Chương 74: Quá nghe gièm hót, khám xét vườn Đại Quan – Thề giữ đoan nghiêm, rào lấp phủ Ninh Quốc

Quá nghe gièm hót, khám xét vườn Đại Quan

Thề giữ đoan nghiêm, rào lấp phủ Ninh Quốc

Bình Nhi nghe Nghênh Xuân nói, đương buồn cười, thấy Bảo Ngọc đến. Em gái thím Liễu cũng vì gá bạc bị tội. Trong vườn xưa nay vẫn có người không ưa thím Liễu, liền báo rằng thím Liễu gá chung với em gái để chia lời. Vì thế Phượng Thư muốn trị tội thím Liễu. Nghe thấy thế, thím cuống lên, nghĩ xưa nay mình vẫn chơi thân với các người ở trong viện Di Hồng, nên thím đến rỉ tai với bọn Phương Quan, Tình Vãn nhờ nói hộ với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nghĩ trong bọn ấy cũng có u nuôi của Nghênh Xuân bị can tội này, chi bằng đến hẹn với Nghênh Xuân cùng đi, hơn là một mình đi xin hộ cho thím Liễu. Vì thế mới đến nhà Nghênh Xuân. Thấy Bảo Ngọc đến, mọi người ngồi đấy đều hỏi: “Cậu đã khỏi hẳn chưa? Đến đây có việc gì?” Bảo Ngọc không tiện nói rõ việc đi xin hộ, chỉ nói “đến thăm cô Hai”. Mọi người đều không để ý đến, cứ nói chuyện phiếm.

Bình Nhi ra về để xét việc mất dây vàng. Vợ Ngọc Trụ cứ theo sát đằng sau, luôn miệng van xin:

– Cô hết lòng làm phúc nói giúp cho, thế nào tôi cũng xin chuộc về.

Bình Nhi cười nói:

– Sớm muộn chị cũng vẫn phải chuộc về. Biết thế này thì trước kia gây chuyện ra làm gì? Xem ý chị thì được lúc nào hay lúc ấy thôi. Đã thế tôi cũng không nói cho ai biết, nhưng phải chuộc ngay về đầy giao cho tôi, tôi sẽ không nói gì hết.

Vợ Ngọc Trụ nghe vậy mới yên tâm, lạy tạ rồi nói:

– Xin cô cứ đi làm việc, chiều hôm nay tôi chuộc về trình cô rồi mang đi trả, có được không?

– Chiều hôm nay mà không mang đến thì đừng trách tôi đấy.

Nói xong, mỗi người đi một ngả.

Bình Nhi về nhà, Phượng Thư hỏi:

– Cô Ba gọi chị có việc gì đấy?

– Cô Ba sợ mợ bực, bảo tôi về khuyên mợ, hỏi mợ mấy hôm nay có ăn được gì không?

– Cô ấy vẫn còn nhớ đến tôi. Vừa rồi lại xảy ra một việc, có người trình họ Liễu thông đồng với em gái gá bạc, những việc em nó làm đều do nó cầm nọc cả. Tôi nghĩ, chị thường khuyên tôi, thêm một việc không bằng bớt một việc, nên giữ gìn sức khoẻ là hơn. Tôi không nghe lời chị, quả nhiên mắc vạ ngay, đã có lỗi với bà Hai, lại làm cho mình ốm thêm. Bây giờ tôi đã hiểu rõ rồi, thây kệ họ muốn làm gì thì làm, dẫu sao cũng còn nhiều người nữa. Tôi đã uổng công lo nghĩ mấy lâu, chỉ tổ cho người ta chửi rủa thôi, chi bằng mình cứ lo tĩnh dưỡng là hơn. Dẫu khi bệnh khỏi rồi, tôi vẫn là người ngoài cuộc, được vui cứ vui, được cười cứ cười, bao nhiêu việc phải trái đều mặc kệ họ cả. Vì thế khi họ đến trình, tôi chỉ trả lời một tiếng “biết rồi”, chẳng phải lo lắng gì cả.

Bình Nhi cười nói:

– Nếu mợ được như thế thì thật là phúc đức cho chúng tôi!

Chợt Giả Liễn đi vào, đập tay thở dài:

– Tự dưng vô cớ lại xảy ra một việc! Hôm nọ tôi mượn đồ đạc của Uyên Ương đi cầm, sao bên mẹ cũng biết? Vừa rồi mẹ gọi tôi sang, bảo phải mượn cho hai trăm bạc, lấy ở món nào cũng được, để sắm sửa lễ rằm tháng tám. Tôi nói không vay vào đâu được, mẹ nói ngay: “Anh không có tiền đã có chỗ xoay xở. Tôi mới bàn với anh, mà anh đã kiếm lời rào đón! Anh không có chỗ xoay xở thì cái món đồ cầm một nghìn bạc hôm trước đó lấy ở đâu rả Ngay đến những đồ đạc của cụ, anh cũng hoá phép lấy ra được, bây giờ chỉ có hai trăm lạng bạc, anh lại làm ra vẻ khó khăn! May mà tôi chưa nói với ai đấy!” Tôi nghĩ, thật ra mẹ chẳng thiếu gì, sao lại cứ bới việc làm rầy rà người ta thế!

Phượng Thư nói:

– Hôm ấy không hề có người ngoài, thế thì ai để lộ chuyện này ra?

Bình Nhi nghe nói, cũng nghĩ xem hôm đó có ai ở đấy không. Nghĩ một lúc, cười nói:

– Phải rồi! Hôm đó lúc nói chuyện thì không có người ngoài, chỉ đến buổi chiều, lúc lấy đồ về thì vừa khi mẹ chị Ngốc ở bên cụ đưa quần áo giặt đến. Bà ấy ngồi một lúc ở nhà dưới, trông thấy hòm đồ to sù, tất nhiên bà ta phải hỏi. Bọn a hoàn không hiểu đã nói toạc ra ngay cũng chưa biết chừng.

Phượng Thư cho gọi mấy đứa a hoàn nhỏ đến hỏi:

– Hôm đó đứa nào nói cho mẹ chị Ngốc biết?

Chúng sợ quá, đều quỳ xuống thề:

– Từ xưa đến nay, ai hỏi gì chúng cháu đều trả lời là không biết, không dám bịa đặt một câu. Khi nào chúng cháu lại nói chuyện ấy.

Phượng Thư ngẫm nghĩ: “Chắc chúng nó không dám nói chuyện ấy, chớ nên đổ oan cho chúng. Giờ hãy gác việc này lại, phải xoay xở cho xong món tiền của mẹ đi. Thà chúng ta nhịn tiêu một ít, chứ đừng để xảy chuyện không hay”. Liền gọi Bình Nhi “lấy đồ vàng của ta đem cầm thêm hai trăm lạng bạc về đưa sang cho xong việc”.

Giả Liễn nói:

– Cầm thêm hai trăm lạng nữa, chúng ta còn phải tiêu kia.

Phượng Thư nói:

– Không cần. Tôi không tiêu gì cả. Còn chẳng biết sau này lấy món nào để chuộc đây!

Bình Nhi lấy vàng ra, đưa cho vợ Lai Vượng mang đi cầm. Một lát đem tiền về. Giả Liễn thân hành mang sang.

Phượng Thư và Bình Nhi đương đoán xem đứa nào nói lộ chuyện này nhưng vẫn chưa đoán được là ai.

Phượng Thư nói:

– Kẻ nói chuyện này hãy còn là việc nhỏ, sợ đứa tiểu nhân nào bày đặt chuyện gây ra những điều rắc rối. Hay bên ấy có ai thù hằn con Uyên Ương, nghe nó cho cậu Liễn mượn đồ đi cầm, bụng dạ nhỏ nhen, dù chẳng có chuyện gì, chúng cũng còn đâm dầm vào, nữa là lại có sự việc rõ ràng, lẽ nào chúng không đặt điều xằng bậy, chẳng còn trời đất nào. Chưa biết chừng cậu Liễn có việc, hay lại chỉ một con Uyên Ương chịu oan thôi. Như vậy chả phải là lỗi ở chúng ta hay sao.

Bình Nhi cười nói:

– Cái đó cũng không ngại. Uyên Ương cho mượn đồ là vì có mợ chứ không vì cậu. Việc này tuy Uyên Ương nói là dấm dúi nhưng thực ra nó đã trình cụ rồi. Cụ sợ con cháu nhiều, đứa này mượn, đứa kia mượn, đến nói khôn nói khéo với cụ, rồi sau này biết đòi ai? Vì vậy người cứ lờ đi như không biết. Dù có vỡ chuyện cũng chẳng ngại gì.

– Lý thế đấy. Bây giờ chỉ có tôi với chị biết thôi, biết đâu lại chẳng ngờ.

Đương nghĩ vẩn vơ, thì có người vào báo:

– Bà Hai đến.

Phượng Thư lấy làm lạ, không biết việc gì, liền cùng Bình Nhi ra đón, thấy nét mặt Vương phu nhân khác hẳn, chỉ đem theo một a hoàn hầu cận, không nói năng gì, đi thẳng vào phòng ngồi xuống. Phượng Thư vội pha trà cười hỏi:

– Hôm nay mẹ lại cao hứng đến đây chơi à?

Vương phu nhân quát bảo:

– Bình Nhi đi ra ngoài kia.

Bình Nhi thấy thế, không biết là việc gì, “dạ” một tiếng, dẫn bọn a hoàn nhỏ ra, đứng cả ở ngoài cửa. Bình Nhi đóng cửa lại, rồi ngồi xuống thềm, không cho một ai vào cả.

Phượng Thư sợ quá, không biết có việc gì. Thấy Vương phu nhân ứa nước mất, vất cái túi thơm ở trong tay áo ra, nói:

– Chị xem đây!

Phượng Thư vội nhặt lên xem, cái túi thơm thập cẩm, ngoài thêu cái hình khiêu dâm, giật mình vội hỏi:

– Mẹ nhặt được cái này ở đâu?

Vương phu nhân nước mắt giàn giụa, giọng run run nói:

– Ta nhặt được ở đâu à? Ngày nào ta cũng ru rú ở xó nhà! Tưởng chị là người cẩn thận, nên mới được rỗi rãi đôi chút. Ngờ đâu chị lại như ta! Ban ngày ban mặt họ dám bày những thứ này ra trước hòn đá trong vườn, để cho con a hoàn bên cụ nhặt được. Nếu không nhờ được mẹ chồng chị trông thấy, thì cái này đã đến trước mặt cụ rồi! Tôi hãy hỏi chị: tại sao cái này lại vất ở đấy?

Phượng Thư nghe nói cũng đổi nét mặt, vội hỏi:

– Sao mẹ lại biết cái này là của con?

Vương phu nhân vừa khóc vừa thở dài nói:

– Chị lại hỏi vặn ta à? Chị thử nghĩ xem: nhà này trừ vợ chồng trẻ như anh chị ra, còn bọn bà già thì dùng cái này làm gì? Bọn chị em chúng nó thì làm gì có? Chắc là thằng Liễn đốn mạt đem ở đâu về đây! Vợ chồng các người, một duộc với nhau, lại cho đó là món đồ chơi, hạng trẻ tuổi thì chuyện tình riêng trai gái trong buồng the khi nào chả có, chị lại còn chối à! May mà người trên kẻ dưới trong vườn chưa ai biết việc này, nếu họ nhặt được, chị em chúng nó trông thấy thì còn ra sao nữa! Thảng hoặc có đứa a hoàn nào nhặt được mang ra ngoài, người ta trông thấy, liệu thể diện nhà mình có còn nữa không?

Phượng Thư nghe nói, vừa tức vừa thẹn, mặt tím bầm lại, liền vịn vào cạnh giường quỳ xuống, cũng ứa nước mắt kêu van:

– Mẹ nói có lý thực, con không dám cãi. Nhưng con không hề có thứ này, xin mẹ nghĩ kỹ chọ Cái túi thơm này là ở bên ngoài họ bắt chước kiểu trong nhà rồi thêu ra. Chính cái tua cũng là thứ mua ở chợ. Con tuy còn trẻ, không biết giữ gìn, nhưng không khi nào cần những thứ này. Hơn nữa, cái này cũng không phải là thứ thường đeo, dù có chăng nữa con cũng chỉ để giấu ở chỗ kín, chứ khi nào lại đeo luôn ở trong người rồi đi chơi khắp nơi? Vả lại khi ra chơi ngoài vườn, chị em người nào cũng thường hay lôi kéo nhau, nếu để lộ ra, không những các chị em mà cả bọn người hầu cũng trông thấy nữa, như thế thì còn ra làm sao? Kể ra những người trong này, con còn trẻ thật, nhưng nhiều đứa hầu còn trẻ hơn con nữa. Họ thường đi lại ở trong vườn, biết đâu không phải là của họ đánh rơi. Hơn nữa, trừ con thường ở trong vườn ra, còn có các cô cháu của mẹ con bên kia, thường dẫn sang, như bọn Yên Hồng, Thúy Vân, đều là hạng tuổi trẻ, họ cũng có thể có thứ này được. Lại còn chị Trân bên phủ Đông, chị ấy cũng chưa lấy gì làm già, và cũng thường dẫn bọn Bội Phượng sang, biết đâu không phải là của họ? Trong vườn cũng nhiều a hoàn, không chắc đã đứng đắn cả. Hoặc có đứa lớn, đã biết mùi đời, đôi khi không trông nom xuể, chúng lẻn ra ngoài được; hoặc chúng kiếm cớ tán dính với bọn trẻ canh cửa ngoài, rồi từ ngoài đưa vào cũng chưa biết chừng, không những con không hề làm việc này, mà cả Bình Nhi cũng có thể bảo đảm được. Xin mẹ xét kỹ cho.

Vương phu nhân nghe cũng có lý, liền thở dài nói:

– Chị hãy đứng đậy. Ta biết chị là con nhà đại gia, chắc không đến nỗi trai lơ như thế, chẳng qua ta bực lên nói vậy để trêu tức chị đấy thôi. Nhưng bây giờ nên xử trí ra sao? Mẹ chồng chị gói cái này lại, sai người mang cho ta xem, làm ta tức chết đi được.

Phượng Thư nói:

– Xin mẹ đừng nổi giận nữa. Nếu để người ngoài biết, thế nào cũng đến tai cụ. Hãy nên bình tĩnh, ngầm dò xét mới rõ ra được sự thực; dù xét không ra, người ngoài cũng không thể biết được, như vậy mới đúng câu “tay gãy giấu vào ống áo”. Nay nhân việc họ đánh bạc, bị đuổi một số ra, ta cho mấy người hầu cận không hay bép xép như vợ Chu Thụy, vợ Vương Nhi vào ở luôn trong vườn, lấy cớ là để xét việc đánh bạc. Hiện nay a hoàn các nơi nhiều quá, lớn tuổi sinh to gan, lâu ngày thành tinh, nếu xảy chuyện ra, có ăn năn cũng không kịp nữa. Bây giờ không có cớ gì mà bớt người đi, không những bọn các cô thì thấy khó chịu, ngay mẹ và con cũng không đành lòng. Chi bằng nhân dịp này, thấy a hoàn nào lớn tuổi hoặc cứng đầu cứng cổ thì tìm cách cho nó đi lấy chồng, như thế một là khỏi xảy ra rắc rối; hai là số tiền chi tiêu cũng đỡ tốn. Những lời con nói, mẹ nghĩ thế nào?

Vương phu nhân thở dài:

– Chị nói phải đấy. Nhưng cứ xét cho công bằng thì mấy chị em nó thật cũng đáng thương. Không nói gì xa, như mẹ cháu Lâm trước kia, khi chưa lấy chồng, được chiều chuộng dường nào, thật là cành vàng lá ngọc, một cô tiểu thư ngàn vàng. Bây giờ mấy chị em nó chẳng qua chỉ hơn nhà khác tý chút thôi. Mỗi người chỉ có ba, bốn đứa a hoàn là ra hồn người, còn thì đều như bọn ranh con cả; giờ lại cho chúng về, không những bụng ta không nỡ, chưa chắc cụ đã bằng lòng. Tuy rằng nhà có túng thiếu đấy, nhưng cũng chưa đến nỗi nào. Ta dù chưa được sung sướng lắm, cũng còn hơn các cháu nhiều, nay thà bớt người của ta đi, chứ đừng làm cho nó bực bội. Chị hãy cho gọi vợ Chu Thụy đến đây, truyền cho họ phải dò xét ngay việc này!

Phượng Thư lập tức gọi Bình Nhi ra gọi vợ Chu Thụy đến.

Một lúc vợ Chu Thụy, vợ Ngô Hưng, vợ Trịnh Hoa, vợ Lai Vượng, vợ Lai Hỷ, tất cả năm người hầu cận đi vào, còn một số người nữa đang bận việc ở Nam chưa tới. Vương phu nhân đang phàn nàn ít người, khám xét không xuể, chợt thấy vợ Vương Thiện Bảo là người hầu cận của Hình phu nhân, vừa đưa cái túi thơm cho Vương phu nhân, đi đến. Xưa nay Vương phu nhân vẫn xem người hầu thân của Hình phu nhân như người của mình, không có lòng ngờ vực gì, nay thấy chị ta đến nghe ngóng, liền bảo:

– Chị về trình với bà Cả, rồi sang bên vườn trông nom, chẳng hơn người ngoài hay sao?

Ngày thường vợ Vương Thiện Bảo sang bên vườn không được bọn a hoàn thù phụng tử tế. Chị ta lấy làm bực tức, định bới chuyện của họ ra, nhưng không lần vào đâu được; may sao xảy ra việc này, chị ta nghĩ đã nắm chắc được đằng chuôi rồi; giờ lại thấy Vương phu nhân giao phó công việc, hợp với ý định của mình, liền thưa:

– Điều đó cũng dễ thôi. Không phải là cháu bày chuyện đâu, nhẽ ra, thì việc này cũng nên tra xét sớm sớm một chút. Bà không hay sang bên vườn, bọn gái hầu bên ấy, đứa nào cũng ra vẻ bà lớn, sắp trở thành tiểu thư nghìn vàng cả. Chúng định chọc đổ cả trời, chẳng ai dám hé răng nói một tiếng. Huống hồ chúng lại ton hót các cô, nói người này khinh rẻ, người kia lừa dối, ai mà chịu được.

Vương phu nhân gật đầu nói:

– Bọn hầu các cô hay làm bộ, cũng là việc thường. Các chị nên khuyên răn chúng. Nếu không dạy bảo, dù các cô cũng còn làm điều không đúng, nữa là họ.

Vợ Vương Thiện Bảo thưa:

– Đứa khác còn khá. Bà không biết, chứ nhất là con Tình Văn, a hoàn ở nhà cậu Bảo. Nó cậy sắc đẹp hơn người, miệng lại khéo léo, ngày nào cũng trang điểm như nàng Tây Thi, hễ nói chuyện với ai là nó lém lỉnh tranh khôn; có điều gì không hợp ý, là nó trợn mắt ngay lên mắng người tạ Õng ẹo ngoa ngoắt, không ra thể thống gì cả!

Vương phu nhân nghe vậy, nhớ ngay đến việc trước, hỏi Phượng Thư:

– Lần trước chúng ta theo cụ vào chơi trong vườn, có một đứa lưng hơi cong, vai hơi thon, lông mày và mắt lại hơi giống em Lâm của chị, đương quát mắng bọn a hoàn nhỏ. Trông cái dáng ngông cuồng ấy ta khó chịu lắm. Nhưng vì cùng đi với cụ, ta không tiện nói. Sau định hỏi xem là đứa nào, thì lại quên mất. Hôm nay nhớ ra, chắc là nó chứ gì?

Phượng Thư nói:

– So sánh ra chẳng có đứa a hoàn nào đẹp bằng con Tình Văn cả. Về cách ăn nói đi đứng, thì nó hơi trai lợ Như mẹ nói vừa rồi, có nhẽ là nó đấy, nhưng con cũng quên mất việc hôm nọ, không dám nói bừa.

Vợ Vương Thiện Bảo nói:

– Không cần phải đoán nữa. Bây giờ cứ gọi ngay nó đến đây để bà xem cũng chẳng khó gì.

Vương phu nhân nói:

– Ở bên nhà Bảo Ngọc, chỉ có Tập Nhân và Xạ Nguyệt thường đến hầu tạ Hai đứa này tuy mộc mạc nhưng cũng ngoan. Nếu có con ấy thì chắc nó không dám đến. Ta cả đời rất ghét những hạng người ấy, huống hồ lại xảy ra việc này. Thằng Bảo Ngọc như thế mà để cho con ranh ấy quyến rũ làm hư thân đi, thì để sao được.

Bà ta gọi a hoàn hầu cận đến dặn:

– Mày đi nhanh, gọi con Tình Văn đến đây hầu ta ngaỵ Ta có việc cần. Tập Nhân và Xạ Nguyệt ở nhà hầu Bảo Ngọc, không phải đến nữa. Mày không được nói câu gì với nó cả!

A hoàn nhỏ vâng lời, chạy sang viện Di Hồng, gặp lúc Tình Văn không được khỏe, vừa ngủ trưa dậy, đương ngồi thừ ra. Thấy gọi, đành phải sang.

Ngày thường, bọn a hoàn đều biết Vương phu nhân rất ghét kiểu trang sức lòe loẹt, ăn nói trai lơ, vì vậy cả Tình Văn cũng không dám ló mặt tới. Mấy hôm nay khó ở, nên không trang điểm, cho là như thế cũng không ngại gì. Khi vào đến buồng Phượng Thư, Vương phu nhân trông thấy nó đầu tóc bơ phờ, áo quần lõng thõng, có vẻ lẳng lơ như Tây Thi đêm xuân nằm ôm bụng; nhìn vẻ mặt đúng là người đã gặp tháng trước, tự nhiên nổi cơn giận lên. Bà ta vốn người thực thà, chợp mắt bỏ qua, vụt mừng vụt giận, chứ có được như người kín đáo, lựa lời giữ ý đâu. Vốn đã bực sẵn, lại ngoặc đến việc trước, bà ta liền cười nhạt:

– Đẹp thật! Thật là giống hệt “Tây Thi đương ốm!” Ngày nào mày cũng giở cái lối trai lơ ấy ra để cho ai xem đấy? Mày cứ tưởng là ta không biết việc mày làm à? Ta hãy tha cho mày. Ngày mai ta sẽ lột xác mày ra! Hôm nay Bảo Ngọc đã đỡ chưa?

Tình Văn nghe thấy nói thế, trong bụng rất kinh ngạc, biết là có đứa định hại mình, tuy tức giận, nhưng không dám hé răng. Vốn người thông minh tột bực, thấy hỏi Bảo Ngọc đã đỡ chưa, cô ta không nói thực, quỳ xuống thưa:

– Cháu không hay đến buồng cậu Bảo và cũng không hay ở chung với cậu ấy, nên cháu không được biết rõ. Đó là việc của chị Tập Nhân và chị Xạ Nguyệt, xin bà cứ hỏi hai chị ấy.

Vương phu nhân nói:

– Đáng tát vào mồm! Mày là người chết à? Nuôi chúng bay để làm gì?

Tình Văn lại thưa:

– Cháu nguyên là người hầu của cụ, vì người bảo vườn rộng, người ít, cậu Bảo hay sợ, nên cắt cháu sang đấy canh đêm ở ngoài, chẳng qua để trông nhà thôi. Cháu có thưa rằng cháu đần độn không thể sang hầu được, cụ mắng cháu, bảo “tao có sai mày sang hầu cậu ấy đâu? Mày sắc sảo để làm gì?” Cháu nghe vậy đành phải sang. Chẳng qua độ mười bữa nửa tháng, gặp lúc cậu Bảo buồn, cháu chơi đùa một lúc rồi đi ngaỵ Việc cậu Bảo ăn uống nằm ngồi, trên có các bà già, dưới có các chị Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Thu Văn. Khi cháu rỗi, còn phải may vá cho bên nhà cụ, vì thế cháu không để ý đến việc của cậu Bảo. Nay bà đã quở mắng, từ sau cháu xin chăm chú.

Vương phu nhân tin là thực, nói:

– A di đà phật! Mày không gần gũi Bảo Ngọc, thì thực là phúc cho tạ Thôi không cần mày phải bận lòng. Mày đã là người của cụ cho sang hầu Bảo Ngọc thì ngày mai ta sẽ sang trình cụ cho mày về.

Rồi ngoảnh lại vợ Vương Thiện Bảo:

– Các chị vào đấy, phải đề phòng nó mấy ngày, không cho nó ngủ ở trong nhà Bảo Ngọc. Đợi ta trình cụ rồi sẽ liệu cho nó.

Lại quát:

– Cút đi! Đứng đấy làm gì? Trông thấy cái dáng lẳng lơ ấy ta ngứa cả mắt! Ai cho phép mày ăn mặc lòe loẹt như thế?

Tình Văn đành lui ra, tức quá, ra khỏi cửa, lấy khăn tay che mắt, vừa đi vừa khóc, mãi đến khi về trong vườn.

Vương phu nhân phàn nàn với Phượng Thư:

– Mấy năm nay tinh thần ta ngày càng sút kém, trông nom không xiết. Những hạng yêu tinh như thế mà ta cũng không hề thấy! Cái hạng ấy chắc còn có nữa, ngày mai phải tra xét mới được.

Phượng Thư thấy Vương phu nhân đương lúc nổi giận, lại có vợ Vương Thiện Bảo là tai mắt của Hình phu nhân, ngày thường hay ton hót Hình phu nhân để sinh chuyện, nên dù có nhiều câu đáng nói, cũng không dám nói ra, đành cứ cúi đầu vâng thôi.

Vợ Vương Thiện Bảo thưa:

– Xin bà hãy nguôi giận. Đó là việc nhỏ mọn, xin cứ giao cho cháu. Muốn tra xét việc này cũng dễ thôi. Chờ đến buổi tối, các cửa trong vườn đóng rồi, trong ngoài không ai đi lại với nhau, nhân lúc họ không để ý, chúng cháu dẫn người đi khám các buồng a hoàn ở các nơi. Cháu nghĩ: ai đã có cái này không phải một cái mà thôi, chắc còn cái khác nữa. Khi đã khám được cái khác rồi, thì cái này chắc là của người ấy.

Vương phu nhân bảo:

– Nói thế cũng phải. Nếu không làm như thế thì không thể làm ra việc được.

Rồi hỏi Phượng Thư:

– Chị nghĩ thế nào?

Phượng Thư đành vâng lời, nói:

– Mẹ cho là phải thì xin đi làm ngay thôi.

Vương phu nhân nói:

– Cách làm như thế rất đúng. Nếu không thì tra một năm cũng chẳng ra.

Mọi người bàn định xong, sau bữa cơm chiều, đợi Giả mẫu ngủ yên, bọn Bảo Thoa đã về trong vườn rồi, vợ Vương Thiện Bảo liền mời Phượng Thư vào trong vườn, sai khóa cả cửa ngách lại, rồi bắt đầu khám xét từ các chỗ bà già canh đêm, chỉ thấy mấy thứ đèn nến dùng còn thừa.

Vợ Vương Thiện Bảo nói:

– Những cái này cũng là tang vật cả đây, không được động đến, để sáng mai trình bà, rồi sẽ hay.

Rồi vào ngay viện Di Hồng, bắt đóng cửa lại.

Bảo Ngọc vì việc Tình Văn, đương khó chịu, chợt thấy một bọn người đến, không biết duyên cớ gì, lại cứ kéo thẳng vào buồng của bọn a hoàn. Bảo Ngọc ra đón Phượng Thư, hỏi là việc gì. Phượng Thư nói:

– Mất một vật quan trọng, hỏi ai cũng chối cả, chắc là bọn a hoàn ăn cắp, nên họ đến khám xét, để khỏi phải ngờ oan.

Vừa nói Phượng Thư vừa ngồi uống nước. Vợ Vương Thiện Bảo lục soát một lúc rồi khẽ hỏi:

– Mấy cái hòm ấy là của ai, bảo họ đến mở ra.

Tập Nhân thấy Tình Văn như thế, chắc là có việc lạ, lại thấy khám xét, đành phải mở hòm và hộp của mình trước để cho họ khám, thì chỉ thấy những đồ thường dùng thôi. Khám xong lại khám đến hòm của người khác, cứ theo thứ tự, khám hết một lượt, khi khám đến hòm của Tình Văn, liền hỏi:

– Hòm của ai đây, sao không mở ra để khám.

Tập Nhân đương định mở hộ hòm cho Tình Văn, thấy Tình Vãn quấn tóc chạy đến, đánh “xình” một cái, mở toang hòm ra, hai tay bưng đáy hòm lên, dốc ngược xuống đất, bao nhiêu đồ đạc ở trong hòm đều tung ra cả.

Vợ Vương Thiện Bảo có ý ngượng, khám kỹ một lượt cũng không thấy vật gì bậy bạ cả, liền trình với Phượng Thư để đi khám chỗ khác.

Phượng Thư nói:

– Bà phải khám kỹ đi, lần này không khám ra được cái gì thì biết về trình thế nào?

Mọi người đều nói:

– Lục soát hết cả rồi, nhưng chẳng thấy có cái gì là phạm lỗi cả; tuy có mấy thứ đồ dùng của con trai, nhưng đều là của trẻ con, chắc đồ cũ của cậu Bảo, không lấy gì làm quan hệ.

Phượng Thư cười nói:

– Đã thế thì chúng ta đi khám chỗ khác.

Liền đi thẳng ra. Nhân nói với vợ Vương Thiện Bảo:

– Tôi có điều này muốn nói, không biết có đúng hay không. Ta khám thì chỉ nên khám những người nhà của chúng ta thôi, chứ nhà cô Tiết thì quyết không thể khám được.

Vợ Vương Thiện Bảo cười nói:

– Cố nhiên rồi, lẽ nào lại đi khám nhà của bà con!

Phượng Thư gật đầu nói:

– Tôi cũng nói thế thôi.

Rồi đi đến quán Tiêu Tương.

Đại Ngọc đã đi ngủ, nghe bảo có mấy người đến, không biết việc gì, định trở dậy, thì Phượng Thư đã đi vào, giữ lại không cho Đại Ngọc dậy và nói:

– Cô cứ ngủ đi, chúng tôi đi bây giờ đây.

Rồi ở đấy nói mấy câu chuyện phiếm.

Vợ Vương Thiện Bảo dẫn mọi người đến buồng của a hoàn, lục lọi hết các hòm, thấy trong buồng Tử Quyên có hai cái bùa bán khoán của Bảo Ngọc thường thay đổi, một cái dây đeo thắt lưng, hai cái túi, một cái hộp trong có đựng cái quạt, mở ra xem, đều là những thứ của Bảo Ngọc lúc trước thường dùng. Vợ Vương Thiện Bảo lấy làm đắc ý, mời Phượng Thư đến xem, rồi nói:

– Những thứ này ở đâu đến đây?

Phượng Thư cười nói:

– Bảo Ngọc lúc còn bé, có ở chung với chị em mấy năm. Những thứ này chắc là đồ dùng cũ của chú ấy đây. Những cái ấy cũng chẳng lạ lùng gì, hãy bỏ lại để đi khám chỗ khác là phải.

Tử Quyên cười nói:

– Đến bây giờ những đồ dùng của chúng tôi trao đổi cho nhau cũng không tính hết được. Nếu hỏi đến cái này, thì chính tôi cũng quên mất là có từ ngày, tháng, năm nào.

Phượng Thư lại cùng vợ Vương Thiện Bảo đến nhà Thám Xuân. Ngờ đâu đã có người đến báo cho Thám Xuân biết trước. Thám Xuân đoán chắc là có duyên cớ gì, nên mới gây ra những chuyện xấu xa như thế. Liền sai bọn a hoàn cầm đèn mở cửa đứng đợi. Một lúc mọi người đến. Thám Xuân cố ý hỏi:

– Việc gì đấy?

Phượng Thư cười nói:

– Vì mất một cái đồ dùng, mấy ngày tra xét chưa ra, sợ người ngoài lại đổ cho bọn chị em a hoàn, nên mới đi khám một lượt để cho người ta khỏi ngờ, đó cũng là một cách hay để rửa sạch tiếng tăm cho họ.

Thám Xuân cười nói:

– Bọn a hoàn nhà tôi tất nhiên là phường trộm cắp cả, mà tôi chính là người chủ chứa. Đã thế thì hãy khám rương hòm của tôi trước đi vì họ ăn trộm được cái gì đều đưa cho tôi cất giấu.

Nói xong, Thám Xuân sai bọn a hoàn mở cả hòm ra, bao nhiêu đồ lớn, đồ nhỏ, như hộp gương, hộp phấn, bọc chăn bọc áo đều mở tung ra cả, rồi mời Phượng Thư đến khám.

Phượng Thư cười nói:

– Chẳng qua tôi vâng lệnh mẹ đến đây, xin cô đừng hiểu lầm tôi.

Rồi sai bọn a hoàn:

– Mau mau đóng rương hòm lại cho cô.

Bình Nhi, Phong Nhi đến giúp bọn Thị Thư xếp đồ đạc và đóng hòm lại.

Thám Xuân nói:

– Chỉ cho các chị khám xét đồ đạc của tôi, chứ muốn khám xét đồ đạc của a hoàn nhà tôi thì không được đâu! Tôi vốn cay nghiệt hơn người khác, bao nhiều những đồ đạc của a hoàn, tôi đều biết và đều giữ ở đây cả. Ngay một cái kim, một sợi chỉ, họ cũng không được giữ riêng. Muốn khám thì cứ khám một mình tôi. Các chị không bằng lòng, cứ về trình bà, bảo tôi trái lệnh bà đấy, muốn bắt thế nào tôi cũng nhận cả. Các chị đừng vội, thế nào sau này các chị cũng có ngày bị khám đấy! Sáng hôm nay các chị chả bàn tán việc nhà họ Chân đấy à, chỉ mong được khám nhà, quả nhiên bây giờ được khám thực đấy. Dần dần rồi cũng đến lượt chúng ta thôi! Thế mới biết những nhà đại gia thế này, chỉ người ngoài đến thì một lúc không thể giết chết được. Chính đúng như người xưa đã nói: “Con sâu trăm chân, chết cũng không ngã!” Tất phải do người trong nhà giết lẫn nhau trước, mới tan nát, sạch sanh!

Nói xong, cô ta chảy nước mắt ra.

Phượng Thư chỉ đứng nhìn bọn đàn bà. Vợ Chu Thụy liền nói:

– Đồ vật của bọn hầu gái đã ở cả đấy rồi, xin mợ đi khám chỗ khác, để cô đi nghỉ.

Phượng Thư đứng dậy cáo từ. Thám Xuân nói:

– Hãy khám kỹ nữa đi! Ngày mai đến, tôi không nghe đâu.

Phượng Thư cười nói:

– Đồ vật của bọn hầu gái ở cả đây thì không cần phải khám nữa.

Thám Xuân cười nhạt:

– Chị thực là khôn khéo quá! Ngay gói bọc của tôi cũng còn mở cả ra xem, mà lại bảo là không khám? Ngày mai có dám nói là tôi bênh bọn hầu, không cho các chị khám không? Chị cứ nói thẳng ngay ra, còn cần phải khám, cứ khám nữa cũng không sao.

Phượng Thư vẫn biết tính nết Thám Xuân ngày thường khác hẳn mọi người, đành phải cười nói:

– Ngay cả đồ vật của cô, cũng đã khám xét kỹ càng rồi.

Thám Xuân lại hỏi mọi người:

– Các chị đã khám kỹ chưa?

Bọn vợ Chu Thụy đều cười nói:

– Đã khám kỹ cả rồi ạ.

Vợ Vương Thiện Bảo vốn là người không biết suy nghĩ, ngày thường tuy nghe thấy tiếng Thám Xuân, nhưng cho là mọi người không tinh mắt, hoặc là non gan, chứ đâu có một cô gái mà lại ghê gớm đến như thế? Hơn nữa cô ta lại là con vợ lẽ, thì làm gì được ai. Mụ lại cậy mình là người hầu thân của Hình phu nhân, ngay đến Vương phu nhân cũng còn phải nể, huống chi người khác. Mụ cho Thám Xuân chỉ giận một mình Phượng Thư thôi, không can gì đến mụ, nên muốn nhân đó làm bộ, liền đi lên trước mọi người, kéo vạt áo Thám Xuân, cố ý giơ lên một cái cười hì hì nói:

– Ngay trong mình cô tôi cũng khám cả rồi, chẳng thấy gì cả.

Phượng Thư thấy mụ làm thế vội nói:

– Già đi thôi, đừng giở trò rồ dại nữa.

Chưa dứt lời thì nghe “bốp” một tiếng, vợ Vương Thiện Bảo bị Thám Xuân tát một cái vào mặt. Thám Xuân nổi giận, trỏ vào vợ Vương Thiện Bảo hỏi:

– Mày là hạng gì dám nắm lấy áo tao. Chẳng qua tao nể mặt bà, thấy mày cũng đã có tuổi, nên mới gọi mày là già, mày lại chó cậy chủ nhà, càng ngày càng bậy, dám lên mặt với tao à! Mày cứ tưởng tao cũng dễ tính như cô mày, mặc cho chúng bay khinh rẻ, mày nghĩ thế là nhầm rồi! Mày đến khám đồ đạc, tao không tức giận, nhưng mày không được mang tao ra làm trò cười!

Thám Xuân liền tự cởi khuy áo, kéo Phượng Thư lại, bắt phải khám kỹ và nói:

– Để cho bọn đầy tớ các người khỏi đến khám tôi!

Phượng Thư, Bình Nhi vội sửa lại quần áo cho Thám Xuân, mắng vợ Vương Thiện Bảo:

– Già này uống mấy ly rượu đâm ra rồ dại. Hôm nọ cũng đã làm bà Hai bực mình rồi. Thôi đi ra, đừng đứng đấy mua lấy bẽ nữa.

Họ lại khuyên Thám Xuân đừng nổi giận nữa. Thám Xuân cười nhạt:

– Tôi mà bực thì tôi đã đập đầu tự tử rồi! Thế thì sao tôi lại chịu để quân đầy tớ đến lục soát tang vật trộm cắp trong người tôi? Sáng sớm mai tôi sẽ đến trình cụ, bà Hai và sang xin lỗi bác gái. Đáng tội thế nào, tôi cũng xin nhận!

Vợ Vương Thiện Bảo bẽ mặt quá, ra đứng nép ở ngoài cửa sổ nói:

– Thôi! Thôi! Đây là lần đầu tiên tôi bị đánh đấy! Ngày mai tôi sẽ trình bà Hai, xin về quách nhà thôi. Thiết cái thân già này làm gì nữa!

Thám Xuân quát bảo bọn a hoàn:

– Nghe nó nói đấy! Các chị định để tôi phải cãi nhau với nó hay sao?

Thị Thư đi ra bảo:

– Già ơi, già mà biết điều một tí, thì bớt nói đi thôi. Nếu già về nhà lại là phúc cho chúng tôi. Chỉ sợ già không dứt ra được thôi. Nếu già về, lấy ai ton hót chủ, xúi bẩy chủ cho người đi khám xét các cô và hành hạ chúng tôi?

Phượng Thư cười nói:

– Con bé này giỏi thật! Thực là chủ nào thì tớ ấy!

Thám Xuân cười nhạt:

– Chúng tôi là bọn ăn trộm, bao giờ cũng mồm năm miệng mười, chỉ có điều là không biết xúi bẩy chủ thôi.

Bình Nhi vội khuyên giải và kéo Thị Thư vào. Bọn vợ Chu Thụy cũng khuyên một lúc, Phượng Thư chờ sắp sửa cho Thám Xuân đi ngủ, rồi mới dẫn người sang Noãn Hương ổ.

Lúc này Lý Hoàn đương ốm, nằm ở trên giường. Chị ta ở sát nhà Tích Xuân, và gần nhà Thám Xuân, nên bọn Phượng Thư tiện đường đến hai nơi ấy trước. Lý Hoàn vừa uống thuốc xong đi nằm, không tiện đánh thức, nên họ chỉ đến buồng các a hoàn, khám xét một lượt, cũng không tìm thấy vật gì, liền đi sang phòng Tích Xuân. Tích Xuân còn trẻ tuổi, chưa hiểu mấy, sợ quá không biết xảy ra việc gì. Phượng Thư đành phải yên ủi Tích Xuân. Ngờ đâu, khám đến hòm của Nhập Họa, thấy một cái bọc lớn, đựng toàn khóa bạc, độ ba bốn mươi cái. Lại một cái đai ngọc, cùng một bọc dây bí tất của đàn ông.

Nhập Họa tái mặt lại, phải quỳ xuống khóc, nói thực:

– Đó là của ông Trân thưởng cho anh cháu đấy. Vì bố mẹ cháu đều ở miền Nam, chúng cháu theo ông chú lên đây kiếm ăn. Nhưng chú thím cháu chỉ ham uống rượu đánh bạc. Anh cháu sợ giao cho chú thím, lỡ lại tiêu mất, nên mỗi khi được cái gì, thường khẽ nhờ bà già đưa đến, bảo cháu cất đi.

Tích Xuân là người nhát gan, thấy thế sợ hãi, nói:

– Tôi chả biết gì cả. Như thế sao được! Chị Hai muốn đánh nó, cứ việc lôi nó ra mà đánh. Những câu nó nói, tôi nghe chối cả tai.

Phượng Thư cười nói:

– Nếu quả thực thế, cũng nên tha, nhưng không được lén lút đưa cho nhau. Thứ này đưa được thì thứ gì mà không đưa. Đó là lỗi ở người đưa đấy. Nếu không nói thực, mà là của ăn trộm, thì mày đừng có hòng sống.

Nhập Họa quỳ xuống khóc nói:

– Cháu không dám nói dối. Ngày mai mợ cứ hỏi cậu Cả, mợ Cả bên cháu mà xem, nếu không phải là đồ được thưởng, thì mang cháu và anh cháu ra đánh chết cũng không dám oán hận gì!

Phượng Thư nói:

– Thế nào cũng phải hỏi. Nhưng nếu thực là đồ thưởng thì mày cũng có lỗi. Ai cho phép mày lén lút mang những đồ này vào đây? Mày hãy nói rõ ai giao cho mày, ta sẽ tha chết chọ Ta cấm từ nay không được thế nữa.

Tích Xuân nói:

– Chị đừng tha nó, ở đây nhiều người, nếu không trừng trị, những đứa lớn trông thấy, không biết còn xảy ra thế nào nữa kia. Chị tha nó, tôi cũng không tha!

Phượng Thư nói:

– Tôi xem nó ngày thường cũng khá đấy. Ai không có lỗi, mới một lần này thôi, lần sau lại phạm nữa, sẽ phạt cả hai tội. Nhưng không biết ai là người lén lút đưa cho nó.

Tích Xuân nói:

– Không có ai đưa cho nó đâu, chắc là già Trương canh ở cửa sau đấy. Già ấy thường thậm thụt với bọn a hoàn này, bọn họ cũng thường giúp đỡ già ấy.

Phượng Thư nghe nói sai người ghi lấy tên, giao cho vợ Chu Thụy tạm giữ những đồ vật khám được, để ngày mai đối chiếu sẽ haỵ Rồi từ biệt Tích Xuân đi vào buồng Nghênh Xuân.

Nghênh Xuân đã đi ngủ rồi, bọn a hoàn cũng sắp đi ngủ. Mọi người gõ cửa, một lúc mới mở. Phượng Thư dặn trước:

– Không được đánh thức cô dậy.

Rồi vào ngay buồng bọn a hoàn. Tư Kỳ là cháu ngoại vợ Vương Thiện Bảo, nên Phượng Thư để ý xem mụ ta có thiên vị với cháu hay không. Bắt đầu khám hòm của các người, không thấy gì. Khi khám đến hòm của Tư Kỳ, mụ ta xáo qua loa một lượt rồi nói:

– Cũng chẳng có gì cả.

Lúc sắp đóng hòm, vợ Chu Thụy nói:

– Hãy hượm! Cái gì đây?

Liền thò tay vào lấy ngay ra được một đôi bí tất gấm và một đôi giày đoạn của đàn ông, lại còn một cái bọc nhỏ nữa. Khi mở xem một cái đồ chơi kiểu “đồng tâm như ý” và một lá thư, tất cả đều đưa cho Phượng Thư, Phượng Thư trông nom việc nhà đã lâu, thường xem thư, xem sổ, cũng bập bẹ biết được mấy chữ. Thư này là giấy hoa tiên song hỷ đỏ sẫm, trong thư viết:

“Tháng trước, sau khi em về nhà, cha mẹ đã biết cả rồi. Nhưng vì cô chưa đi lấy chồng, nên chưa thỏa được nỗi lòng ao ước của chúng tạ Nếu có thể gặp nhau trong vườn, thì em nên nhờ già Trương đưa tin ra cho anh. Gặp nhau trong vườn, thì dễ nói chuyện hơn là về nhà. Mong lắm! Mong lắm! Em có gửi tặng hai cái túi thơm, anh đã nhận được rồi. Nay gửi vào cho em một chuỗi hạt châu để tỏ chút lòng anh đối với em. Mong em nhận cho! Anh bên ngoại là Phan Hữu An thân gửi.”

Phượng Thư xem xong, không tỏ ý bực lại mừng. Mọi người đều không biết chữ cả. Vợ Vương Thiện Bảo không biết xưa nay anh em nó vẫn có chuyện tư tình với nhau, vừa rồi trông thấy giày và bí tất, đã hơi chột dạ, bây giờ lại thấy một cái thiếp đỏ. Phượng Thư xem rồi cười. Mụ ta liền hỏi:

– Chắc là chúng nó biên sổ không thành chữ, nên mợ mới cười?

Phượng Thư nói:

– Phải đấy. Cái sổ này tính không ra được. Nhưng già là bà ngoại Tư Kỳ thì anh ngoại nó là họ Vương mới phải, sao lại là họ Phan?

Vợ Vương Thiện Bảo thấy câu hỏi lạ lùng, miễn cưỡng nói:

– Vì bà cô của Tư Kỳ lấy người họ Phan, nên anh con cô nó là họ Phan. Lần trước có tên Phan Hữu An trốn đi, chính là hắn đấy.

Phượng Thư cười nói:

– Phải rồi. Tôi đọc cho già nghe nhé!

Liền đọc cái thư một lượt từ đầu đến đuôi. Mọi người nghe xong đều giật nẩy mình lên.

Vợ Vương Thiện Bảo chỉ muốn bới lỗi người khác, không ngờ lại bới phái cháu ngoại mình, vừa tức giận, vừa xấu hổ. Bọn vợ Chu Thụy bốn người nghe xong, hỏi:

– Già nghe thấy rồi đấy. Thực là rõ ràng, hết đường nói nữa! Bây giờ việc này làm thế nào?

Vợ Vương Thiện Bảo bực không sao chui ngay xuống lỗ nẻ cho khỏi thẹn mặt. Phượng Thư cứ nhìn chòng chọc vào mặt mụ ta, bĩu môi cười hì hì, bảo vợ Chu Thụy:

– Như thế cũng hay đấy. Bà ngoại nó chả cần phải lo nghĩ nữa. Cứ im lặng như tờ, tự nhiên vớ ngay được một anh chồng. Chẳng ai phải lo lắng nữa.

Vợ Chu Thụy cũng cười rồi nói đùa theo. Vợ Vương Thiện Bảo không biết trút giận vào đâu được đành cứ tát vào mặt mình mà mắng:

– Con đĩ già này không chết đi! Làm sao lại gây nên tội nợ như vậy?

Mồm nói mồm lại tát, thực là quả báo trước mắt. Mọi người thấy thế, cười không ngớt, vừa khuyên vừa chế giễu thêm.

Phượng Thư thấy Tư Kỳ cúi đầu không nói gì và cũng không có ý sợ hãi hổ thẹn, cũng lấy làm lạ. Xem chừng đêm đã khuya, chưa cần tra hỏi, nhưng sợ nó nghĩ quanh tìm cách tự tử chăng, liền sai hai bà già canh giữ, rồi dẫn người mang đồ tang chứng về nhà nghỉ, sáng mai sẽ liệu. Không ngờ đêm hôm ấy, Phượng Thư lại bị rong huyết, hôm sau thấy người rất mệt, phát nóng, không gượng được, phải mời thầy thuốc đến. Xem xong thầy thuốc kê đơn, chẳng qua lại Nhân sâm, Đương quy, Hoàng kỳ, v.v… Bọn bà già mang đơn đi trình Vương phu nhân. Bà ta đâm buồn, nên việc Tư Kỳ hãy tạm gác lại.

Hôm ấy Vưu Thị đến thăm Phượng Thư, ngồi một lúc, rồi sang thăm Lý Hoàn. Chợt thấy Tích Xuân sai người đến mời. Vưu Thị vừa vào đến nhà, thì Tích Xuân đem ngay việc đêm qua ra nói, lại sai người đem tất cả những đồ vật của Nhập Họa ra cho Vưu Thị xem.

Vưu Thị nói:

– Cái này thực là cha anh cô thưởng cho anh nó đấy. Nhưng không nên lén lút đưa cho nhau, làm thế, công lại hóa ra tư mất.

Rồi quay sang Nhập Họa:

– Đồ ngu, ăn lắm đâm lú lấp!

Tích Xuân nói:

– Các chị trông nom không cẩn thận, lại cứ đi mắng a hoàn. Trong đám chị em, chỉ có a hoàn của tôi là không ra gì, tôi còn mặt mũi nào trông thấy người ngoài nữa! Hôm qua tôi bảo chị Phượng mang nó đi, chị ấy không nghe, kể cũng có lý, may sao chị sang đây, chị mang ngay nó về, đánh nó, giết nó, hay bán nó đi, tôi cũng mặc kệ.

Nhập Họa nghe thấy nói thế, quỳ xuống kêu van:

– Từ nay cháu không dám thế nữa. Mong cô nghĩ lại chút tình từ thuở bé đến giờ. Dù sống chết cháu cũng xin ở lại với cô.

Vưu Thị và bọn vú già cũng hết sức nói giúp:

– Chẳng qua nó chỉ bị nhầm lẫn nhất thời, lần sau không dám thế nữa đâu. Nó hầu hạ cô từ thuở bé. Cô nên tha cho nó.

Tích Xuân trẻ tuổi, khó tính, mặc ai nói gì thì nói, cứ cho là mất thể diện, nghiến răng lại, nhất định không nghe.

– Tôi lớn rồi, không cần Nhập Họa. Từ nay bên nhà các chị, tôi cũng không sang nữa. Gần đây có nhiều chuyện bàn tán, tôi sang bên ấy, họ sẽ quàng cả cho tôi nữa.

Vưu Thị nói:

– Ai dám bàn tán? Có chuyện gì đáng bàn tán? Cô là ai? Chúng tôi là ai? Cô thấy người ta bàn tán chúng tôi, cũng nên hỏi họ mới phải.

Tích Xuân cười nhạt:

– Chị hỏi tôi những câu ấy hay đấy nhỉ! Tôi là một cô gái cần phải tránh chuyện lôi thôi, cớ chi lại đi chuốc lấy chuyện, thì còn ra người sao được? Người xưa có nói: “Lành dữ sống chết, cha con cũng không thể giúp nhau được”, huống chi giữa hai người chúng tạ Tôi chỉ có thể giữ thân tôi thôi. Từ nay các chị có việc gì, đừng làm phiền đến tôi nữa.

Vưu Thị nghe nói, vừa tức, vừa buồn cười, nói với mọi người đứng ở đấy:

– Thảo nào ai cũng bảo cô Tư trẻ tuổi hồ đồ, tôi vẫn không tin. Các chị nghe lời cô ấy nói đấy, chẳng ra đầu đuôi, chẳng biết cân nhắc gì cả, thật giọng trẻ con, nhưng lại làm người ta phải kinh khủng.

Mọi người đều khuyên:

– Cô còn trẻ tuổi, tất nhiên là mợ phải chịu nhịn.

Tích Xuân cười nhạt:

– Tuổi tôi tuy còn thơ ngây, nhưng lời nói thì không thơ ngây đâu. Các người không học, không biết chữ, đều là hạng ngốc cả, thế lại bảo tôi hồ đồ!

Vưu Thị nói:

– Cô là trạng nguyên, thám hoa, là tài tử hạng nhất! Chúng tôi chỉ là hạng người lẩn thẩn, không được sáng suốt như cô!

– Trạng nguyên, thám hoa mà không có người lẩn thẩn à? Thế mới biết các chị đều là người tục cả.

