Chương 17: Hành Giả đánh yêu ăn trộm – Quan Âm bắt gấu thành tinh

Tôn Hành Giả nhảy lên mây, các sãi thấy thất kinh hồn vía, đồng quỳ lạy nói rằng: – — Ngài thiệt là thần nhân, biết đằng vân giá võ, không sợ lửa đốt, dám đánh yêu tinh. Tại ông già chẳng biết coi người, nên trời khiến mình làm mình chịu.

Tam Tạng nói:

– Thôi các ông chờ dậy, đừng phiền não làm chi, vái cho kiếm đặng cà sa thì xong xuôi mọi việc, sợ tìm không đặng, ắt là nó chẳng dung tình.

Các sãi nghe nói đồng niệm phật vang trời, xin thần thánh xét soi, kiếm áo cà sa cho đặng.

Nói về Tôn Hành Giả đằng vân tới núi Hắc Phong nhằm tiết tháng ba, xem núi non tốt lắm, có bài thơ cuối mùa Xuân như vầy:

Khắp nẻo nguồn khe chảy,

Ðầu non hoa cỏ đơm

Chim kêu người chẳng thấy,

Bông rụng nhánh còn thơm.

Tôn Hành Giả đương xem nghe trong bụi có người nói chuyện.

Hành Giả lén xuống, dòm thấy ba con yêu ngồi dưới đất mà nói chuyện với nhau; một thằng ngồi giữa mặt đen, bên tả là đạo sĩ, bên hữu là tú tài áo trắng, ngồi nói kinh nói sách, khoe phép khoe tài.

Người mặt đen cười rằng:

– Ít bữa nữa đến ngày sinh nhật của tôi, xin hai ông ráng đến.

Tú tài áo trắng nói rằng:

– Năm nào tôi cũng tới Ðại vương, có lẻ nào năm nay không đến?

Người mặt đen nói:

– Tôi xí đặng vật báu, là cái áo cà sa, tính mai làm hội Phật Y đặng ăn mừng một tiệc.

Ðại sĩ nghe nói cười rằng:

– Hay lắm, hay lắm! Tôi chẳng dám quên, ngày mai dự tiệc ăn mừng, ở ít bữa cho qua đám sinh nhật.

Tôn Hành Giả nghe nói, nín không đặng, nhảy ra giá thiết bảng hét lớn rằng:

– Mầy là đồ quỷ, ăn cắp áo cà sa, đừng lo làm Phật Y, phải trả cho tao lập tức.

Nói vừa dứt tiếng, giơ thiết bảng đánh liền, thằng mặt đen nổi gió trốn đi.

Lão đạo sĩ đằng vân bay mất, đập Tú tài áo trắng chết tốt hóa ra Bạch hoa xà, Hành Giả nổi nóng xách lên bứt con rắn đứt làm hai khúc. Rồi chạy vòng theo núi, mà kiếm quỷ mặt đen, xảy thấy động yêu, đóng cửa chặt kính, biển đề “Hắc phong động” rõ ràng.

Tôn Hành Giả giá thiết bảng kêu rằng:

– Bớ thằng chó chết, trả áo cà sa cho mau.

Yêu nhỏ vào báo rằng:

– Ðại vương ôi! Chắc làm hội Phật Y không đặng! Ngoài ngỏ có Thiên Lôi đầu trọc, đương đòi áo cà sa.

Hắc Phong nai nịt cầm cần thương, vòng ra cửa động.

Hành Giả thấy con tinh ấy: Ðội mão đen, mặc giáp sắt, cầm cây giáo cũng đen, coi giống cục than hầm một thứ.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Bộ mầy ở lò gốm thì phải?

Hắc Phong kêu lớn hỏi rằng:

– Mầy là Hòa Thượng chùa nào, áo cà sa làm mất ở đâu, khéo đến đây đòi bậy? Tôn Hành Giả nói:

– Áo cà sa để trong phương trượng tại chùa Quan Âm, hồi hôm bị lửa cháy chùa, mầy trà trộn lén vào ăn cắp, hăm làm hội Phật Y hồi nãy, bây giờ thiệt chối hay sao? Mau mau trả lại cho tao, mới là khỏi chết.

Hắc Phong nghe nói cười hả hả mà tiếc rằng:

– Mầy là đồ khốn nạn! Hồi hôm nổi lửa đốt chùa, ngồi làm phách hóa giông, chúng lấy cà sa không thấy, mầy là thằng gì đó, tài lực đáng bao nhiêu? Dám vác gậy đến đây, mà đặt điều nhìn bậy?

Tôn Hành Giả nói:

– Mầy là thằng cháu bất hiếu, nhè ông ngoại mà quên. Ông là học trò của Ðường ngự đệ tên là Hành Giả họ Tôn, nếu ta nói việc phép tài chắc nhà gả bay hồn mất vía.

Hắc Phong nói rằng:

– Ðâu mầy thử nói sự tích tao nghe?

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Con hãy đứng cho vững chân mà nghe ông nói.

Liền đọc hết đầu dây mối nhợ, rồi nói rằng:

– Mầy không tin thì hỏi thử thiên hạ, coi tao có phải là Yêu thứ nhứt hay không? Hắc Phong nghe nói cười rằng:

– Quả như lời nói đó, thì mầy là Bật Mã Ôn.

Tôn Hành Giả nghe kêu Bật Mã Ôn giận lắm, huơ thiết bảng đánh liền.

Hắc Phong lấy giáo đở ngang, đánh đấu đã hơn vài mươi hiệp, từ sớm mai đến đứng bóng, chưa biết hơn thua.

Hắc Phong đở thiết bảng nói rằng:

– Tôn Hành Giả ơi! Ðể ta về ăn cơm đã, rồi ra đánh tới chiều.

Nói rồi chạy về nhà, đóng cửa động chặt cứng, rồi cho mời bạn hữu tới mừng hội Phật y.

Hành Giả phá cửa không được, trở về chùa một nước.

Nói qua Tôn Hành Giả về tới chùa, thưa cùng Tam Tạng tự sự trước sau, các sãi nghe nói ra mối mới mừng, rồi vội vã dọn cơm chay mà đãi.

Tôn Hành Giả ăn cơm rồi lên núi nữa, quyết vào phá cửa đặng lấy áo cà sa, đương đi nửa đàng gặp một con yêu nhỏ, cặp nách cái hộp đi giữa lộ như bay.

Tôn Hành Giả đập một hèo thịt xương tan nát, dở hộp ra coi thử, thấy lá thiệp mời, đề rằng:

” Tôi là Hùng Bi, sai kính thiệp mời Kim Trì hòa thượng trước phòng xem rõ. Cảm tình dạy dỗ, mến đứt yêu thương. Ðêm hồi hôm thấy lửa cháy lan. Mà kể chắc mấy linh không nao núng. Tôi tới đó lửa tàn khói ngún, đâu thời may đặng áo cà sa. Tính mở tiệc hoa, ăn mừng vật quới. Xin ông ráng tới, mời trước ba ngày.”

Hành Giả coi rồi cười ngất rằng:

– Lão già ấy chết đà đáng số, nó là một lũ yêu tinh, hèn chi sống lâu, tới hai trăm bảy mươi tuổi. Chắc là yêu tinh truyền phép địa tiên cho nó nên trường thọ như vầy, để ta biến ra hình lão ấy, vào động mới xong. Hoặc may thấy áo cà sa thì giựt chạy về khỏi mắc công đánh đập.

Nói rồi niệm thần chú liền hóa Sãi già tới động Hắc Phong, đứng ngoài kêu mở cửa. Quỷ nhỏ vào báo rằng:

– Có Hòa Thượng Kim Trì tới.

Hắc phong ngẫm nghĩ rằng:

– Mình mới sai trẻ đi mời, lẻ nào tới mau như vậy?

Có khi Tôn Hành Giả biểu thầy đi đòi áo đó chăng? Trẻ bây cất áo cà sa, đừng để đó Kim Trì ngó thấy.

Tôn Hành Giả đến trước sân, thấy đào lý tốt tươi, tre tòng mát mẻ, khác màu nhà núi, giống cảnh cung tiên. Trước cửa cái đề đôi liển rằng:

Nương dựa non xanh, không việc tục,

Thảnh thơi động tía, tợ người tiên.

Tôn Hành Giả khen rằng:

– Thằng này yêu quái mặc lòng mà tánh ưa thanh tịnh.

Bước vào trong ngó thấy, những là rừng xoi cột xẻ, xong sáng cửa cao.

Hắc Phong ra nghinh tiếp nói rằng:

– Tối hôm nay không gặp mặt, lấy làm buồn bực quá chừng, mới sai trẻ đi mời thầy, mốt qua ăn tiệc, không dè thầy đến sớm, tôi mừng rỡ vô cùng.

Tôn Hành Giả nói:

– Tôi mấy bữa rầy mắc việc, bữa nay mới qua thăm, đi nửa đường gặp trẻ trao thơ, xem mới rõ mời qua hội cả, nên tôi đến trước xin cho coi áo phật ra thể nào?

Hắc Phong mời ngồi, đãi đằng trà nước.

Xảy thấy tiểu yêu tuần núi, chạy vào báo rằng:

– Ðại Vương ôi! Thằng nhỏ đi thơ, bị Hành Giả đánh chết, chắc nó giả Kim Trì hòa thượng, vào giựt áo cà sa.

Hắc Phong nghe nói nổi xung, giựt giáo đâm Tôn Hành Giả.

Tôn Hành Giả hiện hình thiệt, lấy thiết bảng đỡ liền, hai người đánh tại trước sân, đuổi ra ngoài cửa ngỏ, đành dồn tới chân núi, lần lần lên tới chân mây, đánh đà sập mặt trời, chưa biết ai thắng bại.

Hắc Phong nói:

– Họ Tôn, khoan đánh đã, bữa nay trời tối, để mai sẽ đánh cho trọn ngày.

Nói rồi nổi gió trở về đóng cửa động, không thèm đánh nữa.

Tôn Hành Giả hết phép, túng phải về chùa, thưa các việc cho thầy hay, bởi trời tối nên phải trở lại.

Tam Tạng hỏi:

– Nhà ngươi nhắm sức đánh lại nó hay không?

Tôn Hành Giả bạch rằng:

– Tôi không hơn sức nó bao nhiêu, nên chắc gấp chưa đặng!

Tam Tạng nói:

– Nếu cù cưa như vậy, chừng nào cho có áo cà sa?

Tôn Hành Giả thưa rằng:

– Tôi kỳ nội ngày mai làm sao cũng lấy đặng.

Các sãi dọn cơm tối, ăn uống xong rồi, ai nấy đồng nghỉ ngơi, Tôn Hành Giả nằm không cục cựa, có một mình Tam Tạng, thao thức sáng đêm.

Rạng đông Hành Giả chờ dậy, kêu các sãi dặn rằng:

– Các ngươi hầu hạ thầy, bây giờ ta đi nữa.

Tam Tạng bước xuống giường lập tức, kéo áo Hành Giả lại hỏi rằng:

– Bây giờ ngươi đi đâu đó?

Tôn Hành Giả thưa rằng:

– Tôi tưởng chuyện này, tại Quan Âm hết thảy, chùa bà tại đó, hưởng hương khói cửa người ta, để cho yêu quỷ ở gần làm điều tác tệ, nay để tôi qua Nam Hải, mà hỏi thử Phật bà, phải tính làm sao lấy áo cà sa trở lại.

Tam Tạng hỏi:

– Ngươi đi chừng nào về tới?

Tôn Hành Giả thưa rằng:

– Mau thì về kịp bữa cơm mai, trễ thì đứng bóng, làm sao tôi cũng lấy áo đem về. Thôi thầy buông cho tôi đi.

Nói rồi biến mất.

Tôn Hành Giả đằng vân tới Nam Hải, xem qua biển rộng mênh mông, non cao chớn chở, chính giữa có mấy loài chim tốt, trăm thứ hoa tươi, nồng nực mùi hương, chói lòa màu sáng.

Tôn Hành Giả đi tới trước tòa sen cúi đầu làm lễ.

Quan Âm hỏi:

– Nhà ngươi đi chuyện chi đây?

Hành Giả nói:

– Chùa bà ở gần núi Hắc Phong, hưởng không biết bao nhiêu hương khói. Bà cho con gấu ngựa ở gần một bên chùa, ăn cắp áo cà sa, tôi đòi hoài không trả, nên tôi xin lỗi, phải mắng vốn cho bà hay.

Quan Âm nói:

– Con khỉ này nói trái lẽ, tinh gấu ăn trộm áo, sao ngươi lại đòi ta, cũng tại con khỉ lớn gan đem khoe vật báu, đứa tiểu nhân ngó thấy, nên sanh sự như vầy. Ngươi còn làm quỷ nổi dông đốt chùa ta cháy rụi. Tội nhà ngươi dường ấy còn lên làm quỷ với ai?

Tôn Hành Giả nghe qua biết lỗi, liền quỳ lạy mà nói rằng:

– Thiệt bà nói phải lắm, xin từ bi tha tội cho tôi. Ngặt vì con tinh không chịu trả áo, phần thầy tôi làm ngặt, cứ niệm chú định tâm, báo hại tôi nhức đầu lòi hai con mắt, xin Bồ Tát từ bi hỉ xã, làm ơn thâu áo cà sa.

Quan Âm nói:

– Thôi, ta vị mặt thầy ngươi, rán đi giùm một chuyến.

Nói rồi đằng vân xuống, đi ngang núi Hắc phong, Tôn Hành Giả thấy đạo sĩ đi dựa chân núi, tay bưng dĩa lưu ly đựng hai viên thuốc.

Tôn Hành Giả nhảy xuống lấy thiết bảng đập đầu.

Quan Âm thất kinh nói rằng:

– Con khỉ yêu này thiệt dữ quá, nó không ăn trộm áo, cớ gì mà giết người ta.

Tôn Hành Giả nói:

– Bà không rõ tưởng nó là hiền, thiệt một tụi với con gấu ngựa, nó đi qua ăn tiệc đám sanh nhật con gấu kia, và mừng hội Phật Y, nên bưng thuốc dâng cho con gấu.

Nói rồi kéo thầy Ðạo sĩ chờ dậy, coi ra là chó sói lông xanh, rồi xem đáy dĩa lưu ly, chạm bốn chữ Lăng hư tữ chế. Nghĩa là thuốc của thầy Lăng Hư làm ra.

Tôn Hành Giả ngó thấy cười rằng:

– May lắm may lắm, tôi muốn làm một kế không biết bà có chịu cùng chăng?

Quan Âm rằng:

– Ngươi nói ta nghe thử.

Tôn Hành Giả nói:

– Cứ theo chữ ở dưới đít dĩa, thì lão này tên thiệt Lăng Hư. Nếu bà nghe kế tôi, thì phải hóa làm Ðạo sĩ, để tôi nuốt hai viên thuốc, rồi thâu hình hóa lại một huờn. Bà bưng vào động tức thì mà gạt con gấu uống, miễn tôi vô bụng nó, nó làm sao cũng trả áo cà sa, bằng chẳng đưa ra, tôi sẽ rút gân nuốt ruột.

Quan Âm nghe nói nực cười mà gật đầu, liền hóa phép thần thông biến làm Ðạo sĩ. Hình dung như tạt, cốt cách không sai.

Tôn Hành Giả cười hả hả mà hỏi rằng:

– Không biết phật yêu hay là yêu phật.

Quan Âm cười rằng:

– Yêu phật hình dung cũng vậy, dữ lành tâm địa khác nhau. Phật làm dữ cũng như yêu, yêu đi tu cũng thành phật.

Tôn Hành Giả nghe nói trí hóa mở mang, liền làm phép dùng mình, hóa làm huờn thuốc.

Quan Âm bưng dĩa thuốc đến cửa động Hắc Phong, thấy kiểng vật tốt tươi, bông hoa rực rỡ, liền khen thầm rằng:

– Con tinh ở núi này, coi giống người tu niệm.

Tiểu yêu ngó thấy, vào báo với Hắc Phong rằng:

– Có ông tiên Lăng Hư đi tới.

Hắc Phong ra rước vào, Quan Âm vô ngồi xuống, Hắc Phong nói:

– Tiên ông tưởng tình mà đến, tôi vinh biết dường nào!

Quan Âm nói:

– Nay đã gặp ngay sinh nhật, tôi xin dâng thuốc kim đơn.

Liền đứng dậy đưa dĩa thuốc mà chúc rằng:

– Xin uống huờn thuốc này sống lâu ngàn tuổi.

Hắc Phong ngậm thuốc chưa kịp nuốt, nó đả chạy tuốt khỏi họng, xuống tới bụng rồi.

Tôn Hành Giả hiện hình và đạp và tung trong bụng Hắc Phong nhào xuống đất năn nỉ xin tha.

Quan Âm hiện hình mà nói rằng:

– Ngươi trả áo cà sa, thì ta tha khỏi thác.

Hắc Phong biểu tiểu yêu đem áo ra.

Hành Giả chun lỗ mũi mà ra, giựt áo cà sa hai tay ôm chặt cứng.

Quan Âm sợ Hắc Phong làm dữ, lấy Kim cô quăng đại trên đầu.

Hắc Phong chờ dậy tức thì, lấy giáo đâm Hành Giả, Quan Âm liền niệm chú, Hắc Phong buông giáo, ôm đầu nhào xuống lăn chiên.

Quan Âm nói:

– Ngươi cũng nên bỏ thói yêu tinh mà quy theo phật.

Hắc Phong nói:

– Xin cho đầu hết nhức, thì tôi chịu quy y.

Tôn Hành Giả nói:

– Ngày giờ đâu mà nói cù cưa, để tôi đập một hèo cho rảnh.

Quan Âm cản rằng:

– Ðừng có giết nó, để ta dùng chuyện này.

Tôn Hành Giả nói:

– Dùng làm gì thằng ăn trộm đó?

Quan Âm nói:

– Núi Lạc đà không người coi giữ, nó đáng phong chức Thủ sơn đại thần.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Thiệt bà là phật từ bi, bắt thằng bợm niền đầu chớ không giết.

Quan Âm thí phát cho Hắc Phong, biểu cầm giáo theo hầu tả hữu.

Hắc Phong từ rầy sắp tới: Một tấm lòng hung khi ấy bỏ, bao nhiêu tánh dữ thuở này tiêu.

Quan Âm dặn Hành Giả rằng:

– Ngươi từ rầy sắp sau đừng sanh sự nữa.

Tôn Hành Giả chỉ mặt Hắc Phong mà dặn rằng:

– Phật bà chẳng thiếu chi vật báu, coi bằng mắt chớ bắt bàng tay, nếu thói cũ không chừa, chắc bị niền một cái nữa.

Nói rồi lạy tạ Bồ tát, rồi trở về chùa.

Quan Âm dẫn Hắc Phong đi về Nam Hải.

Chương 18: Quan Âm điện, Ðường Tăng khỏi nạn – Cao lão trang, Hành Giả bắt yêu

Bây giờ nói về Tôn Hành Giả thấy Quan Âm về rồi, Tôn Hành Giả trở lại động Hắc Phong, chất cũi tư bề đốt động, rồi mới đằng vân trở lại, thưa tự sự cho thầy hay, Tam Tạng vui mừng, day mặt phía Nam lạy nữa.

Các sãi mừng lòng niệm Phật vang trời, Tam Tạng truyền chôn cốt ông sãi già, sữa soạn chùa chiền tử tế.

Bữa sau Tam Tạng giả từ lên ngựa.

Tôn Hành Giả quảy gánh đi theo, các sãi đưa một hồi, kẻ lui người tới.

Hai thầy trò đi hơn bảy bữa, trời chiều đến một xóm kia nhà lá trùng trùng, rào trem mịt mịt.

Ăn no gà lợn về chuồng tối, say cụp già trai dạo xóm chiều.

Tôn Hành Giả khen rằng:

– Cái xóm này thiệt sung lắm.

Tam Tạng giục ngựa bước vào, xảy thấy một người trai, cầm dù mang gói, quần xăn tới háng, hăm hở chạy ra.

Tôn Hành Giả nắm lại hỏi rằng:

– Chú đi đâu lật đật vậy? Tôi hỏi một chuyện đã nào, chỗ này là xứ gì đó?

Người ấy gở tay mà cự rằng:

– Nội xóm này không người nào anh hỏi thăm sao? Làm thế gì mà kéo tôi lại vậy? Tôn Hành Giả cười rằng:

– Xin nói giùm một tiếng làm ơn, dầu chú có việc chi, tôi giúp cho cũng đặng.

Người ấy nhảy không khỏi, tức mình dặm cẳng mà nói rằng:

– Thời vận tôi xấu quá! Trong nhà bị lời ăn tiếng nói, ngoài đường lại thêm kẻ kéo người lôi.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Ðố chú mạnh bực nào mà vùng cho khỏi.

Người ấy tức mình buông dù xuống hai tay cào Hành Giả như mèo.

Hành Giả cũng không buông, tên ấy tức mình la lớn.

Tam Tạng thấy vậy nói rằng:

– Ngộ Không! Hỏi người khác cũng đặng, phải níu kéo làm chi?

Tôn Hành Giả nói:

– Tôi hỏi quyết chú này, là có ý lắm!

Người ấy liệu bề chạy không khỏi, túng phải nói rằng:

– Nước này là nước Ô Tư, xóm này là xóm Cao lão. Tôi nói rồi đó xin làm phước buông ra.

Tôn Hành Giả nói:

– Bộ chú không phải đi gần, chắc là có việc ngặt; đi chuyện chi thì nói thiệt, tôi mới chịu buông ra.

Người ấy túng lắm, phải nói thiệt rằng:

– Tôi tên là Cao Tài, gia tướng Cao lão, chủ tôi có một người con gái, tuổi mới hai mươi, ba năm trước bị một con yêu a vào làm rễ, ông tôi không ưng bụng, rước thầy ếm đối cũng không linh. Con tinh ấy giận bắt con gái chủ tôi cầm tại nhà sau, không ai thấy mặt, nên chủ tôi trao bạc rước thầy chùa, thầy pháp tới hoài. Thầy chùa gỏ mỏ mà rủa yêu, thầy pháp đuổi yêu cho rầy xóm. Tôi đi đà bại cẳng, rước chẳng đặng thầy hay, chủ tôi mắng nhiếc một hồi, sai rước thầy cao tay ấn. Rủi ra đây mắc gốc, tức mình tôi mới vùng vằng. Thôi buông cho tôi đi, kẻo để mặt trời chen lặn. Tôn Hành Giả cười rằng:

– May phước chú lắm, khỏi đi xa mỏi cẳng, đừng rước chúng tốn tiền, chúng ta chẳng phải như thầy pháp giết gà, thầy chùa kiếm bạc, thiệt là: Bắt yêu như bắt cóc, đuổi quỷ tợ như đuổi ruồi. Thầy ta là Ðường ngự đệ, qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh, bắt quỷ cũng nhiều, đánh yêu cũng lắm.

Cao Tài nói:

– Thôi thôi! Các cha đừng gạt tôi nữa, tôi đương tức hòng chết, sai đi như chó, bị mắng quá trâu; nếu rước mấy thầy nhát gan, ắt bị một xừ điếc óc!

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Tôi không nói gạt, xin chú đừng nghi, quyết giùm cho ông chủ làm ơn, không hại chú bị rầy mà sợ.

Cao Tài cùng chẳng đã, dắt vào cửa ngỏ, biểu đứng mà chờ.

Cao Tài mới bước vào thềm, chủ nhà thấy mặt tức thì mắng lớn:

– Mầy là thằng chó chết, mang đầu về đó làm chi? Không lo đi rước thầy, chẳng chịu rời cái bếp!

Cao Tài nói:

– Xin ông đừng mắng, để tôi thưa hết rõ ràng: Tôi mới đi ra, xảy gặp hai ông Hòa Thượng, xưng là Ðường ngự đệ, qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh, nói có tài bắt quỷ đuổi yêu, nên tôi mới rước về cửa ngỏ.

Cao Thái Công nói:

– Hòa Thượng ở xa lắm, e nói chẳng thiệt lời, cũng dùng thử cho hết lòng.

Liền bước ra nghinh tiếp, xà mà nói rằng:

– Tôi chào hai thầy đó.

Tam Tạng đáp lễ, còn Tôn Hành Giả đứng trơ trơ.

Cao Thái Công thấy Hành Giả như Thiên lôi, mặt lông mỏ nhọn, tướng mạo dị kỳ, con mắt không từng thấy, trong bụng cũng nhơn nhơn.

Day lại mắng Cao Tài rằng:

– Mầy mới là quyết giết tao đó! Trong nhà bị một thằng rễ đầu heo tướng quỷ, ếm đối không đi, mầy lại rước thêm một ông thầy mặt quỷ mắt thau, dữ dằn quá gớm! Tôn Hành Giả nghe nói đáp rằng:

– Ông đếm cho nhiều tuổi, chớ không biết coi người. Nào, mấy thầy tốt tướng thuở nay, có khi đã đuổi quỷ trừ tà đặng? Chớ như tôi tuy xấu hình xấu dạng, mà có phép có tài, cứu con gái của ông, bắt đồ yêu trước mặt, các việc ấy tốt hay xấu, mà ông dám chê đè?

Cao Thái Công nghe nói phải làm gan, rước vào nhà khách, mời ngồi xong xả, rồi đãi nước đãi trà.

Cao lão mới hỏi thăm rằng:

– Nghe thằng nhỏ ở nhà nói: Hai thầy ở nước Ðại Ðường, đi qua Tây độ, biết thiệt như vậy hay nó đặt điều?

Tam Tạng nói rằng:

– Quả như vậy, tôi ở bên Ðông độ, vâng lệnh vua Ðại Ðường, qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh đặng về làm Thủy lục. Ði đến đây trời tối, vào xin ngủ đỡ một đêm”. Cao Thái Công nói rằng:

– Nếu vậy thì: Hai thầy đi lở đường, nên ghé lại ngủ nhờ. Sao lại nói có tài có phép, bắt yêu bắt quỷ làm chi?

