Hồi 67: Tống Công Minh đánh phá Tăng Đầu Thị – Lư Tuấn Nghĩa bắt sống Sử Văn Cung

Bấy giờ Đoàn Cảnh Trụ nói với bọn Lâm Xung rằng:

– Tôi cùng Dương Lâm, Thạch Tú đi sang mạn Bắc, chọn mua được hai trăm con ngựa rất khoẻ và đẹp, bất đồ về đến địa hạt Thanh Châu, gặp một người tên là Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tứ, tụ hơn hai trăm người cướp lấy cả ngựa, đem giải về Tăng Đầu Thị, còn Dương Lâm, Thạch Tú thì không biết bạt đi đâu mất. Bởi vậy tôi phải trốn về đây báo cho sơn trại biết.

Lâm Xung nghe nói liền đưa về sơn trại, để nói cùng Tống Công Minh, khi về tới Trung Nghĩa Đường, Quan Thắng dẫn Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, vào chào Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh rồi Lý Quỳ đem các chuyện giết Hàn Bá Long gặp Tiêu Đĩnh, Bào Húc đi đánh Lăng Châu thuật cho mọi người nghe. Tống Giang nghe nói lấy làm mừng vô hạn.

Hồi lâu các Đầu Lĩnh đương ngồi yến ẩm với nhau, Đoàn Cảnh Trụ lại kể chuyện mất ngựa cho Tống Giang, Tống Giang nghe nói cả giận mà rằng:

– Ngày trước chúng đã cướp ngựa của ta, sau Tiều Thiên Vương cũng bị bắn chết vì tay chúng, thù ấy vẫn chưa báo được. Nay chúng lại dám vô lễ đến thế, nếu ta không đem binh đi đánh, tất thiên hạ chê cười ta đó.

Ngô Dụng tiếp luôn rằng:

– Hiện nay ngày xuân ấm áp, chính hợp cho sự hành binh, vậy ta nên đi đánh ngay cho vui, ngày trước Tiều Thiên Vương bị thua là vì mất địa lợi, vậy ngày nay ta nên dùng trí mà đánh mới được. Nay hãy cho Thời Thiên đến đó treo tường khoét dậu, thám thính xem sao, rồi về đây ta sẽ liệu.

Thời Thiên vâng mệnh ra đi. Cách ba bốn hôm sau bỗng thấy Dương Lâm, Thạch Tú trốn về sơn trại, kể lại Sử Văn Cung rất là vô lễ, thường nói khoác thế nào cũng không chịu sống với bọn Lương Sơn. Tống Giang nghe nói toan khởi binh đi ngay lập tức.

Ngô Dụng can rằng:

– Hãy đợi Thời Thiên về rồi sẽ khởi binh, có đi đâu mà vội?

Tống Giang vẫn hầm hầm tức giận, chỉ nóng báo cừu, không sao chịu được liền sai Đới Tung đi thám thính mau mau để cho chóng việc.

Đới Tung vâng lệnh đi mấy hôm, rồi trở về trước Thời Thiên, mà nói với Tống Giang rằng:

– Bọn Tăng Đầu Thị muốn báo thù cho phủ Lăng Châu, hiện nay đã đóng đại trại ở chợ Tăng Đầu và đặt trướng Trung quân ở chùa Pháp Hoa, cắm cờ mấy trăm dặm, không biết lối nào mà tiến được.

Ngô Dụng nghe nói, còn do dự chưa biết lập kế ra sao. Sáng hôm sau chợt thấy Thời Thiên về báo rằng:

– Chúng tôi đi đến chợ Tăng Đầu, đã dò thám hết, rất kỹ tình thế của chúng. Hiện nay chúng chia năm trại, trước mặt chợ Tăng Đầu có hơn ba nghìn người coi giữ cửa thôn, trong trại có Sử Văn Cung coi giữ trại. Trại bên Bắc có Tăng Đồ cùng Phó giáo sư Tô Định, trại bên Nam có Tăng Mật, trại bên Tây có Tăng Sách, trại bên Đông có Tăng Khôi, cùng người cha là Tăng Lộng coi giữ. Còn Úc Bảo Tử người ở Thanh Châu, thì cao một trượng, lưng lớn ba ôm, biệt hiệu là Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tử, đã cướp lấy ngựa của ta hiện còn nuôi ở chùa Pháp Hoa đó.

Ngô Dụng nghe nói liền tụ hội các tướng đến mà bàn rằng:

– Đằng ấy chúng có năm trại thì ta đây chia binh ra làm năm đạo để đánh.

Lư Tuấn Nghĩa đứng dậy nói rằng:

– Lư mỗ nhờ ơn các ngài cứu cho lên núi, chưa có chút gì để đền ơn, vậy ngày nay xin ra trước trận để đánh chẳng hay các ngài có thuận cho không?

Tống Giang nghe nói liền hỏi Ngô Dụng rằng:

– Viên Ngoại có lòng đi giùm, vậy có thể mời Viên Ngoại đi tiền bộ được chăng?

Ngô Dụng đáp:

– Viên Ngoại mới đến đây chưa ra chiến trận, đường lối hiểm trở khó lòng dò biết, không thể nào đi tiền bộ tiên phong được. Vậy xin Viên Ngoại dẫn một chi quân nấp ở giữa khoảng Bình Xuyên rồi nghe hiệu súng Trung quân mà kéo đến tiếp ứng. Thế là tiện hơn.

Tống Giang nghe nói cả mừng bèn cho Lư Viên Ngoại cùng Yến Thanh dẫn năm trăm quân bộ đến nấp ở con đường nhỏ Bình Xuyên mà nghe hiệu. Đoạn rồi cùng nhau cắt đặt năm đạo quân để đi đánh: Toán thứ nhất mã quân Đầu Lĩnh là Tích Lịch Hỏa Tần Minh, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh cùng Phó tướng Đặng Phi, Mã Lân dẫn ba nghìn quân đánh trại chính Nam. Toán thứ nhì bộ quân Đầu Lĩnh Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm. Hành giả Võ Tòng cùng phó tướng Khổng Minh, Khổng Lượng dẫn ba nghìn quân đánh trại chính Đông. Toán thứ ba mã quân Đầu Lĩnh Thanh Diện Thú Dương Chí, Cửu Văn Long, Sử Tiến, cùng phó tướng Trần Đạt, Dương Xuân dẫn ba nghìn quân đánh trại chính Bắc. Toán thứ tư bộ quân Đầu Lĩnh Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng, Sáp Sí Hổ Lôi Hoành cùng phó tướng Trâu Uyên, Trâu Nhuận dẫn ba nghìn quân đánh trại chính Tây. Còn toán thứ năm thì Đô Đầu Lĩnh Tống Giang, quân sư Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, cùng các phó tướng là: Lã Phương, Quách Thịnh, Giải Trân, Giải Bảo, Đới Tung, Thời Thiên dẫn năm nghìn quân đánh trại chính giữa. Hắc Toàn Phong Lý Quỳ, Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy cùng phó tướng là Hạng Sung, Lý Cổn dẫn năm nghìn quân làm hợp hậu. Còn các Đầu Lĩnh khác đều ở nhà coi trại.

Khi cắt đặt xong, năm đạo quân đều xuống núi chia đường mà thẳng đến đánh chợ Tăng Đầu.

Bên kia Tăng Trưởng Quan nghe báo quân mã Tống Giang sắp kéo đến, bèn mời giáo sư Sử Văn Cung và Tô Định đến để bàn việc binh.

Sử Văn Cung bàn rằng:

– Đám Lương Sơn Bạc phần nhiều là binh cường tướng mạnh, ta nên dùng kế đào hầm thì thế nào cũng tróc nã được chúng. Tăng Trưởng Quan khen phải, liền sai trang khách đem mai cuốc ra đào mấy mươi hàng hầm hố ở trong thôn, bên trên phủ qua lượt đất, rồi cho quân binh nấp bốn bên đường để đón bắt. Lại sai đào mấy mươi hàng hầm hố nữa về phía Bắc Tăng Đầu Thị để đợi.

Bên kia khi quân mã Tống Giang đã bắt đầu khởi hành, Ngô Dụng lại sai Thời Thiên dấn mau đi trước để dò đường. Cách mấy bữa Thời Thiên trở lại bảo rằng:

– Đường vào các trại Nam Bắc ở Tăng Đầu thì đều đào hầm hố rất nhiều, nếu quân mã ta lỡ mắc vào đó thì tất là nguy mất.

Ngô Dụng nghe nói cả cười mà rằng:

– Kế ấy thì lấy chi làm lạ! Nói đoạn liền truyền cho quân mã cứ tiến lên để đánh.

Một hôm vào khoảng giờ ngọ, quân mã kéo gần đến Tăng Đầu Thị, chợt thấy có một người khăn xanh bào trắng cưỡi ngựa đeo nhạc xủng xoảng tay cầm đỏan thương đi đến. Tiền đội trông thấy toan kéo quân đuổi đánh. Ngô Dụng liền ngăn lại rồi truyền lệnh năm đạo quân mã đều chia mạn hạ trại, đào hào đắp lũy rắc chông rào dậu phòng bị rất là nghiêm mật.

Người lại truyền cho Thời Thiên ăn mặc giả làm quân lính để dò xét xem các nơi hầm hố tất cả có mấy chỗ, cách xa trại quân chừng độ bao nhiêu và ghi nhớ lấy dấu hiệu để về báo. Thời Thiên vâng lệnh đi xét một ngày rồi về báo rõ ràng dấu tích các nơi hầm hố cho Ngô Dụng biết.

Ngày hôm sau Ngô Dụng truyền lệnh cho tiền quân chia làm hai đội đem đủ các đồ mai cuốc và xe hơn một trăm xe cỏ khô củi nỏ đi giấu ở trong quân. Đoạn rồi truyền lệnh cho các Đầu Lĩnh cứ đến giờ Tỵ hôm sau thì đám quân bộ hai đường Đông Tây tiến đánh, còn Dương Chí, Sử Tiến ở bên Bắc thì phải dẫn quân mã ra đó, rồi đánh trống khua cờ, hư trương thanh thế mà không cho tiến lên. Khi phân phát xong rồi các tướng đều y lệnh để đợi thi hành.

Về phần Sử Văn Cung khi đã đào xong các hầm hố chỉ đợi cho Tống Giang kéo quân mã sấn vào là thế nào cũng sa xuống hố mà tóm bắt được cả. Chợt đâu đến giờ tỵ nom thấy ở trước trại có hiệu súng nổi lên, rồi có đại đội binh mã kéo đến mạn nam, đông như kiến cỏ. Rồi sau thấy trại bên Đông vào báo rằng:

– Có một lão hoà thượng múa cây thuyền trượng và một người hành giả múa hai khẩu giới đao, đánh cả đằng trước đằng sau trại.

Sử Văn Cung nghe báo liền nói rằng:

– Hai tên ấy chừng là Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng ở Lương Sơn Bạc hẳn.

Nói đoạn lại sợ sức Tăng Khôi không chống nổi, bèn sai người ra Đông trại để giúp sức.

Chợt lại thấy Tây trại vào báo: Có một người râu dài và một người mặt tía, trên cờ có đề chữ “Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng”, và “Sáp Sí Hổ Lôi Hoành”, kéo quân đến đánh rất gấp, Sử Văn Cung nghe báo lại sai người sang giúp sức với Tăng Sách ở Tây trại, bỗng lại nghe thấy trước Trại có hiệu súng nổi lên. Sử Văn Cung vẫn lặng yên không ra tiếp ứng, chỉ đợi cho quân mã bọn kia sa xuống hố, rồi sẽ ra bắt, đằng kia Ngô Dụng đem quân lần theo dõi sau núi chia làm hai đường kéo vào đến trại. Bấy giờ đám tiền quân của Sử Văn Cung còn cấp về việc coi trại, không dám rời đi, còn đám phục binh thì vẫn dàn hàng, mà nấp ở hai bên hầm hố phía trước, Ngô Dụng kéo quân tới nơi liền đánh đám phục binh ngã sấp cả xuống hầm hố.

Sử Văn Cung thấy vậy, kéo binh ra để đuổi. Ngô Dụng liền cầm roi trỏ Trung quân đẩy trăm xe cỏ, kéo ra nhất tề phóng lửa để đốt. Quân mã Sử Văn Cung kéo tới nơi, bị lửa đốt ngăn đường lại, đành phải kéo nhau trở lại. Khi đó Công Tôn Thắng đứng ở trong trận, cầm kiếm làm phép, rồi bỗng nổi một trận gió to, cuốn khói lửa đưa vào lối cửa bên Nam, làm cho gác canh cùng dậu vách cùng bị thiêu đốt cháy cả. Đoạn rồi đôi bên cùng khua chiên thu quân, rồi Sử Văn Cung lập tức cho sửa sang cử a trại lại nguyên như cũ.

Ngày hôm sau Tăng Đồ bàn với Sử Văn Cung rằng:

– Nếu không chém được đầu giặc, thì không thể nào mà triệt đi được. Vậy hôm nay xin giáo sư coi trại, để tôi ra đánh một trận xem sao.

Nói đoạn liền cưỡi ngựa dẫn quân ra trận khơi đánh. Tống Giang ở Trung quân, liền dẫn Lã Phương ra trước trận để đón.

Khi ra tới cửa trận, thấy Tăng Đồ hầm hầm giận dữ. Tống Giang liền cầm roi mà nói rằng:

– Ai ra bắt thằng kia cho ta, để báo thù khi trước.

Nói dứt lời thì Tiều Oân hầu Lã Phương vác Thiên Phương Họa Kích, vỗ ngựa ra đánh Tăng Đồ. Đôi bên đánh nhau chừng hơn ba mươi hiệp, thì Lã Phương có phần hơi núng, không địch nổi với Tăng Đồ, đao pháp đã hơi rối loạn. Quách Thịnh thấy vậy liền vỗ ngựa cùng múa Thiên Phương Họa Kích ra để cùng đánh Tăng Đồ.

Ba người ba ngựa quần nhau ở trước trận một lúc, rồi bỗng dưng ba thứ quân khí, bị vướng ngù vào với nhau, không sao mà dằng ra được.

Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đứng trong trận thấy vậy, bèn sấn ngựa ra tay tả co giây cung, tay giữa đặt tên nhằm giữa Tăng Đồ để bắn. Khi đó Tăng Đồ đã rút được cây thương ra, mà hai cây kích của Lã Phương, Quách Thịnh còn soắn sít lấy nhau chưa sao gỡ được. Tăng Đồ thấy thế, giơ thương toan đánh, thì vừa hay mũi tên của Hoa Vinh đã tới, bắn trúng ngay vào vai Tăng Đồ ngã lăn xuống ngựa, Lã Phương, Quách Thịnh thấy Tăng Đồ ngã, chém cho một nhát chết ở giữa trận. Quân sĩ Tăng gia vội vàng phi ngựa báo cho Sử Văn Cung và đến Trung trại báo cho Tăng Trưởng Quan biết.

Tăng Trưởng Quan nghe báo lấy làm thương xót mà khóc nức nở lên một lúc, bấy giờ Tăng Thăng đứng ở bên cạnh nghe nói anh chết, liền gọi người lấy ngựa ra để đi đánh báo thù cho anh. Tăng Trưởng Quan ngăn giữ không được, đành phải để cho Tăng Thăng đi.

Nguyên Tăng Thăng là một tay võ nghệ cao cường, khiến hai khẩu phi đao không ai hề dám gần đến. Khi đó chàng vác đao lên ngựa, đi ra đến tiền trại, Sử Văn Cung cũng ngăn lại mà rằng:

– Tiểu tướng quân không nên vội ra. Bên trận Tống Giang trí dũng rất nhiều, khó lòng địch nổi, vậy cứ ý tôi, thiết tưởng ta nên giữ vững năm trại, cho người báo với Lăng Châu để tâu với triều đình, đem nhiều binh mã chia làm hai đường ra đánh Lương Sơn, và cứu ứng ở đây, thì bấy giờ mới có thể lập công được.

Đương khi nói chuyện thì thấy phó giáo sư là Tô Định ở Bắc trại cũng đến đó. Tô Định nghe lời Sử Văn Cung cũng lấy làm phải, mà nói rằng:

– Ngô Dụng ở Lương Sơn Bạc là một người lắm mưu nhiều kế, không thể coi khinh được, ta chỉ nên giữ vững lấy trại đợi cứu binh đến, rồi ta sẽ liệu.

Tăng Thăng kêu lên rằng:

– Nó giết Ca Ca ta, oán thù ấy tất là phải báo, nay nếu để cho nó tự do hành động mà không trị đi, thì sau này còn làm gì được nữa?

Sử Văn Cung cố can không được. Tăng Thăng liền hăm hở lên ngựa dẫn mấy mươi quân kỵ ra trận khơi đánh.

Tống Giang liền truyền cho Tần Minh ra đón đánh Tăng Thăng, Tần Minh vâng lệnh lên đường sắp đi ra thì thấy có người mình đen chùi chũi, cởi trần trùng trục, múa song phủ xồng xộc chạy thẳng đến trại Tăng Thăng để đánh.

Đám quân sĩ của tăng Thăng trông thấy liền bảo với Tăng Thăng rằng:

– Người ấy là Hắc Toàn Phong ở Lương Sơn Bạc đó.

Tăng Thăng nghe nói liền truyền cho quân sĩ lấy cung tên ra bắn. Lý Quỳ đang hăng hái vô ý bị một mũi tên bắn vào chân ngã lăn ra trước trận. Quân mã của Tăng Thăng đều xông ra để bắt.

Bên kia Tần Minh, Hoa Vinh phóng ngựa ra để cứu, rồi Mã Lân Đặng Phi, Lã Phương, Quách Thịnh đều nhất tề xông ra cứu Lý Quỳ đem về bản trận. Tăng Thăng thấy bên trận Tống Giang đông người, liền đem quân trở về mà không dám đánh nữa.

Ngày hôm sau, Sử Văn Cung cùng Tô Định đều định đóng binh yên giữ, song Tăng Thăng nóng ruột về việc báo cừu choa nhiều bèn cố giục Sử Văn Cung phải ra đối trận. Sử Văn Cung bất đắc dĩ phải đóng đai giáp, cưỡi con ngựa Thiên Lý Long Câu Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử cướp được của Đoàn cảnh trụ khi trước mà xông ra để đánh.

Bên kia Tống Giang dẫn các tướng ra dàn trận để đón. Khi Tống Giang trông thấy con ngựa Ngọc Sư Tử thì trong lòng lấy làm căm tức, liền truyền lệnh cho tiền quân xông ra để đánh Sử Văn Cung.

Tần Minh nghe lệnh bèn vỗ ngựa xông ra đối trận. Hai bên đánh nhau chừng hơn hai mươi hiệp, Tần Minh nghe hơi núng thế vội quay ngựa chạy về bản trận.

Sử Văn Cung ra sức sấn lên cầm thương đâm vào chân Tần Minh một nhát ngã lăn xuống đất. Lã Phương, Quách Thịnh, Mã Lân, Đặng Phi thấy vậy đều xông ra liều chết cứu được Tần Minh về. Quân sĩ cả thua một trận. Tống Giang lui quân ra ngoài mươi dặm hạ trại, rồi sai người xe Tần Minh về sơn trại phục thuốc, và mật gọi Quan Thắng, Từ Ninh và Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc xuống núi để giúp.

Tống Giang đốt hương khấn trời đất qủy thần xin một quẻ bói đưa cho Ngô Dụng xem.

Ngô Dụng xem xong bảo với Tống Giang rằng:

– Phen này tất được thanh thỏa không can chi cả. Duy đêm nay chúng sẽ vào cướp trại ta đây. Nếu vậy thì phòng bị trước đi mới được.

– Vâng xin Huynh trưởng cứ vững tâm truyền cho năm quân ngay bây giờ là được rồi.

Nói đoạn liền hạ lệnh cho quân mã các trại đều mai phục tất cả các nơi và để Giải Trân ở bên tả, Giải Bảo ở bên hữu, để đợi hiệu thi hành.

Đêm hôm đó trời trong trăng sáng, Sử Văn Cung ngồi ở trong trại bàn với Tăng Thăng rằng:

– Quân giặc hôm nay bị thương mất hai tướng, chắc là trong lòng kinh khiếp, vậy ta nên thừa thế mà cướp trại thì tất là được nên công.

Tăng Thăng nghe nói liền gọi Tô Định ở Bắc trại, Tăng Mật ở Nam trại, và Tăng Sách ở Tây trại đều dẫn quân đi cướp trại Tống Giang. Vào khoảng canh hai đêm hôm ấy quân mã đều im phắc, người mặc giáp mềm, ngựa bỏ vòng nhạc mà thẳng kéo ra đi.

Khi tới trại Trung quân của Tống Giang thấy bốn bên vắng vẻ không có một ai, bọn Tăng Thăng biết là có kế, liền quay ngựa kéo nhau lui ra. Chợt đâu thấy bên tả có Giải Trân, bên hữu có Giải Bảo, rồi mặt sau có Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đều nhất tề xông ra để đánh.

Tăng Sách lúng túng trong đêm tối mò, bị Giải Trân đâm cho một nhát phương xoa chết lăn xuống ngựa rồi phóng lửa nổi hiệu các quân đều ập vào để đánh. Bọn Sử Văn Cung hết sức cướp đường để chạy, mãi sau mới được thoát về trong trại.

Tăng Trưởng Quan thấy Tăng Sách lại bị chết trong lòng lại càng thương cảm bội phần, ngày hôm sau liền bàn với Sử Văn Cung để viết giấy xin đầu hàng Tống Giang. Bấy giờ Sử Văn Cung cũng có điều chột dạ, không dám hung hăng, bèn tán thành việc đó rồi viết giấy sai người thẳng đem sang trại Tống Giang.

Tống Giang bắt được giấy, bóc ra xem thấy trong đó nói rằng:

– “Tôi chủ chợ Tăng Đầu, tên là Tăng Lộng, cúi lạy trình Tống Công Minh thống quân Đầu Lĩnh. Trước đây vì con tôi ngu dại, cậy khoẻ khoe tài, làm càn làm dở cướp ngựa của ngài, rồi sau Thiên Vương xuống núi, lại bị đứa tiểu tốt vi tri bắn tên ngầm mà hại tính mạng, điều đó thực là tội nặng muôn trùng, không dám có điều chi từ chối.

Song thiết nghĩ việc đó không phải là thiện ý của chúng tôi, và đứa con ngu dại ngày nay cũng đã chết rồi, vậy tôi xin cả gan cho sứ mang thơ để cầu hoà cùng Thống Quân Đầu Lĩnh.

Nếu ngài có rộng lòng thương tới, im việc can qua, thì tôi đem cái số ngựa đã cướp khi xưa nộp trả lại ngài, và xin dâng vàng bạc khao thưởng tam quân, để đôi bên khỏi phần thiệt hại. Lòng thành ý thực xin lượng xét cho.

Tống Giang xem thơ xong liếc mắt nhìn Ngô Dụng rồi nét mặt giận dữ hầm hầm, xé thơ mà mắng rằng:

– Bay giết Huynh trưởng ta, khi nào ta im đi được! Phen này tất phải quét sạch toàn hạt bay đi thì ta mới thỏa.

Người đưa thơ nghe nói vậy sợ hãi run lên mà cúi rạp xuống đất.

Ngô Dụng liền can Tống Giang rằng:

– Huynh trưởng không nên nghĩ thế, chúng ta tranh nhau đây chẳng qua chỉ vì nghĩa khí mà thôi… Vậy nay Tăng Gia đã cho người đưa thơ sang cầu hoà, nếu ta còn chấp lòng căm giận mà bỏ mất đạo nghĩa thì sao cho tiện.

Nói đoạn liền sai viết thơ trả lời và thưởng cho người đưa thơ mười lạng bạc mà cho đem về. Người kia vâng lệnh đem thơ về trình.

Tăng Trưởng Quan cùng Sử Văn Cung bóc thư ra xem trong thư nói:

“Lương Sơn Bạc Chủ Tướng là Tống Giang xin trả lời cho chủ chợ Tăng Đầu là Tăng Lộng biết: Từ xưa tới nay nước không tín tất mất, người không lẽ tất chết, của không nghĩa tất mất, tướng không mạnh tất thua, đó là lẽ trời đất thế.

Lương Sơn Bạc đối với Tăng Đầu, thì trước sau không có thù hằn, chỉ vì làm càn làm dở, mà gây nên tai vạ ngày nay.

Vậy nếu muốn giảng hoà, thì phải trả lại các số ngựa đã cướp, và đem nộp tên hung đồ cướp ngựa là Úc Bảo Tứ, cùng là tiền bạc khao quân sĩ, rồi từ đây dốc lòng hoà thuận, không được sai lời… Nếu có một điều gì trái phép, bấy giờ ta sẽ liệu cho không còn phàn nàn được nữa”.

Hai người xem xong lấy làm kinh sợ vô cùng. Sáng hôm sau Tăng Đầu lại cho người sang nói với Tống Giang rằng:

– Xin nộp Úc Bảo Tứ và xin cho mấy người đến để làm tin.

Tống Giang nghe nói liền truyền cho Thời Thiên, Lý Quỳ, Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn theo sang trại Tăng Gia làm tin.

Khi năm người ra đi Ngô Dụng gọi Thời Thiên ghé vào tai dặn thầm rằng:

– Nếu lỡ khi có biến, thì cứ thế này mà làm.

Đoạn rồi năm người vâng lệnh ra đi. Khi sang đến trại Tăng Đầu, Thời Thiên dắt bốn người vào chào Tăng Lộng mà nói rằng:

– Chúng tôi vâng tướng lệnh Ca Ca, xin sang đây để làm tin.

Sử Văn Cung nói lên rằng:

– Ngô Dụng sai năm người đến đây, vị tất đã không có mưu kế gì?

Lý Quỳ nghe nói cả giận mà nắm lấy Sử Văn Cungntoan đánh. Tăng Lộng vội vàng đứng dậy mà khuyên giải ra.

Thời Thiên nói với hai người rằng:

– Lý Quỳ tuy là người thô mãng, song hiện là một người tâm phúc của Tống Công Minh, nay sai sang đây thì không còn điều gì đáng ngờ nữa.

Tăng Lộng cũng dốc lòng giảng hoà, nên chẳng nhắc gì đến lời của Sử Văn Cung nữa, liền sai đặt rượu đãi năm người, rồi mới sang chùa Pháp Hoa, cho năm trăm quân vây giữ trước sau. Đoạn rồi cho Tăng Thăng đem Úc Bảo Tứ, cùng các lễ vật sang trại Tống Giang để giải hoà.

Tống Giang nom thấy một xe tiền lụa, và một đoàn ngựa đem đến, liền bảo với Tăng Thăng rằng:

– Ngựa này toàn là ngựa cướp chuyến sau, còn con ngựa Thiên Lý Long Câu Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử cướp của Đoàn Cảnh Trụ chuyến trước, sao không thấy ở đây?

Tăng Thăng nói:

– Con ngựa hiện sư phụ Sử Văn Cung để cưỡi, nên chưa đem được đến đây.

Nếu vậy phải viết giấy bảo mang sang đây mau.

Tăng Thăng bèn viết giấy cho người mang về trại, để đòi con ngựa Ngọc Sư Tử mang sang.

Sử Văn Cung tiếp được giấy trả lời rằng:

– Con ngựa khác thì không dám tiếc, duy con ngựa ấy thì không thể nào mà đưa đi được…

Tống Giang nghe nói, lại sai người sang hỏi. Sau Sử Văn Cung đáp rằng:

– Muốn lấy con ngựa ấy thì phải lui quân ngay lập tức mới được.

Tống Giang thấy vậy, bàn định với Ngô Dụng, chưa biết kế sách ra sao. Chợt đâu có tin báo Lăng Châu với Thanh Châu dẫn hai đạo quân mã sắp tới nơi.

Tống Giang nghe nói liền cười nhạt mà rằng:

– Quân kia biết tất nó giở quẻ với mình.

Nói đoạn liền truyền lệnh cho Quan Thắng, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc dẫn quân mã đón bọn Thanh Châu, Hoa Vinh, Mã Lân, Đặng Phi ra đón quân mã Lăng Châu, Tống Giang lại mật gọi Úc bảo Tứ đến, lấy lời lẽ tử tế dỗ dành, tiếp đãi một cách rất ân nghĩa, và nói rằng:

– Nếu ngươi hết sức vì ta phen này, ta cho làm Đầu Lĩnh ở sơn trại, và xoá hết thù xưa. Bằng không thì nay mai Tăng Đầu bị phá, bấy giờ ngươi xử trí ra sao.

Úc Bảo Tứ nghe nói cúi lạy tạ ơn, rồi tình nguyện xin theo dưới trướng.

Ngô Dụng liền dặn kế cho Úc Bảo Tứ rằng:

– Ngươi giả cách trốn về nói với Sử Văn Cung rằng: Ngươi với Tăng Thăng đến trại giảng hoà đã dò được tin đích xác, hiện nay Tống Giang chỉ định lừa lấy con ngựa Thiên Lý, rồi sau giở quẻ chứ không thực bụng giảng hoà. Và ngày nay nghe nói, hai đạo quân Thanh Châu và Lăng Châu kéo đến, thì trong lòng đương lo sợ, vậy ta nên thừa thế thi hành, chớ nên bỏ lỡ, như vậy nếu hắn nghe lời, thì ta sẽ có cách, ngươi phải đi ngay mới được.

Úc Bảo Tứ vâng lời, trốn về trong trại Sử Văn Cung, đem mấy lời đó nói với Sử Văn Cung, Sử Văn Cung liền dẫn Úc Bảo Tứ đến trình Tăng Trưởng Quan, nói rõ ý Tống Giang không định giảng hoà, mà bàn định với Tăng Trưởng Quan thừa thế sang cướp trại Tống Giang.

Tăng Trưởng Quan nói rằng:

– Tăng Thăng hiện còn ở đó, nếu mình sai lời thì tất bị hắn giết mất.

Nói đoạn đâm cho Sử Văn Cung một đao vào đùi ngã lăn xuống ngựa, rồi trói lại mà giải về Tăng Đầu Thị. Yến Thanh liền dắt con ngựa Long Câu về để nộp.

Tống Giang trông thấy trong lòng nữa não nửa mừng, sai đem Tăng Thăng ra chém, rồi bắt chém hết già trẻ nhà họ Tăng, mà không để sót một ai. Đoạn rồi lấy hết kim ngân châu bảo, cùng thóc gạo lương thực xếp tất cả lên xe để đem về.

Bên kia tụi Quan Thắng đánh đuổi được quân mã Thanh Châu, Hoa Vinh đánh đuổi được binh mã Lăng Châu, rồi hai toán quân cùng kéo về đại trại, không thiếu một ai.

Tống Giang thấy vậy cả mừng, bèn cho Sử Văn Cung vào xe tù, rồi thu thập quân mã, lương thảo mà trở về Sơn Bạc.

Khi về tới Trung Nghĩa Đường, các Đầu Lĩnh đều đến làm lễ cáo với Tiều Thiên Vương, Sai Tiêu Nhượng làm văn tế để tế, rồi các Đầu Lĩnh đều ăn mặc tang phục, khóc thương nức nở, và moi ruột Sử Văn Cung lên để tế.

Khi tế lễ xong rồi, Tống Giang liền bàn với các Đầu Lĩnh để lập chủ Lương Sơn Bạc, Ngô Dụng nói lên rằng:

– Huynh trưởng ở ngôi trên rồi đến Lư Viên Ngoại thứ nhì, còn các anh em xin cứ theo như cũ.

Tống Giang nói:

– Khi trước Tiều Thiên Vương đã dặn lại rằng: Nếu ai bắt được Sử Văn Cung, tất phải làm chủ Lương Sơn Bạc. Vậy ngày nay, Lư Viên Ngoại bắt sống được tên giặc đó đem về để tế, thì tất nhiên tôn vị đến tay, không phải nói năng lôi thôi chi nữa.

Lư Tuấn Nghĩa nói:

– Tiểu đệ tài hèn sức kém, đâu dám đứng vào vị ấy. Huynh trưởng có lòng cho được theo hầu cũng là quá đáng lắm rồi.

Tống Giang đáp rằng:

– Không phải là Tống mỗ quá khiêm, song Tống mỗ có ba điều không bằng viên ngoại. Điều thứ nhất tôi đây dáng người đen ngắn, mà Viên Ngoại thì tướng mạo đường đường, uy phong lẫm lẫm, không mấy người bằng. Điều thứ hai tôi đây xuất thân làm đứa tiểu lại, phạm tội trốn tránh tới đây, may được anh em có lòng yêu mến, mà cho tạm ở tôn vị, còn Viên Ngoại thì sinh ra ở nhà hào phú, lớn lên có tiếng anh hùng, thực không ai bằng được. Ba là Tống Giang tôi văn không yên nổi nước, võ không phục nổi người, tay không sức trói nổi con gà, thân không có một mảy công lao, mà Viên Ngoại thì sức địch muôn người, rộng xem kim cổ, điều đó lại không theo kịp. Vậy Viên Ngoại có tài năng như thế, chính nên nhận lấy chức chủ sơn trại, làm nên quan tước giàu sang, khiến cho anh em cũng được vẻ vang đôi chút. Tống Giang tôi định như vậy, xin đừng từ chối nữa?

Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, lạy rạp xuống mà rằng:

– Huynh trưởng đừng nên bàn phiếm nữa, Lưu Trung Thư mỗ dù chết cũng không dám theo lời.

Ngô Dụng lại nói rằng:

– Huynh trưởng ở ngôi trên, rồi đến Viên Ngoại thì ai ai cũng phục, nếu Huynh trưởng nhường nhịn mãi, thì e lòng chúng lại nhạt nhẽo không ra gì.

Nói đoạn liếc mắt đưa khắp cả mọi người quanh đó.

Bấy giờ Lý Quỳ kêu lên rằng:

– Tôi ở Giang Châu, liều thân liều mạng, theo anh đến đây, ai ai cũng phải nhường anh mới được, tôi đây dẫu Trời cũng không sợ, cần gì mà phải nhường đứa nào. Tôi bực lên thì tan nát cả bây giờ.

Võ Tòng thấy vậy cũng chạy đến kêu lên rằng:

– Hiện nay bao nhiêu quân quan thuộc tay Ca Ca, đều là những người sắc mệnh triều đình, người ta chỉ nhường Ca Ca chứ không nhường ai nữa.

Lưu Đường cũng nói lên rằng:

– Khi trước bảy anh em chúng tôi ở đây, đã có bụng nhường Ca Ca rồi, nay cần gì mà Ca Ca còn phải nhường ai?

Lỗ Trí Thâm cũng kêu lên rằng:

– Nếu Ca Ca còn lễ nghĩa nhúng nhường mãi, thì tụi ta giải tán là xong.

Tống Giang thấy chúng nói liền đáp lên rằng:

– Anh em hãy im tất cả, tôi có cách hỏi xem ý Trời ra sao, rồi mới có thể định được.

Ngô Dụng hỏi:

– Huynh trưởng có cách gì cao kiến?

Tống Giang đáp:

– Tôi có hai cách này, để xin nói với anh em cùng hỏi ý Trời xem sao.

Mới hay:

Người nghĩa khí bậc anh tài,

Dẫu mà sinh tử dám sai tấc lòng,

Nước non là nước non chung,

Mong sao gặp khách anh hùng chủ trương.

Sá chi tham muốn giàu sang,

Mà quên nghĩa lớn thói thường như ai?

Có ta âu cũng có người,

Thử xem chuyển vận cơ trời sao đây?

Lời bàn của Thánh Thán:

Ta trước nói Tống Giang muốn giết Tiều Cái, còn có người ngờ, nay đọc hồi này, mới thấy ý kiến tác giả kia vậy, tả ra giáo giở khúc chiết cho rõ tội Tống Giang chẳng muốn báo thù cho Tiều Cái vậy, sao mà rõ ý tứ như thế vậy thay.

Một đoạn tả Đoàn Cảnh Trụ nói rằng: Uùc Bảo Tứ cướp ngựa đem về Tăng Đầu Thị mất… ôi! Ba chữ Tăng đầu Thị thì há chẳng phải Tống Giang không ghi lòng tạc dạ nhớ đến hay sao, viết vào đá, khắc vào gỗ ngày đêm kêu khóc lệ ra nước máu vậy thay? Thế mà từ khi đình việc tang ở ngôi đến nay, bỏ lãng đi không nhắc đến, thấy rằng Tống Giang chẳng từng nhắc đến nên Ngô Dụng cũng không nhắc đến, Lâm Xung cũng không nhắc đến, cho đến mọi người trên dưới trong sảnh cũng không ai nhắc đến, và cũng chẳng biết thế nào mà nhắc đến. Nay bỗng đâu từ Đoàn Cảnh Trụ về, lại giở ra nhắc đến, như thế Tống Giang không còn bịt miệng chúng vậy.