– Giỏi lắm, giỏi lắm! Vừa mới là tài tử, giờ lại thành ra hòa thượng bàn đến giác ngộ rồi. 1

– Tôi chẳng giác ngộ gì cả. Tôi xem người bây giờ đều như hạng Nhập Họa hết.

– Thế mới biết cô thực là người vô tình lạnh nhạt!

– Người xưa có câu: “Không làm kẻ dữ, khó gọi là trai”. Tôi là một người trong trắng, sao lại chịu để liên lụy làm hỏng tôi đi.

Vưu Thị có tật giật mình, rất sợ người ta nói đến những câu ấy. Nghe ai bàn tán đến chuyện mình là trong bụng đã xấu hổ bồn chồn, nhưng hôm nay đối với Tích Xuân, chị ta đành cố nhịn, không tiện to tiếng, nay thấy Tích Xuân lại giở những câu ấy ra, không chịu được nữa, liền hỏi:

– Sao lại liên lụy đến cổ A hoàn của cô có lỗi, tự nhiên vô cớ cô lại chằng cả tôi. Tôi đã cố nhịn, cô lại càng lên nước, cứ nói bừa đi. Cô là cô gái ngàn vàng, vạn vàng, từ nay chúng tôi không dám gần cô nữa, sợ làm bẩn lây cái tên đẹp của vị tiểu thư! Thôi bảo ngay người mang con Nhập Họa về.

Vưu Thị hầm hầm đi ra.

Tích Xuân nói:

– Chị về nhà lần này, nếu quả không sang nữa, thì cũng bớt được điều nọ tiếng kia. Mọi người càng được yên tĩnh.

Vưu Thị không trả lời, đi thẳng ra ngoài.

1      Danh từ nhà Phật, tức là ngộ đạo.

Chương 75: Mở tiệc đêm khuya, điềm lạ vẳng nghe tiếng thảm – Thưởng trăng tháng tám, lời nói thành câu sấm haỵ

Mở tiệc đêm khuya, điềm lạ vẳng nghe tiếng thảm

Thưởng trăng tháng tám, lời nói thành câu sấm haỵ

Vưu Thị tức giận đi ra, định đến thăm Vương phu nhân, nhưng các bà già theo hầu khẽ nói:

– Thưa mợ, không nên đến đó vội. Vừa rồi có mấy người nhà họ Chân đến, có mang theo ít đồ đạc, không biết là việc gì giấu kín. Mợ vào sợ không tiện chăng?

– Hôm nọ thấy ông nhà nói: xem trong giấy báo, thấy nói nhà họ Chân phạm tội, hiện đương bị tịch biên gia sản và triệu về Kinh trị tội. Sao lại còn có người đến nữa?

– Đúng đấy. Mấy người đàn bà mới đến, mặt cắt không còn máu, hớt hơ hớt hải, chắc là có việc gì phải giấu chăng.

Vưu Thị nghe nói, không đến nữa, quay vào nhà Lý Hoàn, gặp lúc thầy thuốc đến xem mạch xong. Mấy hôm nay Lý Hoàn đã tỉnh táo, ôm chăn tựa gối ngồi trở trên giường, đương muốn có người đến chơi để nói chuyện phiếm. Thấy Vưu Thị đi vào, không được tươi tỉnh như lúc nãy, cứ ngồi thừ ra, Lý Hoàn hỏi:

– Chị đến đấy à, đã ăn gì chưa? Chắc đói rồi thì phải.

Liền gọi Tố Vân:

– Xem có thứ điểm tâm gì mới đem đến đây.

Vưu Thị ngăn lại nói:

– Không cần, không cần. Thím đau ốm luôn, làm gì có thức ăn mới? Tôi cũng không đói.

– Hôm trước có người biếu ít chè rất ngon. Tôi bảo nó pha một bát chị uống nhé.

Nói xong sai đi pha.

Vưu Thị ngồi ngẩn ra không nói gì. Bọn a hoàn và đàn bà theo hầu hỏi:

– Hôm nay trưa rồi, mợ chưa rửa mặt. Giờ nhân tiện mợ rửa nhé!

Vưu Thị gật đầu. Lý Hoàn sai Tố Vân đi lấy hộp trang điểm của mình ra. Tố Vân lại mang phấn của nó ra cười, nói:

– Mợ cháu không có cái này, nếu mợ không chê bẩn xin dùng tạm một chút.

Lý Hoàn nói:

– Ta không có, mày cũng nên đến chỗ các cô mà lấy, sao lại tự tiện lấy của mày ra. May là chị ấy đấy, phải người khác, lại không giận à?

Vưu Thị cười nói:

– Có can gì việc ấy? Ta đến đây luôn, của ai mà chả dùng. Bây giờ còn sợ gì bẩn nữa.

Nói rồi ngồi xếp bằng trên bục, con Ngân Điệp chạy lại tháo vòng tay và nhẫn, lấy cái khăn lớn che nửa người cho nước khỏi bắn vào quần áo. A hoàn nhỏ là Sao Đậu bưng nước nóng lên. Đến trước mặt Vưu Thị, nó chỉ khom lưng xuống bưng chậu nước.

Ngân Điệp cười nói:

– Mày chẳng tinh ý tý nào. Nói gà ra cáo. Mợ đối xử rộng rãi với chúng ta, muốn sao được thế, mày đâm nhờn quen. Ra ngoài, trước mặt mọi người, mày cũng làm qua loa cho xong chuyện à?

Vưu Thị nói:

– Mày mặc nó. Ta rửa xong thì thôi. Tất cả lớn bé trong nhà chúng ta, chỉ biết bề ngoài, giả cách lễ phép đấy thôi, rút cuộc việc gì cũng muốn làm cho xong chuyện.

Lý Hoàn nghe thấy thế, biết ngay chị ta đã biết chuyện đêm qua, liền cười nói:

– Câu nói của chị có ý nhị đấy. Thế thì ai làm việc cho xong chuyện.

Vưu Thị nói:

– Thím lại còn hỏi tôi, có họa thím ốm chết rồi hay sao mà không biết.

Chợt có người vào báo:

– Cô Bảo đến chơi.

Hai người đều nói:

– Mời vào!

Bảo Thoa đi vào. Vưu Thị vội lau mặt, đứng dậy mời ngồi, hỏi:

– Sao tự nhiên lại một mình cô đến. Các chị em khác đâu cả?

– Đúng đấy, tôi cũng không gặp họ. Hôm nay mẹ tôi yếu, trong nhà có hai người hầu gái đều ốm chưa khỏi, những người khác thì không tin cậy được. Đêm hôm nay tôi phải sang bên ấy trông nom mẹ lôi. Tôi định đến trình cụ và dì tôi, nhưng nghĩ việc này cũng chẳng quan hệ gì, nên thôi không nói, đợi mẹ tôi khỏi thế nào tôi sẽ lại sang. Vì thế tôi sang nói để chị biết.

Lý Hoàn nghe nói, nhìn Vưu Thị. Hai người cùng cười.

Một lúc, Vưu Thị rửa mặt gội đầu xong, mọi người uống trà. Lý Hoàn cười nói với Bảo Thoa:

– Tôi sẽ sai người sang hỏi thăm bà dì, xem người yếu ra làm sao. Tôi cũng đương ốm, không thể sang tận nơi hỏi thăm được. Cô cứ việc đi, tôi sẽ sai người sang trông nhà hộ. Một vài hôm, thế nào cô cũng về, đừng để tôi phải mang lỗi đấy.

Bảo Thoa cười nói:

– Việc gì mà chị mang lỗi? Đó là thường tình của người ta, chị có phải thả bọn trộm cướp ra đâu. Cứ ý tôi, chị cũng không phải cất thêm người sang nữa, cứ mời cô Vân về đây ở với chị vài ngày, lại chẳng đỡ việc hay sao?

Vưu thị nói:

– Cô Vân bây giờ đi đâu?

Bảo Thoa nói:

– Tôi vừa bảo bọn họ đi mời cô Thám Xuân cùng đến đây luôn. Tôi cũng sẽ nói rõ với cô ấy.

Đương nói thì có người báo:

– Cô Vân và cô Ba đã đến.

Mọi người mời nhau ngồi xong, Bảo Thoa nói đến việc mình phải ra ngoài ở. Thám Xuân nói:

– Hay lắm. Dì khỏi sẽ trở lại, hoặc không trở lại cũng chẳng sao.

Vưu Thị cười nói;

– Nói mới lạ chứ? Sao lại đuổi cả bà con đi?

Thám Xuân cười nhạt:

– Đúng đấy. Rồi thế nào cũng có người đuổi, chị để tôi đuổi trước đi! Chỗ bà con với nhau, không cần phải ở rịt với nhau một chỗ mới là tử tế. Chúng ta là chỗ bà con thân thiết đấy, nhưng ai mà chẳng như giống gà đen mắt, chỉ chực nuốt sống nhau thôi.

Vưu Thị cười nói:

– Hôm nay sao tôi đen đủi thế? Đi đến chỗ nào cũng đụng phải chị em các cô cáu gắt.

Thám Xuân nói:

– Ai bảo chị đâm đầu vào bếp lửa làm gì? – Lại hỏi luôn: – Ai đã mắc lỗi với chị thế. Cô Tư chắc không khi nào gây chuyện với chị. Thế là ai chứ?

Vưu Thị cứ ậm ừ trả lời cho qua.

Thám Xuân biết là Vưu thị sợ sinh chuyện, không dám nói nhiều, liền cười nói:

– Chị đừng làm bộ thực thà nữa. Trừ khi triều đình trị tội, ngoài ra không ai chém được đầu mình. Chị không cần phải sợ rụt đầu rụt cổ như thế. Tôi nói cho chị nghe này: hôm qua tôi vừa mới đánh con vợ thằng Vương Thiện Bảo, vẫn còn mắc tội đấy. Nhưng dù sao họ cũng chỉ nói vụng khi vắng mặt tôi thôi, chẳng lẽ lại lôi tôi ra đánh à?

Bảo Thoa hỏi:

– Tại sao lại đánh mụ ta?

Thám Xuân kể lại đầu đuôi sự việc đêm quạ Vưu Thị thấy Thám Xuân nói ra hết, cũng đem việc lúc nãy của Tích Xuân ra nói. Thám Xuân nói:

– Tính khí cô ta xưa nay vẫn kiêu kỳ quá, chúng tôi không thể địch với nó được. – Rồi lại nói với mọi người: – Hôm nay chẳng thấy động tĩnh gì, hỏi ra thì chị Phượng lại ốm. Tôi sai người đi các nơi dò xét xem tình hình vợ Vương Thiện Bảo. Trở về họ trình rằng: mụ ta bị một trận đòn rồi bị mắng là hay sinh chuyện.

Vưu Thị, Lý Hoàn đều nói:

– Có thế mới được.

Thám Xuân cười nhạt:

– Cách che mắt người ta như thế, ai chẳng biết làm? Hãy chờ xem sao.

Vưu Thị và Lý Hoàn ngồi im không nói gì. Một lúc, bọn a hoàn vào mời đi ăn cơm. Tương Vân và Bảo Thoa về nhà sắp xếp quần áo.

Vưu Thị cáo từ Lý Hoàn sang bên Giả mẫu. Giả mẫu còn nằm trên giường. Vương phu nhân đương kể lại việc nhà họ Chân vì sao bị tội, hiện giờ đã bị tịch biên gia sản, và giải về kinh trị tội. Giả mẫu nghe nói, trong bụng rất là khó chịu. Thấy Vưu Thị đến, liền hỏi:

– Chị Ở đâu đến đây? Không biết chị em con Phượng ốm, giờ đã khỏi chưa?

Vưu Thị vội trình:

– Hôm nay đều đã đỡ rồi.

Giả mẫu gật đầu thở dài:

– Chúng ta đừng bàn tán việc nhà người ta nữa, hãy bàn việc thưởng trăng rằm tháng tám đi.

Vương phu nhân cười nói:

– Đã sắp sẵn cả rồi, nhưng không biết cụ định chọn chỗ nào cho đẹp? Chỉ sợ Ở trong vườn đêm khuya gió lạnh thôi.

Giả mẫu cười nói:

– Mặc nhiều áo vào thì sợ gì? Ở đó mới là chỗ thưởng trăng, sao lại không ra đó chơi?

Trong lúc nói chuyện, bọn đàn bà khênh bàn ăn đến. Vương phu nhân và Vưu Thị vội đến so đũa xới cơm. Giả mẫu thấy mấy món ăn của mình đã bầy đủ rồi, lại còn có hai hộp lớn, đựng mấy món ăn nữa, đó là lệ cũ, các phòng dâng thêm thức ăn. Giả mẫu nói:

– Ta đã bảo nhiều lần, bỏ lệ này đi, có chị vẫn không nghe. Giờ có được như trước nữa đâu.

Uyên Ương cười nói:

– Cháu cũng đã nói nhiều lần. Chẳng ai nghe cả, nên đành phải chịu.

Vương phu nhân cười nói:

– Chỉ là những đồ ăn thường thôi. Hôm nay con ăn chay, không có món gì đem dâng cụ, miến và đậu phụ thì cụ lại không thích dùng, nên chỉ mang đến một món rau dút, dưa chua ngâm dấm và tương ớt.

Giả mẫu cười nói:

– Ta lại thích ăn món ấy.

Uyên Ương nghe nói đưa đĩa rau ra bày ở trước mặt Bảo Cầm, mời đủ mọi người, rồi mới ngồi xuống. Giả mẫu bảo Thám Xuân cùng ngồi xuống ăn.

Thám Xuân cũng mời khắp lượt, rồi mới ngồi đối diện với Bảo Cầm. Thị Thư vội đi lấy bát đũa. Uyên Ương lại trỏ mấy món ăn nói:

– Hai món này không hiểu là món gì, bên ông Cả mang biếu đấy. Bát này là măng nấu với tủy gà, đó là của ông ở nhà ngoài đem đến biếu.

Giả mẫu nếm qua mấy miếng rồi bảo người mang những món ấy về, nói rằng “ta đã ăn rồi, từ nay không cần phải ngày nào cũng mang đến biếu. Ta muốn ăn thứ gì, tự khắc cho người đến lấy”. Bọn đàn bà vâng lời mang ra.

Giả mẫu lại bảo:

– Mang cháo lên đây ăn một ít vậy.

Vưu Thị bưng một bát đến, nói là cháo gạo cẩm.

Giả mẫu cầm lấy ăn nửa bát, rồi bảo:

– Đem bát cháo cho cháu Phượng ăn.

Lại sai đem bát măng và quả chua cho Đại Ngọc và Bảo Ngọc ăn. Bát thịt này thì cho chắt Lan. Rồi nói với Vưu Thị:

– Ta đã ăn rồi, chị cũng ăn đi thôi.

Vưu Thị vâng lời, chờ Giả mẫu súc miệng rửa tay xong, xuống đất đi dạo, nói chuyện với Vương phu nhân, mới xin phép ngồi ăn. Thám Xuân, Bảo Cầm đứng dậy cười nói:

– Chúng em xin thất lễ chị.

Vưu Thị cười nói:

– Chỉ còn một mình tôi ngồi ăn cỗ to không quen.

Giả mẫu bảo Uyên Ương, Hổ Phách đến tiếp, Vưu Thị nói:

– Đúng! Đúng! Cháu cũng đang định nói.

Giả mẫu cười nói:

– Nhiều người ăn càng vui. – Nhân trỏ Ngân Điệp: – Con bé này khá, lại đây ngồi ăn với chủ mày một thể. Bao giờ chúng bay xa ta, lúc ấy lại sẽ có khuôn phép.

Vưu Thị nói:

– Em lại đây mau, đừng giả vờ nữa.

Giả mẫu chống tay đứng xem, thấy người mang cơm đến cho Vưu Thị vẫn cơm gạo thường, liền hỏi:

– Mày mê à? Sao lại lấy thứ cơm ấy cho mợ mày?

Người kia thưa:

– Cơm của cụ hết rồi. Hôm nay thêm một cô, nên thiếu.

Uyên Ương nói:

– Từ nay đều phải “đo đầu mà làm mũ”, không thể để thừa một tí gì.

Vương phu nhân nói:

– Mấy năm nay hạn lụt thất thường, gạo ở trại không nộp đủ số. Mấy thứ gạo ngon lại càng khó khăn lắm, nên đều nấu đủ ăn thôi, sợ một mai thiếu không mua đâu ra.

Giả mẫu cười nói:

Phải đấy. Đàn bà khôn khéo không có gạo cũng không nấu được thành cháo.

Mọi người đều cười. Uyên Ương quay lại bảo bọn đàn bà hầu ở cửa ngoài:

– Đã thế, các chị đi lấy thêm phần cơm của cô Ba lại đây cũng vậy.

Vưu Thị cười nói:

– Tôi ăn từng này đủ rồi, không cần phải đi lấy nữa.

Uyên ương nói:

– Mợ ăn đủ rồi, còn tôi không biết ăn à?

Bọn đàn bà nghe nói, vội đi lấy ngaỵ Một lúc Vương phu nhân cũng đi ăn cơm. Vưu Thị thì ngồi hầu chuyện Giả mẫu sang đầu canh một. Giả mẫu nói:

– Trời tối rồi, chị cũng về đi thôi.

Vưu Thị cáo từ ra về. Đến ngoài cửa thứ hai, lên xe. Ngân Điệp ngồi bên cạnh. Bọn đàn bà bỏ rèm xuống, rồi dẫn lũ hầu nhỏ kéo ra trước, đứng chực ở cửa chính bên kia.

Vì cổng hai phủ chỉ cách nhau một quãng đường, hàng ngày đi lại luôn, không cần phải sắp sẵn gì cả. Vả lại, giữa lúc đêm tối, người qua lại tấp nập, nên các bà già chỉ dẫn lũ a hoàn nhỏ, đi mấy bước là sang ngaỵ Những người đứng ở hai cổng, ngăn không cho ai qua lại. Xe Vưu Thị không cần phải đóng ngựa, chỉ sai bảy tám đứa đẩy là nhẹ nhàng đến ngay bậc hè.

Tới nơi, những người đẩy xe lùi ra ngoài con sư tử đá, các bà già vén rèm lên. Ngân Điệp xuống trước dắt Vưu Thị. Bảy tám đứa lớn nhỏ cầm đèn lồng soi sáng rõ như ban ngày.

Vưu Thị thấy bốn, năm cái xe lớn đỗ dưới hai con sư tử, biết ngay là những người đến đánh bạc, liền bảo Ngân Điệp:

– Mày xem đấy, có ngần ấy người ngồi xe thôi, không biết bao nhiêu người cười ngựa nữa. Vì họ buộc ngựa vào chuồng cả, nên ta không trông thấy. Không biết các bà vợ đã bỏ ra bao nhiêu tiền cho họ chơi cái món ma mãnh này.

Nói xong đến nhà khách. Vợ Giả Dung dẫn bọn đàn bà và a hoàn cầm đuốc ra đón. Vưu Thị cười nói:

– Ngày thường ta muốn rình xem họ đánh bạc thế nào, nhưng chưa có dịp. Hôm nay nhân tiện ta đến gần cửa sổ xem sao.

Bọn đàn bà vâng lời, cầm đèn dẫn đường. Lại sai một người đến trước, khẽ bảo những tên hầu nhỏ ở đấy không được nhớn nhác sợ sệt. Rồi cả bọn Vưu Thị khe khẽ đến dưới cửa sổ nghe những tiếng “tam”, “tứ” reo ầm ĩ, xen lẫn “ngũ”, lục” cáu gắt om sòm.

Giả Trân lâu nay có tang, không được đi chơi, cũng không cả nghe đàn nghe hát, lòng rất trống trải, nên tìm cách để giải buồn. Ban ngày thì hắn mượn cớ tập bắn, mời mấy vị con nhà thế gia cùng các bạn bè giàu có đến bắn thị Rồi nói đổ là nếu bắn bừa cũng vô ích, không những không giỏi, lại đâm hỏng kiểu; phải lập lệ thưởng phạt, đặt cược đánh đố, mọi người mới chịu cố gắng. Hắn bèn dựng một cái bia ở giữa đường thẳng dưới lầu Thiên Hương, hẹn nhau mỗi ngày sau bữa cơm sáng đến đó bắn bia. Giả Trân không tiện ra mặt, cho Giả Dung đứng làm chủ chứa. Đám này đều là hạng trẻ tuổi, lại con nhà giàu quen lối sống phóng túng, chỉ lo những việc chó săn gà chọi, hỏi liễu tìm hoa. Vì thế họ bàn nhau, mỗi ngày thay phiên thết nhau một bữa cơm chiều. Ngày nào cũng giết lợn giết dê, mổ gà mổ vịt chẳng khác gì thi của báu ở đất “Lâm Đồng” 1 ai cũng khoe khoang nhà mình có đầu bếp giỏi và nấu nướng khéo.

Chưa đầy nửa tháng, Giả Xá, Giả Chính nghe thấy, nhưng không biết rõ ẩn tình bên trong, lại nói:

– Như thế mới phải, văn đã kém tất phải tập võ, huống chi mình lại là dòng dõi con nhà quan võ nữa.

Rồi bảo Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Tôn, Giả Lan, cứ sau bữa cơm, phải đến tập bắn với Giả Trân một lúc mới được về.

Giả Trân không phải chú ý vào việc này, tập bắn được vài ngày, dần dần mượn cớ nghỉ bắn để dưỡng sức, rồi cứ đến buổi tối lại giở trò bài bạc, ai thua phải thết rượu; sau dần đánh bằng tiền. Ròng rã ba bốn tháng trời, hắn công nhiên đánh bài lá, gieo xúc xắc, tung tiền đầu. Người nhà cũng nhờ đó kiếm được tý chút. Vì họ chỉ mong được như thế, nên trở thành sòng bạc. Người ngoài đều không ai biết cả.

Gần đây, em ruột Hình phu nhân là Hình Đức Toàn rất mê đánh bạc. Hắn cũng ở trong cuộc. Lại có Tiết Bàn là người thích cúng tiền cho người nhất, lẽ nào không hăng saỵ Hình Đức Toàn tuy là em ruột Hình phu nhân, nhưng ý nghĩ và việc làm lại khác hẳn. Hắn chỉ biết rượu chè cờ bạc, đắm liễu say hoa, tiêu tiền bừa bãi, đối với mọi người, coi ai cũng như ai. Thấy thế, những kẻ nghiện rượu thì thích, nhưng người không nghiện thì không hay gần gụi. Hấn bất chấp trên dưới hay thầy trò, đều như nhau cả, không phân biệt là sang hay hèn, vì thế ai cũng gọi hắn là “cậu Cả ngốc”. Tiết Bàn cũng là “anh chàng ngốc” có tiếng. Nay hai người cùng ở một chỗ, đều thích sát phạt nhau, nên họ họp riêng, đánh ở trên giường phía ngoài. Ngay đấy lại có mấy người đánh cá ngựa ở trên cái bàn lớn. Trong nhà thì có một bọn chơi hơi nhã hơn, cùng nhau đánh mạt chược và bài cẩu. 2 Bọn hầu nhỏ phục dịch ở đây, đều là trẻ con dưới 15 tuổi. Người lớn không được vào.

Vưu Thị lẻn đến cửa sổ nhìn trộm, thấy trong đó có hai đứa trẻ con hầu rượu, chừng mười sáu mười bảy cũng đều son phấn trang điểm lòe loẹt như hoa như gấm vậy. Tiết Bàn đánh thua, trong bụng đương khó chịu, sau gỡ lại được, trừ bỏ hồ rồi, còn được một ít, hắn lấy làm vui sướng lắm. Giả Trân nói:

– Hãy nghỉ tay, đi ăn đã rồi sẽ đánh. Còn hai bàn kia thì sao?

Bàn đánh bài cẩu cũng đi ăn, chỉ còn bàn đánh cá ngựa là đương giở cuộc chưa ăn được, nên bày một bàn sẵn. Hắn sai Giả Dung đợi tiếp bàn sau. Ngay đấy Giả Trân ngồi tiếp. Tiết Bàn hứng lên ôm một đứa hầu bé ngồi uống rượu, rồi sai nó mang rượu mời cậu “cậu Cả ngốc”.

Cả Ngốc đương thua, không còn bụng dạ nào nữa, mới uống hai chén đã thấy say, liền cáu mắng đứa hầu rượu:

– Chỉ biết xoắn xuýt với người được, không để ý đến người thuạ Hạng nhãi con chúng bay chuyên việc hầu hạ, ngày nào cũng ở đây, thì ai mà chúng bay không được nhờ ơn? Bây giờ ta mới thua có mấy lạng bạc, chúng bay đã ra vẻ nhìn người ba bảy đứng rồi. Chẳng lẽ từ nay trở đi, chúng bay không có việc gì nhờ đến tao nữa hay sao?

Mọi người thấy hắn đã chếnh choáng say, đều nói:

– Đúng! Đúng! Quả thật chúng nó vẫn quen cái thói ấy.

Rồi mắng hai đứa kia:

– Còn không đi rót rượu xin lỗi à?

Hai đứa hầu nhỏ giở ngay trò ra. Chúng quỳ xuống dâng rượu nói:

– Chúng cháu là người hàng họ. Thầy chúng cháu thường dạy: Không kể xa gần thân sơ, cứ xem người có tiền thì xoắn xuýt lấy như ông tiên trên trời. Khi tiền hết, thì bỏ đấy không cần nhìn đến. Vả lại chúng cháu còn ít tuổi chưa quen làm cái nghề này. Xin ông rộng lượng tha cho chúng cháu.

Cậu Hình nghe vậy, lòng dịu hẳn đi, nhưng vẫn làm ra vẻ thịnh nộ, không nhìn đến. Mọi người thấy vậy lại khuyên:

– Chúng nó trẻ con nói thực đấy. Cậu vẫn quen thương hương tiếc ngọc, sao hôm nay lại như vậy? Cậu không uống, khi nào chúng dám đứng lên.

Cậu Hình nói:

– Nếu các vị không khuyên giải, tôi sẽ không nhìn đến chúng nữa.

Rồi cậu ta uống một hơi cạn chén. Sau lại rót một bát nữa. Rượu vào, nhớ đến chuyện cũ, cậu Hình mới thổ lộ chân tình, đập bàn nói với Giả Trân:

– Chẳng trách chúng coi tiền hơn hết. Bao nhiêu con nhà đại gia sang trọng, đụng đến tiền, dù anh em ruột thịt cũng xa nhau. Cháu ơi! Hôm qua tôi cãi nhau với bà thím nhà cháu, cháu có biết không?

– Cháu không nghe thấy!

Hắn ta thở dài:

– Cũng chỉ vì tiền thôi! Ghê lắm!

Giả Trân biết hắn giận nhau với Hình phu nhân, nên mỗi khi bị Hình phu nhân ruồng bỏ, là hắn lại điều nọ tiếng kia, nhân khuyên:

– Thưa cậu, cậu cũng hay phung phí quá, nếu cứ để mặc cậu thì bao nhiêu tiền cậu tiêu cũng hết.

– Cháu ơi, cháu chưa biết tình cảnh nhà họ Hình chúng tạ Khi bà cụ mất, ta còn bé, chưa biết gì. Có ba chị em gái, thì bà thím anh là cả, khi bà ấy đi lấy chồng, mang hết cả của cải trong nhà đi. Giờ dì hai cũng đi lấy chồng rồi, nhưng cũng túng thiếu. Dì ba còn ở nhà. Tất cả những tiền bạc chi tiêu, đều do người hầu thân là vợ Vương Thiện Bảo nắm giữ. Ta có đến lấy ít tiền tiêu cũng không phải là lấy của nhà họ Giả. Tiền của nhà họ Hình cũng đủ cho ta tiêu, nhưng không ngờ lại chẳng được đồng nào! Thật không biết giãi tỏ với ai cho hết nỗi bực được!

Giả Trân thấy hắn say rượu nói lôi thôi, sợ người ngoài nghe thấy không tiện, liền tìm lời khuyên ngăn.

Vưu Thị đứng ngoài nghe thấy mồn một, khẽ cười bảo Ngân Điệp:

– Mày nghe đấy. Đó là cậu em của bà cả bên phủ bắc đang bực bội với bà ta đấy. Chị em ruột mà còn thế, trách sao được những người ngoài.

Vưu Thị muốn nghe nữa, gặp lúc những người đánh “cá ngựa” nghỉ để uống rượu. Có người hỏi: “Vừa rồi người nào có lỗi với ông cậu thế? Chúng tôi không nghe rõ. Hãy nói lại xem ai phải ai trái?” Hình Đức Toàn kể lại việc hai đứa bé không chịu nhìn ngó đến mình, mà cứ xoắn xuýt với người được bạc. Người kia liền tiếp:

– Tức thật! Không trách ông cậu nổi giận là phải. Tao hỏi chúng mày: ông cậu chẳng qua mới chỉ thua mất mấy đồng tiền, chứ có thua mất cả cái “con c… ” của ông ấy đâu. Tại sao chúng bay lại lờ ông ấy đi?

Cả bọn nghe vậy đều cười ầm lên. Hình Đức Toàn cũng cười sặc cả cơm ra.

Vưu Thị đứng ngoài nghe vậy hậm hực khẽ mắng:

– Mày nghe xem, cái bọn chết đâm vô liêm sỉ ấy! Vừa bỏ xương đầu, đã ngậm ngay lông đít. Còn nốc rượu vào, chưa biết họ còn thở ra bao nhiêu câu đểu nữa cơ!

Liền về nhà cởi đồ trang sức đi ngủ.

Đến canh tư, đám bạc mới tan. Giả Trân vào buồng Bội Phượng. Hôm sau trở dậy, có người vào trình: Dưa và bánh dẻo đã sắp đủ cả, chúng con chờ lệnh ông cho biếu các nơi.

Giả Trân dặn Bội Phượng: “Em nói với mợ sai người đi biếu. Ta còn bận việc khác”.

Bội Phượng vâng lời đi trình Vưu Thị, rồi sai người đi biếu.

Sau đó Bội Phượng lại đến nói:

– Cậu hỏi mợ hôm nay có đi chơi đâu không? Cậu nói nhà ta đương có tang, không nên ăn tết ngày rằm, nhưng tối hôm nay thì được. Chúng ta có thể ăn dưa, uống rượu vui chơi qua loa.

Vưu Thị nói:

– Ta cũng không muốn đi đâu! Nhưng bên kia mợ Cả lại ốm, mợ Hai cũng chưa dậy được, nếu ta không đi thì không có ai. Hơn nữa, chẳng ai rỗi cả thì vui cái gì.

– Cậu bảo hôm nay đã từ chối mọi người rồi, đến mười sáu họ mới đến, và mời mợ đến uống rượu.

– Mời ta, ta chẳng có cỗ đâu mà mời lại.

Bội Phượng cười rồi đi, một lúc lại đến nói:

– Mời mợ đến ăn cả bữa cơm chiều naỵ Thế nào mợ cũng phải về sớm. Cậu lại bảo tôi đi hầu mợ nữa.

– Đã thế thì ăn cơm sớm rồi đi.

– Cậu bảo là cơm sáng cậu ăn ở ngoài kia, xin mời mợ cứ ăn đi.

– Hôm nay ngoài kia có ai?

– Nghe nói có hai người ở Nam Kinh mới đến, không biết là ai.

Đang nói chuyện thì vợ Giả Dung chải đầu, thay quần áo xong, cũng đến đó. Một lát, cơm bưng lên, Vưu Thị ngồi trên, vợ Giả Dung ngồi dưới, hai mẹ con cùng ăn; ăn xong, Vưu Thị thay quần áo đi sang bên phủ Vinh, đến chiều mới về.

Quả nhiên Giả Trân giết một con lợn, thui một con dê, sắp một bàn các thứ rau quả, bày ở Tùng Lục đường trong vườn Hội Phương, dẫn vợ con nàng hầu đến đấy, bày ra tiệc rượu, tìm thú thưởng trăng. Vào khoảng canh một, gió mát trăng trong, cả khoảng trời lấp lánh như bạc. Giả Trân muốn đố rượu. Vưu Thị cho bọn Bội Phượng bốn người cùng vào dự tiệc, ngồi một dãy ở phía dưới chơi hột, đánh toan. Uống rượu một lúc, Giả Trân đã ngà ngà say, cao hứng lên, sai lấy một cái tiêu trúc, bảo Bội Phượng thổi, Văn Hoa hát, âm điệu du dương, rung động tâm hồn mọi người. Hát xong lại làm tửu lệnh cho mãi tới khoảng canh bạ Giả Trân đã say mềm, mọi người đương mặc thêm áo, thay chén uống rượu nữa. Chợt nghe thấy từ chân tường bên kia có tiếng thở dài, ai nấy nghe rõ mồn một, đều rợn tóc gáy. Giả Trân quát to: “Ai ở bên kiả” Hỏi dồn mấy tiếng, không có ai trả lời. Vưu Thị nói:

– Chắc là tiếng người ở bên kia tường cũng chưa biết chừng.

Giả Trân nói:

– Nói nhảm! Không có nhà người hầu nào ở gần tường cả. Bên ấy lại liền ngay với từ đường thì làm gì có người?

Nói chưa dứt lời, một cơn gió thổi tạt quạ Thấp thoáng như ở trong từ đường có tiếng cánh cửa mở đóng, rồi thấy hơi gió rùng rợn, có vẻ lạnh lùng, ánh trăng lúc đó cũng tờ mờ, không sáng tỏ như trước nữa. Thấy vậy ai nấy đều rởn tóc gáy. Giả Trân hết hẳn say, tuy ngoài mặt trấn tĩnh hơn mọi người, nhưng trong bụng rất khiếp sợ, không còn hứng thú gì nữa. Hắn gắng gượng ngồi lại một lúc, rồi cũng về buồng nằm nghỉ.

Hôm sau là ngày rằm, Giả Trân dẫn con cháu đến từ đường làm lễ. Xem xét khắp nhà thờ, vẫn thấy y nguyên như trước, không có dấu tích lạ lùng gì. Giả Trân cho là sau khi rượu vào, thần hồn nát thần tính, nên không nhắc việc ấy nữa. Làm lễ xong, đóng cửa khóa kín cẩn thận.

Sau bữa cơm chiều, vợ chồng Giả Trân mới sang phủ Vinh, thấy Giả Xá, Giả Chính đương ngồi nói chuyện ở trong phòng cho Giả mẫu vui. Giả Liễn, Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan đều đứng hầu ở dưới. Giả Trân đến nơi, đi chào một lượt, nói mấy câu chuyện, rồi mới xin phép ngồi né xuống cái ghế nhỏ ở cạnh cửa. Giả mẫu cười hỏi:

– Mấy hôm nay em Bảo anh bắn có khá không?

Giả Trân vội đứng dậy cười thưa:

– Khá lắm rồi, không những cách bắn trông đẹp mà giương cung cũng khỏe thêm.

– Thế cũng đủ rồi, cẩn thận kẻo quá sức có hại đấy.

Giả Trân vội “dạ” luôn mấy tiếng. Giả mẫu lại nói:

– Bánh dẻo anh cho mang sang biếu hôm qua ngon đấy, dưa thì trông ngoài cũng đẹp, nhưng bổ ra lại chẳng ra sao cả.

Giả Trân vui cười thưa:

– Bánh dẻo là do người đầu bếp mới đến làm ra, cháu đã nếm thử, thấy ngon, mới dám mang sang biếu cụ. Dưa thì năm ngoái còn khá, không biết năm nay sao lại dở thế?

Giả Chính nói:

– Có lẽ vì năm nay mưa nhiều quá.

Giả mẫu cười nói:

– Bây giờ trăng đã sáng rồi, chúng ta hãy đi lễ đã.

Nói xong, đứng dậy vịn vào vai Bảo Ngọc, dẫn mọi người cùng vào trong vườn.

Lúc này cửa chính ở trong vườn đã mở rộng, treo đèn sừng dệ Trên đài thưởng trăng ở Gia Ấm đường đã thắp hương đốt nến, bày các thứ hoa quả, dưa bánh. Hình phu nhân và một lũ khách đàn bà đã chực lâu ở đấy. Thật là đèn rọi trăng trong, hơi thơm hương ngát, mịt mù lộng lẫy, không thể tả ra hết được. Dưới đất rải thảm gấm để lạy. Giả mẫu rửa tay dâng hương, lễ xong, mọi người cùng vào lễ. Giả mẫu nói:

– Thưởng trăng ở trên núi tốt hơn.

Rồi bảo lên nhà hoa lớn ở trên núi. Mọi người nghe nói, bày các thứ ở đấy. Giả mẫu vào ngồi nghỉ tạm ở Gia Ấm đường uống nước, nói chuyện.

Một lúc có người vào trình: “Đã sắp sửa xong cả”. Giả mẫu vịn vào một người đi lên núi. Vương phu nhân nói:

– Sợ đá có rêu trơn, xin cụ ngồi lên ghế trúc, để kiệu đi.

Giả mẫu nói:

– Đường rộng và bằng phẳng, lại ngày nào cũng quét dọn, đi dạo một lúc cho dãn gân cốt chẳng hơn ư?

Giả Xá, Giả Chính đi trước dọn đường, hai bà già cầm hai cái đèn lồng sừng dệ Uyên ương, Hổ Phách, Vưu Thị đi gần lại đỡ Giả mẫu. Bọn Hình phu nhân đi theo sau. Quanh co không đầy một trăm bước, đã đến sườn núi chính, ở đấy có một tòa nhà rộng thoáng. Vì làm ở trên sườn núi cao, nên gọi là “Đột bích sơn trang” 3 Trên đài, trước nhà bày bàn ghế, ở giữa lại đặt một cái bình phong lớn, ngăn làm hai gian. Bàn ghế đều dùng kiểu tròn cả, lấy nghĩa là đoàn viên. Giả mẫu ngồi giữa, bên trái có Giả Xá, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung, bên phải có Giả Chính, Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan, ngồi quây quần; còn phía dưới vẫn để không.

Giả mẫu cười nói:

– Trước kia còn chưa biết là ít người, bây giờ xem ra nhà ta thật ít người quá. Nghĩ lại mấy năm về trước, ăn tết trông trăng đêm rằm, trai gái có hàng ba, bốn mươi người, vui nhộn biết bao! Hôm nay sao lại ít quá, bảo bọn cháu gái ra ngồi ở bên kia vậy.

Rồi sai người đến bàn của Hình phu nhân ở sau bình phong mời Nghênh Xuân, Thám Xuân và Tích Xuân ra. Giả Liễn, Bảo Ngọc đứng dậy, nhường các chị em ngồi trước, rồi mới theo thứ tự ngồi xuống.

Giả mẫu sai bẻ một cành hoa quế mang đến, bảo một người đàn bà ở sau bình phong đánh trống, truyền hoa đến tay ai, người ấy phải uống một ly rượu và phải nói một câu chuyện vui. Bắt đầu từ Giả mẫu, rồi đến Giả Xá, cứ thế lần lượt truyền đi. Trống đánh hai hồi vừa hay đến tay Giả Chính, ông ta phải uống một ly rượu. Các anh chị em đều khe khẽ người nọ kéo người kia, người kia bấm người nọ, ai cũng mỉm cười xem câu chuyện vui như thế nào.

Giả Chính thấy Giả mẫu đương vui, cũng phải làm cho vui thêm, ông ta sắp nói, Giả mẫu lại cười bảo:

– Nếu câu chuyện không được người ta cười thì anh phải phạt đấy.

Giả Chính cười, thưa:

– Con chỉ biết có một câu chuyện, nói ra không ai buồn cười thì cũng đành xin chịu phạt vậy.

– Anh cứ nói đi.

– Một anh chàng con nhà nọ rất sợ vợ.

Mới nói câu ấy, mọi người đã cười ầm lên. Vì họ chưa nghe Giả Chính nói chuyện vui bao giờ. Giả mẫu cười nói:

– Chắc chuyện này hay đấy.

Giả Chính cười thưa:

– Nếu hay, thì mời cụ xơi trước một chén.

Giả Chính lại nói tiếp:

– Anh chàng sợ vợ này, xưa nay không dám đi ra ngoài một bước. Hôm ấy là ngày rằm tháng tám, chàng ta ra phố mua các thứ, gặp ngay mấy người bạn cố sống cố chết kéo hắn về nhà uống rượu. Không ngờ chàng ta uống say quá, lăn ra ngủ ngaỵ Hôm sau tỉnh dậy, hối không kịp, đành phải về nhà nhận tội. Lúc ấy người vợ đương rửa chân, bảo chàng ta: “Đã thế thì anh phải liếm chân tôi, tôi sẽ tha cho”. Chàng ta đành phải liếm chân vợ, rồi bụng thấy tởm tởm, muốn nôn. Chị vợ nổi giận định đánh, và nói: “Anh lại hỗn xược thế à!” Chàng ta khiếp quá vội quỳ xuống kêu nài: “Không phải là chân mợ bẩn đâu, vì hôm qua tôi trót uống nhiều rượu, ăn nhiều nhân bánh dẻo quá nên hôm nay thấy lợm giọng”.

Câu chuyện làm cho Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Giả Chính lại rót một ly rượu nữa mời Giả mẫu. Giả mẫu cười nói:

– Đã thế thì bảo người mang rượu nóng lại đây, đừng làm khổ các anh nữa.

Mọi người đều cười ầm lên.

Lúc đó lại đánh trống, bắt đầu từ Giả Chính truyền đi, vừa đến Bảo Ngọc thì tắt trống. Vì có Giả Chính ngồi đấy, Bảo Ngọc đã khép nép không yên, nay cành hoa lại đến tay, liền nghĩ: “Mình nói chuyện không vui thì bảo là không lém lỉnh, câu chuyện cười cũng không biết nói, còn biết cái gì, nói hay ra lại bảo những chuyện đúng đắn chẳng thấy đâu, chỉ quen lối bẻm mép thôi, cũng có lỗi, chi bằng ta không nói là hơn.”

Rồi đứng dậy từ chối nói:

– Con không biết nói, xin cho cái khác.

Giả Chính nói:

– Đã thế thì hạn cho chữ “thu” con phải làm một bài thơ tức cảnh. Làm hay ta thưởng; không hay thì mai liệu hồn đấy!

Giả mẫu bảo:

– Làm tửu lệnh đương vui, sao lại bày ra làm thơ?

Giả Chính cười thưa:

– Nó làm được thơ đấy.

Giả mẫu nói:

– Đã thế thì làm đi.

Rồi sai người mang bút giấy đến.

Giả Chính nói:

– Nhưng không được dùng những chữ đệm lót như “thủy”, “tinh”, “băng”, “ngọc”, “ngân”, “thái”, “quang”, “minh”, “tố” v.v… Phải theo ý của mình để ta xem mấy năm nay mày học hành ra sao?

Bảo Ngọc nghe nói, chọc đúng vào tim mình, liền nghĩ ngay bốn câu, viết ra giấy đưa lên. Giả Chính xem xong gật đầu không nói gì. Giả mẫu biết là không đến nỗi dở lắm, liền hỏi:

– Thế nào?

Giả Chính muốn cho Giả mẫu vui lòng, nói:

– Nó cũng khá đấy. Chỉ có cái là không chịu học và đặt câu chưa được nhã.

– Thôi được, nó đã lớn gì cho lắm. Định bắt nó làm tài tử chăng? Cũng cần khen nó để sau này nó cố lên.

– Phải đấy.

Liền quay lại bảo bà già:

– Đi ra gọi bọn hầu nhỏ, bảo lấy hai cái quạt của ta mang ở Hải Nam về, thưởng cho Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc cúi đầu tạ, lại ra chỗ ngồi làm tửu lệnh.

Giả Lan thấy Bảo Ngọc được thưởng, cũng đứng dậy làm một bài đưa trình Giả Chính. Giả Chính xem xong lấy làm vui mừng, liền giảng nghĩa luôn cho Giả mẫu nghe. Giả mẫu rất là sung sướng, vội bảo Giả Chính cũng phải thưởng cho nó.

Mọi người trở về chỗ ngồi, lại bắt đầu làm tửu lệnh. Lần này hoa đến tay Giả Xá, ông ta đành phải uống rượu và nói chuyện vui:

– Một nhà có một đứa con rất là hiếu thuận. Không may bà mẹ bị bệnh, tìm thầy chạy thuốc các nơi không được. Người con mời ngay một bà biết châm cứu đến. Bà này không biết xem mạch, chỉ bảo là bệnh tâm hỏa, châm một mũi là khỏi thôi. Người con sợ quá, hỏi: “Tim mà gặp phải sắt thì chết, châm thế nào được?” Bà lang nói: “Không cần phải châm vào tim, chỉ châm vào bên hông là được rồi”. Người con nói: “Hông cách tim xa, châm vào đó khỏi thế nào được?” Bà lang nói: “Không việc gì đâu. Anh không biết thiên hạ làm bố mẹ, nhiều tim rất là thiên lệch.”

Mọi người nghe nói đều cười lên. Giả mẫu cũng phải uống nửa ly rượu, ngồi một lúc rồi cười bảo:

– Nếu ta được bà lang ấy châm cho một cái thì cũng tốt đấy.

Giả Xá nghe vậy, biết là mình nói sỗ sàng để Giả mẫu nghi ngờ, liền đứng dậy cười, dâng chén mời Giả mẫu rồi nói lảng sang chuyện khác. Giả mẫu cũng không tiện nhắc, lại làm luôn tửu lệnh. Không ngờ cành hoa truyền đến tay Giả Hoàn. Gần đây Giả Hoàn học đã hơi tiến, nhưng cũng giống Bảo Ngọc, không thiết gì việc chính, mỗi khi làm thơ, chỉ thích những ma quỷ hão huyền. Thấy Bảo Ngọc làm thơ được thưởng, hắn đã ngứa ngáy, nhưng trước mặt Giả Chính, không dám lỗ mãng. May sao cành hoa lại đến tay mình, hắn lấy giấy bút viết một bài tứ tuyệt trình lên. Giả Chính xem xong, cũng lấy làm lạ. Nhưng xét trong bài thơ, vẫn có ý không thích đọc sách, Giả Chính tỏ ý không vui, nói:

– Thế mới biết là anh nào em ấy, mở mồm ra là rặt những câu bất chính. Sau này chỉ là những kẻ hạ lưu, không chịu đi vào khuôn khổ. Người xưa có chữ “nhị nan” 4, hai đứa chúng bay cũng có thể gọi là “nhị nan” được đấy, nhưng không phải như nghĩa chữ “nan” của người xưa nói, mà phải giảng chữ “nan” là “nan dĩ giáo huấn 5 mới đúng. Thằng anh thì nghiễm nhiên coi mình như Ôn Phi Khanh, 6 Tào Đường sống lại.

Mọi người nghe vậy đều cười.

Giả Xá nói:

– Đem thơ lại cho ta xem. – Rồi khen luôn mồn: – Cứ ý tôi, thì bài thơ này thực có chí cốt. Tôi nghĩ nhà chúng ta đây không giống như những nhà bần hàn, phải ngồi trước cửa sổ khi tuyết xuống hoặc lấy đom đóm thay đèn để học, hòng một mai bẻ quế trên cung trăng, mới được mở mày mở mặt. Con cháu ta không cần phải dùi mài cho lắm, chỉ cần đọc ít sách, hiểu biết hơn người, khi có thể làm quan được thì ra làm quan, còn chệch đi đằng nào. Việc gì mà phải hao công tốn sức, lại thành ra anh chàng ngốc chữ. Tôi thích bài thơ của nó, vì không mất cái khí khái nhà công hầu chúng ta!

Liền quay lại, sai người về lấy những đồ chơi của mình đem thưởng cho Giả Hoàn, rồi gõ vào đầu hắn, cười nói:

– Từ nay cháu cứ làm thơ như thế này, bước đường “thế tập” 7 chắc không chệch khỏi tay cháu.

Giả Chính vội ngăn:

– Chẳng qua nó làm liều mấy câu đấy thôi, sao anh lại nói đến việc mai sau.

Ông ta rót rượu, lại bắt đầu làm tửu lệnh. Giả mẫu nói:

– Các anh về đi thôi. Ngoài ấy chắc còn có bọn gia khách chực hầu, cũng không nên sơ suất với họ. Hơn nữa đã quá trống canh hai rồi, các anh nên về để chị em chúng nó vui chơi một lúc.

Giả Xá, Giả Chính nghe nói, mới thôi tửu lệnh, rồi đứng dậy. Họ cùng dâng chung một ly rượu, rồi dẫn bọn con cháu đi ra.

1      Chuyện Mục công nước Tần định xâm chiếm các nước chư hầu, hẹn gặp nhau ở đất Lâm Đồng, đem mỗi nước hai thứ của báu đến thi để định được thua.

2      Trong nguyên bản nói cách đánh bạc như Thương Tân Khoái, công phiên… xét không cần thiết lắm, nên chúng tôi đổi ra là mạt chược và bài cẩu.

3      Nhà làm nhô lên sườn núi.

4      Đời Đông Hán có hai anh em họ Trần: anh là Nguyên Phương, em là Qúy Phương đều có tài học bằng nhau, khó phân được anh hơn hay em hơn, do đó có chữ “nan huynh nan đệ”.

5      Khó mà dạy bảo.

6      Nhà thơ lớn đời Đường.

7      Đời này nối đời khác làm quan.

Chương 76: Nhà Đột Bích nghe sáo, cảm nỗi ưu sầu – Quán Ao Tinh nối thơ, buồn đêm vắng lặng

Nhà Đột Bích nghe sáo, cảm nỗi ưu sầu

Quán Ao Tinh nối thơ, buồn đêm vắng lặng

Giả Xá và Giả Chính dẫn bọn Giả Trân ra về. Giả mẫu sai cất cái bình phong đi, dồn hai bàn làm một. Bọn đàn bà lại lau bàn sửa các thứ quả, thay chén rửa đũa, bày biện một lượt nữa. Giả mẫu mặc thêm áo, rửa mặt, súc miệng uống trà, rồi mời ngồi quây quần lại. Giả mẫu nhìn không thấy hai chị em Bảo Thoa ngồi ở đấy, biết là họ về nhà thưởng trăng. Lý Hoàn, Phượng thư lại ốm. Thiếu mất bốn người, thành ra buồn tẻ quá. Giả mẫu cười nói:

– Năm ngoái cha cháu đi vắng, chúng ta mời cả dì Tiết đến thưởng trăng, rất là vui nhộn; bấy giờ nhớ tới cha cháu không được ở nhà, lại không khỏi nghĩ đến việc vợ chồng con cái không được cùng nhau đoàn tụ, thành ra ít vui. Năm nay cha cháu đã về, cả nhà sum họp vui vẻ, lại không tiện mời mẹ con bà ấy sang chơi. Năm nay nhà bà ấy lại thêm hai người nữa, không có nhẽ bỏ bọn ấy ở nhà mà đi sang đây, ngặt vì cháu Phượng ốm, nếu không, một mình nó cười đùa đủ chấp mười đứa. Thế mới biết việc đời không bao giờ mười phần vẹn cả mười.

Nói xong Giả mẫu thở dài một tiếng:

– Cầm chén lớn đến đây rót rượu nóng.

Vương phu nhân cười thưa:

– Hôm nay mẹ con được sum họp vui hơn năm ngoái nhiều. Năm ngoái tuy có nhiều các bà các cô, nhưng không vui bằng năm nay, gia đình sum họp đủ mặt.

Giả mẫu cười nói:

– Chính vì thế nên ta mới cao hứng gọi mang chén lớn đến. Các người cũng phải đổi lấy chén lớn mới được.

Bọn Hình phu nhân đành phải đổi lấy chén lớn. Đêm khuya, người mệt, không uống được nhiều rượu, nên ai nấy đều có vẻ uể oải. Thấy Giả mẫu vẫn còn cao hứng, họ đành phải ngồi lại hầu rượu.

Giả mẫu lại sai rải nệm ở trên thềm, bày bánh dẻo, dưa và các thứ quả ra đấy, cho bọn a hoàn, đàn bà ngồi quây lại thưởng trăng.

Giả mẫu thấy trăng đã lên đến đỉnh đầu, càng sáng đẹp đáng yêu, liền nói:

– Trăng đẹp thế này, phải có tiếng sáo mới vui.

Rồi cho gọi bọn nữ nhạc đến. Giả mẫu nói:

– Nhiều thứ nhạc đâm mất vui, chỉ cần bảo người thổi sáo từ xa vẳng lại là đủ.

Người thổi sáo vừa đi, thì có người đàn bà theo hầu đến bên Hình phu nhân nói mấy câu. Giả mẫu hỏi:

– Việc gì đấy?

