Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Khi ấy chúng thần dẫn Tề Thiên tới đài trãm yêu, trói vào cột hàng yêu, gươm chém mẻ gươm, giáo đâm mẻ giáo, hỏa tinh đốt không cháy, Thiên Lôi đánh không sờn! Ðại Lực quỷ vương và các Thiên tướng tâu lại…
Thượng Ðế phán rằng:
– Không biết yêu hầu học phép hộ thân ở đâu mà đặng như vậy! Bây giờ liệu làm sao?
Thái Thượng tâu rằng:
– Con khỉ ấy ăn bàn đào, uống ngự tửu, lại nuốt hết năm bầu thuốc kim đơn của tôi, nên nó thành mình vàng rồi làm sao giết cho chết! Vậy xin Bệ Hạ giao nó cho tôi bỏ vô lò bát quái, dùng lửa phép mà hầm nó, hễ chảy thuốc kim đơn ra hết, thì nó phải ra tro.
Thượng Ðế phán rằng:
– Vậy thì giao Tề Thiên cho Lão quân khiển sát.
Thái Thượng vâng chỉ…
Rồi Thượng Ðế với Nhị Lang hiển thánh lên điện, thưởng một trăm bông vàng, một trăm ve ngự tửu, một trăm hột hườn đơn và gấm thêu châu báu…
Nhị Lang hiển thánh tạ ơn, rồi lãnh phần thưởng lui về miếu cũ.
Còn Thái Thượng về cung Ðâu Suất mở trói cho Tề Thiên, bỏ vô lò bát quái đậy nắp lại, truyền Lục đinh Lục giáp và một đạo sĩ coi chụm lửa cho đủ bốn mươi chín ngày đêm.
Nguyên lò bát quái là tám cung: Cung Càn, cung Khảm, cung Cấn, cung Chấn, cung Tốn, cung Ly, cung Khôn, cung Ðoài, mà cung Tốn ở trên gió.
Tề Thiên nép bên cung Tốn cho khỏi lửa, tuy không lửa thì mặc lòng, chớ cũng bị khói un hai con mắt nâu hết, nên thành mắt lửa tròng vàng!.
Ðủ bốn mươi chín ngày đạo sĩ dỡ nắp ra coi, trong ý tưởng Tề Thiên tiêu rồi, còn thuốc kim đơn chảy ra cả khối.
Ai dè Tề Thiên đương dụi con mắt, nghe tiếng dỡ nắp lản cản, trên miệng lò trống lỗng! Tề Thiên vùng nhảy thót ra, đá ngã lò rớt xuống trung giới, sau thành Hỏa Diệm sơn, làm đạo sĩ phải đọa.
Khi thình lình Ðạo sĩ đậy nắp không kịp. Còn Lục đinh Lục giáp a lại nắm Tề Thiên mà kéo, Tề Thiên vụt lăn cù!
Lúc ấy Tề Thiên như cọp sút rọ.
Thái Thượng nóng mũi chạy theo níu lại, bị Tề Thiên xô ngã sấp! Rồi lấy thiết bảng ra riết tới thiên cung loạn đả! Chín vì sao lo đóng cửa, bốn Thiên Vương chạy tan.
Tề Thiên đánh đến chỗ nào thì tan chỗ nấy, không ai dám cự, đánh tới Linh Tiêu bửu điện, nhờ có bộ hạ ông Hựu Thánh chơn quân là Vương Linh Quan giữ điện, thấy Tề Thiên loạn đả.
Linh Quan rút roi vàng cản lại hỏi rằng:
– Con khỉ khốn đi đâu? Có ta đây không đặng ngang dọc.
Tề Thiên không thèm nói lại, hươi thiết bảng đập nhầu, Linh Quan lấy sức chống cự, chưa biết hơn thua.
Khi ấy Hựu Thánh chơn quân cho đòi 36 vị lôi công tới ví Tề Thiên hổn chiến.
Tề Thiên không nao núng hóa ra ba đầu sáu tay cầm thiết bảng đánh như chong chóng.
Linh Quan và 36 vị lôi công vây ngoài xa không dám xáp lại.
Thượng Ðế kinh hãi, liền truyền chỉ sai Du Diệc linh quan và Duật Hành chơn quân, đồng qua Tây Phương đặng thỉnh Phật Tổ Như Lai cứu giá.
Nói về hai vị thiên sứ đằng vân đến Lôi Âm tự, cậy bốn vị Kim cang, và tám vị Bồ tát; dẫn tới trước tòa sen, hai vị đảnh lễ rồi, Thích Ca hỏi:
– Thượng Ðế sai nhị thánh đến đây có việc chi?
Hai vị thuật chuyện và bạch rằng:
– Bởi có sự gấp rút như vậy, nên phải cầu Phật Tổ từ bi cứu giá.
Thích Ca nói:
– Các vị Bồ Tát ở đây, để ta đi cứu giá.
Dặn rồi kêu Ấ Nang tôn giả và Ca Diếp tôn giả đi theo, hóa hào quang bay gần tới Linh Tiêu bửu điện, nghe khua khí giới điếc tai, ấy là 36 vị lôi công vây đánh Tề Thiên mà không đã ngứa!
Thích Ca dạy Lôi công bãi chiến, rồi kêu Tề Thiên ra hỏi.
Tề Thiên hiện nguyên hình, lướt tới hét lớn rằng:
– Ngươi là kẻ thật thà ở xứ nào tới đây khuyên giải?
Thích Ca cười rằng:
– Ta ở nước Cực lạc hiệu Thích Ca Như Lai, nghe đồn ngươi ngang dọc làm phản cung trời, nên ta đến hỏi thăm cho biết, chẳng hay ngươi sinh tại đâu, thành đạo năm nào, vì cớ chi mà sanh loạn như vậy?
Tề Thiên nói: – Ngươi muốn rõ cội rễ của ta, thì nghe ta ca đây.
Ca rằng:
Thinh không trời đất nứt sanh ta,
Hoa Quả non tiên thiệt cửa nha
Ở động Thủy Liêm tài tót chúng
Học thầy Tây Thổ phép cao xa
Luyện chước sống đời tày nhực nguyệt,
Ra công giúp chúng khiếp yêu ma
Vì ở trung thần chê siển thổ,
Dốc lên thượng giới ngự chương tòa
Hơn thua cuộc thể lòng không chát,
Dời đổi ngôi trời chí đã sa
Có đức có tài thì có vị,
Ai thua gì nhượng nghiệp hoàng gia.
Thích Ca nghe rồi cười rằng:
– Ngươi bất quá một con khỉ thành tinh, sao dám cướp ngôi Thượng Ðế? Vả Thượng Ðế tu tới 1550 kiếp, mỗi kiếp đều nhiều năm, ngươi công đức bao nhiêu, phòng muốn tranh ngôi báu? Sao ngươi không sợ chết, phải lo việc tu hành, nếu còn làm thói dọc ngang, gặp kẻ đạo cao thì uổng mạng?
Tề Thiên nói:
– Tu nhiều kiếp thì mặc dầu, không lẽ làm vua hoài hủy. Lời tục nói: Ngồi lâu còn dời chỗ, ngôi báu cũng đổi thay. Ngươi hãy bảo Thượng Ðế dọn đồ đi mà nhường ngôi cho ta, bằng không thì ta đánh mãi.
Thích Ca nói:
– Ngươi trừ phép TSnh và biến hóa ra, còn phép chi hay nửa chăng, mà dám nhường ngôi Thượng Ðế?
Tề Thiên nói:
– Ta có phép rất nhiều, 72 phép huyền công, luyện đặng TSnh bất tử, và cân đẩu vân cũng hay, nhảy một nhảy hơn 108000 dặm. Tài phép như vậy làm vua trời không xứng hay sao?
Thích Ca nói:
– Vậy thì ta đánh cuộc với ngươi, nếu ngươi nhảy khỏi bàn tay hữu của ta, thì ngươi hơn, ta bảo Thượng Ðế nhượng thiên cung cho ngươi, khỏi bề chinh chiến, còn ngươi nhảy không khỏi bàn tay ta, thì ngươi trở về trung giới tu ít kiếu nửa sẽ lên tranh đoạt.
Tề Thiên nghe nói cười thầm rằng:
– Thích Ca thiệt quê mùa quá! Lão Tôn nhảy một cái 108.000 dặm, sá chi bàn tay, dầu bao lớn, lại nhảy không khỏi.
Nghĩ rồi hỏi lớn rằng:
– Ngươi làm chủ việc ấy chắc không?
Thích Ca nói:
– Chắc.
Nói rồi xòe bàn tay hữu ra, bằng lá sen.
Tề Thiên cất thiết bảng, rồi co giò nhảy qua! La lớn rằng:
– Ta qua khỏi rồi.
Ngó quanh quất thấy năm cây cột đỏ như thịt, trên ngọn có mây xanh.
Tề Thiên nói:
– Mình nhảy xa quá, tới đây cùng đường rồi, thì Thích Ca bảo Thượng Ðế nhường ngôi cho mình chắc lắm! Song mình phải làm dấu, phòng sau đối nại với Thích Ca. Nghĩ rồi nhổ lông hóa viết mực, đề tại cây cột giữa, tám chữ rằng: “Tề Thiên Ðại Thánh đáo thử nhứt du”. Nghĩa là: Tề Thiên đi chơi tới chỗ đó.
Ðề rồi lại đái xuống gốc cột thứ nhất một vũng, rồi cân đẩu vân trở lại, té ra cũng còn đứng trong bàn tay Thích Ca mà nói rằng:
– Ngươi là con khỉ đái vất! Ra không khỏi bàn tay ta mà còn múa mỏ!
Tề Thiên nói:
– Ngươi có theo ta đâu mà biết, ta đi tới chân trời, thấy năm cây cột đỏ, trên ngọn có mây xanh, ta có làm dấu, ngươi không tin đi mà coi?
Thích Ca nói:
– Ta chẳng đi đâu hết, ngươi hãy cuối đầu xuống mà coi?
Tề Thiên trợn mắt dòm xuống, thấy ngón tay giữa của Thích Ca có đề tám chữ: Tề Thiên Ðại Thánh đảo thử nhứt du, dưới cộng tay cái còn bọt, nước đái!
Tề Thiên hoảng kinh nói rằng:
– Kỳ không kìa! Ta đề tám chữ đó nơi cây cột chống trời, sao lại ở nơi tay nọ! Chắc họ có phép tiên tri, làm vậy đặng gạt mình, ta chẳng hề tin, đi coi lại một nữa.
Nói rồi nhảy lên một cái bị Thích Ca lật bàn tay xuống đất, năm ngón tay Thích Ca hóa ra năm hòn núi Ngũ Hành, chụp đè trên lưng Tề Thiên Ðại Thánh!
Các vị lôi thần và Ấ Nang, Ca Diếp chắp tay khen rằng:
– Hay lắm!
Thích Ca bảo Ấ Nang, Ca Diếp từ giã ra về.
Xảy thấy Thiên Bồng Thiên Hựu chạy đến tâu rằng:
– Xin Phật Tổ nán chờ Thượng Ðế ra mắt.
Thích Ca ngó lại thấy xe rồng tán phụng hương báu nhạc trời.
Thượng Ðế ngự ra tạ ơn rằng:
– Nhờ Phật Tổ trừ đặng yêu hầu, xin nán lại dự tiệc, ngỏ dùng lễ mọn tạ ơn.
Thích Ca chắp tay tâu rằng:
– Lão tăng vâng chỉ tới trợ lực với chư thần, có công lao bao nhiêu mà phòng cảm tạ.
Thượng Ðế truyền mời các thần tiên đồng phó hội tạ ơn Phật Tổ, lại truyền tiên nữ dọn yến, bàn đào, ngự tửu, cùng đồ trân tu quý báu không biết bao nhiêu.
Giây phút các thần tiên đến trước Phật Tổ mà bạch rằng:
– Phật Tổ từ bi đại đức trừ đặng yêu hầu, chúng tôi cảm tạ. Xin Phật Tổ đặt tên hội này là hội chi, theo dèo cuộc này.
Thích Ca nói:
– Nay trên trời đã an, thì đặt An thiên hội cũng đặng.
Các thần tiên đều khen hay!
Lúc ngự yến có tiên nữ ca vang, nhạc trời trỗi chặp.
Vương Mẫu dẫn các tiên nga đến dâng bàn đào, mà bạch rằng:
– Khi trước bị yêu hầu phá hội bàn đào. Nay nhờ Như Lai trừ nó, lại làm hội An Thiên, tôi chẳng biết lấy chi tạ ơn, nên rửa tay hái ít trái bàn đào đem dâng lấy thảo”. Thích Ca chắp tay tạ ơn.
Vương Mẫu dạy tiên nga ca múa.
Giây lâu có Nam Cực tiên ông cỡi hươu đến ra mắt Thượng Ðế, rồi đến trước mặt Phật Tổ mà bạch rằng:
– Khi trước tôi nghe Lão Quân dẫn yêu hầu về mà đốt, tưởng họa tán đà tiêu rồi, không dè nó thoát ra được, đánh phá cung trời làm cho kinh động Thượng Ðế, nay nhờ Phật Tổ trị an, lại thiết An Thiên hội, nên tôi đem cỏ thoạt bông hương, kim đơn châu bích, xin Như Lai nhiệm lễ mọn.
Thích Ca thâu lãnh.
Kế Xích cước đại tiên đến ra mắt Thượng Ðế, rồi bạch với Phật Tổ rằng:
– Nhờ ơn Phật Tổ trị đặng yêu hầu, tôi xin dâng hai ttrái giao lê, ít trái lão táo gọi là chút tạ ơn.
Thích Ca cũng lãnh, rồi dạy Ấ Nang, Ca Diếp thâu lễ vật, đặng từ tạ ra lui về.
Xảy thấy Linh Quan đi tuần về báo rằng:
– Tề Thiên ló đầu ra khỏi núi!
Thích Ca nói:
– Không hề chi.
Liền lấy một tờ giấy trong túi ra có đề sáu chữ vàng là: Án ma ni bát di hồng.
Sai Ấ Nang tôn giả đi dán trên chót núi Ngũ Hành, năm hòn núi tự nhiên chắc cứng, như trên có câu đầu, dưới có ràng cẳng rút vô vậy! Tuy ló đầu ló tay ra, mà dậy không nổi.
Xong rồi Thích Ca giã từ Thượng Ðế và các thần tiên ra về, tuy vậy mà lòng cũng từ bi, sai Thổ Ðịa và Ngũ Phương Yết Ðế canh giữ Tề Thiên, dặn có đói thì cho ăn sắt cục! Khát thì nấu đồng tiêu ra cho uống! Chờ hết tội sẽ cho người đến cứu.
Nói về Phật Tổ từ tạ Ngọc Ðế về đến Lôi Âm bửu sái, để các vị Bồ Tát Kim Cang cầm tràng phan bửu sái ra tiếp giá.
Như Lai lên ngồi tòa sen, hào quang sáng lòa.
Các Bồ Tát Kim Cang chắp tay làm lễ hỏi:
– Phá cõi trời, làm rối bàn đào hội, là ai vậy?
Như Lai phán các việc đầu đuôi, hết thảy nghe nói đều mừng rỡ lui chầu.
Ngày kia Phật Tổ kêu các vị Ấ La, Yết Ðế, Bồ Tát, Kim Cang mà nói rằng:
– Từ thâu đặng yêu hầu tính lại đặng năm trăm năm dưới phàm. Nay ta có một bửu bồn, kêu là Vu Lan bồn có đủ trái ngon bông lạ cho các ngươi hưởng nhờ, ý các ngươi muốn chăng?
Hết thảy chắp tay tạ ơn.
Phật Tổ biểu Ấ Nang Ca Diếp phân phát cho đại chúng.
Hết thảy cảm tạ rồi, xin Như Lai giảng dạy.
Như Lai giảng tam thừa kinh phép chánh quả rồi nói với chúng rằng:
– Ta xem trong bốn cõi đại bộ châu, con người lành dữ khác nhau. Tại Ðông Thắng thần châu kính trời đất, có lòng hiền, Tây Ngưu hạ châu không tham ái; Bắc Cư lư châu hay sát sanh vọng ngữ, còn Nam Thiện bộ châu tham dâm dục, hay đâm chém, miệng lưỡi hung dữ độc ác. Nay ta có ba tạng chân kinh khá khuyên người lành. Chư vị Bồ Tát chắp tay hỏi:
– Ba tạng kinh thế nào?
Như Lai nói:
– Một tạng nói về việc trời, một tạng nói về trời đất, môt tạng nói về việc đất, còn một tạng thì cứu ma độ quỷ. Ba tạng cộng lại là 25 bộ cai ra một muôn năm ngàn một trăm bốn mươi bốn cuốn (15.144) thiệt là phép chu nhân thánh thiện. Ta muốn cho về Ðông Ðộ, e thiên hạ ngu dại chê bai phép Phật, chẳng biết kinh du là chánh tông. Phải đặng một người tài phép giỏi qua Ðông Ðộ khuyên dạy chúng sanh, sẽ đặng có công đức như non. Ai muốn lãnh đi?
Quan Âm Bồ Tát nói:
– Tôi tuy bất tài, xin qua Ðông Ðộ kiếm một người đi thỉnh kinh.
Như Lai cả đẹp nói:
– Quan Âm thần thông biến hóa đi đặng. Như có đi thì đi trên mây, mà chớ đi cao lắm, ngươi tuy có lòng mà cũng khó đi đặng, nay ta cho ngươi năm phép báu.
Liền dạy Ấ Nang Ca Diếp lấy cà sa và Cữu huờn tích trượng đặng cho người thỉnh kinh bền lòng đi, khi bận áo cà sa khỏi đọa luân hồi, cầm tích trượng khỏi bị hại. Quan Âm lạy mà lãnh.
Như Lai lấy ba cái cô nhi là cái vòng, nói rằng:
– Ba cái cô nhi này như một, cái này đọc chú ba lần thì biến hóa mà trừ yêu. Như gặp yêu thì nhờ phép này khuyên dạy nó phải đi theo người lấy kinh làm học trò. Như nó không chịu thì cho nó đội cái này trên đầu tự nhiên dính vào thịt gỡ ra không đặng. Nó không vâng phục thì đọc chú cho nó nhứt đầu chịu không nỗi, thì nó mới đầu vào phép ta.
Quan Âm lãnh rồi làm lễ lui ra, kêu Huệ Ngạn đi theo.
Quan Âm gói áo cà sa lại, đưa Huệ Ngạn cầm, lại cất Kim Cô, tay cầm Tích trượng, xuống khỏi Linh Sơn. Tới gần núi có Ngọc Chân Quân Kim Ðãnh đại tiên rước vào pha trà hỏi:
– Chẳng hay Bồ Tát đi đâu?
Quan Âm nói:
– Tôi vâng chỉ Như Lai đến Ðông Ðộ tìm người lấy kinh.
Ðại tiên hỏi:
– Chừng nào người lấy kinh đi tới?
Quan Âm nói:
– Chưa biết chừng độ hai ba mươi năm thì tới.
Liền từ giã đại tiên đi nửa chừng mây, ngó xuống sông Lưu Sa thấy ba người chết chìm.
Quan Âm nói với Huệ Ngạn rằng:
– Người phàm khó qua chỗ này đặng mà lấy kinh.
Xảy thấy nổi sóng gió, một con yêu rất xấu xa, hét lớn một tiếng nhảy lên bờ cầm bửu trượng xốc lại đánh Quan Âm.
Huệ Ngạn cầm côn chận lại nạt rằng:
– Quái vật chớ chạy.
Hai người hổn chiến hơn mười hiệp chưa phân hơn thua.
Yêu ấy đỡ lại rồi hỏi rằng:
– Ngươi ở đâu mà dám đến cự với ta?
Huệ Ngạn nói:
– Ta là Nhị Thái Tử của Lý Thiên Vương là Mộc Tra đây, ngươi sao dám đón đường?
Quái ấy nói:
– Ta nhớ ngươi theo Nam Hải Quan Âm tu hành, sao lại đến làm chi?
Mộc Tra nói:
– Trên kia là thầy ta đó.
Quái ấy nghe nói liền chạy tới trước mặt Quan Âm cúi đầu lạy thưa rằng:
– Xin tha tội cho tôi thú thiệt: Nguyên trước tôi hầu Ngọc Ðế làm chức Quyện Liêm đại tướng, nhân hội bàn đào lỡ tay làm bể đèn lưu ly nên Ngọc Ðế bắt tội đánh 800 roi, đày xuống hạ giới, biến ra xấu xa, còn bảy ngày có gươm bay đến đâm hông tôi một lần, đau đớn quá chừng. Lại thêm đói lạnh chịu không nỗi, nên làm sóng gió bắt người qua lại mà ăn thịt, nay rủi phạm nhằm Bồ Tát.
Quan Âm nói:
– Ngươi đã có tội lại ăn thịt người ta, tội càng thêm nặng. Nay ta lãnh sắc Phật Tổ qua Ðông Ðộ tìm người lấy kinh. Ta muốn ngươi đợi đây theo người lên Tây Phương thỉnh kinh, ta kêu gươm bay đó không đâm ngươi nữa. Sau này nên công hết tội, đặng phục chức cũ, ngươi nghĩ thế nào?
Quái ấy nói:
– Tôi xin quy y làm lành. Từ trước đến nay mấy người đi lấy kinh qua đây đều bị tôi ăn hết, còn cái đầu bỏ chìm xuống sông, không dè mấy sọ ấy không chìm cứ nổi trên mặt nước. Tôi lấy làm lạ, lấy dây xỏ lại treo chỗ trống kia, tính ra chín người đi lấy kinh bị hại rồi.
Quan Âm nói:
– Ngươi khá đem mấy cái đó treo trên chót núi, đợi người lấy kinh tới sẽ có việc dùng.
Quái vật vâng lời dạy dỗ, cải ác quy y.
Quan Âm thí phát cho con yêu ấy rồi. Lấy sông Lưu Aa làm họ, nên đặt họ Sa, đặt tên thánh gọi là Ngộ Tịnh.
Khi ấy Ngộ Tịnh đưa Quan Âm và Huệ Ngạn khỏi sông rồi, răn lòng không ăn ai nữa. Dùng trái cây đỡ dạ mà đợi kẻ thỉnh kinh.
Còn Quan Âm và Huệ Ngạn đi một hồi lâu xảy thấy núi cao chớn chở, hơi dữ bay lên núi mịt mù, đi qua không được.
Quan Âm tính đằng vân mà qua núi.
Xảy đâu trận gió thổi tới, hiện ra một con yêu tinh đầu heo tướng dữ tay cầm Cào cỏ (đinh ba) đập lại Quan Âm.
Mộc Tra cản lại hét một tiếng lớn rằng:
– Ðồ yêu quái đừng vô phép, coi gậy sắt đây nè.
Con tinh trả lời rằng:
– Hòa Thượng này không biết sợ chết, coi cào cỏ ta đây.
Hai người đánh dưới chân núi, chưa biết hơn thua.
Quan Âm ở nữa lừng bỏ bông sen xuống cản ngang, hai người đánh không đặng nữa; con tinh thất kinh mới hỏi:
– Ngươi là Hòa Thượng ở đâu hóa bông sen mà dọa bợm?
Huệ Ngạn nói:
– Ngươi là thú thai phàm mắt thịt, nên không biết ta. Ta là học trò Phật Quan Âm, thầy ta bỏ bông sen mà ta không biết.
Con tinh hỏi:
– Quan Âm ở Nam Hải là một vị Phật quét ba tai, trừ tám nạn phải không?
Huệ Ngạn nói:
– Vậy chớ ai?
Con tinh nghe nói, bỏ cào cỏ lạy Huệ Ngạn mà hỏi thăm rằng:
– Chẳng hay Quan Âm ở đâu, xin anh làm ơn dắt tôi ra mắt!
Huệ Ngạn ngước mặt chỉ mà nói rằng:
– Ngươi coi có phải là Phật Bà không?
Con tinh ngó thấy cúi đầu lạy mà nói lớn rằng:
– Xin Phật Bồ Tát tha tội.
Quan Âm hiện xuống mà hỏi rằng:
– Ngươi là Ông Chãng thành tinh, hay là heo rừng sanh quát, mà đón ta vậy?
Con tinh nói:
– Tôi không phải heo rừng, cũng không phải Ông Chãng (heo rừng lâu năm quá, mọc nanh bó hàm, tục sợ như hùm, kêu tưng bằng Ông Chãng) tôi là Thiên Bồng nguyên soái ở sông Ngân (Thiên Hà) bởi say rượu đi lạc vào cung Nguyệt mà chọc Hằng Nga, bị ông Linh Quan bắt giải về Thượng Ðế, Thượng Ðế bắt tội đánh tôi hai ngàn dùi, rồi đày xuống Trung Giai. Tôi đi đầu thai lạc đường nhằm heo rừng nái, mới ra thân thể như vậy. Tôi tức giận cắn heo nái chết tươi, và giết bầy heo rừng tuyệt tộc. Chiếm cứ hòn núi này, ăn thịt người đở đói, không dè nay gặp Phật Bồ Tát, xin cứu độ làm ơn.
Quan Âm hỏi:
– Núi này gọi là gì?
Con tinh nói:
– Núi này gọi là núi Phước Lăng, có một cái động gọi là động Vân San, chủ động ấy gọi là Mão Nhị Thơ thấy tôi có nghề võ, vời tôi tới làm người lớn trong nhà. Ở coi giúp việc gần một năm, nàng ấy tới số gia tài về tôi, ở không ăn mãi núi lở non mòn, túng cùng phải ăn người cho qua bữa, xin Bồ Tát cứu độ mà làm ơn.
Quan Âm nói:
– Người xưa rằng: Muốn có đường đi tới, thì đừng làm mất đường lui. Nếu mất đường đi tới, thì phải cùng đường. Khi ngươi ở cõi trên đà phạm phép, thì nay phải đọa mà không bỏ lòng hung, lại giết người hại vật, thì một tội sinh hai, ấy là muốn cùng đường đó.
Con tinh nói:
– Còn cùng chẳng còn cũng không cần. Nếu cử ăn thịt người thì thấy ngáp gió, hèn chi người ta nói: Y theo phép quan thì đánh chết, y theo phép Phật thì đói chết. Là phải lắm mà. Tính bề đi phức cho xong thê. Thà bắt chúng đi đường, ăn mỡ tươi béo lắm, cần gì 2 tội, 3 tội, ngàn tội, muôn tội nà.
Quan Âm nói:
– Lòng người muốn phải, trời cũng thuận theo. Như ngươi tu theo phép, ta cũng có món nuôi mình được, trái cây, rau, gạo, ăn cũng no lòng, lựa phải ăn mỡ người ta mới sống?
Con tinh nghe nói như tỉnh giấc chiêm bao, lạy Quan Âm mà nói rằng:
– Tôi muốn giải nghiệp mà đi tu, song mắc lấy tội trời, cầu sao cho khỏi?
Quan Âm nói:
– Ta vâng sắc Phật Tổ, xuống cõi trần mà tìm kẻ thỉnh kinh. Nếu ngươi chịu làm đệ tử người thỉnh kinh, mà tới Tây Phương thì phước đủ trừ tội, ta cứu ngươi nạn khỏi tai qua.
Con tinh nói:
– Chịu theo, chịu theo” Quan Âm thí phát (thế phát) xong rồi cứ theo dèo đặt họ, gọi là Trư, đặt tên thánh là Ngộ Năng, giữ theo phép Phật, phải ăn chay cử mặn và cử ngũ uẩn (năm món như đồ mặn là: Hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu và ngò) ở đợi thầy thỉnh kinh đi tới.
Quan Âm dặn rồi liền đi với Huệ Ngạn.
Ði một hồi lâu thấy một con rồng Bạch bị treo tại cửa trời. Rồng Bạch thấy Quan Âm, liền cả kêu xin cứu.
Quan Âm hỏi:
– Ngươi là rồng ở đâu mà bị treo ở đó?
Rồng Bạch nói: “Tôi là Thái Tử con Long vương Ngao Thận ở biển Tây. Bởi tôi nổi lửa đốt trái châu trước đền, cha tôi giận tâu với vua Trời, rằng tôi ngỗ nghịch. Nên Thượng Ðế treo tôi giửa thinh không đánh ba trăm roi, và đợi ít ngày xử trãm. Xin Phật Bồ Tát cứu mạng làm nhơn.
Quan Âm nghe nói liền đằng vân ới Huệ Ngạn mà lên trời, cậy Khưu Thiên Sư và Thượng thiên sư dắt ngài vào điện.
Quan Âm tâu rằng:
– Tôi vâng sắc Phật Tổ, xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, gặp rồng có tội bị treo, nên tôi vào tấu, xin Bệ Hạ tha tội rồng ấy mà cho theo tôi, đặng đỡ gót kẻ thỉnh kinh ra công mà chuộc tội.
Thượng Ðế nghe tấu, ruyền tướng trời mở trói nghiệt long (rồng dữ) giao cho Bồ Tát. Quan Âm từ tạ, rồng nhỏ cũng lạy tạ ơn.
Quan Âm dẫn rồng nhỏ xuống núi dặn rằng:
– Ngươi ở khe này, đợi thầy thỉnh kinh đi ngang qua, sẽ hóa thành ngựa kim đỡ gót. Rồng con vâng lệnh ở đó mà chờ.
Còn Quan Âm đi với Mộc Tra, đi hèn lâu mới tới năm hòn núi. Ngó thấy hào quang muôn trượng, hơi ấm ngàn trùng.
Huệ Ngạn hỏi:
– Núi Ngũ Hành mà có hào quang, có khi tại bùa của Phật Tổ.
Quan Âm nói:
– Phải, Tề Thiên Ðại Thánh phá hội Bàn Ðào, phản thiên cung năm xưa, nên bị núi đè tại đó. Thầy trò lên núi, thấy lá bùa sáu chữ chân ngôn là: Án, Ma, Ni, Bát, Di, Hồng.
Quan Âm xem rồi than thở chẳng xiết, liền ngâm một bài kệ.
Thơ rằng:
Thương hại yêu hầu bỏ phép công,
Năm xưa làm loạn cậy sức hùng
Kể từ Phật Tổ dằn năm núi,
Bao thuở ra ngoài lại cõi Ðông.
Ðại Thánh nằm sấp dưới chân núi cả kêu rằng:
– Ai ngâm thơ trên non mà ngạo ta đó?
Quan Âm nghe hỏi liền đi lần xuống mà xem, ngó thấy dưới chân núi, có thần núi và Thổ Ðịa canh giữ.
Các thần đều nghinh tiếp Quan Âm và dắt đến trước mặt ÐạiThánh.
Quan Âm thấy Ðại Thánh nằm dưới núi ló đầu ra, miệng nhóp nhép lia mà cục cựa không đặng.
Ngài mới hỏi rằng:
– Họ Tôn có biết ta chăng?
