Chương 97: Tam Tạng bị vụ ăn cướp – Ngộ Không cãi tử hồi sinh

Nói về mấy thầy trò đi đặng bốn chục dặm đường, thì trời đã tối.

Tam Tạng nói: “Trời tối rồi, biết ghé vào đâu mà tá túc?

Bát Giới vinh mặt nói rằng:

– Sẳn nhà tốt không ở, sẳn cơm ngon chẳng ăn, một hai đòi đi cho đặng, bây giờ trời tối mà không có chỗ ngủ, lại thêm đói nữa, nên trời mưa lớn thì mới tính làm sao?

Tam Tạng mắmg rằng:

– Nghiệt súc mắng ta phải chăng? Lời xưa có nói: Tuy trường an cảnh tốt, không phải là chốn nhà ta. Lẽ nào ở già đời tại nhà chúng? Như vậy thì là du thực chớ không phải thỉnh kinh về Ðông Ðộ, ta sẽ tâu với Thiên Tử, giao ngự trù cho ngươi ăn nứt ruột cho rãnh, sẽ thành báo quỷ cô hồn.

Bát Giới nghe nói cúi đầu cười ha hả!

Tôn Hành Giả ngó thấy xa xa một cái nhà tại bên đường, liền hối thầy đến đó mà nghĩ.

Khi đến nhà ấy coi lại thì miễu hư, thấy trên biểng có đề bốn chữ rằng:

– Hoa Quang Hành Viện.

Tam Tạng xuống ngựa nói rằng:

– Hoa Quang Bồ Tát là đệ tử Hỏa Diệm Ngủ Quang Phật, bởi trừ Ðộc Hỏa quỷ vướng mới giáng chức làm Ngủ Tiên linh quang, nay cũng nên vào miếu ngài mà tá túc.

Bốn thầy trò bước vào, kiếm không thấy đạo sĩ giữ miễu.

Bởi miễu hoang nên không có ông từ.

Coi lại thềm xiêu vách ngã, phía sau cây cỏ rậm rì!

Thầy trò sợ có yêu quái liền tháo trở ra.

Rủi bị trời mưa nên trở vào mà đụt. Sợ yêu tà có biết, không dám dỉ hơi cùng nhau kẻ đứng người ngồi, trọn đêm không nhắm mắt.

Nói về phủ Ðông Ðài, huyện Ðịa linh, có một đảng ăn cướp, chúng nó bàn luận với nhau rằng:

– Tính coi nhà nào khá mà đi đánh.

Lâu la nói:

– Tôi nhắm Khấu Viên Ngoại giàu lắm, chi bắng trời đêm nay trời mưa, nhà nào cũng ngủ, quân lýnh không tuần, áp tới làm hổn thì no lắm, vì trời mưa lớn, chi bằng thừa đêm nay trời mưa lớn, có la làng xóm cũng không nghe.

Ðứa lâu la khác thưa rằng:

– Không nên đâu! Hết chi nhà giàu bất nhơn, mà đánh nà lương thiện, ăn không đặng của mà mắc họa to!

Chánh đảng nói:

– Ðã ăn cướp là chết chưa chôn, sợ mắc hạo sao đặng. Nếu lựa nhà mà đánh thì chết đói còn gì? Lấy chi mà nuôi chúng bây cho đủ.

Nói rồi truyền kéo tới, động cửa Khấu Viên Ngoại rồi ao vô!

Khấu Viên Ngoại trốn lại cửa sau, vợ Viên Ngoại chạy chun xuống dưới sân.

Còn Khấu Lương, Khấu Ðồng và các gia đình đều chạy trốn tứ tán.

Khi ấy lũ ăn cướp bưng đèn vào, đào soái hết thảy, ăn hành nổi no nê mới chịu buồm!

Khấu Viên Ngoại tiếc của quá và chạy theo nói lớn rằng:

– Các cha ôi! Các cha lấy nữ trang vàng bạc chẳng nói làm chi, xin cho gói quần áo lại,. Vợ chồng tôi dưỡng già.

Nói về dứt lời, ăn cướp chạy lại đá một cái, mà nó đá nhằm chổ nhược!

Khấu Viên Ngoại ngã xuống nằm ngay!.

Lũ ăn cướp thấy tài gia ngã xuống, cũng nó dầm mưa nhắm hướng Tây mà đổ.

Ðoạn gia tướng thấy ăn cướp chạy xa, mới ra ngoài đỡ chủ dậy, coi lại đã chết rồi! Liền ré lên, và khóc và nói rằng:

– Trời ôi! Ăn cướp đánh chủ tôi chết rồi!

Ai nấy chạy ra khóc ngất.

Còn bà Viên Ngoại nghĩ thầm rằng:

– Bởi Tam Tạng không chịu ở lại nửa tháng cho mình trai tăng, muốn đi vội nên phải đưa cách trọng thể, lũ ăn cướp thấy vậy, biết mình nhiều của mới có chuyện này! Chi bằng nói xáng xả mà hại bốn thầy trò cho bỏ ghét.

Nghĩ rồi lại đỡ Khấu Lương dậy mà nói rằng:

– Con ôi, đừng khóc than làm chi! Tại cha con hay trai tăng nên viên mãn gặp sải tống mạng?

Khấu Lương nói rằng:

– Vì cớ nào cha mẹ gọi rằng gặp sải tống mạng?

Bà Viên Ngoại nói:

– Ăn cướp kéo vào đông lắm, mẹ sợ núp dưới sân. Thấy người bưng đèn là Tam Tạng, người cầm dao là Bát Giới, Sa Tăng gánh tài vật, Tôn Hành Giả trở lại đánh cha mi chết. Ấy là mẹ thấy rõ ràng.

Khấu Lương, Khấu Ðồng ngỡ thiệt, nổi giận nói rằng:

– Mẹ thấy quả như vậy thì phải lắm.Bởi bốn sải ấy ở trong nhà mình đã nữa trăng nên thuộc đường vô ngỏ ra, thấy nhiều của thì động lòng tham, thừa dịp mưa đêm mà ăn cướp, đã lấy của lại giết cha tôi, thiệt người độc quá! Ðể sáng chúng tôi sẽ vào đơn đi cáo chỉ danh bốn sải ấy cho quan chủ tập nã mà trị tội ăn cướp ác nhơn.

Khấu Ðồng nói:

– Anh đặt cáo trạng ra thể nào? Xin nói sơ lược nghe thử?

Khấu Lương nói:

– Cũng cứ nghe theo lời mẹ mà khai rằng:

– Tam Tạng bưng đèn, Bát Giới cầm mác, Sa Tăng gánh tang vật, Hành Giả giết tài gia.

Rạng đông bà Viên ngoại và gia tướng lo mau quan tài ẩn liệm Khấu Viên Ngoại, còn anh em Khấu Lương vào phủ quì đơn.

Quan Thứ sử phủ Ðổng đài tánh ở thanh liêm, việc làm công chánh, mới ra khách, thấy anh em quì dựng cáo và khóc và bẩm rằng:

– Chúng tôi cáo về sự cường đạo sát nhơn, xin quan lớn thẩm xét tập nã!

Quan Thứ Sử xem trạng liền hỏi Khẩu cung.

Anh em Khấu Lương cũng y như cáo trạng, vì trong cáo trạng nói rõ mọi điều.

Quan Thứ Sử sai lính khoái thủ lớp đi ngựa, lớp đi bộ, và điểm thêm dân tráng, hiệp cộng một trăm năm chục người, cầm khí giái và dây roi theo ngỏ Tây môn tập nã.

Nói về bốn thầy trò ở trong Miễu Hoa Quang tới sáng ra đi cũng bình an, đặng hai chục dặm đường, gặp lũ ăn cướp chia của tang tại kẹt núi.

Khi ấy lâu la đương chia của tang, ngó thấy bốn thầy trò đi gần tới, thì bàn luận với nhau rằng:

– Lũ thầy chùa này là Khấu Hồng đưa đón hôm qua!

Lâu la rộ lên rằng:

– Phải phải.

Chánh đảng cười rằng:

– Hay lắm, hay lắm! Chúng ta làm nghề này không kể trời đất. Còn sá gì thầy chùa, lũ sải này ở nhà Khấu Hồng đã lâu, rất đổi giàng gía mà đưa bề ngoài còn trọng thể, lẽ nào không đưa bạc vàng phí lộ hay sao? Chi bằng mình đón nó mà giựt lại, và lấy đồ hành lý, bắt con ngựa cũng đáng tiền, sẽ thêm với nhau mới đủ.

Ba chục lâu la vâng lời, đồng lấy khí giái ra đón đường, hét lớn rằng:

– Hòa Thượng đi đâu, mau nạp tiền mãi lộ? Bằng không thì chẳng còn đầu.

Tam Tạng hãi kinh ngồi run trên ngựa!

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Sư phụ đừng sợ, để Lão Tôn hỏi cho rành.

Nói rồi lại tới chắp tay hỏi rằng:

– Các ông làm gì vậy.

Lâu la nạt rằng:

– Ngươi không có mắt, chẳng biết đại vương ta hay sao, nạp tiền mãi lộ thì chúng ta cho đi, bằng không thì chẳng tồn tánh mạng.

Tôn Hành Giả nghe nói cười rằng:

– Nói vậy thì chúng bây ăn cướp cạn!

Lâu la đồng hét rằng:

– Hòa Thượng này vô lễ lắm, đập chết nó đi!

Tôn Hành Giả làm bộ sợ nói rằng:

– Ðại vương ôi, tôi là sải nhà quê, ăn nói chưa sạch sẽ, xin tha tánh mạng cám ơn. Nếu Ðại vương muốn thâu tiền mãi lộ, thì cứ tôi đây, bởi tôi giữ bạc tiền hết thảy, chớ ba thầy kia lưng túc, không có vật chi. Người cỡi ngựa là thầy tôi, biết niệm phật và tụng kinh, chớ không có tiền bạc; còn người mặt đen là kẻ chăn ngựa cũng không có chi, còn người mỏ dài là kẻ đi gánh đồ mướn cho tôi, không có bạc vàng mà hỏi. Vậy thì mở vòng binh cho ba người ấy đi qua, tôi tình nguyện đưa hết tài vật.

Khi ấy lũ cướp khen rằng:

– Hòa Thượng này ăn nói thiệt thà, vậy thì ba người ấy để đồ xuống mà đi!

Tôn Hành Giả nháy Sa Tăng, Bát Giới để gánh đồ lại, rồi đi theo Tam Tạng.

Tôn Hành Giả làm bộ mở gói đồ liền hốt cát vãi lên, làm phép định thân.

Lũ ăn cướp đứng trơ trơ, cựa quậy không đặng.

Tôn Hành Giả kêu lớn rằng:

– Sư phụ trở lại đây cho mau!

Tam Tạng quay ngựa lại, hỏi chuyện chi?

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Ðố ai xô lũ ăn cướp cho ngã.

Bát Giới làm phách lại xô, thằng nào cũng cứng ngắt hết thảy! Liền hỏi rằng:

– Cường đạo! Sao chúng bây chết cứng cả bầy?

Hỏi hồi không nghe nói lại!

Khi ấy Tôn Hành Giả thấy Bát Giới không hiểu, liền cắt nghĩa rằng:

– Ta làm phép định thân chúng nó.

Bát Giới:

– Nếu anh không nói thì tôi tưởng chúng nó mang bịnh sĩ cả bầy!

Tôn Hành Giả nói:

– Vậy rhì thầy ngồi xuống đó, để Lão Tôn xử cái vụ này. Lời tục nói: Thà bắt lầm chẳng thà thả bậy, nên tôi phải tra vấn chúng nó một hồi.

Nói rồi nhổ lông hóa ra hơn ba chục sợi dây, bảo Sa Tăng, Bát Giới trói lâu la vào chánh đãng.

Khi Sa Tăng, Bát Giới trói mèo lũ ăn cướp rồi.

Tôn Hành Giả niệm chú giải phép định thân, chúng nó mới tỉnh hồn lại.

Tôn Hành Giả mời thầy ngồi giữa, ba anh em cầm binh trượng đứng hai bên.

Tôn Hành Giả hỏi rằng:

– Ðặng bây mấy đứa? Làm nghề này đã đặng bao lâu? Ðánh đặng mấy đám rồi? Sát nhơn mấy mạng? Bây giờ là sơ phàm hay là tích tặc? Phải cứ thiệt khai ngay. Nếu nói dối thì nát sọ.

Chánh đãng nói:

– Chúng tôi thuở nay làm ăn không biết nghề nghiệp này, bởi chúng tôi xài phí lớn lắm, bán hết ruộng đất của ông bà, túng tiền chịu cực không đặng phải nhập đãng đón chúng mà giựt đồ, nghe tin rõ Khấu Viên Ngoại là nhà giàu, nên thừa đêm trời mưa, vào làm oai lấy của. Nay lại gặp lão gia, biết là sải có tiền bạc, nhứt là thấy gáng đồ nặng nề, tưởng có tài vật, nên tíng kiếm thêm chút đỉnh mà chia cho đủ phần. Không dè lão gia thần thông, xin lấy lòng từ bi dung chúng tôi toàn nạng, chúng tôi tình nguyện dâng hết của tang.

Tam Tạng nghe nói kinh hãi, đứng dậy than rằng:

– Ngộ Không ôi! Khấu Viên Ngoại nhơn đức hiền lành, sao lại mắc họa lớn?

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Tại dùng lể vật trọng mà đưa chúng ta, nên lũ ăn cướp thấy nhiều mới sang sự ấy. Thôi may mình gặp mà thâu lại, thiệt số không mất đồ.

Tam Tạng nói:

– Chúng ta cám ơn Viên Ngoại hậu đãi không biết lấy chi mà đền đáp. Vậy thì đem của này về trả lại đền ơn, và tha lũ Lâu la làm phươc.

Tôn Hành Giả y lời. Truyền Sa Tăng, Bát Giới lấy quần áo gát lên lưng ngựa.

Còn vàng ngọc bạc tiền và nữ trang giao cho Bát Giới gánh.

Còn Sa Tăng gánh đồ hành lý của mình.

Ý muốn đập chết lũ ăn cướp, sợ thầy nói mình sát sanh, nên dùn mình thâu lông lại. Lũ ăn cướp khỏi trói, dậy chạy bon bon, còn mấy thầy trò trở lại.

Mấy thầy trở lại, không đặng hai dặm đường, thấy xa xa có người cấm khí giới kéo tới!

Tam Tạng kinh hãi hỏi rằng:

– Ðồ đệ binh đao trước mặt, chẳng biết điềm dữ hay lành?

Bát Giới:

– Không xong, không xong, mắc họa, ấy là lũ ăn cướp mình thả đi nên nó đón báo cứu đó!

Sa Tăng nói:

– Không phải ăn cướp, đại ca coi lại cho rõ.

Tôn Hành Giả nói nhỏ với Sa Tăng rằng:

– Sư phụ chưa hết tai nạn, chắc mắc họa rồi, ấy là quan binh bộ đạo.

Nói chưa dứt tiếng quân lính chạy tới phủ vây bốn thầy trò mà nói lớn rằng:

– Hòa Thượng tử tế lắm, đi ăn cướp của người ta, còn mặc sắc phục ấy mà! Không biết mắc cỡ.

Nói rồi kéo Tam Tạng xuống ngựa trói mèo lại.

Rồi bắt Tôn Hành Giả và Sa Tăng, Bát Giới cũng trói hết thảy xỏ đòn vào mà khiêng.

Kẻ thì gánh đồ tang vật, kẻ thì dắt ngựa điệu về thương hại Tam Tạng và run và khóc, Bát Giới cứ nhăn mặt cắn nhằn.

Sa Tăng cũng buồn hiu dứt bần.

Tôn Hành Giả cứ cười hoài.

Giây phút quân dân khiêng bốn thầy trò, và tang vật đến cửa phủ.

Quân vào báo rằng:

– Bẩm lão gia! Chúng tôi theo vây bắt đặng cường đạo bốn tên, và thâu tài vật về đó.

Quan Thứ Sử thưởng quân và dân tráng xong rồi, truyền Khấu Lương, Khấu Ðồng nhận của đem về.

Rồi bảo quân dẫn bốn tên cười đạo vào mà hỏi rằng:

– Ngươi xưng là Hòa Thượng ở Ðông Ðộ đi thỉnh kinh, té ra lũ ăn cướp.

Tam Tạng bẩm rằng:

– Xin đại nhơn cho bẩm rõ căn do. Bần tăng chẳng phải là ăn cướp, có điệp thông quan làm bằng chứng. Bởi Khấu Viên Ngoại đãi chúng tôi hết nữa tháng rất hậu tình nên tôi gặp ăn cướp lấy của người, mới lấy lại đem trả cho Viên Ngoại, có ý đền ơn không dè bị quân lýnh bắt lại vu oan là ăn cướp; xin đại nhơn xét lẽ kẻo oan.

Quan Thứ Sử nói:

– Chúng bây bị bắt, nên kiếm cớ chửa mình, nêu gặp ăn cướp sao không bắt chúng nó mà nạo cho quan? Té ra ăn cướp đâu không thấy, có bốn người cầm của tang mà chối sao cho đặng! Vã lại cáo trạng của Khấu Lương cáo đây thì là chỉ tên bốn người không phải nói trổng, hãy coi cho rành.

Nói rồi đưa cáo trạng cho Tam Tạng coi, Tam Tạng ngó thấy tọa danh thất kinh hồn vía, ngó Hành Giả mà hỏi rằng:

– Người ta khai xả cho mình, sao không kêu nài để mà chịu làm oan, ức lắm!

Tôn Hành Giả nói:

– Tang tích sờ sờ, kêu nài làm cho vô ích.

Quan Thứ Sử nói:

– Phải lắm! Quả tang, chánh án, mà còn chối cãi nổi gì? Quân, đem nỏ ra đây, đóng nỏ nó rồi sẽ tra khảo.

Tôn Hành Giả nghĩ rằng:

– Tuy là thầy ta mắc nạn mặc lòng, song chẳng nên để hành hạ khổ sở.

Xảy thấy lính đem nỏ ra, Tôn Hành Giả nói hớt rằng:

– Quan lớn đừng đóng nò hòa thượng ấy. Hồi hôm ăn cướp đánh nhà Khấu Viên Ngoại là tôi hết thảy: Tôi bưng đèn, tôi cầm mác, tôi lấy của, tôi giết người, đầu đảng là tôi, đánh khảo bao nhiêu cũng chịu hết, chớ ba người kia vô can, vô cớ, đừng đánh ức đánh oan. Cầm một mình tôi cũng đủ.

Quan Thứ Sử nghe nói, bảo đóng nỏ người đó trước.

Quân lính vâng lịnh tròng nỏ vào đầu Hành Giả, rán sức kẹp lại một cái bốp, coi lại đã đứt dây, cột dây kẹp nữa, đứt nữa, ba bốn bận như vậy, mà đầu không thấy lằn dấu chi hết.

Xảy nghe quân báo rằng:

– Bẩm lão gia có Trần Thiếu Bảo ở kinh đô mới đến, xin lão gia tiếp nghinh.

Quan Thứ Sử truỵền quân giam lại, giữ gìn cho nghiêm, đợi nghinh tiếp Thượng ti, rồi sẽ tra khảo.

Quân lính vâng lịnh. Ðem bốn thầy trò giam vào khám, Sa Tăng, Bát Giới gánh hành lý theo.

Tam Tạng nói:

– Ðồ đệ ôi, chịu sao cho nổi?

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Xin thầy hãy vào đây. Trong này không chó sủa ngầy ngà, mặc sức chơi giỡn.

Thương hại quân lính đè bốn thầy trò xuống gường cột tay chưn mà đánh!

Tam Tạng chịu không nổi hỏi:

– Ngộ Không tính làm sao? Chúng nó cứ lấy roi đánh xối!

Tôn Hành Giả nói:

– Họ đánh cho té tiền đó? Lời tục nói: Chuyện khổ phải nhờ tiền. Bây giờ phải chịu tiền mới đặng.

Tam Tạng nói:

Tiền mình ở đâu có?

Tôn Hành Giả nói:

– Nếu không tiền, thế y phục cũng vậy, đưa áo cà sa cho rồi.

Tam Tạng chịu đòn không nổi túng phải nói rằng:

– Ngộ Không ôi! Tự ý người muốn tính làm sao thì tính.

Tôn Hành Giả nói rằng:

– Các cậu đừng đánh khảo làm chi, trong hai gói của tôi, có áo cà sa giá đáng ngàn vàng, tôi xin dưng cho các cậu. Hãy mở ra mà lấy cho rồi.

Quân lính nghe nói, liền mở hai gói ra thấy có mấy cái áo vải, chẳng đáng bao nhiêu tiền, ngó thấy có một cái gói giấy dầu, mở ra nhiều lớp mới tới áo cà sa, hào quang sáng giới!

Mấy người áp lại dành coi, trầm trồ khen ngợi.

Khi ấy chúa ngục nghe rầy rà bước vào nạt lớn rằng:

– Các ngươi làm giống gì đây?

Quan lýnh quì bẩm rằng:

– Bẩm ông, bốn sải ăn cướp bị tra hồi nãy, chúng tôi mới đánh nó ít roi, nó chịu cho chúng tôi cái áo này, nếu xé manh mà chia cho nhau thì lấy làm uổng! Không phép một người lấy trọn, mất lẽ công bình! May có ông đến đây xin xử lẽ nào cho rõ?

Chúa ngục coi rõ là cái áo cà sa.

Lại mở túi lấy điệp thông quan mà xem, thấy có ấn vua các nước.

Chúa ngục nói rằng:

– May là ta thấy sớm, nên không thì các ngươi đã khuấy rối rồi! Hòa Thượng này không phải là cường đạo, đừng có động áo này mà khốn giờ? Ðợi ngày mai quan lớn xét lại, mới rõ đầu đuôi.

Quân lính nghe nói, liền gói áo lại như xưa, giao cho chúa ngục cất.

Tới canh một, quân canh đi tuần, tới canh tư chúng nó mới ngủ hết.

Tôn Hành Giả nghĩ thầm rằng:

– Thầy phải mắc nạn, bị cầm ngục một đêm, bởi cớ ấy nên Lão Tôn chẳng nói, và không làm phép. Nay đã quá canh tư, gần hết tai nạn, ta phải sửa soạn, sáng ra cho khỏi đề lao.

Nói rồi biến hóa mình nhỏ, chun ra khỏi gường, liền biến ra cào cào nhỏ, chun theo kẹt ngói mà bay ra, ngó thấy sao tỏ trắng rạng, liền nhắm chừng nhà Khấu Viên Ngoại, ngó thấy nhà phía Tây, đèn đuối sáng lòa, bay đến mà xem, là nhà nấu đậu hủ, có một ông già chụm lửa, bà già kia xách nước.

Ông già ấy nói:

– Bà ôi! Khấu đại quan có hào tử và hào tài, ngặt hào thọ nguơn không mấy lớn! Tôi với Khấu đại quan thuở nhỏ đi học một trường, tôi lớn hơn năm tuổi. Ông già Khấu đại quan là Khấu Minh, khi trước ruộng đất không tới một ngàn mẫu, cho chúng mướn ruộng thâu không đặng lúa. Ðến Khấu đại quan hai mươi tuổi, thì Khấu Minh đã thác. Khấu đại quan coi việc nhà cửa, vừa gặp vận đỏ rồi cưới con gái ông Trương Vượng gọi là nàng Xuyên Châm, từ ấy sắp sau, làm ruộng trúng mùa, cho vay sanh lợi, buôn may bán đắt, vốn một lời đôi, nên nay giàu có mười muôn sự nghiệp rân rát.Từ Khấu dại quan bốn mươi tuổi, thỉnh lòng niệm Phật, nguyện trai vạn tăng; hai người con trai đều đổ tú tài cả thảy; nay sáu mươi tuổi, lúc này hưởng phước về già, nào hay đêm hôm qua bị ăn cướp đá mà chết! Nghĩ lại làm lành mà chết không lành, thiệt là tội nghiệp quá!

Khi Tôn Hành Giả nghe rõ mọi điều, thì đã đầu canh năm, liền chạy vào nhà Khấu Viên Ngoại, thấy quan tài quàng chính giữa, đèn chong hương đốt trên đầu săn. Bà Viên Ngoại ngồi bên mà khóc! Hai đứa con, hai nàng dâu vợ thì bưng cơm mà cúng, chồng thì quỳ lạy khóc than.

Tôn Hành Giả đậu trên đầu săn, tằng hắng một tiếng.

Hai nàng dâu kinh hãi và bò và lết ra ngoài.

Hai anh em Khấu Lương mọp dài không dám ngó; đồng nói rằng:

– Xin cha đừng ngầy đừng quở, thứ tội cho các con!

Bà Viên Ngoại làm gan, vỗ săn nói lớn rằng:

– Ông sống lại hay sao mà tằng hăng đó?

Tôn Hành Giả nói:

– Ta chẳng hề sống lại.

Hai người con nghe nói hoảng hồn.

Bà Viên Ngoại làm gan hỏi rằng:

– Ông không sống lại, sao mà nói đặng như thường?

Tôn Hành Giả nói:

– Diêm vương sai quỷ xứ dẫn hồn ta về mà nói chuyện cho Xuyên Châm rõ, sao ngươi độc miệng, nói vu oan giá họa cho người lành?

Bà Viên Ngoại nghe kêu tên tộc, hãi kinh quỳ lạy nói rằng:

– Ông ôi! Tôi tuổi tác chừng này, ông còn kêu xách khóe, tôi nào nói vu oan giá họa cho ai!

Tôn Hành Giả nạt rằng:

– Vậy chớ ai bày đặt rằng: Tam Tạng cầm đèn, Bát Giới phá nhà, Sa Tăng lấy đồ, Hành Giả giết tài chủ. Bởi người nói vu oan như vậy, làm cho bốn vị lão sư phụ bị giam cầm đánh khảo nhiều phen! Rỏ ràng bốn vị sư phụ gặp ăn cướp dọc đường, đánh đuổi nó mà thâu của đem trả, lòng tốt biết chừng nào! Ngươi bày đặt cho con kiện thưa đến đổi thầy trò bị hành phạt. Thành Hoàng Thổ Ðịa báo đến Diêm Vương, nên Diêm Vương sai quỷ sứ dẫn hồn ta về, bảo vợ con phải xin cho bốn sải; nếu không thì ta phải ở lại một tháng phá nhà cửa tan hoang, giết hết nội nhà không chừa một con gà con chó.

Khi ấy Khấu Lương, Khấu Ðồng quỳ lạy vái rằng:

– Xin cha về quê cho tiêu diêu khoái lạc, đừng làm hại vợ con! Ðể sáng mai chúng con tới phủ dưng giải trạng, xin quan tha bốn sải đi thỉnh kinh, thì kẻ con người mất đều an cả.

Tôn Hành Giả nói:

– Thôi, đốt giấy cho ta đi?

Vợ con mừng rỡ đốt giấy.

Tôn Hành Giả bay về thì trời đã hừng đông, thấy Quan Thứ Sử mới dậy rữa mắt.

Tôn Hành Giả thấy trên gường thờ có treo một bức tượng: Vẽ ông quan cỡi ngựa, có quân lính xách ghế và che tàn, song chẳng biết hình ai đó.

Tôn Hành Giả thấy Quan Thứ Sử đứng khom lưng rửa mặt.

Tôn Hành Giả bay lên gường thờ, tằng hắng một tiếng!

Quan Thứ Sử ngó lại không thấy ai, thất kinh vào phòng mặc áo lớn, ra thắp hương quỳ lạy vái rằng:

– Bá Khảo Khương Công Càng Nhứt, xin chứng chiếu cho hiếu điệt là Khương Khôn Tam, cháu nhờ ơn phù hộ thi đổ thủ khoa nay đặng làm Thứ Sử, nên ngày đêm hương khói thờ phượng đền ơn. Chẳng hay vì cớ nào bữa nay lại ứng thinh tằng hắng! Xin đừng làm lộng mà nhát người nhà!

Tôn Hành Giả cười thầm rằng:

– Như vậy hình ông quan này là bác của Thứ Sử.

Liền rán cổ kêu lớn rằng:

– Khôn Tam hiền điệt, cháu trước nhờ âm đức mà đặng làm quan, sau lại thanh liêm chánh trực. Sao hôm qua làm việc lôi thôi, bắt thánh tăng gọi là cường đạo? Không biết xét lẽ phải quấy, truyền giam tại ngục hình, khiến cho sải thánh chịu hàm oan, cảm động tới Thành Hoàng Thổ Ðịa phí báo với Diêm Vương. Diêm Vương truyền quỷ sứ dẫn hồn bác về mà nói chuyện cho cháu rõ: Bảo cháu phải tha bốn vị thánh tăng lập tức, bằng không bắt hồn cháu xuống Âm phủ mà hầu tra.Thứ Sử nghe nói thất sắc vái rằng: Xin đại gia đi về, để tiêu điệt ra khách sẽ tha bốn thánh tăng lập tức.

Tôn Hành Giả nói:

– Thôi, cháu đốt giấy, đặng bác về tâu lại với Diêm Vương.

Khương Thứ Sử vâng lời đốt bạc vàng kạy tạ xong rồi, Tôn Hành Giả bay ra ngoài, thấy trời đã rực sáng.

Khi ấy Tôn Hành Giả bay tới cửa huyện Ðịa Linh, thì thấy quan huyện và các quan lại đã ra khách, đặng nghị luận vụ ăn cướp sát nhơn tại huyện mình.

Khi ấy Tôn Hành Giả nghĩ rằng:

– Trời đã sáng rồi, nếu để hình bồ cào mà nói giọng eo éo, thì chúng nó ngó thấy lậu sự khó lòng, chỉ bằng làm việc quỷ thần mới xong việc.

Nghĩ rồi liền hóa ra một ông thần mặt mày dữ tợn cao lớn dị thường; ở nữa lừng thòng một cái chơn đã chật sân, hét lớn như sấm rằng:

– Các quan nghe cho rõ? Ta là Lãnh đảng du thần, vưng chỉ thượng đế, xuống truyền lại cho các ngươi hay, tại quan phủ của các ngươi bắt bốn vị thánh tăng, nên náo động tới cõi trên, mới sai ta xuống bảo tha lập tức, nếu nghịch thánh chỉ, thì ta đập chết hết huyện này.

Các quan kinh hãi quỳ lạy thưa rằng:

– Xin Tôn thần lui về, chúng tôi không dám nghịch thánh chỉ, tức thời vào phủ bẩm lại, cho rõ sự hàm oan của bốn sải, lập tức phải tha. Xin Tôn thần miễn chấp.

Khi ấy Tôn Hành Giả biến ra bồ cào nhỏ bay về ngục, chun theo kẹt ngói mà vào, cũng nằm y chổ cũ.

Còn Khương Thứ Sử ra khách, anh em Khấu Lương vào dưng giải trạng.

Khương Thứ Sử xem qua nổi giận quở rằng:

– Hôm qua các ngươi dưng cáo trạng, bổn phủ đã sai bắt ăn cướp, các ngươi lãnh tang vật về rồi, sao nay lại dưng giải trạng, phải là đáng tội hay chăng?

Khấu Lương, Khấu Ðồng túng phải quì bẩm thiệt sự cha hiện hồn về nói vân vân, rồi bẩm rằng:

– Bởi cớ ấy nên chúng tôi rõ bốn vị thánh tăng mắc hàm oan, nên vào dưng giải trạng, xin quan lớn mở lượng biển, dung tội cho chúng tôi, tha bốn vị thánh tăng kẻo tội nghiệp.

Khương Thứ Sử nghe nói nghĩ thầm rằng:

– Cha chúng nó chết còn quang, hiện hồn về là phải, chớ Tiên bá phủ ta mất đã sáu năm, sao cũng hiện hồn về mách bảo! Thiệt chuyện này có bàn. Song xét lại: Nếu Hòa Thượng ấy ăn cướp thì trốn đi, hoặc chạy ra khỏi thành mới phải. Lẽ nào lại gánh tang vật mà đi trở lại thành, chắc là oan lắm.

Mãng còn nghĩ ngợi, xảy thấy các quan tại huyện Ðịa Linh chạy đến bẩm rằng:

– Lão đại nhơn ôi! Không xong rồi! Thượng Ðế mới sai Lãnh đảng du thần giáng hạ, chưn thần xuống chật sân, nói Hòa Thượng ấy là bốn sải thỉnh kinh, không phải là ăn cướp, bảo tha ra cho mau, nếu để trễ thì đạp huyện này và phủ này ra tro hết thảy!

Khương Thứ Sử hãi kinh thất sắc, truyền thơ lại viết bài, bảo quân đem bốn thầy trò ra mắt.

Khi mới mở cửa ngục, Bát Giới nhăn mặt than rằng:

– Không biết bữa nay đánh đòn hay là đóng nỏ khảo kẹp!

Tôn Hành Giả cười và nói nhỏ rằng:

– Không khi nào nó dám đánh một roi nữa, Lão Tôn đã lo lắng sắp đặt xong rồi. Nhứt là trước phủ, đừng ai quì hết. Ðể ta làm nhục nó lại cho ngươi coi?

Nói chưa dứt lời, quân vào dắt ra tới trước phủ, các quan lớn nhỏ đều bước xuống tiếp nghinh, và nói rằng:

– Thánh tăng đến hôm qua, thấy quả tang không kịp hỏi cho kỹ, và thượng đế ty đến nên cầm đỡ một đêm.

Tam Tạng chắp tay khai rõ tự sự.

Các quan đều khen phải mà phải chịu lỗi chịu lầm.

Tôn Hành Giả bước tới, trợn con mắt giộc hét lớn rằng:

– Trả ngựa và hành lý cho ta, bữa nay ta mới vấn tội các ngươi sao làm quan mập mờ, bắt người lành vu oan là ăn cướp?

Các quan thấy Hành Giả làm bộ dữ, ai nấy đều sợ run, liền hối đem hành lý và ngựa ra, trả lại minh bạch.