Người đàn bà thưa:

– Vừa giờ ông Cả đi về, bị vấp phải mấy hòn đá ngã trẹo chân.

Giả mẫu nghe nói, sai hai bà già ra xem, lại bảo Hình phu nhân phải về ngaỵ Hình phu nhân cáo từ ra về. Giả mẫu lại nói:

– Nhân tiện chị Trân cũng về nhà luôn. Ta cũng đi nghỉ đây.

– Hôm nay cháu không về, nhất định ở đây suốt đêm hầu rượu cụ.

– Không được. Hai vợ chồng trẻ các cháu đêm nay phải về sum họp với nhau, sao lại vì ta mà bỏ lỡ dịp!

Vưu Thị đỏ bừng mặt lên, cười nói:

– Cụ nói thế thì ra chúng cháu chẳng ra gì nữa. Tuy còn trẻ thực, nhưng làm bạn với nhau mười năm nay rồi, cũng đã xấp xỉ bốn mươi tuổi đầu, lại đương có tang, ở đây hầu cụ suốt đêm.

– Nói thế phải đấy. À ra cháu chưa hết tang, ta quên khuấy mất rồi. Khốn nạn, bố chồng cháu mất đã hơn hai năm rồi! Thế ra ta quên mất đấy, đáng phạt ta một chén lớn! Đã thế cháu đừng có đưa họ về nữa, cứ ở đây hầu tạ Bảo vợ cháu Dung tiễn về, rồi nó tiện đường về nhà luôn.

Vưu Thị bảo vợ Giả Dung đưa Hình phu nhân về. Ra đến cửa lớn, ai nấy đều lên xe về nhà.

Mọi người thưởng hoa quế một lúc, rồi lại vào tiệc thay rượu nóng.

Đường nói chuyện phiếm, chợt nghe dưới cây quế bên cạnh tường có tiếng sáo đưa lại réo rắt véo von. Gặp lúc gió mát trăng trong, trời quang mây tạnh, khiến người trút sạch nỗi lo buồn, lặng lặng ngồi yên, cùng nhau thưởng thức. Chừng uống hết hai chén trà, tiếng sáo mới dứt tiếng. Mọi người khen ngợi mãi. Rượu nóng lại rót lên.

Giá mẫu cười hỏi:

– Nghe có hay không?

Mọi người cười thưa:

– Hay quá! Chúng cháu không ngờ lại hay được đến thế. Nhờ cụ nêu ra, khiến chúng cháu được khoan khoái trong lòng.

– Thế cũng chưa hay lắm. Phải chọn một khúc nhạc nào thổi càng thong thả nghe càng hay.

Liền sai rót một ly rượu lớn, đưa cho người thổi sáo uống từ từ, rồi khẽ thổi một bài. Bọn đàn bà vâng lời mang rượu đi, gặp hai bà già đi thăm Giả Xá về thưa:

– Chúng cháu đã xem rồi. Mu bàn chân bên phải sưng một tí. Giờ uống thuốc đã đỡ đau, không quan hệ lắm.

Giả mẫu thở dài:

– Ta cũng hay lo nghĩ quẩn. Đã nói ta ăn ở thiên vị, mà ta lại như thế.

Nhân đem câu chuyện vui của Giả Xá vừa nói lúc nãy kể lại cho Vương phu nhân và Vưu Thị nghe. Vương phu nhân khuyên:

– Bác ấy rượu vào, nói chuyện vui, không để ý đến, khi nào dám nói kháy cụ. Xin cụ đừng nên nghĩ đến.

Uyên Ương mang mũ và áo choàng đến nói:

– Đêm khuya rồi, sợ sương gió lạnh, cụ ngồi một lúc rồi đi nghỉ thôi.

Giả mẫu nói:

– Hôm nay vui thế này, mày lại đến giục ta, không lẽ ta đã say rồi à? Nhất định ngồi đến sáng!

Lại sai rót rượu đến, rồi đội mũ khoác áo vào. Mọi người lại tiếp rượu nói chuyện vui cười. Lúc đó lại vẳng nghe tiếng sáo thổi ở dưới bóng hoa quế, buồn rầu hơn trước, mọi người đều ngồi im lặng. Đêm khuya trăng sáng, tiếng sáo càng réo rắt nỉ non. Giả mẫu tuổi già lại chếnh choáng hơi rượu, lẽ nào nghe thấy lại chẳng xúc động trong lòng, bất giác lệ rơi lã chã. Mọi người đều buồn rầu thê thảm. Một lúc lâu, biết Giả mẫu cũng thương cảm, ai nấy đều quay lại vui cười, tìm lời khuyên giải, lại sai thay rượu và ngừng thổi sáo.

Vưu Thị cười nói:

– Cháu cũng học kể một câu chuyện vui để bà đỡ buồn.

Giả mẫu gượng cười:

– Thế thì hay lắm, cháu hãy kể ngay cho ta nghe.

– Một nhà có bốn đứa con: đứa lớn chỉ có một mắt, đứa thứ hai chỉ có một tai, đứa thứ ba chỉ có một lỗ mũi, đứa thứ tư thì đầy đủ cả, nhưng lại câm.

Thấy Giả mẫu lim dim con mắt, như có vẻ buồn ngủ, Vưu Thị thôi không kể nữa, rồi cùng Vương phu nhân khẽ gọi. Giả mẫu mở mắt cười nói:

– Ta không buồn ngủ đâu, chỉ nhắm mắt để tỉnh táo tinh thần đấy thôi. Các người cứ nói chuyện, ta đương nghe đây.

Vương phu nhân nói:

– Đêm khuya rồi, sương gió xuống, xin cụ về nghỉ thôi. Ngày mai mười sáu lại thưởng nữa, mới không phụ cảnh trăng tươi.

– Chừng bao giờ rồi? Đã đến canh tư chưa?

– Đã sang canh tự Chị em chúng nó không thức được nữa, đều đi ngủ cả rồi.

Giả mẫu nghe nói, nhìn kỹ một lượt, quả nhiên thấy họ đã về cả chỉ còn một mình Thám Xuân ở đó thôi. Giả mẫu cười nói:

– Thế thì thôi vậy. Các cháu không thức quen. Hơn nữa đứa thì ốm, đứa thì yếu, về cả cũng đỡ bận lòng. Chỉ có cháu Thám là đáng thương, vẫn chờ ở đây. Thôi cháu về đi, chúng ta cũng đều về cả.

Giả mẫu đứng dậy uống một chén trà rồi ngồi lên kiệu trúc nhỏ, hai bà già kiệu về. Mọi người đi theo sau.

Bọn đàn bà ở lại thu dọn mâm bát, thấy thiếu một cái chén trà, đi tìm các nơi không thấy, liền hỏi mọi người:

– Có ai đánh vỡ, vất ở đâu, bảo cho tôi biết, đem giả những mảnh để có chứng cớ, nếu không lại bảo là chúng tôi ăn cắp.

Mọi người đều nói:

– Không ai đánh vỡ cả. Có lẽ người hầu các cô đánh vỡ cũng chưa biết chừng? Bà hỏi họ xem.

Người đàn bà nhớ ngay ra, cười nói:

– Phải đấy, tôi nhớ là lúc nãy cô Thúy Lũ cầm, để tôi đi hỏi cô ấy xem.

Bà ta mới đến đường ngách thì gặp Tử Quyên và Thúy Lũ. Thúy Lũ hỏi:

– Cụ đã về chưa? Có biết cô chúng tôi đi đâu không?

– Tôi đến hỏi chị có để cái chén trà ở đâu, chị lại hỏi đến cô của chị.

– Tôi đi pha trà cho cô tôi uống, lúc quay lại chẳng thấy cô tôi đâu.

– Bà Hai vừa nói là họ đi ngủ cả rồi. Chị đi chơi đâu lại không biết à?

Thúy Lũ và Tử Quyên nói:

– Không có lẽ cô tôi lại lẳng lặng đi ngủ ngay, chắc còn chơi đâu đó. Giờ cụ về rồi, có lẽ các cô theo tiễn cũng chưa biết chừng. Chúng ta hãy đi tìm xem, nếu thấy cô tôi thế nào cũng thấy cái chén. Sáng mai bà hãy đi tìm, việc gì mà vội thế.

– Đã biết đích xác rồi thì chẳng cần phải tìm nữa. Ngày mai tôi sẽ sang xin.

Nói xong người ấy bỏ đi về thu dọn đồ đạc. Tử Quyên và Thúy Lũ thì sang bên Giả mẫu.

Đại Ngọc và Tương Vân vẫn chưa đi ngủ. Thấy trong phủ Giả thưởng trăng, người đông như vậy mà Giả mẫu vẫn phàn nàn là ít, lại nghĩ đến chị em Bảo Thoa về nhà, mẹ con anh em sẽ vui vầy thưởng trăng.

Đại Ngọc bất giác ngắm cảnh chạnh buồn, tự mình đứng tựa lan can rơi lệ. Gần đây thấy Tình Văn bệnh nặng, Bảo Ngọc chẳng để ý đến việc gì, vừa rồi Vương phu nhân mấy lần giục, Bảo Ngọc đã đi ngủ, Thám Xuân gần đây bực vì việc nhà, cũng không thiết gì chơi bời, tuy có Ngênh Xuân, Tích Xuân, nhưng không hợp ý cho lắm. Vì thế Đại Ngọc chỉ còn trơ có một mình Tương Vân là thường hay đến an ủi:

– Chị là người hiểu đời, tại sao chị cứ hay chuốc lấy những điều khổ não vào người? Cảnh ngộ của em cũng như chị, nhưng em không có bụng dạ hẹp hòi. Chị hay ốm luôn sao không biết giữ gìn thân thể. Đáng giận thay chị em cô Bảo hàng ngày chầm bập thân thiết, đã bảo là tiết Trung thu năm nay thế nào cũng phải họp nhau lại thưởng trăng, mở thi xã, nối vần làm thợ Thế mà cô ta bỏ rơi chúng ta, thưởng trăng một mình, thi xã không mở, thơ cũng chẳng làm, tha hồ cho cha con, chú cháu thỏa thích tung hoành. Chị cũng biết đấy, vua Tống Thái Tổ nói rất hay: “Nhẽ nào lại để người khác ngủ say bên cạnh giường nằm của mình”. Bọn họ không đến, hai chúng ta cứ làm thơ nối vần với nhau, để sau này cho họ xấu hổ một bữa!

Đại Ngọc không nỡ phụ lòng hào hứng của Tương Vân, liền cười nói:

– Cô xem họ làm ồn ào như thế, còn có thi hứng gì nữa!

– Thưởng trăng ở trên núi tuy thích thật, nhưng không bằng thưởng trăng ở gần nước. Chị nên biết trăng dưới sườn núi này đều là ao cả. Trong khe núi có một ngôi nhà gần nước gọi là Ao Tinh quán 1. Thế mới biết khi trước mở cái vườn này có nhiều ý nghĩa. Nơi cao nhất trên núi gọi là Đột Bích, chỗ thấp gần nước gọi là Ao Tinh. Hai chữ “đột” “ao” (lồi lõm) người ta dùng rất ít, bây giờ đặt tên cho ngôi nhà, thực là mới lạ, không chịu rập theo lối cũ. Trong hai chỗ này, trên dưới, sáng tối, cao thấp, non nước, cốt đặt ra để làm chỗ thưởng trăng. Ai thích núi cao trăng nhỏ thì đến chỗ này, ai thích trăng sáng nước trong thì đến chỗ kia. Người ta thường đọc hai chữ này là “oa” “cũng” (cao trũng), kể cũng hơi tục, nên ít dùng. Chỉ có Lục Phóng Ông là dùng chữ “ao” thôi. Tức là câu “Cổ nghiễn vi ao tụ mặc đa”. 2 Thế mà có người chê ông ta là tục, có đáng buồn cười không?

Đại Ngọc nói:

– Chẳng cứ một mình Lục Phóng Ông, người xưa dùng chữ ấy rất nhiều. Như bài “Phú thanh đài” của Giang Yêm; “Kinh thần dị” của Đông Phương Sóc 3 cho đến bài “họa ký” nói về việc ông Trương Tăng Do 4 vẽ chùa Nhất Thặng không kể xiết được. Người đời không biết, nhận lầm là dùng chữ tục đấy thôi. Tôi nói thực với cô: hai chữ này là tôi đặt ra đấy. Năm nọ thử tài Bảo Ngọc, bắt anh ấy phải nghĩ mấy chỗ: có chỗ nghĩ ra, có chỗ phải bỏ, có chỗ chưa nghĩ được. Sau này chỗ nào chưa có tên, chúng tôi đều nghĩ và ghi rõ xuất xứ, đưa cho chị Cả xem. Chị Cả bảo đưa cho cậu tôi. Cậu tôi xem xong rất mừng nói: “Biết thế này bảo chị em chúng nó nghĩ cho cả, chẳng thú hay sao?” Những chữ tôi nghĩ đều lấy cả, không bỏ một chữ nào. Bây giờ chúng ta đến Ao Tinh quán đi.

Hai người cùng xuống dốc núi, đi quanh một vòng thì đến nơi. Trên bờ ao có một hàng rào trúc liền nhau thông ra con đường đi sang Ngẫu Hương tạ, ở đó nhà cửa có ít, vừa thấp vừa hẹp, chỉ có hai bà già canh đêm. Biết mọi người đương thưởng trăng ở Đột Bích, không can gì đến họ, nên họ đưa bánh trái và rượu thưởng ra uống say túy lúy rồi tắt đèn đi ngủ. Đại Ngọc, Tương Vân thấy tắt đèn, đều cười nói:

– Họ đi ngủ cả, thế càng tốt, chúng ta ở ngay dưới mái cỏ này thưởng trăng dưới nước có được không?

Hai người ngồi xuống hai cái ghế trẹ Một vầng trăng tỏ trên trời, một bóng trăng long lanh dưới nước, trên dưới đua sáng như đặt mình trong cung thủy tinh nhà Giao Thất vậy. Gió nhẹ lướt qua, sóng biếc lăn tăng gợn trên mặt nước, khiến người ta khoan khoái nhẹ nhàng.

Tương Vân cười nói:

– Giờ được ngồi thuyền uống rượu thì hay quá! Nếu ở nhà tôi, tôi sẽ chơi thuyền ngay.

Đại Ngọc nói:

– Đúng như người xưa thường nói: “Việc mong đủ cả có vui gì!” Cứ ý tôi, thế này cũng được, cần gì phải có thuyền?

– Được đất Lũng, lại mong đất Thục 5 là thường tình của người tạ Các cụ già chả vẫn nói: con nhà nghèo nhìn cái gì của nhà giàu cũng đều lấy làm vừa lòng. Dù có ai nói thế nào, họ cũng chẳng tin. Đến khi bản thân trải qua, họ mới vỡ lẽ. Cũng như hai chúng ta đây, cha mẹ mất cả, dù ở nơi giàu sang sung sướng đến đâu, cũng có nhiều điều không được thỏa lòng.

– Không những chúng ta, cả từ cụ trở xuống đến Bảo Ngọc, Thám Xuân, bất cứ việc lớn nhỏ, có lý hay vô lý, nhưng đã không được vừa lòng, thì cũng cùng một lẽ cả, huống chi tôi với cô lại là người ăn gửi ở nhờ!

Sợ Đại Ngọc lại gợi thêm nỗi thương cảm, Tương Vân vội gạt đi:

– Nhắc đến làm gì nữa. Chúng ta hãy làm thơ liên cú đi.

Đương lúc nói chuyện thì vẳng nghe tiếng sáo réo rắt ở đằng xạ Đại Ngọc cười nói:

– Hôm nay cụ và bà Hai cao hứng quá. Sáo thổi hay lắm, càng giúp thêm thi hứng cho chúng ta! Chúng ta đều thích thơ ngũ ngôn, giờ làm ngũ ngôn đi.

– Lấy vần gì?

– Chúng ta đếm xem hàng lan can từ đầu này đến đầu kia có bao nhiêu song thẳng, đến song thứ mấy sẽ lấy đó đặt vần.

– Thế lại càng thú.

Hai người đứng dậy, đếm từ đầu nọ đến đầu kia, được ba mươi chiếc.

Tương Vân nói:

– Thế là vần “Thập tam nguyên” rồi! Vần này dùng được ít chữ lắm, làm theo Đường luật sợ không gieo được, lại phải gán ghép. Chị phải làm trước một câu đi.

– Cũng để thử xem chúng ta ai hơn ai kém. Nhưng không có bút giấy ở đây.

– Ngày mai sẽ chép lại, có lẽ chúng mình còn đủ trí thông minh để nhớ được.

– Tôi đọc một câu tục ngữ có sẵn:

Đêm rằm giữa tiết thu này 6

Tương Vân nghĩ một lúc rồi đọc:

Cuộc vui thanh nhã như ngày thượng nguyên.

Đẩu, cơ 7 lập lóe từng trên,

Đại Ngọc cười đọc:

Dưới này khoan nhặt tiếng chen sáo đàn.

Mấy nơi dốc chén rót tràn,

Tương Vân cười nói:

Câu “Mấy nơi dốc chén róc tràn” có ý đấy! Phải đối cho hay mới được. Nghĩ một lúc rồi cười đọc:

Nhà nào chẳng mở cửa vườn nhìn ra.

Nhẹ nhàng từng trận gió đưa,

Đại Ngọc nói:

– Đối hay đấy. Hay hơn câu của tôi. Nhưng câu này lời lẽ thường thôi, phải nói mạnh hơn nữa mới được.

Tương Vân cười nói:

– Thơ nhiều vần hiểm hóc, nên ngay từ đần cũng phải cần phô diễn một chút. Từ hay sẽ để lại ở cuối bài.

Đại Ngọc cười nói:

– Cuối bài không có câu hay, liệu cô có xấu hổ không?

Rồi đọc luôn:

Đêm vừa thanh vắng, cảnh vừa xinh tươi.

Già còn tranh bánh mới vui,

Tương Vân cười nói:

– Câu này không hay, bịa đặt lấy việc tục để làm khó tôi thôi.

Đại Ngọc cười nói:

– Tôi cho là cô chưa từng đọc sách, chữ “ăn bánh” cũng có điển cũ. Cô về đọc “Đường thư”, “Đường chí” đi rồi hãy nói chuyện.

Tương Vân cười nói:

– Cái đó cũng không lấy gì làm khó. Tôi đã có điển đây.

Liền đọc:

Chia dưa có ả nực cười làm sao?

Mùi hoa ngọc quế ngọt ngào.

Đại Ngọc nói:

– Câu của cô mới thực là bịa đặt.

Tương Vân nói:

– Ngày mai chúng ta đem sách ra đối chiếu xem sẽ rõ, bây giờ không nên làm mất thì giờ.

Đại Ngọc cười nói:

– Dù thế, câu dưới cũng không haỵ Không nên dùng chữ “ngọc quế” “kim lan ” để cho xong chuyện. Rồi đọc:

Huyên vàng đầy vẻ hồng hào nở nang.

Tiệc bày đuốc rọi sáng choang,

Tương Vân cười nói:

– Hai chữ “Huyên vàng” tiện cho chị quá, không phải dùng sức mấy. Cái vần có sẵn ấy bị chị vớ mất. Nhưng không nên tán tụng hộ nhiều quá, sợ câu dưới chị cũng làm qua chuyện thôi.

Đại Ngọc cười nói:

– Cô không nói chữ “quế ngọc” khi nào tôi lại đối gượng chữ “Huyên vàng”. Hơn nữa phải phô hay cho khéo thì mới đúng là tức cảnh chứ.

Tương Vân đành lại đọc tiếp:

Thẻ gieo chén chạm nhộn nhàng vườn hoa.

Chia ban một lệnh truyền ra,

Đại Ngọc cười nói:

– Câu dưới hay, nhưng hơi khó đối. Nghĩ một lúc rồi đọc:

Đố rồi lại giảng nghe ba lệnh truyền.

Quân bài đỏ ối từng khuyên,

Tương Vân cười nói:

– Chữ “ba lệnh truyền” thú lắm, tục mà thành ra nhã. Nhưng sao câu dưới lại nói đến quân bài? – Rồi đọc:

Thuyền hoa lần lượt trống liên hồi rền.

Bóng trăng lay chuyển sân thềm,

Đại Ngọc cười nói:

– Đối được đấy nhưng câu dưới lại chệch đi mất rồi. Chỉ dùng những chữ gió trăng để cho xong việc thôi à?

Tương Vân nói:

– Vẫn chưa nói đến trăng bao giờ cả. Phải nên điểm xuyết một tí mới không lạc đề.

Đại Ngọc nói:

– Thôi hãy để đấy, ngày mai sẽ châm chước. Liền đọc:

Đất trời trắng xóa, ngút lên một màu.

Thưởng phạt kể chủ khách đâu,

Tương Vân nói:

– Lại còn nói đến họ làm gì nữa? Hãy nói chúng ta đây này.

Liền đọc:

Ngâm thơ chị trước em sau theo hàng.

Nghĩ thơ đứng cạnh lan can,

Đại Ngọc nói:

– Bây giờ có thể nói được về chúng ta đấy.

Liền đọc:

Khi ra tựa cưa ta dàn vần hay.

Rượu vơi tình vẫn còn đầy,

Tương Vân nói:

– Đúng lúc này đây. Liền đọc:

Cuộc vui gần sáng nhạt ngay đó mà.

Tiếng cười chừng đã gần thưa,

Đại Ngọc nói:

– Lúc này lại thấy càng khó thêm!

Liền đọc:

Mà màu sương tuyết còn trơ đây này.

Sương mai phủ đám nấm dày,

Tương Vân nói:

– Câu này ghép vần thế nào được đây? Để cho tôi nghĩ đã.

Liền đứng dậy chắp tay đằng sau nghĩ một lúc, cười nói:

– Được rồi. May mà nghĩ ra được một chữ, nếu không thì thua mất!

Liền đọc:

Chiều hoa dạ hợp cuốn đầy khói sân.

Dòng thu dọi đá nổi gân,

Đại Ngọc nghe xong, đứng dậy khen hay và nói:

– Con ranh con này, quả nhiên để những từ hay về sau. Bây giờ mới nói đến chữ hoa “dạ hợp”. Khen cho mày nghĩ được ra đấy.

Tương Vân nói:

– May sao hôm nọ tôi xem quyển “Lịch triều văn tuyển” thấy có chữ ấy, tôi không biết là cây gì, định để tra xem, chị Bảo Thoa nói: Không cần phải tra cây ấy, bây giờ người ta vẫn gọi là cây “triêu khai dạ hợp” (sớm nở tối cụp lại). Tôi không tin cứ đi tra, quả nhiên là đúng. Xem thế thì chị Bảo Thoa biết rộng lắm.

Đại Ngọc cười nói:

– Chữ “dạ hợp” dùng vào lúc này càng đúng, thế cũng được rồi. Nhưng chữ “Dòng thu” nghĩ hay đấy! Chỉ một câu ấy đủ xóa hết những câu khác. Thế nào tôi cũng phải dốc hết tinh thần để nghĩ một câu đối lại, nhưng chắc không thể nào bằng.

Nghĩ mãi mới đọc được:

Gió thu cuộn lá lên gần chân mây.

Thanh cao sao Vụ đẹp thay,

Tương Vân nói:

– Đối cũng khá đấy, nhưng câu này tứ lại tuột đi mất. May mà là tình ở trong cảnh, chứ không phải chỉ dùng chữ “sao Vụ” để xong chuyện.

Liền đọc:

Thiền thừ thở hút hơi bay khoảng trời.

Thỏ thiêng thuốc đã luyện rồi,

Đại Ngọc không nói gì, gật đầu một lúc rồi lại đọc:

Người nơi hạ giới lên chơi Quảng Hàn.

Bên trời Ngưu nữ chờn vờn,

Tương Vân nhìn trăng rồi đọc:

Bè tiên lên hỏi thăm nàng đế tôn.

Bánh xe khi khuyết khi tròn,

Đại Ngọc nói:

– Câu này đối không sát. Câu dưới mở rộng ra một tí, tức là mạch chạy nhanh thì châm cứu chậm.

Rồi lại đọc:

Đổi thay hối sóc 8 hãy còn trơ trơ.

Đồng hồ giọt đã gần khô,

Tương Vân sắp đọc, thì Đại Ngọc trỏ cho xem cái bóng đen ở giữa ao và nói:

– Cô nhìn xem ở giữa ao, hình như có người đi đến chỗ bóng đen? Hay là ma đấy?

Tương Vân cười nói:

– Khéo ma thật? Tôi không sợ ma đâu, để tôi ném cho nó một cái.

Liền cúi nhặt một hòn đá nhỏ, ném xuống ao. Nghe tõm một tiếng, có một cái vành tròn lớn làm gợn cả bóng trăng, cứ tan tan hợp hợp đến mấy lần. Rồi trong bóng đen soạt một cái, một con hạc trắng bay lên, thẳng tới Ngẫu Hương tạ.

Đại Ngọc cười nói:

– À ra con ma hạc? Mình không nghĩ đến, đâm ra nhát gan.

Tương Vân cười nói:

– Con hạc này hay đấy, nó giúp được thi hứng cho tôi!

Liền đọc:

Bên song phút đã lờ mờ đèn xanh.

Cò rò bóng hạc bên ghềnh,

Đại Ngọc vừa khen vừa giậm chân nói:

– Hỏng rồi! Con hạc giúp thi hứng cho cô thật nhưng câu này không giống như câu “Dòng thu”, tôi đối thế nào cho hay được đây? Chỉ có chữ “hồn” mới đối được chữ “bóng”. Mấy chữ bóng hạc bên ao rất là tự nhiên, như đã đặt sẵn, vừa có cảnh, lại mới đẹp. Thôi tôi đành gác bút vậy.

Tương Vân cũng nói:

– Chúng ta cứ cố nghĩ đi, thế nào cũng ra. Nếu không để đến ngày mai lại làm nối cũng được.

Đại Ngọc chỉ nhìn lên trời, mặc kệ đấy. Một lúc bỗng cười và nói:

– Cô đừng lém mép nữa, tôi đã nghĩ ra được rồi! Nghe đây.

Liền đọc:

Hồn hoa chôn chặt dưới vành trăng trong.

Tương Vân vỗ tay khen:

– Quả nhiên hay thật, không thế thì lại không thể đối được. Chữ “hồn chôn chặt” hay quá! – Rồi lại thở dài nói: – Câu thơ mới lạ thực, nhưng rất suy đồi! Giờ chị đương có bệnh, không nên dùng những lời buồn rầu quái gở như thế.

Đại Ngọc cười nói:

– Không thế thì áp đảo thế nào được cổ Chỉ dụng công ở một câu này thôi.

Chưa dứt lời, thì có một người từ sau núi đá phía ngoài lan can đi ra, cười nói:

– Thơ hay lắm, hay lắm! Nhưng buồn thảm quá, không nên làm tiếp nữa. Nếu cuối bài cứ thế thì không nổi bật được hai câu này, lại thành ra gò ép.

Hai người đang không để ý, giật nẩy mình, nhìn kỹ ra không phải ai lạ, chính là Diệu Ngọc. Hai người lấy làm lạ hỏi:

– Sao cô lại đến đây?

Diệu Ngọc cười nói:

– Thấy các người thưởng trăng, lại nghe tiếng sáo thổi, tiện đường tôi cũng đến đây ngắm cảnh nước trong trăng sáng một chút. Chợt nghe hai cô ngâm thơ thực là thanh nhã khác thường. Vừa rồi trong bài thơ có mấy câu hay thực, nhưng giọng thơ suy đồi, buồn thảm quá. Cái đó cũng quan hệ đến khí số con người, nên tôi đến đây ngăn các cộ Giờ cụ đã về, những người ở trong vườn chắc đã ngủ say rồi, có lẽ a hoàn cũng đang đi tìm các cô đấy. Các cô không sợ lạnh à? Đi về chỗ tôi uống chén trà đã. Trời sắp sáng rồi.

Đại Ngọc cười nói:

– Ai ngờ thì giờ lại nhanh thế!

Ba người cùng đi đến am Lũng Thúy. Ở đó đèn còn lờ mờ, lò hương chưa tắt. Mấy bà già đã ngủ cả, chỉ còn đứa a hoàn nhỏ ngồi rũ đầu ngủ gật ở trên chiếu. Diệu Ngọc gọi nó dậy pha nước, chợt có tiếng gõ cửa, a hoàn nhỏ chạy ra xem, thấy Tử Quyên, Thúy Lũ cùng mấy vú già đến tìm hai chị em Đại Ngọc. Đi vào thấy họ đương uống trà, bọn này cười nói:

– Làm chúng tôi đi tìm khắp cả trong vườn, đến cả nhà dì Tiết. Lúc đi qua đình nhỏ, gặp người canh đêm ở đó đã dậy. Chúng tôi hỏi, họ nói: “Vừa giờ ở dưới giàn ngoài đình có hai người nói chuyện với nhau, sau thêm một người nữa, nghe đâu họ vào trong am”. Vì thế chúng tôi mới biết các cô ở đây.

Diệu Ngọc sai a hoàn dẫn bọn họ sang bên kia ngồi nghỉ uống nước, tự mình đi lấy bút nghiên giấy mực, bảo hai người đọc bài thơ vừa mới làm lúc nãy, rồi viết cả ra. Đại Ngọc thấy Diệu Ngọc hôm nay cao hứng, liền cười nói:

– Xưa nay không thấy cô cao hứng như thế bao giờ, nên tôi không dám đường đột. Bài thơ này thế nào, mong người chỉ bảo giùm, nếu thấy không hay thì xin đốt ngay, bằng có thể chữa được, xin người chữa cho.

Diệu Ngọc cười nói:

– Tôi không dám bàn nhảm. Nhưng bài này mới có 22 vần. Cứ ý tôi thì những câu hay, hai cô đã làm cả rồi, nếu làm tiếp, sợ cuối bài đuối sức. Tôi muốn làm nối lại sợ hỏng lây cả bài thơ của các cô.

Đại Ngọc không thấy Diệu Ngọc làm thơ bao giờ, nay thấy cô ta cao hứng, liền nói:

– Đúng thế, thơ của chúng tôi dầu không hay, cũng nhờ đó được thơm lây.

Diệu Ngọc nói:

– Giờ kết thúc thế nào cũng phải quay trở lại thần của thợ Nếu vất bỏ sự thực, chỉ tìm tòi những điều quái lạ, thì một là mất hẳn bản sắc khuê các của chúng ta, hai là không dính dáng gì đến đầu bài.

Đại Ngọc và Tương Vân đều nói: “Phải lắm.”

Diệu Ngọc cầm bút khẽ ngâm, viết một lúc xong, đưa cho hai người và nói:

– Xin các cô đừng cười. Cứ ý tôi thì phải thế này mới xoay lại được tứ thợ Tuy ở trên có những câu buồn thảm, cũng không quản ngại gì.

Hai người cầm lấy xem, thấy Diệu Ngọc làm tiếp:

Đỉnh vàng nghi ngút hương nồng,

Long lanh châu ngọc như lồng màu son.

Nghe tiêu gái góa nỉ non,

Ôm chăn nhờ có a hoàn ủ cho.

Màn không, phượng những thẫn thờ,

Bình phong quạnh quẽ, uyên vơ vẩn hồn.

Rêu kia móc đọng, thêm nhờn,

Trúc kia sương nặng càng trơn khó cầm.

Quanh co đi dạo bên đầm,

Lại lên trên bãi âm thầm mà chơi.

Đá như ma quỷ chọc người,

Cây như sói đứng hùm ngồi lạ chưa?

Mặt trời sớm rọi lưng rùa 9

Rèm thưa kia cũng lờ mờ sương đêm.

Trên rừng ríu rít đàn chim,

Xa xa tiếng vườn hót rền trong hang.

Lối quen nào có bên đường,

Suối quen sao phải hỏi han đến nguồn.

Này chùa Lũng Thúy hồi chuông,

Đạo Hương gà đã gáy dồn xóm kia.

Vui lên buồn mãi làm chi?

Không sầu còn phải nghĩ gì vẩn vơ?

Tình riêng ta chỉ biết ta,

Thú vui sao phải nhỏ to cùng người!

Canh tàn chớ bảo mệt rồi,

Pha trà ta hãy rốn ngồi bàn thơ.

Cuối bài thơ có viết: “Trên đây là bài thơ tức cảnh nối nhau ba mươi lăm vần đêm Trung Thu ở vườn Đại Quan”.

Đại Ngọc, Tương Vân không ngớt khen ngợi:

– Thế mới biết ngày nào chúng ta cũng bỏ chỗ gần đi tìm chỗ xạ Hiện có bậc thi nhân ở đây, mình lại cứ “bàn việc binh trên giấy”. 10

Diệu Ngọc cười nói:

– Ngày mai hãy sửa lại. Bây giờ trời đã sáng rồi, phải đi nghỉ mới được.

Đại Ngọc, Tương Vân đứng dậy cáo từ, dẫn bọn a hoàn đi ra. Diệu Ngọc tiễn đến cửa ngoài, chờ họ đi xa rồi, mới trở vào.

Thúy Lũ nói với Tương Vân:

– Bên mợ Cả có người chờ chúng ta sang. Giờ đến đấy ngủ thì hơn.

Tương Vân cười nói:

– Em tiện đường đến bảo họ cứ ngủ đi, tôi sang đấy lại làm phiền người ốm, chi bằng đến quấy rầy cô Lâm vậy.

Nói xong cùng đi về quán Tiêu Tương. Một số người đã ngủ rồi. Đại Ngọc, Tương Vân đi vào, tháo đồ trang sức, cởi áo ngoài ra, rửa mặt xong, lên giường đi ngủ. Tử Quyên buông màn the xuống, đóng cửa cất đèn đi ra.

Tương Vân vì lạ nhà, tuy đã đi nằm, nhưng không ngủ được. Đại Ngọc thì tâm huyết suy nhược, thường mất ngủ, hôm nay lại thức quá giấc, tất nhiên cũng không ngủ được. Hai người cứ trằn trọc ở trên giường mãi.

Đại Ngọc hỏi:

– Sao cô vẫn chưa ngủ?

Tương Vân khẽ cười nói:

– Tôi có bệnh lạ nhà, lại mệt quá, chỉ nằm nghỉ một chút. Chị sao cũng không ngủ được?

Đại Ngọc thở dài:

– Tôi không ngủ được, có phải một hai hôm nay đâu. Chừng một năm nay chỉ ngủ được độ mười đêm thật đẫy giấc thôi.

Tương Vân nói:

– Chả trách được chị Ốm là phải!

1      Nhà ở giữa hẻm núi có nước trong như thủy tinh.

2      Nghiên cổ hơi sâu chứa mực nhiều.

3      Người đời Vũ Đế nhà Hán, thích nói chuyện khôi hài.

4      Người đời Nam Triều, vẽ khéo, nhất là vẽ truyền thần.

5      Ý vòi được cái nọ lại đòi cái kia.

6      Nguyên văn là ngũ ngôn, vần “Thập tam nguyên”, giữa câu nọ với câu kia đều đối nhau, chúng tôi dịch thoát.

7      Tên hai vì sao.

8      Theo âm lịch: “Hối” là ngày ba mươi hết tháng. “Sóc” là ngày mùng một đầu tháng.

9      Tức cái bia.

10      Nghĩa là chỉ nói suông, không có thực tế.

Chương 77: A hoàn đẹp, sớm chết oan vì tội phong lưu – Con hát xinh, cắt tình duyên vào am Thủy Nguyệt

A hoàn đẹp, sớm chết oan vì tội phong lưu

Con hát xinh, cắt tình duyên vào am Thủy Nguyệt

Tết Trung thu đã qua, bệnh Phượng Thư đã đỡ hơn trước, có thể ra vào đi lại được, nhưng hàng ngày vẫn phải mời thầy đến xem mạch bốc thuốc, lại cho thuốc viên với thuốc điều kinh dưỡng vinh. Vì vậy phải dùng đến hai lạng nhân sâm tốt nhất, thấy vậy Vương phu nhân cho người đi tìm, mãi mới thấy ở trong cái hộp có mấy chi nhỏ bằng cái trâm cài đầu. Bà ta chê không tốt, sai đi tìm lại, chỉ thấy một gói râu sâm vụn, liền sốt ruột nói:

– Khi không cần thì lại có, đến lúc dùng đến lại không tìm ra. Ngày thường ta vẫn bảo chúng bay sắp cả lại để một chỗ, chúng bay không nghe, bạ đâu bỏ đấy. Chúng bay có biết cái hay của nó đâu. Phải kén bao nhiêu mới mua được, lại bỏ đi hay sao?

Thái Vân nói:

– Chắc hết cả rồi, chỉ còn có thứ này thôi. Lần trước bà Cả bên kia sang lấy, bà cho cả rồi.

– Làm gì có chuyện ấy! Mày tìm kỹ xem.

Thái Vân đành phải đi tìm rồi mang mấy bao đựng các vị thuốc đến, nói:

– Cháu không nhận ra được những thứ này, xin đưa bà xem. Ngoài ra không còn thứ nào nữa.

Vương phu nhân mở ra xem, cũng quên cả vị thuốc không biết là thứ gì, nhưng không có một chi nhân sâm nào, liền sai người đi hỏi Phượng Thự Phượng Thư đến nói:

– Cũng chỉ có một ít cao sâm, còn sâm lô tư tuy có mấy chi, nhưng cũng không được tốt lắm, mà ngày nào cũng phải sắc với thuốc.

Vương phu nhân nghe nói, đành phải bảo sang bên Hình phu nhân, Hình phu nhân nói:

– Lần trước hết sâm phải sang lấy ở bên này, nhưng cũng dùng hết cả rồi.

Vương phu nhân không biết làm thế nào, đành phải sang hỏi xin Giả mẫu. Giả mẫu sai Uyên Ương lấy ra một bọc sâm lớn trước kia dùng thừa đều xấp xỉ bằng đầu ngón tay, liền cân hai lạng cho Vương phu nhân, Vương phu nhân mang ra, giao cho vợ Chu Thụy gọi đứa hầu nhỏ đưa cho thầy thuốc cả mấy gói lẫn lộn để thầy thuốc xem lại, gói riêng và đánh dấu từng thứ một.

Một lúc vợ Chu Thụy mang vào, nói:

– Mấy thứ này đều gói riêng đánh dấu cả rồi. Gói nhân sâm này tuy tốt thật, nhưng vì để lâu quá. Thứ này không như những thứ khác, dù tốt đấy, để quá một trăm năm cũng thành ra gio mất. Hiện giờ tuy chưa thành gio, nhưng đã mục nát, không còn hiệu nghiệm nữa. Xin bà cất đi, bất cứ lớn nhỏ, nhiều ít, đem đổi lấy thứ mới thì hơn.

Vương phu nhân cúi đầu lặng yên, một lúc mới nói:

– Chả có cách gì, đành đi mua hai lạng về đây vậy!

Rồi không nhìn đến nữa, chỉ sai đem cất đi. Bà ta lại bảo vợ Chu Thụy:

– Chị ra bảo những người ngoài kia chọn thứ tốt đổi lấy hai lạng về đây. Cụ có hỏi, cứ nói là sâm của cụ cho, không được nói nhiều.

Bảo Thoa ngồi đấy cười nói:

– Dì hãy thong thả. Bây giờ ở ngoài không có thứ nào tốt cả. Dù có nguyên cả chi, họ cũng cắt ra làm hai ba đoạn, chắp nối sâm tu khác vào, trộn lẫn để dễ bán, nên không ai nhận ra được tốt hay xấu. Ở hiệu nhà cháu thường giao dịch với bọn lái buôn. Cháu về nói với mẹ cháu bảo anh cháu sai người làm công đi nói với họ để lại cho hai lạng sâm nguyên chi, dù có phải trả đắt mấy lạng bạc nhưng lại được thứ tốt.

Vương phu nhân cười nói:

– Cháu cũng thạo đấy, nhưng phải nhờ cháu đi lấy mới biết rõ được.

Bảo Thoa đi một lúc về trình:

– Cháu sai người đi rồi, đến chiều sẽ biết tin. Sáng mai đem trộn với thuốc cũng chưa muộn.

Vương phu nhân lấy làm vui lòng, thở dài:

– “Cô ả bán dầu lại bôi đầu bằng nước lã”. Xưa nay ở nhà vẫn có, đem cho người ta biết bao nhiêu, bây giờ mình cần đến, lại phải đi chuốc nơi khác.

Bảo Thoa cười thưa:

– Cái ấy tuy đắt tiền thực, nhưng cũng là một thứ thuốc, nên giúp đỡ người ta mới phải. Chúng ta không như những nhà ti tiện, hễ có cái gì cứ bo bo cất kỹ.

Vương phu nhân gật đầu nói:

– Cháu nói phải đấy.

Bảo Thoa đi rồi. Vương phu nhân thấy nhà không có ai, liền gọi vợ Chu Thụy, hỏi việc tra xét trong vườn hôm nọ có ra manh mối gì không?

Vợ Chu Thụy đã bàn trước với Phượng Thư, nên không giấu giếm gì, có thế nào nói thế. Bà ta giật mình, nhưng lại khó xử, nghĩ bụng: “Tư Kỳ là a hoàn của Nghênh Xuân, là người ở phủ bên kia, chỉ còn cách sai người sang trình Hình phu nhân xem xử trí ra sao”. Vợ Chu Thụy nói:

– Hôm nọ bà Cả bên đã mắng vợ Vương Thiện Bảo hay bới việc và tát mụ ta mấy cái, giờ mụ ấy giả ốm nằm ở nhà không chịu ra ngoài. Hơn nữa đứa có tội lại là cháu, nên phải vờ ốm ít ngày để xí xóa, rồi ra sao sẽ ra. Nếu bây giờ chúng ta sang nói, họ lại đâm ngờ, cho là chúng ta bới chuyện. Chi bằng dẫn Tư Kỳ cùng tang vật sang cho bà Cả bên ấy xem, chẳng qua đánh nó một trận, gả nó đi, rồi tìm một a hoàn khác đến thay, như thế chả đỡ việc hay sao? Bây giờ cứ sang mách không, chắc bà Cả bên ấy từ chối, bảo rằng đã thế thì bà Hai cứ định liệu lấy, việc gì phải sang nói nữa. Như thế lại sinh nhỡ việc. Nếu Tư Kỳ đâm liều tìm cách tự tử, lại chẳng ra sao cả. Mà có cho người coi nó vài ba hôm, lỡ lười ra một tí là sẽ xảy chuyện.

Vương phu nhân nghĩ một lúc, nói:

– Phải đấy. Làm xong việc này đã, rồi hãy liệu cho bọn yêu tinh nhà này.

Vợ Chu Thụy nghe nói, liền họp mấy người đàn bà lại, trước hết đến buồng Nghênh Xuân trình rõ, Nghênh Xuân nghe nói, rơm rớm nước mắt như có ý không muốn rời Tư Kỳ. Vì việc đêm hôm trước, bọn a hoàn đã kể rõ đầu đuôi, tuy tình thầy trò đã mấy năm không nỡ dứt, nhưng việc quan hệ đến nề nếp gia phong, Nghênh Xuân cũng không làm thế nào được.

Tư Kỳ cũng đến nói với Nghênh Xuân nhờ cứu giúp cho, nhưng vì Nghênh Xuân chậm mồm chậm miệng, tính lại nhu nhược, không thể tự mình quyết định đước. Tư Kỳ thấy thế, biết không tránh khỏi tội, liền quỳ xuống khóc:

– Cô nhẫn tâm quá! Dỗ dành cháu mấy hôm nay, sao bây giờ cô không nói giúp cháu một câu nào?

Vợ Chu Thụy nói:

– Lại định để cô giữ chị Ở lại à? Dù cô có giữ lại, chị cũng chẳng còn mặt mũi nào trông thấy người ở trong vườn này nữa. Thôi cứ nghe lời chúng tôi, xếp cái lối ấy lại, lẳng lặng mà đi, đừng cho ai biết, như thế mọi người còn giữ được chút thể diện.

Nghênh Xuân khóc nói:

– Tôi biết chị làm điều không đúng, nếu xin cho chị, tất nhiên tôi cũng bị mang tiếng lây. Chị xem Nhập Họa ở đây đã mấy năm rồi, khi nói đi là đi ngaỵ Không riêng gì chị, những người đã lớn ở trong vườn này đều phải đi cả. Cứ ý tôi, sau này cũng có lúc chúng ta phải xa cách nhau, chi bằng ngay bây giờ mỗi người mỗi nơi còn hơn.

Vợ Chu Thụy nói:

– Như thế là cô rất hiểu việc. Nay mai còn cho nhiều người về nữa, chị cứ yên tâm.

Tư Kỳ không biết làm thế nào, cứ rơm rớm nước mắt cúi đầu chào Nghênh Xuân, chào tất cả mọi người. Sau đó lại ghé tai nói với Nghênh Xuân:

– Hễ biết tin cháu bị tội, thế nào cô cũng nghĩ đến tình thầy trò bấy lâu, xin hộ cho cháu.

Nghênh Xuân cũng rơm rớm nước mắt trả lời:

– Chị cứ yên tâm.

Vợ Chu Thụy đưa Tư Kỳ ra, và sai hai bà già mang tất cả đồ đạc của nó đi theo. Đi được mấy bước thấy Tú Quất ở đằng sau chạy đến, vừa gạt nước mắt, vừa đưa cho Tư Kỳ một cái bọc bằng lụa, nói:

– Đây là cô cho chị đây. Tình thầy trò bấy nay, giờ xa cách nhau, cô cho chị bọc này để làm vật kỷ niệm.

Tư Kỳ nhận rồi òa lên khóc. Tú Quất cũng khóc. Vợ Chu Thụy sốt ruột, cứ thúc giục mãi, hai người đành phải chia tay.

Tư Kỳ khóc nói:

– Xin các bà thể tất chút tình, thư lại một lúc để tôi đi chào các chị em, gọi tỏ tình mấy năm nay chúng tôi chơi thân với nhau.

Bọn vợ Chu Thụy đều mỗi người mỗi việc, giờ phải đi làm việc này cũng là sự bất đắc dĩ. Hơn nữa họ vẫn ghét Tư Kỳ hay làm bộ, thì bây giờ hơi đâu lại chịu nghe lời, liền cười nhạt:

– Chị nên đi đi, đừng lôi thôi nữa! Chúng tôi còn có việc cần, ở đây có ai là chị em ruột thịt với chị đâu mà phải đi chào họ. Gặp chị, họ chả cười cho ư? Chị cứ nấn ná mãi, chẳng lẽ lại thôi hay sao. Cứ nghe tôi, chị đi ngay đi!

Chị ta dẫn thẳng Tư Kỳ ra cổng sau, Tư Kỳ không làm sao được và cũng không dám kêu nài nữa, đành phải đi theo.

Bảo Ngọc ở ngoài về, trông thấy một bọn dẫn Tư Kỳ đi, có người mang theo nhiều đồ vật. Bảo Ngọc đoán Tư Kỳ đi chuyến này là không trở về được nữa. Nhân nghe chuyện đêm vừa rồi, và cũng từ đêm đó Tình Văn ốm nặng, hỏi Tình Văn cũng không nói. Giờ thấy Tư Kỳ ra đi, Bảo Ngọc như người mất hồn, liền ngăn lại hỏi:

– Đi đâu thế?

Biết tính Bảo Ngọc xưa nay, lại sợ làm lèo nhèo nhỡ việc, vợ Chu Thụy cười nói:

– Không việc gì đến cậu, cậu về mà đọc sách đi.

Bảo Ngọc cười nói:

– Các chị hãy đứng lại một tí, tôi còn có điều này.

Vợ Chu Thụy nói:

– Bà đã dặn không được chậm một giờ. Cậu lại còn có điều gì? Chúng tôi chỉ biết vâng lời bà thôi, ngoài ra không biết gì cả.

Tư Kỳ thấy Bảo Ngọc, liền níu lại, khóc nói:

– Các bà ấy không tự quyết được. Cậu xin với bà Hai cho!

Bảo Ngọc không cầm lòng được, rơm rớm nước mắt nói:

– Tôi không biết chị đã phạm tội gì to tát thế? Chị Tình Văn cũng vì tức mà phát ốm, giờ chị lại phải đi, thế này thì tôi biết làm sao cho được!

Vợ Chu Thụy cáu, mắng Tư Kỳ:

– Chị không còn là tiểu thư thứ hai nữa đâu, nếu không nghe lời, tôi đánh ngay bây giờ. Đừng tưởng như ngày trước có các cô bênh vực, muốn làm trời cũng được. Càng nói càng cứ ỳ ra không chịu đi. Trông thấy ông trẻ lại cố lôi lôi kéo kéo, như thế thì còn ra nghĩa lý gì nữa!

Mấy người đàn bà kia không cho Tư Kỳ phân trần nữa, lôi ngay đi.

Bảo Ngọc sợ bọn họ về đơm chuyện, giận quá chỉ trợn mắt nhìn. Thấy họ đi xa rồi, mới hậm hực chỉ trỏ nói:

– Lạ thực, lạ thực! Sao mấy người đàn bà này, hễ đi lấy chồng, dính phải hơi đàn ông là đâm ra phũ phàng ngay, so với đàn ông càng đáng chém.

Bà già gác cửa vườn nghe thấy, cũng tức cười, hỏi:

– Cứ như cậu thì lúc con gái ai cũng đều tốt, khi lấy chồng rồi lại hóa ra hỏng cả hay sao?

Bảo Ngọc phát cáu nói:

– Đúng đấy, đúng đấy!

Đương nói chuyện thì có mấy bà già đến bảo:

– Các bà phải cẩn thận, hễ gọi đến túc trực lúc nào là phải có đủ mặt. Chốc nữa bà Hai sẽ thân hành vào vườn tra xét đấy. Đi gọi ngay anh và chị dâu cô Tình Văn ở viện Di Hồng đến chực ở đấy để nhận em gái về.

Rồi họ lại cười nói:

– A di đà phật! Hôm nay trời có mắt, tống cổ con yêu tinh tai ác này đi thì mọi người mới được yên thân.

Bảo Ngọc nghe nói Vương phu nhân đến tra xét, đoán ngay là Tình Văn khó lòng ở yên được, liền chạy như bay, nên không nghe rõ những câu hí hửng của bọn bà già này nữa.

Bảo Ngọc về đến viện Di Hồng, đã thấy một bọn người ở đấy rồi. Vương phu nhân ngồi ở trong nhà, mặt đầy vẻ giận, trông thấy Bảo Ngọc cũng chẳng thèm để ý. Tình Văn đã bốn, năm ngày không đụng một tí nước cháo, giờ bị kéo từ trên giường xuống, đầu bù tóc rối, hai người đàn bà xốc đi. Vương phu nhân dặn:

– Vứt giả nó những quần áo lót, còn thì để lại cho bọn a hoàn ngoan ngoãn mặc. Và gọi tất cả a hoàn ở nhà này ra để ta xem qua một lượt.

Sau ngày Vương phu nhân bực bội về cái chuyện túi, vợ Vương Thiện Bảo nhân dịp ton hót về Tình Văn, rồi đến những người không ưa bọn a hoàn trong vườn, liền nhờ bão bẻ măng, nói chọc thêm vào. Hết thảy bà ta đều ghi lại trong lòng, chỉ vì mấy ngày Tết, hãy tạm dẹp lại, đến nay mới thân chinh vào tra xét ở trong vườn. Chuyện Tình Văn mới chỉ là một, điều cần thiết hơn là có người nói Bảo Ngọc đã lớn, đã biết mùi đời, sợ bị bọn a hoàn xấu ở trong nhà làm hư hỏng chăng. Vì vậy bắt đầu từ Tập Nhân cho đến bọn a hoàn nhỏ sao vặt, bà ta đều xem xét từng người một, rồi hỏi:

– Đứa nào cùng đẻ một ngày với Bảo Ngọc?

Không ai dám trả lời. Bà già trỏ tay thưa:

– Đấy là con Huệ Hương, cũng gọi là con Tư cùng đẻ một ngày với cậu Bảo đấy.

Nhìn kỹ Huệ Hương còn kém Tình Văn xa, nhưng cũng có đôi phần quyến rũ, xem cách đi đứng, vẻ thông minh đều lộ cả ra ngoài, cả từ trang sức cũng lộng lẫy hơn đứa khác, Vương phu nhân cười nhạt, nói:

– Của này cũng là hạng vô liêm sỉ! Mày thường nói vụng, đẻ cùng ngày sẽ là vợ chồng phải không? Mày tưởng ta ở xa, không biết đấy à? Mày phải biết ta không năng đến đây, nhưng tai mắt, lòng dạ ta vẫn ở đây luôn. Có nhẽ nào ta chỉ có một thằng Bảo Ngọc mà lại để mặc cho chúng bay tha hồ cám dỗ làm hư nó?