Ðại Thánh trợn cặp mắt lửa tròng vàng, gật đầu mà nói lớn:
– Làm sao mà không biết! Ngài ở Nam Hải núi Phổ Ðà, cả làn cả thương, cứu khổ cứu nạn, là Quan Thế Âm Bồ Tát. Cám ơn lắm, cám ơn lắm! Tôi nằm đây coi một bữa bằng một năm, không ai ngó ngàng tới. Chẳng hay Bồ Tát đi đâu mà ghé đây? Quan Âm nói:
– Ta vâng sắc Phật, đi xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, đi ngang qua đây nên ghé mà thăm đó.
Ðại Thánh nói:
– Phật Như Lai nói gạt, đè tôi dưới núi này. Gần năm trăm năm, cựa mình không đặng. Xin Bồ Tát làm phước, cứu lão Tôn một phen.
Quan Âm nói:
– Ngươi làm tội đầy trời, nếu cứu ngươi ra, quen thói yêu càng không nên lắm.
Ðại Thánh nói:
– Tôi đã ăn năn chừa lỗi, xin ngài cứu độ, tôi chịu đi tu.
Quan Âm nghe nói quá đỗi mừng, mới nói với Ðại Thánh rằng:
– Ngươi muốn làm phải thì trời cũng độ cho, ngươi đã quyết tu hành, đợi ta xuống Ðại Ðường tìm một thầy thỉnh kinh, dặn ghé mà cứu, thì ngươi theo làm đệ tử, giữ phép Phật mà đi tới Tây Phương thỉnh kinh về, cũng thành chánh quả.
Ðại Thánh nói:
– Tôi chịu, tôi chịu.
Quan Âm nói:
– Ngươi dốc lòng tu niệm, ta đặt tên thánh cho.
Ðại Thánh nói:
– Tôi tên là Ngộ Không khỏi mất công đặt nữa.
Quan Âm nghe nói mừng rằng:
– Khi trước ta có độ hai người tu, cũng lót chữ Ngộ. Nay ngươi cũng lót chữ Ngộ nữa, trùng phái với nhau, tốt lắm, tốt lắm”.
Nói rồi từ giã ra về.
Như Ðại Thánh là: Thấu tánh sáng lòng theo đạo Phật.
Còn Quan Âm thì: Ra công hết sức kiếm thầy Thần.
Quan Âm cùng Mộc Tra đi xuống Ðông Ðộ. Ngày kia đến đất Trường An là nước Ðại Ðường, hai thầy trò hiện hình ra hai thầy chùa ghẻ lát mà đi lộn với người và tới chợ Trường An, thì trời đã tối, mới đi ngay vào miễu Thổ Ðịa.
Ông Ðịa hết hồn, binh ma mất vía, biết là Phật Quan Âm giả dạng, ra làm lễ rước vào.
Thổ Ðịa đi báo với Thành Hoàng và thần các miễu, đều vào ra mắt mà rằng:
– Xin Phật Bồ Tát tha tội chúng tôi, vì sự rước trễ.
Quan Âm nói:
– Các ngươi đừng lậu tiếng, ta vâng sắc Phật Tổ, đi tìm kẻ thỉnh kinh, ta ngụ nhờ trong miễu ít ngày, đợi tìm đặng kẻ thỉnh kinh, ta sẽ từ giã.
Các thần ở đâu về đó, còn ông Ðịa dọn ra ở đở ngoài Thành Hoàng (Thành Hoàng bổn xứ là ông thần ở đình lớn trong tỉnh sở tại).
Còn hai thầy trò giả dạng, ở miễu Thổ Ðịa thường bữa đi dọ tin.
Quan Âm tìm kẻ thỉnh kinh lại, bây giờ nghĩa cho rõ sự tích Trường An:
Nguyên thành Trường An tại quận Hiệp Tây; các đời vương thường lập kinh đô tại đó, là từ nhà Châu, nhà Tần, nhà Hớn cho đến nhà Ðường, vì sứ ấy tới ba châu (tỉnh), đất đai tốt lắm, nên trên bờ huê kiểng như gấm thêu, còn dưới sông thì giáp tám mối nước, nên thuyền bè đông đảo. Nơi ấy thị tứ không xứ nào hơn, nhằm lúc vua Ðường Thái Tôn (Thế Dân) trị vì, xưng hiệu Trinh Nguơn năm thứ mười ba là năm Ất tỵ. Lúc ấy thái bình lắm, tám phương cống sứ, bốn biển làm tôi.
Ngày kia vua Thái Tôn lâm triều, văn võ trăm quan chầu chực.
Thừa tướng là Ngụy Trưng tâu rằng:
– Nay thiên hạ thái bình, tám phương lặng lẽ, xin Bệ Hạ ban phép mở hội khoa thi, kén kẻ tài hiền mà giúp việc nước nhà.
Vua Thái Tôn phán rằng:
– Khanh tâu rất phải.
Khen rồi truyền tống bảng văn, rao trong các phủ, các châu, các huyện, chẳng luận quân dân chi hết, ai văn chương thông thái, đặng vào thi tại đất Trường An.
Khi ấy có một người ở gần biển (Hải Châu) họ Trần tên Ngọc, tên chữ Quang Nhụy thấy bảng văn thì mừng lắm, về thưa với mẹ là Trương Thị rằng:
– Nay Triều chạy châu tri khắp sứ, mở hội thi tại Trường An. Con có công ăn học ít nhiều, cũng muốn vào khoa ứng cử, may nhờ đức cha mẹ mà thi đỗ làm quan thì vinh hiển Tông môn, nở mày đẹp mặt, nên con vào thưa cho mẹ rõ mà lo việc lên đường. Trương Thị nói:
– Con mười năm đèn sách, đi ứng cử đã đành. Song đường xá xa xôi, phải giữ gìn dè dặt. May tên đề bảng hổ, mau về kẻo mẹ đợi trông.
Trần Quang Nhụy hối tiểu đồng sửa sang rương trắp, rồi lạy mẹ mà đi, hèn lâu mới tới Trường An, vào trường thi đỗ. Rồi vào thi trước điện, ba bài văn sách đều hay. Vua Thái Tôn chấm đỗ lấy đậu Trạng nguyên, cởi ngựa khoe quan ba bữa đi ngang cửa ngõ Thừa Tướng là Ân Khai Sơn. Xảy bị trái cầu thêu (trái lăn) quăng nhằm trên mão.
Nguyên Ân Thừa Tướng có một người con gái tên gọi Ôn Kiều, hiệu là Mãn Ðường Kiều, dung nhan đẹp đẽ, Ân Thừa Tướng cưng con lắm, cho ở trên lầu quăng trái cầu duyên mà bói duyên (kén chồng) xảy thấy Trần Quang Nhụy cởi ngựa đi ngang. Ôn Kiều biết là Trạng Nguyên khoa mới, đã có tài lại thêm lịch sự; Ôn Kiều đẹp nên mới gieo cầu, thì có dàn nhạc nổi lên,mười mấy con đòi ra nắm dây cương rước Trạng Nguyên vào phủ.
Vợ chồng Thừa Tướng khen đặng rễ đông ràng, truyền dọn đuốc hoa gã tiểu thơ cho quốc trạng.
Vợ chồng làm lễ xong rồi, sắt cầm ăn nhịp.
Rạng ngày vua ngự văn võ vào chầu, vua Thái Tôn phán hỏi rằng:
– Trần Quang Nhụy đỗ Trạng tân khoa, nhắm bổ chức chi cho xứng đáng?
Thừa Tướng Ngụy Trưng tâu rằng:
– Tôi tra các châu các phủ có khuyết một chức Tri châu tại Giang châu, xin bổ Trạng nguyên vào chức đó.
Vua Thái Tôn phong Trần Quang Nhụy làm chức Tri châu, truyền phó nhậm Giang Châu lập tức Trần Quang Nhụy tạ ơn, về dinh luận bàn việc đi phó nhậm, vợ chồng lạy tạ cha mẹ sửa sang xe ngựa ra đi.
Nhằm tiết tháng ba cảnh tốt, gió hòa đưa liễu lục, mưa nhỏ rưới hoa hồng, mảng xem phong cảnh tốt tươi, xảy thấy đã kề nhà cũ.
Hai vợ chồng vào nhà lạy mẹ, Trương thị rất mừng.
Trần Quang Nhụy thưa rằng:
– Con nhờ đức mẹ, thi đỗ Trạng nguyên. Ði ngang cửa Thừa Tướng họ Ân, Tiểu thơ gieo cầu nhằm trẻ, nên định xong đôi lứa, vua lại phong chức Tri châu. Con trở về nhà rước mẹ đi theo phó nhậm.
Trương thị mừng lắm sửa soạn lên đường; cùng nhau đi đặng vài ngày ghé quán Lưu tiểu nhị mà nghỉ; Trương thị nhuốm bệnh, nói với con rằng:
– Trong mình mẹ không yên, ở nán vài ngày dưỡng bệnh.
Trần Quang Nhụy vâng lời ở đó.
Rạng ngày mai Trần Quang Nhụy thấy có người xách cá chài vảy vàng đi bán, liền kêu vào quán mua cho mẹ ăn, mua rồi thì thấy con cá nháy mắt thì thất kinh mới nói: “Nghe đồn rằng: Con cá, con rằn mà nháy con mắt, là không phải vật tầm thường”. Rồi hỏi người bán:
– Con cá này ông bắt tại đâu?
Ông chài nói:
– Tôi chài tại sông Hồng giang, cách phủ mười lăm dặm.
Trần Quang Nhụy liền đem cá ấy thả đi, rồi về thuật chuyện lại cho mẹ rõ.
Trương thị nói:
– Phóng sanh là có phước, mẹ rất bằng lòng.
Ngày kia Trần Quang Nhụy vào thưa với mẹ rằng:
– Ở đây ba ngày, mà việc vua gấp lắm, con tính ngày mai dời gót, song chẳng rõ mẹ khá hay chưa?
Trương thị nói:
– Trong mình mẹ chưa khỏe; trời nắng gắt, rán đi e phải bịnh thêm, vậy thời con mướn phố, và để tiền chi phí lại đây, mẹ ở nán ít ngày, hai vợ chồng đi phó nhậm trước đi kẻo trễ. Ðợi sang thu mát mẻ sang rước mẹ về cùng.
Trần Quang Nhụy luận bàn với vợ, mướn phố cho mẹ ở và để bạc tiền.
Hai vợ chồng lạy mẹ ra đi phó nhậm, ngày đi đêm nghỉ hơn mấy bữa mới tới bến đò Hồng giang, xảy thấy ghe đò của Lưu Hồng với Lý Bưu, hai người đón rước, ấy cũng thời bỉ vận suy của Quang Nhụy biểu tiểu đồng đưa gánh đồ cho chủ đò cất. Vợ chồng đồng bước xuống đò.
Lưu Hồng thấy Ân tiểu thơ mặt như trăng rằm, mắt như sao nháy, miệng cười như búp bông ướm nở; lưng diệu như nhành liễu đương hoằng, hình dung cá lặn nhạn sa, diện mạo huê nhường nguyệt thẹn.
Lưu Hồng liếc thấy, khó dập lửa lòng, mới tính kế với Lý Bưu, chèo qua khúc vắng mà đậu; nửa đêm giết tiểu đồng, rồi đập chết Quang Nhụy, quăng thây xuống sông. Tiểu thơ thấy chồng như vậy, cũng liều mạng nhảy theo.
Lưu Hồng níu lại mà nói rằng:
– Nàng thuận với ta thì thôi, bằng nghịch mạng ta chặt làm hai khúc.
Tiểu thơ thất thế, phải chịu đỡ cho xuôi.
Lưu Hồng chèo tuốt qua sông, giao chiếc đò ấy cho Lý Bưu làm chủ, còn nó đội mão mặc áo của Quang Nhụy, lấy bằng cấp dắt tiểu thơ đi phó nhậm Giang Châu.
Thương hại thây tiểu đồng trôi theo dòng nước, còn thây Quang Nhụy chìm xuống đáy sông.
Quỷ Dạ Xoa đi tìm ngó thấy, về đến báo lại với Long vương rằng:
– Tôi đi tuần tới vàm Hồng Giang, không biết ai đập chết người học trò, bỏ thây chìm xuống đáy nước.
Vua Long Vương truyền khiêng thây đến, xem thấy than rằng:
– Người này có làm ơn cứu ta, không biết bị ai giết bỏ, lẻ thường mang ơn thì phải trả, nay ta cứu lại mà đền bồi.
Tức thời viết thơ sai Dạ Xoa đến Hồng châu mà đưa cho Thành hoàng, Thổ Ðịa, phải lấy hồn (lấy vía) tú tài ấy, mà giao lại cho ta.
Thành hoàng, Thổ Ðịa miễu Hồng châu sai Tiểu quỷ lấy vía Trần Quang Nhụy mà giao cho Qủy dạ xoa.
Dạ Xoa đem về, vua Long Vương thấy hồn mừng lòng mới hỏi:
– Tú tài tên họ là chi đó, quê quán ở đâu, tới đây có sự gì, mà bị người ta đánh giết? Hồn Quang Nhụy thưa rằng:
– Tôi là Trần Ngọc tên chữ Quang Nhụy, quê ở Hải châu, về huyện Hoằng Nông. Thi đổ Quốc trạng, bổ chức Tri châu tại Giang châu, vợ chồng tôi đi phó nhậm, tên lái đò là Lưu Hồng, thấy vợ tôi có nhan sắc, nên làm mưu độc, đánh tôi chết bỏ thây, xin Ðại Vương cứu tôi làm phước.
Vua Long Vương nghe rõ nói rằng:
– Ngày trước ông phóng sanh con cá chài vàng, ấy là tôi đó, nay ông mắc nạn, lẽ nào tôi chẳng cứu ông.
Truyền đem thây Quang Nhụy để trên giường, cạy miệng bỏ hột châu định nhản vào, thây tươi hoài không rả, chờ mản hạn sẽ cho sống lại mà báo cừu, lại nói với Quang Nhụy rằng:
– Hồn của ông sẽ ởø tại đền, mà làm chức việc.
Hồn Quang Nhụy tạ ơn.
Bây giờ nói Ân tiểu thơ cố oán Lưu Hồng muốn lột da ăn thịt nó đi, mới là đã giận. Song ở với chồng mình đã có nghén không biết gái trai, cùng chẳng đã làm thinh chịu đỡ, đi chừng một buổi đã đến Giang châu.
Nhà tơ thơ lại ra rước vào, các viên quan dọn yến mà đãi tân quan.
Lưu Hồng nói:
– Tôi đến đây nhờ sức các ông giúp đỡ.
Các viên quan nói:
– Quan lớn danh cao hơn thiên hạ chắc là coi dân như quan, ít việc hành phạt kiện thưa, chúng tôi nhờ đức. Ngài nói khiêm làm chi.
Yến tiệc xong rồi ai về dinh ấy.
Tháng ngày thấm thoát đã mấy năm rồi, bữa kia Lưu Hồng có công sự đi xa. Còn Tiểu thơ ở nhà một mình nhớ chồng hết sức, thương nổi mẹ chồng bệnh hoạn không kẻ dưỡng nuôi. Buồn ra nhà mát sau vườn mà khóc lén. Giây lâu đau bụng xây xẫm té nhào.
Xảy nghe tiếng nói bên tai rằng:
– Mãng Ðường Kiều nghe ta dặn. Ta là sao Nam Cực, vâng lệnh Quan Âm Bồ Tát đem cho nàng một đứa con này, ngày sau phải tầm thường, danh tiếng lớn lắm. Nếu Lưu Hồng về tới chắc giết đứa nhỏ đi, nàng phải hết lòng bảo hộ. Chồng nàng gặp Long vương cứu sống, ngày sau mẹ con gặp gỡ, chồng vợ sum vầy, trả thù báo oán. Thôi nhớ mấy lời ta dặn, tỉnh dậy cho mau.
Nói rồi đi thẳng.
Tiểu thơ tỉnh dậy, nhớ đủ mọi lời, thì đã sinh đặng một trai, nàng ngồi bồng con mà khóc. Trong lòng lo sợ không biết tính làm sao.
Kế Lưu Hồng trở về thấy thằng nhỏ đòi đem đi giết.
Tiểu thơ nói:
– Bữa nay trời tối, để mai liệng xuống sông.
Thời may rạng đông Lưu Hồng đi việc quan khẩn cấp.
Tiểu thơ nghĩ rằng:
– Nếu để Lưu Hồng về nữa thì thằng nhỏ không còn, chi bằng thả trôi sông chẳng may thì chết. Nếu Phật trời phò hộ thì xuôi người gặp mà nuôi. Lại e sau chẳng biết mà nhìn mới cắn ngón tay, lấy máu viết một bức thơ. Viết tên họ của cha mẹ căn cước mọi điều, rồi cắn đứt nửa ngón chân út bên tả con mà làm dấu. Cởi áo lót mồ hôi mà bọc thằng nhỏ. Rồi bồng ra mé sông cái, than khóc một hồi, muốn bỏ dựa mé mà bỏ về. Xảy thấy tấm ván trôi tới.
Tiểu thơ lòng mừng, lạy thinh không mà vái:
– Xin trời Phật cứu độ con tôi.
Rồi để con nằm trên tấm cây, lấy dây thẻo buộc phong thơ trước bụng. Rồi xô êm ra dòng nước, than khóc mà về. Còn tấm ván ấy trôi xuôi theo nước cách phủ đã xa, rồi mắc cạn dựa bực, ngay trước cửa chùa Kim Sơn, cũng thuộc về châu ấy.
Nguyên ông chủ chùa Kim Sơn là Pháp Minh hòa thượng, tu lâu năm cũng đã gần thành. Ngày kia ngồi trong liêu, nghe tiếng con nít khóc! Lấy làm sự lạ tìm đến mà xem, tới mé sông thấy thằng con nít mới đẻ nằm trên tấm cây, mà tấp vào bực.
Pháp Minh liền vớt, thấy trên bụng có phong thơ, xem hết đầu đuôi, mới tường gốc ngọn, lấy tích trôi sông đó, đặt tên Giang Lưu, cất áo và thơ, mướn vú nuôi bên tự.
Mặt nhật mặt nguyệt như thoi liệng, Giang Lưu 18 tuổi rồi, Pháp Minh hòa thượng thi phát quy y cho Giang Lưu đặt tên thánh là Huyền Trang, tu hành công quả, tánh trời đã phú, kinh luật đều thông.
Ngày kia nhằm tiết tháng ba, các sãi nhóm dưới cội tòng mà hóng mát. Hỏi kinh hạch luật cùng nhau. Tụi thầy chùa rượu thịt khoe tài, bị Huyền Trang vấn nạn (hỏi chuyện mắc, khó nói).
Mấy sãi ác tăng trả lời không đặng, giận mà rằng:
– Mầy là đồ súc sanh, không biết mẹ cha, chẳng thông tên họ, lại còn làm phách gì nà!
Huyền Trang bị chúng mắng mấy lời, vào chùa quỳ bạch với thầy mà rơi nước mắt: – – Người sinh trong trời đất, nhờ khí âm dương. Lẽ nào có thân thể mà không có cha mẹ! Xin thầy làm ơn cho tôi biết họ tên cha mẹ.
Cứ lạy hoài mà hỏi như vậy, Pháp Minh hòa thượng nói:
– Ngươi muốn tường sự tích cha mẹ, thì đi theo vô liêu.
Huyền Trang theo thầy bén gót.
Pháp Minh lên trên trinh, lấy hộp nhỏ giở ra lấy phong thơ mà đọc, mới biết tên họ, tên cha mẹ, và sự tích oán cừu, đọc rồi ngã lăn mà khóc, bạch với thầy rằng:
– Cừu cha mẹ không trả, sao phải làm người! Mười tám năm nay, không biết cha mẹ, nay mới rõ là mẹ còn. Bấy lâu hỏi thăm người ta nói: Thế cha mẹ chết hết nên thả trôi sông, nếu thầy không cứu vớt dưỡng nuôi, thì đệ tử không còn tánh mạng, xin cho tôi đi tìm mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ ngồi kỳ, và tu bổ chùa chiền mà báo đáp ơn thầy nuôi dưỡng.
Pháp Minh hòa thượng nói:
– Ngươi muốn đi tìm mẹ, thì phải đem thơ và cái áo theo. Giả đi phú quyến mà vào dinh tư Giang châu thì mới gặp mẹ.
Huyền Trang vâng lời thầy dạy, giả làm sãi đi phú quyến, thẳng đến Giang châu, may nhằm dịp Lưu Hồng đi khỏi, cũng là trời khiến, mẹ con được gặp nhau.
Còn Ân tiểu thơ đêm trước nằm chiêm bao thấy trăng khuyết lại tròn, giật mình thức dậy, bàn rằng:
– Mẹ chồng tuy bặt tin tức, còn con thì thả trôi sông, nếu có ai vớt mà nuôi, thời nay đã mười tám tuổi, có khi trời cho gặp gỡ, cũng không biết chừng.
Ðương ngồi nghĩ một mình, nghe ngoài cửa có thầy đi phú quyến.
Tiểu thơ bước ra mà hỏi:
– Thầy ở đâu mà đến đây?
Huyền Trang nói:
– Tôi ở chùa Kim Sơn, đệ tử Pháp Minh hòa thượng.
Tiểu thơ nói:
– Như vậy thì bước vào đây, biểu dọn cơm chay mà đãi.
Nghe lời ăn tiếng nói, xem nết đứng tướng ngồi, giống chồng mình như tạc, chẳng những giống hình dạng mà thôi.
Tiểu thơ sinh nghi, cố ý sai thế nữ gia đinh đi ra hết thảy, mới hỏi sãi nhỏ rằng:
– Thầy tu hồi còn nhỏ, hay mới tu đây? Tên họ là chi, cha mẹ còn hay mất?
Huyền Trang nói: – Tôi không phải mới đi tu, cũng không phải tu hồi còn nhỏ, tôi nói ra thì cừu sâu như biển, oan lớn bằng trời, tôi bị chúng giết cha mà cướp mẹ, nên thầy tôi biểu đi đến phủ mà kiếm mẹ tôi.
Tiểu thơ hỏi:
– Bà già thầy tên họ chi?
Huyền Trang nói:
– Mẹ tôi họ Ân tên Ôn Kiều, cha tôi là Trần Quang Nhụy, còn tôi tên tộc là Giang Lưu, Huyền Trang tên thánh.
Tiểu thơ nói:
– Ta thiệt là Ôn Kiều, mà ngươi có vật chi làm tin?
Huyền Trang nghe xưng thiệt mẹ liền quỳ dưới đất mà khóc rằng:
– Nếu mẹ chẳng tin con, thì có áo và thơ làm chứng.
Nói rồi lấy áo và thơ dâng lên, Tiểu thơ xem quả thiệt, mẹ con ôm nhau khóc ròng, rồi biểu con đi cho mau kẻo mà lâm hại.
Huyền Trang nói:
– Mười tám năm nay không biết mặt mẹ, nay mới gặp đặng, biểu con đi vội sao cho đành?
Tiểu thơ nói:
– Con phải ngăn lụy mà về chùa, nếu để thằng quỷ về đây ắt là nó giết con chết! Ðể mẹ giả bệnh, nói rằng hồi trước có vái một trăm đôi giày. Xin đem đến chùa Kim Sơn mà huờn nguyện (cúng trả lễ) chừng ấy mẹ sẽ nói chuyện kín với con.
Huyền Trang vâng lời ra về am tự.
Còn tiểu thơ nửa mừng nửa sợ, ngày kia giả bệnh, bỏ cơm bỏ nước, nằm liệt trên giường.
Lưu Hồng về dinh hỏi làm sao vậy?
Tiểu thơ nói:
– Tôi hồi nhỏ có vái thí một trăm đôi giày vớ cho thầy chùa, hồi canh ba chiêm bao thấy ông sãi cầm đao đến đòi giày; thức dậy liền sinh bệnh.
Lưu Hồng nói:
– Chuyện nhỏ mọn sao không nói sớm, để mà nằm liều.
Nói rồi truyền quân rao cho dân sự:
– Mỗi nhà phải nộp một đôi giày và một đôi vớ thầy chùa, hạn năm ngày cho kịp.
Cách năm ngày dân sự nạp đủ số.
Tiểu thơ nói với Lưu Hồng rằng:
– Giày tuy đủ số rồi, không biết đây có chùa nào đặng đi huờn nguyện?
Lưu Hồng nói:
– Ðây có hai kiểng chùa là chùa Kim Sơn, với chùa Tiêu Sơn, muốn đi cúng chùa nào tự ý.
Tiểu thơ nói:
– Nghe đồn chùa Kim Sơn tử tế lắm để đi chùa Kim Sơn.
Lưu Hồng sai hai tên lính sắm sửa ghe thuyền.
Tiểu thơ dắt thế nữ xuống ghe mà đi trả lễ.
Còn Huyền Trang về chùa bạch hết sự tình cho thầy rõ.
Pháp Minh hòa thượng rất mừng, bữa sau thấy thế nữ vào chùa bạch rằng:
– Có phu nhân đến cúng.
Các sãi ra ngoài nghinh tiếp.
Tiểu thơ vào lạy Phật biểu thế nữ bưng mâm giày để trước chùa mới thắp nhang lạy vái, rồi giao cho Hòa Thượng phân phát giày vớ cho mấy thầy.
Huyền Trang thấy các sãi lãnh giày vớ đi tản, liền quỳ lạy mẹ.
Tiểu thơ bảo Huyền Trang cởi vớ mà coi chân, thấy chân trái mất nửa ngón út, mẹ con níu nhau mà khóc, rồi lạy tạ ơn Hòa Thượng nuôi dưỡng con mình.
Pháp Minh hòa thượng nói:
– Nay mẹ con gặp gỡ, mừng rồi về phủ cho mau, kẻo người dữ hay tin mà mắc họa!
Tiểu thơ nói:
– Con ôi! Mẹ đưa cho con một chiếc vòng vàng con đi qua Hồng châu phía Tây Bắc chừng một ngàn rưỡi dặm có tiệm Vạn Hoa vốn chỗ bà nội con là Trương thị ngụ đó mà thăm bà; và đưa chiếc vòng rồi con cầm phong thơ này đi xuống Trường An, phía bên tả thành vua có dinh quan thừa tướng Ân Khai Sơn là ông ngoại con đó, con trao thơ này cho ông ngoại đặng ông ngoại tâu vua xin phép, đem quân tới vây bắt Lưu Hồng, một là cứu mẹ, hai là báo cừu cha, mẹ không dám ở lâu sợ nó nghi ngại”. Nói rồi từ giã mà xuống ghe.
Còn Huyền Trang lạy thầy, qua Hồng châu mà đi tìm bà nội, đến tiệm Vạn Hoa hỏi thăm.
Lưu Tiểu Nhị là người chủ tiệm rằng:
– Năm trước quan Tri châu có mướn phố cho bà mẹ ở, bây giờ còn sức khỏe hay không?
Lưu Tiểu Nhị nói:
– Năm trước ở phố tôi, sau tối hai con mắt, ba bốn năm không trả tiền phố, nay ở trong lò gốm bể phía Nam; thường ngày xin ăn qua bữa. Ông quan ấy đi lâu lắm, không biết cớ nào đó, biệt tin biệt tích đến nay.
Huyền Trang nghe nói, tìm vào lò gốm hỏi thăm.
Trương Thị nói:
– Tiếng mầy giống tiếng con tao là Trần Quang Nhụy!
Huyền Trang nói:
– Tôi không phải Trần Quang Nhụy, thiệt là cháu nội của bà; Ôn Kiều tiểu thơ là mẹ.
Trương Thị hỏi:
– Sao cha mẹ cháu chẳng đến đây?
Huyền Trang thưa:
– Cha tôi bị quân dữ giết rồi, bắt mẹ tôi làm vợ. Mẹ tôi có gởi lời thăm Bà nội, và gởi một chiếc vòng đây nè.
Trương Thị cầm chiếc vòng khóc lên mà nói:
– Con ta vì công danh mà ra thế ấy! Bấy lâu tưởng là bạch ngãi vong ân. Hay đâu bị người ta giết. Nhờ trời phò hộ cháu sức khỏe mà tìm bà.
Huyền Trang hỏi bà:
– Vì cớ nào mà bệnh con mắt?
Trương thị nói:
– Bà nhớ ông và cháu lắm, khóc hoài nên tối mắt đi!
Huyền Trang nghe nói, quỳ lạy trời mà vái rằng:
– Xin trời phật thương tôi, 18 năm chưa báo cừu cho cha mẹ, nay mẹ tôi sai đi tìm bà nội; Phật trời thương đến xin cho bà tôi sáng mắt ra.
Vái rồi le lưỡi mà rà con mắt cho bà.
Trong một giây Trương Thị thấy đặng mà hỏi rằng:
– Quả thiệt là cháu bà, nên giống Trần Quang Nhụy lắm, Huyền Trang mừng rỡ, dắt bà về tiệm Vạn Hoa, lấy tiền mướn phố cho bà ở.
Lại đưa tiền dụng cho bà mà nói rằng:
– Tôi đi ngoài một tháng rồi trở về đây.
Lạy tạ ơn rồi ra đi, lâu ngày mới tới dinh Thừa Tướng, nói với quân rằng:
– Có sãi nhỏ đến phủ mà tìm bà con.
Quân hầu vào bẫm cùng Thừa Tướng.
Thừa tướng nói:
– Lạ này, mình không bà con với ai hết, sao có sãi đến thăm?
Phu nhân nói:
– Hồi hôm tôi chiêm bao, thấy con về viếng, có khi thơ rễ gởi về chăng?
Thừa Tướng biểu vời hòa thượng vào, Huyền Trang bước vô, lạy ông bà mà khóc, rồi mới trao thơ, Thừa Tướng coi thơ rồi khóc lớn.
Phu nhân hỏi:
– Thơ có chuyện chi mà ông khóc thất thanh đi vậy?
Thừa Tướng nói:
– Sãi này là cháu ngoại của mình, rễ mình bị thằng chèo đò giết, rồi bắt con mình làm vợ.
– Phu nhân phiền não làm chi, để mai vào tâu cho vua hay, đem binh ra bắt nó rồi cứu con và báo cừu cho rễ.
Sáng ngày Thừa tướng vào tâu rằng:
– Rễ tôi là Trần Quang Nhụy, vâng lệnh đi phó nhậm Giang châu, bị tên lái đò là Lưu Hồng đánh chết, cướp con tôi làm vợ, lấy bằng cấp giả làm Quang Nhụy, làm quan 18 năm nay, rày có tin về, thiệt là loạn lắm, xin Bệ Hạ cho tôi đem binh mà ra đánh báo cừu.
Vua Thái Tôn nghe tâu giận lắm, cấp quân ngự năm sáu muôn cho Thừa Tướng đi đánh, Thừa Tướng vâng lệnh lãnh binh về phủ, rồi kéo ra Giang châu, đi hèn lâu mới tới mé sông Hồng Giang đóng trại, cho mời lén quan Ðồng Tri đến tỏ hết sự tình, sai đi êm mà bắt vây cánh nó.