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Sẳn dịp ngủ nhờ, ở không kiếm quỷ bắt chơi, không biết nhà ông có hết thảy mấy con yêu đó?

Cao Thái Công chắt lưỡi than rằng:

– Trời đất ôi! Yêu quái ở đâu nhiều như vậy? Có một thằng rễ quỷ, mà xính vính cả nhà. Ðây không phải là động yêu, có đâu mà nhiều dữ vậy.

Tôn Hành Giả hỏi rằng:

– Ðâu ông nói đầu dây mối nhợ con quỷ đó cho tôi nghe thử ra thể nào?

Cao Thái Công nói rằng:

– Tôi tuổi tác chừng này, vô hậu không trai nối nghiệp, sanh ba đứa con gái. Con lớn gọi là Hương Lan, con giữa gọi là Ngọc Lan, con nhỏ tên là Túy Lan. Hai đứa lớn dựng vợ gã chồng, cũng người trong một xóm, chàng đâu thiếp đó, nhà cửa tư riêng. Còn con Túy Lan là tuyệt sắc và lại thông minh trí tuệ. Tốt nết lành nghề, thêu phụng vẽ rồng, khảy đàn đọc sách, tính tôi lại vô nam thì dụng nữ, rễ thảo cũng như trai, nên không định chữ vu quy mà để trông cậy mâm cơm vò nước, muốn kén đông sàn mà dưỡng lão, để nhờ khi nghẹn nước đắng cơm. Cách ba năm nay: Có người họ Trư ở núi Phước lăng tới xin làm rễ, coi cũng phải người quân tử, đáng bực anh hào, nên tôi mới gả con, dụng bê bắt rể. Khi mới, ở ăn phải cách, đi đứng nên người, đến sau khác mặt khác mày, dị hình dị tướng”. Tôn Hành Giả hỏi rằng: “Hình tướng nó ra thể nào?

Cao Thái Công nói:

– Ban đầu nó mập và đen, sau lại mỏ dài tai lớn. Sau ót mọc lông gáy, trước mặt giống con heo, mà bao tử lớn lung, ăn uống nhiều lắm. Nói cho phải, nó dùng những đồ chay đồ lợt, phải như ăn thịt cá, thì tôi hết cửa hết nhà.

Tam Tạng nói:

– Con rễ mạnh thì ăn nhiều, ông phàn nàn sao phải.

Cao Thái Công nói:

– Việc ăn uống là tiểu sự, tôi có phiền ở đâu? Ngặt bây giờ nó giá võ đằng vân, cát bay đá chạy. Báo hại nội nhà tôi và lối xóm, ai nấy cũng thất kinh, nó lại bắt con gái tôi bỏ trong nhà sau, khóa cửa buồng lại, nửa năm nay không thấy mày thấy mặt, chẳng biết mất biết còn. Mới rõ là yêu tinh, liền rước thầy phù thủy, ngặt thầy nào nó cũng không sợ, ếm đối gì nó cũng tới hoài.

Hành Giả nói:

– Có khó gì ở đâu, ông đừng lo mà mệt. Ðêm nay tôi bắt nó, và đuổi ra cho khỏi nhà ông.

Cao Thái Công nói:

– Cái đó mới là hại tôi đó! Có thầy đây thì thầy đuổi, thầy đi nó lại trở về. Làm cho gây oán gây thù, nó phá hết nhà hết cửa, như may mà bắt đặng, phải tính cho xong, ấy là trừ phép căng, mới khỏi điều hậu hoạn.

Tôn Hành Giả nói:

– Như vậy cũng được, có khó chi đâu, nội trong đêm nay, đà biết giỏi dở.

Cao Thái Công nghe nói mừng rỡ, tức thì hối dọn cơm chay, ăn uống xong rồi gần canh một.

Tôn Hành Giả biểu rằng:

– Ông mời ít người tuổi tác, ngồi nói chuyện với thầy tôi, đặng tôi làm thế thần bắt cho được nó. Một là bắt cho các người coi thử, hai là làm cho ông đặng bình yên. Cao Thái Công nghe lời, làm y như vậy.

Còn Tôn Hành Giả cầm thiết bảng, bảo Thái Công dắt tới nhà sau, thấy cửa đóng cứng khư.

Tôn Hành Giả liền bẻ khóa, ngó thấy trong buồng tối om, không có thắp đèn.

Tôn Hành Giả bảo rằng:

– Ông kêu con ông đi ra cho rảnh.

Cao Thái Công kêu một tiếng.

Nghe nói hơi yếu đuối như vầy:

– Cha ôi! Con ở trong này.

Tôn Hành Giả nheo con mắt mà xem, ngó thấy nàng ấy: Vóc liễu gầy mòn, tóc tai dã dượi, đi bộ tướng ngã xiêu ngã tó, ra níu cha khóc vắn khóc dài.

Tôn Hành Giả nói:

– Nín cho tôi hỏi nào, vậy chớ con yêu đi đâu vắng?

Túy Lan thưa rằng:

– Nó đi theo gió theo mây, không biết đâu mà nói. Bởi nó biết cha tôi muốn bắt, khuya mới về, gần sáng thời đi.

Tôn Hành Giả bảo rằng:

– Thôi hai cha con ra ngoài nói chuyện, để cho tôi hờm nó trong này.

Cao Thái Công nghe nói vui mừng, dắt con ra nhà trước.

Còn Tôn Hành Giả làm phép biến ra nàng Túy Lan, rồi đóng cửa phòng ngồi trên giường mà đợi.

Giây lâu nghe gió thổi ù ù ở xa ùng tới, xảy thấy yêu tính hiện xuống, mình người, mà đầu heo, tai lớn mỏ dài, mặt đen lông vắn.

Tôn Hành Giả xem thấy cười thầm nằm xuống giả đau, rên hoài rên hũy.

Con yêu ấy xốc vào ôm đại kề miệng muốn hun.

Tôn Hành Giả nắm mỏ bạt tai, xô nhào đầu xuống đất.

Con yêu ấy lồm cồm chờ dậy, vịn giường mà hỏi rằng:

– Bữa nay mình làm gì lạ vậy? Thế giận tôi về trễ hay sao?

Tôn Hành Giả nói:

– Ai hờn giận giống gì, đều bữa nay trong dạ chẳng vui, mình hãy cổi áo ra mà ngủ. Con yêu ấy không hiểu cớ gì, cũng nghe lời cổi áo tức thì.

Tôn Hành Giả lên ngồi trên thùng, giả đò đi tiểu.

Con yêu ấy thấy vậy lên giường nằm ngửa một mình.

Tôn Hành Giả ngồi thở ra mà than rằng:

– Mình thiệt là may phước lắm!

Con yêu ấy hỏi rằng:

– Mình giận tôi chuyện gì, mà nói tôi là may phước? Từ khi tôi tới làm rễ cố công, tuy ba miếng cơm rau, chớ cũng nhiều công mệt mỏi. Lớp lập vườn, lớp làm ruộng, sanh lợi biết bao nhiêu? Bây giờ lúa đựng mấy bồ, trái cây đủ thứ, cơm nàng ăn áo nàng mặc cũng là công khó của tôi, như vậy còn chưa bằng lòng, không biết làm sao nữa mới vừa ý! Chuyện gì mà than thở? Nói tôi may phước làm sao?

Tôn Hành Giả nói:

– Tôi không phải nói như vậy đâu, xin đừng nghi dạ. Bởi vì nay cha mẹ muốn phá cửa phá nhà, mắng nhỏ, mắng to, liệng gạch liệng ngói, và mắng nhiềc tôi rằng: “Có một thằng chồng không nên thân, tuồng mặt như heo, không biết lễ nghĩa. Ðồ không căn cước, chẳng có họ tên, lại làm yêu làm tinh, phá làng phá xóm. Thiên hạ chê cười xấu hổ. Họ lại nói rằng: Con gái như tiên mà kén nhằm thằng rễ quỷ. Bởi tôi bị lời ăn tiếng nói, đà tím ruột bầm gan, mình đi khỏi không nghe, mới thiệt là may phước”. Con yêu ấy nói rằng:

– Ta cũng xấu trai một chút, nhờ được trường thọ hơn người. Muốn lịch sự lại khó gì, mình cũng nhớ hình ta như trước! Hồi ban đầu ta tới nôi, cha mẹ cũng đành, làm con rễ đã ba năm, bây giờ lại nói này nói nọ, xin nàng nghĩ thử, coi lỗi tại ai? Còn nói ta không căn cước làm sao? Ta là người ở núi Phước lăng, tại động Vân san ta lấy hình thù làm họ, nên xưng họ Trư tên là Cang Liệp. Nếu cha mẹ nàng có hỏi nữa, cứ trả lời như vậy thì xong.

Tôn Hành Giả nói rằng:

– Nói cho mà hay: Cha mẹ rước Pháp sư tới bắt mình đó.

Con yêu ấy cười rằng:

– Mặc ý rước mấy chục Pháp sư thì rước, không ai sợ lệnh gì đâu. Ta có phép thiên cang biến hóa ba mươi sáu cách, lại có đinh ba vật báu, là cây cào cỏ chín răng. Bừa cả trăm mẫu mộng còn đặng thay, huống chi đập mấy chục lão thầy mà không chết, dầu cha thiệt có lòng cầu khẩn, mà thỉnh đặng Ðảng Ma tổ sư, ngài là người quen biết với ta lẽ làm điều thiệt hại.

Tôn Hành Giả nói rằng:

– Nghe nói rước ông họ Tôn, là ông Tề Thiên đại thánh, năm trăm năm trước làm loạn cung trời. Tôi nghe đã rõ ràng, nói cho mình hay trước.

Con yêu ấy nghe nói, hoảng hồn hoảng vía, nhăn mặt nhăm mày, le lưỡi mà than rằng:

– Nếu vậy thời hết kể vợ chồng, thôi mình ở tôi đi về động.

Tôn Hành Giả hỏi:

– Chuyện gì mà gấp dữ vậy?

Con yêu nói:

– Mình không biết, chớ con khỉ đột đó là Bật Mã Ôn. Ðời xưa nó dám phá trời, mấy ông thần chạy mặt, nếu đánh không lại nó, thì mình phải hư danh.

Nói rồi giựt áo bận vào, mở cửa đâm đầu chạy dại.

Tôn Hành Giả rượt theo kéo áo, hiện hình mà hét rằng:

– Thằng yêu này chạy đi đâu? Coi thử ai đây cho biết.

Con yêu ngó ngoái lại, thấy hình như khỉ đột, thất kinh xé áo chạy vuột ra mình trần trụi trụi.

Tôn Hành Giả rượt theo mà bắt.

Con yêu hóa lửa, bay về núi Phước Lăng.

Tôn Hành Giả đằng vân theo riết, và kêu lớn rằng:

– Ðố mầy chạy đâu cho khỏi tao. Mầy lên trời, thì tao theo thấu cung Ðẩu ngưu, mầy xuống đất tao rượt tới thành Uổng Tử.

Ấy là:

Quen biết dối, không quen biết thiệt,

Nợ duyên chơi, chẳng nợ duyên đời.

Chương 19: Vân San động, Ngộ Không thâu Bát Giới – Phù đồ Sơn, Tam Tạng gặp Thiền sư

Con yêu hóa lửa hồng bay trước.

Ðại Thánh nương mây bạc theo sau.

Ðến hòn núi cao yêu quái biến hình vào động, lấy cào sắt chín răng cự.

Hành Giả hét lớn hỏi rằng:

– Ngươi có tài chi đó, ở đâu mà biết tên ta? Hãy cứ thiệt khai ngay, thì ta dung toàn mạng.

Con yêu ấy nói:

– Ngươi muốn biết tài nghề và căn cước của ta, thì lóng tai mà nghe cho rõ. Nghe ta nói:

Tánh ta hay làm biếng. Ham chơi chẳng học hành

Gặp tiên trao chánh đạo, Truyền phép dạy đơn kinh

Chức Ngân Hà Nguơn soái, Phong Tổng đốc thủy binh

Nhóm bàn đạo nườm nượp, Uống ngự tửu huỳnh huỳnh

Ði lạc vào cung nguyệt, Sanh ẹo chọc nàng Quỳnh

Ngọc Hoàng giận bắt tội, đày ra khỏi Thiên đình

Ðầu thai không nhằm nẻo, Lợn rừng có chữa sinh

Lấy theo hình làm họ, Trư cang Liệp thị danh.

Hành Giả nghe nói đáp rằng:

– Nói vậy ngươi là Thiên Bồng nguyên soái, thuộc về Hạ giới thủy thần. Nên biết hiệu Lão Tôn cũng phải.

Con quái ấy xì một tiếng rồi nói rằng:

– Ngươi là Bật Mã Ôn, năm trước nghịch thiên, báo ta chịu khổ; ngày nay ỷ thế, còn tới làm ngang. Ta đập một đinh ba cho đáng kiếp.

Nói rồi đập liền Hành Giả đưa thiết bảng ra đở, hai người đánh trong núi ban đêm.

Từ canh hai cho đến mặt trời mọc, con quái ấy đánh không lại Ngộ Không, liền hóa gió bay về động.

Hành Giả cũng hóa gió bay nhanh như chớp.

Tới cửa động thấy ngoài cửa có một tấm bia, trên bia đề ba chữ rằng: “Vân San động”.

Hành Giả không biết làm sao mà vào đặng, sợ thầy trông phải trở về.

Khi ấy Cao Lão đang ngồi với Tam Tạng, trông Ngộ Không về nói lẽ nào, kế Hành Giả về thuật các chuyện, rồi nói với Cao Lão rằng:

– Người ấy chẳng phải là yêu, ấy là Thiên Bồng nguyên soái mắc đọa. Rủi đầu thai nhằm heo rừng nái nên diện mạo xấu xa. Y có nói với tôi rằng: “Tuy ăn cơm uống nước của ông, chớ làm ruộng lập vườn đủ rồi. Giúp việc nhà thì có, chẳng hề làm hại con ông. Ðặng chàng rễ như vậy là có phước, ông còn xua đuổi làm chi?

Cao Lão nói:

– Tuy chẳng hại con tôi mặc lòng mà tiếng tăm không tốt. Họ cứ nói ông Cao Lão có rễ yêu quái, lẽ nào tôi chịu nổi hay sao?

Tam Tạng nói:

– Ngộ Không, ngươi đã đánh với nó, rán mà dứt việc cho rồi, có lẽ nào nửa chừng mà thôi sao đặng?

Hành Giả nói:

– Phải phải, để tôi đi bắt nó, đem về cho các ông coi.

Nói rồi biền mất.

Bây giờ Hành Giả nhảy đến trước cửa động đập phá cửa tan hoang và mắng rằng: – Ðồ chúng khiêng, loài ăn cám, mau ra mà đánh với Lão Tôn.

Con quái ấy đương ngáy pho pho, nghe phá cửa giật mình thức dậy, lại thấy nói khích, giận vác cào cỏ ra cửa động mắng rằng:

– Bật Mã Ôn ta không can phạm chi mi, sao mi dám phá cửa ta? Cứ trông luật mà nói ngay, phá cửa người ta là tội chết.

Hành Giả cười rằng:

– Thằng điên kia, ta phá cửa mi, còn có chỗ cãi lẽ. Chớ ngươi bắt con gái người ta làm vợ, không tiền chao heo khoán, chẳng trầu héo rượu tàn. Có phạm luật hay không chi nói?

Con quái ấy đáp rằng:

– Hơi nào mà nói chuyện vả, coi cái đinh ba của lão Trư.

Hành Giả nói:

– Cái đồ ấy dễ mà cuốc đất cào cỏ cho Cao Lão, có hay chi đó mà khóc!

Con quái ấy nói:

– Mi coi lầm, mi tưởng vật này là của trần tục sao?

Hãy nghe ta nói:

Cái này Thái Thượng chế rèn ra,

Chơm chởm chín răng sáng tợ ngà

Gom nhóm âm dương nằm ở giữa

Rở rang nhựt nguyệt rạng ngoài da

Dưng cho Thượng Ðế làm đồ báu,

Lịnh phủ Thiên Bồng này với ta

Xuống biển đánh rồng, rồng tróc vảy,

Lên non giết cọp, cọp trầy da

Dầu ai xương thịt đồng hay sắt,

Ðụng tới cây này cũng bể ba.

Hành Giả nói:

– Thằng khùng múa mỏ. Ðể Lão Tôn đưa đầu cho mi đánh, coi có bể tư bể tám hay chăng?

Nói rồi liền nhóng cổ. Con quái ấy thấy tốt thế, chuyển thần lực đập đầu, cái đinh ba đổ lửa, mà chẳng trầy da!

Con quái ấy kinh hãi, tay chân bủn rủn liền chắc lưỡi than rằng:

– Thiệt con khỉ cứng đầu cứng cổ, ta nhớ lúc loạn thiên cung hồi trước ngươi ở Thủy Liêm động biệt tích đã bấy lâu, sao nay lại tới đây làm dữ? Hay là ông gia ta rước đến đây chăng?

Hành Giả nói:

– Ông gia mi biết đâu mà rước, bởi ta cải tà quy chánh, theo Ðường Tăng đi tây phương thỉnh kinh, ghé ngủ nhờ nhà Cao Lão, ông ấy cầu khẩn lắm, nên ta bắt đồ ăn cám mà cứu con gái người.

Con quái ấy nghe nói liền quăng cào cỏ, bái mà thưa rằng:

– Chẳng hay thầy thỉnh kinh ở đâu, xin đem tôi đến đó.

Hành Giả nói:

– Ðem mi đến đó làm chi?

Con quái ấy nói:

– Quan Âm độ tôi tu niệm, biểu theo thầy qua cảnh Phật mà thỉnh kinh, tôi đợi bấy lâu không nghe tin tức, nay nghe anh nói mới rõ.

Hành Giả nói:

– Mi đừng có nói xảo, tưởng ta dễ gạt hay sao? Nếu quả thiệt thì thề đi, ta mới tin. Con quái ấy quỳ xuống, lạy thinh không niệm Phật mà thề rằng:

– Nếu tôi chẳng thiệt tình theo kẻ thỉnh kinh, thì trời sẽ giết chết!

Hành Giả thấy vậy mới tin, biểu chất chà nổi kửa đốt động, con quái ấy nghe lời đốt hết.

Hành Giả một tay cầm thiết bảng, một tay xách tai con quái ấy, đồng đằng vân trở lại tức thì.

Khi ấy Tam Tạng và Cao Lão đang cùng nhau đàm đạo, xảy thấy Hành Giả nắm tai con quái ấy xách về, ai nấy đồng mừng, bước ra tiếp rước.

Con quái quỳ lạy Tam Tạng mà bạch rằng:

– Ðệ tử chậm tiếp nghinh, xin sư phụ miễn chấp. Phải sớm biết thầy ghé nhà ông gia tôi, thì tôi đã ra mắt, có đâu nhiều chuyện cho đến bây giờ!

Tam Tạng không rõ, liền hỏi Hành Giả rằng:

– Ngươi dùng thế làm sao mà bắt đến đây, nó lại phục ta?

Hành Giả hét lớn rằng:

– Thằng khùng kia! Sao mi không nói trước sao cho thầy rõ.

Con quái ấy bèn thuật chuyện Quan Âm cứu độ, vân vân.

Tam Tạng cả mừng, nói với Cao Lão rằng:

– Xin ông làm ơn đặt một cái bàn hương án.

Cao Lão vâng lời, Tam Tạng rửa mặt rồi đốt hương vái lạy Quan Âm bồ tát.

Con quái ấy lạy Tam Tạng rồi kêu bằng sư phụ, và lạy Hành Giả kêu sư huynh.

Tam Tạng nói:

– Ngươi đã làm đệ tử, ta phải đặt pháp danh cho ngươi.

Con quái ấy bạch rằng:

– QuanÂm đã đặt tên thánh cho tôi là Trư Ngộ Năng.

Tam Tạng cười rằng:

– Tên ấy tốt lắm! Chữ “Ngộ” ấy là đồng phái với sư huynh ngươi.

Trư Ngộ Năng bạch rằng:

– Tôi thọ phép Quan Âm bấy lâu cử Ngũ Huân Tam yểm chịu cực như vậy mà đợi thầy, nay đã gặp rồi, xin cho trở đũa.

Tam Tạng nói:

– Không nên! Lẽ nào gặp thầy lại thôi ăn chay, ngươi đã cử ngũ huân và tam yểm là tám món, vật ta cho hiệu riêng là Bát Giới.

Trư Ngộ Năng cả mừng, Cao lão thấy Bát Giới cải tà qui chánh thì mừng rỡ bội phần, truyền gia đình dọn cơm chay thiết đãi.

Bát Giới nói với Cao lão rằng:

– Xin cha biểu ở nhà tôi ra mắt công công và bá bá.

Hành Giả cười rằng:

– Nay sư đệ đã làm hòa thượng, đừng dùng tiếng ở nhà. Hãy lo ăn cơm mà đi cho sớm.

Rồi đó cơm nước xong xả, Cao lão bưng mâm bạc ra chừng hai trăm lượng gọi là lễ đưa thầy.

Tam Tạng nói:

– Tôi là sãi đi đường tới đâu nhờ lộc đó, nếu lãnh tiền của thiên hạ, biết tu mấy kiếp cho thành?

Hành Giả hốt một nắm bạc, kêu Cao Tài mà nói rằng:

– Hôm qua ngươi dắt thầy ta đến đây, nên nay mới kiếm đặng một người đệ tử, vậy ta dùng ít lượng mà tạ ơn ngươi.

Cao Tài lãnh bạc trở ra.

Cao lão lại đem một cái áo Cà sa bằng gấm xanh và hai đôi giày mới cho Bát Giới. Bát Giới lãnh hết và bái Cao lão mà thưa rằng:

– Tôi xin kính lời cùng nhạc mẫu và đại di nhị di cùng bà con ở lại bình an, nay tôi đi tu làm hòa thượng, không kịp từ giã, xin rộng dung miễn chấp, xin trượng nhân coi chừng giùm ở nhà tôi, nếu tôi đi thỉnh kinh không xong, thì sẽ trở về như cũ.

Hành Giả hét rằng:

– Ðừng có nói bậy!

Bát Giới nói:

– Anh ơi! Tôi e đi tu không thành thì ắt là làm hòa thượng không xong, mà lại khó cưới vợ, phải là lỡ dỡ hay không?

Tam Tạng nói:

– Thôi, hãy bớt chuyện vãn đi, lo lên đường kẻo trễ.

Bát Giới nghe nói, liền quảy gánh vội vàng.

Tam Tạng lên yên, Hành Giả vác thiết bảng giã từ Cao lão rồi nhắm phía Tây mà tới.

Ba thầy trò đi hơn một tháng, tới nước Ô Tư Tạng, thấy núi cao chớn chở.

Tam Tạng dừng ngựa nói rằng:

– Núi trước mặt rất cao, đi phải cho tử tế.

Bát Giới nói:

– Không hề gì đâu. Núi này tên là Phù Ðồ, trong núi có ông Ô Sào thiền sư, ở tu trên ổ quạ. Thầy ấy có quen biết với tôi”.

Nói rồi lại lên tới núi.

Tam Tạng ngồi trên ngựa ngó xa xa thấy ổ trên ngọn cây. Bên tả có hưu nai tha bông. Bên hữu có vượn mai dựng trái. Trên ngọn thì có con hạc con công chầu múa, chim loan chim phụng gáy vang.

Bát Giới chỉ ổ quạ mà nói rằng:

– Thầy Ô Sào ở đó.

Tam Tạng đi đến cội cây.

Ô Sào thiền sư ở trên ổ nhảy xuống.

Tam Tạng xuống ngựa cúi lạy.

Ô Sào thiền sư đỡ dậy nói rằng:

– Tôi cam thất lễ vì không nghinh tiếp thánh tăng.

Bát Giới bước đến bái sát đất Ô Sào thiền sư kinh hãi hỏi rằng:

– Ngươi là Trư Cang Liệp ở núi Phước Lăng. Nay thiệt quá may, đặng đi với thánh tăng qua Tây Phương Phật.

Bát Giới nói:

– Xưa nhờ ơn Quan Âm khuyên biểu, dạy ngày nay đi với thầy tôi.

Ô Sào thiền sư khen rằng:

– Tốt lắm, tốt lắm.

Khen rồi chỉ Hành Giả mà hỏi rằng:

– Còn ông nào đó.

Hành Giả cười rằng:

– Sao thấy biết người ấy mà chẳng biết tôi?

Ô Sào thiền sư nói:

– Bởi tôi hay quên lắm.

Tam Tạng nói:

– Vốn thiệt học trò lớn của tôi, gọi là Tôn Ngộ Không.

Ô Sào thiền sư cười rằng:

– Tôi cam thất lễ.

Tam Tạng năn nỉ, hỏi thăm đường Tây Phương gần xa.

Ô Sào thiền sư nói:

– Còn xa lắm, còn xa lắm! Tuy là diệu vợi song có ngày đi tới Tây Phương. Ngặt vì bị yêu ma hoạn nạn. Tôi có tâm kinh câu, cộng chữ. Như bị hoạn nạn, niệm Tâm kinh thì việc dữ cũng hóa lành.

Tam Tạng làm lễ xin truyền Tâm kinh.

Ô Sào thiền sư đọc qua một bận, vân vân.

Tam Tạng sáng lắm, nghe qua đã thuộc lòng.

Ðến sau truyền tới đời nay, trong kinh thiền đều có Tâm kinh là cội rễ.

Tôi e choán giấy nên chẳng biên vào. Kinh ấy mấy thầy chùa đều biết.

Ô Sào truyền kinh xong rồi, muốn nhảy lên ổ.

Tam Tạng kéo lại hỏi rằng:

– Xin thầy làm ơn cắt nghĩa đường đi Tây Phương thế nào?