Huệ Hương thấy Vương phu nhân nhắc đến ngày thường nó tỉ tê chuyện trò với Bảo Ngọc, liền đỏ mặt lên, cúi đầu chảy nước mắt. Vương phu nhân bảo:

– Gọi ngày người nhà nó đến đây, đem về mà gả chồng cho nó. Còn con Phương Quan đâu?

Phương Quan đành phải đến. Vương phu nhân nói:

– Con nhà xướng ca này, tất nhiên càng là con tinh khôn đây! Lần trước cho ra, chúng bay không chịu ra, đã thế thì nên biết thân biết phận mới phải, nhưng mày lại đâm ra tinh ma quấy rối, ton hót Bảo Ngọc, việc gì cũng làm!

Phương Quan cười nói phân trần:

– Cháu có dám dỗ dành cậu ấy đâu.

Vương phu nhân cười nói:

– Mày lại còn già mồm à? Ta hỏi mày: năm trước ta đi đưa đám Thái phi, đứa nào xui Bảo Ngọc cho con Năm nhà mụ Liễu vào hầu. May mà nó chết sớm, nếu không chúng bay sẽ kéo cánh nhau làm hỏng cả người trong vườn này. Ngay mẹ nuôi mày còn lấn áp, huống chi người khác!

Liền quát:

– Gọi mẹ nuôi nó đến nhận về! Để bà ấy đem ra ngoài gả chồng cho nó. Đồ đạc của nó, cho nó hết.

Lại dặn:

– Tất cả những con hát chia cho các cô năm trước, không cho một đứa nào ở trong vườn nữa. Bảo mẹ nuôi chúng nó đến nhận về gả chồng cho chúng.

Một lời truyền ra, các mẹ nuôi đều hí hửng cám ơn, cùng rủ nhau đến cúi đầu trước Vương phu nhân xin nhận về.

Vương phu nhân lại lục soát tất cả những đồ vật của Bảo Ngọc. Hễ thấy cái gì ngờ ngợ, cũng đều sai mang về để ở buồng mình. Rồi nói:

– Thế này mới yên chuyện để cho người ta khỏi đồn đại.

Lại dặn bọn Tập Nhân, Xạ Nguyệt:

– Chúng bay phải cẩn thận! Nếu còn xảy ra việc gì, ta nhất định không tha đâu! Ta cho người đi xem hạn thì chưa nên rời đi, hãy để ở tạm hết năm nay; sang năm dọn về chỗ cũ, ta mới yên tâm.

Nói xong bà ta cũng chẳng uống nước, dẫn mọi người đi nơi khác khám xét.

Bảo Ngọc tưởng Vương phu nhân chỉ sang khám xét qua loa, không có việc gì quan trọng, ngờ đâu lại nổi cơn sấm sét đến thế. Những việc Vương phu nhân kể ra, đều là chuyện ngày thường họ nói riêng với nhau không sai một chữ nào, chắc không thể gỡ lại được. Báo Ngọc bực không sao chết được, nhưng đương lúc Vương phu nhân thịnh nộ nên không dám nói nhiều, đành đi theo đến đình Thấm Phương. Vương phu nhân bảo:

– Thôi đi về đọc sách đi! Giờ hồn đấy, ngày mai ta sẽ hỏi mày.

Bảo Ngọc quay về, vừa đi vừa tính: “Không biết đứa nào lại mách lẻo thế? Việc này không ai biết cả, sao mẹ mình lại nói đúng thế?”

Về đến nhà, thấy Tập Nhân đương ngồi sụt sùi nhỏ lệ. Thấy người hầu hạng nhất bị đuổi đi, lẽ nào chẳng đau lòng. Bảo Ngọc cũng nằm vật xuống giường, khóc òa lên. Biết người khác còn có thể bỏ qua, chứ Tình Văn bị đuổi là một việc to tát, Tập Nhân liền khuyên bảo:

– Cậu khóc cũng chẳng ăn thua gì đâu. Hãy ngồi dậy, tôi nói cho mà nghe: Tình Văn giờ đã khỏi bệnh rồi, nếu chị ấy về nhà thì lại được tĩnh dưỡng mấy hôm. Cậu không rời được chị ấy, thì chờ khi bà nguôi giận, cậu lại sang xin với cụ cho gọi nó về, cũng chẳng lấy gì làm khó. Chẳng qua bà ngẫu nhiên nghe thấy người ngoài nói nhảm, nổi giận thế thôi.

– Tôi vẫn không biết chị Tình Văn đã phạm cái tội tày trời gì?

– Bà chỉ nghĩ chị ấy đẹp quá, thế nào cũng có tính lẳng lợ Bà biết rõ những cô đẹp như người trong tranh, chắc không bao giờ đứng đắn, nên có ý ghét. Chứ cục mịch như chúng tôi lại hóa hay.

– Thôi, không nói chuyện ấy nữa. Những câu chúng ta nói đùa riêng với nhau, không có người ngoài nào lộ chuyện, tại sao bà cũng biết. Thế mới lạ chứ!

– Cậu thì có kiêng nể cái gì, lúc cao hứng lên, cậu cứ nói bừa, không kể gì có người hay không có người. Có lúc tôi đưa mắt, ra hiệu, bị người ta trông thấy, mà cậu vẫn chẳng biết gì cả.

– Tại sao mọi người có lỗi, bà đều biết cả, chỉ không nói đến chị, chị Xạ Nguyệt và chị Thu Văn?

Tập Nhân nghe vậy, chột dạ, cúi đầu một lúc, không biết trả lời ra sao, rồi cười nói:

– Đúng đấy, về phần chúng tôi cũng có lúc nô đùa, không biết giữ ý tứ, sao bà lại quên? Chắc còn có việc khác, để làm xong rồi sẽ xử đến chúng tôi cũng chưa biết chừng.

– Chị có tiếng là người hiền lành nhất, hai chị kia lại được chị rèn cặp, dạy dỗ thì còn có chỗ nào đáng phạt nữa? Chỉ có cô Phương Quan còn bé mà lại sắc sảo quá, chắc cũng có lúc cậy thế chèn người ta, làm cho họ ghét. Con Tư thì cũng tại tôi làm hại nó. Bắt đầu từ cái ngày tôi cãi nhau với chị, rồi gọi nó đến sai vặt. Người ta thấy tôi đối với nó tử tế, lại cho nó là chực tranh giành địa vị, cũng vì thế nên mới xảy ra việc hôm naỵ Chị Tình Văn cũng như các chị đều là người của cụ cho sang đây ở từ khi còn bé, tuy chị ta đẹp hơn người thực, nhưng cũng chẳng cản trở gì. Chỉ có cái là chị ấy tính tình sắc sảo, ăn nói hoạt bát, nhưng cũng không thấy chị ấy có lỗi với một người nào! Đúng như chị nói, chắc là chị ấy đẹp quá, vì cái đẹp mà mang lụy đấy thôi!

Nói xong lại khóc.

Tập Nhân ngẫm nghĩ câu ấy, cho là Bảo Ngọc có ý ngờ mình, nên không tiện khuyên nữa, liền thở dài:

– Chỉ có trời biết thôi! Bây giờ cậu chưa tra ra người nào mách lẻo, cứ khóc mãi cũng vô ích.

Bảo Ngọc cười nhạt:

– Vì tôi nghĩ, chị ấy quen được chiều chuộng từ thuở bé, chưa từng bị hắt hủi bao giờ. Bây giờ khác gì một chậu hoa lan mới nẩy mầm non đã bị quẳng ra chuồng lợn. Người thì đương ốm nặng, trong bụng lại chồng thêm bực tức. Chị ấy không còn bố mẹ thân yêu, chỉ có người anh con cô con cậu là một tên nát rượu, liệu chuyến này có chịu đựng được năm bữa nửa tháng hay không? Liệu mình còn được trông thấy mặt chị ấy nữa không?

Nói xong, Bảo Ngọc càng thấy đau xót, Tập Nhân cười nói:

– Cậu thật đúng như câu: “Quan châu có quyền đốt đuốc, trăm họ không được thắp đèn”. Chúng tôi tình cờ nói nhỏ một câu, cậu đã cho là nói gở, giờ cậu nguyền rủa chị ấy thì được à?

– Không phải tôi phũ miệng rủa người đâu, mùa xuân năm nay đã có triệu chứng rồi đấy.

– Triệu chứng gì?

– Cây hải đường ở dưới thềm đương tươi tốt thế, tự nhiên chết mất một nửa, tôi biết ngay là có điềm gở, quả nhiên ứng ngay vào chị ấy.

– Tôi không muốn nói, nhưng lại không nhịn được. Cậu thực lẩm cẩm như bà già. Câu ấy có đúng là lời nói của người biết chữ như cậu không?

Bảo Ngọc thở dài nói:

– Các chị thì biết gì? Không những là cỏ cây. Tất cả những vật gì có tình có lý ở trên đời cũng như người vậy, gặp được tri kỷ, sẽ rất linh nghiệm. Nếu lấy việc lớn ra làm ví dụ, thì giống như cây cối trước miếu và cỏ thi trước mộ Khổng Tử, cây bách trước đền ông Gia Cát, cây tùng trước mộ Ông Nhạc Vũ Mục. Đó là cái khí đường đường chính chính, nghìn năm không mòn. Đời loạn thì nó héo đi, đời thịnh thì nó tươi lên. Trong một nghìn năm cũng có mấy lần héo đi sống lại. Thế không phải là triệu chứng ư? Nếu lấy việc nhỏ ra làm ví dụ thì giống như cây mộc Thược dược ở đình Trầm Hương; cây tương tư ở lầu Đoan Chính của Dương Qúy Phi; cỏ trường thanh ở trên mộ Vương Chiêu Quân, không lẽ cũng không có linh nghiệm hay sao? Vì thế cây hải đường này cũng ứng vào người đấy.

Nghe một tràng những câu ngớ ngẩn đáng cười lại đáng buồn, Tập Nhân cười nói:

– Cậu càng nói làm cho tôi bực mình! Chị Tình Văn là hạng người gì mà phải tốn công suy nghĩ, dám đem so sánh với những danh nhân thuở xưa! Còn một lẽ nữa, chị ấy có đẹp cũng không thể vượt lên trên tôi được. Tức như cây hải đường cũng phải ứng vào tôi trước, chưa đến lượt chị ấy. Chắc là tôi sắp chết đây.

Bảo Ngọc nghe xong, vội bịt mồm Tập Nhân lại, nói:

– Một người chưa xong, chị lại đã thế. Thôi, đừng nhắc đến việc ấy nữa. Ba người đã phải đi rồi, lại định đi thêm một người nữa sao?

Tập Nhân nghe nói, trong bụng mừng thầm: “Nếu không nói thế thì không bao giờ xong việc”.

Bảo Ngọc lại nói:

– Tôi còn có một việc muốn bàn với chị, không biết chị có bằng lòng không? Hiện giờ chị ấy còn một ít đồ vật, chỉ giấu người trên chứ không giấu người dưới. Ta nên lẻn mang trả cho chị ấy. Ngày thường chúng ta có dành dụm được ít tiền, chị đưa cho chị ấy mấy quan để dưỡng bệnh. Đó cũng là tình chị em của các chị xưa nay ăn ở tử tế với nhau.

Tập Nhân cười nói:

– Cậu cho tôi là hạng người bủn xỉn không có lương tâm hay sao? Việc này còn phải nhờ cậu nhắc à? Tôi vừa mới nhặt quần áo và đồ dùng của chị ấy, để ở kia kìa. Giờ đương ban ngày ban mặt, nhiều người nhòm ngó, sợ lại sinh chuyện. Chờ đến tối, tôi khẽ bảo già Tống mang đi. Tôi dành dụm được mấy quan tiền, cũng đưa cả cho chị ấy.

Bảo Ngọc nghe nói, gật đầu. Tập Nhân cười nói:

– Lâu nay tôi vẫn nổi tiếng là người hiền lành nhất, lẽ nào lúc này tôi lại không biết chuốc lấy một tý ti tiếng tốt ấy.

Bảo Ngọc nghe xong, vội cười nói vỗ về cô tạ Đến tối quả nhiên Tập Nhân sai già Tống mang quần áo và tiền đi. Bảo Ngọc sắp đặt mọi người đâu vào đấy rồi, một mình lẻn ra cửa ngách sau vườn, nhờ một bà già đưa đến nhà Tình Văn. Bà già nhất định không nghe, cứ nói:

– Sợ có người biết, trình với bà, tôi liệu còn sống được chăng?

Bảo Ngọc cố sống cố chết nằn nì, lại cho ít tiền, bà già mới chịu dẫn đi.

Tình Văn trước đây là người của Lại Đại mua về. Cô ta có người anh con ông cậu tên là Ngô Quý, người ta vẫn gọi là Qúy nhị Lúc ấy Tình Văn mới có mười tuổi chưa để tóc, già Lại thường đem đi theo. Giả mẫu thấy Tình Văn vừa đẹp vừa sắc sảo rất mến. Vì thế già Lại dâng cho Giả mẫu. Sau đưa về hầu Bảo Ngọc, Tình Văn còn bé, không nhớ quê quán cha mẹ Ở đâu, chỉ có người anh con ông cậu, chuyên việc nấu nướng và cũng bị lưu lạc nơi đất khách quê người. Tình Văn nói với già Lại, cho người anh vào làm việc nấu bếp. Thấy Tình Văn được đến hầu Giả mẫu, người lại sắc sảo, mồm mép khéo léo, vẫn không quên tình nghĩa trước đây. Già Lại liền cho người anh cô ta vào làm, lại gả một cô hầu cho hắn. Ngờ đâu sau khi lấy nhau, anh chàng chỉ biết hưởng thú vui, quên cả những ngày lưu lạc. Anh ta cứ rượu chè, chẳng nhìn đến vợ con. Cô vợ là người sắc đẹp đa tình, thấy chồng không nhìn đến, không biết gió trăng là gì, chỉ suốt ngày say khướt, nên chị ta thường có những câu than vãn mặt ngọc phôi pha, má hồng quạnh quẽ. Thấy chồng bụng dạ rộng rãi, không chút nghi ky, ghen tưông, chị ta liền giở lối trăng hoa, đĩ thoa, thu phục hầu hết những tay “anh hùng hảo hán” trong phủ Giả. Từ trên chí dưới, có tới quá nửa số người được chị ta thử quạ Vợ chồng này là ai? Tên họ là gì? Đúng là cô “Đa”, vợ chàng “Đa hồ đồ” mà hồi trên Giả Liễn đã từng vời đến. Có họ hàng với hắn, nên Tình Văn về ở chung đấy. Lúc này chàng “Đa hồ đồ” đi vắng, cô “Đa” ăn cơm chiều xong, õng ẹo đi sang hàng xóm tán chuyện, chỉ còn một mình Tình Văn nằm ngủ ở trên chiếc chiếu cói, may hãy còn chăn đệm cũ trải đắp. Bảo Ngọc không biết nên làm thế nào cho phải, chạy đến gần, rơm rớm nước mắt, giơ tay nhè nhẹ kéo Tình Văn, khẽ gọi hai tiếng.

Tình Văn vừa bị cảm gió, lại bị anh chị hắt hủi, đã ốm lại ốm thêm, ho suốt một ngày, mới mơ mơ màng màng chợp mắt. Chợt có người gọi, cô ta cố mở mắt ra, thấy Bảo Ngọc đứng đó. Mừng mừng, sợ sợ, tủi tủi, thương thương, Tình Văn nắm chặt lấy tay Bảo Ngọc, nức nở mãi mới nói:

– Tôi tưởng không được gặp cậu nữa.

Rồi lại ho dồn. Bảo Ngọc cũng nức nở khóc. Tình Văn nói:

– A di đà phật! Cậu đến may quá, rót hộ chén nước chè cho tôi uống. Tôi khát khô cả cổ, không gọi được một mống nào.

Bảo Ngọc nghe nói, gạt nước mắt hỏi:

– Nước chè để ở đâu?

– Ở trên lò kia kìa.

Bảo Ngọc đến xem, có cái ấm đen xì, nhưng không phải để pha chè, Bảo Ngọc đành phải lấy một cái bát ở trên bàn, chưa cầm đến tay đã ngửi thấy tanh tanh mùi mỡ. Bảo Ngọc lấy nước rửa hai lần, rồi rút khăn lụa của mình ra lau, nhưng vẫn còn mùi tanh. Không biết làm thế nào, Bảo Ngọc phải cầm ấm lên rót ra nửa bát, nhìn chỉ thấy sắc hoe hoe đỏ, chẳng giống nước chè tí nào.

Tình Văn ôm gối nói:

– Cậu cho tôi uống ngay một ngụm đã! Chính là nước chè đấy. Ví đâu được với nước chè bên nhà!

Bảo Ngọc uống một ngụm trước, chẳng có mùi mẽ gì, chỉ thấy mặn chát, không chịu được, đành phải đưa cho Tình Văn. Tình Văn như được nước móc ngọt vậy, uống hết một hơi.

Bảo Ngọc nghĩ thầm: Trước đây những trà ngon thế nào, chị ấy vẫn còn chê bai. Bây giờ nhìn quang cảnh này, đúng như người xưa nói:

Khi no cá thịt dửng dưng,

Đói lòng ăn cả cơm sung cháo dền.

Nghĩ vậy nước mắt lại tràn ra, liền hỏi:

– Chị có muốn nói gì không? Nhân lúc vắng người, nói cho tôi biết.

Tình Văn nức nở nói:

– Còn có câu gì đáng nói nữa? Chẳng qua sống được giờ nào hay giờ ấy, được ngày nào hay ngày ấy! Chỉ độ dăm ba ngày nữa là tôi chết thôi. Có một điều chưa được thỏa lòng, tôi tuy đẹp hơn người nhưng không bao giờ ngỏ tình thầm kín, tỏ ý riêng tây để cám dỗ cậu, sao người ta cứ đổ chết cho tôi là con yêu tinh! Tôi không chịu nổi. Giờ tôi đã bị mang tiếng hão, vả chăng cũng không được bao lâu nữa, tôi không phải nói câu này để hả giận cuối cùng, nếu biết trước, tôi đã liệu cách từ lâu. Không ngờ lòng ngay dạ thẳng, cứ cho là mọi người ở chung với nhau không phải giữ gìn gì, nào hay bỗng dưng xẩy ra chuyện, mắc oan không được bày tỏ với ai!

Tình Văn nói xong lại khóc. Bảo Ngọc nắm lấy tay Tình Văn, thấy gầy như que củi, cổ tay vẫn còn đeo mấy cái xuyến bạc, liền khóc:

– Chị hãy tháo ra, khi nào khỏi lại đeo.

Bảo Ngọc tháo mấy chiếc xuyến ra, đặt xuống dưới gối cho Tình Văn, lại hỏi:

– Đáng tiếc cho hai móng tay dài tới hai tấc. Dù có khỏi bệnh cũng kém vẻ đẹp.

Tình Văn gạt nước mắt, với lấy con dao cắt đứt hai móng tay tháp bút, sau lại cho tay vào trong chăn, cởi chiếc áo lót bằng lụa hồng cũ cùng với móng tay đưa cho Bảo Ngọc và nói:

– Cậu hãy cầm lấy. Sau này trông thấy vật này cũng như thấy tôi vậy. Cậu cởi ngay áo của cậu ra cho tôi mặc. Tôi dù có nằm trong quan tài thì cũng như ở viện Di Hồng. Lẽ ra không nên như thế, nhưng trót mang tiếng hão, tôi không còn cách nào.

Bảo Ngọc nghe nói vội cởi chiếc áo ngoài ra đổi và giấu những móng tay của Tình Văn vào trong người, Tình Văn lại khóc:

– Khi về, có ai hỏi, cậu đừng nói dối, cứ bảo là của tôi đấy. Tôi đã trót mang tiếng hão, nên phải làm như vậy.

Chợt chị dâu Tình Văn cười hì hì vén màn đi vào nói:

– Giỏi nhỉ! Hai người trò chuyện với nhau, tôi nghe thấy cả rồi! – Chị ta quay lại nói với Bảo Ngọc: – Cậu là chủ nhà, vào buồng đầy tớ làm gì? Thấy tôi xinh đẹp, cậu định đến đây ghẹo tôi hay sao?

Bảo Ngọc nghe nói, sợ quá, vội cười van xin:

– Chị Ơi, xin đừng nói tọ Chị ấy lâu nay hầu hạ tôi, giờ tôi lẻn đến đây thăm chị ấy.

Cô “Đa” liền kéo Bảo Ngọc vào nhà trong, cười nói:

– Cậu không muốn tôi kêu thì cũng dễ thôi, cậu chỉ nghe tôi một điều này.

Nói xong, chị ta ngồi ngay lên trên giường, kéo Bảo Ngọc vào trong lòng, hai đùi cặp chặt lấy. Bảo Ngọc xưa nay chưa thấy thế bao giờ, tim đập thình thịch, người thấy rạo rực, cuống quá, mặt đỏ bừng, vừa thẹn vừa nói:

– Chị Ơi, đừng đùa thế.

Cô “Đa” lẳng lơ con mắt, cười nói:

– Hừ! Ngày thường, nghe nói cậu vẫn quen sống trong trường trăng gió, sao hôm nay lại nhút nhát thế?

Bảo Ngọc càng đỏ mặt, cười nói:

– Chị buông tay ra, có chuyện gì chúng ta sẽ tử tế nói với nhau, để cho bà già bên ngoài nghe thấy thì còn ra làm sao nữa?

Cô “Đa” cười nói:

– Tôi về đây từ lâu, đã bảo bà già ấy đứng chờ ở ngoài vườn rồi. Tôi hàng ngày ao ước biết nhường nào, bây giờ mới được gặp, nhưng đúng như câu: “Nghe tiếng không bằng gặp mặt”. Tôi trông dáng người cậu đẹp thế này, mà lại là cái xác pháo rỗng ruột, chỉ có cái vẻ thôi, coi chừng nhút nhát e lệ hơn người ta nhiều. Đủ biết miệng người ta nói có khi không đáng tin. Như lúc nãy, tôi cứ tưởng chắc chắn hai người ngày thường thế nào cũng thầm vụng với nhau. Khi tôi đứng ở dưới cửa sổ nghe ngóng một lúc lâu trong nhà chỉ có cậu với cô ấy, tôi chắc rằng sẽ nói đến nhiều chuyện thậm thụt với nhau. Nhưng xem ra, thì hai người thật chưa có gì dan díu cả. Thật là ở đời có nhiều sự Oan uổng. Bây giờ tôi rất ăn năn đã ngờ cho cậu. Đã vậy cậu cứ yên tâm, cứ việc đến, tôi không dám to tiếng.

Bảo Ngọc nghe xong mới yên trong dạ, đứng dậy xốc lại áo và van xin:

– Chị Ơi. Bây giờ tôi phải về, mong chị chăm sóc chị Tình Văn mấy ngày.

Bảo Ngọc trở ra nói với Tình Văn. Hai người quyến luyến không nỡ rời taỵ Tình Văn biết Bảo Ngọc khó dứt ra đi được, liền kéo chăn đắp kín đầu. Bảo Ngọc mới ra đi. Định lần đến cửa nhà Phương Quan, ngại vì trời tối quá. Đi được một lúc, sợ có người tìm, lại xảy ra chuyện, Bảo Ngọc đành phải quay về trong vườn. Đến cửa sau, gặp bọn hầu đương ôm chăn đến. Các bà già đương kiểm soát người, chậm tí nữa là họ sẽ đóng cửa.

Bảo Ngọc đi vào trong vườn, may không ai biết, liền về buồng mình, gặp Tập Nhân, nói đổ sang chơi bên Tiết phu nhân, thế là xong chuyện.

Một lúc dọn giường, Tập Nhân đành phải hỏi: “Hôm nay ngủ thế nào đây?” Bảo Ngọc nói:

– Ngủ thế nào cũng được.

Mấy năm nay Tập Nhân thấy Vương phu nhân đối đãi tử tế với mình, lại càng làm ra bộ đứng đắn. Những khi vắng người, hoặc lúc đêm khuya, chị ta không hay đùa cợt với Bảo Ngọc, so với lúc còn hé, có phần thưa nhạt hơn. Tuy không phải làm việc gì to tát, nhưng những việc vá may, việc lặt vặt như thu phát tiền nong, sắp xếp áo dài, đồ vật cho Bảo Ngọc cùng bọn a hoàn nhỏ, cũng rất bận rộn. Vả lại vốn có chứng thổ huyết, nên lâu nay chị ta không ngủ cùng buồng với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc ban đêm hay sợ, khi tỉnh dậy là phải gọi người ngaỵ Vì Tình Văn tỉnh ngủ, nên mỗi khi Bảo Ngọc uống nước hay sai bảo việc gì là gọi đến cô tạ Vì thế Tình Văn ngủ ngay bên giường ngoài của Bảo Ngọc. Giờ Tình Văn đi rồi, Tập Nhân đành phải mang chăn chiếu của mình ra đó ngủ.

Đêm ấy Bảo Ngọc cứ ngồi ngẩn ngơ, Tập Nhân giục mãi mới chịu đi ngủ. Trong khi ngủ, Tập Nhân vẫn thấy Bảo Ngọc trằn trọc trên gối, thở ngắn, than dài, đến canh ba mới thiu thiu yên gấc. Tập Nhân lơ mơ cũng yên dạ ngủ đi. Độ chừng chưa uống hết một chén nước, thấy Bảo Ngọc gọi “Tình Văn”. Tập Nhân hỏi: “Cậu gọi gì?” Bảo Ngọc muốn uống nước. Tập Nhân pha trà mang đến. Bảo Ngọc thở dài: “Lâu nay tôi quen gọi chị ấy, thành ra quên đi. Nay lại là chị.”

Tập Nhân cười nói:

– Khi chị ấy mới đến, cậu cũng thường nằm mê gọi tôi, về sau cậu mới gọi chị ấy. Dù sao chị Tình Văn đi rồi, nhưng hai chữ “Tình Văn” vẫn còn nhớ mãi.

Nói xong hai người lại đi ngủ, Bảo Ngọc vẫn trằn trọc mãi, đến canh năm mới ngủ được. Bỗng thấy Tình Văn ở ngoài đi vào, hình dáng vẫn như ngày thường, đến gần Bảo Ngọc nói: “Cậu và chị em ở lại cho vui vẻ. Từ nay tôi xin từ biệt!” Nói xong quay người đi ngaỵ Bảo Ngọc gọi ầm lên, làm Tập Nhân tỉnh dậy. Tập Nhân cứ tưởng là Bảo Ngọc quen tiếng gọi bừa, nhưng thấy Bảo Ngọc khóc và nói: “Tình Văn chết mất rồi”. Tập Nhân cười nói:

– Cậu nói gì thế? Người ta nghe thấy thì còn ra làm sao nữa?

Bảo Ngọc vẫn không nghe, muốn trời sáng ngay để sai người đi hỏi tin.

Khi trời sáng, có a hoàn nhỏ hầu bên Vương phu nhân đến gọi mở cửa ngách, truyền lời Vương phu nhân: “Gọi cậu Bảo Ngọc dậy ngay, rửa mặt thay quần áo. Vì hôm nay có người mời ông đi thưởng cúc. Hôm nọ Ông thích thơ của cậu, nên muốn cho các cậu đi theo. Lời bà bảo thế, các người phải giục cậu ấy đi ngay, ông ở nhà trên đương chờ các cậu đến ăn miến đấy. Cậu Hoàn đã đến rồi. Đi ngay đi thôi, và cho người đi gọi ngay cậu Lan, cũng nói với cậu ấy như thế”.

Bà già ở trong nhà nghe câu nào vâng câu ấy, vừa cài khuy áo vừa ra mở cửa. Rồi ba, bốn người nữa cũng vừa cài khuy áo, vừa chia nhau đi các nơi.

Tập Nhân nghe tiếng gõ cửa, biết là có việc, liền sai người đi lấy nước, giục Bảo Ngọc dậy rửa mặt gội đầu và tự mình đi lấy quần áo. Tập Nhân nghĩ rằng Bảo Ngọc theo hầu Giả Chính đi chơi, nên không tiện cho mặc quần áo mới lắm, chỉ chọn quần áo hạng vừa thôi.

Bảo Ngọc không biết làm thế nào, đành phải vội vàng đi đến. Quả nhiên Giả Chính đang ngồi ở đó uống nước, rất đỗi vui vẻ. Bảo Ngọc vào hỏi thăm sức khỏe Giả Chính. Giả Hoàn, Giả Lan cùng chạy lại chào Bảo Ngọc. Giả Chính cho Bảo Ngọc ngồi uống nước, rồi bảo Giả Hoàn và Giả Lan:

– Bảo Ngọc học thì kém hai đứa chúng bay, nhưng có tài làm câu đối và làm thợ Hôm nay đi chơi, chắc họ sẽ bảo chúng bay làm thơ, Bảo Ngọc liệu cách giúp đỡ hai đứa.

Xưa nay Vương phu nhân chưa từng nghe thấy Giả Chính nói những lời như thế, thực sự là vui mừng bất ngờ. Chờ cha con họ đi rồi, bà ta muốn sang bên Giả mẫu, thì có người mẹ nuôi của Phương Quan đến trình: “Phương Quan từ hôm nhờ ơn bà cho ra ngoài, nó hình như điên, không ăn uống gì cả. Nó lôi kéo cả Ngẫu Quan và Nhụy Quan, nhất sống nhị chết, chỉ muốn cắt tóc đi tụ Chúng tôi cứ tưởng là bọn trẻ con lúc đầu sống chưa quen, ít ngày rồi sẽ đâu vào đấy. Ngờ đầu chúng nó càng ngày càng làm dữ, đánh mắng cũng không sợ. Chúng tôi không có cách gì, nên đến đây trình bà, hoặc cho chúng nó đi tu hoặc là dạy bảo chúng nó ít bữa rồi đem cho người ta làm con nuôi. Chúng tôi thực là kém phúc”.

Vương phu nhân nói:

– Sao các bà nói nhảm thế! Lẽ nào lại tùy ý chúng nó được. Cửa Phật có dễ dàng vào được đâu? Cứ đánh mỗi đứa một trận xem chúng nó có dám hỗn nữa hay không.

Bấy giờ đang chầu rằm tháng tám, các miếu đều làm lễ, nên các sư cô mang đồ cúng đến biếu. Sư Trí Thông ở Am Thủy Nguyệt và sư Viên Tâm ở am Địa Tạng còn ở lại chưa về. Nghe thấy tin này, họ muốn dỗ dành hai đứa con gái về để sai bảo, liền thưa với Vương phu nhân:

– Phủ ta vốn là nhà từ thiện. Bà lại rủ lòng nhân từ, nên các cô bé mới được như vậy. Tuy nói là “Cửa Phật khó tới” nhưng cũng nên biết là “Phật pháp bình đẳng”. Đức Phật chúng ta chỉ muốn siêu độ cho tất cả chúng sinh, cả từ con gà con chó. Khốn nỗi người ta thường hay u mê không tỉnh. Ai có thiện căn biết tỉnh ngộ, sẽ được thoát kiếp luân hồi, cho nên trong kinh Phật, giống hùm beo rắn rết đắc đạo cũng không phải là ít. Giờ ba cô này không có bố mẹ, lại xa quê hương, đã trải qua nơi phú quý, nhưng vì chịu khổ sở từ lúc bé, không may rơi vào nơi phong trần, chưa biết cuộc đời sau này sẽ ra sao? Nên họ muốn “thoát nơi bể khổ” nhất định xuất gia đi tu, cũng là điều biết nghĩ xa đấy. Bà không nên ngăn cản lòng tốt của họ.

Vương phu nhân vốn là người từ thiện, lúc đầu nghe các bà già nói, cho là bọn Phương Quan hãy còn bé, có điều gì chưa hài lòng, nếu đi tu sợ không chịu nổi cảnh thiền tịch mịch, lại đâm mang tội. Giờ nghe thấy hai mẹ mìn này nói cũng hợp tình hợp lý, vả lại, gần đây trong nhà xảy ra nhiều chuyện, Hình phu nhân lại sai người đến nói, ngày mai đón Nghênh Xuân về ở nhà mấy ngày để cho người ta đến xem mặt. Lại còn có bà mối đến nói việc Thám Xuân. Mọi việc đều chồng chất trong lòng, thì còn để ý gì đến chuyện nhỏ mọn này nữa. Bà ta liền cười trả lời:

– Hai sư cô đã nói như vậy, thì cứ cho mang chúng về làm đồ đệ có được không?

Hai cô niệm phật rồi nói:

– Phúc đức quá! Phúc đức quá! Nếu được thế thì âm công của người rất lớn.

Nói xong họ cúi đầu tạ Ơn.

Vương phu nhân nói:

– Đã thế thì các cô đến hỏi chúng xem. Nếu quả thực bụng đi tu, thì chúng phải đến trước mặt ta lạy các cô làm sư phụ.

Ba người mẹ nuôi nghe xong, ra dẫn ba đứa kia vào. Vương phu nhân hỏi đi hỏi lại, ba đứa này đều đã quyết tâm, liền cúi lạy sư cô, lại lạy tạ Vương phu nhân. Vương phu nhân thấy chúng quyết tâm như thế, biết là không thể ép được, đâm ra thương xót, liền sai người đi lấy một ít đồ vật thưởng cho chúng và đưa hai sư cô ít lễ vật. Từ đấy Phương Quan theo Trí Thông về am Thủy Nguyệt, Nhụy Quan và Ngẫu Quan theo Viên Tâm về am Địa Tạng.

Chương 78: Họa sĩ già ra bài từ Quỷ hoạch – Công tử ngốc làm văn tế phù dung

Họa sĩ già ra bài từ Quỷ hoạch

Công tử ngốc làm văn tế phù dung

Hai sư cô dẫn bọn Phương Quan đi rồi, Vương phu nhân liền sang bên Giả mẫu. Thấy Giả mẫu đương vui, nhân dịp thưa:

– Bên nhà Bảo Ngọc có con a hoàn là Tình Văn, giờ đã lớn rồi, đã một năm nay nó cứ ốm luôn. Con xem nó bướng bỉnh, lại lười. Hôm nọ nó ốm nằm đến mười mấy ngày, mời thầy thuốc đến xem, họ bảo là bệnh lao, vì thế con đã cho nó về rồi. Sau này có khỏi cũng không nên cho vào, để nó ở nhà lấy chồng là hơn. Còn mấy đứa con gái học hát, con cũng cho nó về cả. Một là chúng nó đều biết diễn tuồng, quen miệng ăn nói bậy bạ, không biết cân nhắc, lỡ các cháu gái nghe thấy coi sao tiện? Hai là chúng nó đã biết hát xướng, nay cho về cũng là phải. Hơn nữa bọn a hoàn cũng nhiều, khi nào không đủ sai, sẽ chọn thêm mấy đứa khác, thì cũng thế thôi.

Giả mẫu gật đầu nói:

– Thế là phải. Ta cũng nghĩ như vậy. Nhưng xem ra con Tình Văn rất ngoan, khâu vá nói năng không ai bằng. Sau này vẫn có thể cho nó hầu Bảo Ngọc được. Ai ngờ lại thay đổi như thế.

Vương phu nhân cười nói:

– Cụ xưa nay chọn người không nhầm, nhưng vì nó vô phúc, nên mới mắc bệnh ấy. Tục ngữ có câu: “con gái lớn có nhiều sự biến đổi”. Vả chăng đã là người có tài, thì không khỏi có sự sai trái. Điều này chắc cụ đã hiểu nhiều rồi. Ba năm trước con đã lưu tâm đến việc ấy, trước hết chỉ chấm riêng một mình nó. Nhưng con để ý xem xét thì cái gì nó cũng hơn người, chỉ phải cái tính không được chín chắn thôi. Nói về cách hiểu biết đại thể thì không ai bằng Tập Nhân. Tuy nói vợ cả chuộng người hiền, vợ lẽ chọn người đẹp, nhưng cũng phải là người tính tình hòa thuận, cử chỉ đứng đắn mới tốt. Dáng dấp Tập Nhân tuy kém Tình Văn, nhưng lấy làm vợ lẽ thì nó cũng vào hạng nhất nhì đấy. Nó lại ăn ở đứng đắn, tính nết thực thà, mấy năm nay chưa có điều gì chiều lòng Bảo Ngọc làm điều sai trái. Khi Bảo Ngọc có làm điều gì bậy bạ, nó chỉ một niềm can ngăn. Vì thế đã hai năm nay con chọn nó, thấy rất đúng. Con đã ngấm ngầm rút tiền lương a hoàn của nó, lấy hai lạng bạc lương tháng của con phát cho nó, cốt để nó hiểu ngầm, càng hầu hạ Bảo Ngọc cẩn thận hơn. Sở dĩ con chưa nói ra là vì Bảo Ngọc còn nhỏ, nhà con biết ra lại bảo làm lỡ việc học hành của nó. Hơn nữa đã là người hầu rồi, tất nhiên không dám khuyên ngăn nữa. Bảo Ngọc sẽ lại tha hồ phóng túng. Vì thế đến bây giờ con mới trình với cụ.

Giả mẫu cười nói:

– Thế à! Như vậy càng tốt. Tập Nhân từ bé ít nói, ta cứ bảo nó là cái bầu không miệng. Chị đã biết rõ nó thì nhầm thế nào được. Chị không nhắc đến chuyện chọn nó cho Bảo Ngọc thì càng haỵ Hơn nữa mọi người cũng không cần phải nhắc đến nữa, chỉ biết ở trong bụng là được. Ta biết Bảo Ngọc sau này nó không chịu nghe lời vợ khuyên đâu. Ta không hiểu sao và cũng chưa thấy đứa trẻ con nào như thế cả. Đối với người khác thì nó bướng bỉnh đấy, nhưng riêng đối với bọn a hoàn, lại rất tử tế. Khó thấy có ai được như nó. Vì vậy ta sinh nghi, thường để ý xem xét, thấy nó cứ đùa với bọn a hoàn, chắc là người lớn thì tính tình cũng lớn, đã biết chuyện trai gái, nên mới gần gũi bọn chúng. Nhưng dò xét kỹ, lại hóa không phải. Thế mới lạ chứ? Có lẽ nó là một con a hoàn đầu thai lầm cũng nên.

Mọi người nghe nói cười ầm lên.

Vương phu nhân lại trình việc sáng ngày Giả Chính nào là khen ngợi Bảo Ngọc, nào là dắt chúng đi chơi. Giả mẫu lại càng vui thêm.

Một lúc sau Nghênh Xuân ăn mặc chỉnh tề đến cáo từ xin về, Phượng Thư cũng đến thăm buổi sớm và chực hầu bữa cơm sáng. Mọi người lại cười nói với nhau một lúc. Đến trưa Giả mẫu đi nghỉ. Vương phu nhân hỏi Phượng Thư đã làm thuốc viên chưa. Phượng Thư nói:

– Chưa. Giờ con đương uống thuốc chén. Xin mẹ cứ yên tâm, con đã đỡ nhiều rồi.

Vương phu nhân thấy Phượng Thư đã khỏe, cũng tin là thực, rồi kể lại việc đuổi bọn Tình Văn và nói:

– Con Bảo sao tự nhiên lại về nhà? Các chị đều không biết à? Hôm trước tiện đường ta đi tra xét một lượt, xem ra vú nuôi mới của cháu Lan lẳng lơ quá, ta không thích. Ta đã bảo chị Cả, hay dở gì cũng bảo nó bước đi. Nhân tiện ta hỏi chị ấy: “Con Bảo về nhà sao các chị lại không biết?” Chị ấy nói là nó về xem dì Tiết đã khỏi bệnh chưa? Độ vài ba hôm nó sẽ lại sang. Nhưng dì ấy có bệnh gì đâu, chẳng qua chỉ ho và đau lưng thì bao giờ mà dì ấy chả thế. Tất là có duyên cớ gì, hay có người nào làm mếch lòng nó? Con bé ấy vốn hay giữ ý, chỗ bà con với nhau, lỡ có điều gì làm nó mếch lòng lại không hay.

– Ai lại tự dưng vô cớ làm cô ây mếch lòng.

– Hay là cái thằng ngốc Bảo Ngọc nói không biết nghĩ, không biết kiêng kỵ; lúc cao hứng lên thuận miệng nói bừa, cũng chưa biết chừng.

– Đó là mẹ quá lo đấy thôi. Nếu bảo chú ấy ra ngoài nói năng và xử sự cho thật đứng đắn thì không khác gì thằng ngốc, nhưng khi ở nhà gần các chị em đến cả bọn a hoàn lớn nhỏ thì chú ấy lại đều nhân nhượng, chỉ sợ mếch lòng người ta, như thế còn ai giận được chú ấy. Con ngờ cô Bảo về lần này là vì việc khám xét bọn a hoàn hôm nọ. Cô ấy cho là ta nghi ngờ những người trong vườn. Cô ấy là chỗ bà con, cũng có các bà già a hoàn ở trong nhà, nhưng ta lại không đến khám xét. Cô ấy sợ ta có nghi ngờ gì chăng, vì thế áy náy trong lòng, tự ý tránh đi. Tránh sự hiềm nghi như thế cũng là phải.

Vương phu nhân nghe nói cho là đúng, cúi đầu nghĩ một lúc rồi sai người gọi Bảo Thoa đến nói rõ việc hôm trước để giải mối nghi ngờ, lại bảo Bảo Thoa dọn vào ở chỗ cũ. Bảo Thoa cười nói:

– Cháu muốn về nhà đã lâu, nhưng vì bên nhà dì có nhiều việc lớn, nên không tiện nói. Hôm nọ mẹ cháu lại ốm, trong nhà có hai người đàn bà hầu đáng tin cậy cũng ốm nốt. Nhân dịp đó, cháu mới xin về nhà. Hôm nay dì đã biết, cháu xin trình rõ. Bây giờ cháu xin cáo từ dì để dọn đồ đạc về.

Vương phu nhân và Phượng Thư cười nói:

– Cô câu nệ quá, lẽ ra nên dọn về đây ở là phải, đừng vì cái việc tầm thường ấy làm bà con phải xa nhau.

Bảo Thoa cười nói:

– Dì và chị nói thế nặng lời quá, cháu có phải vì việc ấy mà dọn về đâu. Gần đây mẹ cháu tinh thần kém trước nhiều, đêm hôm không có ai là người đáng tin cậy, chỉ một mình cháu. Anh cháu lại sắp lấy vợ, nào việc may vá, nào đồ dùng trong nhà, chưa sắm sửa đủ, nên cháu phải về lo liệu giúp mẹ cháu. Dì và chị chắc cũng biết đấy. Cháu không dám nói dối đâu. Hơn nữa từ ngày cháu vào ở trong vườn, cửa ngách về phía đông nam phải mở để đi lại, thành ra những người ra vào, tiện đường cũng qua đấy. Thế mà không có người xét hỏi, nhỡ xảy ra việc gì, chả mang tiếng cả hai bên Cháu nghĩ việc vào ngủ ở trong vườn không cần thiết lắm. Vì mấy năm trước cháu còn bé, trong nhà không có việc gì, nên vào ở trong đó, cùng chị em họp mặt vui đùa, khâu vá, hơn là một mình ngồi buồn rũ ở ngoài. Bây giờ chúng cháu đều lớn cả rồi. Mấy năm nay dì ở bên này gặp nhiều việc không được vừa lòng. Thế mà cứ ở mãi trong vườn, lỡ ra cháu trông nom không xuể, sợ lại sinh chuyện. Chỉ có bớt người đi sẽ đỡ phải bận tâm. Vì thế hôm nay không những cháu nhất định xin về nhà mà còn muốn khuyên dì: Từ nay việc gì đáng bớt thì nên bớt chứ đừng ngại là mất thể thống nhà đại gia. Cứ ý cháu, những khoản tiêu phí ở trong vườn này, cái gì bỏ được thì bỏ, không thể bì như mấy năm trước đây. Dì đã biết nhà cháu đấy. Chẳng nhẽ nhà cháu ngày trước cũng tồi tàn như thế này hay sao?

Phượng Thư nghe vậy thưa với Vương phu nhân:

– Đã vậy ta cũng không nên ép cô ấy.

Vương phu nhân gật đầu nói:

– Dì không biết nói thế nào nữa, cứ tùy ý cháu đấy thôi.

Đương nói chuyện thì Bảo Ngọc về nói:

– Cha chưa tan tiệc, sợ trời tối nên chúng con về trước.

Vương phu nhân vội hỏi:

– Hôm nay con có khỏi bị bẽ mặt không?

– Không những con không bẽ mặt, lại còn được thưởng nhiều thứ nữa.

Sau đó bọn bà già nhận được các thứ của lũ hầu nhỏ ở cửa thứ hai đem vào. Vương phu nhân giở ra xem, thấy có ba cái quạt, ba chuỗi hạt, ba cái vòng ngọc. Bảo Ngọc nói:

– Cái này của quan hàn lâm họ Mai cho, cái kia là của quan thị lang họ Dương cho, cái này là của quan viên ngoại họ Lý chọ Mỗi người cho một thứ.

Nói xong lại lấy ra một ông Phật nhỏ bằng gỗ bạch đàn đeo trong người để giữ mình và nói:

– Đây là của vị Khánh Quốc công cho riêng con.

Vương phu nhân lại hỏi tiệc có những ai, làm thơ từ gì? Rồi bà ta nhận phần của Bảo Ngọc, sai người mang đi. Lại dẫn Bảo Ngọc, Giả Hoàn và Giả Lan đến trình Giả mẫu. Giả mẫu xem xong, vui mừng khôn xiết, hỏi thêm mấy câu. Bảo Ngọc bụng vẫn nghĩ đến Tình Văn, trả lời xong liền thưa:

– Cháu cưỡi ngựa bị xóc, đau cả xương.

Giả mẫu nói:

– Thôi cháu về nhà thay quần rồi dạo chơi một lúc thì khỏi, nhưng không được ngủ.

Bảo Ngọc liền đi về trong vườn.

Xạ Nguyệt, Thu Văn đã đem hai a hoàn đến chờ sắn đấy. Thấy Bảo Ngọc xin phép Giả mẫu về, Thu Văn nhận ngay lấy bút mực và các thứ rồi theo Bảo Ngọc về trong vườn. Bảo Ngọc nói luôn miệng: “Nóng quá!” Vừa đi vừa tháo mũ và mở dây lưng, cởi bộ quần áo ngoài ra. Xạ Nguyệt đỡ lấy. Bảo Ngọc chỉ mặc cái áo lót bằng lụa màu hoa tùng, bên dưới hở ra cái quần màu đỏ sẫm. Thu Văn thấy cái quần đó là của Tình Văn khâu lúc trước, liền thở dài:

– Thực là của còn người mất.

Xạ Nguyệt kéo Thu Vãn một cái, cười nói:

– Cái quần màu này pha với áo màu hoa tùng và dây màu thạch thanh, lại càng nổi bật cái đầu xanh và bộ mặt trắng nõn.

Bảo Ngọc đi trước, vờ như không nghe thấy, lại đi mấy bước nữa rồi đứng lại nói:

– Tôi muôn đi đằng này một tí có được không?

Xạ Nguyệt nói:

– Ban ngày ban mặt thế này thì còn sợ gì? Chẳng nhẽ sợ cậu lạc lối hay sao?

Rồi sai a hoàn nhỏ đi theo và nói:

– Chúng tôi đi cất những cái này rồi sẽ đến.

Bảo Ngọc nói:

– Chị Ơi, chờ tôi một tí hãy đi.

Xạ Nguyệt nói:

– Chúng tôi đi, rồi sẽ đến ngaỵ Tay cầm những thứ này, như là đám rước ấy, người thì bưng đồ văn phòng tứ bảo, người bưng mũ áo, giày, thắt lưng, trông chẳng ra làm sao nữa.

Bảo Ngọc nghe nói đúng với ý mình, liền để cho hai người đi về, Bảo Ngọc dẫn hai a hoàn nhỏ đi đến sau hòn đá chân núi, khẽ hỏi chúng:

– Từ lúc ta đi vắng, chị Tập Nhân có sai người đến thăm chị Tình Văn không?

Một đứa trả lời:

– Đã sai già Tống đi thăm rồi.

– Già Tống đi về nói thế nào?

– Già ấy nói: chị Tình Văn bạnh cổ ra, kêu suốt đêm, sáng sớm hôm nay mắt nhắm nghiền, miệng cắn chặt, không biết gì cả, chỉ còn thở thoi thóp thôi.

– Suốt đêm chị ấy kêu ai?

– Chị ấy cứ gọi mẹ.

– Còn gọi ai nữa không?

– Không gọi ai nữa.

– Mày u mê rồi, chắc là chưa nghe rõ đấy.

Một a hoàn khác đứng cạnh, có vẻ láu lỉnh, thấy Bảo Ngọc nói thế, liền chạy lại thưa:

– Nó u mê thật đấy. Cháu lên đến tận nơi, nhìn kỹ tận mặt, nghe rõ từng câu chị ấy nói.

– Mày đến tận nơi làm gì?

– Cháu nghĩ chị Tình Văn xưa nay đối đãi với chúng cháu rất tử tế, hơn hẳn mọi người. Giờ chị ấy bị đuổi oan, chúng cháu không có cách gì cứu giúp, nên đành đến tận nơi thăm nom, để khỏi phụ cái lòng ngày thường chị ấy thương yêu chúng cháu. Dù có ai biết về trình, bà đánh chúng cháu một trận, cũng xin cam tâm. Vì thế cháu làm liều, lẻn đến thăm chị ấy một tí. Chị ấy vốn là người thông minh, lúc sắp chết vẫn không có gì thay đổi. Thấy cháu đến, chị ấy mở bừng mắt ra, kéo tay cháu lại hỏi: “Cậu Bảo Ngọc đi đâu?” Cháu kể chuyện cho chị ấy nghe. Chị ấy thở dài một cái rồi nói: “Thôi không gặp nhau nữa rồi!” Cháu hỏi: “Sao chị không chờ cậu ấy đến để được gặp mặt một lần nữa?” Chị ấy cười nói: “Các em không biết rõ, chị không phải chết đâu. Nay trên trời đương thiếu một vị thần hoa, đức Ngọc Hoàng gọi chị lên trông nom các thứ hoa đấy. Đến giờ mùi hai khắc chị sẽ lên nhận chức. Cậu Bảo thì giờ mùi ba khắc mới về đến nhà. Thế là chỉ chậm có một khắc mà hai người không được gặp nhau. Người đời đến lúc tận số, Diêm Vương định bắt đi, trước hết cho quỷ sứ đến bắt lấy linh hồn. Nếu muốn chậm lại một giờ nửa khắc, thì cứ đốt giấy vàng hoặc cúng cháo. Bọn quỷ sứ mải đến cướp tiền, thì người chết có thể nấn ná ở lại được một chút. Nay chị được các vị tiên trên trời xuống đón, thì chậm thế nào được?” Cháu nghe nói thế, không tin mấy. Nhưng khi về nhà để ý nhìn đồng hồ, quả nhiên đúng giờ mùi hai khắc chị ấy tắt thở, và đúng ba khắc mới có người đến bảo chúng cháu là cậu đã về.

– Mày không biết chữ, nên không hiểu, chứ chuyện ấy có thực đấy. Không những mỗi thứ hoa có một vị thần, lại còn có một vị thần coi cả các thứ hoa nữa. Nhưng không biết chị Tình Văn làm vị thần coi cả các thứ hoa hay chỉ coi một thứ?

A hoàn nghe xong không bịa ra ngay được. Bấy giờ vào khoảng tháng tám, hoa phù dung giữa ao trong vườn đương nở rộ. Thấy cảnh nảy ngay ý nghĩ, nó liền trả lời:

– Cháu có hỏi: “Chị sẽ làm vị thần coi hoa gì? Nói cho chúng em biết, để sau này chúng em còn nhớ mà cúng”. Chị ấy nói: “Em chỉ nói cho một mình cậu Bảo Ngọc biết thôi, ngoài cậu ấy ra, không được tiết lộ thiên cơ!” Rồi chị ấy bảo cháu là vị thần chuyên coi hoa phù dung.