Hai nữa Đoàn Cảnh Trụ nói rõ việc cướp ngựa, Tống Giang nghe mà cả giận, ôi! Tăng Đầu Thị không thể nào tha, đã một lần cướp ngựa, lại hai lần cướp ngựa, đã một lần bực tức, lại còn đến hai lần, ai mà chả tức? Thế mà xét đến báo thù cho Tiều Thiên Vương bị bắn chết, thì sự đau lòng nhớ đến tất phải có phận sự rồi! Đến nay tên thề còn đó, hàng tháng chẳng nhắc, lại cái nhục bị cướp ngựa, thì giờ khắc chẳng nêu ra, làm sao nhẫn tâm như thế được?

Ba nữa, Tiều Cái để lại lệnh rằng: Nếu ai bắt được Sử Văn Cung thì làm chủ Sơn Bạc, tời khi Tống Giang sai khiến Chư tướng như Từ Ninh, Hô Duyên Chước, Quan Thắng, Sách Siêu, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn… Lại không dám sai lũ ấy. Xem ra đối với cái thù bất cộng, thì chẳng kịp ăn, phải báo cho xong có chết cũng cam, mà Tống Giang có chí báo thù, thì phải hãy để không ngôi chủ ấy làm trọng thưởng, cho hết thảy dũng sĩ; Tống Giang mà chí tôn giữ ngôi chủ trại kia, tất không muốn báo thù cho Tiều Cái vậy, cũng không ai có thể trách đến, nên khi đánh báo thù, chỉ cử những viên tướng loàng xoàng, thì bắt sao nổi Sử Văn Cung, làm sao hòng làm chủ sơn trại với Tống Giang nổi?

Bốn nữa, trong đám người mới tới, chỉ Lư Tuấn Nghĩa đứng lên xin đi, Tống Giang còn hỏi lại Ngô Dụng có nên không? Ngô Dụng cắt cho chỗ nhàn rỗi, vì rằng theo phép khiển tướng, thứ nhất là tiên phong, thứ hai tả quân, thứ ba hữu quân, thứ tư trung quân, thứ năm hợp hậu, thứ sáu mới đến phục quân, phục quân thì đã định kế tóan, biết là phải thua, mà thua phải đi đường ấy mà trốn?Nếu chưa biết rằng địch đã thua, mà thua phải đi đường ấy mà trốn, mà lại khiến Viên Ngoại đi đường ấy trước để mai phục quân, thì rõ ràng không khiến Viên Ngoại bắt được Sử Văn Cung, thì là An trí Lư Tuấn Nghĩa một nơi đó vậy.

Năm nữa Sử Văn Cung cưỡi ngựa, lại là con Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử, Tống Giang nom thấy ngựa tốt, đã sốt ruột nóng đầu, vì con ngựa Sử Văn Cung cưỡi, vốn con ngựa đã cướp của Đoàn Cảnh Trụ đem đến cho mình, hơn nữa lại Sử Văn Cung bắn chết Tiều Cái. Lời ngạn có nói: Khi gặp bạn tốt, con mắt rõ ra, khi gặp kẻ thù, con mắt giận dữ, ý nói trong lòng làm sao hiện ra con mắt. Nay Tống Giang vì con ngựa quý, thì phải trước vì ngựa, mà Tống Giang vì Tiều Cái, thì trước phải nghĩ đến Sử Văn Cung, nay Sử Văn Cung vỗ ngựa tới nơi, mà chỉ chép đến ngựa quý, làm Tống Giang sốt ruột nóng đầu, chép rõ con ngựa ở mắt Tống Giang, thì thấy Tống Giang đi đánh báo thù, cũng chỉ vì con ngựa quý.

Sáu nữa, bức thư vấn tội, khinh trách việc giết Tiều Cái, trọng trách việc cướp ngựa, đòi trả hai lần ngựa bị cướp, phải đòi trả Ngọc Sư Tử, thì ra đòi hai lần mất ngựa, Tống Giang chỉ cần đến Ngọc Sư Tử mà thôi ư? Nếu đòi ngựa mất hai lần, mà Tống Giang lại được con ngựa Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử, thì Tống Giang hẳn ban sư về núi, không thèm đánh nữa! May mà Bảo Tứ nội phản, kế Phục Oa thành, động chuông chùa Pháp Hoa, năm anh họ Tăng chết cả đấy! Nếu chẳng may hai đội quân Thanh Châu, Lăng Châu đến kịp, biến thành cái ước hoà giải, thì ra Tống Giang kêu khóc ngày đêm, nhớ đến Thiên Vương, cũng chẳng qua vì con ngựa quý?

Bảy nữa, Lư Tuấn Nghĩa đã lập nổi công rồi, Tống Giang còn đánh trống hợp chúng lại như kéo bè, để mà nói đến lập chủ. Chao ôi! Thương nghị, thì có bao giờ xong, với số đông tâm phúc của Tống Giang, tại làm sao lại quanh co mãi thế, thiết tưởng đã có lệnh của Thiên Vương để lại tên đó làm bằng, đến nay Lư Tuấn Nghĩa bắt được Sử Văn Cung, thì ngôi chủ sơn trại chỉ một lời là đủ, lại còn hợp chúng, rồi lại bày ra hỏi ý trời, về việc đua nhau đi cướp cái lương, để lại định ngôi chủ trại… Sao mà khéo biến hoá ra nhiều thế, đến như thế là ghê lắm vậy? Chao ôi! Tác giả chép ra, dụng ý làm cho rõ ràng tội của Tống Giang, thế mà những kẻ ngu phu, chẳng cho rằng muốn giết Tiều Cái, lại khư khư đem Trung với Nghĩa gán cho người đó để nêu cao, há chẳng quái lạ mà đáng than thở cho đời kia hay sao?

Hồi 68: Tới Đông Bình Phủ, Sử Văn Long mắc nạn – Bắt Song Thương Tướng, Tống Công Minh lập công

Bấy giờ Tống Giang nói với mọi người rằng:

– Hiện nay sơn trại ta thì thiếu lương, và gần đây có phủ Đông Bình và phủ Đông Xương đều là những nơi trù phú, mà chúng ta xưa nay cũng chưa từng quấy nhiễu ai. Vậy ngày nay tôi cùng Viên Ngoại rút thẻ xem ai rút phải thẻ nào, thì đem binh đến đó mà vây lấy lương thảo, rồi ai đánh được trước thì làm chủ Lương Sơn.

Ngô Dụng nói:

– Thế thì rất phải lắm.

Lư Tuấn Nghĩa gạt đi mà rằng:

– Không thế được, Huynh trưởng tất phải làm chủ sơn trại, tôi không khi nào dám thi công như thế.

Tống Giang nhất định thi hành, liền sai Bùi Tuyên viết hai cái thẻ, đem ra khấn trời đất qủy thần rồi Tống Giang cùng Lư Tuấn Nghĩa phải mỗi người rút một cái. Khi mở ra xem, Tống Gang rút thẻ Đông Bình phủ, Lư Tuấn Nghĩa rút thẻ Đông Xương phủ.

Tống Giang liền truyền lệnh cất quân mã, chia làm hai bọn để đi đánh. Bọn Tống Giang thì có Lâm Xung, Hoa Vinh, Lưu Đường, Sử Tiến, Từ Ninh, Yến Thuận, Lã Phương, Quách Thịnh, Hàn Thao, Bành Dĩ, Khổng Minh, Khổng Lượng, Giải Trân, Giải Bảo, Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Thạch Dũng, Úc bảo Tứ, Vương Đình Lục, Đoàn Cảnh Trụ, tất cả hai mươi viên Đầu Lĩnh, và một vạn quân mã bộ, và ba viên Đầu Lĩnh thủy quân là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Thất, Nguyễn Tiểu Ngũ, đều đem chiến thuyền đi tiếp ứng.

Bọn Lư Tuấn Nghĩa thì có Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Hô Duyên Chước, Chu Đồng, Lôi Hoành, Sách Siêu, Dương Chí, Đan Đình kHuê, Ngụy Định Quốc, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Dương Lâm, Yến Thanh, Âu Bằng, Lăng Chấn, mã Lâm, Đăng Phi, Thi Ân, Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, Thời Thiên, Bạch Thắng tất cả hai mươi viên Đầu Lĩnh đem một vạn quân mã bộ, và ba viên Đầu Lĩnh Thủy quân là Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh dẫn chiến thuyền đi tiếp ứng, còn các Đầu Lĩnh khác đều ở nhà coi trại.

Khi cắt đặt xong Tống Giang dẫn bộ hạ đi đánh núi Đông Bình, Lư Tuấn Nghĩa dẫn các Đầu Lĩnh đi đánh phủ Đông Xương. Hôm đó là mồng một tháng ba, khí trời ấm áp dễ chịu. Tống Giang dẫn một toán quân đến nơi tên là An Sơn Trấn, cách phủ Đông Bình chừng hai ba dặm hạ trại ở đó.

Tống Giang bảo với các Tướng rằng:

– Phủ Đông Bình có quan Thái Thú là Trình Vạn Lý, và một người binh mã Đô Giám là Đổng Bình, người Đảng quận tỉnh Hà Đông, khiến hai cây thương rất giỏi, sức khoẻ muôn người không địch nổi, người ta vẫn gọi là Song Thương Tướng xưa nay. Vậy ngày nay ta đánh thành trì, trước nhất phải lấy lễ mà đãi, nghĩa là ta sai hai Tướng đưa chiến thư trước, nếu họ bằng lòng đầu hàng thì thôi không đánh, bằng không thì ta sẽ thi hành, để cho họ không còn trách ta được điều gì nữa, hiện nay ai có thể đưa thơ cho ta được?

Nói dứt lời thì thấy Bảo Uùc Tứ chạy ra ứng lời nói lên rằng:

– Chúng tôi có biết mặt Đổng Bình, vậy tôi xin đi đưa thư phen này.

Đoạn rồi lại thấy Vương Đình Lục chạy ra nói rằng:

– Chúng tôi mới đến sơn trại chưa có chút công lao vậy xin cùng đi một thể.

Tống Giang nghe nói cả mừng, liền viết thư nói vay lương thảo, rồi đưa cho hai người đem đi.

Bấy giờ Trình Thái Thú đương ngồi bàn việc quân với Đổng Đô Giám, chợt thấy người báo:

– Tống Giang sai người hạ chiến thư đến.

Trình Thái Thú gọi Úùc Bảo Tứ và Vương Đình Lục vào.

Hai người đi vào đưa thư lên trình Thái Thú. Thái Thú xem xong bảo với Đổng Bình rằng:

– Họ định vay tiền lương ở đây, ta nên định như thế nào.

Đổng Bình nghe nói cả giận, bắt đem Úùc Bảo Tứ, Vương Đình Lục ra chém.

Trình Thái Thú gạt đi mà rằng:

– Xưa nay hai nước đánh nhau, không bao giờ lại chém người lai sứ, bây giờ cứ đánh cho mỗi người mấy chục roi rồi đuổi họ về, xem họ xử trí ra sao?

Đổng Bình nghe nói, vẫn còn tức giận, liền sai trói hai người lại, đánh bật máu tươi rồi đuổi ra ngoài cổng phủ.

Hi người bị đòn khóc lóc với Tống Giang. Tống Giang nghe nói đùng đùng nổi giận, cho hai người về nghỉ ở sơn trại, rồi mới bàn định việc quân.

Chợt thấy Cửu Văn Long Sử Tiến đến trước trướng kêu rằng:

– Trước đây ở phủ Đông Bình tiểu đệ có quen một đứa con hát tên là Lý Thụy Lan rất là thân mật, vậy nay tôi xin đem ít tiền lần vào trong thành, trọ tạm nhà nó, Ca Ca ước định ngày đánh nhau để cho Đổng Bình ra thành, tôi sẽ đốt lửa trên Cổ Lâu, mà hợp đánh làm một, thì có thể thành công ngay được.

Tống Giang nghe nói khen phải, liền ưng lời truyền lệnh cho đi.

Sử Tiến lấy tiền nong gói vào khăn gói, rồi giắt ngầm khí giới mà bái tạ ra đi. Tống Giang dặn với rằng:

– Hiền đệ vào đó phải lựa cơ tiến thoái, ta ở ngoài này phải đợi tin tức, rồi ta mới dám động.

Sử Tiến vâng lời rồi quay ra lẻn vào thành, mà thẳng tới nhà Lý Thụy Lan. Khi Sử Tiến tới nơi Đại Bá lấy làm kinh ngạc, liền mời vào nhà trong, gọi con gái là Lý Thụy Lan ra tiếp đãi. Lý Thụy Lan mời Sử Tiến lên trên gác mà hỏi rằng:

– Lâu nay không thấy bóng vía ở đâu, sau khi nghe nói là nhập đảng với Lương Sơn Bạc làm Đại Vương ở đấy, Quan Tư vẫn yết bảng truy nã không được… Mấy hôm nay thấy đồn là quân mã ty kéo đến đánh thành để lấy lương thực, vậy sao anh lại lần đến đây được?

Sử Tiến khẽ đáp rằng:

– Chẳng giấu gì nàng, hiện tôi đương làm Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, mà chưa có chút công lao gì. Nay Ca Ca đến đánh Thành ở đây, tôi nói rõ chuyện nàng cho Ca Ca tôi biết, và đến đây để dò thám xem sao? Đây có một ít vàng bạc đem đưa để nàng chi dụng, xin chớ để vỡ chuyện ra mà khốn… Nay mai xong việc tôi sẽ đón cả gia quyến nàng lên núi một thể cho vui.

Lý Thụy Lan gật gù vàng bạc đi, cất vàng bạc đi rồi đem rượu ra để thiết đãi. Đoạn rồi Lý Thụy Lan trở xuống nhà bàn với Đại Bá rằng:

– Sử Tiến xưa nay vốn đi lại với nhà ta tử tế, hiện nay hắn làm giặc đi với bọn Lương Sơn, vậy nếu chứa hắn ở đây, không khéo thì nguy cả.

Đại Bá đáp rằng:

– Bọn hảo hán của Lương Sơn Bạc không phải là chuyện chơi, nếu ta đãi họ không ra gì, nay mai họ phá thành vào đến đây, thì tất là nguy cả.

Người vợ đứng bên cạnh nghe, mắng luôn rằng:

– Lão già ngu xuẩn, biết được việc gì? Cứ đi ra phủ mà thú ngay đi, đừng để đây rồi lại lụy cả đến mình khó chịu.

Đại Bá nói:

– Hắn đem bao nhiêu tiền bạc cho mình, nay mình không che chở cho hắn thì còn ra nghĩa lý gì nữa.

Mụ vợ lại quát lên rằng:

– Thôi đừng nói nõn nường nữa! Nhà mình hát xướng kiếm ăn, xưa nay chôn hàng mấy vạn người còn chả cần, nữa là một người ấy thì thấm vào đâu? Nếu ông không ra đi thú, thì để tôi ra thú với quan, rồi bấy giờ ra đây mà gánh tội với nó.

Đại Bá vội vâng lời mà rằng:

– Được, được nếu vậy cứ bảo con gái thiết đãi hắn ta, chớ để lộ chuyện cho hắn biết, để tôi đi với vài người lính đến đây bắt hắn, rồi sẽ đem ra thú quan một thể.

Nói đoạn liền cùng nhau tính kế thi hành.

Bấy giờ Sử Tiến ngồi trên lầu, thấy Lý Thụy Lan đi lên, nét mặt khi đỏ khi trắng, ra dáng thất thường.

Sử Tiến liền hỏi rằng:

– Chẳng hay nàng có việc gì trong nhà mà làm ra vẻ kinh hoàng như vậy?

Lý Thụy Lan đáp:

– Vừa rồi đi lên thang gác, bị vấp một cái xuýt ngã, nên có dáng kinh sợ đó.

Nói đoạn cùng ngồi uống nước với nhau, được một lát thấy có tiếng người dưới thang gác bước lên, và ngoài cửa sổ có tiếng người kêu thét, rồi có mấy chục tên lính ập vào sân bắt Sử Tiến, trói ghì lại đem giải vào phủ Đông Bình.

Khi tới phủ đường, Trình Thái Thú quát rằng:

– Quân này to gan thực, một mình trơ trọi, dám vào đây rồi dò thám hay sao? Phen này không có bố Thụy Lan vào báo thì có lẽ một thành Đông Kinh này nguy vào tay ngươi mất, ngươi phải thú ngay, tên Tống Giang bảo ngươi vào đây làm gì?

Sử Tiến lặng ngắt không nói một câu nào. Đổng Bình nói rằng:

– Quân này không tra tấn thì sao nó chịu nói.

Trình Thái Thú liền thét lên ra lệnh đem Sử Tiến tra đánh, đánh tới hơn trăm côn, Sử Tiến vẫn một mực không nói năng chi cả.

Đổng Bình nói rằng:

– Hãy đem gông gông nó lại, cho vào ngục tử tù giam đấy, để đợi bắt được lũ Tống Giang, rồi đem giải kinh sư một thể.

Tài cao tất phải mưu cao,

Ở đời kém lựa dễ sao được toàn?

Thương thay sắt đá già gan

Đem thân mắc cạm hồng nhan cho đành!

Nói về Tống Giang, khi sai Sử Tiến đi rồi, liền viết giấy sang thuật rõ tình hình đầu đuôi cho Ngô Dụng biết. Ngô Dụng xem giấy xong lấy làm cả kinh, nói cho Lư Tuấn Nghĩa biết, rồi vội vàng đến trại Tống Giang để hỏi chuyện.

Khi tới nơi Ngô Dụng hỏi Tống Giang rằng:

– Ai bảo Sử Tiến đi như thế?

Tống Giang đáp:

– Hắn nói là hắn thân đứa con hát ở trong thành, nên hắn tình nguyện xin đi đó.

– Chết nỗi! Sao Huynh trưởng làm như thế? Nếu tôi ở đây, thì quyết nhiên không thể cho đi được. Xưa nay những tụi xướng ca vẫn quen lối đưa người cửa trước, rước người cửa sau, làm hại kể biết bao nhiêu người tử tế. Dẫu có thân tình đến đâu, cũng khó lòng mà lọt những tay mụ đầu kia được. Anh ta đi phen này tất là nguy mất.

Nếu vậy quân sư nghĩ kế gì để cứu cho hắn?

Ngô Dụng liền gọi Cố Đại Tẩu đến mà dặn rằng:

– Bây giờ nàng phải ăn mặc giả làm người nghèo khổ, đi vào trong thành dò xem tin tức Sử Tiến ra sao, rồi về báo ngay lập tức. Nếu hắn bị vào trong ngục rồi, thì phải nói khó với người trong ngục, giả làm chỗ bà con khi trước mà vào đưa cơm rồi khẽ dặn hắn ta cứ đêm hôm nguyệt tận (cuối tháng) tháng này, vào khoảng tối thì ta kéo quân vào đánh thành, bảo hắn phải kiếm chỗ nào mà thoát thân mới được. Còn nàng cứ đợi ở trong ấy, đến đêm hôm nguyệt tận sẽ phóng lửa lên, để ngoài này tiến binh vào đánh.

Nói đoạn quay lại bảo Tống Giang rằng:

– Bấy giờ Huynh trưởng nên đem quân đến đánh Quận Vấn Thượng, để cho dân chúng phải chạy vào phủ Đông Bình, rồi Cố Đại Tẩu lẫn vào đám ấy mà đi, thì không ai biết đến nữa.

Ngô Dụng bàn định xong, lại lên ngựa mà về phủ Đông Xương. Ty cắt Giải Trân, Giải Bảo đem năm trăm quân đi đánh huyện Vấn Thượng. Nhân dân trong huyện thấy vậy đều dắt díu nhau kéo sang phủ Đông Bình để lánh nạn.

Bấy giờ Cố Đại Tẩu để đầu bù tóc rối, ăn mặc xuống áo lam lũ, để đánh lộn sòng với bọn dân chúng, chạy vào đến phủ Đông Bình, rồi lang thang giả mặt ăn xin, mà đến trước nha phủ. Ngày hôm đó biết Sử Tiến đã bị giam trong lao rồi, nàng liền kiếm một phạng cơm đưa đến trước cửa đề lao để đợi.

Được một lát, có một người lính già ở trong lao đi ra, Cố Đại Tẩu liền cúi lạy mà khóc như mưa như gió. Người lính già hỏi rằng:

– Mụ này đi đâu mà khóc lóc khổ sỡ thế?

Cố Đại Tẩu gạt nước mắt khóc sụt sùi mà rằng:

– Trong ngục đây có Sử Đại Lang là người chủ cũ của tôi, đã mười năm nay nghe nói đi buôn bàn ở những đâu, không sao được gặp. Ngày nay không biết vì cớ sao lại bị giam ở đây như thế. Tội nghiệp quá! Bây giờ không có ai trông nom cơm cháo chi đến, vậy lão tôi đi kêu xin được lưng cơm nguội, muốn đem đến cứu cho ông ta một bữa, dám xin Đại ca thương tình, mà cho tôi đưa vào, thực là phúc đức cho tôi vạn bội.

– Hắn là bọn giặc ở Lương Sơn, đã phạm tử tội, ai dám cho mụ vào đấy được?

– Thôi thì người ta có chết, cũng là thầy trò tình nghĩa, xin ông làm ơn cho tôi vào một chút, cho khỏi mang tội với trời.

Nói xong lại khóc nức nỡ không thôi.

Lão lính thấy vậy, nghĩ thầm trong bụng:”Nếu là đàn ông thì không cho vào được, nhưng một người đàn bà này, thì làm gì mà ngại? “

Nghĩ đoạn liền đưa Cố Đại Tẩu vào trong lao. Bấy giờ Sử Tiến cổ đeo gông, lưng đeo xích đương ngồi ngẫm nghĩ trong lao. Khi thấy Cố Đại Tẩu vào, thì cả kinh không dám nói lên lời. Cố Đại Tẩu thì giả vờ vừa lấy cơm vừa khóc đưa cho Sử Tiến ăn.

Đương khi đó lại có một tên Tiết Cấp còn ít tuổi, chạy đến quát lên rằng:

– Quân quái! Chỗ tử ngục, ai cho ngươi được đến đây mà đưa tin tức. Có muốn sống thì ra ngay, không thì chết đòn bây giờ?

Cố đại Tẩu biết thế không ngồi được lâu, liền khẽ nói với Sử Tiến rằng:

– Đến đêm nguyệt tận thì liệu thoát thân…

Sử Tiến toan hỏi lại, thì người Tiết Cấp đã kéo Cố Đại Tẩu mà ra ngoài cửa mất. Khi đó Sử Tiến nghe được ba tiếng “đêm nguyệt tận”,thì trong bụng hiểu ngầm, chắc là đêm đó thì binh mã đánh vào thành để cứu, chàng liền định kế đến tối hôm ấy kiếm cách để thoát thân.

Thấm thoát đến hôm hai mươi chín, có hai tên Tiết Cấp ngồi nói chuyện với nhau. Một người kia hỏi:

– Hôm nay là mấy rồi?

Người nọ nhớ ngay liền đáp rằng:

– Hôm nay là ngày nguyệt tận rồi, đêm nay phải mua vàng về lễ cô hồn đây.

Sử Tiến nghe thấy, chắc hôm nay là hôm ba mươi ngày nguyệt tận, chàng liền quyết kế mong đợi đến đêm để hành sự. Gần tối hôm ấy Sử Tiến thấy có một người Tiết Cấp hơi ngà ngà say, ngồi gần ở đó, chàng liền chạy đến mà hỏi vờ rằng:

– Tiết Cấp ơi, ai ở đằng sau thế kia?

Tiết Cấp nghe hỏi quay lại đằng sau để nom. Sử Tiến liền giơ đầu gông giáng cho một nhát vào đầu, chết gục ngay xuống. Đoạn rồi chàng liền nhặt một hòn đá gõ tháo gông ra, rồi hai mắt trợn trừng trợn trạc mà đi ra sân. Bấy giờ mấy anh lính ngục nửa tỉnh nửa say ngồi quanh ở đó. Sử Tiến chạy đến đánh mấy anh chết, còn mấy anh thì mau chân chạy thoát được. Sử Tiến đánh xong bọn lính canh rồi, quay vào tháo gông cùm cho năm sáu mươi người tù trong ngục, và tháo tung cửa ngục ra, để đợi quân ngoài vào cứu ứng.

Khi đó có người vào báo với Trình Thái Thú, Thái Thú xám mặt lại rồi mời Đổng Bình sang để hỏi kế.

Đổng Bình nói:

– Cái này trong thành chắc có người do thám, vậy xin cứ cho người vây chặt lấy bọn tù ở đó, để tôi thừa thế ra thành bắt tên Tống Giang về đây. Còn tướng công ở nhà coi giữ thành trì cho cẩn thận mới được.

Nói đoạn liền đem quân mã ra đi, Trình Thái Thú liền sai các Tiết Cấp, cùng các Ngu Hầu, đều cầm gươm giáo đến ngục mà reo hò để canh giữ. Sử Tiến ở trong thấy vậy, cũng không dám thò ra nữa. Cố Đại Tẩu nghe thấy tin ấy, thì trong lòng lấy làm áy náy tức bực vô cùng, mà không biết làm sao cho được.

Vào khoảng canh tư đêm hôm ấy, Đổng Bình dẫn quân mã đến trại Tống Giang. Tống Giang nghe báo, chắc rằng Cố Đại Tẩu lại bị sao đây, liền truyền cho tam quân đều phải chỉnh tề, để ra nghinh địch. Quân mã được lệnh vội vàng chỉnh đốn đội ngũ, rồi kéo ra dàn trận đón đánh. Nguyên Đổng Bình là một người tinh ranh lanh lợi, tam giáo cửu lưu không gì là không thạo, quản huyền ty trúc không gì là không hay. Nhân thế mà bọn Sơn Đông Hà Bắc, ai ai cũng gọi tên là Phong Lưu, Song thương Tướng xưa nay.

Hôm đó khi trời vừa sáng, đôi bên dàn trận xong, Tống Giang đứng bên này trông thấy Đổng Bình, ra dáng tinh anh tuấn tú, thì trong bụng có vẻ mừng thầm. Sau lại thấy Đổng Bình đeo một cái túi tên, trong có lá cờ nhỏ viết đôi câu đối rằng:

Anh hùng Song Chiên Tướng,

Phong Lưu Vạn Hộ Hầu

Tống Giang thấy vậy, liền sai Hàn Thao ra đánh trước, Hàn Thao vâng lệnh múa cây giáo sắt, xông ra đánh Đổng Bỉnh.

Đổng Bình múa đôi thương sắt như thần hiện qủy biến, Hàn Thao không thể nào địch nổi, Tống Giang lại sai Kim Sang Ban Từ Ninh, múa câu liêm sang ra đánh thay Hàn Thao. Từ Ninh vâng lệnh, xông ngựa ra đấu với Đổng Bình, đôi bên quần nhau hơn năm mươi hiệp, không quyết được thua, Tống Giang sợ Từ Ninh đuối sức, liền gõ chiên thu quân, rồi Từ Ninh cắp sang quay ngựa trở về bản trận. Đổng Bình múa song thương cưỡi ngựa đuổi theo, Tống Giang liền thừa thế trỏ tam quân đổ lại vây chặt lấy Đổng Bình.

Đổng Bình bị vây trong đám quân hết sức hăng hái để đánh xông ra. Tống Giang đứng trên đống đất cao, thấy Đổng Bình chạy sang Đông, thì trỏ cờ sang đông, Đổng Bình chạy sang Tây, lại cho cờ hiệu sang Tây, quân sĩ cứ theo hiệu cờ mà bổ vậy rất ngặt.

Đổng Bình ra sức múa song thương đánh cự hồi lâu mới tháo vây mà chạy thoát được, Tống Giang cũng không đuổi. Đổnh Bình liền thu quân kéo về trong thành.

Đêm hôm ấy Tống Giang đem binh, đến sát chân thành vây khắp cả bốn mặt, duy Cố Đại Tẩu ở trong chưa dám phóng lửa, Sử Tiến chưa dám vượt ngục để ra, nên chưa sao mà đánh phá được thành.

Nói về Trình Thái Thú nguyên có một người con gái hình dung yểy điệu, tính hạnh dịu dàng, Đổng Bình đã mấy phen toan dạm làm vợ mà Trình Vạn Lý nhất định không gả. Bởi thế nên hai bên có ý không bằng lòng với nhau từ trước. Hôm đó nhân ra trận đánh thành, Đổng Bình muốn thừa thế đương lúc chiến tranh, mà cho người vào nói với Trình Thái Thú để dạm con gái.

Trỉnh Thái Thú đáp rằng:

– Ta đây là quan văn, Đổng Bình là quan võ, hai đằng đâu gia với nhau thực là đáng lắm. Duy ngày nay thành phủ đương bị giặc cướp, sự thế nguy cấp, nếu nhận lời gả ngay thì tất bị người ta mai mỉa, vậy để khi nào đánh đuổi quân giặc, giữ yên thành quách, rồi bấy giờ sẽ bàn đến chuyện hôn nhân, cũng không lấy gì làm muộn.

Người kia đem lời ấy về nói với Đổng Bình. Đổng Bình bất đắc dĩ vâng lời để đợi, song từ đó trong lòng lại càng vơ vẫn không vui, e sau này Trình Thái Thú lại phụ lời ư ớc hứa, thì bấy giờ xử trí làm sao?

Đêm hôm ấy Tống Giang đánh thành rất dữ, Thái Thú liền giục Đổng Bình ra đánh, Đổng Bình cả giận vội đai nịt cẩn thận, rồi lên ngựa dẫn quân ra thành để đánh.

Tống Giang ra trước cửa trận quát bảo Đổng Bình rằng:

– Ta đây tướng mạnh ngàn người, quân hùng mười vạn, vậy toán quân nhỏ mọn kia, thì làm chi được? Sao bằng không xuống đầu thú đi cho khỏi chết?

Đổng Bình cả giận mắng rằng:

– Đồ Tiểu lại ngông cuồng, sao dám nói càn nói dở.

Nói đoạn múa song thương thẳng đến đánh Tống Giang. Bên trận Tống Giang, tả có Lâm Xung, hữu có Hoa Vinh đều xông ngựa ra đón đánh Đổng Bình, hai đằng đánh nhau được mấy hiệp, thì Lâm Xung, Hoa Vinh quay ngựa thua chạy, Tống Giang cũng kéo quân mã chạy tán loạn ra bốn mặt. Đổng Bình liền ra sức theo đuổi Tống Giang

Khi đuổi đến địa hạt huyện Thọ Xuân, cách thành chừng mười dặm đường, tới một chốn thôn trấn, đôi bên có hai dãy nhà lá, khoảng giữa có đường cái quan, Đổng Bình đương đuổi sát sau lưng Tống Giang, thì bỗng thấy phía sau có Khổng Minh, Khổng Lượng xông ra kêu lên rằng:

– Không được hại chúa ta.

Vừa nói dứt lời thì thấy hai bên dãy nhà lá, có tiếng thanh la khua rộn, rồi đôi bên cánh cửa mở tung hẳn ra.

Đổng Bình thấy vậy vừa toan quay ngựa trở lại thì ngựa bỗng vướng phải dây móc, ngả ngữa quay ra, mà vật Đổng Bình xuống đất.

Đoạn rồi bên tả có Nhất Trượng Thanh, Vương Nụy Hổ, nên hữu Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, đều xông ra bắt lấy Đổng Bình lột cả mũ áo, cướp cả thương ngựa mà trói lại, rồi cho hai viên nữ tướng áp giải đến Tống Giang.

Khi đó Tống Giang đương đứng ở dưới gốc cây, đương thấy chúng dong Đổng Bình đến liền quát lui hai nữ tướng mà nói rằng:

– Ta bảo mời tướng quân đến đây, ai cho phép các ngươi trói như vậy?

Hai nữ tướng nghe nói đều len lét dạ lui, Tống Giang liền xuống ngựa cởi trói cho Đổng Bình, và cởi áo cẩm bào mà đưa cho mặc và cúi đầu lạy tạ. Đổng Bình cũng đáp lễ lại.

Tống Giang nói:

– Nếu tướng quân có lòng hạ cố, thì xin ngài nhận chức chủ sơn trại cho…

Đổng Bình nói:

– Tiểu tướng đã bị bắt tới đây, dẫu chết cũng đáng, còn đâu dám nói đến làm chủ sơn trại?

Tống Giang nói:

– Trong sơn trại tôi hiện thiếu lương thực nên định đến phủ Đông Bình để vay, chứ thực không có ý gì khác cả.

Đổng Bình đáp rằng:

– Trình Vạn Lý nguyên là một tay thầy đồ đi dạy trẻ, nay vớ được một chức béo bỡ như vậy, thì tránh sao cho khỏi hại dân? Nếu Huynh trưởng có rộng lượng cho về, thì Đổng Bình xin lừa mở cửa thành, mà thu lấy lương thảo đền ơn Huynh trưởng.

Tống Giang nghe nói cả mừng, liền sai người đem mũ giáp và ngựa ra trả lại Đổng Bình. Đổng Bình liền đóng đai giáp lên ngựa đi trước. Tống Giang kéo quan mã cuốn cờ im trống theo sau.

Khi tới cửa thành Đổng Bình gọi quân sĩ ra mở cửa, quân sĩ trong thành lấy lửa ra soi mặt đổng Bình, bèn mở cửa bỏ đích kiều cho vào.

Đổng Bình xông ngựa vào trước chặt đứt khoá sắt ở cửa, rồi quân mã Tống Giang ầm ầm theo vào trong thành. Tống Giang truyền lệnh cho quân sĩ không được đốt nhà đốt cửa và không được giết hại lương dân.

Đổng Bình vào tới thành, vội vàng chạy đến phủ đường, giết chết cả nhà Trình Vạn Lý và cướp lấy người con gái.

Tống Giang lập tức sai người phá cửa nhà lao, đón Sử Tiến ra, rồi mở kho tang lấy các thứ tiền nong lương thực, xếp lên xe cho ba anh em họ Nguyễn áp giải về Lương Sơn trước.

Sử Tiến được thoát ngục ra, liền dẫn người đến nhà Lý Thụy Lan, chém hết cả già trẻ không để lại một ai. Tống Giang đem cả gia tư của Thái Thú phân phát cho nhân dân và yết giấy hiểu dụ cho dân được làm ăn, quân sĩ đã chém được quan tham, còn dân sự không can chi lo sợ.

Hiểu dụ cho dân đâu đấy, Tống Giang liền rút quân ra trấn An Sơn, để toan kéo về Sơn Bạc.

Mới hay:

Trên đời mạnh nhất đồng tâm,

Xoay trời chuyển đất ầm ầm như chơi,

Xưa nay những bậc anh tài.

Mượn lò liên lạc làm nơi sinh tồn,

Góp tài góp sức góp khôn,

Rồi ra tính cuộc vuông tròn khó chi?

Ví chăng vây cánh phân ly,

Thì non nước ấy còn gì mà mong.

Lời bàn của Thánh Thán:

Đánh hai huyện Đông Bình, Đông Xương, vốn là một chuyện cuối sách, lời văn rất sâu xa, và việc lại kín đáo, độc giả cần nên xét tới, tại sao vậy? Vì chủ Lương Sơn Bạc, vốn cơ nghiệp của Tiều Cái, Sử Văn Cung là kẻ thù của Tiều Cái, lời di lệnh của Tiều Cái rằng: Ai bắt sống Sử Văn Cung, thì làm chủ ở Lương Sơn Bạc, theo lệnh mà báo thù cho Tiều Cái, nố nghiệp Tiều Cái, mũi tên thề còn kia, rõ ràng chưa quên, thì Tống Giang không có thể tranh cùng Lư Tuấn Nghĩa, rất rõ như vậy.

Thế mà Tống Giang lại vẫn cố tranh cho được, tại sao bảo rằng Tống Giang cố tranh cho bằng được? Vì bỏ lệnh Tiều Cái lại bày mưu thi đua mượn lương để đánh hai Phủ Đông Bình, Đông Xương, thì Lư Tuấn Nghĩa lại không thể cùng tranh lại với Tống Giang, rõ rệt như vậy.