Ba anh em đều hung hăng, các quan đều đổ thừa cho Khấu Lương, Khấu Ðồng. Tam Tạng khuyên giải rằng:

– Ðồ đệ ôi! Tuy vậy chứ chưa lấy làm rõ ràng, chúng ta phải qua nhà họ Khấu, một là đi biếu, hai là đôi chối cho rõ ràng hỏi thử người nào thấy chúng ta ăn cướp?

Tôn Hành Giả thưa rằng:

– Nói như vậy cũng phải. Ðể Lão Tôn kêu Khấu Viên Ngoại dậy hỏi ai đánh chết cho rõ ràng.

Khi ấy Sa Tăng đỡ thầy lên yên, bốn thầy trò đồng đến nhà Viên Ngoại, các quan và phủ huyện cũng đi theo.

Khấu Lương, Khấu Ðồng hãi kinh, quỳ lạy nghinh tiếp.

Tôn Hành Giả thấy bà Viên Ngoại đương ngồi khóc dựa vào quan tài, Tôn Hành Giả nổi giận hét lớn rằng:

– Bà là người nói vu oan đừng làm bộ than khóc, để Lão Tôn kêu Khấu Viên Ngoại dậy mà hỏi, ai đánh chết cho rành? Thấy té láo cho mắc cỡ.

Các quan tưởng là lời nói giã ngộ, Tôn Hành Giả nói:

– Các ông ngồi với thầy ta cho có bạn.

Bát Giới, Sa Tăng hãy bảo hộ sư phụ, ta đi một chút rồi trở lại bây giờ.

Nói rồi ra ngoài cửa, nhảy nhót lên mây, ai nấy mới biết là thánh tăng đằng vân giá vỏ, đều thắp hương quỳ lạy thinh không.

Còn Tôn Hành Giả lên mây cho chúng thấy, rồi nhảy xuống cỏi U minh, xông vào Sum la.

Minh Vương vòng tay nghinh tiếp, phán quan quỷ sứ cúi đầu.

Vua Minh Vương rước vào hỏi rằng:

– Ðại Thánh đến có chuyện chi?

Tôn Hành Giả nói:

– Hồn Khấu Hồng huyện Ðại Linh, thuộc về phủ Ðông Ðài, bị quỷ nào bắt hồn ông trai tăng ấy, thì đem ra mà trả cho ta!

Nhứt điện Tần Quảng vương phán rằng:

– Khấu Hồng là người lương thiện, trẫm chẳng hề sai quỷ bắt, hồn tự nhiên đi xuống, xảy gặp Kim y đồng tử dẫn về ra mắt Ðịa Tạng Vương, Ðịa Tạng Vương dạy lẽ nào không rõ.

Tôn Hành Giả nghe nói, từ biệt qua cung Túy vân.

Nói về Ðịa Tạng Vương ngự tại Túy vân cung, thấy Tôn Hành Giả vào ra mắt và thuật chuyện vân vân, Ðịa Tạng Vương mừng rở phán rằng:

– Số Khấu Hồng có sáu mươi tuổi mà thôi, không đau đớn chi cho đến đổi liệt nhược. Bởi người có đức, nên ta phong làm Phán quan coi về bộ lành.Nay Ðại Thánh đến đây, ta cho Ðại Thánh rước về dương gian một kỹ, rồi sẽ thâu về làm chức án trưởng. Kim y đồng tử vào mời Khấu An Trưởng ra đây.

Ðoạn hồn Khấu Viên Ngoại ra mắt, Tôn Hành Giả nói:

– Ông đã bị ăn cướp đá mà chết, nay đặng làm việc với Ðịa Tạng Vương, Lão Tôn có một chuyện hàm oan, nên mượn ông về mà đôi chối. Nhờ ơn Ðịa Tạng Vương bồ tát, cho sống lại hơn hai mươi năm, rồi sẽ xuống làm việc lại, không mất chức đi đâu.

Hồn Khấu Viên Ngoại tạ ơn Hành Giả, và bái biệt Ðịa Tạng Vương.

Tôn Hành Giả thổi một hơi, thâu hồn bỏ vào tay áo, rồi từ giã về thế gian.

Giây phút Tôn Hành Giả về đến bảo Bát Giới cạy nắp hòm giở ra; Tôn Hành Giả phủ tay áo trên thây cho hồn vía nhập về bổn xác.

Không bao lâu Khấu Viên Ngoại bắt hơi thở đặng, nội nhà mừng rở vô cùng. Khấu Viên Ngoại mở con mắt ngồi dậy bước ra ngoài, lạy bốn thầy trò mà nói rằng:

– Tôi tới số chết không kịp trối, nhờ sư phụ đến Âm phủ xin thêm mười hai tuổi, thiệt là ơn cứu tử huờn sanh.

Nói rồi quay lại các quan mà bẩm rằng:

– Liệt vị lão gia đến tôi có chuyện chi.

Khấu Viên Ngoại quì xuống thưa rằng:

– Thiệt là vu oan cho bốn vị thánh tăng, hôm kia hơn ba mươi ăn cướp đến đánh lấy đồ tôi, lại đá tôi chết!

Nói rồi quay lại rầy vợ con rằng:

– Sao chúng bây dám đặt chuyện mà cáo gian, hãy ra đây mà chịu tội!

Ba mẹ con đồng lạy mà xin lỗi.

Tam Tạng nói:

– Thôi miễn là biết cho chúng tôi là người ngay, thiệt chẳng hề chấp nhứt.

Khương Thứ Sử thấy nói xuôi như vậy, cũng bỏ qua.

Khấu Viên Ngoại truyền dọn tiệc thiết đãi rất trọng.

Sáng ngày treo bảng trai tăng, cầm bốn thầy trò ở nán.

Tam Tạng nhứt định không ở một ngày.

Khấu Viên Ngoại cũng sắm lễ tiễn hành như khi trước.

Chương 98: Ðộc Mộc kiều, Tiếp Dẫn đưa đò Lăng Văn Ðộ, Ðường Tăng bỏ xác

Nói về bốn thầy trò giã từ Khấu Viên Ngoại, liền đi thẳng một đường, thiệt phong cảnh rất vui, hoa càng tươi tốt, nhiều nhà lương thiện, hiếm chốn trai tăng.

Mấy thầy trò đi sáu bảy ngày, ngó thấy lầu cao chơn chở, không biết mấy từng.

Tam Tạng chỉ mà nói rằng:

– Ngộ Không, thiệt lâu đài cao quá trăm thước!

Tôn Hành Giả nói:

– Thầy gặp cảnh giả thì lạy hoài, nay đến cảnh thiệt thì không xuống ngựa!

Tam Tạng hoảng kinh nhảy xuống đi tới trước cửa lầu, thấy một vị đạo đồng, đứng dựa cửa núi kêu mà nói rằng:

– Phải là thầy ở Ðông Ðộ đi thỉnh kinh đó chăng?

Tam Tạng ngó thấy đạo đồng mình mặc áo gấm, tay cầm phất chủ, xinh tốt khác thường.

Tôn Hành Giả ngắt nhỏ thầy mà nói rằng:

– Ông này là Kim Ðăng đại tiên ở lại chơn núi Linh San, quân Ngọc Chơn, đón rước thầy.

Tam Tạng ban đầu thấy còn nhỏ ngờ là đạo đồng, nay nghe Hành Giả nói, mới nghĩ ra là TSnh bất lão không phải là đạo đồng, liền bước lại làm lễ.

Kim Ðặng Ðại Tiên cười rằng:

– Cha chả là trể! Năm nay thánh tăng mới tới đây! Tôi bị Quan Âm Bồ Tát nói gạt vì cách mười bốn năm trước, Quan Âm ghé đây dặn tôi rằng:

– Chừng ba năm thánh tăng sẽ đến đây, bảo tôi tiếp đãi tử tế. Báo tôi từ năm thứ ba đến năm nay, ngày nào cũng ngó mông hoài, không thấy chi hết, đến năm nay mới gặp thánh tăng!

T am Tạng chắp tay bạch rằng:

– Cám ơn đại tiên có tăng!

Tam Tạng chắp tay bạch rằng:

– Cám ơn đại tiên có tình trông đợi.

Kim Ðăng đại tiên mời bốn thầy trò vào đãi trà.

Rồi truyền đệ tử hâm nước cho bốn thầy trò lắm gội.

Lúc ấy thầy trò tắm gội xong rồi, thì trời đã tối.

Ngủ tới sáng liền dậy, chống gậy tích trượng lên lầu từ giã đại tiên.

Kim Ðăng Ðại Tiên cười rằng:

– Hôm qua ăn mặc lam lụ, bữa nay coi như Phật tử! Tôi kính mừng cho!

Tam Tạng từ biệt. Kim Ðăng nói:

– Ðể tôi đưa đi.

Tôn Hành Giả nói:

– Thôi thôi đừng đưa đón mất công, đường đi Lôi Âm Lão Tôn thuộc nhàm.

Kim Ðăng Ðại Tiên nói:

– Ðại Thánh biết đường mây, song Thánh Tăng đằng vân chẳng đặng, tôi không đưa đi chắc lạc đường.

Tôn Hành Giả nói:

– Phải phải, Lão Tôn đi thuộc đường không biết mấy thứ, thiệt là cân dẫu vân, chớ chưa từng đi bộ, Ðại Tiên biết rõ xin đưa giùm, chớ thầy tôi nóng việc thỉnh kinh, chẳng nên trể nải.

Kim Ðặng Ðại Tiên dắt ra cửa sau, chỉ hào quang ra trên nửa lừng mà nói rằng:

– Ði ngỏ trước không đặng, cứ ngỏ này đi ngay chổ hào quang là núi Linh tựu, chùa Ðại Lôi Âm tại đó.

Tam Tạng nghe nói, liền lạy ngay theo núi Linh san.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Thầy tánh nóng nảy quá, chưa đi tới chỗ đã lạy lần! Lời tục nói: Tuy thấy núi ở gần, chạy cũng mòn vó ngựa. Tuy thấy đó chứ còn xa lắm, nếu mà lạy mà đi cho tới đỉnh núi, thì cũng sói đầu!

Kim Ðăng Ðại Tiên nói:

– Thánh Tăng với Ðại Thánh, Thiên Bồng, Quyện Liêm đồng thấy cảnh Phật rồi, không còn gặp yêu tinh nữa.Tôi xin kiếu trở về.

Tam Tạng từ tạ, bốn thầy trò đi đặng sáu dặm đường, xảy thấy trước mặt có một cái sông dài, bề ngang chín dặm, không thấy nhà cửa ai ở mé cũng không thấy dấu người đi, mà cái sông ấy như biển, sóng dậy ba đào!

Tam Tạng kinh hãi nói rằng:

– Ngộ Không ôi, hay là đại tiên chỉ sai đường chăng, chớ biển rộng mênh mông không có thuyền đò, qua làm sao cho đặng.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Không sai đâu, cái cầu đằng kia, qua đặng mới thành chánh quả.

Tam Tạng ngục ngựa tới thấy dựa cầu có dựng một tấm biển rằng:

– Lăng Văn Ðộ, coi lại cầu ấy là độc mộc kiều. Cầu nhỏ bắt vòng qua biển như cái mống.

Tam Tạng thất sắc nói rằng:

– Cầu này Tiên Phật đi,chớ phàm tục đi qua sao đặng, kiếm ngỏ khác cho xong.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Có ngỏ khác ở đâu mà kiếm, bề nào cũng phải qua cái cầu này.

Bát Giới nói:

– Ðố ai dám đi cầu mống ấy, đã nhỏ lại cong vòng! Dầu bằng phẳng đi cũng không dặng, huống chi lên dốc xuống dốc, chắc là đi xuống sông.

Tôn Hành Giả nói:

– Thôi ai nấy ở đó, Lão Tôn đi thử cho mà coi!

Nói rồi nhảy lên cầu chạy riết một hơi tới mé, liền kêu lớn rằng:

– Ðã qua cho mau.

Tam Tạng cứ đưa tay khoát mãi và lắc đầu hoài. Bát Giới, Sa Tăng cũng nói đi không đặng! Khi ấy Tôn Hành Giả nhảy lên cầu chạy về, bảo Bát Giới đi theo.

Bát Giới nói:

– Cầu bước không đủ bàn chân đi làm sao cho đặng, bàn chân anh nhỏ nên dễ đi, nếu tôi bước đi chắc là trượt xuống!

Tôn Hành Giả bước lại nắm tay Bát Giới dắt đi.

Bát Giới nằm xuống đất la lớn rằng:

– Trơn lắm anh ôi! Tôi đi không đặng xin anh làm ơn tha cho tôi, để tôi đằng vân cho chắc ý!

Tôn Hành Giả đề cổ Bát Giới nói rằng:

– Chỗ này là chỗ gì, mà dám đằng vân giá vụ? Phải đi qua cầu này mới thành Phật.

Bát Giới nói:

– Anh ôi, tôi thành Phật không đặng rồi, tại cái cầu nhỏ mà cao lắm.

Hai người cãi lẩy, xảy thấy chiếc đò chèo đến rao lớn rằng:

– Ai có qua sông thì xuống đò.

Tam Tạng mừng quá nói lớn rằng:

– Ðồ đệ đừng ngầy ngà, có đò đến rước.

Ba anh em bước lại xem thử, là chiếc thuyền không đáy.

Khi ấy Tôn Hành Giả nhướng con mắt coi lại, biết người độ phu ấy là ông Tiếp Dẩn tổ sư, hiệu là Bửu Tràng Quang Vương Phật. Song không dám nói lậu ra, cứ kêu đò ghé lại.

Giây phút Tam Tạng đi tới mé, ngó thấy thất sắc nói rằng:

– Thuyền không đáy đưa người sao đặng.

Ðộ phu nói:

– Chuyến thuyền này chẳng phải tầm thường, hãy nghe cho rõ.

Nói liền ngâm rằng:

Thuyền này đã có lúc trời sanh,

Ðưa rước xưa nay những kẻ lành.

Tuy là không đáy mà an vững,

Sóng gió không sao, chẳng tợ thành.

Tôn Hành Giả chắp tay nói rằng:

– Xin làm ơn đưa cho tới mé. Sư phụ ôi! Tuy chiếc đò không lườn mà nó vững lắm, dầu giông sóng cũng chẳng chìm, thầy hãy xuống đò cho sớm:

– Tam Tạng dục dặc, bị Tôn Hành Giả xô nhủi xuống thuyền, Tam Tạng vừa té vừa khoan, nhờ có độ phu kéo lại!

Tam Tạng thất kinh hồn vía, xăn áo đứng trên bê ghe mà cằn nhằn Tôn Hành Giả.

Khi ấy Tôn Hành Giả dẫn Sa Tăng, Bát Giới dắt ngựa gánh hành lý đồng nhảy xuống thuyền, kẻ đứng giữa khoan, người ở trước mũi.

Ðộ phu chống đò ra, ngó thấy một cái thây trôi dưới dòng nước!

Tam Tạng xem thấy thất kinh, Tôn Hành Giả cười rằng:

– Xác của thầy chớ của ai mà sợ?

Bát Giới nói:

– Quả thiệt xác thầy trôi đó!

Sa Tăng vỗ tay nói:

– Phải phải.

Ðộ phu nói:

– Phải đó, phải đó, mừng cho.

Ba người đệ tử đều mừng cho thầy cổi đặng xác phàm.

Ðộ phu cheo khỏi bến Lăng Vân đã qua tới mé.

Tam Tạng mừng nhẹ như bông, bước lên cõi Phật.

Té ra là Tam Tạng chết khôn hay, ngỡ có Ðộ phu cứu.

Khi ấy bốn thầy trò đồng nhảy lên bờ, ngó lại Ðộ phu và chiếc đò đâu mất!

Tôn Hành Giả nói thiệt rằng:

– Ấy là ông Tiếp Dẫn tổ sư, hiện hình Ðộ phu mà rước thầy đó.

Tam Tạng nghĩ lại mới hay, liền lạy tạ ba người đệ tử!

Tôn Hành Giả đỡ dậy thưa rằng:

– Thầy cứu chúng tôi khỏi nạn, tu hành mới đặng thành chánh quả. Còn chúng tôi bảo hộ thầy cho đến bỏ xác phàm tthành hình phật, ấy là chuyện vần công, có ơn chi mà tạ. Sư phụ xem thử phong cảnh mà coi, những là hoa kiểng tong tre, phụng loan nai hạc, có giống như cảnh yêu biến hóa ở đâu?

Tam Tạng nói phải. Lúc ấy nhẹ mình nên đi thấm thoát, đồng lên núi Linh san.

Bốn thầy trò lên núi, phong cảnh xinh tốt muôn phần, khác phàm tục xa lắm!

Xảy gặp các sải, các vãi, Tam Tạng hòa nam.

Các sải vác vãi đáp lễ nói rằng:

– Thánh Tăng đừng hòa nam, đợi ra mắt Như Lai rồi sẽ đàm đạo.

Bốn thầy trò đi đến cửa núi, gặp hai ông Kim Cang đón mà hỏi rằng:

– Thánh Tăng mới đến đây hay sao?

Tam Tạng bái và bạch rằng:

– Ðệ tử là Huyền Trang mới tới.

Nói rồi muốn bước vào cửa.

Kim Cang nói:

– Thánh Tăng nán một chút, đợi tôi bạch lại rồi hãy vào.

Nói rồi vào báo cho Kim Cang cửa thứ nhì hay, hai ông Kim Cang cửa thứ nhì vào báo lại cho các vị ở cửa thứ ba hay.

Các vị ấy vào điện Ðại hùng, bạch với Phật Tổ rằng:

– Sải Ðại Ðường đã đến thỉnh kinh.

Phật Tổ mừng rỡ liền với tám vị Bồ Tát, bốn ông Kim Cang, năm trăm ông La Hán, ba ngàn ông Yết đế, mười ông Ðại diện, mười tám vị Dạ lam; đồng quì hai hàng hết thảy.

Phật Tổ truyền sắc đòi Tam Tạng vào chùa.

Khi ấy bốn thầy trò vưng chỉ, gánh hành lý và dắt ngựa vào tới Ðại hùng bửu điện, bốn thầy trò đồng quì lạy.

Lạy rồi lạy hai bên tạ hữu, lạy như vậy ba lần.

Rồi quì xuống dưng điệp thông quan.

Phật Tổ xem rồi đưa lại, Tam Tạng lạy rồi bạch rằng:

– Ðệ tử là Huyền Trang vưng chỉ Ðại Ðường hoàng đế, đến non báu cầu thỉnh chơn kinh mà cứu độ chúng sanh. Xin Phật Tổ ban ơn, cho chúng tôi thỉnh kinh về nước.

Phật Tổ dạy rằng:

– Ðông Ðộ là đất Nam Thiên bộ châu, bởi trời cao đất dày nên người động vật thạnh, hay giết hay tham, hay đâm hay dối, chẳng noi dạo phật không chịu làm lành. Chẳng kính tam quan, chẳng trọng ngủ cốc, chẳng ngay, chẳng thảo, không nghĩa, không nhơn, ỷ thế hiếp người, lương thăng tráo đấu, sát sanh hại mạng quá nhiều, phải đọa địa ngục vô số, bị cưa, xẻ, xay, giã, hành hình nhiều cách dữ dằn, rồi đầu thai làm cầm thú mang lông đội sừng cho người ta ăn thịt; lớp thì cầm dưới địa ngục không đặng đầu thai. Tuy có Khổng Tử là thánh nhơn, dọn ngủ kinh, dạy cang thường, các vị đế vương chế hình phạt mà trị dân. Ngặt nhiều kẻ dân ngu không biết sợ phép, bị đày bị chám không biết bao nhiêu! Nay đã có đặt ba tạng kinh,đã độ sanh lại độ tử. Thứ nhứt Pháp tạng nói phép trời; thứ nhì Luận tạng; luận chuyện đất; thứ ba Kinh tạng độ cô hồn, mỗi tạng 5.048 cuốn, ba tạng hiệp cộng15.144 cuốn. Ấy là dạy việc hiền lành, mở đường siêu độ, những việc thiên văn, địa lý, nhơn vật, thảo mộc, cầm thú đều giảng đủ lẽ. Nay các ngươi ở phương xa đến đây, ta cũng muốn cho thỉnh hết, song Ðông Ðộ ít người tin đạo phật, hay biếm nhẽ chê bai, nên hai người dắt bốn thầy trò xuống lầu mà đãi cơm nước, rồi chọn một hiệu ít cuốn cho đủ thứ, giao về Ðông Ðộ khuyên đời.

Hai vị Tôn giả vâng lịnh, đem bốn thầy trò đến lầu đãi cơm, bốn thầy trò tuy hưởng nhiều mỷ vị, song không rõ là món chi, vì thế giam ít có, chuyến nấy Bát Giới chở khẩm hơn hết.

Tiệc rồi hai vị Tôn giả đem bốn thầy trò đến tủ kính, thấy hào quang chiếu sáng. Ngoài tủ có dán giấy đỏ đề danh mục các thứ kinh như vậy:

1. Niết bàn kinh, một bộ 748 cuốn,

2. Bồ Tát kinh, một bộ 1.021 cuốn

3. Hư không tạng kinh, một bộ 400 cuốn

4. Thủ lăng nghiêm kinh, một bộ 45 cuốn

5. Ân ý kinh đại tập, một bộ 50 cuốn

6. Quyết định kinh, một bộ 140 cuốn

7. Bửu trạng kinh, một bộ 45 cuốn

8. Hoa nghiêm kinh, một bộ 500 cuốn

9. Lể chơn như kinh, một bộ 90 cuốn

10. Ðại bác nhả kinh, một bộ 916 cuốn

11. Ðại quang minh kinh, một bộ 300.

12. Vị tăng bửu kinh, một bộ 1.110 cuốn

13. Duy ma kinh, một bộ 170 cuốn

14. Tam luật biệt kinh, một bộ 270 cuốn

15. Kim cang kinh, một bộ 100 cuốn

16. Chánh pháp luật kinh, một bộ 120 cuốn

17. Phật bổn hạnh kinh, một bộ 800 cuốn

18. Ngủ long kinh, một bộ 32 cuốn

19. Bồ Tát giới kính, một bộ 116 cuốn

20. Ðại quả kinh, một bộ 130 cuốn

21. Ma yết kinh, một bộ 350 cuốn

22. Pháp hoa kinh, một bộ 100 cuốn

23. Di đà kinh, một bộ 100 cuốn

24. Bửu thường kinh, một bộ 260 cuốn

25. Tây thiên luận kinh, một bộ 130 cuốn

26. Tăng kỳ kinh, một bộ 156 cuốn

27. Phật quốc tạp kinh, một bộ 1.950 cuốn

28. Khởi tín luật kinh, một bộ 1000 cuốn

29. Ðại trí độ kinh, một bộ 1.081 cuốn

30. Bử hoai kinh, một bộ 1280 cuốn

31. Bổn cát kinh, một bộ 850 cuốn

32. Chánh luận văn kinh, một bộ 200 cuốn

33. Ðại khổng tước kinh, một bộ 220 cuốn

34. Duy thức luận kinh, một bộ 100 cuốn

35. Bối xá luận kinh, một bộ 200 cuốn

Khi ấy Ác Nang, Ca Diếp nói với Tam Tạng rằng:

– Thánh Tăng ở Ðông Ðộ đến đây thỉnh kinh, có lễ chi chăng thì đưa ra đặng ta phát kinh cho sớm!

Tam Tạng bạch rằng:

– Ðệ tử xa xuôi không có sắp sửa.

Hai ông Tôn giả cười rằng:

– Hay thiệt nếu đi tay không mà thỉnh kinh về lưu truyền làm sao siêu rổi đặng!

Tôn Hành Giả thấy dàng cấn không chịu phát kinh, nín không đặng, liền nói rằng:

– Thầy ôi, để ra bạch lại với Phật Tổ, xin ngài đi phát cho Lão Tôn.

Ác Nang nói:

– Ðừng có làm rầy, chỗ này không phải chổ chơi, mà ngươi nhiều chuyện! Ði lại đây mà lãnh kinh.

Bát Giới, Sa Tăng giải hòa, Tôn Hành Giả mới chịu trở lại mà lãnh kinh, đặng cuốn nào gói cuốn nấy gát lên lưng ngựa, lại gói làm hai gánh cho Bát Giới, Sa Tăng.

Ðoạn xong rồi, bốn thầy trò ra lạy tạ Như Lai, rồi tạ từ chư Phật mà về, Tam Tạng trở ra đến cửa núi, gặp vị phật nào cũng lạy hai lạy.

Nói về ông Nhiên Ðăng cổ phật, biết Ác Nang, Ca Diếp phát kinh vô tự, thì cười thầm mà nói rằng:

– Người Ðông Ðộ coi sao ra kinh vô tự, uổng công thánh tăng thỉnh về.

Nói rồi kêu Bạch Hùng tôn giả mà bảo rằng:

– Ngươi hãy theo Tam Tạng lấy kinh vô tự lại, và bảo bốn thầy trò trở vào thỉnh kinh hữu tự.

Bạch Hùng vâng lịnh đằng vân bay theo.

Khi ấy Tam Tạng đương đi với ba người đệ tử, khỏi cửa núi xa xa, ngó thấy hào quang chiếu sáng ngở là hào quang Phật Tổ nháng ra, chẳng ngờ trận gió thơm bay tới, thấy một cánh tay ở thinh không thòng xuống xách gói đồ trên lưn ngựa, Tam Tạng kinh hãi dậm chân đấm ngực nói rằng:

– Ngộ Không ôi! Ai lấy kinh đâu mất!

Tôn Hành Giả đuổi theo.

Bạch Hùng tôn giả thấy Tôn Hành Giả sách thiết bảng đuổi nột, sợ tánh người nóng nảy, đập đại khó lòng nên chẳng kịp nói chi, buông gói kinh mà chạy, Tôn Hành Giả nhảy theo gói kinh, thì kinh đã đổ cả đống, gió bay lật ra, Sa Tăng, Bát Giới áp lại lấy kinh đem cho thầy.Tam Tạng lau nước mắt than rằng:

– Ðồ đệ ôi! Không dè cảnh phật còn có yêu ma!

Sa Tăng sấp kinh gói lại, sửa mấy cuốn bị gió lật, thì thấy giấy trắng mà thôi, giở ra cuốn nào cũng vậy!

Bát Giới giở từ cuốn mà coi cũng giấy trăng!

Tam Tạng bảo mở gói dở hết ra, cũng không có một chữ chi hết!

Tam Tạng than rằng:

– Ðông Ðộ vô phước lắm! Mình đem kinh không chữ về dưng, chắc là mắc tội!

Tôn Hành Giả nói:

– Sư phụ đừng than thở làm chi, tôi đã biết rồi, tại không có nhơn tính nên Ác Nang, Ca Diếp phát kinh vô tự! Thầy trò hãy trở vô mà bạch qua Như Lai đặng làm tội kẻ tham tài, và xin đổi kinh hữu tự.

Bát Giới nói:

– Phải phải.

Bốn thầy trò trở lại cửa núi, mấy không Kim Cang cười mà hỏi rằng:

– Thánh tăng trở lại giở kinh phải không?

Tam Tạng gật đầu, thầy trò đồng vào điện Ðại hùng lạy phật.

Tôn Hành Giả bạch rằng:

– Thầy trò tôi trăm cay ngàn đắng, chấy tháng lâu năm, đi mới đến đây. Nhờ ơn Như Lai truyền phát kinh, mà Ác Nang, Ca Diếp đòi tiền hối lộ không có, nên cố ý phát kinh giấy trắng chưa có một chữ, chúng tôi đem giấy trắng về làm chi? Xin Phật Tổ trị tội hai người tác tệ, và đổi kinh có chữ cho chúng tôi?

Phật Tổ cười rằng:

– Chuyện ấy ta đã hay rồi, hai người phát kinh không lỗi. Bởi kinh rất quý, lẽ nào thỉnh không mà đặng phước hay sao? Khi trước các sải mới tu đại đây, có đem kinh xuống nước Xá vệ mà tụng cầu siêu cho Triệu Trưởng Giả. Triệu Trưởng Giả huờn công ba đấu ba thăng gạo trắng, và bạc vàng chút đỉnh, ta còn nói Triệu Trưởng Giả bỏn sẻn lắm, chắc sau con cháu phải nghèo nàn. Nay ngươi đến tay không mà thỉnh bấy nhiêu kinh, còn than thở gì nữa. Kinh giấy trắng chẳng phải là vô dụng đâu, ấy là kinh vô tự, quý hơn kinh hữu tự, ngặt chúng sanh coi không ra, nên phải đổi.

Nói rồi truyền Ác Nang Ca Diếp đổi kinh hữu tự cho đúng hiệu.

Ác Nang Ca Diếp vâng lịnh đem bốn thầy trò đến tủ kinh, cũng hỏi lễ như trước. Tam Tạng bảo Sa Tăng mở gói lấy bình bát, hai tay dưng lên bạch rằng:

– Ðệ tử đường xa và nghèo khổ, không có vật chi, cái bình bát này của vua Ðường ban cho đệ tử để hóa trai dọc đàng, nay xin dưng lấy thảo, nhờ ơn tôn giả phát kinh có chữ, về dưng cho Hoàng đế cứu độ chúng sinh.

Ác Nang mỉm cười cầm bình bát.

Mấy người lực sĩ ở tại nhà trù Hương tích ngó thấy đồng chạy đến, kẻ đấm lưng, người nắm gò má Ác Nang mà cười rằng:

– Không biết mắc cỡ, đi thâu bình bát của kẻ thỉnh kinh?

Ắc Nang cứ ôm bình bát mà làm tỉnh.

Còn Ca Diếp mở cửa tủ phát kinh cho bốn thầy trò, Tam Tạng nói:

– Các trò phải coi từng cuốn cho kỹ càng, đừng lôi thôi như khi trước. Nếu cuốn nào không chữ thì đổi lại luôn luôn.

Giây phút lãnh kinh gói lại, tính đủ một tạng: Năm ngàn bốn mươi tám cuốn, lớp thì để trên lưng ngựa, còn dư một gánh giao cho Bát Giới.

Còn Sa Tăng gánh hành lý, Tôn Hành Giả dắt ngựa.

Bốn thầy trò đến điện Ðại Hùng.

Khi ấy Phật Tổ ngồi trên hoa sen, sai Hàng Long la hán và Phục Hổ la hán, đánh chuông gióng khánh, làm hội truyền kinh thỉnh hết các vị Phật lớn nhỏ, mấy vị lớn thì ngồi, các vị nhỏ thì đứng hầu hai bên.

Giây phút hào quang muôn đạo, hơi ấm ngàn trùng, nghe tiếng nhạc vang tai, mùi hương ngát mũi. Các vị Phật ra mắt Như Lai xong xả.

Thích Ca Như Lai hỏi:

– Ác Nang Cá Diếp truyền hết thảy bao nhiêu kinh, những hiệu chi, mấy cuốn?

Ác Nang Cá Diếp dưng sổ phát kinh như vầy:

1. Niết bàn kinh, một bộ 400 cuốn

2. Bồ Tát kinh, một bộ 360 cuốn

3. Hư không tạng kinh, một bộ 20 cuốn

4. Thủ lăng nghiêm kinh, một bộ 30 cuốn

5. Ân ý đại tập, một bộ 40 cuốn

6. Quyết định kinh, một bộ 40 cuốn

7. Bửu tạng kinh, một bộ 20 cuốn

8. Hoa nghiêm kinh, một bộ 81 cuốn

9. Lễ chơn như kinh, một bộ 31 cuốn

10. Ðại bát nhã kinh, một bộ 600 cuốn

11. Ðại quang minh kinh, một bộ 50 cuốn

12. Vị tăng bửu kinh, một bộ 530 cuốn

13. Duy ma kinh, một bộ 30 cuốn

14. Tam luật biệt kinh, một bộ 42 cuốn

15. Kim cang kinh, một bộ 1 cuốn

16. Chánh pháp luận kinh, một bộ 20 cuốn

17. Phật bổn hạnh kinh, một bộ 116 cuốn

18. Ngũ long kinh, một bộ 20 cuốn

19. Bồ cát giới kinh, một bộ 60 cuốn

20. Ðại quả kinh, một bộ 30 cuốn

21. Ma yết kinh, một bộ 140 cuốn

22. Pháp hoa kinh, một bộ 10 cuốn

23. Di đà kinh, một bộ 30 cuốn

24. Bữu trạng kinh, một bộ 170 cuốn

25. Tây thiên luận kinh, một bộ30 cuốn

26. Tăng kỳ kinh, một bộ 110 cuốn

27. Phật quốc tạp kinh, một bộ 1.638 cuốn

28. Khởi tín luận kinh, một bộ 50 cuốn

29. Ðại trí độ kinh, một bộ 90 cuốn

30. Bửu hoài kinh, một bộ 159 cuốn

31. Bổn cát kinh, một bộ 56 cuốn

32. Chánh luận văn kinh, một bộ 10 cuốn

33. Ðại khổng tước kinh, một bộ 14 cuốn

34. Duy thức luận kinh, một bộ 10 cuốn

35. Bối xá luận kinh, một bộ 10 cuốn

Hai vị Tôn Giả bạch rằng:

– Trong ba mươi năm bộ ấy rút ra một tạng cộng 5.048 cuốn mà phát cho Ðường Tăng rồi.

Kế bốn thầy trò đến lạy tạ ơn, Thích Ca Như Lai nói:

– Kinh ấy công đức lớn lắm, dặn chúng sanh chẳng khá dễ ngươi? Nếu không ăn chay và tắm gội, chẳng nên giở kinh ấy ra, phải kính trọng như vậy mới đặng. Bởi vì noi theo đó thì khỏi tội đặng phước, tu theo đó thì thành Phật thành Tiên.

Tam Tạng tạ ơn giáp vòng ba bận, thầy trò lãnh kinh mà đi.

(Quên bạch sự con vít! Chớ chuyện Khấu Viên Ngoại đã bỏ rồi, quên bạch cũng phải).

Khi ấy bốn thầy trò đi, Phật Tổ truyền bãi hội truyền kinh.

Quan Âm Bồ Tát bạch rằng:

– Ðệ tử năm trước vưng kim chỉ xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, nay đã thành công rồi, là mười bốn năm, cộng 5.040 ngày, còn thiếu tám ngày thì đủ số tạng! Xin Phật Tổ cho đưa bốn thầy trò về kịp nội tám ngày cho đủ số một tạng.

