Chương 114: Vương Hy Phượng trải qua cơn ảo nhớ lại Kim Lăng – Chân ứng Gia được đội ơn vua về chầu ngọc khuyết

Vương Hy Phượng trải qua cơn ảo nhớ lại Kim Lăng

Chân ứng Gia được đội ơn vua về chầu ngọc khuyết

Bảo Ngọc, Bảo Thoa nghe nói bệnh Phượng Thư nguy cấp vội vàng ngồi dậy. A hoàn cầm đèn chờ sẵn. Đang định đi ra, thì thấy bên Vương phu nhân sai người đến nói

– Mợ hai Liễn nguy lắm rồi, nhưng chưa tắt thở. Mợ và cậu hãy khoan sang. Bệnh mợ hai Liễn có phần kỳ quặc ; từ canh ba đến canh tư, đòi hỏi luôn miệng, đòi thuyền đòi kiệu, nói là để về Kim Lăng nhập vào cuốn sổ gì đấy. Mọi người không hiểu. Mợ ta cứ kêu van khóc lóc. Cậu hai Liễn chẳng biết làm thế nào, đành phải sai người đi bẻ thuyền và kiệu giấy. Thuyền và kiệu chưa về, mợ ta cứ thở hổn hển chờ. Bà lớn sai chúng tôi đến đây, nói cậu mợ chờ mợ ấy tắt thở rồi hãy sang.

Bảo Ngọc nói

– Thế cũng lạ thật? Chị ấy đi Kim Lăng làm gì?

Tập Nhân nói khẽ

– Không phải năm trước cậu đã thấy chiêm bao. Tôi còn nhớ cậu nói có những mấy cuốn sổ à? Phải chăng là mợ hai Liễn đi đến chỗ ấy?

Bảo Ngọc nghe xong, gật đầu nói

– Phải đấy! Đáng tiếc tôi không nhớ những lời ghi trong mấy cuốn sổ ấy nữa. Xem như thế thì người ta ai cũng có số cả. Nhưng không biết em Lâm thì đi chỗ nào? Bây giờ nghe chị nói, tôi hơi hiểu rồi. Nếu lại được thấy chiêm bao mấy lần nữa, thế nào tôi cũng xem cho kỹ, có lẽ chẳng phải bói cũng đã biết trước.

Tập Nhân nói

– Cậu lẩn thẩn thế tôi không thể nói chuyện được. Tôi ngẫu nhiên nhắc đến một câu, mà cậu đã cho là thật? Cậu có biết trước thì liệu còn cách gì nữa.

Bảo Ngọc nói

– Chỉ sợ không biết trước thôi, nếu biết trước thì tôi cũng không cần gì lo lắng hão cho các người!

Hai người đang nói chuyện, thì Bảo Thoa chạy đến hỏi

– Hai người nói gì đấy?

Em chính là ánh sáng của anh, vạn năm không bao giờ đổi thay, bây giờ và mãi mãi.

Người đàn ông đẹp trai lạnh lùng ném tờ chi phiếu vào mặt, yêu cầu cô kết hôn. Nhưng đằng sau sự lạnh lùng có 1 bí mật…

Shopee Sale: Top 10 thực phẩm chức năng bảo vệ sức khỏe cả gia đình – Giá sale đến 40%

Mang mối thù gia tộc, cô bắt đầu thân phận mới để gả cho con trai kẻ thù, nhưng tình cảm lại là bài toán không đoán được
Bảo Ngọc sợ chị ta tra hỏi, liền trả lời

– Đang bàn chuyện chị Phượng.

– Người ta sắp chết rồi. Các người cứ bàn chuyện chị ấy làm gì. Năm trước cậu cứ nói tôi nguyền rủa chị ấy, chứ quẻ thẻ thần phải ứng nghiệm đấy à?

Bảo Ngọc nghĩ một lát, rồi vỗ tay và nói

– Phải đấy? Xem như thế thì mợ có thể biết trước được. Tôi hỏi mợ có biết tương lai của tôi sẽ như thế nào không?

Bảo Thoa cười và nói

– Lại nói nhảm rồi, tôi chẳng qua cứ lời trên quẻ thẻ chị ấy xin mà nói bừa ra đấy thôi, thế mà cậu lại cho là thật. Cậu thật giống như chị Hai nhà tôi. Lúc cậu mất ngọc, chị ta đi nhờ Diệu Ngọc cầu tiên, tiên viết chữ ra, mọi người không hiểu. Khi

vầng người, chị ta còn nói với tôi. Diệu Ngọc biết trước như thế nào, tham thiền ngộ đạo như thế nào, bây giờ chính Diệu Ngọc mắc nạn lớn, mà bản thân cô ấy lại không biết? Thế lại cho là biết trước à? Ngay cả tôi ngẫu nhiên nói đúng việc của mợ Hai, thực ra thì làm sao biết số chị ấy như thế nào? Ngay cả số tôi, tôi cũng chẳng biết nữa là. Những việc như thế, vốn là chuyện hoang đường, tin làm sao được?

Bảo Ngọc nói

– Đừng nhắc chuyện chị ấy nữa, mợ chỉ nói chuyện em anh thôi. Từ khi nhà ta luôn luôn có việc, lãng quên việc của cô ta. Một việc lớn như thế. Sao bên nhà lại làm qua loa xong chuyện? Cũng không mời mọc bà con chúng bạn gì cả.

Bảo Thoa nói

– Cậu nói như thế lại viễn vông rồi. Bà con nhà chúng tôi, chỉ có nhà mình đây và nhà họ Vương là gần gũi. Nhà họ Vương hiện chẳng có ai là người đứng đắn, còn nhà mình thì mắc việc tang bà, nên cũng không mời ; chỉ có anh Liễn là còn lo liệu việc này việc khác. Bà con nơi khác cũng có một vài nhà. Cậu không sang làm sao mà biết. Kể ra số phận chị Hai nhà tôi cũng chẳng khác tôi mấy, từ khi hứa gả cho anh Hai tôi, mẹ tôi vốn định cưới cho anh ấy thật đường hoàng. Nhưng một là vì anh Cả tôi đang bị giam, anh Hai cũng không chịu làm to; hai là vì việc nhà mình đây; ba là vì chị Hai ở bên nhà bà Cả khổ quá, lại bị khám xét, bà Cả hết sức cay nghiệt, chị ấy không thể chịu nổi. Vì thế tôi nói với mẹ tôi chịu làm qua loa bôi bác mà cưới về cho xong. Tôi xem chị Hai tôi giờ đây thật là yên tâm vui vẻ, hiếu kính mẹ tôi, so với dâu thật còn hơn gấp mười, đối đãi với anh Hai cũng giữ hết đạo làm vợ. Lại rất thân mật với chị Hương Lăng. Khi anh Hai tôi đi vắng, hai người ăn ở vui vẻ hòa thuận, tuy trong nhà có phần túng thiếu, nhưng gần đây mẹ tôi có phần ung dung hơn trước. Chỉ khi nào nghĩ đến anh Cả tôi là mẹ tôi không khỏi đau lòng. Anh Cả tôi cũng thường sai người về nhà lấy tiền tiêu, may nhờ anh Hai tính toán công nợ ở ngoài, lo tiền gởi cho. Tôi nghe nói có mấy ngôi nhà trong thành đã cầm đi rồi, còn lại một ngôi, bây giờ đang định dọn đến đấy ở.

Bảo Ngọc nói

– Tại sao lại định dọn đi? Ở chỗ này mợ qua lại cũng tiện, nếu dọn đi xa, mợ muốn đến phải mất một ngày.

Bảo Thoa nói

– Tuy nói là bà con, nhưng ai ở nhà nấy thì vẫn tiện hơn, lẽ nào lại ở nhà bà con suốt đời?

Bảo Ngọc còn định nói tại sao không nên dọn đi, thì thấy Vương phu nhân cho người đến nói

– Mợ hai Liễn đã mất. Tất cả mọi người đều qua bên ấy rồi. Mời cậu Hai và mợ Hai sang ngay.

Bảo Ngọc nghe nói, không nín được nữa, dẫm chân định khóc. Bảo Thoa cũng thương xót, lại sợ Bảo Ngọc thương tâm, liền nói

– Đừng khóc ở đây, sang bên ấy mà khóc luôn thể.

Rồi hai người đi một mạch đến nhà Phượng Thư, thì thấy có nhiều người đang đứng vây quanh mà khóc. Bảo Thoa tới nơi, thấy Phượng Thư chết rồi, đã đặt nằm trên giường, liền oà khóc to. Bảo Ngọc cũng nắm lấy tay Giả Liễn, khóc lóc thảm thiết. Giả Liễn lại khóc lóc lúc lâu. Bọn Bình Nhi thấy không có ai khuyên giải, đành phải cố nhịn đau thương mà tới khuyên. Mọi người đều thương khóc mãi.

Giả Liễn cuống quít sai người gọi Lại Đại đến, bảo ông ta lo liệu việc tang, còn mình thì thưa lại đầu đuôi với Giả Chính, rồi đi lo liệu công việc. Nhưng vì trong nhà thiếu thốn, nên việc gì cũng chật vật. Nhớ lại ngày thường Phượng Thư ăn ở quí hóa, hắn càng không sao cầm được nước mắt. Lại thấy Xảo Thư khóc lóc, chết đi sống lại, càng thêm thương tâm. Hắn khóc cho đến sáng, rồi sai người đi mời cậu cả là Vương Nhân đến.

Sau khi Vương Tử Đằng chết. Vương Tử Thắng lại là người bất tài. Vương Thân tha hồ càn dở làm cho bà con nội ngoại xích mích lẫn nhau. Nay nghe em gái chết, hắn ta đành phải chạy đến, khóc lóc một hồi. Thấy ở đấy mọi việc đều bôi bác qua loa, trong bụng hắn ta không bằng lòng, nói

– Em gái tôi ở nhà các người khó nhọc vất vả trông coi việc cửa việc nhà mấy năm nay, chẳng có điều gì sai lầm. Nhà các người cần phải tống táng cho ra trò mới phải. Tại sao đến giờ mà mọi việc vẫn chưa đầy đủ?

Giả Liễn vốn không bằng lòng với Vương Nhân, thấy hắn nói những câu nhảm nhí. Biết hắn chẳng hiểu gì, nên cũng không để ý. Vương Nhân liền gọi cháu ngoại là Xảo Thư lại, và nói

– Lúc mẹ cháu còn sống, ăn ở không chu đáo, chỉ biết một mực chiều chuộng bà mà khinh thường bọn chúng ta. Cháu này! Cháu đã lớn rồi. Cháu thấy cậu xưa nay có nhờ vả gì nhà cháu không? Bây giờ mẹ cháu chết rồi. Mọi việc cháu phải nghe lời cậu. Bà con bên ngoại nhà cháu chỉ có cậu đây và cậu Hai của cháu thôi. Cha cháu người như thế nào, cậu cũng biết cả. Anh ta chỉ có kính trọng người khác thôi. Năm nọ dì Vưu nào đó chết đi, cậu tuy không ở Kinh nhưng nghe nói cha cháu mất khá nhiều tiền. Nay mẹ cháu chết, cha cháu lại lo liệu qua loa như thế. Cháu cũng không biết khuyên cha cháu à?

Xảo Thư nói

– Cha cháu cũng muốn lo liệu cho chu đáo. Nhưng bây giờ không bì với trước được. Hiện giờ trong tay không có tiền, mọi việc đều phải dè sẻn ít nhiều.

– Đồ đạc của nhà cháu còn ít à?

– Năm trước bị tịch thu hết, còn đâu nữa?

– Cháu cũng nói như thế à? Cậu nghe nói cụ bà lại cho một số đồ vật, cháu nên đưa ra mới phải.

Xảo Thư nói cha mình đã dùng đi rồi thì không tiện, nên chỉ chối là không biết. Vương Nhân liền nói

– Chà? Tao biết rồi, chẳng qua mày muốn để dành sau này làm đồ hồi môn đấy thôi.

Xảo Thư nghe nói, không dám trả lời. Tức quá nghẹn ngào khóc lên. Bình Nhi giận quá nói

– Cậu có điều gì thì chờ cậu Hai chúng tôi vào hãy nói. Cô mới chừng ấy tuổi. đã hiểu cái gì?

Vương Nhân nói

– Bọn các người thì chỉ trông chờ cho mợ Hai chết đi, để dễ làm vương làm tướng! Tôi có đòi gì đâu. Lo liệu cho chu đáo là thể diện của các người đấy thôi. Nói xong, hắn hầm hầm ngồi xuống.

Xảo Thư trong bụng rất bực bội, nghĩ thầm

“Cha mình không phải người phụ bạc. Khi mẹ mình đang còn, cậu lấy không biết bao nhiêu là đồ vật, thế mà bây giờ lại chối trơn đi như thế.” Vì thế, cô ta không trọng cậu lắm. Ngờ đâu Vương Nhân trong bụng suy nghĩ, em gái mình dành dụm không biết bao nhiêu, tuy nhà bị khám xét, nhưng tiền bạc có phải ít đâu. Chắc là sợ mình đến vòi vĩnh nên bày trò nói như thế. Con bé kia cũng không giúp mình được gì. Từ đó Vương Nhân cũng ghét cả Xảo Thư. Giả Liễn chẳng hề biết gì, chỉ loay hoay kiếm tiền để tiêu. Mọi việc ở ngoài, bảo Lại Đại lo liệu ; bên trong cũng cần tiêu khá nhiều tiền, không thể một lúc kiếm đâu ra được. Bình Nhi biết hắn hoảng hốt liền can

– Cậu Hai cũng không nên hủy hoại đến thân thể lắm?

– Còn thân với thể gì! Hiện giờ tiền tiêu hàng ngày không còn nữa, việc này biết lo liệu làm sao? Thế mà lại có hạng người lẩn thẩn cứ ở đây quấy rầy. Chị cứ nghĩ xem còn cách gì nữa?

– Cậu cũng đừng hoảng lên, nếu không có tiền tiêu thì tôi còn ít nhiều đồ vật. May mà năm trước không bị tịch thu, cậu cần thì đem cầm đi mà tiêu.

Giả Liễn nghe nói, nghĩ bụng, thế thật may quá, liền cười và nói

– Thế thì càng tốt, đỡ cho tôi khỏi phải chạy vay nơi này nơi khá. Chờ khi nào tôi kiếm được tiền sẽ trả lại cho chị.

– Của tôi cũng là của mợ cho, trả với vay gì! Cốt làm sao lo liệu việc này cho dễ coi một chút là được.

Giả Liễn rất là cảm kích, liền đem đồ vật của chị ta cầm đi mà tiêu. Mọi việc cùng bàn hạc với chị ta mà làm! Thu Đồng thấy vậy, trong bụng khó chịu, thường nói ra miệng

– Mợ Hai chết rồi. Con Bình muốn leo lên đấy? Tôi là người của ông lớn. Sao nó lại vượt cả tôi?

Bình Nhi cũng biết ý, nhưng cứ để mặc. Giả Liễn lúc đó biết rõ, nên càng ghét Thu Đồng, gặp việc gì buồn bực thì đem Thu Đồng ra hành hạ. Hình phu nhân biết thế, lại bảo Giả Liễn không tốt. Giả Liễn đành phải chịu nhịn.

Linh cữu của Phượng Thư để hắn mười ngày rồi mới đưa đi. Giả Chính chịu tang mẹ, nên chỉ ở thư phòng bên ngoài. Lúc bấy giờ bọn môn khách đều dần dần từ biệt đi nơi khác, chỉ có Trình Nhật Hưng còn ở đấy, thường ngồi tiếp chuyện. Giả Chính nói

– Vận nhà không may. Chết luôn mấy người, ông Cả và anh Trân lại còn ở ngoài. Cảnh nhà càng ngày càng gặp khó khăn. Ruộng đất ở ngoài trại Đông cũng chẳng biết ra làm sao. Thật là gay?

Trình Nhật Hưng nói

– Tôi ở đây đã mấy năm, cũng biết người nhà ở phủ đây không ai là không tư túi. Năm nào họ cũng bòn của về nhà thì cố nhiên ở phủ đây càng ngày càng thiếu hụt. Lại thêm phải chi tiêu cho bên ông Cả và ông Trân nữa. Bên ngoài, còn có ít nhiều nợ, vừa rồi lại mất trộm một ít, trông mong các nha môn truy lùng đám cướp để lấy lại của, là việc rất khó. Ông lớn nếu muốn cho việc nhà ổn định, chỉ có cách gọi hết những người coi việc nhà đến, sai một người tâm phúc tra xét rõ ràng các nơi; ai nên cho về thì cho về, ai nên ở lại thì ở lại ; chỗ nào bị thiếu hụt mất mát, thì bắt những người đã làm trước phải bồi thường. Như thế mới được rõ ràng. Cái vườn lớn kia, không ai dám tấu, nhưng trong đó có nhiều món lợi, thế mà lại không cắt người coi sóc. Mấy năm trước đây khi ông lớn đi vắng, bọn họ bịa đặt ra ma quỷ làm cho không ai dám vào vườn. Đó đều do bọn người nhà gây chuyện. Lúc này nên tra xét lại bọn tôi tớ, tốt thì dùng, không tốt thì đuổi đi. Thế mới là hợp lý.

Giả Chính gật đầu nói

– Tiên sinh cũng chưa biết hết! Chẳng cần nói người nhà, ngay cả cháu mình, cũng không thể tin cậy được! Nếu bảo tôi tra xét lấy thì làm thế nào mà việc gì cũng tai nghe mắt thấy được hết? Vả lại tôi lại đang có tang, không có thể trông nom được

những việc ấy. Tôi xưa nay lại không hay xem xét việc nhà. Cái gì có, cái gì không, tôi cũng không hề biết đến.

– Ông lớn là người nhân đức, nếu như ở nhà khác mà gặp tình cảnh thế này, dầu cho có túng thiếu đi nữa, năm năm mười năm cũng còn không sợ. Chỉ bắt bọn quản gia mà lấy cũng đủ. Tôi nghe nói người nhà của ông còn có người làm tri huyện kia mà.

– Tiêu tiền của bọn người nhà thì còn ra gì nữa. Chỉ có cách tự mình biết tiết kiệm ít nhiều là hơn. Những sản nghiệp trong sổ sách, nếu mà có thật thì còn khá, chỉ sợ có danh mà không có thực thôi.

– Ông lớn nói rất đúng. Nhưng ông lớn có hiểu vì sao vãn sinh này lại nói ông cần phải xem xét không?

– Chắc là tiên sinh có nghe được việc gì chăng?

– Tôi có biết ít nhiều về mánh khóe của những người coi việc ở đây nhưng cũng không dám nói ra.

Giả Chính nghe nói, biết ngay là trong lời nói ấy thế nào cũng có duyên cớ, liền than thở

– Nhà chúng tôi từ cha ông tới nay, đều là nhân hậu, chưa hề đối đãi khắc bạc với người dưới. Tôi xem giờ đây bọn người ấy mỗi ngày mỗi khác! Đến ngay tôi mà chúng vẫn lên mặt chủ nhà, thực làm cho người ta chê cười!

Hai người đang nói chuyện thì người canh cửa vào thưa

– Cụ Chân ở Giang Nam đã đến.

Giả Chính hỏi

– Cụ Chân đến kinh làm gì?

– Con đã hỏi rồi. Nghe nói là nhờ ơn Hoàng thượng cho phục chức.

– Không cần nói nữa. Mày ra mời vào mau.

Người kia đi ra, mời vào ông Chân tức là cha Chân Báo Ngọc, tên là Chân Ứng

Gia, tức là Hữu Trung, cũng người Kim Lăng, và là con cháu nhà công thần. Ông ta vốn có bà con với phủ Giả. Xưa nay vẫn thường đi lại. Năm trước vì phạm lỗi, bị cách chức, bị tịch thu gia sản. Nay gặp lúc hoàng thượng tưởng nhớ đến công thần, trả lại chức thế tập và gọi vào kinh bệ kiến. Ông ta biết Giả mẫu vừa mất, liền sắm sửa lễ vật, chọn ngày đến chỗ để linh cữu để viếng, vì thế đến nhà hỏi thăm trước.

Giả Chính có tang, không thể ra đón xa, chỉ đứng bên ngoài cửa thư phòng. Chân Ứng Gia vào gặp, vừa buồn vừa vui. Vì trong lúc có tang, Giả Chính không tiện hành lễ, nên hai người cầm tay nhau nói mấy câu chuyện xa cách tưởng nhớ, rồi đôi bên khách chủ cùng ngồi. Dâng trà xong, hai bên lại nói về chuyện sau khi xa cách. Giả Chính hỏi

– Ông vào bệ kiến bao giờ?

– Hôm trước.

– Chúa thượng đã có ơn hậu, chắc là có chỉ dụ khoan hồng.

– Ơn chúa thượng thật là cao hơn trời, có ban khá nhiều chỉ ý.

– Có chỉ ý gì hay?

– Gần đây bọn giặc ở đất Việt lăng loàn. Một dãy ven biển, nhân dân không yên. Chúa thượng đã sai An Quốc công đi đánh dẹp. Biết tôi quen thuộc nơi này, nên chúa thượng sai tôi qua đó vỗ yên dân chúng. Nhưng phải lên đường ngay. Hôm qua nghe nói cụ bà quy tiên, tôi kính cẩn sắm nén hương đến trước linh vị người cúng viếng, đặng tỏ chút lòng thành.

Giả Chính vội vàng khấu đầu bái tạ, và nói

– Ông đi lần này, chắc là trên thỏa lòng thánh thượng, dưới yên ổn nhân dân. Công lao rất lớn chính là ở chuyến đi này. Mắt tôi không được nhìn thấy tài cao. Xin chờ nghe tin báo tiệp. Quan trấn hải thống chế hiện nay là thông gia nhà tôi. Thế nào

cũng nhờ ông để ý giúp đỡ.

– Ông với quan thống chế bà con thế nào?

– Năm trước, lúc tôi nhậm chức lương đạo tỉnh Giang Tây, có gả con gái cho quan thống chế. Chúng kết hôn đã ba năm rồi. Vì công việc miền biển chưa xong, sau đó bọn giặc biển lại nhóm họp làm loạn. cho nên tin tức không thông. Tôi rất nhớ cháu. Chờ khi nào việc vỗ yên dân chúng xong. Xin ông tiện dịp qua thăm cháu một chút. Tôi xin viết vài chữ nhờ người nhà của ông đưa đi luôn thể. Tôi rất lấy làm cảm kích!

– Ai lại không thương cảm. Tôi cũng đang có việc muốn nhờ ông. Vừa rồi đội ơn thánh thượng triệu vào kinh, vì cháu còn trẻ tuổi, trong nhà lại thiếu người, nên phải đem cả gia quyến cùng vào kinh. Tôi vì lệnh trên gấp rút, nên phải đi luôn cả đêm ngày để đến trước. Gia quyến còn đi chậm lại sau. Ít hôm nữa mới tới kinh. Tôi vâng chỉ ra đi, không dám ở lại lâu. Sau này gia quyến của tôi tới kinh, thế nào cũng đến tôn phủ đây. Và chắc sẽ bảo cháu tới hầu. Nếu cháu có thể dạy bảo được thì gặp nơi nào có thể kết hôn, xin ông lưu ý cho, tôi rất lấy làm cảm kích.

Giả Chính đều vâng lời.

Chân Ứng Gia lại nói mấy câu chuyện nữa rồi định đứng dậy ra về, và nói

– Ngày mai tôi sẽ xin gặp lại ở ngoài thành.

Giả Chính thấy ông ta công việc vội vàng, liệu chừng không thể ngồi lâu được nữa, đành phải tiễn khỏi thư phòng. Giả Liễn và Bảo Ngọc đã chờ sẵn ở đấy để tiễn thay. Nhưng vì Giả Chính không gọi, nên chưa dám vào. Khi Chân Ứng Gia đi ra, hai người tới hỏi thăm sức khỏe. Ứng Gia chợt thấy Bảo Ngọc, hết sức sửng sốt, nghĩ bụng

“Anh này tại sao lại giống hệt Bảo Ngọc nhà mình, chỉ có khác là mặt đồ trắng thôi.” Ông ta liền hỏi

– Bà con thân thiết, lâu ngày không gặp nhau. Các cậu đây tôi đều không nhận ra ai được nữa cả.

Giả Chính vội vàng chỉ Giả Liễn mà nói

– Đây là cháu Hai Liễn. Con anh Xá nhà tôi.

Lại chỉ Bảo Ngọc mà nói

– Đây là cháu thứ hai của tôi, tên gọi là Bảo Ngọc.

Ứng Gia vỗ tay và nói

– Lạ thật! Lúc tôi ở nhà nghe nói ông có cậu con quý. Khi đẻ ngậm hòn ngọc, tên là Bảo Ngọc. Vì là trùng tên với thằng cháu nhà tôi, nên trong bụng tôi rất lấy làm lạ. Sau nghĩ việc ấy cũng thường, nên không để ý. Không ngờ hôm nay gặp mặt, chẳng những diện mạo giống nhau, mà bộ điệu đi đứng cũng hệt nhau, thì càng lạ quá!

