Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Đô tổng quản ở phủ Ninh là Lai Thăng biết tin Phượng Thư đến giúp việc, liền gọi những người đồng sự đến bảo:
– Nay mời mợ Liễn ở phủ Tây sang trông nom công việc. Mợ ấy muốn chi cái gì, lấy cái gì, truyền bảo câu gì, mọi người phải hầu hạ cẩn thận. Hàng ngày chúng ta đến sớm về muộn, chịu vất vả một tháng rồi sau sẽ nghỉ, đừng để phải bẽ mặt. Mợ ấy là người ngoài mặt đanh đá, trong lòng sâu cay, đáo để có tiếng, khi nóng tiết lên, chẳng nể ai đâu.
Mọi người đều nói: “Phải đấy!” Có một người cười nói:
– Cứ lý ra, bên này chúng ta cũng cần được mợ ta sang để bắt vào khuôn khổ, nếu cứ như bây giờ thì chẳng còn ra thể thống gì.
Đương nói chuyện, vợ Lai Vượng cầm đối bài đến lấy giấy chép kinh viết sớ. Trong phiếu kê rõ số mục. Mọi người mời ngồi uống nước, một mặt sai người chiếu theo phiếu lấy giấy rồi cùng vợ Lai Vượng đi ra đến cửa nghi môn, mới giao mang đi.
Phượng Thư sai Thái Minh đóng sổ, truyền cho vợ Lai Thăng tra xét lại danh sách người nhà; hẹn sáng sớm ngày mai, hết thảy người nhà và đàn bà hầu đều đến phủ để nghe lệnh. Phượng Thư điểm qua sổ sách xong, hỏi vợ Lai Thăng mấy câu, rồi lên xe về.
Ngày hôm sau, đúng giờ mão hai khắc, Phượng Thư lại đến. Những đàn bà và người hầu trong phủ đều đã đủ mặt. Thấy Phượng Thư và vợ Lai Thăng đương cắt các người chấp sự, họ đều đứng ngoài cửa sổ nghe ngóng không dám vào.
Phượng Thư bảo vợ Lai Thăng:
– Đã giao cho ta, nếu ta có điều gì làm cho các người khó chịu thì cũng đành vậy. Ta không nhu nhược như mợ các ngươi, muốn gì được nấy đâu. Các người cũng đừng lấy nê rằng phủ này từ trước đến nay vẫn thế. Bây giờ hết thảy đều theo lệnh ta, nếu làm sai một tý, bất luận là người có thể diện, đều nhất luật trừng trị.
Phượng Thư nói xong, sai Thái Minh đọc danh sách, đọc đến tên người nào thì gọi người ấy lên nhận mặt, rồi cắt đặt như sau:
– Hai mươi người này chia làm hai ban, mỗi ban mười người, chuyên việc pha nước tiếp các tân khách;
– Hai mươi người này chia làm hai ban, chuyên việc cơm nước phục dịch họ hàng và những người trong nhà;
– Bốn mươi người này chia làm hai ban, chuyên việc thắp hương, róc dầu, kéo màn, cúng cơm, cúng nước, có khách đến viếng thì “cử ai” trước linh sàng;
– Bốn người này chuyên ở phòng trà coi giữ ấm, chén, mất mát cái nào, phải chia nhau đền;
– Bốn người này chuyên giữ hồ rượu và bát đĩa, mất mát cái gì cũng phải chia nhau đền;
– Tám người này chuyên thu nhận lễ viếng;
– Tám người này coi giữ đèn, nến, dầu, các đồ mã: sẽ được cấp phát trước, rồi mới theo sổ phân phát đi các nơi;
– Ba mươi người này hàng ngày thay phiên canh đêm, trông nom cửa ngõ, đèn đuốc, quét dọn các nơi;
– Các người khác chia đi các phòng, mỗi người một chỗ, bàn ghế, đồ đạc, cho đến ống nhổ, phất trần… Ở chỗ nào mất mát hoặc hư hỏng, trách cứ người đó phải đến.
– Chị Lai Thăng ngày nào cũng phải xem xét tất cả, nếu có ai lười biếng, uống rượu, đánh bạc, đánh cãi nhau, lập tức bắt đến trình tạ Nếu thiên vị một ai, ta xét ra, dù là người có thể diện từ mấy đời, ta cũng không nể. Bây giờ đã có khuôn phép, nếu ai làm bậy, người ấy phải chịu lỗi. Những người theo hầu ta hàng ngày đều có đồng hồ. Trong buồng nhà trên cũng có đồng hồ đánh chuông, nên bất cứ việc lớn hay nhỏ, phải có thì giờ nhất định. Hàng ngày cứ giờ mão hai khắc ta đến điểm danh; đúng giờ tỵ ăn cơm sáng; vào đầu giờ ngọ hai khắc lĩnh bài, trình việc; đầu giờ tuất đốt giấy báo hiệu tối, ta sẽ đến các nơi tra xét lại một lượt rồi nhưng người canh đêm đem nộp đủ chìa khóa cửa. Sáng hôm sau, đúng giờ mão hai khắc, mọi người lại phải có đủ mặt tại đây. Chúng ta chịu khó vất vả mấy ngày, khi công việc xong, ông các người sẽ thưởng cho.
Sau đó theo số phân phát: chè, dầu, nến, phất trần, chổi, các thứ. Một mặt sắp đặt các đồ trong nhà: bàn, ghế, nệm, chiếu, ống nhổ, đệm kê chân. Một mặt phân phát, một mặt vào sổ, ai trông chỗ nào, ai nhận thứ gì, biên chép rất rõ ràng. Mọi người nhận xong về chỗ, không như trước kia việc nhẹ thì tranh nhau làm, việc nặng chẳng ai ngó đến. Trong các phòng cũng không vì đông người nhốn nháo mà mất đồ đạc. Kẻ đến người đi, ở đâu vào đấy, không lộn xộn như trước người đang bưng nước thì lại bắt đi bưng cơm, người đang cử ai thì lại bắt đi tiếp khách. Hết thảy những chuyện lười biếng, trộm cắp cũng không xảy ra nữa.
Phượng Thư thấy mình có uy quyền, ra lệnh cho ai, đều răm rắp làm theo, trong bụng rất là đắc ý. Nhân thấy Vưu thị Ốm, Giả Trân lại thương xót quá đỗi không ăn uống được, Phượng Thư ngày nào cũng bảo nấu cháo dừ và những món ăn ngon, rồi sai người mang đến. Giả Trân hàng ngày cũng sai người sửa soạn đồ ăn ngon đưa đến chỗ Phượng Thư làm việc. Phượng Thư không ngại khó nhọc, ngày nào cũng đến đúng giờ, điểm danh người nhà và bảo ban công việc. Một mình đứng ngồi ở trong phòng, không trò chuyện với các chị em dâu, ngay bạn gái thân thuộc đến cũng không ra đưa đón.
Hôm ấy là ngày thứ năm trong tuần thất thứ năm, các vị sư làm đàn khai phương phá ngục, thắp đèn cho vong hồn vào chầu vua Diêm Vương, bắt ma quỷ, mời Địa tạng bồ tát, mở cầu vàng, dẫn cành phan 1 ; các đạo sĩ đọc sớ, chầu Tam thanh 2, lạy Ngọc Đế; các sư đốt hương, phù phép, lễ kinh Thủy sám 3 ; lại có ba sư nữ trẻ tuổi mặc áo cà sa gấm, đi giày đỏ, niệm chú Tiếp dẫn 4 ở trước linh cữu, rất là nhộn nhịp.
Phượng Thư chắc hôm ấy có nhiều khách, đúng giờ dần dậy rửa mặt chải đầu, sắm sửa đâu đấy, rồi mặc quần áo, uống sữa, súc miệng, đến giờ mão hai khắc, vợ Lai Vượng đem người nhà đến chờ sẵn. Phượng Thư ở trong nhà ra, lên xe, trước xe treo đôi đèn lồng viết ba chữ “Vinh quốc phủ”. Ngoài cửa phủ Ninh, ở giữa có đèn treo, hai bên có đèn cầy, đốt sáng như ban ngày. Người nhà mặc đồ tang, xếp hàng đứng hầu. Xe đỗ ở cửa giữa, bọn hầu nhỏ lui ra, bọn đàn bà chạy lại vén rèm. Phượng Thư xuống xe, tay vịn vào Phong Nhi, hai người đàn bà cầm đèn, đỡ Phượng Thư vào. Những người đàn bà bên phủ Ninh đều ra chào.
Phượng Thư thong thả bước vào bàn thờ ở gác Đăng tiên trong vườn Hội Phương. Vừa trông thấy quan tài, nước mắt đã lã chã như hạt châu sạ Những hầu nhỏ chắp tay đứng đợi đốt vàng. Phương Thư gọi to:
– Pha nước cúng, đốt vàng!
Một lượt thanh la và âm nhạc nổi lên. Có người mang một cái ghế tựa lớn để ở trước linh cữu, Phượng Thư ngồi xuống khóc to, hết thảy gái trai trong ngoài trên dưới đều khóc rầm lên. Giả Trân và Vưu thị sai người đến khuyên giải, Phượng Thư mới thôi.
Vợ Lai Vượng đem nước trà đến, Phượng Thư súc miệng, đứng dậy từ biệt mọi người trong họ, đi vào nhà bên, mang sổ ra gọi tên. Mọi người đều có mặt cả, chỉ trừ người giữ việc đưa đón các bạn thân là chưa thấy đến. Phượng Thư sai đi gọi ngaỵ Người kia rất sợ chạy đến. Phượng Thư cười nhạt:
– Ngỡ là ai hóa ra chính là mụ. Mụ cho mình có thể diện hơn người, nên không nghe lời ta!
Người kia nói:
– Hôm nào tôi cũng đến sớm. Hôm nay tôi đã dậy từ lâu, thấy trời còn sớm, lại ngủ mất, thành ra đi chậm một bước, xin mợ tha cho lần đầu.
Đương nói thì vợ Vương Hưng ở bên phủ Vinh sang, đứng ngoài ló đầu vào.
Phượng Thư để người ấy đứng đấy, quay sang hỏi vợ Vương Hưng:
– Chị đến có việc gì?
Vợ Vương Hưng đến gần nói:
– Đến lĩnh bài lấy chỉ để đính diềm xe và kiệu.
Nói xong nộp đơn. Phượng Thư bảo Thái Minh đọc lên: “Kiệu nhỡ hai cỗ, kiệu nhỏ bốn cỗ, xe bốn cỗ, cộng tất cả phải dùng là bao nhiêu sợi, mỗi sợi bao nhiêu cân chỉ tơ”.
Phượng Thư nghe xong, thấy số mục đúng, liền sai Thái Minh biên vào sổ, rồi lấy đối bài ở phủ Vinh ném cho vợ Vương Hưng mang đi.
Phượng Thư định quay lại câu chuyện đi trễ, lại có bốn người chấp sự Ở phủ Vinh đến, đều là những người lĩnh bài để đi lấy các thứ. Phượng Thư bảo họ đưa đơn đọc lên, nghe có bốn thứ liền trỏ vào hai thứ, bảo:
– Cái này khai nhầm, về tính lại sẽ đến lĩnh.
Nói xong vứt đơn xuống. Hai người này tưng hửng đi ra.
Phượng Thư thấy vợ Trương Tài đứng bên cạnh, hỏi:
– Chị có việc gì?
Vợ Trương Tài vội đưa đơn ra nói:
– Vừa mới thuê làm màn xe kiệu xong, đến lĩnh tiền trả công thợ may.
Phượng Thư thu lấy đơn trao cho Thái Minh vào sổ. Chờ Vương Hưng trao đồ xong, xem số trao có hợp với số mua không, rồi mới cho vợ trương Tài đi lĩnh. Sau đó lại sai đọc một đơn khác, tức là khoản tiền mua các thứ giấy, vải, hồ dán để sửa sang buồng học của Bảo Ngọc, Phượng Thư sai nhận đơn, biên sổ đợi vợ Trương Tài nộp đủ rồi mới phát.
Phượng Thư phân phát các việc xong, mới quay lại bảo:
– Ngày nay người này ngủ quên, ngày kia người kia ngủ quên, thì sẽ hết cả người. Ta cũng muốn tha cho mụ, nhưng lần đầu ta khoan thứ cho mụ, thì sau còn cai quản được ai? Chi bằng cứ xử trí ngay.
Nói xong lập tức nghiêm nét mặt, gọi:
– Mang mụ này ra đánh hai mươi roi.
Thấy Phượng Thư nổi giận, lông mày dựng ngược, không ai dám chậm trễ, người thì lôi mụ ra, người thì nhặt lấy đôi hài. Mụ kia bị đánh hai mươi roi, lại phải đến lạy tạ.
Phượng Thư nói:
– Ngày mai còn chậm, sẽ đánh bốn mươi roi, ngày kia đánh sáu mươi roi. Đứa nào muốn chịu đòn thì cứ chậm. Thôi, cho đâu về đấy.
Mọi người đứng ngoài cửa sổ, nghe vậy, đều răm rắp đi làm việc. Những người ở hai phủ Ninh, phủ Vinh đến lĩnh thẻ trả thẻ, đi lại tấp nập. Người đàn bà bị đòn xấu hổ bỏ đi. Lúc này mọi người mới biết Phượng Thư là tay ghê gớm, nên ai nấy nơm nớp lo sợ, làm việc cẩn thận, không dám lười biếng nữa.
Bảo Ngọc thấy đông người, sợ Tần Chung khó chịu, liền rủ đến chỗ Phượng Thư ngồi. Tần Chung nói:
– Bên ấy đang bận việc. Vả lại, chị ấy cũng không thích có người đến. Chúng ta đến đó sợ làm phiền chị ấy.
Bảo Ngọc nói:
– Phiền cái gì? Không ngại. Cứ theo ta.
Nói xong liền kéo Tần Chung đi.
Phượng Thư đang ăn cơm, thấy chúng đến, cười nói:
– Sao mà nhanh chân thế! Mau lên đây.
Bảo Ngọc nói:
– Chúng tôi vô phép rồi.
– Ăn ở bên nhà hay bên này?
– Ở bên này đông người, ăn làm sao được. Chúng tôi ăn bên cụ rồi mới lại đây.
Nói xong, ngồi xuống.
Phượng Thư ăn xong, có một người đàn bà ở phủ Ninh đến lĩnh bài để lấy đến hương. Phượng Thư cười bảo:
– Ta chắc hôm nay chị phải đến lĩnh. Không thấy chị đến, ta cứ tưởng chị quên, hóa ra bây giờ mới lĩnh. Nếu quên thực, thì chị phải xuất tiền ra, càng lợi cho ta.
Người ấy cười nói:
– Tôi quên thật, vừa mới nhớ ra, nếu chậm một bước nữa thì có lẽ không lĩnh được.
Nói xong lĩnh bài đi.
Đương lúc biên sổ, trao bài. Tần Chung cười nói:
– Cả hai phủ đều dùng một thứ bài, lỡ có người làm bài giả đi lĩnh tiền, thì làm thế nào?
Phượng Thư nói:
– Cứ như cháu nói thì ra không còn có phép vua nữa!
Bảo Ngọc hỏi:
– Sao bên nhà ta không có ai đến đây lĩnh bài để lấy đồ vật?
Phượng Thư nói:
– Khi họ đến thì chú hãy còn trong giấc chiêm bao kia! Tôi hỏi chú bao giờ các chú bắt đầu học tối?
– Chỉ trông mong học ngay từ bây giờ; nhưng họ chưa thu xếp xong buồng học nên đành chịu vậy.
– Chú cứ nói với chị là xong ngay.
– Chị cũng chẳng làm gì được, khi nào họ có làm thì mới xong.
– Họ dù có làm cũng phải cần các thứ, ta không cấp đối bài thì cũng khó mà làm được!
Bảo Ngọc nghe nói, xoắn lấy ngay Phượng Thư, đòi cho đối bài ngay tức khắc:
– Chị Ơi, phát ngay bài cho họ đi sắm sửa các thứ.
– Ta mệt rồi, đau dừ cả người, chịu sao được cái lối quấy rầy của chú? Cứ yên tâm, hôm nay họ đã lĩnh giấy dán rồi, họ cần thứ gì thì đến lĩnh, còn chờ gọi à? Sao chú ngốc thế?
Bảo Ngọc không tin. Phượng Thư gọi Thái Minh đem sổ cho xem. Bỗng có người vào trình:
– Chiêu Nhi ở Tô Châu đã về.
Phượng Thư bảo gọi ngay vào. Chiêu Nhi quì xuống vái chào. Phượng Thư hỏi về làm gì? Chiêu Nhi nói:
– Cậu con bảo về. Cụ Lâm đã mất hôm mồng ba tháng chín. Cậu con đưa cô Lâm và linh cữu cụ Lâm về Tô Châu, độ cuối năm nay mới về. Cậu sai con về báo tin, hỏi thăm sức khỏe cụ, chờ chỉ thị của cụ và xem các mợ Ở nhà có mạnh khỏe cả không. Cậu con lại dặn lấy mấy bộ áo da mang đi.
– Mày đã gặp mọi người chưa?
– Đã gặp cả rồi.
Nói xong vội vàng đi ra.
Phượng Thư nói với Bảo Ngọc:
– Cô Lâm có thể ở lâu được với chúng ta.
Bảo Ngọc nói:
– Khổ quá! Không biết mấy hôm nay em nó thương khóc đến thế nào!
Nói xong cau mày thở dài.
Phượng Thư thấy Chiêu Nhi về, trước mặt mọi người không kịp hỏi kỹ về Giả Liễn, nhưng nóng lòng sốt ruột, chỉ muốn về ngaỵ Vì công việc chưa xong, nên đành phải chịu. Chiều về, Phượng Thư gọi ngay Chiêu Nhi đến hỏi kỹ xem trên đường Giả Liễn có được bình an không. Suốt đêm Phượng Thư cùng Bình Nhi sửa soạn áo da, lại nghĩ xem chồng ở ngoài cần những thứ gì gói cả vào một gói trao cho Chiêu Nhị Phượng Thư lại dặn dò Chiêu Nhi: “Phải hết sức hầu hạ cậu, đừng để cho cậu giận. Phải luôn luôn khuyên cậu ít rượu, không được đưa cậu đi lại với bọn con gái bậy bạ. Tao mà biết được, về đây tao sẽ đánh mày gãy chân”.
Chiêu Nhi cười, vâng lời đi ra.
Phượng Thư mãi canh tư mới đi ngủ, trời sáng lúc nào không biết, vội vàng dậy rửa mặt chải đầu rồi đi sang phủ Ninh.
Giả Trân thấy sắp đến ngày phát dẫn, liền lên xe mang theo người coi ty âm dương đến chùa Thiết Hạm xem xét chỗ quàn linh cữu. Lại dặn dò kỹ lưỡng nhà sư Sắc Không sửa soạn đồ lễ chuẩn bị mời các vị danh tăng đến để làm lễ tiếp linh. Giả Trân không nghĩ gì đến ăn uống, vì gần tối không tiện về nhà, phải ngủ lại đấy một đêm. Sáng sớm hôm sau, vội vàng trở về, lo liệu việc cất đám; một mặt sai người đến chùa Thiết Hạm sửa sang gấp chỗ để linh cữu, chỗ bếp núc và số người rước linh. Ngày phát dẫn sắp đến Phượng Thư phân phái người đi lo liệu các việc; mặt khác sai người phủ Vinh sắp sửa xe kiệu theo Vương phu nhân đi đưa đám, và thu xếp chỗ mình nghỉ.
Lúc này lại dồn dập nhiều việc như tang bà Thiện quốc công, Hình phu nhân, Vương phu nhân phải đến viếng và đi đưa đám; sinh nhật bà Tây An quận phi, phải đưa lễ mừng; lại có anh ruột là Vương Nhân và gia quyến về Nam, phải viết thư và sắm sửa các thứ mang về nhà; lại thêm Nghênh Xuân ốm, ngày nào cũng phải mời thầy xem bệnh, bốc thuốc. Phượng Thư bận quá đứng ngồi không yên, còn nghĩ gì đến ăn uống. Khi sang phủ Ninh thì người phủ Vinh đi theo, khi về phủ Vinh thì người phủ Ninh tới tìm. Thấy vậy, Phượng Thư càng hăm hở, không hề thoái thác việc gì, lỡ để người ngoài chê trách. Vì vậy ngày đêm bận rộn, tính toán công việc đâu vào đấy, nên trong họ, trên dưới ai cũng khen ngợi.
Chiều hôm trước ngày đưa đám, họ hàng bạn hữu cùng các ban âm nhạc đến đầy nhà. Vưu thị vẫn ốm nằm trong buồng, một mình Phượng Thư đảm đang hết mọi việc. Trong họ tuy có nhiều chị em dâu, nhưng người thì ăn nói vụng về, người thì đi đứng hấp tấp, hoặc e lệ với bọn quyền quý nên không quen tiếp khách. Riêng có Phượng Thư là người cử chỉ khoan thai, nói năng khoát đạt, tỏ vẻ cao quý, rộng rãi, nên chẳng coi ai vào đâu tha hồ phung phí, sai phái, muốn làm gì thì làm.
Suốt đêm hôm ấy, đèn đuốc sáng trưng, kẻ đưa người đón, rộn rịp trăm đường, chẳng cần phải nói. Sáng hôm sau, được giờ tốt, một bọn sáu mươi tư người mặc áo xanh rước linh, mặt trước minh tinh viết một dòng chữ lớn
“Linh cữu của nghi nhân họ Tần, quan hàm Ngự tiền thị vệ Long Cẩm úy đạo Tử cấm, phòng Hộ nội đình là cháu dâu trưởng họ Giả cáo phong nhất đắng Ninh quốc công. Thiên triều Hồng phúc triệu năm”. Bao nhiêu đồ chấp sự và trần thiết đều làm một loạt mới, trông choáng cả mắt. Bảo Châu theo lễ con gái chưa lấy chồng, chịu tang dẫn linh cữu, khóc lóc rất thảm thiết.
Quan khách đến đưa đám có: tập tước Bá nhất đẳng Ngưu Kế Tông là cháu Trần quốc công Ngưu Thanh; tập tước tử nhất đẳng Liễu Phương là cháu Lý quốc công Liễu Bưu; tập tước tam phẩm Uy trấn tướng quân Trần Thụy Văn là cháu Tề quốc công Trần Dực; tập tước tam phẩm Uy viễn tướng quân Mã Thượng là cháu Trị quốc công Mã Khôi; tập tước nhất đẳng Tử Hầu Hiếu Khang là cháu Tu quốc công Hầu Hiếu Minh; duy có bà Thiện quốc công chết, cháu là Thạch Quang Châu không đến được: Bấy giờ người ta gọi sáu nhà này cùng hai nhà Ninh, Vinh là “bát công”.
Ngoài ra còn có: cháu Nam An quận vương, cháu Tây Ninh quận vương, Trung tĩnh hầu Sử Đĩnh; tập tước nhị đẳng Nam là Tưởng Tử Ninh, cháu Bình Nguyên Hầu; tập tước nhị đẳng Nam kiêm chức Kinh doanh du kích là Tạ Côn, cháu Định thành hầu; tập tước nhị đẳng Nam là Thích Kiến Huy, cháu Tương Dương hầu; Ngũ thành binh mã Ty là Cừu Lương, cháu Cảnh Điền hầu. Lại còn các vương tôn công tử như Hàn Kỳ là con Cẩm hương bá, Phùng Tử Anh là con Thần vũ tướng quân, Trần Dã Tuấn và Vệ Nhược Lan… không kể xiết được. Khách đàn bà có độ mười kiệu lớn, ba bốn mươi kiệu nhỏ, cùng với kiệu xe trong nhà hơn một trăm cỗ. Trước mặt có bày các thứ lộ bộ chấp sự đi nối nhau một dãy dài đến ba bốn dặm đường.
Bên đường, có những trạm kết hoa cao ngất, bày cỗ bàn, tấu âm nhạc. Đó là trạm tế giữa đường của các nhà. Trạm thứ nhất là của Đông Bình quận vương, trạm thứ hai là của Nam An quận vương, trạm thứ ba là của Tây Ninh quận vương, trạm thứ tư là của Bắc Tĩnh quận vương. Trong bốn vị vương này, khi trước chỉ có Bắc Tĩnh vương công cao nhất, nên con cháu vẫn được tập tước… Hiện nay Bắc Tĩnh vương là Thủy Dung, chưa đầy hai mươi tuổi, tuấn tú khác thường, tính tình nhũn nhặn. Được tin vợ cháu đích tôn phủ Ninh chết, nghĩ đến tình nghĩa ngày trước ông cha hai nhà chơi thân với nhau, Bắc Tĩnh vương không nghĩ mình là tước vương, hôm trước đã đến nhà hỏi thăm, làm lễ điếu tang, nay lại sửa lễ tế giữa đường, sai các thuộc hạ túc trực ở đấy. Canh năm vào chầu xong, Bắc Tĩnh vương mặc đồ trắng, ngồi kiệu, đánh chiêng trương lọng đến trước trạm đỗ xuống. Các quan đứng hầu hai bên, không cho quân dân qua lại.
Một chốc, đám ma phủ Ninh như ngọn núi bạc, trắng xóa trên mặt đất, rầm rầm rộ rộ, từ phương Bắc đến. Thấy trạm tế, người giữ việc của phủ Ninh quay lại báo, Giả Trân truyền ngay nhưng người cầm chấp sự đằng trước đứng lại, rồi cùng Giả Xá, Giả Chính, vội vàng theo quốc lễ đến yết kiến. Bắc Tĩnh vương ngồi trong kiệu nghiêng mình mỉm cười đáp lễ. Trong khi trò chuyện, Bắc Tĩnh vương vẫn dùng tiếng xưng hô như bạn bè thân mật, không có ý gì tỏ vẻ cao quý cả. Giả Trân nói:
– Con dâu kẻ hèn hạ này mất, phiền đức vương hạ cố nhiều lần, bọn chúng tôi đâu dám nhận!
Bắc tĩnh vương cười nói:
– Chúng ta là chỗ bạn thân đời đời với nhau, sao lại nói thế?
Rồi quay lại bảo trưởng phủ quan thay mình chủ tế. Bọn Giả Xá đứng cạnh đáp lễ, rồi thân đến tạ Ơn.
Bắc Tĩnh vương tỏ ý rất khiêm tốn, nhân hỏi Giả Chính:
– Có cậu con ngài khi mới sinh ngậm ngọc, tôi muốn xem mặt đã lâu, đều bị việc trở ngại. Hôm nay chắc cậu ấy có ở đây, sao không mời lại?
Giả Chính vội lui ra, gọi Bảo Ngọc thay áo rồi dẫn lại yết kiến. Bảo Ngọc xưa nay nghe tiếng Bắc Tĩnh vương là người hiền đức, tài mạo khác thường, phong lưu, phóng khoáng, không câu nệ lối quyền quý, vẫn muốn được gặp, nhưng vì cha ngăn giữ, không được như ý. Nay thấy gọi, rất là vui mừng, vội chạy lại liếc nhìn, thấy Bắc tĩnh vương nghiêm trang phong nhã đương ngồi trong kiệu.
1 Theo lễ bên nhà chùa; tức là Đàn mông sơn.
2 Theo phái đạo gia (phái tu tiên). Tam thanh là ba cõi trong sạch nhất: Ngọc thanh, Thượng thanh, Thái thanh. Có thuyết cho là ba vị thánh: Nguyên thủy thiên tông; Thái thượng đạo quân; Thái thương lão quân.
3 Những nghi lễ riêng bên nhà chùa, thường dùng trong tuần bốn mươi chín ngày để siêu độ vong linh.
Bảo Ngọc thấy Bắc Tĩnh vương đầu đội mũ tước vương, trâm ngọc, cánh chuồn bạc, mình mặc áo gấm trắng, thêu rồng năm móng, đai dạ màu đỏ, dát ngọc bích; mặt như ngọc, mắt như sao, thực là một bực tuấn tú. Bảo Ngọc vội chạy đến chào. Thủy Dung ở trong kiệu giơ tay ra kéo lại gần, thấy Bảo Ngọc đội mũ chóp bạc, đeo cái che trán thêu đôi rồng vờn, mặc áo chẽn thêu rồng trắng, thắt đai bạc, dát hạt châu; mặt tươi như hoa, mắt đen nhánh. Bắc Tĩnh vương cười nói:
– Tiếng đồn không sai, quả là “bảo ngọc!”
Lại hỏi:
– Bảo bối ngậm khi mới sinh, bây giờ ở đâu?
Bảo Ngọc vội lấy ở trong áo đưa ra. Bắc Tĩnh vương ngắm nghía mãi, đọc mấy chữ khắc ở viên ngọc, rồi hỏi:
– Có linh nghệm thực không?
Giả Chính đáp:
– Tuy thế, cũng chưa thử bao giờ.
Bắc Tĩnh vương luôn miệng khen lạ, vuốt lại dải đeo, rồi tự tay đeo cho Bảo Ngọc. Sau lại dắt tay Bảo Ngọc hỏi:
– Năm nay bao nhiêu tuổi? Học sách gì?
Bảo Ngọc trả lời rành rọt từng câu.
Bắc Tĩnh vương thấy Bảo Ngọc giọng nói trong trẻo, chuyện trò phong nhã, liền ngoảnh lại bảo Giả Chính:
– Cậu bé nhà ta thực là “long câu phượng sồ” 1, không phải tiểu vương này nói đường đột trước mặt ngài đâu. Sau này tiếng phượng non trong hơn tiếng phượng già 2 cũng chưa biết chừng.
Giả Chính cười nói:
– Cháu ngu dại đâu dám nhận những lời vàng ngọc ấy. Nhờ ơn đức người, được thế thì thật là may cho chúng tôi.
Bắc tĩnh vương lại nói:
– Có một điều lạ, tư chất cậu bé như thế, chắc cụ nhà yêu lắm thì phải, nhưng bọn hậu sinh chúng ta thì đừng nên nuông quá, nuông quá sẽ làm cho cậu ta sao nhãng việc học. Tiểu vương này trước cũng ở trong cảnh ngộ ấy, e cậu ta rồi cũng như thế. Nếu ở nhà không tiện cho việc học, thì không ngại gì thỉnh thoảng ngài cho cậu ấy sang bên tôi. Tôi dù không có tài, nhưng được các bực danh sĩ trong nước quá yêu, hễ ai đến kinh đô đều có lòng hạ cố. Vì thế trong nhà thường có các bậc cao nhân họp mặt. Nếu cậu ấy năng lại chơi, thì việc học cũng có thể ngày một tiến hơn.
Giả Chính vội cúi đầu đáp: xin vâng.
Bắc Tĩnh vương lại tháo chuỗi hạt châu đeo trong cánh tay đưa cho Bảo Ngọc, nói:
– Hôm nay mới gặp lần đầu, không có vật gì tặng, xin lấy chuỗi hạt châu này là vật ban thưởng của thánh thượng, tạm làm lễ mừng.
Bảo Ngọc vội đỡ lấy, quay lại đưa cho Giả Chính. Giả Chính dắt bảo Ngọc lại tạ Ơn. Sau đó Giả Xá, Giả Trân đều đến cúi đầu xin mời quay xe về. Bắc Tĩnh vương nói:
– Người mất đã lên cõi tiên, không như chúng ta lận đận ở dưới trần này. Tôi tuy nhờ ơn trời, lạm tập vương tước, có lẽ nào dám vượt trước xe tiên?
Bọn Giả Xá đành phải tạ Ơn, quay lại bảo người nhà im hẳn tiếng nhạc, rước cữu lẳng lặng đi qua, rồi mời Bắc Tĩnh vương về.
Đám ma phủ Ninh làm nhộn nhịp suốt cả quãng đường. Ra đến cửa thành, lại có các trạm tế của các đồng liêu thuộc hạ Giả Xá, Giả Chính và Giả Trân. Khi tang gia tạ Ơn xong, đám ma rước ra ngoài thành, theo đường lớn đi về chùa Thiết Hạm. Bấy giờ Giả Trân dẫn Giả Dung đi mời các bực tôn trưởng lên kiệu, lên ngựa. Bọn Giả Xá đều lên kiệu, bọn Giả Trân cũng sắp sửa lên ngựa. Phượng Thư chợt nghĩ đến Bảo Ngọc, sợ ra ngoài thành hay chơi đùa, không chịu nghe lời người nhà. Giả Chính thì không để ý đến việc vặt, lỡ xảy chuyện gì sẽ bị Giả mẫu quở trách, bèn sai tên hầu bé đi gọi. Bảo Ngọc đến trước xe, Phượng Thư cười nói:
– Em ơi, em là bực tôn quý, cũng như các vị thiên kim tiểu thư, đừng bắt chước họ ngồi chồm chỗm trên ngựa như con khỉ ấy. Hãy xuống đây, chị em ta cùng ngồi xe chẳng hơn ư?
Bảo Ngọc nghe nói, xuống ngựa, trèo lên xe, cùng đi với Phượng Thư.
Một lát, có hai người cưỡi ngựa đến gần xe Phượng Thư, xuống ngựa, bíu xe lại nói:
– Đây có chỗ nghỉ, xin mợ hãy nghỉ chốc lát.
Phượng Thư bảo ra mời Hình phu nhân và Vương phu nhân. Hai người kia nói:
– Các vị bảo không cần phải nghỉ, còn mợ thì cứ tùy tiện.
Phượng Thư truyền cho nghỉ một lát sẽ đi. Bọn hầu nhỏ dắt kiệu rẽ đám đông quay sang phía bắc. Bảo Ngọc vội sai người đi mời Tần Chung. Tần Chung đang cưỡi ngựa đi theo kiệu cha, thấy đứa hầu Bảo Ngọc mời nghỉ lại ăn lót dạ. Nhìn xe Phượng Thư đi về phía bắc, mà ngựa của Bảo Ngọc thì để nguyên yên, Tần Chung biết ngay là hai người cùng ngồi một xe, liền cưỡi ngựa chạy theo, cùng vào trong trại. Người nhà đã đứng sẵn đó, đuổi hết cả đàn ông đi.
Trại này chỉ lơ thơ mấy nóc nhà, đàn bà con gái không có chỗ lẩn tránh, đành đứng liều đấy. Thấy dáng bộ khoan thai và quần áo lộng lẫy của Phượng Thư, Bảo Ngọc và Tần Chung, ai nấy đều dán mắt nhìn. Phượng Thư đi vào một ngôi nhà tranh, bảo bọn Bảo Ngọc ra ngoài chơi. Bảo Ngọc biết ý, cùng Tần Chung đem lũ hầu bé ra chơi các nơi. Trông thấy những vật dụng trong trại, họ rất lấy làm lạ, không biết gọi tên là gì, dùng để làm gì. Trong bọn hầu có người kể rõ từng cái một. Bảo Ngọc nghe xong, gật đầu nói:
– Không trách được, cổ nhân có câu: “Ai biết đầy mâm cơm trắng muốt. Hạt nào cũng đẫm những mồ hôi”.
Đi đến một gian buồng, Bảo Ngọc rất lấy làm lạ khi thấy có một cái guồng kéo sợi đặt ở trên giường. Bọn hầu nhỏ nói:
– Đó là cái guồng kéo sợi để dệt vải đấy.
Bảo Ngọc trèo lên giường cầm guồng quay, thì thấy một người con gái độ 17, 18 tuổi, ăn mặc lối nhà quê chạy lại nói:
– Đừng làm hỏng đấy!
Bọn hầu nhỏ chạy đến quát mắng om sòm.
Bảo Ngọc ngừng tay lại nói:
– Ta không trông thấy cái này bao giờ, nên quay thử một tý chơi.
Người con gái nói:
– Ở nơi các cậu làm gì có cái này! Đứng xa ra, để tôi quay cho mà xem.
Tần Chung kéo Bảo Ngọc lại nói thầm:
– Cô này rất có tình tứ.
Bảo Ngọc đẩy ra nói:
– Đồ đáng chết, nếu còn nói nhảm nữa ta đánh cho bây giờ.
Nói xong, đứng xem người con gái quay guồng. Chợt thấy một bà già ở bên kia gọi:
– Con Hai về đây ngay!
Người con gái bỏ guồng chạy đi.
Bảo Ngọc có vẻ buồn thiu. Phượng Thư cho gọi hai người về. Phượng Thư rửa tay, thay quần áo xong, hỏi Bảo Ngọc có thay không? Bảo Ngọc trả lời “không thay”. Bọn người hầu mang hoa quả và pha trà thơm bưng lên. Phượng Thư uống nước rồi chờ cho mọi người thu xếp xong xuôi mới đứng dậy lên xe.
Bên ngoài Vượng Nhi lấy phong bao thưởng cho những người trong trại, họ vội đến lĩnh thưởng và cảm ơn. Phượng Thư không thèm để ý đến. Bảo Ngọc cố chú ý nhìn, không thấy người con gái kéo sợi đâu cả. Đi một quãng, thấy người con gái ấy ẵm em, cùng với hai đứa bé nữa cười cười nói nói đi lại. Bảo Ngọc định xuống xe gặp cô ta, nhưng chắc chẳng ai cho xuống, chỉ liếc mắt nhìn lại. Xe ngựa đi nhanh như gió, trong nháy chẳng còn thấy dấu vết gì nữa.
Đi một quãng đã theo kịp đám mạ Mặt trước có đủ chiêng, trống, phướn, lọng. Các sư ở chùa Thiết Hạm đứng xếp hàng hai bên đường. Một lát, đến chùa lại lập đàn tụng kinh, rồi đặt linh cữu ở cái nhà gần bên đền phía trong. Bảo Châu sửa soạn chỗ nằm ngay cạnh linh cữu. Bên ngoài thì Giả Trân tiếp khách đàn ông, có người ở lại ăn cơm, có người cáo từ ra về, Giả Trân đều tỏ lời cảm tạ. Các tân khách từ tước công, tước hầu, tước bá, tước tử, tước nam, lần lượt ra về, đến cuối giờ mùi mới hết.
Bên trong, Phượng Thư tiếp các bà, cũng theo phẩm tước đến quá ngọ thì lần lượt về hết. Chỉ còn những người họ thân ở lại ban ngày chờ làm lễ xong mới về. Hai bà Hình phu nhân, Vương phu nhân biết Phượng Thư không về ngay được, muốn đem Bảo Ngọc về trước. Nhưng Bảo Ngọc, mới xuống hương thôn lần đầu, khi nào chịu về ngay cứ nằng nặc đòi ở lại với Phượng Thự Vương phu nhân đành phái giao cho Phượng Thư, rồi về.
Chùa Thiết Hạm là do hai ông Ninh, Vinh ngày trước dựng nên, có đặt ruộng đất hương hỏa để phòng khi trong họ Ở kinh có ai qua đời thì quàn cữu ở đây. Trong chùa có làm hai nơi, một để quàn linh cữu, một để người đi đưa đám nghỉ ngơi. Không ngờ về sau người nhiều, lại giàu nghèo không đều, hoặc tính tình khác nhau, nên nhà nào nghèo, thì khi đến đưa đám đều ở lại đây; còn nhà giàu sang muốn bày vẽ, thì cho là ở đấy không tiện, lại tìm ra ngoài, hoặc là trang trại, hoặc là chùa chiền nào, để khi xong việc sẽ về đấy nghỉ ngơi.
Nay đến đám ma họ Tần, những người trong họ đi đưa đều ở lại chùa Thiết Hạm cả, chỉ có Phượng Thư cho là ở lại đây không tiện, sai người đến nói với sư cô Tĩnh Hư ở chùa Mạn Đầu, dọn sẵn cho vài gian buồng để nghỉ. Chùa Mạn Đầu tức là chùa Thủy Nguyệt, vì ở đấy làm bánh mạn đầu ngon có tiếng, cho nên mới có tên ấy. Chùa này cách chùa Thiết Hạm không xa mấy.
Khi hòa thượng tụng kinh xong, cúng cơm chiều, Giả Trân sai Giả Dung đến mời Phượng Thư đi nghỉ. Phượng Thư thấy có mấy chị em tiếp khách hộ, bèn cáo từ mọi người, dắt Bảo Ngọc và Tần Chung sang chùa Mạn Đầu. Tần Nghiệp tuổi già nhiều bệnh, phải về nhà để Tần Chung ở lại dự lễ, vì thế Tần Chung ở lại với Phượng Thư và Bảo Ngọc. Một lúc đến chùa, sư cô Tĩnh Hư mang hai tiểu Trí Thiện, Trí Năng ra đón. Mọi người chào nhau. Phượng Thư vào nhà riêng thay áo, rửa tay, trông thấy Trí Năng càng lớn thân hình càng ngồn ngộn dễ yêu, liền nói:
– Thầy trò nhà ngươi lâu nay không thấy sang chơi?
Tĩnh Hư nói:
– Mấy hôm trước, nhà cụ Hồ sinh hạ cậu trai, bà Hồ đưa sang mười lạng bạc bảo mời mấy vị sư phụ niệm kinh “huyết bồn” trong ba ngày. Chúng tôi bận quá, nên không sang thăm sức khỏe mợ được.
Khi sư già tiếp Phượng Thư, thì Tần Chung, Bảo Ngọc ngồi chơi ở trên đền. Trông thấy Trí Năng đi qua, Bảo Ngọc cười nói:
– Con Năng đến kia kìa.
Tần Chung nói:
– Nhắc đến nó làm gì!
– Mi đừng nói dối, vừa mới hôm nào, ở nhà bà ta, trong lúc vắng người, mi ôm nó làm gì? Bây giờ mi còn dối ta à?
– Làm gì có chuyện ấy?
– Có hay không, thây kệ mi, chỉ bảo nó pha trà ta uống thì êm chuyện hết.
– Lạ thật! Anh bảo nó pha trà, nó không pha hay sao? Lại cứ phải nhờ tôi bảo?
