Chương 84: Thử tài học, Bảo Ngọc được nhắc đến việc hôn nhân – Thăm cháu ốm, Giả Hoàn càng gây thêm mối thù oán

Thử tài học, Bảo Ngọc được nhắc đến việc hôn nhân

Thăm cháu ốm, Giả Hoàn càng gây thêm mối thù oán

Tiết phu nhân bị Kim Quế trêu tức, can khí bốc lên, đâm ra đau sườn bên trái. Bảo Thoa biết rõ nguyên do, nên không chờ thầy thuốc đến xem, sai ngay người mua mấy đồng câu đằng, sắc một bát đặc, cho mẹ uống, rồi cùng Hương Lăng đấm chân vuốt bụng cho mẹ. Một lúc lâu thì đỡ. Tiết phu nhân vừa thương vừa bực: bực vì Kim Quế đểu giả mà thương Bảo Thoa biết bao dung người.

Bảo Thoa lại khuyên giải một hồi, rồi bà ta ngủ đi lúc nào không biết. Chứng can khí cũng dần dần bình phục.

Bảo Thoa khuyên:

– Mẹ đừng nên để ý bực tức những chuyện vẩn vơ ấy. Vài hôm nữa đi lại được, mẹ nên sang bên cụ và dì nói chuyện cho khuây, trong nhà đã có con và Hương Lăng trông nom; chắc chị ấy cũng chẳng dám làm gì.

Tiết phu nhân gật đầu, nói:

– Để vài hôm nữa xem đã.

Sau khi Nguyên phi khỏi bệnh, trong nhà đều vui mừng. Qua mấy hôm có mấy người nội giám già mang bạc và các thứ đồ vật đến. Họ truyền lệnh của Quí phi, vì người nhà chịu khó thăm hỏi, nên đều có ban thưởng. Bọn Giả Xá và Giá Chính thưa lại Giả mẫu. Mọi người tạ ơn xong, bọn thái giám uống trà rồi ra về. Mọi người vào nhà Giả mẫu, cười nói một hồi, bỗng thấy một bà già ở ngoài vào trình:

– Có người hầu nhỏ bên nhà ông Cả sang mời ông Cả về có việc cần.

Giả mẫu liền gọi Giả Xá:

– Anh về đi thôi.

Giả Xá vâng lời ra về.

Giả mẫu chợt nhớ đến, rồi cười nói với Giả Chính:

– Trong lòng Quý phi rất nhớ đến Bảo Ngọc, hôm trước còn hỏi riêng về nó đấy.

– Nhưng mà Bảo Ngọc không chịu chăm học, làm phụ lòng tốt của Quý phi.

– Thế mà ta lại nói tốt cho nó, bảo là gần đây nó đã làm được văn bài.

– Làm gì mà được như lời bà nói.

– Các anh thường hay gọi nó đi làm thơ, làm văn, chẳng nhẽ nó không làm được à? Bọn trẻ con phải dạy bảo từ từ chứ. Người ta hay nói “Người béo đâu phải tự một miếng ăn”.

Giả Chính nghe vậy, liền cười lấy lòng Giả mẫu nói:

– Bà nói rất phải.

– Nhắc đến Bảo Ngọc, ta còn có việc này bàn với anh: Bây giờ nó đã lớn rồi, các anh cũng cần phải để ý xem con bé nào tốt hỏi sẵn cho nó. Đó cũng là việc lớn trọn đời của nó. Đừng kể bà con xa gần, hay là giàu nghèo gì cả, chỉ cần biết rõ người con gái ấy tính nết hiền lành, mặt mũi xinh đẹp là được.

– Bà dặn bảo rất phải, nhưng có một điều: Nó muốn có vợ cho tốt, thì trước hết phải học hỏi cho nên người mới được; nếu không, cứ dở trăng dở đèn, lại làm nhầm nhỡ con gái nhà người ta, chẳng đáng tiếc sao?

Giả mẫu nghe vậy, trong lòng không vui, liền nói:

– Kể ra thì cứ mặc các người là cha mẹ lo liệu cho nó, cần gì đến ta phải bận lòng? Nhưng ta nghĩ, thằng Bảo từ nhỏ ở với ta, ta không khỏi quá nuông chiều, làm nhỡ việc lập thân của nó, cái đó cũng có đấy; có điều ta xem nó mặt mày cũng xinh đẹp, tính tình lại thật thà, vị tất đã phải là hạng người vô dụng, đến nỗi làm hại con gái nhà người ta. Không rõ có phải là ta thiên vị hay không, chứ xem ra thì nó có khá hơn thằng Hoàn. Chẳng biết các người xem thì như thế nào?

Mấy câu nói ấy làm Giả Chính áy náy, vội vàng cười, nói:

– Bà xem người nhiều, đã nói nó khá, có phúc phận, chắc là không sai. Nhưng vì con hơi nóng vội cho nó nên người, có thể trái câu nói của người xưa hóa ra “không ai biết cái tốt của con mình” 1 chăng?

Giả mẫu nghe vậy phì cười, mọi người cùng cười theo.

Giả mẫu lại nói:

– Bây giờ anh cũng đã có tuổi, lại làm quan, cố nhiên là trải đời nhiều, càng chín chắn hơn.

Nói đến đó, Giả mẫu nhìn Hình phu nhân và Vương phu nhân rồi cười:

– Khi con trẻ tuổi, tính tình anh ấy thật là kỳ quặc gấp mấy Bảo Ngọc kia đấy. Mãi đến khi lấy vợ, mới hơi hiểu việc đời. Thế mà hây giờ cứ trách cháu Bảo, ta xem cháu Bảo so với anh ấy thì còn biết người biết của hơn đấy.

Hình phu nhân, vương phu nhân đều cười, nói:

– Bà lại nhắc chuyện buồn cười đấy?

Chợt có a hoàn nhỏ đi vào bảo Uyên Ương:

– Cơm chiều đã sửa soạn xong rồi, xin cụ bà cho dọn ở đâu?

Giả mẫu nói:

– Thế thì tất cả về ăn cơm đi, chỉ để cháu Phượng và chị Trân ở đây ăn với ta thôi.

Giả Chính, Hình phu nhân, Vương phu nhân đều vâng lời. Chờ dọn cơm xong, Giả mẫu lại giục một lần nữa, họ mới ra về.

Hình phu nhân về nhà, Giả Chính và Vương phu nhân thì về phòng mình. Nhắc lại lời nói vừa rồi của Giả mẫu, Giả Chính nói:

– Bà thương yêu Bảo Ngọc như thế, chúng ta phải làm cho nó thành một người có thực học, mai sau có thể thành đạt nên người, mới không uổng công bà thương yêu nó, và cũng không đến nỗi làm hại con gái nhà người ta.

– Ông nói rất phải.

Giả Chính liền sai a hoàn trong nhà chuyển lời ra bảo Lý Quý:

– Bảo Ngọc đi học về, để nó ăn cơm xong rồi qua đây, ta có việc muốn hỏi.

Lý Quý vâng lời.

Bảo Ngọc đi học về, định qua hỏi thăm sức khoẻ, thấy Lý Quý nói:

– Ông lớn dặn cậu Hai chưa cần sang bên nhà vội, hãy cứ ăn cơm đã rồi hãy sang. Nghe nói còn có chuyện gì muốn hỏi cậu đấy.

Bảo Ngọc nghe vậy, trong bụng lại lo thầm, đành phải đến gặp Giả mẫu, rồi về vườn ăn cơm ngay. Ăn uống qua quít cho xong, Bảo Ngọc vội vàng súc miệng rồi sang ngay bên nhà Giả Chính.

Lúc này Giả Chính đang ngồi ở thư phòng. Bảo Ngọc vào hỏi thăm sức khỏe, rồi đứng hầu một bên.

Giả Chính hỏi:

– Mấy hôm nay ta bận việc nên quên bẵng, không hỏi mày. Hôm nọ mày nói thầy học bảo mày giảng sách một tháng rồi sau đó sẽ cho mày bắt đầu làm bài; nay tính ra đã gần hai tháng. Thế thì mày đã làm bài hay chưa?

– Đã làm được ba bài. Thầy nói: Hãy khoan trình với cha, làm cho khá rồi sẽ thưa lại. Vì thế, hai hôm nay, con không dám thưa.

– Đầu bài như thế nào?

– Một đầu bài là: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học”; một đầu bài là: “Nhân bất tri nhi bất uẩn”; một đầu bài nữa là: “Tắc qui Mặc” 2

– Mày có bản nháp không?

– Bài nào cũng viết sạch, thầy lại chữa lại.

– Mày đem về nhà hay để ở trường?

– Để cả ở trường ạ.

– Cho người lấy về đây ta xem.

Bảo Ngọc vội vàng sai người bảo Bồi Dính đến trường:

– Trong ngăn bàn của ta có một tập giấy mỏng, ngoài đề hai chữ “bài làm” là đúng. Mày cầm về đây mau.

Đi một lát, Bồi Dính cầm tập giấy đưa cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc trình với Giả Chính. Giở ra xem, thì bài thứ nhất là: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học”. Xem mở đầu: “Thánh nhân hữu chí vu học, ấu nhi dĩ nhiên hỹ” 3. Giả Đại Nho gạch chữ “ấu” đi mà sửa chữ “thập ngũ” vào. Giả Chính nói:

– Bài của mày làm mà dùng chữ “ấu” là không nêu rõ được đầu bài, vì từ lúc nhỏ cho đến trước khi mười sáu tuổi, đều gọi là “ấu” cả. Chương sách này là thánh nhân nói công phu học vấn của người, cứ theo tuổi mà tiến dần, cho nên mười lăm, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, đều phải kể rõ ra, thì mới thấy được lúc này như thế nào, đến lúc khác lại thế khác. Thầy học đổi chữ “ấu” của mày ra chữ “thập ngũ” thì rõ hơn nhiều.

Giả Chính xem đến đoạn thừa đề thấy câu văn Bảo Ngọc làm nhưng đã bị gạch đi: “Phù bất chí vu học, nhân chi thường giã” 4. Liền lắc đầu nói:

– Câu này chẳng những chứng tỏ tính khí trẻ con, mà nêu rõ bản tính của mày không phải là chí khí của người đi học.

Lại xem câu sau: “Thánh nhân thập ngũ nhi chí chi, bất diệc nan hồ” 5. Giả Chính nói:

– Câu này thì lại không ra văn nữa!

Sau đó Giả Chính mới xem đến bài chữa của Đại Nho như thế này: “Phù nhân thục bất học nhi chí vu học giả tốt tiền. Thử thánh nhân sở vi tự tín ư thập ngũ thời dư?” 6

– Mày có hiểu tại sao lại chữa như thế không?

– Có ạ.

Giả Chính lại xem đến bài thứ hai: “Nhân bất trí nhi bất uẩn”. Trước hết ông ta xem câu chữa của Đại Nho: “Bất dĩ bất tri nhi uẩn giả, chung vô cải kỳ duyệt lạc hỹ” 7, xong rồi mới xem bài làm của Bảo Ngọc đã bị gạch đi: “Nắng vô uẩn nhân chi tâm, thuần hồ học giả dã” 8.

Giả Chính nói:

– Mày viết cái gì đây? Như vậy là câu trên chỉ làm cái đầu bài cho chữ: “Nhi bất uẩn”, còn câu dưới thì lại phạm đến ranh giới chữ “quân tử” ở đoạn dưới, nhất định phải như câu chữa mới hợp với đầu bài. Vả chăng câu dưới phải làm rõ nghĩa câu trên, mới hợp với phép tắc làm văn. Mày phải để ý cẩn thận mà nhớ cho sâu.

Bảo Ngọc vâng lời.

Giả Chính lại xem tiếp đoạn dưới thấy viết: “Phù bất tri, vị hữu bất uẩn giả dã; nhi cánh bất nhiên, thị phi do duyệt nhi lạc giả, hạt khắc trăn thử” 9. Câu cuối cùng trong bài là: “Thi thuần học giả hồ” 10. Liền nói:

– Câu này cũng sai lầm như câu mở đầu. Câu của thầy chữa cũng được, tuy không lưu loát nhưng còn xuôi hơn.

Xem đến bài “Tắc qui Mặc” xong, Giả Chính ngẩng đầu lên, nghĩ ngợi một lúc, rồi hỏi Bảo Ngọc:

– Mày đọc đến sách này rồi à?

– Thầy học nói sách Mạnh Tử dể hiểu hơn, nên giảng Mạnh Tử trước. Hôm trước vừa giảng xong, bây giờ giảng sang Luận ngữ.

Giả Chính xem vế mở đầu và vế thừa đề đều không chữa mấy. Vế mở đầu như thế này: “Ngôn ư xả Dương chi ngoại, nhược biệt vô sở qui giả yên” 11. Liền nói:

– Câu thứ hai làm được như thế này là khó lắm đấy.

Rồi xem tiếp thấy viết: “Phù Mặc phi dục qui giả dã, nhi Mặc chi ngôn dĩ bán thiên hạ hỹ, tắc xả Dương chi ngoại, dục bất qui vu Mặc đắc hồ” 12. Ông ta hỏi:

– Đây là mày làm à?

Bảo Ngọc trả lời:

– Vâng ạ.

Giả Chính gật gật đầu và nói:

– Chưa có chỗ nào xuất sắc, nhưng mới tập làm mà được thế này, cũng là khá đấy. Năm trước ta làm quan ngoài, có ra đầu bài: “Duy sĩ vi năng” 13. Bọn học trò đã học qua bài ấy của người trước, nhưng không thêm được gì, mà cứ bắt chước viết theo, đoạn ấy mày đã đọc chưa?

– Con đọc rồi ạ.

– Ta bắt mày phải có ý của mình, không được cứ lắp lại người trước. Mày chỉ làm một câu phá đề thôi cũng được.

Bảo Ngọc đành phải vâng lời, cúi đầu vắt óc ra nghĩ. Giả Chính thì chắp tay sau lưng, đứng dựa cửa ngẫm nghĩ. Bỗng thấy một tên hầu nhỏ chạy như bay ra ngoài. Nó trông thấy Giả Chính, vội vàng khép nép buông tay đứng im.

Giả Chính liền hỏi:

– Cái gì thế?

– Dì Tiết đến nhà cụ, mợ Hai truyền bảo làm cơm.

Giả Chính nghe nói, im lặng, người hầu nhỏ đi ra.

Từ khi Bảo Thoa dọn về nhà, Bảo Ngọc luôn luôn mong nhớ, nay nghe nói dì Tiết đến, tưởng là Bảo Thoa cũng đến, trong bụng cuống quít liền đánh bạo nói:

– Đã làm được câu phá đề, không biết có được không?

– Mày đọc ta nghe nào?

– “Thiên hạ bất giai sĩ giã, năng vô sản giả, diệc cận hỹ” 14

Giả Chính nghe xong gật đầu nói:

– Cũng được đấy. Sau này làm bài, mày cần phải phân rõ giới hạn, phải nắm cho vững ý nghĩa sâu sắc của nó, rồi hãy hạ bút làm. Khi mày đến đây, bà có biết không?

– Có biết ạ.

– Thế thì mày trở về bên nhà đi.

Bảo Ngọc vâng lời, làm ra bộ chậm rãi, thong thả đi ra. Vừa đi khỏi bức bình phong ngoài cửa hành lang, đã một mạch chạy vụt đến cửa nhà Giả mẫu. Bồi Dính ở sau cuống lên, vừa chạy theo vừa gọi:

– Cậu coi chừng kẻo ngã, ông lớn đã đến đấy.

Bảo Ngọc hình như không nghe gì cả. Vừa vào đến cửa đã nghe tiếng cười, tiếng nói của Vương phu nhân, Phượng Thư và Thám Xuân. Bọn a hoàn trông thấy Bảo Ngọc vội vàng vén màn lên nói khẽ:

– Dì ở trong ấy.

Bảo Ngọc đi vào, hỏi thăm sức khỏe dì Tiết rồi tới hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu. Giả mẫu hỏi:

– Sao hôm nay đến bây giờ cháu mới đi học về?

Bảo Ngọc kể lại đầu đuôi câu chuyện Giả Chính xem bài và bảo làm câu phá đề. Giả mẫu tỏ vẻ rất vui mừng.

Bảo Ngọc liền hỏi mọi người:

– Chị Bảo ngồi ở đâu?

Dì Tiết cười nói:

– Chị cháu không đến, đang bận ở nhà làm việc với con Hương Lăng.

Bảo Ngọc nghe nói, trong lòng buồn bực, nhưng không tiện bỏ đi ngay. Đang nói thì cơm đã dọn ra. Giả mẫu và dì Tiết ngồi trên, bọn Thám Xuân ngồi tiếp.

Dì Tiết nói:

– Còn cháu Bảo nữa?

Giả mẫu cười và nói:

– Cháu Bảo ngồi bên này với ta.

Bảo Ngọc thưa:

– Lúc đi học về, Lý Quý chuyển lời của cha cháu bảo ăn cơm rồi hãy qua, nên cháu vội vàng bảo đưa đến một đĩa đồ ăn, cháu chan nước chè vào ăn hết một bát cơm rồi mới đi. Bây giờ mới bà, dì và các chị cứ ăn đi thôi.

Giả mẫu nói:

– Đã thế thì con Phượng ngồi bên này với ta. Mẹ cháu hôm nay ăn chay, bảo mọi người cứ ăn đi thôi.

Vương phu nhân cũng nói:

– Chị cứ ăn với bà và dì thôi, đừng có chờ tôi, tôi ăn chay kia.

Phượng Thư xin phép ngồi xuống, bọn a hoàn bày chén đĩa ra. Phượng Thư cầm bình rượu rót một lượt, rồi mới về chỗ ngồi.

Mọi người uống rượu. Giả mẫu hỏi:

– Có phải vừa rồi dì nhắc đến Hương Lăng không? Trước đây tôi nghe bọn a hoàn nói “Thu Lăng”, tôi không biết là ai, sau hỏi ra mới biết là nó. Tại sao con bé ấy lại tự dưng đổi tên như thế?

Dì Tiết mặt mày đỏ bừng, thở dài một tiếng rồi nói:

– Cụ đừng nhắc đến chuyện đó làm gì! Từ khi thằng Bàn lấy phải con vợ dở hơi ấy, cả ngày cứ to tiếng với nhau. Bây giờ trong nhà lục đục không ra thể thống gì nữa. Tôi cũng bảo qua vài lần nhưng nó bướng bỉnh không chịu nghe lời, nên chẳng còn hơi sức nào mà gào với chúng nó mãi, đành để mặc nó. Chính nó chê tên con a hoàn ấy không hay mà đổi đi đấy.

– Tên thì có quan hệ gì?

– Nói ra tôi lại xấu hổ. Chẳng giấu gì cụ, có phải nó cho cái tên không hay đâu? Nghe nói là tên ấy do con Bảo đặt, nên nó cố ý đổi đi.

– Vì sao thế?

Dì Tiết luôn luôn cầm khăn tay chùi nước mắt, chưa kể đã thở dài, nói:

– Cụ còn chưa biết sao! Bây giờ con dâu nhà tôi cứ cố ý trêu tức con Bảo. Hôm trước cụ sai người đến thăm hỏi, giữa lúc trong nhà tôi đang cãi nhau ầm lên đấy.

Giả mẫu vội vàng hỏi:

– Hôm trước nghe nói dì đau tức, định sai người sang hỏi thăm. Sau nghe nói dì khỏi rồi, nên thôi. Theo ý tôi thì dì đừng phiền lòng vì chuyện của bọn chúng làm gì. Bọn chúng cũng là vợ chồng trẻ mới về với nhau, ít lâu rồi sẽ tử tế thôi. Tôi xem con Bảo tính cách dịu dàng, hòa nhã, tuy tuổi còn trẻ nhưng so với người lớn thì hơn nhiều. Hôm trước con a hoàn nhỏ về nói chuyện, chúng tôi ở đây đều khen. Thật là trăm người không có một người bụng dạ tính khí như nó! Không phải tôi nói quá khen chứ nó mà về làm dâu nhà người ta thì bố mẹ chồng nào chẳng thương yêu, người trong nhà ai chẳng kính phục.

Bảo Ngọc ban đầu nghe đã chối tai, định tìm cách chuồn, nhưng khi nghe đến câu chuyện ấy, lại ngồi xuống ngẩn người ra nghe mãi.

Dì Tiết nói:

– Không ăn thua. Cháu Bảo tuy khá, nhưng rút cục vẫn là con gái. Sinh ra cái thằng Bàn ngu ngốc ấy, tôi thật không yên lòng, chỉ sợ nó ra ngoài uống rượu, gây chuyện không hay. May được cậu Cả cậu Hai ở nhà cụ đây thường thường chơi với nó, tôi cũng đỡ lo.

Bảo Ngọc nghe nói đến đó, đỡ lời ngay:

– Dì cũng đừng lo, những người anh Tiết quen biết, đều là hạng buôn bán đứng đắn có thể diện, làm gì mà sợ sinh chuyện?

Dì Tiết cười nói:

– Nếu như cháu nói, có lẽ cũng không cần phải bận lòng nữa.

Mọi người ăn cơm xong. Bảo Ngọc cáo từ trước, nói là đêm còn phải đọc sách, rồi ra về.

Trong này bọn a hoàn vừa bưng trà lên, thì thấy Hổ Phách ghé vào tai Giả mẫu nói mấy câu. Giả mẫu liền nói với Phượng Thư:

– Cháu về mau xem con Xảo ra sao?

Phượng Thư nghe nói, còn chưa biết việc gì. Mọi người cũng đều sửng sốt, Hổ Phách nói với Phượng Thư:

– Vừa rồi chị Bình sai a hoàn nhỏ đến thưa với mợ Hai: em Xảo trong người không được khỏe, mời mợ về mau một chút mới được.

Giả mẫu nói:

– Cháu cứ về mau, dì cũng là người nhà thôi.

Phượng Thư vội vàng vâng lời, cáo từ dì Tiết ra về.

Vương phu nhân nói:

– Chị về trước đi, ta sẽ sang ngay. Con bé còn yếu bóng vía, bảo bọn a hoàn đừng làm ầm ĩ lên. Phải giữ mèo chó trong nhà nữa, trẻ con thường hay quặt quẹo thế đấy.

Phượng Thư vâng lời, cùng a hoàn nhỏ về phòng.

Dì Tiết lại hỏi đến bệnh tình của Đại Ngọc, Giả mẫu nói:

– Con Lâm vẫn thế thôi. Vì nó hay lo nghĩ, thành ra người nó cứ yếu luôn. Về mặt thông minh thì nó cũng không thua kém gì con Bảo là mấy, nhưng về mặt biết rộng rãi, bao dung đối với người khác thì không được như con Bảo.

Dì Tiết lại kể vài câu chuyện suông, rồi nói:

– Mời cụ đi nghỉ, tôi cũng phải về, kẻo ở nhà chỉ còn con Bảo và con Hương Lăng thôi. Nhân tiện tôi qua bên dì cháu cùng đến thăm cháu Xảo một chút.

– Phải đấy, dì đã có tuổi đến thăm cháu một chút xem ốm đau ra sao, nói cho chúng nó biết để khỏi lo.

Dì Tiết cáo từ, cùng Vương phu nhân đi sang nhà Phượng Thư.

Giả Chính thử tài Bảo Ngọc một lúc, trong lòng khoan khoái, đi ra ngoài. Nhân câu chuyện phiếm với bọn môn khách, ông ta nhắc lại chuyện vừa rồi. Trong đó có một người khách mới đến, rất cao cờ, tên là Vương Nhĩ Điều, tự là Tác Mai, thưa:

– Cứ như chúng tôi xem thì học vấn của cậu Hai đã tiến lắm.

Giả Chính nói:

– Tiến gì đâu? Chẳng qua nó mới hiểu tý chút thôi. Nhắc đến hai chữ “học vấn” e còn sớm quá!

Thiềm Quang nói:

– Đó là ông lớn nói khiêm tốn đó thôi. Chẳng những anh Vương nói, mà theo ý chúng tôi thì cậu Bảo nhất định sau này sẽ đỗ cao.

Giả Chính cười, nói:

– Các vị quá yêu nó đấy thôi.

Vương Nhĩ Điều lại nói:

– Vãn sinh có một câu, không ngại nông nổi, muốn nói với ông lớn.

– Việc gì thế?

– Nhà cụ Trương đã từng làm quan đạo Nam thiều, cũng là nơi quen biết với tôi, có một cô gái đức hạnh, nhan sắc, nữ công đều khá và chưa nhận lễ hỏi của ai. Ông ta không có con trai, gia tư có hàng mấy vạn, nhưng đòi hỏi phải được con nhà phú quí song toàn, lại trội hơn người ta thì mới chịu gả. Tôi đến đây đã hai tháng, xem phẩm cách và sức học của cậu Bảo thế nào cũng thành đạt lớn. Còn gia thế của ông lớn đây thì chẳng phải nói gì nữa! Nếu tôi đến bên ấy, chắc chắn nói một lời là xong việc ngay.

– Cháu Bảo cũng đến tuổi hỏi vợ rồi, và mẹ tôi cũng thường nhắc đến, nhưng đối với cụ Trương thì xưa nay chúng tôi chưa biết rõ.

Thiềm Quang nói:

– Nhà họ Trương mà anh Vương nói đấy tôi cũng biết. Nhà này là bà con với bên ông Cả. Ông lớn cứ hỏi là biết ngay.

Giả Chính nghĩ một lúc rồi nói:

– Tôi chưa hề nghe ông Cả nói là có bà con với nhà ấy.

– Ông lớn không biết, chứ nhà họ Trương là bà con với ông cậu Cả Hình đấy.

Giả Chính nghe nói, mới biết. Mọi người nói chuyện một lúc nữa, rồi Giả Chính vào nhà trong, định nói với Vương phu nhân để hỏi lại Hình phu nhân, không ngờ Vương phu nhân đã cùng dì Tiết đi sang nhà Phượng Thư để thăm Xảo Thư rồi.

Đến lúc lên đèn, Tiết phu nhân ra về, Vương phu nhân mới về phòng. Giả Chính kể lại câu chuyện của Vương Nhĩ Điều và Thiềm Quang cho Vương phu nhân nghe, rồi hỏi:

– Cháu Xảo ra sao?

– Xem như nó bị chứng kinh phong ấy.

– Không đến nỗi nguy lắm chứ?

– Xem chừng có vẻ phát sài, nhưng chưa lên cơn.

Giả Chính nghe xong “hừ” một tiếng, không nói gì cả, rồi ai nấy đi ngủ.

Hôm sau Hình phu nhân sang nhà Giả mẫu, hỏi thăm sức khỏe, Vương phu nhân liền nhắc đến việc nhà họ Trương, một mặt thưa lại với Giả mẫu, một mặt hỏi Hình phu nhân.

Hình phu nhân nói:

– Nhà họ Trương tuy là bà con, nhưng mấy năm nay, tôi không đi lại, không biết con gái nhà họ ra sao. Hôm trước bà thông gia họ Tôn sai một bà già đến hỏi thăm, có nhắc đến việc nhà họ Trương. Bà ta bảo, nhà họ có cô con gái, nhờ bà thông gia họ Tôn xem bên này có đám nào xứng đáng thì mách giùm. Nghe nói nhà họ chỉ có một mình cô ấy, nên rất nâng niu chiều chuộng. Cô ta cũng có biết ít nhiều chữ nghĩa, tính tình nhút nhát, thường ở trong nhà, không dám đi đâu. Cụ Trương lại nói: Cụ chỉ có một mình cô ấy, không muốn gả về nhà người ta, sợ bố mẹ chồng nghiêm ngặt, cô ta không chịu nổi. Vì thế đòi hỏi ai lấy cô ta phải đến đấy ở rể, trông nom việc nhà cho họ.

Giả mẫu nói ngay:

– Thế thì nhất định không được. Bảo Ngọc nhà mình nhờ người khác hầu hạ còn chưa xong, lại đi trông nom việc nhà cho người ta được à?

Hình phu nhân nói:

– Đúng như lời cụ nói đấy.

Giả mẫu nói với Vương phu nhân:

– Chốc nữa chị nói với anh ấy rằng, việc kết hôn với nhà họ Trương không được đâu.

Vương phu nhân vâng lời. Giả mẫu lại hỏi:

– Hôm qua các chị xem bệnh chắt Xảo ra sao? Ban đầu con Bình đến nói với ta, bảo là nó mệt lắm, ta cũng muốn qua thăm một tý.

Hình phu nhân và Vương phu nhân đều nói:

– Cụ thương yêu nó quá, nó đáng đâu được thế.

– Không riêng việc gì nó, ta cũng muốn đi lại một chút cho dãn xương dãn cốt. Các người cứ về ăn cơm đi, chốc nữa cùng ta qua bên ấy.

Hình phu nhân và Vương phu nhân vâng lời, ai về nhà nấy. Một lúc sau, ăn cơm xong, hai người đều trở lại cùng Giả mẫu đi sang nhà Phượng Thư. Phượng Thư vội vàng chạy ra chào đón.

Giả mẫu hỏi:

– Chắt Xảo thế nào?

– Xem có vẻ muốn lên cơn sài.

– Thế mà không mau mau mời thầy xem gấp đi?

– Đã đi mời thầy rồi ạ.

Giả mẫu cùng Hình phu nhân và Vương phu nhân vào phòng thì thấy bà vú đang bồng Xảo Thư trong một cái chăn bông lụa màu hồng điều, sắc mặt con bé nhợt nhạt, đầu mày và mũi hơi giật giật. Xem qua một tý rồi bọn Giả mẫu ra ngoài ngồi nói chuyện. Bỗng một a hoàn nhỏ thưa với Phượng Thư:

– Ông lớn sai người đến hỏi em sao rồi?

Phượng Thư nói:

– Đang đi mời thầy, chốc nữa xem bệnh, kê đơn cho cháu xong sẽ sang thưa lại với ông lớn.

Chợt nhớ đến việc nhà họ Trương, Giả mẫu nói với Vương phu nhân:

– Chị nên nói với anh ấy, đừng để nói rồi lại bỏ.

Giả mẫu lại hỏi Hình phu nhân:

– Tại sao bây giờ nhà chị không đi lại với nhà họ Trương nữa?

– Kể ra thì họ Trương cũng không thể làm thông gia với nhà ta được. Họ ăn ở khe khắt quá, không xứng đáng với Bảo Ngọc.

Phượng Thư nghe nói, biết tám chín phần, liền hỏi:

– Mẹ nói chuyện hôn nhân của chú Bảo phải không?

Hình phu nhân nói:

– Phải đấy!

Giả mẫu liền đem câu chuyện vừa rồi nói với Phượng Thư.

Phượng Thư cười, nói:

– Không phải trước mặt bà và hai mẹ mà cháu dám nói leo chứ hiện có mối nhân duyên trời định đó, cần gì lại đi tìm nơi khác?

Giả mẫu cười, hỏi:

– Ở đâu?

Phượng Thư nói:

– Một bên “ngọc báu”, một bên “khóa vàng” mà sao bà lại quên mất?

– Hôm qua, cô cháu ở đây, sao cháu không nhắc?

– Bà và hai mẹ ở đây, cháu là trẻ con làm gì dám nói. Vả lại dì sang thăm bà, mà ta nhắc đến chuyện đó sao tiện? Hai mẹ phải qua hỏi bên đó mới phải.

Giả mẫu cùng Hình phu nhân và Vương phu nhân đều cười.

Giả mẫu lại nói:

– Ta thật là lú lẫn hết.

Đang nói chuyện thì có người vào thưa:

– Thầy thuốc đã đến.

Giả mẫu cứ ngồi ở nhà ngoài. Hình phu nhân và Vương phu nhân thì tránh sang một bên.

Thầy thuốc cùng Giả Liễn đi vào, hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu, vào phòng thăm bệnh, đoạn ra đứng khom lưng thưa với Giả mẫu:

– Cháu nhỏ một phần là nóng ở trong, một phần là kinh phong. Trước hết cần uống một thang phát tán phong đàm, rồi uống đến “tứ thần” mới được, vì bệnh tình hơi nặng. Hiện nay ngưu hoàng đều giả cả, phải tìm cho ra ngưu hoàng thật mới dùng được.

Giả mẫu ngỏ lời cảm ơn. Thầy thuốc theo Giả Liễn ra ngoài kê đơn rồi về.

Phượng Thư nói:

– Nhân sâm thì trong nhà ta có sẵn, chứ ngưu hoàng sợ chưa chắc đã có, phải ra mua ở ngoài, nhưng cần thứ thật mới được.

Vương phu nhân nói:

– Để ta sai người qua bên nhà dì tìm xem. Thằng Bàn lâu nay hay buôn bán với bọn khách phương Tây, có thứ thật cũng chưa biết chừng. Ta sẽ bảo người đi hỏi xem.

Đang nói chuyện thì bọn chị em đều đến thăm. Họ ngồi một chốc, rồi cùng Giả mẫu về.

Thuốc sắc được, đổ cho Xảo Thư uống. Nghe nó khạc một tiếng, nhổ ra cả đờm lẫn thuốc. Phượng Thư mới hơi yên lòng. Vừa lúc đó một a hoàn nhỏ ở bên nhà Vương phu nhân cầm một gói giấy đỏ nhỏ đến, nói:

– Mợ Hai ạ, ngưu hoàng đây rồi. Bà hai dặn là mợ phải cân cho đúng đồng cân đồng lạng.

Phượng Thư nghe lời, cầm lấy ngưu hoàng, bảo Bình Nhi pha chế trân châu, băng phiến, châu sa, rồi sắc lên. Phượng Thư cân ngưu hoàng theo như trong đơn, hòa vào thuốc, chờ Xảo thư ngủ dậy sẽ cho uống. Chợt thấy Giả Hoàn vạch màn bước vào nói:

– Chị Hai, cháu Xảo nhà chị ra sao rồi? Đẻ tôi bảo tôi đến thăm cháu một tý.

Phượng Thư hễ thấy mẹ con nhà nó là ghét, liền nói:

– Cháu đã đỡ rồi, em về nói là chị cảm ơn dì nhé.

Giả Hoàn miệng thì vâng dạ, nhưng mắt cứ nhìn khắp nơi. Hắn nhìn một lát rồi hỏi Phượng Thư:

– Ở đây nghe nói có ngưu hoàng, không biết ngưu hoàng ra sao, chị cho tôi xem một tý.

– Cháu mới hơi đỡ, em đừng quấy nữa. Ngưu hoàng đã sắc hết rồi.

Giả Hoàn nghe nói, cầm cái ấm lên xem, không ngờ lỡ tay, nghe sầm một tiếng, cái ấm thuốc đổ nhào, thuốc chảy xuống, lửa tắt phụt. Giả Hoàn thấy vậy, nghĩ khó coi, vội vàng chạy mất.

Phượng Thư nóng lên, con mắt nảy lửa, mắng:

– Thật là oan gia từ đời nào để lại! Tội tình gì mà mày đến quấy rầy như thế. Trước đây mẹ mày đã định làm hại tao, giờ mày lại đến làm hại tao. Tao với nhà mày là thù hằn từ mấy đời thế?

Rồi chị ta lại mắng Bình Nhi không lo trông nom.

Bỗng một a hoàn đến tìm Giả Hoàn. Phượng Thư nói:

– Mày về nói với dì Triệu, bảo dì ấy lo lắng đến nó quá chừng. Con Xảo nhất định chết đấy, không cần dì ấy phải nghĩ đến nữa.

Bình Nhi vội vàng cân thuốc sắc lần khác. A hoàn kia chẳng rõ đầu đuôi ra sao, liền hỏi nhỏ Bình Nhi:

– Tại sao mợ Hai nổi giận thế?

Bình Nhi đem chuyện Giả Hoàn làm đổ ấm thuốc nói cho nó nghe. Nó nói:

– Chẳng trách hắn ta tránh đi nơi khác không dám về. Chẳng biết sau này hắn sẽ ra thế nào. Chị Bình ạ, chị để tôi làm giúp cho.

– Không cần. May còn một chút ngưu hoàng, đã hòa vào thuốc tử tế rồi. Em đi về thôi.

– Tôi nhất định về nói với dì Triệu, để dì ấy biết, hắn chỉ hay nói láo.

Quả nhiên a hoàn kia về nói với dì Triệu. Dì Triệu giận quá, bảo đi tìm thằng Hoàn về đây mau. Giả Hoàn trốn ở nhà ngoài, bị a hoàn tìm thấy. Dì Triệu mắng:

– Cái đồ đốn mạt kia! Tại sao mày lại làm đổ thuốc người ta đi, để cho họ chửi tao? Tao chỉ bảo mày đi hỏi thăm một tiếng, không cần phải vào nhà, mà mày lại cứ vào, rồi không quay về ngay, còn định vuốt râu hùm à? Để tao trình với cha mày, xem có đánh mày hay không?

Trong khi Dì Triệu đang mắng, thì Giả Hoàn ở nhà ngoài, thốt ra những lời rùng rợn.

1      Người xưa có câu “mạc tri kỳ tử chì ác” nghĩa là cha không biết cái xấu của con mình. Ở đây Giả Chính nói ngược lại nên Giả mẫu cười.

2      Hai câu trên là Luận ngữ: “Ta mười lăm tuổi đã chăm chỉ việc học” và “Người ta không biết mình cũng không giận”, câu thứ ba là ở Mạnh tử: “Thì về họ Mặc”.

3      Thánh nhân có chí về việc học ngay từ lúc còn bé.

4      Không chăm lo việc học là thường tình của con người.

5      Thánh nhân mười lăm tuổi mà đã có chí về việc ấy, chẳng cũng rất khó hay sao?

6      Ai là không học, nhưng rất ít người có chí với việc học. Vì thế thánh nhân tự tin vào lúc mười lăm tuổi.

7      Không giận vì điều người ta không biết mình, sẽ không bao giờ thay đổi điều vui thích của mình.

8      Kẻ nào không có lòng giận người thì mới chuyên tâm về việc học.

9      Không ai không giận khi mình không được người ta biết đến; vậy mà nay lại chẳng như thế. Nếu không phải do ưa thích mà vui, thì làm sao được như thế.

10      Chẳng phải là người chuyên tâm về việc học đó ư?

11      Ngoài việc bỏ họ Dương ra hình như không về với ai nữa.

12      Không phải là người ta muốn về với họ Mặc đâu, nhưng học thuyết của họ Mặc đã lan nửa thiên hạ. Vậy thì một khi đã bỏ họ Dương, dù muốn không theo họ Mặc có được đâu.

13      Chỉ có kẻ sĩ mới làm được.

14      Đại ý: trong thiên hạ không phải ai cũng là kẻ sĩ, chỉ có người không có của mới có thể có được. (Theo chữ trong Mạnh tử: “Vô hằng sản nhi hữu hằng tâm giả, duy sĩ vi năng”, nghĩa là: chỉ có kẻ sĩ thường không có của nhưng vẫn luôn luôn hảo tâm.)

Chương 85: Giả Chính được thăng chức lang trung – Tiết Bàn lại gây nên tù tội

Giả Chính được thăng chức lang trung

Tiết Bàn lại gây nên tù tội

Dì Triệu đang ở trong nhà mắng Giả Hoàn thì nghe Giả Hoàn ở nhà ngoài phát cáu lên nói:

– Con chẳng qua làm đồ cái ấm mất một tý thuốc, con bé kia cũng chưa phải chết ngay, thế mà nó đã mắng con rồi đẻ cũng lại mắng, vu vạ cho con là có ác ý, định giày vò cho con chết đi hay sao? Rồi đây con còn lấy mạng con bé ấy đi nữa kia! Xem các người làm cái gì! Cứ bảo bọn họ coi chừng đấy.

Dì Triệu vội vàng ở trong nhà chạy ra, bịt lấy miệng nó và nói:

– Mày cứ quen miệng nói nhảm, người ta mà nghe thì sẽ lấy mạng mày trước.

Hai mẹ con cãi cọ một hồi. Dì Triệu nghe những câu nói của Phượng Thư, càng nghĩ càng tức, cũng không cho người đến an ủi gì cả. Qua vài hôm bệnh của Xảo Thư cũng khỏi. Từ đó hai nhà càng thêm giận nhau.

Một hôm Lâm Chi Hiếu vào thưa:

– Hôm nay là sinh nhật của Bắc Tĩnh vương, xin ông lớn chỉ bảo.

Giả Chính dặn:

– Cứ theo lệ năm trước mà sắm, rồi trình với ông Cả biết, và đưa lễ sang là được.

Lâm Chi Hiếu vâng lời, đi ra lo liệu.

Một chốc, Giả Xá sang bàn với Giả Chính dẫn bọn Giả Trân, Giả Liễn, Bảo Ngọc đi mừng thọ Bắc Tĩnh vương. Người khác thì không cần bàn, duy có Bảo Ngọc ngày thường rất mến dung mạo uy nguy của Bắc Tĩnh vương, chỉ mong sao được gặp mặt luôn, bèn vội vàng thay quần áo theo sang phủ Bắc Tĩnh. Bọn Giả Xá, Giả Chính gửi trình cái thiếp ghi chức tước, tên họ đưa vào phủ rồi đứng chờ ở ngoài. Một lát sau, một người thái giám ở trong ra tay bấm mấy hạt châu. Thấy bọn Giả Xá, Giả Chính, anh ta cười hì hì và nói:

– Hai vị lâu nay có khỏe mạnh không?

Giả Xá, Giả Chính và ba anh em Giả Trân cũng vội vàng chạy lại chào hỏi.

Viên thái giám nói:

– Vương gia bảo mời vào.

Năm người theo viên thái giám vào trong phủ. Qua hai lần cửa, vòng quanh một dãy điện, mới đến cửa nội cung. Đến trước cửa, mọi người dừng lại, viên thái giám vào trước trình với vương gia. Bọn thái giám nhỏ ở cửa đều đến đón chào.

Một chốc, viên thái giám kia ra nói:

– Xin mời vào.

Năm người kính cẩn theo vào. Bắc Tĩnh vương mặc đồ lễ phục, đã đứng đón ở hành lang ngoài cửa điện. Trước tiên là Giả Xá, Giả Chính đến chào rồi lần lượt đến Giả Trân, Giả Liễn, Bảo Ngọc đều lại chào và hỏi thăm sức khoẻ.

Bắc Tĩnh vương chỉ nắm lấy tay Bảo Ngọc và nói:

– Ta lâu nay không thấy anh, rất là nhớ. – Rồi ông ta lại cười và hỏi: – Viên ngọc của anh vẫn tốt đấy chứ?

Bảo Ngọc khom lưng thi lễ và thưa:

– Nhờ phúc vương gia, viên ngọc vẫn còn tốt.

– Hôm nay anh tới, chẳng có gì quý mời anh xơi. Chúng ta nói chuyện thôi.

Nói đến đó, mấy người thái giám già vén màn lên. Bắc Tĩnh vương nói: “Xin mời” rồi tự mình đi trước. Bọn Giả Xá đều khép nép theo vào. Trước hết Giả Xá xin Bắc Tĩnh vương nhận lễ. Bắc Tĩnh vương nói vài câu khiêm tốn. Giả Xá quỳ xuống rồi bọn Gia Chính cũng lần lượt làm lễ.