Ứng Gia lại hỏi tuổi Bảo Ngọc, và nói

– Cháu nhà tôi kém cậu em đây một tuổi.

Giả Chính lại nhắc đến chuyện năm trước bên quý phủ tiến cử Bao Dũng, và đã hỏi đến việc cậu em bên nhà cùng thằng cháu đây trùng tên. Ứng Gia vì để ý vào Bảo Ngọc, nên cũng không kịp hỏi Bao Dũng hay dở như thế nào, cứ nói luôn miệng

– Thật là lạ lùng! Rồi ông ta cầm tay Bảo Ngọc, ngỏ ý ân cần. Nhưng lại sợ An Quốc công khởi hành rất gấp, cần phải sắm sửa để đi xa, nên đành miễn cưỡng chia tay. Giả Liễn và Bảo Ngọc tiễn chân. Dọc đường, ông ta lại hỏi Bảo Ngọc mấy câu rồi sau đó mới lên xe mà đi. Giả Liễn và Bảo Ngọc trở vào gặp Giả Chính thuật lại những chuyện Ứng Gia vừa hỏi. Giả Chính bảo hai người về nhà.

Giả Liễn lại xoay xở để cho xong số tiền tiêu về đám tang Phượng Thư.

Bảo Ngọc về phòng mình, nói chuyện với Bảo Thoa

– Anh Chân Bảo Ngọc mà ta thường nhắc đến, tôi cứ nghĩ là không thể gặp được. Hôm nay lại gặp bố anh ta rồi. Nghe ông ta nói ít ngày nữa Chân Bảo Ngọc cũng lên kinh, và sẽ đến chào cha. Ông ta cũng nói Chân Bảo Ngọc giống hệt tôi, tôi vẫn không tin. Nếu hôm sau anh ta đến nhà mình, các chị đến xem có thật giống tôi không?

Bảo Thoa nói

– Ái chà! Cậu nói rõ vớ vẩn! Người con trai nào giống mình cậu cũng bàn tán, lại bảo chúng tôi ù lì xem mặt nữa kia!

Bảo Ngọc nghe nói, biết mình lỡ lời, đỏ mặt, định tìm lời phân giải.

Chương 115: Tri lời thiên lệnh, Tích Xuân thề vẫn giữ chí xưa – Tên người dù giống nhau, Bảo Ngọc không coi là tri kỷ

Tri lời thiên lệnh, Tích Xuân thề vẫn giữ chí xưa

Tên người dù giống nhau, Bảo Ngọc không coi là tri kỷ

Bảo Ngọc biết mình lỡ lời, bị Bảo Thoa bẻ lại, đang tìm cách lấp liếm. Bỗng thấy Thu Vân đến thưa

– Ông lớn ở nhà ngoài gọi cậu đấy.

Bảo Ngọc vội vã đi ngay đến chỗ Giả Chính. Giả Chính nói

– Ta gọi mầy không có việc gì khác là hiện mầy đang có tang, không thể đến trường học, vậy ở nhà mầy phải cố chăm lo ôn lại bài vở. Nhân dịp này ta rỗi rãi, cứ vài ba ngày, mầy làm vài bài văn đưa tới, ta xem mầy học hành có tấn tới không.

Bảo Ngọc đành phải vâng lời. Giả Chính lại nói

– Tao cũng bảo em Hoàn và cháu Lan phải ôn tập bài vở. Nếu bài vở của mầy mà kém chúng nó thì thật không ra thể thống gì.

Bảo Ngọc không dám nói, chỉ dạ một tiếng, đứng yên.

Giả Chính bảo

– Thôi, cho về.

Bảo Ngọc lui ra, vừa gặp bọn Lại Đại đem sổ đến trình. Bảo Ngọc chạy một mạch về phòng, Bảo Thoa hỏi lại, biết rõ là Giả Chính bắt anh ta làm bài, trong lòng cũng mừng. Riêng Bảo Ngọc không thích nhưng cũng không dám lười biếng. Đang định ngồi một lúc để cho tâm hồn thư thái, bỗng thấy hai ni cô ở am Địa Tạng đến. Trông thấy Bảo Thoa, hai ni cô liền nói

– Xin đến chào mợ Hai.

Bảo Thoa ra vẻ thờ ơ nói

– Hai cô vẫn mạnh khỏe chứ?

Rồi gọi người hầu pha trà cho các sư phụ uống, Bảo Ngọc cũng muốn bắt chuyện với các ni cô, nhưng thấy Bảo Thoa có vẻ chán ngấy bọn họ nên cũng không tiện xen vào. Các ni cô thấy Bảo Thoa ra chiều lạnh nhạt, cũng không ngồi lâu, cáo từ xin về.

Bảo Thoa nói

– Ngồi chơi lúc nữa.

– Chúng tôi bấy lâu bận việc công đức ở chùa Thiết Hạm nên không đến thăm các bà và các mợ được. Hôm nay đến hầu bà và mợ rồi phải đến thăm cô Tư nữa.

Bảo Thoa gật đầu, để họ đi. Đến phòng Tích Xuân, các ni cô trông thấy Thái Bình liền hỏi

– Cô ở đâu?

– Đừng nhắc đến nữa. Cô tôi mấy hôm nay chẳng thiết ăn uống gì cả, chỉ nằm một chỗ.

– Sao thế?

– Nói ra thì dài lắm. Các cô vào thăm, có lẽ cô tôi sẽ nói chuyện đấy.

Tích Xuân nghe tiếng, vội ngồi dậy hỏi

– Hai cô vẫn khỏe mạnh đấy chứ? Gần đây thấy nhà chúng tôi sa sút, chắc các cô không đến nữa?

– A di đà phật? Dù có cho hay không thì cũng vẫn là thí chủ. Đó là không nói chúng tôi tu ở trong am nhà ta, chịu nhiều ơn huệ của cụ. Nay nhân việc tang của cụ, chúng tôi đã gặp đủ các bà và các mợ, chỉ còn thiếu cô thôi, nên nhớ cô, hôm nay chúng tôi cốt đến thăm cô đấy.

Tích Xuân nhân tiện hỏi thăm các cô tu trong am Thủy Nguyệt. Các ni cô nói

– Trong am có xảy ra chút việc không hay, nên lâu nay không cho người ngoài ra vào.

Đoạn họ lại hỏi Tích Xuân

– Hôm trước nghe nói sư phụ Diệu Ngọc ở am Lũng Thúy đã đi theo người ta phải không?

– Câu nói ấy ở đâu ra thế? Ai nói coi chừng sẽ bị cắt lưỡi đấy? Người ta bị kẻ cướp bắt đi, sao lại nói bậy như vậy?

– Sư phụ Diệu Ngọc là người kỳ quặc, chúng tôi sợ cô ta bày đặt ra thôi. Trước mặt cô, nói ra thì không tiện, chứ cô ta có phải như bọn quê mùa chúng tôi đâu. Chúng tôi chỉ biết tụng kinh niệm Phật, sám hối cho người khác, và cũng tu lấy thiện quả cho mình.

– Như thế nào là thiện quả?

– Những người ăn ở phúc đức như nhà ta đây thì không kể, còn các nhà khác thì dù là mệnh phụ, tiểu thư cũng khó lòng giữ trọn vinh hoa suốt đời. Đến lúc gặp tai nạn, sẽ không tài nào cứu vớt được. Chỉ có đức Phật Quan âm đại từ đại bi thấy người khổ nạn mới rủ lòng từ bi ớm phương cứu giúp. Vì thế xưa nay người ta vẫn gọi bà là đức Phật Quan âm đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn. Chúng tôi là người tu hành, so với các bậc phu nhân, tiểu thư thì chịu khổ nhiều hơn, nhưng lại ít gặp tai nạn. Dù không được thành Phật thành tiên, nhưng cũng cố tu để kiếp sau họa may làm con trai. Như thế đã là phúc rồi, không đến nỗi như cái kiếp con gái bây giờ, bao nhiêu nỗi uất ức lo buồn, đều không thể nói ra được. Thưa cô, cô còn chưa biết hay sao? Dù là bậc tiểu thư đi nữa, nhưng đã lấy chồng thì suốt đời chỉ biết theo người ta mà thôi. Nhưng đã tu thì phải tu cho đứng đắn. Sư phụ Diệu Ngọc cứ cho mình tài giỏi hơn chúng tôi, cứ chê bọn chúng tôi là tục. Biết đâu có tục mới có “duyên lành”. Còn mình, rốt cuộc lại gặp phải điều khổ lớn!

Tích Xuân nghe các sư cô nói rất hợp với ý của mình, nên cũng không ngại có bọn a hoàn ở đó, kể chuyện Vưu thị đối xử với mình thế nào. Hôm trước mình ở lại coi nhà trong lúc đám tang như thế nào, đoạn chỉ món tóc trên đầu, nói

– Các cô xem tôi còn luyến tiếc cái hố lửa này không? Tôi rắp tâm từ lâu, chỉ vì chưa biết tìm ra con đường nào đó thôi.

Các ni cô nghe vậy, giả bộ làm kinh hoảng

– Cô đừng nói thế chứ! Mợ Cả Trân mà nghe thấy thì nhất định mắng chúng tôi chết mất và sẽ đuổi chúng tôi ra khỏi am đấy. Cô là người phẩm cách như thế, gia đình như thế, ngày sau lấy chồng sẽ suất đời hưởng vinh hoa phú quý…

Tích Xuân không đợi họ nói hết lời, mặt đỏ lên, bảo

– Chị cả Trân đuổi được các cô. Tôi lại không đuổi được các cô hay sao?

Các ni cô biết Tích Xuân một lòng muốn đi tu, liền tìm lời nói khích

– Chúng tôi lỡ lời, xin cô đừng chấp. Các bà và các mợ đời nào lại chiều theo ý muốn của cô? Lại xảy ra chuyện lôi thôi thì thật không ra làm sao. Chúng tôi nói vậy cũng là vì cô đấy.

Tích Xuân nói

– Việc này chờ xem sao đã.

Thấy câu chuyện không hay. Bọn Thái Bình liền đưa mắt ra hiệu. Họ hiểu ý, cũng sợ, nên không dám gợi chuyện, liền cáo từ ra về.

Tích Xuân cũng không mời lại, chỉ cười nhạt, nói

– Xem chừng trong thiên hạ chỉ có một cái am Địa Tạng của các cô hay sao?

Các in cô không dám trả lời. Thấy vậy. Thái Bình sợ mang lỗi, liền đến trình với Vưu thị

– CôTư khăng khăng đòi cắt tóc đi tu. Mấy hôm nay không phải cô ấy đau ốm đâu mà chỉ vì than thân tủi phận đấy thôi. Mợ nên đề phòng, kẻo xảy ra việc rồi lại đổ tội cho chúng cháu.

Vưu thị nói

– Lẽ nào cô ấy lại muốn đi tu. Chỉ vì cậu nhà đi vắng nên cô ấy cố ý làm ra thế, để tỏ ra chẳng ăn ở được với ta. Thôi thì cứ mặc cô ấy!

Bọn Thái Bình không biết làm thế nào, đành chỉ tìm lời khuyên giải. Không ngờ Tích Xuân vẫn không chịu ăn uống gì, chỉ nói đến việc cắt tóc đi tu. Bọn Thái Bình không thể làm thinh, đành phải đi trình các nơi. Hình phu nhân và Vương phu nhân cũng khuyên can nhiều lần, nhưng Tích Xuân vẫn một mực không nghe. Hai người đang định trình với Giả Chính, bỗng bên ngoài có tin truyền vào

– Bà lớn họ Chân dẫn công tử Bảo Ngọc đến.

Mọi người vội vàng ra đón, mời bà Chân vào phòng Vương phu nhân. Hai bên chào hỏi, hàn huyên. Vương phu nhân sực nhớ người ta nói Bảo Ngọc giống hệt con mình nên mới mời anh ta vào để xem mặt. A hoàn đi ra một lúc trở lại nói

– Cậu Chân đang ở thư phòng hầu chuyện ông lớn. Ông lớn rất vừa lòng nên có sai người đến mời cậu Hai, cậu Ba và cả anh Lan cũng ra ngoài ấy ăn cơm. Ăn xong, cậu Chân sẽ xin vào hầu. Sau đó trong nhà cũng dọn cơm ăn.

Số là Giả Chính trông thấy diện mạo của Chân Bảo Ngọc giống hệt con mình. Khi hỏi đến văn chương, anh ta đối đáp như nước chảy, nên trong lòng rất là yêu mến, bèn cho gọi bọn Bảo Ngọc ra cốt để khuyên răn họ. Đồng thời, cũng muốn nhân đó so sánh giữa hai người xem sao. Bảo Ngọc vâng lời, mặc bộ đồ trắng, dẫn em và cháu đi ra. Trông thấy Chân Bảo Ngọc, Giả Bảo Ngọc thân mật như bạn cũ. Chân Bảo Ngọc cũng tưởng chừng như mình đã gặp Giả Bảo Ngọc ở đâu rồi. Hai chào hỏi nhau xong. Giả Hoàn và Giả Lan cũng đến chào. Giả Chính trải chiếu ngồi dưới đất 1, muốn mời Chân Bảo Ngọc ngồi trên ghế, nhưng anh ta là bậc con, đời nào dám ngồi, liền trải nệm ra ngồi giữa đất. Nay Bảo Ngọc đến, nhất định không thể ngồi chung với Giả Chính được. Chân Bảo Ngọc lại là hàng em, càng không thể để Giả Bảo Ngọc cứ đứng mãi đấy. Giả Chính thấy không tiện, chuyện trò vài câu rồi đứng dậy, bảo người nhà dọn cơm và nói

– Tôi xin lỗi để các em ngồi tiếp. Anh em nói chuyện với nhau. Mong cậu dạy bảo cho.

Chân Bảo Ngọc khiêm tốn từ tạ

– Xin bác cho tùy tiện. Chính cháu cũng muốn học hỏi các anh đây!

Giả Chính đáp lại vài lời rồi đi vào thư phòng. Chân Bảo Ngọc muốn tiễn ra cửa. Giả Chính ngăn lại. Bọn Bảo Ngọc ra đứng ngang ngưỡng cửa thư phòng đợi Giả Chính đi rồi mới trở vào mời Chân Bảo Ngọc ngồi. Hai bên nói những lời khách sáo một lúc. Đại khái

“bấy lâu nghe tiếng. vẫn mong gặp mặt” v. v.

Giả Bảo Ngọc gặp Chân Bảo Ngọc liền nhớ lại cuộc gặp gỡ trong giấc mộng khi trước. Lại vốn biết Chân Bảo Ngọc là người như thế nào, nên chắc rằng anh ta sẽ cùng một ý nghĩ như mình, và nghĩ rằng mình đã gặp được người tri kỷ. Nhưng vì mới gặp nhau lần đầu, không thể ăn nói vội vàng, lại có Giả Hoàn, Giả Lan ngồi đó, nên Bảo Ngọc đành phải hết lời khen ngợi

– Nghe tiếng anh đã lâu, chưa có dịp được gần. Hôm nay gặp mặt, trông anh thật là hạng thần tiên giáng thế!

Chân Bảo Ngọc thường ngày cũng đã biết Giả Bảo Ngọc là người như thế nào. Hôm nay gặp mặt, quả là không sai, nghĩ bụng

“Anh này chỉ có thể cùng chung học, chứ không thể cùng đi một đạo với mình. Anh ta không những trùng tên mà diện mạo lại như nhau. Âu cũng là linh hồn cũ trên hòn đá “tam sinh” đây mà.

Nay ta có hiểu biết ít nhiều lý lẽ, sao không đưa ra giảng giải cho anh ấy nghe. Nhưng vì mới gặp lần đầu, chưa biết anh ấy có suy nghĩ như mình hay không, nên phải để thư thả đã.”

Chân Bảo Ngọc nói

– Tài danh của anh, em đã biết từ lâu. Anh thực là học thanh nhã, mười người mới có một. Còn em đây chỉ là hạng ngu dại, tầm thường, thế mà lại được trùng tên với anh, em cảm thấy đã làm nhơ bẩn đến cái tên Bảo Ngọc ấy.

Giả Bảo Ngọc nghe xong, nghĩ bụng

” anh này quả cùng một ý nghĩ với mình. Nhưng anh ta với mình đều là con trai, có đâu được trong sạch như đám con gái. Vì sao anh ta lại xem mình như con gái?” Nghĩ vậy, rồi đáp

 Anh quá lời khen. Tôi đâu dám nhận. Tôi là hạng rất ngu, rất bẩn, chẳng qua chỉ là một hòn đá thô kệch đó thôi. Tôi dám đâu sánh với anh có đủ phẩm cách thanh cao, thực là người xứng đáng với hai chữ ấy.

Chân Bảo Ngọc nói

– Hồi còn bé, em chưa biết cân nhắc, cứ cho mình có thể mài dũa được. Không ngờ vận nhà gặp cơn sa sút, nên vài năm nay em lại càng kém xa ngói gạch. Tuy em không dám khoe đã từng trải hết mùi cam khổ. Nhưng về nhân tình thế thái thì em cũng đã hiểu được ít nhiều. Anh là con nhà phú quý, mặc đẹp ăn sang. Việc gì cũng được vừa lòng, chắc rằng áng văn chương cũng như tài kinh bang tế thế của anh phải hơn hẳn mọi người. Vì vậy bác mới thương yêu, coi như hòn ngọc quý. Cho nên vừa rồi em bảo anh thật xứng đáng với cái tên Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc lắng nghe, thấy trong lời lẽ chẳng khác gì khuôn sáo của bọn “mọt ăn lộc nước”, nên đương nghĩ cách trả đũa.

Giả Hoàn chưa được nói chuyện với Chân Bảo Ngọc, trong bụng thấy ấm ức. Trái lại, Giả Lan nghe vậy, thấy rất hợp ý mình, liền đỡ lời

– Anh khiêm tốn quá đấy thôi. Văn chương cũng như tài kinh bang tế thế tất phải do rèn luyện mà ra mới là thực học. Cháu còn nhỏ tuổi, chưa hiểu rõ văn chương là gì. Nhưng cứ nghiền ngẫm thì thấy thú vị lắm. Cho hay danh tiếng còn quý gấp trăm lần cái trò ăn ngon mặc đẹp.

Giả Bảo Ngọc nghe vậy càng không thích, nghĩ rằng

“không biết thằng bé này học cái lối gàn dở ấy từ bao giờ?” Và nói

– Tôi nghe anh nói ghét bọn tục, chắc trong lòng anh thế nào cũng có những ý nghĩ khác người. Hôm nay may mắn được tiếp mong anh dạy bảo cho những điều “siêu phàm nhập thánh”, để từ nay em rửa sạch được lòng trần, mở rộng được tầm con mắt. Không ngại anh lại cho em là một phường ngu xuẩn, nên đã đem cái chuyện của bọn tục khách ra nói với em.

Chân Bảo Ngọc nghe vậy, trong bụng hiểu rằng

“anh ta biết rõ tính tình của mình lúc còn nhỏ nên mới ngờ mình giả dối. Thôi mình cứ nói thẳng, may ra anh ta sẽ là bạn tri âm của mình thì hay lắm. Nghĩ rồi nói

– Anh nói thật là sâu sắc. Từ bé em đã ghét cay ghét độc những câu khuôn sáo cũ rích ấy. Chỉ vì mỗi năm một lớn, thân phụ em lại về hưu, nhác tiếp khách, thường giao việc ấy cho em. Nhờ vậy, em gặp dược các bậc đại nhân, những vị đã làm rạng rỡ cha ông, danh tiếng lẫy lừng. Em lại thấy người ta viết sách viết văn, không ngoài chữ trung chữ hiếu. Bản thân mình có lập nên dược sự nghiệp đạo đức và văn chương mới khỏi uổng cái cơ hội được sinh ra trong thời vua thánh trị vì. Và cũng không phụ công ơn cha nuôi thầy dạy. Vì thế, bao nhiêu chuyện thoát phàm tục đi vào cõi thánh mơ tưởng hão huyền ngây ngô của em hồi bé dần dần thì vứt bỏ hết. Nay em cũng muốn đi tìm thầy hỏi bạn, dạy bảo cho mình khỏi bề ngu tối. May mắn được gặp anh, chắc rằng, anh sẽ hết lòng chỉ bảo giúp. Những câu em nói đây, thực quả không phải là những lời khách sáo dâu.

Giả Bảo Ngọc càng nghe càng phát ngấy, không tiện tỏ vẻ lạnh nhạt, đành phải nói đưa đẩy cho qua chuyện. May sao có người trong nhà ra nói

– Nếu các cậu xơi cơm rồi. Xin mời cậu Chân vào trong nhà chơi.

Bảo Ngọc nghe vậy, nhân tiện mời Chân Bảo Ngọc vào. Chân Bảo Ngọc đi trước, bọn Giả Bảo Ngọc theo sau vào chào Vương phu nhân. Giả Bảo Ngọc thấy có bà Chân ngồi trên liền đến chào. Giả Hoàn, Giả Lan cũng đến chào. Chân Bảo Ngọc đến chào Vương phu nhân. Lúc đó, hai bà mẹ cùng nhận mặt hai cậu con. Mặc dầu Giả Bảo Ngọc đã có vợ, nhưng Chân phu nhân nhiều tuổi, lại là bà con lâu đời, thấy Giả Bảo Ngọc mặt mày in hệt con mình, tự nhiên tỏ ra thân yêu vồn vã. Vương phu nhân càng không cần phải nói, cứ cầm tay Chân Bảo Ngọc hỏi hết chuyện này sang chuyện nọ và nhận thấy anh ta có phần chín chắn hơn con mình. Nhìn lại Giả Lan, mặt mày thanh tú, tuy không bằng hai chàng Bảo Ngọc, nhưng cũng không kém bao nhiêu. Riêng Giả Hoàn thì dáng người thô kệch, nên bà ta không khỏi có lòng thiên vị. Thấy hai chàng Bảo Ngọc cùng ở một nơi, mọi người đều đến nhìn rồi nói

– Lạ thật! Tên giống nhau đã đành, sao người lại in hệt như nhau? May mà Bảo Ngọc nhà ta mặc đồ tang, nếu hai người cũng ăn mặc như nhau thì khó mà phân biệt. Trong đám này có Tử Quyên nảy ra một ý nghĩ ngây ngô. Nhớ đến Đại Ngọc, chị ta nghĩ bụng

“Chỉ tiếc cô Lâm chết rồi! Nếu không, lấy Chân Bảo Ngọc chắc cô ta cũng bằng lòng đấy”. Bỗng nghe Chân phu nhân nói với Vương phu nhân

– Hôm trước nghe ông nhà tôi về bảo “Bảo Ngọc nhà tôi cũng đã lớn, muốn nhờ ông lớn bên này tìm hộ một nơi.”

Vương phu nhân vốn yêu Chân Bảo Ngọc, liền thuận miệng nói ngay

– Tôi cũng muốn làm mối cho cậu em bên nhà đấy. Nhà chúng tôi có bốn cô

“Ba cô đầu thì một cô đã chết. Một cô đã đi lấy chồng không nói làm gì. Còn cô em gái anh cả Trân chúng tôi lại kém những mấy tuổi, e cũng không đẹp đôi. Chỉ có hai cô em họ chị dâu Cả nhà tôi, vẻ người đoan chính. Cô Hai đã hứa gả cho người ta rồi, còn cô Ba thì thật là tốt đôi vừa lứa với cậu em đây. Để mai kia tôi làm mối cho. Nhưng chỉ hiềm nhà người ta hiện nay có phần sa sút.

Chân phu nhân nói

– Bà lớn khách sáo làm gì. Nhà chúng tôi hiện nay thì có cái gì kia chứ. Chỉ sợ người ta chê nghèo thôi.

Vương phu nhân nói

– Hiện nay quý phủ vâng mệnh ra làm quan, sau này không những sẽ trở lại như cũ mà chắc còn thịnh vượng hơn trước nhiều.

Chân phu nhân nói

– Được như lời bà lớn thì hay quá. Vậy nhờ bà lớn làm mối hộ cho.

Chân Bảo Ngọc thấy hai bà nói đến chuyện dạm vợ cho mình, liền cáo từ đi ra. Bọn Giả Bảo Ngọc cũng phải theo đến thư phòng. Thấy Giả Chính ở dấy, Chân Bảo Ngọc đứng lại nói chuyện mấy câu. Bỗng thấy người nhà họ Chân đến thưa với Chân Bảo Ngọc

– Bà sắp ra về, xin mời cậu đi ngay.