Thích Ca Như Lai mừng rỡ nói rằng:

– Nói như vậy phải lắm.

Liền kêu tám ông Kim cang mà dặn rằng:

– Các ngươi đưa thánh tăng đem kinh về Ðông Ðộ, rồi trở lại cũng nội tám ngày, cho đủ số một tạng.

Khi ấy tám vị Kim cang vưng lịnh, đằng vân theo Tam Tạng kêu lớn rằng:

– Các vị thỉnh kinh đi theo ta.

Nói rồi bay trước dẫn Tam Tạng theo sau.

Tam Tạng nhẹ mình bay thấm thoát.

Tôn Hành Giả, Sa Tăng, Bát Giới và Long Mã cũng bay theo sau.

Mười mấy năm trời qua Cực lạc,

Tám ngày phép Phật tới Trường An.

Chương 99: Mười mấy năm trời qua Cực lạc Tám ngày phép Phật tới Trường An

Nói về Ngủ Phương Yết Ðế, Tứ Bộ Công Tào, Lục Ðinh, Lục Giáp, Hộ Pháp Dạ Lam, đồng đến bạch với Quan Âm rằng:

– Các đệ tử bấy lâu vưng pháp chỉ Bồ Tát. Nay đã xong rồi, chúng tôi xin bạch lại!

Quan Âm mừng rỡ hỏi rằng:

– Bốn thầy trò Tam Tạng đi đường tâm tánh ra thể nào?

Các vị thần đồng bái và bạch rằng:

– Sự bốn thầy trò lòng thành, Bồ Tát đã rõ.

Còn các việc Tam Tạng khổ sở, kể không xiết, hể mắc nạn tại đâu, chúng tôi đều ghi vào sổ.Vậy xin dưng sổ tai nạn của Tam Tạng cho Bồ Tát xem.

Nói rồi dưng sổ, Quan Âm xem thấy đề tám chục khoảng như vầy:

Nạn thứ nhứt: Phải đọa đầu thai

Nạn thứ hai: Mới lọt lòng, gần bị giết

Nạn thứ ba: Bị thả trôi sông

Nạn thứ tư: Tìm mẹ trả thù cha

Nạn thứ năm: Mới ra khỏi thành gặp cọp

Nạn thứ sáu: Sa hầm, chết kẻ theo

Nạn thứ bảy: Qua núi Song xa

Nạn thứ tám: Tại núi Lưởng giái

Nạn thứ chín: Bị rồng nuốt ngựa

Nạn thứ mười: Bị thiêu ban đêm

Nạn thứ mười một: Mất áo cà sa

Nạn thứ mười hai: Bắt đặng Bát Giới,

Nạn thứ mười ba: Bị quái Hùynh Phong

Nạn thứ mười bốn: Ði cầu ông Linh Kiết

Nạn thứ mười lăm: Khó qua sông Lưu Sa

Nạn thứ mười sáu: Thâu đặng Sa Tăng

Nạn thứ mười bảy: Bốn thánh giả gái tốt

Nạn thứ mười tám: Bị quán Ngủ trang

Nạn thứ mười chín: Khó cứu cây nhơn sâm

Nạn thứ hai mươi: Ðuổi Tôn Hành Giả

Nạn thứ hai mươi mốt:Bị tại núi Hắc tòng

Nạn thứ hai mươi hai: Ðem thơ nước Bữu tượng

Nạn thứ hai mươi ba: Hóa ra hình cọp

Nạn thứ hai mươi bốn: Gặp yêu núi Bình đảnh

Nạn thứ hai mươi lăm: Bị treo tại ông Liên Hoa

Nạn thứ hai mươi sáu: Cứu vua nước Ô Kê

Nạn thứ hai mươi bảy:Bị yêu giả hình

Nạn thứ hai mươi tám: Gặp yêu núi Hiệu sơn

Nạn thứ hai mươi chín: Bị yêu bắt về động

Nạn thứ ba mươi: Tôn Hành Giả bị đốt

Nạn thứ ba mươi mốt: Thình Phật bắt yêu

Nạn thứ ba mươi hai: Chìm sông Bắc hà

Nạn thứ ba mươi ba: Tới nước Xa Trì

Nạn thứ ba mươi bốn: Ðàng cuộc với yêu quái

Nạn thứ ba mươi lăm: Cứu vớt thầy chùa

Nạn thứ ba mươi sáu: Ði gặp sông lớn

Nạn thứ ba mươ bảy: Té xuống sông Thông thiên

Nạn thứ ba mươi tám: Quan Âm hiện hình ngư lâm

Nạn thứ ba mươi chín: Gặp yêu núi Kim đâu

Nạn thứ bốn mươi: Các thiên thần khó cứu

Nạn thứ bốn mươi mốt: Di Lạc trói yêu

Nạn thứ bốn mươi hai:Uống nước lớn bụng

Nạn thứ bốn mươi ba: Bị nữ vương bắt

Nạn thứ bốn mươi bốn: Bị bắt về động Tì bà

Nạn thứ bốn mươi lăm: Ðuổi Hành Giả lần thứ nhì

Nạn thứ bốn mươi sáu: Bị Lục nhỉ hầu

Nạn thứ bốn mươi bảy: Gặp Hỏa diệm sơn

Nạn thứ bốn mươi tám: Cầu mượn quạt ba tiêu

Nạn thứ bốn mươi chín: Trói Nguư ma vương

Nạn thứ năm mươi: Quét tháp trước Tế Thái

Nạn thứ năm mươi mốt:Lấy báu cứu thầy chùa

Nạn thứ năm mươi hai:Bị mộc tiên bắt

Nạn thứ năm mươi ba: Bị nạn Tiểu Lôi Âm

Nạn thứ năm mươi bốn: Các thiên thần bị khối

Nạn thứ năm mươi lăm: Bị đường truông núi Thất Yệt

Nạn thứ năm mươi sáu: Cứu xóm Ðà la.

Nạn thứ năm mươi bảy: Làm thuốc cứu vua Chung Tử

Nạn thứ năm mươi tám: Ðánh yêu cứu Kim Thác Cung

Nạn thứ năm mươi chín: Bị bảy con tinh gái

Nạn thứ sáu mươi: Bị đạo sĩ Ngô Công Thuốc

Nạn thứ sáu mươi mốt: Bị núi Sư đà

Nạn thứ sáu mươi hai: Ba yêu dụng kế

Nạn thứ sáu mươi ba: Bị giam cầm trong thành

Nạn thứ sáu mươi bốn: Thỉnh Phật Tổ bắt đại bàng

Nạn thứ sáu mươi lăm: Cứu trẻ nhỏ nước Tì Khưu

Nạn thứ sáu mươi sáu: Quốc Trượng mổ tim

Nạn thứ sáu mươi bảy: Cứu con gái rừng tòng

Nạn thứ sáu mươi tám: Bịnh nặng tại chùa

Nạn thứ sáu mươi chín: Bị bắt về động Vô để

Nạn thứ bảy mươi: Khó qua nước Diệt pháp

Nạn thứ bảy mươi mốt: Gặp yêu núi Aån vụ

Nạn thứ bảy mươi hai: Ðào võ quận Phụng Tiên

Nạn thứ bảy mươi ba: Bị mất binh khí

Nạn thứ bảy mươi bốn: Yêu làm hội Ðinh ba

Nạn thứ bảy mươi lăm: Mắc nạn núi Trước tiết

Nạn thứ bảy mươi sáu: Bị khổ động Huyền Anh

Nạn thứ bảy mươi bảy: Bắt lũ trâu nước

Nạn thứ bảy mươi tám: Vua Thiên Trúc kén Phò Mã

Nạn thứ bảy mươi chín: Giam cầm tại phủ Ðồng Ðài

Nạn thứ tám mươi: Bỏ xác tại bến đò Lăng vân.

Khi ấy Quân Âm xem sổ tai nạn rồi, liền nói rằng:

– Trong cảnh Phật có chín thứ tòa sen, mỗi thứ chín sắc, cộng tám mươi mốt cái tòa sen, thánh tăng chịu tám mươi nạn, còn thiếu một nạn nữa mới đủ số cửu cửu.

Tức thì truyền các vị thần đằng vân theo Kim Cang mà dặn như vầy&t hì sanh thêm một nạn nữa. Các vị thần vưng lịnh bay theo một ngày đêm, mới kịp Kim Cang, nói nhỏ như vậy.

Mấy vị Kim Cang nghe chỉ Quan Âm Bồ Tát dặn, nên không dám cãi, liền ngừng gió lại, bốn thầy trò và con ngựa đều sà xuống đất một lượt!

Khi ấy Tam Tạng bị rớt xuống đất, lòng lại lo sợ!

Bát Giới cười ha hả nói rằng:

– Hay hay, thiệt là muốn mau hóa chậm.

Sa Tăng nói:

– Chắc là chúng ta đi mau, nên ngài nghỉ.

Tôn Hành Giả nói:

– Lời tục rằng: Mười bữa ngồi hoài một chổ, một ngày đi chín khúc sông. Ngồi lâu chớ đi bao lâu mà lật đật?

Tam Tạng nói:

– Ba đứa bây đừng nói chuyện vả! Nhìn thử chổ này là xứ nào?

Tôn Hành Giả day lại ngó bốn phía rồi nói rằng:

– Nói vậy là tới chổ ấy, thầy nghe sóng bủa hay không?

Bát Giới nói với Sa Tăng rằng:

– Sóng bủa lao xao, chắc là xứ sở của ngươi đó.

Tôn Hành Giả nói:

– Xứ sở của Sa Tăng là sông Lưu sa đây không phải là sông Lưu sa, ấy là sông Thông thiên đó.

Tam Tạng nói:

– Ðồ đệ xem cho kỷ, coi mình ở phía nào?

Khi ấy Tôn Hành Giả nhảy lên mây ngó bốn phía, rồi nhảy xuống nói rằng:

– Thầy ôi, mình ở mé bên Tây.

Tam Tạng nói:

– Ta nhớ lại rồi, phía bên đông có xóm Trần Gia, năm trước nhờ ngươi cứu con cái họ, nên Trần Thanh, Trần Trừng tính đóng thuyền lớn mà đưa chúng ta;nay có Bạch Nguơn nổi lên, đưa qua sông không nghiêng không lắc phía bên này không nhà cửa ai hết. Bây giờ biết tính làm sao mà qua sông?

Bát Giới nói:

– Người phàm tác tệ đã xong, ai dè Phật Kim Cang cũng tác tệ, dã vưng chỉ Phật đưa về Ðông Ðộ, sao nữa chừng lại bỏ xuống, thiệt là không nổi tới lui, biết làm sao mà qua sông cho đặng?

Sa Tăng nói:

– Thầy đã hết tai phàm chắc không sa xuống nước, xin anh làm phép, đưa thầy qua sông.

Tôn Hành Giả biết thầy còn mắc một nạn này mới dứt, nên không đặng nói ra, cứ cười và lắc đầu, nói:

– Không nổi, không nổi! Sa Tăng không dám nói dai.

Khi ấy bốn thầy trò đi tới mé sông Thông thiên, không thấy nhà ai ở dựa sông, cũng không có thuyền đò chi hết.

Xảy nghe có tiếng kêu văng vẳng rằng:

– Ðường Thánh Tăng đã tới đó sao?

Bốn thầy trò ngó chừng theo tiếng kêu thấy con Bạch Nguơn ở phía bên kia, đương nổi trên mặt nước nghiển cổ mà nói rằng:

– Tôi đợi sư phụ hơn mấy năm nay, bây giờ mới về đó!

Giây phút Bạch Nguơn lội tới, Tôn Hành Giả cười rằng:

– Lão Nguơn năm trước đưa chúng ta, tới năm nay mới gặp mặt!

Tam Tạng, Bát Giới và Sa Tăng đều mừng rỡ chào hỏi.

Tôn Hành Giả nói:

– Như Lão Nguơn có lòng tế độ, xin nhảy lên bờ!

Bạch Nguơn y lời bò lên. Tôn Hành Giả truyền dắt ngựa lên lưng Bạch Nguơn, Bát Giới ngồi chồng hổm sau ngựa.

Tam Tạng đứng trước ngựa bên hữu.

Tôn Hành Giả một chưn đứng trước về Bạch Nguơn, một chân đứng trên cổ Bạch Nguơn mà nói lớn rằng:

– Rán mà lội cho vững nhé?

Bạch Nguơn lội xuống sông thả êm ru như ở trên đất; chở bốn thầy trò và con ngựa, lội qua mé bờ bên đông.

Khi gần đến mé, Bạch Nguơn hỏi rằng:

– Năm trước tôi cậy sư phụ đến Tây Phương hỏi giùm Phật Tổ, coi tôi chừng nào mới hóa đặng hình người. Chẳng hay sư phụ có hỏi giùm chăng?

Bởi Tam Tạng lo sự thỉnh kinh, quên hỏi thăm việc ấy, nên không biết làm sao mà trả lời, cũng chẳng dám đặt điều, số phạm vọng ngữ, túng phải làm thinh.

Bạch Nguơn biết Tam Tạng không hỏi giùm nên tức mình lặn mất!

Báo hại bốn thầy trò và con ngựa đồng chìm xuống sông, kinh kệ ướt hết!

May là Tam Tạng thành Phật, đã cổi xác phàm, nếu không thì cũng bị chết đuối! Nói cho phải, Tôn Hành Giả ra sức đở Tam Tạng lên bờ.

Còn Sa Tăng, Bát Giới lội như rái, đem kinh và hành lý lên đủ, con ngựa rồng chở kinh lên không mất một cuốn.

Khi thầy trò lên bờ, đương vắt quần áo, kế bị trận gió thổi tới như bảo, mưa giông ấm sét ầm ầm, Tam Tạng đề kín gói kinh, Bát Giới giữ ngựa, Sa Tăng giữ gánh kinh, Tôn Hành Giả cầm thiết bảng đi giáp vòng bảo hộ, ấy là âm ma muốn đoạt kinh.

Ðêm ấy thầy trò thức chịu trận mưa giông, tới rạng đông mới tạnh!

Tam Tạng run cằp cặp nói rằng:

– Ngộ Không ôi! Bây giờ mới tính làm sao?

Tôn Hành Giả thở hào hên nói:

– Chúng ta bảo hộ đặng kinh này, là cướp quyền của tạo hóa, nên quì thần ghen ghét, muốn đoạt đi! Một là nhờ có pháp thần của thầy đè xuống, hai là ướt nên nặng nề, ba là Lão Tôn bảo hộ; đến rựng sáng khi dương thạnh rồi, âm ma tan hết, kinh mới còn nguyên.

Tam Tạng, Bát Giới, Sa Tăng nghe nói mới hiểu là âm ma làm giông mưa ấy.

Giây phút mặt trời mọc, mấy thầy trò đem kinh phơi trên bàn thạch, và phơi y phục vân vân.

Xảy thấy mấy người đi câu bước tới hỏi rằng:

– Sư phụ đi thỉnh kinh đã về đó hay sao?

Bát Giới nói:

– Phải! Sao các ngươi biết chúng tôi?

Như Nhơn nói:

– Chúng tôi ở xóm Trần Gia.

Bát Giới hỏi:

– Trần Gia trang lối nào? Ði chừng mấy dặm tới?

Ngư Nhơn nói:

– Ði ngang qua phía bên kai chừng hai chục dặm thì đến Trần Gia Trang.

Bát Giới nói:

– Xin sư phụ đem kinh đến xóm Trần Gia Trang mà phơi, dã có chổ nghỉ, lại có cơm ăn, nhờ họ phơi giùm kinh và thay đồ mà giặt luôn thể!

Tam Tạng nói:

– Thôi ghé làm chi, ở đây đợi kinh khô, sẽ lo về Ðông Ðộ kẻo trễ.

Ngư Nhơn đi một đổi, gặp Trần Trừng liền nói rằng:

– Ông ôi! Mấy thầy năm trước đi thỉnh kinh đã về đây, bởi kinh ướt đương phơi khô đó!

Trần Trừng liền kêu gia tướng, đồng chạy đến quỳ lạy thưa rằng:

– Lão gia thỉnh kinh đã về, sao không ghé xóm tôi mà nghỉ? Tôn xin thỉnh về nhà!

Tôn Hành Giả nói:

– Ðợi kinh khô rồi sẽ ghé.

Trần Trừng hỏi:

– Vì cớ nào mà ướt loi ngoi như vậy?

Tam Tạng nói:

– Năm trước nhờ Bạch Nguơn đưa khỏi sông, có nhờ tôi rằng, nếu đến Tây Phương xin hỏi giùm Phật Tổ: Chừng nào Bạch Nguơn thành hình người. Ðến nay Bạch Nguơn cũng đưa đưa về gần tới mé, liền hỏi thăm sự nhờ hôm trước, bởi tôi quên hỏi nên không biết làm sao trả lời! Bạch Nguơn giận liền lặn mất, báo hại ướt hết kinh, chớ quản gì y phục.

Trần Trừng năn nỉ mời vào nhà, nói hoài không biết mấy thứ. Tam Tạng cầm lòng không đậu, truyền gói kinh lại, chẳng ngờ mấy cuốn Phật bổn hạnh kinh ở dưới hết, mấy tờ chớ dính trên mặt đá gở không ra! Nên bây giờ kinh Phật bổn hạnh mất tờ sau cuốn nào cũng vậy! Mấy tấm đá phơi kinh bấy giờ hãy còn dấu chữ rành rành.

Khi ấy Tam Tạng phàn nàn rằng:

– Tệ quá! Ấy cũng bởi chúng ta vô ý, bộ kinh này mất hết chương sau!

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Không phải vô ý đâu, trời đất còn có chổ thiếu mới hiệp với trời đất. Nghĩa là ý nhiệm cùng, nếu cùng thì không quý, ấy là số trời đã định trước như vậy, há bởi người sao?

Mấy thầy trò gói kinh gánh theo Trần Trừng, nội xóm hay tin, đồng ra nghinh tiếp, kẻ thắp đèn thắp hương, người dọn bàn ghế, tốp thì đờn ca gióng trống như thỉnh sắc, giây phút rước tới cửa xóm, Trần Thanh và nội nhà ra nghinh tiếp vào nhà, ai nấy đồng lạy tạ ơn.

Rồi dọn tiệc chay thiết đãi.

Tam Tạng hết xác phàm nên không đói như khi trước, vì tình nhậm lễ chút đỉnh mà thôi.

Tôn Hành Giả không ăn đồ nấu, dùng chút đỉnh trái cây.

Sa Tăng cũng chấm chút!

Bát Giới rán ăn một chén, rồi thì cầm đủa bái liền, Tôn Hành Giả hỏi:

– Sao thôi sớm như vậy?

Bát Giới nói:

– Không biết thể làm sao tì vị yếu quá, chắc là no hơi.

Ðoạn trà xong rồi, Trần Thanh, Trần Trừng hỏi thăm việc thỉnh kinh ra thể nào, Tam Tạng thuật chuyện lại và xin kiếu. Trần Thanh, Trần Trừng đồng nói:

– Anh em tôi khi trước nhờ ơn cứu mạng con cái, không biết lấy chi đền bồi; nên lập một cái chùa gọi là Cứu Sanh từ cốt bốn vị mà thờ, đèn hương không ngớt.

Nói rồi kêuTrần Quang Bảo và Nhứt Xứng Kim Ðồng ra lạy tạ bốn thầy, Rồi thỉnh đến chùa Cứu Sanh, Tam Tạng thấy bốn hình thầy trò, lên cốt coi như sống, mừng rỡ khen rằng:

– Như vậy thì tốt lắm, để bấn tăng đọc một vị kinh.

Nói rồi lấy kinh bữu thường tụng một cuốn. Tụng kinh rồi xuống lầu, Trần Thanh, Trần Trừng dọn tiệc thiết đãi, bốn thầy trò dùng chút vị tình. Tôn Hành Giả hỏi:

– Con miễu Linh Cảm đại vương ra thế nào?

Trần Thanh, Trần Trừng đồng nói rằng:

– Nội năm ấy xóm này phá miễu Cảm rồi lập chùa Cứu Sanh, từ ấy đến nay năm nào cũng như vậy.

Tôn Hành Giả cười rằng:

– Tại các ông có lòng lành, nên trời thưởng, chớ thầy trò tôi không giúp chút nào. Từ này sắp sau chúng tôi bảo hộ nội xóm bình an, yêu ma không dám xâm nhập, mưa gió hòa thuận, người mạnh vật an, song phải bỏ nghề chài rở săn bắn, cứ thiệt nghề làm ăn thì chúng tôi mới dám bảo hộ.

Ai nấy đồng lạy tạ ơn. Trần Thanh, Trần Trừng chịu báo cho vạn chài vạn săn làm ruộng cải nghề nghiệp sát sanh.

Ðến xế Trần Thanh dọn tiệc, đãi bốn thầy trò xong xả.

Chiều lại Trần Trừng dọn tiệc mời nữa, Bát Giới cười rằng:

– Tôi vô phước quá chừng, lúc ăn đặng không thấy ai mời, nay no hơi lại nhiều đám thỉnh.

Nói rồi ngồi vào tiệc, ăn rán một hai miếng gọi là, khó làm thẳng nghỉnh như trước.

Ðến tối Tam Tạng thức giữ kinh cho tới canh ba, liền kêu Tôn Hành Giả mà nói nhỏ rằng:

– Ngộ Không, các người ấy biết chúng ta đã thành rồi, nên cầm cọng lắm! Lời xưa nói:

– Phật Tiên không lộ hình, nếu vị tình ở lâu thì trể đại sự.

Tôn Hành Giả thưa rằng:

– Sư phụ nói phải lắm, chi bằng thừa lúc này nội gia ngủ hết, thầy trò đi lén cho xong!

Tam Tạng nói phải, Tôn Hành Giả liền kêu Bát Giới, Sa Tăngdạy mà nói nhỏ.

Bát Giới cười rằng:

– Ăn uống gì đặng mà ở lâu?

Nói rồi lén mở cửa chùa Cứu Sanh, gánh kinh và hành lý dắt ngựa đi êm, chó không hay mà sủa. Thầy trò mới đi một đổi, nghe trên mây có tiếng kêu rằng:

– Mấy thằng trốn đó, đi theo tám anh em tôi.

Khi ấy mùi hương thơm ngát, Tam Tạng lại là tám vị Kim cang làm phép đưa bốn thầy trò và con ngựa bay nửa lừng, mau hơn tận trước.

Còn Trần Gia Trang, rạng ngày ai nấy thức dậy nấu nước và dọn đồ chay lên cúng chùa Cứu Sanh, thấy cửa chùa mở hé, không còn ông nào ở lại! Ai nấy đồng than thở rằng:

– Gặp Phật rõ ràng mà cầm không đặng, uổng biết chừng nào.

Không biết làm sao, túng phải dọn đồ phẩm thực lên bàn cúng tế. Từ nay sắp sau mỗi năm cúng bốn lần trọng thể, và cứ mỗi tháng cúng hai kỳ. Nhiều người có bịnh đến cầu khẩn cũng lành, cầu an cũng đặng như lời, nên nhiều người van vái lắm, không giờ nào ngày nào cho hết hương lửa.

Nói về Bát Ðại Kim Cang dùng trận gió thứ nhì, đưa bốn thầy trò đi thấm thoát, không bao lâu gần tới Trường An.

Còn Vua Ðường Thế Dân, từ niên hiệu Trịnh Quang năm thứ mười ba, trước rằm ba bữa, đưa Tam Tạng ra khỏi thành.

Qua năm thứ mười sáu, liền sai ông Công Bộ cắt Vọng Kinh lâu tại ngoài ải Tây An, để phỏng rước kinh đến lầu ấy mà ngó chừng, trông hoài mấy năm không thấy chi hết.

Chương 100: Tam Tạng thỉnh kinh về Ðông Ðộ – Năm thánh hưởng phước tại Tây Phương

Ngày kia ngự giá đến vọng kinh lâu, Thiên Tử lên lầu ngó qua hướng Tây thấy hào quang sáng giới, gió thơm như mùi hương!

Khi ấy Bát Ðại Kim Cang ở trên mây nói với Hành Giả rằng:

– Ðại Thánh ôi! Ðây là đến thành Trường An, chúng ta chẳng dám đi xuống, vì dân Trường An lanh lợi quỷ quyệt, nếu nó thấy mặt, chắc là họa hình! Vậy thì Ðại Thánh và Quyện Liêm tướng quân, Thiên Bồng Nguyên Soái, đừng xuống làm chi. Ðể một mình thánh tăng dưng kinh cho Ðường Thiên Tử rồi trở lên cho mau, chớ ta đợi lâu không đặng.

Tôn Hành Giả nói:

– Tuy các ông nói cũng phải, song một mình thầy tôi gánh sao nổi kinh, dắt sao đặng ngựa? Chúng tôi phải đưa mới xong, các ông chịu phiền rán đợi, bề nào cũng phải trể đâu.

Bát Ðại Kim Cang nói:

– Ngày trước Quan Âm đã bạch với Như Lai, định nội tám ngày cho đủ số một tạng, nay đã năm ngày rưỡi, sợ Bát Giới tham yến tiệc chắc trể nải ngày giờ.

Bát Giới cười rằng:

– Sư phụ thành phật, tôi cũng muốn thành phật lẽ nào mà còn mê yến tiệc sao? Vã lại tôi ăn một bữa cơm tại chùa Ðại Lôi Âm, tới bây giờ còn đặc ruột, lẽ nào mê yến tiệc phàm trần. Xin các ông rán đợi tới giao kinh rồi thì tôi trở lại.

Sa Tăng dắt ngựa, Tôn Hành Giả đỡ Tam Tạng, đều ở trên mây sa xuống lầu Vọng Kinh.

Khi ấy vua Ðường Thái Tôn và các quan ngó thấy đều đến trước nghinh tiếp nói rằng:

– Ngự đệ đã về đây!

Tam Tạng liền cúi lạy.

Vua Ðường Thái Tôn đỡ dậy, phán rằng:

– Ba người này là ai?

Tam Tạng tâu rằng:

– Ba người đệ tử tôi thâu tại dọc đường.

Vua Ðường Thái Tôn mừng quá, truyền quan nội thị thắng xe ngựa của vua cho ngự đệ đi vào trào, Tam Tạng tạ ơn, rồi lên ngự mã, Tôn Hành Giả huơi thiết bảng theo hầu.

Sa Tăng gánh kinh, Bát Giới dắt ngựa, đồng đi theo Trường An.

Khi ấy bốn thầy trò về trào theo vua, nội thành ai nấy đều hay Tam Tạng thỉnh kinh về, đồng theo coi đông nức.

Nguyên trước Tam Tạng ở trú tại chùa Hồng phước. Nay các sải chùa ấy chưa hay tin Tam Tạng về.

Rạng ngày ngó thấy mấy cây tòng trước cửa chùa cây nào cũng ngã ngọn về hướng Ðông hết thảy.

Các sải kinh nói rằng:

– Thiệt là quái sự lắm! Hồi hôm không có giông tố, sao cây tòng ngã ngọn về Ðông?

Một người học trò cũ của Tam Tạng nói rằng:

– Mau lấy y phục ra đây, đặng mặc vào mà nghinh tiếp, vì sư phụ thỉnh kinh đã về.

Các sải hỏi rằng sao mà ông biết?

Người học trò cũ đáp rằng:

– Năm trước thầy đi có dặn rằng: “Ta đi không biết chừng nào trở lại, hoặc năm ba năm, hoặc sáu bảy năm, hễ ngó thấy cây tòng trước cửa ngã ngọn qua hướng Ðông, thì ta đã về tới.” Bởi thầy có lời nói trước rỏ ràng, nên tôi mới biết.

Các sải đồng mặc áo dài bước ra, mới tới ngã ba nghe người nói chuyện rằng:

– Thầy thỉnh kinh về mới tới. Hoàng đế rước vào thành.

Các sải nghe nói mừng rỡ chạy theo, gặp ngự giá đi trước, các sải không dám lại gần, đi theo sau đến Ngọ môn.

Khi ấy Tam Tạng xuống ngựa, đi với các đệ tử vào đền.

Tam Tạng đứng trước sân chầu với các đệ tử.

Vua Thái Tôn truyền chỉ, đòi Ðường ngự đệ lên dựa ngai vàng; mời ngồi ghế tú đôn.

Tam Tạng tạ ơn rồi ngồi xuống, bảo đệ tử khiêng kinh lên.

Tôn Hành Giả lấy mấy gói kinh, đưa chuyển cho quan nội thị, quan nội thị dâng lên.

Vua Ðường Thái Tôn phán hỏi rằng:

– Ngự đệ làm sao mà thỉnh kinh đặng? Số kinh ấy bao nhiêu?

Tam Tạng tâu rằng:

– Tôi Nam mô Từ lực vương phật.

– Quảng Trang Nghiêm Phật

– Tài Quang Minh Phật

– Thế Tịnh Quang Phật

– Nhựt Nguyệt Châu Quang Phật

– Diệu Âm Thinh Phật

– Quan Thế Ðăng Phật

– Tu Di Quang Phật

– Kim Hải Quang Phật

– Tài Quang Phật

– Ðấu Chiến Thắng Phật

– Ðại Thế Chí Bồ Tát

– Phổ Hiền Bồ Tát

– Tịnh Ðàng Sứ Giả Bồ Tát

– Bát Bửu Kim Thân La Hán Bồ Tát

– Bát Bộ Thiên Long Quảng Lực Bồ Tát

Các vị ấy niệm phật rồi đồng lui ra ngoài, đồng hưởng phước thanh nhàn tự lại.

Ấy là truyện Tây Du sự tích bao nhiêu đó là hết.

Chương 1-1: Lời Giới Thiệu

Trong lịch sử văn học Trung Quốc, là một trong “tứ đại danh tác”, sánh ngang với Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy HửTây Du ký, Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt. Người Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó 1, sáng tác về nó đến nỗi nói: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!”(Mở miệng mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích!). Có một ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng, gọi là Hồng học; gần đây nhất vẫn thấy Trung Quốc in chuyên san “Hồng Lâu Mộng nghiên cứu”. – Có lẽ trên thế giới chỉ có Shakespeare là có một vinh dự lớn lao như thế, vì có “Shakespeare học”.

Cái gì làm người Trung Quốc say Hồng lâu mộng “như điếu đổ” vậy? Trước hết, đó là do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại.

Thời nhà Thanh, dưới thời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long (1723 – 1795) là thời kinh tế phồn vinh, chẳng những công nghiệp, thủ công nghiệp, mà cả khai thác mỏ, thương nghiệp… cũng phát triển mạnh mẽ. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc Châu… buôn bán, sản xuất sầm uất là những đô thị lớn. Chỉ kể một thị trấn như Thanh Giang bên bờ Vận Hà thôi mà thời đó đã có hơn nửa triệu dân! Nền kinh tế tự phát tư bản chủ nghĩa đó trong lòng xã hội phong kiến chuyên chế mọt ruỗng và đang trên đà tan rã, đã đẻ ra một tầng lớp người thành thị, những người này có những nhu cầu thẩm mỹ mới. Tây Sương Ký, Mẫu đơn đình, Cổ kim tiểu thuyết, Liêu Trai… là những tác phẩm tả tình yêu, những số phận, những buồn vui cá nhân…, chính là sự “thăng hoa” của cuộc sống đã bắt đầu khác trước về chất của người thành thị.

Hồng lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân chủ, tinh thần phê phán đời sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo điều truyền thống đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương, giải phóng cá tính, đòi tự do bình đẳng, khát khao một lý tưởng cho cuộc sống… Tất cả những cái đó có những mặt kế thừa tư tưởng dân chủ thời Minh và đầu Thanh, nhưng nó chính là sản phẩm của ý thức tư tưởng thị dân đương thời. Giữa những khát vọng sâu xa ấy của con người thời đại và sự biểu hiện nó ra một cách nghệ thuật, đã có một cuộc hẹn hò tuyệt diệu qua Hồng Lâu Mộng.

° ° °

Tác giá chính của Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần 1716(?) – 1763(?) giống như phần lớn các nhà văn lớn Trung Hoa trong lịch sử, viết văn là để giải tỏa nỗi niềm “cô phẫn”, là để ký thác những suy tư về con người và thời đại.

Ông vốn sinh ra trong một gia đình đại quý tộc. Từ đời tằng tổ đến đời cha, thay nhau tập chức “Giang ninh chức tạo” là một chức quan to thu thuế. Năm lần vua Khang Hy tuần du phương Nam thì bốn lần ở lại nhà họ Tào, đủ biết sự sủng ái của nhà vua với gia đình ông ra sao! Và cũng có thể đoán biết cuộc sống trong phú Giang hồi đó xa hoa, vương giá như thế nào! Trong Hồng Lâu Mộng, Nguyên phi về thăm nhà có một buổi mà nhái xây cất bao nhiêu đình tạ trong vườn Đại quan, nữa là hoàng đế tuần du ngự đến nhà.Nhà ông chăng những là hào môn vọng tộc hiển hách như thế, lại còn có truyền thống văn chương. Ông nội ông, Tào Dần, đứng in bộ “Toàn Đường Thi trứ danh, và là một nhà thơ, tác giả “Luyện đình thi sao”.

Nhưng cuộc sống vàng son đó của gia đình ông đã trôi qua, đã tan vỡ. Lúc Tào Tuyết Cần lớn lên thì tất cả đã ở đằng sau rồi: cha bị khép tội, bị cách chức, bị tịch biên gia sán, nhà họ Tào suy sụp và ông phải về sống ờ vùng ngoại ô phía tây thành Bắc Kinh trong cảnh: “cả nhà rau cháo, rượu thường mua chịu”.

Hồng Lâu Mộng do đó có thể xem là phản quang những hồi ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quý tộc đã tan vỡ đó.