Bọn Giả Xá lại kính cẩn lui ra. Bắc Tĩnh vương dặn bọn thái giám mời bọn họ ngồi chung với các bà con, thết đãi tử tế, chỉ giữ Bảo Ngọc ở lại nói chuyện và cho phép ngồi. Bảo Ngọc đập đầu tạ ơn, rồi ghé mình ngồi trên cái đôn phủ nệm thêu đặt bên cửa, nói chuyện về việc đọc sách và làm văn bài. Bắc Tĩnh vương rất mến, lại cho uống trà và nói:

– Hôm qua quan tuần phủ họ Ngô vào yết kiến hoàng thượng, có nói về việc lúc ông nhà ta nhận chức học chính, làm việc chí công, bọn học trò thuộc hạ rất là kính phục. Lúc Ngô tuần phủ yết kiến hoàng thượng, hoàng thượng cũng có hỏi, ông ta hết sức đề cử, đủ biết đó là tin mừng của ông nhà ta.

Bảo Ngọc vội vàng đứng dậy, chờ nghe xong câu chuyện, rồi mới thưa:

– Đó là ơn điển của Vương gia và thịnh tình của cụ lớn Ngô.

Đang nói thì thấy viên thái giám nhỏ vào thưa:

– Các vị quan lớn ở ngoài đều ở điện trước, xin chuyển lời tạ ơn Vương gia đã ban yến.

Nói xong dâng một tờ thiếp ghi những lời tạ yến và thỉnh an. Bắc Tĩnh vương nhìn qua một tý, lại trao cho viên thái giám nhỏ và nói:

– Biết rồi, nói với họ là ta xin lỗi đã làm phiền họ.

Viên thái giám nhỏ kia lại thưa:

– Cơm Vương gia thưởng riêng cho anh Giả Bảo Ngọc cũng đã dọn rồi.

Bắc Tĩnh vương liền sai viên thái giám kia dẫn Bảo Ngọc đến một ngôi nhà nhỏ nhắn xinh đẹp, sai người tiếp đãi. Bảo Ngọc ăn cơm xong, lại qua tạ ơn. Bắc Tĩnh vương lại nói mấy câu chuyện, rồi bỗng cười và bảo:

– Lần trước thấy viên ngọc của anh, ta thích lắm, về nói hình dạng với người nhà, rồi cũng làm một viên khác. Hôm nay vừa gặp lúc anh đến đây, ta cho anh đưa về mà chơi.

Nói xong, sai viên thái giám nhỏ lấy ra, tự tay Vương gia đưa cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cầm lấy tạ ơn, rồi lui ra. Bắc Tĩnh vương lại sai hai thái giám nhỏ dẫn Bảo Ngọc đến với bọn Giả Xá rồi cùng ra về.

Giả Xá về chào Giả mẫu, rồi về nhà mình. Giả Chính thì dẫn ba người đến hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu xong rồi kể lại việc ở phủ Bắc gặp những người nào. Bảo Ngọc thuật lại câu chuyện quan lớn Ngô đề cử lên hoàng thượng cho Giả Chính nghe.

Giả Chính nói:

– Quan lớn Ngô ấy là chỗ quen biết cũ với ta, cũng là người trong bọn chúng ta, và cũng có khí khái.

Giả Chính lại nói thêm mấy câu chuyện phiếm nữa. Giả mẫu bảo:

– Anh về đi nghỉ thôi.

Giả Chính lui ra. Bọn Giả Trân, Giả Liễn, Bảo Ngọc đều theo đến cửa. Giả Chính nói:

– Các anh trở lại ngồi tiếp chuyện bà.

Nói đoạn, Giả Chính về phòng. Vừa ngồi được một tý thì thấy một a hoàn nhỏ thưa:

– Ông Lâm Chi Hiếu ở ngoài có việc xin thưa với ông lớn.

Nói xong nó đưa lên một bức thiếp màu hồng, trên viết tên họ của Ngô tuần phủ. Giả Chính biết là ông ta đến chào, liền bảo con hầu nhỏ gọi Lâm Chi Hiếu vào. Giả Chính ra đứng ngoài thềm.Lâm Chi Hiếu vào thưa:

– Hôm nay Ngô tuần phủ đến thăm, tôi đã thưa với ông ta rằng ông còn đi vắng nên ông ta đã về rồi, nghe nói hiện nay Bộ Công khuyết chức lang trung, người ngoài và người trong bộ đều đồn đại là ông lớn sẽ được thực thụ chức ấy.

– Chờ xem đã.

Lâm Chi Hiếu nói vài câu nữa rồi lui ra.

Giả Trân, Giả Liễn và Bảo Ngọc đi ra. Bảo Ngọc lại quay vào nhà Giả mẫu thuật lại việc Bắc Tĩnh vương đối đãi với mình ra sao, và đưa viên ngọc cho mọi người xem.

Giả mẫu bảo:

– Cất đi, đừng có làm mất. Viên ngọc của cháu đeo cho tử tế, đừng có làm lẫn lộn đi.

Bảo Ngọc liền lấy viên ngọc đeo trên cổ xuống và nói:

– Viên ngọc của cháu đây này. Hai viên ngọc khác nhau xa, lẫn sao được. Cháu đang định thưa với bà, đêm hôm trước, lúc cháu ngủ, lấy ngọc xuống, treo trong màn ánh sáng lóe ra, cả màn đều đỏ rực.

Giả mẫu nói:

– Lại nói nhảm rồi. Đó là vì cái diềm màn màu hồng, ánh đèn chiếu vào, tự nhiên nó đỏ đấy thôi.

– Không phải, lúc đó đèn đã tắt rồi, cả nhà đều lối đen, mà cháu vẫn trông thấy viên ngọc.

Hình phu nhân và Vương phu nhân đều phì cười.

Phượng Thư nói:

– Đó là tin mừng đấy.

Bảo Ngọc nói:

– Tin mừng gì?

Giả mẫu nói:

– Cháu không hiểu đâu, hôm nay mệt cả ngày, cháu về nghỉ thôi, đừng ở đây mà nói nhảm nữa.

Bảo Ngọc lại đứng một lát, rồi về trong vườn.

Giả mẫu lại hỏi tiếp

– Phải đấy. Các người sang thăm dì Tiết, có nói đến việc ấy không?

Vương phu nhân nói:

– Định sang thăm ngay, nhưng vì cháu Xảo nhà chị Phượng lại ốm, nên con để chậm mất hai ngày. Hôm nay mới sang. Chúng con đã nói việc ấy, dì Tiết cũng bằng lòng, nhưng nói hiện giờ thằng Bàn đi vắng, cha cháu mất rồi, phải bàn với cháu Bàn rồi hãy lo liệu.

Giả mẫu nói:

– Như vậy cũng phải, nhưng đã như thế thì hãy khoan nhắc đến, chờ cho bên dì Tiết bàn bạc chắc chắn rồi sẽ nói chuyện.

Bảo Ngọc về phòng mình, bảo Tập Nhân:

– Vừa rồi cụ và chị Phượng có vẻ úp mở, tôi chẳng hiểu gì cả.

Tập Nhân nghĩ một lúc rồi cười, nói:

– Cái đó tôi cũng không đoán ra, nhưng vừa rồi khi nói chuyện, cô Lâm có ở đấy không?

– Cô Lâm vừa ốm dậy, mấy lâu nay có đến bên nhà cụ đâu?

Đang nói chuyện thì nghe ở nhà ngoài Xạ Nguyệt và Thu Văn cãi nhau. Tập Nhân hỏi:

– Hai chị lại làm cái gì thế?

Xạ Nguyệt nói:

– Hai đứa chúng tôi đánh bài, nó được tiền của tôi, nó lấy. Đến khi nó thua lại không chịu trả. Cái đó còn được, nhưng nó lại còn ăn cướp hết tiền của tôi nữa.

Bảo Ngọc cười nói:

– Mấy đồng tiền, quan hệ gì? Đố ngốc không được làm ồn lên nữa!

Nghe nói, hai người chỉ ngồi lẩm bẩm trong miệng.

Trong nhà Tập Nhân dọn dẹp cho Bảo Ngọc đi ngủ.

Nghe câu nói vừa rồi, Tập Nhận biết ngay là họ bàn việc hỏi vợ cho Bảo Ngọc. Nhưng sợ Bảo Ngọc hay có những ý trẻ con, nếu nhắc đến, không khéo lại gợi ra cho anh ta bao nhiêu câu nói ngớ ngẩn. Tập Nhân cố ý làm như không biết, nhưng đối với chị ta đó là việc quan trọng nhất. Đêm nằm, Tập Nhân có ý định: Chi bằng sang gặp Tử Quyên, xem có tăm hơi gì không thì tự khắc biết. Hôm sau, Tập Nhân dậy sớm, sắm sửa cho Bảo Ngọc đi học rồi, chị ta chải đầu rửa mặt, thong thả đến quán Tiêu Tương, gặp Tử Quyên đang hái hoa. Thấy Tập Nhân đến, Tử Quyên cười hì hì nói:

– Mời chị vào trong nhà ngồi.

Tập Nhân nói:

– Ngồi rồi đây, em hái hoa à? Cô đâu?

– Cô tôi vừa chải đầu rửa mặt xong, đang chờ hâm thuốc đấy.

Tử Quyên vừa nói vừa cùng Tập Nhân đi vào. Thấy Đại Ngọc đang ngồi xem sách.

Tập Nhân cười lấy lòng và nói:

– Không trách cô hay mệt, mới ngủ dậy đã xem sách. Cậu Bảo nhà chúng tôi đi học mà được như cô thì hay biết mấy?

Đại Ngọc cười, đặt sách xuống. Tuyết Nhạn bưng đến một khay trà trong để một chén thuốc, một chén nước. Một a hoàn nhỏ bưng ống đờm và chậu súc theo sau.

Tập Nhân đến định dò tin, nhưng ngồi một lúc, không biết khơi mào như thế nào, lại nghĩ Đại Ngọc là người hay nghi ngờ, mình dò chẳng được tin gì mà lại chạm lòng cô ta thì thật không hay. Vì vậy Tập Nhân chỉ ngồi một lát hỏi vơ vẩn rồi cáo từ. Vừa đến cửa viện Di Hồng bỗng thấy có hai người đang đứng ở đấy, Tập Nhân không tiện đi thẳng lại. Một người trông thấy vội vàng chạy đến. Tập Nhân nhìn lại thì ra Sừ Dược, liền hỏi:

– Anh làm gì đấy?

– Vừa rồi cậu hai Vân đến, cầm một mảnh thiếp đưa vào cho cậu Bảo xem. Hiện cậu ta đứng đây chờ tin.

– Cậu Bảo hôm nào cũng đi học, anh không biết hay sao? Còn chờ tin với tức gì?

– Tôi đã nói với cậu ấy, cậu ấy bảo nói với chị và chờ tin chị đấy.

Tập Nhân đang định nói, thì thấy Giả Vân thong thả bước lại gần. Tập Nhân vội vàng nói với Sừ Dược:

– Anh nói với cậu ấy, tôi biết rồi, chốc nữa sẽ đưa cho cậu Bảo xem.

Giả Vân muốn tới nói chuyện với Tập Nhân, chỉ cốt gần gũi làm quen nhưng lại không dám hấp tấp, cứ thong thả đi vào. Vừa tới gần đã nghe Tập Nhân nói câu ấy, nên hắn đành phải đứng lại. Đằng này Tập Nhân đã quay người đi vào phía trong rồi. Giả Vân đành buồn rầu, cùng Sừ Dược ra về.

Đến chiều, Bảo Ngọc về phòng, Tập Nhân thưa lại:

– Hôm nay cậu hai Vân ở bên kia có đến.

– Đến làm gì?

– Cậu ta có mang theo một bức thiếp nữa.

– Ở đâu? Đưa đây tôi xem.

Xạ Nguyệt liền vào nhà lấy ở trên giá sách đưa lại. Bảo Ngọc đỡ lấy xem thấy trên phong bì đề: “Thúc phụ đại ân nhân an bẩm” (Kính trình lên chú), liền nói:

– Thằng bé này sao không nhận ta là cha nữa?

– Sao thế?

– Năm trước, lúc nó biếu cây hải đường trắng cho tôi, nó gọi tôi là cha. Bức thiếp hôm nay trên phong bì nó lại đề là chú, không phải nó không nhận tôi là cha nữa là gì?

– Cậu không biết thẹn mà hắn cũng không biết thẹn! Hắn to xác như thế lại nhận cậu là cha, không phải không biết thẹn là gì. Nói cho đúng ra thì cậu ngay cả…

Nói đến đó, chị ta đỏ mặt và mỉm cười.

Bảo Ngọc cũng hiểu ý và nói:

– Cái ấy cũng khó nói, tục ngữ có câu: “Ông sư không con mà con hiếu lại nhiều”. Tôi thấy nó sắc sảo, vừa ý nên mới nhận như thế, nếu nó không bằng lòng, tôi cũng chẳng thiết.

Vừa nói Bảo Ngọc vừa bóc bức thiếp. Tập Nhân cũng cười nói:

– Cái cậu hai Vân kia cũng có vẻ tinh quái, khi thì định dòm người ta, khi lại lén lén lút lút, đủ biết con người bụng dạ không ngay thẳng.

Bảo Ngọc chỉ chú ý mở bức thiếp ra xem, không để ý gì đến lời nói của Tập Nhân. Tập Nhân thấy Bảo Ngọc xem bức thiếp, lúc đầu nhăn mày, sau lại cười, lại lắc đầu, cuối cùng có vẻ rất là bực. Chờ xem xong rồi, Tập Nhân mới hỏi:

– Trong thiếp nói gì thế?

Bảo Ngọc không trả lời, xé tan bức thiếp làm mấy mảnh. Tập Nhân thấy tình hình như thế, cũng không tiện hỏi, liền nói:

– Cậu ăn cơm rồi có xem sách không?

– Buồn cười cho thằng Vân, dám bậy bạ như thế?

Tập Nhân thấy hỏi một đường trả lời một nẻo, liền mỉm cười hỏi:

– Vậy là việc gì thế?

– Hỏi làm gì! Chúng mình ăn cơm rồi nghỉ thôi, trong bụng tôi bực bội lắm.

Bảo Ngọc nói xong bảo a hoàn nhỏ thắp đèn lên, đem bức thiếp đã xé, đốt đi.

Một lát, bọn a hoàn nhỏ dọn cơm lên, Bảo Ngọc cứ ngồi ngẩn người ra. Tập Nhân vừa dỗ vừa chọc, giục mãi Bảo Ngọc mới ăn được một miếng, liền đặt đũa xuống, rồi rầu rầu nằm nghiêng trên giường, một lúc bỗng ứa nước mắt. Tập Nhân và Xạ Nguyệt đều không hiểu đầu đuôi ra sao.

Xạ Nguyệt nói:

– Tự dưng vô cớ, làm sao cậu lại như thế? Chỉ tại anh Vân, anh “Vũ” nào đó, chẳng biết việc gì, đem cái thiếp quái quỷ đấy đến, làm cho cậu cười cười, khóc khóc như người điên. Nếu cứ trời đất này, hết bực nọ đến bực kia thì ai mà chịu được.

Nói đến đó, chị ta cũng chảy nước mắt.

Tập Nhân đứng một bên bật cười, khuyên:

– Em ạ, em cũng đừng làm phiền người ta nữa. Một mình cậu ấy cũng đủ rồi, em lại cũng như thế nữa. Chẳng nhẽ việc trong bức thiếp ấy liên can đến em hay sao?

Xạ Nguyệt nói:

– Đừng nới nhảm! Ai biết trên thiếp hắn viết lời bậy bạ gì, sao chị lại kéo bừa người ta vào đấy? Nếu như thế thì trên thiếp ấy có lẽ cũng liên can đến chị đấy!

Tập Nhân còn chưa trả lời thì nghe Bảo Ngọc ở trên giường cười phì lên một tiếng, lồm ngồm bò dậy, rũ áo, và nói:

– Chúng mình ngủ đi thôi, đừng làm ồn lên nữa. Ngày mai tôi còn phải dậy sớm để học đấy.

Nói xong lại nằm xuống ngủ.

Hôm sau, Bảo Ngọc dậy chải đầu rửa mặt rồi đi học. Vừa ra đến cửa, chợt nhớ điều gì, liền bảo Bồi Dính đứng chờ một chút rồi vội vàng quay lại gọi:

– Chị Xạ Nguyệt đâu rồi?

Xạ Nguyệt chạy ra hỏi:

– Sao cậu lại trở về?

– Hôm nay thằng Vân có đến thì chị nói với nó không được quấy rầy ở đây nữa. Nếu nó còn quấy thì tôi sẽ trình với cụ và ông lớn đấy.

Xạ Nguyệt vâng lời.

Bảo Ngọc vừa quay mình đi ra ngoài, thì thấy Giả Vân hoảng hốt chạy đến. Thấy Bảo Ngọc, hắn liền chào và nói:

– Thưa chú, xin có lời mừng chú!

Bảo Ngọc cứ tưởng là câu chuyện hôm qua, liền nói:

– Thằng này to gan thật! Không biết người ta có chuyện gì hay không, cứ tới quấy rầy.

Giả Vân cười, nới:

– Chú không tin cứ nhìn xem. Người ta đã đến cả rồi, đang ở cửa ngoài đấy.

Bảo Ngọc càng hoảng lên, bảo:

– Mày nói cái gì thế?

Đang nói thì nghe bên ngoài có tiếng người ồn ào.

Giả Vân nới:

– Chú nghe đấy, không phải là gì?

Bảo Ngọc càng ngờ vực, chợt nghe một người gào lên:

– Các người không có phép tắc gì cả! Ở đây là chỗ nào mà các người dám ồn lên như thế!

Người kia nói:

– Ông lớn thăng quan kia mà. Sao lại không cho chúng tôi ăn mừng? Nhà khác mong cho người ta đến mừng mà không được đấy.

Bảo Ngọc nghe nói mới biết là Giả Chính được thăng chức lang trung, người ta đến báo tin mừng. Bảo Ngọc mừng quá đang định đi thì Giả Vân theo sau nói:

– Chú có vui không nào? Nếu việc hôn nhân của chú mà xong nữa thì thật là hai lần mừng đấy.

Bảo Ngọc đỏ mặt lên, nhổ toẹt một cái và nói:

– Hừ! Đồ đáng chết! Mày liệu mà xéo đi.

Giả Vân đỏ mặt lên nói:

– Sao chú lại thế? Tôi xem rồi chú có…

Bảo Ngọc sầm nét mặt lại, và nói:

– Có cái gì?

Giả Vân đứng im không dám nói nữa.

Bảo Ngọc vội vàng đến trường, thấy Giả Đại Nho cười, nói:

– Ta vừa nghe nói cha cháu được thăng chức, hôm nay cháu cũng đi học à?

Bảo Ngọc cười và nói:

– Cháu đến gặp cụ, rồi để qua bên nhà cha cháu.

– Hôm nay không cần đến, cho cháu nghỉ một ngày đấy. Nhưng không được về vườn chơi đâu nhé. Cháu đã lớn tuổi rồi, tuy chưa biết lo liệu gì, cũng nên học tập các anh mới được.

Bảo Ngọc vâng lời trở về. Vừa đến cửa thứ hai, thấy Lý Quý chạy lại đón, đứng một bên, cười nói:

– Cậu đã về à? Tôi vừa định đến trường mời cậu.

– Ai bảo thế?

– Cụ vừa sai người đến Viện Di Hồng tìm cậu. Các cô bên ấy nói cậu đi học rồi. Cụ sai người ra bảo tôi xin phép cho cậu mấy hôm. Nghe nói còn có hát xướng ăn mừng đấy, không ngờ cậu đã về đây rồi.

Bảo Ngọc đi vào cửa thứ hai, thấy bọn a hoàn và các bà già đều mặt mày hớn hở. Trông thấy Bảo Ngọc họ đều cười nói:

– Cậu Hai đến giờ mới về à? Mau mau vào mừng cụ đi.

Bảo Ngọc cười và đi vào trong nhà, thấy Đại Ngọc ngồi sát phía trái Giả mẫu; bên phải là Tương Vân rồi đến Hình phu nhân, Vương phu nhân và tất cả bọn chị em Thám Xuân, Tích Xuân, Lý Hoàn, Phượng Thư, Lý Văn, Lý Ỷ, Hình Tụ Yên đều ở đấy, chỉ không thấy Bảo Thoa, Bảo Cầm và Nghênh Xuân mà thôi.

Bảo Ngọc mừng quá, không biết nói gì, vội vàng chúc mừng Giả mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân và đi chào hỏi tất cả chị em, rồi cười và nói với Đại Ngọc:

– Em đã khoẻ thật chưa?

Đại Ngọc cũng mỉm cười nói:

– Khoẻ lắm rồi, nghe nói anh cũng mệt, đã khoẻ chưa?

– Khoẻ rồi! Đêm hôm nọ, tôi tự nhiên đau bụng, mấy hôm nay hơi đỡ, liền đi học ngay, cũng không sang thăm em được.

Đại Ngọc không chờ Bảo Ngọc nói hết lời, đã ngoảnh đầu nói chuyện với Thám Xuân.

Phượng Thư đứng giữa nhà cười, nói:

– Hai anh chị này hình như không phải hàng ngày ở chung một chỗ, mà là một đôi khách lạ, cứ quen nói cái lối khách sáo như thế! Thật đúng như người ta nói: “Kính nhau như khách” đấy. 1

Câu nói ấy khiến cho mọi người đều cười. Đại Ngọc đỏ mặt lên, nói cũng không tiện, không nói cũng không xong, im lặng một chốc rồi mới nói:

– Chị thì hiểu cái gì!

Mọi người lại càng cười ồ lên.

Một chốc Phượng Thư nghĩ lại, mới biết là mình lỡ lời, đang định tìm cách nói lảng, chợt nghe Bảo Ngọc nói với Đại Ngọc:

– Em Lâm, cái thằng Vân đúng là đồ quỉ sứ!

Nói đến đó, Bảo Ngọc mới nghĩ lại, liền im bặt, làm cho mọi người lại cười ồ lên, hỏi:

– Nói cái gì thế?

Đại Ngọc cũng chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, thấy người ta cười cũng cười theo.

Bảo Ngọc lúng túng không biết làm thế nào, liền nói tiếp:

– Vừa rồi tôi nghe nói có người định đưa ban hát đến, vậy là hôm nào đấy?

Mọi người đều nhìn Bảo Ngọc mà cười.

Phượng Thư nói:

– Chú ở ngoài nghe nói, thì chú tin cho chúng tôi biết, bây giờ chú còn hỏi ai đấy.

Bảo Ngọc nhân dịp liền nói:

– Để tôi ra ngoài hỏi xem.

Giả mẫu nói:

– Đừng có chạy ra ngoài ấy, một là sợ người đến báo tin mừng họ cười; hai là hôm nay cha mày vui mừng, mà đụng phải mày, không khéo lại đâm giận đấy.

Bảo Ngọc vâng lời rồi đi ra.

Giả mẫu hỏi Phượng Thư:

– Ai nói chuyện đưa ban hát đến?

– Nghe đâu bên nhà ông cậu Hai nói, hôm sau tốt ngày, sẽ đưa một ban hát mới đến mừng cụ và ông Hai, bà Hai.

Nói đến đó, chị ta lại cười và nói tiếp:

– Không những tốt ngày mà lại là ngày tốt nữa đấy! Ngày sau lại là…

Chị ta lại nhìn Đại Ngọc mà cười. Đại Ngọc cũng mỉm cười. Vương phu nhân nói:

– Phải đấy, hôm sau là ngày sinh nhật của cháu ngoại 2 đấy.

Giả mẫu nghĩ một lúc rồi cười nói:

– Ta già rồi, việc gì cũng lú lấp, may có con Phượng, thật là viên “cấp sự trung” 3 của ta. Đã thế thì rất tốt, nhà cậu của họ mừng cho họ, thì nhà cậu của cháu cũng mừng sinh nhật cho cháu, lại không tốt à?

Câu ấy làm cho mọi người cùng cười, và nói:

– Cụ nói câu nào cũng đều hay như văn chương trong sách, chẳng trách có phúc to như thế!

Đang nói thì Bảo Ngọc vào, nghe nói thế lại càng hoa tay múa chân mừng không kể xiết. Một lúc sau, mọi người đều ăn cơm ở nhà Giả mẫu, rất là vui vẻ.

Ăn xong, Giả Chính đi tạ ơn về, qua nhà thờ lạy tạ, về khấu đầu trước Giả mẫu, đứng nói vài câu, rồi đi ra chào khách. Ở đấy bà con liên tiếp xe ngựa rộn ràng, áo xiêm chen chúc, thật là:

Hoa nở đúng mùa ong bướm rộn;

Trăng vừa tròn bóng biển trời xa.

Qua hai ngày như vậy thì đến ngày ăn mừng. Ngày hôm ấy, sáng dậy, bà con nhà Vương Tử Đằng đưa một ban hát đến dựng ngay sân khấu ở trước nhà khách của Giả mẫu. Bên ngoài đàn ông đều mang lễ phục chầu chực. Bà con đến mừng, ngồi hơn mười bàn rượu. Vì là ban hát mới, lại thấy Giả mẫu cao hứng nên họ đem cái bình phong bằng pha lê ngăn nhà sau ra, trong đó cũng tiệc rượu. Trên hết là bàn dì Tiết, có Vương phu nhân và Bảo Cầm ngồi tiếp; phía bên kia là bàn Giả mẫu, có Hình phu nhân và Tụ Yên ngồi tiếp; phía dưới còn hai bàn để không. Giả mẫu bảo gọi bọn con gái đến mau.

Một chốc Phượng Thư dẫn bọn a hoàn xúm xít đưa Đại Ngọc đến. Đại Ngọc chỉ mặc chiếc áo mới, mà xinh đẹp như nàng tiên xuống cõi trần, bẽn lẽn mỉm cười, ra chào mọi người. Bọn Tương Vân, Lý Văn, Lý Ỷ đều nhường cô ta ngồi trên, Đại Ngọc nhất định không chịu.

Giả mẫu cười nói:

– Hôm nay cháu cứ ngồi thôi.

Dì Tiết đứng dậy hỏi:

– Hôm nay cô Lâm cũng có việc mừng à?

Giả mẫu cười:

– Ngày sinh nhật của cháu đấy.

Dì Tiết nói:

– Chao ôi! Thế mà tôi quên mất.

Rồi bà ta chạy lại, nói với Đại Ngọc:

– Tha lỗi cho tôi hay quên nhé, để chốc nữa bảo em Cầm đến mừng thọ cô.

Đại Ngọc cười nói:

– Không dám.

Rồi mọi người ngồi xuống. Đại Ngọc để ý xem, chỉ không thấy Bảo Thoa liền hỏi:

– Chị Bảo có khỏe không? Tại sao không sang?

Dì Tiết nói:

– Đáng lẽ nó phải sang, nhưng vì không có ai coi nhà, nên không sang được/

Đại Ngọc má ửng hồng, mỉm cười nói:

– Bên nhà dì bây giờ lại thêm chị Cả nữa, làm sao còn cần chị Bảo coi nhà? Chắc là chị ấy sợ nhiều người nhộn nhịp, nên không thích đến chăng. Cháu thì nhớ chị ấy lắm.

Dì Tiết cười nói:

– Cảm ơn cháu nhớ đến nó. Nó cũng thường nhớ chị em cháu, hôm sau sẽ bảo nó đến để chị em nói chuyện.

Nói đến đó thì bọn a hoàn tới rót rượu và dâng đồ ăn. Bên ngoài ban hát bắt đầu hát. Trước hết diễn vài vở tuồng chúc mừng. Đến vở thứ ba thì thấy Kim Đồng, Ngọc Nữ, cờ phướn, tàn quạt, dẫn một người đóng vai nữ, mặc áo vũ y, trên đầu đội cái khăn đen, ra hát mấy câu rồi vào. Mọi người không hiểu là tích gì. Nghe người bên ngoài nói: Đây là tích “Chết trên trời” trong vở “Nhị châu ký” mới soạn ra. Người đóng vai nữ là Hằng Nga bị đày xuống cõi trần, sắp đi lấy chồng, may nhờ Phật Quan Âm giác ngộ cho nên cô ta chưa đi lấy chồng thì đã chết. Lúc này chính là lúc lên cung trăng đấy, nghe trong hát:

Đời chỉ cho phong tình là hay,

Nào biết đâu trăng thu, hoa xuân dễ mờ héo ngay,

Hầu như quên hẳn cả cung quảng hàn này.

Vở thứ tư là “Ăn cám”. Vở thứ năm là: “Sư Đạt Ma đem đồ đệ qua sông”. Trên sân khấu đang diễn ra cảnh “Lâu đài mịt mù trên mặt biển” 4 rất là vui nhộn. Mọi người đang cao hứng, chợt thấy người nhà họ Tiết sồng sộc chạy vào, mồ hôi như tắm, nói với Tiết Khoa:

– Cậu Hai về mau đi. Mời cả bà về nữa. Ở nhà có việc rất kíp.

Tiết Khoa nói:

– Việc gì thế?

– Về nhà sẽ hay.

Tiết Khoa không kịp cáo từ, liền chạy về ngay.

Dì Tiết nghe đoạn, mặt tái như gà cắt tiết, cũng vội vàng đứng dậy, dẫn Bảo Cầm chào mọi người rồi lên xe về ngay. Thấy vậy ai nấy đều lấy làm kinh ngạc. Giả mẫu nói:

– Hãy cho người sang bên ấy xem có việc gì, chúng ta cần phải để ý đấy.

Mọingơời đều nói: “Vâng”.

Phủ Giả vẫn hát xướng như cũ. Dì Tiết về nhà thấy hai người nha dịch đang đứng ở cửa thứ hai, có mấy người làm công ở hiệu cầm đồ tiếp chuyện và nói:

– Chờ bà tôi về, thế nào cũng có cách xử trí.

Đang nói thì dì Tiết đi vào. Bọn nha dịch thấy một số đông đàn ông đàn bà xúm xít chung quanh một người đàn bà già, biết ngay là mẹ Tiết Bàn. Họ không dám làm gì, cứ buông tay đứng hầu, nhường cho dì Tiết vào. Dì Tiết vào đến sau nhà khách, đã nghe có tiếng khóc to, đó là tiếng Kim Quế. Dì Tiết vội vàng chạy vào, thấy Bảo Thoa ra đón, nước mắt ròng ròng.

Bảo Thoa thấy mẹ liền nói:

– Mẹ nghe rồi chứ? Đừng có hoảng lên, cần nhất là phải lo liệu đã.

Dì Tiết cùng Bảo Thoa vào tới nhà, vừa đến cửa, nghe người nhà nói, bà ta khiếp quá, người run cầm cập, vừa khóc vừa hỏi:

– Nó đánh ai thế?

Bọn đầy tớ trả lời:

– Bây giờ bà chưa cần hỏi căn vặn làm gì? Mặc dầu đánh chết ai cũng cứ phải đền mạng cả, giờ hãy bàn xem phải lo liệu như thế nào mới được.

Dì Tiết vừa khóc vừa nói:

– Còn bàn bạc gì nữa.

Bọn đầy tớ nói:

– Theo ý chúng tôi, đêm nay phải thu xếp tiền bạc, cùng cậu Hai gấp rút đi gặp cậu Cả, tìm một ông thầy kiện cho khá, cho họ một ít tiền, trước hết lo liệu cho khỏi tội chết đã, rồi sẽ nhờ phủ Giả xin với quan trên. Lại còn có bọn nha dịch ở ngoài kia, bà hãy đem mấy lạng bạc cho họ về đi đã, để chúng ta tiện việc lo liệu.

Dì Tiết nói:

– Chúng ta phải đi tìm nhà kia, cho họ tiền bạc để tống táng, lại giúp đỡ cho một số nữa. Nguyên cáo mà không kêu nài thì việc sẽ êm dần.

Bảo Thoa ở trong màn nói ra:

– Mẹ ạ! Không được đâu. Việc ấy mà cho họ tiền thì họ càng quấy dữ. Lời của chú nhỏ vừa nói là đúng.

Dì Tiết lại khóc và nói:

– Ta cũng không cần tính mạng gì nữa. Phải đến đó gặp nó rồi ta cùng chết với nó là xong.

Bảo Thoa hoảng lên, một mặt khuyên, một mặt ở trong màn bảo người nhà:

– Mau mau cùng cậu Hai đi lo liệu thôi.

Bọn a hoàn vực dì Tiết vào. Tiết Khoa vừa đi ra, thì Bảo Thoa dặn:

– Có tin tức gì thì sai người về ngay, còn các ngươi thì cứ ở đấy mà trông nom lo liệu.

Tiết Khoa vâng lời ra đi. Bảo Thoa đang khuyên dì Tiết thì Kim Quế thừa cơ nắm lấy Hương Lăng và gào lên:

– Ngày thường bọn mày cứ khoe nhà chúng mày đánh chết người, chẳng can gì, cứ việc đi vào kinh. Mày cứ đem những lời lẽ ấy xui giục cậu đánh chết người, ngày thường cứ khoe có tiền, có thế, có bà con giỏi. Giờ đây tao xem cũng khiếp sợ cuống quít chân tay lên đấy. Sau này cậu Cả có mệnh hệ nào, không về được, bọn mày ai làm việc nấy, chỉ bỏ một mình tao chịu tội thôi.

Nói đến đó, Kim Quế khóc ầm lên.

Dì Tiết nghe vậy càng tức giận ngất người. Bảo Thoa cũng cuống lên chẳng biết làm thế nào.

Đang lúc nhốn nháo thì Vương phu nhân sai một a hoàn lớn đến hỏi tin tức. Bảo Thoa tuy biết mình là người nhà phủ Giả rồi, nhưng một là việc ấy chưa nói rõ; hai là đang lúc cấp bách, đành phải nói với a hoàn:

– Bây giờ đầu đuôi câu chuyện chưa được rõ ràng, chỉ mới nghe nói anh tôi ở ngoài đánh chết người, bị huyện bắt đi, cũng không biết định tội như thế nào. Vừa rồi cậu Hai mới đi dò xem, hễ có tin tức gì sẽ báo cho dì bên ấy biết. Chị về cho tôi gửi lời cảm ơn dì đã nghĩ đến, sau này chúng tôi còn có biết bao nhiêu điều nhờ đến các ông các cậu bên ấy.

A hoàn vâng lời ra về.

Dì Tiết cùng Bảo Thoa ở nhà, chẳng biết xoay sở ra sao. Qua hai ngày, thì thấy người hầu về, cầm một phong thư giao cho a hoàn nhỏ đưa vào.

Bảo Thoa mở ra xem, thấy trong thư viết:

“Việc giết người của anh Cả là lỡ tay chứ không phải cố ý. Sáng nay cháu đã đứng tên làm một tờ giấy trình lên nhưng chưa thấy quan phê. Lời khẩu cung của anh Cả trước đây rất là bất lợi, hãy chờ khi nào tờ trình của cháu được chấp nhận, mở phiên tra hỏi khác, nếu khai lại cho khéo thì sẽ khỏi phải tội chết. Mau mau lấy ở hiệu cầm đồ năm trăm lạng nữa để tiêu dùng cho kịp, nhất thiết đừng chậm! Và xin bác yên lòng. Còn các việc khác thì hỏi thằng nhỏ”.

Bảo Thoa xem xong, đọc rõ đầu đuôi cho dì Tiết nghe.

Dì Tiết lau nước mắt, nói:

– Xem như thế thì sống hay chết cũng chưa có gì chắc chắn cả.

Bảo Thoa nói:

– Mẹ đừng đau buồn, chờ gọi thằng nhỏ vào hỏi rõ hãy bàn.

Rồi cho a hoàn nhỏ ra gọi thằng nhỏ vào.

Dì Tiết liền hỏi:

– Mày kể rõ việc cậu Cả cho ta nghe.

Thằng nhỏ nói:

– Chiều hôm nọ nghe cậu Cả nói chuyện với cậu Hai, làm con sợ ngẩn người.

1      Ngày xưa vợ chồng Khước Khuyết kính nhau như khách. Ở đây Phượng Thư mượn câu này để đùa Bảo Ngọc và Đại Ngọc.

2      Tức Đại Ngọc.

3      Tên một chức quan, ở đây ý nói được người giúp việc giỏi.

4      Một hiện tượng không khí thường xuất hiện ở sa mạc hoặc ở bể, những khói mù nổi lên như lâu đài.

Chương 86: Ăn của đút, quan già thay án kiện – Gửi tình riêng, gái trẻ giảng cầm thư

Ăn của đút, quan già thay án kiện

Gửi tình riêng, gái trẻ giảng cầm thư

Tiết phu nhân nghe đọc thư của Tiết Khoa xong gọi thằng nhỏ vào hỏi:

– Mày có nghe cậu Cả nói vì sao mà đánh chết người không?

– Con cũng không nghe rõ lắm. Hôm nọ nghe cậu Cả nói với cậu Hai…

Nói đến đó, nó đưa mắt nhìn quanh, thấy không có ai, nó nói tiếp:

– Cậu Cả nói: Từ khi trong nhà lục đục ghê gớm, cậu con chả còn thiết gì nữa, nên định sang miền nam đặt mua hàng. Hôm đó cậu hẹn một người cùng đi, người này ở cách phía nam thành hơn hai trăm dặm. Đang đi tìm anh ta, thì gặp một người quen cũ tên là Tưởng Ngọc Hàm vừa dẫn một lũ con hát nhỏ vào thành. Cậu con liền cùng anh ta vào hàng ăn cơm uống rượu. Người bán rượu ở hàng ấy cứ nhìn Tưởng Ngọc Hàm chằm chặp nên cậu con đâm cáu. Sau đó Tưởng Ngọc Hàm đi. Hôm sau cậu con mời người kia đến uống rượu. Đang uống, sực nhớ đến việc hôm qua, cậu con bảo người bán rượu đổi rượu khác. Hắn đưa rượu đến chậm, cậu con mắng; nó không chịu, cậu con liền giơ bát rượu lên định đánh. Không ngờ hắn cũng là một thằng bướng bỉnh, liền chìa đầu ra thách. Cậu con cầm bát đập vào đầu nó một cái; máu phọt ra, nó ngã lăn ra đất. Ban đầu nó còn chửi mắng nhưng sau im bặt.

– Tại sao không có ai can?

– Không nghe cậu Cả nói đến điều đó, con không dám nói càn.

– Thôi mày hãy nghỉ đã.

Thằng nhỏ vâng lời lui ra.

Tiết phu nhân thân hành đến gặp Vương phu nhân, nhờ Vương phu nhân xin hộ với Giả Chính. Giả Chính hỏi rõ đầu đuôi, chỉ ậm ừ cho qua chuyện, bảo chờ Tiết Khoa nộp đơn trình xem quan huyện phê ra sao rồi sẽ liệu.

Tiết phu nhân lại lấy bạc ở hiệu cầm đồ, sai thằng nhỏ đem đi ngay. Sau ba ngày, có tin về. Tiết phu nhân được thư, sai a hoàn nhỏ gọi Bảo Thoa. Bảo Thoa vội vàng đến, thư viết:

“Số bạc đã tiêu vào việc đút lót cho những người trong cửa quan. Anh Cả ở trong ngục cũng không khổ lắm, xin bác yên lòng. Người ở đây họ điêu ngoa lắm, bà con người chết và người làm chứng đều không chịu nghe, ngay cả người bạn anh Cả cũng về hùa với họ. Cháu cùng Lý Tường ở nơi đất khách lạ lùng, may tìm được một ông thầy kiện, cho ông ta một ít bạc, ông ta mới bầy cho một kế: Việc này phải kéo cả người cùng uống rượu với anh Cả là Ngô Lương vào; phải tìm nó, cho nó một ít bạc, bảo nó giúp mình. Nếu nó không nghe thì khai nó đã đánh chết Trương Tam rồi đổ tội cho người khác. Nó có cứng họng thì việc này mới dễ thu xếp. Cháu theo kế, quả nhiên Ngô Lương phải nghe theo. Hiện giờ cháu đã đem tiền mua chuộc được bà con người chết và những người làm chứng và đã làm một cái đơn. Hôm qua cháu nộp đơn lên quan, hôm nay quan đã phê vào đơn và đưa ra, xin xem đơn trình sẽ rõ”.

Bảo Thoa lại đọc đơn trình như sau:

“Con là Mỗ, kêu oan về việc anh con bị tai bay vạ gió. Nguyên anh con là Tiết Bàn, quán ở Nam Kinh, trú ở Tây Kinh, ngày… tháng… năm… vừa rồi đem vốn liếng qua miền nam buôn bán. Đi chưa được vài ngày, nghe người nhà đưa tin về nói là anh con mang tội giết người. Con liền đến nơi xảy ra vụ án, biết rằng anh con vô tình làm chết người họ Trương. Đến khi vào nhà giam hỏi thăm, anh con khóc nói với con rằng: Quả thật anh con không quen biết gì người họ Trương và không hề có hiềm khích gì với anh ta cả. Bất thình lình nhân việc đổi rượu cãi nhau, anh con nổi giận hắt bát rượu xuống đất, lúc Trương Tam đang cúi đầu nhặt vật gì, nhỡ tay, cái bát đập vào thái dương, nên bị thiệt mạng. Quan lớn bắt hỏi, anh con sợ bị tra tấn, đành phải thú nhận đã đánh chết người. Nhờ ơn quan lớn nhân từ biết là oan ức, nên chưa kết án. Anh con trong nhà giam, không dám làm đơn khiếu oan, vì sợ can phạn đến lệ cấm. Con nghĩ tình anh em, liều mình kêu thay. Cúi xin quan lớn rộng ơn cho phép, đòi các nhân chứng hỏi lại, ơn ấy không gì bằng, cả nhà chúng con đều được đội ơn nhờ nhân đức không bao giờ hết!” Nay kính trình.

Lời quan huyện phê như sau:

“Hôm nọ khám nghiệm xác chết, chứng cứ rành rành, vả lại chưa hề tra khảo gì anh mày đã thú rằng mình đánh chết, lời thú nhận còn ở trong hồ sơ. Nay mày ở xa mới đến, mắt không trông thấy, sao dám kêu xin bậy bạ. Đáng lẽ phải trị tội, nhưng nghĩ tình thương anh, hãy tạm tha cho.

Không chấp đơn”.

Tiết phu nhân nghe đọc đến đó nói:

– Thế là không cứu được nữa à? Làm sao bây giờ?

Bảo Thoa nói:

– Thư cậu Hai đọc đã hết đâu, còn một đoạn nữa.

Bảo Thoa đọc tiếp:

“Có việc rất cần, hỏi người về đó sẽ biết”.

Tiết phu nhân liền hỏi người mang thư về. Anh ta nói:

– Ở huyện đã biết nhà ta giàu có, cần phải lo liệu việc này ở trong Kinh, lại mất cho họ một cái lễ lớn, thì còn có thể xét lại mà kết án nhẹ. Bây giờ bà phải lo liệu mau lên, không thì cậu Cả sẽ bị khổ.