Hoặc nói rằng: Hai thành kia thì thành nào dễ phá, thành nào khó phá, Tống Giang có tự chọn đâu, mà việc thắng với chẳng thắng, Tống Giang cũng chưa hề chắc được, sao biết được rằng, Tống Giang chống thắng, mà Lư Viên Ngoại khó xong, hai người kia mà không đánh nổi cả, thì không nói làm gì, nếu hai bên đều thắng như nhau, thì ngôi chủ Lương Sơn, lại chưa định vậy, nay nhà thầy nói Lư Tuấn Nghĩa không thể tranh được Tống Giang là nghĩa làm sao?

Hỡi ôi: Nghe đàn mà xét tiếng, đọc sách nên hiểu sự ra há rằng khó đâu? Há phải khó đâu? Hãy xem ở chỗ điều binh khiển tướng, mà cho hai người Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, làm bộ hạ của Lư, ai chẳng cho rằng có hai vị Quân sư tả hữu, thì việc chống thành, khi việc chống thành, thì kịp tới nơi sơn chủ, ngõ hầu chẳng phụ lòng của Tiều Thiên Vương, thực là thịnh tâm lắm vậy; Song ta cho rằng Tôn, Ngô tuy ở dưới trướng họ Lư, thế mà không phải ở dưới trướng họ Lư đâu, vẫn là dưới trướng họ Tống, mặc dầu không ở dưới trướng họ Tống lúc này.

Vì rằng Tôn, Ngô tuy ở dưới trướng họ Lư, song không chịu thi hành kế hoạch, mà cách xa họ Tống, khi thấy đưa thư đến hỏi, thì vội vàng phi ngựa để bày mưu, không tiếc sức gì, cũng chẳng khác chi ở dưới trướng Tống Giang bấy lâu vậy. Hãy xét khi bỏ Lương Nhữ Địch ở dưới nước, đó chẳng phải là mưu của người đấy ư? Khi Tống Giang chưa tới, thì không bày mưu, khi Tống Giang tới, mới đua nhau giở thuật ra là ý làm sao? Thấy vì Tống Giang rõ quá? Aáy may mà không đành nổi Mộc Vũ Tiến, nếu lại đánh được ngay Mộc Vũ Tiễn, thì Ngô, Tôn tất phải làm dùng dắng, đợi Tống Giang tới mới quyết định, đánh xong thành, cứ thế thì họ Tống phải xong việc, mà họ Lư vẫn khó xong việc, cho nên ta bảo Lư Tuấn Nghĩa không thể nào tranh được nổi Tống Giang, rõ rệt như thế, mới hay một hồi tả lại đánh Đông Bình, Đông Xương, lời văn sâu, chép duyệt kín, độc giả cần phải xét ra.

Sách này nhiều chỗ muốn phạm đề nhau, như Giải Trân vượt ngục, lại đến Sử Tiến vượt ngục, cùng có Cố Đại Tẩu giúp nên đấy như cùng một đề tài, chợt đâu lại hẹn lấy hai chữ Nguyệt Tận làm khác đi, vậy sao mới rõ trong sự giống nhau lại khác nhai xa, diễn ra nhiều văn tự khác, nếu kẽ vô tài, thì không thể nào xếp đặt được đến thế mà tả ra vậy.

Giữa đám đao thương, kiếm, kích rối như tơ ngốt tựa lửa, lại bỗng đâu có chuyện Đồng tướng quân cầu thân khiến độc giả phải lạ mắt vì nhiều biến sắc.

Hồi 69: Một Vũ Tiễn ném đá đánh anh hùng – Tống Công Minh bỏ lương bắt tráng sĩ

Khi đó Tống Giang toan kéo quân về Lương Sơn Bạc, bỗng thấy Bạch Thắng về báo rằng:

– Lư Tuấn Nghĩa đánh thành Đông Xương bị thua luôn hai trận. Trong thành có một tên mãnh tướng, tên là Trương Thanh, quê ở phủ Chương Đức, vốn tay kị hổ xuất thân, tài nghề ném đá đánh người, trăm viên đều trúng, người ta thường gọi là Một Vũ Tiễn xưa nay, Thủ hạ hắn ta có hai viên phó tướng, một người tên là Hoa Hạng Hổ Cung Vượng, toàn thân chạm nốt hổ, trên cổ chạm đầu hổ, tài nghề phóng thương trên mình ngựa; Và một người tên là Trúng Tên Hổ Đinh Đắc Tôn, từ mặt xuống cổ đều lỗ chỗ những sẹo, phóng cây thoa trên mình ngựa rất giỏi. Khi Lư Viên Ngoại dẫn quân đến, rồi mười ngày trời không chịu ra đánh, mãi đến hôm vừa rồi, Trương Thanh mới ra thành đánh nhau, bên này Hắc Tư Văn nghênh địch, bất đồ đánh được mấy hiệp, thì Trương Thanh vờ chạy, cho Hắc Tư Văn đuổi theo. Sau Trương Thanh quay lại ném một viên đá, trúng ngay vào trán Hắc Tư Văn ngã lăn xuống ngựa. Bấy giờ may có Yến Thanh bắn một mũi tên trúng vào con ngựa củ Trương Thanh, nên mới cứu được Hắc Tư Văn về trận. Đến hôm sau Phàn Thụy dẫn Hạng Sung, Lý Cổn ra đánh nhau, không dè Hạng Sung bị Đinh Đắc Tôn phóng cây thoa vào nách, lại phải thua chạy. Hiện nay hai người vẫn còn dưỡng bệnh ở trong thuyền. Bởi vậy quân sư cho Tiểu đệ mời Ca Ca đến cứu ứng ngay cho.

Tống Giang nghe nói, than với mọi người rằng:

– Lư Viên Ngoại thực là vô duyên quá, ta để cho Ngô Dụng, Công Tôn Thắng ở đó, cũng tưởng rằng đến trận thành công, để nhường ngôi chủ toạ cho ông ta, nào ai ngờ lại gặp tay địch thủ như vậy. Đã thế thì anh em ta phải mau mau đi cứu mới được.

Nói đoạn truyền lệnh các tướng lên ngựa, dẫn tam quân kéo sang phủ Đông Xương. Khi tới nơi bọn Lư Tuấn Nghĩa đón tiếp Tống Giang, cho quân tạm hạ trại rồi bàn định thi kế với nhau.

Đương khi bàn bạc chuyện trò, bỗng thấy tin báo Một Vũ Tiễn ra khơi đánh. Tống Giang liền đem quân ra cánh đồng nội rộng, dàn thành thế trận rồi các Đầu Lĩnh đều xông ngựa ra đứng trước cửa cờ để đợi.

Khi ba hồi trống trận vừa dứt, thì thấy Trương Thnah phi ngựa xông ra, bên tả có Cung Vượng, bên hữu có Đinh Đắc Tôn, ba ngựa cùng đến trước cửa trận, rồi ba tướng trỏ Tống Giang mà mắng rằng:

– Quân giặc cỏ ở Vũng nước, nay ta quyết một trận với ngươi…

Tống Giang lại hỏi:

– Ai ra đánh tên ấy cho ta?

Nói dứt lời thì thấy một vị anh hùng ra dáng tức giận, tay cầm Câu Liêm Sang giục ngựa ra trước trận để đánh Trương Thanh. Tống Giang trông ra biết rằng vị anh hùng ấy là Kim Sang Thủ Từ Ninh, thì trong bụng mừng thầm chắc là hai tay địch thủ với nhau được.

Từ Ninh đánh nhau được chừng dăm hiệp, thì TRương Thanh tay tả cầm thương hất vờ một cái, rồi tay hữu thò vào túi gấm lấy một viên đá, nhằm giữa mi mắt Từ Ninh ném cho một phát, Từ Ninh ngã lăn ngay xuống đất.

Cung Vượng cùng Đinh Đắc Tôn cùng xông ra bắt Từ Ninh; Bên này Lã Phương cùng Quách Thịnh liền sấn ra cứu Từ Ninh đem về bản trận.

Bọn Tống Giang thấy vậy, đều kinh sợ thất sắc. Rồi Tống Giang lại hỏi luôn rằng:

– Đầu Lĩnh nào ra đánh một trận nữa xem sao?

Nói chưa dứt lời thì thấy Cẩm Mao Hổ Yến Thuận phi ngựa xông ra đánh. Tống Giang toan ngăn giữ lại, thì Yến Thuận đã xông tót đến giữa trận, không sao cầm lại được.

Yến Thuận đương đánh nhau với Trương Thanh được vài hiệp thì đuối sức, không sao cự địch nổi, liền quay ngựa chạy về, Trương Thanh thừa thế đuổi theo, ném cho một viên đá vào giữa miếng kính yểm tâm ở sau lưng, đến keng một cái, Yến Thuận vội phục xuống lên ngựa mà chạy.

Đoạn rồi bên trận Tống Giang, Bách Thắng tướng Hàn Thao quát lên rằng:

– Đồ thất phu, ta sợ gì.

Nói đoạn múa gươm xông ra đánh luôn Trương Thanh. Đôi bên hăng hái đánh nhau, quân sĩ đều reo hò váng cả lên.

Hàn Thao muốn khoe tài trước mặt Tống Giang nên càng cố gắng hết sức bình sinh, mà đánh nhau rất là kịch liệt. Đánh nhau chừng mươi hiệp thì Trương Thanh lại quay ngựa chạy. Hàn Thao biết mẹo Trương Thanh ném đá, bèn kìm ngựa lại, mà không đuổi theo nữa.

Trương Thanh thấy Hàn Thao không đuổi, lại vội quay cương ngựa lại. Hàn Thoa liền giơ gươm lên để đón đánh. Chàng vừa mới giơ gươm lên, bỗng bị Trương Thanh ném ngay một viên đá trúng vào mũi, máu chảy lênh láng rồi chạy về bản trận.

Bành Dĩ thấy vậy nổi giận đùng đùng, không đợi tướng lệnh của Tống Giang vội xốc ngựa, múa đao hai lưỡi ra đánh Trương Thanh. Đôi bên chưa kịp giao nhau, thì Bành Dĩ đã bị một viên đá vào mặt, vất cả đao xuống mà chạy. Tống Giang thấy mấy tướng bị thua luôn trong lòng hơi núng, toan rút quân mã về trại. Chợt đâu thấy Xú Quận Mã Tuyên Tán ở đằng sau Lư Viên Ngoại chạy ra kêu lên rằng:

– Ngày nay nếu để giảm mất uy phong, thì sau này đánh làm sao được? Thử xem đá có ném được ta không?

Nói đoạn múa đao xông ngựa ra đánh, Trương Thanh cười mà rằng:

– Một kẻ ra chạy một kẻ, hai kẻ ra chạy hai kẻ, ngươi lại không biết những viên đá của Trương Thanh hay sao?

Tuyên Tán nói:

– Ngươi ném trúng được người khác, chú sao ném trúng được Trương Thanh?

Vừa nói dứt lời thì bỗng thấy viên đá ném ngay vào bên mồm, rồi Tuyên Tán bị ngã ngay lập tức. Bên kia Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn vội kéo ra bắt Tuyên Tán song vì quân tướng Tống Giang rất đông nên không sao bắt nổi.

Tống Giang thấy vậy khí giận đầy trời, rút kiếm ra tay cắt vạt áo mà thề rằng:

– Nếu không bắt được người này thì không lui quân về nữa.

Hô Duyên Chước thấy Tống Giang thề nguyền như vậy bèn nói lên rằng:

– Huynh trưởng nói như vậy thì anh em ta còn được việc gì nữa?

Nói đoạn vỗ ngựa Tích Tuyết Ô Truy ra trận, quát mắng Trương Thanh rằng:

– Quân trẻ con cậy thế khoe tài, có biết Đại tướng Hô Duyên Chước đây không?

Trương Thanh mắng lại rằng:

– Đồ tướng hèn nhục nước, phen này gặp ta thì đáng kiếp.

Nói đoạn phóng một viên đá trong tay ra.Hô Duyên Chước thấy vậy giơ tay lên đỡ, bị viên đá ném phải tay, không sao khiến nổi cây thương đành phải quay về bản trận.

Tống Giang bảo các Đầu Lĩnh rằng:

– Các Đầu Lĩnh mã quân bị thương nhiều rồi, còn Đầu Lĩnh bộ quân ai ra bắt nó cho ta? Nói đoạn thấy Lưu Đường múa đao sùng sục đi ra, Trương Thanh trông thấy cả cười mắng rằng:

– Mã quân còn chả làm chi nữa là bộ quân.

Lưu Đường cả giận chạy thẳng đến đánh Trương Thanh. Trương Thanh không đánh vội vàng quay ngựa về bản trận. Lưu Đường liền sấn lên đuổi theo giơ đao chém một nhát vào ngay chân ngựa của Trương Thanh. Con ngựa của Trương Thanh giơ chân hắt về đằng sau, rồi vẩy đuôi vung lên đập vào mặt Lưu Đường, làm cho Lưu Đường hoa mắt không biết lối nào mà lẫn.

Bấy giờ Trương Thanh ném ra một viên đá, Lưu Đường ngã lăn xuống đất, rồi đám quân Trương Thanh đổ ra bắt Lưu Đường mà quay về bản trận.

Tống Giang thấy vậy kêu to lên rằng:

– Cứu Lưu Đường với…

Nói chưa dứt lời thì thấy Thanh Diện Tú Dương Chí múa đao xông ngựa ra đánh Trương Thanh. Trương Thanh giơ thương lên đón, Dương Chí liều giơ đao lên chém, Trương Thanh né người về một bên, Dương Chí chém một nhát trượt ra ngoài.

Trương Thanh liền lấy một viên đá cầm ra tay quát một tiếng mau rồi thấy viên đá luồn thẳng qua nách Dương Chí, Trương Thanh lại ném luôn một viên đá, rúng vào mũi Dương Chí. Dương Chí cuống người lên vội cúi gục xuống yên ngựa mà chạy về trận.

Tống Giang nom thấy thế nói lên rằng:

– Nếu phen này bị tỏa mất nhuệ khí thì trở về Lương Sơn sao được? Ai ra đối trận cho ta bây giờ?

Chu Đồng nghe Tống Giang nói liền đưa mắt nhìn Lôi Hoành mà bảo rằng:

– Một người không ăn thua gì thì hai anh em ta cùng ra xem sao?

Nói đoạn Chu Đồng ở bên tả, Lôi Hoành ở bên hữu, cùng múa đao xông ra để đánh, Trương Thanh cười mà rằng:

– Một người không làm gì được, lại thêm một người nữa… Cho các người đến mười người xông ra cũng vô ích…

Chàng vừa nói vừa thò tay vào túi lấy đá, nét mắt vẫn nhâng không có dáng gì sợ hãi. Bấy giờ Lôi Hoành sấn đến trước, bị Trương Thanh ném cho một viên đá ngay vào giữa trán lăn xuống đất. Chu Đồng vội xong vào cứu, bất đồ lại bị một viên đá trúng ngay vào cổ.

Quan Thắng đứng bên trận Tống Giang, trông thấy vậy liền gắn hết uy thần, múa đao Thanh Long, phóng ngựa xích thố ra cứu Lôi Đồng, Lôi Hoành. Chàng vừa đến cứu hai người để chạy về bản trận, thì đã thấy một viên đá ném thẳng tới nơi, Quan Thắng nhanh mắt trông thấy, bèn giơ đao lên đỡ, thì viên đá ném trúng vào thanh đao bật cả lửa lên, Quan Thắng lại vội vàng quay về bản trận.

Song Chiên Tướng Đổng Bình thấy vậy, nghỉ thầm trong bụng: “Ta đây mới đầu hàng Tống Giang nếu không thi tài võ nghệ cho biết, thì khi về trên núi tất không có giá trị được”.

Nghĩ đoạn liền vác song thương phi ngựa ra trận, Trương Thanh trông thấy Đổng bình quát mắng rằng:

– Ta với ngươi là hàng xóm với nhau, đáng lẽ nên đồng tâm để bắt giặc mới phải, nay ngươi nở lòng nào bội bạc triều đình, mà đi phò tá với giặc, như thế phỏng nhục hay không?

Đổng Bình cả giận, múa song thương vào đến Trương Thanh. Hai bên người ngựa tiến lui, ba cây thương lên xuống, đến nhau chừng năm bảy hiệp, thi Trương Thanh quay ngựa mà chạy ngay.

Đổng Bình quát lên rằng:

– Người khác bị trúng đá của ngươi, chứ ta đây thì đá nào gần được?

Nói đoạn xốc ngựa đuổi theo, Trương Thanh vừa chạy vừa lấy viên đá ném lại Đổng Bình, Đổng Bình nhanh mắt nhanh tay gạt viên đá nẩy ra ngoài mất.

Trương Thanh lấy viên đá thứ hai ném luôn phát nữa. Đổng Bình né mình tránh về một bên, viên đá lại trẫng ra ngoài.

Trương Thanh thấy hai viên đá ném không ăn thua, trong lòng hơi núng. Bấy giờ Đổng Bình đuổi sát đến đằng sau Trương Thanh, cầm thương đâm một nhát giữa sau lưng, Trương Thanh giơ lá chắn lên đỡ và né mình vào một bên, Đổng Bình đâm gãy thương trượt ra ngoài, rồi con ngựa Đổng Bình sấn lên đều với ngựa của Trương Thanh. Trương Thanh vội vàng vất thương xuống đất, rồi khoành tay ra ôm chặt lấy cả Đổng Bình, lẫn cây thương của Đổng bình mà vật xuống. Bất đồ chàng vật không thấy chuyển, rồi hai người ôm chặt nhau mà quây quần ở giữa vòng trận.

Sách Siêu ở bên trận Tống Giang, liền múa đại phủ ra giải cứu. Bên kia Cung Vượng cùng Đinh Đắc Tôn cũng xông ngựa ra đón đánh Sách Siêu, ba tướng lại dằn nhau rúm vào một chỗ, mà không sao gỡ ra được.

Lâm Xung, Hoa Vinh, Lã Phương, Quách Thịnh bèn cùng nhau xông ngựa, múa gươm múa kích ra đánh cứu Đổng Bình cùng Sách Siêu. Trương Thanh thấy thế lực không địch nổi, vội bỏ Đổng Bình chạy về bản trận. Đổng Bình hăng hái xông vào để đuổi Trương Thanh, bất chợt Đổng Bình vô ý bèn lấy viên đá nhằm khi Đổng Bình đến gần ném cho một phát. Đổng Bình nhanh mắt né mình để tránh, viên đá đi sượt qua bên tay đánh vù một cái. Đổng Bình liền quay ngựa lại mà không dám đuổi nữa.

Đằng kia Sách Siêu bỏ Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn toan xông sang để đuổi Trương Thanh, Trương Thanh lấy đá ném một phát trúng vào mặt Sách Siêu, bắn phọt máu tươi ra, rồi Sách Siêu chạy về bản trận. Khi ấy Lâm Xung, Hoa Vinh đương đánh nhau với Cung Vượng. Lã Phương, Quách Thịnh thì đương đánh nhau với Đinh Đắc Tôn. Cung Vượng đánh nhau được mấy hiệp, trong bụng đã hơi chồn, liền lấy mũi thương ra phi đánh Lâm Xung cùng Hoa Vinh, bất đồ phi thương ra không trúng, thành ra trơ trọi tay không, không có khí giới để đánh, bị Lâm Xung cùng Hoa Vinh bắt sống đem về trại Tống Giang.

Còn Đinh Đắc Tôn múa cây phi thoa, ra sức chống cự với Lã Phương, Quách Thịnh rất là hăng hái. Sau Lãng Tử Yến Thanh đứng trong trận nom thấy, liền nghĩ trong bụng rằng: “Trong một nháy mắt, mà quân ta có tới mười lăm tên Đại Tướng bị đánh, vậy nếu không bắt được thằng Tiểu Tướng này của họ, thì còn mặt mũi nào nữa! “Nghĩ đoạn liền vất gậy xuống lấy tên nỏ ra, nhằm bắn một phát vào chân ngựa của Đinh Đắc Tôn, con ngựa bị đau ngã khuỵu xuống đất, rồi Lã Phương, Quách Thịnh sấn nghiến vào bắt sống lấy Đinh Đắc Tôn.

Trương Thanh thấy vậy, toan xông ra cứu, song vì ít người không địch nổi, liền truyền lệnh lui quân, rồi giải Lưu Đường về phủ Đông Xương.

Hôm đó quan phủ Đông Xương đứng trên thành xem trận, thấy Trương Thanh đánh luôn mười lăm viên tướng của Lương Sơn Bạc, sau dẫu bị bắt mất Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn song lại bắt được Lưu Đường về đó thì trong lòng lấy làm vui vẻ vô cùng, liền trở về trong phủ để nâng chén mừng Trương Thanh và sai giam Lưu Đường vào trong ngục, để cùng bàn định việc quân.

Bên kia Tống Giang thu quân về trại, sai giải hai người Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn về sơn trại trước, rồi Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa cùng Ngô Dụng rằng:

– Tôi nghe về thời Ngũ Đại xưa, có Vương Ngạn Chương, trong một nháy mắt mà bắt được ba mươi sáu tướng của nhà Đường, ngày nay Trương Thanh cũng chỉ trong một loáng mà đánh nổi mười lăm viên Đại Tướng của ta, vậy sức khoẻ của Trương Thanh cũng chẳng kém gì Vương Ngạn Chương ngày trước.

Chúng nghe nói, đều im phăng phắc một lượt, Tống Giang lại nói rằng:

– Tôi xem người ấy toàn nhờ Cung Vượng và Đinh Đắc Tôn làm vây cánh, vậy nay vây cánh đã bị mất, thì ta sẽ dùng lương sách mà bắt người ấy được.

Ngô Dụng nói:

– Huynh trưởng cứ vững tâm, tôi hiểu cách của anh ta, và đã định kế sách lâu rồi… Nay hãy xin cho các Đầu Lĩnh bị thương về sơn trại, và cho Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Tôn Lập, Hoàng Tín, Lý Lập đem hết thủy quân đi, và sắp cả xe ngựa thuyền bè nhất tề tiến lên, rồi lừa Trương Thanh ra thành, thì tất là xong việc.

Nói đoạn quay ra cắt đặt hiệu lệnh cho các quân sĩ.

Về phần Trương Thanh một hôm bàn định với quan phủ Đông Xương rằng:

– Ta tuy đánh được hai trận, nhưng thế giặc còn to, chưa trừ được gốc, vậy xin cho người đi dò xét hư thực ra sao.

Đương khi bàn luận, chợt thấy người vào báo: Về mạn Tây Bắc có tới hơn trăm xe tải lương, và trên mặt sông cũng có hơn năm trăm chiến thuyền, đều chở lương thảo tiến đi, chỉ có mấy người Đầu Lĩnh đi áp tải ở đó, Thái Thú nghe báo nói rằng: Cái đó không khéo lại mưu kế gì chăng? Ta phải cho người đi thám lại, xem có hẳn là tải lương hay không?

Ngày hôm sau, người đi thám về báo: Các xe đều xếp đầy những gạo, các thuyền dẫu có che đậy song ở trong toàn thị là túi gạo tất cả không sai.

Trương Thanh nói:

– Nếu vậy đêm nay ta ra thành đón chặn lấy đám xe, rồi sẽ cướp lấy các thuyền, thí tất là đắc thắng.

Quan phủ khen phải mà rằng:

– Làm thế thì diệu lắm, song Tướng quân phải cẩn thận mới được.

Trương Thanh vâng lệnh, rồi đến đêm kéo quân ra đi. Hôm đó mây quang trăng sáng, sao chiếu đầy trời, quân đi mười dặm đường, thì đã thấy xe lương tải đến, trong cờ viết rõ là “Lương Trung Nghĩa của trại Thủy Hử” và có một nhà sư Lỗ Trí Thâm vác thuyền trượng đi trước.

Trương Thanh trông thấy Lỗ Trí Thâm liền nói một mình rằng:

– Ta cho thằng trọc này một viên đá vào óc mới được…

Nói đoạn liền lấy viên đá ra ném. Lỗ Trí Thâm tuy nom thấy Trương Thanh đến, song trong bụng đương giả vờ làm mặt không biết, cứ vác thuyền trượng cắm đầu để chạy. Bất đồ bị một viên đá ném ngay vào đầu, máu tươi chảy vọt ra rồi ngã lăn xuống đất.

Quân mã Trương Thanh đều reo hò xông đến để bắt, Võ Tòng đi sau thấy, vội múa hai khẩu giới đao, sấn lên cứu lấy Lỗ Trí Thâm rồi bỏ cả xe cộ mà chạy.

Trương Thanh cướp được lương thảo lấy làm mừng rỡ, liền không đổi theo Lỗ Trí Thâm, mà giải lương thảo vào thành, Quan phủ thấy vậy cả mừng truyền thu để vào trong kho.

Trương Thanh lại xin ra đánh, Quan phủ lại dặn với rằng:

– Tướng quân phải liệu cơ đấy…

Trương Thanh vâng lời lên ngựa đi ra cửa Nam. Bấy giờ trông thấy thuyền lương đầy dẫy trên sông, không biết tới đâu mà kể. Trương Thanh liền sai mở cửa thành, mà nhất tề kéo ra cả bên sông.

Khi tới nơi bỗng thấy mây mù đen kịt, sương tối đầy trời, đám quân nhìn sát tận nhau, mà không ai trông thấy ai cả

Nguyên đó là phép thuật của Công Tôn Thắng, dùng để làm mê man quân mã của Trương Thanh, Trương Thanh thấy vậy trong lòng kinh sợ vội lui quân mã để quay về. Dè đâu vừa quay lại, thì thấy bốn mặt có tiếng hò reo, rồi bỗng thấy quân mã ở đâu ầm ầm kéo đến. Đoạn rồi thấy Lâm Xung dẫn quân kị ra ngăn áp cả người lẫn ngựa Trương Thanh xuống nước.

Bấy giờ dưới nước đã có đám Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, cùng Đồng Uy, Đồng Mãnh cùng chực sẵn ở đó. Trương Thanh xuống nước luống cuống không lên được, bị ba anh em họ Nguyễn bắt trói đem về trong trại.

Ngô Dụng cùng Tống Giang được tin, liền thôi thúc quân mã ra đánh thành rất khẩn. Một mình Tri Phủ hết sức giữ thành được một lúc, thì quân mã Tống Giang đã phá cửa tràn vào, không sao ngăn nổi. Tống Giang kéo vào trong thành, trước hết cứu cho Lưu Đường ra, rồi sau mở kho tàng lấy tiền lương, chia một phần cho dân cư ở đó, còn thì đem cả về Lương Sơn. Quan Phủ Đông Xương vốn là người chính trực thanh liêm, nên tha không giết hại. Đoạn rồi Tống Giang tụ quân chúng ở trong Phủ Đông Xương.

Bấy giờ thủy quân Đầu Lĩnh giải Trương Thanh vào phủ. Các tướng bị Trương Thanh đánh trước đều nghiến răng nghiến lợi muốn giết Trương Thanh. Duy Tống Giang thấy giải đến nơi, thì vội vàng xuống thềm đón tiếp mà nói lại rằng:

– Quân chúng không biết lỡ phạm hổ uy, xin ngài tha lỗi ấy cho…

Nói đoạn toan mời Trương Thanh lên ngồi, chợt đâu thấy Lỗ Trí Thâm đầu buộc khăn tay bằng vải, tay cầm thuyền trượng bằng sắt, xông ra để đánh Trương Thanh.

Tống Giang thấy vậy, vội ngăn Lỗ Trí Thâm lại mà quát nạt im đi. Trương Thanh thấy Tống Giang là người nghĩa khí như vậy bèn cúi đầu lạy tạ mà xin hàng.

Tống Giang lại đổ rượu xuống đất, lại bẻ một mũi tên mà thề rằng:

– Anh em ai còn thù hằn với Trương Thanh, thì trời đất không dung tất bị chết ở nơi đao kiếm.

Chúng nghe nói đều im phăng phắc, không ai con hục hặc chi nữa. Đoạn rồi Trương Thanh nói với Tống Giang rằng:

– Ở Phủ Đông Xương có một người thú y họ Hoàng Phủ tên Đoan, xem tướng ngựa rất giỏi, xem bệnh ngựa và chữa bệnh ngựa rất tinh. Nguyên người quê ở U Châu, mắt biếc râu vàng, người ta thường gọi là Tử Nhiêm Bá (bác râu vàng). Lương Sơn Bạc ta tất có khi dùng đến hắn… Vậy xin cho đón cả vợ con người ấy lên sơn Bạc một thể cho tiện.

Tống Giang nghe nói cả mừng mà rằng:

– Nếu được Hoàng Phủ Đoan có lòng cùng nhau tụ nghĩa, còn gì hơn được nữa?

Trương Thanh thấy Tống Giang một dạ tin yêu, chàng liền đi gọi Hoàng Phủ Đoan đến để bái kiến Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh.

Tống Giang trông Hoàng Phủ Đoan mắt xanh lóng lánh, râu dài quá bụng, rõ ra một bậc phi thường thì lấy làm khen ngợi vô cùng. Hoàng Phủ Đoan thấy Tống Giang là người nghĩa khí như vậy, thì cũng vui mừng mà thuận phục xin theo tới Lương Sơn.

Khi trò chuyện thỏa hiệp rồi, Tống Giang liền truyền lệnh cho các Đầu Lĩnh thu xếp xe ngựa, chỉnh đốn quân mã và tải tiền lương đem về Sơn Trại. Khi về tới sơn trại, Tống Giang sai thả Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn ra, lấy lời ngon ngọt dỗ dành hai người rất ân cần tử tế. Hai người đều lạy tạ mà xin quy hàng ở đó.

Bấy giờ ở trong sơn trại tính tất cả lớn nhỏ có tới một trăm Đầu Lĩnh cùng đề huề xum họp với nhau. Tống Giang thấy vậy cả mừng, bèn sai đặt tiệc ăn mừng rồi nói với anh em rằng:

– Từ khi anh em ta bước chân lên núi tới đây, ơn nhờ trời đất, các công việc đều được trơn tru, không hề chút gì vấp váp. Ngày nay lại nhờ trí dũng của anh em, tôn tôi lên làm chủ trại, vậy tôi có một lời này muốn giải bày khúc nhôi, dám xin anh em lấy lòng nghĩa khí mà chấp thuận lấy cho, thì thực là hân hạnh cho sơn trại vô cùng.

Ngô Dụng đáp rằng:

– Huynh trưởng có điều gì dạy bảo, xin cứ nói cho anh em được biết.

Tống Giang bèn ung dung đem ý kiến để giải bày cùng các vị Đầu Lĩnh:

Mới hay:

Mấy phen lỡ đất long trời,

Anh hùng trải lắm trần ai mới già,

Đôi phen bốn bể một nhà,

Đông, Tây họp mặt san hà khiếp gan.

Cùng nhau hợp thể liên đoàn,

Non cao độc lập sóng tràn tự do.

Dọc ngang riêng một cơ đồ,

Máu nồng chan chứa một lò nghĩa chung.

Lương Sơn trăm tám anh hùng,

Giang hồ nghĩa nặng muôn trùng ai ơi!

Lời bàn của Thánh Thán:

Từ xưa chưa từng nghe nói đem đá ra đánh giặc, tự Thi Nại Am bổng không nảy ra một chuyện lạ đời, để kết lại một thiên, khiến đọc giả lạ mắt chột lòng, thấy rằng hòn đá nén ra, như đạn bay tên bắn, anh hùng Sơn Bạc, hầu hết bó tay! Không ngờ tác giả phô trương tài lạ hơn một trăm người, đến đây như hết, thế mà đến đây lại thấy tài năng của một phi thường, đọc một bộ sách bảy mươi hồi đã thấy bao nhiêu kẻ tài cao thấp, kết lại nẩy một kẻ lạ thường như cuốn như quét, như ruỗi như hịch…hết thẩy thực là chương pháp rất ly kỳ…

Bầy ra một trăm linh tám anh hùng, đến sau chót một Hoàng Phủ Đoan giỏi về tướng ngựa. Hỡi ôi! Khéo thay! Đó làm ra cho thành một chuyện Thủy Hử, xét ra cái tài dong duỗi, chưa chắc vô duujng cho thuyền xe, mà cái tật thét gào thở hộc, chưa chắc không phải cản sức đi ngàn dặm, nệ theo bề ngoài ngoài là một con vật, chưa chắc đã chẳng đáng của ở trong…cho nên bậc Tể tướng tài hiền thường có những món thưởng thức về tài phá cách, vì trong trăm năm co báo lại bất thần, thì biết chữa bệnh cho ngựa, dùng vào việc binh mã, há chẳng đáng trọng dụng lắm hay sao? Thế mà đời không ai là Bá Nhạc tri âm, coi hiền với ngu đều đến chết. Coi thường những thứ vẫn dùng, mà không biết đến, gặp khi tai vạ tới, thấy lỗi ở những chỗ thường kia, bấy giờ mới đáng than, thì thấy ra đã muộn. Nên việc dùng Hoàng Phủ Đoan, chính là gồm mọi đủ tài năng, không coi thường một chút gì hết thảy.

Hồi 70: Nhà Trung Nghĩa, bia đá nổi hàng văn – Vụng Lương Sơn, bạn vàng kinh giấc mộng

Bấy giờ Tống Giang bảo với các Đầu Lĩnh rằng:

– Lũ anh em ta bấy lâu vào sinh ra tử, mong mỏi tìm nhau, để kết lấy giang hồ đại nghĩa, vậy ngày nay đã sum họp tất cả được một trăm lẻ tám anh em, trí dũng kim toàn, anh tài không thiếu, thực là một cơ hội rất hiếm xưa nay, ai trông thấy thế mà chẳng đồng tâm hiệp lực, để cùng liên lạc với nhau. Duy trong khi gây cuộc binh đao, kể cũng thiệt hại đến nhiều dân chúng. Vậy ngày nay muốn lập đàn trai để tạ ơn trời đất qủy thần, một là cầu đảo cho anh em được vui vẻ yên lành, hai là mong triều đình sớm ra ơn xá tội để cùng nhau hết sức báo đền non nước, thì dẫu chết cũng không dám từ nan, ba là cầu cho Tiều Thiên Vương sớm thăng thiên giới thế thế sinh sinh rồi sau lại được gặp nhau, và nhân tiện cầu nguyện cho các linh hồn bị chết chóc từ trước tới nay, đều được siêu sinh tĩnh thổ về chốn lạc viên. Chẳng hay ý tưởng anh em nghĩ ra sao?

Các Đầu Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:

– Đó là một công quả phúc đức, anh em đều xin theo ý kiến Ca Ca chỉ giáo.

Ngô Dụng nói:

– Việc này tất phải nhờ Công Tôn Thắng tiên sinh làm chủ, rồi cho người đi đón Đạo sĩ các nơi để về cúng mới được.

Nói đoạn liền bàn định đến rằm tháng tư bắt đầu làm chay, hạn bảy đêm ngày công quả cho các người đi đón các Đạo Tràng về cúng, và sai người mua sắm lễ vật cùng là bày dọn Đạo Tràng. Trước Trung Nghĩa Đường dựng cây phàn lớn, bốn xung quanh kết ba từng đài rất cao, trong bày thánh trượng Tam Thanh, Thất Bảo, hai ban đặt thờ hai mươi tám vì tinh tú, mười hai ngôi sao giờ cùng các tinh chủ trên trời, và phía ngoài đặt giám đàn thờ thần tướng Thôi, Lưu Trung Thư, Đặng, Đậu.

Hôm ấy khi trời trong trẻo, gió mát trăng thanh, đàn tràng đã lập xong rồi. Công Tôn Thắng liền dẫn tất cả bốn mươi tám người đạo tràng ra làm lễ. Bấy giờ Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa đứng đầu, rồi đến Ngô Dụng cùng các Đầu Lĩnh ra đốt hương coi lễ.

Công Tôn Thắng chủ việc đàn tràng, coi giữ các giấy sớ ấn bùa, và cùng bốn mươi tám người đạo tràng, cùng nhau mỗi ngày ra làm lễ ba khoá lễ.

Tống Giang nhất tâm cầu nguyện, mong Hoàng Thiên báo ứng hiển nhiên, liền bảo Công Tôn Thắng đốt sớ tâu lên Thượng Đế.

Đến đêm hôm thứ bảy, Công Tôn Thắng ở trên tấng đàn Hư Hoàng thứ nhất, các đạo tràng ở tầng thứ hai, Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh ở tầng thứ ba, còn các tiểu Đầu Lĩnh cùng bọn tướng tá, đều đứng cả dưới đàn, mà cùng nhau vái lạy trời xanh, cầu xem báo ứng.