Ô Sào thiền sư cười rằng:

– Hãy nhớ bài kệ này thì rõ.

Lời kệ như vầy:

Ðường sá cũng không khó. Hãy nghe ta chỉ rõ. Nhiều ma lại nhiều cỏ. Núi Tiếp thiên qua rồi. Non Mã nhỉ đến đó. Rừng Hắc tòng bên đường. Loài Hổ ly đón ngõ. Yêu quái ở thành kia, Ma Vương ngăn núi nọ. Cọp gấm ngồi huyện đường. Sói xanh làm chủ bộ. Su tượng thảy xưng vương. Hùm beo đồng chúc thọ. Heo rừng quảy gánh to. Yêu nước rình đường nhò, ma lớn rất hung hăng. Khỉ già hay quạu quọ. Người hỏi ta chỉ dùm. Qua Tây gay vậy đó.

Hành Giả nghe nói cười gằn rằng:

– Thầy trò mình đi cho xong hỏi ai làm chi, hỏi tôi cũng đủ.

Tam Tạng chưa rõ ý gì.

Ô Sào thiền sư hiện hào quang bay lên ổ quạ.

Tam Tạng cúi đầu làm lễ.

Hành Giả nói giận, giơ thiết bảng thọc ổ Thiền sư. Bông sen rụng xuống dư muôn, hào quang hiện ra mấy trượng. Chẳng hề hư ổ ấy chút nào.

Tam Tạng níu Hành Giả mà quở rằng:

– Ngộ Không, ấy là một vị bồ tát, sao nhà ngươi phá ổ của ngài?

Hành Giả nói:

– Thẩy mắng nhiếc chúng tôi như vậy, thầy bảo bỏ qua hay sao?

Tam Tạng nói:

– Ngài thuật chuyện đường đi Tây Phương như vậy. Sao gọi là mắng nhiếc chúng bây?

Hành Giả nói:

– Bởi thầy không rõ, để tôi cắt nghĩa cho rành. Heo rừng quảy gánh to, là nói xâm Bát Giới; khỉ già hay quạu quọ, là mắng nhiếc Lão Tôn. Sao thầy gọi là không có? Bát Giới nói:

– Xin sư huynh đừng giận làm chi. Bởi ông thầy ấy biết việc vị lai quá khứ, mới nói yêu nước chận đường nhỏ. Không biết thiệt hay chăng? Chúng ta đi lần coi thử. Hành Giả thỉnh Tam Tạng lên ngựa, thầy trò lần xuống núi.

Chương 20: Tới Huỳnh Phong, Ðường Tăng mắc nạn – Gặp tiên phuông, Bát Giới trổ tài

Nói về ba thầy trò, trãi gió dầm mưa, mang sao độ, nguyệt lần lần xuân đà sang hè.

Ngày kia đi đến chiều tối, TamTạng ngó thấy xóm, mừng rỡ nói rằng:

– Ngộ Không, ngươi coi cho kỹ, nhựt lặn Tây Sơn cây nhán lửa, trăng ló Ðông hải nước in châu. Hãy kiếm nhà nghỉ đỡ một đêm mai sẽ dời gót.

Bát Giới nói:

– Phải lắm! Phải lắm! Lão Trư cũng đã đói rồi. Hãy vào xóm kiếm cơm, mai gánh đồ mới nổi.

Hành Giả nói:

– Mi là con quỷ nhớ nhà, mới đi ít ngày đà thán oán.

Tam Tạng nói:

– Ngộ Năng, nếu ngươi nhớ nhà lắm, thì không phải kẻ tu hành. Thôi, trở về cho tiện.

Bát Giới thất kinh quì xuống thưa rằng:

– Xin sư phụ xét lại cho mà coi, tôi chẳng hề thán oán. Bởi đói quá muốn kiếm ăn đở dạ, nên sư huynh mắng tôi là con quỷ nhớ nhà. Chờ tôi đã vâng lệnh Quan Âm, lại cám ơn thầy thương xót. Tình nguyện theo sư phụ qua Tây Phương mà thỉnh kinh. Quyết chí tu hành không nài lao khổ.

Tam Tạng nói:

– Thôi ngươi chờ dậy đồng đi vào xóm mà kiếm cơm chay.

Bát Giới quảy gánh đi hoài, không dám nói chi hết.

Khi ấy ba thầy trò đi tới xóm, Tam Tạng xuống ngựa vào trước cửa một mình, thấy ông chủ nhà đương ngồi trên chỏng mà niệm phật.

Tam Tạng nói:

– Tôi chào ông chủ nhà.

Ông ấy xốc áo ra cửa, bái và hỏi rằng:

– Thầy ở đâu mới tới, vào nhà tôi có chuyện chi?

TamTạng nói:

– Tôi là Hòa Thượng nước Ðại Ðường, ở miền Ðông độ. Nay vâng chiếu chỉ, qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh. Ðến đây trời tối lở đường, xin ông làm ơn cho ngủ đậu.

Ông già ấy lắc đầu, khoát tay mà nói rằng:

– Ðường Tây Phương gay go lắm, đi chẳng đặng đâu. Có muốn thỉnh kinh thì đi Ðông phương cho đặng.

Tam Tạng nghe nói ngẫm nghĩ rằng:

– Lạ này! Quan Âm dạy qua Tây Phương mà thỉnh kinh. Còn ông này lại biểu đi Ðông phương mới lạ.

Hành Giả nổi giận lướt tới kêu lớn và nói rằng:

– Ông già kia, tuổi tác chừng này, sao chưa thạo việc. Chúng ta xin vào tá túc, ông đặt chuyện dọa ta! Nhà ông không chỗ nằm, thì thầy trò tôi ngồi dưới cội cây một đêm cũng đặng.

Ông già ấy kinh hãi, kéo thầy Tam Tạng mà than rằng:

– Thầy không nói chi hết, có đệ tử thầy ốm đó, nó lại muốn làm dữ với tôi.

Hành Giả cười rằng:

– Ông đã lầm rồi, nên coi không rõ. Tôi tuy là ốm yếu, song thiệt mình dây, trong da những gân, chớ không có thịt.

Ông già ấy nói:

– Chú nói như vậy chắc là cũng có tài.

Hành Giả nói:

– Tôi không dám nói dối, ông xem thử cho chán chường.

Ông già ấy hỏi rằng:

– Quê quán chú ở đâu. Vì cớ nào làm sãi?

Hành Giả nói:

– Tôi gốc ở Ðông Thắng thần châu, nước Ngao Lai, động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, từ khi nhỏ tập làm yêu quỷ, rồi học đạo TSnh. Nhờ phép giỏi tài cao, làm Tề Thiên đại thánh, còn quen thói dữ, làm phản Thiên cung, nên bị tai mắc nạn. Nay tôi tu niệm, theo thầy tìm Phật thỉnh kinh. Tuy đường Tây Phương non cao biển rộng, thú dữ ma nhiều, song Lão Tôn có tài đánh cọp bắt rồng, thêm phép trừ yêu giết quỷ.

Ông già ấy nghe nói cười ngất rồi đáp rằng:

– Như ông thiệt đại tài, thì qua Tây Phương mới đặng. Mà các ông đi hết thảy mấy người?

Tam Tạng nói:

– Tôi đi có ba thầy trò mà thôi.

Ông già ấy hỏi rằng:

– Một người nữa ở đâu không thấy?

Hành Giả chỉ Bát Giới mà nói rằng:

– Ông già này thiệt con mắt làn. Vậy chớ giống gì đứng ở cội cây đó?

Ông già ấy ngó thấy Bát Giới, hai tai bằng cái quạt, bộ mỏ tợ cây sao.

Ông già ấy thất kinh hồn vía. Vừa bò vừa chạy, và lết và la rằng:

– Ðóng cửa cho mau, kẻo yêu ma làm lộng.

Hành Giả kéo lại nói rằng:

– Ông đừng kinh hãi, không phải yêu quỷ, ấy là sư đệ của tôi.

Ông già ấy run rét mà nói rằng:

– Hai người học trò đều dữ tợn.

Bát Giới bước tới nói rằng:

– Nếu ông coi tướng mạo mà nói thì lầm, chúng tôi tuy diện mạo xấu xa, mà trong lòng tốt lắm.

Ông già ấy chưa kịp đáp lại, xảy có hai người trai làng xóm, dắt bà già và ba bốn đứa nhỏ bước đến hỏi rằng:

– Ông la chuyện chi vậy?

Bát Giới nghe hỏi, liền quạt tai nghinh mỏ ló đầu ra.

Mấy người ấy thất kinh, té nghiêng té ngửa.

Tam Tạng tay ngoắt miệng kêu rằng:

– Các người đừng có sợ, chúng tôi vốn thiệt hòa thượng đi thỉnh kinh.

Ông ấy liền mời ba thầy trò vào trong hết thảy.

Tam Tạng phàn nàn vì tại hai người láu cháu nên sanh chuyện.

Bát Giới bạch rằng:

– Tôi không dám nói dối: Từ gặp thầy tôi mới giữ nết na, hết sức nhu mì, chẳng hề lỗ mãng. Chớ khi trước mỗi lần tôi rãy tai và hất mỏ, ba mươi người đều té ngã lăn, nên tại Cao lão trang họ nói tôi là yêu quái.

Hành Giả cười rằng:

– Ngươi hãy dẹp các bộ dữ đó đi.

Tam Tạng nói:

– Tướng mạo người ta tự nhiên, ngươi bảo dẹp sao cho đặng.

Hành Giả nói:

– Gằm bộ mỏ dài xuống dưới bụng, xếp hai tai lớn sau lưng. Ấy là dẹp bộ dữ.

Bát Giới nghe lời, xếp tai gằm mỏ, đứng hầu hạ một bên.

Còn Hành Giả thì cất gánh đồ vật và buộc ngựa.

Ông già hối dọn cơm nước.

Tam Tạng hỏi rằng:

– Chẳng hay Lão trượng họ chi?

Ông già ấy nói:

– Tôi họ Vương.

Tam Tạng hỏi:

– Con cháu đặng mấy người?

Vương lão nói:

– Tôi có hai đứa con, sanh đặng ba thằng cháu.

Tam Tạng hỏi:

– Tuổi tác ông đã bao nhiêu?

Vương lão nói:

– Tôi đặng 61 tuổi.

Hành Giả nói:

– Cũng đà đáo tuế.

Tam Tạng hỏi:

– Hồi trước ông nói khó thỉnh kinh bên Tây Phương, là cớ nào vậy?

Vương lão nói:

– Hễ tới Tây Phương thì thỉnh đặng, ngặt vì đường xá khó đi. Cách phía Tây chừng ba mươi dặm, có núi Huỳnh phong đi 800 dặm mới khỏi núi, trong núi ấy thiếu chi là yêu quái, nên tôi sợ khó đi, mà cứ theo lời ông thầy nhỏ này là đại tài thời đi cũng đặng.

Nói rồi đem trà ra đãi, giây phút lại dọn cơm chay, mời ba thầy trò ngồi lại.

Tam Tạng mới chấp tay niệm kinh cúng, Bát Giới đã làm một chén rồi.

Tam Tạng niệm kinh cúng cơm vừa xong, Bát Giới đã làm xong hai chén nữa.

Hành Giả nói đở xấu rằng:

– Thằng ăn cám này, chắc ma đói nhập vào cho nón rồi đa.

Vương lão thấy Bát Giới ăn mau quá, liền nói rằng:

– Chắc thầy này đói lắm, hãy đơm cơm sớt cho nhiều.

Bát Giới gằm mặt xuống hoài, ăn một hơi hơn mười mấy chén.

Vương lão thấy Tam Tạng và Hành Giả đều ngơ đủa, liền nói rằng:

– Lật đật kém đồ ăn, xin hai thầy ráng sớt thêm vài đủa.

Tam Tạng và Hành Giả đồng nói:

– Thầy trò tôi dùng đã vừa rồi.

Bát Giới nói:

– Ðồ ăn ngon dở không hề gì, miễn thêm cơm cho khá.

Vương lão biểu trẻ dở hết cơm đem ra.

Bát Giới ăn sạch quét.

Vương lão hỏi:

– Thầy ăn đủ hay thiếu?

Bát Giới nói:

– Mới vừa lưng lửng mà thôi.

Dọn dẹp xong rồi, trãi mền chiếu cho thầy trò đi ngủ.

Rạng ngày từ giã ra đi, tới lúc đứng bóng, thấy núi cao chớn chở, xảy gặp gió vụt đi như trốt.

Tam Tạng kinh hãi nói rằng:

– Ngộ Không, gió xây vần mạnh quá!

Hành Giả nói:

– Gió thì mặc gió, mà thầy sợ nổi gì? Ðể tôi bốc mà hưởi thử.

Bát Giới cười rằng:

– Anh bốc gió đặng mà hưởi, tôi nghĩ cũng lạ lùng!

Hành Giả nói:

– Ta có phép bốc gió, tại em không biết nên cười.

Nói rồi liền bốc thinh không mà hưởi, rồi nói rằng:

– Gió này tanh lắm không phải gió thường, một là cọp hùm, hai là yêu quỷ.

Nói vừa dứt tiếng, xảy thấy cọp trên chót núi nhảy xuống đón đường.

Tam Tạng thất kinh nhào xuống ngựa.

Bát Giới để gói xuống, xách đinh ba xốc tới hét rằng:

– Ðố mi chạy đi đâu cho khỏi?

Nói rồi vác cào cỏ đập đùa, cọp tràng khỏi rồi đứng dậy, hai tay cào ngực cổi lốp mà nói rằng:

– Ta là tướng tiên phuông của Huỳnh Phong đại vương, gọi là Tiền Lộ Hổ, nay vâng lệnh Ðại vương đi bắt ít đứa phàm phu về uống rượu. Ngươi là Hòa Thượng xứ nào đi tới, mà dám đánh với ta?

Bát Giới nói:

– Chúng ta là sãi thánh, ở nước Ðại Ðường, qua thỉnh kinh bên Tây độ. Không phải là kẻ tục người phàm, ngươi tránh đường kẻo thầy ta giựt mình, thì ta dung tánh mạng.

Tiền Lộ Hổ nhảy quào mặt Bát Giới, rồi chạy riết một hơi.

Bát Giới rượt theo bén gót.

Tiền Lộ Hổ nhảy lên chót núi, lấy cặp đồng đao ra cự với Bát Giới, hai đàng đánh với nhau tại mé núi, sức cũng cầm đồng.

Tôn Hành Giả đỡ Tam Tạng dậy mà nói rằng:

– Xin thầy đừng sợ, coi Bát Giới đánh với yêu tinh.

Giây lâu lại nói:

– Xin thầy ngồi đây không hề chi, để tôi tiếp với Bát Giới mà giết con yêu này thì đi mới đặng.

Tam Tạng ngồi run en phát rét, lầm thầm niệm tâm kinh mà chịu.

Khi ấy Bát Giới thấy Hành Giả tiếp mình, thì càng mạnh hơn nữa.

Tiền Lộ Hổ cự không lại, chạy xuống chân non thấy Bát Giới và Hành Giả đuổi một. Tiền Lộ Hổ hãi kinh, túng dụng kế Kim thiền thoát xác.

Nhào một cái hiện ra hình cọp, cổi lốt cọp để trên thạch bàn.

Còn hình thiệt hóa gió yêu bay về động cũ, ngó thấy Tam Tạng ngồi bên đường cái mà niệm tâm kinh, nhân tiện nổi giông, bắt thầy về động.

Nói về Huỳnh Phong đại vương thấy Tiên phuông về động, dâng ông sãi mà thưa rằng:

– Tiểu tướng đi tuần khắp núi gặp Ðường Tăng đi thỉnh kinh, nên bắt đem nạp cho Ðại vương uống rượu.

Huỳnh Phong nghe nói kinh hãi hỏi rằng:

– Ta khi trước có nghe người ta thuật chuyện Ðường Tăng là Tam Tạng pháp sư, có người học trò là Tôn Hành Giả, thần thông quảng đại. Ngươi làm sao mà bắt đặng người?

Tiền Lộ Hổ thưa rằng:

– Ðường Tăng có hai người học trò, người đánh trước cầm đinh ba, người tiếp sau cầm thiết bảng, tôi bại tẩu hai người ấy đuổi nà, tôi dụng kế Kim thiền thoát xác, đi quanh bắt Hòa Thượng về đây.

Huỳnh Phong nói:

– Khoan ăn thịt Ðường Tăng, e hai người học trò đòi thầy làm dữ. Hãy buộc tại cây trụ Ðịnh phong sau vườn kiểng, chừng nào không ai đòi hỏi sẽ ăn thịt chẳng chầy. Tiểu yêu vâng lời đem Tam Tạng buộc sau vườn.

Nói về Hành Giả và Bát Giới rượt theo tới chân non, thấy hùm gấm nằm trên bàn thạch.

Hành Giả đập một bảng đã tức dội bàn tay.

Bát Giới đập một đinh ba, lúc chín răng vào da cọp dở lên nhẹ hỏng, coi ra là lốt cọp thì Hành Giả la:

– Không xong, mắc kế, mắc kế!

Bát Giới hỏi:

– Kế gì?

Hành Giả nói:

– Ấy là kế Kim thiền thoát xác, chúng ta trở về mà giữ gìn sư phụ, kẻo để nó bắt đi. Nói rồi về kiếm không thấy Tam Tạng, Hành Giả hét lớn rằng:

– Nó đã bắt thầy rồi biết tính làm sao cho đặng? Suy đi xét lại, cũng ở tại núi này, anh em mình đi kiếm thử.

Khi ấy Hành Giả trèo non lặn suối, đạp sỏi tuôn rừng, kiếm một hồi lâu, thấy động ở kề chân núi, trước cửa động đề sáu chữ lớn: Huỳnh Phong lãnh, Huỳnh Phong động. Hành Giả cầm thiết bảng cả kêu rằng:

– Yêu quái, trả thầy ta cho mau mau, kẻo ta phá ổ.

Tiểu yêu vào báo rằng:

– Thưa đại vương, ngoài cửa động có ông hòa thượng, mặt tợ Thiên Lôi, cầm cây thiết bảng quá to, biểu trả thầy cho mau; bằng lâu thì phá động.

Huỳnh Phong kinh hãi, đòi tiên phuông đến mà quở rằng:

– Ta biểu ngươi đi kiếm heo rừng, trâu núi, chó sói, nai chà, sao ngươi đi bắt thầy chùa, cho chúng nó đòi phá động, bây giờ mới tính làm sao?

Tiền Lộ Hổ thưa rằng:

– Xin đại vương đừng lo. Ðể tôi bắt sống họ Tôn, đặng ăn thịt luôn thể.

Nói rồi dẫn tiểu yêu ra động, gióng trống phất cờ.

Tiền Lộ Hổ xách cặp đồng dao, hét lớn ràng:

– Mi là hòa thượng giộc ở đâu, dám đến đây mà làm dữ?

Hành Giả nổi giận mà mắng rằng:

– Mi là loài thú bị lột da, dám bắt thầy ta về động! Ðã không chịu trả, còn muốn hành hung. Ðố mi chạy đi đâu cho khỏi.

Nói rồi đập một bảng.

Tiền Lộ Hổ đở liền, hai người đánh một hồi, tiên phuông sút miếng, song đã khoe tài với chủ động, nên chẳng dám trở vào, liền chạy lên trên núi.

Hành Giả rượt theo.

Còn Bát Giới đi kiếm không đặng động nào, liền trở về giữ ngựa.

Xảy nghe gió ùn ùn thổi tới, ngó lại thấy Hành Giả đương rượt yêu.

Bát Giới bỏ ngựa, vác đinh ba chận đầu, đập Tiền lLộ Hổ một đinh ba, chín răng lút vào mình mà chết.

Có bài thơ khen Bát Giới như vầy:

Ðã mấy năm rồi chịu phép công,

Ăn chay niệm Phật hết làm hung

Lòng thành từ lúc theo Tam Tạng,

Mới có phen này lập chút công.

Hành Giả xem thấy, mừng rỡ ngợi khen.

Bát Giới hỏi:

– Sư huynh kiếm ra mối hay không?

Hành Giả nói:

– Nó đã bắt thầy nạp cho chủ động. Anh ra oai đánh với nó, nhờ em đập tiếp một đinh ba, cái công ấy của em đó. Vậy thì em giữ gánh đồ và con ngựa ăn cỏ, đặng anh đến động mà bắt Lão yêu, thì cứu thầy mới đặng.

Bát Giới nói:

– Như anh đánh Lão yêu có chạy, thì anh lùa nó lại phía này, đặng tôi đập nó.

Hành Giả tay mặt cầm thiết bảng, tay trái xách thây cọp, thẳng tới cửa động.

Ấy là:

Pháp sư mắc nạn vì yêu quái,

Ðệ tử ra tài giết quỷ ma.

Chương 21: Hộ Pháp hóa nhà cứu Ðại Thánh – Linh Kiết cho phép bắt Huỳnh Phong

Nói về Huỳnh Phong đang ngồi trong động không biết tính mưu chi.

Xảy thấy tiểu yêu vào báo rằng:

– Hổ tiên phuông bị Hòa Thượng đập chết, kéo thây bỏ trước động môn, lại muốn hành hung phá cửa.

Huỳnh Phong giận quá nói rằng:

– Hòa Thượng này không biết phải, ta chẳng ăn thầy nó, nó lại giết tướng ta. Thiệt đáng giận lắm. Ta thuở nay nghe danh Tôn Hành Giả, mà chưa biết mặt làm sao. Nay ra trận thử coi, có phải là chín đầu tám đuôi không cho biết. Tiểu yêu phải đồng tâm giết nó, mà báo oán cho Tiên phuông.

Nói rồi nai nịt hẳn hoi, xách chĩa ba ra trận.

Hành Giả ngó thấy tiểu yêu ra trước. Chủ động theo sau, thiệt tướng vạm vở lắm!

Chủ động hét lớn rằng:

– Tôn Hành Giả ở đâu?

Hành Giả giơ thiết bảng đáp rằng:

– Tôn ngoại mi ở đây, không thấy sao mà hỏi?

Huỳnh Phong coi lại rõ ràng, thấy Hành Giả không đầy bốn thước, bộ tướng như khỉ già.

Liền cười ngất nói rằng:

– Tội nghiệp thì thôi, ta tưởng Hành Giả là diện mạo đường đường, oai phong lẩm lẩm, không dè ròm rỏi như bệnh lâu năm!

Hành Giả cười rằng:

– Mi là thằng không có mắt, tuy không ngoại kháu người mà mạnh lắm, nếu đập cán chĩa nhằm đầu một cái, thì cao thêm sáu thước hẳn hòi.

Huỳnh Phong day cán chĩa đập đầu Hành Giả một cái.

Hành Giả đứng nhóng dậy, cao gần một trượng rõ ràng.

Huỳnh Phong hét lớn rằng:

– Tôn Hành Giả đừng làm phép điểu ta, hãy đánh cho biết sức.

Nói rồi đâm một chĩa. Hành Giả đưa thiết bảng đở liền. Hai người đánh hơn ba mươi hiệp chưa thấy hơn thua.

Hành Giả nổi nóng, bứt lông bỏ vào miệng nhai nhỏ phun ra, miệng la biến biến! Biến ra trăm ngàn Hành Giả, cầm thiết bảng vây phủ Huỳnh Phong. Phép ấy gọi là Thân họa thân.

Huỳnh Phong đánh không lại, hớp gió hướng Ðông Nam thổi ra.

Xảy có trận gió vàng vụt tới. Những Hành Giả biến ra đó, bị gió vàng thổi tống lên trời.

Hành Giả sợ mất lông, liều dùng mình thâu lại. Thâu lông rồi lướt tới đánh đùa. Bị Huỳnh Phong thổi vào mặt một hơi, Hành Giả nhắm con mắt mà chạy chết.

Còn Huỳnh Phong thâu gió trở về.

Khi ấy Bát Giới thấy gió vàng, tối tăm trời đất.

Bát Giới nhắm mắt nằm mọp bên núi, không dám cất đầu lên.

Giây lâu gió lặng rồi, nghe Hành Giả vừa đi vừa hét, Bát Giới mở mắt ra, thấy Hành Giả ở hướng Tây đi lại.

Bát Giới bái mà nói rằng:

– Anh ở đâu về đây? Thiệt trời gió lớn quá!

Hành Giả khoát mà nói rằng:

– Gió dữ thiệt! Thuở nay ta mới thấy gió lớn như vầy! Tiểu yêu Chúa động đánh với ta đặng ba mươi hiệp. Ta hóa phép Thân họa thân. Chúa động thất kinh thổi ra gió ấy. Ta cũng biết hô phong hoán võ, mà không từng gió độc như vầy. Ðứng chẳng vững chân nên phải chạy.

Bát Giới nói:

– Nếu cự không lại nó, thì làm sao mà cứu thầy?

Hành Giả nói:

– Sự cứu thầy thủng thẳng sẽ tính. Không biết đây có thầy thuốc nhãn khoa hay không? Lo thuốc trị con mắt cho ta đã.

Bát Giới hỏi:

– Con mắt anh sao đó?

Hành Giả nói:

– Ta bị Chúa động thổi vào con mắt cay xé, bắt chảy nước mắt hoài! Nếu không trị cho mau, để tới hết thấy đường thì khó lắm.

Bát Giới nói:

– Anh ôi! Ðã ở trong rừng, lại thêm trời tối, sợ không nhà mà ngủ đở, biết đâu mà kiếm nhãn khoa!

Hành Giả nói:

– Thiếu chi là chỗ ngủ, nhắm chừng Chúa động chưa dám hại thầy ta, mình kiếm nhà ngủ đở đêm nay, rạng ngày tính cứu thầy mới đặng.

Bát Giới nghe lời, dắt ngựa gánh đồ, đồng ra đường cái.