– Ta bảo nó thì chẳng lý thú gì cả, mi bảo nó mới có tình tứ hơn.
Tần Chung không từ chối được, phải nói:
– Năng, pha trà lên đây.
Trí Năng từ bé vẫn đi lại phủ Vinh, thường chơi đùa với Bảo Ngọc và Tần Chung, ai cũng biết cả. Bây giờ nó đã lớn, hơi biết chuyện gió trăng và đã để ý đến Tần Chung là người có dáng bộ phong lưu. Tần Chung cũng yêu nó có duyên dáng thùy mị. Hai người tuy chưa được gần gụi nhau, nhưng đã tình đầu ý hợp rồi. Trí Năng bưng trà đến, Tần Chung bảo đưa cho Tần Chung, Bảo Ngọc bảo đưa cho Bảo Ngọc. Trí Năng bĩu môi cười:
– Có một chén trà cũng tranh nhau, có lẽ tay tôi dính mật chăng?
Bảo Ngọc giật lấy uống trước, vừa muốn nói chuyện, thì Trí Thiện gọi Trí Năng đi bày các thức quả. Một lúc mời hai người vào ăn. Hai người khi nào chịu ăn nhưng thứ ấy! Họ ngồi một lát rồi rủ nhau ra ngoài chơi.
Phượng Thư cũng vào nhà riêng nghỉ, có sư già tiếp đãi. Những người hầu thấy không có việc gì, đều ra chỗ khác nghỉ, chỉ còn vài người hầu nhỏ thân cận ở lại. Sư già thừa dịp nói:
– Tôi có một việc muốn đến phủ nhờ bà Hai, nay xin hỏi ý mợ trước.
Phượng Thư hỏi việc gì? Sư già đáp:
– A di đà phật! Khi trước tôi mới xuất gia, đến ở chùa Thiện Tài, huyện Trường An, nơi đó có một thí chủ họ Trương, giàu lắm. Ông ta có cô con gái lúc bé tên là Kim Kha, thường hay đến chùa lễ phật. Một hôm gặp Lý công tử là em vợ Ông phủ Trường An. Trông thấy Kim Kha, Lý công tử xiêu lòng ngay, lập tức nhờ người đến hỏi. Nhưng Kim Kha đã nhận lời con ông Thủ Bị phủ Trường An rồi. Họ Trương muốn thoái hôn, lại sợ Ông Thủ Bị không nghe, nên phải trả lời với họ Lý là đã có người hỏi rồi. Lý công tử nhất định đòi lấy. Họ Trương thấy khó xử, không biết gả con cho bên nào. Ông Thủ Bị nghe tin ấy, chẳng hỏi trắng đen gì, đến làm ầm lên: “Có một con gái mà định gả cho mấy người à?” Ông ta không bằng lòng thoái hôn, và đi kiện ngaỵ Nhà gái bí quá, phải cho người vào kinh chạy thầy chạy thợ, và tức khí nhất định thoái hôn. Tôi nghĩ hiện nay cụ Vân làm Tiết độ sứ Trường An là chỗ thân với phủ tạ Tôi muốn nhờ bà nhà nói với ông lớn viết thư cho cụ Vân nói với ông Thủ Bị một câu, thì thế nào ông ấy chẳng phải nghe. Nếu được như thế thì họ Trương có dốc hết cơ nghiệp để tạ Ơn cũng vui lòng.
Phượng Thư cười nói:
– Việc có to tát gì bà ta chẳng thèm bận tâm đến đâu.
– Bà nhà không thèm nhìn đến, nhưng mợ vẫn có thể giúp được
– Ta không cần tiền, cũng chẳng làm việc ấy.
Sư già nghe nói, nghĩ ngợi một lúc rồi thở dài:
– Đã hay là thế. Nhưng họ Trương biết rõ tôi đến nhờ phủ ta rồi. Nếu không giúp, họ Trương có biết đâu là phủ ta không thèm làm, không thèm lễ tạ, mà lại cho rằng những việc nhỏ nhặt như thế phủ ta cũng không làm nổi.
Phượng Thư nghe xong, tự nhiên thấy cao hứng nói:
– Sư già hẳn đã biết rõ tính ta lắm. Xưa nay ta chẳng tin sự báo ứng âm ty địa ngục gì cả. Bất cứ việc gì ta đã làm là làm. Bảo họ đưa ba nghìn lạng bạc đến đây, ta sẽ nói hộ cho.
Sư già nghe xong mừng lắm vội nói:
– Có ngay! Có ngay! Việc ấy chẳng khó gì.
– Ta không phải như bọn người đưa đón để kiếm lời. Ba nghìn lạng bạc này chẳng qua để làm món tiền phí tổn đi lại vất vả cho người nhà, chứ ta thì chẳng cần một đồng, ngay đến ba vạn lạng ta cũng có sẵn.
– Đã thế, ngày mai nhờ mợ làm ơn cho.
– Ta bận lắm, có chỗ nào là thiếu được. Ta đã nhận lời, thể nào cũng giúp bằng được.
– Việc này nếu vào người khác, chưa biết bận rộn đến chừng nào, nhưng đối với mợ thì dù có khó đến đâu cũng chỉ gảy cái móng tay là xong. Tục ngữ có câu: “Càng giỏi giang càng vất vả”. Bà nhà thấy mợ thông minh, thì giao hết mọi việc. Nhưng mợ cũng nên cẩn thận giữ gìn sức khỏe mới được.
Sư già hết sức tâng bốc, càng làm cho Phượng Thư lên nước, không nghĩ gì đến khó nhọc, câu chuyện càng nở như cơm vàng.
Tần Chung thừa dịp trời tối vắng người, đi tìm Trí Năng. Hắn vừa đến buồng sau, thì gặp Trí Năng đương ngồi một mình rửa ấm chén. Tần Chung kéo ngay lại hôn. Trí Năng vội lùi bước nói:
– Làm cái gì thế! Còn thế nữa, tôi sẽ kêu to lên.
Tần Chung van nài:
– Em ơi, anh chết mất! Nếu hôm nay em không nghe anh, anh đành chết ngay ở đây!
– Cậu muốn thế nào, trừ phi em ra khỏi nơi giam hãm, xa rời những người ở đây mới được.
– Việc ấy dễ thôi, nhưng nước ở xa làm thế nào cho đỡ khát ngay bây giờ!
Nói xong tắt phụt ngay đèn, nhà tối như mực. Hắn ôm Trí Năng lên giường định giở cuộc mây mưa. Trí Năng thì hết sức giãy giụa, nhưng không dám kêu, sau đành phải chịu vậy. Đang lúc hứng lên, bất thình lình có một người đến, chẳng nói chẳng rằng, đè chặt hai người xuống. Tần Chung và Trí Năng sợ quá không hiểu là ai, cứ nằm nép dài, không dám động đậy. Bỗng “phì” một tiếng, có người phá lên cười, họ mới biết là Bảo Ngọc.
Tần Chung hậm hực nói:
– Làm trò gì thế?
Bảo Ngọc nói:
– Nếu mi không nghe, ta sẽ kêu ầm lên.
Trí Năng thẹn quá, thừa lúc tối chạy biến mất. Bảo Ngọc kêu Tần Chung ra ngoài nói:
– Mi còn già thồm nữa thôi?
Tần Chung cười nói:
– Xin anh đừng to tiếng khỏi vỡ chuyện. Anh muốn gì tôi cũng xin vâng.
Bảo Ngọc cười nói:
– Bây giờ không cần nói vội, để chốc nữa đi ngủ, ta sẽ kể tội cho.
Một lúc, hai người cởi áo đi ngủ, Phượng Thư nằm ở nhà trong, Bảo Ngọc, Tần Chung nằm ở nhà ngoài. Bọn hầu đàn bà giải chiếu ở dưới đất ngồi canh đêm. Phượng Thư sợ mất viên ngọc thiêng, chờ Bảo Ngọc ngủ rồi, sai người đến lấy và cất vào bên gối mình. Việc Bảo Ngọc kể tội Tần Chung thế nào chưa biết rõ, đó còn là một nghi án, nên không dám viết ra đây.
Sáng hôm sau, Giả mẫu và Vương phu nhân sai người đến thăm Bảo Ngọc, bảo phải mặc thêm quần áo, không có việc gì thì về nhà. Bảo Ngọc không nghe, Tần Chung còn mến tiếc Trí Năng, xui Bảo Ngọc nói với Phượng Thư ở lại một ngày nữa. Phượng Thư nghĩ: tang lễ tuy đã xong rồi, nhưng còn mấy việc vặt chưa sắp xếp ổn thỏa; nên ở thêm một ngày nữa. Một là để Giả Trân vừa lòng; hai là để xong việc của Tĩnh Hư; ba là để chiều ý Bảo Ngọc. Giả mẫu nghe thấy tất cũng vui lòng. Liền dặn Bảo Ngọc:
– Việc chị làm xong cả rồi, em còn muốn ở lại chơi, chị cũng đành nán lại hôm nữa. Nhưng thế nào sớm mai cũng phải về.
Bảo Ngọc nói:
– Muôn lạy chị, ngàn lạy chị, em chỉ ở lại một ngày nữa thôi. Sớm mai nhất định sẽ về.
Mấy người lại ở lại một đêm nữa.
Phượng Thư đem việc sư già nói hôm trước khẽ bảo Lai Vượng. Lai Vượng hiểu ý, vội về thành tìm người thư ký, nói dối là Giả Liễn sai viết một bức thư rồi cho người sai ngay đến huyện Trường An. Quãng đường dài một trăm dặm, chỉ mất hai ngày là công việc xong xuôi cả. Quan Tiết Độ sứ ở đấy là Vân Quang, tử tước hàm ơn họ Giả, nay có việc nhỏ, lẽ nào lại không nhận lời? Ông ta trao ngay thư trả lời cho Lai Vượng mang về.
Phượng Thư ở lại một ngày. Đến hôm sau, cáo từ sư già ra về, hẹn ba ngày nữa vào phủ sẽ trả lời. Tần Chung và Trí Năng hai bên quyến luyến không nỡ xa nhau, ngấm ngầm hò hẹn những ngày gặp gỡ, rồi ngậm ngùi chia taỵ Phượng Thư lại đi xem xét trong chùa Thiết Hạm một lần nữa. Bảo Châu nhất định không chịu về. Giả Trân đành phải cắt người ở lại để làm bầu bạn với nhau.
1 Long câu: con ngựa non, giống tốt, ví như con rồng. Phượng sổ con phương non, dùng để ví những bậc tài tuấn tú. Tấn thư, truyện Lục Vân: đứa trẻ này không phải là long câu thì là phượng sổ.
Giả Nguyên Xuân có tài, được tuyển vào cung Phượng Tảo
Tần Kình Khanh còn trẻ, đã thác xuống cõi Hoàng Tuyền
Phượng Thư thu xếp công việc ở chùa Thiết Hạm xong, dẫn Tần Chung, Bảo Ngọc lên xe về thành. Đến nhà, vào chào Giả mẫu, Vương phu nhân rồi về buồng nghỉ. Hôm sau, Bảo
Ngọc thấy phòng học đã dọn dẹp xong, hẹn Tần Chung đến tối cùng tới đó học. Tần Chung vốn người yếu đuối, ra ngoài thành bị sương gió, lại mấy lần dan díu với Trí Năng, không biết giữ gìn, khi về bị cảm phong, ho suyễn, không thiết ăn uống, người cứ rạc đi, phải ở nhà tĩnh dưỡng, không đi học được. Bảo Ngọc vì thế mất vui. Không còn cách gì, đành phải chờ cho Tần Chung khỏi bệnh.
Phượng Thư nhận được thư trả lời của Vân Quang, nói việc ấy đã xong xuôi cả. Sư già liền đến báo tin cho nhà họ Trương. Ông Thủ Bị không biết làm thế nào, đành nuốt giận
nhận lại món tiền sêu tết khi trước. Không ngờ bố mẹ thì thính thế lực, tham tiền của, nhưng con gái lại biết lẽ phải, giàu tình cảm, khi nghe tin phải thôi người chồng trước, bắt gả về nhà họ Lý, Kim Kha liền thắt cổ tự tử. Con trai ông Thủ Bị cũng là một người chung tình, nghe nói Kim Kha thắt cổ chết, cũng không phụ nghĩa vợ, đâm đầu xuống sông chết theo. Đáng thương cho hai nhà họ Trương, họ Lý vừa mất người, vừa mất của, còn Phượng Thư thì ngồi mát ăn không ba nghìn lạng bạc. Việc này Vương phu nhân chẳng biết một tí gì. Từ đó, Phượng Thư càng bạo gan, biết bao chuyện làm liều như thế, không kể xiết được.
Một hôm, gặp ngày sinh nhật Giả Chính, người nhà phủ Ninh, phủ Vinh đương nhộn nhịp ăn mừng. Chợt có người gác cổng vào báo:
– Có cụ Hạ là quan đô thái giám ở Lục cung đem chiếu chỉ đến.
Bọn Giả Chính, Giả Xá sợ hãi không biết việc gì, ngừng ngay hát xướng, dọn cỗ bàn đi, bày hương án, mở cửa giữa ra, quỳ đón chiếu chỉ. Đô thái giám là Hạ Bỉnh Trung cưỡi ngựa đến, có nhiều nội giám đi theo. Hạ thái giám không mạng chiếu sắc, đến tận cửa dinh giữa mới xuống ngựa, nét mặt tươi tỉnh, đứng ngoảnh về phía nam, nói:
– Vâng đặc chỉ Hoàng đế đòi Giả Chính lập tức vào điện Lâm Kính bệ kiến 1. Nói xong hắn không uống nước, cưỡi ngựa đi ngay.
Giả Chính đoán mãi chẳng biết việc gì, vội vàng thay
quần áo vào chầu. Giả mẫu và người nhà hoảng hốt, lo sợ, luôn luôn sai người cưỡi ngựa đi dò tin tức. Độ hai giờ sau, lũ Lại Đại cùng bốn người quản gia thở hồng hộc chạy vào cửa nghi môn báo tin mừng: “ông bảo về mời cụ dẫn các bà vào cung tạ Ơn.”
Giả mẫu đang lúc tâm thần hoảng hốt, đứng dưới hành lang nghe ngóng. Hình phu nhân, Vương phu nhân, Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư, chị em Nghênh Xuân và Tiết phu nhân đều chụm cả một chỗ chờ tin. Giả mẫu gọi Lại Đại vào hỏi kỹ đầu đuôi. Lại Đại bẩm:
– Chúng con chỉ đứng chờ ở ngoài triều phòng thôi, tin tức trong ấy không biết gì cả. Sau thấy Hạ thái giám chạy ra chúc mừng. Cô lớn nhà ta đã được phong chức Thượng thư ở cung Phượng Tảo, gia phong là Hiển đức phị Sau ông nhà ra cũng dặn bảo chúng con như thế. Hiện giờ ông đi sang Đông cung. Xin mời cụ và các bà vào tạ Ơn ngay.
Giả mẫu nghe vậy mới yên lòng, ai nấy vui tươi hiện ra nét mặt. Giả mẫu dẫn Hình phu nhân, Vương phu nhân và Vưu thị mặc triều phục theo phẩm tước, đi bốn cỗ kiệu lớn nói
đuôi nhau vào chầu. Giả Xá, Giả Trân cùng mặc triều phục dẫn Giả Tường, Giả Dung đi theo hầu Giả mẫu.
Khắp phủ Ninh, Vinh, ai nấy đều vui cười vang trời dậy đất, chỉ có Bảo Ngọc là lờ như không biết. Đó là vì sao? Vì gần đây Trí Năng ở am Thủy Nguyệt lẻn vào thành tìm Tần Chung, không ngờ bị Tần Nghiệp biết, đuổi Trí Năng đi, đánh Tần Chung một trận rồi vì giận quá, đâm ốm mấy hôm thì chết.
Tần Chung vốn người yếu sẵn, đương ốm chưa khỏi, bị một trận đòn, cha lại vì tức mà chết. Hắn rất băn khoăn hối hận, nên bệnh tình ngày càng nặng thêm. Thấy thế, Bảo Ngọc áy náy không vui, dù Nguyên Xuân đã được phong chức, cũng chẳng khuây khỏa nỗi buồn rầu. Giả mẫu khi đi tạ Ơn, lúc trở về nhà bè bạn đến chúc mừng, rồi mọi người trong hai phủ Ninh, Vinh đi lại nhộn nhịp vui mừng hớn hở, riêng có Bảo Ngọc vẫn hờ hững như không, chẳng hề để ý đến. Vì thế mọi người cười hắn là chàng ngốc.
May sao có người về báo tin Giả Liễn cùng Đại Ngọc đã về, ngày mai sẽ đến nhà. Bảo Ngọc lúc ấy mới hơi mừng. Hỏi kỹ nguyên do, biết là nhờ có Vương Tử Đằng dâng sớ nhiều lần về Giả Vu Thôn, nên mới được nhà vua triệu Vũ Thôn vào Kinh bộ biến, và chờ ngày bổ dụng. Vũ Thôn là anh em cùng họ với Giả Liễn, lại có tình thầy trò với Đại Ngọc, nên cùng đi một đường lên đây. Linh cữu Lâm Như Hải đã được chôn gần mộ tổ. Mọi việc đều đã xong xuôi.
Giả Liễn về Kinh chuyến này cứ theo hành trình thì tháng sau mới đến nhà. Nhưng vì nghé thấy tin mừng của Nguyên Xuân nên đêm ngày đi gấp, trên đường đều được bình yên cả.
Bảo Ngọc ngoài việc hỏi sức khỏe của Đại Ngọc ra thì không để ý đến gì nữa.
Đến quá trưa hôm sau, mới thấy người báo: “Cậu Liễn và cô Lâm đã về”.
Khi gặp mặt, ai nấy mừng mừng, tủi tủi, khóc ầm lên một lúc, rồi ngỏ lời chúc mừng và an ủi nhau.
Bảo Ngọc nhìn kỹ Đại Ngọc, thấy nét mặt có vẻ xinh xắn hơn trước. Đại Ngọc mang nhiều sách vở về, sai người quét dọn buồng ngủ, bày biện đồ đạc, chia các thứ bút giấy cho bọn Bảo Thoa, Nghênh Xuân và Bảo Ngọc. Bảo Ngọc lấy chuỗi hạt châu thơm của Bắc Tĩnh Vương tặng ngày trước, trịnh trọng đưa cho Đại Ngọc. Đại Ngọc vứt trả lại nói:
– Cái thứ mà hạng con trai hôi hám đã cầm rồi, tôi không nhận đâu.
Bảo Ngọc đành phải nhặt về.
Giả Liễn chào hỏi mọi người xong, về buồng, Phượng Thư đương bận rộn, không lúc nào rỗi, thấy Giả Liễn đi xa về, đành phải bỏ việc ra đón tiếp. Nhân lúc trong buồng không có người, Phượng Thư cười nói:
– Xin mừng quốc cữu! Ngài đi đường vất vả lắm nhỉ! Hôm qua người nhân phi ngựa về báo là hôm nay ngài sẽ về phủ, kẻ hèn mọn này gọi là sửa một ly rượu tẩy trần, không biết ngài có chiếu cố cho chăng?
Giả Liễn cười nói:
– Không dám! Không dám! Hậu tình quá! Hậu tình quá.
Bình Nhi và các a hoàn vào chào xong, bưng nước lên, Giả Liễn hỏi chuyện nhà trong những ngày đi vắng, và an ủi Phượng Thư đã chịu khó trông coi.
Phượng Thư nói:
– Tôi có làm được việc gì đâu! Hiểu biết thì hẹp, mồm mép lại vụng, bụng thì thẳng như ruột ngựa, người ta đưa cho cái dùi, mình lại ngỡ là cái kim. Thấy ai nói khéo thì hay cả nể. Vả lại, tôi ít trải việc, lại nhát gan, hễ thấy mẹ có điều gì không vừa ý là tôi sợ hãi suốt đêm không ngủ được. Tôi đã từ chối mấy lần nhưng mẹ không cho, lại bảo là tôi chỉ muốn nhàn rỗi không chịu học việc. Có biết đâu tôi đã vắt ra biết bao mồ hôi. Từng câu nói phải giữ gìn, từng bước đi phải rón rén. Cậu đã biết đấy, các chị quản gia nhà này hay bới chuyện lắm. Lầm một tí là họ bêu ngay ra làm trò cười; hơi nghiệt một tí là họ Oán. Rồi họ nói bóng nói gió, nào là “ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”, “mượn dao giết người, “nhờ gió thổi lửa”, “cầm sào đứng trên bờ”, “hất bình dầu đổ rồi bỏ mặc đấy”, đều là những lời cạnh khóe của bọn mẹ mìn. Tôi còn ít tuổi, không dọa dẫm được ai, tránh sao họ chẳng coi tôi bằng nửa con mắt. Đáng buồn cười nữa là việc tang vợ cháu Dung bên kia, anh Trân hai ba lần quỳ trước mặt mẹ, xin tôi sang trông nom giúp mấy ngày. Tôi ba bốn lần từ chối, nhưng mẹ nể quá bảo cứ đi, tôi đành phải nhận lời. Rút cuộc, công việc rối bét, chẳng ra thể thống gì, làm anh Trân đến nay vẫn còn trách móc phàn nàn. Ngày mai cậu gặp anh ấy, nên nói đỡ cho tôi, rằng tôi còn ít tuổi, chưa từng trải việc bao giờ. Ai bảo anh ấy cứ giao liều công việc cho tôi.
Đang nói chuyện, nghe bên ngoài có tiếng người xì xào.
Phượng Thư hỏi:
– Ai đấy?
Bình Nhi vào nói:
– Tiết phu nhân sai Hương Lăng sang hỏi một việc, tôi đã trả lời và bảo về rồi.
Giả Liễn cười nói:
– Đúng đấy, ta vừa gặp dì Tiết, và một người con gái đến, xem dáng điệu xinh xắn lắm. Ta nghĩ nhà ta không có người nào như thế. Hỏi mới biết con bé đó tên gọi Hương Lăng, trước đây vì nó mà xảy ra kiện cáo lôi thôi. Nay nó là nàng hầu của anh ngốc họ Tiết. Con bé này đã cạo mặt vẽ lông mày 2, trông lại càng thêm vẻ xinh đẹp. Anh chàng họ Tiết thật là làm nhơ bẩn cả một đời người ta.
Phượng Thư bĩu môi nói:.
– Hừ! Chuyến này đi Giang Tô, Hàng Châu về, chắc đã biết mùi đời nhiều rồi, thế mà còn no bụng đói con mắt! Nếu cậu thích thì chẳng khó gì, để tôi đem Bình Nhi đánh đổi có
được không? Anh chàng họ Tiết là hạng người cầm bát cơm nhưng vẫn dòm nồi. Một năm nay vì chưa lấy được Hương Lăng, anh chàng đã quấy dì Tiết nhiều lần. Dì Tiết cho nhan sắc của Hương Lăng chỉ là việc thường, nhưng thấy con bé đứng đắn, khác hẳn những đứa khác, tính tình lại ôn hòa điềm đạm., các cô con nhà quyền quý cũng chưa chắc đã ăn đứt được nó. Vừa rồi anh Tiết có sửa tiệc mời khách, chính thức nhận nó là người trong phòng. Nhưng chưa đầy nửa tháng, anh ấy lại thoảng đi như không, chẳng khác gì gió thổi qua chuồng ngựa!
Trong khi đang nói chuyện, người hầu vào báo:
– Ông đương chờ cậu ở thư phòng..
Giả Liễn nghe nói vội vàng mặc áo đi ra.
Phượng Thư mới quay sang hỏi Bình Nhi:.
– Vừa rồi dì Tiết sai Hương Lăng đến hỏi việc gì thế?
Bình Nhi nói:
– Có Hương Lăng nào đâu. Đó là tôi nói dối đấy. Mợ xem, chị Vượng chẳng có ý tứ gì cả.
Rồi đến cạnh Phượng Thư nói khẽ:
– Món tiền lãi ấy sớm tối mang đến lúc nào chẳng được, lại nhè vào lúc cậu đương ở nhà. May sao tôi gặp ở ngoài thềm, nếu không thì chị ta đã chạy thẳng vào buồng đưa cho mợ, thế là cậu sẽ trông thấy. Tính cậu thì còn lạ gì, tiền bạc có bỏ trong vạc dầu sôi cũng lấy ra được. Nếu biết mợ có tiền để riêng, cậu lại không tha hồ phung phí hay sao? Thấy thế, tôi chạy ngay ra đón, nói cho chị ấy mấy câu. Ngờ đâu mợ lại nghe thấy. Nhưng vì cậu đương ngồi đấy, nên tôi phải nói dối là Hương Lăng sang.
Phượng Thư nghe rềi cười nói:
– Ta biết mà. Dì Tiết biết cậu về rồi, vô cớ sai người sang làm gì. Hóa ra con ranh này nói dối.
Đang ngồi nói chuyện thì Giả Liễn về. Phượng Thư sai dọn rượu. Vợ chồng ngồi đối diện với nhau. Phượng Thư tuy uống được, nhưng không dám lai láng vui quá chén, chỉ ngồi hầu Giả Liễn uống. Giữa lúc đó, vú nuôi Giả Liễn là họ Triệu đến.
Giả Liễn, Phượng Thư vội vàng mời ngồi lên giường, uống rượu. Vú Triệu nhất định không nghe. Bình Nhi đặt ngay một cái bàn riêng và một cái ghế thấp ở bên cạnh giường mời vú Triệu ngồi. Giả Liễn lấy mấy món ăn ở bàn mình đặt sang bàn vú Triệu. Phượng Thư nói:
– U không nhai được những món này đâu, không khéo thì gẫy răng đấy.
Rồi hỏi Bình Nhi:
– Sáng hôm nay ta thấy có món chân giò ninh dừ kia mà. Sao không bảo nhà bếp hâm nóng rồi mang lên đây u ăn.
Lại nói:
– U ơi con u mới mang rượu Huệ Tuyền về đây, u nếm một chén.
Vú Triệu nói:
– Tôi xin vâng. Mợ cũng uống một chén, sợ gì, không uống nhiều là được rồi. Lần này tôi đến đây có chút việc chứ có phải vì cơm rượn đâu. Mợ nên để bụng thương tôi, còn cậu nhà nói thì tử tế lắm, nhưng đến khi có việc thì quên khuấy tôi đi. Tôi nuôi cậu từ bé, nay cậu đã lớn, tôi cũng già rồi. Tôi có hai đứa con, nhờ cậu để ý chăm nom giúp, chắc người ngoài chẳng ai dám hé răng tị nạnh gì. Tôi hai ba lần nói với cậu, cậu cứ ừ tràn, rồi mãi đến nay vẫn không đâu vào đâu. Hiện giờ được một tin mừng lớn như từ trên trời rơi xuống là ở đây đang cần dùng người. Vì thế lần này tôi đến nhờ mợ là hơn cả, chứ nhờ cậu thì có lẽ tôi chết đói mất..
Phượng Thư cười nói:
– U cứ giao hai anh cho tôi. U nuôi cậu ấy từ lúc bé lại không biết tính cậu ấy à? Cậu ấy thì ruột để ngoài da, chỉ để tâm đến những người bâng quơ ở đâu ấy. Các anh nhà u nào có thua kém gì ai, sao lại không để ý đến? Nếu cậu ấy thương đến các anh nhà u thì ai dám nói là không phải. Thế mà cậu ấy lại hay dễ dãi với người ngoài. Tôi nói thế có lẽ lầm đấy. Người mà chúng ta coi là “người ngoài”, thì cậu ấy lại coi là “người trong (3).
Nói đến câu ấy cả nhà đều cười. Vú Triệu cũng cười rộ lên, lại niệm phật:
– Trong nhà này đã có bóng mặt trời sáng soi. Cậu chúng ta đâu có chuyện lẫn lộn người trong với người ngoài như thế. Chẳng qua cậu tốt bụng, cả nể, người ta nằn nì vài câu là không nỡ từ chối đấy thôi.
Phượng Thư cười nói:
– U nói thế chưa đúng, có hạng “người trong” thì cậu ấy nể nang, nhưng đối với u con chúng ta thì cậu ấy chẳng nể nang gì cả.
Vú Triệu nói:
– Mợ nói thật là chính tình, tôi rất vui. Tôi uống thêm một ly rượu ngon nữa! Từ nay trở đi, mợ làm chủ, tôi không lo gì
Giả Liễn nghe vậy hơi ngượng, cười nói:
– Thôi đừng nói nhảm nữa, mang cơm ra ăn, còn có việc phải sang bàn với anh Trân.
Phượng Thư nói:.
– Phải đấy, đừng làm nhỡ việc. Vừa rồi ông gọi cậu sang bảo việc gì đấy?
– Việc “tỉnh nhân ” 4.
– Việc ấy đã được chuẩn y rồi à?
Tuy chưa chắc chắn cả mười, nhưng đã có hy vọng đến chín.
– Đó là đặc ân của hoàng thượng đấy. Xưa nay trong sách, trong các vở tuồng có nói đến việc này bao giờ.
Vú Triệu nói:
– Tôi già lẫn, chỉ nghe thấy mọi người đồn ầm lên về cái ngày ấy. Thế nào là “tỉnh nhân” hay không tỉnh nhân, tôi cũng chẳng để ý đến. Bây giờ lại nói đến việc “tỉnh nhân”, sự thực đầu đuôi ra thế nào?
Giả Liễn nói:.
– Hoàng thượng bây giờ thể tất lòng mọi người, nghĩ rằng việc lớn trên đời không gì bằng chữ hiếu. Xưa nay lòng cha mẹ và con cái, không cứ sang hèn, ai cũng thế cả. Hoàng thượng cho rằng chính người ngày đêm hầu hạ thái hoàng thượng, hoàng thái hậu, còn sợ chưa làm tròn được đạo hiếu. Người thấy các phi tần, tài nhân vào cung lâu năm, xa cách cha mẹ, có lẽ nào lại không thương nhớ. Con thương nhớ cha mẹ đã đành, cha mẹ Ở nhà cũng thương nhớ con, nếu không được gặp mặt, sinh ra đau ốm, đến chết, thế là tại ta giam hãm, khiến bao người không được trọn đạo luân thường, thương tổn đến hòa khí của trời đất. Vì thế người tâu lên thái thượng hoàng, hoàng thái hậu, mỗi tháng đến ngày hai, ngày sáu. Cung phi được phép vào thăm Thái thượng hoàng và hoàng thái hậu rất vui, khen người là bậc nhân hiếu, biết thể tất lòng trời, nghĩ đến muôn vật. Vì thế hai vị lão thánh nhân ban chỉ dụ xuống: “Các thân thuộc vào cung thăm nom, bị nghi lễ của nhà vua ràng buộc, chắc chưa được thỏa lòng. Nay ban đại ân rộng rãi hơn, trừ những ngày được vào thăm, còn đặc cách cho phép những người thân thuộc, nếu ai có nhà cửa riêng làm nơi nghỉ chân và tiện canh phòng, thì được phép xin với nội đình rước xe cung phi về thăm nhà, như thế là vẹn tình riêng cốt nhục, và cũng được trọn đạo luân thường”. Chỉ dụ vừa đưa xuống, ai nấy nhảy nhót mừng rỡ đội ơn. Hiện nay phụ thân Chu quí phi đã khởi công sửa nhà riêng, phụ thân Ngô quí phi là Ngô Thiên Hựu cũng đã ra ngoài thành tìm nơi làm nhà riêng rồi. Như thế có phải việc này đã chắc được tám chín phần không?
Vú Triệu nói:
– A di đà phật. Nếu quả như thế thì phủ ta đây cũng phải sửa soạn đón tiếp cô lớn nhà ta.
Giả Liễn nói:
– Chẳng phải nói, nếu không thì bây giờ còn phải bận việc gì?
Phượng Thư cười nói:
– Nếu quả như thế, thì phen này tôi được thấy một việc lớn nhất đời. Tiếc rằng tôi sinh sau đẻ muộn, nếu sớm độ hai ba mươi năm, thì còn ai dám khinh tôi là không biết việc đời. Thấy nói ngày trước đức Thái tổ hoàng đế ta bắt chước việc vua Thuấn đi tuần, quang cảnh nhộn nhịp hơn cả những chuyện trong sách, nhưng tôi không được trông thấy.
Vú Triệu nói:.
– Ối chà! Thực là một việc nghìn năm hiếm có! Tôi nhớ họ Giả nhà ta hồi còn ở miền Cô Tô, Dương Châu, trông nom việc đóng thuyền bể, và sửa sang đường bể, chỉ có sửa soạn đón tiếp vua một lần, mà tiền bạc tiêu như bể nước. Nhắc đến thì…
Phượng Thư vội nói tiếp:
– Họ Vương nhà tôi cũng đã sửa soạn đón tiếp vua một lần rồi. Bấy giờ ông tôi còn giữ riêng việc đón tiếp người các nước đến triều cống. Người nước ngoài đến, đều do nhà tôi tiếp đãi cả. Những thuyền bè hàng hóa ở ngoài đến các tỉnh Việt, Mân, Điền, Chiếng 5 đều là của nhà tôi.
Vú Triệu nói:
– Ai chẳng biết việc ấy? Hiện giờ còn có câu tục ngữ “Vua Đông Hải thiếu ngọc trắng làm giường, phải đến vay Kim Lăng nửa lạng”. Câu ấy chỉ vào nhà mợ đấy. Lại còn nhà họ Chân ở Giang Nam. Ôi chà! Thần thế như trời! một mình nhà ấy đón vua bốn lần. Nếu không phải chính mắt chúng tôi trông thấy, thì nói không ai tin. Không những coi tiền bạc như bùn, mà các thứ ở đời, hết thảy đều có, cứ chồng chất như rừng như núi ấy. Nhưng tránh sao khỏi bốn chữ “Tội lỗi đáng tiếc”.
Phượng Thư nói:
– Ông tôi cũng nói thế, lẽ nào lại không tin. Nhưng lạ thật sao nhà ấy lại giàu sang được như thế.
Vú Triệu nói:
– Tôi bảo mợ câu này nhé
chẳng qua lấy tiền bạc của nhà vua đem đập vào bản thân nhà đấy thôi! Chứ ai thừa tiền mua lấy cái náo nhiệt hão ấy!
Đương nói chuyện, Vương phu nhân sai người đến xem Phượng Thư ăn cơm xong chưa. Phượng Thư biết có việc, vội ăn cơm, súc miệng toan đi, lại có người hầu vào báo:
– Cậu Dung và cậu Tường ở phủ ĐSng chơi.
Giả Liễn vừa súc miệng xong, Bình Nhi bưng nước rửa tay đến, Giả Liễn thấy hai người vào, liền hỏi:
– Sang có việc gì?
Phượng Thư cũng đứng lại. Giả Dung nói:
– Cha cháu sai sang trình chú biết, các ông đã bàn định xong rồi. Khoảng đất từ phía đông nối liền với vườn hoa phủ Đông, đến phía tây bắc dài độ ba dặm rưỡi, chỗ ấy có thể lập nhà “tỉnh nhân” được. Cha cháu đã sai người vẽ bản đồ, ngày mai thì xong. Chú mới về, chắc hãy còn mệt, không cần phải sang bên cháu vội. Có việc gì, ngày mai sẽ mời chú sang bàn.
Giả Liên cười nói:
– Cảm ơn ông anh có lòng thể tất, tôi xin vâng lời, không sang nữa, ý định như thế là phải, vừa bớt được công việc, xây dựng cũng dễ hơn, nếu chọn nơi khác, tốn kém nhiều mà chưa chắc đã ra trò. Cháu về trình với cha cháu: “làm thế rất tốt” ; nếu các ông muốn thay đổi chỗ khác thì cha cháu nên can ngăn đi. Sáng mai chú sẽ sang thăm và bàn kỹ.
Giả Dung liền đáp “vâng”.
Giả Tường lại đến gần nói:
– Ông sai cháu đem hai người con bác quản gia họ Lại cùng đi với hai vị khách là Đan Sính Nhân và Bốc Cố Tu xuốngCô Tô đón phường hát, chọn mua con gái bé, sắm sữa nhưng đồ âm nhạc và đồ hát tuồng. Cháu đến trình để chú biết.
Phượng Thư hiểu ý, cũng khẽ xua tay làm như không biết.
Rồi cười nói:
– Cậu hay lo xa quá, có lẽ nào ông anh không biết dùng người bằng chúng tạ Cậu lại sợ cháu không thạo việc à! Chưa chắc ai thạo hơn ai. Vả chăng các cháu đã lớn cả rồi, tuy chưa ăn thịt lợn, nhưng cũng đã trông thấy lợn 6. Chuyện ông anh sai cháu đi, chẳng qua để đóng vai ông tướng ngồi cầm cờ lệnh đó thôi, chứ có phải bảo đi tính toán giá cả và xếp đặt công việc đâu. Theo ý tôi, cháu đi được đấy.
Giả Liễn nói:
– Việc ấy cố nhiên rồi; không phải tôi muốn ngăn giữ đâu, nhưng cũng nên bàn tính trước hộ cháu một tí. Nhân hỏi: “món tiền ấy thì lấy ở đâu?”
Giả Tường nói:
– Việc này vừa rồi đã bàn đến. Bác lại nói: “Không cần phải mang tiền ở nhà đi. Hiện giờ nhà họ Chân ở Giang Nam có giữ của nhà ta năm vạn bạc. Ngày mai viết một lá thư và phiếu nhận tiền giao chúng cháu mang đi, lấy ba vạn, còn hai vạn hãy gửi lại để chi việc sắm sữa đèn nến, cờ và màn.
Giả Liễn gật đầu nói:
– Nghĩ thế phải đấy.
Phượng Thư vội bảo Giả Tường:
– Đã thế thì ta có hai người thạo việc, cháu nên mang đi theo, càng dễ dàng cho công việc của cháu.
Giả Tường vội cười nói:
– May quá, cháu đang định xin thêm hai người.
Rồi hỏi tên hai người ấy, Phượng Thư hỏi lại vú Triệu.
Bấy giờ vú Triệu đương ngồi ngẩn ra nghe chuyện, Bình Nhi cười, đẩy một cái, vú Triệu mới tỉnh lại, vội nói:.
– Một đứa là Triệu Thiên Lương, một đứa là Triệu Thiên Đống.
Phượng Thư nói:
– Đừng có quên nhé. Thôi ta đi làm việc của ta đây.
Nói xong đi ngaỵ Giả Dung vội theo sau khẽ cười nói:
– Thím cần thứ gì, thì xin kê đơn, cháu sẽ mau đủ mang về.
Phượng Thư cười nói:
– Thèm vào! Mi định lễ lạt để lấy lòng ta à? Ta không ưa những trò thầm thầm thụt thụt ấy!
Nói xong cười rồi đi…
Bấy giờ Giả Tường cũng hỏi Giả Liễn, có cần gì sẽ mua về biếu, Giả Liễn cười nói:
– Cháu đừng hí hởn vội, mới bắt đầu học việc, đã học ngay những trò ấy. Thiếu thứ gì ta sẽ viết giấy báo sau.
Nói xong, bảo Giả Dung và Giả Tường về.
Sau đó ba bốn lần có người vào trình việc, Giả Liễn mệt, bảo người canh cửa, hết thảy không được một ai vào trình. Có việc gì chờ đến ngày mai. Phượng Thư thì mãi đến canh ba mới đi ngủ.
Sáng hôm sau, Giả Liễn trở lên thăm Giả Xá, Giả Chính, rồi sang phủ Ninh họp tất cả những người nhà thạo việc, cùng bọn gia khách đi xem xét khu đất hai phủ, vẽ bản đồ nhà “tỉnh nhân”, rồi cắt đặt người nào vào việc nấy. Từ đó, các loại thơ.
thuyền đến đủ mặt. Nhưng đồ vàng, bạc, đồng, thiếc, gỗ lạt, gạch ngói, chuyên chở không ngớt. Trước hết, sai thợ phá hết những nhà cửa, tường vách trong vườn Hội Phương ở phủ Ninh thông thẳng đến nhà lớn phía đông phủ Vinh. Một dãy những phòng của người nhà ở bên đông phủ Vinh cũng phá hết. Nguyên là hai phủ Ninh, Vinh có một cái ngõ nhỏ ngăn đôi. Ngõ này là đất tư, không phải đường công, nhưng vẫn để đi lại. Trong vườn Hội Phương, có một dòng suối từ góc tường phía bắc chảy qua,. cũng không phải khơi thêm nữa. cây cối núi non tuy chưa có mấy, nhưng vì chỗ ở của Giả Xá là vườn cũ của phủ Vinh, nên những núi non, cây cối, đình, tạ, hành lang đều có thể dời đến đấy được cả. Hai nơi gần nhau họp thành một chỗ, có thể đỡ được nhiều sức người và tiền của. Dù có thiếu cũng không tốn kém mấy. Lại nhờ được một nhà nổi tiếng về cách bài trí vườn hoa cây cảnh, núi non bộ là Sơn Tử Giã vẽ đồ bản, trù tính việc khởi công.
Giả Chính không quen công việc, nhất nhất đều nhờ bọn Giả Xá, Giả Trân, Giả Liễn, Lại Đại, Lại Thăng, Lâm Hiếu,Ngô Tân Đăng, Thiềm Quang, Trình Nhật Hưng trông nom xếp đặt. Nào là đắp núi, đào ao, xây lầu, dựng gác, trồng trúc, vun hoa, còn cách sắp xếp đã có Sơn Tử Giả. Khi tan chầu nhàn rỗi, Giả Chính chỉ đi ngắm nghía các nơi, có việc gì cần thì bàn với Giả Xá. Giả Xá cũng nằm khểnh ở nhà, có việc vặt, thì bọn Giả Trân hoặc đến hỏi, hoặc viết giấy trình, khi muốn bảo ban việc gì thì gọi bọn Giả Liễn, Lại Đại đến truyền lệnh. Giả Dung chuyên coi việc làm đồ vàng bạc, Giả Tường thì đi Cô Tộ Bọn Giả Trân, Lại Đại thì điểm số người, làm danh sách, trông coi thợ thuyền. Công việc nhộn nhịp, tấp nập không thể kể xiết.