Còn Thừa Tướng lén qua sông lớn hừng đông đem binh tới vây dinh, Lưu Hồng còn đang ngủ. Xảy thấy nghe tiếng súng, chiêng trống gióng lên quân trào áp tới nhà tư, Lưu Hồng trở tay không kịp, bị quân bắt trói mèo, Thừa Tướng truyền bắt tụi nó dẫn ra pháp trường.
Thừa Tướng cho đòi Tiểu thơ ra mắt, Tiểu thơ hổ thẹn không ra, lấy dây đi thắt cổ. Huyền Trang nghe quân nói lật đật chạy vào mở dây đem xuống, lạy mẹ mà khóc và nói rằng:
– Nay ông ngoại đem binh đến, đã bắt đứa dữ mà trả oán cho cha tôi, sao mẹ đi tự ái; nếu mẹ thác, tôi không sống làm chi?
Thừa Tướng nghe tin cũng bước vào khuyên giải.
Tiểu thơ nói:
– Phận đàn bà con gái thì một chồng đến thác mà thôi, chồng tôi nó bị Lưu Hồng nó giết đi, lẽ nào tôi theo nó, vì có thai nghén, liều mình e tuyệt tự của chồng, cùng chẳng đã phải thờ đứa oán, nay con tôi khôn lớn, cha bắt đặng đứa thù mà báo cừu, tôi còn mặt mũi nào mà ra mắt cha, thà liều mình mà đáp nghĩa họ Trần dưới chín suối!
Thừa Tướng nói:
– Con chẳng phải chê chồng mà bỏ tiết. Ấy là gặp biến, túng phải tùng quyền, nào có lỗi chi mà hổ thẹn.
Nói rồi cha con khóc òa.
Huyền Trang cũng khóc, Thừa tướng khuyên dỗ rằng:
– Thôi, hai mẹ con bây chẳng khóc làm chi hoài, nay bắt đứa thù rồi, để lo mà xử.
Xảy thấy quan Ðồng Tri bắt Lý Bưu giải tới; Thừa Tướng mừng lắm truyền dẫn đến pháp trường, đem Lưu Hồng và Lý Bưu ra mà khảo một trăm, chúng nó khai thiệt hết.
Thừa Tướng truyền lấy đinh đóng Lý Bưu trên lừa bằng cây mà lắt thịt (xử bá đao) rồi chém bêu đầu mà răn kẻ gian hùng, rồi dẫn Lưu Hồng tới khúc sông Trần Quang Nhụy năm trước, mổ lấy tim gan mà tế Quang Nhụy, đọc văn tế rồi đốt, ba người cả tiếng khóc òa.
Quỷ Dạ Xoa đem văn tế về dâng cho Long Vương, Long Vương xem rồi, sai Nguơn soái Trạnh mời hồn Quang Nhụy vào cung, Long Vương thấy mặt mừng mà nói rằng: – Mừng cho ông lắm! Nay có Phu nhân và Công tử với ông nhạc của ông, mổ gan tim Lưu Hồng tế ông tại mé sông cái, nay cho ông trái châu như ý và trái châu tẩu bàn với mười cây hàng tốt, một sợi đai ngọc và đưa ông về sum hiệp với vợ con. Hồn Quang Nhụy tạ ơn.
Long Vương sai Dạ Xoa đem thây Quang Nhụy lên mà huờn hồn lại.
Còn Tiểu thơ cúng rồi khóc than thảm thiết, vùng nhảy xuống sông, Huyền Trang nhảy theo kéo lại, ai nấy xúm lại khuyên giải, xảy thấy thây Quang Nhụy nổi lên tấp lại mé sông.
Tiểu thơ nhìn quả thây chồng, hối quân vớt lên ôm thây mà khóc lớn, ai nấy lấy làm lạ, áp lại mà coi.
Trần Quang Nhụy tỉnh lần, lồm cồm ngồi dậy, ai nấy hãi kinh lấy làm lạ!
Trần Quang Nhụy mở mắt thấy vợ và cha vợ, với sãi nhỏ đồng ngồi khóc bên mình, mới hỏi rằng:
– Làm cái gì lạ vậy?
Tiểu thơ nói hết tự sự cho chồng nghe, rồi hỏi thăm rằng:
– Chẳng hay vì cớ nào mà mình sống lại?
Quang Nhụy nghe rõ, liền tạ ơn cha vợ, và thuật chuyện cho vợ con nghe rằng:
– Nhờ thả cá vàng tại tiệm Vạn Hoa, chẳng ngờ là rồng sông ấy, khi thằng ăn cướp đánh chết mà xô thây xuống nước, nhờ vua rồng (Long Vương) ấy cứu ta, đến nay đưa lên và cho đai ngọc, hàng, châu, buộc vào lưng ta đó, không dè sinh con đã bây lớn, nhờ ơn cha đến báo cừu, chi xiết nỗi vui mừng, thiệt hết suy tới thạnh.
Ai nghe cũng mừng rỡ, Thừa Tướng truyền dọn tiệc mà đãi quan quân.
Bữa sau đồng kéo binh về, đi ngang tiệm Vạn Hoa, Trần Quang Nhụy truyền dừng binh, dắt con đi tìm mẹ.
Còn Trương Thị chiêm bao thấy cây khôn mà trổ bông, sáng ngày nghe quạ kêu inh ỏi sau hè, bèn nói rằng:
– Có khi cháu đà về đó.
Giây lâu thấy cho con Quang Nhụy vào lạy mừng tỏ hết mọi điều, níu nhau mà khóc, rồi tính nợ thượng niên trả tất, kẻ xe người ngựa về tới Trường An.
Ðến dinh rồi, hai vợ chồng dắt mẹ và con vào ra mắt Phu nhân trong phủ.
Phu nhân mừng rỡ dọn tiệc đãi đằng.
Thừa Tướng nói:
– Tiệc này là tiệc đoàn viên (sum hiệp) ăn uống cùng nhau hỉ hạ.
Bữa sau Thừa Tướng vào chầu, tâu rõ các việc, và xin cho Trần Quang Nhụy làm quan tại trào; vua Thái Tôn nhậm lời, phong Quang Nhụy làm Hàn lâm học sĩ, coi việc trong trào, phán rồi bãi chầu, ai về dinh nấy.
Huyền Trang về nhà lại cha mẹ, đem bạc tiền làm chùa lại, và đền ơn thầy xong, rồi về thăm không chịu ở thế, nên cha mẹ biểu vào chùa Hồng Phước mà tu cho gần. Huyền Trang đi tu rồi, sau Tiểu thơ ở nhà uống thuốc độc mà chết êm.
Bây giờ nói chuyện gần thành Trường An, có sông Kinh nước trong lắm, dựa mé sông có nhà ông chài là Trương Lão, gần rừng có nhà Lý Ðịnh là Ông Tiều, hai người ấy học giỏi mà không thi, cứ việc ngư tiều vui thú.
Ngày kia hai người uống rượu trong quán, rồi dắt nhau về; đi dọc đường Trương Lão nói với Lý địng rằng:
– Anh Lý, tôi nghĩ như vầy, kẻ giành danh vì danh bỏ mạng, người cướp lợi bỏ lợi liều mình, mang ơn vua như bọc rắn mà đi, ăn lộc chúa như tôm hùm mà nhủ, tính lại thua chúng ta hết thảy, non xanh nước biếc, thong thả thảnh thơi, lạc lẻo qua ngày, tuy không vinh mà khỏi nhục.
Lý Ðịnh nói:
– Anh Trương phân phải lắm, nhưng vậy mà nước biếc đó còn thua núi xanh đây. Trương Lão nói:
– Tôi lại e non nhơn không bằng nước trí.
Lý Ðịnh nói:
– Thôi, anh với tôi làm thơ liên vịnh thử nào, (thơ liên vịnh là mỗi người làm một câu nối nhau).
Trương Lão nói:
– Như vậy hay lắm.
Liền ngâm trước như vầy:
Trương Lão ngâm: Thuyền xông dòng bích trong sương sớm
Lý Ðịnh ngâm: Nhà ở non xanh dựa bá tòng
Trương: Riêng mến bên cầu chiều nước nhảy
Lý: Rất ưa trên đảnh sáng mây đông,
Trương: Thuyền còn nằm ngữa xem hàng nhạn
Lý: Nẻo tắt đi ngang lóng tiếng hồng
Trương: Gánh lợi danh kia ta chẳng có
Lý: Biển dòng sông nọ tớ đành không,
Trương: Bên thuyền thường máng chài như gấm,
Lý: Trên đá năng mài búa tợ bông
Trương: Trăng rạng làu làu trăm cá ngóng.
Lý: Rừng sâu thăm thẳm một mình xông
Trương: Tôm nhiều đổ ruợu nàng say với
Lý: Củi thạnh thêm ve trẻ uống cùng
Trương: Ghe chở anh em nhiều thủy thủ
Lý: Tiệc vầy bậu bạn những sơn ông
Trương: Ðỗ thuyền đánh tữu kêu thêm chén
Lý: Dẹp búa làm banh hối họ chung
Trương: Sắc nước pha trà, trà đẹp miệng
Lý: Ðào non nấu cháo, cháo no lòng
Trương: Lánh đời lui bước làm câm điếc
Lý: Dấu nọ chôn tên giả dại khùng.
Trương Lão nói:
– Tôi nãy giờ làm hổn ngâm trước, nay nhường lại cho anh làm đầu thử nào!
Lý Ðịnh nói:
– Lẽ thường trên núi dưới sông. Tôi làm đầu thuận lắm.
Lý Ðịnh ngâm: Non núi trăng gió dạo chơi đừng lẳn khứ
Trương Lão ngâm: Biển hồ qua lại nước trong xanh
Lý: Thảnh thơi có số đà vui vẻ
Trương: Phải quấy không nghe cũng thái bình
Lý: Xem nguyệt ta nằm lều cỏ rách,
Trương: Che mưa mình máng áo tơi lành,
Lý: Tánh ưa tòng trước nên danh tốt
Trương: Ý đẹp cò le kết bạn thanh
Lý: Trong dạ không mơ cầu lợi lộc
Trương: Ngoài tai chẳng hứng tiếng tranh hành
Lý: Xuân sang nhắm liễu theo đường lộ
Trương: Hè đến xem sen dựa mé kinh
Lý: Sương xuống gà sung dầu xáo luộc
Trương: Cúc đơm cua mập mặt nham canh
Lý: Bóng xây ngủ nướng nằm nhừ tử
Trương: Trời lặng lăn quay uốn ấp sanh
Lý: Tám tiết non cao như lão cụi
Trương: Bốn mùa sông rộng thể ông Hoành
Lý: Rầu người gánh cuổi ham thi khóa
Trương: Ưa kẻ gieo câu lánh thị thành
Lý: Ngoài ngỏ bông rừng thơm phưng phức
Trương: Trước thuyền nước biển nhảy minh minh
Lý: Ba công chẳng đổi lưỡi rìu nguyệt
Trương: Muôn lượng không buông miệng lưới kình.
Hai người vừa ngâm vừa đi. Tới ngỏ tẻ mới bái nhau mà từ giả.
Trương Lão nói chơi rằng:
– Anh Lý ôi! Ði lên rừng phải coi chừng hùm cọp cho lắm. Nếu anh có lẽ nào đi nữa ắt là tôi. Ngày mai đầu chợ thiếu người quen, đó anh à!.
Lý Ðịnh nghe nói cả giận rằng:
– Chú thật độc ác lắm! Bậu bạn tử tế, người ta chịu chết thế cho nhau. Sao chú lại rủa tôi như vậy? Tôi nói cho mà giữ hồn. Nếu hùm dữ ăn tôi, thì sóng thần nhận chú.
Trương Lão nói:
– Ðời nào sóng thần nhận tôi đặng.
Lý Ðịnh nói:
– Biết chừng ở đâu. Trời khi gió khi mưa, người khi phước khi họa, sao chú chắc là chìm xuồng kìa?
Trương Lão nói:
– Tuy anh nói như vậy, mà không chắc gì, chớ nghề làm ăn của tôi vững lắm.
Lý Ðịnh nói:
– Chú làm ăn chân trời mặt nước, hiểm nghèo quá đổi, mạng có ba phân, sao chú gọi là vững?
Trương Lão nói:
– Anh không hiểu, để tôi cắt nghĩa cho anh nghe, tại chợ Trường An, phía bên Tây, có ông thầy bói linh lắm! Mỗi ngày đem cho thẩy một con cá Chài Vàng, thì coi cho một quẻ. Chỉ hướng nào cá nhiều, vãi trăm chài không sai một. Bữa nay tôi có đi coi quẻ, biểu tôi bủa lưới trên ngọn Sông Kinh phía Ðông qua mé bên Tây, chài thì trúng, quả như lời nói, chở tôm cá khẩm ghe. Ðể mai ra chợ gặp anh sẽ mua rượu uống chơi, bây giờ xin kiếu.
Thiệt lời xưa nói không sai: Trên đường nói chuyện trong bụi có người. Nguyên có quỷ Dạ Xoa ở tại Sông Kinh đi tuần dưới nước. Nghe ông chài nói rằng: Vãi trăm chài không sai một, thì lật đật về cung Thủy tinh mà báo rằng: “Bệ Hạ ôi! Có họa, có họa!”
Long vương sông Kinh liền hỏi:
– Có họa gì?
Dạ Xoa nói:
– Ngoài chợ Trường An có ông thầy bói hay lắm! Mỗi bữa ông chài đem cho thầy bói kia một con cá chài lớn, thì coi quẻ chỉ chỗ cho, vãi trăm chài không sai một. Nếu thường thường như vầy, thì hết binh tướng lấy ai mà giúp được vua?
Long Vương nghe nói giận lắm, rút gươm vía ra đi, quyết đến Trường An đặng giết thầy bói giỏi.
Có Rồng con, Rồng cháu, tướng Trạnh, quan Cua, quân Sư Cháy, Thừa Tướng Chài đồng hè ra tấu:
– Xin chúa công bớt giận, lời huyển bỏ qua chớ khá nghe. Nếu chúa công đi xuống chợ, thì nổi giông tố mây mưa. Sợ dân ở Trường An khốn hại, có khi trời bắt tội chẳng không? Thà biến ra Tú Tài đến chợ Trường An coi thử. Quả như thời giết, bằng không thiệt thì thôi.
Long Vương nhận lời bỏ gươm và chẳng làm mưa gió, lên bờ giả Tú Tài áo trắng đi xuống chợ Trường An, thấy thiên hạ đứng vậy mà coi quẻ.
Tú Tài hỏi thăm rõ, thầy bói ấy là Viên Thủ Thành, chú ông là quan thiên văn Viên Thiên Cang, hình dung xinh tốt, thể thống oai nghi.
Tú Tài quyết vào Viên Thủ Thành chào hỏi.
Ðãi trà xông xã, mới hỏi thăm ông bói chuyện chi?
Tú tài nói:
– Tôi bói bữa nào mưa?
Viên Thủ Thành gieo quẻ đoán rằng “
Mây che đỉnh núi, mù tỏa non Ðoài,
Hỏi thăm mưa rưới, chắc tại ngày mai.
Tú tài hỏi:
– Mai giờ nào, nước dâng lên mấy thước mấy tấc?
Viên Thủ Thành nói:
– Giờ Thìn thì kéo mây, giờ Tỵ nổi sấm, giờ Ngọ mưa, cuối giờ Mùi tạnh. Nước dâng ba thước ba tấc, có lẽ ra bốn mươi tám giọt bốn phân bốn ly.
Tú tài cười rằng:
– Lời này không phải nói chơi, ngày mai quả có mưa, giờ khắc và nước dâng y như lời đoán, thì ta thưởng bạc năm chục lượng chẳng sai. Nếu không mưa, hay là mưa mà không y lời đoán, ta nói thiệt cho thầy hay, phá nát cửa thầy, và xé tấm vải treo tức thì đuổi khỏi chợ Trường An, không cho ở đây gạt chúng nữa.
Viên Thủ Thành mừng mà đáp rằng:
– Tôi dám cuộc, tôi dám cuộc.
Tú Tài liền kiếu ra về.
Các Thủy thần thấy Long Vương về đồng ra nghinh tiếp mà hỏi thăm rằng:
– Chúa công đi kiếm thầy bói đặng không?
Long Vương nói:
– Có, có, thầy bói ấy khua mỏ kiếm tiền, ta hỏi thử chừng nào trời mưa và nước dâng lên mấy thước, nó nói giờ Thìn kéo mây, giờ Mùi tạnh, nước lên cao ba thước ba tấc có lẽ bốn phân tám ly, ta cuộc với nó rằng: “Hễ quả như lời, ta thưởng năm mươi lượng bạc, nếu sai một chút thì ta phá nhà, xé bảng đuổi ra khỏi chợ Trường An”.
Các tướng cười mà rằng:
– Chúa công là vị thần coi tá cái sông mà hay việc mưa gió, nếu có mưa không mưa thì Chúa công biết trước, thầy bói biết sao mà đặng mà nói bướng kìa, mười phần nó phải thua hết cả mười.
Nói cười chưa dứt tiếng thì nghe tiếng kêu:
– Long Vương mau ra tiếp chiếu trời.
Long Vương thất kinh lật đật ra tiếp chiếu, ngó lên mây thấy thần Lực Sĩ mặc áo vàng, tay cầm phong chiếu chỉ bay xuống cung Thủy tinh.
Long Vương đặt bàn mà lạy mà lãnh chiếu.
Lực Sĩ đi về lập tức, Long Vương mở chiếu chỉ ra xem, thấy trong chiếu chỉ dạy như vầy:
cuối giờ Mùi tạnh, nước dâng ba thước, ba tấc, bốn phân, tám ly”.
Long Vương thất kinh hồn vía, nói với các tướng rằng:
– Trên đời có người linh quá, thông trời thấu đất, chắc mình phải chịu thua.
Quân sư Cháy tâu rằng:
– Xin chúa công đừng lo, muốn ăn nó cũng không khó, tôi dùng một kế thì nó cứng họng đi.
Long Vương hỏi:
– Quân sư có kế chi?
Quân sư Cháy tâu rằng:
– Mưa sái giờ và bớt nước, thầy không y lời đoán, sao nó cũng phải thua.
Long vương y kế.
Bữa sau kêu Thiên lôi, Thần gió,Bà chớp, Anh mây, đồng kéo tới Trường An. Truyền giờ Tỵ mới kéo mây, giờ Ngọ mói nổi sấm, giờ Mùi mưa, giờ Thân tạnh, nước có ba thước lẻ bốn phân, rồi truyền các thần về hết.
Long Vương hóa Tú Tài như trước, tới chỗ Viên Thủ Thành.
Tú Tài không hỏi gì hết, đập nghiêng quăng viết, xé tấm vải treo.
Viên Thủ Thành ngồi trên ghế làm thinh, như không hề không biết.
Tú Tài giận phá cửa lấy ván xốc lại giá mà mắn rằng:
– Mày là đồ mị, nói gạt chúng mà ăn tiền, coi quẻ không linh, đặt điều nói bậy. đoán sái giờ, dư nước, còn ngồi làm tỉnh kìa. Ði mau mau kẻo ta đập chết.
Viên Thủ Thành cười hả hả rằng:
– Không sợ, không sợ, tôi không phạm tội chết, e cho ai chết kìa, ông gạt ai chớ ông gạt tôi sao được, ông không phải Tú Tài áo trắng, ông là Rồng Bạch sông Kinh, không dám cải lệnh trời, tráo giờ bớt nước, phạm tội gần chết chém, lại còn mắng tôi sao?.
– Tôi cứu ông sao đặng, nhưng chỉ chỗ cho ông cầu khẩn họa may.
Tú Tài nói:
– Xin thầy chỉ chỗ làm ơn.
Viên Thủ Thành nói:
– Giờ Ngọ mai ông sẽ bị Ngụy Trưng xử trảm, mà Ngụy Trưng làm Thừa Tướng phò Hoàng Ðế bây giờ, ông cầu Hoàng Ðế nói giùm, có khi cũng được.
Tú Tài lau nước mắt từ tạ ra đây, mặt nhực đã chén, vầng trăng ló mọc, Long Vương không về phủ, ở lững đửng nửa lừng, đợi tới canh ba hiện vào cung cấm thấy vía vua Thái Tôn đi dạo.
Long Vương hiện hình người ra trước mặt mà nói rằng:
– Xin Bệ Hạ cứu tôi làm phước.
Hồn Thái Tôn hỏi:
– Ngươi là ai đó? Nói cho ta rõ đặng ta cứu cho.
Long vương nói:
– Bệ Hạ thiệt Rồng, còn tôi là rồng có tội. Trời sai Ngụy Trưng là tôi hiền của Bệ hạ, giờ Ngọ mai chém tôi.
Hồn Thái Tôn nói:
– Như về phần Ngụy Trưng chém ngươi, thời trẫm cứu được. Thôi ngươi yên dạ mà về.
Long vương mừng rỡ quá chừng, lạy tạ mà đi về thẳng.
Vua Thái Tôn thức dậy, nhớ điềm chiêm bao ấy rõ ràng, đến sáng lâm triều, các quan chầu chực.
Vua Thái Tôn xem rõ từ người, bên văn thì: Phòng Huyền Linh, Ðỗ Như Hối, Từ Mậu Công, Hứa Kỉnh Tông và Vương Khuê, còn bên võ thì: Mã Tam Bửu, Ðoàn Chí Hiền, Ân Khai Sơn, Trình Giảo Kiêm, Lưu Hồng Cơ, Huất Trì Cung, Tần Thức Bảo.
Ai nấy đủ mặt, mà thiếu Thừa tướng Ngụy Trưng!
Vua Thái Tôn vời Từ Mậu Công lên điện mà phán rằng:
– Trẫm nằm chiêm bao lạ lắm! Thấy một người đón trẫm mà lạy xưng rằng Long vương phạm tội thiên tào, trời sai Ngụy Trưng xử trẫm, lạy xin trẫm cứu, trẫm hứa lở lời, bữa nay vì cớ nào Ngụy Trưng không đi chầu vậy?
Từ Mậu Công tâu rằng:
– Bệ hạ đã hứa lỡ, thì phải đòi Ngụy Trưng vào chầu, đừng cho Ngụy Trưng đi đâu, mãn ngày nay thì cứu Long vương ắt được.
Vua Thái Tôn mừng lắm, mới sai hoạn quan đi mời Ngụy Trưng.
Còn Ngụy Trưng đi coi thiên văn (coi sao) hồi hôm, xảy nghe tiếng hạc kêu, ngó thấy xứ trời hiện xuống, truyền chiếu chỉ rằng:
– Giờ Ngọ mai Ngụy Thừa Tướng phải thiếp mà chém Rồng Bạch tại sông Kinh.
Ngụy Trưng lạy tạ ơn về dinh tắm gội. Lo mài gươm phép nên chẳng đi chầu, xảy thấy sứ vào mời, trong lòng lo sợ, không dám cãi lệnh phải sửa sang mão áo vào chầu, bước tới sân son, lạy vua mà chịu tội.
Thái Tôn phán rằng:
– Trẫm tha khanh khỏi tội.
Một lát bãi chầu rồi, bá quan đều về hết, vua Thái Tôn cầm một mình Ngụy Trưng ở lại mà thôi, mời vào đền trong luận bàn việc nước, qua đầu giờ Ngọ, vua truyền mỹ nữ lấy cờ sắp trên bàn xong xã, Ngụy Trưng lạy tạ, rồi ngồi lại đánh cờ, dục dặc gần nửa giờ mà chưa thắng bại.
Ngụy Trưng gục đầu trên bàn mà ngáy pho pho.
Vua Thái Tôn không kêu, để cho Ngụy Trưng ngủ, chừng một lát Ngụy Trưng thức dậy, quì dưới đất lạy vua mà tâu rằng:
– Tôi đáng tội thác, khi bần thần ngủ quên không biết có điều chi thất lễ. Xin Bệ Hạ tha tội cho tôi.
Vua Thái Tôn cười rằng:
– Khanh có tội chi mà ngại, thôi, dậy mà đánh cờ.
Ngụy Trưng lạy tạ ơn rồi sắp cờ đánh nữa. Xảy nghe tiếng la lớn ngoài cửa đền, thấy Tần Thúc Bảo xách đầu rồng Bạch chảy máu ròng ròng, quì tại sân mà tâu rằng:
– Muôn tâu Bệ hạ! Có thấy sông khô cùng biển cạn, việc này lạ lắm thiệt chưa từng. Vua Thái Tôn hỏi:
– Vật đó ở đâu?
Tần Thúc Bảo tâu rằng:
– Ðầu rồng trên trời rớt xuống tại ngã tư, nên tôi phải đem dâng cho Bệ hạ.
Vua Thái Tôn thất sắc, phán hỏi Ngụy Trưng rằng:
– Thừa tướng bàn chuyện ấy đặng không?
Ngụy Trưng quỳ lạy tâu rằng:
– Tôi mới thiếp đi chém đó.
Vua Thái Tôn thất kinh mới hỏi:
– Khi khanh ngủ, tay không chuyển động, cũng không có gươm đao, vậy làm sao mà chém đặng rồng ấy?
Ngụy Trưng tâu rằng:
– Tôi vâng chiếu thượng đế hồi hôm truyền giờ Ngọ này thiếp xuống chém rồng có tội. Bệ Hạ đòi tôi hầu cờ nên đi không đặng, túng phải thiếp xuống lấy gươm phép chém kịp giờ.
Vua Thái Tôn nghe nói:
– Nửa mừng nửa buồn, mừng là đặng tôi hiền có phép buồn là vì lời hứa không xong, phải gượng gạo mà truyền cho Tần Phúc Bảo rằng:
– Ðem đầu rồng treo tại chợ Trường An mà răn lê thứ.
Lại ban thưởng Ngụy Trưng. Hai tướng tạ từ về hết.
Vua Thái Tôn vào cung trong lòng buồn bực, bần thần thao thức nằm đến canh hai, xãy nghe tiếng khóc ngoài cửa cung, Thái Tôn càng kinh hãi, mơ màng ngó thấy Long vương tay vịn đầu, máu chảy dầm dề, kêu Thái Tôn mà đòi đền thường mạng, nói rằng:
– Ðêm hôm qua chịu cứu ta chắc chắn, sao lại sai Thừa tướng chém ta?
Nói rồi lại níu Thái Tôn, biểu đi xuống âm ti cho Diêm vương phân xử.
Vua Thái Tôn cứng họng đỗ mồi hôi hột dầm mình, Long vương níu cứng không buông, xãy thấy bên phía Nam có người đàn bà đi tới, tay cầm nhánh dương liễu mà quét thinh không, Long vương ngó thấy thất kinh, ôm đầu chạy mất.
Nguyên là Quan Âm Bồ Tát ở tại miễu Thổ thần nghe tiếng quỷ khóc thần rên nên tới đuổi ma rồng mà cứu Thái Tôn khỏi hại.
Còn hồn Long vương đi xuống kiện dưới Diêm la.
Khi Thái Tôn giựt mình thức dậy, la hoảng rằng: “Có quỷ, có quỷ “.
Ba cung, sáu viện, Thái giám, cung nga ai nấy sợ mà thức luôn đến sáng.
Rạng ngày trăm quan chầu chực, không thấy vua ngự ra, chờ tới mặt nhựt 3 sào, mới có chiếu chỉ ra truyền lại:
– Nay mình Trẫm không khỏe, các quan khỏi đi chầu.
Như vậy, bảy ngày các quan đều lo sợ. Những quan lớn vào thăm, xảy thấy Thái hậu đòi ngự y vào trị bệnh, các quan nhóm cửa đền, đợi ngự y mà hỏi thăm nhẹ nặng, ngự y ra nói:
– Bệnh Bệ Hạ mạch đi không chánh, đi yếu mà mau, cho nên nói cuồng và thấy quỷ mạch nhảy 9 cái rồi ngừng lại. Ngủ tạng đã tuyệt rồi, sợ chừng trong 7 bữa.
Các quan nghe đều sửng sốt.
Lại nghe Thái hậu truyền rằng:
– Vua đòi Từ Mậu Công, Tần Thúc Bảo và Khuất Trì Cung.
Ba ông vâng chỉ vua vào cung mà lạy.
Vua Thái Tôn gượng nói rằng:
– Các khanh ôi! Trẫm thuở mười chín tuổi: Ðánh Nam, dẹp Bắc, chinh Ðông, phạt Tây, không hề thấy tà ma chi hết, nay lại thấy quỷ, mới là lạ cho.
Khuất Trì Cung nói:
– Bệ Hạ gầy dựng giang san, giết người cả vạn, mà còn sợ ma sao?
Thái Tôn phán rằng:
– Khanh chẳng thấy nên không tin, chớ trời tối thì ma quỷ khóc ngoài cửa cung, vác gạch ngói liệng vào nườm nượp. Ban ngày hởi còn phá, ban đêm làm lộng quá chừng!
Tần Thúc bảo tâu rằng:
– Xin Bệ Hạ an lòng, đêm nay Khuất Trì Cung canh cửa với tôi, coi ma quỷ thế nào cho biết.
Vua Thái Tôn mừng lắm! Các quan lạy tạ ra về.
Ðêm ấy Tần Thúc Bảo cầm búa, Khuất Trì Cung cầm giản, cùng nhau nai nịt hẳn hòi giữ cửa cung không thấy tà ma, nên vua Thái Tôn ngủ đặng.
Rạng ngày vua đòi hai tướng vào thưởng phán rằng:
– Trẫm bệnh chẳng ngủ hơn mấy đêm, hồi hôm nhờ hao sức hai khanh, nên trẫm ngủ thẳng giấc, thôi hai khanh lui về mà nghỉ cho khỏe, tối này sẽ đến giúp dùm.
Hai tướng tạ ơn về phủ.
Từ ấy thường đêm tới canh cửa.
Vua thấy hai tướng khó nhọc như vậy thì cảm động nói rằng:
– Trẫm thấy hai khanh khó nhọc, trẫm chẳng an lòng. Trẫm muốn đòi thợ khéo vào vẽ chân dung hai người dán tại cửa, cho khỏi nhọc công canh giữ.
Các quan vâng lệnh, đòi hai thợ khéo tức thời. Hai tướng nai nịt như xưa. Hai thợ cứ theo mà vẽ, hình dung như sống. Tuy dán vào cửa mà ai nấy cũng lầm, yên được hai ba đêm, rồi lại nghe gạch ngói quẳng vào cửa sau lộp độp.
Sáng ngày, vua đòi các tôi vào mà phán rằng:
– Cửa trước mới êm, ngõ sau nó lại liệng gạch, như vậy trẫm nằm sao êm?
Từ Mậu Công tâu rằng:
– Không lẽ vẽ hình hai tướng nữa? Vậy xin cho Ngụy thừa tướng canh giữ ngõ sau. Thái Tôn y lời truyền Ngụy Trưng canh giữ.