Xảy nghe tiếng chó sủa gần gần.

Bát Giới thấy xa xa có xóm dựa rừng, và bóng đèn nhấp nháng.

Hai người đi lần tới kêu cửa.

Ông chủ nhà cất tiếng hỏi:

– Ai?

Hành Giả bái mà nói rằng:

– Chúng tôi là học trò Ðường Tăng, ở miền Ðông Ðộ qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh, đi ngang núi này bị Huỳnh Phong đại vương bắt thầy tôi vào động, phần trời đã tối xin ông cho tôi tá túc một đêm.

Ông già ấy nói rằng:

– Vậy thời mời hai thầy vào đây mà nghỉ.

Hai anh em gánh đồ và dắt ngựa vào nhà, trà nước nghỉ ngơi.

Giây lâu dọn cơm chay thiếc đãi.

Anh em ăn uống xong xả. Ông già dọn chỗ nghỉ ngơi.

Hành Giả nói:

– Ngủ không đặng đâu mà sửa soạn, xin ông nói giùm một chút, đây có thầy bán thuốc con mắt hay không?

Ông già ấy hỏi:

– Ông nào đau con mắt?

Hành Giả nói:

– Tôi không dám dối ông, thiệt người tu hành thuở nay không bệnh con mắt. Bởi bữa nay đánh với Chúa động, bị thổi gió độc, làm cho con mắt xốn xang, nên mới hỏi thăm thuốc.

Ông già nói:

– Bạc ác thì thôi! Ông tu hành sao còn nói dối, Huỳnh Phong đại vương thổi gió độc. Không phải gió Ðông, Tây, Nam, Bắc, không phải gió Xuân, Hạ, Thu, Ðông. Ấy là gió Tam mụi thần phong, ở trong lỗ mũi, lỗ miệng và lỗ con mắt bay ra, thiệt là độc quá!

Hành Giả hỏi:

– Gió ấy ra thể nào?

Ông già nói, gió ấy như vầy:

Ðã làm trời đất tối

Lại thêm quỷ thần kinh

Gặp núi non cũng sập

Nhằm người phải bỏ mình

Nếu thầy bị gió này, lẽ nào còn sống đặng? Trừ ra thần tiên phật thánh, mới vô sự mà thôi.

Hành Giả nói:

– Thiệt quả như lời, chúng tôi tuy không phải thần tiên, song thần tiên còn sau chúng tôi nữa, nên nó thổi không chết, ngặt một điều con mắt xốn xang.

Ông già nói:

– Cứ theo lời ấy, thì ông không phải người thường. Song chốn này không ai bán thuốc con mắt. Tôi có gặp ông tiên truyền phương thuốc dán, gọi là Tam hoa cửu tử cao. Trong ấy có ba thứ bông và chín thứ hột. Trị các thứ nhãn phong.

Hành Giả nghe rõ, bái mà nói rằng:

– Xin ông cho tôi một chút?

Ông già ấy đưa thuốc dán biểu Hành Giả thoa vào. Dặn đừng mở ra, ngủ đến rạng ngày thì hết.

Bát Giới trãi chiếu kêu Hành Giả lại nằm.

Hành Giả không mở mắt ra, cứ rờ hoài rờ hũy.

Bát Giới cười rằng:

– Bớ ông thầy bói, cây gậy của thầy đây nè.

Hành Giả nói:

– Thằng ăn trộm hay kêu ngạo, mi tưởng ta đui thiệt hay sao?

Bát Giới nằm bụm miệng cười sục sục một hồi, Bát Giới ngủ trước, còn Hành Giả ngồi tới canh ba. Con mắt êm rồi mới ngủ.

Rạng đông Hành Giả thức dậy, dụi con mắt, khen rằng:

– Thiệt là thuốc tiên, con mắt muốn tỏ hơn khi trước. Ngó tư bề không thấy nhà cửa, có liễu cao hòe lớn mà thôi, thấy hai anh em ngủ trên đám cỏ.

Bát Giới thức dậy hỏi rằng:

– Anh ngồi tưởng giống gì đó?

Hành Giả nói:

– Em hãy nhướng con mắt lên mà coi.

Bát Giới ngó quanh quất, thất kinh ngồi dậy hỏi rằng:

– Con ngựa mình ở đâu?

Hành Giả nói:

– Vậy chớ vật gì buộc nơi gốc cây đó?

Bát Giới hỏi:

– Còn gánh đồ ở đâu?

Hành Giả nói:

– Vậy chớ giống gì trên đầu nằm?

Bát Giới nói:

– Ông chủ nhà tệ quá. Dọn đồ đi mà không kêu chúng ta. Theo ý tôi bàn, chắc là trốn nợ. Sợ xóm riềng hay mà cản, nên đi lúc canh ba. Còn mình ngủ như chết, người dở nhà mà cũng không hay. Thiệt là tệ lắm.

Hành Giả cười ngất mà nói rằng:

– Ðừng có nói bậy, hãy coi tấm giấy trên nhánh cây.

Bát Giới gở lá thiệp, có bài thơ tứ tuyệt như vầy:

Non yêu ai dám đến làm nhà,

Hộ Pháp Già Lam biến hóa ra

Giúp thuốc cho người đà sáng mắt,

Gắng cóng trừ quỷ chớ dần dà.

Hành Giả nói:

– Mấy chú thần vặt. Từ khi ta đặng Long mã, không rảnh mà kêu tên. Nay lại hiện hình làm lối!

Bát Giới nói:

– Anh hay buông lời cao cách, thần nào lại chịu anh kêu tên?

Hành Giả nói:

– Ngươi không biết, để ta nói cho mà nghe: Hộ Pháp, Già Lam, Lục Ðinh, Lục Giáp, Yết Ðế, Công Tào, đều vâng lệnh Quan Âm bồ tát, theo bảo hộ thầy. Từ ngày ở núi Xà Bàn, ta có kêu cho biết đủ thiếu. Sau có em giúp việc, chẳng cần dùng các thần ấy, nên chẳng kêu tên.

Bát Giới nói:

– Chư thần đã vâng lệnh Phật mà phò hộ, nên chẳng dám hiện hình. Người mới hóa nhà giúp thuốc cho anh, còn trách móc sao phải. Hãy lo tìm phương thế mà cứu thầy.

Hành Giả nói:

– Ðây đến động Huỳnh phong gần lắm. Em hãy coi đồ và giữ ngựa, để ta đi dọ tin thầy, đặng tranh đua với nó.

Bát Giới nói:

– Phải, anh hãy thăm tin cho chắc thầy sống thác. Giả như thầy thác thiệt, thì chúng ta lo việc làm ăn. Bằng thầy hãy còn, thì hết sức hết lòng bảo hộ.

Hành Giả nạt rằng:

– Ngươi đừng nói bất lợi, nghe ra như tiếng rủa thầy. Thôi đừng nói xàm, ta đi đó.

Nói rồi nhảy một cái, đã tới động Huỳnh phong. Thấy trong còn ngủ mê nên chưa mở cửa, Hành Giả niệm chú, hóa ra một con muỗi bông, hai cẳng có rằn có rực, bay vào trong động, thấy tiểu quỷ đương ngủ mê.

Chúa động dậy kêu hết thảy, rồi nói rằng:

– Chúng bây coi cửa nẻo cho tử tế. Sợ trận gió thổi Hành Giả không chết, chắc là tìm đến chẳng không.

Hành Giả nghe rồi, bay ra thấy cửa khóa chặt lắm. Liền chun lỗ hở ra ngoài. Thấy vườn rộng mênh mông, giữa vườn có cây trụ. Trên cây trụ ấy có trói thầy mình.

Hành Giả thấy thầy khóc thảm thiết, liền đậu trên đầu mà kêu rằng:

– Bớ thầy, bớ thầy.

Tam Tạng biết tiếng nói rằng:

– Ngộ Không ôi! Ta trông gần chết đi mà thôi, ngươi ở đâu mà kêu ta đó?

Hành Giả nói:

– Tôi ở trên đầu thầy, xin thầy chớ nóng. Bữa nay tôi quyết bắt cho đặng yêu quái mà cứu thầy ra. Thôi tôi đi đó. Nói rồi kêu ve ve bay vào động, thấy Huỳnh Phong ngồi chính giữa mà điểm binh yêu.

Lại có Tiểu yêu vào báo rằng:

– Tôi đi tuần đến cụm rừng, thấy hòa thượng mỏ dài tai lớn. May tôi chạy lẹ, bằng không đã bị bắt rồi. Còn ông hòa thượng khỉ hôm qua đi đâu không biết.

Huỳnh Phong nói:

– Có khi bị gió thổi chết rồi, bằng không thì đi viện binh chỗ khác.

Tiểu yêu nói:

– Nếu gió thổi nó chết, thì chúng ta may biết dường nào. Lại e còn sống đi viện thần binh nào ta cũng không sợ. Hành Giả đậu trên trinh, nghe rõ rất mừng. Liền bay ra xa xa, hiện hình về kêu Bát Giới.

Bát Giới hỏi:

– Anh thám nghe tin làm sao đó? Tôi ở đây mới rượt tiểu yêu.

Hành Giả cười rằng:

– Em thiệt có tài lắm!

Liền thuật câu chuyện cho Bát Giới nghe, rồi nói rằng:

– Nó đã khai tên, ngặt không biết Linh Kiết bồ tát ở đâu mà thỉnh.

Anh em đương bàn luận, xảy thấy ông già đi ngoài đường.

Bát Giới ngó thấy, nói với Hành Giả rằng:

– Lời tục nói: Muốn thông việc dưới núi, thì hỏi kẻ đi đường. Anh hỏi thử ông già, họa may có biết chăng?

Hành Giả cất thiết bảng, chạy ra đường cái, bái ông già mà nói rằng:

– Chúng tôi đi thỉnh kinh, thầy tôi rủi bị yêu bắt. Xin ông làm ơn chỉ giúp, ông Linh Kiết bồ tát ở nơi nào?

Ông già ấy nói:

– Ông Linh Kiết ở hướng Nam, cách ba ngàn dặm, có hòn núi tên Tiểu Tu Di. Trong núi có kiểng chùa, là chỗ Linh Kiết bồ tát ở. Các ông đi thỉnh kinh của ngài hay sao?

Hành Giả nói:

– Không phải thỉnh kinh của ngài, thiệt cậy ngài một chuyện. Song không biết ngỏ nên phải hỏi đường.

Ông già ấy chỉ hướng Nam mà nói rằng:

– Cứ đi như này thì tới.

Gạt Hành Giả ngó theo phía đó, ông già ấy hóa gió bay đi.

Hành Giả ngó lại thấy bên đường có một miếng giấy có đề bốn câu thơ rằng:

Nói lại Tề Thiên đặng rõ tình,

Ông già ấy thiệt Lý trường Canh,

Phật cho nhà gã Phi long trượng,

Linh Kiết đem truyền máy phật binh.

Hành Giả cầm thiệp dạy lại, Bát Giới nói rằng:

– Anh ôi! Chúng ta mấy bữa rày rủi quá, hay thấy qủy ban ngày. Ông già hóa gió là ai vậy?

Hành Giả đưa thiệp cho Bát Giới.

Bát Giới xem lá thiệp rồi hỏi rằng:

– Lý Trường Canh là ai đó?

Hành Giả nói:

– Ấy là danh hiệu ông Thái Bạch kim tinh.

Bát Giới nghe rõ, quỳ lạy thinh không mà nói rằng:

– Ân nhân tâu cứu tôi năm xưa, phải không ắt chẳng còn tánh mạng.

Hành Giả nói:

– Em đừng ló đầu ra, hãy trốn trong rừng mà coi đồ giữ ngựa. Ðặng ta đi tìm Phật cứu thầy.

Bát Giới nói:

– Tôi biết mà! Tôi đà học phép rùa, cứ nhịn thua rút cổ. Anh đi lo việc ấy cho mau.

Hành Giả dùng phép Cân đẩu vân, nhảu qua chánh Nam một cái. Thấy có hòn núi, hào quang chiếu sáng lòa. Nhắm nghía cảnh chùa tốt lắm: Hương bay ngui ngút, chuông gióng thanh tao, Hành Giả đi tới chùa, thấy thầy đạo sĩ đương niệm Phật.

Hành Giả bái và hỏi:

– Ðây phải là chùa Linh Kiết bồ tát chăng?

Ðạo sĩ đáp rằng:

– Phải, mà tìm có chuyện chi?

Hành Giả nói:

– Xin ông làm ơn vào bạch cùng bồ tát rằng: Tôi là học trò Ðường Tăng Tam Tạng, tên tôi là Tôn Ngộ Không, khi trước có làm Tề Thiên Ðại Thánh, nay có chuyện cần cấp, xin vào ra mắt bồ tát bây giờ.

Ðạo sĩ cười rằng:

– Danh hiệu nhiều quá tôi có nhớ ở đâu!

Hành Giả nói:

– Thôi ông nói tắt như vầy: Tôn Ngộ Không là đệ tử Ðường Tăng xin vào ra mắt.

Ðạo sĩ vào báo, Linh Kiết sửa áo mão ra tiếp nghinh. Rước Hành Giả vào ngồi, truyền đệ tử đem trà ra đãi.

Hành Giả:

– Tôi có chuyện cần cấp không rảnh mà uống trà. Thầy tôi bị Huỳnh Phong bắt rồi, nên đến nhờ ơn Bồ tát.

Linh Kiết Bồ Tát nói:

– Phật Như Lai có cho ta hai phép, là Phi Long trượng, với Ðịnh Phong châu đặng ở đây mà trấn nó. Khi trước ta đã bắt đặng, lại dung cho nó tu hành, ngày nay nó phạm đến lịnh sư, làm cho ta mang tội.

Nói rồi lấy hai phép, đằng vân đi với Ngộ Không.

Khi tới núi Huỳnh Phong, Linh Kiết biểu Hành Giả rằng:

– Tôi ở trên mây, Ðại Thánh xông vào khiêu chiến, dụ nó ra khỏi động, thì tôi bắt tức thì. Ðã có Ðịnh Phong châu ở đây, chắc nó làm gió vàng không được.

Hành Giả y lời xách thiết bảng xông vào phá cửa.

Tiểu yêu vào phi báo.

Huỳnh Phong nổi giận nói rằng:

– Con khỉ này vô lễ quá! Thế này dung nó chẳng đặng rồi. Ta ra trận, quyết thổi cho nó chết.

Nói rồi cầm chỉa ba ra cửa động, nhảy đâm Hành Giả tức thời.

Hành Giả liền đánh lại.

Ước chừng ít hiệp, Huỳnh Phong day mặt về hướng Tốn, mà hớp gió Ðông Nam, xảy thấy Linh Kiết ở trên mây, quăng gậy Phi Long xuống, hóa ra con rồng vàng tám móng, chụp đầu Huỳnh Phong đập vào núi, liền hiện nguyên hình là con chuột lông vàng nghệ.

Hành Giả giá thiết bảng muốn đập óc cho rồi, Linh Kiết cản rằng:

– Ðại Thánh đừng giết nó. Nguyên nó là con chuột cống, tu dưới chân núi Linh Sơn. Song nó uống dầu lưu ly trước bàn Phật, nên đèn ấy lu hoài, nó sợ Phật Kim Cang bắt nó cầm tù, nên trốn xuống làm yêu làm quỷ. Bây giờ ta bắt đặng, phải nạp cho Phật Tổ xử phân. Nếu giết tư là vô lễ.

Hành Giả nghe nói liền tạ ơn.

Linh Kiết bay về Tây độ.

Nói về Bát Giới ở trong rừng lấp ló dòm hoài.

Xảy thấy Hành Giả về tới.

Bát Giới mừng rỡ hỏi rằng:

– Chẳng hay công việc ra thể nào?

Hành Giả thuật các chuyện, rồi nói rằng:

– Nay hai anh em mình đi tới động Huỳnh Phong, mà cứu sư phụ.

Bát Giới nghe nói mừng quá, đồng vào động Huỳnh Phong.

Những là thỏ đế, chồn hôi, nai chà, gấu ngựa, đều bị Ðinh ba đập chết cả bầy.

Ðồng ra sau vườn, mở dây cho Tam Tạng.

Bát Giới mừng rỡ dọn cơm nước đãi thầy, Hành Giả thuật các chuyện cho thầy nghe.

Tam Tạng cám ơn hết sức.

Thầy trò ăn uống xong xả, đồng ra động tức thì.

Ba thầy trò nhắm hướng Tây thẳng tới.

Chương 22: Bát Giới cự chiến sông Lưu Sa – Mộc Tra vâng phép thâu Ngộ Tịnh

Nói về ba thầy trò đi ít ngày khỏi Huỳnh Phong lãnh, đi đường thẳng, hết Hạ qua Thu. Trời Tây sao lửa thấy lờ mờ, liễu ủ tiếng ve kêu réo rắt.

Ngày kia đi tới mé sông hết đường đi bộ.

Xảy thấy sông sâu thăm thẳm, sóng bủa tưng bừng.

Tam Tạng ngồi trên ngựa nói rằng:

– Sông rộng mênh mông lại không có thuyền đò đưa đón. Biết làm sao qua tới mé sông?

Hành Giả nhảy lên mây che tay dòm xuống.

Trở về thưa lại rằng:

– Thầy ôi! Thiệt khó qua lắm!

Tam Tạng hỏi:

– Từ đây qua mé bao xa?

Hành Giả nói:

– Xẹt ngang qua chắt tám trăm dặm.

Bát Giới nói:

– Sao anh nhắm chắt như vậy?

Hành Giả nói:

– Con mắt ta ban ngày coi thấu việc dữ lành ngàn dặm. Khi nãy trên mây ngó xuống thấy sông sâu chẳng biết bao nhiêu, chớ bề mặt chắc là tám trăm dặm.

Tam Tạng thở ra quay ngựa lại. Xảy thấy trên bờ có tấm bia đá.

Thầy trò thấy trong bia đá có ba chữ cổ tự lớn, là “Lưu Sa hà”.

Dưới có bốn hàng chữ rằng:

Lưu Sa rộng tám trăm,

Nước sâu ba ngàn tầm

Lông ngỗng trôi không nỗi,

Bông lan rớt cũng trầm.

Ba thầy trò đương coi bia, xảy nghe sóng bủa ầm ầm, dưới nước trồi lên một con yêu quá dữ.

Có bài thơ làm chứng như vầy:

Ðầu đỏ chờm bờm tóc rối nhăng,

Tròn vo cặp mắt chói như đăng,

Màu chàm còn kém màu da mặt,

Tiếng sấm không bằng tiếng nói năng,

Mình bận áo lông vàng có sọc,

Lưng đeo dây nịt trắng từ lằn,

Sọ người chín cái mang đầy cổ,

Gậy báu cầm tay bộ dữ dằn.

Con quái ấy chạy xốc lên bờ lại chụp Tam Tạng.

Hành Giả ôm thầy chạy hoảng. Bát Giới để gánh xuống, vác cào cỏ đập đùa.

Con quái ấy giơ gậy báu ra đỡ, hai người đánh ẩu đả tại mé sông Lưu Sa, hai mươi hiệp không phân thắng bại.

Còn Hành Giả ôm thầy Tam Tạng, ngồi coi Bát Giới đánh yêu, Hành Giả ngứa nghề, cứ xăng tay áo dằn lòng không đặng, lấy thiết bảng bạch rằng:

– Xin thầy ngồi đây, không hề chi mà sợ, để tôi trợ chiến với Bát Giới giết con thủy quái mới xong.

Nói rồi nhảy vào giơ thiết bảng đập đại, con quái ấy kinh hãi liền nhảy xuống sông. Bát Giới dặm cẳng nói rằng:

– Ai biểu anh đánh tiếp? Nó đã đuối tay hết sức, nội năm ba hiệp nữa, tôi bắt sống như chơi, tại anh hành hung nó trốn mất biết đâu mà kiếm?

Hành Giả cười rằng:

– Không nói giấu chi em. Từ khi đánh con Huỳnh Phong đến nay, hơn một tháng không từng múa gậy, nay thấy em đánh với nó, hay biết dường nào, nên ngứa nghề nhảy vô thử sức. Không dè con quái ấy nhát quá, bại tẩu xuống sông, bây giờ biết làm sao cho đặng.

Nói rồi đồng trở lại với thầy.

Tam Tạng hỏi:

– Bắt đặng yêu quái hay không?

Hành Giả bạch rằng:

– Con quái ấy dở quá, nó nhảy xuống sông rồi.

Tam Tạng nói:

– Ðồ đệ ôi! Con quái ở sông này đã lâu, chắc lặn lội hay lắm.

Hành Giả nói:

– Phải! Nếu chúng tôi bắt đặng nó, thì chẳng giết làm chi. Biểu nó đưa thầy qua sông cho khỏi, ngặt tôi chưa quen thủy tánh, nên đánh dưới nước không hay.

Bát Giới nói:

– Lão Trư năm trước là Nguyên soái Thiên hà, nên từng quen thủy tánh. Song ngại bà con dòng họ nó trợ chiến với nhau. Còn tôi có một mình cự sao cho lại?

Hành Giả nói:

– Như ngươi xuống nước chẳng khá đánh lâu. Trá bại dụ nó lên đây, thì có ta tiếp cứu.

Bát Giới nói:

– Phải.

Liền cổi giày ra, tay cầm đinh ba nhảy xuống sông, rẻ nước mà đi tới đáy.

Nói qua con quái ấy, thua về đương thở dốc.

Xảy thấy nước rẻ làm hai, coi lại là Bát Giới.

Con quái ấy giá gậy đón đầu lại nạt rằng:

– Hòa Thượng này đi đâu đó?

Bát Giới đưa đinh ba ra đở, và hỏi rằng:

– Ngươi là yêu tinh chi đó, mà dám đón đường ta!

Con quái ấy nói:

– Bởi ngươi chẳng biết ta. Chớ ta không phải yêu ma quỷ quái, cũng không phải hạ tiện vô danh. Ngươi hãy nghe ta nói:

Tu hành thần thánh chầu Hoàng Thượng,

Phong chức Quyện Liêm ban bửu trượng

Làm bể lưu ly tưởng chết tươi,

Nhờ ơn Xích Cước xin đày bướng

No thời xuống nước kiếm nơi nằm,

Ðói lại lên bờ tìm thịt hưởng

Chín cái sọ người dấu tích đây,

Gặp mi ăn tái không chờ nướng

Bát Giới nghe nói nổi giận mắng rằng:

– Ngươi không có con mắt, tưởng dễ ăn thịt ta hay sao? Thế mi tưởng ta là tướng chạy, hãy coi cho biết đinh ba.

Nói rồi liền đập. Hai người đánh đồng lực.

Ban đầu còn đánh dưới sông, Bát Giới dẫn lần lần lên mặt nước, đồng đứng trên ngọn sóng, đánh đặng hai giờ.

Khi ấy Hành Giả đứng trên bờ ngứa nghề hết sức.

Xảy thấy Bát Giới trá bại, con quái ấy rượt theo.

Gần tới mé sông, Hành Giả nín không đặng nữa, nhảy ra đập một cây thiết bảng. Con quái ấy không dám cự, liền lặn xuống sông.

Bát Giới giận quá nói rằng:

– Tánh hay làm khỉ, phải rán tề tỉnh một chút thì tôi gạt nó lên bờ. Anh sẽ chặn nó dưới mé sông, thì bắt mới đặng. Bây giờ báo hại nó thất kinh lặn mất, một đời cũng không dám ló lên!

Hành Giả cười rằng:

– Thằng khùng, đừng có ngầy ngà, để thưa cho thầy rõ.

Nói rồi đồng trở lại, thuật các việc cho thầy nghe.

Tam Tạng nói:

– Bây giờ biết tính làm sao!

Bát Giới nói:

– Anh phải tính làm sao mới được?

Hành Giả nói:

– Bây giờ trời đã tối, để tôi đi xin cơm cho thầy ăn. Ngủ một đêm rạng ngày sẽ tính.

Nói rồi lấy bình bát nhảy lên thinh không, một chút trở về dâng cơm cho sư phụ. Tam Tạng thấy Hành Giả về mau quá, liền kêu mà hỏi rằng:

– Ngộ Không, thầy trò ta hãy đến nhà cho cơm đây mà hỏi thăm cách thế qua sông này, còn hơn cự với con quái ấy.

Hành Giả cười rằng:

– Nhà ấy xa quá chừng! Cách hơn bảy ngàn dặm. Người chưa từng thấy con sông ấy, mà bày cách thế làm sao?

Bát Giới hỏi:

– Bảy ngàn dặm đường, sao anh đi mau dữ vậy?

Hành Giả nói:

– Lão Tôn có nghề cân đẩu vân hay lắm. Nhảy một cái tới 10 muôm 8 ngàn dặm đường. Giá bảy ngàn dặm mà bao xa, nhảy vừa vừa cũng tới.

Bát Giới nói:

– Anh nhảy xa như vậy, thì cỏng thầy nhảy đại qua sông. Công hơi đâu đánh với con yêu cho mệt?

Hành Giả nói:

– Ngươi cũng biết đằng vân, sao chẳng cỏng thầy mà bay thử? Thầy là thai phàm xác thịt. Nặng hơn hòn núi Thái sơn. Chúng ta cỏng rồi đằng vân sao nổi? Lời xưa nói: Dầu đở Thái sơn như hột cải, khó đem phàm tục khỏi vòng trần. Những phép thâu đường, phép dời núi, ta đều biết hết. Bởi vì phần thầy phải chịu hoạn nạn, đi xứ này cho đến xứ kia. Anh em mình tuy bảo hộ thầy, chớ thế khổ não cho thầy cũng không đặng. Dầu cho anh em mình đến Tây Phương cầu khẩn. Phật cũng không phát kinh. Vì cớ này:

Bằng thỉnh đặng như chơi, thì coi ra không quý.

Phải để cho thầy dày công cực khổ, mới thỉnh đặng kinh.