Gần đây Bảo Ngọc vì trong nhà bận việc, Giả Chính không hay hỏi đến việc học, trong bụng rất là thư thái. Không ngờ bệnh Tần Chung càng ngày càng nặng, nên trong lòng áy náy không vui. Một hôm, Bảo Ngọc dậy sớm, rửa mặt xong, định sang xin phép Giả mẫu đi thăm Tần Chung. Chợt thấy Đinh Yên ở ngoài cửa thứ hai thập thò dòm vào, Bảo Ngọc vội ra hỏi việc gì Đinh Yên nói:
– Cậu Tần nguy lắm rồi!
Bảo Ngọc nghe nói giật mình vội hỏi:
– Hôm trước ta đến thăm, nó còn tỉnh táo kia mà, sao đã nguy kịch ngay thế?
Đinh Yên nói:
– Con cũng không biết, vừa rồi người nhà cậu ấy đến nói thế!
Bảo Ngọc nghe xong, quay lại xin phép Giả mẫu. Giả mẫu sai người cẩn thận đi theo và bảo:
– Đến đấy thăm nom để tỏ tình bạn học, xong phải về ngay, không được ở lâu. Bảo Ngọc vội về thay quần áo. Ra đến ngoài, xe chưa sửa soạn kịp, cứ phải chạy loanh quanh khắp thềm. Giục mãi, xe mới kéo đến, Bảo Ngọc nhảy lên đi ngaỵ Lý Quí, Đinh Yên đi theo hầu. Khi đến cửa nhà họ Tần, thấy vắng tanh vắng ngắt, chẳng có một ai. Bọn Bảo Ngọc chạy ùa vào nhà trong, làm mấy người thím, chị dâu và các chị em của Tần Chung lẩn tránh không kịp.
Bấy giờ Tần Chung đã hai ba lần ngất đi. Thay chiếu 7 đã lâu rồi.
Bảo Ngọc trông thấy, không cầm nổi lòng thương, khóc òa lên. Lý Qúi vội khuyên:
– Cậu đừng khóc. Cậu Tần yếu lắm, sợ nằm trên giường cứng quá, khó chịu, nên vực xuống nằm đó cho thoải mái đấy thôi. Cậu khóc chỉ làm cho cậu ấy ốm thêm.
Bảo Ngọc nghe nói mới nín, đến gần, thấy Tần Chung mặt trắng bệch như nến, mắt nhắm, thở thoi thóp trên gối.
Bảo Ngọc vội gọi:
– Kình Kha ơi! Bảo Ngọc đến đây. – Gọi luôn hai ba tiếng, Tần Chung vẫn không mở mắt, Bảo Ngọc lại kêu to:
– Bảo Ngọc đến đây.
Bấy giờ Tần Chung hồn đang lìa xác, chỉ còn một tí hơi thừa ở ngực. Hắn thấy nhiều quỉ sứ cầm bài mang thừng đến bắt, nhưng khi nào hắn chịu đi ngaỵ Nghĩ đến nhà không có
người trông nom, nghĩ đến ba bốn nghìn lạng bạc của cha để lại nghĩ đến Trí Năng hiện bơ vơ không có chỗ nương tựa, hắn phải khẩn khoản van xin bọn quỉ sứ. Nhưng chúng không nghe, quát mắng: “Anh là người đọc sách mà không biết câu: “Theo tục lệ cũ, người chết rồi, thì thay chiếu nằm. Diêm Vương bảo canh ba phải chết. Ai dám chờ đến trống canh năm. Chúng ta ở âm phủ đều là những người mặt sắt, không thiên tư gì, không như ở dương gian, nể nang tình vị, làm lỡ cả việc”.
Đương lúc ồn ào, hồn phách Tần Chung chợt nghe thấy bốn tiếng “Bảo Ngọc đến đây”, lại vội van nài:
– Xin các vị từ bi một chút, cho tôi trở về nói rốt một lời với người bạn thân rồi xin đi ngay.
Quỉ sứ nói:
– Lại còn bạn thân nào?
Tần Chung nói:
– Không dám nói dối các vị, người ấy là cháu Vinh quốc công, tên gọi Bảo Ngọc.
Phán quan nghe nới sợ hãi, vội vàng đứng lên mắng lũ quỉ sứ:
– Ta đã bảo các ngươi lôi nó đi ngay, các người không nghe lời, để có người vận đỏ đến quấy rối, thì làm thế nào bây giờ?
Lũ quỉ sứ nghe phán quan nói thế, sợ quá, chân tay luống cuống một mặt lại hậm hực:
– Trước kia ngài quát tháo ầm lên như sấm ran, sét nổ, là vì chưa nghe thấy hai chữ “Bảo Ngọc”. Theo ý chúng tôi, nó ở dương gian, ta ở âm phủ, cần gì phải sợ nó.
Phán quan lại càng tức giận, gắt ầm lên:
– Đồ chó? Tục ngữ có câu: “Quan thiên hạ trị dân thiên hạ!”
Xưa nay người với quỷ là một, âm dương không hai. Mặc dầu anh ta ở âm hay ở dương, cũng phải kính trọng, không được sai trái. Lũ quỷ nghe vậy, đành phải tha hồn Tần Chung về. Hữ một tiếng, hai mắt hé mở, thấy Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, Tần Chung gắng gượng thở dài:
– Sao anh không lại sớm? Chậm chút nữa em sẽ không được gặp.
Bảo Ngọc cầm tay Tần Chung, nước mắt giàn giụa:
– Có dặn lại câu gì không?
Tần Chung nói:
– Không có gì đáng dặn cả. Trước đây anh em ta cứ tưởng cao quý hơn đời, nay mới biết là sai. Sau này anh nên quyết chí công danh làm rạng rỡ ông cha mới đúng.
Nói xong thở dài một tiếng, lặng lẽ qua đời.
1 Chầu Vuạ….
2 Có lẽ theo tập quán phong kiến Trung Quốc, con gái khi lấy chồng mới cạo mặt, vẽ lông mi.
3 Phượng Thư có ý ghen chồng coi những người đàn bà ngoài thân hơn vợ, mới mượn hai tiếng ấy để nói đùa.
4 Cung phi được phép về thăm cha mẹ, các thân thuộc, gọi là “tỉnh nhân”.
Tần Chung chết rồi, Bảo Ngọc khóc lóc mãi, bọn Lý Qúi phải khuyên giải, khi về nhà hãy còn ngậm ngùi thương xót.
Giả mẫu đã gửi giúp mấy chục lạng bạc, lại sắm sửa lễ vật để Bảo Ngọc đến viếng. Sau bảy ngày chốn cất xong, Bảo Ngọc nhớ tiếc, nhưng chẳng làm thế nào, và cũng chẳng biết bao giờ mới nguôi được.
Một hôm, Giả Trân đến trình Giả Chính:
– Công việc sửa sang trong vườn đã xong, ông Cả đã đến xem, chỉ chờ ông đến xem có chỗ nào chưa ổn thì sửa sang lại, và cần phải đề biển, câu đối.
Giả Chính nghĩ một lúc, rồi nói:
– Đề biển và câu đối là một việc khó, cứ nhẽ ra thì xin Qúy phi mới phải. Nhưng người chưa trông thấy thì cũng khó nghĩ phỏng ra được. Nếu chờ khi người đến, thì bao nhiêu cảnh trí, bao nhiêu lâu đài, lại không có một chữ đề vào, mặc dù cây hoa non nước có đẹp đẽ dường nào, cũng kém phần sinh sắc.
Bọn gia khách đứng bên cạnh nói:
– Ngài nghĩ rất phải. Cứ ý chúng tôi thì biển và câu đối không thể thiếu, nhưng cũng không thể đặt tên trước được.
Bây giờ tùy theo từng cảnh mà đề hai, ba, bốn chữ gì na ná cho hợp rồi làm bằng đèn lồng treo tạm lên đã, chờ khi Qúy phi đi du ngoạn, sẽ xin người đặt tên, như thế có tiện không.
Giả Chính nói:
– Nghĩ thế đúng đấy. Bây giờ chúng ta hãy đi xem các nơi, rồi cứ đề đi, nếu ổn thì dùng, không ổn thì nhờ ông Vũ Thôn đến sửa lại.
Mọi người cười nói:.
– Hôm nay ngài nghĩ chắc là hay, cần gì phải đợi ông Vũ Thôn.
Giả Chính cười nói:
– Các ông không biết, tôi từ bé đến giờ, về việc vịnh chim hoa non nước, cũng thường thôi. Bây giờ có tuổi, lại bận việc văn án nhiều, nên thú ngâm vịnh lại càng xao nhãng. Dù có nghĩ ra thì cũng quê mùa, lại làm cho vườn hoa cây cảnh kém phần xinh đẹp, chẳng còn thú gì!
Bọn gia khách nói:
– Cái đó không ngại, chúng tôi cùng nghĩ, ai nấy đều theo sở trường của mình, hay thì để, dở thì bỏ, cũng chẳng hề gì.
Giả Chính nói:
– Như thế phải đấy. Hôm nay khí trời ấm áp, chúng ta đi chơi một lượt.
Nói rồi đứng dậy dẫn mọi người đi. Giả Trân đi trước, báo cho mọi người biết.
Bảo Ngọc hồi này vì nhớ Tần Chung, lòng thương xót mãi. Thấy vậy Giả mẫu thường sai người dẫn đến vườn mới dạo cảnh cho khuây. Một hôm, vừa vào đến vườn, chợt gặp Giả Trân. Giả Trân cười bảo:
– Sao chú không tránh đi chỗ khác, chốc nữa ông đến đấy.
Bảo Ngọc nghe nói, dẫn ngay lũ hầu, chạy vút ra khỏi vườn. Vừa đi đến quãng đường vòng, thì gặp ngay Giả Chính dẫn các gia khách đến. Bảo Ngọc tránh không kịp, đành phải đứng về một bên.
Gần đây Giả Chính thường nghe Đại Nho khen Bảo Ngọc làm câu đối khá; tuy không thích học, nhưng có tài vặt. Vì thế Giả Chính bảo Bảo Ngọc đi theo vào trong vườn, ý muốn thử tài xem sao. Bảo Ngọc chưa biết ý định của bố, đành phải đi theo. Vừa đến cửa vườn, đã thấy Giả Trân dẫn các người chấp sự đứng hầu một bên. Giả Chính bảo:
– Cháu hãy cho đóng cửa vườn lại, để chúng ta xem bên ngoài đã, rồi sẽ vào sau.
Giả Trân sai người đóng cửa lại.
Giả Chính trước hết đứng ngắm nghía năm gian cửa chính, nóc nhà cong, lợp ngói ống, cánh cửa và bực cửa đều chạm trổ theo kiểu mới, không sơn vẽ hoa hòe; một dãy tường quét vôi trắng xóa, dưới thềm lát đá trắng thành hình hoa sen.
Nhìn hai bên tường trắng như tuyết, dưới xây đá có vân như da hổ, không lòe loẹt như lối nhà giàu thô tục. Giả Chính lấy làm thích, bảo mở cửa đi vào. Thoạt nhìn, một dãy núi xanh chắn ngay trước mặt. Các gia khách đều nói:
– Núi đẹp thật!
Giả Chính nói:
– Nếu không có núi này, thì khi vào sẽ trông thấy hết cả các cảnh đẹp ở trong vườn, còn thú gì nữa?
Mọi người nói:
– Rất đúng. Nếu ngài không có kiến thức rộng rãi thì làm sao nghĩ được như thế!
Đi vào tận nơi, thấy đá trắng chồng chất, hoặc như hình quỷ quái hoặc như hình thú dữ, ngang dọc đứng chầu nhau, bên trên, rêu xanh lấm tấm, cây leo chỗ thưa, chỗ nhặt, ở giữa hiện lên một con đường nhỏ quanh co. Giả Chính nói:
– Chúng ta vào con đường này chơi, rồi ra đường bên kia, thế mới nhìn khắp được.
Rồi bảo Giả Trân dẫn đường, còn mình thì dắt Bảo Ngọc đi quanh lên núi. Ngẩng lên trông thấy phía trước có một tảng đá mặt nhẵn như gương, chính là chỗ đáng để đề thơ.
Giả Chính quay lại hỏi:
– Các ông xem chỗ này nên đề thế nào cho hay?
Có người xin đề hai chữ “Điệp thúy” 1, có người xin đề: “cẩm chướng” 2, có người xin đề
“Trại Hương lô” 3.
Lại có người xin đề: “tiểu Chung Nam” 4.
Tất cả hàng mấy chục tên.
Mọi người biết Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, cho nên đều nghĩ mấy chữ sáo mép cho qua. Bảo Ngọc cũng biết ý ấy.
Giả Chính nghe xong, ngoảnh lại hỏi Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:
– Cổ nhân có câu: “Mới không bằng cũ, cổ vẫn hơn kim”. Nơi này không phải là nơi chính, chẳng qua là bước đầu vào vườn ngắm cảnh, chưa thể đề gì được. Sao bằng dùng ngay mấy chữ cũ: “Khúc kín thông u” 5 mới có nghĩa bao quát và hàm súc.
Mọi người khen:.
– Phải lắm! Hay lắm! Cậu Hai thông minh, tài tình, không như chúng tôi là hạng mọt sách.
Giả Chính cười nói:
– Không nên khen nó quá, nó còn bé, chẳng qua nghĩa mười hiểu một, góp làm trò cười đấy thôi, để sau bàn lại.
Mọi người lại đi vào hang đá, thấy cây đẹp xanh um, hoa lá rực rỡ, một dòng nước trong từ chỗ cây cối đằng xa chảy xuống khe đá. Đi mấy bước nữa, rẽ sang phía bắc, có một chỗ rộng phẳng, hai bên có lầu cao vút, nóc vẽ, cột sơn, ẩn núp dưới sườn núi ngọn cây. Cúi xuống nhìn thì thấy dòng trong chảy ngọc, bực đá xuyên mây, lan can đá trắng, bao lượn quanh hồ.
Đầu cầu đá ba nhịp con thú giả trông như khi ngậm vào, khi nhả ra. Trên cầu có cái đình.
Giả Chính cùng mọi người vào ngồi trong đình, hỏi:
– Theo ý các ông nên đề chữ gì ở đây?
Mọi người đều nói:
– Ngày trước trong bài “ký túy ông đình” của Âu Dương Tu 6 có câu “hữu đình dục nhiên” 7 vậy nên đặt là “Dục nhiên”.
Giả Chính nói:
– Dục nhiên hay thật, nhưng đình này ở trên mặt nước, cũng nên nói đến nước mới phải. Cứ ý tôi nghĩ, Âu Dương Tu có câu “Tá ư lưỡng phong chi gian” 8, vậy nên dùng chữ tá mới được.
Có một người khách nói:
– Phải lắm! Thế thì nên dùng hai chữ “Tả ngọc” 9 là hay.
Giả Chính vuốt râu ngẫm nghĩ, rồi sai Bảo Ngọc cũng thử nghĩ xem.
Bảo Ngọc nói:
– Cha vừa dạy rất phải, nhưng xét cho kỹ, có lẽ ngày trước Âu Dương Tu dùng chữ “tả” đề vào Nhượng tuyền 10 thì đúng, bây giờ dùng chữ “tả” ở đây hình như chưa ổn. Huống chi đây là biệt thự “tỉnh nhân”, cũng nên theo như thể văn ứng chế, nếu dùng chữ “tả ngọc”, con sợ thô lậu không nhã. Xin đề thế nào cho có nghĩa sâu xa hơn.
Giả Chính cười nói:
– Các ông nghe nó nói thế nào? Vừa rồi mọi người đặt chữ mới, thì mày bảo không bằng dùng chữ cũ; bây giờ dùng chữ cũ, mày lại bảo là không ổn! Thế mày định dùng chữ gì?
Bảo Ngọc thưa:
– Dùng hai chữ “Tả ngọc”, sao bằng dùng hai chữ “Thẩm phương” 11 chẳng mới và lịch sự hay sao?
Giả Chính vuốt râu, gật đầu không nói gì. Mọi người chìu ý ngay, khen Bảo Ngọc tài tình khác thường. Giả Chính nói:
– Đề hai chữ trên biển cũng dễ, thử làm đôi câu đối bảy chữ xem sao.
Giả Chính nghe xong gật đầu mỉm cười. Mọi người lại khen ngợi một hồi. Ra khỏi đình, sang qua ao, từ một ngọn núi, một hòn đá, một bông hoa, một gốc cây chỗ nào họ cũng để ý ngắm nghía. Chợt ngẩng đầu lên thấy trước mặt một dãy tường trắng, mấy ngôi nhà con xinh xắn, thấp thoáng trong đám hàng nghìn khóm trúc xanh. Mọi người đều nói: “Chỗ này nhã thật!”
Rồi cùng đi vào. Bước vào cửa là một dãy hành lang quanh co. Nước đượm mùi thơm.Dưới thềm có con đường đá. Mặt trước ba gian nhà nhỏ, sạch sẽ, cửa khép, cửa mở. Trong nhà kê bàn ghế giường chiếu ngay ngắn gọn gàng. Từ phía trong có cửa con đi ra sân sau. Có mấy cây lê cao lớn, mấy cụm chuối um tùm. Lùi về phía sau, lại có vài gian nhà nhỏ. Chân tường có một dòng suối rộng chừng một thước quanh co theo thềm đến dãy nhà đằng trước, rồi từ trong những khóm trúc róc rách chảy ra..
Giả Chính cười nói:
– Chỗ này thú đấy. Đêm trăng mà ngồi dưới cửa sổ đọc sách, cũng không uổng một đời.
Mọi người vội vàng nói lảng sang chuyện khác. Có hai người nói:
– Chỗ này nên đề một cái biển bốn chữ.
Giả Chính cười hỏi:
– Bốn chữ gì?
Một người đọc:
– “Kỳ thủy di phong” 12.
Giả Chính nói:
– Quê lắm.
Lại một người đọc:
– Thọ viên nhã tích 13.
Giả Chính nói:
– Cũng quê.
Giả Trân đứng bên cạnh nói:
– Lại đến chú Bảo nghĩ thôi.
Giả Chính nói:
– Nó là đồ khinh bạc, chưa làm nổi đã khen chê người khác.
Mọi người nói:
– Khen chê đúng thì làm thế nào được.
Giả Chính vội nói:
– Thôi! Đừng nuông nó thế.
Rồi bảo:
– Hôm nay cho mày muốn nói gì thì nói, phải bàn cãi ra lẽ đã rồi mới cho mày làm. Những câu đề vừa rồi, có câu nào được không?
Bảo Ngọc nói:.
– Hình như đều không được cả.
Giả Chính cười nhạt:
– Làm sao mà không được?
Bảo Ngọc nói:
– Đây là nơi ra chơi đầu tiên của Qúy phi, nên có những lời chúc tụng mới phải. Nếu muốn dùng bốn chữ đề biển thì có sẵn của cổ nhân rồi, cần gì phải làm nữa.
Giả Chính nói:
– “Kỳ thủy” và “thư viên” không phải là chữ của cổ nhân hay sao?
Bảo Ngọc thưa:
– Mấy chữ ấy cũ lắm, sao bằng đề: “Hữu phượng lai nghi” 14 còn hơn.
Mọi người nhao lên khen hay. Giả Chính gật đầu nói:
– Thằng ngu! Thực là đồ lấy ống dòm trời, lấy bầu đong biển.
Lại bảo:
– Phải đề một câu đối nữa.
Bảo Ngọc lại đọc.
Bên cửa cờ tan tay vẫn mát,
Trong lò trà cạn khói còn thơm.
Giả Chính lắc đầu:
– Chưa lấy gì làm hay.
Nói xong, dắt mọi người đi ra. Lúc sắp đi, chợt nghĩ việc gì, Giả Chính hỏi Giả Trân:
– Chỗ này nhà cửa, bàn ghế có đủ, nhưng màn, rèm và các đồ trần thiết đã xếp đặt đâu vào đấy chưa?
Giả Trân thưa:
– Những đồ trần thiết phải sắm thêm nhiều, đến ngày ấy sẽ đâu có đấy. Các thứ màn, rèm, hôm nọ chú Liễn nói còn thiếu vì lúc mới khởi công, đã vẽ đồ bản theo đúng kích thước và sai người đi thửa, hôm qua chắc đã làm được một nửa.
Giả Chính nghe nói, biết việc này không phải của Giả Trân, liền cho đi gọi Giả Liễn. Một lúc, Giả Liễn đến. Giả Chính hỏi:
– Tất cả bao nhiêu thứ? Đã được bao nhiêu rồi? Còn thiếu bao nhiêu nữa?
Giả Liễn nghe hỏi, vội vàng rút quyển sổ ở trong ống giày ra xem, rồi trình:.
– Các thứ đoạn thêu rồng, thêu hoa, các thứ hoa lụa chỉ điều chỉ viền, các thứ màn che lớn nhỏ cộng một trăm hai mươi chiếc, hôm nọ đã được tám mươi chiếc, còn thiếu bốn mươi chiếc. Rèm hai trăm chiếc, sắm đủ rồi. Ngoài ra còn rèm da hai trăm chiếc, rèm trúc sơn đỏ tết chỉ vàng một trăm chiếc, rèm trúc sơn đen hai trăm chiếc, rèm thêu hoa năm màu hai trăm chiếc, mỗi thứ đã được một nửa, đến mùa thu thì đủ cả. Gối tựa, khăn bàn, quần giường, đệm ghế, mỗi thứ một nghìn hai trăm chiếc, đã đủ cả rồi.
Mọi người vừa nói chuyện vừa đi, đã đến một ngọn núi xanh chênh chếch. Đi vào trong núi, thấp thoáng có một bức tường thấp, đất vàng, trên tường có rơm che, có mấy trăm cây hoa hạnh, trông như lửa phun, ráng phủ. Mặt trong có mấy gian nhà tranh, mặt ngoài có những cây dâu, dâm bụt và găng mơn mởn tốt tươi theo nhau chỗ nhô ra, chỗ lượn vào, đan thành hai hàng rào xanh. Dưới chân núi, ngoài hàng rào có cái giếng khơi, bên cạnh có gầu và trục kéo nước; mé dưới có mảnh rộng phẳng lì, có luống rau tươi tốt, trông bát ngát mênh mông.
Giả Chính nói:
– Chỗ này thế mà có ý nghĩa lắm. Tuy tự tay người ta bày đặt ra, nhưng nhìn đến ai cũng phải cảm xúc, khêu gợi lòng ta muốn về hưởng thú điền viên. Chúng ta hãy vào đấy nghỉ ngơi xem.
Nói xong đang định đi vào, chợt thấy bên ngoài hàng giậu có một hòn đá, cũng là chỗ đáng đề thơ. Mọi người cười nói:
– Đẹp lắm! Đẹp lắm! Chỗ này mà treo biển đề chữ, thì hết hẳn phong vị nhà quê. Dựng một cái bia ở đây lại càng thêm vẻ đẹp. Nếu không có bài thơ “điền gia” của ông Phạm Thạch Hồ 15 thì không tả hết được cái đẹp của nó.
Giả Chính nói:
Xin các ông đề cho.
Mọi người nói:
– Vừa rồi cậu Bảo nói làm mới không bằng theo cũ, cổ nhân đã nói nhiều rồi, chi bằng đề ngay “hạnh hoa thôn” là hay.
Giả Chính nghe nói, cười bảo Giả Trân:
– Nhờ có câu ấy, ta lại nghĩ ra một điều. Chỗ này đẹp cả, chỉ thiếu một cái kỳ bài bán rượn thôi. Ngày mai làm cho ta một cái, mặt ngoài cứ theo lối nhà quê, không cần trang hoàng, lấy một con sào treo kỳ bài vào đó rồi buộc lên ngọn cây là được.
Giả Trân vâng lời, lại thưa:
– Chỗ này không cần nuôi các loài chim đẹp biết hót, chỉ nuôi ngỗng, vịt, gà… thì mới đúng.
Mọi người đều nói:
– Đúng đấy!…..
Giả Chính lại nói:
– “Hạnh hoa thôn” hay thực, nhưng hiềm vi phạm vào chính tên thôn của người ta, đợi xin quý phi đặt tên mới phải.
Mọi người nói:
– Phải đấy, nhưng bỏ trống không tiện, cũng nên dùng chữ gì?
Mọi người đương nghĩ, Bảo Ngọc sốt ruột, không chờ Giả Chính bảo, nói ngay:
– Thơ cũ có câu “Hồng hạnh sao đầu quái tửu kỳ” 16.
Nay xin đề bốn chữ: “thanh liêm tại vọng” 17 là hơn.
Mọi người đều nói:
– Hai chữ “tại vọng” hay lắm, lại ngụ ý “Hạnh hoa” không.
Bảo Ngọc cười nhạt:
– Tên thôn mà dùng hai chữ “Hạnh hoa” thì quê lắm. Thơ Đường có câu: “sài môn lâm đ*o hoa hương” 18. Sao không dùng ba chữ đạo hương thôn có hay không?
Mọi người đều vỗ tay khen. Giả Chính quát to:
– Thằng súc sinh ngu ngốc kia, mày biết được mấy vị cổ nhân, nhớ được mấy bài thơ cũ, đã dám múa mép trước các vị tiền bối? Vừa rồi cho phép mày nói bừa, chẳng qua ta thử xem mày hay dở thế nào, để làm trò cười đấy thôi. Mày cứ tưởng thực đấy à?
Nói xong, dẫn mọi người vào trong nhà tranh. Ở đây, cửa sổ dán giấy, giường gỗ đơn sơ, không có gì là hào hoa phú quý cả.
Giả Chính trong lòng rất sung sướng, lại nhìn Bảo Ngọc nói:
– Chỗ này thế nào?
Mọi người thấy hỏi, đều khẽ đẩy Bảo Ngọc, xui Bảo Ngọc nói là đẹp. Bảo Ngọc không nghe, nói ngay:
– Xem ra chỗ này kém xa “Hữu phương lai nghi”.
Giả Chính nói:
– Hứ! Đồ ngu xuẩn! Chả biết gì. Mày chỉ thích lầu son gác tía đẹp đẽ một cách thô tục, biết đâu được cái cảnh u nhã này.
Rút lại chỉ vì lỗi tại mày không chịu đọc sách thôi.
Bảo Ngọc đáp:
– Cha dạy đành là phải, nhưng cổ nhân có nói hai chữ thiên nhiên con không hiểu ý ra làm sao?
Ai nấy thấy Bảo Ngọc bướng bỉnh, sợ sẽ bị mắng; nay thấy hắn hỏi nghĩa hai chữ “thiên nhiên” đều vội nói:
– Cái gì cậu cũng hiểu cả, sao lại còn phải hỏi hai chữ “thiên nhiên”. “Thiên nhiên” nghĩa là tự nhiên thiên thành, không phải sức người làm được.
Bảo Ngọc nói:
– Thế thì chỗ này đặt thánh trang trại, rõ ràng là do người bày đặt ra. Xa thì không có hàng xóm, gần thì không có thành quách, dựa vào núi thì không có mạch, trông ra nước thì không có nguồn, chỗ cao thì không có tháp nhà chùa, chỗ thấp thì không có cầu ra chợ, trơ trọi đứng một mình, không phải là nơi bao la rộng rãi. Sao bằng mấy nơi trước có vẻ tự nhiên hơn. Tuy có giồng trúc, khơi suối cũng hơi xuyên tạc, nhưng không hại gì. Cổ nhân có bốn chữ “bục tranh thiên nhiên”, sợ chỗ này không đáng có thôn trang, và sơn thủy, mà gượng bày đặt ra, dù khéo léo đến đâu cũng vẫn không hợp.
Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính nổi giận thét lên:
– Thôi, bước ngay!
Bảo Ngọc vừa đi ra, Giả Chính lại thét: “Hãy quay lại, làm thêm câu đối nữa, nếu không làm được thì ta sẽ vả vào mồm”.
Bảo Ngọc đành phải đọc:
Giặt vải xanh tươi nguồn dưới bến;
Hái rau thơm đượm khách trong mây.
Giả Chính nghe xong, lắc đầu nói:
– Cũng chẳng ra gì!
Rồi dắt mọi người đi ra, đi quanh sườn núi, khi trong hoa, khi dưới liễu, khi trên núi, khi bên sông, đến rặng đồ mi, vào giàn mộc hương, lên đình mẫu đơn, qua vườn thược dược, tới viện tường vi, tựa vào khóm ba tiêu, ngang dọc, quanh co; chợt nghe thấy tiếng nước ở trong hang đá róc rách chảy ra, trên thì dây leo lòng thòng rũ xuống, dưới thì hoa rụng rập rờn trôi quanh. Mọi người đều nói:
– Đẹp lắm!
Giả Chính hỏi:
– Các ông định đề chữ gì?
Mọi người nói:
– Không cần phải nghĩ nữa, cứ viết ba chữ “Vũ lăng nguyên” 19 là được rồi.
Giả Chính cười nói:.
– Cũ lắm! Lại không đúng sự thực.
Mọi người cười:
– Không thì đề bốn chữ “tần nhân cựu xá” 20 cũng được.
Bảo Ngọc nói:
– Lại càng hỏng nữa. “Tần nhân cựu xá” có ý là tránh loạn, dùng thế nào được? Chi bằng dùng bốn chữ “liễu đình hoa thì là hơn 21.
Giả Chính nói:
– Cũng lại nhảm nữa!.
Giả Chính đi vào trong hang, hỏi Giả Trân:
– Có thuyền không?
Giả Trân nói:
– Có bốn thuyền hái hoa sen, một thuyền ngồi chơi, nhưng bây giờ chưa làm xong.
Giả Chính cười nói:
– Tiếc rằng không vào được.
Giả Trân nói:
– Đi quanh lên núi, sẽ đến nơi.
Nói rồi đi trước dẫn đường. Mọi người níu dây vịn cây đi lên, thấy mặt nước hoa rụng man mác, dòng suối trong vắt rập rờn quanh co; hai hàng liễu rủ bên bờ, những cây đào, cây mận, mọc chen nhau che rợp cả bóng mặt trời. Khắp nơi, không có một chút đất bụi. Trong rặng liễu nhô ra một nhịp cầu, lan can sơn đỏ.
Qua cầu, đường thông các ngả; xa xa, có một tòa nhà ngói mát mẻ và một dãy tường hoa. Ở đây mạch núi chính đều xuyên qua tường chia đi các ngả.
Giả Chính nói:
– Tòa nhà này ở đây chẳng có nghĩa lý gì!
Rồi bước vào cửa. Chợt thấy mặt trước có một quả núi đá lấp lánh cao ngất trời, xung quanh bao bọc bằng các thứ đá đủ các màu, che kín hẳn những nhà cửa bên trong. Ở đây, không có một gốc cây, toàn những cỏ lạ hoặc leo lên núi, hoặc bò ra đất hoặc từ trên núi rủ xuống, hoặc luồn qua khe đá chui ra; lại có những dây từ mái nhà bò xuống, leo quanh cột chằng chịt cả bờ hè, như vải xanh phất phơ, như sợi vàng uốn khúc, quả đỏ hoa vàng, hương thơm ngào ngạt, không một thứ hoa nào có thể bì được.
Giả Chính nói:
– Thú quá! Chỉ hiềm không biết là những loại cỏ gì?
Có người nói là:
– “Tiết lệ đằng la”.
Giả Chính nói:.
– “Tiết lệ đằng la” làm gì có hương thơm lạ này?
Bảo Ngọc nói:
– Thực không phải. Trong loại cỏ này cũng có “tiết lệ đằng la”, nhưng hương thơm là của “đỗ nhược hành vu”. Còn cái giống này, hình như đây là cỏ “chi lan”, kia là cỏ “thanh cát”, đây là “kim đăng”, kia là “ngọc lộ”, thứ đỏ kia là “tử vân”, thứ xanh này là “thanh chi”. Nhớ đến những cỏ lạ đã nói ở trong Ly tao văn tuyển (văn của Khôi Nguyện), nào là hoắc nạp, gương vựng, nào là luân tổ, tử giáng; lại còn có cỏ thạch phàm, thủy tùng, phù lưu; cũng có những cỏ lục di, đan tiêu, mi vu, phong liên… Nay đã lâu năm, người đời không thể nhớ lại được, nên cứ trông hình dạng mà đặt tên; dần dần gọi sai đi, có lẽ thế đấy.
Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính thét lên:
– Ai hỏi đến mày?
Bảo Ngọc sợ hãi lùi xuống, không dám nói nữa.
Giả Chính thấy hai bên hành lang có tay vịn, nhân tiện đi vào. Trước mặt, năm gian nhà mát mẻ, giàn hoa dựng lên, bốn mặt hành lang cửa sổ sơn xanh vách bóng, trông rất thanh nhã. Giả Chính thở dài:
– Ở đây mà pha trà, đánh đàn, thì chẳng cần phải đốt trầm nữa. Không ngờ lại có chỗ này, các ông chắc phải có những câu hay đề ở đây cho khỏi phụ cảnh đẹp.
Mọi người cười nói:
– Sao bằng đề bốn chữ “an phong huệ lộ” 22 là thiết thực hơn.
Giả Chính nói:
– Thế mới được bốn chữ thôi, còn câu đối?
Một người nói:
– Tôi nghĩ được một câu, xin các vị chưa cho. Nói rồi đọc:
Đỗ nhạc ngạt ngào châu minh nguyệt,
Xạ lan sực nức viện tà dương.
Mọi người nói:
– Hay thì hay thực, chỉ có hai chữ “tà dương” chưa ổn.
Người ấy nói:
– Cổ thi có câu “Mi vu mãn viện khấp tà dương” 23.
Mọi người nói:
– Buồn lắm! Buồn lắm!
Lại có một người nói:
– Tôi cũng có một câu, xin các vị chữa cho. Nói xong đọc:
Ba ngõ gió đưa hương ngọc huệ;
Một sân giăng rọi bóng kim lan.
Giả Chính vuốt râu, ngẫm nghĩ, cũng muốn để một câu.
Chợt trông thấy Bảo Ngọc đứng yên bên cạnh, mới thét:
– Sao lúc đáng nói mày không nói, định để người ta mời mày hay sao?
Bảo Ngọc thưa:
– Chỗ này làm gì có “lan xạ”, “minh nguyệt” và chơi chữ, nếu cứ kể ra cho hết, thì đề đến hai trăm câu cũng không đủ.
Giả Chính nói:
– Ai gõ đầu mầy bắt phải nói những chữ ấy?
Bảo Ngọc thưa:
– Đã thế thì cái biển nên đề bốn chữ: “Hành chỉ thanh phân” 24 câu đối thì đề:
Ngâm câu đậu khấu, thơ càng đẹp,
Sao giấc đồ mi, mộng vẫn thơm.
Giả Chính cười nói:
– Mày lại ăn cắp cái câu “thư thành tiễu diệp văn áo lục” 25, lấy gì làm lạ.
Mọi người nói:
– Bài “phượng hoàng đài” của ông Lý Thái Bạch cũng ăn cắp bài “hoàng lạc lâu”, chỉ cốt ăn cắp khéo là được. Bây giờ cứ nghĩ kỹ ra thì câu của cậu còn nhã và mạnh hơn câu “thư thành tiễu diệp” nhiều, khéo câu “thư thành…” lại ăn cắp ở câu này cũng nên.
Giả Chính cười nói:
– Có nhẽ nào thế.
Mọi người đi ra, không mấy chốc đã thấy gác tía nguy nga, lầu son cao ngất, nhà cửa san sát, đường đi quanh co.
Tùng xanh chạm mái, ngọc lan quanh thềm; mặt thú, đầu ly, sơn vàng sáng nhoáng. Giả Chính nói:
– Đây là điện chính, xa hoa quá?
Mọi người đều nói:
– Thế mới hợp thể, tuy rằng quý phi thích tiết kiệm thực, nhưng bây giờ đã tôn quý rồi, lễ nghi như thế, chẳng lấy gì làm quá.
Vừa nói vừa đi, thấy mặt trước có một cái cổng chào xây bằng ngọc thạch, phía trên long cuốn ly vờn, chạm trổ rất khéo.
Giả Chính nói:
– Chỗ này đề chữ gì được?
Mọi người nói:
– Nên đề “Bồng lai tiên cảnh”.
Giả Chính lắc đầu không nói gì.
Bảo Ngọc trông thấy chỗ này, lòng tự nhiên xúc động, hình như mình đã được thấy ở đâu rồi, nhưng không nhớ ngày tháng năm nào 26.
Giả Chính lại bảo đề, Bảo Ngọc đương ngẫm nghĩ cảnh trước, không để bụng đến việc này. Mọi người không biết ý, cho là Bảo Ngọc bị quở mắng, từ bấy đến giờ tinh thần rối loạn, lẩn quẩn nghĩ không ra; nếu giục, sợ xảy ra sự gì thì không tiện bèn nói với Giả Chính.
– Thôi! Xin để ngày mai sẽ đề.
Giả Chính cũng sợ Giả mẫu không yên lòng, cười nhạt:
– Thằng súc sinh, mày đã đến lúc hết khoe giỏi rồi! Thôi ta hạn cho mày, đến ngày mai, nếu không đề được, ta nhất định không tha đâu. Chỗ này quan hệ nhất, phải làm cho hay mới được!
Nói xong, dẫn mọi người đi xem chỗ khác. Kể từ khi vào cửa vườn đến giờ, mười phần mới đi ngắm được năm sáu. Lúc này, có người vào báo: “Có ông Vũ Thôn sai người đến trình việc.” Giả Chính cười nói:
– Còn vài chỗ chưa đến được, chúng ta hãy theo đường này đi ra, thì dù chưa biết hết cũng có thể xem qua loa.
Liền dẫn mọi người đến một cái cầu lớn, thấy nước như rèm thủy tinh dội vào, thì ra cái cầu này là cửa đập thông ra ngoài sông, khơi thành suối để dẫn nước vào.
Giả Chính hỏi:
– Đặt tên cái đập nây là gì.
Bảo Ngọc nói:
– Đây là dòng chính của suối “thẩm phương”, thì nên đặt là “đập Thẩm phương”.
Giả Chính nói:.
– Mày lại nói nhảm, không nên dùng hai chữ “thấm phương”.
Mọi người theo đường đi ra, thấy có những nhà rộng, lều tranh, tường, đá, cửa hoa, dưới núi có chùa, trong rừng có phòng luyện thuốc, hiên dài, động sâu, nhà vuông, đình tròn.
Giả Chính không đi hết được. Vì đã nửa ngày chưa được nghỉ ngơi; lưng đau chân mỏi, chợt trông thấy phía trước có một cái nhà. Giả Chính nói:
– Nơi này có thể nghỉ được!
Liền đi theo con đường nhỏ quanh khóm bích đào, qua cửa tò vò đan bằng trúc và cài hoa. Chợt thấy tường trắng vây quanh, ngoài có liễu xanh rủ xuống. Giả chính cùng mọi người đi vào. Hai bên, hành lang nối nhau, ở trong lác đác mấy ngọn núi. Một bên có mấy khóm chuối; một bên là cây hải đường của phủ tây, trông như cái tán, dây rủ xanh biếc, hoa đỏ như son.
Một người nói:
– Hoa đẹp nhỉ! Hải đường có nhiều, nhưng chưa thấy cây nào đẹp như thế này.
Giả Chính nói:
– Đây là “nữ nhi đường”, lấy giống ở nước ngoài. Tục truyền giống này ở nước Nữ Nhi. Bên ấy có rất nhiều, nhưng cũng là lời hoang đường, không đáng tin.
Một người nói:
– Bảo rằng hoang đường không đáng tin thì tại sao từ lâu đã có cái tên ấy.
Bảo Ngọc nói:
– Phần nhiều các nhà ngâm vịnh thấy hoa này đỏ như son, ẻo lả như có bệnh, gần giống phong độ của người trong khuê các, cho nên đặt tên là “Nữ Nhi”. Có lẽ sau này người đời không thích nghe cái tên ấy, bèn dựa vào sử sách cho có chứng cớ rồi cứ thế truyền sai mãi đi, để thành sự thực.
Mọi người đều gật đầu khen ngợi, rồi ra ngồi cả ở giường ngoài hiên. Giả Chính bảo:
– Nên đề mấy câu gì thực mới đây?
Một người khách nói:
– Nên đề hai chữ “tiêu hạc” 27.
– Lại một người nói: “Nên đề bốn chữ “Sùng quang phiếm thái” 28.
Giả Chính cùng mọi người nói:
– “Sùng quang phiếm thái” hay!
Bảo Ngọc nói:
– Hay đấy, nhưng đáng tiếc
Mọi người hỏi:
– Sao lại đáng tiếc?
Bảo Ngọc nói:
– Chỗ này trồng chuối và hải đường, ám chỉ màu đỏ, màu xanh. Nếu chỉ nói chuối mà bỏ sót hải đường thì không hay; trái lại nói hải đường mà bỏ sót chuối cũng không được. Như thế không thể chỉ có chuối mà không có hải đường, càng không thể chỉ có hải đường mà không có chuối.
Giả Chính nói:
– Ý mày định viết chữ gì?
Bảo Ngọc nói:
– Con muốn viết bốn chữ “Hồng hương lục ngọc” thì mới đủ cả hai nghĩa.
Giả Chính lắc đầu:
– Không được, không được!