Được một lát vào khoảng canh ba, chợt nghe thấy trên trời có một tiếng soạt, như tiếng xé lụa rất to, rồi thấy cửa trời về phía Tây Bắc kiền phương mở tung ra, và có một cái ban vàng, hai đầu nhỏ ở giữa rộng trông như mặt trời chói lọi, sáng rực xuống khắp trần ai. Chợt lại thấy trong đàn, có một khối lửa to như cái thúng, lừ đừ đi xuống đàn Hư Hoàng, quanh chuyển một vòng, rồi lặn xuống dưới đất, về phía chính Nam.

Đoạn rồi mặt trời trở lại như cũ, rồi mọi người cùng nhau lạy tạ xuống đàn mà đào đất để tìm.

Khi đào tới ba thước đất, chợt thấy có một miếng bia đá, chạm thiên thư ở mặt giữa và cả đôi bên. Tống Giang sai đem về làm lễ tạ đàn, rồi sáng hôm sau đưa tiền công quả để tặng cho các đạo tràng và đem bia đá ra xem.

Khi nom đến bia đá thấy chữ nghĩa ngoằn ngoèo, khác hẳn lối thường, không còn ai biết nghĩa lý ra sao cả. Sau có một người đạo tràng, họ Hà tên là Diệu Thông, nói với Tống Giang rằng:

– Tổ phụ nhà tôi khi xưa có một bộ sách, chuyên để cắt nghĩa các lối chữ thiên thư, vậy lối chữ đây tức là lối chữ khoa đẩu, tôi có thể hiểu được, xin ngài để cho tôi dịch giúp.

Tống Giang nghe nói cả mừng, liền nhờ Hà Diệu Thông xem giúp, và dịch cho mọi người cùng hiểu nghĩa.

Hà Diệu Thông xem một lúc, rồi nói với Tống Giang rằng:

– Hai bên cạnh bia, một bên có bốn chữ “Thế Thiên Hành Đạo” (Thay Trời làm Đạo), và một bên có bốn chữ “Trung Nghĩa Lưỡng Toàn” (trung nghĩa vẹn hai), trên có các vì sao trên trời và phía dưới chưa đủ tên họ các ngài ở đó. Nếu các ngài rộng tha phép cho, tôi xin viết rõ ra để các ngài xem.

Tống Giang nói:

– Chúng tôi mê muội không biết văn trời, nay nếu được Đạo Sĩ chỉ bảo đường mê, thì còn gì hơn nữa, dám xin Đạo Sĩ chỉ bảo rõ ràng cho biết, hoặc giả ở trong có điều chi Hoàng Thiên quở phạt, cũng xin chớ dấu chúng tôi.

Nói đoạn liền gọi Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng lấy giấy vàng mực đen ra để Hà Diệu Thông đọc cho viết.

Hà Diệu Thông lại nói rằng:

– Trong tấm bia này, trước mặt có ba mươi sáu hàng chữ toàn thị là sao Thiên Cương, mặt sau có bảy mươi hai hàng chữ toàn thị là sao Địa Sát, phía dưới có chứa tên họ các nghĩa sĩ ở đây cả.

Nói đoạn liền đọc ba mươi sáu hàng chữ ở trước mặt bia:

Thiên Khôi Tinh, Hô Bảo Nghĩa Tống Giang

Thiên Cương Tinh, Ngọc Kỳ Lân Lư Tuấn Nghĩa

Thiên Cơ Tinh, Trí Đa Tinh Ngô Dụng

Thiên Nhàn Tinh, Nhập Long Vân Công Tôn Thắng

Thiên Dũng Tinh, Đại Đao Quan Thắng

Thiên Hùng Tinh, Báo Tử Đầu Lâm Xung

Thiên Mãnh Tinh, Tích Lịch Hỏa Tần Minh

Thiên Uy Tinh, Song Chiên Hô Duyên Chước

Thiên Anh Tinh, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh

Thiên Quý Tinh, Tiểu Toàn Phong Sài Tiến

Thiên Phú Tinh, Phác Thiên Bằng Lý Ứng

Thiên Mãn Tinh, Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng

Thiên Cô Tinh, Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm

Thiên Thương Tinh, Hành Giả Võ Tòng

Thiên Lập Tinh, Song Thương Tướng Đổng Bình

Thiên Tiệp Tinh, Một Vũ Tiễn Trương Thanh

Thiên Âm Tinh, Thanh Diện Thú Dương Chí

Thiên Hựu Tinh, Kim Sang Thủ Từ Ninh

Thiên Không Tinh, Cấp Tiên Phong Sách Siêu

Thiên Dị Tinh, Xích Phát Quỹ Lưu Đường

Thiến Sát Tinh, Hắc Toàn Phong Lý Quỳ

Thiên Tốc Tinh, Thần Hành Thái Bảo Đới Tung

Thiên Vi Tinh, Cửu Văn Long Sử Tiến

Thiên Cứu Tinh, Mộc Già Lan Mục Hoằng

Thiên Thoái Tinh, Sáp Sí Hổ Lôi Hoành

Thiên Thọ Tinh, Hỗn Giang Long Lý Tuấn

Thiên Kiếm Tinh, Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị

Thiên Bình Tinh, Thuyền Đầu Hỏa Trương Hoành

Thiên Tội Tinh, Đỏan Mệnh Nhị Lang Nguyễn Tiểu Ngũ

Thiên Tổn Tinh, Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận

Thiên Bại Tinh, Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất

Thiên Lao Tinh, Bệnh Quan Sách Dương Hùng

Thiên Tuệ Tinh, Biểu Mệnh Tam Lang Thạch Tú

Thiên Bảo Tinh, Lưỡng Đầu Sà Giải Trân

Thiên Khốc Tinh, Long Vĩ Hạt Giải Bảo

Thiên Xảo Tinh, Lãng Tử Yến Thanh

Bảy mươi hàng chữ mặt sau bia:

Địa Khôi Tinh, Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ

Địa Sát Tinh, Trấn Tam Sơn Hoàng Tín

Địa Dũng Tinh, Bệnh Uùy Trì Tôn Lập

Địa Kiệt Tinh, Xú Quận Mã Tuyên Tán

Địa Hùng Tinh, Mộc Tỉnh Can Hắc Tư Văn

Địa Uy Tinh, Bách Thắng Tướng Hàn Thao

Địa Anh Tinh, Thiên Mục Tướng Bành Dĩ

Địa Kỳ Tinh, Thánh Thủy Tướng Quân Đan Đình Khuê

Địa Mãnh Tinh, Thần Hỏa Tướng Quân Ngụy Định Quốc

Địa Văn Tinh, Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng

Địa Chính Tinh, Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyên

Địa Tịch Tinh, Ma Vân Kim Sí Âu Bằng

Địa Hạp Tinh, Hỏa Nhỡn Toan Nghê Đặng Phi

Địa Cường Tinh, Cẩm Mao Hổ Yến Thuận

Địa Âm Tinh, Cẩm Báo Tử Dương Lâm

Địa Phụ Tinh, Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn

Địa Hội Tinh, Thần Toán Tử Tưởng Kính

Địa Tá Tinh, Tiểu Ôn Hầu Lã Phương

Địa Hựu Tinh, Kiển Nhân Quý Quách Thịnh

Địa Linh Tinh, Thần Y An Đạo Toàn

Địa Thú Tinh, Tử Nhiêm Bá Hoàng Phủ Đoan

Địa Vi Tinh, Nụy Cước Hổ Vương Anh

Địa Tuệ Tinh, Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương

Địa Hao Tinh, Táng Môn Thần Đào Húc

Địa Mặc Tinh, Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy

Địa Xương Tinh, Mao Đẩu Tinh Khổng Minh

Địa Cường Tinh, Độc Hỏa Tinh Khổng Lượng

Địa Phi Tinh, Bát Tý Na Tra Hạng Sung

Địa Tẩu Tinh, Phi Thiên Đại Thánh Lý Cổn

Địa Xảo Tinh, Ngọc Tý Tượng Kim Đại Kiện

Địa Minh Tinh, Thiết Dịch Tiên Mã Lân

Địa Tiến Tinh, Xuất Động Giao Đồng Uy

Địa Thoái Tinh, Phan Giang Thần Đồng Mãnh

Địa Mãn Tinh, Ngọc Phan Cang Mạnh Khang

Địa Toại Tinh, Thông Tý Viện Hầu Kiện

Địa Chu Tinh, Khiêu Giản Hổ Trần Đạt

Địa An Tinh, Bạch Hoa Sà Dương Xuân

địa Di Tinh, Bạch Diện Lang Quân Trịnh Thiên Thọ

Địa Lý Tinh, Cửu Vỹ Quy Đào Tôn Vượng

Địa Tuấn Tinh, Thiết Phiến Tử Tống Thanh

Địa Nhạc Tinh, Thiết Khiếu Tử Nhạc Hoà

Địa Tiệp Tinh, Hoa Hạng Hổ Cung Vượng

Địa Tốc Tinh, Tùng Tiến Hổ Đinh Đắc Tôn

Địa Trấn Tinh, Tiểu Già Lan Mục Xuân

Địa Cơ Tinh, Thao Đao Quỹ Tào Chính

Địa Ma Tinh, Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn

Địa Yêu Tinh, Mô Trước Thiên Đỗ Thiên

Địa U Tinh, Bệnh Đại Trùng Tiết Vĩnh

Địa Phục Tinh, Kim Nhỡn Bưu Thi Ân

Địa Tịch Tinh, Đả Hổ Tướng Lý Trung

Địa Không Tinh, Tiểu Bá Vương Chu Thông

Địa Cô Tinh, Kim Tiền Báo Tử Thang Long

Địa Toàn Tinh, Quỹ Kiểm Nhi Đỗ Hưng

Địa Đỏan Tinh, Xuất Lâm Long Trâu Uyên

Địa Giốc Tinh, Độc Giốc Long Trâu Nhuận

Địa Tù Tinh, Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý

Địa Tàng Tinh, Tiểu Diện Hổ Chu Phú

Địa Binh Tinh, Thiết Tý Phụ Xái Phúc

Địa Tổn Tinh, Nhất Chi Hoa Xái Khánh

Địa Nô Tinh, Thôi Mệnh Phán Quan Lý Lập

Địa Sát Tinh, Thanh Nhỡn Hổ Lý Lân

Địa Ác Tinh, Một Diện Mục Tiêu Đĩnh

Địa Xú Tinh, Thạch Tướng Quân Thạch Dũng

Địa Số Tinh, Tiểu Uùy Trì Tôn Tân

Địa Âm Tinh, Mẫu Đái Trùng Cố Đại Tẩu

Địa Hình Tinh, Thái Viên Tử Trương Thanh

Địa Tráng Tinh, Mẫu Dạ Xoa Tôn Nhị Nương

Địa Liệt Tinh, Hoạt Diêm La Vương Đình Lục

Địa Kiện Tinh, Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tứ

Địa Hao Tinh, Bạch Nhật Tử Bạch Thắng

Địa Tặc Tinh, Cổ Thượng Tao Thời Thiên

Địa Cẩu Tinh, Kim Mao Khuyển Đoàn Cảnh Trụ.

Tiêu Nhượng viết xong tất cả, rồi đọc lại một lượt cho mọi người ai nấy đều kinh ngạc vô cùng.

Tống Giang liền nói với các Đầu Lĩnh rằng:

– Tôi là kẻ tiểu lại ngu hèn, ngờ đâu lại ứng vào các tinh tú trên trời, cùng với anh em lại cùng chung một hội…Nay số trời đã định, tất phải xum họp cùng nhau, vậy anh em ta phải y theo thứ tự, giữ lấy bổn phận mà làm, chớ nên trái ý trời mới được.

Các Đầu Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:

– Ý Trời đã định, còn ai dám cãi, từ nay đều xin nhất lực nhất tâm…

Tống Giang sai lấy năm mươi lạng vàng, tạ ơn Hà Diệu Thông. Hà Diệu Thông bèn bái tạ Tống Giang, cùng các vị Đầu Lĩnh, rồi cùng với bọn đạo tràng xuống núi mà chia tay trở về.

Bấy giờ Tống Giang bàn với Quân Sư Ngô Dụng, cùng các Đầu Lĩnh để chỉnh đốn lại trong sơn trại; Trước Trung Nghĩa Đường khắc một cái biển vàng đề ba chữ “Trung Nghĩa Đường “rất to. Đoạn kim đình cũng thay một bức biển lớn. Phía trước đặt ba cửa quan. Phía sau Trung Nghĩa Đường, lập một toà Nhạn Đài. Đỉnh núi đặt một đại sảnh, phía Đông phía Tây đều có ngăn phòng, chính giữa đặt một bàn thờ Tiều Cái.

Tống Giang, Ngô Dụng, Lã Phương, Quách Thịnh ở phòng bên Đông; Lư Tuấn Nghĩa, Công Tôn Thắng, Khổng Minh, Khổng Lượng ở phòng bên Tây.

Lớp núi thứ hai có Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên ở phòng bên tả; và Đới Tung, Yến Thanh, Trương Thanh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan ở dẫy bên hữu. Bên tả Trung Nghĩa Đường có Sài Tiến, Lý Ứng, Tưởng Kính, Lăng Chấn coi giữ việc thu phát tiền lương kho tàng, và bên hữu thì có Hoa Vinh, Phàn Thụy, Hạng Sung và Lý Cổn.

Cửa quan đệ nhất đường bên Nam trước núi, cắt Giải Trân, Giải Bảo coi giữ, Cử Quan thứ nhì Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng coi giữ. Cửa quan thứ ba Chu Đồng, Lôi Hoành coi giữ.

Bên Đông núi một cửa quan, Sử Tiến, Lưu Đường coi giữ.

Bên Tây một cửa quan, Dương Hùng, Thạch Tú coi giữ. Bên bắc một cửa quan Mục Hoằng, Lý Quỳ coi giữ.

Ngoài sáu cửa quan lại đặt thêm tám trại, bốn trại trên bộ, và bốn trại dưới nước. Trại bộ chính Nam có Tầm Minh, Sách Siêu, Âu Bằng, Đặng Phi. Trại Chính Đông có Quan Thắng, Từ Ninh, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn; Trại chính Tây có Lâm Xung, Đổng Bình, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc. Trại Chính Bắc có Hô Duyên Chước, Dương Chí, Hàn Thao, Bành Dĩ; Trại thủy bên Đông Nam có Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị; Trại Tây Nam có Trương Hoành, Trương Thuận; Trại Đông Bắc có Nguyễn Tiểu Ngũ, Đồng Uy; Trại Tây Bắc có Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Mãnh, còn các Đầu Lĩnh ai vào việc ấy.

Lại sai Hầu Kiện chế thêm các hiệu cờ khác nhau, trên núi chế một ngọn cờ Hoành Hạnh, viết bốn chữ “Thế Thiên Hành Đạo” rất to. Trước cửa Trung Nghĩa Đường chế hai lá cờ thêu, một bên có năm chữ “Sơn Đông Hô Bảo Nghĩa”; và một bên năm chữ “Hà Bắc Ngọc Kỳ Lân “. Ngoài đặt các cờ Phi Long, Phi Hổ, Phi Hùng, Phi Báo, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ, và các đồ Hoàng Việt, Bạch Mao, Thanh Phan, Tạo Cái, Phi Anh hặc đạo để dùng ra trận.

Lại sai chế các thứ cờ Tứ Đầu, Ngũ Phương, Tam Tài, Cửu Diệu, Nhị Thập Bát Tú, Lục Thập Tứ Quái, Chu Thiên Cửu Cung, Bát Quái, và tất cả một trăm hai mươi bốn thứ cờ. Còn các việc ấn tín binh phù, thì giao cho Kim Đại Kiện coi giữ.

Đoạn rồi chọn ngày lành tháng tốt, giết trâu giết ngựa tế lễ trời đất qủy thần treo biển lên Trung Nghĩa Đường. Đoạn Kim Đình và cắm cờ “Thế Thiên Hành Đạo “lên đỉnh núi, rồi cùng nhau yến ẩm làm vui. Hôm đó Tống Giang tay cầm binh phù ấn tín, tuyên cáo hiệu lệnh cho các Đầu Lĩnh rằng:

– Từ nay anh em đều phải giữ theo chức trách, không được cưỡng trái, để hại đến Đại Nghĩa trong sơn trại. Nếu ai trái lệnh không theo, thì lấy quân pháp trị tội…

Nói đoạn liền kê các chức vụ của các Đầu Lĩnh cho mọi người cùng biết:

Hai viên Tổng binh Đô Đầu Lĩnh ở sơn bạc, là Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa.

Hai viên Quân Sư là Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, coi giữ việc cơ mật.

Một viên Tham Tán Quân Vụ, là Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ.

Hai viên Đầu Lĩnh coi giữ tiền lương, là Sài Tiến và Lý Ứng.

Năm viên Hổ Tướng Mã Quân là Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, và Đổng Bình.

Tám viên mã quân Đại Khiêu Kị, kiêm chức Tiền Phong Sứ là Hoa Vinh, Từ Ninh, Dương Chí, Sách Siêu, Trương Thanh, Chu Đồng, Sử Tiến, và Mục Hoằng.

Mười sáu viên Mã quân Tiểu Bưu Tướng, kiêm việc Thám tiểu là Hoàng Tín, Tôn Lập, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Mã Lân, Trần Đạt, Dương Xuân, Dương Lâm, Chu Thông.

Mười viên bộ quân Đầu Lĩnh, là Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường, Lôi Hoành, Lý Quỳ, Yến Thanh, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo.

Mười bảy viên Tướng Hiệu Bộ Quân, là Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, Tiết Vĩnh, Thi Aân, Mục Xuân, Lý Trung, Trịnh Thiên Thọ, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Tiêu Đĩnh và Thạch Dũng.

Tám viên Đầu Lĩnh Thủy Quân là Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Uy và Đồng Mãnh.

Tám viên Đầu Lĩnh coi bốn mặt tửu điếm, để dò xét tin tức. Điếm bên Đông có Tôn Tân và Cố Đại Tẩu; Bên Tây có Trương Thanh và Tôn Nhị Nương. Bên Nam có Chu Quý, Đỗ Hưng; Bên Bắc có Lý Lập, Vương Đình Lục.

Một viên coi đại quyền về việc do thám, là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung. Tám viên Đầu Lĩnh Bộ Quân, phi báo các việc cơ mật là Nhạc Hoà, Thời Thiên, Đoàn Cảnh Trụ, Bách Thắng.

Hai viên Kiều Tướng Mã quân thủ hộ ở Trung Quân, là Lã Phương, Quách Thịnh.

Hai viên Kiều Tướng Bộ quân, Thủ Hộ ở Trung Quân là Khổng Minh, Khổng Lượng.

Hai viên chuyên việc hành hình là Xái Phúc, Xái Khánh.

Hai viên Đầu Lĩnh Mã Quân giữ việc do thám trong tam quân là Vương Anh và Hổ Tam Nương. Mười sáu viên Đầu Lĩnh coi việc chế tạo sửa sang. Một viên giữ việc văn thư giấy má, trong khi khi khiển tướng điều binh là Tiêu Nhượng. Một viên Quân Chính Tư coi việc thưởng phạt là Bùi Tuyên. Một viên coi các việc tính toán tiền nong, chế tạo chiến thuyền là Mạnh Khang. Một viên chuyên chế tạo ấn tín là Kim Đại Kiện. Một viên chế các thứ cờ quạt áo bào là Hầu Kiện.

Một viên giữ việc chữa thuốc cho ngựa là Hoàng Phủ Đoan.

Một viên chuyên trị các khoa thuốc là An Đạo Toàn.

Một viên coi việc chế tạo các đồ quân khí bằng sắt là Thang Long.

Một viên chuyên chế các thứ súng là Lăng Chấn.

Một viên coi các việc nhà cửa là Lý Vân.

Một viên coi việc giết mổ trâu bò gà lợn là Tào Chính.

Một viên coi việc yến tiệc là Tống Thanh.

Một viên coi việc rượu chè là Chu Quý.

Một viên coi đắp thành trì là Đào Tôn Vượng.

Một viên coi giữ cờ súy là Úc Bảo Tứ.

Hôm đó là ngày hai mươi hai, tháng tư năm thứ hai, niên hiệu Tuyên Hoà, Tống Công Minh họp hết thẩy các Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc để truyền lệnh cắt đặt xong việc. Các Đầu Lĩnh đều vâng lệnh ấn tín, cùng nhau yến ẩm ở Trung Nghĩa Đường, rồi quay ra chia giữ các việc. Trong đó có người nào chưa cắt định công việc thì cho ở tạm ở trước Nhạn Đài để chờ hiệu lệnh.

Ngày hôm sau Tống Giang lại sai khua trống tụ họp các Đầu Lĩnh ở Trung Nghĩa Đường, đốt một lò hương, rồi nói với mọi người rằng:

– Anh em ta ngày nay xum họp ở đây, là tại số trời định trước, chiếu ứng bởi các vì sao, vậy ta nên một dạ một lòng, thề cùng trời đất mà trăm năm sinh tử có nhau, thì ngõ hầu mới khỏi phụ ý Trời trọng đãi… Các anh em xin chớ sai lời.

Chúng nghe nói đều vui mừng khen phải, liền cùng nhau thắp hương, mà cùng nhau quỳ ở trước Trung Nghĩa Đường, để tuyên lời thề nguyện.

Tống Giang quỳ ở hàng đầu, tuyên lời thệ rằng:

– “Ngày hai mươi ba, tháng tư, năm thứ hai, niên hiệu Tuyên Hoà, bọn nghĩa sĩ ở Lương Sơn Bạc là: Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, Hoa Vinh, Sài Tiến, Lý Ứng, Chu Đồng, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Đổng Bình, Trun, Dương Chí, Từ Ninh, Sách Siêu, Đới Tung, Lưu Đường, Lý Quỳ, Sử Tiến, Mục Hoằng, Lôi Hoành, Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị, Trương Hoành, Nguyễn tiểu Ngũ, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Thất, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo, Yến Thanh, Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Dương Lâm, Lăng Chấn, Tưởng kính, Lã Phương, Quách Thịnh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan, Vương Anh, Hổ Tam Nương, Bào Húc, Phàn Thụy, Khổng Minh, Khổng lượng, Hạng Sung, Lý Cổn, Kim Đại Kiện, Mã Lân, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Mạnh Khang, Hầu Kiện, Trần Đạt, Dương Xuân, Trịnh Thiên Thọ, Đào Tôn vượng, Tống Nhạc Hoà, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Mục Xuân, Tào Chính, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Tiết Vĩnh, Thi Aân, Lý Trung, Chu Thông, Thang Long, Đỗ Hưng, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Chu Quý, Xái Phúc, Xái Khánh, Lý Lập, Lý Vân, Tiêu Đĩnh, Thạch Dũng, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Vương Đình Lục, Úc Bảo Tứ, Bạch Thắng, Thời Thiên, Đoàn Cảnh Trụ, cùng nhau giốc lòng thành kính lập lời thề nguyện, xin Thần minh soi xét chứng cho.

Nguyên Chúng tôi vốn người bốn bể, nay họp một nhà.

Theo tinh tú làm anh em, lấy đất trời làm cha mẹ.

Một trăm tám người, tuy khác mặt song cũng vẻ vang.

Một trăm tám người, tuy khác lòng, song đều trong sạch.

Vui phải cùng vui, lo phải cùng lo.

Sống phải cùng sống, chết phải cùng chết.

Đã liệt tên trên Thượng Đế, chớ để hổ với dân gian;

Một ngày thành tâm khí đã tin, trọn kiếp tâm can không đổi.

Nếu ai mang dạ bất nhân, bỏ lòng đại nghĩa, ngoài hay trong dở, có trước không sau, thì Thượng Đế soi trên, quỷ thần soi dưới, thân tất lìa tan vì đao kiếm, mà tội còn mang nặng với phong lôi; trăm năm không được hưởng thanh bình, muôn kiếp còn sa vào địa ngục.

Đạo trời đất phân minh báo ứng, dám xin soi xét lòng thành…”.

Tống Giang đọc xong, mọi người vui vẻ mà kêu lên rằng:

– Xin nguyện trăm năm xum họp cùng nhau, muôn kiếp không hề xa cách, mối giây liên lạc, bao giờ cũng được như nay…

Nói đoạn đều uống máu ăn thề, rồi cùng nhau chè chén, đến khi quá say mới tan.

Miền Thủy Bạc, vũng Lương Sơn,

Nước bèo gặp gỡ, tâm can hẹn hò,

Tài kinh tế, chí giang hồ,

Giữa trời dựng một ngọn cờ nghĩa trung,

Từ đây thỏa chí tang bồng,

Mảnh gương nghĩa hiệp soi chung muôn đời,

Trăm năm nhắm bạn anh tài,

Làm trai cho đáng thân trai mới là…

Đêm hôm đó Lư Tuấn Nghĩa về nằm nghỉ trong trướng, chợt nằm mê thấy một người cao lớn, tay cầm cây bảo cung, đến nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:

– Ta tên là Kê Khang, vì vua nhà Đại Tống, mà đến bắt giặc ở đây. Vậy các ngươi nên mau mau mà tự trói lấy thân, đừng để cho ta phải động đến thêm phiền.

Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, đùng đùng nổi giận, vội cầm đao đuổi sấn lên để chém. Bất đồ chàng giơ đao lên, thì thấy lưỡi đao đã gãy tự hồi nào rồi, không sao mà chém được.

Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy lấy làm cả kinh, vội vàng chạy ra giá đao, để chọn lấy thanh khác. Chẳng dè khi ra tới giá đao, thì thấy bao nhiêu gươm giáo đao thương, đều gãy mẻ hết một lượt, không còn cái nào dùng được nữa.

Khi đó người kia đuổi sấn đến đằng sau Lư Tuấn Nghĩa, Lư Tuấn Nghĩa luống cuống không biết làm thế nào liền giơ tay phải lên để đánh. Chàng vừa giơ được tay lên, thì người kia đã cầm thương, đánh cho một cái gãy hẳn một cánh tay ngã lăn xuống đất. Đoạn rồi người kia lấy cuộn thừng ở lưng ra trói chặt Lư Tuấn Nghĩa mà dong đi.

Được một lát đi đến chỗ khoảng giữa kê một cái án công, và có một người ngồi nghiêm chỉnh, trông mặt về phía Nam. Người kia bắt Lư Tuấn Nghĩa vào quỳ ở trên bãi cỏ trước chốn công đường, mà sắp sửa để tra hỏi. Chợt đâu lại thấy ngoài cửa có tiếng khóc vang trời, rồi người kia lại quát lên rằng:

– Có việc gì cứ cho cả vào đây.

Đoạn rồi thấy một tụi rất đông, vừa khóc vừa đi vào trong đó. Lư Tuấn Nghĩa trông lên thấy cả tụi Lương Sơn Bạc, một trăm lẻ bảy người đều trói tay đi đất, mà lướt xướt cùng kéo nhau vào quỳ ở đó. Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, trong lòng lấy làm kinh lạ vô cùng.

Bấy giờ Đoàn Cảnh Trụ quỳ ở gần Lư Tuấn Nghĩa, Tuấn Nghĩa bèn khẽ hỏi Đoàn Cảnh trụ rằng:

– Cớ làm sao bắt được cả bọn ta đến đây thế?

Đoàn Cảnh Trụ khẽ nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:

– Tống Ca Ca biết Viên Ngoại bị bắt, không có kế gì cứu được, liền bàn với Quân Sư làm khổ nhục kế như thế, để quy phục với triều đình, thì mới có thể bảo toàn tính mạng cho Viên Ngoại được.

Cảnh Trụ vừa dứt lời, thì thấy người ngồi trên, vỗ tay xuống án mà mắng rằng:

– Quân cường tặc kia, bay làm nên tội nghiệt đầy trời, mấy phen triều đình sai quân đến đánh, bay đều cự địch với cả quan quân, ngày nay lại còn giả trá kêu van, để mong tránh tội hay sao? Nếu ta tha cho chúng bay, thì còn lấy đâu pháp luật để trị thiên hạ nữa được? Vả chăng chúng bay là đồ gian tham phản trắc, ta không thể nào mà tin bay được. Đám quân binh của ta đâu?

Nói đoạn liền thấy hai trăm mười sáu người Hình Quan ở cạnh vách đổ ra, cứ hai người dìu một, mà đem tất cả bọn Tống Giang, một trăm linh tám người ra sân để chém.

Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy kinh sợ rụng rời, mở mắt ra nom thì thấy trên Công Đường có một cái bảng đề bốn chữ xanh “THIÊN HẠ THÁI BÌNH”.

Lời bàn của Thánh Thán:

Một bộ sách bảy mươi hồi, đáng gọi là phô bày to lớn, đáng gọi là kết thúc lớn lao, đọc đấy như đàn rồng ngàn dặm cùng đều vào tới bể, không còn chút nào cảm thấy chưa xong, chỉ nực cười cho La Hán Trung khéo nối điêu thêm, thấy còn xấu thêm ra nữa.

Hoặc có kẻ hỏi rằng: Thiên Văn Thạch Kệ, việc đó thực chăng? Hay là Tống Giang đặt ra giả dối? Đó là trí khôn của kẻ ngây nói chuyện mơ màng, tác giả tự viết ra, đến đây là hết, khéo đem họ tên một trăm linh tám người, nhất nhất bày trình ra, điểm nhởn kết huyệt trong bảy mươi hồi của bộ sách vậy? Xét bắt đầu từ Thạch Kệ, Kết cuối lại lấy Thạch Kệ. Đóng mở cho một bộ sách lớn, kể việc thì 70 mươi hồi thì người 108 vị, làm quan tiết lớn sách này còn việc đó người kia. Dù có hay không đối với nhà viết ra chuyện không cần kể tới, thì đọc giả can chi phải thắc mắc hỏi đến?

Họp 108 người sau cùng nơi Thủy Bạc, với ý rằng không dạy được họ, Chợt đâu khéo diễn một giấc mơ của Lư Tuấn Nghĩa, với ý dẫn ra một án Trương Thúc Dạ thu đánh sau này cho trọn một sách mà không cần tả tới chuyện đó nữa coi như đánh lúc nào xong lúc bấy giờ. Chao ôi; quân tử xưa kia chưa rừng Tiểu Lâm cung thận như người xem xét sau này! Ta xem Thủy Hử đầy vẫy hàn vàn lời nói, rồi cũng phải lấy bốn chữ “Thái Bình Thiên Hạ” kết chung, thì thấy ý lắm vậy! Đời sau lại bỏ mất chỗ cuối, thêm vào một đoạn chiêu an, làm cho rõ tội của triều đình, quy công về giặc cướp, thậm chí nghĩ đem hai chữ “Trung Nghĩa” nêu cho họ, sau mà khéo phạm thượng tác loạn đến điều, mà chẳng viết gì như thế nhỉ?

Những tên sau Thiên Cương, Địa Sát, xét ra không hợp Đạo làm người, sao lại có án văn viết ra lạ lùng dễ mê hoặc lòng người đến thế? Ta muốn làm sao dựng dậy Thi Nại Am mà hỏi cho ra.

Chương 1: Khí thiêng kết tụ sanh khỉ đá – Tâm thành tu niệm đạo nhân gian

Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng, Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng, gọi là Tam Hoàng. Rồi đến vua Phục Hi, Thần Nông, Huỳnh, Nghiêu và Thuấn gọi là Ngũ Ðế.

Thuở ấy, Trung quốc chia làm bốn châu: Ðông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hạ châu, Nam Thiện Bộ châu, Bắc Cư Lư châu.

Ðặc biệt là nơi ven biển lại có một nước tên Ngao Lai. Trong nước ấy có một hòn núi gọi là Hoa Quả Sơn (Núi có nhiều thứ hoa quả lạ) đứng sừng sững giữa trời, bao phủ đồi cây gò đất. Trong cảnh hùng tráng âm u ấy có một tảng đá rất lớn, bề cao ba mươi sáu thước năm tấc, chu vi hai mươi bốn thước, trên mặt có chín lỗ thông thiên, bốn bên có tám hang thông ra rừng rậm!

Thật là một tảng đá dị thường, “Cấu Tạo từ thuở khai thiên lập địa” mà loài người không ai có thể tưởng tượng nổi. Với chiều cao vượt lên muôn vật trên mặt đất ấy tảng đá không bị che khuất, hứng chịu sức nóng và lạnh của nhật nguyệt, lần lần tụ tinh nứt ra một viên trứng đá.

Trong lâu năm, trứng ấy tượng hình, rồi gặp một trận gió lớn nỡ ra một con Khỉ đá, giống tạc hình người, đủ tai, mắt, miệng, mũi và tay chân rất lanh lẹ.

Khỉ đá đi đứng khắp vùng, cặp mắt chói lòa như hai cái đuôi sao Bắc Ðẩu.

Gặp lúc Ngọc Hoàng đang ngự nơi Linh Tiêu điện, thấy hào quang từ địa giới chói lên lấy làm lạ, sai thiên thần đến hỏi:

– Vì cớ gì lúc này nơi trần gian lại có hào quang chói sáng?

Thiên thần không ai biết.

Ngọc Hoàng liền sai Thiên Lý Nhãn, Thuận Phong Nhĩ ra cửa trời xem thử.

Hai thần tuân lệnh đi do xét một lúc, trở về báo:

– Tâu Thiên Hoàng! Hào quang đó là đôi mắt của một con Khỉ đá!

Ngọc hoàng ngạc nhiên nói:

– Cõi trần gian, sao có loài khỉ phi thường?

Hai thần tâu:

– Nơi Ðông Thắng Thần Châu có một hòn đá trên núi Hoa Quả, cảm khí âm dương, chứa hơi nhật nguyệt, nứt ra một trứng đá. Trứng ấy nở ra một con Khỉ, đôi mắt sáng quắc. Mỗi khi hắn ngó lên trời là hào quang chói lọi.

Ngọc Hoàng hỏi:

– Thế thì phải làm cách nào để tiêu diệt luồng nhãn khí đó?

Hai thần tâu:

– Chẳng hề chi! Hiện nay nó đang sống bằng hoa quả. Hạ thần tưởng chắc một thời gian đôi mắt nó sẽ mờ đi.

Ngọc Hoàng an lòng bỏ qua câu chuyện đó.

Thời gian qua trong cánh núi rừng hoang vắng, Khỉ đá đói ăn trái cây khát uống nước suối, ngày dạo khắp núi non, tối tìm hang động ẩn thân, làm bạn với loài hươu nai, khỉ, vượn khác.

Cái thời gian ấy cũng chẳng ai biết là bao lâu, người ta chỉ thấy Khỉ đá lúc ẩn, lúc hiện, Từ nơi này đến nơi khác, lúc ở nơi thanh vắng, lúc lại đến gần những vùng lân cận làng mạc xa xôi, để bắt chước lối sanh hoạt và tiếng nói của loài người.

Cũng trong thời gian đó, Khỉ đá gần gũi với bầy khỉ bạn, tập tành nhau lối ăn nói, xử sự trong có vẻ giống người.

Ngày kia, gặp lúc khí trời nóng bức, Khỉ đá dẫn cả đoàn ra hóng mát nơi bóng cội tùng.

Gió rừng ào ạc, trộn lẩn vối tiếng róc rách của dòng suối chảy xa xa.

Khỉ đá bảo bầy khỉ nhỏ:

– Chúng ta hãy tìm suối nước tắm cho mát.

Bầy khỉ nhỏ tán thành, tung tăng nhảy nhót về phía khe sâu. Ðó là một con khe lớn, nước trong vắt, uốn quanh theo rặng núi.

Bầy khỉ nhỏ nhìn làn nước nhăn mặt bảo nhau:

– Chưa biết khe sâu cạn, sao dám xuống tắm?

Khỉ đá nói:

– Ðứa nào dám xuống trước ta sẽ tôn làm vua.

Cả bầy khỉ đều lắc đầu kinh sợ.

Khỉ đá nói:

– Ðể ta xuống đó cho mà xem.

Dứt lời, co chân nhảy ùm xuống nước.

Nhưng lạ làm sao, vừa lặn khỏi làn nước, Khỉ đá mở mắt ra trông thấy dưới đó là một khoảng không gian trống rỗng. Gần đó có một chiếc cầu ẩn khuất trong kẹt đá. Bên cầu cũng cây cũng trái xanh tươi, dưới cầu cũng nước trong veo chảy nghe róc rách. Cảnh lạ đó gợi vào tánh tò mò, Khỉ đá uốn mình nhảy vọt lên cầu, chạy ngược vào trong. Càng vào sâu, phong cảnh càng thêm u nhã.