Bát Giới nghe nói liền dạ.

Thầy trò ăn cơm đở đói rồi ngủ tại mé sông phía Ðông.

Rạng ngày Tam Tạng hỏi rằng:

– Ngộ Không, bửa nay ngươi tính làm sao đó?

Hành Giả thưa rằng:

– Tôi không biết tính làm sao, phải sai Bát Giới ra đánh nửa.

Nói rồi biểu Bát Giới rằng:

– Sư đệ phải đi một chuyến nữa. Ta không nóng nảy đâu. Ðợi dẫn nó lên bờ cho xa, ta chận phía mé sông thì bắt đặng.

Bát Giới vâng lời, vác đinh ba nhảy xuống.

Con quái ấy giá gậy mà nói rằng:

– Ngươi đừng xông tới, coi gậy ta đây nè?

Bát Giới đưa đinh ba ra đở, rồi nói rằng:

– Cây gậy tang của mi đó, hay chi lắm mà khoe?

Con quái ấy nói:

– Mi không biết gốc tích cây bửu trượng của ta, hãy nghe cho rõ.

Nói rồi ca rằng:

Nhành quế cung trăng thành khí giới,

Ðặt tên bửu trượng trừ yêu quái,

Ngươi Ngô Cang đốn rất cân phân,

Thợ Lỗ Ban làm không trễ nải

Muốn nhỏ muốn to ý nhiệm mầu,

Biến dài biến vắn người kinh hãi

Có đâu vô dụng thể Ðinh ba,

Cào cỏ xong rồi vung liếp cải.

Bát Giới nghe ca mắc cở, cười và nói rằng:

– Ðồ chết bụi, khéo nói lẻ. Thứ cào cỏ vung liếp cải thây nó, e đập nhằm một cái, chảy máu theo chín lỗ chân răng.

Con quái ấy nổi xung, giơ gậy liền đập.

Ấy là:

Bát Giới Sa Tăng chưa kết nghĩa,

Ðinh ba Bữu trượng lại làm quen.

Hai người đánh đặng ba mươi hiệp, sức cũng cầm đồng, Bát Giới trá bại chạy lên bờ, con quái ấy đuổi theo gần tới mé.

Bát Giới nói:

– Mi giỏi lên đất liền đánh thử sức mới biết thấp cao?

Con quái ấy nói:

– Mi gạt ta lên bờ, cho có người trợ lực. Mi giỏi thì xuống mặt nước mà đánh với ta! Thiệt con quái ấy khôn lắm, không chịu lên bờ, cứ đứng dưới sông nói dằn quay với Bát Giới.

Khi ấy Hành Giả thấy con quái ấy khôn quá, không chịu lên bờ.

Liền tính kế rằng:

– Ðể mình làm như diều xớt gà, ắt là bắt nó đặng.

Tính rồi nhảy lên không trung, bay xuống mà nắm đầu tóc.

Con quái đang cải lẩy với Bát Giới nghe tiếng gió gần mình, ngước mặt ngó lên thấy Hành Giả trên mây bay xuống.

Con quái thất kinh hồn vía lặn tuốt xuống sông.

Hành Giả nhảy xuống đất, đứng lơ láo rồi nói rằng:

– Em ôi, con quái ấy khôn quá, không chịu khỏi nước, anh em ta biết tính làm sao? Bát Giới nói:

– Khó chịu lắm! Khó chịu lắm! Tôi rán đã hết hơi mẹ đẻ, mà đánh cũng cầm đồng. Có xuống nữa cũng vô ích.

Nói rồi hai người về bạch tự sự với thầy.

Tam Tạng nghe nói châu mày mà than rằng:

– Gay trở như vầy, biết làm sao mà qua sông này cho đặng?

Hành Giả thưa rằng:

– Xin thầy đừng phiền não. Bát Giới bảo hộ thầy, đừng tranh đua với nó. Ðể ta qua Nam Hải đi thỉnh Quan Âm.

Bát Giới nói:

– Phải, phải. Anh gặp Bồ Tát bạch giùm cho tôi rằng: Ngộ Năng cám ơn thầy điều độ, nay đà theo sư phụ đi thỉnh kinh.

Tam Tạng dặn rằng:

– Ngươi đi thỉnh Bồ tát, rồi trở lại cho mau, kẻo nhọc lòng ta trông đợi.

Khi ấy Hành Giả dùng phép Cân đẩu vân, bay qua Nam Hải. Nửa giờ đến núi Phổ đà, vào rừng Tử trước, cậy Du thần vào bạch với Quan Âm.

Nhằm lúc Phật Bà đương xem sen dựa mé ao với Bỗng Châu long nữ, nghe báo, liền về ngự tòa sen.

Ðòi Hành Giả vào hỏi rằng:

– Ngươi đến có chuyện chi?

Hành Giả bạch rằng:

– Thầy tôi đến xóm Cao lão, thâu đặng một người đệ tử gọi là Trư Ngộ Năng. Lại đặt hiệu là Bát Giới. Nay đi khỏi Huỳnh Phong lãnh, lại tới Lưu Sa hà. Sông ấy nước yêu sâu 3.000 dặm đàng. Bề ngang tới 800 dặm, không thuyền đò chi hết, thầy tôi khó nổi qua sông. Vả lại có thủy quái làm hung. Ngộ Năng đánh ba lần cầm cự. Nên đến cầu Bồ Tát, đưa thầy tôi qua khỏi sông Lưu Sa.

Quan Âm nói:

– Cũng tại con khỉ này hay làm phách, không nói chuyện thỉnh kinh đó chăng?

Hành Giả bạch rằng:

– Ngộ Năng đánh với nó dưới sông, chuyện ấy chắc không nói tới. Tôi dốc bắt cho đặng nó, mà biểu đưa thầy tôi qua sông.

Quan Âm nói:

-Con quái ấy là Quyện Liêm tướng quân phải đọa, đà thọ phép với ta. Biểu ở đó mà chờ Ðường Tăng tới nơi, sẽ theo làm đệ tử. Phải ngươi nói việc thỉnh kinh cho rõ, thì nó sẽ quy y.

Nói rồi kêu Huệ Ngạn đến.

Quan Âm lấy cái bầu đở trong tay áo, đưa cho Huệ Ngạn mà dặn rằng:

– Ngươi đi với Ngộ Không đến mé sông Lưu Sa, kêu bớ Ngộ Tịnh thì nó đi lên. Trước đem nó tới quy y với Ðường Tăng, rồi biểu nó lấy chín cái sọ người ta kết dính nhau vuông vức, để trái bầu chính giữa hóa ra thuyền phép cho Tam Tạng qua sông.

Huệ Ngạn vâng lời đi với Hành Giả.

Nói về Bát Giới xa xa ngó thấy Hành Giả đi với Mộc Tra, liền dắt thầy ra nghinh tiếp.

Bát Giới tạ ơn Mộc Tra.

Hành Giả nói:

– Chúng ta lo đi kêu tên ấy cho mau, rồi thủng thẳng sẽ nói chuyện.

Tam Tạng hỏi:

– Kêu ai?

Hành Giả thuật chuyện lại.

Tam Tạng nghe rõ, quỳ lạy về hướng Nam.

Lại làm lễ Mộc Tra mà nói rằng:

– Xin Tôn Giả làm ơn đi cho kiếp kiếp.

Huệ Ngạn cầm bầu đỏ, bay đến giữa sông, cất tiếng cả kêu rằng:

– Ngộ Tịnh, Ngộ Tịnh, người thỉnh kinh đi tới đã lâu, sao ngươi không chịu phép? Con quái ấy đương lặn dưới đáy nước, xảy nghe người kêu tới pháp danh, lại nghe nói có người thỉnh kinh tới, liền trồi lên mặt nước, xem thấy Mộc Tra, mừng rỡ bái chào mà rằng:

– Tôi trễ sự tiếp nghinh, xin Tôn Giả miễn chấp. Còn Bồ Tát ở đâu?

Huệ Ngạn nói:

– Thầy ta không đến, sai ta tới dặn ngươi rằng: Phải theo làm đồ đệ Ðường Tăng, và lấy chín cái sọ kết bè vuông vức, để trái bầu này chính giữa, làm thuyền phép mà đưa thầy.

Ngộ Tịnh hỏi:

– Người thỉnh kinh ở đâu?

Huệ Ngạn chỉ và nói rằng:

– Vậy chớ ai ngồi trên bờ đó?

Ngộ Tịnh nghe nói, nhảy lên bờ quì trước mặt Tam Tạng mà nói rằng:

– Ðệ tử có mắt không ngươi, nên thấy thầy mà không biết, lở lầm xúc phạm, xin thầy mở lượng biển rộng thứ dung.

Nói rồi liền lạy.

Tam Tạng hỏi:

– Mi thiệt tình chịu theo đạo Phật sao?

Ngộ Tịnh nói:

– Bạch thầy! Ðệ tử trước đã vâng lời Bồ Tát, lấy tên sông làm họ, và đặt pháp danh gọi là Sa Ngộ Tịnh, lẻ nào nay chẳng theo thầy!

Tam Tạng nói:

– Như vậy thì Ngộ Không đưa dao cạo cho ta.

Hành Giả đưa dao.

Tam Tạng cạo sạch trơn tóc đỏ.

Sa Ngộ Tịnh lạy thầy xong xả, rồi lạy kêu Hành Giả là anh cả, Bát Giới là anh hai. Tam Tạng thấy Ngộ Tịnh lạy giống thầy chùa, nên kêu là Sa Tăng.

Huệ Ngạn nói:

– Thôi, người tu một thầy như anh em một nhà, việc lễ nghi chế bớt. Hãy lo làm phép thuyền cho kíp mà đưa thầy.

Sa Tăng không dám dần dà, cổi xâu chuổi bồ đề, mà làm thuyền Bác Nhã. Ðể bầu đỏ chính giữa, thỉnh Tam Tạng xuống thuyền, bên hữu có Ngộ Tịnh, bên tả có Ngộ Năng, đồng bay theo bảo hộ, ở trên cao thì có Mộc Tra, Hành Giả dắt ngựa và gánh đồ, đằng vân theo sau rốt, gió êm sóng lặng thuyền chạy đường tên, chẳng bao lâu đà đến bờ.

Tam Tạng bước lên mé, trong mình không lấm ướt chút nào.

Thầy trò day mặt về Nam Hải lạy tạ Quan Âm.

Tam Tạng tạ ơn Huệ Ngạn.

Huệ Ngạn thâu bầu hồng trở về Nam Hải, chín cái sọ tiêu mất, hóa chín ngọn khói bay tan.

Bốn thầy trò lấy làm lạ lùng, đồng nhắm cỏi Tây đi tới.

Chương 23: Tam Tạng chẳng quên đạo – Tứ Thánh thử lòng thiền

Nói về bốn thầy trò đi dọc đàng bày cạn nguồn lòng mối đạo, chuyện trò vui đẹp, chẳng chút ngại ngùng, mãng xem cỏ nội hoa ngàn, bóng ác dường thoi đưa, ba thu đã gần lụn.

Ngày kia trời tối, Tam Tạng nói với đồ đệ rằng:

– Mặt trời chen lặn, biết nhà nào ngủ đỡ một đêm?

Hành Giả thưa rằng:

– Người tu hành thì uống nước suối, ăn trái cây, ngủ ngoài sương, nằm dưới nguyệt, chỗ nào cũng là nhà hết thảy, hỏi thăm xóm làm chi?

Bát Giới nói:

– Anh đi không, thì thong thả hơn hết, chẳng hề thương kẻ nặng nề, cái gánh đồ này, có một Lão Trư ra sức. Anh theo làm học trò lớn, để tôi làm chức trưởng công, tôi biết tánh anh muốn làm tiên, chẳng hề gánh vật, còn ngựa của thầy mập quá, để cho tôi gởi gánh đồ.

Hành Giả nói:

– Ngươi tưởng nó thiệt là ngựa hay sao? Ấy là Thái Tử thứ ba, con vua Long vương Tây hải, bởi vì phạm tội, nhờ Quan Âm xin với Ngọc Hoàng, dạy nó phải biến ra con ngựa kim, mà chở thầy cho tới Tây Phương Phật, ai có phần nấy, ngươi còn xeo nó hay sao?

Sa Tăng nghe nói hỏi rằng:

– Nó là rồng thiệt sao anh?” Hành Giả nói:

– Phải.

Bát Giới nói:

– Thiên hạ đồn rằng: Rồng thì có phép thần thông, phun mây vượt biển, sao mà đi chậm như thường?

Hành Giả nói:

– Ðể ta biểu nó nhảy sải cho ngươi coi.

Nói rồi giá cây thiết bảng, hào quang chiếu sáng đỏ trời, con ngựa sợ đánh nhằm nó, liền chạy bay như tên bắn, Tam Tạng gò cương không lại, phải ôm cổ nó mà nằm. Chạy tới cụm rừng ngừng lại, Tam Tạng mới thở ra hơi, ngó thấy trong rừng có xóm, mừng rỡ nói rằng:

– Các đồ đệ, đây có nhà người, hãy ghé vào mà ngủ đỡ.

Hành Giả ngó lên trời. Thấy mây lành che phủ, rạng chói đỏ trời. Biết là Tiên Phật hiện ra, ngặt thiên cơ không dám lậu.

Liền nói xuôi rằng:

– Tối rồi, may lắm, thầy trò vào đó mà ngủ nhờ.

Tam Tạng liền xuống ngựa. Thấy nhà lầu: Rèm che sáo phủ, cột vẽ rường soi.

Bát Giới trầm trồ rằng:

– Chắc là nhà giàu lớn.

Hành Giả bước tới, Tam Tạng cản rằng:

– Chẳng nên, chẳng nên; mình là người tu hành phải giữ phép luật. Ðợi có ai ra cửa, sẽ xin cho vào đó mà ngủ nhờ.

Cùng nhau ngồi trước ngỏ hèn lâu, không thấy ai ra hỏi.

Hành Giả nóng quá, bước vào cửa ngỏ mà xem, thấy ba căn nhà trở mặt về hướng Nam, trong treo một bức sơn thủy. Trước có một cái bàn độc sơn đen. Trên bàn để cái lư đồng rất lớn.

Cột có đôi liễn xuân rằng:

Gió đưa tơ liễu trời vừa tối,

Tuyết đượm bông mai cảnh gặp xuân.

Trước nhà khách để sáu cái ghế da. Có bức bình phong che gió.

Hành Giả đương nhắm nhía, xảy nghe có tiếng giày.

Thấy có đàn bà chừng ba mươi tuổi, bước ra hỏi tiếng dịu dàng rằng:

– Chẳng hay ai ở đâu mà lén vào nhà đàn bà góa?

Hành Giả hãi kinh nói rằng:

– Tôi là sãi Ðại Ðường bên Ðông Ðộ, vâng chiếu chỉ qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh. Bốn thầy trò tôi đến đây, mặt trời chen lặn, nên vào xin phép cho chúng tôi ngụ đỡ một đêm.

Người đàn bà ấy cười và hỏi rằng:

– Còn ba thầy nữa ở đâu? Xin mời vào luôn thể.

Hành Giả cả kêu rằng:

– Xin mời sư phụ đi vô.

Tam Tạng biểu Bát Giới, Sa Tăng dắt ngựa gánh đồ vào cửa.

Người đàn bà ấy bước ra nghinh tiếp, Bát Giới lén xem nhan sắc như vầy:

Trâm cài lược giắt kể đôi từng,

Châu ngọc tai đeo chiếu sáng trưng,

Son phấn chẳng dồi coi cũng đẹp,

Dung nhan chỉ kém gái còn xuân.

Người đàn bà ấy mừng rỡ, rước bốn thầy trò vào nhà, mời ngồi theo thứ tự.

Xảy thấy con đầy tớ gái, bưng kỉ vàng chén ngọc và một mâm trái cây mùi lạ ngọt ngào, trà ngon thơm ngát.

Người đàn bà ấy xăn tay áo rộng, bưng trà trao đủ bốn thầy.

Lại truyền dọn cơm chay thết đãi.

Tam Tạng chắp tay hỏi rằng:

– Chẳng hay bà họ chi? Và xứ này gọi là xứ gì; xin cho tôi biết.

Người đàn bà ấy đáp rằng:

– Ðây thuộc về phương Tây gọi là Ðông Ấn độ. Còn tôi họ Giả, chồng tôi họ Mạc. Cha mẹ chồng tôi mất sớm, vợ chồng tôi coi sóc gia cang. Sự nghiệp muôn vàng, ruộng vườn ngàn khoảnh. Vợ chồng tôi có ba đứa con gái, không đặng chút trai, chồng tôi bỏ mình năm xưa, nay đà mãn phục. Không bà con chi hết, mẹ con tôi giữ gìn gia tài. Muốn gã con lấy chồng, lại sợ không ai coi sự nghiệp. Nay gặp bốn thầy trò ghé lại, bốn mẹ con tôi đương đóng cửa kén chồng. Không biết đại sự có hoan hỉ hay không? Xin cho tôi biết?

Tam Tạng nghe nói, giả điếc làm câm. Cứ lim dim ngồi tưởng Phật.

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Tôi có ba trăm dãy ruộng gò, ba trăm dãy ruộng bưng, ba trăm ngôi vườn thanh hoa đẳng vật. Dê heo vô số, trâu ngựa cả bầy, đồng cỏ trái cây hơn bảy chục sở, lúa gạo ăn chín năm không hết, hàng lục mặc mười năm có dư, bạc vàng dùng mãn đời cũng không thiếu. Kể chi nữ trang y phục nệm gấm màn thêu. Nếu bốn thầy trò bằng lòng ở đây, thiệt hưởng phước thanh nhàn khoái lạc. Tội gì chịu cực mà đi không tới Tây Phương?

Tam Tạng cứ làm thinh không nói.

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Ngày sanh tôi là giờ dậu, ngày mồng ba tháng tám, năm Ðinh hợi. Chồng tôi lớn hơn tôi ba tuổi. Tôi năm nay đã bốn mươi lăm, con gái lớn tôi tên Chơn Chơn, đặng hai mươi tuổi. Con giữa tên Ái Ái, mười tám tuổi. Con gái út tên Liên Liên, mười sáu tuổi, đều chưa có nơi nào. Tôi tuy xấu xa, chớ ba đứa nhỏ đều xinh tốt. Nghề nữ công cũng chẳng thua ai. Bởi chồng tôi không có con trai, nên cưng chúng lắm. Cho ba đứa ăn học, đều biết làm thi phú văn chương. Tuy ở sơn lâm, mà không thô tục. Tài có sắc cũng có, xứ quê người chẳng quê; nhắm cũng xứng đôi với mấy thầy lắm. Nếu bằng lòng ở đây mà để tóc, thời làm chủ cái nhà này. Lại được mặc hàng lụa, ăn thịt thà, chẳng hơn đi Tây Phương, thì mặc vải bô, ăn cực khổ?

Tam Tạng ngồi trơ trơ, như vịt nghe sấm, tợ ếch mắc mưa, cứ lộn thinh con mắt. Còn Bát Giới nghe nói giàu sang thì mê, nghe nói nhan sắc cũng muốn, ngứa nghề nóng họng, ngồi trên ghế không yên, khác nào trong nệm có dồn kim, cứ nhỏm lên nhỏm xuống.

Dằn lòng chẳng đặng, bước lại vỗ Tam Tạng mà nói rằng:

– Thầy không nghe bà chủ nói hay sao? Ngồi lim dim giả điếc. Lẽ nào người nói phải mà làm cách chẳng chịu trả lời?

Tam Tạng giựt mình, trợn mắt và xí một tiếng.

Bát Giới lui về chỗ.

Tam Tạng nói rằng:

– Mi là nghiệp chướng. Người tu hành lẽ nào nghe giàu sang mà dời chí, thấy sắc mà động lòng?

Người đàn bà ấy cười rằng:

– Tội nghiệp thì thôi! Ði tu hành mà có ích chi đó?

Tam Tạng hỏi:

– Vậy chớ bà ở thế lại có ích chi?

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Vậy thầy nghe tôi nói việc sung sướng cả đời. Xin đọc bài thơ làm chứng.

Thơ rằng:

Xuân đồi đồ mới dạo xem hoa,

Hạ thưởng sen xanh mặc nhổ nha

Thu có rau thơm và thịt sốt,

Ðông thì nệm ấm với dầu thoa

Tư niên ngủ kỹ không mãi,

Cả kiếp ăn ngon mặc tốt mà

Trút cạn nguồn tình vui một bữa,

Khá hơn tìm tõi kiếm Di Ðà.

Tam Tạng nói:

– Bà hưởng vinh hoa phú quý. Có ăn có mặc, con cái đầy nhà. Bà gọi là tử tế cũng phải. Còn tôi tu hành lại có ít theo tôi. Hãy nghe thử bài thơ thì biết.

Thơ rằng:

Tu hành theo phận chí không nguôi,

Trăng gió phường kia dạ phủi rồi

Ngoài thể tham lam là thể tục,

Trong mình đạo đức biết mình vui

Gắn cóng cầu Phật xin qua đó,

Mở lối từ bi trở lại thôi

Gẫm kẻ ở trần ăn mặc sướng,

E sau đọa xuống chốn tanh hôi.

Người đàn bà ấy nghe nói nổi giận đáp rằng:

– Thầy này thiệt vô lễ. Nếu tôi không vị tình ở Ðông Ðộ, thì chắc đuổi ra ngoài. Tôi thiệt tình muốn dâng sư phụ quý khoái lạc cho mấy thầy, thầy lại nói biếm tôi như vậy! Dầu thầy mắc thọ phép tình nguyện không ưa việc thế thời thôi. Còn đệ tử của thầy, cũng cho đỡ một người làm rễ. Có đâu nói gắt như vậy?

Tam Tạng thấy người ấy giận dữ, liền nói xuôi rằng:

– Thôi, Ngộ Không ở lại.

Hành Giả bạch rằng:

– Tôi từ bé đến lớn không biết việc đời. Xin nhượng cho Ngộ Năng là người thông thạo.

Bát Giới nói:

– Anh đừng trao gánh cho tôi, thủng thẳng luận bàn mới đặng.

Tam Tạng nói:

– Hai đứa bây không chịu, thì để Ngộ Tịnh lại cho.

Sa Tăng bạch rằng:

– Tôi nhờ ơn Bồ Tát dạy biểu tu hành. Tôi tình nguyện theo thầy, chớ không tham phú quý. Có giết thì chịu, chớ không làm trái lẽ như vậy.

Người đàn bà ấy thấy ai nấy không chịu liền bước vào trong, đóng cửa bỏ bốn thầy ở ngoài, không trà nước chi hết.

Bát Giới than thở rằng:

– Thầy không thạo việc, nói một lời bất lợi biết dường nào? Phải chi thầy nói lòng vòng, cũng đặng ăn no ngủ ấm. Rạng ngày chịu không chịu, ai lại ép ai. Chẳng hơn không có cơm ăn, chịu một đêm sao nổi?

Sa Tăng nói:

– Thôi anh ở lại mà làm rễ cho xong.

Bát Giới nói:

– Em đừng trao gánh cho ta, thủng thẳng tính đi tính lại đã.

Hành Giả rằng:

– Không nói dài vắn chi hết. Như ngươi chịu ở lại, thì thầy làm xui với người ấy cho rồi. Ngươi làm rễ nhà giàu mặc sức ăn ngon bận tốt. Chắc dọn tiệc đãi họ, thầy trò ăn một bữa cũng no. Còn ngươi ở lại đây, thì lương toàn vô hại.

Bát Giới nói:

– Anh luận cũng cao, song không khỏi tiếng này: Ra trân rồi về trần. Ðể vợ còn cưới chồng.

Sa Tăng nghe nói hỏi rằng:

– Nói vậy nhị ca đà có vợ hay sao?

Hành Giả nói:

– Em không hay việc ấy. Nguyên là con rễ ông Cao Thái Công ở nước Ô Tư Tạng, bị ta bắt được mới theo. Vả lại Quan Âm có độ trước, nên cũng chẳng đã, phải bỏ vợ theo thầy. Nay cũng lâu ngày muốn bỏ thầy mà cưới vợ. Bát Giới ngươi lạy ta vài lạy, thì ta tính dùm chuyện đó mới xuôi.

Bát Giới đáp rằng:

– Ðừng có nói xàm. Ý ai cũng như nấy, muốn bắt tôi chịu xấu một mình. Lời thường rằng: Thầy chùa đắm sắc, như ma đói thèm cơm. Ai lại gan dạ nào mà nói tốt. Ðiều muốn làm lớn thì làm láo, nói ra thì sợ chúng cười. Ðến nay, dầu đèn cũng không, cơm nước cũng vắng. Người ta rán một đêm còn được, báo hại con ngựa nhịn cỏ, mai đi sao thấu đường xa. Thôi, để tôi dẫn nó đi ăn ba miếng.

Nói rồi mở cương ngựa dắt đi một nước.

Hành Giả nói nhỏ với Sa Tăng rằng:

– Ngươi ngồi đây với thầy, ta theo coi nó đi đâu cho biết.

Nói rồi ra khỏi nhà khách, dùn mình biến ra con chuồn chuồn đỏ, bay theo Bát Giới coi chơi. Thấy Bát Giới dắt ngựa gặp cỏ không cho ăn, cứ dắt ra phía sau đứng đó. Xảy thấy người đàn bà dắt ba đứa con gái, đứng coi bông cúc nơi cửa sau.

Bát Giới dắt ngựa đi trờ tới, ba nàng kia bước trái vào trong.

Người đàn bà ấy hỏi rằng:

– Thầy đi đâu đó?

Bát Giới buông dây cương bước tới, bái và nói rằng:

– Thưa mẹ, tôi đi cho ngựa ăn.

Người đàn bà ấy nói:

– Thầy ngươi không biết tính, ở nhà ta thì sung sướng, chẳng hơn đi tới Tây Phương?

