Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Giả mẫu và Vương phu nhân đi rồi, Tập Nhân chạy đến bên cạnh Bảo Ngọc, nhỏ nước mắt hỏi:
– Tại làm sao mà cậu bị đánh đau đến thế?
Bảo Ngọc thở dài:
– Hỏi làm gì nữa? Chẳng qua cũng vì những việc ấy thôi! Nửa mình tôi đau lắm, chị thử xem đánh vào những chỗ nào.
Tập Nhân khẽ luồn tay cởi cái quần lót ra, mới chạm vào người một tý, Bảo Ngọc đã nghiến răng kêu “Đau”. Tập Nhân vội dừng tay lại, mãi ba bốn lần mới cởi ra được. Nhìn thấy nửa mông trên có những vết lằn nổi lên rộng bằng bốn ngón tay, vừa thâm vừa tím, Tập Nhân nghiến răng nói:
– Mẹ Ơi! Làm sao mà lại đánh ác quá thế? Ngày thường cậu nghe lời tôi, thì đâu đến nỗi này. May không chạm đến gân cốt, chứ thành tật thì còn làm ăn gì.
Tập Nhân đương nói thì a hoàn vào báo “Cô Bảo đến”, Tập Nhân biết là không kịp mặc quần lót, liền lấy ngay cái chăn giải giường đắp lên cho Bảo Ngọc. Bảo Thoa tay cầm viên thuốc đi vào, đưa cho Tập Nhân:
– Chiều hôm nay chị lấy rượu mài viên thuốc này bôi cho cậu ấy, để tan những máu ứ đi, sẽ chóng khỏi đấy.
Bảo Thoa lại quay sang hỏi Bảo Ngọc:
– Bây giờ cậu đã khá chưa?
Bảo Ngọc cảm ơn nói:
– Đã hơi khá, mời chị ngồi.
Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc mở mắt ra nói chuyện, đã khá hơn lúc nãy, trong bụng cũng đỡ lo, chỉ lắc đầu thở dài:
– Nếu cậu sớm chịu nghe lời mọi người thì đâu đến nỗi như ngày hôm nay? Chả cứ cụ và dì mà ngay chúng tôi trông thấy cũng phải đau lòng.
Bảo Thoa nói được nửa chừng thì nín hẳn lại, hối hận không nghĩ kỹ, tự nhiên má đỏ lên, đầu cúi xuống, không nói nữa. Nghe những lời thân mật, có ngụ ý sâu xa, lại thấy Bảo Thoa nín bặt không nói, má đỏ, đầu cúi xuống, tay mân mê dải áo, có dáng e lệ thẹn thò, không thể nào hình dung hết được, Bảo Ngọc trong lòng càng thêm cảm động, bao nhiêu đau đớn hình như đã trút sạch ra ngoài chín tầng mây. Bụng nghĩ:
“Ta chẳng qua bị đánh có vài cái, thế mà chị em ai cung tỏ vẻ thương xót, thật là đáng thân, đáng kính!
Nếu một ngày kia ta có mệnh hệ nào, thì không biết họ thương cảm đến đâu! Họ đối với ta thật tử tế như thế, dù ta có chết ngay, được họ thương tiếc nhường này, thì sự nghiệp cả đời ta có trôi ra bể đông, cũng không đáng tiếc. Trong chốn u minh, nếu không thư thái tâm tình thì thật là con quỷ hồ đồ!” Lại thấy Bảo Thoa hỏi Tập Nhân:
– Tại sao ông tự dưng đâm giận mà đánh cậu ấy như thế?
Tập Nhân liền kể cho Bảo Thoa nghe những câu Bồi Dính nói lúc nãy. Bảo Ngọc vẫn chưa biết Giả Hoàn nói xấu mình, thấy Tập Nhân nói, lại vương cả đến Tiết Bàn. Sợ Bảo Thoa chạm lòng, Bảo Ngọc gạt lời Tập Nhân, và nói:
– Anh Tiết không khi nào lại thế, các chị đừng nên đoán bậy.
Bảo Thoa biết ngay là Bảo Ngọc sợ mình không đành dạ, nên dùng lời ngăn Tập Nhân đi. Trong bụng nghĩ thầm:
“Anh ấy bị đánh như thế, lại không nghĩ gì đến đau đớn, vẫn còn quá cẩn thận, sợ mang lỗi với người ta. Thật là anh đã hết sức giữ gìn đối với chúng tôi. Nhưng sao anh không lo đến những việc lớn ở ngoài, để ông được vui lòng, thì đến nỗi nào bị đòn như thế. Anh sợ tôi chạnh lòng nên ngắt lời chị Tập Nhân, nhưng tôi còn lạ gì tính nết anh tôi xưa nay là người ngông cuồng, phóng đãng, không một chút dè chừng hay sao?
Ngày trước vì việc Tần Chung đã xảy ra những chuyện long trời lở đất. Bây giờ câu chuyện này càng ghê gớm hơn nhiều”. Bảo Thoa nghĩ vậy, cười nói:
– Chúng ta cũng không nên oán trách người này người khác, cứ ý tôi thì vì anh Bảo xưa nay thường hay chơi bời với những người ấy, nên ông mới nổi giận. Dầu anh Tiết tôi là người ăn nói không biết giữ gìn, buột miệng nói ra việc của anh Bảo, cũng không phải là có ý bới móc đâu:
một là vì câu chuyện có thực, hai là vì anh tôi không hay nghĩ đến những chuyện dè chứng nhỏ nhặt. Chị Tập Nhân từ bé đến giờ chỉ biết có anh Bảo là người giữ gìn cẩn thận thôi, chứ anh tôi thì coi trời bằng vung, hễ bụng nghĩ gì, là nói tuột ra.
Tập Nhân thấy Bảo Ngọc gạt câu chuyện Tiết Bàn đi, biết ngay là mình nói hớ, sợ Bảo Thoa buồn rầu; sau thấy Bảo Thoa nói thế, lại đâm ra xấu hổ, không biết nói gì. Bảo Ngọc nghe Bảo Thoa nói vừa đường hoàng, thẳng thắn, lại gỡ được lòng hoài nghi của mình, trong người càng rạo rực. Đương muốn nói nữa, bỗng thấy Bảo Thoa đứng dậy nói:
– Ngày mai tôi sẽ lại thăm, anh cố tĩnh dưỡng đi. Vừa rồi tôi đưa viên thuốc cho chị Tập Nhân, đến chiều bôi đi thì sẽ bớt đấy.
Nói xong đi ra. Tập Nhân theo đến ngoài sân nói:
– Phiền cô quá. Hôm nào cậu Bảo khỏi, sẽ sang tận nơi cám ơn.
Bảo Thoa quay lại cười nói:
– Có gì đâu? Chị cứ khuyên anh ấy tĩnh dưỡng, đừng nghĩ ngợi lan man, sẽ chóng khỏi ngay. Anh ấy muốn ăn cái gì chơi cái gì thì cứ khẽ sai người sang bên tôi mà lấy, chả cần để cho cụ và dì tôi cùng mọi người biết nữa. Nếu đến tai dượng tôi thì dù việc chẳng can gì, nhưng sau lỡ xảy chuyện e không hay đấy.
Nói xong rồi đi.
Tập Nhân quay về, trong bụng rất cảm ơn Bảo Thoa.
Khi vào nhà, trông thấy Bảo Ngọc có dáng im lặng, trầm ngâm, giở thức giở ngủ, Tập Nhân bèn ra ngoài buồng rửa mặt chải đầu.
Bảo Ngọc nằm thiếp trên giường, mông đau như kim châm, dao cắt, người nóng như lửa đốt, hễ cựa quậy một tý, là phải kêu lên mới chịu được. Bấy giờ trời sắp chiều, Tập Nhân đi ra, trong nhà chỉ có vài ba a hoàn đứng hầu, không có việc gì đáng sai, Bảo Ngọc liền bảo:
– Các cô hãy đi ra ngoài rửa ráy, khi nào tôi gọi sẽ đến.
Mọi người đều đi ra.
Bảo Ngọc đương nằm mê man, thấy Tưởng Ngọc Hàm tiến vào, kể việc phủ Trung Thuận tìm bắt hắn. Một chốc lại thấy Kim Xuyến đến khóc lóc, kể lể vì tại cậu mà tôi phải đâm đầu xuống giếng. Bảo Ngọc nửa tỉnh nửa mê, không để ý đến. Đương lúc bàng hoàng hoảng hốt, chợt có người lay dậy, nghe những tiếng khóc lóc thảm thương, Bảo Ngọc giật mình thức tỉnh giương mắt nhìn, thì không phải người nào xa lạ mà chính là Đại Ngọc. Ngỡ là mình nằm mê, Bảo Ngọc vội vươn người lên nhìn chòng chọc vào tận mặt người kia, thì thấy hai mắt sưng bằng hai quả nhót, nước mắt giàn giụa trên mặt, không phải Đại Ngọc thì còn là ai? Bảo Ngọc muốn nhìn nữa, nhưng vì nửa người phía dưới đau quá không thể chịu nổi, liền kêu “Ối chào” một tiếng, rồi lại nằm vật xuống, thở dài và nói:
– Em lại đến đây làm gì? Mặt trời mới lặn, đất hãy còn nóng, nếu bị cảm nắng, thì làm thế nào? Anh bị đòn, không đau lắm đâu.
Anh giả cách làm ra thế này để đánh lừa họ đồn đại đến tai ông đấy thôi, em đừng tin là thực.
Bấy giờ Đại Ngọc khóc không ra tiếng, cứ nức nở sụt sùi càng thêm não ruột. Bảo Ngọc nói xong, Đại Ngọc lòng càng ngổn ngang trăm mối, nghẹn ngào không nói ra lời, lúc lâu mới ngập ngừng:
– Từ rày anh nên chừa đi nhé!
Bảo Ngọc thở dài một tiếng:
– Em cứ yên tâm, đừng nói nữa. Anh có vì những người ấy mà chết đi, thì cũng cam lòng.
Chợt người ngoài vào báo:
“Mợ Hai đến đấy”. Đại Ngọc biết ngay là Phượng Thư đến, vội đứng dậy nói:
– Tôi ra sân sau đây, chốc nữa sẽ đến.
Bảo Ngọc kéo Đại Ngọc lại nói:
– Ấy mới lạ chứ, việc gì mà sợ chị ấy?
Đại Ngọc giậm chân khẽ nói:
– Anh trông mắt tôi đây này! Rồi họ mang chúng ta ra làm trò cười đấy.
Bảo Ngọc vội buông tay ra. Đại Ngọc liền rảo cẳng đi quanh sau giường, vừa ra đến sân sau, thì Phượng Thư đã ở ngoài bước vào, hỏi Bảo Ngọc “Đã khá chưa? Muốn ăn gì thì bảo người sang bên chị mà lấy”. Tiếp đó là Tiết phu nhân đến. Một chốc Giả mẫu lại sai người đến.
Mãi lúc lên đèn, Bảo Ngọc chỉ húp hai ngụm cháo rồi mê mẩn nằm thiếp đi. Sau đó bọn vợ Chu Thụy, vợ Ngô Tân Đăng và vợ Trịnh Hảo Thời, mấy người già này xưa nay vẫn năng lui tới, nghe tin Bảo Ngọc bị đòn, họ đều đến thăm. Tập Nhân vội ra đón và khẽ cười nói:
– Các thím đến hơi chậm, cậu ấy đã ngủ rồi.
Liền dắt bọn họ sang nhà bên ngồi, pha nước mời uống. Mấy bà này lẳng lặng ngồi một lúc, rồi nói với Tập Nhân:
– Lúc nào cậu dậy, chị nói hộ, chúng tôi sang thăm.
Tập Nhân nhận lời đưa họ đi ra, vừa quay vào thì Vương phu nhân sai một bà già sang nói:
– Gọi một người nào hầu cậu Hai sang cho bà hỏi.
Tập Nhân nghĩ một lúc, rồi quay lại khẽ bảo bọn Tình Văn, Xạ Nguyệt, Đàn Vân và Thu Văn:
– Bà gọi đấy, các em ở nhà hầu hạ cẩn thận nhé, chị đi một tí rồi về.
Nói xong, Tập Nhân cùng bà già ra khỏi vườn, đi lên nhà trên.
Vương phu nhân đương ngồi trên giường phe phẩy cái quạt ba tiêu, trông thấy Tập Nhân đến, liền bảo:
– Con bảo ai sang chả được, lại bỏ nó mà đi, thì ai hầu hạ nó.Tập Nhân cười nói:
– Cậu ấy vừa mới ngủ, mấy a hoàn bên nhà bây giờ đã biết hầu rồi, xin bà cứ yên lòng. Con nghĩ bà có việc gì cần dặn bảo, nếu sai bọn họ sang, sợ nghe không hiểu lại lỡ mất việc.
– Cũng không có việc gì, chỉ hỏi giờ nó đau ra làm sao thôi.
– Cô Bảo đưa thuốc sang, con xoa cho cậu ấy, thấy đã khá hơn.
Trước đau lắm, nằm không yên, giờ đã ngủ được.
– Nó đã ăn gì chưa?
– Cụ vừa cho một bát cháo, cậu ấy húp được hai ngụm, thì kêu khát lắm, đòi uống nước mơ. Con sợ nước mơ là thứ hay thu vào, mà cậu ấy vừa bị đánh, lại không cho kêu, e rằng máu nhiệt đọng ở trong tim, nếu uống, trong bụng cồn cào, bệnh sẽ nặng thêm thì làm thế nào? Vì thế con ngăn mãi cậu ấy mới chịu thôi, chỉ hòa một ít nước quả mai khôi canh đặc với nước đường, uống được nửa chén nhỏ, lại bảo chán, không thơm không ngọt gì cả.
– Ối chà! Sao con chẳng nói sớm cho ta biết? Hôm nọ có người biếu mấy chai nước thơm, ta định cho nó một ít, nhưng sợ nó làm phí của, nên không cho. Giờ nó đã chán không muốn uống nước mai khôi thì con mang hai chai này về, cứ lấy độ một thìa con pha vào một bát nước thì thơm lừng lên.
Nói xong, liền gọi Thái Vân đem mấy chai nước móc thơm hôm nọ ra, Tập Nhân nói:
– Chỉ xin hai chai thôi, nhiều sợ bỏ đi phí của. Khi nào dùng hết, sẽ lại sang xin.
Thái Vân đi một chốc, mang hai chai đến đưa cho Tập Nhân.
Tập Nhân nhìn thấy hai chai pha lê chừng ba tấc, trêncó nút bạc xoáy trôn ốc, dán giấy vàng, một chai đề chữ:
“Mộc tê thanh lộ” 1, một chai đề chữ “Mai khôi thanh lộ” 2. Tập Nhân cười nói:
– Thứ này chắc quý lắm! Chai nhỏ thế thì chứa được bao nhiêu?
– Thứ đem tiến vua đấy. Con không thấy dán giấy vàng ở trên nút à? Phải cất đi cẩn thận cho nó, không được bỏ phí của.
Tập Nhân vâng lời, sắp đi ra, Vương phu nhân lại gọi:
– Hãy đứng lại, ta sực nhớ điều này muốn hỏi con!
Tập Nhân vội quay lại. Vương phu nhân thấy trong buồng không có ai, liền hỏi:
– Ta nghe đâu thằng Hoàn ton hót gì với ông, nên thằng Bảo bị đòn, có phải thế không? Có gì con cho ta biết, ta không nói lộ với ai đâu.
– Con không nghe thấy điều ấy bao giờ, hình như cậu Hai giấu một người con hát của tước Vương nào ấy, người ta đến trình với ông, nên cậu ấy mới phải đòn.
Vương phu nhân lắc đầu nói:
– Việc ấy đã đành rồi, lại còn việc khác nữa kia.
– Việc khác thì con không biết. Bây giờ trước mặt bà, con xin cả gan nói thẳng, cứ lẽ ra thì…
Tập Nhân nói nửa chừng rồi lại nín bặt, Vương phu nhân nói:
– Có gì con cứ nói ra.
– Xin bà đừng giận con mới dám nói.
– Con cứ nói, ta giận cái gì.
– Đúng ra thì cậu Bảo cần phải có ông dạy bảo luôn mới được; nếu người không trông nom đến, thì không biết chừng sau này cậu ấy sẽ còn gây ra nhiều chuyện.
Vương phu nhân nghe vậy, liền chắp tay niệm Phật, chợt gọi Tập Nhân:
– Con ơi! Con nói đúng đấy, ta cũng nghĩ thế; thực ra, có phải ta không biết dạy con đâu! Khi trước anh Châu mày còn sống, ta dạy bảo nó như thế nào, lẽ nào bây giờ ta lại không biết dạy bảo thằng Bảo. Nhưng có một điều này:
bây giờ ta đã năm mươi tuổi đầu rồi, chỉ có một mình nó, từ bé đến giờ, nó lại ốm yếu luôn. Cụ lại quý nó như vàng như ngọc, nếu dạy bảo nhiều quá, lỡ xảy ra điều gì, cụ sẽ buồn rầu, trong nhà đâm ra lủng củng, thì lại càng không hay nữa. Vì thế ta nuông chiều nó. Không ngờ đâm ra hư hỏng. Ta thường lựa lời dạy bảo khuyên can, có khi đến khóc, nhưng nó cũng chỉ nghe được một lúc thôi, rồi đâu lại hoàn đây, nên mới xảy ra nông nỗi này. Nếu nó bị đánh chết, thì mai sau ta còn trông cậy vào ai nữa!
Nói xong nước mắt lại ròng ròng nhỏ xuống.
Tập Nhân thấy Vương phu nhân đau khổ như thế, trong bụng buồn rầu, nước mắt cũng rơi lã chã:
– Cậu Hai là con đẻ của bà, khi nào bà lại không thương? Chúng con là kẻ dưới hầu hạ lâu nay, nếu được mọi sự yên ổn, thật là phúc lớn. Chứ cứ như thế này, thì làm sao cho yên bề hầu hạ được. Ngày nào giờ nào con chẳng khuyên ngăn cậu ấy! Nhưng khuyên ngăn mãi cậu ấy vẫn không tỉnh ngộ. Lại có những hạng người cứ hay thậm thụt với cậu ấy, chẳng trách được cậu ấy đến nỗi thế này. Chúng con khuyên ngăn mãi cũng không tiện, bây giờ bà nhắc đến, con lại nhớ ra một việc, muốn trình bà xem người định đoạt ra sao; nếu bà có bụng ngờ, thì không những lời con nói không ăn thua gì, mà ngay con chết cũng không có chỗ chôn.
Vương phu nhân nghe câu nói có ý tứ, liền hỏi:
– Con ơi, có điều gì con cứ nói thẳng ra. Lâu nay ta thấy mọi người xung quanh ai cũng khen con. Ta vẫn cho là con chẳng qua chăm lo hầu hạ Bảo Ngọc, hòa nhã với mọi người, thế thôi. Ngờ đâu những câu con nói vừa đây, đều là việc lớn, rất hợp ý ta. Vậy con có điều gì, cứ nói thẳng ra, miễn là đừng để cho người ngoài biết là được.
– Con chẳng nói điều gì khác cả, con chỉ muốn bà tìm cách nào cho cậu ấy dọn ngay ra ở ngoài, không ở trong vườn nữa là xong chuyện.
Vương phu nhân nghe nói, giật nẩy mình, vội kéo tay Tập Nhân hỏi:
– Không lẽ thằng Bảo Ngọc đã giở trò bậy gì với ai chăng?
– Làm gì có chuyện ấy! Xin bà đừng quá nghĩ, đó chẳng qua là ý riêng của con đấy thôi. Bây giờ cậu Hai đã lớn rồi, các cô ở trong ấy cũng đã lớn cả, vả chăng cô Lâm và cô Bảo lại chỗ chị em con cô, con dì. Kể ra là chỗ chị em đấy, nhưng đằng la con gái, đằng là con trai, ngày đêm cùng ở một chỗ, đi đứng không tiện, lẽ nào chẳng làm cho người ta phải lo lắng, lỡ ra có ai nhìn thấy, thì họ có cho là việc trong nhà đâu. Tục ngữ có câu:
“Phải nghĩ trước khi có việc”. Trên đời biết bao việc bất trắc xảy ra, phần nhiều là do mình vô tình, nhưng người ngoài họ để ý, lại cho là mình định tâm làm như vậy, rồi đem đi nói xấu. Vì vậy không đề phòng nhất định không được. Vả lại ngày thường tính nết cậu Hai thế nào, bà cũng đã biết cả rồi:
cậu ấy cứ thích chơi đùa với bọn chúng con. Nếu không phòng ngừa trước đi, lỡ xảy ra sai lầm gì, không cứ việc thực hay hư, hễ nhiều người thì tất nhiên lắm chuyện. Những kẻ xấu bụng xấu dạ, họ có kiêng nể ai.
Hễ bằng lòng ra thì khen tốt hơn đức Phật, không bằng lòng thì họ chê bai không bằng giống súc vật. Sau này có ai nói tốt cậu Hai thì mọi người cũng chỉ chợp mắt bỏ qua thôi, nếu như có người nới xấu cậu ấy một câu, thì chúng con dù có tan xương nát thịt, tội nặng muôn vàn, cũng chỉ là việc nhỏ, nhưng tiếng tăm, phẩm cách suốt đời của cậu ấy, chẳng hóa ra mất hết hay sao? Lúc bấy giờ, trước mặt ông nhà, bà cũng khó nói. Tục ngữ có câu:
“Quân tử phòng thân”, chi bằng phòng ngừa ngay từ giờ là hơn. Bà bận việc, cố nhiên không có thì giờ nghĩ đến những chuyện ấy. Chúng con không nghĩ đến thì thôi, chứ đã nghĩ ra mà không trình bà biết thì tội càng nặng. Con lâu nay vì việc này mà ngày đêm áy náy, không dám nói với ai. Chỉ có ngọn thần đăng chứng tỏ nỗi lòng mà thôi.
Vương phu nhân nghe nói như sét đánh bên tai, chạnh nhớ đến việc Kim Xuyến, trong bụng càng yêu quý Tập Nhân, liền cười nói:
– Con ơi, con có lòng chăm lo chu tất thế, ta há lại chẳng nghĩ đến hay sao? Nhưng vì bấy lâu bận việc, ta quên mất. Những câu nói hôm nay làm ta tỉnh ngộ. Con nghĩ thật chu đáo giữ trọn thanh danh cho mẹ con ta, ta không ngờ con lại tốt như vậy. Thôi con hãy về đi, ta sẽ liệu cách. Nhưng có một điều này, con đã nói như thế, thì ta sẽ giao thằng Bảo cho con, lúc nào con cũng phải để ý trông nom giữ gìn nó, tức là con giữ gìn ta đấy. Chắc chắn là ta không phụ công con đâu.
Tập Nhân luôn luôn vâng lời. Về đến nhà, thấy Bảo Ngọc dậy, Tập Nhân bèn kể lại chuyện bà cho hai chai nước thơm. Bảo Ngọc mừng lắm, lập tức sai pha ra uống, thấy thơm tho lạ thường. Trong bụng nhớ ngay Đại Ngọc, Bảo Ngọc muốn sai người đi mời, nhưng lại sợ Tập Nhân ngăn lại, liền tìm cách sai Tập Nhân sang nhà Bảo Thoa mượn sách.
Tập Nhân đi rồi, Bảo Ngọc liền gọi Tình Văn đến bảo:
– Chị sang bên cô Lâm xem cô ấy làm gì? Nếu cô ấy hỏi thì bảo tôi đã khá rồi.
– Chẳng có việc gì, tự nhiên trơ tráo sang đấy sao tiện? Phải có một chuyện gì cho có việc chứ?
– Chẳng có việc gì đáng nói cả.
– Hoặc bày cách sang cho cái gì, hay sang mượn cái gì, nếu không thì tôi đến đấy biết nói thế nào?
Bảo Ngọc nghĩ một lúc, rồi giơ tay lấy hai cái khăn lụa cũ đưa cho Tình Văn, cười nói:
– Được rồi, chị cứ bảo rằng tôi sai chị đưa cái này cho cô ấy.
– Thế mới lạ chứ. Cô ấy cần hai mảnh khăn lụa dung dúc này làm gì? Chỉ tổ làm cho cô ấy giận, lại bảo cậu đùa cô ấy thôi.
Bảo Ngọc cười nói:
– Chị cứ yên tâm, thế nào cô ấy cũng hiểu.
Tình Văn đành phải cầm lấy khăn lụa, đến quán Tiêu Tương, gặp Xuân Tiêm đương đứng phơi khăn mặt ở ngoài hiên. Thấy Tình Văn đến, Xuân Tiêm vội xua tay nói:
“Cô ấy ngủ rồi”. Tình Văn đi vào nhà, tối như mực, vẫn chưa thắp đèn, Đại Ngọc nằm ở trên giường, hỏi “Ai đấy?” Tình Văn vội trả lời:
“Tình Văn đây”. Đại Ngọc hỏi:
“Sang làm gì đấy?”. Tình Văn nói:
“Cậu Hai bảo mang khăn lụa sang cho cô đây”.
Đại Ngọc nghe nói, trong bụng đâm ra buồn bực, nghĩ một mình:
“đưa khăn lụa sang cho ta để làm gì đây?” Rồi hỏi:
– Khăn lụa này ai cho cậu ấy? Chắc đẹp lắm thì phải. Bảo cậu ấy để dành đưa cho người khác, chứ tôi không cần thứ ấy.
Tình Văn cười nói:
– Đó là khăn lụa cũ thường ngày dùng đấy thôi, không phải khăn mới đâu.
Đại Ngọc nghe nói, càng bực mình, đắn đo một lúc, rồi mới nghĩ ra, liền nói:
– Thôi chị cứ để đấy mà về.
Tình Văn đành để xuống đấy, quay ra về, đi đường ngẫm nghĩ, không hiểu ý tứ ra sao cả.
Đại Ngọc đã hiểu ý Bảo Ngọc cho đưa khăn lụa sang, đâm ra ngơ ngẩn say sưa, nghĩ bụng:
bây giờ Bảo Ngọc đã biết thể tất nỗi đau khổ của ta, đã là điều làm cho ta đáng mừng; ta có ý nghĩ vậy, không biết sau này ra sao, đã là điều làm cho ta đáng thương; tự nhiên vô cớ, mang hai mảnh lụa cũ đến, nếu chỉ nhìn hai mảnh lụa mà không hiểu ý sâu xa của ta, đó là điều làm ta đáng cười; còn chuyện sai người lén lút tặng cho ta, đó là điều khiến cho ta đáng sợ; ta cứ hay khóc, nghĩ cũng vô ích, đó là điều làm cho ta đáng xấu hổ”.
Đại Ngọc nghĩ quanh nghĩ quẩn, tự nhiên đâm ra nóng lòng sốt ruột, trong bụng vẩn vơ, liền bảo thắp đến, rồi không nghĩ đến việc kiêng tránh hiềm nghi, vội vùng dậy mài mực nhúng bút, lấy ngay hai mảnh lụa cũ ra viết:
I Lệ chan chứa hão, lệ rơi hoài, Ngấm ngầm vì đâu giọt ngắn dài?
Mảnh lụa giao này ơn biết mấy, Vì ai khôn xiết nỗi thương ai, II Giọt ngọc dòng châu lặng lẽ rơi, Suốt ngày vơ vẩn suốt ngày rồi?
Gối kia áo nọ lau nào sạch, Vết ố mầu hoen cũng mặc thôi.
III Khăn nào lau sạch hết dòng châu, Dấu cũ sông Tương biết ở đâu.
Sẵn đó trước song, ngàn ngọn trúc, Ngấn thơm biết có nhuộm thêm mầu?
Đại Ngọc toan viết nữa, nhưng người rạo rực lên, mặt nóng bừng bừng, liền đến chỗ đài gương, mở cái phủ bằng gấm ra soi, thấy mặt đỏ hơn cánh hoa đào, đoán chừng bệnh đã bắt đầu từ đấy. Một lúc lên giường nằm, vẫn còn cầm mảnh lụa đăm đắm suy nghĩ.
Tập Nhân sang đến bên Bảo Thoa thì Bảo Thoa lại sang bên nhà Tiết phu nhân vắng. Tập Nhân về không, đến đầu canh hai, Bảo Thoa mới về.
Bảo Thoa vẫn biết tính nết Tiết Bàn, trong bụng ngờ là hắn xui người đến mách tội Bảo Ngọc; sau khi nghe Tập Nhân nói, lại càng tin lắm. Thực ra, Tập Nhân chỉ nghe Bồi Dính nói, mà Bồi Dính cũng đoán phỏng thôi, chưa có gì là chứng cớ đích xác, nhưng cứ đổ riệt cho hắn.
Tiết Bàn xưa nay vẫn có tiếng ấy, nhưng lần này không phải tự hắn gây nên, trái lại, người ta cứ dựng đứng đổ riệt cho hắn, không sao cãi lại được. Hôm ấy hắn uống rượu ở ngoài phố về, vào chỗ Tiết phu nhân, thấy Bảo Thoa ngồi ở đấy. Hắn nói ba hoa mấy câu, chợt như nhớ đến, liền hỏi:
– Nghe nói Bảo Ngọc bị đòn, là tại làm sao thế?
Tiết phu nhân đang khó chịu về việc này, thấy hắn hỏi, liền nghiến răng nói:
– Giống oan nghiệt, chả biết phải trái gì cả, cứ sinh chuyện ra, lại còn vác mặt đến đây hỏi ta à?
Tiết Bàn thấy thế, tức quá, đứng ngẩn người ra hỏi:
– Tôi sinh chuyện cái gì?
– Mày lại còn giả vờ à? Ai cũng bảo việc ấy do mày xúi bẩy cả.
– Thế thì người ta bảo tôi giết người, mẹ cũng tin à?
– Ngay em mày cũng biết là mày xúi bẩy đấy, chẳng lẽ nó lại đổ oan cho mày sao?
Bảo Thoa vội ngăn lại:
– Mẹ và anh đừng làm ầm lên thế; đen trắng sau này dần dần sẽ rõ.
Rồi quay lại nói với Tiết Bàn:
– Anh có xúi bẩy hay không, việc cũng đã rồi, đừng cãi cọ nữa, kẻo lại bé xé ra to. Em khuyên anh từ nay trở đi đừng làm càn ở ngoài và cũng đừng chọc vào công việc của người ta. Anh xưa nay là người không biết giữ gìn, ngày ngày chơi bời đùa đẫy với bọn họ, không xảy ra việc gì thì thôi, lỡ xảy ra, dù anh không làm, người ta vẫn quàng vào cổ. Chả cứ ai, ngay em cũng phải ngờ!
Tiết Bàn vốn là người bụng thẳng như ruột ngựa, thấy gì thì nói tuột ngay ra. Hắn không nhịn được những chuyện giấu đầu hở đuôi thế nây, lại thấy Bảo Thoa ngăn không nên đi ra ngoài chơi bời, mẹ cho là mình nói bậy, làm Bảo Ngọc bị đòn. Tức quá, hắn hung hăng thề bồi, cố cãi cho ra. Hắn lại mắng sang mọi người:
“Đứa nào dám đổ tội cho tôi, tôi sẽ bẻ gãy răng chúng nó! Rõ ràng là nhân câu chuyện Bảo Ngọc bị đòn, chúng nó không biết lấy gì tâng công, mới mang tôi ra làm bung xung! Bảo Ngọc có phải là vua nhà trời chăng?
Cha nó mới đánh nó một trận, thế mà cả nhà làm ồn lên đến mấy ngày. Hình như lần này nó có lỗi gì, nên dượng ấy mới đánh mấy roi, không hiểu sao cụ lại biết được, cho là anh Trân mách, rồi gọi anh ấy đến mắng cho một trận. Bây giờ lại quàng vào cho tôi. Tôi không sợ nữa đâu, nhất định tôi đánh chết Bảo Ngọc rồi sẽ đền mạng”.
– Thằng khốn nạn này muốn chết đấy! Mày định đi đánh ai?
Hãy đánh tao trước đã!
Tiết Bàn mắt quắc lên thét nói:
– Vì sao mẹ lại không cho tôi đi? Không dưng sao mẹ lại vu tội cho tôi? Sau này hễ Bảo Ngọc còn sống ngày nào, thì tôi còn phải mang vạ miệng ngày ấy, chi bằng hai đứa đều chết cả, thế là yên chuyện.
Bảo Thoa vội đến can ngăn:
– Anh hãy cố nhịn đi nào! Mẹ giận nói thế, anh chẳng có một lời khuyên ngăn. Không cứ gì mẹ, dù người ngoài đến khuyên anh, cũng là vì có bụng tốt cốt để anh chứa bớt đi thôi!
– Bây giờ mày lại nói thế, chắc là mấy đã mách đấy!
– Anh chỉ biết trách tôi, chứ anh không tự trách anh không biết suy đi xét lại gì cả.
– Mày chỉ trách tao không suy đi xét lại, sao mày không biết trách Bảo Ngọc cứ hay đi ra ngoài giở nhưng trò trêu cợt gió trăng?
Chưa kể chuyện khác, hãy nói chuyện Kỳ quan hôm nọ cho mà nghe.
Tao đã gặp Kỳ quan hàng mười lần rồi, nó chưa hề nói một câu thân mật với tao; thế mà Bảo Ngọc mới gặp nó có một lần, chưa biết tên nó là gì, đã cho ngay cái thắt lưng rồi. Vậy thì cái việc ấy, có phải tao mách không?
Tiết phu nhân và Bảo Thoa vội nói:
– Lại còn nhắc đến chuyện ấy! Chính vì chuyện ấy mà nó bị đòn đấy! Thế thì chắc là mày mách rồi.
Tiết Bàn nói:
– Thực là tức chết đi được! Buộc tội thế nào tôi cũng chẳng cần, chỉ tức một nỗi vì Bảo Ngọc mà làm nhộn lên, như là trời nghiêng đất lệch ấy?
Bảo Thoa nói:
– Ai làm nhộn lên! Tự anh vác gậy cầm dao lại còn bảo ai!
Tiết Bàn thấy Bảo Thoa nói câu nào cũng có lý hơn là những câu mẹ hắn nói, khó lòng mà cãi lại được; vì thế hắn muốn tìm cách chặn lời Bảo Thoa để không còn ai cãi lại được mình nữa. đương lúc tức giận không kịp đắn đo, hắn nói ngay:
– Em ơi! Thôi đừng cãi nhau với anh nữa. Anh đã biết rõ bụng em rồi. Trước mẹ đã nói với anh:
em có cái khóa vàng, muốn chọn người nào có ngọc mới lấy. Em để ý thấy Bảo Ngọc có cái ấy, chẳng trách được bây giờ động một tí là em bênh nó.
Tiết Bàn thấy em khóc, biết rằng mình nói quá lời, cũng đâm ra giận dỗi về buồng nằm.
Tiết phu nhân cũng rất bực, song lại khuyên Bảo Thoa:
– Ngày thường con vẫn biết thằng súc sinh ấy ăn nói sỗ sàng rồi.
Thôi ngày mai mẹ sẽ bảo nó đến xin lỗi con.
Bảo Thoa tức quá, muốn làm thế nào cho hả giận nhưng lại sợ mẹ không yên lòng, nên đành gạt nước mắt trở về nhà, khóc lóc một đêm. Sáng hôm sau, Bảo Thoa trở dậy, không thiết gì rửa mặt chải đầu, vội mặc quần áo sang thăm mẹ. Vừa gặp lúc Đại Ngọc đứng một mình dưới bóng hoa, hỏi đi đâu. Bảo Thoa nói:
“Đi về nhà”. Nói rồi cắm cổ đi ngay. Đại Ngọc thấy Bảo Thoa có vẻ buồn rầu, mắt như đang khóc, không giống mọi ngày, liền đứng đằng sau cười nói:
– Chị cũng nên giữ mình cẩn thận. Dù có khóc ra hai vò nước mắt, cũng không thể chữa lành được vết đòn đâu!
Bảo Thoa biết rõ là Đại Ngọc đay nghiến mình, nhưng nghĩ đến mẹ và anh, nên cứ đi một mạch không hề quay đầu lại.
Đại Ngọc vẫn đứng ở dưới bóng hoa, xa xa nhìn sang viện Di Hồng, thấy Lý Hoàn, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân và các a hoàn đi hết lớp này đến lớp khác, chỉ vắng có Phượng Thư thôi. Đại Ngọc trong lòng ngờ vực:
“Tại sao Phượng Thư không sang thăm Bảo Ngọc? Nếu bận việc gì, cũng nên chạy sang một tý, an ủi mấy câu để lấy lòng bà và mợ mới phải. Không sang, tất có duyên cớ gì đây”. Đại Ngọc vừa ngẩng đầu lên nhìn, thấy một đám người ăn mặc lòe loẹt đến:
Giả mẫu vịn vào vai Phượng Thư, theo sau là Hình phu nhân, Vương phu nhân, sau nữa là dì Chu, bọn a hoàn và các bà già đang đi vào viện Di Hồng.
Đại Ngọc tự nhiên gật đầu nghĩ ngay đến chỗ còn bố mẹ thì sung sướng gì bằng, thế là nước mắt lại tràn trên mặt. Một lúc, Tiết phu nhân và Bảo Thoa cũng đến. Bỗng Tử Quyên ở đằng sau chạy đến nói:
– Cô ơi! về uống thuốc đi kẻo nguội rồi!
– Mày làm cái trò gì thế, chỉ cứ giục thôi. Tao uống hay không, có việc gì đến mày?
– Cô vừa mới bớt ho đã lại không chịu uống thuốc. Giờ tháng năm, dù trời nắng, nhưng cũng phải cẩn thận mới được. Vừa sáng dậy, không nên đứng lâu chỗ ẩm thấp. Thôi cô nên về nghỉ đi.
Nghe câu nhắc ấy, Đại Ngọc mới thấy chân hơi buôn buốt, đứng ngẩn người ra một lúc, rồi thong thả vịn vào Tử Quyên về quán Tiêu Tương. Đại Ngọc vào đến sân, thấy chỗ nào cũng bóng trúc rườm rà, dấu rêu mờ tỏ, chợt nghĩ câu trong Tây Sương ký:
Rêu xanh lấp lánh sương rơi, Lối đi vắng vẻ, nào ai ra vào?
Liền thầm thở dài:
“Song Văn tuy mệnh bạc, nhưng còn có mẹ già, em bé, chứ Đại Ngọc này, cả mẹ già, em bé cũng không.
Người xưa có câu:
“Hồng nhan bạc phận”. Ta chẳng phải là hồng nhan, sao mà bạc phận thế? Đại Ngọc vừa nghĩ vừa đi, không ngờ con anh vũ đậu ở ngoài hiên, trông thấy Đại Ngọc về, liền vỗ cánh kêu lên một tiếng. Đại Ngọc giật mình, nói:
– Mày muốn chết đấy! Vẩy cả bụi lên đầu tao.
Con anh vũ bay ngay lên trên cầu, gọi:
“Tuyết Nhạn! Cô về đấy, vén rèm lên”.
Đại Ngọc đứng lại, lấy tay gõ vào cái cầu hỏi:
– Đã lấy thêm nước và đồ ăn cho nó chưa?
Con anh vũ thở dài một cái hệt như giọng Đại Ngọc ngày thường than thở, rồi nó đọc ngay câu:
“Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ, biết sau ta chết ai là người chôn?” Đại Ngọc và Tử Quyên nghe vậy, cười ầm lên.
Tử Quyên nói:
– Ngày thường cô hay ngâm câu này, thảo nào nó chả nhớ được.
Đại Ngọc liền sai mang cầu xuống, treo vào cái móc ở ngoài cửa sổ hình mặt nguyệt, rồi đi vào trong nhà, ngồi tựa cửa sổ. Uống thuốc xong, thấy bóng trúc bên ngoài chiếu vào màn the, suốt nhà lờ mờ êm dịu, ghế đệm mát lạnh. Không cách giải buồn, Đại Ngọc liền đứng trong cửa sổ, đùa với con anh vũ, rồi đem những thơ từ ngày thường của mình thích, dạy cho nó đọc.
Bảo Thoa về đến nhà, thấy mẹ đương chải đầu. Trông con về, Tiết phu nhân cười hỏi:
– Mới sáng dậy, sao con đến ngay đây làm gì?
– Con sang thăm mẹ xem có được khoẻ không? Hôm qua khi con về rồi, anh con có còn giở trò gì nữa không?
Bảo Thoa vừa nói vừa ngồi ghế bên cạnh mẹ, nức nở khóc, Tiết phu nhân thấy con khóc, cũng khóc theo, rồi khuyên:
– Con ơi, con đừng bực bội nữa, để rồi ta có cách trị nó. Nếu con có thế nào, thì ta còn trông cậy vào ai?
Tiết Bàn ở ngoài nghe thấy, liền chạy vào, đứng trước Bảo Thoa vái luôn mấy cái, rồi nói:
– Em ơi, em tha lỗi cho anh lần này. Hôm qua anh đi uống rượu về muộn, giữa đường gặp lại bạn, về nhà vẫn chưa tỉnh. Ngay anh cũng không biết đã nói nhảm những câu gì, chả trách em giận là phải.
Bảo Thoa đương che mặt khóc, nghe anh nói, bật cười, nhổ xuống đất một cái và nói:
– Thôi anh đừng giở lối phường chèo ấy ra nữa! Tôi biết anh không ưa gì mẹ con tôi, tìm cách làm cho mẹ con tôi xa nhau, thì anh mới thỏa lòng.
Tiết Bàn cười nói:
– Em ơi! Tại sao em lại nói nhưng câu ấy, thì ta sống làm sao được? Xưa nay em không lắm điều, hay nói những câu nhảm nhí kia mà.
Tiết phu nhân nói luôn:
– Mày bảo em mày nói nhảm nhí, thế những câu chiều hôm qua mày nói với nó liệu có nghe được không? Mày đâm mê rồi!
Tiết Bàn nói:
– Thôi, mẹ đừng giận, mà em cũng đừng nên buồn rầu. Từ giờ trở đi, con không đi uống rượu với chúng nó nữa, thế có được không?
Bảo Thoa cười nói:
– Em phân bua câu nói ấy nhé.
Tiết phu nhân nói:
– Mày mà quyết chí như thế thì rồng sẽ đẻ trứng!
Tiết Bàn nói với Bảo Thoa:
– Nếu em còn thấy anh đi uống rượu với chúng nó, thì cứ nhổ vào mặt và gọi anh là giống súc vật, chứ không phải là người, như thế có được không? Có đâu chỉ vì anh mà hai mẹ con ngày nào cũng lo ngay ngáy như vậy! Vì anh mà mẹ phải tức giận thì còn khá; chứ vì anh mà em phải lo nghĩ luôn, thì anh thật không phải là người nữa. Bây giờ cha mất rồi, anh đã không biết hiếu thuận với mẹ, trông nom đến em, lại để mẹ phải tức bực, phải buồn rầu, thì anh thực không bằng giống súc vật!
Nói xong, hắn không cầm được nước mắt.
Tiết phu nhân đã thôi không khóc, giờ nghe thấy hắn nói thế, lại đâm ra đau xót. Bảo Thoa gượng cười nói:
– Anh quấy rối đã chán rồi, bây giờ lại còn làm cho mẹ khóc nữa à!
Tiết Bàn lau nước mắt cười nói:
– Tôi có làm cho mẹ phải khóc bao giờ đâu? Thôi! Thôi! Vứt chuyện ấy đi, không nói nữa, bảo Hương Lăng pha nước cho em uống.
Bảo Thoa nói:
– Tôi không uống nước, chờ mẹ rửa mặt xong, mẹ con tôi sẽ đi đây.
Tiết Bàn nói:
– Cái vòng cổ của em, nên chá lại đi.
– Vàng choáng lên thế kia, còn phải chá lại làm gì nữa?
– Giờ em nên may thêm quần áo, thích màu gì, hoa gì, thì cứ bảo anh.
– Các bộ quần áo này tôi cũng chưa mặc phỉ, lại còn may nữa làm gì?
Một lúc Tiết phu nhân và Bảo Thoa đến vườn thăm Bảo Ngọc.
Vào đến viện Di Hồng, thấy ngoài hiên nhà bên có nhiều a hoàn bà già đứng, Tiết phu nhân biết ngay là Giả mẫu đang ở đấy. Hai mẹ con vào chào hỏi mọi ngưòì. Thấy Bảo Ngọc nằm ở trên giường, Tiết phu nhân hỏi:
“Đã khá chưa”. Bảo Ngọc vội gượng dậy, miệng thưa “đã khá rồi. Cứ để cho dì và chị bận lòng mãi, cháu không đành lòng”.
Tiết phu nhân vội đỡ Bảo Ngọc nằm xuống và hỏi:
– Muốn dùng cái gì, thì cứ bảo dì.
Bảo Ngọc cười nói:
– Vâng, hễ cháu cần cái gì, sẽ sang thưa với dì.
Vương phu nhân lại hỏi:
– Con muốn ăn gì, mẹ cho người mang sang.
Bảo Ngọc cười nói:
– Con chẳng muốn ăn gì, chi thích ăn thứ canh lá sen và ngó sen lần trước đã làm, xem chừng ngon hơn cả.
