gia Thôn, trên núi kia tức là dinh Chúc Triều Phụng. Nay vì bất hòa với bọn hảo hán Lương Sơn, họ kéo quân mã đến đóng ở cửa thôn, vì còn sợ đường lối ngoắt ngoéo nên chưa dám vào. Hiện nay trong Chúc Gia Trang hạ lệnh cho tất cả trong thôn chúng tôi, nhà nào cũng phải sắp sẵn khí giới, và chọn những người khỏe mạnh, để đợi lệnh mà ra cứu ứng đánh nhau…

– Vậy thôn cụ đây có bao nhiêu nhà ở.

– Những một thôn Chúc Gia chúng tôi đây cũng có tới hai vạn người, còn hai bên đông tây lại có hai thôn nữa, thôn bên đông là Phác Thiền Bằng Lý Ứng Đại quan nhân, và thôn bên tây là Hổ Thái Công có người con gái là Hổ Tam Nương biệt hiệu là Nhất Trượng Thanh rất là tài giỏi.

– Thế thì còn sợ gì Lương Sơn Bạc nữa?

– Phải, khi tôi mới đến đây không thuộc đường đi, cũng có lẽ bị bắt chứ chẳng chơi…

– Sao cụ lại nói thế?

– Trong thôn tôi đây, trước người ta thường có câu rằng: “Nực cười Chúc Gia Trang. Đường lối rất hiểm ác. Lúc nào còn dễ dàng, khi ra khó lòng thoát!”

Thạch Tú nghe đến đó, liền khóc òa lên, cúi rạp xuống lạy ông già mà nói:

– Chúng tôi là một kẻ giang hồ lưu lạc, tiêu hết tiền nong, về làng không được, nay gánh củi đến đây để bán, lỡ khi gặp cuộc đánh nhau, thì lúng túng không biết lối ra, thực là khổ quá…Xin Gia Gia thương đến chúng tôi, mà chỉ bảo đường lối cho chúng tôi ra, tôi xin đem gánh củi biếu Gia Gia cả.

Lão già có ý thương hại mà rằng:

– Khi nào tôi nỡ lấy gánh củi của anh, anh hãy vào đây ăn cơm uống rượu đã.

Thạch Tú bái lạy gánh gánh củi theo ông lão vào trong nhà. Ông lão đem cơm rượu ra cho Thạch Tú ăn uống.

Đoạn rồi Thạch Tú lạy tạ, mà nói:

– Xin Gia Gia làm phúc trỏ đường lối cho ra.

Ông già nói:

– Bây giờ anh đi đường trong thôn, cứ thấy chỗ nào có cây dương trắng thì rẽ theo lối đó. Bất vấn là đường rộng hay hẹp, hễ có cây dương trắng là đường sống bằng không thì toàn là đường chết cả. Nếu loanh quanh lẫn lối thì không có đường đi, mà không khéo chết ở giữa đường cũng nên. Trong đó toàn rắc chông gai hết cả, nếu đi lạc vào đó là họ tóm được ngay, không còn trốn đâu cho thoát nữa… Thạch Tú lạy ta rồi hỏi rằng:

– Dám hỏi cao tính Gia Gia là gì?

Lão già đáp:

– Trong thôn này toàn họ Chúc cả, duy có tôi là họ Chung Ly ở đây mà thôi…

Thạch Tú nói:

– Bây giờ cụ cho chúng tôi được ăn uống no say, mai sau có dịp đền ơn cụ.

Đương khi nói chuyện, thì bỗng thấy phía ngoài ầm ầm cả lên, rồi thấy người nói lao xao, bắt được một anh đi do thám đem về để nộp. Thạch Tú lấy làm khinh ngạc, theo ông già ra xe,, thấy một nhóm bảy tám người quân dong một anh chàng đi qua. Khi nom kỹ thì chính là Dương Lâm, bị chúng cởi trần trói chặt, mà dong đi tới đó.

Thạch Tú đau đớn trong lòng, vờ hỏi anh kia rằng:

– Người phải bắt kia là một người nào. Làm sao lại trói như thế?

Ông già đáp:

– Anh không nghe họ nói: Là bắt người đi do thám của Tống Giang đó sao?

– Sao nó để cho bắt được như thế?

– Thằng ấy to gan lắm, dám một mình giả dạng làm pháp sư vào do thám ở đây…Đường đi không biết cứ đâm vào đường cái để đi, làm gì không chết. Người ta thấy cậu đi loạng choạng lầm đường, tất là họ báo quan nhân để bắt chứ ai tha? Vừa rồi hắn còn rút dao ra đâm chết bốn người, sau trong thôn kéo ra đông quá, cậu không sao địch nổi, đành phải để cho họ bắt mới xong. Có người nhận biết anh ta là Cẩm Báo Tử Dương Lâm đấy.