Ðêm ấy Ngụy Trưng nai nịt, cầm cây gươm chém Rồng Bạch ngày trước mà giữ cửa sau, thiệt cũng oai linh, quỷ không dám liệng, tuy cửa trước cửa sau lặng lẻ, mà bệnh vua càng thêm.
Ngày kia Thái Hậu đòi các quan vào mà lo thói!
Vua Thái Tôn giao việc nước cho Từ Mậu Công. Phán rồi tắm rửa thay đồ chờ giờ băng hà.
Ngụy Trưng nắm áo mà tâu rằng:
– Xin Bệ Hạ an lòng, tôi có một điều bảo hộ mình rồng sức khỏe.
Thái Tôn gượng phán:
– Bệnh đã gần miền,mà cứu làm sao được?
Ngụy Trưng tâu rằng:
– Tôi có một phong thơ xin trao cho Bệ hạ, như đến Âm phủ thì trao cho Thôi Giác là Phán quan.
Thái Tôn hỏi:
– Thôi Giác là ai?
Ngụy Trưng tâu rằng:
– Thôi Giáp là tôi vua trước, ban đầu ngồi Tri huyện Từ châu, sau lên chức Thị Lang bộ lễ. Khi còn sống làm bạn hữu với tôi thiết lắm, nay thác xuống làm Phán quan coi sổ dưới Minh vương. Tôi chiêm bao gặp hoài, yêu dấu nhau như sống, nếu Bệ Hạ trao thơ ấy, sao Phán quan cũng nghĩ tình tôi mà kiếm cách đưa hồn nhập xác.
Thái Tôn bỏ thơ vào tay áo, rồi nhắm mắt mà băng hà.
Ba cung, sáu viện, Thái Tử và các quan đều khóc than mà liệm thây, để quan tài tại đền Bạch hổ, cả trào thọ chế cư tang.
Nói về vua Thái Tôn thấy vía đi dạo, ra khỏi lầu Ngũ Phụng. Thấy vua ngự thỉnh vua đi săn; Thái Tôn theo dõi một hồi binh gia đâu mất, còn một mình giữa đồng nội, không biết ngõ mà đi, sợ hết hồn hết vía.
Xảy nghe tiếng kêu lớn hét rằng:
– Tâu Hoàng đế đi lại ngỏ này.
Vua Thái Tôn ngó ngoái, thấy người ấy đội mão thẻ ngang, buộc đai da tây tay cầm hốt ngà, mặc áo địa rộng, quì bên đường mà nói rằng:
– Tôi rước trễ, xin Bệ Hạ tha tội tôi.
Vua Thái Tôn hỏi:
– Vậy chớ khanh là ai đó?
Người ấy tâu rằng:
– Khi tôi sống phò vua trước, làm Tri huyện Từ châu; sau lên chức Thị Lang bộ Lễ, tôi họ Thôi tên Giác, nay thác xuống Âm Phủ làm chức Phán quan. Nguyên hôm trước tôi có thấy việc rồng ma đi cáo, nên biết bữa nay có Bệ Hạ xuống đây, tôi mới tiếp giá.
Vua Thái Tôn đở dậy mà nói rằng:
– Cám ơn thầy có công rước Trẫm, mà Ngụy Trưng lại có gởi phong thơ cho thầy đây, may gặp tình cờ.
Nói rồi đưa phong thơ cho Thôi Giác.
Thôi Phán quan tiếp thơ mà đọc, trong thơ nói như vầy:
Thơ gởi cho:
Quan Ðại Ðô Án là anh họ Thôi xem rõ,
Nhớ xưa làm bạn, hình dạng như thường,
Sau cách âm dương, vắng lời dạy dỗ,
Cảm tình chẳng rõ, cho thấy chiêm bao,
Mới hay anh chức trọng quyền cao,
Hiềm vì nổi kẻ u người hiển,
Nay Thánh Hoàng hầu kiện,
Nhờ huynh trưởng nghĩ tình,
Có phương chi cho đặng huờn sinh,
Nhờ ơn ấy cầm bằng tái tạo.
Em bạn là Ngụy Trưng cúi dâng.
Thôi Phán quan xem thơ mừng mà nói rằng:
– Quân nhân Tào họ Ngụy thiếp chém Rồng Bạch tôi cũng hay rồi, lại nhờ ơn đỡ đầu con cháu tôi trên dương thế, nay gởi thơ cậy tôi như vậy, mà Bệ Hạ còn lo làm chi? Sao sao tôi cũng lo cho Bệ Hạ huờn sinh mà trị nước.
Vua Thái Tôn đi theo Thôi Phán quan và hai tên Ðồng tử, ngó thấy trước cửa thành, treo một tấm bảng dài đề bảy chữ vàng rằng:
U Minh địa giới quỷ môn quan,
Nghĩa là: Tối mờ cõi đất cửa hồn ma.
Ðồng tử áo xanh rung cây phướn mà dắt vua.
Thái Tôn vào khỏi cửa thành, ngó thấy hồn anh là Kiến Thành, hồn em là Nguơn Kiết đồng ré lên rằng:
– Thế Dân xuống đó, Thế Dân xuống đó.
Bên thì Nguơn Kiết, bên thì Kiến Thành áp lại níu hồn Thái Tôn mà đòi thường mạng, hồn Thái Tôn đánh không khỏi, bị hai quỷ kéo lôi.
Thôi Phán quan kêu quỷ sứ nanh bạc mặt xanh nạt Nguơn Kiết, Kiến Thành chạy hết.
Hồn Thái Tôn đi khỏi ước vài dặm đường, thấy đền đài lợp ngói xanh, lầu đài rực rỡ, hồn Thái Tôn đang ngó, xảy nghe tiếng ngọc len ken, mùi hương bát ngát, hai cặp xách lồng đèn đi trước, mười vua Minh chúa ra tiếp rước Thái Tôn.
Hồn Thái Tôn khiêm nhường quá chừng không dám đi trước, mười vua nói:
– Bệ Hạ là vua mười cõi Dương thế, còn chúng tôi là vua cõi Âm ti, nên anh em tôi cung kính Bệ Hạ là thiệt tình, xin đừng ké né.
Hồn Thái Tôn nói:
– Trẫm có tội vào hầu dưới bệ, đâu dám luận người qủy âm dương.
Ðồng vào tới đền Sum La, ngồi như chủ khách nói chuyện một lát, rồi vua Nhứt Ðiện là Tần Quảng vòng tay mà hỏi rằng:
– Ma Rồng ở sông Kinh đi cáo rằng: “Bệ Hạ hứa cứu rồi lại giết đi, là vì cớ nào vậy? Hồn Thái Tôn nói rằng:
– Trẫm chiêm bao thấy rồng cầu cứu thiệt có hứa lời, chẳng ngờ tội đáng hành hình về phần Ngụy Trưng xử trãm. Trẫm đòi Ngụy Trưng vào đánh cờ với trẫm, Ngụy Trưng xuất vía mà chém Long Vương; ấy là Ngụy Trưng có phép hay mà cũng tại Long vương đáng tội chết, chớ trẫm có sai giết ở đâu, sao vu oan mà kiện trẫm? Mười vua trả lời rằng:
– Con rồng ấy hồi mới đầu thai, chúng tôi cũng rõ định số của nó là sau chết về tay Ngụy Trưng, chúng tôi có hay trước, ngặt nó cáo mãi, nên phải vời Bệ Hạ xuống đối nại cho ba cõi công đồng, chớ chúng đã cho nó đi đầu thai hồi sớm, nay nhọc công Bệ Hạ ngự đến xin tha tội trước hồn.
Nói rồi sai Thôi Phán quan đem bộ tử ra tra coi Bệ Hạ còn trị vì mấy kỷ.
Thôi Phán quan vâng lệnh vào soạn bộ mấy vua các nước mà coi lén trước đi, thấy đề rằng:
– Vua Thái Tôn nước Ðại Ðường ngồi ngôi mười ba năm mãn số.
Thôi Phán quan xem thấy thất kinh, lấy viết chấm mực thêm hai ngang vô chữ nhứt, khi trước nhứt thập tam niên (mười ba năm). Bây giờ thành tam thập tam niên (ba mươi ba năm). Rồi ôm bộ ấy ra trình, mười vua xem thấy số ba mươi ba năm thì thất kinh mới hỏi rằng:
– Chẳng hay Bệ Hạ lên ngôi nay đã mấy mươi năm rồi?
Hồn Thái Tôn nói:
– Trẫm lên ngôi mới đặng mười ba năm.
Mười vua mừng mà nói rằng:
– Bệ Hạ yên lòng chẳng can chi mà ngại. Số còn sống đặng hai mươi năm nữa mới già, nay đối nại đã rồi, cho đưa hồn về nhập xác.
Hồn Thái Tôn nói:
– Tôi đội ơn.
Mười vua sai Thôi Phán quan và Châu Thái úy đua về.
– Chẳng hay nội trong cung trẫm, có ai tới số chăng?
Mười vua nói:
– Hết thảy đều bình an, song e em gái Bệ Hạ vắn số.
Hồn Thái Tôn nói:
– Trẫm về Dương thế không biết lấy chi mà tạ ơn vua, xin dâng dưa hấu lấy thảo. Mười vua nói:
– Dưới này các thứ dưa đủ hết, còn thiếu một thứ dưa hấu mà thôi.
Hồn Thái Tôn nói:
– Trẫm về tới sai người dâng xuống tức thì.
Nói rồi giã từ dời gót.
Châu Thái úy cầm cây phướn dẫn hồn đi trước, Thôi Phán quan hộ giá theo sau, hồn Thái Tôn ra khỏi đền, rồi coi không phải đường cũ, nói với Phán quan rằng:
– Ngõ này có khi sái thì phải?
Thôi Phán quan nói:
– Không sái đâu, đường xuống Âm phủ khi xưa trở về không đặng, nay đưa Bệ Hạ đi về ngỏ này một là cho thấy việc Âm phủ; hai là dễ đi hơn.
Hồn Thái Tôn đi theo được ít dặm đường, ngó thấy một hòn núi cao, mây đen mù mịt, hồn Thái Tôn hỏi:
– Núi chi đó?.
Thôi phán quan nói:
– Ấy là núi Bố Âm.
Hồn Thái Tôn thất kinh nói rằng:
– Núi như vậy trẫm đi sao được.
Thôi phán quan nói:
– Xin Bệ Hạ đừng ngại, chúng tôi bảo hộ, không có hề chi.
Hồn Thái Tôn vừa đi vừa run lặp cặp, qua khỏi núi ấy, rồi đi ngang qua mười mấy dãy nhà, đi tới đâu cũng nghe tiếng khóc vang tai, quỷ ma ghê gớm.
Hồn Thái Tôn lấy làm lạ mà hỏi rằng:
– Chẳng hay các cửa này là sở chi đó?
Thôi Phán quan nói:
– Ấy là mười tám tầng địa ngục (cửa rạc).
Hồn Thái Tôn hỏi:
– 18 cửa ngục ấy ấy hành những tội gì?
Thôi Phán quán nói rằng:
Xin Bệ Hạ nghe tôi nói:
– Ngục rút gân, ngục u tù, ngục hang lửa, bởi vì khi còn sống làm dữ dư ngàn tội, thác xuống vào trong mấy ngục này. Ngục cưa hai, ngục kéo lưỡi, ngục lột da, bởi vì chẳng thảo, chẳng ngay, không tiết hạnh, miệng hiền lòng độc, đọa vào đây, ngục cối xay, ngục cối đá, ngục xe cán, bởi vì mất lẽ công bình làm khuất lấp, nói gian nói dối, hại người ngay. Ngục nước đá, ngục mổ xẻ, ngục rút ruột bởi vì lường thăng trào đấu hay làm thiếu, mua cân già bán cân non, mắc tội vào ngục này. Ngục vạt dầu, ngục tăm tối, ngục ngục núi đao, bởi vì dữ tợn hung hăng hay hiếp đáp, co đầu rút cổ thảm như vây. Ngục ao máu, ngục mãn đời, ngục máu cân, bởi vì giết người lấy của làm mưu độc, hại vật làm hàng tội nặng thay, mắc đọa ngàn năm không thoát khỏi, chìm sâu trong kiếp khổ đời đời, ngày kêu trời đất không ai cứu, héo ruột khô gan ủ mặt mày.
Người đời chớ khá ở tà tây
Thần qủy công bình tự thuở nay
Làm dữ đến sau đều trả quả
Kẻ thời gặp sớm kẻ thời chầy.
Hồn Thái Tôn nghe nói, lòng sợ hãi hùng, đi một hồi lâu gặp quỷ cầm phuớn quỳ dựa lộ mà nói rằng:
– Tôi là kẻ giữ cầu đến rước.
Phán quan biểu quỳ chờ dậy, cẫn hồn vua đi trên cầu vàng, hồn Thái Tôn lên cầu rồi, thấy bên kia có một cái cầu bằng bạc, bèn hỏi Phán quan rằng:
– Những người gì được đi cầu?
Thôi Phán quan nói:
– Những người hiền lành trung hiếu, ngay thẳng công bình, thì có quỷ phướn dẫn qua cầu.
Hồn Thái Tôn ngó thấy bên nọ có một cái cầu, dưới sông sóng máu lao xao, trên mang gió lung vùn vụt, nghe tiếng người khóc kể, ghê gớm dùng mình.
Hồn Thái Tôn hỏi:
Cầu ấy tên chi?
Thôi Phán quan nói:
– Tên là cầu Nại Hà (không biết làm sao) như Bệ Hạ về Dương gian, phải thuật chuyện cái cầu này cho rõ.
Bề mặt hơn ba ngón, bề dài mấy trăm tầm, cầu cao trăm thước có dư, sông thảm ngàn trùng không xiết, trên không tay vịn, dưới có quỷ hờ, bên cầu thần tướng dữ dằn, dưới nước tội nhân lặn hụp, trên mé treo nguyên đồ áo tím quần hồng, dưới sông chững gái xằng chửi cha mắng mẹ, chó bằng đồng rắn bằng sắt giành ăn thây, nước là máu, sóng là dòi, dợn xao lấp mặt.
Hồn Thái Tôn thấy càng thảm thiết, theo Phán quan qua khỏi cầu vàng, đi một hồi lâu đến thành Uổng Tử (thác oan) nghe tiếng nói sạo sự rằng:
– Lý Thế Dân tới đó, Lý Thế Dân tới đó.
Và nghe tiếng kêu oan hỡi oan.
Hồn Thái Tôn nghe kêu run lên rét rét, xảy thấy bầy quỷ cụt đầu, cụt tay, xốc tới đón đường níu hồn Thái Tôn mà đòi thường mạng.
Hồn Thái Tô hoảng, quên xưng trẫm, cứ nói xin thầy cứu tôi, xin thầy cứu tôi, miệng thì nói, tay thì níu Phán quan mà núp.
Thôi phán quan nói:
– Tôi không quyền cai trị những ma vô chủ, biết cứu làm sao? Ấy là hồn oan sáu mươi bốn cõi xưng hùng, bảy mươi hai đảng ăn cướp chết chưa tới số, không ai bắt hồn cho đầu thai nên họ vô thành Uổng Tử mà ở làm ma thương ma đói, không gạo không tiền, Bệ Hạ phải bố thí ít nhiều, tôi nói giùm mới được.
Hồn Thái Tôn nói:
– Trẫm đi mình không xuống đây, tiền đâu cho có.
Thôi phán quan nói:
– Trên Dương gian có một người hay gởi tiền bạc xuống đây, Bệ Hạ viết giấy mượn đở một kho, có tôi bảo lãnh, đặng phân phát cho lũ ma đói thì mới êm.
Hồn Thái Tôn hỏi:
– Người ấy tên chi?
Thôi Phán quan nói:
– Người ấy họ Tướng tên Lương ở Khai Phong, tại đất Hà Nam. Tướng Lương có gởi mười ba kho bạc tại đây, Bệ Hạ tạm mà thí cho cô hồn, rồi về Dương gian trả cho Tướng Lương cũng được.
Hồn Thái Tôn mừng lắm, viết giấy xong rồi, đưa cho Phán quan mượn tạm một kho, cậy Thái úy chia cho oan hồn Uổng Tử.
Thôi Phán quan nói lớn rằng:
– Chúng bây lãnh vàng mà chi dụng, để cho Hoàng đế đi về, bởi số Ngài còn sống lâu lắm. Ta vâng lệnh mười vua mà đưa hồn ngài nhập xác, đặng ngài làm chay lớn chi siêu độ chúng bây, bây không được cản ngăn mà sanh sự nữa.
Các quỷ Dạ Xoa lãnh bạc mà lui.
Phán quan biểu Thái úy rung cây phướn dẫn hồn dắt Thái Tôn ra khỏi thành Uổng Tử.
Ra tới đường bằng phẳng đi qua một đỗi xa, đi tới 6 đường luân hồi thấy đông đảo lắm, những là bục thàn tiên đấu chiếu hào quang; vì quan tước lưng mang đai ngọc, thầy tu, kẻ thế, thú chạy, chim bay, người nghèo, kẻ giàu, bầy yêu, lũ quỷ, tốp nào theo đàng ấy, cứ theo 6 ngã mà đi.
Hồn Thái Tôn hỏi rằng:
– Giống gì đó vậy?
Thôi Phán quan nói:
– Bệ Hạ thông minh nghe nói qua thì nhớ, sau về Dương thế thuật lại mà răn đời. Chỗ này gọi là 6 đàng đi đầu thai. Người tu hành công quả thì về đàng Tiên. Người ngay vua thì về đàng Sang. Người có hiếu thì về đàng Phước. Kẻ công bình thì về đàng Người, kẻ có đức thì về đàng Giàu. Ðứa hung dữ thì về đàng Quỷ, hay là đàng Vật. Vậy thì 6 đàng ấy là đàng Tiên, đàng Sang, đàng Phước, đàng Giàu, đàng Người, đàng Vật. Mà Bệ Hạ đi về đàng Sang.
Hồn Thái Tôn gật đầu bước tới, Thôi Phán quan đưa đến cửa đàng Sang, lạy vua mà nói rằng:
– Chỗ này là chỗ đầu thai. Tôi xin đi về, để Châu thái úy đưa một đổi nữa.
Hồn Thái Tôn rằng:
– Nhọc công thầy đưa xa lắm.
Thôi Phán quan nói:
– Bệ Hạ về Dương thế phải làm chay lớn cho siêu những hồn oan, sao sao cũng nhớ, nếu dưới Âm phủ không tiếng vang siết, thời trên Dương thế có phước thái bình, như có việc chi chẳng lành, phải chừa cải, đời này người ở hiền hậu, thời đời sau cơ nghiệp lâu dài.
Hồn Thái Tôn từ giã Phán quan đi theo Thái úy bước vô cửa, thì Thái úy thấy một con ngựa thắng rồi mời Thái Tôn lên ngựa, còn Thái úy dìu đở hai bên.
Ngựa chạy như tên bắn, đến mé sông, thấy cặp cá chày vàng giở trên mặt nước.
Hồn Thái Tôn ngó thấy dừng ngựa coi mê.
Thái úy nói:
– Bệ Hạ đi chút nữa, vô thành cho kịp giờ.
Hồn Thái Tôn cứ làm thinh coi mãi, Thái úy nắm hai giò mà nói lớn:
– Không chịu đi, đợi chừng nào nữa.
Nói rồi xô xuống ngựa, nhào dưới sông một cái đùng, ấy là xô nhập vào xác đó.
Còn nội trào văn võ và Hoàng Hậu, Ðông cung Thái Tử đồng nhóm tại đền Bạch Hổ mà khóc than bên linh cửu vua Thái Tôn, nhiều ông luận bàn tôn Ðông cung tức vị. Ngụy Trưng nói:
– Khoan đã các ông, đợi nội ngày nay thì vua sống lại.
Hứa Kĩnh Tôn cải rằng:
– Thừa Tướng nói sai lắm, từ xưa rằng: “Nước đổ khó hốt đầy, người thác đâu sống lại, ông nói chi lời huyễn như vầy”.
Ngụy trưng nói:
– Chẳng dấu chi thầy, tôi hồi nhỏ có học phép tiên, bói khoa linh lắm, làm sao Bệ Hạ cũng sống lại mà thôi.
Ðương cải lẩy với nhau, xảy nghe tiếng la lớn trong quan tài rằng:
– Ngộp nước chết đi, ngộp nước chết đi.
Làm các quan văn võ hết hồn, Hoàng Hậu, Cung phi vỡ mật lánh xa linh cửu, chẳng dám lại gần.
Nhờ có Từ Mậu Công ngay thẳng, Ngụy thừa tướng anh hùng, Huất trì Cung dạng gan, Tần Thúc Bảo lớn mật, áp lại bên linh cửu đứng vây.
Tần Thúc Bảo và Huất Trì Cung kêu lớn mà nói rằng:
– Bệ Hạ còn nói chuyện chi xin nói chúng tôi biết, đừng có làm ma quàng mà nhát bá quan.
Ngụy Trưng nói:
– Chẳng phải hồn ma đâu, ấy là Bệ Hạ sống lại đó, mau mau lấy búa bứt néo, cạy nắp săng lên.
Dở ra rồi thấy vua ngồi nhắm mắt, mà miệng còn nói:
– Ngộp nước chết đi, ai vớt Trẫm đó.
Từ Mậu Công và Ngụy Trưng đở dậy mà nói rằng:
– Bệ Hạ sống lại rồi, không hề gì đâu, có chúng tôi hộ giá.
Vua Thái Tôn mở con mắt mà nói rằng:
– Trẫm khốn nạn quá, mới chạy khỏi hồn ma dưới Âm phủ, lại bị té sông chết trôi. Các quan nói:
– Bệ Hạ có té sông ở đâu.
Vua Thái Tôn phán rằng:
– Trẫm nói dối hay sao, trẫm đương cưỡi ngựa tới mé sông, mãi coi cặp cá chày vàng giở dưới sông, bị Châu Thái úy bất nhân xô Trẫm xuống nước, may chớ không chết đi còn gì.
Ngụy Trưng nói:
– Bệ Hạ chưa tỉnh. Mau đòi ngự y vào hốt thuốc cho định tâm thần. Uống vài hớp nước thuốc rồi lần lần ăn cháo ăn cơm biết đủ việc.
Từ hồi băng hà đến khi sống lại, đã trọn ba ngày đêm.
Bữa đó tối rồi, các quan xin vua ngủ sớm cho khỏe, bá quan ai nấy về dinh.
Rạng mai văn võ bỏ hết đồ tang, mặc điều đỏ vào đền chầu chực.
Vua Thái Tôn cũng khỏe, vội vả lâm triều.
Các quan văn võ quỳ tâu rằng:
– Chẳng hay Bệ Hạ chiêm bao thấy những điều chi, mà bèn lâu mới tỉnh?
Vua Thái Tôn đọc hết việc đi hầu tra dưới Âm phủ, cho các quan nghe, lại nói:
– Khi trẫm từ giả mười vua Thập điện, có hứa sự dâng dưa hấu mà tạ ơn, từ ra khỏi đền Sum La, thấy những tội nhân dưới Âm phủ, là loài chẳng thảo chẳng hay, không lễ không nghĩa, hoài huởn lúa gạo, lường gạt người ta, giạ già giạ non, cân cao ân thấp, tham dâm ở dối, làm dữ hại người, các tội ấy đều bị xay giả nấu dầu, xẻ cưa đốt xác, cả muôn cả triệu, xem thấy cũng thương. Ði ngang qua thành Uổng Tử là thành chứa quỷ thác oan, bị lũ cô hồn đón Trẫm, nhờ Thôi Phán quan bảo lãnh, mượn một kho vàng bạc của Tướng Lương mà phân phác cho lũ oan hồn đặng chúng nó tránh đường Trẫm đi về mới đặng. Thôi Phán quan dặn Trẫm, về Dương thế làm chay lớn, cho siêu rỗi cô hồn.
Các quan nghe rõ đầu đuôi, ai cũng mừng rỡ, vội chạy công văn cho các quan tỉnh biết, đặng dâng sớ mà mừng, vua lại xuống chiếu chỉ những tù tội nhẹ đều tha. Có hơn 400 tù xử tử, tha về xứ một năm, đặng thăm viếng cha mẹ anh em chồng vợ, và gởi gấm nhà cửa xong rồi, đúng một năm phải tựu mà chịu tội.
Lại xuất tiền bạc bố thí cho kẻ đói và con nít mồ côi.
Lại thả 3 ngàn 6 trăm cung nga ra ngoài cho kiếm đôi bạn.
Từ ấy trong ngoài đều mến đức.
Lại ngự chế lời khuyên dỗ, treo bảng khắp xứ mà dạy dân, lời ngự chế trong bảng như vầy:
Âm dương rộng rãi, nhật nguyệt hằng chiếu mọi nơi,
Bờ cõi lộng khơi, trời đất không dung đảng vạy
Ðộc lòng bày kế, mang tai cũng nội đời này,
Hay thí ít cầu, đặng phước hóa chờ kiếp khác
Ngàn lời dối trá, chi bằng giữ phận thiệt thà,
Muôn mối tham lam, khó sánh theo bể cần kiệm
Lòng lo làm phước, lựa là rán sức xem kinh?
Ý muốn hại người, có phải hoài công đọc sách.
Cả và thiên hạ ai thấy lời ngự chế cũng cảm động mà làm lành.
Vua Thái Tôn lại treo bảng rao khắp mọi nơi, ai chịu xuống Âm phủ mà dâng dưa thì lãnh bảng.
Vua lại xuất một kho vàng bạc, sai Ngạc Quốc công là Huất Trì Kỉnh Ðức (Cung) đến khai phong phủ mà trả cho Tướng Lương.
Bây giờ nói qua Lưu Toàn là người nhà giàu ở Quảng Châu, vợ là Lý Túy Liên, tính người khẳng khái, Lý Túy Liên lấy trâm vàng mà bố thí cho thầy sãi.
Lưu Toàn bắt lỗi vợ, nói cũng nhiều điều:
– Sao không giữ phận đàn bà bêu đòi ra cửa, lại đem vật trang sức (nữ trang) mà cho người.
Lý Túy Liên tức mình thắt cổ mà chết, bỏ lại một trai, một gái khóc chèo chẹo tối ngày.
Lưu Toàn tức mình mới lãnh bảng đi dâng dưa cho khuất con mắt.
Khi vua Thái Tôn ngự, thấy Lưu Toàn lãnh bảng vào chầu, tình nguyện dâng dưa dưới Âm phủ.
Vua Thái Tôn truyền cho Lưu Toàn ra quán Kim Ðình, đầu đội cặp dưa hấu, trong tay áo đựng giấy tiền vàng bạc, rồi uống thuốc độc mà chết.
Hồn Lưu Toàn đội dưa xuống Âm phủ, nói cùng quỷ xứ rằng:
– Vâng lệnh Hoàøng đế đi xuống dâng dưa.
Quỷ xứ dắt vào đền Sum La mà ra mắt Diêm chúa.
Hồn Lưu Toàn nói:
– Hoàng đế dạy tôi dâng cặp dưa cho Bệ Hạ mà tạ ơn.
Mười vua khen rằng:
– Vua Thái Tôn có đức nên nói chẳng sai lời.
Khen rồi hỏi tên họ người dâng dưa, Lưu Toàn tâu rằng:
– Tôi họ Lưu tên Hoàng, dân ở Quảng Châu, bởi vợ tôi là Lý Túy Liên thắt cổ mà chết, bỏ hai đứa con dại kêu khóc ngày đêm nên tôi tức mình bỏ của bỏ con, mà đi dâng dưa cho gặp vợ.
Vua Diêm vương truyền lệnh dẫn hồn Túy Liên ra mắt, cho gặp mặt chồng.
Lại truyền Phán quan đem bộ ra xem, thấy số vợ chồng Lưu Toàn sau thành Tiên hết thảy, mới sai quỷ sứ quờn hồn cả hai.
Quỷ sứ tâu rằng:
– Lý Túy Liên chết đã ba tháng, thây đã rả rời, huờn hồn sao đặng.
Vua Diêm vương nói:
– Ðường ngự muội Lý Ngọc Anh nay đã mãn số. Vậy thì mượn xác thế vào.
Quỷ sứ vâng lới dẫn hai hồn đem về Dương thế.
Quỷ sứ vâng lệnh Diêm vương dẫn hai hồn đi khỏi Âm phủ lên đến Trường An, đem hồn Lưu Toàn xô vào quán Kim Ðình là chỗ xác, rồi đem hồn Lý Túy Liên vào thành vua.
Ngó thấy em gái vua Thái Tôn là Lý Ngọc Anh té xuống, liền bắt hồn đi, rồi xô hồn Lý Túy Liên vào xác.
Những thế nữ tấy ngự muội đang ngoạn kiểng vùng té xuống chết tươi, thất kinh chạy vào mà báo cùng Hoàng Hậu.
Hoàng Hậu kinh hải vào thuật cho vua nghe.
Vua Thái Tôn gật đầu mà than rằng:
– Chết thiệt rồi đó chớ không phải gió máy chi đâu, trong khi trẫm kiếu mười vua mà về, có hỏi thăm gia quyến thể nào?
Mười vua rằng:
– Ai nấy bình yên hết, sợ một mình ngự muội số chẳng bao lâu, thiệt quả như vậy.
Nói rồi cùng nhau than khóc kéo đến mà xem, thấy Ngọc Anh còn hơi thở như sợi chỉ, Thái Tôn bảo Hoàng Hậu và cung nga đừng khóc, e Ngự muội giựt mình, liền bước lại đỡ đầu Ngọc Anh mà kêu rằng:
– Ngự muội ơi! Ngự muội ơi! Tỉnh dậy, tỉnh dậy.
Ngọc Anh cựa mình mà kêu rằng:
– Mình khoan đi đợi tôi với! Ðợi tôi với!
Vua Thái Tôn nói:
– Ngự muội, trẫm đợi nãy giờ đây.
Ngọc Anh mở mắt mà cự rằng:
– Ai níu tôi vậy?
Vua Thái Tôn nói:
– Hoàng huynh, Hoàng tẩu chớ ai.
Ngọc Anh nói:
– Tôi phải là em vua ở đâu mà có Hoàng huynh, Hoàng tẩu?
Tôi họ Lý tên Túy Liên, vợ Lưu Toàn là dân ở Quảng Châu. Bởi vì tôi bố thí cho thầy sãi một cây trâm, chồng tôi mắng hoài, tôi tức mình mà tự ái. Nay Hoàng Ðế sai chồng tôi dâng dưa dưới Âm phủ. Vua Diêm vương thương hại, cho vợ chồng tôi trở về, chồng tôi đi mau tôi chạy theo không kịp, tôi rủi chân vấp té, sao các ngươi không biết phép, dám lại kêu tôi kia?
Vua Thái Tôn nói với cung nga rằng:
– Thấy ngự muội bị té hết hồn, nên mới nói sảng.