Chân Bảo Ngọc cáo từ đi ra. Giả Chính sai Bảo Ngọc, Giả Hoàn và Giả lan cùng tiễn ra ngoài. Từ hôm được gặp thân phụ Chân Bảo Ngọc. Giả Bảo Ngọc biết rằng Chân Bảo Ngọc sắp vào kinh nên ngày đêm mong đợi. Nay được gặp mặt, trong lòng khấp khởi, tưởng sẽ gặp người tri kỷ. Không ngờ nói chuyện với nhau hồi lâu, vẫn thấy loạc choạc. Rồi Bảo Ngọc buồn rầu về phòng chẳng nói chẳng rằng, người như mất hồn. Bảo Thoa liền hỏi

– Anh Chân Bảo Ngọc có thật giống cậu không?

– Diện mạo thì hệt nhau. Nhưng xem cách nói năng chẳng qua chỉ là ” con mọt ăn lộc ” mà thôi.

– Cậu lại đặt điều cho người ta rồi. Sao lại biết anh ta là ” con mọt ăn lộc? “

– Nói chuyện với anh ta chẳng có câu nào là tâm đầu ý hợp cả, chỉ rặt văn chương với kinh bang tế thế, và trung hiếu gì đó. Hạng người như thế không phải là ” con mọt ăn lộc ” thì là gì? Đáng tiếc hắn sinh ra mặt mày hệt như tôi. Tôi nghĩ đã có nó rồi thì tôi cũng chẳng cần đến diện mạo của tôi nữa.

Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc lại nói ngớ ngẩn, liền bảo

– Cậu nói rõ buồn cười. Tại sao cậu lại không cần đến diện mạo. Vả lại lời nói của người ta là đúng. Làm con trai phải lo lập thân, làm cho rạng rỡ tiếng tăm chứ? Ai lại như cậu, chỉ toàn là những tâm tình yếu đuối và ý nghĩ riêng tây. Cậu không thấy là mình không có chí khí cứng rắn gì hết, lại bảo người ta là ” con mọt ăn lộc ” à?

Bảo Ngọc nghe Chân Bảo Ngọc nói đã ngấy lắm rồi, nay lại bị Bảo Thoa trách móc cho một trận, trong bụng càng không thích, rồi cứ buồn rầu mê mẩn, bất giác bệnh cũ trở lại. Anh ta chẳng nói chẳng rằng, chỉ cười luôn, miệng như ngây như dại. Bảo Thoa không hiểu, cứ tưởng vì mình lỡ lời nên anh ta cười nhạt cũng không để ý. Nào ngờ hôm ấy Bảo Ngọc lại trở lại bệnh ngây. Bọn Tập Nhân cố chọc cũng chẳng nói năng gì. Cách một đêm. Sớm hôm sau ngủ dậy, anh ta vẫn cứ ngây ngô, lại giống như bệnh lần trước.

Vương phu nhân thấy Tích Xuân định cắt tóc đi tu. Vưu thị không ngăn lại được, xem chừng nếu không chiù cô ta thì cô ta sẽ tự tử. Mặc dù ngày đêm có người canh giữ, nhưng cũngkhông thể kéo dài được mãi. Vì vậy Vương phu nhân nói với Giả Chính. Giả Chính thở dài, dẫm chân nói

– Bên phủ Đông không biết làm thế nào mà đến nông nỗi thế này?

Lại gọi Giả Dung đến nói một hồi, bảo về nói với mẹ hắn, nên cố hết sức khuyên giải

” nếu nó cứ khăng khăng một mực thì sẽ không phải là con gái nhà này nữa. ” Nào ngờ Vưu thị không khuyên can còn khá, chứ hễ khuyên can thì cô ta lại cứ đòi chết, và nói

– Sinh ra con gái, rút cục không thể nào ở nhà cha mẹ suốt đời. Nếu tôi gặp cảnh ngộ chị Hai, chỉ làm cho chú và thím đau lòng rồi rút cục cũng chết. Nay cứ xem như là tôi đã chết, để mặc cho tôi đi tu, thì đời tôi sẽ được trong sạch. Thế là chú

thương tôi đấy. Vả chăng tôi đi tu cũng không phải là ra khỏi nhà. Am Lũng Thúy là thuộc về phủ chúng ta, tôi sẽ ra tu ở đó. Dù tôi có làm sao thì các người cũng còn chăm sóc được. Hiện nay người coi nhà cho Diệu Ngọc còn ở đó. Các người hãy chiù tôi thế là tôi được yên thân ; nếu không thì tôi cũng không có cách gì khác, chỉ chết mà thôi. Nếu tôi được thỏa lòng mong ước thì đến khi anh Cả trở về, tôi sẽ nói cho anh ấy biết rằng không phải các người bức bách gì tôi, lỡ bằng tôi chết đi, thì khi anh ấy về đây sẽ trách móc các người không lo cho tôi.

Vưu thị xưa nay vốn không hợp với Tích Xuân. Nhưng nghe cô ta nói, có vẻ có lý đành phải tới trình Vương phu nhân. Vương phu nhân lúc này đã sang bên Bảo Thoa. Thấy Bảo Ngọc như người mất hồn, bà ta nổi nóng, liền bảo Tập Nhân:

– Chúng mày không để ý gì cả. Cậu Hai bị bệnh cũng không sang trình ta biết.

Tập Nhân nói

– Bệnh của cậu Hai thì thường vẫn thế. Khi lành khi lại ốm. Ngày nào cậu ấy cũng sang hỏi thăm bên bà lớn như thường, vẫn yên lành chẳng có chuyện gì cả. Hôm nay mới đâm ra lẩn thẩn như thế. Mợ Hai đang định sang trình bà, nhưng lại sợ bà bảo chúng tôi chưa chi đã làm ầm ĩ cả lên.

Bảo Ngọc nghe Vương phu nhân mắng họ, trong bụng tỉnh táo. Sợ họ bị mắng oan, liền nói

– Xin mẹ cứ yên tâm. Con có đau ốm gì đâu. Chỉ thấy trong bụng hơi buồn bực mà thôi.

– Mày vốn đã có sẵn bệnh ấy, nên nói sớm đi, để mời thầy thuốc uống vài thang xem có khỏi không? Nếu lại để như hồi bị mất viên ngọc thì sẽ sinh ra nhiều chuyện.

– Nếu mẹ không yên tâm thì bảo mời thầy đến xem. Con sẽ uống thuốc.

Vương phu nhân liền bảo a hoàn truyền ra cho người đi mời thầy thuốc. Bà ta chỉ lo nghĩ về việc Bảo Ngọc nên quên hẳn việc Tích Xuân. Một lúc lâu, thầy thuốc đến xem bệnh và cho thuốc, rồi Vương phu nhân ra về.

Cách mấy hôm sau, bệnh Bảo Ngọc lại càng nặng, cơm cũng không ăn. Mọi người nhốn nháo cả lên. Lại vừa gặp lúc đoạn tang, cả nhà bận rộn. Không có người, đành phải gọi Giả Vân đến để tiếp thầy thuốc. Trong nhà Giả Liễn cũng không có ai coi sóc, nên mời Vương Nhân đến giúp đỡ lo liệu việc ngoài. Còn Xảo Thư thì cứ ngày đêm khóc mẹ, nên cũng ốm. Vì vậy, phủ Vinh rất là nhốn nháo.

Một hôm làm lễ đoạn tang xong về nhà, Vương phu nhân đến thăm Bảo Ngọc, thấy anh ta mê man bất tỉnh. Mọi người cuống quít không biết làm sao, vừa khóc vừa sai đi trình Giả Chính

– Thầy thuốc nói là không thể cho thuốc nữa. Chỉ nên sắp sửa hậu sự thôi.

Giả Chính than thở luôn miệng, đành phải thân hành đến thăm. Quả thấy khó khỏi được, liền bảo Giả Liễn đi sắp đặt công việc. Giả Liễn không dám trái lời, ra bảo người đi lo liệu. Nhưng trong nhà thiếu thốn, đang khó nghĩ. Bỗng thấy một người

chạy vào nói

– Cậu Hai ơi? Nguy to? Lại có chuyện rầy rà!

Giả Liễn không rõ việc gì, giật mình, trừng mắt hỏi

– Cái gì thế?

– Có một nhà sư đến trước cửa, tay cầm viên ngọc của cậu Bảo bị mất và nói đến lấy một vạn bạc thưởng.

Giả Liễn suýt một cái nói

– Tưởng là việc gì mà mày nhớn nhác như thế. Độ trước đã bị viên ngọc giả, mày không biết à? Mà dù có là viên ngọc thật đi nữa thì bây giờ người đã sắp chết còn cần nó làm gì?

– Con cũng đã nói rồi. Nhưng vị hòa thượng ấy bảo cứ đưa bạc cho ông ta là bệnh khỏi.

Đang nói lại thấy người ở ngoài xôn xao chạy vào nói

– Nhà sư hổ mang ấy cứ xông thẳng vào nhà, chúng tôi cản lại không được!

– Đâu lại có việc lạ lùng thế? Chúng mày không đuổi ông ta đi à?

Đang lúc ồn ào. Giả Chính thấy vậy, không biết tính sao. Trong nhà lại nghe tiếng kêu khóc

– Cậu Hai nguy rồi!

GiảChính lại càng bối rối. Bỗng thấy nhà sư ấy nói

– Muốn người sống thì đem bạc ra đây?

Giả Chính chợt nhớ lại hồi trước Bảo Ngọc bị bệnh, nhờ một vị hoà thượng chữa khỏi, bây giờ nhà sư lại đến, có lẽ cũng là cứu tinh đây. Nhưng nếu viên ngọc ấy là thật mà nhà sư cứ đòi cho được bạc thưởng thì làm thế nào?

Sau lại nghĩ

“Bây giờ hãy khoan để ý đến điều đó, nếu người khỏe được thì ta sẽ tính sau”. Ông ta liền sai người ra mời, thì nhà sư đi vào không chào hỏi, cũng không nói năng gì, cứ chạy thẳng vào trong nhà. Giả Liễn giữ lại, nói

– Trong nhà, đều là đàn bà con gái, hạng người như anh chạy vào làm gì?

Khắp nhà trong nhà ngoài, ai nấy đều vui mừng niệm Phật. Ngay cả Bảo Thoa cũng không e ngại có nhà sư ở đó nữa. Giả Liễn cũng chạy đến xem, quả thấy Bảo Ngọc đã tỉnh lại, trong bụng mừng rỡ, vội đi ra. Nhà sư chẳng nói chẳng rằng, vội

nắm tay Giả Liễn mà chạy. Giả Liễn đành phải đi theo, ra đến phía ngoài trình với Giả Chính. Giả Chính nghe nói mừng rỡ, liền đến chào hỏi và tạ ơn. Nhà sư đáp lễ rồi ngồi xuống. Giả Liễn trong bụng ngờ vực chắc là ông ta đòi cho được bạc mới chịu đi. Giả Chính nhìn kỹ thì không phải là nhà sư đã gặp lần trước, liền hỏi

– Hòa thượng tu hành ở chùa nào? Pháp hiệu là gì? Viên ngọc ấy tìm được ở đâu? Vì sao thằng con nhà tôi trông thấy mà sống lại được?

Ông ta mỉm cười trả lời

– Tôi cũng không biết rõ. Cứ đưa một vạn lạng bạc ra đây là được.

Giả Chính thấy ông ta thô kệch, cũng không dám trái ý, liền nói

– Xin vâng.

– Có thì đưa mau, tôi phải đi đây.

– Xin mời người ngồi nán lại một chốc, để tôi vào trong nhà xem đã.

– Ngài vào rồi ra mau cho.

Giả Chính không nói năng gì, đi ngay đến trước giường Bảo Ngọc. Bảo Ngọc thấy cha, muốn cố gắng ngồi, nhưng người còn yếu, không thể dậy được. Vương phu nhân giữ lại, bảo

– Đừng gượng dậy nữa.

Bảo Ngọc cười, cầm viên ngọc đưa cho Giả Chính xem và nói

– Bảo Ngọc về đây rồi!

Giả Chính nhìn qua, biết viên ngọc ấy có căn nguyên, cũng không xem kỹ, đoạn hỏi Vương phu nhân

– Bảo Ngọc đã khỏe rồi. Còn số bạc thưởng thì định thế nào?

Vương phu nhân nói

– Cứ đem tất cả những đồ đạc của tôi bán đi để trả cho ông ta là được.

Bảo Ngọc nói

– Con e rằng nhà sư ấy không phải cốt đòi số bạc đâu.

Giả Chính gật dầu

– Ta cũng cho là một người kỳ lạ, nhưng ông ta lại cứ cố đòi cho được số bạc.

Vương phu nhân nói

– Ông hãy ra tiếp ông ta rồi ta sẽ nói chuyện.

Giả Chính đi ra. Bảo Ngọc liền kêu đói, húp một bát cháo, lại đòi ăn cơm. Các bà già đưa cơm đến. Vương phu nhân còn chưa muốn cho ăn. Bảo Ngọc nói

– Không can gì đâu, con đã khỏe rồi.

Rồi anh ta bò dậy ăn một bát, quả thấy tinh thần dần dần khá lại, liền định ngồi thẳng dậy.

Xạ Nguyệt đỡ nhè nhẹ. Vì vui mừng quá chị ta lỡ lời nói

– Thật là bảo bối! Mới nhìn thấy đã lành bệnh. May mà hồi trước không đập vỡ đi!

Bảo Ngọc nghe vậy liền đổi thần sắc, bỏ viên ngọc ra rồi ngả người ra đằng sau. Chưa biết sống chết thế nào?

[1]      Theo tục phong kiến Trung Quốc. Khi có tang cha mẹ, thì lòng nằm đất đế tỏ lòng thương xót. Lúc này Giá Chính đang chịu tang Giá mẫu nên cũng trải chiếu ngồi giữa đất.

Chương 116: Được ngọc thiêng, nhận thấy duyên tiên nói ảo cảnh – Trọn đạo hiếu, đưa linh cữu mẹ về cố hương

Được ngọc thiêng, nhận thấy duyên tiên nói ảo cảnh

Trọn đạo hiếu, đưa linh cữu mẹ về cố hương

Bảo Ngọc nghe Xạ Nguyệt nói, liền ngả người ra đằng sau, mê man bất tỉnh, làm cho bọn Vương phu nhân khóc lóc ầm ĩ. Xạ Nguyệt biết mình lỡ lời, gây ra tai vạ, nhưng lúc đó, Vương phu nhân cũng không kịp mắng chị ta. Xạ Nguyệt vừa khóc vừa định sẵn trong bụng

“nếu cậu Bảo chết, mình sẽ tự tử theo”…

Vương phu nhân thấy gọi Bảo Ngọc không tỉnh lại, liền vội vàng bảo người ra mời nhà sư vào cứu chữa. Không ngờ lúc Giả Chính ở trong nhà đi ra thì không thấy nhà sư nữa. Giả Chính đang ngạc nhiên, bỗng nghe trong nhà ồn ào, vội vàng chạy vào. Trông thấy Bảo Ngọc lại mê man như trước. Hai hàm răng cắn chặt, mạch không đập, lấy tay sờ vào giữa rốn, thấy còn nóng. Giả Chính lại bảo đi mời thầy thuốc đến ngay, đổ thuốc cấp cứu. Có biết đâu hồn phách Bảo Ngọc đã lìa khỏi xác. Nhưng liệu Bảo Ngọc có chết thật không? Số là anh ta mơ mơ màng màng thấy mình đi ra ngoài. Gặp vị hòa thượng đưa trả viên ngọc đang còn ngồi đó, liền đến chào. Ông ta đứng dậy, dắt Bảo Ngọc đi với theo ông ta, cảm thấy trong người nhẹ nhàng như chiếc lá. Họ không ra cửa chính, nhưng cũng không biết là đi lối nào. Đi được một quãng, đến một nơi đồng không mông quạnh, thấy xa xa có một tòa lầu, giống như là đã nhìn thấy ở đâu rồi. Bảo Ngọc định hỏi, bỗng thấp thoáng có một người con gái đi lại Bảo Ngọc nghĩ bụng

“ở giữa chỗ đồng không vắng vẻ này làm gì có người xinh đẹp như thế? Chắc là thần tiên xuống trần!” Anh ta đến gần nhìn kỹ thì có vẻ quen quen, nhưng trong chốc lát không nhớ ra. Người con gái chỉ chào một tiếng rồi không thấy đâu nữa. Bảo Ngọc nhớ lại thì đó là cô Ba họ Vưu, càng thêm buồn bực

” Tại sao cô ta cũng ở chỗ này?” Anh muốn hỏi thì nhà sư đã dắt đến một cái lầu. Trên lầu có một tấm bảng viết bốn chữ lớn

“Chân như phúc địa” (cõi phúc của người tiên) và hai bên có đôi câu đối

Giả đi chân đến, chân hơn giả

Không nguyên là có, có nào không.

Đi khỏi cái lầu có tấm bảng ấy, thì đến một tòa cửa cung.

Trước cửa có viết ngang bốn chữ lớn

“phục thiện họa dâm” (lành được phúc, dâm bị họa), lại có một câu đối

Kiếp trước đời sau, dầu bậc trí hiền không hiểu thấu ;

Nhân nào quả ấy, dù người thân cận vẫn phải xa nhau.

Bảo Ngọc xem xong, nghĩ bụng

“à ra thế! Để ta hỏi thử những việc nhân quả, quá khứ, tương lai kia xem”. Đang nghĩ thì thấy Uyên Ương đứng ở đâu đó giơ tay vẫy đến, Bảo Ngọc lại nghĩ

“mình đi đã lâu, mà xem ra vẫn chưa ra khỏi vườn. Sao vườn này thay đổi đến thế?” Anh ta chạy theo, muốn nói chuyện với Uyên Ương, nào ngờ ngoảnh lại thì không thấy nữa. Trong bụng đâm ra ngờ vực, liền chạy đến chỗ Uyên Ương đứng lúc nãy, thì ra đó là một dãy đền miếu, tòa nào cũng có biển. Bảo Ngọc không để ý nhìn, cứ chạy thẳng đến chỗ Uyên Ương đứng thì thấy có một tòa miếu, cửa vào hé mở. Anh ta không dám hấp tấp bước vào, định hỏi vị hòa thượng nhưng ngoảnh lại thì ông ta đã biến mất.

Bảo Ngọc mơ màng trông thấy tòa miếu ấy đồ sộ, không giống cảnh trong vườn Đại Quan chút nào. Liền dừng lại, ngẩng đầu trông thấy cái biển đề bốn chữ

“Dẫn giác tình si” (Đưa kẻ si đến nơi giác ngộ). Hai bên có đôi câu đối

Cười, mừng, thương, tủi, đều là giả

Ham, muốn, nhớ nhung chỉ vì si.

Bảo Ngọc xem xong gật đầu thở dài. Đến tìm Uyên Ương để hỏi cho rõ đấy là chỗ nào. Nhưng nhìn kỹ thì ra một nơi rất quen thuộc. Anh ta liền đánh bạo, đẩy cửa vào, nhìn khắp trong nhà không thấy Uyên Ương đâu cả, chỉ thấy tối om, nên trong bụng sợ hãi. Bảo Ngọc đang muốn lui ra thì thấy có hơn mười cái tủ lớn hé mở. Bảo Ngọc sực nhớ lại

“ta hồi nhỏ đã mơ thấy đến một chỗ như thế này. Bây giờ lại được đến đây, thực là may lắm!” Trong lúc mơ màng quên cả Uyên Ương. không đi tìm nữa. Anh ta đánh liều mở cái tủ lớn đầu tiên xem thì thấy có mấy quyển sổ. Trong bụng càng thích, nghĩ rằng

“người ta chiêm bao, cứ bảo đó là chuyện giả. Nhưng biết đâu đã có cái mộng ấy thì phải có cái việc ấy! Ta thường nghĩ muốn thấy lại cái mộng ấy một lần nữa mà không mộng. Ngờ đâu hôm nay lại gặp mộng! Nhưng không biết cái sổ kia có phải là ta đã gặp rồi hay không? Anh ta liền giơ tay lên phía trên lấy một quyển, thấy có đề chữ

“Kim Lăng thập nhị thoa chính sách”. Bảo Ngọc cầm lấy quyển sổ, nghĩ bụng

“ta nhớ mang máng hình như đã thấy quyển sổ này, chỉ giận một điều là nhớ không rõ lắm”. Rồi mở trang đầu ra xem, thấy phía trên có bức vẽ nhưng dấu vẽ lờ mờ, nhìn không rõ. Phía sau có mấy hàng chữ cũng không rõ nhưng còn có thể đoán được. Nhìn kỹ thì hình như trên chữ “Đại Ngọc” lại có một chữ giống như chữ “lâm”, liền nghĩ bụng

“nhất định là nói về em Lâm rồi “. Lại cố xem kỹ nữa. Phía dưới còn thấy bốn chữ “trâm vàng trong tuyết”, anh ta lấy làm lạ, nói

“Làm sao lại giống như tên họ của vợ ta nhỉ?”… Bảo Ngọc liền chắp cả bốn câu trên dưới đọc một lượt và nói

“cũng không có ý nghĩa gì. Chỉ nói kín tên họ cô ta thôi, chẳng lấy gì làm lạ. Nhưng có chữ “thường” và chữ “than” thì không tốt. Như thế thì giải nghĩa ra sao? ” 1

Bảo Ngọc nghĩ đến đó, tự gắt với mình

“Ta đã xem trộm lại còn nghĩ vơ nghĩ vẩn. Nếu có ai đến thì còn xem sao được nữa?” Rồi lại xem tiếp, cũng không kịp nhìn kỹ mấy bức vẽ kia. Cứ xem từ trên xuống. Khi xem đến đoạn cuối, thấy có một câu gì như là “thỏ gặp hùm kia giấc mộng xuôi.” Chợt tỉnh ra, nói

– Đúng rồi! Quả là cơ trời không sai chút nào! Câu này chắc là nói về chị Nguyên Xuân rồi. Nếu thấy rõ ràng như thế thì ta phải biên lấy để nghiền ngẫm cho kỹ. Sau này những việc rủi may sống chết của chị em, mình đều biết hết. Ta trở về nhất định không tiết lộ ra, chỉ làm một người “chưa bói đã biết”, thế cũng đã được bao nhiêu điều suy nghĩ vớ vẩn. Rồi anh ta đi tìm khắp cũng không thấy bút nghiên gì cả. Bảo Ngọc sợ có người ngoài đến, lại vội xem, thấy một bức vẽ lờ mờ hình một người đang thả diều, cũng không để ý nhìn kỹ. Vội vàng xem suốt cả mười hai bài thơ, có bài nhìn qua đã biết. Có bài xem rồi nghĩ ra ngay, cũng có bài không hiểu rõ lắm, nhưng trong bụng nhớ rất kỹ. Anh ta vừa thở than vừa cầm lấy “Kim Lăng hựu phó sách” để xem. Khi xem đến cậu “Khen cho ưu linh phúc tết. Ngờ đâu công tử duyên ôi”, lúc đầu không hiểu gì cả. Sau thấy phía trên có hình khóm hoa và chiếc chiếu, anh ta liền khiếp sợ, khóc òa lên. Đang còn muốn xem nữa thì

nghe thấy có tiếng người bảo

– Anh lại ngây rồi. Cô Lâm mời anh đấy!

Nghe giống như giọng nói của Uyên Ương. Ngoảnh lại thì không thấy người đâu. Đang lúc nghi hoặc, bỗng thấy Uyên Ương đứng ngoài cửa vẫy. Bảo Ngọc mừng quá, chạy ra. Uyên Ương yêu kiều thướt tha đi trước. anh ta không sao theo kịp, liền cất tiếng gọi

– Chị ơi? Đợi tôi với!

Uyên Ương vẫn không để ý, cứ đi một mạch. Bảo Ngọc không biết làm sao, cố hết sức chạy theo. Bỗng lại thấy một khoảng mênh mông, lầu gạc nguy nga, cung điện sáng ngời. Thấp thoáng có nhiều cung nữ. Anh ta ham nhìn cảnh đẹp, quên mất Uyên Ương. Bảo Ngọc luôn chân đi vào cửa một tòa lầu. thấy trong đó có nhiều hoa quả lạ lùng, không biết tên là gì. Chỉ có một cái bờ rào hoa bằng đá trắng bao quanh một cây xanh, đầu lá hơi đỏ. Bảo Ngọc nghĩ thầm

“không biết là cây gì mà quý hóa như thế?” Bỗng thấy gió thổi nhẹ qua, cây xanh cứ lay động mãi. Tuy là một loài cây nhỏ, lại không có hoa, nhưng dáng điệu nó xinh đẹp làm cho anh ta thích thú say mê. Bảo Ngọc cứ sững sờ đứng nhìn. Bỗng nghe bên cạnh có một người bảo

– Giống ngu xuẩn ở đâu đến đây dòm ngó cây tiên thế?