Phượng Thư đứng ngoài cười nói:
– Cả nhà nghe đấy! Những thức chú ấy thích ăn không lấy gì làm quí trọng lắm, chỉ phải tốn công sai bảo nấu nướng thôi. Thế mà chú ấy lại cứ thích ăn những thứ ấy.
Giả mẫu liền giục đi làm ngay! Phượng Thư cười nói:
– Xin bà đừng vội, để cháu nghĩ xem, không biết những cái khuôn ấy ai giữ…
Rồi quay lại bảo bà già đi hỏi nhà bếp. Bà già đi một lúc về trình:
– Nhà bếp nói:
“Đã mang nộp cả lên nhà trên rồi”.
Phượng Thư nghĩ một lúc rồi nói:
– Tôi cũng nhớ họ đã nộp cả lên rồi, không biết lại giao cho ai giữ? Có thể là đã giao cho phòng trà.
Khi hỏi thì phòng trà cũng không giữ. Cuối cùng lại là người giữ đồ vàng bạc đưa đến.
Tiết phu nhân cầm lấy xem, thì ra cái hộp nhỏ, trong đựng bốn cái khuôn bằng bạc, dài độ hơn một thước, rộng độ một tấc, trên mặt đục những lỗ xấp xỉ như hạt đậu, giống hình hoa cúc, hoa mai, hoặc như tua sen, củ ấu. Tất cả có tới ba bốn mươi thứ rất là tinh xảo. Tiết phu nhân ngoảnh lại phía Giả mẫu và Vương phu nhân cười nói:
– Bên phủ nhà cái gì cũng đẹp tột bậc, ăn một bát canh mà cũng dùng đến không thứ này. Nếu không nói ra, có lẽ tôi trông cũng không hiểu thứ này dùng để làm gì.
Phượng Thư cướp lời nói ngay:
– Cô không biết, đó là đồ sắm sửa để dâng thức ăn lên Qúy phi năm trước đấy. Họ nghĩ ra lối này, nhưng không biết in trên mặt thế nào, đành phải mượn mùi thơm mát của lá sen, kỳ thực toàn nhờ chất canh ngon cả. Tôi ăn chẳng thấy thú vị gì. Nhưng đã ai được ăn luôn món này? Chỉ làm có lần ấy thôi, không biết tại sao hôm nay chú Bảo lại nhớ đến.
Nói xong, Phượng Thư cầm lấy hộp ấy đưa cho một bà già dặn bảo nhà bếp lập tức bắt mấy con gà, lại thêm đồ gia vị, nấu mười bát canh mang lên.
Vượng phu nhân nói:
– Sao làm nhiều thế?
Phượng Thư cười nói:
– Vì thứ này ngày thường không hay làm, bây giờ chú Bảo đã nhắc đến, mà chỉ làm cho một mình chú ấy ăn, không mời cụ, bà dì và mẹ, thì không tiện. Chi bằng nhân tiện làm cho cả nhà ăn, cháu cũng nhờ đấy được nếm món ăn mới lạ.
Giả mẫu cười nói:
– Con khỉ này, mày khéo lắm! Mang tiền công ra để lấy lòng người ta.
Câu ấy làm cho cả nhà cười ầm lên.
Phượng Thư vội cười nói:
– Không can gì, bữa tiệc nhỏ này cháu xin thết.
Rồi quay lại bảo bà già xuống dặn nhà bếp:
– Phải làm cho thật ngon, rồi lĩnh tiền ở sổ chi của ta.
Bà già vâng lời đi ngay.
Bảo Thoa đứng một bên cười nói:
– Tôi đến đây đã mấy năm nay, để ý xem xét, thì chị Hai dù khéo đến đâu, cũng còn kém cụ nhiều.
Giả mẫu liền nói:
– Giờ ta đây già rồi, còn khéo vào đâu nữa? Khi bằng tuổi cháu Phượng, ta hơn nó nhiều. Bây giờ nó tuy không bằng ta lúc thời trẻ, nhưng cũng đã khá hơn dì cháu nhiều. Trông thấy dì cháu thật đáng thương, không biết ăn nói, cứ trơ như khúc gỗ, trước mặt bố mẹ chồng, chả biết ân cần vồn vã gì cả. Còn cháu Phượng thì mồm mép bẻo lẻo, trách nào người ta chả thương?
Bảo Ngọc cười:
– Bà nói thế, thì nhưng người nói năng không khéo, đều không đáng thương à?
Giả mẫu nói:
– Người nói không khéo cũng có chỗ đáng thương; người giọng lưỡi khéo léo mà có chỗ đáng ghét, thì không bằng người không nói khéo còn hơn.
Bảo Ngọc cười nói:
– Thế thì chị cả không hay nói, bà cũng thương như chị Phượng.
Nếu chỉ bảo những người khéo nói mới đáng thương, thì đám chị em đây chỉ đáng thương chị Phượng và cô Lâm mà thôi.
Giả mẫu nói:
– Nói đến đám chị em, thì không phải trước mặt dì đây ta nói lấy lòng đâu; cứ thực mà nói, trong bốn đứa cháu gái nhà này, không ai bằng cháu Bảo cả. Tiết phu nhân vội cười nói:
– Cụ lại có chỗ thiên vị rồi.
Vương phu nhân cười nói:
– Không phải cụ nói dối đâu, người thường nói riêng với tôi là cháu Bảo khéo lắm.
Bảo Ngọc định gợi câu chuyện ra, cốt để Giả mẫu khen Đại Ngọc, không ngờ cả nhà lại khen Bảo Thoa, thật là một việc ngoài ý nghĩ. Bảo Ngọc nhìn Bảo Thoa cười. Nhưng Bảo Thoa đã ngoảnh đi nói chuyện với Tập Nhân rồi.
Chợt có người sang mời về ăn cơm. Giả mẫu đứng dậy, dặn Bảo Ngọc “phải tĩnh dưỡng cẩn thận!”. Lại dặn dò đám a hoàn một lần nữa, rồi vịn vào Phượng Thư, mời Tiết phu nhân đi. Mọi người ra khỏi buồng, Giả mẫu còn hỏi canh đã được chưa? Lại bảo Tiết phu nhân:
“Muốn ăn thứ gì cứ nói với tôi. Tôi sẽ bảo cháu Phượng làm cho chúng ta ăn”. Tiết phu nhân cười nói:
– Cụ cứ hay bắt vằn bắt vẻ chị Phượng, chứ thường khi làm thức ăn đem dâng người, thì người có ăn được mấy đâu.
Phượng Thư cười nói:
– Thôi, xin dì đừng nói thế, bà tôi chỉ hiềm thịt người chua thôi, nếu không chua, bà tôi đã ăn luôn cả tôi rồi!
Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Bảo Ngọc ở trong nhà cũng không nhịn được cười. Tập Nhân cười nói:
– Mồm mép mợ Hai làm người ta sợ chết đi được!
Bảo Ngọc cười nói với Tập Nhân:
– Chị đứng lâu thế chắc mệt lắm.
Liền kéo Tập Nhân đến ngồi bên cạnh. Tập Nhân cười nói:
– Thôi quên mất rồi, nhân tiện cô Bảo ở đây, cậu bảo cô ấy cho Oanh Nhi sang xe hộ mấy sợi dây.
– May mà chị nhắc tôi đấy.
Bảo Ngọc liền ngẩng đầu ra cửa sổ nói:
– Chị Bảo, ăn cơm xong, chị cho Oanh Nhi sang đây xe hộ mấy sợi dây, liệu nó có rảnh không?
Bảo Thoa quay lại nói:
– Được rồi, chốc nữa tôi sẽ cho nó sang.
Bọn Giả mẫu chưa nghe rõ đều đứng lại hỏi việc gì. Bảo Thoa nói lại. Giả mẫu liền bảo:
– Cháu ạ! Cháu cho nó sang xe hộ em nó mấy sợi dây. A hoàn ở bên này rỗi cả đấy, cháu cần sai bảo gì, thích ai, cứ gọi nó sang.
Tiết phu nhân và Bảo Thoa đều cười nói:
– Cứ cho nó sang thôi, bên nhà có việc gì sai bảo đâu, cả ngày chỉ ngồi rồi gây chuyện với nhau thôi.
Mọi người đang đi, chợt bọn Tương Vân, Bình Nhi, Hương Lăng hái hoa phượng tiên ở bên núi trông thấy, liền chạy lại chào.
Một lúc ra khỏi vườn. Vương phu nhân sợ Giả mẫu mệt, muốn mời vào ngồi nghỉ ở buồng trên. Giả mẫu thấy mỏi chân, liền gật đầu, bằng lòng. Vương phu nhân vội sai a hoàn về trước xếp đặt chỗ ngồi.
Bấy giờ dì Triệu cáo bệnh, chỉ có dì Chu và bọn bà già a hoàn chạy ra vén rèm, giải nệm, đặt cái tựa lưng. Giả mẫu vịn Phượng Thư đi vào, cùng Tiết phu nhân đều ngồi. Bảo Thoa, Tương Vân thì ngồi ở dưới. Vương phu nhân tự tay dâng nước mời Giả mẫu. Lý Hoàn thì mời Tiết phu nhân. Giả mẫu bảo Vương phu nhân:
– Chị cứ ngồi xuống đây nói chuyện, mặc cho chị em nó hầu.
Vương phu nhân mới ngồi xuống một cái ghế nhỏ, rồi bảo Thượng Thư:
– Dọn cơm của bà ra đây, thêm mấy món ăn nữa.
Phượng Thư vâng lời đi ra, sai người sang bên nhà Giả mẫu, bọn bà già vội truyền ra. Bọn a hoàn đều chạy đến cả.
Vương phu nhân sai người mời các cô đến. Một lúc, chỉ có Thám Xuân, Tích Xuân đến thôi. Nghênh Xuân trong người khó ở, nên không đến. Đại Ngọc thì không cần phải nói, mười bữa chỉ ăn độ năm, nên chẳng ai để ý đến.
Một chốc đến bữa ăn, mọi người sắp đặt bàn ghế. Phượng Thư để một nắm đũa ngà vào trong khăn tay, đứng bên dưới cười nói:
– Bà và dì không cần phải mời nhau, để mình cháu nói là đủ.
Giả mẫu cười bảo Tiết phu nhân:
– Ừ thì chúng ta cứ như thế.
Tiết phu nhân cười gật đầu. Thượng Thư đặt bốn đôi đũa, hai đôi ở trên là của Giả mẫu và Tiết phu nhân, hai đôi ở một bên là của Bảo Thoa và Tương Vân. Vương phu nhân và Lý Hoàn đều đứng ở dưới trông nom người đưa đồ ăn. Phượng Thư vội lấy bát đũa sạch, chọn đồ ăn để đưa cho Bảo Ngọc.
Một chốc người hầu bưng canh lá sen đến. Giả mẫu xem xong, Vương phu nhân ngảnh lại thấy Ngọc Xuyến đứng ở đấy, liền sai đem canh cho Bảo Ngọc. Phượng Thư nói:
– Một mình nó không mang nổi đâu.
May có Oanh Nhi và Hỷ Nhi đến, Bảo Thoa biết chúng nó đã ăn cơm cả rồi, liền bảo Oanh Nhi:
– Cậu Hai bảo em sang xe hộ ít dây đấy, em cùng đi sang với Ngọc Xuyến.
Hai người vâng lời cùng đi.
Oanh Nhi nói:
– Đường thì xa, canh thì nóng, mang đi thế nào được?
Ngọc Xuyến cười nói:
– Chị cứ yên tâm, tôi sẽ có cách.
Nói xong, nó sai một bà già để các thức ăn vào khay, bảo mang đi theo, còn hai cô đi không. Đến trước cửa viện Di Hồng, Ngọc Xuyến mới bưng lấy, cùng Oanh Nhi đi vào buồng. Bọn Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Thu Văn đương cười đùa với Bảo Ngọc, thấy họ đến, vội cười nói:
– Sao khéo thế? Hai cô cùng đến một lúc.
Họ bưng lấy khay. Ngọc Xuyến ngồi ngay xuống ghế, Oanh Nhi không dám ngồi. Tập Nhân mang cái ghế chân đến, Oanh Nhi cũng không dám ngồi.
Bảo Ngọc thấy Oanh Nhi đến, rất là vui mừng. Khi thấy Ngọc Xuyến, lại nghĩ ngay đến chị nó là Kim Xuyến, trong bụng vừa thương xót vừa xấu hổ, liền bỏ Oanh Nhi, chỉ nói chuyện với Ngọc Xuyến. Tập Nhân thấy Bảo Ngọc không đả động gì đến Oanh Nhi, sợ Oanh Nhi mủi lòng, lại thấy nó không chịu ngồi, liền kéo sang buồng mình uống nước nói chuyện.
Trong nhà thì bọn Xạ Nguyệt sắp đặt bát đũa mời Bảo Ngọc ăn cơm, nhưng Bảo Ngọc không ăn, cứ hỏi chuyện Ngọc Xuyến:
– Đẻ chị có được khỏe không Ngọc Xuyến tỏ vẻ hờn dỗi, mắt không nhìn đến Bảo Ngọc, lúc lâu mới trả lời một câu “khỏe”. Bảo Ngọc có vẻ không vui một chốc lại cười hỏi:
– Ai bảo chị mang đồ đến đây cho tôi đấy.
– Bà và mợ Hai, chứ còn ai nữa.
Bảo Ngọc thấy mặt Ngọc Xuyến buồn rầu, biết ngay là vì việc Kim Xuyến, định dịu giọng hòa nhã để dử chuyện cô ta, nhưng vì nhiều người không tiện, liền tìm cách bảo họ đi ra, rồi mới cười hỏi tẩn mẩn. Trước thì Ngọc Xuyến không bằng lòng, sau thấy Bảo Ngọc không có tí gì là bực tức cả, dù mình ăn nói sỗ sàng thế nào, Bảo Ngọc vẫn ôn tồn hòa nhã, thì lại đâm ra khó coi, nên nét mặt đã tỏ ra vài phần tươi tỉnh.
Bảo Ngọc liền cười bảo Ngọc Xuyến:
– Chị Ơi, chị mang hộ canh lại đây cho tôi ăn.
– Tôi không quen bón cơm cho ai cả, để chờ họ đến sẽ cho cậu ăn.
– Tôi không đòi chị bón cho tôi ăn đâu, tôi đau không đi được, mới nhờ chị mang giúp cho tôi ăn. Sau đó chị về mà ăn cơm, kẻo chậm lại bị đói. Nếu chị không lấy giúp, tôi đành phải chịu đau đi lấy vậy.
Bảo Ngọc cố gượng mãi, nhưng không xuống giường được mồm luôn luôn kêu “Ái chà”. Ngọc Xuyến thấy thế, nhịn không được, liền đứng dậy nói:
– Thôi nằm xuống, thật là oan nghiệt đời nào để lại, bây giờ báo ứng trước mắt, trông thấy rành rành!
Nói xong cười khì một tiếng, rồi đi bưng canh đến.
Bảo Ngọc cười nói:
– Chị Ơi, chị có giận, chỉ nên cáu gắt ở đây thôi, khi đến chỗ cụ và bà, thì nét mặt nên vui vẻ một chút. Nếu cứ thế này, chị sẽ bị mắng đấy.
– Thôi, ăn đi! Tôi biết cả rồi, cậu đừng giở giọng đường mật ra đây nữa.
Bảo Ngọc ăn mấy thìa, giả vờ kêu không ngon.
Ngọc Xuyến bĩu môi nói:
– A di đà phật, thứ này mà bảo là không ngon, thì chả còn cái gì ngon nữa!
– Chả có mùi mẽ gì cả, chị không tin thì nếm một tí mà xem.
Bấy giờ Ngọc Xuyến mới hiểu ý Bảo Ngọc đánh lừa mình, liền nói:
– Trước cậu bảo không ngon, bây giờ lại bảo ngon, thì tôi không cho cậu ăn nữa.
Bảo Ngọc cứ cười tràn đòi ăn, Ngọc Xuyến không cho ăn, gọi mang cơm lên.
Khi a hoàn mang cơm đến, thì có người vào trình:
– Có bầu ngực nhà cụ Phó đến hỏi thăm cậu.
Bảo Ngọc biết ngay là vú nhà quan thông phán Phó Thí.
Nguyên Phó Thí là môn sinh của Giả Chính, xưa nay nhờ thế lực họ Giả mà làm nên. Giả Chính đối đãi hắn cũng tử tế hơn, không như nhưng người khác. Hắn thường sai người qua lại thăm hỏi.
Bảo Ngọc vốn ghét bọn đàn ông thô tục và đàn bà ngu xuẩn, nhưng tại sao lần này lại sai mời hai bà già ấy vào? Tất nhiên có duyên cớ. Vì Bảo Ngọc nghe nói nhà Phó Thí có người em gái tên gọi Phó Thu Phương, sắc tài vẹn hai, cũng là viên ngọc quý trong khuê các. Mắt tuy chưa trông thấy, nhưng tấm lòng trộm nhớ thầm yêu rất là chân thành, kính cẩn. Nếu không để cho hai bà này vào, sợ coi nhẹ Phó Thu Phương chăng, vì vậy Bảo Ngọc vội sai người ra mời.
Phó Thí là nhà mới phất lên. Thu Phương lại có nhan sắc thông minh hơn người, Phó Thí cậy có em gái như thế, nên chỉ muốn kết thân với nhà hào quý, chứ không chịu gả cho người thường, mà đám hào quý thì khinh hắn là con nhà nghèo hèn, thấp kém, không thèm hỏi đến, vì thế cô ta lỡ thời, đã hai mươi ba tuổi, vẫn chưa lấy ai. Sở dĩ Phó Thí đi lại thân mật với họ Giả, cũng là có một ý nghĩ đấy.
Hai bà già đến đây lại là hạng ngu xuẩn không biết gì. Được Bảo Ngọc mời vào, ngoài câu hỏi thăm ra, họ không nói được lời nào.
Ngọc Xuyến thấy người lạ đến, không cãi nhau với Bảo Ngọc nữa, tay cầm bát canh đứng ngẩn ra nghe. Bảo Ngọc thì cứ ngoảnh lại nói chuyện với hai bà già, vữa ăn cơm vữa giơ tay đòi bát canh. Cả Bảo Ngọc và Ngọc Xuyến cứ nhìn chòng chọc vào hai bà già kia, không ngờ tay giơ mạnh quá, đụng đổ bát canh, nước canh sánh cả vào tay Bảo Ngọc. Ngọc Xuyến không bị bỏng, giật mình một cái, vội cười nói:
“Làm sao thế này?”.
Đám a hoàn vội chạy đến đỡ lấy bát. Bảo Ngọc không biết chính tay mình bị bỏng, lại hỏi Ngọc Xuyến:
– Chị bỏng ở đâu? Có đau không?
Ngọc Xuyến cùng mọi người cười ầm lên. Ngọc Xuyến nói:
– Chính cậu bị bỏng, lại còn hỏi tôi. Bảo Ngọc nghe nói, mới biết mình đã bị bỏng. Mọi người vội đến thu dọn. Bảo Ngọc không ăn cơm nữa, rửa tay uống nước, lại nói chuyện với hai bà già. Sau đó họ cáo từ ra về. Bọn Tình Văn đi tiễn đến bên cầu mới trở lại.
Hai bà già vừa đi vừa bàn tán, một bà già cười nói:
– Chả trách được, người ta thường nói cậu Bảo này bề ngoài thì xinh đẹp, mà bên trong thì hồ đồ, chỉ là của để nhìn chứ không phải để ăn, quả nhiên là ngây ngô! Chính mình bị bỏng tay, lại đi hỏi người khác có đau không.
Bà kia cười nói:
– Lần trước tôi sang, thấy nhiều người nhà bên ấy nói chuyện, thì cậu ấy ngây ngô thực, bị mưa to ướt như con gà luộc ấy, thế mà lại bảo người khác “mưa to đấy, tránh đi mau”. Bà xem, có đáng buồn cười hay không? Thường lúc vắng người, cậu ấy ngồi cười khóc một mình; trông thấy con chim yến, thì nói chuyện với con chim yến; trông thấy con cá ở dưới sông, thì nói chuyện với con cá; nhìn thấy sao tỏ trăng sáng, không thở ngắn than dài, cũng rên thầm rỉ kín.
Vả chăng tính nết cậu ta rất là nhu nhược, nhịn nhục cả với bọn a hoàn hầu bé. Yêu quý mọi thứ, ngay từ sợi chỉ cũng cho là đẹp, nhưng đến lúc phung phí thì dù hàng nghìn hàng vạn cậu ta cũng không cần.
Hai người bàn tán và đi ra khỏi vườn.
Tập Nhân thấy mọi người đi rồi, liền dắt Oanh Nhi đến hỏi:
– Tết những dây gì?
Bảo Ngọc cười bảo Oanh Nhi:
– Từ nãy đến giờ, chỉ mải nói chuyện, tôi quên hẳn chị đi, phiền chị sang đây, không có việc gì khác đâu, chỉ nhờ chị tết hộ mấy cái dây thôi. Oanh Nhi hỏi:
– Tết dây để buộc cái gì?
– Chả buộc vào cái gì, chị cứ theo mỗi kiểu tết hộ tôi mấy cái.
Oanh Nhi vỗ tay cười nói:
– Thế thì làm thế nào được! Nếu làm thế thì mười năm cũng chưa xong.
Bảo Ngọc cười nói:
– Chị Ơi, chị rỗi chẳng có việc gì, thì cứ làm hộ tôi.
Tập Nhân cười nói:
– Làm một lúc thì xong thế nào được. Giờ hãy chọn mấy cái cần thì làm trước.
Oanh Nhi nói:
– Còn cái gì cần nữa? Chẳng qua là dây đeo quạt, dây đeo túi thơm, dây đeo quần chứ gì?
Bảo Ngọc nói:
– Dây đeo quần cũng được.
Oanh Nhi hỏi:
– Quần của cậu màu gì?
– Màu đỏ thắm.
– Màu đỏ thắm phải có dây đen, thì nhìn mới đẹp, hay là màu thạch thanh mới nổi.
– Màu hoa thông hợp với màu gì?
– Màu hoa thông hợp với màu hồng điều.
– Thế mới tươi đẹp. Trong các màu nhã nhặn, phải thêm cái màu tươi đẹp nữa.
– Tôi rất thích màu thông xanh pha với màu liễu vàng.
– Thôi được, chị tết hộ tôi một dây màu hồng điều, một dây màu thông xanh.
– Tết những kiểu gì?
– Có mấy kiểu?
– Kiểu bó hương, kiểu ghế rút rế, kiểu mắt voi, kiểu xếp chéo, kiểu liên hoàn, kiểu hoa mai, kiểu lá liễu…
– Hôm nọ chị tết hộ cô Ba kiểu gì đấy?
– Kiểu hoa mai chồng lên nhau.
– Kiểu ấy đẹp đấy.
Rồi gọi Tập Nhân mang chỉ đến. Thấy một bà già đứng ở ngoài cửa sổ nói:
“Cơm các cô được rồi đấy!”. Bảo Ngọc nói:
– Thôi các chị đi ăn cơm đi, ăn xong trở lại đây.
Tập Nhân cười nói:
– Đương có khách, chúng tôi đi sao tiện?
Oanh Nhi vừa gỡ chỉ vừa cười:
– Sao chị lại nói thế, cứ đi ăn cơm đi.
Tập Nhân bấy giờ mới đi, để hai đứa hầu nhỏ ở lại.
– Họ với tên xứng nhau quá, thực là con chim hoàng oanh.
– Chính tên tôi là Kim Oanh. Nhưng cô tôi cho là khó gọi, nên chỉ gọi là Oanh Nhi, bây giờ gọi đã quen rồi.
– Thế là cô Bảo thương chị lắm đấy. Sau này cô ấy đi lấy chồng, thế nào chị cũng đi theo.
Oanh Nhi bĩu môi cười một cái.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi thường bảo chị Tập Nhân:
không biết sau này anh nào có phúc vớ được cả hai cô cháu nhà chị!
Oanh Nhi cười nói:
– Cậu chưa biết, dáng điệu chỉ là phụ thôi, cô tôi còn có nhiều cái tốt mà ở đời này không mấy người có.
Bảo Ngọc thấy Oanh Nhi có dáng xinh xắn, dịu dàng, cười nói như ngây, trong bụng đã xiêu xiêu, nay lại nghe nhắc đến Bảo Thoa thì nhịn sao được. Liền hỏi:
– Chị ấy có nhưng cái gì tốt, chị thử kể rành mạch cho tôi nghe nào?
– Tôi kể cho cậu nghe, nhưng cậu không nên nói lại cho cô tôi biết đấy nhé.
– Cố nhiên!
Đương nói chuyện thì bên ngoài có tiếng nói:
“Làm sao mà lại lặng lẽ như tờ thế này?” Hai người nhìn ra, thì chính là Bảo Thoa.
Bảo Thoa vừa hỏi vừa nhìn vào tay Oanh Nhi, thấy Oanh Nhi mới tết được một nửa cái dây, Bảo Thoa cười nói:
– Tết cái này để làm trò gì? Hãy tết cái dây đeo viên ngọc đã Câu nói ấy làm Bảo Ngọc nhớ ra, vỗ tay cười nói:
– Chị Bảo nói phải đấy, tôi quên đi mất. Nhưng tết màu gì cho đẹp được?
Bảo Thoa nói:
– Các màu thường nhất định không thể dùng được. Màu đỏ lại lẫn màu. Màu vàng thì không nổi, màu đen thì tối quá. Cứ ý tôi, nên lấy chỉ kim tuyến xe lẫn với chỉ đen bóng, sợi nọ xe lẫn sợi kia, tết như thế mới đẹp.
Bảo Ngọc nghe nói mừng lắm, gọi dồn Tập Nhân mang ngay chỉ kim tuyến ra. Bấy giờ Tập Nhân đương mang hai bát đồ ăn đến, nói với Bảo Ngọc:
– Lạ thật! Vừa rồi bà cho người mang sang cho tôi hai bát đồ ăn.
Bảo Ngọc cười nói:
– Chắc hôm nay nhiều đồ ăn, nên mới đưa sang cho cả các chị.
Tập Nhân nói:
– Không phải thế đâu, đưa sang đích danh cho tôi, nhưng lại không bắt sang lạy tạ, thế mới lạ chứ?
Bảo Thoa cười nói:
– Cho chị thì chị cứ ăn, việc gì còn phải ngần ngại?
Tập Nhân nói:
– Xưa nay chưa có như thế bao giờ, làm tôi khó nghĩ quá.
Bảo Thoa bĩu môi cười nói:
– Có thế mà cũng khó nghĩ? Sau này còn có nhiều việc làm chị khó nghĩ hơn thế nữa kia!
Tập Nhân nghe câu nói có ngụ ý gì đây, nhưng biết Bảo Thoa xưa nay không phải là hạng giọng lưỡi chua chát hay chế giễu người.
Vả lại nghĩ đến hôm trước, Vương phu nhâncó ý biệt đãi mình, nên không nhắc đến câu nói ấy nữa, rồi đem đồ ăn đến cho Bảo Ngọc xem, và nói:
– Tôi đi rửa tay đã, rồi sẽ mang chỉ ra.
Tập Nhân ăn xong, rửa tay, lấy chỉ kim tuyến ra đưa cho Oanh Nhi. Bấy giờ Tiết Bàn đã sai người sang gọi Bảo Thoa về.
Bảo Ngọc đương ngồi xem xe dây, thấy hai a hoàn của Hình phu nhân đem đến cho hai thứ quả, và hỏi:
– Cậu đã đi lại được chưa? Nếu đi được thì sáng mai sang chơi, bà tôi lúc nào cũng nhớ đến cậu đấy.
Bảo Ngọc vội nói:
– Thế nào tôi cũng phải sang thăm sức khỏe bác. Tôi đã đỡ đau rồi, xin bác cứ yên tâm.
Rồi mời họ ngồi xuống, và bảo Thu Văn mang một nửa thứ quả ấy sang cho Đại Ngọc. Thu Văn sắp đi, đã thấy tiếng Đại Ngọc nói ở ngoài sân. Bảo Ngọc vội bảo mời vào.
Ngẫm đường tình phận, viện Lê Hương duyên đẹp định rồi
Giả mẫu từ khi ở buồng Vương phu nhân về, thấy Bảo Ngọc mỗi ngày một khá, trong bụng rất vui mừng. Nhưng sợ Giả Chính lại gọi chăng, liền sai người đi gọi đứa hầu cận Giả Chính đến bảo:
– Từ giờ trở đi, có khách nào ông mày muốn gọi Bảo Ngọc đến tiếp, thì không được gọi, hãy trình với ông mày rằng:
tao bảo một là Bảo Ngọc bị đánh đau, phải chăm nuôi mấy tháng mới đi lại được; hai là năm nay nó có sao hạn chiếu mệnh, phải cúng sao, kiêng không tiếp người lạ. Đến hết tháng tám mới được ra ngoài.
Tên hầu cận vâng lời đi ra. Giả mẫu lại gọi vú Lý và Tập Nhân về kể lại nhưng câu ấy cho Bảo Ngọc nghe, để Bảo Ngọc yên lòng.
Bảo Ngọc xưa nay vẫn không thích tiếp chuyện với bọn quan lại đàn ông, lại rất ghét nhưng lúc phải mũ áo xúng xính đi mừng đi thăm các nơi. Bây giờ được bà bảo thế, càng đắc ý, không những từ khước tất cả họ hàng bè bạn, mà ngay trong gia đình, muốn đến thăm cha mẹ hay không là tùy ý. Ngày chỉ nằm ngồi chơi đùa trong vườn, mỗi buổi sáng sang thăm bà và mẹ một lần, rồi về nhà, suốt ngày thích để cho đám a hoàn sai vặt, lại cho là thú tiêu khiển của mình. Bọn Bảo Thoa có lựa lời khuyên ngăn, thì cáu kỉnh nói:
“Các cô là hạng con gái trong sạch, mà cũng học lối mua chuộng hư danh, theo hùa với bọn giặc nước và bọn quỷ ăn lộc. Đó chẳng qua là tại người xưa ngồi rỗi bày trò, cố ý bịa đặt, để cám dỗ bọn râu mày ô trọc đời sau. Ta không ngờ sinh gặp lúc không may, đến cả chị em trong lầu son gác tía cũng lây phải thói xấu ấy, thực là phụ cái ơn chung đúc khí thiêng liêng của trời đất!” Mọi người thấy thế, cũng không khuyên can nữa. Chỉ có Đại Ngọc từ bé đến giờ không hề hé miệng khuyên chuyện lập công danh để hiển dương cha mẹ gì cả, vì thế Bảo Ngọc rất kính phục Đại Ngọc.
Sau khi Kim Xuyến chết, có mấy người đầy tớ thường đến hỏi thăm, hầu hạ Phượng Thư và biếu xén các thứ, trong bụng Phượng Thư đâm ngờ, không biết ý họ thế nào. Hôm ấy lại có người đem đồ lễ đến biếu. Nhân buổi chiều không có ai, Phượng Thư cười hỏi Bình Nhi. Bình Nhi cười nhạt:
– Thế mà mợ cũng không nghĩ ra à? Tôi đoán những người thường đi lại biếu xén mợ, đều có con làm a hoàn cho bà Hai cả. Hiện giờ trong nhà bà Hai có bốn đứa con lớn, mỗi đứa mỗi tháng được lĩnh một lạng bạc, ngoài ra những đứa khác chỉ được có mấy trăm đồng thôi. Nay Kim Xuyến chết rồi, chắc họ muốn dòm ngó cái số một lạng bạc chứ gì?
Phượng Thư cười nói:
– Phải đấy, em nhắc chị mới nhớ ra. Nhưng mà họ không biết điều tí nào. Tiền muốn nhiều, việc khó nhọc lại không muốn gánh.
Giá họ biết thân biết phận, được đưa con vào hầu hạ Ở đây, đã là quá lắm rồi, lại còn nghĩ đến chuyện ấy nữa à? Thôi được, tiền của họ có phải dễ dàng đưa đến ta tiêu đâu. Đó là tự họ mang đến, vậy thì họ biếu cái gì ta cứ nhận, còn ta đã có chủ ý.
Phượng Thư định bụng như thế, nên cứ để dằng dai mãi, chờ khi nào mọi người biếu đủ cả, mới lựa dịp trình với Vương phu nhân.
Buổi trưa hôm ấy, Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc đương ngồi cả ở buồng Vương phu nhân ăn dưa. Phượng Thư nhân dịp liền trình:
– Từ khi Kim Xuyến chết, mẹ thiếu một người hầu, giờ người định cho a hoàn nào thay, xin cho biết để cuối tháng sẽ phát lương cho nó.
Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nói:
– Cứ ý ta thì có lệ đâu lại nhất thiết cứ phải bốn hay năm người?
Cốt đủ người sai là được, thừa thì nên bớt đi.
Phượng Thư cười nói:
– Cứ lẽ ra thì mẹ nói rất phải, nhưng đó là theo lệ cũ. Nhà người khác còn có hai người hầu nữa là nhà mẹ mà lại không theo đúng lệ ư! Vả chăng bớt đi một lạng bạc cũng chả là mấy.
Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nói:
– Thôi được, cái số tiền ấy cứ chi lại đây, không cần phải lấy thêm người nữa, ta sẽ cho em nó là Ngọc Xuyến. Con chị nó đã hầu ta bao lâu, mà chẳng được cái gì, bây giờ con em theo hầu ta, cho nó ăn hai phần tiền cũng chẳng lấy gì làm quá đáng.
hiện giờ lương dì Triệu và dì Chu mỗi tháng bao nhiêu?
– Đã có lệ rồi, mỗi người hai lạng, dì Triệu lại còn có hai lạng tiền lương của em Hoàn, cộng là bốn lạng, ngoài ra còn có bốn quan tiền nữa.
– Tháng nào chị cũng phát đủ số đấy chứ?
Phượng Thư thấy câu hỏi hơi lạ, liền nói:
– Sao lại không đủ?
– Hôm nọ nghe đâu có người ta thán rằng dì ấy bị bớt một quan tiền lương, thế là vì cớ gì?
– Nguyên trước tiền lương bọn a hoàn hầu các dì ấy, mỗi người được một quan, không biết năm ngoái ở bên ngoài họ bàn bạc thế nào lại bớt mất một nửa, thành ra tiền lương của bọn a hoàn hầu các dì ấy chỉ còn mỗi người có năm trăm đồng thôi. Mỗi dì có hai a hoàn, phải bớt đi một quan. Thực ra việc này không phải tự con. Con vẫn muốn phát đủ, nhưng từ bên ngoài người ta khấu đi mất rồi, chả lẽ con xuất tiền lương ra bù sao! Con chẳng qua là người đứng nhận mà thôi. Thu bao nhiêu phát bấy nhiêu, con có được làm chủ đâu. Con đã nói hai ba lần, nên để số lương như cũ là phải; nhưng họ bảo chỉ có chừng ấy thôi, vì vậy con không thể nói lại được nữa. Hiện giờ chính tay con phát lương cho họ, phát đúng ngày đúng tháng. Trước kia họ lĩnh ở bên ngoài, tháng nào cũng rắc rối, có bao giờ được trôi chảy như thế này đâu.
Vương phu nhân nghe nói, nín một lúc rồi hỏi:
– Thế thì trong nhà cụ có mấy người được ăn lương một lạng?
– Tám người, nhưng bây giờ còn có bảy thôi, vì trừ Tập Nhân.
– Thế thì phải đấy. Trong nhà em Bảo không có a hoàn nào được ăn lương một lạng cả. Tập Nhân vẫn chỉ coi như người hầu của cụ thôi.
– Tập Nhân vẫn là người hầu của cụ cho sang ở tạm bên nhà chú Bảo, tiền lương của cô ta vẫn phải lĩnh với bọn a hoàn của cụ. Bây giờ bảo Tập Nhân là người hầu của Bảo Ngọc mà bớt một lạng tiền lương bên cụ đi thì không thể được. Phải thêm một người hầu nữa cho cụ mới có thể bớt được. Nếu không bớt, thì lại phải thêm một người hầu nữa cho em Hoàn, như thế mới công bằng. Trừ bảy a hoàn lớn là bọn Tình Văn, Xạ Nguyệt mỗi người mỗi tháng một quan tiền ra, còn tám a hoàn nhỏ là bọn Giai Huệ, cũng chỉ mỗi người mỗi tháng năm trăm đồng tiền thôi, đó là lệnh của cụ, còn ai dám kêu ca tị nạnh nữa.
Tiết phu nhân cười nói:
– Các chị hãy nghe mồm mép chị Phượng kìa, cứ liến láu như đổ xe hột đào ấy! Chị ấy tính toán rành mạch, xử sự lại rất công bằng.
Phượng Thư cười nói:
– Thưa cô, chả lẽ cháu lại dám nói sai hay sao?
Tiết phu nhân cười nói:
– Chị nói có bao giờ sai? Nhưng nên nói thong thả, có đỡ nhọc không?
Phượng Thư muốn cười nhưng lại nín lặng để nghe vương phu nhân chỉ bảo. Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nôi:
– Ngày mai cắt một a hoàn sang hầu cụ để th cho Tập Nhân, và bớt tiền lương của nó đi. Rồi mỗi tháng trích ra hai lạng bạc và một quan tiền ở trong số lương hai mươi lạng của ta, để chi cho nó. Từ giờ trở đi, hễ dì Triệu và dì Chu được hưởng cái gì, thì Tập Nhân cũng được hưởng hai ấy, nhưng về phần Tập Nhân, thì cứ lấy ở trong sổ lương của ta ra mả chi, không nên đả động đến tiền công.
Phượng Thư nhất nhất vâng lời, rời đẩy Tiết phu nhân một cái cười nói:
– Dì nghe thấy chưa, trước cháu nói thế nào, quả nhiên bây giờ đúng thế.
Tiết phu nhân nói:
– Xử thế mới phải. Không nói gì dáng dấp con bé, chỉ xem cách nó xử sự đúng đắn, nói năng hòa nhã, nhưng vẫn có vẻ cứng rắn cương quyết, thật khó có được người như thế.
Vương phu nhân rơm rớm nước mắt nói:
– Các người có biết hết chỗ tốt của Tập Nhân đâu? nó so với Bảo Ngọc còn hơn gấp mười lần! Nếu được nó hầu hạ luôn bên cạnh Bảo Ngọc, thật lả có phúc đấy!
Phượng Thư nói:
– Đã thế thì sao không lấy nó làm nàng hầu ở ngay trong nhà có hơn không?
Vương phu nhân nói:
– Không được. Một là nó còn ít tuổi, hai là ông không bằng lòng, ba là Bảo Ngọc thấy nó còn là a hoàn, thì dù có phóng túng chăng nưa, cũng phải nghe lời nó khuyên răn; nếu bây giờ cho nó làm nàng hầu ngay, không khi nào nó dám khuyên ngăn đến nơi đến chốn.
Thôi hãy cứ để thế, hai ba năm nữa sẽ liệu.
Phượng Thư thấy không có việc gì, liền quay ra, vừa đi đến thềm, đã có mấy người đàn bà đứng chờ ở đấy, thấy Phượng Thư ra, họ đều cười nói:
– Hôm nay mợ vào trình việc gì mà lâu thế Không biết nực à?
– Chỗ này gió lùa mát quá, đứng hóng một lúc rỗi sẽ đi.
Phượng Thư lại nói với mọi người:
– Các chị bảo tôi nói chuyện lâu quá, nhưng bà cứ hỏi tôi những việc gì hàng trăm năm về trước không có lẽ tôi lại không nói? – Lại cười nói – Từ giờ trở đi, tôi làm việc phải cay nghiệt một chút mới được. Họ có oán trách tôi, đến tại bà, tôi cũng chẳng sợ. Những bọn con đĩ thối mồm thối mép, chết đâm chết chém ấy, đừng có mơ tưởng!
Nay mai sẽ có ngày ta phải bớt lương khắp lượt cho mà coi. Bây giờ mới bớt của a hoàn, mà đã oán trách ầm lên. Sao không biết nghĩ, mình nó có đáng sai khiến ba đứa không Phượng Thư vừa rủa, vừa đi, rồi chọn một a hoàn đưa sang bên Giả mẫu. Vương phu nhân ăn dưa xong, nói chuyện một lúc rồi đi về Đến vườn, Bảo Thoa rủ Đại Ngọc vào Ngẫu Hương tạ chơi. Đại Ngọc nói:
“phải về tắm rửa”, rồi đi ngay. Bảo Thoa đi một mình, tiện đường tạt vào viện Di Hồng, muốn gặp Bảo Ngọc nói chuyện để khuây khỏa buổi trưa. Khi vào đến sân, thấy lặng lẽ không một tiếng động. Đôi hạc đậu ở khóm chuối cũng đều thiu thiu giấc ngủ. Bảo Thoa rẽ sang bên cạnh, vào ngay trong buồng, thấy ở gian ngoài, bọn a hoàn đương ngủ ngổn ngang cả trên giường. Bảo Thoa đi qua cửa sổ có treo màn gấm các màu, vào tận buồng Bảo Ngọc, thấy Bảo Ngọc cũng ngủ, chỉ có Tập Nhân ngồi thêu bên cạnh, để một cái phất trần cán bằng sừng trắng.
Bảo Thoa đến gần khê cười nói:
Chị cẩn thận quá, trong nhà này còn có ruồi muỗi à? Để cái này làm gì đấy?
Tập Nhân bất thình lình ngẩng đầu lên, trông thấy Bảo Thoa, vội bỏ kim chỉ đứng dậy, khẽ cười nói:
Cô đến đấy à? Tồi sợ giật nẩy mình lên. Cô chưa biết, ở đây tuy không ruồi muỗi, nhưng có một thứ sâu nhỏ ở ngoài màn chui vào, chẳng ai trông thấy. Trong khi ngủ, lỡ nó cắn vào người, thì đau như kiến đốt.
Bảo Thoa nói:
– Chả trách được, đằng sau thì gần nước, lại trồng các thứ hoa, làm thơm lừng cả nhà lên, giống sâu này quen ăn nhị hoa, hễ ngửi thấy mùi thơm là thế nào nó cũng chui vào.
Bảo Thoa nhìn cái bức thêu ở tay Tập Nhân. Đó là cáiyếm bằng lụa trắng, giữa có màu đỏ, trên mặt thêu kiểu “Uyên ương vờn hoa sen” có hoa đỏ lá xanh, có chim uyên ương năm màu.
Bảo Thoa nói:
– Ái chà? Tươi đẹp quá! Cái này của ai mà làm phí bao nhiêu là công?
Tập Nhân ngoảnh vào giường bĩu môi. Bảo Thoa cười nói:
– Người đã lớn thế mà còn đeo cái này à?.
Tập Nhân cười nói:
– Xưa nay cậu ấy vẫn không chịu đeo, nên phải làm thật đẹp, để cậu ấy trông thấy tự khắc phải đeo! Bây giờ trời nóng, nhân lúc cậu ấy ngủ không để ý, tôi lựa cách đeo vào cho, lỡ đêm không đắp chăn cẩn thận cũng không sao. Cô nói làm cái này tốn công, có lẽ cô chưa thấy cái cậu ấy đang đeo trong người sao!
– Chị chịu khó quá!
– Hôm nay làm việc nhiều, cổ cúi xuống đau nhừ cả người.
Lại cười nói:
– Cô hãy ngồi chơi, tôi ra ngoài một tý rồi vào ngay.
Nói xong đi ra.
Bảo Thoa chỉ chăm chú nhìn cái bức thêu nên không để ý, ngồi luôn xuống đó. Vì cũng thích bức thêu, Bảo Thoa liền lấy ngay kim thêu tiếp.
Không ngờ Đại Ngọc hẹn Tương Vân đến mừng Tập Nhân. Hai người vào sân, thấy vắng ngắt cả. Tương Vân quay ra ngoài hiên đi tìm Tập Nhân, Đại Ngọc tìm đến chỗ cửa sổ, đứng ngoài màn the nhìn vào, thấy Bảo Ngọc mặc cái áo sa màu hồng, nằm ngủ ở trên giường, Bảo Thoa ngồi thêu bên cạnh, có cái đập ruồi để gần đấy.
Đại Ngọc thấy thế, đứng né ra một bên, lấy tay bịt mồm, không dám cười ra tiếng, liền vẫy Tương Vân lại. Tương Vân tưởng có gì lạ, vội chạy lại, thấy thế, muốn cười, nhưng nghĩ Bảo Thoa xưa nay đối với mình tử tế, liền nín ngay, biết Đại Ngọc vốn tính đành hanh, hay nói bóng nói gió để chế nhạo người, Tương Vân kéo Đại Ngọc và nói:
– Đi đi thôi. Tôi nhớ Tập Nhân có nói là đến trưa sẽ ra ao giặt quần áo, chắc chị ta đã ở đấy rồi, chúng ta đi tìm chị ấy thôi.
Đại Ngọc hiểu ý, cười nhạt một tiếng rồi theo đi.