Bên trong, sừng sững một toà nhà rộng lớn, trước cửa cổ một tấm biển, khắc mấy dòng chữ:

” Hoa Quả Sơn phước địa

Thủy Liêm động, động thiên “

Nghĩa là:

” Núi hoa qua đất phước

động Thủy Liêm hang trời “

Vừa bở ngỡ vừa mừng thầm, Khỉ đá trở lại cầu, tung mình nhảy lên mặt nước, mặt mày hân hoan, nhìn lũ khỉ nhỏ khịt mấy cái.

Lũ khỉ nhỏ thấy Khỉ đá ló đầu lên, đã vội xúm đến, quấn quít hỏi:

– Suối nước sâu cạn? Có gì lạ chăng?

Khỉ đá nói:

– Không sâu, không cạn, vì dưới đó không phải nước mà là một cảnh phi thường.

Lũ khỉ nhỏ ngạc nhiên, nhao nhao hỏi:

– Cảnh thế nào mà phi thường?

Khỉ đá vừa đưa tay ra dấu vừa giảng giải:

– Có một cái cầu rất đẹp, bên cầu cỏ một tòa nhà uy nghi, lộng lẩy.

Một con trong lũ khỉ nhỏ hỏi:

– Trong ngôi nhà ấy có giêng gì chiếm cứ chăng?

Khỉ đá nói:

– Không có gì cả! Chỉ có lò, chén, nói, chảo, giường, ghế. Tất cả đều bằng đá.

Nghe chuyện lạ, bầy khỉ nhỏ hớn hở nói:

– Thế thì chúng ta đem nhau xuống đó làm chổ dung thân tránh cơn mưa gió phủ phàng nơi núi rừng hoang lạnh.

Khỉ đá gật đầu:

– Ðúng vậy! Trời đã dành riêng chổ đó cho chúng ta, bỏ qua uổng lắm.

Bầy khỉ nhỏ nói:

– Vậy anh nhảy xuống trước, chúng tôi theo sau.

Khỉ đá co chân nhảy ùm xuống, lũ khỉ con răm rắp nhảy theo.

Chúng vừa nhảy xuống hang, vội vã lên cầu, chạy qua toà nhà lớn.

Rồi cùng nhau vào, đùa bưng nồi, đứa lấy chén, đứa lên giường, đứa xuống bếp, lăn xăn..phá phách một hồi rồi ngồi lại rung đùi, nhịp vế.

Khi ấy Khỉ đá mới gọi cả lũ vào hỏi:

– Lúc còn ở trên núi, chúng ta có hứa nhau, ai xuống trước sẽ tôn làm vua, bây giờ bây quên lời đó sao?

Lũ khỉ nhớ trực lại, vội vàng đến trước mặt Khỉ đá quì xuống, tôn làm đại vương.

Khỉ đá mỉm cười truyền rằng:

– Từ nay, ta làm vua lấy hiệu là Mỹ Hầu Vương, phong cho Vượn và Khỉ Ðột làm tả, hữu Thừa Tướng.

Khỉ đá cùng ở với các khỉ con, sống trong cảnh thanh nhàn, sáng lên chơi núi Hoa Quả, chiều về ngủ động Thủy Liêm, không còn chung chạ với các thú nơi rừng núi hoang lạnh. Hưởng phước lạc gần ba trăm năm.

Một hôm trời trong gió mát, lũ khỉ bày tiệc linh đình, vui chơi hỉ hả. Nhưng Khỉ đá không vui, đôi mắt lờ đờ nhìn mây gió rồi hai dòng lệ tuôn ròng. Lũ khỉ con ngạc nhiên hỏi:

– Tiệc vui này, có điều gì làm cho Ðại vương buồn chán?

Khỉ đá gạt lệ nói:

– Ta nay tuy sung sướng nhưng còn lo nghĩ nhiều về mai hậu

Bọn khỉ cười nói:

– Thế này là chúng ta diễm phúc lắm rồi, có nhà cao cửa rộng, có hoa quả bốn mùa, ấm no đầy đủ, còn đòi gì hơn?

Khỉ đá nói:

– Các ngươi thấy sao mừng vậy, đâu nghĩ gì đến ngày mai! Tuy ta sống ẩn náu nơi động, không vướng phép vua, không sợ loài thú dữ, nhưng rồi chúng ta có thể sống mãi không già chăng? Chừng đó tử thần chờ trước cửa, làm sao giữ lại những ngày vui như vậœy?

Bầy khỉ nghe hỏi, đứa nào cũng sợ chết ngồi khoanh tay rầu rĩ!

Giữa lúc ấy, một con vượn già ngồi phắt dậy nói lớn:

– Ðại vương biết trước lo xa, quả là phi phàm vậy! Trên đời ai tránh khỏi chết, trừ ba bậc: Tiên, Phật, Thánh Thần, có phép TSnh bất tử kia.

Hầu vương nghe nói, hỏi:

– Ba bậc ấy ở đâu, nhà ngươi có biết chăng?

Vượn tâu:

– Bậc siêu phàm ấy thường ở nơi non tiên, động đá.

Hầu Vương như nhẹ cơn buồn, khoan khoái nói với các khỉ nhỏ:

– Mai này ta từ giả các ngươi, thả bước phiêu lưu nơi chân trời, góc biển, tìm cho kỳ được thuốc TSnh bất tử.

Bầy khỉ rú lên khen:

– Hay lắm! Ðại vương đi thành công, chúng ta sẽ được sống mãi, an hưỡng nơi động này.

Một khỉ đột nói:

– Chúng ta hãy cùng lên núi Hoa Quả tìm nhiều trái quý về thết tiệc tiễn hành Ðại vương.

Lũ khỉ nhỏ gật đầu hy vọng vị Ðại vương của chúng sẽ tìm ra thuốc TSnh bất tử, cứu cho cả loài tránh khỏi cái chết.

Sáng hôm ấy chúng rủ nhau lên núi Hoa Quả hái trái đem về, nào là bàn đào, quả mận, nào là hạ lê, hoài sơn, huỳnh tính đặt tiệc ê hề.

Hầu vương ngồi trước, dưới là quan chức, tiếp đến là khỉ con vừa ăn vừa đàm luận suốt ngày, không qua câu chuyện TSnh bất tử.

Hôm sau, Hầu vương dậy sớm, bảo lũ khỉ bẻ nhiều tre kết làm bè. Rồi từ giả, chống bè ra biển cả, mặc cho gió dập sóng dồi, đêm sương ngày nắng!

Trót mấy ngày bơ vơ trên mặt biển, Hầu vương nhìn chân trời bát ngát bao la, không biết đến nơi nào, đành nhắm mắt ngồi liều, phó mặc cho trời đất! Gió ngàn vi vút thổi, khiến bè tre tấp vào bến Nam Thiện Bộ Châu. Nghe tiếng chim kêu lẩn với tiếng người văng vẳng, Hầu vương mở bừng mắt, xem thấy đất bằng, làng mạc lưa thưa, lòng mừng khắp khởi.

Hầu vương bỏ bè bước lên bờ, mấy ngư phủ vừa thấy, ngỡ là loài yêu quái rùng rùng bỏ chạy! Một ông lão khiếp đảm, quýnh chân nằm chết điếng trên bải biển. Hầu vương chạy tới lột hết quần áo mặc vào, giả người đồng nội, lần mò đến tỉnh thành, học thêm tiếng người xứ ấœy.

Rồi Hầu vương lại tiếp tục cuộc hành trình ngày đi, đêm nghĩ cố tìm cho được động Tiên, cửa Phật.

Nhưng than ôi! Ði mãi chỉ gặp bọn đồ đanh, mưu lợi, không hề biết đạo là gì!

Hầu vương lưu lạc chín năm vất vả, vượt núi băng ngàn mà chưa đem lại một kết quả nào! Lòng buồn chán ngán!

Mấy tháng sau, đi đến Tây Dương biển cả. Hầu vương nhìn ra khơi mây nước bao la, lòng thầm nghĩ:

– Ta đi khắp bốn phương trời, sá gì mặt biển này?

Nghĩ vậy, Hầu vương tìm cây kết bè chống ra ngoài khơi, phó mặc cho mưa gào gió thét.

Sóng vỗ bè trôi, Hầu vương ngày nào cũng chỉ thấy mây xanh và nước biếc! Thĩnh thoảng một vài con cá rựa chạy sóng sượt trên mặt nước. Hầu vương tưởng là Hà thần hiện lên. Có lúc trời chớp lạch, Hầu vương cũng ngỡ là thần tiên hiện đến!

Mấy ngày sau, bè trôi đến miền Tây Ngưu Hạ Châu, Hầu vương lại bõ bè lên bờ, xảy thấy núi cao chót vót, cây cối sum suê, hoa tươi xinh đẹp liền dừng bước lẩm bẩm:

– Núi cao, may ra có ” Thánh, Thần, Tiên, Phật “

Hầu vương quay lên núi, thoan thoát chuyển từ cây này qua cây nọ, đu dây vượt suối, không bao lâu đến đĩnh núi.

Nhưng nhìn quanh quất cũng chỉ thấy toàn là cây núi mênh mông, gió rừng rào rạc, không có bóng dáng “thần tiên”.

Hầu vương ngồi lên tảng đá, ngước mặt than:

– Thánh thần, Tiên, Phật nào hiểu được lòng ta, lòng của kẻ chân thành đang ngày đêm mơ ước!

Dứt lời, Hầu vương định xuống núi. Bỗng có tiếng hát từ xa vọng lại:

Non xanh rừng rậm,

Gió vàng reo, lấm tấm lá khô bay

Mộng đời, vừng mây bạc

Lòng đời, chung rượu say!

Nghêu ngao vui thú đêm ngày

Búa Tiên củi quế, miễn đầy gánh thôi.

Gặp Tiên thỏ thẻ đôi lời

Ðâu nơi Cực lạc đâu nơi Huỳnh đình

Nghe tiếng người hát, Hầu vương mừng quýnh lên, lảm nhảm:

– Thần tiên đây rồi! May lắm!

Liền chạy men theo tiếng hát. Ðến nơi, thấy lão tiều đang hái củi, Hầu vương bước tới thi lễ và cung kính thưa:

– Dệ tử đến ra mắt, có điều chi thất lễ xin thần tiên lượng thứ!

Lão tiều vội bỏ búa, nói:

– Chao ôi! Ông lầm rồi, tôi vốn người nghèo khổ, làm nghề hái củi đổi gạo nuôi thân, có đâu được bậc phi thường ấy!

Hầu vương ngơ-ngác nói:

– Lạ thật, người không phải thần tiên, sao nói chuyện thần tiên lưu loát vậy?

Tiều phu phì cười, hỏi:

– Tôi nói chuyện thần tiên bao giờ?

Hầu vương nói:

– Tiếng ca vừa rồi, tôi có nghe ông hát:

Gặp Tiên thỏ thẻ đôi lời

Ðâu nơi Cực lạc đâu nơi Huỳnh đình

Rõ ràng tiều ông là tiên vậy!

Tiều lão cười, đáp:

– Tôi không giấu gì ông, bài ca ấy của Tiên ông dạy tôi để hát cho khuây khỏa trong giờ mệt nhọc, không ngờ lọt đến tai ông, chắc tôi phải chịu lời khiển trách!

Hầu vương hỏi tiếp:

– Vậy thì Tiên ở đâu, xin tiều lão chỉ hộ cho.

Tiều phu nói:

– Tiên ông hiện ở tại xóm tôi. Cáeh đây không xa mấy, có một dãy núi tên là Linh Ðài phương thốn sơn, trong có động Tà Nguyệt Tam Tinh, Tiên ông hiệu là ” Cu Bồ Ðề Tổ Sư “, ở đấy thu nhận đồ đệ rất nhiều, song các đồ đệ bị đuổi cũng không ít, hiện nay chỉ còn ước độ ba bốn mươi. Ông muốn đến đó phải theo đường nhỏ qua hướng Nam, chừng bảy tám dậm, là tới động.

Hầu vương nhìn ông tiều năn nỉ:

– Ðường đi đến động ngoằn ngoèo dễ lộn, mong ông thương đến, dẫn tôi cùng đi về xóm, tôi xin hậu tạ.

Tiều lão lắc đầu đáp:

– Giúp ông tôi không nệ công lao, ngặt vì tôi còn cha mẹ già, sớm chiều lo phụng dưỡng, phải ở lại hái củi đổi gạo, không tiện làm vừa lòng ông!

Nghe lão tiều than, Hầu vương cảm động, đành phải bái biệt ra đi.

Núi rừng thăm thẳm, đá cao chồng chất, chông gai hiểm trở. Hầu vương vốn quen miền sơn dã, đi riết một hồi bảy tám dậm, quả thấy một động lớn, cửa đóng kín không có bóng người thấp thoáng. Trước đó, một bia đá lớn đề mấy chữ ” Linh Ðài phương thốn sơn Tà Nguyệt tam tinh động “

Hầu vương hớn hở, nhảy nhót tung tăng. Nhìn thấy vườn đào xum trái, liền phóc lên hái mấy quả ăn đở lòng.

Giây lát có tiếng động. Một đồng-tử bước ra hỏi:

– Ai cả gan dám vào đây ăn vụng đào?

Hầu vương vội vã nhảy xuống nói:

– Tôi từ xa tìm đến đây học đạo, không phải kẻ tộm đào, xin tôn huynh hiễu cho.

Ðồng-tử nghi ngờ Hầu vương, nói:

– Anh thật lòng đến đây, tìm sư học đạo sao?

Hầu vương thưa:

– Ðường xa ngàn dặm, không ngại gian lao, ngày đêm lặn lội, tôi chỉ mong được làm đệ tử nơi này.

Ðồng tử nhìn tướng mạo Hầu vương, mỉm cười, nói:

– Sư phụ vừa thức dậy, sửa soạn giảng kinh, dạy tôi ra rước người tu niệm, có lẽ anh đây là phải?

Hầu vương mừng thầm, reo lên:

– Tiên ông quả là bậc tiên tri, xin tôn huynh đừng ngần ngại. Chính là tôi vậy.

Ðông tử gật đầu bảo:

– Ngươi cùng tôi vào ra mắt sư phụ.

Hầu vương tươi cười, nhí nhảnh theo đồng tử vào động, nhìn thấy quang cảnh uy nghiêm, nào cung châu, điện ngọc, nào phòng đọc sách, nào chổ giảng kinh, đâu đó trang hoàng rực rở. Thẳng đến trước Ngọc đài, thấy Bồ Ðề Tổ Sư ngồi trên ghế cao, bên dưới đệ tử đứng hầu hơn ba chục.

Hầu vương bước đến sụp lạy lia lịa, và thưa:

– Tiện nhân mộ đạo đến đây, xin ra mắt thầy.

Tổ Sư hỏi:

– Ngươi tên họ là chi? Từ đâu đến?

Hầu vương thưa:

– Tôi ở Ðông Thắng Thần Châu, núi Hoa Quả, động Thủy Liêm.

Tổ Sư nạt lớn:

– Kẻ ăn nói trớ trêu, tu hành sao được. Mau đuổi nó đi!

Hầu vương sợ sệt vừa lạy vừa nói:

– Lòng thành thật đâu dám trớ trêu, kính mong thầy thương xót.

Tổ Sư nói:

– Ðường từ Ðông Thắng Thần Châu đến đây cách hai cửa biển, và một cõi Nam Thiên Hạ Châu làm sao nhà ngươi đi được?

Hầu vương thỏ thẻ thưa:

– Tôi dùng tre kết bè, vượt qua hai cửa biển, trèo non lặn lội hơn chín năm trời mới đến đây, cúi xin thầy đoái tưởng.

Tổ Sư nói:

– Ngươi đi lâu ngày là phải! Vậy nhà người tên gì?

– Tôi không có danh tánh. Nhưng ai rầy tôi không giận, ai đánh tôi không hờn.

Tổ Sư cau mày nói:

– Ta muốn biết danh tánh nhà ngươi, ngươi khai chi về tính nết.

Hầu vương thưa:

– Thưa thầy, tôi không cha mẹ!

Tổ Sư nói:

– Người sao không có cha mẹ, không lẽ cây đá sanh ngươi sao?

Hầu vương thưa:

– Ðúng vậy! Nguyên nơi núi Hoa Quả có hòn đá lớn, kết tinh nhật nguyệt lâu ngày, rồi một đêm mưa vang lên tiếng nổ, đá ấy nứt hai, sanh ngay tôi từ lúc đó.

Nghe nói, Tổ Sư mừng thầm hỏi:

– Như vậy là thiên địa cấu tạo ra ngươi. Thôi ngươi hãy đi qua lại cho ta xem nào.

Hầu vương đẹp dạ, đứng phắt lên chạy qua lại vài lần, rồi quỳ xuống nghe dạy.

Tổ Sư cười nói:

– Nhà ngươi bộ tịch hệt như khỉ. Ðể ta xét theo diện mạo mà đặt tên cho.

Hầu vương sụp lạy tạ ơn. Tổ Sư nói:

– Ta muốn theo hình dung nhà ngươi, đặt họ Hồ nhưng vì chữ hồ bõ khuyển bằng chỉ còn chữ cổ, chữ nguyệt. Cổ nguyệt có nghĩa là trăng già không tốt. Thôi ta đặt cho ngươi họ Tôn, chữ tôn bõ khuyển bằng còn chữ tử, chữ hệ là còn trẻ, còn lớn, còn khôn, tốt lắm!

Hầu vương mừng rỡ cúi đầu lạy tạ và thưa:

– Mong thầy luôn tiện mở lượng từ bi đặt tên luôn cho tôi, để dễ gọi lúc sai khiến.

Tổ Sư nói:

– Trong đạo có mười hai chữ người ta thường dùng ” Quảng, Ðại, Trí, Huệ, Chơn, Như, Tánh, Hải, Ðĩnh, Ngộ, Viên, Giác. Trong mười hai chữ đó tính dồn tới ngươi nhằm vào chữ Ngộ.Vậy ta đặt tên ngươi là Tôn Ngộ Không.

Hầu vương khoái ý cười:

– Tốt lắm! Tốt lắm! Từ nay tôi mới biết được tên, xin chịu gọi là Ngộ Không.

Chương 2: Phép nhiệm nhờ thầy truyền bí thuật – Tài cao về xứ giết yêu ma

Hầu vương từ ngày được tên họ, Tổ Sư truyền học trò đem ra ngoài dạy nghi lễ, cách ăn ở, lối cử xử. Và giao việc quét trước dọn sau, tưới hoa nhổ cỏ, làm suốt gần bảy năm trời.

Một hôm trời trong gió mát, nắng dịu lướt qua cửa sổ, rọi vào điện ngọc long lanh, như thiên tào nhìn xem cuộc giảng kinh nơi tiên động. Tổ Sư ngồi trên, dưới điện học trò lẵng lặng nghe lời giảng dạy.

Ngộ Không nghe kinh thấm ý, cào tai, gải mắt, trợn mắt nhướng mày, khoa tay múa chân đến nổi nhảy dựng ra ngoài hàng mà không biết.

Tổ Sư ngạc nhiên kêu hỏi:

– Nhà người sao vô lễ vậy? Mau vào hàng nghe giảng đạo.

Ngộ Không thưa:

– Ðệ tử nghe lời thầy giảng giải hay quá, khiến cho lòng thành thích ý, nhảy múa không hay.

Tổ Sư nói:

— Ngươi biết được lời hay của kinh giảng, vậy người ở đây bao lâu rồi, có biết chăng?

Ngộ Không thưa:

– Ðệ tử thưa biết mấy năm mấy tháng. Chỉ nhớ hái củi trên núi này, gặp đào chín ăn được bảy mùa.

Tổ Sư vừa cười vừa nói:

– Núi ấy, tên gọi Lang Ðào mỗi năm một mùa trái chín, mà ngươi ăn được bảy mùa, là bảy năm rồi đó. Nay ngươi đã có trí nhớ ta muốn truyền dạy, chẳng biết ngươi thích học môn nào?

Ngộ Không thưa:

– Mang ơn thầy dạy bảo, đệ tử xin tùy sự lựa chọn của thầy.

Tổ Sư nói:

– Phép đạo có 360 cửa, ngươi có thích học phép chư thuật không?

Ngộ Không thưa:

– Phép ấy ra sao?

Tổ Sư nói:

– Phép này biết trước mọi việc lành dữ, phước đức.

Ngộ Không thưa:

– Vậy có sống lâu đời đời chăng?

Tổ sư nói:

– Không thể sống lâu đựợc!

Ngộ Không lắc đầu không chịu học.

Tổ Sư hỏi:

– Vậy ngươi chịu học phép chư lưu chăng?

Ngộ Không thưa:

– Phép ấy thế nào xin thầy cho biết?

Tổ Sư nói:

– Phép chư lưu làm được thầy, được thuốc được vái và tụng kinh niệm Phật…v.v

– Phép ấy có sống đời đời chăng?

Tổ Sư nói:

– Học phép này muốn sống đời, có khác nào trồng cột, tô vách!

Ngộ không sầm nét mặt suy nghĩ giây lâu, rồi nói:

– Thưa thầy, đệ tử vốn người dốt nát không thấu nổi lời cao kỳ, mong thầy phân rõ.

Tổ sư nhìn Ngộ không như dò ý, nói:

– Ngươi muốn cất nhà cao, trồng cột vào vách, ngoài xây tường. Tuy nhà chắc không ngã, nhưng khi hư rồi, cột nằm trong vách cũng mục nát luôn.

Ngộ không buồn bã đáp:

– Việc không bền, tôi không học, xin thầy thứ tội.

Thấy Ngộ không buồn, Tổ Sư bảo tiếp:

– Không hài lòng, ta sẽ dạy cho phép chư linh có sao đâu mà buồn vậy.

Ngộ không ngước mặt lên, nhìn Tổ Sư như van xin:

Phép ấy thế nào? Nhờ thầy dạy bảo?

Tổ Sư đáp:

– Phép tịch cốc này gọi là tham thiền, chỉ ngồi làm thinh tịnh dưỡng tinh thần thôi.

Ngộ Không hỏi vội:

– Ngôi làm thinh tịnh dưỡng, có thể sống hoài được chăng?

Tổ Sư nói:

– Theo phép này, như đất mới vổ để vào lò gạch.

Ngộ Không ngớ ngẩn hỏi:

– Như thế nghĩa là sao? Xin thầy giảng rõ?

Tổ Sư phì cười:

– Ðất tuy vổ nên hình tấm gạch, song mới để lên lò chưa nung chín, đem ra dùng gặp nước phải rả.

Ngộ Không lắc đầu ý không chịu học.

Tổ Sư bảo:

– Nếu không muốn học chữ tịnh ta lẽ dạy chữ động cho.

Ngộ Không liền cúi đầu thưa:

– Thưa thầy, bất kể động, tịnh, miển được TSnh bất tử tôi xin thọ giáo.

Tổ Sư nghiêm nét mặt nói:

– Phép ấy, uốn mình, bẻ xương, luyện hơi thở, uống thuốc kim đơn khỏi bệnh, được sống lâu muôn thuở. Mà phép TSnh đó chẳng khác nào trăng dưới nước!

Ngộ Không vừa mừng vừa ngại, hỏi:

– Ðó, thầy vẫn giấu mẹo hoài, đệ tử biết đường nào theo!

Tổ Sư nói:

– Trăng trên trời rọi xuống nước, tuy có bóng nhưng không có thật.

Ngộ Không ngước lên nhìn Tổ Sư thưa:

– Vật như hư, đệ tử theo học cũng hoài công vô ích!

Tổ Sư đập bàn hét lớn, tay cầm thước bước xuống ghế, chỉ vào mặt Ngộ Không nói:

– Khỉ đột, phép nào cũng chê, mà còn đòi hỏi gì?

Dứt lời, gõ óc Ngộ không ba cái, chắp tay sau đít quay vào phòng đóng cửa.

Các môn đệ đều thất kinh! Kẻ oán Ngộ Không, người lo thầy giận.

Còn Ngộ Không chẳng hề sầu não, lại cười giỡn tươi vui.

Vì Ngộ Không biết thầy ra dấu: ” Ðến canh ba lén vào cửa sau vô phòng thầy truyền phép “.

Ðêm hôm ấy, Ngộ Không nằm giả ngủ, chờ mọi người ngon giấc, lén dậy, ngồi nhìn ra cửa sổ. Bấy giờ mây cuộn sao mờ, trăng tà sương đổ, chốc chốc có tiếng gió thổi rì rào, như báo hiệu một đêm đầy hy vọng.

Ngộ Không đợi đúng canh ba lén vào ngõ sau, thấy cửa mở hé một cánh.

Bước vào phòng, Ngộ Không thấy thầy đang quay mặt vào vách ngủ liền quì sát bên giường không hề kinh động. Một lúc sau, Tổ Sư thức dậy duỗi chân ra ngâm mấy vần thơ:

Nhật nguyệt phôi pha nặng cõi trần

Nhàn lai vô sự kiếp tiên nhân

Linh đơn đạo thuật hầu chưa dễ

Chỉ dễ cho ai được hưởng phần

Lời thơ vừa dứt, Ngộ Không cất tiếng thưa:

– Tôi đến chờ thầy từ lúc gà giục gáy.

Tổ Sư nghe Ngộ Không nói, ngồi dậy nạt lớn:

– Loài khỉ, giờ này chưa ngủ, còn đến đây làm gì?

Ngộ Không cúi đầu cung kính thưa:

– Lúc ban ngày thầy có dạy tôi, vào khoảng canh ba lén đến ngỏ sau thầy truyền phép, nên tôi mới bạo dạn vào phòng giữa lúc đêm khuya, xin thầy lượng thứ.

Tổ Ssư nghe nói, thầm nghĩ:

– Thằng này quả làa trời sanh, không phải phàm tục, nên đoán được mẹo ra dấu của ta.

Ngộ Không thấy Tổ Sư trầm ngâm suy nghĩ, liền hỏi:

– Ở đây không có ai, xin thầy truyền phép, tôi chẳng dám quên ơn.

Tổ Ssư nói:

– Ta mến người có phúc, thương kẻ thành tâm. Vả lại ngươi đã đoán ra mẹo của ta, rõ là kẻ phi thường, ta sẳn lòng truyền phép TSnh bất tử cho.

Ngộ Không vui mừng, lạy tạ, rồi quì bên giường nghe lời chỉ dạy.

Tổ Sư giảng những câu khó hiểu, tưởng như Ngộ Không chậm biết.

Nhưng Ngộ Không vốn trời sinh ra có khiếu thông minh sẳn. Vả lại, ở động tiên lâu ngày đã am tường lời của Tổ Sư, nên Ngộ Không nghe qua thì hiểu liền, bèn lạy tạ lui ra nhà trước, ngồi lâm râm môt mình học thuộc lòng. Từ đó cứ đêm đến canh ba, ngày thì đứng bóng, Ngộ Không lén vào thọ giáo tập luyện mãi được ba năm.

Một hôm, Tổ Sư đang giảng kinh nói về việc báo ứng nhân quả, khái lược đại cương, trực nhớ đến Ngộ Không, liền hỏi:

– Ngộ Không đâu, có mặt đây chăng?

Một tiếng dạ trong đám môn đệ vang lên, Ngộ Không bước đến quì thưa:

– Tôi có đây, thầy cần điều gì dạy bảo?

Tổ Sư nói:

– Bấy lâu luyện ngươi đã luyện tập như thế nào?

Ngộ Không thưa:

– Mấy lời thầy dạy đệ tử ngày đêm luyện tập không thiếu sót điều chi.

Tổ Sư đưa mắt nhìn đám môn đệ rồi quay lại nói:

– Tuy ngươi đã thông suốt nguồn cơn, nhưng con ba điều tai nạn đáng lo!

Ngộ Không hồi hồi suy nghĩ. Một lúc sau mới nói ra lời:

– Trong kinh dạy ai học được phép tiên, sánh cùng trời đất, sống lâu muôn thở, tinh thần đầy đủ, không bao giờ bệnh hoạn. Sao còn điều tai biến nào nữa, xin thầy chỉ cho đệ tử biết.

Tổ Sư mĩm cười, nói:

– Ðạo tiên mênh mông rộng lớn! Ai cướp máy tạo hoá, cải định mệnh trời, quỉ thần không lượng thứ. Nay ngươi vừa luyện đặng phép sống lâu nhưng khó bề tránh khỏi! Thầy đã đoán biết năm trăm năm về sau, ngươi sẽ bị trời đánh. Nếu ngươi tránh khỏi thì năm trăm năm nữa bị trời đốt. Lửa ấy không phải của trời hay của người, mà do âm khí xông lên, từ bàn chân ngươi ót thấu óc, ngủ tạng đều cháy ra tro, rất uổng công tu luyện! Ngươi có thần thông tránh qua được tai hoạ ấy, thì cách năm trăm năm nữa, trời cho gió thổi. Gió này độc dữ, không phải gió của bốn phương, mà gió phát xuất từ óc ngươi thổi ngược về quả đất, đi qua lục-phủ ngủ tạng, lồng vào cửu khiếu, làm cho thịt xương rời rã! Vậy ngươi nhớ lấy lời này, tránh ba tai nạn, kẻo bỏ mình!

Nghe nói Ngộ Không rởn ốc quì xuống thưa:

– Trăm lạy thầy, mở lượng từ bi thương người chân thật, truyền thê m phép lạ, tránh ba điều tai nạn. Tôi nguyện thọ ơn thầy trọn đời.

Tổ Sư cảm động nói:

– Ðiều đó tưở ng chẳng khó gì, chỉ sợ nhà ngươi không gia công luyện tập.

Ngộ Không mừng rỡ vội sụp lạy, thưa:

– Lâu nay lòng tôi mong ước luyện được phép trường sinh bất tử dầu khó khăn gian lao, quyết không sờn chi.

Tổ Sư nói:

– Ðạo tiên có ba mươi sáu phép thiên cang, bảy mươi hai phép địa sát. Nhà ngươi muốn luyện phép nào?

Ngộ Khôngó thưa:

– Tôi xin gắng công học bảy mươi hai phép địa sát để được rộng bề tiện dụng.

Tổ Sư liền gọi Ngộ Không đến gần tai nói nhỏ một hồi. Các môn đệ ngơ ngác không hiểu nói gì có lẻ nhìn Ngộ Không như ganh ghét, có người muốn tò mò nghe ngóng.

Ngộ Không đã sẳn thông phép trước, nên nhớ ngay dễ dàng không một lời thiếu sót.

Từ đó Ngộ Không ngày đêm lo luyện tập bảy mươi hai phép biến hóa thần thông…

Một chiều nắng êm, gió dịu. Vườn đào lá rung rào rạc, cánh bướm chập chờn với muốn hoa đua nở. Trước động, Tổ Sư ngồi xem học trò thi nhau luyện môn vật lộn. Ngộ Không ngứa nghề tung tăng chạy từ chổ ngay qua chỗ khác..

Tổ Sư thấy thế hỏi:

– Bảy mươi hai phép, nhà ngươi luyện tập xong chưa, mà mãi lo nhảy nhót vậy?

Ngộ Không thưa:

– Nhờ ơn thầy truyền phép, tôi luyện tập không sót môn nào, ngoài ra còn bay được lên không trở về như chim én.

Nghe nói, Tổ Sư gọi lại bảo:

– Hãy bay thử ta xem nào?

Ngộ Không co chân nhảy vọt lên không, bay được hơn ba dậm, rồi quay về đáp trước mặt Tổ Sư, và nói:

– Thưa thầy, đằng vân như vậy đã đúng phép chưa?

Tổ Sư cười lớn nói:

– Lối bay của ngươi là vong vân, chưa phải đằng vân. Phép đằng vân của thần tiên ” Sớm mai ” ở biển Bắc, chiều trở lại Thương Ngô. Mỗi ngày đi khắp bổn biển.

Ngộ Không thưa:

– Theo lời thầy nói, thì phép đằng vân khó lắm.

Tổ Sư nói:

– Trên đời không có việc gì là khó. Chỉ kkhó ở lòng người không chịu cố công.

Ngộ Không hăm hở đến thưa:

– Lượng thầy đã mở, chỉ còn chút phép đằng vân, xin thầy thương tình chỉ dạy.

Tổ Sư bảo Ngộ Không đứng dậy và nói:

– Phép đằng vân của thần tiên, phải ngồi xếp bằng niệm chú bay đi, khác với lối nhảy dựng của ngươi khi nãy. Ta sẽ dạy cho phép Cân Ðẩu Vân bay nhanh hơn tên bắn.

Ngộ Không đắc ý, tưởng như mình đang ngồi tít trên mây xanh đôi mắt mơ màng thích thú.

Tổ Sư ghé vào tai Ngộ không truyền thần chú, và bảo:

– Hãy niệm chú cho mau!

Ngộ Không y lời niệm chú, hai tay nắm chặc lại. Bỗng thân mình vụt bay lên, như vũ bão, giây lát quay về tính hơn mười muôn dặm.

Ðoạn thầy trò đem nhau về động. Ðêm ấy Ngộ Không tập luyện thông thạo. Tổ Sư lòng mừng, được người học trò phi phàm, tuyệt thế.

Từ đó, Tổ sư không còn hỏi han, hay nhắc nhở gì đến Ngộ Không nữa. Dođó Ngộ Không được tự do hiên ngang trời bể, sáng đến núi đào, chiều về tiên động.

Một hôm, các học trò cùng chơi dưới cội tùng, thấy Ngộ Không xúm đến, vổ vai hỏi:

– Hiền hữu tốt phước quá được thầy dạy bảy mươi hai phép biến hoá, nay luyện tập đã tinh thông chưa?

Ngộ Không cười vuốt vai các bạn nói:

– Tình bạn không giấu nhau làm gì. Kể ra nhờ thầy chỉ dạy, tôi tập tành gắng công, nên phép nào cũng được tinh xảo.

Các môn đệ rối rít bảo:

– Nay thì giờ nhàn rổi hiền hữu thử ít phép coi chơi.

Ngộ Không vui vẻ đáp:

– Muốn thử phép chi các bạn cho biết?

Các môn đệ lanh quanh bàn tán. Sau cùng bảo Ngộ Không:

-Muốn xem hiền hữu biến ra cây tùng được chăng?

Ngộ Không liền niệm chú lâm râm, rùng mình một cái. Thốt nhiên hiện ra cây tòng, lá xanh cành rậm.

Bọn môn đệ thấy phép lạ, vổ tay reo hò vang dậy.

Tiếng vang vọng đến tiên điện. Tiên ông chống gậy bước ra hỏi:

– Chuyện chi reo hò như vậy?

Nghe Tổ Sư hỏi, Ngộ Không thất kinh, hiện nguyên hình chạy vào nhập bọn.

Các môn đệ bước đến cúi đầu thưa:

– Chúng con chơi nhau vui miệng reo cười, mong thầy thứ lổi.

Tổ Sư nghiêm nét mặt quở:

– Bay la ré vang rền, làm náo động nơ i tiên cảnh, sao gọi là tu hành.

Lũ môn đệ sợ sệt thưa:

– Chúng tôi không dám giấu thầy, vì nghe Ngộ Không luyện được phép biến hoá thần thông, nên khi nảy có bảo Ngộ Không hoá ra cây tùng xem chơi. Ngộ Không chỉ niệm chú, rùng mình một cái đã hoá ra cây tùng sừng sững, vươn mình theo gió. Phép lạ khiến chúng tôi không nhịn cười được

Nói xong, cả bọn bước đến cúi đầu răm rắp lạy.

Tổ Sư nói:

– Thôi, chúng bay chờ đây.

Ðoạn gọi Ngộ Không tới mắng:

– Sao nhà ngươi đã vội khoe khoang, biến ra cây tùng cho chúng coi? Khi người ta biết ngươi pháp thuật cao cường, đem lòng ganh ty. đồ mưu ám hại thì còn gì!

Ngộ Không khiếp sợ, sụp lạy thưa:

– Ðệ tử non lòng dại dột? Mong thầy thương tình tha lổi.

Tổ Sư nói:

– Ngươi là đứa khoe khoang, gàn dở, ta không quở phạt làm gì, song ngươi phải ra khỏi chốn này.