Nói vừa dứt lời, bỗng ở ngoài quát lên rằng:

– Đệ Tam Quan Nhân trên trang, sắp đi tuần qua đó…Thạch Tú ghé vào chỗ khe cửa nom ra thì thấy phía trước có hai mươi đôi gươm trường, phía sau có đến năm người cưỡi ngựa, cung tên ở tay, lại có bốn năm đôi ngựa tuần đi dóng nhau; mũ giáp chỉnh tề, lưng đeo cung tên, tay cầm gươm bạc đi giữa.

Thạch Tú nom thấy người đó lại giả vờ hỏi ông già rằng:

– Vị tướng công đi đó là ai?

– Người ấy là Chúc Bưu, con thứ ba của Chúc Triều Phụng, sắp kết duyên với Hổ Tam Nương bên thôn đó. Nhà ông ta có ba người con, nhưng người này giỏi hơn cả.

Thạch Tú lại vái ông già mà rằng:

– Xin cụ làm ơn chỉ lối cho tôi ra.

Lão già nói:

– Hôm nay đã chiều rồi, nếu ra đây mà gặp đánh nhau thì anh nguy mất.

– Vậy xin Gia Gia cứu tôi với.

– Anh hãy ở nhà tôi một đêm, sáng mai vô sự, thì mới có thể đi được.

Thạch Tú phải vâng lời bái tạ, rồi ở lại đó. Được một lát nghe thấy bốn năm tin thám mã đến báo, rồi có người dặn các nhà răng: “Đêm nay cứ trông hiuệ đèn đỏ là ra công gắng sức để thu bắt bọn Lương Sơn, mà giải quan lấy thưởng.

Bấy giờ Thạch Tú lại hỏi ông già:

– Người đó là ai?

– Ông ấy là quan Bộ Đạo tuần tiễu ở đây, ước hẹn đêm nay là bắt Tống Giang đó.

Thạch Tú nghe nói, trong lòng vẫn vơ nghĩ ngợi hồi lâu, rồi thắp đóm đi vào nhà sau để ngủ.

Nói về quân mã Tống Giang đóng ở ngoài cửa thôn, đợi mãi không thấy Dương Lâm, Thạch Tú về báo, liền sai Âu Bằng đi theo ra ngoài cửa thôn để thám thính xem sao.

Âu Bằng đi thám thính, rồi trở về báo rằng:

– Khi vào khỏi cửa thôn, thấy người nói xôn xao là mới bắt được một tên thám tử, sau thấy địa thế khuất khúc khó hiểu, nên tôi đành phải trở về, mà không dám vào nữa.

Tống Giang nghe báo cả giận mà rằng:

– Nếu vậy thì hai anh em tất là bị bắt mất rồi, ta đợi làm sao được nữa? Đêm nay ta phải tiến binh mau mau đẻ đánh cứu anh em mới được, chẳng hay các vị Đầu Lĩnh nghĩ sao?

Vừa nói xong, thì thấy Lý Quỳ kêu lên rằng:

– Tôi xin đi đánh trước, xem chúng nó thế nào?

Tống Giang nghe nói, liền truyền tướng lệnh cho quân sĩ nghiêm đội ngũ để tiến đánh: Lý Quỳ, Dươn Hưng đi đội thứ nhất làm tiên phong. Lũ Lý Tuấn dẫ đầu làm hậu tập. Mục Hoằng đi đạo quân bên tả, Hoàng Tín đi bên hữu, Tống Giang, Hoa Vinh, Âu Bằng đi gim mở cờ rong trống, dàn gươm múa phủ, rồi ba quân thẳng kéo tới Chúc Gia Trang.

Khi đi đến Độc Long Cương thì trời đã gần tối, Tống Giang liền thôi thúc tiến quân ra sức đánh phá Chúc Gia Trang. Lý Quỳ cởi trần trùng trục, tay cầm song phủ, hăng hái xông vào gần đến trước cửa trang, thì thấy đích kiều đã cất lên cao, mà trong cửa trang không có đèn đóm chi cả. Lý Quỳ thấy vậy, liền lội sấn xuống nước để xông vào.

Dương Hùng ngăn lại mà rằng:

– Không được, cửa trang đóng chặt thế kia tất là có kế sách, phải đợi xuống đến đây để bàn định xem sao?

Lý Quỳ nóng tính mắng lên rằng:

– Thằng cha già Chúc Thái Công đâu? Có Hắc Toàn Phong Gia Gia ở đây.

Chàng mắng chửi luôn mấy tiếng, cũng không thấy ở trong động tĩnh chi cả, Được một lát quân mã đi giữa của Tống Giang tiến đến. Dương Hùng bèn đem tình hình bảo cho Tống Giang biết.