Bảo Thoa ở trong nhà mới tết được vài ba cái hoa, thấy Bảo Ngọc nằm mê thét lên:
“Lời nói hòa thượng và đạo sĩ tin thế nào được? Cái gì là nhân duyên vàng ngọc! Tôi chỉ biết duyên cây và đá thôi!” Bảo Thoa nghe câu ấy, bất giác sửng sốt, chợt thấy Tập Nhân vào cười hỏi:
– Cậu ấy chưa dậy à?
Bảo Thoa lắc đầu. Tập Nhân lại cười nói:
– Tôi ta gặp cô Lâm và cô Sử, họ có đến đây không?
– Không thấy.
Rồi Bảo Thoa lại cười hỏi:
– Họ có bảo gì chị không?
Tập Nhân đỏ mặt lên, cười nói:
– Thì chẳng qua họ cũng nói đùa đấy thôi, có thực thế đâu?
Bảo Thoa cười nói:
– Hôm nay không phải họ nói đùa đâu, tôi cũng muốn mách chị việc ấy, nhưng vì chị vội đi ra.
Nói chưa dứt lời, Phượng Thư lại cho người đến gọi Tập Nhân.
Bảo Thoa cười nói:
– Chắc cũng lại việc ấy thôi.
Tập Nhân gọi hai a hoàn đến thay mình, rồi cùng Bảo Thoa ra khỏi viện Di Hồng, đến nhà Phượng Thư. Quả nhiên Phượng Thư nói chuyện ấy, và bảo phải đến tạ Ơn Vương phu nhân, chứ không cần phải đến Giả mẫu nữa, vì sợ chị ta ngượng. Khi Tập Nhân ở nhà Vương phu nhân về, thì Bảo Ngọc đã dậy và hỏi đi đâu, Tập Nhân cầm trả lời hàm hồ, đến đêm vắng người mới nói thực.
Bảo Ngọc mừng lắm, cười nói:
– Tôi xem chị còn đòi về nhà nữa hay không? Lần trước chị về thăm nhà, khi trở lại nói là anh chị muốn chuộc về, ở đây chẳng bấu víu vào đâu, sau này biết làm thế nào. Chị dùng những câu nói không có tình nghĩa để dọa tôi. Từ giờ trở đi, tôi xem còn ai dám đến đây đòi chị về nữa không Tập Nhân cười nhạt:
– Cậu đừng nói những câu ấy nữa. Từ giờ trở đi, tôi là người của bà nhà. Muốn đi đâu tôi chỉ phải trình bà thôi, không cần nói với cậu nữa.
Bảo Ngọc cười nói:
– Nếu tôi là người không ra gì, thì chị cứ trình với bà mà về để người ngoài biết tôi không tốt, nên chị mới phải đi, như thế thì chị còn ra gì nữa?
Tập Nhân cười nói:
– Sao lại không ra gì? Không lẽ kẻ cướp tôi cũng theo à? Nếu thế thì chỉ có chết thôi. Người ta dù có sống đến trăm năm, rồi cũng phải chết. Khi tắt hơi rồi, chẳng còn nghe gì, thấy gì, thế là xong chuyện.
Bảo Ngọc nghe nói, liền bịt mồm Tập Nhân lại, bảo:
– Thôi! Thôi! Đừng nói những câu ấy nữa.
Tập Nhân vẫn biết Bảo Ngọc có tính tình kỳ quặc, hễ nghe thấy người ta nói những câu nịnh hót tán tỉnh, thì cho là không thực, chán không buồn nghe; nhưng thấy người ta nói những câu thực thà thân thiết, thì lại đâm ra thương cảm.
Tập Nhân hối hận trót nói quá lời, liền cười xòa nói lảng ra chuyện khác. Rồi chuyển những câu lâu nay Bảo Ngọc thích nghe, như gió xuân trăng thu, son hồng phấn lạt; rồi đến việc người con gái thế nào là tốt. Không ngờ Tập Nhân buột miệng nói đến cái chết của người con gái, liền vội bưng mồm không nói nữa.
Bảo Ngọc đương thích nghe, bỗng thấy Tập Nhân không nói, liền cười:
– Ai mà chẳng chết? Nhưng có đáng chết thì mới chết chứ!
Những đám râu mày hên hạ, khi nghe người ta nói “Quan văn chết vì can vua, quan võ chết vì đánh giặc”. Hai cái chết ấy mới là danh tiết của bậc đại trượng phu. Nhưng, dù sao không chết vẫn hơn. Vì có vua hôn ngu mới can ngăn, chỉ biết liều chết để mua lấy tiếng khen, thì sau nây sẽ bỏ vua lại cho ai? Khi có giặc giã mới phải đi đánh, nhưng chi biết liều chết để tỏ ra mình có công đánh giặc, thì sau này bỏ nước lại cho ai? Vì vậy đều không phải là cái chết chính đáng..
Tập Nhân nói:
– Xưa nay tướng giỏi tôi hiền, đều là bất đắc dĩ mới phải chết đấy thôi.
Bảo Ngọc nói:
– Hạng quan võ ấy chẳng qua chỉ cậy sức hung hăng, chứ mưu trí kém cỏi, chẳng có tài năng, đến nỗi bị chết uổng, chả lẽ cũng là bất đắc dĩ à? Còn hạng quan văn thì lại khác hẳn, họ cứ chôn vào ruột mấy câu đọc thuộc lòng trong sách, hễ nhà vua có lỗi nhỏ gì, thì cứ nói càn ngăn bậy, để được tiếng là người trung trực; máu nóng nổi lên, dù chết cũng liều, như thế có thể gọi là bất đắc dĩ được không?
Phải biết rằng trời có cho thì mới được làm vua, nếu không phải là bực thần thánh nhân từ, không khi nào trời lại giao cho muôn việc nặng nề như thế. Vậy thì những cái chết ấy, chẳng qua chỉ để mua chuộc tiếng khen, chứ chẳng hiểu nghĩa lớn vua tôi gì cả. Còn như tôi bây giờ, nếu có phúc ra, gặp được lúc các chị em đủ mặt ở đây, mà chết ngay đi, lại được nước mắt các chị em chảy ra thành một con sông lớn, buông xác tôi xuống đó lềnh bềnh, trôi đến một chỗ rất xa xăm, không có chim ho cò gáy, rồi theo gió mà tan đi, không bao giờ hóa kiếp làm người nữa, như thế là tôi chết đúng lúc đấy!
Tập Nhân nghe những câu rồ dại ấy, liền kêu mệt, không trả lời, Bảo Ngọc mới nhắm mắt ngủ. Hôm sau quên hẳn chuyện ấy.
Đi chơi các nơi mãi đâm chán, một hôm Bảo Ngọc nghĩ ngay đến khúc hát “Mẫu đơn đình”. Vì đã được nghe hai lần, nhưng vẫn chưa thỏa. Nhân nghe nói trong đám mười hai đứa con hát ở viện Lê Hương có một Linh Quan, đóng vai nữ, hát rất hay. Bảo Ngọc đi ra cửa nách để tìm, gặp Bảo Quan và Ngọc Quan đang chơi ở sân. Thấy Bảo Ngọc đến, họ cười đón mời ngồi.
Bảo Ngọc hỏi:
– Linh Quan ở đâu?
– Chị ấy đương ở trong nhà.
Bảo Ngọc vội chạy vào, thấy Linh Quan một mình nằm dựa ở trên gối. Thấy Bảo Ngọc đến, Linh Quan vẫn cứ nằm yên không nhúc nhích. Bảo Ngọc ngồi ngay bên cạnh, vì xưa nay vẫn hay chơi đùa với những bọn con gái quen, nên cho Linh Quan cũng như các người khác, liễn ghê lại gần, cười nói, nằn nì Linh Quan hát cho nghe một bài Niêu tình ty 2. Linh Quan thấy Bảo Ngọc ngồi xuống, vội đứng dậy tránh đi chỗ khác, nghiêm nét mặt nói:
– Tôi khản cổ lắm. Hôm nọ bà đòi chúng tôi vào hát, tôi cũng không hát được.
Bảo Ngọc thấy nó ngồi lên, để ý ngắm một lúc, thì chính là người con gái ngồi viết chữ “Tường” ở dưới hoa tường vi hôm nọ. Nghĩ bụng, xưa nay mình chưa bị người ta chán ghét bao giờ nên rất khó chịu, mặt đỏ lên rồi đi ra. Bọn Bảo Quan không biết vì cớ gì, liền hỏi, Bảo Ngọc nói cho họ biết. Bảo Quan cười nói:
– Cậu hãy chờ một lát. Cậu Tường về bảo nó hát, nhất định nó sẽ hát ngay.
Bảo Ngọc nghe nói, có ý buồn, liền hỏi:
– Anh Tường đi đâu?.
– Cậu ấy vừa mới đi. Chắc là Linh Quan cần cái gì, cậu ấy đi tìm cho nó đấy.
Bảo Ngọc lấy làm lạ, đứng chờ một lúc, thấy Giả Tường ở ngoài chạy về, tay cầm cái lồng chim, trong lồng có con chim sẻ và một cái cầu nhỏ để làm trò. Hắn hăm hở đến tìm Linh Quan, chợt trông thấy Bảo Ngọc, đành phải đứng lại.
Bảo Ngọc hỏi:
– Giống chim sẻ gì thế mà biết ngậm cờ múa trên cầu làm trò?
– Đây là giống chim sẻ cổ trắng.
– Mua hết bao nhiêu tiền?
– Một lạng tám đồng bạc.
Hắn vừa nói vừa mời Bảo Ngọc ngồi, rồi chạy vào nhà Linh Quan.
Bảo Ngọc không nghĩ đến chuyện hát nữa, chỉ muốn xem Giả Tường với Linh Quan ra thế nào. Giả Tường chạy đến phòng Linh Quan cười bảo:
– Em lại mà xem, cái này thích lắm..
Linh Quan đứng dậy hỏi:
– Cái gì?
– Anh mua con chim sẻ để em chơi đỡ buồn. Anh bắt nó làm trò cho em xem nhé!
Nói xong, hắn lấy nắm thóc nhử con chim sẻ, quả nhiên nó nhảy ngay lên cái cầu làm trò. Nó ngậm ngay cái mặt nạ và cái cờ múa tít.
Bọn con hát đều cười “Thú quá”, chỉ có Linh Quan cười nhạt một tiếng, tỏ vẻ bực mình, nằm xuống ngủ.
Giả Tường cười hỏi:
– Có hay không?
– Nhà các anh đã bắt bao nhiêu con nhà tử tế, đem nhốt ở trong chuồng này vẫn còn chưa đủ hay sao, lại bắt cả chim sẻ vào đây để làm trò nữa. Rõ ràng anh đem con chim sẻ ra hình dung chúng tôi để làm trò cười, lại còn hỏi có hay không!
– Hôm nay sao mà tôi u mê thế? Bỏ ra vài lạng bạc mua con chim sẻ về, tưởng để em chơi cho đỡ buồn, ngờ đâu lại đến nông nỗi này.
Thế thì anh đem thả nó ra cũng là một cách để em tai qua nạn khỏi đấy Nói xong, hắn thả con chim ra và bẻ gãy cả lồng.
Linh Quan lại nói:
– Con chim không như người, nhưng nó cũng có mẹ Ở trong tổ, thế mà anh bắt nó về làm trò chơi, liệu có nó bằng lòng hay không?
Hôm nay tôi bị thổ huyết, bà cho người gọi anh đi mời thầy thuốc đến xem bệnh cho tôi, thế mà anh lại đem cái của ấy về để làm trò cười. Hạng người như tôi hay đau yếu luôn, lại chả được ai nhìn ngó, đoái hoài đến!
Giả Tường vội nói:
– Chiều hôm qua tôi đi mời thầy thuốc, nhưng ông ấy bảo không việc gì, cứ cho uống hai thang, hôm sau sẽ đến xem lại. Ngờ đâu hôm nay em lại thổ huyết nữa. Tôi phải đi mời thầy thuốc đến ngay.
Hắn nói xong định ra đi. Linh Quan lại nói:
– Hãy hượm đã, trời nắng chang chang thế này mà anh tức khí đi ngay thì tôi cũng không xem đâu!
Giả Tường nghe nói, đành phải dừng lại.
Bảo Ngọc thấy quang cảnh vậy, đứng ngẩn người ra, mới hiểu cái thâm tâm của Linh Quan viết chữ “Tường” hôm trước.
Không thể đứng yên được, Bảo Ngọc quay đi ngay. Giả Tường bấy giờ bụng chỉ để vào Linh Quan, nên không nghĩ gì đến ai.
Khi Bảo Ngọc về, cũng chỉ có bọn con hát ra tiễn thôi.
Bảo Ngọc trong bụng vẩn vơ nghĩ ngợi, ngơ ngẩn ra về; đến viện Di Hồng, thấy Đại Ngọc và Tập Nhân đương ngồi nói chuyện. Bảo Ngọc bước vào thở dài nói với Tập Nhân:
– Câu chuyện tôi nói với chị chiều hôm qua, thực là không đúng tý nào. Chẳng trách ông thường bảo tôi “Lấy ống nhòm trời, lấy bầu đong biển”. Hôm qua tôi bảo bao nhiêu nước mắt của các chị chỉ để chôn cho một mình tôi, thật là nhầm to, nay suy ra, thì nước mắt của các chị có phải để dành cho một mình tôi cả đâu. Từ giờ về sau, mỗi một người chỉ được hưởng một số nước mắt về phần mình thôi.
Tập Nhân cho là đêm qua chẳng qua câu chuyện nói đùa, đã quên đi rồi, không ngờ Bảo Ngọc lại gọi ra, liền cười nói:
– Cậu thực là điên!
Bảo Ngọc lẳng lặng không trả lời. Từ đó mới nhận rõ là tình duyên của người ta, trời đã định trước, nên chỉ ngấm ngầm đau xót:
“Không biết sau này ta chết, ai là người rỏ nước mắt?” Đại Ngọc thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế, biết ngay là lại bị ám ảnh gì rồi, không tiện hỏi nhiều, liền nói:
– Tôi vừa mới ở bên mợ, nghe thấy nói ngày mai là ngày sinh nhật dì Tiết, bảo tôi tiện đường đến hỏi anh có đi hay không, thì cho người đến đằng nhà nói một tiếng.
Bảo Ngọc nói:
– Ngày sinh nhật ông Cả, tôi cũng không đến nữa là. Bây giờ đến đó, lỡ ra người ta trông thấy, còn ra làm sao nữa? Tôi chẳng đi đâu cả. Trời nóng thế này, mà phải đóng bộ quần áo vào thì phiền quá, tôi không đi chắc dì cũng chả giận đâu.
Tập Nhân vội nói:
– Sao cậu lại nói thế? Không thể ví bà dì với ông Cả được, vì nhà ở gần hơn, lại trong thân thích với nhau. Nếu cậu không đi thì chẳng làm cho bà ấy lại sinh nghĩ ngợi hay sao? Cậu sợ nóng, thì sáng sớm đến mừng tuổi ngay, uống chén nước trà rồi về, thế chả tốt hơn ư?
Bảo Ngọc chưa kịp nói thì Đại Ngọc cười nói ngay:
– Nghĩ lúc người ta ngồi đuổi muỗi cho mình, thì anh cũng nên đến là phải.
Bảo Ngọc không hiểu thế nào, vội hỏi:
– Ngồi đuổi muỗi là thế nào?
Tập Nhân kể lại cho Bảo Ngọc nghe câu chuyện hôm qua, khi Bảo Ngọc ngủ, không có ai ngồi cùng, cô Bảo phải ngồi lại một lúc.
Bảo Ngọc vội nói:
– Qúa đáng! Tôi ngủ không biết, sao lại dám khinh thường cô ấy như thế? Thế nào ngày mai tôi cũng phải đi.
Đang nói chuyện thì Tương Vân ăn mặc chỉnh tề đến cáo từ và nói ở nhà cho người sang đón về. Bảo Ngọc, Đại Ngọc đứng dậy mời ngồi, nhưng Tương Vân không chịu ngồi, hai người đành phải đứng dậy đi tiễn. Bây giờ Tương Vân nước mắt ràn rụa, vì có người nhà đứng đấy, nên không dám tỏ vẻ buồn rầu. Một lúc Bảo Thoa chạy đến, lại càng thêm quyến luyến, không nỡ rời tay. Bảo Thoa nghĩ bụng:
“Nếu cứ quyến luyến mãi để người nhà cô ta về mách với bà dì, thì khi cô ta về, sẽ bị dằn vặt khó chịu”. Vì thế phải giục Tương Vân đi. Mọi người tiễn ra đến cửa ngoài. Bảo Ngọc còn muốn tiễn xa nữa, nhưng Tương Vân ngăn lại. Một chốc quay lại gọi Bảo Ngọc đến gần, khẽ dặn:
– Nếu cụ không nhớ đến tôi, thì anh nên nhắc nhở, để cho người đi đón tôi sang.
Bảo Ngọc vội nhận lời. Tương Vân lên xe đi rồi, mọi người mới về.
1 Thời phong kiến, phụ nữ đứng như vậy là một cứ chỉ khinh bạc
Giả Chính được bổ chức học quan, liền chọn ngày hai mươi tháng tám lên đường. Hôm ấy, ông ta vào làm lễ cáo từ miếu tổ, cáo từ Giả mẫu, ra đi. Bọn Bảo Ngọc và mọi người gạt nước mắt tiễn theo.
Giả Chính đi rồi, Bảo Ngọc ở trong vườn tha hồ lêu lổng chơi bời.
Ngày đi tháng lại, thì giờ trôi quạ Một hôm buồn quá Bảo Ngọc đi lượn quanh chỗ Giả mẫu, Vương phu nhân một lúc rồi lại về vườn.
Vừa thay quần áo, thấy Thúy Mặc cầm mảnh giấy hoa tiên đưa đến.
Bảo Ngọc nói:
– Ta định đến thăm cô Ba, lại quên mất, giờ chị đến may quá cô ấy đã đỡ chưa?
– Cô tôi đỡ rồi, chẳng qua cảm lạnh một tí thôi. Hôm nay không uống thuốc nữa.
Bảo Ngọc mở hoa tiên ra xem, thấy viết:
Em Thám kính thưa anh Hai, Đêm trước, vừa tạnh mưa, mặt trăng trong suốt, tiếc cảnh dẹp không mấy khi được gặp, nên em chưa đi ngủ ngaỵ Đêm đã canh ba, em vẫn còn quanh quẩn ở dưới giàn ngô đồng, gặp phải gió sương trêu cợt, hơi bị cảm nhẹ. Trước anh đã thân hành đến yên ủi dặn dò.
lại sai thị nhi sang thăm, và đưa biếu quả vải tươi với bút thiếp của Nhan Chân Khanh 1. Sao anh yêu mến chân thiết em quá thế? Giờ đương lúc nằm trên giường yên tĩnh, chợt nghĩ đến người xa dù ơ?
trong trường danh lợi, cũng còn tìm nơi sông núi, mời mọc xa gần đê?
qua lại vui chơi, tìm hỏi bầu bạn, kết thân với vài ba người cùng chung chí hướng; hoặc dựng văn đàn, hoặc mở thi xã tuy hứng thú nhất thời, nhưng cũng nghìn năm để tiếng. Em không có tài, nhưng được gần nơi suối khe vòm đá, lại thêm mến cô Tiết, cô Lâm là những người phong nhã. Thềm trăng sân gió, tiếc chưa được sum họp thi nhân; rèm hạnh khe đào, may có thể say sưa ngâm vịnh. Ai bảo đua tài nơi Liên xã 2, chỉ dành cho đám râu mày; mà họp mặt núi Đông Sơn 3, lại không nhường cho bọn son phấn? Nếu được anh đội tuyết đến chơi, em xin quét hoa để đợi.
Kính thư.
Bảo Ngọc xem xong, mừng quá, vỗ tay cười nói:
– Ai ngờ em Ba lại phong nhã đến thế! Phải sang bàn việc này mới được.
Nói xong đi ngaỵ Thúy Mặc chạy theo. Khi đến đình Thấm Phương, thấy một bà già đứng chực ở cửa sau vườn, tay cầm cái thiếp đón trình:
– Anh Vân đến hầu cậu, đương chờ ở cửa sau, nhờ tôi đem thiếp lại đây.
Bảo Ngọc giở xem, thấy viết:
Con là Vân, xin kính thăm thân phụ khoẻ mạnh luôn. Từ khi nhờ ơn trời, cho phép được gần dưới gối, ngày đêm mong mỏi một bề hiếu thuận, nhưng không có dịp để tỏ lòng hiếu thảo. Nhân được giữ việc mua hoa, trên nhờ hồng phúc phụ thân, con quen nhiều thơ.
trồng hoa và thấy nhiều vườn hoa đẹp. Vừa rồi thấy cây hải đường trắng là giống hiếm có, con đi tìm mãi mới mua được hai chậu. Nếu phụ thân coi con như con đẻ, xin nhận lấy để thưởng chơi. Vì trời đương nóng nực, con vào thẳng trong vườn, sẽ làm trở ngại cho các cô, nên không dám đến hầu tận nơi. Con viết thư này kính dâng và chúc phụ thân mạnh khỏe.
Con là Vân bái thư.
Bảo Ngọc xem rồi cười nói:
– Nó đến một mình hay có người nào nữa?
Bà già nói:
– Có một mình đem theo hai chậu hoa.
– Bà ra bảo nó, tôi biết rồi. Cảm ơn nó nghĩ đến tôi, rồi bà bưng hai chậu hoa vào trong nhà cho tôi.
Bảo Ngọc cùng Thúy Mặc đến Thu Sảng trai, đã thấy Bảo Thoa, Đại Ngọc, Nghênh Xuân, Tích Xuân đều ở đấy cả.
Mọi người thấy Bảo Ngọc đến, cười ầm lên nói:
– Lại thêm một người nữa!
Thám Xuân cười nói:
– Tôi cũng không nỗi tục lắm, ngẫu nhiên nghĩ đến việc này, viết mấy cái thiếp mời, không ngờ lại được các vị đến đủ cả.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tiếc là hơi muộn, đáng lẽ nên mở thi xã sớm hơn nữa mới phải.
Đại Ngọc nói:
– Anh chị em việc mở thi xã, đừng tính tôi vào, tôi không dám dư.
đâu.
Nghênh Xuân cười nói:
– Cô mà không dám, còn ai dám nữa?
Bảo Ngọc nói:
– Đây là việc rất đứng đắn và lớn lao. Chúng ta nên hăng hái lên, đừng người nọ nhường cho người kia. Ý định của mỗi người thế nào, cứ việc nói ra, để chúng ta bàn bạc. Chị Bảo và cô Lâm hãy nói ý định của mình ra.
Bảo Thoa nói:
– Vội làm gì thế? Người đã đến đủ đâu.
Bỗng Lý Hoàn đến, cười nói:
– Nhã quá nhỉ! Định mở thi xã à! Tôi xin nhận chức Chưởng đàn.
Mùa xuân vừa rồi, tôi vẫn có ý ấy, nhưng nghĩ mình không biết làm thơ, thì bày trò làm gì. Vì thế tôi quên đi, không nhắc đến nữa. Bây giờ cô Ba đã cao hứng, thì tôi cũng xin giúp để góp phần vui chung.
Đại Ngọc nói:
– Đã định mở thi xã thì chúng ta sẽ là thi nhân cả, trước hết nên bỏ những tiếng xưng hô “chị, em, chú, mợ” đi, mới không tục.
Lý Hoàn nói:
– Phải lắm. Đặt những biệt hiệu để gọi nhau mới nhã hơn. Tôi xin tự đặt cho tôi là “Đạo Hương lão nông” 4, không ai được giành cái tên ấy.
Thám Xuân cười nói:
– Tôi là Thu Sảng cư sĩ. 5 Bảo Ngọc nói:
– Những chữ cư sĩ và chủ nhân không lấy gì làm nhã, mà lại lôi thôi. Ở đây có cây ngô đồng và ba tiêu, lấy nó đặt tên thì hay hơn.
Thám Xuân cười nói:
– Có đây, tôi thích nhất là cây ba tiêu, gọi ngay tôi là Tiêu ha.
khách 6 cũng được.
Mọi người đều nói:
– Có phong cách đặc biệt! Rất thú vị!
Đại Ngọc cười nói:
– Chúng ta kéo nó ra nướng làm nem uống rượn đi!
Câu nói ấy không ai hiểu cả. Đại Ngọc lại cười nói:
– Trang Tử có nói:
“Lá chuối che con hươu”, chị ấy tự xưng là Tiêu hạ khách, thì chẳng phải con hươu là gì? mang ngay hươu làm nem đi!
Mọi người nghe nói cười ầm lên. Thám Xuân cũng cười nói:
– Cô lại mắng khéo người ta đấy à? Chờ đấy, tôi đã nghĩ hộ cho cô một mỹ hiệu rất xứng đáng.
Rồi lại nói với mọi người:
– Ngày trước Nga Hoàng và Nữ Anh khóc nhiều, nước mắt nho?
vào cây trúc, thành ra vằn khúc, nên người đời sau đặt tên là:
“Tương Phi trúc”; bây giờ cô ấy ở quán Tiêu Tương, tính lại hay khóc, chắc sau này những cây trúc ở đó sẽ biến thành cây trúc có vằn cả. Từ giờ chúng ta gọi cô ấy là Tiêu tương phi tử mới đúng.
Mọi người nghe nói, đều vỗ tay khen haỵ Đại Ngọc ngồi cúi đầu, không nói câu gì. Lý Hoàn cười nói:
– Tôi đã đặt hộ cô Tiết một biệt hiệu rất hay, chỉ có ba chữ thôi.
Mọi người vội vã hỏi:
– Chữ gì?
Lý Hoàn nói:
– Tôi phong cho cô ấy là Hành Vu Quân, các người nghĩ thế nào?
Thám Xuân nói:
– Tên phong ấy cũng rất hay.
Bảo Ngọc nói:
– Còn tôi, nhờ chị em đặt hộ cho một biệt hiệu.
Bảo Thoa cười nói:
– Anh đã có hiệu sẵn rồi, ba chữ Vô sự mang 7 đúng lắm.
Lý Hoàn nói:
– Thôi cứ gọi hiệu cũ của chú là Giang động hoa chu 8 là được rồi.
Bảo Ngọc cười nói:
– Đó là chuyện lúc còn bé, gợi ra làm gì nữa.
Thám Xuân nói:
– Anh có nhiều tên hiệu, còn phải đặt làm gì. Từ nay chúng tôi gọi gì, anh cứ thế mà thưa, thế là được rồi.
Bảo Thoa nói:
– Để tôi đặt cho anh một tên hiệu, kể ra thì rất tục nhưng lại rất đúng với anh. Ở đời khó nhất là phú quý, mà cũng khó nhất là nhàn rỗi, hai cái ấy không thể có cả được, vậy mà anh lại có cả hai. Thôi cứ gọi anh là Phú quý nhàn nhân.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi đâu dám thế! Thôi tùy chị em muốn gọi là gì thì gọi.
Đại Ngọc nói:
– Gọi bừa như thế sao được? Anh ở viện Di Hồng, thì cứ gọi anh là Di Hồng công tử có hay không?
Mọi người đều nói:
– Cũng đúng đấy!
Lý Hoàn nói:
– Còn cô Hai, cô Tư đặt tên hiệu là gì?
Nghênh Xuân nói:
– Chúng em không biết làm thơ, thì đặt tên hiệu làm gì?
Thám Xuân nói:
– Dù sao cũng nên đặt hiệu mới phải.
Bảo Thoa nói:
– Cô Hai ở Tử Lăng châu, thì lấy hiệu Lăng Châu, cô Tư ở Ngẫu Hương tạ, thì lấy hiệu Ngẫu Tạ là xong.
Lý Hoàn nói:
– Như thế là hay rồi. Nhưng kể tuổi thì tôi lớn hơn, các người phải theo tôi. Tôi nói gì các người phải nghe theo. Trong bảy người chúng ta, tôi và cô Hai, cô Tư không biết làm thơ, thì nên chừa ba chúng tôi ra. Chúng tôi xin nhận mỗi người một việc.
Thám Xuân cười nói:
– Đã có biệt hiệu mà cứ gọi tên cũ, thà chẳng đặt cho xong. Từ giờ ai gọi sai sẽ phải phạt mới được.
Lý Hoàn nói:
– Đã đặt thi xã thì nên đặt lệ phạt. Bên nhà tôi rộng hơn, nên họp ở đấy. Tôi không biết làm thơ, nhưng các vị thi nhân cũng không hẳn là ghét tục, mà để cho tôi làm chủ, tất nhiên tôi cũng trở nên thanh nhã. Xin cứ cử tôi làm xã trưởng. Nhưng một mình tôi làm xã trưởng không đủ, cần phải cử thêm hai vị phó xã trưởng nữa. Tôi xin mời hai vị túc nho Lăng Châu và Ngẫu Tạ:
một vị ra đầu bài và ha.
vần, một vị viết tinh tả và giám sát. Nhưng cũng không câu nệ ba chúng tôi nhất thiết không làm thơ, nếu gặp đầu bài nào, vần nào hơi dễ, chúng tôi sẽ tùy tiện làm thôi. Còn bốn vị thì phải theo hạn định. Ý tôi như thế đấy, nếu các vị không bằng lòng, thì tôi không dám vào hội nữa.
Xưa nay Nghênh Xuân, Tích Xuân vẫn không thích làm thơ, nhất là lại ở trước mặt Bảo Thoa và Đại Ngọc. Giờ nghe nói thế, rất hợp ý mình, hai người đều nói “Phải lắm”.
Thám Xuân cũng hiểu ý ấy, thấy hai người bằng lòng, cũng hùa theo ngay, không nài ép nữa, liền cười nói:
– Thôi được rồi, nhưng nghĩ cũng buồn cười, chính tôi nêu ra việc này, lại để ba vị đến cai quản tôi.
Bảo Ngọc nói:
– Đã thế thì chúng ta đến ngay thôn Đạo Hương đi.
Lý Hoàn nói:
– Sao vội thế. Hôm nay mới chỉ bàn thôi, để tôi mời họp lại sẽ hay.
Bảo Thoa nói:
– Phải định mấy ngày một lần họp mới được.
Thám Xuân nói:
– Nếu họp luôn thì mất thú. Trong một tháng chỉ nên họp độ hai ba lần thôi.
Bảo Thoa nói:
– Một tháng họp hai lần là đủ rồi. Đã định hẳn ngày thì dù mưa gió cũng phải họp. Ngoài hai ngày ấy ra, ai có cao hứng, tình nguyện họp thêm, hoặc mời đi chỗ khác, hoặc cứ ở luôn đấy cũng được, như thế chẳng vui vẻ thích thú lắm sao?
Mọi người đều nói:
– Ý ấy rất hay.
Thám Xuân nói:
– Việc này tự tôi khởi xướng ra, phải để cho tôi làm chủ trước mới khỏi phụ cao hứng của tôi.
Lý Hoàn nói:
– Đã thế thì ngày mai cô mở đầu đi có được không?
Thám Xuân nói:
– Ngày mai không bằng hôm nay, cứ bắt đầu ngay bây giờ. Chị ra đầu bài, “ông” Lăng Châu hạ vần, “ông” Ngẫu Tạ giám trường.
Nghênh Xuân nói:
– Theo ý tôi, cũng nên giao cho một người nào ra đầu bài và ha.
vần, cứ nên bỏ thăm mới công bằng.
Lý Hoàn nói:
– Khi tôi mới đến đây, trông thấy người ta mang đến hai chậu hải đường trắng đẹp lắm. Sao không vịnh ngay hoa ấy.
Nghênh Xuân nói:
– Hoa chưa được thưởng, đã làm thơ à?
Bảo Thoa nói:
– Chẳng qua là hoa hải đường trắng, cần gì phải trông thấy mới làm được thở Người đời xưa làm thơ phú, chỉ cốt mượn vật để ngụ ý mình thôi. Cứ chờ trông thấy mới làm, thì bây giờ chả còn bài thơ nào nữa.
Nghênh Xuân nói:
– Đã thế thì tôi hạ vần đây.
Nói xong, chạy đến tủ sách, lấy một quyển thơ, mở một tờ ra, là một bài thơ “Thất ngôn Đường luật”, liền đưa cho mọi người xem, thế là ai cũng phải làm thơ thất ngôn. Nghênh Xuân gập sách lại, bảo một a hoàn nhỏ:
– Mày tùy ý nói ra một chữ.
A hoàn đương đứng tựa cửa, nên nói ngay chữ môn (cửa).
Nghênh Xuân cười nói:
– Chữ môn theo vần thập tam nguyên. Như vậy là câu thơ đầu phải lấy chữ “môn”.
Nói rồi bảo đưa cái hộp tập vận, và kéo cái ngăn có vần thập tam nguyên ra, rồi bảo a hoàn trỏ vào bốn chữ. A hoàn chỉ đúng bốn chữ bồn, hồn, ngôn, hôn 9.
Bảo Ngọc nói:
– Chữ bồn và chữ môn khó gieo cho hay được.
Thị Thư xếp sẵn bốn phần bút giấy, rồi ai nấy đều ngồi lặng lẽ nghĩ thợ Chỉ có Đại Ngọc khi vịn cây ngô đồng, khi nhìn trời thu, khi đùa với bọn a hoàn. Nghênh Xuân lại sai a hoàn thắp một cây mộng điềm hương 10. Nén hương chỉ dài ba tấc, xấp xỉ bằng cái bấc đèn, vì là mau tàn, cho nên lấy hương định hạn. Nếu hương cháy hết, ai chưa làm đong, sẽ bị phạt.
Thám Xuân làm xong trước, lấy bút viết ra, lại xóa xóa chữa chữa một lúc, rồi đưa cho Nghênh Xuân. Thám Xuân quay lại hỏi Bảo Thoa:
– Hành Vu quân đã làm xong chưa?
– Làm xong rồi, nhưng không hay.
Bảo Ngọc chắp tay sau lưng, đi đi lại lại trên thềm và bảo Đại Ngọc:
– Em xem kìa, người ta đã làm xong cả rồi.
– Anh cứ để mặc tôi.
Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa đã viết xong, liền hỏi:
– Nguy rồi! Hương chỉ còn một tấc, mà tôi mới nghĩ được bốn câu!
Lại quay bảo Đại Ngọc:
– Hương gần cháy hết rồi, em cứ ngồi ở chỗ đất ẩm làm gì?
Đại Ngọc cũng không trả lời. Bảo Ngọc nói:
– Thôi! Đành mặc kệ cô, dù hay dù dở, tôi cứ viết ra cho xong.
Nói xong, chạy đến bàn viết.
Lý Hoàn nói:
– Chúng ta bắt đầu xem thơ đây. Xem xong những bài này, ai còn chưa nộp, sẽ phải phạt.
Bảo Ngọc nói:
– Đạo Hương lão nông tuy làm thơ không hay, nhưng xem thơ rất tinh, rất công bằng, lời phê của “ông” ai cũng phải phục.
Mọi người đều gật đầu:
Bấy giờ bắt đầu xem thơ của Thám Xuân, thấy viết:
VỊNH HOA HẢI ĐUỜNG TRẮNG.
Cỏ lướt bên ngoài lúc xế chiều, 11.
Tạnh mưa xanh ngắt chậu đầy rêu.
Ngọc pha vẻ quí người khôn đọ,.
Tuyết trắng màu da bụng đã xiêu.
Nhị ngát hoa khoe chiều ẽo ợt,.
Canh khuya trăng gợn bóng treo leo.
Cảo tiên 12 này bảo đừng bay vội,.
Vịnh cảnh hoàng hôn dãi tấm yêu..
Rồi xem đến bài của Bảo Thoa:
Cửa khép vì hoa khép suốt ngày,.
Tưới hoa bình nước sẵn cầm tay.
Phấn son rửa sạch thềm thu nọ,.
Băng tuyết vời về bực móc đây.
Lạt thếch hoa càng thêm được vẻ,.
Buồn tênh ngọc cũng phải chau mày.
Muốn dâng Bạch Đế mầu trong trắng,.
Lẳng lặng chờ đây lúc xế tây.
Lý Hoàn cười nói:
– Rút lại thì bài của Hành Vu quân là hay!
Nói xong lại xem bài của Bảo Ngọc:
Lặng lẽ trời thu dọi cửa lầu,.
Bảy cành chụm lại tuyết pha mầu.
Thái Chân 13 ra tắm làn băng nuột,.
Tây tử ngồi nhăn nét ngọc sầu.
Gió sớm khôn tan ngàn mối hận,.
Mưa đêm lại đọng mấy dòng châu.
Lan can đứng tựa lòng man mác,.
Sáo thổi chầy deo khéo cợt nhau.
Mọi người xem rồi, Bảo Ngọc nói:
– Bài của Thám Xuân hay.
Lý Hoàn lại khen bài của Bảo Thoa hay hơn và nói:
– Lời thơ có thần.
Rồi lại giục Đại Ngọc, Đại Ngọc liền hỏi:
– Các người xong cả rồi à?
Nói xong cầm bút ngoáy một lúc, rồi vứt cho mọi người.
“Quả nhiên có một ý nghĩ khác người”. Lại xem đến mấy câu dưới:
Cõi nguyệt tiên may tay áo trắng,.
Buồng thu khách gạt hạt châu sa.
Ngượng ngùng biết ngỏ cùng ai nhỉ?
Gió lạnh đêm mờ đứng ngẩn ngơ.
Mọi người xem xong đều nói:
– Bài này hơn cả.
Lý Hoàn nói:
– Về tình tứ phong lưu thì bài này hay hơn, nhưng về hàm súc hồn hậu thì vẫn phải nhường cho Hành Vu Quân.
Thám Xuân nói:
– Lời phê rất đúng. Tiêu Tương phi tử phải đứng thứ hai.
Lý Hoàn nói:
– Di Hồng công tử phải đội bảng, có chịu hay không?
Bảo Ngọc nói:
– Bài của tôi thực không hay, lời bình ấy rất công bằng – Lại cười nói – Nhưng cần phải châm chước lại hai bài của Hành Vu Quân và Tiêu Tương.
Lý Hoàn nói:
– Đây là theo bình luận của tôi, không can đến các vị, nếu ai nói nữa sẽ bị phạt.
Bảo Ngọc nghe nói, đành phải thôi. Lý Hoàn nói:
– Từ giờ về sau, tôi định mỗi tháng họp hai lần, vào ngày mồng hai và mười sáu. Tôi nhận việc ra đầu bài và hạn vần. Ai còn cao hứng, cứ việc chọn vào ngày khác, dù có họp luôn cả tháng tôi cũng mặc. Trừ ngày mồng hai và ngày mười sáu là phải đến họp ở nhà tôi.
Bảo Ngọc nói:
– Bây giờ nên đặt tên hội đi.
Thám Xuân nói:
– Đặt tên tục quá thì không hay, mới quá lại hoá ra kỳ quặc cũng không đẹp. Vừa rồi mới làm bài thơ hải đường, thì đặt ngay là “Hải Đường xã” cũng được. Tuy hơi tục đấy, nhưng là việc có thực, không quan hệ gì.
Mọi người lại bàn một lúc, uống rượu, ăn hoa quả qua loa rồi đi, có người về nhà, có người đến chỗ Giả mẫu và Vương phu nhân.
Tập Nhân thấy Bảo Ngọc xem xong tờ thiếp của Giả Vân rồi cùng Thúy Mặc ra đi, không biết là việc gì. Sau lại thấy bà già ở cửa sau đem hai chậu hoa hải đường vào, Tập Nhân hỏi ở đâu đem đến, bà già kể lại đầu đuôi cho nghe. Tập Nhân bảo họ mang ra bày tử tế, rồi mời họ xuống buồng dưới ngồi. Sau đó Tập Nhân vào trong nhà cân và gói cẩn thận sáu đồng bạc, lại lấy ba trăm đồng tiền mang ra đưa cho bà già nói:
– Số bạc này thưởng cho bọn trẻ con mang chậu hoa đến. Số tiền này thì cho các bà uống rượu.
Bọn bà già đứng dậy, mặt mũi hớn hở, tạ Ơn, luôn mồn từ chối.
Tập Nhân nhất định không nghe, mãi họ mới chịu nhận. Tập Nhân lại hỏi:
– Bên ngoài cửa sau có bọn trẻ con trực nhật không?
Bà già vội nói:
– Ngày nào cũng có bốn đứa trẻ con chực sẵn ở đấy để xem có sai bảo gì không. Nếu cô cần sai việc gì, tôi sẽ bảo chúng đi.
Tập Nhân cười nói:
– Tôi có việc gì mà sai? Hôm nay cậu Bảo muốn sai người sang đưa cho cô Sử ít quà, may có các bà đến đây, nhân tiện lúc về, bảo hô.
bọn trẻ chực ở cửa sau thuê cho cái xe. Đến khi về, các bà đến đây mà lấy tiền và đừng cho chúng nó chạy bậy sang bên nhà.
Bọn bà già vâng lời đi.
Tập Nhân vào trong buồng lấy cái đĩa đựng quà để đưa sang cho Tương Vân. Khi tìm trong ngăn tủ, không còn cái đĩa nào, Tập Nhân ngoảnh lại thấy bọn Tình Văn, Thu Văn, Xạ Nguyệt đương ngồi thêu, liền hỏi:
– Cái đĩa mã não trắng đâu rồi?
Thấy hỏi, người nọ nhìn người kia, nghĩ mãi không biết để ở đâu.
Một lúc, Tình Văn cười nói:
– Đựng quả vải đưa sang biếu cô Ba, chưa lấy về.
Tập Nhân nói:
– Nhà còn nhiều thứ kia mà, sao lại lấy cái ấy?
Tình Văn nói:
– Tôi cũng bảo thế, nhưng chỉ có cái đĩa ấy mà để những quả vải thì mới dễ coi. Tôi mang sang, cô Ba cũng khen đẹp, rồi để luôn bên đó. Chị xem lại còn một đôi lọ liên châu để ở ngăn tủ trên cũng chưa mang về.
Thu Văn cười nói:
– Nói đến cái lọ ấy, tôi lại nhớ đến một việc đáng buồn cười! Cậu Bảo nhà ta khi mà động lòng hiếu thảo, thật là hiếu thảo bội phần.
Một hôm, trong vườn có hoa quế, cậu ấy bẻ hai cành, định cắm vào lo.
để chơi, chợt nghĩ đó là hoa tươi mới nở, không dám chơi trước, liền lấy ngay đôi lọ xuống, đổ nước, cắm hoa vào, sai người mang đi và thân hành xuống biếu bên cụ một lọ, bên bà Hai một lọ. Ngờ đâu bụng hiếu của cậu ấy làm cả người theo cũng được phúc lây. Hôm ấy chính tôi mang đi, cụ trông thấy mừng cuống quít lên, gặp ai cũng nói:
“Thực là cháu Bảo có hiếu quá, ngay một cành hoa nó cũng nghĩ đến ta, thế mà có người cứ oán ta hay thương nó”. Các chị phải biết xưa nay cụ chẳng nói câu gì với tôi cả, hình như tôi có cái gì không lọt vào con mắt của người; thế mà hôm ấy cụ lại sai người lấy mấy trăm đồng tiền cho tôi, bảo tôi là đáng thương, từ bé hay ốm yếu luôn, thật là một điều may mắn bất ngờ cho tôi. Mấy trăm đồng tiền cha?
là bao, nhưng được thể diện như thế là rất khó. Rồi đi đến chỗ bà Hai, gặp người và mợ Hai cùng dì Triệu, dì Chu đương lục hòm tìm những quần áo của người khi còn trẻ tuổi, không biết người định lấy để cho ai. Lúc trông thấy tôi, người không tìm quần áo nữa, liền đến xem hoa. Mợ Hai lại đứng cạnh tán tỉnh, khen lấy khen để cậu Bảo, nào là biết hiếu thuận, biết điều phải chăng, cái có cũng như cái không, kể ra một tràng, vừa lấp được họng mọi người, lại làm bà càng hãnh diện, vui mừng thêm, thưởng ngay cho tôi hai cái quần áo may sẵn. Quần áo cũng chẳng đáng là bao, năm nào mà chả có, nhưng không khi nào tôi được hãnh diện như lúc này.
Tình Văn cười nói:
– Con ranh con này, chả biết gì cả! Những cái tốt thì cho người khác, còn những cái thừa thãi bà mới gọi đến mày, thế mà mày lại cho là hãnh diện!
Thu Văn nói:
– Dù cho ai thừa đi nữa, cũng là ơn của bà.
Tình Văn nói:
– Phải như tao thì tao không cần lấy. Thừa người ta rồi mới đến mình! Cũng đều là người trong nhà cả, chả lẽ lại ai quý hơn ai? Áo quần đẹp thì đem cho người, thừa ra mới đến mình, chẳng thà không nhận, dù có phật ý người cũng đành, chứ tao thì không thể chịu nổi thế được.
Thu Văn vội hỏi:
– Cho ai thế hở chị? Hôm nọ em ốm mấy ngày, về nhà, không biết gì cả. Chị bảo cho em biết với.
Tình Văn nói:
– Tao bảo cho mày biết, không lẽ mày đem trả lại bà hay sao!
Thu Văn nói:
– Sao lại như vậy! Tôi biết để mừng đấy thôi. Dù có cho con chó nhà này đi nữa, tôi cũng vẫn phải nhận ơn của bà, ngoài ra không có ý gì khác.