Tiết phu nhân nghe nói, bảo thằng nhỏ đi ra, rồi đến ngay phủ Giả nói rõ đầu đuôi với Vương phu nhân, nhờ xin hộ với Giả Chính. Giả Chính chỉ sai người lấy tình mà nói với quan huyện, chứ không chịu nói đến chuyện tiền nong lễ vật. Tiết phu nhân sợ không ăn thua, lại nhờ Phượng Thư nói với Giả Liễn, tốn mất mấy ngàn lạng bạc mới mua chuộc được viên tri huyện. Tiết Khoa nhờ vậy thu xếp xong xuôi. Sau đó tri huyện yết thị ra công đường xét xử, sai gọi tất cả hàng xóm, nhân chứng, bà con người chết và Tiết Bàn ở nhà giam đến. Tên thơ lại gọi tên từng người xong, tri huyện liền gọi lý dịch địa phương đến đọc lại lời khẩu cung hôm trước, lại sai gọi mẹ người chết là bà Vương và chú người chết là Trương Nhị đến. Bà Vương vừa khóc vừa thưa:

– Chồng con là Trương Đại, người ở xóm Nam, chết đã mười tám năm nay. Con đầu và con thứ hai cũng đều chết cả, chỉ còn trơ trọi đứa con vừa chết, tên là Trương Tam, năm nay hai mươi ba tuổi, chưa có vợ. Vì nhà con nghèo, không có gì nuôi sống, mới cho nó đi làm hầu rượu ở trong quán rượu của ông Lý. Hôm nọ, vừa trưa, chủ quán rượu sai người đến báo: “Con bà bị người ta đánh chết rồi”. Quan lớn đèn trời soi xét cho! Con thực hồn vía lên mây, liền chạy đến nơi, thấy cháu nó vỡ đầu, máu chảy lênh láng, nằm thở thoi thóp; hỏi nó, nó không nói được nữa, một chốc thì chết. Con toan níu lấy thằng vô loại này liều mạng với nó!

Nói đến đó bọn nha dịch quát một tiếng, bà Vương liền lạy lục mà nói:

– Xin quan lớn đèn trời minh oan cho con. Con chỉ có một đứa con ấy thôi!

Viên tri huyện bảo: – Mụ hãy xuống đi. – Lại gọi chủ quán họ Lý hỏi:

– Tên Trương Tam làm thuê ở quán mày phải không?

Lý Nhị thưa:

– Bẩm không phải làm thuê, mà làm người hầu rượu.

– Hôm khám xác chết, mày nói Tiết Bàn cầm bát đánh chết Trương Tam, có phải chính mắt mày trông thấy không?

– Lúc đó con đang đứng bên quầy bán hàng, nghe nói ngoài phòng khách gọi rượu, một chốc nghe có tiếng kêu: “Nguy rồi! Đánh bị thương rồi!” Con chạy ra thì thấy Trương Tam nằm dưới đất, không nói năng được nữa. Con liền một mặt đi trình lý dịch địa phương; một mặt sai người đi báo với mẹ anh ta. Còn những việc họ đánh nhau thế nào, thực con không rõ, xin quan lớn hỏi những người uống rượu sẽ biết.

Viên tri huyện quát:

– Lúc sơ thẩm lấy khẩu cung, mày nói chính mắt trông thấy, sao bây giờ lại nói không?

– Hôm đó con khiếp sợ mất vía, nên trót nói nhảm. Bọn nha dịch lại quát không cho nói nữa.

Viên tri huyện gọi Ngô Lương hỏi:

– Mày cùng họ uống rượu ở một chỗ phải không? Tiết Bàn đánh người như thế nào? Cứ khai cho thực.

– Hôm đó con đang ở nhà, thì cậu Tiết này mời đi uống rượu. Cậu ấy chê rượu không ngon, đòi đổi rượu khác. Trương Tam không chịu. Cậu Tiết nổi giận, cầm bát rượu hắt lên mặt anh ta, không hiểu vì sao, cái bát lại va phải đầu, chính mắt con trông thấy như thế.

– Nói bậy! Hôm trước lúc khám xác, Tiết Bàn tự nhận là cầm bát đánh chết, mày cũng hảo chính mắt trông thấy, tại sao hôm nay lại nói khác! Lính đâu! Vả vào miệng nó!

Bọn nha dịch dạ vang, toan lại vả miệng. Ngô Lương kêu van:

– Quả thật Tiết Bàn không hề đánh nhau với Trương Tam, mà chỉ nhỡ tay để vỡ bát rượu va phải đầu anh ta. Xin quan lớn làm ơn hỏi lại Tiết Bàn thì rõ.

Viên tri huyện gọi Tiết Bàn lên, hỏi:

– Mày cùng Trương Tam có hiềm thù gì không? Tại sao nó chết? cứ khai thật đi!

– Xin quan lớn thương cho con nhờ! Con thật không hề đánh anh ta. Chỉ vì anh ta không chịu đổi rượu, con cầm bát rượu hắt xuống đất, không ngờ nhỡ tay, bát va vào đầu, con vội vàng bịt lấy chỗ chảy máu, ngờ đâu bịt mãi không được, máu ra nhiều quá, một chốc thì chết. Hôm trước lúc khám xác, con sợ quan lớn đánh, nên nói là cầm bát đánh anh ta, xin quan lớn rộng thương cho.

Viên tri huyện quát:

– Đồ ngốc! Hôm trước ta hỏi mày tại sao đánh nó, thì mày khai là tức nó không chịu đổi rượu mà đánh, thế mà nay lại nói nhỡ tay va phải nó à?

Viên tri huyện vờ làm bộ đòi đánh đập kìm kẹp. Tiết Bàn cứ một mực nói như vậy.

Viên tri huyện gọi người khám xác chết đến hỏi:

– Hôm trước ở chỗ khám xác chết, ghi chép thương tích thế nào, mày nói cho thật.

– Hôm trước khám thây Trương Tam, trong người không có thương tích gì cả, chỉ ở thóp có một vết thương do đồ sứ chạm phải, dài một tấc bảy phân, sâu năm phân, toạc da, xương ở chỗ thóp dập vỡ ba phân, quả thật là bị va chạm thành thương.

Tri huyện đem đối chiếu với giấy ghi thương tích hôm trước thì giống hệt nhau, biết rằng bọn thơ lại đã sửa cho nhẹ đi, nhưng cũng không bắt bẻ gì, liền gọi ký tên cho qua chuyện.

Bà Vương vừa van vừa khóc:

– Quan lớn đèn trời soi xét! Hôm trước nghe nói còn có nhiều thương tích nữa, sao hôm nay thương tích đều đi đâu mất cả?

– Mụ kia nói nhảm! Giấy ghi thương tích còn rành rành đó, mụ không biết à?

Rồi gọi chú người chết là Trương Nhị lên hỏi:

– Cháu anh chết, anh biết anh ta bị bao nhiêu vết thương không?

Trương Nhị vội vàng thưa:

– Chỉ có một vết thương trên đầu thôi ạ.

– Có thế chứ?

Liền gọi thơ lại đem giấy ghi thương tích xác chết cho mụ Vương xem; lại bảo lý dịch địa phương và chú người chết chỉ cho mụ ta rõ; hiện có bà con và các người chứng kiến ở chỗ khám xác chết xác nhận rõ ràng không có chuyện đánh nhau, cho nên không thể gọi là ẩu đả được. Quan huyện bảo mọi người ký tên vào, cho là nhầm nhỡ làm chết người, giam Tiết Bàn lại, chờ ngày trình lên quan trên. Còn các người khác thì giao lý dịch địa phương nhận về. Sau đó quan huyện cho tan hầu.

Mụ Vương khóc lóc kêu la ầm ĩ. Tri huyện bảo bọn nha dịch:

– Đuổi cổ nó ra.

Trương Nhị cũng khuyên mụ Vương:

– Cháu nó quả thực vì nhầm nhỡ mà chết, sao bà lại vu vạ cho người ta! Quan lớn đã phân xử sáng suốt, đừng có làm ầm ĩ lên!

Tiết Khoa ở ngoài, dò nghe rõ ràng, rất mừng rỡ, liền sai người đưa tin về nhà, chờ cho quan trên phê xuống y án thì sẽ tìm cách chuộc tội. Còn anh ta thì hãy ở lại chờ tin. Bỗng nghe người đi ngoài đường xôn xao nói với nhau:

– Có bà Quý phi nào chết, nhà vua không ra triều ba hôm.

Tiết Khoa nghĩ bụng: “Chỗ này cách nơi lăng tẩm nhà vua không xa, tri huyện phải lo công việc đắp đường xá, chắc rằng không thể rảnh rang mà lo việc mình. Mình có nán lại cũng vô ích.” Tiết Khoa bèn vào nhà giam bảo anh:

– Anh hãy yên lòng chờ đợi, em về nhà ít hôm sẽ đến.

Tiết Bàn cũng sợ mẹ buồn, liền dặn về nói lại: “Con không việc gì, cần phải lên hầu cửa quan ít lâu nữa, rồi sẽ được về nhà, nhưng đừng có tiếc tiền”.

Tiết Khoa để Lý Tường ở lại trông nom, còn mình thì về nhà gặp Tiết phu nhân kể chuyện quan huyện thương tình như thế nào, xét đoán như thế nào, cuối cùng kết án là vô ý làm chết người: “Sau này chỉ mất một ít tiền cho bà con người chết, chờ cấp trên cho phép chuộc tội, thế là ổn hết”.

Tiết phu nhân nghe nói, cũng tạm yên lòng, bảo:

– Bác đang mong cháu về trông nom việc nhà. Bác định sang tạ ơn bên phủ Giả, vả lại Chu quí phi vừa mất, bên ấy hôm nào cũng phải vào cung dự lễ tang, trong nhà chẳng còn mấy người. Bác định sang bên dì trông nom hộ, và làm bạn cho vui, nhưng nhà mình chẳng có ai, được cháu về thì hay lắm.

– Cháu ở ngoài nghe nói là Giả quí phi mất, nên mới vội về. Quí phi nhà ta đang khỏe mạnh thế, sao lại nói mất?

– Năm trước quí phi đã đau một lần, rồi lại khỏe. Lần này không nghe nói đau yếu gì, nhưng nghe nói mấy hôm gần đây cụ bên phủ không được khỏe, hễ nhắm mắt là mơ thấy Quí phi. Mọi người trong nhà đều lo lắng. Nhưng đến khi dò hỏi thì quí phi chẳng có việc gì. Đêm hôm kia, chính miệng cụ nói: “Tại sao Nguyên phi đến đây một mình?” Mọi người cho rằng đó là lời sảng trong lúc đau yếu, nên không ai tin. Cụ nói: “Chúng mày không tin, nhưng Nguyên phi còn nói với tao rằng: Vinh hoa dễ hết, cần phải quay mình lùi bước”. Mọi người đều nói: “Điều ấy ai mà chẳng hay tưởng đến? Đó chẳng qua những người già cả hay lo trước nghĩ sau mà thôi”. Vì thế chẳng ai cho là việc quan trọng. Thế rồi đến sáng hôm sau nghe trong cung xôn xao đồn rằng quí phi bệnh nặng, truyền các bà mệnh phụ vào cung thăm hỏi. Bọn họ lo sợ ngờ vực, vội vàng vào cung. Họ còn chưa về thì ở nhà đã nghe nói bà Chu quí phi mất. Lời đồn đại bên ngoài ăn khớp với sự ngờ vực trong nhà, như thế cháu xem có lạ không?

Bảo Thoa nói:

– Chẳng những lời đồn đại bên ngoài lầm lẫn đã đành, mà trong nhà hễ nghe hai chữ “quí phi” thì đã hoảng lên, sau đó mới rõ là không phải. Hai hôm nay, bọn a hoàn và những bà già ở bên phủ đều nói rằng họ đã biết là không phải Quí phi nhà ta mất. Con hỏi: “Sao các người nắm chắc được thế?” Họ nói: “Cách đây năm năm, vào tháng giêng có một ông thầy bói ở tỉnh ngoài đến, có tiếng là bói rất tài. Cụ bảo viết năm, tháng, ngày giờ sinh đẻ của Nguyên phi lẫn vào trong lá số của bọn a hoàn đưa cho thầy ấy đoán xem. Thầy ấy xem xong rồi nói: Cô con gái sinh vào mồng một tháng giêng này, chỉ sợ nói sai giờ, chứ nếu không sai, thì thật là một vị quí nhân, không thể ở trong phủ này. Nghe vậy dượng và mọi người đều nói: Thầy đừng kể gì sai hay đúng, cứ chiếu cố theo số đó mà đoán xem. Ông ta liền nói: năm Giáp Thân, tháng Giêng Bính Dần, trong bốn chữ này có “thương quan tổn tài”. Riêng chữ thân có “chính quan” và “lộc mã” 1, như thế là trong nhà không thể nuôi được, nhưng cũng không tốt lắm. Ngày sinh là Ất Mão, đầu mùa xuân, mộc Vượng, ví như cây gỗ có đẽo gọt lắm mới thành vật quí. Giờ sinh vào tân kim, rất quí; giữa chữ tỵ là chính quan lộc mã càng tốt. Như vậy gọi là “phi thiên lộc mã cách”. Ông ta lại nói: ngày đẻ gặp “chuyên lộc” hết sức quí trọng. Thiên đức nguyệt đức ở cung bản mệnh, giàu sang hưởng phúc tiêu phòng. Cô này, nếu nói đúng giờ, nhất định là một vị hoàng phi. Thế không phải là đoán rất đúng à? Sau ông ta nói thêm: Nhưng tiếc thay, vinh hoa không được lâu; chỉ sợ gặp phải tháng Mão năm Dần, sẽ là ngày mãn kiếp. Cũng như cây gỗ tốt, đem chạm trổ bóng bẩy thì bản chất sẽ không bền. Bọn họ quên hẳn những câu nói ấy rồi chỉ lo hão. Con sực nghĩ đến, mới nói với mợ Cả. Năm nay có phải là năm Dần tháng Mão đâu.

Bảo Thoa chưa nói xong, Tiết Khoa vội nói:

– Việc người ta mặc họ! Nếu có ông thầy bói như thần tiên, tôi muốn hỏi xem anh Cả nhà ta năm nay sao dữ nào chiếu mệnh mà gặp tai vạ như thế? Nên mau mau biên rõ ngày, giờ sinh của anh ấy để tôi nhờ ông ta đoán xem có can gì không?

– Ông ấy là người xa đến, không biết nay còn ở Kinh nữa hay không.

Bảo Thoa nói xong, vội sắm sửa cho Tiết phu nhân sang phủ Giả. Tiết phu nhân đến nơi thấy chỉ có bọn Lý Hoàn và Thám Xuân ở nhà. Họ liền hỏi:

– Việc cậu Cả ra sao rồi?

– Chờ bẩm lên quan trên rồi mới biết được, xem chừng thì cũng không bị tội chết.

Nghe nói, mọi người mới yên lòng. Thám Xuân liền nói:

– Hôm qua mẹ cháu còn nhắc: Lần trước trong nhà có việc nhờ dì trông nom cho; giờ đây nhà dì cũng có việc, nhờ vả không tiện, nên trong lòng rất là áy náy.

– Dì ở nhà cũng buồn. Anh Cả cháu mắc nạn, em Hai cháu thì phải đi lo liệu, ở nhà chỉ còn một mình chị cháu thì làm được gì? Vả lại con dâu nhà dì lại là đứa không biết lo liệu công việc cho nên dì không sao sang bên này được. Hiện nay quan huyện ở đấy cũng còn bận việc đám ma Chu quí phi. Việc làm án chưa thể xong được. Vì thế em Hai cháu về nhà, nên dì mới sang đây xem sao.

Lý Hoàn nói:

– Dì ở đây vài hôm thì hay quá.

Tiết phu nhân gật đầu nói:

– Dì cũng muốn ở đây làm bạn với chị em cháu, nhưng sợ em Bảo nó buồn.

Tích Xuân nói:

– Dì mà nhớ chị Bảo, thì sao không mời chị ấy sang đây luôn thể?

Tiết phu nhân cười nói:

– Làm thế sao được?

– Không được à? Sao trước kia chị ấy cũng sang ở bên này?

Lý Hoàn nói:

– Cô không hiểu đâu, giờ ở nhà người ta có việc, sang làm sao được?

Tích Xuân tưởng là thật, không hỏi thêm nữa.

Đang nói chuyện thì bọn Giả mẫu đã về. Tiết phu nhân chưa kịp chào, Giả mẫu đã hỏi ngay đến việc Tiết Bàn. Tiết phu nhân kể lại đầu đuôi câu chuyện. Bảo Ngọc ở bên cạnh nghe nhắc đến Tưởng Ngọc Hàm, trước mặt không dám hỏi, nhưng trong bụng đoán chắc là hắn rồi, lại nghĩ thầm: “Hắn đã về Kinh sao không đến gặp ta?” Lại thấy Bảo Thoa cũng không sang, không biết vì cớ gì, trong bụng cứ ngẩn ngơ suy nghĩ. Vừa lúc ấy thì Đại Ngọc cũng đến hỏi thăm sức khỏe. Bảo Ngọc thấy vui mừng nên không nhớ đến Bảo Thoa nữa. Liền cùng bọn chị em ăn cơm chiều tại nhà Giả mẫu. Ăn xong, mọi người ra về. Tiết phu nhân nghỉ ở phòng sau trong nhà Giả mẫu.

Bảo Ngọc về đến phòng, thay quần áo xong, bỗng nhớ đến cái thắt lưng Tưởng Ngọc Hàm biếu mình trước kia, liền hỏi Tập Nhân:

– Cái thắt lưng màu đỏ năm nọ chị không thắt, có còn nữa không?

– Tôi cất đi rồi, hỏi làm gì?

– Tôi hỏi qua thế thôi!

– Cậu lại không nghe nói cậu cả Tiết vì chơi với bọn người tầm bậy ấy nên đã gây ra vụ án mạng tày trời à? Cậu còn nhắc đến cái của ấy làm gì? Nghĩ ngợi viển vông như thế, chẳng bằng cứ yên lòng đọc sách, vứt hết những chuyện vô ích ấy càng hay.

– Tôi có nghĩ ngợi gì đâu, ngẫu nhiên nhớ đến hỏi chị một câu. Nó còn cũng được, mà mất cũng thôi. Thế mà chị đã nói một tràng như thế!

– Không phải tôi lắm điều đâu. Con người đọc sách, hiểu đạo lý thì phải lo cố gắng vươn lên; nếu như người thân yêu đến họ thấy thế, mới vui mừng tôn kính chứ!

Bảo Ngọc nghe Tập Nhân nhắc, liền nói:

– Chết rồi! Vừa rồi ở bên nhà cụ, thấy đông người, tôi không nói chuyện với cô Lâm. Cô ấy cũng không để ý gì đến tôi. Lúc ra về cô ta đi trước. Bây giờ chắc cô ấy đang ở nhà, tôi đến một tí đã rồi hãy về.

Nói xong Bảo Ngọc chạy đi.

Tập Nhân nói:

– Cậu về nhanh lên nhé! Thật là vì tôi nhắc mà cậu cao hứng như thế.

Bảo Ngọc không trả lời, cúi đầu đi một mạch đến quán Tiêu Tương, thấy Đại Ngọc ngồi bên kia bàn xem sách. Bảo Ngọc đi đến trước mặt, cười nói:

– Em về nhà sớm thế?

Đại Ngọc cũng cười nói:

– Anh chẳng để ý gì đến em, em còn ở đấy làm gì?

– Họ nói nhiều quá, anh không thể mở miệng vào đâu, nên không nói chuyện với em được.

Vừa nói, Bảo Ngọc vừa nhìn cuốn sách Đại Ngọc đương xem, nhưng chẳng biết một chữ nào cả. Có chữ thì giống chữ “Thược”, có chữ thì giống chữ “Mang”; cũng có chữ “Đại”, ở bên cạnh có chữ “Cửu”, thêm một cái ngoặc, ở giữa lại thêm một chữ “Ngũ”; cũng có chữ bên trên là chữ “Ngũ”, chữ “Lục” một bên thêm chữ “Mộc” bên dưới lại là chữ “Ngũ”. Bảo Ngọc nhìn thấy, vừa lấy làm lạ, vừa bực mình, liền nói:

– Em độ này học càng tiến, xem cả sách thiên thư nữa đấy à?

Đại Ngọc phì cười nói:

– Rõ học giỏi thực! Ngay cả bản đàn cũng chưa hề xem.

– Sao lại không xem? Nhưng tại sao tôi không biết một chữ nào cả? Em biết à?

– Không biết thì xem làm gì?

– Anh không tin. Xưa nay anh chưa nghe em gẩy đàn bao giờ. Bên thư phòng của chúng ta có treo mấy cây đàn, năm trước có một vị khách, gọi là Kê Hiếu Cố, đến chơi, cha anh nhờ ông ta gẩy một khúc. Ông ta lấy đàn xuống xem rồi nói: “Không cái nào dùng được. Nếu ông lớn cao hứng thì hôm khác xin đến hầu”. Chắc rằng cha anh không hiểu đàn, nên ông ta cũng chẳng đến. Tại sao em biết gẩy đàn mà giấu tài thế?

– Em đã hiểu gì đâu! Hôm trước trong người thấy hơi khoan khoái, nhân tiện lục sách trên giá, thấy có một tập bản đàn, rất có thú vị, trong ấy giảng về lý thuyết gẩy đàn rất thông, cách gẩy cũng rõ ràng. Chơi đàn thật là trò tiêu khiển tĩnh tâm, dưỡng tính của người xưa. Khi em còn ở Dương Châu, cũng đã nghe giảng qua và cũng đã học, nhưng vì không hay gẩy, nên rồi quên mất. Đúng như người ta hay nói: “Ba ngày không gẩy, tay sinh gai”. Hôm trước xem mấy thiên này, chỉ có tên bản hát mà không có lời, em lại đi chỗ khác tìm được một bản có lời về xem, mới thấy thú vị. Nhưng làm thế nào để gẩy cho hay, thì thật cũng khó. Trong sách có chép: Ông Sư Khoáng gẩy đàn có thể gọi gió sấm, rồng, phượng đến. Khổng Tử khi học đàn với ông sư Tương, nghe gẩy mà biết ngay khúc đàn là của Văn Vương. Non cao nước chảy, được gặp tri ân…

Nói đến đây, mí mắt Đại Ngọc rung rung rồi từ từ cúi đầu. Bảo Ngọc đang lúc cao hứng nói:

– Những lời em vừa nói rất là thú vị! Nhưng anh không biết chữ nào trong đó cả. Em hãy dạy cho anh ít chữ xem nào.

– Không cần phải dạy, nói ra thì anh sẽ hiểu ngay.

– Anh là người tối dạ, em hãy dạy cho anh cái chữ “Đại” thêm một ngoặc, và ở giữa lại có chữ “Ngũ” là chữ gì.

– Chữ “Đại” và chữ “Cứu” là dùng ngón tay cái bên trái đè phím thứ chín trên đàn; cái ngoặc ấy và chữ “Ngũ” là dùng ngón tay bên phải bật năm dây. Đây không phải là một chữ, mà là một tiếng, rất dễ hiểu thôi. Lại còn có những cách như kéo dài mềm mại, khoan thai, lỏng lẻo, mạnh, nhanh, vội vã, giục giã đều là phép nghiên cứu về cách gẩy đàn cả.

Bảo Ngọc mừng quá hoa chân múa tay nói:

– Em đã thông hiểu lý thuyết gẩy đàn như thế, sao chúng ta không học gẩy đi?

– Cầm có nghĩa là cấm. Người xưa làm ra đàn vốn là để sửa mình, nuôi dưỡng tính tình, dẹp lòng dâm đãng, bỏ sự xa xỉ. Nếu muốn gẩy đàn thì phải ở nơi nhà cao gác vắng; hoặc ở trên lầu, trong núi; hoặc bên mỏm đá, bờ sông. Họ chỉ chơi khi trời đất thuận hòa, trăng trong gió mát, đốt hương ngồi lặng, bụng không nghĩ bậy, khí huyết điều hòa, lúc đó mới cảm thông với thần thiêng, nhịp nhàng với đạo lớn. Cho nên người xưa nói: “Tri âm khó gặp”, nếu không có người tri âm, thì một mình đánh đàn trước trăng thanh gió mát, đá lạ thông xanh, hạc nội chim ngàn, để gởi gắm vào đấy hứng thú của mình mới không phụ với đàn. Lại còn một điều nữa, cần phải gẩy giỏi, biết lựa tiếng hay. Nếu muốn gẩy đàn, trước hết phải khăn áo chỉnh tề, hoặc áo lông, hoặc áo rộng; phải như bộ dạng của người xưa, mới có thể xứng đáng với cách điệu thánh nhân. Sau đó rửa tay, đốt hương, ngồi lên giường đặt đàn trên bàn, nhắm ngồi đúng phím thứ năm, đối với tầm bụng của mình, thong dong đưa hai tay lên, như vậy tâm hồn và thể xác đều ngay thẳng. Lại phải biết rõ nặng, nhẹ, nhặt, khoan, cuốn, mở tự nhiên, thần thái trang trọng mới được.

– Chúng ta học để mà chơi, chứ nghiên cứu tỷ mỷ như thế thì khó lắm.

Hai người đang chuyện trò, thì Tử Quyên ở ngoài vào. Trông thấy Bảo Ngọc, Tử Quyên cười:

– Cậu Hai hôm nay cao hứng thật.

Bảo Ngọc cũng cười:

– Nghe cô em giảng giải, làm cho tôi sáng mắt ra, càng nghe càng thích.

– Không phải cậu cao hứng về việc đó đâu. Tôi nói là cậu cao hứng đến đây kia.

– Trước đây cô em không được khỏe, tôi sợ đến làm phiền, vả lại tôi phải đi học, do đó có vẻ xa lạ.

Tử Quyên không chờ Bảo Ngọc nói xong, liền đỡ lời:

– Cô tôi cũng mới đỡ, cậu đã nói thế, thì cũng chỉ nên ngồi một lát, rồi để cô tôi đi nghỉ, kẻo giảng giải mãi, e mệt đấy.

Bảo Ngọc cười, nói:

– Thật ra tôi cứ thích nghe, quên rằng cô em mệt.

Đại Ngọc cười:

– Nói chuyện này là có giải trí, cũng không việc gì mà mệt. Nhưng chỉ sợ em thì cứ nói mà anh vẫn không hiểu.

– Dấn dần tự nhiên rồi cũng hiểu.

Bảo Ngọc vừa nói vừa đứng dậy, lại tiếp:

– Em phải nghỉ thôi. Ngày mai anh sẽ bảo cô Ba, cô Tư, đều học gẩy đàn cả, để anh nghe.

Đại Ngọc cười:

– Anh lại muốn ngồi không mà hưởng à? Nếu như mọi người đều học gẩy được mà anh không hiểu, thì cũng không xứng đáng.

Nói đến đây, Đại Ngọc sực nghĩ đến tâm sự của mình, liền im lặng không nói nữa.

Bảo Ngọc cười:

– Cốt làm sao cho các cô đàn hay thì tôi thích nghe. Đừng kể tôi có phải “tai trâu” hay không.

Đại Ngọc đỏ mặt lên rồi cười. Bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn cũng cười.

Mọi người đi ra cửa thì thấy Thu Văn dẫn mấy a hoàn nhỏ bưng một chậu hoa lan đến, nói:

– Bên nhà bà Hai vừa có người biếu bốn chậu hoa lan. Vì bận việc, không có thì giờ thưởng thức, bà Hai bảo đưa cho cậu Hai một chậu và cô Lâm một chậu.

Đại Ngọc xem thì thấy có mấy cành hoa sinh đôi, bỗng động lòng, cũng không rõ là vui hay buồn, cứ ngơ ngẩn đứng nhìn. Lúc bấy giờ Bảo Ngọc chỉ nghĩ đến đàn, liền nói:

– Em bây giờ có hoa lan thì có thể gẩy khúc “Ỷ Lan” đấy. 2

Đại Ngọc nghe nói, trong lòng không vui. Cô ta về phòng, xem hoa lan, vơ vẩn nghĩ: “Cỏ cây đang lúc mùa xuân hoa tươi lá tốt, nghĩ mình tuổi trẻ mà đã giống như vóc bồ liễu ba thu, nếu được như nguyện hoặc giả dần dần tươi tốt, nếu không thì chẳng khác gì hoa liễu lúc xuân tàn, chịu sao nổi mưa dồn gió dập”. Nghĩ đến đây, Đại Ngọc bất giác chảy nước mắt. Tử Quyên đứng bên thấy quang cảnh ấy không hiểu vì duyên cớ gì, nghĩ bụng: “Vừa rồi Bảo Ngọc ở đây thì cô ta cao hứng như thế; giờ đang xem hoa, bỗng làm sao lại thương cảm?” Tử Quyên đang lo không biết khuyên giải ra sao, thì thấy bên nhà Bảo Thoa sai người đến.

1      Những danh từ trong bói số.

2      Một khúc đàn do Khổng tử khi ở nước Vệ về nước Lỗ thấy hoa lan ở trong hang núi mà làm ra.

_________________

Chương 87: Cảm thấy gió thu, gảy đàn buồn thương chuyện cũ – Say ngồi nhập định, tà hỏa lẩn vào trong tim

Cảm thấy gió thu, gảy đàn buồn thương chuyện cũ

Say ngồi nhập định, tà hỏa lẩn vào trong tim

Đại Ngọc gọi người hầu gái nhà Bảo Thoa vào. Chị ta hỏi thăm sức khỏe Đại Ngọc, rồi đưa bức thư của Bảo Thoa. Đại Ngọc bảo chị ta ra ngoài phòng uống nước, rồi bóc thư Bảo Thoa ra xem. Trong thư viết:

“Chị sinh ra gặp lúc chẳng may, cửa nhà rắc rối. Chị em xa cách, mẹ chị già yếu; đã thế trong nhà lại chửi bới mắng nhiếc từ sớm đến chiều, không lúc nào hết. Nay lại mang tay bay vạ gió, mưa dập gió dồn. Canh chầy trằn trọc, buồn bã khôn khuây. Ai người đồng tâm hẳn phải rủ lòng thương xót! Nghĩ lại “Hải Đường thi xã”, thu nọ vừa qua, ngắm cúc ăn cua, chung tình vui vẻ. Nhớ lại câu thơ:

Ngất ngưởng cùng ai đi náu đó.

Hoa đều nở chậm, chậm vì đâu?

Chị không khỏi bùi ngùi than thở cánh hoa tàn tiết lạnh như hai đứa chúng mình. Lòng buồn man mác, tạm gửi bài phú bốn đoạn, phải đâu không bệnh mà, cũng là hát để thay khóc:

Buồn vì nỗi tiết trời thay đổi,

Thấm thoát đà thu lại tới đây!

Thương nhà gặp bước không may,

Một mình vò võ đêm ngày xót xa.

Trên nền bắc mẹ già mòn mỏi,

Biết quên sao được mối ưu sầu!

Ưu sầu biết tính làm sao?

Lòng ta luống những nao nao bấy chầy.

Gió hiu hắt mây bay lơ lửng,

Dạo trong sân, sương đọng lá rơi.

Vì đâu, vui cũng mất rồi,

Nỗi niềm nghĩ lại bời bời ruột gan!

Cá về bể, hạc ngàn bay vút,

Cá giương vây, hạc mượt màu lông;

Ngước trông trời đất mịt mùng,

Thảm thương ai biết nỗi lòng cho ta?

Trời lạnh ngắt, ngân hà vằng vặc,

Trăng chếch soi, giọt ngọc trầm trầm!

Hát lên lòng luống âm thầm,

Hát rồi lại hát tri âm nhắn cùng. 1

Đại Ngọc xem xong, khôn xiết thương cảm, nghĩ bụng: “Chị Bảo không gửi cho ai mà chỉ gửi cho mình, cũng là nghĩ người cùng hội, cùng thuyền đây”. Chợt nghe ở ngoài có người nói: “Chị Lâm ở nhà không?” Đại Ngọc vừa xếp thư của Bảo Thoa lại, vừa trả lời: “Ai đấy?”

Đang hỏi thì thấy Thám Xuân, Tương Vân, Lý Văn và Lý Ỷ bước vào. Hai bên hỏi thăm nhau. Tuyết Nhạn pha trà bưng lên. Mọi người cùng uống và nói chuyện phiếm. Sực nhớ đến câu chuyện “Thơ hoa cúc” năm trước. Đại Ngọc nói:

– Chị Bảo từ khi dời ra ở ngoài, chỉ sang chơi hai lần; giờ có việc cũng không sang nữa, thật là lạ! Để rồi xem chị ấy có tới đây nữa không?

Thám Xuân mỉm cười:

– Việc gì mà không sang? Thế nào rồi chị ấy cũng sang chứ. Bây giờ người chị dâu của chị ấy tính khí chẳng ra gì, bà dì thì đã có tuổi, lại thêm có việc anh Cả, chị Bảo phải ở nhà trông nom, có đâu được rảnh rỗi như trước.

Đang nói chuyện bỗng nghe tiếng gió vù vù thổi mạnh, lá cây rơi đập vào những giấy dán trên cửa sổ. Một chốc lại thấy thoang thoảng mùi hương. Mọi người đều nói:

– Mùi hương này ở đâu bay lại thế? Nó giống mùi hương gì nhỉ?

Đại Ngọc nói:

– Giống mùi hương hoa quế.

Thám Xuân cười:

– Chị Lâm vẫn còn nói như là ở phương Nam vậy. Ở đây về tháng chín, làm gì còn có hoa quế nữa?

Đại Ngọc nói:

– Chính thế đấy! Vì thế nên tôi không nói mùi hoa quế mà là giống mùi hoa quế.

Tương Vân nói:

– Chị Ba cũng đừng nói thế, chị có nhớ câu: “Hoa sen mười dặm, hoa quế ba thu” hay không? Ở phương Nam, lúc này tháng chín chính là lúc hoa quế muộn nở đấy. Chị chưa được thấy đó thôi. Sau này chị đến phương Nam sẽ biết.

Thám Xuân cười, nói:

– Tôi có việc gì mà đến phương Nam? Vả lại cái đó, tôi cũng thừa biết, không mượn các chị nói.

Lý Văn, Lý Ỷ chỉ nhoẻn miệng cười.

Đại Ngọc nói:

– Em ạ! Nói thế không chắc cả đâu. Tục ngữ có câu: “Người là tiên đi trên đất”, nay đây, mai không biết ở đâu; cũng như tôi đây là người phương Nam, tại sao mà đến ở đây!

Tương Vân vỗ tay cười nói:

– Hôm nay chị Ba bị chị Lâm hỏi vặn nên bí. Chẳng những chị Lâm là người phương Nam đến ở đây mà cả mấy đứa chúng mình cũng mỗi người mỗi nơi; cũng có người vốn là người phương Bắc; cũng có người quê ở phương Nam mà sinh trưởng ở phương này. Hôm nay mọi người đều gặp nhau ở một nơi, đủ biết con người ta đều có số mệnh. Người ta sống ở cõi đời, ai nấy đều có duyên phận cả.

Tất cả nghe nói, đều gật đầu. Thám Xuân chỉ ngồi cười. Mấy chị em lại nói chuyện phiếm một chút nữa, rồi ra về.

Đại Ngọc tiễn mọi người ra cửa. Ai cũng nói:

– Chị vừa mới đỡ, đừng đi ra nữa kẻo lại bị cảm đấy.

Đại Ngọc vừa nói vừa dừng chân ở ngõ, ân cần chuyện trò với bốn người, chờ họ ra khỏi mới trở vào. Lúc đó mặt trời đã lặn, chim bay về rừng. Đại Ngọc sực nhớ vừa rồi Tương Vân có nói đến miền Nam, liền nghĩ: “Nếu cha mẹ mình còn sống, thì mình đã được xem phong cảnh phương Nam, hoa xuân, trăng thu, non xanh nước biếc, hai mươi bốn cầu và di tích Lục triều… Mình thiếu gì kẻ hầu người hạ, thích gì làm nấy, không cần phải giữ ý giữ tứ. Mình sẽ đi xe hương, ngồi trên thuyền vẽ; rèm đỏ màn xanh, chẳng còn ai hơn mình nữa. Bây giờ ở nhờ nhà người ta, dù được săn sóc, nhưng bạ gì cũng phải để ý gìn giữ. Không biết kiếp trước ta phạm tội gì, mà kiếp này phải hiu quạnh và cô độc thế này! Đúng như Lý Hậu chủ nói: “Ở đây hàng ngày chỉ lấy nước mắt rửa mặt!” 2 Trong lòng nghĩ ngợi, tâm hồn dường như phiêu diêu đi nơi nào mất.

Tử Quyên lại gần, thấy thế, nghĩ bụng, có lẽ là vì vừa rồi nói đến chuyện phương Nam, phương Bắc, nên cô ta động lòng, liền hỏi:

– Các cô đến nói chuyện lâu, chắc cô mệt. Vừa rồi cháu sai Tuyết Nhạn bảo nhà bếp làm cho cô một bát canh thịt nấu rau, thêm ít bột tôm và măng. Cô thấy thế nào?

– Tốt đấy.

– Cháu còn làm thêm bát cháo gạo Giang Nam nữa.

Đại Ngọc gật đầu, rồi lại nói:

– Cháo thì hai em nấu lấy, đừng mượn nhà bếp nấu nữa.

– Cháu cũng sợ nhà bếp làm không được sạch, cho nên tự mình nấu lấy. Còn bát canh, cháu cũng sai Tuyết Nhạn bảo thím Liễu phải làm cho sạch sẽ. Thím Liễu nói: Chị đã sắm sửa đầy đủ rồi đem về nhà bảo con Năm 3 nấu.

– Ta không phải là sợ họ bẩn thỉu, mà là vì ốm đau lâu ngày, sắm sửa gì cũng nhờ người ta làm cả, bây giờ lại còn canh, còn cháo, sai khiến lung tung, thế nào người ta cũng đâm ngấy.

Nói đến đó, quầng mắt Đại Ngọc lại đỏ lên.

– Đấy là cô hay nghĩ thế thôi, chứ cô là cháu ngoại và là khúc ruột của cụ, họ mong muốn chiều chuộng cô còn chưa được, có đâu lại oán trách?

Đại Ngọc gật đầu rồi lại hỏi:

– Chị vừa nói con Năm, có phải là người con gái hôm nọ chơi với em Phương Quan bên nhà cậu Bảo đấy không?

– Chính nó đấy.

– Nghe nói nó sắp vào làm a hoàn ở đấy phải không?

– Phải đấy, nhưng vì nó bị ốm một dạo, sau khỏe rồi, vừa muốn vào ở thì lại gặp lúc bọn Tình Văn gây chuyện rắc rối, thành ra còn phải chậm lại.

– Ta xem con bé mặt mũi sáng sủa dễ thương đấy!

Đang nói thì bà già ở ngoài đưa canh đến. Tuyết Nhạn đỡ lấy. Bà già nói:

– Thím Liễu bảo thưa với cô, đây là em Năm nấu đấy. Nó không dám nấu ở bếp lớn, sợ cô ngại bẩn.

Tuyết Nhạn vâng lời, rồi bưng vào.

Đại Ngọc ở trong nhà đã nghe nói rồi, nên bảo Tuyết Nhạn:

– Em dặn bà ta về nói rằng ta cám ơn thím ấy.

Tuyết Nhạn ra nói rồi bà ta ra về.

Tuyết Nhạn đem thìa, bát của Đại Ngọc bày trên ghế nhỏ và hỏi:

– Còn có thứ rau thơm từ phương Nam đưa đến, trộn lẫn với dầu dấm, cô có muốn ăn không?

– Cũng được. Nhưng đừng có rềnh ràng quá.

Khi đem cháo lại, Đại Ngọc ăn hết nửa bát, và húp hai thìa canh rồi đặt xuống. Hai a hoàn dọn đi rồi lau sạch cái ghế cất đi, và cái ghế khác vào. Đại Ngọc súc miệng, rửa tay xong, nói:

– Chị Tử Quyên đã đốt thêm hương chưa?

– Để cháu đốt thêm.

– Các chị ăn canh và cháo đi, đang còn ngon và sạch sẽ, để tôi đốt thêm hương cho.

Hai người vâng lời, ra ngoài ngồi ăn.

Đại Ngọc ở trong, đốt thêm hương, rồi ngồi một mình.

Đang muốn lấy sách xem, bỗng nghe tiếng gió trong vườn, từ tây thổi sang đông, thổi qua cành cây, tiếng kêu vi vu. Một chốc mấy con thiết mã 4 treo ở thềm cũng kêu loảng xoảng.

Một lúc sau Tuyết Nhạn ăn xong, vào nhà hầu. Đại Ngọc nói:

– Giời lạnh rồi. Hôm trước ta bảo các em đem mấy cái áo lông mỏng phơi ra, đã phơi chưa?

– Phơi rồi ạ!

– Em đưa đây một chiếc, ta quàng.

Tuyết Nhạn chạy đi, rồi mang lại một bao đựng các thứ áo lông mỏng, mở ra để Đại Ngọc chọn. Đại Ngọc thấy trong ấy có để lẫn một cái bao bằng lụa, cầm lấy, mở ra xem, thì ra cái khăn lụa lúc Bảo Ngọc ốm đưa tặng và mình đã đề thơ vào, dấu nước mắt còn hoen ố. Trong bao ấy lại có một cái túi đựng hương, một cái túi đựng quạt cùng với cái dây đeo viên ngọc của Bảo Ngọc. Thì ra khi phơi áo, nhặt được vật này ở trong rương. Tử Quyên sợ rơi mất, nên cất lẫn vào trong gói áo này.

Đại Ngọc không thấy thì thôi, khi đã thấy thì quên cả mặc áo, chỉ cầm lấy hai mảnh khăn lụa ấy, ngơ ngẩn xem bài thơ cũ. Xem một chốc, bất giác nước mắt chảy ròng ròng.

Tử Quyên ở ngoài vào, thấy Tuyết Nhạn bưng gói áo đứng ngẩn ngơ một bên. Trên ghế con thì để cái túi hương và hai ba mảnh túi quạt và cái dây bị cắt rời ra. Đại Ngọc thì cầm hai mảnh lụa cũ trên có đề chữ, đang ngắm nghía và ứa nước mắt. Thật là:

Việc buôn đến quấy người buồn sẵn;

Lệ cũ hòa thêm lệ mới vào.

Tử Quyên thấy thế, biết những vật này làm cô ta nhớ đến chuyện cũ, có khuyên cũng chẳng ăn thua gì, đành phải cười, nói:

– Cô còn xem những cái ấy làm gì? Đó đều là những vật buồn cười mấy năm trước lúc cô và cậu Hai đang còn nhỏ, khi vui khi giận bất thường, mới xảy ra như thế. Nếu được như ngày nay, hai bên đều biết kính trọng nhau, thì làm gì mà đến nỗi làm hỏng mất những vật ấy.

Tử Quyên nói thế có ý để làm Đại Ngọc khuây khỏa, không ngờ lại làm cho Đại Ngọc nhớ lại những câu chuyện cũ giữa hai người khi Đại Ngọc vừa mới đến, thành ra nước mắt cô ta lại càng đầm đìa.

Tử Quyên lại khuyên:

– Em Tuyết nó chờ mãi. Cô khoác lấy một cái áo đi thôi.

Đại Ngọc bèn vứt khăn lụa xuống. Tử Quyên vội vàng nhặt lên, rồi đem cả mấy vật kia gói lại cất đi.