Một mặt, đó là sự nhớ tiếc khôn nguôi những huy hoàng của vàng son lộng lẫy, cảm thấy tất cả nhuốm màu thê lương, hư vô, tất cả đều xê dịch về phía bế tắc, hủy diệt, tất cả đều đáng ân hận, và chỉ có thể cứu chuộc bằng Hư Vô, bằng siêu hình, bằng tôn giáo! Nhưng mặt khác, từ trong cuộc sống nghèo khó hôm nay, quay đầu nhìn lại thì cái khoảng cách lớn lao đó làm cho ông thấy được rõ hơn, khách quan hơn, bình tĩnh hơn những gì ông đã thấy, đã nếm trái về cuộc sống thối nát của giai cấp quý tộc và sự miêu tả khách quan “những quan hệ hiện thực” này làm ông trở thành một nhà hiện thực. Chí ít thì về mặt đó, ông đã lay chuyến được “niềm lạc quan về cái trật tự hiện tồn”, và như thế, ông là sản phẩm của một thời đại, đồng thời đã nhìn xa hơn thời đại.

Tào Tuyết Cần đề 10 năng dế viết 80 hồi đầu, Hồng Lâu Mộng: “Xem ra chữ toàn bằng huyết, cay đắng mười năm khéo lạ lùng”; năm lần sửa chửa, trong cảnh cùng khốn, ốm đau không tiền chạy thuốc, trong cánh đứa con yếu của ông chết. Và ông đã lìa đời trong cảnh đau khố dồn dập đó. Bình sinh, ông vẽ giỏi, hay thơ, thích rượu, cuồng phong. Người ta chỉ biết được về ông có thế thôi!

Hai mươi tám năm sau khi ông mất, Cao Ngạc viết tiếp 40 hồi, đến khoáng 1792 – 1793 thì Hồng Lâu Mộng được in và lưu truyền khắp trung Quốc.

Những hồi Cao Ngạc viết tiếp thì không thể hay bằng những hồi Tào Tuyết Cần viết, nhưng cũng phải nói là Cao Ngạc đã sống với tác phẩm và tri âm tác giả, nên đã hoàn thành dự định của Tào Tuyết Cần và nối tiếp bút lực của người đi trước, hoàn thành và bộc lộ trọn vẹn tư tưởng của tác phẩm, khiến cho tác phẩm vẫn giữ được vẻ hấp dẫn mãnh liệt.

Dịch giả: Vũ Bội Hoàng, Nguyễn Thọ, Nguyễn Doãn Địch, Trần Quảng, Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Văn Huyến.

Mục lục

Chương 1-1: Lời Giới Thiệu
Chương 1-2: Bi kịch tình yêu và ý nghĩa tình yêu trong hồng lâu mộng
Chương 1-3: Thi pháp nhân vật hồng lâu mộng
Chương 1-4: Chân Sĩ Ẩn trong mộng ảo biết đá thiêng – Giả Vũ Thôn lúc phong trần mơ người đẹp
Chương 2: Giả phu nhân tạ thế ở thành Dương Châu – Lãnh Tử Hưng kể chuyện trong phủ Vinh Quốc
Chương 3: Nhờ anh vợ, Như Hải đền được ơn dạy bảo – Đón cháu ngoại, Giả mẫu xót thương trẻ mồ côi
Chương 4: Gái bạc mệnh gặp trai bạc mệnh – Sư Hồ lô xử án Hồ lô
Chương 5: Chơi cõi ảo, mười hai thoa chỉ đường mê – Uống rượu tiên, mộng lầu hồng diễn thành khúc
Chương 6: Giả Bảo Ngọc mới thử cuộc mây mưa – Lưu lão lão đến thăm phủ Vinh quốc
Chương 7: Đem biếu cung hoa, Giả Liễn đùa Hy Phượng – Ăn yến Ninh phủ, Bảo Ngọc gặp Tần Chung
Chương 8: So ngọc thông linh Kim Oanh hơi ngỏ ý – Thăm dò cô Bảo, Đại Ngọc nếm phải chua
Chương 9: Quen nết phong lưu, bạn đa tình cùng vào trường học – Gây chuyện ngờ vực, tên ngoan đồng làm nhộn thư đường
Chương 10: Kim quả phụ tham lợi chịu nhẫn nhục – Trương thái y xem bệnh nói gốc nguồn
Chương 11: Mừng sinh nhật, phủ Ninh bày tiệc linh đình – Gặp Hy Phượng, Giả Thụy động lòng dâm dục
Chương 12: Vương Hy Phượng độc ác, bày cuộc tương tư – Giả Thiên Tường chết oan, soi gương phong nguyệt
Chương 13: Tần Khả Khanh chết được phong long cẩm túy – Vương Hy Phượng sang giúp việc bên phủ Ninh
Chương 14: Lâm Như Hải từ trần ở thành Dương Châu – Giả Bảo Ngọc giữa đường chào vua Bắc Tĩnh
Chương 15: Vương Phượng Thư lộng quyền ở chùa Thiết Hạm – Tần Kình Khanh gặp gái trong am Mạn Đầu
Chương 16: Giả Nguyên Xuân có tài, được tuyển vào cung Phượng Tảo – Tần Kình Khanh còn trẻ, đã thác xuống cõi Hoàng Tuyền
Chương 17: Đề câu đối trong vườn Đại Quan, thử tài Bảo Ngọc
Chương 18: Về thăm nhà ở phủ Vinh Quốc, gặp tiết nguyên tiêu
Chương 19: Tình đằm thắm đêm khuya hoa biết nói – Ý triền miên ngày vắng ngọc thêm hương
Chương 20: Phượng Thư thẳng thắn dẹp hẳn thói ghen tuông – Đại Ngọc tinh ranh nói những câu bỡn cợt
Chương 21: Giả cách giận hờn, Tập Nhân răn Bảo Ngọc – Trả lời khôn khéo, Bình Nhi cứu Giả Liễn
Chương 22: Nghe câu hát, Bảo Ngọc hiểu đạo thiền – Đánh đố thơ, Giả Chính lo lời sấm
Chương 23: Mượn câu văn Tây Sương ký, giở giọng giỡn đùa – Nghe khúc hát Mẫu đơn đình, chạnh lòng hờn tủi
Chương 24: Kim Cương say rượu, tính hào hiệp tiền bạc coi khinh – Cô gái si tình, rơi khăn lụa mơ màng nhớ bạn
Chương 25: Mắc phải thuật năm con quỷ, chị em hóa điên rồ – Nhờ được phép hai vị tiên, ngọc thiêng hết mờ ám
Chương 26: Cầu Phong Yêu, nói lóng đưa tình kín – Quán Tiêu Tương xuân buồn tỏ nỗi riêng
Chương 27: Đình Trích Thúy, Dương Phi đùa bướm trắng – Mộ Mai Hương, Phi Yến khóc hoa tàn
Chương 28: Ngọc Hàm tặng thắt lưng, gợi được mối tình – Bảo Thoa cởi chuỗi thơm, lộ ra vẻ thẹn
Chương 29: Người hưởng phúc, phúc nhiều, còn cầu xin thêm phúc – Gái si tình, tình nặng, càng luẩn quẩn vì tình
Chương 30: Bảo Thoa mượn cái quạt, nói cạnh cả hai bên – Linh Quan vạch chữ “tường”, làm ngây người ngoài cuộc
Chương 31: Xé tan cái quạt, nghìn vàng mua lấy một trận cười – Điềm ứng kỳ lân, hai sao gặp nhau khi đầu bạc
Chương 32: Giải bày hết tâm can, Bảo Ngọc đâm ra mê mẩn – Không chịu được sỉ nhục, Kim Xuyến đành phải liều thân
Chương 33: Coi anh như thù, giọng lưỡi ton hót – Đẻ con bất hiếu, roi vọt dập vùi
Chương 34: Mối tình ngổn ngang, thấy tình cô em càng thêm thấm thía – Lỗi lầm chồng chất, lấy lầm khuyên anh xiết nỗi buồn rầu
Chương 35: Ngọc Xuyến được nếm canh lá sen – Oanh Nhi khéo tết dây hoa mai
Chương 36: Thêu bức uyên ương, hiên Giáng Vân mộng lành báo trước – Ngẫm đường tình phận, viện Lê Hương duyên đẹp định rồi
Chương 37: Thu Sảng trai, định mở Xã hải đường – Hành Vu uyển, đêm nghĩ bài hoa cúc
Chương 38: Lâm Tiêu Tương đứng đầu những thơ ngâm cúc – Tiết Hành Vu mỉa đời trong bài vịnh cua
Chương 39: Già nhà quê hay nói huênh hoang – Cậu có tình cứ tìm ngành ngọn
Chương 40: Vườn Đại Quan, Sử thái quân hai lần mở tiệc – Gieo súc sắc, Kim Uyên Ương ra lệnh đố thơ
Chương 41: Am Lương Thúy, Bảo Ngọc thưởng trà ngon – Viện Di Hồng, già Lưu say rượu ngủ
Chương 42: Giải mối ngờ, Bảo Thoa ngỏ lời thân thiết
Chương 43: Ngồi rỗi bày trò, góp tiền ăn sinh nhật – Mối tình không dứt, vốc đất viếng oan hồn
Chương 44: Chuyện xảy bất ngờ, Phượng Thư đâm ghen – Mừng ngoài tưởng tượng, Bình Nhi trang điểm
Chương 45: Bạn kim lan ngỏ chuyện kim lan – Đêm mưa gió ngâm bài mưa gió
Chương 46: Người liều lĩnh khó thoát việc liều lĩnh – Gái Uyên Ương thề dứt bạn uyên ương
Chương 47: Tiết Bàn đa tình bị đánh – Tương Liên sợ tội trốn đi
Chương 48: Dùng bậy chữ tình, nhầm về tình, chàng đi buôn bán – Mến yêu gái nhã, gặp cuộc nhã, nàng mải ngâm thơ
Chương 49: Cõi lưu ly mai hồng tuyết trắng – Gái son phấn, ăn sống nuốt tanh
Chương 50: Am Lư Tuyết nối nhau thơ tức cảnh – Ổ Noãn Hương khéo đặt câu đố đèn
Chương 51: Cô em họ Tiết làm thơ hoài cổ – Lang băm họ Hồ dùng thuốc hổ lang
Chương 52: Bình Nhi cố tình giấu việc mất vòng ngọc – Tình Văn đương ốm, vùng dậy vá áo cừu
Chương 53: Đêm trừ tịch, phủ Ninh tế tổ tiên – Tối nguyên tiêu, phủ Vinh mở yến tiệc
Chương 54: Sử Thái Quân bỏ lối chuyện sáo ngày xưa – Vương Hy Phượng học đòi áo hoa múa hát
Chương 55: Mắng con gái mình, dì Triệu tức nhảm – Khinh cô chủ bé, mụ Ngô ác ngầm
Chương 56: Thám Xuân thông thạo, tìm mối lợi bỏ hẳn lệ xưa – Bảo Thoa khôn ngoan, ra ơn nhỏ giữ gìn thể thống
Chương 57: Tử Quyên khôn ngoan, đặt chuyện thử lòng cậu Bảo
Chương 58: Dưới bóng hạnh, phượng giả khóc hão huyền – Bên cửa the, tình thật nghĩ vơ vẩn
Chương 59: Bến Liễu Diệp, tủi phận yến oanh – Hiên Giáng Vân nhở tay ấn quyết
Chương 60: Đem phấn mạt ly thay cho bột tường vi – Biếu mai quế lộ lòi ra bột phục linh
Chương 61: Ném chuột sợ vỡ đồ, Bảo Ngọc đành phải nhận lỗi – Xét việc thấy oan uổng, Bình Nhi khéo tòng quyền
Chương 62: Tương Vân ngây thơ, ngủ trên hoa thược dược – Hương Lăng trơ trẽn, cởi tấm quần hồng lăng
Chương 63: Viện Di Hồng chị em mở tiệc – Nuốt kim đan, Giả Kính chết oan
Chương 64: Gái buồn rầu đề thơ ngũ mỹ – Trai lẳng lơ tặng ngọc cửu long
Chương 65: Giả Liễn vụng trộm cưới dì Hai – Dì Ba quyết lòng lấy chàng Liễu
Chương 66: Cô bé đa tình, hổ vì tình về nơi địa phủ – Chàng Hai lạnh nhạt, khi quá lạnh vào chốn không môn
Chương 67: Thấy đồ Thổ nghi, Đại Ngọc nhớ quê cũ – Nghe việc bí mật, Phượng Thư hỏi người hầu
Chương 68: Dì Vưu khổ sở, bi lừa vào vườn Đại Quan – Chị Phượng ghen tuông, làm nhộn ở phủ Ninh Quốc
Chương 69: Giở lối khôn vặt, mượn gươm giết người – Biết gặp hạn đen, nuốt vàng thoát kiếp
Chương 70: Lâm Đại Ngọc mở thi xã Đào Hoa – Sử Tương Vân điền tiểu từ Liễu Nhứ
Chương 71: Người hiềm khích cố ý gây hiềm khích – Gái Uyên Ương vô tình gặp Uyên Ương
Chương 72: Cậy mình khỏe, Vượng Phượng Thư kiêng nói ốm – Ỷ thần thế, vợ Lai Vượng cố ép duyên
Chương 73: A hoàn ngơ ngẩn, nhặt nhầm túi xuân tình – Tiểu thư ươn hèn, bỏ lơ dây kim phượng
Chương 74: Quá nghe gièm hót, khám xét vườn Đại Quan – Thề giữ đoan nghiêm, rào lấp phủ Ninh Quốc
Chương 75: Mở tiệc đêm khuya, điềm lạ vẳng nghe tiếng thảm – Thưởng trăng tháng tám, lời nói thành câu sấm haỵ
Chương 76: Nhà Đột Bích nghe sáo, cảm nỗi ưu sầu – Quán Ao Tinh nối thơ, buồn đêm vắng lặng
Chương 77: A hoàn đẹp, sớm chết oan vì tội phong lưu – Con hát xinh, cắt tình duyên vào am Thủy Nguyệt
Chương 78: Họa sĩ già ra bài từ Quỷ hoạch – Công tử ngốc làm văn tế phù dung
Chương 79: Rước lấy sư tử Hà Đông, Tiết Bàn hối hận – Vớ phải giống sói Trung Sơn, Nghênh Xuân nhầm to
Chương 80: Gặp anh chồng phũ, Hương Lăng bi trận đòn oan- Chữa đàn bà ghen, đạo sĩ kê bài thuốc nhảm
Chương 81: Bốn chị câu cá chơi, xem ai tốt số – Hai lần vào trường học, vâng theo lời cha
Chương 82: Lấy nghĩa sách giảng bày, cụ đồ già dạy răn chàng bướng – Thấy ác mộng kinh khủng, gái Tiêu Tương hoảng sợ ngây hồn
Chương 83: Vào cung Vị, thăm Nguyên phi bị ốm – Nhộn nhà cửa, làm Bảo Thoa nghẹn lời
Chương 84: Thử tài học, Bảo Ngọc được nhắc đến việc hôn nhân – Thăm cháu ốm, Giả Hoàn càng gây thêm mối thù oán
Chương 85: Giả Chính được thăng chức lang trung – Tiết Bàn lại gây nên tù tội
Chương 86: Ăn của đút, quan già thay án kiện – Gửi tình riêng, gái trẻ giảng cầm thư
Chương 87: Cảm thấy gió thu, gảy đàn buồn thương chuyện cũ – Say ngồi nhập định, tà hỏa lẩn vào trong tim
Chương 88: Muốn bà vui, Bảo Ngọc khen cháu bé mồ côi – Nghiêm phép nhà, Giả Trân đánh người hầu cứng cổ
Chương 89: Người đâu vật còn đây, công tử làm bài từ – Bóng cung ngỡ là rắn, Tần Khanh đành tuyệt thực
Chương 90: Mất áo bông, gái nghèo ngấm ngầm bực bội – Đưa hoa quả, chú em nghĩ ngợi vẩn vơ
Chương 91: Định thỏa lòng dâm, Bảo Thiềm bày mưu kế – Bày ra nghi trận, Bảo Ngọc bàn đạo thiền
Chương 92: Bàn chuyện gái hiền, Xảo Thư mến người trinh thục – Xem hạt châu lớn, Giả Chính tính chuyện hợp tan
Chương 93: Người họ Chân đến nương nhờ họ Giả – Am Thủy Nguyệt vỡ lở án gió trăng
Chương 94: Giả mẫu bày tiệc, thưởng Hải Đường nở hoa – Bảo Ngọc mất ngọc, biết tai ương sắp đến
Chương 95: Tin đồn không sai, Nguyên phi đã mất – Giả thực lẫn lộn, Bảo Ngọc hoá ngây
Chương 96: Giấu hẳn tăm hơi Phượng Thư bày kế lạ – Cơ mưu đã lộ, Đại Ngọc mất tính thường
Chương 97: Đốt cảo thơ, Đại Ngọc dứt tình si – Về nhà chồng, Bảo Thoa thành lễ lớn
Chương 98: Giáng Châu đau buồn, hồn về nơi ly hận – Thần Anh mang bệnh, lệ tràn cõi tương tư
Chương 99: Giữ phép công bọn hầu ác cùng nhau phá lệ – Xem tin báo ông cậu già đâm ra lo phiền
Chương 100: Làm hỏng mất dịp tốt, Hướng Lăng gây mối oán thù – Thương em lấy chồng xa, Bảo Ngọc cảm tình ly biệt
Chương 101: Vườn Đại Quan đêm trăng rợn hồn ma – Chùa Tán Hoa quẻ thần ghê điềm lạ
Chương 102: Phủ Ninh Quốc, ruột thịt bị tai ương – Vườn Đại quan, phù thủy trừ yêu quái
Chương 103: Giở kế độc ác, Kim Quế tự giết mình – Không hiểu đạo thiền, Vũ Thôn gặp người cũ
Chương 104: Kim cương say, cá nhỏ gây thành sóng lớn – Công tử ngốc, thương thừa nhớ lại tình xưa
Chương 105: Quân Cẩm y khám biên phủ Ninh quốc – Quan ngự sử tâu hặc châu Bình An
Chương 106: Gây tai ương, Vương Hy Phượng xiết bao hổ thẹn – Tránh hoạ hoạn, Giả thái quân cầu khấn phật trời
Chương 107: Cho của thừa, Giả mẫu hiểu nghĩa lớn – Phục chức cũ, Giả Chính đội ơn trời
Chương 108: Tiệc bày vui gượng, viện Hoành Vu mừng ngày sinh – Chết vẫn say đời, quán Tiêu Tương nghe quỉ khóc
Chương 109: Hồn thơm chờ đợi, con Nam may được yêu nhầm – Oan án trả xong, Nghênh Xuân trở về cõi lạc
Chương 110: Sử Thái quân tuổi già về nơi địa phủ – Vương Hy Phượng sức kiệt làm mất lòng người
Chương 111: Gả Uyên Ương theo chủ lên chầu trời – Hầu chó lớn đem người về cướp của
Chương 112: Sống đầy oan nghiệt, Diệu Ngọc bị giặc cướp đi – Chết vì hiềm thù, dì Triệu sa xuống âm phủ
Chương 113: Ăn năn lỗi trước, Phượng Thư nhờ cậy già Lưu – Quên hẳn hiềm xưa, Tử Quyên cảm thương Bảo Ngọc
Chương 114: Vương Hy Phượng trải qua cơn ảo nhớ lại Kim Lăng – Chân ứng Gia được đội ơn vua về chầu ngọc khuyết
Chương 115: Tri lời thiên lệnh, Tích Xuân thề vẫn giữ chí xưa – Tên người dù giống nhau, Bảo Ngọc không coi là tri kỷ
Chương 116: Được ngọc thiêng, nhận thấy duyên tiên nói ảo cảnh – Trọn đạo hiếu, đưa linh cữu mẹ về cố hương
Chương 117: Ngăn việc tu hành, hai gái đẹp cố giữ viên ngọc – Thích họp bạn xấu, một con hư coi giữ việc nhà
Chương 118: Nhớ hiềm xưa ông cậu lừa gái nhỏ – Sợ nói nhảm, vợ hầu can chàng ngây
Chương 119: Dỗ hương khôi, Bảo Ngọc rũ sạch duyên trần – Đội ơn vua, họ Giả dồi dào hưởng phúc
Chương 120: Chân Sinh ẩn kể rõ cảnh thái hư – Giả Vũ Thôn kết thúc Hồng lầu mộng

Chương 1-2: Bi kịch tình yêu và ý nghĩa tình yêu trong Hồng Lâu Mộng

Câu chuyện tình giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc xuyên suốt qua toàn bộ tác phẩm, làm nên chủ đề chính của cuốn tiểu thuyết vĩ đại này.

Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, hai anh em cô cậu ruột, cùng ở chung một nhà từ bé; lớn lên, vì Bảo Ngọc được bà nội nuông chiều, riêng cho ở trong vườn Đại quan cùng với đám “quần thoa”, nên anh ta và Đại Ngọc gần gũi nhau. Nhưng đây không phải là câu chuyện “lửa gần rơm… ”. Đây cũng không phải chỉ là câu chuyện “tài tử giai nhân là nợ sẵn”. Tình yêu của họ còn có nguyên cớ sâu xa hơn nhiều; họ nói như Saint Exupéry: “Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng”, nghĩa là họ “đồng điệu”, “tri âm” lẫn nhau trên những vấn đề có ý nghĩa cuộc sống.

Nói cho đúng, lúc đầu Bảo Ngọc cũng còn có chút phân vân. Anh ta sống giữa đám a hoàn nhan sắc, những Tập nhân, Tình văn… những người này là những phụ nữ xuất thân từ tầng lớp dưới, được họ Giả mua về hầu hạ, nhưng đó là những người có tình, có phẩm chất tốt đẹp. Họ chính là mót bức màn ngăn bụi trần của phủ Vinh quốc đầy dẫy những hạng đàn ông ô trọc. Bảo Ngọc cảm nhận được thực chất vị tha, quên mình đầy dịu dàng của họ, anh ta như một người được vây bọc bởi sự tận tụy, thương yêu… của những nữ tỳ – đồng thời cũng là “nữ thần” này. Do đó không lạ gì mà Bảo Ngọc đã nêu lên cái “nguyên lý nữ tính” rất xa lạ với tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của xã hội phong kiến: “Xương thịt con gái là nước kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bấn”. Trong phủ Giả lúc đó còn có cô em họ Tiết Bảo Thoa ở nhờ. Bảo Thoa đẹp, đức hạnh, nết na theo đúng nếp nhà phong kiến. Bảo Ngọc cũng mến Bảo Thoa, gần nàng, anh chàng đôi lúc cũng thấy xiêu xiêu, quả có như lời Lâm Đại Ngọc “gần cô chị thì quên khuấy cô em”!

Nhưng rồi dần dần, Bảo Ngọc chỉ yêu có Đại Ngọc thôi. Đại Ngọc kiều diễm, yếu đuối, là một tâm hồn dễ cám xúc, một tâm hồn nhạy cảm và phong phú – đó là một tâm hồn thơ đích thực; và đó là điều mà họ gặp nhau. Quan trọng hơn, là trong khi cả nhà chờ mong Bảo Ngọc học giỏi thi đỗ, làm quan giữ nếp nhà…, thì Bảo Ngọc lại chán ngấy cái con đường mòn nhàm chán đó, và người hiểu anh duy nhất là Đại Ngọc.

Bảo Ngọc, chàng trai được nhốt trong cái lồng kính quý tộc đầy cao lương gấm vóc, anh ta được người ta dùng gia giáo, thi giáo, lễ pháp… để ràng buộc theo con đường vạch sẵn. Giả Bảo Ngọc bị mất tự do, và anh ta cảm thấy sâu sắc điều đó, nên lúc nào anh ta cũng vùng vẫy tìm lối thoát, tìm cách phán kháng lại. Như một con chim khao khát trời xanh rộng lớn bị nhốt vào cái lồng vàng chật hẹp, Giả Bảo Ngọc sống không yên ổn. Anh lục lọi sách vở, đi vào triết học cổ, đi vào “tham thiền ngộ đạo” …nhưng những cái đó không cung cấp được cho anh một vũ khí tư tưởng nào để tự giải phóng! Mà thực ra, thì anh cũng lẩn quẩn, loanh quanh; anh ta là một sản phẩm đầy mâu thuẫn của một xã hội cũng đang chứa đầy mâu thuẫn, một xã hội đang tìm lối ra nhưng không có lối ra. Rốt cuộc, anh ta tỏ thái độ hoài nghi những gì “thánh hiền” đã viết, đã soạn, cho đó là “soạn bậy”, là “bịa”, là “nói tầm bậy”. Đối với đạo đức phong kiến mà cái cao nhất là “tôi trung con hiếu”, “sát thân thành nhân”, anh ta dám nói những lời “cách mệnh”: “Nhũng bọn mày râu dơ bẩn, chỉ biết “quan văn chết vì lời can gián, quan võ chết vì đánh giặc”, là hai cái chết của kẻ đại trượng phu, thành ra chỉ làm rối lên, nào có biết đâu có vua ngu mới có bầy tôi chết vì lời can gián; chỉ lo ra công đánh giặc, liều mình hy sinh, tương lai sẽ bỏ nước cho ai.

Thật là lời lẽ của ké “đại nghịch vô đạo”. Tất nhiên, nói cho công bằng, đó là một đôi ý nghĩ đột xuất của anh chàng này, còn như bình thường, anh ta vẫn phải nép mình trong lồng cũi tuân phục “di huấn thánh nhân”.

Trong hoàn cánh đó, Lâm Đại Ngọc đã đến. Họ đã đến với nhau không dễ dàng. Đại Ngọc vì gia cảnh đến ở nhờ trong phủ họ Giả, tuy là cháu ngoại đấy, nhưng vẫn bị Giá mẫu xem là “người ngoài”: “nữ nhân ngoại tộc”. Cái mặc cảm “ăn bám ở nhờ” luôn luôn làm nàng đau khổ – nàng vốn là người nhiều tự ái là người nhạy cảm, khó hòa hợp với chung quanh và do đó cô đơn. Tình cảnh của nàng còn bi đát hơn Bảo Ngọc nhiều, vì nàng là con gái, là phận ở nhờ, mà trong cái xã hội ghê khiếp ấy, thì nàng chẳng là cái gì cả, nàng chỉ là một cánh bèo dạt, một cánh hoa rơi! Cho nên nàng thương hoa, khóc hoa, chôn hoa, cho nên nàng luôn buồn thương vô hạn. Tâm hồn nàng như một sợi tơ đàn mảnh mai, bất kể một giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều âm vang một điệu buồn đứt ruột! Cái yếu đuối, cái “đa sầu đa cảm” của nàng cũng là một nét tính cách riêng nhưng xuất phát từ những điều kiện của thời đại.

Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc đã đến với nhau như thế và đã đến với nhau rồi, hiểu lòng nhau rồi, họ vẫn sống những ngày tháng không yên. Trong tình yêu này, họ chưa được hưởng bao nhiêu hạnh phúc; chưa nếm mật ngọt tình yêu, họ đã linh cảm thấy mật đắng của đời! Họ luôn luôn bị bủa vây trong trùng điệp của mạng lưới phong kiến. Họ không phải là người quyết định được tình yêu của mình.

Cuối cùng, Giả mẫu và bọn phu nhân trong phu họ Giả đã quyết định! Họ đã chọn Tiết Bảo Thoa cho Bảo Ngọc. Và một khi đã chọn, họ đã nhẫn tâm theo kế “đánh tráo” của Phượng Thự Bảo Ngọc cứ yên trí là “cưới em Lâm”, hóa ra lúc giở khăn che mặt, lại là Bảo Thoa; Bảo Ngọc lúc bấy giờ mới bật ngửa, mà Lâm Đại Ngọc thì sau cơn ốm nặng, đã chết trong niềm đau đớn, oán hận bằng đốt thơ, đốt khăn tặng trong lúc cả nhà mừng đám cưởí của người mình yêu!

Kết thúc tấn bi kịch này, Bảo Ngọc trốn nhà đi tu; và Bảo Thoa làm một người góa phụ trẻ đau khổ..

Chương 1-3: Thi pháp nhân vật hồng lâu mộng

Hồng Lâu Mộng không những đã đưa lại một nội dung mới mang ý nghĩa thời đại; nó còn làm được một việc vĩ đại nữa là đổi mới thi pháp tiểu thuyết Trung Quốc. Lỗ Tấn nói: “Từ khi Hồng Lâu Mộng ra đời, tư tưởng và cách viết truyền thống đã bị phá vỡ”. Tiểu thuyết Trung Quốc trước đây, chủ yếu là tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc, Thủy hử, Tây dụ.. thiên về mô tả hành động, miêu tả hoạt động bên ngoài và lời nói của nhân vật. Con người trong những tiểu thuyết đó, sản phẩm của một nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất phương thức sản xuất châu á, có bề giản đơn, nhất quán trong một tính cách, rạch ròi trung, nịnh đôi đường. Những truyện ngắn “truyền kỳ”, những truyện ngắn trong Liêu Trai đã bắt đầu thấm đẫm màu sắc con người thị dân với những khát vọng nồng nhiệt hơn, phức tạp hơn nhưng vẫn chứa có một thi pháp tiểu thuyết thực sự phản ánh một cách nhìn mới về con người.

Hồng Lâu Mộng đã làm được việc đó. Dĩ nhiên là trong những hạn chế gay gắt của thời đại. Dù cho có những nhân tố tư bản chủ nghĩa, nhân tố kinh tề hàng hóa, thị trường, thành phố, thị dân… xã hội Trung Quốc vẫn là xã hội phong kiến, và cái con người “mới” mà người ta chờ đợi đó đã xuất hiện chưa hoàn chỉnh; thi pháp tiểu thuyết trong Hồng Lâu Mộng đã mang một số nhân tố mới của tiểu thuyết cận đại phương Tây, nhưng nó không thể đi xa hơn nữa. Nó vẫn còn bị giam mình trong cái khung tiểu thuyết chương hồi truyền thống, lấy “kể việc” làm phương tiện chủ yếu khám phá của con người.

Nhưng, xét cho kỹ thì phải ghi nhận những yếu tố mới ở Hồng Lâu Mộng là rất có ý nghĩa.

Trước hết, đó là cách nhìn con người trong sự phát triển đầy mâu thuẫn, sự phát triển biện chứng, có chiều sâu đầy kịch tính.

Số phận và tính cách của Bảo Ngọc đã được tác giả miêu tả không đơn giản. Đó là mâu thuẫn gĩưa khát vọng tự do và sự ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Đó là tình yêu chân thành và quý báu như chính sinh mệnh của anh ta và lạ thay, anh ta hầu như chẳng làm được gì, chẳng chiến đấu dũng manh gì để đoạt lấy hạnh phúc! Mọi việc gần như đã phó mặc! Trước khi chết, Lâm Đại Ngọc oán giận, đau buồn đốt khăn tặng, đốt tập thơ…, không phải là không có lý! Anh ta chưa bao giờ xứng đáng là một trang “tu mi nam tử” có lý tưởng, kiên định! Vấp phải những mâu thuẫn nghiệt ngã của thời đại, anh ta sinh ra đau thần kinh, mắc chứng “ngây”, cứ cười hì hì suốt ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch. Cuối cùng giải pháp “đi tu” – phản ánh sự từ chối, sự phản kháng dầu yếu ớt – đã được anh ta chọn lựa. Đi thi và thi đỗ cao để an ủi gia đình, rồi bó trốn đi tu, Bảo Ngọc đã đi hết sự phát triển tính cách một cách hợp lý và quả là qua số phận anh ta, như một số nhà nghiên cứu nhận định, có sự gởi gắm, có sự thể hiện một phần nào bản thân tác giả. Đó đúng là một số phận tiểu thuyết theo ý nghĩa hiện đại của từ này.

Lâm Đại Ngọc là một tính cách thú vị khác. Nàng yêu Bảo Ngọc, nhưng do thân phận của nàng, mỗi khi Bảo Ngọc ngỏ lời là nàng lại giận hờn, buồn tủi, làm ra vẻ cự tuyệt…

“Bảo Ngọc cười nói:

– Tôi là người nhiều sầu, nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành. 3

Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Bảo Ngọc:

– Anh nói bậy, muốn chết đấy! Dám đem nhũng lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy”. (tập I)

Điều đó làm cho nàng trở nên đáng yêu và tội nghiệp, làm cho nàng trở nên nhiều nữ tính hơn. Không một nét giả dối, nàng là một nhân vật đã hiện ra với chiều sâu tâm lý đa dạng, được bộc lộ qua tình yêu, qua những quan hệ khác. Phút cuối cùng nàng nghe nói Bảo Ngọc sắp lấy vợ, và người được chọn sẽ là người trong phủ, nàng chắc mẫm người đó sẽ là mình, chứa chan hy vọng, và từ đau buồn tuyệt vọng, trong ốm đau, nàng trở lại sống linh hoạt, tươi đẹp… Ai hay đó là phút nàng ở gần sự kết thúc nhất. Những cảnh như vậy làm cho nhân vật thực, gần gũi, phong phú, hấp dẫn… và về mặt soi rọi tâm lý nhân vật, đã đạt đến trình độ của nhân vật tiểu thuyết hiện đại.

Hồng Lâu Mộng có tất cá 235 nhân vật đàn ông, 213 nhân vật dàn bà (một khối lượng nhân vật khổng lồ! – trong Chiến tranh và hòa bình có chừng 500 nhân vật). Làm chủ chừng ấy nhân vật, miêu tả, cá tính hóa họ một cách có hiệu quả là một sáng tạo phi thường.

Trong số đó, nổi bật lên sự mô tả và xây dựng nhân vật Tiết Bảo Thoa. Tiết Bảo Thoa là một tính cách gần như đối nghịch với Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc; chính những nhân vật trong Hồng Lâu Mộng đã phát triển trong sự đối nghịch như vậy, làm cho cuốn tiểu thuyết có nhiều gương mặt, nhiều hợp âm. Tiết Bảo Thoa là một nhân vật phụ nữ lý tính. Nàng còn ít tuổi mà đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả đều đúng mực, hợp lý, lô-gích, nàng là hiện thân của nguyên lý đạo đức phong kiến. Bao giờ nàng cũng là một người con gái sống cho gia đình, sống cho ý định người khác – và ý định đó luôn được nàng chấp nhận vì đó cũng chính là của nàng. Sự hòa hợp giữa nàng và gia pháp phong kiến là điều hoàn toàn tự nguyện. Nàng là người có học, xem nhiều sách, biết làm thơ, nhưng hãy nghe nàng tâm sự (cũng là răn đe Đại Ngọc): “Bọn con gái chúng ta không biết chữ càng tốt… Ngay đến cả việc làm thơ, viết chữ đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải phận sự của bọn con trai nữa. Người con trai đọc sách nhiều phải hiểu nghĩa lý để ra giúp dân trị nước mới đúng… ”(tập III).