Bảo Ngọc thấy thế, không những không lấy làm lạ, lại còn đổi buồn làm vui, quay lại ngắm nghía hoa phù dung, cười nói:

– Hoa này phải có một người như thế trông nom mới đáng. Ta đã đoán trước, con người như thế, tất phải có phen làm nên sự nghiệp. Chị ấy đã vượt qua bể khổ, nhưng từ nay không được trông thấy nhau, lẽ nào ta không chạnh niềm thương cảm.

Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Lúc chết không được gặp mặt, bây giờ ta phải đến vái trước linh cữu, để tỏ cái tình năm, sáu năm gần gũi nhau”.

Nghĩ xong, liền về nhà, thay quần áo và nói là đến thăm Đại Ngọc. Rồi một mình ra khỏi vườn, đến chỗ lần trước đã tới thăm, tưởng là linh cữu còn để ở đấy. Ngờ đâu hai vợ chồng người anh ngoại thấy Tình Văn tắt thở, liền đi vào trình, mong được mấy lạng bạc tiền lệ mai táng. Vương phu nhân nghe thấy thế thưởng cho mười lạng bạc, bảo:

– Phải mang ra ngoài hỏa táng ngaỵ Con gái mà bị bệnh lao, nhất thiết không thể để lâu được!

Nghe vậy vợ chồng nhà kia một mặt nhận tiền, một mặt giục người khâm liệm, khiêng ngay ra cái nhà hỏa táng ở ngoại thành. Những quần áo trâm vòng còn lại ước độ ba, bốn trăm lạng vàng, thì vợ chồng hắn vớ hết, để làm kế sinh nhai. Sau đó họ khóa cửa lại, cùng đi đưa ma.

Bảo Ngọc đến nơi; chẳng thấy một ai, dừng lại hồi lâu, không biết làm thế nào, đành phải quay về trong vườn. Buồn quá, tiện đường đến thăm Đại Ngọc, cũng không gặp, hỏi đi đâu, bọn a hoàn nói: “Cô ấy sang bên cô Bảo rồi”. Bảo Ngọc lại đến viện Hành Vu, thấy cảnh vắng người không, đồ đạc đã khuân đi cả, còn trơ chiếc nhà trống trải. Bảo Ngọc giật nẩy mình. Nhớ lại hôm trước, nghe đâu Bảo Thoa định dọn đi, vì hai hôm nay bận học, nên quên khuấy mất. Bây giờ mới biết, Bảo Ngọc đứng đờ người ra một lúc, lại nghĩ: “Chi bằng cứ gần gũi với Tập Nhân, chơi thân với Đại Ngọc, có lẽ trong mấy người ấy mới là sống chết có nhau”.Bảo Ngọc lại quanh đến quán Tiêu Tương, nhưng Đại Ngọc vẫn chưa về. Đương lúc không biết đi đâu, thì thấy a hoàn bên Vương phu nhân đến tìm và nói:

– Ông đã về rồi, đương tìm cậu đấy. Chắc lại có đầu bài haỵ Cậu về ngay đi, về ngay đi!

Bảo Ngọc nghe nói, đành phải theo về. Đến buồng Vương phu nhân thì Gả Chính đã đi rồi. Vương phu nhân sai người đưa Bảo Ngọc đến thư phòng.

Giả Chính đương cùng bọn môn khách bàn chuyện thắng cảnh chơi thụ Ông ta lại nói:

– Lúc sắp tan, chợt kể lại một việc, thực là chuyện hay nghìn xưa, đủ cả tám chữ: “Phong lưu hào nhã, trung nghĩa cảm khái”. Chính là một đầu đề rất haỵ Mọi người định làm một bài viếng.

Các môn khách nghe nói, liền hỏi:

– Xin cho biết việc gì hay thế?

– Ngày trước có một vị Vương được phong tước là Hằng vương, bổ ra làm tổng trấn châu Thanh; Hằng vương rất thích gái đẹp và khi rỗi việc quan, lại thích tập võ, nên tuyển nhiều con gái đẹp, ngày nào cũng bắt họ phải luyện tập đánh trận. Trong bọn này có một người, họ Lâm, đứng thứ tư, nhan sắc đã đẹp, lại tinh nghề võ, ai cũng gọi là cô Lâm. Hằng vương rất yêu, cử lên trông coi chị em, gọi là Quỷ Hoạch tướng quân. 1

– Hay thực! Lạ thực! Thêm hai chữ “tướng quân” ở dưới chữ “Quỷ Hoạch” càng thêm vẻ phong lưu yểu điệu, thực là câu văn hay nhất đời! Chắc Hằng vương cũng là một nhân vật phong lưu nhất xưa nay.

– Đúng thế. Nhưng lại có một việc đáng lạ và đáng than tiếc nữa.

– Không biết sau cùng lại còn có việc gì lạ nữa?

– Ngờ đâu năm sau lại có tàn quân của “Hoàng cân” 2 và “Xích mi” 3 họp lại, đánh phá khắp vùng Sơn Tả. Hằng vương cho là bọn giặc cỏ, không cần phải huy động đại quân, chỉ mang ít kỵ binh đi đánh dẹp. Không ngờ bọn giặc quỷ quyệt, Hằng vương đánh hai lần không được, lại bị chúng giết mất. Bấy giờ các quan văn võ trong thành Thanh Châu đều bảo nhau: “Nhà vua còn đánh không nổi, thì chúng ta làm gì được”. Họ định đem dâng thành. Cô tư Lâm nghe thấy tin dữ ấy, liền họp các nữ tướng lại, ra lệnh: “Chúng ta đều chịu ơn đức vua, đội trời đạp đất, chưa báo đền được muôn một. Nay vua vì nước bỏ mình, ý ta muốn chết theo. Chị em ai muốn theo thì đi với ta, ai không theo cứ việc về nhà”. Các nữ tướng nghe vậy liền nói: “Xin đi theo cả”. Rồi ngay đêm hôm đó cô Lâm dẫn quân ra ngoài thành, đến thẳng trại giặc. Bọn giặc không đề phòng, mấy tên tướng đều bị giết chết. Về sau, chúng thấy chỉ có mấy người con gái, biết là không làm nên việc gì, liền quay đao thúc quân trở lại, cố sức đánh một trận, giết bọn cô Lâm không sót một người nào, thành ra chính chúng đã làm trọn bề trung nghĩa của cô Lâm. Tin này báo về kinh đô, hoàng đế và trăm quan ai cũng than tiếc. Chắc trong triều thế nào cũng phái người ra dẹp giặc. Khi quân nhà vua kéo đến, thế nào giặc cũng bị tan tành. Việc này không cần phải bàn kỹ nữa. Chỉ nói riêng về cô Lâm. Các ông nghĩ xem có đáng khen hay không?

Bọn gia khách đều thở dài nói:

– Thực đáng khen, đáng lạ. Quả là một đầu bài rất haỵ Mọi người nên làm một bài viếng mới phải.

Nói xong, đã có người lấy nghiên bút ra. Theo lời Giả Chính kể lại, thay đổi mấy chữ, thành một bài tựa ngắn đưa cho Giả Chính xem. Giả Chính nói:

– Chẳng qua cũng thế thôi. Họ cũng đã có bài tựa sẵn rồi. Hôm nọ có ân chỉ: truyền xét lại các hạng người từ trước đến giờ đáng được khen thưởng mà còn bỏ sót lại chưa tâu lên, không cứ là bọn tăng ni ăn mày, đàn bà con gái, hễ có việc gì đáng khen thì lập ngay lý lịch đưa lên bộ lễ, xin cho ân thưởng. Vì thế bài tựa của họ đã đưa đến bộ lễ rồi. Nghe thấy tin mới lạ này, ai cũng muốn làm một bài từ “Quỷ Hoạch” để ghi lòng trung nghĩa của nàng

Mọi người nghe xong đều cười nói:

– À ra thế đấy. Nhưng đáng khen nhất là cái ân điển của bản triều xưa nay chưa từng có, không còn bỏ sót một việc gì.

Giả Chính gật đầu nói: “Đúng đấy!”

Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan đều đứng dậy đến xem đầu bài, Giả Chính bảo ba người đều làm một bài viếng. Ai làm xong trước sẽ được thưởng, nếu hay lại được thưởng thêm. Gần đây trước chỗ đông người, Giả Hoàn, Giả Lan cũng làm được mấy bài, nên cũng mạnh bạo. Giờ thấy đầu bài, liền ngồi nghĩ ngay.

Một lúc, Giả Lan làm xong, Giả Hoàn sợ thua, cũng làm xong ngaỵ Hai người đều đã chép xong. Bảo Ngọc còn đương ngồi nghĩ. Giả Chính và mọi người xem hai bài của Giả Hoàn và Giả Lan. Một bài thất ngôn tuyệt cú của Giả Lan như sau:

Sắc đẹp tài cao tướng Tứ nương.

Xương da là ngọc dạ như vàng,

Sau khi liều thác đền ơn chúa,

Tấc đất châu Thanh lại ngát hương

Bọn gia khách xem xong, khen ầm cả lên:

– Cậu em mới có mười ba tuổi mà đã thế này! Thế mới biết dòng dõi học nghiệp uyên thâm, thực là không ngoa!

Giả Chính cười nói:

– Giọng còn trẻ con, nhưng cũng đáng khen cho nó đấy.

Lại xem đến bài của Giả Hoàn là một bài thơ ngũ ngôn, thấy viết:

Đã mấy ả biết sầu,

Tướng quân lòng vẫn đau,

Gạt sầu rời cẩm trướng,

Ôm hận tới Thanh Châu,

Ơn nặng đền đôi chút.

Thù sâu trả dễ đâu?

Mộ đề chữ trung nghĩa,

Truyện lạ rõ nghìn thâu.

Mọi người nói:

– Lại hay hơn! Cũng vì lớn hơn mấy tuổi, nên lập ý của cậu ấy có khác.

Giả Chính nói:

– Kể ra cũng không kém lắm, nhưng vẫn không sát.

Mọi người nói:

– Thế cũng được rồi. Cậu Ba cũng chưa mấy tuổi, vẫn chưa đến tuổi đội mũ 4, làm được như thế, độ mấy năm nữa, có lẽ cũng chẳng kém gì Đại Nguyễn, Tiểu Nguyễn ngày xưa. 5

Giả Chính cười nói:

– Các vị quá khen. Chỉ phải cái tội là nó không chịu học thôi.

Rồi hỏi đến Bảo Ngọc. Mọi người nói:

– Câu Hai còn đương để ý điêu luyện, chắc thế nào tứ thơ cũng phong lưu thương cảm hơn những bài này.

Bảo Ngọc cười nói:

– Đầu bài này làm cận thể không đúng, phải là cổ thể, hoặc lối ca hay lối hành, làm một bài trường thiên thì mới sát được.

Mọi người nghe nói đều đứng dậy cả, gật đầu vỗ tay nói:

– Chúng tôi đã bảo là cậu ấy lập ý khác hẳn mà! Mỗi khi đầu bài đến tay, phải đắn đo trước xem nên làm thể cách nào cho đúng. Đó là phép thần diệu của tay lão thành. Đầu bài này gọi là “Quỷ Hoạch từ”, lại có tựa sẵn rồi, nên làm bài trường thiên theo lối ca hay hành, thì mới hợp thể cách. Như bài “Kích âu ca” của Ôn Bát Xoa, bài “Cối kê ca” của Lý Trường Cát, bài “Trường hận ca” của Bạch Lạc Thiên 6 hoặc làm bài vịnh cổ, vừa kể chuyện vừa vịnh cảnh, lời thơ chải chuốt nhẹ nhàng thì mới tả hết cái hay của nó.

Giả Chính nghe nói, hợp với ý mình, liền cầm bút định viết. Ông ta lại cười và nói với Bảo Ngọc:

– Như thế rất haỵ Mày đọc tao viết. Nếu không hay thì tao lột xác mày cho mà coi. Ai bảo mày cứ nói khoác không biết xấu hổ!

Bảo Ngọc đành phải đọc một câu:

Khỏe và đẹp Hằng vương thích cả,

Giả Chính viết xong, lắc đầu nói:

– Thô quá!

Một môn khách nói:

– Như thế mới là cổ phong, không thô đâu. Hãy xem những câu dưới!

Giả Chính nói:

– Thôi hãy để đấy.

Bảo Ngọc lại đọc:

Dạy mỹ nhân kị xạ đua tài.

Hát hay múa dẻo chưa vui,

Giương cung bày trận được người thích hơn.

Giả Chính viết ra. Mọi người đều nói:

– Câu thứ ba thật là cổ kính, rất haỵ Câu thứ tư kể xuôi, rất đắc thể.

Giả Chính nói:

– Thôi đừng khen nhảm nữa, hãy xem câu chuyện thế nào?

Bảo Ngọc đọc:

Mắt nào thấy nổi cơn gió bụi,

Trước bóng đèn đã rọi quân trang.

Mọi người nghe xong hai câu đều nói:

– Hay! Dưới câu “Mắt nào thấy nổi cơn gió bụi”, lại nói luôn câu “Trước bóng đèn đã rọi quân trang”, dùng chữ dùng câu đều thần diệu cả!

Bảo Ngọc lại đọc:

Miệng hò, sặc những mùi hương,

Mềm tay gươm, tuyết dao sương ngượng ngùng.

Mọi người nghe xong đều vỗ tay cười nói:

– Càng như vẽ ra ấy! Chắc cậu Bảo hồi ấy cũng ở đấy, được nhìn rõ vẻ yêu kiều và ngửi thấy cả mùi hương của họ chứ gì? Nếu không sao lại tả đúng được như thế?

Bảo Ngọc cười nói:

– Người khuê các tập võ, dù khỏe đến đâu cũng không bằng được con trai. Không nói thì cũng biết rõ cái dáng yếu ớt nhút nhát rồi.

Giả Chính nói:

– Mày không đọc tiếp ngay đi! Lại còn ngồi nói lẻm.

Bảo Ngọc đành phải nghĩ một lúc rồi đọc:

Hạt đinh hương, phù dung giây giắt.

Mọi người đều nói:

– Chọn vần rất hay, có thế lời thơ mới chải chuốc nhẹ nhàng. Và câu này lại còn văn hoa đẹp đẽ.

Giả Chính viết xong nói:

– Câu này không hay, trước đã có những chữ như “sặc những mùi hương” và “mềm tay ngượng ngùng” thì việc gì lại phải dùng câu này. Đó là vì đuối sức nên nó phải gán ghép những chữ ấy để lấp liếm cho qua đấy thôi.

Bảo Ngọc cười nói:

– Bài trường ca thì thế nào cũng phải điểm xuyết những câu văn hoa, không thế đâm buồn mất.

Giả Chính nói:

– Mày chỉ lo dùng những chữ ấy, còn dưới câu này làm thế nào để chuyển ý sang việc tập võ đây? Nếu nói thêm nữa thì chẳng hóa ra vẽ rắn thêm chân sao.

Bảo Ngọc nói:

– Như thế, thì câu dưới sẽ chuyển cũng được.

Giả Chính cười nhạt:

– Sức học mày được bao nhiêu! Câu trên mày mở rộng quá, bây giờ mày lại muốn chuyển ý ngay, chẳng hóa ý muốn thì nhiều mà sức không đủ hay sao?

Bảo Ngọc nghe nói, cúi đầu nghĩ một lúc rồi đọc:

Đeo dao này đành vất châu kia.

Rồi hỏi: “Câu này có thể dùng được không?”

Mọi người vỗ bàn khen hay tuyệt.

Giả Chính cười nói:

– Hãy khoan đã, mày đọc nữa đi.

Bảo Ngọc nói:

– Nếu được thì con đọc luôn một mạch, không được xin cứ xóa cả đi, con sẽ nghĩ ra tứ khác và đặt câu lại.

Giả Chính nghe nói, liền quát:

– Mày nói nhiều quá! Không được thì làm lại bài khác. Mày làm mười bài, một trăm bài lại sợ khó nhọc hay sao?

Bảo Ngọc đành nghĩ một lát rồi đọc:

Tập xong uể oải đêm khuya,

Ngấn song nhường đã đầm địa lụa dao

Giả Chính nói:

– Đó là xong một đoạn rồi. Câu dưới như thế nào?

Bảo Ngọc đọc:

Sơn Đông giặc năm sau nổi loạn,

Ong kéo đàn, chực ngốn hùm beo,

Mọi người nói:

– Chữ “nổi” hay đấy! Thế mới biết được là cao hay thấp. Vả suốt cả câu chuyển ý cũng không câu nệ gò ép.

Bảo Ngọc lại đọc:

Diệt thù vua dẫn quân theo,

Ngờ đâu thử một hai keo đã chùng.

Gió tanh ngắt thổi tung lúa nội,

Trướng hùm đâu nắng rọi bóng cờ.

Núi vắng lặng, nước lờ đờ,

Nơi Hằng vương chết bây giờ là đây.

Xương dầm nước, máu rây ngọn cỏ,

Bóng giăng tà, thây nọ ma canh.

Mọi người đều nói:

– Hay quá, hay qúa! Dàn bài kể chuyện và lời văn đều hay cả. Giờ hãy xem tiếp đến Tứ nương ra sao, tất phải có một câu chuyển mới lạ.

Bảo Ngọc lại đọc:

Quan quân chỉ biết giữ mình,

Ngồi nhìn khắp cõi châu Thanh mịt mùng.

Trong khuê các tỏ lòng trung phẫn,

Xui ái cơ nổi giận đùng đùng.

Mọi người đều nói:

– Dàn bài rất là khúc chiết.

Giả Chính nói:

– Dài quá rồi, chỉ sợ đoạn dưới lại rườm thôi.

Bảo Ngọc lại đọc:

Ái cơ thứ mấy trong cung?

Thứ Tư là gái anh hùng họ Lâm.

Nghiêm lệnh xuống ả Tần, gái Triệu,

Mặt trăm hoa đưa tiễn chiến trường.

Lệ xuân đè trĩu yên cương,

Áo bào lặng lẽ, đêm trường hắt hiu.

Cuộc thua được khó chiều định trước,

Đáp ơn người trọn ước tử sinh.

Giặc kia hung hãn thôi đành,

Hoa tan tác cánh, tuyệt xanh xám màu.

Quyện mùi phấn vó câu ngào ngạt,

Xa gia hương hồn giạt bên thành.

Tin sương sớm báo về kinh,

Chị em nào chẳng xót tình cho ai.

Nỗi mất đất con trời càng bực,

Nhìn trăm quan đầu gục ngồi trơ.

Trong triều văn vũ bấy giờ,

Đã người nào được như là Lâm nương?

Lâm nương nghĩ đến mà thương,

Ca rồi lòng những bàng hoàng khôn nguôi!

Đọc xong, mọi người đều khen ngợi không ngớt, lại xem một lượt nữa.

Giả Chính cười nói:

– Tuy nói được mấy câu, nhưng cũng không sát mấy.

Liền bảo:

– Thôi cho về.

Ba người như được tha tội, đều đi ra, rồi ai về nhà nấy. Bảo Ngọc trong bụng buồn rầu, lúc về đến vườn trông thấy hoa phù dung trên ao, nhớ ngay chuyện Tình Văn, lại thấy vui sướng, rồi nhìn hoa phù dung than vãn một lúc. Sau lại nghĩ: “Khi Tình Văn chết, ta chưa đến tế trước linh cữu, bây giờ tế ở trước hoa phù dung, lại không tận lễ hơn sao?” Nghĩ xong, muốn làm lễ ngay, nhưng lại tự nhủ: “Dù thế nhưng cũng không nên cẩu thả quá, phải có áo mũ chỉnh tề, đồ lễ đầy đủ thì mới thực là thành kính”. Rồi nghĩ bụng: “Cổ nhân nói: Rau cỏ thường dùng ở nơi bờ ao, vũng nước cũng có thể đem dâng vương công, tế quỷ thần được. Chỉ cốt có lòng thành kính, chứ không kể lễ vật sang hèn. Nhưng nếu không làm một bài văn tế, thì nỗi buồn rầu chua xót này không có chỗ nào phát tiết ra được”. Bảo Ngọc liền lấy một bức lụa giao trắng mà trước kia Tình Văn vẫn thích, viết một bài bằng chữ chân phương, gọi là “Bài văn tế cô phù dung”. Trước là bài tựa, sau là bài cạ Lại bày bốn thứ đồ ăn mà Tình Văn vẫn thích khi còn sống. Đến lúc chiều tà, người vắng Bảo Ngọc sai bọn a hoàn bưng đến bày ở trước hoa phù dung. Làm lễ xong, treo bài văn tế lên cành hoa, rồi khóc và đọc:

“Nay là năm thái bình bền vững, là tháng hoa dung, hoa quế đua tươi, là ngày không biết làm thế nào được. Ngọc thô trọc này ở viện Di Hồng, gọi là có nhị các hoa, lụa giao trắng, nước suối thơm và chè ướp móc, bốn thứ này tuy là vật rất tầm thường, nhưng cũng để tỏ lòng thành tín, đem đến tế ở trước nữ thần phù dung, giữ chức cai quản các hoa mùa thu ở cung Bạch Đế và có lời kính tế rằng:

Trộm nghĩ, từ khi cô xuống cõi trần, đến nay đã mười sáu năm. Họ tên quê quán thất lạc từ lâu, không sao tra cứu được. Nhớ những khi chung chăn gối, cùng tắm gội, những đêm ngồi nghỉ mát, đi chơi rong. Ngọc này cùng cô vui đùa thân mật mới được vẻn vẹn năm nam tám tháng; ngày vui sao lại ngắn ngủi thế này! Nhớ cô lúc bình sinh, chất thì cao quý, vàng ngọc cũng thua; thân lại trắng trong, tuyết băng khôn sánh. Tinh thần sáng suốt, át cả mặt trời, ngôi sao, nét mặt vui tươi, hơn hẳn giăng soi, hoa nở. Chị em mến người tài sắc, vú bõ trọng bực hiền hòa. Ngờ đâu, bay quá cao cho chim độc ghét ghen, giống cắt nọ sa vào bẫy lưới; mùi thơm lựng nên cỏ gai tức tối, khóm lau kia lại bị bừa cào! Hoa vốn nhát rồi, nào quen gió táp? Liễu xem buồn quá, khôn chống mưa rào! Bị loài sâu bọ dèm pha, mắc bệnh cao hoang nguy hiểm. Vì thế, môi anh đào nhợt lại, rền rĩ vần thơ, vẻ hồng hạnh se dần, võ vàng nét mặt. Những lời chì chiết, từ chỗ màn the; nhiều cảnh chông gai, lan ngoài cửa ngõ. Ngấm ngầm bụng đã chán rồi; bực tức oan còn buộc mãi. Vẻ cao quý tổ người ghen ghét, trong buồng the mà ngao ngán cảnh “TS”; 7 lòng kiên trinh gặp buổi gian truân, bạn khăn yếm những âm thầm nơi nhạn tái. 8 Đắng cay mình chịu; vùi dập ai thương? Tan tác mây tiên; mịt mù gót ngọc. Bãi mờ hang thuốc, hương khước tử đâu đây? Bể vắng bè thiên, thuốc hồi sinh nào thấy? Nét ngài biêng biếc, ta vẽ trước kia; tay ngọc lạnh lùng, ai người ủ ấm? Vạc nọ thuốc thừa bừa bãi; áo kia ngấn lệ đầm đìa. Hộp xạ nguyệt mở lại thêm buồn, gương đành loan vắng; gỗ đàn vân tung ra từng mảnh, lược hóa rồng baỵ Hoa vàng vứt đám cỏ gianh; hộp biếc nhặt nơi gió bụi. Lầu Chi Thước buồn tênh thất tịch, còn cái kim treo; giải Uyên Ương đứt hẳn năm dây, hỏi ai người nối? Huống chi gặp tiết kim thu; quyền về Bạch Đế. Chăn đơn mơ mộng; nhà cửa đìu hiu. Thềm quế trăng mờ, bóng đẹp hồn thơm đâu tá; màn dung hương nhạt, lưng eo hơi yếu còn chi! Đầy trời cỏ héo, nào chỉ sậy lau? Khắp đất tiếng buồn, những là giun dế. Thềm long lanh móc, tiếng chày gieo gió lọt trong rèm; tường lác đác mưa, khúc sáo oán khôn nghe ngoài viện. Trước thềm anh vũ chưa quên, luôn miệng tên thơm vẫn gọi; ngoài cửa hải đường đã héo, báo tin người ngọc sắp đi. Trò chơi sau rèm, gót sen vắng ngắt; chọi gà trên cỏ, hoa lan chờ hoài. Chỉ thêu bỏ lại, áo hoa lụa bạc ai khâu? Tơ băng gấp rồi, hương ngự bàn là chưa đốt. Theo lệnh cha lúc trước, dong xe xa tới phương viên, trái oai mẹ lần này, chống gậy toan đưa linh cữu. Chợt nghe, ván thơm bị cháy, tình “cộng huyệt” đâu còn; quách đá vỡ tan, nghĩa đồng hôi 9 đáng thẹn. Đến nỗi gió tây lùa vào chùa cũ, lẩn quất ma trơi; bóng chiều rọi khắp gò hoang, rã rời xương trắng. Thu du xào xạc; lau sậy đìu hiu. Vượn kêu dưới đá sương mù; ma khóc quanh vùng khói tỏa. Nào phải trong màn lụa đỏ, chàng nọ tình sâu; mới hay dưới bãi đất vàng, gái kia mệnh bạc. Đất Nhữ Nam dòng dòng giọt lệ, nhỏ trước gió tây; nơi Tử Trạch ngầm ngấm tình riêng, giãi cùng trăng lạnh. Than ôi! Ma quỷ thực là độc ác; thần linh nào có ghét ghen. Lũ dèm pha đành phải rạch mồm, tha làm sao được? Con ác phụ dù đem mổ bụng, giận vẫn chưa nguôi! Tuy duyên trần cô chửa bén bao lâu; nhưng lòng quê, Ngọc này khôn xiết tả. Nỗi riêng quyên luyến, thăm hỏi ân cần. Mới biết cờ thượng đế cho vời; nơi cung hoa đợi chiếu. Sống thì bạn bè lan huệ, thác thì cai quản phù dung. Tuy nghe lời hầu nhỏ, chuyện khá hoang đường, nhưng cứ ý Ngọc này, lẽ đà xác thực. Tại sao thế? Ngày trước Diệp Pháp Thiện 10 bắt hồn Lý Ung viết hết bài bia; Lý Trường Cát 11 theo lệnh Ngọc Hoàng lên làm bài ký. Việc tuy khác nhau, nhưng lẽ thì một. Nên phải lựa tài mà giao việc, nếu dùng người không đúng thì chẳng hóa ra lạm lắm sao? Vậy mới biết đức thượng đế cân nhắc từng người, giao phó công việc, rất là đúng và rât là hợp, không uổng cái tính chất trời đã phú cho mọi người. Mong linh hồn cô không bao giờ mờ tối, thường hay phảng phất về đây, nên cứ liều lĩnh đọc mấy câu quê kệch này, chắc không phải nhàm tai người sáng suốt.

Liền hát bài chiêu hồn:

– Trời xanh xanh chừ, hay cô cưỡi rồng ngọc dạo chơi trên không đây?

Đất sao mông mênh chừ, hay cô ngồi xe giao tượng xuống chơi suối vàng đây?

Nhìn tàn lụa lấp lánh chừ, hay sao Cơ, sao Vĩ sáng rực lên đây?

Dẫn đường lại có hàng tàn chừ, hay sao Nguy hư đi hộ vệ đây?

Theo hầu lại có bọn thần mây chừ, hay cô cưỡi mặt trăng đi chơi đây?

Tiếng bánh xe lộc cộc chừ, hay cô ngồi xe loan đi rong đây?

Mùi thơm thoang thoảng chừ, hay hoa hành đỗ tết làm dây đeo đây?

Màu quần áo chói lọi chừ, hay chạm mặt trăng làm đồ trang sức đây?

Mượn nơi um tùm để làm đàn tê chừ, hay cầm đuốc sen để thắp dầu hoa lan đây?

Chén rượu bằng quả bầu vẽ chừ, hay rượu ngon lẫn mùi hoa quế đây?

Ngửa mặt lên nhìn đám mây chừ, thấp thoáng như trông thấy ai đây?

Ghé tai nghe dưới làn sóng chừ, mơ màng như nghe tiếng ai đây?

Định rong chơi khắp khoảng bao la chừ, nỡ bỏ ta trơ trọi dạo cõi trần đây?

Nhờ thần gió đẩy xe cho ta chừ, để được cùng nắm dây cương trở về đây?

Nỗi thương cảm trong lòng chừ, kêu gào mãi có làm chi đây?

Sao cô cứ lặng lẽ ngồi yên chừ, hay lòng trời muốn thay đổi thế nào đây?

Đã ở yên nơi sâu thẳm chừ, lại còn muốn trở lại làm kiếp gì đây?

Đương bị gông cùm dưới hạ giới chừ, có thiêng hãy rủ ta cùng lên đây?

Ở lại hay về, thôi cô về đây?

Còn như lặng lẽ mênh mông, cô giờ nằm đấy.

Dù cô có về, ta nào trông thấy?

Màn che chằng những dây leo; xương bồ mọc thành hàng dãy.

Hẳn mắt liễu ngủ đã ham rồi, chắc lòng sen giờ không đắng mấy.

Hẹn trên non quế. Tố Nữ 12 miệng chào; đón dưới bến Lan, Bật phi 13 tay vẫy.

Sênh Lộng Ngọc 14 lách cách gần xa, trống hàn hoàng 15 thùng thùng vang dậy.

Lên vùng Tung Nhạc, hỏi Phi Tử đâu đây, dạo núi Ly Sơn, tìm lão tiên nào thấy?

Lượn sông Lạc Thủy, rùa hiện điềm lành; hát khúc Hàm Trì, thú đua điệu nhảy.

Rừng Châu Lâm 16 sáng rực, phượng đậu trên cao; sông Xích Thủy 17 đỏ ngầu, rồng gầm dưới đáy.

Lễ mọn gọi là, lòng thành nhận lấy.

Từ Hà Thành 18 xe quay bánh rầm rầm, về Huyền Phố 19 gió phất cờ hây hẩy.

Đã quấn quít sao bỗng e dè, đã hiển hiện sao còn trốn chạy?

Khi tan khi họp, như khói mây bay; lúc gần lúc xa, nhường mưa mù vậy.

Sao từng hàng rọi, mây vẫn sạch làu; trăng nửa đêm soi, núi sông lộng lẫy.

Trong khi thức ngủ, đâu thấy vui cười? Mà nỗi lòng riêng, vẫn còn áy náy?

Nay tôi ngậm ngùi than thở, giàn giụa lệ rơi.

Quãng không lặng lẽ chừ, đâu là tiếng người!

Trúc reo lách tách chừ, nghe như sáo trời!

Chim xào xạc chừ sợ bay khắp nơi!

Cá phập phồng chừ lặn xuống đáy khơi.

Để tỏ lòng thành chừ, dâng lễ kính người.

Hồn nay có thiêng, hiển hiện cho coi.

Than ôi! Thương thay! Mong cô về hưởng!

Bảo Ngọc đọc xong, liền đốt văn tế, dâng trà, quyến luyến không nỡ dứt. A hoàn giục mấy lần mới chịu quay về. Chợt nghe thấy phía sau núi đá có người cười nói: “Xin hãy đứng lại”. Hai người nghe thấy, hoảng sợ. A hoàn nhỏ quay lại nhìn thấy một bóng người trong khóm hoa phù dung đi ra. A hoàn kêu lên:

– Chết rồi, có ma! Chị Tình Văn hiện hồn về thực rồi!

Bảo Ngọc sợ hãi đứng nhìn, không biết là người hay ma.

1      Chỉ người con gái vừa đẹp vừa biết võ nghệ.

2      Cuối đời Tây Hán, anh em Trương Giác khởi binh đánh triều đình, quân lính đều đội khăn vàng làm hiệu.

3      Cũng cuối đời Tây Hán, Phàn Sùng nổi quân chống lại triều đình, quân lính đều vẽ lông mày đỏ.

4      Đời xưa là con trai hai mươi tuổi mới đội mũ.

5      Đại Nguyễn tức Nguyễn Tịch, Tiểu Nguyễn tức Nguyễn Hàm, người đời Tấn, đều nổi tiếng về vần thơ.

6      Tức Ôn Đình Quân, Lý Hạ, Bạch Cư Dị, đều là những nhà thơ nổi tiếng đời Đường.

7      Giả Nghị đời Hán, bị dèm pha phải đày ra TS.

8      Nơi biên cương chỉ có chim nhạn mới qua được.

9      Cộng huyệt và đồng hôi có nghĩa là sống chết có nhau.

10      Diệp Pháp Thiện người đời Đường. Ông nhờ Lý Ung viết bài văn bia. Lý Ung không nhận. Một hôm, Lý Ung nằm ngủ, mơ thấy mình viết bài văn bia. Khi tỉnh dậy, vẫn chưa tin thì Diệp Pháp Thiện cầm bài văn đến.

11      Tức Lý Hạ đời Đường. Một hôm, có người con gái mặc áo đỏ đến mời Lý Hạ nói: “Ngọc Đế đã làm xong lầu, mời ông lên làm bài ký”.

12      Tức Hằng Nga.

13      Tức Lạc thần.

14      Đời Tần Mục công, nàng Lộng Ngọc học sáo Tiêu Sử, sau hai người lấy nhau.

15      Ống sáo.

16      Đều là cõi tiên.

17      Đều là cõi tiên.

18      Đều là cõi tiên.

Chương 79: Rước lấy sư tử Hà Đông, Tiết Bàn hối hận – Vớ phải giống sói Trung Sơn, Nghênh Xuân nhầm to

Rước lấy sư tử Hà Đông, Tiết Bàn hối hận

Vớ phải giống sói Trung Sơn, Nghênh Xuân nhầm to

Tế Tình Văn xong, thấy trong bóng hoa có tiếng người, Bảo Ngọc giật nẩy mình. Nhìn kỹ chẳng phải ai lạ, chính là Đại Ngọc hớn hở cười nói:

– Bài văn tế rất mới lạ! Có thể cùng truyền với bài bia Tào Nga 1 được đấy.

Bảo Ngọc nghe xong đỏ mặt lên cười:

– Tôi nghĩ lối văn tế hiện giờ quen thuộc quá rồi nên đổi làm thể mới. Chẳng qua tôi làm đùa một lúc đấy thôi, ngờ đâu em lại nghe thấy. Có câu nào dở lắm, em sửa đổi lại cho.

Đại Ngọc nói:

– Bài nháp của anh để đâu em phải xem kỹ mới được. Bài dài như thế em chẳng biết anh nói những gì. Chỉ nghe ở giữa bài có hai câu “Trong màn lụa đỏ, chàng nọ tình sâu; dưới bãi đất vàng, gái kia bạc mệnh”. Hai câu đối nhau ý thì hay đấy, nhưng “trong màn lụa đỏ”, chữ tục và không xứng. Hiện có sự thực ngay trước mắt, sao anh không dùng?

– Sự thực gì ở trước mắt?

– Hiện nay cửa sổ của chúng ta đều che bằng thứ sa màu ráng trời, sao không nói “trước song sa đỏ, chàng nọ đa tình”.

Bảo Ngọc dậm chân cười nó:

– Hay lắm, hay lắm! Chỉ có em mới nghĩ ra được, nói ra được.Thế mới biết xưa nay trong thiên hạ cảnh đẹp việc hay sẵn có rất nhiều, chỉ vì chúng tôi là người ngu không nghĩ ra được đấy thôi. Nhưng có một việc, tuy câu ấy đối thế thì hay thực, nhưng em nói thế còn được, chứ tôi thì không dám đương nổi.

Nói xong lại luôn miệng “không dám”.

Đại Ngọc cười nói:

– Có hại gì? Cửa sổ của em tức là cửa sổ của anh, việc gì phải phân biệt như thế? Chỉ tổ làm cho thêm xa lạ mà thôi. Đời xưa người khác họ hoặc người giữa đường vẫn cùng nhau “cưỡi con ngựa béo, mặc áo cừu nhẹ, đến rách cũng không phàn nàn” 2 huống chi là chúng ta?

Bảo Ngọc cười nói:

– Nói về tình kết giao thì không những “ngựa béo, áo cừu” dẫu đến “vàng bạc châu báu” cũng không nên “suy bì tẩn mẩn”, nhưng quyết không thể nào sỗ sàng với các bạn khuê các được. Bây giờ tôi đổi chữ “chàng nọ” “gái kia” đi, coi như là bài của em tế thì lại càng haỵ Xưa nay em đối với cô ấy rất tử tế nên thà bỏ cả bài văn tế này đi chứ quyết không thể bỏ cái câu “trước song sa đỏ” được. Chi bằng đổi lại là “trước song sa đỏ, tiểu thư đa tình; dưới bãi đất vàng, a hoàn bạc mệnh”. Nếu được như thế, tuy không dính dáng gì đến, tôi cũng thỏa lòng.

– Cô ấy không phải là a hoàn của em, sao dùng được câu ấy? Những chữ “tiểu thư” “a hoàn” nghe cũng không được nhã. Chờ đến khi Tử Quyên chết, em sẽ dùng câu ấy cũng chưa muộn.

– Sao em lại rủa cô ấy thế?

– Chính anh rủa, chứ em có rủa nó đâu.

– Tôi nghĩ ra rồi, đổi thế này thì ổn: “Trước song sa đỏ, tôi thực vô duyên; dưới bãi đất vàng, cô sao bạc mệnh!”

Đại Ngọc nghe xong, đổi ngay nét mặt, trong bụng rất hồ nghi, nhưng không để lộ ra ngoài nét mặt. Vội mỉm cười gật đầu khen hay và nói:

– Hay đấy. Thôi đừng đổi nhảm nữa, mau về mà làm việc đi. Vừa rồi mợ sai người tìm anh, bảo là sáng sớm mai phải sang bên nhà cậu Cả. Cô Nghênh Xuân đã có người đến hỏi, có lẽ ngày mai họ đến, vì thế mợ bảo các anh sang.

– Việc gì phải vội thế? Người tôi không được khỏe, chưa chắc ngày mai đã đi được.

– Lại giở trò rồi! Em khuyên anh phải sửa đổi cái tính nết ấy đi. Chả gì cũng đã lớn rồi.

Vừa nói, Đại Ngọc vừa ho sù sụ. Bảo Ngọc nói:

– Ở đây gió lạnh, chúng ta cứ đứng mãi, nhỡ bị cảm lạnh thì không phải chuyện chơi đâu. Thôi đi về đi.

– Em cũng về nghỉ đây, ngày mai lại gặp.

Nói xong liền theo đường khác quay đi. Bảo Ngọc đành phải lẩn thẩn trở về. Chợt nghĩ không có người theo Đại Ngọc, liền sai a hoàn nhỏ đưa đi. Rồi một mình về viện Di Hồng, quả có bọn vú của Vương phu nhân đến bảo sáng sớm mai phải sang nhà Giả Xá, đúng như lời Đại Ngọc vừa nói.

Giả Xá đã hứa gả Nghênh Xuân cho nhà họ Tôn. Họ Tôn người ở phủ Đại Đồng, ông cha xuất thân quan võ, là môn sinh của hai phủ Vinh, Ninh ngày trước, kể ra cũng là chỗ thân. Hiện giờ nhà họ Tôn chỉ có một người ở Kinh tập chức chỉ huy, người ấy tên là Tôn Thiệu Tổ, mặt mũi khôi ngô, thân thể hùng tráng, theo nghề cung mã, giao thiệp tinh khôn, chưa đầy 30 tuổi, nhà lại giàu có, hiện đương hậu bổ ở bộ binh để đợi thăng chức.

Giả Xá thấy anh ta chưa có vợ, lại là con cháu nhà thế gia, nhân phẩm và gia thế cũng đều xứng đáng, nên chọn làm giai tế. Việc này cũng đã trình Giả mẫu. Giả mẫu không bằng lòng, nhưng nghĩ việc vợ chồng là tự ý trời, cha nó đã đứng làm chủ thì việc gì phải dây vào cho lắm chuyện? Vì thế chỉ nói “biết rồi”, ngoài ra không tỏ ý gì nữa.

Giả Chính xưa nay vẫn ghét nhà họ Tôn, tuy là chỗ thế gia, chẳng qua ông nó ngày trước hâm mộ thế lực phủ Vinh, phủ Ninh, có những việc không thu xếp được, phải đến xin làm môn hạ, chứ không phải là dòng dõi thi thự Ông ta đã khuyên ngăn mấy lần, nhưng Giả Xá không nghe, nên đành phải chịu.

Bảo Ngọc chưa hề gặp mặt Tôn Thiệu Tổ bao giờ, hôm sau đành phải đến cho qua chuyện. Nghe nói ngày cưới đã đến nơi, chỉ trong năm nay Nghênh Xuân sẽ về nhà chồng, lại thấy Hình phu nhân đến trình Giả mẫu xin đón Nghênh Xuân ra khỏi vườn Đại Quan, Bảo Ngọc càng mất vui, ngày nào cũng ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, không biết làm gì cho khuây. Sau lại được tin cho bốn a hoàn đi theo hầu Nghênh Xuân, Bảo Ngọc giậm chân nói:

– Từ nay trở đi, trên đời này lại thiếu hẳn năm người trong sạch.

Rồi ngày nào cũng đến Tử Lăng Chảu, ngắm nhìn ngơ ngẩn, thấy hiên song lặng lẽ, bình trường vắng tanh, chỉ còn có vài bà già ở đấy trực dạ. Trên bờ thì hoa lau lá sậy, lảo đảo tả tơi, hình như có vẻ nhớ thương người cũ, chứ không khoe đẹp đua tươi như những ngày trước nữa. Bảo Ngọc không cầm lòng được, liền ứng khẩu đọc một bài hát:

Đêm thu bờ ao gió thổi lạnh,

Ấu đỏ sen tàn ngọc lấp lánh.

Hoa lau lá ấu buồn làm sao,

Móc nặng sương sa cây rã nhánh.

Suốt ngày vắng hẳn tiếng đánh cờ,

Lấm tấm bàn cờ đất én nhơ.

Người xưa xa bạn còn thương tiếc,

Tình nghĩa chân tay nỡ để ngơ!

Bảo Ngọc vừa ngâm xong, chợt nghe đằng sau có tiếng người cười nới:

– Sao cậu lại đâm ngây ra thế?

Bảo Ngọc vội quay lại nhìn, hóa ra Hương Lăng, Bảo Ngọc vội cười nói

– Chị Ơi, bây giờ chị đến đây làm gì? Đã lâu không thấy chị đến chơi.

Hương Lăng vỗ tay cười hì hì nói:

– Sao tôi lại không muốn đến? Vì bây giờ anh cậu đã về, tôi đâu được tự do như trước! Vừa rồi bà sai người đi tìm mợ Phượng, nhưng không thấy, bảo là mợ ấy vào chơi trong vườn. Tôi nghe nói thế, liền nhận lấy việc này vào đây tìm, gặp a hoàn mợ ấy lại bảo là ở bên Đạo Hương thôn. Giờ tôi sang bên ấy, không ngờ lại gặp cậu. Tôi còn muốn bỏi cậu: Chị Tập Nhân mấy hôm nay có khỏe không? Tại sao chị Tình Văn lại chết đột ngột như vậy? Chị ấy mắc bệnh gì? Cô Hai dọn đi quá nhanh! Cậu xem nơi này chả mấy chốc đã vắng tanh vắng ngắt!

Bảo Ngọc cứ ậm ừ, lại mời Hương Lăng đến viện Di Hồng uống nước. Hương Lăng nói:

– Bây giờ không thể đến được, phải đi tìm mợ Hai, nói xong việc chính rồi tôi sẽ đến.

– Việc gì mà vội thế?

– Về việc anh cậu lấy vợ, nên rất cần.

– Thế thì định hỏi con cái nhà ai mới đáng? Đã rêu rao đến nửa năm nay rồi, hôm nay thì bảo con nhà họ Trương khá, ngày mai lại muốn lấy con nhà họ Lý, ngày kia lại bàn tán đến con nhà họ Vương tốt hơn. Con gái những nhà ấy không biết có tội gì mà cứ để cho người tự dưng bàn ra tán vào mãi?

– Bây giờ thì nhất định rồi, không phải vướng vít đến nhà khác nữa.

– Định hỏi con nhà ai đấy?

– Hôm nọ anh cậu đi buôn, tiện đường đến thăm nhà bà con quen thuộc. Nhà này đã quen biết từ lâu, cùng nhà chúng tôi đều ghi tên mua hàng cho nhà vua ở bộ hộ, cũng là một nhà đại gia hạng nhất, hạng nhì. Nói về lai lịch thì hai phủ ta đều biết tiếng nhà ấy. Khắp trong kinh thành này, trên từ vương hầu, dưới đến người buôn bán, đều gọi nhà ấy là “nhà hoa quế họ Hạ”.

– Sao gọi là “Nhà hoa quế họ Hạ”?

– Nhà ấy vốn là họ Hạ, rất giàu. Không kể số ruộng đất, riêng chỗ trồng quế cũng có mấy chục khoảnh. Cả đất Trường An này, những hiệu bán hoa quế ở trong và ngoài thành, đều là của nhà ấy cả. Tất cả những chậu cảnh bày ở trong cung cũng đều là của nhà ấy đem dâng. Vì thế mới có cái tên riêng ấy. Hiện giờ ông cụ đã mất rồi, chỉ còn bà cụ già ở với cô con gái. Cô này không có anh em gì cả. Đáng tiếc nhà ấy thế mà tuyệt tự.

– Nhà ấy tuyệt tự hay không cũng mặc, chỉ hỏi xem cô ấy có đẹp không? Tại sao anh ấy lại bằng lòng?

– Một là duyên trời, hai là anh ấy ưng ý, “mắt tình nhìn thấy Tây Thi”. Năm trước hai nhà thường đi lại với nhau, từ bé họ vẫn chơi đùa một chỗ. Kể họ là anh em con cô con cậu, không phải giữ hiềm nghi gì. Mấy năm xa nhau, hôm trước anh cậu có đến nhà chơi. Bà cụ Hạ không có con trai, thấy anh cậu dáng dấp như vậy, vừa khóc vừa cười, coi quý hơn con đẻ. Rồi cho hai người gặp nhau. Ai ngờ cô ấy tươi đẹp như bông hoa, cũng đọc sách biết chữ, vì thế anh cậu bằng lòng ngaỵ Cả bọn làm công trong hiệu cũng ở đấy quấy nhiễu ba bốn ngày. Họ còn giữ lại mấy hôm nữa, anh cậu cáo từ mãi mới để cho về. Vừa về đến nhà, anh cậu đã thì thào với dì cậu đi hỏi. Dì cậu đã biết cô ấy, lại là nơi môn đăng hộ đối, nên cũng bằng lòng, liền bàn với dì Hai và mợ Phượng, rồi sai người đi hỏi, thì được ngaỵ Ngày cưới gấp quá, nên chúng tôi bận rộn túi bụi. Tôi chỉ mong cô ấy về bên này cho sớm, lại thêm được một người làm thơ nữa đấy.

– Chị nói thế, nhưng tôi vẫn để tâm lo xa hộ chị!

– Cậu nói gì thế? Tôi vẫn không hiểu.

– Có gì mà chị không hiểu? Sợ có người khác, anh ấy sẽ không thương chị nữa.

Hương Lăng nghe nói, đỏ bừng mặt lên, nghiêm nét mặt nói:

– Nói thế là thế nào? Xưa nay chúng mình vẫn kính nể nhau, bây giờ cậu lại nhắc đến những chuyện ấy. Không trách được ai cũng bảo cậu là người không thể gần gũi được!

Vừa nói vừa quay người đi về.

Bảo Ngọc thấy Hương Lăng như vậy, tưng hửng như mất một vật gì, đứng ngẩn người ra một lúc, sững sờ buồn rũ, rồi quay về viện Di Hồng, suốt đêm trằn trọc không ngủ. Hôm sau bỏ cả ăn uống, người phát sốt lên. Cũng vì những việc gần đây như khám xét vườn Đại Quan, đuổi Tư Kỳ, xa Nghênh Xuân, thương Tình Văn, Bảo Ngọc đâm ra xấu hổ sợ hãi và thương xót, lại thêm bị cảm phong hàn, nên sinh ra bệnh, nằm liệt giường không dậy được. Giả mẫu nghe thấy thế, ngày nào cũng đến thăm nom. Vương phu nhân trong lòng hối hận về việc Tình Văn đã quá trách Bảo Ngọc, nhưng vẫn không để lộ ra ngoài mặt, chỉ dặn dò bọn vú già hầu hạ trông nom cẩn thận. Một ngày hai lần mời thầy đến xem mạch bốc thuốc. Sau một tháng, Bảo Ngọc mới dần dần bình phục. Phải kiêng khem một trăm ngày mới được ăn đồ mặn, đồ mỡ và mới được đi chơi.

Trong một trăm ngày, Bảo Ngọc không được ra khỏi cửa, chỉ chơi đùa trong nhà thôi. Sau bốn năm mươi ngày, bị gò ép quá Bảo Ngọc nóng lòng nóng ruột, chịu làm sao được? Dù đã bày hết cách, nhưng Giả mẫu và Vương phu nhân nhất định không chịu nghe, nên đành phải chịu, chỉ chơi đùa bừa bãi với bọn a hoàn, không thiếu cách gì. Sau lại nghe thấy bên Tiết Bàn bày tiệc hát xướng, vui nhộn lạ thường, đã đón cô dâu về nhà, người rất xinh đẹp lại thông chữ nghĩa. Bảo Ngọc chỉ bực không được đến nhìn mặt cho thỏa. Ít lâu sau lại nghe Nghênh Xuân về nhà chồng, Bảo Ngọc nghĩ đến khi chị em cùng ở chung quấn quít với nhau, giờ phải xa nhau, dù có gặp lại nữa, chắc cũng không được thân mật như trước. Hiện giờ lại không được đến thăm, thực làm cho người ta buồn rầu khôn xiết.

Bảo Ngọc đành phải nén lòng cố nhịn, cùng bọn a hoàn nô đùa cho đỡ buồn, may khỏi bị cái nạn cha bắt đi học. Trong một trăm ngày ấy, Bảo Ngọc cùng a hoàn nghịch ngợm bừa bãi, không sợ hãi gì, giở hết những trò chơi đùa trên đời chưa từng thấy, chỉ trừ không kéo đổ viện Di Hồng thôi.

Hương Lăng từ lúc cãi lại Bảo Ngọc, cho là Bảo Ngọc có ý sỗ sàng: “Từ nay ta nên tránh xa cậu ấy là phải”. Vì thế ít khi lui tới vườn Đại Quan. Cô ta ngày nào cũng bận rộn về việc Tiết Bàn cưới vợ, vì cô ta cho là sẽ được cái bùa hộ thân, tự mình trút bớt một phần gánh nặng, như thế sẽ được yên lặng hơn. Lại biết người ấy có tài có sắc, chắc là nhã nhặn và dịu dàng, nên mong sao chóng đến ngày cưới, so với Tiết Bàn lại còn sốt ruột hơn nhiều. Mong mãi mới đến ngày cưới, Hương Lăng để ý hầu hạ rất là cẩn thận.

Cô gái họ Hạ năm nay mới mười bảy tuổi, có chút nhan sắc, cũng biết ít nhiều chữ nghĩa, nhưng bụng dạ thâm hiểm có thể nối gót được Phượng Thự Chỉ hiềm một nỗi, từ bé cha chết sớm, không có anh em ruột thịt, một mình là gái, được mẹ nâng niu chiều chuộng như hòn ngọc báu, hễ con muốn gì là mẹ chịu theo ngay, vì thế không khỏi gây nên cái tính chú Chích 3, tôn mình như đức Phật, rẻ người như bùn; bề ngoài thì tươi đẹp như bông hoa, nhưng bên trong lại có tính nóng nảy như sấm sét. Khi ở nhà đối với đám a hoàn thì hay gắt gỏng chửi mắng đánh đập. Bây giờ đi lấy chồng, tự cho mình đã làm bà chủ, không còn bẽn lẽn dịu dàng như xưa, mà phải ra oai mới áp đảo được mọi người. Chị ta thấy Tiết Bàn là người tính nết ương ngạnh, kiêu ngạo xa xỉ, nếu không trị ngay từ đầu thì sau này tất không thể phất cờ chỉ huy được. Lại thấy Hương Lăng là người nàng hầu tài sắc trọn vẹn, càng nảy ra cái ý: “Há để người ngoài ngủ say bên màn” của vua Tống Thái Tổ diệt nước Nam Đường 4 trước kia. Vì nhà chị ta nhiều hoa quế, nên lúc bé đặt tên là Kim Quế. Khi chị ta còn nhà, không cho ai được nói đến hai chữ “kim” và quế”. Nếu ai không để ý, nhỡ mồm nói nhầm một chữ, là bị chị ta đánh đập và phạt thật nặng. Chị ta cho rằng hai chữ “hoa quế” không thể cấm được, tất phải đổi ra một tên khác. Lại nghĩ: “Hoa quế vẫn có điển Quảng Hàn Thường Nga”, liền đổi hoa quế làm hoa “thường nga” để thầm ví thân phận mình. Tiết Bàn vốn là người có mới nới cũ, lại sẵn tính mạnh rượu yếu cơm, bây giờ lấy được người vợ mới, khôn xiết vui mừng, nên việc gì hắn cũng chiều chuộng. Kim Quế thấy được đằng chân liền lân đằng đầu. Trong khoảng một tháng đầu hai người vẫn còn khí khái ngang nhau, chừng vài tháng sau, Tiết Bàn đã phải chịu nhụt dần.