Mọi người nghe vậy cười nói:
– Nó chửi khá đấy! Chả phải bà đã cho con chó hoa rồi ư?
Tập Nhân cười nói:
– Đồ thối họng! Hễ há mồm ra là y như đem tao ra làm trò cười!
Rồi đây chưa biết đứa nào sẽ chết ra làm sao.
Thu Văn nói:
– Thế ra chị được áo quần đấy à? Em không biết, xin lỗi chị nhé!
Tập Nhân cười nói:
– Thôi bông đùa vừa vừa chứ? Việc chính là ai đi lấy cái đĩa về bây giờ.
Xạ Nguyệt nói:
– Còn cái lọ thì khi nào rồi cũng nên lấy về. Bên nhà cụ còn có thể để đấy được, chứ bên nhà bà Hai thì đông người lộn xộn, người khác còn khá, chứ cái bọn dì Triệu hễ trông thấy cái gì của nhà này là sinh lòng đen tối, muốn làm thế nào cho hư hỏng mới thôi. Bà Hai thì chẳng trông nom gì đến những thứ ấy, chi bằng lấy ngay về là hơn.
Tình Văn bỏ ngay kim chỉ xuống nói:
– Thế thì tôi đi lấy về nhé.
Thu Văn nói:
– Để tôi đi lấy, chị đi lấy cái đĩa của chị.
Tình Văn nói:
– Để tao đi chọ Có dịp tốt, chúng bay tranh mất cả, không để cho tao đi một chuyến à?
Xạ Nguyệt cười nói:
– Chỉ có lần ấy con Thu Văn mới vớ được món may thôi, chứ có phải ai cũng gặp lúc bà Hai lục quần áo ra cho đâu.
Tình Văn cười nhạt:
– Dù không gặp lúc lục quần áo, nhưng biết đâu thấy tao là người cẩn thận, bà Hai lại chẳng lấy hai lạng bạc trong số tiền chi dùng hàng tháng của người ra cho tao.
Rồi lại cười bảo:
– Chúng mày đừng làm trò ma quỷ lẻn lút với tao nữa, việc gì mà tao chả biết.
Nói xong chạy đi, Thu Văn cũng đi đến nhà Thám Xuân để lấy cái đĩa.
Tập Nhân sắm sửa các thứ xong, gọi vú Tống đến bảo:
– Bà về rửa mặt chải đầu, thay quần áo, rồi đến đây lấy các thứ quà, mang sang biếu cô Sử.
Vú Tống nói:
– Cô cứ việc giao cho tôi, có điều gì cứ dặn, tôi thu xếp xong sẽ đi ngay.
Tập Nhân liền bưng ra hai hộp sơn nhỏ bằng tre đan, mở hộp ra thấy trong đựng hai thứ quả tươi, lại mở hộp kia thấy một đĩa bánh đường quả quế. Tập Nhân nói:
– Đây đều là thứ quả tươi trong vườn năm nay, cậu Bảo sai mang sang để cô nếm. Khi trước cô khen cái đĩa mã não này đẹp, thì cô cứ để lại mà dùng. Hôm nọ cô có bảo tôi thêu cái bao lụa này, nếu cô không cho là xấu, xin hãy dùng tạm. Cậu Bảo và chúng tôi gửi lời hỏi thăm cô.
Vú Tống hỏi:
– Không biết cậu Bảo có còn dặn câu gì nữa không. Cô đi hỏi rồi về bảo tôi, không có lại quên.
Tập Nhân hỏi Thu Văn:
– Cậu ấy đương ở nhà cô Ba phải không?
– Họ đương ở đấy bàn việc mở thi xã gì đó, chẳng dặn gì cả bà cứ việc đi thôi.
Vú Tống nhận các thứ và đi mặc áo quần.
Tập Nhân dặn:
– Bà đi ra đằng cửa sau, có đứa bé và xe đương chờ ở đấy.
Vú Tống đi rồi, Bảo Ngọc mới về, đứng xem hoa hải đường một lúc, rồi vào trong nhà nói với Tập Nhân việc mở hội làm thợ Tập Nhân kể cho Bảo Ngọc biết việc sai vú Tống đưa quà sang biếu Tương Vân. Bảo Ngọc vỗ tay nói:
– Thôi, tôi quên mất cô ta rồi! Trong bụng cứ băn khoăn, không nhớ ra việc gì, may được chị nhắc đến. Tôi muốn mời cô Sử sang chơi.
Hội thơ mà thiếu cô ta thì còn có thú gì nữa.
Tập Nhân nới:
– Cần thiết gì việc ấy? Chẳng qua là trò chơi thôi. Cô ấy có được rộng rãi như các cô, các cậu bên này đâu. Hơn nữa ở trong nhà cô ấy lại không được làm chủ. Khi báo tin, cô ấy muốn sang, nhưng không tự tiện sang được, trong bụng chắc lại áy náy khó chịu.
Bảo Ngọc nói:
– Không sao, tôi sẽ trình cụ cho người sang đón cô ấy.
Đương nói thì vú Tống về, kể lại việc Tương Vân chuyển lời cảm ơn Tập Nhân và nói:
– Cô Sử hỏi cậu Bảo ở nhà làm gì? Tôi nói cậu ấy và các cô đương mở hội thợ Cô ấy bực lắm nói, họ làm thơ mà chẳng cho mình biết.
Bảo Ngọc nghe nói, liền quay sang giục Giả mẫu cho người đi đón Tương Vân sang. Giả mẫu nói:
– Hôm nay muộn rồi, ngày mai sẽ cho đi sớm.
Bảo Ngọc đành phải thôi, trở về có vẻ buồn rầu. Sáng sớm hôm sau lại sang giục Giả mẫu. Đến chiều, Tương Vân sang, Bảo Ngọc mới yên lòng. Khi gặp nhau, Bảo Ngọc kể hết đầu đuôi cho Tương Vân nghe và muốn cho Tương Vân xem những bài thơ đã làm. Bọn Lý Hoàn nói:
– Không cho xem thơ trước, hãy để cho cô ta viết mấy chữ đã, cô ta đến sau, bắt phạt phải họa thợ Hay thì mời vào hội, không hay bắt phải làm một bữa rượu rồi mới nói chuyện.
Tương Vân cười nói:
– Các người quên không mời tôi thì đáng bắt phạt mới phải chứ!
Xin cho biết hạn vần, tôi tuy chẳng hay ho gì, cũng cố gắng hiến một trò cười. Nếu cho tôi vào hội, dù phải quét nhà, thắp hương tôi cũng vui lòng. Mọi người thấy Tương Vân hứng thú như thế, lại càng vui, đều ân hận:
“Sao hôm nọ lại quên bẵng cô ta đi”. Liền đưa vần cho Tương Vân họa.
Tương Vân cao hứng quá, chẳng cần cân nhắc sửa đổi gì, vừa nói chuyện vừa nghĩ thợ Nhân có bút giấy sẵn đấy, liền viết luôn và cười nói:
– Tôi không biết hay dở thế nào, cũng xin tuân lệnh, theo vần họa ra đây hai bài.
Mọi người nói:
– Chúng tôi bốn người làm được bốn bài, đã cho là hết ý rồi, muốn làm thêm một bài nữa cũng không nổi. Thế mà một mình cô Vân lại làm được hai bài. Không biết trong thơ nói những gì? Chắc cô có câu trùng với thơ của chúng tôi.
Họ vừa nói vừa xem, thấy hai bài thơ viết:
Họa bài thơ hải đường trắng.
I Hôm nọ thần tiên xuống cửa thành,.
Lam điền trồng ngọc chậu xinh xinh.
Sương Nga 14 tính vẫn hay ưa lạnh,.
Thiếu nữ 15 lòng đâu nỡ dứt tình.
Tuyết ở nơi nào thu kéo lại,.
Mưa từ đêm trước ngấn in rành,.
Nhà thơ vui nhỏ, ngâm tràn mãi,.
Nỡ để chiều hôm cảnh vắng tanh.
II Thềm cỏ thông sang cửa tiết lạ 16 Này tường này chậu đẹp bao là.
Hoa vì thích sạch thành trơ trọi,.
Người những thương thu dễ ngẩn ngơ.
Giọt lệ khô theo cây đuốc ngọc,.
Rèm tinh soi suốt bóng gương nga.
Nỗi riêng muốn ngỏ cùng dì Nguyệt,.
Thềm vắng đêm mờ đã chán chưa!
Đọc đến đâu, mọi người đều lấy làm kinh lạ, khen ngợi đến đó.
– Thơ này mới đáng là thơ vịnh hải đường chứ! Thực đúng với tên hội là “Hải đường xã”.
Tương Vân nói:
– Ngày mai xin phạt tôi làm chủ. Để mời tôi họp trước một lần có được không?
Mọi người nói:
– Thế thì càng hay.
Rồi họ đem những bài thơ trước ra cho Tương Vân bình một lượt.
Đến chiều, Bảo Thoa mời Tương Vân sang Hành Vu uyển nghỉ.
Tương Vân ngồi trước đèn, nghĩ việc thiết tiệc và ra đầu bài. Bảo Thoa nghe Tương Vân tính toán lúc lâu, xem chừng chưa ổn, liền nói:
– Đã mở hội, tất nhiên phải biện tiệc rượn. Tuy là việc chơi, nhưng cũng phải suy tính cho kỹ. Làm thế nào được biện cho mình mà không mang lỗi với người khác, thì mới có thú. Chị Ở nhà, có được làm chủ đâu, mỗi tháng chỉ có mấy quan tiền, còn chưa đủ dùng, bây giờ lại làm cái việc không đâu, nếu dì chị biết, lại oán trách chị.
Vả chăng, chị có mang tất cả số tiền của chị ra mà tiêu cũng không đủ, không lẽ vì việc này chị về xin tiền bên nhà, hay định xin tiền bên này?
Tương Vân nghe xong, tỉnh ngộ, đâm ra khó nghĩ. Bảo Thoa nói:
– Việc này tôi đã có ý định. Trong hàng cầm đồ nhà tôi có một người buôn chung, ở vùng ông ta có nhiều cua ngon, trước kia ông ta đã mang đến biếu nhà tôi mấy con. Ở bên này từ cụ trở xuống đến người trong vườn, phần nhiều thích ăn cua cả. Hôm nọ mẹ tôi đã nói muốn mời cụ đến vườn thưởng hoa quế và ăn cua, nhưng bận việc chưa mời được. Giờ chị chưa nên gợi chuyện mở hội thơ vội, hãy cứ mời mọi người đến thưởng hoa quế và ăn cua. Khi họ ăn xong, trở về thì bao nhiêu thơ mà chúng ta chẳng làm được? Để tôi nói với anh tôi tìm mấy giỏ cua thật béo, thật to, rồi về cửa hàng nhà tôi lấy mấy vò rượu ngon, lại sắm bốn năm khay hoa quả, như thế chẳng gọn việc, mà mọi người cùng vui cả hay sao?
Tương Vân Nghe nôi, rất cảm phục, khen Bảo Thoa nghĩ việc chu đáo. Bảo Thoa lại cười nói:
– Do lòng thành thực đối với chị mà tôi nói ra câu ấy, chị đừng nên băn khoăn lại cho tôi là khinh rẻ chị, thì phí cả cái tình thân thiết của hai chúng tạ Chị đừng nên nghĩ ngợi gì, tôi sẽ bảo người đi sắm sửa ngay.
Tương Vân vội cười nói:
– Chị nói thế thì vẫn còn ngờ vực tôi. Dù tôi có u mê đến đâu, cũng biết phân biệt lời hay lẽ phải; nếu không thì còn ra người sao được. Tôi không coi chị như là chị ruột thì trước đây những việc rắc rối trong nhà tôi, khi nào tôi lại kể hết cho chị biết.
Bảo Thoa gọi một bà già đến bảo:
– Bà ra nói với cậu Cả, mua cho tôi mấy giỏ cua to, như cua hôm trước ấy. Ngày mai cơm sáng xong, tôi sẽ mời cụ cùng các bà, các cô sang vườn thưởng hoa quế. Bà dặn cậu ấy đừng có quên nhé. Hôm nay tôi đã mời khách rồi đấy.
Bảo Thoa lại nói với Tương Vân:
– Đầu bài thơ không nên lắt léo quá, cứ xem thơ của người trước, có đề mục kỳ quặc và vần hiểm hóc lắm đâu. Nếu ra đầu bài lắt léo quá, hạn vần hiểm hóc quá, thơ không thể nào hay được, có khi đâm ra gò bó, hẹp hòi. Thơ cố nhiên nên tránh những chữ sáo, nhưng cũng không nên quá cầu kỳ, cốt lập ý cho mời, thì lời thơ sẽ không tục. Nhưng rút cục thì việc này, đối với chúng ta, cũng không đáng kể.
Phận sự của chúng ta là may dệt thêu thùa. Khi nào rỗi, đem sách bô?
ích cho mình ra đọc ít chương, như thế mới là việc chính đáng.
Tương Vân chỉ vầng tràn, rồi cười nói:
– Tôi nghĩ hôm nọ đã làm thơ hải đường rồi, bây giờ nên làm thơ hoa cúc, chị nghĩ thế nào?
Bảo Thoa nói:
– Thơ hoa cúc cũng hợp cảnh đấy, nhưng người trước đã làm nhiều rồi.
– Tôi cũng nghĩ thế, sợ lại rơi vào sáo cũ.
Bảo Thoa nghĩ một lúc, cười nói:
– Được rồi. Bây giờ lấy hoa cúc làm khách, lấy người làm chủ.
Mình nghĩ ra mấy đầu bài, mỗi đầu bài có hai cliữ:
một chữ “hư”, một chữ “thực”. Chữ “thực là “cúc”, còn “hư” muốn dùng chữ gì thì dùng. Như thế là vừa vịnh cúc lại vừa kể việc. Người xưa chưa làm thế, cũng không đến nỗi rơi vào sáo cũ. Tả cảnh và vịnh vật, hai cái ấy đi đôi với nhau, như thế mới rộng rãi và mới mẻ.
Tương Vân cười nói:
– Hay lắm! Nhưng không biết dùng chữ “hư” gì cho hay? Chị nghĩ dùm một chữ xem nào?
Bảo Thoa nghĩ một lúc rồi cười nói:
– Cúc mộng cũng được.
– Hay thực! Tôi cũng nghĩ một chữ Cúc ảnh có được không?
– Cũng được, nhưng đã có người làm rồi. Nếu có nhiều đầu bài, thì chữ ấy cũng ghép vào được. Tôi lại có một chữ khác.
– Chữ gì?
– Vấn cúc được không Tương Vân đập bàn khen hay, liền nói tiếp:
– Tôi cũng có rồi, Phỏng cúc có được không?
Bảo Thoa cũng khen thú lắm, liền nói:
– Chúng ta cố nghĩ mười đầu đề, rồi sẽ hay.
Nói xong, hai người mài mực, nhúng bút. Tương Vân viết. Bảo Thoa đọc, một lúc nghĩ được tất cả mười đầu đề. Tương Vân xem một lượt, cười nói:
– Mười đầu đề chưa đủ thành một bức, phải cố tìm lấy mười hai đầu đề, cũng giống như những trang chữ viết và bức vẽ của người ta vậy.
Bảo Thoa lại nghĩ thêm hai đầu đề nữa, rồi nói:
– Đã thế phải theo thứ tự mà biên ra.
– Hay lắm, thế là làm thành một Cúc phả đấy.
– Bài đầu là ức cúc, nhớ không thấy thì phải đi tìm, nên bài thứ hai là Phỏng cúc. Tìm được rồi, đem đi trồng, nên bài thứ ba là Chủng cúc. Trồng đã có hoa rồi thì ngắm mà thưởng, nên bài thứ tư là Đối cúc. Ngắm rồi thấy hứng thú dồi dào, phải bẻ cành cắm vào lọ, nên bài thứ năm là Cung cúc. Đã cung mà không ngâm vịnh thì sao biết là cúc đẹp, nên bài thứ sáu là Vịnh cúc. Đã vịnh rồi, còn cần phải lấy bút mực vẽ ra nữa, nên bài thứ bảy là Họa cúc. Đã vẽ rồi, mà cứ lẳng lặng không nói gì, thì biết cúc đẹp ở chỗ nào, cần phải hỏi mới biết được nên bài thứ tám là Vấn cúc. Nếu cúc mà biết nói, sẽ làm cho người ta sung sướng quá, nên bài thứ chín là Trâm cúc.
Như thế là việc người tuy đã làm xong, nhưng cúc còn nhiều cái đáng vịnh nữa, nên bài Cúc ảnh và Cúc mộng để vào thứ mười và thứ mười một:
cuối cùng là bài Tàn cúc, để kết thúc tất cả các bài trước. Như vậy là cảnh đẹp, thú vui trong ba tháng thu đều có đầy đủ.
Tương Vân theo thứ tự chép ra, lại xem một lượt rồi hỏi:
– Nên hạn vần gì?
– Xưa nay tôi không thích hạn vần, cốt thơ cho hay, tội gì cứ phải trói vần. Chúng ta chớ nên học những nhà thơ gò bó, hẹp hòi, cứ ra đầu bài, không cần hạn vần. Cốt sao mọi người nghĩ ra câu thơ hay cho vui, chứ không phải lấy vần ra để làm khó dễ.
– Chị nói rất phải, nếu được thế thì thơ của chúng ta lại càng hay thêm. Nhưng chúng ta chỉ có năm người đều phải làm đủ cả mười hai bài hay sao?
– Nếu thế thì làm khó cho người ta quá. Giờ hãy viết đầu bài cho cẩn thận, bắt buộc theo luật thơ thất ngôn, ngày mai dán lên tường cho mọi người xem, ai làm được bài nào thì cứ làm, nếu đủ sức sẽ làm cả mười hai bài, không thì làm được một bài cũng được. Cứ ai tài giỏi làm nhanh là hơn. Ai đã làm xong mười hai bài của mình rồi, không được làm nữa, trái lệnh sẽ phải phạt.
– Thôi thế là được rồi.
Hai người bàn nhau đâu vào đấy, mới tắt đèn đi ngủ.
1 Tên chữ là Thanh thần, đỗ tiến sĩ đời Đường, học rộng văn hay, viết các lối chữ rất đẹp. Khi làm thái thủ quận Bình Nguyên, đem quân đi đánh An Lộc Sơn, được phong Lỗ quận công. Sau Lý Hy Liệt làm phản, Chân Khanh bị nó giết.
2 Tức Bạch Liên Xã, pháp sư Tuệ Tiễn đời nhà Tần, ở chùa Đông Lâm, họp 123 người, vừa nho vừa thích, kết làm bạn nghiên cứu triết lý và phật học. Vì chùa này trồng nhiều sen trắng, nên lấy nó đặt tên.
3 Ở tỉnh Chiết Giang, Tạ An đời nhà Tấn thường ra chơi ở đây.
4 Ông già làm ruộng ở Đạo hương thôn.
5 Người ẩn dật ở Thu sảng trai.
6 Người đứng dưới cây chuối.
7 Không có việc nhưng vẫn bận.
8 Chủ hoa ở động Giang Tiên.
9 Theo luật thơ Đường, mỗi bài thơ tám câu phải có năm câu gieo đúng vần, tức câu 1, 2, 4, 6, 8. Những vần đều quy từng nhóm, như vần đồng, vần giang, vần chi… Thập tam nguyên tức là vần “nguyên” ở hàng thứ mười bạ Bồn, hồn, ngôn, hôn đi theo mới môn, đều thuộc vần “nguyên”.
10 Thứ hương ngửi vào đâm say sưa.
11 Những bài thơ dưới đây, hạn vần đều gieo đúng chữ [môn, bồn, hồn, ngôn, hôn cả, nhưng vì hạn chế của dịch thuật, chúng tôi phải dịch theo vần khác.
12 Tiên mặc đồ trắng.
13 Tức Dương quý phi.
14 Mặt trăng.
15 Con gái Trương Dật nhà Đường, có sắc đẹp. Lúc đó Trương Dật hẹn gả cho cháu ngoại là Vương Trụ, vì thế hai người vẫn quyến luyến nhau. Đến lúc lớn, Trương Dật đem gả cho người khác. Thiến Nương và Vương Trụ uất ức lắm. Sau Vương Trụ đi thuyền vào kinh, nửa đêm Thiến Nương chợt nhảy qua thuyền rồi rủ nhau trốn vào đất Thục, ở đấy năm năm đẻ được hai con. Khi về thăm nhà, Trương Dật trông thấy sợ lắm, vì con gái mình bị Ốm đã mấy năm nay ở trong buồng. Khi Vương Trụ và Thiến Nương đến nhà, người con gái ấy đương nắm ở trong buồng chạy ra đón, thì hợp ngay với Thiến Nương thành một; sau người ta thường dùng chữ “Thiến Nương ly hồn” để ta?
Bảo Thoa và Tương Vân bàn nhau xong. Hôm sau Tương Vân đến mời Giả mẫu sang thưởng hoa quế. Bọn Giả mẫu đều nói: “Nó đã thích như vậy, chúng ta cũng nên sang quấy cho vui”. Đến trưa, Giả mẫu dẫn Vương phu nhân, Phượng Thư và mời cả Tiết phu nhân sang bên vườn.
Giả mẫu hỏi:
– Ngồi chỗ nào đây?
Vương phu nhân nói:
– Người thích chỗ nào thì ngồi chỗ ấy.
Phượng Thư nói:
– Đã bày sẵn ở Ngẫu Hương tạ rồi. Ở đấy có hai cây quế, hoa nở rất đẹp, nước sông lại trong biếc, ngồi trên nhà thủy tạ chẳng sáng sủa hay sao? Nhìn mặt nước, mắt càng sáng ra.
Giả mẫu nói: “Tốt đấy”. Liền dẫn mọi người đến Ngẫu Hương tạ. Ngẫu Hương tạ làm ở giữa hồ, bốn mặt có cửa sổ, hai bên có hành lang từ ngoài vào bờ, có cầu quanh cọ Khi mọi người đi qua cầu tre, Phượng Thư vội đỡ Giả mẫu và nói:
– Xin bà cứ bước bạo lên, không việc gì đâu, cầu tre thì cứ kẽo kẹt như thế đấy.
Một lúc vào đến trong nhà, trông thấy hai cái án bằng tre, đặt ở ngoài hiên: một cái bày bát đũa, đồ đùng uống rượu, một cái bày khay trà, đồ trà và các thứ đĩa chén. Bên này có mấy a hoàn đương quạt lò hâm rượự Giả mẫu cười nói:
– Ở đây cái gì cũng sạch sẽ cả, trà uống chắc ngon.
Tương Vân cười nói:
– Đó là chị Bảo cháu xếp đặt hộ cả đấy.
– Con bé ấy rất chu tất, việc gì cũng nghĩ đâu vào đấy cả.
Vừa nói Giả mẫu vừa nhìn lên trên cột, thấy đôi câu đối khảm xà cừ sơn đen, liền bảo Tương Vân đọc:
Sen ấu hương thơm xông nhịp trúc;
Phù dung bóng ngả dọi chèo lan.
Giả mẫu nghe xong, ngẩng lên nhìn cái biển, rồi quay lại bảo Tiết phu nhân:
– Ta lúc bé ở nhà cũng có một cái thủy tạ như thế này, gọi là Chẩm Hà các. Khi ấy ta cũng bằng trạc tuổi các chị em nó bây giờ, ngày nào ta cũng dắt mấy người đến đây chơi. Một hôm trượt chân ngã xuống hồ, suýt chết đuối, may vớt lên được, nhưng bị một cái đanh đâm thủng đầu: bây giờ hãy còn một lỗ thủng to bằng đầu ngón tay ở trên mái tóc. Lúc ấy ai cũng bảo đã bị ngâm nước và gió lạnh thì nguy to, nhưng rồi cũng chẳng việc gì.
Phượng Thư cười nói:
– Nếu lúc bấy giờ bà không sống được, thì bây giờ ai hưởng cái phúc tầy đình này chỏ Thế mới biết ngay từ bé phúc bà cũng đã to rồi. Quỷ thần xui khiến, cho bà một cái lỗ thủng để chứa phúc thọ đấy! Trên đầu đức lão thọ tinh cũng có cái lỗ thủng, là vì chứa nhiều phúc thọ quá, nên mới lồi ra thế!
Giả mẫu và mọi người đều cười rũ rượi. Giả mẫu nói:
– Con khỉ nảy nói nhảm quen mồm, mày cứ đem ta ra làm trò cười! Tức quá, ta phải tát cho mày vỡ mồm ra mới được!
Phượng Thư nói:
– Chốc nữa ăn cua, sợ lạnh chăng, nên làm trò cho bà cười nhiều, để người nóng lên, có ăn thêm mấy con nữa cũng chả việc gì.
Giả mẫu cười nói:
– Từ giờ trở đi, bắt mày ngày đêm theo ta, không được về nhà để mày làm cho người ta cười luôn mới được.
Vương phu nhân cười nói:
– Vì bà nuông nó quá, nên nó hỗn quen đi. Bây giờ bà lại nói thế, sau này nó còn coi ai ra gì nữa.
Giả mẫu cười nói:
– Ta lại thích nó như thế. Vả chăng, nó không phải là đứa không biết tôn ti trật tự, thì những lúc ở trong nhà, không có người lạ, bà cháu mẹ con cũng nên cười nói cho vui, miễn là biết giữ lễ phép, việc gì phải bắt chúng nó cứ len lét như sợ quỷ thần ấy?
Mọi người vào cả trong hiên uống nước, Phượng Thư vội đi bày đũa bát. Bàn trên có Giả mẫu, Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc, Bảo Ngọc. Bàn bên đông: Tương Vân, Vương phu nhân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân. Cái bàn nhỏ để ở cạnh phía tây là chỗ ngồi của Lý Hoàn và Phượng Thư nhưng cả hai đều không dám ngồi, chỉ đứng bên cạnh bàn Giả mẫu và bàn Vương phu nhân. Phượng Thư nói:
– Cua không được mang nhiều lên, cứ để nguyên cả trong cái nồi nước nóng, chỉ mang lên mười con, ăn hết lại lấy.
Rồi đi rửa tay, đứng trước mặt Giả mẫu gỡ cuạ Lượt đầu mời Tiết phu nhân. Tiết phu nhân bảo:
– Để tôi gỡ lấy ăn thì ngon hơn, không cần ai mời.
Phượng Thư lại đưa cho Giả mẫu, rồi đưa đến Bảo Ngọc, lại bảo hâm rượn mang lên. Sau sai bọn hầu nhỏ sắp sẵn nước đậu xanh đun với hoa cúc và nhị quế để rửa tay.
Tương Vân ngồi tiếp khách, chỉ ăn một miếng rồi đứng dậy đi mời mọi người; lại ra ngoài sai người mang hai khay cua đưa cho dì Triệu và dì Chụ Lại thấy Phượng chạy đến bảo:
– Cô tiếp không quen, cứ đi ăn đi, để tôi hộ cho, xong rồi tôi sẽ ăn.
Tương Vân không nghe, sai người bày hai mâm rượu ở bên hành lang, mời Uyên Ương, Hổ Phách, Thái Hà, Thái Vân, Bình Nhi ngồi ăn. Uyên Ương nói:
– Mợ Hai phải đứng hầu đấy, chúng tôi ăn trước sao được?
Phượng Thư nói:
– Các em cứ ăn đi, việc gì đã có ta cáng đáng hết.
Sau đó Tương Vân lại vào chỗ ngồi.
Phượng Thư và Lý Hoàn đều ăn vài miếng qua loa. Phượng Thư lại ra thù tiếp như trước. Một lát, ra ngoài hiên. Bọn Uyên Ương đang ăn uống vui vẻ, thấy Phượng Thư đến, đều đứng dậy nói:
– Mợ lại đến đây làm gì? Để cho chúng tôi được ăn thỏa thích một lúc nào.
Phượng Thư cười nói:
– Con Uyên Ương tệ thật. Tao hầu thay mày, mày chẳng biết cảm ơn, lại còn oán tao à! Hãy rót một ly rượu cho tao uống đã.
Uyên Ương rót một ly rượu đưa lên mồm Phượng Thự Phượng Thư ngẩng cổ uống một hớp hết ngaỵ Hổ Phách và Thái Hà lại mỗi người rót một chén nữa đưa đến, Phượng Thư cũng uống hết. Bình Nhi gỡ sẵn một con cua đưa đến. Phượng Thư nói:
– Đổ thêm tý giấm gừng.
Ăn xong, Phượng Thư cười nói:
– Thôi chúng bay cứ việc ăn đi nhé, tao đi đây.
Uyên Ương cười nói:
– Không biết xấu! Ăn cả phần của chúng tôi.
Phượng Thư cười nói:
– Mày đừng có gây chuyện với tao nữa! Mày biết cậu Liễn đã yêu mày, sắp sửa xin nói với cụ cho mày làm vợ hai đấy!
Uyên Ương đỏ mặt lên, bĩu môi lắc đầu nói:
– Ái chà! Làm mợ mà cũng nói nhưng câu ấy à! Tôi không lấy cái tay tanh này bôi lên mặt mợ thì không chịu.
Hổ Phách cười nói: Dù con Uyên Ương có muốn chăng nữa, nhưng khi nào con Bình lại chịu buông thạ Các chị xem đấy, chưa ăn hết hai con cua, nó đã húp hết một bát giấm rồi!
Bình Nhi tay đang gỡ cua, thấy Hổ Phách chế giễu mình, liền cầm con cua định trát vào mặt Hổ Phách, vừa cười vừa chửi:
– Tao sẽ lôi lưỡi con ranh này ra…
Hổ Phách cũng cười, rồi tránh ra một bên. Bình Nhi vồ không trúng, đâm nhào về phía trước, trát ngay lên mặt Phượng Thự Phượng Thư đương đùa với Uyên Ương, bất thình lình giật nẩy mình kêu lên một tiếng “Ái chà”. Mọi người không nhịn được, đều cười rộ lên. Phượng Thư vừa cười, vừa mắng:
– Con đĩ chết đâm này. Ăn lắm mờ mắt. Mày trát vào con mẹ mày à?
Bình Nhi vội chạy đến lau cho Phượng Thư, rồi đi bưng nước đến rửa. Uyên Ương nói:
– A di đà phật! Thực là quả báo trước mắt.
Giả mẫu ở bên trong nghe thấy, hỏi dồn:
– Cái gì đấy? Sao mà vui thế? Nói lên để chúng ta cười với.
Bọn Uyên Ương lại nói to:
– Mợ Hai đến ăn cướp cua, Bình Nhi tức quá, trát đầy gạch cua vào mặt chủ nó, thành ra chủ nhà và đầy tớ đánh nhau.
Giả mẫu và bọn Vương phu nhân đều cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:
– Chúng bay xem nó cũng đáng thương. Chân cua, yếm cua đâu, đem cho nó ăn một ít.
Bọn Uyên Ương cười nói to
– Chân cua đầy một bàn đấy. Mợ Hai cứ việc ăn cho chán đi.
Phượng Thư cười, đi rửa mặt xong lại đến hầu Giả mẫu.
Đại Ngọc không dám ăn nhiều, chỉ ăn một tý thịt cua đứng dậy đi ra chỗ khác. Giả mẫu cũng không ăn nữa.
Mọi người đều đi rửa tay, rồi người đi xem hoa, người đi xem cá, chơi đùa một lúc, Vương phu nhân nói với Giả mẫu:
– Chỗ này gió to, lại mới ăn cua xong, mời cụ về nhà nghỉ, nếu còn cao hứng, ngày mai lại đến.
Giả mẫu cười nói:
– Phải ấy. Các người đương cao hứng, một mình ta về, sợ mất vui. Đã thế chúng ta cùng về cả.
Giả mẫu quay lại dặn bọn Tương Vân không nên mời Bảo Ngọc, Đại Ngọc ăn nhiều quá. Tương Vân vâng lời. Giả mẫu lai dặn Tương Vân và Bảo Thoa:
– Hai cháu cũng đừng nên ăn nhiều. Cái này ngon thực, nlưng ăn nhiều không tốt đâu, sẽ đau bụng đấy.
Hai người xin vâng, tiễn chân Giả mẫu ra ngoài vườn rồi lại trở vào, bảo bày lại bàn ăn. Bảo Ngọc nói:
– Không cần bày nữa, chúng ta hãy đi làm thơ, cứ để một cái bàn to ở giữa, đem bày tất cả rượu và món ăn ra đấy, không phải xếp đặt chỗ ngồi, ai thích ăn gì đến đấy mà ăn, rồi lại đi ra ngồi chỗ khác, như thế chẳng tiện hay sao?
Bảo Thoa nói:
– Phải đấy.
Tương Vân nói:
– Còn có những người khác nữa kia mà. Liền sai bày một bàn, chọn những cua nóng, mời bọn Tập Nhân, Thị Thư, Nhập Họa, Oanh Nhi và Thúy Mặc đến ăn. Lại giải hai chiếc chiếu hoa ở dưới cây quế cạnh sườn núi, mời bọn bà già và a hoàn nhỏ đến ngồi, tùy ý ăn uống, khi nào gọi sẽ đến.
Tương Vân mang đầu bài thơ ra, lấy kim gài lên tường, mọi người xem đều khen:
– Mới lạ đấy, chỉ sự khó, không chắc đã làm nổi!
Tương Vân lại nói:
– Không việc hạn vần.
Bảo Ngọc nói:
– Thế mới đúng. Tôi cũng không thích hạn vần.
Đại Ngọc vì không uống được nhiều rượu, lại không ăn cua, sai người mang cái đèn có đệm gấm đến ngồi tựa ở bao lan, buông cần câu cá.
Bảo Thoa tay cầm cành hoa quế, ngắm nghía một lúc, rồi nghiêng người ra ngoài cửa sổ, bứt những nhị quế thả xuống mặt nước để cho cá đến đớp.
Tương Vân thì ngẩn người ra một lúc rồi đi mời bọn Tập Nhân, và bảo bọn người ngồi ở sườn núi cứ việc ăn uống cho thỏa thích.
Thám Xuân, Lý Hoàn và Tích Xuân ngồi dưới cây liễu xem le cò.
Nghênh Xuân ngồi một mình ở dưới bóng hoa, lấy kim châm hoa mạt ly.
Bảo Ngọc lúc xem Đại Ngọc câu cá, lúc ngoảnh sang cạnh Bảo Thoa cười nói mấy câu; sau lại đến xem bọn Tập Nhân ăn cua, rồi cũng ngồi tiếp và uống vài ngụm rượu. Tập Nhân lại bóc thịt cua cho Bảo Ngọc ăn.
Đại Ngọc bỏ cần câu xuống, đi đến bàn ăn, cầm lấy cái nậm nhỏ bằng bạc chạm hoa mai, chọn một cái chén nhỏ bằng đá hồng, vẽ hình tàu chuối. A hoàn thấy thế, biết là cô ta muốn uống rượu, vội chạy lại rót. Đại Ngọc nói:
– Các chị cứ việc ăn đi, để tôi tự rót lấy uống mới thú.
Đại Ngọc rót nửa chén, nhưng thấy rượu vàng, liền nói:
– Tôi mới ăn một tý thịt cua, bụng đã thấy hơi đau, nếu được uống thứ rượu hâm nóng uống ngay thì tốt.
Bảo Ngọc liền nói:
– Có rượu nóng đây.
Rồi sai người mang ngay cái nậm rượu nóng ngâm bằng hoa hợp hoan đến.
Đại Ngọc uống một ngụm rồi bỏ xuống, Bảo Thoa cũng chạy đến, cầm ly rượu, uống một tợp, rồi nhúng bút đến cạnh tường ngoặc một cái dưới đầu bài thứ nhất là ức cúc, ở dưới viết thêm chữ: Hành.
Bảo Ngọc vội nói:
– Chị Ơi! Bài thứ hai tôi đã nghĩ được bốn câu rồi, để phần tôi làm nhé!
Bảo Thoa cười nói:
– Tôi chưa chắc đã làm nổi một bài anh làm gì mà cuống lên thế.
Đại Ngọc cứ lẳng lặng mang bút đến ngoặc vào bài thứ tám là Vấn cúc, và bài thứ mười một là Cúc mộng, dưới viết thêm chữ Tiêu.
Bảo Ngọc cũng cầm bút ngoặc đầu bài thứ hai là Phỏng cúc, dưới viết thêm chữ Giáng.
Thám Xuân chạy lại xem rồi nói:
– Không ai làm bài Trâm cúc, để tôi làm vậy.
Lại trỏ vào Bảo Ngọc cười nói:
– Vừa nói là không được động đến những chữ trong khuê các, anh nên cẩn thận đấy.
Tương Vân chạy lại ngoặc luôn hai bài thứ tư và thứ năm là Đối cúc và Cung cúc, dưới viết thêm chữ Tương.
Thám Xuân nói:
– Chị phải đặt biệt hiệu mới được.
Tương Vân cười nói:
– Bên nhà tôi bây giờ tuy còn vài nơi hiên quán, nhưng tôi không ở đấy. Nếu mượn mà đặt hiệu chẳng có thú gì.
Bảo Thoa cười nói:
– Vừa rồi cụ có nói bên nhà chị cũng có một cái thủy đình gọi là Chẩm Hà các, thế không phải của chị là gì? Giờ tuy không còn nữa, nhưng chị vẫn là chủ cũ chứ.
Mọi người đều nói: “Đúng đấy”.
Bảo Ngọc không chờ Tương Vân chữa lại, liền đi xóa ngay chữ Tương đổi là chữ Hà.
Ước chừng chưa ăn xong bữa cơm, mười hai bài thơ đều đã làm xong, ai nấy đều viết ra giấy cẩn thận, đưa cho Nghênh Xuân. Nghênh Xuân lấy ngay một tờ hoa tiên vờn tuyết viết tinh tả ra, thơ của người nào, dưới đề biệt hiệu người ấy.
Bọn Lý Hoàn xem từ bài đầu trở xuống:
ỨC CÚC
Ngóng gió tây về luống ngẩn ngơ,
Nhìn lau liễu tốt ruột vò tơ.
Vườn hoang, giậu vắng thu đâu nhỉ,
Trăng lạnh, sương trong mộng thấy chưa?
Lòng vướng vít theo đàn nhạn khuất,
Tai văng vẳng lọt tiếng chày thưa.
Thương mình gầy cũng vì hoa đấy,
Này tiết trùng dương 1 hãy đợi chờ.
Hành Vu quân
PHỎNG CÚC
Gặp buổi sương tan hãy dạo chơi,
Thôi đừng rượu thuốc đắm say hoài
Dưới trăng hoa nở chừng bao giống,
Bên giậu thu về đã mấy nơi?
Dép nhẹ nhàng đi tình lại đượm,
Thơ run rẩy mãi hứng chưa vơi.
Hoa vàng ví biết thương thi khách,
Hứng rượu hôm nay chớ phụ người.
Di Hồng công tư?
CHỦNG CÚC
Vườn thu cào sẵn khách dời chân,
Giồng khắp bên rào khắp dưới sân.
Nhờ được mưa đêm tươi vẻ lại,
Dính đầy sương sớm nở hoa dần.
Thu nhìn mát rượi thơ nghìn vận,
Hương rót say sưa rượt một tuần.
Thương tiếc thì nên chăm tưới bón,
Hãy cùng ngõ giếng lánh hồng trần.
Di Hồng công tư?
ĐỐI CÚC
Trồng ở vườn riêng quý tựa vàng,
Khóm vàng khóm trắng đủ đôi hàng.
Bù đầu lẩn thẩn ngồi gần giậu,
Ôm gối nghêu ngao hát những hương.
Đời được mấy người xa thói tục,
Đây là một bạn biết lòng chăng.
Bóng thu loang loáng đừng nên phụ,
Ngơ ngẩn nhìn nhau tiếc tấc gang.
Chẩm Hà cựu hữu
CUNG CÚC
Rượu ngọt đàn hay đón bạn hiền,
Lả lơi trên án bóng thuyền quyên.
Hương pha mùi móc người xa mấy,
Mắt ngắm cành thu sách quẳng liền.
Sương đẫm màu kia mơ chửa tỉnh,
Vườn chơi chiều nọ nhớ hay quên.
Ngông đời ta lại như ai đấy,
Đào lý xuân kia cũng biếng nhìn.
Chẩm Hà cựu hữu
VỊNH CÚC
Sớm tối ma thơ lẩn quất hoài,
Quanh rào tựa đá khẽ ngâm chơi.
Sương kề ngọn bút thơ giàu tứ,
Trăng rọi trên môi giọng ngát mùi.
Mối hận ngấm ngầm đề chật giấy,
Lòng thu giãi tỏ biết chăng ai?
Phẩm bình từ lúc nhờ Đào lệnh 2
Cao tiết nghìn thu rộn khắp nơi.
Tiêu tương phi tư?
HỌA CÚC
Thơ rồi lại vẽ thực ngông cuồng,
Xanh đỏ lòng sao khéo vẩn vương?
Chụm lá vẩy ra nghìn giọt mực,
Trổ hoa nhuộm hẳn mấy hằn sương.
Nhạt nồng vẻ trội hoa vờn gió,
Gân guốc tay đưa thu đượm hương.
Đừng tưởng vườn đông mà hái bậy,
Dáng bình ta thưởng tiết trùng dương!
Hành Vu quân
VẤN CÚC
Chẳng biết thu đâu để hỏi chào,
Vườn đông lẩm nhẩm chắp tay vào.
Xa đời ngất ngưởng cùng ai đấy?
Biếng nở lừ đừ khéo chậm sao?
Vườn móc sân sương buồn kể mấy?
Nhạn về sâu ốm nhớ chăng nào?
Đừng cho không đáng cùng đời truyện,
Biết nói thì đây truyện chút nao.
Tiêu Tương phi tư?
TRÂM CÚC
Nay cắm mai trồng bận suốt ngày,
Lầu gương nào phải ngắt về bầy,
Yêu hoa công tử thành đeo bệnh,
Ngông chén Đào công lại quá say.
Tóc ngắn móc giây đường hẻm lạnh,
Khăn đầu hương nhuộm hạt sương bay.
Mắt đời ưa thích gì cao khiết.
Họ vỗ tay cười cũng mặc thây.
Tiêu Hạ khách
CÚC ẢNH
Gương thu từng lớp ngất lưng trời,
Lẩn lút trong vườn dạo bước chơi.
Đèn vướng hàng song rời rạc chiếu,
Trăng luồn khe giậu lập loè soi.
Bóng còn thoảng đó hồn dừng lại,
Sương vẩn in đây mộng tỉnh rồi.
Giữ lấy mùi thơm đừng xéo nát,
Mắt say nhập nhoạng mặc thây người.
Chẩm Hà cựu hữu
CÚC MỘNG
Bên rào say giấc tiết thu trong,
Trăng đấy hay mây hãy đợi cùng.
Hoa bướm tiên nào màng Tất lại 3
Nặng thề bạn những nhớ Đào công.
Mơ màng theo nhạn đàn xao xác,
Sửng sốt thương sâu tiếng não nùng,
Tỉnh giấc, nỗi niềm ai đã tỏ?
Cỏ khô khói lạnh ngổn ngang lòng!
Tiêu Tương phi tư?
TÀN CÚC
Móc đọng sương rơi luống phũ phàng,
Chén mừng tiểu tuyết tiết vừa sang.
Cuống vàng nhàn nhạt hương thoang thoảng,
Lá héo lơ thơ nhánh ngổn ngang.
Trăng xế nửa giường sâu rít giọng,
Mây đùn nghìn dặm nhạn thưa hàng.
Thu sau lại hẹn ta cùng gặp,
Tạm biệt xin lòng chớ vấn vương!
Tiêu Hạ khách
Mọi người xem bài nào khen bài nấy, mãi không dứt lời. Lý Hoàn cười nói:
– Tôi cứ công bằng mà bình ra đây. Tất cả các bài, bài nào cứng có câu hay, nhưng bài Vịnh cúc thứ nhất, bài Vấn cúc thứ hai, bài Cúc mộng thứ bạ Đầu bài mới, thơ làm mới, từ lại càng mới, nên phải để Tiêu Tương phi tử đứng đầu. Rồi lần lượt đến các bài Trâm cúc, Đối cúc, Cung cúc, Họa cúc, ức cúc.
Bảo Ngọc mừng lắm, vỗ tay nói:
– Rất là công bằng.
Đại Ngọc nói:
– Thơ của tôi cũng không hay lắm, vì lắt léo quá.
Lý Hoàn nói:
– Hay ở chỗ lắt léo mà không ra vẻ rườm rà và trúc trắc.
Đại Ngọc nói:
– Cứ tôi xem thì hay nhất là câu Vườn chơi chiều nọ nhớ hay quên, câu ấy ngụ ý “đánh phấn ở mặt sau”. Nguyên câu “mắt ngắm cảnh thu sách quẳng liền” đã hay lắm. Vì Cung cúc tả hết rồi, không còn nói vào đâu nữa, nên phải quay lại nhớ đến nhũng khi chưa bẻ cắm, ý tứ thực là sâu xa.