Bảo Ngọc nghe xong, giật mình ngoảnh lại nhìn, thấy một vị tiên nữ, liền đến kính chào và nói

– Tôi đi tìm chị Uyên Ương, vào nhầm cõi tiên. Dám mong tha thứ tội.

– Xin hỏi nàng. Đây là chỗ nào? Sao chị Uyên Ương nhà tôi nói em Lâm gọi tôi? Xin nàng bảo cho tôi được rõ.

Người ấy trả lời

– Ai biết được chị em nhà anh? Ta là người coi giữ cây tiên, thì không để cho người trần được dừng lại ở đây.

Bảo Ngọc cũng muốn đi ra, nhưng không dứt được, đành phải nài xin

– Thưa tiên nữ, chắc nàng là một vị hoa thần. Không biết cây tiên ấy có những gì đáng quý?

– Anh muốn biết rõ cây ấy à? Nói ra thì câu chuyện cũng dài đấy. Nguyên cây ấy trước ở trên bờ sông Linh Hà, tên là cây giáng châu. Xưa kia nó bị khô héo, may gặp vị Thần Anh hằng ngày lấy nước cam lộ tưới cho nó nên được sống mãi. Sau nó xuống trần làm người, trả xong cái ơn tưới bón khi trước, nó đã trở về chân cảnh. Vì vậy, cảnh ảo hàng ngày sai ta trông nom không để cho bướm ong vương vấn đến 1. Bảo Ngọc nghe vậy không hiểu, trong bụng cứ tưởng là gặp được hoa thần. Hôm nay nhất định không bỏ lỡ dịp, liền hỏi

– Người trông coi cây ấy chính là nàng đây rồi. Nhưng còn biết bao nhiêu thứ hoa. Tất nhiên mỗi hoa phải có một vị coi riêng. Tôi cũng không dám hỏi nhiều, chỉ muốn biết vị tiên nào coi hoa phù dung?

– Chỉ có chủ nhân ta mới rõ, ta biết làm sao được.

– Chủ nhân của nàng là ai?

– Chủ nhân của ta là Tiêu Tương phi tử.

– Phải rồi? Nàng không biết vị phi tử ấy là em ngoại của tôi tên là Lâm Đại Ngọc à.

– Nói nhảm? Đây là nơi ở của các thần nữ thượng giới, tuy gọi là Tiêu Tương phi tử. Mhưng không phải như các bà Nga Hoàng và Nữ Anh đâu. Làm gì lại có họ hàng với người trần? Anh đến đây nói bậy vừa chứ? Coi chừng phải gọi lực sĩ ra đánh đuổi đấy!

Bảo Ngọc nghe vậy, đâm ra sửng sốt, nghĩ mình nhơ đục, đang định lui ra. Bỗng có người chạy đến bảo

– Ở trong truyền bảo mời vị Thần Anh thị giả vào.

Người kia nói

– Tôi vâng lệnh chờ từ lâu. Không thấy có Thần Anh thị giả đến, thì bảo tôi mời ở đâu?

– Chẳng phải mời người mới đi ra đó à!

Thị nữ ấy vội vàng chạy theo nói

– Xin mời Thần Anh thị giả ở lại.

Bảo Ngọc tưởng họ hỏi người khác, lại sợ người ta đuổi theo nên vội vàng chạy trốn. Đang chạy bỗng có người cầm cây kiếm, ngăn lại bảo

– Chạy đi đâu!

Bảo Ngọc khiếp sợ, đánh bạo ngẩng đầu lên thì không phải là ai khác mà chính là cô ba họ Vưu. Bảo Ngọc trông thấy mới hoàn hồn, liền kêu nài

– Chị ơi, sao chị bức bách tôi thế?

– Anh em nhà anh không có một người nào khá, làm hỏng danh tiết người ta, phá cuộc hôn nhân người ta? Hôm nay anh đến đây, không thể tha cho anh được?

Bảo Ngọc nghe rõ câu chuyện không hay, còn đang luống cuống, bỗng nghe phía sau có người gọi

– Chị ơi, mau mau cản lại? Đừng để cho nó chạy thoát?

Cô Ba Vưu nói

– Ta vâng lệnh phi tử, chờ đợi đã lâu. Hôm nay gặp đây, nhất định lưỡi kiếm này cắt đứt mối trần duyên của anh!

Bảo Ngọc nghe xong càng cuống quít. Lại không hiểu những câu nói ấy là có ý nghĩa gì, quay đầu định chạy. Không ngờ người nói phía sau đó không phải là ai lạ, mà chính là Tình Văn.

Bảo Ngọc trông thấy, vừa mừng vừa tủi, liền nói

– Tôi một mình lạc đường đến đây, gặp kẻ thù, muốn trốn về mà không thấy một chị em nào đi theo tôi cả. Bây giờ gặp chị, may quá! Chị Tình Văn ơi, mau mau dẫn tôi về nhà!

Tình Văn nói

– Thị giả đừng quản ngại, tôi đây không phải Tình Văn. Chính là người vâng mệnh phi tử, cốt đến mời thị giả vào chơi, chứ không có ý làm khó dễ gì đâu.

Bảo Ngọc rất đỗi ngờ vực, phải hỏi lại

– Chị bảo phi tử mời tôi. Vậy thì phi tử ấy là người nào?

– Bây giờ không cần phải hỏi, vào trong ấy sẽ rõ.

Bảo Ngọc không biết làm sao, đành phải theo đi, nhìn kỹ người ấy thì đúng là Tình Văn; gương mặt, tiếng nói quả không sai, nhưng sao lại nói không phải? “Ta bây giờ trong bụng mê mẩn. Hãy khoan để ý đến chị ta đã. Đợi khi vào trong ấy gặp phi tử nếu có điều gì không phải, ta sẽ van xin. Các cô gái vốn lòng từ bi, chắc sẽ tha thứ cho sự lầm lẫn của ta “. Trong khi nghĩ ngợi như vậy, không bao lâu đã đi đến một chỗ. Thấy có đền đài lộng lẫy, vẻ đẹp huy hoàng, giữa sân có một khóm trúc, ngoài cửa vài gốc tùng xanh. Dưới hành lang có mấy thị nữ đứng, đều trang điểm theo lối trong cung. Các thị nữ trông thấy Bảo Ngọc đến, liền khe khẽ hỏi

– Thần Anh thị giả đó à?

Người dẫn Bảo Ngọc đến trả lời

– Đúng đấy. Chị vào trình báo đi.

Một thị nữ cười rồi vẫy tay. Bảo Ngọc liền đi theo. Đi qua mấy gian phòng đến một phòng chính, thấy có rèm châu treo cao. Người thị nữ ấy nói

– Hãy đứng đó đợi truyền.

Bảo Ngọc nghe vậy, cứ việc im lặng đứng chờ ở ngoài. Thị nữ đi vào một lát bước ra, nói

– Mời thị giả vào.

Lại có một người khác cuốn rèm châu lên. Bỗng thấy một cô con gái đầu đội mũ hoa, mình mặc đồ thêu, ngồi đường hoàng ở trong. Bảo Ngọc vừa mới ngẩng đầu lên thấy là Đại Ngọc, bất giác nói lên

– Cô em ở đây mà để tôi mong nhớ mãi!

Thị nữ đứng ngoài rèm khẽ hét

– Thị giả này vô lễ! Mau mau đi ra?

Nói chưa dứt lời. Bỗng thấy một thị nữ buông rèm châu xuống. Bảo Ngọc bấy giờ muốn vào cũng không dám, muốn đi cũng không đành. Đang định hỏi rõ, nhưng thấy mấy thị nữ ấy cũng không quen biết, lại bị họ đuổi phải đi ra, còn muốn hỏi lại Tình Văn, nhưng ngoảnh nhìn thì không thấy Tình Văn đâu cả. Anh ta đành ngờ vực bực bội đi ra, lại không có ai dẫn đường.

Muốn tìm lối vào lúc trước lại không thấy. Bảo Ngọc đanh loay hoay. Chợt thấy Phượng Thư đứng dưới hành lang một gian phòng vẫy tay. Anh ta mừng quá, nói

– Chị ở đây à. Họ trêu đùa tôi đến thế. Cô Lâm cũng không chịu gặp tôi, không biết vì cớ gì.

Nói rồi chạy đến chỗ Phượng Thư đứng, nhìn kỹ ra thì không phải Phượng Thư mà lại là vợ trước Giả Dung là Tần thị.

Bảo Ngọc dừng lại, muốn hỏi chị Phượng ở đâu, Tần thị cũng không trả lời, bỏ đi vào trong nhà. Bảo Ngọc mơ mơ màng màng, không dám đi theo. Cứ đứng phía ngoài than thở

“Không biết ta đã làm điều gì sai trái mà không ai chịu nhìn đến

ta?” Anh ta khóc oà lên. Bỗng thấy có mấy lực sĩ khăn vàng cầm roi đến bảo:

– Anh ở đâu mà dám xông xáo vào nơi trời tiên cõi phúc của chúng tôi? Ra ngay đi!

Bảo Ngọc nghe xong không dám nói gì, đang tìm lối đi ra. Bỗng trông thấy xa xa một đám con gái vừa cười vừa nói đi tới. Nhìn ra thì giống như bọn Nghênh Xuân. Bảo Ngọc rất mừng và kêu lên

– Tôi lạc ở đây. Các chị đến cứu tôi với!

Đang gọi thì một lực sĩ ở phía sau chạy đến. Bảo Ngọc bí quá cứ việc chạy ra. Bỗng thấy đám con gái ấy biến thành ma quỷ cùng đến bắt anh ta. Bảo Ngọc đang lúc cấp bách, chợt trông thấy vị hoà thượng đã đưa trả viên ngọc. Ông ta trong tay cầm chiếc gương soi vào mặt Bảo Ngọc và bảo

– Ta vâng chỉ của Nguyên phi đến cứu anh đây?

Ma quỷ bỗng hiến hết, lại hiện ra cánh đồng hoang. Bảo Ngọc cầm tay ông ta nói

– Con còn nhớ. Chính sư phụ đã đem con đến chỗ này. Rồi một chốc không thấy sư phụ đâu nữa. Con gặp nhiều người thân thiết. Họ đều không nhìn con, bỗng lại biến thành ma quỷ. Vậy đó là cảnh mộng hay cảnh thực. Xin sư phụ chỉ bảo cho con được rõ.

– Khi anh đến đây đã xem trộm cái gì chưa?

Bảo Ngọc nghĩ lại

“ông ấy đã đưa ta đến chỗ trời tiên cõi phúc này, tất nhiên là bậc thần tiên. Ta nói dối ông ta sao được. Vả lại ta cũng đang muốn hỏi việc này cho rõ ràng” Anh ta liền nói

– Con cũng có xem qua nhiều quyển sổ.

– Thế còn sao nữa? Anh xem sổ rồi. Còn chưa hiểu rõ à?

– Phàm tình duyên trên đời đều là những thứ ma chướng ấy cả. Anh nên nhớ kỹ lại những việc đã qua. Sau này ta sẽ nói rõ với anh.

Nhà sư nói xong, cố xô Bảo Ngọc một cái và bảo

– Trở về đi.

Bảo Ngọc chân đứng không vững, liền ngã xuống, miệng kêu lên

– Ái chà?

Mọi người đang khóc lóc, chợt thấy Bảo Ngọc tỉnh lại. Vội vàng gọi. Bảo Ngọc mở mắt nhìn, thấy mình vẫn nằm trên giường, lại thấy Vương phu nhân và Bảo Thoa khóc sưng cả mắt. Anh ta định thần nhớ lại, nghĩ bụng

“đúng rồi. Ta chết rồi sống lại đây?” Anh ta cố nhớ lại những việc mà linh hồn đã từng trải qua, đều nhớ được hết, liền cười to

– Đúng rồi? Đúng rồi!

Vương phu nhân cho là bệnh cũ của Bảo Ngọc lại phát, phải mời thầy thuốc điều trị, liền bảo một a hoàn già đi mau đến trình Giả Chính

– Bảo Ngọc đã tỉnh lại. Lúc trước là vì ngất đi đó thôi, nay đã nói được. Không cần phải sắm đồ hậu sự nữa.

Giả Chính nghe xong vội đến xem, quả thấy Bảo Ngọc đã sống lại, liền bảo

– Thằng con si ngốc kia! Mày định dọa ai đấy?

Nói xong, bất giác chảy nước mắt, lại than thở vài câu, rồi trở ra, bảo người đi mời thầy xem mạch cho đơn.

Trong nhà, Xạ Nguyệt đang định tự tử, nay thấy Bảo Ngọc tỉnh lại, mới được yên tâm. Vương phu nhân gọi người bưng nước quế đến, bảo anh ta uống mấy ngụm. Bảo Ngọc dần dần tỉnh táo. Vương phu nhân mới yên tâm, cũng không trách móc gì Xạ Nguyệt, rồi gọi người đưa viên ngọc cho Bảo Thoa để đeo cho Bảo Ngọc. Vương phu nhân lại nghĩ đến việc vị hoà thượng liền nói

– Viên ngọc ấy không biết tìm được ở đâu. Lạ thực! Sao lúc thì đòi bạc, rồi bỗng chốc không thấy đâu nữa. Phải chăng là một vị thần tiên?

Bảo Thoa nói

– Nghĩ lại hình tích vị sư ấy khi đến cũng như khi đi thì viên ngọc này không phải là tìm được. Chưa biết chừng lần trước bị mất cũng là ông ta lấy đi đó thôi.

– Ngọc ở trong nhà, làm sao mà lấy đi được?

– Đã đưa đến được thì lấy đi cũng được chứ.

Tập Nhân và Xạ Nguyệt đều nói

– Năm trước khi mất viên ngọc, ông Lâm Chí Hiếu đi bói, sau mợ Hai về đây. chúng tôi đã thưa với mợ rằng bói được chữ “thưởng ” gì đó. Mợ Hai còn nhớ rõ không? 1

Bảo Thoa nhớ lại:

– Đúng rồi, nghe các cô nói khi ấy bói ra là phải đi tìm trong hiệu cầm đồ. Nay mới rõ, thì ra chính là chữ “thưởng” là hoà thượng ở trên đầu, thế không phải là “hoà thượng” đã lấy viên ngọc đi sao? Vị hoà thượng kỳ quặc thật?

– Năm trước Bảo Ngọc bị bệnh, một vị hoà thượng đến nói nhà ta có bảo bối, có thể chữa bệnh. Tức là nói viên ngọc ấy, ông ta đã hiểu rõ như thế. Tất nhiên là viên ngọc ấy vẫn có lai lịch. Vả lại chồng con khi sinh ra đã ngậm sẵn viên ngọc trong miệng. Xưa nay các con có thấy người thứ hai nào như thế không? Không biết sau này viên ngọc ấy sẽ ra sao! Cho đến cái anh này cũng chưa biết rồi ra thế nào! Dữ cũng do viên ngọc ấy, lành cũng do viên ngọc ấy…

Nói đến đó, bà ta bỗng ngừng lại, bất giác lại chảy nước mắt.

Bảo Ngọc nghe xong, bụng cũng hiểu rõ, lại nghĩ đến việc mình ngất đi một lúc, càng có nguyên do. Nhưng không nói gì trong bụng nhẩm lại rất kỹ.

Bấy giờ Tích Xuân mới nói

– Năm trước mất ngọc, nhờ sư Diệu ngọc cầu tiên có cho câu thơ

“dưạ núi Thanh Ngạnh dựa câu thông”. Lại còn có câu: “Vào cửa ta đây gặp nhau cùng”. Nghĩ lại ba chữ “vào cửa” ta cần đáng xét kỹ

“cửa nhà Phật rất lớn, chỉ sợ anh Hai không vào được thôi.”

Bảo Ngọc nghe xong cười nhạt. Bảo Thoa nghe nói bất giác cau mày sửng sốt. Vưu thị nói

– Cô này mở miệng ra là nói đến cửa nhà Phật. Còn chưa chịu bỏ ý muốn đi tu à?

Tích Xuân cười

– Không dấu gì chị. Tôi không ăn mặn đã lâu.

Vương phu nhân bảo

– A di đà Phật. Cháu ơi, nghĩ như thế không nên.

Tích Xuân nghe vậy cũng không nói gì.

Bảo Ngọc nhớ đến câu thơ

“một ngọn đèn xanh trước Phật bà”, 2 rồi thở dài luôn mấy tiếng. Chợt lại nhớ đến những chữ “một chiếc chiếu, một khóm hoa “, rồi đưa mắt nhìn Tập Nhân, bất giác chảy nước mắt.

Mọi người thấy Bảo Ngọc khi vui khi buồn, cũng không hiểu vì sao, chỉ cho đó là bệnh cũ. Có biết đâu Bảo Ngọc vì đã biết những điều bí ẩn, đã nhớ lại rành mạch nhưng câu thơ xem trộm trong các quyển sổ. Tuy không nói ra, nhưng trong lòng đã có ý định sẵn.

Người trong nhà thấy Bảo Ngọc chết rồi sống lại, tinh thần sáng suốt, lại uống thuốc luôn mấy hôm, nên mỗi ngày một khá. Dần dần bình phục như cũ. Còn Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc đã khỏi, hiện nay đang nghỉ ở nhà chịu tang cũng còn rảnh việc; nghĩ lại Giả Xá chưa biết lúc nào được thăm linh cữu của mẹ đã để lâu trong chùa. Vẫn không đành lòng, nên muốn rước linh cữu về miền Nam để an táng. Giả Chính liền gọi Giả Liễn đến để bàn. Giả Liễn thưa

– Chú nghĩ rất phải. Nay nhân dịp chịu tang, làm xong được việc lớn ấy càng hay. Nếu để đến sau này, chú lại ra làm quan, có lẽ sẽ không làm được vừa ý. Chỉ có điều cha cháu không ở nhà, mà cháu lại không dám vượt quyền. Ý định của chú rất hay ; nhưng muốn lo liệu việc ấy thì phải cần đến mấy nghìn lạng bạc. Nếu chỉ chờ nha môn tra ra của mất trộm thì không thể tra ra ngay được đâu.

Giả Chính nói

– Ý ta đã định rồi. Chỉ vì anh Cả đi vắng nên gọi cháu đến bàn xem nên làm thế nào. Cháu thì không thể đi ra khỏi nhà được vì trong nhà đây hiện giờ không có ai. Ta nghĩ mấy chiếc quan tài đều phải rước về. Một mình ta làm sao trông nom cho xuể. Ta định đem cháu Dung đi, vì có cả quan tài vợ nó cũng đưa theo. Lại còn quan tài của cháu Lâm nữa, theo lời bà trối lại, bảo phải đem theo đi với bà. Còn số tiền ấy thì ta nghĩ chỉ cần mượn tạm đâu đó mấy nghìn cũng cũng đủ.

– Nhân tình bây giờ rất là tệ bạc, chú thì đang về nghỉ chịu tang ; cha cháu thì còn ở ngoài. Thực cháu không thể vay mượn vào đâu được. Chỉ còn cách đem khế tờ nhà đất đi cầm mà thôi.

– Nhà cửa chúng ta ở đây đều do của công xây dựng ; động đến sao được?

– Nhà ở đã đành không thể động đến được. Nhưng còn mấy sở nhà ở ngoài, có thể đem cầm tạm, đợi sau chú ra làm quan sẽ chuộc lại cũng được. Hoặc là sau này cha cháu trở về, nếu được bổ dụng nữa thì cũng có thể chuộc lại. Chỉ ngại một điều là chú tuổi tác như thế mà chuyến đi này rất vất vả thì trong bụng cháu không đành!

– Việc của bà nhất định phải làm. Chỉ cần cháu ở nhà cẩn thận lo lắng việc nhà chu đáo là được.

– Xin chú cứ yên tâm. Cháu tuy ngu dại, nhưng cũng quyết xin hết sức lo liệu. Vả lại, chú về Nam, chắc cũng phải đem nhiều người đi. Người ở nhà đây chẳng bao nhiêu, chỉ cần một số ít tiền cũng có thể xoay xở lo liệu. Nếu đi đường thiếu tiền tiêu thì khi qua chỗ Lại Thượng Vinh làm quan, chú có thể bảo anh ta giúp một ít.

– Việc của mẹ mình mà lại bảo người khác giúp làm gì?

Giả Liễn “dạ” rồi lui ra, thu xếp tiền bạc.

Giả Chính nói chuyện với Vương phu nhân, bảo ở nhà trông nom, còn mình chọn được ngày tốt sẽ rước quan tài đi xa. Bảo Ngọc lúc ấy đã bình phục như cũ. Giả Hoàn, Giả Lan cũng biết chăm học. Giả Chính dặn Giả Liễn phải để ý trông nom

– Năm nay vừa gặp khoa thi. Thằng Hoàn còn có tang, không vào thi được. Thằng Lan là hàng cháu, hết tang cũng có thể đi thi. Cần phải nhắn nhủ Bảo Ngọc đi thi với cháu, may đậu được một tên cử nhân cũng đủ chuộc lại tội lỗi của chúng ta.

Giả Liễn vâng lời.

Giả Chính lại dặn dò những người ở nhà, nói thêm mấy câu rồi đến bái biệt từ đường, sau đó ra ngoài thành, tụng kinh mấy hôm, rồi rước quan tài xuống thuyền cùng bọn Lâm Chí Hiếu ra đi. Giả Chính không muốn làm phiền các bà con bạn bè, chỉ có bọn đàn ông đàn hà trong phủ đi đưa một độ đường rồi trở về.

Bảo Ngọc vì Giả Chính dặn bảo đi thi. Vương phu nhân thỉnh thoảng cũng thúc giục và xét hỏi đến bài vở. Bọn Bảo Thoa,Tập Nhân thường thường khuyên bảo, việc ấy không cần kể rõ. Nào ngờ Bảo Ngọc sau khi lành bệnh, tuy tinh thần ngày càng khá hơn, nhưng ý nghĩ lại càng kỳ quặc, thay đổi khác hẳn. Không những anh ta chán ghét công danh quan chức mà đến cả tình duyên đối với con gái cũng lạt lẽo đi nhiều. Nhưng mọi người không ai để ý lắm. Bảo Ngọc cũng không nói ra.

Một hôm Tử Quyên đi đưa linh cữu Đại Ngọc trở về, buồn bã ngồi trong nhà khóc lóc, chị ta nghĩ bụng

“Bảo Ngọc thật vô tình! Thấy quan tài cô Lâm đưa về mà cũng không hề thương khóc. Thấy mình khóc lóc thế này cũng không đến yên ủi lại nhìn mình mà cười. Con người phụ bạc ấy trước kia chỉ khéo tìm lời ngon ngọt tán tỉnh mình. May mà đêm hôm nọ mình nghĩ vỡ lẽ ra được, nếu không thì đã mắc lừa cậu ta rồi! Nhưng có một điều không sao hiểu rõ. Bây giờ cậu ấy đối với bọn chị TậpNhân cũng có vẻ thờ ơ, mợ Hai vốn là người không ưa vồn vã, nhưng còn bọn Xạ Nguyệt lại không giận cậu ấy sao? Xem ra bạn gái phần nhiều là bọn si ngốc, đã uổng phí tâm lực bấy lâu nay, sau này không biết rồi ra thế nào?”…

Cô ta đang nghĩ thì vừa hay con Năm đến hỏi thăm. Thấy Tử Quyên nước mắt dàn dụa. Con Năm liền hỏi

– Chị lại khóc cô Lâm à? Người ta nói tai nghe không bằng mắt thấy, quả là đúng. Trước kia, nghe tiếng cậu Hai đối với chị em bạn gái rất là tốt. Mẹ tôi xin mãi mới đưa được tôi vào hầu. Không ngờ sau khi vào đây. Tôi đã hết lòng hết sức hầu hạ

những khi đau ốm, thế mà đến lúc lành bệnh, lại chẳng được một câu nói tử tế nào. Bây giờ thậm chí cậu ấy không thèm nhìn đến tôi nữa!

Tử Quyên nghe con Năm nói buồn cười, liền cười và mắng

– Con ranh! Mày muốn cậu Bảo đối đãi với mày như thế nào cơ? Đồ con gái không biết xấu hổ. Người ta đường hoàng là người hầu trong nhà mà cậu ấy còn xem như không, thì còn công hơi nào nhìn đến mày nữa?

Rồi cô ta lại cười, giơ đầu ngón tay quẹt vào má con Năm và hỏi

– Rút cục mày là hạng người gì của Bảo Ngọc?

Con Năm nghe nói, biết mình lỡ lời, liền đỏ mặt lên. Nó định nói là không phải mình muốn Bảo Ngọc đối đãi với mình như thế nào, mà chỉ muốn nói gần đây anh ta không biết thương kẻ dưới. Bỗng nghe ngoài sân có tiếng kêu lên

– Ông sư lại đến ngoài kia đòi một vạn lạng bạc đấy. Bà lớn sốt ruột bảo cậu Hai Liễn ra thương lượng với ông ấy, không may cậu Liễn lại đi vắng! Ông sư ở ngoài ấy nói nhiều chuyện điên rồ. Bà lớn bảo mời mợ Hai sang bàn.