Một hôm uống rượu xong, Tiết Bàn muốn làm việc gì, bàn với Kim Quế, Kim Quế nhất định không nghe. Tiết Bàn không nhịn được, nói mấy câu rồi hằm hằm bỏ đi. Kim Quế liền khóc lóc như người say rượu không ăn không uống, giả cách ốm, phải mời thầy đến xem bệnh. Thầy thuốc nói: “Khí huyết trái ngược nhau, phải uống khoan hung thuận khí”. Tiết phu nhân giận quá, mắng Tiết Bàn một trận: “Bây giờ lấy vợ sắp có con rồi, mày còn càn dở như vậy. Nhà người ta nâng niu nó như chim phượng hoàng, khó khăn lắm mới đẻ được một cô con gái, mơn mởn như đóa hoa. Thấy mày là người tử tế, họ mới gả chọ Mày không biết thân biết phận, một lòng một dạ ăn ở với nhau cho hòa thuận, lại còn càn dở như thế. Nốc rượu cho đẫy vào, rồi hành hạ con người ta! Bây giờ phải tốn tiền uống thuốc, tốn công chạy chữa”.

Tiết phu nhân nói một chặp, làm Tiết Bàn hối hận phải đến vỗ về Kim Quế. Kim Quế thấy mẹ chồng nói thế, lại càng lên nước, làm bộ làm tịch, không thèm nhìn đến Tiết Bàn. Tiết Bàn không biết làm thế nào, đành than thở một mình. Chừng nửa tháng sau, hắn mới dần dần dỗ được Kim Quế nguôi lòng. Từ đó Tiết Bàn lại càng phải giữ gìn cẩn thận, tính khí lại nhụt đi một nửa.

Kim Quế thấy chồng đã bị đánh đổ, mẹ chồng lại hiền lành, liền dần dần tìm cách lên ngựa múa gươm. Ban đầu chỉ mới kiềm chế Tiết Bàn, về sau ra vẻ nũng nịu định áp lép cả Tiết phu nhân và Bảo Thoa. Bảo Thoa đã biết rõ tính ngang ngược của chị ta, thường tùy cơ đối phó, dùng những lời kín đáo để đe nẹt Kim Quế, Kim Quế biết là không thể trêu được, muốn tìm chỗ sơ hở, nhưng tìm không ra, đành phải nén lòng chiều chuộng.

Một hôm, Kim Quế ngồi rỗi nói chuyện phiếm với Hương Lăng, hỏi đến cha mẹ quê quán, thì Hương Lăng đều nói đã quên mất cả. Kim Quế không bằng lòng, cho là có ý nói dối, rồi hỏi:

– Hai chữ “Hương Lăng” ai đặt cho đấy?

– Cô Bảo đặt cho đấy.

– Ai cũng nói cô Bảo thông, nhưng chị xem cái tên này thì thật là không thông.

– Mợ nói cô Bảo không thông, là vì mợ chưa bàn luận với cô ấy thôi. Cứ kể ra sức học của cô ấy thì ngay ông lớn bên phủ Giả cũng thường khen đấy.

1      Độ Thượng đời Hậu Hán làm bài văn bia ghi sự tích người thiếu nữ tên là Tào Nga.

2      Chữ trong luận ngữ.

3      Một tên trộm đời Xuân Thu, tính rất tàn bạo.

4      Xem chú thích ở hồi 76#). Ở đây ý nói Hạ Kim Quế ghen không muốn để cho Hương Lăng sống yên ổn bên cạnh.

Chương 80: Gặp anh chồng phũ, Hương Lăng bi trận đòn oan – Chữa đàn bà ghen, đạo sĩ kê bài thuốc nhảm

Gặp anh chồng phũ, Hương Lăng bi trận đòn oan

Chữa đàn bà ghen, đạo sĩ kê bài thuốc nhảm

Kim Quế nghe thấy nói thế, ngoảnh mặt đi, bĩu môi, khịt mũi, cười nhạt nói:

– Khi hoa ấu nở có mùi thơm đâu? Nếu bảo là hoa ấu thơm, thì các hoa thơm khác sẽ để nào chỗ nào? Thực là rất mực không thông.

Hương Lăng nói:

– Không những hoa ấu thơm, ngay đến lá sen, gương sen cũng đều có một mùi thơm mát. Nhưng mùi thơm ấy không thơm bằng mùi hoa, nếu khi thanh vắng, hoặc sáng sớm hay nửa đêm, ta chịu khó thưởng thức, thì cái mùi ấy cũng thơm mát như hoa. Ngay cả đến hoa ấu, hoa súng, lá lau, gốc sậy, nếu được hơi mưa móc vun tưới, thì cái mùi thơm mát ấy cũng làm cho người ta tỉnh táo nhẹ nhàng.

– Theo như cô nói, thì hoa quế, hoa lan thơm không ra gì à?

Hương Lăng đương lúc hăng, quên cả kiêng kỵ, thuận miệng nói luôn:

– Mùi thơm của hoa lan hoa quế thì hoa khác không thể bì được.

Nói chưa dứt câu thì a hoàn của Kim Quế tên là Bảo Thiềm trỏ ngay vào mặt Hương Lăng mắng:

– Cô đáng chết! Sao dám gọi tên mợ ra?

Hương Lăng chợt nghĩ ra, băn khoăn ngượng nghịu vội cười thưa:

– Tôi trót buột miệng, xin mợ đừng để ý.

Kim Quế cười nói:

– Có làm chuyện gì ấy. Cô thực cẩn thận quá. Nhưng tôi nghĩ chữ “Hương” vẫn không ổn, muốn đổi ra một chữ khác, không biết cô có bằng lòng hay không?

Hương Lăng cười nói:

– Sao mợ lại nói thế? Ngay thân tôi bây giờ cũng là thuộc về mợ rồi, đổi một chữ tên mà mợ lại hỏi tôi có bằng lòng hay không? Như thế tôi đâu dám nhận. Mợ xem chữ nào hay thì đặt tên cho tôi chữ ấy.

Kim Quế cười nhạt:

– Cô nói cũng đúng đấy, nhưng chỉ sợ chị Bảo để bụng thôi.

Hương Lăng cười thưa:

– Mợ chưa biết, lúc trước mua tôi về, cốt để hầu mẹ thôi, nên cô Bảo đặt cho tôi cái tên ấy. Về sau tôi sang hầu cậu và bây giờ có mợ về đây, lại càng không dính dáng gì đến cô ấy nữa. Vả chăng cô ấy là người hiểu đời thì việc ấy làm gì mà phải tức giận?

– Cô đã nói thế thì chữ “hương” không ổn bằng chữ “thu”. Vì mùa thu thì củ ấu, hoa? ấu mọc nhiều, như thế chẳng có gốc tích hơn chữ “hương” hay sao?

– Thôi tôi xin nghe lời mợ.

Từ đấy Hương Lăng đổi tên là Thu Lăng. Bảo Thoa cũng chẳng để ý đến.

Tiết Bàn xưa nay vẫn có tính “được voi đòi tiên”. Hắn lấy được Kim Quế rồi, lại thấy a hoàn của Kim Quế là Bảo Thiềm có chút nhan sắc, đi đứng lẳng lơ đáng yêu, nên thường sai lấy nước pha trà, cố ý chọc ghẹo nó. Bảo Thiềm tuy đã biết mùi đời, nhưng lại sợ Kim Quế, nên không dám sỗ sàng, hãy để ý xem nét mặt Kim Qu thế nào đã. Kim Quế cùng dò biết ý ấy, nghĩ bụng: “Mình đương định bày binh bố trận làm hại Hương Lăng, chưa tìm được chỗ sơ hở, thì anh chàng đã lại lấm lét đến Bảo Thiềm. Mình hãy liều gán Bảo Thiềm cho hắn, thế nào hắn cũng thưa nhạt Hương Lăng. Thừa dịp ấy, ta sẽ gạt bỏ Hương Lăng, bấy giờ Bảo Thiềm là người của mình thì cũng dễ xử thôi”.

Chủ ý đã định, chị ta chỉ đợi thời cơ là ra tay.

Một hôm vào buổi tối, Tiết Bàn ngà ngà say, sai Bảo Thiềm cầm lấy chén, cố ý nắm tay Bảo Thiềm. Bảo Thiềm lại làm bộ lẩn tránh, rụt tay lại, hai bên cùng nhỡ taỵ “Choang” một tiếng, chén nước rơi xuống đất, bắn ra cả người. Tiết Bàn có ý ngượng, nói đổ Bảo Thiềm cầm chén không cẩn thận.

Bảo Thiềm nói:

– Vì cậu đỡ chén không cẩn thận.

Kim Quế cười nhạt, nói:

– Giọng lưỡi của hai người đều khá cả đấy, chẳng ai dại đâu.

Tiết Bàn chỉ cúi đầu mỉm cười không nói. Bảo Thiềm thì đỏ mặt đi ra. Đến lúc đi ngủ, Kim Quế cố ý đuổi Tiết Bàn đi ngủ ở chỗ khác, càng đỡ bận thân. Tiết Bàn chỉ cười.

Kim Quế nói:

– Muốn làm gì thì cứ nói cho em biết, đừng có lén lút, chả ăn thua gì đâu!

Tiết Bàn nghe nói, mượn hơi men, quỳ ngay trên chăn, kéo Kim Quế cười nói:

– Em ơi, nếu em để Bảo Thiềm cho anh, thì em muốn gì, anh cũng xin vâng. Em muốn ăn óc người sống, anh cũng lấy được cho em.

Kim Quế cười nói:

– Cậu nói chẳng thông một tí nào. Cậu yêu ai cứ nói rõ ra, rồi lấy làm nàng hầu, đừng để ngoài trông thấy, đâm ra khó coi. Còn em thì có cần cái gì đâu?

Tiết Bàn nghe vợ nói thế, mừng quá, tạ Ơn không ngớt. Đêm hôm ấy hắn cố làm trọn phận sự người chồng, hết sức chiều chuộng Kim Quế. Hôm sau hắn cũng không đi đâu, chỉ ở trong nhà đùa nghịch, lại càng bạo gan thêm. Đến buồi chiều, Kim Quế cố ý đi ra ngoài, để cho hai người ở nhà có dịp gần nhau. Tiết Bàn liền giở trò gạ gẫm. Bảo Thềm đã biết tám chín phần rồi, nên cũng giả cách nửa muốn nửa đừng, ngờ đâu Kim Quế để bụng rình, giữa lúc hai người đang giằng co, sắp vào cuộc, chị ta liền sai gọi a hoàn nhỏ là Tiểu Xả nhi đến.

A hoàn nhỏ này vẫn hầu Kim Quế từ lúc bé, vì bố mẹ nó mất sớm, không có người chăm nom, nên ai cũng gọi nó là Tiểu Xả nhi, chuyên làm việc vặt. Bấy giờ Kim Quế đã có ý định sẵn, gọi nó đến dặn:

– Mày đi bảo cô Thu Lăng vào buồng lấy khăn tay của tao ra đây, đừng nói là tao bảo mày.

Tiểu Xả nhi chạy một mạch đi tìm Thu Lăng nói:

– Cô Lăng, mợ bỏ quên cái khăn mặt ở trong buồng. Cô đi vào lấy ra đưa cho mợ có được không?

Hương Lăng gần đây hay bị Kim Quế hành hạ, không biết tại sao, nên tìm hết cách chiều chuộng để hòng lấy lòng Kim Quế. Vừa nghe nói thế, liền đi vào buồng lấy khăn mặt, không ngờ gặp lúc hai người đương co kéo nhau. Thu Lăng chạy đâm sầm vào, thấy thế xấu hổ quá, mặt mũi đỏ bừng lên, quay người tránh đi không kịp. Tiết Bàn cho là việc ấy đã công khai rồi, trừ Kim Quế ra, không sợ ai cả, vì thế cửa cũng không đóng. Khi Thu Lăng vào, hắn có xấu hổ đấy, nhưng cũng không để ý, Bảo Thiềm vốn là đứa đanh đá, giờ thấy Thu Lăng, giận không có chỗ nào trốn được, liền đẩy Tiết Bàn, chạy một mạch ra ngoài, miệng vẫn càu nhàu oán trách, nói là Tiết Bàn dùng sức cưỡng dâm. Tiết Bàn chật vật mới dỗ được Bảo Thiềm vào tay, lại bị Thu Lăng phá đám, cuộc vui biến thành cơn giận, đều trút cả lên người Thu Lăng. Hắn không cho ai phân trần, chạy ra ngoài quát mắng:

– Con đĩ chết đâm chết chém này! Tại sao lúc này mày lại dẫn thần xác đến đây làm gì?

Thu Lăng biết là việc không hay, ba chân bốn cẳng chạy mất. Tiết Bàn quay lại tìm Bảo Thiềm thì đã mất hút. Lúc đó hắn giận quá, chỉ làu nhàu mắng Thu Lăng. Sau khi ăn cơm chiều, Tiết Bàn rượu đã ngà ngà say, đến lúc tắm rửa, không ngờ nước hơi nóng, bị bỏng chân, liền cho là Thu Lăng có ý hại mình. Hắn trần truồng đuổi đá Thu Lăng mấy cái. Thu Lăng xưa nay chưa bị ức như thế bao giờ, nhưng đã đến nông nỗi này, không biết làm thế nào, đành chỉ than thân trách phận, rồi bỏ đi.

Kim Quế đã rỉ tai với Bảo Thiềm, đêm nay cho Tiết Bàn cùng Bảo Thiềm vào ngủ ở buồng Thu Lăng và bảo Thu Lăng sang ngủ hầu ở buồng mình. Lúc đầu Thu Lăng không chịu. Kim Quế bảo Thu Lăng cho mình là bẩn thỉu hoặc muốn rảnh thân, sợ đêm phải hầu hạ vất vả. Rồi chị ta mắng:

– Ông chủ đốn mạt của nhà mày hễ thấy người nào là yêu người ấy. Hắn đã chiếm mất a hoàn của ta, lại không cho mày sang đây thay, như vậy là ý định thế nào? Chắc là hắn muốn bắt ta chết đi thì mới thôi.

Tiết Bàn thấy thế, lại sợ làm ngáng trở đến việc mình với Bảo Thiềm, liền chạy lại mắng Thu Lăng:

– Con khốn nạn này! Mày không bước đi thì tao đánh cho tan xác bây giờ.

Thu Lăng không biết làm thế nào, đành phải mang chăn đệm đến. Kim Quế bảo Thu Lăng trải chiếu ngủ ở dưới đất. Thu Lăng đành phải nghe lời, vừa nằm xuống thì Kim Quế đã gọi pha nước, một lúc lại bắt bóp đùi, cứ thế mỗi đêm bảy, tám lần, không để cho Thu Lăng nằm ngủ yên được một lát.

Tiết Bàn với Bảo Thiềm như được ngọc báu, tất cả mọi việc đều bỏ mặc đấy. Kim Quế tức giận chỉ mắng thầm:

– Hãy cho mày sướng mấy hôm để dần dần trị được con kia rồi lúc đó đừng có trách tao!

Chị ta một mặt cố nhịn, một mặt tìm cách trị Thu Lăng. Độ được nửa tháng, chị ta giả cách ốm, nói là đau bụng quá đỗi, chân tay cứng đờ, chữa mãi không khỏi. Ai cũng cho là bị Thu Lăng chọc tức.

Chạy chữa mấy hôm, bỗng ở trong gối của Kim Quế rơi ra một hình nhân bằng giấy, mặt trên viết năm tháng ngày giờ sinh của Kim Quế, có năm cái kim cắm vào bụng, và các đầu khớp xương. Bấy giờ mọi người đều cho là việc lạ, đi báo Tiết phu nhân. Tiết phu nhân tay chân rụng rời, vội vàng chạy đến. Tiết Bàn lại càng rối rít, định tra khảo mọi người.

Kim Quế nói:

– Việc gì phải tra oan người tả Có lẽ là cái bùa trừ tà của Bảo Thiềm đấy.

– Dạo này Bảo Thiềm có được mấy khi rỗi mà vào buồng mợ, sao lại đổ oan cho người ngay thẳng?

– Không phải Bảo Thiềm thì còn ai nữa. Chẳng lẽ tôi tự làm hại tôi à? Người khác thì ai dám vào buồng của tôi?

– Hiện giờ Thu Lăng ngày nào cũng ở gần mợ, chắc nó phải biết, cứ tra hỏi nó trước thì rõ.

– Tra hỏi ai? Ai chịu nhận? Theo ý tôi thì cứ giả vờ không biết, bỏ qua việc này đi là xong. Rút cuộc tôi chết thì cũng không quan hệ gì, người ta lại càng được lấy vợ khác đẹp hơn. Theo lương tâm mà nói, cũng chẳng qua vì ba người đều ghét tôi cả. – Chị ta vừa nói vừa khóc rống lên.

Tiết Bàn nghe vậy càng giận, tiện tay với lấy một cái dóng cửa, chạy thẳng đi tìm Thu Lăng, không cho nói câu nào đánh bừa vào đầu, vào mặt, vào khắp người Thu Lăng, cứ đổ riệt cho Thu Lăng làm việc ấy. Thu Lăng kêu oan. Tiết phu nhân chạy đến mắng át đi.

– Mày không hỏi rõ đầu đuôi mà đánh người tạ Ta xem con bé ấy hầu hạ mấy năm nay, có sơ suất bao giờ đâu. Khi nào nó dám làm việc mất lương tâm như thế? Mày hỏi cho ra trắng đen, rồi hãy giở lối đấm đá.

Kim Quế thấy mẹ chồng nói thế, sợ Tiết Bàn nể nang, đâm chùn, liền to tiếng khóc ầm lên, kể lể:

– Hơn nửa tháng nay anh cướp mất Bảo Thiềm của tôi đi, không cho nó vào buồng, chỉ có Thu Lăng ngủ với tôi thôi. Tôi muốn tra hỏi Bảo Thiềm thì anh bênh nó. Giờ anh lại đâm tức giận đánh Thu Lăng. Thôi cứ làm cho tôi chết đi, rồi anh kén người giàu sang xinh đẹp hơn mà lấy, việc gì anh phải bày ra cái trò đùa này?

Tiết Bàn nghe nói vậy lại càng tức thêm. Tiết phu nhân nghe Kim Quế nói câu nào cũng có vẻ độc ác, áp chế con mình, rất là bực. Ngờ đâu đứa con trơn hèn, bị nó áp chế cứ chịu nhũn đi như con chi chi ấy. Đã thế, lại còn tằng tịu với con a hoàn, để nó nói cho là cướp mất người của nó. Nó lại muốn được cái tiếng là người hòa nhã biết nhường chồng. Rút cục cái hình nhân ấy không biết ai làm ra. Câu tục ngữ nói rất đúng: “Quan thanh khó xử việc nhà”, bây giờ bố mẹ chồng cũng khó xử đoán được việc riêng của dâu con. Bà ta không biết làm thế nào, đành chỉ mắng Tiết Bàn:

– Cái của oan trái này, con chó còn có thể diện hơn mày! Ai ngờ mày cắm đầu đi mò cả con a hoàn hầu cận, để cho vợ mày nó bảo là cướp mất a hoàn của nó, liệu mày còn mặt mũi nào trông thấy người ta nữa? Mày không biết ai làm cái bùa ấy, cũng không hỏi cho ra nhẽ, đã đánh ngay người tạ Tao biết mày là đứa có mới nới cũ, mày phụ cả lòng tốt của người ta trước đây. Dù nó không ra gì, mày cũng không nên đánh nó. Tao sẽ bảo ngay người mối đến để bán nó đi, thế là mày được rảnh mặt.

Tiết phu nhân tức quá. lại bảo:

– Hương Lăng! Thu nhặt đồ đạc đi theo tao.

Rồi bà ta lại gọi người bảo:

– Lại tìm ngay người mối lại đây, bán nó đi lấy mấy lạng bạc, thế là nhổ được cái gai trong thịt, cái đinh trong mắt, để cho cả nhà được sống yên ổn!

Tiết Bàn thấy mẹ nổi giận, cứ cúi đầu xuống. Kim Quế nghe Tiết phu nhân nói mấy câu ấy, liền ngoảnh mặt ra ngoài cửa sổ khóc và nói:

– Bà muốn bán người thì cứ bán, không cần phải nói người nọ chọc người kia. Không lẽ chúng tôi lại là người hay ghen tuông không biết dung kẻ dưới tay sao? Tại sao nhổ gai trong thịt, nhổ đinh trong mắt? Ai là cái đinh, ai là cái gai? Nếu tôi mà ghen với con Thu Lăng thì đời nào tôi chịu cho con a hoàn của tôi làm nàng hầu.

Tiết phu nhân nghe nói tức quá, run người, nghẹn lên cổ họng nói:

– Thế là phép tác nhà nào đấy? Mẹ chồng nói ở trong nhà, thì nàng dâu cãi lại ở ngoài cửa sổ. Khen cho mày là con gái nhà đại gia đấy! Động tới là đối gia đối giảm. Mày nói cái gì thế?

Tiết Bàn tức quá giậm chân nói:

– Thôi đi, thôi đi! Người ngoài nghe thấy thì người ta cười cho đấy!

Kim Quế nghĩ bụng: “Không làm thì thôi, đã làm thì phải làm cho to chuyện” nên càng kêu ầm lên:

– Tôi không sợ ai cười cả. Con vợ lẽ nhà anh định triệt tôi, hại tôi, tôi lại còn sợ ai cười nữa? Chi bằng anh giữ nó lại, bán quách tôi đi! Ai chả biết nhà họ Tiết lắm tiền, việc gì cũng lấy của đè người, lại cậy có họ hàng thân thế, áp chế người ta! Sao anh không làm ngay đi, lại còn chờ gì nữa? Nếu chê tôi không ra gì, thì ai bảo các người mù mắt, năm lần bảy lượt đến nhà tôi?

Rồi chị ta vừa khóc vừa giãy giụa, vừa đánh tát mình. Tiết Bàn tức quá, nói cũng dở, khuyên cũng dở, đánh cũng dở, van xin cũng dở, đành cứ đi ra đi vào, thở vắn than dài, rồi tự trách mình vận hạn đen đủi!

Được Bảo Thoa khuyên ngăn, Tiết phu nhân đi về, cứ gọi người đến để bán Hương Lăng.

Bảo Thoa cười nói:

– Nhà ta đây chỉ biết mua người, chứ không bao giờ bán người. Mẹ giận quá đâm ra lẩn. Người ta nghe thấy chẳng chê cười hay sao? Nếu anh chị ghét bỏ nó, thì cứ giữ nó lại để hầu con. Con cũng đương thiếu người đây.

Tiết phu nhân nói:

– Giữ nó lại chỉ tổ bực mình thôi, chi bằng tống nó đi cho yên chuyện!

Bảo Thoa cười nói:

– Nó ở với con cũng thế thôi, không cho nó sang bên kia là được. Từ nay, cắt đứt nó với bên kia thì cũng như là bán vậy.

Hương Lăng chạy đến trước mặt Tiết phu nhân khóc lóc van xin ở lại hầu, không muốn đi đâu cả. Tiết phu nhân đành thôi.

Từ đó, Hương Lăng đến hầu Bảo Thoa, cắt đứt con đường tình duyên lúc trước. Tuy thế, cô ta cũng vẫn nhìn trăng buồn tủi, khêu đèn thở than. Hương Lăng đã ăn ở với Tiết Bàn mấy năm, nhưng vì chân huyết xấu, nên không có thai nghén gì, giờ lại bị uất ức nên đâm ra nghĩ ngợi, trong ngoài dày vò, không chịu nổi, sinh ra bệnh ráo huyết, ngày một gầy mòn, biếng ăn biếng uống, mời thầy chạy thuốc cũng không khỏi.

Sau đó Kim Quế vẫn to tiếng cãi lộn mấy lần. Tiết Bàn có khi mượn hơi men hung lên, cầm gậy định đánh, Kim Quế giơ người ra thách đánh, có lúc Tiết Bàn cầm dao muốn chém, Kim Quế liền chìa cổ ra, kỳ thực Tiết Bàn không dám to gan, chỉ làm ầm lên một lúc rồi thôi. Như vậy đã thành ra thói quen, làm cho Kim Quế càng lên nước, mắng chửi cả Bảo Thiềm.

Tính nết của Bảo Thiềm khác hẳn Hương Lăng, thực là củi khô gặp lửa. Nó đã ý hợp tâm đầu với Tiết Bàn, liền gạt Kim Quế ra một nơi. Gần đây Kim Quế lại hành hạ nó. Nó không chịu kém. Trước kia còn đối già đối non, sau Kim Quế tức quá chửi, đánh nó. Tuy nó không dám đánh lại nhưng nó hung lên, đập đầu định tự tử, ngày thì dao kéo, đêm thì dây thừng, giở hết mọi trò.

Tiết Bàn một mình không thể chiều chuộng được cả hai bên, đành cứ quanh co vớ vẩn; có khi trong nhà ầm ĩ quá, không biết làm thế nào, hắn đành lánh mặt ra ngoài cho rảnh.

Kim Quế lúc vui, không nổi nóng, lại tìm người đến đánh bài, gieo xúc sắc. Chị ta lại thích nhai xương đầu. Hàng ngày mổ gà vịt, bao nhiêu thịt cho cả người nhà, chỉ để xương đầu lại nhắm rượu, ăn chán rồi lại nổi nóng lại mắng chửi bâng quơ: “Đồ chó chết kia! Mày biết vui với con đĩ, thì tội gì ta lại không vui”. Mẹ con Tiết phu nhân cứ lờ đi như khôngnghe thấy gì. Tiết Bàn cũng không biết làm thế nào nữa, chỉ hối hận mình chỉ vì một lúc không nghĩ kỹ, lấy phải con yêu tinh ấy. Từ đó cả hai phủ Vinh, Ninh, người trên kẻ dưới, đều biết rõ câu chuyện, không ai là không phàn nàn.

Bảo Ngọc đã hết hạn một trăm ngày, được đi ra ngoài, cũng thường sang chơi, trông thấy Kim Quế hình dáng đi đứng không ra vẻ dữ tợn, cũng là một đóa hoa tươi, một cành liễu rủ, không kém gì các chị em, sao lại có cái tính như thế? Thực là việc lạ. Bảo Ngọc đâm ra buồn bực. Hôm đó sang thăm Vương phu nhân, gặp bà vú của Nghênh Xuân vào chào, nói:

– Tôn Thiệu Tổ người không đứng đắn, cô nhà ta cứ khóc, chỉ muốn có người sang đón về nhà chơi mấy hôm cho khuây khỏa!

Vương phu nhân nói:

– Mấy hôm nay ta cũng định cho người đi đón nó, nhưng vì có mấy việc không được như ý nên quên khuấy đi mất. Hôm trước Bảo Ngọc về, đã nói qua rồi. Ngày mai tốt ngày, ta sẽ cho người đi đón.

Đương nói chuyện thì Giả mẫu sai người đến bảo Bảo Ngọc:

– Sáng sớm mai phải đến miếu Thiên Tề lễ tạ.

Bảo Ngọc đang mong được đi chơi các nơi, thấy nói thế, mừng quá, suốt đêm không ngủ. Sáng sớm hôm sau, rửa mặt gội đầu, mặc áo quần xong, theo mấy bà già lên xe ra ngoài cửa thành phía tây, đến miếu Thiên Tề thắp hương lễ tạ. Miếu này đã xếp đặt đầy đủ từ hôm trước. Bảo Ngọc vốn tính nhút nhát, không dám đến gần những pho tượng mặt mày dữ tợn, vì thế vội vàng đốt tiền giấy, ngựa giấy, rồi vào nhà khách nằm nghỉ.

Khi ăn cơm xong, bọn bà già và Lý Qúy theo Bảo Ngọc đi chơi các nơi một lúc, Bảo Ngọc thấy mệt, lại trở về nhà khách nghỉ. Các bà già sợ Bảo Ngọc lại ngủ, liền bảo đạo sĩ họ Vương ở miếu ấy đến tiếp chuyện. Đạo sĩ này thường đi bán thuốc rong các nơi, có mấy phương thuốc “hải thượng” để trị bệnh kiếm lời. Ở ngoài cửa miếu có treo biển: “Bán đủ các thứ thuốc cao đơn hoàn tán” Hắn thường đi lại quen thuộc với hai phủ Vinh, Ninh, người ta đặt tên riêng cho hắn là “Vương Nhất Niêm”. Ý nói là thuốc cao của hắn hay lắm, chỉ dán một miếng là khỏi bệnh.

Bảo Ngọc đương nằm nghiêng trên giường, thấy Vương Nhất Niêm vào, liền cười nói: “Ông đến đây rất maỵ Tôi nghe nói ông kể chuyện vui lắm, xin ông nói một chuyện cho chúng tôi nghe”.

Vương Nhất Niêm cười nói:

– Phải đấy. Cậu đừng ngủ, cẩn thận không có thì miến ở trong bụng nó giở quẻ đấy.

Cả nhà nghe vậy đều cười, Bảo Ngọc cũng cười, đứng dậy mặc lại áo, Vương Nhất Niêm bảo bọn đồ đệ: “Pha trà ngon lên đây”. Bồi Dính nói:

– Cậu tôi không uống nước trà ở nhà ông đâu, ngồi ở trong nhà này còn sợ mùi thuốc cao sặc lên đấy.

Vương Nhất Niêm cười nói:

– Không có chuyện ấy. Thuốc cao của tôi không để trong nhà này bao giờ. Biết chắc hôm nay cậu Hai đến đây, nên tôi đã xông hương thơm từ mấy hôm trước rồi.

Bảo Ngọc nói:

– Phải đấy. Ngày thường tôi nghe nói thuốc cao của thầy hay, thế thì chữa bệnh gì đấy?

– Nếu hỏi đến thuốc cao của tôi, nói ra thì dài lắm. Trong ấy có nhiều điều uẩn khúc, không nói hết được, tất cả có một trăm hai mươi vị thuốc, quân thần đúng mức, ôn lương đều dùng. Trong thì điều nguyên bổ khí, dưỡng vinh vệ 1, khai vị khẩu 2, yên thần định phách, chữa rét, chữa nóng, tiêu cơm hóa đờm, ngoài thì điều huyết mạch, dãn gân cốt, tiêu thịt thối, mọc da non, trừ phong, tán độc, hiệu nghiệm như thần, dán vào sẽ biết.

– Tôi không tin chỉ có một lá cao mà lại chữa được từng ấy bệnh? Tôi hãy hỏi thầy, có một thứ bệnh, dán cao có khỏi được không?

– Trăm bệnh nghìn bệnh, dán vào là khỏi ngay, nếu không khỏi cậu cứ vặt râu tôi, tát vào mặt tôi, phá miếu tôi đi. Cậu hãy kể cái bệnh cái bệnh ấy ra xem sao?

– Thầy đoán xem. Nếu đoán đúng thì dán cao sẽ khỏi.

Vương Nhất Niêm nghĩ một lúc, cười nói:

– Cái ấy khó đoán lắm, sợ thuốc cao của tôi không hiệu nghiệm.

Bảo Ngọc sai bọn Lý Quý:

– Các anh đi ra ngoài chơi. Trong này đông người càng sực mùi hôi thối.

Bọn Lý Qúy đi ra, chỉ để một Dính Yên ở lại. Dính Yên đốt nén mộng điềm hương. Bảo Ngọc bảo ông ta ngồi gần bên cạnh. Vương Nhất Niêm rạo rực trong lòng, cười hì hì chạy đến gần, nói nhỏ:

– Tôi đoán ra được rồi! Chắc là cậu Hai có chuyện riêng gì trong phòng, muốn dùng thuốc để trợ hứng có phải không?

Nói chưa dứt lời, Bồi Dính đã quát:

– Đáng chết! Tát vào mồm ấy!

Bảo Ngọc vẫn chưa hiểu, liền hỏi:

– Thầy ấy nói gì thế?

Bồi Dính nói:

– Lão ta nói nhảm, tin gì được!

Vương Nhất Niêm sợ quá không chờ Bảo Ngọc hỏi lại, liền nói:

– Xin cậu cứ kể rõ bệnh ra.

Bảo Ngọc nói:

– Tôi hỏi thấy có thứ cao nào dán khỏi được bệnh ghen của đàn bà không?

Vương Nhất Niêm vỗ tay cười nói:

– Việc ấy thì chịu thôi, không những không có bài thuốc, mà tôi cũng không nghe ai nói đến bao giờ.

– Như thế thì thuốc cao ấy cũng chả ra cái gì.

– Không có thuốc cao chữa bệnh ghen, chỉ có thứ thuốc uống may ra chữa được. Nhưng phải dần dần chứ không thể khỏi ngay được.

– Thuốc gì? Cách uống thế nào?

Thuốc ấy gọi là thuốc “chữa ghen”: lấy một quả lê mùa thu hạng tốt, hai đồng cân đường, một đồng cân trần bì, ba bát nước, sắc đến khi lê chín thì được. Sáng nào cũng ăn một quả và cứ ăn đi ăn lại mãi thì khỏi.

– Như thế chả đáng bao nhiêu, chỉ sợ không chắc đã có công hiệu.

– Một thang không khỏi thì uống mười thang, hôm nay không khỏi thì ngày mai uống tiếp, năm nay không khỏi thì sang năm. Vì ba vị thuốc này đều nhuận phế khai vị, không hại đến người. Vừa ngọt lừ, khỏi ho, lại dễ uống. Uống đến khi một trăm tuổi, thế nào người cũng phải chết, chết rồi thì còn ghen vào đâu nữa? Bấy giờ là kiến hiệu đấy.

Bảo Ngọc và Dính Yên đều cười và mắng:

– Thật là đồ đầu trâu bẻm mép.

Vương Nhất Niêm nói:

– Chẳng qua tôi nói đùa cho cậu chủ quên ngủ trưa đấy thôi, chứ có quan hệ gì? Nói cho các cậu buồn cười là đáng tiền rồi. Tôi nói thật cho cậu biết, thuốc cao của tôi cũng là thuốc giả. Nếu thuốc thật thì tôi đã uống để thành thần tiên, khi nào lại phải đến ở đây sống vất sống vưởng.

Đương nói thì đến giờ làm lễ. Họ mời Bảo Ngọc ra rót rượu đốt vàng, cúng chúng sinh. Lễ xong, Bảo Ngọc mới vào thành về nhà.

Nghênh Xuân đã về nhà được lúc lâu, đã dọn cơm chiều cho bọn bà già và người nhà họ Tôn ăn xong, và cho họ về cả. Nghênh Xuân mới khóc nức nở, ngồi ở trong buồng Vương phu nhân, kể lể những nỗi uất ức: “Tôn Thiệu Tổ một mực ham gái mê say cờ bạc rượu chè, bao nhiêu đàn bà con gái ở trong nhà, bị nó hiếp dâm gần khắp lượt. Cháu mới khuyên nó vài ba lần, nó mắng cháu là hạng “đàn bà ghen tuông”. Nó lại nói cha cháu mượn của nhà nó năm nghìn bạc định ăn không, nó đến hỏi hai ba lần không trả. Nó lại còn trỏ vào mặt cháu nói: “Mày đừng có lên mặt bà với tao! Bố mày đã lấy của tao năm nghìn bạc, đem mày gạt cho tao đấy. Coi chừng tao đánh một trận, tống cổ xuống nhà dưới mà nằm! Ngày trước, ông mày còn sống, thấy nhà tao phú quý, nên chiều chuộng làm thân. Nói đúng ra thì tao với bố mày ngang hàng nhau, giờ lại dúi đầu tao, bắt tao tụt xuống một bực. Không thể có thông gia như thế được, để người ta nhìn vào lại cho là nhà tao chạy theo thế lợi”.

Nghênh Xuân vừa nói vừa khóc nức nở. Vương phu nhân và các chị em không ai là không chảy nước mắt.

Vương phu nhân đành phải lấy lời khuyên giải:

– Đã trót gặp phải đứa ngang ngược như thế thì còn làm thế nào được nữa. Ngày trước chú cháu đã từng khuyên cha cháu không nên gả cháu cho con nhà ấy, nhưng cha cháu nhất định không nghe. Cháu ơi! Thôi cũng là số phận cả.

Nghênh Xuân khóc nói:

– Cháu không tin là số cháu lại khổ đến thế này. Từ bé cháu mồ côi mẹ, may sang ở bên thím, được mấy năm yên thân, ngờ đâu lại đến nỗi này.

Vương phu nhân vừa khuyên giải vừa hỏi Nghênh Xuân muốn nghỉ ở đâu, Nghênh Xuân thưa: “Phải xa lìa chị em, lúc nào cháu cũng mơ màng, tưởng nhớ. Cháu nhớ cả cái nhà cháu ở trước kia. Nếu lại được về ở trong vườn dăm ba ngày thì chết cháu cũng vui lòng. Không biết lần sau về còn được ở lại nữa không?

Vương phu nhân vội khuyên bảo:

– Thôi cháu đừng nói nhảm. Vợ chồng trẻ, lời qua tiếng lại, cũng là chuyện thường, hà tất cháu phải nói những câu quái gở ấy.

Rồi bà ta sai người thu dọn ngay gian nhà ở Tử Lăng châu, bảo bọn chị em đến làm bạn để khuyên giải. Bà ta lại dặn Bảo Ngọc:

– Không được nói hở một tí gì với cụ. Nếu cụ biết việc này, là tự mày nói cả.

Bảo Ngọc vâng dạ xin nghe lời.

Đêm ấy Nghênh Xuân lại đến nhà cũ. Các chị em và a hoàn đi lại rất là thân thiết, ở luôn đó ba ngày, rồi mới sang bên Hình phu nhân. Trước hết đến chào Giả mẫu và Vương phu nhân, rồi mới từ biệt chị em, ai cũng xót thương quyến luyến. Nhờ có Vương phu nhân và Tiết phu nhân khuyên giải mới yên. Nghênh Xuân sang bên nhà Hình phu nhân, ở được vài ngày thì có người nhà họ Tôn sang đón về. Nghênh Xuân tuy không muốn đi, nhưng khốn nỗi Tôn Thiệu Tổ hung ác quá, đành phải miễn cưỡng cáo từ đi về. Hình phu nhãn vốn không để ý đến, nên cũng không hỏi vợ chồng ăn ở có hòa thuận và việc nhà có bận rộn không, chỉ hời hợt mấy câu bề ngoài thôi.

1      Danh từ đông y, vinh là huyết, vệ là khí, tức là bổ khí huyết.

2      Danh từ đông y, tức là mở khẩu vị để ăn cho ngon cơm.

_________________

Chương 81: Bốn chị câu cá chơi, xem ai tốt số – Hai lần vào trường học, vâng theo lời cha

Bốn chị câu cá chơi, xem ai tốt số

Hai lần vào trường học, vâng theo lời cha

Sau khi Nghênh Xuân về, Hình phu nhân vẫn hờ hững như không, trái lại, Vương phu nhân là người nuôi nấng nàng bấy lâu nên rất thương cảm, cứ ngồi trong phòng than thở một mình. Bảo Ngọc đến thăm sức khoẻ, thấy trên mặt Vương phu nhân còn hoen nước mắt, liền đứng sững đấy không dám ngồi, vương phu nhân bảo ngồi, Bảo Ngọc mới ghé ngồi lên giường, bên cạnh Vương phu nhân.

Vương phu nhân thấy Bảo Ngọc ngẩn người nhìn mình, dường như muốn nói điều gì, liền hỏi:

– Con nghĩ gì mà ngẩn người ra thế?

Bảo Ngọc nói:

– Có gì đâu, chỉ vì hôm qua thấy tình cảnh chị Hai, con thật không sao đành tâm, tuy chưa dám thưa với ba, nhưng hai đêm nay con trằn trọc không sao ngủ được, con nghĩ: con gái nhà mình thế này, làm sao chịu được những điều tủi nhục như vậy? Chị Hai lại là người nhút nhát nhất nhà, xưa nay chưa biết cãi cọ với ai bao giờ, làm sao gặp phải hạng người vô lương không hề biết gì đến nỗi khổ cực của người con gái.

Nói đến đó Bảo Ngọc rưng rưng nước mắt, vương phu nhân nói:

– Cũng chẳng còn cách gì nữa, tục ngữ nói: “Con gái lấy chồng cũng như bát nước đã bị đổ”, ta còn biết làm thế nào bây giờ.

– Đêm qua con nghĩ ra một kế. Bọn con cứ nói thật với bà đón chị Hai về, để chị ấy ở Tử Lăng Châu như trước, chị em chúng con lại cứ ăn chung chơi chung với nhau, chị ấy khỏi phải chịu khổ với họ Tôn, quân bậy bạ ấy, nếu nó đến đón chúng ta nhất định không cho về, nó có đến đón một trăm lần, chúng con cứ giữ lại một trăm lần, nói rằng ý bà đã định, như thế lại không hơn ư?

Vương phu nhân nghe nói, vừa buồn cười, vừa tức, bảo:

– Mày điên à! Nói nhảm cái gì thế? Đã là con gái ai chẳng phải đi lấy chồng; đã về nhà người ta thì bên nhà gái còn nhìn ngó gì được, cái đó chẳng qua là do số phận nó thế, được người chồng tốt thì hay, nhưng gặp phải đứa xấu cũng đành chịu vậy, người ta hay nói: “Lấy gà phải theo gà, lấy chó phải theo chó”, mày lại không nghe hay sao? Có phải ai cũng làm lệnh bà như chị cả mày đâu? Vả lại chị Hai mày mới về nhà chồng, thằng Tôn cũng còn trẻ tuổi, mỗi người một tính, mới ăn ở với nhau, thế nào mà chả có ít nhiều va chạm. Ít năm nữa, đôi bên biết tính nhau, sinh con đẻ cái thì sẽ đâu vào đấy thôi, mày nhất thiết không được nói nửa lời với bà, tao mà nghe thì liệu hồn đấy, thôi đi lo công việc của mày đi, đừng ở đây nói nhảm nữa.

Bảo Ngọc không dám lên tiếng, ngồi một lúc, rồi buồn rầu lủi thủi đi ra, trong bụng ấm ức, không biết hay tỏ với ai, khi vào vườn, Bảo Ngọc đi một mạch đến quán Tiêu Tương, vừa vào đến cửa đã òa lên khóc.

Đại Ngọc vừa chải đầu rửa mặt xong, thấy quang cảnh ấy, giật mình hỏi:

– Làm sao thế? Anh giận nhau với ai thế?

Đại Ngọc hỏi đi hỏi lại, nhưng Bảo Ngọc chỉ gục đầu xuống bàn, khóc nức nở không nói ra lời, đại Ngọc ngồi trên ghế ngơ ngác nhìn Bảo Ngọc một lúc rồi hỏi:

– Anh lại bực nhau với ai rồi chứ gì? Hay là em có lỗi với anh?

Bảo Ngọc xua tay:

– Không phải, không phải!

– Tại sao anh lại buồn bã như vậy?

– Tôi nghĩ bọn chúng mình chết sớm càng hay, sống chẳng thú vị gì hết!

Đại Ngọc nghe vậy kinh ngạc hỏi:

– Anh nói gì thế? Anh điên rồi sao?

– Không phải tôi điên đâu, điều tôi nói ra thế nào cũng làm cô phải đau lòng, hôm trước chị Hai về đây, bộ dạng và nói năng như thế nào thì cô cũng đã thấy rồi đấy, tôi nghĩ tại sao con gái cứ lớn lên là phải đi lấy chồng để chịu khổ chịu sở làm gì? Tôi còn nhớ trước đây lúc lập thi xã Hải Đường, tất cả chúng mình ngâm thơ, gánh trọ, vui vẻ biết chừng nào! Bây giờ chị Bảo về nhà; Hương Lăng cũng không thấy sang; chị Hai lại đi lấy chồng, mấy người tâm đầu ý hợp đều mỗi người mỗi ngả, cho nên mới vắng ngắt thế này. Tôi định thưa với cụ, đón chị Hai về, ai ngờ mẹ tôi không nghe lại bảo tôi là ngu ngốc, nói nhảm, tôi đành câm miệng không dám hé lời, cô xem chẳng mấy chốc, mà quang cảnh cái vườn này thay đổi dữ thật! Cứ thế này thì vài năm nữa, chưa biết đến thế nào, càng nghĩ tôi càng cảm thấy buồn bực trong lòng.

Đại Ngọc nghe xong từ từ cúi đầu, người chậm rãi ngã xuống giường, thở dài một tiếng, không nói năng gì, nằm quay mặt vào phía trong.

Tử Quyên vừa bưng trà lên, thấy hai người như thế cũng buồn theo; bỗng Tập Nhân đến, thấy Bảo Ngọc nói:

– Cậu ở đây à? Bên nhà cụ đang gọi đấy, tôi đoán là cậu ở đây.

Đại Ngọc đứng dậy, cặp mắt vẫn đỏ hoe, mời Tập Nhân ngồi. Bảo Ngọc thấy thế nói:

– Em ạ, những lời tôi vừa nói, chẳng qua là chuyện vớ vẩn rồ dại, em đừng buồn bã làm gì. Em nên nhớ lời tôi dặn, cần phải giữ gìn sức khỏe mới được. Em đi nghỉ thôi. Bên cụ gọi, tôi đến đó một lát, rồi sẽ trở lại ngay.

Nói đoạn, Bảo Ngọc đi ra.

Tập Nhân hỏi nhỏ Đại Ngọc:

– Hai người lại có việc gì thế?

– Anh ấy buồn vì việc chị Hai, còn tôi thì bị ngứa mắt, nên dụi đấy thôi, chứ có việc gì đâu.

Tập Nhân cũng không nói gì, vội vàng theo Bảo Ngọc đi ra.

Khi Bảo Ngọc đến bên nhà Giả mẫu thì Giả mẫu đã nghỉ trưa, nên lại quay về Viện Di Hồng.

Quá trưa Bảo Ngọc ngủ dậy, cảm thấy buồn bã vô cùng, tiện tay cầm quyền sách lên xem.

Tập Nhân thấy Bảo Ngọc xem sách, vội đi pha trà hầu sẵn, không ngờ quyển sách ấy lại là quyển “Cổ Nhạc Phủ”. Bảo Ngọc tiện tay mở ra xem thì đúng là một bài thơ của Tào Mạnh Đức 1 trong có câu:

Rượu bày hãy cất lời ca,

Đời người thấm thoắt có là bao năm!

Cảm thấy lời thơ chạm đúng vào tim. Bảo Ngọc đặt quyển sách xuống, vớ một quyển khác xem, thì đó là tập văn đời Tấn, đọc được mấy trang, Bảo Ngọc liền gấp sách, đoạn chống tay lên mà cứ ngồi thừ ra đó, Tập Nhân bưng trả lại, thấy vậy liền hỏi:

– Tại sao cậu lại không xem nữa?

Bảo Ngọc không đáp, đỡ lấy chén trà, uống một hớp, rồi đặt chén xuống, Tập Nhân chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, cứ đứng, bên cạnh, ngẩn người nhìn. Bỗng Bảo Ngọc đứng dậy, miệng nói lẩm bẩm “tinh thần phiêu diêu ra ngoài hình hài…”

Tập Nhân nghe nói, muốn cười, nhưng không dám hỏi, đành phải khuyên:

– Nếu cậu không thích xem sách thì hãy ra ngoài vườn chơi một lát cho đỡ buồn, kẻo rồi sinh bệnh.

Bảo Ngọc trong miệng ậm ừ nhưng đầu óc vẫn để đâu đâu. Đi đến đình Thấm Phương, thấy cảnh tượng tiêu điều, buồng không người vắng; quay sang Hành Vu uyển, thấy cỏ thơm còn đó, song cửa đóng then cài; lần đến Ngẫu Hương tạ, xa xa thấy có mấy người đang đứng tựa lan can trên bến Lục Tự, mấy đứa đầy tớ gái nhỏ lom khom tìm kiếm vật gì dưới đất. Bảo Ngọc rón rén tới sau hòn núi giả lặng nghe. Bỗng một người nói:

– Để xem nó có nổi lên không. – Dường như giọng của Lý Văn.

Một người khác cười nói:

– Thôi nó lặn mất rồi, tôi biết nó không nổi lên mà. – Đúng là giọng của Thám Xuân.

Lại một người nói:

– Phải rồi, chị ơi, chị đừng đi đầu, thế nào nó cũng nổi lên cho mà xem.

Một người khác lại nói:

– Nó nổi lên đây rồi. – Đúng là tiếng nói của Lý Ỷ và Hình Tụ Yên.

Bảo Ngọc không nhịn được, nhặt một viên gạch nhỏ, ném xuống nước, nghe bõm một tiếng, bốn cô đều giật mình nói:

– Người nào chơi ác thế? Làm chúng tôi giật mình.

Bảo Ngọc từ sau núi nhảy ra cười nói:

– Các cô chơi vui thật! Sao không gọi tôi một tiếng?

Thám Xuân nói:

– Tôi đã biết mà! Chỉ có anh Hai mới nghịch thế mà thôi. Không nói gì cả, anh phải đền con cá cho chúng tôi đi, vừa rồi một con cá nổi lên, tôi định câu thì anh làm nó sợ, nó lặn đi mất.

Bảo Ngọc cười, nói:

– Các cô chơi ở đây mà không tìm tôi, tôi còn muốn phạt các cô nữa là.

Mọi người cười một lúc. Bảo Ngọc nói:

– Bây giờ chúng ta hãy lần lượt câu cá để bói xem may rủi nhé, ai câu được thì năm nay gặp may, ai không câu được thì năm nay gặp rủi, ai câu trước nào?

Thám Xuân liền nhường Lý Văn câu trước, lý Văn không nhận. Thám Xuân cười, nói:

– Đã thế thì tôi xin câu trước.

Đoạn ngoảnh lại nói với Bảo Ngọc:

– Anh Hai này, anh mà còn đuổi con cá đi nữa thì tôi không nghe đâu.

Bảo Ngọc nói:

– Khi nãy là tôi muốn dọa các cô đấy chứ, bây giờ cô cứ tha hồ mà câu.

Thám Xuân bỏ dây câu xuống, chừng chưa nói xong câu chuyện thì đã có một con cá con cắn câu làm cho cái phao chìm xuống, Thám Xuân giật một cái, cần câu vút lên, con cá dãy đành đạch trên đất, Thị Thư chộp lấy chộp để, hai tay nắm chặt, bỏ vào lọ sứ nhỏ, đổ nước trong vào nuôi, Thám Xuân đưa cần câu cho Lý Văn, lý Văn thả câu xuống, thấy dây câu rung rinh, vội giật lên, nhưng không có gì, cô ta lại thả xuống, một chốc dây câu lại rung rinh, giật lên nhưng vẫn không có gì, lý Văn cầm câu lên xem, thì ra cái lưỡi câu cong vào phía trong, lý Văn cười:

– Chả trách câu không được.

Cô ta vội vàng bảo Tố Vân sửa lại lưỡi câu tử tế, thay mồi mới, lắp cái phao bằng mảnh sậy, rồi thả xuống, một chốc mảnh sậy chìm lỉm; Lý Văn vội giật câu lên, được một con cá diếc dài hai tấc, lý Văn cười nói:

– Anh Bảo câu đi!

Bảo Ngọc nói:

– Để cô Ba và cô Hình câu trước đi rồi tôi sẽ câu.

Tụ Yên ngồi lặng im, lý Ỷ nói:

– Anh Bảo câu trước đã.

Đang nói thì mặt nước bỗng sủi tăm, Thám Xuân nói:

– Đừng có nhường nhau mãi, các chị xem, mấy con cá đều ở phía cô Ba cả, cô Ba câu nhanh đi thôi.