Lý Hoàn cười nói:
– Vẫn biết thế, nhưng cái câu… trên môi giọng ngát mùi của cô cũng địch được câu ấy rồi.
Thám Xuân lại nói:
– Dù sao cũng phải chịu thơ Hành Vu quân là sâu sắc. Những chữ thu đâu nhỉ, mộng thấy chưa thực như đã vẽ ra được chữ ức.
Bảo Thoa nói:
– Những chữ tóc ngắn móc giây… khăn đầu hương nhuộm… của cô hình dung tứ Trâm cúc rất mầu nhiệm, không còn hở một chút nào.
Tương Vân cười nói:
– Những chữ cùng ai đấy, khéo chậm sao làm cho hoa cúc khó mà trả lời được.
Lý Hoàn cười nói:
– Nếu vậy thì những chữ bù đầu lẩn thẩn… Ôm gối nghêu ngao… cũng có ý không lúc nào rời hoa cúc ra được. Hoa cúc có hay, chắc cũng lấy làm chán chường lắm.
Mọi người nghe vậy đều cười.
Bảo Ngọc cười nói:
– Chuyến này tôi lại hỏng thi rồi. Có lẽ những chữ chừng bao giống, đã mấy nơi, dép nhẹ nhàng đi, thơ run rẩy đọc đều không phải là thăm cúc và câu nhớ mưa đêm dính sương sớm đều không phải là trồng cúc hay sao? Nhưng chỉ bực một nỗi là không bằng được những câu trăng rọi trên môi giọng ngát mùi, ôm gối nghêu ngao ngát những hương, và tóc ngắn, khăn đầu, cuống vàng nhàn nhạt, lá héo lơ thơ, thu đâu nhỉ, mộng thấy chưa đấy thôi.
Lại nói:
– Ngày mai rỗi, tôi sẽ làm đủ mười hai bài.
Lý Hoàn nói:
– Thơ của chú cũng hay đấy, nhưng không bằng nhưng bài kia mới và nhã hơn.
Mọi người bàn tán một lúc, rồi ra ngồi quanh vào cái bàn lớn, lại ăn một chập thịt cua nữa.
Bảo Ngọc cười nói:
– Hôm nay cầm càng cua, thưởng hoa quế, cũng phải có thợ Tôi đã làm rồi, có ai dám làm nữa không?
Nói xong, liền rửa tay rồi cầm bút viết.
Mọi người xem thấy:
Dưới bóng quế, càng cầm tay,
Ngông lên gừng dấm chua cay thưởng tràn.
Vương tôn sẵn rượu càng ham,
Anh chàng không ruột, bò ngang đi đời!
Quên của lạnh, mải ăn hoài,
Mùi tanh tay dính rửa rồi vẫn tanh.
Người đời chỉ thích ăn sành,
Kìa Pha tiên 4 cũng lo quanh suốt đời.
Đại Ngọc cười nói:
– Hạng thơ này một lúc tôi làm trăm bài cũng được.
Bảo Ngọc cười nói:
– Cô bây giờ đã hết tài kiệt sức, không làm được nữa rồi, lại vẫn còn chê bai người ta.
Đại Ngọc nghe nói, không thèm trả lời, hơi ngẩng cổ lên, khe khẽ ngâm, rồi viết ngay ra một bài.
Mọi người xem thấy:
Giáo trường giáp sắt còn đây,
Nếm mùi trên chỗ mâm bày sáng choang.
Ngọc non đầy ắp đôi càng,
Mai trồi đỏ chói, mùi hương ngát lừng.
Đẫy đà tám vế còn chăng,
Giúp vui nghìn chén, ai nâng đến mời?
Gặp khi ngon miệng đẹp trời,
Quế vờn vã gió, cúc cười cợt sương.
Bảo Ngọc xem xong, khen lấy khen để. Đại Ngọc liền xé và sai người đem đốt đi, rồi cười nói:
– Bài của tôi không bằng của anh, để tôi đốt đi; bài của anh hay đấy, hơn cả bài thơ cúc họa vừa rồi, anh nên giữ lại để cho mọi người xem.
Bảo Thoa cười nói:
– Tôi cũng cố gắng làm một bài, nhưng chưa chắc đã hay, hãy viết ra đây làm trò cười thôi.
Nói xong, viết ra cho mọi người xem.
Chén mời dưới bóng quế đồng,
Trùng dương khao hát, khắp vùng Trường An,
Trên đường nào thấy dọc ngang,
Khen chê chỉ thấy đen vàng trông ra.
Mới xem bốn câu trên này, mọi người khen tuyệt. Bảo Ngọc nói:
– Mắng một cách đau đớn thật. Thơ tôi đáng đốt đi thôi.
Rồi đến bốn câu dưới:
Rửa tanh rượu với cúc xoa,
Muốn phòng chứng lạnh thì ta thêm gừng,
Vò dốc cạn mùi còn chăng?
Bến trăng kia những lúa lừng mùi thơm.
Mọi người xem xong, đều nói:
Đây mới là một bài thơ ăn cua tuyệt diệu! Đề mục nhỏ mà ngụ ý lớn, thực là bực đại tài. Nhưng có điều gì mỉa mai người đời ác quá.
Lúc đó thấy Bình Nhi lại chạy vào vườn, không biết có việc gì.
1 Ngày mồng 9 tháng Chín.
2 Tức Đào Tiềm, người đời Tấn. Vì ông làm quan lệnh ở Bành Trạch, nên cũng gọi là Đào Bành Trạch.
3 Tức Trang Chu, người đời chiến quốc, làm lại ở Tất viên, nên người ta gọi là Tất lại.
4 Người đời Tống, tu luyện thành tiên. Đời sau cũng có người gọi Tô Đông Pha là Pha Tiên.
– Mợ ấy có được rỗi đâu? Vì ở nhà không có món gì ăn ngon, lại không thể sang đây được, nên mợ ấy bảo tôi đến hỏi xem có còn cua hay không, xin mấy con mang về nhà ăn.
Tương Vân nói:
– Có nhiều lắm!
Liền sai người mang cái làn đựng mười con cua lớn.
Bình Nhi nói:
– Cho thêm mấy con cua cái nữa.
Mọi người lại kéo Bình Nhi ngồi xuống. Bình Nhi không chịu ngồi. Lý Hoàn cười nói:
– Thì cứ ngồi xuống đã nào.
Rồi kéo Bình Nhi ngồi xuống, rót một ly rượu, đưa lên miệng cô tạ Bình Nhi vội hớp một ngụm, định đi ngaỵ Lý Hoàn bảo:
– Chưa cho cô đi vội. Cô mới chỉ biết có mợ Phượng nhà cô thôi còn tôi thì cô không thèm nghe lời gì cả.
Liền quay bảo bọn bà già:
– Hãy mang làn cua này sang biếu mợ Phượng, và nói rằng ta còn giữ cô Bình ở lại chơi.
Một lúc, bà già mang cái làn về nói:
– Mợ Hai nói: các mợ và các cô đừng cười, hãy nếm món này đã. Trong làn này đựng bánh xốp và bánh cuốn mỡ gà của của bà mợ đưa sang cho các mợ và các cô ăn.
Bà ta lại ngoảnh vào nói với Bình Nhi:
– Mợ bảo rằng: Sai chị đi mà chị cứ tham ăn, không chịu về ngaỵ Mợ lại dặn chị uống ít rượu chứ.
Bình Nhi cười nói:
– Tôi uống nhiều thì làm gì tôi!
Vừa nói vừa uống rượu vừa ăn cuạ Lý Hoàn ôm lấy Bình Nhi, cười nói:
– Đáng tiếc dáng điệu mặt mũi thế này mà số phận lại kém cỏi, chỉ là người hầu hạ trong nhà thôi! Người ngoài ai trông thấy, chẳng bảo cô là hạng các mợ, các bà.
Bình Nhi vừa uống rượn với bọn Bảo Thoa, Tương Vân, vừa quay lại cười nói:
– Xin mợ đừng sờ vào người tôi đâm ngứa ngáy khó chịu.
Lý Hoàn hỏi:
– Ái chà! Đeo cái gì mà rắn thế này?
– Chùm chìa khóa đấy.
– Có cái gì quan hệ sợ người ta ăn trộm mà phải đeo luôn trong người thế? Ngày thường tôi vẫn nói với mọi người, có Đường Tăng 1 đi lấy kinh, thì phải có con ngựa trắng chở kinh; có Lưu Trí Viễn ra đánh dẹp thiên hạ, thì phải có con hồ tinh cho mũ giáp. Có mợ Phượng thì phải có cô Bình! Cô là chìa khoá của mợ cô rồi, lại còn dùng chìa khóa này làm gì nữa?
Bình Nhi cười nói:
– Mợ uống rượu lại mang tôi ra làm trò cười.
Bảo Thoa cười nói:
– Mợ ấy nói thực đấy. Khi chúng tôi ngồi rỗi, thường hay bàn tán mấy người trong bọn các chị, thấy là mỗi người một vẻ trăm người chưa chọn được một.
Lý Hoàn nói:
– Việc lớn, việc nhỏ đều do ông trời định sẵn cả. Ví như bên nhà cụ, không có chị Uyên Ương thì làm thế nào nổi việc? Từ bà Hai trở xuống, có ai dám trái lời cụ đâu? Thế mà cô ta lại dám cãi lại, cụ vẫn chỉ nghe cô ta thôi. Những quần áo của cụ không ai nhớ được, cô ta vẫn nhớ rành rọt. Nếu không có cô ta trông nom, thì không biết người ta đã lừa gạt mất bao nhiêu rồi! Vả chăng bụng cô ta lại thẳng thắn, thường hay nói tốt cho người, chứ không bao giờ cậy thế khinh rẻ một ai.
Tích Xuân cười nói:
– Hôm nọ cụ vừa nói, cô ta còn hơn chúng tôi nữa đấy.
Bình Nhi nói:
– Chị ấy là người tốt, chúng tôi bì thế nào được.
Bảo Ngọc nói:
– Chị Thái Hà ở nhà mẹ tôi cũng là người thực thà.
Thám Xuân nói:
– Bề ngoài thì thực thà, thế mà trong bụng lại biết suy tính lắm đấy. Mẹ hiền như bụt, chả để ý đến việc gì, mà cô ta thì việc gì cũng biết, cái gì cũng phải nhắc. Cha ở nhà cũng như đi vắng, bất cứ việc lớn việc nhỏ, cô ta đều biết hết, nếu mẹ quên thì sau đó cô ta nhắc ngay.
Lý Hoàn nói:
– Còn nói gì nữa.
Rồi trỏ Bảo Ngọc nói:
– Chúng ta hãy xem, trong nhà chú Hai đây, nếu không có chị Tập Nhân thì sẽ ra sao? Dù thím Phượng có tài như Bá Vương nước Sở 2 cũng cần phải có hai cánh tay để cất cái vạc nghìn cân. Không có cô Bình, thì việc nhà thím ấy làm thế nào mà trông nom xuể được?
Bình Nhi nói:
– Lúc trước bên nhà đưa sang bốn a hoàn, nhưng người chết, người thì đi, chỉ còn một mình tôi bồ côi bồ cút ở lại đây thôi.
Lý Hoàn nói:
– Đó là phúc cho nhà cô, nhưng cũng là phúc cho nhà thím Phượng. Trước kia cậu Cả nhà còn sống, thì có thiếu gì người hầu? Các cô thử xem, tôi có phải là người hẹp lượng không biết dung kẻ dưới đâu? Thế mà ngày nào họ cũng cứ tỏ ra không vừa ý. Vì thế, khi cậu ấy mất rồi, nhân thấy họ còn trẻ tuổi, tôi đều cho về cả. Nếu được người nào biết nghĩ thủy chung ở lại, thì bây giờ tôi cũng còn có kẻ đỡ chân đỡ tay.
Nói xong, mắt Lý Hoàn đỏ ngầu lên.
Mọi người đều can:
– Còn kể ra làm gì cho đau lòng! Thôi chúng ta đi về là hơn.
Nói xong, đều đi rửa tay, rồi cùng nhau sang thăm Giả mẫu và Vương phu nhân. Bọn bà già và a hoàn quét dọn nhà cửa, thu xếp bát đĩa. Tập Nhân và Bình Nhi cùng đi ra.
Tập Nhân mời Bình Nhi vào nhà mình uống trà. Bình Nhi nói: “Không uống đâu, sau sẽ đến chơi”. Nói xong muốn đi ngaỵ Tập Nhân liền gọi lại hỏi:
– Tại sao tiền lương tháng này, ngay người trong nhà cụ và bà Hai vẫn chưa giả?
Bình Nhi quay lại gần Tập Nhân, thấy không có ai, khẽ nói:
– Thôi, chị đừng hỏi nữa, chậm lắm là hai hôm sẽ phát thôi. Tiền lương tháng này mợ tôi đã chi ra rồi, nhưng lại đem cho người khác vaỵ Phải chờ đi thu lãi ở các nơi về đủ số rồi mới phát. Chị đừng nên nói cho một ai biết nhé!
– Không lẽ mợ ấy còn thiếu tiền tiêu. Sao nỡ đang tâm làm như vậy?
– Mấy năm nay mợ ấy chỉ lấy món tiền ấy ra cho vay, mà đã thu được hàng nghìn bạc lãi rồi đấy.
– Mợ chị lấy tiền lương của chúng tôi đem ra cho vay lấy lãi, làm chúng tôi phải ăn chực nằm chờ!
– Sao chị lại nói câu tệ bạc thế? Chị mà còn thiếu tiền à?
– Tôi hiện giờ chưa cần, nhưng muốn sắp sẵn cho một người.
– Chị có việc gì cần tiêu, thì tôi có mấy lạng, hãy lấy mà tiêu, sau này trừ tiền lương cũng được.
– Bây giờ tôi chưa cần, sau này tiêu gì, tôi sẽ cho người sang vay chị.
Bình Nhi nhận lời, chạy về nhà không thấy Phượng Thư đâu, chợt thấy già Lưu và thằng Bản lần trước đến xin tiền đã ngồi ở nhà bên kia rồi, lại có vợ Trương Tài và vợ Chu Thụy ngồi tiếp; có mấy a hoàn đứng dưới đất đương dốc táo, dưa và rau ở túi ra. Mọi người thấy Bình Nhi vào, đều đứng dậy cả. Già Lưu vì lần trước đến, đã biết Bình Nhi là người thế nào rồi, nên vội bước xuống hỏi:
– Cô vẫn được mạnh luôn? Cả nhà tôi đều gửi lời hỏi thăm cộ Từ lâu muốn đến thăm sức khỏe mợ nhà và cô, nhưng vì bận mùa. Năm nay mới gặt được mấy hộc thóc, hoa quả, rau dưa đều tốt cả. Nhưng thứ này là của mới, tôi không dám mang đi bán, chọn thứ ngon đem đến biếu mợ và cộ Các cô ngày nào cũng ăn chán những đồ cao lương mỹ vị, giờ nếm món rau nhà quê xem sao. Đó là tấm lòng thành của người nghèo chúng tôi.
Bình Nhi vội nói:
– Đa tạ lòng bà!
Rồi mời già Lưu ngồi. Bình Nhi cũng ngồi xuống, lại mời thím Trương và thím Chu cùng ngồi, và sai a hoàn nhỏ đi pha nước. Vợ Trương Tài và vợ Chu Thụy đều cười nói:
– Hôm nay trông cô có vẻ hồng hào tươi tỉnh, khóe mắt cũng đỏ lên.
Bình Nhi cười nói:
– Phải đấy! Xưa nay tôi không biết uống rượu, mợ Cả và các cô cứ kéo lại vật nài cho được, bất đắc dĩ tôi phải uống hai chén, thành ra đỏ cả mặt.
Vợ Trương Tài cười nói:
– Tôi muốn uống quá, lại chẳng có ai mời. Ngày mai có ai mời cô, cho tôi đi theo với.
Mọi người đều cười ầm lên.
Vợ Chu Thụy nói:
– Sáng hôm nay tôi trông thấy thứ cua to quá, chỉ hai con là đủ một cân. Thế mà những hai ba giỏ lớn, có nhẽ đến bảy tám mươi cân.
Vợ Trương Tài nói:
– Từ trên chí dưới, ai cũng ăn cả, thì chừng ấy chưa chắc đã đủ.
Bình Nhi nói:
– Ở đâu mà ai cũng ăn. Chẳng qua chỉ nhưng người có tên có tuổi mới được ăn vài con, còn thì có người vớ được, có người không vớ được con nào.
Già Lưu nói:
– Giá cua năm nay mỗi cân là năm phân, mười cân thì phải năm đồng, năm năm hai mươi lăm, ba năm mười lăm, lại thêm rượu và đồ ăn khác nữa, cộng tất cả ít ra cũng phải hơn hai mươi lạng bạc đấy. 3
A di đà phật! Món tiền này, người nhà quê chúng tôi có thể ăn được một năm!
Bình Nhi hỏi:
– Bà đã được gặp mợ ấy chưa?
– Đã gặp rồi, mợ ấy bảo tôi hãy chờ ở đây.
Nói xong, già Lưu ra ngoài cửa trông trời, nói:
– Trời đã chiều rồi, chúng tôi xin về đây. Nếu không ra được ngoài thành, lại khốn khó đấy!
Vợ Chu Thụy nói:
– Để tôi đi xem hộ bà.
Nói xong chạy đi, một chốc mới về, cười nói:
– Phúc nhà bà đấy, sao mà hai người lại hợp duyên với nhau thế.
– Mợ Hai đang hầu cụ, tôi khẽ đến trình: “Già Lưu muốn về, vì sợ tối không ra được cửa thành”. Mợ Hai bảo: “Khen cho bà ấy, đường xa thế mà mang được nhiều thứ đến biếu. Bây giờ muộn rồi, bảo bà ấy ngủ lại một đêm, ngày mai sẽ về”. Thế không phải là hợp duyên với mợ Hai à? Việc ấy đã đành, không ngờ cụ nghe thấy, liền hỏi già Lưu là ai? Mợ Hai kể rõ gốc tích. Cụ bảo: “Ta muốn nói chuyện với những người già cả, bảo bà ấy đến đây”. Thế không phải là duyên số trên trời, không hẹn mà gặp sao?
Vợ Chu Thụy liền giục già Lưu đi ngay.
Già Lưu nói:
– Người ngợm tôi thế này, đến đó sao tiện? Thôi chị nói hộ là tôi đã về rồi!
Bình Nhi nói:
– Không việc gì đâu, bà cứ đến, cụ tôi vốn mến người già, thương người nghèo, chứ không như những hạng người điêu trá đâu. Bà sợ, tôi và dì Chu sẽ đưa bà đến.
Nói xong, liền cùng vợ Chu Thụy đưa già Lưu sang bên nhà Giả mẫu.
Bọn đầy tớ bé ngồi gác ở cửa ngoài, thấy Bình Nhi đến, đều đứng dậy cả. Có hai đứa chạy theo Bình Nhi gọi: “Cô ơi!”
Bình Nhi hỏi:
– Muốn nói việc gì.
– Bây giờ chiều rồi, mẹ tôi ốm, tôi phải đi mời thầy thuốc, xin cô cho tôi nghỉ nửa ngày, có được không?
– Chúng bay giỏi thật, đã bàn soạn với nhau rồi hay sao? Cứ mỗi ngày là một đứa xin nghỉ, không xin phép mợ, lại cứ quấy rầy tao. Hôm trước thằng Trụ xin đi, cậu Hai gọi nó không thấy, tao phải nói đỡ, cậu ấy mắng tao che chở cho nó. Bây giờ mày cũng lại thế à?
Vợ Chu Thụy nói:
– Mẹ nó ốm thật đấy, xin cô nói đỡ, để cho nó về.
Bình Nhi nói:
– Ngày mai phải đến sớm nhé, nghe chưa? Ta còn cần đến mày. Hay lại ngủ cho đến khi mặt trời dọi vào đít rồi mới dẫn xác đến? Nhân tiện mày về bảo cho thằng Vượng biết là mợ truyền số tiền lãi còn lại, ngày mai không mang trả, thì mợ không thèm lấy nữa đâu! Để nó tiêu cả.
Thằng nhỏ mừng nhảy lên, vâng dạ rồi đi.
Bình Nhi đến buồng Giả mẫu, bấy giờ các chị em ở trong vườn Đại Quan đều đứng hầu cả đấy. Già Lưu đi vào, thấy trong nhà người nào cũng đeo châu ngọc, mặc gấm vóc, lộng lẫy như hoa, không phân biệt ai ra ai nữa. Chỉ thấy một vị lão bà ngồi tựa trên giường, đằng sau có một a hoàn lộng lẫy như một mỹ nhân, mình đầy the lụa, đang ngồi hầu bóp chân. Phượng Thư đang đứng bên cạnh cười cười nói nói. Già Lưu biết ngay là Giả mẫu, vội lại gần lạy mấy lạy, rồi nói:
– Chúc lão thọ tinh mạnh khỏe luôn.
Giả mẫu gật đầu hỏi thăm, và sai vợ Chu Thụy lấy ghế cho ngồi. Thằng Bản rụt rè, không biết chào hỏi gì cả.
Giả mẫu hỏi:
– Bà này, năm nay bà bao nhiêu tuổi rồi?
Già Lưu vội đứng dậy thưa:
– Tôi năm nay bảy mươi lăm tuổi.
Giả mẫu ngoảnh vào nói với mọi người:
– Nhiều tuổi hơn ta thế mà trông người vẫn còn sắc sảo? Ta đến tuổi ấy không biết còn làm được gì không?
Già Lưu cười nói:
– Kiếp chúng tôi là kiếp người chịu khổ, chịu sở; còn cụ sinh ra là để hưởng phúc. Chúng tôi mà cũng như cụ, thì công việc đồng áng ai làm cho.
– Mắt và răng bà còn khá không?
– Còn khá, nhưng năm nay cái răng bên hàm trái đã thấy lung lay.
– Tôi già rồi, không làm gì nữa; mắt mờ, tai điếc, tính lại hay quên. Ngay các bà là chỗ họ hàng, tôi cũng không nhớ hết. Mỗi khi bà con đến chơi, nói ra sợ người ta cười, tôi cũng chả biết ai vào ai, chẳng qua có cái gì ăn được thì ăn vài miếng, rồi ngủ một giấc; lúc nào buồn thì chơi đùa với con, với cháu cho qua.
Già Lưu cười nói:
– Thế là cụ có phúc đấy. Chúng tôi mong thế cũng chẳng được
– Phúc gì? chẳng qua là hạng già bỏ đi đấy thôi!
Câu nói ấy làm cho mọi người cười ầm lên.
Giả mẫu lại cười nói:
– Tôi vừa thấy cháu Phượng nói, bà có mang cho nhiều thứ rau dưa, tôi đã bảo nó cất đi rồi. Tôi đang muốn ăn rau dưa chính trong vườn nhổ ra, chứ mua ở ngoài thì không được ngon.
Già Lưu nói:
– Đó là vật nhỏ mọn quê mùa, chẳng qua ăn lấy thứ tươi thôi. Chúng tôi chỉ muốn ăn thịt cá, nhưng chẳng có mà ăn.
Giả mẫu lại nói:
– Bây giờ đã nhận bà con, thì không nên về không, đừng ngại gì cả, hãy ở lại chơi vài hôm. Ở đây cũng có vườn, có hoa quả, ngày mai bà đến nếm thử xem, rồi mang về một ít, thế mới là có đi có lại chứ.
Phượng Thư thấy Giả mẫu vui vẻ, liền mời già Lưu ở lại, và nói:
– Nhà chúng tôi tuy không rộng bằng vườn trại của bà, nhưng cũng có vài gian buồng để không, bà ở lại vài hôm, kể chuyện mới chuyện cũ ở quê ta cho bà tôi nghe.
Giả mẫu cười nói:
– Cháu Phượng đừng mang bà ấy ra làm trò cười. Bà ấy là người nhà quê thực thà, không quen lối đùa cợt của nhà mày đâu!
Liền sai người lấy hoa quả cho thằng Bản. Thằng Bản thấy đông người, sợ không dám ăn. Giả mẫu lại sai người cho nó tiền, bảo bọn hầu bé đưa nó ra ngoài chơi. Già Lưu uống nước xong, kể những chuyện tai nghe mắt thấy ở thôn quê cho Giả mẫu nghe. Giả mẫu càng lấy làm thích.
Đến chiều, Phượng Thư sai người mời già Lưu đi ăn cơm. Giả mẫu lại chọn vài món ăn của mình, sai người đưa cho già Lưu. Phượng Thư biết già Lưu hợp tính Giả mẫu, nên ăn cơm xong lại bảo già đến ngaỵ Uyên Ương sai bà già đưa già Lưu đi tắm rửa, lấy hai bộ quần áo của mình thường mặc đưa cho già thaỵ Già Lưu xưa nay có được thấy thế này bao giờ, vội thay quần áo, đến ngồi trước giường Giả mẫu, rồi lại moi chuyện ra nói. Bấy giờ chị em Bảo Ngọc đương ngồi cả đấy. Họ xưa nay chưa hề được nghe, nên cảm thấy thay hơn cả người mù kể chuyện.
Già Lưu tuy là người nhà quê, nhưng cũng am hiểu ít nhiều. Vả tuổi đã già, trò đời đã từng trải, lại thấy Giả mẫu và đám chị em đều thích nghe, nên dù hết chuyện, cũng vẫn cứ bịa ra để nói:
– Chúng tôi ở nhà quê, cày cấy trồng trọt, hàng năm, hàng ngày, suốt cả bốn mùa, dầm mưa dãi nắng, có lúc nào được ngồi rỗi đâu? Quanh năm lấy đầu bờ làm quán mát nghỉ ngơi, thì còn thiếu gì chuyện kỳ quặc trên đời! Cũng như mùa đông năm ngoái, tuyết rơi ròng rã mấy ngày, mặt đất ngập đến ba bốn thước. Hôm ấy tôi dậy sớm, chưa ra cửa, đã nghe thấy bên ngoài có tiếng rút củi sột soạt. Tôi đoán có người ăn cắp củi, nhìn qua cửa sổ, lại không phải là người trong trại.
Giả mẫu nói:
– Chắc là người qua đường lạnh quá, thấy củi chất đấy, rút ra để đốt chứ gì?
– Không phải là người qua đường, chuyện thế mới lạ chứ. Cụ thử đoán xem là ai? Nguyên là một cô gái rất đẹp, độ mười bảy, mười tám tuổi, đầu chải bóng nhoáng, mặc áo đỏ và quần hoa trắng…
Già Lưu vừa nói đến đấy, bỗng bên ngoài có tiếng ồn ào lại có người nói:
– Không việc gì đâu, đừng làm cụ sợ.
Giả mẫu nghe thấy liền hỏi:
– Cái gì thế?
A hoàn nói:
– Chuồng ngựa phía nam bị cháy, nhưng không việc gì, đã dập tắt được rồi.
Giả mẫu xưa nay vẫn hay nhát, liền đứng dậy vịn vào người hầu đi ra ngoài hè xem, thấy góc đông nam hãy còn ngọn lửa. Giả mẫu sợ quá, vừa niệm phật, vừa sai người đi thắp hương khấn thần hỏa. Bọn Vương phu nhân vội lại an ủi: “Đã dập tắt được rồi, xin cụ cứ vào”.
Giả mẫu chờ cho lửa tắt hẳn rồi, mới dẫn mọi người vào.
Bảo Ngọc lại hỏi già Lưu:
– Tại sao cô gái ấy lại rút củi trong đám tuyết, lỡ bị lạnh sinh ốm thì sao?
Giả mẫu nói:
– Vừa rồi vì câu chuyện rút củi, nên xảy ra việc cháy, mày lại còn hỏi làm gì? Thôi! Thôi! Đừng nhắc đến nữa, hãy nói chuyện khác đi.
Bảo Ngọc nghe nói không vui, nhưng cũng phải thôi.
Già Lưu nghĩ một lúc, rồi nói:
– Cái trại ở bên đông trại chúng tôi có một bà cụ già đã ngoài chín mươi tuổi. Ngày nào cũng ăn chay niệm Phật. Không ngờ cảm động đến đức Phật Quan Âm, đêm về báo mộng rằng: “Số ngươi đáng phải tuyệt tự, nhưng vì ngươi có lòng thành nên ta đã tâu với đức Ngọc Hoàng cho ngươi đứa cháu giai”. Cụ già ấy chỉ có một người con, người con ấy chỉ đẻ có một đứa cháu gái thôi. Ngờ đâu đứa cháu ấy đến năm mười bảy, mười tám tuổi thì chết mất. Bà ấy khóc lóc không biết bao nhiêu mà kể. Về sau quả nhiên lại đẻ được một đứa cháu nữa. Bây giờ nó đã mười ba, mười bốn tuổi, người kháu khỉnh, thông minh, lanh lẹ. Như thế thì thần phật có nhẽ cũng có đấy nhỉ!
Câu chuyện ấy hợp ý Giả mẫu và Vương phu nhân đều thích nghe cả. Bảo Ngọc lại chỉ thích chuyện rút củi thôi, nên trong lòng nghĩ vơ nghĩ vẩn. Thám Xuân liền hỏi:
– Hôm nọ cô Sử đã mời chúng ta, bây giờ chúng ta nên bàn nhau mở một cuộc thi thơ, để trả lại bữa tiệc, và cũng mời cụ đến thưởng hoa cúc một thể, có nên không?
Bảo Ngọc cười nói:
– Cụ đã bảo phải làm bữa tiệc để mời lại cô Sử và cho chúng ta đến tiếp. Chúng ta hãy ăn tiệc của cụ đã, rồi sẽ mời sau cũng không muộn.
Thám Xuân nói:
– Càng ngày trời càng rét thêm, chưa chắc cụ đã thích.
Bảo Ngọc nói:
– Cụ lại thích mưa, thích tuyết. Chúng ta chờ lúc bắt đầu có tuyết, mời cụ thưởng tuyết chả hơn ư? Khi đó chúng ta ngâm thơ dưới tuyết, lại càng thú lắm.
Đại Ngọc cười nói:
– Chúng ta ngâm thơ dưới tuyết ư? Cứ ý tôi, chi bằng kiếm một bó củi rồi chúng ta rút củi dưới tuyết, lại còn thú hơn.
Nghe nói câu ấy, bọn Bảo Thoa đều cười. Bảo Ngọc lườm Đại Ngọc một cái, không nói gì. Một lúc họ về cả, Bảo Ngọc dắt già Lưu ra chỗ vắng người, hỏi kỹ:
– Cô gái ấy là ai?
Già Lưu đành phải đặt chuyện ra nói:
– Ở đồi phía bắc bên trại tôi, có một ngôi miếu nhỏ, không phải là thờ thần phật nào cả. Khi trước có một ông già nào ấy…
Già Lưu nói đến đấy, lại nghĩ tên tuổi ông già.
Bảo Ngọc nói:
– Không cần phải nhớ tên tuổi, chỉ kể chuyện là đủ.
Già Lưu nói:
– Ông già ấy không có con trai, chi sinh được một cô gái, nghe đâu như tên là cô Dính Ngọc, văn hay chữ tốt; hai vợ chồng ông già yêu quý như ngọc báu. Thật là đáng tiếc! Cô gái ấy đến năm mười bảy tuổi thì bị bệnh chết.
Bảo Ngọc nghe đến đấy, giậm chân thở dài, lại hỏi:
– Thế rồi sau này việc ra làm sao?
– Vì hai vợ chồng ông già quá thương con, mới làm một ngôi miếu đắp tượng rồi cho người đèn hương thờ phụng. Bây giờ lâu ngày, người đã chết, miếu đã đổ, và tượng cũng đã hóa thành yêu tinh rồi.
Bảo Ngọc liền nói:
– Không phải hóa thành yêu tinh, những người như thế không bao giờ chết đâu.
– A di đà phật! Thật thế à? Nếu cậu không nói, thì tôi cho là cô gái ấy đã hóa thành yêu tinh rồi. Cô ta thường hiện ra người, vào các thôn các trại chơi. Tôi nói cái người rút củi, chính là cô gái đấy. Người trong trại chúng tôi đang bàn nhau đập tượng, san phẳng miếu đi.
– Không nên. San phẳng miếu là tội to lắm đấy.
– Cậu nói tôi mới haỵ Ngày mai về, tôi sẽ ngăn họ đừng phá nữa.
– Bà tôi và mẹ tôi đều là người từ thiện, tất cả lớn, bé trong nhà, ai cũng thích làm việc thiện, nhất là việc xây đền đúc tượng. Ngày mai tôi sẽ làm một tờ phả khuyến, đi quyên hộ bà. Bà sẽ làm bà từ, tu sửa lại miếu, đắp lại tượng. Hàng tháng, tôi cho bà một món tiền đèn nhang, như thế có được không?
– Nếu được thế, tôi nhờ phúc cô ấy, cũng có ít tiền tiêu.
Bảo Ngọc lại hỏi tên đất, tên trại, đi lại xa gần, ở vào địa phận nào. Già Lưu thuận miệng nói bừa ra. Bảo Ngọc tin là thực, về buồng suy nghĩ suốt đêm. Sáng hôm sau, Bảo Ngọc cho Dính Yên mấy trăm đồng tiền, theo lời già Lưu kể, bảo nó đi xem trước thế nào rồi sẽ về trình.
Dính Yên đi rồi, Bảo Ngọc băn khoăn chờ mãi không thấy về, nóng ruột quá, đi quanh đi quẩn, cứ như kiến bò trên miệng nồi nóng, mãi đến lúc mặt trời xế bóng, mới thấy Dính Yên hớn hở trở về. Bảo Ngọc liền hỏi:
– Có tìm thấy không?
– Cậu nghe không rõ, để cháu phải đi tìm mãi! Cái miếu ở chỗ nào ấy, chứ không phải như lời cậu đã dặn. Cháu tìm hết cả ngày, khi đến cái đồi ở góc đông bắc, mới thấy có một ngôi miếu đổ.
Bảo Ngọc nghe nói mừng rỡ, liền nói:
– Có nhẽ già Lưu đã nhiều tuổi, nên nhớ nhầm đấy. Mày thấy thế nào?
– Cửa miếu này cũng hướng về phía nam, cũng đổ nát cả ròi, cháu tìm hết hơi mới thấy, cháu reo lên: “Đúng rồi”, vội vàng đi vào, trông thấy pho tượng, cháu sợ quá, chạy ra ngaỵ Pho tượng ấy trông hệt như người sống vậy!
Bảo Ngọc mừng quá, cười nói:
– Tượng ấy hóa thành người, tất nhiên là có ít nhiều sinh khí!
Dính Yên vỗ tay nói:
– Có phải cô gái đâu! Là một vị Ôn thần mặt xanh tóc đỏ!
Bảo Ngọc nghe nói, quát lên một tiếng:
– Đồ ăn hại! Có việc ấy mà cũng không làm nổi!
Dính Yên bực lên, nói:
– Không biết cậu xem sách nào, hay là nghe ai nói bậy, rồi tin là thực, sai cháu đi làm cái việc không đâu, rồi bảo cháu là đồ ăn hại?
Bảo Ngọc liền vỗ về:
– Đừng nóng thế, hôm khác rỗi, mày lại đi tìm một lượt nữa. Nếu tìm không thấy, tất nhiên là họ nói dối ta; nếu có thực thì chả phải mày làm được một việc âm đức hay sao? Thế nào ta cũng sẽ trọng thưởng cho.
Chợt đứa hầu bé canh cửa ngoài vào trình:
– Các cô bên nhà cụ đang chờ cậu ở ngoài cửa đấy. Chưa biết là việc gì.
1 Tức Thích Huyền Trang, người đời Đường, sang Ấn Độ lấy kinh. Vua không cho đi, ông ta trốn ra cửa Ngọc Quan, rồi đến Thiên Trúc, vào chào Thượng tọa giới hiền. Người cho vào nước Chi Lạ Vua nước ấy cấp cho Đường Tăng con tuấn mã chở kinh về, tất cả hơn 600 bộ.
2 Hạng Võ nước Sở, rất khỏe, một tay nhấc được vạc nặng nghìn cân.
3 Đây là lối nói của một bà già nhà quê, không biết cách tính toán thế nào.
Bảo Ngọc nghe nói liền ra xem, thấy Hổ Phách đứng ở ngoài bình phong nói:
– Có việc chờ cậu đấy. Cậu ra ngay.
Bảo Ngọc đi lên nhà trên, thấy Giả mẫu và Vương phu nhân cùng các chị em đương bàn chuyện bày việc mời lại Sử Tương Vân. Bảo Ngọc nói:
– Theo ý cháu, đã không có khách ngoài, thì đồ ăn không cần định số trước, ngày thường ai thích ăn gì, cứ làm món ấy thôi, không cần phải bày tiệc. Trước mặt mỗi người, để một cái kỷ cao, đặt một cái hộp có nhiều ngăn, để món ăn vào đó và một cái bình, để ai nấy tự rót rượu lấy mà uống, như thế chẳng nhã hay sao?
Giả mẫu nói:
– Phải đấy.
Liền sai người truyền nhà bếp: “Ngày mai cứ theo số người, chọn nhưng món gì chúng ta thích ăn thì đặt cả vào khaỵ Bữa cơm sáng cũng bày ở trong vườn luôn”.
Khi bàn bạc xong thì trời đã tối.
Sáng hôm sau, khí trời trong sáng. Lý Hoàn dậy sớm đang trông nom cho bọn bà già và người hầu quét trước nhà cửa, lau chùi bàn ghế, sắp sẵn rượu chè, mâm bát, thì thấy Phong Nhi dắt già Lưu và thằng Bản đến nói:
– Mợ Cả bận lắm nhỉ?
Lý Hoàn cười nói:
– Hôm qua tôi đã bảo mà! Bà đừng vội, không về ngay được đâu!
– Cụ cứ giữ tôi lại, cho tôi cùng vui nhộn một hôm.
– Mợ tôi bảo, những kỷ cao ở ngoài sợ không đủ, nên mở cửa lầu lấy mấy cái xuống để dùng một bữa. Nhẽ ra mợ tôi đến lấy thì phải, nhưng đương hầu chuyện bà Hai, vậy nhờ mợ mở cửa hộ, và cho người lên mang xuống.
Lý Hoàn sai Tố Vân cầm lấy chìa khóa lại sai bà già ra gọi mấy đứa hầu nhỏ ở cửa ngoài vào. Lý Hoàn đứng ở dưới lầu Đại Quan, sai người lên mở gác Xuyết Cẩm, rồi bọn hầu nhỏ, bà già, a hoàn, chạy lên, cứ từng cái một, mang hơn hai mươi cái xuống.
Lý Hoàn nói:
– Phải cẩn thận đấy, đừng có chạy vội như ma đuổi, làm sứt những miếng gỗ chạm trổ xung quanh thì khốn đấy.
Rồi quay lại già Lưu, cười nói:
– Bà thử trèo lên mà xem.
Già Lưu không nói gì, dắt ngay thằng Bản trèo lên thang, đi vào trong gác, thấy đen ngòm những bình phong, bàn ghế và các thứ đèn hoa, màu sắc chói lọi, cái gì cũng lạ mắt. Già Lưu không sao nhận ra được, luôn miệng mô phật mấy tiếng. Sau đó, đóng cửa gác lại, mọi người đều xuống. Lý Hoàn nói:
– Phòng khi cụ cao hứng, nên mang cả thuyền nhỏ, sào, chèo, màn xuống để sẵn đó.
Mọi người vâng lời, lại mở cửa gác mang các thứ xuống, rồi sai đám hầu nhỏ gọi các lái thuyền ra bến, chống hai cái thuyền về.
Đương lúc nhộn nhạo, thi Giả mẫu dẫn mọi người đến. Lý Hoàn vội ra đón, cười nói:
– Bà cao hứng thật, bây giờ đã đến rồi. Cháu tưởng bà chưa chải đầu, vừa ngắt mấy bông hoa cúc định đưa sang.
Bích Nguyệt bưng cái khay xanh biếc kiểu lá sen đến, trong đựng mấy cành hoa cúc. Giả mẫu chọn một cành cúc đỏ cài lên mái tóc, quay lại trông thấy già Lưu, liền cười nói:
– Lại đây mà cài hoa lên đầu.
Nói chưa dứt lời, thì Phượng Thư đã kéo già Lưu đến, cười bảo “Để tôi trang điểm cho bà”. Liền cầm cả khay hoa cắm ngang cắm dọc, loạn xạ lên đầu già Lưu. Giả mẫu và mọi người không nhịn cười được. Già Lưu cũng cười:
– Không biết cái đầu tôi đã tu hành được phúc đức thế nào mà giờ đẹp đẽ như vậy.
Mọi người cười nói:
– Sao bà không rút hoa ném vào mặt nó, để nó cắm loạn xạ lên đầu bà như con ma già ấy.
Già Lưu cười nói:
– Tôi tuy già, nhưng thời trẻ cũng có vẻ phong lưu, cũng thích hoa thích phấn, nay hãy để cho bà già này làm đỏm một tý!
Họ vừa nói chuyện vừa đi, đã đến đình Thấm Phương. Bọn a hoàn mang cái nệm gấm rải lên ghế ở cạnh lan can. Giả mẫn ngồi dựa vào lan can, bảo già Lưu ngồi bên cạnh, hỏi:
– Cái vườn này có đẹp không?
Già Lưu niệm Phật:
– Chúng tôi người nhà quê, cứ đến cuối năm thì ra tỉnh mua tranh về dán. Lúc rồi, cả nhà xem tranh đều nói: làm thế nào mà được đi chơi ở trong bức vẽ này, cứ nghĩ là bức vẽ chẳng qua bày đặt ra thôi, chứ có chỗ nào thật đẹp như thế. Ngờ đâu, hôm nay vào đây xem, lại đẹp gấp mười bức vẽ! Làm thế nào có người vẽ cho một bức hệt như cái vườn này, để tôi mang về nhà cho mọi người xem, thì chết cũng đáng đời!
Giả mẫu nghe nói, chỉ vào Tích Xuân, cười nói:
– Bà xem đứa cháu gái tôi biết vẽ đấy, để ngày mai nó vẽ cho bà một bức, có được không?
Già Lưu nghe nói, mừng quá, vội chạy lại ôm lấy Tích Xuân nói:
– Cô ơi! Cô mới chừng ấy tuổi, mà vừa xinh đẹp lại có tài vẽ chẳng phải là thần tiên giáng thế hay sao?
Giả mẫu và mọi người đều cười. Họ nghỉ một lúc rồi dẫn già Lưu đi xem các nơi, trước hết là quán Tiêu Tương. Vừa vào đến cửa, thấy hai bên đường trúc rủ rườm rà, rêu xanh phủ kín, ở giữa có một con đường đá nhỏ quanh cọ Già Lưu mời Giả mẫu và mọi người đi lên đường đá, còn mình thì đi sang bên mé đường đất. Hổ Phách kéo già Lưu lại bảo:
– Bà già, bà cứ đi lên trên này, đi vào rêu trơn trượt ngã đấy.
Già Lưu nói:
– Không việc gì, tôi đi quen rồi, các cô cứ đi lên trên, không thì giày của các cô sẽ dính bùn.
Già Lưu cứ cắm đầu nói chuyện, không ngờ trượt chân ngã “oách” một cái. Mọi người đều vỗ tay cười. Giả mẫu cũng cười và mắng bọn chúng:
– Lũ ranh này! Không đỡ bà ấy lên lại đứng mà cười!
Già Lưu đã bò dậy, cũng cười theo:
– Vừa mới nói xong, chính mình lại vả vào miệng mình.
Giả mẫu hỏi:
– Có sái lưng không? Bảo a hoàn nó bóp cho!
– Thế chả hóa ra tôi yếu lắm hay sao? Một ngày ít ra cũng ngã đến vài lần. Lúc nào cũng phải đấm bóp thì làm thế nào được!
Tử Quyên vén rèm lên, bọn Giả mẫu vào ngồi. Đại Ngọc tự đi pha một chén trà, để vào cái khay mời Giả mẫu uống.
Vương phu nhân nói:
– Chúng tôi không khát, cô đừng pha nữa.
Đại Ngọc nghe nói, liền sai a hoàn mang cái ghế dựa của mình thường ngồi ở trước cửa sổ xuống, mời Vương phu nhân ngồi. Già Lưu trông thấy cái bàn ở dưới cửa sổ có để nghiên bút, trên tủ lại có nhiều sách, liền nói:
– Chắc là buồng đọc sách của cậu nào đây?
Giả mẫu cười, trỏ vào Đại Ngọc, nói:
– Chính là nhà của con cháu ngoại tôi đấy.
Già Lưu để ý nhìn Đại Ngọc một lúc, rồi nói:
– Có gì là giống buồng thêu của một vị tiểu thư đâu? So với buồng sách lịch sự nhất lại còn đẹp hơn!
Giả mẫu hỏi:
– Sao không thấy Bảo Ngọc?
Bọn a hoàn thưa:
– Cậu ấy đang chèo thuyền ở hồ.
Giả mẫu nói:
– Ai sắp sẵn thuyền thế?
Lý Hoàn thưa:
– Khi mở lầu lấy đồ xuống, cháu đoán là bà thích đi thuyền, nên cũng sắp sẵn trước.