Chương 117: Ngăn việc tu hành, hai gái đẹp cố giữ viên ngọc – Thích họp giữ việc nhà

Ngăn việc tu hành, hai gái đẹp cố giữ viên ngọc

Thích họp bạn xấu, một con hư coi giữ việc nhà

Vương phu nhân sai người đi mời Bảo Thoa sang để bàn. Bảo Ngọc nghe nói có ông sư ở ngoài, một mình vội vàng chạy ra, gọi ồn lên

– Sư phụ ở đâu?

Gọi một hồi lâu, không thấy vị hòa thượng, Bảo ngọc phải chạy ra phía ngoài, thấy Lý Quý cản đường không để cho ông ta đi vào, liền nói

– Bà lớn bảo ta ra mời sư phụ vào.

Lý Quý nghe nói buông tay ra, ông ta bèn ngất ngưởng đi vào.

Bảo Ngọc trông thấy hình dáng vị hòa thượng này giống hệt như người mình đã trông thấy khi ngất đi, trong bụng đã hiểu một phần, liền đến trước mặt kính chào, nói

– Thưa sư phụ, đệ tử xin lỗi ra tiếp chậm.

– Ta không cần các người phải tiếp đón, chỉ cần đem số tiền ra đây là ta sẽ đi.

Bảo Ngọc nghe giọng nói này không giống giọng nói của người có đạo hạnh. Lại trông thấy ông ta khắp đầu chốc lở, đầy mình bẩn thỉu rách rưới, bèn nghĩ thầm

“Người xưa nói – là chân nhân, thì không lộ tướng, lộ tướng không phải là chân nhân. Nay ta đã gặp thì không nên bỏ lỡ. Ta cứ nhận đưa số bạc tạ ông ta để thử dò ý định ông ta như thế nào.” Rồi anh ta nói

– Sư phụ không cần nóng vội, thân mẫu của đệ tử đang lo liệu số tiền. Mời sư phụ ngồi chở một lát. Đệ tử xin hỏi – có phải sư phụ từ Thái hư ảo cảnh đến đây không?

– Ảo cảnh nào? Chẳng qua là đến từ chỗ đến, đi từ chỗ đi mà thôi. Ta là người đưa trả viên ngọc. Vậy ta hỏi anh – viên ngọc ấy ở đâu mà đến?

Bảo ngọc trong chốc lát không thể trả lời được. Nhà sư cười

– Anh chưa biết từ đường nào đến đây, sao còn hỏi tôi. Bảo Ngọc vốn thông minh, lại từng được phép giác ngộ nên đã biết thấu cõi hồng trần, chỉ còn số phận của mình là chưa biết rõ. Nay nghe ông ta hỏi đến viên ngọc, cảm thấy như bị đánh một đùi trên đầu, nên trả lời

– Sư phụ không cần hỏi đến số bạc nữa, để đệ tử đem viên ngọc trả lại cho sư phụ.

Nhà sư cười nói

– Cũng nên trả lại cho ta rồi đấy.

Bảo Ngọc không đáp, chạy vào trong nhà, đến phòng mình, thấy Bảo Thoa và Tập Nhân còn sang bên Vương phu nhân, vội đến bên giường lấy viên ngọc rồi đi ra thì chạm phải Tập Nhân. Tập Nhân giật mình nói

– Bà bảo cậu ngồi tiếp ông sư là phải. Bà ở bên nhà thu xếp số bạc để đưa cho ông ta. Sao cậu lại vào đây làm gì?

– Chị mau mau đến trình bà, không cần sửa soạn số bạc, tôi cứ đem viên ngọc trả lại cho ông ta là xong.

Tập Nhân nghe vậy vội giữ lấy Bảo Ngọc nói

– Không được đâu? Viên ngọc ấy tức là bản mệnh của cậu, nếu ông ấy mang đi thì cậu lại ốm thôi.

– Giờ tôi không đau ốm nữa đâu. Tôi đã có quả tim rồi, còn dùng viên ngọc ấy làm gì.

Bảo Ngọc đẩy Tập Nhân rồi muốn chạy đi. Tập Nhân hoảng hốt vội kêu lên

– Thì cậu hãy trở lại để tôi nói với cậu một câu đã?

Bảo Ngọc quay cổ lại bảo

– Chẳng phải nói gì nữa.

Tập Nhân không ngần ngại gì nữa, vừa chạy theo vừa gọi to lên

– Lần trước mất viên ngọc, tí nữa là mất cả mạng tôi, rồi mới tìm thấy nó đấy. Nay cậu lại mang đi à. Thế thì cậu không sống được mà tôi cũng chết mất? Cậu muốn đem trả ngọc cho ông ấy thì hãy bắt tôi chết đi đã!

Nói xong. Tập Nhân chạy theo giữ lại. Bảo Ngọc điên tiết lên, bảo

– Chị chết haykhông cũng phải trả.

Rồi Bảo Ngọc thục mạng quay mình định chạy. Nhưng Tập Nhân hai tay cứ ôm lấy thắt lưng Bảo Ngọc, không chịu buông, vừa khóc vừa kêu, ngồi xệp xuống đất. Các a hoàn trong nhà nghe vậy, vội vàng chạy ra, trông thấy bộ dạng hai người rất

là ghê gớm, lại nghe Tập Nhân khóc và kêu

– Mau đi trình với bà lớn? Cậu Bảo định đem viên ngọc đi trả cho ông sư đấy!

A hoàn liền chạy ngay đi báo Vương phu nhân. Bảo Ngọc lại càng tức tối, ra sức bẻ tay Tập Nhân, nhưng Tập Nhân vẫn cứ cố cắn răng không chịu thả. Tử Quyên ở trong nhà nghe nói Bảo Ngọc định đem viên ngọc đi trả thì hoảng hốt hơn ai hết, tuy ngày thường chị ta tỏ ra lạnh nhạt với Bảo Ngọc. Nhưng lúc ấy quên đi đâu mất, vội vàng đến giúp sức ôm ghì lấy Bảo Ngọc. Bảo Ngọc tuy là con trai, đã cố sức giằng ra, nhưng bị hai người liều chết ôm chặt không thả, nên cũng khó thoát. Anh ta liền than thở

– Chỉ vì một viên ngọc mà các chị đều chết giữ lấy như thế. Nếu chính thân tôi bỏ đi thì các chị sẽ làm thế nào.

Tập Nhân và Từ Quyên nghe nói, bất giác khóc oà lên. Trong lúc đang giằng co như vậy thì Vương phu nhân và Bảo Thoa vội vàng chạy đến. Thấy quang cảnh ấy, Vương phu nhân khóc và quát

– Bảo Ngọc! mày điên rồi à?

Bảo Ngọc thấy Vương phu nhân đến, biết không thể thoát, liền đấu dịu cười và nói:

– Có gì cái chuyện ấy mà mẹ phải nóng nảy. Các chị ấy cứ làm nhớn nhác lên như thế đó thôi. Con nghĩ ông ấy không biết nể nang, cứ đòi một vạn lạng bạc, thiếu một lạng cũng không được. Con đâm tức, chạy về lấy viên ngọc định trả cho ông ta và sẽ nói đó là viên ngọc giả không dùng làm gì. Ông ấy thấy ta không quý viên ngọc thì ta có thể tùy trả cho ông ấy bao nhiêu cũng xong.

Vương phu nhân nói

– Ta tưởng mày muốn đem trả cho ông ấy kia. Thế thì cũng được. Nhưng sao không nói rõ cho chúng nó biết, để chúng nó kêu khóc ầm lên như thế còn ra thể thống gì nữa.

Bảo Thoa nói

– Cậu nói như vậy cũng được, chứ nếu đem viên ngọc trả cho ông sư thì không nên, xem ra ông ta cũng hơi kỳ quặc. Lỡ trả cho ông ta rồi, trong nhà xảy ra không yên, như thế chẳng lại sinh ra lắm chuyện! Còn như số bạc thì cứ đem những đồ trang sức của tôi cầm bán cũng còn đủ.

Vương phu nhân nghe vậy nói

– Thế cũng được, cứ làm như vậy.

Bảo Ngọc cũng không nói lại, Bảo Thoa đến cầm lấy viên ngọc trong tay Bảo Ngọc và nói

– Cậu cũng không cần đi ra, để tôi cùng mẹ đem bạc ra cho ông ta là xong.

Bảo Ngọc nói

– Viên ngọc không trả cho ông ta thì thôi, nhưng tôi cần phải gặp mặt ông ta một lần nữa mới được.

Bọn Tập Nhân vẫn không chịu buông ra. Cuối cùng, Bảo Thoa cả quyết nói

– Cứ buông ra để mặc cho cậu ấy đi.

Tập Nhân đành phải buông ra. Bảo Ngọc cười

– Té ra các chị chỉ trọng viên ngọc chứ không trọng người! Các chị buông tôi ra, tôi sẽ theo ông sư đi, xem các chị cứ giữ lấy viên ngọc, rồi sẽ ra sao?

Tập Nhân trong bụng hoảng sợ, muốn giữ Bảo Ngọc lại, nhưng vì trước mặt Vương phu nhân và Bảo Thoa, không tiện tỏ ra liều lĩnh. Vừa lúc đó, Bảo Ngọc được buông ra, liền bỏ chạy. Tập Nhân vội gọi a hoàn nhỏ ra cửa ngoài truyền lại cho bọn Bồi Dính

– Phải dặn ngoài kia trông nom cậu Hai. Cậu ấy hơi điên đấy?

A hoàn nhỏ vâng lời đi ra.

Vương phu nhân và Bảo thoa vào ngồi, hỏi Tập Nhân đầu đuôi ra sao. Tập Nhân bèn kể lại tỉ mỉ những câu nói của Bảo Ngọc. Vương phu nhân và Bảo Thoa rất là áy náy, lại bảo ra dặn mọi người phải lắng nghe xem vị hòa thượng nói những chuyện gì. Một lúc, a hoàn nhỏ vào trình với Vương phu nhân

– Cậu Hai quả là điên rồi! Các chú hầu nhỏ ngoài kia kể lại – trong nhà không chịu giao viên ngọc, cậu ấy không biết làm sao. Bây giờ cậu ấy tự đi ra, xin ông sư đem cậu ta đi.

Vương phu nhân nghe xong, nói

– Thế sao được! Ông sư ấy còn nói những gì?

– Ông sư bảo cần viên ngọc chứ không cần người.

Bảo Thoa hỏi

– Lại không đòi bạc nữa à?

– Không nghe nói. Sau rồi ông sư cùng cậu Hai vừa nói vừa cười, có nhiều chuyện lắm, nhưng các chú hầu nhỏ ngoài kia đều không hiểu hết.

Vương phu nhân nói

– Đồ ngu? Nghe không hiểu chứ kể lại thì kể được chứ.

Rồi bảo a hoàn nhỏ

– Mày đi gọi tên hầu nhỏ ấy vào đây.

A hoàn nhỏ vội đi gọi tên hầu nhỏ ấy vào. Nó đứng dưới hành lang từ ngoài cửa sổ chào Vương phu nhân. Vương phu nhân liền hỏi

– Vị hòa thượng và cậu Hai nói chuyện với nhau, chúng mầy không hiểu, chứ kể lại cũng không kể được à?

Tên hầu nhỏ thưa

– Chúng con chỉ nghe nói mấy tiếng như núi “Đại Hoang”. đỉnh “Thanh Ngạnh” và “Cõi Thái hư”, cắt đứt trần duyên” gì gì đó…

Vương phu nhân nghe cũng không hiểu. Bảo Thoa nghe xong khiếp sợ, trợn trừng trợn trạc, không nói ra được nửa lời.

Bảo Thoa đang định cho người dắt Bảo Ngọc vào, thì vừa thấy Bảo Ngọc cười hớn hở đi vào nói

– Tốt rồi! Tốt rồi!

Bảo Thoa vẫn còn sửng sốt. Vương phu nhân hỏi

– Mày điên điên dại dại nói những câu gì thế?

– Con nói đứng đắn. Mẹ lại bảo là điên. Ông ấy nguyên cớ kiếm con, chẳng qua ông ta muốn đến thăm con đó thôi. Có phải ông ta thật đến đòi bạc đâu? Ông ta chỉ đến bố thí cái thiện duyên đấy thôi. Vì thế sau khi nói rõ, ông ta liền vùn vụt

ra đi, thế không phải là tốt rồi à.

Vương phu nhân không tin, lại từ trong cửa sổ hỏi tên hầu nhỏ. Tên ấy vội vàng chạy ra hỏi người gác cửa rồi vào trình

– Ông ấy đi thực rồi và có dặn lại xin bà cứ yên tâm. Ông ấy không cần số bạc, chỉ cần cậu Hai thường năng tới chỗ ông ấy là được. Mọi việc đều phải tùy theo “nhân duyên”, đã có cái lẽ nhất định.

Vương phu nhân nói

– Thế ra ông ấy lại là một ông sư phúc đức! Chúng mày có nhớ ông ấy ở đâu không?

Người canh cửa nói

– Cháu đã hỏi thì ông ta nói cậu Hai nhà ta có biết đấy.

Vương phu nhân liền hỏi Bảo Ngọc

– Vậy ông ta ở chỗ nào?

Bảo Ngọc cười

– Chỗ ấy bảo xa thì xa. Bảo gần thì gần.

Bảo Thoa không đợi Bảo Ngọc nói hết, liền bảo

– Cậu hãy tỉnh lại chứ? Đừng quá mê mẩn! Lâu nay bà và mẹ chỉ thương một mình cậu, cha lại còn bảo cậu lo theo đòi để lập công danh nữa đấy.

Bảo Ngọc đáp

– Chuyện tôi vừa nói không phải là công danh à? Các người chưa biết “một người con cháu đi tu, bảy ông tổ được lên chầu trời” hay sao?

Vương phu nhân nghe đến đó, bất giác đau lòng nói

– Vận nhà chúng ta không biết rồi sẽ ra sao. Con Tư đã luôn miệng đòi đi tu, bây giờ lại thêm một thằng này nữa. Đời ta như thế này, còn sống để làm gì!

Bà ta nói xong, khóc òa lên. Bảo Thoa thấy Vương phu nhân thương tâm, đem hết lời khuyên giải. Bảo Ngọc cười

– Con nói đùa một câu mà mẹ lại cho là thực.

Vương phu nhân mãn khóc hỏi lại

– Những câu mầy nói đều là nói bậy cả chứ?

Đang lúc ồn ào, bỗng thấy a hoàn vào trình

– Cậu Hai Liễn đã về, nhìn sắc mặt đổi hẳn. Cậu ấy bảo mời bà đến để thưa chuyện.

Vương phu nhân lại sợ hãi, bảo

– Cứ mời anh ấy vào đây. Cô em dâu cũng là họ hàng cũ, không cần phải tránh.

Giả Liễn vào chào hỏi Vương phu nhân. Bảo Thoa cũng ra chào, hỏi thăm Giả Liễn. Giả Liễn thưa

– Cháu vừa mới tiếp được bức thư của cha cháu, nói bị ốm rất nặng, bảo cháu đi ngay, nếu chậm thì e không được gặp mặt.

Hắn nói đến đó, liền rơi nước mắt.

Vương phu nhân hỏi

– Trong thư nói đau bệnh gì?

– Lúc đầu do cảm mạo phong hàn, nay đã thành ra bệnh lao. Hiện rất nguy cấp, nên cha cháu sai một người đi suốt ngày đêm về đây báo, nếu cháu còn chần chừ một vài ngày thì sẽ không được gặp mặt. Giờ cháu đến trình thím, cháu thế nào cũng

phải đi. Chỉ có điều là trong nhà không có ai trông nom. Cháu Tường, cháu Vân tuy dại dột, nhưng cũng là đàn ông, khi có việc gì ở ngoài, chúng nó còn có thể truyền lời vào được. Còn trong nhà cháu thì cũng chẳng có chuyện gì. Con Thu Đồng ngày nào cũng kêu khóc, không muốn ở lại, cháu đã cho người đi gọi người nhà mẹ nó đem nó về. Như vậy thì Bình Nhi cũng đỡ tức tối. Tuy cháu Xảo không có người chăm nom, nhưng may còn có Bình Nhi là người không đến nỗi hư hỏng. Cháu Xảo cũng thông minh, nhưng tính khí bướng bỉnh hơn cả mẹ nó. Mong thím luôn luôn dạy bảo cho.

Hắn nói xong, quầng mắt đỏ lên, vội lấy cái khăn lụa buộc bao cau trong lưng ra lau mắt. Vương phu nhân nói

– Bà nội nó ở đấy mà lại gửi nhờ ta?

Giả Liễn nói khẽ

– Thím nói thế thì tội cháu thật đáng chết. Không cần phải nói gì cả, chỉ mong thím thương đến cháu là được.

Nói đoạn, hắn quỳ xuống. Vương phu nhân mắt đỏ lên nói

– Anh hãy đứng dậy! Thím cháu chuyện trò với nhau sao lại làm thế? Chỉ có một điều con cháu cũng đã lớn rồi, nếu bác có rủi ro thế nào thì lại nhẹ nhàng cho nó. Khi gặp nhà môn đăng hộ đối đến hỏi thì phải đợi anh về, hay là do bác gái ở nhà làm chủ?

– Hiện có thím và mẹ cháu ở nhà, thì tất nhiên là do hai người làm chủ, không cần đợi cháu.

– Anh cần phải đi thì viết ngay một tờ trình đưa tin cho chú, nói rằng ở nhà đây không có người, bác lại chưa biết ra sao. Xin chú thu xếp việc lớn giúp bà cho nhanh chóng rồi về nhà gấp.

Giả Liễn vâng dạ, đang định đi ra, nhưng lại quay trở vào thưa

– Số người hầu hạ của phủ ta, trong nhà còn đủ sai phái. Nhưng bên vườn không có người, rất là trống trải. Bao Dũng đã đi theo chủ nó rồi. Tiết Khoa đã dọn ra ở nhà riêng. Không ở cái nhà dì Tiết ở lúc trước. Một dãy nhà trong vườn đều bỏ không, chẳng ai nhìn ngó. Thím nên thỉnh thoảng sai người dến xem. Am Lũng Thúy nguyên là đất của phủ ta. Nay cô Diệu Ngọc không biết đi đâu rồi. Bao nhiêu nhà cửa ở đó, ni cô giữ nhà cho Diệu Ngọc. không dám làm chủ, chỉ mong có một người trong phủ đến trông coi.

– Việc của mình lo chưa xong, còn cáng lấy những việc khác sao được. Việc này đừng để cho con Tư biết. Nếu nó nghe thấy lại om sòm lên, đòi di tu đấy. Anh thử nghĩ gia thế chúng ta như thế nào? Mà để một cô con gái đi tu thì còn ra sao nữa?

– Thím không nhắc đến thì cháu cũng không dám nói. Cô tư vẫn là người của phủ Đông, cha mẹ không có ; anh ruột lại phải đi ra tỉnh ngoài, chị dâu cũng không nói nổi. Cháu nghe nói cô ta đã đòi chết đến mấy lần rồi. Bụng cô ấy đã vậy, nếu cứ

khăng khăng giữ lại, sợ sau này cô ta chết thật thì tai hại hơn là đi tu nữa đấy.

Vương phu nhân nghe xong gật dầu bảo

– Việc ấy ta cũng khó gánh nổi. Ta không làm chủ được, chỉ đành để mặc chị dâu nó thôi.

Giả Liễn lại nói thêm mấy câu nữa, rồi mới đi ra gọi người nhà đến cắt đặt rõ ràng, viết một phong thư rồi thu xếp đồ đạc để lên đường. Bọn Bình Nhi tất nhiên cũng có nhiều câu dặn dò. Riêng Xảo Thư thì đau xót vô cùng. Giả Liễn lại muốn gửi cho Vương phu nhân trông nom. Nhưng Xảo Thư không thuận. Cô ta lại nghe nói đã nhờ bọn Giả Tường, Giả Vân coi việc bên ngoài, trong bụng càng khó chịu, nhưng không nói ra được. Cô ta đành phải tiễn cha đi rồi cùng sống với Bình Nhi cho qua ngày tháng.

Phong Nhi và Tiểu Hồng từ khi Phượng Thư mất rồi, người thì xin nghỉ, ngươi thì cáo bệnh. Bình Nhi muốn đón một cô nào trong phủ đến ở chung, trước là để làm bạn với Xảo Thư. Sau nữa, để kèm cặp cô ta. Nhưng nghĩ mãi không có người nào. Chỉ có Hỷ Loan và cô Tít là hai người trước kia được Giả mẫu yêu chiều. Cô Tư thì vừa mới đi lấy chồng. Còn Ỷ Loan thì cũng đã có nơi, không bao lâu sẽ phải về nhà chồng; nên Bình Nhi cũng đành chịu.

Giả Vân và Giả Tường tiễn chân Giả Liễn đi rồi, vào chào Hình phu nhân và Vương phu nhân. Hai người thấy nhau ở thư phòng ngoài. Ban ngày thì họ cùng bọn người nhà đùa nghịch, có lúc kéo bè bạn đến thay phiên nhau làm chủ bữa tiệc thậm chí họp nhau đánh bạc, nhà trong làm sao mà biết được.

Một hôm cậu cả Hình và Vương Nhân đến trông thấy Giả Vân, Giả Trang tại đó, biết rằng bọn họ vui nhộn nên cũng mượn tiếng trông nom dùm rồi thường đến thư phòng ngoài bày trò đánh bạc, uống rượu. Trong số những người nhà đứng đắn thì

Giả Chính đã đem đi mấy người. Còn mấy người theo Giả Liễn, chỉ trơ lại con cháu các nhà họ Lại, họ Lâm mà thôi. Bọn thiếu niên ấy, nhờ ơn cha mẹ, chỉ quen ăn uống chứ làm gì biết lo liệu việc nhà. Vả lại, cha anh của họ đều đi vắng, nên họ như ngựa không cương. Đã thế lại có hai ông chủ xúi giục thêm, thì chuyện gì mà họ không thích làm. Bọn chúng làm cho phủ Vinh thật là hỗn độn. Chẳng còn kể đến trật tự, thể thống gì nữa.

Giả Tường muốn lôi kéo cả Bảo Ngọc. Giả Vân can

– Cậu Bảo là người không có số tốt, đụng đến cậu ấy làm gì. Năm kia tôi mách mối cho cậu ấy một nhà rất xứng đáng. Ông cha làm quan coi thuế ở tỉnh ngoài, ở nhà gồm những mấy hiệu cầm đồ, còn cô con gái thì đẹp hơn tiên. Tôi vội vàng viết một bức thư rất tỉ mỉ đưa cho cậu ấy. Nào ngờ cậu ta không có số tốt…

Hắn nói đến đó, liếc nhìn hai bên thấy không có ai, lại tiếp

– Bụng cậu ta đã trót gắn bó với thím Hai nhà mình rồi? Anh chưa nghe nói đấy thôi. Còn cả cô Lâm nữa. Kết quả cô Lâm mắc bệnh tương tư mà chết, ai cũng biết đấy? Việc ấy đã đành, cũng là do số phận cả. Không ngờ vì bức thư ấy mà cậu ta giận tôi không để ý gì đến tôi. Cậu ấy xem chừng rồi đây biết ai phải nhờ đến thể diện của ai?

Giả Tường nghe xong gật đầu, mới từ bỏ ý định của mình. Họ có biết đâu Bảo Ngọc từ ngày gặp ông sư đã muốn cắt đứt trần duyên. Nhưng vì còn có Vương phu nhân nên không dám làm theo ý muốn của mình. Tuy vậy, anh ta cùng bọn Bảo Thoa, Tập Nhân đã không hòa hợp lắm. Bọn a hoàn không hiểu, còn muốn khêu gợi cậu ta, nhưng Bảo Ngọc vẫn không thèm nhìn đến. Thậm chí cũng không nghĩ gì đến việc nhà nữa. Vương phu nhân và Bảo Thoa vẫn thường khuyên bảo anh ta đọc sách. Anh ta cũng làm bộ giả học, nhưng bụng chỉ nghĩ đến vị hòa thượng đã dẫn anh ta đến cảnh tiên. Cho nên gặp ai anh ta cũng cho toàn là người tục cả. Vì ở nhà khó chịu, Bảo Ngọc lúc rảnh lại đến Tích Xuân nói chuyện suông. Hai người hợp ý nhau, nên ý nghĩ của anh ta lại thêm chắc chắn hơn. Do đó, không còn để ý gì đến bọn Giả Hoàn, Giả Lan nữa.