Với Bảo Ngọc, một người không yêu nàng, nhưng nàng theo sự sắp đặt của bề trên, lấy Bảo Ngọc không một chút tự ái; nàng làm bổn phận của người vợ, khuyên giải chồng, “lý sự” với chồng: “… chứ bây giờ gặp đến vua thánh, nhà ta mấy đời đội ơn triều đình, cha ông được hưởng biết bao sung sướng… ”(tập IV).

Nếu nói “bản chất” và “bản lĩnh” giai cấp thì quả nàng là hiện thân của giai cấp. Nàng có ác không? Có. Khi con hầu Kim Xuyến nhảy xuống giếng tự tử, Vương phu nhân cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhưng nàng thì không, nàng tươi cười, an ủi đổ lỗi cho Kim Xuyến và nói: “Dì cũng chẳng nên lo lắng buồn bã làm gì, chỉ cần cho vài lạng bạc làm ma cho nó là trọn tình chủ tớ rồi”. Nàng có giả dối không? Có. Nàng đã bày kế “ve sầu lột xác” để đánh lừa bọn con hầu, tránh điều bất lợi cho mình. Bảo Thoa lúc nào cũng tỉnh táo, cũng lắm mẹo! Nhưng nàng có đáng thương không? Nàng ít nhiều cũng yêu Giả Bảo Ngọc mà tự kiềm chế, và cuối cùng, với tất cả sức lực và nghị lực, với tất cả sự chân tình, nàng muốn có hạnh phúc trong cuộc sống phong kiến với Bảo Ngọc, nhưng rốt cuộc nàng cũng trở thành một nhân vật bi kịch. Bi kịch của nàng là bi kịch của một người trung thành với đạo đức phong kiến.

Gần với tính cách của Tiết Bảo Thoa là Vương Hy Phượng. Đó cũng là một nhân vật nữ hết sức đặc sắc nữa. Những nhân vật như thế làm chúng ta nhớ nhiều đến Hoạn Thư của Nguyễn Dụ Đó là sự miêu tả trung thành với bản chất của hiện thực, bản chất của những mối quan hệ phong kiến, đồng thời nó là một sự cá tính hóa hết sức sâu sắc.

Ngoài ra con biết bao nhiêu nhân vật đáng lưu ý nữa trong cái thế giới bao la của Hồng Lâu Mộng. Dường như đó là cả một nhân loại: trong đó có hàng trăm số phận, và mỗi số phận đưa đến cho chúng ta một mảnh đời, một suy nghĩ về nhân thế.

Nhà lý luận tiểu thuyết nổi tiếng Bakhtin có nói rằng nhân vật tiểu thuyết phải có phần “dư thừa nhân tính”. Có nghĩa là nhân vật, ngoài vai trò xã hội (đẳng cấp, nghề nghiệp) phải có cái phần dư thừa nhân tính, cái phần nhu cầu nhân tính, cái phần cá tính tự do mà tấm áo xã hội không chứa đựng hết. Nhân vật của Hồng Lâu Mộng vừa là giai cấp xã hội vừa là những nhân vật mang tính người, tính toàn nhân loại, ở trong họ có cái phần “người” và những nhân vật như vậy bao giờ cũng là một phát hiện, có sức hấp dẫn rất mạnh.

° ° °

Hồng Lâu Mộng là cả một thế giới. Thông qua cuộc sống từ thịnh đến suy của một gia đình quý tộc, tác giả đã làm hiển hiện sự băng hoại của xã hội phong kiến, của nhân tính phong kiến, đã cho ta thấy một xã hội như thế là không phương cứu chữa! Không phải chỉ vì bọn người ấy sống trên áp bức và bóc lột địa tô, mà cái chính là cuộc sống trống rỗng của bọn họ; ngày và đêm trong cái phủ họ Giả ấy chỉ toàn là những chuyện giành giật, lừa gạt, dâm dật, tự tử, tội ác… Một vài khuôn mặt lương thiện – trong đó khá nhiều là thuộc tầng lớp dưới, như già Lưu, như Tập Nhân… không cứu nỗi sự sụp đỗ tất yếu của nó.

Hồng Lâu Mộng đã đưa đến cho người đọc những hiểu biết sâu xa về xã hội và về con người với một cách viết chân thực, giản dị mà bao gồm nhiều bút pháp lớn kim cổ. Nó là một cuốn bách khoa sinh động về xã hội Trung Quốc thời xưa. Về mặt thi pháp nghệ thuật, thì đó là một bước tiến mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của thế giới. Hồng Lâu Mộng xứng đáng đứng ngang với các kiệt tác của nhân loại.

25- 10 – 1988

Mai Quốc Liên.

Tài liệu tham khảo chính

– Lịch Sử Văn học Trung Quốc (Nguyên – Minh – Thanh). Sở nghiên cứu Văn học thuộc Viện Khoa Học Trung Quốc, Bắc Kinh, 1962. Bản dịch Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964.

– Bùi Kỷ; Lời giới thiệu, Hồng lâu mộng tập 1. Nhà xuất bản Văn hóa. Hà Nội, 1962.

– Tào Tuyết Cần dữ Hồng lâu mộng. Hồng lâu mộng, quyển thượng. Thế giới thư cục, Singapore, 1973.

Chương 1-4: Chân Sĩ Ẩn trong mộng ảo biết đá thiêng – Giả Vũ Thôn lúc phong trần mơ người đẹp

Chân Sĩ Ẩn trong mộng ảo biết đá thiêng

Giả Vũ Thôn lúc phong trần mơ người đẹp

Hồi thứ nhất này là hồi mở đầu của cuốn sách 4.

Người làm sách xin nói: “Trải qua quãng đời mộng ảo, nên có ý giấu những việc thực, mượn chuyện “Hòn đá thiêng” mà viết ra bộ Thạch đầu ký này; vì vậy tôi đặt nhân vật của tôi là Chân Sĩ Ẩn… 5. Trong sách chép việc gì? Người nào? Người làm sách lại xin nói: “Nay tôi đã sống cuộc đời gió bụi, không làm nên trò trống gì. Chợt nghĩ đến những người con gái ngày trước cùng sống với tôi, so sánh kỹ lưỡng, thấy sự hiểu biết và việc làm của họ đều hơn tôi. Tôi đường đường là bậc tu mi, lại chịu kém bạn quần thoa, thực rất đáng thẹn! Bây giờ hối cũng vô ích, biết làm thế nào! Tôi nghĩ trước kia được ơn trời, nhờ tổ, mặc đẹp, ăn ngon, mà phụ công nuôi dạy của cha mẹ, trái lời răn bảo của thầy bạn, đến nỗi ngày nay một nghề không thành, nửa đời long đong, nên muốn đem những chuyện đó chép thành một bộ sách bày tỏ với mọi người. Tôi biết rằng mang tội rất nhiều. Nhưng trong khuê các còn biết bao người tài giỏi, tôi không thể nhất thiết mượn cớ ngu dại muốn che giấu lỗi mình, để cho họ bị mai một. Cho nên, đám cỏ lều tranh, giường tre bếp đất, cùng cảnh gió sớm trăng chiều, sân hoa thềm liễu, đều thúc giục tôi thực hiện lòng mong ước dúng bút mực viết ra lời. Dù tôi học ít, hạ bút không viết nên văn, tôi cũng chẳng ngại gì mượn lời nôm na thêu dệt bày tỏ ra đây câu chuyện để mua vui cho mọi người. Vì vậy tôi lại đặt nhân vật là Giả Vũ Thôn 6… “. Đó là đầu đề và ý chính của hồi này. Mở đầu cuốn truyện, thấy câu phong trần mơ người đẹp, chắc ai cũng biết người viết sách vốn chỉ ghi chép những chuyện bạn bè, tình tứ trong khuê các, chứ không có ý chửi đời. Tuy có một vài chỗ nói đến nhân tình thế thái, nhưng đó là bất đắc dĩ, mong độc giả nhớ cho.

Lẵng dẵng trên đời khéo khổ công,

Tiệc tùng rốt cuộc chỉ là không.

Muôn trò mừng tủi đều hư ảo,

Một giấc xưa nay rõ viển vông.

Vạt thắm nào riêng người đẫm lệ,

Tình ngây còn vướng hận ôm lòng.

Xem ra chữ chữ toàn bằng huyết,

Cay đắng mười năm khéo lạ lùng.

Độc giả! Các bạn bảo sách này do đâu mà rả Nói nguồn gốc nó thì dáng như hoang đường; nhưng xem kỹ rất thú vị. Tôi xin kể rõ lai lịch để độc giả khỏi lầm:

Khi xưa Nữ Oa luyện đá vá trời 7 ở đỉnh Vô Kê trên núi Đại Hoang, luyện được ba vạn sáu nghìn năm trăm linh một viên, mỗi viên cao mười hai trượng, vuông hai mươi bốn trượng. Nhưng bà chỉ dùng ba vạn sáu nghìn năm trăm viên, còn thừa một viên bỏ lại ở chân núi Thanh Ngạnh. Ngờ đâu viên đá này từ khi được luyện, đã có linh tính. Nhân thấy những viên đá khác được đem vá trời, còn mình vô tài, bị loại, nó rất tủi hận, ngày đêm kêu khóc buồn rầu.

Một hôm, nó đương than phiền chợt thấy một nhà sư, một đạo sĩ, cốt cách phong độ khác thường, cười cười nói nói, từ đàng xa đi đến bên núi Thanh Ngạnh, rồi ngồi bên hòn đá nói chuyên. Lúc đầu hai người còn nói những chuyện núi mây, bể mù, thần tiên, huyền ảo, sau nói đến vinh hoa phú quý dưới cõi hồng trần. Hòn đá nghe thấy, bất giác động lòng phàm tục, cũng muốn xuống đó hưởng mùi vinh hoa phú quý, nhưng thấy mình thô kệch càng thêm tủi phận. Sau bất đắc dĩ nó mượn tiếng người, cất giọng hỏi:

– Thưa hai sư phụ! Đệ tử là vật ngu xuẩn xin thất lễ! Vừa qua nghe hai vị sư phụ nói chuyện về cảnh phồn hoa dưới trần gian, trong lòng đệ tử rất thầm mến, đệ tử tuy ngu xuẩn, nhưng cũng có chút linh tính. Vả lại thấy hai vị sư phụ có vẻ tiên phong đạo cốt, chắc chắn không phải hạng người tầm thường, nhất định có tài vá trời, cứu thế, có đực xót vật, thương người! Nếu được hai vị sư phụ mở lòng từ bi, mang đệ tử xuống cõi trần cho đệ tử hưởng ít năm giàu sang êm ấm, thì đệ tử xin đời đời kiếp kiếp ghi nhớ ơn sâu.

Nghe xong, hai vị sư, đạo cả cười:

– Khéo thật! Khéo thật! Trong cõi hồng trần đành rằng có nhiều thú vị, nhưng không phải là nơi nương náu lâu dài. Huống chi “Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan” tám chữ này thường đi liền với nhau. Rồi trong chớp mắt, vui hết đến buồn, người thay cảnh đổi, rút cuộc chỉ là giấc mộng, muôn cõi đều trở thành không! Như thế chẳng thà đừng xuống là hơn.

Nhưng lửa trần rực cháy trong lòng, thì dù có nới thế nào cũng khó mà lọt vào tai hòn đá được. Nó cứ kêu nài mãi. Hai vị sư biết không thể ngăn cản nổi, liền thở dài mà rằng:

– Đây cũng là cái số kiếp tinh lắm muốn động, có là từ không mà ra đó thôi! Đã vậy, ta sẽ mang ngươi đi, cho ngươi hưởng thụ, nhưng khi bất như ý thì ngươi đừng hối.

Hòn đá nói:

– Tất nhiên! Tất nhiên!

Nhà sư nói:

– Ngươi bảo ngươi có linh tính nhưng sao lại dại dột ngu ngốc thế? Thật là ngươi chẳng có quý báu, chẳng kỳ lạ Ở chỗ nào cả, chỉ đáng dẫm chân lên thôi. Nhưng thôi, ta sẽ giở hết phép phật, giúp ngươi một taỵ Khi nào mãn kiếp, ngươi trở lại bản chất của mình, thế là kết liễu số phận. Ngươi thấy thế nào?

Hòn đá nghe xong, cảm ơn không ngớt. Nhà sư liền niệm chú viết bùa, dở hết phép thuật, làm cho hòn đá kếch sù ấy phút chốc hóa ra viên ngọc báu trong sáng long lanh, thu hình lại nhỏ bằng viên ngọc đeo dưới dây quạt, có thể cầm hoặc đeo vào người được. Nhà sư nâng lên trên tay, cười nói:

– Coi hình dáng ngươi thì cũng là vật báu đây, chỉ hiềm một nỗi không có giá trị thực; bây giờ ta khắc mấy chữ, để mọi người trông thấy, biết ngay ngươi là vật lạ. Ta sẽ mang ngươi đến một nơi thịnh vượng, một họ dòng dõi, một chốn phồn hoa, giàu sang êm ấm, cho ngươi được an thân lạc nghiệp.

Hòn đá mừng rỡ hỏi:

– Không biết sư phụ viết vào những chữ gì? Và mang đi đâu? Dám xin sư phụ nói rõ để đệ tử khỏi áy náy.

Nhà sư cười nói:

– Ngươi chớ hỏi vội, sau này sẽ biết.

Nói đoạn, nhà sư để hòn đá vào trong tay áo, cùng đạo sĩ phơi phới ra đi, không biết về hướng nào.

Trải qua không biết mấy đời mấy kiếp, có vị Không Không đạo nhân đi cầu tiên học đạo, qua đỉnh Vô Kê núi Đại Hoang, đến chân núi Thanh Ngạnh, chợt trông thấy một hòn đá lớn, trên mặt có khắc chữ kể rõ lai lịch. Không Không đạo nhân xem từ đầu đến cuối, biết rằng nó là một hòn đá không đủ tài vá trời, muốn biến làm người, đã được hai vị Mang Mang đạo sĩ Diều Diều chân nhân đưa nó xuống trần nếm đủ mùi đời lạnh nhạt, tan hợp bi hoan. Mặt sau lại có một bài kệ:

Tài đâu toan những vá trời,

Uổng công đày xuống cõi đời bấy lâu.

Từ kiếp trước đến kiếp sau.

Biết nhờ ai chép mấy câu truyền kỳ?

Sau đó, ghi rõ hòn đá này xuống đâu, đầu thai vào đâu, trải qua đoạn đường thế nào, cả đến những việc vụn vặt trong gia đình, tình từ, thơ tứ trong khuê các, đều chép đủ cả, xem ra cũng có thú vị đỡ buồn, nhưng không biết từ thời đại nào, ở địa phương nào và nước nào?

Không Không đạo nhân liền hỏi:

– Này Thạch huynh, cứ như lời anh nói thì câu chuyện này của anh rất thú vị, nên mới viết rõ vào đây, muốn để lưu truyền việc lạ ấy cho đời. Nhưng ta xem, một là không biết vào thời đại nào, hai là đây không phải việc thiện chính của bậc đại hiền đại trung để sửa sang triều đình, chỉnh đốn phong tục, chẳng qua toàn là chuyện một vài người con gái kỳ quặc, hoặc là người đa tình, hoặc là người si tình, hoặc là người tài năng tầm thường, chứ không có cái tài cái đức của ả Thái, nàng Ban. Giả sử ta có sao lại, sợ người đời không xem thôi.

Hòn đá cười mà rằng:

– Thưa sư phụ, sao người nghĩ lẩn thẩn thế Nếu bảo không có thời đại tra cứu, thì sư phụ cứ việc mượn niên hiệu đời Hán, đời Đường mà viết vào, có khó gì đâu. Nhưng tôi thiết tưởng những chuyện trong dã sử xưa nay đều theo một lối như nhau; sao bằng chuyện của tôi không theo khuôn sáo cũ, chỉ ghi chép những sự việc và tình cảm tôi đã trải qua, mới là mới mẻ ít có! Việc gì phải đòi hỏi cho có triều đại mới được kia chứ! Vả chăng những người tục ở nơi kẻ chợ rất ít đọc sách nói về đạo lý sửa sang triều đình, chỉnh đốn phong tục, phần đông chỉ thích xem những chuyện vụn vặt, lại có thu vị. Gẫm trong dã sử xưa nay, biết bao chuyện dân chê vua quan, hoặc là nói xấu vợ con người ta, đầy rẫy những gian dâm hung ác, kể sao cho xiết; lại còn những ngòi bút chỉ viết về chuyện gió trăng dâm dục xấu xa, di hại trong văn mặc, làm hư hỏng cả con em người tạ Đến những sách nói về giai nhân tài tử, thì nghìn bộ đều tìl~o một khuôn sáo, đầy rẫy nhưng Phan An, Tử Kiến, Tây Tử, Vân Quân, đã thế rút cục vẫn không khỏi sa vào phù phiếm. Người làm sách chẳng qua muốn viết vài bài thơ tình của mình, nên đã cố ý đặt ra một đôi trai gái, rồi xen một thằng tiểu nhân vào quấy rối, ví như vai hề trong tấn tuồng. Lại có những bọn tòi đòi, mở miệng là chi hồ giả dã, hết đạo lý đến văn chương, cho nên nếu xem từ đầu đến cuối thì toàn là những việc mâu thuẫn nhau chẳng có gì là hợp tình hợp lý hết. Sao bằng mấy người con gái này mà nữa quảng đời tôi đã trông thấy, nghe thấy, tuy không dám ví với những người trong các sách thuở xưa, nhưng xem đầu đuôi câu chuyện, cũng có thể đỡ buồn. Lại có mấy bài thơ nhảm nhí, cũng có thể làm cho người đọc cười bật cơm ra và nhân vui uống thêm mấy ly rượu. Còn như những cảnh hợp tan vui buồn, thịnh suy và những cảnh ngộ thay đổi, từ đầu đến cuối đều theo sát sự thực không thêm bớt tô vẽ chút nào, không vì chiều lòng người đọc mà xuyên tạc sự thực. Hiện giờ người nghèo thì ngày lo cơm áo; kẻ giàu lại nảy lòng tham khôn cùng, rỗi mụt chút là họ nghĩ ngay đến dâm dục, sắc đẹp, giàu sang, sầu não, còn hơi nào đọc sách nữa. Vì vậy cuốn truyện của tôi cũng không muốn được đời khen ngợi và mọi người thích đọc. Chỉ mong khi tỉnh rượn, lúc tàn canh, hoặc khi họ muốn trốn đời, tìm đường tiêu khiển, họ đem truyện tôi ra xem, có lẽ tôi sẽ giúp họ đừng đeo đuổi những việc hão huyền cho tốn tuổi thọ, như thế tức là tránh được miệng thế khen chê, khỏi phải chạy vạy đây đó. Hơn nữa nó cũng khiến người đời đổi tầm con mắt, chứ không như những quyển sách này những lời sáo ngữ cũ rích gán ghép bừa bãi, nói toàn chuyện vụt gặp vụt tan, đầy rẫy nào là những tài nhân, thục nữ, nào là Tử Kiến, Văn Quân, Hồng Nương, Tiểu Ngọc…, ý sư phụ nghĩ thế nào?

Không Không đạo nhân nghe vậy, ngẫm nghĩ một lúc, rồi xem lại truyện “Thạch Đầu Ký” một lần nữa. Nhận thấy ở đây tuy cũng có những lời vạch kẻ gian, chê người nịnh, mắng người ác, diệt kẻ tà nhưng không có ý mỉa mai thời thế. Đến như những việc vua nhân, tôi trung, cha hiền, con hiếu, tức là tất cả nhưng chỗ quan hệ đến luân thường, thì đều một mực ca ngợi công đức, thực không có sách nào sánh kịp. Trong đó, chủ ý tuy nói về tình, nhưng chẳng qua là chép việc thực, chứ không một chút bịa đặt như những sách thiên về dâm tình hò hẹn, thề thốt riêng tây. Đạo nhân thấy nó không dính dáng đến thời thế, mới chép từ đầu đến cuối để truyền câu chuyện kỳ lạ này cho mọi người. Vì đạo nhân thấy “sắc” là do “không” mà ra, rồi “tình” lại do “sắc” mà có, “tình” biểu hiện qua “sắc” rồi lại từ “sắc” trở về “không” 8 cho nên đổi tên mình là Tình Tăng, đổi tên Thạch đầu ký là Tình Tăng lục. Khổng Mai Khê ở Đông Lỗ đề là Phong nguyệt báo giám 9.

Sau Tào Tuyết Cần mười năm đọc bộ sách này ở trong hiện Điệu hồng, thêm bớt năm lần, xếp thành mục lục, chia ra từng chương từng hồi, lại đề là Kim lăng thập nhị hoa, và đề một bài thơ:

Đầy trang những chuyện hoang đường,

Tràn tít nước mắt bao nhượng chua cay.

Đừng cho chỉ giả là ngây,

Ai hay ý vị chỉ đầy ở trong?

Nguồn gốc truyện Thạch đầu ký đã nói rõ rồi, bây giờ xem trên mặt hòn đá, chép những việc gì?

Trên mặt hòn đá chép: khi ấy đất thủng về phía đông nam 10, phía ấy là đất Cô Tô, có thành Xương Môn là chỗ ở của các nhà phú quý phong lưu vào bực bậc nhất nhì trên đời. Ngoài cửa Xương Môn có đất Thập Lý, trong phố có ngõ Nhân Thanh, trong ngõ có tòa miếu cổ, vì địa thế chật hẹp, người ta đều gọi là “miếu Hồ Lô”. Cạnh miếu có một nhà hương hoạn 11 họ Chân tên Phí, tên chữ là Sĩ Ẩn, vợ họ Phong tính tình hiền hậu, hiểu biết lễ nghĩa. Nhà này không giàu sang lắm, nhưng người ở trong vùng vẫn cho là một họ có danh vọng, Chân Sĩ Ẩn tính tình điềm đạm, không thích công danh, hàng ngày chỉ lấy ngắm hoa, trồng cúc, uống rượu ngâm thơ làm vui; nhưng hiềm một nỗi là tuổi đã năm mươi mà chưa có con trai, chỉ cớ mỗi một mụn gái tên là Anh Liên mới lên ba tuổi.

Một hôm giữa lúc mùa hạ ngày dài, Sĩ Ẩn ngôi rỗi trong thư phòng, mỏi tay buông sách, ngủ gục xuống ghế. Trong khi mơ màng, thấy mình đi đến một chỗ không biết địa phương nào. Chợt gặp một nhà sư, một đạo sĩ, vừa đi vừa nói chuyện.

Đạo sĩ hỏi:

– Ông mang vật xuẩn ngốc ấy đi đâu?

Nhà sư cười:

– Ông cứ yên tâm. Hiện giờ có một cái án phong lưu cần phải chấm dứt. Nhân dịp có một bọn oan gia phong lưu sắp sửa đầu thai xuống trần, tôi bỏ nó vào đây để nó hóa kiếp làm người.

– Thế ra sẽ có bọn oan gia phong lưu đổi kiếp xuống trần. Nhưng không biết xuống đâu?

– Việc này nói ra thì buồn cười lắm. Thật là câu chuyện nghìn xưa ít thấy. Chỉ vì bên bờ sông Linh Bà ở Tây phương, bên cạnh hòn đá Tam Sinh 12 có một cây Giáng Châu được Thần Anh 13 làm chức chầu chực ở cung Xích Hà ngày ngày lấy nước cam lộ tưới bón cho nó mới tươi tốt sống lâu. Đã hấp thụ tinh hoa của trời đất, lại được nước cam lộ chăm bón, cây Giáng Châu thoát được hình cây, hóa thành hình người, tu luyện thành người con gái, suốt ngày rong chơi ngoài cõi trời Ly Hận 14 đói thì ăn quả “Mật Thanh” 15 khát thì uống nước bể “quán sầu” 16.

Chỉ vì chưa trả được ơn bón tưới, cho nên trong lòng nó vẫn mắc míu, khi nào cũng cảm thấy như còn vương một mối tình gì đây. Gần đây, Thần Anh bị lửa trần rực cháy trong lòng, nhân gặp trời đất thái bình thịnh vượng muốn xuống cõi trần để qua kiếp “ảo duyên”, nên đã đến trước mặt vị tiên Cảnh ảo ghi sổ. Cảnh ảo liền hỏi đến mối tình bón tưới, biết chưa trả xong, muốn nhân đó để kết liễu câu chuyện. Nàng Giáng Châu nói: “Chàng ra ơn mưa móc mà ta không có nước để trả lại. Chàng đã xuống trần làm người, ta cũng phải đi theo. Ta lấy hết nước mắt của đời ta để trả lại chàng, như thế mới trang trải xong!”. Vì thế dẫn ra bao nhiêu oan gia phong lưu đều phải xuống trần, để kết liễu án đó.

– Việc này lạ thật! Xưa nay chưa từng nghe thấy chuyện trả nợ bằng nước mắt bao giờ. Nghĩ lại chuyện này thật phiền phức, tế nhị hơn các chuyện trăng gió trước kia nhiều.

– Xưa nay những nhân vật phong lưu chẳng qua chỉ để lại một chút gì rất ít với một số thơ từ mà thôi. Còn những chuyện ăn uống trong gia đình, trong khuê các thì không bao giờ ghi chép đầy đủ; hơn nữa, những chuyện gió trăng, phần nhiều chỉ là “trộm hương cắp ngọc, hò hẹn riêng tây” mà thôi, chưa hề nói đến chân tình của người con gái. Tưởng lũ người này xuống trần, thì những bọn si tình, hám sắc, hiền ngu bất tiếu ở đây, khác hẳn các truyện trước để lại.

– Gặp dịp này, sao chúng ta không xuống trần siêu độ cho mấy kẻ ấy, chẳng phải là một việc công đức hay sao?

– Điều ông nói chính hợp ý tôi, chúng ta hãy đem vật xuẩn ngốc này đến cung vị tiên Cảnh ảo để giao dứt khoát. Chờ cho bọn quỷ nghiệt phong lưu xuống trần hết đã, tôi với ông hãy xuống. Bây giờ chúng mới xuống có một nửa thôi, và tất cả vẫn chưa nhóm họp lại.

– Đã thế tôi sẽ cúng đi theo ông.

Chân Sĩ Ẩn nghe rõ ràng câu chuyện không biết “vật xuẩn ngốc” là gì, bèn đến chào hỏi:

– Xin kính chào hai vị.

Hai vị tăng, đạo đáp lễ lại.

Sĩ ân lại nói:

– Vừa rồi đệ tử được hai vị nói chuyện nhân quả, một chuyện mà người trần ít khi được nghe. Đệ tử ngu dốt, không hiểu thấu mấy; nếu được hai vị dạy bảo, mở lòng ngu muội, đệ tử xin lắng nghe, được cảnh tỉnh đôi chút, họa may có thể thoát khỏi nỗi khổ trầm luân chăng.

Hai vị cười:

– Đó là cơ trời, không thể tiết lộ được. Cứ đến lúc đó mà không quên hai chúng ta, thì người có thể thoát khỏi hố lửa 17.

Sĩ Ẩn nghe thế, không tiện hỏi lại, nhân cười nói:

– Tuy cơ trời không thể tiết lộ, nhưng vừa rồi các vị nói “cái vật xuẩn ngốc” ấy, đệ tử không biết là cái gì, có thể xem được không?

Nhà sư nói:

– Nhà ngươi nhắc đến vật ấy, thế là có duyên gặp nó đấy!

Nói đoạn, đem hòn đá ra cho Sĩ An xem.

Sĩ Ẩn cầm xem, một hòn ngọc sáng đẹp, mặt trên khắc rõ bốn chữ: Thông linh bảo ngọc. Mặt sau có mấy hàng chữ nhỏ. Sĩ Ẩn đương muốn xem kỹ, thì nhà sư bảo ngay: “Đã đến ảo Cảnh rồi” và giật ngay lấy hòn đá, cùng đạo sĩ đến một tòa nhà bia lớn, trước mặt có đề bốn chữ: Thái hư ảo cảnh; hai bên lại có đôi câu đối:

Giả bảo là chân, chân cũng giả,

Không làm ra có, có rồi không.

Sĩ Ẩn đang muốn cất bước đi theo, chợt một tiếng sét dữ dội như núi lở đất sụp. Sĩ Ẩn kêu lên một tiếng, mở choàng mắt ra, chỉ thấy trời nắng chang chang, rặng chuối phơ phất, những việc trong mộng đã quên mất một nửa. Lại thấy vú già ẵm Anh Liên đến. Nhìn đứa con gái mặt mày tươi đẹp, ngoan ngoãn đáng mừng. Sĩ Ẩn giơ tay bế vào lòng, đùa với nó một lúc rồi ẵm ra ngoài phố xem người qua lại nhộn nhịp. Khi sắp đi về thấy một nhà sư, một đạo sĩ đi lại. Nhà sư đầu chốc, đi đất, đạo sĩ chân khiễng, tóc bù đang cười cười nói nói, như dại như điên. Đến trước cửa, trông thấy Sĩ Ẩn ẵm Anh Liên, nhà sư khóc to lên:

– Thí chủ! Con bé này có mệnh không có vận, làm lụy đến cha mẹ, thí chủ ẵm nó làm gì?

Sĩ Ẩn nghe nói, cho là rồ dại không thêm chấp. Nhà sư thấy thế lại nói:

– Thí chủ cho tôi cho! Thí chủ cho tôi cho!.

Sĩ Ẩn khó chịu, ẵm ngay con toan quay vào nhà. Nhà sư trỏ vào Sĩ Ẩn cười ồ lên, rồi đọc ngay bốn câu:

Chú ngốc nuông con khéo nực cười,

Gương lăng 18 luống để tuyết pha phôi,

Nguyên tiêu 19 đêm ấy coi chừng đấy,

Lửa khói tan tành sắp tới nơi.

Sĩ Ẩn nghe nói, trong lòng do dự, muốn đến hỏi lai lịch, thì đạo sĩ đã bảo vị sư:

– Chúng ta không cần cùng đi một đường, hãy tạm chia tay, mỗi người mỗi việc. Ba kiếp sau, tôi chờ ông ở núi Bắc Mang, chúng ta sẽ lại họp mặt, rồi đến Thái Hư Cảnh Ao xóa sổ để kết thúc chuyện này.

Nhà sư nói:

– Hay lắm! Hay lắm!

Nói xong, thoáng một cái, hai ngươi mất hút, không thấy đâu nữa. Sĩ Ẩn nghĩ bụng: “Hai người này tất có lai lịch, đáng lẽ ta nên hỏi rõ mới phải, bây giờ ăn năn cũng muộn rồi”.

Sĩ Ẩn đương lúc vẩn vơ suy nghĩ, chợt trông thấy một nhà nho nghèo, ở trọ trong miếu Hồ Lô, bên cạnh nhà mình, họ Giả tên Hóa, tên chữ là Thời Phi, biệt hiệu Vũ Thôn, đi đến. Giả Vũ Thôn người Hồ Châu, vốn dòng thi thư thế hoạn, nhưng vì sinh vào lúc cảnh nhà sa sút, của hết người hiếm, chỉ còn trơ trọi một mình. Ở nhà cũng vô ích, Vũ Thôn lên kinh mong lập công danh, dựng lại cơ nghiệp. Hắn đến đây tự năm ngoái, nhưng vì túng thiếu nên đành ở tạm trong miếu, hàng ngày bán chữ viết văn để sống, bởi thế Sĩ Ẩn thường cùng hắn đi lại chơi bời.

Vũ Thôn trông thấy Sĩ Ẩn, vội vàng chào hỏi:

– Tiên sinh đứng ngóng gì đấy, chắc ngoài phố có cái gì mới lạ?

Si ẩn cười đáp:

– Chẳng có gì, chỉ vì cháu khóc, tôi mang nó ra đây. Đúng lúc buồn, lại gặp tôn huynh đến, xin mời vào chơi, chúng ta nói chuyện tiêu khiển cho hết quãng ngày dài dằng dặc này.

Sĩ Ẩn sai người ẵm con đi, rồi dắt tay Vũ Thôn vào thư phòng, gọi tiểu đồng pha trả.

Hai người vừa mới nói chuyện được dăm ba câu thì có người nhà vào báo:

– Có cụ Nghiêm tới chơi.

Sĩ Ẩn vội vàng đứng dậy cáo lỗi:

– Xin tôn huynh thứ lỗi, hãy tạm ngồi chơi, tôi đi ra rồi sẽ trở lại ngay.

Vũ Thôn cũng đứng dậy, khiêm tốn nói:

– Xin tiên sinh cứ tự tiện, tôi đến chơi luôn, có chờ một phút cũng chẳng sao.

Nói xong Sĩ An đi ra.

Vũ Thôn ngồi buồn, giở sách ra xem, chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng người con gái họ Vũ Thôn đứng dậy nhìn ra, thấy một a hoàn đương hái hoa, dáng điệu thanh nhã, mặt mày tươi tắn, tuy không đẹp lắm, nhưng có một vài nét làm người ta xiêu lòng. Vũ Thôn bất giác đứng ngây người ra. A hoàn hái hoa xong, sắp đi, bỗng ngẩng đầu lên trông thấy có người đứng trong cửa sổ, áo cũ khăn rách, tuy có vẻ nghèo, nhưng lưng tròn, vai rộng, mặt to, miệng vuông, lông mày sắc; đôi mắt sáng, mũi thẳng, má nở. Nó vội quay mình lánh đi, nghĩ bụng: “Ngươi này dáng điệu oai vệ sao lại ăn mặc lam lũ như vậy? Có lẽ là ông Giả Vũ Thôn mà chủ ta thường nhắc đến chăng? Chủ ta vẫn có ý muốn giúp đỡ ông ta, nhưng chưa có dịp. Những khách quen nhà ta không có ai nghèo túng cả. Nhất định là hắn, chứ chẳng còn ai. Thảo nào chủ ta thường nói ông này không phải là người chịu khổ mãi”. Nghĩ thế, tự nhiên nó lại quay đầu lại nhìn. Vũ Thôn thấy a hoàn ngoảnh lại, cho là nàng có ý với mình, vui mừng khôn xiết, nghĩ bụng: “Người con gái này có mắt tinh đời, quả là người tri kỷ trong lúc phong trần”.