Giả mẫu muốn nói nữa, nhưng có người vào trình:
– Có Tiết phu nhân đến.
Mọi người đứng cả lên, Tiết phu nhân đã vào đến nơi, ngồi xuống, cười nói:
– Hôm nay cụ cao hứng quá, đã đến đây rồi.
Giả mẫu nói:
– Tôi vừa nói ai đến chậm phải phạt, thế mà bà dì lại đến chậm.
Mọi người cười nói một lúc. Giả mẫu nhân trông thấy bức màn the treo trên cửa sổ đã cũ, liền bảo Vương phu nhân:
– Bức màn này khi mới treo, trông đẹp đấy, nhưng để lâu phai màu. Ngoài sân không có cây đào cây hạnh nào, mà trúc đã có lá xanh rồi. Cứ treo màn xanh không ăn màu. Ta nhớ nhà ta có những bức màn treo cửa sổ bốn năm màu kia mà. Ngày mai, bảo lấy thay bức màn này đi.
Phượng Thư nói:
– Hôm nọ cháu mở buồng kho, thấy trong hòm lớn có mấy tấm the “thuyền dực” 1: màu ngân hồng, tấm thì dệt lối hoa chiết chi, tấm thì Lưu vân biển bức 2, tấm thì bách điệp xuyên hoa 3, màu vừa tươi, lại nhã, nhũn nhẹ. Nhưng không thấy thứ the như bà nói. Nếu có thứ ấy, đem ra làm nệm gấm thì chắc đẹp lắm.
Giả mẫu cười nói:
– Hừ! Người ta bảo mày cái gì cũng biết, cái gì cũng từng trải cả. Thế mà ngay thứ the ấy mày cũng không nhận ra được, rồi lại còn nói láo!
Mọi người đều cười, nhân nói:
– Chị đã từng trải đến mấy cũng còn kém cụ? Sao cụ không dạy bảo chị ta để cho chúng tôi cũng được nghe nhờ?
Phượng Thư cười nói:
– Bà ơi. Bà dạy cháu với!
Giả mẫu cười nói với Tiết phu nhân và mọi người:
– Loại the này có từ khi các người chưa đẻ kia. Chẳng trách được nó cho là thứ the “thuyền dực”, vì hai thứ gần giống nhau. Ai không biết thì bảo là the “thuyền dực”, nhưng tên nó là “nhuyễn yên la” 4 kia.
Phượng Thư nói:
– Cái tên ấy cũng dễ nghe. Cháu đã lớn bằng này rồi, kể ra cũng đã được xem hàng mấy trăm thứ the, nhưng chưa được nghe tên ấy bao giờ.
Giả mẫu cười nói:
– Mày đã bao nhiêu tuổi? Biết được bao nhiêu thứ thẻ Lại dám nói láo! Loại nhuyễn yên la này chỉ có bốn màu: một là vũ quá thiên thanh 5, hai là thu hương sắc 6, ba là tùng lục, bốn là ngân hồng. Nếu đem ra làm màn hay che cửa sổ, trông xa như khói mù ấy, cho nên gọi là nhuyễn yên lạ Màu ngân hồng lại có tên là hà ảnh sa 7 nữa. Bây giờ ngay the trong nội phủ nhà vua thường dùng, cũng không có thứ nào như thế.
Tiết phu nhân cười nói:
– Không cứ chị Phượng, chính tôi cũng chưa nghe thấy bao giờ.
Phượng Thư bảo người đi lấy một tấm mang đến. Giả mẫu nói:
– Chính thứ này đây! Lúc trước chỉ để che cửa sổ thôi, sau chúng ta đem ra làm chăn, làm màn, cũng thấy đẹp. Ngày mai lấy mấy tấm ra, đưa một tấm màn ngân hồng cho nó che cửa sổ.
Phượng Thư vâng lời. Mọi người tấm tắc khen đẹp. Già Lưu cũng ghé mắt vào xem, niệm phật luôn mồm, nói:
– Chúng tôi muốn may quần áo cũng không có, nay lại đem ra che cửa sổ, có đáng tiếc không?
Giả mẫu nói:
– Thứ này may quần áo không đẹp.
Phượng Thư kéo cái nẹp áo bông bọc the màu đại hồng đang mặc trong mình ra, nói với Giả mẫu và Tiết phu nhân:
– Thử xem cái áo của cháu đây này.
Giả mẫu và Tiết phu nhân đều nói:
– Hạng này tốt nhất đấy, ngay những thứ nhà vua dùng trong nội phủ cũng không đẹp bằng.
Phượng Thư nói:
– Tấm the mỏng này có gì mà lại bảo là nhà vua dùng trong nội phủ cũng không đẹp bằng.
Giả mẫu nói:
– Cố tìm xem, may còn, sẽ mang cả ra đây, biếu già Lưu hai tấm. Có hạng vũ quá thiên thanh, thì làm cho ta một cái màn treo. Còn thừa ít nào tìm thêm cái lót mà may áo khoác vai cho bọn a hoàn, chứ để lâu mục ra mất.
Phượng Thư vâng lời, rồi sai người cất đi.
Giả mẫu cười nói:
– Ở đây chật lắm, ta ra chỗ khác chơi.
Già Lưu cười nói:
– Người ta thường nói “con quan thì ở nhà quan”. Hôm qua thấy trong phòng cụ bày những tủ to, hòm to, bàn to, giường to, trông thực oai vệ. Chỉ cái hòm còn to và cao hơn gian nhà của chúng tôi. Chẳng trách được, sau nhà phải để cái thang. Tôi nghĩ không ai lên buồng phơi phóng đồ lề, thì để thang ở đấy làm gì? Sau tôi mới nghĩ ra, chắc là để trèo lên mở hòm lấy đồ đạc. Không có thang thì lên thế nào được? Giờ trông thấy cái nhà nhỏ này, lại còn gọn gàng hơn. Đồ đạc đầy nhà, cái gì cũng đẹp cả, không biết những thứ ấy tên là gì? Tôi càng nhìn, càng không muốn dời chân khỏi chỗ này!
Phượng Thư nói:
– Còn chỗ đẹp hơn kia, tôi sẽ đưa bà đi xem một lượt.
Mọi người ra khỏi quán Tiêu Tương, trông xa thấy một đám người chèo thuyền ở giữa hồ, Giả mẫu nói:
– Họ sắp sẵn thuyền cả rồi, chúng ta xuống chơi một lát.
Nói xong đi thẳng đến bến Lục Tư ở Tử Lăng châu. Gần đến nơi, đã thấy mấy bà già bưng đến những khay sơn năm màu thếp vàng. Phượng Thư vội hỏi Vương phu nhân:
– Sáng nay dọn cơm ở đâu?
– Hỏi cụ xem người bảo ngồi ở đâu thì dọn.
Giả mẫu nghe nói, quay lại bảo:
– Chỗ cô Ba tiện hơn, cứ dọn cơm ở đấy. Chúng ta sẽ đi thuyền đến.
Phượng Thư nghe nói, quay lại cùng Lý Hoàn, Thám Xuân, Uyên Ương và Hổ Phách dẫn những người bưng cơm đi theo đường tắt đến Thu Sảng trai, bầy bàn ăn ở Hiểu Thúy đường. Uyên Ương cười nói:
– Ngày thường chúng ta nói các ông ở ngoài, khi uống rượu ăn cơm đều có người giúp vui. Hôm nay chúng ta cũng có vị gia khách đàn bà đấy.
Lý Hoàn là người trung hậu, không để ý đến câu nói ấy. Phượng Thư hiểu ngay là ám chỉ già Lưu, liền cười nói:
– Hôm nay chúng ta sẽ mang bà ấy ra làm trò cười.
Hai người bàn bạc với nhau. Lý Hoàn cười bảo:
– Các cô chẳng tử tế tý nào cả. Có phải trẻ con đâu mà vẫn hay đùa thế. Coi chừng cụ mắng cho đấy!
Uyên Ương cười nói:
– Không việc gì đến mợ, đã có tôi.
Bọn Giả mẫu đến, ai nấy tiện đâu ngồi đấy. A hoàn rót nước trà đưa mời. Mọi người uống xong, Phượng Thư tay cầm cái khăn có bọc mấy đôi đũa mun bịt bạc, bày lên các bàn. Giả mẫu bảo:
– Mang một cái bàn nhỏ gỗ nam lại đây, mời già Lưu ngồi cạnh ta.
Mọi người liền mang lại. Phượng Thư đưa mắt cho Uyên Ương. Uyên ương kéo già Lưu ra ngoài, khẽ dặn mấy câu, lại nói:
– Đó là khuôn phép nhà chúng tôi, nếu nhầm thì người ta cười cho đấy.
Dặn xong về chỗ ngồi.
Tiết phu nhân ăn cơm rồi, xin kiếu, ngồi ra một bên uống nước.
Giả mẫu dẫn Bảo Ngọc, Tương Vân, Đại Ngọc và Bảo Thoa cùng ngồi một bàn. Vương phu nhân dẫn ba chị em Nghênh Xuân ngồi một bàn. Bàn già Lưu kê sát bàn Giả mẫu. Ngày thường, Giả mẫu ăn cơm, đều có a hoàn nhỏ đứng sẵn bên cạnh, cầm ống nhổ, phất trần, khăn taỵ Đúng ra Uyên Ương không phải làm những việc ấy, nhưng hôm nay cũng đến cầm cái phất trần phe phẩy. Bọn a hoàn biết cô ta muốn trêu chọc già Lưu, nên lánh mặt đi, Uyên Ương vừa đứng hầu, vừa đưa mắt nhìn già Lưu. Già Lưu nói: “Cô cứ yên tâm”.
Già Lưu vào chỗ ngồi, cầm đũa lên, nhưng nặng chình chịch, không vừa taỵ Vì Phượng Thư và Uyên Ương đã bàn với nhau từ trước, lấy riêng cho già Lưu một đôi đũa ngà già bốn cạnh có bịt vàng. Già Lưu thấy đôi đũa, nói:
– Cái nạng này còn nặng hơn cả cái xẻng của nhà chúng tôi, thế này thì cầm sao được! Mọi người nghe vậy cười ầm lên.
Rồi một người đàn bà bưng một cái quả đứng ở đấy, một a hoàn đến mở nắp, trong có hai cái bát đồ ăn. Lý Hoàn bưng một bát đặt lên bàn Giả mẫu. Phượng Thư lại chọn một bát trứng bồ câu đặt ở bàn già Lưu.
Giả mẫu ở bên này nói sang: “Xin mời. Già Lưu đứng dậy nói to:
– Già Lưu, già Lưu, ăn khỏe như trâu; ăn phàm như lợn không hề ngẩng đầu.
Rồi bà phùng má trợn mắt, chẳng nói một câu. Mọi người trước còn ngẩn người ra nhìn, sau trên dưới đều cười ầm lên. Tương Vân không nhịn nổi, cười phì cả cơm ở mồm ra. Đại Ngọc cười sặc sụa, gục xuống bàn chỉ kêu “úi chà!”. Bảo Ngọc lăn vào lòng Giả mẫu, Giả mẫu cười ôm lấy Bảo Ngọc, gọi “Cháu của bà ơi!” Vương phu nhân cười trỏ tay vào Phượng Thư nhưng không nói được câu gì. Tiết phu nhân không nhịn được cười phun cả nước trà ra quần Thám Xuân. Tích Xuân đứng dậy vịn vào vú em, bảo xoa hộ bụng. Khắp xung quanh ai cũng lăn ra cười, có người lẻn ra ngoài cửa, có người nhịn cười đi thay quần áo cho các cộ Chỉ có Phượng Thư và Uyên Ương vẫn nhịn cười, luôn miệng mời già Lưu.
Già Lưu cầm đũa, nhưng khó gắp quá, lại nói:
– Giống gà nhà này đẹp quá, đẻ được nhưng quả trứng nhỏ xinh xắn thế này. Khéo thật, tôi hãy đâm một quả đã!
Mọi người vừa ngớt cười xong, nghe thấy câu nói ấy lại cười ầm lên. Giả mẫu cười chảy cả nước mắt, không thể nhịn được; Hổ Phách đứng đằng sau đấm lưng. Giả mẫu cười nói:
– Chắc lại con ranh Phượng bày trò ra đây? Từ nay nói gì thì cũng đừng tin nữa.
Già Lưu đang khen trứng gà nhỏ đẹp, muốn đâm một quả. Phượng Thư cười nói:
– Mỗi quả trứng gà một lạng bạc đấy! Bà ăn đi, để nguội không ngon đâu.
Già Lưu giơ đũa định gắp, nhưng gắp thế nào được? Khua ngầu cả bát lên, mãi mới gắp lên được một quả, vừa mới ngẩng cổ định ăn, thì quả trứng lại rơi tuột xuống đất mất.
Già Lưu vội đặt đũa xuống, định lấy tay nhặt, nhưng những người đứng đấy đã nhặt đi rồi. Già Lưu thở dài:
– Thế là mất toi một lạng bạc.
Mọi người không ai để ý đến ăn, chỉ nhìn già Lưu mà cười. Giả mẫu nói:
– Hôm nay ai mang đôi đũa đấy ra đây? Không phải mời khách ngoài, bày tiệc to mà! Thôi lại chỉ con Phượng bày trò ra đây! Không đem thay đôi khác đi à!
Những người hầu không ai sắp đôi đũa ngà này cả, chỉ có Phượng Thư và Uyên Ương đem ra, nay thấy thế, họ liền cất đi rồi lấy đôi đũa gỗ mun bịt bạc đến đổi.
Già Lưu nói:
– Bỏ đũa vàng lại mang đũa bạc đến, cũng vẫn không bằng đũa chúng tôi cầm vừa tay hơn.
Phượng Thư nói:
– Trong đồ ăn lỡ có chất độc, lấy đũa bạc thử thì biết ngay.
Già Lưu nói:
– Trong đồ ăn này mà có độc, thì những thứ đồ ăn của chúng tôi đều là nhân ngôn cả! Dù độc chết người tôi cũng cứ ăn.
Giả mẫu thấy già Lưu vui vẻ như thế, ăn có vẻ ngon lành, liền sai người mang những đồ ăn của mình sang, lại bảo vú già gắp đồ ăn vào bát cho thằng Bản.
Ăn xong, bọn Giả mẫu vào buồng Thám Xuân nói chuyện, ở ngoài xếp dọn bàn ăn rồi lại bày một bàn khác. Già Lưu trông thấy Lý Hoàn cùng Phượng Thư ngồi ăn, thở dài nói:
– Cái khác không nói làm gì, tôi chỉ thích cách làm việc trong nhà các mợ! Chẳng trách được, người ta thường nói: “Lễ ở nhà quan ra”.
Phượng Thư cười nói:
– Bà đừng nghĩ ngợi gì nhé, vừa rồi chẳng qua để mọi người cùng vui đấy thôi.
– Cô nói gì thế? Chúng ta đều làm cho cụ vui lòng cả, có điều gì đáng giận? Trước cô dặn tôi, tôi cũng hiểu rồi, chẳng qua làm cho mọi người cùng vui đấy thôi. Nếu giận thì tôi đã chẳng nói.
Uyên Ương liền mắng người hầu:
– Tại sao chưa pha trà cho già uống?
Già Lưu vội nói:
– Cô ấy đã pha trà cho tôi uống rồi. Cô cứ đi ăn cơm đi.
Phượng Thư kéo Uyên Ương ngồi xuống bảo:
– Cô ngồi đây ăn với chúng tôi, đỡ phải phiền nữa.
Uyên Ương ngồi xuống, bọn bà già lấy thêm bát đũa. Ba người ăn xong, già Lưu cười nói:
– Tôi thấy các cô chỉ ăn có một tý đã xong rồi, như thế không đói à! Chẳng trách được, gió thổi một cái cũng ngã!
Uyên Ương hỏi:
– Hôm nay đồ ăn còn thừa nhiều, họ đi đâu cả?
Bọn bà già nói:
– Họ đều chưa về, còn ngồi chờ cả ngoài kia, đem phân phát cho họ ăn.
Uyên Ương nói:
– Họ ăn không hết chừng ấy đâu, lấy vài món mang sang cho Bình Nhi bên nhà mợ Hai.
Phượng Thư nói:
– Bình Nhi ăn cơm sáng rồi, không cần phải mang cho nữa.
Uyên Ương nói:
– Nếu nó không ăn thì cho mèo nhà mợ ăn.
Bà già chọn hai món để vào quả mang sang. Uyên Ương hỏi:
– Chị Tố Vân đi đâu?
Lý Hoàn nói:
– Nó đã ngồi ăn cả đây rồi, còn hỏi làm gì?
Uyên Ương nói:
– Thế thì thôi.
Phượng Thư nói:
– Tập Nhân không ở đây, cô bảo người đưa hai món sang cho cô ấy ăn.
Uyên Ương liền sai người mang sang hai món.
Uyên Ương lại hỏi bọn bà già:
– Cái quả đựng đồ ăn để lát nữa trở về uống rượu, đã sắp sẵn chưa?
– Có nhẽ phải chờ một lúc nữa.
– Nhanh lên một tý.
Bà già vâng lời.
Bọn Phượng Thư vào buồng Thám Xuân, thấy các chị em đang cười đùa. Thám Xuân vốn thích rộng rãi, ba gian nhà ở đều để thông luôn. Giữa nhà kê một cái bàn to bằng đá Đại Lý, trên bàn có các loại bút thiếp của cái bậc danh nhân, cùng mấy chục cái nghiên báu, và các thứ ống bút; bút cắm ở ống như rừng cây. Một bên bày cái lọ sứ Như Châu to bằng cái đấu, cắm đầy hoa cúc trắng như thủy tinh. Phía tường bên Tây treo một bức họa “Yên vũ đồ” của Mễ Tương Dương 8.
Hai bên treo hai câu đối, bút tích của ông Nhan Lỗ công 9: Phong lưu cảnh đượm màu mây khói, chất phác người quen thú suối rừng. Trên án đặt một cái đỉnh lớn, trên cái giá gỗ đàn tía ở bên tả đặt một cái mâm sứ lớn, trên mâm bày mấy chục quả phật thủ vàng tươi; trên cái giá sơn ở bên hữu treo một cái khánh Tị Mục 10 bằng ngọc trắng, bên cạnh treo một cái dùi nhỏ.
Thằng Bản đã hơi quen rồi, nó định lấy dùi gõ khánh, bọn a hoàn vội ngăn lại. Nó lại muốn ăn phật thủ, Thám Xuân chọn cho một quả, nói:
– Để chơi thôi, không ăn được.
Trông thấy ở phía đông kê một cái giường cao chân, trên treo màn the màn xanh có thêu hoa cỏ, sâu bọ, thằng Bản chạy đến xem rồi nói:
– Đây là con cào cào, đây là con châu chấu.
Già Lưu tát nó một cái, mắng:
– Đồ con nhà hèn hạ! Làm ồn cả lên! Cho mày đến xem, mày lại dám hỗn thế à!
Thằng Bản khóc ầm lên, mọi người dỗ mãi nó mới nín.
Giả mẫu đứng trong màn cửa sổ nhìn ra sân sau, nói:
– Cây ngô đồng ở thềm đằng sau đẹp nhỉ, chỉ phải tội nhỏ thôi.
Chợt có một cơn gió thổi qua, vẳng nghe thấy tiếng đàn sáo. Giả mẫu hỏi:
– Nhà ai cưới vợ đấy? ở đây gần phố nhỉ?
Vương phu nhân nói:
– Ở ngoài phố thì nghe thế nào được? Đó là mười mấy cô gái bé của chúng ta đang tập đàn hát đấy.
Giả mẫu cười nói:
– Họ tập hát sao không bảo đến đây mà tập. Họ được chơi, chúng mình được vui, chả hơn ư?
Phượng Thư liền sai người đi gọi, rồi bảo người bày bàn, và trải thảm đỏ ra.
Giả mẫu nói:
– Bày ở nhà thủy tọa Ngẫu Hương tạ, nhờ có tiếng nước chảy lại càng vui tai. Chốc nữa chúng ta sẽ uống rượu ở tầng dưới Xuyết Cẩm các, vừa rộng rãi, vừa nghe được gần. Mọi người đều khen phải. Giả mẫu ngoảnh về phía Tiết phu nhân cười nói:
– Thôi chúng ta đi chơi, bọn chị em nó không thích đông người đến đâu, vì sợ bẩn nhà. Chúng ta biết thừa đi rồi, hãy ra ngồi thuyền uống rượu đi.
Mọi người đứng dậy định đi ngaỵ Thám Xuân cười nói:
– Sao bà lại nói thế? Mong bà, cùng dì và mẹ đến ngồi chơi còn chưa được nữa là.
Giả mẫu nói:
– Con cháu Ba còn khá, chỉ có hai cháu Ngọc là đáng ghét. Chốc nữa uống rượu say, chúng ta đến nhà chúng nó quấy chơi.
Mọi người đều cười ầm lên, rồi đi ra cả. Không mấy chốc đã đến bến Hành Diệp. Mấy cô lái thuyền được kén ở Cô Tô về đã chèo hai chiếc thuyền gỗ đương đến. Mọi người đỡ Giả mẫu, Vương phu nhân, già Lưu, Uyên Ương và Ngọc Xuyến lên một chiếc thuyền, Lý Hoàn cũng lên theo. Phượng Thư lên đứng ở đầu thuyền định chở đi. Giả mẫu ở trong khoang nói:
– Đừng đùa nhé! Đây không phải là sông, nhưng cũng có chỗ sâu đấy. Mày vào ngay trong này cho tao!
Phượng Thư cười nói:
– Sợ gì! Bà cứ yên tâm.
Nói xong, liến lấy sào đẩy ra đến giữa hồ. Thuyền nhỏ, người nhiều, Phượng Thư thấy choáng váng, vội đưa sào cho cô lái rồi ngồi xuống.
Chị em Nghênh Xuân cùng Bảo Ngọc lên một chiếc thuyền khác đi tới, còn bọn bà già, a hoàn cứ đi theo dọc bờ sông.
Bảo Ngọc nói:
– Những lá sen tàn này thật đáng ghét, sao không sai người nhặt hết đi.
Bảo Thoa cười nói:
– Mấy lâu nay những người coi vườn có được rỗi đâu, ngày nào chúng ta cũng đi chơi, họ còn thì giờ đâu mà đi nhặt được nữa?
Đại Ngọc nói:
– Xưa nay tôi không thích thơ Lý Nghĩa Sơn 11 chỉ thích có một câu của ông ta là: Sen tàn nghe rốn tiếng mưa thụ Bây giờ các người lại không để lại những lá sen tàn à!
Bảo Ngọc nói:
– Câu ấy hay thật! Từ giờ trở đi, chúng ta không sai người nhặt đi nữa.
Mọi người đi đến dưới kênh La Cảng ở bến Hoa Tự, thấy bóng mát lạnh toát người, hai bên bờ sông cỏ úa ấu tàn, càng gợi tình thụ Giả mẫu thấy trên bờ có những nhà mát rộng rãi, liền hỏi:
– Đây có phải là nhà cô Tiết đấy không?
Mọi người thưa: “Vâng”. Giả mẫu bảo đỗ thuyền vào bờ, theo bậc đá trèo lên, cùng đến Hành Vu uyển, thấy sực nức mùi thơm. Những cỏ lạ dây tiên càng lạnh bao nhiêu, lại càng xanh tốt bấy nhiêu, nó đã ra quả như hạt đậu san hô, trĩu xuống đáng yêu. Vào đến trong nhà, thấy trắng tinh, không có một thứ đồ chơi nào cả. Trên án chỉ bày một cái lọ sành Châu Định, cắm vài cành cúc, cùng mấy bộ sách, hộp trà và chén trà thôi; trên giường treo cái màn the xanh, chăn đệm thì mộc mạc xuềnh xoàng lắm.
Giả mẫu than thở:
– Con bé này thực thà quá! Không bày biện gì cả. Tao cũng không để ý đến. Tất nhiên đồ đạc của nhà cháu không mang đến đây được, nhưng sao không hỏi dì cháu đưa cho mấy thứ mà bày?
Giả mẫu sai Uyên Ương về mang mấy thứ đồ cổ đến; lại mắng Phượng Thư:
– Mày là đồ keo kiệt, không mang đến đây cho em được mấy thứ đồ chơi.
Vương phu nhân và Phượng Thư đều cười nói:
– Cô ấy không thích. Chúng tôi đã cho mang đến, nhưng cô ấy đều giả lại cả.
Tiết phu nhân cười nói:
– Khi nó ở nhà cũng không thích những đồ ấy.
Giả mẫu lắc đầu nói:
– Không thể thế được. Dù cháu không muốn bày vẽ, nhưng có bà con đến chơi thì coi sao được; vả lại nhà ở của các cô mà giản dị quá cũng nên kiêng. Các cô mà ở như vậy thì bọn già chúng ta chỉ đáng ở chuồng ngựa thôi. Các người thử xem những phòng thêu của các tiểu thư ngày trước ở trong sách và trên sân khấu, đẹp đẽ diêm dúa biết là nhường nào. Bọn chị em bây giờ tuy không dám ví với những bậc tiểu thư ngày trước, nhưng cũng không nên xuềnh xoàng quá. Đồ đạc có sẵn cả, tại sao không đem bày? Nếu muốn giản dị thì bày ít đi mấy thứ cũng được. Xưa nay ta rất khéo trang trí nhà cửa, bây giờ già rồi, không hơi đâu nghĩ đến những việc ấy nữa. Chị em chúng nó cũng nên học cách trang trí cho đẹp. Mình mà tục, thì dù có bày đồ đẹp chăng nữa cũng bằng thừa. Nhưng ta xem chị em chúng nó không phải là bọn tục đâu. Bây giờ để ta trang trí cho, vừa đường hoàng lại thanh nhã. Ta có vài thứ của riêng, giờ vẫn cất đi không cho thằng Bảo trông thấy; nó thấy thì mất toi.
Nói xong, gọi Uyên Ương đến bảo:
– Mày về lấy cái chậu cây bằng đá, cái bình phong bằng lụa và cái đỉnh đá màu vân ám đến đây. Cứ bày ba cái ấy ở trên bàn là đủ. Rồi vất cái màn này đi, lấy cái màn lụa trắng vẽ thủy mạc treo vào đấy.
– Nhưng thứ ấy đều cất ở trên lầu phía đông, không biết ở hòm nào, để thư thả tìm xem, ngày mai sẽ mang đến.
– Hôm nào cũng được, nhưng đừng có quên.
Giả mẫu ngồi chơi một lúc rồi đi đến dưới gác Xuyết Cẩm. Bọn con hát lên chào và hỏi “Diễn vở gì?” Giả mẫu nói:
– Chọn nhưng vở nào các em đã đóng quen rồi thì diễn.
Bọn con hát diễn xong, mọi người mới trở về Ngẫu Hương tạ.
ở đây Phượng Thư đã cho người bày biện đầy đủ. Trên kê hai cái giường, trên giường trải nệm gấm, trước mỗi cái giường để hai cái kỷ sơn; cái chạm kiểu hoa hải đường, cái kiểu hoa mai, cái kiểu lá sen, cái kiểu hoa quỳ; cái vuông, cái tròn, không cái nào giống cái nào. Trên kỷ đầu để một lư hương và một cái quả. Hai cái giường bốn cái kỷ ở trên là chỗ Giả mẫu và Tiết phu nhân ngồi. Phía dưới một cái ghế, hai cái kỷ là chỗ Vương phu nhân ngồi. Còn thì mỗi người một ghế một kỷ. Bên đông là chỗ già Lưu ngồi, dưới đó là Vương phu nhân. Bên tây là Tương Vân, rồi Bảo Thoa, Đại Ngọc, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, cứ theo thứ tự mà ngồi, cuối cùng là Bảo Ngọc. Hai cái ghế của Lý Hoàn và Phượng Thư để ở bậc thứ ba, bên ngoài cái tủ the để bậc thứ hai. Kiểu kỷ thế nào, kiểu quả cũng thế. Mỗi người một bình rượu nhỏ bằng đồng đen chạm và một cái chén pha lê.
Mọi người ngồi xong, Giả mẫu cười nói:
– Trước hết, chúng ta mỗi người uống hai chén. Hôm nay cứ phải có “tửu lệnh” mới có ý nghĩa.
Tiết phu nhân cười nói:
– Cụ chắc có nhiều tửu lệnh hay, các cháu hiểu thế nào được? Người định để cho các cháu say, các cháu xin uống thêm mấy chén nữa.
Giả mẫu cười nói:
– Dì hôm nay nói nhún quá, chắc là chê tôi già rồi.
Tiết phu nhân cười nói:
– Không phải là nói nhún, sợ không theo nổi lệnh, lại làm trò cười thôi.
Vương phu nhân cười nói:
– Nếu không theo nổi, thì uống thêm một chén, say rồi đi ngủ, còn ai cười chúng mình vào đâu?
Tiết phu nhân gật đầu cười nói:
– Xin theo lệnh. Nhưng cụ phải uống trước một ly rượu lệnh mới được.
Giả mẫu cười nói:
– Đúng thế.
Liền uống một chén.
Phượng Thư vội đến cười nói:
– Đã ra tửu lệnh, nên cho Uyên Ương đứng hành lệnh mới phải.
Mọi người đều biết tửu lệnh của Giả mẫu là do Uyên Ưống nhắc trước, nên khi nghe xong, đều nói: “Phải lắm”.
– Tửu lệnh phải nghiêm như quân lệnh, không cứ sang hèn, đều do tôi làm chủ cả. Trái lời tôi phải phạt.
Vương phu nhân cười nói:
– Đúng thế, hãy nói đi.
Uyên Ương chưa kịp nói, già Lưu đã đứng dậy xua tay nói:
– Đừng trêu chọc người ta! Tôi đi về đây.
Mọi người đều cười nói:
– Không thể thế được.
Uyên Ương quát sai bọn hầu nhỏ ra kéo già Lưu vào ghế. Già Lưu kêu lên:
– Thôi tha cho tôi!
Uyên Ương nói:
– Bà còn nói nữa sẽ phải uống một bình.
Già Lưu mới chịu thôi. Uyên Ương nói:
– Bây giờ tôi nói cách chơi bằng con bài. Từ cụ trở xuống đến già Lưu, đều phải theo lệnh. Ví dụ tôi gọi tên một phu bài, tôi sẽ tách riêng ba con ra, bắt đầu nói con thứ nhất, rồi đến con thứ hai. Nói đến lượt ai, người đó sẽ nói một câu, phải đúng vần. Nếu sai sẽ bị phạt một ly rượu.
Mọi người cười nói:
– Lệnh hay lắm, nói mau đi.
Uyên Ương nói:
– Đây có một phu bài. Bên trái là quân thiên.
Giả mẫu nói: Trời xanh đứng ở bên trên.
Mọi người nói: “Hay”.
Uyên Ương nói:
– Ngũ lục đứng ở trung gian.
Giả mẫu nói:
– Lục kiều mai nở hương tràn thấu xương.
– Một quân lục hợp yêu.
– Một vành đỏ chói đương treo giữa trời.
– Hợp thành con quỷ bù đầu.
– Quỷ này ôm chặt đùi sau Chung Quỳ.
Mọi người cười rộ, khen ngợi. Giả mẫu uống một chén.
Uyên Ương lại nói:
– Lại có một phu bài. Bên trái quân đại trường ngũ đây.
Tiết phu nhân nói:
– Hoa mai trước gió tung bay từng chùm.
– Bên phải là quân đại ngụ trường.
– Tháng mười hai nức mùi hương trên ngàn.
– Giữa có quân tạp thất đây.
– Chức Ngưu thất tịch đêm ngày gặp nhau.
– Hai chàng dạo Ngũ Nhạc chơi,
– Cuộc vui tiên cảnh, dưới đời kém xa.
Mọi người khen hay, rồi Tiết phu nhân cũng uống một chén.
Uyên Ương lại nói:
– Đây là một phu bài nữa. Trường yêu bên trái hai vần.
Tương Vân nói:
– Hai vầng nhật nguyệt sáng trưng trần hoan.
– Trường yêu bên phải lập lòe.
– Tiếng hoa rụng xuống nào nghe thấy gì.
– Giữa con yêu tứ nữa đây.
– Kìa cây hồng hạnh tựa mây bên giời.
– Hợp thành một quả anh đào.
– Vườn qua lại để chim vào tha ra.
Nói xong, Tương Vân uống một ly rượu.
Uyên Ương lại nói:
– Lại có một phu bài nữa. Bên trái là quân trường tam.
Bảo Thoa nói:
– Một đôi chim yến kêu ran trên xà.
– Bên phải là quân tam trường.
– Gió đua thủy hạnh thòng lòng dây xanh.
– Giữa là tam lục chín khuyên.
– Núi Tam Sơn ngả ngoài miền trời xanh.
– Thuyền neo dây sắt chơi vơi.
– Nơi nào sóng gió là nơi buồn rầu.
Nói xong, uống một chén.
Uyên Ương lại nói:
– Quân thiên bên trái đây rồi.
Đại Ngọc nói:
– Ngày vui cánh đẹp tự trời biết sao.
Bảo Thoa nghe thấy câu ấy, quay lại nhìn. Đại Ngọc chỉ sợ bị phạt, nên không để ý.
Uyên Ương nói:
– Giữa bình gấm đẹp lạ lùng.
– Song the nào thấy ả Hồng báo tin.
– Nhị lục tám điểm đều nhau.
– Trước sân ngọc điện sắp chầu hai bên.
– Họp thành lẵng hái hoa rừng.
– Gánh hoa thược dược thơm lừng gậy tiên.
Nói xong uống một chén.
Uyên Ương nói:
– Bên trái tứ ngũ chín hoa.
Nghênh Xuân nói:
– Hoa đào đẫm mưa màu càng thắm.
Mọi người cười nói: Đáng phạt! Sai vần rồi, lại không đúng nghĩa.
Nghênh Xuân cười, uống một ly rượu phạt.
Nguyên vì Phượng Thư và Uyên Ương đều muốn nghe già Lưu nói để cười, cố ý bảo Nghênh Xuân nói sai đi. Đến lượt Vương phu nhân, thì Uyên Ương đọc giúp, sau đến già Lưu. Già Lưu nói:
– Chúng tôi ở nhà quê, khi nào rỗi, cũng thường họp mấy người chơi lối này, nhưng nghe không haỵ Thôi để tôi thử nói xem.
Mọi người cười nói:
– Dễ thôi, bà cứ nói đi, không việc gì.
Uyên Ương cười nói:
– Bên trái đại tứ là “người”.
Già Lưu nghe rồi, nghĩ mãi mới nói:
– Là người nhà quê chăng?
Mọi người cười vỡ nhà.
Già Lưu cười nói:
– Chúng tôi người nhà quê chẳng qua chỉ nói chuyện nhà quê, các cô các mợ đừng cười.
Uyên Ương nói:
– Giữa quân tam tứ đỏ xanh.
Già Lưu nói:
– Sâu trên đống lửa cháy thành ra tro.
Mọi người cười nói: “Phải đấy, hợp với cảnh bà đấy”.
Uyên Ương cười nói:
– Bên phải yêu tứ đẹp thay.
Già Lưu nói:
– Bó kia củ cải, bó này tỏi tươi.
Mọi người lại cười.
Uyên Ương cười nói:
– Hợp vào thành một cành hoa.
Già Lưu xoa tay ra vẻ muốn cười nhưng lại nhịn, rồi nói:
– Đến khi hoa rụng lại là quả dưa.
Mọi người nghe nói, không nhịn được, đều cười ầm lên. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng ồn ào.
1 The mỏng như cánh ve sầu.
2 Dơi bay theo đám mây.
3 Trăm con bướm hút nhị hoa.
4 Thứ the mềm và mỏng như làn khói.
5 Mưa tạnh trời xanh.
6 Màu hoa mùa thu.
7 Thứ the màu rán trời.
8 Mễ Tương Dương tên là Mễ thị, tên chữ là Nguyên Chương, người đất Tương Dương, đời nhà Tống. Văn hay chữ tốt, lại có tài riêng về sơn thủy nhân vật, thích chơi đồ đá lạ vàng quý. Oâng đã làm những bộ sách như Bảo tấn anh quang tập, Như sử, Họa sử, Nghiên sử.
9 Tức Nhan Chân Khanh (xem chú thích hồi 37).
10 Hai khánh chồng lên nhau, như giống cá hai mặt ở bên phải.
11 Tức Lý Thương Ân, người đời Đường, có lối thơ chải chuốt tình tứ.
Mọi người cười ầm lên. Già Lưu uống chén rượn rồi nói đùa:
– Hôm nay xin nói thực: Tôi chân tay thô kệch, lại uống nhiều rượu không cẩn thận lỡ đánh vỡ chén sứ thì không tiện. Xin cho tôi một cái chén gỗ, có đánh rơi xuống đất cũng không can gì.
Mọi người lại cười. Phượng Thư nói:
– Bà muốn dùng chén gỗ à? Tôi sẽ lấy chọ Nhưng có điều này phải nói trước: chén gỗ không như chén sứ đâu, nó có từng bộ một, phải uống hết mới được.
Già Lưu trong bụng ngần ngừ: “Vừa rồi chẳng qua ta nói đùa cho vui đấy thôi, biết đâu họ lại có thực. Ta thường đến ăn tiệc ở các nhà thân hào trong làng, trông thấy chén vàng chén bạc, chứ có chén gỗ bao giờ: A! Đúng rồi! chắc là thứ bát gỗ của trẻ con dùng. Họ làm thế, chẳng qua lừa ta uống thêm vài bát đó thôi. Nhưng không sao, rượu ngọt như nước đường, uống thêm một ít cũng chẳng hại gì.” Nghĩ vậy già liền nói:
– Cứ mang lại đây tôi sẽ liệu.
Phượng Thư liền bảo Phong Nhi:
– Lấy bộ chén gốc trúc mười cái để trên giá sách trước mặt lại đây.
Phong Nhi định đi, Uyên Ương cười nói:
– Tôi biết rồi. Nhưng mười cái chén ấy hãy còn bé. Vả chăng mợ vừa bảo lấy chén gỗ, bây giờ lại lấy chén gốc trúc, như thế thì khó coi. Chi bằng lấy bộ mười cái chạm bằng rễ cây hoàng dương, đem đến đây, dốc hết cả cho bà ấy.
Phượng Thư cười nói: “Càng tốt”.
Uyên Ương sai người mang đến. Già Lưu trông thấy vừa sợ vừa mừng: sợ là phải uống mười chén lớn nhỏ một lúc, cái lớn vừa bằng cái chậu, cái nhỏ nhất cũng to gấp đôi cái chén mình cầm trên tay; mừng là thấy những chén chạm trổ rất đẹp, một màu non nước, cỏ cây và người, lại có đề chữ đóng dấu, liền nói:
– Đem cái chén nhỏ đến đây thôi.
Phượng Thư cười nói:
– Ở đây sức rượu kém cả, nên không ai dám dùng bộ chén ấy. Vì bà thích, tôi phải đi tìm mãi mới thấy, nhất định là bà phải lần lượt uống hết mười chén mới được.
Già Lưu sợ hãi vội nói:
– Không dám đâu, xin mợ tha cho.
Giả mẫu, Tiết phu nhân và Vương phu nhân biết già Lưu đã có tuổi, không uống nổi, liền cười nói:
– Nói thế cho vui đấy thôi, bà không nên uống nhiều. Uống một chén đầu là đủ.
Già Lưu nói:
– A di đà phật! Tôi xin uống chén nhỏ, còn chén nhớn thì cất đi, để tôi mang về nhà uống dần.
Mọi người lại cười ầm lên.
Uyên Ương không làm thế nào được, đành phải sai người rót một chén lớn. Già Lưu bưng lấy định uống. Giả mẫu và Tiết phu nhân đều nói:
– Uống thong thả chứ, không thì sặc đấy.
Tiết phu nhân lại sai Phượng Thư đưa đồ ăn đến.
Phượng Thư cười nói:
– Bà muốn ăn món gì, cứ nói, tôi sẽ gắp cho.
Già Lưu nói:
– Tôi biết tên món gì mà gọi? Cái gì cũng ngon cả.
Giả mẫu cười nói:
– Gắp cà xào cho bà ấy ăn.
Phượng Thư vâng lời, gắp miếng cà xào đưa vào mồm già Lưu, cười nói:
– Ngày nào bà cũng ăn cà, giờ thử nếm xem món cà ở đây chúng tôi làm có ngon hay không?
Già Lưu cười nói:
– Đừng đánh lừa tôi, nếu cà mà ngon thế này, thì chúng tôi chỉ giồng cà thôi, không cần giồng các thứ ăn khác.
Mọi người cười nói:
– Cà thật đấy, chúng tôi không nói dối bà đâu.
Già Lưu lấy làm lạ nói:
– Cà thật đấy à? Tôi ăn từ nãy đến giờ, vẫn không biết mùi gì cả! Mợ gắp ít nữa cho tôi, đến miếng này tôi nhai kỹ xem.
Phượng Thư lại gắp một miếng đưa vào mồm già Lưu. Nhai một lúc lâu, già Lưu cười nói:
– Cũng hơi có mùi cà, nhưng không phải là cà. Mợ bảo cách cho tôi, khi về tôi cũng học nấu món ăn này.
Phượng Thư cười nói:
– Có khó gì đâu cứ đến tháng tư tháng năm, bà hái cà về gọt vỏ bỏ núm, chỉ lấy ruột thôi, đem thái nhỏ như sợi tóc, phơi thật khộ Sau đó bắt một con gà mẹ, ninh ra nước và hấp cà lên, xong đem ra phơi, chín lần phơi, chín lần hấp, lại đem phơi thật khô, rồi bỏ vào trong lọ sứ bịt thật kín. Khi ăn sẽ lấy một thìa trộn với thịt gà xào mà ăn.
Già Lưu lắc đầu lè lưỡi nói:
– Phật tổ ơi! Thế thì phải hết đến non chục con gà mới nấu được một bát. Chẳng trách ngon là phải!
– Nếu chưa đủ hứng, thì bà uống thêm một chén nữa.
Già Lưu nói:
– Không uống được nữa, say chết mất! Tôi thích cái chén này quá, không biết họ làm bằng gỗ gì!
Uyên Ương cười nói:
– Bà uống hết rượu rồi, cũng không biết cái chén này người ta làm bằng gỗ gì à?
Già Lưu nói:
– Không trách được các cô không biết là phải. Các cô ở trong nhà vàng cửa gấm, biết sao được các thứ gỗ? Chúng tôi quanh năm làm quen với rừng. Khi buồn ngủ lấy gỗ mà gối, lúc mệt lấy gỗ mà nằm dựa lưng, năm mất mùa đói kém phải ăn đến cả nó. Mắt lúc nào cũng trông thấy gỗ, tai lúc nào cũng nghe thấy gỗ, miệng lúc nào cũng nói đến gỗ. Vì thế thứ gỗ nào tốt, xấu, thật, giả, tôi đều biết cả, để tôi thử nhận xem.
Già Lưu vừa nói vừa ngắm nghía cái chén một lúc nói:
– Nhà các người thế này, khi nào có chăng đồ xấu. Những thứ gỗ xoàng chắc các người chẳng chịu sắm đâu. Tôi cầm thấy nó nặng chình chịch ấy. Nếu không phải là gỗ dương, cũng là gỗ thông vàng.
Mọi người nghe nói lại cười ầm lên.
Một bà già chạy đến trình Giả mẫu:
– Các cô đã đến Ngẫu Hương tạ cả rồi, xin cụ truyền cho hát ngay hay phải chờ lúc nữa.
Giả mẫu cười nói:
– Ta quên khuấy đi mất, bảo chúng nó cứ hát đi.
Bà già vâng lời đi ra.
Một lúc tiếng sênh, tiếng sáo lộn ràng, đàn địch vang dậy. Lại gặp buổi trời trong gió mát, điệu nhạc văng vẳng luồn qua khe rừng bến nước vọng lại, làm cho mọi người tâm thần sảng khoái. Bảo Ngọc không nén nổi lòng, liền cầm cái hồ rót một ly rượu uống hết. Đang định uống thêm chén nữa, bỗng thấy Vương phu nhân cũng sai người đi lấy rượu ấm, Bảo Ngọc vội mang ngay ly rượu của mình đưa đến tận miệng Vương phu nhân. Vương phu nhân uống hai hớp.
Một lúc, rượu ấm mang đến, Bảo Ngọc lại về chỗ cũ. Vương phu nhân cầm lấy hồ rượu, nói: “Mời bà dì mày ngồi. Ai ở đâu về đấy.” Vương phu nhân mới đưa cái hồ cho Phượng Thư, rồi tự mình ngồi xuống. Giả mẫu cười nói:
– Hôm nay thú quá, mọi người đều uống hai chén.
Rồi cầm chén mời Tiết phu nhân, lại bảo Tương Vân và Bảo Thoa:
– Hai chị em mày mỗi người phải uống một chén. Em Lâm mày không uống được nhiều cũng bắt phải uống.
Giả mẫu tự mình uống cạn chén trước, Tương Vân, Bảo Thoa, Đại Ngọc cũng đều uống cả.