Giả Hoàn nhân lúc cha không ở nhà, dì Triệu đã chết. Vương phu nhân lại không để ý lắm, liền theo bọn Gia Tường. Chỉ có Thái Vân năng khuyên can, nhưng lại bị Giả Hoàn mắng át. Ngọc Xuyến thấy Bảo Ngọc càng điên dại quá, nên nói với mẹ, nói xin cho về. Bây giờ hai anh em Bảo Ngọc và Giả Hoàn mỗi người một tính khí riêng, làm cho ai cũng chẳng buồn nhìn đến. Chỉ có Giả Lan thì nghe lời mẹ, cố gắng đọc sách làm bài đưa đến nhà trường xin Đại Nho chấm hộ. Vì gần đây Đại Nho già yếu chỉ nằm trên giường, nên anh ta đành phải chịu khó học lấy Lý Hoàn vốn là người trầm lặng, ngoài việc đi thăm Vương phu nhân và qua lại với Bảo Thoa thì không đi đâu một bước. Chỉ trông coi cho Giả Lan đọc sách thôi. Vì vậy tuy số người trong phủ Vinh không phải ít. Nhưng người nào lo việc người ấy, không ai chịu làm chủ ai cả. Giả Hoàn và Giả Tường thì càng bừa bãi, không ra thể thống gì, thậm chí còn cầm vụng bán trộm lung tung. Giả Hoàn lại chơi gái, đánh bạc, không việc gì là hắn không làm.

Một hôm cậu cả Hình và Vương Nhân đến uống rượu ở thư phòng của phủ Giả. Trong lúc thích thú, hai người bảo mấy tên hầu rượu hát hò để mời rượu. Giả Tường liền nói

– Các ông chơi tục quá, để tôi ra một cái lệnh.

Mọi người nói

– Cũng được.

Giả Tường nói

– Chúng ta hò theo lôi “nguyệt tự lưu trường”, rồi sẽ nói trước câu có chữ “nguyệt”, rồi đếm đến người nào thì người ấy uống rượu. Lại còn những câu đầu câu cuối lúc uống rượu cũng phải theo người ra lệnh. Ai không đúng sẽ phạt ba ly rượu lớn.

Mọi người đều bằng lòng. Giả Tường uống một ly rượu lệnh và đọc câu “phi vũ trường nhi túy nguyệt” (cất chén lên say với bóng trăng). Rồi theo thứ tự đếm đến Giả Hoàn.

Giả Tường nói

– Câu đầu phải có chữ “quế”.

Gả Hoàn liền đọc

– Lãnh lộ ô thanh thấp quế hoa” (sương lạnh không có tiếng làm ướt hoa quế) – – Nhưng còn câu cuối?

Giả Tường nói

– Phải đọc câu có chữ “hương”.

Giả Hoàn đọc

– “Thiên hương vân ngoại phiêu” (hương trời bay bổng ngoài tầng mây).

Cậu cả Hình nói

– Chán lắm! Chán lắm? Các anh biết được mấy chữ, lại giả làm bộ văn nhân. Cách ấy không được vui lại làm khó cho người ta. Chúng ta hò lệnh ấy đi, chỉ chơi đánh toan là bỏ. Người thua phải uống rượu, lại phải hát. Như thế gọi là “khổ trong cái khổ”. Nếu không ai biết hát thì nói câu chuyện vui cười cũng được chỉ cần cho vui thôi.

Mọi người đều nói

– Được đấy!

Mọi người đều đưa tay ra đánh toan ầm ì. Vương Nhân bị thua, uống một ly rượu, lại hát một bài. Mọi người đều bảo “được!”. Rồi lại đánh toan nữa. Tên hầu rượu thua, hát câu, “tiểu thư, tiểu thư nhiều duyên dáng”gì ấy. Sau hết, cậu cả Hình thua, họ bắt ông ta hát một bài. Ông ta nói

– Tôi hát không được. Để tôi nói chuyện vui cười thôi.

Giả Tường nói

– Nếu nói chuyện mà người ta không cười được thì anh bị phạt đấy!

Cậu cả Hình liền uống một ly rượu rồi kể

– Xin quý vị lắng nghe – trong thôn trang nọ có một tòa miếu Huyền Đế bên cạnh lại có một ngôi đền thờ thần thổ địa. Đức Huyền đế thường gọi thần thổ địa đến nói chuyện. Một hôm trong miếu Huyền đế mất tiền. Ngài liền gọi thần thổ địa đến

hỏi. Thổ địa bẩm, “Trong xứ này không có kẻ trộm. Chắc là vì các thần tướng không cẩn thận, để bọn thần ở ngoài đến lấy mất đồ đạc đấy thôi.” Huyền đế bảo, “Nói vậy, nhà ngươi là thân thổ địa, mất trộm không hỏi nhà ngươi thì còn hỏi ai? Nhà ngươi không đi lùng bắt kẻ trộm, lại nói thần tướng của ta không cẩn thận à?” Thổ địa bẩm, “tuy cũng vì tôi không cẩn thận, nhưng thực ra chỉ vì địa lý trong cái miếu không được hay.” Huyền đế bảo, “nhà ngươi cũng biết xem địa lý à?” Thổ địa bẩm, “xin để tiểu thần xem thử”. Thần thổ địa đi xem khắp nơi một lúc rồi trở vào bẩm, “sau lưng thần vị của ngài có hai cánh cửa đỏ, thế là không cẩn thận. Còn sau lưng chỗ ngồi của tiểu thần thì có tường xây, tất nhiên đồ vật không mất đi đâu được. Từ nay sau lưng thần vị của ngài cũng nên đổi lại xây tường thì được chắc chắn”. Đức Huyền đế nghe nói có lý, liền gọi thần tướng sai người đi xây tường. Các thần tướng than thở, ” hiện nay một nén hương cũng không ai thắp, còn lấy đâu ra ngói gạch và nhân công để xây tường.” Đức Huyền đế không biết làm sao, bảo các thần tướng kiếm cách, nhưng vị nào cũng chịu. Lúc đó tướng rùa ở dưới chân Đức Huyền đế đứng dậy bảo, “các chú không làm được trò trống gì? Ta định như thế này – các chú mở hai bức cửa đỏ đem xuống, đến đêm thì lấy cái bụng của ta mà lấp vào lỗ cửa hở, không phải là thành một bứ tường à?” Các thần tướng đều nói, “đã không tốn tiền lại vững chắc!” Thế rồi tướng rùa nhận lấy công việc ấy, trong miếu lại được yên tĩnh. Không ngờ mấy hôm sau trong miếu ấy lại mất đồ đạc. Các thần tướng liền gọi thổ địa đến hỏi, ” nhà người bảo xây được tường thì không mất đồ đạc nữa. Vì sao nay đã có tường rồi vẫn cứ bị mất?” Thổ địa nói, “cái tường ấy xây không được vững chắc!” Các thần tướng bảo, ” Nhà ngươi thử xem”. Thổ địa đến xem thì đó quả là một bức tường. Nhưng sao còn mất trộm? Thổ địa liền giơ tay sờ một cái rồi nói

“Tôi cứ tưởng là tường thật. Biết đâu lại là tường giả! ” ( Đây là một lối chơi chữ. Cậu cả Hình lấy chữ “tường” ra chế diễu Giá Tường.) Mọi người nghe xong, cười ồ lên. Giả Trang cũng không nhịn được cười, liền nói

– Ông cả ngốc ơi! Ông giỏi nhỉ? Tôi không chế diễu ông. Sao ông lại chế diễu tôi Mau đưa ly rượu đây, phạt một chén lớn.

Cậu cả Hình uống xong, đã hơi say. Mọi người uống thêm mấy chén nữa, đều say nhừ. Cậu cả Hình thì nói chuyện người chị mình không tốt. Vương Nhân thì nói cô em mình hư. Rồi đều trách móc thậm tệ. Giả Hoàn nghe vậy cũng nhân lúc hứng rượu nói Phượng Thư không ra gì, nào là cay nghiệt với chúng tôi, nào là đạp lên đầu chúng tôi. Mọi người đều nói

– Người ta ở đời. Cần phải có lòng nhân hậu. Xem như chị Phụng của ông, nhờ thế cụ bà ghê gớm như thế. Đến nay cũng cụt đuôi rồi. Chỉ còn lại một chút con gái, e cũng là báo ứng trước mắt đấy!

Giả Vân nhớ lại việc Phượng Thư đối đãi với mình không tử tế lại nghĩ đến việc Xảo Thư hễ trông thấy mình là khóc, nên cũng luôn miệng nói hấy. Chỉ có Giả Trang nói

– Uống rượu đi thôi! Nói chuyện người ta làm gì?

Hai người hầu rượu liền hỏi

– Cô con gái ấy nay bao nhiêu tuổi? Nhan sắc ra sao?

Giả Tường nói

– Nhan sắc thì tuyệt đẹp. Nó cũng đã mười ba mươi bốn tuổi rồi.

Người kia nói

– Tiếng rằng người đẹp như thế mà lại sinh vào trong phủ này. Nếu sinh một nhà thường dân, thì cha mẹ anh em đều được làm quan, mà lại phát tài nữa kia.

Mọi người lại hỏi

– Sao thế?

Người kia nói

– Nay có một đức vương ở tỉnh ngoài, là người rất đa tình, muốn chọn một vị vương phi. Nếu cô nào làm ngài vừa ý thì cha mẹ anh em đều được đi theo. Thế không phải là sung sướng hay sao?

Mấy người khác không ai để ý lắm, chỉ có Vương Nhân hơi động lòng, nhưng vẫn cứ uống rượu. Bỗng thấy anh em họ Lại, họ Lâm từ ngoài đi vào nói

– Các ông, các cậu vui quá nhỉ?

Mọi người đứng dậy nói

– Anh Cả, anh Ba. Sao bây giờ mới đến? Để chúng tôi chờ mãi.

Hai người trả lời

– Sớm hôm nay nghe tin đồn, nói trong phủ chúng ta lại xảy ra việc. Chúng tôi sốt ruột, liền đi dò la, thì ra không phải việc trong phủ ta.

Mọi người hỏi

– Không phải việc trong phủ ta là được rồi. Vì sao lại không đến ngay?

Hai người ấy nói

– Tuy không phải là việc phủ ta, nhưng người ấy cũng có hơi dính dáng đến chúng ta. Các vị có biết là ai không? Chính là ông Giả Vũ Thôn đấy. Hôm nay chính tôi ra xem, thấy ông ta mang xiềng, nghe nói bị giải đến tòa tam pháp để xét tội. Chúng tôi thấy ông ấy thoáng qua lại trong phủ ta. Sợ có việc gì, nên đi theo để dò la xem sao?

Giả Vân nói

– Anh Cả để ý đến việc ấy là phải lắm. Anh hãy ngồi xuống uống một chén đã rồi sẽ nói chuyện.

Hai người từ chối một lúc rồi mới ngồi uống rượu và nói tiếp

– Ông Vũ Thôn ấy vẫn là tay cừ, có tài xoay xở, chức quan cũng không phải nhỏ. Chỉ phải cái bệnh tham tiền, nên bị người ta tâu vua kể tội sách nhiễu bọn thuộc hạ. Hiện nay đức hoàng thượng rất sáng suốt và nhân từ, chỉ nghe nói đến tham, hoặc làm hại dân chúng, hoặc cậy thế lừa dối dân là người rất giận, cho nên đã hạ chỉ truyền bắt xét hỏi. Nếu xét đúng sẽ nguy, nhưng không có tang chứng, thì người ấy cũng sẽ không yên. Hiện nay là một thời buổi tốt, chỉ cần có phúc làm được quan là sướng rồi.

Mọi người nói

– Ông anh của anh là người có phúc, hiện làm tri huyện. Còn không sướng à?

Người họ Lại nói

– Anh tôi tuy đã làm tri huyện, nhưng xem cách làm ăn của anh ấy sợ chưa biết rồi sẽ ra sao?

Mọi người hỏi

– Anh ta cũng hay vòi vĩnh à.

Người họ Lại gật đầu rồi cầm ly rượu uống. Mọi người lại nói

– Còn nghe được chuyện gì mới lạ nữa không?

– Không có việc gì khác, chỉ nghe nói bắt được nhiều tên kẻ cướp ở ven biển và giải đến tòa tam pháp để xét tội. Sau đó xét ra có nhiều tên ẩn nấp ở trong thành, dò la tin tức, rồi nhân lúc sơ hở vào cướp giật nhà người ta. Bây giờ nghe đâu các vị quan to trong triều đều là văn hay võ giỏi, hết sức báo đáp ơn vua. Cho nên các ngài đi đến đâu, đã trừ hết bọn cướp rồi.

Mọi người hỏi

– Các anh nghe nói có bọn cưp ở trong thành. Không biết họ đã tra ra vụ cướp trong phủ chúng ta hay chưa?

Hai người kia trả lời

– Vẫn chưa thấy gì. Nhưng nghe đâu có người đồn rằng có một tên quê ở xứ này đã phạm tội ở trong thành, rồi bắt một người con gái chạy xuống miền bể. Người con gái ấy không chịu theo, bị tên cướp giết chết. Tên cướp ấy muốn chạy trốn ra ngoài cửa quan. Nhưng bị quan quân bắt lại và hành hình ngay tại chỗ.

Mọi người nói

– Cái cô Diệu Ngọc nào đó tu ở trong am Lũng Thúy của phủ ta, chẳng phải đã bị người nào bắt đi đấy sao? Có phải người con gái bị bất ấy chính là cô ta không!

Giả Hoàn nói

– Chắc là cô ta!

– Sao cậu biết được?

– Cái con Diệu Ngọc ấy thực đáng ghét. Suốt ngày nó hay làm bộ, nhưng hễ thấy anh Bảo Ngọc là nó vui tươi hớn hở; có gặp tôi thì nó không thèm nhìn. Nếu quả thực nó bị giết thì tôi cũng thỏa lòng!

Mọi người nói

– Người bị bắt cũng nhiều. Sao lại chắc là cô ta?

Giả Vân nói

– Cũng có phần đáng tin. Hôm trước có người nói một đạo bà trong am ấy nằm mộng thấy Diệu Ngọc bị người ta giết chết rồi.

Mọi người cười nói

– Chuyện chiêm bao ấy kể làm gì?

Cậu cả Hình nói

– Mặc họ mộng hay không mộng, chúng ta đi ăn cơm đi, rồi đêm nay quyết sát phạt nhau một trận.

Mọi người bằng lòng, ăn cơm xong, họ mở cuộc sát phạt nhau rất to. Đánh đến quá trống canh ba bỗng nghe phía trong kêu ồn lên

– Cô Tư cùng mợ cả Trân cãi nhau. Cô ấy đã cắt hết mớ tóc rồi chạy đến bên Hình phu nhân và Vương phu nhân lạy xin để cho cô ấy làm sư cô. Xin ra ở một nơi khác, nếu không cho cô ấy đi tu thì cô dọa sẽ tự sát. Hai bà không biết quyết định ra sao, bảo mới cậu Tường và cậu Vân vào trong nhà.

Giả Vân nghe nói biết việc này là do ý định của cô ta khi người ta giao cho cô ta ở lại coi nhà một mình, và chắc là khuyên can không nổi, liền bàn định với Giả Tường

– Bà lớn gọi chúng ta vào. Nhưng chúng ta không làm chủ được mà cũng chẳng chủ chiếc làm gì. Ta chỉ nên khuyên can, nếu không nghe thì để mặc họ. Chúng ta chỉ nên bàn nhau viết một bức thư gửi cho chú hai Liễn. Thế là tránh khỏi tai tiếng.

Hai anh bàn định xong rồi vào hầu hai bà, lại giả cách khuyên can một lúc. Nhưng Tích Xuân cứ một mực đòi đi tu, nếu không được đi ra khỏi nhà, cũng xin cho ở một gian nhà sạch sẽ, để tụng kinh niệm Phật.

Vưu thị thấy hai người không dám làm chủ, lại sợ Tích Xuân tự tử, nên đứng ra nói:

– Việc tội lỗi này tôi đành gánh hết. Người ta sẽ bảo tôi làm chị dâu không rộng lượng với cô em chồng, để cô ta phải đi tu thế là hết chuyện? Cô ra ở ngoài thì quyết không được ; nhưng ở lại trong phủ thì được. Trước mặt hai thím đây cứ xem như là ý định của tôi vậy. Cháu Tường viết một bức thư gửi cho cậu Trân và chú Liễn là được.

Bọn Giả Tường vâng lời chưa biết hai bà có thuận hay không?

Chương 118: Nhớ hiềm xưa ông cậu lừa gái nhỏ – Sợ nói nhảm, vợ hầu can chàng ngây

Nhớ hiềm xưa ông cậu lừa gái nhỏ

Sợ nói nhảm, vợ hầu can chàng ngây

Hình phu nhân và Vương phu nhân nghe Vưu thị nói, biết không thể giữ Tích Xuân được. Vương phu nhân đành nói

– Cô muốn làm việc thiện. Đó là do cái duyên nợ từ kiếp trước. Chúng tôi không thể giữ được. Chỉ có điều nhà ta thế này mà con gái đi tu, thì còn ra thể thống gì nữa. Nay chị dâu cô đã bằng lòng cho cô đi tu cũng là việc tốt. Nhưng ta còn muốn nói một câu. Cô không cần phải cắt tóc, đi tu chỉ cốt ở lòng, chứ có phải ở tóc đâu? Cô xem cô Diệu Ngọc cũng là người đi tu đấy ; không biết cô ta vì sao động lòng phàm tục, nên mới xảy ra nông nỗi như thế? Nếu cô cứ một mực khăng khăng thì chúng tôi sẽ xem cái phòng tôi đây như là buồng tu của cô. Cũng phải gọi những người hầu hạ cô đến hỏi xem ai muốn theo thì không được nói đến việc lấy chồng, ai không theo thì sẽ định liệu. Tích Xuân nghe nói vậy, khóc, lạy tạ hai bà Lý Hoàn và Vưu thị.

Vương phu nhân nói xong, liền hỏi bọn Thái Bình, ai muốn theo cô đi tu. Bọn họ thưa

– Các vị cắt ai thì người ấy đi.

Vương phu nhân biết là họ không thuận, đang muốn tìm người. Bấy giờ Tập Nhân đứng sau lưng Bảo Ngọc cầm chắc Bảo Ngọc sẽ khóc to lên, không khéo bệnh lại phát. Nào ngờ Bảo Ngọc lại nói

– Thật là hiếm có!

Tập Nhân nghe vậy càng thêm đau xót. Bảo Thoa tuy không nói gì. Nhưng gặp việc cũng để ý thăm dò, thấy Bảo Ngọc vẫn mê không tỉnh, đành chỉ khóc thầm.

Vương phu nhân đang muốn gọi các a hoàn đến hỏi, thấy Tử Quyên đến quỳ xuống thưa

– Vừa rồi bà lớn hỏi các chị theo hầu cô Tư, ý bà lớn định thế nào?

Vương phu nhân nói

– Việc ấy ta bắt buộc sao được. Ai vui lòng đi cứ nói ra.

Tử Quyên thưa

– Cô đi tu tất nhiên là do lòng thành của cô, chứ không phải là do ý muốn của các chị. Cháu có lời xin trình với bà lớn. Không phải cháu có ý chia rẽ các chị ấy đâu. Người nào có bụng của người ấy. Cháu đã hầu hạ cô Lâm mấy lâu, cô ấy đối đãi với cháu thế nào, chắc bà lớn đã biết. Thực là ơn nặng như núi, không biết lấy gì báo đáp. Cô ấy mất đi, cháu chỉ ân hận không chết theo được. Đó là vì cô ta không phải người trong nhà này, mà cháu lại chịu ơn chủ nhà nhiều quá, không thể làm thế được. Nay cô Tư đã muốn đi tu. Cháu xin hai vị cho cháu được theo hầu cô Tư suốt đời. Không biết hai vị có y cho không? Nếu được như vậy thì thực là phúc cho cháu.

Hai bà còn chưa trả lời. Bảo Ngọc nghe vậy, sực nhớ đến Đại Ngọc, đau lòng chảy nước mắt. Mọi người còn muốn hỏi, thì anh ta đã cười ha hả chạy lại thưa

– Đáng lý con không nên nói. Nhưng vì Tử Quyên là người trước kia nhờ mẹ sai đến hầu trong nhà con, nên con mới dám nói, xin mẹ y cho chị ấy, để cái lòng tốt của chị ấy được trọn vẹn.

Vương phu nhân nói

– Trước kia chị em mầy đi lấy chồng, thì mầy khóc lóc dở chết dở sống. Nay thấy cháu Tư đi tu, mày không những không can, còn cho là việc tốt. Bụng dạ mầy bây giờ ra thế nào? Thực là ta không hiểu nổi.

Bảo Ngọc thưa

– Việc cô Tư tu hành đã được các vị y cho rồi. Ý cô ấy cũng đã nhất định. Nếu thế, thì con sẽ có lời trình với mẹ, nếu chưa nhất định thì con không dám nói.

Tích Xuân nói

– Anh Hai nói rõ buồn cười! Rồi không nhất định, làm sao chuyển được lòng các thím, tôi có thể nói như lời Tử Quyên. Nếu cho đi tu thì phúc cho tôi. Nếu không cho, thì tôi chỉ liều chết. Chứ đâu sợ gì. Anh Hai muốn nói gì cứ nói đi. Đây tôi cũng không phải tiết lộ điều bí mật gì đâu.

– Việc này cũng đã nhất định rồi. Tôi sẽ ngâm một bài thơ để các người nghe.

Mọi người nói

– Trong lúc người ta đang buồn đứt ruột đi. Anh lại làm thơ để trêu người ta à?

– Không phải tôi làm thơ. Đây là bài thơ tôi đã xem thấy ở một chỗ nào. Hãy lắng mà nghe.

Mọi người nói

– Được. Anh cứ đọc đi. Nhưng không được luôn miệng nói nhảm đấy.

Bảo Ngọc cũng không phân trần gì, liền đọc lên

– Biết ai hay xuân canh chóng giờ,

Thời trang dồi lấy áo cà sa.

Thương thay con gái ni là khuê các,

Một ngọc đón anh cạnh Phật đà.(!)

Lý Hoàn và Bảo Thoa nghe xong, lấy làm lạ, nói

– Nguy rồi! Cậu này lại bị ma ám rồi?

Vương phu nhân nghe nói, lắc đầu than thở, rồi hỏi

– Bảo Ngọc. Mầy thấy bài thơ ấy ở đâu?

Bảo Ngọc không tiện nói ra, liền thưa

– Mẹ không cần hỏi. Con trông thấy ở một nơi nọ.

Vương phu nhân ngẫm nghĩ ý nghĩa, lại khóc oà lên và nói

– Hôm trước mầy bảo là mầy nói chơi. Thế vì sao bỗng dưng lại có bài thơ ấy. Thôi! Tao biết rồi. Tao làm thế nào bây giờ đây? Tao cũng hết cách rồi, đành phải để mặc cho chúng bây đi thôi. Nhưng hãy đợi tao nhắm mắt đã, rồi đứa nào cứ làm theo ý của đứa ấy!

Bảo Thoa tìm cách khuyên can Vương phu nhân. Nhưng trong bụng đau như dao cắt, cầm lòng không nổi, cũng khóc òa lên. Tập Nhân đã khóc suýt ngất đi, may có Thu Vân dìu lấy. Bảo Ngọc không khóc cũng không khuyên can, chỉ ngồi yên. Giả Lan, Giả Hoàn nghe vậy liền bỏ đi ra. Chỉ có Lý Hoàn hết sức khuyên giải

– Cũng vì chú Bảo thấy cô Tư đi tu, chắc là đau lòng quá, không kịp suy trước nghĩ sau, mới nói ra những câu điên dại ấy. Điều đó không có gì đích xác. Còn việc Tử Quyên xin mẹ có cho hay không, để bảo chị ấy đứng dậy.

Vương phu nhân nói

– Có gì mà cho với không? Dù sao thì chủ ý người ta đã định, cũng không thể giữ lại được. Như thằng Bảo Ngọc nói, việc gì cũng đã có tiền định.

Tử Quyên nghe xong, gục đầu xuống lạy. Tích Xuân lạy tạ Vương phu nhân. Tử Quyên cũng lạy Bảo Ngọc và Bảo Thoa. Bảo Ngọc niệm phật và nói

– Thật là hiếm có! Không ngờ cô lại đi trước!

Bảo Thoa tuy cứng rắn, nhưng cũng không giữ vững được. Tập Nhân thì không ngại có Vương phu nhân đang ngồi trên, cứ nức nỡ khóc và nói

– Tôi cũng bằng lòng theo cô Tư đi tu!

Bảo Ngọc cười

– Chị cũng đi, có lòng tốt, nhưng chị không có cái phúc ấm đâu!

Tập Nhân khóc, nói lại

– Thế thì tôi sẽ chết mất.

