Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Giả Trân, Giả Liễn sắp sẵn tiền vào trong thúng lớn, nghe thấy Giả mẫu nói thưởng, liền sai người hầu ném tiền ra, tiếng loảng xoảng khắp trên sân khấu. Giả mẫu thích lắm. Hai người đứng dậy, người hầu mang bình đựng rượu bằng bạc mới hâm lên, Giả Liễn cầm lấy, đi theo Giả Trân vào phía trong. Giả Trân đến trước bàn thím Lý, cúi xuống lấy chén, quay lại Giả Liễn vội rót một chén; sau cùng rót đến bàn Tiết phu nhân. Tiết phu nhân và thím Lý vội đứng dậy cười nói:
– Mời hai cậu cứ ngồi, cần gì phải giữ lễ nghi quá?
Lúc đó, trừ Hình phu nhân và Vương phu nhân, các người dự tiệc đều đứng dậy chắp taỵ Giả Trân, Giả Liễn đến trước giường Giả mẫu, vì giường thấp, hai người phải quỳ xuống. Giả Trân cầm chén quỳ ở phía trước, Giả Liễn cầm bình rượu quỳ ở phía sau. Tuy chỉ có hai người dâng rượu thôi, nhưng anh em bọn Giả Tôn cũng đều đứng dậy xếp hàng đi theo; thấy hai người quỳ, quỳ họ cũng đều quỳ. Bảo Ngọc cũng vội quỳ theo. Tương Vân khẽ đẩy Bảo Ngọc cười nói:
– Bây giờ anh cũng theo người ta mà quỳ làm gì? Đã thế thì anh cũng đi rót một tuần rượu có hơn không?
Bảo Ngọc cười nói:
– Chốc nữa sẽ rót.
Đợi hai người rót rượu xong, họ mới đứng dậy. Giả Trân lại rót rượu mời Hình phu nhân và Vương phu nhân. Sau đó cười nói:
– Còn các cô thì làm thế nào đây?
Giả mẫu nói:
– Các anh cứ đi ra để mặc cho họ được thoải mái hơn.
Bọn Giả Trân mới lui ra.
Đêm chừng đã sang canh hai, tuồng hát đang diễn tích “Bát nghĩa quan đăng” 1. Giữa lúc vui, Bảo Ngọc đứng dậy đi ra ngoài. Giả mẫu hỏi:
– Đi đâu? Ở ngoài đốt pháo dữ lắm, không cẩn thận tàn lửa rơi vào người thì bỏng đấy!
Bảo Ngọc cười nói:
– Cháu không đi xa đâu, chỉ ra đây một tí rồi về ngay thôi.
Giả mẫu sai bọn bà già theo hầu cẩn thận. Khi Bảo Ngọc ra, chỉ có Xạ Nguyệt, Thu Văn mấy a hoàn nhỏ đi theo. Giả mẫu liền hỏi:
– Sao không thấy Tập Nhân? Bây giờ nó đã ra vẻ lớn rồi, chỉ ngồi sai đám hầu nhỏ đi thôi.
Vương phu nhân đứng dậy cười nói:
– Hôm nọ mẹ nó chết, nó có tang, nên không tiện đi ra ngoài.
Giả mẫu gật đầu cười nói:
– Đã đi hầu thì không thể nói hiếu với không hiếu được. Nếu nó còn ở hầu ta, liệu bây giờ có thể tránh được chỗ này không? Việc ấy cũng như đã thành lệ rồi.
Phượng Thư vội chạy lại cười nói:
– Đêm hôm nay dù chị ta không có tang nữa, ở trong vườn này cũng phải trông nom đèn đuốc pháo hoa cho khỏi áy náy. Đã có hát xướng, người trong vườn ai chẳng lẻn đến xem? Chị ấy cẩn thận, nên ở nhà trông nom các nơi. Khi tan hát, chú Bảo về ngủ, mọi thứ đã được sắp đặt đầy đủ. Nếu chị ấy cĩmg đến đây, không ai để ý đến công việc, tan hát ra về, chăn đệm thì lạnh, nước trà không có, cái gì cũng thiếu cả. Vì thế cháu bảo chị ấy trông nhà, không cần đến nữa, để khi về, các cái được sắp đặt đầy đủ mọi người khỏi phải lo toan, lại trọn đạo hiếu của chị ấy, như thế chả hơn hay sao? Nay bà muốn gọi chị ấy, cháu bảo đi gọi ngay.
Giả mẫu bảo:
– Cháu nói phải đấy. Cháu nghĩ rất là chu đáo, đừng gọi nó nữa. Nhưng mẹ nó mất bao giờ? Sao ta lại không biết?
– Hôm nọ Tập Nhân có đến trình, bà đã lại quên rồi à?
Giả mẫu nghĩ một lúc, cười nói:
– Ta nhớ ra rồi. Bây giờ trí nhớ ta kém lắm!
Mọi người đều cười nói:
– Cụ nhớ đâu đến những việc ấy.
Giả mẫu thở dài:
– Từ bé nó hầu ta một dạo, rồi hầu cháu Vân, sau đến hầu thằng quỷ Bảo Ngọc này, làm nó phải chịu dãi dầu mấy năm nay! Nó không phải là bọn hầu sinh trưởng trong nhà này, chưa được nhờ vả ta mấy, khi mẹ nó chết, ta định cho nó mấy lạng bạc để chi phí chôn cất, thế rồi cũng quên đi.
Phượng Thư nói:
– Hôm nọ mẹ con đã cho chị ấy bốn mươi lạng bạc, thế là được rồi.
Giả mẫu gật đầu nói:
– Nếu thế thì thôi. Hôm trước mẹ Uyên Ương chết, ta nghĩ bố mẹ nó đều ở cả bên nam, không cho nó về chịu tang. Bây giờ chúng nó muốn giữ lễ, sao không cho hai đứa đến ở một chỗ làm bạn với nhau?
Bèn sai bà già mang hoa quả, đồ ăn và đồ điểm tâm đến cho hai người ăn. Hổ Phách cười nói:
– Còn phải chờ đến bây giờ nữa. Chị ta đã đến đấy từ lâu rồi.
Sau đó mọi người lại uống rượu xem hát.
Bảo Ngọc đi một mạch về trong vườn, bọn bà già thấy cậu ta về buồng, không đi theo nữa, chỉ ngồi sưởi ngoài phòng trà cửa vườn và uống rượu, đánh bài với bọn con gái ở đó. Bảo Ngọc vào đến nhà, thấy đèn sáng trưng, nhưng không có tiếng người. Xạ Nguyệt nói:
– Có lẽ họ ngủ cả rồi hay sao? Chúng ta khẽ đến dọa chơi.
Hai người rón rén đi lẻn vào vách giường, thấy Tập Nhân cùng một người nữa đương nằm đối diện với nhau trên giường, đằng kia có hai bà già ngồi ngủ gật.
Bảo Ngọc cứ tưởng hai người đã ngủ, vừa muốn đi vào, bỗng nghe Uyên Ương ho một tiếng nói:
– Việc đời khó mà định trước! Cứ lẽ ra, một mình chị Ở đây bố mẹ Ở nơi khác, hàng năm các cụ phải chạy ngược chạy xuôi không có chỗ nhất định, tưởng là khi bà cụ mất, chị không thể về tống táng được. Ngờ đâu bà cụ mất ở đây, chị lại được về đưa đám!
Tập Nhân nói:
– Đúng đấy, tôi cũng không ngờ được nhìn thấy mặt mẹ tôi. Khi đến trình bà Hai lại được thưởng bốn mươi lạng bạc. Như thế cũng bõ công cha mẹ nuôi nấng. Tôi thật không dám mơ ước gì hơn.
– Ai ngờ chị ta đã lại đây rồi. Nếu ta vào, chị ấy bực mình sẽ chạy về mất, chi bằng chúng ta quay lại, để cho họ được yên tĩnh nói chuyện với nhau. Tập Nhân đương lúc buồn, may được Uyên Ương đến rất tốt.
Họ lại khe khẽ đi ra. Bảo Ngọc đến phía sau núi, đứng lại vén vạt áo lên. Xạ Nguyệt và Thu Văn cũng đứng lại, quay mặt đi, khẽ cười nói:
Hai đứa hầu ở đằng sau biết là Bảo Ngọc đi giải, liền chạy về phòng trà sấp sẵn nước rửa.
Bảo Ngọc đang đi, có hai người đàn bà đón hỏi: “Ai đấy?” Thu Văn nói:
– Cậu Bảo đấy, đừng làm ầm lên cho cậu ấy sợ.
Bọn đàn bà vội cười nói:
– Chúng tôi không biết, ngày tết lại sinh chuyện rồi. Các cô mấy ngày hôm nay vất vả quá.
Nói xong họ đã đi đến trước mặt. Bọn Xạ Nguyệt hỏi:
– Bà mang gì đấy?
– Đồ ăn của cụ sai mang sang cho cô Kim và cô Hoa đấy.
– Ngoài ấy hát vở “bát nghĩa” chứ có hát vở “hỗn nguyên hạp” 2 đâu, mà lại nảy ra cô Kim với Hoa?
Bảo Ngọc nói:
– Mở hộp ra cho tôi xem nào.
Thu Văn, Xạ Nguyệt mở hai cái hộp ra, hai người đàn bà liền ngồi xuống. Bảo Ngọc thấy trong hộp đựng những hoa quả bánh trái ngon nhất trong bữa tiệc, liền gật đầu rồi đi. Bọn Xạ Nguyệt vội đậy nắp hộp lại, cũng đi theo. Bảo Ngọc cười nói:
– Hai người này xem ra tính tình ôn hòa. nói năng vui vẻ, họ ngày nào cũng khó nhọc, thế mà lại bảo các chị vất vả suốt ngày; như thế là họ không tự khoe công lao mình đấy.
Xạ Nguyệt nói:
– Hai người này tết thì tốt thật đấy, nhưng không biết điều cũng lại ra trò.
Bảo Ngọc nói:
– Các chị là người hiểu biết, họ là người quê mùa đáng thương, nên chăm lo họ mới phải.
Vừa nói vừa đi ra cửa vườn.
Bọn bà già đương uống rượu đánh bài, thỉnh thoảng cũng chạy ra nhòm ngó, thấy Bảo Ngọc đi ra, họ cũng theo ra. Đến thềm hoa, thấy hai đứa hầu nhỏ, một bưng chậu, một cầm khăn tay và lọ sáp thơm đứng chờ ở đó từ lâu. Thu Văn dúng tay vào chậu nước, nói:
– Chúng bay càng lớn càng đoảng, sao nước lạnh thế này?
Bọn hầu nhỏ cười nói:
– Thưa cô, trời này cháu sợ nước lạnh nên rót nước sôi đấy. Thế mà lại lạnh mất rồi.
Bỗng có một bà già mang bình nước sôi đi qua, đứa hầu nhỏ liền nói:
– Bà ơi, cho tôi ít nước để pha.
– Chị Ơi, nước pha trà của cụ đấy, chị nên đi múc lấy, có to chân lên đâu mà sợ!
Thu Văn nói:
– Nước của ai tôi cũng không cần! Nếu bà không đưa, cứ để ấm nước chè của cụ ra để rửa tay!
Bà già quay lại, nhìn thấy Thu Văn, liền đồ ra ít nước nóng. Thu Văn nói:
– Đủ rồi! Bà đã già mà chẳng biết gì cả! Ai chẳng biết là của cụ! Không lấy được, chúng tôi lại dám xin à?
Bà già cười nói:
– Tôi mắt lóa, không nhận ra được cô.
Bảo Ngọc rửa tay xong, bảo đứa hầu nhỏ cầm hộp sáp đổ vào tay cho xoa. Nhân có nước nóng. Thu Văn, Xạ Nguyệt cũng rửa tay rồi theo Bảo Ngọc đi.
Bảo Ngọc lấy một bình rượu nóng, bắt đầu rót mời từ thím Lý. Tiết phu nhân và thím Lý đều cười và mời ngồi, Giả mẫu nói:
– Cháu còn bé, cứ để cho nó rót, chúng ta phải uống cạn chén này.
Rồi Giả mẫu cầm chén uống trước. Hình phu nhân và Vương phu nhân đều vội uống. Tiết phu nhân và thím Lý cũng phải cạn chén. Giả mẫu lại bảo Bảo Ngọc:
– Cháu rót cả cho các chị em nữa, không được rót bừa, bảo họ đều phải uống hết.
Bảo Ngọc vâng lời, theo thứ tự rót đến Đại Ngọc. Đại Ngọc không uống, cầm chén lên đưa vào mồm Bảo Ngọc, Bảo Ngọc uống một hơi hết ngaỵ Đại Ngọc cười nói: “Cám ơn anh”.
Bảo Ngọc lại rót hộ cho cô ta một chén. Phượng Thư cười nói:
– Chú Bảo không được uống rượu nguội, cẩn thận đấy kẻo lại run tay, sau không viết được chữ, không giương được cung đâu.
– Em có uống rượu nguội đâu.
– Tôi vẫn biết chú không uống rượu nguội. Đó là tôi dặn qua đấy thôi.
Bảo Ngọc lại đi rót rượu mời mọi người ngồi phía trong, riêng có vợ Giả Dung thì sai a hoàn rót; sau ra ngoài hiên rót mời bọn Giả Trân. Một lúc sau rồi về chỗ.
Sau khi mang đồ nước lên, lại tiếp đến dâng lễ nguyên tiêu. Giả mẫu liền bảo: “Hãy cho nghỉ hát. Lũ con trẻ đáng thương thực, cho chúng nó một ít canh nóng, đồ ăn nóng rồi sẽ lại hát”.
Lại sai mang hoa quả và đồ lễ nguyên tiêu cho chúng ăn.
Lúc nghỉ hát, bà già dẫn đến hai cô xẩm kể chuyện, thường vẫn ra vào trong phủ. Hai người đặt hai cái ghế ở bên cạnh, Giả mẫu bảo họ ngồi và đưa đàn tì bà cho họ gẩy. Giả mẫu hỏi thím Lý và Tiết phu nhân: “Thích nghe tích gì?” Hai người đều thưa: “Tích gì cũng được”. Giả mẫu liền hỏi:
– Gần dây có học thêm được chuyện nào mới không?
Hai cô xẩm thưa:
– Có một chuyện về đời Ngũ đại cuối nhà Đường.
Giả mẫu hỏi tên là vở gì. Cô xẩm thưa:
– Vở Phượng cầu loan.
Giả mẫu nói:
– Cái tên cũng hay đấy, nhưng do đâu mà có chuyện ấy? Hãy nói qua cho ta nghe, hay thì hãy kể.
Cô xẩm thưa:
– Cuối đời Đường, có một vị hương thân, người Kim Lăng, tên gọi Vương Trung, đã từng làm tể tướng hai triều vuạ Sau cáo lão về nhà, chỉ có một vị công tử tên là Vương Hy Phượng.
Mọi người nghe nói cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:
– Thế không trùng tên với con Phượng nhà ta à?
Một bà già vội đứng dậy đẩy cô xẩm nói:
– Đó là tên mợ Hai đấy, không được nói bậy!
Giả mẫu nói:
– Cứ việc nói đi.
Cô xẩm cười đứng dậy nói:
– Chúng cháu thật đáng chết! Không biết là tên mợ Hai!
Phượng Thư cười nói:
– Sợ gì! Cứ nói đi. Nhiều người trùng tên trùng họ chứ.
Cô xẩm lại nói:
– Năm ấy vị hương thân họ Vương cho công tử lên Kinh thị Một hôm mưa to, công tử vào trú ở một cái trại. Ngờ đâu trong trại ấy cũng có một vị hương thân họ Lý, là bạn thân với vị hương thân họ Vương, liền giữ công tử ở lại thư phòng. Vị hương thân họ Lý không có con trai, chỉ có một tiểu thư tên gọi là Sồ Loan, cầm kỳ thi họa, món gì cũng giỏi.
Giả mẫu nói:
– Chẳng trách được gọi là phượng cầu loan. Thôi không cần nói nữa, ta đã đoán ra rồi. Chắc là Vương Hy Phượng muốn lấy Sồ Loan làm vợ chứ gì?
Cô xẩm cười nói:
– Cụ đã xem tích này rồi thì phải?
Mọi người đều nói:
– Truyện nào mà cụ chẳng xem! Dù chưa xem, người cũng đoán ra được.
Giả mẫu cười nói:
– Truyện ấy cũng cùng một lối như các truyện khác thôi, chỉ kể những giai nhân tài tử, chẳng có thú gì. Nói con gái nhà người ta rất tệ mạt, lại còn bảo là “giai nhân”! Toàn là đặt chuyện, không căn cứ vào đâu cả. Cứ mở mồm ra là con nhà “hương thân”, bố không phải thượng thư tất là tể tướng. Hễ là tiểu thư thì nhất định được yêu quí như ngọc. Tiểu thư ấy tất là hạng thông văn chương, biết lễ nghĩa, vào bực giai nhân hiếm có. Rồi thấy đứa con trai nào xinh đẹp, không kể họ hàng, bạn bè, lại nghĩ ngay đến việc trăm năm của mình, quên cả bố mẹ, bỏ cả sách vở, ma chẳng ra ma, giặc chẳng ra giặc, như thế có giống bậc giai nhân một tí nào không? Dù có học giỏi đến đâu, mà làm những việc như thế, cũng không thể gọi là giai nhân được! Ví như một người con trai học hành rất giỏi mà đi làm giặc, thì phép vua có coi là tài tử mà tha tội cho không? Thế mới biết bọn làm sách chỉ tự mình bưng miệng mình. Vả chăng, đã nói là nhà thư hương thế hoạn, tiểu thư nhà đại gia ấy lại thông sách vở, biết lễ nghĩa, mà bà mẹ cũng vậy, dù khi đã cáo lão về nhà rồi, tất nhiên cũng còn nhiều bà già bà vú a hoàn theo hầu, thế mà trong truyện hễ xảy ra các việc như vậy, thì lại chỉ có một a hoàn hầu cận tiểu thư biết thôi! Các người thử nghĩ xem, những người hầu khác thì làm việc gì? Có phải là sách chép đầu Ngô mình Sở không?
Mọi người đều cười nói:
– Cụ thực moi ra hết những chuyện nói nhảm.
Giả mẫu cười nói:
– Việc ấy cũng có duyên cớ. Trong số người viết truyện, có một hạng thấy người ta phú quý, đem lòng ghen ghét, hoặc mong muốn điều gì không được, nên viết ra sách nói xấu. Lại có một hạng người nữa, đọc lệch truyện đi, tự mình cũng mong sao được gặp giai nhân, nên viết ra truyện để mua vui. Chứ họ có biết rõ được đạo lý con nhà thi thư thế hoạn là thế nào đâu. Không nói đến những hạng con nhà đại gia trong các truyện, chỉ nói ngay những nhà bậc bình thường như nhà chúng ta dây, cũng không hề có những truyện như thế. Đừng để cho họ lau láu cái mồm! Vì thế, nhà chúng ta xưa nay có cho ai kể những chuyện ấy đâu. Ngay trong đám a hoàn cũng vậy. Mấy năm nay ta già rồi, con cháu lại ở xa, khi buồn ta bảo người kể mấy câu cho qua, nhưng hễ cháu nó đến, là ta lại bắt họ thôi ngay.
Thím Lý và dì Tiết đều cười nói:
– Đó thực là khuôn phép nhà đại gia. Ngay nhà chúng cháu cũng không cho trẻ con nghe những chuyện nhảm ấy.
Phượng Thư chạy lại rót rượu, cười nói:
– Thôi, thôi! Rượu nguội mất rồi, xin bà uống một chén cho ráo cổ, rồi hãy vạch hết chuyện nhảm ấy ra. Hồi này có thể gọi là hồi “vạch chuyện nhảm”, chuyện xảy ra đúng giờ này, ngày này, tháng này, năm này, nơi này, triều đại này. Bà ơi! Mở miệng khó nói được hai việc “Hai bông hoa nở chung một cành”, “Thực giả chưa cần nói rõ” 3, cháu hãy sắp đặt người xem đèn, xem hát đã. Bà mời hai vị thân thích đi uống ly rượu, xem vài vở hát rồi sẽ vạch những chuyện nói nhảm từ mấy đời trước ra có được không?
Phượng Thư vừa rót rượu vừa cười, mọi người nghe vậy đều cười lăn ra.
Hai cô xẩm cũng cười nói:
– Mợ nói khéo quá! Mợ mà kể truyện thì thật chúng tôi hết chỗ kiếm ăn!
Tiết phu nhân cười nói:
– Chị nói ít chứ! Bên ngoài có khách, không như lúc thường đâu.
Phượng Thư cười nói:
– Bên ngoài chỉ có một mình anh Trân thôi, chúng tôi kể là anh em, từ lúc bé vẫn thường đùa ngịch với nhau. Mấy năm nay, vì đã có chồng, nên tôi phải giữ phép anh chồng em dâu, chứ không còn như khi nhỏ nữa. Trong nhị thập tứ hiếu có chuyện “múa áo ban” 4 các anh ấy không mặc áo hoa múa cho cụ tôi vui thì tôi phải khó khăn mới làm cho cụ tôi cười, để ăn thêm được một ít, cho cả nhà vui mừng. Đáng ra phải cảm ơn tôi mới phải, không lẽ lại cười tôi à?
Giả mẫu cười nói:
– Hai ngày hôm nay ta chưa có một trận cười nào thỏa thích, may có nó nói ra làm ta cười một trận, uống thêm ly rượu nữa.
Giả mẫu uống xong lại sai Bảo Ngọc:
– Đến mời chị cháu một chén.
Phượng Thư cười nói:
– Không cần chú ấy mời, cháu đến nhờ lộc bà đây.
Phượng Thư đến uống hết ly rượu còn thừa của Giả mẫu, và đưa chén cho a hoàn, bảo lấy chén khác đã ngâm nước nóng mang đến. Các người trong tiệc cũng đều đứng dậy thay chén đã ngâm nước nóng, rót rượu mới vào, rồi lại trở về chỗ ngồi.
Cô xẩm thưa:
– Cụ không nghe chuyện, chúng cháu xin gẩy một khúc hát để người nghe.
– Các người hãy họa bài “Tướng quân lệnh” cho ta nghe.
Hai người liền so dây gẩy đàn, Giả mẫu hỏi:
– Giờ đã canh mấy rồi?
Bọn bà già thưa:
– Canh ba.
Giả mẫu nói:
– Thảo nào đã thấy hơi lạnh.
Bọn a hoàn đã mang sẵn quần áo. Vương phu nhân cười nói:
– Xin cụ vào ngồi ở giường ấm trong noãn các. Hai vị này không phải là người lạ, để các con tiếp cũng được.
– Đã thế thì chúng ta cùng vào cả, có ấm hơn không?
– Sợ trong ấy không đủ chỗ ngồi.
– Ta đã có cách. Bây giờ không cần nhiều bàn nữa, chỉ dùng độ hai ba chiếc đặt liền nhau, mọi người ngồi quây quần một chỗ, vừa thân mật lại ấm áp.
Mọi người đều nói
“Thế mới vui chứ!”
Nói xong liền đứng dậy. Bọn đàn bà dọn hết bàn tiệc đi, dồn làm ba bàn lớn, lại đặt hoa quả cỗ bàn mới vào. Giả mẫu nói:
– Không phải câu nệ gì, ta cắt đặt đâu, các người phải ngồi đấy.
Nói xong, mời Tiết phu nhân và thím Lý ngồi đối diện bàn trên, còn mình ngồi trông ra hướng tây. Bảo Cầm, Đại Ngọc, Tương Vân cho ngồi liền bên cạnh, rồi bảo Bảo Ngọc:
– Cháu ngồi cạnh mẹ cháu.
Bảo Ngọc ngồi ở khoảng giữa Hình phu nhân và Vương phu nhân. Chị em Bảo Thoa ngồi ở phía tây. Theo thứ tự, Lâu thị ngồi kèm thêm Giả Huân; Vưu Thị và Lý Hoàn ngồi với Giả Lan; vợ Giả Dung ngồi ở ghế ngang phía dưới.
Giả mẫu nói:
– Anh Trân đẫn bọn anh em về đi, ta sắp đi ngủ đây.
Bọn Giả Trân vâng lời đi vào, Giả mẫu nói:
– Thôi anh về đi, không cần phải vào nữa, kẻo ngồi rồi lại phải đứng dậy. Anh về mà nghỉ, ngày mai còn có việc cần.
Giả Trân vâng lời, cười nói:
– Xin để cháu Dung ở lại rót rượu mới phải.
– Phải đấy, ta quên mất nó.
Giả Trân dẫn bọn Giả Liễn đi ra. Hai người rất mừng. Giả Trân sai người đưa Giả Tôn và Giả Hoàng về nhà rồi hẹn Giả Liễn đi mau vui ở chỗ khác.
Giả mẫu cười nói:
– Giờ ta mới nghĩ ra, ở đây đông người góp vui nhưng không có một đôi vợ chồng nào. Ta quên đi mất, bây giờ có vợ chồng chắt Dung, thế là song toàn rồi. Dung ơi! Mày cùng ngồi một chỗ với vợ mày, như thế mới thực là đoàn viên chứ.
Bọn bà già đem trình đơn hát, Giả mẫu cười nói:
– Bà cháu chúng ta đang vui, lại làm ồn lên. Vả chăng bọn trẻ con này phải thức đêm, trời lại lạnh, chi bằng cho chúng nó nghỉ, gọi bọn con hát gái của nhà ta đến đây diễn vài vở và cũng để cho chúng nó nghe luôn.
Các bà già vâng lời đi ra, một mặt bảo người đến vườn Đại Quan gọi bọn con gái hát, một mặt ra cửa thứ hai truyền cho những người hầu vào chờ sẵn đấy. Bọn người hầu đến buồng hát, cho những người lớn trong ban về hết, chỉ để trẻ con ở lại thôi.
Một lúc, người giáo tập ở viện Lê Hương dẫn bọn Văn Quan mười hai đứa từ cửa nách bên hè đi vào. Họ không kịp mang rương hòm, chỉ có các bà già đem theo mấy bọc quần áo, vì biết Giả mẫu chỉ thích nghe dăm ba vở thôi. Các bà già dẫn Văn Quan vào chào, chắp tay đứng yên. Giả mẫu cười nói:
– Trong tháng giêng này, thầy các người không cho ra nghỉ chơi à! Bây giờ các người hát vở gì? Vừa rồi hát tám khúc “bát nghĩa” nhộn lắm, làm ta nhức cả đầu. Nên hát khác gì êm ái thì hơn. Các người xem, dì Tiết và thím Lý đều có ban hát cả, đã nghe bao nhiêu vở hát hay rồi; các cô kia cũng đã xem và nghe nhiều khúc hát haỵ Còn bọn con hát này lại là một ban hát có tiếng xưa nay, tuy chúng nó còn bé, nhưng hát khá hơn người lớn. Chúng ta đừng chịu mang tiếng, phải hát vở gì cho thật mới. Bây giờ Phương Quan hãy hát vở “tầm mộng” dùng đàn và tiêu sáo không cần sênh phách.
Văn Quan cười nói:
– Cụ dạy rất đúng. Vở hát của chúng tôi chắc không lọt tai các vị mấy, chẳng qua giọng vịt đực, khàn khàn trong cổ họng thôi.
Giả mẫu nói: “Đúng đấy”.
Thím Lý và Dì Tiết đều cười nói:
– Con bé ranh thật! Mày cũng biết theo cụ đi đùa chúng ta à?
Giả mẫu nói:
– Chúng ta gặp thế nào vui thế, chứ không phải kiểu buôn bán kiếm lời, nên không cần phải hợp thời lắm.
Nói xong lại bảo Qùy Quan:
– Hát vở “Huệ minh hạ thư” 5 cũng không cần phải vẽ mặt. Chỉ hát hai vở này để cho hai bà thêm vui thôi. Nếu không cố hát cho hay thì ta không bằng lòng đâu.
Lũ Văn Quan vâng lời đi ra, sắm sửa lên sân khấu, trước hết hát vở “tầm mộng”, sau hát vở “hạ thư”. Mọi người ngồi rất im lặng. Tiết phu nhân cười nói:
– Tôi đã xem hàng mấy trăm ban hát, chưa bao giờ lại chỉ dùng tiêu với sáo.
Giả mẫu nói:
– Có đấy như vừa rồi vở “Sở giang tình” trong “Tây lâu” thường chỉ có vai nam thổi tiêu hòa nhịp thôi. Vở này ít khi đem ra họa chung. Đó là tùy người nghe có quen hay không đấy thôi, chứ có gì là lạ.
Lại trỏ Tương Vân nói:
– Hồi tôi còn nhỏ như nó, đã được xem một ban hát của bố nó cũng chỉ có một người đánh đàn, hòa vở “thính cầm” trong “Tây sương ký”. Vở “cầm khiên” trong “Ngọc trâm ký”, nghe ra như thực ấy. Vậy so với vở này thì thế nào?
Mọi người đều nói: “Thế lại càng khó mà bì nổi”.
Giả mẫu sai mấy người đàn bà đến bảo bọn Văn Quan đàn sáo hát khúc “đăng nguyệt viên”. Bọn đàn bà vâng lời đi. Vợ chồng Giả Dung rót một lượt rượu.
Phượng Thư thấy Giả mẫu cao hứng quá, liền cười nói:
– Nhân có các cô xẩm ở đây, chi bằng bảo họ đánh trống, chúng ta bày cuộc truyền cành mai làm lệnh “xuân hỷ thượng my sao” 6 có nên không?
Giả mẫu cười nói:
– Lệnh ấy hay đấy! Đúng với thời cảnh bây giờ.
Rồi sai người mang cái trống lệnh đóng đanh đồng sơn đen đến cho các cô xẩm đánh, và lấy một cành mai trên bàn tiệc ra. Giả mẫu cười nói:
– Hễ cành mai truyền đến tay ai mà ngừng trống thì người ấy uống một ly rượu, và phải nói một câu chuyện mới được.
Phượng Thư cười nói:
– Kể ra thì ai được như bà, muốn đọc cái gì có cái ấy ngaỵ Chúng cháu không làm được lại chẳng hóa ra mất vui sao? Phải làm thế nào để người nhã và người tục đều thưởng thức cả mới thú. Chi bằng trống dứt ở tay người nào, người ấy phải kể một câu chuyện cười.
Mọi người đều biết Phượng Thư ngày thường tài pha trò, trong bụng có vô số là chuyện vui mới lạ, nay thấy chị ta nói thế, không những người trong tiệc, ngay đám hầu lớn nhỏ ở đấy cũng đều thích cả. Chúng liền đi rủ chị gọi em: “Mợ Hai sắp nói pha trò đấy, mau đến mà nghe”. Một lúc sau, người đến đông nghịt cả nhà.
Đàn hát xong, Giả mẫu bảo mang ít hoa quả, chè thang cho bọn Văn Quan ăn. Rồi sai đánh trống. Các cô xẩm đã đánh quen, lúc thưa lúc nhặt, thánh thót như giọt đồng hồ, dồn dập như vó ngựa chạy, nhanh nhanh như điện vút quạ Bỗng nhiên tiếng trống dừng lại, cành mai đã đưa đến tay Giả mẫu, mọi người cười ầm lên. Giả Dung vội đến rót ly rượu. Mọi người cười nói:
– Cụ phải vui trước, để chúng cháu vui nhờ với.
Giả Dung cười nói:
– Cụ kể hay hơn chị Phượng nhiều, xin người nói lên, để chúng cháu được vui cười.
Giả mẫu cười nói:
– Rượu uống cũng được, nhưng kể chuyện vui thì hơi khó đấy.
Mọi người đều nói:
– Cụ kể hay hơn chị Phượng nhiều, xin người nói lên, để chúng cháu được vui cười.
Giả mẫu cười nói:
– Chẳng có chuyện gì mới lạ đáng buồn cười cả, thôi già này đành mặt dày kể một chuyện vậy: “Một nhà có mười người con giai, lấy mười người con dâu. Chỉ có người con dâu thứ mười là thông minh lanh lợi, mồm mép bẻo lẻo, bố mẹ chồng rất thương, suốt ngày cứ chê chín người con dâu kia không biết hiếu thuận. Chín người con dâu ấy ức quá, liền bàn với nhau: chín đứa chúng ta bụng rất hiếu thuận, nhưng mồm mép không bẻo lẻo bằng con ranh ấy, nên bố mẹ chỉ bảo nó tốt thôi. Nỗi uất ức này biết kêu ai cho được! Có người nghĩ ra một cách: Ngày mai chúng ta thắp hương khấn hỏi vua Diêm vương: đã cho chúng tôi sinh ra làm người, tại sao lại chỉ cho con ranh con ấy cái mồm lém lỉnh, còn chúng tôi thì đều ăn nói vụng về cả? Tám người kia nghe xong, lấy làm thích thú lắm, đều nói: nghĩ thế đúng đấy! Hôm sau, họ rủ nhau đến thắp hương ở miếu Diêm vương. Chín người đều nằm mộng dưới bàn thờ. Chín cái hồn cứ chơ vơ mãi, không thấy Diêm vương đến. Đương lúc sốt ruột thì Tôn Hành Giả cưỡi mây lộn xuống nhìn thấy chín cái hồn, liền cầm gậy bít vàng định đánh. Chín cái hồn sợ quá, quỳ xuống van xin. Tôn Hành Giả hỏi duyên cớ vì sao, chín cái hồn ấy vội tỉ mỉ thuật lại câu chuyện. Nghe xong, Tôn Hành Giả giậm chân thở dài: Việc này may gặp ta đây! Chứ gặp Diêm Vương thì người chẳng hiểu ra sao đâu. Chín cái hồn liền nói: Xin đức đại thánh rủ lòng từ bi cho chúng con được nhờ! Tôn Hành Giả cười nói: Việc này không khó gì đâu, hôm mười chị em chúng mày hóa kiếp làm người, vừa lúc ta đến điện Diêm vương, ta đái một bãi xuống đất, con em dâu bé chúng mày uống hết cả. Bây giờ chúng mày muốn khôn ngoan, lém lỉnh, sẵn nước đái đây ta đái cho mà uống.
Giả mẫu kể xong, mọi người đều cười ầm lên. Phượng Thư cười nói:
– Chuyện hay lắm! May mà các cháu đây đều là hạng mồm mép vụng về cả. Nếu không, cũng phải uống nước đái khỉ rồi đấy.
Lâu Thị, Vưu Thị đều ngoảnh lại Lý Hoàn, cười nói:
– Bọn chúng ta đây ai là người đã uống nước đái khỉ rồi? Đừng có giả vờ nữa!
Tiết phu nhân cười nói:
– Chuyện vui cốt ở chỗ đúng với cảnh mới đáng buồn cười.
Lúc đó lại đánh trống. Bọn hầu chỉ muốn nghe Phượng Thư nói chuyện cười, liền khẽ bảo cô xẩm, cứ nghe tiếng đằng hắng thì ngừng trống lai. Một lúc cành mai đã truyền đi hai lượt, vừa đến tay Phương Thư, bàn hầu nhỏ đằng hắng, cô xẩm ngừng trống lại. Mọi người đều cười nói:
– Tóm đúng cổ rồi! Thôi uống rượu rồi kể chuyện đi. Nhưng đừng làm người ta cười đứt ruột đấy!
Phượng Thư nghĩ một lúc, cười nói:
– Một nhà nọ ăn tết tháng giêng, cả nhà xem đèn uống rượu, rất là náo nhiệt. Nào cụ, nào bà, nào con dâu, cháu dâu, chắt dâu, cháu dâu họ, cháu họ, chắt họ, cháu nuôi, cháu dây mơ rễ mái, cháu gái, cháu gái ngoại, cháu gọi bằng bà dì, cháu gọi bằng bà cô… Úi chà! Thật là đông đúc nhộn nhịp!
Mọi người nghe vậy, cười lớn nói:
– Nghe cái miệng rông dài ấy, chưa biết lại định chọc người nào đấy!
Vưu Thị cười nói:
– Thím mà trêu tôi thì tôi xé mồm ra đấy!
Phượng Thư đứng dậy vỗ tay cười nói:
– Người ta đã phải nói khó nhọc, các người lại cứ quấy rối, thôi tôi không nói nữa.
Giả mẫu cười nói:
– Cháu cứ nói đi, sau đó thế nào?
Phượng Thư nghĩ một lúc rồi cười nói:
– Sau quây quần cả vào trong một nhà, uống rượu suốt đêm rồi đâu về đấy.
Mọi người thấy giọng nói có vẻ nghiêm chỉnh, ai nấy im lặng, ngồi ngây ra nghe, nhưng thấy Phượng Thư lạnh lùng ngừng hẳn lại không nói nữa. Tương Vân nhìn một lúc lâu. Phượng Thư cười nói:
– Lại kể một chuyện nữa về tết tháng giêng: Có mấy người mang cây pháo to ra ngoài thành, hàng vạn người đi theo để xem. Có một người sốt ruột không chờ được, liền lấy hương đốt vụng, thì “ầm” một tiếng. mọi người đều cười rộ lên, rồi về cả. Người khênh cây pháo lại oán trách người bán pháo cuộn không chắc, chưa đốt đã nổ rồi.
Tương Vân nói:
– Chẳng lẽ người ấy lại không nghe tiếng à?
Phượng Thư nói:
– Người đó là người điếc.
Mọi người nghĩ một lúc bỗng cười to, lại nghĩ đến câu chuyện trước chưa nói hết, liền hỏi:
– Câu chuyện nói trước rồi ra thế nào? Nói hết đi.
Phương Thư đập bàn nói:
– Khéo lôi thôi lắm! Ngày mai là ngày mười sáu, hết năm mới rồi, hết tết rồi, tôi phải trông nom cho người ta dọn dẹp đồ đạc còn biết sau đó ra thế nào nữa.
Mọi người nghe rồi lại cười ầm lên.
Phượng Thư cười nói:
– Đã canh tư rồi, cứ ý cháu thì bà đã mệt, chúng ta cũng nên như “thằng điếc đốt pháo” về đi là hơn.
– Con Phượng đúng càng ngày càng quen nói rông rài!
Rồi lại bảo:
– Nó đã nhắc đến cây pháo, thì chúng ta cũng lấy pháo ra đốt để giải rượu.
Giả Dung nghe nói, liền dẫn bọn người hầu dựng cái giá ở sân, rồi treo sẵn pháo lên. Thứ pháo này là của các nơi đem đến tiến cống, tuy không to lắm, nhưng làm rất công phụ Khi pháo nổ, sẽ có đủ những sự tích và đủ các màu sắc, lại kèm thêm pháo hoa. Đại Ngọc vốn người yếu sẵn, không chịu nổi những tiếng nổ to, Giả mẫu liền ôm cô ta vào lòng. Tiết Phu nhân cũng ôm lấy Tương Vân. Tương Vân cười nói:
– Cháu không sợ.
Bảo Thoa cười nói:
– Xưa nay nó vẫn thích đốt pháo lớn, còn sợ cái gì.
Vương phu nhân cũng ôm Bảo Ngọc vào lòng. Phượng Thư cười nói:
– Chúng tôi thì chẳng ai thương cả!
Vưu Thị cười nói:
– Có tôi đây, tôi ôm thím vào lòng nhé. Bây giờ lại làm nũng rồi đấy. Nghe nói nổ pháo thì thích như “uống nước đái con ong” ấy lại còn làm bộ.
Phượng Thư cười nói:
– Chờ xong đây, chúng ta sẽ về trong vườn đốt pháo nữa. Tôi còn đốt giỏi hơn bọn người hầu kia đấy.
Đương nói chuyện thì bên ngoài đã đốt luôn các thứ pháo. Nào là kiểu “mãn thiên tinh” (sao khắp trời), nào là “cửu long nhập vân” (chín con rồng lượn trong đám mây), nào là “bình địa nhất thanh lôi” (một tiếng sấm trên đất bằng), nào là “phi thiên thập hưởng” (mười tiếng nổ tung trên trời). Đốt pháo xong, lại sai bọn con hát nhỏ đánh một hồi trống “liên hoa lạc” (hoa sen rụng), rồi rắc đầy tiền trên sàn hát để đám trẻ con lên cướp làm trò vui.
Khi ăn cháo, Giả mẫu nói:
– Đêm dài quá đâm ra đói.
Phượng Thư vội nói:
– Đã sắp sẵn cháo vịt rồi.
– Ta ăn thứ gì thanh đạm thôi.
– Đã có thứ cháo gạo tám nấu với táo để cho các bà ăn chay.
– Ta ăn món ấy thôi.
Lúc đó bàn tiệc đã dọn đi cả, khắp trong ngoài lại bày đặt các món ăn thanh đạm. Ai muốn gì thì ăn. Súc miệng xong, ai nấy đều về.
Đến sáng hôm mười bảy, Giả mẫu lại sang phủ Ninh làm lễ chờ đóng cửa nhà thờ, thu dọn ảnh, xong mới về. Hôm ấy Tiết phu nhân lại mời Giả mẫu đến uống rượu tết. Ngày mười tám, nhà Lại Đại mời. Ngày mười chín nhà Lai Thăng bên phủ Ninh mời. Ngày hai mươi, nhà Lâm Chí Hiếu mời. Ngày hai mươi mốt, nhà Đan Đại Lương mời. Ngày hai mươi hai, nhà Ngô Tân Đăng mời. Có ngày Giả mẫu đi, có ngày Giả mẫu không đi. Khi cao hứng thì đợi cho tiệc tan mới về, không vui thì chỉ đến một lúc là về ngaỵ Các bạn hữu lại mời hoặc lại dự tiệc, Giả mẫu nhất thiết không tiếp, mặc cho Hình phu nhân, Vương phu nhân và Phượng Thư trông nom. Ngay Bảo Ngọc cũng chỉ đến nhà Vương Tử Đằng thôi, còn đều từ chối cả, chỉ nói là Giả mẫu giữ lại ở nhà để cho đỡ buồn.
1 Vở kịch do Từ Thúc Hồi đời nhà Minh soạn, diễn tích Triệu Thuẫn người nước Tấn đời Xuân Thu.
2 Một chuyện thần thoại diễn tích Kim Hoa nương nương.
3 Phượng Thư toàn dùng những câu cuối hồi các truyện ra để pha trò cười.
4 Chuyện ông Lão Lai đã 70 tuổi, còn mặc áo hoa sặc sỡ, múa hát để bố mẹ vui.
5 Trong Tây sương ký: Khi Tôn Phi Hổ đem quân đến vây chùa Tướng Quốc, chú tiểu Huệ Minh đã dũng cảm, cầm lá thư của Trương Sinh đưa đến Bạch Mã tướng quân, nhờ đem quân về giải vây, cứu thoát mẹ con Thôi Oanh Oanh trong tay giặc.
6 Vui mừng xuân đến cả cuối lông mày ý nói vui mừng quá.
Ngày tết đã quạ Lúc này trong cung có vị thái phi bị yếu do đức vua lấy đạo hiếu trị thiên hạ, nên các phi tần đều bớt món ăn, thôi trang điểm, không những không về thăm cha mẹ, mà mọi yến tiệc cũng đều bỏ cả. Vì vậy phủ Vinh trong đêm nguyên tiêu năm nay cũng không có buổi đố đèn. Tết vừa qua, Phượng Thư bị tiểu sản, phải nằm ở nhà một tháng, không trông nom được công việc, ngày nào cũng mời hai, ba thầy thuốc đến chữa. Phượng Thư cậy mình khỏe, tuy không đi ra ngoài,nhưng vẫn lo tính công việc, hễ nghĩ đến điều gì là sai ngay Bình Nhi sang trình Vương phu nhân. Ai can ngăn cũng không nghe. Vương phu nhân xem như mất một cánh taỵ Một người được bao nhiêu sức lực, nên việc gì quan trọng, bà ta mới nhìn đến, còn việc lặt vặt trong nhà đều giáo cho Lý Hoàn trông nom. Lý Hoàn vốn là người trọng đức không trọng tài, đâm ra nuông chiều người dưới quá. Vương phu nhân liền sai Thám Xuân hợp sức trông nom với Lý Hoàn. Cũng tưởng chỉ độ một tháng, Phượng Thư khỏi rồi, lại giao giả công việc cho chị ta; nào ngờ Phượng Thư vốn đã hư nhược, còn trẻ người, không biết giữ gìn, xưa nay lại hay khoe khôn cậy khéo, nên sức càng yếu thêm, tuy là tiểu sản, nhưng thực ra trong người hư nhược lắm rồi. Sau một tháng, lại thêm bênh rong huyết. Tuy chị ta không chịu nói ra, nhưng mọi người thấy mặt mũi vàng vọt, biết ngay là kém điều dưỡng. Vương phu nhân bắt phải uống thuốc và nghỉ ngơi, không được nghĩ đến việc gì cả. Phượng Thư cung sợ bệnh nặng thêm, người ta cười chê, nên cũng muốn nhân lúc rỗi để tĩnh dưỡng, chỉ bực mình không mau được khỏe như cũ. Ngờ đâu uống thuốc đến ba tháng, bệnh mới đỡ.
Vương phu nhân thấy Phượng Thư như thế, Thám Xuân và Lý Hoàn mới cáng đáng công việc, sợ trong vườn nhiều người, không trông nom xuể, bèn nhờ Bảo Thoa trông nom hộ các nơi cho cẩn thận, và dặn: “Bọn bà già thực vô dụng, ban ngày thì ngủ, đêm đến lại bài bạc. Ta biết cả rồi. Khi chị Phượng còn trông nom công việc, họ còn chút sợ hãi, bây giờ thì tha hồ bừa bãi. Cháu là người đứng đắn, các em cháu hãy còn bé cả, ta lại không có thì giờ, nhờ cháu chịu vất vả trông nom hộ ít ngày. Nếu xảy ra việc gì cháu đến nói với ta, chớ để khi cụ hỏi đến, lại không biết trả lời ra sao. Có người nào hư, cháu cứ răn bảo, nếu nói không nghe, sẽ nói cho ta biết, không nên để xảy ra to chuyện.” Bảo Thoa nghe nói, đành xin vâng lời.
Bấy giờ đã cuối xuân, Đại Ngọc lại ho trở lại. Tương Vân cũng bị cảm nằm ở Hành Vu Uyển, suốt ngày thuốc men không ngớt.
Thám Xuân và Lý Hoàn ở cách nhau, nên có việc gì, người đi lại trình báo rất không tiện. Họ bàn với nhau, cứ mỗi buổi sáng cùng đến bàn việc ở ba gian nhà hoa bên phía nam cửa vườn. Từ sau bữa cơm sáng, đến quá trưa họ mới về.
Ba gian nhà này là chỗ đứng chực của bọn thái giám trong dịp Qúy phi về thăm nhà. Sau đó bỏ không, chỉ để bọn bà già đến canh đêm. Bây giờ trời ấm, nên không cần phải sửa sang mấy, chỉ bày biện qua loa cho hai người ngồi thôi. Nhà này cũng có cái biển đề bốn chữ “phụ nhân dụ đức” (giúp nhân khuyên đức) người trông nhà thường chỉ gọi là “nhà bàn việc”. Hai người cứ giờ mão đến, giờ ngọ về. Bọn đàn bà giữ việc, đi lại trình báo không ngớt. Ban đầu, mọi người thấy một mình Lý Hoàn trông nom, trong bụng đều mừng thầm, vì Lý Hoàn xưa nay là người trung hậu, chỉ làm ơn chứ không hay phạt ai. Sau thêm Thám Xuân. Thấy vậy ai cũng yên trí đó là một cô tiểu thư trẻ tuổi, chưa từng ra khỏi buồng the, mà tính khí xưa nay lại hòa nhã điềm đạm. Vì thế công việc trễ nải hơn khi Phượng Thư trông nom. Nhưng sau ba, bốn ngày, qua mấy việc, dần dần thấy rõ Thám Xuân sành sỏi chẳng kém gì Phượng Thư, chỉ khác là tính tình hòa nhã, nói năng dịu dàng mà thôi.
Vừa hay trong mấy ngày liền, có hàng mười mấy nơi, nào là vương công hầu bá, quan viên thế tập hoặc là họ hàng, hoặc là bạn thân của hai phủ Vinh, Ninh, người được thăng chức đổi đi nơi khác, người bị giáng truất, hoặc có việc tang hay việc hôn, Vương phu nhân phải đi mừng, đi viếng, đưa đón không lúc nào rỗi, nên bên ngoài lại càng không có ai trông nom. Lý Hoàn và Thám Xuân ngày nào cũng phải ngồi ở nhà hoa, Bảo Thoa thì lên nhà trên trông nom, đến khi Vương phu nhân về mới nghỉ.
Ban đêm khâu vá, xong trước khi đi ngủ, họ ngồi kiệu dẫn những người canh trong vườn đi xem xét các nơi một lượt. Ba người này làm như thế, so với lúc Phượng Thư giữ việc lại có phần cẩn thận hơn. Vì thế các người hầu trong ngoài oán ngầm: “Một con quỉ dạ soa vừa ngã, thì ba sao thái tuế lại lên”, ngay đến cả việc uống trộm chơi trộm ban đêm cũng không được nữa.
Hôm ấy Vương phu nhân đi dự tiệc ở phủ Cẩm Hương Hầu, Lý Hoàn và Thám Xuân rửa mặt chải đầu xong, đứng chực để đưa ra cửa. Khi Vương phu nhân đi rồi, hai người mới về nhà hoa ngồi, vừa uống chén nước, thấy vợ Ngô Tân Đăng đến trình:
– Em dì Triệu là Triệu Quốc Cơ hôm nọ chết, đã trình cụ và bà Hai, người nói biết rồi, và bảo đến trình cô.
Nói xong, liền buông thõng tay đứng cạnh. Bấy giờ có nhiều người đến trình việc, đều thăm dò xem Lý Hoàn và Thám Xuân làm ăn thế nào. Nếu sắp đặt thỏa đáng, thì họ mới sợ, có thiếu sót điều gì, không những họ không phục, mà khi ra đến cửa ngoài lại còn nói nhiều câu chế giễu, để làm trò cười. Vợ Ngô Tân Đăng đã có ý định như vậy, nên trước đây đối với Phượng Thư, chị ta tỏ vẻ ân cần, đưa nhiều ý và tra lệ cũ ra, tùy Phượng Thư lựa chọn mà làm; nhưng bây giờ chị ta coi thường Lý Hoàn là người thực thà, Thám Xuân là cô gái trẻ tuổi, nên chỉ nói thõng một câu, để xem ý định của hai người ra sao.
Thám Xuân hỏi Lý Hoàn. Lý Hoàn nghĩ một lúc rồi nói:
– Hôm nọ thấy nói mẹ Tập Nhân chết, có giúp cho bốn mươi lạng bạc, bây giờ ta cũng nên giúp cho bốn mươi lạng.
Vợ Ngô Tân Đăng liền “vâng” một tiếng, rồi cầm thẻ đi lĩnh tiền. Thám Xuân nói:
– Chị khoan chi tiền. Tôi hỏi chị: Mấy năm trước, các bà dì ở trong nhà cụ, có người ở trong nhà, có người ở ngoài đến, hai hạng khác hẳn nhau. Khi có bà con chết thì người ở trong nhà được giúp bao nhiêu? Người ở ngoài được giúp bao nhiêu? Chị nói cho chúng tôi biết.
Nghe hỏi, vợ Ngô Tân Đăng cuống lên, cười nói:
– Việc ấy không can hệ gì, giúp nhiều hay ít, còn ai dám tị nạnh nữa.
Thám Xuân cười nói:
– Nói càn thế sao được! Cứ ý tôi thì giúp một trăm lạng mới phải! Nhưng nếu không theo lệ thì chẳng những các chị cười mà sau này tôi cũng ngượng mặt với mợ Hai nhà chị.