Bát Giới cười rằng:

– Mấy người ấy vâng lệnh vua Ðường đi thỉnh kinh, nên không dám ở đây. Song tôi còn ngại lắm. Sợ mẹ chê tôi mỏ dài tai lớn, không chịu gả con.

Người đàn bà ấy nói:

– Ta không chê đâu. Bởi vì nhà không có đàn ông, miễn đặng một người cầm lái. Song ngại vì ba đứa nhỏ, sợ tánh con gái hay chê.

Bát Giới thưa rằng:

– Xin mẹ nói dùm với mấy cổ: Ðừng chê mập chê ốm. Tuy thầy tôi tốt mã, song cũng chẳng đặng mà ham, chớ như tôi diện mạo xấu xa, mà có ích lắm.

Người đàn bà ấy hỏi rằng:

– Ngươi có tài chi, thì nói cho ta nghe thử.

Bát Giới ca rằng:

Tuy vấn sanh tướng xấu, Song cũng có tài năng

Ðào giếng chừng ba khắc. Câu mưa nội nửa ngày,

Giữ nhà hơn chó sủa: Cào đất quá trâu cày,

Trăm việc đều thông cả: Siêng năng ít ai tày.

Người đàn bà ấy nghe nói khen rằng:

– Giỏi như vậy thì xong lắm. Song ngươi về thưa lại với thầy. Nếu thầy ngươi bằng lòng thì ta bắt rễ.

Bát Giới nói:

– Thầy ấy không phải cha mẹ chi tôi, mà phải thưa đi thưa lại, ưng không là tại nơi tôi.

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Như vậy thì xong lắm, để ta tính lại với con ta.

Nói rồi bước vào đóng cửa.

Bát Giới không cho ngựa ăn cỏ, cứ việc dắt về.

Chẳng ngờ Hành Giả bay theo nghe đủ các việc, liền bay về hiện hình như cũ, thưa với thầy rằng:

– Bát Giới dắt ngựa về đó.

Tam Tạng nói:

– Ngựa thì phải dắt mới đặng, nếu buông khơi thì nó chạy đi.

Hành Giả cười, rồi thuật hết các việc.

Khi ấy Bát Giới về tới, buộc ngựa xong rồi Tam Tạng nói:

– Ngươi thả ngựa ăn cỏ rồi chưa?

Bát Giới nói:

– Chẳng có cỏ non nên không thả ngựa.

Hành Giả nói:

– Không thả ngựa mà có quần ngựa hay không?

Bát Giới nghe hỏi biết chuyện lậu rồi, làm thinh không nói lại, ngồi ngoẻo đầu nhiều mỏ thở ra.

Giây lâu nghe tiếng mở cửa, những thế nữ cầm hai cặp đèn sáp, một cái lư hương, tiếng ngọc len ken, mùi thơm bát ngát, người đàn bà ấy dắt ba người con gái ra kêu mà nói rằng:

– Chơn Chơn, Ái Ái, Liên Liên mau ra mắt Ðường Tăng ở Ðông Ðộ.

Ba nàng ấy ra làm lễ, coi lịch sự như tiên.

Có bài ca làm chứng:

Mày như kiểng chẩu, mặt tợ phấn dồi

Sắc sảo đành ngiêng nước, nết na dễ động người

Liễu dịu dàng chân bước, huê chúm chím miệng cười

Nếu không Tiên nữ vì trần đọa thì cũng Hằng Nga xuống thế chơi.

Tam Tạng chắp tay cúi mặt, Sa Tăng nhắm mắt day lưng.

Hành Giả làm ngơ không ngó tới, có một mình Bát Giới coi không nháy mắt, nhìn muốn rớt tròng, mất vía, bay hồn, bấm gan tím ruột, liền bỏ nhỏ rằng:

– Chào các tiên cô giáng hạ, thôi, mẹ biểu mấy cổ lui vào.

Ba nàng ấy đều lui vô hết, để lại một cặp đèn.

Người đàn bà ấy hỏi rằng:

– Bốn thầy trò, ông nào thương con tôi mà bằng lòng ở lại?

Sa Tăng nói:

– Chúng tôi đà nhứt định, người họ Trư ở lại đã xong.

Bát Giới nói:

– Em đừng đổ án cho anh, để tính đi tính lại.

Hành Giả nói:

– Còn tính nổi gì nữa? Ngươi đã giao ước tại cửa sau rồi, bây giờ thầy làm Nam chủ hôn, ta đứng trưởng tộc. Sa Tăng làm mai, chẳng coi lịch làm chi, nay là ngày thiên ân tốt lắm, hãy lạy thầy vài lạy, rồi đi làm rễ cho mau.

Bát Giới nói:

– Ðừng nói chơi không đặng, có đâu làm trái lẽ như vầy?

Hành Giả nói:

– Ngươi đừng có chối, miệng kêu mẹ đà chẳng biết mấy lần, chuyện gì mà nói chơi không được? Mau mau vào trong cho ta ăn đám cưới.

Nói rồi tay mặt kéo Bát Giới, tay trái kéo áo người đàn bà ấy nói rằng:

– Thôi, mẹ vợ dắt chàng rễ vào trong.

Người đàn bà ấy hối đầy tớ gái dọn cơm chay thiết đãi ba thầy.

Tam Tạng, Hành Giả, Sa Tăng ăn no rồi ngủ.

Còn người đàn bà ấy dắt Bát Giới đi không biết mấy phòng, Bát Giới nói:

– Thưa mẹ, tôi đã đói lòng, xin ghé phòng này một chút.

Người đàn bà ấy đáp rằng:

– Ðây là kho lúa và hà để cối xay, chớ nhà bếp còn cách xa lắm.

Bát Giới nói:

– Thiệt nhà nhiều ngăn nắp quá!

Ði quanh co hơn một buổi, mới tới phòng nằm.

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Nay nhằm ngày thiên ân, nhập phòng tốt lắm. Ngươi làm lễ cho mau.

Bát Giới nói:

– Mẹ nói phải lắm, xin mẹ ngồi ngay bàn án ngó ra, đặng tôi lạy một lần luôn thể. Người đàn bà ấy cười rằng:

– Bợ thì muốn cưới cho mau, mà tiếc từ cái lạy! Tuy vậy cũng đặng, khỏi mất công nhiều lần.

Nói rồi ngồi lên, Bát Giới cúi đầu làm lễ.

Lạy rồi hỏi rằng:

– Thưa mẹ, tính gả người thứ mấy cho tôi?

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Chuyện ấy chưa nhất định, muốn gả con lớn thì sợ con giữa nó phiền, muốn gả con giữa thì sợ con út nó giận. Bằng gả con út, chắc hai đứa nó hờn, nên chưa định chắc.

Bát Giới nói:

– Thưa mẹ, nếu sợ phàn nàn xin gả cho tôi hết thảy, thì khỏi lo việc ghen tuông. Người đàn bà ấy nói rằng:

– Không lẽ ba đứa con, mà có một thằng rễ?

Bát Giới thưa rằng:

– Nói như mẹ thì người ta không có hai ba vợ hay sao? Rất đổi là vua Nghiêu còn gả hết hai con cho ông Thuấn. Tôi khéo ở lắm, chẳng hề bỏ phép công bình?

Người đàn bà ấy nói:

– Không đặng, ta đưa cái khăn vuông cho ngươi đội, chụp con nào thì con ấy phải ưng, ấy là lối bói thiên hôn đó.

Bát Giới nghe lời lấy khăn che mặt, rồi nói rằng:

– Xin mẹ kêu mấy cổ ra đây.

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Chơn Chơn, Ái Ái, Liên Liên. Ra cho rể mới choàn thiên hôn mà kết duyên gá nghĩa.

Nói rồi nghe ba nàng đều dạ, đeo vàng ngọc khua rổn rảng, mùi xạ hương bay bát ngát. Lòng mừng khấp khởi, chụp trước rồi chụp sau. Chụp chẳng đặng người nào, té ngiêng rồi té ngửa! Rán sức đổ mồ hôi hột, té đập mặt u đầu! Chụp cột này rồi ôm cột kia, đụng vách này nhào vách nọ!

Mệt ngồi thở dốc và nói rằng:

– Mẹ ôi! Ba cô ấy qủy quyệt quá! Chụp không nhằm biết tính sao?

Người đàn bà ấy nói:

– Không phải nó qủy quyệt đâu, ấy là mắc nhượng cho nhau, nên không đứa nào chịu hết.

Bát Giới nói:

– Mấy cô không chịu, thì mẹ chịu cho rồi.

Người đàn bà ấy nạt rằng: Ðừng nói bậy nà! Mi là bộ mặt heo, nên đụng đâu muốn đó. Không chừa nhạc mẫu hay sao? Bởi ba đứa con ta đều khéo léo, dệt ba cái áo lót mồ hôi bằng gấm đều có nhận hột trân châu. Như người bận áo nào vừa, thì gả đứa ấy.

Bát Giới nói:

– Xong lắm, xong lắm, nếu bận đặng ba cái, thì gả hết cho tôi!

Người đàn bà ấy vào phòng lấy một cái áo đưa ra.

Bát Giới xem qua mừng lắm, bèn cởi trần mà mặc áo vào. Bận rồi nhào xuống đất; coi lại là dây buộc riết mình, chớ không phải áo, nó riết gần gãy ba sườn, thở không muốn đặng. Coi lại bốn mẹ con đi mất chẳng còn.

Nói về thầy trò Tam Tạng ngủ tới hừng đông, Tam Tạng mở mắt ra thấy mình ngủ trong rừng tòng bá, không biết nhà cửa đâu mất, lấy làm lạ lùng!

Tam Tạng thất kinh, dậy kêu đồ đệ, Sa Tăng nói với Ngộ Không rằng:

– Anh ôi! Không xong rồi! Chúng ta đã gặp quỹ!

Hành Giả biết trước, cười chúm chím mà nói rằng:

– Tuy là ngủ trong rừng tòng, mà vui quá sức. Song không rõ Bát Giới bị hành tội ra thể nào?

Tam Tạng hỏi:

– Nó bị tội chi?

Hành Giả cười rằng:

– Bốn mẹ con người đàn bà hồi hôm đó, chắc là Tiên Phật hiện ra mà thử chúng ta. Nên nửa đâm biến mất. Còn Bát Giới phải mắc nạn chẳng sai.

Tam Tạng nghe qua, liền lạy thinh không mà niệm Phật.

Xảy thấy trên cây tòng bay xuống một lá thiệp.

Sa Tăng lấy đem cho Tam Tạng.

Trong lá thiệp có tám câu thơ rằng:

Lê Sơn lão mẫu tu hành

Vị tiếng Quan Âm thỉnh xuống trần

Cậy Phổ Hiền kia làm thục nữ,

E¨p Văn Thù nọ giả gia nhân

Thánh Tăng giữ phép đà trọn đạo,

Bát Giới tham hoa muốn gãy lưng

Từ ấy sắp sau chừa các lỗi

Bằng quen thói cũ khó thành thần.

Chương 24: Vạn Thọ sơn, Trấn Ngươn cầm cố hữu – Ngũ Trang am, Hành Giả trộm nhơn sâm

Ba thầy trò đương đọc bài kệ, xảy nghe trong rừng có tiếng kêu lớn rằng:

– Sư phụ ôi! Cứu tôi với! Từ rày sắp ới tôi không dám nữa đâu.

Tam Tạng hỏi:

– Phải Ngộ Năng kêu đó phải không?

Sa Tăng thưa:

– Phải.

Hành Giả nói:

– Em đừng nói tới nó làm chi, chúng ta đi cho rãnh.

Tam Tạng nói:

– Tuy nó khờ dại mặc lòng, song vị tình Bồ Tát ngày xưa, cứu nó một phen kẻo tội nghiệp.

Sa Tăng gánh đồ, Hành Giả dắt ngựa. Ba thầy trò đồng vào rừng kiếm.

Nói về thầy trò vào rừng, thấy Bát Giới bị trói dưới gốc cây, kêu la vang rên siết! Hành Giả cười rằng:

– Chàng rễ ôi! Sao chừng này chưa dậy mà lạy thầy, và tạ mai nhơn trưởng tộc? Hỡi còn giả ngộ hay sao? Ủa! Nói vậy thì mẹ vợ với vợ trói chàng rễ mà khảo đó chăng?

Bát Giới thấy Hành Giả kêu ngạo, thì hổ thẹn trăm bề! Ðau cho mấy cũng không la, phải cắn răng mà chịu đỡ.

Sa Tăng thấy tội nghiệp quá, nên chẳng nỡ lòng, liền để gánh đồ, lại mở dây cho Bát Giới.

Bát Giới hổ thẹn không dám ngó lên. Liền quỳ lạy thinh không, chẳng biết ai mà vái. Hành Giả hỏi:

– Ngươi biết vị nào hiện ra mà thử đó chăng?

Bát Giới nói:

– Tôi hôn mê bất tỉnh nên không biết ai.

Hành Giả đưa lá thiệp ra.

Bát Giới coi càng hổ thẹn.

Sa Tăng thấy Bát Giới mắc cỡ, nực cười nói cợt rằng:

– Nhị ca cũng khá lắm mới cảm động bốn vì Bồ Tát, giúp việc hôn nhơn.

Bát Giới nói:

– Sư đệ đừng nhắc chuyện đó làm chi nữa. Từ này sắp tới chẳng dám làm nhăn, cứ quảy gánh theo thầy cho tới Phật.

Tam Tạng khen rằng:

– Nói như vậy mới phải.

Hành Giả thỉnh thầy lên ngựa, dắt ra đường cái đồng đi.

Ăn gió nằm mưa, trèo non lặn suối, xảy thấy hòn núi rất cao.

Thiệt là,

Hoa nở hoa tàn đầy đãnh núi,

Mây qua mây lại quảng đầu non.

Tam Tạng ngồi trên ngựa mừng rỡ nói rằng:

– Ðồ đệ, ta từ đi Tây Phương đến nay thấy nhiều non nước, không thấy núi nào cảnh tốt như vầy, có khi gần tới chùa Lôi Âm. Phải sửa sang cho đàng hoàng, mà ra mắt Phật Tổ.

Hành Giả cười rằng:

– Sửa soạn chi gấp vậy?

Sa Tăng hỏi:

– Thưa đại ca đây tới Tây độ còn cách bao xa?

Hành Giả nói:

– Kể từ Ðông Ðộ qua Tây độ cách mười muôn tám trăm dặm đường. Nay đi mười phần mới đặng một.

Bát Giới nói:

– Biết đi mấy năm cho tới.

Hành Giả nói:

– Ước sức hai em đi hơn mười mấy ngày cũng tới. Còn ta thì một ngày vừa đi vừa về năm chục lần, mà mặt trời chưa lặn. Chớ như thầy thì hết đợi hết trông!

Tam Tạng hỏi:

– Ngộ Không, ngươi nói ta đi mấy mươi năm mới tới?

Hành Giả nói:

– Thầy đi từ nhỏ cho tới già, già rồi trẻ lại một ngàn lần như vậy cũng chưa tới Tây Phương. Phải chi thành tâm, ngó lại Tây pương gần tới.

Sa Tăng nói:

– Chỗ này tuy không phải chùa Lôi Âm, song cũng chỗ thần tiên chi đó?

Hành Giả nói:

– Phải. Ðây là non tiên cảnh thánh, chúng ta đi chậm chậm mà xem hoa.

Nói về trong núi Vạn Thọ, có am Ngủ trang. Trong am ấy có một ông tiên, tên là Trấn Nguơn Tử, hiệu riêng là Dữ Thế Ðồng Quân. Trong vườn có một vật báu. Nguyên trước khi mới có trời đất, thì sanh ra cây này. Gọi rằng Thảo huờn đơn, lại kêu là nhơn sâm quả. Ba ngàn năm mới nở bông, ba ngàn năm mới có trái, ba ngàn năm nữa trái ấy mới chín cây. Gần cả muôn năm, mới có ba mươi trái. Hình như con nít mới đẻ ba ngày, có đủ tay chân, ngủ quan không thiếu. Nếu ai có phước, hửi một cái sống đặng ba trăm sáu mươi năm, ăn đặng một trái thì sống bốn muôn bảy ngàn tuổi.

Ngày kia Nguơn Thỉ thiên tôn mời Trấn Nguơn lên cung Di lạc mà nghe giảng đạo. Các tiên nhóm lại rất đông. Còn Trấn Nguơn đại tiên có bốn mươi tám người đệ tử tu luyện gần thành,đồng dắt theo nghe giảng, để hai người ở lại coi động, là hai đứa học trò nhỏ hơn hết, tên Minh Nguyệt với Thanh Phong.

Thanh Phong đã đặng một ngàn ba trăm hai mươi tuổi.

Minh Nguyệt mới một ngàn hai trăm tuổi mà thôi.

Khi Trấn Nguơn đại tiên gần đi có dặn rằng:

– Ta đi rồi ít ngày, có người quen của ta là Ðường Tam Tạng ghé đây. Nguyên ở Trường An vâng lệnh đi thỉnh kinh Tây độ, đừng thấy thầy sãi mà đem dạ dễ ngươi. Phải hái trái nhơn sâm mà đãi Tam Tạng.

Hai đạo đồng thưa rằng:

– Người không đồng đạo thì chẳng bàn luận làm chi, ấy là lời Khổng Tử. Mình theo đạo Lão Tử, sao lại quen với thầy chùa?

Trấn Nguơn đại tiên nói:

– Chúng bây không biết. Thầy ấy nguyên là đệ tử thứ nhì của Phật Tổ, ở tại Tây Phương, hiệu là Kim Thiền tử năm trăm năm trước ta đi coi hội Vu Lan, có quen biết với nhau, như tình bằng hữu. Nay tuy Kim Thiền tử đầu thai làm Tam Tạng, ta lẽ quên cựu ngãi hay sao? Song đem trái nhơn sâm cho Tam Tạng ăn, đừng cho lũ đồ đệ hay; vì chúng nó là học trò ăn cướp.

Hai tiên đồng vâng lệnh, đều ở lại giữ am.

Nói về bốn thầy trò Tam Tạng đương dạo núi non, ngó thấy trong vuông tre có lầu đài rực rỡ. Ði lần tới cửa ngỏ, coi tợ cảnh tiên cõi phật.

Thiệt là:

Lặng lẽ rất yên lòng đạo đức,

Trống không chi nhộn việc người đời.

Tam Tạng xuống ngựa, ngó bên tả cửa núi, có một tấm bia.

Trong bia có mười chữ lớn rằng:

Vạn thọ sơn phước địa, Ngủ trang quán động thiên.

Nghĩa là:

Ðất sanh non Vạn thọ, Trời trổ viện Ngũ trang.

Tam Tạng thấy chữ Viện, liền nói với học trò rằng:

– Ðây là am viện của đạo sĩ, cũng như kiểng chùa Thiền. Hãy đi vô mà coi thử? Hành Giả nói:

– Phải.

Bốn thầy trò đồng bước vào. Thấy đôi liển dán cửa ngỏ rằng:

TSnh bất lão thần tiên phủ,

Dữ thiên đồng thọ đạo nhơn gia.

Nghĩa là:

Còn mãi không dời nhà đạo đức,

Sống hoài chẳng thác viện thần tiên.

Hành Giả cười rằng:

– Ông đạo này hay nói lối. Trên cửa cung Ðâu Suất là chỗ ông Thái Thượng, cũng không viết liển xất như vầy.

Bước vào cửa trông thấy hai đạo đồng ra nghinh tiếp. Thưa rằng:

Xin mời vào nghỉ.

Tam Tạng thấy hai đạo đồng, tinh thần tợ nước, cốt cách khác thường. Liền mừng rỡ đi theo vào am ấy. Thấy giữa am thờ bức tượng, có hai chữ Thiên Ðịa mà thôi. Ðể lư hương vàng trên bàn án đỏ.

Tam Tạng thấp hương làm lễ, rồi hỏi hai đạo đồng rằng:

– Am Ngủ trang ở cỏi Tây Phương. Sao chẳng thờ Tam Thanh Tứ đế, các vị tinh quân? Lại thờ chữ Thiên Ðịa?

Tiên đồng cười chúm chiếm mà rằng:

– Tôi không dám nói giấu sư phụ Thầy tôi thờ chữ Thiên là phải còn thờ chữ Ðịa là vì tình. Có lẽ nào thờ mấy ông ấy!

Tam Tạng hỏi:

– Vì cớ nào vậy?

Tiên đồng nói:

– Tam Thanh là bằng hữu của thầy tôi. Tứ Ðế thầy tôi cũng quen lắm. Còn mấy vị sau là kẻ dưới tay của thấy tôi, mà phụng thờ sao phải?

Hành Giả nghe qua cười dài rồi nói rằng:

– Tưởng có một mình Lão Tôn hay nói ma, chẳng ngờ đồng lữ cũng vậy!

Tam Tạng hỏi:

– Vậy chớ lịnh sư ở đâu?

Thanh Phong thưa rằng:

– Thầy tôi đi nghe Nguơn Thỉ giảng kinh, vì có giấy mời hôm trước.

Hành Giả nghe nói cứ việc cười hoài.

Tam Tạng biểu ba người đi ra gánh đồ và dắt ngựa vào. Rồi mượn nồi vút cơm khô mà ăn đở.

Ba người ấy đi hết.

Thanh Phong dâng trà cho Tam Tạng.

Minh Nguyệt hỏi rằng:

– Thầy phải hiệu là Ðường Tam Tạng, qua thỉnh kinh bên phật hay chăng?

Tam Tạng nói:

– Phải! Sao Tiên đồng biết đặng tên tôi?

Thanh Phong nói:

– Khi thầy tôi ra đi có dặn rành… Nên tôi mới biết. Vậy xin thầy ngồi nghĩ, đặng tôi hái trái đem dâng.

Nói rồi hai đồng tử vào phòng. Một người cầm cái móc vàng, một người bưng cái chậu đỏ. Trong chậu lót nhiều khăn tơ lụa cho êm. Ðồng ra vườn nhơn sâm mà hái. Thanh Phong cầm móc vàng leo lên cây giựt xuống.

Minh Nguyệt đứng dưới gốc, giơ chậu đỏ hứng hai trái nhơn sâm.

Hái rồi đem ra dâng cho Tam Tạng mà nói rằng:

– Chúng tôi ở Sơn lâm cồn cạn không có vật chi mà đãi thầy. Xin dâng hai trái này, cho sư phụ dùng mà uống nước.

Tam Tạng ngó thấy hai trái ấy, thì run lập cập và ngồi dang ra xa ba thước, mà nói rằng:

– Bạc ác thì thôi! Năm nay mùa màng đặng lắm, làm sao đến nỗi ăn thịt người? Ðó là hai đứa con nít mới sanh chưa đặng ba ngày. Sao lại biểu tôi ăn mà uống nước? Thanh Phong nghe nói nghĩ thầm rằng:

– Ông Hòa Thượng này thai phàm mắt thịt, nên không biết trái nhơn sâm.

Minh Nguyệt thưa rằng:

– Trái này gọi là nhơn sâm quả, ở trên cây sanh ra.

Tam Tạng rằng:

– Ðừng có nói xàm. Lẽ nào cây lại sanh người đặng? Không ai ăn mà ép, hãy dẹp cho mau.

Hai người thấy Tam Tạng một hai không chịu ăn, túng phải bưng vào phòng mà thương nghị.

Thanh Phong nói:

– Ðường Tăng không biết trái nhơn sâm. Thôi, anh em mình chia nhau mà hưởng. Minh Nguyệt nói:

– Phải. Bởi vì trái này để dành lâu không được. Nếu lâu nó hết giải, thì chết cứng như thây ma, ăn chẳng ngon mà lại không bổ. Tại thầy ấy vô phước, nên anh em mình mới đặng nhờ.

Nói rồi mỗi người ăn một trái.

Nói về Bát Giới nấu cơm trong nhà bếp, cũng dựa bên đạo phòng, lóng tai nghe hai người đồng tử hối nhau: Lấy móc vàng mâm đỏ mà hái nhơn sâm.

Sau lại nghe nói:

– Ðường Tăng không biết trái nhơn sâm. Thôi, anh em mình chia nhau mà hưởng. Bát Giới nghe nói thèm chảy nước giải, ước phải chi có một trái mà ăn.

Xãy thấy Hành Giả dắt ngựa tới, buộc trên nhánh cây.

Bát Giới ngoắt lia ngoắt lịa.

Hành Giả bước tới, Bát Giới nói rằng:

– Ðây có một món bữu bối, anh biết hay không?

Hành Giả hỏi:

– Bữu bối gì ở đâu?

Bát Giới nói:

– Anh biết nhơn sâm quả hay không?

Hành Giả nói:

– Tuy ta chưa thấy, mà nghe người nói: Nhơn sâm quả là Thảo huờn đơn, nếu ăn nó thì sống lâu lắm. Mà ở đâu có bây giờ?

Bát Giới nói:

– Hai đạo đồng dâng hai trái cho thầy. Thầy không biết là trái nhơn sâm; chẳng hề động tới. Hai thầy khốn nạn quá. Phải chi thầy không hưởng, thì nó hiến cho mình. Té ra hai đứa đem nhơn sâm vào phòng, nuốt ọt với nhau hết trọi! Chúng ta không đặng một miếng, cũng nên hái trộm mà ăn.

Hành Giả nói:

– Chuyện ấy dễ như chơi, để ta đi hái.

Nói rồi liền chạy.

Bát Giới niu lại nói rằng:

– Tôi nghe nó nói phải lấy móc vàng mới hái đặng, mình phải sắm cho sẳn sàng. Hành Giả nói:

– Ta hiểu rồi.