Già Lưu nghe nhạc vui tai, lại có rượu mừng quá, múa chân múa tay lên. Bảo Ngọc liền đến cười bảo Đại Ngọc:
– Em xem già Lưu kìa.
Đại Ngọc cười nói:
– Ngày trước nhạc nhà vua vừa nổi lên, thì trăm muông nhảy múa. Bây giờ mới chỉ có một con trâu thôi.
Chị em đều cười.
Một lúc nhạc im. Tiết phu nhân cười nói:
– Mọi người uống rượu cả rồi, xin ra ngoài chơi một lúc.
Giả mẫu cũng thích ra chơi. Thế là cả nhà đều theo ra ngoài ngắm cảnh. Giả mẫu muốn đưa già Lưu đi dạo chơi, liền kéo già đến trước núi, dưới cây, quanh quẩn một lúc, bảo cho già biết cây này tên là gì, đá này tên là gì, hoa này tên là gì. Già Lưu đều ghi nhớ cẩn thận, nói:
– Ngờ đâu ở trong thành này, không những người, đến cả giống chim sẻ cũng sang trọng. Giống chim sẻ được ở trong nhà cụ cũng sinh khôn ra, và cũng biết nói.
Mọi người không hiểu, hỏi:
– Chim sẻ nào sinh khôn và biết nói?
Con chim có lông xanh, mỏ đỏ đậu ở cái cầu vàng ngoài hiên kia là con vẹt tôi đã biết rồi. Còn con quạ đen đầu có mào đang ở trong lồng kia cũng biết nói đấy.
Mọi người lại cười ầm lên.
Bọn a hoàn đem món điểm tâm đến. Giả mẫu nói:
– Mới uống vài ly rượu, chưa đói. Thôi cứ mang đến đây, ai muốn ăn gì thì ăn.
A hoàn khiêng đến hai kỷ, bày hai cái hộp nhỏ. Mở ra, mỗi hộp đựng hai thứ. Một hộp đựng hai món hấp: bánh hấp ngọt bột ngó sen có mùi hoa quế, và bánh cuốn mỡ ngỗng. Còn hộp nữa đựng hai thứ bánh rán: một thứ là bánh miến hấp, lớn độ một tấc. Giả mẫu hỏi:
– Bánh nhân gì đấy?
Bà già thưa:
– Nhân cua đấy ạ.
Giả mẫu cau mày nói:
– Bây giờ ngấy mỡ lắm rỗi, ai ăn được món ấy nữa.
Lại trông thấy món mì xào với mỡ, Giả mẫu cũng không thích, liền mời Tiết phu nhân ăn. Tiết phu nhân cầm một miếng bánh hấp ngọt. Giả mẫu cầm một cái bánh cuốn, nếm một miếng, còn thừa một nửa gọi cho a hoàn.
Già Lưu thấy bánh mỳ hấp trong suốt, lóng lánh, đủ màu đủ vẻ, lại cầm một cái bánh kiểu hoa mẫu đơn, cười nói:
– Các cô gái khéo nhất ở làng tôi cũng không cắt được cái hoa đẹp như thế này! Tôi muốn ăn nhưng lại tiếc, gói đưa về nhà để cho họ bắt chước cắt hoa thì tốt hơn.
Mọi người đều cười, Giả mẫu cười nói:
– Khi về tôi sẽ cho bà một vò mang về. Bây giờ bánh còn nóng, bà hãy ăn đi.
Mọi người chỉ lấy một vài cái nào mình thích ăn thôi.
Già Lưu xưa nay chưa từng được ăn những thứ này bao giờ, vả bánh làm lại khéo léo, xinh xắn, nên cùng thằng Bản ăn mỗi thứ mấy cái, đã vơi mất nửa mâm. Còn thừa, Phượng Thư sai dồn lại hai mâm và một hộp cho bọn Văn Quan ăn.
Bỗng vú em ẵm cháu Đại Thư đến. Mọi người đùa với nó một lúc, Đại Thư đương ôm quả bưởi chơi, thấy thằng Bản ôm quả phật thủ, nó đòi ngaỵ A hoàn dỗ đi lấy quả khác, nó chờ không được, khóc ầm lên. Mọi người lấy quả bưởi đưa cho thằng Bản rồi lấy quả phật thủ của thằng Bản đưa cho nó. Thằng Bản chơi quả phật thủ đã lâu rồi, lúc ấy hai tay lại đương cầm bánh ăn, trông thấy quả bưởi vừa thơm, vừa tròn, lại càng thích, định làm quả cầu để đá, nên không lấy quả phật thủ nữa.
Giả mẫu uống nước xong, dẫn già Lưu đến am Lũng Thúy. Diệu Ngọc đón chào. Mọi người vào đến sân, thấy hoa tươi cây tốt, Giả mẫu cười nói:
– Bọn họ tu hành rỗi việc, hay sửa sang, trông đẹp hơn các nơi nhiều.
Vừa nói vừa đi lên thiền đường bên đông. Diệu Ngọc cười mời vào trong nhà, Giả mẫu nói:
– Chúng tôi vừa uống rượn, ăn thịt xong, trong nhà thờ Phật vào sợ mắc tội; ngồi ở đây thôi. Người cứ mang trà ngon ra, chúng tôi uống một chén rồi đi.
Bảo Ngọc để ý xem cách tiếp đãi của Diệu Ngọc như thế nào, thấy Diệu Ngọc mang cái khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ vàng “vân long hiến thọ”, trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm màu dâng lên. Giả mẫu nói:
– Tôi không uống trà Lục An đâu.
– Tôi đã biết rồi. Đây là trà “Lão quân my” 1 đây.
– Pha bằng nước gì?
– Nước mưa năm ngoái đấy.
Giả mẫu uống nửa chén rồi đưa cho già Lưu, nói:
– Bà thử nếm trà này xem.
Già Lưu uống một hơi, cười nói:
– Ngon có ngon, nhưng hơi nhạt. Pha đặc một tí thì hơn.
Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Sau đều uống trà rót vào bát trắng có nắp.
Diệu Ngọc kéo áo Bảo Thoa và Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc cũng khe khẽ đi theo. Diệu ngọc mời hai người vào buồng bên cạnh. Bảo Thoa ngồi ở trên giường, Đại Ngọc ngồi ở chiếu tụng kinh của Diệu Ngọc. Diệu Ngọc lấy bếp lò đun nước, pha một ấm trà khác. Bảo Ngọc khẽ chạy đến, cười nói:
– Các cô uống trà riêng đấy à?
Hai người đều cười nói:
– Anh lại đến uống gạ! Đây không có trà cho anh uống đâu.
Diệu Ngọc đang định ra lấy chén, thấy bà già đã thu dọn ấm chén ở ngoài sân. Diệu Ngọc vội nói:
– Đừng cất cái chén sứ Châu Thành vội, hãy để ở ngoài ấy.
Bảo Ngọc hiểu ý, biết là già Lưu uống chén ấy, sợ bẩn nên cô ta không dùng nữa. Sau Diệu Ngọc lại mang hai cái chén khác ra, một cái có quai, trên khắc ba chữ lệ “cô kiều trác” 2, bên cạnh có một hàng chữ nhỏ, viết chân phương “Vương Khải trân ngoạn” 3 ; lại có một hàng chữ nhỏ nữa viết “Tống Nguyên Phong ngũ niên tứ nguyệt My Sơn Tô Thức kiến ư bí phủ” 4. Diệu Ngọc rót một chén đưa cho Bảo Thoa. Còn một chén dáng như cái bát nhưng mà nhỏ, cũng có ba chữ “điểm tế kiều” 5 khắc lối triện. Diệu Ngọc pha trà vào chén và đưa mời Đại Ngọc, rồi lấy cái chén ngọc xanh của mình thường dùng pha cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cười nói:
– Người ta thường nói “thế pháp bình đẳng” 6, sao hai cô được dùng đồ cổ quý, mà tôi lại phải dùng đồ tục này?
Diệu Ngọc nói:
– Thế là đồ tục à? Không phải tôi nói liều đâu, nhà cậu chưa chắc đã tìm ra được cái đồ tục này!
– Tục ngữ nói “Vào làng phải theo làng”, đến đây thì nhưng đồ vàng ngọc châu báu đều cho là tục cả.
Diệu Ngọc nghe nói thích lắm, lại lấy ra một cái chén lớn làm bằng gốc trúc chạm rồng cuộn ngoằn ngoèo nhiều khúc, cười nói:
– Chỉ còn có một cái chén nhớn này thôi, cậu có thể uống hết được không?
– Uống hết được.
– Dù uống hết, cũng chẳng phí trà đâu cho cậu uống. Cậu không nghe người ta nói: “Uống chén thứ nhất là để thưởng thức mùi vị trà, chén thứ hai là phường ngu xuẩn uống cho khỏi khát, đến chén thứ ba là con trâu con lừa uống rồi”. Bây giờ cậu uống cả một chén lớn này còn ra cái gì nữa.
Bảo Thoa, Đại Ngọc và Bảo Ngọc nghe xong đều cười ầm lên. Diệu Ngọc cầm bình nước chỉ rót độ một chén con vào chén lớn, Bảo Ngọc nhấm nháp từng tí, thấy hương vị mát nhẹ, khen ngợi không ngớt. Diệu Ngọc nghiêm nét mặt nói:
– Cậu nhờ phúc của hai cô mới được uống trà này, chứ một mình cậu thì tôi không mời đâu.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi biết lắm, vì thế tôi không cám ơn người, chỉ cám ơn hai cô thôi.
Diệu Ngọc nói: “Đúng đấy”.
Đại Ngọc hỏi:
– Đây cũng là nước mưa năm ngoái phải không?
Diệu Ngọc cười nhạt:
– Cô mà lại là người rất tục, ngay nước uống không biết nếm. Đó là tuyết ở trên hoa mai mà năm năm về trước tôi lấy ở chùa Huyền Mộ Bàn Hương đấy, chỉ chứa được đầy một lọ hoa màu xanh thôi. Tôi chôn xuống đất để dành mãi, không uống, đến hè năm nay mới đào lên. Tôi chỉ uống một lần, nay là lần thứ hai cô nếm cũng không biết à? Nước mưa năm ngoái làm gì có hương vị mát dịu như thế? Uống thế nào được?
Bảo Thoa biết Diệu Ngọc có tính dở hơi, không thích nói nhiều, cũng không thích ngồi lâu; uống nước xong, rủ Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc nói với Diệu Ngọc:
– Cái chén bà già uống lúc nãy, tuy bẩn, nhưng vất đi thật đáng tiếc! Cứ ý tôi, nên cho bà già nghèo ấy đem bán cũng có thể sống qua ngày. Người thấy có được không?
Diệu Ngọc nghĩ một lúc gật đầu nói:
– Thôi được. May tôi chưa uống đến cái chén ấy bao giờ. Đã uống rồi thì tôi đập đi, không khi nào đem cho bà ấy. Cậu muốn cho bà ấy, xin mang ngay đi.
– Như thế là phải. Khi nào người lại thèm nói chuyện với bà ấy? Nếu nói chuyện với bà ta thì người cũng bị bẩn lây. Cứ đưa cho tôi là được.
Diệu Ngọc sai người mang cái chén đưa cho Bảo Ngọc, Bảo ngọc cầm lấy rồi nói:
– Khi chúng tôi ra về, sẽ bảo mấy đứa hầu nhỏ ra sông gánh mấy thùng nước rửa nhà, có được không?
– Thế thì tốt. Nhưng cậu dặn họ, gánh nước về cứ để ở chân tường ngoài cửa thôi, đừng mang vào đây.
– Đúng thế.
Rồi Bảo Ngọc cầm lấy cái chén đưa cho người nhà Giả mẫu và bảo:
– Ngày mai già Lưu về, mày đưa cái này cho già ấy.
Ngay lúc đó, Giả mẫu đã ra, muốn về. Diệu Ngọc cũng không giữ lại, đưa Giả mẫu ra đến cửa ngoài, rồi quay lại đóng cửa.
Giả mẫu thấy người mệt, liền bảo Vương phu nhân và chị em Nghênh Xuân mời Tiết phu nhân uống rượu, còn mình vào nằm nghỉ ở Đạo Hương thôn. Phượng Thư sai người mang cái ghế trúc nhỏ đến, Giả mẫu ngồi vào đó, bảo hai bà già kiệu đi. Phượng Thư, Lý Hoàn và bọn a hoàn theo sau.
Tiết phu nhân cũng cáo từ ra về. Vương phu nhân cho bọn Văn Quan về, rồi phân phát những hộp bánh còn lại cho đám a hoàn ăn. Còn mình nhân tiện cũng nằm ngả xuống giường của Giả mẫu vừa ngồi, sai một đứa nhỏ hầu nhỏ bỏ rèm xuống, bóp chân và dặn:
– Cụ có gọi gì thì bảo ta ngay.
Nói xong lăn ra ngủ.
Bảo Ngọc, Tương Vân trông thấy bọn a hoàn để những hộp bánh ở trên hòn đá, có đứa ngồi trên hòn đá, có đứa ngồi dưới đất, có đứa dựa vào cây, có đứa ngồi trên bờ hồ, rất là thỏa thích. Một lúc, Uyên Ương đến dắt già Lưu, mọi người lại đều theo đi dạo chơi. Đi đến dưới bức hoành có bốn chữ “Tỉnh thân biệt thự ” 7, già Lưu nói:
– Úi chà! Có ngôi đền lớn thế này kia à!
Già liền cúi đầu lạy. Mọi người cười ngặt nghẹo. Già Lưu hỏi:
– Cười cái gì thế? Những chữ ở trên bức hoành này tôi đọc được cả. Ở nhà quê chúng tôi có nhiều đền miếu, cũng có bức hoành như thế này. Chữ này là tên cái đền đây.
Mọi người cười hỏi:
– Bà biết đây là đền gì?
Già Lưu ngẩng đầu lên trỏ vào chữ nói:
– Đây không phải là “Ngọc Hoàng bảo điện” à!
Mọi người vỗ tay cười ầm lên. Họ đương định làm trò cười nữa. Nhưng già Lưu thấy bụng sôi sùng sục, vội kéo một a hoàn nhỏ, bảo lấy vài tờ giấy rồi cởi quần ra. Mọi người vừa cười vừa quát:
– Chỗ này không đi được đâu!
Liền sai một bà già đưa già Lưu đi về phía đông bắc. Bà già trỏ chỗ cho già Lưu, rồi lẩn đi một nơi.
Già Lưu uống nhiều rượu, không hợp với tỳ vị, lại ăn nhiều đồ mỡ, đâm khát, uống nhiều nước trà nên đi lỏng, phải ngồi mất lúc lâu. Khi ở nhà xí ra, lại bị gió. Hơn nữa, tuổi già, nên vừa đứng dậy, bà đã mắt hoa đầu váng, không nhận được lối đi. Nhìn chung quanh chỗ nào cũng cây cối um tùm, nhà cửa san sát, bà không tìm ra lối về, đành lững thững đi theo con đường đá. Khi đến trước một căn nhà, bà nghĩ bụng: “Ở đây cũng có giàn đậu à?” Liền theo hàng rào hoa đi vào một cái cửa tròn, thấy trước mặt có cái ao, bờ xây đá, rộng độ bảy tám thước, sông biếc nước trong, trên có cái cầu đá trắng bắc ngang.
Già Lưu trèo lên cầu, đi theo đường đá, quanh mấy vòng đến một ngôi nhà, liền đi vào, thấy một em gái bé đứng đó, hớn hở cười. Già Lưu vội cười nói:
– Các cô bỏ tôi để tôi lần mò mãi mới đến đây.
Em bé chẳng trả lời gì cả. Già Lưu chạy lại nắm lấy tay nó, “chát” một tiếng, bà vấp phải bức ván, bươu cả đầu. Nhìn kỹ hóa ra một bức vẽ. Già Lưu nghĩ bụng: “Bức vẽ sao lại nổi lên thế này?” Liền sờ tay thấy phẳng lì. Già Lưu gật đầu thở dài một tiếng rồi quay người đi đến một cái cửa nhỏ, trên treo rèm lụa màu xanh cải hoa. Già Lưu vén rèm đi vào, ngẩng đầu nhìn, bốn bên tường vách lộng lẫy, đàn, gươm, lư hương, bình hương, đều đặt vào lòng tường; lồng gấm, chao lụa, vàng ngọc sáng choang, cả gạch lát cũng đều chạm hoa xanh làm hoa cả mắt. Già Lưu lần cửa đi ra, nhưng nào có thấy? Bên trái đặt giá sách, bên phải đặt bình phong. Lần sau bình phong mới thấy một cái cửa, có một bà già ở trước mặt đi tới. Già Lưu lấy làm lạ, trong bụng hoảng lên đoán chừng: “Có lẽ là bà thông gia chăng?” Liền hỏi: “Bà cũng đến đấy à? Chắc thấy tôi đi mấy hôm nay không về, nên phiền bà phải đi tìm! Cô nào dẫn bà đến đây thế?”
Thấy bà già ấy chỉ cười mỉm, già Lưu cười nói: “Bà thật chả ra ngoài bao giờ, thấy vườn đây có hoa đẹp, là cố sống cố chết cắm đầy cả đầu.”
Bà già vẫn không nói câu gì. Già Lưu nghĩ ngay: “Thường nghe nói các nhà giàu sang có tấm gương để mặc áo, có lẽ mình đứng ở trước gương hay sao đây?” Liền giơ tay ra sờ, và nhìn kỹ thì chính là bức vách chạm bóng bốn mặt và lắp gương giữa. Già Lưu bỗng cười lên rồi nói: “Thế này thì đi ra thế nào được?”
Cái gương này có nút bấm, có thể đóng mở được, không ngờ già Lưu sờ đúng vào chỗ bấm, cái gương gạt sang một bên, hé ra một cái cửa.
Già Lưu mừng mừng sợ sợ, chạy ra. Chợt thấy một cái giường rất lịch sự đặt đó. Lúc này già Lưu hãy còn say rượu,đi mãi đã mệt, liền ngồi thịch xuống giường, định nghỉ một lát, không ngờ mệt quá, hai mắt lim dim, hễ mở ra là nó díp lại, vừa ngả người xuống, bà đã ngủ thiếp ngay trên giường.
Mọi người chờ mãi không thấy già Lưu về, thằng Bản cứ khóc ầm lên. Ai nấy đều cười nói:
– Hay bà ấy rơi vào trong chuồng xí rồi? Phải sai người đi tìm xem.
Hai bà già đi tìm về nói: “Không thấy đâu cả”. Mọi người đều chia các ngả đi tìm. Tập Nhân nói:
– Chắc là bà ấy say rượu, đi lạc đường. Nếu theo con đường này bà ấy sẽ lạc vào nhà sau đến giàn hoa, lần theo cửa sau, thế nào đám hầu nhỏ cũng biết, không đi theo lối giàn hoa, lại đi về phía tây nam, bà ấy quanh ra thì chớ, bằng không sẽ vẫn lẩn quẩn ở đấy! Tôi phải đi tìm xem sao?
Tập Nhân trở về viện Di Hồng, gọi bọn hầu nhỏ, chúng đều lẻn đi chơi cả.
Tập Nhân đi vào cửa buồng, vòng qua bức ngăn bằng gấm, nghe tiếng gáy khò khò, vội chạy lại, ngửi thấy hơi rượu sặc sụa. Nhìn vào nhà, thấy già Lưu đương dang tay, ruỗi chân nằm ngủ trên giường. Tập Nhân sợ quá, chạy vào lay lấy lay để. Già Lưu giật mình tỉnh dậy, trố mắt nhìn, thấy Tập Nhân, liền loạng choạng bò dậy nói:
– Cô ơi! Tôi đáng chết! May chưa làm bẩn giường.
Rồi lấy tay phẩy giường.
Tập Nhân sợ Bảo Ngọc biết, xua tay bảo già Lưu không được nói, vội lấy ba bốn nắm hương bách hợp bỏ vào cái đỉnh gần đấy rồi đậy nắp lại. May mà già Lưu không nôn ra đấy. Tập Nhân khẽ cười bảo:
– Không việc gì đâu, có tôi đây. Già theo tôi ra ngoài này.
Ra đến buồng bọn hầu trẻ. Tập Nhân bảo già Lưu ngồi đấy rồi dặn:
– Bà cứ nói là say rượu, nằm ngủ gật trên hòn đá, thế là được.
Già Lưu vâng lời. Tập Nhân lại cho uống hai chén nước trà, già Lưu mới tỉnh rượu, liền hỏi:
– Chỗ ấy là buồng thêu của cô nào mà lịch sự thế? Khác nào được lên trời vậy!
Tập Nhân mỉm cười nói:
– Buồng ấy à? Là buồng ngủ của cậu Bảo đấy.
Già Lưu sợ quá không dám nói nữa. Tập Nhân đưa già Lưu đi ra đằng trước, gặp mọi người chỉ nói: “Bà ấy ngủ ở trên bãi cỏ, tôi đưa về đây”.
Mọi người đều không để ý đến.
1 Lông mày ông già, tức là ché búp trắng như tuyết.
2 Chén hình quả bầu.
3 Đồ chơi quý của Vương Khải ngày xưa.
4 Tháng tư năm Nguyên phong thứ năm đời Tống, ông Tô Thức người ở
My Sơn tìm thấy trong bí phủ.
5 Có tâm linh thông cảm với nhau. Kiều: một thứ chén xưa hơi lớn hơn
cái chén uống rượu.
6 Chữ trong kinh phật, nghĩa là: tăng tục đều bình đẳng với nhau.
Một lúc, Giả mẫu tỉnh dậy, cơm chiều đã dọn ra ở Đạo Hương thôn. Nhân người mệt, Giả mẫu không muốn ăn, liền ngồi vào ghế trúc nhỏ sai người kiệu về phòng nghỉ và cho Phượng Thư đi ăn cơm. Các chị em lại trở về trong vườn. Ăn cơm xong, ai về nhà nấy. Già Lưu dắt thằng Bản đến nói với Phượng Thư:
– Sáng sớm mai tôi phải về. Tôi ở chơi đây mới vài ba hôm, nhưng những cái xưa nay chưa từng nghe, chưa từng thấy, chưa từng ăn, giờ đã đều được qua cả. Từ cụ đến các mợ, các cô, ngay cả các chị a hoàn cũng thương tôi là người già nghèo khổ. Tôi về, không biết lấy gì tạ Ơn, chỉ định ngày ngày thắp hương niệm phật, khấn người phù hộ cho cụ cùng các mợ, các cô sống lâu trăm tuổi, để tỏ lòng thành kính của tôi.
Phượng Thư cười nói:
– Bà đừng mừng vội, vì bà mà cụ tôi bị cảm, khó ở; cả cháu Đại Thư nhà tôi cũng bị cảm siết đấy.
Già Lưu thở dài:
– Cụ già rồi, không quen khó nhọc!
Phượng Thư nói:
– Xưa nay cụ tôi chưa từng cao hứng như thế bao giờ. Thỉnh thoảng người có đến chơi vườn, chẳng qua tới một vài chỗ, ngồi một lúc rồi về ngaỵ Hôm qua vì bà ở đây, muốn cho bà đi chơi khắp nơi, thành ra người đi quá nửa vườn. Lúc tôi đi tìm bà, ở nhà bà Hai cho cháu Đại Thư ăn miếng bánh, ngờ đâu nó đứng ở chỗ gió thành ra bị sốt.
Già Lưu nói:
– Chị bé nhà không quen ra vườn, chứ các cháu nhà tôi khi mới biết đi, bệ mả nào mà nó chẳng trèo lên? Có lẽ cảm gió đấy. Tôi sợ chị ấy người xinh xắn, con mắt sáng sủa, hoặc đi gặp phải ma chăng. Cứ ý tôi, nên giở quyển sách bói ra xem có phải gặp ma không.
Phượng Thư chợt nhớ ngay ra, sai ngay Bình Nhi mang quyển Ngọc Hạp và bảo Thái Minh đọc. Thái Minh giở một lúc rồi đọc: “Ngày 25 tháng 8, bệnh nhân mắc bệnh ở phía đông nam, gặp phải thần hoa. Lấy bốn mươi tờ giấy tiền ngũ sắc, tống tiễn ra khỏi nhà độ mươi bước về phía đông nam, bệnh sẽ khỏi.”
Phượng Thư cười nói:
– Đúng lắm, trong vườn này làm gì mà chẳng có thần hoa? Chỉ sợ cụ cũng lại gặp ma thôi.
Rồi sai người đi lấy hai tập giấy tiền, gọi hai người đến tiễn ma cho Giả mẫu và cháu Đại Thự Quả nhiên cháu ngủ yên.
Phượng Thư cười nói:
– Các bà đã có tuổi nên kinh nghiệm nhiều, con bé cháu nhà tôi bị bệnh luôn, không biết vì duyên cớ gì?
Già Lưu nói:
– Cái ấy cũng có lẽ. Trẻ con nhà giàu sang, khi mới đẻ ra đều yếu ớt cả, nên hay đau ốm luôn. Vả lại trẻ con mà nâng giấc quá không nên. Từ giờ trở đi, mợ cũng nên ít chiều chuộng chị ấy thì hơn.
Phượng Thư nói:
– Cũng có lẽ đấy. Giờ tôi sực nhớ đến, cháu chưa có tên, xin bà đặt tên cho cháu để cháu nhờ lộc của bà. Vả lại, tôi nói bà đừng giận, bà là người nhà quê bị nghèo khổ, được người nghèo khổ đặt tên cho nó thì mới đáng đầu đáng số.
Già Lưu nghĩ một lúc cười nói:
– Chị ấy đẻ bao giờ?
– Ngày sinh nó chả lấy gì làm tốt, nó đẻ “đúng vào” 1 ngày mồng 7 tháng 7.
– Như thế tốt lắm, cứ đặt tên cho chị ấy là Xảo Thư là được. Thế gọi là “lấy độc trị độc, lấy lửa trị lửa” đấy. Mợ cứ theo cái tên của tôi đặt cho, thì thế nào chị ấy cũng sống lâu trăm tuổi. Sau này lớn lên, sinh cơ lập nghiệp, hoặc có lúc gặp việc không may cũng tai qua nạn khỏi, gặp dữ hóa lành, đó đều nhờ chữ “Xảo” cả.
Phượng Thư mừng lắm, cảm tạ và nói:
– Chỉ cần cho nó được như lời bà nói là tốt rồi.
Liền gọi Bình Nhi đến dặn:
– Ngày mai chúng ta có việc bận. Bây giờ nhân lúc rỗi, chị sửa soạn sẵn những thứ biếu già Lưu để sáng mai bà ấy về lúc nào thì về.
Già Lưu nói:
– Tôi không dám nhận nhiều đâu. Đã đến quấy quả mấy hôm nay lại mang nhiều thứ về, trong bụng tôi không đành tí nào!
– Không có gì đâu, chẳng qua những đồ thường thôi. Xấu hay tốt bà cứ mang về để cho làng xóm nhìn vào, càng thêm vui vẻ thế mới bõ công ra tỉnh chứ!
Một lát, Bình Nhi lại nói:
– Bà lại đây mà xem.
Già Lưu theo Bình Nhi vào trong nhà, thấy các món chất đầy nửa giường. Bình Nhi trỏ từng thứ cho già Lưu xem, rồi nói:
– Đây là tấm lụa xanh mà bà thích hôm trước, mợ tôi còn cho riêng bà tấm lụa nguyệt bạch dày để may kép. Đây là hai tấm trừu bằng tơ, may quần áo đều đẹp cả. Còn gói này có hai tấm trừu để cuối năm may quần áo mặc tết. Cái này là hộp đựng các thứ bánh có thứ bà ăn rồi, có thứ bà chưa ăn, đem về bày ra đĩa mời mọi người, ngon hơn bánh mua nhiều. Hai cái túi này là của bà mang đến hôm nọ, bây giờ một túi tôi đựng hai đấu gạo tám ngự, đem nấu cháo thì quý lắm; còn túi này đựng các thứ quả tươi và khô hái ở vườn nhà. Cái bọc này có tám lạng bạc là của mợ tôi biếu riêng bà. Hai bọc này, mỗi bọc năm mươi lạng, cộng tất cả là một trăm lạng, là của bà Hai biếu bà mang về hoặc làm vốn buôn nhỏ, hoặc mua mấy mẫu ruộng để sau này khỏi phải vay mượn bà con bạn hữu.
Bình Nhi khẽ cười nói:
– Hai cáo áo và hai cái quần, cùng bốn cái khăn chít đầu, một bọc nhung, là của tôi biếu riêng bà. Những quần áo này đã cũ, nhưng tôi cũng không mặc mấy. Nếu bà chê xấu thì tôi không dám biếu nữa.
Bình Nhi nói một câu, già Lưu lại niệm Phật một câu, kể ra đã niệm đến mấy nghìn câu. Lại thấy Bình Nhi biếu riêng mấy thứ và tỏ ra khiêm tốn, già Lưu cười nói:
– Sao cô lại nói thế? Những thứ này cũng rất đẹp, tôi dám chê vào đâu? Tôi có tiền cũng chưa chắc đã mua được. Thật khó nghĩ quá: nhận thì ra người tham, không nhận thì phụ lòng cô.
– Bà đừng nói khách sáo nữa, chỗ người nhà với nhau, nên tôi mới dám xử thế. Bà cứ yên tâm nhận lấy, tôi còn có cái muốn xin bà nữa đấy. Đến cuối năm, bà mang ra cho chúng tôi ít rau, đậu, cá, bầu, vừa khô vừa tươi, ở đây chúng tôi ai cũng thích ăn những thứ ấy. Thế là đủ rồi. Các thứ khác không cần, bà đừng bận lòng nghĩ ngợi.
Già Lưu cám ơn luôn miệng và nhận lời, Bình Nhi nói:
– Thôi, bà đi ngủ đi, tôi sẽ thu xếp hộ, để sẵn cả đây. Sáng mai tôi bảo đứa hầu bé thuê xe chở đi, bà không phải bận lòng.
Già Lưu cảm động lắm, cám ơn không ngớt lời, rồi mới cáo từ Phượng Thư, sang nhà Giả mẫu. Sáng hôm sau dậy rửa mặt, chải đầu xong, định ra về.
Lúc này Giả mẫu khó ở, mọi người đều đến hỏi thăm, rồi ra bảo đi mời thày thuốc. Một lúc bà già trình: “Thày thuốc đã đến”. Bà già mời Giả mẫu vào ngồi trong màn, Giả mẫu nói:
– Ta già thế này, không đẻ được ra nó hay sao. Lại sợ nó à? Chẳng cần phải buông màn nữa, ta cứ ngồi ở đây cho nó xem.
Bọn bà già lấy một cái bàn nhỏ, đặt cái gối lên, rồi sai người mời thày thuốc vào.
Một lúc, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung đưa thày thuốc họ Vương vào. Thày thuốc không dám đi đường giữa, chỉ đi bên cạnh, theo Giả Trân bước lên thềm, có hai bà già đứng hai bên vén rèm, hai bà già nữa dẫn vào. Bảo Ngọc ra đón. Giả mẫu mặc chiếc áo khoác bằng da dê trắng, trong lót nhiễu xanh, ngồi trên sập. Hai bên có bốn a hoàn bé chưa để tóc, cầm phất trần, ống nhổ đứng hầu; lại có năm, sáu bà già đứng xếp hàng hai bên; đằng sau cái tủ bích sa, thấp thoáng có nhiều người mặc đồ xanh đỏ và đeo vàng ngọc. Thày thuốc không dám ngẩng đầu lên, chạy lại cúi chào.
Giả mẫu thấy ông ta mặc áo lục phẩm, biết ngay là thày thuốc trong cung, mỉm cười hỏi:
– Quan cung phụng khỏe chứ?
Rồi hỏi Giả Trân:
– Quan cung phụng họ gì?
– Họ Vương.
– Ngày trước ở thái y viện có ông Vương Quân Hiệu xem mạch rất giỏi.
Vương thái y liền cúi đầu mỉm cười nói:
– Đó là ông chú của vãn sinh.
Giả mẫu cười nói:
– Nếu thế cũng là người quen từ lâu.
Giả mẫu từ từ để tay lên trên gối. Bà già cầm một ghế nhỏ để chếch trước cái bàn. Vương thái y ngồi ghé xuống một bên, nghiêng đầu xem mạch tay này một lúc, rồi đến tay kia. Xem xong đứng dậy cúi đầu đi ra. Giả mẫu cười nói:
– Phiền người quá. Anh Trân mời thái y ra ngồi chơi xơi nước.
Giả Trân, Giả Liễn vâng lời, mời Vương thái y ra ngoài thư phòng. Vương thái y nói:
– Cụ không có bệnh gì khác, chỉ cảm phong hàn qua loa thôi. Không cần phải uống thuốc, chỉ ăn uống thanh đạm một tí và giữ người cho ấm là được. Giờ tôi kê đơn, người thích uống thì uống một thang, không thích thì thôi.
Ông ta uống nước, rồi kê đơn, đương định cáo từ ra về, chợt vú em bế cháu Đại Thư đến, cười nói:
– Nhờ người xem cho cô bé nhà tôi.
Vương thái y đứng dậy đến gần vú em, tay trái cầm tay cháu Đại Thư, tay phải bắt mạch, lại sờ đầu, bảo cháu thè lưỡi ra xem, cười nói:
– Tôi nói thì cô bé sẽ mắng tôi: cứ cho nhịn ăn hai bữa là khỏi, không cần phái thuốc thang gì. Tôi đưa cho viên thuốc, trước khi ngủ mài với nước gừng cho cô bé uống là khỏi.
Nói xong cáo từ ra về. Bọn Giả Trân mang đơn thuốc vào trình Giả mẫu, để ở trên án rồi đi ra.
Vương phu nhân và chị em Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa thấy thầy thuốc đã về, mới ở sau tủ đi ra. Vương phu nhân ngồi một lúc rồi về buồng.
Già Lưu thấy rỗi, mới đứng dậy cáo từ Giả mẫu, xin về. Giả mẫu nói:
– Khi nào rỗi, bà lại ra chơi.
Lại bảo Uyên Ương đi tiễn chân già Lưu: “Ta không được khỏe không đi tiễn được”.
Già Lưu tạ Ơn cáo từ, cùng Uyên Ương đi ra. Đến buồng dưới, Uyên ương trỏ một bọc để ở trên giường nói:
– Đây là mấy bộ quần áo của cụ, ngày sinh nhật năm ngoái, người ta dâng người đấy. Người xưa nay không mặc quần áo may ở ngoài bao giờ, bỏ đấy phí của. Người chưa mặc lần nào. Hôm qua bảo tôi mang hai bộ ra đưa cho bà đem về, bà mặc hay cho ai tùy ý. Trong hộp này đựng những bánh mà bà thích ăn. Hộp trong bao này là những thứ thuốc bà xin hôm nọ đây: mai hoa điểm thiệt đan, tứ kim đĩnh, hoạt lạc đan, thôi sinh bảo mệnh đan, thứ gì cũng có. Mỗi thứ có một cái đơn bọc ngoài, tôi gói chung vào một gói. Còn đây là hai túi đựng đồ chơi.
Uyên Ương lại cởi nút lấy hai thoi bút đĩnh như ý đưa cho già Lưu xem, rồi cười nói:
– Bà mang cái túi về, còn cái này để lại cho tôi nhé.
Già Lưu mừng quá không ngờ lại được như thế, cứ niệm Phật luôn mồm, vội nói: “Cô cứ để lại mà dùng”.
Uyên Ương vừa cười vừa gói vào cho già Lưu và nói:
– Nói đùa bà thế thôi, chứ tôi có cái đẹp hơn kia. Thôi, bà mang về để đến cuối năm cho đám trẻ con.
Lúc đó lại thấy a hoàn nhỏ đem cái chén sứ Châu Thành đến đưa cho già Lưu và nói: “Cậu Bảo cho bà đây”.
Già Lưu cầm lấy, nói:
– Sao lại có chuyện như thế. Tôi tu từ kiếp nào mà được như thế này!
Uyên Ương nói:
– Hôm nọ tôi bảo bà đi tắm rửa, quần áo đưa cho bà thay là của tôi đấy. Nếu bà không chê xấu, tôi còn mấy cái nữa, cũng xin biếu bà.
Già Lưu cám ơn. Uyên Ương vào lấy ngay mấy cái quần áo ra, bọc cẩn thận. Già Lưu lại muốn vào trong vườn từ tạ Vương phu nhân, Bảo Ngọc và các cô, Uyên Ương nói:
– Không cần phải vào nữa. Hôm nay họ không tiếp ai đâu, để sau tôi nói hộ bà cũng được. Khi nào rỗi, bà lại chơi nhé.
Uyên Ương gọi một bà già dặn:
– Ra cửa ngoài gọi hai đứa hầu bé đến đây mang những cái này ra hộ bà ấy.
Bà già vâng lời. Uyên Ương lại cùng già Lưu đến nhà Phượng Thư lấy các đồ để ở góc cửa, sai bọn hầu nhỏ khuân ra, rồi đưa già Lưu lên xe.
Bọn Bảo Thoa ăn cơm sáng xong, đến hỏi thăm Giả mẫu. Khi về vườn đến chỗ rẽ, Bảo Thoa gọi Đại Ngọc: “Cô Tần, theo ta vào đây, có câu chuyện muốn hỏi”.
Đại Ngọc cười, theo Bảo Thoa đến Hành Vu Uyển. Vào phòng, Bảo Thoa ngồi xuống cười bảo: “Sao mày không quỳ xuống? Ta định tra xét một việc!”
Đại Ngọc không hiểu tại sao, cười nói:
– Xem kìa, con Bảo này điên rồi! Ta có việc gì mà mày tra xét?
– Gớm thật, cô tiểu thư nghìn vàng ơi! Cô gái cấm cung ơi! Miệng cô đã nói những câu gì? Thôi hãy nói thực ra đi.
Đại Ngọc không hiểu, chỉ cười, nhưng trong bụng cũng có ý ngờ ngợ và nói:
– Nào tôi có nói gì đâu? Chẳng qua chị bắt nọn tôi đấy thôi. Có điều gì sai chị hãy nói cho tôi nghe nào.
– Cô lại còn giả vờ à! Trong cuộc tửu lệnh hôm nọ, cô nói gì thế? Tôi không biết những câu ấy ở đâu ra à?
Đại Ngọc nghĩ mãi mới nhớ hôm nọ mình không giữ gìn, có đọc hai câu trong chuyện “Mẫu đơn đình” và “Tây sương ký” 2, tự nhiên mặt đỏ lên, liền chạy lại ôm lấy Bảo Thoa cười nói:
– Chị Ơi! Vì em quên đi, buột miệng đọc ra, chị bảo mới rõ. Từ giờ trở đi em không dám đọc những câu ấy nữa!
– Tôi cũng không hiểu, nghe thấy cô đọc hay quá, nên bây giờ hỏi lại cô.
– Chị Ơi! Xin chị đừng nói với người khác, từ nay em không đọc những câu ấy nữa!
Bảo Thoa thấy Đại Ngọc thẹn đỏ mặt lên, cứ van xin mãi, nên cũng không hỏi vặn nữa, liền kéo Đại Ngọc ngồi xuống uống nước trà, và ân cần khuyên bảo:
– Cô cho tôi là người thế nào? Xưa nay tôi vốn bướng bỉnh. Từ khi bảy, tám tuổi, tôi đã làm rầy rà người tạ Nhà tôi vốn là nhà nho, ông cha cũng rất thích chứa sách. Khi trước nhà đông người, anh chị em tôi cùng ở một nơi, không ai thích xem sách đứng đắn cả. Có người thích thơ, có người thích từ, như “Tây sương”, “Tỳ bà”, “Nguyên nhân bách chủng”, bộ gì cũng có. Họ cứ xem giấu chúng tôi, chúng tôi cũng xem giấu họ. Sau thầy tôi biết, đứa bị đánh, đứa bị mắng, sách lại bị đốt bị xé mất hết. Vì thế bọn con gái chúng ta không biết chữ càng tốt. Đám con trai học không hiểu nghĩa lý thì thà không học còn hơn; huống chi là tôi với cổ Ngay đến việc làm thơ, viết chữ, đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải là phận sự của bọn con trai nữa. Người con trai đọc sách phải hiểu nghĩa lý để ra giúp nước trị dân mới đúng. Bây giờ không thấy những người như thế nữa, càng đọc sách bao nhiêu họ càng hư hỏng bấy nhiêu. Đó không phải là sách làm hư hỏng họ, tiếc rằng chính họ đã bôi nhọ sách. Bởi thế không bằng đi cày, đi buôn còn hơn. Còn bọn chúng ta, chỉ nên biết việc thêu thùa may vá mới phải, thế mà còn học đòi mấy chữ. Đã trót biết chữ thì nên chọn sách đứng đắn mà xem, chứ xem loại sách nhảm, sẽ đổi hẳn tâm tính đi, không thể sửa lại được.
Đại Ngọc cứ ngồi im cúi đầu uống nước, trong bụng thầm phục Bảo Thoa, chỉ trả lời một câu “phải” mà thôi. Chợt thấy Tố Vân đến nói:
– Mợ tôi mời hai cô đến bàn việc cần. Cô Hai, cô Ba, cô Tư, cô Sử, cậu Bảo cũng đương chờ đấy.
Bảo Thoa hỏi:
– Lại có việc gì?
Đại Ngọc nói:
– Chúng ta đến đấy sẽ biết.
Đại Ngọc, Bảo Thoa sang Đạo Hương thôn. Mọi người đã ở cả đấy.
Lý Hoàn trông thấy hai người đến, cười bảo:
– Thi xã chưa mở đã có người chực trốn việc rồi. Cô Tư xin nghỉ một năm đấy!
Đại Ngọc cười nói:
– Chỉ vì hôm nọ cụ nói một câu, bảo cô ta phải vẽ một bức tranh trong vườn, thành ra cô ta vịn cớ xin nghỉ.
Thám Xuân cười nói:
– Đừng trách cụ, cũng chỉ vì một câu nói của già Lưu đấy thôi.
Đại Ngọc cười nói:
– Đúng đấy! Đúng là vì câu nói của bà ấy đấy. Không biết bà ta là bà già nhà nào? Cứ gọi bà ta là “con cào cào mẹ” mới phải!
Mọi người cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:
– Tất cả chuyện trên đời này, hễ đến miệng chị Phượng là xong hết. Nhưng may chị ấy không thông chữ lắm, nên những câu nói của chị ấy đều là tục, chỉ để cười đùa thôi. Con Tần này miệng lưỡi mới là quỷ quái. Nó dùng lối bút pháp kinh xuân thu, nhặt nhưng tiếng tục ở nơi đầu đường xó chợ rút ra những lời chủ chốt, bớt chỗ rườm rà, rồi tô điểm thêm lên, nên nói câu nào ra câu ấy. Ba chữ “cào cào mẹ” đủ vẽ ra được cái hình ảnh hôm nọ. Kể ra nó nghĩ cũng nhanh đấy!
Mọi người đều cười nói:
– Lời giảng giải của cô cũng chằng kém gì hai cô kia.
Lý Hoàn nói:
– Tôi mời chị em đến đây để bàn xem nên cho cô ấy nghỉ bao nhiêu ngày? Tôi cho cô ấy nghỉ một tháng, nhưng cô ấy kêu ít, thế thì các cô định thế nào?
Đại Ngọc nói:
– Cứ lẽ ra thì một năm cũng chẳng lấy gì làm nhiều, cái vườn này một năm mới xây dựng xong. Bây giờ muốn vẽ cũng phải mất hai năm, vì còn phải mài mực dầm bút, trải giấy, tô màu, lại còn phải…
Nói đến đây, Đại Ngọc không nhịn được, lại cười nói:
– Lại còn phải theo đúng kiểu, thong thả vẽ, thế mà không đến hai năm à.
Mọi người nghe nói đều vỗ tay cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:
– Câu cuối cùng “lại còn phải theo đúng kiểu, thong thả vẽ” hay lắm. Vì thế, những câu nói đùa hôm nọ tuy buồn cười thật, nhưng nghĩ lại chẳng có gì là thú. Chúng ta nghĩ kỹ xem, mấy câu nói của cô Tần tuy chẳng có gì cả, nhưng lại có nhiều ý vị làm cho tôi cười lăn ra được!
Tích Xuân nói:
– Vì chị Bảo khen nó, nên nó càng làm bộ, giờ lại mang tôi ra làm trò cười.
Đại Ngọc kéo Tích Xuân, cười nói:
– Tôi hãy hỏi cô, giờ chỉ vẽ cái vườn thôi, hay là vẽ cả mọi người chúng tôi ở trong vườn ấy?
– Trước chỉ định vẽ cái vườn không thôi, nhưng hôm nọ cụ lại bảo, vẽ cái vườn không, thành ra vẽ kiểu nhà mất. Người bảo tôi phải vẽ cả người nữa, như là bức tranh hành lạc mới đẹp. Tôi cũng không biết vẽ tỉ mỉ những lâu đài và nhân vật, nhưng không dám trái lời, vì thế khó nghĩ quá.
Đại Ngọc nói:
– Vẽ nhân vật thì còn dễ, chứ sâu bọ thì không vẽ nổi đâu.