Vợ Ngô Tân Đăng cười nói:
– Đã thế thì tôi đi tra sổ cũ xem, bây giờ không nhớ được.
Thám Xuân cười nói:
– Chị giữ việc lâu nay, còn chưa nhớ được, lại đến làm khó dễ chúng tôi? Ngày thường chị đến trình với mợ Hai cũng phải đi tra sổ à? Nếu quả như thế thì mợ Hai không phải là người cay nghiệt, mà là người rộng lượng đấy. Thôi chị đi lấy sổ cho tôi xem! Nếu nhỡ việc một ngày, người ta không cho là các chị sơ suất, lại bảo chúng tôi hồ đồ.
Vợ Ngô Tân Đăng đỏ bừng mặt, quay ra. Các người đàn bà đứng đấy đều lè lưỡi. Rồi có mấy người nữa vào trình việc.
Một lúc vợ Ngô Tân Đăng mang sổ đến. Thám Xuân giở ra xem, có hai người ở trong nhà được giúp hai mươi bốn lạng, hai người ngoài đến được giúp bốn mươi lạng. Ngoài ra còn có hai người ở ngoài nữa: một người được giúp một trăm lạng, một người được giúp sáu mươi lạng. Hai món tiền này ở dưới đều chua rõ: một người phải rước linh cữu bố mẹ đi ra tỉnh khác, nên giúp thêm sáu mươi lạng; một người phải mua đất chôn nên giúp thêm hai mươi lạng. Thám Xuân đưa sổ cho Lý Hoàn xem, rồi nói:
– Giúp hai mươi lạng thôi. Để sổ này ở đây, chúng tôi còn phải xem lại.
Vợ Ngô Tân Đăng đi ra.
Bỗng thấy dì Triệu đến, Lý Hoàn, Thám Xuân vội mời ngồi. Dì Triệu nói:
– Người trong nhà này ai cũng muốn giúi đầu tôi xuống, các cô hãy làm thế nào cho tôi hả giận mới phải!
– Dì nói ai thế? Tôi thật không hiểu. Ai giúi đầu dì xuống? Xin cứ nói ra, tôi sẽ làm cho dì hả giận.
Dì Triệu nói:
– Chính cô giúi đầu tôi xuống, tôi còn biết kêu ai được nữa?
Thám Xuân đứng dậy nói:
– Tôi đâu dám thế.
Lý Hoàn vội đứng dậy khuyên ngăn. Dì Triệu nói:
– Các người hãy ngồi xuống để tôi nói. Tôi dãi dầu chịu đựng trong nhà này đã chừng này tuổi đầu, mới đẻ được cô và thằng em cô, thế mà bây giờ không bằng cả con Tập Nhân. Tôi còn mặt mũi nào nữa. Việc này không riêng gì tôi, mà cả cô cũng mất thể diện đấy.
Thám Xuân cười nói:
– Thế ra vì việc này à! Tôi nghĩ tôi không bao giờ dám làm việc gì phạm phép trái lễ.
Thám Xuân ngồi xuống, lấy sổ ra đọc cho dì Triệu nghe, lại nói:
– Đây là thể lệ của ông cha đặt ra từ trước, ai cũng phải theo thôi, thay đổi thế nào được? Không những riêng đối với chị Tập Nhân, mà sau này em Hoàn có lấy người hầu ở ngoài, tất nhiên cũng được đối đãi như Tập Nhân. Đây không phải là việc tranh giành hơn kém, dì không nên nói đến việc có thể diện hay mất thể diện. Họ là đầy tớ của bà Hai, tôi phải làm theo lệ cũ. Nếu tôi làm phải, họ sẽ đội ơn tổ tiên và bà Hai; nếu bảo tôi làm không công bằng, thì đó là tự họ hồ đồ không biết phúc phận dấy thôi, dù có oán trách tôi cũng mặc. Dù bà Hai có cho cả cái nhà đi nữa, tôi cũng chẳng được thể diện gì, mà không cho một đồng nào, tôi cũng chẳng mất thể diện. Cứ ý tôi, hiện giờ bà Hai đi vắng chưa về, dì nên yên tĩnh giữ sức khỏe, tội gì phải bận lòng thế. Bà Hai rất thương tôi, vì dì cứ hay tính chuyện, nên mấy lần người rất phiền lòng. Nếu tôi là con giai được ra ngoài lập công danh, thì đã đành đi một nhẽ. Nhưng tôi lại là con gái, ăn nói phải giữ gìn từng câu. Trong bụng bà Hai đã biết hết, vì người tin tôi nên mới bảo tôi trông nom việc nhà. Tôi chưa làm được cái gì đáng kể, dì đã đến giày vò tôi. Nếu bà Hai biết, sợ tôi khó xử không cho tôi trông nom nữa, thế mới thật là mất thể diện. Và ngay dì cũng mất thể diện nữa.
Thám Xuân vừa nói vừa khóc nức nở. Dì Triệu không trả lời được câu gì, chỉ nói:
– Bà Hai thương cô, cô càng nên dắt díu chúng tôi. Đằng này cô chỉ làm thế nào cho bà Hai thương, lại đâm ra quên hẳn chúng tôi đi.
Thám Xuân nói:
– Tôi quên sao được. Bắt tôi dắt díu cái gì? Cứ đi hỏi các người xem. Chủ nào mà chẳng thương những người làm được việc. Đã là người giỏi thì còn cần ai dắt díu nữa.
Lý Hoàn đứng ở bên cạnh cứ khuyên:
– Dì đừng nóng nảy thế, cũng không nên trách cô ấy. Dù trong bụng cô ấy muốn dắt díu chăng nữa, cũng không khi nào nói ra miệng được.
Thám Xuân nói:
– Chị Cả cũng hồ đồ! Tôi dắt díu được ai? Có các cô nhà nào lại đi dắt díu bọn đầy tớ? Họ hay dở thế nào, các người chắc cũng biết đấy, can gì đến tôi?
Dì Triệu tức tối hỏi:
– Ai bảo cô dắt díu người khác. Nếu cô không trông nom việc nhà, thì tôi chẳng đến hỏi làm gì. Bây giờ cô nói một là một, hai là hai. Cậu của cô chết, cô có cho thêm hai, ba mươi lạng, chẳng lẽ bà Hai lại không bằng lòng hay sao? Rõ ràng bà Hai tốt bụng, chỉ vì các người cay nghiệt đấy thôi. Đáng tiếc là bà Hai muốn ban ơn cũng không biết ban vào chỗ nào được! Cô cứ yên tâm! Việc này không phải tiêu tiền của cô đâu! Sau này cô đi lấy chồng, tôi còn mong gì cô nhìn ngó đến nhà họ Triệu nữa! Bây giờ chưa mọc cánh mà đã quên tổ chỉ chực chọn cây cao mà bay thôi.
– Ai là cậu tôi? Cậu tôi đã thăng chức tuần kiểm chín tỉnh rồi! Bây giờ lại còn một cậu nào nữa. Xưa nay tôi vẫn kính trọng lẽ phải, nhưng khi nào lại kính trọng đến những hạng thân thích như thế? Dì nói thế thì sao mỗi khi em Hoàn đi ra, Triệu Quốc Cơ lại phải đứng dậy? Lại phải theo hầu nó đi học? Sao không giở cái lối ông cậu ra! Ai chả biết dì đẻ ra tôi, cứ vài ba tháng lại tìm cách gây chuyện, đào bới nhau lên, sợ người ta không biết, nên cố ý bêu ra! Ai làm cho ai mất thể diện đây! May tôi là đứa biết điều, nếu hồ đồ không giữ lễ thì đã nóng máu lên rồi.
Lý Hoàn vội vàng khuyên mãi, dì Triệu vẫn cứ càu nhàu không thôi.
Chợt có người vào nói:
– Mợ Hai sai cô Bình đến có việc.
Dì Triệu mới ngậm miệng không nói nữa. Thấy Bình Nhi đến, dì Triệu liền cười, mời ngồi, lại vội vàng hỏi:
– Mợ nhà đã khỏi chưa? Tôi định sang thăm nhưng chưa có lúc rỗi.
Lý Hoàn thấy Bình Nhi đến, liền hỏi:
– Đến có việc gì đấy?
– Mợ tôi bảo: em dì Triệu chết rồi, sợ mợ và cô không biết lệ cũ. Nếu theo lệ thường thì chỉ được cấp hai mươi lạng thôi, nay tùy ý cô châm chước, thêm ít nhiều nữa cũng được.
Thám Xuân đã lau nước mắt, liền nói:
– Tự dưng vô cớ thêm cái gì? Ai là người “chửa hai mươi bốn tháng mới đẻ”? Hoặc chăng là người cõng chủ chạy trốn trước trận tiền? Mợ chị thật khéo quá: bảo tôi bỏ cả lệ đi. Mợ ấy muốn được tiếng tử tế thì cứ việc vung tiền của bà ra không hề đau xót để lấy lòng người tạ Nhờ chị nói với mợ ấy: tôi không dám tự ý thêm bớt gì cả. Mợ ấy muốn lấy ơn, chờ khi khỏi đến đây thêm bao nhiêu thì thêm.
Lúc Bình Nhi đến đã biết việc này, bây giờ nghe nói lại càng hiểu ý. Thấy Thám Xuân có vẻ tức giận, Bình Nhi không dám giở lối vui đùa như mọi ngày, cứ thõng tay đứng hầu một bên. Lúc đó Bảo Thoa ở trong buồng trên cũng xuống, Thám Xuân vội đứng dậy mời ngồi, chưa kịp nói câu gì, đã có người đàn bà đến trình việc. Thám Xuân vừa mới khóc xong, lên ba, bốn đứa hầu nhỏ bưng chậu nước, khăn mặt và gương đến. Thám Xuân đương ngồi xếp bằng tròn ở trên giường thấp, một đứa bưng nước đến trước mặt quỳ xuống giơ cao chậu lên; còn hai đứa cũng đều quỳ bên cạnh, đưa lên khăn mặt, gương soi và phấn sáp.
Bình Nhi thấy Thị Thư không có ở đây, liền đến vén tay áo, tháo vòng, lấy cái khăn tay to che vạt áo đằng trước cho Thám Xuân. Thám Xuân vừa mới thò tay vào chậu nước, đã có một người đàn bà đến trình:
– Thưa mợ, thưa cô, nhà học xin chi tiền học hàng năm cho cậu Hoàn và anh Lan.
Bình Nhi nói:
– Bà vội gì thế? Cô đang rửa mặt, bà có mở mắt nhìn thấy không! Sao không ra ngoài kia đứng chờ, lại còn trình cái gì? Trước mặt mợ Hai, bà cũng dám vô ý như thế à? Cô đây tuy rộng lượng thực, nhưng tôi mà về trình mợ Hai, nói là các bà không coi cô ra gì, có bị quở phạt thì đừng trách tôi!
Người đàn bà ấy sợ hãi, vội cười nói: “Tôi sơ suất quá!” Rồi vội vàng lui ra.
Thám Xuân xoa phấn rồi cười nhạt, bảo Bình Nhi:
– Chị đến chậm nên không biết có một việc đáng buồn cười. Ngay chị Ngô Tân Đăng là người làm việc đã lâu cũng không biết tra sổ rõ ràng, lại chực đến lòe tôi! May tôi hỏi đến, chị ta lại dám trơ mặt ra nói là quên. Tôi bảo chị ta, khi có việc đến trình mợ Hai, chị cũng nói là quên rồi đi lục sổ hay sao? Tôi chắc chủ chị không khi nào chịu để yên cho chị đi tìm!
Bình Nhi nói:
– Nếu chị ta có lần nào như thế, e gân chân bị cắt đứt từ bao giờ rồi. Cô đừng có tin. Họ thấy mợ Cả lành như bụt, cô lại là vị tiểu thư hay e lệ, cố nhiên họ sinh lười đến nói bậy đấy thôi.
Bình Nhi lại ngoảnh ra phía ngoài nói:
– Các người cứ việc hỗn láo đi! Chờ mợ Hai khỏi tôi sẽ mách cho.
Bọn đàn bà ở ngoài cửa đều cười nói:
– Cô là người biết điều. Tục ngữ nói “người nào làm bậy người ấy chịu”. Chúng tôi có dám dối trá gì chủ đâu. Nay cô chủ là một vị trẻ tuổi được chiều chuộng quen, cô ấy tức giận, thì chúng tôi chết không có chỗ chôn!
Bình Nhi cười nhạt:
– Các người hiểu nhẽ thế là phải.
Rồi lại cười nói với Thám Xuân:
– Cô đã biết đấy, mợ Hai bận lắm, làm gì mà trông nom đến những việc ấy! Thế nào cũng không tránh khỏi sơ suất. Tục ngữ nói “người bên cạnh nhìn rất rõ”. Cô để ý xem, trong mấy năm nay, có việc gì nên thêm nên bớt, mà mợ Hai chưa kịp làm, thì cô cứ sửa đổi lại. Một là có lợi cho bà Hai, hai là không phụ tình nghĩa cô đối với mợ tôi.
Bảo Thoa, Lý Hoàn nghe vậy đều cười, nói:
– Chị này giỏi thật! Không trách chị Phượng yêu chị. Chẳng có việc gì đáng thêm bớt cả, nhưng nghe chị nói, chúng tôi cũng phải tìm vài việc châm chước mà làm để khỏi phụ câu nói của chị.
Thám Xuân cười nói:
– Tôi tức đầy ruột, đang định đem chị ấy ra nói cho hả giận, nhưng nghe đến những lời của chị ấy, làm tôi quên hẳn những chuyện trước.
Thám Xuân liền gọi người đàn bà lúc nãy vào hỏi:
– Tiền học hàng năm của cậu Hoàn và anh Lan là dùng vào việc gì?
– Tiền ăn sáng và mua bút giấy hàng năm ở trong trường, mỗi người phải tiêu mất tám lạng bạc.
– Những tiền các cậu ấy tiêu, đều ở trong sổ lương hàng tháng, phần cậu Hoàn do dì Triệu lĩnh hai lạng, phần cậu Bảo Ngọc do Tập Nhân ở nhà cụ lĩnh hai lạng; phần anh Lan do mợ Cả lĩnh, làm gì mỗi người còn phải thêm tám lạng nữa! Thì ra đi học là chỉ vì tám lạng bạc ấy à! Từ nay trở đi bỏ khoản này đi. Chị Bình về trình với mợ chị rằng tôi bảo thế nào cũng phải bỏ món này.
Bình Nhi cười nói:
– Đáng lẽ bỏ lâu rồi. Năm ngoái mợ tôi đã bảo bỏ đi, nhưng vì cuối năm bận quá, quên khuấy đi mất.
Người đàn bà đó đành vâng lời đi ra. Lại có người đàn bà ở trong vườn Đại Quan bưng cơm đến. Thị Thư và Tố Vân mang một cái bàn nhỏ vào. Bình Nhi vội đứng dậy dọn cơm, Thám Xuân cười nói:
– Chị xong việc rồi thì về, ở đây làm gì nữa.
Bình Nhi cười nói:
– Tôi ở nhà không có việc gì. Mợ tôi bảo đến đây, một là để trình việc, hai là sợ những người ở đây chưa quen, nên sai tôi đến hầu mợ, hầu cô giúp các chị em.
Thám Xuân hỏi:
– Sao không mang đồ ăn của cô Bảo đến đây cùng ăn một thể?
A hoàn nghe nói, ra ngoài thềm bảo lũ đàn bà:
– Cô Bảo hôm nay cũng ăn cơm ở đây, bảo họ mang cơm đến.
Thám Xuân quát to:
– Mày không được sai bậy! Những người này đều là các bà trông nom công việc lớn trong nhà. Chúng mày không biết ai là người trên kẻ dưới, dám sai các bà ấy đi lấy cơm lấy nước à? Chị Bình đứng đấy, bảo chị ấy đi gọi hộ!
Bình Nhi vội vâng lời đi ra, đám đàn bà khẽ kéo lại:
– Việc gì cô phải đỉ Chúng tôi đã có người đi gọi rồi.
Vừa nói họ vừa lấy khăn tay phủi đất ở trên thềm, nói:
– Cô đứng mãi mỏi chân, hãy ngồi nghỉ ngoài nắng một lúc.
Bình Nhi ngồi xuống, có hai bà già ở phòng trà mang cái thảm rải ra và nói:
– Đá lạnh. Thảm này sạch sẽ đấy, mời cô ngồi tạm.
Bình Nhi gật đầu cười nói: “Cám ơn”.
Một người nữa lại pha một chén nước trà rất ngon đem đến, khẽ cười nói:
– Đây không phải là trà của chúng tôi thường dùng đâu. Trà này chỉ để pha cho các cô uống thôi, mời cô hãy uống một chén cho đỡ khát.
Bình Nhi nghiêng mình cầm lấy, rồi trỏ vào bọn đàn bà khẽ nói:
– Các người chẳng ra cái gì cả! Cô ấy là cô gái con nhà đại gia, không muốn ra oai nổi giận, đó là người biết giữ giá. Thế mà các bà lại khinh nhờn cô ấy. Nếu để cô ấy phải cáu lên, dù mang tiếng là người lỗ mãng, nhưng các bà lại bị thiệt rất nhiều! Cô ấy làm nũng, bà Hai cũng phải chiều một phần nào, mợ Hai cũng chẳng dám làm gì. Thế mà các bà lại cả gan không coi cô ấy ra gì, khác nào trứng chọi với đá?
– Chúng tôi khi nào dám cả gan thế? Đó đều tự dì Triệu gây ra!
– Thôi! Các bà ơi, “giậu đổ bìm leo”, dì Triệu vốn hay nông nổi, không biết nghĩ xa nghĩ gần, nên việc gì cũng chỉ đổ riệt cho dì ấy. Ngày thường các bà bụng dạ ghê gớm, chẳng coi ai ra gì, tôi đã biết từ mấy năm nay rồi. Ngay mợ Hai có tý gì sơ suất là các bà đã nghĩ cách định đè bẹp xuống. Đã thế, hễ sểnh ra là y rằng các bà tìm cách làm khó dễ. Đã nhiều lần mợ ấy chưa hỏi tội các bà đấy. Ai cũng cho là mợ ấy ghê gớm, các bà đều sợ cả nhưng chỉ có tôi biết là trong bụng mợ ấy cũng không phải là không gờm các bà. Hôm nọ chúng tôi đã bàn đến việc này. Nếu không trên thuận dưới hòa, rồi thế nào cũng sẽ sinh chuyện. Cô Ba hãy còn trẻ, các bà đều coi thường. Nhưng trong các cô lớn, cô bé ở đây, mợ Hai cũng phải nể dăm phần. Thế mà các bà lại không coi cô ấy ra gì à?
Chợt Thu Văn đi vào, bọn đàn bà vội chạy đến chào hỏi, rồi nói:
– Cô hãy ngồi nghỉ, trong nhà đã dọn cơm rồi. Chờ ăn xong, cô hãy vào trình việc.
Thu Văn cười nói:
– Tôi đâu có rỗi được như các bà, chờ thế nào được.
Thu Văn định vào ngay, Bình Nhi vội gọi giật lại. Thu Văn quay lại thấy Bình Nhi, cười nói:
– Chị đến đây canh gác gì ở ngoài vườn đấy?
Rồi quay lại ngồi vào thảm cạnh Bình Nhi, Bình Nhi khẽ hỏi:
– Trình việc gì?
– Tôi muốn hỏi xem tiền lương của cậu Bảo và tiền lương của chúng tôi bao giờ mới được lĩnh.
– Việc ấy có quan hệ gì. Cô về báo chị Tập Nhân rằng: hôm nay, dù có việc gì cũng chớ nên trình. Trình một việc là bị bác một việc, trình một trăm việc bị bác một trăm đấy!
– Tại sao thế?
Bình Nhi và bọn đàn bà đều kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Thu Văn nghe, và nói:
– Họ đương muốn moi những chỗ quan hệ và những người có thể diện ra mở đầu, tìm cách áp lép để làm gương cho mọi người đấy. Tội gì bây giờ cô lại đến trước để chạm vào cái đinh ấy. Nay cô đến trình, nếu họ bác lời cô để làm gương cho người khác, thì lại động đến cụ và bà Hai, nếu không nhè vào nhà các cô mà bác đi một vài việc, người ta lại bảo là thiên người nọ vị ngươi kia, ai dựa vào uy thế cụ và bà Hai thì không dám động đến, chỉ đem những người yếu thế ra làm bung xung đấy thôi. Cô xem đấy, việc của mợ Hai, họ còn bác đi vài khoản, có như thế mới chặn được họng mọi người chứ.
Thu Văn lè lưỡi cười nói:
– May gặp chị Ở đây, chứ không thì lại bị trát gio vào mặt rồi. Tôi phải mau mau về báo tin cho chúng nó biết.
Cơm của Bảo Thoa đã mang đến. Bình Nhi vội đứng dậy vào hầu. Lúc đó dì Triệu đã về rồi, ba người ngồi ở giường ăn cơm. Bảo Thoa ngoảnh về hướng nam, Thám Xuân ngoảnh về hướng tây, Lý Hoàn ngoảnh về hướng đông, bọn đàn bà ớ dưới thềm im lặng đứng chờ, bên trong chỉ có a hoàn hầu cận đứng hầu, người khác không ai dám vào cả.
Lũ đàn bà khẽ bàn tán với nhau:
– Chúng ta bỏ cái lối ấy đi, đừng giữ ý nghĩ xằng bậy nữa. Bà Ngô cũng còn bẽ mặt nữa là chúng mình đã thấm vào đâu.
Mọi người chờ họ ăn xong mới dám vào trình việc. Bây giờ ở phía trong thỉnh thoảng có tiếng đằng hắng khẽ, ngoài ra không ai nghe thấy chạm bát chạm đũa. Một lát sau, một a hoàn vén rèm lên, rồi hai a hoàn khiêng bàn ăn ra. Trong buồng trà, ba a hoàn bưng sẵn ba chậu nước rửa mặt, đi vào. Một lúc, họ mang chậu nước và ống nhổ ra, rồi Thị Thư, Tố Vân và Oanh Nhi mỗi người bưng một cái khay đựng ba tách nước có nắp vào. Sau khi bọn a hoàn kia ra, Thị Thư bảo đứa hầu nhỏ:
– Chúng bay phải hầu hạ tử tế, không được ngồi lảng một chỗ. Ta đi ăn cơm rồi sẽ về thay.
Bấy giờ mọi người mới rón rén đi vào trình việc, không dám nhâng nháo như trước nữa.
Thám Xuân vừa mới nguôi giận, nhân bảo Bình Nhi:
– Tôi có một việc quan hệ, muốn bàn mới mợ chị, nay mới nhớ ra. Chị về ăn cơm xong, lại đây ngaỵ Cô Bảo cũng còn ở đây, bốn chúng ta sẽ bàn với nhau, rồi hỏi mợ chị xem có nên làm hay không.
Bình Nhi vâng lời đi về. Phượng Thư hỏi:
– Làm sao đi lâu thế?
Bình Nhi cười, kể lại những việc vừa mới xảy ra. Phượng Thư cười nói:
– Cô Ba khá đấy! Ta nói không sai. Chỉ tiếc là cô ấy xấu số không phải bà Hai đẻ ra.
– Mợ cũng nói vớ vẩn. Cô ấy không phải bà Hai đẻ ra, nhưng ai dám coi cô ấy kém các cô kia?
– Chị biết đâu được! Con vợ lẽ cũng như con vợ cả thực, nhưng là con gái thì bì thế nào được với con trai. Sau này đến tuổi lấy chồng, những hạng khinh bạc thường hay dò hỏi con vợ cả hay con vợ lẽ, chỉ vì con vợ lẽ mà nhiều người không dạm. Chứ họ biết đâu người tử tế, thì dù đứa ở cũng còn gấp trăm lần cô tiểu thư kia. Sau này, người nào vô phúc kén chọn con vợ cả thì sẽ bị lầm, người nào có phúc không câu nệ con vợ lẽ mà lấy được cô ấy thì lại hóa may.
Phượng Thư lại cười nói với Bình Nhi:
– Chị đã biết mấy năm nay ta phải nghĩ ra bao nhiêu cách tằn tiện, bớt ăn bớt tiêu, có lẽ người trong nhà ai cũng giận ngầm ta cả. Bây giờ ta như người “cưỡi hổ” vậy, tuy biết thế, nhưng không thể nào rộng rãi được. Vả chăng trong nhà này chi nhiều thu ít, việc lớn nhỏ đều phải theo lệ của tổ tiên đặt ra, nhưng hoa lợi thu vào hàng năm lại kém trước nhiều. Rút bớt món tiêu đi, thì người ngoài chê cười, mà cụ và bà Hai cũng khó chịu, tôi tớ trong nhà cũng oán ta cay nghiệt. Nếu không tìm cách tằn tiện ngay từ bây giờ, mấy năm nữa sẽ phải bù mà hết thôi.
– Mợ nói cũng phải đấy! Sau này công việc ba, bốn cô, hai, ba cậu và cụ đều mợ phải lo cả.
– Ta đã nghĩ đến những việc ấy rồi, cũng có thể đỡ được chú Bảo và cô Lâm, một người lấy vợ, một người lấy chồng, có thể không phải tiêu tiền trong phủ, thế nào cụ cũng bỏ tiền riêng của mình ra chọ Cô Hai là người bên ông Cả, không phải tính đến. Cô Ba, cô Tư có tiêu hoang chăng nữa, cũng chỉ mỗi người độ vạn bạc thôi. Cậu Hoàn lấy vợ chỉ tiêu mất độ ba nghìn, nếu không đủ thì bớt đi một món gì đó là xong. Việc tống táng cụ sau này, cái gì cũng sắp sẵn cả rồi, chỉ phải tiêu những món lặt vặt chừng dăm, ba nghìn lạng. Nếu biết tằn tiện ngay từ bây giờ cũng đủ. Chỉ sợ tự nhiên xảy ra một vài việc, thì không biết xoay vào đâu được. Thôi, chúng ta chẳng nên quá lo đến việc sau này. Chị hãy đi ăn cơm rồi sang xem họ bàn việc gì. Đây cũng là một dịp maỵ Ta đang lo không có người giúp đỡ. Tuy có Bảo Ngọc đấy, nhưng chưa quen việc, có lôi kéo được hắn cũng chẳng ăn thua gì. Mợ Cả thì hiền như bụt, không làm được việc. Cô Hai lại càng không được, và cũng không phải là người trong nhà này. Cô Tư thì còn bé, Anh Lan và cậu Hoàn thì như con mèo nhỏ gặp trời lạnh chỉ chờ có bếp lửa là chui vào sưởi thôi. Thực là cùng một bụng mẹ đẻ ra, mà hai đứa con lại khác nhau một trời một vực! Nghĩ đến, ta càng không hiểu. Cô Lâm và cô Bảo thì khá đấy, nhưng đều là họ ngoại, không tiện trông coi việc nhà. Vả chăng một người như cái đèn mỹ nhân, gió thổi một cái là tắt, một người thì giữ gìn ý tứ, không phải việc của mình không bao giờ chịu hé răng, hỏi điều gì cứ nguây nguẩy lắc đầu. Như thế cũng khó mà bàn với cô ta được. Chỉ còn một mình cô Ba là khá cả trong lẫn ngoài, lại chính là người nhà này, bà lại rất thương cô ấy, chỉ vì dì Triệu hay sinh chuyện, nên bề ngoài bà có vẻ hững hờ, nhưng trong bụng lúc nào cũng thương yêu như Bảo Ngọc. Chứ không giống em Hoàn, chẳng ai thương được. Cứ ý ta thì đã đuổi nó bước đi từ lâu rồi. Nay cô ấy đã có ý định như thế, cũng nên chung sức mà làm, có hai người giúp đỡ nhau, ta không đến nỗi lẻ loi nữa. Theo lẽ phải và lương tâm mà nói, đã có cô ấy giúp, chúng ta càng đỡ phải lo nghĩ và cũng có lợi cho bà. Kể ra về mặt tâm tư nham hiểm, bấy lâu nay ta đã quá cay nghiệt, bây giờ cũng nên lùi bước nhìn lại xem, cứ khắc khổ mãi, để cho mọi người căm giận, ngoài miệng họ cười, nhưng trong bụng họ chứa đầy dao găm, mà hai người chúng ta chỉ có bốn con mắt và hai quả tim, có lúc không kịp đề phòng sẽ hỏng việc mất. Nhân lúc thuận chiều này, cô ấy đứng ra trông coi công việc, mọi người sẽ dẹp quên những nỗi tức giận ngày trước đối với chúng tạ Còn một việc nữa, tuy ta biết chị rất hiểu việc nhưng chỉ sợ trong lòng chị chưa dứt khoát, nay ta dặn chị, cô ấy tuy là tiểu thư, nhưng việc gì cũng hiểu thấu, ăn nói biết giữ gìn, lại là người có học. Như vậy cô ấy sẽ ghê gớm hơn tạ Tục ngữ nói: “Bắt giặc phải bắt tướng”. Muốn ra oai lần đầu, nhất định cô ấy phải kể đến ta trước. Nếu cô ấy có bác bỏ công việc gì của ta, chị cũng không nên cãi lại, cứ lễ phép nói rằng bác như thế mới phải. Nhất thiết đừng sợ ta mất thể diện mà chống lại cô ấy thì không hay đâu.
Bình Nhi không đợi Phượng Thư nói hết, cười nói:
– Chị xem người hồ đồ quá! Tôi làm trước rồi, bây giờ chị mới dặn!
– Ta sợ chị chỉ hiềm có ta, không biết đến ai, nên phải dặn thế; nếu đã biết trước, thì chị lại sáng suốt hơn ta đấy. Nhưng chị lại nóng rồi, sao cứ luôn mồm “chị chị” “tôi tôi” như vậy?
– Cứ gọi là “chị” đấy! Không bằng lòng thì mặt đây tát đi! Ai bảo là cái mặt này chưa từng bị tát hao giờ?
– Đồ ranh con này, định nhắc lại việc cũ đã từ bao giờ mới thôi? Xem ta ốm như thế này mà lại còn trêu tức à! Thôi, lại đây ngồi xuống, gặp lúc không có ai đến, chúng ta nên cùng ngồi ăn một chỗ.
Bọn Phong Nhi ba, bốn đứa mang cái làn nhỏ đến. Phượng Thư chỉ ăn cháo yến sào và hai đĩa đồ ăn ngon. Vì phần ăn hàng ngày đã rút bớt, Phong Nhi mang bốn món ăn của Bình Nhi bày lên bàn và xới cơm. Bình Nhi quỳ một chân lên mép giường, một chân đứng ở dưới, cùng Phượng Thư ăn cơm. Bình Nhi hầu Phượng Thư súc miệng xong, dặn dò Phong Nhi mấy câu rồi sang bên Thám Xuân. Đến nơi, thấy trong nhà im lặng, mọi người đã đi cả.
Bình Nhi hầu Phượng Thư ăn cơm súc miệng rửa tay xong mới đến đằng Thám Xuân, thấy ngoài sân im lặng chỉ có mấy bà già và a hoàn đứng bên cửa sổ chực hầu, đang bàn việc nhà, việc ngày tết đến uống rượu ở vườn nhà Lại Đại. Thấy Bình Nhi đến, Thám Xuân bảo ngồi xuống ghế thấp và nói:
– Có chuyện gì đâu. Nhân nghĩ đến việc chúng ta tiêu mỗi tháng hai lạng bạc, bọn a hoàn cũng đã có tiền lương tháng, thế mà hôm trước lại có người trình mỗi tháng chi hai lạng bạc cho mỗi người về tiền phấn sáp nữa. Số tiền này chẳng khác tám lạng bạc tiền học vậy, cứ chồng chất mãi lên. Việc này tuy nhỏ nhưng số tiền có chừng, xem ra chi tiêu như thế là không đúng, tại sao mợ chị không nghĩ đến việc ấy?
Bình Nhi cười nói:
– Việc ấy cũng có duyên cớ. Những thứ các cô dùng đã có lệ định sẵn, mỗi tháng các nơi phải mua đủ, bảo bọn đàn bà đưa đến cho chúng tôi giữ, chẳng qua chúng tôi chỉ sắp cho các cô dùng thôi. Chứ không phải hàng ngày nhận tiền rồi sai người đi muạ Vì thế mãi biện bên ngoài lĩnh tiền cả, rồi hàng tháng sai người theo các phòng giao cho chúng tôi. Số tiền hai lạng hàng tháng của các cô, không phải để mua những thứ ấy đâu, mà cốt để phòng khi các bà các mợ trông nom việc nhà đi vắng, hoặc bận việc, mà các cô dùng ngay đến tiền, thì đỡ phải sai người đi lấy. Làm như thế cốt để cho các cô khỏi phiền đấy thôi. Đủ biết số tiền này không phải để mua những thứ đó. Nhưng nay tôi để ý xem ra thì phần nhiều chị em ở các nhà đều lấy tiền đi mua các thứ. Tôi ngờ rằng, không phải bọn mãi biện ăn bớt hoặc để chậm ngày giờ, thì cũng chuốc lấy của xấu, nhuế nhóa cho xong chuyện.
Thám Xuân và Lý Hoàn đều cười nói:
– Chị cũng để ý thấy rõ việc ấy à? Việc ăn bớt chưa chắc có, chỉ là để chậm thì giờ thôi. Khi nào giục gấp, họ đem ở đâu về đều là những thứ có tên thôi, thực ra chẳng dùng gì được. Rồi vẫn phải lấy hai lạng bạc, sai con em các bà vú đi mua thứ khác về dùng. Người trong phủ đi bao giờ cũng vẫn mua phải hàng xấu, không biết họ làm ăn ra sao? Cứ cửa hàng bên ngoài bỏ đi là họ vác về cho chúng ta dùng.
Bình Nhi cười nói:
– Bọn mãi biện đi mua là cứ thế mãi. Người khác có mua được hàng tốt, thì họ lại không chịu, cứ bảo là người ta xấu bụng muốn tranh chức mãi biện của mình. Vì vậy ai nấy thà chịu lỗi với các mợ các cô, chứ không dám làm mất lòng họ. Chỉ khi nào các cô sai vú già đi mua, họ mới không dám lời ra tiếng vào.
Thám Xuân nói:
– Vì thế trong bụng tôi vẫn áy náy. Phải tiêu phí hai lần tiền mà đồ dùng vẫn vất đi một nửa, chi bằng bỏ cái khoản đưa bọn mãi biện mua ấy đi. Đó là việc thứ nhất. Việc thứ hai, năm ngoái chị cũng đi dự tiệc nhà Lại Đại đấy, chị xem vườn nhà ấy so với vườn nhà ta như thế nào?
– Không bằng một nửa vườn nhà, cây cối hoa quả cũng ít.
– Nhân lúc ta nói chuyện với lũ con gái nhà ấy, họ nói vườn ấy trừ số hoa để cài và măng rau, tôm cá để nhà ăn ra, còn cho người thầu. Một năm cũng thừa được hai trăm lạng. Từ hôm đó ta mới biết từ cái lá sen rách, cái rễ cỏ khô cũng đều đáng tiền cả.
Bảo Thoa cười nói:
– Thực là chuyện của con nhà phú quý! Các cô tuy là tiểu thư nghìn vàng, xưa nay không biết đến việc ấy, nhưng đã là người đọc sách biết chữ, lại không đọc đến thiên “bất tự khí” 1 của ông Chu Tử hay sao?
Thám Xuân cười nói:
– Đã đọc rồi, nhưng chẳng qua là lời nói phù phiếm, khuyên người ta phải cố gắng chứ có gì là thực tế?
Bảo Thoa nói:
– Ông Chu Tử mà là người phù phiếm à? Câu nói nào cũng sát thực tế đó. Cô mới nhận việc có mấy hôm mà lòng đã mê muội về lợi, cho ông Chu Tử là người phù phiếm. Nếu cô đi ra ngoài, thấy nhiều việc lợi hại lớn hơn nữa, có lẽ đến cả ông Khổng Tử cô cũng cho là người phù phiếm hết!
Thám Xuân cười nói:
– Chị là người thông thái như thế lại chưa xem sách Cơ Tử 2 à? Sách có nói: “Bước vào vòng lợi lộc, ở vào địa vị bàn mưu tính kế, thì quên hẳn lời Nghiêu, Thuấn, trái hẳn đạo Khổng, Mạnh”.
– Dưới còn câu gì nữa?
– Đây tôi chỉ cắt câu văn để lấy ý thôi. Nếu đọc xuống câu dưới thì chăng hóa ra lại tự mắng tôi à?
– Trên đời cái gì mà không dùng được, đã dùng được phải đáng tiền chứ. Khen cho cô là người thông minh, ngay những việc to tát, sờ sờ ra đấy, vẫn chưa từng trải.
Lý Hoàn cười nói:
– Bảo người ta đến, chẳng nói gì việc chính, lại mang học vấn ra cãi vã nhau.
Bảo Thoa nói:
– Trong học vấn tức là việc chính đấy. Nếu không nói đến học vấn thành ra sa vào hạng tục mất.
Ba người nói đùa một lúc rồi mới bàn đến việc chính.
Thám Xuân nói tiếp:
– Vườn của chúng ta rộng gấp đôi vườn nhà Lại Đại, cứ tính gấp đôi thôi, một năm cũng có thể được lợi bốn trăm bạc. Bây giờ cho người thầu, bủn xỉn quá, nhà chúng ta không đáng làm như vậy; nhưng không giao hẳn cho vài người trông nom, thì thững thứ đáng tiền bị hủy hoại đi, sẽ bỏ phí của trời. Chi bằng chọn mấy bà già thực thà ở trong vườn, biết việc trồng trái, cho họ đứng lên trông coi. Không bắt họ nộp tô nộp thuế, chỉ mỗi năm biếu xén ít nhiều gì đó. Làm như thế, một là trong vườn có người chuyên trách, sửa sang cây cối, mỗi năm một tốt hơn lên, không phải chờ đến lúc có việc mới cuống cuồng vội vã; hai là hoa màu không đến nỗi bị hủy hoại phí của; ba là bọn bà già được nhờ đấy mà kiếm ít tiền, cũng bỏ cái công vất vả trông nom vườn tược hàng năm; bốn là bớt được những món tiền thuê người sửa hoa, sửa núi, quét dọn. Đem chỗ thừa bù vào chỗ thiếu, như thế cũng được đấy.
Bảo Thoa đương đứng xem bức tranh trên vách, nghe vậy, gật đầu cười nói:
– Hay thật! Như thế thì “trong ba năm chẳng còn ai đói khát nữa.” 3
Lý Hoàn nói:
– Nghĩ hay đấy! Nếu làm được thế, chắc chắn bà cũng vui lòng. Sự bớt tiêu là việc nhỏ, nhưng trong vườn có người chuyên trách, quét dọn, lại được món tiền, tức là lấy quyền sai khiến, lấy lợi thúc giục, thì ai mà chẳng hết lòng làm việc.
Bình Nhi nói:
– Việc này chỉ cô là có thể nói được thôi. Mợ tôi tuy cũng muốn đấy, nhưng chưa chắc đã chịu ngỏ lời. Hiện giờ các cô đương ở cả trong vườn, đã không bày thêm được trò chơi để giúp vui lại còn sai người đến trông nom sửa sang, mong đỡ tốn tiền, nhất định mợ tôi không tiện nói ra.
Bảo Thoa chạy lại sờ vào mặt Bình Nhi, cười nói:
– Chị há mồm ra cho tôi xem lưỡi răng chị thế nào? Từ sáng đến giờ, cứ mỗi việc chị nói một giọng, không nịnh hót cô Ba, cũng không nói là mợ chị vụng tính. Hễ cô Ba nói một câu, chị lại có một câu đỡ ngaỵ Cứ việc gì cô Ba nghĩ được, là mợ chị cũng đã nghĩ đến rồi, nhưng chỉ vì có một nhẽ riêng không thể làm được thôi. Bây giờ lại nói là các cô ở trong vườn, không tiện vì sự bớt tiêu mà sai người đến trông nom. Chị em thử nghĩ câu nói ấy xem, nếu thực cho người ta trông nom để lấy tiền, thì ngay một cành hoa, một thứ quả, người ta cũng không cho động chạm đến. Về phần các cô, chắc cũng không ai dám nói gì, nhưng với các cô bé, sợ hàng ngày không khỏi sinh chuyện eo sèo với nhau. Chị ấy biết lo gần lo xa, không chống lại người ta, cũng không tự hạ mình, dù mợ chị ấy không tốt với chúng ta, nay nghe thấy tất nhiên phải xấu hổ mà ăn ở cho tốt, không bằng lòng cũng phải bằng lòng.
Thám Xuân cười nói:
– Sáng hôm nay tôi đang bực mình, nghe chị ấy đến, tôi nghĩ ngay đến chủ chị ấy ngày thường trông nom việc nhà để bọn người hầu lộng hành quen thân, nên lại càng bực thêm. Ngờ đâu chị ấy vào đến nơi, len lét như chuột sợ mèo đứng hầu hàng giờ, thực là đáng thương, rồi lại nói những câu như thế. Chủ chị ấy đối với tôi đã tử tế, chị ấy lại còn nói “không phụ tình nghĩa xưa nay cô đối với mợ tôi!” Nghe câu nói ấy, tôi không những hết giận mà lại còn xấu hổ và đau lòng nữa. Tôi nghĩ kỹ: mình là con gái, đương bực không có người đoái thương, thì còn có gì hay mà đối xử tử tế với người ta nữa?
Nói đến đây, Thám Xuân nước mắt chảy ròng ròng.
Lý Hoàn thấy Thám Xuân nói thiết tha như thế, lại nghĩ đến dì Triệu ngày thường sỉ vả cô ta, và ngay ở trước mặt Vương phu nhân cũng vì dì Triệu mà cô ta phải lụy lây, nên chảy nước mắt, liền khuyên:
– Nhân hôm nay vắng vẻ, chúng ta cùng bàn vài việc, làm thế nào thêm lợi bớt hại, để khỏi phụ lòng ủy thác của bà. Cô nhắc đến những việc không cần thiết ra làm gì.
Bình Nhi nói:
– Tôi đã hiểu rồi. Cô xem ai giỏi thì giao cho người ta đến trông nom là được.
Thám Xuân nói:
– Tuy thế, nhưng cũng phải về trình mợ chị trước đã. Ở đây chúng ta tìm tòi những món lợi nhỏ là không đúng, nhưng vì mợ chị là người hiểu việc nên mới làm như thế; nếu là một người hồ đồ hay ngờ vực ghen ghét, thì tôi không làm đâu, sẽ mang tiếng là tranh khôn, lẽ nào lại không bàn trước với mợ chị.
Bình Nhi cười nói:
– Đã thế để tôi về nói với mợ tôi.
Đi một lúc, Bình Nhi trở lại, cười nói:
– Tôi đã bảo là đi chỉ tốn công thôi. Việc hay như thế lẽ nào mợ tôi lại không bằng lòng!
Thám Xuân nghe nói, liền cùng Lý Hoàn sai người đem danh sách các bà già trong vườn đến xem. Hai người tính xong, chấm được mấy người. Rồi gọi họ đến, Lý Hoàn nói qua cho họ nghe. Ai nấy đều vui mừng. Có người nói:
– Cái rặng tre ấy cứ giao cho tôi sửa sang, một năm trừ măng ở trong nhà ăn rồi, còn có thể nộp thêm một số tiền nữa.
Người khác lại nói:
– Cái thửa đất trồng lúa kia xin giao cho tôi, hàng năm thóc gạo nuôi chim không phải lấy tiền ở trong phủ, tôi còn có thể nộp thêm một số tiền nữa.
Thám Xuân đang muốn nói, thì có người vào trình:
– Thầy thuốc đã vào vườn thăm cho cô Sử.
Bọn bà già ra đón, Bình Nhi liền nói:
– Chỉ miệng các bà thôi, thì một trăm người cũng không được trang trọng, sao không gọi vài người coi việc đi đón?
Người trình việc nói:
– Có bà Ngô và bà Đan đang chờ đón ở ngoài cửa Tụ Cẩm về phía tây nam rồi.
Bình Nhi thấy thế mới thôi.
Các bà đi rồi. Thám Xuân hỏi: “Việc ấy thế nào?” Bảo Thoa cười nói:
– Người nào trước trót lọt sau tất trễ nải, người khéo nói tất là hám lợi.
Thám Xuân gật đầu khen phải, liền trỏ mấy người ở trong danh sách cho Lý Hoàn, Bảo Thoa và Bình Nhi xem. Bình Nhi vội mang giấy bút đến. Ba người nói:
– Già Chúc là người đứng đắn, vả chăng chồng con bà ấy đời đời đều trông nom việc sửa sang rặng trẹ Bây giờ nên giao cả việc này cho bà ấy. Già Điền vốn là nhà làm ruộng, bao nhiêu lúa má rau cỏ ở Đạo Hương thôn, tuy để làm cảnh chơi, không cần phải bày biện nhiều lắm, nhưng nếu có bà ấy theo thời tiết chăm bón cẩn thận, thì chẳng hơn hay sao?
Thám Xuân lại cười nói:
– Tiếc rằng Hành Vu Uyển và viện Di Hồng, đất đai rộng thế mà chẳng có thứ gì đáng tiền!
Lý Hoàn cười nói:
– Hành Vu Uyển lại càng quan trọng hơn! Hiện giờ những hoa thơm cỏ thơm bán ở hiệu hàng hương, ở các chợ và các đền miếu, chẳng phải đều là những thứ ở trong đây hay sao? Tính ra, ở đấy lại càng thu được nhiều lợi hơn! Trong viện Di Hồng, không kể các thứ, chỉ riêng hoa hồng, hai mùa xuân hạ cũng có tới bao nhiêu bông! Lại còn các thứ hoa tường vi, nguyệt quý, bảo tường, kim ngân, đằng hoa ở chung quanh hàng rào, hái về phơi khô rồi bán cho hiệu chè, hiệu thuốc cũng được khá nhiều tiền đấy.
Thám Xuân cười, rồi gật đầu nói:
– Mẹ chị Oanh Nhi hầu cô Bảo biết hái đấy. Dạo trước bà ấy hái ít hoa về phơi khô, tết thành lẵng hoa, bầu rượu đem cho tôi chơi. Cô đã quên rồi à?
Bảo Thoa cười nói:
– Tôi vừa mới khen chị, giờ chị lại trêu chọc tôi.
Ba người đều lấy làm lạ hỏi:
– Thế là thế nào?
Bảo Thoa nói:
– Không thể làm thế được. Bên nhà các chị còn bao nhiêu là người thạo việc, lại nhàn rỗi chẳng làm lụng gì cả. Bây giờ tôi mà đưa người đến, tất nhiên họ sẽ coi thường. Tôi đã nghĩ hộ cho các chị một người. Bên viện Di Hồng có già Diệp là mẹ Dính Yên, bà ấy thực thà lắm, lại chơi thân với mẹ Oanh Nhi bên nhà tôi. Chi bằng giao việc này cho già Diệp, có điều gì bà ấy không biết, thì không cần chúng ta phải nhắc, bà ấy cứ đến bàn bạc với mẹ Oanh Nhi là được rồi. Nếu già Diệp không làm, mà giao cho người khác, thì đó là tùy tình riêng của họ, người ngoài có ai muốn nói nhảm gì cũng không thể oán chúng ta được. Làm như thế các chị được tiếng công bằng, lại thêm chạy việc.
Lý Hoàn và Bình Nhi đều nói: “Phải đấy”.
Thám Xuân cười nói:
– Dù thế, nhưng cũng còn sợ họ thấy lợi quên mất cả lẽ phải.
Bình Nhi cười nói:
– Không việc gì đâu. Hôm nọ Oanh Nhi còn nhận già Diệp làm mẹ nuôi, mời ăn mời uống, hai nhà đối đãi với nhau rất tử tế.
Thám Xuân nghe nói thế mới thôi. Họ lại bàn định với nhau chọn thêm mấy người nữa, đều là những người đã được chú ý từ trước, rồi lấy bút khuyên tên.
Một lúc sau, bà già vào trình “thầy thuốc đã về rồi” và đưa đơn thuốc lên. Ba người xem xong, sai người đưa ra ngoài lấy thuốc sắc cho Tương Vân uống. Thám Xuân, Lý Hoàn bảo cho mọi người biết:
– Người nào coi giữ chỗ nào, cứ theo mùa nào thức ấy trừ số trong nhà để dùng không kể, còn thì cho bán lấy lợi, cuối năm sẽ tính sổ.
Thám Xuân cười nói:
– Tôi lại nghĩ ra một việc: nếu cuối năm tính sổ, tất phải nộp tiền ở phòng thu chi, lại thêm một người giữ. Món tiền đã lọt vào tay họ, sẽ lại bị bớt xén một lần nữa. Bây giờ tôi nghĩ ra việc này, giao cho các bà, không qua tay bọn quản gia. Dù họ tức đấy nhưng cũng không dám nói. Đến cuối năm, các bà phải nạp tiền cho họ, chờ gì họ chẳng giở lối mè nheo? Vả chăng trong một năm bất cứ việc vì, chủ được một phần, họ cũng vớ nửa phần, đó là lệ cũ xưa nay ai cũng biết cả, ấy là chưa kể đến chỗ ăn vụng ăn trộm. Bây giờ việc trong vườn này là do chúng ta đặt ra, chứ không phải qua tay họ, thì hàng năm cứ nộp tiền vào nhà trong mới phải.
Bảo Thoa cười nói:
– Cứ ý tôi, nhà trong cũng không cần phải thu tiền, vì thu người này nhiều, người kia ít, lại thêm bận ra. Chi bằng hỏi họ xem ai nhận phần nào thì phải đứng ra gánh lấy một việc gì đó, chẳng qua cũng chỉ là những việc của các người ở trong vườn cần dùng thôi. Tôi tính hộ các chị em phải tiêu những món gì. Quanh quẩn cũng chỉ có mấy món như phấn, sáp, hương, giấy. Mỗi cô có mấy người hầu đều có lệ định sẵn; ngoài ra thì chổi quét, thúng hót rác, phất trần và đồ ăn của chim, hươu, thỏ trong các nhà. Những thứ này họ phải nhận hết, không phải ra lĩnh tiền ở phòng thu chi nữa. Chị thử tính xem, như thế đỡ được bao nhiêu?
Bình Nhi cười nói:
– Tuy mấy việc nhỏ mọn ấy, nhưng tính cả năm cũng đỡ được hơn bốn trăm lạng bạc đấy.