Tống Giang ngừng nom lên trên trang, qủa nhiên không thấy quân mã gươm giáo, thì trong lòng lấy làm nghi hoặc, rồi chợt nghĩ một mình mà nói lên rằng:

– Chết rồi! Cái này ta lầm rồi. Trong Thiên Thư đã nói: Việcbinh không nên bạo động, vậy mà ta vội vàng đem quân vào tận đến đây, thực khờ dại quá! Bây giờ trong trang không thấy động dạng chi, chắc là họ mưu kế chứ không, âu ta phải lui quân mau mới được.

Lý Quỳ nghe nói, kêu lên rằng:

– Ca Ca, quân mã đã kéo đến đây, lẽ nào lại chịu lui. Để tôi đánh xông vào trước rồi, cứ vòng theo tôi mà đi.

Bấy giờ trang khách ở trong, thấy quân mã Tống Giang đã kéo đến đó liền nổi hiệu pháo, bật mấy trăm bó đuốc lên, rồi đứng trên chòi canh bắn xuống rào rào như mưa. Tống Giang thấy vậy, liền kéo quân về lối cũ.

Chợt đâu thấy toán hậu quân của Lý Tuấn, sôi lên sùng sục, rồi thấy kêu lên rằng:

– Đường về trắc trờ, tất là có quân phục ở đâu đây…

Tống Giang nghe vậy, liền truyền cho quân ngựa xông pha bốn mặt để tìm lối đi. Lý Quỳ múa đôi phủ chạy ngược chạy xuôi, toan tìm người để chém, song trước sau không thấy một tên trang khách nào. Chợt lại thấy trên núi Độc Long nổi một tiếngn hiệu nữa, rồi bốn bên bỗng kêu hò ầm ĩ cả lên, làm cho Tống Giang kinh ngạc rụng rời không biết lối nào mà giờ.

Mới hay:

Anh hùng lại gặp anh hùng,

Những tay thao lược non sông còn nhiều.

Giữa trường khói lửa đìu hiu,

Tâm can phải vững cơ mưu phải già,

Ngất trời một trận phong ba,

Non gan hồ dễ vượt qua tới ngàn?

Sinh tồn ở cõi nhân gian,

Ai ơi! Trông đó mà toan lấy mình…

Lời bàn của Thánh Thán:

Người ta nói rằng: Có chém tre, gỡ rắn, mới biết sức dao hay; Vậy có gặp sự khó khăn mới biết tay kỳ bút! Hồi này cốt tả Tống Giang đánh Chúc Gia Trang. Hỡi ôi! Đánh Chúc Gia Trang cũng chỉ tầm thường của sự chiến đấu, sao đủ triển tài năng diễn tả của Thi Nại Am? Cho nên chưa chế ra văn, đã trước chế ra đề, tả bên đông Chúc Gia, có một Lý Gia Trang, bên tây Chúc Gia, thêm một Hồ Gia Trang, ba trang liên kết với nhau, thấ như giữa đưa đông cứu, đánh giữa thì đông tây xô lại cứu…Ôi như thế thấy đề tài nghe khó khăn thay! Khác nào sau ngựa chạy dông một cương khôn giữ. Lửa rối nổi lên, một tay khôn chữa…Thi Nại Am mới hồi lòng gấm, giơ tay vóc, uốn lời mềm, chấm mực tốt, mà trước khi Dương Hùng, Thạch Tú chưa đến Lương Sơn, đã tả Lý Ứng bên đông giơ tay hữu. Vào tới hồi này, Tống Giang đem mười sáu viên hồ tướng, lộ máu đánh ra, toan sinh cầm Tây Hổ, đó gọi là giở đến tay tả, mà phải chạy đông tây muốn diệt Chúc Gia Trang mà chẳng tưởng dễ như trói một con gà vậy?

Đó! Thi Nại Am đã đem đầu đề khó ra, tới lúc vào đề lại có phép đảo đi, được kheo đến thế? Người nào đem cuối thiên ra bàn vắn nói dài, tức chưa hiểu sự đó, sao chẳng xem trù tính tự đầu thiên, tới khi hạ bút, tả ra thấy muôn phần khó vậy.

Xem tả Lý Chúc đánh nhau, thế lực ngang nhau, chưa lấy làm thú còn ngại nhân đó mà hai nhà không chịu ngừng tay, để đưa ra bút thế tả Tống Giang tới đánh, nên phép hành văn có lúc chiếm một bút tả ra, lưu một bút chưa chép. Tả Thạch Tú một đoạn dò đường, như vẽ ra một người tinh tế, đọc đến cùng tưởng tác giả đủ mọc kỳ tài mới tả nổi ra.