Mọi người vào trong buồng, thấy ở đấy trang trí không giống các nơi, nhìn chỗ nào cũng như chỗ nào. Nguyên ở đây xung quanh đều ghép gỗ chạm nổi của những tay thợ rất tài tình: chỗ thì chạm trăm con dơi bay vòng quanh, chỗ thì chạm ba người bạn mùa đông 29, chỗ thì chạm sông núi, nhân vật, chỗ thì chạm các thứ chim, cỏ, cây hoa hoặc thập cẩm, hoặc đời cổ hoặc chữ phúc, chữ thọ, các thứ này đều được khảm vàng ngọc đủ các màu sắc. Có nhiều ô vuông, tròn khác nhau, theo hình hoa quỳ, lá chuối, vòng tròn hay bán nguyệt để bỏ sách, bút nghiên, đặt đỉnh, lọ hoa chậu cây. Thực là trăm hoa nghìn gấm, chói lọi khắp nơi. Chỗ này cửa sổ dán lụa ngũ sắc xinh xắn; chỗ kia cửa che lụa mỏng lờ mờ. Khắp tường, có bày các đồ cỗ, như đàn, gươm, bầu rượu… đều đặt trong từng ô một, phẳng lì với mặt trăng. Mọi người đều khen: “Thực là tinh xảo! Làm được thế này khó lắm!”
Giả Chính chưa đi đến từng thứ hai đã lạc đường, trông sang bên tả có cửa ra vào, nhìn sang bên hữu có cửa sổ ngăn lại, tiến lên phía trước bị một tủ sách chắn ngang, quay lại phía sau thấy cửa sổ che màn lụa trông rõ lối đi. Khi đến nơi, chợt thấy có người lù lù đi lại giống mình như hệt, đó là cái gương pha lê lớn. Luôn qua cái gương lại thấy nhiều cửa. Giả Trân cười nói:
– Ông cứ theo tôi, đi đường này ra thì đến sân sau, ở đằng sau đi ra thì gần hơn đằng trước.
Mọi người đi quanh hai lần cửa gấm, quả nhiên có một lối ra. Trong sân có nhiều giàn hoa tường vi. Qua hàng rào hoa, thấy có một khe nước chắn ngang. Mọi người lấy làm lạ nói:
– Dòng nước này từ đâu đến đây?
Giả Trân trỏ ra đằng xa nói:
Nó từ cửa đập đằng kia chảy đến cửa hang, theo chỗ trũng ở núi phía đông bắc dẫn đến trang trại. Lại có dòng nhỏ chảy ra phía tây nam, đến đấy hợp lại làm một, rồi theo chân tường chảy đi.
Mọi người đều nói: “Khéo quá nhỉ!”
Chợt thấy ngọn núi lớn chắn ngang, ai nấy đều sợ lạc đường Giả Trân cười nói:
– Cứ đi theo tôi.
Rồi hắn đi trước dẫn đường. Vòng khỏi chân núi một quãng lại là đường to bằng phẳng, có một cái cửa lớn hiện ra trước mắt. Mọi người nói: “Thú thực, thú thực! Thần kỳ tinh xảo đến thế là cùng!”
Bấy giờ Bảo Ngọc chỉ để tâm nhớ nhà, không thấy Giả Chính bảo gì, đành phải theo đến thư phòng. Giả hình sực nhớ, nói:
– Mày còn chưa về à? Đi chơi nửa ngày trời vẫn chưa chán hay sao? Chắc cụ lại mong đấy. Về ngay đi. Nuông lắm sinh hư thôi!.
Bảo Ngọc nghe vậy mới dám về. Ra đến ngoài, bọn hầu bé của Giả Chính chạy lại ôm lấy nói:
– May mà hôm nay ông nhà vui đấy. Vừa rồi cụ mấy lần sai người ra hỏi, chúng tôi đều nói ông đương vui với cậu; nếu không thì cụ đã gọi cậu về ngay rồi, còn trổ tài làm sao được? Ai cũng bảo thơ cậu hay hơn mọi người. Hôm nay được hãnh điện như thế, phải thưởng cho chúng tôi mới được.
Bảo Ngọc cười nói:
– Cho mỗi người một quan tiền.
Mọi người nói:
– Một quan tiền thì ai mà chẳng có? Thưởng cho cả cái túi của cậu!
Nói xong đứa cỡi lấy cái túi, đứa lấy túi quạt, chẳng kể đầu đuôi, chúng lấy sạch các thứ đeo ở trong người Bảo Ngọc.
Rồi nói:
– Thôi đưa cậu về đi.
Một lũ vây tròn lấy Bảo Ngọc, dẫn về đến tận cửa Giả mẫu. Bấy giờ Giả mẫu đương mong, thấy Bảo Ngọc về, biết là không xảy chuyện gì, trong lòng rất vui.
Một chốc, Tập Nhân mang nước trà đến, thấy những đồ đeo trong mình Bảo Ngọc không còn một thứ gì, cười hỏi: Những đồ đeo đâu cả? Chắc lại bị bọn mặt dày nào lột mất rồi.
Đại Ngọc nghe nói chạy lại, thấy chẳng còn cái gì, hỏi Bảo Ngọc:
– Cái túi của tôi khâu, anh cũng cho chúng nó rồi à? Mai lại chực xin cái khác, đừng hòng có của sẵn thế.
Nói xong, bực tức về buồng, lấy kéo cắt vụn cái túi đựng hương đang khâu cho Bảo Ngọc.
1 Màu xanh của núi và của cây cối chồng chất lên nhau.
2 Núi gấm.
3 Trại thi nhau. Hương lô: Đời Hán có người thợ khéo lắm in một cái lư hương như hình quả núi, gọi là Bắc sơn hương lộ Ở đây ý nói quả núi này đẹp hơn Bắc sơn hương lô.
4 Nụ Chung Nam nhỏ: một quả núi ở phía nam Thiểm Tây, phía đông Hà Nam, phía tây Cam Túc, phong cảnh rất đẹp.
5 Con đường nhỏ, quanh co, đưa đến chỗ thắng cảnh.
6 Âu Dương Tu tự là tính Thúc, hiệu là Túy ông. Một nhà văn nổi tiếng ở đời Tống có làm hai bài ký Túy ông đình. Nay ớ Từ Huyện. tinh An Huy, còn di tích cái đình này.
7 Quang đãng, sáng sủa.
8 Suối chảy qua khe giữa hai quả núi.
9 Nước chảy ra từng hạt ngọc.
10 Nước suối ngon có thể dùng để nấu rượu.
11 Nước đượm mùi thơm.
12 Điển tích trong kinh Thị Phong nhã của bên Kỳ sót lại.
13 Di tích của vườn Thư.
14 Có chim phượng đến múa, ý nói điềm lành trong cảnh tượng thái bình.
15 Phạm Thành Đại, hiệu Thạch Hồ cư sĩ, một nhà văn nổi tiếng đời Cao Tông triều Nam Tống, có làm bài thơ tả phong vị nhà làm ruộng.
Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc bực lên, biết lại sinh chuyện, vội vàng chạy đến thì Đại Ngọc đã cắt mất cái túi rồi, Bảo Ngọc cũng đã trông thấy cái túi ấy, tuy chưa làm xong, nhưng khéo lắm. Nay Đại Ngọc tự nhiên cắt đi, nghĩ cũng đáng tức. Bảo Ngọc vội vàng cỡi áo trong lấy cái túi của Đại Ngọc cho khi trước giơ ra nói:
– Em xem, cái gì đây! Khi nào tôi lại cho người ta nhưng cái em tặng tôi!
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc cẩn thận, sợ người ta lấy mất, đã đeo ở tận trong áo, rất hối hận đã quá nóng, cắt mất túi hương, nên cứ ngồi cúi đầu không nói câu gì.
Bảo Ngọc nói:
– Em không cần phải cắt. Tôi biết rằng em không thích cho tôi cái gì nữa. Ngay cái túi náy tôi cũng xin nộp lại có được không?
Nói xong, Bảo Ngọc ném cái túi vào lòng Đại Ngọc, rồi đi.
Đại Ngọc tức phát khóc lên, lại chực cắt nốt cái túi này.
Bảo Ngọc vội quay lại giật lấy, cười nói:
– Thôi! xin em tha cho nó!
Đại Ngọc vứt kéo đi, gạt nước mắt nói:
– Anh không nên thế, lúc thì tử tế, lúc thì giận dỗi. Không ưa nhau thì buông tha nhau ra.
Nói xong, bực tức lên giường nằm ngoảnh mặt vào tường chùi nước mắt. Bảo Ngọc lại phải chạy đến xin lỗi hết cô em thế nọ, đến cô em thế kia.
Giả mẫu cho người đến tìm Bảo Ngọc. Mọi người nói:
– Hiện đương ở buồng cô Lâm.
Giả mẫu nói:
– Được được! Để cho anh em nó chơi với nhau.Vừa rồi bố nó giam hãm nó mất nửa ngày, nay cho nó thỏa thuê một chút. Nhưng bảo chúng nó không được cãi nhau.
Mọi người vâng lời.
Đại Ngọc bị Bảo Ngọc làm rầy mãi, đành phải đứng dậy nói:
– Ý anh không muốn cho tôi yên, thì tôi đành phải xa anh.
Nói xong, chạy ngay ra ngoài.
Bảo Ngọc cười:
– Em đi chỗ nào, anh cũng đi chỗ ấy.
Một mặt lại cầm lấy cái túi đeo vào người.
Đại Ngọc giơ tay giăng lấy:
– Anh vừa nói không cần, sao lại còn đeo? Tôi lấy làm xấu hổ hộ anh!
Nói xong, phì ra cười. Bảo Ngọc nói:
– Em ơi, ngày mai lại khâu cho anh cái túi khác nhé!
Đại Ngọc nói:
– Để xem đã, lúc nào thích thì làm.
Hai người vừa nói, vừa đến buồng Vương phu nhân, thì gặp Bảo Thoa cũng ở đấy. Lúc này trong nhà Vương phu nhân bận rộn lắm. Vì Giả Tường đã mua mười hai người con gái ở Cô Tô về. Hắn mời người dạy hát và cả những đồ diễn tuồng nữa.
Tiết phu nhân thì dọn sang ở một ngôi nhà về phía đông bắc.
Viện Lê Hương được sửa sang lại cho phường hát ở để dạy con hát. Những người đàn bà già trong nhà, trước biết hát đều đến đó trông nom bọn con hát. Các khoản chi tiêu hàng ngày, các vật liệu cần dùng, đều do Giả Tường cai quản.
Lại có Lâm Chi Hiếu đến báo: mười hai ni cô, đạo cô trẻ tuổi đã đón về, hai mươi bốn bộ áo lễ nữa đã may xong. Ngoài ra có một vị sư cô để tóc, tên Diệu Ngọc, là người Tô Châu. Cô này dòng dõi nhà quan, khi bé lắm bệnh, phải làm bao nhiêu hình nhân thế mạng, vẫn không khỏi; sau cùng phải xuất gia vì thế đi tu mà vẫn để tóc. Năm nay cô ta mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, chỉ còn có hai người vú và một a hoàn hầu hạ. Cô này chữ nghĩa rất thông, kinh kệ thuộc lòng, người lại đẹp. Nghe nói kinh đô có những di tích phật Quan âm và bản kinh viết bằng lá bối, nên năm ngoái cô ta theo sư phụ đến đây, hiện đương ở chùa Mầu Ni ngoài cửa tây. Sư phụ của cô ta, lấy số tiên thiên rất giỏi, nhưng đã chết từ mùa đông năm ngoái rồi. Theo lời dặn của sư phụ, Diệu Ngọc không nên về quê, cứ ở đây chờ tự khắc có kết quả tốt. Bởi vậy cô ta chưa về.
Vương phu nhân nói:
– Sao không mời cô ta?
Lâm Chi Hiếu nói:
– Nếu mời miệng thì cô ta sẽ nói: “Nhà quan hay cậy thế ức hiếp người, ta không khi nào chịu đến!”
Vương phu nhân nói:
– Cô ta là con gái nhà quan, tất nhiên hay làm cao. Ta viết thiếp mời, cũng không ngại gì.
Lâm Chi Hiếu vâng lời, ra bảo thư ký viết thiếp mời Diệu Ngọc, ngày mai sắp xe kiệu đi đón.
Bấy giờ có người đến trình: các thợ đang cần the lụa để trang trí, đến xin Phượng Thư mở lầu phát cho; lại có người đến trình: xin Phượng Thư nhận bỏ kho cho nhưng đồ vàng bạc, Vương phu nhân cùng các người hầu thân đều không ai được rỗi. Bảo Thoa nói:
– Chúng ta không nên ở đây làm quẩn chân, vướng tay người ta.
Bèn cùng Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến buồng Nghênh Xuân nói chuyện phiếm.
Vương phu nhân ngày nào cũng bận túi bụi. Mãi đến cuối tháng mười thu xếp xong. Những người đốc biện đã tính toán và bàn giao sổ sách; các đồ cổ, các bức thư họa đã được bày biện ở các nơi; những chim muông như hạc, hươu, thỏ, gà, ngỗng đã mua về và đem thả ở trong vườn. Giả Tường cũng soạn xong hai mươi ba vở hát. Các ni cô, đạo cô niệm phật, tụng kinh đều đã thông thạo. Bấy giờ Giả Chính mới yên lòng, mời Giả mẫu vào vườn xem lại một lượt. Thấy mọi việc xếp đặt đã ổn thỏa đâu vào đấy không còn sai sót một ly. Giả Chính bèn chọn ngày tâu sớ lên. Chỉ vua truyền xuống: đến rằm tháng giêng sang năm là tiết thượng nguyên, Qúy phi sẽ về thăm nhà. Từ đó trong phủ họ Giả bận rộn suốt ngày, ăn tết cũng vội vã.
Thấm thoát gần đến tiết nguyên tiêu, từ mồng tám tháng giêng trở đi đã có viên thái giám đến xem xét phương hướng: chỗ thay áo, chỗ ngồi chơi, chỗ nhận lễ, chỗ ăn tiệc, chỗ nghỉ ngơi. Lại có viên thái giám tổng quản lý quan phòng đem bọn thái giám nhỏ đến xem xét chỗ canh gác, chỗ căng màn, và dặn bảo người nhà họ Giả các nghi lễ như chỗ nào phải lui ra, chỗ nào quỳ, chỗ nào dâng món ăn, chỗ nào tâu việc. Bên ngoài lại có nhân viên bộ công và ty ngũ thành binh mã phải đến quét dọn đường sá, ngăn cấm những người không có chức vụ qua lại.
Bọn Giả Xá thì đốc thúc những thợ làm đèn đuốc. Mãi đến ngày mười bốn, mọi việc mới xếp đặt xong. Đêm hôm ấy, không một ai được chợp mắt.
Hôm rằm, đầu canh năm, từ Giả mẫu trở xuống, theo chức tước mặc phẩm phục đại trào. Trong vườn Đại quan, màn rồng, rèm phượng, vàng bạc châu báu choáng lên khắp nơi.
Đỉnh đốt hương bách hợp, lọ cắm hoa trường xuân, bốn bề im lặng như tờ, không một tiếng động. Bọn Giả Xá đứng ngoài cửa Tây, bọn Giả mẫu đứng ở ngoài cửa chính phủ Vinh. Đầu đường cuối ngõ mùng màn che kín. Đang lúc chờ lâu sốt ruột, chợt có một viên thái giám cưỡi ngựa đến, Giả Chính đón hỏi tin tức.
Viên thái giám nói:
– Hãy còn sớm chán, đầu giờ mùi ngự cơm chiều, giữa giờ mùi đến lễ phật ở cung Bảo Linh, đầu giờ dậu vào cung Đại Minh hầu yến, xem đèn rồi mới xin thánh chỉ về, có lẽ đầu giờ tuất mới bắt đầu đi.
Phượng Thư nghe xong, nói:
– Thế thì mời bà và mẹ hãy về buồng nghỉ, chờ lúc ấy sẽ ra cũng không muộn.
Giả mẫu trở về. Công việc trong vườn đều do Phượng Thư trông nom.
Những người coi việc, mời bọn thái giám đi ăn uống, sau đó bảo người nhà gánh từng gánh nến đi thắp ở các nơi.
Chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa chạy rầm rập, chừng mười viên thái giám thở hồng hộc đến vẫy tay ra hiệu. Bọn thái giám ở đấy biết là quý phi sắp đến, đều theo phương hướng đứng xếp hàng. Giả Xá dẫn con cháu trong họ đứng chực ngoài cửa Tây. Giả mẫu dẫn đám đàn bà trong họ đứng ở ngoài cửa chính đón tiếp. Lặng lẽ một lúc, thấy hai viên thái giám đi từ từ đến cửa Tây, xuống ngựa đem buộc ở ngoài chỗ quây màn rồi ngoảnh mặt về phía tây, buông thõng tay đứng chực. Chốc sau lại có hai viên nữa. Rồi cứ thế lần lượt tới gần mười đôi, khi ấy mới nghe văng vẳng có tiếng âm nhạc từ đằng xa vọng lại. Rồi từng đôi một cầm quạt phượng, cờ rồng, lông trĩ, quạt rồng, và lẵng vàng đốt trầm hương. Theo sau là một cái tán vàng thêu bảy con phượng, che mũ, áo, đai, giày. Lại có bọn thái giám mang khăn tay. Ống nhổ, phất trần cũng từng đôi một lũ lượt đi qua. Sau cùng là tám viên thái giám rước cỗ xe loan thêu phượng màu vàng từ tử đi đến.
Giả mẫu vội quỳ xuống, có ngay bọn thái giám đến đỡ dậy. Xe loan đi vào cửa chính, rẽ sang phía đông, đến trước một nhà, có viên thái giám quì xuống, mời quí phi xuống xe thay áo. Khi vào đến cửa, bọn thái giám lui ra, chỉ có Tiêu Dung, Thái Tần 30 đỡ Nguyên Xuân xuống xe.
Trong vườn, đèn hoa sáng rực, đều làm bằng the lụa cực kỳ tinh xảo, trên treo một cái biển căng đèn, viết bốn chữ: “thể nhàn mộc đức” 31.
Nguyên Xuân vào thay áo rồi lại lên xe ra thăm vườn: khói thơm nghi ngút, bóng hòa rập rờn, chỗ nào cũng đèn sáng chói lọi, lúc nào cũng tiếng nhạc du dương, thật là cảnh tượng thái bình, phong lưu phú quí, nói không xiết được!
Nhớ lại những ngày ở dưới núi Thanh Ngạnh trong dãy núi Đại Hoang, mình sao mà buồn rầu tịch mịch vậy! Nếu không nhờ nhà sư chốc đầu và đạo sĩ khiễng chân mang đến đây, thì làm gì mình được thấy cái thế giới này. Muốn làm một bài phú đèn trăng, bài tụng tinh nhân, để ghi lại việc hôm nay, nhưng lại sợ vướng vào khuôn sáo của các sách. Với quang cảnh ấy, dù có làm bài phú, bài tụng, cũng không thể hình dung hết cái đẹp của nó; mà không làm thì những hào hoa mỹ lệ, chắc độc giả cũng có thể tưởng tượng ra được. Cho nên xin bớt đi, khỏi phải dài dòng, để quay về ý chính là hơn.
Giả phi ngồi trên kiệu trông thấy quang cảnh trong và ngoài vườn, lẳng lặng thở dài: “Xa hoa quá”. Chợt viên thái giám quì mời lên thuyền. Giả phi xuống kiệu, chỉ thấy một dòng nước trong uốn khúc như rồng lượn, hai bên bờ đá, treo các thứ đèn bằng thủy tinh hoặc pha lê, sáng như bạc, trắng như tuyết. Khắp trên cành cây liễu, cây hạnh, đều kết hoa giả bằng giấy lụa và thông thảo treo hàng bao nhiêu ngọn đèn. Dưới nước có những đèn hình hoa sen, hoa ấu, con le, con cò, đều làm bằng vỏ trai, ốc hoặc lông chim. Trên dưới đua sáng, trời nước một màu, thực là một thế giới lưu ly. Trên thuyền lại có các chậu hoa, các thứ đèn cực kỳ tinh xảo, rèm châu, màn gấm, chèo quế, sào lan, không cần phải nói nhiều… Vào bến đá, có một cái biển đèn đề bốn chữ: “Liễu đình hoa tự”.
Bạn đọc thử xem, những chữ: “liễu đình hoa tự”, “hữu phượng lai nghi”. Chỉ là những chữ Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, sao lại đem ra đề thực? Họ Giả lại là một nhà nền nếp thi thư, bạn bè qua lại đều là những tay tài giỏi, làm gì chả có mấy người đứng ra đề vịnh, sao lại lấy những câu của chú bé con để lấp liếm cho qua? Như vậy khác nào bọn hào phú, quẳng tiền ra, chuốc những chuyện tô son điểm phấn, như loại: Trước cửa khóa vàng cây liễu lục; sau nhà bình gấm chặng non xanh; và cho đó là nhã. Đằng này, hai phủ Ninh, Vinh mà suốt cuốn thạch đầu đã nêu ra thì không phải như vậy. Xem thế, đủ thấy trái ngược rất xa. Độc giả chưa hiểu, để vật ngu xuẩn nói rõ đầu đuôi cho hay.
Nguyên là Giả phi lúc bé được Giả mẫu nuôi dạy. Sau thêm được Bảo Ngọc. Giả phi là chị cả, Bảo Ngọc là em út. Giả phi nghĩ mẹ tuổi đã cao, mới sinh được đứa em nhỏ, nên rất thương yêu Bảo Ngọc, khác hẳn mọi người. Vả lại, chị em cùng ở với Giả mẫu, không rời nhau lúc nào. Khi Bảo Ngọc mới ba, bốn tuổi, chưa đi học, đã được Giả phi dạy truyền khẩu, thuộc lòng mấy quyển sách, biết đến mấy nghìn chữ. Tuy là chị em, nhưng chẳng khác gì mẹ với con. Sau khi vào cung, Giả phi thường nhắn tin cho cha mẹ: “Cần phải nuôi dạy Bảo Ngọc cẩn thận, không nghiêm thì sau này không thành người, nhưng nghiêm quá lại sợ xảy ra sự bất trắc, làm cho cha mẹ lo buồn”.
Lòng quyến luyến của Giả phi đối với Bảo Ngọc thật là không khuây chút nào. Mấy hôm trước, thấy thầy học khen Bảo Ngọc tài tình, Giả Chính chưa tin, nhân lúc vào thăm vườn, liền bắt đề thơ, để xem ý tứ hay dở thế nào. Ông ta nghĩ: “Câu đối, biển đề” có nhờ ngòi bút của bậc đại tài cũng chẳng khó gì. Song trẻ con làm ra, tuy không hay lắm, cũng có chỗ đáng lấy và có phong vị của nhà mình hơn”. Mặt khác, ông ta cũng muốn để Giả phi biết rằng: những câu đề vịnh này là của em nhỏ nghĩ ra, để khỏi phụ lòng Giả phi ngày thường mong mỏi. Vì thế ông ta mới để những câu đó lại. Còn chỗ nào hôm trước chưa đề, về sau đều đề thêm cả.
Giả phi xem bốn chữ này cười nói:
– Hai chữ “hoa tự” là được rồi, cần gì phả thêm “liễu đình” nữa?
Thái giám đứng hầu nghe vậy, vội lên bờ truyền cho Giả Chính. Giả Chính lập tức cho viết lại.
Bấy giờ thuyền đến bờ, ghé lại. Giả phi lên xe, thấy cung điện nguy nga, trên bức hoảnh viết bốn chữ lớn: “Thiên tiên bảo cảnh” 32 Giả Phi sai đổi là: “Tinh thân biệt thự” 33, rồi tiến vào hành cung. Ở đây, đèn đuốc rực trời, hương thơm nhát đất, cây lửa, hoa kỳ, cửa vàng, cột ngọc, rèm cuốn bằng móc râu tôm, đệm giải bằng da rái cá, đỉnh tỏa mùi xạ hương, tường treo quạt đuôi trĩ. Thực là: “Chốn thần tiền cửa vàng lầu ngọc, nhà hoàng phi đền quế, cung lan”
Giả phi hỏi:
– Tại sao nơi này không đề biển?
Thái giám đi theo hầu, quì tâu:
– Đấy là chính điện, không dám tự tiện đề trước.
Giả phi gật đầu. Thái giám mời Giả phi ngồi nhận lễ. Hai bên thềm tấu nhạc. Hai viên thái giám dẫn bọn Giả Xá, Giả Chính xếp hàng ở dưới thềm. Chiêu Dung truyền dụ: “miễn lễ”. Mọi người lui ra. Lại dẫn bọn Giả mẫu từ thềm bên đông lên. Chiêu Dung lại truyền dụ: “miễn lễ”. Mọi người lại lui ra. Ba tuần dáng trà xong. âm nhạc nghi. Giả phi xuống ngai, vào nhà bên thay áo, rồi lên xe ra vườn chơi. Đến nhà Giả mẫu, Giả phi muốn làm lễ gia đình, Giả mẫu quì xuống ngăn lại. Thoạt gặp mặt nhau, Giả phi rỏ nước mắt, một tay nắm Giả mẫu một tay nắm Vương phu nhân. Ba người đều thổn thức, nói không ra lời. Hình phu nhân, Lý Hoàn, Vương Hy Phượng, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đứng bên cạnh cũng đều rỏ nước mắt không nói gì. Một lúc Giả phi mới nén buồn, cười gượng an ủi:
– Ngày trước đã đưa tôi đến chỗ không bao giờ được về gặp người nhà, nay may được về đây, mẹ con lại không cười, không nói, cứ khóc! Chốc nữa tôi đi, biết bao giờ lại được gặp nhau?
Nói xong Giả phi không nhịn được, lại thổn thức khóc.
Hình phu nhân vội đến khuyên giải. Giả mẫu mời Giả phi về chỗ ngồi. Giả phi theo thứ tự hỏi han từng người, lại khóc một phen nữa. Rồi đến những người coi việc ở phủ đông, phủ tây đứng ngoài hiên làm lễ. Sau lần lượt đến bọn hầu đàn bà con gái. Giả phi hỏi:
– Dì Tiết, Bảo Thoa, Đại Ngọc ở đâu không đến.
Vương phu nhân thưa:
– Vì họ là ngoại, không có chức vị gì, nên không dám thiện tiện vào hầu.
Giả phi liền bảo mời vào. Một lúc, Tiết phu nhân vào, muốn theo quốc lễ, nhưng Giả phi truyền miễn cho, rồi cùng kể “Hành chi thanh phân”, trên gác, lên lầu, qua ngòi, quanh núi, nhìn ngắm quanh co, chỗ nào cũng trang hoàng lộng lẫy, cái gì cũng tô điểm mới lạ. Nguyên phi khen ngợi không ngớt, lại khuyên: “Làm thế này là quá lạm, lần sau không nên xa xỉ quá. Đến chính điện, Nguyên phi truyền miễn lễ, mọi người vào chỗ ngồi. Tiệc yến bắt đầu. Giả mẫu ngồi dưới tiếp, bọn Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư thì dâng canh, nâng chén.
Nguyên phi truyền lấy bút mực sẵn, tay mở giấy hoa tiên, chọn chỗ nào vừa ý thì đặt tên. Tên vườn thì đặt là “Đại quan viên” 34, biển ở chính diện đề là: “Cố ân tư nghĩa” 35.
Câu đối đề:
Trời đất mở lòng nhân, con đỏ dân đen đều mến phục,
Xưa nay rộng ân điển, chín cháu muôn nước đội vinh quang.
Chỗ có biển đề: “Hữu phượng lai nghi” thì đặt tên là: “Tiêu Tương quán” 36 Chỗ đề: “Hồng hương lục ngọc”, thì đổi là: “Di hồng khoái lục” 37, và đặt tên là: “Di hồng viện”. Chỗ đề “Hành chí thanh phân” thì đặt tên là: “Hành vu uyển”. Chỗ đề: “Hạnh liêm tại vọng” thì đặt tên là: “Cán các sơn trang” 38 lầu giữa đặt tên là: “Đại quan lâu”. Lầu bên đông đặt tên là: “Xuyết cẩm các” 39. Lầu bên tây đặt tên là: “Hàm phương ác”. Lại còn những tên “Lục phong hiên”, “Ngẫu hương tạ” 40, “Từ lang châu” 41, “Hành diệp chứ”. Biển đề có những chữ: “Lê hoa xuân vũ”, “Đồng tiễn thu phong” 42, “Địch lộ dạ tuyết” 43. Nguyên phi lại truyền không nên bỏ những câu đối và bức hoành đã đề trước, rồi đề một bài tứ tuyệt như sau:
Non nước bao quanh khéo lạ lùng,
Biết bao công của mới làm xong.
Thợ trời thêm thợ người tô điểm,
Gọi Đại quan viên có xứng không?
Nguyên phi đề xong, cười bảo các chị em:
– Tôi xưa nay vẫn kém tài mẫn tiệp, không quen ngâm vịnh, các em đều đã biết cả. Đêm hôm nay gọi là nghĩ qua loa để khỏi phụ cảnh này thôi. Bao giờ rỗi tôi sẽ soạn bài “Đại quan viên ký” và bài “Tình thân tụng” để kỷ niệm ngày hôm nay. Chị em cũng nên mỗi người đề một cái biển, vịnh một bài thơ, chớ vì tài mọn của tôi mà phải gò bó. Bảo Ngọc cũng biết đề vịnh, điều ấy đáng mừng. Trong các nơi, ta thích nhất “quán Tiêu Tương” và “Hành Vu uyển” rồi đến “viện Di Hồng” và “Cát cân sơn trang”, bốn nơi này phải có thơ đề vịnh riêng mới được. Những câu đề trước tuy cũng khá, nhưng phải làm mỗi nơi một bài thơ, để ta thử tài tại chỗ, mới không phụ công ta vất vả dạy dỗ từ bé!
Bảo Ngọc vâng lời, lui ra nghĩ thơ.
Trong bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân thì Thám Xuân hơn cả. Nhưng biết trước không thể đua tài với họ Tiết, họ Lâm được, tuy nhiên, nàng cũng phải gắng gượng làm cho qua chuyện. Lý Hoàn cũng gắng sức làm một bài. Giả phi lần lượt xem:
Biển đề KHOÁNG TÍNH DI TÌNH
Phong cảnh vườn này thực lạ ghê.
Vâng lời đề biển, thẹn tay đề.
Cõi trần đâu có nơi nào thế,
Dạo cảnh ai là chẳng phải mê!
Nghênh Xuân
Biển đề VẠN TƯỢNG TRANH HUY 44.
Vườn này xây đắp thực nguy nga,
Vâng mệnh đề thơ thẹn bút hoa.
Tinh xảo nhường nào không kể xiết,
Quả nhiên muôn vật đẹp thêm ra.
Thám Xuân
Biển đề VĂN CHƯƠNG TẠO HÓA
Non nước bao quanh mấy dăm dài,
Lâu đài cao ngất giữa từng mây.
Sánh cùng nhật nguyệt cùng tươi sáng,
Bác thợ trời kia cũng kém tài.
Tích Xuân
Biển đề VĂN THÁI PHONG LƯU
Bốn bề non nước cảnh chơi vơi,
So với Bồng lai đẹp tuyệt vời.
Quạt lướt màu xanh làn cỏ ngát,
Quần xòe sắc đỏ cánh hoa rơi.
Ngọc chờ đời thịnh càng lên giá.
Tiên ở đài dao lại xuống chơi.
Từ lúc vườn này chào khách quí,
Phàm trần đã đến được bao người.
Lý Hoàn
Biển đề NGƯNG HUY CHUNG THỤY 45.
Vườn hoa xây cạnh đế thành,
Một vùng trời đẹp mây lành lạ sao.
Rời hang oanh đã đậu cao,
Trúc kia đợi phượng múa chào cùng vui.
Gió văn thổi lúc ra chơi,
Thăm nhà trọn hiếu dạy người theo noi.
Tài tiên cao diêu tuyệt vời,
Thẹn mình còn dám thêm lời nữa sao?
Tiết Bảo Thoa
Biển đề THẾ NGOẠI TIÊN NGUYÊN 46
Dạo chơi Người lại thêm vui,
Cõi tiên nào phải là nơi bụi hồng!
Đẹp thay mượn cảnh non sông,
Điểm tô cảnh lại lạ lùng đẹp hơn.
Rượu kim cúc ngát mùi hương,
Chào mừng người ngọc rõ ràng hoa tươi.
Mong sao trên đội ơn trời,
Vườn này thường được đón mời xe loan.
Lâm Đại Ngọc
Nguyên phi xem xong khen mãi, cười nói:
– Rút cục bài của em Tiết, em Lâm hơn hẳn các bài. Chị em chúng ta không ai bằng.
Ngay đêm ấy, Đại Ngọc định trổ hết tài át hẳn mọi người. Không ngờ Nguyên phi chỉ bảo đề mấy chữ hoành biển và một bài thơ, nên không dám trái lời, chỉ làm qua loa một bài thơ cho tác trách.
Bảo Ngọc mới làm xong hai bài “Tiêu Tương quán” và “Hành vu uyển”, đang nghĩ bài “Di hồng viện”. Bảo Thoa liếc mắt nhìn, thấy trong bản nháp của Bảo Ngọc có câu “Lục ngọc xuân do quyển” 47. Nhân lúc mọi người không để ý, bèn đẩy Bảo Ngọc bảo:
– Qúy phi không thích những chữ “hồng hương lục ngọc” mới đổi ra “di hồng khoái lục”, giờ anh lại dùng hai chữ “lục ngọc” như thế chả phải là cố làm trái ý người hay sao? Vả chăng điển tích lá chuối cũng có nhiều, nên đổi đi là phải.
Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa nói thế, gạt mồ hôi nói:
– Bây giờ tôi nghĩ mãi cũng chẳng nhớ ra được điển tích nào?
Bảo Thoa cười:
– Anh chỉ đổi chữ “lục ngọc” làm chữ “lục lạp” 48 là được.
Bảo Ngọc nói:
– Chữ “lục lạp” xuất xứ ở đâu?
Bảo Thoa khẽ bĩu môi, gật đầu nói:
– Đêm nay mới có thế mà anh đã cuống lên, sau này thi ở trước đền vàng, có lẽ họ Triệu, họ Tiền, họ Tôn, họ Lý cũng quên tất. Bài thơ Vịnh ba tiêu của Hàn Dực nhà Đường có câu: “Lãnh chúc vô yên lục lạp can” 49 anh quên rồi à!
Bảo Ngọc nghe xong chợt nhớ ra cười nói:
– Đáng chết! Đáng chết! Chữ ngay trước mắt tôi cũng không nghĩ ra. Chị đáng là “Nhất tự sư” 50 vậy. Từ rầy tôi xin gọi là thầy, chứ không dám gọi là chị nữa.
Bảo Thoa khẽ cười nói:
– Làm nhanh đi, đừng chị chị em em nữa. Ai là chị? Người mặc áo vàng ngồi trên kia mới là chị.
Sợ làm mất thì giờ của Bảo Ngọc, Bảo Thoa vừa cười nói, vừa quay đi chỗ khác.
Bảo Ngọc làm xong bài này, mới là ba bài. Bấy giờ Đại Ngọc chưa được trổ hết tài, vẫn chưa mãn nguyện. Nhân thấy Bảo Ngọc nghĩ ngợi khó khăn, nghĩ bụng: “Sao ta không làm giúp vài bài cho anh ấy đỡ mệt”. Rồi chạy đến bên bàn Bảo Ngọc khẽ hỏi đã làm xong chưa. Bảo Ngọc nói:
– Mới làm xong ba bài, còn thiếu bài “Hạnh liêm tại vọng”.
Đại Ngọc nói:
– Đã vậy anh cứ chép ba bài kia đi, còn bài này tôi sẽ làm giúp.
Nói xong nghĩ ngợi một lúc, làm xong một bài, viết vào mảnh giấy, vê tròn ném cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc giở ra xem, thấy hay hơn ba bài của mình nhiều, vội chép cẩn thận rồi đưa nộp. Nguyên phi xem thấy:
HỮU PHƯỢNG LAI NGHI
Ngọc tốt vừa ra quả,
Đang chờ phượng đến chơi.
Rờn rờn xanh mấy ngọn,
Thoang thoáng mát đầy nơi.
Qua bực, e thềm ướt.
Lọt rèm thơm sặc mùi,
Bóng kia đừng rung động,
Giấc mộng đẹp đường dài.
HÀNH CHỈ THANH PHÂN
Vườn kia im lặng như tờ
Hành la đua nở đương chờ đợi ai?
Có xuân xanh lẫn màu trời,
Dải hồng tha thướt quyệt mùi hương thơm.
Khói bay nhè nhẹ bên đường,
Áo quần xanh đẫm hơi sương lạnh lùng.
“Trì đường” là khúc hóa công,
Anh em họ Tạ giấc nồng nàn thay.
DI HỒNG KHOÁI LỤC
Một vùng sân vắng ngày dài,
Thuyền quyên hai ả cả hai đẹp dòn,
Trời xuân anh vẫn cuộn tròn,
Áo hồng thơ thẩn khuya còn đứng đây.
Bên kia áo đỏ gió bay,
Khói xanh, dựa đá bên này đỡ chơi.
Trước gió đông đứng hàng đôi,
Chủ nhân ướm hỏi ai người biết thương?
HẠNH LIÊM TẠI VỌNG
Cờ rượu treo mời khách,
Kề non dựng một tòa.
Cỏ thơm ao tắm ngỗng,
Dâu tốt yến xây nhà.
Rau xuân xanh bát ngát,
Mùi lúa nức gần xa.
Đời thịnh nào ai đói.
Canh cửi vội chi mà.
Bảo Ngọc kính đề
Nguyên phi xem xong, thích lắm, nói:
– Học đã tiến rồi đấy!
Lại bảo:
– Trong bốn bài, thì bài “Hạnh liêm” hơn cả.
Rồi đổi tên “Cán cát sơn trang” làm “Đạo hương thôn 51.
Nguyên phi sai Thám Xuân lấy giấy hoa tiên chép cẩn thận những bài thơ ấy, rồi cho thái giám đưa ra nhà ngoài. Bọn Giả Chính xem, đều khen ngợi mãi. Giả Chính lại dâng bài “Qui tính tụng”. Nguyên phi sai lấy các đồ vàng ngọc thưởng cho Bảo Ngọc và Giả Lan. Giả Lan hãy còn bé, chưa hiểu gì, chỉ biết theo mẹ và chú đến tạ.
Giả Hoàn bị Ốm từ trong năm đang điều dưỡng nên không nói đến.
Bấy giờ Giả Tường đã dẫn một ban hát đứng ở dưới lầu, chờ mãi sốt ruột, chợt có một viên thái giám chạy đến bảo: thơ làm xong rồi, đem trình ngay các mục vở hát lên. Giả Tường vội đem trình các mục vở hát và danh sách mười hai ca nữ. Một lúc thấy chấm bốn vở:
1. Hào yến,
2. Khất sảo,
3. Tiên duyên,
4. Li hồn.
Giả Tường vội xếp đặt các vở đem ra diễn. Những điệu hát lên cao, lanh lảnh, những điệu múa biến ảo như ma, tuy chỉ là lối biểu diễn hóa trang, nhưng nỗi vui buồn đều biểu lộ rõ
Hát xong, bọn thái giám bưng lên một mâm kẹo bánh, hỏi:
– Ai là Linh Quan?
Giả Tường biết là để thưởng cho Linh Quan, vội vàng nhận lấy và bảo Linh Quan ra tạ Ơn. Thái giám nói: Qúi phi truyền “Linh Quan giỏi lắm, hát thêm hai vở nữa. Vở gì cũng được”.
Giả Tường vội vàng vâng lời, bảo diễn thêm hai vở “Du tiên” và “Kinh mộng”.
Linh Quan nói:
– Không quen hát hai vở ấy.
Hắn nhất định không nghe và xin hát hai vở “Tương ước và “Tương mạ”. Giả Tường ngăn không được, đành để cho hát, Nguyên phi thích lắm, truyền: “Không nên bắt ép đám trẻ con quá, để nó học tập dần”. Và đặc cách thưởng cho hai tấm nhiễu trong cung, hai cái túi và mấy thoi vàng bạc nhỏ. Tan tiệc Nguyên phi lại ra ngắm cảnh những chỗ chưa dạo qua. Chợt thấy ngôi chùa ở bên núi, Nguyên phi vội vàng rửa tay, thắp hương lễ phật, đề biển bốn chữ “Khổ hải từ hàng” 52, rồi đặc cách ban thưởng cho bọn ni cô, đạo cô.
Một lúc thái giám quì tâu: “Đồ ban thưởng sắp cả rồi, xin theo lệ phân phát”. Rồi trình bản kê lên. Nguyên phi xem từ đầu đến cuối, không nói gì, truyền cứ theo thế mà làm. Thái giám đem xuống ban cho mọi người. Giả mẫu được một đôi như ý 53 bằng vàng và bằng ngọc, một cái gậy bằng gỗ trầm hương, một chuỗi tràng hạt, bốn tấm đoạn “phú quí trường xuân” 54, bốn tấm phiễu “phúc thọ miên trường” 55, mười hai thoi vàng “bút đĩnh như ý” 56, mười thoi bạc “cát khánh hữu du 57. Hai phần của Hình phu nhân, Vương phu nhân cũng thế, chỉ kém cái gậy, thoi như ý và tràng hạt. Giả Kính, Giả Xá, Giả Chính, mỗi phần hai bộ tân thư ngự chế, hai hộp mực quí, hai chiếc chén vàng. Còn đồ biếu khác thì cũng như trên. Chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc, mỗi người một bộ tân thư, một cái nghiên quí, bốn thoi vàng bạc đúc kiểu mới. Bảo Ngọc, Giả Lan thì hai cái vòng bằng vàng bạc, bốn thoi vàng bạc. Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư, mỗi người bốn thoi vàng bạc, bốn thứ đồ biếu. Hai mươi bốn thứ đồ biếu, tiền năm trăm quan, thì thưởng cho bọn vú bõ và a hoàn hầu Giả mẫu và các phòng. Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Dung đều mỗi người một thứ đồ biếu, hai thoi vàng bạc. Một trăm tấm lụa hoa, một nghìn lạng vàng bạc, rượu ngự tiếc hoa thì thì cho bọn trông nom công việc bày biện, đi lại, coi ban hát, trông đèn nến ở hai phủ Vinh, Ninh. Năm trăm quan thưởng cho những người trông nom bếp nước, chèo hát, các trò chơi, sai vặt…
Mọi người tạ Ơn xong, viên thái giám chấp sự tâu: “Nay đã đến giữa giừ sửu, mời loan giá về cung”.