Bảo Thoa cười:
– Còn phải nói nữa! Một năm bốn trăm lạng, hai năm tám trăm lạng, cũng có thể thừa mua mấy gian nhà cho thuê, hay mấy mẫu ruộng xấu đấy, nhưng họ khó nhọc cả năm cũng nên cho họ kiếm ít lời để tiêu riêng việc nhà chứ! Chúng ta cốt để thêm món lợi, bớt tiêu phí, nhưng cũng không nên làm quá, bớt được vài trăm lạng bạc mà mất thể thống thì cũng không đúng. Vì thế làm việc này, phòng thu chi bên ngoài một năm đỡ phải tiêu tốn, năm trăm lạng bạc, cũng đỡ phần chật vật, mà những người ở bên trong và các bà già trước đây không có việc làm cũng sẽ kiếm được tý chút. Cây cối trong vườn mỗi năm cũng được tốt tươi thêm lên. Các chị cũng có các thức mà dùng, như thế không đến nỗi mất thể thống. Nếu chỉ vì bớt tiêu thôi, thì kiếm đâu mà chẳng ra tiền? Hễ có được món lợi gì cũng nộp vào của công cả, có lẽ cả trong lẫn ngoài, họ sẽ oán trách ầm lên, như thế chẳng mất thể thống của nhà các chị hay sao? Vả lại trong vườn này có mấy chục bà già, mà chỉ cho mấy người này, tất nhiên người khác sẽ oán trách là không công bằng. Như tôi nói lúc nãy, họ phải nộp có mấy thứ thôi, kể cũng rộng rãi đấy. Hằng năm trừ những thứ ấy ra, mỗi người thừa thiếu mặc, đều phải bỏ ra mấy quan tiền, rồi góp cả lại, đem chia đều cho các bà già ở trong vườn. Những người này tuy không trông nom việc ấy thật, nhưng ngày đêm họ đều phải hầu hạ Ở trong vườn, phải đóng cửa, mở cửa, thức khuya dậy sớm, khi mưa khi tuyết, các cô đi đâu họ phải khiêng kiệu, chèo thuyền, kéo xe đi tuyết, bao nhiêu việc khó nhọc, họ đều phải cáng đáng cả. Quanh năm họ chịu vất vả, nay trong vườn có món lợi, thì cũng phải cho họ được nhờ tý chút. Lại còn một chuyện rất nhỏ cũng cần nói toạc ra: các bà này chỉ biết vơ phần nhiều về mình, không chịu chia cho ai. Dù ngoài mặt chẳng ai dám nói ra, nhưng trong bụng họ sẽ không phục. Họ sẽ mượn việc công để làm việc tư, ngắt ít quả bẻ ít hoa, chắc các bà kia cũng chẳng kêu vào đâu được. Nay họ cũng được hưởng lợi một ít, thì chỗ nào các bà kia không trông nom xuể, sẽ có họ trông nom hộ.
Các bà già nghe thấy bàn định như thế, đã không bị phòng thu chi cai quản, lại không phải tính sổ với Phượng Thư, một năm chỉ phải bỏ ra mấy quan tiền thôi, họ đều vui vẻ nói:
– Chúng tôi bằng lòng! Như thế còn hơn là bị họ giày vò mà vẫn phải bỏ tiền ra nộp!
Những người không được trông nom vườn, thấy nói hàng năm không phải làm cũng được hưởng ít tiền, đều vui vẻ nói:
– Các bà kia làm lụng vất cả, đáng được món tiền để tiêu pha, chứ chúng tôi có làm gì đâu mà lại ngồi không hưởng lợi!
Bảo Thoa cười nói:
– Các bà không nên từ chối, đây là phần của các bà đáng hưởng. Chỉ cần các bà ngày đêm chịu khó đừng lười, đừng để mặc cho người ta uống rượu đánh bạc, thế là được rồi. Tôi cũng không muốn nhận trông nom việc này đâu, nhưng chắc các bà cũng đã biết, dì tôi phó thác tôi năm, bảy lần, và bảo: bây giờ mợ Cả thì bận, các cô hãy còn bé, nhờ tôi trông nom giúp. Tôi không nghe lời lại làm dì tôi bận lòng. Mẹ tôi hay ốm luôn, việc nhà lại bận, tôi vốn là người sốt sắng hão, ngay hàng xóm láng giềng có việc cần tôi cũng đến giúp đỡ huống chi là dì tôi ủy thác! Ai oán trách tôi cũng chẳng cần. Nếu chỉ cốt lấy tiếng khen, để họ rượu chè cờ bạc, sinh chuyện lôi thôi, thì tôi còn mặt mũi nào trông thấy dì tôi nữa? Khi đó ngay các bà cũng mất thể diện, có ăn năn cũng muộn. Các cô ở trong ấy, cái vườn hoa rộng ấy, đều nhờ các bà trông nom cả, vì tôi coi các bà là người hầu hạ đã ba, bốn đời, xưa nay vẫn giữ được khuôn phép, thì mọi người nên đồng lòng cùng nhau giữ lấy thể thống. Nếu các bà lại dung túng người khác, để mặc họ uống rượu đánh bạc, dì tôi nghe thấy, mắng bảo các bà còn khá, chứ đến tai mấy người quản gia, họ không cần trình dì tôi, cứ mắng thẳng các bà, chẳng hóa ra già không trót, vẫn bị bọn trẻ lên mặt dạy đời. Họ là quản gia, có quyền trông nom các bà thực, nhưng nếu mình giữ thể diện thì họ khinh rẻ sao được? Vì thế tôi nghĩ hộ các bà cách kiếm lời thêm, cũng muốn cho mọi người hết lòng cẩn thận trông nom cái vườn được chu tất, để những người coi việc, thấy cách sắp đặt cẩn thận chu đáo, họ không phải bận lòng đến, trong bụng lại chẳng kính phục hay sao! Như thế mới không phụ lòng tôi tính toán những việc có lợi cho các bà. Các bà nên nghĩ kỹ những lời tôi nói.
Mọi người đều vui vẻ thưa:
– Cô nói phải lắm. Từ nay các mợ các cô cứ yên tâm. Các mợ các cô có lòng thương đến chúng tôi như thế, nếu chúng tôi không thể tất lòng trên, thì trời đất cũng không dung.
Chợt vợ Lâm Chí Hiếu đến trình:
– Gia quyến bên phủ Chân ở Giang Nam đến kinh đô, vào cung triều hạ, hiện sai người mang lễ đến thăm.
Nói xong liền đưa tờ giấp kê đồ lễ lên. Thám Xuân cầm lấy xem: mười hai tấm đoạn thêu, mười hai tấm đoạn các thứ, mười hai tấm the các màu, mười hai tấm lụa, tất cả đều là đồ vua dùng. Hai mươi bốn tấm the đoạn, lụa các màu trong cung dùng.
Xem xong, Lý Hoàn và Thám Xuân nói:
– Thưởng cho họ phong bao 4 hạng nhất.
Rồi lại sai người đến trình Giả mẫu. Giả mẫu cho gọi Lý Hoàn, Thám Xuân, Bảo Thoa đến xem qua lễ vật. Lý Hoàn xếp cả vào một bên, dặn người giữ kho:
– Chờ bà Hai về xem rồi mới được cất đi.
Giả mẫu liền nói:
– Nhà họ Chân không như nhà khác đâu. Đã thưởng phong bao hạng nhất cho bọn đàn ông rồi, sợ chốc nữa họ lại sai bọn đàn bà đến hỏi thăm đấy, phải sắp sẵn phần thưởng.
Chưa nói dứt lời, đã có người vào trình: “Bốn người đàn bà ở phủ Chân đến hỏi thăm”. Giả mẫu sai người dẫn vào. Bốn người này trạc ngoài bốn mươi, ăn mặc chẳng khác bà chủ mấy. Chào hỏi xong, Giả mẫu sai lấy bốn cái ghế thấp cho họ ngồi. Bọn người tạ Ơn, chờ bọn Bảo Thoa ngồi rồi mới dám ngồi. Giả mẫu hỏi:
– Đến Kinh từ bao giờ?
Bốn người đứng dậy trình:
– Hôm qua vào Kinh, hôm nay bà tôi dẫn cô Ba vào cung “thỉnh an” 5, vì thế sai chúng tôi đến hầu cụ và hỏi thăm các cô.
– Mấy năm nay không thấy bà nhà vào Kinh, không ngờ bây giờ lại vào.
– Vâng, năm nay có chiếu chỉ gọi vào.
– Gia quyến vào cả à?
– Cụ bà, cậu cả, hai vị tiểu thư cùng các vị lệnh bà đều không ai vào, chỉ có một mình bà tôi dẫn cô Ba vào thôi.
– Cô ấy đã có người hỏi chưa?
– Chưa có.
– Cô Cả và cô Hai nhà các chị rất thân với nhà ta.
– Vâng. Hàng năm các cô viết thư về, nói vẫn nhờ quý phủ chăm sóc.
– Có gì là “chăm sóc”? Vừa là bạn thân, lại là họ hàng, tất phải như thế chứ. Cô Hai nhà các chị cũng tốt, tính nết nhũn nhặn, vì thế chúng ta mới đi lại thân mật luôn.
– Đó là cụ nói nhũn đấy.
– Cậu Cả các người cũng ở với cụ nhà à?
– Vâng ạ.
– Năm nay cậu ấy bao nhiêu tuổi rồi? Đã đi học chưa?
– Năm nay cậu ấy mười ba tuổi. Người vốn xinh xắn, nên cụ chúng tôi rất thương, từ bé tính bướng bỉnh, ngày nào cũng trốn học, ông bà chúng tôi không tiện quở mắng lắm.
– Cũng không phải như thằng cháu ta ở đây chứ? Cậu ấy tên là gì?
– Cụ chúng tôi quý cậu ấy như ngọc, lại người trắng trẻo, nên đặt tên là Bảo Ngọc.
Giả mẫu ngoảnh vào Lý Hoàn, cười nói:
– Thế ra cũng gọi là Bảo Ngọc?
Bọn Lý Hoàn vội khép nép cười:
– Từ xưa đến nay, hoặc đồng thời hay khác đời, có rất nhiều người trùng tên.
Bốn người cười nói:
– Khi đặt tên cậu ấy, chúng tôi trên dưới ai cũng ngờ ngợ, hình như có một nhà bạn thân nào cũng có người đặt tên như thế, chỉ vì đã mười năm nay không vào kinh, nên không nhớ rõ được.
Giả mẫu cười nói:
– Cháu ta đấy. Ai vào đây ta bảo.
Bọn đàn bà và a hoàn vâng lời đến gần mấy bước. Giả mẫu cười nói:
– Vào trong vườn gọi cậu Bảo Ngọc nhà ra đây, để cho bốn bà xem cậu Bảo này có bằng cậu Bảo nhà họ không.
Bọn bà già đi, một lúc đưa Bảo Ngọc đến. Bốn người trông thấy, đứng dậy cười nói:
– Làm cho chúng tôi giật nảy mình lên! Nếu chúng tôi không vào trong phủ này mà lại gặp ở chỗ khác, thì cho ngay là cậu Bảo nhà chúng tôi cũng theo vào Kinh đấy!
Họ đến kéo tay Bảo Ngọc, hỏi vắn hỏi dài. Bảo Ngọc cũng cười hỏi thăm họ. Giả mẫu cười nói:
– So với cậu nhà các người thế nào?
Lý Hoàn cười nói:
– Cứ theo như bốn bà này vừa mới nói, thì chắc hình dáng hai cậu giống nhau.
Giả mẫu cười nói:
– Đâu lại có việc khéo thế? Những trẻ con các nhà đại gia mới đẻ ra đã xinh đẹp, trừ những người trên mặt có tàn tật xấu lắm không kể, còn thì trông cũng xinh xắn cả, việc ấy cũng không có gì là lạ.
Bốn người cười nói:
– Giờ xem ra hình dáng hai cậu giống nhau, và theo cụ vừa nói, thì tính khí bướng bỉnh cũng giống nhau. Nhưng theo chúng tôi thì cậu đây tốt nết hơn cậu nhà chúng tôi đấy.
Giả mẫu cười nói:
– Thế nào?
– Vừa rồi chúng tôi kéo tay cậu ấy nói chuyện cũng đủ biết. Chứ cậu bên nhà chúng tôi thì đã cho chúng tôi sỗ sàng rồi. Đừng nói là kéo tay, ngay từ đồ dùng, chúng tôi động đến một tý là cậu ấy đã không bằng lòng. Những người cậu ấy sai bảo lại đều là bọn con gái cả.
Bốn người ấy chưa nói dứt lời, chị em Lý Hoàn đã không nhịn được, đều cười ầm lên. Giả mẫu cũng cười nói:
– Bây giờ chúng ta sai người đến thăm cậu Bảo nhà các người, nếu họ kéo tay cậu ấy, tất nhiên cậu ấy cũng phải cố nhịn. Chả cứ trẻ con nhà này hay bên ấy, dù chúng có bướng bỉnh ương gàn thế nào chăng nữa, khi gặp người lạ đến cũng phải giữ lễ phép đúng đắn. Dù đã không biết giữ lễ phép, cũng không khi nào để cho nó gàn bướng mãi được. Người lớn nuông chiều nó, cũng chỉ vì một là thấy nó có vẻ dễ coi, hai là nó biết giữ lễ phép hơn người lớn, ai trông thấy cũng phải yêu phải thương, nên mới chợp mắt bỏ qua, nuông chiều nó một chút. Nếu cứ một mực bất chấp kẻ quen người lạ, làm xấu mặt cả người lớn, thì dù xinh đến đâu cũng đáng đánh chết.
Bốn người đều cười nói:
– Cụ dạy phải lắm. Tuy cậu Bảo nhà chúng tôi tính nết ương gàn thật, nhưng khi có khách, cũng biết giữ lễ phép hơn cả người lớn, vì thế ai trông thấy cũng yêu, cứ bảo rằng: làm sao lại còn đánh cậu ấy? Có biết đâu khi ở nhà, cậu ấy coi trời bằng vung, cả gan dám nói những câu, dám làm những việc mà người lớn không hề dám nói, dám làm. Vì thế ông bà chúng tội giận lắm, nhưng cũng không biết làm thế nào. Trẻ con thì hay chơi bời lêu lổng, sợ phải đi học, những nết xấu ấy còn có thể sửa chữa được. Tệ nhất là cái tính ương gàn bướng bỉnh có ngay từ lúc mới lọt lòng, thì chịu làm sao cho được.
Chợt có người vào trình: “Bà Hai đã về”. Vương phu nhân vào hỏi thăm Giả mẫu, bốn người đứng chào, nói qua loa mấy câu chuyện. Giả mẫu bảo đi về nghỉ. Vương phu nhân dâng nước mời Giả mẫu rồi đi ra. Bốn người cũng cáo từ, đến chỗ Vương phu nhân nói chuyện việc nhà một lúc, rồi họ ra về.
Giả mẫu vui mừng, gặp ai cũng khoe: có một Bảo Ngọc nữa, hình dáng tính nết cũng như cháu tạ Mọi người đều nghĩ các nhà thế hoạn đại gia giống tên nhau cũng nhiều, bà nuông chiều cháu giai cũng là việc thường, chẳng có gì đáng lạ, nên cũng không để ý đến. Duy có Bảo Ngọc tính nết ngây thớ vẩn, cho là bốn người này nói thế để làm vui lòng Giả mẫu đấy thôi. Sau về trong vườn thăm bệnh Tương Vân. Tương Vân liền bảo:
– Thôi anh tha hồ mà đùa mà nghịch. Trước thì “một sợi không thành dây, một cây không thành rừng”, nay đã có bạn rồi. Cứ nghịch tràn đi, có bị đánh dữ thì lần đến với cái anh ở Nam Kinh kia.
Bảo Ngọc nói:
– Chuyện hoang đường mà cô cũng tin? Lại còn có Bảo Ngọc khác nữa à?
– Thế thì tại sao đời Liệt quốc có Lạn Tương Như, mà đời nhà Hán cũng có Tư Mã Tương Như.
– Cái ấy đã đành đi rồi, còn như hình dáng giống nhau như hệt thì làm gì có?
– Thế tại sao người nước Khuông trông thấy ông Khổng Tử lại cho là Dương Hóa? 6
– Khổng Tử và Dương Hóa mặt giống nhưng tên khác; Lạn và Tư Mã tên giống nhưng mặt lại khác. Riêng tôi và hắn không lẽ lại giống cả mặt lẫn tên?
Tương Vân không biết trả lời thế nào, liền cười nói:
– Anh chỉ cãi bướng, tôi không nói với anh nữa. Có cũng mặc, không cũng mặc, chẳng việc gì đến tôi.
Nói xong Tương Vân đi nằm.
Bảo Ngọc đâm ra ngờ ngợ: “Nếu bảo là không thì hình như cũng có, nếu bảo có thì mắt mình lại chưa trông thấy”.
Trong bụng bứt rứt, về buồng nằm ngẫm nghĩ mãi, đâm ra ngủ mê, thấy mình đi vào trong một vườn hoa, Bảo Ngọc lấy làm lạ nói:
– Trừ vườn Đại Quan của chúng ta ra, còn có cái vườn nào đây?
Đương lúc ngờ ngợ, thấy có mấy đứa gái bé đi đến, đều là a hoàn cả. Bảo Ngọc lại lấy làm lạ nói:
– Trừ Uyên Ương, Tập Nhân, Bình Nhi ra, còn đám nào đây?
Bọn a hoàn đó cười nói:
– Sao cậu Bảo Ngọc lại đến đây?
Bảo Ngọc cho là nói mình, chạy lại cười nói:
– Ngẫu nhiên tôi đi chơi đến đây, không biết là vườn hoa của vị thế giao 7 nào. Nhờ các chị đưa tôi đi xem.
– Thì ra không phải là cậu Bảo nhà chúng mình! Trông hắn cũng sạch sẽ ăn nói lại lém lỉnh đấy.
– Thế ra trong nhà đây cũng lại có cậu Bảo Ngọc à?
– Cụ và bà nhà chúng tao đặt tên hai chữ “bảo ngọc” cho cậu chúng tao, cốt để giữ gìn cho cậu ấy được sống lâu và tránh hết tai nạn. Cậu ấy cũng thích cho chúng tao gọi tên. Mày là thằng bé con ở đâu đến đây, cũng dám gọi bậy! Giờ hồn không chúng tao đánh cho nát xác ra!
Lại một a hoàn khác cười nói:
– Thôi chúng ta về đi, đừng để cậu Bảo Ngọc trông thấy.
Lại nói:
– Nói chuyện với thằng bé con thối này làm chúng mình cũng thối lây!
Bảo Ngọc buồn rầu nói:
– Xưa nay chưa từng bị ai đối xử tệ bạc với mình, sao bọn này lại như thế? Không lẽ lại có một người như ta à?
Vừa nghĩ vừa tiện bước đi đến một ngôi nhà, Bảo Ngọc lấy làm lạ nói:
– Trừ viện Di Hồng ra, lại còn có một cái nhà như thế này à?
Rồi lên thềm, vào hẳn phía trong, thấy trên giường có một người nằm, bên cạnh có mấy đứa con gái đương thêu thùa, cười đùa với nhau. Người trẻ tuổi nằm ở trên giường thở dài một tiếng, một a hoàn cười hỏi:
– Cậu Bảo, sao không ngủ mà lại thở dài thế? Chắc là vì cô em đương yếu, cậu mới buồn bực vớ vẩn chứ gì?
Bảo Ngọc nghe nói, giật mình thấy người trẻ tuổi trên giường nói:
– Ta thấy cụ nói, trong kinh cũng có một anh Bảo Ngọc tính nết cũng giống ta, ta vẫn không tin. Nhưng vừa rồi ta nằm mê đi vào một cái vườn hoa to ở trong kinh, bỗng gặp mấy chị đều cho ta là thằng ranh con bẩn thỉu, không thèm nhìn đến. Ta tìm mãi mới đến được cái buồng của anh ấy, thấy anh ấy đương nằm ngủ, nhưng chỉ có cái xác thôi, còn hồn thì đi đâu rồi ấy.
Bảo Ngọc nói:
– Tôi vì đi tìm Bảo Ngọc mới đến đây, thế ra anh là Bảo Ngọc à?
Người nằm trên giường vội chạy xuống kéo tay, cười nói:
– Thế ra anh cũng là Bảo Ngọc? Phải chăng là giấc chiêm bao?
– Sao lại là chiêm bao? Thực lắm đấy chứ!
Hai bên chưa nói dứt lời, có người đến bảo:
– Ông gọi cậu Bảo đấy.
Hai người đều sợ cuống lên. Một Bảo Ngọc chạy đi, một Bảo Ngọc vội gọi giật lại: “Bảo Ngọc, mau về đây!” “Bảo Ngọc, mau về đây!”
Tập Nhân ngồi bên cạnh thấy Bảo Ngọc nằm mê, gọi tên mình, liền đánh thức dậy, cười hỏi:
– Bảo Ngọc ở đâu?
Bảo Ngọc đã tỉnh, nhưng tinh thần hãy còn bàng hoàng, liền trỏ ra ngoài cửa nói:
– Hắn vừa mới đi kia kìa.
– Thôi, cậu nằm mê rồi. Cậu thử dụi mắt nhìn kỹ xem, đó là bóng cậu ở trong cái gương đấy.
Bảo Ngọc nhìn lên, thì ra cái gương lớn sừng sững đứng trước mặt. Không nhịn được, Bảo Ngọc bật cười. Một a hoàn đã đem sẵn nước và ống nhổ đến cho Bảo Ngọc súc miệng.
Xạ Nguyệt nói:
– Không trách được, cụ thường bảo: nhà có trẻ con không nên treo nhiều gương, vì người còn bé chưa cứng vía, soi gương nhiều, khi ngủ tất sợ hãi nói mệ Bây giờ lại đem kê giường ngủ ở trước cái gương lớn, lúc nhớ buông cái màn che xuống còn khá, sau này trời càng nóng, càng mệt, thì còn nghĩ gì đến buông màn gương nữa? Vừa rồi cũng là vì quên buông màn gương xuống. Khi nằm trước gương chơi đùa với bóng rồi ngủ đi, thành ra hay mê mẩn nói nhảm; nếu không thì sao mình lại gọi tên mình? Chi bằng ngày mai dời giường đi chỗ khác thì hơn.
Bỗng Vương phu nhân sai người đến gọi Bảo Ngọc.
1 Tức là Chu Hy, tên chữ là Trọng Hối, Hối Ông, Khảo Đình hay Chu Văn Công, là một nhà lý học đời Tống. Đời sau thường gọi là Khảo Đình học phái. Bất tự khí là không nên bỏ phí vật gì
2 Hình như tác giả bịa ra để cười cho vui, chứ không có người như thế.
3 Chữ trong sách Luận ngữ.
4 Tiền mừng tuổi, hoặc thưởng, ngoài gói bằng giấy đỏ.
5 Trong thời phong kiến, việc đến hỏi thăm vua chúa, hoàng hậu, hoặc quý tộc bậc cao, đều gọi là “thỉnh an”.
6 Trong sách Luận ngữ khi ông Khổng tử đến nước Khuông, người nước Khuông tưởng là Dương Hóa, liền đến vây lại.
Vương phu nhân muốn dẫn Bảo Ngọc đến chào Chân phu nhân. Bảo Ngọc nghe nói, rất vui, vội thay quần áo, theo Vương phu nhân đi ngay. Thấy phong cảnh nhà họ Chân cũng chẳng khác phong cảnh phủ Vinh và phủ Ninh mấy, có một vài nơi còn lịch sự hơn. Hỏi kỹ ra, cũng có một cậu tên là Bảo Ngọc. Chân phu nhân giữ lại ăn cơm, hết ngày mới về. Bảo Ngọc vẫn chưa tin. Tối về nhà, Vương phu nhân bảo phải sắp tiệc thật long trọng, tìm một ban hát có tiếng để mời mẹ con Chân phu nhân đến dự. Hai hôm sau, mẹ con Chân phu nhân không kịp cáo từ, trở về chỗ làm quan.
Hôm ấy Bảo Ngọc thấy Tương Vân gần khỏi, mới sang thăm Đại Ngọc. Gặp lúc Đại Ngọc đang ngủ trưa, Bảo Ngọc không dám đánh thức, nhân thấy Tử Quyên ngồi ở ngoài hiên thêu thùa, liền đến hỏi:
– Đêm hôm qua cô ấy đã đỡ ho chưa?
– Hơi đỡ rồi.
– A di đà phật! Thôi cũng nên khỏi đi!
– Cậu mà cũng niệm phật, thực là việc lạ!
– Người ta thường bảo “Bệnh gấp hay uống thuốc bừa”.
Bảo Ngọc thấy Tử Quyên mặc cái áo bông mỏng bọc lụa, ngoài khoác áo đoạn xanh, liền giơ tay xoa vào người cô ta vừa nói:
– Khí trời xấu mà mặc phong phanh thế này, ngồi ở trước gió, lỡ ra ốm thì lại khổ.
Tử Quyên nói:
– Từ nay trở đi, chúng ta có nói chuyện gì thì nói, chứ đừng táy máy chân taỵ Bây giờ đã lớn rồi, lỡ người ta trông thấy, không ra sao đâu, lại làm cho những kẻ bậy bạ nói vụng. Cậu không để ý đến việc ấy, cứ cợt nhả như lúc còn bé thế nào được? Cô tôi thường dặn chúng tôi không được đùa cợt với cậu. Gần đây, những khi cậu đến thăm, cô tôi cũng muốn tránh cậu nhưng sợ không tránh được đấy!
Bảo Ngọc thất thế, trong bụng như bị giội một chậu nước lạnh, đứng ngẩn người ra nhìn rặng trẹ Giữa lúc ấy già Chúc đương cuốc đất trồng tre và quét lá ở đấy. Như người mất hồn, Bảo Ngọc ngồi ngay trên hòn đá, nước mắt chảy ròng ròng. Một lúc lâu, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không biết làm thế nào. Tuyết Nhạn đến nhà Vương phu nhân lấy nhân sâm về qua đấy, thấy một người tay chống cằm, ngồi ngây ra trên hòn đá dưới gốc cây đào, không phải ai lạ, chính là Bảo Ngọc. Tuyết Nhạn ngờ ngợ: – “Trời lạnh thế này, cậu ấy ngồi một mình ở đấy làm gì? Mùa xuân này chỉ có những hạng rồ dại mới liều như thế, chẳng lẽ cậu ấy cũng mắc bệnh ngốc à?” Liền chạy lại, ngồi xuống cười nói:
– Cậu ngồi đây làm gì thế?
Bảo Ngọc trông thấy Tuyết Nhạn liền nói:
– Chị đến tìm tôi làm gì đây? Chị không phải là con gái à? Cô ấy đã giữ kẽ không cho các chị gần tôi, chị lại đến đây, nhỡ để người ta trông thấy, lại chẳng sinh chuyện đồn đại à? Thôi chị về ngay đi.
Tuyết Nhạn nghe nói, cứ tưởng Bảo Ngọc bị Đại Ngọc trêu tức, đành phải về nhà. Đại Ngọc hãy còn ngủ, Tuyết Nhạn đưa nhân sâm cho Tử Quyên. Tử Quyên hỏi:
– Bà đương làm gì?
– Đương ngủ trưa, vì thế phải chờ một lúc. Tôi kể cho chị nghe câu chuyện này đáng buồn cười: lúc chờ bà, tôi cùng chị Ngọc Xuyến nói chuyện ở dưới nhà, tự nhiên dì Triệu vẫy tôi đến. Tôi tưởng chuyện gì, té ra dì ấy xin phép bà về nhà túc trực đám ma người em, sáng mai thì đưa. Đứa hầu nhỏ theo dì ấy là Tiểu Cát Tường không có quần áo, muốn mượn cái áo lụa nguyệt bạch của tôi. Tôi nghĩ: bọn họ cũng được cấp hai cái áo như mọi người, sợ đem ra mặc đi đưa đám thì hỏng, nên không dám mặc áo của mình, lại đi mượn của người khác. Mượn làm hỏng áo cũng là việc nhỏ, nhưng tôi nghĩ xưa nay dì ấy đối với chúng ta chẳng tử tế gì. Vì thế tôi bảo: quần áo trâm vòng của tôi, cô tôi giao cho chị Tử Quyên giữ cả. Bây giờ tôi phải trình cô tôi như thế mất nhiều thì giờ lắm, lại làm lỡ việc của dì thôi. Chi bằng dì mượn chỗ khác là hơn.
– Con ranh này láu lắm. Mày không bằng lòng cho người ta mượn, lại đổ cho ta và cô, để người ta khỏi oán mày. Dì ấy đi bây giờ hay sáng mai?
– Đi ngay đấy, có lẽ bây giờ đã đi rồi.
Tử Quyên gật đầu. Tuyết Nhạn nói:
– Có lẽ cô còn chưa dậy, không biết ai làm cho cậu Bảo tức giận, đương ngồi khóc ở ngoài kia kìa!
– Cậu ấy ngồi ở đâu?
– Ở dưới cây đào sau đình Thấm Phương.
Tử Quyên vội bỏ đồ thêu xuống, dặn Tuyết Nhạn:
– Phải cẩn thận, ngồi chực đấy. Cô có hỏi thì nói ta ra ngoài một tí rồi về ngay.
Tử Quyên ra khỏi quán Tiêu Tương, chạy một mạch đi tìm Bảo Ngọc. Tử Quyên mỉm cười nói:
– Tôi nói câu ấy, chẳng qua cũng chỉ muốn giữ tiếng tốt cho cả mọi người thôi, thế mà cậu tức giận, ra ngồi chỗ gió máy mà khóc, lỡ ốm thì làm thế nào!
Bảo Ngọc cười nói:
– Ai tức? Tôi nghe chị nói cũng phải. Các chị bây giờ đối với tôi thế này, rồi người khác cũng thế, dần dần chẳng ai thèm nhìn đến tôi. Tôi nghĩ thế đâm ra tủi thân.
– Vừa rồi đứng đối diện nói chuyện, chị còn bỏ chạy sao bây giờ lại ngồi sát vào bên cạnh tôi?
– Cậu quên rồi à? Mấy hôm trước cậu và cô Lâm đương nói chuyện với nhau thì dì Triệu đi vào, giờ thấy dì ấy đi vắng, tôi mới đến hỏi cậu. Hôm nọ cậu mới nhắc một câu “yến sào”, rồi không nói gì nữa, bây giờ tôi muốn đến hỏi cậu việc ấy.
– Việc ấy không quan hệ gì, chẳng qua tôi nghĩ chị Bảo là khách đến ở đây, mà cô Lâm đã ăn yến sào thì phải ăn luôn, cứ xin mãi cũng ngượng. Món yến sào tuy không tiện xin bà, nhưng tôi đã bày tỏ với cụ biết, có lẽ người cũng đã bảo chị Phượng rồi. Tôi định nói với cô ấy, nhưng chưa nói hết. Bây giờ đâu như mỗi ngày đã cho cô ấy một lạng yến sào, thế là được rồi.
– Thế ra cậu nói hộ. Cảm ơn cậu đã hết lòng nghĩ đến cô tôi. Tôi cứ ngờ tại làm sao tự nhiên cụ lại nhớ đến, hàng ngày lại sai người mang sang cho cô tôi một lạng yến sào. Té ra là thế.
– Ngày nào cũng phải ăn cho quen, ăn độ hai, ba năm thì khỏe được.
– Ở đây ăn quen rồi, sang năm về nhà lấy tiền đâu mà ăn được thứ ấy.
Bảo Ngọc nghe nói giật mình hỏi:
– Ai về nhà?
– Cô tôi về Tô Châu.
– Chị lại nói hão rồi. Tô Châu là nguyên quán thực, nhưng bà cô tôi đã mất, không có người trông nom, nên phải đón cô ấy về ở đây. Thế thì sang năm về Tô Châu ở với ai? Chị lại nói dối rồi.
– Cậu khinh người quá! Chỉ có họ Giả nhà cậu là họ to người nhiều hay sao? Không lẽ trừ nhà cậu, các nhà khác chỉ có một bố, một mẹ, họ hàng không còn ai nữa à? Cô tôi đến đây là vì cụ thương cô ấy còn bé, tuy có chú bác, cũng không bằng bố mẹ nên mới đón về đây ở tạm mấy năm đấy thôi. Khi đi lấy chồng, thế nào cũng phải trở về nhà họ Lâm, chứ có nhẽ nào con gái nhà họ Lâm, lại suốt đời ở nhà họ Giả? Nhà họ Lâm tuy nghèo không có bát ăn, nhưng là dòng dõi thư hương, không khi nào chịu đem người nhà mình giao cho bà con để chịu tiếng chê cười. Vì thế sang năm sớm thì mùa xuân, muộn thì mùa thu, dù ở đây không ai đưa về, thì nhà họ Lâm chắc cũng có người đến đón. Đêm hôm nọ cô tôi bảo tôi nói với cậu, những đồ chơi lúc còn bé, có thứ gì của cô tôi đưa lại, cậu sẽ soạn ra để trả cô tôi; cô tôi cũng đã soạn sẵn những thứ cậu cho cô tôi rồi.
Bảo Ngọc nghe nói như sét đánh ngang tai. Tử Quyên thử ngồi xem Bảo Ngọc trả lời ra sao, nhưng chờ mãi chẳng thấy nói câu gì, đương định hỏi thì thấy Tình Văn đến tìm Bảo Ngọc nói:
– Cụ gọi đấy, ngờ đâu cậu lại ở đây!
Tử Quyên cười nói:
– Cậu ấy đến hỏi thăm bệnh cô tôi, tôi nói mãi cậu ấy cũng chẳng tin, thôi chị dẫn cậu ấy về đi.
Nói xong, liền đi về nhà.
Tình Văn thấy Bảo Ngọc đờ người ra, đầu toát mồ hôi, mặt xám nhợt, vội kéo về thẳng viện Di Hồng. Tập Nhân thấy th sợ quá, cho là bị cảm gió. Bảo Ngọc nóng không thì khá, đằng này hai mắt lại trợn lên, bọt mép xùi ra, đưa gối thì nằm, đỡ dậy thì ngồi; đưa nước thì uống, mê man chẳng biết gì cả. Mọi người thấy thế nháo cả lên, nhưng chưa dám đi trình Giả mẫu, vội sai người đi tìm già Lý trước.
Một lúc già Lý đến, nhìn hồi lâu, hỏi mấy câu, Bảo Ngọc cũng không trả lời; lấy tay sờ vào mạch, ấn mạnh hai cái vào huyệt nhân trung ở môi trên, vết ấn khá sâu mà cũng không thấy đau. Già Lý kêu lên một tiếng “úi chao, hỏng mất rồi!” Rồi ôm đầu khóc ầm lên.
Tập Nhân vội kéo già Lý lại hỏi:
– Già xem có đáng lo ngại hay không, hãy nói cho chúng tôi biết, để đi trình cụ và bà Hai, việc gì mà khóc ầm lên thế?
Già Lý đập giường vật gối nói:
– Hỏng cả rồi! Thôi uổng công tôi cả một đời!
Tập Nhân nghĩ già Lý là người đã già, nhiều kinh nghiệm, nên mời lại xem; giờ nghe thấy già nói thế, tin là thực, cũng khóc ầm lên. Tình Văn kể lại việc vừa rồi cho Tập Nhân biết, Tập Nhân chạy thẳng đến quán Tiêu Tương, thấy Tử Quyên đương hầu Đại Ngọc uống thuốc. Tập Nhân không kịp đắn đo gì, hỏi ngay Tử Quyên:
– Vừa rồi cô nói với cậu Bảo những câu gì thế? Cô đến mà xem! Cô đi mà trình cụ, tôi mặc kệ đấy!
Nói xong liền ngồi phịch xuống ghế.
Đại Ngọc thấy Tập Nhân nét mặt giận dữ, có ngấn nước mắt, bộ dạng khác hẳn, cũng đâm hoảng sợ, liền hỏi:
– Làm sao thế?
Tập Nhân lặng im một lúc rồi khóc:
– Không biết cô Tử Quyên nói những câu gì làm cậu ngốc ấy mắt đờ ra, tay chân lạnh toát, không nói dược nữa. Già Lý bấm cũng không biết đau. Các bà già đều nói là không ăn thua gì nữa, ở bên ấy đương khóc ầm lên. Có lẽ bây giờ thì chết rồi!
Đại Ngọc nghe nói thế, nghĩ già Lý là người có nhiều kinh nghiệm mà cũng nói là chết thì chắc là chết thật, liền “ọe” một tiếng, bao nhiêu thuốc vừa uống, mửa ra hết cả, ruột gan cồn cào, ho rũ rượu hồi lâu. Bỗng chốc mặt đỏ gay, tóc rối bù, mắt sưng húp, gân nổi lên, cứ gục đầu xuống mà thở. Tử Quyên vội đến đấm lưng. Đại Ngọc gục xuống gối thở một lúc, rồi đẩy Tử Quyên nói:
– Chị không phải đấm nữa! Cứ mang thừng đến thắt cổ tôi cho chết đi là hơn!
Tử Quyên nói:
– Tôi có nói gì đâu? Chẳng qua nói đùa mấy câu, cậu ấy lại tưởng thật.
Tập Nhân nói:
– Cô lại không biết cậu ngốc ấy, nói đùa câu gì cũng cho là thật à?
Đại Ngọc nói:
– Chị nói những câu gì, phải đến nói lại đi, cậu ấy mới tỉnh lại được.
Tử Quyên nghe nói liền bước xuống giường, cùng Tập Nhân đi đến viện Di Hồng. Giả mẫu và Vương phu nhân cũng đều ở cả đấy. Vừa trông thấy Tử Quyên, Giả mẫu mắt đã nảy lửa liền mắng:
– Con ranh con này nói những câu gì với nó đấy?
Tử Quyên vội trình:
– Con có dám nói gì đâu, chỉ nói đùa mấy câu thôi.
Bảo Ngọc vừa trông thấy Từ Quyên đã “úi chào” một tiếng, rồi khóc òa lên. Mọi người thấy thế mới yên tâm. Giả mẫu kéo Tử Quyên lại, vì cho là nó đã làm điều gì có lỗi với Bảo Ngọc, nên bắt xin lỗi. Không ngờ Bảo Ngọc nắm chặt lấy tay Tử Quyên không chịu buông, rồi nói:
– Cô có đi thì mang cả tôi đi nữa!
Mọi người không hiểu, hỏi kỹ mới vỡ chuyện Tử Quyên nói đùa Đại Ngọc sắp về Tô Châu. Giả mẫu nhỏ nước mắt nói:
– Ta cứ tưởng có việc gì quan hệ kia, té ra là một câu nói đùa, lại mắng Tử Quyên: – Con ranh này, ngày thường mày là đứa thông minh nhanh nhẹn, mày vẫn biết nó sẵn có tính ngớ ngẩn, sao tự nhiên lại lừa nó làm gì?
Tiết phu nhân khuyên:
– Cháu Bảo xưa nay là người thật thà, cô Lâm lại đến đây ở từ lúc bé, hai người cùng với nhau đến tận bây giờ, so với người khác thì thân mật hơn nhiều. Bây giờ đột nhiên lại nói dối là sắp đi, không cứ cháu là người thực thà ngớ ngẩn, ngay người lớn kiên gan đến đâu cũng phải thương tâm. Bệnh không quan hệ gì, cụ và dì cứ yên tâm, cho uống một vài thang thuốc là khỏi.
Lúc đó có người vào trình:
– Vợ Lâm Chi Hiếu và vợ Lại Đại đến hỏi thăm.
Giả mẫu nói:
– Cảm ơn các bà có lòng nghĩ đến, mời các bà vào chơi.
Bảo Ngọc nghe nói đến chữ “Lâm”, liền kêu ầm lên:
– Thôi hỏng rồi! Người nhà họ Lâm đã đến đón cô ấy về đấy, đuổi ngay họ đi!
Giả mẫu liền nói:
– Đuổi ngay họ đi!
Lại dỗ dành Bảo Ngọc:
– Đây không phải là người họ Lâm đâu, người họ Lâm chết hết cả rồi, không có ai đến đón nó nữa, cháu cứ yên tâm.
Bảo Ngọc nói:
– Dù ai cũng mặc! Trừ cô Lâm ra, không ai được gọi là họ Lâm cả!
Giả mẫu nói:
– Chẳng có ai là họ Lâm đến đây, bao nhiêu người họ Lâm đều đuổi đi cả rồi.
Giả mẫu lại dặn mọi người:
– Từ nay trở đi không được cho bà Lâm Chi Hiếu đến vườn này. Chúng bay cũng không được nói đến chữ “Lâm”. Nghe rõ lời ta dặn chưa?
Mọi người vâng lời, không ai dám cười.
Một lúc, Bảo Ngọc trông thấy trên cái tủ thập cẩm bày một cái thuyền bằng vàng của người nước ngoài đem đến, liền nói ầm lên:
– Kia có phải là cái thuyền đến đón cô Lâm không? Thuyền đậu ở đấy rồi!
Giả mẫu vội sai Tập Nhân lấy cái thuyền xuống. Bảo Ngọc giơ tay đòi. Tập Nhân đưa đến. Bảo Ngọc giấu ngay vào trong chăn cười nói:
Giả mẫu vội sai mời vào. Vương phu nhân, Tiết phu nhân và Bảo Thoa tạm lánh vào nhà trong. Giả mẫu ngồi cạnh Bảo Ngọc. Thầy thuốc họ Vương vào, thấy nhiều người, vội đến chào Giả mẫu, rồi cầm tay Bảo Ngọc bắt mạch một lúc. Tử Quyên đành phải cúi đầu xuống. Thầy thuốc họ Vương cũng không hiểu ra sao, đứng dậy nói:
– Cậu đây mắc bệnh “cấp thống mê tâm”. Cổ nhân thường đã nói: “Có nhiều chứng đờm mê khác nhau: có người vì khí huyết suy yếu, ăn uống không tiêu đâm mê, có người vì giận dỗi quá, đờm sộc lên đâm mê, có người bị đau khổ quá đờm tắc lại.” Đây cũng là chứng đờm mê do đau khổ bất chợt, chỉ chốc lát bị đờm tắc lại đấy thôi, nhẹ hơn các chứng đờm khác nhiều.
– Ông hãy nói cho tôi biết bệnh cháu có đáng lo ngại hay không, ai bảo ông đọc cả tràng sách thuốc ra?
Thầy thuốc họ Vương vội chắp tay cười nói:
– Không đáng ngại, không đáng ngại.
– Chắc không đáng ngại chứ?
– Thực không đáng ngại, nếu có việc gì xin trách cứ ở tôi.
– Quả vậy thì mời người ra ngồi chơi ngoài kia kê đơn. Chữa khỏi ta sẽ sắp sửa đồ lễ, bắt cháu phải thân hành đến tạ, nếu có xảy ra việc gì, ta sai người đến kéo đổ nhà thái y đấy.
Thầy thuốc họ Vương cứ cúi đầu cười nói:
– Không dám ạ, không dám ạ.
Vì ông ta nghe thấy Giả mẫu nói: “Sẽ sắp đồ lễ sai Bảo Ngọc đến tạ”, nên luôn miệng nói “không dám”, chưa nghe câu nói đùa là đến kéo đổ nhà thái y, nên vẫn cứ “không dám” mãi, Giả mẫu cùng mọi người đều cười ầm lên.
Một lúc, uống thuốc vào, Bảo Ngọc đã yên tĩnh hơn trước, nhưng vẫn không chịu buông Tử Quyên ra, cứ nói:
– Nếu buông ra, thế nào cô ấy cũng về Tô Châu.
Giả mẫu và Vương phu nhân không biết làm thế nào, đành phải cho Tử Quyên ở luôn đấy với Bảo Ngọc, rồi cho Hổ Phách đến hầu Đại Ngọc. Đại Ngọc lại thường cho Tuyết Nhạn đến thăm hỏi. Đến chiều, Bảo Ngọc đã đỡ, Giả mẫu và Vương phu nhân mới về nhà, nhưng một đêm sai người hỏi thăm đến mấy lần. Già Lý dẫn già Tống cùng mấy già khác đến trông nom cẩn thận. Tử Quyên, Tập Nhân và Tình Văn ngày đêm ở liền bên cạnh. Lúc nào Bảo Ngọc ngủ thì lại mơ mộng giật mình kinh hoảng, hết khóc Đại Ngọc đã đi, lại khóc có người đến đón. Những lúc ấy, Tử Quyên lại phải an ủi mới yên.
Giả mẫu lại sai lấy các thứ thuốc quí bí truyền như: “khư tà thủ linh đơn” và “khai khiếu thông thần tán” cho uống, hôm sau lại uống thuốc của thầy thuốc họ Vương, bệnh mới đỡ dần. Bảo Ngọc trong bụng đã tỉnh, nhưng vì sợ Tử Quyên về mất, nên cố ý làm ra dáng điên dại. Tử Quyên từ hôm ấy rất là hối hận, nên ngày đêm vất vả cũng không dám oán trách gì. Tập Nhân bây giờ đã yên lòng, cười bảo Tử Quyên:
– Bệnh này do cô gây ra, thì cô phải đến chữa. Chẳng có ai như cậu ngốc nhà ta “thấy gió cho là mưa”, nếu cứ mãi thế, chẳng biết rồi sẽ ra làm sao!
Bấy giờ Tương Vân đã khỏi, ngày nào cũng đến thăm Bảo Ngọc, thấy Bảo Ngọc đã tỉnh, liền diễn lại dáng dấp lúc mê cho Bảo Ngọc xem, làm Bảo Ngọc gục đầu xuống gối cười.
Trước kia Bảo Ngọc không biết mình ngây dại như thế, nên thấy người ta nói vẫn chưa tin. Lúc vắng người, Tử Quyên ngồi bên cạnh, Bảo Ngọc nắm tay hỏi:
– Sao chị lại nói dọa tôi thế?
– Chẳng qua tôi nói đùa thôi, cậu lại cho là thật.
– Chị nói có tình có lý, sao lại bảo là nói đùa?
– Những câu ấy tôi đặt ra cả đấy. Họ Lâm thực chẳng còn ai, còn chăng cũng chỉ là những người họ rất xa, mà không ở Tô Châu, đi tản mác ra các tỉnh cả rồi. Có ai đến đón, cụ cũng chẳng cho cô ấy đi nào.
– Dù cụ có cho cô ấy đi, tôi cũng chẳng nghe.
– Thật không nghe chứ? Chỉ sợ nói mồm thế thôi. Bây giờ cậu đã lớn, đã định nơi hỏi vợ rồi, vài năm nữa sẽ cưới, thì trong con mắt cậu còn biết đến ai nữa?
Bảo Ngọc lại giật mình hỏi:
– Ai hỏi vợ? Hỏi ai?
– Kỳ trong năm tôi nghe thấy cụ nói định hỏi cô Cầm cho cậu; nếu không thì sao lại thương cô ấy quá thế?
– Ai cũng bảo tôi ngớ ngẩn, nhưng thực ra chị lại ngớ ngẩn hơn tôi! Chẳng qua đó là câu nói đùa đấy thôi. Cô ấy đã nhận lời với nhà ông hàn lâm họ Mai rồi. Nếu định hỏi cô ta thì tôi đâu lại còn đến nỗi thế này? Trước kia tôi đã thề, đập cả hòn ngọc đi, chị chẳng ngăn tôi là gì? Tôi vừa ốm khỏi mấy hôm nay, chị lại đến chọc tức tôi. – Vừa nói Bảo Ngọc vừa nghiến răng nghiến lợi, lại nói: – Bây giờ tôi chỉ muốn chết ngay lập tức, moi hẳn ruột ra cho các chị xem, còn cả da và xương đều hóa ra một đống gio, rồi lại hóa ra một đám khói, gặp cơn gió to bay tan đi hết, thế là xong chuyện! – Nói xong lại khóc.
Tử Quyên vội bịt mồm Bảo Ngọc lại, lau nước mắt cho cậu ta, rồi cười nói:
– Cậu đừng có nóng nảy. Vì tôi sốt ruột, nên mới thử cậu đấy thôi.
Bảo Ngọc lại lấy làm lạ hỏi:
– Tại sao chị lại sốt ruột?
– Cậu cũng biết tôi không phải là người nhà họ Lâm, tôi cũng như chị Tập Nhân và chị Uyên Ương đấy thôi. Tôi tình cờ được sang ở với cô Lâm, cô ấy đối với tôi rất tử tế, coi tôi hơn những người hầu mang từ Tô Châu đến nhiều, chúng tôi không rời nhau một giờ một phút. Bây giờ cô ấy mà về thì tôi cũng phải đi theo. Nhà tôi ở cả đây, tôi không đi thì phụ mối tình bấy lâu chúng tôi ăn ở với nhau, mà đi ra thì phải bỏ cả gia đình. Vì thế tôi vẫn áy náy, cố bịa đặt những câu nói ấy để hỏi cậu. Ngờ đâu cậu lại ngốc nghếch làm nhộn lên như thế!
– Thế ra chị lo về việc ấy, chị lại là người ngốc nốt! Từ nay chị đừng lo nữa nhé! Tôi nói vắn tắt một câu cho chị nghe: sống chúng ta sống chung một chỗ; chết thì chúng ta cùng hóa ra gio, ra khói một chỗ, chị nghĩ thế nào?
Tử Quyên nghe nói, trong bụng đương đắn đo, chợt có người vào trình:
– Cậu Hoàn và anh Lan đến hỏi thăm.
Bảo Ngọc nói:
– Cứ ra bảo cảm ơn các cậu ấy. Ta vừa mới ngủ, không cần phải vào nữa.
Bà già vâng lời đi ra.
Tử Quyên cười nói:
– Bây giờ cậu đã khỏi rồi, nên để tôi về trông nom cô bên kia chứ?
– Phải đấy, hôm qua tôi đã định cho chị về, nhưng lại quên mất. Giờ tôi đã khỏi hẳn rồi, thôi chị về đi.
– Hôm nọ tôi trông thấy trong hộp đồ trang sức của chị có hai, ba cái gương, chị để lại cho tôi cái gương nhỏ hình hoa sen. Tôi sẽ để ở đầu giường để soi lúc đi ngủ và đi đâu mang theo cho nhẹ.
Tử Quyên đành phải để cái gương lại, sai người mang đồ đi trước, chào mọi người rồi về quán Tiêu Tương.
Mấy hôm thấy Bảo Ngọc như thế, Đại Ngọc đâm ra ốm thêm, khóc luôn mấy lần. Nay thấy Tử Quyên về, hỏi ra mới biết Bảo Ngọc đã khỏi, Đại Ngọc lại cho Hổ Phách về hầu Giả mẫu. Đêm khuya vắng người, Tử Quyên cởi áo đi ngủ, thủ thỉ cười nói với Đại Ngọc:
– Cậu Bảo thực tâm đấy, nghe thấy chúng ta sắp đi, đâm ra ốm ngay.
Đại Ngọc không trả lời. Tử Quyên ngừng một lúc, rồi lại nói một mình:
– Động không bằng tĩnh, 1 kể ra ở đây đối với chúng ta cũng tử tế đấy. Điều khác thì dễ, chứ cái việc từ bé đến lớn cùng ở với nhau một chỗ, cùng biết tính nết nhau, mới thực là khó.
Đại Ngọc gắt:
– Mấy hôm nay chị không biết mệt à, bây giờ không ngủ đi lại còn nói lảm, nói nhảm gì thế?
– Không phải tôi nói nhảm đâu, cũng là thực bụng vì cô đấy. Tôi buồn cho cô đã mấy năm nay, không có cha mẹ, anh em, ai là người biết thương mình? Gặp lúc này, cụ còn khỏe mạnh sáng suốt, cần phải lo việc lớn của mình đi. Tục ngữ nói “Tuổi già nóng lạnh bất thường”. Nếu cụ có mình nào, lúc đó dù có xong việc, cũng sợ chậm trễ ngày giờ, khó được như ý muốn. Bọn công tử vương tôn tuy nhiều, nhưng người nào mà chẳng năm thê bảy thiếp, nay đông mai tây? Dù họ có lấy được một bà tiên, cũng chỉ độ dăm ba đêm rồi lại gạt ra một nơi. Thậm chí nhiều người có mới nới cũ, trở mặt thù hận nữa. Nhà người ta có người, có thế, thì không sao, chứ như cô đây, cụ sống ngày nào còn khá, cụ mà chết đi thì mặc cho người ta hất hủi thôi. Vì thế tôi bàn với cô, cần phải lo liệu trước đi. Cô là người sáng suốt, chẳng lẽ không nghe câu tục ngữ: “Hàng vạn lạng vàng dễ kiếm, một người tri kỷ khó tìm” hay sao?
– Con này điên rồi! Sao mới đi có mấy ngày đã đổi hẳn tính nết thế? Ngày mai ta phải trình cụ cho mày về, ta không dám dùng mày nữa.