Đại Ngọc khoác một cái áo da, buồn bã đi ra nhà ngoài ngồi xuống. Ngoảnh lại thấy thư của Bảo Thoa còn để trên bàn chưa cất, Đại Ngọc đem ra xem lại hai lần, rồi than: “Cảnh ngộ không giống nhau, mà lòng cùng chung đau xót. Ta hãy làm một bài thơ bốn đoạn phổ nhạc, để có thể hát theo tiếng đàn, và ngày mai viết gởi cho chị ta, để thay bài họa”.

Nghĩ vậy Đại Ngọc gọi Tuyết Nhạn đưa bút nghiên ở nhà ngoài vào, chấm mực vẩy bút, làm thành bốn bài, lại giở sách nhạc ra, mượn hai khúc “Ỷ lan” “Tư hiền” 5 hợp thành âm vận hợp với bài của mình làm cho đều đặn rồi viết ra, để gởi cho Bảo Thoa. Đại Ngọc bảo Tuyết Nhạn mở rương lấy cái đàn ngắn trước kia mang đến đưa hòa bốn dây, rồi lại tập gẩy. Đại Ngọc vốn là người thông minh tuyệt vời, lại nhờ lúc ở phương Nam đã từng học qua nên tuy chưa gẩy mấy nhưng chỉ một lúc là thạo. Đêm khuya, Đại Ngọc gọi Tử Quyên sắp xếp đi ngủ.

Một hôm, Bảo Ngọc ngủ dậy, chải đầu rửa mặt xong, cùng đi với Bồi Dính qua phòng học, bỗng thấy Mặc Vũ cười hì hì chạy lại nói:

– Cậu ạ, hôm nay may mắn quá. Cụ đi vắng nên cho nghỉ cả.

– Thật à?

– Cậu không tin à! Kìa, chẳng phải cậu Ba và anh Lan đã về đấy là gì?

Bảo Ngọc nhìn thì thấy Giả Hoàn và Giả Lan có mấy đứa hầu trẻ theo từ đường kia đi lại. Hai người vui cưới hớn hở, trong miệng thì thầm, chả biết nói gì. Trông thấy Bảo Ngọc, họ buông tay đứng lại. Bảo Ngọc hỏi:

– Hai đứa mày tại sao lại về?

Giả Hoàn nói:

– Hôm nay cụ có việc nói cho nghỉ một hôm. Ngày mai hãy đến.

Bảo Ngọc nghe nói, quay lại chỗ Giả mẫu và Giả Chính thưa chuyện rồi về Viện Di Hồng.

Tập Nhân hỏi:

– Tại sao cậu lại về?

Bảo Ngọc nói cho chị ta rõ, rồi chỉ ngồi một tý đã đi ra ngoài.

Tập Nhân nói:

– Cậu đi đâu mà vội thế? Theo ý tôi, được nghỉ học thì cũng nên tĩnh dưỡng cho khoan khoái.

Bảo Ngọc dừng chân lại, cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

– Chị nói cũng phải, nhưng không mấy khi nghỉ học một ngày, lại không dạo chơi tiêu khiển hay sao? Chị cũng nên thương tôi một chút với!

Tập Nhân nghe nói thấy tội nghiệp, liền cười, hỏi:

– Thôi, cho cậu đi.

Đang nói thì người hầu đã đưa cơm đến. Bảo Ngọc không biết làm thế nào, đành phải ăn cơm. Bảo Ngọc ăn vài ba miếng, vội vàng súc miệng, rồi một mạch chạy sang phòng Đại Ngọc.

Đến đầu cửa thì thấy Tuyết Nhạn đang phơi lụa giữa sân. Bảo Ngọc hỏi:

– Cô ăn cơm chưa?

– Sáng dậy, cô tôi ăn nửa bát cháo, không muốn ăn cơm, giờ đang ngủ trưa đấy. Cậu hãy đi đâu một chốc rồi trở lại.

Bảo Ngọc đành phải trở ra. Bảo Ngọc không biết đi đâu, sực nghĩ mấy hôm nay không thấy Tích Xuân, liền rảo bước đi tới Lục Phong hiên. Vừa đến dưới cửa sổ, thấy im lặng, không có một tiếng người. Bảo Ngọc tưởng cô ta cũng ngủ trưa, mình vào không tiện. Đang định trở ra thì nghe có tiếng động nhè nhẹ, không biết tiếng gì, Bảo Ngọc đứng lại. chỉ nghe có tiếng cắc cắc trong nhà. Bảo Ngọc vẫn chưa biết là tiếng gì. Bỗng một người nói:

– Chị đi nước này thì nước kia chị bỏ đi à?

Bảo Ngọc mới biết là họ đang đánh cờ. Nhưng không thể nhận ngay được người mới nói đó là ai. Ngay lúc đó thì Tích Xuân nói:

– Sợ gì kia chứ, chị ăn như thế này nhé, tôi đi như thế này nhé, chị lại ăn như thế này nhé, tôi lại đi như thế này nhé. Còn chậm một nước đấy, nhưng cuối cùng cũng sẽ theo được.

Lại nghe người kia nói:

– Tôi ăn như thế này thì sao?

Nghe tiếng Tích Xuân nói:

– Ái chà, té ra còn cái nước đánh quay lại phía kia mà mình không đề phòng.

Bảo Ngọc lắng tai mãi. Tiếng nói của người kia rất quen, nhưng không phải là người trong bọn chị em. Chắc rằng trong phòng Tích Xuân không có người ngoài, nên Bảo Ngọc nhè nhẹ vén màn bước nào. Nhìn ra chẳng phải ai xa lạ mà là ni cô Diệu Ngọc ở chùa Lũng Thúy. Bảo Ngọc thấy là Diệu Ngọc nên không dám làm giật mình. Diệu Ngọc và Tích Xuân chính là đang lúc trầm ngâm nghĩ ngợi nên cũng không nhìn đến. Bảo Ngọc đứng một bên xem cách đánh của hai người như thế nào. Thấy Diệu Ngọc cúi đầu hỏi Tích Xuân:

– Chị không cần góc này nữa à?

– Sao lại không cần? Nhưng quân của chị ở đó đều là quân chết cả rồi, tôi sợ gì?

– Hãy khoan nói láo, thử xem đã.

– Để tôi đánh lên, xem chị làm thế nào.

Diệu Ngọc mỉm cười, cầm quân cờ bên góc trên, đánh quật trở lại, ăn sạch quân cả một góc của Tích Xuân, rồi cười nói:

– Đây gọi là thế cờ “Đảo thoát hoa” (Cởi ngược giày).

Tích Xuân chưa kịp trả lời. Bảo Ngọc đứng một bên, nhịn không được, cười ha hả làm cho hai người giật nẩy mình. Tích Xuân nói:

– Làm cái gì thế? Đến cũng không lên tiếng, chơi ác, làm người ta giật mình! Anh đến đây từ lúc nào thế?

– Tôi đến từ lúc nãy, xem hai cô giành nhau cái góc cờ.

Vừa nói, vừa chào Diệu Ngọc, lại cười hỏi:

– Cô Diệu không mấy khi ra khỏi cửa thiền, hôm nay có duyên nợ gì lại xuống trần chơi thế?

Diệu Ngọc nghe nói bỗng dưng đôi má ửng đỏ, cũng không trả lời, chỉ cúi đầu xuống nhìn bàn cờ.

Bảo Ngọc tự nghĩ mình láu táu quá, liền cười và nói lấy lòng:

– Con nhà tu hành thật không giống như bọn người trần tục chúng tôi. Trước hết là giữ lòng cho yên tĩnh; yên tĩnh thì thông minh; thông minh thì sáng suốt.

Bảo Ngọc nói chưa xong, thấy Diệu Ngọc nhè nhẹ ngước mắt lên, nhìn Bảo Ngọc một cái, rồi lại cúi đầu xuống, đôi má dần dần ửng đỏ. Bảo. Ngọc thấy cô ta không để ý gì đến mình, liền thẫn thờ ngồi xuống một bên.

Tích Xuân còn muốn đánh cờ nữa, Diệu Ngọc chậm chạp nói:

– Chốc nữa hãy đánh.

Cô ta liền đứng dậy sửa lại xiêm áo rồi lại ngồi xuống, vơ vẩn hỏi Bảo Ngọc:

– Cậu ở đâu lại đây?

Bảo Ngọc đang cố chờ Diệu Ngọc lên tiếng hỏi để chống chế câu nói của mình lúc trước, bỗng lại nghĩ: “Hay là câu hỏi của Diệu Ngọc có mưu mô gì chăng?” Liền đỏ mặt lên, nói không ra lời. Diệu Ngọc mỉm cười, đoạn nói chuyện với Tích Xuân. Tích Xuân cũng cười, nói:

– Anh Hai này, điều đó có gì khó trả lời? Anh lại không nghe người ta thường nói: “Ở chỗ mình mà đến” à? Thế mà cũng đỏ mặt lên, giống như thấy người lạ ấy?

Diệu Ngọc nghe câu ấy, nghĩ thầm đến bộ dạng mình lúc vừa rồi, động lòng nóng má, tất nhiên là má cũng đỏ, cô ta cảm thấy ngượng, liền đứng dậy nói:

– Tôi đến lâu rồi, phải về am đây.

Tích Xuân vốn biết tính của Diệu Ngọc, cũng không cố mời lại, liền tiễn chân ra ngõ. Diệu Ngọc cười nói:

– Lâu nay không đến, ở đây loanh quanh, đường về quanh co không khéo lạc mất.

Bảo Ngọc nói:

– Như vậy, tôi xin đưa cô về, có được không?

– Không dám! Mời cậu đi trước.

Hai người từ giã Tích Xuân, từ Lục Phong hiên đi ra, quanh co khuất khúc, đi gần đến quán Tiêu Tương, bỗng nghe có tiếng “tưng tưng”. Diệu Ngọc nói:

– Tiếng đàn ở đâu đấy?

– Chắc là cô Lâm gẩy đàn đấy.

– Thế cô ta cũng biết gầy đàn à? Sao ngày thường tôi không thấy cô ta nhắc đến?

Bảo Ngọc liền đem chuyện hôm nọ Đại Ngọc giảng giải về đàn, nói cho Diệu Ngọc nghe, rồi bảo:

– Chúng ta đi đến xem đi.

– Xưa nay chỉ có nghe đàn, ai lại xem đàn.

Bảo Ngọc cười:

– Tôi đã nói tôi là người tục mà.

Đang nói thì hai người đã đến ngoài quán Tiêu Tương, ngồi trên hòn đá bên núi lắng nghe, cảm thấy âm điệu trong trẻo, tha thiết. Nghe bên trong có tiếng hát nhè nhẹ.

Gió vi vút chừ, khí thu già,

Người đẹp ngàn dặm chừ, một mình ngâm nga.

Trông vời quê hương chừ, đâu tá?

Đứng tựa lan can chừ, lệ nhỏ sa!

Nghỉ một chốc, lại nghe hát:

Non thăm thẳm chừ, sông dài,

Bóng trăng sáng chừ, dọi song mai.

Bâng khuâng không ngủ chừ, nhìn sông Ngân xa xôi,

Áo the run rẩy chừ, sương lạnh toát người.

Hát đến đấy lại nghỉ một chốc. Diệu Ngọc nói:

– Vừa rồi là điệp thứ nhất, nay đến điệp thứ hai. Chúng ta rốn nghe xem.

Trong nhà lại có tiếng hát vọng ra:

Cảnh ngộ ngươi chừ, không được tự do,

Cảnh ngộ ta chừ, lắm mối buồn lo.

Ngươi cùng ta chừ, lòng những hẹn hò,

Nhớ người xưa chừ, đừng có đắn đo.

Diệu Ngọc nói:

– Đó lại là một khúc nữa, sao mà lo phiền lắm thế.

– Tôi tuy không hiểu, nhưng nghe âm điệu, cũng cảm thấy buồn rầu quá.

Lúc đó nghe trong nhà vặn lại dây đàn. Diệu Ngọc nói:

– Dây chính cao quá, sợ không ăn khớp với luật vô xạ. 6

Lại nghe trong nhà hát:

Người ở trên đời chừ, như hạt bụi thôi,

Trên giời dưới trần chừ, duyên định sẵn rồi.

Duyên định sẵn chừ, hoài công lo lắng,

Sao bằng trăng giữa trời kia lòng trong trắng.

Nghe đến đấy, Diệu Ngọc bỗng thất sắc, nói:

– Tại sao lại tự dưng đổi ra âm chủy, 7 âm vận này buồn quá, có thể làm cho vàng đá phải nứt. Thế này thì quá lắm!

– Quá thì sao?

– Quá thì không thể giữ được lâu.

Hai người đang bàn bạc, bỗng nghe “phựt” một tiếng, dây chính đứt mất. Diệu Ngọc đứng dậy vội vàng chạy đi.

Bảo Ngọc nói:

– Sao thế?

– Ngày sau khắc biết, cậu cũng bất tất nói nhiều.

Nói xong Diệu Ngọc đi mất. Bảo Ngọc băn khoăn ngờ vực, ủ rũ đi về viện Di Hồng.

Diệu Ngọc về đến nơi, có đạo bà ra đón, bèn đóng cửa chùa lại, ngồi một lúc, đem kinh Phật hàng ngày đọc một lần. Ăn cơm chiều xong, thắp hương lên, Diệu Ngọc lạy các vị bồ tát rồi bảo với đạo bà đi nghỉ. Giường thiền và gối dựa đều sắp sửa sẵn. Diệu Ngọc buông màn, nín hơi, ngồi xếp tròn, bỏ hết mọi ý nghĩ lông bông, một lòng hướng về đạo chính. Ngồi như vậy đến sau trống canh ba bỗng nghe trên mái nhà có tiếng sột soạt, Diệu Ngọc sợ có kẻ trộm, vội xuống giường thiền, đi ra trước hiên, thì thấy bóng mây ngang giời, trăng trong như nước. Lúc bấy giờ tiết trời chưa lạnh lắm. Diệu Ngọc một mình đứng tựa lan can, bỗng lại nghe trên nhà hai con mèo vừa gù nhau vừa kêu.

Diệu Ngọc sực nhớ lời nói Bảo Ngọc lúc ban ngày, bỗng thấy động lòng nóng tai, vội vàng ổn định lại tâm thần, đi vào buồng thiền, lại lên giường ngồi. Nhưng khốn nỗi thần hồn bất định, hình như muôn ngựa ruổi rong, rồi cảm thấy như là cái giường cứ lắc lư, thân mình không còn ở trong am nữa. Cô thấy có rất nhiều vương tôn công tử đòi cưới mình làm vợ; lại thấy có nhiều bà mối lôi lôi kéo kéo, đẩy mình lên xe, mà mình thì không chịu đi. Một chốc lại thấy kẻ cướp, kẻ trộm cầm dao vác gậy đến bức bách mình. Diệu Ngọc đành phải khóc rầm lên và kêu cứu.

Bọn ni cô, đạo bà trong am nghe tiếng, đều thắp đèn đuốc tới xem, thì thấy Diệu Ngọc hai tay duỗi ra, miệng sè nước bọt. Họ vội vàng gọi tỉnh lại, thấy hai mắt Diệu Ngọc trừng lên, hai má đỏ thắm, miệng mắng:

– Tao có bồ tát phù hộ, bọn kẻ cướp chúng bay dám làm gì?

Mọi người hoảng sợ, chẳng biết làm thế nào, xúm xít gọi:

– Cô mau tỉnh lại, chúng tôi đây mà.

Diệu Ngọc nói:

– Ta muốn về nhà. Các ngươi có ai giỏi thì đưa ta về.

Đạo bà nói:

– Phòng cô ở đây, chứ còn đâu nữa.

Nói rồi bà ta sai người cầu khấn trước tượng Quan Âm, và xin một quẻ thẻ. Mở thẻ ra xem thì nói là người này xúc phạm phải một âm hồn ở phía tây nam.

Có một người nói:

– Phải rồi! Góc tây nam trong vườn Đại Quan này xưa nay không có người ở, thế nào cũng có ma quỉ.

Thế rồi người chạy cách này, người chạy cách khác rối rít cả lên.

Một ni cô do Diệu Ngọc đưa từ phương Nam đến để hầu hạ mình, cho nên tận tâm hơn mọi người, cứ ngồi trên giường ôm lấy Diệu Ngọc.

Diệu Ngọc ngoảnh lại hỏi:

– Mày là ai?

– Tôi đây.

– Té ra chị đấy à?

Diệu Ngọc nhìn kỹ rồi ôm lấy ni cô, nghẹn ngào khóc nức nở mà nói:

– Chị là mẹ tôi, chị không cứu tôi thì tôi chết mất!

Người ni cô một mặt gọi Diệu Ngọc tỉnh lại; một mặt xoa bóp cho cô ta. Đạo bà múc nước cho uống, mãi đến trời sáng mới ngủ được.

Ni cô liền cho người đi mời thầy xem mạch. Cũng có người nói là vì lo nghĩ tổn hại đến tỳ; cũng có người nói là nhiệt vào huyết thất; cũng có người nói xúc phạm ma quỷ; cũng có người nói là nội cảm ngoại thương, rút cục chẳng có gì là nhất định. Sau cùng mời được một ông thầy đến xem bệnh rồi hỏi:

– Đêm ấy cô có ngồi nhập định không?

Đạo bà nói:

– Xưa nay đêm nào sư cô tôi cũng ngồi nhập định.

– Có phải đêm qua bỗng dưng sinh bệnh không?

– Chính thế.

– Đó là vì tà hỏa nhập vào tim đấy.

Mọi người hỏi:

– Có cần gì không?

– May mà ngồi nhập định chưa lâu lắm, tà hỏa chưa vào sâu, còn có thể chữa được.

Nói xong thầy lang cho đơn “Giáng phục tâm hỏa” sắc thang cho Diệu Ngọc uống. Diệu Ngọc dần dần bình phục.

Tin này đồn ra ngoài, bọn chơi bời lêu lổng nghe được, liền bịa đặt ra nhiều chuyện không đâu. Chúng nói:

– Người chừng ấy tuổi, chịu làm sao được? Vả lại hình dáng phong lưu, tính tình linh lợi, sau này chẳng biết lọt vào tay ai, thì người ấy tốt phúc.

Qua vài ngày, Diệu Ngọc đã hơi đỡ, nhưng tinh thần chưa thật bình phục, có lúc vẫn còn mơ màng, hoảng hốt.

Một hôm Tích Xuân đang ngồi, thì Thái Bình vào nói:

– Cô có biết chuyện cô Diệu Ngọc không?

– Cô ta có việc gì?

– Hôm qua tôi nghe cô Hình và mợ cả nói chuyện: Cô Diệu Ngọc từ hôm đánh cờ với cô về, đêm ấy bị trúng tà, miệng kêu rầm lên, nói kẻ cướp tới bắt, đến nay vẫn chưa khỏe. Cô thử nghĩ xem, có lạ không?

Tích Xuân nghe nói, im lặng không đáp, trong bụng nghĩ thầm: “Diệu Ngọc tuy là trong sạch, nhưng trần duyên chưa dứt. Tiếc thay mình lại sinh ở nhà này, tu hành không tiện; nếu mình được tu hành, làm gì có tà ma nhiễu hại! Chắc chắn sẽ lửa lòng lạnh tắt, duyên nghiệp sạch không”. Nghĩ đến đó, Tích Xuân bỗng dưng tinh thần cảm thông, trong lòng như có sở đắc, liền ứng khẩu đọc câu kệ như sau:

Giời đất không bến bờ,

Chỗ nào là nên ở?

Vốn tự chỗ không ra,

Nên về chỗ không đó.

Đọc xong, cô ta sai a hoàn thắp hương, một mình ngồi im lặng, rồi lục sách thế cờ ra xem mấy bài do ông Khổng Dung vào Vương Tích Tân làm ra. 8 Trong đó các thế “Hà diệp bao giải” 9, “Hoàng oanh bác thỏ” 10 đều không lạ lắm. Thế “Tam thập lục cuộc sát giác11), thì trong một lúc cũng khó lãnh hội và khó nhớ. Chỉ có thế “Thập long tẩu mã” 12 là rất có ý tứ. Tích Xuân đang nghĩ ngợi thì thấy ở ngoài có một người chạy vào trước sân, gọi:

– Chị Thái Bình ơi!

1      Nguyên là thể phú, vì hạn chế vần, chúng tôi dịch theo thể này.

2      Tức Lý Dục, vua nước Nam Đường, bị Tống Thái Tông diệt mất nước.

3      Ở hồi 77, theo lời Vương phu nhân nói, thì con Năm đã chết rồi, có lẽ là lầm.

4      Một đồ dùng người xưa thường làm để treo ở ngoài mái nhà có gió thổi thì chạm nhau kêu leng keng.

5      “Ỷ Lan” đã chú thích ở hồi trên. “Tư hiền” là khúc đàn do Chu Văn Vương làm ra khi tìm được Lã Vọng.

6      Một trong mười hai luật đời xưa. Trong mười hai chi thì thuộc về tuất.

7      Chủy là một trong năm âm luật của đàn (cung thương giốc chủy vũ).

8      Khổng Dung người đời Tam quốc; Vương Tích Tân người đời nhà Đường đều là tay cao cờ.

9      Lá sen bọc cua.

10      Oanh vàng đâm thỏ.

11      Ba mươi sáu nước đánh góc.

12      Mười rồng ruỗi ngựa. Các chữ trên này là thế cờ tướng, do những tay cao cờ đặt ra.

Chương 88: Muốn bà vui, Bảo Ngọc khen cháu bé mồ côi – Nghiêm phép nhà, Giả Trân đánh người hầu cứng cổ

Muốn bà vui, Bảo Ngọc khen cháu bé mồ côi

Nghiêm phép nhà, Giả Trân đánh người hầu cứng cổ

Tích Xuân đang ngồi nghĩ các thế cờ, bỗng nghe ngoài sân có tiếng Uyên Ương gọi Thái Bình. Thái Bình ra, cùng Uyên Ương vào. Uyên ương đi với một a hoàn nhỏ, mang đến một cái túi nhỏ bằng lụa vàng. Tích Xuân cười hỏi:

– Việc gì thế?

– Vì sang năm cụ tám mươi mốt tuổi, đã hứa làm một đàn chay công đức chín đêm ngày và viết ba ngàn sáu trăm năm mươi mốt bộ kinh “Kim cương”. Đã phát ra ngoài cho mọi người viết rồi, nhưng tục ngữ thường nói: Kinh kim cương cũng như cái vỏ ngoài của nhà Đạo, “Tâm kinh” mới là phần cốt yếu 1. Cho nên khi viết kinh Kim cương phải viết “Tâm kinh” vào, càng thêm công đức. Cụ nghĩ rằng “Tâm kinh” đã quan trọng, đức Phật Quan Âm lại là một vị nữ bồ tát, vì thế cần có các cô, các mợ, bà con ruột thịt viết cho được ba trăm sáu mươi lăm bộ. Như vậy, vừa thành kính, vừa trong sạch. Trong nhà chúng ta, trừ mợ Hai bận việc nhà, không có thì giờ rảnh lại không biết viết. Ngoài ra, những người biết viết, bất luận là viết được nhiều hay ít, đến cả mợ Trân và các dì, đều chia phần viết cả. Người trong nhà này cố nhiên là không cần phải nói nữa.

Tích Xuân nghe xong gật đầu nói:

– Việc khác tôi làm không nổi, chứ viết kinh thì tôi rất thành tâm. Chị để đấy ngồi uống trà đã.

Uyên Ương để cái bao vàng lên trên yên rồi cùng Tích Xuân ngồi xuống.

Thái Bình bưng một chén trà lại. Tích Xuân cười, hỏi Uyên Ương:

– Chị có viết không?

– Cô lại nói đùa. Trước đây mấy năm tôi còn viết lách, chứ ba bốn năm nay, cô có thấy tôi cầm đến bút đâu?

– Làm việc này là có công đức đấy.

– Tôi cũng có một việc: Lâu nay, sau khi hầu cụ đi nghỉ, tôi đọc kinh đếm gạo, đọc đã được hơn ba năm rồi. Gạo ấy tôi cất sẵn, chờ khi nào cụ làm chay, tôi sẽ đem số gạo góp vào để cúng Phật và bố thí cho người nghèo. Thế cũng là một chút lòng thành của tôi.

– Như vậy nếu cụ thành đức Phật Quan Âm, chị sẽ là cô Long Nữ.

– Làm gì được thế? Có điều ngoài cụ ra, tôi không hề hầu hạ được ai, chẳng hiểu vì kiếp trước duyên phận ra sao?

Nói đến đấy chị ta muốn ra về, lại gọi a hoàn nhỏ mở bao lụa vàng, lấy đồ đựng ở trong ra và nói:

– Xếp giấy trắng này là để viết “Tâm kinh”!

Lại cầm lên một bó hương, nói:

– Hương này để thắp khi viết kinh.

Tích Xuân nhận lấy cả.

Uyên Ương từ giã Tích Xuân, cùng a hoàn nhỏ về trình Giả mẫu. Thấy Giả mẫu đang cùng Lý Hoàn chơi song lục 2 Uyên Ương đứng một bên xem. Con súc sắc của Lý Hoàn gieo xuống gặp may đánh mất mấy con cờ của Giả mẫu. Uyên Ương chỉ nhoẻn miệng cười.

Bỗng thấy Bảo Ngọc ở ngoài vào, trong tay xách hai cái lồng nhỏ, trong lồng có mấy con dế, nói:

– Cháu nghe nói đêm bà ngủ không được, cháu đưa cái này đến để bà giải trí.

Giả mẫu cười:

– Mày đừng nhân lúc bố mày không ở nhà mà đùa nghịch.

– Cháu có đùa nghịch gì đâu?

– Mày không đùa nghịch, thì sao không ở phòng học đọc sách, lại lôi cái vật ấy về làm gì?

– Không phải cháu lôi về đâu. Hôm trước thầy học bảo em Hoàn, cháu Lan làm câu đối. Em Hoàn đối không được, cháu gà cho nó. Nó đối rồi thầy khen mấy câu. Nó cảm ơn cháu, mới mua cái này tạ ơn cháu, nay cháu đem biếu bà.

– Ngày nào nó cũng học kia mà? Sao mà đối không được? Đã đối không được thì cứ để cụ Nho đánh cho nó mấy cái tát tai, xem nó có xấu hổ không! Còn mày như thế vẫn chưa biết thân, không nhớ lúc bố mày ở nhà, có gọi mày làm thơ làm từ, thì run như cầy sấy đấy à? Sao giờ lại nói láo! Cái thằng Hoàn kia lại càng hư thân: đã nhờ người ta làm hộ, lại tìm cách đưa lễ đưa lạt. Mới mấy tuổi ranh mà đã làm cái lối thậm thậm thụt thụt ấy. Sao mà không biết xấu. Lớn lên rồi không biết còn ra thế nào nữa.

Câu nói ấy làm cho cả nhà đều bật cười. Giả mẫu lại hỏi:

– Còn thằng Lan nữa? Có làm được không? Hay là lại thằng Hoàn làm hộ cho nó, vì nó lại nhỏ hơn thằng Hoàn, có phải thế không?

Bảo Ngọc cười nói:

– Cháu Lan không nhờ ai làm, mà chính cháu tự đối lấy.

– Tao không tin; nếu không thì cũng là mày tinh ma làm thay cho nó. Giờ đây mày chẳng khác gì lạc đà lẩn trong bầy dê. Mày lớn hơn cả, mày lại biết làm văn làm bài nữa.

Bảo Ngọc cười:

– Thật tình là cháu Lan tự làm lấy. Thầy học còn khen nó sau này thế nào cũng làm nên. Nếu bà không tin thì gọi nó đến hỏi sẽ biết.

– Nếu quả như thế, thì tao mới mừng. Tao chỉ sợ mày nói dối thôi. Thế thì sau này nó có thể nên danh phận đấy.

Nói đến đó Giả mẫu nhìn Lý Hoàn rồi nhớ đến Giả Châu, nên lại nói tiếp:

– Thế thì anh mày chết đi, chị dâu mày nuôi nấng nó bấy lâu cũng không uổng công mà sau này cũng làm nổi cho anh mày được.

Nói vừa dứt lời Giả mẫu bất giác ứa nước mắt. Lý Hoàn nghe nói cũng động lòng, nhưng thấy Giả mẫu đang buồn, vội vàng nín khóc và khuyên:

– Đó là phúc thừa của bà. Chúng cháu nhờ lộc bà đấy thôi. Mong sao cháu nó được như lời bà nói, thì phúc cho chúng cháu lắm. Thế thì đáng lý bà phải vui chứ, sao bà lại buồn.

Rồi ngoảnh lại nói với Bảo Ngọc:

– Sau này chú đừng có khen cháu như thế nữa. Cháu mới mấy tuổi đầu chứ đã biết gì. Chẳng qua là chú thương cháu, chứ cháu đã hiểu gì đâu? Rồi nay thế này mai thế khác nhỡ đâm ra kiêu kỳ ngông ngược, thì làm gì tấn tới được.

Giả mẫu nói:

– Chị nói cũng phải, nhưng nó còn nhỏ, đừng ép nó quá, trẻ con nhút nhát mà kiềm thúc nó lắm thì nó sinh bệnh sinh tật, học hành không biết có được gì không, trở lại bao nhiêu công lao vứt hết.

Giả mẫu nói đến đó, Lý Hoàn nín không được nữa, nước mắt chảy ròng ròng, vội vàng chùi đi.

Lúc đó lại thấy Giả Hoàn và Giả Lan cũng đều đến hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu. Giả Lan chào mẹ rồi trở lại đứng hầu bên mình Giả mẫu.

Giả mẫu nói:

– Ta nghe chú mày nói, mày đối được câu đối, được không?

Giả Lan chỉ nhoẻn miệng cười, không nói gì cả.

Uyên Ương đi vào thưa:

– Cơm chiều đã dọn xong.

Giả mẫu nói:

– Đi mời dì Tiết lại đây.

Hổ Phách liền sai người sang nhà Vương phu nhân mời Tiết phu nhân.

Bảo Ngọc và Giả Hoàn lui ra, Tố Vân cùng bọn a hoàn nhỏ tới cất bàn song lục đi. Lý Hoàn vẫn ở lại để hầu Giả mẫu ăn cơm chiều. Giả Lan cũng theo mẹ đứng đấy. Giả mẫu nói:

– Mẹ con cháu ở đây ăn cơm với ta.

Lý Hoàn vâng lời. Một lát, dọn cơm ra, bỗng thấy a hoàn về trình:

– Bà Hai bảo cháu về trình với cụ, mấy hôm nay dì Tiết qua một chốc rồi về, không thể ở lại hầu chuyện cụ được. Hôm nay sau bữa ăn sớm đã về nhà rồi.

Giả mẫu bảo Giả Lan ngồi cạnh mình rồi mọi người ăn cơm. Giả mẫu ăn cơm xong, súc miệng rửa tay. Đang nằm nghiêng trên giường, nói chuyện phiếm, bỗng thấy có một a hoàn nhỏ nói gì với Hổ Phách. Hổ Phách liền tới thưa với Giả mẫu:

– Ông Cả bên phủ ĐSng hỏi thăm sức khỏe cụ.

– Mày ra nói với anh ấy rằng anh ấy lo liệu việc nhà cũng mệt rồi, về nghỉ thôi, ta biết rồi đấy.

A hoàn nhỏ vâng lời nói với bà già, bà già nói lại với Giả Trân, Giả Trân mới lại ra. Ngày hôm sau, Giả Trân qua thu xếp mọi việc. Bọn hầu trai ở ngoài lần lượt đến trình báo công việc.

Có một người nói:

– Ngoài trang trại đưa quả tươi đến.

Giả Trân hỏi:

– Giấy kê lễ vật đâu?

Tên hầu trai vội vàng đưa giấy tới. Giả Trân xem thì thấy trong giấy chỉ ghi một số quả tươi, một ít rau và ít nhiều thức ăn nhà quê. Giả Trân xem xong, hỏi:

– Lâu nay ai coi giữ việc này?

– Ông Chu Thụy.

Giả Trân liền bảo Chu Thụy:

– Anh chiếu số đếm lại rõ ràng, giao vào trong nhà. Để ta sao lại một bản, chờ sau đối chiếu. – Rồi gọi: – Bảo nhà bếp, dọn mâm cơm hạng bét thêm một ít món ăn, chiếu lệ thưởng cho người đưa quả ăn và cho lão ta một ít tiền.

Chu Thụy vâng lời, cho người đem các vật ấy đến nhà Phượng Thư, chiếu tờ kê của trang trại giao lại rõ ràng rồi lui ra.

Một chốc thấy Chu Thụy lại vào thưa với Giả Trân:.

– Ông có đếm qua số quả tươi vừa rồi không ạ?

– Ta hơi đâu mà đếm những thứ ấy. Đã giao giấy kê cho anh thì anh cứ theo đó mà đếm.

– Con đã đếm qua, không thừa không thiếu. Ông đã có giấy sao, thì nên gọi người đưa quả vào hỏi nó xem giấy kê ấy là giả hay thật.

– Anh nói cái gì thế? Chẳng qua mấy thứ quả tươi, có quan trọng gì? Ta có nghi ngờ gì anh đâu.

Đang nói thì Bào Nhị ở ngoài chạy vào, cúi lạy rồi thưa:

– Xin ông Cả cứ cho con hầu hạ bên ngoài như trước.

– Cái gì thế?

– Con ở đây cũng không nói năng gì được.

– Anh có chuyện gì phải nói?

– Tội gì để con ở đây làm cho người ta rác mắt?

Chu Thụy tiếp lời:

– Tôi ở đây quản lý việc tô tức, tiền bạc ở các trang trại ra vào mỗi năm có đến năm ba chục vạn. Các ông các bà, các mợ xưa nay chẳng hề quở trách một lời, huống gì đến những vật nhỏ mọn ấy. Cứ như Bào Nhị nói thì ruộng đất, nhà cửa, tài sản của nhà ông lớn đây, đều bị bọn tôi xoáy sạch.

Giả Trần nghĩ thầm: “Chắc là Bào Nhị ở đây gây ra việc cãi cọ, chi bằng bảo nó đi ra”. – Liền nói với Bào Nhị: – Cút mau!

Rồi lại bảo với Chu Thụy:

– Anh cũng chẳng cần phải nói nữa, cứ đi làm việc của anh thôi.

Hai người nghe nói đều đi ra. Giả Trân vừa vào thư phòng nghỉ, thì nghe ngoài cửa ồn ào liền sai người ra hỏi, một lát họ vào thưa lại:

– Bào Nhị và con nuôi Chu Thụy đánh nhau.

– Con nuôi Chu Thụy là ai?

– Tên nó là Hà Tam, xưa nay vốn là người không ra gì, ngày nào nó cũng ở nhà uống rượu gây chuyện, thường cứ đến ngồi lì ngoài cửa này. Vừa rồi nó thấy Bào Nhị và Chu Thụy cãi nhau, nó cũng dây vào.

– Thế là đáng ghét thật! Bắt Bào Nhị và thằng Hà Tam nào đó trói cả lại cho tao! Chu Thụy đâu rồi?

– Khi hai người đánh nhau thì anh ta chạy mất.

– Bắt lại đây cho tao. Như thế còn ra thể thống gì nữa.

Người nhà vâng lời. Trong khi ồn ào như thế, thì Giả Liễn về. Giả Trân đem câu chuyện vừa rồi nói lại cho Giả Liễn nghe.

Giả Liễn nói:

– Như thế còn ra cái gì nữa.

Liền sai thêm người đi bắt Chu Thụy. Chu Thụy biết tránh cũng không xong, đành để họ đến bắt. Giả Trân nói:

– Trói tất cả lại cho ta.

Giả Liễn quát bảo Chu Thụy:

– Câu chuyện của chúng mày vừa rồi chẳng ra cái quái gì. Ông Cả đã phân giải là được rồi, sao chúng mày lại còn ra ngoài đánh nhau? Chúng mày đánh nhau đã không phải. lại còn kéo cả cái thằng Hà Tam vô loài nào đó đến gây chuyện. Mày không đe nó lại bỏ đi là nghĩa lý gì?

Nói đoạn Giả Liễn đá cho Chu Thụy mấy cái. Giả Trân nói:

– Chỉ đánh một mình Chu Thụy không ăn thua đâu!

Liền sai người dẫn Hà Tam và Bào Nhị đến, đánh cho mỗi người năm chục roi, rồi đuổi ra. Xong đó, Giả Liễn và Giả Trân mới bàn đến những việc quan trọng.

Sau đó, bọn người hầu xôn xao bàn tán: Có người nói Giả Trân thiên vị; có người nói ông ta không biết cách dàn xếp; có người nói ông ta không phải là người tốt, trước đây với chị em họ Vưu đã gây ra bao nhiêu chuyện xấu, chẳng phải do ông ta xúi giục cậu Hai gọi Bào Nhị đến hầu là gì? Bây giờ ông ta chê mắng Bào Nhị, chắc là vì vợ Bào Nhị hầu hạ không chu đáo chứ gì! Nhiều người lắm miệng, bàn tán xôn xao.

Từ khi Giả Chính coi việc bộ công, trong nhà có nhiều người nhờ đó mà phát tài. Giả Vân nghe vậy cũng muốn kiếm chút việc làm. Liền tìm mấy người thợ ở ngoài, bàn định xong xuôi mua một ít hàng mới, định tìm cách chạy chọt với Phượng Thư.

Hôm đó Phượng Thư ở trong nhà nghe bọn a hoàn nói:

– Cậu Cả và cậu Hai đều nổi giận, đang đánh người ở ngoài kia.

Phượng Thư chẳng biết vì sao, đang định cho người ra hỏi, thì thấy Giả Liễn đã vào kể lại câu chuyện vừa rồi cho Phượng Thư nghe. Phượng Thư nói:

– Việc ấy tuy chẳng quan trọng gì, nhưng cái thói ấy nhất thiết không thể để kéo dài. Giờ đây là lúc nhà mình đang thịnh vượng mà chúng dám đánh nhau như thế, sau này đến lượt bọn con cháu coi việc nhà thì chúng lại càng khó trị. Năm trước tôi ở bên phủ Đông, chính mắt trông thấy Tiều Đại uống rượu say mềm, nằm giữa thềm nhà, chẳng kể người trên kẻ dưới, cứ chửi bừa. Nó dù có công đến đâu đi nữa, nhưng giữa chủ nhà với đầy tớ cũng phải có thể thống mới được. Không phải tôi hay nói, chứ chị cả Trân thật là người thực thà quá, dung túng cho bọn người nhà hoành hành, không sợ gì phép vua lẽ trời nữa. Giờ lại nẩy ra thằng Bào Nhị nào đấy. Tôi nghe nói hắn là người đắc lực của cậu và anh Trân, vì sao hôm nay lại đánh hắn?

Giả Liễn nghe nói chạnh lòng, cảm thấy thẹn, liền tìm lời nói lảng rồi mượn cớ có việc bỏ ra ngoài. Tiểu Hồng vào thưa:

– Cậu Hai Vân ở ngoài muốn vào gặp mợ.

Phượng Thư nghĩ bụng: “Hắn lại tới đây làm gì?” Liền nói:

– Gọi cậu ấy vào đây.

Tiểu Hồng đi ra, nhìn Giả Vân mỉm cười. Giả Vân vội vàng sấn lại gần, hỏi:

– Cô thưa hộ cho tôi rồi à?

Tiểu Hồng đỏ mặt, nói:

– Tôi thấy anh bận nhiều việc.

– Nào có việc gì đâu mà dám đến đây làm phiền cô? Năm trước khi cô còn ở bên nhà chú hai Bảo, tôi mới cùng cô…

Tiểu Hồng sợ người ta trông thấy, không đợi Giả Vân nói xong hỏi:

– Năm ấy tôi đổi cho anh cái khăn lụa, anh có thấy không?

Giả Vân nghe nói đến câu đó, mừng quá như mở cờ trong bụng, vừa muốn nói nữa thì thấy một a hoàn nhỏ ở trong đi ra.

Giả Vân vội vàng cùng Tiều Hồng đi vào. Hai người đi song song gần nhau. Giả Vân khẽ nói:

– Chốc nữa cô đưa tôi ra, tôi sẽ nói chuyện với cô một điều.

Tiểu Hồng nghe nói, má đỏ ửng lên, nhìn Giả Vân một cái im lặng không đáp. Hai người đến cửa phòng Phượng Thư.

Tiểu Hồng vào trình trước rồi trở ra vạch màn, lấy tay vẫy, và nói:

– Mợ bảo mời cậu Hai vào.

Giả Vân mỉm cười theo Tiểu Hồng vào. Thấy Phượng Thư, Giả Vân hỏi thăm sức khỏe, và nói:

– Mẹ cháu gửi lời hỏi thăm thím.

Phượng Thư cũng hỏi thăm mẹ hắn, rồi nói:

– Cháu tới có việc gì?

– Trước đây cháu được thím thương đến, trong lòng không bao giờ quên, thường cứ băn khoăn muốn kiếm cái gì giả ơn thím, nhưng lại sơ thím ngờ vực. Nay gặp Tiết trùng dương, gọi là có chút lễ mọn, ở đây vật gì cũng có, chẳng qua gọi tỏ chút lòng thành của cháu mà thôi. Không biết thím có nhận không?

– Có việc gì cháu cứ ngồi đã rồi hãy nói.

Giả Vân ngồi xuống, vội vàng đưa gói lễ vật để lên trên bàn. Phượng Thư nói:

– Cháu có dư dật gì đâu, bày vẽ làm gì cho tốn tiền? Thím cũng chẳng cần lễ vật của cháu. Hôm nay cháu đến đây muốn xin điều gì cứ nói thật đi.

– Cháu có dám xin gì đâu, chẳng qua nghĩ đến ơn của thím, trong bụng không đành đó thôi.

– Sao lại nói thế. Nhà cháu chật vật, thím còn lạ gì, lẽ nào lại vô cớ đi lấy của cháu? Nếu cháu muốn thím nhận những vật ấy, thì phải nói rõ ràng. Cứ giấu đầu giấu đuôi như thế thì thím không nhận đâu.

Giả Vân chẳng biết làm thế nào, đành đứng dậy, cười lấy lòng và nói:

– Không phải cháu dám mơ tưởng gì đâu, nhưng mấy hôm trước đây cháu nghe nói ông lớn trông coi tất cả mọi công trình xây dựng lăng tẩm nhà vua, cháu có mấy người bạn, trước đây đã từng làm nhiều công trình rất là chu tất. Ý cháu muốn nhờ thím thưa với ông nhà một lời, may ra chúng cháu được phép nhận làm một vài việc; nếu được thế thì không bao giờ cháu quên ơn thím. Hoặc giả trong nhà ta có việc gì dùng đến cháu, cháu cũng có thể hầu thím được.

– Việc khác thì thím cũng còn có thể nhận lời được, chứ công việc ở cửa quan trước là do các quan trên bàn định, sau là các thư lại nha dịch lo liệu. Người khác mó tay vào đấy sao được? Ngay cả người nhà ta đây cũng chẳng qua là theo hầu ông lớn đấy thôi. Chú Hai của cháu có đi cũng chỉ là làm riêng việc nhà mình, đâu dám nhúng tay vào việc công. Còn việc nhà đây thì bề bộn lung tung, ngay cả bác Trân cũng đe nẹt không nổi nữa là. Cháu tuổi còn trẻ, thứ bậc trong họ lại thấp, không phải là người làm được những việc ấy đâu. Vả lại công việc ở cửa quan cũng gần xong rồi, chỉ còn những việc lặt vặt. Cháu ở nhà làm việc gì chẳng được? Không lẽ không có cơm ăn à? Thím nói thật đấy, cháu về nghĩ lại mà xem. Thím biết bụng cháu. Những lễ vật này cháu đem về, lấy ở đâu thì trả lại cho người ta.