Bảo Ngọc nghe vậy, lại thấy đau lòng, nhưng không nói ra được. Bấy giờ đã đến canh năm, Bảo Ngọc mời Vương phu nhân đi nghỉ. Bọn Lý Hoàn đều ra về. Bọn Thái Bình hãy tạm theo hầu Tích Xuân. Sau đó lấy ai sẽ hay. Tử Quyên suốt đời hầu Tích Xuân không hề thay đổi.

Giả Chính rước linh cữu Giả mẫu theo đường về Nam, gặp lúc có thuyền bè của quan quân đi đánh giặc về, kéo qua miền ấy. Đường sông mắc nghẽn, thuyền không đi nhanh. Giả Chính sốt ruột. May sao nghe tin quan thống chế Trấn Hải được chỉ triệu vào kinh. Giả Chính chắc Thám Xuân cũng theo về thăm nhà, nên trong lòng đỡ bực bội. Chỉ có một điều là chưa biết rõ ngày lên đường, nên cũng sốt ruột. Ông ta thấy số tiền đi đường không đủ, bất đắc dĩ viết thư sai người cầm đến chỗ Lại Thượng Vinh, mượn năm trăm lạng bạc, dặn phải cho người đón đường đưa bạc đến, để kịp tiêu dùng. Cách vài hôm sau, thuyền Giả Chính vừa đi được hơn mười dặm, thì người nhà trở về, đưa bức thư của Lại Thượng Vinh, trong thư kể tình cảnh túng thiếu và đưa đến năm mươi lạng bạc.

Giả Chính xem xong giận lắm, liền sai người nhà đem bạc và thư trả lại cho Lại Thượng Vinh. Bảo anh ta không cần phải phiền lòng. Người kia đành phải trở lại chỗ lại Thượng Vinh. Lại Thượng Vinh nhận được thư và số bạc, trong bụng buồn bực, biết mình làm việc không chu đáo, liền thêm một trăm lạng nữa, van nài anh kia mang về, và nhờ nói hộ ít lời. Không ngờ anh kia không chịu mang đi, ném bạc lại dưới đất rồi ra về. Lại Thượng Vinh trong bụng băn khoăn, liền viết thư về nhà bày tỏ với cha là Lại Đại, bảo ông ta tìm cách xin nghỉ, rồi xin chuộc thân ra khỏi nhà chủ. Lại Đại nhờ bọn Giả Tường, Giả Vân trình với Vương phu nhân xin cho ra. Giả Tường biết chắc không được. Hôm sau, hắn bịa ra nói Vương phu nhân không cho. Lại Đại một mặt xin phép nghỉ việc, một mặt sai người đến chỗ Lại Thượng Vinh, bảo anh ta cáo bệnh từ quan mà về. Việc này Vương phu nhân không biết gì cả. Giả Vân nghe lời nói dối của Giả Tường, trong lòng không còn mong gì nữa. Vả lại mấy hôm nay hắn đánh bạc lại thua mất khá nhiều, không có gì mà trả, liền đến bàn với Giả Hoàn.

Giả Hoàn không có đồng tiền nào. Tuy trước kia dì Triệu có dành dụm được ít nhiều, nhưng hắn đã tiêu xài hết sạch, thì còn giúp ai được. Hắn nhớ đến việc Thượng Thư lúc trước đối đãi với mình khắc bạc. Nhân lúc Giả Liễn đi vắng, hắn định làm hại Xảo Thư để cho hả giận. Hắn gọi Giả Vân đến, cố trách móc

– Anh là hạng người nhiều tuổi, có việc kiếm được tiền thì bỏ không dám làm. Lại di hại đến tôi là một thằng kiết.

– Chú Ba nói rõ buồn cười? Chúng ta chơi đùa một chỗ với nhau. Có cách gì kiếm được tiền đâu?

– Không phải hôm trước có người nói đức vương ở tỉnh, ngài muốn mua một nàng hầu à? Sao các anh không bàn với cậu Vương đem dâng Xảo Thư cho ngài.

– Chú tôi nghe câu này sợ chú giận, đức vương bỏ tiền ra mua người, đời nào nghĩ đến việc đi lại với bọn chúng ta. Giả Hoàn ghé vào tai Giả Vân nói nhỏ mấy câu. Giả Vân gật đầu, nhưng cũng cho lời Giả Hoàn là chuyện trẻ con không đáng kể.

Khi ấy vừa lúc Vương Nhân đến hỏi

– Các anh bàn bạc chuyện gì đấy? Định giấu tôi à?

Giả Vân liền nói thầm về những chuyện Giả Hoàn vừa nói.

Vương Nhân vỗ tay bảo

– Việc này quả là một việc tốt, lại có bạc đấy. Chỉ sợ các anh không làm được thôi, nếu các anh dám làm, thì tôi đây là cậu ruột nó, cũng làm chủ được. Cần nhất là cậu Hoàn phải nói với bà Cả, còn tôi cũng sẽ nói với cậu Cả Hình. Khi các bà hỏi đến, các anh cứ kéo hùa nhau tán vào là xong.

Bọn Giả Hoàn định đâu vào đấy rồi, Vương Nhân liền đi kiếm cậu cả Hình, còn Giả Vân đi trình với Hình phu nhân và Vương phu nhân, nói toàn những chuyện tốt đẹp như hoa như gấm. Vương phu nhân nghe cũng xuôi tai, nhưng vẫn không tin. Còn Hình phu nhân nghe nói cậu cả Hình đã biết rõ, trong bụng thích lắm, liền cho người đi tìm ông ta đến hỏi. Ông này đã nghe lời Vương Nhân, và cũng mong được chia số bạc, liền nói với Hình phu nhân

– Đức Vương ấy quả là một người rất sang trọng. Nếu nhận lời gả nơi ấy, tuy không phải là làm vợ chính, nhưng chắc sau khi cháu về nhà người ta, thì anh nhà đây sẽ được phục chức, và thanh thế phủ ta sẽ lại rầm rộ.

Hình phu nhân vốn là người không biết suy trước nghĩ sau, mới nghe ông cậu ngốc ấy nói lừa đã động lòng ngay, liền cho người đi mời Vương Nhân đến hỏi. Hắn ta lại tán tỉnh thêm. Thế là Hình phu nhân sai người ra thúc giục Giả Vân đi nói việc

ấy. Vương Nhân lập tức bảo người đến chỗ công quán đức vương để nói chuyện. Đức vương ấy không rõ đầu đuôi, liền sai người đi xem mặt. Giả Vân lại luồn lọt nói riêng với người xem mặt

– Việc này nguyên là giấu hết mọi người trong phủ, chỉ nói người vương phủ đến xem mặt thôi. Chờ khi xong rồi, bà nội cô ta sẽ đứng làm chủ ; ông cậu ruột sẽ đứng làm mối, thì còn sợ gì.

Người xem mặt nhận lời. Giả Vân liền đưa tin cho Hình phu nhân và trình với Vương phu nhân. Bọn Lý Hoàn và Bảo Thoa không rõ duyên cớ, chỉ cho là việc tốt lành, nên đều mừng rỡ.

Một hôm quả có mấy người đàn bà đến. Họ đều ăn mặc lộng lẫy. Hình phu nhân mời vào nói qua mấy câu chuyện suông. Họ biết Hình phu nhân là một bà mệnh phụ, nên không dám khinh nhờn. Hình phu nhân vì là việc chưa chắc chắn, nên

không nói cho Xảo Thư biết, chỉ bảo có bà con đến thăm, và gọi Xảo Thư ra chào.

Xảo Thư vẫn còn trẻ con, nên không để ý, liền theo bà vú đi ra. Bình Nhi không đành lòng, cũng đi theo. Hai người ăn mặc theo lối trong cung. Thấy Xảo Thư, họ liền nhìn khắp người, từ trên xuống dưới, rồi đứng dậy cầm tay Xảo Thư nhìn lại một lượt. Họ ngồi một lúc rồi về. Xảo Thư thấy vậy, xấu hổ trở về phòng buồn bực. Cô ta nhớ lại mình không có bà con nào như thế, liền hỏi Bình nhi.

Bình Nhi thấy quang cảnh này đã đoán được tám, chín phần, chắc là người đến xem mặt. Nhưng cậu Hai không ở nhà, bà Cả lại đứng làm chủ, vẫn chưa rõ là người ở phủ nào. Nếu là nhà thông gia ngang hàng thì không thể có cái lối xem mặt như thế. Nhìn qua bộ dạng mấy người ấy, không giống chính dòng vương phủ ở đây, mà hình như hạng người ở ngoài. Bấy giờ chưa vội nói với cô ta biết. Hãy dò la cho rõ ràng hãy hay.

Bình Nhi trong bụng để ý nghe ngóng. Các a hoàn và bà già lâu nay ở dưới quyền Bình Nhi sai bảo, nên khi Bình Nhi hỏi đến, thì họ kể rõ hết cả bao nhiêu tin đồn nghe được ở ngoài. Bình Nhi hoảng sợ, chưa biết định liệu ra sao. Chị ta không cho Xảo Thư biết vội, rồi đến nói với Lý Hoàn và Bảo Thoa, nhờ hai người trình với Vương phu nhân.

Vương phu nhân biết việc này không hay, liền nói rõ với Hình phu nhân. Khốn nỗi H nh phu nhân cứ tin lời em và Vương Nhân, lại ngờ cho Vương phu nhân không có lòng tốt, liền nói

– Cháu nó đã lớn rồi. Hiện nay thằng Liễn không ở nhà, việc ấy tôi vẫn làm chủ được. Vả lại ông cậu nó và cậu ruột nó đều đã nghe ngóng kỹ càng chẳng lẽ lại không đích xác hơn người ngoài hay sao. Việc này dù sao tôi cũng đã bằng lòng. Nếu có điều gì không hay, thì tôi và cháu Liễn cũng không dám trách đến người khác.

Vương phu nhân nghe vậy, trong bụng giận thầm, miễn cưỡng chuyện trò vài câu rồi ra về, nói lại với Bảo Thoa và rơi nước mắt. Bảo Ngọc khuyên giải

– Mẹ không nên lo phiền làm gì. Con xem việc ấy cũng không xong đâu. Đó chẳng qua là do số phận của cháu Xảo Thư, xin mẹ đừng nghĩ đến là xong.

Vương phu nhân nói

– Hễ mày mở miệng ra là nói nhảm? Người ta nói xong là họ sẽ đón dâu về nhà ngay. Nếu sự việc đúng như lời Bình Nhi, thì anh hai Liễn mầy sau này không trách ta hay sao? Dù nó không phải cháu gái nhà mình, chỉ là con của nhà thân thích đi nữa, cũng nên gả cho xứng đáng mới phải. Cô Hình Tụ Yên là do chúng ta làm mối, gả cho cậu hai Tiết đấy. Họ ăn ở với nhau rất là hòa thuận, như thế không tốt sao. Cô Bảo Cầm thì nhà họ Mai cưới về rồi, nghe nói trong nhà ăn mặc đầy đủ, cũng rất tốt. Còn cô Sứ Tương Vân là do ông chú cô ta đứng gả, lúc đầu cũng khá, nay chồng bị bệnh lao mà chết, cô ấy quyết chí ớ góa, kể ra cũng khổ. Bấy giờ nếu đem cháu Xảo Thư gả nhầm cho người ta, thì thật là ta đã xấu bụng với nó.

Đang nói chuyện thì Bình Nhi đến thăm Bảo Thoa và cũng để dò la ý kiến của Hình phu nhân. Vương phu nhân thuật lại những lời của Hình phu nhân. Bình Nhi đứng ngây người một lúc rồi quỳ xuống kêu van

– Việc trăm năm của cô Xảo đều trông nhờ ở bà lớn cả? Nếu tin theo lời người ta thì không những suốt đời cô ấy chịu khổ mà đến khi cậu Hai về đây cũng không biết ăn nói ra sao?

Vương phu nhân nói

– Cháu là người thông hiểu, đứng dậy ta nói cho mà nghe. Xảo Thư vốn là cháu gái của bà Cả. Bà ấy đứng ra làm chủ. Ta ngăn cản sao được?

Bảo Ngọc khuyên

– Không ngại gì, chỉ cốt việc cho rõ ràng là được.

Bình Nhi sợ Bảo Ngọc điên dại, lại làm ồn lên, nên không nói gì, chỉ trình với Vương phu nhân rồi ra về.

Vương phu nhân nghĩ lại buồn bực, cảm thấy đau lòng gọi a hoàn đến đỡ, gắng gượng về nằm trong buồng, không gọi Bảo Ngọc và Bảo Thoa đến, và nói

– Ngủ một chốc là đỡ thôi.

Nhưng trong người lại cứ buồn bực. Nghe nói thím Lý đến chơi, cũng không kịp tiếp. Giả Lan đến hỏi thăm và trình

– Sớm hôm nay ông nội có sai người mang một bức thư về do bọn hầu nhỏ ở ngoài đưa vào. Mẹ cháu nhận được, định sang hầu, nhân có bà thì cháu đến chơi nên bảo cháu đem thư trình bà trước, lát nữa mẹ cháu xin sang hầu bà. Mẹ cháu còn bảo bà thím cháu cũng định sang thăm. Nói xong, hắn đưa bức thư lên.

Vương phu nhân vừa cầm thư vừa hỏi

– Bà thím của cháu đến có việc gì?

– Cháu cũng không biết rõ. Chỉ nghe bà thím cháu nói, bên nhà mẹ chồng dì Ba cháu có đưa tin gì đến.

Vương phu nhân nghe xong, nhớ lại lần trước mình nói dùm để dạm Lý Ỷ cho Chân Bảo Ngọc. Sau đó đã đưa đi lễ hỏi. Chắc là bây giờ bên nhà họ Chân muốn đón dâu về, cho nên thím Lý đến đây bàn. Bà ta gật đầu, và bóc thư ra, thấy trong thư viết

“Gần đây trên các đường sông đều đầy cả thuyền của quan quân len bể đi đánh giặc về nên không thể vượt lên đi nhanh được. Nghe con Thám Xuân sẽ theo cha chồng và chồng về kinh, không biết đã có tin chưa? Trước đây tiếp được giấy trình của cháu Liễn, biết rằng ông Cả không được khỏe mạnh, nhưng cũng không biết đã có tin gì đích xác chưa? Bảo Ngọc và cháu đã gần đến kỳ thi, cần phải chăm chỉ học, chớ có lười biếng. Sau khi rước linh cữu của mẹ về nhà rồi tôi còn phải ở lại ít ngày. Tôi vẫn mạnh khỏe, không cần phải để ý lo nghĩ. Thư nay truyền cho bọn Bảo Ngọc biết. Sau đó là ngày tháng và chữ ký, và viết thêm: ” Giả Dung sẽ có thư riêng “.

Vương phu nhân xem xong, đưa lại cho Giả Lan và đặn

– Cháu cầm đến đưa cho chú Hai xem, rồi giao lại cho mẹ cháu.

Đang nói thì Lý Hoàn cùng thím Lý đến hỏi thăm. Vương phu nhân mời ngồi. Thím Lý kể lại việc nhà họ Chân muốn cưới Lý Ỷ. Mấy người cùng nhau bàn định một lúc. Lý Hoàn hỏi

– Mẹ đã xem thư của cha gửi về chưa!

Vương phu nhân nói

– Đã xem rồi.

Giả Lan cầm thư đưa cho mẹ. Lý Hoàn xem thư rồi nói

– Cô Ba về nhà chồng đã mấy năm rồi, vẫn chưa về thăm nhà; nay sắp sửa vào kinh, chắc mẹ cũng được yên lòng.

Vương phu nhân nói

– Ta đau lòng, nay con Thám Xuân sắp trở về. Trong bụng cũng đỡ nhớ, nhưng không biết bao giờ nó mới tới.

Thím Lý hỏi thăm sức khỏe của Giả Chính trong lúc đi đường. Lý Hoàn ngoảnh lại bảo Giả Lan

– Con đã thấy chưa? Kỳ thi gần đến nơi. Ông con lo nghĩ như thế đấy. Con cầm ngay bức thư đưa cho chú Hai xem.

Thím Lý nói

– Hai chú cháu nó chưa vào trường giám, làm sao đi thi được?

Vương phu nhân nói

– Ông nó khi sắp đi nhận chức quan lương đạo, đã nộp tiền giám sinh 1 cho cả hai chú cháu nó rồi.

Thím Lý gật đầu. Giả Lan liền cầm bức thư đi tìm Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc đưa Vương phu nhân về, đang ngồi nghiền ngẫm “thiên thu thủy” 2. Bảo Thoa ở trong đi ra, thấy anh ta xem sách có vẻ say mê. Đến nhìn mới biết quyển sách này, trong bụng rất là buồn bực. Nàng nghĩ thầm

“Cậu ta cứ cho những chuyện lánh đời né tục là việc quan trọng. Cứ cái tình hình này thì thật không ổn!” Nhìn thấy thế, Bảo Thoa biết là không khuyên nổi, liền ngồi lại bên người Bảo Ngọc, cứ nhìn sửng sốt, Bảo Ngọc thấy thế, liền hỏi

– Mợ sao thế?

– Tôi nghĩ cậu cùng tôi đã kết nghĩa vợ chồng, thì cậu là người tôi nương tựa suốt đời, vốn không phải chỉ vì lòng tình dục. Chuyện vinh hoa phú quý, chẳng qua cũng thoáng qua như mây khói mà thôi. Nhưng các bậc thánh hiền đời xưa, vẫn xem phẩm cách con người là chính.

Bảo Ngọc chưa nghe hết, đã đặt quyển sách xuống mỉm cười

– Nghe mợ nói về phẩm cách con người, lại nhắc đến thánh hiền đời xưa gì đó. Mợ biết thánh hiền đời xưa có nói câu “chớ làm sai tấm lòng đứa trẻ mới sinh” hay không? Đứa trẻ mới sinh có gì đáng quý? Chẳng qua chỉ vì nó không hiểu, không

biết, không tham, không ghét mà thôi. Chúng ta sinh ra đã đắm đuối trong vòng tham, giận, ngây, yêu. Chẳng khác gì bùn lầy. Làm thế nào thoát khỏi cái lưới ấy của cõi trần. Cho hay người xưa tuy đã nói qua bốn chữ “tụ tán phù sinh” 3. Nhưng chưa làm cho một ai tỉnh ngộ cả. Đã muốn nói về nhân phẩm thì thử hỏi ai là kẻ đạt được cái trình độ sơ sinh?

– Cậu đã nói đến “tấm lòng đứa trẻ”, thì nên biết thánh hiền đời xưa cho rằng trung hiếu chính là tấm lòng đứa trẻ, chứ không phải tránh đời xa người, không chỉ vương vấn vào cái gì mới là tấm lòng đứa trẻ. Các bậc thánh hiền như Nghiêu, Thuấn, vua Thang, Chu Công, Khổng Tử, lúc nào cũng nghĩ đến cứu dân giúp đời. Gọi là tấm lòng đứa trẻ. Không qua tóm tắt trong hai chữ “bất nhẫn” mà thôi. Còn theo lời cậu vừa nói, thì là nỡ lòng bỏ cả thiên luân, còn ra đạo lý gì?

Bảo Ngọc gật đầu cười

– Nghiêu, Thuấn cũng không ép được Sào Phủ, Hứa Do. Võ Vương, Chu Công cũng không ép được Bá Di Thúc Tề 4

Bảo Thoa không đợi nghe hết câu, liền nói

– Những câu nói ấy của cậu lại càng không đúng. Ai cũng là Sào, Hứa, Di, Tề cả, thì sao đến nay người ta lại khen Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng là bậc thánh biền? Vả lại cậu ví mình như Di, Tề thì thật không đúng. Di, Tề vì sinh vào cuối đời nhà

Thương, gặp phải nhiều việc khó xử, nên mới có cớ để trốn tránh. Chứ bây giờ gặp đời vua thánh, nhà ta mấy đời đội ơn triều đình, cha ông được hưởng biết bao điều sung sướng… Vả lại, cậu từ khi lọt lòng đến giờ, bà trước kia và cha mẹ đều xem như một hòn ngọc quý. Cậu vừa nói những câu ấy, thử nghĩ lại xem có đúng hay không.

Bảo Ngọc nghe xong, không trả lời, cứ ngẩng đầu lên mỉm cười. Bảo Thoa lại khuyên

– Cậu đã đuối lý thì tôi khuyên cậu từ sau nên hồi tâm lại. Cố sức học hành, nếu mà thi đậu, sau đó mà thôi, cũng không đến nổi uổng phí ơn trời đức tổ?

Bảo Ngọc gật đầu, than thở rồi nói

– Thi đậu à, kể ra thì cũng không phải là việc gì khó đâu. Nhưng những câu mợ nói “sau đó mà thôi” và “không uổng ơn trời đức tổ”, thì xem ra cũng đúng đấy.

Bảo Thoa chưa kịp trả lời, thấy Tập Nhân đến nói

– Vừa rồi mợ Hai nói đến các bậc thánh hiền đời xưa, tôi cũng chẳng hiểu gì. Tôi chỉ nghĩ bọn chúng tôi khó nhọc vất vả theo hầu cậu Hai từ thuở bé, hết sức lo lắng săn sóc. Nói đúng ra, đó vẫn là bổn phận phải làm, nhưng cậu cũng nên xét lại một chút. Vả lại mợ Hai đã thay cậu giữ trọn đạo hiếu đối với ông lớn và bà lớn. Dù cậu không để ý đến tình vợ chồng đi nữa, thì cũng không nên phụ tấm lòng tốt của người ta. Còn chuyện thần tiên là câu chuyện hoang đường, có ai mắt thấy vị thần tiên nào đi xuống cõi trần đâu? Không biết cái ông sư ấy ở đâu đến, nói nhảm mấy câu, mà cậu cho là thực. Cậu là người có học, không lẽ coi lời nói của ông sư trọng hơn lời dạy của cha mẹ hay sao?

Bảo Ngọc nghe xong, cúi đầu không đáp. Tập Nhân đang muốn nói nữa, bỗng nghe phía ngoài có tiếng bước chân, rồi từ cửa sổ có tiếng hỏi vào

” Chú Hai có ở nhà không?”

Bảo Ngọc nghe rõ liếng Giả Lan, liền đứng dậy cười nói

– Cháu cứ vào.

Bảo Thoa cũng đứng dậy. Giả lan đi vào, đến chào Bảo Ngọc và Bảo Thoa, có vẻ vui mừng lắm, lại chào cả Tập Nhân. Tập Nhân cũng chào lại. Giả Lan đưa bức thư cho Bảo Ngọc xem. Bảo Ngọc cầm thư đọc rồi nói

– Cô Ba cháu về thăm à?

– Ông đã viết trong thư như thế, chắc là sẽ về.

Bảo Ngọc gật đầu không đáp, lặng lẽ dường như đang nghĩ ngợi gì. Giả Lan hỏi

– Chú đã xem rồi chứ. Đoạn cuối bức thư, ông dặn cậu cháu ta lo học hành đấy. Cháu sợ lâu nay chú không làm bài vở gì thì phải?

Bảo Ngọc cười

– Ta cũng muốn tập làm mấy bài cho thành thạo, để đi kịp đời kiếm chút công danh.

– Chú đã định như thế, thì nên nghĩ sẵn mấy đầu bài. Cháu sẽ cùng chú tập làm, để vào trường thi quấy quá cho xong, nếu phải nộp quyển trắng thì không những người ta chê cười cháu, mà chê cười cả chú nữa đấy.

– Cháu không đến nổi thế đâu.

Giả Lan nói xong, Bảo Thoa mời ngồi. Bảo Ngọc vẫn ngồi ở chỗ cũ. Giả lan ngồi ghé một bên. Hai chú cháu bàn chuyện văn bài một lúc, mặt mày vui vẻ. Bảo Thoa thấy hai chú cháu đang chuyện trò thích thú như vậy, bèn đi vào trong nhà, nghĩ bụng

“xem bộ dạng cậu Bảo bây giờ, có lẽ đã tỉnh ngộ rồi. Nhưng theo lời cậu ta vừa nói, thì cậu ta chỉ đồng ý mấy tiếng “sau đó mà thôi”. Không rõ là có ý tứ gì.”

Trong lúc Bảo Thoa đang còn phân vân, Tập Nhân thấy Bảo Ngọc thích bàn văn chương, và nhắc đến việc đi thi, thì lại mừng rỡ nghĩ bụng “A di đà phật? Mợ ấy giảng như giảng sách tứ thư, cậu ta mới vỡ lẽ ra được.”

Bảo Ngọc và Giả Lan còn đang nói chuyện văn bài, thì Oanh Nhi pha trà đưa đến. Giả Lan đứng dậy cầm lấy chén trà, lại nói một hồi về những phép tắc vào trường thi và việc mời Chân Bảo Ngọc cùng đến họp bạn. Bảo Ngọc hình như rất thích.