Lý Ỷ cười, đỡ lấy cần câu, thả xuống được ngay một con, Sau đó Tụ Yên cũng câu được một con, liền trả cần câu cho Thám Xuân để đưa cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:

– Tôi thì phải làm ông Khương Thái công 2 mới được.

Nói đoạn liền ra ngồi trên hòn đá bên bờ ao mà câu. Không ngờ cá ở dưới nước, trông thấy bóng người, đều chạy hết. Bảo Ngọc cầm cần câu đợi mãi vẫn không thấy sợi dây động đậy. Vừa mới thấy một con cá phun bọt lên mặt nước, Bảo Ngọc đã cầm cần câu rung rung mấy cái, cá ta sợ biến mất.

Bảo Ngọc nóng tiết nói:

– Tính tôi rất nôn nóng, mà cá lại chậm chạp, biết làm sao bây giờ? Cá ơi, lại đây mau lên! Mày cũng phải giúp ta chứ.

Bốn người nghe nói đều cười. Bỗng thấy dây câu rung rinh, Bảo Ngọc mừng quá, ra sức giật mạnh một cái, cần câu đập vào hòn đá, gãy làm hai đoạn, dây câu đứt, lưỡi câu văng đi đâu mất, mọi người càng cười ầm lên.

Thám Xuân nói:

– Chẳng có ai vụng về như anh!

Đang nói bỗng thấy Xạ Nguyệt hớt hơ hớt hải chạy đến nói:

– Cậu Hai ạ, cụ dậy rồi, gọi cậu về ngay, cậu về mau lên.

Cả năm người đều giật mình, Thám Xuân hỏi Xạ Nguyệt:

– Cụ gọi cậu Hai về có việc gì thế?

– Tôi cũng không biết. Nghe đâu chuyện gì kín, nên cụ sai tôi gọi cậu Bảo về hỏi, lại còn cho đi gọi cả mợ Hai Liễn về để hỏi nữa đấy.

Bảo Ngọc sợ ngẩn người ra một lúc rồi nói:

– Không biết lại có con a hoàn nào gặp việc rủi ro gì đây.

Thám Xuân nói:

– Chẳng biết là việc gì, anh Hai về nhanh lên, có tin gì thì bảo ngay Xạ Nguyệt tới nói cho chúng em biết nhé!

Nói đoạn, Thám Xuân cùng Lý Văn, Lý Ỷ và Tụ Yên đi về. Bảo Ngọc về đến phòng Giả mẫu, thấy Vương phu nhân đang cùng Giả mẫu đánh bài, Bảo Ngọc thấy không có việc gì mới hơi yên tâm. Giả mẫu thấy Bảo Ngọc đến, liền hỏi:

– Năm trước cháu ốm, nhờ một vị hòa thượng điên và một vị đạo sĩ khiễng chân chửa khỏi, lúc đó cháu thấy trong người như thế nào?

Bảo Ngọc nghĩ một lúc rồi nói:

– Cháu nhớ lúc mắc bệnh, hình như đang đứng thì có người lẻn đến nện một gậy vào đầu. Đau quá, cháu tối sầm mắt lại, rồi thấy khắp nhà đầy những quỉ sứ, mặt xanh nanh vàng, cầm dao, cầm gậy đánh cháu, khi lên giường nằm thì hình như có mấy cái đai thần chét lên đầu. Sau đó đau quá, không biết gì nữa, đến lúc đỡ rồi, cháu nhớ có một luồng ánh sáng màu vàng từ nhà ngoài chiếu tướng vào giường, lũ quỉ đều chạy trốn đâu mất không thấy nữa, thế là đầu cháu không đau mà trong người cũng tỉnh táo ngay.

Giả mẫu nói với Vương phu nhân:

– Xem ra không khác tình hình này là bao.

Đang nói thì Phượng Thư đi vào, chào Giả mẫu, lại ngoảnh lại chào Vương phu nhân, rồi nói:

– Bà định hỏi cháu gì thế?

– Năm nọ bị ma ám, cháu có nhớ được gì không?

– Cháu cũng không nhớ được rõ lắm, nhưng chỉ thấy mình không sao tự chủ được, hình như có người nào lôi lôi kéo kéo, bắt phải giết người mới được, thấy cái gì là vơ lấy cái ấy, thấy người nào là chỉ muốn giết người ấy, người cháu mệt nhoài, nhưng không sao dừng tay được.

– Lúc khỏi thì sao?

– Lúc khỏi thì hình như trên lưng chừng trời có người nói những câu gì, cháu không nhớ rõ.

– Thế thì đúng là nó rồi, cứ xem quang cảnh khi hai chị em chúng nó ốm, thì giống hệt như câu chuyện vừa xảy ra, con mụ già ấy độc ác thực: Bảo Ngọc nhận nó làm mẹ nuôi thật là uổng! A Di Đà Phật! May nhờ có vị hòa thượng và đạo sĩ mới cứu sống được Bảo Ngọc, nhưng ta vẫn chưa đền ơn gì cả.

Phượng Thư nói:

– Tại sao bà lại nhắc đến bệnh chúng cháu?

– Cháu cứ hỏi bà Hai, ta lười chẳng muốn nói.

Vương phu nhân nói:

– Vừa rồi ông nhà có nói đến mẹ nuôi của Bảo Ngọc là đứa bậy bạ, tà ma ngoại đạo. Bây giờ vỡ chuyện ra, bị phủ Cẩm Y bắt bỏ giam đưa sang bộ Hình. Bộ Hình định xử tội chết, mấy hôm trước có người phát giác việc con mụ ấy. Người này tên là Phan Tam Bảo gì đó, có một ngôi nhà bán cho tiệm cầm đồ ở trước mặt nhà hắn, hiệu này đã trả tiền gấp mấy lần giá tiền nhà rồi, mà Phan Tam Bảo vẫn cứ đòi, họ không chịu trả nữa. Phan Tam Bảo dấm dúi với con mụ ấy, vì mụ ta thường qua lại hiệu cầm đồ, chơi thân với bọn đàn bà trong đó, mụ ta liền phù phép bắt người vợ chủ hiệu mê sảng, làm cả nhà rối tung lên, mụ ta liền đến nói với họ rằng mình chữa được bệnh ấy. Rồi mụ ta đốt ít vàng mã ngựa giấy cúng lễ. Quả nhiên kiến hiệu, thế là mụ đòi bọn đàn bà nhà ấy phải đưa tạ mười mấy lạng bạc, ai ngờ đức Phật có mắt, việc vỡ lở ra, ngay hôm ấy mụ ta vội vã về nhà, bỏ rơi một cái bọc lụa, người trong hiệu nhặt lên xem, thấy trong có nhiều hình nhân bằng giấy và bốn viên hương gì rất thơm, mọi người đang lấy, làm lạ thì con mụ già ấy quay lại tìm bọc lụa. Người ở đó liền bắt giữ và xét trong người thì thấy một cái hộp, trong có hai ma vương khắc bằng ngà voi; một trai một gái mình trần không mặc quần áo, và bảy cái kim thêu bôi son đỏ. Lập tức, họ bắt mụ giải đến phủ Cẩm Y. Ở đấy người ta xét hỏi thì biết được nhiều chuyện bí ẩn về các bà các cô nhà quan sang, vì thế họ báo tin cho trong doanh biết, và đến khám nhà mụ, tìm được nhiều tượng nặn bằng đất, và mấy hộp muộn hương 3. Trong gian nhà trống sau giường nằm, mụ ta treo một địa đèn có bảy ông sao, dưới đèn có mấy quân môi bằng rơm. Đứa thì đầu chét đai thần, đứa thì bụng đóng đinh, đứa thì cổ mang xiềng, trong tủ có vô số là hình nhân bằng giấy. Phía dưới có mấy cuốn sổ nhỏ, trong đó ghi đã làm phép cho nhà nào được linh nghiệm, cần đòi bao nhiêu tiền. Số tiền hương đèn người ta gởi đến không biết bao nhiêu mà kể.

Phượng Thư nói:

– Bệnh của chúng cháu nhất định là nó làm, cháu nhớ khi chúng cháu khỏi, con yêu già ấy qua bên nhà dì Triệu đòi tiền mấy lần; hễ gặp cháu là mặt nó sa sầm lại, hai mắt nó cứ như con mắt gà chọi ấy, mấy lần cháu cứ nghi hoặc, nhưng không tìm ra duyên cớ tại sao? Giờ nghe nói mới vỡ lẽ. Có điều cháu đứng ra trông coi việc nhà, cố nhiên có thể làm người ta oán ghét, người ta muốn tìm cách hại cháu, chứ chú Bảo thì có thù hằn gì với ai, mà họ cũng nỡ lòng độc ác như thế?

Giả mẫu nói:

– Biết đâu lại không phải vì ta yêu cháu Bảo, không yêu thằng Hoàn, mà để vạ cho các cháu như vậy.

Vương phu nhân nói:

– Con mụ khốn nạn ấy đã bị kết án nên không thể nào gọi nó đến đây đối chứng. Không đối chứng thì dì Triệu đời nào chịu nhận. Việc này là việc lớn, nếu để vỡ lở ra, tiếng tăm không hay lắm, chi bằng để nó làm nó chịu, thế nào rồi cũng có ngày phải ra.

– Chị nói cũng phải, đã không có đối chứng thì không thể nào làm ra lẽ, chỉ có đức Phật là nhìn thấy rõ thôi, chị em chúng nó giờ đây nào có kém ai? Thôi việc đã qua rồi, cháu Phượng cũng đừng nhắc đến nữa, hôm nay mẹ con cháu ăn cơm chiều ở đây rồi hãy về.

Giả mẫu bảo Uyên Ương và Hổ Phách đi gọi dọn cơm.

Phượng Thư vội vàng cười nói:

– Tại sao bà phải bận lòng thế?

Vương phu nhân cũng cười.

Thấy mấy người đàn bà đứng chực bên ngoài, Phượng Thư vội bảo bọn a hoàn nhỏ đi gọi cơm, và nói:

– Ta và bà Hai đều ăn cơm với cụ ở đây.

Đang nói thì thấy Ngọc Xuyến chạy đến thưa với Vương phu nhân:

– Ông lớn muốn tìm thứ gì, mời bà hầu cơm cụ xong rồi về tìm hộ.

Giả mẫu nói:

– Chị đi về thôi, chắc anh ấy có việc gì cần đấy.

Vương phu nhân vâng lời, để Phượng Thư ở lại hầu, còn mình lui về. Đến phòng, Vương phu nhân gặp Giả Chính, nói chuyện suông mấy câu và tìm ra đồ vật. Giả Chính liền hỏi:

– Cháu Nghênh Xuân về rồi à? Nó ở nhà họ Tôn ra sao?

– Cháu Nghênh Xuân cứ khóc khóc mếu mếu, nói là chồng ngang ngược quá.

Rồi bà ta kể lại những điều Nghênh Xuân đã nói cho Giả Chính nghe. Giả Chính thở dài nới:

– Ta đã biết không phải là nơi xứng đáng, khốn nỗi ông Cả cứ nhận lời, ta cũng không biết làm thế nào, thế là con Nghênh Xuân đành chịu khổ mà thôi.

Nó mới về làm dâu, chỉ mong sau này vợ chồng nó ăn ở với nhau khá hơn là được.

Nói đoạn, Vương phu nhân lại phì cười. Giả Chính nói:

– Cười gì?

– Tôi cười thằng Bảo sáng nay đến đây, nói toàn là chuyện trẻ con.

– Nó nói gì?

Vương phu nhân vừa cười vừa kể lại những lời của Bảo Ngọc. Giả Chính cũng không nhịn được cười liền nói:

– Nhắc đến thằng Bảo Ngọc, tôi lại nhớ ra một việc. Thằng này cứ để mãi trong vườn, thực không nên, con gái hư thân, còn là người của nhà khác, chứ con trai hư thân thì quan hệ không phải nhỏ, hôm trước có người đến nói với tôi về một ông thầy học. Ông này học vấn và phẩm chất đều tốt, cũng là người phương Nam, nhưng tôi nghĩ, thầy học người phương Nam tính tình lại quá ư hiền lành, trẻ con nhà ta đang sống nơi đô thị, đứa nào đứa nấy, đều nghịch ngỗ phá trời, mồm mép lém lỉnh, cái gì lấp liếm được là thế nào cũng lấp liếm cho kỳ được, lại cứng đầu cứng cổ làm cho thầy học ngày ngày phải chiều như chiều vong, không dám nói nặng lời, rút cục chẳng ăn thua gì, uổng công vô ích. Vì thế các cụ trước không chịu mời thầy ở ngoài, chỉ chọn người trong họ vừa có tuổi vừa có học vấn để dạy. Giờ đây cụ Nho học vấn tuy chỉ bình thường nhưng còn trị nổi bọn chúng, không đến nỗi nuông chiều chúng quá. Tôi nghĩ cứ để thằng Bảo lêu lổng mãi không nên, chi bằng lại bắt nó vào trường nhà học tập như cũ.

– Ông nói rất phải, từ khi ông nhậm chức ở ngoài, nó cứ ốm luôn, thành ra bỏ bê trễ mất mấy năm; bây giờ lại vào trường nhà ôn tập thì rất tốt.

Giả Chính gật đầu, lại nói thêm mấy câu chuyện phiếm nữa. Hôm sau Bảo Ngọc thức dậy, chải đầu rửa mặt xong, bỗng có người hầu nhỏ vào nói:

– Ông lớn gọi cậu Hai đến nói chuyện.

Bảo Ngọc vội vàng sửa lại áo quần, đi đến thư phòng Giả Chính, hỏi thăm sức khỏe của cha rồi đứng chờ.

Giả Chính nói:

– Dạo này mày học hành thế nào? Tuy mày viết tập được ít chữ, nhưng cũng chẳng ăn thua vào đâu. Ta xem dạo này mày lại càng lười biếng hơn nhiều so với mấy năm trước. Tao lại nghe nói mày luôn luôn viện cớ đau ốm không chịu học hành, bây giờ thì đã khỏe thật rồi chứ? Ta còn nghe mày cả ngày cứ ở trong vườn chơi đùa với bọn chị em, thậm chí với cả bọn a hoàn; còn công việc chính của mình thì vứt hết. Dù mày có làm được mấy câu thơ, dăm ba bài từ, thì cũng chẳng ăn thua vào đâu, quí hóa gì cái thứ ấy? Khi thi cử, người ta vẫn lấy việc làm văn, làm bài là quan trọng hơn cả, thế mà mày lại không học gì về cách làm văn làm bài hết. Mày nhớ lấy lời ta dặn: Bắt đầu từ hôm nay, mày không được làm thơ câu đối gì hết, chỉ học làm văn bát cổ thôi. Ta hạn cho mày một năm, nếu không tiến được tý gì, thì mày đừng học hành cho tốn công, mà ta cũng không muốn có đứa con như thế nữa.

Giả Chính bèn gọi Lý Quí lại bảo:

– Ngày mai, sáng dậy, gọi thằng Bồi Dính đi theo cậu Bảo đem tất cả sách vở nó học đưa lại đây ta xem, rồi ta sẽ thân hành đưa nó vào trường nhà.

Nói đoạn ông ta quát Bảo Ngọc:

– Về đi thôi! Ngày mai đến sớm gặp ta.

Bảo Ngọc nghe nói, giờ lâu chẳng biết trả lời thế nào, lững thững đi về viện Di Hồng. Tập Nhân đang nóng lòng chờ tin tức, nghe nói bảo đi học, trong bụng cũng có ý mừng. Bảo Ngọc sai người đến kể đầu đuôi với Giả mẫu, ý muốn nhờ Giả mẫu ngăn cản giúp. Giả mẫu nghe tin, sai người gọi Bảo Ngọc đến, nói:

– Cháu cứ yên lòng đi học, đừng để cha cháu giận, có việc gì cháu thấy bực bội thì cháu nói với bà.

Bảo Ngọc không còn cách gì, đành phải trở về, dặn bọn a hoàn:

– Ngày mai gọi ta dậy sớm, ông sẽ đưa ta đi học đấy.

Tập Nhân vâng lời, cùng với Xạ Nguyệt thay phiên nhau thức suốt đêm.

Hôm sau tảng sáng, Tập Nhân gọi Bảo Ngọc dậy, chải đầu rửa mặt, thay quần áo rồi sai a hoàn nhỏ truyền gọi Bồi Dính chực ở cửa ngoài để mang sách vở và các đồ vật. Tập Nhân giục luôn mấy lần, Bảo Ngọc đành phải đi ra. Đến thư phòng, trước hết Bảo Ngọc hỏi dò xem cha mình đã đến đó chưa, người hầu nhỏ trả lời:

– Vừa rồi có một vị khách định vào gặp ông lớn để thưa chuyện gì đó, trong nhà nói ông lớn đang rửa mặt chải đầu, bảo vị khách ấy hãy đợi ở ngoài.

Bảo Ngọc nghe nói, trong bụng hơi yên, vội vàng đến chỗ Giả Chính, vừa gặp lúc Giả Chính sai người đến gọi, Bảo Ngọc liền theo vào. Giả Chính dặn dò mấy câu, rồi dẫn Bảo Ngọc lên xe. Bồi Dính mang theo sách vở đi thẳng đến trường học, người nhà đến trước trình với Đại Nho:

– Ông lớn đã đến.

Đại Nho đứng dậy, thì Giả Chính bước tới và hỏi thăm sức khỏe. Đại Nho cầm tay chào hỏi:

– Dạo này cụ có khỏe không?

Bảo Ngọc cũng tới hỏi thăm sức khỏe Đại Nho. Giả Chính mời Đại Nho ngồi, rồi mới ngồi xuống. Giả Chính nói:

– Tôi hôm nay thân hành đưa cháu đến đây, nhờ cụ dạy bảo giúp. Cháu cũng không còn bé hỏng gì nữa, cần phải học để thi cử mới mong trọn đời lập thân, thành danh được. Hiện nay, nó ở nhà chỉ chơi đùa với bọn trẻ con, tuy có hiểu được mấy câu thơ, dăm câu từ, cũng chỉ là nói nhảm viết nhảm. Dù có hay chăng nữa cũng chẳng qua là những lời gió trăng mây móc, chẳng ích gì cho đời nó cả.

Đại Nho nói:

– Tôi xem cháu mặt mũi cũng xinh đẹp, tư chất thông minh, nhưng lại cứ ham chơi, không chịu học? Việc thơ từ không phải là không nên học, nhưng sau khi đỗ đạc rồi sẽ học cũng chưa muộn.

– Đúng như thế. Giờ đây chỉ xin cụ bắt nó đọc sách, giảng sách, làm văn làm bài, nếu nó không nghe lời dạy bảo thì xin cụ hết sức kèm cặp nó, có thế mới không đến nỗi hữu danh vô thực, lỡ cả một đời.

Nói xong, Giả Chính đứng dậy vái một vái, nói vài câu chuyện phiếm rồi cáo từ rút lui ra. Đại Nho tiễn đến ngoài cửa và nói:

– Xin gởi lời thăm sức khỏe của cụ.

Giả Chính vâng lời, lên xe ra về.

Đại Nho quay vào, thấy Bảo Ngọc ngồi bên cái bàn hoa lê nhỏ, bày ở góc Tây nam, dựa vào cửa sổ, bên phải chồng hai bộ sách cũ và một tập văn bát cổ mong mỏng, gọi Bồi Dính đem giấy mực bút nghiên cất vào trong ngăn kéo. Đại Nho hỏi:

– Bảo Ngọc, ta nghe nói cháu hôm trước ốm, nay đã khỏe thật chưa?

Bảo Ngọc đứng dậy thưa:

– Khỏe thật rồi ạ.

– Bây giờ cháu nên chăm chỉ học hành, cha cháu thật hết sức tha thiết trông mong cháu nên người. Bây giờ cháu hãy đem những sách đã đọc trước bắt đầu ôn lại một lần. Hằng ngày, sáng dậy ôn lại sách, cơm xong viết chữ, trưa đến giảng sách và đọc mấy thiên bát cổ.

Bảo Ngọc “dạ” một tiếng rồi ngồi xuống, liếc nhìn xung quanh thấy thiếu mất mấy đứa trong bọn Kim Vinh ngày xưa và thêm mấy đứa học trò nhỏ, đều là bọn thô tục chẳng ra gì. Chợt nhớ đến Tần Chung, Bảo Ngọc thấy không có ai làm bầu làm bạn, để giải tỏ câu chuyện tâm tình, trong lòng buồn rầu, nhưng không dám nói ra, đành vùi đầu xem sách.

Đại Nho nói:

– Hôm nay là hôm đầu, cho cháu về sớm một chút, đến mai thì phải giảng sách đấy, cháu không phải là người dốt nát, ngày mai sẽ cho cháu giảng trước một vài chương sách cho ta nghe, xem gần đây cháu học hành ra sao, để biết được sức học của cháu đã đến thế nào rồi.

Nghe vậy trong bụng Bảo Ngọc cứ rối cả lên.

1      Tức Tào Tháo người đời Tam quốc.

2      Khương Thái Công tức Lã Vọng, tên chữ là Tử Nha. Lúc hàn vi thường ngồi câu cá ở sông Vị. Sau giúp vua Văn Vương nhà Chu, đánh được nhà Ân, phong là thái sư.

3      Thứ hương làm cho người ta ngửi thấy thì mê man bất tỉnh.

_________________

Chương 82: Lấy nghĩa sách giảng bày, cụ đồ Già dạy răn chàng bướng – Thấy ác mộng kinh khủng, gái Tiêu Tương hoảng sợ ngây hồn

Lấy nghĩa sách giảng bày, cụ đồ già dạy răn chàng bướng

Thấy ác mộng kinh khủng, gái Tiêu Tương hoảng sợ ngây hồn

Bảo Ngọc ở trường học về, tới gặp Giả mẫu. Giả mẫu cười nói:

– Khá lắm, bây giờ ngựa rừng lên đã chịu lên cương rồi. Về gặp cha cháu một tý, rồi đi dạo chơi cho khuây.

Bảo Ngọc vâng lời đến gặp Giả Chính. Giả Chính hỏi:

– Sao về sớm thế? Thầy có đề ra cách học tập cho mày không?

– Dạ, thời giờ quy định như sau: sáng dậy ôn lại sách; ăn cơm xong tập viết; trưa đến giảng sách và đọc văn bát cổ.

Giả Chính gật đầu bảo:

– Con về hầu chuyện bà một lát, con trước hết phải lo học làm sao cho thành đạt nên người, chứ không nên chỉ nghĩ đến việc chơi bời, tối đến phải đi ngủ ngay để sáng mai dậy sớm đi học, con đã nghe chưa?

Bảo Ngọc vâng dạ tíu tít và lui ra ngoài, tới gặp Vương phu nhân rồi lại đến chào qua Giả mẫu, sau đó vội vàng chạy ra, mong sao mau tới quán Tiêu Tương. Vừa vào đến cửa, Bảo Ngọc vỗ tay reo nói:

– Tôi lại về đây rồi.

Đại Ngọc nghe tiếng giật mình, Tử Quyên vén màn lên, Bảo Ngọc đi vào phòng ngồi xuống ghế, Đại Ngọc nói:

– Nghe nói anh đi học kia mà, sao về sớm thế?

– Ái chà! Nguy quá! Hôm nay cha tôi thân hành đưa tôi đi học, trong bụng tôi tưởng chuyến này không gặp mặt cô nữa. Chật vật suốt một ngày. Bây giờ nhìn thấy các cô, tôi giống như chết đi sống lại, người xưa nói: “Một ngày dài ba thu”, câu ấy thật không ngoa.

– Anh đã về chào cậu mợ chưa?

– Chào rồi.

– Còn các chỗ khác nữa?

– Không.

– Anh cũng nên chịu khó đến thăm họ một tý.

– Giờ tôi không muốn đi đâu cả, chỉ ngồi đây nói chuyện với cô thôi. Cha tôi bảo tôi ngủ sớm sáng mai dậy sớm, đến mai hãy gặp họ cũng được.

– Anh ngồi một chút rồi cũng nên về đi nghỉ thôi.

– Tôi có mệt đâu, chỉ buồn thôi, có ngồi nói chuyện với mấy cô thì mới khuây khỏa, thế mà cô lại đuổi tôi rồi đấy.

Đại Ngọc mỉm cười rồi gọi Tử Quyên:

– Đem thứ trà Long Tỉnh của ta pha cho cậu Hai một chén. Cậu Hai giờ đi học, không phải như trước nữa đâu.

Tử Quyên mỉm cười, vâng lời đi lấy trà rồi bảo a hoàn nhỏ pha.

Bảo Ngọc nói tiếp:

– Cô còn nhắc đến việc học làm gì? Tôi ngán cái trò đạo học ấy rồi. Buồn cười nhất là thứ văn bát cổ, người ta mượn nó để lừa bịp, bòn chút công danh, kiếm bát cơm ăn, nói thế còn được. Bây giờ lại còn bảo là nói thay lời thánh hiền cơ! Nhiều lắm thì chẳng qua là đem kinh truyện ra nhồi nhét vào đầu đấy thôi. Lại còn một điều buồn cười hơn nữa là những kẻ trong bụng rỗng tuếch chỉ vơ chỗ nọ bỏ chỗ kia, làm lếu làm láo mà lại cho mình là học sâu rộng. Làm thế đâu có phải là phát triển đạo lý của thánh hiền! Bây giờ cha tôi nhất thiết bảo tôi học cái ấy, tôi không dám cãi lại, thế mà cô lại còn nhắc đến chuyện đi học nữa à?

– Bọn con gái chúng em, tuy không cần thứ văn chương ấy, nhưng lúc nhỏ khi học ông Giả Vũ Thôn, em có đọc qua. Trong đó cũng có những chỗ sâu sắc, cao xa, sát với tình cảm và hợp lý. Lúc đó tuy em không hiểu lắm, nhưng cũng thấy hay hay, không thể mạt sát hết thảy. Vả chăng anh cần lập công danh thì học thứ văn ấy cũng có phần thanh nhã, cao quí chứ!

Bảo Ngọc nghe đến đó, thấy không tài nào lọt tai được, nghĩ bụng: “Xưa nay, Đại Ngọc không phải hạng người mê thế lợi, giờ sao lại thế”, nhưng cũng không dám cãi lại, đành chỉ khịt mũi cười thầm.

Hai người đang nói chuyện, chợt nghe tiếng Thu Văn và Tử Quyên nói ở bên ngoài.

Thu Văn nói:

– Chị Tập Nhân bảo tôi sang đón cậu ở nhà cụ, ai ngờ cậu lại ở đây!

Tử Quyên nói:

– Ở đây chúng tôi vừa pha trà, để cậu ấy uống xong hãy về.

Hai người cùng đi vào. Bảo Ngọc cười nói với Thu Văn:

– Tôi cũng sắp về, lại phiền chị phải đi tìm.

Thu Văn chưa kịp trả lời, thì Tử Quyên nói:

– Cậu uống mau mau mà về đi, người ta đã nhớ suốt ngày rồi.

Thu Văn nhổ toẹt một cái rồi nói:

– Khéo cái con ranh này!

Mọi người nghe nói đều cười, Bảo Ngọc đứng dậy, cáo từ ra về, Đại Ngọc tiễn ra cửa, Tử Quyên đứng trên thềm chờ Bảo Ngọc ra về rồi mới trở vào phòng.

Bảo Ngọc về đến Viện Di Hồng, thấy Tập Nhân từ trong nhà ra đón, và hỏi:

– Cậu về đấy à?

Thu Văn nói:

– Cậu về từ sớm, nhưng ở bên nhà cô Lâm.

Bảo Ngọc nói:

– Hôm nay có việc gì không?

Tập Nhân nói:

– Chẳng có việc gì, vừa rồi bà Hai bảo chị Uyên Ương tới dặn chúng tôi: “Ông nhà nổi nóng bảo cậu đi học, nếu có đứa a hoàn nào còn dám chơi đùa với cậu, thì sẽ trị tội như trị Tình Văn và Tư Kỳ trước đây”. Tôi nghĩ hầu hạ cậu lâu nay, mà được thưởng cho những lời ấy cũng thật đáng buồn!

Nói xong, chị ta sụt sùi khóc. Bảo Ngọc nói:

– Chị ạ! Chị cứ yên tâm, tôi chăm chỉ học tập thì bà sẽ không nói gì các chị nữa đâu. Đêm nay tôi còn phải xem sách, ngày mai thầy học bảo tôi giảng sách đấy. Nếu tôi có cần sai khiến gì thì đã có Xạ Nguyệt và Thu Văn. Chị đi nghỉ thôi.

Tập Nhân nói:

– Nếu cậu quả thực chịu học, thì chúng tôi rất vui mừng được hầu hạ cậu.

Bảo Ngọc ăn cơm chiều xong, bảo thắp đèn đem sách tứ thư mà mình học từ trước, giở ra xem. Nhưng biết xem từ chỗ nào đây? Đọc xong một quyển thấy hình như trong chương nào mình cũng rõ rành, nhưng xét cho kỹ thì lại không thật rõ lắm. Xem hết lời chú thích, lại đến lời giảng, lục đục mãi đến canh khuya. Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Mình về mặt thơ từ thì thấy hiểu rất dễ dàng, mà về mặt này thì đầu óc chẳng ra sao cả”. Rồi ngẩn người ngồi nghĩ.

Tập Nhân nói:

– Cậu đi nghỉ thôi, học không phải chỉ cố gắng trong một hôm đâu mà phải làm thế?

Bảo Ngọc chỉ trả lời bâng quơ. Tập Nhân và Xạ Nguyệt hầu hạ cho Bảo Ngọc nằm xuống, rồi hai người cùng nằm ngủ. Đến khi thức giấc, thấy Bảo Ngọc vẫn trằn trọc trên giường. Tập Nhân nói:

– Cậu còn thức à? Đừng có nghĩ vơ nghĩ vẩn, phải giữ gìn sức khỏe ngày mai mà học.

– Tôi cũng nghĩ như thế, nhưng vẫn không sao ngủ được. Chị lại cất bớt cho tôi một cái chăn.

– Trời lạnh cậu đừng cất bớt chăn đi.

– Trong bụng tôi bực bội quá.

Rồi Bảo Ngọc hất chăn xuống. Tập Nhân vội vàng bò lại giữ lấy, đặt tay lên đầu thấy hơi nóng liền nói:

– Cậu nằm cho yên, người hơi nóng rồi.

– Ừ đúng đấy!

– Thế là thế nào?

– Không sợ, đó là vì bụng tôi bực bội đấy thôi, chị đừng làm ầm lên. Ông biết thế nào cũng nói tôi giả ốm để trốn học, nếu không, sao bệnh lại khéo đến đúng lúc như vậy? Ngày mai khỏe tôi vẫn đi học, thế là xong chuyện.

Tập Nhân nghe cũng thương, liền nói:

– Để tôi ngủ gần cậu.

Liền đến đấm xương sống cho Bảo Ngọc một lát, rồi hai người ngủ quên lúc nào không biết, đến khi mặt trời lên cao mới dậy. Bảo Ngọc nói:

– Chết rồi! Chậm mất rồi.

Anh ta vội vàng chải đầu rửa mặt xong, đi hỏi thăm sức khỏe mọi người rồi qua trường học ngay. Đại Nho đổi sắc mặt nói:

– Chẳng trách gì cha cháu nổi giận nói cháu hư thân, mới hôm thứ hai cháu đã lười biếng như thế. Giờ là mấy giờ rồi mới đến hả?

Bảo Ngọc kể lại việc tối hôm qua phát nóng như thế nào rồi lại đọc sách như cũ.

Chiều đến, Đại Nho nói:

– Bảo Ngọc, có một chương sách cháu lại giảng xem.

Bảo Ngọc đến xem thì thấy là chương “Hậu sinh khả úy” 1 nghĩ bụng: “Chương này còn khá! May không phải là Đại học và Trung dung”. Bảo Ngọc liền hỏi:

– Giảng như thế nào?

– Cháu cứ theo từng ý từng câu giảng lại cho kỹ lưỡng.

Bảo Ngọc trước tiên đọc to lên một lần, rồi nói:

– Chương sách này là thánh nhân khuyên lớp trẻ, họ bảo phải kịp thời cố gắng đừng để đến…

Nói đến đó Bảo Ngọc ngước đầu nhìn Đại Nho một cái, Đại Nho biết ý, cười nói:

– Cháu cứ việc nói, giảng thì không cần phải kiêng nể gì cả. Sách Lễ ký nói “Lâm văn bất húy” 2 cháu cứ nói tiếp, đừng để đến cái gì.

Bảo Ngọc nói tiếp:

– Đừng để đến già mà không nên làm gì. Trước hết thánh nhân đem hai chữ “khả úy” để khích lệ chí khí của lớp trẻ, sau đem ba chữ “bất túc úy” (không đáng sợ) để cảnh tỉnh tương lai của lớp trẻ.

Nói xong, đứng nhìn Đại Nho, Đại Nho nói:

– Cũng được đấy, cứ giảng suốt đi nào!

Bảo Ngọc nói tiếp:

– Thánh nhân nói: Người ta sinh ra, lúc còn nhỏ, tâm tư và tài lực thông minh tài giỏi và có thể làm, thật là đáng sợ. Ai dám nói ngày sau họ không được như ta ngày nay? Nhưng nếu họ cứ nay lần mai lữa không biết chăm chỉ, đến khoảng bốn năm mươi tuổi mà không làm nên việc gì, thì hạng người đó, tuy rằng lúc trẻ hình như hữu dụng, đến lúc ấy thì trọn đời chẳng làm ai sợ nữa.

Đại Nho cười nói:

– Vừa rồi về phần ý, cháu giảng cũng rõ ràng đấy, nhưng lời lẽ có phần trẻ con, hai chữ “vô văn” không có nghĩa là không làm nên việc gì, không ra làm quan. Chữ “văn” ở đây nghĩa là mình thông suốt đạo lý, dầu không làm quan cũng là thành đạt; nếu không thế thì thánh hiền đời xưa cũng có người trốn đời không ra làm quan. Không nhẽ cũng là người không thành đạt à? Ba chữ “bất túc uý” cốt là để người ta xem xét cho cẩn thận, để đối chọi với chữ “tri ” của “yên tri” chứ không phải có nghĩa là sợ. Phải nhận rõ điểm đó mới hiểu được tinh vi, cháu có hiểu không?

– Hiểu rồi ạ.

– Còn một chương nữa cháu giảng xem.

Rồi ông ta giở qua một thiên khác, chỉ cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc xem thì thấy là chương “Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả giã”. 3 Bảo Ngọc cảm thấy chương ấy châm chọc mình, liền cười lấy lòng thầy và thưa:

– Câu này không có nghĩa gì mà giảng cả.

– Nói nhảm! Thế gặp lúc ra đề mục này, cháu cũng nói không có gì mà làm hay sao?

Bảo Ngọc bất đắc dĩ phải giảng:

– Đấy là thánh nhân thấy người ta không chịu ham đạo đức, mà thấy sắc đẹp thì rất là ham, không nghĩ rằng đạo đức là cái sẵn có ở trong bản tính con người, thế mà người lại không chịu ham nó; trái lại sắc đẹp tuy cũng đã có từ khi con người mới bẩm sinh ra, không ai là không ham, nhưng đức là thiên lý, sắc là nhân dục, thế mà người ta không chịu xem thiên lý hơn nhân dục. Đây tuy là lời than thở của Khổng Tử, mà lại có ý trông mong cho người ta trở lại đường ngay và cũng để thấy rõ rằng người ta dù có ham đức vẫn là ham một cách nông cạn, phải ham đức như ham sắc thì mới là thật ham.

– Cháu giảng thế cũng được, nhưng ta có điều này muốn hỏi: cháu đã hiểu lời nói của Thánh nhân, vậy làm sao chính mình lại phạm lấy hai cái lỗi ấy? Tuy rằng ta không ở trong nhà cháu, mà cha cháu cũng không nói với ta, nhưng thật ra những tật xấu của cháu, ta điều biết hết. Làm một con người sao lại không trông mong thành đạt? Giờ đây cháu đang ở cái thời “Hậu sinh khả uý”, “Hữu văn” hay “bất túc úy”, hoàn toàn do mình làm lấy. Nay ta hẹn cho cháu một tháng, đem những sách đã đọc, ôn lại một lượt. Rồi đọc thêm văn bát cổ trong một tháng nữa, sau đó ta sẽ ra đầu bài cho mà làm. Nếu còn nhác nhớn, nhất định ta không nghe đâu. Người xưa nói: “Muốn nên người không thể lười biếng, lười biếng thì không thể nên người”. Cháu nên nhớ những lời ta dặn.

Bảo Ngọc vâng lời. Từ hôm ấy trở đi, ngày ngày đành phải học tập theo lời thầy dạy.

Từ khi Bảo Ngọc đi học, trong viện Di Hồng rất là vắng vẻ nhàn rỗi. Tập Nhân có thể làm ít nhiều công việc, chị ta cầm kim định thêu cái bao đựng hạt cau, nghĩ bụng: “Bây giờ Bảo Ngọc đã đi học, bọn a hoàn không còn lo phiền gì nữa, nếu việc này xảy ra sớm thì Tình Văn nào đến nỗi mà phải chết?” “Máu chảy ruột mềm”, bất giác Tập Nhân chảy nước mắt, chợt nghĩ đến việc mai sau, mình vốn không phải là vợ cả của Bảo Ngọc mà chỉ là vợ lẽ. Tính tình của Bảo Ngọc mình còn nắm vững được, chỉ sợ anh ta lấy phải một người vợ cả ghê gớm thì thân mình sẽ theo gót dì Vưu và Hương Lăng mà thôi. Cứ xem ý Giả mẫu và Vương phu nhân cũng như nghe những lời Phượng Thư lộ ra, thì chắc chắn người ấy là Đại Ngọc rồi. Đại Ngọc lại là một người hay ngờ vực”. Nghĩ đến đó chị ta nóng lòng đỏ mặt, tay cầm kim không biết rơi vào chỗ nào mất. Tập Nhân liền bỏ việc chạy sang nhà Đại Ngọc để dò la tình ý.

Đại Ngọc đang xem sách, thấy Tập Nhân đến liền vui vẻ mời ngồi. Tập Nhân cũng vội vàng chạy lại hỏi:

– Mấy hôm nay người cô đã khá được nhiều rồi chứ?

– Làm gì có! Chẳng qua hơi đỡ một tý thôi, chị ở nhà làm gì thế?

– Bây giờ cậu Hai đi học, trong nhà rỗi rãi, tôi tới thăm cô, nói chuyện cho vui.

Nói xong, Tử Quyên bưng trà lại. Tập Nhân vội vàng đứng dậy nói:

– Em ngồi chơi. Hôm trước nghe Thu Văn mách em nói trộm gì chúng tôi phải không?

Tử Quyên cũng cười nói:

– Chị khéo tin lời nó à? Tôi chỉ nói cậu Hai thì đi học, cô Bảo lại về nhà, đến cả Hương Lăng cũng không sang chơi, dĩ nhiên là phải buồn.

Tập Nhân nói:

– Em còn nhắc đến Hương Lăng nữa ư? Tội nghiệp chị ta gặp phải cái mụ “hung thần” ấy, không biết chị ta chịu làm sao được. – Rồi Tập Nhân giơ hai ngón tay lên và nói: Kể ra mụ ấy còn ghê gớm hơn “mợ” này nhiều, mụ ta chẳng còn đếm xỉa gì đến thể diện nữa.

Đại Ngọc tiếp lời:

– Chị ấy chịu đựng kể cũng ghê đấy! Cô Hai Vưu tại sao mà chết?

Tập Nhân nói:

– Còn phải nói! Nghĩ lại cũng đều là người, danh phận có khác nhau đôi chút, nhưng tội gì mà độc ác như thế? Đến nỗi mất cả tiếng tăm thể diện.

Đại Ngọc xưa nay không nghe Tập Nhân nói trộm như thế, nay nghe câu ấy, chắc có dụng ý gì, liền động lòng, nói:

– Kể cũng khó nói, việc trong nhà nó như thế đấy, nếu không phải gió đông thổi bạt gió lây, thì là gió tây thổi bạt gió đông.

Tập Nhân nói:

– Đã phải làm cái hạng vợ lẽ con hầu thì trong lòng đã sợ trước rồi, còn dám khinh ai nữa.

Đang nói chuyện thì thấy một bà già từ ngoài sân hỏi vào:

– Đây có phải nhà cô Lâm không? Cô nào ở trong ấy thế?

Tuyết Nhạn ra xem, nhớ mang máng là người bên nhà Tiết phu nhân, liền hỏi:

– Có việc gì thế?

– Cô chúng lôi sai đưa đồ vật biếu cô Lâm.

– Bà hãy chờ một chút.

Tuyết Nhạn vào trong thưa lại với Đại Ngọc. Đại Ngọc bảo dẫn bà ta vào.

Bà già vào, hỏi thăm sức khỏe, chưa nói là đưa biếu cái gì, mắt cứ nhìn chòng chọc vào Đại Ngọc. Đại Ngọc thấy bực mình liền hỏi:

– Cô Bảo sai bà đưa gì thế?

– Cô chúng tôi bảo đưa biếu cô một bình quả vải ướp mật ong.

Bà ta ngoảnh đầu lại thấy Tập Nhân, liền hỏi:

– Cô này có phải là cô Hoa bên nhà cậu Bảo không?

Tập Nhân cười nói:

– Tại sao bà biết tôi?

– Chúng tôi chỉ coi nhà cho bà tôi, không hay theo bà và cô tôi ra ngoài, cho nên không biết rõ các cô. Nhưng thỉnh thoảng các cô qua bên nhà chơi nên chúng tôi cũng còn hơi biết.

Nói xong, bà ta đưa cái bình cho Tuyết Nhạn, rồi ngoảnh nhìn Đại Ngọc, cười nói với Tập Nhân:

– Chả trách bà nhà chúng lôi thường nói: “Cô Lâm với cậu Bảo thật là một đôi xinh đẹp chẳng khác tiên trên trời”.

Tập Nhân thấy bà ta ăn nói xốc nổi, vội vàng nói lảng:

– Bà mệt, ngồi uống nước trà đi.

Bà già cười hì hì nói:

– Bên chúng lôi bận lắm, còn phải sắp đặt việc cô Cầm. Cô tôi còn có hai bình vải nữa, bảo đưa biếu cậu Bảo.

Nói xong, bà ta vội vã cáo từ rồi bước ra.

Đại Ngọc tuy giận bà ta vừa rồi ăn nói thô lỗ, nhưng vì là người nhà Bảo Thoa, nên không tiện nói. Chờ cho bà ta ra khỏi cửa mới nói:

– Gởi lời cảm ơn cô Bảo nhé.

Bà già miệng vẫn lẩm bẩm: “Con người đẹp đẽ như thế, trừ cậu Bảo Ngọc ra ai mà sánh nổi”.

Đại Ngọc cứ vờ như không nghe thấy. Tập Nhân cười nói:

– Tại sao người ta hễ già là hay nói lẩn thẩn, làm cho người nghe vừa giận vừa buồn cười.

Một lúc sau, Tuyết Nhạn đưa bình vải cho Đại Ngọc xem. Đại Ngọc nói:

– Tôi chẳng buồn ăn, chị đem cất đi.

Chuyện trò một lúc. Tập Nhân ra về.

Chiều đến, sắp sửa cởi đồ trang sức, Đại Ngọc vào phòng trong ngước đầu trông thấy bình vải, không khỏi nhớ đến lời nói nhảm của bà già lúc ban ngày, cảm thấy trong lòng lòng bức rứt. Giữa quãng hoàng hôn, người vắng, Đại Ngọc nghìn sầu muôn mối, chứa chất bên lòng, nghĩ bụng: “Người mình thì yếu, tuổi cũng đã lớn, xem ý Bảo Ngọc tuy một lòng nghĩ đến mình nhưng bà và mợ lại không tỏ ý gì, rất giận là lúc cha mẹ còn sống, tại sao không sớm định việc hôn nhân cho mình”. Rồi cô la lại nghĩ: “Nếu lúc cha mẹ còn sống, mà định việc hôn nhân ở chỗ khác thì làm gì được con người tài giỏi và tốt như Bảo Ngọc? Chính lúc này còn có thể liệu được”. Nghĩ đi nghĩ lại trằn trọc miên man, Đại Ngọc thổn thức không yên, than thở một hồi, nhỏ vài giọt lệ, tình tứ thẫn thờ, để cả áo đi ngủ. Đang khi mơ mơ màng màng, bỗng thấy một a hoàn nhỏ chạy đến nói:

– Ông Giả Vũ Thôn ở ngoài muốn gặp cô.

Đại Ngọc nghĩ bụng, ta tuy học ông ta, nhưng không thể so với học trò con trai, ông ta muốn gặp ta làm gì? Vả lại ông ta đi lại với cậu ta, chẳng hề nhắc nhở tới ta một lời, ta cũng bất tất gặp phải ông ta làm gì? Rồi quay lại bảo a hoàn nhỏ:

– Trong người ta đang ốm, không thể ra tiếp ông ta được. Nhờ em hỏi thăm sức khỏe và cám ơn hộ.

– Nghe đâu ông ta đến báo tin mừng cho cô, và ở Nam Kinh có người đến đón cô nữa đấy.

Đang nói thì Phượng Thư, Hình phu nhân, Vương phu nhân, Bảo Thoa đều đến, cười nói:

– Chúng tôi trước là đến mừng, sau là tiễn cô.

Đại Ngọc hoảng lên, nói:

– Các mợ và các chị nói gì vậy?

Phượng Thư nói:

– Cô còn giả vờ ngớ ngẩn nữa thôi? Chả lẽ cô lại không biết chú Lâm thăng chức lương đạo tỉnh Hồ Bắc, lấy một bà kế mẫu rất tâm đầu ý hợp. Bây giờ cha cô nghĩ bỏ cô ở đây không ra sao cả, cho nên nhờ ông Giả Vũ Thôn làm mối, đưa cô gả cho người bà con nào đó của bà kế mẫu, nghe nói là làm vợ kế, vì thế sai người đến đón cô về. Có lẽ cô về đến nhà là về nhà chồng ngay. Việc này đều là do bà mẹ kế của cô làm chủ. Bà ta sợ dọc đường không ai trông nom cô, nên lại bảo anh Hai Liễn đưa đi.

Đại Ngọc nghe nói lạnh toát cả người. Rồi cô ta lại mơ màng nhớ, hình như cha mình quả thực đang làm quan ở đấy, trong lòng cuống lên, liền hỏi liều:

– Làm gì có việc ấy. Chị Phượng nói bậy!

Bỗng thấy Hình phu nhân liếc mắt nhìn Vương phu nhân và nói:

– Nó còn chưa tin, chúng ta về thôi.

Đại Ngọc ứa nước mắt nói:

– Hai mợ ngồi một tý đã.

Mọi người không nói gì, đều cười nhạt rồi ra về. Đại Ngọc hoảng quá nghẹn ngào khóc lóc không nói nên lời. Rồi lại mơ màng hình như mình ở một chỗ với Giả mẫu, nghĩ bụng: “Việc này chỉ có xin với bà, hoặc giả còn có thể cứu vãn được chăng?”

Đại Ngọc vội vàng qùy xuống, ôm lấy chân Giả mẫu mà nói:

– Bà cứu cháu với! Về Nam thì chết cháu cũng không về. Vả lại đó là kế mẫu không phải mẹ đẻ cháu. Cháu xin ở đây với bà thôi.

Nhưng thấy Giả mẫu mặt mày lạnh lùng cười nói:

– Cái đó không can gì đến ta.

Đại Ngọc khóc nói:

– Bà ơi, sao lại thế?

– Làm vợ kế cũng tốt, lại được thêm một bộ đồ nữ trang.

– Cháu ở đây với bà, quyết không tiêu pha quá đáng đâu, chỉ xin bà cứu cháu.

– Không ăn thua đâu! Làm con gái nhất định là phải đi lấy chồng, cháu còn bé không biết đấy thôi, không thể ở đây mãi được đâu cháu ạ.

– Cháu ở đây tình nguyện làm người con hầu làm lấy mà ăn, cũng cứ vui lòng, xin bà làm chủ cho.

Thấy Giả mẫu không nói gì cả. Đại Ngọc lại ôm lấy Giả mẫu mà khóc:

– Bà ơi xưa nay bà rất từ bi, lại rất yêu cháu, sao đến khi nguy cấp bà lại bỏ cháu đi như thế? Cháu tuy là cháu ngoại bà, đã cách một tầng, nhưng mẹ cháu là con đẻ của bà, bà nghĩ đến mẹ cháu xin bà bênh vực cho cháu với.

Đại Ngọc vừa nói vừa đâm đầu vào lòng Giả mẫu, khóc lóc thảm thiết. Nghe Giả mẫu gọi: “Uyên Ương, mày đưa cô đi nghỉ, nó quấy tao mệt quá”. Đại Ngọc biết là không xong, kêu nài cũng vô ích, chi bằng tìm cách tự tử, liền đứng dậy chạy ra ngoài, giận mình không còn mẹ đẻ, tuy bà ngoại, các mợ và chị em ngày thường đối đãi với mình hết sức tử tế, nhưng chẳng qua cũng là giả dối cả. Thế rồi nghĩ: “Tại sao hôm nay không thấy Bảo Ngọc, nếu được gặp anh ấy, hoặc giả còn có cách gì chăng?” Liền thấy Bảo Ngọc đứng trước mặt, cười hì hì và nói: “Mừng cho cô nhé!” Đại Ngọc nghe câu ấy, lại càng cuống lên, không kể gì nữa, nắm chặt lấy Bảo Ngọc và nói:

– Gớm anh Bảo Ngọc! Hôm nay em mới biết anh là người vô tình vô nghĩa!

– Anh làm sao mà vô tình vô nghĩa? Em đã có chồng, thì bọn mình ai lo việc cho người nấy thôi.

Đại Ngọc càng nghe càng tức, càng bối rời, đành phải nắm lấy Bảo Ngọc, khóc, nói:

– Anh ơi! Anh bảo em theo ai?

– Nếu không muốn đi thì ở lại đây. Em vốn đã hứa hôn với anh, nên mới đến ở đây. Anh đối đãi với em như thế nào? Em nghĩ lại xem.

Đại Ngọc lại mơ màng nghĩ hình như mình đã gả cho Bảo Ngọc rồi, trong lòng lại đổi buồn làm vui và hỏi Bảo Ngọc:

– Em đã nhất quyết sống chết cũng theo anh, anh bảo em đi hay ở?

– Anh bảo em ở lại, nếu em không tin lời anh thì thử xem tim anh đây.

Nói xong, Bảo Ngọc cầm một cây dao nhỏ, rạch bụng một cái, máu tươi phọt ra. Đại Ngọc sợ quá, hồn xiêu phách lạc, vội vàng đưa tay nắm lấy bụng Bảo Ngọc, khóc, nói:

– Sao anh lại làm như thế này, thì anh giết em đi đã!

– Không sợ đâu! Anh bày tim gan cho em xem.

Rồi Bảo Ngọc thò tay vào chỗ rạch, cào lấy cào để. Đại Ngọc vừa run vừa khóc, lại sợ người trông thấy vỡ chuyện, cứ ôm lấy Bảo Ngọc khóc lóc thảm thiết. Bảo Ngọc nói:

– Nguy to! Quả tim anh không còn nữa, chết mất!

Nói xong trợn ngược mắt lên ngã lăn đùng ra.

Đại Ngọc khóc òa lên. Bỗng nghe Tử Quyên gọi:

– Cô! Cô! Nằm mơ gì thế? Mau mau tỉnh dậy, cởi áo ra mà ngủ.