Một lúc tiểu đồng đi vào, Vũ Thôn mới biết ngoài nhà giữ khách lại ăn cơm. Hắn không chờ được, bèn theo đường bên cạnh đi ra. Sĩ Ẩn thết khách xong, biết Vũ Thôn đã về rồi, cũng không tiện cho đi mời nữa.

Một hôm vào tiết Trung Thu, ăn tiệc xong, Sĩ Ẩn sai dọn một tiệc nữa ở thư phòng, rồi tự mình dưới bóng trăng đến miếu mời Vũ Thôn.

Từ ngày Vũ Thôn thấy a hoàn nhà họ Chân nhìn mình mấy lần, cho lâ tri kỷ, nên lúc nào cũng mơ tưởng đến. Nhân gặp tiết Trung thu, ngắm trăng nhớ đến người, Vũ Thôn ngâm một bài thơ ngũ ngôn:

Ba sinh chưa thỏa nguyện,

Tấc dạ những thêm sầu.

Buồn quá hay ủ mặt,

Đi qua thường ngoái đầu.

Trước gió riêng nhìn bóng,

Dưới trăng ai bạn bầu?

Chị Nguyệt hay chăng tá?

Mời lên chốn ngọc lâu.

Vũ Thôn ngâm xong, nghĩ mình bình sinh có chí khí lớn, nhưng chưa gặp thời, liền ngửa mặt lên trời, gãi đầu than thở, ngâm to một câu:

Ngọc giấu đáy hòm chờ giá bán

Thoa nằm trong hộp đợi thời bay.

Sĩ Ẩn đi đến, nghe thấy, cười nói:

– Tôn huynh thực có chí khí hơn người?

Vũ Thôn vội cười đáp:

– Không dám! Chợt ngâm câu thơ cổ, cớ đâu dám ngông cuồng đến thế! Và hỏi lại:

– Tiên sinh cao hứng gì mà đến đây?

Sĩ Ẩn cười nói:

– Đêm nay tiết Trung thu, tục thường gọi tiết đoan viên. Nghĩ đến tôn huynh trọ Ở chốn tăng phòng, có lẽ cũng hiu quạnh, cho nên tôi có bày riêng một tiệc mời tôn huynh sang bên nhà thưởng trăng, không biết tôn huynh có chiếu cố cho không

Vũ Thôn nhận lời ngay, cười nói:

– Được, tiên sinh quá yêu, tiểu đệ đâu dám trái ý.

Vũ Thôn liền theo Sĩ Ẩn về thư phòng.

Hai người uống nước trà xong. Một chốc, tiệc bày ra, rượu ngon, thức nhắm tốt, không cần phải nói. Hai người lúc đầu còn uống thong thả, sau dần trò chuyện cao hứng, thi nhau chuốc chén. Bấy giờ ngoài phố nhà nào nhà nấy đàn sáo ca hát. Vừng trăng vằng vặc, sáng tỏ giữa trời. Hai người càng hào hứng, rót đến đâu cạn đến đấy. Vũ Thôn lúc này đã ngà ngà say, không giữ nổi cuồng hứng, trông trăng ngụ ý ngâm một bài:

Đêm rằm gặp buổi đoàn loan,

Sáng trong, dõi khắp lan can phía ngoài.

Vừng trăng vừa ló trên trời.

Dưới trần ngửa mặt muôn người ngắm trông.

Sĩ Ẩn nghe rồi nói to:

– Hay lắm! Tôi thường nói tôn huynh không phải là người tầm thường. Nay ngâm câu này, tất phải có triệu chứng bay nhảy, chả mấy ngày nữa sẽ nhẹ bước thang mây. Đáng mừng! Đáng mừng!

Rồi tự tay rót một chân rượu chúc mừng. Vũ Thôn uống cạn, than rằng:

– Không phải vãn sinh say rượu nói ngông đâu. Về lối học khoa cử, vãn sinh cũng có thể dự tên trên bảng. Chỉ vì hiện nay thiếu tiền lộ phi, không xoay vào đâu được. Đường vào kinh thì xa, nếu chỉ nhờ vào tiền bán chữ, viết văn, không thể đủ được?

Sĩ Ẩn không đợi nói hết, ngắt lời ngay:

– Sao tôn huynh không nói trước? Tôi vẫn có ý ấy, không thấy tôn huynh nói đến, nên tôi không dám đường đột. Tôi tuy bất tài cũng có thể hiểu được hai chữ nghĩa và lợi. Sang năm có khoa thi, tôn huynh nên lên kinh thi ngaỵ Một khi bảng xuân cao chiếm, mới khỏi phụ tài học của mình. Còn tiền lộ phí, tôi xin thu xếp hộ, không dám làm phụ lòng tin yêu của huynh đối với tôi

Liền sai tiểu đồng vào lấy năm mươi lạng bạc và hai bộ quần áo rét ra, đưa cho Vũ Thôn. Sĩ Ẩn lại nói:

– Ngày 19 là ngày hoàng đạo, tôn huynh nên đáp thuyền đi ngaỵ Chờ khi cánh hồng bay bổng, mùa đông năm sau chúng ta sẽ lại gặp nhau, há không phải là một việc rất vui sướng hay sao?

Vũ Thôn liền nhận tiền và áo, chỉ cám ơn một lời, rồi cứ uống rượu, cười nói tự nhiên, đến canh ba mới tan tiệc.

Sĩ Ẩn tiễn Vũ Thôn về rồi vào buồng ngủ một mạch, khi mặt trời lên ba con sào mới dậy. Nhân nghĩ việc đêm qua, Sĩ Ẩn muốn viết hai bức thư, gởi cho người quen làm ở Kinh, tiến cử Vũ Thôn, để Vũ Thôn có chỗ nương thân. Liền cho người đến nhà mời Vũ Thôn, người nhà vừa đi đã về ngay nói:

– Hòa thượng ở đó bảo ông Giả đã đi kinh từ canh năm và có lời thưa với cụ rằng: người đọc sách không cần ngày “hoàng đạo” hay “hắc đạo” chỉ cần được việc thôi, nên đi không kịp từ biệt.

Sĩ Ẩn nghe nói, cũng thôi không nghĩ đến nữa.

Tháng ngày thấm thoắt, đã đến tiết nguyên tiêu. Sĩ Ẩn sai người nhà là Hoắc Khải ẵm Anh Liên đi xem hội hoa đăng. Đến nửa đêm, Hoắc Khải đặt Anh Liên ngồi ở ngoài cứa một mình rồi đi tiểu. Khi quay lại, không thấy Anh Liên đâu, Hoắc Khải hốt hoảng đi tìm suốt đêm, sợ không dám về báo cho chủ biết liền trốn đi nơi khác.

Sáng hôm sau, vợ chồng Sĩ Ẩn không thấy con về, biết rằng có chuyện không hay xảy ra, liền sai người đi tìm các ngả, tuyệt nhiên không thấy tung tích. Vợ chồng Sĩ Ẩn nửa đời người mới có mụn con gái, bây giờ lạc mất, buồn rầu biết là chừng nào! Vì thế ngày đêm than khóc, dở chết dở sống. Một tháng sau vì thương nhớ con Sĩ Ẩn bị Ốm, vợ là họ Phong cũng ốm, ngày ngày thuốc thang bói toán.

Đến rằm tháng ba, trong miếu Hồ Lô bày cỗ cúng Phật, hòa thượng không cẩn thận để chảo dầu bốc cháy lan ra giấy dán cửa sổ. Các nhà ở vùng ấy đều giậu tre vách ván, dường như đó cũng là số kiếp phải chịu, nên cứ nhà nọ cháy sang nhà kia, cả phố bốc lên như núi lửa. Bấy giờ tuy có quân dân đến chửa, nhưng lửa đã cháy to, không sao cứu được! Cháy suốt một đêm mới tắt, bao nhiêu nhà đều hóa ra trọ Đáng thương nhất lả nhà họ Chân ở ngay liền miếu, chỉ còn trơ lại một đống ngói gạch vụn. May sao hai vợ chồng và người nhà không ai việc gì. Sĩ Ẩn dậm chân thở dài, bàn với vợ về trại ở. Nhưng lại gặp mất năm mất múa, trộm cướp như ong, tranh ruộng cướp đất, dân khổ trăm chiều. Vì vậy quan quân đến nã bắt luôn, khó bề yên thân được. Sĩ Ẩn phải bán trang trại, đem vợ và hai người đầy tớ gái về ở với bố vợ là Phong Túc, một người làm ruộng, nhưng là hạng giàu có ở châu Đại Nhự Thấy con rể bối rối đến ở nhờ, Phong Túc trong bụng khó chịu. Sĩ Ẩn may còn có số tiền, liền bỏ ra nhờ bố vợ mua hộ nhà đất để làm kế sinh nhai. Phong Túc vừa mua vừa ăn bớt, chỉ còn được một ít nhà nát ruộng xấu. Sĩ Ẩn lại là nhà nho, không quen việc cày cấy, gượng gạo qua một vài năm, vốn liếng hết sạch. Phong Túc trước mặt rể thì nói năm ba câu sáo, nhưng khi gặp người khác thì lại nói xấu rể chỉ quen ăn biếng làm. Sĩ Ẩn biết thế, trong lòng rất hối hận, nghĩ đến tai biến năm trước, vừa tức vừa giận, lại thêm ấp ủ mối thương tâm. Một người gần đến tuổi già như Sĩ Ẩn, chịu sao nổi cảnh đau ốm vã nghèo khổ giày vò, dần dần càng ngày càng cảm thấy quang cảnh tiêu điều. Một hôm, Sĩ Ẩn chống gậy ra phố chơi cho đỡ buồn, chợt thấy một vị đạo sĩ khiễng chân, giầy gai áo rách, ngông cuồng phóng túng, tập tễnh đi đến, miệng đọc mấy câu:

Người đời đều cho thần tiên hay,

Mà chuyện công danh lại vẫn say!

Xưa nay tướng soái nơi nào đây,

Một dãy mồ hoang cỏ mọc đầy!

Người đời đều cho thần tiên hay.

Những hám vàng bạc lòng không khuây!

Suốt ngày những mong chứa cho đầy,

Đến lúc dầy rồi nhắm mắt ngay!

Người đời đều cho thần tiên hay!

Nhưng thích vợ đẹp lòng không khuây!

Lúc sống ái ân kể suốt ngày,

Lúc chết liền bỏ theo người ngay!

Người đời đều cho thần tiên hay!

Muốn đông con cháu lòng không khuây!

Xưa nay cha mẹ thực khờ thay,

Con hiền cháu thảo ai thấy đây!!

Sĩ Ẩn nghe thấy, lại ngay trước mặt hỏi:

– Người đọc những câu gì mà chỉ nghe thấy “hảo liễu” “hảo liễu” thôi.

Đạo sĩ cười đáp:

– Nếu đã nghe thấy hai chữ “hảo” và “liễu” thì cũng đáng khen cho ngươi là sáng suốt. Phải biết muôn việc ở đời “hảo” tức là “liễu”, “liễu” tức là “hảo” nếu không “liễu” thì không “hảo”, mà muốn “hảo” thì phải “liễư”. Vì thế bài hát này ta gọi là bài “hảo liễu ca” 20.

Sĩ Ẩn vốn người thông minh, nghe nói thế, trong bụng tỉnh ngộ ngay, liền cười nói:

– Hãy thong thả! Để tôi giải nghĩa bài “háo liễu ca”, người nghĩ thế nào?

Đạo sĩ cười bảo:

– Nhà ngươi cứ giải nghĩa đi.

Sĩ Ẩn đọc luôn:

Giờ đây lều cỏ vắng tanh,

Trước kia trâm hốt sắp quanh đầy giường!

Giờ đây cây cỏ ngổn ngang,

Trước kia vũ tạ ca trường là đây,

Xà chạm kia nhện giăng đầy.

Màn the nay rũ cạnh ngay cửa bồng.

Xưa sao phấn đượm hương nồng.

Mà nay sương nhuộm như bông trên đầu?

Bãi tha ma có xa đâu,

Là nơi màn thắm là lầu uyên ương.

Hôm kia đầy những bạc vàng.

Phút đâu hành khất bên đường là ai?

Những tham số phận của người,

Biết đâu mình đã sa nơi vũng lầy?

Trai thời dạy những điều hay,

Ngờ đâu trộm cướp sau này xấu xa.

Gái thời kén cửa chọn nhà,

Ngờ đâu nhắm chỗ yên hoa rơi vào!

Mũ the chê nhỏ hay sao,

Để gông cùm phải vương vào đáng lo.

Trước manh áo rách co ro,

Mảnh bào giờ khoác lại cho là dài.

Ầm ầm trên chốn vũ đài,

Người kia vừa xuống thì người này lên.

Thực là dại dại điên điên,

Quê ai mà nhận là miền làng ta.

Quay đầu giờ mới tỉnh ra,

May quần áo cưới đều là vì ai!

Đạo sĩ khiễng chân nghe xong, vỗ tay cười nói:

– Giải nghĩa rất đúng! Giải nghĩa rất đúng!

Sĩ Ẩn nói:

– Chúng ta đi thôi.

Rồi đỡ ngay cái nải trên vai đạo sĩ, đeo lên lưng, cùng với đạo sĩ ra đi vùn vụt, không về nhà nữa.

Tin ấy đồn ầm ngoài phố, người nọ nói với người kia cho là chuyện lạ. Họ Phong nghe vậy, khóc ngất đi nhiều lần, rồi bàn với bố cho người đi tìm các nơi, nhưng nào thấy tung tích! Không làm thế nào được, họ Phong đành ở nương nhờ bố mẹ cho qua ngày. May sao có hai a hoàn theo hầu bên mình, ba thầy trò ngày đêm khâu vá lấy tiền giúp thêm bố mẹ. Phong Túc hàng ngày cứ nói ra nói vào, nhưng không làm thế nào được

Một hôm, a hoàn nhà họ Chân ra ngoài cửa mua chỉ, nghe thấy đường phố có tiếng quát tháo. Mọi người đều nói: “Quan mới đã đến!” A hoàn nấp trong cửa, thấy quân lính hàng đôi đi trước, một cỗ kiệu lớn rước một vị mặc áo mũ đại trào theo sau. A hoàn giật mình nghĩ bụng: “Ông quan này trông quen quen, hình như mình đã gặp ở đâu rồi?” Rồi nó vào nhà, cũng không nghĩ đến nữa. Đến tối, lúc sắp đi nghỉ, chợt có tiếng gò cửa, nhiều người nói ồn ào: “Người nhà của quan huyện đến hỏi có việc!” Phong Túc nghe thấy sợ tái người, không biết cớ tai vạ gì.

— —— —— —— ——-

1      Theo thống kê có đến 900 loại.

2      tự Lan Thự, tác giả 40 hồi sau Hồng Lâu Mộng và Lan Thu thi sao, Lan Thự văn tồn, Nghiễn hương từ… tự Vân Sĩ, biệt hiệu Hồng Lâu ngoại sĩ (Hồng Lâu Mộng vốn tên Thạch đầu ký. Có lẽ Cao Ngạc là người đặt tên nó là Hồng Lâu Mộng). Làm quan dưới triều Kiền Long, Gia Khánh, trải các chức Nội các thị tộc, Hình khoa cấp sự trung, Nhập tịch Mãn Thanh (Kỳ quán “nhương hoàng” – màu vàng pha).

3      Dùng chữ trong Tây sương ký.

4      Hồi này có thể chia làm 2 phần. Phần thứ nhất bắt đầu từ câu: “Người làm sách xin nói” đến câu “Ai hay thú vị chứa đầy ở trong”, nói tóm tắt nguyên uỷ nội dung của cuốn truyện và dụng ý của tác giả. Thí dụ Chân Sĩ Ẩn, Giả Vũ Thôn… đều là báo trước những điều sẽ nói ở hồi hai. Đây là một lối văn ký thác, ẩn ẩn hiện hiện, thực thực hư hư, một nghệ thuật đặc biệt, khác với các tiểu thuyết diễn nghĩa; còn phần thứ hai mới bắt đầu vào chính truyện.

5      Chân Sĩ Ẩn và Chân Sự Ấn (dịch nghĩa là “giấu những sự thực”) theo âm Trung Quốc đọc giống nhau. Tác giả có ý dùng ba chữ Chân Sĩ Ẩn đặt tên cho nhân vật đầu tiên trong truyện để nói nội dung toàn bộ cuốn truyện là giấu sự thật đi mà nói như là một chuyện chiêm bao.

6      Nguyên văn chữ Trung Quốc “Giả ngữ thôn ngôn”. Chữ “giả ngữ thôn” đọc cũng giống như “Giã Vũ Thôn”.

7      Truyện thần thoại: Trước kia trời chưa kín hẳn, họ Nữ Oa luyện đá năm sắc lên vá trời.

8      Theo thuyết nhà Phật, phàm cái gì giác quan không cảm thấy được thì gọi là “không”, cái gì giác quan cảm được thì gọi là “sắc”.

9      Gương báu để coi việc gió trăng, tức là việc tình duyên, gương soi để khuyên răn người đời.

10      Theo Thần thoại Trung Quốc từ lúc mới có trời đất, trời nghiêng về phía tây bắc, đất trũng về phía đông nam.

11      Thân hào trong làng.

12      Đường thư chép: nhà sư Viên Quan gặp Lý Nguyên, trỏ viên đá ở Tam Giáo: “Đây là chỗ thác sinh của ta, 12 năm sau, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây”. Đến đêm, Viên Quan chết, 12 năm sau, Lý Nguyên lại đến chỗ cũ, gặp một mục đồng, tức là Viên Quan. Về sau người ta dùng điển này để chỉ cuộc tình duyên của một đôi trai gái, phải trải qua kiếp khác, có khi phải trải qua ba kiếp, vì thế gọi là tam sinh.

13      Hòn đá thiêng.

14      Cõi đời đáng oán giận vì phải chia lìa nhau.

15      Quả chứa những tình riêng bí mật.

16      Nước để tưới sự buồn.

17      Theo thuyết nhà Phật, ba ác đạo: địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ gọi là hố lửa.

18      Lăng hoa kính. một thứ gương quý ớ lẩu trang, cũng dùng để ví người đàn bà đẹp. Chữ lăng ở đây còn ẩn giấu một sấm ngữ, vi Anh Liên về sau bị 

Bàn Tiết cướp lấy làm tiểu thiếp, đổi tên là Hương Lăng.

19      Ngày rằm tháng giêng, còn gọi là tiết hoa đăng.

20      Bài hát này trong nguyên văn, chữ cuối trong câu thứ nhất đều là chữ “hảo” là tốt, chữ cuối cùng của các câu thứ hai và thứ tư đều là “liễư” là hết, cho nên gọi là “hảo liễu ca”.

Chương 2: Giả phu nhân tạ thế ở thành Dương Châu – Lãnh Tử Hưng kể chuyện trong phủ Vinh Quốc

Giả phu nhân tạ thế ở thành Dương Châu

Lãnh Tử Hưng kể chuyện trong phủ Vinh Quốc

Phong Túc nghe thấy tên công sai gọi, vội vàng chạy ra cười. Tên kia nói to:

“Mời ngay ông Chân ra đây!”.

Phong Túc cười nói

– Tôi họ Phong chứ không phải họ Chân; chỉ có rể tôi là họ Chân, nhưng đã đi tu vài năm nay rồi. Có phải ông hỏi nó không?

Tên công sai nói:

– Chẳng biết anh là chân hay giả gì hết. Tôi đã vâng lệnh quan đến đây hỏi anh, tôi cứ dẫn anh về hầu quan, khỏi phải đi lại lôi thôi.

Chúng không cho Phong Túc nói, cứ dẫn đi, cả nhà họ Phong sợ hãi không biết việc gì. Đến canh hai Phong Túc mới về vui mừng hớn hở. Mọi người xúm lại hỏi. Phong Túc nói:

– Quan mới này họ Giả tên Hóa, người Hồ Châu, là bạn cũ của rể ta. Vừa đây đi qua cửa nhà ta, trông thấy con Kiều Hạnh mua chỉ, quan đoán con rể ta dời đến ở đây, nên gọi lại hỏi. Ta kể rõ đầu đuôi, quan thương cảm thở dài một lúc lâu, lại hỏi đến cháu ngoại ta, ta nói cháu đi xem hội bị lạc mất. Quan nói: “Việc ấy không ngại, ta sẽ sai người đi dò xét cho”. Nói chuyện một lúc, khi sắp về, quan lại cho hai lạng bạc.

Vợ Chân Sĩ Ẩn nghe vậy, càng động lòng thương xót.

Sáng sớm hôm sau, Vũ Thôn sai người mang hai gói bạc, bốn tấm gấm đến tạ Ơn vợ họ Chân. Lại đưa một phong thư kín cho Phong Túc, nhờ nói với vợ họ Chân xin cưới Kiều Hạnh làm vợ hai. Phong Túc cười mừng hớn hở, chỉ sợ không được vừa lòng quan, nên trước mặt con gái hết sức nói hùn vào. Rồi ngay đêm ấy Phong Túc thuê một chiếc kiệu nhỏ đưa Kiều Hạnh vào dinh quan huyện. Vũ Thôn vui mừng lắm, đưa trăm lạng bạc tặng Phong Túc, lại biếu vợ họ Chân nhiều lễ vật, khuyên cứ yên tâm, chờ sau này sẽ tìm con gái giúp.

Nói đến Kiều Hạnh là người năm trước đã ngoảnh lại nhìn Giả Vũ Thôn, chỉ vì một cái nhìn ngẫu nhiên mà thành ra một đoạn kỳ duyên, đó là một việc không ngờ. May sao vận và mệnh đều tốt, về với Vũ Thôn mới có một năm, Kiều Hạnh đã sinh được một con trai. Lại nữa năm sau, vợ cả Vũ Thôn ốm chết, Vũ Thôn đưa nàng lên làm chính thất, đó là:

Ngẫu nhiên nhìn một cái,

Mà được ở trên người.

Nguyên năm trước Vũ Thôn được Sĩ Ẩn giúp tiền, ngày mười sáu vào kinh. Đến ngày thi không ngờ đỗ tiến sĩ, được bổ làm tri phủ. Vũ Thôn tuy tài giỏi, nhưng tính tham tàn, lại cậy tài khinh nhờn người trên, bọn đồng liêu đều ghét. Nhận chức chưa đầy hai năm, Vũ Thôn bị quan trên lừa chỗ hớ, dâng sớ hặc hắn: “Vốn tính gian giảo, giả dạng lễ nghi, mượn tiếng liêm chính, ngấm ngầm giao kết với lũ hồ lang, gây ra nhiều chuyện rắc rối cho nhân dân không sao chịu nổi”. Vua giận cách chức. Vũ Thôn tuy trong lòng hổ thẹn, nhưng ngoài mặt vẫn không có tí gì tỏ ra oán giận, vẫn vui vẻ như thường. Sau khi bàn giao xong, Vũ Thôn nhặt nhạnh của cải, đưa gia quyến về quê rồi một mình đi ngao du những nơi danh thắng. Một hôm ngẫu nhiên đến đất Duy Dương, Vũ Thôn được biết quan Diêm Chính mới bổ đến năm nay là Lâm Như Hải.

Lâm Như Hải, họ Lâm, tên Hải, tên chữ Như Hải, là người Cô Tô, đỗ Thám hoa khoa trước, được thăng chức Lan đài tự đại phu, nay bổ đến đây làm Tuần diêm ngự sử mới hơn tháng nay. Ông tổ nhà Lâm Như Hải từng tập tước hầu, đến Như Hải là năm đời. Theo lệ tập tước thì chỉ có ba đời, nhưng bố Như Hải được vua đặc cách ra ơn, cho tập tước thêm một đời nữa. Như Hải thì do khoa cử xuất thân, Họ Lâm tuy là nhà chung đỉnh, nhưng cũng dòng dõi thi thư. Chỉ tiếc họ hàng không thịnh vượng, con cháu hiếm hoi, tuy có mấy ngành nhưng đều là họ xa, không phải anh em ruột thịt. Như Hải đã bốn mươi tuổi, có một con trai lên ba, mới chết năm ngoái. Dẫu có nhiều vợ lẽ nàng hầu, nhưng số hiếm hoi cũng chẳng làm thế nào được. Chỉ có vợ cả là họ Giả sinh được một con gái tên gọi Đại Ngọc, mới lên năm. Vợ chồng nưng niu con như hòn ngọc trên tay. Thấy con thông minh tuấn tú. Như Hải cho đi học như con trai, sớm tối đỡ hiu quạnh.

Nói về Giả Vũ Thôn ở nhà trọ bị cảm gần một tháng trời mới khỏi. Vừa mệt vừa hết tiền, hắn định tìm một chỗ ở tạm nào hợp với sức khỏe. Nhân gặp hai người bạn cũng ở nhà trọ, biết quan Diêm Chính muốn đón thầy dạy con gái học, Vũ Thôn liền nhờ bạn tiến cử, tìm kế yên thân. May sao ở đó chỉ có một cô học trò và hai a hoàn làm bạn học. Cô học trò này vừa bé lại vừa yếu, thời giờ không hạn định nhiều ít, vì thế Vũ Thôn rỗi lắm.

Thấm thoát đã hơn một tháng, không ngờ mẹ cô học trò là Giả phu nhân ốm chết. Khi mẹ Ốm thì cô hầu hạ thuốc thang, khi mẹ mất thì cô giữ đủ mọi tang lễ. Vũ Thôn định thôi dạy đi tìm việt khác, nhưng Như Hải muốn con cư tang vẫn đi học, nên cố giữ lại. Gần đây vì quá thương xót, lại vốn người yếu sẵn, nên bệnh của cô lại phát, phải nghỉ học luôn, Vũ Thôn ngồi rỗi, gặp những lúc trời chiều êm ả, ăn xong lại ra ngoài chơi.

Một hôm, Vũ Thôn ra ngoài thành thưởng ngoạn phong cảnh thôn quê, vui chân đi đến một chỗ non nước quanh co, rừng trúc xanh tốt, lờ mờ thấy đằng xa có một tòa cổ miếu. Vũ Thôn đến đó thì thấy cửa ngõ xiêu vẹo, tường vách đổ nát, có biển đề Trí Thông Tụ. Cạnh cửa lại có đôi câu đối đã cũ nát:

Sau mình còn chỗ, không lùi bước,

Trước mắt cùng đường, muốn ngoảnh đầu.

Vũ Thôn xem xong, nghĩ rằng: “Hai câu này văn thì thường thôi, như ý sâu sắc. Xưa nay ta đi chơi nhiều núi nhiều chùa có tiếng, chưa từng thấy câu đối nào thế này. Chưa biết chừng trong đó có vị tu hành đắc đạo cũng nên. Sao ta không vào hỏi xem?” Khi vào, thấy một vị sư già lọm khọm đang nấu cháo, Vũ Thôn cũng không để ý đến. Lúc nói chuyện thấy vị sư vừa lòa vừa điếc, răng rụng, lưỡi cứng, hỏi một đằng, trả lời một nẻo.

Vũ Thôn chán ngán, trở ra, muốn tìm một hàng rượu uống mấy ché cho đỡ buồn. Hắn vừa bước vào cửa, thấy trong đám khách có một người chạy ra cười và mời vào:

– Lạ thật! Lạ thật! Sao lại gặp tiên sinh ở đây?

Vũ Thôn vội nhìn, thì ra người này buôn đồ cổ ở Kinh đô, họ Lãnh, tên Tử Hưng, đã quen nhau từ khi ở kinh đô. Vũ Thôn thì phục Tử Hưng là tay có tài tháo vát, Tử Hưng thì muốn mượn tiếng Vũ Thôn là người văn nho, vì thế hai người chơi thân với nhau.

Vũ Thôn vội hỏi:

– Ông đến đây bao giờ? Tôi không biết, ngẫu nhiên lại gặp thực là kỳ duyên!

Tử Hưng đáp:

– Tôi về nhà năm ngoái, nhân có việc vào kinh, tiện đường đến đây thăm một người bạn. Ông ta có lòng tốt, lưu tôi lại ở chơi, tôi không có việc gì gấp, nên cũng ở lại ít ngày, độ nửa tháng nữa sẽ lên đường. Hôm nay vì nhà ông bạn có việc, nên tôi ra đây chơi, định vào nghỉ chân, không ngờ lại gặp tiên sinh!

Nói xong mời Giả Vũ Thôn ngồi. Tử Hưng bảo dọn rượn, hai người uống rượu nói chuyện, kể lại những việc từ ngày xa nhau. Vũ Thôn nhân hỏi:

– Gần đây kinh đô có gì lại không

– Cũng không có gì lạ, chỉ có nhà dòng họ với tiên sinh có một chuyện hơi lạ.

Vũ Thôn cười:

– Họ tôi không có ai ở kinh đô cả, sao lại nói thế?

Tử Hưng cười:

– Cùng họ thôi, không phải cùng ngành.

– Nhà nào?

– Như phủ Giả Vinh Quốc có lẽ cũng không làm mất thanh danh nhà tiên sinh!

– Phủ Vinh Quốc công à? Cứ kể ra, họ nhà tôi cũng không ít người, từ Giả Phục đời Đông Hán đến giờ, chi phái rất đông, tỉnh nào cũng có, không ai tra khảo hết được. Kể ra phủ Vinh thì có cùng họ với tôi đấy, nhưng nhà ấy vinh hiển như thế, tôi không tiện nhận họ, nên ngày càng xa.

Tử Hưng thở dài:

– Tiên sinh đừng nói thế. Hiện nay hai nhà Vinh, Ninh đều suy sút cả, không còn thịnh vượng như trước nữa.

– Hiện giờ hai nhà Ninh, Vinh người rất nhiều, sao bảo là suy sút?

– Chính thế, nói ra thì rất dài.

– Năm ngoái tôi đến Kim Lăng, vì muốn thăm di tích Lục Triều 1. Khi tôi đến thành Thạch Đầu, có đi qua hai nhà ấy. Con đường bắc lộ bên đông là phủ Ninh Quốc, bên tây là phủ Vinh Quốc, hai nhà liền nhau, chiếm quá nửa phố. Ngoài cửa chính tuy vắng vẻ không có người, nhưng nhìn qua tường, thấy trong đó điện đài lầu gác rất là nguy nga; ngay cái vườn hoa đằng sau, cây cối núi non vẫn sầm uất tươi tết, đâu phải là nhà suy sút?

Tử Hưng cười nói:

– Không ngờ tiên sinh đỗ tiến sĩ, mà lại chẳng thông tí nào! Cổ nhân đã nói: “con sâu trăm nhân, chết vẫn không ngã”. Hai nhà này tuy không phồn thịnh bằng lúc trước, nhưng so với những nhà sĩ hoạn bình thường vẫn còn khác xa. Hiện giờ người nhiều, công việc bề bộn. Thế mà từ thầy đến tớ, chỉ biết hưởng thụ phú quý, không người nào lo tính công việc. Đến nỗi hàng ngày phung phí cũng không biết tinh giảm; bề ngoài xem ra không thấy có gì thay đổi, nhưng bề trong thực trống rỗng cả rồi. Đó là việc nhỏ, còn có việc lớn nữa: một nhà phú quý dòng dõi thi thư như thế mà ai ngờ con cháu lại càng ngày càng suy sút!

Vũ Thôn nói:

– Những nhà thi lễ như thế, có lẽ nào lại không biết dạy bảo con cháu? Nhà khác thì tôi không biết, chứ hai phủ Ninh, phủ Vinh, xưa nay dạy con vẫn có khuôn phép lắm kia mà?

Tử Hưng thở dài:

– Tôi sẽ nói cho tiên sinh biết. Trước đây Ninh quốc công và Vinh quốc công là hai anh em ruột. Ninh công là trưởng, đẻ hai con trai; khi Ninh công chết, con trai lớn là Giả Đại Hóa tập tước Đại Hóa đẻ được hai con: con lớn là Giả Phu, lên tám, chín tuổi thì chết; con thứ là Giả Kính tập tước. Giả Kính một niềm mộ đạo, chỉ thích luyện đan, không để ý đến một việc gì. May sớm đẻ được con trai là Giả Trân, vì bố thích đi tu tiên nên nhường cho con tập tước. Ông ta không ở nhà, mà ra ở ngoài thành, sống chung lộn với bọn đạo sĩ. Giả Trân đẻ được một con trai là Giả Dung, nay mới mười sáu tuổi. Bây giờ Giả Kính thì không nhìn gì đến việc nhà, Giả Trân thì chẳng chịu học hành, chỉ chơi bời cho thỏa thích, làm đảo lộn cả cơ nghiệp phủ Ninh, không ai dám ngăn cản cả. Còn như phủ Vinh, vừa rồi tôi nói có việc lạ, tức là từ khi Vinh công chết, con trưởng là Giả Đại Thiện tập tước, vợ Đại Thiện là họ Sử, con một tước hầu ở Kim Lăng, đẻ được hai con trai

trưởng là Giả Xá, thứ là Giả Chính. Giả Đại Thiện chết sớm, còn vợ, con trưởng là Giả Xá được tập tước. Con thứ là Giả Chính, tứ bé ham học, được ông yêu, muốn cháu thi đỗ làm quan. Không ngờ lúc Đại Thiện sắp chết, di biểu dâng lên, Hoàng thượng thương nhớ người bầy tôi cũ, liền cho con trưởng tập tước. Hoàng thượng lại hỏi còn mấy con cho vào chầu ngay, rồi đặc cách cho Giả Chính hàm chủ sự vào bộ tập sự. Nay Giả Chính đã được thăng Viên ngoại lang. Vợ Giả Chính là Vương thị, đẻ con đầu lòng là Giả Châu, mười bốn tuổi đỗ tú tài, lấy vợ sinh con, nhưng chưa đến hai mươi tuổi thì ốm chết. Con thứ hai là gái, đẻ đúng ngày mồng một tháng giêng, cũng là một sự lạ. Mấy năm sau lại đẻ một vị công tử. Chuyện này lại càng lạ nữa: khi lọt lòng, trong miệng cậu ta ngậm một hòn ngọc ngũ sắc, trên hòn ngọc có ghi nhiều chữ, nên mới đặt tên là Bảo Ngọc. Tiên sinh bảo chuyện ấy có lạ không?