– Những câu tôi nói đều đúng cả, cốt nhắc cô để ý đấy thôi, chứ có bảo cô đi làm bậy gì đâu. Sao lại phải trình cụ, tôi bị mắng thì cô được lợi gì?
Nói xong liền đi ngủ.
Đại Ngọc ngoài miệng nói thế, nhưng trong bụng cũng có phần thương cảm, chờ Tử Quyên đi ngủ rồi, liền khóc suốt đêm, đến sáng mới chợp mắt. Hôm sau gượng dậy rửa mặt súc miệng ăn ít cháo yến sào. Rồi có Giả mẫu sang thăm và dặn dò mấy câu.
Ngày sinh nhật Tiết phu nhân đã đến, từ Giả mẫu trở xuống, ai cũng có lễ mừng; Đại Ngọc cũng phải đưa đến mừng hai thứ đồ thêu. Hôm ấy, Tiết Phu nhân sắp một ban hát nhỏ, mời Giả mẫu và Vương phu nhân đến dự. Chỉ có Bảo Ngọc và Đại Ngọc là vắng thôi. Đến chiều tàn tiệc, Giả Mẫu tiện đường đến thăm hai người một lần nữa rồi mới về nhà.
Hôm sau, Tiết phu nhân lại bảo Tiết Khoa mời những người làm công đến dự tiệc. Bận rộn đến ba, bốn ngày mới xong.
Tiết phu nhân trông thấy Hình Tụ Yên là người đoan trang nhã nhặn, nhưng là con nhà thanh bạch, một cô gái áo vải quần thô, nên muốn hỏi cho Tiết Bàn. Nhưng sợ Tiết Bàn là người lông bông, nhỡ lại làm khổ con gái nhà người tạ Đương lúc ngần ngại, chợt nghĩ ngay đến Tiết Khoa, xem hai người này giống như một đôi vợ chồng trời xe sẵn, liền bàn với Phượng Thự Phượng Thư cười nói:
– Xưa nay cô còn lạ gì tính mẹ chồng tôi, việc này để tôi liệu dần.
Nhân lúc Giả mẫu đến thăm, Phượng Thư liền nói:
– Cô cháu có một việc muốn nhờ bà, nhưng không tiện nói ra.
– Việc ấy rất tốt, có gì mà không tiện nói rả Để ta sẽ nói chuyện với mẹ chồng chị, thế nào mà chẳng bằng lòng.
Về nhà, cho người gọi Hình phu nhân đến, Giả mẫu tự nhận đứng ra làm mối. Hình phu nhân nghĩ: họ Tiết là nhà dòng dõi, hiện nay giàu có. Tiết Khoa kể ra cũng xinh trai, lại có Giả mẫu đứng ra làm mối. Được dịp liền nhận lời ngay.
Giả mẫu mừng lắm, sai người mời Tiết phu nhân đến. Hai người gặp nhau tất nhiên cũng có những câu đun đẩy. Hình phu nhân liền sai người đi nói việc ấy với vợ chồng Hình Trung. Vợ chồng y đến ở đây cốt là nhờ vả Hình phu nhân, thì làm gì mà chẳng bằng lòng, liền luôn miệng nói:
– Việc ấy hay lắm.
Giả mẫu cười bảo:
– Ta vốn hay hứng việc, xong rồi chả biết tạ bà mối được bao nhiêu?
Tiết phu nhân cười nói:
– Điều đó tất nhiên rồi, chỉ sợ tạ một vạn bạc, người cũng không thèm nhận thôi. Nhưng có một việc, cụ đã đứng lên làm mối thì phải tìm một vị chủ hôn mới được.
Giả mẫu cười:
– Gì chẳng có, chứ hạng què chân cụt tay thì nhà chúng ta cũng có vài mống.
Rồi sai người gọi mẹ con Vưu Thị đến. Giả mẫu nói rõ việc ấy cho họ nghe, hai người đều vội vàng ngỏ lời mừng.
Giả mẫu dặn:
– Khuôn phép nhà ta chị đã biết đấy, xưa nay hai nhà thông gia không hề so đọ về lễ cưới lễ xin. Bây giờ chị đứng ra lo liệu hộ ta, không nến dè sẻn quá, cũng không nên hoang phí quá, thu xếp việc hai nhà cho xong rồi trình ta biết.
Vưu Thị vội vâng lời. Tiết phu nhân mừng lắm, về nhà bảo viết thiếp mời, đưa sang phủ Ninh. Vưu Thị xưa nay vẫn biết tính nết Hình phu nhân, định không muốn nhận việc ấy, nhưng vì Giả mẫu phó thác nên phải vâng lời, đành cứ lựa theo ý Hình Phu nhân mà làm. Còn Tiết phu nhân là người thế nào cũng xong, nên cũng dễ nói.
Việc Tiết phu nhân hỏi Hình Tụ Yên làm nàng dâu, trong phủ ai cũng biết cả. Hình phu nhân muốn đón Hình Tụ Yên ra ngoài ở.
Giả mẫu nói:
– Điều đó có ngại gì. Hai đứa chúng nó có giáp mặt nhau đâu. Vả lại ngoài bà dì ra chỉ có một cô chị chồng, một cô em chồng, thì có can gì? Chúng nó là con gái cả, cũng nên cho chúng nó gần gũi nhau.
Hình phu nhân nghe vậy mới thôi.
Tiết Khoa và Tụ Yên trước kia có lần gặp nhau ở giữa đường, đại để hai bên đều bằng lòng nhau. Song Tụ Yên giữ kẽ, không muốn lui tới chuyện trò với chị em Bảo Thoa, hơn nữa Tương Vân hay chế giễu, nên càng giữ ý. Có diều Tụ Yên là người đọc sách hiểu lễ, dù là phận gái cũng không tỏ ra giả hổ giả thẹn, làm bộ làm dạng như ai. Bảo Thoa từ ngày gặp Tụ Yên, nghĩ đến cảnh nhà cô ta túng thiếu, bố mẹ người ta thì tuổi cao đức cả, bố mẹ cô ta chỉ rượu bét nhè, chẳng chăm nom gì con cái. Hình phu nhân đối với cô ta chẳng qua tình nghĩa bề ngoài, không phải thực bụng thương yêu. Vả lại, Tụ Yên ở chung với Nghênh Xuân, một người thì ý tứ đứng đắn, một người thì có xác không hồn, tự mình không trông nom chu tất nổi mình, còn trông nom người khác sao được. Vì vậy những đồ dùng hàng ngày có khi thiếu thốn, không ai săn sóc tới, Tụ Yên cũng không hề hé miệng nói với ai.
Bảo Thoa thường ngấm ngầm giúp đỡ, cũng không dám cho Hình phu nhân biết, vì sợ sinh ra lắm chuyện. Bây giờ duyên may run rủi, không ai ngờ hai nhà lại thành thông gia với nhau. Trong bụng Tụ Yên rất mến Bảo Thoa, cũng mến cả Tiết Khoa, nên khi chuyện trò với nhau, Bảo Thoa thường gọi ngay là em.
Một hôm, Bảo Thoa đến thăm Đại Ngọc, Tụ Yên cũng đến đó. Hai người gặp nhau ở giữa đường, Bảo Thoa mỉm cười gọi Tụ Yên lại, rồi hai người cùng đi đến sau vách đá. Bảo Thoa cười hỏi:
– Trời rét như thế này, sao em lại không mặc áo kép?
Tụ Yên cúi đầu không trả lời. Bảo Thoa biết ngay là có duyên cớ gì đây, liền cười hỏi:
– Chắc là tiền lương tháng này em không lĩnh được chứ gì? Chị Phượng kể cung vô tâm thật.
Tụ Yên nói:
– Chị ấy vẫn trả lương đúng ngày đấy! Nhưng vì cô em sai người đến bảo: một tháng không tiêu hết hai lạng bạc đâu, phải bớt một lạng đưa cho thày mẹ em, nếu cần cái gì, dùng của chị Hai cũng được. Chị thử nghĩ xem, chị Hai là người thực thà không để ý việc gì cả. Những thứ em dùng chị ấy không hề nói, nhưng bọn hầu có phải là hạng ít mồm đâu, người nào chả hay sinh chuyện. Dù ở ngay nhà ấy, em thật không bao giờ dám sai bảo họ. Cứ độ dăm ba ngày em lại phải bỏ ít tiền ra cho họ uống rượu, ăn quà sáng. Giờ lại bớt đi một lạng. Hôm nọ em phải đưa giấu cái áo bông cho người mang đi cầm, lấy mấy quan tiền về tiêu đấy.
Bảo Thoa thở dài:
– Hiện giờ gia quyến nhà họ Mai còn ở cả chỗ làm quan, năm sau mới về đây. Nếu họ Ở đây thì em Cầm về nhà chồng, rồi sẽ bàn đến việc của em ra khỏi chỗ này là yên chuyện. Nhưng bây giờ việc em Cầm chưa xong, chắc em Khoa cũng không dám cưới vợ trước. Thật là một việc khó xử. Nếu để chậm vài năm nữa, sợ em bị dãi dầu quá đâm ra ốm mất. Để chị bàn với mẹ chị xem. Số tiền một lạng bạc em cứ đưa phăng cho họ, thế là yên chuyện. Sau này em đừng cho bọn kia ăn uống nữa. Họ châm chọc gì mặc họ, em chẳng cần nghe, nói chán thì thôi. Nếu em có thiếu thứ gì, cứ đến bảo chị, đừng có e lệ. Từ ngày em đến đây, chị em ta vẫn tử tế với nhau, chứ có phải sau ngày dạm hỏi nhau mới thế đâu. Nếu em sợ người ngoài bàn tán, thì cứ khẽ sai a hoàn đến bảo chị là được.
Tụ Yên cúi đầu xin vâng.
Bảo Thoa lại trỏ viên ngọc đeo ở quần Tụ Yên hỏi:
– Ai cho em đấy?
– Chị Ba cho em đấy.
– Chị ấy thấy ai cũng có, chỉ một mình em là không, sợ người ta chê cười, nên mới đưa lại cho em. Đó là chị ấy thông minh chu tất đấy. Có điều em phải biết rằng, những đồ trang sức này là của các cô tiểu thư ở các nhà quan sang mới dùng. Em cứ nhìn chị xem, từ đầu đến chân, chị có những đồ trang sức lộng lẫy ấy đâu. Trước đây bảy tám năm, chị cũng có, nay kém trước nhiều. Vì thế cái gì thấy bớt thì tự mình bớt đi. Sau này đem về nhà chồng, có lẽ còn hàng hòm những đồ vô dụng. Chúng ta bây giờ không bì với họ được, phải theo nề nếp nhà mình.
– Chị đã nói thế, em sẽ về tháo viên ngọc ra là hơn.
– Em cũng đừng nên thế. Người ta cho mình, không đeo họ sẽ ngờ. Chị chẳng qua chợt nhắc đến thôi, sau này sẽ hay.
Tụ Yên xin vâng và hỏi:
– Bây giờ chị đi đâu?
– Chị đến quán Tiêu Tương đây. Em hãy về lấy cái phiếu cầm đồ đưa cho a hoàn mang đến, chị sẽ chuộc hộ cho, rồi đến tối sẽ sai người đưa lại, sớm tối phải mặc, nếu không thì bị gió lạnh không được đâu! Nhưng không biết em đem cầm ở hiệu nào?
– Đâu như hiệu Hằng Thư ở đường Cổ Lâu Tây ấy.
– Thế ra lại vào nhà mình rồi! Nếu bọn làm công biết thì họ sẽ bảo: người chưa đến mà quần áo đã đến trước.
Tụ Yên nghe vậy, biết ngay là hiệu của nhà Bảo Thoa, không nói gì cả, đỏ mặt lên, cười rồi chạy đi.
Bảo Thoa đến quán Tiêu Tương gặp Tiết phu nhân cũng đến thăm và đương ngồi nói chuyện với Đại Ngọc. Bảo Thoa cười nói:
– Mẹ đến lúc nào? Con không biết.
– Mấy hôm nay ta bận, không đến thăm cháu Bảo và cháu Đại được. Hôm nay đến thì cả hai cháu đều đã khá rồi.
Đại Ngọc mời Bảo Thoa ngồi rồi nói:
– Việc đời khó mà biết trước được. Cứ nói về việc dì và mợ Cả tôi lại thành ra thông gia với nhau?
Tiết phu nhân nói:
– Các cháu hãy còn bé, biết thế nào được? Người trước có nói “Nhân duyên nghìn dặm xe vào một dây”. Ông Nguyệt Lão trông nom việc nhân duyên, đã biên vào sổ trước, ngầm lấy một sợi dây tơ buộc chân hai người lại. Đã hợp duyên nhau thì dù hai nhà cách sông cách biển, hoặc thù hằn với nhau thế nào cũng có dịp thành vợ thành chồng. Việc này thực không ai ngờ đến. Có khi bố mẹ đôi bên đều bằng lòng, hoặc là luôn luôn ở gần nhau, tưởng thế nào cũng thành đôi thành lứa, nhưng ông Nguyệt không xe dây, cũng không thể sum họp với nhau được. Ví như việc hôn nhân của hai chị em cháu đây, bây giờ không biết ở gần trước mắt hay là ở tận góc biển chân trời!
Bảo Thoa nói:
– Mẹ động nói việc gì cũng kéo chúng con vào.
Vừa nói vừa gục vào lòng mẹ, cười nói:
– Thôi chúng ta về đi.
Đại Ngọc cười nói:
– Xem kìa! Lớn như thế kia rồi, hễ vắng dì thì ra vẻ đạo mạo, nhưng có dì, lại giở lối làm nũng.
Tiết phu nhân lấy tay xoa vào người Bảo Thoa, thở dài bảo Đại Ngọc:
– Chị cháu đây không khác gì chị Phượng ở bên cụ, hễ có việc quan trọng là ta phải bàn với nó; lúc không có việc gì nó cũng làm cho ta vui lên. Ta thấy nó như thế cũng khuây khỏa nỗi buồn rầu.
Đại Ngọc nhỏ nước mắt thở dài:
– Chị ấy lại giở những trò ấy ra để trêu tức cháu là người không có mẹ, cố ý nêu cái cảnh khổ của cháu ra.
Bảo Thoa cười nói:
– Mẹ Ơi, mẹ xem cô ấy quá quắt thế, lại bảo con hay làm nũng.
Tiết phu nhân nói:
– Không trách được em nó đau xót là phải, cha mẹ mất cả, không còn ai là người thân, nghĩ thật đáng thương.
Tiết phu nhân lại vỗ về Đại Ngọc, cười nói:
– Cháu ơi, đừng khóc nữa. Cháu thấy ta thương chị cháu, đâm ra buồn rầu, nhưng không biết bụng ta càng thương cháu lắm đấy! Chị cháu tuy không còn cha, nhưng có mẹ, có anh thì cũng hơn cháu. Ta thường nói với cha cháu, bụng ta thương cháu lắm, nhưng không tiện tỏ ra bên ngoài, ở đây lắm người nhiều lời, người nói tốt thì ít, nói xấu thì nhiều. Họ có biết đâu cháu không có chỗ nương tựa, đáng để cho người ta thương; chẳng qua thấy cụ thương cháu, họ cũng hùa theo đó thôi.
Đại Ngọc cười nói:
– Dì đã nói thế, ngày mai cháu xin nhận dì làm mẹ. Nếu dì không nhận, thì chỉ là dì thương miệng thương môi thôi.
– Không chê thì cháu cứ nhận.
Bảo Thoa vội vàng nói:
– Không nhận được đâu.
Đại Ngọc nói:
– Tại sao không nhận được?
– Tôi hãy hỏi cô, tại sao anh tôi chưa lấy vợ mà lại hỏi em Hình cho em tôi trước? Thế là vì lẽ gì?
– Anh ấy đi vắng, hay là ngày giờ không hợp, vì thế hỏi cho em trước.
– Không phải thế đâu. Anh tôi đã nhắm một chỗ rồi, chỉ chờ khi nào về thì lo đấy thôi, nhưng cũng không cần nói tên người ấy ra. Tôi bảo cô không nhận là mẹ được. Cô thử nghĩ xem.
Nói xong Bảo Thoa nháy mắt nhìn mẹ mà cười.
Đại Ngọc nghe thấy nói thế, liền gục đầu vào người Tiết phu nhân nói:
– Ngày mai mẹ cứ đến nói với cụ, xin cô ấy làm dâu, chẳng hơn đi tìm người ngoài à?
Đại Ngọc xông lên định túm lấy, Bảo Thoa cười nói:
– Mày điên à?
Tiết phu nhân vội cười ngăn lại, lấy tay gạt hai người ra. Bà ta lại bảo Bảo Thoa:
– Ngay cô Hình ta cũng còn sợ bị anh con giày vò, vì thế phải hỏi cho em con, huống chi cháu Lâm, ta không khi nào lại hỏi cho anh con đâu. Trước kia cụ định hỏi em con cho Bảo Ngọc, nhưng vì nó đã có người hỏi; nếu không thì cũng vừa đôi phải lứa đấy. Hôm nọ ta hỏi cô Hình cho em con, cụ còn nói đùa: “Ta định hỏi người nhà bên ấy, chưa hỏi được, ngờ đâu lại bị bên ấy sang hỏi một người nhà tạ” Tuy là câu nói đùa, nhưng nghĩ kỹ ra cũng có ý đấy. Bảo Cầm đã có nơi, ta không còn người nào gả cho bên ấy nữa. Nhưng chẳng lẽ không giúp được một câu nói hay sao? Ta xem Bảo Ngọc cũng xinh xắn, cụ lại thương nó, nếu tìm người ngoài, chắc cụ không bằng lòng, chi bằng hỏi em Lâm cho nó, như thế chẳng được vẹn toàn mọi mặt hay sao?
Đại Ngọc trước còn ngồi ngây ra nghe, sau thấy nói đến mình, liền đỏ mặt, kéo Bảo Thoa cười nói:
– Tôi chỉ đánh chị thôi! Tại sao chị khêu chuyện để dì nói như thế?
– Lạ thật! Mẹ tôi nói cô, việc gì cô lại đánh tôi?
Tử Quyên vội chạy lại cười nói:
– Dì đã có ý định như thế, sao không đến nói với cụ?
Tiết phu nhân cười nói:
– Con bé này vội cái gì thế! Chắc là mày muốn cô mày đi lấy chồng, để mày cũng đi kiếm một anh chồng nhỏ chứ gì?
Tử Quyên đỏ mặt cười nói:
– Dì già, nói lẫn rồi!
Đại Ngọc trước còn mắng:
– Việc gì đến con ranh con này!- Sau thấy thế cũng cười nói: – A di đà phật! Đáng! đáng! Đáng! Cũng bị trát gio vào mặt rồi đấy!
Mẹ con Tiết phu nhân và các bà già, a hoàn đều cười ầm lên và nói:
– Dì tuy nói đùa, nhưng không sai mấy. Lúc nào rỗi, dì đến bàn với cụ xem, rồi dì làm mối cho đôi bên nên vợ nên chồng, thật là ổn thỏa mọi đường.
Tiết phu nhân nói:
– Ta mà nói ra, nhất định cụ sẽ vui mừng.
Chợt Tương Vân đi vào, tay mang một phiếu cầm đồ, cười nói:
– Mảnh giấy nợ gì đây?
Đại Ngọc nhìn không biết là cái gì. Bọn bà già đứng đấy đều cười nói;
– Cái này hay lắm! Phải mất gì chúng tôi mới bảo cho!
Bảo Thoa vội cầm lấy xem, thì chính là cái phiếu cầm đồ của Tụ Yên vừa nói lúc nãy, liền gấp ngay lại.
Tiết phu nhân nói:
– Bà già nào đánh rơi cái giấy cầm đồ thì phải, tìm trả ngay cho họ, chắc rồi họ lại tìm cuống lên thôi. Cháu nhặt được ở chỗ nào đấy?
Tương Vân hỏi:
– Thế nào là giấy cầm đồ?
Bọn bà già cười nói:
– Cô này thật là ngớ ngẩn, đến tờ giấy cầm đồ cũng không biết!
Tiết phu nhân thở dài:
– Không trách được nó là tiểu thư ngàn vàng còn trẻ tuổi, thì làm gì biết được cái này? Nó có trông thấy cái này bao giờ đâu? Dù người trong nhà có, nó cũng chẳng được trông thấy. Đừng cười nó, tất cả các cô ở đây, xem ai cũng thành ngớ ngẩn cả.
Bọn bà già đều cười nói:
– Vừa rồi cô Lâm cũng chẳng nhận ra được. Không nói các cô làm gì, ngay đến cậu Bảo hay đi ra ngoài cũng chưa chắc đã trông thấy cái này.
Tiết phu nhân kể rõ đầu đuôi cho họ nghe. Tương Vân và Đại Ngọc cười nói:
– Hạng người này thật chỉ nghĩ cách kiếm tiền thôi. Hiệu cầm đồ của dì có cái này không?
Mọi người cười nói:
– Câu hỏi ngớ ngẩn nhỉ! Trên đời này “Quạ nào lại chẳng đen đầu”, làm gì có hai giống quạ?
– Đó là phiếu cầm quá hạn, đã xóa sổ từ bao giờ rồi. Hương Lăng nhặt lấy mang về lừa cho họ chơi đấy thôi.
Tiết phu nhân nghe thay thế cho là thật, nên không hỏi nữa. Một lúc sau có người vào trình:
– Mợ Cả ở phủ hên kia đến mời dì sang nói chuyện.
Tiết phu nhân đứng dậy đi. Bấy giờ trong nhà không có ai, Bảo Thoa mời hỏi Tương Vân:
– Nhặt được ở đâu thế?
– Con Triện Nhi, a hoàn của em dâu chị, lẻn đưa cái giấy ấy cho Oanh Nhị Oanh nhi gấp vào trong sách, tưởng là tôi không trông thấy. Chờ họ đi rồi, tôi giở ra xem, không biết là cái gì, thấy các chị Ở đây, nên cầm đến để cho xem.
Đại Ngọc liền hỏi:
– Không lẽ cô ấy cũng phải cầm quần áo à? Đã cầm rồi sao lại còn đưa giấy cho chị?
Bảo Thoa thấy hỏi thế, không tiện giấu, kể lại việc vừa rồi cho hai người nghe. Đại Ngọc nghe nói, “cùng chung cảnh ngộ, thỏ chết cáo thương”, cũng thở than thương cảm. Tương Vân tức quá nói:
– Để tôi đi hỏi chị Hai xem! Tôi sẽ mắng cho bọn bà già và a hoàn một trận để các chị hả giận, có đươc không?
Tương Vân định chạy đi ngaỵ Bảo Thoa kéo lại cười nói:
– Cô lại điên rồi, hãy ngồi xuống đây đã nào!
Đại Ngọc cười nói:
– Nếu là con trai, có lẽ cô sẽ sẵn sàng dẹp hẳn những nỗi bất bình; cô lại định đóng vai Kinh Kha, Nhiếp Chính 2 đó phải không? Thật đáng buồn cười!
Tương Vân nói:
– Đã không cho tôi đến hỏi chị Hai, thì ngày mai sẽ đón cô Hình đến ở với chúng ta có hơn không?
Bảo Thoa cười nói:
– Để ngày mai bàn xem đã.
Ngay lúc đó có người vào trình:
– Cô Ba và cô Tư đến chơi.
Ba người nghe nói liền im hẳn, không nhắc đến chuyện ấy nữa.
1 Ý nói đi không bằng ở lại.
2 Kinh Kha và Nhiếp Chính: hai người nghĩa hiệp đời Chiến Quốc. Kinh Kha nhận lời với con vua nước Yên, đến giết Tần Vương, không trúng, bị quân Tần giết chết. Nhiếp Chính nhận lời với Nghiêm Trọng Tử, giết vua Hàn Ai Hầu và Hiệp Lũy rồi cắt mũi khoét mặt tự tử.
Bọn Thám Xuân hỏi thăm xong, mọi người cười đùa một lúc rồi đâu về đây.
Ngờ đâu trong cung lão thái phi chết, các bà mệnh phụ đều phải vào triều theo thứ tự chịu tang. Có sắc ban xuống cả nước, những nhà có chức tước, trong một năm không được mở tiệc hát xướng; dân chúng thì ba tháng không được cưới xin. Mẹ con, bà cháu Giả mẫu ngày nào cũng phải vào triều dự tế, đến giờ mùi mới được về. Sau hai mươi mốt ngày làm lễ ở cung bên cạnh, mới rước linh đến tiên lăng, ở huyện Hiếu Từ. Từ Kinh đến lăng, phải đi về mất mười ngày. Khi rước linh đến đấy, lại phải để vài ngày nữa mới đặt vào địa cung (cung ở dưới đất) thế là công việc vừa vặn mất một tháng. Vợ chồng Giả Trân ở phủ Ninh cũng phải đi tế. Hai phủ vắng người, vì thế họ bàn với nhau, trong nhà không có chủ, phải nói dối là Vưu thị “ở cữ” để ở nhà trông nom công việc cả hai phủ.
Lại nhờ Tiết phu nhân vào ở trong vườn, trông nom bọn chị em và a hoàn. Bấy giờ bên nhà Bảo Thoa đã có Tương Vân và Hương Lăng; bên nhà Lý Hoàn tuy thím Lý về rồi, nhưng cứ dăm ba ngày lại đến một lần. Giả mẫu lại giao Bảo Cầm cho thím ấy trông nom, bên Nghênh Xuân đã có Tụ Yên; Thám Xuân thì việc nhà bận rộn, thỉnh thoảng dì Triệu cùng Giả Hoàn lại cứ đến quấy rầy, rất là khó chịu; nhà Tích Xuân thì hẹp quá không có chỗ cho Tiết phu nhân ở. Giả mẫu lại căn dặn Tiết phu nhân nhiều lần nhờ trông nom Đại Ngọc. Tiết phu nhân xưa nay vẫn thương yêu Đại Ngọc, nhân địp này, liền dọn đến quán Tiêu Tương cùng ở với cô tạ Tất cả thuốc men, ăn uống đều được trông nom cẩn thận. Đại Ngọc cảm kích quá, từ đấy cũng gọi Tiết phu nhân là mẹ, gọi Bảo Thoa bằng chị, Bảo Cầm bằng em, thân thiết như chị em ruột, hơn hẳn mọi người. Giả mẫu thấy thế cũng rất vui vẻ yên tâm.
Tiết phu nhân chỉ trông nom các chị em và ngăn cấm bọn a hoàn thôi; còn những việc lớn nhỏ trong nhà đều không hay nhắc đến. Vưu Thị ngày nào cũng sang, nhưng chỉ điểm đầu chiếu lệ chứ không lên mặt oai quyền. Vả lại, trong nhà trên dưới chỉ còn một mình chị ta trông nom, lại ngày nào cũng phải sắm sửa các thứ ăn mặc, đồ dùng đưa đến chỗ Giả mẫu và Vương phu nhân, vì thế cũng rất khó nhọc.
Lúc này cả chủ nhà lẫn người giữ việc ở hai phủ Ninh, phủ Vinh đều rất bận rộn. Có người phải theo vào chầu, có người phải trông nom công việc ở nơi nhà trọ, có người đi trước sắp đặt nơi nghỉ trọ, nên ở nhà không có ai cầm đầu đứng đắn cả. Họ hoặc nhuế nhóa cho qua chuyện, hoặc tụ tập, đàn đúm với bọn giữ việc tạm thời, ỷ thế làm càn. Bên phủ Vinh chỉ còn có Lại Đại cùng mấy người trông nom việc ngòai thôi. Những người xưa nay Lại Đại quen dùng để giúp việc cũng phải đi cả, tuy mượn người khác thay, nhưng đều mới lạ, chưa quen việc. Vả chăng bọn họ đều là hạng ngú ngớ hoặc bớt xén bừa bãi, hoặc trình báo vu vơ, hoặc cất nhắc liều lĩnh, việc gì cũng hỏng, chỗ nào cũng sinh rắc rối, không thể kể ra hết được. Thấy bọn con hát ở các nhà quan đều cho về cả, bọn Vưu thị liền bàn nhau, cũng trình với Vương phu nhân cho mười hai con hát về. Có người nói:
– Bọn này đều là những người mua về, bây giờ không cho học hát nữa, nhưng có thể giữ lại để sai khiến, chỉ cho bọn giáo tập 1 về thôi.
Vương phu nhân nói:
– Bọn học hát không thể so với lũ người sai khiến được. Họ là con nhà tử tế, vì không có nghề gì, nên bán đi để cho học hát. Chúng nó đã bôi râu vẽ mặt mấy năm rồi. Bây giờ nhân dịp này, cho mỗi người mấy lạng bạc để chúng về. Ngày trước các cụ cũng đã đặt ra lệ này. Chúng ta không nên làm việc thất đức bụng dạ hẹp hòi. Hiện giờ còn mấy người ở lại đã lâu, vì duyên cớ gì không muốn về nhà thì nên cho nó ở lại để sai khiến, chờ khi lớn lên sẽ gả cho những người hầu ở trong nhà.
Vưu thị nói:
– Ta nên hỏi mười hai con hát này, đứa nào muốn về sẽ cho mấy lạng bạc và báo tin cho bố mẹ nó đến nhận, như thế mới phải. Không gọi người nhà nó đến, lỡ ra có những kẻ bậy bạ mạo tên đến lĩnh, rồi lại đem đi bán ở chỗ khác, như thế chẳng phụ công ơn mình hay sao? Đứa nào không muốn về thì cho ở lại.
Vương phu nhân cười nói:
– Nói thế phải đấy.
Vưu thị sai người báo cho Phượng Thư biết rồi truyền xuống phòng tổng quản cấp cho mỗi người giáo tập tám lạng bạc, làm gì tùy ý. Một mặt tra xét những sổ sách đồ đạc ở viện Lê Hương và sai người đến canh đêm.
Khi gọi mười hai đứa bé đến hỏi kỹ càng thì đến quá nửa không muốn về nhà. Có đứa nói, tuy còn bố mẹ, nhưng chỉ chuyên muốn bán con đi thôi, nay trở về lại sợ bị mang đi bán lần nữa; có đứa nói bố mẹ chết rồi, bị anh em chú bác mang đi bán; có đứa nói không có chỗ nào nương tựa; có đứa nói mến ơn chủ không muốn bỏ đi. Chỉ có bốn, năm đứa là xin về.
Vương phu nhân đành cho chúng ở lại. Bốn, năm đứa kia thì giao cho bọn mẹ nuôi, đợi bố mẹ đẻ chúng đến nhận sẽ trả. Những đứa không muốn về thì chia đến ở các nhà trong vườn. Giả mẫu giữ lại Văn Quan để sai khiến, giao Phương Quan cho Bảo Ngọc, Nhụy Quan cho Bảo Thoa, Ngẫu Quan cho Đại Ngọc, Qùy Quan cho Tương Vân, Đậu Quan cho Bảo Cầm, Ngải Quan cho Thám Xuân, Vưu Thị xin nhận Già Quan. Mọi người được chốn yên thân, như chim sổ lồng, ngày nào cũng ra vườn chơi đùa. Bọn trẻ này không thạo may vá thêu thùa, không quen sai khiến, ai cũng biết nên không chấp nó. Cũng có mấy đứa biết nghĩ, lo sau này ra đời không có nghề làm ăn, nên tự bỏ nghề cũ, học lấy những công việc may vá thêu thùa.
Hôm ấy chính là ngày đại tế trong triều, Giả mẫu dậy từ canh năm đến chỗ nghỉ ăn lót dạ rồi vào triều. Cơm sáng xong, về nhà trọ nghỉ, ăn bữa cơm trưa, nghỉ một lúc, vào triều dự hai buổi tế trưa và tối. Sau đó về nhà trọ nghỉ, ăn cơm tối rồi mới về phủ. May sao chỗ trọ là ngôi miếu của một ông quan to, có sư vãi trông nom, nhà cửa rất là sạch sẽ, có hai dãy phòng bên đông và bên tây. Phủ Vinh thuê dãy phòng bên đông, phủ Bắc Tĩnh vương thuê dãy phòng bên tây. Bọn thái phi, thiếu phi hàng ngày thường đến nghỉ ở đấy, cùng đi về với Giả mẫu, nên cùng trông nom giúp đỡ lẫn nhau.
Giả mẫu và Vương phu nhân phải đi đưa ma một tháng, bọn a hoàn và bà già đều rỗi việc, thường ra chơi đùa ở trong vườn. Các bà già hầu hạ Ở trong viện Lê Hương cũng gọi về và cắt đi sai vặt ở các nơi, thành ra trong vườn lại nhiều thêm mấy chục người.
Bọn Văn Quan trước kia đứa thì tính nết kiêu ngạo, đứa thì cậy thế bắt nạt kẻ dưới, đứa thì thích ăn ngon mặc đẹp, đứa thì chanh chua chỏng lỏn, phần nhiều không biết yên phận. Vì thế bọn bà già đều oán ngầm, nhưng không dám cãi cọ với chúng. Bây giờ chúng thôi không học hát nữa, mọi người đều được hả dạ. Có người thì bỏ qua; có người bụng dạ ẹp hỏi vẫn nhớ thù xưa, nhưng vì chúng đã về các phòng, nên không ai dám động đến.
Một hôm vừa gặp ngày thanh minh, Giả Liễn sắm sửa đồ lễ thường năm, dẫn Giả Hoàn, Giả Tôn, Giả Lan đến chùa Thiết Hạm tế lễ đốt vàng. Giả Dung bên phủ Ninh cũng dẫn người trong họ đem đồ lễ đến tế. Bảo Ngọc vì ốm chưa khỏi hẳn, nên không đi được. Ăn cơm xong Bảo Ngọc kêu mệt, Tập Nhân nói:
– Hôm nay tốt giời, cậu hãy đi ra ngoài chơi, kẻo ăn cháo rồi đi ngủ ngay thì khó tiêu.
Bảo Ngọc chống gậy đi giày ra ngoài sân chơi. Gần đây công việc trong vườn đều giao cho các bà già trông nom, người nào việc ấy, ai cũng bận rộn. Có người sửa trúc, có người đẵn cây, có người trồng hoa, có người gieo đậu, trong ao lại có các cô lái đò chèo thuyền lấy bùn, trồng sen. Tương Vân, Hương Lăng, Bảo Cầm cùng một số a hoàn đều ngồi trên đá xem họ làm việc cho vui. Bảo Ngọc cũng lững thững đi đến. Tương Vân trông thấy cười nói:
– Tống cổ cái thuyền này đi, họ đến đón cô Lâm đấy!
Mọi người đều cười ầm lên. Bảo Ngọc đỏ mặt lên, cười nói:
– Khi ốm còn ai nói hay được? Cô lại còn nhắc để làm trò cười!
Tương Vân cười nói:
– Bệnh ấy khác hẳn mọi chứng bệnh, chính mình chuốc lấy trò cười, lại đi nói người ta.
Bảo Ngọc cũng ngồi xuống xem mọi người đang tấp nập làm việc. Tương Vân nói:
– Đây có gió, đá lại lạnh, anh ngồi một tí rồi về thôi. Bảo Ngọc định đến thăm Đại Ngọc, chống gậy đứng dậy, cáo từ mọi người rồi đi theo con đê ở cầu Thấm Phương. Hai bên dây liễu rủ vàng, hoa đào khoe thắm; một cây hạnh lớn ở sau núi đá hoa đã rụng cả, lá râm xanh om, trên cây có nhiều quả hạnh nhỏ bằng hạt đậu. Bảo Ngọc liền nghĩ:
– Ốm mất mấy hôm, thành ra phụ cả hoa hạnh này! Không ngờ nay đã “Lá xanh rợp bóng quả đầy cành” rồi!- Bảo Ngọc nhìn mãi cây hạnh không thôi. Lại nghĩ đến việc Hình Tụ Yên sắp lấy chồng, tuy việc trai lấy vợ, gái lấy chồng là lẽ tất nhiên, nhưng lại thiếu mất một cô gái trong sạch, chỉ độ vài năm nữa chắc lại “lá xanh rợp bóng quả đầy cành”. Mấy hôm nữa, cây hạnh này quả rụng cành trơ; mấy năm nữa cô Tụ Yên cũng chẳng tránh khỏi má hồng phai nhạt, mớ tóc bạc phơ! Bảo Ngọc đâm ra thương tâm, chỉ nhìn cây hạnh thở dài. Đương lúc than thở, chợt có con chim sẻ bay đến, kêu ríu rít trên cành, Bảo Ngọc lại đâm ngơ ngẩn, nghĩ bụng: “Chắc khi hoa hạnh nở, con chim sẻ đã từng đến đây, nay thấy không còn hoa, chỉ có lá nên nó kêu ríu rít. Tiếng kêu này tất là tiếng khóc than gì đây? Tiếc rằng Công Dã Tràng 2 không ở đây, nên không hỏi được con chim ấy. Nhưng không biết sang năm khi cây hạnh nở hoa, liệu con chim sẻ này còn nhớ mà bay đến để họp mặt với hoa nữa không?”
Đương nghĩ vơ vẩn, thì có ánh lửa từ bên kia núi rọi sang, con chim sẻ sợ bay đi mất. Bảo Ngọc giật mình, lại nghe thấy bên ngoài có tiếng quát: “Ngẫu Quan, mày muốn chết! Làm sao lại mang giấy tiền đến đây mà đốt? Ta về trình các mợ cho mà xem, liệu xác mày đấy!” Bảo Ngọc càng nghi hoặc, liền đi vòng sang núi xem, thấy Ngẫu Quan nước mắt giàn giụa, ngồi ở đấy tay vẫn cầm mồi lửa, ngồi trước đống gio giấy tiền mà than khóc, Bảo Ngọc vội hỏi:
– Chị đốt giấy tiền cho ai đấy? Đừng đốt ở đây! Có đốt cho bố mẹ anh em, thì nói rõ tên họ ra, tôi sẽ bảo người hầu làm cho một cái bao giấy, viết tên họ vào đấy rồi đem mà đốt.
Ngẫu Quan trông thấy Bảo Ngọc, không nói câu gì. Bảo Ngọc hỏi mãi nó cũng chẳng trả lời. Chợt thấy một bà già hằm hằm chạy đến kéo Ngẫu Quan, mồm lảm nhảm: “Tao đã trình các mợ rồi, các mợ ấy giận lắm!” Ngẫu Quan tính còn trẻ con, nghe nói, sợ mất thể diện nên không chịu đi. Bà già nói:
– Tao bảo mày không được nhông nháo quá như thế! Bây giờ không làm bậy được như lúc còn ở ngoài đâu! Đây là chỗ nghiêm cấm đấy. – Lại trỏ Bảo Ngọc nói: – Ngay cậu chúng tao đây cũng phải giữ khuôn phép, mày là hạng gì mà dám đến đây làm bậy? Rồi cũng chỉ là đồ vất đi thôi. Hãy đi theo tao!
Bảo Ngọc vội nói:
– Cô ấy có đốt giấy tiền đâu, cô Lâm bảo cô ấy đốt giấy vụn đấy, bà không biết rõ, lại đi mách nhầm.
Ngẫu Quan chẳng hiểu ra sao, trông thấy Bảo Ngọc lại càng sợ thêm. Thấy Bảo Ngọc bênh mình, trong bụng đương lo hóa mừng, liền nói bướng:
– Bà trông thực là giấy tiền à? Tôi đốt giấy vụn của cô Lâm đấy.
Bà già cúi xuống nhặt mảnh giấy còn sót lại ở đống gio lên nói:
– Mày còn cãi bướng à? Có chứng cớ đây, đi lên nhà tao sẽ nói chuyện với mày.
– Bà cứ bắt cô ấy đi. Tôi nói thực cho bà biết: đêm qua tôi nằm mê, thấy thần hạnh hoa đòi một bó giấy tiền, bảo phải sai người lạ đốt, không được sai người trong nhà, bệnh tôi mới chóng khỏi. Vì thế tôi đưa giấy tiền nhờ cô Lâm nói với cô đem đốt và khấn hộ, không cho một ai biết, nên hôm nay mới dậy được. Không may bà lại trông thấy. Bây giờ tôi mà khó chịu là tại chạm phải vía bà đấy! Bà lại còn muốn đi mách cô ấy à? Cô Ngẫu Quan đến chỗ các mợ cứ theo thế mà nói cho tôi.
Ngẫu Quan nghe nói càng đắc ý, lại kéo bà già đi. Bà già vất giấy tiền xuống, cười xin Bảo Ngọc:
– Vì tôi không biết, nếu cậu trình bà thì còn gì là đời tôi nữa? Bây giờ tôi về trình với các mợ là cậu ra lễ thần, tôi trông lầm đấy.
Bảo Ngọc nói:
– Bà mà không trình thì tôi cũng không nói.
– Tôi trót trình rồi, các mợ bảo phải mang nó lên. Bây giờ đành chỉ nói là cô Lâm gọi nó về rồi.
Bảo Ngọc gật đầu bằng lòng. Bà già liền đi ngay.
Bảo Ngọc hỏi kỹ Ngẫu Quan:
– Đốt giấy tiền cho ai đấy? Đốt cho bố mẹ anh em, tất phải nhờ người ngoài, chắc cô lại có mối tình riêng gì đây?
Ngẫu Quan thấy Bảo Ngọc vừa mới che chở cho mình và cũng có những tâm tư giống mình, lòng càng cảm kích, khó bề giấu giếm được, liền rơm rớm nước mắt nói:
– Việc này của tôi, trừ Phương Quan nhà cậu và Nhụy Quan ở nhà cô Bảo ra, không có người thứ ba nào biết nữa. Hôm nay bất chợt cậu trông thấy, đành phải nói thực với cậu, nhưng cậu không được nói cho người khác biết. – Rồi nó lại khóc – Tôi không tiện nói thẳng với cậu, cậu cứ về đi, khi vắng người cậu khẽ hỏi Phương Quan sẽ biết. – Nói xong bùi ngùi đi về.
Bảo Ngọc trong lòng buồn bực, đành đi đến quán Tiêu Tương thăm Đại Ngọc. Thấy Đại Ngọc người gầy đáng thương, hỏi ra đã đỡ hơn trước nhiều. Đại Ngọc cũng thấy Bảo Ngọc gầy hơn trước nhiều, nhớ đến việc hôm nọ, nước mắt lại giàn giụa. Cô ta nói chuyện qua loa mấy câu rồi giục Bảo Ngọc về nghỉ. Bảo Ngọc đành phải đi về. Nhớ đến việc lúc nãy, Bảo Ngọc muốn hỏi Phương Quang, nhưng có Tương Vân, Hương Lăng ở đấy đang nói chuyện với Tập Nhân và Phương Quan, nên không tiện gọi nó, sợ người ta tra hỏi, đành phải nín lại.
Một lúc sau, Phương Quan đi gội đầu với mẹ nuôi. Nhưng mẹ nuôi nó lại cho con gái đẻ gội trước, rồi mới đến Phương Quan. Phương Quan thấy thế, cho là mẹ nuôi bênh con đẻ liền nói:
– Mẹ lấy nước thừa của con gái cho tôi gội à? Tiền lương tháng của tôi mẹ lấy cả, không biết đã phải nhờ vào tôi, lại còn cho tôi dùng những đồ thừa!
Mẹ nó xấu hổ quá, đâm ra cáu giận, mắng:
– Đồ vô ơn này! Chẳng trách người ta thường nói là “xướng ca vô loài”. Mày dù hay đến đâu, đã nhập vào bọn ấy cũng đến hỏng thôi! Mới ba tuổi ranh đã biết bới lông tìm vết, lời ong tiếng ve, chả khác gì con lừa cắn quanh!
Hai mẹ con cãi nhau ầm lên.
Tập Nhân vội sai người ra bảo:
– Làm ồn vừa chứ! Tại sao cứ nhè lúc cụ đi vắng là cãi nhau om sòm, không ai chịu lựa lời êm thắm nói chuyện với nhau.
Tình Văn nói:
– Đó là Phương Quan bới việc, chẳng biết nó làm ầm cái gì? Mới biết được vài vở hát, đã tưởng mình giết được tướng giặc, bắt được kẻ làm phản ấy!
Tập Nhân nói:
– Ông ghê bà cũng gớm! 3 Người già cư xử bất công, con bé thì cũng đáng ghét.
Bảo Ngọc nói:
– Không trách được Phương Quan. Người xưa nói: “Con giun xéo lắm cũng phải quằn”. Ở đây nó không có bố mẹ họ hàng, chẳng ai trông nom; bà ấy đã lấy tiền của nó, lại còn giày vò nó, thì trách sao được?
Lại hỏi Tập Nhân:
– Một tháng nó được bao nhiêu tiền lương? Từ nay chị nhận lấy lương mà trông nom nó, chẳng nhẹ việc hay sao?
– Tôi làm gì chả trông nom được, cứ gì phải mấy đồng tiền của nó, để người ta chửi cho đấy?
Nói xong Tập Nhân đứng dậy vào trong nhà lấy một lọ dầu móc hoa, trứng gà, xà phòng thơm, dây buộc tóc, gọi bà già đến bảo:
– Bà mang cho Phương Quan, dặn nó lấy nước khác mà gội, đừng làm ồn lên nữa.
Mẹ nuôi Phương Quan càng xấu hổ nói:
– Đồ bội bạc! Cứ bảo tao ăn bớt tiền của mày! – Rồi đánh nó mấy cái.
Phương Quan khóc ầm lên, Bảo Ngọc chạy ra, Tập Nhân vội ngăn lại:
– Cậu ra làm gì? Để tôi đi bảo mụ ấy.
Tình Văn vội chạy ra, trỏ vào mẹ nuôi Phương Quan nói:
– Bà già mà không biết điều! Bà không cho nó nước gội đầu, chúng tôi mới phải cho nó. Bà không biết xấu hổ, lại còn vác mặt đi đánh nó, nó còn học nghề ở ban hát liệu bà có dám đánh nó không?
– Một ngày nhận mẹ là nghĩa suốt đời. Nó hỗn láo, tôi đánh nó đấy!
Tập Nhân gọi Xạ Nguyệt bảo:
– Tôi không quen cãi nhau với ai. Tình Văn nóng tính quá. Chị ra đe mẹ ấy mấy câu.
Xạ Nguyệt chạy ra nói:
– Bà hãy im đi. Tôi hỏi bà: không riêng chỗ chúng tôi ở đây, mà cả trong vườn này, bà xem có ai dám mắng mỏ con cái ở trong nhà chủ không? Dù là con đẻ của bà nữa, đã cho đi ở các phòng, phạm lỗi gì, đã có người chủ đánh mắng. Sau nữa có các cô, các chị lớn tuổi mới đánh mắng được thôi, ai cho phép bà ở ngoài đến sấn sổ vào những việc không đâu? Nếu bà còn làm thế, thì bảo chúng nó đến đây học chúng tôi cái gì? Càng già càng vô phép! Hôm nọ bà thấy mẹ Trụy Nhi đến làm ầm lên, giờ bà cũng lại định học mụ ấy phỏng? Các bà hãy bình tâm. Mấy hôm nay, người nọ Ốm, người kia ốm, cụ lại bận việc, nên tôi chưa đi trình được thôi. Chờ ít lâu, tôi sẽ trình hết, để các bà nhụt bớt cái lối hung hăng đi mới được! Vả lại, cậu Bảo ốm mới khỏi, chúng tôi cũng chẳng dám nói to, bà lại dám đánh người, để nó tru tréo lên thế! Chủ mới đi khỏi nhà có mấy ngày, các bà đã coi trời bằng vung, mắt không coi ai ra gì cả! Có lẽ sau này các bà đánh cả chúng tôi đấy! Nó cũng không cần gì hạng mẹ nuôi như thế đâu! Không có bà thì nó bị đống rác mục vùi đi mất hay sao?
– Bọn bà già này đều là ruột đồng gan sắt cả. Thật là việc lạ. Đã không trông nom lại còn hành hạ chúng nó. Trời đất cứ mãi thế này thì biết làm sao được?
Tình Văn nói:
– Biết làm cái gì? Cứ tống cổ cả đi, không cần cái hạng bánh vẽ ấy là được.
Bà già này xấu hổ quá, không nói lại câu nào. Phương Quan thì mặc cái áo bông cánh màu hoa hải đường, cái quần rộng ống bằng lụa xanh chấm hoa, tóc đen nhánh rủ ra đằng sau, đứng khóc sướt mướt như người tắm nước mắt vậy.
Xạ Nguyệt cười nói:
– Làm cho cô Oanh Oanh trở thành chị Hồng Nương vừa mới bị đòn. Không đi ăn mặc cho tử tế, lại để thế à?
Tình Văn chạy lại kéo Phương Quan đi gội đầu, rồi vắt lau khô, bới tóc lên, sau đó bảo nó mặc quần áo và dẫn về bên này.
Ngay sau đó, bà già ở nhà bếp lên hỏi:
– Cơm chiều có rồi, đã mang lên được chưa?
Đứa hầu nhỏ nghe đoạn, vào hỏi Tập Nhân. Tập Nhân cười nói:
– Vừa rồi cãi nhau ầm ĩ, không để ý là mấy giờ rồi.
Tình Văn nói:
– Cái quái ấy không biết giở chứng gì, lại phải đem đi sửa thôi!
Nói xong lấy đồng hồ ra xem và bảo:
– Chờ một tý nữa thì vừa đấy.
Rồi đứa hầu nhỏ đi ra.
Xạ Nguyệt cười nói:
– Nhắc đến chuyện nghịch, lại muốn đánh cho Phương Quan mấy cái. Hôm qua chính nó cứ táy máy cái quả lắc mãi, nên đồng hồ mới không chạy được.
Đương nói chuyện thì đồ ăn đã sửa soạn xong.
Một lúc đứa hầu nhỏ bưng cái hộp lên đứng đấy, Tình Văn, Xạ Nguyệt mở ra xem, vẫn là bốn món ăn thường.
Tình Văn cười nói:
– Đã khỏi rồi mà vẫn cho ăn mấy món thanh đạm! Cứ cháo với dưa muối mãi đến bao giờ!
Nhìn thấy trong hộp còn một bát canh thịt lợn nướng nấu với măng tươi, Tình Văn vội bày ở trước mặt Bảo Ngọc. Bảo Ngọc đến bàn húp một húp, nói:
– Canh ngon lắm!
Mọi người đều cười:
– Phật sống ơi! Đã mấy hôm nay không trông thấy đồ ăn mặn. Chẳng trách mà thèm như thế!
Vừa nói họ vừa bưng bát canh lên khẽ thổi. Thấy Phương Quan đứng ở bên cạnh, họ đưa cho nó, bảo:
– Mày cũng tập hầu đi, đừng ngớ ngẩn thế nữa. Khẽ thổi thôi, đừng cho nước dãi bắn vào.
Phương Quan nghe lời, thổi mấy cái rất nhẹ nhàng. Mẹ nuôi nó bưng cơm đứng chực ở cửa ngoài. Trước khi Phương Quan mới đến, bà ta đã nhận nhau từ bên ngoài, rồi cùng vào viện Lê Hương. Bà này là người hầu hạng ba ở phủ Vinh, chẳng qua chỉ làm việc giặt giũ, chưa được vào trong các phòng bao giờ, nên chưa biết khuôn phép. Nay mới được vào trong vườn, theo bọn con gái về các buồng. Ngay lúc đầu bà ta bị Xạ Nguyệt làm cho một trận, đã biết thân biết phận phần nào. Bà ta rất lo Phương Quan không nhận làm mẹ nuôi, sẽ có nhiều chỗ không lợi, nên trong lòng muốn mua chuộc bọn này. Thấy Phương Quan thổi canh, bà ta chạy vào cười nói:
– Nó chưa thạo, coi chừng đánh vỡ bát, để tôi thổi cho.