Liền tàng hình vào phòng, không thấy đạo đồng ở đó. Ngó quanh ngó quất. Thấy trên song có móc một cây móc vàng dài ước chừng hai thước, lớn bằng ngón tay cái mà thôi. Trên có cái vòng bằng nhung, dưới cán có củ tỏi, chắc Kim bích là vật này. Vì có vòng để móc vào mà giựt. Lấy rồi ra cửa sau ra tới vườn huê, đi khỏi vườn huê tới vườn rau cải, đi khỏi vườn cải thấy có cửa ngăn. Mở cửa ngăn ra, thấy một cây Ðại thọ.

Thiệt là: Cây thơm bát ngát, lá rậm diềm dà, coi cho kỹ thì lá như lá chuối, cây cao ngàn thước, đo giáp vòng 70 thước dư.

Hành Giả đứng dưới gốc ngó lên thấy nhánh bên nam có một trái, coi như đứa con nít, sau đuôi có cuốn dính trên nhánh cây. Chân tay đều cử động. Lắc đầu nhăn mặt, nghe xa xa như tiếng khóc la.

Hành Giả mùng quýnh nói:

– Thiệt ta chưa từng thấy!” Nói rồi nhảy dựng lên cầm móc vàng mà giựt. Thấy rụng xuống một trái, nhảy bổ theo liền. Kiếm hèn lâu không đặng.

Hành Giả nói:

– Dầu nó có cẳng, chạy cũng nội khoản này. Vì cớ nào mà kiếm hoài không đặng! Chắc là Thổ Ðịa giữ vườn, không cho ta hái trộm, nên lén giấu đi.

Nghĩ rồi liền bắt ấn, niệm thần chú ám tự, thâu Thổ Ðịa tức thì.

Khi ấy Thổ Ðịa đến làm lễ hỏi rằng:

– Ðại Thánh đòi tiểu thần tới, có dạy chuyện chi?

Hành Giả nói:

– Ngươi há không biết Lão Tôn là ăn cướp tổ hay sao, năm xưa ta ăn trộm bàn đào, uống vụn ngự tửu, lại ăn cắp thuốc Linh đơn, chẳng ai dám chia của tang với ta hết thảy. Giá gì nay ta lén hái một trái nhơn sâm quả, mà ngươi chặn lận của ta? Vả chăng trái ấy ở trên cây, chim cũng ăn, dầu ta ăn một trái lại can chi? Cớ sao ta mới làm rớt xuống đây, lẽ nào ngươi giựt ngược?

Thổ Ðịa nói:

– Xin Ðại Thánh miễn chấp tiểu thần, sự ấy rất oan cho tôi lắm! Bửu bối ấy là vật Ðịa tiên, còn tôi là quỷ tiên lấy làm sao đặng? Chẳng những là cầm không đặng, thiệt vô phước chưa đặng hưởng lần nào.

Hành Giả nói:

– Nếu ngươi không lấy. Cớ gì rớt xuống liền mất đi?

Thổ Ðịa nói:

– Ðại Thánh biết nó là vật trường thọ. Mà chưa rõ nó có kị ngũ hành.

Hành Giả nói:

– Nó kị những vật gì?

Thổ Ðịa nói:

– Trái này gặp hơi vàng thì rụng, cây đụng đến thì khô, gần lửa thì cháy đen, rớt xuống đất thì lặn mất. Nên phải dùng đồ vàng mà móc nó, nếu để gần hơi cây thì mất nước, ăn cũng không hay, nếu muốn ăn thì để nó vào đồ sành, chế nước lạnh vào thì tan ra nước mà uống. Tuy đất này bốn muôn bảy ngàn năm, cứng hơn sắt, dùi khoan không phủng, mà nó chun xuống như chơi. Bởi vậy ăn nó thì sống lâu lắm.

Hành Giả không tin lời ấy, lấy thiết bảng đập xuống đất, nghe kêu một tiếng, thiết bảng dội lên mà đất không có dấu!

Hành Giả nói:

– Kỳ lắm, kỳ lắm! Làm ngươi bị rầy oan rầy ức, thôi ngươi trở về đi.

Thổ Ðịa vâng lời biến mất.

Khi ấy Hành Giả tính ra kế. Liền cầm móc leo lên, một tay móc nhơn sâm một tay kéo áo ra hứng, bọc đặng ba trái, chạy riết về trù phòng, nói với Bát Giới rằng:

– Của này không phải của riêng, nếu ăn lén Sa Tăng thì dở lắm. Hãy kêu một tiếng cho mau!

Bát Giới ngoắt Sa Tăng vào nhà bếp.

Hành Giả dở bọc hỏi rằng:

– Em biết vật gì đó hay không?

Sa Tăng nói:

– Ấy là nhơn sâm.

Hành Giả nói:

– Thiệt hay lắm, em đã biết trái nhơn sâm, khi trước ăn tại đâu mà rõ?

Sa Tăng nói:

– Tôi tuy chưa ăn nó, mà hồi làm Quyện Liêm đại tướng, thường thấy các tiên ngoài biển đem dâng cho Ngọc Hoàng, song chưa ăn đặng. Ðại ca cho tôi xin một chút, đặng nếm cho biết mùi!

Hành Giả nói:

– Không cần xin một chút làm chi, cứ ba anh em mỗi người một trái.

Bát Giới lấy một trái, nhấp vào cái rồi nuốt, lật đật không kịp nhai.

Liền hỏi rằng:

– Sư huynh sư đệ, hai người ăn nó ra làm sao?

Hành Giả nói:

– Ngươi ăn trước hết thảy, còn trở lại hỏi ai.

Bát Giới nói:

– Tôi ăn mau quá, chẳng biết có hột hay không? Tôi nhấp sơ rồi nuốt trọng. Anh ôi! Hễ làm ơn thì làm ơn cho trót. Kiếm thêm một trái nữa, tôi ăn thủng thẳng cho biết mùi.

Hành Giả nói:

– Bụng ngươi tham không cùng, biết bao nhiêu cho đủ? Mình cũng có phước lắm mới ăn đặng một trái này. Thôi thôi đã đủ rồi, đừng có đòi nữa.

Nói rồi đứng dậy lấy Kim bích quăng vào lỗ song.

Còn Bát Giới cứ cằn nhằn cẳn nhẳn nói hoài, cũng có bấy nhiêu chuyện.

Vừa lúc hai đạo đồng trở lại đạo phòng, nghe Bát Giới cằn nhằn:

– Ăn trái nhơn sâm uổng miệng quá! Phải được một trái nữa ăn mới biết mùi.

Thanh Phong nghe nói nghi rằng:

– Minh Nguyệt! Em nghe hòa thượng mỏ dài nói đó không? Giống gì mà phải được một trái nữa ăn mới biết mùi. Khi thầy đi có dặn rằng: Phải phòng lũ học trò ăn cướp. Có khi nó hái trộm nhơn sâm chăng.

Minh Nguyệt ngó ngoái lại nói rằng:

– Không xong rồi anh ôi! Cây kim bích sao rơi xuống đất? Mình ra vườn xem thử thể nào.

Hai người đi ra thấy cửa vườn đã mở, coi đếm lại còn có hai mươi hai trái.

Minh Nguyệt nói:

– Nó hết thảy là ba mươi trái, thầy hái hai trái chia nhau mà ăn, lại còn hái hai trái mà đãi Tam Tạng, thì còn hai mươi sáu trái rõ ràng sao mất hết bốn trái, chắc là các sãi trọc ăn cắp rồi. Thôi cứ vô nhiếc Ðường Tăng thì ra mối.

Nói rồi hai người vào chỉ mặt Tam Tạng mà mắng trọc ơi trọc hỡi hơn một hồi, Tam Tạng nghe không hết mới hỏi rằng:

– Chuyện chi mà Tiểu đồng rầy dữ vậy?

Thanh Phong nói:

– Thiệt là ngươi điếc, người ta mắng nhiếc mà không nghe, ăn vụn trái nhơn sâm, mà không cho người ta nói!

Tam Tạng nói:

– Tôi có biết trái nhơn sâm ra làm sao! Xin chớ nói oan mang tội.

Minh Nguyệt nói:

– Tôi đem cho thầy ăn thầy nói in đứa con nít, mới đó đã quên lững hay sao?

Tam Tạng nói:

– Mô Phật, thấy trái đó đà thất kinh hồn vía, tôi nào dám động tới đâu, xin đừng nói tôi ăn vụn vật này mà mang tội.

Thanh Phong nói:

– Tuy thầy không ăn, ngặt học trò thầy nó ăn vụng.

Tam Tạng nói:

– Có khi phải đó. Thôi đừng có rầy, để tôi hỏi lại, như quả nó ăn cắp, bắt nó lạy mà chịu lỗi với hai ông.

Tam Tạng liền kêu ba người đồng lên biểu.

Sa tăng nói:

– Không xong rồi, chắc sự nhơn sâm đã lậu!

Hành Giả nói:

– Mắc cở chết đi mà thôi! Chịu tiếng ăn vụng, xấu hổ biết dường nào, chi bằng chối phứt cho xong, không tang án gì mà sợ?

Bát Giới nói:

– Phải phải, ai chịu án ăn vụn làm chi.

Ba anh em bàn luận rồi, đồng đi ra một lượt.

Chương 25: Trấn Ngươn tiên bắt thầy Tam Tạng – Tôn Hành Giả phá viện Ngũ trang

Nói về ba anh em đến trước đền, Tam Tạng hỏi rằng:

– Ðồ đệ! Trong am này có trái nhơn sâm, mà đứa nào ăn cắp?

Bát Giới nói:

– Tôi thiệt không biết.

Hành Giả đứng chúm chiếm Thanh Phong nói:

– Ai cười thì nấy ăn vụng.

Hành Giả hét rằng:

– Trời sanh cái bộ miệng ta vui vẻ, mới ngó tưởng là cười. Chớ ai biết nhơn sâm ra làm sao mà ngươi nói nhận diện!

Tam Tạng nói:

– Ðồ đệ, mình là người tu hành, chẳng nên nói dối, ăm làm chi những vật sau lưng! Như có ăn lỡ rồi, thì lạy người ta mà chịu lỗi. Ðể chối cãi làm chi.

Hành Giả thấy thầy nói phải, liền thưa thiệt rằng:

– Chuyện này không phải tại tôi. Bởi Bát Giới thấy hai người đạo đồng ăn, nên biểu tôi kiếm mà nếm cho biết, tôi hái ba trái về chia ba người ăn. Bây giờ biết làm sao mà liệu?

Minh Nguyệt nói:

– Ăn vụng của người ta hết bốn trái, mà thầy còn nói không phải học trò ăn cướp hay sao?

Bát Giới nói:

– Mô Phật, hái trộm bốn trái mà đem về có ba trái mà chia. Ðã dính tay hết một trái. Coi ai nặng tội hơn?

Bát Giới cứ cằn nhằn như vậy mãi.

Còn hai đồng tử hỏi ra quả tang chánh án, càng mắng nhiếc hơn xưa.

Hành Giả tức mình, trợn mắt tròn vo, nghiến răng trèo trẹo.

Nghĩ rằng:

– Hai thằng nhỏ thiệt đáng ghét quá chừng. Ðể ta làm tuyệt hậu, báo hại cho chúng nó hết ăn trái nhơn sâm.

Nghĩ rồi, nhổ một cái lông sau ót, biến ra Ngộ Không giả đứng cùng Bát Giới, Sa Tăng, còn mình xuất thần ra vườn nhơn sâm, cầm thiết bảng nhảy dựng lên, đập nhơn sâm rụng hết phân nữa. Rồi chuyển thần lực xô trốc gốc cây nhơn sâm.

Thiệt là:

Nhơn sâm trốc gốc bầy trơ rễ,

Ðạo sĩ nhăn răng chịu chết thèm.

Hành Giả xô ngã cây nhơn sâm, coi lại không còn một trái. Vì thiết bảng có bịt vàng nên đụng nhằm thì rụng. Khi ngã xuống đất thì nhập thổ, nên còn cây lá mà thôi. Hành Giả nói:

– Như vậy mới hết tức mình.

Nói rồi hiện về như cũ.

Nói về hai đồng tử mắng một buổi trọn, mấy thầy trò làm thinh mà chịu.

Thanh Phong nói:

– Minh Nguyệt, ta coi các hòa thượng chịu lì không nói lại. Có khi không phải hái bốn trái chăng, thế tại lá rậm che khuất nên đếm sai một trái. Hãy ra coi lại, kẻo mắng hiếp người ta.

Minh Nguyệt nói phải.

Hai anh em đi tới cửa vườn, thấy cây nhơn sâm trốc gốc gãy nhánh, rụng là hết trái. Hai người chết điếng.

Hai đạo đồng nhào xuống đất kinh hãi nhưng biết làm sao cho đặng.

Hai người chắc lưỡi than dài.

Thanh Phong nói:

– Cây thuốc tiên chết rồi, thầy về hỏi trả lời sao đặng?

Minh Nguyệt nói:

– Xin sư huynh đừng kinh hãi. Nhắm không ai vô đây? Chắc là hòa thượng mặt nhiều lông, làm ra công chuyện đó. Nếu cãi lẫy với nó, ắt là đánh lộn chớ chẳng không, mình có hai anh em, cự sao lại bốn hòa thượng. Chi bằng chịu lỗi, gạt nó như vầy: Nhắm chừng nó nấu cơm đã xong, ta đem đồ ăn cho nó. Ðợi ngồi mâm thì đóng cửa. Cầm lại đó mà đợi thầy về. Thầy xử lẽ nào tự ý.

Thanh Phong khen phải, đồng mừng rỡ trở vào.

Khi ấy Thanh Phong, Minh Nguyệt đến lạy Ðường Tăng mà chịu lỗi rằng:

– Khi nãy anh em tôi nói xúc phạm nhiều lời, xin sư phụ miễn chấp.

Tam Tạng hỏi:

– Vì cớ nào mà chịu lỗi?

Thanh Phong nói:

– Trái nhơn sâm chẳng hề mất. Bởi lá rậm nên coi chẳng phân minh. Tôi mới đếm lại rõ ràng còn nguyên hiện.

Hành Giả nghe nói lấy làm lạ nghĩ rằng:

– Cây trái đã tang hoang, sao lại nói còn nguyên hiện. Hay là cây ấy, có phép cải tử hoàn sanh?

Tam Tạng nói:

– Như vậy thì mình dọn cơm mà ăn!

Bát Giới đi dở cơm đem dọn.

Hai tên đồng tử bưng phụ đồ ăn, lại nấu một bình trà ngon mà hờ đó.

Bốn thầy trò mới cầm đũa, hai đồng tử đóng cửa khóa liền.

Bát Giới cười rằng:

– Phong tục ở đây lạ lắm, ai đời ăn cơm còn sớm, mà đóng cửa bao giờ?

Minh Nguyệt nói:

– Phải, phải. Ăn cơm rồi sẽ mở cửa.

Thanh Phong mắng rằng:

– Sãi trọc chết thèm ăn vụng, là một tội rồi, sao lại dám cả gan xô gãy cây nhơn sâm, làm mất giống linh trong ám báu, hỡi còn nói lẻ hay sao? Hoặc đầu thai kiếp khác, mới đi tới Tây Phương, chớ kiếp này hết kể.

Tam Tạng nghe nói, thất kinh nghẹn họng, buông đũa thôi ăn.

Hai đồng tử đóng ba vòng cửa, mắng hơn một buổi, rồi vào phòng khóa cửa nghỉ ngơi.

Còn Tam Tạng tức tối, nhiếc Ngộ Không rằng:

– Thằng mặt khỉ tới đâu cũng gây họa. Ðã ăn vụng lỡ thì người ta mắng nhiếc cũng phải nghe, có lẽ nào lại hại cây người cho tuyệt giống, nếu chuyện này chúng kiện, dầu ông già mi làm quan xử đoán cũng không lẽ vị tình.

Hành Giả nói:

– Thôi mà, thầy đừng có ngầy lắm! Trời tối hai đứa nó vào phòng hết, đợi nó ngủ mình sẽ trốn mà đi.

Sa Tăng nói:

– Anh ôi! Ba vòng cửa nó khóa hết, lại giấu chìa khóa rồi, mở làm sao cho đặng? Hành Giả cười rằng:

– Không cần gì hết. Lão Tôn có phép thần thông.

Bát Giới nói:

– Ai không biết anh có phép? Anh hóa ra đỉa bò cũng được, hóa ra muổi bay cũng như chơi, ngặt chúng tôi không biết làm sao, phải giơ đầu mà chịu tội.

Tam Tạng nói:

– Nếu nó không đem chúng ta ra hết, thì ta niệm thần chú ngày xưa, coi nó chịu nổi không cho biết.

Bát Giới nghe nói hỏi rằng:

– Thưa thầy, thần chú chi ngày xưa?

Hành Giả nói hớt rằng:

– Bởi em không rõ. Cái niền trên đầu ta, nguyên Quan Âm Bồ Tát truyền cho thầy, thầy gạt ta đội lên, nó dính vào thịt. Hễ niệm thần chú thì niền ấy bóp lại gần bể đầu, nhờ phép thầy trị ta mới đặng. Thầy đừng niệm làm chi cho mệt, bề nào tôi cũng đem ra.

Coi lại trời đã khuya rồi, đạo đồng ngủ hết, Hành Giả nói:

– Bây giờ phải thời đi lắm.

Nói rồi cầm thiết bảng chỉ lên ống khóa, làm phép giải tỏa mở các cửa tức thì.

Tam Tạng lên yên, Sa Tăng dắt ngựa.

Bát Giới gánh đồ hành lý đồng theo Ðại Thánh ra khỏi viện Ngủ trang.

Khi ấy Hành Giả nói:

– Khi tôi làm Tề Thiên đại thánh cỏi tiên, tôi đặt vận ăn cuộc với Tăng trưởng thiên vương. Tôi ăn đặng ít con buồn ngủ, gọi là Hạt thóa trùng. Hễ cho đậu trên con mắt thì buồn ngủ. Ðể tôi trở lại cho hai thằng nhỏ ngủ một tháng cho biết chừng.

Nói rồi đến cửa phòng bắt hai con buồn ngủ quăng vào lỗ song, giống ấy cứ kiếm con mắt người ta mà đậu. Hai người ngủ như say như chết, rồi Hành Giả chạy theo Tam Tạng.

Ðêm ấy ngựa đi không ngừng vó, tới trời sáng mới dừng.

Tam Tạng nói:

– Trời đã sáng rồi, thầy ngồi dựa cội cây mà nghỉ.

Tam Tạng xuống ngựa ngồi dựa cội tòng, còn Bát Giới, Sa Tăng đặt lưng liền ngủ. Còn Hành Giả nhảy thót lên cây.

Nói về Trấn Nguơn đại tiên nghe Nguơn Thủy giảng kinh xong xả, liền dắt đệ tử về am, thấy cửa mở khắp nơi, đèn hương tắt hết. Trước sau không thấy bóng người! Vào đến thấy cửa phòng đóng chặt, hai đạo đồng nằm ngủ li bì! Còn học trò vỗ cửa mà kêu không dậy! Cạy cửa ra kéo hai trò xuống. Cũng mê man như say.

Trấn Nguơn cười rằng:

– Tiên đồng hay quá! Thánh tiên thì tinh thần no đủ, không hề ngủ khi nào, chắc cũng bị ai khuấy chi đó, mới ngủ vùi như vậy.

Nói rồi truyền đệ tử múc nước, niệm chú rồi phun nước vô mặt, hai trò ấy tỉnh liền. Thanh Phong, Minh Nguyệt ngó thấy thầy về động, đồng quỳ lạy thưa rằng:

– Người quen lớn của thầy là sãi Ðông Ðộ mới qua, thiệt là một bầy ăn cướp. Rõ ràng là chánh đảng, chớ không phải lâu la!

Trấn Nguơn đại tiên cười rằng:

– Chuyện chi dữ vậy?

Thanh Phong Minh Nguyệt thuật chuyện lại, và tức mình quá khóc ròng.

Trấn Nguơn đại tiên nổi giận nói rằng:

– Nín đi, đừng khóc, bởi chúng bây không biết họ Tôn; thần thông quảng đại, năm xưa làm phản thiên cung, chúng bây có biết mặt người hại cây báu hay không?

Thanh Phong thưa:

– Biết.

Trấn Nguơn đại tiên nói:

– Biết mặt thì đi theo ta. Còn các trò sắm sửa dây roi, đặng ta bắt đem về khảo. Các tiên đồng vâng lệnh sửa sang.

Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên bắt Minh Nguyệt Thanh Phong, đằng vân theo Tam Tạng.

Ði hơn một ngàn dặm ngó không thấy Ðường Tăng.

Ngó ngoái trở lại phía Ðông, Minh Nguyệt Thanh Phong ngó thấy Tam Tạng, liền thưa rằng:

– Ðường Tăng ngồi dựa cội tòng kia kìa.

Trấn Nguơn đại tiên nói:

– Ta đi quá hơn chín trăm dặm, phải không ngó lại, thì kiếm không ra!

Nói rồi biến ra ông đạo sĩ đi đường, tay cầm cái phất chủ.

Ði đến cội tòng nói lớn rằng:

– Tôi chào thầy đó.

Tam Tạng đáp lễ vừa rồi, đạo sĩ hỏi:

– Thầy ở đâu đến đây?

Tam Tạng nói:

– Tôi ở Ðông Ðộ Ðại Ðường vâng chỉ đi thỉnh kinh bên Phật.

Ðạo sĩ làm bộ kinh hãi hỏi rằng:

– Thầy có đi ngang núi tôi chăng?

Tam Tạng nói:

– Không biết núi thầy ở gọi là núi chi?

Ðạo sĩ nói:

– Am Ngũ Trang tại núi Vạn Thọ.

Hành Giả nói hớt rằng:

– Không biết, không biết, chúng tôi cứ đường thẳng mà đi.

Ðạo sĩ điểm mặt Hành Giả mà cười rằng:

– Con khỉ này nói giấu ta sao đặng. Mi đến am ta, ăn trái nhơn sâm cho đã, rồi lại giết gốc nhổ cây, mi trốn cả đêm nay, hãy còn chối phức! Ðố ngươi đi đâu cho đặng, phải bắt đền cây nhơn sâm cho ta.

Hành Giả nghe nói nổi xung, giơ thiết bảng liền đập.

Ðạo sĩ nhảy lên trên không hiện ra hình thiệt, Hành Giả nhảy theo đập hoài.

Trấn Nguơn đưa phất chủ đỡ mãi, liền giũ tay áo một cái, thâu bốn thầy trò và ngựa với gánh đồ, liền bay về am.

Kêu học trò đem dây ra cho sẳn, bắt từ người trong tay áo đưa ra, mới thấy còn nhỏ như hình hát bội đem ra ngoài lớn như người ta.

Truyền buộc bốn thầy trò vào bốn gốc cột, đóng nọc buộc con ngựa tại căn giữa, gánh đồ để một bên, bảo học trò lấy roi da ra, đánh hòa thượng một hồi, vì sự Huờn đơn thảo.

Khi ấy học trò vào lấy roi da rồng nhún nước, rồi thưa rằng:

– Ðánh người nào trước?

Trấn Nguơn đại tiên nói:

– Ðường Tăng Tam Tạng là thầy cả, mà không biết dạy học trò, thì cứ thầy đánh trước.

Hành Giả hét rằng:

– Thầy nói sai lắm! Tôi hái trộm, tôi ăn vụng, tôi xô gãy cây nhơn sâm sao lại không đánh tôi, để ăn hiếp thầy cả.

Trấn Nguơn đại tiên cười rằng:

– Con khỉ này thiệt gan ruột quá chừng, thôi bây đánh nó trước.

Tiểu tiên nói:

– Thưa thầy, đánh mấy chục roi?

Trấn Nguơn đại tiên nói:

– Ðánh ba chục mà thôi.

Tiểu tiên vâng lời giá roi liền đánh.

Hành Giả thấy roi lớn quá, trợn con mắt coi đánh tại đâu, chẳng ngờ cũng đánh đích. Hành Giả biến ra da sắt mà chịu đòn, đánh ba chục roi thì trời mới đứng bóng, Trấn Nguơn đại tiên biểu đánh Tam Tạng, vì tội dạy không nghiêm để học trò gian ác. Hành Giả nói:

– Thầy nói hiếp quá! Hồi tôi ăn cắp thầy tôi cũng không hay. Ví dầu có tội chi, tôi là phận học trò xin chịu thế, có đánh bao nhiêu nữa thì đánh tôi đi.

Trấn Nguơn đại tiên khen rằng:

– Con khỉ yêu tuy là gian xảo, mà cũng có hiếu nghĩa với thầy. Vậy thì y theo lời nó xin, đánh thêm ba chục nữa.

Tiểu tiên vâng lệnh đánh y số mới thôi.

Tôn Hành Giả không biết đau chút nào. Dòm sau đít sáng trưng như mặt kiếng.

Khi ấy trời gần tối Trấn Nguơn đại tiên nói:

– Thôi, đem roi ngâm nước một đêm, để mai sẽ đánh nữa.

Ðệ tử vâng lệnh. Rồi đâu đó về phòng.

Còn Tam Tạng khóc ròng than rằng:

– Tại chúng bây làm nhăn, mà báo ta mắc nạn. Bây giờ mới tính làm sao?

Tôn Hành Giả nói:

– Ðừng có cằn nhằn, đợi họ ngủ rồi sẽ trốn nữa.

Ðêm khuya ai nấy ngủ hết.

Tôn Hành Giả biến hình nhỏ, vuột dây ra.

Trước mở trói cho thầy, sau mở cho Sa Tăng Bát Giới. Tam Tạng cỡi ngựa, Sa Tăng gánh đồ.

Hai người mở cửa động đi trước.

Còn Tôn Hành Giả biểu Bát Giới, đốn bốn cây dương, trãi nhánh xong xả, đem vào buột vô bốn gốc cột như cũ.

Tôn Hành Giả niệm thần chú, rồi cắn lưỡi chảy máu phun trên bốn khúc dương.