Nguyên phi lại nước mắt giàn giụa, nhưng phải gượng cười cầm tay Giả mẫu và Vương phu nhân dặn dò nhiều lần: “Giữ lấy sức khỏe, không nên thương nhớ. Hiện giờ ơn trên rộng rãi, mỗi tháng cho vào cung thăm một lần, gặp mặt cũng dễ dàng, việc gì phải buồn rầu? Nếu sang năm ơn trên lại cho về thăm nhà, thì không nên bày vẽ xa xỉ như thế này”. Giả mẫu khóc nức nở, nói không ra lời. Nguyên phi tuy không nỡ rời tay, nhưng vì theo phép tắc nhà vua, nên đành dằn lòng lên xe. Mọi người khuyên giải Giả mẫu và Vương phu nhân rồi dìu về nhà.
30 Các nữ quan trong cung.
31 Nhờ nhân đức nhà vua.
32 Cảnh đẹp cõi tiên.
33 Nhà riêng về thăm cha mẹ.
34 Vườn lớn, nhiều phong cảnh đẹp, làm cho người du lãm có một tầm mắt bao la.
35 Trông thấy ơn vua thì nghĩ đến nghĩa lớn.
36 Quán tên sông Tiêu, sông Tương.
37 Màu đỏ, màu xanh cùng vui tươi.
38 Trại giặt vải ở gần núi.
39 Lầu trăng gấm.
40 Thơm mùi ngó sen.
41 Hoa súng tía.
42 Lá ngô đồng gặp gió mùa thu.
43 Hoa lan gặp đêm tuyết.
44 Muôn vẻ đua sáng.
45 Họp mọi màu sáng và chung đức điểm lành.
46 Suối cõi tiên ở ngoài cõi trần.
47 Ngọn ngọc mùa xuân còn đang cuốn (chỉ cây chuối).
48 Cây sáp xanh.
49 Ngọn đuốc không có khói mà cây sáp xanh cứ khô dần.
50 Thầy dạy một chữ.
51 Thơm mùi lúa.
52 Bè từ bi độ chúng sinh trong bể khổ.
53 Nguyên là một tên đồ dùng để gãi lưng về sau làm đồ trần ngoạn, hoặc bằng vàng, hoặc bằng ngọc, ngụ ý chúc tụng những sự tốt lành.
Giả phi về cung, hôm sau vào chầu Vua tạ Ơn và tâu lại về việc thăm nhà. Mặt rồng rất vui, lại phát những vàng bạc, gấm vóc trong kho thưởng cho Giả Chính và gia thuộc.
Nói về hai phủ Vinh, Ninh suốt mấy ngày làm hết hơi sức, sau đó lại phải thu xếp những đồ trần thiết trong vườn, hai ba ngày mới xong, ai cũng mỏi mệt. Phượng Thư là người bận hơn cả. Nếu như người khác còn có thể lảng tránh công việc, nhưng Phượng Thư thì không sao làm ngơ được; vả lại chị ta tính hiếu thắng, không chịu để người chê trách, nên ôm đồm hết thảy mà vẫn làm ra dáng ung dung như không bận rộn gì. Trái lại, chỉ có Bảo Ngọc là người nhàn rỗi nhất. Một buổi sáng, mẹ Tập Nhân đến hầu Giả mẫu, xin phép cho con về nhà ăn cỗ đầu năm, đến chiều mới về. Vì thế Bảo Ngọc chỉ đánh cờ, chơi đùa với lũ a hoàn. Đương lúc buồn, chợt thấy người hầu vào nói: “ông Trân bên phủ Đông mời cậu sang xem hát, đốt cây bông”. Bảo Ngọc nghe nói, bảo thay quần áo. Lúc sắp đi, thì Giả phi sai người đem cho bánh sữa. Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Tập Nhân thích ăn thứ bánh này, liền bảo để dành, rồi xin phép Giả mẫu đi xem hát.
Những trò hát bên nhà Giả Trân là “Đinh lang nhận phụ”, “Hoàng Bá Ương đại bài âm hồn trận”, “Tôn hành giả đại náo Thiên cung”, “Khương thái công trảm tướng phong thần”. Lúc thì quỷ thần biến ảo, lúc thì ma quái ly kỳ; phất cờ chạy đèn, dâng hương niệm phật, tiếng chuông trống, hò hét ầm ĩ, cả ngoài đường cũng nghe thấy. Người qua lại trên phố đều tán tụng: “Vui quá nhỉ? Nhà khác làm gì có trò này”. Bảo Ngọc thấy phồn hoa huyên náo quá, không chịu được, ngồi một lúc rồi ra dạo chơi các nơi. Trước hết, vào nhà trong nói quấy với Vưu thị và các tỳ thiếp một lúc, rồi đi ra cửa. Vưu thị tưởng Bảo Ngọc lại ra xem hát, nên không để ý. Bọn Giả Trân, Giả Liễn, Tiết Bàn thì lăn vào đánh đố, uống rượu, giở trăm trò vui, ai nấy cứ cho là Bảo Ngọc đi vào nhà trong, nên không hỏi đến. Cả những người lớn theo hầu Bảo Ngọc cũng cho là Bảo Ngọc thế nào đến chiều mới về. Được dịp rỗi, họ họp nhau đánh bạc, hoặc đi uống rượu ở nhà họ hàng, bạn hữu. Mỗi người tản đi mỗi nơi, hẹn nhau đến chiều mới về. Bọn trẻ con thì chen nhau vào buồng xem hát.
Bảo Ngọc không thấy có người nào theo hầu, liền nghĩ: “Nhà này có một thư phòng nhỏ, trong có treo bức tranh mỹ nhân rất thần tình. Bây giờ ở đây vắng người, mỹ nhân ấy chắc cũng hiu quạnh lắm. Ta cần phải đến đó thăm hỏi xem sao”. Nghĩ thế rồi đi. Đến nơi, mới vào cửa, nghe trong phòng có tiếng thở. Bảo Ngọc giật mình, nghĩ: Có lẽ mỹ nhân hiện thành người thật chăng? Rồi đánh bạo, dấp nước bọt, chọc thủng cửa sổ giấy nhìn vào, thấy mỹ nhân vẫn y nguyên ở trong tranh. Té ra Dính Yên đương đè một người con gái, ôn lại bài học của nàng tiên Cảnh ảo trước đây. Bảo Ngọc ăn không được, đạp cửa vào hét to: “Qúa lắm nhỉ!” Hai người nghe động, ôm lấy áo sợ run lên.
Dính Yên trông thấy Bảo Ngọc, vội quỳ xuống kêu van. Bảo Ngọc nói:
– Đương lúc ban ngày ban mặt, mày làm trò gì thế? Nếu anh Trân biết thì mày sống hay chết?
Nhìn lại thấy người con gái, mặt mũi sạch sẽ, tuy không đẹp lắm, nhưng có vẻ dễ thương, hổ thẹn cúi đầu, đứng im không nói gì. Bảo Ngọc giậm chân nói:
– Còn không đi à?
Cô gái nghe xong chạy đi ngaỵ Bảo Ngọc lại theo ra nói to:
– Đừng sợ! Tao không mách ai đâu.
Dính Yên vội kêu lên:
– Ông trẻ ơi! Thế là ông mách người ta rồi còn gì?
– Con bé ấy bao nhiêu tuổi?
– Độ mười sáu mười bảy tuổi.
– Ngay tuổi nó mày cũng không hỏi, mà đã làm cái trò ấy! Thật là nó vớ uổng phải mày! Đáng thương! Đáng thương! Còn tên nó là gì?
– Nếu nói tên nó ra thì chuyện cũng dài và mới lạ lắm. Nó nói: khi sắp đẻ, mẹ nó nằm mộng thấy được một tấm gấm, trên mặt thêu hoa năm sắc hình chữ “Vạn”, vì thế đặt tên nó là Vạn Nhi.
– Thế thì lạ thật, chắc sau này nó cũng khá đấy.
Nói xong, Bảo Ngọc lặng lẽ nghĩ ngợi giờ lâu.
Dính Yên hỏi:
– Hát hay thế, sao cậu không xem?
– Xem một chốc, buồn quá, chạy ra ngoài chơi thì gặp chúng baỵ Bây giờ nên làm gì đây?
Dính Yên cười khì khì:
– Bây giờ không ai biết, tôi lẳng lặng đưa cậu ra ngoài thành chơi một chốc rồi sẽ về.
– Không được, cẩn thận đấy, kẻo mẹ mìn nó bắt đi. Và nếu họ biết thì lại làm ầm lên. Sao bằng đi chơi nơi nào gần đây rồi lại trở về.
– Nếu đi gần đây thì nên đến nhà ai? Kể cũng khó đấy!
– Cứ ý ta, chúng ta đến thăm chị Hoa 1 xem chị ấy ở nhà làm gì.
– Được được, nhưng tôi không nhớ nhà chị tạ Vả lại, nếu họ biết tôi dẫn cậu đi chơi nhảm, thì tôi sẽ bị đòn.
– Đã có ta.
Dính Yên nghe nói, dắt ngựa đến, rồi hai người từ cửa sau đi ra. May là nhà Tập Nhân không xa, chỉ độ nửa dặm đường thoắt đã đến cửa.
Dính Yên vào trước gọi anh Tập Nhân là Hoa Tự Phương. Bấy giờ mẹ Tập Nhân đương ăn hoa quả với Tập Nhân và mấy người cháu gái. Nghe bên ngoài có người gọi “anh Hoa”, Hoa Tự Phương vội chạy ra, thấy hai thầy trò Bảo Ngọc. Hắn sợ hãi không biết có việc gì, vội vàng bế Bảo Ngọc xuống ngựa, rồi chạy vào nhà nói to: “Cậu Bảo đến đấy!” Tập Nhân nghe thấy, không biết chuyện gì, vội chạy ra đón, dắt tay Bảo Ngọc, hỏi:
– Có việc gì mà cậu đến đây?
– Buồn quá, đến xem chị làm gì thôi.
Tập Nhân nghe xong mới yên lòng, nói:
– Cậu cũng liều quá, đến đây làm gì?
Rồi hỏi Dính Yên:
– Còn có ai đi theo hầu không?
– Chẳng có ai cả.
Tập Nhân lại sợ hãi nói:
– Như thế sao được! Nếu gặp người quen, hay ông nhà hoặc ngoài đường người chen, ngựa giẫm, có việc gì xảy ra thì sao? Có phải chuyện chơi đâu? Các người quả to gan thật. Chỉ tại thằng Dính Yên bày trò ra cả. Khi về, ta mách các vú nhất định đánh cho chết thằng giặc này.
Dính Yên bĩu mỏ nói:
– Cậu mắng tôi, đánh tôi, bắt phải đưa đi, bây giờ lại đổ tội cho tôi. Tôi đã bảo đừng đến mà! Nếu thế, chúng tôi về quách.
Hoa Tự Phương khuyên can:
– Cậu đã trót đến đây rồi, nói lôi thôi mãi làm gì. Chỉ hiềm nhà tôi nhà rách, vách nát, chật hẹp, bẩn thỉu, biết mời cậu ngồi đâu được?
Mẹ Tập Nhân ra đón. Bảo Ngọc thấy trong buồng có bốn năm người con gái. Trông thấy Bảo Ngọc, họ đều cúi đầu, thẹn đỏ mặt. Mẹ con Hoa Tự Phương sợ Bảo Ngọc lạnh, mời lên ngồi trên bục, mang hoa quả, nước trà đến. Tập Nhân cười nói:
– Đừng làm cuống lên, vô ích, tôi biết cậu ấy rồi, đừng nên cho ăn nhảm.
Nói xong đem cái nệm của mình giải trên ghế, rồi dắt Bảo Ngọc ngồi xuống. Lại mang cái lồng ấp chân của mình để vào chân Bảo Ngọc. Lại lấy ở túi ra hai cái bánh mai hoa đưa cho Bảo Ngọc và đốt lồng ấp tay của mình, đậy kín lại, để vào lòng Bảo Ngọc. Rồi lại lấy chén riêng của mình pha trà mời Bảo Ngọc uống. Bấy giờ anh và mẹ Tập Nhân đã bày sẵn một mâm hoa quả. Tập Nhân thấy không có gì đáng ăn, liền cười nói:
– Cậu đã đến đây, có nhẽ nào lại về không, hãy nếm một tí gọi là lần đầu đến chơi nhà tôi.
Nói xong, lấy một ít hạt dẻ bóc sạch vỏ, đựng vào khay tay đưa cho Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc trông thấy Tập Nhân hai mắt đỏ hoe, mặt phấn hơi ướt, khẽ hỏi:
– Chị khóc gì thế?
– Ai khóc bao giờ, vì ngứa mắt, tôi dụi đấy thôi.
Rồi bỏ qua chuyện ấy. Nhân thấy Bảo Ngọc mặc áo vóc đỏ chẽn tay, thêu rồng vàng lót da cáo, ngoài khoác áo xanh lót da cừu. Tập Nhân nói:
– Khi cậu đến đây mặc áo mới, ở nhà không ai hỏi à?
– Anh Trân mời xem hát, nên mới thay mặc bộ này.
Tập Nhân gật đầu, lại nói:
– Hãy ngồi một lát rồi về. Chỗ này không phải là chỗ cậu đến đâu nhé.
– Chị nên về nhà ngay mới được. Tôi đã để phần chị một thứ ngon lắm.
– Nói khẽ chứ, người ta nghe thấy thì còn ra làm sao?
Rồi giơ tay tháo “viên ngọc thiêng” ở cổ Bảo Ngọc ra, cười nói với các chị em:
– Này hãy xem đi. Ngày thường các chị cứ phàn nàn không được trông thấy của hiếm này, bây giờ thì xem cho chán đi, có gì là lạ, chẳng qua nó cũng chỉ thế thôi.
Nói xong, Tập Nhân đưa viên ngọc cho mọi người chuyền tay nhau xem một lượt, rồi lại đeo vào cổ Bảo Ngọc.
Tập Nhân bảo người anh đi thuê xe hoặc kiệu đưa Bảo Ngọc về. Hoa Tự Phương nói:
– Để tôi đưa đi, cậu ấy cưỡi ngựa cũng được.
Tập Nhân nói:
– Không phải là không được, chỉ sợ người ta trông thấy.
Hoa Tự Phương vội đi thuê một cỗ kiệu lớn, mọi người không tiện giữ lại, đành để Bảo Ngọc ra về. Tập Nhân lại đưa một nắm quả cho Dính Yên và cho nó tiền mua pháo, rồi bảo:
– Nếu nói với ai, cả mày cũng có tội đấy.
Rồi đưa Bảo Ngọc ra cửa, lên xe, buông màn xuống. Hoa Tự Phương và Dính Yên dắt ngựa đi theo. Đến phủ Ninh, Dính Yên bảo dừng xe, rồi nói với Hoa Tự Phương:
– Tôi và cậu Hai hãy vào phủ Đông chơi một lúc sẽ về, để người ta khỏi ngờ.
Hoa Tự Phương cho là phải, vội ẵm Bảo Ngọc xuống kiệu, rồi đỡ lên ngựa. Bảo Ngọc cười:
– Làm phiền anh quá.
Liền đi về cửa sau.
Thấy Bảo Ngọc đi vắng, lũ a hoàn tha hồ chơi đùa, đánh cờ, đánh bài, vất đầy vỏ hạt dưa ra. Vú Lý chống gậy đến thăm Bảo Ngọc, thấy bọn a hoàn xúm nhau lại chơi đùa, vú rất khó chịu, thở dài:
– Dạo này ta ít đến đây, chúng bay càng làm bừa bãi quá. Các vú khác chẳng ai dám nói động đến chúng bay cả. Bảo Ngọc như cây đèn cao ngất, chỉ biết đi soi nhà người, còn nhà mình thì không hề soi đến, để cho chúng nó phá phách đến thế này, chẳng còn thể thống gì cả.
Bọn a hoàn xưa nay biết Bảo Ngọc không để ý đến những việc lặt vặt; vú Lý đã thôi việc cáo lão về nhà rồi, còn cai quản thế nào được chúng. Vì thế, mụ nói gì mặc mụ, chúng cứ việc chơi đùa. Vú Lý lại hỏi:
– Bây giờ Bảo Ngọc mỗi bữa ăn được bao nhiêu cơm? Đến giờ nào đi ngủ?
Bọn a hoàn trả lời qua loa. Có đứa còn nói: “Cái mụ già này chán thật!”
Vú Lý lại hỏi:
– Bánh sữa trong bát kia sao không đưa ta ăn?
Nói xong, vú Lý lấy ngay ra ăn. Một a hoàn bảo:
– Mụ đừng động vào! Cậu bảo là để phần chị Tập Nhân. Lát nữa cậu về là lôi thôi đấy. Má ăn thì má phải chịu lấy, đừng để rầy rà đến chúng tôi.
Vú Lý nghe xong vừa tức vừa xấu hổ, liền nói:
– Ta không ngờ cậu ấy lại xử tệ với ta như thế. Đừng nói một bát bánh sữa chứ một thứ gì quý giá hơn nữa ta ăn cũng đáng. Lẽ nào cậu ấy lại quý Tập Nhân hơn tả Lẽ nào cậu ấy lại không nghĩ vì ai mới lớn được như thế? Vì máu ta hoá sữa cho cậu ấy bú rồi mới lớn lên. Bây giờ ta ăn một bát bánh sữa mà cậu ấy lại sinh sự với ta à? Ta cứ ăn, xem cậu ấy làm trò gì? Chúng bay có biết Tập Nhân là đứa thế nào không? Nó là một đứa a hoàn bé con, do tay ta gây dựng, chứ có quý hoá gì.
Vừa nói vừa tức, vú ăn hết cả bát bánh sữa. Một a hoàn cười nói:
– Các chị ấy vụng về, làm má tức giận. Cậu Bảo Ngọc vẫn thường biếu má thứ này thứ khác luôn, có nhẽ nào vì một bát bánh sữa mà cậu ấy không bằng lòng?
Vú Lý nói:
– Chúng mày cũng đừng nói mèo nói cáo đánh lừa tạ Mày tưởng bận trước chuyện đập chén trà của con Phiến Tuyết, ta không biết à? Ngày mai có xảy ra điều gì, ta sẽ đến nhận.
Nói xong hầm hầm đi ra.
Một lúc Bảo Ngọc về, sai người đi đón Tập Nhân, thấy Tình Văn nằm dài trên giường không dậy. Bảo Ngọc hỏi:
– Ốm hay thua bạc đấy?
Thu Văn nói:
– Nguyên là nó được bạc, nhưng vì vú Lý đến làm ồn, nó đối đáp không lại, nó tức khí đi ngủ đấy thôi.
Bảo Ngọc cười nói:
– Các chị đừng để ý đến mụ ấy, mặc kệ mụ ấy là hơn.
Ngay sau đó, Tập Nhân về, mọi người chào nhau. Tập Nhân hỏi Bảo Ngọc hôm nay ăn cơm ở đâu? Về sớm hay muộn? Lại nói mẹ và em gửi lời hỏi thăm các chị em. Rồi thay quần áo, bỏ đồ trang sức ra. Bảo Ngọc sai người lấy bánh sữa. Bọn a hoàn nói: “Vú Lý ăn cả rồi”. Bảo Ngọc toan hỏi, thì Tập Nhân vội cười nói:
– Thế ra để phần cái ấy à? Cám ơn cậu lắm. Hôm nọ vì thấy ngon, tôi ăn nhiều, đâm ra đau bụng, sau phải nôn ra mới khỏi. Bà ấy ăn cho là may, nếu cứ bỏ đấy cũng phí đi thôi. Tôi chỉ thích ăn hạt dẻ, cậu bóc giùm cho mấy hạt để tôi đi thu dọn giường chiếu đây.
Bảo Ngọc nghe nói tưởng thật, không nghĩ đến chuyện bánh sữa nữa. Bèn lấy hạt dẻ đến gần đèn ngồi bóc. Nhân thấy trong buồng vắng người, Bảo Ngọc cười hỏi Tập Nhân:
– Hôm nay cái người mặc áo đỏ là bà con thế nào với chị?
– Là chị con bà dì tôi đấy.
Bảo Ngọc nghe nói thở dài mấy cái.
Tập Nhân nói:
– Việc gì mà cậu thở dài? Tôi biết bụng cậu rồi. Cậu cho là chị ấy không đáng mặc áo đỏ chứ gì?
Bảo Ngọc cười nói:
– Không phải thế, không phải thế! Người như thế không đáng mặc thì còn ai đáng? Vì tôi trông thấy chị ấy đẹp thật, làm thế nào để chị ấy đến ở với chúng ta thì hay lắm.
Tập Nhân cười nhạt:
– Một mình tôi làm tôi đòi chưa đủ, cậu muốn dắt cả bà con họ hàng tôi vào nữa hay sao? Cậu thì muốn chọn tất cả những người con gái thật đẹp đến ở nhà này ấy?
Bảo Ngọc vội cười nói:
– Chị lại hay đa nghi! Tôi bảo chị ấy đến ở nhà tôi, chứ có phải nhất định đến đây làm tôi đòi đâu; coi chị ấy như họ hàng không được à?
Tập Nhân nói:
– Đâu dám chơi trèo thế.
Bảo Ngọc không nói gì nữa, chỉ bóc hạt dẻ. Tập Nhân cười hỏi:
– Sao không nói chuyện nữa đỉ Chắc vừa rồi tôi nói có điều trái ý cậu. Ngày mai tức khí cậu phí mấy lạng bạc mua họ về là được ngay chứ gì?
Bảo Ngọc cười nói:
– Nói thế còn ai biết trả lời thế nào? Chẳng qua tôi khen chị ấy đẹp, đáng lẽ phải sinh vào nơi cửa cao nhà rộng như ở đây. Trái lại chúng tôi là hạng ô trọc lại được đẻ ở nhà này!
Tập Nhân nói:
– Chị ấy tuy không được may mắn như cậu nói, nhưng cũng được nuôi nấng chiều chuộng. Dượng và dì tôi coi như viên ngọc quí vậy. Năm nay chị ấy mười bảy tuổi, các đồ tư trang đã sắm đủ cả, sang năm sẽ đi lấy chồng.
Bảo Ngọc nghe hai tiếng “lấy chồng”, không nhịn được, lại thở dài, trong bụng áy náy khó chịu. Tập Nhân lại than thở:
– Trong mấy năm nay, chị em mỗi người mỗi ngả, nay tôi đang định xin về, thì họ lại sắp đi cả.
– Hôm nay tôi thấy mẹ tôi và anh tôi bàn với nhau bảo tôi cố ở rốn lại một năm. Sang năm sẽ xin chuộc về.
Bảo Ngọc nghe nói, cuống cả lên hỏi:
– Làm sao lại chuộc chị về?
Tập Nhân nói:
– Cậu hỏi mới lạ chứ? Tôi có phải như những người khác, đời đời làm tôi đòi đâu. Cả nhà tôi ở nơi khác, chỉ có một mình tôi ở đây sao lại để mãi thế được?
– Nhưng tôi không bằng lòng thì chị cũng khó mà về được.
– Xưa nay không có nhẽ nào như thế. Đừng nói nhà cậu, ngay đến trong cung nhà vua cũng có lệ nhất định, mấy năm một lần tuyển, mấy năm một lần thải về, không có nhẽ nào giữ mãi người ta ở lại được.
Bảo Ngọc nghĩ thấy có lý, lại nói:
– Nhưng cụ không cho chị về thì sao?
Tập Nhân nói:
– Tại sao lại không cho tôi về? Nếu quả khó tìm được một người như tôi, cụ và bà Hai có bụng tiếc, cho nhà tôi thêm mấy lạng bạc nữa, giữ tôi ở lại, thì cũng có lý. Nhưng thực ra, tôi cũng chỉ là hạng tầm thường, còn rất nhiều người hơn. Khi bé, tôi theo cụ rồi hầu cô Sử mấy năm, bây giờ đến hầu cậu. Giá nhà tôi đến chuộc, có lẽ không mất tiền chuộc mà nên gia ơn cho tôi về mới phải. Còn bảo rằng tôi hầu cậu khéo, không cho về, thì không bao giờ có chuyện như vậy. Phận sự tôi là phải khéo hầu, chứ nào có công trạng gì. Tôi về thì sẽ có người hầu khéo hơn, đừng sợ vắng tôi không có người làm nổi việc.
Bảo Ngọc nghe vậy, thấy Tập Nhân chỉ muốn về chứ không muốn ở, trong bụng càng bồn chồn, liền nói:
– Chị nói thì đúng đấy, nhưng tôi cứ giữ chị lại, thế nào cụ cũng nói chuyện với bà nhà, và đưa thêm ít tiền, chắc bà cũng không nỡ đón chị về nữa.
Tập Nhân nói:
– Khi nào mẹ tôi dám cưỡng. Đừng kể đến chuyện nói tử tế và cho thêm tiền, dù chẳng bảo gì, chẳng cho đồng nào, cứ bắt tôi ở lại, mẹ tôi cũng không dám trái lệnh. Nhưng nhà ta xưa nay chẳng cậy thần thế ức hiếp bao giờ. Việc này không thể ví với các việc khác được, hễ cậu thích là bỏ nhiều tiền ra mua, người bán hàng không bị thiệt thế là được rồi. Nay vô cớ, giữ tôi lại, đã không ích gì cho cậu, lại làm cho ruột thịt nhà tôi chia lìa nhau. Việc này cụ và bà Hai có nỡ làm không?
Bảo Ngọc nghe xong nghĩ một lúc rồi nói:
– Theo lời chị nói thì chị định đi thật à?
Tập Nhân nói:
– Định đi thật.
Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Không ngờ người thế mà lại bạc tình bạc nghĩa!” Liền than thở:
– Nếu sớm biết ai cũng định đi cả, thì mình chuốc đến đây làm gì. Có lẽ sau này chỉ còn trơ trọi một mình.
Nói xong, bực bội lên giường ngu?
Nguyên khi về nhà, Tập Nhân được tin mẹ và anh muốn chuộc mình về. Tập Nhân nhất định không chịu, nói:
– Ngày trước nhà ta không có bát ăn, chỉ có một mình tôi là đáng giá mấy lạng bạc; nếu không bán tôi đi, để mẹ chết đói, sao cho đành lòng. Bây giờ may mắn tôi được vào nơi này, ăn mặc cũng như chủ nhà, lại không bị đánh hôm chửi mai gì. Vả chăng, cha đã chết rồi, nhà ta lại gây dựng được cơ nghiệp. Ví còn nghèo túng, định chuộc tôi về để kiếm thêm ít tiền, thì đã đành rồi. Nhưng thực ra nhà ta không đến nỗi thế. Vậy định chuộc tôi về làm gì? Cư coi như tôi đã chết rồi là xong, đừng nên nghĩ đến chuyện ấy nữa.
Rồi chị ta khóc lóc một hồi.
Mẹ và anh thấy Tập Nhân cương quyết như thế, tất nhiên là không chịu về. Vả chăng, trong văn tự là bán đứt. Nhưng thấy họ Giả là một nhà từ thiện phúc đức, nếu đến xin nài, có thể không phải mất tiền chuộc. Hai là họ Giả xưa nay ân nhiều uy ít chưa từng hành hạ người nhà bao giờ, bao nhiêu con gái hầu thân trong các phòng đều được biệt đãi, ngay các cô gái nhà thường dân chưa chắc đã được quý trọng bằng. Sau đó Bảo Ngọc đến chơi, sự thân mật giữa họ làm cho hai mẹ con càng thấy rõ như ban ngày, thật là ngoài sức tưởng tượng. Từ đó mọi người yên lòng, không nghĩ đến việc chuộc nữa.
Tập Nhân từ bé thấy Bảo Ngọc tính tình khác thường, cáu kỉnh, ngang bướng khác mọi đứa trẻ. Lại có những nết xấu rất kỳ quặc, không thể nói hết. Lâu nay được bà nuông chiều, bố mẹ không dám ngăn cấm. Bảo Ngọc càng phóng túng dông dài, không thích chăm lo việc chính. Nhiều lúc, Tập Nhân muốn khuyên nhủ, nhưng biết Bảo Ngọc chẳng chịu nghe nào. May sao hôm nay nhân có dịp nhà muốn chuộc mình về, Tập Nhân nói dối để dò ý và ngăn chặn Bảo Ngọc nhụt bớt đi, rồi sẽ tìm cách khuyên răn. Thấy Bảo Ngọc lẳng lặng đi ngủ, biết rằng cậu ta không nỡ dứt tình vơi mình và lòng đang chán nản. Tập Nhân vốn không thích ăn hạt dẻ, nhưng sợ vì một bát bánh sữa mà sinh chuyện, lại như chuyện chén trà của Phiến Tuyết lần trước, nên nói dối là thích ăn, để đánh lảng câu chuyện. Sau đó, chị ta cho bọn a hoàn nhỏ đem đi ăn, rồi đến đánh thức Bảo Ngọc. Thấy Bảo Ngọc nước mắt giàn giụa, Tập Nhân nói:
– Việc gì mà phải đau buồn thế? Nếu cậu thực bụng giữ lại thì khi nào tôi đi!
Bảo Ngọc thấy câu nói ý vị, liền nói:
– Theo như chị nói, thì tôi giữ chị lại làm sao được? Và chính tôi cũng chẳng biết nói thế nào nữa.
Tập Nhân cười:
– Hai chúng ta ngày thường tử tế với nhau, cái đó không cần phải nói. Nhưng cậu muốn giữ tôi ở lại, thì không phải chỉ ở chỗ tử tế với nhau. Tôi đề ra ba việc, cậu có nghe thì mới là thực bụng giữ tôi ở lại, dù dao kề cổ cũng không khi nào tôi đi.
Bảo Ngọc cười:
– Chị nói đi! Những việc gì? Chị Ơi, chẳng cứ ba việc, đến ba trăm việc tôi cũng theo; chỉ mong các chị Ở đây trông nom tôi giữ gìn tôi, khi nào tôi hóa thành tro bay, nhưng tro bay cũng chưa được, vì nó còn dấu vết, còn có tri thức! Phải chờ khi nào tôi hóa thành một làn khói nhẹ, gió thổi một cái là tan ngay, các chị không trông nom được tôi, tôi cũng chẳng đoái hoài đến các chị, lúc ấy tôi cũng vậy, các chị cũng vậy, tha hồ muốn đi đâu thì đi.
Tập Nhân vội vàng bịt mồm Bảo Ngọc lại bảo:
– Khéo lắm! Tôi đang muốn ngăn đi, cậu lại mở miệng nói độc rồi.
– Từ rầy tôi không nói thế nữa.
– Đấy là điều thứ nhất cậu cần phải đổi ngay.
– Xin đổi. Nếu tôi nói nữa thì chị cứ vả vào mồm tôi! Còn việc gì nữa không?
– Còn việc thứ hai: cậu thực lòng thích học hay giả vờ cũng mặc, nhưng không nên chê bai bừa bãi trước mặt ông nhà và mọi người. Cậu nên làm ra dáng chăm học để ông nhà đỡ bực mình và nên lựa lời nói khéo lấy lòng người tạ Trong bụng ông thường nghĩ nhà ta đời đời đọc sách, không ngờ từ khi có cậu, không những biếng học, làm cho ông buồn bực, lại khi vắng mặt người ta thì cậu hay chê bai nhảm nhí. Những người đọc sách để tìm đường tiến thủ, cậu đều đặt cái tên riêng cho họ như “con mọt ăn lộc”. Cậu lại nói, trừ mấy chữ “minh minh đức” ra, thì không còn sách nào nữa, toàn là do ý nghĩ nhảm nhí của người trước biên chép ra. Nói như thế tránh sao ông chả giận, chả muốn đánh cậu?
Bảo Ngọc cười nói:
– Thôi, không nói thế nữa. Đó là lúc tôi còn bé, không biết trời cao đất dày, quen miệng nói nhảm. Từ giờ tôi không dám nói những câu ấy nữa. Còn việc gì nữa không?
Tập Nhân nói:
– Cậu không được chế nhạo tăng đạo, không được chơi hoa chơi phấn. Điều cần nhất là không được ăn những sáp non đã đánh ở trên môi người ta, và những nết tính xấu như ưa thích màu hồng.
– Xin chừa hết, xin chừa hết. Còn việc gì nữa nói nết ra.
– Chẳng còn gì nữa, chỉ cần mọi việc, cậu phải suy nghĩ cẩn thận, không được làm liều là được rồi. Nếu cậu quả thực nghe theo những lời tôi khuyên, thì dù đem kiệu tám người khiêng đến, cũng không thể rước nổi tôi ra khỏi nhà này.
Bảo Ngọc cười nói:
– Chị cứ ở đây, cũng có lúc ngồi kiệu tám người khiêng.
Tập Nhân cười nhạt:
– Cái đó tôi chẳng thèm khát gì. Có phúc mà không có đức thì dù được ngồi kiệu cũng chẳng thú gì.
Hai người đương nói chuyện, thấy Thu Văn đến giục:
– Canh ba rồi, nên đi ngủ thôi. Vừa rồi cụ sai người sang hỏi, tôi trả lời cụ đã ngủ rồi.
Bảo Ngọc lấy đồng hồ xem thì kim đã trỏ giờ tý hai khắc, bấy giờ mới bắt đầu rửa mặt súc miệng, cởi áo đi nằm.
Sáng hôm sau, Tập Nhân dậy, thấy người khó chịu, đầu nhức, mắt hoa, chân tay nóng nực, lúc đầu còn cố, sau không gượng nổi, chỉ thích ngủ, bèn để nguyên cả áo nằm xoài trên giường. Bảo Ngọc vội trình Giả mẫu cho mời thầy xem mạch.
Thầy thuốc nói bị cảm lạnh, uống một vài thang phát tán sẽ khỏi. Rồi kê đơn sai người đi lấy thuốc về sắc. Bảo Ngọc dặn Tập Nhân uống xong phải trùm chăn cho ra mồ hôi. Sau đó Bảo Ngọc đến thăm Đại Ngọc.
Đại Ngọc đương nằm ngủ trưa. Bọn a hoàn đi chơi cả. Trong nhà im lặng như tờ. Bảo Ngọc vén rèm thêu vào, lay Đại Ngọc dậy, nói:
– Cô em vừa ăn xong đã đi ngủ à?
Đại Ngọc tỉnh dậy, thấy Bảo Ngọc, nói:
– Anh hãy ra ngoài chơi. Đêm qua tôi thức cả đêm, hôm nay chưa được nghỉ, đau nhừ cả người.
Bảo Ngọc nói:
– Đau mình là sự thường, chứ ăn mà ngủ ngay, thì thành bệnh tọ Tôi sẽ làm cho cô em đỡ buồn, để quên ngủ thì hơn.
Đại Ngọc cứ nhắm mắt, nói:
– Tôi không ngủ, chỉ nằm nghỉ một lát, anh hãy ra ngoài chơi, chốc nữa sẽ đến.
Bảo Ngọc nói:
– Tôi đi đâu bây giờ?
Đại Ngọc phì cười, rồi nói:
– Nếu muốn ở lại đây, thì sang bên kia ngồi nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ nói chuyện.
– Tôi cũng muốn ngả lưng.
– Thì anh cứ ngả lưng.
– Nhưng không có gối. Chúng ta gối chung một gối vậy.
– Bậy nào! Ở ngoài kia chẳng có gối là gì? Mang một cái đến mà gối.
Bảo Ngọc ra bên ngoài, nhìn một lượt rồi quay vào nói:
– Cái gối kia tôi không cần, không biết đó là gối của mụ già nào mà bẩn thế!
Đại Ngọc nghe nói, trừng mắt đứng dậy nói:
– Anh thực là sao “thiên ma” trong lá số của tôi. Đây xin mời gối cái gối này.
Nói xong, Đại Ngọc đưa cái gối của mình cho Bảo Ngọc, rồi lấy cái gối khác để gối. Hai người nằm đối diện nhau.
Đại Ngọc nhìn thấy bên má trái Bảo Ngọc có một nốt đỏ bằng cái khuya áo, liền xích lại gần lấy tay xoa kỹ xem rồi nói:
– Đã bị móng tay ai cào sứt ra đây?
Bảo Ngọc nằm nghiêng lại, cười nói:
– Chẳng có ai cào cả. Có lẽ lúc nãy lọc sáp cho họ bị sáp bắn lên một giọt.
Nói xong tìm khăn để lau. Đại Ngọc lấy khăn lụa của mình lau hộ, và chép miệng:
– Anh lại làm những trò ấy à? Làm thì đã đành rồi, nhưng cũng cần phải giấu đi. Dù cậu không thấy, nhưng nếu người khác thấy thì họ cho là một việc lạ lùng quái gở, sẽ kháo ầm lên, đến tai cậu thì chẳng ai yên được đâu.
Nhưng Bảo Ngọc chẳng nghe gì cả, chỉ ngửi thấy mùi thơm ở trong tay áo Đại Ngọc đưa ra, làm Bảo Ngọc tâm hồn mê mẩn, liền kéo tay áo Đại Ngọc xem trong ấy đeo thứ hương gì. Đại Ngọc cười nói:
– Đương buổi trưa này ai đeo hương làm gì?
– Thế thì mùi thơm này ở đâu ra?
– Tôi cũng không biết, hay là mùi hương ở trong hòm áo.
Bảo Ngọc lắc đầu:
– Chưa chắc. Mùi hương này lạ lắm, không giống như mùi hương bánh, hương quả cầu và hương trong túi đâu.
Đại Ngọc cười nhạt:
– Làm gì có vị La Hán chân nhân nào đem cho tôi những mùi hương lạ ấy? Dù có chăng nữa, cũng chẳng có anh em ruột thịt nào lấy hoa, lấy nhụy, lấy sương, lấy tuyết chế ra cho tôi. Tôi chỉ có những thứ hương phàm tục thôi.
Bảo Ngọc cười nói:
– Hễ tôi nói một câu, là em lại sinh sự bắt bẻ. Nếu không trị cho em một phen đáo để thì em không biết tay, từ giờ không tha thứ nữa đâu.
Nói xong, giơ hai tay lên, lấy ngón tay cù vào hai bên cạnh sườn Đại Ngọc. Đại Ngọc có máu buồn, thấy Bảo Ngọc giơ tay muốn cù thì cười giốc lên:
– Anh Bảo Ngọc, anh đùa nữa tôi giận đấy.
Bảo Ngọc mới dừng tay lại cười hỏi:
– Còn nói thế nữa thôi?
Đại Ngọc cười nói:
– Không dám nói nữa ạ.
Rồi vén tóc cười:
– Tôi có mùi “hương lạ” thì anh có mùi “hương ấm” không? 2
Bảo Ngọc nghe không hiểu, hỏi:
– Thế nào là “hương ấm”?
Đại Ngọc cười nói:
– Ngu quá! Anh có ngọc thì người ta có vàng để sánh đôi, thế mà người ta có “hương lạnh”, anh lại không có “hương ấm” à?
Bảo Ngọc mới nghe ra, cười nói:
– Vừa mới xin lỗi, đã lại nói kháy rồi.
Nói xong, lại chực giơ tay cù.
Đại Ngọc cười:
– Anh ơi! Tôi không dám thế nữa!
Bảo Ngọc cười nói:
– Tha cho em cũng dễ thôi, nhưng phải đưa tay áo cho tôi ngửi.
Bảo Ngọc kéo tay áo Đại Ngọc trùm vào mặt ngửi mãi. Đại Ngọc giật tay nói:
– Thôi anh nên về đi.
Bảo Ngọc cười:
– Tôi không về đâu. Chúng ta cùng nằm tử tế nói chuyện với nhau.
Bảo Ngọc lại nằm ngả mình xuống. Đại Ngọc cũng nằm, lấy khăn lụa che mặt.
Bảo Ngọc thỉnh thoảng lại giở những chuyện vớ vẩn ra nói. Đại Ngọc đều không để ý. Bảo Ngọc hỏi Đại Ngọc: Khi đến kinh bao nhiêu tuổi? Đi đường thấy nhưng phong cảnh gì? Dương Châu có những cổ tích gì? Phong tục ở đấy thế nào? Đại Ngọc đều không trả lời. Bảo Ngọc chỉ sợ Đại Ngọc ngủ rồi sinh ốm, bên nói lừa:
– Ái chào! Ở trong thành Dương Châu, có một việc to lớn, em có biết không?
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc nói vẻ trịnh trọng, nghiêm nghị, tưởng là chuyện thực, bèn hỏi việc gì? Bảo Ngọc nín cười nói:
– Dương Châu có một ngọn Đại sơn, trên núi có động Lâm Tử.
Đại Ngọc cười nói:
– Đó là bày chuyện nói nhảm, xưa nay chẳng nghe thấy cái tên núi ấy bao giờ.
– Thiên hạ núi sông rất nhiều, em biết thế nào hết được, để tôi nói xong đã sẽ bình phẩm.
– Thế thì nói đi.