Đang nói chuyện thì thấy người vú bế Xảo Thư vào. Xảo Thư ăn mặc loè loẹt, tay cầm đồ chơi, cười nói bi bô chạy lại gần Phượng Thư. Giả Vân trông thấy, chạy lại cười, nói:

– Em đấy à? Em muốn lấy gì không?

Xảo Thư khóc oà lên. Giả Vân liền lùi lại. Phượng Thư vội vàng ẵm con vào lòng mà nói:

– Con đừng sợ! Đây là anh Vân của con đấy mà, sao lại lạ?

Giả Vân nói:

– Mặt mũi em xinh xắn như thế, sau này thế nào cũng có phúc to.

Xảo Thư ngoảnh mặt lại nhìn Giả Vân một cái, lại khóc lên luôn mấy lần. Giả Vân thấy tình cảnh này, ngồi lại không tiện, đứng dậy cáo từ. Phượng Thư nói:

– Cháu đem lễ vật về thôi.

– Một chút quà mọn này mà thím không nhận cho ư?

– Cháu không cầm về thì thím cũng cho người đưa đến nhà. Này cháu, cháu đừng làm như thế. Cháu có phải là người ngoài đâu. Ở đây có dịp tốt thì thím sẽ cho người gọi cháu, còn không có việc gì thì thím cũng chịu thôi, có phải là cần lễ vật mới được đâu.

Giả Vân thấy Phượng Thư nhất định không nhận, mặt đỏ bừng, đành phải nói miễn cưỡng:

– Thôi để lần sau cháu sẽ tìm thứ gì dùng được đem biếu thím vậy.

Phượng Thư gọi Tiểu Hồng:

– Em cầm gói lễ vật đưa anh Vân ra.

Giả Vân vừa đi vừa nghĩ thầm: “Người ta bảo mợ Hai ghê gớm mình không tin, nay quả thế thật. Lời nói như đinh đóng cột chẳng hớ một tý nào. Chả trách không có con trai là phải. Cái con Xảo Thư kia lại càng lạ, nó thấy mình như có tiền oan nghiệt chướng gì chẳng bằng. Ta thật đen đủi phí cả một ngày.”

Tiểu Hồng thấy Giả Vân không xin xỏ được gì, cũng hơi buồn, cầm gói lễ vật đi theo. Giả Vân đỡ lấy, mở gói ra, chọn hai cái đưa cho Tiểu Hồng. Tiểu Hồng không nhận, nói:

– Anh đừng làm thế, mợ tôi biết thì cả hai người đều chẳng ra sao.

– Cô cứ cầm lấy, sợ cái gì? Mợ ấy biết sao được. Nếu cô không nhận tức là không coi tôi ra gì.

Tiểu Hồng mới nhận lấy rồi mỉm cười nói:

– Ai cần những vật này của anh để làm gì?

Nói vậy, má cô ta lại đỏ ứng lên. Giả Vân cũng cười, nói:

– Tôi cũng không phải là vì mấy vật ấy. Vả chăng, mất vật ấy có đáng là bao.

Hai người vừa nói thì đã đi ra đến cửa trong. Giả Vân đem những vật còn lại đút vào trong học. Tiểu Hồng giục:

– Thôi, anh về, có việc gì cứ đến tìm tôi. Giờ tôi ở trong nhà đây. Kể ra cũng tiện lợi.

Giả Vân gật đầu nói:

– Mợ Hai ghê gớm lắm, tôi tiếc không đến được luôn. Những điều tôi vừa nói với cô, chắc cô cũng hiểu rõ. Có dịp rảnh, tôi sẽ nói chuyện với cô.

Tiểu Hồng thẹn đỏ mặt lên, nói:

– Thôi, anh về, lần sau cũng nên năng đi lại với mợ ấy. Ai bảo anh hay xa người ta?

– Biết rồi đấy.

Giả Vân vừa nói vừa đi ra khỏi ngõ. Tiếu Hồng đứng ngoài cửa ngẩn người ra nhìn, đến khi hắn đi xa mới quay vào. Phượng Thư ở trong nhà dặn làm cơm chiều, lại hỏi:

– Đã nấu cháo chưa?

Bọn a hoàn vội vàng đi hỏi rồi về trình:

– Nấu rồi ạ!

– Nhớ sắp lấy vài đĩa thức ăn ướp ở miền Nam đưa về.

Thu Đồng vâng lời, gọi bọn a hoàn sửa soạn sẵn sàng. Bình Nhi chạy lại, cười nói:

– Tôi quên mất. Lúc giữa trưa, khi mợ đang ở bên nhà cụ, bà sư ở am Thủy Nguyệt cho người đạo bà đến xin mợ hai bình dưa muối miền Nam và xin chi trước tiền lương vài tháng, nói là bà ta không được khỏe. Tôi có hỏi đạo bà: “Tại sao bà sư không được khỏe?” Bà ta nói: “Cách đây bốn năm hôm, ban đêm trong bọn ni cô và đạo sĩ nhỏ có mấy đứa bé gái nằm ngủ không chịu tắt đèn. Bà sư nói mấy lần không được. Một đêm đến khoảng canh ba, thấy bọn chúng còn để đèn, bà sư bảo tắt đi, đứa nào đứa nấy ngủ lỳ ra, không trả lời. Bà sư bất đắc dĩ, phải tự mình dậy thổi đèn hộ. Khi quay lại thấy có hai người, một trai một gái, ngồi trên giường mình. Bà ta hỏi là ai! Bỗng họ đưa một cái dây thắt vào cổ bà ta. Bà ta kêu la ầm ĩ. Mọi người nghe tiếng, thắp đèn chạy đến, thấy bà ta đã nằm lăn giữa đất, nước bọt trào ra đầy miệng. May mà cứu lại được. Bây giờ chưa ăn được gì, nên mới cho người đến xin dưa muối. Tôi thấy mợ không ở nhà, không tiện cho. Tôi nói: “Mợ bây giờ ở bên nhà, đang bận, để về tôi sẽ thưa lại”, rồi tôi bảo họ về. Vừa rồi nghe nói món ăn miền Nam, tôi sực nhớ đến, không thì cũng quên mất.

Phượng Thư nghe xong, ngẩn người ra một lúc rồi nói:

– Dưa miền Nam hình như còn thì phải, bảo người đưa cho bà ta một ít. Còn tiền thì đến hôm sau bảo anh Cần đến nhận.

Vừa lúc đó lại thấy Tiểu Hồng vào thưa:

– Vừa rồi cậu Hai cho người về nói, đêm hôm nay cậu ấy có việc ở ngoài thành, không thể về được, nói để ở nhà biết.

Phượng Thư nói:

– Nghe rồi.

Bỗng một a hoàn nhỏ từ phía sau chạy đến giữa sân, thở hồng hộc, miệng la ầm lên. Bình Nhi ở ngoài đón hỏi, rồi cùng bọn a hoàn nói gì lầm rầm với nhau. Phượng Thư hỏi:

– Chúng mày nói gì thế?

Bình Nhi nói:

– Con nhỏ này nhát gan, nói chuyện ma quỷ.

– Đứa nào thế?

A hoàn nhỏ đi vào. Phượng Thư hỏi:

– Có chuyện ma quỷ gì thế?

– Cháu vừa ra nhà sau bảo người làm việc vặt đưa thêm than. Bỗng nghe trong ba gian nhà không có tiếng sột soạt, cháu tưởng là mèo hay chuột gì phá; lại nghe “hà” một tiếng giống như người thở, cháu sợ quá, vội chạy về đây.

Phượng Thư quát mắng:

– Nói nhảm! Ở đây nhất thiết không được nói chuyện ma quỷ. Tao xưa nay không tin những chuyện ấy. Mày cút mau đi!

A hoàn nhỏ đi ra. Phượng Thư liền gọi Thái Minh xem lại sổ tiêu dùng lặt vặt trong ngày ấy. Lúc đó đã gần canh hai, Phượng Thư nghỉ một lát, nói vài câu chuyện phiếm, đoạn bảo mọi người đi nghỉ, còn mình cũng nằm xuống nghỉ. Chừng canh ba, Phượng Thư đang thiu thiu, giở ngủ giở thức, bỗng thấy rùng mình tỉnh dậy, càng nằm càng thấy trong mình rờn rợn. Liền gọi Bình Nhi và Thu Đồng lại cùng nằm. Hai người chẳng hiểu vì sao. Thu Đồng lâu nay vốn không ưa Phượng Thư, vì việc chị hai họ Vưu, nên Giả Liễn không yêu Thu Đồng. Phượng Thư cố tìm cách mơn trớn, nên Thu Đồng cũng khuây lòng. Nhưng chị ta chỉ có tình nghĩa ngoài mặt, khác xa Bình Nhi. Nay thấy Phượng Thư khó ở đành phải bưng tới một chén trà, Phượng Thư uống một hớp, rồi nói:

– Cám ơn em, ngủ đi thôi, chỉ để Bình Nhi ở đây là được rồi.

Thu Đổng muốn tỏ ra ân cần liền nói:

– Mợ ngủ không được thì để hai đứa chúng tôi chia nhau ngồi thức cũng được.

Phượng Thư vừa nói vừa nằm ngủ. Thu Đồng và Bình Nhi thấy Phượng Thư đã ngủ, xa xa tiếng gà đã gáy, liền để cả áo nằm nghỉ. Một lát thì trời sáng, vội vàng dậy hầu Phượng Thư chải tóc rửa mặt.

Phượng Thư vì việc đêm qua, tâm thần hoảng hốt không yên, nhưng tính thích tỏ ra cứng rắn, nên vẫn gượng dậy. Đang ngồi bực mình thì thấy một a hoàn nhỏ ở ngoài sân hỏi:

– Cô Bình ở nhà đấy không?

Bình Nhi lên tiếng. A hoàn ấy vạch màn bước vào. Thì ra Vương phu nhân cho nó đến tìm Giả Liễn. Nó nói:

– Bên ngoài có người đến trình việc quan rất cần. Ông lớn vừa đi vắng, nên bà lớn gọi cậu Hai qua ngay.

Phượng Thư nghe nói, giật mình, chưa biết là việc gì.

1      Thứ trò chơi tương tự đánh cờ. Có một cái bàn trên bàn, mỗi bên có 16 quân, người chơi gieo hai hạt xúc xắc, rồi cứ xem điểm số gieo được mà cho quân đi, ai đi đến đối phương trước là thắng.

2      Bức tranh đua chịu rét.

Chương 89: Người đâu vật còn đây, công tử làm bài từ – Bóng cung ngỡ là rắn, Tần Khanh đành tuyệt thực

Người đâu vật còn đây, công tử làm bài từ

Bóng cung ngỡ là rắn, Tần Khanh đành tuyệt thực

Phượng Thư vừa ngủ dậy đang bực mình. lại nghe a hoàn nói như vậy, giật mình vội vàng hỏi:

– Việc quan gì thế?

– Cháu cũng chẳng biết. Vừa rồi thấy người hầu trai ở cửa trong vào, thưa với ông lớn, có việc quan rất khẩn cấp, nên bà lớn bảo cháu đi tìm cậu Hai.

Phượng Thư nghe nói là việc trong bộ Công, mới hơi yên tâm liền nói:

– Em về thưa với bà, cậu Hai chiều hôm qua ra ngoài thành có việc cần, đến nay vẫn chưa về, nên cho người tìm cậu Cả Trân thôi.

A hoàn vâng lời đi ra.

Một chốc Giả Trân đến, gặp người trong bộ, hỏi rõ ràng, rồi vào nhà nói với Vương phu nhân:

– Người trong bộ đến trình: Hôm qua Ty coi sông có tâu: Ở miền Nam vỡ đê, ngập mất mấy phủ, châu, huyện, cần phải chi tiêu công quĩ, sửa sang đê điều. Các quan trong bộ Công lại phải đi trông nom lo liệu. Vì thế trong bộ cho người đến báo tin với ông lớn.

Nói xong Giả Trân lui ra. Giả Chính về, người nhà trình lại tất cả. Từ đó cho đến mùa đông, ngày nào Giả Chính cũng bận việc quan. Nhờ vậy việc học của Bảo Ngọc cũng hơi lỏng lẻo. Nhưng Bảo Ngọc cũng sợ Giả Chính biết, nên thường thường vẫn phải tới trường, ngay cả chỗ Đại Ngọc cũng không mấy khi đến.

Một hôm, vào trong tuần tháng mười. Bảo Ngọc ngủ dậy, đi học. Trời bỗng trở lạnh, thấy Tập Nhân đã sắp sẵn một gói áo quần, nói với Bảo Ngọc:

– Hôm nay trời lạnh lắm, buổi sớm và buổi chiều phải mặc cho ấm.

Nói xong, chị ta đem gói áo ra, chọn một chiếc cho Bảo Ngọc mặc, lại gói một chiếc nữa, bảo a hoàn nhỏ đem giao cho Bồi Dính và dặn:

– Trời lạnh, coi chừng sắp sẵn, để khi cậu cần mà thay.

Bồi Dính vâng lời, ôm lấy gói áo, theo Bảo Ngọc đi.

Bảo Ngọc đến trường đang làm bài, bỗng nghe gió thổi sột soạt trên cửa sổ. Đại Nho nói:

– Tiết trời thay đổi rồi!

Ông ta mở cửa sổ ra xem thì thấy về phía tây bắc, trong đám mây đen, dần dần bay về phía đông nam.

Bồi Dính chạy vào nói với Bảo Ngọc:

– Cậu ạ, trời lạnh rồi, mặc thêm áo vào.

Bảo Ngọc gật đầu. Bồi Dính đem áo tới. Trông thấy áo, Bảo Ngọc bỗng ngẩn người. Bọn học trò nhỏ đều chăm chú nhìn, thì ra cái áo ấy chính là áo lông công năm trước Tình Văn đã mạng cho.

Bảo Ngọc nói:

– Tại sao lại mang cái áo ấy đến? Ai đưa cho mày thế?

– Các chị ở trong ấy gói đưa cho cháu đấy.

– Ta không lạnh lắm, chưa mặc đâu, hãy gói lại thôi.

Giả Đại Nho tưởng là Bảo Ngọc thấy áo quí không dám mặc, nên trong bụng cũng mừng là Bảo Ngọc biết tiết kiệm. Bồi Dính nói:

– Cậu mặc lấy kẻo bị lạnh cháu lại mắc lỗi. Cậu thương cháu với.

Bảo Ngọc bất đắc dĩ phải mặc áo vào, rồi ngồi ngơ ngẩn.

Đại Nho tưởng Bảo Ngọc xem sách, nên cũng không chú ý. Đến chiều tan học, Bảo Ngọc nói dối người mệt, xin phép nghỉ một ngày. Đại Nho nhiều tuổi, ngày thường chỉ làm bạn với mấy đứa trẻ cho đỡ buồn, lại đau yếu luôn nên bớt một cậu học trò cũng đỡ lo một tý. Vả lại ông ta cũng biết Giả Chính bận việc. Giả mẫu thì nuông chiều cháu, cho nên thấy Bảo Ngọc xin nghỉ, liền gật đầu cho ngay.

Bảo Ngọc chạy một mạch về nhà, vào chào Giả mẫu và Vương phu nhân, cũng nói như vậy. Mọi người tất nhiên đều tin. Bảo Ngọc ngồi một chốc rồi về trong vườn. Thấy bọn Tập Nhân. Bảo Ngọc không cười nói như mọi ngày, cứ mặc cả áo nằm xuống giường. Tập Nhân nói:

– Cơm chiều dọn rồi, cậu ăn ngay hay để lát nữa?

– Tôi trong bụng không được khoan khoái, không ăn đâu. Các chị ăn đi thôi.

– Thế thì cậu cũng nên thay cái áo kia ra. Áo ấy không chịu được giày vò như thế đâu.

– Không cần thay.

– Áo này là thứ mềm mỏng, mà cậu xem đấy, những đường kim mũi chỉ thật là công phu, không nên giày vò như thế.

Bảo Ngọc nghe nói hợp với ý nghĩ của mình liền thở dài một tiếng và nói:

– Thế thì chị gói lại mà cất đi, từ nay tôi không mặc nữa đâu.

Nói xong đứng đậy cởi áo ra. Tập Nhân định đến đỡ lấy thì Bảo Ngọc đã gấp lại rồi.

Tập Nhân nói:

– Tại sao hôm nay cậu lại siêng năng cẩn thận như thế?

Bảo Ngọc không đáp, xếp áo xong rồi hỏi:

– Cái gói áo này đâu rồi?

Xạ Nguyệt vội vàng đưa cái gói lại để Bảo Ngọc tự gói lấy tử tế rồi chị ta ngoảnh lại nháy mắt nhìn Tập Nhân mà cười.

Bảo Ngọc cũng không để ý, ngồi buồn rũ ra! Bỗng nghe tiếng chuông đồng hồ lớn “keng keng” đánh mấy tiếng. Bảo Ngọc cúi đầu nhìn cái đồng hồ nhỏ trong người thì đã chỉ đến khắc thứ hai đầu giờ Dậu rồi. Một lúc sau, bọn a hoàn nhỏ thắp đèn lên. Tập Nhân nói:

– Cậu không ăn cơm thì húp lấy nửa bát cháo nóng, đừng nhịn như thế, nhịn đói sinh ốm lại làm tội chúng tôi.

Bảo Ngọc lắc đầu nói:

– Tôi không đói, ăn gắng vào lại càng khó chịu.

– Đã thế thì cậu ngủ sớm đi.

Tập Nhân và Xạ Nguyệt buông màn giải nệm tử tế. Bảo Ngọc nằm xuống nhưng cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đến gần sáng mới mơ màng ngủ thiếp đi, chừng gần ăn xong bữa cơm thì lại tỉnh dậy. Lúc đó Tập Nhân và Xạ Nguyệt đều đã dậy. Tập Nhân nói:

– Đêm qua tôi nghe cậu cứ trằn trọc mãi đến tận canh năm, tôi không dám hỏi. Sau đó tôi ngủ quên mất, không biết cậu có ngủ được không?

– Tôi cũng ngủ được một lát, không biết tại sao lại thức dậy liền.

– Cậu xem có khó ở không?

– Có gì đâu, nhưng chỉ thấy trong lòng buồn bực.

– Thế thì hôm nay có học không?

– Hôm qua tôi đã xin nghỉ một ngày. Tôi định đi chơi trong vườn một hôm cho khuây khỏa, nhưng lại sợ lạnh. Chị bảo chúng nó dọn một gian nhà, bày một cái lư hương, để bút nghiên giấy mực ở đấy, rồi các chị cứ làm công việc của mình, tôi phải ngồi yên một buổi mới được, đừng bảo chúng nó tới quấy rầy tôi.

Xạ Nguyệt đỡ lời:

– Cậu cần yên tĩnh để làm bài, ai dám đến quấy rối nữa.

Tập Nhân nói:

– Như thế cũng tốt, đỡ phải lạnh, ngồi yên một lát tâm thần cũng thư thái đấy.

– Nhưng cậu đã không muốn ăn cơm thì hôm nay định ăn gì nói cho sơm sớm, để bảo nhà bếp làm.

– Cái đó tùy thôi, đừng làm ồn lên, nhưng phải có mấy thứ quả để vào trong nhà cho thơm.

– Ở phòng nào hơn? Các phòng đều không được sạch sẽ, chỉ có cái phòng trước kia chị Tình Văn ở, lâu nay bỏ không. Xem chừng còn sạch sẽ hơn, nhưng hơi lạnh.

– Không hề gì, đem chậu than vào đấy là được.

Tập Nhân vâng lời.

Đang nói chuyện thì thấy một a hoàn nhỏ mang đến một khay trà, trong có một cái bát và một đôi đũa ngà. Nó đưa cho Xạ Nguyệt và nói:

– Đây là chị Hoa bảo làm nên bà già ở nhà bếp đưa đến.

Xạ Nguyệt đỡ lấy, thấy một bát canh yến sào, liền hỏi Tập Nhân:

– Chị dặn họ làm đấy à?

– Chiều qua cậu Hai không ăn cơm, lại trằn trọc suốt đêm, sáng nay chắc là đói, cho nên tôi bảo bọn a hoàn nhỏ nói với nhà bếp làm đấy.

Tập Nhân vừa nói vừa gọi bọn a hoàn nhỏ dọn ra. Xạ Nguyệt hầu cho Bảo Ngọc ăn và súc miệng xong, thấy Thu Văn chạy vào nói:

– Phòng bên kia đã dọn xong, chờ một chốc than bén, cậu hãy sang.

Bảo Ngọc gật đầu, nhưng trong lòng vẫn băn khoăn, không buồn nói năng gì. Một lúc a hoàn nhỏ đến mời và nói:

– Bút nghiên đều sắp đặt tử tế rồi.

Bảo Ngọc gật đầu nói: “Biết rồi”.

Lại một a hoàn nhỏ vào nói:

– Cơm sáng có rồi, cậu định ăn ở phòng nào?

– Mang vào đây thôi, bày vẽ làm gì.

A hoàn nhỏ vâng lời đi ra. Một lúc cơm bưng lên. Bảo Ngọc nói với Tập Nhân và Xạ Nguyệt:

– Trong bụng tôi sao mà buồn bực thế? Ăn một mình sợ nuốt không trôi. Hai chị cùng ngồi ăn với tôi có thể ngon miệng, tôi ăn được nhiều cũng nên.

Xạ Nguyệt cười nói:

– Đó là cậu cao hứng nói như thế chứ chúng tôi đâu dám.

Tập Nhân nói:

– Thực ra thì cũng được, chúng ta đã nhiều lần ngồi chung uống rượu với nhau. Có điều một đôi khi làm cậu đỡ buồn thì được chứ cứ thế mãi thì còn ra thể thống gì nữa?

Nói đoạn ba người ngồi xuống. Bảo Ngọc ngồi giữa, Tập Nhân và Xạ Nguyệt ngồi hai bên, cùng ăn cơm. Ăn xong, a hoàn bưng trà súc miệng, rồi dọn mâm đi. Bảo Ngọc tay bưng chén trà, lặng lẽ như nghĩ ngợi gì, lại ngồi một lúc rồi hỏi:

– Nhà bên kia dọn xong chưa?

Xạ Nguyệt nói:

– Đã nói xong rồi, bây giờ cậu lại còn hỏi.

Bảo Ngọc ngồi một lát rồi qua phòng bên kia, tự mình thắp một nén hương, bày lên mấy thứ quả, bảo mọi người đi ra, đóng cửa lại. Bọn Tập Nhân ở ngoài im lặng, không một tiếng động. Bảo Ngọc đưa ra một tờ hoa tiên đỏ, miệng khấn mấy câu rồi cầm bút viết:

“Chủ nhân Viện Di Hồng kính đôi giấy này để linh hồn chị Tình biết. Chén chè nén hương, ngõ hầu tới hưởng!”

Từ rằng:

Cùng sát cánh, tình khăng khít đôi ta,

Ngờ đâu đất bằng nổi phong ba,

Cho thân kia bỗng hóa hồn ma!

Cùng ai chuyện đượm đà?

Nước chảy xuôi lại quay ngược được a?

Cỏ hoài mộng khó mong tìm được,

Áo thúy vân còn khoác đây mà!

Lệ chảy lòng xót xa!

Viết xong Bảo Ngọc châm vào đầu nén hương đốt ngay và ngồi yên lặng chờ cho nén hương cháy hết mới mở cửa ra. Tập Nhân nói:

– Sao cậu lại ra? Chắc buồn quá chứ gì?

Bảo Ngọc cười, rồi vờ nói:

– Ban nãy trong lòng tôi thấy buồn phiền, mới tìm chỗ yên lặng để ngồi một lúc. Nay đã đỡ rồi, nên ra ngoài dạo chơi đấy.

Nói xong đi một mạch đến quán Tiêu Tương, vừa đến sân đã hỏi:

– Cô Lâm có ở nhà không?

Tử Quyên ở trong hỏi: “Ai đấy?” Rồi vạch màn trông ra cười nói:

– Té ra cậu Hai. Cô tôi ở trong nhà. Mời cậu vào chơi.

Bảo Ngọc cùng Tử Quyên đi vào. Đại Ngọc ngồi ở phòng trong nói với ra:

– Chị Quyên mời cậu Hai vào trong này ngồi.

Bảo Ngọc vào đến cửa phòng trong, thấy một đôi câu đối viết trên giấy tím vẽ rồng mây bằng vàng:

Trăng trong vẫn đó ngoài song biếc

Người cũ còn đâu trên sử xanh.

Bảo Ngọc nhìn thấy, cười rồi đi vào, hỏi:

– Cô em làm gì thế?

Đại Ngọc đứng dậy, bước ra mấy bước, cười nói:

– Mời anh ngồi. Em đang viết kinh, còn hai hàng nữa thôi. Chờ em viết xong sẽ nói chuyện.

Đoạn gọi Tuyết Nhạn pha trà.

– Em cứ ngồi mà viết cho xong đi.

Bảo Ngọc vừa nói vừa ngắm nghía bức tranh treo giữa nhà vẽ Hằng Nga có một người hầu gái; và một nàng tiên cũng có một người hầu gái bưng một cái gì dài dài như cái bọc áo.

Ngoài hai vị tiên ra chỉ điểm xuyết đám mây, không có gì khác. Lối vẽ hoàn toàn sơ sài giống lối phác họa của Lý Long Miên ngày xưa, bên trên đề mấy chữ: “Đấu hàn đồ” 1 Liền hỏi:

– Bức tranh này có phải mới treo lên không?

Đại Ngọc nói:

– Vâng. Hôm qua chúng nó dọn dẹp nhà cửa, em chợt nhớ đến, mới lấy ra treo lên đấy.

– Tích ấy ở đâu ra?

– Anh biết thừa, còn hỏi người ta.

– Trong chốc lát, tôi chưa nghĩ ra. Cô nói cho tôi biết với.

– Anh lại không nghe câu thơ: “Thanh Nữ, Tố Nga không sợ rét; Dám đua vẻ đẹp trước trăng sướng” à?

– Ừ nhỉ! Cảnh này mới mẻ và nhã thật! Lúc này đem ra treo lại càng hợp.

Nói đoạn chạy lại nhìn ngang nhìn ngược các nơi. Tuyết Nhạn bưng trà đến. Bảo Ngọc uống trà. Chờ một chốc Đại Ngọc mới viết xong kinh, rồi đứng dậy nói:

– Xin lỗi.

Bảo Ngọc cười, nói:

– Cô vẫn giữ cái lối khách sáo ấy.

Bảo Ngọc nhìn kỹ thấy Đại Ngọc mặc cái áo lông thêu hoa, ngoài khoác cái khăn choàng bàng da cáo trắng, đầu búi tóc, cài chiếc trâm vàng, không cắm hoa, bên dưới mặc quần bông thêu thật chẳng khác gì:

Cây ngọc rỡ ràng phơi trước gió;

Sen vàng thơm ngát nở bên sương.

Bảo Ngọc hỏi:

– Hai ngày nay em có gảy đàn không?

– Không, vì em viết kinh đã giá cả tay rồi, còn gảy đàn sao được nữa.

– Không gảy cũng được. Tôi nghĩ, đàn tuy là vật thanh cao, nhưng không phải thứ hay ho gì. Xưa nay người ta gảy đàn sinh ra lo buồn oán giận, chưa hề thấy ai gảy đàn mà được giàu sang sống lâu cả. Vả lại, muốn gảy thì phải nhớ bản đàn, nên mất công. Theo tôi, em vốn đã yếu, đừng nên bận lòng về việc đó.

Đại Ngọc nghe nói, nhoẻn miệng cười. Bảo Ngọc chỉ tay lên vách, hỏi:

– Có phải cái đàn này không? Sao mà ngắn thế?

– Đàn này không phải ngắn đâu, vì khi em còn nhỏ, học gảy các đàn khác đều không vừa tầm, nên làm riêng cái này. Tuy không phải là thứ gỗ đồng khô sém đuôi 2, nhưng các bộ phận hạc tiên, phượng vĩ phối hợp rất chỉnh tề; long trì, nhạn túc 3 cao thấp đúng cách thức. Anh thử xem cái vằn gỗ 4 có phải như lông trâu không? Vì thế cho nên âm vận cũng trong trẻo.

– Mấy hôm nay em có làm thơ không?

– Từ khi lập thi xã tới nay em chẳng mấy khi làm.

– Thôi, em đừng giấu tôi nữa, tôi nghe em hát câu gì… “Hoài công lo lắng, sao bằng trăng giữa trời kia lòng trong trắng” phổ vào đàn nghe rất réo rắt. Có phải thế không?

– Anh ở đâu mà biết?

– Hôm nọ tôi ở Lục Phong hiên qua đây, nghe em gảy, tôi sợ làm gián đoạn, cho nên im lặng nghe một hồi rồi đi. Tôi đang muốn hỏi em: tại sao đoạn trước đều bằng cả, mà đoạn sau lại bỗng chuyển sang trắc, là có ý gì?

– Đấy là âm điệu tự nhiên trong đáy lòng người ta, làm thế nào thì nó ra thế, chứ có nhất định sao được.

– Thế à! Đáng tiếc tôi không phải là tri âm, nghe cũng uổng thôi! Xưa nay tri âm dễ có mấy người?

Bảo Ngọc nghe xong biết lời nói của mình nông nổi quá lại sợ chạnh lòng Đại Ngọc. Ngồi một chốc, Bảo Ngọc thấy trong lòng có nhiều câu muốn nói, nhưng không biết nói gì. Về phần Đại Ngọc thì câu vừa rồi chẳng qua buột miệng nói ra, nay nghĩ lại thấy có phần lạnh nhạt quá, nên cũng ngồi im. Bảo Ngọc đoán chừng Đại Ngọc nghi ngờ gì mình liền thẫn thờ đứng dậy nói:

– Thôi, em hãy ngồi, tôi còn đến đằng cô Ba một tý.

– Anh gặp cô Ba, nhờ hỏi thăm hộ tôi một tiếng.

Bảo Ngọc nhận lời rồi đi ra.

Đại Ngọc đưa ra đến cửa phòng rồi đi vào, buồn bực ngồi một mình, nghĩ bụng: “Gần đây Bảo Ngọc nói chuyện nửa úp nửa mở, khi thân mật khi lạnh lùng, không biết là ý tứ gì?”

Đại Ngọc đang ngồi nghĩ ngợi, thì thấy Tử Quyên chạy lại nói:

– Cô không viết kinh nữa à? Tôi cất bút nghiên đi nhé?

– Tôi không viết nữa đâu. Chị cất đi thôi.

Nới xong cô ta chạy vào phòng, nằm trên giường, suy nghĩ. Tử Quyên vào hỏi:

– Cô uống trà nhé?

– Không uống đâu. Tôi nằm một tý. Chị ra ngoài thôi.

Tử Quyên vâng lời đi ra, thấy Tuyết Nhạn đang ngẩn người đứng một mình ở đây. Tử Quyên lại gần hỏi:

– Mày cũng đang có tâm sự gì phải không?

Tuyến Nhạn nghe nói, giật nảy mình nói:

– Đừng làm ồn lên, hôm nay tôi nghe một câu chuyện, tôi nói với chị, xem có lạ không? Nhưng chị đừng có nói với ai đấy!

Nói đến đó, Tuyết Nhạn hất hàm về phía trong nhà, ra hiệu, rồi đi trước gật đầu bảo Tử Quyên theo ra. Đến phía thềm bên ngoài, Tuyết Nhạn nói nhỏ:

– Chị có nghe nói cậu Bảo hỏi vợ không?

Tử Quyên nghe vậy cũng giật mình, và hỏi:

– Câu nói ấy ở đâu mà ra? Có lẽ không thật đâu.

– Sao lại không thật? Ai cũng biết cả, chỉ chúng mình là không nghe thấy thôi.

– Mày nghe ở đâu thế?

– Chị Thị Thư nói đấy. Nghe đâu là con quan phủ, gia tư cũng giàu, người lại đẹp.

Bỗng thấy Đại Ngọc ho một tiếng, hình như đã dậy. Tử Quyên sợ Đại Ngọc nghe thấy, liền nắm lấy Tuyết Nhạn xua tay ra hiệu rồi trông vào trong nhà. Thấy trong nhà vẫn im lặng. Tử Quyên lại khẽ hỏi nhỏ Tuyết Nhạn:

– Thị Thư nói như thế nào?

– Hôm trước cô bảo tôi đến cảm ơn cô Ba. Cô Ba đi đâu vắng, chỉ có Thị Thư ở nhà. Chúng tôi ngồi nói chuyện, tình cờ nhắc đến chuyện cậu Bảo hay nghịch ngợm. Chị ta nói: “Cậu Bảo chẳng biết rồi ra thế nào, chỉ biết chơi đùa, không ra dáng người lớn. Đã dạm vợ rồi mà còn ngốc nghếch như thế. Tôi hỏi chị ta: “Có chắc chắn không?” Chị ta nói: “Chắc chắn rồi, ông Vương nào đó làm mối. Ông Vương là bà con bên phủ Đông, cho nên không cần phải thăm dò, nói là xong ngay.”

Tử Quyên, cúi đầu nghĩ ngợi: “Chuyện này lạ thực!” Rồi lại hỏi:

– Tại sao trong nhà không thấy ai nói đến?

– Thị Thư cũng nói, ý cụ cho rằng: nói lộ ra sợ cậu Bảo Ngọc lại nghĩ vơ nghĩ vẩn cho nên không nhắc đến. Thị Thư nói với tôi rồi dặn đi dặn lại, nhất thiết đừng nói lộ ra, để họ lại cho là mình bép xép.

Nói đến đó, Tuyết Nhạn lấy tay chỉ vào trong nhà:

– Vì thế, trước mặt cô, tôi cũng không hề nhắc đến. Nay chị hỏi không lẽ tôi giấu chị.

Vừa nói đến đó thì nghe con vẹt bắt chước tiếng người, gọi: “Cô về rồi, pha nước mau lên”. Tử Quyên và Tuyết Nhạn giật nẩy mình, ngoảnh lại chẳng thấy có ai, liền mắng con vẹt mấy tiếng. Hai người vào nhà thì thấy Đại Ngọc vừa ngồi xuống ghế, đang thở hổn hển.

Tử Quyên ân cần hỏi han. Đại Ngọc hỏi:

– Hai chị đi đâu? Gọi không thấy người nào cả.

Nói đoạn, đi vào vật mình ngả lưng lên giường và bảo buông màn. Tuyết Nhạn và Tử Quyên vâng lời đi ra. Hai người nghi ngờ là câu chuyện vừa rồi, bị cô ta nghe được, chỉ còn cách là đừng nhắc nhở gì đến.

Ngờ đâu Đại Ngọc vốn đã sẵn một bầu tâm sự, lại nghe trộm được câu chuyện của Tử Quyên và Tuyết Nhạn. Tuy nghe không rõ lắm, nhưng cũng đã hiểu được bảy tám phần. Cô ta thấy hình như bị ai vứt xuống bể. Nghĩ trước, nghĩ sau, thật là đúng như trong giấc chiêm bao ngày trước, muôn sầu nghìn tủi, chất chứa trong lòng. Suy tính trước sau, chi bằng chết đi cho rảnh, để đừng trông thấy cái chuyện bất ngờ, lại càng khó chịu. Cô ta lại nghĩ đến cảnh khổ của mình không cha không mẹ và quyết định từ nay về sau hàng ngày mình cứ giày vò thân mình, như thế một năm, năm bảy tháng, thế nào cũng thoát khỏi nợ đời. Đại Ngọc định ý như thế, nên chăn cũng không đắp, áo cũng không mặc, cứ nhắm mắt lại giả ngủ.

Tử Quyên và Tuyết Nhạn tới hầu mấy lần, không thấy Đại Ngọc động đậy gì cả, lại không dám gọi. Bữa cơm chiều hôm ấy, Đại Ngọc cũng không ăn. Sau khi lên đèn, Tử Quyên vạch màn ra xem, thấy Đại Ngọc đã ngủ rồi; chăn, nệm đều tụt xuống dưới chân. Tử Quyên sợ cô ta lạnh, nhè nhẹ đắp chăn lên. Đại Ngọc cứ nằm im, chờ Tử Quyên ra rồi lại tụt chăn xuống.

Tử Quyên hỏi Tuyết Nhạn:

– Câu chuyện vừa rồi thật hay giả đấy?

– Sao lại không thật?

– Tại sao Thị Thư biết?

– Vì Tiểu Hồng nghe bên nhà nói rồi thuật lại.

– Lúc nãy chúng ta nói chuyện, không khéo cô nghe được thì phải. Mày xem vẻ mặt cô vừa rồi, chắc không phải là tự nhiên mà thế. Từ nay về sau, chúng ta đừng nhắc chuyện ấy nữa.

Nói xong, hai người cùng thu xếp định đi nghỉ. Tử Quyên vào xem, thấy chăn nệm của Đại Ngọc tụt xuống, lại nhè nhẹ kéo lên.

Hôm sau, vừa hửng sáng, Đại Ngọc đã thức dậy, cũng không gọi ai, chỉ một mình ngồi ngẩn người ra. Tử Quyên tỉnh dậy, thấy Đại Ngọc đã dậy rồi, sợ hãi hỏi:

– Sao cô dậy sớm thế?

– Ngủ sớm thì dậy sớm chứ sao đâu?

Tử Quyên vội vàng đứng dậy, đánh thức Tuyết Nhạn, hầu hạ Đại Ngọc chải đầu rửa mặt.

Đại Ngọc soi gương, ngơ ngẩn nhìn mình. Nhìn một lúc, nước mắt chảy ràn rụa, ướt đẫm khăn. Thật là:

Đem bóng gầy này soi mặt nước;

Mình thương tớ với, tớ thương mình.

Tử Quyên đứng một bên cũng không dám khuyên, sợ vô tình làm Đại Ngọc thêm nhớ lại chuyện cũ. Một lát sau, Đại Ngọc chải đầu rửa mặt qua loa, ngấn lệ trong mắt vẫn còn chưa ráo, lại ngồi một lát rồi gọi Tử Quyên:

– Chị đốt hương lên.

– Cô chẳng ngủ được mấy tý, đốt hương làm gì? Định viết kinh phải không?

Đại Ngọc gật đầu, Tử Quyên nói:

– Hôm nay cô dậy sớm quá, giờ lại viết kinh, e mệt đấy.

– Sợ gì! Viết xong sớm chừng nào hay chừng ấy. Vả lại tôi cũng không phải là thích viết kinh, chỉ là mượn công việc viết lách để giải buồn. Sau này các chị thấy nét chữ của tôi cũng như thấy mặt tôi vậy.

Nói đến đó, nước mắt lại chảy ròng ròng.

Tử Quyên nghe đoạn, chẳng những không khuyên, lại cũng chảy nước mắt, không nín được nữa. Đại Ngọc đã định sẵn chủ ý. Từ đó về sau, cố ý giày vò thân mình, chẳng nghĩ gì đến cơm nước, ngày một yếu dần. Mỗi khi Bảo Ngọc đi học về, cũng thường nhân lúc rảnh đến hỏi thăm. Nhưng Đại Ngọc biết mình đã lớn, tuy có nhiều điều muốn nói nhưng không thể dùng tình tứ khêu gợi như khi còn nhỏ, vì thế nỗi niềm tâm sự không thể nói ra. Bảo Ngọc muốn dùng lời nói thực để an ủi, thì lại sợ Đại Ngọc đâm giận, bệnh càng thêm nặng. Hai người gặp mặt nhau, chỉ dùng những lời khuôn sáo mà khuyên lơn an ủi, thật là: “thân quá hóa sơ”.

Giả mẫu và Vương phu nhân thương yêu Đại Ngọc nhưng chỉ biết mời thầy chữa bệnh và cho rằng đó là bệnh thường, biết sao được căn bệnh trong đáy lòng cô ta. Bọn Tử Quyên tuy hiểu ý, cũng không dám nói. Từ đó Đại Ngọc càng ngày càng yếu dần. Sau độ nửa tháng tỳ vị càng hư, cháo cũng không ăn được nữa.

Hằng ngày nghe ai nói gì Đại Ngọc cứ tưởng như họ nói chuyện Bảo Ngọc cưới vợ; thấy người trong Viện Di Hồng không kể trên dưới đều có vẻ lo liệu cho Bảo Ngọc cưới vợ. Tiết phu nhân đến thăm, Đại Ngọc không thấy Bảo Thoa, lòng lại càng ngờ vực. Do đó càng không muốn để ai đến thăm cũng không chịu uống thuốc, chỉ muốn mau chết. Trong khi mơ ngủ, Đại Ngọc thường nghe như có người gọi “mợ Hai Bảo”. Trong lòng ngờ vực nên thấy gì cũng đâm nghi ngờ. Hôm ấy, Đại Ngọc không ăn được nữa, cháo cũng không nuốt vào, chỉ còn hơi thở thoi thóp chờ chết.

1      Ngày xưa Thái Ung thấy người ta đốt gỗ cây đồng khô, ông biết là gỗ tốt có thể dùng làm đàn, liền xin về làm một cây đàn; tiếng rất trong, nhưng đầu đuôi bị cháy sém, nên gọi là tiểu vĩ cầm (đàn sém đuôi).

2      Hạc tiên, phương vĩ, long trì, nhạn túc, đều là những danh từ riêng dùng để chỉ các bộ phận trên cây đàn.

3      Vằn gỗ trên đàn, cái nào như lông trâu là thứ đàn tốt.

Chương 90: Mất áo bông, gái nghèo ngấm ngầm bực bội – Đưa hoa quả, chú em nghĩ ngợi vẩn vơ

Mất áo bông, gái nghèo ngấm ngầm bực bội

Đưa hoa quả, chú em nghĩ ngợi vẩn vơ

Từ khi Đại Ngọc quyết định tự hại thân mình, dần dần ốm liệt, cuối cùng không ăn uống được nữa. Trước đấy, trong khoảng mười ngày, bọn Giả mẫu thay phiên nhau đến trông nom, có đôi khi Đại Ngọc còn nói một vài câu, nhưng hôm ấy thì rất ít nói. Tâm thần có lúc mê man, cũng có lúc tỉnh táo. Bọn Giả mẫu thấy bệnh tình như không phải vô cớ mà sinh ra, nên đã tra hỏi bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn một vài lần, nhưng hai người không dám nói rõ. Tử Quyên cũng muốn hỏi lại Thị Thư đầu đuôi câu chuyện, nhưng cứ sợ càng rõ sự thật thì Đại Ngọc càng mau chết, nên khi gặp Thị Thư, chị ta không hề nhắc đến chuyện ấy. Về phần Tuyết Nhạn thì biết rõ chính vì mình buột miệng mà gây nên cơ sự dường này. Chị ta chỉ tiếc không có thể có ngàn miệng để thốt rằng “tôi không nói”, cho nên lại càng không dám nhắc đến chuyện ấy.