Lý Hoàn nói:
– Cô nói câu ấy lại không thông rồi. Trong ấy làm gì phải vẽ đến sâu bọ? Hoặc chỉ tô điểm một vài con chim thôi.
Đại Ngọc cười nói:
– Sâu khác chẳng vẽ thì thôi, chứ con “cào cào mẹ” hôm nọ, không vẽ thì thiếu mất điển tích đấy.
Mọi người nghe nói đều cười ầm lên. Đại Ngọc vừa ôm bụng cười vừa nói:
– Thôi cô cứ vẽ đi, tôi đã có sẵn cả chữ đề rồi. Tôi sẽ đặt tên bức tranh là “Huề hoàng đại tước đồ” 3.
Mọi người nghe nói càng cười ngặt nghẹo. “Thình” một tiếng, không biết là cái gì đổ, mọi người vội nhìn thì ra Tương Vân ngồi ngả người về đằng sau cười sặc sụa, không dè chừng, ghế chệch chân nghiêng về một bên, cả người lẫn ghế đều lăn ra. May có ván vách giữ lại, nên không ngã xuống đất. Mọi người trông thấy càng cười rộ lên. Bảo Ngọc vội đến đỡ dậy, mới dần dần bớt cười.
Bảo Ngọc đưa mắt cho Đại Ngọc, Đại Ngọc hiểu ý, chạy vào nhà trong bỏ cái khăn che gương ra soi, thấy hai bên mái tóc hơi xõa, liền mở hộp trang sức của Lý Hoàn lấy cái lược ra, soi gương chải lại đầu, xong chạy ra chỉ vào Lý Hoàn nói:
– Tưởng chị bảo chúng tôi học thêu thùa, học điều hay lẽ phải, ai ngờ chị lại gọi chúng tôi đến để cười đùa ầm ĩ thế này à?
Lý Hoàn cười nói:
– Các cô xem cô ta nói điêu thế kia. Chính cô ta làm đầu têu cho người ta cười, lại đổ lỗi cho tôi! Giận quá! Tôi chỉ mong sau này cô vớ một bà mẹ chồng cay nghiệt và mấy cô chị em chồng đanh ác, xem cô còn điêu được như thế nữa hay không?
Đại Ngọc đỏ mặt lên, kéo Bảo Thoa nói:
– Thôi chúng ta cho cô ấy nghỉ một năm.
Bảo Thoa nói:
– Tôi cứ công bằng mà nói, các chị nghe xem sao: con bé Ngẫu Tạ tuy biết vẽ, nhưng cũng chỉ vẽ được mấy nết tả ý thôi. Bây giờ vẽ cái vườn, nếu trong bụng không có một hiểu biết rộng thì vẽ sao nổi. Cái vườn này cũng giống như bức tranh, nào là đá núi, cây cối, nào là lâu đài nhà cửa, gần xa, thưa nhặt, đừng ít quá cũng đừng nhiều quá mà phải đúng mức. Nếu cứ theo thế vẽ lên trên giấy thì đẹp làm sao được. Phải xem khuôn khổ tờ giấy, nên để xa gần, nhiều ít thế nào, nên chia phần chính phần phụ ra sao, chỗ nào đáng thêm thì thêm, chỗ nào đáng bỏ, đáng bớt thì bỏ đi, bớt đi, cái gì đáng để lộ mới để lộ. Bắt đầu phải vẽ phác rồi ngắm nghía tính toán cẩn thận, mới thành công được bức vẽ. Điều thứ hai là, lâu đài nhà cửa phải chia giới hạn, sơ ý một tí là bao lan cũng lệch, cột cũng nghiêng, cửa sổ sẽ dựng ngược lên, thềm cũng không đúng chỗ, thậm chí bàn ghế cũng chen lên tường, chậu hoa bày ở trên màn. Như thế chẳng phải là vẽ ra một bức tranh để cười ư? Điều thứ ba là, phải xếp đặt nhân vật thưa hay nhặt, cao hay thấp, đều cho đúng chỗ. Nếp quần, dây lưng, ngón tay, bước chân cũng rất quan trọng; nếu sai một nét, không sưng tay cũng hóa kiễng chân, đến như bộ mặt mái tóc chỉ là việc nhỏ. Cứ như ý tôi, vẽ bức tranh này khó lắm đấy. Cho phép một năm thì nhiều quá, một tháng thì ít quá, cứ cho nghỉ nửa năm, lại giao cậu Bảo phải đến giúp đỡ cô ấy. Không phải vì cậu Bảo biết vẽ mà đến dạy cô ấy đâu. Như vậy lại càng hỏng việc. Chỉ cần chỗ nào cô ấy không biết hay xếp đặt lúng túng, cậu Bảo sẽ mang ra hỏi các vị họa sư bên ngoài, cho dễ làm việc.
Bảo Ngọc mừng lắm nói:
– Câu đó rất đúng. Ông Thiềm Tử Lượng vẽ lâu đài rất đẹp, ông Trình Nhật Nhưng vẽ mỹ nhân càng tuyệt, tôi sẽ đi hỏi hai ông ấy.
Bảo Thoa nói:
– Tôi đã bảo anh là người không có việc mà lại bận rộn. Vừa mới nói thế anh đã chực đi hỏi người ta rồi. Để bàn tính đã rồi hãy đi. Trước hết nên vẽ bằng giấy gì?
Bảo Ngọc nói:
– Ở nhà có giấy tuyết lãng, vừa rộng khổ, vừa ăn mực.
Bảo Thoa cười nhạt:
– Anh thật là vô dụng! Giấy tuyết lãng để viết chữ, để vẽ bức họa tả ý, hoặc để người biết vẽ sơn thủy vẽ tranh sơn thủy nhà Nam Tống, giấy vừa ăn mực mà lại không nhăn nhòe. Nếu vẽ vườn này bằng giấy ấy thì không ăn màu, lại khó khô, vẽ cũng không đẹp, phí cả giấy. Tôi bảo anh cách này: trước khi xây dựng cái vườn đã có một bức bản đồ vẽ tỉ mỉ rồi. Tuy là thợ vẽ vẽ ra, nhưng khuôn khổ, phương hướng đều rất đúng cả. Anh vào xin bà Hai bức vẽ ấy, đem ra xem rộng hẹp thế nào, rồi bảo chị Phượng cho một mảnh lụa, mang ra bên ngoài cho các họa sư bảo họ cứ theo khuôn khổ bức vẽ ấy, thêm bớt thành một bức vẽ, sau thêm nhân vật vào là được. Ngay đến pha màu thanh lục, màu kim nhũ, ngân nhũ, cũng phải nhờ họ pha chọ Còn phải có một cái lò, chuẩn bị nấu keo, lấy keo ra rửa bút, rồi kê một cái bàn sơn dầu rải thảm lên trên. Ngay đĩa và bút của nhà cũng không đủ, phải sắm một ít mới được.
Tích Xuân nói:
– Tôi làm gì có đồ vẽ? Chẳng qua vẽ bằng bút thường thôi. Còn màu sắc thì chỉ có màu đỏ, màu xanh, màu vàng, màu son. Bút cũng chỉ có hai cái để tô màu.
Bảo Thoa nói:
– Sao cô không bảo trước? Những thứ ấy bên tôi có, chỉ sợ cô không dùng đến, cho cũng phí thôi. Tôi vẫn cất đi, khi nào cô dùng, tôi sẽ đưa chọ Những thứ ấy chỉ để vẽ quạt thôi, nếu vẽ bức to thì cũng đáng tiếc. Giờ tôi kê hộ cái đơn, cô theo đơn đó xin với cụ mua chọ Các chị em chưa chắc đã biết hết đâu, tôi đọc cho cậu Bảo viết.
Bảo Ngọc đã sắp sẵn bút mực để ghi, sợ không nhớ hết, giờ thấy Bảo Thoa nói thế, mừng lắm, liền cầm bút lắng tai nghe.
Bảo Thoa đọc:
– Bút quét loại nhất bốn chiếc, loại nhì bốn chiếc, loại ba bốn chiếc; bút chấm loại lớn bốn chiếc, loại vừa bốn chiếc, loại nhỏ bốn chiếc; bút vắt ngòi lớn mười chiếc, vắt ngòi nhỏ mười chiếc; bút kẻ mày mười chiếc, bút tô màu loại lớn hai mươi chiếc, loại nhỏ hai mươi chiếc; bút vẽ mặt mười chiếc, bút cành liễu hai mươi chiếc; son nhọn đầu, son nam, thạch hoàng, thạch thanh, thạch lục, quản hoàng, mỗi thứ bốn lạng; quảng hoa tám lạng, bột chì bốn hộp, phấn yên chi mười hai thếp; bột đỏ, bột lá mạ mỗi thứ hai trăm thếp; keo quảng quân, phèn lọc mỗi thứ bốn lạng. Keo phèn để quét lụa không kể, cứ đưa lụa cho họ để họ quét lấy. Những thuốc pha màu ấy, chúng ta phải nghiền nhỏ lọc sạch. Như thế vừa chơi vừa dùng, cô có thể dùng trọn đời cũng đủ. Lại phải lấy vợt lụa mau bốn cái, vợt lụa thưa hai cái; gác bút bốn cái, bát nghiền to nhỏ bốn cái, bát sành lớn hai mươi cái, đĩa to năm tấc mười cái đĩa sành trắng hai mươi cái, lò hai cái, nồi đất lớn nhỏ bốn cái, vại mới hai cái, thùng đựng nước mới hai cái, túi vải trắng dài một thước bốn cái, than xốp hai mươi cân, than gỗ liễu vài cân, hòm ba ngăn một cái, lụa dày một trượng, gừng sống hai lạng, tương nửa cân.
Đại Ngọc cười nói:
– Chảo một cái, bàn sản một cái.
Bảo Thoa nói:
– Để làm gì?
– Chị bảo cần có gừng sống và tương thì tôi bảo lấy chảo hộ chị để nấu những thứ màu ấy mà ăn.
Mọi người đấu cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:
– Cô thì biết cái gì? Những cái đĩa sành ấy không chịu được lửa, nếu không lấy nước gừng và tương xát dưới đáy trước mà đem đốt, gặp lửa một cái là nó nổ ngay.
Mọi người đều nói: “Phải đấy”.
Đại Ngọc xem đơn một lượt, kéo Thám Xuân khẽ nói:
– Cô xem vẽ một bức vẽ mà phải dùng đến vại và hòm, thực là lẩn thẩn. Chắc cái đơn này sắm cả đồ cưới của cô ấy đấy.
Thám Xuân không nhịn cười được, nói:
– Chị Bảo sao không véo mồm nó một cái? Nó đang đặt chuyện để chế giễu chị đấy.
Bảo Thoa cười nói:
– Không phải hỏi, mồm chó làm gì có ngà voi?
Vừa nói, vừa chạy đến vật Đại Ngọc xuống giường, định véo vào mặt. Đại Ngọc cười rồi van lạy:
– Chị Ơi, tha cho em! Em trẻ người non dạ, nói không biết cân nhắc, làm chị thì phải dạy bảo em chứ? Chị không tha cho em thì em còn cầu cứu ai được nữa?
Mọi người không biết câu nói có ý, đều cười nói:
– Câu nói đáng thương thực! Ngay chúng tôi cũng động lòng, thôi tha cho nó.
Bảo Thoa nguyên chỉ định đùa Đại Ngọc thôi, nhưng sau nghe Đại Ngọc nhắc lại câu chuyện lần trước về việc xem sách nhảm, nên không tiện đùa nữa, liền buông ra. Đại Ngọc cười nói:
– Đấy là chị đấy, chứ phải em thì em không tha đâu!
Bảo Thoa cười, trỏ Đại Ngọc nói:
– Không trách cụ thương cô, mọi người yêu cô tinh lanh, ngay tôi cũng phải thương cộ Đến đây tôi sửa lại tóc cho.
Đại Ngọc quay người lại, Bảo Thoa lấy tay sửa hộ tóc. Bảo Ngọc ngồi ở bên cạnh nhìn, thấy càng đẹp, bất giác hối hận: “Không nên để Bảo Thoa vuốt tóc cho Đại Ngọc, cứ để thế rồi mình đến vuốt ve cho thì hơn”. Đương nghĩ vớ vẩn, thấy Bảo Thoa nói:
– Viết xong rồi, ngày mai vào trình cụ. Thứ gì trong nhà có rồi thì thôi, thứ gì chưa có, xin tiền đi mua, tôi sẽ pha hộ.
Bảo Ngọc vội cất đơn đi. Mọi người lại nói phiếm một lúc nữa, sau bữa cơm chiều lại đến buồng Giả mẫu hỏi thăm. Giả mẫu nguyên không có bệnh gì, chỉ vì mệt, lại hơi cảm một tí, nghỉ ngơi một ngày, uống một vài chén thuốc phát tán, đến chiều lại khỏe như thường.
1 Nguyên văn là “Khả xảo”, già Lưu nghe vậy mới đặt tên là “Xảo Thư”.
2 Khi Uyên Ương đọc “tửu lệnh”, Đại Ngọc theo lệnh hai câu thơ lấy trong “Mẫu đơn đình” và “Tây Sương ký”: “Ngày vui cảnh đẹp tự giời biết sao” và “song the nào thầy ả Hồng báo tin” (xem hồi 40).
Vương phu nhân thấy Giả mẫu hôm ấy ở vườn Đại Quan chỉ bị cảm xoàng, không đến nỗi nặng, mời thầy thuốc uống vài thang là khỏi, nên mới bảo Phượng Thư sắp sửa đồ vật gửi cho Giả Chính. Đương khi bàn bạc thì Giả mẫu cho người lại gọi, Vương phu nhân dẫn Phượng Thư đến, hỏi:
– Hôm nay cụ đã khoan khoái hẳn chưa?
– Khá lắm rồi. Vừa rồi chị đưa sang bát canh thịt gà rừng tôi nếm thấy ngon, lại ăn vài miếng thịt, trong bụng dễ chịu.
Vương phu nhân cười nói:
– Đó là canh chị Phượng nấu dâng cụ đấy. Chị ấy thành tâm hiếu thảo, không uổng công cụ ngày thường thương yêu chị ấy.
Giả mẫu gật đầu cười nói:
– Đáng khen nó có lòng nghĩ đến tạ Nếu còn thịt sống, mang rán vài miếng rồi ướp muối, ăn với cháo thì ngon hơn. Canh ấy ngon thực, nhưng không hợp vị với cháo.
Phượng Thư nghe nói, sai người đến bảo nhà bếp. Giả mẫu lại cười bảo Vương phu nhân:
– Ta sai người gọi chị đến, nói chuyện. Đến ngày mồng hai này là sinh nhật của cháu Phượng. Hai năm trước ta vẫn muốn làm sinh nhật cho nó, nhưng cứ gần đến ngày lại bận việc, rồi quên khuấy đi. Năm nay con cháu đầy đủ chắc cũng rỗi việc, chúng ta nên làm một bữa tiệc cho vui.
Vương phu nhân cười nói:
– Con cũng nghĩ thế. Giờ cụ đã cao hứng thì nên bàn sẵn việc ấy đi.
– Ta nhớ mấy năm trước không cứ sinh nhật của cháu nào, đều đem lễ vật đến mừng, như thế vừa tục, mà tình lại thêm sợ Ta nghĩ một cách mới, vừa thân mật lại vui hơn.
– Cụ thấy nên làm thế nào thì làm.
– Nay chúng ta học lối nhà thường dân, mỗi người góp phần mình vào, được bao nhiêu tiền lấy cả ra sửa tiệc, như thế có được không?
– Tốt lắm. Nhưng không biết góp thế nào cho phải?
Giả mẫu nghe nói, rất vui, liền sai người mời Tiết phu nhân, Hình phu nhân, các cô, Bảo Ngọc, Vưu Thị, vợ Lại Đại và những người quản sự đến. Bọn a hoàn, bà già thấy Giả mẫu rất cao hứng, cũng đều vui mừng, vội chia nhau đi mời, đi báo tin các nơi.
Một lúc, già trẻ, trên dưới đến chật ních cả nhà. Tiết phu nhân ngồi đối diện với Giả mẫu; Hình phu nhân và Vương phu nhân ngồi hai cái ghế trước cửa buồng; chị em Bảo Thoa năm sáu người ngồi cả trên bục; Bảo Ngọc ngồi vào lòng Giả mẫu; còn những người khác đều đứng đầy cả nhà. Giả mẫu vội bảo mang mấy cái ghế nhỏ lại cho mẹ Lại Đại và mấy bà già có thể diện ngồi. Theo tục lệ phủ Giả, những người hầu bố mẹ mà đã có tuổi, thì có thể diện hơn những người chủ còn trẻ tuổi. Vì thế Vưu Thị, Phượng Thư phải đứng. Mẹ Lại Đại và ba bốn người già xin lỗi rồi ngồi xuống ghế. Giả mẫu cười kể lại câu chuyện lúc nãy cho mọi người biết. Nghe vậy, ai chẳng muốn góp vuỉ Những người thân với Phượng Thư thì bằng lòng, cũng có người lại muốn chiều chuộng Phượng Thự Vả chăng họ đều là những người có thể bỏ tiền được, nên vừa nghe thấy, ai nấy đều vui vẻ vâng lời.
Giả mẫu nói trước:
– Ta bỏ ra hai mươi lạng.
Tiết phu nhân cười nói:
– Tôi cũng theo cụ, xin bỏ hai mươi lạng.
Hình phu nhân, Vương phu nhân cười nói:
– Chúng con không dám sánh với cụ, xin kém một bực, mỗi người góp mười sáu lạng thôi.
Vưu Thị và Lý Hoàn cũng cười nói:
– Chúng cháu thế nào cũng phải kém một bực, mỗi người xin góp mười hai lạng.
Giả mẫu liền bảo Lý Hoàn:
– Cháu là đàn bà góa không làm gì, lấy tiền đâu ra mà góp. Thôi ta góp hộ cho.
Phượng Thư vội cười nói:
– Xin cụ đừng cao hứng quá, nên tính kỹ đã rồi hãy chuốc lấy việc. Một mình cụ đã phải nhận hai phần, bây giờ lại góp cho chị Lý. Lúc cao hứng cụ nói thế, chốc nữa nghĩ xót ruột lại lẩm bẩm: chỉ vì con Phượng mà ta phải tốn kém. Rồi ngon ngọt dỗ dành cháu phải bù ngấm bù ngầm ba bốn lần tiền vào đó. Cháu có phải mơ ngủ đâu!
Mọi người nghe nói cười ầm lên.
Giả mẫu cười nói:
– Cứ như ý cháu thì làm thế nào?
Phượng Thư cười nói:
– Chưa đến ngày sinh nhật, cháu đã thấy khó chịu rồi. Tự mình chẳng bỏ ra lấy một đồng, mọi người phải lo lắng hộ, như thế cháu chẳng đành lòng tí nào. Chi bằng để cháu góp hộ phần cho chị Lý. Đến hôm ấy cháu ăn thêm mấy miếng nữa, thế là sung sướng lắm rồi.
Bọn Hình phu nhân đều cho là phải, Giả mẫu mới nghe lời.
Phượng Thư lại cười nói:
– Cháu còn muốn nói một câu này nữa; riêng phần cụ đã hai mươi lạng, lại còn phải góp phần cho cô Lâm và chú Bảo; phần dì Tiết đã hai mươi lạng, lại phải góp cho cô Bảo, như thế là công bằng. Còn hai mẹ, mỗi vị có mười sáu lạng, phần mình đã ít lại không hề góp cho ai, như thế chẳng công bằng tý nào. Cụ chịu thiệt nhiều quá!
Giả mẫu cười ầm lên, nói:
– Cháu Phượng lúc nào cũng về hùa với tạ Nó nói rất phải. Nếu không có cháu thì ta bị bọn họ lừa rồi!
Phượng Thư cười nói:
– Xin cụ cứ bắt hai mẹ phải nhận phần của hai người kia, mỗi vị góp thêm một phần là đúng.
Giả mẫu nói:
– Công bằng lắm, cứ nên làm như thế.
Mẹ Lại Đại đứng dậy cười nói:
– Như thế là không đúng! Tôi tức thay cho hai bà. Một bên là nàng dâu, một bên là cháu gái nội, mà không về hùa với mẹ chồng và bà cô 1, lại đi bênh người khác, như thế là nàng dâu cũng như người ngoài, cháu nội thành ra cháu gái ngoại mất!
Giả mẫu và mọi người nghe nói cười ầm lên.
Mẹ Lại Đại lại hỏi:
– Các mợ góp mười hai lạng thì chúng tôi phải kém đi một bực chứ?
Giả mẫu nói:
– Không được, các bà tuy đáng kém một bực, nhưng tôi biết các bà đều là tài chủ cả. Địa vị tuy kém, nhưng tiền thì lại nhiều hơn họ. Các bà nên đóng bằng họ mới phải.
Giả mẫu lại nói:
– Còn các cô, chằng qua góp tý thôi, mỗi người góp một tháng lương là đủ.
Lại quay lại bảo Uyên Ương:
– Bọn chúng bay họp nhau lại bàn việc góp tiền đi.
Uyên Ương vâng lời, đi một lúc rồi dắt Bình Nhi, Tập Nhân, Thái Hà đến, lại còn mấy a hoàn nữa, người hai lạng, kẻ một lạng, ai nấy đều góp cả.
Giả mẫu hỏi Bình Nhi:
– Không nhẽ mày không làm sinh nhật cho chủ mày à? Sao lại góp vào đám này?
– Cháu làm riêng không kể, đây là việc công, cháu cũng xin góp một phần.
– Con bé này thế mới ngoan chứ.
Phượng Thư lại cười nói:
– Trên dưới góp đủ rồi. Còn hai bà dì, có đóng hay không, cũng nên hỏi một lời cho phải lẽ, nếu không các bà lại cho là khinh.
Giả mẫu nói:
– Phải đấy! Quên họ thế nào được? Chỉ sợ họ không được rỗi, bảo một đứa a hoàn đến hỏi xem.
A hoàn đi một lúc về trình: “Mỗi vị xin góp hai lạng.”
Giả mẫu vui cười nói:
– Mang bút giấy lại đây, tính xem được bao nhiêu.
Vưu thị khẽ mắng Phượng Thư:
– Con ranh con tham quá! Các bà các thím góp tiền lại làm sinh nhật cho mày, còn chưa đủ à? Sao mày kéo cả hai người nghèo xác này vào!
Phượng Thư khẽ cười nói:
– Đừng có nói bậy! Chốc nữa ra ngoài tôi sẽ kể tội cho chị! Họ làm gì mà khổ? Họ có tiền đem cho người khác cũng uổng, chi bằng giữ lại để chúng ta cùng vui.
Số tiền đã góp đầy đủ cộng lại được hơn một trăm năm mươi lạng.
Giả mẫu nói:
– Làm tiệc vui một ngày không hết đâu.
Vưu Thị nói:
– Không mời khách ngoài, tiệc rượu lại không tốn mấy, món tiền này tiêu làm ba ngày cũng đủ. Trước hết, hát không phải mất tiền, đỡ được món ấy.
Giả mẫu nói:
– Cháu Phượng xem bọn nào hát hay thì gọi!
Phượng Thư nói:
– Bọn hát ở nhà, chúng ta đã nghe chán rồi. Bây giờ chịu tốn ít tiền, gọi bọn khác đến hát.
Giả mẫu nói:
– Việc này ta giao cho vợ cháu Trân, đừng để cho cháu Phượng phải lo nghĩ đến, cho nó nghỉ một ngày mới phải.
Vưu thị vâng lời, nói chuyện một lúc, ai cũng biết Giả mẫu mệt, liền dần dần ra về.
Vưu Thị đưa Hình phu nhân, Vương phu nhân ra, rồi đến đằng Phượng Thư bàn việc làm sinh nhật, Phượng Thư nói:
– Chị không cần hỏi tôi, chỉ theo ý cụ mà làm là đủ.
– Cái con ranh này, mày tốt số quá! Tao tưởng có việc gì kia! Thành ra gọi chúng tao đến chỉ có việc ấy thôi. Góp tiền chưa đủ, lại còn phải lo liệu các cái nữa. Mày định tạ tao cái gì nào?
– Chị đừng giở trò nữa! Tôi có gọi chị đến đâu mà phải tạ! Nếu chị sợ phải lo thì vào trình với cụ sai người khác cũng được.
– Xem kìa, nó vênh cái mặt lên thế đấy! Tao bảo cho mày hay, hãy dẹp cái lối ấy đi. Nước đầy thì trào đấy!
Hai người lại nói chuyện một lúc nữa, Vưu Thị mới ra về.
Hôm sau, Vưu Thị vừa mới dậy rửa mặt, chải đầu, đã thấy có người mang tiền đến phủ Ninh, Vưu Thị hỏi:
– Ai mang tiền đến đấy?
– Già Lâm đấy.
– Gọi bà ấy vào.
Bọn a hoàn xuống buồng dưới gọi vợ Lâm Chi Hiếu lên.
Vưu Thị mời ngồi xuống ghế thấp, rồi vừa chải đầu vừa hỏi:
– Trong gói ấy có bao nhiêu tiền đấy?
– Tiền này là của bọn chúng tôi góp lại mang đến trước. Còn cụ và các bà chưa góp.
Đương nói thì bọn a hoàn đến trình:
– Bên bà Cả và Tiết phu nhân cho người mang phần tiền đến.
Vưu Thị cười mắng:
– Bọn ranh con này! Chỉ nhớ nhưng việc không đâu ấy thôi! Chẳng qua hôm qua cụ cao hứng, cố ý học cách nhà thường dân góp tiền, thế mà chúng mày cứ nhớ mãi, cho là việc to tát, sao không nhận lấy, mời họ uống nước trà rồi cho họ về.
Bọn a hoàn cười rồi mang tiền vào. Tất cả là hai gói, có cả phần tiền của Đại Ngọc và Bảo Thoa.
Vưu Thị hỏi:
– Còn thiếu ai nữa?
Vợ Lâm Chí Hiếu nói:
– Còn thiếu cụ, bà Hai, các cô và bọn chị em chúng tôi.
– Còn của mợ Cả các chị đâu?
– Mợ qua bên nhà, số tiền ấy mợ Hai đã cầm cả rồi.
Vưu Thị rửa mặt chải đầu xong, sai người kéo xe đến phủ Vinh. Trước hết đến buồng Phượng Thự Thấy Phượng Thư đã gói tiền cẩn thận, đương định đưa sang. Vưu Thị hỏi:
– Đã đủ cả chưa?
– Đủ rồi! Cầm đi, mất thì tôi không chịu lỗi đâu!
– Tao không tin, phải đếm ngay ở đây.
Vưu Thị đếm lại, thấy không có phần Lý Hoàn, cười nói:
– Mày lại định giở trò ma đấy! Sao không thấy phần chị Cả mày?
– Như thế không đủ à? Thiếu một phần cũng được, nếu không đủ tôi sẽ đưa sau.
– Hôm qua mày làm bộ trước mặt mọi người, bây giờ lại chối với tao, tao không nghe đâu. Tao cứ đến hỏi cụ.
– Chị ghê gớm lắm! Hễ sau này có việc gì tôi cứ làm cho rõ môn rõ khoai, lúc ấy chị đừng có trách.
– Thôi phần ấy không đưa cũng được. Nếu ngày thường mày không tử tế với tao, khi nào tao chịu nghe?
Nói xong, lấy phần Bình Nhi ra, và bảo:
– Bình Nhi! Lại lấy phần của mày về, hễ không đủ tao sẽ bù cho.
Bình Nhi hiểu ý, cười nói:
– Xin mợ hãy cứ tiêu đi, nếu thừa sẽ đưa lại cháu cũng được.
– Thế ra chỉ để cho chủ mày làm bậy, chứ không cho tao được làm ơn hay sao?
Bình Nhi đành phải nhận lấy tiền.
Vưu Thị lại nói:
– Tao xem chủ mày thật là khôn khéo! Vớ món tiền này định tiêu vào việc gì? Tiêu không hết sau này bỏ vào quan tài mà mang chôn à!
Nói xong, đi đến buồng Giả mẫu, hỏi thăm và nói mấy câu chuyện phiếm rồi đến buồng Uyên Ương bàn công việc. Vưu Thị nhất thiết đều theo ý Uyên Ương, cốt làm thế nào cho Giả mẫu vui lòng là được. Hai người bàn định xong xuôi. Khi trở về Vưu Thị lấy hai lạng bạc giả lại cho Uyên Ương, và nói: “Tiêu không hết đâu.”
Nói xong, đi đến buồng Vương phu nhân nói chuyện. Nhân lúc Vương phu nhân đi vào Phật đường, Vưu Thị giả lại phần tiền cho Thái Vân. Vì Phượng Thư không ở đấy, nên Vưu Thị giả cả hai phần tiền cho dì Chu và dì Triệu nữa. Họ không dám nhận. Vưu Thị nói:
– Đáng thương các dì quá, làm gì có tiền mà góp? Nếu thím Phượng biết thì tôi nhận cho.
Hai người cám ơn rối rít rồi nhận lấy món tiền.
Chả mấy lúc đã đến ngày mồng hai tháng chín. Người trong vườn đều nghe nói Vưu Thị bày biện linh đình lắm, không những có tuồng, còn có cả các trò chơi và cô gái mù kể chuyện nữa, nên ai đấy đều sắp sẵn đến xem để góp vui, Lý Hoàn lại bảo các chị em:
– Hôm nay là ngày họp thi xã, đừng ai quên đấy. Bảo Ngọc không thấy đến, chắc là không biết, hay lại ham chơi ở đâu mà quên hẳn việc này?
Nói xong, liền bảo a hoàn đi xem Bảo Ngọc làm gì, mời ngay lại đây. A hoàn đi một lúc về nói:
– Tập Nhân nói là cậu ấy đi từ sáng sớm rồi:
Mọi người đều lấy làm lạ, nói:
– Không lẽ cậu ấy lại đi vắng. Con a hoàn này lẩn thẩn lắm.
Rồi lại sai Thúy Mặc đi. Một lúc Thúy Mặc về, nói:
– Cậu ấy đi vắng thật. Nghe nói có người bạn nào chết, cậu ấy đi viếng tang đấy.
Thám Xuân nói:
– Nhất định không đúng. Dầu sao hôm nay anh ấy cũng không thể đi đâu được. Mày gọi Tập Nhân đến đây để tao hỏi.
Vừa nói xong, Tập Nhân đến, bọn Lý Hoàn đều nói:
– Dù hôm nay có việc gì, chú ấy cũng không nên ra khỏi nhà: một là ngày sinh nhật thím Hai, cụ rất cao hứng, mọi người trong hai phủ đều góp vui, thế mà chú ấy lại đi à? Hai là, hôm nay là ngày chính thi xã đầu tiên, chú ấy không xin phép lại dám tự tiện lẻn đi?
Tập Nhân thở dài nói:
– Chiều hôm qua cậu ấy nói sớm hôm nay có việc cần phải đến phủ Bắc Tĩnh vương, rồi về ngaỵ Tôi có khuyên cậu ấy đừng đi, cậu ấy nhất định không nghe. Sớm dậy, cậu ấy mặc quần áo trắng đi ra, chắc là trong phủ Bắc Tĩnh vương có người hầu nào mất, cũng chưa biết chừng.
Bọn Lý Hoàn nói:
– Nếu quả thực thế, chú ấy cũng nên đi, nhưng phải về ngay chứ.
Nói xong, mọi người lại bàn định: “Chúng ta cứ làm thơ trước đi, khi anh ấy về sẽ phạt.” Vừa lúc ấy, Giả mẫu sai người lại mời. Mọi người rủ nhau đến, Tập Nhân trình việc Bảo Ngọc đi vắng. Giả mẫu không vui, sai người đi đón.
Nguyên là Bảo Ngọc có một tâm sự riêng, hôm trước đã dặn Dính Yên:
– Ngày mai ta phải đi sớm, mày sắp hai con ngựa ở cửa sau chờ đấy, không cần người đi theo nữa. Mày bảo cả Lý Qúy biết là ta sang phủ Bắc Tĩnh vương. Nếu có ai đi tìm, bảo nó ngăn lại, không cần phải đi, cứ nói rằng phủ Bắc Tĩnh vương mời ta ở lại, thế nào ta cũng về ngay.
Dính Yên không hiểu đầu đuôi làm sao, đành phải vâng lời, sắp hai con ngựa từ sớm, chờ ở cửa sau vườn, Khi trời sáng, Bảo Ngọc mặc thuần đồ trắng từ cửa bên đi ra, không nói một lời, lên ngựa, cúi lưng phóng thẳng theo đường phố. Dính Yên đành cũng lên ngựa quất roi đi theo sau, rồi hỏi:
– Cậu đi đâu đấy?
– Đường này đi đâu?
– Đây là đường ra cửa bắc, đi đường này vắng lắm, chẳng có gì vui đâu.
– Chính ta muốn đến chỗ thanh vắng.
Nói xong, Bảo Ngọc cùng ra roi. Ngựa đã ngoặt qua hai quãng đường vòng, ra khỏi cửa thành.
Dính Yên càng ngơ ngác, đành cứ theo riết, đi một mạch đến bảy, tám dặm đường. Chỗ này người ở thưa thớt. Bảo Ngọc mới dừng ngựa, quay lại hỏi Dính Yên:
– Ở đây có bán hương không?
– Có, nhưng không biết cậu cần dùng thứ gì?
Bảo Ngọc nghĩ một lúc rồi nói:
– Thứ hương khác không tốt, phải có thứ đàn hương, vân hương, giáng hương mới được.
– Ba thứ hương này khó tìm lắm.
Bảo Ngọc có ý băn khoăn. Dính Yên thấy thế, liền hỏi:
– Cậu cần hương để làm gì? Cháu thấy cậu thường đeo hương tán sẵn ở trong túi, sao không lấy ra mà dùng?
Bảo Ngọc nhớ ra, đưa tay sờ vào cái túi đeo trong áo, thấy hai thỏi nằng nặng, mừng quá, nhưng lại sợ không được thành kính. Suy nghĩ: “Hương đeo trong mình còn tốt hơn là hương mua ở ngoài”. Rồi lại hỏi đến lư hương. Dính Yên nói:
– Thôi đi, ở nơi đồng không mông quạnh này làm gì có lử Muốn dùng lư sao cậu không bảo trước để cháu mang sẵn ở nhà đi có được không?
– Đồ gà mờ! Nếu mang được ở nhà đi thì chả phải chạy mửa mật như thế này.
Dính Yên nghĩ một lúc cười nói:
– Cháu nghĩ ra rồi, không biết bụng cậu thế nào. Cháu tưởng không những cậu cần cái ấy, mà còn cần cái khác nữa. Ở đây chắc không sẵn. Bây giờ chúng ta chịu khó đi đến am Thủy Tiên, chừng hai dặm thôi.
– Am Thủy Tiên ở đây à? Tốt lắm! Chúng ta đi đi.
Bảo Ngọc ra roi chạy trước, ngoảnh lại bảo Dính Yên:
– Sư cô ở am Thủy Tiên thường lui tới nhà ta, giờ đến đấy mượn cái lư hương chắc người cũng bằng lòng.
– Không cứ là nhà ta thường đến lễ ở đó mà ngay những chùa chúng ta không quen biết, họ cũng chẳng dám từ chối. Chỉ có một điều: cậu xưa nay vẫn ghét am Thủy Tiên, thế mà tại sao bây giờ thấy nói đến đấy, cậu lại vui mừng thế?
– Ngày thường ta rất ghét người đời không hiểu gì cả, bạ thần nào cũng cúng, miếu nào cũng xây. Đó đều là các cụ hoặc các bà ngày trước có tiền mà ngu xuẩn, hễ thấy nói có thần là xây miếu thờ ngaỵ Trong dã sử hay tiểu thuyết nói gì thì họ cho là có thực, chứ chẳng biết thần ấy là người nào. Ví như trong am Thủy Tiên thờ Lạc Thần 2, nên gọi là am Thủy Tiên, chứ làm gì có vị Lạc Thần. Đó là lời của Tào Tử Kiến bịa đặt ra, ai ngờ bọn ngu xuẩn lại đắp tượng để thờ. Giờ nhân tiện hợp với ý muốn của ta, nên đến đấy mượn để dùng thôi.
Nói xong hai người đã đến cửa am. Sư già thấy Bảo Ngọc đến bất ngờ, mừng quá như thấy rồng trên trời rơi xuống, liền chạy lại chào, rồi sai bà vãi đến giữ ngựa. Bảo Ngọc vào am, không lạy tượng Lạc Thần, chỉ đứng ngắm nhìn thôi. Tuy là tượng đất, nhưng cũng có cái dáng bay vút như chim hồng kinh, sợ uốn lượn như con rồng lẩn khúc, hoa sen mọc trên sóng biếc, mặt trời chiếu ráng sớm mai. Bảo Ngọc tự nhiên nước mắt nhỏ xuống.
Sư già mời vào uống nước, Bảo Ngọc mượn cái lư để đốt hương. Sư già đi một lúc, sắp cả hương và ngựa giấy mang đến. Bảo Ngọc nói:
– Các thứ tôi không dùng, chỉ dùng lư hương thôi.
Liền sai Dính Yên mang lư hương ra vườn sau, tìm một chỗ sạch sẽ, nhưng không được. Dính Yên hỏi:
– Trên bờ giếng kia có được không?
Bảo Ngọc gật đầu, cùng đi đến đó, đặt lư hương xuống. Dính Yên đứng sang một bên, Bảo Ngọc lấy hương ra đất, rơm rớm nước mắt, vái một cái rồi quay lại bảo cất đi. Dính Yên vâng lời, nhưng chưa cất, liền cúi đầu lễ mấy lễ và khấn:
– Tôi là Dính Yên đã hầu cận cậu Hai mấy năm nay, chỉ có ngày hôm nay đi lễ, cậu ấy không bảo gì tôi, mà tôi cũng không dám hỏi. Tuy tôi không biết tên tuổi vị âm hồn được tế này là gì, nhưng chắc là một vị chị em, vào bậc thông minh thanh nhã, có một không hai ở trên đời này. Tâm sự cậu Hai không nói ra được, vậy tôi xin khấn thay: cậu Hai tôi tưởng nhớ người như thế này, nếu người có linh thiêng, nên thường thường đến thăm nom cậu Hai tôi. Người ở cõi âm, phù hộ cho cậu Hai tôi kiếp sau sinh làm con gái, để cùng chị em các người vui đùa một nơi, không còn là hạng mày râu nhơ bẩn nữa.
Khấn xong, Dính Yên lạy mấy lạy rồi bò dậy.
Bảo Ngọc chưa nghe nó khấn hết, đã không nhịn được cười liền đá nó một cái và nói:
– Đừng nói bậy, người ta biết lại cười cho đấy!
Dính Yên đứng dậy, mang lư hương, cùng đi với Bảo Ngọc rồi nói:
– Cháu đã nói với nhà sư là cậu chưa ăn sáng, bảo họ tiện thể dọn mấy thứ, cậu chịu khó ăn tạm một ít. Cháu biết hôm nay ở nhà bày tiệc to, vui nhộn lắm, vì thế cậu mới lánh đến đây. Ở đây yên tĩnh một ngày cũng đủ vui rồi. Nếu cậukhông ăn thì không thể chịu được đâu.
– Không uống rượu vui, nghe hát, ở đây tùy tiện ăn một ít cũng chẳng sao.
– Thế mới phải. Nhưng cháu xin nói điều này: chúng ta đi đến đây, ở nhà tất có người không yên tâm. Nếu không, đến chiều về cũng chẳng sao. Nhưng vì có người không yên tâm, thì cậu nên về nhà ngay mới phải. Một là để cụ và bà Hai yên lòng, hai là lễ ở đây đã xong rồi, chẳng qua chỉ có thế thôi. Về nhà nghe hát uống rượu, dù không phải là ý muốn của cậu, nhưng cũng để hầu cha mẹ cho trọn đạo hiếu. Nếu chỉ vì việc lễ này, cậu không nghĩ đến cụ và bà đương mong đợi, thì âm hồn nào nhận lễ của cậu cũng không an tâm. Cậu nghe xem cháu nói thế có phải không?
Bảo Ngọc cười nói:
– Ta đoán được ý mày rồi, chắc mày nghĩ rằng chỉ có một mình mày đi theo ta thôi. Khi về mày sợ bị lỗi, nên giở những điều to lớn ra khuyên tạ Ta đến đây chỉ cốt làm lễ xong sẽ về uống rượu nghe hát, chứ không phải bỏ đi suốt ngày. Giờ đã thoa? được ý muốn rồi, nên về nhà mau để cho mọi người yên tâm.
– Thế phải lắm.
Hai người vào đến chùa, nhà sư đã dọn lên một mâm cơm chay.
Bảo Ngọc ăn qua loa một ít. Dính Yên cũng ăn. Xong rồi hai người lên ngựa theo đường cũ về nhà. Dính Yên ở đằng sau dặn:
– Cậu đi ngựa cẩn thận đấy. Con ngựa này không quen cưỡi mấy, phải cầm cương cho chặt.
Hai người về đến thành, vẫn theo cửa sau vội đi về viện Di Hồng. Bọn Tập Nhân đi vắng, chỉ có mấy bà già trông nhà, thấy Bảo Ngọc về, đều mừng rỡ, nói:
– A di đà phật! Cậu về rồi! Tý nữa thì chị Tập Nhân điên mất! Ở trên ấy đương uống rượu đấy, cậu lên ngay đi.
Bảo Ngọc chạy vội đến nhà hoa, đã văng vẳng nghe thấy tiếng đàn sáo ca hát. Vừa đến bên nhà trống, thấy Ngọc Xuyến ngồi một mình ở dưới thềm sùi sụt khóc. Thấy Bảo Ngọc đến, Ngọc Xuyến thở dài một cái, chép miệng nói:
– Úi chà! Phượng hoàng đã đến rồi! Đi vào ngay đi! Chốc nữa không về có lẽ cả nhà nhao lên đấy.
Bảo Ngọc cười nói:
– Chị thử đoán xem tôi đi đâu nào?
Ngọc Xuyến quay đi, chỉ lau nước mắt thôi. Bảo Ngọc rầu rầu đi lên nhà hoa chảo Giả mẫu và Vương phu nhân. Mọi người mừng rỡ như được thấy chim phượng hoàng.
Bảo Ngọc vội đến chúc mừng Phượng Thự Giả mẫu và Vương phu nhân đều nói:
– Em mày chả biết hay dở gì cả. Có việc cần, sao không nói trước mà lại lẻn đỉ Thế còn ra làm sao nữa! Lần sau còn thế thì chờ bố mày về, ta sẽ mách nó đánh cho.
Giả mẫu lại mắng người hầu:
– Tại sao chúng mày cứ nghe lời nó? Nó bảo đi đâu cứ cúi đầu mà đi, không trình qua một tiếng?
Rồi lại hỏi Bảo Ngọc:
– Cháu đi đâu về đấy? Đã ăn uống gì chưa? Có bị sợ gì không?
– Người nàng hầu của Bắc Tĩnh vương Chết, hôm nay cháu đến chia buồn. Cháu thấy đức vương khóc nhiều quá, không tiện bỏ về ngay, vì thế phải ngồi lại một lúc.
– Từ nay cháu còn lẻn đi như thế, không trình ta trước, nhất định ta bảo bố mày đánh cho!
Bảo Ngọc vâng lời. Giả mẫu lại muốn đánh người đi hầu, nhưng mọi người khuyên:
– Xin cụ bớt giận, cậu ấy đã hứa xin chữa. Vả chăng cậu ấy đi về không xảy ra chuyện gì, cả nhà cũng nên yên lòng để vui một lúc.
Lúc đầu, Giả mẫu còn nóng ruột, giờ thấy Bảo Ngọc về vui quá, hết cả giận, nên việc công bỏ quạ Giả mẫu lại sợ Bảo Ngọc khó chịu, hoặc chưa ăn uống, hay đi đường bị sợ hãi, nên tìm hết cách dỗ dành. Tập Nhân cũng chạy đến phục dịch. Mọi người lại ra xem hát.
Hôm đó diễn vở Kinh thoa ký 3, Giả mẫu và Tiết phu nhân đều mủi lòng rơi lệ, có người cười, người giận, lại có người mắng nữa.
1 Tức Vương phu nhân.
2 Lạc Thần tên là Bật Phi, tương truyền là con gái họ Nhân. Khi Tào Tháo đánh Viên Thiệu, bắt được Nhân Thị mang về. Tào Thực xin không cho, đem cho con trưởng là Tào Phị Tào Phi lập Nhân Thị làm hoàng hậu, sau có tội bị chết. Tào Thực nhớ Nhân Thị quá khi đến bến Lạc Thủy thấy Nhân Thị hiện ra. Thào Thực vui mừng làm bài Lạc Thần Phú.
3 Tích vợ Vương Thạch Bằng là Tiến Ngọc Liên nghe đồn chồng lấy vợ lẽ, đâm đầu xuống sông tự tử, nhưng lại có người cứu. Vương Thạch Bằng cũng nghe đồn vợ đã chết rồi liền đặt một bàn tế.