Vũ Thôn cười:

– Như thế thì lạ thực! Người này chắc có một lai lịch khác thường!

Tử Hưng cười nhạt:

– Hàng vạn người đều nói như thế, vì vậy bà nội nó yêu quý nó như hòn ngọc báu. Khi đầy năm, Giả Chính muốn thử chí hướng con về sau thế nào, mới đem những đồ chơi bày ra trước mặt để xem nó quờ lấy cái gì. Ngờ đâu nó chẳng lấy cái gì, mà chỉ quờ lấy phấn sáp, trâm vòng. Giả Chính không vui, bảo sau này chỉ là đồ tửu sắc, vì thế không yêu quý lắm. Duy có bà Sử Thái quân thì coi nó như là bản mệnh mình. Nói lại càng lạ: Ngày nay nó đã lên bảy, lên tám, tính khí ngang ngược lạ thường, nhưng lại thông minh gấp trăm người khác. Nhắc lại câu nói hồi nhỏ của nó thật là kỳ quặc! Nó nói: “Xương thịt của con gái là nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn vậy”. Tiên sinh bảo có buồn cười không? Chắc sau này cậu ta sẽ là con quỷ hiếu sắc.

Vũ Thôn nghiêm nét mặt ngắt lời:

– Không phải thế đâu! Đáng tiếc là các vị không biết lai lịch cậu bé ấy. Cũng như ông Giả Chính đã coi nhầm cậu ta là quỷ hiếu sắc! Nếu không phải là những bậc đọc sách hiểu biết nhiều dày công cách vật trí tri, đủ sức tham huyền ngộ đạo 2, thì không thể biết được.

Tử Hưng thấy Vũ Thôn nói một cách trịnh trọng, vội xin cho biết vì lẽ gì.

Vũ Thôn nói:

– Trời đất sinh ra người, trừ những người đại nhân, đại ác không kể, còn thì sàn sàn như nhau. Những bực đại nhân thì theo vận mà sinh, những kẻ đại ác theo kiếp 3 mà sinh. Theo vận mà sinh thì đời trị, theo kiếp mà sinh thì đời loạn. Như các vị Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Chu, Thiệu, Khổng, Mạnh, Đổng, Hàn, Chu, Trình, Trương, Chu 4 đều theo vận mà sinh, Bọn Xuy Vưu, Cung Công, Kiệt, Trụ, Thủy Hoàng, Vương Mãng, Tào Tháo, Hoàn Ôn, An Lộc Sơn, Tần Cối 5 đều đúng kiếp mà sinh. Đại nhân thì làm sao cho thiên hạ bình trị. Đại ác thì làm cho thiên hạ nhiễu loạn. Người nhân thì bẩm thụ chính khí trong sáng thiêng liêng; người ác thì bẩm thụ những tà khí tàn nhẫn ngang ngược. Bây giờ đang lúc hưng thịnh thái bình, trên từ triều đình, dưới đến đồng nội, hết thảy đều chịu cái chính khí trong sáng thiêng liêng. Những khí còn thừa lại tản mát không biết về đâu, mới biến ra thành cam lộ, hòa phong, tràn khắp trong bốn bể. Còn những tà khí kia không thể lan tràn dưới ánh sáng mặt trời được, liền tụ kết lại ở trong ngòi sâu, hang rộng, ngẫu nhiên gặp gió lay, mây cuốn, thì cũng dao động, cảm phát ra ít nhiều, một dây nửa sợi tung ra, lại gặp ngay linh khí đi qua, thành ra chính không dung được tà, tà lại ghen với chính, không bên nào chịu bên nào, như gió nước sấm sét gặp nhau trên mặt đất. Đã không tiêu diệt được nhau, lại không chịu nhường nhau, tất phải xung đột mãnh liệt. Khi đã phát tiết ra, các tà khí ấy tất phải bám vào người. Nếu ai bẩm thụ khí ấy mà sinh ra, dù trai hay gái, trên không làm được bậc chân nhân quân tử, mà dưới cũng không làm nổi hạng đại hung đại ác. Đem hạng người đó đặt vào trong ngàn vạn người, thì khí thông minh tuấn tú sẽ ở trên ngàn vạn người, mà cái lối bướng bỉnh càn rỡ cũng lại ở dưới ngàn vạn người. Nếu sinh vào nhà công hầu phú quý, thì là hạng người tình si tình chủng; sinh vào nhà thi thư thanh bạch thì là dật sĩ cao nhân; dù có sinh vào những nhà hèn hạ thì cũng là đào kép danh tiếng, chứ không đến nỗi làm tôi đòi cam chịu sai khiến. Trước kia như Hứa Do, Đào Tiềm, Nguyễn Tịch, Kê Khang, Lưu Linh, họ Vương, họ Tạ, Cố Hổ Đầu, Trần Hậu Chủ, Đường Minh Hoàng, Tống Huy Tông, Lưu Đình Chi, Ôn Phi Khanh, Thạch Mạn Khanh, Mễ Nam Cung, Liễu Kỳ lanh, Tần Thiếu Du; gần đây như: Nghê Vân Lâm, Đường Bá Hổ, Chúc Chi Sơn; lại như: Lý Qúy Niên, Hoàng Phiên Xước, Kính Tân Ma, Trác Văn Quân, Hồng Phất, Tiết Đào, Thôi Oanh Oanh, Triều Vân 6. Tuy địa vị họ khác nhau nhưng cũng giống nhau cả.

– Cứ như tiên sinh nói thì chả hóa ra được làm vua, thua làm giặc hay sao?

– Đúng thế. Tôi từ khi bị cách chức đến giờ, hai năm đi chơi các tỉnh, đã từng gặp hai đứa trẻ dị dạng. Vì thế ông vừa nói đến câu chuyện Bảo Ngọc, tôi liền đoán chắc cậu bé này cũng là hạng người kể vừa trên. Không cần nói xa, chỉ cần nói ngay nhà họ Chân, làm chức Tổng giám đốc viện Thể nhân ở Kim Lăng thôi. Ông có biết không?

– Ai mà chả biết! Nhà họ Chân và nhà họ Giả là họ hàng với nhau, đời đời đi lại rất thân mật, ngay tôi cũng thường ra vào nhà ấy.

– Năm ngoái tôi ở Kim Lăng, có người đánh mối cho tôi đến dạy học ở nhà họ Chân. Tôi đến đó xem quang cảnh ra sao, không ngờ nhà ấy là nhà phú quý mà lại biết giữ lễ nghĩa, ít có một chỗ dạy học nào được như thế. Tên học trò ấy tuy mới vỡ lòng, nhưng khó hơn là dạy người lớn để đi thi. Nói ra thật đáng buồn cười, tên học trò bé con ấy thế nói này: “Phải có hai bạn gái bé cùng học với tôi, tôi mới nhận được chữ, hiểu được nghĩa; nếu không thì bụng tôi cứ mờ đặc đi”. Nó lại thường nói với bọn người nhà: “Hai chữ “nữ nhi” đối với tôi rất tôn quý, rất trong sạch, không gì sánh kịp, hơn cả phật Di Đà và Ngọc Đế. Các người là hạng thối mồm thối miệng, chớ có nông nổi coi thường hai chữ ấy. Khi nào cần nói đến phải lấy nước chế thơm súc miệng kỹ đã rồi mới được nói; nếu mà nói bậy, sẽ bị bẻ răng khoét mắt”. Lúc thường thì nó ngỗ nghịch trâng tráo, bướng bỉnh, ngốc nghếch là thường; nhưng khi gặp mấy bạn gái, nó lại ôn hòa văn nhã, láu lỉnh thành một con người khác hẳn. Bố nó nhiều lần đánh rất đau mà nó vẫn không chữa. Mỗi lần bị đánh đau không chịu được, nó gọi ầm lên “chị em ơi”. Bọn con gái nghe thấy thế, cười hỏi: “Tại làm sao khi bị đòn cứ gọi “chị em” ra làm gì? Hay là muốn gọi chị em ra xin hộ? Như thế có đáng xấu hổ không?” Nó trả lời một câu rất kỳ: “Lúc đau quá, tôi nghĩ bụng thử kêu “chị em”, họa may đỡ chăng, quả nhiên khi kêu lên thì thấy đỡ. Vì thế, tôi tìm ra được phép mầu nhiệm: Mỗi khi bị đánh là tôi cứ thế kêu lên. Tôn huynh nghe chuyện này có đáng buồn cười không? Vì bà quá nuông cháu, thường lam rầy rà mà quở mắng người con, nên tôi không ở đấy nữa mà đến dạy học ở nhà họ Lâm, làm Tuần diêm ngự sử tại đây. Những hạng con em ấy tất không giữ được cơ nghiệp ông cha. Không theo được lời dạy dỗ của thầy bạn. Chỉ đáng tiếc là nhà ấy có mấy chị em gái thì lại khôn ngoan ít có!

Tử Hưng nói:

– Thôi đúng như mấy chị em nhà họ Giả rồi. Tiểu thư lớn nhất của Giả Hình là Nguyên Xuân, có tài đức hiền hiếu, được tuyển vào cung làm nữ Sử, tiểu thư thứ hai là Nghênh Xuân, con vợ lẽ Giả Xá. Tiểu thư thứ ba là Thám Xuân, con vợ lẽ Giả Chính. Tiểu thư thứ tư là Tích Xuân, em ruột Giả Trân ở bên phủ Ninh. Vì Giả mẫu rất yêu cháu gái, nên đều cho ở chung với bà và cùng học chung với nhau. Nghe ra đều là hạng khá cả.

Vũ Thôn nói:

– Nhà họ Chân thì lại hay nữa, tên con gái cũng đặt như con trai, chứ không như các nhà khác thường dùng những chữ đẹp như “Xuân” “Hồng” “Hương” “Ngọc”. Sao nhà họ Giả lại còn theo cái lối cũ ấy?

Tử Hưng nói:

– Không phải thế. Chỉ vì cô lớn sinh ngày mồng một tháng iêng nên đặt là Nguyên Xuân, nên các cô sau cũng đặt theo chữ “Xuân”. Còn hàng trên thì con gái cũng đặt tên theo như con trai. Này nhé 7: vợ Ông chủ nhà họ Lâm mà tiên sinh ngồi dạy học là em ruột Giả Xá và Giả Chính bên phủ Vinh, khi chưa lấy chồng đặt tên là Giả Mẫn. Nếu tiên sinh không tin, cứ về hỏi kỹ lại xem.

Vũ Thôn vỗ tay cười:

– Phải rồi! Cô học trò của tôi, khi đọc sách đến chữ Mẫn thì nó đọc là Mật, mà viết chữ Mẫn thì bớt vài nét, bấy lâu tôi vẫn ngờ ngợ. Nay nghe ông nói mới vỡ lẽ. Thảo nào cô học trò này ngôn ngữ, cử chỉ khác hẳn những con gái nhà khác. Chắc người mẹ không phải tầm thường mới sinh được con như thế. Nay biết là cháu ngoại phủ Vinh thì chẳng có gì làm lạ. Tiếc rằng tháng trước người mẹ mất rối!

Tử Hưng thở dài:

– Trong mấy chị em nhà ấy: Giả Mẫn là út cũng lại chết mất! Chị em hàng trên thế là không còn ai, chỉ trông vào lớp con cháu, sau này may có lấy được chồng khá không?

– Phải đấy. Vừa rồi ông nói, Giả Chính có một người con trai khi đẻ ngậm ngọc, lại có một người cháu bé của con trưởng để lại; thế thì Giả Xá không có con hay sao?

– Giả Chính đã có người con trai ngậm ngọc, nàng hầu lại sinh thêm một người con trai nữa, nhưng chưa biết hay dở thế nào. Chỉ biết hiện giờ có hai con một cháu, không biết sao này ra sao. Giả Xá thì cũng có hai con. Con cả là Giả Liễn quyên được chức Đồng tri, nhưng không ham học hành, chỉ thích mưu toan xoay sở, ăn nói lại thạo, nên sang trông nom đỡ việc cho nhà chú là Giả Chính. Từ khi hắn lấy vợ, trên dưới ai cũng khen ngợi chị vợ. Chị ta vẻ người rất phong nhã, ăn nói rất linh lợi, tâm cơ lại rất kín đáo, sâu sắc, bọn đàn ông không mấy người bì kịp.

Vũ Thôn nghe xong cười:

– Thế mới biết tôi nói không nhầm. Mấy người mà chúng ta nói đây có lẽ là bẩm thụ cả hai thứ chính khí và tà khí hỗn hợp nhau mà sinh ra chăng? Họ là những người một hội một thuyền cũng chưa biết chừng.

– Chính cũng kệ! Tà cũng kệ! Chỉ nói chuyện người mãi, tiên sinh hãy uống rượu đã cho vui.

– Có nói chuyện mới uống được nhiều rượu.

Tử Hưng cười:

– Nói chuyện phiếm của người càng thêm hào hứng, thì uống mấy chén nữa cũng chẳng sao!

Vũ Thôn trông ra ngoài cửa sổ nói:

– Trời muộn rồi, sắp đóng cửa thành, chúng ta vào thành rồi nói chuyện cũng được.

Hai người đứng dậy trả tiền rượu. Lúc sắp về, chợt nghe đằng sau có người gọi:

– Anh Vũ Thôn! Tôi đem tin mừng lại đây. Anh lại nơi thôn quê này làm gì?

— —— —— —— ——-

1      Lục Triều: Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề. Lương, Trần. Sáu triều đều đóng đô ở Kiến Khang, tức là Nam Kinh cửa Trung Quốc.

2      Chữ trong sách Đại học: “trí tri tại cách vật”: muốn đưa trình độ hiểu 

biết đến bực cao siêu phải suy xét đến nơi đến chốn mọi lý lẽ của sự vật. Tham huyền: dò sâu vào chỗ huyền bí. Ngộ đạo: hiểu thấu đạo mẩu nhiệm.

3      Vận và kiếp theo thuyết thuật số có nghĩa khác nhau. Vận chỉ thời vận tốt, kiếp chỉ kiếp hạn xấu.

4      Vua Nghiêu nhà Đường, Vua Thuấn nhà Ngụ Vua Vũ nhà Hạ, Vua Thang nhà Thương, Vua Văn vua Vũ nhà Chu, Chu Công Đán, Thiệu Công Thích đều là con Văn Vương, có công lớn với nhà Chụ Khổng Tử, Mạnh Tử là bậc thánh hiền của nho học.

Đổng Trọng Thư đỗ bác sĩ đời Hán Vũ Đế, có tài chính trị, suốt ba năm buông màn đọc sách, không nhìn ra ngoài.

Hàn Dũ là một nhà văn nổi tiếng đời Đường, tính thẳng,có làm bộ Hắn Xương lê toàn tập.

Chu Đôn Di: Tên chữ là Liêm Khê, là Mậu Thúc. Ông là thủy tổ nền lý học nhà Tống, có làm quyển Thái cực đồ thuyết và Thông thư, thầy học của hai ông Trình Di, Trình Hạo.

Trình Hạo: Tên chữ Bá Thuần, đỗ tiến sĩ đời Thần Tông nhà Tống, học rộng, có làm bộ sách Định tính, người ta gọi là Minh Đạo tiên sinh.

Trình Di: Em ruột Trình Hao, tính thành thực, thấu hiểu mọi sự vật. Có làm truyện giải thích Kinh Dịch và kinh Xuân Thụ Người ta gọi là Y Xuyên tiên sinh.

Trương Tái: Tên chữ là Tử Hậu, bạn học của hai ông Trình Di và Trình Hao. Có làm ra Trương sử toàn thư mười bốn quyển như Đông Tây Minh, Chính Mông, Kinh Học, Lý Quật…

Chu Hy: Tên chữ là Nguyên Hối, đỗ tiến sĩ đời nhà Tống. Học hiểu thấu mọi sự vật rồi sau quay vào thực tiễn. Nền lý học đời nhà Tống đến ông này mới thực hoàn toàn. Người ta tôn là Khảo đình học phái.

5      Xuy Vưu là chư hầu của vua Hoàng Đế, chế ra đao nỏ, đi quấy rối thiên hạ, Vua Hoàng Đế đánh hắn ớ Trác Lộc, hắn thua, hóa ra đám mù, vua Hoàng Đế chế ra xe chỉ nam. Xuy Vưu bị giết chết.

Cung Công là quan tri thủy đời vua Nghiêu, trễ biếng công việc, bị đày ra U Châu.

Cùng thời với hắn có: Hoan Đâu, Tam Miêu, Cổn, người ta gọi là Tứ hung.

Hoàn Ôn: Người đời Tấn, khi mới đẻ, người ra nghe thấy tiếng khóc, cho là vật lạ. Sau lấy Nam Khang công chúa, đánh giặc được nhiều trận, phong là Nam quán công, uy thế lừng lẫy, lấn cả quyền vua, có ý phản dân phản nước. Hắn thường nói: “Con trai không để được tiếng thơm cho đời, cũng nên để tiếng xấu cho đời sau”.

An Lộc Sơn được vua Đường Minh Hoàng tin dùng làm đến chức Tiết độ sứ. Thường đi lại với Dương Qúy phi, xin làm con nuôi, sau làm phản, tự xưng là Hùng Võ hoàng đế nhà Yên, rồi bị con là Khánh Tự giết chết.

Tần Cối tính tàn nhẫn, hiểm ác, nhờ thế lực nước Kim làm đến chức tể tướng, giết hại nhiều trung thần võ tướng như Nhạc Phi.

6      Hứa Do: Một vi cao ẩn ở đất Bái Trạch. được vua Nghiêu nhường cho thiên hạ không nhận, ra sông Đinh Thủy rửa tai.

Đào Tiềm: Tên chữ Uyên Minh, người đời Tấn, tính cao thượng giản dị. Khi làm quan lệnh ở Bành Trạch, trên quận sai quan đến, người ta bảo phải mũ áo ra tiếp, Đào Tiềm nói: “Ta không thể vì năm đấu gạo mà uốn lưng được.” rồi bỏ quan về.

Nguyễn Tịch: tên chữ là Tự Tôn, người đời Tấn, học rộng, thơ hay, đàn giỏi, thích uống rượu, biết phân biệt kẻ hay người dở, người hay thì tiếp bằng mắt xanh, người dở thì tiếp bằng mắt trắng. Có làm một tập thơ Vịnh hoài hơn tám mươi bài, bài Đạt sinh luận và truyện Đạt nhân tiên sinh.

Kê Khang: Người đời Tấn. Học rộng, tính lười biếng, làm quan trung tán đại phu, là một trong bọn bảy người ờ Trúc lâm thất hiền.

Lưu Linh: Làm chức Kiến uy tham quân đời Tấn. Là một người trong Trúc lâm thất hiền, tính nghiện rượu, đi đâu cũng uống sai người mang đi theo, dặn hễ chết thì chôn ngaỵ Có làm bài Tửu đức tụng.

Vương, Tạ: Vương Thản Chi và Tạ An, hai họ này có tiếng nhất đời Tống. vì thế con trai nhà quý phái đều muốn lấy con gái họ Vương, họ Tạ.

Cố Hổ Đầu: Người đời Tấn. Học rộng, tài giỏi, vẽ khéo.

Trần Hậu Chủ: Hay chữ, sau khi lên ngôi vua, ham mê tửu sắc, suốt ngày chỉ chơi đùa với phi tần và hiệp khách, ăn yến làm thơ, chẳng nghĩ gì đến công việc. Khi quân Tùy đến đánh vẫn còn say rượu, hát xướng. Sau bị tướng nhà Tùy là Hàn Cầm Hổ bắt được ờ trong giếng Cảnh Dương đem về. Vua Tùy phong cho làm Trường Thành công.

Ôn Phi Khanh: Người đời Đường. Tư chất thông minh, làm từ phú rất hay, nhưng không biết giữ gìn tính nết, thích nói những lời dâm đãng, bị sĩ phu thời bấy giờ khinh bỉ.

Thạch Mạn Khanh: Người đời Tống, tính lỗi lạc, có khí tiết, biết phân biệt điều phải điều trái. Thơ hay chữ tốt. thường làm những bài nói về sách lược quốc phòng.

Mễ Nam Cung: Người đời Tống, thơ hay, vẽ khéo, thường dắt bạn đi thưởng ngoạn sơn thủy. Trong thuyền lúc nào cũng đầy thơ và tranh vẽ. Vì đã làm chức Nam Cung Xá Nhân, nên người ta thường gọi là Mễ Nam Cung.

Liễu Kỳ Hình: Tên là Vinh. Đỗ Tiến sĩ đời Tống, làm chức đồn điền viên ngoại lang, nên người ta thường gọi là Liễu đồn điền. Tính lãng mạn. làm nhiều bài ca từ lẳng lơ như bài Nhạc thường tập. Hễ có vở hát nào mới ra, tất phải nhờ ông làm từ giới thiệu, thì bán mới đắt. Sau vì túng thiếu, đi lưu lạc khắp nơi. Khi chết, các chị em ca kỹ phải góp tiền làm ma cho.

Tần Thiếu Du: Người đời Tống. Học rộng nhưng tính kiêu ngạo, vi có tài nên được cử làm chức Hán lâm học sĩ, giữ việc chép sứ với Tô Triệt, Tô Thức. Sau lấy em hai ông này.

Nghê Văn Lâm: Người đời Nguyên. Nhà giàu, danh sĩ các nơi thường đến chơi, thơ hay, vẽ sơn thủy khéo. Lúc già thích thanh đạm và tĩnh mịch. Chỗ ở có Thanh bật các, Văn lãm đường, trong chứa rất nhiều thơ họa, đồ cổ, sách lạ, thường đi thuyền thưởng ngoạn các nơi sơn thủy. Mặc bộ quan áo nhà quê, ở lẫn lộn vào chốn hương thôn. Có làm bộ Thanh bật các tập.

Đường Bá Hổ: Người đời Minh, nhà nghèo nhưng thích bạn, văn hay, vẽ khéo, cùng bọn Từ Trinh Khang, Chúc Chi Sơn, Văn Trung Minh. Người ta gọi là bốn tài tử ở đất Ngô Trung.

Chúc Chi Sơn: Người đời Minh, vì lúc mới đẻ có ngón tay thừa, tự hiệu là Chi Sơn. Chúc Chi Sơn xem sách rộng. thơ hay chữ tốt.

Lý Quy Niên: Người đời Đường, giỏi âm luật, cùng với Tôn đại nương lúc bấy giờ giỏi về múa hát.

Kính Tân Ma: Trùm phường chèo đời Ngũ Đại. Bấy giờ vua Trang Tông đi săn, giẫm phải vào ruộng lúa. Viên huyện ở đấy can, vua giận định đem giết. Kính Tân Ma trách viên huyện: “Ông làm quan ở đây lại dám cho dân cày cấy nộp thuế. Sao không để trừ chỗ này để cho vua đi săn. Thây kệ dân đói có được không? Tội ông thế đáng chết là phải”. Vua nghe nói cười lên rồi tha viên huyện.

Hồng Phật: Tên là Xuất Trần, người đời Tùy, gái hầu của Dương Tố. Lý Tĩnh mặc áo vải vào chầu Dương Tố, Xuất Trần có sắc đẹp, tay cầm phất trần, mắt vẫn liếc Lý Tĩnh. Đêm hôm ấy, lẻn sang nhà Lý Tĩnh nói: “Thiếp là thị tỳ nhà họ Dương đây, dây leo này giờ ai uốn nhờ bóng cây cao”. Rồi hai người cùng trốn sang đất Thái Nguyên. Sau Trương Minh Phương đời Minh có làm bài Hồng Phật Ký.

Tiệt Đào: Danh sĩ đời Đường, hiểu biết âm luật, làm thi từ hay, thường xướng họa với bọn danh sĩ lúc bấy giờ như Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị, Đỗ Mục… lại biết chê giấy hoa tiên. Hiện giờ còn có cái giếng tên Tiệt Đào Tĩnh. Có độ năm trăm bài nho truyền ở đời.

Thôi Oanh Oanh: Con gái đời Đường. văn từ giỏi. Nguyên Chẩn làm bộ Hội Chân ký nói: “Cha Oanh Oanh chết sớm. Oanh Oanh theo mẹ về Trường An ở chùa Bồ đông phổ cứu, gặp Trương sinh thơ từ đi lại, tình yêu rất nồng nàn. Sau Vương Thực Phủ đời nhà Nguyên có làm ra vở hát Tây Sương ký truyền kỳ.

Triều Vân: Người đời Tống, là kỹ nữ ở Tiền Đường. Khi Tô Thức làm quan ở đấy, lấy làm nàng hầu, lúc trước thì chưa biết chữ nghĩa gì, sau nhờ có Tô Thức dạy bảo, biết làm thi từ, lại hiểu đạo Phật. Sau Tô Thức bị biếm ra Huệ Châu, đám tỳ thiếp bỏ cả, chỉ có một mình Triều Vân đi theo.

— —— —— —— ——-

7      Chỗ này Tử Hưng muốn dẫn chứng lối đặt tên con gái của họ Giả không phải là theo lối cũ như Vũ Thôn vừa hỏi ở trên.

Chương 3: Nhờ anh vợ, Như Hải đền được ơn dạy bảo – Đón cháu ngoại, Giả mẫu xót thương trẻ mồ côi

Nhờ anh vợ, Như Hải đền được ơn dạy bảo

Đón cháu ngoại, Giả mẫu xót thương trẻ mồ côi

Vũ Thôn quay lại, thấy Trương Như Khuê, người vùng này, là bạn đồng liêu và cũng bị cách chức như mình. Từ ngày bị cách, y về ở nhà. Khi được tin tòa Trung Thư xin cho những người ấy được phục chức, y liền chạy vạy các nơi. Gặp Vũ Thôn, y vội lại chào và báo tin. Vũ Thôn mừng lắm, nói chuyện mấy câu rồi hai người từ giã chia taỵ Lãnh Tử Hưng biết chuyện, vội hiến một kế, bảo Vũ Thôn nhờ Lâm Như Hải nói giúp với Giả Chính ở trong kinh. Vũ Thôn lĩnh ý, từ biệt về nhà, tìm tờ quan báo xem thì quả có thực. Hôm sau hắn đem chuyện đó bàn với Lâm Như Hải. Như Hải nói:

– May quá! Từ khi nhà tôi mất, nhạc mẫu tôi ở Kinh thường lo cháu gái không ai trông nom, có lần đã cho người nhà mang thuyền đến đón. Nhưng vì cháu hãy còn mệt chưa đi được ơn ông dạy cháu bấy lâu, chưa biết lấy gì cảm tạ. Gặp dịp này lẽ nào tôi lại không hết lòng báo đáp. Xin ông cứ yên tâm. Tôi định viết thư nhờ ông anh vợ giúp đỡ, gọi là tỏ chút lòng thành. Trong thư tôi đã nói rõ cả rồi, có phí tổn gì ông cũng đừng nghĩ đến.

Vũ Thôn vái dài tạ Ơn luôn mồm, lại hỏi:

– Không biết lệnh thân hiện làm chức gì? Chỉ sợ tôi lỗ mãng không dám đến hầu.

Như Hải cười nói:

– Ông anh vợ tôi là cháu cụ Vinh công, kể ra cũng là một họ với ông đấy. Ông anh cả tên là Xá, tên chữ là An Hầu, hiện tập tước nhất đẳng tướng quân. Ông anh thứ hai tên là Chính, tên chữ là Tồn Chu, hiện làm viên ngoại lang bộ Công, là người khiêm cung phúc hậu, phong độ giống các cụ tôi trước, chứ không phải hạng phù hoa khinh bạc, nên tôi mới dám viết thư tiến cử ông. Nếu không, thì không những làm tổn thanh danh của ông, mà tôi cũng không thèm làm.

Vũ Thôn nghe xong, trong bụng tin ngày lời của Lãnh Tử Hưng, lại tạ Ơn Lâm Như Hải. Như Hải nói:

– Ngày mồng hai tháng sau, tôi sẽ cho cháu vào Kinh. Mời ông cùng đi, thật là lưỡng tiện.

Vũ Thôn vâng dạ, trong bụng rất mừng. Như Hải sửa soạn lễ vật tiễn hành.

Đại Ngọc, một cô học trò vừa yếu khỏi, không muốn xa cha, nhưng vì bà ngoại bắt phải vào. Lâm Như Hải dặn:

– Cha năm nay tuổi gần năm mươi, không muốn lấy vợ kế nữa. Vả tuổi con còn bé, ốm yếu luôn; trên không có mẹ dạy bảo, dưới không có chị em giúp đỡ. Bây giờ con vào nương nhờ bà ngoại, có các cậu mợ và các chị em, như thế cho cha đỡ phải lo, sao con lại không muốn đi?

Đại Ngọc nghe xong, gạt nước mắt từ biệt cha xuống thuyền, theo vú nuôi và các người ở Giả phủ đến đón. Vũ Thôn mang theo hai tiểu đồng ngồi ở một chiếc thuyền khác. Khi đến kinh đô, Vũ Thôn chỉnh tề áo mũ, mang theo tiểu đồng đưa danh thiếp vào trong phủ, xưng là cháu họ. Giả Chính xem thư của em rể xong, vội vàng mời vào. Giả Chính vốn quý mến người học thức, kính trọng hiền sĩ, cứu giúp người cùng túng, có phong độ hào phóng của tổ tiên ngày trước, nay thấy Vũ Thôn mặt mũi khôi ngô, ăn nói phong nhã nên ông ta càng biệt đãi và hết sức giúp đỡ hắn. Trong khi có bản đề cử, Giả Chinh cố chạy vạy cho Vũ Thôn được phục chức. Chưa đầy hai tháng, Vũ Thôn được bổ tri phủ Ứng Thiên ở Kim Băng. Vũ Thôn từ biệt Giả Chính chọn ngày đi nhận chức.

Đại Ngọc ở thuyền lên, đã có kiệu và xe chở hành lý của Vinh phủ ra đón. Đại Ngọc thường nghe mẹ kể nhà bà ngoại khác hẳn mọi nơi, nay thấy mấy người đến đón, tuy mới chỉ là người hạng ba, nhưng đều ăn mặc khác thường. Đại Ngọc nghĩ bụng: Ta đã đến đây, càng phải cẩn thận để ý luôn, nếu lơ một lời, sai một bước sẽ bị chê cười. Đại Ngọc lên kiệu vào thành, vén màn rừng ra, thấy phố đẹp, người đông, phồn thịnh rất mực. Đi một lúc lâu, trông thấy đường phía bắc có hai con sư tử đá quỳ, ba gian cổng chính có chạm đầu thú, trước cửa chừng mười người mũ áo chỉnh tề đứng xếp hàng. Cửa giữa không mở. Người ra vào đều đi hai cửa phía đông và tây. Trên cửa chính có một cái biển đề năm chữ to “Sắc tạo 1 Ninh quốc phủ”.

Đại Ngọc liền đoán: “Hẳn là nhà chi trưởng của bà ngoại ta đây”. Lại đi sang phía tây một quãng không xa, cũng có ba gian cửa lớn, đây là phủ Vinh quốc. Mọi người cũng không đi cửa giữa mà đi vào phía tây. Đi một lát, đến chỗ rẽ thì hạ kiệu, và lùi ra. Những bà gìa theo hầu đều xuống kiệu, còn Đại Ngọc thì đổi người khác khiêng. Những người khiêng toàn là mũ áo chỉnh tề, trạc độ mười bảy, mười tám tuổi. Các bà hầu già đi bộ theo sau. Đến trước cửa có giàn hoa, kiệu đỗ xuống, bọn con trai đều lui ra, những bà hầu già mở rèm đỡ Đại Ngọc xuống.

Đại Ngọc vịn tay người hầu bước vào cửa hoa, hai bên có hai dãy hành lang, giữa là xuyên đường 2. Ngay lối vào có một bức bình phong bằng đá Đại Lý 3 đặt trên giá gỗ đàn hương. Qua bức bình phong, có ba gian nhỏ, sau là một tòa nhà lớn năm gian, xà cột chạm vẽ. Hai bên hành lang treo nhiều lồng chim anh vũ, họa mị Trên thềm, mấy a hoàn quần áo xanh đỏ ngồi chực. Thấy Đại Ngọc đến, bọn a hoàn liền đứng dậy niềm nở tiếp đón:

– Cô đến rất đúng, cụ 4 vừa nhắc xong.

Rồi ba bốn người tranh nhau vén rèm. Nghe có người nói to: “Cô Lâm đã đến”.

Đại Ngọc vừa bước vào nhà, thấy hai người đỡ một cụ già đầu bạc như tuyết, ra đón. Đại Ngọc biết ngay là bà ngoại, toan sụp xuống lạy, thì bà đã ôm ngay vào lòng kêu lên: “Ruột thịt của ta đây”. Rồi khóc nức nở. Những người đứng hầu ai cũng sa nước mắt. Đại Ngọc cũng khóc, mọi người dần dần khuyên giải mới thôi. Đại Ngọc làm lễ chào bà ngoại, tức là bà mẹ Giả Chính mà Tử Hưng vẫn gọi là Sử thái quân. Giả mẫu trỏ từng người và bảo Đại Ngọc:

– Đây là mợ Cả 5. Đây là mợ hai 6. Đây là vợ anh Châu, chị dâu góa của cháu.

Đại Ngọc chào từng người một. Giả mẫu lại bảo:

– Đi mời các cộ Hôm nay có khách xa đến, nghỉ học cũng được

Mọi người vâng lời rồi đi.