Truyền thế nữ đỡ vào cung điện, ngự y điều trị thuốc than.
Rồi vua vào lâm triều có quan vào cửa tâu rằng:
– Người dâng dưa là Lưu Toàn đà sống dậy rồi, còn đứng hầu ngoài nhõ.
Vua Thái Tôn thất kinh, truyền đòi vào ra mắt, hỏi thăm công việc dâng dưa.
Lưu Toàn tâu rằng:
– Tôi đội dưa xuống Âm phủ, gặp qủy sứ dẫn tôi đến Diêm vương, mười vua có gởi lời cám ơn, và khen Bệ Hạ không thất tín; lại hỏi tên họ, tôi tâu thiệt và thuật chuyện vợ tôi thác oan, nên tôi tình nguyện dâng vua xuống Âm phủ họa may gặp vợ.
Vua Diêm vương sai qủy dắt hồn vợ tôi vào, lại tra bộ mà nói rằng:
– Số vợ chồng tôi sau đặng theo tiên nên cho quỷ đưa hai đưa tôi về dương thế, tôi đi trước vợ tôi đi sau, tôi sống lại đây, còn vợ tôi nhập vào đâu không biết.
Vua Thái Tôn phán hỏi:
– Vua Diêm vương có nói vợ ngươi làm sao không?
Lưu Toàn nói rằng:
– Vua Diêm vương không nói vợ tôi làm sao, đều tôi nghe quỷ sứ nói Lý Túy Liên chết đã lâu, thây thì rã hết. Vua Diêm vương nói Ðường ngự muội là người gì? Cũng không biết nhà cửa ở đâu mà kiếm!
Vua Thái Tôn nghe tâu thiệt thà, trong lòng mừng lắm, phán với các quan rằng:
– Khi trẫm huờn hồn, vua Diêm vương có nói với trẫm: ” Số ngự muội chẳng dài. Khi ngự muội té chết giấc tại vườn hoa, Trẫm lại đỡ đầu mà kêu, ngự muội tỉnh lần cũng nói như Lưu Toàn một cách”.
Ngụy Trưng nói:
– Sự thay hồn đổi xác nghe cũng có người, xin mời Quốc muội ra đây coi thử nói chi cho biết.
Vua Thái Tôn phán rằng:
– Trẫm mới sai Ngư y đem thuốc, bây giờ không biết ra thể nào?
Nói rồi sai hoạn quan vào cung, mời ngự muội ra mắt.
Bây giờ nói về Ngọc Anh, thấy Ngự y đem thuốc mời uống.
Ngọc Anh nói:
– Ai đâu mà uống thuốc kia?
Day lại cự với Cung nga thể nữ rằng:
– Nhà người ta khoản khoát mát mẻ có đâu mà phòng vàng ngoách như huỳnh đảng. Cửa có rằn như sắc chồn bông, tôi biểu buông ra, đừng có níu nữa đa!
Xảy thấy cung nga và thái giám (hoạn) hơn bốn, năm người áp lại dắt vào bệ ngọc. Vua Thái Tôn hỏi rằng:
– Ngươi biết mặt chồng không?
Nói:
– Hỏi cái gì lạ vậy? Vợ chồng tôi hồi con trai con gái ở với nhau mấy mặt con, làm sao mà không biết mặt kìa.
Vua Thái Tôn truyền hoạn quan, dắt xuống sân chầu.
Ngọc Anh thấy Lưu Toàn, chạy lại níu chồng mà trách rằng:
– Tía nó đi ngõ nào vậy, mà chẳng đợi tôi. Báo hại tôi chạy theo, vấp té nhào đầu nhào óc, bị mấy người làm ngang bắt lại, không thả tôi ra. Không biết họ làm cái gì vậy hả?
Lưu Toàn nghe tiếng nói giống vợ. Ngặt lạ mặt nên chẳng dám nhìn.
Vua Thái Tôn cười mà rằng:
Chác đất lỡ non người có thấy,
Thay hồn đổi xác thể không nghe.
Như vậy, thì chắc là vợ ngươi mà xác em Trẫm. Tuy ngự muội thác mà thân thể hỡi còn. Bởi nguời có công khó dâng dưa, mới đặng duyên lành đó! Thôi, những gia tài của ngự muội, Trẫm cho người chở về nhà, cũng như Trẫm gả em cho đó, và nhiêu sưu thuế, hai vợ chồng về xứ cùng nhau.
Lưu toàn và Ngọc Anh đồng lạy tạ, cùng nhau mừng rỡ ra về.
Ðến thành Quảng Châu, thấy nhà cửa như xưa, hai con mạnh giỏi.
Từ ấy vợ chồng giàu có lớn, bố thí cho kẻ nghèo. Hưởng phước thanh nhàn, muôn dân đều mến đức.
Bây giờ nói về Tướng Lương ở phủ Khai Phong, vợ là Trương Thị chuyên nghề đổi nước và bán chậu bán lu. Liệu bề đủ ăn xài, dư tiền bạc bao nhiêu cũng bố thí. Và hay mua giấy tiền vàng bạc để đốt hoài. Nên có tiếng đồn nghèo thứ nhứt và hiền lành cũng thứ nhất. Dè sau là ông bá hộ chứa bạc chứa vàng.
Khi Uất Trì Cung đến phủ Khai Phong hỏi ra tên họ, mới chở chuyên vàng bạc tới nhà. Lại thêm ngựa xe quan sở tại tới nữa. Tuy lều trah trại lá mà đông quá dinh quan.
Hai ông bà thất kinh như câm như dại, quỳ dưới đất mà lạy ngay.
Uất Trì Cung nói:
– Hai ông bà chờ dậy, ta tuy là Khâm Sai mặc lòng, chớ ông có tội chi mà sợ. Tôi vâng lệnh Thiên tử, đem bạc trả cho ông đây.
Tướng Lương run lập cập đáp rằng:
– Tôi có cho vay cho mượn ở đâu mà dám lãnh tiền bạc vàng vòng vô cớ?
Uất Trì Cung nói:
– Ta có hỏi thăm rõ là hai ông bà khó. Song có lòng lành bố thí, nên dưới Âm phủ có cất thế bạc vàng cho. Bởi Thiên tử sống dậy nói: “Có mượn kho vàng bạc của Tướng Lương dưới Âm phủ, có Thôi Phán quan bảo cử rõ ràng. Nên nay tính đủ mà trả cho, sao so cũng phải lãnh đi đặng ta về tâu lại”.
Hai vợ chồng lạy mãi mà nói rằng:
– Nếu tôi lãnh của này thì tôi mau chết. Tuy tôi có đốt giấy tiền vàng bạc, ấy là U Minh, Bệ Hạ nói mượn duới Âm phủ thì sự quả quyết rồi, ngặt tôi không lấy tích chi làm cớ, giết thì tôi chịu chết, chớ tôi dám lãnh ở đâu.
Uất Trì Cung không biết làm sao, phải về cụ sớ cho vua rõ.
Vua Thái Tô xem sớ khen rằng:
– Thiệt là kẻ hiền lành.
Nói rồi tuyền cho Uất Trì Cung đem bạc ấy mà lập một kiểng chùa cho hai ông bà nhờ phước, trong chùa dọn hai bàn thờ sống, cũng như trả bạc kia.
Uất Trì Cung vâng lệnh, mua năm mươi mẫu đất mướn thợ cất chùa, gọi là chùa Tướng quốc. Bên tả lên cốt Tướng công (Tướng Lương) mày đậm mắt to như tạc. Bên hữu lên cốt Trương Thị, da đen áo rách, như thường. Chùa cao không biết mấy tầng li vòng lên trên khu ốc. Có dựng bia đá có khắc chữ là Uất Trì Cung coi làm, hoàn thành về tấu cho vua hay.
Vua Thái Tôn mừng phán rằng:
– Các quan vâng lệnh Trẫm, treo bản thỉnh thầy chùa đặng làm chay cho cô hồn siêu rỗi.
Các nơi lựa thầy chùa dâng tới đông lắm.
Vua Thái Tôn truyền cho quan Thái Sư Phó Duyệt (Duợt) chọn một thầy xứng đáng làm thầy cả mà đứng đàng chay.
Phó Duyệt dâng sớ can rằng:
– Phép của nước Tây vức không biết tôi chúa cha con. Bầy ra sáu đàng luân hồi, ba điều hành tội là: Ðao nuớc lửa đặng hoài dụ người ngu nhắc tội kiếp xưa, hưởng phước đời khác. Miệng đọc lảnh liếu, cho khỏi thế khỏi xâu. Huống chi sống lâu thác yểu là lẽ tự nhiên, nhân đức hành hình tại nơi vua chúa. Nay kẻ tục nói rằng: Phật định, lầm biết chừng nào? Huống chi đời tam hoàng ngũ đế, đạo Phật chưa truyền, thì vua sáng tôi ngay trị nước lâu dài lắm. Kể từ vua Minh đế nhà Hán mới có Phật ra đời, vua Minh đế lạp chùa mà không thấy phước. Bệ Hạ còn noi dấu làm chi?
Vua Thái Tôn xem sớ rồi, đưa cho các quan coi mà thưa nghị.
Có quan Tể tướng Tiêu Võ tâu rằng:
– Ðạo Phật bày từ nhà Hớn, khuên lành răn dữ cũng là có ít cho triều đình lẽ nào dám bỏ, Phật cũng là thánh. Người chê thánh, là người vô phép, xin làm tọi mà răn đời.
Phó Duyệt cải lẽ rằng:
– Lễ là thờ cha mẹ và thờ vua. Ðạo Phật bỏ cha mẹ mà đi tu, không biết tới vua chúa. Trọng người dân hơn cha mẹ. Ông không phải là thầy sãi, sao lại trọng cái đạo không chúa không cha, ấy là ông bất trung bất hiếu đó.
Tiêu Võ chắp tay mà nói:
– Mấy cửa ngục để dành cho những kẻ như vầy.
Vua Thái Tôn đòi quan Thái Bộc là Trương Ðào Nguyên, và quan Trung Thơ là Trương sĩ Hoàn mà hỏi:
– Trẫm lập chùa bố thí có đáng hay không?
Hai ông ấy tâu rằng:
– Ðạo Phật là thanh tịnh hiền lành cho nên vua Võ Ðế nhà Châu chia ba đạo trượng trong đời là: đạo Nho, đạo Phật, đạo Tiên gọi là tam giáo. Ðại Huệ thiền sư linh hiễn, Ngũ Tổ và Ðạt Ma hiện hình. Từ xưa đến nay tam giáo là trọng hơn hết, lẽ nào dám bỏ đi!
Vua Thái Tôn mừng rằng:
– Hai khanh tâu hiệp ý trẫm! Ai còn nói nữa thì làm tội chẳng tha.
Mới sai Ngụy Trưng, Tiêu Võ, Trương Ðào Nguyên, đi chọn một thầy cả, ba ông quan vâng lệnh về.
Ðến bữa sau ba ông chọn lựa trong các sãi, có một Hòa Thượng tài đức song toàn, Hòa Thượng ấy là ai? Là ông Phật Kim Thiền bởi đi chầu trễ mà phải đọa. Quan Âm cho xuống đầu thai. Mới lọt lòng mẹ bị thả trôi sông, gặp Pháp Minh vớt lên mướn vú nuôi tại chùa, ăn chay hồi dứt sữa. Ðến mười tám tuổi thế độ (cạo đầu) quy y. Ông bà cha mẹ ăn lộc Triều đình, mà Hòa Thượng Huyền Trang chẳng mến công danh, vui theo Phật pháp. Tài cao đức trọng kinh sách gồm thông.
Bữa sau vua lâm triều, ba ông dắt Huyền Trang vào đền đồng lạy, ba ông tâu rằng: – Tôi vâng lệnh chọn các sãi, có một hòa thượng này tài đức hơn hết là Trần Huyền Trang.
Vua Thái Tôn ngẫm nghĩ hồi lâu, phán hỏi rằng:
– Phải là con quan học sĩ Trần Quang Nhụy hay không?
Huyền Trang lạy vua mà tâu rằng:
– Tôi đó.
Vua Thái Tôn khen rằng:
– Lựa thiệt chẳng lầm.
Liền phong Huyền Trang làm chức:
– Thiên hạ Ðại xiển Ðô tăng Cang. Nghĩa là: Thầy cả các sãi trong thiên hạ.
Huyền Trang lạy tạ ơn.
Vua ban cho cái áo Cà sa dệt ngũ sắc và mũ tì lư. Truyền đến chùa Hóa sanh chọn ngày tốt mà giảng kinh chứng đám.
Huyền Trang lạy tạ nữa, vua cho đưa đến chùa Hóa sanh. Ðếm đặng một ngàn hai trăm thầy chùa, chia ra ba nhà mà ở. Sửa sang xong xả, chọn ngày vào đám là ngày Quý Mão nhằm mồng ba tháng chín năm Kỉ Tỵ, niên hiệu Trinh Quang thứ mười ba ra hạn từ ngày vào đám đến ngày rồi là bảy cái thất, bốn mươi chín bữa, tụng kinh và thí thực cho siêu độ cô hồn.
Ngày mồng ba vua Thái Tôn và các quan tựu đến chùa Hóa sanh thắp hương lạy Phật.
Thầy Huyền Trang dắt các sãi ra lạy mừng vua. Rồi dâng văn tế cô hồn.
Vua Thái Tôn xem rõ văn tế như vầy:
Ðức thánh minh mông,
Cửa thiền lặng lẽ
Sống trên đời tánh qủy hung hăng,
Thác xuống đất hồn ma quạnh quẽ
Nhớ các linh xưa
Mãng tham danh tham lợi,
Không lo lợi phước đôi đàng
Cứ xưng bá xưng vương
Bao quản mất còn hai lẽ
Thương ôi! Xông pha chiến trận
Liều thân mũi đạn đường tên,
Vùng vẫy giang hồ,
Bỏ mạng chân trời góc bể,
Nay chúa ta,
Xem thành Uổng tử,
Khá thương ma đói một đoàn,
Về cõi Dương trần,
Còn nhớ hồn oan nhiều kẻ
Lập một trường Thủy Lục,
Ðãi đằng chúng qủy xa gần,
Nhóm ngàn sãi trì kinh,
Siêu rỗi vong hồn già trẻ
Nhờ ơn tiếp dẫn
Vãng sanh cõi Phật thảnh thơi,
Bỏ thói hành hung,
Phò hộ dân trời sức khỏe,
Có linh xin hưởng.
Vua xem qua vui lòng lắm, nói với các sãi rằng:
– Mấy thầy đừng bê trễ, xong việc rồi trẫm công đức. Không bỏ qua đâu.
Các sãi lạy tạ ơn.
Vua quan ra về, còn mấy thầy lo cúng.
Bây giờ nhắc việc Quan Âm ở miễu Thổ Ðịa bấy lâu, mà tìm kẻ thỉnh kinh chưa đặng. Nay nghe vua chọn Huyền Trang làm thầy cả mà chứng đám chay, lấy làm mừng rỡ, thầy trò giả thầy chùa ghẻ lát, đem gậy, áo đi bán tại Trường An, mấy thầy chùa có tiền, thấy hai sãi đầu trần đi bộ ghẻ lát đầy mình, mà cầm quần áo Cà sa rực rỡ. Liền hỏi thăm giá mấy.
Quan Âm nói:
– Áo năm ngàn lượng còn gậy hai ngàn.
Sãi ác tăng giận mắng rằng:
– Hai sãi lát nói khùng, áo với gậy tới bảy ngàn lượng bạc! Dầu bận mà sống đòi hay là thánh Phật, cũng không tới giá này! Ði bán đâu thì đi bán cho rảnh.
Quan Âm không nói lại, cứ đi với Mộc Tra, hèn lâu tới cửa Ðông Huê, gặp Tể Tướng Tiêu Võ chầu về, quân nạt đường inh ỏi, Quan Âm không tránh mang áo đi ngang.
Tiêu Võ thấy áo có ngời, liền sai quân hỏi giá, Quan Âm cũng nói giá đó.
Tiêu Võ hỏi:
– Có cái chi quý lắm, mà thách giá cao?
Quan Âm nói:
– Áo Cà sa này, có chỗ quý, có chỗ không quý, khi đòi tiền, khi chẳng đòi tiền.
Tiêu Võ hỏi sao là quý? Sao lại không quý?
Quan Âm nói:
– Mặc áo này chẳng đọa luân hồi, chẳng sa địa nhục, chẳng bị độc hại, chẳng bị hùm beo, ấy là quý đó; nếu kẻ phàm phu tham dâm gây họa không ăn chay lại ngạo Phật chê kinh, thì chẳng hề thấy đặng áo này, ấy là không quý.
Tiêu Võ hỏi:
– Sao có tiền? Sao lại không tiền?
Quan Âm nói:
– Không giữ phép Phật. ở chẳng hiền lành, mà muốn mua áo và gậy thì đủ 7000 lượng bạc mới bán, ấy là có tiền. Như người đức hạnh chân tu thì tôi cho hết tích trượng Cà sa, ấy là không tiền đó.
Tiêu Võ nghe nói thông, mừng lắm, biết không phải kẻ tầm thường, liền xuống ngựa bái mà nói rằng:
– Tôi thất lễ xin thầy miễn chấp, Bệ Hạ tôi lòng lành trọng Phật đương lập đàng Thủy Lục (Thủy là nước, Lục là bộ, làm việc vớt vong trên bờ và dưới sông) nhóm hơn ngàn sãi mà thầy cả là Trần Huyền Trang, đáng mặc Cà sa này, và cầm tích trượng ấy, xin thầy theo tôi đến Bệ Hạ coi thể nào?
Quan Âm chịu đi, Tiêu Võ dắt vào Thiên tử tâu rành công việc tích trượng Cà sa, vua mừng lắm hỏi giá bao nhiêu, hai sãi đứng dưới thềm không lạy, trả lời rằng: “Tích trượng hai ngàn lượng, Cà sa năm ngàn lượng”.
Vua hỏi:
– Cà sa có chi báu, mà giá mắc như vậy?
Quan Âm nói:
– Áo Ca sa này của tiên nữ dệt, lại thêu bông sen và đính những hột châu; bốn góc bốn hột châu chiếu ban đêm sáng như ban ngày, chính giữa có châu như ý, và châu ngăn gió, viền bằng vàng, nút bằng ngọc, mặc vào khỏi đọa luân hồi, lại thêm sáng láng, bụi chẳng đóng vào, của Phật chế ra, muôn đời truyền để.
Vua nghe nói mừng lắm, hỏi:
– Còn cây gậy báu thể nào?
Quan âm nói:
– Gậy này bằng cây mây của tiên, gậy dài chín lóng, Mục Liên tìm mẹ, cũng nhờ nó mà phá ngục môn, ai cầm gậy này thì đi Tây Phương được.
Vua nghe nói rồi, dở áo ra xem quả là vật báu, mới phán rằng:
– Chẳng giấu chi thầy, nay trẫm làm Thủy Lục tại chùa Hóa sanh có thầy cả giảng kinh là Trần Huyền Trang người đức hạnh lắm, nên mua hai vật này cho thầy cả, xin thầy nói thiệt giá bao nhiêu?
Hai thầy chắp tay:
– Mô Phật! Như người có đức hạnh, tôi cho không chẳng lấy tiền.
Nói rồi dời gót, vua truyền Tiêu Võ kéo lại mà phán rằng:
– Thầy nói giá bảy ngàn lượng bạc, Trẫm mua hết, thầy chẳng ăn tiền, té ra Trẫm ỷ làm vua mà đoạt của này sao phải. Trẫm xin trả y giá, thầy không đặng chối từ.
Hai thầy bái mà nói rằng:
– Chúng tôi có lời nguyền cho người đức hạnh, nay Bệ Hạ hiền lành nhân đức, kính Phật chuộng Tăng, chúng tôi xin dâng cho thầy cả giảng kinh, quyết không dùng tiền bạc.
Vua nghe nói hết lời như vậy, truyền dọn tiệc chay mà đãi đằng.
Quan Âm chẳng chịu dùng. Giã từ lui gót, đi về miễu Thổ Thần.
Vua Thái Tôn lâm triều, sai Ngụy Trưng mời Huyền Trang vào điện mà phán rằng: – Trẫm chẳng biết lấy gì mà tạ ơn pháp sư, hồi sớm mai Tiêu Võ dắt hai sãi vào cúng áo Ca sa và tích trượng. Thiệt à vật báu, nên mời pháp sư đến đặng Trẫm ban cho. Huyền Trang lạy tạ ơn, vua phán rằng:
– Pháp sư mặc áo này vào cho Trẫm nhắm thử.
Huyền Trang mặc Cà sa, cầm tích trượng oai nghi rực rỡ, châu ngọc làu làu, xem hình như Phật tử, nội trào văn võ khen vang.
Vua Thái Tôn mừng quá, truyền hai đội ngự lâm quân theo Huyền Trang, dạo chợ dường như quốc trạng khoe quan, già trẻ gái trai coi như coi hội, kẻ khen rằng:
– Như Lai giáng thế, người gọi là La Hán xuống phàm, Huyền Trang về chùa Hóa Sanh, các sãi ra rước mới ngó thấy, ngỡ là Ðịa Tạng đến am, Huyền Trang vào chùa, thắp hương lạy Phật, ít ngày đến đầu cái thất nữa.
Vua và Hoàng Hậu với các quan văn võ đồng tới nghe kinh, thiên hạ đồn vang đi coi như kiến cỏ.
Còn Quan Âm nói với Huệ Ngạn rằng:
– Thầy trò ta giả dạng đi coi, một là xem hội lớn thế nào, hai là coi Kim Thiền có phước mặc áo Cà sa, ba là nghe giảng kinh chi cho biết.
Ba thầy trò vào chùa xem thấy nghi tiết không nhượng cảnh Tây Phương.
Huyền Trang tụng kinh độ vong. Rồi giảng kinh an bang, rồi lại nghe giảng nhân quả, khuuên lành răn dữ.
Quan Âm bước lại vỗ bàn hỏi lớn rằng:
– Hòa Thượng này, biết giảng kinh thấp mà giảng nỗi kinh cao không?
– Kẻ đệ tử cam thất lễ, xin sư phụ từ bi thương, chúng tôi giảng kinh thấp mà thôi, cớ kinh cao chưa từng thấy.
Quan Âm nói:
– Mấy cuốn kinh thấp độ không đặng vong hồn, ấy là làm việc qua tang lề mà dối thế ta có ba tạng kinh cao của phật Tổ, cứu người khổ nạn, đã siêu độ vong linh, lại còn thành chánh quả.
Hai đàng đương nói chuyện, quan thắp hương thấy vậy vào tâu rằng:
– Pháp sư đương giảng kinh, bị hai thầy chùa lát ở đâu, vô kéo xuống giàn cãi lẫy. Vua dạy bắt vào, hai sãi đứng trơ trơ không bái, ngước mặt mà nói rằng:
– Bệ Hạ hỏi tôi chuyện chi đó?
Vua hỏi:
– Phải hai thầy bán áo hôm trước không?
Hai thầy nói:
– Phải.
Vua phán rằng:
– Thầy đi coi giảng kinh, thì vào mà dùng đồ lợt, sao lại cãi lẽ với Pháp sư?
Quan Âm nói:
– Pháp sư của Bệ Hạ tụng kinh thấp quá chừng, siêu độ hồn sao nỗi, tôi có ba tạng kinh cao của Phật Tổ, độ mới nỗi vong.
Vua mừng hỏi:
– Kinh cao ấy ở đâu?
Quan Âm nói:
– Ở tại chùa Lôi Âm, bên Tây Phương nước Thiên Trúc, là kinh của Phật Tổ, hay trừ tai nạn, lại độ vong hồn.
Vua nói lên giàn ngồi giảng, Quan Âm và Huệ Ngạn đồng bước lên giàn, rồi đằng vân lên nửa lừng, hiện hình Quan Âm Bồ Tát, tay cầm bình dương liễu còn Huệ Ngạn cầm gậy sắt đứng hầu, vua tôi và các sãi đều thất kinh, rùng rùng quỳ lạy đồng niệm: Nam mô Quan Thế Âm bồ tát vang trời, vua truyền thợ vẽ họa hình, họa vừa rồi Quan Âm và Mộc Tra biến mất, sa xuống một lá thiệp, trên đề chữ như vầy:
Tỏ cùng chúa Ðại Ðàng,
Kinh tại cảng Tây Phang
Dặm đã xa mười vạn,
Ðường thêm lẻ tám ngàn
Kinh cao về nước cả,
Hồn qủy khỏi thành can
Ai có công đi thỉnh,
Ngày sau hóa Phật vàng.
Vua xem lá thiệp rồi, truyền các thầy chùa dẹp đám, đợi thỉnh cao tăng về tới, rồi sẽ làm chay.
Lại phán hỏi các sãi rằng:
– Ai chịu đi qua Tây phuơng mà thỉnh kinh cao cho trẫm?
Hỏi vừa dứt tiếng, Pháp sư quỳ tâu rằng:
– Tôi tuy dở, xin tình nguyện đi thỉnh kinh cao, đặng cầu khẩn cho giang san bền bỉ. Vua nghe mừng lắm, đỡ Huyền Trang dậy mà phán rằng:
– Pháp sư có lòng trung nghĩa,, Trẫm xin gá tiếng anh em.
Nói rồi lạy Huyền Trang bốn lạy mà kêu bằng Ngự đệ là thầy thánh.
Huyền Trang cũng lạy đáp, mà nói rằng:
– Tôi có tài đức chi, mà Bệ Hạ đãi tôi quá lẽ, tôi hết lòng hết sức, đi cho tới Tây Phương mà thỉnh, nếu thỉnh không đặng kinh, chết thì chịu chớ không hề trở lại, bằng tôi nói dối, phải đọa địa ngục chung thân.
Lại thắp hương thề trước bàn, xin Phật làm chứng, vua Thái Tôn mừng rỡ phán rằng: – Ðể Trẫm về cung viết điệp (giấy) cấp cho Ngự đệ, tới nước nào trình điệp ấy, thì nước đó cũng phải cho đi, đợi chọn ngày lành, Trẫm sẽ đưa Ngự đệ.
Nói rồi từ giã về cung.
Còn Huyền Trang trở về chùa Hồng Phước, các sãi hay tin ấy can rằng:
– Thầy ôi! Nghe người đồn đường qua Tây Phương nhiều hùm beo yêu quỷ, sợ đi đặng chớ về không đặng đó thầy à.
Huyền Trang nói:
– Tôi đã thề rồi, không thỉnh kinh về, thì đọa địa ngục; đường đi tăm tăm mù mù, khong biết chừng lành dữ; cách đôi ba năm, hoặc năm bảy năm chi đó, coi chừng mấy cây tòng trước cửa núi, trở ngọn qua đông thì ta về đó, nếu không vậy thì các ngươi đừng trông đợi làm chi, các trò nên nhớ.
Bữa sau vua lâm triều, đủ mặt văn võ. Truyền viết điệp thông hành, đóng ấn xong xả. Quan Khâm thiên giám tâu rằng:
– Nay nhằm ngày nhân chuyên, xuất hành tốt lắm.
Kế quan coi cửa vào tâu rằng:
– Có Ngự đệ Pháp sư vào ra mắt.
Vua vời vào điện mà phán rằng:
– Ngự đệ ôi. Ngày nay xuất hành tốt lắm, Trẫm cấp điệp thông hành và cho cái bình bát vàng, đem theo mà dùng, lại cấp theo hai tên tùng giả, và một con ngựa kim mà đỡ chân.
Huyền Trang lạy tạ ơn, vua và các quan đưa tới ải, còn các sãi ở chùa Hồng Phước, đem quần áo theo đưa.
Vua Thái Tôn hỏi:
– Ngự đệ hiệu chi?
Huyền Trang tâu rằng:
– Tôi là nguời tu hành, không dám xưng hiệu.
Thái Tôn nói:
– Trẫm nghe Quan Âm nói bên Tây Phương có kinh Tam Tạng (3 tạng) đặt hiệu cho Ngự đệ là Tam Tạng đành không.
Nói về Tam Tạng từ ngày mười hai tháng chín, niên hiệu Trinh Quang năm thứ mười ba.
Vua Ðường Thái Tôn và các quan văn võ đồng đưa thầy Tam Tạng ra khỏi ải Trường An, rồi vua quan giả từ trở về.
Còn thầy Tam Tạng lên yên thẳng tới, hai tên tùng giả đi theo; người chẳng cho nghỉ chân, ngựa không dừng vó, mặt trời chen lặn, ghé vào chùa Pháp Vân.
Năm trăm sãi trong chùa Pháp Vân đồng ra nghinh tiếp vào đãi đằng trà nước, lại mời dùng cơm chay, ăn uống xong rồi, các sãi hỏi thăm sau trước.
Tam Tạng thuật chuyện:
– Vâng lệnh Hoàng đế, qua Tây Phương mà thỉnh kinh cao.
Mấy trăm sãi đều lắc đầu, kẻ nói:
– Ðường xa biển rộng khó đi, người rằng: Sợ yêu núi cọp rừng hay đón.
Tam Tạng làm thinh không nói, cứ gật đầu mà chỉ cái tim mình, các sãi lấy làm lạ mà hỏi rằng:
– Chẳng hay thầy ra dấu chi đó?
Tam Tạng nói:
– Lòng tưởng Phật thì có Phật, tánh sợ ma thì gặp ma, tôi thề tại chùa Hóa Sanh, làm sao cũng hết lòng mới đặng, quyết đến Tây Phương lạy Phật, xin đem kinh kệ về chùa, trước cầu hoàng đế vững bền, sau độ oan hồn siêu rỗi.
Các sãi nghe nói đều khen ngợi.
Qua ngày sau cơm nước xong rồi, Tam Tạng mặc áo Cà sa mà lạy Phật, vái rằng: – Tôi là Trần Huyền Trang, đi thỉnh kinh Tây độ, bởi xác phàm mắt thịt, nên không biết Phật sống ra thể nào! Ðệ tử nguyện lời này; từ rày sắp sau, thấy cốt Phật thì lạy hoài, gặp tháp chùa thì quét mãi, xin Phật từ bi hỉ xả cho tôi nạn khỏi tai qua, nhẹ gót tới Tây Phương thỉnh kinh về Ðông độ.
Lạy rồi bước xuống, giã từ các sãi mà đi.
Một thầy giục ngựa thẳng xông, hai tới mau chân dong ruỗi.
Tháng chín trời thu lạnh lẻo, đi ít ngày tới xứ Cũng châu.
Quan trong thành Cũng châu, ra rước vào thiết đãi.
Sáng dậy giả từ đi nữa, đói thì ăn, khát thì uống, tối thì nghỉ, sáng thì đi, hèn lâu mới tới ải chót, gọi là Hà châu vệ.
Quan Tổng binh trấn ải ấy, cùng các sãi tiếp nghinh, rước về ngủ tại chùa Phước Nguyên.