Ngộ Không nghe thầy nói, khóc tức tửi thưa:

– Xin thầy mở lượng từ bi dung thứ cho đệ tử được gần thầy ngày đêm hầu hạ. Nếu thầy quyết đuổi, đệ tử biết về đâu!

Tổ Sư lắc đầu nói:

– Thuở trước ngươi ở đâu, nay về đó cho an phận.

Ngộ Không sực nhớ cảnh củ, nhưng không muộn về cứ đứng khóc lóc van xin mãi:

– Sống nơi đây hơn mấy năm trời, mến thầy nhớ bạn, lẻ nào nhất đán thầy nỡ đuổi đệ tử về quê để ôm lòng sầu cách biệt.

Ngươi đừng nói nữa vô ích, đi cho kíp thì còn hồn, nán lại ta không dung thứ.

Ngộ Không biết thầy quá giận, khó bề năn nỉ! Ðành phải cúi đầu bái biệt và từ giả các bạn.

Ngộ Không vừa bước chân đi. Tổ Sư kêu nói:

– Ngươi về xứ cũ ắt làm việc chẳng lành, nhưng lành hay dữ tùy ngươi đeo họa lấy. Ta chỉ cấm ngươi đừng xưng là đệ tử của ta, nếu ngươi nói nữa lời, sẽ bị thu hồi phép và hồn ngươi bị bắt giam cầm nơi địa ngục.

Ngộ Không thưa:

– Lời thầy đã nghiêm cấm đệ tử chẳng dám hở môi.

Sau khi bái biệt, Ngộ Không dùng phép Cân Ðẩu Vân bay một giờ ra tới biển Ðông, nhắm hướng núi Hoa Quả bay về.

Tuy bao năm trời cách biệt, động Thủy Liêm vẫn còn tiếng chim kêu vượn hú, gió ngàn vi vút như tự thuở nào.

Thấy bầy khỉ nhỏ ra vào nơi cửa động, Ngộ Không đáp xuống gọi:

– Chúng bay! Chúng bay đâu! Ta đã về đây.

Nghe kêu, bọn khỉ lớn nhỏ rùng rùng chạy tới có hơn muôn ngàn con đứng vây quanh Ngộ Không, ríu rít hỏi:

– Ðại-vương ơi! Ðại vương có biết xa chúng tôi đã bao năm rồi chăng? Chúng tôi ở nhà trông “bè” Ðại vương như đói cơm, khát nước!

Ngộ Không nói:

– Nhưng quê nhà ta vẫn bình yên chứ?

Bọn khỉ nói:

– Ðộng ta vừa bị một con yêu đến chiếm cứ, chúng tôi đánh không lại, nó giết và bắt rất nhiều. Nếu Ðại vương không về, xứ sở nhà ta sẽ về tay chúng cả!

Ngộ Không nghe nói, lửa giận phừng phừng nói:

– Con quái vật này ở đâu, cả gan phá phách. Ta quyết phanh thây nó trả thù cho chúng bay.

Bầy khỉ nói:

– Nó đến xưng là Hổn Thể Ma vương về hướng Bắc.

Ngộ Không hỏi:

– Từ đây đến đó bao la?

Bầy khỉ thấy Ðại vương mình hăm hở trả thù lòng mừng khấp khởi, đáp:

– Nó nương mây đi tới, theo gió trở về, chúng tôi không biết phương nào! Xin Ðại vương chờ nơi động sẽ gặp nó.

Ngộ Không căm tức, dậm mạnh chân xuống đất nói:

– Ta quyết tìm cho được nó, giết quách đi mới yên tâm.

Vừa dứt lời, Ngộ Không dùng phép Cân Ðẩu Vân bay qua phương Bắc.

Bay giây phút, nhìn thấy núi Khảm Nguyên cao lớn, có tiếng người nói, liền đáp xuống tìm kiếm.

Ngộ Không đi vòng qua núi, thấy một động lớn, đề ba chữ ” Thuỷ Tang động “.

T rước sâu động, mấy con yêu nhỏ tung tăng nhảy múa.

Chúng vừa thấy Ngộ không, sợ sệt bỏ chạy vào trong đóng cửa.

Ngộ không kêu:

– Chúng bay hãy vào báo với Ma vương biết, có ta là Chúa động Thủy Liêm đến vấn tội.

Lũ tiểu yêu nghe nói thất kinh, hối hả chạy vào báo:

– Tâu Ðại vương, họa đã tới rồi! Họa đã tới rồi! Ngoài cửa động một con khỉ đột to lớn, xưng là Chúa động Thủy Liêm đến đây vấn tội Ðại vương.

Hổn Thế Ma vương vẫn điềm nhiên cười nói:

– Ta từng nghe bày khỉ nói, Chúa nó đi tu, có lẽ tiếc bần nên nay về đó. Bay thấy nó có khí giới gì chăng? Và ăn mặc như thế nào?

Tiểu yêu quì thưa:

– Con khỉ này đầu sói, mặc áo đỏ hoe hoe, lưng thắt dây vàng, chân đi giày đen, nữa in trần tục, nữa giống nhà tu, đang diệu võ giương oai, nhưng không khí giới, chỉ múa may không làm trò khỉ ngoài cửa.

Hổn Thế Ma vương nghe xong, mặc giáp cầm siêu, dẫn tiểu yêu xông ra ngoài cửa, hỏi lớn:

– Yêu hầu không biết danh ta sao, dám cả gan đến đây chọc giận?

Nghe nói, Ngộ Không quay nhìn thấy Ma vương mặt áo giáp sắt, đầu đội kim khôi, chân mang hia đen, tay cầm siêu bạc, mình cao ba trượng, lưng lớn mười vây, sức mạnh có thừa, liền chỉ vào mặt Ma vương, hét:

– Loài quỉ sứ mắt to như chân tượng, không thấy được ta sao?

Ma vương cười ha hả nói:

– Ngươi hình thù nhỏ bé, tuổi tác ít oi, đến đây không mang khí giới, dám nói chuyện chống trời, e cho đầu lìa khỏi cổ.

Ngộ Không đỏ mặt, mắng:

– Quân khốn kiếp, ăn cướp động Thủy Liêm, gây tang tóc chẳng lành. Nay gặp ta không biết sửa mình chịu trói, còn buông lời sấc láo!

Ta quyết phanh thây mi ra muôn mảnh.

Nói xong nhảy phốc tới thoi vào mặt Hổn Thế Ma vương. Ma vương lách mình tránh khỏi và nói:

– Hãy khoan! Ta lớn mi nhỏ, ta dùng đao, mi tay không, dù ta thắng cũng mang tiếng cười chê để ta bõ đao đánh cùng mi cho biết sức.

Vừa dứt lời Ngộ không nhảy tới đánh đùa. Ma vương dình dang trở tay chậm chạp, bị Ngộ Không đánh tiếp mấy thoi, mặt mày sưng húp. Ma vương túng thế lấy siêu chém, Ngộ Không lách mình tránh khỏi, rồi bứt năm sợi lông bỏ vào miệng, niệm chú lâm râm, phun ra một cái biến thành vô số khỉ, vây phủ Hổn Thế Ma vương.

Con thì đeo cổ, con cắn tai, con níu chân, Ma vương khiếp đảm tinh thần, day trở không kịp, bị Ngộ Không giật siêu chém làm hai khúc.

Ðoạn kéo rốc vào động giết hết bầy tiểu yêu rồi rùng mình thu lông lại. Ngộ Không tìm các khỉ con bị Hỗn Thế Ma vương bắt nhốt, đem ra ngoài, rồi nổi lửa đốt động Thủy Tang cháy rụi. Thấy động đã cháy, Ngộ Không quay bảo mấy khỉ nhỏ:

– Chúng bây mau mau nhắm mắt, ta làm phép đưa về động.

Bọn khỉ nhỏ đều nhắm mắt, Ngộ Không dùng phép Cân Ðẩu Vân, phát lên một trận gió bay đi ráo. Về tới núi Hoa Quả sa xuống, Ngộ Không bảo lũ khỉ nhỏ mở mắt ra xem. Bầy khỉ mở mắt ra, thấy núi Hoa Quả động Thủy Liêm, lòng hớn hở, dắt nhau vào. Bọn khỉ ở trong động chạy ra đón rước, bày tiệc thết đải.

Vượn và khỉ đột hỏi Ngộ Không:

– Ðại vương đánh với Hỗn Thế Ma.Vương thắng phụ dường nào?

Ngộ Không thuật lại việc chiến thắng vừa rồi. Tất cả khỉ trong động đều vổ tay khen và hỏi:

– Ðại vương tìm học phép tiên nơi nào mà giỏi quá vậy?

Ngộ Không đem chuyện đường xa ngàn dậm, tầm sư học đạo kể lại cho bầy khỉ nghe.

Bầy khỉ reo lên nói:

– Ðại vương phước lớn lắm và có chí mới thành quả như vậy!

Ngộ Không cười nói:

– Bây ơi, ta được thầy tiên cho tên họ mới là vinh dự chớ!

Bầy khỉ nghe Ngộ Không nói có tên họ, xúm nhau hỏi:

– Họ gì vậy, Ðại vượng?

Ngộ không nói:

– Ta nay họ Tôn tên là Ngộ Không, vậy từ nay các ngươi nghe ai nói đến Tôn Ngộ Không là ta đó.

Bầy khỉ vổ tay cười ầm và nói:

– Ðại vương là Ðại Tôn, thì chúng tôi cũng được gọi là Tiểu tôn.

Tiếng cười lại nổi lên, bên ngoài gió rít rào rạc, nguồn vui trở lại với động Thủy Liêm như dạo nào thuở trước.

Chương 3: Thiên động ngàn non đều sợ phép – Diêm quang mười cửa thảy kiêng oai

Từ khi Hầu vương dẹp an Thủy Tang động, giết Ma vương lấy được cây đao lớn, cả ngày cầm coi, lại bảo bầy khỉ nhỏ lấy tre vạt nhọn, làm gươm giáo. Rồi hằng ngày dạy chúng võ nghệ, phân ra đội ngũ, hệt như binh lính của nhà vua.

Một hôm Tôn Ngộ không ngồi than:

– Ở đời lắm kẻ ác tâm, lắm người tham nhũng, không riêng gì Hổn Thế Ma vương. Mà ở động ta toàn thanh tre vạt nhọn, gậy gộc tầm vông, làm sao chống nổi những cuộc chiến bất ngờ xảy đến! Ta muốn tìm khí giới bằng sắt, ngặt không biết nơi nào!

Mấy con khỉ nhỏ sợ sệt ngồi ủ rủ. Chỉ có bốn con khỉ già dõng dạc đến quì thưa:

– Ðại vương muốn tìm khí giới, chúng tôi tưởng không khó gì! Phía Nam núi này cách hai trăm dậm, có nước Ngọa Lai nhiều đồng sắt, lại lắm thợ rèn. Ðại vương đến đó mua đồng sắt, thuê thợ làm binh khí, đem về luyện tập chúng tôi tinh thông võ nghệ, thì có lo gì không chống nổi kẻ thù.

Ngộ Không nghe qua lòng hớn hở, liền niệm chú nổi gió bay qua hướng Nam.

Giậy phút Ngộ Không nhìn xuống thấy chợ búa dẩy đầy lâu đài chất ngất, thành trì to lớn.

Bèn nghĩ thầm:

– Chắc trong thành này có nhiều kho binh khí, ta nên tìm cách lấy một số tiện hơn.

Nghĩ thế, Ngộ Không quay lại hớp hơi bên hướng Tốn, thổi mạnh về hướng Nam.Tức thì gió thổi ầm ầm, cát bay đá chạy, sấm sét vang rền, khiến cho dân chúng thàng Ngọa Lai kinh hồn hoảng vía, kẻ đóng cửa chỏi nhà, người tìm nơi ẩn núp.

Ngộ Không nhảy xưống mở cửa kho, thấy binh khí qua nhiều và đủ cỡ, lòng mừng rỡ nghĩ thầm:

– Chỉ mình ta thì lấy được bao nhiêu cái! Phải dùng phép thần thông mới được.

Liền nhổ nắm lông, niệm chú phun ra biến thành vô số khỉ.

Chúng vào kho vác hết đồ binh khí. Ðoạn Ngô Không bay bổng lên trời, đọc thần chú lâm râm thu hết bầy khỉ đem về động. Bây giờ đồ vũ khí chất chồng la liệt trước cửa Thủy Liêm.

Ngộ Không dõng dạc kêu lên:

– Chúng bay ra đây lãnh binh khí.

Bầy khỉ nhảy ra, con thì dành gươm, con dựt búa, con lấy giáo, con mang cung. Hơn bốn ngàn, con nào cũng có vũ khí, nhảy múa tung tăng xem chừng đắc ý lắm.

Từ đó, Ngộ Không luyện binh, tập võ, diển hành các vùng lân cận, oai thế lẩy lừng, chúa yêu, vua thú thẩy khiếp sợ, kéo nhau đến hàng phục cả thảy mươi hai động, tôn Hầu vương làm chúa, thường năm cống lễ.

Núi Hoa Quả lúc này đồn lũy đắp ngăn, quân binh rèn tập, rộn rịp muôn phần, hệt như một thế giới văn minh trong thời đó vậy.

Một sáng sớm, Ngộ Không thức dậy điểm tâm xong leo ngồi trên bệ, gọi bọn khỉ đột đến hỏi:

– Nay chúng bay thao lược gồm đủ, võ nghệ tạm thông, nhưng còn cây xiêu đao của ta nhẹ lắm, cầm chẳng xứng tay, biết tìm đâu ra thứ tốt.

Bốn khỉ đột thưa:

– Ðại vương là thần tiên dùng đồ phàm tục e khó xứng. Song chưa biết Ðại vương xuống nước được chăng?

Ngộ Không nói:

– Ta đắc đạo tiên ông, thần thông biến hóa, thăng thiên độn thổ, vào lửa không biết nóng, xuống nước chẳng ngạt hơi, thì đi đâu không được.

Bốn khỉ đột tâu:

– Ðại vương thần thông diệu pháp, lo chi không tìm được vũ khí xứng đáng! Dưới cầu sắt này, thông với Ðông Hải Long cung, Ðại vương xuống đó, thẳng đến Long vương xin vũ khí ắt người thuận ý.

Nghe qua, Ngộ Không cả mừng nói:

– Tốt lắm! Ta đi thử xem sao.

Nói xong Ngộ Không nhảy ra cầu sắt niệm chú thủy độn, biến mình lặn theo giòng nước, thẳng đến đáy biển, gặp lũ Dạ xoa tuần biển cản lại hỏi:

– Ông ở đâu bôn ba qua đường này? Nên nói thật, để chúng tôi về phi báo với Long vương nghênh tiếp.

Ngộ Không đáp:

– Ta là Ngộ Không vốn con trời sanh, có quen biết với Long vương, nay đến viếng thăm.

Lũ Dạ xoa về tâu lại, Long vương Ngao Quảng vội vã ra nghênh tiếp và nói:

– Thỉnh thượng tiên vào Long đình đàm đạo.

Ngộ Không theo Long vương vào cung điện, trà nước hồi lâu Ngao Quảng hỏi:

– Chẳng hay thượng tiên tầm sư học đạo lúc nào?

Ngộ Không nói:

– Ta đi tu từ thuở nhỏ, đã học được phép TSnh. Nay Ta luyện tập binh sĩ, bảo toàn sơn động, ngặt vũ khí không xứng tay. Nghe nói quí cung nhiều bửu bối, nên đến xin một món cầm tay.

Ngao Quảng liền truyền quân đem ra một đại đao.

Ngộ Không lắc đầu nói:

– Ta không thích đánh đao, phiền Vương cung cho đổi thứ khác

Ngao Quảng cho khiêng chĩa ba đến. Ngộ Không cầm múa tít một hồi, rồi để xuống cười, nói:

– Bửu bối này nhẹ lắm, cầm chưa xứng tay, cho đổi thứ nào nặng nhất.

Ngao Quảng nói:

– Vì thượng tiên nóng nảy, chưa xem kỷ. Chĩa ba này có đề nơi cán mấy chữ ” nặng ba ngàn sáu trăm cân “. Như thế đã nặng lắm rồi.

Ngộ Không đáp:

– Dẩu mấy trăm cân mà ta cầm còn nhẹ tay, chưa vừa ý.

Ngao Quãng không dám nói thêm, liền truyền khiêng cây Phương Thiên Họa Kích nặng tới bẩy ngàn hai trăm cân.

Ngộ không lấy múa sơ vài hiệp, rồi cắm ngay giữa sân chầu mà nói:

– Còn nhẹ lắm chưa dùng được.

Ngao Quảng thất kinh nói:

– Trong cung tôi chỉ có cây kích đó nặng hơn cả, xin thượng tiên dùng tạm.

Ngộ Không nói:

– Nơi Long vương có nhiều bửu bối, tiếng đồn khắp bốn phương. Vậy quí vương cho người khiêng ra, dù đắc giá mấy, tôi cũng xin trả.

Ngao Quảng nói:

– Nơi Long cung này không còn vật nào nặng hơn Phương Thiên Họa Kích. Thật tình vậy, mong thượng tiên xét cho.

Nói xong, Ngao Quảng quay vào trong. Long bà và Long nữ tâu rằng:

– Tôi coi ông thánh ấy có sức mạnh phi thường, nơi Long cung không còn loại vũ khí nào nặng hơn nữa, chỉ còn sắt thần trấn nơi đáy biển nặng trên trăm ngàn cân, mấy bửa nay lại có hào quang chiếu sáng hay là số nó về tay ông thánh đó chăng?

Ngao Quảng nói:

– Sắt đó từ thuở vua Ðại Võ đi trị thủy dùng làm trái đo để biết nơi sâu cạn, sau khi đo xong, bỏ nơi đáy biển cho bớt sóng. Sắt to quá sức, thánh thần nào dùng được.

Long bà nói:

– Dùng được hay không miễn ông ta thuận nhận đi ra khỏi cung này cho im chuyện.

Ngao Quãng nghe lời, ra thuật lại với Tôn Ngộ Không.

Ngộ Không đắc ý nói:

– Vậy thì đem ra cho ta xem.

Ngao Quảng mỉm cười lắc đầu, nói:

– Chao ôi! Cây sắt nặng mấy muôn người khiêng không nỗi mà bảo đem ra sao được! Xin mời thượng tiên đến đó xem mới biết.

Ngộ Không vừa cười, vừa nói:

– Nhân vật thủy cung sao mà yếu đuối vậy? Thôi cứ dẫn ta đến đó thử xem.

Ngao Quảng đưa Ngộ Không đến giữa rún biển, lấy tay chỉ nơi hào quang chiếu sáng, nói:

– Vật báu, hiện hào quang chiếu lên đó, mời thượng tiên đến xem.

Ngộ Không bước đến, xăn tay áo cầm lắc mấy cái rồi nhìn kỷ là cây cột sắt lớn cả ôm, dài hơn hai trượng.

Ngộ Không nhìn trụ sắt nói:

– Cây này lớn và dài quá! Phải chi ngắn đi một ít thì dễ nhổ, vừa dứt lời, cột ấy thun lại mấy thước.

Ngộ không vừa lạ lùng vừa thích thú nói tiếp:

– Còn phải nhỏ đi một ít mới được.

Tức thì bề tròn cây sắt nhỏ theo

Ngộ Không hí hửng lắc mấy cái, nhổ lên, thấy toàn bằng sắt, hai đầu bịt vàng, chính giữa có khắc mấy chữ ” Như ý kim cô bảng, trọng nhứt vạn tam thiên ngũ bá cân “.

Ngộ Không mừng rỡ nghĩ thầm:

– Theo lời đã khắc thì thiết bảng nay ta muốn sao được vậy. Tốt lắm!

Nghĩ thế Ngộ Không vừa đi vừa ước: nó nhỏ lại một ít nữa mới vừa cầm tay.

Vừa dứt lời, cây thiết bảng chỉ con bằng một trượng hai thước, mình tròn còn bằng thước, Tôn Ngộ Không cầm vừa tay, bèn múa một hồi, lượn bay trong nước, hệt như con rồng uốn mình, lướt sóng qua Long cung vậœy.

Vừa múa Ngộ Không vừa lướt thẳng về Thủy Tinh cung, khiến cho triều thần Long vương, lớn nhỏ đều khâm phục.

Ngộ Không cầm thiết bảng đến ngồi hiên ngang trước mặt Ngao Quảng nói:

– Tôi mang ơn hiền lân quá nhiều! Nhưng có thiết bảng cầm tay, phải có y giáp mới dễ coi. Vậy hiền lân giúp luôn cho vuông tròn ơn nghĩa.

Ngao Quảng ngẩm nghĩ rồi nói:

– Ở Long cung giáp mới không có, biết lấy gì giúp cho. Mong thượng tiên lượng tình miển trách.

Ngộ không gắt giọng nói:

– Không lẻ để ta tìm xin nơi khác, phải chịu ơn hai chủ! Nếu hiền lân không giúp được, Ngộ Không này quyết chẳng ra khỏi Long cung.

Lời nói cứng rắn khiến Ngao Quảng sợ sệt năn nỉ:

– Thật ra chẳng có y giáp, chảng phải tôi hẹp dạ, thượng tiên xét tình nghĩ cho!

Ngộ không nói:

– Dù sao cung phải kiếm cho tôi một bộ, đừng để nói nhiều, sinh việc không hay.

Ngao Quảng một mạch từ chối, nói:

– Không có đồ mới, xứng đáng với thượng tiện, tôi biết tìm sao đặng bây giờ!

Ngộ Không dộng thiết bảng, nói lớn:

– Nếu không có ta đập một thiết bảng xem nào.

Ngao Quảng hoảng hốt nói:

– Khoan tay! Khoan tay! Ðể tôi hỏi lại liệc đệ xem sao, nếu có xin đem dâng lập tức!

Ngộ Không hỏi:

– Liệc đệ ở đâu?

Ngao Quảng thưa:

– Ba anh em tôi là Nam Hải Long vương, Ngao Khâm ; Bắc Hải Long vương, Ngao Thuận ; Tây Hải Long vương, Ngao Thân.

Ngộ Không nói:

– Ta khồng hề đi đâu xa nữa, lời tục có nói: Làm ơn cho trót, để người trả ơn. Hơn nữa tánh ta chẳng muốn lân la cùng bốn biển! Vậy hiền lân giúp luôn đừng lựa lời từ chối.

Ngao Quảng nói:

– Tôi không dám bảo thượng tiên đi nhiều chổ. Ở đây sẵn có trống sắt chuông vàng, nếu có việc còn gióng trống, giọng chuông thì các Vương đệ về đây lập tức.

Ngộ Không nói:

– Thế thì hay lắm. Hãy cho người đánh trống, giọng chuông đi.

Tức thì Ngao Quảng truyền lệnh giống trống, giọng chuông. Giây phút quả có ba vị Long vương về đến, còn chờ lệnh ngoài ngọ môn.

Ngao Quảng ra đón tiếp. Ngao Khâm nóng tính hỏi:

– Chẳng hay Vương huynh có điều chi dạy bảo?

Ngao Quảng nói:

– Hiền đệ đừng nói lớn, họ nghe được khó lòng. Trong cung có ông thánh trời sinh, ở núi Hoa Quả sơn làm quen hỏi xin đồ binh khí. Ta đưa món nào cũng chê nhẹ, túng cùng phải chỉ cây Thần Trân Thiết nơi đáy biển, hắn lấy lên thu gọn lại làm thiết bảng cầm tay. Lại đòi ta giúp y giáp, thực tình nơi Long cung này không có, nên ta mời các em về thương nghị! Vậy ai có y giáp đem tống nó đi cho rảnh.

Ngao Khâm nổi giận nói:

– Nó chỉ trơ trọi một mình, ta đủ bốn anh em, còn có cả muôn ngàn binh tướng, sao không bắt nó hành hình, để chi cho gai mắt.

Ngao Quảng khoát tay nói:

– Thôi, thôi! Hiền đệ đừng nóng tính, nó có phép thần thông biến hóa, còn thiết bảng này đánh xuống thành cung hư, lũy cũng nát, đừng nói chuyện đến thịt xương.

Ngao Thuận nói:

– Theo lời của Vương huynh, hiền đệ tưởng nhị ca cũng không nên gây chuyện. Tốt hơn, chúng ta chung đồ tống nó đi, rồi làm biểu dâng lên thiên đình, xin Ngọc Hoàng trừng trị. Tôi có đôi hia vừa đi may về xin thí cho nó đây.

Ngao Thân nói:

– Tôi sẵn mặc bộ giáp vàng này, cũng xin cởi ra thí cho nó, để nó đi cho rảnh.

Ngao Khâm nói:

– Bộ mão chuồng cánh phụng của tôi đây, xin cũng bõ ra không tiếc gì.

Ngao Quảng vui mừng nói:

– Vậy bốn anh em ta cùng đem vào bố thí.

Ðoạn ba anh em đồng cởi đồ đem vào ra mắt Ngộ Không, và nói:

– Chúng tôi là ba vị Long vương xin dâng nạp giáp y cho thượng tiên.

Ngộ Không xem qua đẹp ý, liền đội mão, mang hia, mặc giáp, nai nịt xong. cầm thiết bảng vừa đi, vừa múa và nói:

– Tôi làm phiền các ông nhiều quá! Thôi xin từ giả nhé!

Dứt lời, vụt bay về hướng núi Hoa Quả.

Bốn long vương căm tức hợp nhau làm biểu dâng lên Ngọc Hoàng, xin vấn tội Ngộ Không, và hỏi rõ căn cội vị thượng tiên ấy.

Bấy giờ nơi cầu sắt, bầy khỉ chờ đợi Ngộ Không, con thì đứng môi cầu con thì dòm xuống nước, Ngộ Không vừa về đến, chúng hối hả bâu quanh. hỏi:

– Ðại vương ăn mặc oai nghiêm, rất xứng đáng một vị chúa tể nơi động này.

Ngộ Không đắc ý để thiết bảng xuống nhảy phóc lên cao ngồi.

Bầy khỉ thấy thiết bảng xúm nhau ôm lắc nhưng không nhúc nhích.

Chúng reo lên:

– Cha chả là nặng! Nặng như núi đá mà Ðại vương cầm nhẹ như vông, thật sức mạnh phi thường, khó có người bì kịp.

Ngộ Không hỏi:

– Vật quí tìm chủ quí! Mấy ngàn năm bửu bối nằm đáy biển.

Long vương không biết dùng nên mới cho ta. Bửu bối có hào quang chiếu sáng dài hơn hai trượng, lớn trót một ôm. Ta chê dài và lớn, nó liền thu ngắn và nhỏ, chính giữa có hàng chữ “Như ý kim cô bảng, trọng nhứt vạn tam thiên ngủ bá cân “. Chúng bay dang ra, ta bảo nó biến hóa cho xem.

Bọn khỉ vừa lui ra, Ngộ Không liền nói:

– Nhỏ, nhỏ, hết sức nhỏ.

Tức thì thiết bảng chuyển mình thun lại còn bằng cây kim. Ngộ Không lấy dắt vào mép tai.

Bầy khỉ kinh ngạc nói:

– Ðại vương còn gì hay hơn, xin làm phép nữa xem chơi.

Tôn Ngộ Không móc kim ra để lên bàn tay nói:

– Lớn! lớn, hãy lớn lên.

Kim bung ra lớn dài như trước.

Bầy khỉ vổ tay reo lên lần nữa. Ngộ Không thích ý, nhãy ra sân động, chống thiết bảng, niệm thần chú, hóa mình cao lớn, đứng chững chạc bảo:

– Cao, cao, cao lên nữa. Tức thì mình cao muôn trượng, đầu to như núi, răng hé như gươm, mắt lòa như chớp; thiết bảng cũng cao vút mây xanh, hào quang chiếu rực trời.

Bảy mươi hai động yêu, thấy hào quang chiếu sáng tìm đến xem, thảy đều khiếp sợ, cúi đầu khâm phục.

Giây phút, Ngộ Không niệm chú thu lại nguyên hình, rồi vào động ngồi.

Bảy mươi hai Yêu vương đến quì ra mắt.

Ngộ Không tõ ý khoe khoang truyền khua chuông, đánh trống diễn binh, gươm giáo tuốt trần, cờ bay rợp đất.

Ngộ Không ngồi trên bệ, y phục chỉnh tề truyền phong quan chức như sau:

Bốn khỉ già làm tứ kiện tướng. Hai khỉ ngựa to đuôi làm Mã lưu nhị nguyên soái. Hai con vượn cân vá làm Bảng bá nhị tướng quân. Binh quyền giao cho Tứ kiện tướng quân thống quản.

Từ đó, Ngộ Không xưng là Mỹ Hầu vương thường ngày đằng vân giá vũ, đi khắp nơi, cùng chơi thân với sáu vị Ma vương sau đây, sớm tối luận bàn thế sự: l) Ngưu ma vương 2) Giao ma vương 3) Bàng ma vương 4) Sư đà vương 5) Nhĩ hầu vương 6) Ngô nhung Vương.

Một đêm trăng thanh gió mát, Ngộ Không bày tiệc thết đãi các Ma vương. Ăn uống suốt đến canh khuya, tiệc mới tàn. Sáu Ma vương giả từ về động, Ngộ Không men nồng say ngủ; nằm ngáy vo vo như sấm dậy. Tứ kiện tướng dàn binh hầu hạ.

Trong giấc nồng, Ngộ Không chiêm bao thấy hai người: một người cầm vòng, một người nắm giấy, có đề ba chữ “Tôn Ngộ Không”, và hối hả tròng vòng vào cổ, dắt Tôn Ngộ Không đi. Ðến một nơi cung điện nguy nga, hồn Ngộ Không ngó lên thấy bảng đề ba chữ: “U Minh Giái”, thất kinh lẩm bẩm:

– Nơi đây là âm-phủ sao dắt ta đến đây làm gì?

Hai Kẻ kia nói:

– Nhà ngươi tới số phải trở về Diêm chúa, nên hai ta là quỉ vô thường, vâng chỉ đến bắt ngươi đây.

Tôn Ngộ Không nói:

– Ta không thuộc ngũ hành, vượt ngoại vòng tam giái, thập điện vô phép bắt ta, hãy coi chừng cung này tan vỡ.

Hai quỉ vô thường không đáp, dắt Ngộ Không đi mãi. Ngộ không nổi giận, móc kim ở lổ tai ra, niệm chú lớn thành thiết bảng, đập chết hai quỉ vô thường, rồi xông vào đập phá cung thành.

Ngưu Ðầu khiếp vía, Mã Diện kinh hồn, mạnh ai nấy chạy.

Bọn quỉ sứ vội chạy tới thập điện phi báo:

– Có thiên lôi giáng hạ phá đền đài, đập chết quỉ vô thường rồi!

Thập Ðiện đang ngồi thương nghị, nghe tin chẳng lành, liền kéo ra xem, thấy Ngộ Không hung hãng dữ tợn, bèn kêu lớn:

– Xin thượng tiên cho biết tên họ trước khi phá điện này.

Tôn Ngộ Không hói:

– Chúng bây biết là thượng tiên sao còn vô lễ, cho ngươi đến bắt. Ta là thánh trời sanh, tên là Tôn Ngộ Không ở núi Hoa Quả, động Thủy Liêm. Còn chúng bay tên chi? Mau xưng lên kẻo tan hồn.

Thập điện đồng xá, và nói:

– Chúng tôi là Nhứt điện Trần quảng vương, Nhị điện Sở giamg-vương, Tam điện Tống đế vương, Tứ điện Ngũ quang vương, Ngủ điện Diêm la vương, Lục điện Bình đẳng vương, Thất điện Thái sơn vương, Bát điện Ðồ nhị vương, Cửu điện Biện thành Vương, Thập điện Chuyển luân vương.

Tôn Ngộ Không nói:

– Các ngươi là vương vị, sao không hiễu lẻ trời, làm điều trái phép, ta là thần tiên ngoài tam giái, vượt khỏi ngủ hành, sao các ngươi còn sai quỉ đến bắt?

Thập điện nói:

– Mong thượng tiên bớt giận, vì thiên hạ lắm kẻ trùng tên, nhiều người giống tuổi nên vô thường lầm lỡ, thượng tiên nghĩ tình lượng thứ

Tôn Ngộ Không nói:

– Còn nói trớ trêu, ta đập một thiết bảng tan hồn. Hãy lấy bộ sinh tử ra đây ta xem sao?

Thập điện sợ sệt thưa:

– Xin thượng tiên quá bước, lên điện này xem sổ.

Tôn Ngộ Không cầm thiết bảng nhãy phóc lên Sum la điện. Phán Quan sợ sệt lật đật dâng sổ bộ.

Ngộ Không lật ra tra các bộ Vỏ trùng, Mao trùng, Lân trùng, Giáp trùng, mãi tới Côn trùng là cào, chấu, bướm, ong, cũng không thấy tên mình. Tra tới loài Viên hầu: vượn, khỉ. Ðến chữ hầu, số một nghìn ba trăm năm mươi hiệu, dưới có hàng chữ: ” Tôn Ngộ Không mãi thị thiên sản thạch hầu, cai thọ tam bá thập nhị tuế thiên chung “

Xem mấy hàng chữ, Tôn Ngộ Không căm tức, liền lấy viết chấm mực gạt bôi lia lịa và nói:

– Ta chẳng cần sống mấy trăm năm đó.

Ðã bôi tên mình còn bôi luôn cho các vượn, khỉ kia nữa.

Ðoạn, quăng viết ném sổ và nói:

– Từ nay các ngươi đừng nhắc đến tên ta nữa đó!

Dứt lời huơi thiết bảng phóng mình ra khỏi điện Sum la, trở về dương thế.

Thập điện vương ai nấy đều lo sợ họp nhau qua cung Túy Vân bàn với Ðịa Tạng vương Bồ tát làm sớ dâng biểu cáo với thiên đình.

Tôn Ngộ Không về đến dương trần, thấy vấp chân giật mình thức dậy mới hay là chiêm bao!

Thấy Ngộ Không đã tỉnh rượu, tứ kiện tướng hỏi:

– Ðại vương quá chén say lắm sao, mà ngủ đến một ngày một đêm vậy?

Ngộ Không kể lại việc đến Sum la điện, phá, bôi sổ vừa rồi, và cười lớn nói:

– Thế là từ nay chúng ta chẳng còn sợ chết, và khỏi lo Diêm vương sai đi bắt nữa.

Bầy khỉ nghe nói mừng rỡ kéo nhau đến lạy tạ ơn. Từ đó về sau loài khỉ sống chết không có số mạng nữa.

Ngày kia, Ngọc Hoàng đang ngự nơi Linh Tiêu điện, chư thần, chư tiên chầu đủ mặt.

Bỗng thấy Thần hoằng tế chơn chơn tâu:

– Có Ðông Hải Long vương Ngao Quảng đến dâng biểu, còn đứng ngoài chờ1ệnh.

Ngọc Hoàng truyền cho vào.

Ngao Quảng bước đến quì lạy dâng sớ.

Tiên đồng tiếp sớ dâng lên, Ngọc Hoàng mở ra xem.

Văn biểu viết như sau:

” Thủy nguơn hạ giái ở Ðông Thắng Thần Châu, Ðông Hải tiểu Long vương, Ngao Quảng cúi dâng: Yêu tên Tôn Ngộ Không ở động Thủy Liêm núi Hoa Quả đến hiên ngang nơi thủy giái, khi dễ Thủy long, tước đoạt thần trân làm vũ khí cầm tay, sau áp bức đòi cho được y quan, y giáp. Thật là hành động ngang tàng, xin Ngọc Hoàng thu về thượng giới để tránh tai họa về sau. Kính dâng “

Ngọc Hoàng xem sớ xong, liền phán:

– Thôi, Long thần yên tâm về cõi, để ta sai tướng xuống bắt Tôn Ngộ Không về vấn tội.

Ngao Quảng tạ ơn, bái biệt trở về thủy giới.

Phút chốc lại có đạo đồng Tiên ông vào tâu:

– Có Tần Quảng vương thừa lệnh U Minh giáo chủ Ðịa Tạng vương đến dâng biểu.

Ngọc nữ vội tâu sớ dâng lên.

Ngọc Hoàng cầm chương biểu xem:

” U Minh giáo chủ Ðịa Tạng vương kính dâng: Thiết nghĩ: Trời có thần, đất có quỉ, âm dương thay đổi, sống thác có mạng, muôn vật đều chịu kiếp luân hồi, không có vật gì trường tồn mãi mãi.. Ðó là đạo lý.