Đến hôm Đại Ngọc không ăn uống được nữa, Tử Quyên nghĩ không còn hy vọng, ngồi bên cạnh khóc lóc một hồi, rồi đi ra nói trộm với Tuyết Nhạn:

– Em vào trong nhà mà ngồi, trông nom cô cho cẩn thận, để chị đi trình với cụ, bà Hai và mợ Hai, chứ xem quang cảnh hôm nay thì không phải như mọi ngày nữa đâu.

Tuyết Nhạn vâng lời. Tử Quyên đi ra. Tuyết Nhạn ở trong phòng ngồi bên Đại Ngọc, thấy cô ta mê man im lìm. Tuyết Nhạn còn trẻ chưa bao giờ thấy quang cảnh ấy, nên cứ tưởng rằng như thế là đã chết rồi, trong lòng vừa thương vừa sợ, chỉ mong sao Tử Quyên về nhanh cho. Đang khi sợ hãi, thì nghe ngoài cửa sổ có tiếng chân đi, Tuyết Nhạn chắc là Tử Quyên đã về, trong lòng mới yên, vội vàng đứng dậy vạch màn ra chờ. Bỗng nghe ở ngoài có tiếng vạch màn sột soạt, một người đi vào, thì ra đó là Thị Thư.

Số là Thị Thư được Thám Xuân sai đến hỏi thăm Đại Ngọc. Thấy Tuyết Nhạn vạch màn. chị ta liền hỏi:

– Cô ra sao rồi?

Tuyết Nhạn gật đầu bảo Thị Thư vào. Thị Thư bước vào không thấy Tử Quyên. Nhìn Đại Ngọc thì chỉ còn chút hơi tàn thoi thóp, chị ta giật mình sợ hãi, liền hỏi:

– Chị Tử Quyên đâu rồi?

– Đi báo với trên nhà rồi.

Lúc bấy giờ Tuyết Nhạn tưởng rằng Đại Ngọc chẳng biết gì nữa, lại thấy Tử Quyên cũng không ở đấy, liền khẽ nắm tay Thị Thư mà hỏi:

– Trước đây chị nói với tôi, ông Vương nào đó làm mối cho cậu Hai Bảo có thật không?

– Sao lại không thật.

– Bao giờ thì đi dạm đấy?

– Làm gì mà đã nhất định được? Trước đây tôi nói với chị là tôi nghe chị Tiểu Hồng kể lại. Sau tôi đến bên nhà mợ Hai, thấy mợ ấy đang nói với chị Bình rằng: “Đó chẳng qua là bọn gia khách muốn mượn việc để xu nịnh với ông lớn để sau này dễ nhờ vả đó thôi. Chưa nói là bà Cả cũng cho rằng không tốt, chứ nếu bà Cả có bằng lòng cho rằng là tốt đi nữa, thì con mắt của bà ấy cũng làm gì mà biết được người tốt người xấu? Hơn nữa trong lòng cụ đã định sẵn người rồi, người ấy cũng ở trong vườn này, bà Cả biết sao được. Chẳng qua vì ông lớn nói, nên cụ bất đắc dĩ phải hỏi qua đấy thôi. Tôi lại nghe mợ Hai nói: Việc của cậu Bảo, cụ đã quyết định cho cậu ấy lấy người thân thích, dù cho ai đến mối lái, cũng chẳng ăn thua.

Tuyết Nhạn nghe nói đến đó, quên không nghĩ gì nữa, liền nói:

– Nói cái gì thế? Thế mà làm chết oan đời của cô tôi rồi!

– Tại sao thế?

– Chị còn không biết à! Cũng vì trước đây tôi với chị Tử Quyên nói đến câu chuyện ấy, cô tôi nghe, nên mới nông nỗi này.

– Chị nói khe khẽ chứ, coi chừng cô nghe thấy đấy.

– Cô tôi mê man chẳng còn biết gì nữa, coi chừng, chẳng qua cũng trong vài hôm thôi.

Hai người đang nói thì thấy Tử Quyên vén màn vào nói:

– Chết chưa? Các chị muốn nói chuyện sao không đi ra ngoài mà nói, lại nói ở đây! Cứ làm thế thì cô tôi chết đi còn gì.

Thị Thư nói:

– Tôi không ngờ có việc lạ như thế.

– Thôi đi chị, tôi nói chị đừng giận. Chứ chị thì biết cái quái gì? Biết thì đã không mách lẻo những chuyện ấy.

Ba người đang nói, bỗng nghe Đại Ngọc ho một tiếng. Tử Quyên vội vàng chạy lại đứng trước giường. Thị Thư và Tuyết Nhạn cũng đều đứng im. Tử Quyên khom lưng đứng sau Đại Ngọc hỏi khẽ:

– Cô uống một hớp nước nhé!

Đại Ngọc ừ một tiếng nho nhỏ, Tuyết Nhạn vội vàng rót nửa chén nước sôi, Tử Quyên đỡ lấy, Thị Thư cũng đi lại gần. Tử Quyên lắc đầu ra hiệu cho Thị Thư bảo đừng nói. Thị Thư đành đứng im. Một chốc Đại Ngọc lại ho. Tử Quyên nhân dịp hỏi:

– Cô uống nước nhé!

Đại Ngọc lại khẽ ừ, ý muốn cất đầu dậy, nhưng cất sao nổi. Tử Quyên bò lên giường, ghé lại bên mình, tay bưng nước, thử xem nóng hay lạnh, đưa lại bên môi, đoạn đỡ đầu Đại Ngọc lại bên chén uống một hớp. Tử Quyên định cất chén đi, nhưng Đại Ngọc còn muốn uống hớp nữa. Tử Quyên đỡ lấy chén. Đại Ngọc lại uống một hớp đoạn lắc đầu không uống nữa, thở một hơi mạnh rồi lại nằm xuống. Hồi lâu, Đại Ngọc hé mắt, nói:

– Vừa rồi có phải chị Thị Thư nói chuyện đấy không?

– Dạ phải.

Lúc đó Thị Thư chưa đi ra, vội vàng bước lại hỏi thăm. Đại Ngọc mở mắt ra nhìn, gật gật đầu, nghỉ một tý rồi nói:

– Chị về gửi lời hỏi thăm cô nhà nhé!

Thị Thư thấy thế, tưởng Đại Ngọc ghét mình, đành phải khe khẽ lui ra.

Thì ra, Đại Ngọc tuy bệnh nặng, nhưng vẫn còn tỉnh táo. Ban đầu Thị Thư và Tuyết Nhạn nói chuyện, cô ta cũng nghe lơ mơ được một đôi câu, tuy làm như không biết, nhưng thì ra thì cũng không có tinh thần để nghĩ đến nữa. Đến khi nghe câu chuyện của hai người cô ta mới hiểu rõ là việc Bảo Ngọc dạm vợ trước đây chỉ mới bàn thôi, chứ chưa quyết định. Lại nghe Thị Thư nói theo lời Phượng Thư thì ý định của cụ là định dạm người thân thích; người này lại ở trong vườn, vậy chẳng phải mình, còn ai nữa? Nghĩ vậy, Đại Ngọc bỗng thấy khoan khoái tỉnh táo ra nhiều, nên vừa uống xong hai hớp nước lại muốn hỏi chuyện Thị Thư. Vừa lúc ấy thì Giả mẫu, Vương phu nhân, Lý Hoàn, Phượng Thư, nghe Tử Quyên nói, đều vội vàng đến thăm. Trong bụng Đại Ngọc đã hết ngờ vực, tất nhiên không muốn chết nữa. Mặc dù thân thể yếu đuối, tinh thần bạc nhược, cô ta cũng gắng gượng trả lời một vài câu. Phượng Thư thấy thế, liền gọi Tử Quyên hỏi:

– Cô cũng chẳng đến nỗi nào. Tại sao chị lại làm chúng tôi thất kinh thế?

– Ban đầu thấy rất nguy kịch, chúng cháu mới đi trình. Khi về thấy cô cháu đỡ nhiều, thật là kỳ quặc.

Giả mẫu cười, nói:

– Cháu cũng đừng có trách nó. Nó biết cái gì? Thấy nguy thì nó đi trình, đó là nó biết việc đấy. Bọn trẻ con đừng có vụng miệng biếng chân là được.

Nói chuyện một lát, chắc Đại Ngọc không can gì, bọn Giả mẫu ra về cả. Thật là:

Bệnh tim lấy thuốc tim mà chữa,

Cởi nhạc là người buộc nhạc đây.

Bệnh Đại Ngọc dần dần khỏi. Tuyết Nhạn và Tử Quyên đều thầm cảm ơn đức Phật. Tuyết Nhạn nói với Tử Quyên:

– Cũng lạ! Thực là may cô đã khỏi. Nhưng khi ốm cũng lạ mà khỏi ốm cũng lạ!

– Ốm thì có gì mà lạ, chỉ khi khỏe mới thật là lạ. Chắc cậu Bảo với cô ấy là đôi nhân duyên trời định. Người ta hay nói: “Sự đời đa đoan”. Lại nói: “Cá đã cắn câu, khó lòng giữ nổi”. Cứ thế suy ra, lòng người ý trời, thật là duyên lành xe lại. Nhớ năm nọ, tôi nói cô Lâm sắp về Nam, cậu Bảo suýt chết, trong nhà cuống cả lên; nay chỉ vì một câu nói, lại làm cô Lâm chết đi sống lại. Thật đúng câu: “Duyên nợ ba sinh, trăm năm định sẵn”.

Hai người chuyện trò với nhau rồi cũng cười. Tuyết Nhạn lại nói:

– May sao cô khoẻ được, sau này chúng ta đừng nói nữa, dù mắt trông thấy cậu Bảo cưới con gái nhà ai, tôi cũng không dám hé răng nói nửa lời.

– Phải đấy.

Chẳng những Tuyết Nhạn; Tử Quyên bàn bạc thầm, mà đến cả mọi người cũng đều thấy Đại Ngọc bệnh lạ lùng, khỏi cũng lạ lùng, nên họ tụm năm tụm ba, lao xao bàn tán. Ít lâu, cả Phượng Thư cũng biết. Hình phu nhân và Vương phu nhân thì có phần ngờ vực, còn Giả mẫu cũng đã đoán được tám chín phần, một hôm bọn Hình phu nhân, Vương phu Nhân, cùng Phượng Thư đều ở trong phòng Giả mẫu nói chuyện phiếm, nhân nói đến bệnh tình của Đại Ngọc. Giả mẫu nói:

– Ta đang định nói với các người, thằng Bảo và con Lâm từ nhỏ ở chung một chỗ, ta tưởng rằng chúng nó còn trẻ con, không ngại gì. Sau này nghe nói con Lâm khi thì đau, khi thì khỏe, chính vì chúng nó đã hiểu biết ít nhiều sự đời. Cho nên ta nếu cứ để chúng ở chung một chỗ mãi, sợ không ra thể thống gì, các người nói sao?

Vương phu nhân nghe nói, ngẩn người ra một chốc rồi đáp:

– Cô Lâm là người biết cân nhắc. Còn thằng Bảo thì ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, chẳng biết giữ ý giữ tứ gì cả. Cứ nhìn bề ngoài, chúng đều ra vẻ trẻ con. Bây giờ bỗng dưng tách một đứa ra khỏi vườn, chẳng phải là lộ hình tích hay sao? Người xưa nói: “Trai lớn lấy vợ, gái khôn lấy chồng”. Cụ lo liệu việc của chúng đi thôi.

Giả mẫu cau mày nói:

– Con Lâm tính tình tinh ranh, đó cũng là điều tốt của nó, nhưng ta không muốn dạm nó cho Bảo Ngọc, cũng chỉ vì điều đó. Vả lại nó yếu đuối như thế, sợ không thọ. Chỉ có con Bảo là tốt hơn hết.

Vương phu nhân nói:

– Chẳng những cụ nghĩ như thế, mà chúng con cũng đều nghĩ như thế cả. Nhưng đối với cô Lâm, cũng cần kén rể cho cô ta mới được. Con gái đã lớn, ai mà chẳng có tâm sự? Nếu nó có tình riêng với thằng Bảo, khi nghe nói thằng Bảo cưới con Bảo, tất sẽ xảy ra chuyện không hay.

Giả mẫu nói:

– Thế nào cũng cưới vợ cho thằng Bảo đã rồi mới kén chồng cho con Lâm được. Không đời nào lại lo việc người ngoài trước rồi mới đến người nhà. Vả lại, con Lâm còn kém thằng Bảo hai tuổi, theo như ý các người thì đừng cho nó biết việc dạm vợ cho thằng Bảo là được.

Phượng Thư liền dặn bọn a hoàn:

– Chúng mày nghe chưa? Việc cậu Bảo dạm vợ không được nói ồn lên. Đứa nào bép xép thì liệu hồn đấy.

Giả mẫu lại nói với Phượng Thư:

– Cháu Phượng này! Từ khi cháu không được khỏe, cháu không trông nom gì đến việc trong vườn, ta nói với cháu cần phải chú ý mới được. Không những việc này, chứ năm trước đây, bọn chúng uống rượu đánh bạc, đều không phải là việc vừa đâu. Cháu phải cẩn thận, chịu khó để ý cấm ngặt bọn chúng mới được. Ta xem chúng chỉ nghe theo cháu mà thôi.

Phượng Thư vâng lời. Mấy người lại nói chuyện một lúc rồi ai về nhà nấy.

Từ đó Phượng Thư thường đến vườn trông nom mọi việc. Một hôm vào vườn, vừa đến bãi Tử Lăng, bỗng nghe một bà già đang làm ầm lên. Phượng Thư đến nơi, bà kia mới biết, liền khép nép chào. Phượng Thư nói:

– Bà làm gì mà ầm lên thế?

– Nhờ ơn các mợ bảo tôi ở đây trông nom hoa quả. Tôi không hề có gì sai lầm, không ngờ con a hoàn của cô Hình bảo tôi là kẻ trộm.

– Tại sao vậy?

– Hôm qua cháu Hắc nhà chúng tôi theo tôi vào đây chơi một lúc. Nó không biết gì, lại vào bên nhà cô Hình xem. Tôi bảo nó về. Hôm nay sáng dậy nghe a hoàn cô Hình nói mất trộm đồ vật. Tôi hỏi nó mất gì, nó liền hỏi vặn tôi.

– Nó mới hỏi bà một tiếng, thì đã đến nỗi gì mà bà phải giận.

– Vườn này là vườn của các mợ, chứ không phải là vườn nhà họ. Chúng tôi đều là ngtời mợ sai khiến, khi nào lại nhận cái tiếng ăn trộm ấy.

Phượng Thư nhổ toẹt vào mặt bà ta, rồi quát:

– Bà đừng có quen thói la xa lát xát trước mặt tôi! Bà coi vườn ở đây, các cô lại mất trộm, đáng lẽ các bà phải hỏi cho ra mới được. Tại sao lại nói nhảm nhí như thế? Gọi bà Lâm đến đây, đuổi cổ nó ra!

A hoàn vâng lời sắp đi thì thấy Hình Tụ Yên vội vàng chạy đến, đón Phượng Thư rồi cười, nói:

– Mợ không nên làm thế, không hề gì cả, việc đã qua rồi.

Phượng Thư nói:

– Cô ạ, có phải vì thế đâu. Chưa nói gì đến công việc, chỉ về phận sự bà ấy cũng không có lý được nói như thế!

Tụ Yên thấy bà già quỳ dưới đất xin tha, liền mời Phượng Thư vào trong nhà ngồi. Phượng Thư nói:

– Tôi biết cả rồi. Bọn ấy trừ tôi ra thì không kể gì trên dưới cả.

Tụ Yên cứ xin hộ cho bà già mãi, và nói tại con a hoàn mình dại, Phượng Thư nói:

– Ta nể mặt cô Hình tha cho bà một lần này.

Bà già đứng dậy lạy tạ Phượng Thư và Tụ Yên, rồi đi ra.

Phượng Thư cười, hỏi Tụ Yên:

– Cô mất cái gì?

– Có gì quan trọng đâu, tôi mất một cái áo lót màu hồng đã cũ. Tôi bảo nó tìm, không thấy thì thôi. Con bé không hiểu việc lại đi hỏi bà già ấy, tất nhiên bà ta không chịu nhịn. Chẳng qua vì con bé dại dột, tôi đã mắng nó mấy câu. Việc đã qua rồi mợ không nên nhắc lại nữa.

Phượng Thư nhìn Tụ Yên, thấy trong người có mặc áo bông, áo dạ, nhưng đều rung rúc, chưa chắc đủ ấm, chăn nệm thì phần nhiều mỏng manh! Những đồ bài trí trên bàn ở trong phòng, là những đồ của Giả mẫu đưa đến, nhưng đều thu cất sạch, chưa hề động đến một tý gì. Phượng Thư rất mực kính mến, liền nói:

– Một cái áo, tuy không quan trọng gì, nhưng trời lạnh, lại là áo mặc lót, tại sao cô không hỏi? Quân láo lếu kia ghê thật!

Phượng Thư đi đến các nơi, ngồi một lúc, rồi ra về. Tới phòng, gọi Bình Nhi lấy một chiếc áo lót lụa tây cải hoa đỏ, một chiếc áo da bọc lụa màu hoa tùng, một chiếc quần bông bọc gấm thêu hoa, màu lam, một chiếc áo khoác bằng da chuộc bạch, gói lại cẩn thận đưa cho Tụ Yên. Lúc đó, Tụ Yên vừa bị bà già kia đay nghiến một hồi, tuy có Phượng Thư đến đe nẹt, nhưng trong lòng vẫn khó chịu, nghĩ bụng: “Các chị em ở trong vườn này, bọn người hầu không ai dám động đến, duy có mình là chúng nói thế này thế khác, lại giữa lúc chị Phượng đi đến trông thấy”. Tụ Yên càng nghĩ càng thấy khó coi, lại càng không thể nói ra. Vừa đang nghẹn ngào muốn khóc, bỗng thấy Phong Nhi ở bên nhà Phượng Thư đưa gói áo đến. Tụ Yên trông thấy, nhất định không chịu nhận.

Phong Nhi nói:

– Mợ Hai dặn cháu thưa với cô; nếu cô chê áo cũ, thì sau xin đưa áo mới đến.

Tụ Yên cười nói:

– Cám ơn mợ có lòng tốt. Nhân khi tôi mất áo, mợ lại đưa áo đến, tôi quyết không dám nhận. Chị cứ đưa về. Tôi xin gửi lời đa tạ mối thịnh tình của mợ, thế là tôi nhận rồi đấy.

Nói đoạn lại biếu Phong Nhi một cái túi. Phong Nhi đành phải đem gói áo về. Chẳng mấy chốc lại thấy Bình Nhi và Phong Nhi đến. Tụ Yên vội vàng đón chào mời ngồi. Bình Nhi cười nói:

– Mợ tôi nói cô thật khách sáo quá.

– Không phải khách sáo, tôi thật không đành lòng.

– Mợ tôi nói: Nếu cô không nhận quần áo này thì hẳn là chê cũ, hay là xem mợ tôi không ra gì. Vừa rồi mợ tôi bảo, nếu tôi lại mang về, thì mợ tôi không bằng lòng đâu.

Tụ Yên đỏ mặt và cảm ơn:

– Nếu như thế, tôi không dám từ chối.

Tụ Yên mời họ uống trà một chốc rồi mới về.

Bình Nhi và Phong Nhi về gần đến nhà thì vừa gặp một bà già ở bên Tiết phu nhân sang, đón lại chào hỏi:

– Bà đi đâu thế? Bà tôi và cô tôi bảo sang hỏi thăm sức khỏe các bà, các mợ các cô. Vừa rồi tôi hỏi thăm, nghe nói cô vào trong vườn, chắc sang bên cô Hình phải không?

– Sao bà biết?

– Tôi vừa nghe nói, thật mợ Hai và các cô ăn ở khiến người ta phải cảm động!

– Mời bà về bên nhà chơi đã.

– Tôi còn bận, xin để hôm khác.

Nói đoạn, bà già ra về.

Binh Nhi về nhà trình lại với Phượng Thư.

Lúc này trong nhà Tiết phu nhân thường bị Kim Quế làm ầm lên như vỡ chợ, nên khi nghe bà già kể lại chuyện Hình Tụ Yên, mẹ con Bảo Thoa đều ứa nước mắt. Bảo Thoa nói:

– Chỉ vì anh Cả không ở nhà nên để cô Hình phải chịu khổ thêm ít ngày nữa. May được chị Phượng ăn ở đúng mực, nhưng dẫu sao cô ấy vẫn là người nhà mình, ta phải để ý mới được.

Hai mẹ con đang bàn tán thi thấy Tiết Khoa vào nói:

– Những người bấy lâu nay giao du với anh Cả đều là hạng không ra gì! Không có một người nào đứng đắn, toàn là lũ chó má cả. Xem chừng thì họ chẳng lo gì cho mình đâu, chẳng qua họ chỉ đến dò la tin tức đó thôi. Hai hôm nay đều bị tôi đuổi đi cả. Sau này dặn người canh cửa đừng cho bọn họ vào nữa.

Tiết phu nhân nói:

– Lại bọn Tưởng Ngọc Hàm chứ gì?

– Tưởng Ngọc Hàm không đến, mà là bọn khác kia.

Tiết phu nhân nghe Tiết Khoa nói, bất giác thương tâm, liền bảo:

– Bác tuy có con trai nhưng giờ cũng như không. Dù quan trên có y án cho nó thì cũng là người bỏ đi, Cháu tuy là bậc cháu, nhưng xem ra còn hiểu biết hơn anh cháu nhiều, sau này bác sẽ nhờ vào cháu. Từ nay cháu phải chịu khó học cho khá lên. Vả lại người mà bác định hỏi cho cháu bây giờ nhà cửa sa sút, không được như trước nữa. Con gái nhà người ta đi lấy chồng, không phải là chuyện dễ. Ai cũng thế, cho con gái lấy chồng, chẳng gì hơn ngoài việc mong có một con rể tài giỏi thì con gái sẽ được sung sướng một đời. Nếu con Hình mà cũng như cái đồ này…

Nói đến đó, bà ta giơ tay chỉ vào trong nhà, rồi lại tiếp:

– Bác cũng chẳng buồn nói nữa. Con Hình thật là người biết giữ kẽ, biết tính toán, yên phận nghèo nàn trước cảnh giàu sang, mong sao việc nhà chúng ta qua khỏi, để lo việc cho cháu, cũng là xong được một điều lo lắng của ta.

Tiết Khoa nói:

– Em Cầm chưa về nhà chồng, đó mới là việc bác phải lo. Còn việc cháu có kể gì?

Nói chuyện phiếm một lúc, rồi Tiết Khoa trở về phòng mình. Ăn cơm chiều xong, anh ta nghĩ Hình Tụ Yên ở trong vườn họ Giả, rút cục vẫn là ở nhờ nhà người ta; vả lại cô ta nghèo, ăn tiêu hàng ngày như thế nào, không nói cũng đủ biết. Cô ta là chỗ quen biết trước đây trên quãng đường vào Kinh, dung mạo và tính tình cô ta mình đều rõ cả. Thật là trời ở không công: như hạng Kim Quế thì lại sinh vào con nhà giàu, được nuông chiều sinh ra đanh đá; còn hạng người như Hình Tụ Yên lại chịu khổ chịu sở. Chẳng biết lúc Diêm Vương định số mệnh thì định như thế nào? Ngẫm nghĩ mãi, bực mình cũng muốn làm một bài thơ để tỏ cái nỗi uất ức trong lòng, chỉ bực mình không có thì giờ. Bất đắc dĩ, Tiết Khoa phải viết quấy phá mấy câu:

Rồng không nước tựa cá phơi khô,

Hiu quạnh đôi nơi những thẫn thờ.

Cùng ở bùn lầy nhiều nỗi khổ,

Biết bao giờ đến cõi thanh hư!

Viết xong, xem lại một lượt. Tiết Khoa định dán lên tường, nhưng lại lưỡng lự nghĩ thầm: “Lỡ người ta trông thấy, họ sẽ cười chết”. Tiết Khoa lại đọc một lần nữa, rồi nghĩ: “Kệ họ! Ta cứ dán lên, đọc cho đỡ buồn”. Rồi đọc một lần cuối cùng, thấy chẳng hay ho gì, bèn đem gấp vào trong sách. Tiết Khoa nghĩ bụng: “Mình nay đã lớn, trong nhà lại gặp tai bay vạ gió, không biết ngày nào thu xếp xong, khiến cho cô ta chiếc thân liễu yếu nơi buồng the, đành chịu phận cô đơn vắng vẻ!”

Tiết Khoa đang nghĩ ngợi, thấy Bảo Thiềm đẩy cửa vào, miệng cười ranh mãnh, tay bưng một cái hộp, đặt lên trên bàn. Tiết Khoa đứng dậy mời ngồi. Bảo Thiềm nhìn Tiết Khoa rồi cười nói:

– Đây là bốn đĩa quả và một hồ rượu, mợ Cả bảo đưa biếu cậu.

Tiết Khoa cười:

– Cảm ơn chị Cả! Bảo đứa nhỏ nào đưa đến cũng được, sao lại phiền đến chị?

– Cậu nói hay lắm! Người nhà cả, sao cậu lại nói giọng khách sáo thế? Vả lại, việc cậu Cả nhà ta làm cho cậu phải lo lắng, lâu nay mợ Cả muốn tìm món gì tạ ơn cậu. Nhưng lại sợ người ta ngờ vực. Cậu chẳng lạ gì người trong nhà chúng ta “miệng thơn thớt, bụng ớt cay”, biếu chút lễ vật chẳng có gì là quan trọng, nhưng rồi họ lại bĩu mồm bĩu miệng, bàn ra tán vào. Vì thế hôm nay mợ tôi chỉ đưa mấy thứ quà nhỏ mọn và một hồ rượu, bảo tôi đưa đến biếu cậu.

Chị ta nói đến đó lại cười, lườm Tiết Khoa một cái rồi tiếp:

– Sau này cậu đừng nói thế nữa, khó coi lắm. Chúng tôi chẳng qua là hạng người dưới, đã hầu hạ cậu Cả được thì hầu hạ cậu Hai cũng chẳng hề gì?

Tiết Khoa vốn người thực thà, lại còn trẻ tuổi, chưa từng thấy Kim Quế và Bảo Thiềm đối với mình như thế bao giờ, nghe Bảo Thiềm nói vì việc của Tiết Bàn mà đến thì cũng có tình, có lý liền nói:

– Chị để quả đó, còn rượu thì chị đem về thôi. Xưa nay tôi uống rượu rất ít, khi gặp việc ngẫu nhiên uống một chén chứ ngày thường rỗi rãi tôi có uống được đâu. Không lẽ chị Cả và chị lại không biết hay sao?

– Việc khác còn có thể được, chứ việc này thì tôi không dám vâng lời. Cậu còn lạ gì tính khí của mợ Cả, nếu tôi đem về, mợ ấy sẽ không nói là cậu không uống mà lại nói là tôi không chịu tận tâm.

Tiết Khoa chẳng biết làm thế nào, đành phải để lại.

Bảo Thiềm đang định ra, lại chạy ra cửa ngoài nhìn ngang nhìn ngược rồi ngoảnh lại nhìn Tiết Khoa cười, giơ tay chỉ vào phía trong mà nói:

– Không khéo mợ Cả còn thân hành đến cảm ơn cậu nữa kia.

Tiết Khoa chẳng biết Bảo Thiềm có ý gì mà có vẻ trơ tráo liền bảo:

– Nhờ chị nói hộ với chị Cả, trời rét lắm, coi chừng kẻo bị lạnh đấy. Chỗ chị em trong nhà, cần gì phải như thế.

Bảo Thiềm không đáp, cười rồi đi ra.

Tiết Khoa ban đầu cho rằng Kim Quế quả thực cảm ơn về việc của Tiết Bàn, nên đem quả và rượu biếu mình. Cái đó cũng có lý. Đến khi thấy Bảo Thiềm thậm thậm thụi thụi có vẻ không đứng đắn, trong bụng cũng đoán ra một vài phần, nhưng lại nghĩ: “Chị ta là bậc chị dâu, có lẽ nào lại có tình ý gì. Hoặc giả, Bảo Thiềm không đứng đắn, tự mình không tiện nói ra, mới mượn tiếng Kim Quế cũng chưa biết chừng. Dù sao, nó cũng là người hầu anh mình, như thế cũng không tốt”. Bỗng lại nghĩ: “Kim Quế ngày thường không có gì là khuôn phép của con nhà khuê các, khi thích lên thì ăn mặc lộng lẫy khác thường, cứ cho mình đẹp, biết đâu không nảy lòng bậy bạ. Nếu không thì chắc giữa chị ta với em Cầm có điều gì không bằng lòng với nhau, nên bày ra mưu kế thâm độc, định đầy mình xuống vũng nước bẩn, để mình mang tiếng oan, cũng chưa biết chừng!” Nghĩ đến đó, Tiết Khoa đâm ra sợ hãi. Đang khi lo nghĩ chưa biết làm thế nào, bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng cười khanh khách làm anh ta giật nẩy mình.

Chương 91: Định thỏa lòng dâm, Bảo Thiềm bày mưu kế – Bày ra nghi trận, Bảo Ngọc bàn đạo thiền

Định thỏa lòng dâm, Bảo Thiềm bày mưu kế

Bày ra nghi trận, Bảo Ngọc bàn đạo thiền

Tiết Khoa đang ngờ vực, bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng cười khanh khách, liền giật nẩy mình, nghĩ bụng: Không phải Bảo Thiềm chắc là Kim Quế. Mình cứ mặc họ, xem họ giở trò gì? Giờ lâu lại thấy im lặng. Tiết Khoa cũng không dám uống rượu, ăn quả, bèn đóng cửa lại. Vừa định cởi áo đi nằm, bỗng nghe ở mảnh giấy dán cửa sổ có tiếng động khe khẽ. Tiết Khoa vừa bị Bảo Thiềm quấy rầy xong, trong bụng lo lắng không biết nên làm thế nào. Thấy tờ giấy dán cửa sổ rung động, nhìn kỹ lại im lặng, không có gì, Tiết Khoa đâm ra ngờ vực, ngồi trước đèn suy nghĩ miên man; lại cầm lên một quả, lật đi lật lại xem kỹ. Chợt ngoảnh đầu lại thấy mảnh giấy trên cửa sồ ướt một chỗ, hắn liền chạy lại ghé mắt nhìn, bất thình lình ở ngoài có người thổi phụt vào một cái, làm hắn giật mình. Nghe ngoài có tiếng cười khanh khách, Tiết Khoa vội vàng thổi tắt đèn, nín hơi nằm. Bỗng bên ngoài có tiếng người nói:

– Cậu Hai không ăn quả uống rượu mà đã đi ngủ?

Đúng là giọng của Bảo Thiềm, Tiết Khoa giả vờ ngủ không đáp. Một lát lại nghe có tiếng nói tức tối:

– Thiên hạ lại có hạng người vô tình đến thế?

Tiết Khoa nghe câu ấy giống như giọng nói của Bảo Thiềm, mà cũng giống như giọng nói của Kim Quế, lúc đó mới rõ ý tứ của bọn họ. Tiết Khoa trằn trọc mãi đến canh năm mới ngủ.

Giời vừa sáng thì thấy có người gõ cửa. Tiết Khoa vội hỏi: Ai thế? Chẳng thấy ai trả lời, Tiết Khoa đành phải dậy mở cửa ra xem thì thấy Bảo Thiềm đầu vấn tóc, che bụng, mình mặc một cái áo chẽn viền gấm, thắt lưng màu hoa tùng đã hơi cũ, bên dưới chỉ mặc cái quần lót màu thạch lựu, chân đi đôi giày đỏ mới thêu. Thì ra nó sợ người ngoài trông thấy, nên chưa kịp chải đầu rửa mặt đã vội đến lấy đồ đựng quà hôm qua đưa đến. Tiết Khoa thấy nó ăn mặc như thế, lòng cũng nao nao, liền cười hỏi:

– Chị dậy sớm thế?

Bảo Thiềm đỏ mặt không nói, chỉ đem các thứ quả trút chung vào cái đĩa lớn, rồi bưng lấy hộp đi ra.

Tiết Khoa thấy thế, biết là vì câu chuyện đêm qua, nghĩ bụng: Cũng được, nếu chị ta giận, bỏ hẳn cái thói ấy đi, không đến quấy rầy nữa, mình cũng rảnh. Nghĩ như thế hắn thấy yên tâm, sai người múc nước rửa mặt, định ngồi yên trong nhà vài hôm, một là để khoan khoái tinh thần, hai là sợ đi ra lại có người tìm hỏi lôi thôi.

Những kẻ trước kia đi lại với Tiết Bàn, thấy nhà họ Tiết thiếu người, chỉ còn có một mình Tiết Khoa coi việc, tuổi lại còn trẻ, nên họ sinh lòng dòm ngó. Có người muốn luồn lụy để chạy chọt; có người biết làm đơn hoặc quen một vài người thơ lại, muốn nhận việc lo lót trên dưới ; thậm chí có người định nhân dịp này bớt xén; có người lại bịa đặt những chuyện không đâu để dọa dẫm hắn, thật là mỗi người một cách. Tiết Khoa thấy bọn họ thì tránh xa, nhưng lại không dám từ chối thẳng, sợ gây ra tai vạ bất ngờ, cho nên cứ ngồi lì trong nhà để chờ giấy tờ trình lên quan trên xem sao.

Đêm qua Kim Quế sai Bảo Thiềm đưa rượu và quả cho Tiết Khoa để dò la ý tứ. Bảo Thiềm trở về kể lại bộ dạng của Tiết Khoa cho Kim Quế nghe. Kim Quế thấy việc này không ổn, sợ vỡ chuyện, bị Bảo Thiềm khinh, định kiếm chuyện lấp liếm cho qua; nhưng lại không nở bỏ người ấy đi, thành ra trong bụng lúng túng, chỉ ngồi thừ người ra. Còn Bảo Thiềm cũng nghĩ rằng Tiết Bàn khó lòng về nhà, đang định tìm con đường khác. nhưng lại sợ Kim Quế bắt tội, nên không dám để lộ ra. Nay thấy Kim

Quế lâm như thế, tức là đã mở đường trước rồi. Nó định nhân gió buông buồm, nắm Tiết Khoa vào tay mình trước, không sợ Kim Quế cản trở nữa, nên dùng lời khêu gợi. Xem Tiết Khoa không phải là người vô tình, nhưng cũng khó bắt mồi, nên nó không

dám sỗ sàng. Sau thấy Tiết Khoa tắt đèn đi ngủ, nó bực bội quay về nói lại với Kim Quế, xem Kim Quế có cách gì không, rồi sẽ liệu. Đến khi thấy Kim Quế ngồi thừ ra, hình như không có mưu kế gì cả. Bảo Thiềm đành phải dọn dẹp cùng Kim Quế đi ngủ. Nhưng cả đêm nó không sao ngủ được, nghĩ mãi mới ra một kế: “Chi bằng sáng dậy mình giả làm bộ đi lấy hộp đựng ăn mặc quần áo hoa hòe lộng lẫy, cũng không chải đầu rửa mặt cho thêm vẻ yêu kiều, để ý xem Tiết Khoa ra sao, còn mình thì giả làm bộ giận dỗi không thèm nhìn. Nếu Tiết Khoa có lòng ăn năn, thế nào

hắn cũng dời thuyền theo bến, thì lo gì mình chả vớ được trước.” Bảo Thiềm định sẵn mưu mô như thế. Khi vào phòng Tiết Khoa lấy hộp, thấy hắn vẫn giữ ý như đêm qua, không có tình tứ gì cả, đành phải lấy giả làm thật, bưng cái hộp về, nhưng lại cố ý để hồ rượu lại, lần sau lấy cớ đến ve vãn. Về đến phòng, bỗng thấy Kim Quế hỏi:

– Cô đem quà đi, có ai thấy không?

– Không ạ.

– Cậu Hai cũng không hỏi gì à?

– Không ạ.

Kim Quế suốt đêm không ngủ, cũng không tìm ra được kế gì trong bụng nghĩ thầm: ” Mình làm việc ấy giấu người khác chứ không thể giấu Bảo Thiềm được. Chi bằng ta chia cho nó một phần thì nó không nói gì nữa. Vả lại, mình không thể đi được thế nào cũng phải nhờ nó làm tay trong. Tốt hơn cả là cùng nó bàn định kế hoạch cho ổn thỏa.” Kim Quế nghĩ vậy rồi cười hối:

– Cô xem cậu Hai là người thế nào?

– Xem ra là người hồ đồ lắm.

Kim Quế nghe nói. liền cười:

– Tại sao cô dám nói xấu các cậu như thế?

– Cậu ta phụ lòng mợ thì tôi có quyền nói chứ!

– Cậu ta phụ lòng tôi như thế nào, cô nói xem nào?

– Mợ đưa của ngon cho cậu ta ăn mà cậu ta không ăn, không phải phụ lòng mợ là gì.

Nói đến đó Bảo Thiềm lườm Kim Quế một cái rồi cười.

– Cô đừng nghĩ tầm bậy. Tôi đưa quà cho cậu ta là vì việc cậu Cả. Cậu ta không ngại khó nhọc cho nên tôi mới kính trọng, lại sợ người ngoài nói nhảm, nên mới hỏi cô. Cô nói những câu ấy với tôi tôi chẳng hiểu ra thế nào cả.

– Mợ đừng ngờ vực, tôi là người hầu mợ. không lẽ lại có hai lòng hay sao? Nhưng việc ấy phải thật kín đáo mới được ; nếu lộ ra thì chẳng phải chuyện chơi đâu.

Kim Quế thấy má mình nóng bừng lên, liền nói:

– Con này tệ thật! Chừng bụng mày cũng thích cậu ấy rồi nên đem tao ra làm bung xung phải không?

– Mợ nghĩ thế thôi, chứ riêng tôi thì tôi bực thay cho mợ. Nếu mợ thích cậu Hai thì tôi sẽ có một cách. Mợ nghĩ mà xem, mèo nào lại chẳng ăn vụng mỡ? Cậu ấy chẳng qua chỉ sợ việc không kín đáo xẩy ra chuyện không hay thì bẽ mặt đấy thôi. Theo ý

tôi mợ đừng có vội. Ngày thường cậu ta thiếu thốn cái gì, mợ cứ để ý trông nom giúp. Cậu ta là em chồng, lại chưa có vợ, nếu mợ tận tâm giúp đỡ ít nhiều, ăn ở cho thân mật, người khác cũng chẳng nói được gì. Ít lâu cậu ấy cảm ơn mợ, thế nào cũng đến tạ ơn. Lúc đó, mợ lại sấp sẵn ít món ăn trong nhà, tôi sẽ giúp mợ đổ rượu cho cậu ấy say mèm đi, thì cậu ấy có chạy đằng trời? Nếu cậu ta không bằng lòng thl chúng ta sẽ dọa là cậu ấy đến đùa ghẹo mợ. Cậu ta sợ, thế nào cũng phải nghe theo chúng ta. Nếu không nghe thì cũng chẳng phải là con người nữa, mà chúng mình cũng không đến nỗi muối mặt một cách vô ích! Mợ thấy thế nào?

Kim Quế mới nghe mấy câu ấy, hai gò má đỏ ửng lên, cười và mắng

– Con ranh này. Chắc mày đã thầm vụng với nhiều thằng con trai rồi thì phải! Chả trách khi cậu Cả ở nhà, không rời được mày!

Bảo Thiềm bĩu môi một cái, cười nói:

– Thôi đi! Người ta đang bày vẽ cho mợ. Mợ lại nói với chúng tôi những câu ấy!

Từ đó về sau, Kim Quế cứ một mực níu chặt lấy Tiết Khoa, không nghĩ gì đến việc làm ầm ĩ, nên trong nhà hơi được yên tĩnh. Ngày hôm đó, Bảo Thiềm vào phòng Tiết Khoa lấy hồ rượu, vẫn làm ra vẻ đứng đắn, mặt mày có vẻ nghiêm chỉnh lắm.

Tiết Khoa liếc mắt trong thấy, trong lòng ăn năn: ” Có lẽ mình nghi bậy cho họ cũng chưa biết chừng. Nếu quả như vậy thì mình đã phụ lòng tốt của họ, biết đâu vài hôm nữa họ chả quấy rầy, như thế chẳng phải là vì mình gây nên sao?”

Vài ngày sau, trong nhà rất yên tĩnh, Tiết Khoa hễ gặp Bảo Thiềm thì chị ta cúi đầu mà đi, không hề ngước mắt nhìn ; gặp Kim Quế thì lại hết sức thân mật. Tiết Khoa thấy thế lại càng áy náy trong lòng.

Mẹ con Bảo Thoa thấy mấy hôm nay Kim Quế yên tĩnh, đối đãi với mọi người, lại có vẻ thân mật thì đều cho là việc hiếm có. Tiết phu nhân mừng rỡ nghĩ bụng: “Chắc là khi Tiết Bàn cưới vợ có xung khắc gì đó, cho nên mấy năm trời be bét như thế. Nay xảy tai vạ, may nhờ trong nhà mình có tiền lại được phủ Giả giúp sức, nên mới có hy vọng. Thế rồi bỗng nhiên con dâu yên tĩnh khác trước, hoặc giả thằng Bàn đến lúc gặp may cũng chưa biết chừng. Bà ta cho là đều lạ lùng hiếm có.

Ngày hôm đó, sau khi ăn cơm. Tiết phu nhân vịn vai a hoàn Đồng Quý định đến phòng Kim Quế chơi. Đến giữa sân, chợt nghe có tiếng đàn ông đang nói chuyện với Kim Quế. Đồng Quý nhanh ý:

– Bà đã đến mợ Cả ạ.

Vừa nói thì Tiết phu nhân đã đến cửa phòng, bỗng thấy có bóng người chạy trốn phía sau cửa. Tiết phu nhân giật mình bước lui ra.

Kim Quế nối:

– Mời mẹ vào trong nhà ngồi, không có ai lạ, đó là em nuôi của con. Nó ở thôn quê. không quen gặp người lạ. Hôm nay nó mới đến, nên chưa kịp đến chào mẹ.

– Có phải là cậu thì mời cậu ra nói chuyện chứ can gì.

Kim Quế liền gọi em ra chào Tiết phu nhân. Hắn vái chào và hỏi thăm sức khoẻ, Tiết phu nhân cũng chào hỏi lại rồi ngồi nói chuyện.

Tiết phu nhân nói:

– Cậu tới kinh bao lâu rồi?

Hạ Tam nói:

– Tháng trước đây mẹ cháu không có người trông nom việc nhà, gọi cháu đến lập tự. Hôm trước cháu tới kinh ; hôm nay đến thăm chị cháu.

Tiết phu nhân thấy hắn có vẻ không đứng đắn, nên chỉ ngồi một lát rồi đứng dậy nói:

– Mời cậu ngồi chơi.

Lại ngoảnh lại bảo Kim Quế:

– Cậu mới đến lần đầu, mời ở đây ăn cơm đã rồi hãy về.

Kim Quế vâng lời, đoạn tiễn Tiết phu nhân ra về. Kim Quế thấy mẹ chồng đi về rồi. liền nói với Hạ Tam:

– Em hãy ngồi đã. Hôm nay thế là đã rõ ràng minh bạch rồi đấy. Khỏi để cậu Hai nhà đây phải xét hỏi. Bây giờ chị nhờ em mua cho một ít đồ vật, nhưng đừng cho ai biết. – Chị cứ giao mặc em. Chị muốn gì. Có tiền là sẽ mua được tất.