– Nguyên trước đây động Lâm Tử có một đàn chuột già đã thành tinh. Năm ấy vào ngày mùng bảy tháng chạp, một con chuột già lên ngồi trên cao truyền phán công việc: “Ngày mai là mồng tám tháng chạp, người ta đều nấu cháo “lạp bát”. Nay trong động ta đương thiếu hoa quả, đồ ăn. Nhân dịp này chúng ta đi kiếm lấy mấy thứ. Nói rồi liền rút một cái lệnh tiễn, sai một con chuột nhỏ thạo việc đi thăm dò các nơi. Sau đó con chuột nhỏ về báo: “Đã đi thăm dò các nơi rồi, chỉ có một ngôi miếu ở dưới núi là có nhiều hoa quả và thóc gạo”. Con chuột già hỏi: “Gạo, quả có mấy thứ?” Chuột nhỏ thưa: “Gạo, đậu hàng kho; quả có năm thứ: một là táo đỏ, hai là hạt dẻ, ba là lạc, bốn là củ ấu, năm là khoai thơm”. Chuột già nghe nói mừng lắm, rút một cái lệnh tiễn, hỏi: “Ai đi ăn trộm gạo?” Một con nhận lệnh đi. Lại rút một cái lệnh tiễn nữa hỏi: “Ai đi ăn trộm đậu?” Con khác nhận lệnh đi. Rồi hai con nữa đều nhận lệnh tiễn đi làm việc. Còn khoai thơm, chuột già rút lệnh tiễn ra hỏi: “Ai đi ăn trộm?” Có con chuột bé nhỏ, yếu đuối nhất chạy ra xin đi. Chuột già và các chuột khác thấy nó yếu đuối, sợ không quen việc, không cho đi. Nó nói: “Tôi tuy nhỏ yếu, nhưng pháp thuật rất mầu nhiệm, ăn nói linh lợi, có mưu sâu sắc, đi chuyến này chắc tôi ăn trộm tài hơn cả”. Một con khác hỏi làm thế nào mà cho là tài? Chuột con nói: “Tôi không ăn trộm đường hoàng như bọn kia. Tôi chỉ quay mình một cái biến thành củ khoai thơm, rồi lẩn vào trong đống khoai. Không ai nhận ra. Sau tôi khe khẽ khuân ra và dần dần khuân hết cả đống. Thế chẳng tài hơn bọn kia cứ trơ tráo đi ăn trộm hay sao?” Những con chuột kia đều nói: “Giỏi đấy, nhưng cách biến thế nào? Làm thử cho chúng ta xem nào?” Chuột con nghe rồi cười nói: “Việc ấy khó gì. Tôi biến cho mà xem”. Nói xong nó quay mình biến ngay thành một cô con gái rất đẹp. Mấy con chuột khác vội cười nói: “Nhầm rồi! Nhầm rồi! Trước nói biến thành củ khoai thơm, sao lại biến thành một cô gái?” Con chuột con trở lại nguyên hình cười nói: Chúng bay không biết rõ chuyện đời! Chỉ biết củ ấy là củ khoai thơm, mà không biết cô gái nhà cụ Lâm mới chính là “ngọc thơm” đấy!” 3
Đại Ngọc nghe nói, vùng ngay dậy, dí tay vào người Bảo Ngọc cười nói:
– Cái anh toét miệng này! Tôi biết ngay rằng anh lại đặt điều chế nhạo tôi mà!
Nói xong Đại Ngọc lại véo miệng Bảo Ngọc, Bảo Ngọc liền kêu van:
– Em ơi! tha cho tôi, tôi không dám thế nữa! Vì ngửi thấy mùi thơm của em, chợt nhớ đến chuyện cổ tích ấy.
Đại Ngọc cười nói:
– Tha hồ mắng người ta, rồi anh lại bảo là chuyện cổ tích!
Đương nói chuyện thì Bảo Thoa đến, cười hỏi:
– Ai nói chuyện cổ tích, cho tôi nghe với.
Đại Ngọc vội mời Bảo Thoa ngồi rồi cười nói:
– Chị xem đấy, còn ai nữa? Anh ấy mắng tôi, lại còn nói là chuyện cổ tích.
Bảo Thoa cười:
– A, thế ra cậu Bảo đấy à? Lạ nhỉ! Xưa nay cậu ấy nhớ rất nhiều chuyện cổ, nhưng chỉ tiếc có một điều: lúc đáng dùng điển cổ thì cậu ấy lại quên. Hôm nay nhớ được thì đêm hôm nọ làm bài thơ “ba tiêu” cũng phải nhớ chứ? Thế mà truyện ngay trước mắt cũng nghĩ mãi không ra. Lúc đó người ta thì rét run không chịu được, mà cậu ấy thì đổ mồ hôi ra. Bây giờ sao trí nhớ lại tốt thế!
Đại Ngọc cười nói:
– A di đà phật! Chị thực đáng là bậc chị của tôi! Giờ cậu Bảo mới gặp tay đối thủ. Thế mới biết rằng sự báo ứng không sai chút nào.
Họ nói chuyện đến đây, nghe thấy bên phòng Bảo Ngọc có tiếng cãi cọ ầm lên.
1 Tập Nhân họ Hoa (xem hồi 3).
2 Đại Ngọc nói bóng nói gió, nhắc đến “lãnh hương hoan” của Bảo Thoa (xem hồi thứ 7) có nghĩa là “hương lạnh” nên Đại Ngọc dùng nghĩa trái là “hương ấm”.
3 Theo chữ Trung Quốc: “khoai thơm”, “ngọc thơm” đều đọc giống nhau.
Bảo Ngọc đang ở trong buồng Đại Ngọc nói chuyện con chuột, chợt Bảo Thoa đến chế Bảo Ngọc về việc tiết nguyên tiêu vừa rồi không nhớ điển “Lục lạp”. Ba người ngồi cười đùa chế giễu lẫn nhau. Bảo Ngọc sợ Đại Ngọc ăn xong đi ngủ ngay, lỡ ra không tiêu, hoặc đêm không ngủ được sẽ sinh bệnh. May có Bảo Thoa đến chơi, cùng nhau cười đùa làm cho Đại Ngọc không buồn ngủ nữa. Bấy giờ Bảo Ngọc mới yên lòng. Chợt bên buồng Bảo Ngọc có tiếng om sòm, mọi người lắng tai nghe. Đại Ngọc cười nói:
– Thôi lại bà vú của anh cãi nhau với Tập Nhân rồi. Tập Nhân đối với bà ấy vẫn tử tế, mà bà ấy cứ quát mắng luôn, thế mới biết là già hay trái tính.
Bảo Ngọc muốn chạy về, Bảo Thoa kéo lại nói:
– Không nên lôi thôi với bà ấy, già hay lẩm cẩm, nhịn đi một tí là hơn.
– Biết rồi.
Nói xong Bảo Ngọc chạy về, thấy vú Lý đương chống gậy đứng mắng Tập Nhân:
– Con đĩ ranh này vô ơn, công tao cất nhắc mày lên, nay tao đến đây, mày lại làm bộ làm tịch, nằm ngửa trên giường, không thèm chào hỏi một câu. Mày là giống cáo thành tinh, chỉ tìm cách cám dỗ Bảo Ngọc để nó nghe mày không nhìn đến tao. Mày chẳng qua là con hầu nhỏ mua bằng mấy lạng bạc mốc đem về đây. Thế mà mày đã sinh yêu sinh quái ở nhà này! Liệu hồn đấy! Tao thì lôi cổ mày ra đem gả cho một thằng ranh con nào đấy, xem mày còn giở thói yêu tinh cám dỗ Bảo Ngọc nữa thôi!
Tập Nhân chỉ tưởng vú Lý cáu vì vú vào mà mình nằm lỳ không dậy, nên phân trần: “Vì tôi ốm, phải trùm đầu cho ra mồ hôi, nên khi u vào tôi không trông thấy”. Sau nghe thấy những câu “cám dỗ Bảo Ngọc”, “gả cho thằng ranh con”, thì vừa xấu hổ, vừa ức, khóc òa lên.
Bảo Ngọc nghe thấy vậy, rất khó chịu nhưng không biết làm thế nào, đành phân trần hộ Tập Nhân: “Ốm đang uống thuốc… Nếu u không tin, cứ hỏi a hoàn khắc biết.”
Vú Lý nghe thấy thế, lại càng làm già:
– Cậu chỉ biết bênh con ranh ấy, còn chả biết tôi là ai nữa? Tôi biết hỏi ai? Bây giờ ai chẳng vào hùa với cậu, chẳng bị con Tập Nhân nó cám dỗ? Tôi biết hết cả rồi. Tôi với cậu hãy đến phân trần trước mặt cụ và bà Hai: vì có sữa tôi, cậu mới lớn được thế này, nay không cần bú nữa, cậu gạt tôi ra một xó, dung túng bọn con hầu khinh rẻ tôi!
Vú Lý vừa nói vừa khóc.
Bấy giờ Đại Ngọc, Bảo Thoa cũng đến khuyên ngăn:
– Thôi u rộng lượng tha thứ cho họ.
Vú Lý thấy họ đến, liền kể lể hết nỗi uất ức bấy nay: nào chuyện uống nước trà, Phiến Tuyết bị đuổi, chuyện ăn bánh sữa hôm quạ Nói lải nhải mãi không dứt. May sao lúc ấy Phượng Thư đang ở trong buồng tính sổ, nghe thấy tiếng ồn ào ở phía sau, biết là vú Lý già giở chứng, gắt mắng a hoàn của Bảo Ngọc, lại gặp hôm thua bạc, cáu lây sang cả người khác. Phượng Thư liền chạy sang ngay, kéo tay vú Lý cười nói:
– U đừng nóng tính thế! Nhà vừa mới có tiệc mừng xong, cụ mới vui vẻ được ít ngày. U là bậc có tuổi, người nào làm rầm rĩ u ngăn cấm đi mới phải, lẽ nào chính u lại không giữ phép tắc la hét ầm nhà, làm cho cụ bực mình. Ai hỗn với u, tôi sẽ đánh nó chọ Bên nhà tôi mới nấu thịt chim trĩ còn nóng, mời u sang uống rượu với tôi.
Phượng Thư vừa nói vừa dắt vú Lý đi, lại gọi “Phong Nhi! Mang gậy và lấy khăn lau mặt cho vú Lý!”
Vú Lý thất thểu theo Phượng Thư đi ra, còn ngoái cổ lại:
– Tao già rồi, chẳng cần gì nữa. Hôm nay tao liều, chẳng giữ phép tắc, làm rầm rĩ một phen, dù có mất thể diện cũng còn hơn chịu tức khí với con đĩ kia!
Bảo Thoa, Đại Ngọc thấy Phượng Thư dàn xếp như thế đều vỗ tay cười:
– Nhờ có trận gió nào mới lôi được mụ ấy đi.
Bảo Ngọc lắc đầu:
– Không hiểu cái nợ ấy từ đâu đến, cứ nhè vào người hiền lành mà bắt nạt. Cũng không biết cô nào cứ hay gây chuyện, để mụ ấy làm ầm lên.
Tình Văn đứng cạnh nói:
– Ai có hóa rồ mà gây chuyện với mụ ấy? Đã gây chuyện thì có gan nhận, cần gì để liên lụy đến người khác.
Tập Nhân vừa khóc vừa kéo tay Bảo Ngọc:
– Tôi đã có lỗi với vú ấy, cậu lại vì tôi mà có lỗi với người tạ Việc này một mình tôi chịu cũng chưa đủ hay sao? Lại còn lôi người khác vào!
Bảo Ngọc thấy Tập Nhân đương ốm lại thêm buồn bực, nên cố nhịn, và an ủi Tập Nhân, bảo đi ngủ cho ra mồ hôi. Lại thấy người Tập Nhân nóng ran như lửa, Bảo Ngọc liền ngồi ghé bên cạnh khuyên giải Tập Nhân tĩnh dưỡng, không nên nghĩ vơ vẩn những việc không đâu. Tập Nhân cười nhạt:
– Vì những việc như thế mà bực tức, thì liệu có ai ở được nhà này một giờ không? Nhưng ngày tháng còn dài, nếu lúc nào cũng ầm ỹ như thế này, ai còn chịu nổi? Ngày thường tôi vẫn khuyên cậu chớ nên vì chúng tôi mà mang lỗi với người, nhưng có đôi lúc cậu không chú ý đến, thành ra họ nhớ mãi, gặp dịp sơ hở là họ nói ra những giọng khó nghe, như thế còn ra gì nữa?
Tập Nhân vừa nói vừa ứa nước mắt, nhưng lại sợ Bảo Ngọc buồn, nên phải cố nén đi. Một chốc, bà già bưng đến nước thuốc thứ hai. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân mới ra mồ hôi, không muốn gọi dậy, tự tay mang thuốc đến cạnh gối cho uống. Rồi sai bọn a hoàn nhỏ sửa soạn giường chiếu. Tập Nhân hỏi:
– Cậu ăn cơm chưa? Hãy sang bên cụ hay bên bà ngồi chơi với chị em một chốc rồi lại về đây, cho tôi nằm nghỉ một lúc.
Bảo Ngọc nghe lời, chờ cho Tập Nhân tháo trâm vòng, nằm nghỉ, rồi mới lên nhà trên ăn cơm với Giả mẫu. Ăn xong, Giả mẫu muốn đánh bài với bọn vợ quản gia. Bảo Ngọc nhớ đến Tập Nhân, lại về buồng ngaỵ Thấy Tập Nhân đã ngủ say, Bảo Ngọc cũng muốn đi ngủ, nhưng trời còn sớm. Bấy giờ bọn Tình Văn, Ỷ Hà, Thu Văn, Bích Ngân đều đi tìm trò chơi với Uyên Ương và Hổ Phách. Chỉ còn trơ Xạ Nguyệt ngồi đánh bài một mình ở gian nhà ngoài. Bảo Ngọc cười hỏi:
– Sao chị không đi chơi với họ.
– Không có tiền.
– Tiền để ở dưới gầm giường, không đủ cho chị đánh à?
– Đi chơi cả, nhà để ai trông? Một người ốm nằm đấy, trên thì đến, dưới thì lửa, các bà già vất vả suốt ngày, cũng nên để cho họ đi nghỉ; bọn a hoàn nhỏ cũng phải hầu hạ cả ngày, không cho họ đi chơi một lúc hay sao? Vì thế tôi phải ở nhà.
Thật rõ ràng là lời lẽ của Tập Nhân thứ hai, Bảo Ngọc liền cười nói:
– Giờ tôi ngồi ở đây, chị cứ yên tâm đi chơi.
Xạ Nguyệt nói:
– Cậu đã ở nhà thì tôi càng không cần phải đi nữa. Hai chúng ta nói chuyện với nhau chẳng hơn ư?
Bảo Ngọc nói:
– Chúng ta làm gì bây giờ? Cũng chẳng có chuyện gì. Thôi vậy, sớm hôm nay tôi thấy chị nói ngứa đầu, bây giờ rỗi, tôi chải đầu cho chị nhé.
Xạ Nguyệt nói:
– Cũng được.
Rồi mang hộp gương đến, tháo bỏ trâm vòng. Xạ Nguyệt rũ đầu ra cho Bảo Ngọc lấy lược chải. Mới chải được mấy cái, thì Tình Văn ở đâu chạy về lấy tiền. Trông thấy thế, Tình Văn cười nhạt:
– Kìa, chưa uống rượu giao bôi đã gỡ tóc cài trâm 1 cho nhau rồi?
Bảo Ngọc cười:
– Chị lại đây tôi chải cho luôn một thể?
Tình Vănnói:
– Chả dám. Tôi kém phúc lắm.
Nói xong, lầy tiền rồi bỏ rèm xuống đi ra.
Bảo Ngọc ngồi sau Xạ Nguyệt, Xạ Nguyệt soi gương. Hai người nhìn nhau ở trong gương cùng cười. Bảo Ngọc cười nói:
– Trong nhà này, chỉ có nó là lắm điều nhất.
Xạ Nguyệt vội xua tay ở trong gương. Bảo Ngọc biết ý. Chợt nghe tiếng rèm “xoạt” một cái, Tình Văn chạy vào hỏi:
– Thế nào là lắm điều? Nói ra cho rõ?
Xạ Nguyệt cười nói:
– Thôi cút đi, lại đến đây định vặn nhau à?
Tình Văn cười nói:
– Mày lại bênh cậu ấy à? Các người giở trò ma quỷ, tưởng đây không biết hay sao? Để tôi đi đánh gỡ vốn đã, rồi trở về sẽ bảo cho.
Nói xong, chạy một mạch.
Bảo Ngọc chải đầu cho Xạ Nguyệt xong, khẽ bảo sửa soạn cho mình đi ngủ, đừng làm Tập Nhân thức dậy.
Đêm hôm ấy, Tập Nhân ra được mồ hôi. Thấy người nhẹ đi. Sáng hôm say chỉ uống nước cháo và nằm tĩnh dưỡng. Lúc đó, Bảo Ngọc mới yên lòng. Ăn cơm xong, Bảo Ngọc sang chơi bên Tiết phu nhân.
Bấy giờ vào giữa tháng giêng, nhà trường còn nghỉ học, trong khuê các còn kiêng thêu thùa may vá, nên ai cũng rỗi cả. Giả Hoàn cũng sang đấy chơi. Gặp lúc Bảo Thoa, Hương Lăng và Oanh Nhi đương đánh xúc xắc, hắn cũng muốn đánh. Ngày thường Bảo Thoa coi hắn cũng như Bảo Ngọc, không phân biệt gì; nay thấy hắn muốn đánh, nên mời chơi một chân. Mỗi cuộc mười đồng. Cuộc đầu hắn được, trong bụng hí hởn lắm; ngờ đâu về sau hắn thua luôn mấy lần, đâm cuống. Lần này đến lượt hắn gieo xúc xắc, nếu gieo con “thất” thì được cả, con “lục” cũng được, trúng con “tam” thì thuạ Hắn cầm con xúc xắc gieo xuống thật mạnh, một con đã ngửa mặt “ngũ”, một con nữa còn quay tít. Oanh Nhi vỗ tay nói “yêu”. Giả Hoàn trừng mắt lên nói luôn: “lục”, “thất”, “bát”. Nhưng sao con xúc xắc lại ngửa mặt “yêu”. Giả Hoàn vội giơ tay nắm lấy con xúc xắc, chực vơ lấy tiền, nói là con “lục”.
Oanh Nhi nói:
– Rõ ràng là con “yêu”.
Bảo Thoa thấy Giả Hoàn cáu kỉnh, vội lườm Oanh Nhi một cái nói:
– Càng lớn càng không có phép tắc! Có lẽ nào các cậu lại nói dối? Sao mày không bỏ tiền xuống?
Oanh Nhi trong bụng rất ức, nhưng thấy Bảo Thoa nói thế không dám cãi lại, đành bỏ tiền xuống, càu nhàu:
– Đã là cậu mà lại còn ăn gian mấy đồng tiền của chúng tôi. Số tiền đó chúng tôi cũng chẳng coi vào đâu. Hôm nọ chơi với cậu Bảo Ngọc, cậu ấy thua mà chẳng thấy gắt gỏng gì, thừa đồng nào là đám a hoàn nhỏ cướp hết, cậu ấy cũng chỉ cười thôi.
Bảo Thoa liền ngắt lời không cho nó nói nữa.
Giả Hoàn nói:
– Tao bì thế nào được với cậu Bảo Ngọc? Chúng bay sợ cậu ấy, nên đều tử tế với cậu ấy và cho tao không phải là con đẻ của bà Hai, nên ai cũng khinh rẻ tao!
Nói xong khóc ầm lên.
Bảo Thoa vội khuyên giải:
– Em ơi! Đừng nói thế, người ta cười cho.
Rồi quay lại mắng Oanh Nhi.
Vừa lúc đó Bảo Ngọc chạy đến, trông thấy, hỏi:
– Làm sao thế?
Giả Hoàn không dám nói câu gì. Bảo Thoa xưa nay vẫn biết gia pháp nhà này, làm em thì phải sợ anh. Nhưng biết đâu Bảo Ngọc lại không muốn ai sợ mình. Trong bụng nghĩ: “Đã có bố mẹ dạy bảo, việc gì ta phải lắm chuyện khiến anh em xa nhau. Vả lại ta là con vợ cả, nó là con vợ lẽ, ta đối với nó nghiêm khắc thì người ngoài chê cười, ta còn cai quản thế nào được nó”. Hơn nữa, Bảo Ngọc còn có một ý nghĩ ngây ngộ Độc giả có biết ngây ngô thế nào không? Vì Bảo Ngọc từ bé luôn luôn ở chung với đám chị em, chị em ruột thì có Nguyên Xuân, Thám Xuân; chị em thúc bá thì có Nghênh Xuân, Tính Xuân; chị em ngoại thì có Tương Vân, Đại Ngọc, Bảo Thoa; Bảo Ngọc cho rằng, người thiêng hơn cả vạn vật, bao nhiêu tinh hoa trong sạch của trời đất, đều chung đúc vào con gái, bọn con trai chỉ là hạng cặn bã bẩn đục mà thôi. Vì thế, cậu ta cho tất cả con trai là hạng thô tục có cũng được, không cũng chằng sao. Chỉ vì theo lời dạy của Khổng Tử, thánh hiền bậc nhất thời xưa, đã nói về cha, chú, anh em, một điều không thể trái ngược, nên giữa anh em với nhau, chẳng qua phải ở cho có tình có lý. Cậu ta cũng chẳng nghĩ gì mình là anh trai, phải làm gương cho lũ đàn em. Do đó Giả Hoàn không sợ Bảo Ngọc, chỉ sợ Giả mẫu không bằng lòng, nên cũng nể phần nào thôi.
Bảo Thoa lại sợ Bảo Ngọc trách mắng Giả Hoàn đâm ra cụt hứng, nên tìm cách che đậy hộ hắn. Bảo Ngọc nói:
– Đầu giêng năm mới, sao mày lại khóc? Chỗ này không thích thì mày đi chơi chỗ khác. Mày ngày nào cũng đọc sách mà còn vơ vẩn như thế. Thí dụ, cái này mày không thích, thì đã có cái kia, mày cứ bỏ cái này đi mà chơi cái kia. Tội gì mày cứ khư khư giữ mãi cái ấy? Khóc liệu có ăn thua gì? Chơi cất lấy vui, mà lại hóa ra chuốc lấy cái buồn? Sao mày không đi chỗ nào cho yên chuyện?
Giả Hoàn nghe nói đành phải bỏ về.
Dì Triệu trông thấy, hỏi dồn:
– Chắc lại bị người ta bắt nạt ở đâu rồi về đấy chứ gì?
Giả Hoàn đáp:
– Tôi chơi với chị Bảo, bị Oanh Nhi ăn gian tiền, rồi anh Bảo Ngọc đuổi tôi về.
Dì Triệu mắng:
– Ai bảo mày chơi trèo? Đồ khốn nạn! Đồ mặt dày! Chỗ nào mày chơi chả được, sau lại cứ cắm đầu sang đấy?
Đương nói, Phượng Thư đi qua ngoài cửa sổ nghe thấy, nói với vào:
– Đầu giêng năm mới, sao dì lại thế? Em nó còn trẻ, có điều gì nhầm lẫn thì dì dạy bảo, sao dì lại giở những giọng ấy rả Dù nó thế nào chăng nữa, đã có ông và bà cai quản, sao lại ngoạc cái mồm ra mắng nó? Nó là cậu ấm, đã có người dạy bảo, việc gì đến dì? Em Hoàn, em ra đây theo ta đi chơi!
Giả Hoàn xưa nay vẫn sợ Phượng Thư hơn là sợ Vương phu nhân, nghe thấy gọi, vội chạy ra ngaỵ Dì Triệu cũng chẳng dám nói câu gì. Phượng Thư bảo Giả Hoàn:
– Mày là hạng người không có khí phách gì cả. Ta thường bảo mày muốn ăn, muốn uống, muốn chơi gì tùy ý, trong các anh, các chị, ưa người nào thì chơi với người ấy, mày không nghe lời, lại cứ đi nghe hạng người bậy bạ, ranh mãnh. Mình không biết tự trọng mình, chỉ theo lối hạ lưu bừa bãi, lại còn oán người ta đối đãi thiên lệch với mình. Thua có mấy đồng mà đến nỗi thế à? Thua hết bao nhiêu?
Giả Hoàn nói:
– Em thua hết một vài trăm đồng tiền.
Phượng Thư mắng:
– Cũng mang tiếng là cậu ấm, mới thua một hai trăm đồng mà đã thế à!
Rồi quay lại bảo Phong Nhi:
– Đi lấy một quan tiền ra đây. Các cô đương chơi ở đường sau kia, đưa cậu ra đấy chơi.
Lại quay bảo Giả Hoàn:
– Từ rầy mày còn giữ lối quỉ quái như thế, ta sẽ đánh trước rồi mách bên trường học cho người ta lột da ra! Vì mày không biết tự trọng, nên anh Bảo giận mày lắm. Nếu tao không can thì anh mày đã đá cho mày lòi ruột ra rồi. Thôi! Cút đi!
Giả Hoàn vâng vâng dạ dạ, theo Phong Nhi lấy tiền rồI ra chỗ bọn Nghênh Xuân chơi.
Bảo Ngọc đương ngồi chơi với Bảo Thoa, chợt thấy ngườI nói: “Cô Sử đã đến”. Bảo Ngọc chực chạy đi ngaỵ Bảo Thoa cười nói:
– Hãy chờ một tí, chúng ta cùng đến thăm cô ta một thể.
Nói xong, xuống giường cùng Bảo Ngọc đến chỗ Giả mẫu.
Sử Tương Vân đương cười cười, nói nói, thấy họ đến, vộI đứng dậy chào.
Đại Ngọc ngồi bên cạnh, hỏi Bảo Ngọc:
– Anh ở đâu về đấy?
– Đến thăm chị Bảo về.
Đại Ngọc cười nhạt:
– Em đã nói mà, nếu không vướng mắc ở đâu thì đã bay đến ngay rồi.
– Thế tôi chỉ được ở nhà chơi đùa với cô em để cô em đỡ buồn thôi ư? Vừa mới sang bên ấy một lúc mà đã nói những câu ấy.
– Khéo vớ vẩn chưa! Đi hay không có liên can gì đến tôi? Ai khiến anh ở nhà để cho tôi đỡ buồn? Từ giờ trở đi, không cần anh để ý đến tôi nữa.
Nói xong, giận dỗi trở về buồng.
Bảo Ngọc vội chạy theo hỏi:
– Đang tử tế mà lại đâm ra giận dỗi rồi. Dù tôi có lỡ lời, em cũng nên ngồi chơi một lúc nói chuyện cho vui. Việc gì lại chuốc nỗi buồn vào người!
– Anh cấm đoán tôi à?
– Tôi nào dám cấm đoán em. Chỉ là em tự giày vò thân em đấy thôi!
– Tôi tự giày vò thân tôi! Tôi chết kệ tôi, có việc gì đến anh?
– Sao lại thế? Đầu giêng năm mới, cứ nói “chết” với “sống” mãi!
– Tôi chỉ nói “chết” thôi! Phen này tôi chết đấy! Anh sợ chết thì cứ sống đến trăm tuổi, có được không?
– Cứ rắc rối mãi thế này, tôi lại sợ chết à? Thà chết đi cho yên chuyện!
– Phải đấy, cứ rắc rối mãi thế này, thì thà chết hết đi cho yên chuyện!
– Tôi nói là tôi chết cho yên chuyện, em đừng nghe nhầm lại đổ oan cho tôi.
Hai người đương nói với nhau, thì Bảo Thoa chạy đến nói:
– Cô Sử đương chờ cậu đấy.
Rồi kéo Bảo Ngọc đi. Đại Ngọc càng tức, nhìn ra cửa sổ, nước mắt chảy ròng ròng.
Độ chừng uống cạn hai chén nước thì Bảo Ngọc trở về. Đại Ngọc trông thấy càng khóc nức nở. Bảo Ngọc thấy thế, biết rằng khó làm Đại Ngọc hồi tâm, nên cố tìm hết lời êm dịu để khuyên giải, nhưng chưa kịp mở mồm, Đại Ngọc đã nói:
– Anh còn đến đây làm gì? Sống chết kệ thây tôi! Vả chăng bây giờ đã có người chơi với anh rồi. Người ấy lại biết đọc sách, biết làm thơ, biết viết chữ, biết nói, biết cười. Họ sợ anh bực tức, mới lôi đi để cám dỗ anh. Bây giờ anh còn đến đây làm gì nữa?
Bảo Ngọc nghe nói, vội đến trước mặt Đại Ngọc khẽ nói:
– Em là người hiểu biết, có lẽ nào không biết câu “Thân bất cách sơ”, “Tiên bất tiếm hậu” 2 hay sao? Anh tuy dốt nát, nhưng cũng biết nghĩa hai câu đó. Điều thứ nhất, chúng ta là anh em con cô con cậu, chị Bảo với anh là đôi con dì, với em thì còn xa hơn. Điều thứ hai, em đến đây trước, hai chúng ta từ bé đến lớn, ăn cùng một bàn, ngủ cùng một giường, chị Bảo thì mới đến, lẽ nào tôi lại vì chị ấy mà xa em?
Đại Ngọc gạt đi:
– Tôi lại bảo anh xa người ta à? Như thế tôi còn ra gì? Tôi chỉ biết bụng tôi thôi!
– Tôi cũng chỉ biết bụng tôi thôi. Có lẽ nào em biết bụng em mà không biết bụng tôi?
Đại Ngọc cúi đầu lặng im, một lúc sau mới nói:
– Anh chỉ trách người ta làm cho anh bực mình, có biết đâu chính anh đã làm cho người ta khó chịu. Xem thời tiết hôm nay, trời lạnh như thế mà anh không khoác áo bông vào?
Bảo Ngọc nói:
– sao lại không mặc? Chỉ vì thấy em bực tức, anh phát nóng cả người, nên cởi áo ra đấy thôi.
Đại Ngọc phàn nàn:
– Rồi có bị cảm lại đổ tại vì cãi nhau với em mà đâm ốm.
Hai người đương nói thì Tương Vân chạy lại cười nói:
– Anh “ái” 4 ơi, chị Lâm ơi, các người ngày nào cũng chơi đùa một chỗ với nhau, còn tôi không mấy khi đến đây, thế mà chẳng ai thèm hỏi han đến tôi cả!
Đại Ngọc cười nói:
– Đã ngọng lại còn hay nói, ngay tiếng anh Hai cũng chẳng nói nên thân, lại gọi là anh “ái”, anh “ái”. Lúc đánh lú cũng lại ngọng nốt, cứ luôn mồm “yêu ái tam”.
Bảo Ngọc cười bảo Đại Ngọc:
– Em bắt chước quen đi rồi cũng đâm ngọng thôi!
Tương Vân nói:
– Chị ấy không chừa một ai, chỉ tìm cách trêu chọc người tạ Nếu mình quả giỏi hơn, cũng không nên gặp người nào là trêu chọc người ấy. Tôi kể một người ra đây, chị dám trêu chọc thì tôi mới phục.
Đại Ngọc hỏi là ai. Tương Vân nói:
– Chị dám trêu chọc chị Bảo Thoa, tôi mới cho là giỏi.
Đại Ngọc cười nhạt:
– Tưởng ai chứ chị ấy thì tôi đâu dám.
Bảo Ngọc không chờ nói hết, vội nói lảng ra chuyện khác.
Tương Vân cười nói:
– Hiện nay thì tôi chịu thua chị. Tôi chỉ cầu mong sau này chị lấy được người chồng cũng nói ngọng như tôi. Chị cũng có phen được nghe những tiếng ái” ấy thôi. A di đà phật! Lúc đó sẽ hiện ra trước mắt chị.
Câu nói ấy làm cho mọi người bật cười, Tương Vân vội chạy mất.
1 Trong đời phong kiến Trung Quốc, theo tục mới cưới, chú rể gỡ tóc cài trâm cho cô dâu. Ở đây Tình Văn dùng câu đó để nói đùa hai người.
2 Không vì người thân mà xa người sơ, cũng không vì người trước mà lấn người sau.
3 Tiếng Trung Quốc, chữ “ái” đọc gần giống chữa “hai” (nhi). Ái lại có nghĩa là yêu. Tương Vân nói ngọng bị Đại Ngọc chế, Tương Vân lại dùng chữ đó để trêu Đại Ngọc.
Sử Tương Vân sợ Đại Ngọc đuổi theo, chạy đi ngaỵ Bảo Ngọc ở đằng sau nói:
– Khéo vấp ngã đấy! Em không đuổi kịp được đâu!
Đại Ngọc vừa đến cửa, Bảo Ngọc giơ tay ngáng lại, cười nói:
– Thôi em hãy tha cho người ta lần này.
Đại Ngọc giằng tay ra:
– Tha cho nó! Trừ khi tôi chết.
Tương Vân thấy Bảo Ngọc đứng ngáng cửa, biết Đại Ngọc không thể ra được, bèn dừng lại cười nói:
– Chị Ơi, hãy tha cho tôi lần này.
Bảo Thoa ở đâu đến ngay sau lưng Tương Vân, cười:
– Thôi xin hai chị, nể mặt anh Bảo, hãy buông nhau ra.
Đại Ngọc nói:
– Tôi không nghe! Các người vào hùa với nhau đến trêu tôi à?
Bảo Ngọc khuyên:
– Thôi đi. ai dám trêu em? Em không nói đùa người ta, ai dám nói đến em?
Bốn người đang giằng co nhau, thì có người tới mời đi ăn cơm. Lúc lên đèn, Vương phu nhân, Lý Hoàn, Phượng Thư, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đều qua bên phòng Giả Mẫu. Mọi người nói chuyện phiếm một lúc rồi đâu về đấy. Tương Vân về buồng Đại Ngọc ngủ.
Bảo Ngọc đưa hai người về buồng. Trời đã quá canh hai. Tập Nhân đến giục mấy lần mới chịu về. Hôm sau vừa sáng, Bảo Ngọc đã dậy, mặc áo, đi giày, sang buồng Đại Ngọc. Thấy vắng Tử Quyên, Thúy Lũ, chỉ có Đại Ngọc và Tương Vân nằm trong chăn. Đại Ngọc thì đắp kín người một cái chăn lụa đỏ, nhắm mắt ngủ saỵ Tương Vân thì tóc xõa ra cạnh gối, ngực quấn một cái chăn màu hồng điều, để hở ra ngoài hai cánh tay trắng muốt, trông rõ cả hai cái vòng vàng. Bảo Ngọc thấy vậy nói:
– Ngủ mà cũng không biết giữ gìn cẩn thận! Nhỡ bị cảm có đau vai mỏi cổ lại kêu.
Nói xong khẽ kéo chăn đắp hộ.
Đại Ngọc tỉnh dậy, biết có người, đoán ngay là Bảo Ngọc, quay nhìn ra nói:
– Sớm thế anh đã đến đây làm trò gì?
– Hãy còn sớm à? Em dậy mả xem!
– Anh hãy ra ngoài kia, để chúng tôi dậy đã.
Bảo Ngọc ra nhà ngoài. Đại Ngọc đánh thức Tương Vân. Hai người trở dậy mặc quần áo. Bảo Ngọc vào ngồi bên cạnh tủ gương. Tử Quyên, Thúy Lũ đến hầu rửa mặt, chải đầu. Tương Vân rửa mặt xong, Thúy Lũ toan đổ chậu nước đi, Bảo Ngọc bảo:
– Khoan đã, nhân tiện để lại cho tôi rửa, đỡ phải sang bên kia thêm tốn công.
Nói xong, khom lưng xuống vốc nước rửa.
Tử Quyên mang xà phòng thơm đến, Bảo Ngọc nói:
– Không cần, trong chậu đã có nhiều xà phòng thơm rồi.
Lại rửa lần nữa, rồi mới bảo đưa khăn mặt lau.
Thúy Lũ bĩu môi cười:
– Chứng nào vẫn tật nấy!
Bảo Ngọc không để ý đến câu ấy, vội đòi lấy muối đánh răng, súc miệng. Thấy Tương Vân chải đầu xong, Bảo Ngọc chạy lại, cười nói:
– Cô em chải đầu hộ tôi.
– Tôi không biết chải.
– Sao ngày trước cô vẫn chải hộ tôi?
– Bây giờ quên rồi.
Bảo Ngọc vật nài mãi.
– Hôm nay tôi không đi đâu, chỉ cần cô em tết mấy món tóc là đủ.
Tương Vân đành phải chải hộ.
Thường khi ở nhà, Bảo Ngọc không bao giờ đội mũ, chỉ vén tóc chung quanh, tết mấy búi nhỏ, rồi chập cả lên đỉnh đầu thành một búi to, buộc bằng dây đỏ. Trên búi tóc, giắt một chùm bốn hạt trân châu, phía dưới có cài một cái cặp bằng vàng.
Tương Vân vừa tết vừa nói:
– Sao chỉ còn ba hạt trân châu? Một hạt không đúng. Tôi nhớ anh có bốn hạt cùng một thứ kia mà, sao lại thiếu một?
– Rơi mất một hạt.
– Tất là khi anh đi ra ngoài, đánh rơi. Chi may cho kẻ nhặt được thôi.
Đại Ngọc đứng bên cười nhạt:
– Chưa biết chừng lả mất, hay lại đem nạm vào cái gì làm đồ trang sức cho người ta đeo rồi?
Bảo Ngọc không trả lời. Nhân thấy hai bên tủ gương có nhiều đồ phấn sáp, tiện tay lấy ra ngắm nghía. Khi thấy một hộp sáp bôi môi, Bảo Ngọc muốn bỏ vào miệng ăn, lại sợ Tương Vân cười. Đương lúc ngần ngừ, Tương Vân ở đằng sau giơ tay hất một cái, hộp sáp rơi xuống đất. Tương Vân nói:
– Chứng nào vẫn tật ấy, đến bao giờ anh mới chừa?
Đương nói chuyện thì Tập Nhân đến, trông thấy thế, biết là Bảo Ngọc đã rửa mặt chải đầu rồi, đành trở về. Bảo Thoa chợt đến hỏi:
– Anh Bảo đi đâu rồi?
Tập Nhân cười nhạt:
– Cậu Bảo còn có thì giờ nào ở nhà!
Bảo Thoa nghe nói hiểu ý ngaỵ Tập Nhân lại than:
– Chỗ anh chị em chơi đùa với nhau, cũng nên có chừng có mực, ai lại bất cứ ngày đêm, lúc nào cũng như lúc nào! Người ta khuyên răn thế nào cũng mặe, chỉ như gió thoảng ngoài tai thôi!
Bảo Thoa nghe nói, trong bụng nghĩ thầm: “Đừng nên coi thường con bé này. Nghe nó nói, xem ra cũng có chút kiến thức”. Bảo Thoa liền ngồi trên bục, thong thả chuyện trò, hỏi tuổi, hỏi gia đình, quê quán, để ý xem xét lời ăn tiếng nói và tính tình con người, thấy Tập Nhân rất đáng kính yêu.
Một lúc, Bảo Ngọc về, Bảo Thoa mới đi ra, Bảo Ngọc hỏi Tập Nhân:
– Chị Bảo đương nói chuyện vui vẻ, thấy tôi về, sao lại đi ngay?
Tập Nhân không trả lời. Bảo Ngọc hỏi mãi, Tập Nhân cười nói:
– Cậu hỏi tôi đấy à? Thật tôi chẳng hiểu các người ra làm sao cả.
Bảo Ngọc thấy nét mặt Tập Nhân khác hẳn ngày thường, cười hỏi:
– Vì sao chị lại giận dỗi thế?
Tập Nhân cười nhạt:
– Khi nào tôi dám giận dỗi. Chỉ xin từ giờ trở đi cậu đừng đến buồng này nữa. Dủ sao cậu cũng đã có người hầu hạ rồi, không cần phải sai khiến đến tôi. Tôi lại trở về hầu bên cụ vậy.
Nói xong, lên bục nằm nhắm mắt lại.
Bảo Ngọc thấy quang cảnh vậy, rất lấy làm lạ, đành phải chạy lại van xin, nhưng Tập Nhân cứ nhắm mắt, mặc kệ. Bảo Ngọc không biết làm thế nào. Chợt thấy Xạ Nguyệt đến, Bảo Ngọc liền hỏi:
– Chị ấy làm sao thế?
Xạ Nguyệt nói:
– Tôi biết làm sao được! Cậu cứ tự hỏi mình khắc biết.
Bảo Ngọc nghe nói, ngẩn người một lúc, tự thấy chẳng còn thú vị gì, vùng đứng dậy nói:
– Không thèm nhìn đến tôi thì thôi, tôi đi ngủ vậy.
Nói xong vào giường nằm.
Hồi lâu, Tập Nhân thấy Bảo Ngọc nằm yên, có tiếng ngáy khò khò, biết đã ngủ rồi, bèn đứng dậy lấy áo tơi đắp cho Bảo Ngọc. Bỗng “soạt” một tiếng, áo tung ra, nhưng Bảo Ngọc vẫn nhắm mắt giả ngủ.
Tập Nhân biết ý, gật đầu cười nhạt:
– Cậu không cần phải dỗi nữa. Từ giờ trở đi, tôi chỉ như người câm thôi, không can cậu một câu nào, có được không?
Bảo Ngọc vùng ngay dậy hỏi:
– Tôi có điều gì mà chị phải khuyên ngăn? Kể ra, chị khuyên ngăn cũng được, nhưng vừa rồi tại sao chị chẳng thèm nói câu gì? Tôi về, chị không để ý đến, lại giận dỗi đi nằm. Tôi cũng chẳng rõ sao cả. Bây giờ chị lại bảo là tôi dỗi. Nào chị đã khuyên ngăn tôi câu gì đâu?