Nay tại núi Hoa Quả, động Thủy Liêm, trời sanh khỉ đá thọ khí âm dương ba trăm năm rồi, tên là Ngộ Không, tài phép phi thường, hiên ngang quá lẻ. Vừa rồi Ngộ Không xuống Sum la điện giết quỉ vô thường, mắng vua Thập điện, lại xóa bôi sổ bộ Viên hầu, làm tuyệt đường sinh tử.

Thần kính dâng sớ này xin Ngọc Hoàng nhậm ngôn sai thiên binh xuống bắt Ngộ Không trị tội, thì chốn âm phủ mới khỏi mang họa “.

Ngọc Hoàng xem xong liền phán:

– Thôi, Tần Quảng vương lui về âm phủ, ta sẽ khiến tướng bắt Ngộ Không.

Trần Quảng vương vui mừng lạy tạ, lui ra.

Tiếp đó, Ngọc Hoàng phán hỏi:

– Thạch hầu sanh bao lâu, học được phép tiên nơi nào, mà tài giỏi như vậy?

Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ tâu:

– Cách chừng ba trăm năm chục năm nay, núi Hoa Quả có khối cẩm đá do khí âm dương nhật nguyệt kết tựu, sanh ra khỉ đá. Còn việc học phép thần thông chúng tôi chưa được rõ.

Ngọc Hoàng phán:

– Yêu hầu sanh chuyện, làm kinh động hạ giới, phải bắt về trừng trị. Vậy thần tướng đủ sức lãnh chiếu thu hồi Tôn Ngộ Không về trừng trị chăng?

Thái Bạch Kim Tinh quì tâu:

– Thạch hầu là giống trời sanh, tu đã lâu năm thần thông biến hóa. Hạ thần thiết tưởag khó nổi thu hồi, chi bằng đòi về phong chức, lưu giữ tại thiên cung, nếu nó có hung hăng dễ bề trị tội. Xin Ngọc Hoàng lấy lượng khoan hồng, giáo dục vật linh dày công tu luyện.

Ngọc Hoàng ngẫm nghĩ một lúc, rồi gật đầu khen phải, truyền cho Văn Khúc Tinh Quân tả chiếu, giao cho Thái Bạch Kim Tinh hạ giới chiêu an.

Thái Bạch Kim Tinh lảnh mệnh thẳng đến động Thủy Liêm.

Ðến nơi Thái Bạch Kim Tinh gọi bầy khỉ nhỏ đến nói:

– Ta là Thiên sứ, lãnh chiếu Ngọc Hoàng, đến đây mời Ðại vương các ngươi lên trời lãnh chức. Mau vào báo gấp cho Ðại vương các ngươi ra hầu thiên chỉ.

Lũ tiểu hầu vội vã chạy vào báo. Tôn Ngộ Không mừng rỡ cười lớn, nói:

– May lắm! Ta có ý định lên trời chơi, nhưng chưa kịp đi, lại có thiên sứ đến rước.

Liền sửa soạn áo mão ra nghinh tiếp.

Thái Bạch Kim Tinh vào động. Ðứng giữa truyền thiên chỉ.

Tôn Ngộ Không chẳng hề lạy tạ, đứng cười ha hả:

– Ông phụng chỉ đến đây, đã dày công khó nhọc. Vậy ta cho lũ nó đãi tiệc nhé!

Thái Bạch nói:

– Ta dâng thiên chỉ không dám trễ lâu. Hầu vương mau theo ta về trời gấp.

Tôn Ngộ Không quay lại dặn bọn khỉ:

– Tứ kiện tướng hãy ở đây chăm sóc việc quân binh, bảo toàn Thủ động. Ta về trời thăm dò đàng sá nếu tiện sẽ dẫn bay lên đó chơi cho biết

Tứ kiện tướng vâng lời.

Tôn Ngộ Không đằng vân theo Thái Bạch.

Chương 4: Chức phong Bậc Mã lòng chưa muốn – Hiệu gọi Tề Thiên dạ mới đành

Tôn Ngộ Không dùng phép cân đẩu vân bay nhanh cơn gió.

Thái Bạch đuổi theo nhưng không kịp!

Ngộ Không bay trước tới cửa Nam Thiên, muốn xông vào, bỗng có Tăng trưởng Thiên vương cùng tám vị Thiên Quân là: Ban Thiên Quân, Lưu Thiên Quân, Trương Thiên Quân, Ðào Thiên Quân, Tuân Thiên Quân, Ðặng Thiên Quân, Tân Thiên Quân và Tất Thiên Quân, dàn thiên binh đón lại.

Tôn Ngộ Không tức giận nói lớn:

– Lão Kim Tinh xảo trá! Gạt lão tôn lên đây Cho ngươi ngăn cản!

Vừa dứt lời, Thái Bạch Kim Tinh vừa tới.

Tôn Ngộ không nổi giận nói:

– Lão tặc dám gạt ta sao? Ngươi nói Thượng Ðế chiêu an, thỉnh ta lên lãnh chức, sao còn có kẻ ngăn đường chận ngõ?

Thái Bạch Kim Tinh cười, nói:

– Hầu vương bớt giận, lão không phải người lừa gạt! Vì Hầu vương chưa từng đến Thiên Ðình, nên Thiên tướng chưa quen mặt, không dám cho vào. Khi Hầu vương đã lãnh chức, ra vào sẽ không còn ai cản nữa.

Tôn Ngộ Không nói:

– Nếu vậy ta không muốn vào làm gì.

Thái Bạch Kim Tinh liền nắm tay Ngộ Không nói:

– Xin Hầu vương nguôi giận đi vào, kẻo Ngọc Hoàng chờ đợi.

Ðoạn gọi lớn:

– Mở cửa cho mau, ta vừng chiếu chỉ chiêu an, với tiên trung giới về đây.

Tiếng kêu vừa dứt, cánh cửa mở tung ra. Thái Bạch Kim Tinh dẫn Tôn Ngộ Không qua khỏi Nam thiên môn, thẳng đến điện Linh Tiêu.

Ðến nơi, Tôn Ngộ Không không quì, chỉ đứng lóng tai nghe!

Thái Bạch Kim Tinh quì lạy Ngọc Hoàng, tâu:

– Hạ thần vâng thánh chỉ, đã đòi yêu tiên về đó, xin trình cùng Thượng Ðế.

Ngọc Hoàng phán hỏi:

– Yêu tiên là ai? Cớ sao chưa ra mắt?

Tôn Ngộ Không bước đến vái và nói:

– Lão Tôn có đây, cần ta việc gì?

Các vị thần tiên đều sửng sốt thì thầm:

– Con Khỉ rừng thật là vô lễ! Ðến không quì lạy, tung hô, còn xưng ta xưng lão!

Ngọc Hoàng phán:

– Ngộ Không vốn là yêu tiên sống nơi hoang.dã chưa từng biết lễ nghi, trẫm cũng rộng dung. chẳng hề cố chấp.

Chư tiên thấy vậy bảo Ngộ Không:

– Thượng Ðế khoan dung, sao không đến lạy tạ ơn?

Ngộ Không bước lên bái rồi lui ra không chịu lạy.

Tuy nhiên, Ngọc Hoàng không hề giận, ngồi mĩm cười và phán:

– Trong hàng văn võ còn khuyết chức nào, dùng Ngộ Không vào làm chức đó?

Võ Khúc Tinh Quân tâu:

– Muôn tâu Thượng Ðế, chức tước hiện nay đều đũ cả, chỉ còn khuyết chức Bậc Mã Ôn là Chánh Ngự Mã Giám, không biết Ngộ Không có vừa lòng chăng?

– Vậy bổ Ngộ Không vào làm chức ấy.

Chư tiên bảo Ngộ Không tạ ơn.

Ngộ Không cũng chỉ bước đến bái như lần trước.

Ngọc Hoàng bảo Mộ Ðức Tinh Quân dẫn Ngộ Không đến sở Ngự Mã Giám.

Mộ Ðức Tinh Quân vâng lịnh dẫn Ngộ Không đến giao cho viên chức trong sở, rồi lui về.

Giám Thừa, Giám Phổ, Ðiểu Bộ, Lực Sĩ bốn người đến thĩnh tân Bậc Mã Ôn là Tôn Ngộ Không lên ngồi trên, rồi đem sổ bộ giao trình xét.

Ngộ Không từ lãnh chức ấy, ngày đêm lo chăm sóc mọi việc, chỉ hoàn hảo chức Ðiểu Bộ lo lúa cỏ cho ngựa, chức Giám Thừa, Giám Phó thính tùng Bậc Mã Ôn để sai khiến, còn Lực Sĩ lo coi tắm ngựa.

Tôn Ngộ Không ở đó được nữa tháng, ngựa mập vô cùng. Các viên chức đều hoan nghênh, thết tiệc ăn mừng. Giữa tiệc Ngộ Không hỏi các quan:

– Chức Bậc Mã Ôn của ta như thế nào?

các quan nói:

– Chức ấy ở sở Ngự Mã này to hơn hết.

Tôn Ngộ Không hỏi:

– Vậy chức này thuộc về phẩm trật thứ mấy?

Các quan thưa:

– Chức ấy không có phẩm-trật gì cả.

Tôn Ngộ Không trợn mắt nói:

– Không có phẩm-trật nghĩa là lớn hết thảy phải không?

Các quan nói:

– Chức tước này là hạng bét nơi thiên triều chỉ có quyền điều khiển chúng tôi, và toàn thể ngựa trong sở này thôi. Cũng may ông sung bổ vào đây ngựa mập béo mới được tiếng khen và được thết tiệc ăn mừng. Nếu rủi ngựa ốm thì không khỏi bị quở phạt.

Tôn Ngộ Không nghe xong, nổi giận nghiến răng, đập bàn nói:

– Ngọc Hoàng khi ta lắm! Lão Tôn đang ở núi Hoa Quả xưng vương, thế mà lại gạt đến đây làm tên giữ ngựa, khinh bạc quá lẻ! Thôi ta về kẻo mang tiếng sĩ-nhục!

Dứt lời, hét lên một tiếng, lấy cây kim dắt nơi vành tai thổi lân, hóa ra cây thiết bảng múa tít. Vừa múa vừa tiến ra cửa Nam thiên. Các thiên tướng biết mặt Bậc Mã Ôn không hề ngăn cản.

Tôn Ngộ Không ra khỏi Nam thiên môn dùng phép cân đẩu vân bay về núi Hoa Quả.

Vừa về đến, thấy Tứ Kiện tướng, cùng các Yêu vương đang diễn binh, Nhị hầu vương coi tập võ, Tôn Ngộ Không kêu lớn:

– Lão Tôn về đây, chúng bay mau đón tiếp.

Các Yêu vương nghe tiếng rần rộ kéo ra.

Ngộ Không vào động, ngồi trên bệ, Yêu vương và khỉ con đem rượu lên mừng, và nói:

– Ðại vương đi mười lăm năm, có được toại ý không?

Tôn Ngộ Không buồn bã nói:

– Ta đi mới vừa nữa tháng sao lại gọi là mười lăm năm, chúng bay quả không hiểu gì ngày tháng!

Nhị Hầu vương nói:

– Ðại vương chưa rõ, trên trời một ngày, thì trung giới một năm vậy.

Tôn Ngộ Không ngẩm nghĩ khen:

– Nhị hầu vương thông minh lắm! Vậy từ nay cho cai trị Tứ Kiện tướng.

Tứ kiện tướng hỏi:

– Chẳng hay Ngọc Hoàng cho thiên sứ vời Ðại vương lên Thiên Ðình nhận lãnh chức chi?

Tôn Ngộ Không lắc đầu nói:

– Thượng Ðế không biết dùng người, phong ta làm Bậc Mã Ôn. Ta nghe tên tốt nhận lầm, làm tới mười lăm ngày. Sau hỏi rõ thì chức ấy hèn mọn lắm, nên căm giận đạp bàn bõ về đây.

Các khỉ nói:

– Ðại vương là chúa tể nhất phương, sớm tối có kẻ hầu người hạ,sang trọng như thế này mà Ngọc Hoàng cho làm chức chăn ngựa, đáng buồn thay! Thôi, chúng tôi đem thêm rượu cho Ðại vương giải khuây!

Bấy giờ trời chiều nắng nhạt, động Thủy Liêm gió thổi rạc rào, lẫn tiếng nước reo nơi cầu như những điệu nhạc du dương.

Ngộ Không ngôi uống rượu, lòng căm tức chuyện đã qua, vừa buồn vừa giận, muốn có một chức tước ngang với Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

Bỗn có tiểu hầu vào báo:

– Tâu Ðại vưong, có Ðộc Giác Quỉ vương xin vào ra mắt, còn chờ lệnh ngoài cửa động.

Ngộ Không truyền cho vào Ðộc Giác quỉ vào lạy thưa:

– Nghe Ðại vương chiêu hiền từ lâu, tiếc rằng tôi chưa có dịp! Nay nghe Ðại vương lãnh chức trời vinh qui hồi động, nên đến đây xin chịu hầu dưới trướng. Nếu Ðại vương nhận lời, tôi nguyện đem hết tài năng phò tá.

Tôn Ngộ Không mừng rỡ, truyền ban áo mão, và phong Ðộc Giác Quỉ-vương làm chức Tiên phong.

Ðộc Giác Quỉ vương bước tới lạy tạ thưa:

– Chẳng hay Ðại vương nhận chức chi tại Thiên triều?

Tôn Ngộ Không nói:

– Thượng Ðế cạc đãi người hiền, không biết chọn tài phong tướng, nên cho ta làm chức Bậc Mã Ôn!

Ðộc Giác Quỉ vương nói:

– Ðại vương thần thông biến hóa có một không hai, lẽ nào làm chức chăn ngựa. Ðáng ra phải chức tước ngang trời mới xứng.

Ngộ Không nói:

– Chính thế! Tài ta đâu thua kém Ngọc Hoàng.

Liền cho Tứ Kiện tướng dựng giữa sân một cây cờ cao, đề bốn chữ lớn Tề Thiên Ðại Thánh và truyền bảy mươi hai động phải kêu Ngộ Không bằng cái chức tước đó.

Cả thảy đều tuân lệnh.

Giữa lúc ấy, trên thượng giới, Ngọc Hoàng lâm triều, bỗng có Trương thiên sư Giám thừa và Giám phó đến bái yết, vào tâu:

– Bậc Mã Ôn Tôn Ngộ Không chê chức nhỏ không nhận, hôm qua đã trốn về trung giới.

Ngọc Hoàng còn đang ngơ ngác thì lại có Tăng trưởng Thiên vương và các Thiên tướng vào tâu:

– Chẳng biết vì cớ gì Bậc Mã Ôn bõ ra cửa Nam thiên, đến nay chưa thấy trở lại.

Thượng Ðế phán:

– Thôi, các khanh hãy lui về, để trẫm sai thiên binh đi bắt nó.

Tháp tháp Lý Thiên vương và Na Tra tam thái tử quì tâu:

– Chúng tôi tuy bất tài xin tình nguyện đi bắt con yêu hầu ấy.

Thượng Ðế nhậm lời, phong Lý Thiên Vương làm chức Hoàng Mã Eại nguyên soái, Na Tra làm Tam Ðàng Hải Hội Ðại thần dẫn thiên binh đuổi theo Ngộ không truy nã.

Lý Thiên vương cùng Na Tra vốn là hai cha con, cùng ở chung một điện.

Sau khi được lệnh, Lý Thiên vương cùng Na Tra trở về kiểm điểm thiên binh, chọn Cự Linh thần làm tiên phong, Ngự Ðổ Dược Xa làm tướng cạnh, nhắm núi Hoa Quả thẳng tiến.

Ðến nơi, Lý Thiên vương truyền hạ trại cách hai mươi dặm rồi sai Cự Linh thần đến khiêu chiến.

Cự Linh thần vác búa đồng chạy đến động Thủy Liêm hét như sấm, kêu Ngộ Không nói:

– Bậc Mã Ôn, ta vâng lệnh Thượng Ðế đến đây bắt ngươi trị tội, hãy mau đem xác ra mà nộp.

Tiểu yêu thất kinh chạy vào báo:

– Có tướng trời sai xuống bảo Tề Thiên Ðại Thánh ra hàng, bằng không nó giết chết cả động.

Tôn Ngộ Không nổi giận, xách thiết bảng chạy ra hỏi:

– Ðứa nào cả gan dám đến đây hổn láo với Tôn ông?

Cự Linh thần nói:

– Con Khỉ khốn nạn kia! Mày biết ta là ai mà dám hung hăng như vậy?

Ngộ Không hét:

– Ngươi là tên thần đê tiện ở đâu, Tôn ông biết đến làm gì? Hãy nói tên đi kẻo ta đập vỡ sọ!

Cự Linh thần giận dữ nói:

– Loài Khỉ xem ra xấc láo thật. Ta là tiên phuông của Lý Thiên Vương tên Cự Linh thần đây. Hãy bỏ vũ khí quy hàng, bằng không sẽ tan xương nát thịt.

Tôn Ngộ Không mắng:

– Cái thứ thần mạt đó lẻ ra ta cho một thiết bảng cho rồi đời. Ngặt vì giết ngươi không biết sai ai trở về báo tin. Ngươi về báo với Thượng Ðế rằng:

– Thượng Ðế không biết dùng người hiền, lão Tôn tài năng vô địch, sao lại cho làm chức giữ ngựa!

Cự Linh thần hỏi:

– Ý của ngươi muốn Thượng Ðế phong chức chi?

Ngộ Không chỉ cây cờ trước động nói:

– Ngươi hãy coi bốn chữ trên cây cờ kia mà về tâu với Thượng Ðế phong cho ta. Nếu không ta đem binh đập phá cửa trời, chiếc ngai vàng của Thượng Ðế cũng chưa vững, đừng nói đến chuyện bắt ta nữa.

Cự Linh thần nghe nói, ngó lên, thấy có đề bốn chữ Tề Thiên Ðại Thánh, liền cười nói:

– Con Khỉ này muốn loạn thiên cung, nên mới dám đề Tề Thiên Ðại Thánh. Vậy ta đập một búa cho xong đời, để chi sanh chuyện.

Liền vung búa chém xuống, Tôn Ngộ Không đưa thiết bảng lên đỡ, chạm vào cán búa Cự Linh gãy hai!

Cự Linh hoảng hồn quay đầu chạy riết.

Ngộ Không cười, nói:

– Ta chẳng thèm giết làm gì! Ðừng sợ chạy. Hãy về báo lại cho đúng lời ta.

Cự Linh chạy thẳng về trại thở hào hển thưa:

Be-mã~ l”e mạNgọc Hoàng tài cao, tôi sút thế gãy búa, xin về đây chịu tội!

Lý Thiên vương nổi giận nói:

– Ngươi làm mất oai ta phải chém đầu làm gương cho kẻ khác.

Na Tra vội vã thưa:

– Xin phụ thân bớt giận lượng thứ cho Cự Linh thần, để con ra trận mới rõ tài cao thấp.

Lý Thiên vương y lời, tha tội cho Cự Linh và truyền Na Tra ra trận.

Na Tra nai nịt, kiểm điểm thiên binh kéo tới động Thủy Liêm khiêu chiến.

Tôn Ngộ Không vừa đánh Cự Linh chạy, chưa kịp vào động, bỗng thấy một tướng nhỏ, thân hình vạm vỡ, lướt tới như bay, liền hỏi:

– Ngươi con nhà ai? Thân xác bé mọn, đến đây làm gì đó?

Na Tra nạt lớn:

– Yêu hầu chớ vô lễ, ta là Na Tra tam Thái tử con thứ ba của Lý Thiên vương, nay vâng thánh chỉ đến bắt ngươi về nạp thiên đình trị tại.

Tôn Ngộ Không mỉm cười nói:

– Bé ơi? Miệng còn hôi sửa. ta giết không đành. Ngươi hãy xem cờ của ta kia, về tâu với Thượng Ðế phong ta chức ấy, bằng không ta phá tới thiên cung, đừng trách ta vô đạo.

Na Tra ngước mắt ngó lên thấy cờ đề bốn chữ, cả giận hét:

– Ngươi thần thông bao nhiêu, dám xưng danh ngang hàng thượng đế? Ta quyết chém một gươm cho mất mạng.

Tôn Ngộ Không nói:

– Ta đứng trơ ra đây cho ngươi tha hồ chém.

Na Tra nổi giận niệm chú biến ra ba đầu sáu tay, cầm sáuu môn binh khí, gươm chém yêu, dao chém yêu, trái cầu thêu, chày bàn yêu, bánh xe hóa lửa. Sáu tay đều đánh vãi vào Ngộ Không một lượt.

Ngộ Không giật mình nói:

– Cha chả, thằng con nít này cũng biết biến hóa. Song đừng láu táu mà bõ mạng! Hăy coi phép của ta đây.

Liền hét lên một tiếng tức thì hóa ra ba đầu sáu tay, cầm sáu thiết bảng xốc tới đập Na Tra. Bửu bối đụng nhau vang lên như trời long đất lở!

Ðánh hơn bốn mươi hiệp. Na Tra niệm chú biến ra muôn ngàn thứ binh khí nữa, bay liệng đầy trời, Tôn Ngộ Không thấy thế liền quăng thiết bảng lên biến ra muôn ngàn thiết bảng, đánh vẹt hết những tinh khí của Na Tra.

Thừa dịp ấy Tôn Ngộ Không nhổ một sợi lông biến ra hình giả, cho đánh với Na Tra, còn mình thì nhảy vòng ra sau lưng giơ thiết bảng đập xuống.

Na Tra thất kinh, thu hình bỏ chạy.

Lý thiên vương đang ngồi lượng kế, bỗng thấy con hơ hải chạy về liền hỏi:

– Con Khỉ ấy thần thông bậc nào mà con phải thua chạy vậy?

Na Tra sụp lạy tạ tại và thuật lại đầu đuôi!

– Như vậy, ta khoan đánh với nó đã. Hãy về tâu lại xin thêm binh tướng đến vây bắt mới đặng.

Na Tra vâng lời. Cha con cùng nhau lục tục kéo binh về.

Tôn Ngộ Không thắng trận, quay về động.

Bảy mươi hai Yêu vương đều đến chúc mừng và bày tiệc linh đình thết đãi.

Trong bàn tiệc Tôn Ngộ Không thấy có sáu vị Ma vương tụ hội bèn nói:

– Ta đã xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, vậy sáu anh em cùng xưng Ðại Thánh luôn.

Sáu người vâng lời cùng xưng:

Ngưu Ma vương xưng Bình Thiên Ðại Thánh.

Giao Ma vương xưng Phúc Hải Ðại Thánh.

Bàng Ma vương xưng Hổn Thiên Ðại Thánh.

Sư Ðà vương xưng Di Sơn Ðại Thánh.

Nhĩ Hầu vương xưng Thông Phong Ðại Thánh.

Ngộ Nhung vương xưng Khu Thần Ðại Thánh.

Bảy vị Ðại Thánh ngang tàng này tự xưng theo ý muốn, không gì đến trời đất nữa.

Cha con Lý Thiên vương về tới Thiên Ðình, vào yết kiến Ngọc Hoàng, rồi quì tâu:

– Thần vâng chỉ xuống bắt Yêu hầu. Nhưng vì nó tài cao xuất chúng sức mạnh khóổ đương! Thần đành phải về tâu lại. Xin Bệ hạ sai thêm binh tướng, may ra mới bắt nó được.

Ngọc Hoàng ngơ ngác nói:

– Sá gì con yêu ấy, tài phép là bao mà phải xin thêm binh tướng?

Na Tra vội và quì tâu:

– Xin Ngọc Hoàng tha tội, hạ thần mới dám tâu! Tôn Ngộ Không có thiết bảng thần thông, Cự Linh thần khiếp hồn bỏ chạy, hạ thần cũng bị đánh trúng vai nên bại tẩu! Nó đề cờ bốn chữ Tề Thiên Ðại Thánh, bảo thần về tâu lại với Ngọc Hoàng phong chức ấy thì nó mới đầu hàng, bằng không nó đánh tới Linh Tiêu điện.

Ngọc Hoàng nghe tâu giật mình phán:

– Loài yêu nghiệt, cả gan dám xúc phạm thiên trào! Các thiên tướng mau xuống bắt nó đem về đây.

Thái Bạch Kim Tinh tâu:

– Yêu hầu háo danh nói bướng, nó không biết chức nào lớn nhỏ. Nếu sai binh tướng đi bắt nhọc công, mà chưa chắc đã bắt được! Xin Ngọc-hoàng hạ chỉ chiêu an, phong chức ấy cho nó, tưởng cũng không tốn gì lương bỗng, mà cũng chẳng hại gì của thiên triều. Chẳng qua đó chỉ là một hư danh.

Ngọc Hoàng phán hỏi:

– Sao gọi là hư danh?

Thái Bạch Kim Tinh tâu:

– Thuở nay có chức Tề Thiên Ðại Thánh bao giờ. Nay phong cho nó là hữu danh vô vị, không có phẩm trật nào, không có quyền cai trị ai. Như vậy nó sẽ an lòng, khỏi còn phá phách.

Ngọc Hoàng y tấu truyền viết chiếu, sai Kim Tinh hạ giới chiêu an lần nữa.

Thái Bạch Kim Tinh phụng chiếu, đằng vân thẳng xuống núi Hoa Quả, vào động Thủy Liêm thấy trước dinh lẩy lừng sát khí, rực ánh hào quang, yêu tinh vác đao xách búa, vượn khỉ múa gậy trương cung.

Chúng vừa thấy Thái Bạch đến, liền xốc tới bao vây, đứa nào, đứa ấy vẻ mặt hầm hầm dữ tợn.

Thái Bạch Kim Tinh nói:

– Chúng bay mau vào báo với Ðại Thánh, có ta là Thiên sứ, phụng sắc chiêu an, mau ra tiếp chiếu.

Các yêu vào báo Tôn Ngộ Không nói:

– Vậy thì tốt lắm! Lần trước Thái Bạch mời ta lên Thiên đình, tuy phong chức nhỏ, song cũng giúp ta thuộc đường hiểu lối. Lần này chịu khó đến nữa, chắc Ngọc Hoàng thuận ý phong ta chức lớn.

Liền truyền quân sắp hàng hai bên rồi bước ra động chào Thái Bạch và hỏi:

– Xin mời Lão tinh vào động.

Thái Bạch vào đứng giữa động nói lớn:

– Ngày trước Ðại Thánh chê chức nhỏ, bõ trốn về đây, nên Ngọc HSi Lý Thiên vương và Na Tra xuống vấn tội. Hai người ấy trở về báo rằng: Ðại Thánh dựng cờ đòi phong chức Tề Thiên. Các thiên tướng đều giận dữ, muốn đem thiên binh xuống bắt Ðại Thánh. Riêng tôi năm lần, mấy lượt, tâu Ngọc Hoàng xin tha tội cho Ðại Thánh, và xin cho Ðại Thánh được lãnh chức ấy. Ngọc Hoàng đã nhận lời, vậy Ðại Thánh theo ta về trời nhận chức.

Tôn Ngộ Không cười lớn nói:

– Lần trước Lão tinh đã tốn công, lần này nữa gíúp nữa, tôi xin đa tạ. Nhưng không biết trên trời có chức Tề Thiên Ðại Thánh chăng?

Thái Bạch Kim Tinh nghe hỏi cười thầm, nói:

– Bởi có, nên tôi mới tâu phong, xin Ðại Thánh đừng nghi kỵ, mau lên lãnh chức kẻo Ngọc Hoàng mong chờ.

Tan Ngộ Không muốn mời thiên sứ dự yến, nhưng Thái Bạch tìm cách từ chối rồi hai người cùng đằng vân, bay thẳng đến Thiên -đình.

Ðến cửa Nam thiên các thiên tướng đều vòng tay nghinh tiếp, không hề ngăn đón như lần trước.

Thái Bạch Kim Tinh đi fhẳng vào bệ ngọc quì tâu:

– Hạ thần vâng chỉ đòi Bậc Mã Ôn về đến đây, xin Ngọc Hoàng dạy bảo.

Ngọc Hoàng đòi Ngộ Không đến trước bệ phán:

– Nay ta chiều theo ý muốn, phong cho ngươi chức Tề Thiên Ðại Thánh là tột bực rồi. Vậy từ nay đừng gây chiến mà phạm tội.

Tôn Ngộ Không nhe răng đắc ý, rồi chỉ trả lời gọn hai tiếng: Tạ ơn!

Ngọc Hoàng liền truyền Lò Bang và Trương Bang cất một biệt dinh gọi là Tề Thiên Bàng Thánh gần vườn đào. Trong dinh chia làm hai phòng: Ân Linh tự và Ninh Thần tự, có tiên lại ở thường xuyên để chầu chực. Tiếp đó Ngọc Hoàng ban cho Tề Thiên hai ve ngự tửu, mười cái bông vàng, và sai Ngủ Ðẩu Tinh Quân đưa Tề Thiên về tư-phủ.

Về đến phủ, Tề Thiên bày tiệc rượu đải Ngủ Ðẩu Tinh Quân và các tiên.

Tiệc mản, ai về dinh nấy, còn Tề Thiên ở lại hưởng cảnh thanh nhàn muốn ra vào chẳng ai cấm ngăn.

Chương 5: Phá vườn đào, Ðại Thánh trộm linh đơn – Loạn cung trời, chư thần bị bại trận

Nói về Tôn Ngộ Không làm chức Tề Thiên Ðại Thánh, không thuộc ngạch nào, chẳng biết phẩm chi, thấy trước cửa có đề năm chữ Tề Thiên Ðại Thánh Phủ, thì tin là chức ấy, ngày ăn tối ngủ, có hai vị tiên lại chầu hầu, dạo chơi khắp cả thiên cung, môt mình thong thả, gặp Tam Thanh thì kêu bằng tướng công, thấy Tứ Ðế thì chào rằng Bệ Hạ! Còn Cửu Diện là chín sao Bắc đẩu, năm tướng Ngủ phương, bốn vị Thiên vương, Nhị thập bát tú, Lục đinh, Lục giáp, năm ông Ngũ lão, các vị thiên thần đều quen biết, kêu bằng anh em! Nay tới hướng Ðông, mai chơi phía Bắc, cứ việc dạo chơi hoài, các vị thiên thần đà lát mặt!

Ngày kia Thượng Ðế lâm trào, có Tinh Dương Hứa Chân quân tâu rằng:

– Tề Thiên Ðại Thánh mỗi ngày dạo khắp các nơi, ở không ắt sanh sự, xin Bệ Hạ cấp cho nó coi một việc mà cầm chân, để khỏi lo sanh tệ.

Thượng Ðế nạp tấu, bèn đòi Tề Thiên Ðại Thánh vào chầu.

Tề Thiên đến bái rồi tâu rằng:

– Chẳng hay Bệ Hạ đòi Lão Tôn đến ban thưởng vật chi?

Thượng Ðế phán rằng:

– Trẫm thấy khanh ở không, chẳng có phần chi cai trị cho vui, nên đòi khanh vào đây, trẫm giao vườn Bàn đào cho khanh cai trị, coi giữ cho thường, chớ nên sơ hở để chúng phá phách.

Tề Thiên mừng rỡ, tạ ơn rồi lui ra.

Về gần tới phủ, ghé vườn Bàn đào, mới đến cửa ngõ, có Thổ Ðịa giữ vườn ấy đón lại hỏi rằng:

– Ðại Thánh đi đâu đây?

Tề Thiên nói:

– Ta mới vâng chỉ vườn này, nên đến mà tra xét.

Thổ Ðịa làm lễ, rồi kêu các lực sĩ ra dẫn Tề Thiên vào vườn, Thổ Ðịa cũng theo hầu.

Tề Thiên đi coi khắp hết, rồi hỏi Thổ Ðịa vườn này có mấy cây đào?

Thổ Ðịa thưa rằng:

– Nội vườn cộng hết thảy là ba ngàn sáu trăm cây, phía trước một ngàn hai trăm cây bông trái nhỏ, ba ngàn năm mới chín một kỳ, ăn nó thì thành tiên, nhẹ mình mà thêm sức. Còn giữa vườn một ngàn hai trăm cây, bông trái có từng, trái ngọt lắm, sáu ngàn năm mới chín một kỳ, ăn nó thì bay như chim mà trường sinh bất lão. Còn phía sau một ngàn hai trăm cây, chín ngàn năm mới chín một kỳ, trái có gân màu tía, nhỏ hột hơn hết, ăn nó thì sống bằng trời đất.

Tề Thiên nghe nói thì mừng thầm, đếm y số rồi trở về phủ.

Từ đó về sau không đi chơi đâu hết, hễ năm ba bữa thì ra vườn đào một lần, đi thì có Thổ Ðịa và Lực sĩ với Tiên lại theo hầu.

Ngày kia thấy vườn đào có trái chín, tìm tâm muốn nếm cho biết mùi, ngặt quan hầu theo hoài, làm sao mà ăn lén cho đặng.

Tề Thiên kiếm kế mà nói rằng:

– Thôi, các ngươi ra ngoài cửa mà giữ cửa vườn, để ta ở nhà mát mà nghỉ một chút.

Ai nấy đều vâng lệnh mà lui ra hết.

Chừng đó Tề Thiên lại nhà mát cởi đồ y phục ra, nhảy phóc lên cây đào, lựa trái nào chín mùi thì hái mà ăn tươi, làm một bụng lứ lừ mới nhảy xuống, bận áo đội lại xong rồi, ra cửa kêu Tiên lại về phủ.

Từ đó sắp sau, bắt bén, làm thế đó hoài, làm riết gần hết vườn đào!

Ngày kia Vương Mẫu nương nương ở cung Diêu Trì tại hướng Tây (Bà này là chúa mấy vị tiên nữ), đến kỳ đào chín sửa soạn làm hội Bàn Ðào, bèn sai bảy nàng tiên bận bảy sắc áo, là: Thanh y tiên nữ, Huỳnh y tiên nữ, Tạo y tiên nữ, Tố y tiên nữ, Hồng y tiên nữ, Tử y tiên nữ, Lục y tiên nữ, xách giỏ lam đi hái trái Bàn đào.

Khi bảy nàng tiên đến cửa vườn, thì thấy có Thổ Ðịa, Lực sĩ và Tiên lại giữ cửa.

Bảy nàng tiên nói:

– Chúng tôi vâng lệnh Vương Mẫu đến đây hái đào về làm hội.

Thổ Ðịa nói:

– Khoan vào đã, các cô! Xưa khác nay khác. Vả Thượng Ðế có sai Tề Thiên Ðại Thánh cai trị vườn này, chờ chúng tôi thưa lại đã.

Thất tiên hỏi:

– Tề Thiên Ðại Thánh bây giờ ở đâu?

Thổ Ðịa nói:

– Ðại Thánh ở trong vườn, đương ngủ trong nhà mát.

Thất tiên nói:

– Chúng tôi đi có giờ khắc, chẳng dám trễ lâu, xin ông dắt vào nhà mát mà ra mắt, chớ biết chừng nào ngài dậy mà chờ!

Thổ Ðịa nghe các tiên nói phải, liền dắt Thất tiên nữ vào nhà mát, thấy áo mão để đó mà không biết Ðại Thánh đi đâu, kiếm cùng vườn mà chẳng thấy!

Té ra Ðại Thánh ăn vụng no rồi biến hình ra nhỏ còn hai tấc, chun nằm trong hột đào mà ngủ, nên kiếm không đặng.

Còn Thất tiên nữ nóng về nên nói rằng:

– Chúng tôi vâng lệnh Vương Mẫu đến đây, mà kiếm Ðại Thánh chẳng đặng, lẽ nào dám về không!

Tiên lại nói:

– Ðại Thánh hay dạo đã quen, chắc là đi tìm bạn, các cô vâng chỉ thì hái lần đi, chừng Ðại Thánh về, chúng tôi sẽ thưa lại.

Thất tiên nữ y lời, ra vườn trước hái đầy ba giỏ. Rồi lại vườn sau không thấy đào chín, còn những trái xanh, là bị Tề Thiên ăn hổn!

Thất tiên nữ nói:

– Lạ này, hội này là hội lớn, chánh chín ngàn năm, sao vườn này không có trái chín, hái sao cho đầy một giỏ.

Bởi vườn sau trái ít, nên hái đặng bảy giỏ mà thôi. Ba thứ đào vì sao lại chín một lượt? Là vì ba ngàn năm chín một thứ, hái hai giỏ, hội nhỏ; sáu ngàn năm chín một thứ nữa, hái hai thứ đặng sáu giỏ thì hội trung, đến chín ngàn năm chín một thứ nữa, đặng bảy giỏ nên chín ngàn năm thì đại hội.