Vừa nói vừa bưng lấy. Tình Văn quát to:
– Ra mau! Nó có đánh vỡ bát nữa cũng chưa đến lượt bà thổi! Sao bà vô cớ được chạy vào trong buồng này? – Rồi lại mắng bọn a hoàn nhỏ – Chúng mày mù à! Bà ấy không biết thì phải bảo chứ!
Bọn a hoàn nhỏ đều nói:
– Chúng tôi nói, bà ấy không tin, đuổi bà ấy cũng không ra, thành ra chúng tôi bị mắng lây, nghĩ thật bực! Bà đã biết chưa? Chỗ chúng tôi vào được thì bà cũng chỉ được đến nửa chừng thôi, không thể vào hẳn nơi đó. Huống chi bà lại lần cả vào những chỗ chúng tôi không được vào. Việc ấy đã đành, bà lại còn dám giơ tay đỡ lấy bát cháo, thò mồm vào thổi nữa.
Vừa nói vừa đẩy mụ ấy ra. Mấy bà già chờ dưới thềm đón lấy hộp không, thấy mụ ấy đi ra, đều cười nói:
– Bà chị chưa lấy gương soi mặt mà đã đi vào à?
Mụ ấy xấu hổ đâm ra tức giận, nhưng đành phải nín nhịn đi ra.
Phương Quan thổi mấy cái, Bảo Ngọc cười nói:
– Mày thử nếm xem đã vừa ăn chưa?
Phương Quan cho là nói đùa, cứ cười nhìn bọn Tập Nhân. Tập Nhân nói:
– Em cứ nếm một tí có việc gì đâu?
Tình Văn nói:
– Xem ta nếm đây này.
Nói xong liền húp một miếng. Phương Quan thấy thế cũng húp một miếng rồi nói: “Được rồi!” Liền đưa lên B Ngọc húp hết nửa bát, ăn mấy miếng măng và nửa bát cháo, thế là xong bữa. Mọi người dọn dẹp mang ra. Bọn hầu nhỏ bưng chậu nước vào, súc miệng, rửa mặt xong, bọn Tập Nhân mới đi ăn cơm.
Bảo Ngọc đưa mắt liếc Phương Quan. Phương Quan vốn tính khôn, lại học hát mấy năm, việc gì mà nó chẳng hiểu? Nó giả cách đau bụng không ăn cơm.
Tập Nhân nói:
– Đã không ăn cơm thì ở lại đây hầu. Để phần cháo cho đấy, lúc nào đói thì ăn.
Nói xong rồi đi ra.
Bảo Ngọc đem việc gặp Ngẫu Quan vừa rồi, mình bịa ra để che lỗi cho nó thế nào, và Ngẫu Quan bảo về hỏi Phương Quan thế nào, kể lại một lượt cho nó nghe, lại hỏi:
– Nó tế ai đấy?
Phương Quan mắt đỏ hoe, thở dài nói:
– Việc này nói ra thì chị Ngẫu Quan cũng vớ vẩn quá!
– Thế nào?
– Chị ấy tế chị Dược Quan mới chết đấy!
– Hai người là bạn với nhau thì tế cũng phải.
– Có phải bạn bè gì đâu? Chẳng qua nghĩ vớ vẩn đấy thôi. Chị ấy đóng vai học trò. Dược Quan đóng vai hề. Hai người thường làm vợ chồng, hằng ngày lên hát, ra bộ thân mật với nhau, lần này lần khác, chúng nó vớ vẩn y như vợ chồng thật. Sau thành ra thương yêu nhau. Khi Dược Quan chết, chị ấy khóc lóc chết đi sống lại, đến nay cũng vẫn chưa quên, vì thế cứ đến ngày Tết là đốt vàng cho Dược Quan. Sau này Nhụy Quan bù vào vai ấy, chúng tôi thấy chị ấy lại thân mật như Dược Quan ngày trước, liền hỏi. – Tại sao có người mới đã quên ngay người cũ? Chị ấy nói: “Không phải quên đâu. Cũng như người đàn ông góa vợ, sau khi lấy vợ khác, nhưng vẫn giữ mối tình chung thủy không bao giờ quên hẳn người vợ đã chết. Nếu vì người chết mà giữ tiết ở lại trọn đời, không lấy người khác, như vậy không đúng, người chết sẽ băn khoăn”. Cậu xem chị ấy nói thế có phải điên ngốc đáng cười hay không?
Bảo Ngọc nghe những câu chuyện ngốc ấy, hợp với tính ngốc của mình, đâm ra vừa mừng vừa thương, cho là chuyện lạ, nói:
– Trời đã sinh ra những người như vậy, còn cần gì đến ta là hạng râu mày ô trọc làm nhơ nhuốc cả cõi trần – Nhân lại kéo Phương Quan dặn:
– Đã vậy tôi có một câu dặn cộ Nếu tôi gặp thẳng Ngẫu Quan, tất sẽ không tiện, nên nhờ cô nói giúp.
Phương Quan hỏi việc gì. Bảo Ngọc nói:
– Từ nay không nên đốt giấy tiền nữa. Giấy tiền là dị đoan của người sau đặt ra, chứ không phải lời dạy của Khổng Tử. Sau này hễ gặp ngày tết thì chỉ thắp một lò hương, lòng thành tâm niệm, tự nhiên sẽ cảm ứng. Hạng người ngu xuẩn có biết đâu, bất kỳ thần phật hoặc người chết, họ đều chia ra thứ bậc, thế nọ thế kia, có biết đâu cốt lấy “lòng thành” làm chủ. Ngay những ngày loạn ly hốt hoảng, hương khói không có, gặp đống đất, đống cỏ nào sạch sẽ là tế cũng được. Không những người chết đến hưởng, mà cả quỷ thần cũng hưởng. Cô xem trên bàn của tôi vẫn đặt cái lư hương, tôi có tâm sự gì, không cứ ngày nào, thường thường thắp hương; có chè mới cúng một chén chè, có nước trong cúng chén nước, hoặc có hoa quả mới, hoặc đồ chay đồ mặn cũng đem lên cúng. Chỉ cốt ở lòng thành, thần phật sẽ lại hưởng. Cho nên nói: cốt ở lòng kính, không ở nghi tiết hão huyền. Từ nay nhớ bảo cô ấy không nên đốt giấy tiền nữa.
Phương Quan nghe nói, vâng lời.
Một lúc, ăn cơm xong, có người về trình: cụ và bà Hai đã về.
1 Người dạy.
2 Học trò Khổng tử, ông biết nghe hiểu tiếng chim.
Nghe nói cụ đã về, Bảo Ngọc liền mặc thêm quần áo chống gậy sang thăm. Giả mẫu bấy nay vất vả, cần phải nghỉ sớm để đến canh năm hôm sau lại vào chầu.
Gần đến ngày đưa ma, Uyên Ương, Hổ Phách, Phỉ Thúy, Pha Ly, đều bận sắn sửa đồ vật cho Giả mẫu; Ngọc Xuyến, Thái Vân, Thái Hà thì sắm sửa đồ vật cho Vương phu nhân, rồi giao tay cho bọn đàn bà giữ việc mang đi. Tất cả sáu a hoàn và mười bà già theo hầu, không kể đàn ông. Sưốt ngày sắm sửa xe kiệu và hành nghị Uyên Ương, Ngọc Xuyến ở lại trông nhà. Trước mấy hôm đã sắp sẵn chăn màn và đồ bài trí, giao cho bốn, năm người đàn bà cùng mấy người đàn ông ngồi xe mang đến bầy sẵn ở nhà trọ.
Đến ngày ấy, Giả mẫu dẫn vợ Giả Dung ngồi một kiệu, Vương phu nhân ngồi một kiệu theo sau, Giả Trân cưỡi ngựa dẫn bọn gia đinh đi hộ vệ. Lại có mấy cái xe lớn cho bọn bà già, a hoàn ngồi, và để mấy bọc quần áo thường dùng. Tiết phu nhân cùng Vưu thị dẫn mọi người tiễn ra đến cổng ngoài rồi mới về.
Giá Liễn sợ đi đường có sự gì không tiện, liền sắm sửa cho bố mẹ hắn đi theo kịp kiệu Giả mẫu và Vương phu nhân, còn mình cũng đem người nhà theo sau hộ vệ.
Trong phủ Vinh, Lại Đại cắt thêm người canh đêm, đóng hết các cửa nhà ngoài ở hai phủ, chỉ để cái cửa nhỏ ở phía tây cho mọi người ra vào. Chiều đến, đóng cửa nghi môn, các cửa nách đông, tây sau trước trong vườn đều khóa cả, chỉ mở một cái cửa sau phòng Vương phu nhân là nơi các chị em thường ra vào, và cửa đông thông sang nhà Tiết phu nhân thôi. Vì hai cửa này đều ở trong nhà không cần phải khóa. Bên trong thì Uyên Ương cùng Ngọc Xuyến đóng cửa buồng trên lại, rồi dẫn bọn a hoàn và bà già xuống ngủ ở buồng dưới. Đêm nào vợ Lâm Chí Hiếu cũng dẫn độ mười bà già lên canh, trong xuyên đường lại có thêm nhiều người hầu cầm canh. Công việc xếp đặt ổn thỏa đâu vào đấy cả.
Một buổi sáng, Bảo Thoa ngủ dậy vén màn bước xuống giường, thấy người hơi lạnh, mở cửa nhìn ra sân thấy đất ướt rêu xanh, vì lúc canh năm có mưa lấm tấm. Bảo Thoa gọi Tương Vân dậy. Rửa mặt chải đầu xong, Tương Vân nói:
– Hai má thấy ngứa, có lẽ bị rôm đây.
Liền hỏi Bảo Thoa lấy một ít bột tường vi để xoa. Bảo Thoa nói:
– Hôm nọ còn thừa, cho cả em Cầm rồi, ở bên cô Tần có nhiều, tôi cũng muốn xin một ít, nhưng năm nay không ngứa, nên quên mất.
Rồi sai Oanh Nhi đi xin. Oanh Nhi sắp đi thì Nhụy Quan nói:
– Tôi cùng đi với chị, nhân tiện đến thăm Ngẫu Quan một thể.
Hai người đi ra khỏi Hành Vu Uyển.
Trên đường họ nói chuyện cười đùa, bất giác đã đến bến Liễu Diệp, theo bên bờ rặng liễu, thấy lá mới điểm xanh, dây tơ vàng rũ, Oanh Nhi cười hỏi Nhụy Quan:
– Chị có biết đan đồ bằng dây liễu không?
– Đan cái gì?
– Đan cái gì chẳng được? Đồ chơi, đồ dùng đều được cả. Tôi sẽ ngắt một ít để nguyên lá, đan một cái lẵng, rồi cắm ít hoa chơi cho thích.
Oanh Nhi chưa đi lấy bột xoa vội, giơ tay bẻ rất nhiều cành liễu non, bảo Nhụy Quan cầm, rồi vừa đi vừa đan lẵng hoa. Đi đường thấy hoa, cũng bẻ mấy cành đan thành một cái lẵng hoa có quai xách rất khéo. Trên cành có nhiều lá xanh, để hoa lên trông lại càng đẹp.
Nhụy Quan thích quá cười nói:
– Chị cho tôi nhé!
– Cái này đem biếu cô Lâm, khi về chúng ta sẽ bẻ nhiều để đan mấy cái nữa cùng chơi.
Nói xong đi đến quán Tiêu Tương.
Đại Ngọc đương lúc trang điểm buổi sáng, trông thấy lẵng hoa cười nói:
– Ai đan cái lẵng này mà đẹp thế?
Oanh Nhi nói:
– Cháu đan đem biếu cô đấy.
Đại Ngọc cầm lấy, cười nói:
– Không trách, ai cũng khen chị khéo tay, cái này trông rất nhã.
Vừa xem vừa bảo Tử Quyên treo vào nhà trong.
Oanh Nhi vào hỏi thăm Tiết phu nhân rồi mới xin bột xoa, Đại Ngọc sai Tử Quyên gói một gói đưa cho Oanh Nhi, nói:
– Tôi đã đỡ rồi, hôm nay muốn đi ra ngoài chơi. Chị về thưa với chị Bảo không phải đến thăm tôi, cũng không dám phiền chị ấy đến thăm mẹ nữa. Tôi gội đầu xong, sẽ cùng mẹ sang bên ấy ăn cơm cho vui.
Oanh Nhi vâng lời đi ra, đến buồng Tử Quyên tìm Nhụy Quan. Thấy Nhụy Quan và Ngẫu Quan đương mải nói chuyện không rời nhau ra được. Oanh Nhi cười nói:
– Cô Lâm cũng đi đấy. Chị Ngẫu Quan sang trước với tôi, chờ ở bên ấy, chẳng hơn à?
Tử Quyên nói:
– Phải đấy, ở nhà, nó cứ nghịch ngợm khó chịu lắm.
Vừa nói vừa lấy cái khăn, gói thìa đũa của Đại Ngọc đưa cho Ngẫu Quan, bảo:
– Mày hãy mang cái này đi trước, thế cũng là một chuyện sai đấy.
Ngẫu Quan cầm lấy, cười hì hì, cùng Oanh Nhi và Nhụy Quan theo bờ rặng liễu đi về. Oanh Nhi lại bẻ ít dây liễu, ngồi ngay trên hòn đá đan lẵng hoa, sai Nhụy Quan mang bột về trước. Nhưng hai đứa thích xem đan, khi nào chịu bỏ đỉ Oanh Nhi cứ giục:
– Các chị không đi thì tôi không đan nữa.
Ngẫu Quan liền bảo Nhụy Quan:
– Tao đi với mày xong rồi sẽ trở lại.
Oanh Nhi đang đan thì con gái già Hà là Xuân Yến đến, cười hỏi:
– Chị đan gì đấy?
Nhụy Quan, Ngẫu Quan cũng đến.
Xuân Yến nói với Ngẫu Quan:
– Hôm nọ chị đốt giấy gì để cho dì tôi trông thấy thế? Dì tôi định đi trình, bị cậu Bảo dọa cho mấy câu, dì ấy tức giận, đem kể hết với mẹ tôi. Các người ở bên ngoài hai, ba năm, chứa chất những mối thù hằn gì đến bây giờ vẫn chưa gỡ ra?
Ngẫu Quan cười nhạt:
– Có thù hằn gì? Họ không biết thế nào là đủ, lại còn oán chúng tôi! Ở bên ngoài hai năm nay, không biết đã vớ của chúng tôi bao nhiêu thứ rồi. Chị thử xem có đúng thế không?
Xuân Yến cũng cười nói:
– Bà ấy là dì tôi nên không tiện nói ra. Chẳng trách cậu Bảo thường nói: “Khi con gái chưa đi lấy chồng, khác nào một hạt châu rất quý; lấy chồng rồi, không hiểu sao lại sinh ra rất nhiều tật xấu. Dù vẫn là hạt châu đấy, nhưng đã trở thành hạt châu chết, phai mờ ánh sáng; đến già thì không phải là hạt châu, mà là mắt cá đấy! Cũng là một người, saolại hóa ra ba dạng như thế?” Tuy là nói nhảm, nhưng nghĩ kỹ thì rất đúng. Người ta không biết, cứ bảo mẹ tôi và dì tôi, hai chị em giờ càng già càng thích tiền. Lúc trước ở nhà các bà ấy cứ oán là không có công ăn việc làm. Nhờ có cái vườn này tôi được gọi vào làm, lại may mắn được cắt vào hầu ở viện Di Hồng. Ở nhà không những đã đỡ một miệng ăn, hàng tháng lại thừa được bốn, năm trăm đồng tiền, thế mà vẫn không đủ. Về sau cả hai chị em bà ấy được cắt vào trông nom viện Lê Hương, Ngẫu Quan nhận dì tôi, Phương Quan nhận mẹ tôi làm mẹ nuôi, mấy năm nay thực ra cũng dễ chịu. Bây giờ vào ở trong này, mỗi người một nơi, nhưng lòng tham vẫn chưa chán. Chị xem thế có đáng buồn cười không. Sau đó dì tôi cãi nhau với Ngẫu Quan, mẹ tôi cãi nhau với Phương Quan một trận. Vì Phương Quan muốn gội đầu, mẹ tôi không chọ Hôm qua khi lĩnh tiền lương tháng về, ai đẩy mẹ tôi cũng chả chịu đi. Mua các thứ gội đầu thì lại chỉ dành riêng cho tôi. Tôi nghĩ: Dù mình có tiền hay không, muốn gội, chỉ nói một tiếng với chị Tập Nhân, Tình Văn, Xạ Nguyệt là được, cần gì phải nhờ như vậy cho bẽ mặt. Vì thế tôi không gội. Sau đó mẹ tôi gọi em tôi gội rồi mới đến Phương Quan, nên mới xảy ra chuyện cãi nhau. Rồi lại chực thổi canh cho cậu Bảo. Chị xem có đáng tức cười không? Khi mẹ tôi mới vào đây, tôi đã nói rõ cả khuôn phép nhà này rồi, mẹ tôi không tin, cứ ra điều ta biết đây, chỉ chuốc lấy bẽ mặt thôi. May mà trong vườn nhiều người, không nhớ rõ ai là thân thuộc với ai, nếu có người nhớ ra, họ còn coi nhà tôi ra gì nữa. Bây giờ chị lại còn ngồi đan cái này. Chị nên biết bao nhiêu những thứ ở đây đều do dì tôi trông nom cả, từ khi được mảnh đất này, dì tôi giữ nó hơn là giữ cơ nghiệp của riêng mình, ngày nào cũng thức khuya dậy sớm, tự mình vất vả đã đành, lại bắt chúng tôi phải đến trông nom, chỉ sợ người ta phá phách. Nhưng nếu tôi trông nom thì lại sợ làm lỡ công việc của tôi. Bây giờ hai chị em bà ấy trông nom cẩn thận lắm, từ một ngọn cỏ cũng không cho ai động đến, thế mà chị lại ngắt những hoa đẹp, bẻ những cành non thế này, các bà ấy đến đây trông thấy, sẽ oán chị đến chết đấy.
Oanh Nhi nói:
– Người khác bẻ thì không được, chứ tôi bẻ thì được. Từ khi chia đất cho các bà ấy, hàng ngày chưa kể số hoa đưa về các phòng, chỉ riêng những hoa để chơi thôi, ai trông nom thứ gì, phải hái một ít đưa đến cho các cô và a hoàn dùng, còn hoa cắm lọ nữa là đằng khác. Nhưng cô tôi nói: không phải đưa gì cả, khi nào cần sẽ lấy. Rút cục vẫn chưa lấy qua lần nào. Bây giờ tôi có ngắt một ít, các bà ấy cũng chẳng nói vào đâu được.
Chưa nói dứt lời, bà dì Xuân Yến đã chống gậy đến, Oanh Nhi và Xuân Yến mời ngồi. Thấy Oanh Nhi bẻ nhiều liễu non, bọn Ngẫu Quan hái nhiều hoa tươi, bà ta rất là khó chịu, nhưng nhìn cái lẵng đan lại không tiện nói ra, liền bảo Xuân Yến:
– Tao bảo mày đi trông, mày cứ ham chơi không chịu đi. Có ai gọi đến, mày lại bảo là tao sai mày. Lấy tao làm bung xung để mày được vui chơi cho thích phải không?
Xuân Yến nói:
– Dì vừa được sai tôi, lại vừa lo sợ, bây giờ còn mắng tôi. Chẳng lẽ đem chia tôi ra làm mấy mảnh?
Oanh Nhi cười nói:
– Bà đừng tin lời con bé Yến, chính nó bẻ và nhờ tôi đan hộ đấy. Tôi đuổi nó chẳng đi.
Xuân Yến cười nói:
– Chị đừng nói đùa, kẻo dì tôi lại cho là thật đấy!
Bà này vốn người ngu xuẩn, lại thêm tuổi già mê muội, chỉ biết hám lợi không nể nang gì ai cả. Bà ta đang xót ruột, nhưng không làm thế nào được, nay thấy Oanh Nhi nói, liền cậy già, cầm gậy đánh Xuân Yến mấy cái và mắng:
– Con ranh con này! Tao bảo mày, mày lại còn nỏ mồm! Mẹ mày giận mày lắm, đang nghiến răng, nghiến lợi, muốn xé xác mày ra đấy! Mày lại định đánh song đánh nga với tao phải không?
Xuân Yến bị đánh vừa tức vừa xấu hổ, khóc nói:
– Chị Oanh nói đùa dì tưởng thực lại đánh tôi! Tại sao mẹ tôi giận tôi? Tôi có làm điều gì nhầm lỗi “Lấy râu nọ cắm cằm kia đâu?”
Oanh Nhi chỉ định nói đùa, không ngờ bà già tưởng thực nổi giận, liền đứng dậy ngăn lại cười nói:
– Tôi vừa mới nói đùa, bà lại đánh chị ấy, như thế không phải là làm bẽ mặt tôi hay sao?
Bà già nói:
– Cô đừng sấn sồ vào việc của chúng tôi, không nhẽ vì có cô ở đây mà chúng tôi không được phép dạy con cháu hay sao?
Nghe thấy những câu ngu xuẩn ấy, Oanh Nhi tức đỏ mặt lên, buông tay xuống, cười nhạt:
– Bà muốn dạy nó lúc nào chẳng được? Tôi mới nói đùa một câu mà bà đã làm như thế! Đấy bà cứ việc dạy đi!
Nói xong liền ngồi xuống đan lẵng hoa.
Ngay lúc ấy mẹ Xuân Yến đến quát mắng:
– Mày không đi múc nước, còn đứng đấy làm gì?
Bà già kia nói theo:
– Chị đến mà xem? Con gái chị chẳng coi tôi ra gì, đang cãi lại tôi đấy!
Mẹ Xuân Yến chạy đến hỏi:
– Làm sao thế dì? Con bé này không coi mẹ ra gì đã đành, lại còn dám khinh thường cả dì mày nữa à?
Oanh Nhi liền kể rõ đầu đuôi cho bà ta nghe. Nhưng dì nó có để cho nói đâu, cứ cầm hoa và cành liễu ở trên hòn đá đưa cho mẹ nó xem và nói:
– Chị xem con chị đấy! Lớn như thế mà còn mang người đến làm hại tôi, bảo tôi nói ai được.
Mẹ Xuân Yến vẫn còn tức về việc Phương Quan, lại giận Xuân Yến không làm được vừa lòng mình, liền chạy đến tát nó một cái và mắng:
– Con đĩ này, mày mới lên thớ được bao lâu, đã lại theo đòi những gái lẳng lơ tệ bạc. Tao không dạy được chúng mày phỏng? Con nuôi tao không dạy được chứ con đẻ chẳng lẽ tao cũng không dám dạy hay sao? Tao tưởng bọn ranh con chúng mày đã vào được những nơi chúng tao không được vào, thì cứ ở đấy mà hầu hạ cho đến chết, lại còn ra đây mà đi theo trai à?
– Cái này là của tôi đan đấy, bà đừng có giở lối chửi mèo quèo chó!
Bà già này rất ghét bọn Tập Nhân, Tình Văn, vì biết những a hoàn lớn trong nhà đều có quyền thế và thể diện hơn, nên chỉ nể mặt bề ngoài, nhưng trong lòng vẫn bực tức, đâm ra giận lây cả người khác. Nay thấy Ngẫu Quan lại là kẻ thù của chị mình, nên càng sinh bực tức thêm.
Xuân Yến khóc chạy về viện Di Hồng. Mẹ nó sợ bọn Tình Văn hỏi, nó kể cả ra, mình sẽ bị mắng, nên chạy theo gọi với:
– Mày trở lại đây! Tao bảo đã rồi hãy đi.
Xuân Yến khi nào chịu trở lại. Mẹ nó tức quá, vội chạy theo. Xuân Yến quay lại trông thấy, liền chạy biến đi. Mẹ nó cứ cố đuổi không ngờ bị trượt rêu ngã, làm cho bọn Oanh Nhi cười ầm lên. Oanh Nhi tức quá vất cả hoa và cành liễu xuống sông, rồi đi về nhà. Bà già này tiếc đứt ruột chỉ niệm phật, rồi mắng:
– Con ranh tai ác này! Làm hại bao nhiêu là hoa. Thiên lôi thế nào cũng đánh mày!
Rồi hái hoa đưa đi các phòng.
Xuân Yến chạy thẳng về nhà, gặp Tập Nhân đi thăm Đại Ngọc, liền ôm chầm lấy và nói:
– Cô cứu tôi với mẹ tôi đánh tôi đấy.
Tập Nhân thấy mẹ nó đến, liền nổi giận nói:
– Ba ngày nay bà đánh hết con nuôi đến con đẻ, có phải bà định khoe nhiều con đấy không? Bà không coi phép tắc ra gì cả?
Bà già này mới đến mấy ngày, thấy Tập Nhân không hay nói, cho là tốt nết, liền nói:
– Cô không biết, đừng nên động chạm đến việc của chúng tôi. Chỉ tại các cô nuông chiều nó đấy.
Tập Nhân tức quá ngoắt trở lại, Xạ Nguyệt đương phơi khăn ở dưới cây hải đường, nghe ồn ào, liền nói:
– Chị cứ mặc kệ, xem mụ ấy làm trò gì!
Rồi đưa mất cho Xuân Yến, Xuân Yến hiểu ý, chạy thẳng đến chỗ Bảo Ngọc. Mọi người đều cười nói: “Thật là việc xưa nay chưa từng có bao giờ”.
Xạ Nguyệt nói với bà già:
– Bà hãy bớt giận đi. Chẳng lẽ những người ở đây nói với bà không đắt lời hay sao.
Thấy Xuân Yến chạy đến bên cạnh. Bảo Ngọc cầm lấy tay nó, nói:
– Chị đừng sợ, đã có tôi đây!
Xuân Yến khóc, kể lại việc bọn Oanh Nhi vừa rồi. Bảo Ngọc cáu nói:
– Chị cứ ở trong này chơi, việc gì lại mang lỗi cả với họ hàng nữa.
Xạ Nguyệt nói với bà già và mọi người:
– Chả trách bà già này bảo chúng tôi không được động chạm vào việc của họ. Chúng tôi không biết, nhầm to rồi. Bây giờ mời một người khác có thể động chạm được, chắc bà ấy mới phục và mới biết phép tắc!
Liền quay lại bảo đứa hầu nhỏ:
– Mày đi gọi chị Bình đến đây, nếu chị ấy bận thì gọi già Lâm.
Đứa hầu nhỏ vâng lời đi ngaỵ Bọn đàn bà đều cười nói:
– Bà nên xin ngay với các cô cho gọi em bé lại. Cô Bình mà đến thì không hay đấy!
Bà già nói:
– Dù cô nào đến chăng nữa cũng phải có lý có lẽ, không khi nào mẹ dạy con mà người khác lại cấm đoán được.
Mọi người cười nói:
– Bà có biết cô Bình nào không? Chính cô Bình ở nhà mợ Hai đấy! Tử tế ra cô ấy chỉ mắng mấy câu thôi, nếu cô ấy đã đổi nét mặt thì bà liệu cuốn gói sớm.
Một lúc đứa hầu nhỏ về trình:
– Cô Bình đương bận, hỏi tôi có việc gì, tôi kể lại, cô ấy bảo: “Hãy tống cổ mụ ấy ra, bảo già Lâm lôi sang cửa bên cạnh đánh cho bốn mươi roi là xong”.
Bà này thấy vậy sợ quá, khóc sướt mướt, van xin Tập nhân: “Vất vả mãi tôi mới được vào đây. Vả chăng tôi là đàn bà góa, trong nhà không có ai, chỉ muốn một lòng hầu hạ các cô trong này, sẽ không lo lắng gì, các cô cũng tiện, nhà chúng tôi cũng đỡ lọ Nếu tôi phải bỏ chỗ này, tự đi tìm kiếm sinh nhai, chưa chắc đã đủ sống.”
Tập Nhân thấy thế, dịu lòng nói:
– Bà muốn ở đây mà lại không biết giữ phép tắc, không biết nghe lời, dám đánh bậy, đâu lại có hạng người như bà không hiểu gì cả. Ngày nào cũng om sòm, làm mất cả thể thống, để người ta cười cho.
Tình Văn nói:
– Mặc kệ mụ ấy, cứ tống cổ đi là xong. Hơi đâu nói mãi.
Bà già này lại van xin mọi người:
– Tôi dù có lỗi, nhờ các cô dạy bảo, từ nay tôi xin chừa. Như thế chả phải là các cô đã để lại âm đức hay sao?
Rồi lại nói với Xuân Yến:
– Chưa đánh được con, mẹ đã phải chịu tội. Con ơi! Xin hộ mẹ đi!
Bảo Ngọc thấy thế thương hại, liền cho ở lại và bảo:
– Không được làm ầm lên nữa! Nếu còn thế thì nhất định đánh đuổi đi.
Chợt Bình Nhi chạy đến hỏi là việc gì. Tập Nhân nói:
– Thôi xong rồi, nhắc đến làm gì nữa.
Bình Nhi cười nói:
– “Chỗ tha người được cứ nên tha”. Ta hãy bỏ qua đi cho bớt việc. Nhưng nghe đâu những người lớn người nhỏ ở các nhà đều làm bậy cả, hết chỗ nọ đến chỗ kia, làm tôi không biết trông nom chỗ nào cho phải.
Tập Nhân cười nói:
– Tôi cứ tưởng chỉ có bên chúng tôi là họ làm bậy thôi, thế ra còn mấy chỗ nữa à?
Bình Nhi cười nói:
– Thế đã thấm vào đâu. Tôi vừa tính với mợ Trân, ba bốn ngày nay xảy ra tám chín việc rồi. Việc bên chị là việc nhỏ, đáng kể gì, còn những việc tầy trời đáng bực và đáng buồn cười nữa kia.
– Đều là những việc bất ngờ, thật cũng buồn cười. Để mấy hôm nữa tôi sẽ nói với chị, bây giờ chưa có manh mối gì, và tôi cũng không được rỗi.
Nói chưa dứt lời, thấy người gái hầu của Lý Hoàn đến hỏi:
– Chị Bình ở đây à! Mợ chờ chị đấy, sao không thấy chị đến?
Bình Nhi quay ra cười nói:
– Tôi đến đây! Tôi đến đây!
Tập Nhân cười nói:
– Vì mợ chị ta ốm, chị ta khác nào cái bánh thơm, ai cũng muốn giật lấy.
Bình Nhi quay đi ra.
Bảo Ngọc gọi Xuân Yến:
– Chị đi theo mẹ chị, đến đằng cô Bảo, nói lại với Oanh Nhi mấy câu, đừng để chị ấy mếch lòng.
Xuân Yến cùng mẹ đi ra. Bảo Ngọc lại dặn với:
– Không nên nói trước mặt cô Bảo, sợ Oanh Nhi lại bị quở đấy.
Hai mẹ con vâng lời, vừa đi vừa nói chuyện. Xuân Yến nói:
– Ngày thường con khuyên mẹ không nghe. Tội gì lại gây ra chuyện lôi thôi thế?
Mẹ nó cười nói:
– Con ranh này, đi đi thôi! Tục ngữ nói: “Không trải qua việc thì người không khôn được”. Tao đã biết rồi. Mày lại còn vặn tao nữa à?
– Nếu mẹ biết thân biết phận, được ở đây lâu, sẽ có nhiều điều haỵ Con nói cho mẹ biết, cậu Bảo thường nói: Tất cả người hầu trong phủ như bọn chúng con, không cứ ở trong hay ở ngoài, cậu ấy sẽ trình với bà Hai cho về để cha mẹ được quyền gả bán. Mẹ xem việc ấy có hay hay không?
– Chuyện ấy có thực không?
– Ai nói dối làm gì?
Mẹ nó niệm Phật luôn mồm.
Khi đến Hành Vu Uyển, thấy Bảo Thoa, Đại Ngọc và Tiết phu nhân đương ngồi ăn cơm. Oanh Nhi đi pha nước, Xuân Yến cùng mẹ nó lẻn đến trước mặt Oanh Nhi cười nói:
– Lúc nãy có câu sỗ sàng, tôi đến xin lỗi, xin chị đừng giận.
Oanh Nhi cười mời ngồi, rồi đi pha nước. Mẹ con nó nói bận việc, cáo từ ra về. Chợt thấy Nhụy Quan chạy ra gọi:
– Mẹ Ơi! Chị Ơi! Hãy đứng lại đã.- Rồi nó chạy đến đưa cho hai mẹ con một gói.- Đây là bột tường vi đưa cho Phương Quan xoa mặt.
Xuân Yến cười nói:
– Chị cẩn thận quá sợ bên ấy không có cái này à? Sao lại còn mất công gửi cho nó.
Nhụy Quan nói:
– Của chị ấy là của chị ấy, của tôi đưa lại là của tôi. Chị thế nào cũng mang về cho chị ấy!
Xuân Yến đành phải cầm lấy. Hai mẹ con trở về, gặp Giả Hoàn, Giả Tôn cũng vừa đến thăm Bảo Ngọc. Xuân Yến nói với mẹ:
– Để con vào thôi, mẹ không cần phải vào.
Mẹ nó nghe lời, bảo gì nghe thế, không dám cưỡng lại. Xuân Yến đi vào, Bảo Ngọc biết là về trình, liền gật đầu. Xuân Yến biết ý, không nói câu gì, đứng một lát rồi quay ra, đưa mắt cho Phương Quan. Ra đến ngoài, Xuân Yến khẽ nói với Phương Quan về việc Nhụy Quan gửi cho nó gói bột tường vị Bảo Ngọc không có chuyện gì nói với Giả Hoàn và Giả Tôn, liền cười hỏi Phương Quan:
– Tay cầm cái gì đấy?
Phương Quan đưa cho Bảo Ngọc xem và nói:
– Bột tường vi để thoa rôm đấy.
– Chị ấy chu tất quá!
Giả Hoàn nghe nói, nghểnh cổ ra nhìn, ngửi thấy thơm thơm, liền cúi xuống lấy mảnh giấy ở trong ống giày ra cười nói:
– Anh cho em một nửa!
Bảo Ngọc đành phải cho hắn. Phương Quan nghĩ bụng: gói này là của Nhụy Quan tặng mình, không nên cho người khác, liền gạt đi, cười nói:
– Đừng động vào đấy, để tôi đi lấy cho thứ khác.
Bảo Ngọc hiểu ý, liền bảo gói lại và cười nói:
– Đem gói kia lại đây mau.
Phương Quan cầm lấy gói này cất đi, rồi tìm thứ bột của mình thường dùng ở trong hộp ra. Khi mở hộp không thấy gì cả, trong bụng ngờ ngợ: “Sáng ngày còn một ít, sao bây giờ lại hết?” Hỏi mọi người, không ai biết cả, Xạ Nguyệt nói:
– Bây giờ mà còn hỏi đến cái ấy, người trong nhà, ai thiếu lấy dùng đấy thôi. Cô cứ gói một ít bột gì đó cho họ cũng được. Ai biết đâu đấy? Mau cho họ về để chúng mình còn ăn cơm.
Phương Quan nghe nói, liền gói một ít mạt lỵ 1 mang ra. Giả Hoàn trông thấy mừng quá, giơ tay đỡ lấy. Nhưng Phương Quan lại vất lên trên giường. Giả Hoàn đành đến giường cầm lấy giắt vào trong người rồi cáo từ ra về.
Từ ngày Giả Chính đi vắng, Vương phu nhân không ở nhà, Giả Hoàn ngày nào cũng cáo ốm trốn học. Bây giờ được gói bột, hớn hở về tìm Thái Vân. Gặp lúc Thái Vân đương nói chuyện với dì Triệu, Giả Hoàn cười hì hì nói:
– Tôi có gói phấn này tốt lắm, cho chị để xoa mặt. Chị thường nói bột tường vi xoa rôm tốt hơn phấn ngân tiêu mua ở ngoài nhiều. Chị thử xem có phải bột này không?
– Họ cho cậu là người nhà quê, đánh lừa cậu đấy! Thứ này không phải là bột tường vi đâu, chính là phấn mạt lỵ đấy.
Giả Hoàn xem lại, thấy phấn này đỏ hơn, ngửi cũng thơm thơm, cười nói:
– Thứ này cũng tốt đây, chả khác gì hột tường vi đâu, chị giữ lấy mà xoa, dù sao cũng cứ tốt hơn thứ phấn mua ở ngoài.
Thái Vân đành phải cất đi.
Dì Triệu liền nói:
– Khi nào nó chịu cho mày thứ tốt. Ai bảo mày đi xin, trách sao được chúng nó chả trêu đùa. Cứ như tao thì mang vất giả vào mặt chúng nó. Nhân dịp này mày đến mắng cho chúng nó, làm toang hoang ra một mẻ, để cho cả nhà nháo lên, thế mới gọi là báo thù chứ. Mấy tháng sau chả lẽ còn ai bới những chuyện bẩn này ra hỏi mày nữa à? Dù có hỏi, mày cũng có mồm chứ. Bảo Ngọc là anh, mày không dám động đến, chứ những hạng chó mèo ở nhà nó, mày cũng không dám sao?
Giả Hoàn nghe nói chỉ cúi đầu. Thái Vân liền nói:
– Tội gì như vậy! Dù sao cũng nên nhịn đi là phải.
Dì Triệu nói:
– Mặc tao, không can gì đến mày. Cứ vịn lấy cớ này mắng cho bọn con đĩ ấy một trận mới được.
Lại trỏ Giả Hoàn nói:
– Hừ! Đồ khốn nạn hèn nhát, đáng để cho bọn ranh con nó trêu tức! Ngày thường tao mắng mày một câu, hoặc vô ý lấy nhầm cái gì của mày, thì mày đã cứng đầu cứng cổ, nổi gân, trợn mắt, hất hủi tao; bây giờ bị bọn ranh con ấy trêu, mày câm không dám nói. Thế mà lại muốn ngày sau để người trong nhà này phải nể sợ. Mày không có cái tài ấy đâu, tao cũng tức thay cho mày!
Giả Hoàn nghe đoạn, vừa xấu hổ vừa nổi nóng, nhưng không dám đi, chỉ xua tay nói:
– Mẹ biết ăn, biết nói sao lại không dám đi, cứ xui con đi gây chuyện? Nếu họ đến trường mách con phải đòn, mẹ có thương con không? Đã bao lần mẹ xui con đi, khi xảy ra chuyện, con bị đánh đòn mẹ cũng đành phải cúi đầu chịu thôi. Bây giờ lại còn xui con đi cãi nhau với bọn hầu nhỏ! Mẹ không sợ chị Ba, cứ dám đi con mới phục!
Nghe nói như đâm vào ruột, Dì Triệu gào lên:
– Tao đẻ nó ra mà tao phải sợ nó, thì nhà mày còn có thể thống gì?
Vừa nói vừa cầm gói phấn chạy biến vào trong vườn.
Thái Vân ngăn mãi không được, đành phải lánh sang buồng khác. Giả Hoàn cũng lánh ra chơi ngoài cửa nghi môn.
Dì Triệu đỏ mặt tía tai hằm hằm đi vào vườn, mẹ nuôi Ngẫu Quan là già Hạ trông thấy liền hỏi:
– Bà dì đi đâu đấy?
Dì Triệu đập tay nói:
– Bà xem đấy! Bọn hát ranh con mới vào nhà này được ít ngày đã lá mặt lá trái, khinh người nọ, trọng người kia. Người khác tôi không bực, nhưng lại để bọn ranh trêu tức thì còn ra làm sao nữa?
Già Hạ nghe câu nói trúng với ý mình, liền hỏi:
– Việc gì thế?
Dì Triệu kể lại việc chúng khinh rẻ Giả Hoàn, đem cho phấn giả.
Già Hạ nói:
– Bây giờ dì mới biết à? Thế đã thấm vào đâu. Hôm nọ chúng đốt giấy tiền ở đây, cậu Bảo cũng còn bênh đấy. Có những cái người ta chưa mang đến mà nó đã nói ngay là không dùng được, không sạch sẽ, thế thì đốt giấy tiền không kiêng à? Dì thử nghĩ xem, nhà này ngoài bà Hai ra, còn ai bằng dì? Dì không ra tay đấy thôi, chứ dì ra tay, ai lại không sợ? Cứ ý tôi, nhân dịp mấy con ranh này không phải là hạng người trong nhà, dù có gây chuyện với chúng cũng không sao đâu. Hãy cứ lấy hai việc này, làm cho ra nhẽ, tôi sẽ làm chứng chọ Dì có ra oai chuyến này, sau mới trị nổi họ được. Các cô các mợ cũng không nỡ vì bọn đĩ ranh con ấy mà bắt bẻ dì đâu?
Dì Triệu nghe đoạn, càng cho là có lý, liền nói:
– Việc đốt giấy tiền tôi không biết, bà kể rõ cho tôi nghe.
Già Hạ kể ra hết và nói:
– Dì cứ việc nói ra, nếu xảy chuyện gì đã có tôi giúp sức.
Dì Triệu nghe càng đắc ý, đánh bạo vào thẳng viện Di Hồng.
Lúc đó Bảo Ngọc đã sang thăm Đại Ngọc, Phương Quan cùng Tập Nhân đương ăn cơm, thấy dì Triệu đến đều đứng dậy:
– Mời dì xơi cơm. Có việc gì mà vội thế?
Dì Triệu không trả lời, chạy ngay đến vất gói phấn vào mặt Phương Quan, trỏ mắng:
– Con đĩ này! Mày chẳng qua là hạng con đĩ rạc rài, tao bỏ tiền mua mày về để cho học hát. Đứa đầy tớ hạng bét nhà tao cũng còn sang hơn. Thế mà mày lại dám “Nhìn người đặt cỗ” à? Anh Bảo Ngọc đã cho nó rồi, mày còn giữ lại. Người ta xin của mày đấy à? Mày đưa cái này đánh lừa thằng Hoàn, tưởng nó không biết đấy! Hay dở gì thì chúng nó cũng là anh em ruột vớinhau, cũng là chủ cả, mày lại dám khinh nó à?
Phương Quan không chịu nổi, vừa nói vừa khóc:
– Hết bột tường vi rồi, sợ cậu ấy không tin, tôi phải đưa thứ phấn này. Ai bảo phấn này là không tốt? Tôi có học hát, nhưng không phải đi hát ở bên ngoài. Tôi là con gái bé, biết thế nào là đĩ với thõa! Dì không thể mắng được tôi, tôi không phải là người dì mua về. “Con hầu lạy thằng ở”, cũng đều là bọn đầy tớ cả thôi!
Tập Nhân vội kéo nó lại.
– Không được nói bậy.
Dì Triệu tức run người lên, chạy lại tát Phương Quan hai cái. Tập Nhân đứng dậy ngăn:
– Dì không nên trẻ con như nó, để chúng tôi bảo nó cho.
Phương Quan bị đánh hai cái, khi nào chịu thôi. Nó lăn lóc giẫy giụa, khóc ầm lên:
– Dì đánh được tôi à? Lấy gương soi mặt đã rồi hãy đánh người! Dì cứ đánh đi, tôi không thiết sống nữa.
Rồi nó lao vào trong lòng dì Triệu. Mọi người vừa ngăn vừa kéo nó lại.
Tình Văn khẽ kéo Tập Nhân nói:
– Mặc kệ họ, cứ để cho họ đánh nhau xem rồi ra sao. “Xểnh chúa nhà, gà mọc đuôi tôm”, người này đến đánh, người kia đến đánh, cứ mãi thế này thì còn làm ăn sao được!
Những người đi theo dì Triệu đứng bên ngoài, nghe thấy thế trong bụng lấy làm hể hả, đều niệm Phật: “Ai ngờ lại có ngày hôm nay!” Bọn bà già xưa nay tức sẵn Phương Quan, thấy vậy cũng đều lấy làm thích thú.
Ngẫu Quan, Nhụy Quan đương chơi với nhau. Qùy Quan ở với Tương Vân, Đậu Quan ở với Bảo Cầm, được tin, liền đến bảo hai đứa kia:
– Phương Quan bị người ta bắt nạt, chúng ta cũng bẽ mặt, phải đến làm toang hoang một trận mới hả giận được. Bốn đứa còn tính trẻ con, chỉ muốn làm thế nào trả thù cho chị em, chứ đã biết nghĩ xa nghĩ gần gì, liền chạy cả vào viện Di Hồng. Đậu Quan chạy ngay đến lao người vào dì Triệu suýt nữa bị ngã. Ba đứa kia kéo cả đến, kêu khóc ầm lên, chúng tay túm đầu húc, vây chặt lấy dì Triệu. Bọn Tình Văn vừa cười, vừa giả vờ đến gỡ ra. Tập Nhân giằng lấy đứa này thì đứa kia lại chạy mất, liền nói:
– Chúng bay muốn chết cả à! Có điều gì oan ức, cứ nói ra, chứ làm điều trái ngược thế này thì coi sao được!
Dì Triệu không biết làm thế nào, cứ chửi mắng ầm lên.
Ngẫu Quan, Nhụy Quan mỗi đứa nắm lấy một tay; Đậu Quan, Qùy Quan đứng chặn đằng trước đằng sau nói:
– Có giỏi thì đánh chết cả bốn đứa chúng tôi đi!
Phương Quan nằm thẳng đẵng dưới đất, khóc lặng người đi. Đương lúc giằng co thì Tình Văn đã sai Xuân Yến đi trình Thám Xuân. Vưu thị, Lý Hoàn, Thám Xuân dẫn Bình Nhi và mấy người đàn bà đến, mắng át bốn đứa, hỏi nguyên cớ ra sao. Dì Triệu tức quá, phùng má trợn mắt, hút hơi kể lể đầu đuôi. Vưu thị, Lý Hoàn không trả lời, chỉ cản bốn đứa kia.
Thám Xuân thở dài:
– Có việc gì quan hệ đâu! Dì nóng nảy quá. Tôi đương muốn mời dì đến nói một câu chuyện, thảo nào bọn a hoàn về nói, không biết dì ở đâu, té ra lại đến đây sinh chuyện! Thôi mời dì về nhà với tôi.
Vưu thị và Lý Hoàn cũng cười nói:
– Mời dì lên nhà khách, chúng ta bàn bạc.
Dì Triệu không biết làm thế nào, đành theo ba người này về, nhưng miệng vẫn kể lể lôi thôi. Thám Xuân liền nói:
– Bọn trẻ con này vốn hay chơi đùa. Khi thích, dì cười đùa với chúng mấy câu, không thích thì thôi mặc kệ chúng. Chúng có điều gì không đúng, dì chỉ nên xem như con mèo, con chó cắn càn, đáng tha thì tha, không đáng tha thì bảo bọn đàn bà giữ việc quở phạt chúng, tội gì không biết tự trọng mà lại gào thét ầm lên, làm mất cả thể thống. Dì thử xem dì Chu, có ai dám khinh nhờn đâu, mà dì ấy cũng chẳng gây chuyện với ai. Xin dì hãy về nhà dẹp cơn giận lại, đừng nghe kẻ nói bậy xúc xiểm, để cho người ta cười mình là ngu ngốc, chỉ tốn công lo việc vu vơ hão huyền cho người ta thôi. Trong bụng có tức chết đi nữa, dì cũng nên nín nhịn mấy ngày, chờ bà Hai về sẽ liệu.
Dì Triệu nghe vậy lặng thinh không nói lại được, đành phải về nhà.
Thám Xuân bực quá, nói với Lý Hoàn và Vưu Thị:
– Nhiều tuổi như thế mà còn làm những việc không để cho người ta nể! Câu chuyện có ra gì đâu, cũng cãi nhau ồn lên, không biết giữ gìn thể thống! Tai hay nghe nhảm, bụng lại nông nổi, hơi một tý là làm tung lên cho to chuyện. Chắc có đứa đầy tớ đê hèn nào thấy dì ấy ngu ngốc, mới xúi giục để nhờ đó cho hả giận chứ gì?
Thám Xuân càng nghĩ càng tức, sai người dò xem ai xui giục. Bọn đàn bà vâng lời đi ra, nhìn nhau cười nói:
– Mò thế nào được kim ở dưới đáy biển?
Rồi gọi người hầu dì Triệu và những người trong vườn đến hỏi, ai cũng nói là không biết. Họ không làm thế nào được, đành về trình Thám Xuân:
– Tra ngay thì khó, phải thong thả xem đứa nào hay bép xép sẽ về trình để cô quở phạt.
Thám Xuân dần dần nguôi giận. Vừa hay Ngải Quan khẽ đến trình:
– Già Hạ ngày thường không ưa Phương Quan, nên hay bịa chuyện. Hôm nọ đổ cho Ngẫu Quan đốt giấy tiền, may có cậu Bảo nhận cho, già ấy mới không dám nói. Hôm nay tôi đi đưa cái khăn cho cô, gặp già ấy đương thầm thào to nhỏ với dì Triệu một lúc lâu, thấy tôi đến, già ấy mới bỏ đi.
Thám Xuân nghe nói, biết rõ ẩn tình, đoán bọn này cùng về một hùa, tức tối lẫn nhau, nhưng chỉ ậm ừ, cũng chưa cho thế là đúng.
Ngờ đâu cháu ngoại già Hạ là Tiểu Thiền được cắt vào hầu Thám Xuân, thường đi mua hộ các thứ cho bọn a hoàn ở đấy, nên lũ hầu gái đều đối với nó từ tế. Hôm ấy ăn cơm xong, Thám Xuân ngồi ở nhà trên làm việc, Thúy Mặc ở lại trông nhà, bèn sai Tiểu Thiền gọi đứa bé con đi mua bánh.
Tiểu Thiền cười nói:
– Tôi vừa mới quét xong cả cái sân, mỏi chân lắm, chị sai người khác đi vậy.
Thúy Mặc cười nói:
– Tao còn bảo ai nữa? Mày chịu khó đi ngay, tao sẽ nói cho nghe một chuyện rất haỵ Mày đi cửa sau, nhân tiện về nói cho bà mày biết, phải cẩn thận đấy.
Liền đem việc Ngải Quan mách bà nó cho nó nghe.
Tiểu Thiền nhận ngay tiền nói:
– Con ranh con này cũng định bới móc người tạ Để tôi đi mách cho.
Nó đứng dậy đi ra, đến cửa sau, thấy những người ở trong bếp rỗi việc, đều ngồi nói chuyện trên thềm. Già Hạ cũng ở đấy. Tiểu Thiền bảo một bà già đi mua bánh, còn mình thì vừa làu nhàu vừa đem chuyện mới rồi kể cho già Hạ nghe. Già Hạ vừa tức vừa sợ, muốn đi tìm ngay Ngải Quan để hỏi; lại muốn đến kêu oan với Thám Xuân. Tiểu Thiền ngăn lại, nói:
– Bà đến đó định nói thế nào? Tại sao bà biết được chuyện này? Như thế chỉ thêm lúng túng không được đâu. Cháu nói thế để bà liệu chừng, chứ việc gì phải vội thế?
Bỗng thấy Phương Quan đi đến, gõ vào cánh cửa, cười nói với vợ họ Liễu ở trong bếp:
– Thím Liễu ơi, cậu Bảo nói: món ăn bữa chiều hôm nay, làm thứ gì mát mát chua chua, đừng cho dầu thơm vào, ăn thêm ngán thôi.
Thím Liễu cười nói:
– Biết rồi. Hôm nay có cần gì mà lại sai chị đến bảo tôi. Nếu chị không sợ bẩn thì hãy vào đây chơi đã.
Phương Quan đi vào, bỗng thấy một bà già tay cầm một đĩa bánh đến. Phương Quan hỏi đùa:
– Bánh nóng này ai mua thế? Tôi nếm trước một miếng nào.
Tiểu Thiền cầm lấy đĩa bánh nói:
– Của người ta mua đấy. Các chị thì thèm gì thứ này.
Thím Liễu trông thấy cười nói:
– Cô Phương, cô muốn ăn thứ bánh này? Tôi vừa mới mua cho chị cô ăn đấy. Nó chưa ăn, còn cất nguyên ở kia, chưa ai động đến.