Hóa ra hình bốn thầy trò, không sai một mảy. Hỏi cũng biết đáp lại như người. Xong rồi Tôn Hành Giả với Bát Giới đóng cửa động như thường, nhảy ra chạy theo Sa Tăng, Tam Tạng.

Ðêm ấy ngựa không ngừng vó, người chẳng nghỉ chân.

Ði tới sáng trắng, Tôn Hành Giả thấy thầy ngủ gục trên lưng ngựa.

Sợ rủi ro té xuống mà khó lòng. Nên kiếm thạch bàn dựa bóng cây, thầy trò đồng nghỉ.

Rạng ngày Trấn Nguơn đại tiên kêu học trò thức dậy.

Ăn cơm mai xong rồi, Trấn Nguơn truyền học trò lấy roi đánh bốn sãi mỗi người ba chục!

Tiểu tiên vâng lệnh. Xách roi ra nói với TamTạng rằng:

– Bữa nay đánh ngươi trước.

Giả Tam Tạng hỏi:

– Ðánh tôi sao?

Tiểu tiên đánh ba chục.

Rồi lại nói với Bát Giới rằng:

– Bây giờ đánh Hòa Thượng mỏ dài.

Bát Giới hỏi:

– Ðánh tôi phải không?

Tiểu tiên cũng đánh y số.

Rồi nói:

– Bây giờ đánh Hòa Thượng mập.

Giả Sa Tăng cũng nói y như vậy.

Tiểu tiên đánh thẳng tay.

Rồi đánh tới giả Tôn Hành Giả.

Thì Tôn Hành Giả thiệt đương ngủ vùng phát lãnh giựt mình nói rằng:

– Không xong! Không xong! Ta ngỡ là hôm qua đánh đã hai lần sáu chục. Bữa nay nó chừa ta. Nên dùng máu lưỡi mà hóa bốn thầy trò. Ai dè nó đánh ta, đau lưỡi quá chịu sao cho nỗi.

Nói rồi thâu phép, hết run hết rét tức thì.

Còn Tiểu tiên mới đánh giả Tôn Hành Giả ba roi, coi lại không phải bốn thầy trò, thiệt bốn gốc dương liễu. Liền vào thưa tự sự với thầy.

Trấn Nguơn đại tiên cười hả hả nói rằng:

– Tôn Hành Giả là một con khỉ yêu nghiệt. Ðã trốn thì thôi ta cũng kiếm. Sao lại đem dương liễu hóa mình chịu thế, khi ta không biết hay sao. Nói thiệt dung mi không đặng.

Nói rồi đằng vân ngó xuống. Thấy thầy trò đi lại hướng Tây.

Trấn Nguơn đại tiên kêu lớn nói rằng:

– Tôn Hành Giả chạy đi đâu cho khỏi? Phải bắt đền cây nhơn sâm cho ta.

Bát Giới nghe kêu lớn, kinh hãi nói rằng:

– Chủ nợ đà theo đệ!

Tôn Hành Giả nói:

– Xin thầy gói hai chữ từ bi lại. Ðể anh em tôi cầu siêu độ cho thầy ấy, thì đi đến Tây phương.

Tam Tạng run lập cập, chưa kịp trả lời.

Ba anh em đằng vân áp đánh.

Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên đưa phất chủ ra đỡ. Rồi cũng giũ tay áo, bắt như xưa. Ðem về bắt Tam Tạng ra biểu cột tại gốc hòe. Còn Bát Giới Sa Tăng cột vào hai cây đại thọ. Có một mình Tôn Hành Giả thì trói dộng đầu tại cây cau. Truyền đệ tử lấy mười in vải.

Tôn Hành Giả xem thấy cười rằng:

– Bát Giới! Ông đại tiên tử tế lắm. Ðem vải may áo cho bọn mình, còn dư xé khăn lau miệng nữa.

Nói về Trấn Nguơn đại tiên truyền đệ tử lấy vải vấn cùng mình bốn sãi. Chừa từ cổ sắp lên.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Tưởng là may áo, không dè đại liệm!

Khi ấy các tiểu tiên vấn rồi hết, Trấn Nguơn truyền đem sơn sống sơn chín, tô ngoài vải dày mo. Rồi bảo đem chảo lớn nấu dầu cho sôi, quyết nấu Tôn Hành Giả mà báo cừu cây nhơn sâm.

Tôn Hành Giả nghe nói mừng thầm rằng:

– Mình lâu tắm gội xót ngứa lắm. Sẳn dịp nấy tắm chơi luôn thể, song nghĩ lại Ðại tiên phép nhiệm, không biết có bùa chú ếm chăng, dầu mình chẳng hề gì, e thầy với hai em phải chết.

Nghĩ rồi ngó bốn phía, thấy con sư tử đá bên mái tây. Liền lăn đến đó, cắn lưỡi chảy máu; phun thạch sư tử mà biểu rằng: “Biến biến”. Thiệt biến như hình Hành Giả, còn Tôn Hành Giả tàng hình ẩn trên mây.

Giây phút Tiểu tiên vào thưa rằng:

– Chảo dầu đã sôi rồi.

Trấn Nguơn đại tiên truyền quăng Tôn Hành Giả vào vạc dầu nấu cho rục.

Bốn tiên đồng khiêng Tôn Hành Giả không nổi, phụ thêm bốn người nữa, đỡ cũng không lên.

Lần lần tới mười hai người cũng không nổi, các tiên đồng nói rằng:

– Con khỉ nhỏ mà nó nặng quá tay, miết xuống đất như sắt!

Nói rồi áp lại cộng hai mươi người, rán hết hơi khiêng mới nổi.

Quăng vào chảo nghe một cái cảng!

Dầu văng phỏng mặt các tiên đồng.

Người chụm lửa la lớn rằng:

– Lủng chảo rồi; chảy dầu lai láng.

Coi lại con thạch sư tử nằm trong chảo, không biết Tôn Hành Giả biến đi đâu!

Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên ra xem, thấy vậy nổi nóng nói rằng:

– Con khỉ khốn nạn này, thiệt là vô lễ dám diễu trước mặt ta, đã trốn khỏi thì thôi, sao lại hại cho bể chảo; thôi thôi bỏ nó đi cho rảnh. Thay chảo khác, nấu dầu Tam Tạng mà báo cừu cây nhơn sâm.

Nói về Tôn Hành Giả ở trên mây nghe nói như vậy, liền hiện xuống trước mặt Trấn Nguơn đại tiên, bái mà nói rằng:

– Ðừng có nấu dấu thầy tôi, để tôi chịu thế.

Trấn Nguơn đại tiên mắng rằng:

– Mi là con khỉ yêu nghiệt, sao hại lủng chảo ta.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Nếu ông không nấu dầu tôi, thì sao đến nổi lủng chảo ngã lò tắt bếp. Phải tại tôi hay sao? Thiệt tình tôi cũng muốn vào chảo mà tắm dầu. Ngặt mắc đại tiện thốn tới, sợ làm bậy trong chảo, nữa sau ông nấu đồ ăn không ngon. Nay xuất cung (đi đại tiện) đã sạch sẽ rồi, nên vào thế cho thầy, kẻo oan và tội nghiệp.

Trấn Nguơn đại tiên nghe nói nổi giận cười gằn, liền bắt Tôn Hành Giả.

Chương 26: Tôn Ngộ Không non cao tìm thuốc – Quan Thế Âm nước phép cứu cây

Khi ấy Trấn Ngươn đại tiên nắm Tôn Hành Giả mà nói rằng:

– Ta cũng biết ngươi thần thông quảng đại. Song bởi ngươi vô lễ quá, dầu hay biến hóa cũng ra không khỏi tay áo ta. Vậy ngươi đi với ta đến Tây Phương ra mắt Phật Tổ, thử coi ngài xử ngươi phải thường cây nhơn sâm cho ta chăng? Không lẽ ngươi ngang tàng, mà cãi lẽ cho đặng.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Ông thiệt là người nhỏ mọn lắm! Muốn cây nhơn sâm sống lại có khó gì, sao ông không nói trước cho rành, để mất công tranh đua cho mất công dữ vậy?

Trấn Nguơn đại tiên nói:

– Ta chẳng tranh nhỏ mọn, thiệt là uổng cây nhơn sâm.

Tôn Hành Giả nói:

– Nếu ông thả thầy và hai em tôi, thì tôi bắt đền cây nhơn sâm sống lại.

Trấn Nguơn đại tiên nói:

– Nếu đặng như vậy thì ta kết làm anh em với ngươi.

Tôn Hành Giả nói:

– Thì ông thả đi, tôi chẳng hề thất tín.

Trấn Nguơn đại tiên nhắm bốn thầy trò dầu trốn đâu cũng không khỏi, truyền tha hết một lần.

Nói về Tam Tạng tuy khỏi trói mà còn nghi không chắc, liền hỏi Tôn Hành Giả rằng: – Ngươi làm sao cho cây nhơn sâm sống lại?

Tôn Hành Giả thưa rằng:

– Tôi đi qua Ðông Dương đại hải, tìm Thánh Lão tiên ông, kiếm cho đặng phương phép khởi tử huờn sanh, về cứu cây ấy.

Tam Tạng hỏi:

– Ngươi đi mấy bữa mới về?

Tôn Hành Giả thưa rằng:

– Nội ba ngày thì về đến.

Tam Tạng nói:

– Ta cũng y như lời hẹn, nếu quá bữa thì niệm chú tức thì.

Tôn Hành Giả vâng lời cân đẩu vân bay mất.

Khi ấy Tôn Hành Giả qua Ðông Dương đại hải, đến núi Bồng Lai, thấy ngoài cửa động Bạch Vân có ba ông tiên đương đánh cờ dưới cội tòng, coi lại là: Phước Tinh với Lộc Tinh, còn Thọ Tinh ngồi coi thắng bại.

Tôn Hành Giả bước tới bái mà nói rằng:

– Chào các em đó.

Tam Tinh xô bàn cờ, đáp lễ hỏi rằng:

– Ðại Thánh đến có chuyện chi?

Tôn Hành Giả nói:

– Ở không vô sự, nên đến thăm chơi.

Thọ Tinh nói:

– Tôi nghe rằng Ðại Thánh theo Thích, bảo hộ Tam Tạng đi thỉnh kinh, sao lại ở không đi dạo?

Tôn Hành Giả nói:

– Thiệt tình không dám giấu các vị; bởi ta nữa đường gặp việc, nên đến cậy giúp một chút, không biết chịu hay chăng?

Phước Tinh hỏi:

– Ðại Thánh gặp việc tại chốn nào?

Tôn Hành Giả nói:

– Tại am Ngũ Trang, núi Vạn Thọ.

Tam Tinh đồng cười rằng:

– Chốn ấy là cung ông Trấn Nguơn đại tiên. Có khi ăn vụng trái nhơn trái nhơn sâm chớ gì?

Tôn Hành Giả cười mà nói trây rằng:

– Dầu ăn vụng, cũng không đáng của bao nhiêu.

Tam Tinh cười rằng:

– Ông giộc này không biết khinh trọng! Trái nhơn sâm tên là Vạn thọ thảo huờn đơn. Chúng tôi còn thua Trấn Nguơn nhiều lắm. Vì mình tu luyện mới đặng TSnh. Còn người ăn một trái cũng sống lâu như trời đất. Phải là quý báu vô giá, sao gọi rằng không đáng bao nhiêu? Coi thử trong ngoài càn khôn, thử ai trồng đặng cây linh ấy?

– Tôn Hành Giả nói:

– Cây linh gì không biết, ta làm đà trốc gốc đứt rễ rồi!

Tam Tinh nghe nói thất sắc, đồng hỏi rằng:

– Làm sao mà trốc gốc đứt rễ lận?

Tôn Hành Giả thuật chuyện lại, rồi nói rằng:

– Bởi vậy tôi mới tìm đến đây, xin có thuốc chi giúp thử, làm sao cho cây nhơn sâm sống lại cứu mới đặng thầy tôi.

Khi ấy ba ông nghe nói, ngồi ngẫm nghĩ hoài, giây lâu đáp rằng:

– Phải chi Ðại Thánh đánh chết loại cầm thú hay là vật ở dưới sông, thì anh em tôi cho chút thuốc bằng móng tay, cứu cũng sống lại, chớ cây nhơn sâm là cây tiên, có thuốc chi mà làm cho sống lại đặng?

Tôn Hành Giả nghe nói, ngồi nhăn mặt buồn xo.

Phước Tinh thấy vậy nói rằng:

– Ðại Thánh phiền não làm chi? Ðây tuy không biết phương chi, chớ tìm nơi khác chắc cũng có thuốc.

Tôn Hành Giả nói:

– Ði tìm chỗ khác, cũng không khó gì, song thầy tôi độ lượng hẹp hòi, có kỳ cho tôi ba ngày, nếu quá thì niệm chú.

Thọ Tinh nói:

– Thôi, Ðại Thánh đừng lo sợ, tuy đại tiên phẩm lớn, song quen biết với chúng tôi. Hèn lâu chưa rãnh mà thăm viếng. Ðể anh em tôi đến Ngủ Trang quán trước thăm đại tiên, sau nói giùm cho Ðại Thánh. Xin Tam Tạng đừng niệm chú cẩn cô. Không biết mấy ngày, đợi Ðại Thánh kiếm đặng thuốc trở về, thì chúng tôi sẽ về.

Tôn Hành Giả mừng rỡ nói rằng:

– Ðặng như vậy tôi cám ơn lắm.

Nói rồi từ giã ra đi.

Còn Tam Tinh là Thiêm Phước, Thiêm Lộc, Thiêm Thọ, ba anh em, kẻ đằng vân người cởi hạc, bay đến am Ngủ Trang.

Các tiên đồng nghe tiếng hạc kêu, chạy ra coi thử.

Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên đương đàm đạo vơí thầy trò Tam Tạng, xảy thấy đệ tử vào báo rằng:

– Thưa thầy, có Phước Tinh, Lộc Tinh, Thọ Tinh ở Hải thượng mới đến.

Trấn Nguơn đại tiên ra ngoài nghinh tiếp, Bát Giới thấy ông Thọ, liền níu mà cười rằng:

– Cha chả! Hèn lâu mới gặp lão sói. Sao không đội mão, coi in mọi người ta?

Thọ Tinh mắng rằng:

– Bộ mặt như heo rừng, sao dám kêu ta là mọi chúng?

Bát Giới nói:

– Nếu các ngươi không phải mọi người ta, sao thêm phước và lộc thọ cho chúng. Chẳng phải làm mọi đời hay sao?

Tam Tạng nạt Bát Giới lui riết.

Tam Tạng sửa áo ra ngoài làm lễ Tam Tinh.

Tam Tinh đồng đáp lễ rồi đồng ngồi đạo đàm với nhau.

Lộc Tinh nói:

– Chúng tôi cách Ðại tiên đã lâu, nay cam chịu lỗi. Bởi đại thánh đến động tôi nói chuyện: Làm chết lở cây nhơn sâm, nên đến tôi xin thuốc, chúng tôi không có mà cho. Nên Ðại Thánh phải đi tìm chỗ khác, sợ trễ hẹn ba bữa, Thánh tăng niệm đầu đông. Nên chúng tôi trước là đến thăm, sau xin rộng kỳ cho Ðại Thánh.

Tam Tạng nghe nói, liền dạ và thưa rằng:

– Tôi vâng lời ba ông, không dám niệm chú.

Còn Bát giới ra níu ông Thiêm Phước mà xin trái cây. Móc tay áo, lục lưng quần, kiếm không sót một chỗ.

Tam Tạng cười rằng:

– Bát Giới, mi làm cái bộ gì lạ vậy?

Bát Giới thưa rằng:

– Tại ông ấy hay làm phước, nên mới dám lục lưng.

Tam Tạng đuổi Bát Giới ra ngoài, còm mấy vị tiên ông đàm đạo với nhau.

Nói về Tôn Hành Giả đi khỏi non Bồng Lai thẳng qua núi Phương trượng.

Xảy thấy hương bay hạc ré, coi lại là Ðông Huê đế quân; Tôn Hành Giả bái chào. Ðông Huê đế quân đáp lễ nói rằng:

– Xin ghé nhà tôi uống nước.

Khi ấy Tôn Hành Giả vào động, đương ngồi uống trà.

Xảy thấy một vị đạo đồng bước ra, coi lại là Ðông Phương Sóc.

Tôn Hành Giả xem thấy cười rằng:

– Thằng ăn cắp vặt ở đây sao? Ðế quân không có trồng đào, mi hết trông ăn vụng! Ðông Phương Sóc nói chơi lại rằng:

– Tổ ăn cắp đến đây làm chi? Thầy ta không có luyện thuốc huờn đơn, có đâu mà uống vụng?

Ðông Huê đế quân nói:

– Ðông Phương Sóc đừng vô lễ, coi châm thêm nước cho mau.

Tôn Hành Giả thưa rằng:

– Tôi đến cầu Ðế quân làm ơn một việc, chẳng hay chịu giúp cùng chăng?

Ðông Huê đế quân hỏi:

– Chuyện chi nói thử mà nghe?

Tôn Hành Giả thuật chuyện lại, rồi thưa rằng:

Bởi cớ ấy nên đến ông mà xin thuốc.

Ðông Huê đế quân nói:

– Tôi có một thứ thuốc Cửu chuyển thái ất huờn đơn. Cứu người cải tử huờn sanh, chớ cứu cây không đặng. Phải chi cây thế gian hễ còn dễ. Chớ như núi Vạn Thọ là đất phước đức. Am Ngủ Trang là động Tiên Thiên. Cây nhơn sâm hồi lớp Bàn Cổ đến nay, nên không có phương chi mà cứu nổi.

Tôn Hành Giả nói:

– Như ông hết phương, thì lão Tôn xin kiếu.

Nói rồi đằng vân qua núi Ðinh Châu. Thấy mấy ông tiên tóc bạc mà mặt còn trai, ngồi đánh cờ dưới cây đỏ, kẻ thì uống rượu, người lại khảy đàn.

Khi ấy Tôn Hành Giả coi lại là Cữu lão.

Liền la lớn rằng:

– Chín ông già, cho tôi chơi thì đủ chục.

Cữu lão vui cười nghinh tiếp.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Các ông thiệt thanh nhàn, cầm kỳ thi họa!

Cữu lão nói:

– Phải chi trước Ðại Thánh đừng làm phản, bây giờ nhàn lạc hơn chúng tôi. Song nghe nói nay theo Ðường Tăng mà thỉnh kinh, sao còn đi dạo?

Tôn Hành Giả thuật chuyện vân vân.

Cữu lão thất kinh nói rằng:

– Thiệt Ðại Thánh hay gây họa! Chúng tôi không có thuốc chi!

Tôn Hành Giả nói:

– Chín ông không có thuốc thì thôi, tôi kiếu đi qua chỗ khác.

Cữu lão cầm ở nán ăn ngó sen uống rượu huỳnh tương, Tôn Hành Giả ăn uống rồi, giả từ qua Nam Hải.

Khi ấy Quan Âm đương giảng kinh nơi rừng Tử trước, Mộc Tra và Long Nữ đứng hầu hạ hai bên.

Quan Âm liền kêu Thủ Sơn đại thần, truyền ra rước Tôn Hành Giả.

Nói về Thủ Sơn đại thần ra khỏi kêu lớn rằng:

– Tôn Ngộ Không đi đâu đó?

Tôn Hành Giả ngó thấy, nạt lớn nói rằng:

– Con gấu điên, sao dám kêu Ngộ Không kia, Ngộ Không nọ? Nếu năm xưa ta không thứ, thì mi đã chết tại núi Hắc phong. Nay ngươi theo Quan Âm thành chánh quả rồi, đáng lẽ kêu ta bằng lão gia mới phải chớ!

Thủ Sơn đại thần cười rằng:

– Người xưa nói: Quân tử chẳng nhớ oán cũ, ông còn nhắc lại làm chi? Nay Bồ Tát sai mời ông vào trước tòa sen dạy việc.

Khi ấy Tôn Hành Giả theo Sơn thần, đến làm lễ Bồ Tát.

Quan Âm hỏi:

Ði chuyện chi?

Tôn Hành Giả bạch hết mọi việc…

Quan Âm nói:

– Sao ngươi chẳng đến ta cho sớm, đi qua Hải đảo mà kiếm thuốc ra sao. Nước cam lộ trong tịnh bình, trị cây khô cũng sống lại.

Tôn Hành Giả mừng rỡ hỏi rằng:

– Thuở nay Bồ Tát có cứu cây nào chưa?

Quan Âm nói:

– Năm trước Thái Thượng lão quân có đàn cuộc với ta: Lấy nhành dương liễu trong tịnh bình, đốt trong lò đã khô cháy. Rồi đem ra trả lại cho ta. Ta để trong tịnh bình, bắt hơi nước cam lộ một ngày đêm; nhành dương liễu tươi xanh như cũ.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– May lắm, may lắm! Rất đổi đốt cháy mà còn cứu đặng, huống chi trốc gốc mà khó gì. Xin Bồ Tát từ bi cứu giúp.

Quan Âm truyền các đệ tử rằng:

– Các ngươi ở lại, ta đi xong việc rồi về.

Dặn dò rồi cầm tịnh bình đằng vân như chớp.

Chim Bạch anh bay trước, Tôn Ðại Thánh theo sau, có bài thơ làm chứng:

Hào quang tỏ rạng chiếu xung quanh,

Cứu khổ từ bi độ chúng sanh,

Vóc ngọc ngàn thu không vít tích,

Mình vàng muôn kiếp giữ tinh anh,

Tai nàn dưới tục lòng hay xót,

Vật báu trong đời dạ chớ ganh,

Cam lộ nước linh vừa rưới xuống,

Nhơn sâm sống lại lá tươi xanh.

Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên đương đàm đạo với Tam Tinh và Tam Tạng, xảy thấy Tôn Hành Giả trên mây nhảy xuống kêu mà nói rằng:

– Có Quan Âm Bồ Tát đến.

Mấy ông kia nghe nói vội ra ngoài ngỏ tiếp nghinh, cùng nhau đồng lạy Quan Âm, rồi rước vào ngồi giữa.

Tôn Hành Giả nói:

– Bây giờ còn sớm, đại tiên thỉnh Bố Tát đi cứu cây nhơn sâm.

Trấn Nguơn đại tiên mừng rỡ, truyần đặt bàn hương án tại vườn, rồi thỉnh Bồ Tát Quan Âm đi trước, ai nấy theo sau.

Ðoạn đến vườn hoa thấy cây nhơn sâm trốc gốc đứt rễ, rụng lá khô nhanh.

Quan Âm truyền Tôn Hành Giả xòe bàn tay trái.

Quan Âm lấy nhành dương chấm nước cam lộ, họa phù khởi tử hồi sanh trong bàn tay, bảo Tôn Hành Giả nắm cái rễ nhơn sâm đợi nước ra thì lấy bầu ngọc mà hứng. Tôn Hành Giả y như lời dặn.

Giây phút nước ra có giọt.

Trấn Nguơn đại tiên truyền đạo đồng lấy chén ngọc bầu ngọc hơn năm chục cái, đem hứng nước đã đầy.

Quan Âm nói:

– Bởi nước ấy kị ngũ hành, nên phải đựng bằng đồ ngọc. Dựng cây dậy bắt trên mà tưới xuống, thì sống lại như thường.

Tôn Hành Giả và Sa Tăng Bát Giới đỡ cây dậy, dện gốc xong rồi, lấy nước trong bầu mà dâng cho Quan Âm Bồ Tát.

Khi ấy Quan Âm cầm nhành dương liễu, nhúng nước trong chén ngọc mà rảy cho cây nhơn sâm, còn bao nhiêu thì tưới dưới gốc.

Niệm chú giây phút, cây nhơn sâm tươi lại, ra lá sum suê, trên cây có hai mươi ba trái.

Nói về Minh Nguyệt và Thanh Phong ngó thấy làm lạ than rằng:

– Khi trước thấy mất nhơn sâm, thì đếm còn hai mươi hai trái. Sao bây giờ sống lại, dư thêm một trái cũng kỳ.

Hành Giả nói:

– Lâu ngày mới biết lòng người. Hồi trước tôi hái trộm có ba trái, còn một trái rớt xuống đất mất đi, tôi hỏi Thổ Ðịa, thì Thổ Ðịa nói. Nó kị đất, rớt xuống thì lặn mất liền.

Bát Giới không tin, cứ nghi tôi ăn trước, bây giờ có thấy hay không?

Còn Quan Âm nói:

– Ta biết cây này kị ngũ hành, nên ta cử trước.

Trấn Nguơn đại tiên mười phần mừng rỡ, truyền lấy cái móc vàng hái mười trái.

Rồi mời Quan Âm và mấy vị về am mà đãi, gọi là hội Nhơn sâm quả.

Mời Quan Âm ngồi giữa, Tam Tinh và mình ngồi bên tả, bốn thầy trò Tam Tạng ngồi bên hữu.

Khi ấy Tam Tạng mới biết là vật báu, bắt chước ăn theo.

Chín vị hết chín trái, còn dư một trái cho các tiên đồng chia với nhau.

Có bài thơ khen rằng:

Vạn thọ nam tiên quý lắm ru,

Nhơn sâm trái chín, chín ngàn thu,

Rễ linh rước trước, cây khô héo,

Nước phép nay xem lá bịt bù,

Ba vị làm ơn mà đặng hưởng,

Bốn thầy gây án lại hết thù,

Từ đây tuổi thọ tày trời đất,

Trẻ mãi không già tiếng chẳng tu.

Tiệc rồi Trấn Nguơn đại tiên và Tôn Hành Giả đều tạ ơn Quan Âm, Quan Âm về Nam Hải, Tam Tinh trở lại Bồng Lai.

Trấn Nguơn đại tiên dọn tiệc chay, đãi bốn thầy trò, rồi kết nguyền anh em với Tôn Hành Giả.

Thiệt là có đánh đau mới ra bạn thiết.