Một chốc, thấy ba người vú, năm sáu a hoàn dẫn ba cô đến. Cô thứ nhất, người nở nang, tầm thước, nước da nõn nà, má đỏ hồng hào như quả vải tươi, mũi loáng như xoa mỡ, tính nết ôn hòa kín đáo, thoạt nhìn đã thấy mến. Cô thứ hai, vóc dáng tròn trặn, người dong dỏng cao, mặt trái xoan, mắt sắc, lông mày dài, nhìn ngắm tình tứ, thanh tú khác thường, trông như thoát hẳn trần tục. Cô thứ ba, ít tuổi, vóc người còn nhỏ. Ba cô quần áo trang sức đều như nhau. Đại Ngọc vội vàng đứng dậy chào hỏi. Chị em nhận nhau rồi đều về chỗ ngồi. A hoàn bưng nước trà lên. Mọi người thăm hỏi: Mẹ Đại Ngọc ốm đau làm sao, thuốc thang thế nào? Khi mất, tang lễ ra sao? Giã mẫu nghe vậy lại càng thương xót, nói:

– Trong mấy đứa con gái, ta thương nhất là mẹ cháu. Nay nó chết trước, không được gặp mặt, thấy cháu nhẽ nào ta không thương tâm!

Nói xong, lại bế Đại Ngọc vào lòng khóc nức nở. Mọi người vội vàng khuyên giải mới thôi.

Đại Ngọc tuy còn bé, nhưng ngôn ngữ cử chỉ đứng đắn. Người yếu như không mang nổi cái áo, nhưng có một vẻ yêu kiều yểu điệu riêng. Mọi người thấy thế, biết ngay là khi sinh ra khí huyết không đủ. Có người hỏi:

– Thường uống thuốc gì? Vì sao không kíp chữa đi?

Đại Ngọc nói:

– Cháu xưa nay vẫn thế. Từ khi mới biết ăn cơm, đã phải uống thuốc rồi. Qua nhiều thầy giỏi, kê đơn bốc thuốc, nhưng đều chưa thấy công hiệu. Nhớ năm cháu lên ba, có một nhà sư chốc đầu bảo cháu nên đi tụ Cha cháu không nghe. Nhà sư ấy lại nói: Đã không chịu rời nó ra thì nó sẽ ốm đau cả đời! Muốn cho nó khỏe, thì từ giờ trở đi, chớ để nó nghe tiếng khóc; trừ bố mẹ ra, những người thân thích bên ngoại đừng cho gặp ai. Như vậy may ra mới bình yên được”. Những câu điên dại như thế chẳng ai buồn nghe cả. Hiện nay cháu đang uống thuốc nhân sâm dưỡng vinh”.

Giả mẫu nói:

– Tốt đấy, ở đây bà cũng đang làm thứ thuốc ấy, bảo làm thêm một tễ cho cháu.

Nói chưa dứt lời đã nghe phía sau nhà có tiếng cười:

– Tôi đến chậm, không được ra đón khách.

Đại Ngọc lấy làm lạ, nghĩ bụng: “Ở đây ai cũng im hơi lặng tiếng, khép nép nghiêm trang, không biết người nào mà lại dám vô lễ, ăn nói bô bô như thế”. Chợt thấy bọn hầu đỡ một người từ phòng sau lại. Người này trang sức không giống các cô kia, gấm thêu lộng lẫy, trông như một vị thần tiên! Trên đầu, đỡ tóc bằng kim tuyến xâu hạt châu, cài trâm ngũ phượng Triệu Dương 7 đính hạt châu, cổ đeo vòng vàng chạm con ly, mình mặc áo vóc đại hồng chẽn thêu trăm bướm lượn hoa bằng chỉ kim tuyến, ngoài khoác áo màu xanh lót bằng lông chuột bạch viền chỉ ngũ sắc, mặc quần lụa hoa màu cánh trả; mắt phượng, mày cong lá liễu, khổ người óng ả, dáng điệu phong lưu, thật là: Mặt phấn đầy xuân trông vẻ dịu. Làn son chưa hé miệng như cười.

Đại Ngọc đứng lên chào. Giả mẫu cười nói:

– Cháu không nhận được chị này đâu. Nó là một con đanh đá trong nhà này đấy, tiếng Nam kinh gọi là “Lạt tử 8, cháu cứ gọi “Phượng lạt tử” là được.

Đại Ngọc không biết xưng hô thế nào, các chị em bảo: “Vợ anh Liễn đấy”.

Đại Ngọc chưa từng gặp mặt, nhưng đã nghe mẹ kể, anh Giả Liễn là con cậu Giả Xá, lấy cháu gái mợ Vương, từ bé thường giả làm trai, đi học, tên là Vương Hy Phượng. Đại Ngọc vội cười và chào bằng chị.

Hy Phượng cầm tay Đại Ngọc, nhìn kỹ một lúc rồi dắt đến cạnh Giả mẫu, cười nói:

– Trong thiên hạ lại có người đẹp như thế này! Bây giờ cháu mới được thấy! Trông hình dáng con người, ai cũng cho là cháu nội của bà, chứ không phải là cháu ngoại. Chả trách ngày nào bà cũng nhắc đến, chỉ đáng thương là em tôi vất vả, sao cô tôi lại mất sớm thế!

Nói xong lấy khăn mặt lau nước mắt. Giả mẫu cười nói:

– Ta vừa mới khuây đi, mày lại còn gợi ra. Em nó ở xa mới đến, người lại yếu, nên an ủi nó, đừng nói chuyện buồn nữa.

Vương Hy Phượng nghe xong, đổi buồn làm vui, nói:

– Phải đấy! Cháu vừa trông thấy, bụng để cả vào cô em, vừa vui vừa buồn, quên hẳn là. Đáng đánh đòn!

Rồi nắm tay Đại Ngọc nói:

– Em bao nhiêu tuổi? Đã đi học chưa? Hiện đang uống thuốc gì? Ở đây đừng nhớ nhà nhé! Muốn ăn gì, chơi gì em cứ bảo chị. Bọn người nhà có hổn láo thì mách chị.

Hy Phượng lại hỏi người nhà:

– Những hành lý của cô Lâm đã mang vào chưa? Cô Lâm mang mấy người theo hầu? Các người hãy dọn hai gian buồng cho họ vào nghỉ.

Đương nói chuyện thì mâm nước trà, hoa quả đã bưng lên. Hy Phượng tự tay bưng lên mời. Lại thấy Vương phu nhân hỏi:

– Tiền tháng đã phát xong chưa?

Hy Phương đáp:

– Xong rồi. Vừa rồi con mang người lên lầu tìm mấy tấm đoạn, mãi không thấy. Hôm qua con thấy mẹ 9 nhắc đến, chỉ sợ mẹ nhớ nhầm.

Vương phu nhân nói:

– Có thấy hay không cũng chẳng can chi, nhân tiện lấy ra vài tấm đưa may quần áo cho cháu Lâm. Chiều nay để ta nhớ lại xem rồi sẽ cho người đi lấy.

Hy Phượng nói:

– Con đã nghĩ trước rồi, biết em Lâm trong vài ngày sẽ đến, nên sửa soạn sẵn cả, đợi mẹ xem rồi đưa đi may.

Vương phu nhân cười gật đầu.

Trà nước xong, Giả mẫu sai hai bà già đưa Đại Ngọc đi chào hai cậu. Bấy giờ vợ Giả Xá là Hình phu nhân đứng ngay dậy, cười nói:

– Để con đưa cháu về cho tiện.

Giả mẫu cười:

– Phải đấy! Con đưa cháu đi, không phải trở lại nữa.

Hình phu nhân vâng lời, chào Vương phu nhân rồi dẫn Đại Ngọc đi. Mọi người tiễn đến xuyên đường. Ra tới cửa hoa, ở đấy đã có mấy người kéo một cỗ xe màu xanh cánh trả chờ sắn. Hình phu nhân dắt Đại Ngọc lên ngồi, mấy bà hầu già buông rèm xuống rồi người hầu đẩy xe đi. Đến chỗ rộng mới đóng ngựa vào. Xe ra cửa tây, rẽ sang đông, qua cửa chính Vinh phủ, vào trong cửa lớn sơn đen, đến trước nghi môn thứ hai thì đỗ lại. Mọi người lùi ra, rèm xe vén lên. Hình phu nhân dắt Đại Ngọc bước vào trong dinh. Đại Ngọc đoán những nhà vừa đi qua tất là vườn hoa trong Vinh phủ. Vào nghi môn thứ ba, quả nhiên thấy phòng chính, phòng bên, hành lang, đều chạm vẽ tinh vi khác với vẻ cao rộng hùng vĩ ở mé ngoài. Trong dinh, chỗ nào cũng có cây cảnh núi non rất đẹp. Khi vào đến nhà chính đã thấy nhiều a hoàn và người hầu ăn mặc lịch sự ra đón.

Hình phu nhân bảo Đại Ngọc ngồi rồi cho người ra thư phòng mời Giả Xá. Một lát, người đi mời trở lại thưa:

– Ông truyền: Mấy hôm nay trong người không được khỏe, nếu gặp cô Lâm thì hai cậu cháu đều thương tâm, nên để sau sẽ gặp. Ông khuyên cô khôn nên nhớ nhà, ở với bà và cái mợ cũng như ở nhà. Các chị em ở đây tuy vụng dại, nhưng làm bầu làm bạn với nhau cũng có thể giải buồn. Nếu có điều gì không vừa ý thì cứ nói, đừng làm như người lạ.

Đại Ngọc vội đứng dậy xin vâng. Ngồi một lúc rồi cáo từ. Hình phu nhân cố giữ lại ăn cơm. Đại Ngọc cười thưa:

– Mợ có lòng yêu cho ăn, cháu không dám tử chối. Nhưng cháu còn phải đi chào cậu Hai, đến chậm sợ thất lễ. Ngày khác cháu sẽ đến hầu cơm, xin mợ lượng thứ cho.

Hình phu nhân nói:

– Thôi được.

Rồi bảo hai bà già đẩy cái xe lúc nãy đưa về. Đại Ngọc chào rồi đi ra. Hình phu nhân đưa đến trước nghi môn, dặn bảo mọi người mấy câu, nhìn xe đi khỏi mới quay vào.

Đi một lúc đến Vinh phủ, Đại Ngọc xuống xe. Người hầu dẫn Đại Ngọc đi quay về phía đông, qua xuyên đường, sau nhà lớn hướng nam, trong cửa nghi môn, có một dinh tọ Đằng trước là nhà chính, có năm gian rộng, hai bên là hai dãy buồng, cửa nách hành lang, từ nhà nọ sang nhà kia thông suốt bốn mặt ngang dọc rộng rãi, tráng lệ nguy nga, khác hẳn chỗ ở của Giả mẫu. Đại Ngọc biết ngay chỗ này là nhà trong. Một con đường rộng rãi, đi thẳng đến cửa lớn. Bước lên thềm, ngẩng trông thấy ngay một cái biển lớn sơn xanh chạm chín con rồng thiếp vàng, trên khắc ba chữ to “Vinh hy đường” 10 bên cạnh có một hàng chữ nhỏ đề ngày tháng vua viết ban cho Vinh quốc công là Giả Nguyên, có cả ấn “Vạn cơ thần hàn” 11. Trên cái án thư gỗ đàn hương chạm con li, đặt một cái đỉnh đồng cổ, cao gần ba thước, trên treo một bức vẽ long ám lớn có đề bốn chữ “đãi lậu tùy triều” 12. Một bên bày cái chậu pha lê, một bên bày cái bình vàng chạm. Dưới đất đặt hai hàng mười sáu cái ghế gỗ nam, có một đôi câu đối khắc chữ vàng:

Chậu ngọc trên lầu trông chói lọi;

Ái xiêm ngoài của bóng huy hoàng.

Dưới có lạc khoản. “Em thế nghị là Mục Thời, tập tước Đông An Quận Vương, tự tay viết”.

Ngày thường Vương phu nhân không hay ở phòng giữa, chỉ ở ba gian phía đông bên cạnh. Vì thế người hầu già dẫn Đại Ngọc vào cửa buồng bên đông. Trên bục lớn, trông ra cửa sổ, rải một tấm thảm nhung đỏ, giữa đặt gối tựa bằng vóc đại hồng, gối đầu bằng vóc màu thạch thanh và đệm vóc màu vàng đều thêu kim tuyến; hai bên đặt một đôi kỷ nhỏ sơn đen kiểu hoa mai; kỷ bên trái bày một cái đỉnh “Văn chương” hộp đựng hương và thìa đũa; kỷ bên phải bảy một cái bình “Mỹ nhân” bằng sứ Như Châu, cắm hoa tươi. Dưới đất phía tây bày bốn ghế tựa to, có đệm vóc hoa, dưới ghế có cái kê chân; hai bên ghế có một đôi kỷ cao, trên có đủ đồ chê, lọ hoa. Còn nhiều đồ trần thiết không kể xiết.

Một bà hầu già mời Đại Ngọc ngồi trên bục, có hai đệm gấm rải đối nhau. Đại Ngọc đoán chừng, ngồi đây không tiện, nên sang ngồi ghế mé đông. A hoàn mời nước trà. Đại Ngọc vừa uống, vừa ngắm bọn a hoàn, thấy trang sức, cử chỉ khác hẳn mọi người.

Uống nước trà xong, có một a hoàn mặc áo lụa đỏ sau vai viền chỉ xanh, chạy lại cười nói:

– Bà Hai 13 mời cô vào trong này.

Bà hầu già dẫn Đại Ngọc vào ba gian phòng phía đông. Trên giường đặt một cái kỷ; trên mặt kỷ để cỗ đồ chè, mấy bộ sách; ở sát tường phía đông có đặt một cái gối tựa bằng đoạn, xanh hơi cũ.

Vương phu nhân ngồi cuối mé bên tây, nệm ngồi và gối tựa lưng đều bọc đoạn xanh, hơi cũ. Thấy Đại Ngọc đến, Vương phu nhân mời ngồi lên nệm bên đông. Đại Ngọc đoán đó là chỗ ngồi của Giả Chính. Nhân thấy cạnh bục có một hàng ba cái ghế phủ vóc hoa hơi cũ bèn ngồi ngay xuống. Vương phu nhân hai ba lần kéo lên ngồi trên bục, Đại Ngọc mới chịu lên ngồi cạnh Vương phu nhân. Vương phu nhân nói:

– Cậu cháu hôm nay bận trai giới. Hôm sau sẽ gặp. Mợ có một điều dặn cháu: ba chị em cháu ở đây đều tốt cả. Từ nay về sau, các cháu ở một chỗ với nhau, đọc sách, tập viết, học khâu, học thêu, hoặc lúc chơi đùa, chúng nó điều biết điều cả. Chỉ có một việc là mợ không được yên lòng: mợ có một đứa con ngỗ nghịch, nó là ma vương nhà này. Hôm nay nó ra miếu lễ chưa về, chiều cháu gặp nó sẽ biết. Có điều gì cháu cứ mặc kệ nó. Các chị em ở đây không ai dám dây với nó cả.

Đại Ngọc vẫn thường nghe mẹ nói: có một anh ngoại con mợ Hai, khi mới đẻ ra ngậm hòn ngọc, ngỗ nghịch lạ thường, rất ghét đọc sách, chỉ hay quấy rối đám đàn bà con gái; bà lại quá nuông, nên không ai dám động đến. Nay thấy Vương phu nhân dặn thế, Đại Ngọc hiểu ngay, liền cười nói:

– Mợ vừa nói đây, có phải là anh mới sinh ra đã ngậm ngọc không? Ở nhà mẹ cháu thường nhắc đến, anh ấy lớn hơn cháu một tuổi, tên là Bảo Ngọc, tính bướng bỉnh, nhưng đối với chị em lại rất tốt. Vả cháu đến đây, tất nhiên là cùng các chị em ở chung một chỗ, còn các anh thì ở phòng khác, chắc không thể xảy ra chuyện gì.

Vương phu nhân cười nói:

– Cháu chưa biết rõ, nó khác hẳn mọi người. Từ bé nó được bà yêu, cho ở chung với các chị em, được nuông chiều quen rồi. Các chị em cứ để mặc nó, thì nó mới chịu ngồi yên. Dù nó có buồn, chẳng qua chỉ ra đến cửa ngoài, ngấm ngầm bực dọc với mấy đứa trẻ, lủng bủng một lúc là xong. Nếu các chị em bắt lời, nó vui lên thì sinh nhiều chuyện lắm. Vì thế mợ dặn cháu trước cứ mặc kệ nó. Nó lúc thì nói ngon nói ngọt, lúc thì coi trời bằng vung, lúc thì điên điên dại dại, cháu đừng tin nó.

Đại Ngọc nhất nhất xin vâng. Chợt một a hoàn đến nói:

– Bên cụ đã gọi ăn cơm chiều.

Vương phu nhân vội dắt Đại Ngọc ra cửa buồng sau. Qua hành lang rẽ sang mé tây ra khỏi cửa bên là con đường rộng. Mé nam có ba gian nhà nhỏ vòng quanh nhà lớn mé bắc có một bức tường quét vôi trắng; phía sau là một cái cửa khá to và một ngôi nhà nhỏ xinh xắn. Vương phu nhân cười bảo Đại Ngọc:

– Đây là nhà chị Phượng. Lúc trở về, cháu vào chơi có cần cái gì, cứ bảo chị ấy.

Đến ngoài cửa dinh, có mấy tiểu đồng tóc để trái đào, chắp tay đứng hầu. Vương phu nhân dắt Đại Ngọc đi qua xuyên đường, từ ĐSng tây, thì đến nhà trong của Giả mẫu, rồi vào cửa buồng sau. Ở đây đã có nhiều người chờ. Thấy Vương phu nhân đến, họ mới dọn bàn ghế. Vợ Giả Châu là họ Lý rót rượu, Hy Phượng so đũa, Vương phu nhân dâng đồ ăn. Giả mẫu ngồi một mình trên sập, hai bên có bốn ghế bỏ không, Hy Phượng vội dắt Đại Ngọc ngồi ghế thứ nhất bên trái, Đại Ngọc nhất định từ chối, Giả mẫu cười bảo:

– Các mợ và các chị dâu cháu đều không ăn cơm ở đây. Cháu là khách, nên ngồi chỗ ấy.

Đại Ngọc mới xin phép ngồi. Giả mẫu bảo Vương phu nhân ngồi. Ba chị em Nghênh Xuân xin phép ngồi. Nghênh Xuân ngồi ghế thứ nhất bên phải; Thám Xuân ngôi ghế thứ hai bên trái; Tích Xuân ngồi ghế thứ ba, bên phải, A hoàn đứng bên cầm phất trần, ống nhồi khăn taỵ Lý Hoàn, Phượng Thư đứng cạnh bàn tiếp thức ăn; bên ngoài tuy nhiều người hầu, nhưng đều im lặng không có một tiếng họ Ăn xong mỗi người có một a hoàn dâng trà. Ngày thường nhà họ Lâm dạy con giữ gìn sức khỏe, ăn cơm xong một lúc mới uống nước, để khỏi hại tỳ vị. Bây giờ Đại Ngọc thấy cách ăn uống ở đây khác với nhà mình, nhưng cũng phải theo, vừa cầm chén trà, đã có người bưng ống nhổ đến. Đại Ngọc súc miệng, rửa tay xong, lại có ngươi bưng trà lên, lần này mới là nước uống.

Giả mẫu nói:

– Ai ở đâu về đấy, để bả cháu ta trò chuyện.

Vương phu nhân đứng dậy nói mấy câu rồi dẫn Lý Hoàn, Hy Phượng đi ra. Giả mẫu hỏi Đại Ngọc học sách gì? Đại Ngọc thưa: “Mới học tứ thư”. Đại Ngọc hỏi các chị em ở đây học sách gì: Giả mẫu nói: “Đã học được gì đâu, chẳng qua mới biết mặt mấy chữ”.

Nói chưa dứt lời, thấy bên ngoài có tiếng người đi. A hoàn vào báo: “Cậu Bảo Ngọc đã về”. Đại Ngọc nghĩ bụng: “Chả biết cái anh Bảo Ngọc này là người bướng bỉnh hồ đồ thế nào, thà chẳng gặp của ngốc ấy còn hơn”. Khi vào, thoạt nhìn thì thấy một thanh niên công tử: đầu đội mũ kim quan dát ngọc, khăn bịt trán có đính hai con rồng bằng vàng vờn hạt châu, mặc áo chẽn màu đại hồng thêu trăm con bươn vờn hoa, thắt lưng dây tơ ngũ sắc tết hoa, áo khoác ngoài bằng đoạn hoa màu thạch thanh, đi đôi hài bằng đoạn xanh, đế trắng, mặt như trăng rằm mùa thu, sắc như hoa xuân buổi sớm, mái tóc bằng như dao xén, lông mày rõ như mực kẻ, má như cánh hoa đào, mắt như làn sóng gợn. Lúc giận cũng như cười, dù trừng mắt vẫn có tình tứ. Cổ đeo khánh vàng chạm con ly và một dây ngũ sắc buộc viên ngọc.

Đại Ngọc trông thấy, choáng người lên, nghĩ bụng: “Lạ thật! Hình như ta đã gặp ở đâu rồi, sao quen mặt thế!”.

Bảo Ngọc vào chào, Giả mẫu liền bảo:

– Hãy về chào mẹ cháu đã.

Bảo Ngọc quay ra ngaỵ Một lúc trở lại, đã thay cả mũ áo. Xung quanh đầu, tóc ngắn tết thành búi nhỏ buộc dây tơ đỏ, tất cả vấn lên đỉnh đầu trở xuống cài bốn hạt châu lớn, phía dưới lại đeo bát bảo bằng vàng dát ngọc, mình mặc áo hoa màu ngân hồng hơi cũ, cổ đeo vòng vàng, ngọc quý, khóa ký danh 14 và bùa hộ thân, mặc quần lụa hoa màu lá thông, đi bí tất gấm viền đen, hài đỏ đế dày; lại rõ ra mặt phấn môi son, nhìn liếc có duyên, nói năng tươi tỉnh, đầu mày cuối mặt, có một vẻ thiên nhiên, trông rất tình tứ. Bề ngoài nhìn rất đẹp, nhưng không biết bên trong thế nào. Người sau có hai bài từ Tây giang nguyệt 15. Bình luận Bảo Ngọc rất xác đáng.

Bỗng chốc mua sầu chuốc não.

Lắm khi như dại như ngây.

Ngoài mặt mặc dù thanh tú,

Trong lòng rác rưởi chứa đầy.

Đần độn học hành lười biếng,

Việc đời chẳng biết dở hay.

Việc làm ngang trái, tính ương gàn,

Quản chi miệng người chê trách!

Nghèo khó không quen vất vả,

Giàu sang chỉ thích ăn chơi.

Đối với người nhà, vô ích,

Tiếc thay bỏ phí một đời.

Thiên hạ vô tài bậc nhất,

Xưa nay bất tiếu không hai.

Nhắn cùng con cháu bọn giàu sang.

Nhìn đấy chớ nên bắt chước!

Giả mẫu thấy Bảo Ngọc đến, cười bảo:

– Chưa chào khách đã thay quần áo, sao cháu không ra

chào cô em đi?

Bảo Ngọc trông thấy một cô gái, đoán ngay là con cô mình, vội vàng đến chào. Ngồi xuống nhìn kỹ, khác hẳn các cô gái. Chỉ thấy:

Đôi lông mày điểm màu khói lạt, dường như cau mà lại không cau; đôi con mắt chứa chan tình tứ, dáng như vui mà lại không vui. Má hơi lúm, có vẻ âu sầu; Người hơi mệt trông càng tha thướt. Lệ rớm rưng rưng, hơi ra nhè nhẹ. Vẻ thư nhàn, hoa rọi mặt hồ; dáng đi đứng, liễu nghiêng trước gió. Tim đọ Tỉ Can 16 hơn một trăm khiếu, bệnh so Tây Tứ 17 trội vài phân.

Bảo Ngọc nhìn rồi cười nói:

– Hình như tôi đã được gập cô em lần nào rồi.

Giả mẫu cười:

– Lại nói nhảm, đã gặp lần nào đâu?

Bảo Ngọc cười nói:

– Tuy chưa gặp, nhưng trông mặt quen lắm, cũng coi như đã gặp nhau rồi.

Giả mẫu cười nói:

– Tốt lắm! Thế thì lại càng tử tế với nhau.

Bảo Ngọc chạy đến ngồi cạnh Đại Ngọc, ngắm nghía lần nữa, rồi hỏi:

– Cô em đã học sách chưa?

– Em chưa đọc sách, mới học một năm, biết mấy chữ thôi.

– Tên cô em là gì?

– Tên là Đại Ngọc.

– Tên chữ là gì?

– Em không có tên chữ.

Bảo Ngọc cười nói:

– Anh đặt tên cho em là Tần Tần nhé, hai chữ đó rất hay.

Thám Xuân hỏi:

– Hai chữ ấy xuất xứ ở đâu?

Bảo Ngọc nói:

– Cổ kim nhân vật khảo có câu: Phương tây có thứ đá tên là đại, có thể dùng để kẻ lông mày. Huống chi cô em đầu lông mày nhìn như cau lại, đặt cho cái tên ấy chẳng đẹp lắm sao.

– Chỉ sợ lại bịa ra thôi.

– Trừ Tứ Thư ra, còn phần nhiều là bịa cả, chẳng phải một mình tôi.

Lại quay hỏi Đại Ngọc:

– Em có ngọc không?

Mọi người không ai hiểu tại sao Bảo Ngọc lại hỏi thế, Đại Ngọc trong bụng đoán ngày: “Chắc anh ấy có ngọc, nên mới hỏi mình”, liền trả lời:

– Em không có ngọc. Thứ ngọc của anh là vật rất hiếm, phải đâu người nào cũng có.

Bảo Ngọc nghe vậy, nổi ngay cơn điên, dứt viên ngọc vứt phăng đi, la ầm lên:

– Vật này hiếm gì mà hiếm! Không phân biệt được người hơn kém, thế thì bảo nó thiêng hay không thiêng! Tôi không cần cái thứ vô dụng này

Mọi người sợ hãi, xô nhau lại nhặt viên ngọc. Giả mẫu vội vàng lôi Bảo Ngoé lại mắng:

– Của nợ này! Mày có nổi hung lên, muốn đánh ai, mắng ai thì cứ việc đánh, cứ việc mắng, làm gì phải vứt cái bản mệnh của mày đi!

Bảo Ngọc nước mắt giàn giụa nói:

– Các chị em trong nhà không ai có; chỉ một mình cháu có cũng chẳng thú gì. Ngay cô em mới đến đây, người đẹp như tiên mà cũng không có, càng biết cái này chẳng quý hóa gì.

Giả mẫu nói dối:

– Em cháu ngày trước cũng có. Vì lúc cô cháu sắp mất, thương em cháu quá, không biết làm thế nào, mới lấy viên ngọc mang đi, một là chôn viên ngọc theo để hết cái lòng hiếu của em cháu, hai là nhờ có viên ngọc mà âm linh cô cháu cũng xem như được thấy em cháu luôn. Vì thế em cháu nói không có ngọc là có ý không tiện khoe khoang đấy thôi. Cháu bì sao được với em cháu. Nếu cháu không đeo tử tế vào, mẹ cháu biết thì coi chừng đấy.

Giả mẫu nói xong, cầm lấy viên ngọc ở trong tay a hoàn đeo cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc ngẫm nghĩ một lúc thấy cũng có lý nên không nói gì nữa.

Ngay lúc ấy, người vú lại hỏi dọn buồng nào cho Đại Ngọc ở Giả mẫu nói:

– Dọn cho Bảo Ngọc đến ở Noãn Các 18 với ta; để cháu Lâm tạm ở buồng Bích Sa, chờ hết ĐSng xuân sẽ thu xếp lại.

Bảo Ngọc nói:

– Thưa bà, để cháu ngủ cái giường ở bên ngoài buồng Bích Sa thì hơn, việc gì phải đến ngủ gần bà, làm bà không được yên tĩnh.

Giả mẫu nghĩ một lúc, nói:

– Thôi cũng được.

Mỗi người có một vú già và một a hoàn phục dịch, còn thì ở cả bên ngoài trực đêm. Hy Phượng đã sai người mang cỗ màn màu cánh sen, nhăn gấm và đệm đoạn đến.

Đại Ngọc chỉ mang có hai người theo hầu: vú nuôi họ Vương và con bé mười tuổi tên là Tuyết Nhạn. Giả mẫu thấy Tuyết Nhạn bé quá, vú Vương già quá, sợ Đại Ngọc không vừa ý mới cho thêm một a hoàn hạng nhì của mình tên là Anh Ca, cũng như chị em Nghênh Xuân, trừ vú nuôi ra, mỗi người có bốn bà già giúp việc. Ngoài hai a hoàn theo hầu bên cạnh để trông nom trâm, vòng, tắm rửa, còn bốn, năm người quét dọn và sai vặt. Vú Vương cùng Anh Ca hầu Đại Ngọc phía trong buồng Bích Sạ Vú Lý nuôi Bảo Ngọc cùng a hoàn lớn là Tập Nhân hầu Bảo Ngọc ở bên ngoài.

Nguyên Tập Nhân là người hầu của Giả mẫu, tên là Trân Châu. Giả mẫu vì quá yêu Bảo Ngọc, sợ những người hầu khác không được vừa ý, thấy Tập Nhân hiền lành, làm việc chăm chỉ, mới cho sang hầu Bảo Ngọc. Bảo Ngọc biết Tập Nhân họ Hoa, lại từng nghe cổ nhân có câu thơ: “Hoa khí tập nhân” 19, mới trình Giả mẫu cho đổi tên là Tập Nhân.

Tập Nhân xưa nay vốn có tính ngây thợ Khi hầu Giả mẫu, thì trong bụng chỉ biết Giả mẫu; đến nay sang hầu Bảo Ngọc, lại chỉ biết có Bảo Ngọc. Vì tính tình Bảo Ngọc ngang trái, mỗi khi Tập Nhân can gián, thấy Bảo Ngọc không nghe, trong bụng rất lo lắng. Tối hôm ấy, Bảo Ngọc và vú Lý đã ngủ rồi, Đại Ngọc và Anh Ca ở tròng buồng hãy còn thức, Tập Nhân cỡi trang sức ra, khe khẽ đi vào, cười hỏi:

– Cô sao chưa đi ngủ?

Đại Ngọc vội cười nói:

– Mời chị ngồi.

Tập Nhân ngồi ghé bên giường. Anh Ca cười nói:

– Cô tôi đang buồn rầu, gạt nước mắt nói: “Hôm nay mới đến đã làm anh ấy phát cáu lên. Nếu đập vỡ viên ngọc, há chẳng phải là lỗi ở ta sao?” Tôi khuyên giải mãi mới thôi.

Tập Nhân nói:

– Cô đừng vội như thế, sau này còn nhiều việc kỳ quặc đáng buồn cười hơn nữa kia. Nếu vì việc này mà cô để tâm thì có lẽ sau không bao giờ hết buồn đâu. Thôi xin cô đừng nghĩ nhiều quá!

Đại Ngọc nói:

– Chị nói tôi xin nhớ. Nhưng không biết viên ngọc đó lai lịch như thế nào mà có cả chữ nữa.

Tập Nhân nói:

– Cả nhà chẳng ai biết rõ lai lịch cả. Nghe đâu khi mới đẻ, trong mồm cậu ấy đã ngậm viên ngọc và bên trên có lỗ đeo. Để tôi lấy ra cho cô xem.

Đại Ngọc vội ngăn lại:

– Thôi! Đêm khuya rời, mai lấy xem cũng chưa muộn.

Hai người nói chuyện một lúc mới đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau Đại Ngọc thức dậy, vào thăm Giả mẫu rồi sang nhà Vương phu nhân. Gặp lúc Vương phu nhân cùng Hy Phương đang bóc thư ở Kim Lăng gởi sang, lại có hai bà già của anh và chị dâu Vương phu nhân sai đến. Đại Ngọc tuy không biết đầu đuôi câu chuyện, nhưng bọn Thám Xuân thì đều biết là con nhà dì tên gọi Tiết Bàn ở Kim Lăng, cậy giàu cậy thế đánh chết người, việc này đã đưa lên phủ Ứng Thiên, đến nay em Vương phu nhân là Vương Tử Đằng mới biết tin, sai người sang báo, ý muốn gọi Tiết Bàn vào Kinh.

— —— —— —— ——-

1      Theo chiếu chỉ của nhà vua cho xây nên.

2      Nhà để đi qua bốn mặt không có cửa.

3      Tên một huyện thuộc tỉnh Vân Nam có thứ đá hoa rất đẹp.

4      Tức Giả mẫu.

5      Tức Hình phu nhân.

6      Tức Vương phu nhân.

7      Năm chim phượng đậu núi Triệu Dương.

8      Tay sắc sảo, đanh đá.

9      Vương phu nhân là cô Phượng Thư, về họ nhà chồng, bà ta là thím Phượng Thư nhưng Phượng Thư lại sang ớ trông coi bên nhà Vương phu 

nhân, nên thườn gọi bà ta là thái thái. Chúng tôi tạm dịch là mẹ.

10      Hưởng phúc sung sướng.

11      Vạn cơ là muôn việc. Thần hàn là chữ của vua viết.

12      Chờ đợi giờ để theo các quan vào chầu.

13      Tức Vương phu nhân.

14      Theo tục ngữ ngày xưa, muốn cho trẻ con khôi chết non, người ta 

thường đem cúng vào đền chùa xin làm con nuôi thần phật và đeo cái khóa ở cổ để Bản mệnh trường sinh.

15      Tên một từ chức đặt ra từ đời Đường.

16      Ti Can là chú vua Trụ đời Ân, đời đồn tim ông có chín khiếu.

17      Tích Tây Thi, một cô gái nước Việt. Vua Việt Câu Tiễn dâng lên làm vợ vua Ngô.

18      Nhà gác xây kín có lò sưởi ấm.

19      Mùi hoa thơm trùm phủ cả người.