Nói xong cầm đĩa bánh đưa cho Phương Quan, lại nói:
– Cô chờ đấy, tôi đi pha cho cô ấm trà.
Rồi đi đun nước.
Phương Quan cầm cái bánh giơ lên mặt Tiểu Thiền nói:
– Ai thèm ăn bánh của chị! Cái này không phải là bánh à? Tôi nói đùa đấy thôi, chứ chị có lạy, tôi cũng chả thèm ăn!
Nói xong bẻ chiếc bánh vất cho con chim sẻ để đùa chơi và nói:
– Thím Liễu đừng tiếc của nhé, tôi về sẽ mua hai cân biếu thím.
Tiểu Thiền tức quá lườm nó nói:
– Ông thiên lôi có mắt làm sao không đánh chết con quái này đi. Nó lại còn trêu tức tôi? Tôi thì bì với chúng nó sao được. Có người biếu xén, có người xin làm tôi tớ, luồn lụy tâng bốc chúng nó để nhờ nói giúp.
Mọi người đều nói:
– Các cô thôi đi! Ngày nào gặp nhau cũng càu nhàu như thế.
Có mấy người sáng ý, thấy chúng cãi nhau, sợ sinh chuyện, đều chạy đi cả. Tiểu Thiền cũng không dám nói câu gì, chỉ lảu bảu chạy về.
Thím Liễu thấy mọi người đi rồi, liền chạy ra hỏi Phương Quan:
– Cô đã nói câu chuyện hôm nọ chưa?
– Nói rồi. Chờ một vài hôm nữa sẽ nhắc lại. Chỉ bực cái mụ Triệu chết hụt ấy lại cãi nhau với tôi một trận. Rượu mai quế lộ hôm nọ chị ấy đã uống chưa? Chị ấy có đỡ không?
– Uống hết rồi. Nó thích thứ ấy lắm, nhưng không tiện xin cô lần nữa.
– Có đáng gì, để tôi xin thêm một ít cho chị ấy.
Thím Liễu có đứa con gái năm nay mười sáu tuổi, là con thứ năm, nên đặt tên là Năm. Cô Năm tuy là con gái người nấu bếp, nhưng dáng người cũng khá, xấp xỉ sánh với Bình Nhi, Tập Nhân, Uyên Ương, Tử Quyên. Chỉ vì người yếu, nên chưa có việc làm. Gần đây thím Liễu thấy nhiều a hoàn trong phòng Bảo Ngọc làm những công việc nhẹ, lại nghe nói sau này Bảo Ngọc sẽ cho họ về cả, nên muốn xin cho con mình ghi tên vào hầu. Đương lúc chưa có người đưa vào thì may sao thím Liễu trước kia lại là người hầu ở viện Lê Hương, chăm nom nâng giấc bọn Phương Quan rất cẩn thận, hơn các bà mẹ nuôi khác. Bọn Phương Quan đối với thím cũng rất tử tế. Nhân đó thím Liễu nhờ Phương Quan nói với Bảo Ngọc cho con vào hầu, Bảo Ngọc đã bằng lòng, nhưng gần đây lại ốm và bận việc, nên chưa tiện nhắc lại.
Phương Quan về viện Di Hồng, vào trình Bảo Ngọc. Bấy giờ vì dì Triệu làm ầm ỹ, Bảo Ngọc trong bụng khó chịu, nhưng há miệng mắc quai, đành chờ cho cãi nhau xong, Thám Xuân bảo dì Triệu về rồi mới từ Hành Vu Uyển quay về, khuyên nhủ Phương Quan, một lúc, dàn xếp xong xuôi. Thấy Phương Quan muốn xin rượu mai quế lộ cho con Năm. Bảo Ngọc nói:
– Hãy còn đấy, tôi không uống mấy, cô đưa cho nó.
Nói xong, bảo Tập Nhân lấy ra. Thấy trong chai không còn mấy, Bảo Ngọc đưa cả cho Phương Quan.
Phương Quan mang chai rượu đi. Gặp lúc thím Liễu dẫn con Năm đi dạo chơi ở góc nhà bên cạnh, vừa về đến bếp, ngồi nghỉ uống nước. Thấy Phương Quan cầm cái chai bằng pha lê nhỏ cao độ năm tấc, trông lấp lánh, trong đựng độ nửa chai nước màu đỏ như son, thím Liễu cho là rượu nho của Bảo Ngọc vẫn uống. Hai mẹ con liền nói:
– Cô hãy ngồi đây, để tôi đi đun nước.
Phương Quan cười nói:
– Chỉ còn có ngần ấy thôi, cho thím cả cái chai đó.
Con Năm nghe xong, mới biết là rượu mai quế lộ, cầm lấy ngay, rồi cám ơn Phương Quan, lại nói:
– Hôm nay mát giời, tôi đi chơi cho khuây, nhưng ở phía sau chẳng có gì thú, chỉ rặt những hòn đá lớn, những cây cao và bức tường sau nhà thôi, không có cảnh gì đẹp cả.
Phương Quan hỏi:
– Sao chị không đi nữa?
Thím Liễu nói:
– Tôi không cho nó đi, sợ các cô ở đây không biết nó, bất chợt mà gặp những người không vừa mắt thì lại thêm chuyện. Ngày mai cô đưa nó vào hầu rồi lo gì không có người dẫn nó đi chơi! Chỉ sợ chơi lắm đâm chán thôi.
– Sợ gì? Đã có tôi!
– Úi chà! Cô ơi, chúng tôi thấp cổ bé họng, bì thế nào được với các cô.
Nói xong đi pha trà đem lại. Nhưng Phương Quan khi nào thèm uống. Chỉ súc miệng rồi về.
Thím Liễu nói:
– Ta đương giở tay, con Năm tiễn cô ấy một tý.
Con Năm đi tiễn, thấy không có người lạ, liền kéo Phương Quan hỏi:
– Chị đã nhắc việc ấy cho tôi chưa?
– Tôi nói dối chị hay sao? Tôi thấy trong phòng đương thiếu hai người hầu, chưa có ai thay: một là chị Hồng Ngọc, mợ Hai lấy đi, hai là chị Trụy Nhị Nay lấy thêm chị vào cũng chẳng phải là thừa. Nhưng chị Bình thường nói với chị Tập Nhân: “Việc gì phải động đến người, đến tiền, có thể chậm được thì cứ để chậm. Hiện giờ cô Ba đương muốn tìm cớ đưa người ra. Ngay bên nhà chị ấy cũng phải bác đi mấy việc. Lại định bới cả nhà chúng tôi, nhưng không bới ra được việc gì, như thế thì chị tội gì đã vội đâm đầu vào lưới? Nói mà bị bác thì sau này muốn lấy cũng không được, quá muộn mất rồi. Hãy cứ yên đi một dạo, chờ cụ và bà Hai rỗi, sẽ nói với người, dù việc to như trời cũng phải xong.”
– Chị nói thế nhưng tính tôi nóng không chờ được. Nếu tôi vào làm, một là mẹ tôi được mở mày mở mặt, cũng bõ công đẻ ra tôi; hai là tôi có lương tháng, nhà cũng được rộng rãi; ba là tôi được hởi dạ, bệnh sẽ chóng khỏi. Có phải mời thày uống thuốc cũng đỡ tốn tiền.
– Những lời chị nói, tôi biết cả rồi. Chị cứ yên tâm.
Nói xong Phương Quan đi về.
Con Năm trở về, hai mẹ con đều cám ơn Phương Quan. Mẹ nó nói:
– Không ngờ lại được những thứ này. Tuy là của quý thực, nhưng uống nhiều sinh nóng, chi bằng rót một ít mang đi biếu người khác, mình lại được ơn.
– Biếu ai?
– Biếu anh con cậu mày một ít. Nó bị bệnh nóng cũng muốn uống rượu này. Ta rót nửa chén đưa cho nó.
Nghe vậy con Năm ngồi lặng một lúc, mặc cho mẹ rót nửa chén và đem chai rượu cất vào trong chạn. Sau đó nó cười nhạt:
– Cứ ý con thì không nên cho anh ấy. Lỡ có người biết lại xảy ra lôi thôi.
– Cần gì mà phải sợ. Sợ gì cái ấy. Chúng ta vất vả hầu hạ, kiếm được chút ít thứ này thứ nọ là lẽ tất nhiên, chứ có phải đi ăn trộm đâu?
Thím Liễu không nghe lời con, đi thẳng một mạch đến là anh. Đứa cháu đương nằm. Trông thấy cả nhà vui mừng, liền đem pha với nước lạnh cho cháu uống một bát, trong bụng nó khoan khoái, mắt sáng lên, đầu mát dần. Còn thừa nửa chén, nó lấy giấy bịt lại để trên bàn.
Ngay lúc ấy có mấy đứa hầu nhỏ là bạn chơi thân với cháu thím Liễu, đến hỏi thăm, trong đó có Tiền Hòe là cháu họ dì Triệu. Bố mẹ Tiền Hòe hiện giữ sổ trong kho, còn nó thì được cắt đến hầu Giả Hoàn đi học. Nhà nó cũng khá, nhưng chưa lấy vợ. Ngày thường thấy con Năm xinh đẹp, nó cố xin với bố mẹ hỏi làm vợ, và đã nhờ bà mối đến nói ba bốn lần. Vợ chồng họ Liễu thì bằng lòng, riêng con Năm nhất định không thuận, nhưng chưa nói ra, vì thế vợ chồng họ Liễu cũng chưa dám nhận lời.
Gần đây con Năm lại muốn vào hầu trong vườn, nên không nhắc đến việc ấy nữa. Chờ dăm ba năm sau khi trở về, sẽ lấy chồng ở bên ngoài. Nhà Tiền Hòe thấy thế, cũng thôi không đến hỏi. Tiền Hòe không lấy được con Năm, trong bụng vừa tức vừa xấu hổ, nhất định tìm cách lấy cho bằng được mới thỏa lòng. Hôm nay nó cùng bạn đến chơi nhà cháu thím Liễu, không ngờ thím Liễu lại ở đây.
Thấy một lũ người đến, trong đó có Tiền Hòe, thím Liễu nói lảng là bận việc, đứng dậy ra về. Anh và chị dâu vội nói:
– Sao cô không uống nước đã về ngay? Cám ơn cô đã nhớ đến cháu.
Thím Liễu cười nói:
– Sợ Ở nhà gọi cơm, khi nào rỗi, tôi sẽ lại sang thăm cháu.
Người chị dâu liền lấy một gói giấy ở trong ngăn kéo ra, cầm ở trong tay, tiễn thím Liễu ra đến cạnh tường, dúi đưa cho thím, cười nói:
– Anh có trực nhật ở ngoài cửa suốt năm ngày chẳng vớ được món bổng nào. Hôm qua có một ông quan ở Việt Động đến thăm, đem biếu trên nhà hai giỏ bột phục linh, còn lại một giỏ để làm quà cho người canh cửa, anh cô cũng được chia một ít. Ở đó có nhiều cây tùng bách sống hàng nghìn năm, chỉ nguyên lấy nhựa phục linh hòa với thuốc là được, không biết làm thế nào mà bột trắng ngần như vậy? Tối hôm qua, tôi giở ra xem, đẹp quá, trắng như tuyết. Họ bảo: thứ nhất là, hòa với sữa người, sáng dậy uống một bát, bổ lắm. Thứ hai là dùng sữa bò; không dùng được sữa thì dùng nước lã đun sôi cũng được. Tôi nghĩ cháu đằng ấy ăn cũng tốt. Sáng hôm nay cho hầu nhỏ đưa đến, nhưng nó nói là khóa cửa, và cháu bên ấy cũng đi đâu vắng. Tôi vẫn muốn sang thăm và mang cho cháu gói này, nhưng các vị chủ đi vắng cả, chỗ nào cũng canh gác cẩn thận, tôi lại không có việc gì, đến thế nào được. Vả chăng hai ngày hôm nay nghe nói có người trong nhà làm bậy, sang đó mà bị vạ lây lại thêm khổ. Cô đến thật là đúng lúc, nhờ mang về hộ cho cháu.
Thím Liễu cám ơn rồi về. Vừa đi đến trước cửa bên cạnh, có một đứa bé con cười nói:
– Thím đi đâu thế? Trên nhà sai người gọi ba, bốn lượt đấy, bắt ba, bốn đứa chúng tôi đi tìm các ngả. Thím ở đâu về? Đường này lại không phải là đường đi về nhà thím, tôi lấy làm ngờ lắm.
– Đồ khỉ con này! Thím mày đi kiếm một ông chồng nữa thì mày chẳng được thêm một ông chú hay sao? Có gì mà đáng ngờ! Đừng để cho tao phải túm chỏm mày dúi xuống! Còn không mở cửa cho tao vào à!
Đứa bé vẫn không mở cửa, kéo thím lại cười nói:
– Thím ơi! Thím có vào, thế nào cũng ăn cắp cho cháu mấy quả mận. Cháu sẽ chờ mãi ở đây. Thím quên thì sau này đêm khuya có đi mua rượu mua dầu, cháu không mở cửa cho đâu, tha hồ thím gọi.
Thím Liễu mắng:
– Mày mê rồi! Năm nay có được như năm ngoái nữa đâu? Bao nhiêu cây cối ở đây đã chia cho các bà già cả. Người nào người ấy mặt cứ sưng lên. Hễ có ai đi qua gốc cây là mắt cứ nhìn hau háu như cú vọ ấy. Thế thì còn ai dám động đến hoa quả của họ. Hôm qua tao đi qua gốc mận, gặp phải con ong mật bay qua mặt, tao lấy tay đập, không ngờ mợ mày ở đằng xa đi lại nhìn không rõ, lại cho tao trẩy mận, thế là cứ mồm năm miệng mười, tru tréo lên. Nào là “còn chưa cúng Phật; cụ và bà Hai không có nhà, chưa biếu của mới, đợi biếu bậc trên xong, các chị em sẽ đều có phần cả”. Cứ như người mắc bệnh lao, đợi có quả mận mới ra được mồ hôi ấy, làm cho tao không giữ được lời, cãi nhau với bà ấy một trận. Mợ mày và dì mày cũng đều trông nom trong vườn đấy, sao mày không xin, lại cứ đi xin tao? Thật không khác gì “chuột ở trong kho lại hỏi vay thức ăn của quạ”. Cái giống ở liền trong kho không có thức ăn lại còn đi hỏi cái giống bay trên trời à?
Đứa bé cười nói:
– Úi chà! Không có thì thôi, thím cứ nói dài dòng mãi! Liệu từ nay trở đi thím không cần đến cháu nữa hay sao? Chị Năm có việc làm thì sau này còn phải sai khiến đến chúng cháu nhiều. Chỉ cần chúng cháu ngoan một tý là được.
Thím Liễu cười nói:
– Con khỉ con này lại giở lối ranh mãnh ra! Chị mày có việc làm ở đâu?
Đứa bé cười nói:
– Cháu biết rồi, đừng nói đối nữa. Chỉ thím có tay trong, chứ chúng cháu không có tay trong hay sao? Tuy cháu ở ngoài này nhưng có hai chị là người hầu có thể diện ở trong ấy, còn giấu cháu sao được!
Chợt có tiếng bà già ở trong gọi ra:
– Đồ khỉ con, đi gọi ngay thím Liễu mày về đây, nếu không thì nhỡ việc đấy.
Thím Liễu không nói chuyện với đứa bé nữa, vội đẩy cửa đi vào, cười nói:
– Vội gì thế, tôi đã về đây.
Nói rồi đi vào bếp. Trong bếp cũng có mấy người cùng làm, nhưng họ không dám tự tiện, cứ phải đợi thím về đề cắt đặt.
Thím Liễu hỏi:
– Con Năm đi đâu?
Mọi người đều nói:
– Nó vừa sang phòng trà tìm chị em.
Thím Liễu nghe nói, cất gói bột phục linh rồi đi chia thức ăn cho các phòng. Chợt thấy Liên Hoa là hầu nhỏ ở buồng Nghênh Xuân đến nói:
– Chị Tư Kỳ bảo muốn ăn trứng gà luộc lòng đào.
Thím Liễu nói:
– Thứ ấy đắt lắm, không biết vì sao năm nay hiếm trứng gà thế! Mười đồng một quả trứng cũng không mua được. Hôm nọ Ở nhà trên muốn cho bà con ít trứng để ăn cháo, bốn, năm người đi mua mãi mới được hai nghìn quả. Bây giờ bảo tôi tìm đâu rả Về nói với chị ấy, hôm khác hãy ăn vậy.
Liên Hoa nói:
– Bữa ăn đậu phụ hôm nọ, thím cho đậu thiu, làm tôi bị mắng một trận. Hôm nay muốn ăn trứng gà, thím lại bảo không có. Thế thì còn ăn món gì? Tôi không tin được, đến cả trứng gà cũng không có nữa kiả Thím đừng để tôi phải đi lục!- Vừa nói nó vừa đến chạn lục, thấy có độ mười quả trứng gà để đó, liền nói:
– Không phải trứng đây à? Sao thím ghê gớm thế? Chúng tôi ăn vào phần của chủ cho, sao thím cũng tiếc đứt ruột ra thế? Có phải trứng của thím đẻ ra đâu mà sợ người ta ăn đi?
Thím Liễu chạy lại nói:
– Mày đừng có mở mồm nói láo! Mẹ mày mới đẻ ra trứng ấy. Tất cả còn mấy quả trứng để bày trên món ăn, các cô chưa ăn, nên chưa làm vội, sắp sẵn đấy để chờ khi cần. Bây giờ cho các người ăn, lỡ khi hỏi đến, món gì không có thì thôi, chứ quả trứng cũng không có à? Các người ở nơi nhà cao cửa rộng, cơm bưng tận miệng, nước rót tận tay, nên mới coi thường quả trứng, chứ có biết đâu ngoài chợ mua bán khó khăn? Không nói đến trứng làm gì, có khi rễ cỏ cũng chẳng có mà ăn nữa kia! Ta bảo cho mà biết, ngày nào cũng ăn cơm trắng gạo ngon, gà béo, vịt to, thì có sút đi một chút cũng được. Ăn lắm cho đầy ruột rồi đi bới chuyện: nào là trứng gà, đậu phụ rồi miến, củ cải xào, muốn ăn gì là tự ý thay đổi. Ta không thể chiều các người được. Mỗi nơi đòi một thứ, đến hàng chục thứ ấy, thì ra ta không còn hầu chủ nhất, mà chỉ sắp sẵn để hầu chủ nhì thôi!
Liên Hoa đỏ mặt lên, nói to:
– Ai là người ngày ngày đến đòi, thím phải kể ra hàng tràng thế! Không phải để trên sai bảo thì cho thím đến đây làm gì? Hôm nọ Xuân Yến đến bảo chị Tình Văn muốn ăn rau ngải, tại sao thím lại còn hỏi xào với thịt gà hay thịt lợn? Xuân Yến bảo món ấy xào mặn không ngon, phải xào riêng một món miến, cho ít mỡ mới ngon, thím lại bảo là thím đâm mê, vội rửa tay đi xào, rồi tự mình bưng ngay lên, thím cứ xoăn xoe như con chó vẫy đuôi ấy! Thế mà hôm nay thím lại lấy tôi ra làm bung xung, rêu rao trước mặt mọi người!
Thím Liễu nói:
– A di đà phật, ai cũng trông thấy cả đấy! Không nói hôm nọ làm gì, ngay từ năm ngoái đến nay, trong các phòng, bất cứ cô nào, chị nào, thỉnh thoảng muốn thêm thức ăn gì, ai chẳng đưa tiền trước để mua riêng. Dù có hay không, cũng phải giữ tiếng chứ! Nếu tôi nấu riêng cho các cô, sẽ lại được thừa nữa. Khi tính sổ càng làm người ta ghét thêm. Tất cả các cô với bọn chị em hàng bốn, năm mươi người, mỗi ngày chỉ có hai con gà, hai con vịt, non chục cân thịt, một quan tiền rau, các chị thử tính xem, như thế có đủ vào đâu. Ngay hai bữa cơm cũng còn chưa xoay nổi, lại người này đòi thứ này, người kia đòi thứ kia. Thứ mua về thì không thèm ăn, lại còn ăn thứ khác! Chi bằng trình với bà, cho thêm phần ăn rồi cũng như nhà bếp của cụ, thiên hạ có bao nhiêu thứ ăn cứ viết lên bảng, mỗi ngày thay món ăn một lần, đến cuối tháng tính tiền, thế là xong chuyện. Ngày hôm nọ cô Ba và cô Bảo tình cờ bàn với nhau muốn ăn đậu xào mỡ, sai cô bé đưa cho tôi năm trăm đồng tiền. Tôi cười nói: “Bụng hai cô có to bằng bụng phật Di Lặc cũng chả ăn hết năm trăm đồng. Món ấy chỉ đáng độ vài ba chục đồng, tôi có thể mua được.” Sau tôi trả lại tiền, các cô ấy cũng không chịu nhận, bảo là thưởng cho tôi để uống rượu. Các cô lại bảo: “Hiện giờ bếp dọn vào trong này, không tránh khỏi mọi người đến quấy rầy. Một tí tương, một tí muối, cái gì mà chẳng phải muả Không cho thì không đành lòng, nếu cho thì thím lấy tiền đâu mà mua bù. Thím cứ giữ lấy món tiền ấy coi như để bù những thứ trước quấy rầy”. Hai cô thực là biết thương kẻ dưới, trong bụng tôi luôn luôn cầu khấn cho hai cô được khỏe mạnh. Không ngờ dì Triệu biết việc này, tức mà không nói ra, cho là hai cô ấy dễ dãi với tôi quá, chưa đầy mười hôm đã sai đứa hầu nhỏ đến đòi thứ nọ, đòi thứ kia, thực đáng buồn cười. Các chị lại coi như có lệ sẵn rồi, người nọ đòi, người kia đòi, tôi lấy đâu mà bù được.
Đang lúc ồn ào, thấy Tư Kỳ sai người đến giục Liên Hoa, bảo:
– Mày chết ở đây à? Sao không đi về?
Liên Hoa hậm hực trở về lại bày thêm chuyện mách với Tư Kỳ. Tư Kỳ nghe vậy nổi giận, hầu cơm Nghênh Xuân xong, liền mang mấy đứa hầu nhỏ chạy đến. Lúc ấy mọi người đương ăn cơm, thấy Tư Kỳ đến với vẻ mặt hầm hầm, đều đứng dậy đon đả mời ngồi.
Tư Kỳ thét bảo bọn hầu nhỏ:
– Mang hết cả thức ăn ở trong rương, trong chạn ra cho chó ăn, chẳng ai được ăn nữa.
Bọn hầu nhỏ ba chân bốn cẳng chạy ùa cả vào lục lọi bừa bãi, quăng vứt lung tung. Mọi người sợ quá, vừa ngăn lại, vừa van xin:
– Xin cô đừng nghe trẻ con nói nhảm! Dù thím Liễu có ba đầu sáu tay cũng chả dám hỗn với cộ Thím ấy có nói trứng gà khó mua thực. Chúng tôi vừa mới trách thím ấy không biết điều, dù là thứ gì cũng phải cố tháo vát tìm cách mà mua chứ. Thím ấy đã biết lỗi và đi luộc rồi. Cô không tin, vào bếp mà xem.
Mọi người khuyên răn mãi, Tư Kỳ mới bớt giận. Bọn hầu nhỏ cũng thôi không vứt thức ăn nữa. Tư Kỳ mắng ầm lên một lúc mới về. Thím Liễu vùng vằng quăng mâm quăng bát, lủng bủng một lúc, rồi luộc một bát trứng cho người mang đi. Tư Kỳ hắt cả xuống đất. Người kia trở về không dám nói, sợ lại sinh chuyện.
Thím Liễu cho con gái ăn một bát canh, nửa bát cháo, rồi nói đến việc mợ nó gửi cho bột phục linh. Con Năm nghe nói, muốn cho Phương Quan một ít, liền lấy giấy sẻ ra một nửa gói, nhân buổi chiều tối vắng người, lẻn lút dưới khóm hoa, rặng liễu đi tìm Phương Quan. May sao đến tận cửa viện Di Hồng cũng không có ai hỏi. Con Năm không tiện đi vào, đành đứng xa xa trước rặng hoa hồng nghe ngóng. Độ uống xong một chén nước, thấy Xuân Yến ra, con Năm cất tiếng gọi, Xuân Yến không biết là ai, đến gần mới rõ, liền hỏi:
– Chị đến làm gì đây?
– Chị bảo hộ Phương Quan ra đây, tôi có câu chuyện muốn nói với chị ấy.
– Chị nóng nảy quá. Chẳng qua chỉ chờ độ mươi ngày nữa thì vào, cứ đến tìm chị ấy làm gì? Vừa rồi chị ấy có việc đi ra đằng kia, chị hãy chờ một lúc; hay là có việc gì cứ nói, tôi sẽ nói lại với chị ấy chọ Chị chờ không được đâu, sợ cửa vườn lại đóng.
Con Năm đưa gói bột phục linh cho Xuân Yến, nói:
– Đây là bột phục linh. Ăn bổ lắm. Tôi có một ít biếu chị ấy, nhờ chị đưa hộ.
Nói xong quay về. Khi ra đến bến Lục Tự, thấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn mấy bà già đi tới, con Năm không kịp tránh, đành phải đứng lại chào. Vợ Lâm Chi Hiếu hỏi:
– Tao nghe nói mày ốm, sao lại ra được đây?
– Mấy hôm nay đã khá, tôi theo mẹ tôi đi chơi cho đỡ buồn. Vừa rồi mẹ tôi sai tôi đưa mấy thứ đồ dùng đến viện Di Hồng.
– Mày nói dối rồi, vừa nãy thấy mẹ mày đi ra, tao mới đóng cửa. Nếu mẹ mày sai mày đi, tại sao không bảo cho tao biết? Lại cứ để cho tao đóng cửa, thế là nghĩa làm sao?
Con Năm không biết trả lời thế nào, chỉ nói:
– Mẹ tôi bảo tôi đi lấy đồ từ sớm. Tôi quên mất, đến bây giờ mới nhớ ra. Có nhẽ mẹ tôi tưởng tôi đi từ trước rồi, nên không nói gì với bà.
Thấy nó vẻ mặt hoảng hốt, ăn nói lúng túng, lại vì gần đây Ngọc Xuyến nói ở buồng bên ấy mất đồ đạc, mấy a hoàn đổ lẫn cho nhau, chưa tìm ra manh mối, vợ Lâm Chi Hiếu đâm ra ngờ vực. Vừa lúc ấy Tiểu Thiền, Liên Hoa cùng mấy bà già đi đến, thấy vậy liền nói:
– Bà Lâm nên tra hỏi nó. Hai ngày nay nó cứ thậm thụt đi vào đây không biết làm việc gì?
Tiểu Thiền lại nói:
– Phải đấy. Hôm nọ chị Ngọc Xuyến đã nói: Cái hòm của bà để ở buồng bên cạnh bị mở, mất khá nhiều đồ vật. Mợ Hai sai cô Bình đến nói với chị Ngọc Xuyến để lấy ít rượu mai quế lộ thấy mất một chai. Nếu không lục đến, có nhẽ cũng không biết.
Liên Hoa cười nói:
– Việc ấy tôi không nghe thấy. Nhưng tôi lại trông thấy cái chai đựng rượu mai quế lộ.
Vợ Lâm Chi Hiếu vì chưa tra ra việc này, ngày nào Phượng Thư cũng sai Bình Nhi đến giục, nên hỏi ngay:
– Trông thấy ở đâu?
– Ở trong bếp nhà nó ấy.
Vợ Lâm Chi Hiếu liền sai thắp đèn lồng dẫn người đi tìm.
Con Năm vội nói:
– Đó là chị Phương Quan ở nhà cậu Bảo cho tôi đấy.
Vợ Lâm Chi Hiếu nói:
– Phương Quan hay “viên quan” 1 cũng mặc kệ! Hiện bắt được tang chứng, tao phải đi trình! Mày cứ đến chỗ chủ mà nói!
Vừa nói vừa đi vào trong bếp. Liên Hoa đi theo lấy chai rượu ra. Vợ Lâm Chi Hiếu vẫn ngờ nó còn ăn trộm thứ khác, lại khám kỹ một lượt, bắt được một gói phục linh, liền cầm cả lấy rồi dẫn nó đến trình Lý Hoàn và Thám Xuân.
Vì Giả Lan ốm, Lý Hoàn không trông nom công việc, bảo đến trình Thám Xuân.
Thám Xuân lúc này đã về buồng và đang tắm rửa trong nhà, bọn a hoàn thì đứng hóng mát ở ngoài sân. Thị Thư vào trình, một lúc ra nói:
– Cô đã biết rồi, bảo các người đến nói với chị Bình để trình lên mợ Hai.
Vợ Lâm Chi Hiếu đành phải dẫn sang bên nhà Phượng Thư, nhờ Bình Nhi vào trình. Phượng Thư vừa mới đi ngủ, nghe vậy liền bảo:
– Đánh cho mẹ nó bốn mươi roi rồi đuổi đi, từ nay không được vào đến cửa thứ hai; đánh cho con Năm bốn mươi roi, rồi mang trả ngay lên trại, hoặc bán hay gả cho người ta.
Bình Nhi theo thế bảo vợ Lâm Chi Hiếu. Con Năm sợ quá khóc ầm lên, quỳ xuống trước mặt Bình Nhi kể lại việc Phương Quan cho nó.
Bình Nhi nói:
– Việc ấy cũng không khó. Ngày mai hỏi lại Phương Quan sẽ biết thực hay dối. Nhưng gói bột phục linh, hôm nọ người ta đem biếu, còn phải chờ cụ và bà về xem mới dám động đến, sao đã lấy trộm trước.
Con Năm kể lại việc ông cậu nó cho nó. Bình Nhi cười nói:
– Nếu thế thì mày là đứa thẳng thắn, không có tội gì, người ta mang mày ra để thế mạng đấy thôi. Bây giờ tối rồi, mợ vừa uống thuốc đi nghỉ, việc nhỏ không nên làm phiền. Hãy giao nó cho người gác giữ một đêm, ngày mai ta trình với mợ, sẽ liệu sau.
Vợ Lâm Chi Hiếu không dám trái lời, đành phải mang nó ra giao cho các bà già canh đêm rồi mới về.
Con Năm bị người ta giam lỏng ở đấy, không dám đi đâu một bước. Bọn bà già có người khuyên nó: “Không nên làm những việc xấu xa như thế!” Cũng có người ghét nó, nói: “Canh đêm không xong, lại còn đưa con ăn cắp này đến đây cho chúng mình giữ, nếu không cẩn thận, lỡ nó tự tử hoặc trốn đi, lại rầy rà đến mình đây!” Lại có một bọn xưa nay không ưa thím Liễu, thấy thế lấy làm thích thú, chạy đến đùa cợt chế giễu nó. Con Năm trong bụng vừa tức vừa oan, không biết kêu vào đâu. Vả xưa nay người nó hay ốm yếu, bây giờ muốn uống chè không có, nước cũng không, muốn ngủ không có chăn gối, nên cứ khóc nức nở suốt đêm.
Những người xưa nay có thù hằn với mẹ con nó, chỉ mong sao đuổi ngay được nó đi, kẻo mai sự việc lại thay đổi chăng, nên họ dậy thật sớm đưa quà đến mua chuộc Bình Nhi, vừa ton hót cô ta làm việc dứt khoát, vừa kể tội mẹ con Năm xưa nay làm nhiều điều không tốt. Bình Nhi gật đầu bảo họ về, còn mình đến đằng Tập Nhân hỏi xem có thực Phương Quan cho nó rượu mai quế lộ không. Tập Nhân nói:
– Có cho Phương Quan rượu mai quế lộ, nhưng sau Phương Quan cho ai thì không biết.
Tập Nhân lại hỏi Phương Quan. Phương Quan giật mình, nhận là có cho con Năm thực. Phương Quan lại nói với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cũng cuống lên nói:
– Rượu mai quế lộ thì đúng là có cho rồi. Bột phục linh nó khai cũng đúng đấy. Nhưng nếu người ta biết là cậu nó khi gác cửa nhận được, tất có lỗi. Thế chẳng hóa ra người ta có bụng tốt lại bị chúng ta làm hại hay hao?
Liền bàn với Bình Nhi:
– Việc rượu thì xong rồi, nhưng việc bột phục linh cũng có lỗi đấy. Chị cứ bảo nó nói của Phương Quan cho là xong cả.
Bình Nhi cười nói:
– Dù thế, nhưng hôm qua nó đã nói với mọi người là cậu nó cho nó rồi. Sao bây giờ lại bảo là Phương Quan chỏ Vả lại, bên ấy mất bột phục linh chưa tìm ra manh mối, bây giờ có tang chứng rõ ràng, lại tha trắng đi, thế thì còn đi bắt ai? Ai còn chịu nhận? Xử thế chắc người ta không phục đâu.
Tình Văn chạy lại cười nói:
– Rượu mai quế lộ Ở bên bà không ai lấy đâu, rõ ràng là Thái Vân ăn cắp cho cậu Hoàn đấy thôi, các chị đừng có nhắm mắt nói liều.
Bình Nhi cười nói:
– Ai chẳng biết nguyên do như vậy? Bấy giờ Ngọc Xuyến tức quá phát khóc lên. Lẽ ra khẽ hỏi nó, nó nhận đi thì Ngọc Xuyến cũng thôi, mà cả nhà cũng lờ đi, ai hơi đâu còn bôi chuyện ra nữa. Nhưng đáng giận là Thái Vân không những không nhận, còn đổ cho Ngọc Xuyến ăn cắp! Hai đứa trong một nhà lại cứ hục hặc cãi cọ nhau, cả phủ đều biết, chúng ta làm ngơ đi sao được? Thế nào cũng phải tra hỏi. Biết đâu đứa kêu mất trộm lại chả là đứa ăn trộm. Nhưng không có tang chứng thì làm gì được nó?
Bảo Ngọc nói:
– Thôi việc này tôi lại đứng ra nhận cho, cứ nói là tôi lẻn sang ăn cắp của bà để dọa họ chơi đấy. Như thế là hai việc đều xong cả.
Tập Nhân nói:
– Cũng là việc làm phúc đấy, đỡ cho người ta khỏi mang tiếng ăn cắp, nhưng nếu bà nghe thấy lại bảo cậu là trẻ con, không biết hay dở gì cả.
Bình Nhi cười nói:
– Chỉ là việc nhỏ thôi. Bây giờ nếu vào tìm tang vật ở nhà dì Triệu thì cũng dễ đấy, nhưng tôi sợ lại làm mất thể diện của một người tốt. Người khác không sao chứ người ấy thì thế nào mà không tức giận? Người ấy thực đáng thương, không nên vì việc “ném chuột làm vỡ mất bình ngọc”.
Nói xong giơ ba ngón tay lên.
Bọn Tập Nhân nghe nói, biết ngay là chỉ vào Thám Xuân. Mọi người liền nói:
– Thực đúng như chị nói. Nếu thế, chúng ta ở đây nhận cho là được rồi.
Bình Nhi lại cười nói:
– Nhưng cũng phải gọi hai con ranh Thái Vân và Ngọc Xuyến đến đây, hỏi cho rõ nhẽ mới được; nếu không, chúng nó lại được thể, có nghĩ thế đâu, lại cho mình không có tài tra xét nên lấp liếm cho xong chuyện. Sau này đứa ăn trộm cứ ăn trộm, đứa không trông nom vẫn không chịu trông nom.
Tập Nhân cười nói:
– Đúng đấy, cũng nên để lại đường đất sau này.
Bình Nhi sai gọi hai người đến, nói:
– Đừng sợ, đã bắt được kẻ trộm rồi.
Ngọc Xuyến hỏi trước:
– Kẻ trộm ở đâu?
– Hiện nó ở nhà mợ Hai này, hỏi gì nó nhận nấy. Tôi đã biết rõ: không phải nó ăn trộm, nhưng nó sợ quá, đều nhận cả. Cậu Bảo không nỡ lòng, muốn nhận hộ nó một nửa. Tôi muốn nói ra, nhưng đứa ăn trộm ấy ngày thường lại là chị em thân thiết với ta, người chủ chứa chỉ là một người thường thôi, nếu xét ra, sợ mất thể diện một người tốt trong nhà. Vì thế mới khó xử, đành phải nhờ cậu Bảo đứng lên nhận cho thì cả nhà đều được yên. Nhưng bây giờ phải hỏi hai chị xem thế nào? Từ nay trở đi, ai cũng giữ gìn thể diện, tôi sẽ nhờ cậu Bảo nhận; nếu không thì tôi sẽ trình mợ Hai xét cho ra, chứ không nên đổ oan cho người khác.
Thái Vân nghe nói, đỏ ửng mặt lên, trong lòng rộn rực, tỏ vẻ xấu hổ, liền nói:
– Xin chị cứ yên tâm. Không nên đổ oan cho người ngay, tôi xin nói thực: làm việc mất thể diện, ăn cắp đồ vật, là do dì Triệu cả. Dì ấy nằn nì tôi mấy lần, tôi có lấy cho cậu Hoàn một ít, tình thực như thế. Ngay khi bà ở nhà, tôi vẫn thường lấy cho người khác. Tôi cứ tưởng, dù có ai biết cũng chỉ rêu rao vài ngày là xong. Bây giờ lại đổ oan cho người, thì bụng tôi không nỡ. Chị cứ mang tôi đến trình mợ Hai, tôi xin nhận hết.
Mọi người nghe nói, ai cũng lấy làm lạ, sao nó có can đảm như thế.
Bảo Ngọc cười nói:
– Chị Thái Vân thực là người đứng đắn. Nay không cần chị phải nhận, tôi cứ nói là tôi lấy trộm để dọa các chị. Bây giờ việc xảy ra, tôi tất phải nhận. Tôi chỉ mong từ nay các chị bớt việc đi, thì mọi người mới được yên ổn.
Thái Vân nói:
– Việc tôi làm, tại sao lại để cho cậu phải nhận? Sống chết tôi cũng phải chịu lấy.
Tập Nhân và Bình Nhi vội nói:
– Không phải thế đâu. Nếu chị nhận, không khéo lại kéo cả dì Triệu vào. Cô Ba nghe thấy, lại chẳng tức sao? Để cậu Bảo nhận thì chẳng ai vướng víu gì cả. Vả lại trừ mấy người này ra không còn ai biết, như thế thì rảnh rang biết nhường nào! Nhưng từ nay mọi người nhất thiết phải cẩn thận mới được. Muốn lấy cái gì phải chờ bà về hãy haỵ Khi đó đem cả cái nhà cho người ta, cũng chẳng can hệ gì đến chúng tôi.
Thái Vân cúi đầu nghĩ một lúc, đành phải nghe lời.
Mọi người bàn định xong rồi. Bình Nhi dẫn hai người cùng Phương Quan đến buồng canh đêm, gọi con Năm ra, khẽ bảo nó cứ nói là bột phục linh cũng của Phương Quan chọ Con Năm cám ơn mãi. Bình Nhi đem bọn này về nhà, thấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn mấy người đàn bà, áp giải bọn thím Liễu đến chờ đấy đã lâu.
Vợ Lâm Chi Hiếu nói với Bình Nhi:
– Sớm nay giải họ đến đây, sợ trong vườn không có người hầu cơm sáng, tôi đã tạm cắt vợ Tần Hiển đến sắm sửa cơm các cô rồi.
Bình Nhi hỏi:
– Vợ Tần Hiển là ai? Tôi không biết rõ.
Vợ Lâm Chi Hiếu nói:
– Chị ta là người trực đêm ở phía nam trong vườn, ban ngày không đến làm việc, nên cô không biết. Chị ta có gò má cao, mắt to, sạch sẽ và nhanh nhẹn.
Ngọc Xuyến nói:
– Phải đấy. Chị quên rồi à? Chị ta là thím của Tư Kỳ hầu cô Hai ấy. Bố Tư Kỳ là người hầu ở phủ bên kia, nhưng chú nó thì lại hầu ở bên này.
Bình Nhi nghĩ ra, cười nói:
– À! Nếu chị nói ra từ trước thì tôi hiểu ngaỵ- Lại cười nói: Cắt thế e vội quá. Hiện nay việc đã hai năm rõ mười, rành rành ra đấy rồi. Cả những thứ bên nhà bà Hai mất hôm nọ cũng ra manh mối cả. Hôm ấy không biết cậu Bảo đến nhà bà Hai bảo hai con ranh này lấy cái gì, nhưng chúng nó lại nói trêu chọc là “Bà đi vắng, không dám lấy”. Nhân lúc chúng không để ý, cậu Bảo tự mình đi vào lấy mấy thứ ra. Hai đứa không biết ai lấy, sợ hoảng lên. Nay cậu Bảo thấy mình làm liên lụy đến người khác, mới kể rõ ràng với tôi, có mang những thứ ấy ra cho tôi xem, thì không sai một tý gì. Còn bột phục linh, cậu Bảo nhận được ở bên ngoài, đem thưởng cho nhiều người. Không chỉ cứ người ở trong vườn mới có đâu, ngay bọn bà già cũng có, đem ra chia cho bọn Phương Quan. Tình riêng của họ, có đi có lại biếu xén nhau, cũng là việc thường. Hai giỏ bột phục linh hôm nọ đương để trên nhà khách vẫn còn nguyên, không ai động đến, sao lại vu vạ cho người tả Để tôi vào trình mợ Hai xem đã.
Nói xong, liền đi vào buồng đem đầu đuôi câu chuyện kể lại cho Phượng Thư nghe.
Phương Thư nói:
– Mặc dù thế, nhưng Bảo Ngọc là người bất chấp hay dở, việc gì cũng thích dây vào. Ai đến nhờ việc gì, hễ nói vài câu tử tế là nó cũng nể lời. Ai tâng bốc mấy câu thì việc gì mà nó chẳng nhận? Nếu chúng ta cứ vội tin, sau này có việc gì quan trong hơn, làm thế nào mà trừng trị được người khác? Cần phải dò xét cẩn thận mới được. Cứ ý ta, phải gọi tất cả bọn a hoàn ở nhà bà đến, tuy không tiện tra khảo, nhưng cũng bắt chúng nó quỳ lên mảnh sành ở ngoài nắng, cơm không cho ăn, nước không cho uống, không thú thực, cứ quỳ mãi, dù gan sắt cũng chỉ một ngày là chúng nó thú ra hết.
Lại nói:
– “Thớt có tanh ruồi mới đỗ”, mặc dầu vợ họ Liễu không lấy trộm, nhưng cũng dính dáng ít nhiều, người ta mới đổ cho nó. Không bắt phạt nó, nhưng cũng phải đuổi nó đi, không dùng nữa. Triều đình cũng còn trị kẻ sai nữa là, như thế cũng chẳng phải oan ức cho nó.
Bình Nhi nói:
– Tội gì nghĩ lắm cho bận lòng? Có thể nới tay được thì cứ nới, việc có to tát gì, cũng nên ra ơn thì hơn. Cứ như tôi, dù bên này có lo lắng trăm phần đi nữa, rút cục chúng ta vẫn phải về bên kia, đừng nên gây thù gây hằn với bọn tiểu nhân để họ Oán ghét. Vả chăng mợ lại gặp năm xung tháng hạn, vất vả mãi mới có mang được em trai thì sau bảy tháng, lại bị sẩy, biết đâu chẳng phải ngày thường mợ quá vất vả hay tức giận mới đến nỗi thế? Bây giờ nhân lúc còn mập mờ chưa rõ lẽ, cũng nên bỏ qua cho xong chuyện là hơn.
Phượng Thư bật cười, nói:
– Tùy chị đấy! Nhưng đừng làm cho tôi bực mình.
– Tôi nói thế không đúng à?
Nói xong quay ra, tha cả cho mọi người về.
1 Phương là vuông, viên là tròn; đây là dùng chữ trái nghĩa để đối chọi lại.
– Việc lớn coi thành nhỏ, việc nhỏ coi như không, thế mới là nhà thịnh vượng. Chỉ một tý cỏn con, chị đã đánh trống gõ mõ ầm lên, thì không ra làm sao. Bây giờ cho mẹ con con Năm về, vẫn giữ việc như cũ. Vợ Tần Hiển thì cho ra. Từ nay không ai được nhắc đến việc này nữa, chỉ cần hàng ngày để ý canh gác cho cẩn thận thôi.
Nói xong đứng dậy đi. Mẹ con thím Liễu vội cúi đầu cám ơn. Vợ Lâm Chi Hiếu dẫn bọn họ về trong vườn trình Lý Hoàn và Thám Xuân. Hai người đều nói:
– Biết rồi. Bớt việc đi thế là phải.
Bọn Tư Kỳ bị một phen tưng hửng. Vợ Tần Hiển chờ mãi mới có chỗ khuyết, nhưng chỉ mừng hão được có nửa ngày. Lúc này chị ta đương ở trong bếp thu xếp lại đồ đạc, thóc gạo, than củi, thấy thiếu mất nhiều thứ, liền nói:
– Gạo tám thiếu hai gánh, gạo ăn hàng ngày lại chi thừa ra một tháng, than cũng thiếu.
Rồi len lén sắp một sọt than, một gánh gạo tám, sai người mang biếu vợ Lâm Chi Hiếu. Lại sắp lễ mang biếu phòng thu chi và sửa rượu mời mấy người làm việc ở đó và nói:
– Tôi đến đây đều nhờ ở các vị giúp đỡ. Từ nay chúng ta là người một nhà, tôi có điều gì thiếu sót, xin các bà nhắc bảo cho.
Đương lúc tíu tít thì có người đến nói: “Xong bữa cơm sáng rồi chị đi về. Mẹ con thím Liễu không bị lỗi, lại giả công việc cho thím ấy trông nom”.
Vợ Tần Hiển nghe vậy, mất cả hồn vía, ủ rũ cúi đầu, rồi không kèn không trống cuốn gói đi về. Bao nhiêu lễ vật đưa cho người ta đành chịu mất không. Chị ta phải bán chác của nhà để bù vào.
Dì Triệu vì Thái Vân dấm dúi cho nhiều thứ. Bị Ngọc Xuyến phát giác, sợ họ tra ra, nên ngày nào cũng nơm nớp lo âu, cứ lẻn đi thăm dò tin tức. Chợt thấy Thái Vân đến nói:
– Cậu Bảo nhận cả rồi. Từ nay không có việc gì nữa.
Dì Triệu mới yên tâm.
Không ngờ Giả Hoàn nghe thấy, đâm ra ngờ vực liền đem những thứ của Thái Vân cho mình vất cả vào mặt nó mà nói:
– Mày là đồ lá mặt lá trái, tao không thèm những thứ này đâu! Nếu mày không có tình ý với Bảo Ngọc, sao nó lại nhận hộ mày? Mày đã có gan đưa cho tao thì không nên nói cho một người nào biết; bây giờ mày đã mách nó, tao có lấy những thứ này cũng chẳng thú gì.
Thái Vân tức quá, phân trần, thề bồi, đến nỗi phải khóc lên. Nó tìm hết cách để giãi bày, nhưng Giả Hoàn nhất định không tin, nói:
– Nếu không nghĩ tình cũ, tao sẽ đi mách chị Hai, bảo là mày ăn cắp đem về, nhưng tao không dám nhận. Mày nghĩ kỹ xem!
Nói xong nó hất tay ra đi.
Dì Triệu mắng:
– Đồ vô phúc! Mày nói gì thế?
Thái Vân tức quá, khóc hết nước mắt. Dì Triệu tìm cách an ủi:
– Con ơi! Nó phụ lòng con, nhưng ta thì biết rõ lắm. Ta cứ cất những thứ này đi, độ vài ngày nữa, thế nào nó cũng phải nghĩ lại.
Dì Triệu định cất những thứ ấy đi, nhưng Thái Vân cứ vùng vằng gói cả vào bọc, nhân lúc không ai trông thấy, đem vào trong vườn vứt xuống sông, cái thì chìm lỉm, cái thì nổi lềnh bềnh. Sau đó quay về bực dọc trùm chăn khóc thầm suốt đêm.
Ngày sinh nhật Bảo Ngọc đã đến! Bảo Cầm cũng sinh đúng vào ngày ấy. Vì Vương phu nhân đi vắng, nên không được vui nhộn như năm ngoái, chỉ có vị đạo sĩ họ Trương đưa đến bốn thứ đồ lễ và đổi bùa bán khoán, hòa thượng và sư cô các nơi đưa đến biếu các vật như ngựa giấy, lá số, sao bản mệnh, sao thái tuế năm ấy, và khóa thay hàng năm v.v… Những người hầu thân trong nhà đến chúc mừng trước một hôm. Bên Vương Tử Đằng vẫn đưa mừng một bộ quần áo, một đôi giày, một trăm quả thọ đào, một trăm bó miến, buộc bằng dây bạc. Bên Tiết phu nhân đưa lễ mừng kém một nửa, người trong nhà như Vưu thị cũng đưa mừng một đôi giầy. Phượng Thư đưa mừng một cái túi thêu bốn mặt của trong cung làm, trong đựng một cái thọ tinh bằng vàng và một thứ đồ chơi của nước Ba Tự Rồi sai ngươi đi bố thí và cúng tiền ở các miếu. Ngoài ra có lễ mừng cho Bảo Cầm, không thể kể hết được. Bọn chị em thì tùy tình, có người mừng quạt, có người mừng chữ, có người mừng tranh vẽ, có người mừng bài thơ.
Hôm đó Bảo Ngọc dậy sớm, rửa mặt chải đầu xong, đội mũ mặc áo đi ra nhà khách, bọn Lý Qúy bốn người đã đặt sẵn hương đèn lễ trời đất. Sau khi Bảo Ngọc thắp hương làm lễ, dâng trà, đốt vàng, liền đến làm lễ ở hai nhà thờ trong phủ Ninh. Rồi ra nguyệt đài bái vọng Giả mẫu, Giả Chính và Vương phu nhân. Bảo Ngọc trước tiên đến phòng Vưu thị làm lễ, ngồi một lúc rồi về phủ Vinh. Bảo Ngọc trước hết đến chào Tiết phu nhân. Tiết phu nhân giữ ở lại; sau mới đến thăm Tiết Khoa một lúc, rồi về vườn. Tình Văn, Xạ Nguyệt đi theo, bọn a hoàn nhỏ mang sẵn cái thảm để đi chào, từ họ Lý trở xuống, lần lượt đi đến những người hơn tuổi mình. Rồi lại ra cửa ngoài, đến thăm bốn bà vú nuôi, một lúc mới trở về. Mọi người đều xin làm lễ, nhưng Bảo Ngọc không nhận. Về đến phòng, bọn Tập Nhân chỉ đến chào thôi. Vương phu nhân đã bảo còn trẻ tuổi không được nhận lễ, sợ giảm tuổi thọ, vì thế không ai làm lễ cả.
Giả Hoàn và Giả Lan đến mừng. Tập Nhân mời họ ngồi một lúc rồi về.
Bảo Ngọc cười nói:
– Hôm nay đi mệt lắm rồi!
Liền nằm nghiêng xuống giường. Mới uống được nửa chén nước, thì bọn Thúy Mặc, Tiểu Loa, Thúy Lũ, Nhập Họa, Triệu Nhi hầu Hình Tụ Yên, cùng vú em bế Xảo Nhi, Thái Loan, Tú Loan, tất cả tám chín người đều mang thảm đỏ từ ngoài, cười ầm ĩ đi vào, nói:
– Người đến chúc thọ chen đổ cả cửa rồi. Mau mang miến ra đây cho chúng tôi ăn!
Thám Xuân, Tương Vân, Bảo Cầm, Tụ Yên và Tích Xuân cũng đều đến cả.