Tam Tạng nghe gà gáy canh tư, tưởng đâu gần sáng. Có một thầy nóng việc, làm hai tớ cực thân, thầy trò kiếu các sãi ra đi, thấy trăng rạng làu làu, sương sa phay pháy. Ði chừng vài mươi dặm, đà bặt mối đường mòn, núi cao trước mặt chần vần, phải vạch cỏ lần hồi đi tới, đêm hôm tăm tối đường xá gập ghềnh, không có ai mà hỏi thăm đàng, cứ nhắm hướng Tây đi mãi.
Thầy trò đi tầm quấn, cùng nhau sụp xuống một cái hầm!
Nghe tiếng kêu lớn rằng:
– Bắt nó đem đây cho mau.
Ba thầy trò nghe qua mất vía, xảy đâu gió tới ào ào, có năm sáu chục yêu con, xách cổ thầy trò đem nạp.
Tam Tạng sợ run lên phát rét, lén xem chúa động ra thể nào, thấy một mình ma vương ngồi trên, hình thù dữ tợn, tiếng vang như sấm, mắt sáng tợ sao, cặp nanh cong vòng, hàmrăng chom chỏm, râu hai chia như chuột, tay năm vấu tợ hùm, không phải người ta rừng, ấy là ông chúa núi.
Tam Tạng thấy ối tăm mày mặt, hai người theo bủn rủn tay chân, Ma Vương truyền trói hết cả ba, rồi xúm nhau làm thịt.
Xảy thấy có Tiểu qủy vào báo với Ma Vương rằng:
– Có Hùng Sơn Quân và Ðặc xử Sĩ hai ông đến viếng Ðại vương.
Ma Vương gật đầu bước ra nghinh tiếp.
Tam Tạng liếc thấy người đi trước đen thui như mọi, cậu vô sau mập ú như voi.
Ma Vương rước vào ngồi,cùng nhau nói chuyện.
Hùng Sơn Quân khen rằng:
– Dần tướng quân mần ăn khá lắm.
Ma Vương hỏi rằng:
– Còn hai anh xưa rày khá không?
Hùng Sơn Quân và Ðặc xư û Sĩ đồng nói rằng:
– Cũng thường, đủ đấp đổi.
Còn hai người tùng giả bị trói khóc vang.
Hùng Sơn Quân thấy hỏi rằng:
– Ba thằng này ở đâu mà bị bắt vậy?
Ma Vương nói:
– Chúng nó đi nạp thịt cho tôi.
Ðặc Xử Sĩ cười rằng:
– Tính đãi khách không vậy?
Ma Vương nói:
– Ðể biểu làm thịt hết, dùng một bữa cho vui.
Hùng Sơn Quân cản rằng:
– Làm hai thằng dùng đỡ bây giờ, mộ để dành mai sáng.
Ma Vương truyền tiểu quỷ rằng:
– Ðem hai thằng xấu tướng, mổ bụng lấy đồ lòng, và dâng thủ cấp tức thì với hai tay hai cẳng, còn bao nhiêu xương thịt, bây chia tam chia tứ với nhau”.
Tiểu quỷ cứ y lời, tợ làm hàng một thứ.
Tam tạng thấy ăn mà ngán, như cọp ăn dê, chưa từng thấy kẻ ăn thịt người, nên Tam Tạng sợ run chết điếng.
Ðến chừng rạng đông nhứt, mấy con yêu quái đi tản rồi, còn Tam Tạng nằm mê như chết giấc.
Có ông già chống gậy đi tới, đầu bạc tợ thúng hong, lấy tay phủi mấy sợi dây, dạy liền đứt hết, thổi một hơi trên mặt, Tam Tạng liền tỉnh dậy tức thì.
Chắc ông già mở trói cho mình, liền quỳ tạ ơn cứu nạn.
Ông già nói:
– Thôi nhà ngươi chờ dậy, xem đi xét lại, coi có mất vật gì chăng?
Tam Tạng nói:
– Hai người đi theo tôi đều bị yêu ăn hết, hai gói đồ với con ngựa không biết ở đâu!. Ông già chỉ mà nói rằng:
– Một con ngựa kia kìa, hai gói đồ ở đó.
Tam Tạng thấy đồ không mất, mừng rỡ quá chừng, mới hỏi ông già rằng:
– Chẳng hay chỗ này kêu xứ chi? Ba người ấy là vật gì thành quái?
Ông già nói:
– Ðây thiệt núi Song Xoa, chỗ này là hang cọp (Hổ huyệt) con yêu đen là gấu ngựa, còn quỷ mập là trâu rừng, còn Ma Vương, Dần tướng quân thiệt là Tinh cọp, mấy con quỷ nhỏ, đều là thú dữ trong rừng, người tu hành dạ thẳng lòng ngay, nên trời khiến nó không ăn thịt. Thôi đi theo ta ra đường lộ, cho khỏi chốn hang hùm.
Tam Tạng buộc hai gói lên yên dắt ngựa đi theo lập tức, một hồi tới đường lộ, Tam Tạng liền lạy tạ ông già, vừa cúi đầu nghe trận gió thoảng qua, chờ dậy kiếm ông già đâu mất! Thấy cởi hạc bay cao vòi vọi, trên mây bỗng rớt xuống một tấm giấy, có bốn câu thơ rằng:
Ta sao Thái Bạch ở trên trời,
Thương xót người lành xuống cứu ngươi
Ðường trước hỡi còn nhiều nguy hiểm,
Cũng đừng thấy khó nhọc mà lơi.
Tam Tạng xem rõ, lạy thinh không mà tạ ơn, lúc trước ngựa cõng thầy, bây giờ thầy dắt ngựa, đi có một mình, non cao rừng rậm, trèo đèo trèo ải, vịn đá vịn cây, đi hất thơ thất nghiệp, đã lâu không thấy xóm thấy làng chi hết, trong lòng đã đói khát, lại thêm thì đường xá gập ghình.
Ðương khi nghèo ngặt, chi xiết thở than, xảy gặp hai hùm cũng sẳn đói, cọp ngồi trước mặt, rắn rượt sau lưng, bên kia chó sói nhăn răng, phía nọ heo rừng hả miệng, thương hại cho thầy Tam Tạng, khác nào mắc nợ tứ giăng, không biết tránh ngõ nào, sợ quá trèo lên lưng ngựa, bởi nó đà lỡ móng, ngựa chở thầy không nỗi liền quỵ, phải bước xuống dắt đi, nó đà nằm vạ, kéo hoài không dậy, nghĩ lại mình có một người một ngựa, tư bề vật dữ rất đông, tính cònmột phép công bình, ngồi xếp bằng giữa lộ, mình đói nó cũng đói, con nào tới trước thì đặng phần, chết thành sống khó thành, danh ấy để sau còn có tiếng. Ai ngờ rắn sau lưng phóng trái, cọp trước mặt nhảy ngang, heo rừng vừa hộc vừa lăn, chó sói vừa la vừa chạy.
Xảy thấy một người vạm vỡ, tay cầm chỉa sắt, lưng dắt cung tên, ở bên kia núi đi qua, thiệt là tay cản dõng, người ấy đi cầm tới.
Tam Tạng thất kinh quỳ xuống, chắp tay mà nói rằng: “
– Xin Ðại vương cứu tôi với.
Người ấy quăng cây chỉa xuống đất, đỡ Tam Tạng dậy mà nói rằng:
– Xin thầy chớ hãi kinh, tôi là người săn bắn, hiệu Trấn Sơn thái bảo, họ Lưu tên chữ Bá Khâm, quyết đi săn cọp về ăn, nay lại gặp thầy vừa tới.
Tam Tạng nói:
– Tôi vâng lệnh Ðại Ðường Hoàng đế, qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh, đi mới tới đây, bị thú dữ phủ vây bốn phía, nhờ Thái Bảo lướt tới, nên thú dữ chạy đi, thiệt là ơn cứu tử huờn sanh không biết ngày nào đáp nghĩa.
Lưu Bá Khâm nói:
– Tôi là người săn bắn, bắt rắn về uống rượu, thường ngày săn cọp lấy da, thú dữ đã sợ tôi, thấy mặt thời chạy hết, thầy ở trong trào đi tới, tôi là người ngụ cõi ngoài, cũng là một nước với nhau, không hề chi mà sợ, xin thầy ghé lều tranh ngơi nghỉ, ngày mai tôi đưa khỏi núi này.
Tam Tạng mừng biết là dường nào, liền đứng dậy tạ ơn, rồi dắt ngựa đi theo bén gót.
Ði qua vừa khỏi núi, nghe gió thổi vo vo.
Lưu Bá Khâm nói:
– Chỗ gió thổi đằng kia, chắc mèo rừng ở đó, thầy ngồi đây mà đợi, tôi bắt nó kẻo sẩy đi.
Tam Tạng nghe nói sợ run, không dám đi tới nữa.
Lưu Bá Khâm xách chỉa chạy đến như giông; cọp thấy mặt thất kinh, chạy dong đuôi một nước.
Lưu Bá Khâm hét lớn như sấm vang trời:
– Ðồ chó chết nà, chạy đi đâu cho khỏi!
Vừa nói vừa rượt như gió như giông, cọp một nước ngoái lại vớ liền, Bá Khâm đưa chỉa đỡ ngang, đánh tung hoành một trận.
Tam Tạng chưa thấy điều ấy, nay xem qua xuất hạn dầm mình.
Còn Bá Khâm đánh với cọp mọt giờ, cọp chụp thì người tràng, người đâm thì cọp bắt, một hồi cọp mệt.
Bá Khâm đâm chết tức thì lông lá xồm xàm, máu me lai láng.
Lưu Bá Khâm nắm tai cọp lôi ra tới lộ, mặt không sắc mệt, mình chẳng đổ mồ hôi, nói với Tam Tạng rằng:
– May quá đổi may! Săn một con mèo rừng, đãi khách mấy ngày cũng không hết, ấy là thầy có phước đức nên có lộc ăn.
Tam Tạng khen rằng:
– Thái Bảo thiệt ông thần núi! Mạnh là cọp còn thua!
Lưu Bá Khâm nói:
– Hay ho gì mà thầy khen, tôi săn cọp như muôn bắt thỏ.
Nói rồi tay trái cầm cây chỉa, tay mặt nắn tai cọp mà lôi, Tam Tạng dắt ngựa đi theo mộ hồi lâu mới tới cửa.
Lưu Bá Khâm buông cọp xuống đó, kêu bầy trẻ mà dặn rằng:
– Chúng bây hãy lọt lấy da, còn thịt xào đem uống rượu.
Nói rồi mời Tam Tạng vào ngồi trong nhà khách, liền thưa cho mẹ hay rằng:
– Hòa Thượng này ở với vua, đi thỉnh kinh nơi cảnh Phật, con mới về nghỉ mát rồi mai đưa Hòa Thượng lên đường.
Bà mẹ nghe nói mừng rằng:
– Mai là ngày giáp năm của cha mầy, thỉnh Hòa Thượng tụng kinh siêu độ. Cầm thầy ở một bữa, sáng mốt sẽ đưa đi.
Lưu Bá Khâm là kẻ ngang tàng, mà có hiếu với mẹ lắm. Nghe lời mẹ nói, liền cầm thầy ở lại tụng kinh. Coi trời đã xế chiều, trẻ nhỏ lau bàn dọn tiệc, bưng mấy tộ lên hơi nghi ngút, nguyên là thịt cọp mới xào.
Lưu Bá Khâm đứng dạy mời rằng:
– Xin thầy dùng ba miếng lót lòng, đợi cơm chín sẽ ăn luôn miệng.
Tam Tạng chắp tay nói:
– Tôi giữ gìn ngũ giới không hề nói dối bao giờ, ăn chay hồ mẹ mới sanh, chẳng dám dùng đồ mặn.
– Tôi tự bé tới lớn, không từng việc ăn chay, nói vậy tôi mời lỡ thầy, chẳng không nên lắm! Xin nói vạt chay cho rõ, đặng tôi dọn cho thầy dùng.
Tam Tạng nói:
– Muối với cơm cũng đặng, đừng có kiếm vật chi.
Lưu Bá Khâm hỏi:
– Muối không phải đồ mặn sao thầy?
Mẹ Bá Khâm nghe hỏi, kêu con mà biểu rằng:
– Con ôi! Mẹ có sắm đồ chay, biểu vợ con ra mà nấu.
Vợ Bá Khâm bước lại, bà mẹ dặn đành rành. Liền luột rau dọn cơm, sắp dọn trên bàn tử tế. Mời thầy dùng đở dạ, Tam Tạng ngồi lại, niệm kinh cúng cơm rồi mới cầm đũa mà ăm.
Bá Khâm múc thịt hầm đem lại, kẻ ăn chay người ăn mặn; chủ dùng thịt khách dùng rau, ăn uống đàng hoàn, nước nôi xong xả.
Ðêm ấy Tam Tạng nằm như chết, ngủ trừ bì tới sáng không hay.
Bữa sau dọn cơm chay kêu thầy dậy đãi đặng tử tế, rồi cầu thầy tụng kinh siêu độ cho cha mình.
Tam Tạng rửa tay rửa mặt rồi, đứng thắp hương bái Phật, nội nhà đồng quì lạy, thầy đốt sớ tụng kinh, công việc xong rồi, mặt trời chen lặn, ngủ một đêm thức dậy, vợ Bá Khâm nói với chồng rằng:
– Hồi hôm tôi thấy cha về, nói bấy lâu mắc tội, ở dưới địa ngục không đặng đầu thai, nay nhờ Hòa Thượng tụng kinh nên tiêu hết tội, vua Diêm vương cho đầu thai tử tế, làm con cháu nhà giàu, chúng bây phải tạ ơn thầy, chẳng nên làm dối trá, tôi giựt mình thức dậy mới hay giấc chiêm bao.
Lưu Bá Khâm nói:
– Vía ta hồi khuya cũng thấy như vậy, không phải mộng mị, hãy thưa lại cho mẹ rõ mà mừng.”
Bà mẹ Bá Khâm đang ngồi, thấy dâu con thuật chuyện, mẹ Bá Khâm nói rằng:
– Hồi khuya ta cũng thấy điềm ấy.
Mẹ con mừng rỡ cười vang, kêu trẻ dậy tức thì. Hối dọn cơm cho sớm, bà mẹ nói với Tam Tạng rằng:
– Bạch Hòa Thượng! Nhờ tụng kinh siêu độ, vong hồn mới đặng đầu thai, chúng tôi xin lạy tạ ơn, không biết lấy chi đáp nghĩa.
Tam Tạng nói:
– Tôi cứ theo phép Phật, tụng kinh siêu độ mà thôi, đừng lạy tạ mà chi, linh tại chủ chứ tôi không giỏi.
Lư Bá Khâm nói:
– Ba mẹ con tôi thấy chiêm bao như một, nhờ kinh thầy nên vong đặng đầu thai. Tam Tạng nghe rõ mừng rằng:
– Ấy là phước chủ chớ tôi không có tài chi, cũng nhờ kinh Phật hiển linh, lại với lòng người thành kính.
Lưu Bá Khâm để bạc, rằng tôi công đức cho thầy. Tam Tạng từ rằng:
– Tôi là thầy sãi, không lãnh bạc làm chi, như tưởng tình đưa ít dặm đường, hơn làm lễ tạ ngàn lượng bạc.
Lưu Bá Khâm hối vợ dọn cơm nước đãi thầy, rồi sửa soạn gói cơm khô, lại dắt ngựa cho ăn cho uống, kêu ba bốn đứa đầy tớ vác mác thông cầm chỉa theo mình. Tam Tạng giã từ, lên yên giục ngựa.
Bá Khâm với gia tướng theo đưa đón trước sau, đi trọn nữa ngày, ngó thấy núi cao chớn chở.
Ði một đỗi nữa, Bá Khâm nói với Tam Tạng rằng:
– Bạch Hòa Thượng, cứ đường này đi tới, chúng tôi xin kiếu trở về.
Tam Tạng nghe nói thất kinh hồn vía, xuống ngựa năn nỉ với Bá Khâm rằng:
– Xin Thái Bảo làm ơn rán đưa tôi một đỗi nữa.
Bá Khâm nói:
– Bởi Hòa Thượng chưa rõ, tôi xin bạch lại cho rành, núi này cao lớn hơn ác núi, gọi là Lưỡng Giới Sơn. Nửa bên Ðông này, về ranh đất Ðại Ðường, phía bên Tây thuộc về nước Ðác Ðác. Cọp phía bển dữ quá, nó không kể đến tôi. Phải chi dám đi ngang, tôi cũng đưa thầy ít bữa.
Tam Tạng nghe nói sửng sốt, nắm tay níu áo Bá Khâm, giọt lụy chứa chan, khó liệu bề lui tới.
Hai người đang dục dặc, xảy nghe tiếng kêu dưới chân núi vang trời:
– Cha chả là may! Thầy tôi đà đi tới.
Tam Tạng nghe tiến kêu như sấm, bắt mọc óc cùng mình.
Lưu Bá Khâm không biết ai kêu, đứng lóng tai nghe thử.
Khi ấy Tam Tạng và Lưu Bá Khâm đương đứng ngẩn ngơ, lại nghe kêu nữa rằng: – Thầy ta đà tới đó.
Mấy đứa đầu tớ nói:
– Tiếng kêu lớn đó chắc là con vượn già trong hộp đá dưới chân núi.
Lưu Bá Khâm nói:
– Phải đó, phải đó.
Tam Tạng hỏi:
– Sự tích con Vượn già làm sao mà ở trong hộp đá?
Lưu Bá Khâm nói:
– Hòn núi này khi trước gọi là núi Ngũ Hành Sơn. Bởi vua Ðường đánh Tây liêu rồi cải tên lại là núi Lưỡng giới, ông già bà cả nói lại lúc Vương Mãng soán nhà Hớn, thì hòn núi này ở trên trời rơi xuống đây, đè một con vượn thần dưới chân non, nằm trong hộp đá. Nghe đồn có thánh thần ở giữ, cho nó ăn sắt cục, và uống nước đồng, chịu đựng năm trăm năm, đến giờ còn sống, cho nên tiếng kêu dưới chân nó, chắc là con Vượn già. Không hệ gì đâu, thầy đi với tôi mà coi thử.
Tam Tạng nghe lời đi tới chân núi, chừng ba bốn dặm đuờng. Thấy con khỉ đột nằm trong hộp đá ló cổ ra thò tay ngoắt mà hỏi rằng:
– Sao thầy trễ bây giờ mới đến? Thầy tới đây xong lắm, xin làm phước cứu tôi ra, tôi theo thây tới tây phương thỉnh kinh về Ðông Ðộ.
Tam Tạng ngó thấy con khỉ ấy mỏ dài mặt trơn, mắt lửa tròng vàng. Cây mọc trong tai, mốc đơm trên trán.
Ấy là:
Ðầu xem hết tóc um sùm cỏ,
Mép thấy không râu xụ xộp rêu.
Lưu Bá Khâm dạn lắm, nhổ dùm cây cỏ rong rêu.
Khỉ ấy nói rằng:
– Xin chú làm ơn mời hòa thượng lại tôi nói chuyện.
Tam Tạng nghe nói, bước tới hỏi rằng:
– Ngươi kêu ta làm chi đó?
Khỉ ấy hỏi:
– Thầy phải Hòa Thượng đi thỉnh kinh chăng?
Tam Tạng nói:
– Ta vâng lệnh vua Ðường, đi thỉnh kinh Tây độ, mà người hỏi làm chi?
Khỉ ấy nói rằng:
– Tôi là Tề Thiên Ðại Thánh, năm trăm năm trước đánh trời, bị Như Lai đè cổ xuống đây, nghỉ tội mình cũng đáng, khi ấy Quan Âm Bồ Tát đi tìm kẻ thỉnh kinh, ngài ghé thăm tôi hồi lâu, tôi cầu khẩn ngài cứu giúp, Quan Âm dặn tôi rằng: “Ðợi thầy thỉnh kinh tới cứu tôi rồi theo làm đệ tử đến Tây Phương. Tôi bấy lâu hằng trông, thầy bây giờ mới đến!
Tam Tạng nghe qua mừng lắm, nói rằng:
– Ngươi đã chịu hồi tâm, ta cũng muốn làm phước. Ngặt không riều búa, biết cứu làm sao?
Ðại Thánh nói:
– Không cần rìu búa làm chi. Có sáu chữ bùa dán tại trân chóp núi, xin thầy gỡ lá bùa ấy, thì tôi chờ dậy mà thôi.
Tam Tạng day lại nói với Bá Khâm rằng:
– Vậy thời Thái Bảo đi lên chót núi với tôi.
Lưu Bá Khâm nói:
– Biết thiệt hay không mà đi cho mệt.
Ðại Thánh nghe nổi nóng nói lớn rằng:
– Tôi nói thiệt tình, không phải dối trá.
Lưu Bá Khâm dắt Tam Tạng vịn đá trèo non đi một hồi lâu, mới tới trên chót núi.
Ngó thấy hào quang muôn ngọn, hơi ấm ngàn trùng, có một tấm đá vuông, trên dán bùa Lục tự, là câu: Án, ma, ni, bác, di, hồng, sáu chữ bạc bằng vàng.
Tam Tạng quỳ lạy vái rằng:
– Ðệ tử là Trần Huyền Trang, vâng lệnh chúa đi cầu kinh về Ðông Ðộ, phải phần tôi gỡ bùa Lục tự mà cứu thần hầu, thì xin cho như lời, đặng dùng người bảo hộ. Nếu nó quen thói dữ mà gạt kẻ tu hành, xin Phật Tổ hiển linh, cho gỡ lá bùa không đặng. Vái lạy rồi đưa tay nhẹ nhẹ, mà gỡ lá bùa, xảy có trận gió thơm, thổi lá bùa vàng lên mây bạc, nghe tiếng nói thinh không rằng:
– Ta là thần giữ gìn Ðại Thánh, nay đà mãn hạn, ta đem bùa dâng lại Như Lai.
Tam Tạng và Lưu Bá Khâm nghe nói thất kinh liền dạy, rồi leo xuống nói, lại gần hộp đá dựa chân non.
Tam Tạng nói với Ðại Thánh rằng:
– Ta gỡ lá bùa rồi, ngươi tính thế làm sao mà ra đó?
Ðại Thánh mừng rỡ nói rằng:
– Xin thầy chạy cho xa, kẻo tôi dậy, đá đè mà chết.
Lưu Bá Khâm nghe nói, dắt Tam Tạng chạy dài, chừng bảy tám dặm đường mệt quá đứng dừng lại mà nghỉ.
Ðại Thánh kêu lớn rằng:
– Chạy cho xa nữa.
Hai thầy trò chạy riết một hồi xảy nghe tiếng ầm ầm, dường thể đổ trời lỡ núi.
Tam Tạng đương kinh hãi thấy Ðại Thánh đến trước mặt.
Quỳ lạy mà nói rằng:
– Bạch cho thầy rõ, tôi đã ra đây lạy thầy bốn lạy.
Rồi bái Bá Khâm mà nói rằng:
– Cám ơn anh đưa thầy đến đây, lại nhổ giùm rong rêu trên mặt..
Nói rồi liền mang gói, đi dắt ngựa cho thầy, chẳng ngờ con ngựa ấy thấy Ðại Thánh trần truồng mặt mày dữ tợn, ngựa sợ quá chân run cầm cập, đứng chẳng vững vàng.
Nguyên là Ðại Thánh khi trước làm Bật Mã Ôn, giữ ngựa rồng cho Thượng Ðế. Nay ngựa phàm thấy mặt, sao cho khỏi giựt mình.
Tam Tạng thấy Ðại Thánh thiệt tình, không làm kiêu cách, liền kêu mà hỏi rằng:
– Trò ôi, nói thử tên họ cho biết?
Ðại Thánh nói:
– Bạch Hòa Thượng, tôi thiệt họ Tôn.
Tam Tạng nói:
– để thầy đặt tên thánh cho, mới liệu bề kêu gọi.
Ðại Thánh nói:
– Tôi đã có tên thánh, gọi là Ngộ Không.
Tam Tạng mừng rằng:
– Tên ấy tốt lắm, ta thấy tướng nhà gả giống bộ thầy rùa, lấy chữ ấy làm tên ngoài, gọi là Tôn Hành Giả.
Ðại Thánh nói:
– Tốt lắm, tốt lắm! Hành giả tên mới, xin cứ đó mà kêu.
Lưu Bá Khâm thấy Tôn Hành Giả mang gói muốn đi chẳng phải nói gạt.
Bá Khâm nói với Tam Tạng rằng:
– Bạch Hòa Thượng, kiếm học trò tốt lắm, tôi hết sức vui mừng, đã có người tùy tùng, tôi xin trở lại.
Tam Tạng cũng từ giã kẻ tới người lui.
Hành Giả mời Tam Tạng lên yên, mình mang gói đi theo sau ngựa; một hồi lâu qua khỏi núi Lưỡng Giới có một con cọp đói, nhảy ra há miệng đập đuôi, hà hà xốc tới. Tam Tạng nhớ lời Bá Khâm nói, ngồi trên yên ngựa mà run.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thầy sợ nó hay sao? Ấy là nó nạp quần áo cho tôi đó.
Liền để gói đồ xuống, móc cây kim trong lỗ tai ra, cầm trong tay dồi lên lớn gần bằng miệng chén, cầm thiết bảng mà cười rằng:
– Vật báu này hơn nửa ngàn năm, chẳng hề xài đến, nay đem ra đánh thử mà kiếm áo quần.
Rồi chỉ cọp mà nói rằng:
– Tao đố mầy chạy khỏi.
Cọp thất kinh mọp xuống Hành Giả đập bể đầu.
Tam Tạng thấy thất kinh nhào xuống ngựa, cắn móng tay mà than rằng:
– Trời ơi! Hôm qua Lưu Thái Bảo hơn nửa ngày mới đánh đặng một hùm, bữa nay Tôn Hành Giả mới đập một heo mà chết tươi con cọp! Ấy là kẻ mạnh hởi còn kẻ mạnh hơn, anh hùng cũng có anh hùng nữa.
Tôn Hành Giả kéo cọp lại nói rằng:
– Xin thầy ngồi nghỉ chân đợi tôi may quần áo.
Nói rồi nhổ một cái lông, thổi mà làm phép, miệng hô: “Biến biến!” Hóa ra một con dao phay, lấy dao lột da hùm, cắt làm hai tấm, cuốn một tấm cất, rồi còn một tấm làm chăng mà bậu, bức dây cổ rùa làm sợi dây lưng.
Rồi thưa với Tam Tạng rằng:
– Thôi thầy lên ngựa mà đi, đặng kiếm xóm mượn kim may áo.
Nói rồi thâu thiết bảng, còn nhỏ tợ cây kim cút, liền để trong lỗ tay mang gói đi theo sau ngựa, Tam Tạng hỏi:
– Cây thiết bảng đánh cọp, nhà ngươi bỏ đi đâu.
Hành Giả cười rằng:
– Nguyên thầy không rõ, để tôi bạch lại cho rành: Cây thiết bảng này ở dưới Long vương gọi là Như ý kim cô bổng. Cũng nhờ có nó, nên tôi mới dám đánh trời. Nó biến hóa vô cùng. Muốn to thì nó to, muốn nhỏ thì nó nhỏ, tôi mói thâu lại mà cất trong lỗ tai, tới chừng nào có việc mới lấy ra. Dù mình muốn lớn chừng nào, thì nó lớn theo chừng nấy.
Tam Tạng nghe nói mừng thầm mà hỏi rằng:
– Hồi nãy cọp thấy nhà ngươi sao không dám cự?
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi là đệ tử không dám dấu thầy, chẳng kì cọp sợ mà thôi, dầu rồng gặp tôi cũng không dám cục kịch, tôi có phép đánh rồng thâu cọp, lại có tài tát biển xô non, tôi biến hóa đủ điều, cộng bảy mươi hai phép, độn thổ đằng vân còn được, sá gì đánh cọp mà khen.
Tam Tạng nghe nói lòng mừng, không sợ yêu tinh bắt nữa. Liền lên yên giục ngựa, đi một hồi lâu, vừng ô lặng khuất non Ðoài, bóng thỏ mọc lên hướng Chấn, thấy xa xa có vườn rậm chắc chỗ ấy có nhà người.
Tôn Hành Giả nói:
– Thầy vào đó ngủ nhờ đợi sáng sẽ đi cho thẳng buổi.
Tam Tạng nói phải, giục ngựa đi theo Tôn Hành Giả bước vào kêu chủ nhà mở cửa. Ông già nghe kêu cửa, chống gậy đi ra, mở cửa dòm thấy tướng dị kì, tợ Thiên Lôi mới xuống.
Ông già ấy tay chân bủn rủn, mặt mũi điếng xanh, miệng la bài hải rằng:
– Có quỷ tới, có quỷ tới!
TamTạng thấy vậy nói rằng:
– Xin chủ nhà đừng sợ, nó không phải yêu quỷ, ấy là học trò tôi.
Ông già ấy thấy thầy Tam Tạng mặt mày vui vẻ, lời nói hiền lành, liền hỏi rằng:
– Thầy là người nhân đức sao đem ăn cướp đến nhà tôi.
Tam Tạng nói:
– Tôi là sãi nước Ðường, đi thỉnh kinh bên Tây Ðộ, lỡ đường trời tối, ngủ đậu nhà lành, xin ông chủ làm ơn giúp kẻ lỡ chân trái bước.
Ông chủ nhà nói:
– Thầy thiệt người nước Ðường, tôi đành cho ngủ đậu. Còn bột Thần trùng đó, chắc không phải ở nước Ðường.
Tôn Hành Giả hét lớn rằng:
– Thằng già này quáng nhản, nên coi chẳng thấy người, thầy ta ở nước Ðường, còn ta là đệ tử, không nước phải nước đường nước mật chi hết. Ta là Tề Thiên Ðại Thánh, nằm trong hộp đá bấy lâu, nhà ngươi cũng từng xem, nhìn thử phải hay không phải? Ông già ấy nhớ trực nói rằng:
– Tôi coi thì cũng giống vượn già, vì cớ nào mà ra đặng?
Tôn Hành Giả thuật chuyện lại, ông già nghe rõ, liền mời Tam Tạng vào trong, đãi trà đãi nước, rồi hỏi thăm Hành Giả rằng:
– Ðại Thánh nè, ông đặng bao nhiêu tuổi?
Tôn Hành Giả hỏi lại rằng:
– Mà mày mấy tuổi đó?
Ông già nói:
– Nhờ trời nhờ phật, tôi sống đặng một trăm ba.
Tôn Hành Giả nói:
– Coi bộ mày già còm, mà tuổi không bằng thằng cháu nội ta đó! Tuổi ta sắp trước không tính làm chi, kể từ nằm trong hộp đá đến nay, năm trăm năm có lẻ.
Ông già nói:
– Tôi có nghe ông nội tôi nói lại rằng, hòn núi này trên trời rớt xuống, đè một vị thần hầu nằm cho tới đời này mới xuất thân ra đặng!