– Đừng có nói láo, mua mà bị họ lừa cho thì chị không nhận đâu.

Hai người lại cười cợt hồi lâu. Sau đó Kim Quế ngồi ăn cơm với Hạ Tam, lại bảo hắn mua mấy thức hàng, dặn dò một lúc Hạ Tam ra về.

Từ đó Hạ Tam đi lại luôn luôn. Tuy có một ông già canh cửa, nhưng biết hạ Tam là cậu nên cũng không mấy khi trình với Tiết phu nhân. Do đó, sau này xảy ra lắm chuyện rắc rối.

Một hôm Tiết Bàn gửi thư về, Tiết phu nhân mở ra bảo Bảo Thoa xem, thấy trong thư viết: ” Con ở trong huyện cũng không đến nỗi khổ. Xin mẹ cứ yên tâm. Hôm qua nghe ông thơ lại ở huyện nói, trên phủ đã y án, chắc là ta đã lo lót đến nơi. Không ngờ khi phủ tư lên trên đạo lại bác đi. May nhờ ông thơ lại coi việc văn thơ ớ huyện có lòng tốt, tức khắc làm một công văn trình lên, ở đạo lại có công văn gửi xuống quở trách quan huyện. Hiện giờ trên đạo định bắt lên xét hỏi lại. Nếu bị giải lên đạo thì con lại chịu khổ. Chắc nhà ta chưa lo lót ở đạo. Vậy tiếp thư này mẹ mau mau nhờ người lo với quan đạo, lại phải bảo em Khoa đến đây ngay, không thì sẽ bị giải

đi. Tiền lo thiếu không được đâu! Hỏa tốc! Hóa tốc! “

Tiết phu nhân nghe đọc xong lại khóc một hồi. Bảo Thoa và Tiết Khoa vừa khuyên vừa nói:

– Việc này không nên để chậm!

Tiết phu nhân đành phải bảo Tiết Khoa đi lo liệu mọi việc rồi sai người sắm sửa hành lý, cân một số bạc cùng một người làm việc ở hiệu đi ngay đêm ấy. Tuy có người nhà lo liệu mọi việc. Nhưng Bảo Thoa lại sợ họ thu xếp không đến nơi đến chốn, nên tự tay giúp họ thu xếp, sắm sửa, đến canh tư mới đi nghỉ. Bảo Thoa con nhà giàu, được nuông chiù quen, qua một đêm lo lắng khó nhọc, đến hôm sau đâm phát nóng, không ăn uống được gì. Oanh Nhi liền trình với Tiết phu nhân. Tiết phu nhân liền tới xem thì thấy Bảo Thoa mặt đỏ bừng, người nóng như lửa. Không nói năng gì cả. Tiết phu nhân rụng rời tay chân khóc đến nỗi chết đi sống lại. Bảo Cầm chạy lại khuyên giải. Thu Lãng thấy thế cũng nước mắt ràn ruạ. Cứ đứng một bên khóc. Bảo Thoa nói

không được, chân tay cũng không cử động được. mắt khô mũi ngạt. Mọi người vội vàng mời thầy thuốc đến chữa. Bảo Thoa dần dần tỉnh lại. Tiết phu nhân và mọi người mới hơi yên tâm. Lúc đó cả hai phủ Vinh, Ninh đều đã biết.

Trước hết. Phượng Thư sai người đưa thuốc thập hương phản hổn đan. Sau đó

Vương phu nhân lại đưa “chí bảo đan” đến. Giả mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân và bọn Vưu Thị đều sai a hoàn đến thăm hỏi, nhưng đều giấu không cho Bảo Ngọc biết. Chữa luôn bảy tám ngày vẫn không bớt. Cuối cùng, Bảo Thoa nghĩ đến Lãnh hương hoàn, ăn hai viên, bệnh mới khỏi. Khi Bảo Ngọc biết, thì Bảo Thoa cũng đã khỏi bệnh rồi nên cũng không đến thăm.

Tiết Khoa lại viết thư về. Tiết phu nhân xem qua. Nhưng sợ Bảo Thoa lo lắng, nên không cho biết. Rồi đến cầu cứu với Vương phu nhân, và kể bệnh tình Bảo Thoa.

Tiết phu nhân về rồi. Vương phu nhân lại xin với Giả Chính.

Giả Chính nói:

– Việc này bên trên có thể nhờ được, còn bên dưới thì khó, cần phải lo lót mới xong.

Vọng phu nhân lại nhắc đến việc Bảo Thoa và nói:

– Con cháu ấy, cũng khổ lắm. Đã là người nhà mình cũng nên cưới về sơm sớm, đừng để nó bị dày vò…

– Tôi cũng nghĩ như thế. Nhưng bên nhà họ công việc rối bời, và lại gần hết nửa đông. Năm hết tết đến. Ai cũng phải lo liệu nhiều việc nhà. Vậy mùa đông này hãy dạm hỏi cho nhất định. Mùa xuân sang năm sẽ đưa lễ. Rồi sau ngày sinh nhật cụ, sẽ

định ngày cưới. Bà hãy đem những việc ấy nói cho dì Tiết biết đã.

Vọng phu nhân vâng lời. Hôm sau, Vương phu nhân đem lời của Giả Chính nói lại

cho Tiết phu nhân nghe. Tiết phu nhân cũng cho là phải.

Sau bữa ăn. Vương phu nhân cùng đi với Tiết phu nhân sang nhà Giả mẫu. Mọi người mời nhau ngồi. Giả mẫu hỏi:

– Bà dì mới sang à.

– Cháu sang từ chiều hôm qua. Vì trời tối chưa đến thăm sức khỏe cụ được.

Vương phu nhân đem câu chuyện Giả Chính nói chiều hôm qua, thuật lại cho Giả mẫu nghe. Giả mẫu rất mừng.

Đang nói chuyện thì Bảo Ngọc đến. Giả mẫu liền hỏi:

– Cháu ăn cơm chưa?

– Cháu vừa về. Ăn cơm xong lại định đi học, nhưng đến đây để hầu bà đã. Nghe nói dì đến, nên cháu qua đây chào dì.

Nói đến đó. Bảo Ngọc lại hỏi Tiết phu nhân:

– Chị Bảo đã thật khỏe chưa?

Tiết phu nhân cười nói:

– Khỏe rồi.

Lúc đó mọi người đang nói chuyện, thấy Bảo Ngọc đến nên đều im không nói nữa. Bảo Ngọc ngồi một lát. Thấy Tiết phu nhân không tỏ vẻ thân mật như trước, trong bụng ngờ vực. ” Dù rằng dì ấy đang lo lắng, nhưng không lẽ tất cả đều không nói năng gì… ” Bảo Ngọc nghĩ vậy rồi đi học. Chiều về gặp mọi người rồi đi đến quán Tiêu Tương. Bảo Ngọc vén màn bước vào. Tử Quyên ra đón. Thấy trong nhà không có ai. Bảo Ngọc hỏi:

– Cô gì đâu?

– Cô tôi lên trên nhà. Nghe nói dì Tiết đến. Cô tôi đi hỏi thăm sức khỏe rồi! Cậu Hai không lên trên nhà à?

– Tôi cũng có lên nhưng không thấy cô đâu cả.

– Cô tôi không ở đấy à?

– Không. Vậy cô ấy đi đâu?

– Thế thì tôi cũng không biết được.

Bảo Ngọc vừa muốn đi ra. Bỗng thấy Đại Ngọc cùng Tuyết Nhạn thướt tha đi vào. Bảo Ngọc nói:

– Cô em về đây rồi.

Liền đi theo Đại Ngọc trở lại.

Đại Ngọc đi vào nhà trong, mời Bảo Ngọc ngồi. Tử Quyên lấy một cái áo khoác ngoài cho Đại Ngọc thay rồi Đại Ngọc ngồi xuống, hỏi Bảo Ngọc:

– Anh lên trên ấy có gặp dì không?

– Gặp rồi.

– Dì có nói gì đến tôi không?

– Dì chẳng những không nói gì đến cô, mà ngay đối với tôi cũng không thân mật như trước. Tôi hỏi bệnh chị Bảo. Dì chỉ cười không đáp. Không lẽ dì giận tôi mấy hôm nay không đến hỏi thăm chị ấy hay sao?

– Anh có đến hỏi thăm chị Bảo không?

– Mấy hôm đầu tôi không biết. Hai hôm nay tôi biết, nhưng không đi.

– Thế là thế nào?

– Vì họ không bảo tôi đi. Mẹ tôi không bảo tôi đi. Cha tôi cũng không bảo tôi đi. Tôi đâu dám đi. Nếu cái cửa nhỏ kia còn qua lại được như trước thì một ngày đến hỏi thăm chị ấy mười lần cũng không khó gì. Bây giờ muốn qua bên ấy phải đi vòng ra

ngoài, cho nên không tiện.

– Chị Bảo làm sao biết được duyên cớ ấy?

– Chị Bảo là người biết lượng thứ cho tôi.

– Anh đừng có nghĩ lầm. Chị Bảo càng không thể lượng thứ cho anh được. Không phải dì ốm mà là chị ấy ốm. Lâu nay chúng ta ở chung trong vườn, làm thơ, thưởng hoa, uống rượu, vui vẻ biết mấy! Giờ ở cách biệt ra, anh cũng biết nhà chị ấy xảy ra

tai nạn, chị ấy lại ốm đến thế mà anh cứ như người dưng. Làm sao chị ấy không giận được?

– Thế thì không lẽ chị Bảo lại không than với tôi nữa à: “Chị ta có thân với anh hay không, tôi không biết, tôi chỉ theo lý mà nói thôi.”

Bảo Ngọc nghe nói, trừng mắt nhìn, ngần ngơ một lúc. Đại Ngọc thấy thế cũng mặc kệ, gọi người đốt hương và mở sách ra xem. Bỗng thấy Bảo Ngọc cau mày dậm chân mà nói.

– Tôi nghĩ: sinh ra mình để làm gì. Trong trời đất này chẳng có tôi càng rảnh.

– Đã có mình thì sẽ có nhiều người, đã có nhiều người thì sinh ra vô số chuyện phiền não: Sợ hãi, lừa dối, tơ tưởng cỏn biết bao nhiêu điều rắc rối khác nữa. Điều tôi vừa

nói là câu chuyện đùa, chẳng qua anh thấy dì Tuyết thẩn thờ, buồn bả. Tại sao anh lại có thể ngờ cho chị Bảo được? Dì qua đấy là vì việc anh Tiết Bân, nên bụng dạ như tơ vò, còn đầu óc đâu mà chuyện trò với anh, chỉ vì anh khéo nghĩ vơ nghĩ vấn, đâm ra ngớ ngẩn đấy thôi.

Bảo Ngọc nghe thấy sáng ra, liền cười nói:.

– Đúng lắm, đúng lắm. Cô thông minh hơn tôi nhiều. Chả trách năm trước, lúc tôi tức giận, cô hỏi tôi mấy câu đạo lý nhà Phật tôi đối đáp không được là phải. Dù tôi là ông Phật mình mình vàng trượng sáu (Theo sách Phật, phật tổ như lai tu hanh, mình vàng trượng sáu) cũng là một nhánh của cô mà hóa ra đấy.

Đại Ngọc nhân dịp liền nói:

– Giờ tôi hỏi anh, anh trả lời nhé.

Bảo Ngọc ngồi xếp tròn, chắp tay nhắm mắt, nhếch mép lên má nói:

– Cô nói đi..

– Chị Bảo thân với anh thì anh sẽ như thế nào? Nếu chị Bảo không thân với anh thì anh thế nào? Chị Bảo trước kia thân với anh, nay không thân nữa thì anh sẽ như thế nào? Chị Bảo nay thân với anh sau này không thân với anh nữa, thì anh sẽ như

thế nào? Nếu anh muốn thân với chi mà chị ta lại không thân với anh thì anh sẽ như thế nào? Nếu anh không muốn thân với chị ta. Chị ta lại muốn thân với anh thì anh sẽ như thế nào?

Bảo Ngọc ngớ ngẩn một lúc. Bỗng phá lên cười, nói:

– Dù cho nước Nhược (nước Nhược ở cõi trên, không chứa nổi vật gì. Thuyền bè qua lại đều đắm cả) ba ngàn. Tôi chỉ lấy một bầu mà thôi.

– Nếu bầu trôi theo nước thì anh làm thế nào?

– Không phải bầu trôi theo nước, mà nước tự chảy. Bầu cứ trôi đấy thôi.

– Nếu như nước đứng mà ngọc chìm thì anh làm thế nào?

– Lòng thiền đã hóa tơ vương bụi, Vờn gió thu chi nữa giá cô – Điều răn thứ nhất của đạo thiền là không được nới dối.

– Trên có Tam Bảo.(Những câu Đại Ngọc nói có ý khêu gợi Bảo Ngọc, nếu gặp tại vạ gì không lấy được nhau thì sẽ liều thân.)

Đại Ngọc cúi đầu im lặng. Bỗng nghe ngoài thềm có tiếng quạ kêu quạc, quạc rồi bay về phía đông nam.

Bảo Ngọc nói:

– Tiếng kêu ấy chả biết lành hay dữ?

– Lành dữ là ở người. Không phải ở tiếng chim.

Bỗng thấy Thu Văn chạy đến nói:

– Mời cậu đi về, ông lớn sai người vào vườn, hỏi cậu đi học đã về chưa. Chị Tập Nhân nói đã về rồi. Vậy cậu về nhanh.

Bảo Ngọc sợ hãi vội vàng đi ra. Đại Ngọc cũng không dám giữ lại.

Chương 92: Bàn chuyện gái hiền, Xảo Thư mến người trinh thục – Xem hạt châu lớn, Giả Chính tính chuyện hợp tan

Bàn chuyện gái hiền, Xảo Thư mến người trinh thục

Xem hạt châu lớn, Giả Chính tính chuyện hợp tan

Bảo Ngọc ở quán Tiêu Tương đi ra, vội vàng hỏi Thu Văn:

– Ông lớn gọi tôi làm gì?

– Ông lớn có gọi gì đâu. Chị Tập Nhân bảo tôi mời cậu. Sợ cậu không chịu về, nên nói dối cậu đấy thôi.

Bảo Ngọc nghe nói mới yên lòng, liền nói:

– Các chị gọi tôi cũng được. Nhưng sao lại dọa tôi?

Đang chuyện trò thì đã về đến Viện Di Hồng. Tập Nhân hỏi:

– Từ nãy cậu đi đâu?

– Tôi ở bên cô Lâm. Nhân nói đến việc chị Bảo bên nhà anh Tiết nên ngồi lâu.

– Nói những việc gì nào?

Bảo Ngọc đem việc hai người nói chuyện theo kiểu sách Phật kể lại cho Tập Nhân nghe. Tập Nhân nói:

– Cậu thật chẳng ra sao cả. Đáng lẽ nói chuyện nhà, chuyện thơ văn có được không. Sao lại nói đến chuyện nhà Phật.

– Hai người có phải đi tu đâu?

– Chị không biết. Chúng tôi có chuyện riêng của chúng tôi người ngoài không thể nói xen vào được.

– Các người nói chuyện nhà Phật. Nói lung tung, rồi lại khiến chúng tôi không còn biết mối nào mà gỡ.

– Trước kia tôi còn ít tuổi. Cô Lâm cũng hãy trẻ con, có khi tôi không để ý, nói những câu không suy nghĩ: nên cô ta mới giận. Nay tôi ăn nói giữ gìn, cô ta cũng chẳng có gì mà giận nữa. Nhưng lâu nay cô ta ít qua đây. tôi lại bận học hành, tình cờ gặp nhau, có vẻ xa lạ thế nào ấy.

– Phải như thế mới được. Cả hai người đều đã lớn, cứ làm như trẻ con thì coi sao được.

Bảo Ngọc gật đầu nói:

– Tôi cũng biết thế. Thôi. Đừng nói việc ấy nữa. Tôi hỏi chị nhé. Bên cụ có sai người đến nói gì không?

– Không thấy nói gì.

– Chắc là cụ quên rồi đấy. Ngày mai có phải là mùng một tháng mười một không? Năm nào bên cụ cũng có sẵn tục lệ. cứ đến ngày đó là bày biện tiệc tiểu hàn. Bà con ngồi lại với nhau, uống rượu nói chuyện vui. Hôm nay tôi đã xin phép nhà trường rồi. Thế thì ngày mai có nên đi học hay không? Nếu đi thì chẳng hóa mình bịa ra mà xin phép, nếu không đi, ông nhà mà biết thì lại bảo là lười học.

– Cứ ý tôi cậu đi học là phải. Mới được mấy bữa. Chưa chi đã muốn nghỉ. Tôi khuyên cậu cũng nên chăm chỉ hơn nữa mới được. Hôm qua nghe bà Hai nói anh Lan học rất chăm, ở trường học về, dọc đường vẫn đọc sách làm văn. Đêm nào cũng đọc đến canh tư mới đi ngủ. Cậu lớn hơn anh ấy nhiều, lại là bậc chú. Nếu không theo kịp, thì sẽ làm cho cụ bà giận, chi bằng ngày mai cậu cứ đi học thôi.

Xạ Nguyệt nói:

– Trời rét như thế này, đã xin phép rồi lại đi học, thì ở trường người ta sẽ nói: “đã thế thì đừng xin phép. Rõ ràng là xin phép quấy để lần lựa trốn học.” Theo ý tôi. được nghỉ một ngày thì cứ nghỉ đã. Dù sao cụ có quên đi, ở đây chúng ta lại không sửa được hội Tiêu hàn hay sao? Chúng ta cũng cứ bày ra hội lại không hơn à?

Tập Nhân nói:

– Chị cứ làm đầu têu thế thì cậu Hai còn chịu đi gì nữa.

– Tôi thì vui được ngày nào hay ngày ấy, bằng đâu được chị. Cố giữ tiếng tốt để một tháng kiếm thêm hai lạng bạc.

Tập Nhân nhổ toẹt nói:

– Đồ ranh con! Người ta nói chuyện đứng đắn. Mày lại vơ quàng chuyện ở đâu vào!

– Tôi không vơ quàng đâu. Tôi nói đây là vì chị đấy.

– Vì tôi cái gì?

– Khi cậu Hai đi học thì chị cứ lẩm bẩm nhắc nhở luôn, chỉ trông mong sao cho cậu Hai về sơm sớm để mà cười mà nói. Bây giờ chị lại làm ra bộ mình trong sạch lắm. – – – Tội gì thế? Tôi biết thừa đi rồi!

Tập Nhân định mắng Xạ Nguyệt thì thấy Giả mẫu sai người đến nói:

– Cụ bảo ngày mai cậu Hai đừng đi học. Cụ sẽ mời dì Tiết sang để giải buồn. Có lẽ các cô đều về cả. Đã mời cô Sử, cô Hình, cô Lý rồi. Nghe nói là dự tiệc vui “Tiêu hàn” gì đấy.

Bảo Ngọc nghe chưa dứt lời, đã mừng rỡ bảo:

– Tôi đã nói mà! Bà tôi rất là cao hứng! Ngày mai không đi học, việc này rõ ràng lắm rồi.

Tập Nhân cũng không tiện nói gì nữa. Người a hoàn kia ra về.

Bảo Ngọc chăm học một ngày chỉ mong được nghỉ chơi một ngày, lại nghe nói Tiết phu nhân sang, nghĩ thế nào Bảo Thoa cũng đến, nên trong bụng vui mừng liền nói:

– Đi ngủ mau, mai còn dậy sớm.

Hôm sau Bảo Ngọc dậy sớm đi đến thăm Giả mẫu. Giả Chính và Vương phu nhân. Trước đó, Bảo Ngọc đến trình với Giả Chính về việc là bảo hôm nay nghĩ học. Giả Chính cũng không nói gì. Bảo Ngọc từ từ đi ra mấy bước liền chạy một mạch đến phòng Giả mẫu. Tới nơi Bảo Ngọc thấy chưa có ai đến, chỉ có vú nuôi và mấy a hoàn bên nhà Phượng Thư dắt Xảo Thư đến hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu, và nói:

– Mẹ chắt bảo chắt đến hỏi thăm sức khỏe của cố. Nói chuyện với cố một lát rồi mẹ chắt sẽ đến.

Giả mẫu cười nói:

– Chắt ngoan lắm. Cố dậy đã sớm. Chờ mãi chả ai đến. Chỉ có chú Hai chắt đến thôi.

Vú nuôi nói với Xảo Thư:

– Em hỏi thăm sức khỏe chú đi.

Xảo Thư vâng lời. Bảo Ngọc cũng nói:

– Cháu cũng ngoan chứ?

– Hôm qua nghe mẹ cháu nói, muốn mời chú tới nói chuyện.

– Nói chuyện gì?

– Mẹ cháu nói. Cháu học mặt chữ với bà Lý mấy năm, không biết có nhớ chữ nào không. Cháu nói cháu nhớ cả, để cháu chỉ cho mẹ cháu xem. Mẹ cháu bảo cháu chỉ sai nên không tin, lại bảo cháu chơi cả ngày, làm gì mà nhớ được mặt chữ. Cháu

xem những chứ ấy cũng chẳng khó khăn gì. Ngay sách Nữ hiếu kinh cũng dễ đọc thôi. Mẹ cháu bảo cháu nói dối, định mời chú lúc nào rảnh, đến xem cháu học thế nào.

Giả mẫu nghe xong cười. nói:

– Chắt ạ, mẹ chắt không biết chữ, cho nên bảo chắt nói dối. Hôm sau nói với chú đến tra xem thì mẹ cháu sẽ phải tin thôi.

Bảo Ngọc hỏi:

– Cháu học được mấy chữ rồi?

– Cháu học được hơn ba ngàn chữ rồi. Đã đọc một quyển Nữ hiếu kinh. Trước đây nửa tháng. Cháu lại đọc Liệt nữ truyện.

– Cháu đọc có hiểu không? Nếu không hiểu thì để chú giảng cho mà nghe.

Giả mẫu nói:

– Làm chú cũng nên giảng cho cháu nó nghe.

Bảo Ngọc nói:

– Các bà hậu phi của vua Văn Vương chẳng cần phải kể làm gì. Bà Khương hậu 1 rút trâm chịu tội. Bà Vô Diệm 2 nước Tề, dù xấu xí, lại tài trị nước yên nhà. Đó là những người hiền tốt trong số các bà hậu phi đấy. Nếu nói đến tài thì phải kể đến Tào Đại Cô, Ban Tiệp Dư. Thái Vãn Cơ. Tạ Đạo Uẩn 3 Mạnh Quang quần vải thoa gai, vợ Bảo Tuyên 4 thang nồi gánh nước. Mẹ Đào Khản 5 cắt tóc bán lấy tiền thếch khách. Lại có những người lấy bút lau dạy con. 6 Những người ấy không chê nghèo đói đấy. Lại có những người chịu khổ như công chúa Nhạc Xương 7, gương vỡ lại lành ; Tô Huệ 8 thêu gấm thành thơ. Người có hiếu thì rất nhiều, như Mộc Lan 9 đi lính thay cha, Tào Nga 10 gieo mình xuống nước với thây cha, khó mà nói hết được. Lại như chuyện nước Ngụy nàng Tào Thị 11 cầm dao cắt mũi và còn nhiều người giữ trinh tiết nữa. Người đẹp thì Vương Tường, Tây Tử, Phàn Tố. Tiểu Man 12 Giáng Tiên. Hay ghen thì có người cạo trọc đầu nàng hầu 13 Hay là oán giận như Lạc Thẩn cũng không là ít. Còn như Văn Quân, Hồng Phật đều là những bậc hào kiệt trong đám con gái.

Giá mẫu nghe đến đây liền nói:

– Đủ rồi đấy, đừng nói nữa. Cháu nói nhiều quá, nó nhớ sao được!

Xảo Thư nói:

– Những điều chú Hai vừa nói, cũng có chuyện cháu đọc rồi, cũng có chuyện cháu chưa đọc. Chuyện nào cháu đọc rồi, chú Hai nói là cháu nhớ ngày.

Báo Ngọc nói:

– Còn mặt chữ thì nhắc là cháu nhớ rồi, không cần phải xem lại nữa. Ngày mai chú còn phải đi học.

Xảo Thư nói:

– Cháu còn nghe mẹ cháu nói. Chị Tiểu Hồng trước ở bên nhà chú được mẹ cháu gọi sang, vẫn chưa có người thế vào cho chú. Mẹ cháu nói định đưa chị Năm nhà bà Liễu nào đó đến, không biết chú có bằng lòng không?

Bảo Ngọc nghe nói càng vui mừng, cười nói:

– Cháu nghe mẹ cháu nói à? Muốn thế ai thì thế, cần gì hỏi. Cha có bằng lòng không.

Bảo Ngọc lại cười nói, với Giả mẫu:

– Cháu xem con bé này còn nhỏ mà đã thông minh như thế có lẽ sau này nó hơn cả chị Phượng nữa đấy; mà lại hơn ở chỗ biết chữ.

Giả mẫu nói:

– Con gái biết chữ cũng tốt, nhưng nữ công may vá là cần hơn nhất.

Xảo Thư nói:

– Cháu cũng học bà Lưu biết tết hoa này, thêu thùa này, tuy chưa khéo, nhưng đã làm được ít nhiều.

Giả mẫu nói:

– Trong gia đình ta, cố nhiên là không phải cái gì mình cũng làm lấy. Nhưng có biết thì sau mới khỏi bị người ta bắt nạt.

Xảo Thư vâng lời, còn muốn nhờ Bảo Ngọc giảng giải liệt nữ truyện. Nhưng thấy Bảo Ngọc ngồi ngẩn người nên không dám hỏi nữa.

Về phần Bảo Ngọc, nghe nói con Năm sắp vào Viện Di Hồng nên cứ ngồi nghĩ vơ nghĩ vẩn. Lần đầu tiên con Năm ốm không vào được, lần thứ hai, vì Vương phu nhân đuổi Tỉnh Văn nên ai là người có nhan sắc đều không dám chọn vào. Sau đó Bảo Ngọc đến nhà Ngô Quỳ thăm Tỉnh Văn gặp con Năm cũng theo mẹ đưa đồ vật cho Tình Văn. Thấy nó có vẻ thướt tha xinh đẹp, nay được Phượng Thư nhớ đến, định đem nó thế chân Tiểu Hồng, thật là điều mừng ngoài ý nghĩ của mình, nên Bảo Ngọc đâm ra ngớ ngẩn.

Giả mẫu đợi mãi không thấy ai đến, lại cho a hoàn đi mời. Ngay sau đó, chị em Lý Hoàn,Thám xuân,Tích Xuân, Tương Văn, Đại Ngọc đều đến. Mọi người hỏi thăm Giả mẫu và chào hỏi nhau. Chỉ có Tiết phu nhân chưa đến. Giả mẫu lại sai người đi mời lần nữa, rồi Tiết phu nhân và Bảo Cầm đến. Bảo Ngọc hỏi thăm sức khỏe Tiết phu nhân và chào hỏi Bảo Cầm, chỉ không thấy Bảo Thoa và Hình Tụ Yên. Đại Ngọc hỏi:

– Tại sao chị Bảo không đến?

Tiết phu nhàn nói dối Bảo Thoa trong người không được khỏe. Còn Hình Tụ Yên thì biết Tiết phu nhân ở đấy cho nên không đến.

Bảo Ngọc buồn bực vì Bảo Thoa không đến. Nhưng thấy Đại Ngọc ở đó, cũng tạm gác tấm lòng nhớ Bảo Thoa. Chẳng bao lâu Hình Phu Nhân và Vương phu nhân cũng đến. Phượng Thư thấy các bà đến rồi, mình đến sau sợ khó coi, đành phải sai Bình Nhi đến xin phép trước.

– Mợ cháu định đến thì trong người phát sốt. Một chốc nữa sẽ đến sau.

Giả mẫu nói

– Nếu người nó không khoẻ thì không đến cũng được. Bây giờ chúng ta nên ăn cơm đi.

Bọn a hoàn vần các chậu than ra phía sau, rồi đặt hai bàn ăn lên trước giường của Giả mẫu. Mọi người theo thứ tự ngồi xuống ăn. Cơm xong, họ lại vây quanh lò than ngồi nói chuyện suông.

Phượng Thư sở dĩ không đến, trước hết là nghĩ mình đến sau Hình phu nhân, và Vương phu nhân thì sợ khó coi, sau nữa là vị vợ Lai Vượng đến nói

– Bên nhà cô Nghênh Xuân sai người đến hỏi thăm mợ, lại nói là không đến bên nhà ông Cả, chỉ đến chỗ mợ thôi.

Phượng Thư nghe nói đâm bực mình, nghĩ không biết có việc gì đây, liền cho gọi ngừơi ấy vào hỏi

– Cô ở bên nhà có khoẻ không?

– Có việc gì đâu. Tôi không phải là người cô Nghênh Xuân sai đến, mà là mẹ Tư Kỳ nhờ đến xin với mợ một việc.

– Tư Kỳ từ hôm bị đuổi ra, cả ngày cứ khóc lóc. Bỗng một hôm người anh ngoại đến. Bà mẹ chị ta giận lắm, nói anh ấy làm hại Tư Kỳ, rồi nắm lại định đánh; anh ta không dám nói năng gì. Ai ngờ Tư Kỳ nghe thấy vội vàng chạy ra, chẳng quản gì xấu hổ, nói với mẹ

” Con vì anh ấy mà phải về đây. Con cũng giận anh ta tệ bạc. Nay anh ấy đã đến, mẹ hỏi xem thế nào. Nếu anh ấy không thay lòng đổi dạ, con xin chắp tay lạy mẹ. Mẹ cứ xem như con đã chết rồi. Anh ấy đi đâu, con theo đến đấy, dầu có ăn mày ăn xin con cũng cam lòng. Bà mẹ nghe nói giận quá, vừa khóc vừa mắng: “Mày là con gái tao. tao nhất định không gả cho nó. Mày dám làm gì? Không ngờ con Tư Kỳ lú lẫn ấy nghe nói thế, đâm đầu vào tường, vỡ óc, máu chảy chết tươi. Mẹ chị ta cứu không được khóc ầm lên, định bắt anh kia đền mạng. Anh kia cũng lạ, nói một cách điềm nhiên: “Bà đừng hoảng lên làm gì.Tôi ở ngoài làm ăn phát tài, vì nhớ chị ấy nên mới về đây. Lòng tôi thực thà như thế. Nếu bà không tin thì xem đây!” Nói xong, hấn lấy cái hộp trong bọc ra, toàn là đồ trang sức bông vàng và hạt châu. Bà mẹ Tư Kỳ mừng híp cả mắt nói: Mày đã có lòng. Sao không nói trước? Anh kia nói: “Con gái thường trăng hoa yếu đuối, thay đổi tính tình. Nếu tôi nói có tiền thì cô ta có thể vì ham tiền mà theo tôi. Nay cô ấy như thế thật là hiếm có. Tôi xin để đồ trang sức lại cho bà. Tôi đi mua quan tài về liệm cô ấy.” Bà mẹ Tư Kỳ nắm được mớ đồ trang sức, cũng chẳng nghĩ gì đến con gái nữa, cứ mặc cho anh kia đi. Không ngờ anh ta lại mua về những hai cỗ quan tài. Mẹ Tư Kỳ thấy thế, lấy làm lạ hỏi: “Tại sao anh lại phải mua hai cỗ quan tài?” Anh ta cười: “Một cỗ không đủ. Phải hai cỗ mới được. Mẹ Tư Kỳ thấy anh ta không khóc, cứ tưởng anh ta đau xót quá, đâm ra ngớ ngẩn. Không ngờ liệm Tư Kỳ xong. Anh ta chẳng khóc lóc gì cả, lừa lúc không có ai, liền cầm con dao nhỏ đâm ngay vào cổ họng chết tươi. Mẹ Tư Kỳ thấy vậy hối hận quá, khóc lóc không biết bao nhiêu mà kể. Bây giờ xóm giềng biết chuyện định báo quan. Bà ta hoảng sợ, nhờ tôi đến xin mợ nói giúp cho. Sau này bà ta xin lạy tạ.

Phượng Thư nghe nói lấy làm lạ, nói:

– Cái con ngốc lại khéo gặp thằng ngốc như thế, chả trách hôm lục soát các đồ tang vật. Nó vẫn bình tĩnh xem như chẳng có việc gì. Quả là một người tính tình cứng rắn! Kể ra thì tôi cũng chẳng công đâu mà dây vào những việc ấy. Có điều như chị vừa nói đó việc này cũng đáng thương. Thôi thì chị về nói với bà ấy để tôi bàn với cậu Hai sẽ sai anh Lai Vượng đến thu xếp cho xong.

Phượng Thư cho người ấy về rồi, mới sang nhà Giả mẫu.

Một hôm Giả Chính đang ngồi đánh cờ với Thiềm Quang, được thua không xê xích nhau mấy. Chỉ còn một góc chưa rõ ra sao, đang còn giằng co nhau. Bỗng thấy người hầu trai vào trình:

– Ở ngoài, cậu cả Phùng muốn vào gặp ông lớn.

– Mời vào đây.

Người hầu trai ra mời. Phùng Tử Anh đi vào. Giả Chính vội vàng ra đón, mời vào thư phòng ngồi. Tử Anh thấy ông ta đang đánh cờ, liền nói:

– Xin bác cứ việc đánh. Cháu cũng tới xem chơi.

Thiềm Quang nói:

– Cờ của tôi thì kém lắm, chẳng có gì đáng xem cả.

Tử Anh nói:

– Ông nói khiêm tốn! Xin cứ đánh thôi.

Giả Chính nói:

– Có việc gì cần không?

Tử Anh nói:

– Không có việc gì cần. Bác cứ đánh, cháu ngồi xem, học ít nước.

Giả Chính nói với Thiềm Quang:

– Cậu Cả đây là bạn thân của chúng tôi, nếu không có gì cần. Thì chúng ta đánh cho xong ván này rồi sẽ nói, bây giờ cậu Cả ngồi đây xem cho vui.

Tử Anh hỏi:

– Có đánh cuộc không?

Thiềm Quang nói:

– Có đấy.

Tử Anh nói:

– Nếu có đánh cuộc thì không nên nói nhiều.

Giả Chính nói:

– Nói nhiều cũng không can gì. Ông ta có thua mười lạng bạc đi nữa cũng chẳng chịu đưa ra đâu. Sau này chỉ có cách phạt ông ta phải sửa bữa chén thôi.

Thiềm quang cười nói:

– Cái ấy thì được lắm.

Tử Anh nói:

– Bác và ông Thiềm đánh ngang quân phải không?

Giả Chính nói:

– Trước kia đánh ngang quân, ông ta thua; giờ chấp cho hai quân, ông ta cũng thua, thường lại xin hoãn đôi nước, không cho hoãn thì ông ta cứ cuống lên.

Thiềm Quang cũng cười nói:

– Làm gì có thế.

Giả Chính nói:

– Anh cứ nhìn mà xem.

Vừa nói vừa đánh xong ván cờ. Tính ra thì Thiềm Quang thua mất bảy quân.

Phùng Tử Anh nói:

– Ván cờ này mà thua là vì bí nước. Cờ bác ít bí nước, cho nên chồng.

Giả Chính nói với Tứ Anh:

– Xin lỗi. Bây giờ chúng ta nói chuyện thôi.

Tử Anh nói:

– Cháu mấy hôm nay không gặp hai bác. Vậy một là đến thăm. Hai là có ông quan quen biết ở tỉnh Quảng Tây vừa đến kinh bệ kiến Hoàng thượng. Ông ta có đưa đến bốn thứ hàng nước ngoài, có thể làm vật tiến cống được. Một cái bình phong có hai mươi bốn bức, đều bằng gỗ đàn chạm, ở giữa tuy không phải ngọc, nhưng là thứ đá rất quý. Trên mặt đá chạm trổ sông núi, người, lâu đài, hoa cỏ, chim chóc. Một bức có năm sáu mươi hình người, đều là con gái, mặt đồ trong cung gọi là Sáng mùa xuân trong cung Hán. Những hình người ấy, mặt mày mũi miệng, taychân, nếp áo đều chạm rất kỹ càng tinh xảo. Cách bố trí và điểm xuyết đều rất khéo léo công phu. Cháu nghĩ ở trong vườn Đại Quan nhà bác đặt bức bình phong này là rất hợp. Lại có một cái đồng hồ cao chừng hơn ba thước, có một đứa trẻ con cầm cái thẻ giờ, đến giờ nào nó báo giờ ấy. Trong đồng hồ lại có người máy đánh bài nữa. Hai cái ấy nặng nề nên không đưa đến. Hiện cháu đem đến đây hai cái lại còn hay hơn.

Nói đoạn, hắn lấy bên mình ra một cái hộp gấm, ngoài bọc mây tầng lụa, mở ra thì thấy tầng thứ nhất là một cái hộp pha lê ở trong lót bằng lụa đỏ, trên đặt một hạt châu lớn, chói lói rực rỡ. Từ Anh nói:

– Theo ông ta nói thì cái này là hạt châu mẹ.

Nói đến đấy hắn bảo đưa lại đây cái khay. Thiềm Quang vội vàng cầm cái khay trà sơn đen.

– Cái này có được không?

Phùng Tử Anh nói:

– Được đấy.

Thế rồi hắn lại lấy trong bọc ra một cái gói bằng lụa trắng, đem những hạt châu nhỏ đựng trong gói đó tung ra giữa khay, đặt hạt châu mẹ vào giữa, rồi để khay lên trên bàn. Bỗng thấy những hạt châu nhỏ lăn lại bên hạt châu lớn, giơ cao hạt

châu lớn lên thì bao nhiêu hạt châu nhỏ đều gần liền với hạt châu lớn, chẳng sót một hạt nào.

Thiềm Quang nói:

– Lạ thật!

Giả Chính nói:

– Gọi là hạt châu mẹ cũng có lý. vì nó là mẹ của các hạt châu kia.

Phùng Tử Anh quay lại bảo đứa hầu trai đi theo:

– Cái tráp kia đâu rồi?

Người hầu vội vàng đưa lại một cái tráp bằng gỗ hoa. Mở ra xem thì thấy trong tráp lót gấm, trên gấm chồng một xếp lụa màu lam.Thiềm Quang nói:

– Cái này là cái gì?

Phùng Từ Anh nói:

– Cái này gọi là Trướng giao, ở trong tráp lấy ra thì xếp lại chiều dài không đầy năm tấc chiều dầy không đầy nửa tấc. Phùng Tử Anh đem giăng ra từng lớp, giăng đến lớp thứ mười thì trên bàn đã chật không có chỗ để trải ra nữa. Phùng Tử Anh nói:

– Các ngài xem đấy, trong này còn có hai xếp nữa, cần phải có một cái nhà thật cao mới giăng ra hết được. Trướng này dệt bầng thứ tơ giao. Khi trời nóng, treo ở trong nhà, không một con ruồi con muỗi nào vào được, vừa nhẹ lại vừa sáng.

Giả Chính nói:

– Đừng giăng ra làm gì. Sợ xếp lại tốn công.

Thiềm Quang và Phừng Tử Anh xếp lại cẩn thận và cất đi. Phùng Tử anh nói:

– Bốn vật này giá cũng không cao lắm, được hai vạn lạng bạc thì ông ta sẽ bán. Hạt châu mẹ giá một vạn lạng, trướng giao năm ngàn lạng, bức bình phong và cái đồng hồ giá năm ngàn lạng.

Giả Chính nói:

– Tiền đâu mà mua nổi!

– Nhà bác đây là chỗ quốc thích, không lẽ trong cung không dùng được à?

– Cố nhiên là dùng được. Nhưng làm gì có số tiền to như thế. Để tôi bảo đem vào nhà trong cho cụ tôi xem.

– Phải đấy.

Giả Chính liền gọi Giả Liễn đem hai vật báu ấy vào trong nhà. Giả mẫu mời bọn Hình phu nhân, Vương phu nhân, Phượng Thư đến và đem hai vật ấy cho họ xem.

Giả Liễn nói:

– Còn hai vật nữa, một cái bình phong và một cái đồng hồ. Tất cả giá bán là hai vạn lạng bạc.

Phượng Thư vội đỡ lời:

– Các vật ấy cố nhiên là tốt. Nhưng ta làm gì có thừa tiền ấy. Chúng ta lại không phải là quan tổng đốc, tuần phủ ở ngoài quan hải sẵn đưa vật tiến cống.. Lâu nay cháu đã nghĩ nhiều, như nhà mình đây. Cần có những thứ gì làm căn cơ lâu dài mới được: hoặc là ruộng tế tự, hoặc là trang trại giúp người nghèo trong họ, hoặc là dựng một ít nhà cửa ở nơi nghĩa địa. Sau này con cháu nhỡ có gặp việc không may, cũng còn có chút căn cơ, không đến nỗi ngặt; ý cháu như thế không biết ý bà và các ông các mẹ nghĩ như thế nào. Nếu chú ở ngoài muốn mua thì cứ mua. Giả mẫu cùng mọi người đều bảo.

– Nói thế cũng đúng đấy.

Giả Liễn nói:

– Trả lại cho họ thôi. Chú bảo đưa cho bà xem, vì có thể dâng vào cung, chứ ai nói mua để ở nhà. Bà còn chưa nói, mà mợ đã thốt ra một tràng khó chịu.

Nói đoạn, hắn liền đưa hai đồ vật ấy ra và nói với Giả Chính:

– Bà không mua.

Rồi hắn lại nói với Phùng Tử Anh:

– Hai vạt này tốt thì tốt thật, Nhưng ở nhà tôi không có tiền mua. Tôi xem có ai mua sẽ tin cậu biết.

Phùng Từ Anh đành phải cất đi rồi ngồi lại nói chuyện suông, cảm thấy không có hứng thú gì nên định ra về.

Giả Chính nói:.

– Cậu ở đây ăn cơm đã rồi hãy về.

– Thôi ạ, khi nào đến cũng làm phiền bác.

– Sao lại nói thế?

Đang nói thì có người vào thưa:

– Ông Cả đến.

Giả Xá vào đến nơi. Mọi người chào hỏi lẫn nhau. Một chốc bưng rượu lên, đồ nhắm bày ra la liệt. Mọi người cùng ngồi uống rượu. Sau bốn năm tuần rượu, lại nhắc đến chuyện món hàng nước ngoài. Phùng Tử Anh nói:

– Những đồ vật ấy vốn khó bán, trừ những nhà như nhà bác đây mới có thể mua được, ngoài ra thì cũng khó:

Giả Chính nói:

– Không nhất thiết như thế.

Giá Xá nói:

– Nhà chúng tôi đây không phải như trước nữa, chẳng qua chỉ có cái bộ mặt bề ngoài đó thôi.

Phùng Tử Anh lại hối:

– Ông Cả Trân ở phủ Đông có khỏe không? Trước đây tôi gặp ông ta, nhân tiện nói đến việc nhà. Nghe nói cô dâu mới sau này kém mợ Tần trước nhiều. Thế thì người mới cưới sau này con cái nhà ai? Tôi cũng quên không hỏi?

Giả Chính nói:

– Nhà cháu dâu chúng tôi đây cũng là một đại gia ở vùng này. Con gái ông Hồ, trước đã làm quan ở đạo Kinh Kỳ.