Bảo Ngọc vội ra đón, cười nói:
– Không dám phiền các cộ Mau pha trà ngon ra đây!
Mọi người vào trong nhà đun đẩy nhau một lúc rồi cùng ngồi.
Bọn Tập Nhân pha trà mang lại. Vừa uống một chén thì Bình Nhi cũng ăn mặc lộng lẫy tha thướt đi vào. Bảo Ngọc vội ra đón, cười nói:
– Tôi đến chào chị Phượng nhưng chị ấy không tiếp. Tôi lại cho người đến chào chị.
Bình Nhi cười nói:
– Tôi đương chải đầu cho chị Phượng, nên không ra tiếp cậu được. Sau lại thấy cậu cho người đến chào, nhưng khi nào tôi dám nhận, giờ tôi lại đây chúc thọ cậu.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi cũng không dám nhận.
Tập Nhân đã để sẵn cái ghế ở cạnh cửa, mời Bình Nhi ngồi, Bình Nhi liền cúi xuống lạy, Báo Ngọc vội vàng vái lại. Bình Nhi lại quỳ xuống, Bảo Ngọc cũng vội quỳ xuống. Tập Nhân liền kéo dậy. Bình Nhi lại lạy một lạy, Bảo Ngọc vái lại một cái.
Tập Nhân cười đẩy Bảo Ngọc, nói:
– Cậu vái thêm một vái nữa.
Bảo Ngọc nói:
– Đã vái xong rồi, sao lại còn vái nữa?
Tập Nhân cười nói:
– Đấy là chị ấy đến chúc thọ cậu. Nhưng hôm nay cũng là ngày sinh nhật chị ấy, cậu cũng nên chúc thọ chị ấy.
Bảo Ngọc mừng lắm, lại vái nữa, cười nói:
– Thế ra hôm nay cũng là ngày sinh nhật của chị!
Bình Nhi vội vái giả lại.
Tương Vân kéo Bảo Cầm và Tụ Yên nói:
– Bốn người chúc thọ lẫn nhau thì vái suốt cả ngày mới đủ.
Thám Xuân vội hỏi:
– Thế ra cô Hình cũng đẻ ngày hôm nay à? Sao tôi lại quên mất?
Liền bảo a hoàn:
– Đến nói với mợ Hai sắp thêm một phần lễ vật nữa, cũng như phần của cô Cầm, để đưa sang nhà cô Hai.
A hoàn vâng lời rồi đi.
Tụ Yên thấy Tương Vân buột mồm nói ra như thế, đành phải đi chào các nhà.
Thám Xuân cười nói:
– Thế cũng hay đấy. Một năm có mười hai tháng, tháng nào cũng có mấy ngày sinh nhật. Trong nhà nhiều người, nên khéo trùng nhau. Có khi ba người, có khi hai người cùng một ngày. Mồng một tết cũng có sinh nhật, chính chị Nguyên Xuân đẻ vào ngày ấy đấy. Không trách chị ấy hưởng phúc nhiều, đến ngày sinh nhật cũng chiếm trước tiên. Hôm đó cũng lại là ngày sinh nhật của cụ tổ nhà ngày trước. Sau tết nguyên tiêu là ngày sinh nhật của bà Cả 1 và chị Bảo, sao mà hai người khéo gặp nhau thế? Mồng một tháng ba là sinh nhật bà Hai, mồng chín tháng ba là sinh nhật anh Liễn. Tháng hai thì không có ai.
Tập Nhân nói:
– Ngày mười hai tháng hai là ngày sinh nhật cô Lâm, sao lại bảo không có ai? Chỉ có điều cô ấy không phải là người trong nhà chúng ta thôi.
Thám Xuân cười nói:
– Chị xem trí nhớ của tôi như thế đấy!
Bảo Ngọc cười, trỏ Tập Nhân nói:
– Vì chị ấy đẻ cùng ngày với em Lâm, nên mới nhớ được.
Thám Xuân cười:
– Thế ra hai cô đẻ cùng một ngày à? Vậy mà năm nào cũng không thấy chị đến lạy mừng chúng tôi. 2 Ngày sinh nhật chị Bình, chúng tôi cũng không biết, nay mới rõ đấy.
Bình Nhi cười nói:
– Chúng tôi là hạng không có tên tuổi gì, không có phúc để làm lễ sinh nhật, và cũng không có chức phận gì để nhận lễ thì rêu rao lên làm gì? Chẳng thà lẳng lặng bỏ qua đi là hơn. Thế mà hôm nay chị ấy lại nói ầm lên. Thôi chờ khi các cô về nhà, tôi sẽ đến làm lễ vậy.
Thám Xuân cười nói:
– Không dám làm phiền chị. Nhưng hôm nay phải làm lễ sinh nhật cho chị thì tôi mới đành lòng.
Bảo Ngọc, Tương Vân đều nói: “Phải đấy”.
Thám Xuân liền sai a hoàn:
– Đến thưa với mợ Hai, hôm nay không cho chị Bình đi đâu, chúng tôi sẽ góp tiền làm lễ sinh nhật cho chị ấy.
A hoàn cười rồi đi, một lúc về nói:
– Mợ Hai bảo, cám ơn các cô làm cho chị Bình được thể diện. Không biết làm sinh nhật thì cho chị ấy ăn những thứ gì? Nhưng đừng có quên mợ Hai, mợ ấy mới không làm rầy rà đến chị Bình.
Mọi người đều cười. Thám Xuân nói:
– May sao hôm nay bếp nhà trong không làm cơm, các thức ăn đều lấy ở bên ngoài cả. Nay chúng ta góp tiền lại, sai mụ Liễu làm, và sẽ nấu nướng ở bếp trong này.
Mọi người đều nói: “Phải đấy!”
Thám Xuân vừa bảo đi mời Lý Hoàn, Bảo Thoa, Đại Ngọc, vừa sai người đi gọi thím Liễu đến, bảo phải làm hai bàn rượu ở bếp trong. Thím Liễu không biết thế nào, nói:
– Bếp ngoài đã sắp sẵn cả rồi.
Thám Xuân cười nói:
– Chị không hiểu hôm nay là ngày sinh nhật của cô Bình. Ở bếp ngoài sắp đồ ăn là của trên nhà. Bây giờ chúng tôi góp tiền riêng làm hai bàn rượu để mời cô ấy. Chị cứ đi sắm sửa những thức ăn ngon và mới, sau đó biên vào sổ, sẽ sang bên tôi nhận tiền.
Thím Liễu cười nói:
– Thế ra hôm nay là sinh nhật cô Bình à? Tôi thật không biết.
Nói xong cúi đầu làm lễ, Bình Nhi vội kéo đứng dậy.
Thím Liễu liền đi sắp sửa tiệc rượu.
Thám Xuân lại cho đi mời Bảo Ngọc cùng đến nhà khách ăn mì. Chờ Lý Hoàn, Bảo Thoa đến đủ, rồi sai người đi mời Tiết phu nhân và Đại Ngọc. Hôm ấy ấm trời, Đại Ngọc đã đỡ nên cũng đến được. Một đoàn như hoa như gấm, chật ních cả nhà. Tiết Khoa mang khăn, quạt, hương, lụa đến chúc thọ Bảo Ngọc. Bảo Ngọc lại sang nhà Tiết Khoa ăn mì. Hai nhà cùng làm rượu thọ, cùng đưa lễ mừng nhau. Đến buổi trưa, Bảo Ngọc lại đến uống mấy ly rượu với Tiết Khoa. Bảo Thoa dẫn Bảo Cầm đến lạy chào và dâng rượu Tiết Khoa. Sau đó, Bảo Thoa dặn Tiết Khoa:
– Rượu ở nhà không phải mang sang bên ấy nữa, bỏ những việc khách sáo ấy đi. Cậu cứ mời những người giúp việc hiệu buôn đến uống rượu thôi. Chúng tôi và cậu Bảo còn phải về mời khách, không thể ở lại tiếp cậu được.
Tiết Khoa nói:
– Xin chị và cậu Bảo cứ về, có lẽ bọn người giúp việc sắp đến đấy.
Bảo Ngọc cũng xin lỗi, cùng về với chị em Bảo Thoa. Đến cửa bên, Bảo Thoa sai bà già khóa cửa lại, rồi tự cầm lấy chìa khóa. Bảo Ngọc nói:
– Cái cửa ấy ít người đi lại, cần gì phải đóng? Dì và chị em lại đều ở cả trong này, muốn về nhà lấy cái gì, chẳng phiền lắm hay sao?
Bảo Thoa cười nói:
– Cẩn thận thế cũng không lấy gì làm quá! Bên nhà cậu mấy hôm nay xảy ra nhiều việc lôi thôi, không có người nào bên tôi dính dáng vào đấy, thế mới biết là đóng cửa này cũng có công hiệu. Nếu cửa mở, những người quen lối thuận đường cứ theo đây mà đi, thì ngăn làm sao được? Chi bằng khóa lại, ngay mẹ tôi và tôi cũng không được đi lối ấy. Lỡ có xảy ra việc gì cũng không thể đổ cho người bên này được.
– Thế ra chị cũng biết bên tôi mấy hôm nay mất đồ đạc à?
– Cậu chỉ biết mất hai thứ rượu mai quế lộ và bột phục linh thôi. Đó là vì đụng đến người mới biết mất đồ vật, nếu không, chính hai việc này cậu cũng không biết. Cậu có biết đâu ngoài hai thứ ấy ra còn mất nhiều thứ quan hệ hơn kia. Sau này tra xét không ra thì cũng phúc cho mọi người, nếu tra xét ra thì không biết liên lụy đến bao nhiêu người ở nhà này. Cậu không trông nom công việc, nên tôi mới nói cho cậu nghe. Bình Nhi là người hiểu biết, hôm nọ tôi đã nói rõ với chị ấy. Vì mợ Hai mệt, không ra ngoài, thành ra tôi phải nói cho chị ấy hiểu tất cả. Nếu không xảy việc gì, mọi người sẽ rảnh taỵ Lỡ xảy ra, chị ấy đã nắm trước, tự nhiên tìm được manh mối, không đến nỗi xử oan cho người. Cậu nên nghe lời tôi, từ nay để ý cẩn thận mới được. Chuyện này không nên nói cho người thứ hai biết.
Nói xong, đến đình Thấm Phương, thấy Tập Nhân, Hương Lăng, Thị Thư, Tình Văn, Xạ Nguyệt, Phương Quan, Nhụy Quan, Ngẫu Quan, đương ngồi xem cá bơi ở đấy. Thấy Bảo Ngọc và Bảo Thoa đến, họ đều nói:
– Đã sắp sẵn ở dưới giàn thước dược cả rồi, xin mời vào tiệc.
Bảo Thoa dẫn bọn họ vào trong nhà ba gian Hồng Hương phố ở dưới giàn thước dược. Vưu thị cũng đã đến. Mọi người đều ở đấy chỉ thiếu Bình Nhi thôi.
Lúc Bình Nhi về, có vợ họ Lâm, vợ họ Lại đưa lễ vật đến, hết người nọ đến người kia, hàng trên, hàng giữa, hàng dưới, đều mang lễ đến chúc thọ khá nhiều. Bình Nhi mang tiền ra thưởng và cám ơn, rồi đem các thứ lễ vật trình Phượng Thư, chỉ giữ lại một vài thứ để dùng thôi. Có thứ không nhận; có thứ nhận rồi lại đem thưởng cho người khác ngaỵ Bận rộn lúc lâu, lại phải chờ Phượng Thư ăn mì xong mới đi thay quần áo sang bên vườn. Vừa tới nơi, đã gặp mấy a hoàn đi mời, rồi cùng vào Hồng Hương phố thì thấy khắp nơi toàn là đồi mồi sáng ngời, phù dung rực rỡ. Mọi người đều cười nói: “Thọ tinh đủ cả rồi!” Rồi mời bốn người ngồi ở bàn trên, nhưng không ai chịu lên.
Tiết phu nhân nói:
– Ta già rồi, không hợp với bọn tuổi trẻ, nếu ngồi đây có phần gò bó, chi bằng lên nằm ở nhà trên thì hơn. Ta cũng không ăn, không uống rượu gì, để cho các ngươi ở đây được tự nhiên.
Vưu thị nhất định không nghe. Bảo Thoa nói:
– Thế cũng được. Cứ để mẹ tôi lên nhà nằm nghỉ thì dễ chịu hơn. Tùy ý thích, người thích ăn gì, thì đưa lên. Vả lại trên ấy vắng người, lại có thể trông nom được.
Thám Xuân cười nói:
– Đã thế thì cung kính không bằng theo ý người.
Mọi người đều đưa Tiết phu nhân lên nhà trên, trông những đứa hầu nhỏ trải nệm và đặt gối dựa, rồi dặn:
– Phải bóp đùi cho bà cẩn thận, phải pha trà rót nước, không được tị nạnh đổ đưa cho nhau. Thức ăn sẽ đưa lên sau. Bà ăn xong thì cho chúng mày. Không đứa nào được đi đâu đấy.
Lũ hầu nhỏ đều vâng lời.
Thám Xuân quay về. Bảo Cầm, Tụ Yên được mời ngồi trên, Bình Nhi ngồi ngoảnh phía tây, Bảo Ngọc ngoảnh phía đông. Thám Xuân lại mời Uyên Ương lên, hai người ngồi đối diện nhau. Bảo Thoa, Đại Ngọc, Tương Vân, Nghênh Xuân, Tích Xuân, theo thứ tự ngồi ở bàn phía tây, lại kéo Hương Lăng, Ngọc Xuyến ngồi ngang hàng. Vưu Thị, Lý Hoàn ngồi ở bàn thứ ba, lại kéo Tập Nhân, Thái Vân cùng ngồi, Tử Quyên, Oanh Nhi, Tình Văn, Tiểu Loa, Tư Kỳ thì ngồi chung quanh bàn thứ tư.
Thám Xuân định nâng chén mừng. Bọn Bảo Cầm đều nói:
– Làm như thế thì cả ngày cũng chẳng xong.
Mọi người mới chịu thôi. Hai cô xẩm đánh đàn hát chúc thọ. Mọi người đều nói:
– Ở đây chúng lôi không ai nghe những câu hát quê ấy đâu. Các chị lên nhà trên hát cho bà dì nghe để đỡ buồn. Rồi chọn mấy món ăn ngon, sai người mang lên cho Tiết phu nhân. Bảo Ngọc nói:
– Ngồi im thì không có thú gì, nên làm tửu lệnh mới vui.
Trong đó có người nói làm lệnh này hay, làm lệnh kia haỵ Đại Ngọc nói:
– Cứ ý tôi, đem bút giấy ra kê hết các thứ tửu lệnh, rồi bỏ vào rút thăm, rút được cái nào, chúng ta làm cái ấy.
Mọi người đều nói: “Hay lắm”. Liền sai lấy bút giấy ra.
Gần đây Hương Lăng học làm thơ, ngày nào cũng tập viết, trông thấy bút giấy không nhịn được, vội đứng dậy nói:
– Để tôi viết cho.
Mọi người nghĩ một lúc, được tất cả mười tửu lệnh, đọc ra cho Hương Lăng viết, rồi vo viên bỏ vào trong cái lọ. Thám Xuân bảo Bình Nhi gắp. Bình nhi xóc đều lên, lấy đũa gắp một cái, mở ra xem, thấy viết hai chữ “xạ phúc”. 3
Báo Thoa cười nói:
– Lại vớ cái lệnh từ đời ông tổ ông tinh nào rồi. “Xạ phúc” có từ lâu nhưng đã thất truyền, sau này người ta mới bịa ra, khó hơn tất cả các tửu lệnh khác. Ở đây có tới nửa số người không hiểu, chi bằng bỏ đi, gắp cái khác để cho người nhã, người tục đều thưởng thức cả.
Thám Xuân cười, nói:
– Đã gắp được, sao lại bỏ đỉ Bây giờ gắp thêm cái khác, nếu gắp đúng cái lệnh người nhã người tục đều thưởng thức được, sẽ để cho họ dùng cái lệnh ấy, còn chúng ta cứ theo cái lệnh này.
Nói xong, lại bảo Tập Nhân gắp một cái, là chữ “mẫu chiến” 4. Tương Vân cười nói:
– Cái này giản dị vui nhộn, hợp với tính tôi. Tôi không phơi cái “xạ phúc”, khỏi phải buồn tẻ, tôi chỉ đánh toan thôi.
Thám Xuân nói:
– Cô này phá rối tửu lệnh. Chị Bảo phạt cô ấy một chén.
Bảo Thoa không cho Tương Vân phân trần, dốc luôn cho một ly rượu.
Thám Xuân nói:
– Tôi là người cầm lệnh, uống trước một chén. Không cần nói gì cả, ai nấy đều phải nghe tôi cắt đặt. Đem hộp súc sắc đến đây, cô Cầm gieo trước, rồi theo thứ tự, nếu hai người gieo đúng điểm nhau, thì một người đố, một người đoán.
Bảo Cầm gieo được mặt “tam”. Tụ Yên, Bảo Ngọc gieo không đúng, đến Hương Lăng mới gieo được mặt “tam”, Bảo Cầm cười nói:
– Chỉ nói những chuyện vui ở trong nhà thôi, nếu nói các việc ở ngoài thì xa xôi quá không biết đâu mà lần.
Thám Xuân nói:
– Đúng đấy. Đoán ba lần không đúng phải phạt một chén. Bây giờ chị đố để chị ấy đoán.
Bảo Cầm nghĩ một lúc, nói chữ “lão”. Hương Lăng vốn không quen chơi cái lệnh này, nghĩ một lúc không ra, trông suốt cả nhà, cả bàn tiệc, cũng không tìm được câu thành ngữ nào hợp với chữ “lão” cả. Tương Vân nghe vậy cũng nhìn quanh nhìn quẩn, chợt trông thấy trên cửa có dán ba chữ “Hồng Hương phố” biết ngay là Bảo Cầm đố chữ “phố” trong câu “ngộ bất như lão phố” 5. Thấy Hương Lăng đoán không đúng, mọi người lại đánh trống giục. Tương Vân khẽ kéo Hương Lăng, bảo nói chữ “được”. Đại Ngọc trông thấy nói:
– Phạt nó đi. Nó lại gà rồi đấy.
Mọi người đều biết, làm ầm lên và phạt Tường Vân một chén. Tương Vân tức quá, lấy đũa đánh vào tay Đại Ngọc. Hương Lăng cũng phải phạt một chén. Rồi đến Bảo Thoa và Thám Xuân gieo đúng điểm nhau. Thám Xuân đố chữ “nhân”.
Bảo Thoa cười nói:
– Chữ “nhân” thì rộng quá.
Thám Xuân cười, nói:
– Thêm một chữ nữa, đố hai chữ mà đoán cũng không rộng đâu.
Nói xong lại đọc một chữ “song” nữa. Bảo Thoa vừa nghĩ, thấy trên bàn tiệc có thịt gà, chắc cô ta dùng hai điển: “kê song” 6 và “kê nhân” 7 liền đoán ngay là chữ “thời”. Thám Xuân biết Bảo Thoa đoán đúng, theo điển “kê thê vu thời” 8. Hai người cười rồi uống một ly rượu.
Tương Vân không chờ được, đã đánh toan với Bảo Ngọc, hét “tam” hét “ngũ” ầm lên. Bàn bên kia, Vưu thị với Uyên Ương cũng đánh toan, hét “thất” hét “bát” ầm lên. Bình Nhi với Tập Nhân cũng đánh toan, toàn nghe vòng xuyến trên tay rung động lẻng kẻng. Một lúc, Tương Vân được Bảo Ngọc; Tập Nhân được Bình Nhi; hai người hẹn trước những câu tửu lệnh.
Tương Vân nói:
– Vào đầu phải đọc một câu cổ văn, một câu thơ cũ, một câu tên bài, một câu tên khúc hát, lại phải một câu nói ở trong quyển lịch. Tất cả phải liền nghĩa với nhau. Đến cuối phải có một câu tên một thứ quả hoặc một thức ăn, có ý liên quan với việc người.
Mọi người nói:
– Chỉ có tửu lệnh của cô ấy là rắc rối hơn cả, nhưng cũng có ý nghĩa đấy.
Liền giục Bảo Ngọc nói. Bảo Ngọc cười.
– Ai đã học qua cái ấy? Phải để nghĩ một lúc đã.
Đại Ngọc liền nói:
– Thôi anh hãy uống thêm một ly rượu đi, em nói hộ cho.
Mọi người nghe vậy cười nói: “Đọc ra một tràng như vậy cũng có ý nghĩa đấy!” Đại Ngọc lấy tay cặp quả giẻ đọc câu cuối:
Hạt giẻ phải chăng là đá giặt;
Tiếng đâu đập áo khắp muôn nhà.
Xong lệnh, Uyên Ương, Tập Nhân mỗi người đều nói một câu tục ngữ, có kèm theo một chữ “thọ” không cần phải kể rõ.
Mọi người lại lần lượt đố nhau lung tung. Ở trên thì Tương Vân đối lại với Bảo Cầm. Lý Hoàn và Tụ Yên gieo đúng điểm nhau. Lý Hoàn đố chữ “biều” (bầu). Tụ Yên đoán chữ “lục” (xanh). Hai người hiểu ý nhau, cùng uống một chén. Tương Vân đố thua, liền hỏi đến câu đầu và câu cuối lệnh. Bảo Cầm cười nói:
– Mời cô vào cái vò này. 10
Mọi người cười nói:
– Dùng cái điển này rất thích đáng.
Tương Vân liền đọc:
– Vùn vụt mông mênh, trên sông sóng cuộn ngập trời xanh; phải dùng dây sắt, gò lại chiếc thuyền lênh đênh; gặp khi sóng gió, không nên xuất hành.
Mọi người nghe vậy đều cười nói: “Thực khéo nói đùa làm người ta cười đứt ruột. Thảo nào cô ấy ra cái lệnh này”. Họ lại giục: “Đọc mau câu cuối đi”. Tương Vân uống rượu, gắp một miếng thịt vịt, nhấp một hớp rượu, chợt thấy trong bát có nửa cái đầu vịt liền moi lấy óc ra ăn. Mọi người lại giục: “Đừng có mải ăn nữa, hãy đọc ngay đi”.
Tương Vân cầm đũa lên nói:
– Đầu vịt không phải là “a đầu” 11
Trên đầu làm gì có dầu quế?
Mọi người đều cười. Tình Văn, Tiểu Loa chạy đến nói:
– Cô Vân thật khéo đùa, đem chúng tôi ra làm trò cười, phải phạt một chén mới được. Tại sao cô lại biết chúng tôi phải bôi dầu hoa quế? Phải cho chúng tôi mỗi người một lọ dầu hoa quế để bôi!
Đại Ngọc cười nói:
– Cô ấy cũng muốn cho các cô một lọ dầu đấy, nhưng lại sợ can tội ăn trộm phải ra cửa quan.
Mọi người không để ý đến. Chỉ có Bảo Ngọc hiểu rõ, cúi đầu không nói gì. Thái Vân có tật giật mình, đỏ bừng mặt lên, Bảo Thoa khẽ đưa mắt cho Đại Ngọc. Đại Ngọc đã nói lỡ lời và định trêu Bảo Ngọc thôi, không ngờ lại đụng chạm đến Thái Vân, ăn năn không kịp, vội quay ra làm lệnh đánh toan dể xí xóa câu chuyện.
Cuối cùng Bảo Ngọc lại gieo đúng điểm với Bảo Thoa, Bảo Thoa đố chữ “bảo”. Bảo Ngọc nghĩ một lúc, biết là Bảo Thoa nói đùa, liền trỏ viên ngọc “thông linh” của mình cười nói:
– Chị mang tôi ra đùa một cách nhã, tôi đã đoán được rồi. Nói ra thì chị đừng giận, tôi đoán là chữ “thoa” tức là tên của chị.
Mọi người nói:
– Thế thì cắt nghĩa ra sao?
Bảo Ngọc nói:
– Chị ấy đố chữ “bảo” tất nhiên ở dưới chữ “bảo” phải là chữ “ngọc”. Tôi đoán chữ “thoa”, vì thơ cũ có câu: “Thoa ngọc gõ xong tàn đuốc lạnh”, đoán như thế chẳng đúng à?
Tương Vân nói:
– Không thể dùng việc người thời bây giờ được. Cả hai người đều đáng phạt.
Hương Lăng nói:
– Không chỉ là việc thời bây giờ, mà trước kia cũng đã có nói rồi.
Tương Vân nói:
– Hai chứ “bảo ngọc” không thấy ở đâu cả, có chăng chỉ trong những câu đối mừng xuân, chứ Kinh Thi, Kinh Thư đều không chép đến, không thể nói thế được.
Hương Lăng nói:
– Ngày trước tôi đọc thơ ngũ ngôn của Sầm Gia Châu có một câu: “Nơi này nhiều bảo ngọc”. Thế mà cô quên à? Sau đọc thơ thất ngôn tuyệt cú của Lý Nghĩa Sơn lại có một câu: “Thoa báu ngày nào không bám bụi?” Tôi thường cười nói: thì ra tên hai người ấy đều có ở trong thơ Đường cả.
Mọi người cười, nói:
– Thế là không hỏi vào đâu được nữa rồi, cô phải phạt một chén!
Tương Vân không trả lời, đành phải uống rượu phạt. Mọi người lại gieo điểm đánh toan.
Nhân Giả mẫu và Vương phu nhân đi vắng, không có ai cai quản, nên họ cứ chơi đùa bừa bãi, hò hét ầm ĩ, đầy nhà đỏ xanh tha thướt, châu ngọc rung rinh, rất là vui nhộn. Chơi đùa một lúc rồi mọi người tan tiệc ra về, riêng Tương Vân không thấy đâu cả. Ai nấy cứ tưởng cô ta đi ra ngoài rồi trở vào ngay, không ngờ càng chờ càng mất hút, liền sai người đi tìm khắp nơi, nhưng nào có thấy.
Khi ấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn mấy bà già đến, một là xem có việc gì sai khiến; hai là sợ bọn a hoàn còn trẻ tuổi, nhân lúc Vương phu nhân đi vắng, không chịu nghe lời Thám Xuân, uống rượu bừa bãi, làm mất thể thống.
Thám Xuân biết ý, cười nói:
– Các bà không đành tâm, đến đây dò xét. Chúng tôi không hề uống rượu nhiều đâu, chẳng qua chị em chơi đùa với nhau, mượn chén làm vui đấy thôi. Các bà đừng lo.
Lý Hoàn, Vưu thị đều cười nói:
– Các bà về nghỉ thôi. Chúng tôi không để cho họ uống nhiều rượu đâu.
Vợ Lâm Chi Hiếu cười nói:
– Chúng tôi biết rồi. Ngay những khi cụ cho uống rượu, các cô còn chẳng chịu uống. Bây giờ các bà không có nhà tất nhiên các cô chỉ chơi đùa đấy thôi. Chúng tôi sợ có việc gì sai bảo nên đến chực sẵn. Vả lại mùa này ngày dài, các cô chơi một lúc rồi cũng nên ăn một chút gì. Ngày thường các cô không ăn được nhiều, bây giờ uống mấy ly rượu, nếu không ăn sợ sinh bệnh ra.
Thám Xuân cười nói:
– Bà nói đúng đấy, chúng tôi phải ăn chứ!
Rồi quay lại bảo mang đồ điểm tâm lên. Thám Xuân lại cười nói:
– Các bà đi nghỉ hay sang bên kia chuyện trò với dì Tiết cho vui. Tôi sẽ sai người mang ngay rượu sang để các bà uống.
Vợ Lâm Chi Hiếu cười nói:
– Chúng tôi không dám nhận.
Họ đứng một lúc rồi mới về.
Bình Nhi sờ lên mặt cười nói:
– Mặt tôi nóng rồi, không tiện tiếp họ. Cứ ý tôi, nên xếp dọn đi thôi, đừng để họ quay trở lại thì chẳng ra sao cả.
Thám Xuân cười nói:
– Không việc gì, dù sao chúng ta không uống nhiều rượu là được rồi.
Chợt một đứa hầu bé cười hì hì, đến nói:
– Các cô ra mau mà xem cô Vân say rượu, ra hóng mát, ngủ ngay ở trên hòn đá sau núi kia kìa.
Mọi người nghe nói đều cười:
– Đừng làm ồn lên!
Họ chạy ra xem, thấy Tương Vân đầu gối vào cái khăn lụa bọc chùm hoa thược dược, đang ngủ say trên hòn đá ở hẻm núi. Hoa thược dược bay đầy lên người, mặt mũi và quần áo sực những mùi thơm. Quạt trong tay rơi xuống đất cũng bị hoa phủ lấp mất một nửa. Một đàn ong bướm xôn xao bay lượn chung quanh. Mọi người trông thấy, vừa cười vừa yêu, vội đánh thức và nâng cô ta dậy. Tương Vân vẫn ngủ say, mơ nói lệnh rượu, miệng còn lảm nhảm: “Suối thêm say rượu… phải đưa về… nên gặp bạn bè”.
Mọi người đẩy cô ta dậy, cười nói:
– Mau tỉnh dậy, đi ăn cơm, ngủ ở đá ướt này thì ốm mất!
Tương Vân lim dim con mắt, nhìn mọi người, lại cúi đầu nhìn mình, mới biết là saỵ Nguyên Tương Vân định ra chỗ vắng hóng mát, không ngờ bị phạt mấy ly rượu, sức yếu không chịu nổi, liền ngủ đi mất, trong bụng có ý hối hận. Ngay lúc đó có một đứa hầu nhỏ bưng chậu nước rửa mặt, và hai đứa mang gương lược phấn sáp đến. Mọi người đứng chờ. Tương Vân ngồi trên hòn đá đánh phấn chải đầu, rồi đứng dậy cùng về Hồng Hương phố. Lại uống mấy chén nước trà đặc. Thám Xuân vội sai lấy viên đá tỉnh rượu cho cô ta ngậm. Một lúc lại cho ăn canh chua, mới thấy tỉnh dần. Bấy giờ lại chọn mấy thứ hoa quả mang sang biếu Phượng Thư, Phượng Thư cũng biếu lại mấy thứ. Bọn Bảo Thoa ăn điểm tâm xong, có người ngồi lại, có người đứng dậy, có người ra ngoài, có người tựa vào lan can xem cá, thích gì chơi nấy, cười nói ầm ĩ. Thám Xuân đánh cờ với Bảo Cầm, Bảo Thoa, Tụ Yên đứng xem. Đại Ngọc và Bảo Ngọc thì to nhỏ với nhau ở dưới rặng hoa, không biết là nói những gì.
Bỗng thấy vợ Lâm Chi Hiếu và một bọn con gái đưa một người đàn bà đến. Người này nét mặt buồn rầu, không dám lên trên nhà, chỉ đứng ở dưới thềm quỳ vái. Thám Xuân có một quân cờ bị nước bí, tính đi tính lại, nếu gỡ được hai quân thì mất một nước quan trọng, hai mắt chăm chú nhìn vào bàn cờ, một tay để vào trong hộp, sờ quân cờ suy nghĩ. Vợ Lâm Chi Hiếu đứng chờ mãi. Thám Xuân quay lại uống nước mới trông thấy, hỏi:
– Việc gì đấy?
Vợ Lâm Chi Hiếu trỏ người đàn bà ấy nói:
– Người này là mẹ Thái Nhi hầu ở bên nhà cô Tư, hiện đương hầu hạ trong vườn. Vừa rồi tôi nghe thấy nó nói nhiều câu bậy, những lời nó nói tôi không dám trình. Cô cứ nên đuổi nó đi mới phải.
Thám Xuân nói:
– Sao không đi trình mợ Cả.
– Mợ Cả sang bên dì Tiết. Tôi đã gặp và trình rồi, mợ bảo sang trình cô.
– Sao không đi trình mợ Hai?
Bình Nhi nói:
– Thôi không trình cũng được, tôi về nói là đủ. Đã thế thì hãy đuổi nó ra, chờ bà về sẽ trình. Xin cô định đoạt cho.
Thám Xuân gật đầu rồi lại cúi xuống đánh cờ. Vợ Lâm Chi Hiếu dẫn người đàn bà ấy đi ra.
Đại Ngọc và Bảo Ngọc đứng dưới rặng hoa, ngắm nhìn đằng xa, Đại Ngọc nói:
– Cô Ba nhà anh thật là khôn ngoan quá. Tuy bảo cô ta trông nom công việc, nhưng một chút cũng không dám làm quá tay, nếu là người khác đã làm mưa làm gió rồi.
Bảo Ngọc nói:
– Em không biết, khi em ốm, cô ấy đã làm được mấy việc. Vườn này đã chia cho mấy người trông nom. Bây giờ muốn nhổ một cái cỏ cũng không được. Cô ấy cũng đã bớt được mấy việc; lại đem anh và chị Phượng ra làm bung xung để cấm đoán người tạ Cô ấy là người biết tính toán, không những khôn ngoan mà thôi đâu!
– Phải như thế mới được. Nhà chúng ta tiêu phí nhiều quá. Tuy em không phải trông nom công việc, nhưng khi nào trong lòng thư thái, thường hay tính toán, thấy tiêu nhiều mà thu ít. Bây giờ nếu không tằn tiện thì sau này lấy đâu cho đủ.
– Dù sau này không đủ, hai chúng ta cũng không đến nỗi phải bị thiếu thốn.
Đại Ngọc nghe nói liền quay người đi lên nhà tìm Bảo Thoa nói chuyện.
Lúc Bảo Ngọc sắp đi, thấy Tập Nhân đến tay bưng cái khay sơn chạm lối liên hoàn, trong đặt hai chén trà mời, và hỏi:
– Cô ấy đi đâu rồi? Tôi thấy hai người đã lâu không uống nước, nên pha hai chén trà mang lại đây.
Bảo Ngọc nói:
– Không phải cô ấy ở kia à? Chị mang đến cho cô ấy.
Nói xong, Bảo Ngọc cầm lấy một chén nước. Tập Nhân mang chén nước kia đi, nhưng thấy Đại Ngọc cùng ngồi với Bảo Thoa, mà chỉ có một chén nước, liền nói:
– Cô nào khát thì xin uống trước, tôi lại đi pha nữa.
Bảo Thoa cười nói:
– Tôi không uống, chỉ cần một ngụm súc miệng thôi.
Nói xong cầm lấychén nước uống một ngụm, còn thừa nửa chén đưa cho Đại Ngọc.
Tập Nhân cười nói:
– Tôi lại đi pha thêm nữa nhé?
Đại Ngọc cười nói:
– Chị đã biết bệnh tôi rồi, thày thuốc không cho uống nhiều nước trà, nửa chén này là đủ. Cảm ơn chị nghĩ chu đáo quá!
Nói xong, uống hết và đặt chén xuống.
Tập Nhân lại sang lấy chén của Bảo Ngọc. Bảo Ngọc hỏi:
– Từ nãy đến giờ không thấy Phương Quan. Nó đi đâu rồi?
Tập Nhân nhìn chung quanh nói:
– Nó vừa mới ở đây. Mấy người đương đánh chọi gà chơi, giờ không thấy đâu cả.
Bảo Ngọc nghe nói, chạy về phòng, thấy Phương Quan đương ngủ ở trên giường, mặt ngoảnh vào trong. Bảo Ngọc đẩy nó nói:
– Đừng ngủ nữa, chúng ta ra ngoài chơi một lát rồi đi ăn cơm.
– Các người uống rượu, không nhìn gì đến tôi, nãy giờ tôi buồn quá, thà về ngủ cho xong.
Bảo Ngọc kéo Phương Quan dậy, cười bảo:
– Chiều nay chúng ta lại uống rượu ở nhà. Để rồi tôi bảo chị Tập Nhân dẫn cô lên ăn chung một bàn có được không?
– Ngẫu Quan, Nhụy Quan không ai được lên ăn, một mình tôi lên đấy không tiện. Tôi không ăn quen cái món mì ấy. Vả lại sớm dậy cũng không muốn ăn. Vừa rồi đói, tôi đã nói với thím Liễu làm cho tôi một bát canh với nửa bát cơm, tôi ăn ở đây là được rồi. Nếu chiều hôm nay uống rượu, đừng ai ngăn tôi, để tôi uống đủ sức mới được. Trước tôi ở nhà, uống được hai ba cân rượu Huệ Toàn đấy. Bây giờ học cái nghề khốn nạn này, họ bảo uống vào hỏng mất giọng, nên mấy năm nay không biết đến rượu là gì. Hôm nay tôi phải phá giới mới được.
– Việc ấy cũng dễ thôi.
Bỗng thím Liễu sai người mang một cái quả đến. Xuân Yến đỡ lấy, mở ra xem, trong có một bát canh da gà bọc tôm, một bát vịt tần rượu, một đĩa nem ngỗng ướp mặn, một đĩa bốn miếng bánh cuốn hạt thông trộn với sữa, một liễn cơm gạo tám nóng, thơm phức. Xuân Yến, để cả lên bàn, chạy đi đặt bát đũa rồi xới một bát cơm, Phương Quan nói:
– Mỡ ngấy lắm, ai ăn được những thứ này!
Rồi chỉ lấy canh chan cơm ăn một bát, gắp mấy miếng thịt ngỗng thôi. Bảo Ngọc ngửi thấy mùi ngon hơn thức ăn mọi ngày, liền ăn một miếng bánh cuốn, lại bảo Xuân Yến xới nửa bát cơm chan canh ăn rất ngon lành. Xuân Yến và Phương Quan đều cười.
Xuân Yến định đưa trả những thức ăn còn thừa lại, Bảo Ngọc nói:
– Cứ ăn đi, nếu không đủ thì bảo lấy thêm.
– Không cần lấy thêm nữa, thế này là đủ. Vừa rồi chị Xạ Nguyệt cho chúng tôi ăn hai đĩa điểm tâm, bây giờ tôi ăn những thứ này cũng đủ.
Nói xong Xuân Yến đứng ở cạnh bàn ăn. Rồi để lại hai cái bánh cuốn, nói:
– Cái này để phần mẹ tôi. Chiều nay có uống rượu, cho tôi uống vài chén nhé.
Bảo Ngọc cười nói:
– Cô cũng thích uống rượu à? Chiều nay chúng ta sẽ uống một bữa thật saỵ Chị Tập Nhân và chị Tình Văn cũng uống được khá đấy, nhưng ngày nào cũng uống thì không tiện. Nhân dịp hôm nay chúng ta phá giới một bữa. Lại còn việc này, tôi định bảo cô nhưng quên mất, giờ mới nhớ ra. Từ nay trở đi, cô phải trông nom Phương Quan, có điều gì sơ suất, cô nên nhắc nó. Chị Tập Nhãn không trông nom xuể đâu.
– Tôi biết rồi, cậu không phải bận tâm đến. Nhưng việc chị Năm thì thế nào?
– Chị bảo thím Liễu biết, ngày mai cho nó vào đây. Tôi dặn họ một câu là xong.
Phương Quan nghe rồi cười:
– Đúng! Việc ấy cần phải làm ngay đi.
Xuân Yến lại sai hai đứa hầu nhỏ đến hầu Bảo Ngọc rửa tay, uống nước, còn mình đi thu dọn bát đĩa giao cho bà già rồi cũng đi rửa tay, và sang tìm thím Liễu. Bảo Ngọc lại đi đến Hồng Hương phố tìm các chị em. Phương Quan cầm khăn và quạt theo sau. Vừa ra đến cửa, thấy Tập Nhân và Tình Văn dắt tay nhau đi vào, Bảo Ngọc hỏi:
– Các chị đến làm gì đấy?
Tập Nhân nói:
– Dọn cơm xong rồi, chờ cậu đến ăn đấy.
Bảo Ngọc cười, nói là vừa mới ăn cơm ở nhà xong, Tập Nhân cười:
– Cậu ăn như mèo ấy, chỉ đánh hơi là đã đủ nọ Tuy vậy cũng nên tiếp họ một tý.
Tình Văn ấn tay vào trán Phương Quan, nói:
– Mày là con yêu tinh! Hở một tý là chạy đi rình ăn! Chẳng biết các người đã hẹn nhau bao giờ rồi? Sao không bảo chúng tao một tiếng?
Tập Nhân cười nói:
– Chẳng qua vừa gặp thì ăn đấy thôi, chứ có hẹn hò gì đâu.
– Đã thế ở đây cũng vô ích. Ngày mai chúng ta bước cả để một mình Phương Quan ở lại cũng đủ sai rồi.
– Chúng tôi đi được, chứ chị không thể đi được.
– Tôi là người đáng đi đầu tiên. Vừa lười biếng, vừa thô tục, lại xấu tính chẳng làm được việc gì.
– Nếu chị đi mà cái áo lông công cháy miếng nữa thì ai là người vá chỏ Chị đừng lời qua tiếng lại với tôi nữa. Tôi nhờ làm gì, dù là mũi chỉ đường kìm, chị cũng cứ!ười. Nhưng đó có phải là việc riêng của tôi đâu, cũng là việc của cậu ấy cả đấy. Khi tôi đi vắng mấy hôm, chị Ốm thập tử nhất sinh, tại sao lại cố sống cố chết thức suốt đêm vá áo cho cậu ấy? Thế là nghĩa làm sao? Chị nói đi nào! Sao lại cứ giả bộ ngây thơ mà cười với tôi? Nói đi xem sao?
Mọi người nói chuyện rồi đi vào nhà khách. Tiết phu nhân cũng đến, theo thứ tự ngồi ăn cơm. Bảo Ngọc chỉ lấy nước trà chan cơm ăn nửa bát cho qua chuyện.
Ăn xong, mọi người uống nước nói chuyện, rồi ai thích gì chơi nấy. Ở bên ngoài, bọn Tiểu Loa, Hương Lăng, Phương Quan, Ngụy Quan, Ngẫu Quan, Đậu Quan ra vườn chơi. Mọi người hái ít hoa cỏ ngồi xúm lại ở bãi cỏ đánh chọi gà chơi. Người này nói: “Tôi có cây liễu Quan Âm”; người kia nói: “Tôi có cây thông La Hán”. Người này nói: “Tôi có cây trúc Quân Tử”; người kia nói: “Tôi có cây chuối Mỹ Nhân”. Người này nói: “Tôi có cỏ tinh tinh” 12 ; người kia nói: “Tôi có hoa nguyệt nguyệt” 13. Người này nói: “Tôi có hoa mẫu đơn trong vở Mẫu Đơn đình”; người kia nói: “Tôi có quả tỳ bà trong bản Tỳ bà ký”.
Đậu Quan nói:
– Tôi có cành hoa “tỉ muội”.
Nghe vậy không ai đáp lại, Hương Lăng liền nói:
– Tôi có cánh huệ “phu thê”.
Đậu Quan nói:
– Xưa nay chẳng thấy ai nói cánh huệ “phu thê” cả.
Hương Lăng nói:
– Một cành có một bông hoa gọi là “lan”, một cành có mấy bông hoa gọi là “huệ”. Trên dưới đều có hoa thì gọi là cánh huệ “huynh đệ”; hoa nở ngang nhau thì gọi là cánh huệ “phu thê”. Chùm hoa này của tôi nở liền nhau, chẳng phải cánh “phu thê” là gì?
Đậu Quan không cãi lại được, đứng dậy cười nói:
– Cứ như chị nói thì một bông hoa lớn, một bông hoa bé là cánh huệ “bố con”; bông hoa quay lưng lại nhau thì gọi là cánh huệ “kẻ thù” à? Chồng chị đi vắng hơn nửa năm nay, chị nhớ anh chàng, nên nhìn chùm hoa, cũng bảo là hoa vợ chồng, không biết xấu hổ!
Hương Lăng nghe nói, đỏ mặt lên, đứng dậy định bẹo Đậu Quan, cười mắng:
– Con ranh thối miệng này! Chỉ nói những chuyện khó ngửi!
Đậu Quan thấy vậy khi nào chịu tha, liền kéo Hương Lăng xuống, quay lại cười bảo bọn Nhụy Quan:
– Lại đây giùm tôi bẹo vào mồm nó!
Hai người vật nhau ở dưới đất. Mọi người vỗ tay cười nói:
– Hỏng rồi! Vũng nước kia kìa, khéo làm bẩn cả quần mới của chị ấy!
Đậu Quan quay lại nhìn, thấy bên cạnh có một vũng nước mưa, Hương Lăng bị bẩn quần đâm ngượng, vội giật tay bỏ chạy. Mọi người cười ầm lên, nhưng sợ Hương Lăng giận lây nên cũng bỏ đi cả.
Hương Lãng đứng dậy, cúi đầu nhìn, thấy quần áo mình hãy còn nước bẩn đương nhỏ từng giọt, liền mắng luôn miệng. Vừa lúc ấy Bảo Ngọc trông thấy họ chọi cỏ gà, cũng đi ngắt cỏ đến chơi. Thấy mọi người bỏ chạy, chỉ còn trơ lại một mình Hương Lăng đương cúi đầu nhìn xuống quần, liền hỏi:
– Tại sao họ chạy cả thế?
– Tôi có một chùm hoa “phu thê”, họ không biết lại bảo tôi nói bậy, đâm ra cãi nhau. Họ lại làm bẩn cả quần mới của tôi.
– Chị có chùm hoa “phu thê” thì đây tôi lại có hoa ấu “tịnh đế”.
Miệng nói, tay Bảo Ngọc cầm một cành hoa ấu “tịnh đế” chập cả chùm hoa “phu thê” vào làm một.
Hương Lăng nói:
– “Phu thê” với không phu thê, “tịnh đế” với chẳng tịnh đế! Cậu hãy nhìn cái quần tôi đây này!
Bảo Ngọc cúi đầu nhìn, “úi chà” một tiếng nói:
– Tại sao chị lại bị kéo xuống bùn thế này? Đáng tiếc! Lụa đỏ thạch lựu này dễ bẩn lắm!
– Đây là của cô Cầm mang đến cho hôm nọ, cô Bảo may một cái, tôi may một cái, hôm nay mới đem ra mặc đấy.
Bảo Ngọc giậm chân thở dài:
– Nhà các chị, một ngày làm hỏng một cái quần cũng chẳng thấm vào đâu. Nhưng một là cô Cầm mang đến cho, chị và chị Bảo, mỗi người may một cái. Quần của chị Bảo còn tốt, mà quần của chị đã hỏng rồi, như thế chẳng phụ lòng tốt của cô Cầm hay sao? Hai là, dì bên ấy cũng lắm nhời, tôi thường nghe thấy dì ấy bảo các chị hoang phí, chỉ phá hại, không biết tiếc của. Bây giờ để dì ấy trông thấy, lại làm rầm lên đấy!
– Chính thế đấy. Tuy tôi có mấy cái quần mới, nhưng đều không giống màu này. Có cái nào giống, đổi được thì hay, sau này sẽ liệu.
Bảo Ngọc nói:
– Chị cứ đứng đây, đừng đi vội. Nếu không thì cả áo lót, quần đùi và giày cũng đính bùn đấy. Tập Nhân có may một cái quần giống hệt như thế. Nhưng vì chị ấy có tang, chưa mặc đến. Tôi sẽ lấy cho chị đổi, có được không.
Hương Lăng cười, lắc đầu nói:
– Không được. Nếu họ biết thì còn ra làm sao?
Bảo Ngọc nói:
– Sợ cái gì? Chờ khi hết tang, chị ấy thích thứ gì, ta sẽ trả cho chị ấy, chẳng lẽ lại không được à? Chị mà nghĩ thế thì còn gì là tình thân mật với nhau hàng ngày? Vả chăng cũng không phải là việc che giấu người ta, chị cứ nói với chị Bảo là được. Chỉ sợ dì tôi biết lại gắt thôi.
Hương Lăng nghĩ một lúc cho là phải, gật đầu cười nói:
– Thế cũng được, không dám phụ lòng cậu. Tôi chờ ở đây. Xin cậu bảo chị ấy thân hành mang đến cho tôi mới được!
Bảo Ngọc nghe nói rất mừng, nhận lời về nhà ngaỵ Rồi cúi đầu ngẫm nghĩ: “Đáng tiếc con người như thế không có bố mẹ, quên cả họ hàng, bị người ta dỗ đi, lại đem bán cho hạng vũ phu ấy!” Rồi lại nghĩ: “Dạo trước ta gặp Bình Nhi là việc không ngờ, bây giờ cũng lại là việc không ngờ ngoài cái không ngờ nữa!” Nghĩ quanh nghĩ quẩn, Bảo Ngọc về đến phòng, kéo tay Tập Nhân, khẽ bảo cho biết việc ấy.
Hương Lăng vốn được mọi người thương yêu, Tập Nhân lại có tính hào phóng, vẫn chơi thân với chị tạ Được tin, mở ngay hòm, lấy cái quần ra, gấp cẩn thận, theo Bảo Ngọc đi tìm Hương Lăng. Thấy chị ta đứng yên ở đấy. Tập Nhân cười nói:
– Chị hay quấy lắm, quấy đến nỗi xảy ra chuyện mới chịu thôi.
Hương Lăng đỏ mặt cười nói:
– Cám ơn chị lắm, không ngờ bọn quỷ sứ ấy nó làm ác.
Nói xong cầm lấy cái quần, giở ra xem, quả nhiên giống hệt cái quần của mình, liền bảo Bảo Ngọc quay mặt đi chỗ khác rồi ngoảnh vào phía trong cởi quần bẩn ra, mặc quần mới vào.
Tập Nhân nói:
– Đưa cái quần bẩn ấy cho tôi giặt hộ rồi sẽ đưa sang chọ Chị mang về, người ta trông thấy, lại hỏi căn vặn đấy.
– Chị Ơi, chị cứ mang về, không cần phải trả lại em. Em đã có cái này, không cần cái ấy nữa.
– Bụng chị rộng rãi quá.
Hương Lăng lạy tạ Tập Nhân hai lạy. Tập Nhân mang cái quần kia về.
Hương Lăng thấy Bảo Ngọc ngồi xổm dưới đất, lấy cành cây đào một cái hố, rắc hoa rụng vào đấy, rồi chôn chùm hoa “phu thê” và cành hoa “tịnh đế” xuống, lại phủ hoa rụng lên trên, lấp đất lại. Liền kéo tay Bảo Ngọc cười nói:
– Cậu lại làm cái trò gì đấy? Không trách ai cũng bảo cậu hay chơi ma chơi mãnh, làm cho người ta ghê cả người. Xem kìa! Tay cậu dính đầy bùn và rêu, không rửa ngay đi à?
Bảo Ngọc cười, đứng dậy đi rửa tay, Hương Lăng cũng quay về.
Hai người đi được mấy bước, Hương Lăng gọi giật lại. Bảo Ngọc không biết có chuyện gì, xoa hai tay dính bùn, cười hì hì quay lại hỏi: “Việc gì thế?”
Hương Lăng đỏ mặt chỉ cười, mồm muốn nói, nhưng không ra lời. Lúc đó Trăn Nhi là đứa hầu ở bên kia chạy lại nói:
– Cô Hai chờ chị đấy!
Hương Lăng lại đỏ mặt lên, rồi nói với Bảo Ngọc:
– Việc cái quần, cậu đừng nói cho anh cậu biết nhé!
Nói xong quay đi. Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi điên đâu? Lại thò đầu vào miệng hổ!
1 Câu này có bản chép là lão thái thái (tức Giả mẫu), có bản chép là đại thái thái (tức Hình phu nhân) và tiếp ngay câu sau nói: “Hai mẹ con khéo gặp nhau thế”. Nhưng ở Hồi hai mươi hai có nói đến sinh nhật Bảo Thoa vào ngày 21, ngoài ra không có sinh nhật ai nữa. Chúng tôi dịch theo chữ đại thái thái (bà Cả) và dưới đổi là “hai người khéo gặp nhau” để đợi trả lời sau.