Khi Thất tiên nữ kiếm khắp vườn, thấy phía nam trái đào ở trên nhành nửa xanh nửa đỏ.

Thanh y tiên nữ kéo nhành ấy xuống, Huỳnh y tiên nữ hái rồi, Thanh y tiên nữ buông nhành đào bật lên.

Tề Thiên té nhào xuống, giật mình thức dậy, hiện hình rút thiết bảng hét lớn rằng:

– Chúng bây là yêu quái ở đâu? Sao dám cả gan hái đào trộm.

Thất tiên nữ hãi kinh đồng quỳ xuống mà thưa rằng:

– Chúng tôi không phải yêu quái, thiệt là Thất tiên nữ vâng lệnh Vương Mẫu hái đào làm hội, có trình Thổ Ðịa, vào kiếm Ðại Thánh không đặng, chị em tôi sợ trễ nên phải hái lần, xin Ðại Thánh bớt giận và tha tội.

Tề Thiên nghe rõ thì đổi giận làm vui mà nói rằng:

– Thôi, các tiên nga chờ dậy. Chẳng hay Vương Mẫu làm tiệc đãi ai?

Thất tiên nữ thưa rằng:

– Lệ thường thì mời Phật Tổ bên Tây Phương, Quan Âm bên Nam Hải, Sùng Ân bên Ðông huê, Huỳnh Linh bên Bắc địa, Huỳnh Giác ở Trung ương và Tam Thanh, Tứ đế, Thái Ất, Bát tiên, Ðịa tạng vương, Thập điện, Tứ Hải long vương, và các vị thần tiên tinh tú, đồng hội tề, rước Thượng Ðế qua phó Bàn Ðào.

Tề Thiên hỏi:

– Có thỉnh ta chăng?

Thất tiên thưa:

– Chúng tôi không nghe nói.

Tề Thiên nói:

– Ta làm chức Tề Thiên Ðại Thánh lại có công giữ vườn sao không mời ta dự tiệc.

Thất tiên nữ thưa rằng:

– Lệ cũ thì vậy, chớ kỳ này không biết thế nào?

Tề Thiên nói:

– Phải, thôi, các cô đứng cho vững đã.

Nói rồi niệm chú làm phép định thân, chỉ các tiên nga mà nói rằng:

– Ðứng đó, đứng đó!

Thất tiên nữ đứng như trời trồng.

Tề Thiên thấy các tiên nữ trơ trơ dưới cội đào, liền nhảy vào nhà mát mặc áo đội mão, rồi cân đẩu vân đi phó hội trước, xảy gặp Xích Cước đại tiên.

Tề Thiên sinh ra một kế, liền bái mà hỏi rằng:

– Chẳng hay ông đạo đi đâu?

Xích Cước đại tiên nói:

– Tôi đi phó hội Bàn Ðào.

Tề Thiên nói:

– Thượng Ðế khen tôi có tài cân đẩu vân hay lắm, nên sai tôi đón các thần tiên mà dặn rằng: “Lệ này phải hội tề tại đền Thông Minh; tập lễ xong rồi, sẽ hội Bàn Ðào luôn thể”.

Xích Cước ngỡ là thiệt cải lệ, nên quay lại đi qua Thông Minh điện.

Còn Tề Thiên thấy Xích Cước đi xa rồi niệm chú… Biến hình ra Xích Cước, rồi riết qua hội Bàn Ðào.

Khi vào tới Bửu các, thấy tiệc dọn chỉnh tề, những đồ mỹ miều kể đà không xiết, mà không có rượu với đào, và chưa thấy ai dự tiệc.

Tề Thiên muốn làm lén ba miếng, xảy có mùi rượu bên phía Ðông phất qua thơm nực mũi, Tề Thiên bước qua thấy hũ rượu rất ngon thì bắt thèm, ngặt có quan canh, biết làm sao đặng! Liền nhổ lông bỏ vào miệng nhai nhỏ phun ra, hóa ra con buồn ngủ bay đậu trên mặt quân canh, quân liền ngủ gục hết.

Lúc này Tề Thiên làm lộng, lựa mấy ngón nhất hạng bưng qua phía Ðông mà ăn, nên cổ bàn lỡ hết.

Tề Thiên ăn đồ no nốc, uống rượu say mềm! Nghĩ rằng:

– Không xong, khi mình giữ vườn thì lựa đào ngất ăn hết, nay lại ăn vụng làm lỡ hết cổ bàn, khui hết mấy chinh rượu mà uống! Nếu đến chừng khách tới, thì chúng bắt chẳng sai, chi bằng lén lén về dinh mình mà ngủ, dầu có lậu ra cũng dễ chối.

Làm tuồng tỉnh táo riết về phủ Tề Thiên, nhằm lúc say ba ngù, đi lạc qua cung Ðâu Suất.

Khi ấy Tề Thiên thấy bảng đề Ðâu Suất cung thì sực nhớ rằng:

– Cung Ðâu Suất là chỗ Thái Thượng lão quân ở, nếu vậy mình đã đi lạc xa rồi! Xưa rày cũng lâu đến ông này, sẳn dịp ghé thăm luôn thể.

Nói rồi sửa bước vào, chẳng dè ông Thái Thượng mắc giảng kinh trên lầu với ông Nhiên Ðăng, các đệ tử đều đứng hầu nghe giảng, nên Tề Thiên vào cung Ðâu Suất không thấy một người, liền đi thẳng vào phòng, thấy trong năm cái bầu đựng những thuốc kim đơn.

Tề Thiên mừng quá nói rằng:

– Từ mình thành tiên tới nay, biết thứ thuốc này là quý, song chưa đặng luyện chế mà cứu người, may gặp vật này, mà không có chủ, vậy mình uống thử ít viên.

Nói rồi trút bầu thuốc bỏ vào miệng nhai nuốt.

Tề Thiên làm một hơi sạch trơn trong bầu chẳng còn huờn nào hết, nhờ thuốc dã rượu hết say giựt mình ngẫm nghĩ rằng:

– Không xong rồi, họa lớn bằng trời, không phải dễ! Nếu Thượng Ðế hay đặng ắt tánh mạng chẳng còn! Chi bằng chạy về động Thủy Liêm mà trốn.

Nói rồi nhảy tới Tây Thiên Môn, tàng hình ra khỏi cửa, cân đẩu vân nhảy xuống Hoa Quả Sơn, kêu lớn rằng:

– Chúng bây ôi! Ta đã về đây!

Yêu tinh và quần hầu quỳ lạy mà thưa rằng:

– Ðại Thánh nỡ nào bỏ chúng tôi lâu quá vậy!

Tề Thiên nói:

– Không bao lâu mà!

Vừa nói vừa đi vào động, Tứ kiện tướng lạy mừng rồi hỏi rằng:

– Ðại Thánh đã ở trên trời một trăm mười một năm, chẳng hay làm chức chi vậy?

Tề Thiên nói:

– Ta nhớ đâu ba bốn tháng, mà dưới thế này đến một trăm mười một năm! Nói cho phải, chuyến này khá. Thượng Ðế hậu đãi và phong cho Tề Thiên Ðại Thánh.

Lại thuật hết các công chuyện từ khi đi cho đến về đây. Yêu quỷ và quần hầu mừng rỡ, rót rượu nước dừa dâng lên. Tề Thiên hớp một miếng, rồi phun phèo phèo, nhăn mặt mà rằng:

– Uống không đặng! Hồi sớm ta lại cung Diêu Trì uống những quỳnh tương tiên tửu, hơi thơm ngát, vị ngạt ngào, thương hại cho chúng bây biết làm sao mà uống cho đặng đồ quý ấy! Vậy thì ta lén lên trộm về vài hủ các ngươi uống một đứa một chút cũng đặng trường sinh.

Yêu quỷ và quần hầu tạ ơn, Tề Thiên Ðại Thánh ra khỏi cửa động làm phép tàng hình, cân đẩu vân lén vô cung Diêu Trì, thấy quân canh còn ngủ!

Tề Thiên lựa hai hủ lớn cập nách, còn hai tay xách hai hủ nữa là bốn hủ, rồi tàng hình đem về động, làm hội tiên tửu uống với yêu quái và quần hầu.

Nói về Thất tiên nữ tới mười hai giờ mới tan phép định thân, đồng xách giỏ hoa lam về tâu với Vương Mẫu rằng:

– Chúng tôi hái hai vườn đào trước y số, đến vườn đào sau không còn một trái. Chắc Tề Thiên Ðại Thánh ăn vụng hết. Chị em tôi đương kiếm đào, xảy đâu Ðại Thánh nhảy ra hành hung muốn đánh, hỏi hội này mời ai, chúng tôi nói theo lệ cũ, rồi Ðại Thánh làm phép định thân, đến bây giờ chúng tôi mới tỉnh hồn về đặng.

Lúc ấy Vương Mẫu nghe nói nổi giận, liền vào tâu với Thượng Ðế…

Xảy có quân canh vào tâu:

– Không biết ai ăn vụng lỡ cổ bàn hết, và uống rượu, lại lấy mất hết bốn hủ quỳnh tương lớn.

Kế Tứ đại tiên sư vào tâu rằng:

– Tôi chế thuốc Cửu Chuyển kim đơn, đặng làm hội Ðơn Ngươn, chẳng biết ăn trộm ở đâu mà trút hết năm bầu. Xin Thượng Ðế cho người tra xét.

Thượng Ðế nghe tâu lấy làm lạ.

Xảy thấy Tiên lại vào tâu rằng:

– Tề Thiên Ðại Thánh đi dạo hôm qua tới bữa nay chưa về.

Thượng Ðế sanh nghi!

Kế Xích Cước đại tiên vào tâu rằng:

– Hôm qua tôi vâng lệnh Vương Mẫu phó hội Bàn đào, gặp Tề Thiên Ðại Thánh nói với tôi rằng: Bệ Hạ dạy tôi đến Thông Minh điện diễn lễ rồi sẽ phó hội Bàn đào, tôi trở lại đền Thông Minh hôm qua tới nay, mà chẳng thấy tin giá ngự nên tôi phải đến đây đợi lệnh.

Thượng Ðế kinh hãi phán rằng:

– Trẫm không truyền chỉ đòi hiền khanh, chắc là Ngộ Không nó gạt khanh đó. Vậy thì Linh Quan đi xét bắt Ngộ Không về đây coi nào!

Giây lát Linh Quan đi xét ra rõ cớ ấy, trở về mà tâu rằng:

– Các việc ấy đều nơi Tôn Ngộ Không hết; nay nó đã trốn về núi Hoa Quả động Thủy Liêm, đang làm tiệc tiên tửu ở dưới là rượu nó ăn trộm đó.

Thượng Ðế nghe qua nổi trận lôi đình, hạ chỉ đòi bốn vị Thiên tướng, Lý Thiên Vương, Na Tra, Nhị thập bát tú, Cửu Diện tinh quân, Ngũ Phương yết đế, bốn vị Công Tào, các vị Thiên thần dẫn mười muôn thiên binh xuống vây núi Hoa Quả, bắt cho được Tôn Ngộ Không đem về trị tội.

Khi ấy chư thần tướng dẫn mười muôn binh xuống vây núi Hoa Quả, Lý Thiên Vương truyền trên bủa lưới khắp trời, gọi là Thiên la, dưới bủa lưới khắp đất, gọi là Ðịa võng, trên chín lớp lưới, dưới chín lớp lưới, cộng lại là mười tám lưới.

Trước sai mấy vì sao dữ tợn, kéo binh tới trước động Thủy Liêm khiêu chiến.

Khi tới động, Cửu Diện tinh quân kêu rằng:

– Ðại Thánh ở đâu? Chúng ta vâng chỉ đến đòi Ðại Thánh về trời, nếu bất tuân thì bị giết cả động.

Tiểu yêu về báo lại…

Tề Thiên đang nhậu với Tứ kiện tướng quân và các Yêu vương, nghe báo chẳng hề sợ sệt, lại ngâm thơ rằng:

Ngỏa nguê tiệc rượu lại ngâm thi,

Bao quản ngoài tai tiếng thị phi.

Ngâm đặng hai câu, có quân vào báo rằng:

– Cửu Diện hung thần nhục mạ lắm!

Tề Thiên cười rằng:

– Kệ nó đừng báo làm chi, cứ đóng cửa cho chặt.

Nói rồi ngâm hai câu nữa:

Thơ rượu sẳn vui ngâm lại nhậu,

Công danh chỉ tính kiếp cùng chầy.

Kế tiểu yêu vào hớt hải báo rằng:

– Ðại Thánh ôi! Không xong! Chín vị hung thần phá hư cửa động rồi.

Tề Thiên nổi giận nói rằng:

– Ta say quá, thôi Ðộc Giác quỷ vương dẫn bảy mươi hai chúa động ra trước, còn ta với Tứ kiện tướng theo sau. Ðộc Giác quỷ vương vâng lệnh dẫn bảy mươi hai chúa động xông ra, bị Cửu Diện chận đánh nên phải thối lại, ra không khỏi động!

Kế Tề Thiên xách thiết bảng tới hét lớn rằng:

– Tránh Tránh.

Ðộc Giác và bảy mươi hai chúa động tránh vẹt hai bên.

Tề Thiên xông ra đánh Cửu Diện phải lui ra cửa động.

Cửu Diện nói rằng:

– Bật Mã Ôn không sợ chết, ngươi phạm tội trời:

1.) Ăn vụng Bàn đào.

2.) Uống lén rượu ngự tửu.

3.) Ăn vụng cổ bàn của Vương Mẫu.

4.) Lén uống thuốc kim đơn của Lão quân.

5.) Ăn trộm ngự tửu đem về làm tiệc, nay còn cự chống cho thêm tội nữa sao?

Tề Thiên cười ngất nói rằng:

– Năm điều đó quả có, ta không thèm chối, mà bây giờ chúng bây muốn cái gì?

Cữu Diện nói:

– Nay Thượng Ðế sai chúng ta xuống bắt ngươi, ngươi mau chịu phép, kẻo liên lụy cả động.

Tề Thiên nổi giận nói rằng:

– Chúng bây là đồ khốn, tài phép bao nhiêu mà nói lớn lối! Ta đập một cây cho rồi đời.

Cửu Diện hổn chiến, bị Tề Thiên mạnh mẽ qua, Cửu Diện đánh không lại vụt chạy hết, về trại thưa rằng:

– Hầu yêu mạnh bạo vô cùng, chúng tôi đánh không lại.

Lý Thiên Vương sai bốn vị Thiên Vương dẫn Nhị thập bát tú kéo binh ra vây phủ.

Tề Thiên chẳng hề nao núng, dẫn bốn tướng mạnh và Ðộc Giác quỷ vương với bảy mươi hai động chủ ra cự địch.

Ðánh từ giờ thìn cho đến mặt trời lặn, Ðộc Giác quỷ vương và bảy mươi hai chúa động đều bị thiên thần bắt hết, trừ ra có Tứ kiện tướng chạy khỏi.

Còn đó Tề Thiên đương đánh với Tứ vị Thiên vương, Lý thiên Vương và Na Tra thái tử, Tề Thiên nhổ một nắm lông bỏ vô miệng nhai nhỏ phun ra, hóa hình Tề Thiên vô số, đều cầm thiết bảng trợ chiến với mình.

Tứ vị Thiên vương, Lý Tịnh Na Tra đều bại tẩu! Tề Thiên dùn mình thâu lông lại, về tới cửa động, thấy Tứ Kiện Tướng dàn quân nghinh tiếp.

Tứ Kiện Tướng khóc ba tiếng, rồi cười ba tiếng.

Tề Thiên hỏi:

– Vì cớ nào đã khóc lại cười?

Tứ Kiện Tướng thưa rằng:

– Khóc là khóc bảy mươi hai chúa động và quỷ vương bị bắt, còn cười là mừng Ðại Thánh thắng trận mới về.

Tề Thiên nói:

– Sự chinh chiến thắng bại là việc thường, hơi nào mà buồn bực. Chúng ta ăn cho no, ngủ cho khỏe, mai bắt Thiên Vương lại mà báo thù.

Chúng khỉ đều thỉnh lệnh.

Nói về Lý Tịnh thâu binh, các Thiên Vương về dưng yêu quái hổ hang rất nhiều, mà bắt không đặng một con khỉ.

Lý Thiên Vương truyền Thiên binh treo lục lạc theo Thiên la Ðịa võng, hễ nghe rung lục lạc thì đón bắt, đừng cho yêu hầu trốn thoát.

Chương 6: Quan Âm phó hội hỏi căn do – Tiểu Thánh ra oai trừ Ðại Thánh

Nói về Quan Âm Bồ Tát ở núi Phổ Ðà tại Nam Hải. Khi Vương Mẫu mời phó hội, thì Quan Âm đi với đệ tử là Lý Mộc Tra pháp danh Huệ Ngạn, đồng đến cung Diêu Trì, thấy cổ bàn đã lỡ hết! Tuy có mấy vị Thiên tiên, mà không ai ngồi tiệc, cứ bàn luận chuyện Tề Thiên…

Quan Âm ra mắt các tiên, các tiên đáp lễ, rồi thuật chuyện lại…

Quan Âm nói:

– Nếu không dự tiệc thì các vị theo bần tăng vào chầu Thượng Ðế coi thể nào!

Các tiên y lời, theo đến Thông Minh điện, có bốn vị Tiên sư và Xích Cước đại tiên nghinh tiếp.

Quan Âm và các tiên bước vào, thì có Thái Thượng lão quân và Vương Mẫu còn ở đó.

Chào hỏi với nhau rồi, Quan Âm quì tâu rằng:

– Bây giờ tính hội này làm sao?

Thượng Ðế phán rằng:

– Kỳ hội nào cũng vui, kỳ này bị yêu hầu quấy rối? Nên trẫm giận sai mười muôn thiên binh đi bắt nó, chưa thấy trở về, không biết thắng hay là bại.

Quan Âm nói rằng:

– Vậy thì Huệ Ngạn xuống núi Hoa Quả thăm coi thắng phụ thế nào! Nếu gặp đánh thì trợ chiến, rồi về báo tin.

Huệ Ngạn vâng lời xách thiết côn giáng hạ. Tới núi Hoa Quả thấy Thiên la Ðịa võng bủa giăng, liền kêu lớn rằng:

– Ta là Nhị Thái Tử Lý Mộc Tra xin vào thám thính.

Lý Thiên Vương mở cửa dinh.

Huệ Ngạn vào lạy cha và ra mắt bốn vị Thiên vương.

Lý Thiên Vương hỏi:

– Con ở đâu tới đây?

Huệ Ngạn thưa rằng:

– Con theo Bồ Tát phó hội Bàn đào, thấy hư hết cổ bàn, nên Bồ Tát vào chầu Thượng Ðế. Thượng Ðế thuật chuyện…, nên Bồ Tát sai con đi thám thính.

Ðang nói nửa chừng, kế có quân vào báo rằng:

– Tề Thiên dẫn hầu tinh đến khiêu chiến.

Huệ Ngạn thưa rằng:

– Bồ Tát dạy con đi thám và trợ chiến, con xin ra trận coi yêu quái thế nào?

Lý Thiên Vương nói:

– Con đi thì phải cho cẩn thận.

Huệ Ngạn huơi thiết côn ra khỏi cửa, rồi hỏi rằng:

– Tề Thiên là ai?

Tề Thiên nói:

– Lão Tôn đây! Còn ngươi là ai đó?

Huệ Ngạn nói:

– Ta là học trò Quan Âm bồ tát, con thứ hai của Lý Thiên Vương tên là Mộc Tra tự Huệ Ngạn đây.

Tề Thiên nói:

– Sao ngươi không ở Nam Hải mà tu, đến đây làm gì?

Huệ Ngạn nói:

– Ta vâng lệnh thầy đi thám thính, thấy ngươi khiêu chiến, nên ta ra mà bắt ngươi.

Tề Thiên nói:

– Mi chớ khoe tài, ta đập mi một cái cho biết.

Huệ Ngạn giơ côn ra đỡ, đánh đặng sáu mươi hiệp Huệ Ngạn chạy dài.

Tề Thiên thâu quân về động.

Còn Huệ Ngạn chạy về thở dốc mà rằng:

– Tề Thiên thiệt có tài, con cự đà không lại.

Lý Thiên Vương hoảng kinh truyền viết biểu cầu cứu, sai Ðại Lực quỷ vương theo Huệ Ngạn về trời dâng biểu.

Khi ấy Huệ Ngạn về thuật chuyện cho Quan Âm nghe, Quan Âm còn suy nghĩ.

Còn Ðại Lực quỷ vương dâng sớ Thượng Ðế coi rồi phán rằng:

– Sá gì một con quỷ mà mười muôn Thiên binh làm không lại, mà phải xin tiếp cứu! Bây giờ tính sai đạo binh nào?

Quan Âm chắp tay tâu rằng:

– Bệ Hạ chớ lo! Bần tăng dâng một vị thần, bắt yêu hầu nháy mắt.

Thượng Ðế phán hỏi:

– Bồ Tát cử ai?

Quan Âm tâu rằng:

– Người ấy kêu Bệ Hạ bằng cậu ruột. Nhị Lang hiền thánh tên Dương Tiễn, khi trước giết sáu con yêu, lại có sáu người anh em bạn tại Mai Sơn, sẳn có 1200 thần thảo đầu, thần thông quảng đại, bây giờ ở tại vàm Quán Châu, va có tánh kiêu, như sai đi đánh thì đi, nếu đòi về trào mà sai thì chắc không chịu! Xin Bệ Hạ xuống chiếu sai va, thì chắc va phụng mạng.

Thượng Ðế y lời truyền viết chiếu điều binh rồi sai Ðại Lực quỷ vương đi.

Khi Ðại Lực quỷ vương tới vàm Quán Châu, đến trước dinh, Nhị Lang hiển thánh tiếp sứ, rồi thiết hương án quì đọc chiếu như vầy:

” Tề Thiên Ðại Thánh là Tôn Ngộ Không ở tại động Thủy Liêm núi Hoa Quả, hội Bàn đào nó phá rã rời, Thiên Binh Thiên Tướng bị đà xững vững. Xin hiền khanh ra sức cùng nghĩa đệ giúp công Trị bình, trẫm sẽ phong, chỉnh đốn rồi ta ban thưởng.”

Nhị Lang hiển thánh vâng lời tạ ơn; rồi nói rằng:

– Vậy Thiên sứ về trước tâu lại, rằng tôi phụng chỉ đề binh.

Nói rồi kêu sáu anh em: Khượng thái úy, Trương thái úy, Giao thái úy, Lý thái úy, Quách Thân tướng quân, Trực Kiện tướng quân, bảo đem 1200 thần thảo đầu cho sẳn, đem cung tên khí giới theo, đồng nổi gió, bay qua núi Hoa Quả, thấy Thiên la Ðịa võng bủa giăng.

Nhị Lang hiển thánh kêu lớn rằng:

– Ta là Nhị Lang hiển thánh chân quân, vâng chỉ đem quân trợ chiến.

Lý Thiên Vương nghe báo truyền mở cửa dinh nghinh tiếp.

Nhị Lang hiển thánh vào hỏi việc chinh chiến thể nào?

Lý Thiên Vương thuật chuyện lại, Nhị Lang hiển thánh cười rằng:

– Ðể nó giỏi nó thần thông với tôi. Các ông hãy mở Thiên la Ðịa võng ra, hễ đánh đâu vây đó mà thôi, xin Thác Tháp thiên vương hay là Tam Thái Tử cầm kiếng chiếu yêu đứng trên mây soi xuống, đặng tôi coi mà theo nó, dẫu nó biến ra vật chi cũng biết, đừng cho nó sẫy khó lòng.

Nhị Lang hiển thánh dặn các thần thảo đầu cột chó, cầm ó lại, chờ khi hổn chiến sẽ thả ra.

Dặn rồi dẫn sáu tướng tới động Thủy Liêm khiêu chiến. Thấy bầy khỉ đóng binh như rồng uống khúc, trước cửa động dựng cờ đề chữ Tề Thiên Ðại Thánh, Nhị Lang hiển thánh nói:

– Loài yêu hầu vô lễ, muốn địch thể với trời!

Khi ấy tiểu hầu vào báo, Tề Thiên nai nịch cầm thiết bảng xông ra hỏi rằng:

– Người là tiểu tướng ở đâu, dám cả gan đến đây khiêu chiến?

Nhị Lang hiển thánh nạt rằng:

– Mi có mắt mà không ngươi, ta là cháu kêu Thượng Ðế bằng cậu, chức Chiêu Huệ Tịnh hiển vương, là Nhị Lang hiển thánh chân quân, vâng chỉ đến bắt ngươi đây.

Tề Thiên nói:

– Ờ ta có nghe em Thượng Ðế muốn chồng, xuống phàm trần kết đôi với Dương quân, sinh đặng một trai tên là Dương Tiễn sức mạnh nhổ núi Giao Sơn, có phải là mi đó chăng? Mi là con nít nhảy mũi ta không nỡ xuống tay, ta tha cho mi về kêu Lý Thiên Vương ra đây cự chiến.

Nhị Lang nổi giận mắng rằng:

– Yêu hầu cà xốc, ta chém một đao.

Hai đàng đánh nhau, ba trăm hiệp sức cũng cầm đồng.

Nhị Lang hiển thánh hóa mình cao muôn trượng, tóc đỏ, mặt xanh, nanh dài, mũi lớn, cầm đao lớn bằng hòn núi chém bổ Tề Thiên.

Tề Thiên cũng biến hình cao muôn trượng, cầm thiết bảng lớn như núi Thái Sơn cự với Nhị Lang hiển thánh.

Lúc này binh yêu hoảng vía hết chờn vờn, tướng khỉ run en thôi cà thọt!

Chừng ấy sáu tướng của Nhị Lang hiển thánh mới thả chó và ó ra, trên nhành ó liện, dưới gốc chó râm, binh tướng săn nà, làm cho bầy khỉ quăng gươm ném giáo, con vọt vô rừng, con nhảy vào động.

Tề Thiên thật không sút chi Nhị Lang hiển thánh, song thấy quần hầu vỡ tan, phải hiện nguyên hình chạy về tiếp cứu!

Nhị Lang hiển thánh đuổi theo.

Tề Thiên không muốn cự bởi nóng bầy khỉ nên riết về, ai dè về gần cửa động, bị sáu tướng của Nhị Lang đón lại mà rằng:

– Con khỉ khốn chạy đâu?

Phần chó với ó nó vải theo, Tề Thiên túng thế, thâu thiết bảng giắt vào mép tai, rồi biến ra con se sẻ bay lên ngọn cây mà đậu! Sáu tướng kiếm không đặng.

Kế Nhị Lang hiển thánh chạy đến hỏi rằng:

– Các em rượt tới đâu mà mất nó.

Sáu người nói:

– Chúng tôi vây nó tại đây, không biết nó biến đi đâu mất!.

Nhị Lang hiển thánh trợn mắt ngó lên, thấy trên ngọn cây có yêu khí, biết là Tề Thiên biến ra se sẻ ấy, liền hiện nguyên hình lại, rồi dùn mình biến ra con bù cắt, bay lên mổ se sẻ, se sẻ sợ bay bỗng hóa ra con cò ngà bay lên mây.

Bù cắt biến ra hạc biển bay theo. Cò ngà hoảng kinh xẹt xuống suối hóa ra con cá. Hạc biển bay theo xuống suối không thấy con ngà, thì chắc con ngà đã biến ra tôm cá, liền hóa ra con séo mà xom, con cá thấy con séo xom lia xom lịa, thì nghi là Nhị Lang biến ra, liền lội thối lại.

Con séo thấy con cá chày mà đuôi không đỏ, biết là Tề Thiên liền chạy theo mà mổ. Con cá thấy con séo sao chân không đỏ, biết chắc là Nhị Lang theo mình liền lặn xuống biến ra con rắn nước, nhảy vọt lên bờ, lủi vô cỏ rậm. Con cò séo mổ hụt, lại thấy rắn nước nhảy lên bờ, thì chắc là Tề Thiên hóa rắn mà trốn, séo liền hóa ra hạc xám theo mổ rắn nước, rắn nước chạy vọt lên triền núi hóa ra chim nắt nước, đậu theo mé khe, Nhị Lang hiển thánh thấy Tề Thiên biến ra vật hèn mọn, thì không thèm hóa ra vật khác làm chi, liền hiện hình người lấy cung mà bắn. Chim nắt nước lẹ mắt, liền nhào xuống chân núi, hóa ra một cái miểu Thổ Ðịa, cái miệng làm cửa, hai hàm răng làm cánh cửa, cái lưỡi làm cốt Thổ Ðịa, cặp mắt làm cửa sổ, còn cái đuôi không biết làm sao phải hóa làm cột cờ dựng sau miễu!

Nhị Lang hiển thánh tới gặp miễu Thổ Ðịa sau miễu có dựng cờ.

Nhị Lang ngẫm nghĩ cười rằng:

– Con khỉ nó gạt ta đây! Ta khi nào mắc kế, thuở nay miễu Thổ Ðịa đời nào dựng cờ sau lưng, Tề Thiên gạt ta chun vào để nó cắn. Ta không thèm vô cửa, ta đánh phá cho hư gãy cánh, rồi ta sẽ vào.

Tề Thiên nghe nói nghĩ rằng:

– Nếu để nó đập phá cửa, thì gãy răng đui mắt mình còn gì.

Nghĩ rồi vùng biến mất! Nhị Lang hiển thánh kiếm hết sức không đặng!

Kế bốn Thái Úy, hai tướng quân chạy tới hỏi rằng:

– Anh bắt đặng Tề Thiên chưa vậy?

Nhị Lang hiển thánh cười mà thuật chuyện vậy vậy…

Sáu người đều sửng sờ!

Nhị Lang hiển thánh nói:

– Vậy các em ở đây coi chừng, để ta lên mây kiếm nó.

Nói rồi nhảy lên nửa chừng, thấy Lý Thiên Vương và Na Tra đang ở trên mây soi kiếng.

Nhị Lang hiển thánh nói:

– Thiên Vương có thấy yêu hầu chăng?

Lý Thiên Vương nói:

– Nó không có lên đây, ta đang soi gương mà tìm nó.

Nhị Lang hiển thánh thuật chuyện lại, Lý Thiên Vương nghe nói, thì cầm kiếng mà soi, rồi cười ngất mà rằng:

– Con khỉ nó qua vàm Quán châu là chỗ Chơn quân ở kia kìa, Chơn quân trở về bắt nó cho mau.

Nhị Lang hiển thánh nghe nói xách đao đi riết.

Nói về Tề Thiên gần tới vàm Quán Châu, liền giả hình làm Nhị Lang hiển thánh, đi thẳng vào cửa miếu, Quỷ sứ ngỡ là chủ về, kéo ra làm lễ rước vào.

Tề Thiên ngồi giữa bảo đem sổ bộ ra xem, thấy đề Lý Hổ đem tam sanh cúng trả lễ, Trương Long cầu gia đạo bình an, kẻ tới cầu con, người xin cứu bệnh.

Ðương xem sổ bộ, kế báo gia gia về nữa! Quỷ sứ nghe báo chạy ra sững sờ!

Nhị Lang hiển thánh hỏi:

– Có Tề Thiên tới đây không?

Quỷ sứ thưa rằng:

– Có một gia gia hình dung như vậy, đương xem bộ sổ ở trỏng.

Nhị Lang hiển thánh nghe nói xông vào.

Tề Thiên xem thấy hiện hình mà nói rằng:

– Nhà ngươi đừng láu táu, miễu này về Lão Tôn rồi!

Nhị Lang hiển thánh chém một đao, Tề Thiên đưa thiết bảng ra đỡ.

Hai người đánh với nhau ra khỏi cửa, vừa đánh vừa chạy đến chân núi Hoa Quả!

Ðã sức cầm đồng thì chớ, lại còn sáu người trợ chiến và thiên binh thiên tướng phủ vây.

Lúc này Ðại Lực quỷ vương về tâu… Thượng Ðế với Quan Âm, Thái Thượng, Vương Mẫu và các tiên còn ở lại đền bàn luận, Thượng Ðế nghe Ðại Lực quỷ vương tâu chuyện thì hỏi rằng:

– Nhị Lang hiển thánh đánh cả ngày sao không nghe tin thắng bại?

Quan Âm chắp tay tâu rằng:

– Xin Bệ Hạ, ngự ra cửa Nam Thiên với Thái Thượng đạo tổ để xem thắng phụ dường nào.

Thượng Ðế khen phải, liền ngự ra Nam Thiên Môn, mở cửa trời xem xuống, thấy Lý Thiên Vương cầm kiếng đứng trên mây với Na Tra. Các thiên binh thiên tướng thì vây phủ Tề Thiên, còn Nhị Lang hiển thánh với sáu người em vậy đánh Tề Thiên, mà cũng trật vuột làm không xuể!

Quan âm nói với Thái Thượng rằng:

– Tôi tiến cử Nhị Lang là thần thông quảng đại, mà còn bắt không đặng Tề Thiên. Thôi, để tôi giúp Nhị Lang một phép đặng bắt nó cho rồi.

Thái Thượng hỏi:

– Bồ tát làm sao mà giúp?

Quan Âm nói:

– Tôi quăng cái Tịnh bình xuống đập đầu con khỉ, dầu không chết cũng té nhào thì Nhị Lang bắt đặng.

Thái Thượng nói:

– Cái tịnh bình của Bồ Tát bằng ngọc, như đánh nhằm thì tốt, rủi có trật bể uổng! Thôi, để tôi giúp cho.

Quan Âm hỏi:

– Ðạo tổ dùng vật chi?

Thái Thượng cởi cái vòng trong tay tả mà rằng:

– Cái vật này bằng gang, tôi tẩm luyện đã linh lắm, nhờ đeo trong mình, nên rất quý! Nước ngâm không ướt, lửa cháy không mềm, quăng đụng vật chi thì nó quấn chặt cứng nên gọi là Kim Cang trát, một tên riêng là Kim Cang sào. Năm trước, tôi qua khỏi cửa Hàm cốc cũng nhờ nó, mới độ nước Tây Vực thành Phật nhiều lắm. Ðể tôi quăng xuống cho mà coi.

Nói rồi quăng xuống.

Khi Tề Thiên đương mê trận, chẳng dè Kim Cang sào rớt nhằm đầu, Tề Thiên té nhào, bộ như chết hụt, lồm cồm chờ dậy, bầy chó nhảy vô cắn xé, trì kéo lăng nhăng, nên Tề Thiên nằm dưới đất la chó, vừa la vừa chờ dậy, bị Nhị Lang hiển thánh và sáu anh em xúm lại bắt Tề Thiên đè xuống lấy ngoéo sắt móc eo ếch, xỏ tiên thằng trói lại hết thế vùng vẫy.

Khi ấy Thái Thượng thâu Kim Cang sào, rồi mời Thượng Ðế với Vương Mẫu, Quan Âm về điện Linh Tiêu. Còn bốn Thái Úy và hai tướng quân dẫn Tề Thiên vào trại. Các Thiên Vương và Thiên tướng đồng khen rằng:

– Thiệt là nhờ công lao Tiểu thánh, mới bắt đặng yêu hầu.

Nhị Lang hiển thánh nói:

– Nhờ hồng phước của Thượng Ðế và oai lực các ông, chớ tôi có tài chi mà khen ngợi.

Sáu người em bạn thưa rằng:

– Xin anh để chúng tôi dẫn yêu hầu nạp cho Thương Ðế.

Nhị Lang hiển thánh nói:

– Các em chưa có sắc phong, không nên chầu Thượng Ðế, để sai thần Lục đinh lục giáp giải nó lên Thiên Tào, còn các em vào núi này trừ cho hết yêu quái. Còn ta theo các vị Thiên tướng lên Ðế đình lãnh thưởng, sẽ về phân phát cho nhau.

Sáu người đều vâng lệnh, đi xuống Hoa Quả Sơn.

Còn Nhị Lang hiển thánh đi với Thiên Tướng Thiên Binh về tới Thông Minh điện. Thiên sứ tâu rằng:

– Nhị Lang và Thiên Binh Thiên Tướng bắt đặng Tề Thiên giải về.

Thượng Ðế truyền Ðại Lực quỷ vương, Lục đinh, Lục giáp, với các tướng trời, dẫn Tôn Ngộ Không tới đài trãm yêu mà phân thây muôn đoạn.