Phùng Tử Anh nói:

– Tôi có biết ông ta, xem chừng gia giáo của nhà ông ấy cũng chẳng ra sao..Nhưng mà thôi, cốt sao cô con khá là được.

Giả Liễn nồi:

– Nghe người ở nội các nói ông Giả Vũ Thôn lại sắp được thăng chức đấy.

Giả Chính nói:

– Thế cũng tốt, nhưng chưa biết có chắc hay không?

Giả Liễn nói:

– Có lẽ chắc đấy.

Phùng Tử Anh nói:

– Hôm nay tôi ở trong bộ lại cũng nghe nói như thế. Vậy là ông Vũ Thôn có phải là người họ bác không?

Giả Chính nói:

– Phải.

Phùng Tử Anh nói:

– Là bà con có để trở hay không?

Giả Chính nói:

– Chuyện này kể ra thì dài lắm. Ông ta vốn quê quán ở phủ Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang. Sau dời sang ngụ ở Tô Châu, ban đầu lận đận mãi. Ở đấy có ông Chân Sĩ ẩn thân, với ông ta hay giúp đỡ. Sau ông ta đỗ tiến sĩ, được bổ làm tri huyện, cưới người a hoàn họ Chân làm vợ. Bà Cả lúc này không phải là vợ chính. Không ngờ ông Chân Sĩ ẩn lại gặp tai nạn, gia đình tan tác, ông ấy cũng lưu lạc chẳng biết ở đâu. Sau khi ông Giả Vũ Thôn bị cách chức, còn chưa quen biết gì với nhà chúng tôi. Nhân lúc người em rễ tôi là Lâm Như Hải giữ chức diêm chính ở Dương Châu, có mời ông ta đến dạy cháu ngoại của chúng tôi. Khi ông ta nghe tin được phục chức, định lên kinh, thì vừa gặp lúc cháu ngoại chúng tôi cũng định về kinh thăm bà con. Ông Lâm liền nhờ ông ta trông nom hộ và viết một bức thư nhờ tôi giúp ông ta. Lúc đó, tôi thấy ông ta người cũng đứng đắn, cho nên hay đi lại. Không ngờ ông ta cũng có cái lạ là các vị thế trong họ chúng tôi, kể từ dòng chữ Đại trở xuống, từ nhân khẩu nhà cửa cho đến mọi việc ăn ở, điều gì ông ta cũng thông thuộc rõ ràng. Vì thế, chúng tôi càng cảm thấy thân mật.

Nói đến đấy Giả Chính lại cười:

– Mấy năm nay, kể ra ông ta cũng chịu khó luồn lọt đấy. Từ chức tri phủ thăng chức ngự sử, chẳng mấy chốc leo đến lại bộ thị lang, rồi binh bộ thượng thư. Vì can chút việc bị giáng ba cấp nay lại sắp thăng đấy.

Phùng Tử Anh nói:

– Đời người ta sướng khổ, công danh lên xuống, rốt cuộc cũng là việc khó định trước.

– Việc trong thiên hạ đều theo một nguyên lý như nhau cả. Ví như hạt chậu vừa rồi, hạt châu lớn cũng giống như con người có phúc, những hạt châu nhỏ đều nhờ khí thiêng của nó hộ vệ cho. Nếu hạt châu lớn mà không còn thì các hạt châu nhỏ kia cũng chẳng bíu vào đâu. Cũng giống như nhà người ta, khi người chủ nhà gặp việc không may thì cốt nhục cũng chia ly, bà con cũng rời rạc, cho đến bầu bạn tốt cũng đều tan tác, sướng khổ xoay vần trong nháy mắt, chúng khác gì như mây mùa xuân hay lá mùa thu! Các ông nghĩ xem, làm quan có gì là thú vị? Được như Vũ Thôn là khá lắm rồi. Như nhà họ Chân kia, ví với nhà chúng ta, không khác gì mấy. Trước đây cũng công lao, cũng thế tập cũng ăn ở như nhau. chúng tôi cũng thường thường qua lại. Mấy năm gần đây, gia đình họ tới kinh, còn sai người đến nhà chúng tôi hỏi thăm. rất là thân mật. Thế rồi chả bao lâu, gia tài ở nguyên quán bị tịch thu, đến nay tin tức vắng bặt. Không biết hiện nay tình cảnh ra sao bụng tôi thật là băn khoăn tưởng nhớ. Như vậy có đáng sợ không?

Giả Xá nói:

– Nhà chúng ta thì chừng như thế đâu.

Phùng Tử Anh nói:

– Thật thế. Quý phủ đây thì không sợ: thứ nhất là có quý phi ở trong cung ; thứ hai là bà con nhiều, bạn bè tốt ; thứ ba là ở trong phủ đây, từ cụ bà cho đến các cậu, không có người nào điêu ngoa khắc bạc.

Giả Chính nói:

– Dầu không có ai điêu ngoa khắc bạc đi nữa. Nhưng không có đức hạnh tài năng, cứ ngồi xuống mà sống bằng tô thuế, sao cho xứng đáng?

Giả Xá nói:

– Chúng ta không cần nói những việc ấy. Uống rượu thôi!

Mọi người lại uống mấy ly rượu nữa rồi dọn cơm ăn. Ăn uống xong, tên hầu nhỏ nhà họ Phùng chạy lại nói thầm bên tai Phùng Tử Anh. Phùng Tử anh liền muốn cáo từ.

Giả Xá hỏi người hầu nhỏ:

– Mày nói gì thế?..

Người hầu nhỏ thưa:

– Bên ngoài trời đã đổ tuyết. Mõ khắc canh đã bắt đầu rồi.

Giả Chính sai người ra xem. thì tuyết đã đổ xuống dầy hơn một tấc.

Giả Chính hỏi:

– Hai vật kia đã thu xếp tử tế chưa?

Phừng Tử Anh nói

– Thu xếp tử tế rồi. Nếu quý phủ dùng, thì giá cả cố nhiên là có thể bớt ít nhiều.

Giả Chính nói:

– Vâng, để tôi xem đã.

Phùng Tử Anh

– Tôi xin chờ tin. Trời rét lắm. tôi xin cáo, xin đừng đưa chân nữa.

Giả Xá và Giả Chính sai Giả Liễn tiễn chân Phùng Tử Anh ra về.

1      Khương Hậu là vợ vua Tuyên vương nhà Chu. Vua tuyên vương thường dậy muộn ra hầu chậm. Khương hậu cho là tội tự mình rút trâm, bỏ trang sức chịu tội.

2      Bà Chung Lý Xuẩn là vợ của vua Tuyên vương nước Tề, can ngăn vua Tề chăm nom công việc nước nhà. Bà được phong là Vô Diềm quân.

3      Tào Đại Cô tức Ban Chiêu, em Ban cố đời Hán, Ban Cố soạn bộ Hán thư chưa xong thì mất. Vua Hán cho Ban Chiêu làm tiếp. Ban Tiệp Dư là cung nữ đời Hán thánh đế giỏi về thi ca. Thái Văn Cơ tức là Thái Diễm đời Hán giỏi về âm nhạc. Tạ Đạo Ủân là con gái Tạ Dịch đời Tấn, có tài hùng biện.

4      Mạnh Quang người Đông hán, ba mươi tuổi mới lấy chồng. Nàng ăn mặc lộng lẫy. Chồng bảy ngày không nói chuyện với nàng. Sau hỏi ra ăn mặc đồ vải, hết sức kính trọng chồng.

5      Đời Hậu hán, Bảo tuyên lấy Hòang Thiếu Quân. Khi về nhà chồng, Thiếu Quân đưa về những quần áo đẹp, của rất nhiều. Bảo tuyên nói: “Nàng sống cảnh giàu sang đã quen. Nay ta nghèo hèn, không dám nhận những thứ ấy.” Thiếu Quân bèn thay quần áo vải, tự tay múc nước làm việc như mọi người.

6      Đời Tần, mẹ Đào Khăn thường mời những người có danh tiếng đến nhà đế con học tập và kết bạn. Một hôm Phạm Quỳ đến chơi, bà ta không có tiền, liền cắt tóc bán cho người hàng xóm đế lấy tiền làm cơm rượu tiếp khách.

7      Âu Dương Tu đời Tống, bố chết sớm, nhà nghèo, mẹ thường lấy vây lau vạch xuống đất thành chữ cho con học.

8      Nhạc Xương công chúa là con vua Trần. Nàng lấy Trần Đức Ngổn. biết nước Trần sắp mất. hai người không thể sống chung với nhau được. Liền bẻ mảnh gương làm đôi. Hẹn ngày nào đó sẽ gặp. Sau nàng bị Dương Tố bắt về làm nàng hầu, rất đỗi yêu mến. Đúng hẹn, Đức Ngổn đến kinh ; thấy người bán hai mảnh gương, đem kháp thấy đúng. Nhân đề thơ, công chúa đọc thơ xong, khóc lóc không ăn uống gì. Dựơng Tố biết chuyện ; liền gọi Đức ngôn vào cho hai vợ chồng lại đoàn viên như cũ.

9      Tô Huệ người đời Tấn, thương chổng đi xa, nàng dệt bức gấm thành thơ

gửi cho chồng.

10      Mộc lan không biết ở thời đại nào, thương cha già ; nàng ra lính thay cha, mười hai năm trời ở nơi biên giới.

11      Tào Nga, người Đông Hán. Cha Tào Nga chết đuối không tìm thấy xác. Nàng mới mười bốn tuổi, cứ theo bờ sông khóc. Sau nàng nhảy xuống sông chết. Ít ngày sau, người ta thấy xác Tào Na ôm xác cha nối trên mặt nước.

12      Tào Thị tên là Lệnh Nữ lấy em Tào Sáng. Chồng nàng chết sớm. Người chú định đem nàng về gả chồng. Nghe tin, nàng cắt hai tai. Sau Tào Sáng bị giết, người chú lại định gã chồng cho nàng. Nhân lúc không đề phòng, nàng vào nhà ngủ đắp chăn kín rồi cắt mất mũi.

13      Vương Tường tức Vương Chiêu Quân. Phàn Tố, Tiểu Man là gái hầu của Bạch Cư Dị.

14      Nhiệm Hoàn đời Đường ; được vua yêu và cho hai cung nữ. Vợ Nhiệm Hoàn là Liễu Thị có tính cả ghen. bắt cạo trọc đầu hai cung nữ. Vua Đường nghe thấy cho Liễu thị chai rượu và dặn: “Uống vào sẽ chết, nếu thôi ghen thì đừng uống.” Liễu thị lạy và nói: “Tôi cùng Nhiệm Hoàn trước đây đều sống cảnh nghèo hèn ; nay được vinh hiển, lại đâm có nhiều người yêu, chẳng thà chết đi cho xong”. Nàng uống hết chai rượu. Té ra không phải là thuốc độc.

_________________

Chương 93: Người họ Chân đến nương nhờ họ Giả – Am Thủy Nguyệt vỡ lở án gió trăng

Người họ Chân đến nương nhờ họ Giả

Am Thủy Nguyệt vỡ lở án gió trăng

Sau khi Phùng Tử Anh về. Giả Chính gọi người canh cửa vào hỏi

– Hôm nay bên phủ Lâm An Bá mời ta đến uống rượu. Anh có biết có việc gì không?

Người canh cửa nói:

– Chúng con hỏi thì ra không có việc vui mừng gì cả. Chẳng qua có một ban hát trẻ vừa đến phủ Nam An Vương, ai cũng khen là hay, cụ Lâm An Ba cao hứng bày việc hát trò hai ngày, mời các vị quen biết đến xem cho vui. Có lẽ ta không cần đưa lễ đến.

Giả Xá hỏi Giả Chính:

– Mai chú có đi không?

– Người ta có lòng tốt, mình không đi, coi sao tiện?

Vừa nói thì ngoài cửa có người vào thưa:

– Có người thơ lại đến mời ông lớn ngày mai đến nha môn. Quan trên có việc sai phái, cần phải đến sớm một tí.

Giả Chính nói

– Biết rồi.

Vừa nói đến đó thì hai người nhà coi việc địa tô ở trại đi vào cúi đầu hỏi thăm sức khỏe rồi đứng hầu một bên.

Giả Chính nói

– Các anh là người ở trại Hách phải không?

Hai người vâng dạ. Giả Chính cũng không hỏi nữa, rồi cùng Giả Xá nói chuyện. Một chốc người nhà thắp đèn, đưa Giả Xá về.

Lúc đó Giả Liễn mới gọi bọn coi địa tô, bảo

– Có việc gì các anh nói đi.

Người kia nói

– Địa tô tháng mười, con đã đòi đủ đưa về. Đáng lẽ ngày mai có thể tới đây. không ngờ những người bắt xe ở ngoài kinh đô không cho phân trần gì cả, đem các vật chở trên xe đổ xuống đất. Con bảo họ, đây là xe của phủ ta thu tô, không phải là xe buôn bán, nhưng họ không nghe. Con bảo bọn kia cứ đẩy xe đi, mấy người nha dịch đánh họ một trận túi bụi, rồi lấy đi hai cỗ. Vì thế con phải về trước trình. Xin sai người đến nha môn đòi lại xe mới. Vả lại, cũng nên trừng trị bọn sai dịch một phen. Chúng coi trời bằng vung, chẳng có phép tắc gì cả. Cậu chưa biết đấy. Tội nghiệp nhất là những xe buôn bán! Chúng cứ vất bừa hàng hóa của người buôn xuống đất rồi kéo xe chạy. Nếu ai nói năng là chúng đánh cho vỡ đầu xẻ tai.

Giả Liễn nghe nói quát mắng

– Như thế còn ra gì nữa!

Bèn viết ngay một tờ thiếp, gọi người nhà đến bảo

– Mày cầm thiếp này đến nha môn đòi lấy xe và cả những đồ vật trên xe cho ta. Nếu thiếu một vật gì là ta không nghe đâu. Và mau mau gọi Chu Thụy vào đây.

Người nhà gọi Chu Thụy. Chu Thụy không có ở nhà. Lại gọi Lại Vượng. Lại Vượng cũng đi vắng đâu chưa về. Giả Liễn nói

– Bọn vô loại này. chẳng đứa nào ở nhà. Hàng năm chúng nó ăn lương mà không chịu trông nom công việc gì cả.

Rồi bảo bọn hầu trai

– Chúng bay mau mau tìm họ về cho ta.

Nói xong hắn về phòng ngủ.

Hôm sau, Lâm An Bá sai người đến mời. Giả Chính nói với Giả Xá

– Tôi bận việc ở nha môn, cháu Liễn phải ở nhà chờ việc bắt xe, cũng không đi được. Vậy bác đem cháu Bảo Ngọc đi, gọi là thù tiếp cho qua chuyện.

Giả Xá gật đầu nói

– Thế cũng được.

Giả Chính sai người bảo Bảo Ngọc

– Hôm nay con theo bác sang bên phủ Lâm An Bá nghe hát. Bảo Ngọc mừng rỡ thay áo quần, dẫn bọn Bồi Dính, Tảo Hồng. Sử Dược ra chào và hỏi thăm Giả Xá rồi lên xe đến phủ Lâm An Bá..

Người canh cửa vào trình, một lúc đi ra nói

– Ông lớn bảo mời vào.

Giả Xá dẫn Bảo Ngọc đi vào trong sân, thấy khách khứa ồn át. Giả Xá dẫn Bảo Ngọc đến chào Lâm An Bá và các vị tân khách, rồi cùng nói chuyện một lúc. Bỗng thấy một người coi ban hát cầm một bản kê tên các vở hát, và một cái hốt ngà 1, cúi mình chào các tân khách, và nói

– Xin các vị chấm vở hát.

Trước hết, mời các vị khách qúy chấm. Đến lượt mình, Giả Xá cũng chấm một vở. Người coi hát thấy Bảo Ngọc, vội bước tới, cúi chào và nói

– Xin cậu chấm cho vài vở.

Bảo Ngọc thấy người ấy mặt trắng như dồi phấn, môi đỏ tựa tô son, đẹp như hoa sen trên mặt hồ, thướt tha như cây ngọc rung rinh trước gió, thì ra chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Tưởng Ngọc Hàm. Hôm trước Bảo Ngọc nghe nói anh ta dẫn một ban

hát nhỏ vào kinh, nhưng không đến chỗ nhà mình. Lúc đó, trông thấy Ngọc Hàm, Bảo Ngọc định đứng dậy, nhưng không tiện, đành chỉ cười, hỏi

– Anh về đây đã bao lâu?

Tưởng Ngọc Hàm nhìn hai bên một cái, rồi cười khẽ và nói:

– Cậu không biết sao?

Bảo Ngọc thấy người đông, khó lòng nói chuyện, chỉ chấm quàng một vở.

Tưởng Ngọc Hàm đi rồi, liền có mấy người bàn tán

– Người ấy là ai?

Có người nói

– Anh ta lâu nay đóng vai nữ, bây giờ tuổi đã lớn, không chịu đóng vai ấy nữa, chỉ ở trong phủ coi ban hát thôi. Và trước đây có đóng vai học trò. Tuy gom góp được một số tiền, trong nhà đã có hai ba cưả hàng, nhưng anh ta chưa chịu bỏ nghề, vẫn

cứ coi ban hát như trước.

Có người nói

– Chừng anh ta cưới vợ rồi thì phải.

Có người nói

– Anh ta chưa lấy vợ, vì cho rằng

việc lấy vợ quan hệ cả một đời người. Không cứ gì là tôn ti, sang hèn, cần phải xứng đáng mới được. Vì thế, đến nay anh ta vẫn chưa lấy vợ.

Bảo Ngọc nghĩ thầm: Không biết sau này con gái nhà ai lấy anh này? Nếu lấy được con người xinh đẹp như thế, cũng không uổng một đời “.

Lúc đó, bắt đầu hát, gồm đủ các điệu Côn, điệu Dặc, điệu cao và điệu tuồng, rất là vui nhộn. Đến trưa, bày tiệc uống rượu.

Giả Xá lại xem một lúc nữa rồi định về. Lâm An Bá tới giữ lại và nói

– Trời còn sớm, nghe Kỳ Quan nói có vở “Chiếm Hoa Khôi” 2 là vở hay nhất của họ đấy.

Bảo Ngọc nghe nói cứ mong sao Giả Xá khoan về. Giả Xá nghe vậy cũng ngồi ráng lại một lúc. Quả Nhiên thấy Tưởng Ngọc Hàm đóng vai anh chàng họ Tần bán dầu phô diiễn cái vẻ nâng niu hoa khôi sau khi say rượu, biểu lộ cái tình tứ tiếc ngọc thương hoa rất mực khéo léo. Sau đó, hai người cùng uống, cùng hát, hết sức thiết tha trìu mến.

Bảo Ngọc không nhìn hoa khôi mà cứ đăm đăm đôi mắt nhìn thẳng vào anh chàng họ Tần. Hơn nữa, tiếng hát của Tưởng Ngọc Hàm trong trẻo véo von theo đúng phách địêu là mcho đầu óc Bảo Ngọc ngây ngất say sưa. Sau vở hát ấy, Bảo Ngọc càng thấy Tưởng Ngọc Hàm là người rất chung tình, bọn con hát tầm thường không thể sánh được. Bảo Ngọc liền nghĩ

“Trong sách Nhạc Ký nói

‘Tình động trong lòng nên biểu hiện ra ở tiếng nói, tiếng nói thành văn chương nên gọi là âm điệu. Vì thế, muốn biết tiếng, biết âm, biết nhạc, cần phải nghiền ngẫm rất nhiều.’ Ngùôn gốc của thanh âm không thể không xét kỹ. Thơ và từ chỉ có thể truyền đạt tình cảm, không thể làm cho nó ăn sâu vào xương vào tuỷ. Sau này có lẽ mình cần phải nghìên ngẫm về môn âm luật.”

Bảo Ngọc đang nghĩ ngợi mơ màng thì Giả Xá đứng dậy cáo từ. Chủ nhà không thể giữ lại. Bảo Ngọc chẳng biết làm sao, đành phải theo về.

Tới nàh, Giả xá về nhà mình, còn Bảo Ngọc thì tới gặp Giả Chính. Giả Chính vừa ở nha môn về, đang hỏi Giả Liễn về việc bắt xe. Giả Liễn nói

– Hôm nay sai người cầm thiếp đi, quan huyện đi vắng. Bọn người nhà ông ta nói:”Việc này quan huyện tôi không biết, và cũng không cho bài ra bắt xe. Đó là bọn côn đồ ở ngoài tìm cách lừa dối để lấy tiền. Đã là của ở phủ ông lớn thì chúng tôi sẽ lập tức sai người tra xét. Ngày mai nhất định sẽ đưa cả xe và đồ vật đến, nếu chậm trễ một chút, sẽ bẩm với quan tôi nghiêm ngặt trừng trị. Lúc này quan tôi còn vắng, Xin quan lớn thấu tình cho. Nếu có thể, không cho quan chúng tôi biết thì lại càng hay”.

Giả Chính nói

– Đã không có bài quan thì bọn nào lại dám gây chuyện như thế?

Giả Liễn nói

– Chú không biết, chứ ở ngoài kia đều như thế cả. Chắc rằng đến mai thế nào họ cũng đưa đến trả.

Giả Liễn nói xong đi ra. Bảo Ngọc tới chào. Giả Chính hỏi mấy câu rồi bảo sang nhà Giả mẫu.

Vì hôm qua, không gọi được ai, nên Giả Liễn bắt bọn người nhà hôm nay phải đến chực đầy đủ. Giả Liễn quát mắng một trận rồi gọi đại tổng quản là Lại Đại đến bảo

– Anh đem danh sách người nhà soát lại một lượt rồi viết một tờ thông báo cho bọn họ biết. Nếu đứa nào chưa hề xin phép mà tự ý bỏ ra ngoài, gọi cũng không đến, để nhỡ việc công, thì sẽ đánh đòn và đuổi ngay.

Lại Đại vâng dạ, ra ngoài nhắc nhở mọi người, ai nấy đều răm rắp tuân theo.

Được ít hôm, thấy một người đầu đội mũ lông, mặc áo vải xanh, đi giày rách, đến ngoài cửa chào mọi người. Bọn đầy tớ ngắm kỹ bộ dạng anh ta một lúc rồi nói

– Anh ở đâu đến thế?

– Tôi ở bên phủ Chân miền Nam tới, có cả lá thư của ông tôi nữa, nhờ các anh trình với ông lớn giúp.

Mọi người thấy anh ta là người nhà họ Chân đến, mới đứng dậy mời ngồi, và nói

– Anh đi mệt, hãy ngồi đây để chúng tôi vào trình.

Nói xong, một người vào thưa với Giả Chính và trình bức thư lên. Giả Chính mở thư ra xem. Thư viết

– ” Tình xưa nghĩa cũ, thân thiết từ lâu, xa tưởng dung nghi, nhớ mong khôn xiết! Em nay kém tài mắc tội, xét mình muốn chết khôn đền, ơn rộng được tha, chịu tội ớ ngoài bờ cõi. Hiện nay cửa ngõ điêu tàn, người nhà tan tác. Có tên đầy tớ Bao Dũng, vẫn từng sai khiến bấy lâu, tuy chẳng tài giỏi gì, nhưng tính nết hiền lành trung hậu. Nếu được anh thu dùng sai bảo, có chỗ nương thân, thương đến phận bọt bèo, thì em xin đội ơn khôn xiết! Những điều

chi tiết, xin sẽ nói sau! “

Chân Ứng Gia cúi đầu.

Giả Chính xem xong, cười

– Ở đây đã thừa người, nhà họ Chân lại đưa người đến, nhưng ta từ chối cũng không tiện. – Liền bảo người canh cửa

– Gọi anh ấy vào đây, ta sẽ tùy tài mà dùng.

Người canh cửa đi ra dẫn Bao Dũng vào yết kiến Giả Chính. Anh ta sụp lạy ba lạy rồi đứng dậy nói

– Ông con gửi lời hỏi thăm sức khỏe ông lớn.

Rồi lại cúi mình chào nói

– Con là Bao Dũng, xin kính thăm sức khỏe ông lớn.

Giả Chính cũng hỏi thăm sức khỏe ông Chân. Khi nhìn kỹ thì thấy Bao Dũng mình cao hơn năm thước, vai rộng, lưng bằng, mày rậm, mất lồi, trán cao, râu dài. Hình thù cục mịch, đen đủng, buông tay đứng hầu. Giả Chính hỏi

– Anh lâu nay vẫn ở trong nhà ông Chân hay mới đến mấy năm?

– Con lâu nay vẫn ở trong nhà ông Chân.

– Tại sao bây giờ lại xin ra?

– Con không chịu ra. Nhưng ông con cứ bảo con ra, ông con nói rằng

“con không chịu đi đâu là phải, nhưng bên nhà ông lớn đây thì cũng như ở nhà”, nên con mới đến.

– Nhà ông chủ anh đáng lẽ không nên có việc ấy để đến nông nỗi nước này.

– Lẽ ra con không được nói. Thực ra ông con chỉ vì tốt quá. Với ai cũng thật thà, nên mới mang lấy vạ vào thân.

– Thật thà là tốt nhất còn gì?

– Vì thật thà quá nên không ai ưa, mà lại làm cho người ta chán cũng có.

Giả Chính cười rồi nói

– Đã thế thì trời cũng sẽ không phụ ông ta.

Bao Dũng còn muốn nói nữa thì Giả Chính lại hỏi

– Nghe nói cậu con bên phủ nhà anh cũng gọi là Bảo Ngọc phải không?

– Dạ. vâng ạ!

– Cậu ta có lo cố gắng để tiến thủ gì không?

– Ông lớn mà hỏi đến cậu ấy thì thật là một câu chuyện lạ. Tính khí cậu ta cũng như ông nhà con, hết sức thực thà, lúc nhỏ chỉ thích chơi với các chị em, ông bà con đánh mấy bận cậu ấy cũng không sửa được. Năm nọ bà con vào kinh, cậu ta bị ốm nặng đã chết đi nửa ngày. Làm cho ông con không còn hồn vía. Các đồ khâm liệm đều đã sắm đủ, may sao lại khỏi. Cậu con kể lại rằng cậu ấy đến một cái lầu, gặp một cô gái. Cô ta dẫn đến một cái miếu, thấy có mấy cái tủ, trong tủ thấy có ấy quyển sổ.

Lại đến một cái nhà, thấy vô số con gái. Họ bỗng hóa ra ma quỷ, cũng có người thì hóa ra bộ xương người. Cậu ấy sợ quá khóc ầm lên. Ông con biết cậu tỉnh lại, vội vàng chạy chữa, dần dần khỏe hắn. Ông con lại bảo cậu ấy chơi bời với bọn chị em. Nhưng tính khí của cậu ấy lại đổi hẳn. Cậu ấy không thiết gì đến tất cả những trò chơi trước khi chưa ốm, chỉ chăm đọc sách. Dẫu có ai đến rủ rê. Cậu ấy cũng chẳng mảng lòng. Bây giờ dần dần cậu ấy đã giúp ông nhà con lo liệu được ít việc nhà.

Giả Chính nghĩ ngợi một lát rồi nói

– Anh hãy đi nghỉ. Chờ có việc, ta sẽ giao cho làm.

Bao Dũng vâng lời theo người nhà đi ra. Một hôm Giả Chính dậy sớm, vừa định đi đến nha môn làm việc, bỗng thấy bọn coi cửa to nhỏ chuyện gì với nhau, hình như có ý muốn cho Giả Chính biết, nhưng lại không dám nói rõ, chỉ lầm rầm hàn tán với nhau. Giả Chính gọi lại hỏi

– Bọn bay có việc gì mà thậm thậm thụt thụt như thế?

– Chúng con không dám nói.

– Tại sao lại không dám nói?

– Sáng nay chúng con dậy mở cửa, thấy ngoài cửa dán một tờ giấy trắng, trong đó viết nhiều chuyện bậy bạ.

– Sao lại có chuyện như thế? Nó viết thế nào?

– Nó nói chuyện bẩn thỉu ở am Thủy Nguyệt.

– Đưa đây ta xem.

– Chúng con định bóc xuống, nhưng nó dán chặt quá, không bóc được, đành phải sao chép lại rồi rửa sạch vết đi. Vừa rồi anh Lý Đức lại bóc được một tờ đưa cho chúng con xem, cũng in như tờ dán trên cửa này, chúng con không dám dấu ông lớn.

Nói xong, họ trình tờ giấy lên. Giả Chính cầm xem, thấy viết

– “Tây bồi thảo cân ” 3 đang tủôi xanh.

Trong am Thủy Nguyệt coi ni tăng.

Một người con trai, nhiều gái trẻ

Đĩ thỏa, cờ bạc, lắm trò ranh.

Con em hư hỏng cho coi việc.

Câu chuyện lạ đời trong phủ Vinh! “

Giả Chính xem xong tức quá, đầu choáng, mắt hoa, liền bảo bọn họ không được rêu rao lên, khẽ sai người đi tìm ở các tường xung quanh hai phủ Vinh và Ninh xem còn có giấy như thế nữa không. Đoạn, ông tạ lại cho người gọi Giả Liễn. Giả Liễn vội vàng đến, Giả Chính hỏi

– Lâu nay cháu có xem xét gì đến bọn ni cô và đạo cô ở am Thủy Nguyệt không?

– Thưa không. Lâu nay cháu Cần ở đó trông nom.

– Cháu biết thằng Cần có trông nom được hay không?

– Chú hỏi như thế, chắc hẳn cháu Cần có việc gì lôi thôi ở đấy.

Giả Chính thở dài

– Cháu xem cái giấy này viết gì đây!

Giả Lĩên xem xong nói

– Lại có những việc như thế này à?

Đang nói, bỗng thấy Giả Dung chạy đến, cầm một phong thư, trên đề

“Gửi ông Hai – Mật”. Mở ra xem thì lại một bức nặc danh giống như lá thư dán trên cửa.

Giả Chính nói

– Mau mau gọi Lại Đại đem ba bốn cổ xe đến am Thuỷ Nguyệt, kéo bọn ni cô, đạo cô về đây, không được nói lỡ chuyện, chỉ nói là trong phủ gọi.

Bọn ni cô và đạo cô nhỏ ở am Thuỷ Nguyệt, lúc đầu mới đến, đều do một ni cô già cai quản, hàng ngày dạy một ít kinh. Về sau Nguyên phi không dùng nữa, nên việc học tập của họ ngày một lười dần. Bọn con gái nhỏ ấy dần dần lớn lên, đều biết đôi chút tình đời. Giả Cần lại là người phong lưu, nghĩ rằng bọn Phương Quan đi tu chỉ là vì tính trẻ con, liền đến tìm cách đùa ghẹo. Không ngờ Phương Quan quả thật thành tâm tu hành. Giả Cần không dỗ dành được nó, liền đem mối tình ấy khêu gợi bọn ni cô, đạo cô. Trong bọn ni cô có con Thám Hương và trong bọn đạo cô có con Hạc Tiên là có vẻ yêu kiều xinh đẹp. Giả Cần liền dan díu với chúng, lúc nhàn rỗi cũng dạy họ đàn hát. Vào khoảng giữa tháng mười. Giả Cần lãnh lương tháng cho các ni cô ở am Thuỷ Nguyệt, liền nghĩ ra một kế, bảo bọn họ

– Tôi đem tiền lương ra cho các cô, bây giờ trở vào thành không kịp, đành phải nghỉ lại đây. Trời rét quá, làm thế nào bây giờ? Hôm nay tôi có đưa theo ít rượu quả, chúng ta uống rượu một đêm có được không?

Bọn con gái đều cao hứng, liền bày đặt bàn, mời bọn ni cô ở am lại. Chỉ có Phương Quan không đến. Giả Cần uống vài ly rượu, liền bảo chơi tửu lệnh. Bọn Thám Hướng nói

– Chúng tôi đều không biết tửu lệnh ra sao cả. Chi bằng chơi đánh toan, ai thua phải phạt một ly rượu, như thế không khoái chí hơn sao?

Người ni cô ở am ấy nói

– Trời mới trưa, uống bậy, nói bậy như thế, khó coi lắm. Hãy uống tạm vài chén. ai muốn về thì về, ai muốn tiếp cậu Cần thì đến tối, tha hồ mà uống tôi cũng mặc.

Đang nói thì thấy đạo bà vội vàng chạy vào nói

– Bỏ mau đi, ông Lại ở trong phủ đã đến!

Bọn ni cô vội vã thu dọn rồi bảo Giả Cần tránh đi. Giả

Cần nhân uống mấy ly rượu, hăng lên nói

– Tôi đưa lương tháng đến, sợ cái gì?

Nói chưa xong, đã thấy Lại Đại đi vào. Lại Đại thấy thế giận lắm. Nhưng vì Giả Chính dặn

“không được lộ chuyện”, nên đành giả vờ cười hỏi vớ vẩn

– Cậu Cần cũng ở đây à?

Giá Cần vội vàng đứng dậy nói

– Ông Lại đến dây làm gì thế?

– Được cậu ở đây càng hay, mau mau bảo bọn ni cô và đạo cô thu xếp lên xe vào thành. trong cung truyền gọi đấy.

Giả Cần không biết vì sao, còn muốn hỏi kỹ. Lại Đại nói

– Trời chiều rồi. Mau lên để vào thành cho kịp.

Bọn con gái đành phải cùng nhau lên xe. Lại Đại cưỡi lừa vội vàng dẫn họ vào thành.

Từ lúc nghe thấy việc ấy, Giả Chính giận quá, không đến nha môn nữa. Một mình ngồi trong thư phòng than thở. Giả Liễn cũng không dám đi đâu. Bỗng thấy người coi cửa vào thưa:

– Trong nha môn đêm nay đáng lẽ ông Trương phải túc trực. Nhưng ông Trương ốm, có đưa tin đến nhờ ông lớn thay hộ mỗi đêm.

Giả Chính định chờ Lại Đại về để xử việc Giả Cần. Không ngờ lúc đó lại phải đến nha môn túc trực, trong bụng bực bội cũng chẳng nói năng gì.

Giả Liễn tới thưa

– Lại Đại sau bữa cơm trưa mới đi ra, am Thủy Nguyệt lại cách thành những hai mươi dặm, dẫu đi nhanh, cũng đến canh hai mới về đến nhà. Hôm nay chú lại phải đến phủ túc trực giúp cho người ta. Vậy xin chú cứ đi. Lại Đại mà về thì cháu bảo anh ta giữ bọn chúng lại. Đừng nói gì cả. Đợi ngày mai chú về sẽ phân xử. Nếu thằng Cần có đến, cũng không cần nói rõ. Xem ngày mai khi gặp chú. Nó sẽ nói thế nào?

Giả Chính nghe nói có lý, đành phải đi túc trực ở nha môn. Giả Liễn nhân lúc rỗi định về phòng, vừa đi vừa giận thầm. Vì việc dùng Giả Cần là do vợ mình, muốn trách vợ thì hiện vợ vẫn ốm đành phải tạm thời chịu nhịn.

Bọn người hầu cứ thế một truyền mười, truyền đến nhà trong. Bình Nhi biết trước, vội vàng nói với Phượng Thư. Phượng Thư hôm nọ bị khiếp sợ quá, ngủ không được, trong mình mỏi mệt sững sờ, đang nghĩ đến câu chuyện ở chùa Thiết Hạm. Nghe nói ở bên ngoài có người dán giấy nặc danh, chị ta giật nẩy mình hỏi

– Giấy dán nói việc gì?

Bình Nhi buột miệng trả lời, vì không để ý nên nói lầm

– Có gì quan trọng đâu. Chỉ là câu chuyện ở am Mạn Đầu đấy thôi.

Phượng Thư vốn lo lắng sẵn, nghe nói là câu chuyện ở am Mạn Đầu. Có tật giật mình, sợ quá, nói không ra lời, hỏa bốc mạnh, mắt hoa, ho sù sụ, khạc ra một cục máu. Bình Nhi hoảng hốt lên nói

– Ở am Thủy Nguyệt thì chẳng qua là việc bọn ni cô, đạo cô đấy thôi. Mợ làm gì mà hoảng lên thế?

Phượng Thư thấy nói là am Thủy Nguyệt, tinh thần mới trấn tĩnh liền nói

– Ái chà. Đồ ngu ngốc ở đâu! Thế thì am Thủy Nguyệt hay là am Mạn Đầu?

– Ban đầu tôi nghe lầm, nói là am Mạn Đầu. Sau mới vỡ lẽ không phải là am Mạn Đầu mà là am Thủy Nguyệt, nên vừa rồi tôi quen miệng nói lầm là am Mạn Đầu.

– Ta cũng biết là am Thủy Nguyệt. Chứ am Mạn Đầu thì can gì đến ta! Việc ở am Thủy Nguyệt nguyên là ta bảo cháu Cần trông nom, chắc hẳn nó hớt xén lương tháng của họ chứ gì?

– Tôi nghe hình như không phải là chuyện lương tháng mà là câu chuyện bẩn thỉu.

– Kệ xác nó! Cậu Hai đâu rồi?

– Nghe nói ông lớn nổi giận nên cậu Hai cũng phải ở luôn bên ấy. Tôi nghe câu chuyện rắc rối, có dặn bọn họ không được làm ầm lên. Không rõ các bà đã biết chưa. Lại nghe nói ông lớn sai ông Lại đi bất bọn con gái ấy rồi. Giờ để tôi ra ngoài nghe ngóng xem sao. Theo ý tôi mợ hiện ốm, đừng nên nghĩ đến việc

vớ vẩn của họ.

Đang nói thì Giả Liễn đi vào, Phượng Thư định hỏi nhưng thấy chồng sắc mặt hầm hầm, nên vờ làm như không biết.

Giả Liễn ăn cơm chưa xong thì Lai Vượng vào nói

– Ngoài ấy mời cậu.

Lại Đại đã về rồi.

Giả Liễn nói

– Thằng Cần có đến không?

– Có ạ.

– Anh đi ra nói với Lại Đại là ông lớn đi vắng, hãy đem bọn con gái ấy giữ tạm trong vườn đợi mai ông lớn về sẽ đưa vào cung. Chỉ bảo thằng Cần ở lại trong thư phòng chờ tôi.

Lai Vượng vâng lời đi ra.

Giả Cần vào thư phòng, thấy bọn người hầu thì thầm chỉ trỏ với nhau, chẳng biết họ nói gì. Xem tình hình này, Giả Cần thấy không phải trong cung gọi người, muốn hỏi thì lại không tiện, trong bụng nhờ vực, bỗng thấy Giả Liễn đi ra. Giả Cần hỏi thăm sức khỏe rồi buông tay đứng hầu, nói

– Không biết quý phi truyền gọi bọn con gái vào cung tức khắc có việc gì, làm chúng cháu phải chạy bở hơi tai. May hôm nay cháu lại đưa tiền tháng cho họ, còn chưa về liền cùng ông Lại đi về đây. Chắc chú đã biết.

– Tao biết thế nào được. Chỉ mày mới biết chứ!

Giả Cần không biết đầu đuôi ra sao cũng không dám hỏi nữa. Giả Liễn nói

– Việc mày làm giỏi thật? Ông đang giận đầy ruột đấy!

– Nào cháu có làm gì đâu. Tiền tháng này cũng phát đầy đủ; bọn con gái thì kinh kệ cũng đều thuộc cả.

Giả Liễn thấy nói không ngờ đến việc xảy ra, lại hàng ngày hay chung chạ cười đùa với nhau, liền thở dài một tiếng nói:

– Tao muốn tát cho mày một cái! Mày xem đây này?

Nói xong. Hắn rút cái giấy nặc danh ở trong ống giày vứt ra cho nó xem.

Giả Cần cầm xem xong, tái mặt đi, nói

– Ai làm thế này? Cháu có làm gì bậy bạ đâu mà họ giết cháu? Mỗi tháng cháu chỉ đưa tiền đi một lần. Đâu có những việc ấy? Nếu ông về, đánh hỏi cháu, thì cháu đến chết mất? Mẹ cháu mà biết lại càng đánh chết cháu.

Nói đến đó, hắn thấy không có ai, liền quỳ xuống, kêu xin

– Chú ơi? Chú cứu cháu với?

Hắn gục đầu lạy lia lịa, nước mắt chảy tràn trề. Giả Liễn

nghĩ thầm

– Chú mình rất ghét những chuyện này. Nếu hỏi ra mà có thật, thì chắc chú giận lắm. Việc này vở lở ra đã rất khó coi, lại làm cho đứa dán thư nặc danh càng đắc ý. Sau này việc nhà mình còn nhiều, chi bằng nhân khi chú đi vắng, mình cùng Lại Đại bàn bạc, cho qua quýt đi thì có thể yên ổn vô sự. Vả lại hiện nay chẳng có ai chứng kiến việc này cả.

Giả Liễn nghĩ vậy rồi nói

– Mày đừng có giấu tao nữa? Việc mày làm vụng trộm. Mày tưởng tao không biết à. Muốn vô sự thì khi ông có đánh hỏi. Mày phải nhất định cắn răng chối hết mới được. Đồ mặt dày kia! Dậy đi?

Nói xong, Giả Liễn sai người gọi Lại Đại. Một chốc, Lại

Đại đến. Giả Liễn đem chuyện ấy bàn với ông ta. Lại Đại nói

– Cậu Cần làm thật khó coi quá. Hôm nay lúc tôi đến am, thì bọn họ đang uống rượu. Câu chuyện viết trên thư nặc đanh nhất định là có.

Giả Liễn nói

– Thằng Cần đã nghe chưa? Không lẽ ông Lại cũng vu cho mày à?

Lúc đó.. Giả Cần mặt đỏ lên, không dám nói một lời. Giả Liễn lại phải nắm tay Lại Đại xin hộ

– Ông giúp nó một tí. Ông sẽ nói là tìm nó ở nhà đến. Ông đưa nó đi và nói là không gặp tôi. Đến mai ông thưa với ông lớn cũng không cần hỏi đến bọn con gái nữa. Chỉ gọi bà mối đến đem bán họ đi là xong. Lúc nào quý phi cần đến, chúng ta lại đi mua.

Lại Đại nghĩ bụng nếu sinh chuyện ra cũng vô ích. Chỉ thêm mang tiếng xấu, nên đành vâng lời.

Giả Liễn bảo Giả Cần

– Mày đi theo ông Lại, nghe ông ta bày vẽ cho. Rồi cứ thế mà làm.

– Giả Cần cúi đầu tạ ơn rồi theo Lại Đại đi ra, đến chỗ vắng người. Giả Cần lại sụp lạy Lại Đại. Lại Đại nói

– Cậu ơi cậu làm khó coi quá. Không biết mang tội với ai mới sinh ra chuyện thế này. Cậu nghĩ xem có ai thù oán gì cậu không.

Giả Cần nghĩ một lúc. Thân không có ai thù oán cả, đành phải tiu nghỉu đi theo Lại Đại.

1      Ngày xưa những người diễn kịch viết các tên vở vào cái hốt ngà đưa cho

người xem chấm vở nào là họ hát vở ấy.

2      Lấy tích Tần Trọng, một anh bán dầu, lấy được nàng Dao Cầm là một hoa khôi trong đám làng chơi.

3      “Tây bồi” là chừ ” Giả “. “Thảo cân” là chử Cầm. Tức là nói về Giả Cần.