Đại Ngọc trở mình một cái, thì ra một cơn ác mộng. Trong cổ vẫn còn nghẹn ngào, tim đập thình thịch, gối đầu đã ướt đầm, toàn thân lạnh ngắt: “Cha mẹ mình chết đã lâu, mình với Bảo Ngọc, hôn nhân chưa định, việc này do đâu mà ra?” Đại Ngọc nghĩ đến cảnh ngộ của mình trong giấc mộng, không nơi nương tựa, nếu thật Bảo Ngọc mà chết đi, thì biết làm thế nào? Qua nỗi đau khổ, cô ta suy nghĩ đau xót, tâm thần rối loạn, lại khóc một hồi, gối đầy nước mất, cả người ướt đẫm mồ hôi, gắng gượng ngồi dậy, cởi áo khoác ngoài ra, bảo Tử Quyên đắp chăn tử tế, rồi nằm xuống, cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Nghe bên ngoài rả rích, vi vu giống như tiếng gió, cũng giống như tiếng mưa, một chốc lại nghe xa xa có tiếng khò khè, đó là tiếng ngáy của Tử Quyên. Đại Ngọc gắng gượng bò dậy, khoác chăn ngồi một chốc, cảm thấy một luồng gió rét từ ngách cửa sổ thổi vào, nổi gai sởn ốc, vội vàng nằm xuống. Đang mơ màng muốn ngủ thì nghe trên cành trúc không biết bao nhiêu là chim sẻ, kêu ríu rít, mảnh giấy trên khung cửa sổ sáng dần. Đại Ngọc đã tỉnh hẳn, hai mắt long lanh, ho rũ rượi một hồi lâu, Tử Quyên cũng ho mấy tiếng rồi tỉnh dậy nói:

– Cô còn chưa ngủ à? Lại ho rồi, chắc là bị gió lạnh đấy. Bây giờ trời sắp sáng rồi, nhìn ngoài cửa sổ đã rõ giấy dán. Cô hãy nằm nghỉ một lát đi, phải giữ gìn tinh thần, đừng nghĩ ngợi miên man nữa.

– Tôi có phải không muốn ngủ đâu? Nhưng mà ngủ không được nữa, chị cứ ngủ đi.

Nói đoạn Đại Ngọc ho. Tử Quyên thấy vậy, trong bụng cũng thương cảm, ngủ không được nữa. Thấy Đại Ngọc ho, chị ta vội vàng đứng dậy, bưng ống nhổ lại, lúc đó trời đã sáng thật. Đại Ngọc nói:

– Chị không ngủ nữa à?

– Trời đã sáng bạch rồi, ngủ làm gì nữa?

– Vậy thì chị thay cái ống nhổ đi.

Tử Quyên vâng lời, vội vàng cầm ống nhổ để lên bàn, mở cửa phòng đi ra, rồi khép lại, buông màn hoa xuống, đi gọi Tuyết Nhạn dậy. Lúc đổ ống nhổ thấy trong đờm có dính máu, Tử Quyên giật mình bất giác thất thanh gọi:

– Trời ơi, nguy to rồi!

Đại Ngọc ở trong nhà hỏi ra:

– Cái gì thế?

Tử Quyên biết mình lỡ lời, vội vàng nói chữa:

– Tôi buột tay một cái, suýt nữa quãng cái ống nhổ.

– Có phải đờm trong ống nhổ có gì phải không?

– Có gì đâu.

Tử Quyên nỗi lòng đau xót, ứa nước mắt ra, giọng nói đổi hẳn.

Đại Ngọc thấy trong họng mình hơi tanh tanh ngọt ngọt, bụng đã hơi nghi, lại thấy Tử Quyên ở ngoài có vẻ nhớn nhác, giờ lại nghe tiếng nói của cô ta có vẻ buồn thảm, trong lòng Đại Ngọc đã biết tám chín phần, liền gọi:

– Chị Tử Quyên! Vào đi thôi. Ở ngoài ấy khéo bị lạnh đấy.

Tử Quyên “dạ” một tiếng, tiếng nói so với trước lại càng đau đớn hơn, rõ ràng là tiếng nức nở.

Đại Ngọc nghe vậy, lạnh buốt nửa người. Thấy Tử Quyên đẩy cửa vào, còn cầm khăn lau nước mắt. Đại Ngọc nói:

– Sớm mai mới dậy làm gì mà chị khóc thế?

Tử Quyên gượng cười nói:

– Tôi có khóc đâu? Sáng nay dậy thấy con mắt hơi khó chịu. Cô hình như đêm nay dậy sớm hơn mọi hôm, phải không? Tôi nghe cô ho đến nửa đêm.

– Phải đấy! Càng muốn ngủ nhưng không ngủ được.

– Người cô không được khỏe lắm, theo ý tôi cần nên tiêu khiển cho đỡ buồn, phải giữ mình là chính. Tục ngữ hay nói: “Non xanh còn đấy, còn có củi đun”. Cô ở đây, từ cụ và bà Hai trở xuống, ai lại không thương yêu cô?

Câu nói ấy nhớ gợi lại giấc mộng. Đại Ngọc cảm thấy trong lòng nhức nhối, trước mắt tối sầm, thần sắc thay đổi hẳn. Tử Quyên vội vàng bưng ống nhổ lại, Tuyết Nhạn vỗ xương sống, một chốc cô ta mới khạc ra một miếng đờm, trong có tia máu đỏ.

Tử Quyên và Tuyết Nhạn sợ tái mặt, hai người ngồi bên cạnh trông nom. Đại Ngọc mê mệt nằm xuống. Tử Quyên xem chừng nguy cấp vội vàng hất hàm ra hiệu bảo Tuyết Nhạn đi gọi người.

Tuyết Nhạn vừa ra khỏi cửa thì thấy Thúy Lũ và Thúy Mặc cười rúc rích chạy đến. Thúy Lũ hỏi:

– Tại sao cô Lâm bây giờ còn chưa đi ra? Cô chúng tôi và cô Ba đều ở bên nhà cô Tư nói chuyện về bức tranh cái vườn của cô Tư vừa vẽ.

Tuyết Nhạn vội xua tay. Thúy Lũ và Thúy Mặc giật mình hỏi:

– Có việc gì thế?

Tuyết Nhạn đem việc vừa rồi nói rõ với hai người, hai người đều lè lưỡi nói:

– Không phải chuyện chơi! Sao các chị không đến trình với cụ? Nguy lắm đấy! Các chị sao lại vớ vẩn thế?

Tuyết Nhạn nói:

– Tôi đang định đi, thì các chị đến.

Đang nói chuyện thì nghe tiếng Tử Quyên gọi:

– Ai nói chuyện ở ngoài kia? Cô đang hỏi đấy.

Ba người vội vàng đi vào, Thúy Lũ và Thúy Mặc thấy Đại Ngọc đắp chăn nằm trên giường. Đại Ngọc thấy hai người liền hỏi:

– Ai nói với các chị mà các chị nhớn nhác thế?

Thúy Mặc nói:

– Cô chúng tôi cùng cô Vân đều ở bên nhà cô Tư, bàn bạc về bức tranh cái vườn của cô ấy, bảo chúng tôi đến mời cô, không ngờ cô lại mệt.

– Cũng không phải bệnh gì nặng, chẳng qua trong người hơi mệt, nằm một lát sẽ dậy, các chị về thưa với cô Ba và cô Vân, ăn cơm xong nếu rỗi rãi mời các cô đến đây chơi một chốc. Cậu Bảo có đến bên nhà các chị không?

Hai người trả lời: “Không”.

Thúy Mặc lại nói:

– Hai hôm nay cậu Bảo đi học, hôm nào ông lớn cũng xem xét bài vở, đâu còn có thể đi chơi rông như lúc trước được nữa?

Đại Ngọc nghe nói im lặng, hai người đứng một lát rồi lén lén đi ra.

Thám Xuân và Tương Vân đang ở bên nhà Tích Xuân bàn bạc về bức tranh “Vườn Đại quan” của Tích Xuân:

– Chỗ này hơi thừa, chỗ kia hơi thiếu, chỗ này thưa quá, chỗ kia nhặt quá.

Mọi người lại bàn việc đề thơ và sai hai người đi mời Đại Ngọc đến bàn bạc.

Chợt thấy Thúy Lũ và Thúy Mặc trở về sắc mặt hoảng hốt.

Tương Vân hỏi trước:

– Sao cô Lâm không tới?

Thúy Lũ nói:

– Cô Lâm đêm hôm qua lại ốm, ho một đêm, chúng tôi nghe Tuyết Nhạn nói cô ta ho ra máu.

Thám Xuân nghe nói ngạc nhiên hỏi:

– Thật không?

Thúy Lũ nói:

– Sao lại không thật!

Thúy Mặc nói:

– Vừa rồi chúng tôi đến thăm, thấy cô Lâm mặt mày xanh xao, giọng nói rất là yếu ớt.

Tương Vân nói:

– Đã ốm như thế, sao lại còn nói được?

Thám Xuân nói:

– Sao cô lại vớ vẩn thế? Nếu không nói được thì tức là…

Cô ta đến đó bỗng nín bặt đi.

Tích Xuân nói:

– Cô Lâm thông minh như thế, nhưng tôi xem ra thì không hiểu gì hết, bạ cái gì cũng cho là thật, nhưng việc thiên hạ nào có thật cả đâu.

Thám Xuân nói:

– Đã thế thì chúng ta qua thăm cô ta một lát, nếu thật bệnh quá nặng thì chúng ta nói với chị Cả, thưa lại với cụ, mời thầy thuốc đến xem.

Tương Vân nói:

– Phải đấy!

Tích Xuân nói:

– Các chị đi trước, chốc nữa tôi sẽ sang.

Thám Xuân và Tương Vân vịn vào a hoàn nhỏ đi đến quán Tiêu Tương. Thấy hai người bước vào phòng, Đại Ngọc lại đâm ra chạnh lòng. Rồi cô ta lại nhớ câu chuyện trong mộng: “Ngay cả bà mình cũng còn như thế, huống nữa là họ, nếu mình không mời thì họ cũng chẳng đến nào”. Trong bụng nghĩ thế, nhưng ngoài mặt không thể bỏ qua, Đại Ngọc đành phải miễn cưỡng bảo Tử Quyên đỡ dậy, mời hai người ngồi.

Thám Xuân và Tương Vân đều ngồi bên mép giường, mỗi bên một người. Thấy quang cảnh Đại Ngọc như vậy họ đều thương cảm.

Thám Xuân hỏi:

– Cô lại ốm rồi sao?

– Không can gì đâu, chỉ thấy trong người mệt lắm.

Tử Quyên ở sau lưng Đại Ngọc, lấy tay chỉ trộm cái ống nhổ. Tương Vân tuổi trẻ, tính lại bộc trực, liền giơ tay cầm ống đờm lên xem, sợ hãi nói:

– Cô nhổ ra đấy à? Chết thật!

Đại Ngọc mê mệt, nhổ ra cũng không xem kỹ, giờ nghe Tương Vân nói, ngoảnh lại xem, bất giác lạnh toát nửa người. Thám xuân thấy Tương Vân xốc nổi, vội vàng nói chữa:

– Đó chẳng qua là phế hỏa bốc lên, vương ra một vài giọt chứ có gì đâu. Cái cô Vân này thấy bất kỳ cái gì cũng cứ làm nhặng lên.

Tương Vân biết mình lỡ lời, đỏ bừng mặt. Thám Xuân thấy Đại Ngọc tinh thần uể oải, có ý mỏi mệt, vội vàng đứng dậy nói:

– Cô hãy tĩnh dưỡng gìn giữ tinh thần, chốc nữa chúng tôi sẽ lại.

– Cảm ơn hai cô nhớ đến tôi.

Thám Xuân lại dặn Tử Quyên:

– Chị phải chăm chỉ hầu hạ cô đấy.

Tử Quyên vâng lời.

Thám Xuân vừa định đi ra, thì nghe bên ngoài có người kêu gào ầm lên.

1      Chữ trong Luận ngữ: cả đoạn này “Hậu sinh khả úy yên tri lai giả chi bất như kim dã. Tứ thập ngũ thập nhi vô văn yên, diệc bất túc úy yên nhi hĩ”, nghĩa là lớp trẻ là đáng sợ, biết đâu sau này không như ngày nay. Người bốn, năm mươi tuổi mà không có tiếng tăm gì, thì cũng không đáng sợ.

2      Khi giảng tới câu này không phải kiêng kỵ.

3      Cũng ở trong Luận ngữ: Ta chưa thấy ai ham đức như ham sắc đẹp.

Chương 83: Vào cung Vị, thăm Nguyên phi bị ốm – Nhộn nhà cửa, làm Bảo Thoa nghẹn lời

Vào cung Vị, thăm Nguyên phi bị ốm

Nhộn nhà cửa, làm Bảo Thoa nghẹn lời

Thám Xuân và Tương Vân đang định đi ra, chợt nghe bên ngoài có người kêu ầm lên:

– Con ranh con kia! Cái thứ mày là hạng gì mà dám đến phá phách vườn này?

Đại Ngọc nghe nói, kêu to lên một tiếng:

– Không thể ở đây được nữa!

Rồi giơ một tay chỉ ra ngoài cửa sổ, hai mắt cứ trợn ngược lên. Đại Ngọc ở trong vườn Đại Quan, tuy được Giả mẫu thương yêu nhưng đối với người khác, việc gì cũng để ý từng ly từng tí. Nghe bà già ở ngoài cửa sổ mắng như thế, nếu như người khác thì không để ý làm gì, nhưng Đại Ngọc lại cho người ta nói móc mình. Cô ta nghĩ bụng “Mình là một vị tiểu thư nghìn vàng, chỉ vì cha mẹ mất cả, không biết người nào xui xiểm bà già ấy đến nhiếc mắng mình như thế”. Trong lòng tức tối không sao chịu nổi, cô ta đau đớn quá ngất người đi.

Tử Quyên vừa khóc vừa gọi:

– Cô sao thế? Mau mau tỉnh lại.

Thám Xuân cũng gọi, một lát sau Đại Ngọc mới hồi tỉnh, nhưng vẫn nói không ra lời, một tay vẫn chỉ ra ngoài cửa sổ.

Thám Xuân hiểu ý, mở cửa đi ra, thấy một bà già tay cầm cái gậy, đuổi một con bé lem luốc và nói:

– Tao tới đây để trông nom hoa quả cây cối trong vườn, chứ mày làm gì mà cũng đến đây? Về nhà tao sẽ đánh cho mày một trận.

Con bé kia quay đầu lại, miệng đang mút ngón tay chùn chụt mắt nhìn bà già mà cười.

Thám Xuân mắng:

– Các bà dạo này càng không có phép tắc gì nữa! Ở đây là chỗ các bà mắng người ta đấy à?

Bà già kia thấy Thám Xuân, vội vàng cười tươi nói:

– Con cháu ngoại tôi thấy tôi vào đây, nó cũng đi theo, tôi sợ nó phá, nên quát nó về, đời nào tôi lại dám mắng người ta ở đây.

– Không cần nói nhiều, ở đây cô Lâm không được khỏe, bà ra mau mau đi cho tôi.

Bà già “dạ” một tiếng, quay ra ngay, con bé cũng chạy mất.

Thám Xuân trở vào, thấy Tương Vân cứ nắm tay Đại Ngọc mà khóc. Tử Quyên một tay ôm lấy người Đại Ngọc, một tay vuốt bụng cho cô ta. Bấy giờ con mắt Đại Ngọc mới dần dần trở lại như cũ.

Thám Xuân cười nói:

– Chắc là cô nghe lời bà già kia nói mà ngờ vực phải không?

Đại Ngọc cứ lắc đầu. Thám Xuân nói:

– Bà già ấy mắng cháu ngoại, vừa rồi tôi cũng nghe thấy. Các bà ấy ăn nói thật chả biết gì cả, các bà ấy có biết kiêng nể gì đâu?

Đại Ngọc nghe nói, thở dài nắm lấy tay Thám Xuân và nói:

– Em… – Rồi lại im bặt.

Thám Xuân lại nói:

– Cô đừng có phiền lòng, tôi đến thăm cô, đó là tình nghĩa chị em. Cô lại ít người hầu hạ, chỉ cần cô yên tâm và chịu khó uống thuốc, trong bụng nên nghĩ đến những việc vui mừng. Cô sớm mạnh khỏe được ngày nào thì ngày ấy chúng ta lại lập thi xã làm thơ như cũ, thế chẳng vui sao?

Tương Vân nói:

– Như chị Ba nói đó vui biết chừng nào.

Đại Ngọc nghẹn ngào:

– Các cô cứ muốn cho tôi vui, nhưng tiếc thay tôi làm gì được có ngày ấy, chỉ sợ không khỏi thôi!

Thám Xuân nói:

– Cô nói bậy thôi, người nào không có bệnh tật kia chứ? Đã có gì đâu mà nghĩ vơ vẩn thế? Cô hãy nghỉ thôi, chúng tôi đến bên cụ, rồi chốc nữa sẽ quay trở lại. Cô cần gì cứ bảo Tử Quyên nói với tôi.

Đại Ngọc ứa nước mắt, nói:

– Em ạ! Em đến bên nhà cụ, nhờ chuyển lời tôi hỏi thăm sức khỏe, trong người tôi hơi mệt, không có bệnh gì nặng, xin cụ chớ phiền lòng.

Thám Xuân vâng lời, nói:

– Tôi biết rồi, cô cứ nằm yên thôi.

Nói xong cùng Tương Vân đi ra.

Trong lúc đó Tử Quyên đỡ Đại Ngọc nằm xuống giường, mọi việc đã có Tuyết Nhạn lo liệu, còn mình thì săn sóc cho Đại Ngọc. Nhìn Đại Ngọc, Tử Quyên đau xót trong lòng, nhưng không dám khóc. Đại Ngọc nhắm mắt một lát, nhưng không sao ngủ được. Trong vườn ngày thường tịnh mịch, nay nằm trên giường, cô ta nghe tiếng gió thổi, tiếng sâu bọ kêu, tiếng chim hót, tiếng chân người đi lại, hình như xa xa có tiếng trẻ con khóc. Tất cả những tiếng ấy, cứ xào xạc bên tai, làm cho cô ta đâm ra bực bội, liền gọi Tử Quyên buông màn xuống.

Tuyết Nhạn bưng một bát yến sào đưa cho Tử Quyên. Tử Quyên đứng ngoài màn hỏi khẽ:

– Cô húp một miếng nhé?

Đại Ngọc khẽ ừ một tiếng. Tử Quyên quay lại đưa bát yến sào cho Tuyết Nhạn, rồi lên giường đỡ Đại Ngọc ngồi dậy. Tử Quyên cầm bát yến sào, nếm thử một tý, rồi một tay ôm lấy vai Đại Ngọc; một tay bưng bát đưa lên môi Đại Ngọc. Đại Ngọc hé mắt húp hai, ba miếng, rồi lắc đầu không ăn nữa. Tử Quyên lại đưa bát cho Tuyết Nhạn, đỡ Đại Ngọc nhè nhẹ nằm xuống.

Nằm yên lặng một lát, Đại Ngọc hơi đỡ, chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng hỏi nhỏ:

– Em Tử Quyên có ở nhà không?

Tuyết Nhạn vội vàng đi ra, thấy Tập Nhân, liền nói khẽ:

– Mời chị vào trong nhà ngồi.

Tập Nhân cũng hỏi khẽ:

– Cô làm sao thế?

Vừa đi, Tuyết Nhạn vừa kể lại mọi việc vừa xảy ra đêm qua. Tập Nhân nghe vậy cũng kinh sợ ngơ ngác, liền nói:

– Chả trách vừa rồi Thúy Lũ đến bên chúng tôi nói cô ốm, cậu Bảo sợ quá, vội sai tôi đến xem thế nào?

Đương nói thì thấy Tử Quyên vạch màng ló đầu ra nhìn.

Trông thấy Tập Nhân, Tử Quyên vẫy tay gọi. Tập Nhân nhẹ nhàng đi tới, hỏi:

– Cô ngủ rồi à?

Tử Quyên gật đầu, hỏi lại:

– Chị cũng biết tin à?

Tập Nhân cũng gật đầu, rồi cau mày nói:

– Cứ thế này mãi thì làm thế nào? Cậu Bảo đêm hôm qua cũng làm tôi sợ gần chết.

– Sao thế?

– Đêm hôm qua khi cậu ấy đi ngủ thì không có việc gì cả. Ai ngờ nửa đêm cậu ấy kêu rầm lên là đau bụng, miệng nói lảm nhảm hình như bị dao cắt ruột, mãi đến gần sáng mới hơi đỡ, chị bảo có dễ sợ không? Hôm nay cậu ấy không đi học được, lại còn phải mời thầy uống thuốc nữa đấy.

Đang nói thì nghe Đại Ngọc lại ho ở trong màn. Tử Quyên vội vàng lại gần, bưng ống nhổ để hứng đờm. Đại Ngọc hé mắt ra và hỏi:

– Chị nói chuyện với ai thế?

– Chị Tập Nhân đến thăm cô đấy.

Lúc này Tập Nhân đã đi tới bên giường. Đại Ngọc bảo Tử Quyên đỡ dậy, một tay chỉ bên giường, mời Tập Nhân ngồi.

Tập Nhân ghé mình ngồi xuống, vội vàng tươi cười an ủi:

– Cô cứ nằm thôi.

– Tôi không hề gì đâu, các chị đừng có làm xôn xao lên thế, vừa rồi, chị nói ai nửa đêm đau bụng?

– Cậu Bảo ngẫu nhiên bị mê nhưng không can gì.

Đại Ngọc hiểu ý, biết là Tập Nhân sợ mình lo lắng. Cô ta vừa cảm kích, vừa đau thương, nhân tiện hỏi:

– Cậu ấy mê sảng thế chị không nghe cậu ấy nói gì à?

– Cũng không nói gì.

Đại Ngọc gật đầu, một hồi lâu thở phào một tiếng rồi nói:

– Các chị đừng nói với cậu Bảo là tôi ốm, coi chừng cậu ấy lại nhỡ việc học, để ông lại giận.

Tập Nhân vâng lời và khuyên:

– Cô nên nằm nghỉ thôi.

Đại Ngọc giật đầu, bảo Tử Quyên đỡ mình nằm xuống.

Tập Nhân ngồi một bên, an ủi mấy câu rồi ra về. Đến viện Di Hồng, chị ta chỉ nói Đại Ngọc hơi mệt, không phải bệnh gì nặng. Bảo Ngọc mới yên lòng.

Thám Xuân và Tương Vân ra khỏi quán Tiêu Tương đi một mạch đến nhà Giả mẫu. Thám Xuân dặn Tương Vân:

– Chốc nữa gặp cụ, em đừng có xốc nổi như thế nữa.

Tương Vân gật đầu cười, nói:

– Biết rồi, lúc nãy em khiếp quá nên mới vô ý như thế.

Lúc này hai người đã đến nhà Giả mẫu. Thám Xuân nhắc đến bệnh Đại Ngọc. Giả mẫu nghe vậy, buồn bực nói:

– Chỉ có hai cháu Ngọc là lắm bệnh tật. Con Lâm giờ đã lớn rồi, phải gìn giữ thân thể, ta thấy nó hay để ý từng ly từng tý quá.

Mọi người đều không dám nói gì. Giả mẫu liền bảo Uyên Ương:

– Mày nói với chúng nó: Ngày mai thầy thuốc đến xem cho Bảo Ngọc thì bảo sang xem cho con Lâm luôn.

Uyên Ương vâng lời đi ra, nói với bọn bà già. Bọn bà già lại truyền ra ngoài. Thám Xuân và Tương Vân ăn cơm chiều với Giả mẫu, rồi về trong vườn.

Hôm sau, thầy thuốc đến xem bệnh cho Bảo Ngọc, chẳng qua cũng nói là ăn uống không có điều độ, hơi cảm phong hàn, không quan hệ lắm, sơ tán một chút là khỏi. Vương phu nhân và Phượng Thư một mặt sai người đem đơn thuốc đến trình Giả mẫu; một mặt sai người đến nói với người ở quán Tiêu Tương:

– Thầy thuốc sắp đến rồi đấy.

Tử Quyên vâng lời, vội vàng đắp chăn cho Đại Ngọc tử tế và buông màn xuống. Tuyết Nhạn thì vội vàng dọn dẹp trong phòng.

Một lát sau, Giả Liễn đưa thầy Lang vào và nói:

– Cụ lang thường đến đây luôn, các chị không cần phải tránh.

Bà già treo màn lên. Giả Liễn mời thầy Lang vào ngồi trong phòng, rồi nói:

– Chị Tử Quyên, chị hãy kể bệnh tình của cô Lâm cho cụ Vương rõ.

Thầy lang họ Vương bảo:

– Hãy khoan, để tôi bắt mạch, và nói xem có đúng hay không. Nếu có chỗ nào sai các cô sẽ bảo tôi.

Tử Quyên liền đưa tay của Đại Ngọc từ trong màn ra, đặt trên gối dựa, rồi nhẹ nhàng giơ cái ống áo và cái vòng lên để khỏi đè lấy mạch.

Thầy Lang họ Vương bắt mạch tay này một lúc, lại bắt sang tay kia, rồi cùng Giả Liễn đi ra nhà ngoài ngồi và nói:

– Sáu mạch đều huyền 1 là do ngày thường hay tư lự mà ra.

Đang nói thì Tử Quyên cũng ra đứng phía trong cửa. Thầy lang liền bảo Tử Quyên:

– Bệnh này thường chóng mặt kém ăn uống, hay chiêm bao; mỗi lúc đến canh năm, thế nào cũng tỉnh dậy mấy lần; ban ngày dù nghe những việc không liên quan đến mình cũng cứ tức giận và hay nghi hay sợ. Ai không biết thì cho là tính tình quá gở, thực ra chỉ vì can âm bị suy kém, tâm trí hao mòn, nguyên nhân cũng đều là do bệnh ấy gây nên cả. Có đúng thế không?

Tử Quyên gật đầu, nói với Giả Liễn:

– Thầy nói rất đúng.

Thầy Lang nói:

– Thế thì được.

Nói xong, ông ta cùng Giả Liễn đi ra thư phòng kê đơn.

Bọn hầu trai đã sắp sẵn một tờ thiếp mai hồng. Thầy lang uống trà xong cầm bút viết:

“Sáu mạch huyền và chậm, vì ngày thường uất tích. Mạch “thốn” bên phải vô lực; tâm khí đã suy. Riêng mạch “quan” lại mạnh là can tà vượng hơn. Mộc khí không tiết ra được, thế nào cũng lấn tỳ thổ, vì thế mà ăn không biết ngon, thậm chí thắng cái không thể thắng; phế kim nhất định bị thương. Khí không lưu thông, ngưng tụ lại thành ra đờm; huyết theo khí mà trào lên, tất sinh ho. Đúng thì phải “Sơ can bảo phế” nuôi dưỡng tâm tỳ. Tuy có thuốc bổ, cũng không nên dùng ngay. Bây giờ hãy xin dùng bài “Hắc tiêu dao” để khai thông trước đã, rồi sau dùng bài “Qui phế cố kim” để uống tiếp theo. Ý định của tôi như thế, xin chờ bật cao minh xét lại mà dùng.

Viết xong, thầy lang lại kê thêm bảy vị thuốc và mấy vị thuốc dẫn. Giả Liễn cầm lên xem, hỏi:

– Huyết đang xung mà dùng được sài hồ à?

– Cậu Hai chỉ huyết sài hồ là vị thuốc có tính chất bốc lên, bệnh thổ huyết nên kiêng, không biết dùng miếng huyết 2 mà sao đi, nếu không dùng sài hồ thì không thể khai thông được khí ở kinh thiếu dương. Dùng miết huyết mà hạn chế bớt đi, làm cho nó không đến nỗi bốc lên quá, thì sài hồ có thể bồi dưỡng được can âm và ức chế được tà hỏa. Vì thế sách nội kinh nói: “Nhân thông mà dùng cách thông, nhân tắc mà dùng cách tắc”. Dùng sài hồ sao với miết huyết, chính là cách “mượn Chu Bột để yên họ Lưu” 3 đấy

– Té ra như thế, rất là tốt.

– Xin uống trước hai thang, rồi hãy thêm bớt, hoặc là đổi phương khác. Tôi còn có chút việc, không thể ngồi lâu, ngày khác sẽ tới hỏi thăm sức khỏe.

Giả Liễn tiễn thầy lang ra, và hỏi:

– Thuốc chú em tôi thì như thế thôi à?

– Cậu Hai không có bệnh gì nặng, có lẽ chỉ uống thêm một thang nữa là khỏe.

Nói xong lên xe ra về.

Giả Liễn một mặt sai người bốc thuốc, một mặt về phòng nói lại bệnh tình của Đại Ngọc và việc dùng thuốc của thầy lang cho Phượng Thư nghe. Vừa lúc đó, thấy vợ Chu Thụy chạy đến trình lại mấy việc lặt vặt. Giả Liễn nghe qua mấy câu liền nói:

– Chị thưa lại với mợ Hai thôi, tôi còn chút việc.

Nói xong Giả Liễn đi ngay, vợ Chu Thụy quay vào nói với Phượng Thư:

– Vừa rồi tôi đến bên nhà cô Lâm, xem bệnh cô ta có phần nguy lắm. Mặt không còn một chút máu, sờ người chỉ thấy xương bọc lấy da! Hỏi thì cô ta cứ chảy nước mắt, không nói gì. Sau đó cô Tử Quyên nói với tôi: cô Lâm hiện đang ốm, muốn xin cái gì cũng không dám nói. Tôi định thưa với mợ Hai xin chi trước cho hai tháng tiền lương.Vì bây giờ tiền uống thuốc tuy có quỹ chung nhưng cũng phải có ít nhiều để tiêu vặt. Tôi nhận lời cô ta và xin thưa lại với mợ.

Phượng Thư cúi đầu nghĩ một lát, rồi nói:

– Thế này nhé, tôi đưa cho cô Tử Quyên mấy lạng bạc để tiêu, cũng không cần nói với cô Lâm nữa. Còn tiền tháng thì không thể chi trước, vì một người bày trò, rồi ai cũng đòi chi trước thì làm sao được? Chị lại không nhớ việc Dì Triệu và cô Ba cãi nhau hay sao? Chẳng qua cũng chỉ vì tiền tháng đấy thôi. Gần đây chị cũng biết đấy, tiền tiêu ra thì nhiều, mà tiền thu vào thì ít, thành ra cứ phải giật gấu vá vai, người không biết cứ bảo tôi tính toán không khéo, có những kẻ đặt điều nói là tôi chuyền của về bên ngoại. Chị cũng là người đã từng lo việc chi tiêu trong nhà, tất nhiên chị biết tôi làm như thế nào?

– Thật là oan uổng chết đi được! Đối với gia đình đồ sộ như thế này, chỉ có người biết lo lắng tính toán như mợ mới làm được thôi. Đừng nói là đàn bà làm không được, dầu cho hạng đàn ông ba đầu sáu tay cũng chưa chắc đã chống đỡ nổi. Thế mà còn dám nói nhảm.

Nói đến đó chị ta lại phì cười và tiếp:

– Mợ không biết, chứ người bên ngoài lại còn nói nhảm hơn nữa kia! Trước đây nhà tôi về nhà bảo, người ngoài tưởng rằng trong phủ mình không biết bao nhiêu tiền mà kể. Có người nói: “Trong phủ Giả có cái kho mấy gian bạc, mấy gian vàng, đồ đạc trong nhà đều bịt vàng, nạm bạc hết”. Có người nói: “Con gái làm Vương phi, thế nào chả đem của cải trong cung chia một nửa cho bên ngoại. Trước đây quý phi về thăm nhà, chính mắt chúng tôi trông thấy chở về mấy xe vàng bạc, cho nên trong nhà trần thiết không khác gì cung Long Vương. Hôm nọ làm lễ tạ thần ở miếu, tiêu hết mấy vạn lạng bạc, chẳng qua là nhổ một cái lông ở trên mình con trâu mà thôi”. Có người lại còn nói: “Con sư tử ở trước cửa nhà họ, có lẽ cũng là ngọc thạch đấy! Trong vườn thì có kỳ lân bằng vàng, bị mất trộm một con rồi, chỉ còn một con thôi. Các mợ các cô trong nhà thì không cần phải nói, ngay đến các cô gái hầu cũng không phải mó đến một việc gì, cứ mực uống rượu, đánh cờ, gẩy đàn vẽ tranh, vì họ đã có người hầu hạ, chỉ việc mang là mặc lượt, đồ ăn uống trang sức đều là những vật người thường không biết đến. Còn các cô các cậu thì lại càng không phải nói, muốn đòi mặt trăng trên trời cũng có người lấy xuống cho mà chơi.

Lại còn có một bài hát:

Phủ Vinh quốc, phủ Ninh quốc

Bạc vàng của báu như bùn đất

Ăn không cùng, mặc không cùng

Rồi ra…

Nguyên câu cuối là:

Rồi ra rút cục cũng là không.

Chị ta buột miệng nói đến đó, chợt nghĩ câu ấy không hay, nên nín bặt đi.

Phượng Thư nghe xong, biết câu này chẳng tốt lành gì, nên cũng không tiện hỏi vặn, chỉ nói:

– Những cái đó chẳng quan hệ gì, nhưng câu chuyện “kỳ lân vàng” thì ở đâu mà ra?

– Tức là con kỳ lân vàng nhỏ mà đạo sĩ già trong miếu biếu cậu Bảo đấy. Sau mất đi mấy hôm, may cô Sử nhặt được, trả lại cho cậu ấy. Thế mà bên ngoài bịa ra như thế, mợ nói những người ấy có đáng buồn cười hay không?

– Những câu chuyện ấy không đáng buồn cười, mà là đáng sợ đấy! Nhà mình càng ngày càng khó khăn, mà bên ngoài họ còn bàn tán như thế. Tục ngữ nói: “Người sợ nổi danh, lợn lành sợ béo”, huống nữa đây lại là cái tiếng hão. Sau này chẳng biết ra sao?

– Mợ lo cũng phải, nhưng trong kinh thành này, từ quán trà hàng rượu đến các ngõ đường, đâu đâu cũng nói như thế, mà cũng không phải chỉ quãng một năm nay, thì làm sao mà bịt miệng người ta được?

Phượng Thư gật đầu, bảo Bình Nhi cân mấy lạng bạc đưa cho vợ Chu Thụy và nói:

– Chị cầm lấy đưa trước cho Tử Quyên, nói rằng tôi đưa cho chị ta để mua thêm các thứ. Nếu muốn xin tiền công thì cứ việc xin chứ đừng nhắc đến câu chuyện chi tiền tháng. Chị ta là người sáng dạ, thế nào cũng hiểu lời nói của tôi. Có dịp rảnh tôi sẽ tới thăm cô Lâm.

Vợ Chu Thụy cầm lấy bạc, vâng lời đi ra.

Giả Liễn đi ra ngoài, thấy một tên hầu nhỏ đón lại thưa:

– Ông Cả gọi cậu đến hỏi chuyện.

Giả Liễn vội vàng đi sang gặp Giả Xá. Giả Xá nói:

– Vừa rồi nghe tin trong cung gọi một vị ngự y ở Thái y viện và hai người lại mục vào xem bệnh, chắc không phải là bọn cung nữ ốm đâu. Mấy hôm nay trong cung có tin tức gì về quý phi không?

– Không ạ.

– Con đi hỏi chú Hai và anh Trân xem; nếu không biết thì phải sai người đến Thái y viện dò xem mới được.

Giả Liễn vâng lời, một mặt sai người tới Thái y viện, một mặt vội vàng đi gặp Giả Chính và Giả Trân.

Giả Chính nghe nói, liền hỏi:

– Nghe tin ở đâu thế?

– Thưa vừa rồi nghe cha cháu nói.

– Cháu cùng anh Trân đi vào trong ấy dò xem.

– Cháu đã cho người đi hỏi ở Thái y viện rồi.

Giả Liễn nói xong, đi ra tìm Giả Trân, thấy Giả Trân đã từ đằng kia đi tới. Giả Liễn vội vàng kể lại câu chuyện. Giả Trân nói:

– Tôi cũng nghe tin ấy, nên tới thưa lại cùng ông Cả và ông Hai đây.

Hai người liền vào gặp Giả Chính.

Giả Chính nói:

– Nếu quả là Nguyên phi ốm thì thế nào cũng sẽ có tin.

Đang nói thì Giả Xá cũng vừa tới.

Đến trưa, người đi dò tin chưa về, người canh cửa đã vào thưa:

– Có hai vị nội giám, muốn vào gặp hai cụ.

Giả Xá nói:

– Mời vào đây.

Người canh cửa dẫn hai vị nội giám vào.

Giả Xá và Giả Chính ra đón ở cửa thứ hai, trước hết hỏi thăm sức khoẻ của quý phi, rồi cùng đi vào nhà khách mời ngồi.

Viên nội giám già nói:

– Hôm trước quý phi hơi mệt, hôm qua vâng chỉ vua cho triệu bốn người bà con vào cung thăm hỏi, cho phép mỗi người đem một a hoàn đi theo, ngoài ra không cần gì cả. Còn bà con đàn ông thì chỉ ở ngoài cửa cung đệ tên họ và quan chức vào thôi, chứ không được tự tiện vào cung. Đúng giờ thìn, giờ tỵ ngày mai thì vào, giờ thân, giờ dậu thì ra.

Giả Xá, Giả Chính đứng nghe chỉ của nhà vua, rồi lại ngồi xuống, mời viên nội giám uống trà xong, họ cáo từ ra về.

Giả Xá và Giả Chính tiễn họ ra khỏi cửa ngoài, rồi trở vào thưa với Giả mẫu. Giả mẫu nói:

Bốn người bà con, cố nhiên là ta và hai bà rồi, còn một người nữa là ai?

Không ai dám trả lời. Giả mẫu nghĩ một lát rồi nói:

– Thế nào cũng phải cháu Phượng đi mới được, vì nó biết trông nom mọi việc, cha con các anh thử ra bàn xem ai sẽ đi.

Giả Xá và Giả Chính vâng lời đi ra bàn để Giả Liễn và Giả Dung ở lại coi nhà, còn thì tất cả những người có tên hàng chữ “văn”cho đến hàng chữ “thảo” đều đi cả. Lại dặn người nhà sắp sẵn bốn cỗ kiệu lục, hơn mười cỗ xe mui cánh trả, sáng sớm mai chờ sẵn ở cửa. Bọn người nhà vâng lời.

Giả Xá và Giả Chính lại vào trong thưa lại với Giả mẫu:

– Gờ thìn, giờ tỵ vào cung, giờ thân, giờ dậu ra về, vì thế hôm nay nghỉ sớm, để mai dậy sớm, sắm sửa vào cung.

Giả mẫu nói:

– Ta biết rồi, các anh cứ về đi.

Bọn Giả Xá lui ra. Bọn Hình phu nhân, Vương phu nhân và Phượng Thư đều bàn tán về cái ốm của Nguyên phi, lại nói chuyện một lúc rồi về.

Hôm sau tảng sáng, bọn a hoàn ở các nhà thắp đèn. Các bà chải đầu rửa mặt xong, các ông cũng sắm sửa đâu vào đấy. Đến đầu giờ mão, Lâm Chi Hiếu và Lại Đại đi vào, đến cửa thứ hai thưa:

– Xe và kiệu đã sửa soạn sẵn sàng, đang chờ ở ngoài cửa.

Một lát, Giả Xá và Hình phu nhân cùng đến. Mọi người cùng ăn cơm sáng. Trước hết, Phượng Thư dìu Giả mẫu đi ra, bọn Vương phu nhân đi theo chung quanh, mỗi người mang theo một người hầu gái. Lại sai bọn Lý Quý cưỡi ngựa đi trước, chờ săn ở cửa cung để tiếp đón. Những người từ hàng chữ “văn” đến hàng chữ “thảo” đều lên xe hoặc cưỡi ngựa. Bọn người nhà lũ lượt theo sau.

Giả Liễn và Giả Dung ở lại coi nhà.

Xe và ngựa của họ Giả đều đỗ ở phía Tây, ngoài cửa cung. Một lát có hai người nội giám ra nói:

– Các bà các mợ ở phủ Giả tới thăm, xin mời vào cung, còn các ông thì đều làm lễ vấn an ở ngoài cửa Nội cung chứ không được vào.

Rồi có người ở cửa cung gọi: “mời vào mau”. Bốn cỗ kiệu của phủ Giả theo một nội giám nhỏ đi vào. Bọn đàn ông thì đi theo sau kiệu, còn người nhà thì đứng chờ ở ngoài. Khi tới gần cửa cung, có mấy người nội giám già ngồi ở đó. Thấy họ vào, bọn nội giám đứng dậy nói:

– Các ông ở phủ Giả chờ ở đây.

Bọn Giả Xá, Giả Chính liền theo thứ tự mà đứng. Mấy cỗ kiệu khiêng đến cửa cung, những người ngồi trong kiệu điều bước ra, đã có sẵn sàng mấy người nội giám nhỏ dẫn đường. Bọn Giả mẫu đều có a hoàn dìu và đi chân. Đến nhà ngủ của Nguyên phi, thấy châu ngọc huy hoàng, lưu ly chói lọi. Có hai cung nữ nhỏ truyền bảo:

– Chỉ hỏi thăm sức khỏe, còn các lễ nghi khác đều miễn.

Bọn Giả mẫu tạ ơn, đi đến trước giường hỏi thăm sức khỏe xong. Nguyên phi cho ngồi. Bọn Giả mẫu xin phép ngồi xuống.

Nguyên phi hỏi Giả mẫu:

– Gần đây bà có khỏe không?

Giả mẫu vịn vào a hoàn nhỏ, lập cập đứng dậy trả lời:

– Nhờ phúc đức lớn của Quý phi, tôi vẫn mạnh.

Nguyên phi lại hỏi thăm Hình phu nhân và Vương phu nhân, hai người đều đứng dậy trả lời. Nguyên Phi lại hỏi Phượng Thư:

– Việc ăn tiêu trong nhà ra sao?

Phượng Thư đứng dậy tâu:

– Còn có thể tùng tiệm được.

– Mấy năm nay, khen cho chị cũng chịu khó lo lắng đấy!

Phượng Thư đang định đứng dậy tâu bày, thì thấy một người cung nữ chuyển vào một danh sách có nhiều chức tước tên tuổi, xin Quý phi xem qua. Nguyên Phi cầm xem, thấy tên họ của bọn Giả Xá, Giả Chính, trong lòng chua xót, nước mắt lưng tròng. Cung nữ đưa khăn lại, Nguyên Phi một mặt lau nước mắt, một mặt truyền bảo:

– Hôm nay hơi đỡ, cho mọi người tạm nghỉ ở ngoài.

Bọn Giả mẫu lại đứng dậy tạ ơn.

Nguyên phi ứa nước mắt nói:

– Tôi không được gần gũi cha mẹ anh em, thật không bằng con nhà thường dân.

Bọn Giả mẫu đều nín khóc và nói:

– Quý phi không nên thương cảm, trong nhà đã nhờ phúc trạch của Quý phi nhiều lắm.

Quý phi lại hỏi:

– Bảo Ngọc gần đây ra sao?

Giả mẫu nói:

– Gần đây nó đã hơi chăm học, vì cha nó bắt buộc nghiêm ngặt nên hiện nay nó đã làm được văn bài.

– Như thế mới được.

Rồi sai ban yến cho bọn Giả mẫu ở cung bên ngoài. Hai người cung nữ và bọn thái giám nhỏ dẫn họ đến một cung khác. Cỗ bàn đã bày đặt chỉnh tề, ai nấy theo thứ tự ngồi xuống.

Ăn cơm xong, Giả mẫu lại dẫn ba người vào cung tạ ơn. Bịn rịn một lát, xem chừng đã đến đầu giờ dậu, không dám nán lại, họ cùng nhau cáo từ lui ra. Nguyên phi truyền cung nữ đưa đường, tiễn đến cửa cung, ngoài cửa lại có bốn thái giám nhỏ đưa ra. Giả mẫu vẫn ngồi kiệu đi ra như trước, bọn Giả Xá đón chờ, tất cả đều đi về. Đến nhà lại phải sửa soạn để ngày sau vào cung, dặn bảo mọi người đều phải đến đầy đủ.

Sau khi đuổi Tiết Bàn đi, Kim Quế ngày thường chẳng biết đấu khẩu với ai, Thu Lăng lại ở bên nhà Bảo Thoa, chỉ còn trơ có một mình Bảo Thiềm ở chung. Từ ngày làm vợ lẽ Tiết Bàn, điệu bộ của Bảo Thiềm không như trước nữa. Kim Quế thấy nó đã trở thành một tay kình địch với mình nên cũng có ý hối hận. Một hôm Kim Quế bực tức, uống mấy ly rượu, nằm ở trên giường muốn đem Bảo Thiềm ra làm món canh “dã rượu”, liền hỏi:

– Cậu Cả hôm nọ đi đâu? Chắc mày biết chứ?

– Tôi biết sao được. Với mợ, cậu ấy còn chả nói, ai mà biết được cậu ấy làm gì?

– Bây giờ còn mợ với bà gì nữa? Giang sơn này là của chúng mày rồi. Đứa khác đã có người bênh vực chẳng ai dám đụng đến. Tao dại gì mà lại đi “vuốt râu cọp” kia chứ? Nhưng mày là con hầu, tao vừa hỏi một câu, mày đã vênh cái mặt lên, chặn lời tao. Mày đã có thân, có thế, sao không bóp cổ tao chết đi, rồi cùng con Thu Lăng, đứa nào đó lên làm mợ, thế là yên chuyện. Tại sao tao lại cứ sống ở đây, để ngăn trở công việc của chúng mày?

Bảo Thiềm nghe câu ấy, đời nào chịu nhịn, nó trừng mắt lên, nhìn Kim Quế và nói:

– Chuyện vớ vẩn ấy, mợ chỉ nên nói cho người khác nghe! Tôi có nói gì mợ đâu, mợ đã không dám trêu đến người ta, thì tại sao lại hành hạ chúng tôi cho hả cơn giận? Mợ cứ giả vờ làm bộ không nghe những điều xảy ra, cứ như là người “vô sự” ấy.

Nói đến đó, Bảo Thiềm khóc lóc kêu trời, kêu đất ầm ĩ. Kim Quế càng nổi tam bành, liền bò xuống giường, định đánh Bảo Thiềm. Bảo Thiềm cũng có tính khí như Kim Quế, mảy may không chịu nhịn. Kim Quế đạp đổ hết bàn ghế chén bát. Bảo Thiềm cứ một mực kêu gào người ta ức hiếp mình, không thèm để ý đến.

Tiết phu nhân ở trong phòng Bảo Thoa thấy vậy liền bảo:

– Hương Lăng, mày sang xem và khuyên họ một chút.

Bảo Thoa nói:

– Không được đâu, mẹ đừng bảo chị ấy sang, không thể khuyên được, chỉ thêm tưới dầu vào lửa đấy thôi.

– Đã thế thì để tao sang.

– Theo ý con thì mẹ cũng không nên sang, để mặc cho họ phá, chẳng còn có cách gì nữa.

– Để như thế sao được.

Nói xong Tiết phu nhân vịn vào vai con hầu đi sang nhà Kim Quế. Bảo Thoa đành phải theo sang và dặn Hương Lăng:

– Chị ở nhà đây nhé.

Mẹ con Tiết phu nhân đến cửa phòng Kim Quế, nghe ở trong còn đang la khóc om sòm. Tiết phu nhân nói:

– Chúng mày làm cái gì kêu la ầm ĩ, đổ cửa đổ nhà, như thế còn ra thể thống gì nữa. Lại không sợ bà con liền đố chạm vách người ta chê cười sao?

Kim Quế trong nhà trả lời ngay:

– Tôi còn sợ ai chê cười nữa. Ở đây thật là ngược đời, chủ nhà không ra chủ nhà; con ở không ra con ở; vợ cả không ra vợ cả; vợ lẽ không ra vợ lẽ; thật là lộn xộn đảo điên. Ở nhà họ Hạ chúng tôi, không bao giờ có cái nề nếp ấy. Tôi không thể chịu nổi cái cảnh oan ức ở nhà các người được nữa!

Bảo Thoa nói:

– Chị Cả, mẹ thấy ở đây cãi cọ om sòm nên mới sang, nếu mẹ hỏi vội vàng không phân biệt “chị” và “Bảo Thiềm” thì chị cũng đừng lấy làm điều. Bây giờ hãy nói rõ sự ra, để rồi mọi người ăn ở hòa thuận, đỡ cho mẹ phải ngày nào cũng bận lòng vì chúng ta.

Tiết phu nhân nói:

– Phải đấy. Trước hết hãy kể lại đầu đuôi, rồi sau hãy xét đến điều sai của ta cũng chưa chậm kia mà.

Kim Quế nói:

– Cô ơi! Cô là người hiền lành độ lượng, ngày sau nhất định được nhà chồng tốt, ông chồng giỏi, quyết không như tôi, có chồng mà chịu kiếp góa bụa, không kẻ đoái hoài, để người ta đè đầu cưỡi cổ. Tôi là con người ngu dại, xin cô đừng có bắt bẻ những lời tôi nói. Tôi từ nhỏ đến giờ không có cha mẹ nào dạy bảo. Vả lại những việc vợ chồng, vợ cả vợ lẽ trong nhà chúng tôi đây, không liên quan gì đến cô cả.

Bảo Thoa nghe vậy vừa thẹn vừa tức, thấy tình cảnh mẹ như thế thì lại càng thương, đành phải nuốt giận mà nói:

– Chị Cả, tôi khuyên chị nói ít chứ! Có ai bắt bẻ chị, có ai khinh rẻ chị đâu? Không những đối với chị, ngay đối với Thu Lăng, tôi cũng chưa bao giờ nặng lời nữa là

Kim Quế nghe vậy, lại đập tay xuống giường, khóc rống lên và nói:

– Tôi bì sao được với Thu Lăng? Ngay đến vết bùn ở dưới chân nó, tôi cũng không theo kịp nữa là! Nó đến đây đã lâu, biết tính nết cô, khéo ton hót cô. Tôi mới đến, lại không quen ton hót, sao cô đem tôi ra ví với nó? Rõ thật khổ! Thiên hạ được mấy người có số làm Quý phi? Tôi khuyên cô tu lấy chút phúc đức, đừng giống như tôi, lấy phải đứa bậy bạ, chồng sống sờ sờ mà chịu cảnh góa bụa, thế mới thực báo ứng ngay trước mắt đấy.

Tiết phu nhân nghe đến đó, giận quá, không chịu nổi liền đứng dậy nói:

– Không phải là tao bênh con gái, nhưng nó thì một mực khuyên mày, mà mày cứ trêu chọc nó. Mày có cái gì không chịu được thì đừng nên gây ra với nó làm gì, cứ việc bóp cổ tao chết đi, thế còn nhẹ nhàng hơn nhiều.

Bảo Thoa vội khuyên:

– Mẹ đừng giận làm gì, chúng ta đã khuyên chị ấy, mà mình lại nổi giận, chẳng hóa cứ giận chồng giận chất mãi sao? Mẹ hãy về để chị ấy nghĩ một chút rồi sẽ nói sau.

Đoạn cô ta dặn Bảo Thiềm:

– Chị cũng đừng sinh chuyện nữa.

Nói xong Bảo Thoa theo Tiết phu nhân đi ra. Vừa qua sân, thấy a hoàn bên nhà Giả mẫu và Thu Lăng từ đằng kia lại. Tiết phu nhân hỏi:

– Chị từ đâu tới đây? Cụ có khỏe không?

A hoàn nói:

– Cụ cháu vẫn khỏe, bảo cháu đến thăm sức khỏe bà dì, cảm ơn bà dì cho món quả vải hôm trước và mừng cho cô Cầm.

Bảo Thoa hỏi a hoàn:

– Chị đến từ bao giờ?

– Cháu đến đã lâu rồi.

Tiết phu nhân biết chị ta đã nghe được câu chuyện vừa rồi, liền đỏ mặt lên, nói:

– Bây giờ nhà chúng tôi cũng không ra cái thể thống gì nữa. Bên các chị mà nghe thấy thì lại chê cười.

– Bà dì nói gì thế, nhà nào lại không có việc “va đĩa chạm bát”. Chẳng qua bà dì hay nghĩ đó thôi.

Nói xong, a hoàn theo Tiết phu nhân về phòng, ngồi một lát rồi về.

Bảo Thoa đang dặn dò Hương Lăng mấy câu, bỗng nghe Tiết phu nhân kêu:

– Bên trái sườn đau lắm!

Liền lên giường nằm, Bảo Thoa và Hương Lăng lo sợ cuống quít.

1      Một danh từ xem mạch của Đông y.

2      Máu của thứ Ba Ba để sao với một số vị thuốc.

3      Chu Bột là tướng nhà Tây Hán. Khi Lã hậu sắp cướp ngôi nhà Hán, Trần Bình lập mưu để Chu Bột vào trong quân, kêu gọi quân lính giết Lã. Ở đây ý nói dùng sài hồ chữa chứng thổ huyết là một mưu kế như là dùng Chu Bột để yên ngôi nhà Hán.