Ai nấy nghe nói đều cất tiếng cười vang, ông già ấy cũng hiền lành, hối trẻ dọn cơm chay mà đãi.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Cháu họ chi đó vậy?
Ông già nói:
– Tôi là họ Trần.
Tam Tạng nghe nói mừng rằng:
– Nếu vậy tôi cũng đồng tông với ông đó.
Ông già nghe nói đồng tánh, lại mừng rỡ hơn xưa, Tôn Hành Giả nói:
– Lão Trần quái gì đó, xin làm ơn một phen, ta nằm vạ năm trăm năm nay, không có tắm gội gì hết, xin hâm giùm vài bồn nước, thầy trò ta tắm một hồi, đến chừng gần đi sẽ tạ ơn luôn thể.
Ông già hối cháu hâm nước đem ra chỗ vắng, thầy trò tắm rửa xong rồi.
Tôn Hành Giả lại nói với ông già rằng:
– Thế này phải làm ơn luôn thể, cho mượn chỉ và kim.
Ông già lấy kim, chỉ đem ra trao cho Hành Giả.
Hành Giả ngó thấy cái áo lá của Tam Tạng mới cởi ra đó lấy mà mặc vào mình, rồi mở cái chăn da cọp ra, ngồi chồm hổm mà làm thợ khéo, may cái quần dài lắm, bận tới nách mặc vào tử tế, lại trước mặt Tam Tạng mà thưa rằng:
– Thầy nhắm tôi bữa nay với hôm qua ra thể nào?
Tam Tạng khen rằng:
– Thiệt phải người Hành Giả nên ăn mặc như vầy, thôi, cái áo lá này, cho nhà ngươi luôn thể.
Tôn Hành Giả mừng rằng:
– Tôi đội ơn thầy lắm.
Nói rồi cho ngựa ăn cỏ, đến khuya mới nghỉ ngơi.
Vừa rạng ngày sau, thầy trò thức dậy, ông già dọn cơm nữa, thầy trò ăn uống xong rồi, đồng tỏ việc cám ơn.
Tôn Hành Giả dắt đường đi trước, Trần Huyền Trang cởi ngựa theo sau, đi mãn thu qua đông, đà hết mưa tới nắng.
Thầy trò đương đi dựa núi, gặp sáu thằng ăn cướp đón đường thẳng vác giáo, đứa cầm gươm, kẻ cấp cung ba tên xách búa, đồng hét lớn rằng:
– Lão Hòa Thượng đi đâu? Hãy để gói đồ lại đó, và dâng con ngựa mà thế mạng hai người.
Tam Tạng nghe nói thất kinh, té nhào xuống ngựa.
Tôn Hành Giả hai tay đở dậy, mà nói với thầy rằng:
– Không hề gì đâu, chúng nó nạp áo quần cho thầy trò mình đó.
Tam Tạng hỏi:
– Nhà ngươi lãng tai sao vậy? Nó bảo mình nạp gói đồ cho nó, chớ phải nó đem quần áo cho mình đâu!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ấy là thầy thiệt thà, không phải tôi điếc lác, xin thầy coi đồ giữ ngựa, để tôi ra sức chống ngăn.
Nói rồi Tôn Hành Giả bước tới, xá sáu thằng ăn cướp mà hỏi rằng:
– Chẳng hay các cha cầm gươm vác giáo mà đón đường thầy sãi làm chi?
Thằng cầm gươm nói rằng:
– Ta là vua núi, thâu thuế đường rừng, nhà ngươi muốn đi qua phải nạp tiền mãi lộ. Tôn Hành Giả nói:
– Ta cũng là vua núi lâu lắm, sao không nghe tiếng các cha?
Thằng cầm gươm nói rằng:
– Nhà ngươi đầu không thấy mặt, song cũng nghe danh, đã một tụi với nhau, chẳng giấu chi tên họ. Ta hiện là Nhản Khán Hỉ còn năm người kia hiệu là Nhỉ Thính Nộ, Bỉ Xú Ái, Thiệt Thường Tư, Ý Kiến Dục, Hân Bổn Ưu.
Tôn Hành Giả nghe nói cười rằng:
– Vậy thì bây là giặc cỏ chưa đáng vua rừng, đã gặp Tôn thần còn xưng tiểu quỷ, cái tội đón đường đó, chúng bây phải tính cho xong, thôi hãy đem đồ tang vật đó đặng ta tính êm cho. Ðây chia ra làm bảy phần ta dung toàn sáu mạng.
Lũ ăn cướp đồng ó lớn rằng:
– Hòa Thượng này vô duyên quá! Mình chưa chia của nó, nó muốn chia của mình.
Ðồng hê một tiếng với nhau, áp lại chém đâm Hành Giả.
Tôn Hành Giả không thèm nói lại, đứng chống nạnh làm thinh để ăn cướp áp đập đầu, như thầy chùa gõ mỏ. S
áu thằng ấy nói rằng:
– Hòa Thượng này đầu nhỏ, cớ sao sọ cúng quá chừng! Gươm chém không trầy, búa bửa không bể, cây đập sang sảng, không hề hấm chút nào!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Bây đánh đả mỏ, để ta lấy kim cho chúng bây coi thử.
Sáu thằng ăn cướp nói rằng:
– Bộ thầy chùa này biết lể đạn, nên mới sắm kim, chúng ta không mắc ban cua, hòa thượng đừng quen lể ốc.
Tôn Hành Giả móc trong lỗ tai lấy cây kim nhỏ, dồi lên một cái hóa ra thiết bảng tức thì, cầm giơ lên mà nói rằng:
Tôn Hành Giả rượt theo như ngựa, đập chết hết sáu thằng, liền lột áo quần, và lấy tiền bạc cười ha hả, trở lại thưa với thầy rằng:
– Tôi giết hết ăn cướp rồi, xin thầy lên ngựa.
Tam Tạng nói:
– Chúng nó tuy là ăn cướp, giải tới quan có giết có tha, ngươi có tài cao, đánh đuổi đi mới phải, lẽ đâu giết sáu mạng, sao gọi là Hòa Thượng?
Tôn Hành Giả nói:
– Nếu tôi không giết nó, thì nó lại giết thầy.
Tam Tạng nói:
– Ta là người tu niệm, phải giữ việc hiền lành, thà chịu chết cũng ưng, chớ không dám sát nhân hại vật.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Tôi là đệ tử không dám giấu thầy, năm trăm năm trước, tôi xưng vua xưng chúa, giết người chẳng biết bao nhiêu, nếu nói như thầy, tôi chẳng làm không đặng Tề Thiên đại thánh.
Tam Tạng nói:
– Bởi vì ngươi không kể trời đất, nên Phật đày nằm dưới chân núi hơn mấy trăm năm; nay đã tu hành, phải cải ác tùng thiện. Nếu không chừa thói dữ, thì không đặng là Hòa Thượng, đi sao cho thấu tây phương.
Tam Tạng cằn rằng hoài, cả canh cả buổi.
Nguyên Hành Giả là cốt khỉ, tánh không chịu ai ngầy, thấy Tam Tạng nói nhỏ nói to, cà riềng cà tỏi, nín hoài không đặng, trợn con mắt giộc mà nói rằng:
– Thầy nói tôi làm không đặng Hòa Thượng, đi không tới Tây Phương, thôi thầy chẳng nói cằn rằn làm chi, để tôi trở về cho rảnh.
Tam Tạng chưa kịp nói lại, Tôn Hành Giả nói lớn rằng:
– Tôi đi đó.
Vùng nhảy lên một cái, bay thẳng về hướng Ðông.
Còn Tam Tạng bơ vơ quạnh quẻ, gật đầu mà than rằng:
– Cái người làm sao, chẳng biết nghe lời dạy dổ, mình mới nói ít lời ít tiếng, nó liền đi mất dạng mất hình. Tại số mình không có học trò, mặc ý ở đi cũng phải.
Liền ngâm hai câu rằng:
Ðã đành liều mạng tìm kinh Phật,
Lựa phải cầu người dẹp lũ ma.
Tam Tạng lấy gói đồ gác lên lưng ngựa, một tay thì chống gậy, một tay cầm cương ngựa dắt đi. Nghỉ vừa khóc vừa than, đi thất thơ thất nghiệp, ước chừng một lát, thấy bà già bên núi bước ra, tay cầm cái áo gấm vải của thầy chùa và một cái mão, Tam Tạng ngó thấy, dắt ngựa tránh bên đường.
Bà già ấy nói rằng:
– Phật ở tại Tây Phương, chùa Ðại Lôi Âm, về nước thiên trước, đường xa mười muôn tám ngàn dặm, không phải là gần, không kẻ tùy tùng, đi một ngựa một mình sao tới.
Tam Tạng nói:
– Tôi có một người đệ tử mà tánh dữ như yêu, tôi khuyên dạy vài lời, mà nó không chịu phép, bỏ đi mất, tôi không biết tính làm sao!
Bà già nói:
– Ta có một cái áo vải gấm, và một cái mão vàng, ấy là của con ta lên chức Hòa Thượng ba ngày mà tịch, ta mới qua chùa nó mà khóc một hồi, rồi đem áo mão này về, để làm dấu tích, như thầy có đệ tử, ta xin cúng hết vật này.
Tam Tạng nói:
– Tôi cũng cám ơn bà, ngặt vì học trò tôi đã trốn rồi, nên không dám lãnh.
Bà già nói:
– Nó đi về phía nào đó?
Tam Tạng nói:
– Nghe nó hú một tiếng, rồi bay về hướng đông.
Bà già nói:
– Ta cũng ở phía đông, chắc là nó ghé nhà ta đó, ta có một ít câu thần chú, gọi là Ðịnh tâm chơn ngôn. Thầy phải học thuộc lòng đừng nói cho ai hay hết, để ta đi kêu nó, làm sao nó cũng trở về, thầy cho nó mặc áo ấy, đội mão này, sao cũng phải gạt cho nó đội, như nó nghe lời thì tốt, bằng cãi lời thì niệm chú định tâm, niền vàng trên mão bóp riết vô màng tang, nó sợ nhức đầu thì phải chịu phép.
Tam Tạng nghe nói liền lạy tạ ơn.
Bà già truyền thần chú rồi liền hóa ra hào quang bay về phía mặt trời.
Tam Tạng biết là Quan Âm hiện xuống truyền thần chú, liền lạy thinh không mà tạ ơn, rồi lấy áo mão cất vào trong gói, ngồi xếp bằng bên lộ, tập mấy câu thần chú cho nhuần.
Còn Tôn Hành Giả từ khi giận thầy, bay về Ðông hải, nhảy đùng xuống biển, vào viếng Long vương.
Ngao Quảng hỏi rằng:
– Nghe Ðại Thánh đã mãn hạn rồi, có khi về động Thủy Liêm mà sửa sang núi Hoa Quả?
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi cũng có ý đó, ngặt vì làm Hòa Thượng lở rồi.
Ngao Quảng hỏi rằng:
– Vì cớ nào làm Hòa Thượng?
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi cũng nhờ Quan Âm bồ tát, biểu theo thầy Tam Tạng thỉnh kinh, nên đã làm Hòa Thượng rồi, đặt tên là Hành Giả.
Ngao Quảng nói:
– Tôi mừng cho Ðại Thánh, đã bỏ tà theo chánh, thì thành Phật về tiên, sao chẳng tới Tây Phương, lại trở về Ðông hải?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Tại thầy Tam Tạng lạ lắm, tôi giết mấy thằng ăn cướp, thẩy nhiếc tôi không biết bao nhiêu. Tánh tôi không chịu ngầy ngà, nên tính về quê cũ, tiện đường vào uống nước, và thăm viếng người xưa.
Ngao Quảng nghe nói, truyền đem trà nước đãi đằng.
Tôn Hành Giả thấy bức tượng treo phía bên kia, liền hỏi rằng:
– Bức họa đồ chi đó?
Ngao Quảng nói:
– Tích này Ðại Thành chưa rõ, để tôi cắt nghĩa cho rành: Ông tiên này là Huỳnh Thạch Công. Người nhỏ này là Trương Lương đời Hán, Huỳnh Thạch Công đi trên cầu Hạ bị làm rớt dép, biểu Trương Lương lượm lên. Trương Lương lấy dép trao liền, Huỳnh Thạch Công đưa chân ra biểu mang luôn thể. Rồi đi vài bước, cũng làm rớt xuống cầu. Huỳnh Thạch Công biểu Trương Lương lượm nữa, làm ba lần như vậy, Trương Lương trao đủ vừa ba. Sau Huỳnh Thạch Công cho Trương Lương ba cuốn binh thơ, đến lớn làm quân sư phò vua Hán Cao Tổ gom thiên hạ về một mối, vua phong đến chức Lưu hầu Ðến sau Trương Lương từ chức theo Tiên, là ông Xích Tòng Tử. Nên người vẽ tượng Tị kiều tam tấn lý. Nghĩa là: Tại sông Tị, Trương Lương dâng dép ba lần. Nếu Ðại Thánh chẳng nghe lời thầy, ví như Trương Lương không chịu dâng dép, thì làm quỷ khó thành Phật thành Tiên.
Tôn Hành Giả nghe nói, ngồi ngẩm nghĩ một hồi.
Ngao Quảng thấy vậy thì nói rằng:
– Ðại Thánh chớ vùng vằng, phải tính cho sấn sướt, nếu vui đâu chúc đó, thì uổng công tu.
Tôn Hành Giả nói rằng:
– Ông đừng nói nhiều lời, tôi xin kiếu đi lập tức.
Nói rồi nhảy lên mặt biển, xảy gặp Quan Âm.
Quan Âm hỏi rằng:
– Ngộ Không! Sao ngươi chẳng theo Tam Tạng, qua cảnh Phật thỉnh kinh? Hãy còn xuống biển lên mây làm công việc chi đó?
Tôn Hành Giả liền cúi lạy mà nói rằng:
– Tôi đội ơn Bồ Tát, thiệt có thầy Tam Tạng, tới gở lá bùa. Tôi ra khỏi núi rồi, cũng làm đệ tử. Tôi đánh chết sáu thằng ăn cướp, bị ngầy ngà cũng nhức xương. Nên tôi đi rảo một hồi, rồi cũng trở lại bảo hộ.
Quan Âm nói rằng:
– Ngươi hãy đi cho kiếp, kẻo thú dữ hại người.
Tôn Hành Giả từ tạ, đằng vân đi theo Tam Tạng.
Nói qua Tôn Hành Giả, về thấy thầy ngồi buồn bực, bước ra trước mặt hỏi rằng:
– Sao thầy không đi Tây Phương, ngồi làm cho đó vậy?
Tam Tạng ngó thấy liền nói rằng:
– Không biết ngươi đi đâu? Nên phải ngồi đây mà đợi.
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi khát nước quá, nên xuống Long vương Ðông hải mà xin vài chén nước trà. Tam Tạng nói:
– Mình là kẻ tu hành, chẳng nên nói dối, nãy giờ có một lát, lẽ nào qua Ðông hải mà về?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Tôi có phép đằng vân mau lắm, nhảy một cái tới mười muôn tám ngàn dặm, gọi là Cân đẩu vân. Giá biểu đông có bao xa, mà đi không tới.
Tam Tạng dỗ rằng:
– Ta mới nói đặng một chút, mà ngươi bỏ đi. Ngươi có tài kiếm đặng nước trà, ta chịu phép ngồi đây nhịn đói.
Tôn Hành Giả nói:
– Như thầy đói bụng thì ngồi đó, đợi tôi vào xóm xin cơm.
Tam Tạng nói:
– Chẳng đi xin làm chi, sẳn cơm khô trong gói, lấy cái bình bát, đi múc nước, về ăn uống đỡ lòng.
Tôn Hành Giả mở gói ra, thấy bánh in nhiều lắm. Soạn chưa tới cái bình bát, thấy áo mão để trên, xem qua lạnh lùng, coi lòa con mắt.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Thưa thầy áo mão nào tốt dữ vậy, hay là đồ ở bên chùa?
Tam Tạng nói xuôi rằng:
– Ðồ ta mặc và đội hồi mới làm thầy, đội mão này không học kinh cũng thuộc kinh, mặc áo này không biết lễ, cũng thông lễ.
Tôn Hành Giả nói:
– Ðường Tây Phương xa lắm, đầu đuôi có hai thầy trò, còn để dành làm chi, xin cho bận thử.
Tam Tạng nói:
– Ngươi mặc vừa thì mặc, ta không để làm chi.
Tôn Hành Giả đội mão mặc áo vào.
Tam Tạng mừng hết sức, không ăn cơm ăn bánh, cứ ngồi miệm chú Ðịnh tâm.
Tôn Hành Giả la lớn rằng:
– Cha chả! Nhức đầu lắm, nhức đầu lắm, chắc là bể sọ đi mà thôi.
Tam Tạng thấy vậy niệm hoài.
Tôn Hành Giả nhào lăn dưới đất, cái niền vàng bóp riết, gần lủng màng tang, Tôn Hành Giả tằn mằn gở hoài không đặng.
Tam Tạng sợ gỡ hư mão, thôi niệmchú Ðịnh tâm.
Tôn Hành Giả hết nhức đầu, lấy tay rờ trên trán, cái niền vàng bằng sợi chỉ, mà bức không ra, đụng tới thì đau đứt ruột, Tôn Hành Giả hết phương phép, lấy cây kim trong lỗ tai ra, cầm mà cạy cái niền vàng, nhưng cạy hoài không đặng, Tam Tạng sợ xeo đứt, liền niệm chú Ðịnh tâm, Tôn Hành Giả liền nhức đầu, đứng khòm xuống như xe chổng gọng, đỏ tai đỏ mặt, sưng mắt sưng đầu.
Tam Tạng thấy vậy động lòng thôi niệm thần chú Tôn Hành Giả hết nhức đầu tức thì, Hành Giả nói:
– Nếu vậy thời tôi nhức đầu đây, là tại thầy rủa đó.
Tam Tạng nói:
– Ta niệm thần chú Ðịnh tâm, ai rủa xả nhà ngươi mà làm dữ.
Tôn Hành Giả nói:
– Ðâu thầy niệm lại thử coi?
Tam Tạng niệm vài câu, Hành Giả nhức đầu quay quắt, liền la lớn lên rằng:
Ðó, dù vậy thầy nói không phải rủa làm sao? Hễ niệm chú thì nhức đầu, thôi niệm thì hết, tôi đã rõ biết, thầy còn giấu làm chi?
Tam Tạng hỏi rằng:
– Từ rày sắp lên, ngươi nghe lời hay không thì nói?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Tôi nghe lời không dám cãi.
Tam Tạng hỏi:
– Ngươi còn vô phép nửa thôi?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Không dám, không dám!
Tuy ngoài miệng thì nói vậy, mà trong lòng giận biết chừng nào, liền lấy thiết bảng ra muốn đập Tam Tạng.
Tam Tạng thất kinh niệm thẳng, Hành Giả nhức đầu quá té nhào, buông cây thiết bảng tức thì ôm đầu la mãi, liền nói với Tam Tạng rằng:
– Tôi đã biết rồi, xin thầy đừng niệm nữa.
Tam Tạng hỏi:
– Ai cứu nhà ngươi khỏi nạn, bây giờ lại muốn giết ta?
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi không phải dám đánh thầy, lấy thiết bảng ra có chuyện. Tôi xin hỏi thiệt, ai truyền phép ấy cho thầy?
Tam Tạng nói:
– Bà già hồi nãy truyền phép ấy cho ta.
Tôn Hành Giả giận rằng:
– Thôi thầy đừng nói nữa làm chi, tôi biết Quan Âm giả bà già ấy. Bả giỏi bực nào đó? Ðể tôi lên Nam Hải mà đánh báo thù.
Tam Tạng nói:
– Ngươi là con khỉ ngày, nói nghe không lắm, ngài đã truyền thần chú, lẽ nào ngài không biết hay sao?
Nếu ngươi mang mặt tới nói, ngài niệm chú nhức đầu mà chết!
Tôn Hành Giả gật đầu nói rằng:
– Phải phải.
Liền quỳ xuống khóc mà năn nỉ rằng:
– Thầy ôi, ấy là ngài truyền thần chú, mà bó buộc tôi, đặng bảo hộ thầy, đi tới Tây Phương Phật. Thôi tôi không cố oán, còn thầy đừng niệm chú làm chi, tôi tình nguyện theo hoài không dám cãi lời dạy dỗ.
Tam Tạng nói:
– Ngươi có lòng thành như vậy, ta còn niệm chú làm chi. Thôi, sửa soạn mà đi, không nên trễ nãi.
Tôn Hành Giả nai nịt cất gánh lên vai, Tam Tạng gát yên, thầy trò chỉ dặm.
Bây giờ nói về Tôn Hành Giả, thiệt tình phò Tam Tạng đi thỉnh kinh, đi lần lần thu mãn ĐSng, lẩn bẩn qua đầu tháng chạp.
Khi trời đông ghê gớm, hơi gió bấc lạnh lùng. Phần thì lội suối trèo non, thêm nổi qua truông xuống dốc.
Tam Tạng ngồi trên lưng ngựa, nghe nước chảy ồ ồ, ngó ngoái lại hỏi Tôn Hành Giả rằng:
– Nước suối nào chảy hung vậy?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Tôi có nhớ chỗ này là hòn núi Xà Bàn. Có suối Ưng Sầu dựa núi, cho nên nước chảy ồ ồ”.
Nói chưa dứt lời, ngựa đi gần tới suối.
Tam Tạng gò cương coi nước chảy, thấy giữa suối vung một cái đùng, liền nổi sóng tư bề, dường như biển cả, hiện lên một con rồng nhỏ, bộ tướng dữ dằn, chờn vờn lên bờ mà chụp Tam Tạng.
Tôn Hành Giả quăng gói xuống ẳm thầy mà chạy như giông, con rồng đắc thế rượt theo, nhắm bề không kiệp, trở lại bắt ngựa kim mà nuốt, làm luôn và lạc và yên, ăn đã no nê, mới trầm mình xuống suối.
Tôn Hành Giả chạy xa một đổi, kiếm bàn thạch cho thầy ngồi. Trở lại dắt ngựa lấy đồ, mới thấy đồ còn, ngựa mất, liền gánh đồ trở lại thưa với thầy rằng:
– Con rồng đã biến mất rồi, nó dọa ngựa mình chạy mất. Xin thầy ngồi đó đặng tôi kiếm ngựa đem về.
Nói rồi nhảy lên mây, ở nửa lừng dòm xuống, nheo con mắt giộc, coi không sót chỗ nào. Thấy những là nai gấu hùm beo, kiếm không đặng ngựa liền nhảy xuống thưa với thầy rằng:
– Thầy ôi, con ngựa của mình chắc bị rồng yêu nuốt sống, coi khắp rừng khắp núi không thấy dạng thấy hình.
Tam Tạng nói:
– Miệng con rồng bao lớn, nuốt luôn và ngựa và yên? Thế nó trốn trong kẹt đá chân non, ngươi gắng công kiếm lại.
Tôn Hành Giả nói:
– Thầy chưa rõ, để tôi thưa lại cho rành, cặp con mắt của tôi, coi xa ngàn dặm. Cánh chuồng chuồng là mỏng, tôi cũng thấy rõ ràng. Huống chi con ngựa sầm sầm, chẳng phải quáng manh mà không thấy?
Tam Tạng nghe nói than rằng:
– Nếu nó nuốt con ngựa rồi, ta đi bộ làm sao cho thấu. Tội nghiệp quá! Con ngựa công lao mà bị chết, dặm trường diệu vợi thiệt khôn đi.
Nói rồi thở vắn thở dài, khóc hoài khóc hũy.
Tôn Hành Giả thấy thầy than khóc nổi xung mà nói rằng:
– Trò đừng có đi, sợ nó lén bòø lên mà ăn thịt thầy nữa, nếu ngựa người đồng bộ vô bụng nó, thì làm sao mà đi đến Tây Phương.
Tôn Hành Giả nổi nóng hét lớn rằng:
– Thầy thiệt bất nhân quá! Ngựa thời cũng muốn cởi, mà không nới tôi ra, nếu vậy thì thầy trò cứ ngồi kỳ, giữ gánh đồ cho tới chết.
Hai thầy trò đương dục dặc xảy nghe tiếng nói thinh không rằng:
– Tôn Hành Giả chớ ngầy, Ðường ngự đệ đừng khóc, Phật Quan Âm sai chúng tôi xuống, mà phò hộ kẻ thỉnh kinh.
Tam Tạng nghe nói lau nước mắt mà lạy khang, Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Các ngươi là thần gì, xưng tên cho ta rõ.
Các thần nói:
– Ta là thần Lục đinh Lục giáp, năm phương Yết Ðế, bốn vị Công Tào, chúng tôi thay phiên đi theo bảo hộ.
Tôn Hành Giả nói:
– Vậy thời sáu thần Lục đinh, và Công Tào Yết Ðế, ở đây bảo hộ thầy ta. Ðặng Lão Tôn đi kiếm con rồng đòi con ngựa.
Các thần nói:
– Có chúng tôi bảo hộ không hề gì đâu.
Tam Tạng nghe nói hết lo, ngồi một mình trên bàn thạch.
Còn Tôn Hành Giả xách thiết bảng đi tới mé suối, mà kêu lớn rằng:
– Bớ con rồng ăn trộm, trả con ngựa cho tao.
Cứ đứng kêu hoài, vang trời vang đất.
Còn con rồng, đói bắt đặng ngựa ăn no, xuống đáy suối nằm khoanh không thèm lên nữa. Xảy nghe tiếng kêu réo, tức thời nổi sóng trèo lên hỏi rằng:
– Mầy là thằng nào đó, ở đâu dám tới đây? Không ai mắc nợ mắc nần, cứ réo hoài réo hũy?
Tôn Hành Giả ngó thấy, hét lớn rằng:
– Tao ở đâu thì tao ở, mầy tra hỏi làm chi? Phải trả ngựa cho tao.
Nói rồi đập một cây thiết bảng.
Rồng chờn vờn đỡ ra, hả miệng nhăn nanh, hai đàng đánh dựa suối hồi lâu, rồng ráng đà hết sức, tính bề không cự lại, lặn xuống suối trốn đi.
Tôn Hành Giả giận quá, chưởi mắng nát tan, rồng giả đò lãng tai không dám ló đầu lên nữa.
Tôn Hành Giả mắng mỏi miệng, về thưa lại cho thầy hay. Tam Tạng nói:
– Ngày trước ngươi đánh cọp, khoe tài bắt đặng rồng, thế con rồng này là chúa đoàn, nên ngươi bắt không đặng?
Tôn Hành Giả nghe thầy nói khích, nổi gan mà hét lớn rằng:
– Ðừng nói nữa, đừng nói nữa, để phen này tôi giết nó cho thầy coi.
Nói rồi xách thiết bảng tới nơi khuất đục ngầu cả suối.
Con rồng nằm không đặng, nổi gan nhảy lên suối mà mắng rằng:
– Bộ mặt lọ nồi không biết xấu, tới đây làm khỉ với ai?
Tôn Hành Giả nói:
– Mầy trả ngựa cho tao, thì mầy mới còn sống.
Rồng nói:
– Tao ăn con ngựa mầy đà tiêu mất, làm sao mà trả bây giờ? Mầy làm sao thì làm đi, muốn nói gì thì nói thử?
Tôn Hành Giả nói:
– Tao nói cho con cá chạch biết, nếu mầy không trả ngựa, thì tao đập chết mà trừ.
Nói rồi giơ thiết bảng đánh liền, rồng cũng nổi xung chụp đại; đánh hơn một chập mới hay khỉ mạnh hơn rồng. Rồng hóa ra rắn nước, lủi vô bụi cỏ tức thì, Tôn Hành Giả vạch cỏ kiếm hoài, kiếm không đặng rắn, Tôn Hành Giả tức mình hết sức, đọc thần chú vội vàng, đòi Sơn thần, Thổ Ðịa, hai người tới đồng quì trước mặt.
Tôn Hành Giả nói:
– Thôi, hai ngươi cúi xuống đây, đánh năm hèo dằn mặt.
Sơn thần, Thổ Ðịa đồng năn nỉ rằng:
– Bấy lâu tưởng Ðại Thánh còn nằm tại Ngũ Hành sơn, không dè ngài đến đây nên chẳng ra nghinh tiếp, xin ngài rộng lượng dung thứ một phen.
Tôn Hành Giả nói:
– Ngươi biết lỗi thì ta tha, cũng vị tình nhất thứ. Ngươi nói cho ta nghe thử, con rồng nào đến ở suối này? Nó ăn con ngựa của thầy ta, hóa rắn nước trốn chui trốn nhũi. Thổ Ðịa, Sơn thần đồng hỏi rằng:
– Như Ðại Thánh là: Chẳng phục trời, không sợ đất, đốt không cháy, chém không trầy. Sao nay lại có thầy, xin nói ra cho rõ?
Tôn Hành Giả nói:
– Thiệt các ngươi không biết, để ta thuật lại cho mà nghe: Bởi vâng lệnh Quan Âm làm học trò Tam Tạng. Ði thỉnh kinh bên Tây độ, bị con rồng ác nghiệp ăn tươi con ngựa của thầy ta.
Sơn thần Thổ Ðịa nói rằng:
– Cái suối này, thuở nay không có yêu ở. Suối sâu và rộng, nước trong như thể mắt mèo. Ó và quạ bay qua, thấy hình dưới mặt nước. Ngỡ một bầy với nó, bay xuống suối mà chết hoài. Nên gọi rằng suối Ưng Sầu nghĩa là chim ưng (ó) thường sầu thảm. Năm trước Quan Âm bồ tát, đi tìm kẻ thỉnh kinh, có cứu một con rồng, biểu ở mà tu dưới suối, không cho làm dữ, chờ người thỉnh kinh sẽ đi theo, không dè làm nhăn mà nuốt con ngựa của Ðại Thánh.
Tôn Hành Giả nói:
– Nó mới hóa ra rắn nước, trốn vô đám cỏ này, không biết vì cớ nào, tôi kiếm hoài chẳng thấy?
Thổ Ðịa nói:
– Cái suối này cả muôn lỗ mội, thiếu chi chỗ nó ẩn mình, thôi Ðại Thánh đừng nóng giận làm chi, phải thỉnh Quan Âm bắt nó.
Tôn Hành Giả nghe nói biểu Sơn thần, Thổ Ðịa đi theo.
Tôn Hành Giả về thưa các việc cho thầy hay, xin thỉnh Quan Âm mới đặng.
Tam Tạng nói:
– Nếu đi thỉnh Quan Âm bên Ðông hải, biết chừng nào ngươi trở về đây? Ta đợi lâu ngày, ắt là chết đói.
Nói chưa dứt tiếng, nghe thinh không có kẻ kêu rằng:
– Ta là thần Yết Ðế đầu vàng nói cho Ðại Thánh rõ, hãy ở giữ thầy Tam Tạng, để ta đi thỉnh Quan Âm.