Tập Nhân nói:
– Tự cậu lại không biết, phải đợi tôi nói à?
Đương lúc ầm ĩ, thì Giả mẫu cho người gọi Bảo Ngọc đi ăn cơm. Bảo Ngọc ăn vội mấy bát rồi trở về buồng, thấy Tập Nhân nằm ở bục bên ngoài, Xạ Nguyệt ngồi bên cạnh đánh bài.
Bảo Ngọc biết hai người thân nhau, không hỏi han ai cả, mở rèm, vào ngay bên trong. Xạ Nguyệt đành phải theo vào. Bảo Ngọc đẩy ra, nói:
– Không dám phiền cô.
Xạ Nguyệt cười đi ra, gọi hai tiểu hoàn vào hầu. Bảo Ngọc lấy sách ngồi ngả người xem một lúc, nhân muốn uống nước, ngẩng trông thấy hai tiểu hoàn đứng dưới đất, đứa nọ lớn hơn đứa kia độ vài tuổi, mặt mũi cũng sáng sủa. Bảo Ngọc hỏi đứa lớn:
– Tên mày là cái gì “Hương” phải không?
– Tên tôi là Huệ Hương.
– Ai đặt tên ấy cho mày?
– Trước tôi đặt là Vân Hương, sau chị Hoa đổi cho tên ấy.
– “Hối khí” 1 thì phải, lại còn Huệ Hương cái gì! Mày có mấy chị em?
– Tôi có bốn chị em.
– Mày là thứ mấy?
– Tôi là thứ tư.
– Từ giờ trở đi cứ gọi mày là con Tư, không cần gọi Huệ với Lan nữa. Mấy ai đáng sánh với hoa này, chỉ tổ làm bẩn cả cái tên đẹp đi thôi.
Nói xong sai pha nước trà. Tập Nhân và Xạ Nguyệt ở bên ngoài nghe thấy, bĩu môi khẽ cười với nhau.
Cả ngày hôm ấy Bảo Ngọc không ra khỏi cửa, không đùa nghịch với các chị em và a hoàn, một mình buồn thiu, hết viết lại xem sách cho khuây khỏa. Có việc gì không sai bảo ai, chỉ gọi con Tư thôi. Con Tư là đứa khôn ngoan tinh quái, thấy được sai bảo luôn, bèn tim hết cách để chiều chuộng Bảo Ngọc.
Đến bữa cơm chiều, Bảo Ngọc uống vài ly rượu. Như mọi bận, sau những lúc tai nóng bừng bừng, mắt buồn ngủ ríu lại là đã có bọn Tập Nhân cười đùa vui vẻ; nhưng lần này thì vắng tanh, vắng ngắt, một mình ngồi trước ngọn đèn, chẳng thú vị gì. Nếu mình làm lành với họ, sợ họ được thể, sau càng giở giọng khuyên ngăn mãi, nhưng làm ra dáng bề trên mà lấn át họ, lại thành ra người quá vô tình. Thôi chẳng nghĩ làm gì cho bận lòng, cứ coi như họ đã chết cả rồi, thế là tự mình sống thế nào cũng xong, không bị bó buộc, lại hóa thoải mái vui vẻ.
Bảo Ngọc giở kinh Nam hoa 2 ra xem, đến Ngoại thiên Khư níp 3 có một đoạn văn:
… Cho nên bỏ hết thánh trí, trộm lớn mới thôi; phá hủy châu ngọc, trộm nhỏ sẽ hết. Đốt dấu đập ấn, dân mới thật thà; chặt đấu phá cân, dân không tranh nhau; bỏ hết pháp luật, dân mới có thể bàn bạc việc nước. Bộ sáu ống luật 4, đốt đàn sáo, lấp tai sư, Khoáng 5 thiên hạ mới không có người khoe thính tai; xóa văn chương, hủy năm sắc, sơn mắt Ly Chu 6, thiên hạ mới không có người khoe mắt sáng; bỏ mục thước, khuôn, mẫu, chặt tay Công Thùy 7, thiên hạ mới không có người khoe khéo tay vậy.
Bảo Ngọc xem đến đấy, lấy làm hứng thú lắm. Nhân lúc say rượu, cầm bút viết luôn mấy câu nối sau:
Đốt hoa, vứt xạ 8, trong khuê các mới hết lời khuyên can lôi thôi; hủy sắc đẹp cua Bảo Thoa. lấp khiếu thông minh của Đại Ngọc, dứt hết tình ý, trong khuê các mới không có kẻ xấu người đẹp chênh lệch nhau; thôi sự khuyên can, sẽ không lo nỗi sâm thương xích mích; hủy hết sắc đẹp, sẽ không còn mối luyến ái vấn vương; lấp khiếu thông minh, mới không còn vẻ tài tình quyến rũ. Kìa bọn Thoa, Ngọc, Hoa, Xạ đều là những kẻ chăng lưới, đào bẫy để cám dỗ hãm hại người vậy.
Viết xong, Bảo Ngọc quăng bút, gục đầu xuống gối, ngủ ngay một mạch, đến sáng bạch mới dậy. Giở mình trông ra, thấy Tập Nhân mặc cả áo nằm ngủ trên đệm, bao nhiêu việc hôm trước, Bảo Ngọc quên hết, bèn đẩy Tập Nhân bảo:
– Dậy thôi, ngủ thế không khéo lại bị lạnh!
Nguyên Tập Nhân thấy Bảo Ngọc không kể ngày đêm, lúc nào cũng vui đùa với bọn chị em. Nếu mình cứ lấy lời thẳng thắn khuyên ngăn, chưa chắc cậu ta đã sửa đổi, chi bằng làm ra bộ hờn dỗi nũng nịu, dù Bảo Ngọc có bực tức, rồi chỉ chốc lát sẽ lại tử tế như thường, không ngờ Bảo Ngọc vẫn không hồi tâm chuyển ý. Tập Nhân nghĩ luẩn quẩn không biết làm cách gì, thành ra suốt đêm không ngủ. Nay thấy vậy, biết là Bảo Ngọc đã nghĩ lại phần nào, nên càng cố ý lờ đi như không.
Bảo Ngọc thấy Tập Nhân không trả lời, bèn giơ tay cởi hộ áo. Một cái khuy vừa được cởi thì Tập Nhân đã hất tay ra, cài ngay khuy lại.
Bảo Ngọc không còn cách gì, đành kéo tay Tập Nhân cười nói:
– Chị vẫn làm sao thế?
Hỏi luôn mấy câu, Tập Nhân trừng mắt nói:
– Chẳng sao cả. Cậu đã dậy, thì sang ngay bên kia mà rửa mặt chải đầu, chậm sẽ không kịp đấy.
– Chị bảo tôi sang đâu?
– Cậu lại hỏi tôi, tôi biết sao được? Cậu thích sang đâu, cứ đấy mà sang. Từ giờ hai chúng ta hãy chia tay nhau ra để bớt những điều tiếng om sòm, làm trò cười cho người tạ Dù đến lúc cậu chán ở bên kia rồi, thì bên này đã có con Tư con Năm nào đấy hầu hạ. Còn thứ chúng tôi chỉ làm nhơ nhuốc cái tên đẹp họ đẹp đi thôi!
– Đến hôm nay chị vẫn còn nhớ những câu ấy à?
– Còn nhớ mãi đến trăm năm! Đâu lại như cậu, coi lời tôi như gió thoảng ngoài tai. Đêm nói, sáng dậy đã quên rồi.
Bảo Ngọc thấy dáng điệu hờn dỗi nũng nịu của Tập Nhân không thể dứt tình được, bèn lấy ngay cái trâm ngọc bên gối, bẻ ra làm đôi mà thề: “Từ giờ nếu tôi không nghe lời chị thì cũng như cái trâm này!”.
Tập Nhân vội nhặt trâm nói:
– Sáng sớm ra, làm gì đã thề với bồi? Nghe hay không là tùy ở cậu, cần gì phải làm như vậy.
– Lòng tôi đang bứt rứt, chị có biết cho đâu?
– Cậu biết lòng cậu bứt rứt, thế thì lòng tôi thế nào, cậu có biết không? Thôi hãy đi rửa mặt đã.
Rồi hai người cùng đứng dậy đi rửa mặt, chải đầu.
Sau khi Bảo Ngọc lên nhà trên, thì Đại Ngọc đến. Thấy Bảo Ngọc không ở thư phòng, Đại Ngọc liền giở sách trên bàn ra xem, vừa hay giở đúng bộ Trang tử. Đọc đoạn viết nối của Bảo Ngọc, Đại Ngọc vừa tức vừa buồn cười, cầm bút viết tiếp bốn câu:
Bỗng dưng múa bút ấy kìa ai
Tập tọng Nam hoa học mấy lời:
Chẳng biết tự mình không kiến thức,
Lại đem lời xấu vội chê người.
Viết xong, Đại Ngọc lên nhà trên thăm Giả mẫu và Vương phu nhân.
Phượng Thư có đứa con gái đầu lòng là Đại Thư bị Ốm. Phượng Thư rối rít cho đi mời thấy thuốc đến xem. Thầy thuốc nói:
– Em phát nóng là triệu chứng lên “tốt” 9.
Vương phu nhân và Phượng Thư vội hỏi:
– Có việc gì đáng lo không?
Thầy thuốc nói:
– Bệnh tuy nặng, nhưng không việc gì. Xin sắp sẵn cho ngay sâu dâu và đuôi lợn.
Phượng Thư vội sai quét dọn nhà cửa, đặt bàn thờ cúng “Bà chúa đậu mùa”; cấm người nhà không được dùng đồ xào rán; sai Bình Nhi xếp dọn chăn màn quần áo cho Giả Liễn sang ngủ buồng khác, lấy nhiễu điều ra cho bọn hầu thân may quần áo. Nhà ngoài được sửa soạn sạch sẽ; hai thầy thuốc được mời đến cắt lượt nhau xem mạch, bốc thuốc, suốt trong mười hai ngày liền. Giả Liễn dọn ra ngủ riêng ngoài thư phòng. Phượng Thư và Bình Nhi ngày nào cũng theo Vương phu nhân cúng lễ “Bà chúa đậu”.
Giả Liễn vừa xa Phượng Thư, đã lại sinh chuyện. Mới ngủ riêng hai đêm hắn đã không nhịn được, chọn ngay một đứa hầu nhỏ sạch sẽ tạm làm trò “tiêu khiển”.
Bấy giờ trong phủ Vinh có một đứa nấu bếp tên gọi Đa Quan, nghiện rượu be bét, không ra hồn người, người ta đặt cho nó cái tên là thằng “Đa hồ đồ”. Từ bé, bố mẹ nó lấy cho nó một người vợ mới hai mươi tuổi, có ít nhiều nhan sắc, ai thấy cũng yêu. Nhưng chị này tính lẳng lơ, hay khêu ong gợi bướm. Thằng Đa chỉ cốt có rượu, có tiền, ngoài ra vợ cũng mặc kệ. Vì thế người trong hai phủ Vinh, Ninh phần nhiều tằng tịu với ả. Ả này dâm đãng khác thường, nên người ta đặt cho cái tên là cô “Đa” 10. Giả Liễn đương lúc ngứa ngáy, ngày thường vốn đã say mê say mệt ả này, nhưng trong thì sợ vợ, ngoài sợ bọn hầu yêu, nên không dám chờn vờn. Cô “Đa” từ lâu cũng có tình ý với Giả Liễn, nhưng chưa có dịp thuận tiện; nay thấy Giả Liễn dọn ra ngủ ngoài thư phòng, ả ta chẳng có việc gì cũng mỗi ngày lượn đi lươn lại ba bốn lần. Giả Liễn như một con chuột đói, bàn ngay với bọn hầu thân, hẹn cho vàng, lụa, lẽ nào không được; vả chăng chúng là chỗ quen sẵn với cô “Đa” nên chỉ nói một câu là xong.
Đêm ấy “Đa hồ đồ” rượu say ngủ vật ở giường. Đến trống canh hai vắng người, Giả Liễn lén sang. Vừa trông thấy ả, hắn đã hồn phách rụng rời, không kịp to nhỏ câu gì, vội cởi áo giở trò ngaỵ Ả này có một thú lạ trời cho; hễ khi gần con trai là khắp người nó gân cốt mềm nhũn, khiến người ta có cảm giác như nằm trên đống bông. Nó lại có cái lối khêu gợi, lẳng lơ, hơn cả bọn kỹ nữ, nên ai nấy đều chết mệt. Giả Liễn say đắm quá, đến nỗi muốn được hóa thân ngay trên người nó. Ả lại cố ý trêu cợt, nằm dưới nói:
– Em nhà lên đậu, đương cúng bà chúa, cậu phải kiêng mấy ngày, sao lại vì em làm ô uế cả thân thể? Thôi cậu xa em ra!
Giả Liễn hứng quá, thở hồng hộc:
– Em là “bà chúa”, chứ còn ai là “bà chúa” nữa!
Ả càng trêu cợt, Giả Liễn càng giở hết trò xấu xa, xong đó hai người chỉ non thề biển, xoắn xuýt không nỡ rời. Từ đấy trở thành mê nhau.
Mười hai hôm sau, Đại Thư đậu bay hết, cả nhà làm lễ tiễn “Bà chúa”, tế trời, cúng tổ, thắp hương tạ Phật, ăn mừng và ban thưởng cho mọi người. Giả Liễn lại dọn về buồng ngủ. Trông thấy Phượng Thư, chính như câu tục ngữ nói: “Vợ mới không bằng đi xa về”. Đêm ấy hai người ân ái biết bao, không cần phải nói.
Sáng hôm sau, Phượng Thư trở dậy lên nhà trên, Bình Nhi nhặt nhạnh quần áo, chăn đệm của Giả Liễn ở bên ngoài đưa vào, không ngờ thấy ở trong lần gối thò ra một mớ tóc. Bình Nhi biết ý, vội giấu vào trong tay áo, chạy sang buồng bên, giơ mớ tóc ra cười hỏi Giả Liễn: “Cái gì thế này?” Giả Liễn trông thấy, vội chạy lại chực giằng lấy, Bình Nhi chạy đi, bị Giả Liễn kéo lại, đè lên giường cướp mớ tóc, cười nói:
– Con ranh này, mày không đưa, tao bóp gãy cổ bây giờ.
Bình Nhi cười nói:
– Cậu chẳng còn một tí lương tâm nào, tôi có bụng tốt giấu hộ và hỏi riêng cậu, cậu lại giở lối ăn hiếp ra. Cậu cứ ăn hiếp đi, tôi sẽ mách mợ cho mà xem.
Giả Liễn vội vàng van xin:
– Em ơi, em là người tốt, em thưởng cho ta vậy! Ta không dám ăn hiếp nữa.
Nói chưa dứt lời, chợt nghe tiếng Phượng Thư, Giả Liễn bấy giờ buông cũng giở, cướp lại cũng giở, đành phải nói:
– Xin em đừng mách nhé!
Bình Nhi vừa đứng dậy, Phượng Thư đã vào đến nơi, bảo Bình Nhi mở hòm tìm thứ vải mẫu cho Vương phu nhân. Trong lúc Bình Nhi đang tìm, Phượng Thư trông thấy Giả Liễn, chợt nghĩ ra bèn hỏi Bình Nhi:
– Đồ đạc hôm nọ mang ra ngoài kia đã nhặt hết về chưa?
– Nhặt hết rồi.
– Có thiếu gì không?
– Trước thiếu hai thứ, sau xem xét kỹ lưỡng, thấy không thiếu thứ gì.
– Có thừa gì không?
– Không thiếu là.may, làm gì có thừa?
Phượng Thư lại cười:
– Trong mười mấy ngày trời, khó lòng giữ được trong sạch. Có đứa nào hậu hĩ bỏ lại cái gì hoặc nhẫn, khăn mặt, túi thơm hay mớ tóc, móng tay cũng chưa biết chừng!
Giả Liễn nghe đến câu ấy, mặt xám đi, đứng sau lưng Phượng Thư, cứ lấm lét đưa mắt ra hiệu cho Bình Nhị Bình Nhi làm ra dáng không trông thấy, cười nói:
– Sao mà bụng tôi cũng giống hệt như bụng mợ! Tôi cũng ngờ ngợ có gì khác chăng, nên đã chịu khó lục lọi từng tí một, nhưng không thấy dấu vết gì, mợ không tin cứ lục lại mà xem.
Phượng Thư cười:
– Con ngốc này! Nếu có cái gì, ai lại chịu để cho chúng ta tìm thấy?
Nói xong, mạng những thứ vải mẫu đi ra.
Bình Nhi nhìn Giả Liễn, lắc đầu:
– Việc này cậu phải tạ tôi thế nào?
Giả Liễn mừng lắm, ngứa ngáy khắp người, chạy lại ôm lấy Bình Nhi, kêu luôn mồm “ruột gan thân yêu của ta đây”. Bình Nhi giơ món tóc lên cười nói:
– Cái này tôi nắm đằng đuôi đây. Tử tế thì chớ, không thì tôi lại chìa nó ra!
Giả Liễn cười:
– Em giữ cẩn thận, nhất thiết đừng để cho mợ biết nhé.
Mồm nói thế, nhưng mắt hắn vẫn nhìn. Lừa lúc Bình Nhi sơ ý, hắn giơ tay cướp ngay lấy, cười nói:
– Em có giữ cũng chẳng làm gì, để anh đốt đi là xong chuyện.
Vừa nói vừa nhét mớ tóc vào trong ống giày.
Bình Nhi nghiến răng nói:
– Con người bất lương! Vừa qua cầu đã cất nhịp ngay! Sau này cậu đừng hòng tôi giấu giếm hộ cho nữa!
Giả Liễn thấy vẻ ẻo lả trêu người của Bình Nhi, liền ôm lấy định giở trò. Bình Nhi giật tay ra chạy. Giả Liễn tức giận nói:
– Con ranh chơi ác lắm, cứ khêu gợi người ta phát cuồng lên rồi lại bỏ chạy.
Bình Nhi đứng ngoài cửa sổ, cười:
– Tôi khêu gợi mặc tôi, ai bảo cậu phát cuồng lên? Dễ thường tôi chiều cậu để cho người ta biết lại ghen với tôi à? Giả Liễn nói:
– Không cần sợ ai, hễ nóng tiết lên là ta đập cho lọ giấm 11 ấy vỡ tan tành, bấy giờ mới biết tay ta! Nó giữ ta như giữ giặc ấy. Nó nói chuyện với trai thì được, lại cấm ta nói chuyện với gái? Hễ ta đứng gần ai là nó ngờ ngờ vực vực, còn nó thì bất kỳ chú cháu, lớn bé, cứ cười đùa bừa đi, cũng đều được cả. Từ giừ trở đi, ta không cho nó dàn mặt với đứa nảo nữa!
Bình Nhi nói:
– Người ta giữ được cậu chứ cậu không thể ghen với người tạ Người ta cử chỉ đứng đắn, chứ cậu thì phần nhiều không thẳng thắn, ngay tôi cũng không yên lòng, còn nói gì ai.
Giả Liễn nói:
– Thôi được, các người đều một duộc với nhau, đều giữ phần phải về mình, chỉ có ta là dở thôi. Có khi các người sẽ chết với ta!
Phượng Thư chạy về, thấy Bình Nhi đứng ngoài cửa sổ, hỏí:
– Muốn nói chuyện, sao không vào trong nhà, lại phải đứng ngoài cửa sổ là nghĩa làm sao?
Giả Liễn ở trong nhà nói:
– Mợ hỏi nó mà xem, hình như ở trong nhà có con cọp chực vồ người đấy!
Bình Nhi nói:
– Trong nhà ngoài cậu ra, không có ai, tôi ở đấy làm gì?
Phượng Thư cười:
– Không có ai thì càng hay chứ sao?
Bình Nhi nói:
– Mợ định nói tôi à?
– Chẳng nói cô còn nói ai?
– Đừng để tôi phải nói nữa.
Nói xong, không vén rèm cho Phượng Thư vào, vùng vằng bỏ đi chỗ khác.
Phượng Thư phải tự vén rèm lấy, miệng lẩm bẩm:
– Con Bình điên rồi, mày định cưỡi cổ cả tao, giờ xác đấy!
Giả Liễn nằm ngay xuống giường, vỗ tay cười nói:
– Không biết Bình Nhi lại đáo để thế, từ giờ trở đi, phải chịu nó đấy.
Phượng Thư nói:
– Tại cậu nuông nó, tôi chỉ trách cứ ở cậu.
Giả Liễn bĩu môi nói:
– Hai người lủng củng với nhau, lại chực gắp cả tôi vào. Tôi lánh xa các người là xong.
– Để xem cậu lánh đi đâu?
– Tự khắc có chỗ.
Nói xong đứng dậy.
Phượng Thư nói:
– Đừng đi vội, tôi còn muốn nói một câu chuyện.
Chính là:
Gái đẹp đến giờ hay giận kín,
Vợ yêu từ trước vẫn ghen ngầm.
1 Hối khí: nghĩa là xấu, là xúi quẩy. Ở đây dùng nghĩa bóng, ý nói mùi hôi phản lại hương là mùi thơm. Theo tiếng Trung Quốc: chữ “Hối” và chữ “Huệ” đọc giống nhau.
2 Tên bộ sách của Trang Chu, tức Trang tử, người đời Chiến quốc.
3 Trong kinh Nam hoa có chia làm hai phần: nội thiên cho là của Trang tử làm; ngoại thiên cho là của người sau chép vào. Khư níp: mỏ trộm cái hộp kín, là khám phá ra những lý lẽ bí ẩn.
4 Sáu ống luật là những âm nhạc cổ.
5 Tên một nhạc sư nước Tấn đời Xuân thu, mù mắt, rất thính tai, giỏi về âm nhạc.
6 Tên một người mắt rất sáng ở đời cổ, có thuyết cho là Ly Lâu, người đời Hoàng Đế.
7 Tên một người thợ khéo đời cổ.
8 Hoa chi Tập Nhân; xạ chi Xạ Nguyệt.
9 Tục cổ, chứng đậu mùa là chứng rất nguy hiểm, nhưng phải kiêng. Trung Ouốc gọi là “hỉ” (tin mừng), ta gọi là “tốt”.
Nghe Phượng Thư nói, Giả Liễn đứng lại hỏi việc gì. Phượng Thư nói:
– Hai mươi mốt này là ngày sinh nhật cô Bảo Thoa, cậu định làm thế nào?
– Tôi biết đâu đấy, xưa nay bao nhiêu lễ sinh nhật lớn, một mình mợ lo liệu được cả, bây giờ hỏi, tôi chẳng biết làm thế nào?
– Lễ sinh nhật lớn đã có lệ sẵn, nhưng lần này lớn không ra lớn, nhỏ không ra nhỏ, vì thế phải bàn với cậu.
Giả Liễn cúi đầu nghĩ ngợi một lúc nói:
– Mợ lẩn thẩn thật! Kể ra cũng có: lễ sinh nhật cô Lâm tức là lệ đấy. Năm ngoái mợ làm cho cô Lâm thế nào, năm nay cũng nên làm cho cô Bảo như thế.
Phượng Thư cười nhạt:
– Dễ thường tôi không biết? Tôi cũng đã nghĩ đến. Nhưng vì hôm qua bà hỏi đến sinh nhật của mọi người, nghe nói cô Bảo năm naỵmười lăm tuổi, không những là ngày sinh nhật, mà lại đến tuổi cập kê 1 rồi. Người bảo muốn lâm lễ sinh nhật cho cô ấy, tất nhiên không giống như của cô Lâm.
– Nếu thế thì làm to hơn một chút.
– Tôi cũng nghĩ như thế, nên mới phải hỏi cậu, cứ tự tiện làm, cậu lại kêu sao không nói trước.
– Thôi, thôi! Tử tế nước bọt ấy tôi không cần. Mợ không tra hỏi tôi là được rồi, tôi còn trách mợ nữa ư?
Nói xong hắn đi một mạch.
Sử Tương Vân đã ở chơi hai ngày, muốn xin về. Giả mẫu bảo:
– Cháu hãy ở lại, đến ngày sinh nhật chị Bảo, xem hát xong sẽ về.
Tương Vân vâng lời ở lại, sai người về nhà lấy hai bức thêu của mình sang mừng Bảo Thoa.
Từ ngày Bảo Thoa đến, Giả mẫu thấy cô ta là người đứng đắn, hòa nhã, nên rất yêu. Nhân gặp ngày sinh nhật lần thứ nhất của cô ta, Giả mẫu bỏ ra hai mươi lạng bạc gọi Phượng Thư đến bảo sửa tiệc rượu, bày trò chơi.
Phượng Thư nhân lúc vui, nói pha trò:
– Bà làm lễ sinh nhật cho các cháu, thế nào không được, còn ai dám nói? Nhưng bà lại sửa cả tiệc rượu nữa kia à? Muốn cho bữa tiệc vừa vui vừa nhộn, bà cũng nên bỏ ra một số tiền nữa! Nay chỉ trơ có hai mươi lạng bạc mốc meo này chi vào tiệc rượu, ý chừng bà muốn bắt các cháu phải bù nữa chăng? Nếu quả không có tiền đã đành, nhưng vàng bạc, thoi tròn, thoi dài, để phũng cả đáy hòm, chỉ tội làm phiền cho các cháu. Bà thử nghĩ xem, ai chẳng là cháu? Sau này chẳng lẽ chỉ có một mình chú Bảo rước bà lên Ngũ Đài Sơn 2 thôi à? Sao cái gì bà cũng ki cóp để dành cho chú ấy! Chúng cháu tuy không đáng được dùng của này, nhưng bà cũng không nên làm rầy chúng cháu. Món tiền này liệu có đủ sửa tiệc rượu và bày trò chơi không?
Nghe nói, cả nhả cười rộ lên. Giả mẫu cũng cười:
– Các người hãy nghe cái mồm nó kìa! Kể ra ta nói cũng khéo, nhưng bì thế nào được với con quái ấy! Mẹ chồng nó cũng còn chẳng dám nỏ mồm, nó lại cứ lem lém với ta à?
Phượng Thư cười:
– Mẹ chồng cháu cũng thương Bảo Ngọc như bà, cháu không có chỗ nào kêu oan! Bây giờ bà lại bảo cháu là nỏ mồm!
Giả mẫu nghe nói rất vui, lại phì cười một lần nữa.
Đến chiều, mọi người đều đến nhà Giả mẫu. Thăm hỏi xong, cả nhà, mẹ con, chị em chuyện trò vui vẻ. Giả mẫu hỏi Bảo Thoa thích nghe vở hát gì? Muốn ăn thức ăn gì? Bảo Thoa vốn biết Giả mẫu tuổi già, thích nghe những vở hát vui nhộn, thích ăn những đồ ăn nhừ, ngọt, liền chọn cái gì Giả mẫu thường thích, kể ra một lượt. Giả mẫu lại càng vui. Hôm sau Giả mẫu cho mang quần áo, đồ chơi đến mừng. Vương phu nhân, Phượng Thư, Đại Ngọc, kẻ nhiều người ít, đều mang đồ mừng sang.
Đến ngày hai mươi mốt, trong nhà Giả mẫu dựng một cái sân khấu xinh đẹp, chọn một ban hát mới có cả hai điệu côn và giặc 3. Tiệc rượu thân mật đặt trong buồng Giả mẫu, có Tiết phu nhân, Sử Tương Vân và Bảo Thoa là khách, còn đều là người trong nhà cả.
Hôm ấy, sáng sớm dậy, Bảo Ngọc không thấy Đại Ngọc, bèn đến buồng tìm, gặp Đại Ngọc đang nằm nghiêng trên giường. Bảo Ngọc cười nói:
– Thôi dậy ăn cơm, rồi đi xem hát! Em thích nghe vở nào, anh sẽ chấm cho.
Đại Ngọc cười nhạt:
– Anh đã nói thế, phải tìm riêng một ban hát, chọn những bài nào em thích thì hát cho em nghe, chứ đi nghe nhờ thì đừng hỏi nữa.
Bảo Ngọc cười:
– Việc ấy khó gì? Ngày mai anh gọi một ban hát đến đây, thế là họ lại phải nghe nhờ chúng ta.
Nói xong kéo Đại Ngọc dậy, dắt tay nhau đi ăn cơm.
Khi chấm vở, Giả mẫu bảo Bảo Thoa chấm. Từ chối mãi không được, Bảo Thoa đành phải chấm một hồi trong vở Tây Du Ký. Giả mẫu vui lắm, lại bảo Phượng Thự Phượng Thư biết Giả mẫu thích vui, thích cười đùa, nên chấm ngay vở “Lưu Nhị đương ỳ”. Giả mẫu lại càng vui, rồi lại bảo Đại Ngọc. Đại Ngọc xin nhường cho Vương phu nhân, Tiết phu nhân chấm trước.
Giả mẫu nói:
– Hôm nay ta cốt cùng các cháu bày cuộc vui. Chúng ta cứ biết chúng ta, đừng nghĩ đến các bà ấy. Nhất là bày ra tiệc rượu, ca hát có phải vì các bà ấy đâu! Các bà ấy được nghe hát, uống rượu, thế là tốt rồi, lại còn phải mời chấm vở nữa kia à!
Nghe nói cả nhà cười ầm lên.
Đại Ngọc chấm xong một vở, rồi đến Bảo Ngọc, Sử Tương Vân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân và Lý Hoàn đều chấm cả. Các vở cứ lần lượt theo thế mà diễn.
Đến lúc vào tiệc rượu, Giả mẫu lại sai Bảo Thoa chấm vở. Bảo Thoa chấm vở Lỗ Trí Thâm say rượu làm nhộn ở núi Ngũ Đài.
Bảo Ngọc hỏi Bảo Thoa:
– Chị chỉ thích nghe những vở hát ấy!
– Anh nghe hát đã mấy năm nay, vẫn không biết, vở này dàn cảnh và lời văn đều hay cả.
– Tôi sợ những vở này nhộn quá.
– Vở này mà bảo là nhộn! Anh thật không biết nghe hát! Lại đây tôi nói cho mà nghe. Đây là một điệu Bắc: Điểm giáng thần. Điệu rất du dương trầm bổng. Âm luật lại càng không cần phải nói. Về lời văn có bài Ký sinh thảo rất hay, chắc anh chưa được nghe bao giờ.
Bảo Ngọc thấy nói bài ấy văn hay, liền xích lại gần:
– Xin chị đọc cho tôi nghe.
Bảo thoa liền đọc:
Anh hùng chùi nước mắt,
Xử sĩ tiếc chi nhà.
Lạy Di đà, cắt tóc dưới tòa sen Phật.
Hết duyên pháp, chớp mắt thành ly biệt,
Trần trùi trụi, đi về không vướng víu.
Tìm đâu tá, nón mưa áo khói một mình đi?
Mặc kệ ta, giày rơm bát vỡ theo duyên đến!
Bảo Ngọc nghe xong, thích quá, vỗ đùi, lắc đầu, khen mãi. Lại khen Bảo Thoa học rộng, không sách nào không biết.
Đại Ngọc bĩu môi:
– Hãy im mà nghe, chưa hát vở Sơn môn 4 anh lại đã muốn Trang phong 5 rồi.
Tương Vân ngồi đó phì cười. Mọi người nghe hát đến khuya mới tan.
Giả mẫu yêu nhất hai đứa bé đóng vai nữ và vai hề, bảo người dắt chúng lên, thấy rất đáng thương. Hỏi tuổi, đứa đóng vai nữ mới mười một, đứa đóng vai hề mới lên chín. Mọi người đều than thở. Giả mẫu sai lấy đồ ăn và hai quan tiền thưởng cho chúng. Phượng Thư cười nói:
– Thằng bé này lúc đóng vai nữ trông hệt như một người, thế mà chẳng ai biết cả.
Bảo Thoa hiểu ra ngay, chỉ gật đầu không nói gì. Bảo Ngọc cũng gật đầu không dám nói. Tương Vân mau miệng nói:
– Tôi biết rồi, trông giống cô Lâm.
Nghe vậy, Bảo Ngọc vội đưa mắt ra hiệu cho Tương Vân. Mọi người để ý nhìn kỹ, rồi cười ầm lên: “Quả là giống cô Lâm thật”. Một lúc tiệc tan.
– Việc gì mà cô vội thế, lúc nào đi thu xếp cũng vừa.
– Sáng mai về sớm. Ở đây làm gì nữa? Mày không thấy nét mặt người ta có vẻ không ưa đấy à?
Bảo Ngọc nghe thấy, vội đến kéo Tương Vân lại:
– Em hiểu lầm tôi. Em Lâm là người hay chấp, ai cũng biết cả, nhưng không muốn nói ra, vì sợ em Lâm giận. Ngờ đâu em buột mồm nói ngay, em Lâm lại không giận à? Tôi sợ em làm mất lòng em Lâm, nên đưa mắt ra hiệu. Bây giờ em lại giận tôi, há chẳng phụ lòng tôi hay sao? Nếu phải như ai, dù có gây chuyện với mười người, tôi cũng mặc kệ chẳng liên quan gì đến tôi!
Tương Vân hất tay:
– Những giọng văn hoa ấy đừng nói với tôi – tôi bì thế nào được với cô Lâm nhà anh! Người ta nói đùa cô ấy thì được, tôi nói lại có lỗi ngaỵ Tôi vốn không đáng nói chuyện với cô ta, cô chủ nhà, tôi chỉ là hạng con hầu đầy tớ thôi!
Bảo Ngọc vội nói:
– Thế ra vì em lại thành ra tôi có lỗi với em. Nếu tôi xấu bụng, xin lập tức hóa ra tro, cho mọi người giầy xéo lên.
Tương Vân nói:
– Đầu giêng năm mới, đừng có mở miệng là nói những câu nhảm nhí. Anh có thề, cứ thề với cái người tính nết nhỏ nhen, động một tí là giận dỗi; thề với cái người cai quản được anh ấy! Đừng để cho tôi phải bực mình với anh!
Tương Vân nói xong, hầm hầm đến ngay buồng Giả mẫu nằm xoài ra.
Bảo Ngọc chán ngán, lại đến tìm Đại Ngọc. Ngờ đâu vừa bước chân vào cửa, Đại Ngọc đã đẩy ra, đóng sập cửa lại. Bảo Ngọc không hiểu ra sao, đứng ngoài cửa sổ khẽ gọi: “Em ơi! em ơi!” Đại Ngọc mặc kệ không trả lời, Bảo Ngọc buồn quá, đứng rũ đầu không nói gì. Tử Quyên biết rõ đầu đuôi câu chuyện, nhưng chắc khuyên can ngay cũng chẳng được nào. Bảo Ngọc vẫn đứng ngẩn ở ngoài.
Đại Ngọc tưởng Bảo Ngọc đã về, mở cửa ra, thấy Bảo Ngọc vẫn đứng đấy, không tiện đóng lại. Bảo Ngọc theo vào hỏi:
– Việc gì cũng phải có duyên do, cứ nói ra để cho người ta khỏi áy náy. Sao tự nhiên em lại đâm ra giận dỗi?
Đại Ngọc cười nhạt:
– Tôi ấy à! Chẳng biết ra làm sao cả. Các người định đem tôi ra đùa! Đem tôi ví với con hát để làm trò cười cho các người!
– Tôi chẳng ví em, cũng chẳng cười em bao giờ, làm sao em lại giận tôi?
– Anh còn phải ví, còn phải cười! Anh không ví, không cười, nhưng so với người ví, người cười lại độc ác hơn.
Bảo Ngọc nghe nói, chẳng biết phân trần thế nào, lặng lẽ không nói nửa lời.
Đại Ngọc lại nói:
– Điều ấy còn có thể tha thứ được. Nhưng làm sao anh lại còn đưa mắt cho con Vân? Bụng dạ anh là thế nào? Có phải anh cho rằng người ta đùa với tôi là người ta tự hạ thấp con người xuống không? Người ta là tiểu thư nhà công hầu, tôi là con nhà bình dân. Người ta đùa tôi, lỡ tôi nói lại, chẳng hóa ra làm mất giá đi hay sao? Có phải anh nghĩ thế không? Có thể là bụng anh tốt nhưng người ta không nhận cái tốt ấy, cũng lại giận anh. Anh lại đem tôi ra để lấy lòng người ta, bảo là tôi “tính nết nhỏ nhen, động một tí là giận dỗi”. Anh lại sợ người ta gây chuyện với tôi để tôi giận người tạ Tôi giận người ta hoặc người ta gây chuyện với tôi thì việc gì đến anh?
Bảo Ngọc nghe thế, biết câu chuyện mình nói nhỏ với Tương Vân vừa rồi, Đại Ngọc nghe thấy cả, nghĩ bụng: “Chỉ vì mình sợ hai người giận nhau, nên ở giữa giàn xếp, không ngờ cả hai lại đều lèo nhèo trách móc mình. Đúng như kinh Nam hoa đã nói: Người khéo chỉ tổ nhọc xác, người khôn chỉ tổ lo phiền, người đần độn không cần gì cả, cứ việc ăn chơi thảnh thơi như thuyền không buộc vào cọc, lênh đênh trôi giữa dòng sông. Lại có câu: Rừng núi tự gọi kẻ cướp đến, sông ngòi tự gọi kẻ trộm đến 6. Càng nghĩ càng thấy chẳng thú vị gì; xét cho cùng, bây giờ chỉ có vài người, mà mình không thu xếp cho êm thấm, thì sau này còn làm gì nên thân?” Nghĩ đến đó, Bảo Ngọc không buồn phân trần, liền quay về buồng. Đại Ngọc thấy vậy, biết Bảo Ngọc chán nản, bực bội bỏ đi, chẳng nói câu gì, nên càng bực mình thêm, liền nói: “Từ rày, suốt đời đừng đến đây nữa cũng xong!”
Bảo Ngọc không để ý đến câu nói ấy, về nằm sõng sượt ở giường, buồn thiu. Tập Nhân biết đầu đuôi câu chuyện, nhưng không dám nói, chỉ muốn đánh lảng ra việc khác cho khuây khỏa, nhân cười hỏi:
– Hôm nay nghe hát rồi, mai kia chắc cậu lại được nghe nữa. Thế nào cô Bảo chẳng mời lại.
Bảo Ngọc cười nhạt:
– Mời lại hay không, có việc gì đến tôi!
Tập Nhân thấy câu nói khác thường, bèn cười:
– Thế là thế nào? Năm mới tốt lành, mẹ con, chị em ai cũng vui vẻ cả, sao cậu lại thế?
– Mẹ con chị em người ta vui hay không, cũng không can gì đến tôi!
– Cả nhà vui thì cậu cũng nên vui một tí có hơn không?
– Cả nhà là thế nào? Họ có người này người nọ chứ tôi thì chỉ trần trùi trụi, chả bấu víu vào đâu cả?
Nói đến đây, Bảo Ngọc tự nhiên nhỏ nước mắt. Tập Nhân thấy quang cảnh ấy, không dám hỏi nữa. Bảo Ngọc ngẫm nghĩ câu vừa rồi, khóc òa lên, đứng phắt dậy, đến bên án thư cầm bút viết một câu kệ:
Người chứng, ta chứng 7, lòng chứng, ý chứng. Đã không có chứng, mới gọi là chứng. Không có gì chứng, mới là chỗ đứng.
Viết xong, bản thân tuy đã hiểu, nhưng sợ người xem không hiểu, Bảo Ngọc lại viết thêm khúc “Ký sinh thảo” ở sau kệ, rồi đọc lại một lượt, trong bụng thấy khoan khoái, không vướng víu gì, liền lên giường ngủ.
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc vừa rồi đi ra một cách quả quyết, bèn lấy cớ đến hỏi thăm Tập Nhân để xem ý tứ ra sao. Tập Nhân nói:
– Cậu ấy đi ngủ rồi.
Đại Ngọc muốn về ngaỵ Tập Nhân lại nói:
– Cô hãy đứng lại xem cái giấy này trong viết những gì?
Rồi đem tờ giấy Bảo Ngọc vừa viết đưa cho Đại Ngọc xem. Biết Bảo Ngọc vì một lúc tức giận mà làm ra bài này, đáng cười lại đáng than, Đại Ngọc liền bảo Tập Nhân:
– Cậu ấy viết đùa đấy, chẳng có gì đâu.
Nói xong cầm tờ giấy về buồng.
Đến hôm sau, Đại Ngọc đưa cho Bảo Thoa, Tương Vân cùng xem. Bảo Thoa đọc lên có những câu:
Không phải ta không phải người,
Theo ai nhưng chẳng biết là ai?
Tha hồ đi lại không vướng mắc,
Vui vẻ hão huyền thôi cũng mặc.
Thân sơ ai có kể làm chi!
Trước đây lận đận bởi duyên gì?
Bây giờ nghĩ lại thật là vô vị!
Bảo Thoa đọc xong, xem lại những câu kệ, cười nói:
– Người này đã tỉnh ngộ rồi đây. Đó là lỗi ở tôi, vì hôm nọ tôi đọc cho anh ấy nghe một bài hát, thành ra gợi chuyện này. Những lời bí ẩn trong sách đạo dễ làm người ta thay đổi tính tình. Sau này anh ấy cứ cho những câu nói gàn dở là phải, lúc nào bụng cũng nghĩ vớ vẩn, há chẳng phải là tự tôi đọc một bài hát mà sinh ra lắm chuyện hay sao? Tôi thật là đầu têu việc này!
Nói xong, Bảo Thoa xé vụn tờ giấy, bảo a hoàn đốt đi. Đại Ngọc cười nói:
– Cần gì phải xé, để tôi hỏi anh tạ Chị em cứ theo tôi. Tôi sẽ làm cho anh ta chừa những ý nghĩ ngây ngô đi.