2 Theo tục lệ phong kiến Trung Quốc đời xưa, ngày sinh nhật chủ nhà, thì tôi tớ phải lạy mừng; ngày sinh nhật của tôi tớ, cũng phải lạy chủ nhà.
3 Một trò chơi rượu, đại khái: người này dùng chữ đố, người kia dùng chữ giảng.
4 Đánh toan.
5 Ta không bằng lòng lão làm vườn – chữ trong sách luận ngữ.
6 Ngôi nhà yên lặng để đọc sách.
7 Chức quan giữ trống canh buổi sáng.
8 Gà đậu trên giậu – chữ trong Kinh Thi.
9 Bài này mỗi câu có một điển tích, đúng như lời Tương Vân giao hẹn.
10 Võ Hậu đời nhà Đường, có Chu Hưng và Lai Tuấn Thần tra xét tội phạm rất là tàn ác. Sau có người nói: Chu Hưng làm phản. Võ Hậu sai tra hỏi. Lai Tuấn Thần mời Chu Hưng đến hỏi: “Tôi tra xét tù phạm nhiều đứa không chịu thú thì nên làm thế nào?” Chu Hưng nói: “Việc ấy rất dễ, chỉ lấy một cái vò lớn, đốt than nóng xung quanh, rồi bắt nó vào, thì việc gì nó chẳng thú nhận”. Lai Tuấn Thần liền sai người lấy cái vò lớn, đốt than đỏ lên, rồi nói với Chu Hưng: “Xin mời bác vào trong vò, vì có người cáo giác bác”. Chu Hưng cúi đầu xin nhận tội.
11 “Đầu vịt” tiếng Trung Quốc cũng đọc là a đầu, và a đầu có nghĩa là đứa ở.
12 Cỏ tinh tinh cứ đến mùa hạ mùa thu nở hoa nhỏ như sao.
13 Hoa nguyệt nguyệt là một loại hoa hồng, cứ đến cuối tháng sáu thì nở.
– Tối nay uống rượu, chúng ta chỉ cần góp vui, chứ không nên câu nệ. Bây giờ muốn ăn món gì, chị bảo họ sắp sẵn đi.
– Cậu cứ yên tâm, tôi cùng Tình Văn, Xạ Nguyệt, Thu Văn, mỗi người góp năm đồng, cộng là hai lạng. Phương Quan, Bích Ngân, Xuân Yến, con Tư mỗi người góp ba đồng; những người nghỉ phép thì thôi không kể. Tất cả là ba lạng hai đồng cân. Tôi đã giao cho thím Liễu sắp sẵn bốn mươi đĩa các thứ quả. Tôi lại bảo chị Bình lấy một vò rượu Thiệu Hưng để ở bên kia rồi. Đó là riêng tám người chúng tôi làm sinh nhật mừng cậu.
Bảo Ngọc vui mừng nói:
– Họ lấy đâu ra tiền? Không nên bảo họ góp mới phải.
Tình Văn nói:
– Họ không có tiền, thì chúng tôi có tiền à? Đó là bụng tốt của mọi người, dù là tiền ăn cắp đâu ra cũng nên nhận cho họ mới phải.
Bảo Ngọc cười nói:
– Chị nói phải đấy.
Tập Nhân cười nói:
– Ngày nào không được người ta nói nặng mấy câu thì cậu không chịu yên.
Tình Văn cười nói:
– Chị cũng học được thói xấu rồi đấy, cứ hay giở cái lối đâm bị thóc chọc bị gạo!
Nói xong mọi người đều cười.
Bảo Ngọc nói:
– Đóng cửa đi thôi.
Tập Nhân cười nói:
– Không trách người ta bảo cậu “không có việc lại hay bận”. Đóng cửa từ giờ, người ta lại ngờ đấy. Hãy chịu khó chờ một tý nữa.
Bảo Ngọc gật đầu nói:
– Tôi đi dạo chơi một lúc. Con Tư đi múc nước vắng, Xuân Yến sẽ theo tôi.
Bảo Ngọc ra ngoài thấy không có ai, liền hỏi đến việc con Năm, Xuân Yến nói:
– Tôi đã bảo thím Liễu rồi, thím ấy mừng lắm, nhưng đêm nọ con Nam bị Oan, bực quá đâm ốm, chưa đến được. Chờ khi nào khỏi sẽ hay.
Bảo Ngọc nghe nói, đâm ra hối hận thở dài, lại hỏi:
– Việc này chị Tập Nhân có biết không?
– Tôi không nói với chị ấy, chẳng biết chị Phương Quan có nói hay không?
– Tôi cũng chưa nói gì với chị ấy cả.
– Thôi, để tôi bảo chị ấy là xong.
Nói xong, Xuân Yến chạy về giả cách rửa tay.
Đến lúc lên đèn, nghe ngoài sân có một toán người. Nhìn qua cửa sổ, thấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn lũ đàn bà coi việc đi đến. Một người đi trước cầm đèn lồng. Tình Văn khẽ cười nói:
– Họ đi tuần tra những người canh đêm đấy. Chờ họ ra là chúng ta đóng cửa thôi.
Những người canh đêm ở Viện Di Hồng đều ra đón cả.
Vợ Lâm Chi Hiếu xem xét cẩn thận rồi dặn:
– Không được bạc bài, chè rượu rồi ngả ra hè ngủ đến trời sáng bảnh mới dậy. Tôi biết sẽ không tha đâu.
– Chúng tôi đâu dám cả gan như thế.
– Cậu Bảo đã đi ngủ chưa?
– Chúng tôi không biết.
Tập Nhân vội đẩy Bảo Ngọc. Bảo Ngọc đi giày ra cửa đón, cười nói:
– Tôi chưa đi ngủ. Bà hãy vào chơi.
Lại gọi Tập Nhân đi pha nước. Vợ Lâm Chi Hiếu đi vào cười nói:
– Cậu chưa đi ngủ à? Dạo này ngày dài đêm ngắn, cậu nên đi ngủ ngay để ngày mai dậy sớm; nếu dậy trưa người ta sẽ cười chọ Họ bảo không phải cậu ấm đi học, mà là hạng người đi gánh thuê.
– Bà nói phải đấy. Hôm nào tôi cũng đi ngủ sớm. Mọi khi bà đến, tôi đã đi ngủ rồi, nên không biết gì cả. Hôm nay vì ăn miến, sợ không tiêu, nên phải thức chơi một lúc.
– Đã pha một ấm trà Nữ Nhi cho cậu ấy uống hai chén rồi. Có sẵn đây, mời bà xơi một chén.
Nói xong, Tình Văn pha trà mang đến. Vợ Lâm Chi Hiếu đứng dậy cầm lấy, cười nói:
– Gần đây tôi xem ra cậu Hai đã đổi cả cách xưng hô, trước mặt các cô, lại gọi tên người ta ra thế. Tuy ở trong nhà, nhưng đều là người của cụ và bà Hai. Cậu cũng nên ăn nói dè chừng mới phải. Một đôi khi lỡ miệng nói lầm thì được chứ quen mồm gọi tràn, sợ sau này anh em con cháu bắt chước, người ta sẽ cười chọ Họ lại bảo con cháu nhà này không coi bậc tôn trưởng ra gì cả.
Bảo Ngọc cười:
– Bà nói phải đấy. Chẳng qua tôi gọi nhầm một đôi khi đấy thôi.
Tập Nhân, Tình văn đều cười nói:
– Không nên trách oan cậu ấy. Từ trước đến giờ, cậu ấy vẫn luôn miệng gọi là chị, chẳng qua trong những lúc vui đùa với nhau, thỉnh thoảng cậu ấy mới gọi tên thôi. Nhưng có người lạ, cậu ấy vẫn gọi như trước.
Vợ Lâm Chi Hiếu cười nói:
– Thế mới là người đi học biết lễ phép chứ! Càng khiêm tốn bao nhiêu, người ta càng trọng mình bấy nhiêu. Không kể những người ở đã lâu đời, ngay những người của cụ và bà Hai sai sang hầu, hay cả từ con mèo con chó của người, cậu cũng không nên khinh rẻ. Thế mới là cách ăn ở của cậu ấm đã được ăn học chứ.
Bà ta uống nước, rồi nói:
– Thôi mời cậu đi ngủ, chúng tôi đi đây.
Bảo Ngọc nói:
– Bà hãy ngồi chơi đã.
Vợ Lâm Chi Hiếu đã dẫn mọi người đi tuần tra chỗ khác.
Bọn Tình Văn ra bảo đóng cửa, rồi đi vào cười nói:
– Cái bà này đã uống rượu ở đâu, ăn nói ba hoa, lại còn lên giọng dạy chúng mình một trận.
Xạ Nguyệt cười nói:
– Bà ta có phải tốt bụng gì đâu? Chẳng qua nhắc nhở để ngăn ngừa trước những chuyện lầm lỗi lớn đấy thôi.
Nói xong, đi dọn rượu.
Tập Nhân bảo:
– Không cần bày bàn cao. Chúng ta cứ đem cái bàn tròn kiểu hoa lê đặt lên trên giường, vừa rộng, lại vừa tiện.
Mọi người cùng khiêng bàn đến, Xạ Nguyệt và con Tư, dùng hai khay lớn, mang các thứ quả đến bốn, năm lần mới hết. Hai bà già ở bên ngoài hâm rượu.
Bảo Ngọc nói:
– Giời nực, chúng ta cởi áo ngoài ra mới được.
Mọi người cười nói:
– Cậu muốn cởi cứ cởi, chứ chúng tôi còn phải thay phiên nhau mời rượu kia.
Bảo Ngọc cười nói:
– Nếu mời rượu thì đến canh năm mới xong. Tôi rất ghét cái lối ấy. Đối với người lạ, bất đắc đĩ mới phải theo. Bây giờ làm phiền tôi như thế thì mất thú.
Mọi người đều nói:
– Thôi cũng nghe cậu.
Ai nấy chưa vào ngồi hãy đi cởi áo ngoài và tháo bỏ đồ trang sức, đầu búi tóc trần, mình mặc áo lót. Bảo Ngọc chỉ mặc một cái áo cánh lụa đỏ, quần lót lụa xanh, ống quần buông xỏa, thắt một cái dây lưng, dựa vào cái gối lụa thêu hoa hồng và hoa thước dược, rồi cùng đánh toan với Phương Quan. Phương Quan cứ kêu nóng, chỉ mặc cái áo lót kẻ ô bằng đoạn ba màu, thắt một cái dây lưng màu lá liễu, dưới mặc cái quần lót màu thủy hồng cải hoa, cũng buông tỏa ống; trước trán tết một búi tóc nhỏ lên tận đỉnh đầu, lại tết một cái đuôi sam vắt ra đằng sau gáy; tai bên phải giắt một viên ngọc to bằng hạt gạo, tai bên trái đeo một cái khuyên vàng đỏ chói to bằng quả mận; rõ ràng mặt trắng như trăng hôm rằm, mắt trong hơn nước mùa thụ Mọi người thấy vậy cười nói:
– Hai người này trông như là anh em sinh đôi vậy.
Tập Nhân đến rót rượu nói:
– Lát nữa hãy đánh toan. Tuy không mời rượu, nhưng chúng ta mỗi người phải tự uống một chén đã.
Tập Nhân cầm chén uống trước, theo thứ tự, ai cũng uống hết, rồi đều ngồi quây cả xuống. Xuân Yến và con Tư vì không ngồi được cạnh giường, liền ngồi vào hai cái đòn lót đệm gấm ở gần đó. Bốn mươi đĩa sứ Định Châu màu trắng, to bằng đĩa trà, đều đựng những thứ quả khô và tươi cùng sơn hào hải vị, hoặc ở trong nước, hoặc ở nước ngoài.
Bảo Ngọc nói:
– Chúng ta nên làm tửu lệnh cho vui.
Tập Nhân nói:
– Nhưng phải nhã một tý mới được, đừng hét ầm lên để người ta nghe thấy, vả chăng chúng tôi không biết chữ, cũng không nên nói văn chương nhiều quá.
Xạ Nguyệt cười nói:
– Thôi lấy hột xúc xắc ta gieo chơi.
Bảo Ngọc nói:
– Chẳng có thú gì, không thích. Chúng ta chơi cách rút tên hoa thì hơn.
Tình Văn cười nói:
– Phải đấy. Tôi đã nghĩ đến cái lối chơi như thế rồi.
Tập Nhân nói:
– Chơi thế vui thật, nhưng ít người quá không thú.
Xuân Yến cười nói:
– Cứ ý tôi khẽ lại mời cô Bảo, cô Vân, cô Lâm sang chơi một lúc, đến canh hai về ngủ cũng chưa muộn.
Tập Nhân nói:
– Lại phải mở cửa, đóng cửa ầm lên, nhỡ gặp bọn đi tuần đêm hỏi.
Bảo Ngọc nói:
– Sợ gì? Cô Ba cũng biết uống rượu đấy. Mời cô ấy một tiếng mới phải. Và cả cô Cầm nữa.
Mọi người đều nói:
– Thôi đừng mời cô Cầm, cô ấy ở nhà mợ Cả, rồi lại làm to chuyện lên.
Bảo Ngọc nói:
– Sợ cái gì? Các cô cứ đi mời sang đây.
Xuân Yến, con Tư không nói câu gì. Nó mở cửa dẫn bọn hầu nhỏ chia nhau đi mời. Tình Văn, Xạ Nguyệt và Tập Nhân lại nói:
– Hai cô ấy đi mời chưa chắc họ đã chịu đến, để chúng tôi đi sống chết cũng kéo họ lại cho được.
Tập Nhân, Tình Văn sai lũ bà già cầm đèn lồng đi. Quả nhiên Bảo Thoa thì nói: “Đêm khuya rồi”. Đại Ngọc thì nói: “Người không được khỏe”. Nhưng hai người cứ nằn nì nói: “Thế nào cũng xin nể mặt chúng tôi, đến ngồi chơi một lúc rồi về ngay”. Mọi người nghe nói, đều lấy làm vui thích. Trước không định mời Lý Hoàn, nhưng họ nghĩ, nhỡ ra chị ấy biết lại không ra làm sao, liền sai Thúy Mặc cùng đi với Xuân Yến cố đến mời Lý Hoàn và Bảo Cầm. Mọi người đều lần lượt đến cả. Tập Nhân lại cố kéo Hương Lăng đến. Trên giường bày thêm một cái bàn nữa rồi mới vào ngồi.
Bảo Ngọc vội nói:
– Em Lâm chắc sợ lạnh, sang ngồi dựa cạnh vách này.
Rồi đem đến một cái nệm dựa lót vào phía sau. Bọn Tập Nhân lấy ghế ngồi tiếp ở cạnh giường. Đại Ngọc ngồi dựa vào nệm, cách bàn hơi xa, cười nói với bọn Bảo Thoa, Lý Hoàn và Thám Xuân:
– Chị em thường vẫn nói, người ta đêm hay đánh bạc uống rượu. Hôm nay chúng ta lại như thế này, liệu còn bảo ai được nữa!
Lý Hoàn nói:
– Có hại gì đâu? Trong một năm chỉ có ngày sinh nhật, chứ có phải đêm nào cũng như thế đâu, chẳng đáng ngại lắm.
Tình Văn mang đến một cái ống thẻ bằng trúc chạm, trong đựng những thẻ bằng ngà có khắc tên hoa, xóc đi xóc lại, đem để ở giữa. Lại lấy quân xúc xắc ra bỏ vào trong hộp, xóc một cái mở ra xem, vừa đúng sáu chấm, tính đến Bảo Thoa. Bảo Thoa cười nói:
– Tôi rút trước, chẳng biết rút được cái gì đây!
Nói xong, xóc ống, rút ra một cái thẻ, mọi người xem, thấy vẽ một cành hoa mẫu đơn, có đề bốn chữ “Hơn hẳn trăm hoa”. Phía dưới có khắc mấy chữ nhỏ là một câu thơ Đường: “Dù chẳng tình gì, người cũng cảm”. Lại chua thêm: “Cả bàn tiệc mừng một chén. Vì là đứng đầu các thứ hoa, nên được tùy ý mình bảo ai đọc mừng một bài thơ từ hay khúc hát cho vui”.
Mọi người đều cười nói:
– Khéo quá! Cô thực đáng là hoa mẫu đơn.
Mỗi người đều mừng một chén. Bảo Thoa uống xong, cười nói:
– Cô Phương Quan hát một câu cho chúng tôi nghe nào.
Phương Quan nói:
– Đã thế thì mỗi người hãy uống trước một chén để nghe cho vui.
Mọi người đều uống. Phương Quan hát: “Tiệc thọ bày đây phong cảnh đẹp”… Mọi người đều nói: “Bỏ câu ấy đi! Bây giờ không cần cô đến chúc thọ. Chọn bài nào hay nhất thì hát”.
Phương Quan đành phải khẽ hát một câu ở hài “Thưởng hoa thì”:
Cánh tiên cắp chổi thướt tha,
Gót sen đủng đỉnh, quét hoa cửa trời…
Bảo Ngọc cứ cầm lấy cái thẻ, miệng đọc đi đọc lại: “Dù chẳng tình gì, người cũng cảm”. Nghe hát xong, Bảo Ngọc vẫn nhìn vào Phương Quan không nói gì. Tương Vân giật lấy cái thẻ đưa cho Bảo Thoa. Bảo Thoa lại gieo được một quân mười sáu điểm, tính đến lượtThám Xuân.
Thám Xuân cười nói:
– Không biết rút được cái gì đây?
Rồi lấy ra một cái thẻ, xem xong vứt ngay lên bàn, đỏ mặt cười nói.
– Không nên chơi cái lệnh này. Đó là cái lệnh của bọn đàn ông thường chơi ở ngoài, có nhiều câu nói nhảm.
Không ai hiểu ra sao cả. Bọn Tập Nhân vội nhặt lấy thẻ đưa cho mọi người xem, thấy mặt trên vẽ một cành hoa hạnh, viết bốn chữ đỏ “Tiên phẩm đền Dao”. Mặt sau có đề câu thơ: “Tựa mây hồng hạnh giồng bên mặt trời”. Lại chua thêm: “Ai rút được thẻ này, tất lấy được chồng sang. Mọi người mừng một chén rồi cùng uống một chén”.
Mọi người cười nói:
– Chúng tôi tưởng là cái gì kia chứ, thẻ này cốt để bày trò cười ở trong khuê các, chỉ có vài ba cái là có những câu thế này thôi, còn thì không nói nhảm cả. Thế có hại gì? Nhà chúng ta đã có vị vương phi rồi. Có lẽ cô lại sẽ là vương phi cũng chưa biết chừng? Đáng mừng! Đáng mừng!
Nói xong mọi người lại đưa rượu mừng. Thám Xuân không chịu uống. Sau bị Tương Vân, Hương Lăng, Lý Hoàn ép mãi mới uống một chén. Thám Xuân nói:
– Bỏ cái tửu lệnh này đi, chơi cái khác thôi.
Mọi người nhất định không nghe. Tương Vân cầm lấy tay Thám Xuân bắt gieo được điểm mười chín, tính đến lượt Lý Hoàn.
Lý Hoàn xóc ống, rút thẻ ra xem, cười nói:
– Hay lắm! Chị em xem mấy chữ này, rất có ý nghĩa.
Mọi người cầm thẻ xem, thấy vẽ một cành mai già, viết bốn chữ “Vóc đựng sương mai”. Mặt sau đề một câu thơ cổ: “Nhà tranh giậu trúc nhưng lòng vẫn vui”. Lại chua thêm: “Tự mình uống một chén, người ngồi dưới gieo xúc xắc”.
Lý Hoàn cười nói:
– Rất là thú! Các cô cứ gieo đi. Tôi tự uống một chén, dở hay mặc các cô.
Nói xong uống ly rượu, đưa xúc xắc cho Đại Ngọc. Đại Ngọc gieo được số mười tám điểm, tính đến tượt Tương Vân.
Tương Vân cười, xoa tay xắn áo rút ra một cái thẻ. Mọi người xem, thấy cành hải đường, có đề bốn chữ “Mộng thơm say tít”. Mặt sau có đề một câu thơ: “Chỉ sợ đêm khuya hoa ngủ mất”.
Đại Ngọc cười nói:
– Hai chữ “đêm khuya” nên đối là “đá lạnh” thì hay hơn.
Mọi người biết Đại Ngọc nói chọc Tương Vân say rượu ngủ trên hòn đá giữa ban ngày, đều cười ầm lên. Tương Vân cười chỉ cho Đại Ngọc xem cái thuyền rồi nói:
– Thôi xuống cái thuyền này mà đi về nhà, đừng nói nhảm nữa.
Mọi người đều cười. Lại xem thấy lời chú: “Đã gọi là “mộng thơm say tít” thì người nào rút được thẻ này không nên uống rượu, chỉ để cho người ngồi trên, ngồi dưới, mỗi người uống một chén thôi”.
Tương Vân vỗ tay cười nói:
– A di đà Phật! Thẻ này hay quá!
Vừa đúng Đại Ngọc ngồi trên. Bảo Ngọc ngồi dưới hai người rót hai ly rượu, đành phải uống vậy. Bảo Ngọc uống được nửa chén, thấy không ai nhìn đến, liền đưa cho Phương Quan. Phương Quan cầm lấy, ngửa mặt lên uống hết. Đại Ngọc giả vờ nói chuyện với người khác, rồi đổ hết rượu vào trong ống nhổ.
Tương Vân lấy xúc xắc gieo được chín điểm, đếm số đến lượt Xạ Nguyệt. Xạ Nguyệt rút một cái thẻ, mọi người xem thấy một cành hoa đồ mi, có đề bốn chữ “Cảnh xuân đẹp tuyệt”. Lại có một câu thơ cổ: “Hoa đồ mi nở là ngày xuân đi”. Lại có chua thêm: “Mỗi người trong tiệc uống ba chén tiễn xuân”.
Xạ Nguyệt hỏi:
– Nói thế nào?
Bảo Ngọc cau mày, giấu thẻ đi, nói:
– Thôi, chúng ta cứ uống rượu đi.
Mọi người uống đủ ba nhấp thay cho ba chén.
Xạ Nguyệt gieo được mười điểm, đếm số đến lượt Hương Lăng. Hương Lăng rút được một cái thẻ vẽ cành hoa “tịnh đế” có đề bốn chữ “Điềm xuân liên tiếp”. Mặt sau có một câu thơ cổ: “Liền cành hoa nọ vừa đua nở”. Lại chua thêm: “Cùng mừng người rút uống ba chén, sau đó mọi người đều uống một chén”.
Hương Lăng lại gieo được sáu điểm, tính đến lượt Đại Ngọc. Đại Ngọc nghĩ thầm: “Không biết còn thẻ gì hay nữa!” Rồi rút được một thẻ vẽ một cành hoa phù dung, có đề bốn chữ “sương gió buồn tênh”. Mặt sau có một câu thơ cổ: “Thương mình nào dám giận gì gió đông”. Lại chua thêm “Tự uống một chén, hoa mẫu đơn uống tiếp một chén”.
Mọi người cười nói:
– Hay quá! Trừ cô ấy ra, không còn có ai đáng làm hoa phù dung nữa.
Đại Ngọc cũng cười thầm, uống một chén, rồi gieo được mười hai điểm, tính đến lượt Tập Nhân.
Tập Nhân rút ra một cái thẻ vẽ cành hoa đào, đề bốn chữ “Phong cảnh Vũ Lăng”. Mặt sau có đề một câu thơ cổ: “Hoa đào lại báo một mùa xuân sang”. Lại chua thêm: “Hoa hạnh uống tiếp một chén, người nào cùng tuổi hay cùng họ đều uống tiếp một chén”.
Mọi người cười nói:
– Lần này nhộn nhịp quá, rất vui.
Tính tất cả thì Hương Lăng, Tình Văn và Bảo Thoa đều cùng tuổi với Tập Nhân, Đại Ngọc thì đẻ cùng giờ, nhưng không có người nào cùng họ.
Phương Quan vội nói:
– Tôi cũng họ Hoa, để tôi uống tiếp với chị ấy một chén.
Rồi mọi người đều rót rượu uống.
Đại Ngọc cười bảo Thám Xuân:
– Có số lấy được chồng sang. Cô là hoa hạnh phải uống đi để cho chúng tôi cùng uống.
Thám Xuân cười nói:
– Nói gì thế! Chị Cả tiện tay tát cho nó một cái!
Lý Hoàn cười nói:
– Người ta đã không lấy được chồng sang, lại còn bị đánh, tôi không nỡ đâu.
Mọi người đều cười.
Tập Nhân đương định gieo, chợt có người gọi cửa, bọn bà già ra hỏi thì té ra Tiết phu nhân sai người sang đón Đại Ngọc về. Mọi người hỏi:
– Canh mấy rồi?
Có người nói: “Qúa canh hai. Đồng hồ đã điểm 11 tiếng”.
Bảo Ngọc không tin, bảo mang đồng hồ đến xem, thì đã quá giờ tý. Đại Ngọc đứng dậy nói:
– Tôi không thể ngồi nán được nữa, còn phải về uống thuốc.
Mọi người đều nói:
– Cũng nên về cả thôi.
Bọn Tập Nhân, Bảo Ngọc còn muốn giữ lại, nhưng Lý Hoàn, Thám Xuân đều nói:
– Đêm đã khuya, thế này cũng quá lắm rồi.
Tập Nhân nói:
– Đã thế mỗi người uống thêm một chén nữa rồi hãy về.
Bọn Tình Văn vội rót đầy chén, mọi người uống rồi, đều sai thắp đèn đi về.
Bọn Tập Nhân tiễn họ đến bờ sông đình Thấm Phương, mới quay về, đóng cửa lại, đánh đố rượu. Tập Nhân rót mấy chén to, lấy mấy thứ ăn, đưa cho các bà già hầu ở đấy ăn uống. Ai cũng ngà ngà say, vừa đánh toan vừa hát. Bấy giờ đã đến canh tư, các bà già vừa ăn thật, vừa ăn vụng, vò rượu hết sạch. Mọi người thấy thế, mới thu dọn rửa ráy đi ngủ.
Phương Quan uống nhiều quá, mặt đỏ dừ, đầu mày cuối mắt, càng nhìn càng xinh. Nó cố gượng không đứng dậy được, liền nằm ngả vào người Tập Nhân, nói:
– Chị Ơi! Bụng tôi cồn cào quá!
– Ai bảo mày cứ nốc cho lắm vào!
Xuân Yến và con Tư cũng say mềm, đi ngủ cả rồi. Tình Văn thì cứ kêu mãi. Bảo Ngọc nói:
– Đừng kêu nữa, chúng ta cứ nằm bừa ra đây mà ngủ.
Nói xong, gối đầu vào cái gối thơm màu đỏ, nằm ngả ra ngủ ngaỵ Tập Nhân thấy Phương Quan say quá, sợ nó bị nôn, bèn khẽ nâng nó dậy, đặt nằm ngủ cạnh Bảo Ngọc, còn mình sang nằm ngủ ở cái giường trước mặt. Mọi người ngủ say không biết trời đất gì cả.
Tập Nhân choàng mắt dậy, trời đã sáng bạch, nói:
– Muộn mất rồi!
Trông sang giường trước mặt, thấy Phương Quan gối đầu vào thành giường, vẫn ngủ say, vội gọi nó dậy. Bảo Ngọc cũng giở mình tỉnh dậy, cười nói:
– Muộn mất rồi!
Bèn lay Phương Quan. Phương Quan ngồi dậy giật mình dụi mắt.
Tập Nhân cười nói:
– Rõ không biết xấu hổ! Say rượu không biết đi tìm chỗ ngủ, lại nằm lăn ra đấy.
Phương Quan nhìn ra mới biết là mình nằm cũng giường với Bảo Ngọc, xấu hổ tụt xuống đất cười nói:
– Tôi ăn uống ra làm sao lại chẳng biết gì cả.
Bảo Ngọc cười nới:
– Tôi cũng không biết gì; nếu biết đã bôi mực vào mặt cô rồi.
Bọn a hoàn lên hầu rửa mặt chải đầu. Bảo Ngọc cười nói:
– Hôm qua làm phiền các chị, tối nay tôi xin giả tiệc.
Tập Nhân cười nói:
– Thôi, thôi! Hôm nay đừng quấy nữa, nếu còn quấy thì người ta sẽ nói cho đấy.
Bảo Ngọc nói:
– Sợ cái gì! Chẳng qua mới có hai lần thôi. Chúng ta kể cũng uống được rượu đấy. Thế nào lại uống hết cả một vò kia à? Tiếc đương lúc vui rượu lại hết!
Tập Nhân cười nói:
– Uống vừa vừa thế mới thú, chứ uống quá lại mất vui. Hôm qua hứng lên, Tình Văn cũng không biết xấu hổ nữa. Tôi nhớ nó còn hát một bài gì đó?
Con Tư cười nói:
– Chị quên rồi, chị cũng có hát một bài đấy! Trong tiệc rượu ai mà chẳng hát?
Mọi người nghe nói, đều đỏ mặt, lấy tay bưng mặt cười rũ rượi.
Chợt Bình Nhi cười hì hì chạy đến, nói:
– Hôm nay tôi thân đến mời trả lại những người dự tiệc hôm qua, thiếu một vị cũng không được.
Mọi người mời chị ta ngồi uống nước. Tình Văn cười nói:
– Tiếc rằng hôm qua không có chị!
Bình Nhi vội hỏi:
– Tối hôm qua các chị làm trò gì?
Tập Nhân nói:
– Không thể kể hết với chị được. Hôm qua vui nhộn lạ thường, dù những ngày cụ và bà Hai cho mọi người đi dự tiệc cũng không vui bằng. Cả một vò rượu cũng nốc sạch. Ai cũng say không biết xấu hổ, lại còn hát nữa cợ Đến quá canh tư mới nằm ngổn ngang ra ngủ.
Bình Nhi cười nói:
– Giỏi nhỉ! Chỉ biết lấy rượu lại không mời tôi, còn kể ra để trêu tức người ta!
Tình Văn nói:
– Chiều nay hắn mời trả lại, thế nào cũng sang mời chị, chị hãy chờ đấy.
Bình Nhi cười hỏi:
– Hắn là ai? Ai là hắn?
Tình Văn nghe nói, đỏ bừng mặt lên, chạy lại đánh, cười nói:
– Chị thính tai quá, nghe rõ thế!
Bình Nhi cười nói:
– Con ranh này không biết xấu hổ! Bây giờ đương bận đây không nói chuyện với cô vội! Tôi đi có việc, lúc về sẽ cho người lại mời. Người nào không đến tôi vào tận nhà kéo cổ bắt đi!
Bảo Ngọc vội giữ lại, nhưng Bình Nhi đã đi rồi. Bảo Ngọc tắm gội xong, đương uống nước, nhìn dưới nghiên mực có một tờ giấy, liền nói:
– Các chị cứ để bừa bãi thế này không được đâu.
Tập Nhân và Tình Văn vội hỏi:
– Lại cái gì đấy? Chắc có ai làm điều gì không đúng rồi?
Bảo Ngọc trỏ tay nói:
– Dưới cái nghiên kia là cái gì? Chắc là miếng giấy mẫu của cô nào bỏ quên không cất.
Tình Văn vội nhấc cái nghiên ra, thấy một tờ thiếp, đưa cho Bảo Ngọc xem, một tờ giấy hoa tiên màu phấn hồng, có viết: “Người ngoài cửa là Diệu Ngọc kính chúc ngày sinh nhật”. Bảo Ngọc xem xong, nhảy lên hỏi:
– Ai nhận được giấy này lại không cho tôi biết?
Tập Nhân và Tình Văn thấy thế, tưởng là cái thiếp của người nào quan hệ đưa đến có việc gì, liền cùng hỏi:
– Hôm qua ai nhận được cái thiếp này?
Con Tư vội chạy đến cười nói:
– Hôm qua cô Diệu Ngọc sai bà già đưa đến, chứ cô ấy không đến đây. Tôi để ở đấy, không ngờ uống rượu say quên mất.
Mọi người đều nói:
– Cứ tưởng là ai, đâm ra nhớn nhác như thế! Chứ biết của người ấy thì đáng kể gì.
Bảo Ngọc liền sai:
– Mang giấy đến đây.
Trong khi sắp giấy mài mực, nhìn thiếp, thấy Diệu Ngọc viết ba chữ “người ngoài cửa”. Bảo Ngọc cầm bút nghĩ mãi không biết dùng chữ gì để đáp lại được. Lúc lâu vẫn chưa biết viết chữ gì. Liền nghĩ: “Nếu đi hỏi Bảo Thoa, chắc cô ấy lại trách mình là gàn dở, chi bằng đi hỏi Đại Ngọc”. Bèn bỏ thiếp vào tay áo, chạy đến tìm Đại Ngọc. Vừa đến đình Thấm Phương, thấy Tụ Yên thướt tha đi đến. Bảo Ngọc hỏi:
– Chị đi đâu đấy?
– Tôi đến thăm Diệu Ngọc đây.
Bảo Ngọc lấy làm lạ nói:
– Cô ấy khó tính, không hợp với đời, không coi ai ra gì cả. Vậy mà cô ấy lại quý trọng chị! Thế mới biết chị không phải là hạng tục như chúng tôi!
Tụ Yên cười nói:
– Chưa chắc cô ấy thực bụng quý trọng tôi, nhưng chúng tôi đã ở gần nhau hàng mười năm trời, chỉ cách nhau có một cái tường thôi. Cô ấy tu ở chùa Bàn Hương, nhà tôi vốn nghèo, phải thuê một gian buồng ở trong chùa ấy suốt mười năm. Lúc rỗi tôi thường đến chơi với cô ấy. Tôi biết ít chữ cũng là nhờ cô ấy dạy cho cả. Tôi đối với cô ấy đã là bạn chơi lúc nghèo hèn, lại có tình thầy trò nữa. Khi chúng tôi đi đến nhà cô tôi, có nghe nói cô ấy không hợp với đời, bọn quyền thế không ưa, nên phải đến ở đây. May sao chúng tôi lại gặp nhau, tình cũ vẫn chưa thay đổi, cô ấy đối với tôi mối tình lại hơn ngày trước.
Bảo Ngọc nghe vậy, choáng tai lên, mừng nói:
– Không trách được, cách ăn nói đi đứng của chị như là hạc nội mây ngàn. Té ra là có lai lịch. Tôi đương băn khoăn vì một việc của cô ấy, định đi hỏi người khác. May được gặp chị, thực là duyên trời đem lại, nhờ chị bảo giúp cho.
Nói xong cầm thiếp đưa cho Tụ Yên xem. Tụ Yên cười nói:
– Tính nết cô này chẳng đổi tí nào, vẫn giữ cái thói ngông gàn kỳ quặc. Xưa nay chưa thấy ai viết thiếp mà lại đề biệt hiệu. Thực đúng như tục ngữ nói: “Sư không phải sư, tục không phải tục, gái không phải gái, trai không phải trai”, chẳng ra nghĩa lý gì cả!
Bảo Ngọc cười nói:
– Chị không biết, cô ấy không phải là người trong đám trần tục, mà là đứng ngoài cuộc đời, vì thấy tôi cũng hiểu biết một đôi chút, nên mới đưa đến cái thiếp này. Tôi không biết hàng chữ gì để trả lời cho phải, nghĩ mãi không ra, đương định đi tìm cô Lâm, may sao lại gặp chị.
Tụ Yên nghe vậy, đưa mắt ngắm nghía Bảo Ngọc một lúc, cười bảo:
– Tục ngữ nói: “Tai nghe không bằng mắt thấy”, không trách được Diệu Ngọc lại đưa cái thiếp này cho cậu, cũng không trách được năm ngoái cô ấy cho cậu cành hoa mai. Đã vậy tôi xin nói rõ đầu đuôi câu chuyện cho cậu nghe. Cô ấy thường nói: người xưa từ đời Hán, Tấn, Ngũ Đại, Đường, Tống đến nay, chẳng có bài thơ nào hay, chỉ có hai câu dưới đây là hay thôi:
Cửa sắt nghìn năm dầu vững chắc,
Đốt bùn một nắm cũng chôn vùi.
Vì thế cô ấy tự xưng là “người ngoài cửa”. Lại thường khen: Văn của Trang Từ là hay nhất, nên cũng tự xưng là “kỳ nhân”. Nếu trong thiếp cô ấy xưng kỳ nhân” tức cho mình là người kỳ quặc, thì cậu nên khiêm tốn xưng “thế nhân”, tức là người nhiều tục lụy, như vậy cô ấy sẽ thích. Nhưng bây giờ, cô ấy lại xưng là “người ngoài cửa”, nghĩa là cô ấy đứng ở ngoài cửa sắt, thì cậu nên xưng là “người trong cửa”, tất sẽ hợp ý cô ấy.
Bảo Ngọc nghe xong tỉnh ngộ ngay, liền “úi chà” một tiếng, rồi cười nói:
– Thảo nào chùa nhà tôi đặt tên là “Thiết Hạm”, tức là “cửa sắt”, té ra như thế đấy! Xin chị cứ đi, để tôi về nhà viết thiếp trả lời.
Bảo Ngọc về nhà viết thiếp, ngoài đề mấy chữ “Người trong cửa là Bảo Ngọc kính cẩn bái tạ”, tự mình mang thiếp đến am Lũng Thúy, từ ngoài khe cửa đưa qua rồi về. 1
Xong bữa cơm, Bình Nhi mời đãi tiệc, lại bày mấy mâm rượu, hoa quả trong Du Ấm đường, vì cho vườn Hồng Hương nóng lắm, Vưu thị cũng đem theo hai người nàng hầu là Bội Phượng, Giai Loan đến chơi ngắm cảnh. Hai người nàng hầu này cũng là bọn con gái trẻ tuổi láu lỉnh không hay đến đấy. Nay vào vườn gặp bọn Tương Vân, Hương Lăng, Phương Quan, Nhụy Quan thực là “người họp theo loại, vật chia theo đàn”, hai câu nói ấy quả không sai. Thấy mọi người cười đùa, người này không nghĩ gì đến Vưu thị có mặt ở đó, cứ để mặc cho đám a hoàn phục dịch, rồi chơi đùa khắp nơi.
Bây giờ họ đều đã ở trong Du Ấm đường, mượn tiếng uống rượu, mọi người chơi đùa, bảo các cô xẩm đánh trống. Bình Nhi ngắt một cành thược dược, tất cả độ hai mươi người, chuyền tay cành hoa làm tửu lệnh, vui đùa với nhau một lúc. Khi đó có người vào trình:
– Bên nhà họ Chân cho hai người đàn bà đem lễ đến.
Thám Xuân, Lý Hoàn và Vưu thị cùng ra tiếp ở nhà khách.
Mọi người trong nhà đều ra ngoài chơi, Bội Phượng và Giai Loan đi ra đánh đu, Bảo Ngọc nói:
– Hai cô cứ trèo lên, để tôi đẩy cho.
Bội Phượng cuống lên, nói:
– Thôi, đừng quấy rối chúng tôi nữa!
Chợt thấy mấy người bên phủ Đông hớt hải chạy đến nói:
– Ông 2 đã quy tiên rồi.
Mọi người giật mình nói:
– Lạ nhỉ, chẳng thấy ốm đau gì, sao lại mất ngay!
Người nhà nói:
– Ngày nào ông cũng tu luyện, chắc là thành quả tên tiên.
Vưu thị thấy thế, nghĩ ngay bố con Giả Trân và Giả Liễn không có ai ở nhà. Lại không có một người đàn ông nào lo lắng cho mình, nên cũng không khỏi bối rối. Chị ta vội bỏ ngay đồ trang sức, sai người đến quán Huyền Chân giam tất cả bọn đạo sĩ lại, chờ Giả Trân về xét hỏi; một mặt vội lên xe, dẫn bọn vợ Lai Thăng và những người hầu già trong nhà đi ra ngoài thành. Lại mời thầy thuốc đến xem chết vì bệnh gì. Thầy thuốc thấy người đã chết rồi, còn bắt mạch vào đâu được nữa. Họ vốn biết thuật “đạo khí” của Giả Kính rất là hão huyền, đến cả những việc lễ sao, giữ giờ, uống linh sa, nhiều sự nhảm nhí hư tổn tinh thần, hại cả đến tính mệnh. Nay ông ta đã chết, bụng cứng như sắt, mật và môi sém nứt cả ra. Các thầy thuốc bảo bọn bà già:
– Đó là do ông nuốt vàng, uống linh sa, theo phép đạo, đâm ra chảy ruột chương bụng mà chết.
Các đạo sĩ sợ quá nói:
– Đó là vì ông nuốt đan sa theo phép bí truyền mới, đến nỗi bị hại. Bọn tiểu đạo chúng tôi thường khuyên: “Công tu luyện chưa đến ngày thì không nên uống”. Không ngờ hôm nay vào lúc giữa giờ, người lẻn đi uống, liền quy tiên ngaỵ Việc ấy là do thành tâm đắc đạo, ra ngoài bể khổ, thoát khỏi thể xác đấy.
Vưu thị cũng không nghe, cứ bảo giam họ lại, rồi sai người cưỡi ngựa đi báo tin. Thấy trong quán chật hẹp không để được áo quan và cũng không thể rước vào thành được, Vưu thị cho chết mặc quần áo cẩn thận, đặt vào kiệu êm đưa về để ở chùa Thiết Hạm. Bấm đốt ngón tay sớm nhất cũng phải nửa tháng nữa Giả Trân mới về đến nhà, hiện giờ trời đương nồng nực, không thể chờ được. Vưu thị liền đứng lên lo liệu, bảo thầy cúng chọn ngày khâm liệm. Áo quan thì sắp sẵn từ lâu, đã để sẵn ở chùa này, nên cũng rất tiện. Sau ba ngày sẽ phát tang và đặt đàn làm chay.
Phượng Thư ở bên phủ Vinh ốm, nên không đi được. Lý Hoàn phải trông nom bọn chị em, Bảo Ngọc chẳng biết việc gì cả, nên công việc bên ngoài đành phải tạm giao cho mấy người quản lý hạng nhì. Bọn Giả Thiên, Giả Quang, Giả Hành, Giả Anh, Giả Xương, Giả Lăng mỗi người giữ một việc. Vưu thị không về nhà được, liền mời kế mẫu của mình đến phủ Ninh trông nom hộ. Bà kế mẫu đem theo hai người con gái chưa có chồng đến ở cả đấy, mới yên lòng.
Được tin cha chết, Giả Trân xin phép nghỉ. Giả Dung cùng là một viên chức. Bộ Lễ thấy nhà vua coi trọng đạo hiếu, nên không dám tự quyết, phải tâu lên xin ý chỉ. Nhà vua là bậc nhân hiếu hơn trời, trọng đãi dòng dõi những bậc công thần, tiếp được sớ tâu liền xuống chiếu hỏi Giả Kính giữ chức gì? Bộ Lễ tâu: “Giả Kính là tiến sĩ xuất thân, còn quan chức của ông ta đã phong ấm cho con là Giả Trân rồi. Giả Kính tuổi cao nhiều bệnh, thường tịnh dưỡng ở quán Huyền Chân ngoài đô thành, nay bị Ốm chết ở đó. Con là Trân, cháu là Dung, nhân có quốc tang, đều chực hầu ở đây cả, nên mới xin phép về khâm liệm”.
Nhà vua nghe nói, đặc cách xuống chiếu chỉ: “Giả Kính tuy không có công gì với nước, nhưng nghĩ đến lòng trung thành của ông cha, truy tặng cho hàm ngũ phẩm, cho phép con cháu đem linh cữu qua cửa Bắc vào đô thành, được khâm liệm ở nhà riêng. Con cháu phát tang, làm lễ xong rồi, rước linh cữu về quê quán. Lại truyền cho Quang Lộc tự chiếu lệ đến tế. Trong triều từ Vương công trở xuống cho phép đến tế riêng. Phải theo chỉ thi hành”.
Chỉ vua vừa xuống, không những người nhà phủ Giả tạ Ơn, mà cả bậc đại thần trong triều cũng không ngớt lời reo mừng ca tụng.
Cha con Giả Trân ngày đêm lật đật trở về. Giữa đường thấy Giả Thiên, Giả Quang cưỡi ngựa dẫn người nhà đi đến. Trông thấy Giả Trân, họ đều xuống ngựa chào hỏi.
Giả Trân hỏi:
– Đi làm gì thế?
Giả Thiên trình:
– Chị Cả sợ anh và cháu về trước rồi, cụ đi đường không có người trông nom, nên bảo hai chúng tôi đến đây để hộ tống.
Giả Trân nghe thấy nói thế, khen ngợi không ngớt. Lại hỏi: “Ở nhà lo liệu ra sao rồi?”
Giả Thiên kể lại việc giam bọn đạo sĩ; việc rước cữu về gia miếu, lại sợ trong nhà không có người trông nom, nên đã mời bà thông gia cùng hai dì đến lo liệu giúp. Lúc đó Giả Dung xuống ngựa, nghe thấy hai dì đến ở nhà mình, nét mặt tươi cười hớn hở. Giả Trân khen luôn miệng: “Thu xếp ổn đấy!” Rồi ra roi chạy liền, suốt đêm thay đổi ngựa để phóng về không nghỉ lại ở trạm nào cả.
Hôm sau đến cửa thành, Giả Trân đi thẳng vào chùa Thiết Hạm. Bấy giờ đã canh tư, người gác nghe thấy, liền gọi mọi người đậy. Giả Trân xuống ngựa cùng Giả Dung khóc ầm lên, từ cửa ngoài, quỳ đi vào đến trước cữu, đập đầu khóc lóc thảm thiết cho đến sáng; khóc khản tiếng mới thôi. Bọn Vưu thị đều ra chào. Cha con Giả Trân vội mặc đồ tang, đến trước cữu quỳ lạy. Đứng trước công việc, Giả Trân không thể nhắm mắt bịt tai được, đành phải nén bớt nỗi đau thương, tự mình cắt đặt mọi người. Rồi hắn kể lại việc ân chỉ nhà vua cho họ hàng bạn hữu nghe, lại sai Giả Dung về nhà lo liệu việc quàn cữu.
Giả Dung lập tức cưỡi ngựa về nhà, sai người thu dọn bàn ghế, bỏ vách chắn đi, treo màn tang, trước cửa dựng nhà tang. Rồi vội vàng chạy vào chào bà ngoại và hai dì. Bà Vưu tuổi già hay ngủ, cứ nằm luôn; dì Hai và dì Ba đương làm việc với bọn a hoàn, thấy hắn vào, đều tỏ lời chia buồn.
Giả Dung trông thấy dì Hai, hì hì cười nói:
– Dì Hai, dì đã sang đấy à? Cha tôi đang mong dì đấy.
Dì Hai đỏ mặt lên mắng:
– Thằng ranh con này! Cứ vài hôm tao không mắng là mày không chịu được, càng ngày càng tệ, chẳng giữ thể thống gì cả! Mày là một vị công tử nhà đại gia, ngày nào cũng đọc sách học lễ, thế mà không bằng con nhà ti tiện!
Nói xong, tiện tay cầm cái bàn là đánh vào đầu Giả Dung. Hắn vờ làm bộ run sợ, ôm đầu lăn xả vào lòng dì Hai xin tha tội. Dì Ba quay mặt đi, nói:
– Chờ chị về sẽ mách cho nó!
Giả Dung cười, quỳ xuống giường xin tha tội, làm cho cả hai người cười ồ lên. Giả Dung lại vồ nắm sa nhân của dì Hai để ăn. Dì Hai nhai bã sa nhân đầy mồm nhổ toẹt vào mặt, hắn thè lưỡi liếm hết. Bọn a hoàn thấy trái mắt, đều cười, nói:
– Cậu vừa có tang, bà ngoại lại mới ngủ. Hai cô tuy trẻ tuổi nhưng đều là bậc dì. Cậu không coi bà ra gì à! Khi ông về bà sẽ mách, liệu cậu chạy đằng nào cho thoát!
Giả Dung buông dì hắn ra, ôm lấy a hoàn hôn, nói:
– Em ơi! Em nói phải đấy. Chúng ta buông hai dì ấy ra!
Bọn a hoàn giận quá, đẩy hắn ra, mắng:
– Anh đốn kiếp này! Anh đã có vợ và a hoàn, lại còn chòng ghẹo chúng tôi! Người biết ra cho là đùa, người không biết hay những hạng người thối bụng, thối dạ, thích ngồi rồi mách lẻo, vắng mặt nói xấu, sẽ đồn đại sang phủ bên kia, cho là bên này chúng ta hay bậy bạ.
Giả Dung cười nói:
– Đèn nhà ai rạng nhà ấy, ai còn hơi đâu lo chuyện nhà người. Từ xưa đến nay, dù nhà Hán, nhà Đường, người ta cũng còn chê là “Đường dở, Hán thối” nữa là nhà chúng tạ Nhà nào mà chẳng có chuyện phong lưu? Đừng để tôi phải nói ra. Ngay ông Cả phủ bên kia cũng là tay đáo để, thế mà chú Liễn dám tằng tịu với dì bé đấy! Thím Phượng đanh đá như thế mà chú Thụy còn hòng gạ gẫm! Có việc gì giấu được tôi đâu!
Giả Dung cứ nói huênh hoang bậy bạ, dì Ba sa sầm mặt, bước xuống giường, vào nhà trong đánh thức bà già Vưu dậy.
Giả Dung thấy bà ngoại dậy rồi, liền vào chào hỏi, nói:
– Làm bà phải bận lòng, lại làm hai dì phải vất vả, cha con cháu rất là cảm động! Để khi xong việc cả nhà cháu sẽ sang tạ Ơn bà.
Bà già Vưu gật đầu nói:
– Cháu ơi, cháu khéo nói lắm! Chỗ thân thuộc thì phải thế chứ.
Lại hỏi:
– Cha cháu có mạnh khỏe không? Biết tin bao giờ mà về ngay thế?
Giả Dung cười, nói:
– Cũng vừa mới về. Cha cháu bảo cháu về thăm bà, nhờ bà trông nom hộ việc nhà cho, khi xong việc bà hãy về.
Nói xong hắn lại nháy mắt nhìn dì Hai. Dì Hai khẽ nghiến răng mắng:
– Thằng ranh con lém lỉnh này! Giữ chúng tao ở đây để làm mẹ bố mày à?
Giả Dung lại nói với bà ngoại:
– Xin bà cứ yên tâm. Cha cháu ngày nào cũng nghĩ đến hai dì, muốn kén hai người con nhà giàu sang, vừa trẻ vừa đẹp để gả hai dì. Thế mà mấy năm nay vẫn chưa kén được. May sao hôm nọ đi đường mới tìm được một người vừa mắt.
Bà già Vưu tưởng thực hỏi:
– Con nhà ai đấy?
Dì Hai bỏ việc, vừa cười, vừa chạy đến đánh, nói:
– Mẹ Ơi, đừng nghe thằng trời đánh ấy.
Bọn a hoàn đều nói:
– Ông trời có mắt, liệu coi chừng đấy.
Chợt có người vào thưa:
– Mọi việc xong cả, mời cậu ra xem rồi đi trình ông.
Giả Dung cười hì hì đi ra.
1 Trong nguyên bản, chỗ này còn thêm một đoạn: Bảo Ngọc cho Phương Quan ăn mặc giả trai và đổi tên là Hung Nô, sau lại đổi thành tên Thổ Phồn là “Da luật hùng nô”. Mọi người thấy vậy cũng mến, liền cho Qùy Quan, Đậu Quan cũng ăn mặc giả trai và đổi tên… Nhưng các bản Hồng lâu mộng khác đều lược đi. Chúng tôi thấy đoạn này không cần thiết lắm, nên cũng không dịch thêm nữa.