Tôn Hành Giả nghe nói mừng rằng:
– Tôi cám ơn lắm.
Bây giờ nói về ông thần Yết Ðế, đến núi Lạc Ðà vào trong rừng Tử Trước mà ra mắt Quan Âm, rồi thuật hết công việc.
Quan Âm nghe nói, bước xuống tòa sen, đằng vân cùng Yết Ðế, bay qua khỏi Nam Hải, liền tới núi Xà Bàn, thấy Hành Giả đương kêu réo con rồng, dựa bên mé suối, Quan Âm sai Yết Ðế kêu Hành Giả tức thì.
Tôn Hành Giả nghe kêu tới liền nhảy lên mây mà nói lớn rằng:
– Ngài là Phật từ bi, hay cứu người tai nạn, sao còn truyền phép độc mà hại tôi là kẻ tu hành.
Quan Âm nói:
– Ngươi là con khỉ lớn mật, không biết ơn ai, ta hết lòng tìm kẻ thỉnh kinh, mà cứu ngươi khỏi nạn, chẳng biết tạ ơn thì chớ, lại còn cả tiếng nặng lời.
Tôn Hành Giả nói:
– Bà báo hại tôi hết sức! Ðã cứu tôi khỏi nạn, cũng vâng lời theo kẻ thỉnh kinh. Sao bà lại bất nhân, để cái kim cô trên mão, gạt tôi đội mão ấy, truyền niệm chú nhức đầu. Phải là bà hại sanh cầu, sao gọi là từ bi cứu khổ?
Quan Âm nghe nói cười rằng:
– Ngươi là con khỉ nghịch mạng; nói không chịu phép, dạy chẳng nghe lời. Nếu chẳng niền đầu, thì làm hung như trước, chẳng nghe lời thầy dạy biểu, nói động thì đi. Phải cho đội kim cô mới biết kiên thần chú.
Tôn Hành Giả nói:
– Bà đã niền đầu con khỉ sao không niệt cổ con rồng, nuôi nó ở suối này, rượt thầy tôi chạy chết, lại ăn tươi con ngựa, bà không nói động chút nào? Còn riêng dạ ghét thương, sao gọi công bình chánh trực.
Quan Âm nói:
– Con rồng ấy có tội, ta xin mới còn hồn, biểu ở đây mà chờ, sau làm ngựa cho thầy ngươi cởi. Nếu con ngựa phàm tục đi sao tới Tây Phương, làm sao mà mất lẻ công bình, mà gọi rằng thương ghét?
Tôn Hành Giả nói:
– Nó sợ tôi đà trốn mất, bây giờ biết tính làm sao?
Quan Âm bảo Yết đế rằng:
– Ngươi xuống mé suối mà kêu lớn như vầy: Bớ rồng ngọc, là thái tử thứ ba, có phật Quan Âm đòi, phải lên lập tức.
Yết Ðế vâng lời, xuống kêu như vậy.
Con rồng ngọc nổi sóng, lên khỏi suối, hóa hình người, lên mây lạy Quan Âm mà bạch rằng:
– Tôi nhờ ơn thầy cứu nạn, vâng lời ở lại suối này, hằng ngày mắt ngó lom lom, không thấy kẻ thỉnh kinh đi đến.
Quan Âm chỉ Tôn Hành Giả mà nói rằng:
– Ấy là học trò thầy thỉnh kinh đó.
Tiểu long nói:
– Bạch Bồ Tát, người ấy dữ tợn lắm, hôm qua tôi đói quá, ăn con ngựa của y, bị đánh chưởi cả ngày, không nghe nói thỉnh kinh một tiếng.
Tôn Hành Giả trợn con mắt giộc mà nói rằng:
– Tại mầy không hỏi tên họ, tao chẳng lẻ khi không mà nói.
Tiểu long nói:
– Tao có hỏi: Mầy là thằng nào đó? Ở đâu dám tới đây? Mầy nói: Tao ở đâu thì tao ở, mầy tra hỏi làm chi, phải trả ngựa cho tao. Nói rồi liền đánh bổ, tại mầy không thèm nói, phải tại tao không hỏi hay sao?
Quan Âm nói:
– Cũng tại con khỉ già làm phách, đời nào chịu mượn tiếng ai. Ta dặn cho: Từ này sắp sau hãy còn người theo nữa. Nếu gặp ai hỏi tới, thì phải nói đi thỉnh kinh, hoặc khi gặp người của ta, thì khỏi mất công đánh đập.
Tôn Hành Giả dạ luôn ba bốn tiếng.
Quan Âm lấy trái châu dưới cổ Tiểu Long, rồi lấy cành dương nhúng nước cam lồ rảy trên mình nó, thổi một hơi, hét một tiếng biểu biến, liền biến ra con ngựa kim, Quan Âm dặn rằng:
– Ngươi phải hết lòng đi cho tới Tây Phương Phật thì hóa đặng mình vàng.
Ngựa ấy ngậm hàm thiết gật đầu.
Quan Âm truyền Hành Giả dắt về cho Tam Tạng.
Quan Âm giả từ về Nam Hải. Tôn Hành Giả níu áo lại mà nói rằng:
– Tôi không chịu đi đâu! Ðường gay khổ quá, dắt ông thầy phàm tục đi chừng nào cho tới Tây Phương? Hết nạn này tới tai kia, sợ tôi không sống đặng. Thế này khó thành Phật, tôi không chịu đi đâu!
Quan Âm nói:
– Khi trước ngươi còn cốt thú cũng bền chí tu hành, ngày nay khỏi nạn trời, sao lại sanh biếng nhác? Việc tu hành thì chịu cực, dày công quả mới thành. Thôi để ta cho phép nhà ngươi, đến lúc nghiêng nghèo, kêu trời thì trời thương, kêu đất thì đất cứu. Thôi, ngươi day lưng lại đây, đặng ta làm phép cho.
Quan Âm rứt ra ba lá dương, để dưới ót Hành Giả hét lên một tiếng, biến ra ba sợi lông dài, gọi là lông cứu mạng.
Quan Âm dặn rằng:
– Như lúc nào khốn nạn, có lông tài không đế nổi bỏ mình.
Hành Giả nghe nhiều tiếng nói êm, liền lạy tạ ơn Bồ Tát, Quan Âm về Nam Hải, Tôn Hành Giả dắt ngựa về thưa với thầy rằng:
– Bạch thầy, con ngựa đó.
Tam Tạng mừng rằng:
– Con ngựa bây giờ, sao phát phì dữ vậy? Kiếm đặng ở đâu đó, nói lại ta nghe?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Thầy nói chuyện chiêm bao sao vậy? Nhờ ông Yết Ðế mời phật Quan Âm, bắt rồng bạch lấy châu, hóa ngựa kim thế mạng, bữa trước rượt thầy chạy chết, bây giờ làm bộ hiền lành, nếu sau sanh chứng điều chi, thầy nói cho tôi đánh nó.
Tam Tạng nghe nói, lượm đất làm hương, để trên bàn thạch, lạy về Nam Hải tạ ơn. Tôn Hành Giả nói:
– Chư thầy giúp việc đã xong, nay ở đâu về đó.
Nói rồi mời thầy lên ngựa, cất gánh đi theo, đi tới suối Ưng Sầu vừa muốn cõng thầy mà lội.
Xảy thấy ông câu chống bè thả tới.
Tôn Hành Giả ngoắt mà nói rằng:
– Ông làm ơn một phen, đưa thầy trò tôi qua suối.
Ông câu chống bè lại, Tôn Hành Giả dắt thầy bước xuống bè, rồi quảy gánh lên vai, dắt ngựa xuống bè xong xả.
Ông câu chống bè mau tợ gió bay, lẹ như tên bắn, tức thì khỏi suối, tới mé bên Tây. Thầy trò đồng lên bờ, Tam Tạng biểu lấy tiền mà trả.
Ông câu không chịu lãnh chống bè ra giữa suối mù mù.
Tam Tạng chấp tay bái hoài, rằng nhờ ơn đưa đón.
Tôn Hành Giả nói:
– Thầy không biết nên nói ơn nghĩa, nó là thần ở suối này, cứ phép phải đưa qua, đâu dám thâu tiền bạc.
Tam Tạng gật đầu nói phải, liền lên ngựa thẳng xông.
Thầy trò đi hồi lâu, mặt trời chen lặn.
Tam Tạng thấy bên đường có một cái miễu lớn, liền xuống ngựa ghé vào, thấy trên cửa có treo một tấm biển ba chữa rằng: “Lý Xả từ”.
Xảy thấy ông già mang chổi bồ đề ra rước, chắp tay mà nói rằng:
– Xin Hòa Thượng vào trong ngồi nghỉ.
Tam Tạng bái lạy mà hỏi rằng:
– Miễu này sao gọi là Lý Xả.
Ông già nói:
– Ðây là nước Hấp Mật, cái đình này của xóm làng đứng lập, để thờ phượng Thổ thần. Chẳng hay thầy ở chùa nào? Mà đi đâu đó?.
Tam Tạng nói:
– Tôi ở Ðông Ðộ, về nước Ðại Ðường, vâng lệnh vua thỉnh kinh, nay lỡ đường xin ngủ đỡ.
Ông già thấy con ngựa không yên, liền hỏi vì cớ nào vậy?
Tôn Hành Giả thuật chuyện lại, ông già ấy nói rằng:
– Xong lắm, xong lắm! Tôi có bộ yên tốt quá, xin cúng cho thầy.
Sáng ngày đem bộ yên ra đưa cho thầy Tam Tạng.
Tam Tạng mừng rỡ tỏ sự tạ ơn.
Tôn Hành Giả đi thắng yên vừa vặn không sai một thí, Tam Tạng giả từ ra cửa, ông già lại cho thêm một cây roi ngựa bằng gân cọp làm ra.
Tam Tạng đi một hồi, ngó lại miễu đình đâu mất, nghe tiếng nói văng vẳng rằng:
– Ta là Sơn thần, Thổ Ðịa, vâng lệnh Quan Âm bồ tát, đem cho yên ngựa và roi, thầy rán sức mà đi, chẳng nên trễ nãi.
Tam Tạng nghe nói xuống ngựa lạy rằng:
– Tôi là mắt thịt xác phàm, xin cam thất lễ.
Tôn Hành Giả đứng coi cười ngất, Tam Tạng quở rằng:
– Nghĩa gì nhà ngươi không lạy, đứng chống nạnh mà cười?
Tôn Hành Giả nói:
– Chúng nó giấu đầu bày đuôi, đáng lẻ bắt đánh chơi vài chục, bởi vị lòng Bồ Tát, nên tha chúng nó một phen, không đánh thời thôi, tội gì mà lạy nữa?
Tam Tạng giận chờ dậy, lên ngựa mà đi, những là voi, gấu, hùm, beo, biết mặt Tề Thiên đều tránh hết.
Mùa Ðông này đã mãn, tiết Xuân tới đà sang, cây cỏ nảy chồi xanh, núi rừng bày sắc lục, lá mai đã úa, nhành liễu vừa xanh, thầy trò đi một hồi lâu, xem thấy mặt trời chen lặn, Tam Tạng ngó quanh ngó quất, đặng kiếm xóm nghỉ ngơi, xảy thấy một tòa nhà cao lớn, liền hỏi Hành Giả rằng:
– Ngươi coi có phải là nhà giàu trước mặt đó chăng?
Tôn Hành Giả xem lại thưa rằng:
– Chắc không phải nhà ai, một là chùa chiền, hai là đình miễu; vậy thì thầy trò vào đó mà nghỉ, rồi mai sáng sẽ đi.
Tam Tạng nghe nói lòng mừng giục Long Cu riết tới.
Nói về hai thầy trò đi đền cửa chùa, Tam Tạng liền xuống ngựa, mấy sãi bước ra chào hỏi. Tam Tạng thuật hết sự tình, các sãi mời Tam Tạng vào trong.
Hành Giả dắt ngựa theo bén gót, các sãi thấy Hành Giả hình dung kỳ dị, mới hỏi thăm Tam Tạng rằng:
– Ông tướng gì dắt ngựa đó vậy?
Tam Tạng nói rằng:
– Thầy nói nhỏ nhỏ vậy, chớ nó nóng nảy lắm, hể ai nói động tới nó thì không dung, nó là học trò tôi mà dạy biểu không đặng.
Các sãi nói:
– Học trò gì mà xấu dữ vậy?
Tam Tạng nói:
– Tuy tướng mạo xấu hung, mà tài năng giỏi lắm.
Tam Tạng bước lên chùa lớn, thấy tấm biển đề bốn chữ rằng: “Quan Âm thiền viện”.
Tam Tạng mừng quá đổi mừng, bước vào chùa lạy phật Quan Âm.
Hành Giả dộng chuông, thầy chùa đánh trống, Tam Tạng quì lạy, vái phật Quan Âm, lạy cúng xong rồi thầy chùa thôi đánh trống, còn một mình Hành Giả đứng dộng chuông hoài.
Các sãi hỏi rằng:
– Thầy lạy đã rồi còn dộng chuông làm chi nữa?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Các ông không hiểu, để tôi nói cho mà nghe. Làm Hòa Thượng một ngày thì dộng chuông một bữa.
Khi ấy các sãi nghe tiếng chuông loạn đã, không có chập có hồi, rùng rùng kéo ra mà hỏi rằng:
– Thằng điên nào phá chuông đó?
Tôn Hành Giả nhảy ra hét lớn rằng:
– Ấy là ông ngoại bây đó, dộng chuông lớn giải buồn.
Các sãi nghe nói tiếng vang như sấm nổ, mặt dữ tợ Thiên Lôi, té ngữa té nghiêng, bó càng bò niễng, miệng la bài hãi rằng:
– Xin Lôi Công dung mạng.
Tôn Hành Giả nói:
– Thiên lôi là chắt chít của ta đó, thôi, chờ dậy mà đi, không hề chi mà sợ, thiệt là ông lớn nước Ðại Ðường.
Các sãi thấy Tam Tạng vui vẻ mới mừng, liền đãi trà nước.
Xảy thấy hai đạo nhỏ, hầu một sãi già ra trước, các Hòa Thượng nói rằng:
– Có Tổ sư ra đó.
Tam Tạng đứng dậy bái liền, ông Sãi già cũng bái lại mà nói rằng:
– Tôi mới nghe trẻ nói rằng: “Ông lớn ở nước Ðại Ðường đến đây, nên phải ra nghinh tiếp, chẳng hay từ đó đến đây, ước chừng mấy dặm?”
Tam Tạng nói:
– Từ thành vua ra khỏi Trường An, cũng hơn năm ngàn dặm, qua khỏi núi Lưỡng giới nước Tây Phiên và nước Hấp Mật, phỏng sáu ngàn dặm đường.
Sãi già nói:
– Nói vậy từ đó đến cũng hơn muôn dặm, phận tôi quê lắm, ít dạo cõi đời, lục đục ở trong chùa, già đời không khỏi cửa, khác thể ếch ngồi đáy giếng thấy trời chẳng bao nhiêu.
Tam Tạng hỏi:
– Bạch thầy đặng mấy trăm năm tuổi?
Sãi già nói:
– Nhờ trời cho sống, hai trăm bảy chục tuổi rồi.
Tôn Hành Giả đứng dựa bên Tam Tạng, liền nói hỏi rằng:
– Còn nhỏ hơn sắp cháu chắt tôi đó!
Tam Tạng nháy một cái, Tôn Hành Giả làm thinh.
Một lát có đạo nhỏ bưng dĩa ngọc chén vàng, rót trà mà đãi.
Tam Tạng ngó thấy khen lắm:
– Thiệt là vật báu trong đời.
Sãi già nói:
– Xin thầy đừng khen vị tình, tôi lấy làm hổ thẹn. Thầy ở Trung Quốc chắc là nhiều vật báu hơn, có món chi cho tôi xem, lấy làm cám ơn lắm.
Tam Tạng than rằng:
– Ngặt nước tôi không vật chi báu, đem cho các sãi xem chơi.
Các sãi nghe nói tức cười.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Các ngươi cười chuyện gì vậy?
Hòa Thượng rằng:
– Ông nói áo cà sa là báu, ai nghe mà chẳng tức cười? Giá anh em tôi, cầm bỏ cũng hơn ba chục cái, chớ như của Tổ sư tôi đó, bảy tám trăm cái có dư, để tôi biểu đem ra cho mà coi, kẻo nghi là nói dối.
Hòa Thượng ấy hay diện lắm, biểu khiêng mười hai tủ áo ra. Ðôi bên giăng dây, tủ áo để giữa, lấy áo cà sa vắt từ cái, chỉ cho Tam Tạng với Hành Giả coi.
Thiệt là: Rằn rực cả nhà, đỏ đen bốn phía, những là kết hàng may gấm, thêu chữ đíùnh vàng.
Tôn Hành Giả xem thấy cười rằng:
– Tốt lắm, tốt lắm, cất đi, cất đi, để lấy áo cho các ngươi coi thử.
Tam Tạng níu Hành Giả mà nói rằng:
– Trò ôi! Ðừng khoe của tốt làm chi? Thầy trò mình cô thế, nếu mà hơ hỏng, e việc rủi ro. Lời xưa rằng: “Những vật quý báu trong đời, chẳng để cho nhiều người thấy là sợ tham lam, xem qua ngoài mắt, động đến trong lòng, bụng đà chi lắm thì sanh mưu kế, người ta lụy vì của, chim sẽ chết tại lòng”.
Tức thì chạy vô mở gói, lấy áo đem ra, màu sáng áo cà sa, chiếu thấu hai lớp giấy, mở giấy ra thì thấy hào quang chói mắt, hơi ánh sáng nhà, thầy nào cũng thất kinh, gãi đầu le lưỡi, nhứt là Sãi già thấy áo, muốn lấy được mà thôi.
Liền khóc rồi quì xuống nói với Tam Tạng rằng:
– Tôi lấy làm vô duyên xấu phước lắm!
Tam Tạng đỡ dậy nói rằng:
– Chuyện chi xin thầy nói, làm sao lại khóc than?
Sãi già nói rằng:
– Mới dở áo báu ra, trời đà vừa tối, phần con mắt tôi làn lỉnh chẳng rõ ràng. Ấy là xấu phước vô duyên, không tủi làm sao cho đặng? Phải chi thầy rộng rãi, cho tôi mượn vào phòng coi cho sáng đêm nay, đến rạng đông sẽ trả.
Tam Tạng nghe nói thất kinh, trách Hành Giả rằng:
– Cũng tại nhà ngươi hết thảy.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Không hề chi mà sợ! Tôi cho mượn thử coi, nếu có lẽ nào, thì cứ tôi mà trách. Nói rồi lấy áo, trao cho Sãi già tức thì Sãi già mừng rằng:
– Tôi cám ơn lắm.
Nói rồi truyền các sãi dọn cơm nước đãi đằng.
Tối lại sẽ dọn liêu cho hai ông ngủ, truyền rồi vào nhà hậu tức thì.
Khi ấy Sãi già đem gói áo vào phòng, hối đệ tử thắp đèn cho kíp, ôm gói áo mà khóc, nước mắt dầm dề.
Các sãi lấy làm lạ hỏi rằng:
– Vì cớ nào ông khóc làm vậy?
Sãi già nói:
– Ta khóc vì coi không đặng cái áo cà sa.
Các sãi thưa rằng:
– Áo cà sa trong gói, sao ông không mở mà coi, để khóc lóc làm chi, mà nói rằng coi không đặng?
Sãi già nói:
– Coi một giây một lát, rồi cũng như không? Ta hai trăm bảy chục tuổi rồi, sắm cà sa hơn mấy tủ, xét lại mấy trăm áo đó, không bằng một cái này. Nếu mặc đặng một ngày, chết cũng đặng nhắm mắt.
Các sãi nói:
– Ông muốn mặc áo đó có khó chi đâu. Cầm họ ở một ngày, thì ông mặc một bữa, cầm họ mười bữa, thì ông mặc mười ngày, chuyện ấy dễ như chơi, xin ông đừng khóc nữa.
Sãi già nói:
– Lẽ nào cầm cả năm, mặc cho phỉ chí? Chừng họ đi cũng theo họ mà bận hay sao? Mấy thầy trò đương nói với nhau, xây vần chưa dứt.
Có một Hòa Thượng nhỏ tên là Quảng Trí, ló cổ ra bạch rằng:
– Ông muốn bận hoài cũng không khó chi.
Sãi già nghe nói mừng rỡ hỏi rằng:
– Con tính làm sao đó?
Quảng Trí bạch rằng:
– Hai thầy trò họ, ngày đi mê mệt, tối ngủ li bì, sẽ phá cửa vào phòng cắt cổ đi cho rảnh, lại đặng gói đồ và con ngựa, áo cà sa truyền tử lưu tôn.
Sãi già nghe nói mừng lắm, lau nước mắt mà khen rằng:
– Kế ấy hay lắm, hãy đem dao búa cho mau.
Có Hòa Thượng nhỏ là Quảng Mưu, can rằng:
– Kế ấy không khéo, không khéo. Mình làm mưu hại nó, phải giữ thế mới xong, anh mặt trắng thì dễ lắm, chú mặt lông e khó chịu, mình giết mà không đặng, nó hại mình như chơi, tôi xin dâng kế này, đổ dầu bó củi mà thiêu. Họ tưởng là cháy chùa, mình khỏi mắc thường nhân mạng.
Sãi già khen rằng:
– Hay lắm! Hay lắm!
Truyền vác hết mấy đống củi, chất giáp vòng chùa.
Nói về thầy trò Tam Tạng, đương ngủ sau liêu, Tôn Hành Giả tuy ngủ mặc lòng, mà tai tỏ lắm, nghe tiếng kéo chà chất củi, sanh nghi ngờ dậy tức thì, sợ ở cửa thầy giật mình ngủ không ngon giấc.
Hành Giả hóa làm con ong nhỏ, chun cửa sổ mà bay ra.
Thấy các sãi đương chất củi tưới dầu. Hành Giả nực cười rằng:
– Nghĩ thầy mình nói phải lắm, nó quyết đốt cho chết, mà lấy áo cà sa, nó ở ác như vầy, cũng nên đập một hèo cho chết, nếu mình làm bất tử, sợ thầy nói sát sanh. Thôi thôi, phải tính thế làm êm, muốn vậy thì cho vậy.
Hành Giả nhảy lên trời một cái, tới cửa Nam Thiên Môn, các ông thần giữ cửa thất kinh, đồng la lớn rằng:
– Không xong, không xong, chắc Tề Thiên làm phản nữa.
Tôn Hành Giả khoát mà nói rằng:
– Tôi không phản mà các ông hòng sợ, thiệt đi tìm Quảmg Mục thiên vương.
Nói chưa dứt lời, xảy thấy Thiên Vương bước vào bái chào Hành Giả.
Tôn Hành Giả nói:
– Bây giờ không rảnh mà chuyện vản. Thầy tôi bị sãi đốt tại chùa, gấp rút như vầy, nên tìm ông lập tức, xin cho mượn cái lồng Tịch hỏa, xong rồi đem trả tức thì. Quảng Mục thiên vương hỏi:
– Nếu thầy bị lửa thiêu, sao chẳng hóa nước ra mà cứu, mượn làm chi Tịch hỏa trạo, mất công đem xuống đem lên.
Tôn Hành Giả nói:
– Bởi ông không rõ, để tôi cắt nghĩa cho mà nghe; nó đốt chùa lấy áo của mình, mình tưới nươc như chữa nhà cho nó, nên tôi mượn cái lồng Tịch hỏa mà đậy một mình thầy, nó đà tính việc sát nhân, để cháy chùa cho bỏ ghét.
Quảng Mục thiên vương cười rằng:
– Ông giộc này thiệt độc quá: Miễn cho mình khỏi hại, không thương xót tới ai.
Nói rồi lầy lồng ghép tức thì, mà trao cho Hành Giả.
Tôn Hành Giả liền kiếu rồi hiện hình về chùa lấy cái lồng linh che một khoản cho thầy, và đồ với ngựa, rồi hiện vào liêu của ông sãi, ngồi giữ áo cà sa, làm phép tiên nổi gió tức thì đặng cho mau cháy.
Còn lũ thầy chùa mới chế dầu châm lửa, xảy đâu gió tới ào ào.
Xưa là một kiểng chùa, nay hóa hòn núi lửa, nó cháy lan qua nhà hậu, không còn sót một nóc chùa, các sãi thất kinh, vò đầu vang xiết.
Bây giờ thôi niệm Phật, lúc ấy cứ kêu trời, thầy cả đội bàn, thầy con mang gói, kẻ thì xúc gạo người lại dọn đồ.
Thiệt là:
Ai làm dữ nấy lo,
Ai đánh to thua lớn.
Khi ấy có con tinh ở núi Hắc Phong, ngủ mới thức dậy ngó ra song, thấy phía Bắc lửa cháy đỏ trời, con tinh ấy thất kinh nói rằng: “Cha chả! Chùa Quan Âm cháy rồi, ta mau đi chữa lửa.
Liền đằng vân bay tới, thấy sau liêu không lửa, có một người ngồi trên trính, thổi gió làm giông còn trên bàn để một gói đồ, hào quang sáng giới, mở ra xem thấy một cái áo cà sa, ấy là: Gặp của báu thì động lòng người, thì không thèm chữa lửa, gói áo cà sa lại, xách về động Hắc Phong.
Còn lửa cháy tới canh năm mới thiệt tắt ngọn, thầy con thầy cả than khóc vang tai. Tôn Hành Giả lấy lồng phép nhảy lên mây, trả rồi trở lại biến con ong chun vào cửa sổ, hiện hình người cất tiếng rằng: “Dậy bới thầy, mặt trời đã mọc”.
Tam Tạng chờ dậy bận áo, mở cửa phòng bước ra, thấy một đống lửa than, chùa chiền đâu mất.
Tam Tạng thất kinh hồn vía, hỏi Hành Giả rằng:
– Ðêm nay thầy ngủ ngon, không hay lửa cháy.
Tam Tạng hỏi:
– Sao cái buồng còn nguyên hiện, nói thử mà nghe.
Tôn Hành Giả nói:
– Có tôi giữ cái buồng cho thầy, nên lửa không cháy tới.
Tam Tạng nói:
– Ngươi có thần thông như vậy, sao không bảo hộ cả chùa?
Tôn Hành Giả nói:
– Ðể tôi thưa lại cho rành, thiệt lời thầy bàn linh lắm; nó quyết đốt thầy trò cho chết, mà lấy áo cà sa, phải tôi không hay thì thầy trò bị thiêu hết, tôi thấy nó ở ác, nên không thèm chữa lửa, lại giùm một trận giông.
Tam Tạng hỏi:
– Lửa cháy thì tưới nước, giùm giông giùm gió làm chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Lời xưa rằng: Người chẳng dốc lòng giết cọp, cọp đâu nỡ dạ ăn ngươi, nếu né chẳng đốt chùa, thì tôi không làm gió.
Tam Tạng hỏi:
– Nếu vậy, áo cà sa đã cháy rồi sao?
Tôn Hành Giả nói:
– Không hề gì, áo cà sa có Tịch hỏa châu, để trong liêu không cháy, để tôi vô đó mà lấy, không mất đi đâu?
Tôn Hành Giả gánh đồ, còn Tam Tạng dắt ngựa, vào sau phương trượng thấy sãi già, sãi trẻ khóc than. Thấy thầy trò bước vào, các sãi thất kinh hồn vía, nói rằng: – – – Hồn oan vào đòi mạng kia kìa!
Ðồng quỳ xuống lạy rằng:
– Oan có nhà oan, nợ có chủ nợ, chúng tôi không can chi hết, tại Quảng Mưu và ông tổ đốt chùa.
Tôn Hành Giả hét một tiếng rằng:
– Ðồ chó chết mà! Ai là hồn ma mà nói bậy, trả áo cà sa lại kẻo mà chết cả bầy.
Có hai thầy sãi dạn lắm hỏi rằng:
– Hai ông đã bị chết thiêu, sao nay vào đòi áo cà sa, có phải hồn ma hay là còn sống?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Trong liêu không có cháy, các ngươi ra trước mà coi.
Các sãi chạy ra xem, thiệt thấy cái buồng còn nguyên hiện, thất kinh chắc lưỡi than rằng:
– Tam Tạng là ông thần, nên đốt không chết, té ra làm hư hại chùa mình, lấy áo cà sa mà trả cho ngài kẻo tội.
Chẳng ngờ sãi già chiếm cà sa không đặng, lại thêm cháy hết chùa chiền, tức mình không biết làm sao, liều mạng đập đầu mà chết.
Các sãi khóc rằng:
– Thầy cả liều mình mà chết, kiếm không ra cái áo cà sa, chúng tôi không biết làm sao? Nhờ Thần nhân soi sét.
Tôn Hành Giả nói:
– Chắc chúng bây ăn cắp, bây giờ phải xét mới xong.
Nói rồi xét mấy rương đồ, kiếm hoài không đặng. Tam Tạng lấy làm tức tối, cứ ngầy Hành Giả luôn luôn.
Ngồi niệm chú định tâm, Tôn Hành Giả nhức đầu ngã lăn xuống đất.
Tam Tạng vị tình thôi niệm, Tôn Hành Giả chờ dậy, rút thiết bảng ra đương lúc giận cùng, muốn đánh mấy ông Hòa Thượng.
Tam Tạng hét mà cản rằng:
– Mầy là con khỉ dữ, không sợ nhức đầu, chẳng biết lỗi mình, muốn đánh người ta nữa, hãy hỏi đi hỏi lại, coi ai thấy hay chăng?
Các sãi lạy mà khóc rằng:
– Thiệt chúng tôi không biết, tại ông già chết, bầy đặt hồi hôm. Nổi lửa đốt chùa quyết hại người mà lấy của, trong lúc lửa cháy, chúng tôi lật đật dọn đồ, không biết vì cớ nào áo cà sa mất biệt.
Tôn Hành Giả giận lắm, liền đi thẳng vào liêu cởi áo ông thầy già, kiếm cũng không có; giận đào đất ba thước, kiếm cũng không ra.
Tôn Hành Giả ngẫm nghĩ, rồi hỏi các sãi rằng:
– Gần đây có yêu quỷ hay không?
Các sãi nói:
– Phía bên Nam có núi Hắc Phong, chúa động thường chơi với thầy cả.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Ðây đến núi Hắc Phong chừng mấy dặm?
Các sãi nói:
– Chừng hai mươi dặm mà thôi.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Xin thầy đừng lo, tôi chắc con yêu này ăn cắp, để tôi qua bển làm sao cũng có áo cà sa.
Rồi nói với các sãi rằng:
– Các ngươi phải hầu hạ thầy ta, giữ gìn con ngựa; nếu điều chi sai chạy, thì ta đánh như vầy.
Nói rồi đưa thiết bảng đập vào vách tường, gạch nát luôn tám miếng.