Ba người cùng sang gặp Bảo Ngọc. Đại Ngọc cười, nói:
– Anh Bảo Ngọc, tôi hỏi anh! Qúy nhất là của “bảo”, bền nhất là “ngọc”. Anh có gì là quý, là bền?
Bảo Ngọc không trả lời được. Ba người đều cười nói:
– Ngu ngốc như thế mà muốn “tham thiền” 8.
Đại Ngọc nói:
– Anh nói trong kệ: không có gì chứng. mới là chỗ đứng, câu ấy cũng đúng, nhưng cứ ý tôi thì chưa đủ, nên nói thêm câu này:
Không có chỗ đứng, mới thực can tịnh 9.
Bảo Thoa cười nói:
– Đúng đấy, như thế mới là hiểu thấu đạo Phật. Ngày trước vị tổ thứ sáu của Nam Tông là Huệ Năng đi tìm thầy, đến Thiều Châu, nghe nói có vị tổ thứ năm là Hoẵng Nhẫn ở Hoàng Mai, liền vào xin làm “hỏa đầu tăng” 10. Tổ thứ năm muốn tìm người thừa tự đạo Phật. bảo các sư mỗi người làm một bài kệ. Sư thượng tọa là Thần Tú nói: Mình là cây bồ đề, lòng như đài gương sáng. Phải nên lau chùi luôn, đừng để cát bụi bám. Bấy giờ sư Huệ Năng đương giã gạo ở dưới bếp, nói: “Hay thì hay thực, nhưng chưa được trọn nghĩa”. Nhân đọc một bài kệ: Bồ đề nào phải cây, gương sáng nào phải đài, không có vật gì cả, đâu vướng bụi trần ai. Tổ thứ năm bèn đem áo và bát 11 truyền cho sư Huệ Năng. Câu kệ vừa rồi cũng là nghĩa ấy, nhưng mới chỉ là câu bí ẩn, chưa hoàn toàn kết thúc, không lẽ nửa chừng lại thôi hay sao?
Đại Ngọc cười nói:
– Lúc nãy không trả lời được, thế là anh ấy thua rồi; bây giờ có trả lời cũng chẳng lấy gì làm giỏi. Thôi từ nay trở đi anh không được nói chuyện đạo Phật nữa. Ngay những điều hai chúng tôi biết, anh cũng còn chưa hiểu, thế mà cũng đòi tham thiền!
Bảo Ngọc vẫn cứ cho mình là đã giác ngộ, không ngờ bị Đại Ngọc hỏi một câu không trả lời được; lại đến Bảo Thoa lôi chuyện trong Ngữ lục 12 ra, đều là những chuyện đột ngột bất ngờ. Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Họ hiểu biết trước ta, cũng còn chưa giác ngộ, sao ta lại tự chuốc lấy khổ não vào mình”. Rồi cười nói:
– Ai tham thiền? Chẳng qua nói đùa một lúc đấy thôi.
Sau đó, bốn người lại vui vẻ như cũ.
Chợt có người báo: Nguyên phi sai người mang đến cái đèn có viết câu đố, bảo mọi người đoán xem. Đoán xong, mỗi người viết một câu dâng lên.
Bốn người nghe nói, vội chạy đến buồng Giả mẫu, thấy một thái giám nhỏ mang cái đèn lụa trắng, bốn góc bằng nhau, trên lụa đã viết sẵn câu đố. Mọi người tranh nhau đoán. Viên thái giám nhỏ nói:
– Các vị đoán xong đừng nói ra, cứ viết kín và niêm phong đệ lên để người xem ai đoán đúng.
Bảo Thoa đến gần thấy một bài thơ bốn câu bảy chữ, không có gì mới lạ, nhưng cũng khen ngợi, kêu là khó đoán lắm. Rồi giả cách như nghĩ ngợi, nhưng thực ra cô ta đã đoán được rồi. Bọn Bảo Ngọc, Đại Ngọc, Tương Vân, Thám Xuân đều đoán cả. Lại gọi bọn Giả Hoàn, Giả Lan đến đoán. Sau đó mỗi người lấy một vật gì làm thành câu đố, viết cẩn thận vào giấy và treo lên đèn.
Viên thái giám đi về, đến chiều, đưa dụ ra: “Bài của quý phi đố, các vị đều đoán đúng cả, chỉ có cô Hai và cậu Ba là đoán sai. Những câu đố của các vị tiểu thư, người đã đoán cả rồi, không biết có đúng hay không?” Hắn giở những câu Nguyên phi đoán ra, có câu đúng, cũng có câu sai, kể lại một lượt. Viên thái giám lại đem những đồ thưởng ra cho những người đoán đúng. Mỗi người được một cái ống đựng thơ do trong cung làm ra và một cái thìa lấy bã chè. Chỉ có Nghênh Xuân, Giả Hoàn là không được gì cả. Nghênh Xuân cho là trò chơi nhỏ nhặt không để ý đến, duy Giả Hoàn thì buồn bực. Viên thái giám lại nói:
– Câu đố của cậu Ba không thông, quý phi không đoán, bảo tôi mang đến hỏi cậu Ba là cái gì?
Mọi người nghe nói, đến xem, thấy hắn viết:
Anh Cả có những tám sừng,
Anh Hai chỉ có hai sừng mà thôi.
Trên giường anh Cả ngồi chơi.
Cửa buồng chồm chỗm anh Hai thích ngồi.
Xem xong, ai nấy cười ồ lên, Giả Hoàn nói với viên thái giám:
– Một câu là cái gối, một câu là đầu con thú.
Ghi xong, viên thái giám uống nước rồi về.
Giả mẫu thấy Nguyên Xuân có những trò chơi hứng thú, lại càng vui thêm, bèn sai làm một cái đèn lồng rất khéo và đẹp, để ở giữa nhà, bảo bọn chị em mỗi người viết một câu đố, dán ở ngoài đèn, rồi sửa soạn những đồ thưởng, như chè thơm, quả tươi cùng các đồ chơi khác.
Giả Chính đi chầu về, thấy Giả mẫu vui, vả lại, giữa ngày xuân, nên chiều hôm ấy ông ta cũng sang hầu để mẹ vui thêm.
Mâm trên Giả mẫu, Giả Chính và Bảo Ngọc; mâm dưới có Vương phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc và Tương Vân; dưới nữa là Nghênh Xuân, Thám Xuân và Tích Xuân. Các bà hầu già và bọn a hoàn đứng hầu xung quanh. Mâm gian trong thì Lý Cung Tài và Vương Hy Phượng.
Giả Chính hỏi:
– Sao không thấy Giả Lan đâu?
Bọn hầu vào hỏi Lý thị. Lý thị đứng dậy cười nói:
– Cháu nó không thấy ông gọi, nên không chịu đến.
Người hầu ra trình Giả Chính. Mọi người cười nói:
– Thằng cháu ương gàn quá!
Giả Chính liền bảo Giả Hoàn và người hầu gọi Giả Lan đến. Giả mẫu cho ngồi bên cạnh và cho ăn quả. Cả nhà chuyện trò vui vẻ.
Bảo Ngọc xưa nay vẫn hay nói ba hoa, nay có Giả Chính ngồi đấy, nên chỉ ngồi yên vâng vâng dạ dạ. Tương Vân tuy là con gái, vốn thích chuyện trò cười đùa, nhưng cũng khóa miệng nốt. Đại Ngọc thì hay làm vẻ không thích nói nhiều. Bảo Thoa thì hay giữ gìn cẩn thận, cũng ngồi yên không nói gì. Thành ra tiệc vui trong gia đình, nhưng vẫn thấy gò bó.
Giả mẫu biết là có Giả Chính ở đấy, nên uống hết ba tuần rượu, liền giục Giả Chính về nghỉ. Giả Chính biết ý Giả mẫu bảo mình về để cho các cháu được thoải mái, liền cười nói:
– Hôm nay được nghe bà đặt tiệc, đố đèn, nên con mang rượn và lễ vật đến xin vào hội, sao bà lại không chia sẻ lòng thương yêu các cháu cho con một chút nào?
Giả mẫu cười nói:
– Vì anh ở đây, chúng nó không dám vui cười, khiến ta buồn. Anh muốn đoán câu đố, ta ra cho một câu, nếu đoán không đúng thì phải phạt.
– Con khỉ lơ lửng bám trên cành (Đố tên một thứ quả).
Giả Chính biết ngay tà quả vải, nhưng cố ý đoán sai, để chịu phạt mấy thứ rồi mới đoán đúng. GIả mẫu lại thưởng cho mấy thứ. Sau Giả Chính lại đọc một câu đố để Giả mẫu đoán:
– Mình thì vuông vắn, chất thì cứng rắn, tuy không biết nói, trả lời đúng đắn. (Đố một thứ đồ dùng).
Ông ta đọc xong, rồi khẽ bảo Bảo Ngọc. Bảo Ngọc biết ý, khẽ đến gà Giả mẫu. Giả mẫu nghĩ một lúc cho là đúng, liền nói:
– Đó là cái nghiên.
Giả Chính cười nói:
– Bà đoán một lần đúng ngay.
Rồi quay lại bảo đem đồ mừng đến. Bọn hầu vâng lời mang hết khay lớn, khay nhỏ lên. Giả mẫu xem từng cái một, đều là đồ mới đẹp, để dùng vào ngày hội hoa đăng cả, trong bụng rất vui, liền bảo:
– Những câu viết ở trên đèn lồng đều là của chị em nó làm cả. Anh thử đoán đi cho ta nghe.
Giả Chính vâng lời, đến gần bình phong, thấy một câu của Nguyên phi viết:
Yêu ma hồn vía còn chăng,
Mình như cuốn lụa hơi đằng sấm ran.
Ai nghe thấy cũng hết hồn,
Ngoảnh đầu nhìn lại tro tàn khói bay.
(Đố một thứ đồ chơi)
Giả Chính nói:
– Đó là cái pháo.
Bảo Ngọc đáp:
– Đúng.
Giả Chính lại xem câu của Nghênh Xuân:
Trời chuyển, người xoay, lý chẳng cùng,
Người xoay trời đứng cũng không xong,
Tại vì tính toán quanh co mãi,
Mà số âm dương vẫn chửa thông!
(Đố một thứ đồ dùng).
Giả Chính nói:
– Đó là bàn tính.
Nghênh Xuân cười nói:
– Đúng.
Giả Chính lại xem câu đố của Thám Xuân:
Trẻ con ngửa mặt nhìn trời,
Thanh minh là tiết dong chơi hợp thì.
Mỏng manh một sợi du ti,
Biệt ly đừng có trách gì gió đông.
(Đố một đồ chơi)
Giả Chính nói:
– Đó là cái diều.
Thám Xuân nói:
– Đúng.
Lại xem một bài:
Kiếp trước long đong ngán phận mình,
Nghe ca không thích thích nghe kinh!
Đừng cho thân đã chìm trong bể,
Chói lọi còn nguyên chữ tính linh.
(Đố một thứ đồ dùng)
Giả Chính đoán:
– Đó là cái đèn đại hải trước cửa Phật.
Tích Xuân cười nói:
– Đúng là đèn đại hải.
Giả Chính trong lòng suy nghĩ: “Qúy phi làm bài cái pháo là một thứ nổ tan tành; Nghênh Xuân làm bài cái bàn tính là một thứ biến động lung tung; Thám Xuân đố cái diều là một thứ nhẹ bay trước gió; Tích Xuân làm cái đèn đại hải, một thứ tịch mịch cô đơn. Lúc này giữa tiết thượng nguyên, sao chúng nó lại chơi những trò quái gở ấy?” Giả Chính càng nghĩ càng buồn. Chỉ vì đứng trước Giả mẫu nên ông ta không dám lộ ra sắc mặt, đành cứ gắng gượng xem suốt lượt. Xem đến câu của Bảo Thoa là một bài thơ thất ngôn:
Áo chầu đầy khói để ai mang?
Đàn đấy, chăn đây, luống bẽ bàng,
Chú lính sớm không cần đếm thẻ,
Chị hầu đêm cũng biếng thêm hương,
Vùi đầu trải biết bao hôm sớm,
Đốt ruột không nài mấy tuyết sương,
Thấm thoát bóng xuân đà đáng tiếc,
Kể gì thay đổi cuộc tang thương.
(Đố một thứ đồ dùng)
Giả Chính xem xong, nghĩ bụng: “Vật này cũng dễ đoán thôi. Có điều người còn ít tuổi mà đã nói ra những điềm không haỵ Xem ra không phải là hạng người được hưởng phúc”. Nghĩ đến đấy, ông ta cúi đầu im lặng, có vẻ thương cảm, mất hết tính tình vui vẻ lúc đầu.
Giả mẫu thấy thế, cho là Giả Chính đã mệt, lại sợ các cháu bị gò bó, không được chơi đùa tự do, liền bảo:
– Anh không cần phải ở đây nữa, về nghỉ thôi, để ta ngồi chơi với các cháu một lúc.
Giả Chính nghe nói, vâng lời, lại cố mời Giả mẫu uống thêm một tuần rượu nữa, rồi xin phép ra về. Đến buồng, ông ta ngẫm nghĩ mãi, càng thấy buồn thiu, trằn trọc không sao ngủ được.
Giả mẫu thấy Giả Chính về rồi, bảo:
– Bây giờ các cháu vui chơi đi.
Nói chưa dứt lời thì Bảo Ngọc đã như con khỉ sổ xích, chạy đến trước cái đèn lồng, chỉ đông chỉ tây, chê bai luôn mồm, câu này không hay, câu kia không đúng. Bảo Thoa liền nói:
– Cứ ngồi một chỗ mà cười nói như trước, có phải đứng đắn hơn không?
Phượng Thư ở trong nhà chạy ra nói góp:
– Hạng người như chú, thì phải bắt ở liền bên ông, không được rời đi một bước mới được. Vừa rồi quên mất, làm sao trước mặt ông lại không bắt chú làm mấy câu đố? Sợ chú lại không toát mồ hôi!
Bảo Ngọc vội nắm lấy Phượng Thư, nũng nịu một lúc. Giả mẫu cùng với Lý Cung Tài và bọn chị em cười nói một hồi, chừng đã mệt, xem đồng hồ đã canh tư, liền sai mang các thứ đồ ăn thưởng cho người nhà, rồi đứng dậy nói:
– Thôi chúng ta đi nghỉ, mai còn là ngày tết, nên dậy sớm một tí, đến chiều lại chơi.
Tiệc tan, mọi người ra về.
1 Theo tục cổ ở Trung Quốc, con gái đến mười lăm tuổi thì cài trâm.
2 Tên một quả núi thuộc tỉnh Sơn tây Trung Quốc. Tương truyền nơi Phật hóa thân.
3 Côn sơn vả Giặc đương là hai điệu hát. Côn thuộc về nhã nhạc. Giặc thuộc về tạp hí.
4 Tích Lỗ Trí Thâm say rượu… nói ở trên.
5 Tên một khúc hát, diễn tích Uất Trì Kính Đức đời Đường giả điên. Ở đây Đại Ngọc dùng tiếng song quan để giễu Bảo Ngọc. Câu này còn có nghĩa: chưa hát “Sơn môn” anh đã giả điên.
6 Ý nói những chỗ rừng núi sông ngòi tự nhiên thành chỗ tụ tập của kẻ cướp kẻ trộm.
7 Bài kệ này viết theo giáo lý nhà Phật. Chứng là theo bằng chứng, giáo nghĩa là giáo lý. Chứng có nhiều bực, từ sắc giới đi đến không giới. Bài kệ này là theo ý bài “Ký sinh thảo” trong vở Sơn môn mà Bảo Ngọc suy rộng ra.
8 Hiểu theo đạo Phật.
9 Sạch sẽ và im lặng. Câu này theo nghĩa bài kệ trên, lên cao một bậc nữa, tức là thoát hẳn ra “không giới”.
10 Sư nấu bếp.
11 Áo là áo cà sa, bát lả bát khất thực (xin ăn). Theo tục lệ đạo Phật ngày trước, các tín đồ nuôi các sư, đến bữa vác bát đi lấy cơm, gọi là khất thực, nhà sư tùy thân chỉ có cái áo và cái bát, sư thầy truyền đạo cho người thừa tự, gọi là “truyền y bát”.
12 Sách chép những triết học, tư tưởng và ngôn luận của các danh tăng.
Nguyên phi sau khi từ vườn Đại quan về cung, sai Thám Xuân chép lại tất cả những bài vịnh hôm ấy, rồi tự tay xếp thứ tự hơn kém, truyền dựng bia ở trong vườn để ghi lại một cuộc chơi phong nhã hiếm có xưa naỵ Giả Chính liền sai người đi các chợ tìm thợ khéo đến vườn mài đá, khắc chữ. Giả Trân sai bọn Giả Dung, Giả Bình trông nom công việc. Giả Tường vì bận về trông nom bọn con hát và các đồ diễn tuồng, nên không được rỗi. Giả Trân lại gọi thêm bọn Giả Xương, Giả Lăng đến trông coi giúp, công cuộc bắt đầu vào việc nấu sáp, đục đá.
Nói đến mười hai sa ni và mười hai đạo cô ở miếu Ngọc Hoàng và am Đạt Ma dọn ra bên ngoài, không ở trong vườn nữa, Giả Chính muốn phân họ đi các nơi. Chu thị là mẹ Giả Cần ở phố sau, đang muốn xin với Giả Chính cho con việc làm để lấy tiền tiêu. May sao nghe có việc này, liền đi xe đến nhờ Phượng Thư.
Phượng Thư biết Chu thị xưa nay không hay cậy thần cậy thế mấy, liền nhận lời. Nghĩ ngợi một lúc, Phượng Thư sang trình Vương phu nhân:
– Không nên cho bọn ni cô và đạo cô đi ở nơi khác. Bất thần Qúi phi ra chơi, cần đến họ sẽ có ngaỵ Nếu cho họ đi, khi cần đến, phải mất nhiều thì giờ, tốn công sức. Cứ như ý con, nên cho họ Ở cả vào chùa Thiết Hạm, hàng tháng cho một người đem vài lạng bạc đến mua gạo củi cho họ là được rỗi. Khi cần, ta chỉ gọi một tiếng là có, không mất công gì cả.
Vương phu nhân đến bàn với Giả Chính. Giả Chính cười nói:
– Bây giờ nhắc đến, tôi mới nhớ, vậy cứ thế mà làm.
Rồi lập tức cho gọi Giả Liễn.
Giả Liễn đương ăn cơm với Phượng Thư, thấy gọi, liền bỏ cơm xuống, đứng dậy ngay, Phượng Thư níu lại cười nói:
– Hãy khoan đã, tôi bảo câu này! Việc khác thì tôi không cần, nhưng nếu là việc bọn ni cô và đạo cô, thì thế nào cũng phải theo tôi dặn mà nói.
– Con chị Năm ở phòng phía tây là Giả Vân đã xin với tôi hai ba lần. Tôi bảo nó hãy chờ, chẳng mấy khi có việc này, mợ lại định cướp mất.
Phượng Thư cười:
– Cậu cứ yên tâm, Qúi phi đã dặn trồng nhiều tùng, bách về phía đông bắc trong vườn và hoa cỏ ở trước lầu. Khi nào khởi công, tôi sẽ cho cháu Vân trông nom việc ấy.
Giả Liễn nói:
– Thôi được. Nhưng tại sao đêm hôm qua tôi muốn “đổi lối mới” mợ lại cứ vùng vằng hất chân hất tay tôi ra.
Phượng Thư nghe nói, nhoẻn cười, phì vào Giả Liễn một cái, rồi cúi đầu ăn cơm.
Giả Liễn cười rồi chạy một mạch đến hầu Giả Chính, thì quả là việc các ni cộ Giả Liễn cứ theo lời Phượng Thư dặn, nói:
– Xem ra cháu Cần đã thông thạo, có thể giao cho nó trông nom, cứ theo thường lệ, mỗi tháng chỉ việc chi và lĩnh tiền là xong.
Giả Chính xưa nay vẫn không nhìn đến những việc nhỏ nhặt, nghe Giả Liễn nói, bằng lòng ngay.
Giả Liễn về nhà bảo Phượng Thự Phượng Thư sai người bảo ngay Chu thị. Giả Cần đến, cảm ơn vợ chồng GIả Liễn. Phượng Thư lại muốn tỏ ra thân thiết, bảo hắn viết giấy nhận trước ba tháng lương. Giả Liễn đóng dấu, phát thẻ cho hắn đi lĩnh. Kho bạc cứ theo số lương phát cho ba trăm lạng bạc trắng xóa. Giả Cần đưa biếu người cân một lạng để uống nước, rồi sai đứa hầu nhỏ đem về nhà. Hắn bàn với mẹ xong, lập tức thuê mấy cỗ xe đến cửa nách phủ Vinh, gọi hai mươi bốn người ra, ngồi cả lên xe, đi một mạch đến chùa Thiết Hạm.
Nói về Nguyên phi ở trong cung đã xếp xong thứ tự những bài đề vịnh vườn Đại Quan rồi. Chợt nghĩ đến phong cảnh trong vườn, sau lần ra chơi, chắc là Giả Chính bắt đóng khóa cẩn thận, không cho ai đi lại, như thế chẳng hóa phụ cái đẹp ấy lắm sao? Vả chăng đám chị em trong nhà đều là người biết đề vịnh cả, sao ta không bảo họ sang đấy, để đến nỗi người tài buồn tẻ, hoa liễu kém tươi! Lại nghĩ đến Bảo Ngọc không như các anh em khác, từ bé đến lớn vẫn ở luôn với đám chị em; nếu không cho sang đây, sẽ làm cho cậu ta buồn, mà Giả mẫu và Vương phu nhân cũng không được vui. Vậy nên cho Bảo Ngọc ở luôn đấy mới phải.
Nguyên phi liền sai thái giám là Hạ Trung đem một đạo dụ đến phủ Vinh truyền cho bọn Bảo Thoa vào ở trong vườn, không được đóng khóa như trước, Bảo Ngọc cũng được đến ở đấy đọc sách.
Giả Chính và Vương phu nhân nhận được dụ, đến trình Giả mẫu, rồi sai người vào trong vườn dọn dẹp sắp đặt giường ghế, treo rèm màn. Bảo Ngọc nghe tin, khôn xiết vui mừng. Đương lúc vòi vĩnh Giả mẫu, đòi cái nọ, đòi cái kia, thì có a hoàn đến nói: “Ông sai gọi cậu Bảo”.
Bảo Ngọc sa sầm nét mặt, mất vui, ngồi ngẩn ra một lúc, rồi uốn éo níu chặt lấy Giả mẫu, không chịu đi.
Giả Mẫu an ủi:
– Của quí của bà này! Cháu cứ đi, đã có bà. Cha cháu không dám làm rầy rà cháu đâu. Vả cháu vừa làm được những bài thơ hay, nên chị cháu muốn cho cháu vào trong vườn ở. Cha cháu sợ cháu vào trong ấy hay quấy rầy, nên gọi đến dặn bảo mấy câu đấy thôi. Hễ cha bảo câu gì, cháu cứ vâng lời ngay là xong.
Giả mẫu nói xong, gọi hai bà già đến dặn: “Đưa cậu Bảo sang, và chớ để ông làm cho cậu ấy sợ”. Bà già vâng lời đi.
Bảo Ngọc chầm chậm bước đi, mãi mới đến nơi. Giả Chính đương ở buồng Vương phu nhân bàn tính công việc. Bọn Kim xuyến, Thái Vân, Thái Phượng, Tú Loan, Tú Phượng đương đứng ở dưới thềm, trông thấy Bảo Ngọc, đều nhoẻn miệng cười. Kim Xuyến nắm Bảo Ngọc lại khẽ bảo:
– Môi tôi vừa bôi nhiều sáp thơm và ngọt lắm, cậu có thích ăn không?
Thái Vân đẩy Kim Xuyến ra cười nói:
– Người ta đương ruột rối bời bời, mày còn trêu chọc mãi! Lúc này ông bà đang vui đấy, cậu đi vào đi.
Bảo Ngọc đẩy cửa vào. Giả Chính và Vương phu nhân ở cả trong buồng. Dì Triệu vén rèm, Bảo Ngọc vào, thấy Giả Chính và Vương phu nhân đương ngồi trên giường nói chuyện. Bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Giả Hoàn đều ngồi ghế dưới. Thấy Bảo Ngọc vào, Thám Xuân, Tích Xuân và Giả Hoàn đều đứng dậy.
Giả Chính ngước mắt nhìn, thấy Bảo Ngọc dáng điệu thanh nhã, vẻ mặt tuấn tú, ngoảnh lại nhìn Giả Hoàn, thì diện mạo ươn hèn, đi đứng thô lỗ, khiến ông ta lại nhớ ngay đến Giả Châu. Nghĩ đến Vương phu nhân chỉ còn có một đứa con đẻ, yêu quí như ngọc, mà mình thì đầu đã hoa râm, bỗng lòng ghét Bảo Ngọc của ông ta đã bớt đi nhiều. Liền nói:
– Qúi phi bảo mày suốt ngày đi chơi, không chịu học hành; nay bắt mày ở trong vườn đọc sách với các chị em. Mày phải cố học, nếu còn lêu lổng thì liệu hồn đấy!
Bảo Ngọc vâng lia lịa, Vương phu nhân dắt lại cho ngồi bên cạnh. Các chị em cũng đâu ngồi đấy. Vương phu nhân sờ cổ Bảo Ngọc hỏi:
– Những viên thuốc hôm nọ uống hết chưa?
– Còn một viên ạ.
– Ngày mai lại lấy mười viên nữa. Mỗi đêm trước khi đi ngủ, bảo Tập Nhân cho uống một viên.
– Vâng. Trước khi đi ngủ, Tập Nhân vẫn cho con uống.
Giả Chính hỏi:
– Tập Nhân là ai?
Vương phu nhân đáp:
– Là một a hoàn.
– A hoàn thì gọi tên gì không được. Đứa tai quái nào đã đặt cho nó cái tên ấy?
Vương phu nhân thấy Giả Chính không thích, liền giấu hộ Bảo Ngọc, nói:
– Đó là bà đặt cho nó đấy.
Giả Chính nói:
– Bà hiểu đâu những chữ ấy. Nhất định lại thằng Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc biết không giấu nổi, đứng dậy thưa:
– Vì thường đọc thơ, con nhớ có câu: Hoa khí tập nhân tri trú noãn 1. Nó là họ Hoa, nên tiện miệng con đặt cho cái tên ấy.
Vương phu nhân vội bảo Bảo Ngọc:
– Về đổi ngay cái tên ấy đi.
Và quay sang nói với Giả Chính:
– Ông cũng không nên để tâm về việc nhỏ này.
Giả Chính nói:
– Kể ra cũng chẳng hại gì, không cần phải đổi. Nhưng xem thế đủ biết nó không chăm lo việc chính, chỉ thích những lời văn trai lơ phù phiếm thôi.
Ông ta quát to một tiếng:
– Đồ súc sinh, sao không bước đi!
Vương phu nhân vội nói:
– Thôi về đi, có lẽ bà đương chờ con đấy.
Bảo Ngọc vâng lời, thong thả đi ra, nhìn Kim Xuyến lè lưỡi cười, rồi theo bầu ngực già chạy một mạch về nhà. Lúc này Tập Nhân đang dựa cửa, thấy Bảo Ngọc về được êm thấm, cười hỏi:
– Ông gọi cậu đến làm gì?
– Chẳng có việc gì cả. Ông sợ tôi vào ở đấy quấy rối, dặn bảo mấy câu thôi.
Nói xong Bảo Ngọc chạy sang bên Giả mẫu trình hết đầu đuôi. Khi ấy Đại Ngọc ở đấy, Bảo Ngọc liền hỏi:
– Cô thích ở chỗ nào?
Đại Ngọc đương tính toán việc ấy, thấy Bảo Ngọc hỏi, liền cười nói:
– Tôi thích ở quán Tiêu Tương. Ở đấy có mấy khóm trúc, quanh co một dãy bao lan, tĩnh mịch hơn chỗ khác.
Bảo Ngọc vỗ tay cười nói:
– Thực đúng ý tôi! Tôi cũng muốn cô ở đấy. Tôi ở viện Di Hồng. Hai chúng ta lại được gần nhau, và đều được yên lặng.
Hai người đương bàn định, thì Giả Chính sai người đến trình Giả mẫu:
– Đến hai mươi hai tháng hai này tốt ngày, xin cho các cậu các cô dọn vào ở trong vườn.
Trong mấy ngày ấy, người nhà chia nhau vào vườn dọn dẹp. Bảo Thoa ở Hành Vu uyển, Đại Ngọc ở quán Tiêu Tương, Nghênh Xuân ở lầu Xuyết Cẩm, Thám Xuân ở Thu Sảng trai, Tích Xuân ở hiên Lục Phong, Lý Hoàn ở thôn Đạo Hương, Bảo Ngọc ở viện Di Hồng. Mỗi nơi phái thêm hai bà già, bốn a hoàn. Ngoài bà vú và các người hầu cận, còn có nhiều người chuyên giữ việc dọn dẹp quét rửa. Đến ngày hai mươi hai, đâu đấy đều dọn sạch sẽ cả. Bấy giờ trong vườn phút đã hoa chào đai gấm, liễu đón gió thơm, không còn vắng vẻ như khi trước nữa.
Bảo Ngọc từ khi vào ở trong vườn, lòng đầy vui thích, chẳng mong gì khác nữa. Ngày nào cậu ta cũng chỉ cùng chị em và bọn a hoàn họp mặt một chỗ, hoặc đọc sách, hoặc viết lách, gẩy đàn, đánh cờ, học vẽ, làm thơ, thêu loan, trổ phượng, chọi cỏ, hái hoa, ngâm thơ, hát lẩy, đố chữ, đoán múi quả, tha hồ chơi bời thỏa thích. Bảo Ngọc có bốn bài tức cảnh bốn mùa, tuy không hay lắm, nhưng cũng tả được tình cảnh chân thực:
TỨC CẢNH ĐÊM XUÂN
Trướng ráng màn mây sắp sẵn rồi,
Ngõ ngoài tiếng ếch thoáng bên tai.
Gối vương hơi lạnh mưa ngoài cửa,
Mắt ngắm màu xuân, mộng gặp người.
Cây nến khóc ai giàn gụa mãi!
Bông hoa hờn khách ủ ê hoài!
A hoàn chẳng biết lười hay nũng?
Vẫn cứ ôm chăn, vẫn nói cười.
TỨC CẢNH ĐÊM HÈ
Thêu khuya ai mới ngủ say,
Trong lồng, anh vũ gọi ngay pha chè.
Gương xạ nguyệt rọi song the,
Đào vân ngào ngạt, hương chè vua ban.
Móc sen cốc ngọc đầy tràn,
Ngả nghiêng gió liễu bên giàn pha lê.
Trên đình phe phẩy quạt hè,
Lầu son trang điểm rèm che cuốn liền.
TỨC CẢNH ĐÊM THU
Trong Giáng Vân hiên vắng tiếng người,
Màn the nhấp nhánh bóng trăng trôi.
Hạc nồng giấc điệp trên rêu đá,
Quạ đẫm sương ngô cạnh giếng khơi.
Hầu đến giải chăn, đàn phượng múa,
Người về tựa cửa, cánh hoa rơi 2
Qúa say trằn trọc đêm còn khát,
Quạt nước pha trà hãy uống chơi.
TỨC CẢNH ĐÊM ĐÔNG
Mơ màng mai trúc trống ba rồi,
Đệm ấm chăn lồng vẫn tỉnh hoài.
Sân rợp bóng thông chim hạc đứng,
Oanh im giọng hát, tuyết hoa rơi.
Ai trùm áo thúy, hồn thơ lạnh,
Đây khoác da điêu, sức rượu lười.
Cô gái hầu trà xem đã thạo,
Lấy ngay tuyết mới thử pha chơi.
Thấy mấy bài thơ này là của một công tử mười hai mười ba tuổi ở phủ Vinh làm ra, những bọn xu phụ thế lợi lúc ấy tranh nhau biên chép truyền tụng khắp nơi. Những bạn trẻ lãng mạn, thích câu trai lơ khêu gợi, cũng viết vào quạt, hoặc đề lên tường, để thỉnh thoảng ngâm ngạ Vì thế có nhiều người đến xin chữ, xin thơ, xin vẽ, xin đề, Bảo Ngọc thành ra đắc ý, ngày nào cũng bận về việc thù ứng. Không ngờ, tĩnh quá hóa động; một hôm, Bảo Ngọc thấy buồn rầu khó chịu, nhìn cái này không đẹp, cái kia không hay, ra vào lên xuống, chỉ thấy bực mình. Trong vườn, phần đông là bọn con gái đang còn tính nết ngây thơ, cười nói hồn nhiên, ăn ở đứng ngồi gặp đâu hay đấy, thì biết thế nào được tâm sự của Bảo Ngọc?
Bảo Ngọc khó chịu, không thích ở trong vườn, chỉ muốn ra ngoài phóng túng cho rộng cẳng, nhưng lại ngớ ngẩn, không nói ra được cái sở thích của mình. Dính Yên thấy thế, muốn bày trò vui, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cái gì Bảo Ngọc cũng chơi chán rồi, khó có trò vui, chỉ còn một thứ là chưa trông thấy. Nó liền đi đến các hàng sách, tìm tòi những truyện như: Phi Yến, Hợp Đức, Võ Tắc Thiên, Dương Qúy Phi và các truyện thần kỳ khác, mua mấy bộ đem về biếu Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc chưa được xem sách này bao giờ, quả nhiên thích lắm, như là bắt được của báu. Dính Yên lại dặn:
– Cậu không nên đem vào trong vườn, nếu để cho người ta trông thấy, thì tôi sẽ bị ăn đòn!
Nhưng Bảo Ngọc khi nào lại chịu nghẻ Cứ tính quanh tính quẩn hai ba lần, rồi chọn những bộ nào lời văn hơi thanh nhã, để ở trên giường, chờ khi vắng người mới đem ra xem; còn những bộ tục quá thì giấu ở buồng sách bên ngoài.
Một hôm, vào trung tuần tháng bạ Cơm sáng xong, Bảo Ngọc đến ngồi trên hòn đá dưới cây đào, cạnh cầu Thấm Phương, giở cuốn Hội Chân ký 3 ra xem. Khi đến chương “Lạc hồng thành trận” 4 chợt cơn gió lướt qua, hoa đào trên cây rụng xuống hàng đấu đầy cả người, cả sách, cả trên mặt đất. Bảo Ngọc muốn rũ đi, nhưng lại sợ chân giẫm phải, đành hứng lấy hoa, đem thả xuống ao. Những cánh hoa ấy cứ lênh đênh nổi trên mặt nước, rồi qua đập Thấm Phương trôi đi.
Bảo Ngọc quay lại, thấy trên mặt đất vẫn còn nhiều cánh hoa. Đương lúc dùng dằng, chợt nghe đằng sau có người hỏi: “Anh ở đây làm gì thế?” Bảo Ngọc quay lại, thấy Đại Ngọc vai vác cái cuốc, đeo cái túi the, tay cầm cái chổi quét hoa. Bảo Ngọc cười nói:
– Tốt lắm. Bây giờ cô hãy đi quét hết những cánh hoa còn lại kia đem thả xuống nước. Tôi vừa thả xuống đấy nhiều lắm.
Đại Ngọc nói:
– Thả xuống nước không được đâu. Anh tưởng nước ở đây sạch à? Khi chảy đến những chỗ gần nhà người ta ở, thì nước chứa đủ hôi thối, vẫn làm hoa dơ bẩn. Ở gò đằng kia tôi đã đào một cái mả để chôn hoa. Nay ta quét hết, bỏ vào cái túi này, đem đến đấy chôn. Hoa lâu ngày hóa ra đất, như thế chẳng sạch hay sao?
Bảo Ngọc nghe vậy mừng lắm, cười:
– Để tôi bỏ sách xuống, cùng đi nhặt với cô.
Đại Ngọc hỏi:
– Sách gì đấy?
Bảo Ngọc vội giấu đi rồi nói:
– Chẳng qua những sách “Đại học, Trung dung” thôi.
– Anh còn giở trò ma quỉ giấu tôi à? Muốn tốt, anh đưa ngay cho tôi xem.
– Cho cô xem, tôi chẳng sợ gì. Nhưng xem xong, cô đừng kể lại cho ai biết. Truyện này văn viết hay lắm, nếu cô xem nó, thì quên cả ăn.
Nói xong đưa sách cho Đại Ngọc.
Đại Ngọc bỏ các đồ nhặt hoa xuống, cầm lấy sách, càng xem càng thích, chừng chưa ăn xong bữa cơm, đã xem hết cả mười sáu hồi. Thấy lời văn rung động, trong miệng nhường có mùi thơm, Đại Ngọc chăm chú đọc xong đứng ngẩn người ra, cố nhẩm cho nhớ.
Bảo Ngọc cười:
– Cô xem có hay không.
Đại Ngọc gật đầu cười:
– Xem thú thật!
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi là người nhiều sầu, nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành. 5
Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải là trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Bảo Ngọc:
– Anh nói bậy muốn chết đấy! Dám đem những lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy.
Nói đến hai chữ “khinh nhờn”, mặt Đại Ngọc đỏ ngầu lên, nguây nguẩy chạy đi ngay.
Bảo Ngọc vội đứng ngăn lại, nói:
– Xin cô hãy tha cho tôi lần này, nếu tôi có bụng khinh nhờn cô, sau này tôi ngã xuống ao, bị giải ăn thịt, hóa ra con rùa. Khi nào cô làm bà nhất phẩm phu nhân, già ốm về chầu Phật, tôi sẽ đến mộ đội bia cho cô suốt đời.
Câu ấy làm cho Đại Ngọc phì cười, dụi mắt nói:
– Hơi một tý đã sợ run lên. Thế mà anh hay nói bậy! Thôi chẳng qua Tốt mã mà đoảng, bề ngoài giáp bạc, cốt trong sáp vàng! 6
Bảo Ngọc nghe vậy, cười nói:
– Cô nói gì đấy? Cô nói chuyện Tây sương đấy à? Tôi cũng đi mách đấy.
Đại Ngọc cười:
– Anh bảo anh liếc mắt qua cũng thuộc, có lẽ tôi không nhìn một cái được mười dòng ư?
Bảo Ngọc vừa cất sách đi, vừa cười nói:
– Thôi, đừng nói đến chuyện ấy nữa, chúng ta đi chôn hoa đi.
Rồi hai người cùng đi nhặt và chôn hoa. Vừa xong thì Tập Nhân chạy đến nói:
– Tôi tìm cậu khắp nơi, chẳng thấy đâu cả. Cậu mò đến đây làm gì thế? Ông Cả ở bên kia khó ở, các cô sang thăm cả rồi, cụ bảo tôi đi tìm cậu sang thăm. Cậu về thay quần áo ngay đi.
Bảo Ngọc liền cầm lấy sách, từ biệt Đại Ngọc, cùng Tập Nhân quay về.
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc đi rồi, các chị em lại không có ai ở đây, một mình thui thủi về buồng. Vừa đi đến góc tường viện Lê Hương, thì nghe ở trong nhà có tiếng sáo, tiếng hát trầm bổng dịu dàng. Đại Ngọc biết ngay là bọn mười hai con hát nhỏ đương tập diễn tuồng. Đại Ngọc không để ý nghe, nhưng cũng có hai câu lọt vào tai, rõ ràng không sót chữ nào:
Trước sao hồng tía đua chen,
Giờ sao giếng lấp tường nghiêng thế này!
Nghe xong, Đại Ngọc rất là thương cảm, đứng dừng lắng tai nghe, lại thấy hát:
Ngày xuân cảnh đẹp đã qua,
Niềm vui rộn rã ở nhà nào đây?
Đại Ngọc gật đầu khen ngợi, nghĩ bụng: “Thế ra trong vở hát cũng có nhiều câu văn hay, tiếc rằng người đời chỉ biết nghe, chưa chắc đã thưởng thức được những cái hay trong đó”, chợt lại hối không nên nghĩ nhảm, bỏ nhỡ những khúc hát, Đại Ngọc lại lắng tai nghe nữa, thấy hát câu:
Chỉ vì nàng người đẹp như hoa,
Tuổi trôi như nước… 7
Nghe cây này, tâm thần Đại Ngọc choáng váng; sau lại thấy những câu: Thương mình ở chốn thâm khuê… lại càng như say như dại, không đứng vững được, Đại Ngọc ngồi trên hòn đá ngẫm nghĩ ý vị tám chữ: Người đẹp như hoa, tuổi trôi như nước. Chợt nhớ đến cổ nhân có câu: Nước chảy hoa tàn khéo hững hờ, mà trong từ khúc này lại có câu: Nước chảy hoa trôi xuân đã hết, trên đời cõi tục… Vả lại trong Tây Sương ký lại có câu:
Hoa rơi dòng nước đỏ ngòm,
Muôn sầu vơ vẩn héo hon lòng này.
Bao nhiêu ý nghĩ dồn lại, làm Đại Ngọc đắn đo suy nghĩ, bất giác tâm thần ngơ ngẩn, nước mắt tràn quanh. Đương lúc phiền não, chưa tìm được cách khuây khỏa, bỗng có người đập một cái vào sau lưng:
Thật là:
Sớm phấn đêm thêu nào nghĩ đến;
Nhìn trăng hứng gió lại buồn thêm.
1 Mùi thơm của hoa ngát xung quanh người, biết là ban ngày trời ấm.
2 Nguyên văn câu này: Khi người tựa cửa quay về thì hoa tuyết rơi đầy.
3 Tức truyện Tây sương, Nguyên Chẩn đời Đường làm ra.
4 Hoa đỏ rụng thành từng trận.
5 Chữ trong Tây sương ký.
6 Câu này trích trong vở Mẫu đơn đình, Thang Hiển Tổ đời Minh soạn ra.