Một lát sau, Giả Lan ra về, để lại bức thư cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cầm bức thư cười tủm tỉm, đưa cho Xạ Nguyệt cất đi, rồi ra cất bộ sách Trang Tử, lại soạn những bộ sách trước đây thích đọc nhất như Tham đồng khế 5, Nguyên mệnh bao 6, Ngũ đăng hội nguyên 7…gọi bọn Xạ Nguyệt. Thu Văn, và Oanh Nhi xếp vào một chỗ.

Bảo Thoa thấy hành động lần này của Bảo Ngọc, rất lấy làm lạ, muốn dò thử xem, liền cười hỏi

– Không xem những sách ấy là đúng rồi. Nhưng cần gì cậu lại phải chuyển đi nơi khác?

Bảo Ngọc nói

– Bây giờ tôi mới hiểu rõ, những thứ sách ấy đều chằng ra gì, tôi phải đốt hết đi cho rảnh.

Bảo Thoa nghe vậy vui sướng vô cùng. Bỗng nghe Bảo Ngọc đọc khe khẽ

– Trong nội điển tuyệt không tính Phật,

Ngoài kim đan lại có thuốc tiên.

Bảo Thoa cũng không nghe rõ lắm, chỉ lõm bõm mấy chữ “không tính phật” và “có thuốc tiên.” Trong bụng lại đâm ra ngờ vực hãy chờ xem bộ dạng cậu ta như thế nào. Bảo Ngọc sai bọn Xạ Nguyệt, Thu Vân thu xếp một gian nhà yên tĩnh, rồi chọn những sách hay về loại ngữ lục và các thể thơ theo lối thi cử đem để trong gian nhà ấy. Anh ta lại tỏ ra vẻ thực sự yên tĩnh đọc sách. Bấy giờ Bảo Thoa mới yên tâm. Tập Nhân chưa hề nghe thấy việc ấy bao giờ, nên cười nói với Bảo Thoa

– Tóm lại nhờ lời lẽ của mợ thông suốt, nên chỉ bàn luận một hồi, đã khuyên giải được cậu Hai. Đáng tiếc hơi chậm một chút, ngày vào trường thi đã gần đến rồi.

Bảo Thoa gật đầu mỉm cười

– Chỉ mong từ sau cậu ấy một lòng đi con đường chính, không dính dáng đến những thứ tà ma như trước, thế là tốt rồi!

Chị ta nói đến đó, thấy trong buồng không có ai, lại gọi nhỏ

– Lần này cậu ấy tỉnh ngộ là rất hay. Nhưng còn có một chuyện, sợ lại mắc bệnh cũ, ham chơi bời với chị em bạn gái, thì lại không tốt.

– Mợ nói cũng đúng, cậu Hai từ khi nghe theo vị hòa thượng mới tỏ ra lạnh nhạt với đám chị em. Nếu cậu ấy không tin ông ta nữa, sợ lại mắc phải bệnh cũ đấy. Theo ý tôi thì cậu Hai không để ý đến mợ và tôi lắm đâu. Nhà này trừ Tử Quyên đi rồi, chỉ còn bốn chị em chúng nó. Trong đó có con Năm hơi ranh mãnh, nghe nói mẹ nó đã thưa với mợ Cả, nói với mợ, xin nó về để gả chồng, nhưng vài hôm nay nó vẫn còn ở đây. Xạ Nguyệt và Thu Vân tuy không có điều gì, nhưng mấy năm lại đây cậu Hai cũng hay đùa bỡn với chúng. Bây giờ nhìn lại, chỉ có Oanh Nhi là cậu Hai không hề để ý lắm. Vả lại Oanh Nhi tính cũng đứng đắn. Tôi nghĩ những việc pha trà múc nước, chỉ cần bảo Oanh Nhi cùng bọn a hoàn nhỏ hầu là đủ, không biết ý mợ nghĩ sao?

– Tôi cũng lo về việc ấy. Cô nói thế cũng được đấy.

Từ đó, Oanh Nhi cùng các a hoàn nhỏ được cắt vào hầu hạ Bảo Ngọc. Bảo Ngọc vẫn không ra khỏi cửa phòng, ngày nào cũng chỉ sai người đến hỏi thăm Vương phu nhân. Vương phu nhân thấy anh ta như thế, vui sướng vô cùng.

Đến ngày mồng ba tháng tám, đúng ngày “lễ minh thọ” 8 của Giả mẫu. Bảo Ngọc sang cúng rồi về ngay, lại vào ngồi trong gian nhà kín. Cơm xong, Bảo Thoa, Tập Nhân, cùng bọn chị em đều theo Hình phu nhân và Vương phu nhân ngồi nói chuyện. iphiếm ở nhà trước. Bảo Ngọc một mình ngồi yên lặng trong gian nhà kín. Bỗng thấy Oanh Nhi bưng đến một mâm các thứ dưa quả thưa

– Đây là lễ vật cúng bà. Bà lớn bảo người đưa sang để cậu xơi.

Bảo Ngọc đứng dậy nhận, rồi lại ngồi xuống nói

– Để lại đó.

Oanh Nhi vừa đặt dưa xuống, vừa khẽ nói với Bảo Ngọc

– Bà lớn đang khen cậu Hai ở bên ấy đấy.

Bảo Ngọc mỉm cười.

Oanh Nhi lại nói

– Bà lớn bảo lần này cậu Hai cố hết sức học hành, nay mai vào trường thi đậu rồi, sang năm lại thi đậu tiến sĩ, rồi ra làm quan, thì thực không uổng công ông lớn và bà lớn trông mong cậu.

Bảo Ngọc chỉ gật đầu cười mỉm.

Oanh Nhi bỗng nhớ lại câu nói của Bảo Ngọc hồi năm nọ, khi mình đến bện dây giúp, liền nói

– Nếu quả cậu Hai thi đậu, thì thật là cô tôi tốt phúc! Cậu còn nhớ năm nọ ở trong vườn, khi cậu bảo tôi đến bện cái dây kiểu hoa mai, cậu có nói

sau này không biết cô tôi cùng với tôi đến nhà một người nào tốt phúc. 9 Thế thì bây giờ cậu là người tốt phúc đấy nhỉ?

Bảo Ngọc nghe đến đó, lại cảm thấy động lòng trần tục, liền định thần nín thở, mỉm cười nói

– Theo như cô, thì tôi và cô của cô đều là người có phúc, còn cô thì sao?

Oanh Nhi đỏ mặt, gượng cười thưa

– Chúng tôi chẳng qua chỉ làm a hoàn suốt đời, còn có phúc phận gì?

– Nếu quả suốt đời được làm a hoàn, thì phúc ấy còn to hơn phúc của chúng tôi nữa đấy!

Oanh Nhi nghe câu ấy, giống lời nói điên, sợ mình lại gây ra bệnh của Bảo Ngọc, định bỏ đi. Bỗng thấy Bảo Ngọc cười rồi nói

– Cô bé ngây ngô ơi, để ta nói cho mà nghe!

Chưa biết Bảo Ngọc sẽ nói ra những chuyện gì.

[1]      Theo chế độ khoa cử đời Thanh, những người học thi Quốc tử giám gọi là giám sinh. Có tư cách giám sinh mới được đi thi cử nhân. Nhưng hầu hết chỉ cần quyên nạp một số liền là được.

[2]      Một thiên trong “Nam hoa kinh ” của Trang Tử.

Đoạn này bảo là muôn dặm giáo lời như Phật nói chuyện Bảo Tháp.

[3]      Gặp nhau chỉ để chia ly. Cuộc đời chớp nhoáng.

[4]      Sào Phủ và Hứa Do là những người cao sĩ đời nhà Đường. Ở ẩn trong núi,vua Nghiêu nhường thiên hạ cho Sào Phủ. Sào Phủ không nhận, nhượng lại cho Hứa Do. Hứa Do cũng không chịu, rồi bỏ trốn đi cày. Bá Di và Thúc Tề là con vua Cô Trúc đời nhà Thương. Anh em nhưng ngôi Vua cho không nhận rồi đều bỏ trốn. Khi Chu Võ Vương đánh Trụ, Bá Di, Thúc Tề can không được, liền bỏ vào trong núi Thú Dường ăn rau mà chết đói….

[5]      Sách này có hai loại, một loại nói về phép luyện đan của Đạo học.một loại bàn về đạo lý nhà Phật

[6]      Một thứ sách chuyên nói về những điềm lạ lùng, những ước đoán trước.

[7]      Sách chép về hệ thông tông phái của Phật giáo- Công danh có số, thi đậu hay hỏng, cũng không phải do học, sớm hay muộn.

[8]      Lễ kỷ niệm ngày chết rồi. (Ngày giỗ)

[9]      Xem lại hồi thứ 35.

Chương 119: Dỗ hương khôi, Bảo Ngọc rũ sạch duyên trần – Đội ơn vua, họ Giả dồi dào hưởng phúc

Dỗ hương khôi, Bảo Ngọc rũ sạch duyên trần

Đội ơn vua, họ Giả dồi dào hưởng phúc

Oanh Nhi nghe những câu của Bảo Ngọc, không hiểu ra sao, định bỏ đi, bỗng Bảo Ngọc gọi lại bảo

– Cô bé ngây ngô ơi, để ta nói cho mà nghe? Cô của cô đã có phúc phận, thì cô đi theo cô ta tức là cũng có phúc phận rồi, không nhờ cậy chị Tập Nhân được đâu. Vậy từ nay về sau cô hãy hết lòng hầu hạ cô ta nhé. Ngày sau mà có điều gì hay, thì cũng không uổng công cô đã chịu khó theo hầu cô ta mấy lâu.

Oanh Nhi nghe câu nói, đoạn đầu thì có vẻ có nghĩa, đoạn sau hình như vô nghĩa, liền nói

– Tôi hiểu rồi, cô tôi đang chờ tôi đấy. Khi nào cậu muốn ăn quả, thì sai a hoàn nhỏ đến gọi tôi.

Bảo Ngọc gật đầu. Oanh Nhi đi ra Bảo Thoa và Tập Nhân đều về phòng nghỉ.

Mấy hôm sau đến ngày vào trường thi. Mọi người chỉ trông mong hai chú cháu Bảo Ngọc làm văn bài cho hay, để được đậu cao ; còn Bảo Thoa thì nhận thấy Bảo Ngọc tuy học tập chăm chỉ, nhưng những lúc vô tình hoặc hữu ý, lại tỏ ra lạnh nhạt. Chị ta để ý đến Bảo Ngọc sắp vào trường thi, việc thứ nhất là hai chú cháu đều đi thi lần đầu, ra chỗ đông người chen chúc, sợ bị thất lạc; vì hai là Bảo Ngọc sau khi ông sư đi rồi, vẫn không ra khỏi cửa, học hành lại vui vẻ. Thấy sự thay đổi quá nhanh chóng và quá tốt đẹp như thế, chị ta cũng có phần ngờ vực, sợ lại có biến cố gì chăng. Vì vậy trước khi vào trường thi một hôm, chị ta một mặt sai Tập Nhân dẫn các a hoàn nhỏ cùng bọn Tố Vân sắp đặt đồ đạc chu đáo cho hai chú cháu. Chị ta nhìn qua một lượt, bảo cắt đặt cẩn thận đâu vào đấy. Một mặt lại đi sang Lý Hoàn, cùng Lý Hoàn đến trình Vương phu nhân, chọn mấy người lão thành biết việc trong nhà theo hầu, cứ nói là sợ người ngựa chen chúc dẫm phải.

Hôm sau Bảo Ngọc và Giả Lan mặc quần áo không cũ, không mới, vui vẻ đến chào Vương phu nhân.Vương phu nhân dặn

– Hai chú cháu mầy vừa mới đi thi lần đầu. Nhưng chúng mầy đã lớn đến chừng ấy, vẫn chưa bao giờ rời ta. Dù có những lúc không ớ với ta, cũng có bọn a hoàn, người hầu quây quần chung quanh, chứ có đêm nào nằm ngủ riêng một mình đâu?

Ngày nay chú cháu ra đi, cô quạnh lủi thủi, xung quanh không có bà con, cần phải giữ gìn cẩn thận đấy. Gắng làm văn bài xong cho mau mà ra trường, rồi tìm người nhà về cho sơm sớm, để mẹ và vợ các con được yên lòng.

Vương phu nhân nói xong, không khỏi thương xót. Giả Lan nghe đến đâu vâng dạ đến đấy; còn Bảo Ngọc không hề hé môi, đợi Vương phu nhân nói xong, liền đến quỳ xuống, nước mắt đầy tròng, gục đầu lễ ba lễ rồi thưa

– Mẹ sinh con ra, đời con không có gì báo đáp. Chỉ có lần này vào trường, con xin cố sức làm văn trài, may đậu được cử nhân, để mẹ được vui mừng. Thế là việc cả đời con được trọn vẹn rồi. Dù con có điều gì không hay, cũng có thể chuộc lại.

Vương phu nhân nghe xong, càng thấy thương tâm, bảo

– Con có bụng nghĩ như thế là giỏi. Chỉ tiếc rằng bà không sống để trông thấy mặt con nữa.

Bà ta vừa nói vừa kéo Bảo Ngọc dậy, nhưng anh ta cứ quỳ mãi, rồi lại thưa

– Dù bà trông thấy hay không, người cũng vẫn biết rõ. Đã biết rõ, đã vui mừng, thì dù người không trông thấy cũng như đã trông thấy. Chẳng qua hai bên chỉ cách biệt về thể xác, chứ không cách biệt về tinh thần.

Lý Hoàn thấy Vương phu nhân cùng Bảo Ngọc như thế, một là sợ lại gây ra bệnh cũ của Bảo Ngọc, hai là xem tình hình này cũng không có vẻ tốt lành lắm. Nên vội vàng đến trình

– Thưa mẹ. Đây là việc rất vui mừng, sao mẹ lại thương tâm như thế? Vả lại chú Bảo gần đây đã hiểu lẽ phải trái, dốc lòng hiếu thuận, lại chịu ra sức học hành. Chỉ mong chú ấy đem cháu vào trường thi. lo làm văn bài cho hay, thu xếp về nhà cho sớm, rồi sao lại bài thi đem nhờ các bậc thế giao xem hộ, chờ cho đến khi hai chú cháu đều có tin mừng là được.

Đoạn chị ta gọi người đến đỡ Bảo Ngọc dậy.

Bảo Ngọc quay lại vái Lý Hoàn và nói

– Xin chị cứ yên tâm. Hai chú cháu chúng tôi nhất định sẽ đậu cả. Sau này cháu Loan còn làm nên, rồi chị sẽ được đội mũ cánh phượng, mặc áo ráng đỏ 1 nữa đấy.

Lý Hoàn cười

– Chỉ mong được như lời chú nói, cũng không uổng công!

Chị ta nói đến đó, lại sợ gây ra mối thương tâm của Vương phu nhân, liền dừng lại. Bảo Ngọc cười, nói

– Chỉ cần có đứa con nối nghiệp tổ tiên là được. Dù anh Cả không trông thấy, cũng coi như là việc đời sau của anh ấy đã đầy đủ rồi.

Lý Hoàn thấy trời đã muộn nên không chịu nói hết lời với Bảo Ngọc, chỉ có gật đầu. Bảo Thoa nghe nói, rất là sửng sốt nghĩ bụng

“Không những lời nói của Bảo Ngọc mà những câu của Vương phu nhân và Lý Hoàn cũng đều là những điềm không tốt.” Nhưng chị ta không dám thật thà nói ra, chỉ ứa nước mắt không nói gì.

Bảo Ngọc đến trước mặt chị ta, vái một vái dài. Mọi người thấy anh ta làm điều quái gỡ như vậy, không hiểu sao, cũng không dám nói. Bỗng thấy Bảo Thoa nước mắt ròng ròng, ai cũng lấy lại lạ. Rồi lại nghe Bảo Ngọc nói

– Thưa chị? Tôi phải đi đây. Chị nên chăm lo hầu mẹ, đợi tin mừng của tôi.

– Đến giờ ra đi rồi. Cậu không cần nói những câu lảm nhảm ấy nữa.

Hôn nhân không tình yêu, thứ duy nhất giữa anh và cô chỉ là mối hận tận xương tủy

2 năm sau chia tay, hắn không ngờ mình sẽ gặp lại vợ cũ ở nơi tăm tối tột cùng

Sticker dán in hình theo yêu cầu – Style Hàn Quốc siêu xinh, in được từ ảnh điện thoại cực nét!

Mang mối thù gia tộc, cô bắt đầu thân phận mới để gả cho con trai kẻ thù, nhưng tình cảm lại là bài toán không đoán được– Chị lại giục tôi gấp. Tôi cũng tự biết là phải đi rồi.

Anh ta quay lại thấy mọi người đều đông đủ cả, chỉ thiếu Tích Xuân và Tử Quyên, liền nói

– Nhờ thay lời tôi nói hộ với cô Tư và chị Tử Quyên. Dù sao cũng sẽ gặp lại là được.

Mọi người nghe lời của Bảo Ngọc hình như đúng, lại hình như điên. Họ chỉ cho rằng anh ta xưa nay chưa ra khỏi nhà, chỉ vì mấy câu nói của Vương phu nhân gợi ra cả, chi bằng thúc giục anh ta đi mau là xong việc. Họ bèn nói

– Đã có người chờ sẵn cậu ngoài kia rồi, nếu còn dùng dằng nữa, sợ lại lỡ mất thì giờ.

Bảo Ngọc ngửa mặt cười to:

– Đi thôi, đi thôi! Không cần dùng dằng lôi thôi. Xong việc rồi.

Mọi người cũng cười, bảo

– Đi mau lên thôi.

Chỉ có Vương phu nhân và Bảo Thoa thì lại thấy như cảnh sinh ly tử biệt, nước mắt không biết ở đâu cứ chảy ròng ròng, khóc không ra tiếng. Còn Bảo Ngọc lại có vẻ hí hớn như người điên, từ đó bước ra cửa đi mất. Thế là

Danh lợi đi tìm nơi tột bực!

Củi lồng thoát khỏi cửa đầu tiên.

Khoan nói việc Bảo Ngọc và Giả Lan đi thi. Hãy nói Giả Hoàn trông thấy hai chú cháu họ ra đi thì vừa tức giận, lên giọng thánh tướng, nói thầm

– Ta cũng phải báo thù cho mẹ ta mới được! Nay trong nhà không có một người đàn ông nào, nếu bác Cả bên kia cũng nghe lời ta thì còn sợ gì ai!

Hắn nghĩ rồi liền chạy đến bên Hình phu nhân hỏi thăm và tâng bốc mấy câu.

Hình phu nhân tất nhiên vui thích, liền nói

– Cháu như thế mới là hiểu lẽ phải chứ? Như việc con cháu Xảo Thư, đáng lẽ do ta làm chủ, thế mà anh hai Liễn cháu cứ lẩn thẩn, lại bỏ mẹ đẻ đi nhờ người khác?

– Ở bên kia họ cũng đã nói. Họ chỉ biết có nhà bác đây thôi, nếu xong việc thì sẽ sắp sửa một món lễ vật to để đưa biếu bác đây. Bác được người cháu rể như đức vương ấy thì còn lo gì bác Cả không làm quan to chứ. Không phải là cháu nói xấu mẹ cháu đâu, bên ấy họ có chị cả là Nguyên Phi, nên họ ra cách khinh rẻ người ta, khiến ai nấy rất là khó chịu. Sau này cháu Xảo Thư không nên mất hết lương tâm như thế. Để cháu hỏi nó xem.

– Cháu cũng nên nói cho nó biết, nó mới hiểu rõ lòng tốt của cháu. Dù cha nó ở nhà e cũng không thể tìm ra được mối nhà thông gia sang trọng như thế? Vậy mà cái con Bình u mê kia lại bảo là không được. Nó nói mẹ cháu cũng không bằng lòng. Xem ra chỉ vì họ sợ chúng ta lại được sung sướng đấy thôi. Việc này nếu để chậm, đến khi anh Hai cháu về, anh ấy sẽ nghe người ta, lại không xong đâu.

– Bên kia đã nhất định rồi, chỉ chờ bác đưa canh thiếp sang là được. Theo khuôn phép của vương phủ, chỉ trong ba ngày là rước dâu về. Nhưng còn một điều, sợ bác không bằng lòng; bên kia họ bảo không nên cưới cháu gái một viên quan phạm tội về làm vợ, chỉ có thể lặng lẽ đón đi thôi ; đợi khi bác trai được tha, lại làm quan, hai bên sẽ mở tiệc mừng vui vẻ.

– Việc ấy có gì mà không được? Theo lễ cũng phải làm như thế.

– Đã thế thì xin bác giao canh thiếp cho cháu là được.

– Cháu rõ lẩn thẩn! Trong này đều là đàn bà cả, cháu ra bảo cháu Tường viết cho một cái thiếp là xong.

Giả Hoàn nghe nói, vui mừng khôn xiết, vội vàng vâng dạ đi ra, kiếm Giả Vân nói chuyện. Lại nhờ Vương Nhân đến công quán đức vương ấy làm giấy tờ, để nhận số bạc. Ngờ đâu những câu chuyện vừa rồi đã bị a hoàn hầu Hình phu nhân nghe được. A hoàn này trước đây nhờ Bình Nhi mới được chọn vào hầu, nay nhân lúc rảnh, nó chạy đến chỗ Bình Nhi kể lại rành mạch.

Bình Nhi biết việc này không hay, và nói rõ với Xảo Thư. Xảo Thư khóc suốt đêm, chỉ nói chờ cha về làm chủ, chứ không thể nghe theo lời bà được. Nay lại nghe nói thế, nó khóc òa lên, định đến cãi lại với bà. Bình Nhi ngăn nó lại

– Cô hãy khoan đã? Bà là bà nội của cô. Bà bảo cậu Hai không ở nhà, thì bà đứng làm chủ được. Đã thế lại còn có ông cậu ruột đứng làm mối nữa. Họ vào bè với nhau, một mình cô nói làm sao lại? Tôi thì đã đành là bậc dưới, không thể nói nổi. Bây giờ cô nên nghĩ cách nào, chứ nhất thiết không được nông nỗi.

A hoàn ấy bảo

– Các cô nên định liệu mau mau, không thì họ sẽ đón đi đấy!

Bình Nhi ngoảnh lại, thấy Xảo Thư quỵ khóc sướt mướt, vội vàng đỡ dậy nói

– Cô ơi, khóc cũng không ăn thua gì đâu! Hiện nay không thể đợi cậu Hai được. Nghe câu chuyện họ nói…

Chưa nói dứt lời, thấy bên Hình phu nhân đã sai người sang báo

– Việc vui mừng của cô tới nơi rồi? Bảo chị Bình soạn sửa tất cả những đồ vật gì cô cần dùng. Còn lễ vật tư trang sẽ đợi khi cậu Hai về mới sắm sửa.

Bình Nhi đành phải vâng lời. Lúc ấy lại thấy Vương phu nhân đến, Xảo Thư liền ôm chặt lấy bà ta cứ lăn vào lòng mà khóc. Vương phu nhân cũng khóc và nói

– Cháu không cần nóng nảy! Ta vì cháu đã phải chịu bao nhiêu câu nói của bà cháu, nhưng xem chừng thì không thể xoay chuyển lại được nữa. Chúng ta cứ nhận lời rồi tìm cách tạm hoãn, và lập tức sai người đi đến nơi cha cháu nói rõ việc ấy.

Bình Nhi thưa

– Bà còn chưa biết sao. Sớm nay cậu Ba đã trình với bà Cả là khuôn phép trong Vương phủ chỉ trong ba ngày phải rước dâu về. Bây giờ bà Cả đã bảo cậu Vân viết thiếp rồi, như thế đợi cậu Hai sao kịp.

Vương phu nhân nghe đến tiếng cậu Ba, tức quá, nói không ra lời, ngẩn người ra một lúc, giục bảo đi tìm Giả Hoàn.

Một hồi lâu, có người vào trình

– Sáng hôm nay cậu Ba cùng cậu Tường và ông Vương Nhân đi đâu rồi.

– Còn thằng Vân đâu?

– Không biết ạ.

Mọi người đều trợn trừng trợn trạc không còn cách gì.

Vương phu nhân cũng khó cãi nhau với Hình phu nhân, nên ai nấy đành ôm đầu mà khóc. Trong lúc đang bối rối, chợt có bà già vào trình

– Người canh cửa sau báo tin bà Lưu lại đến.

Vương phu nhân nói

– Nhà chúng ta đang gặp lúc bối rối như thế này, còn rảnh rang đâu mà tiếp khách, nói thế nào đó cho bà ấy về đi thôi.

Bình Nhi thưa

– Bà lớn nên cho mời vào. Bà ấy là mẹ nuôi của cô Xảo, cũng nên nói qua cho bà ấy biết.

Vương phu nhân không nói gì. Người nhà dẫn bà Lưu vào. Hai bên chào hỏi xong, bà Lưu trông thấy người nào con mắt cũng đỏ hoe, chẳng hiểu ra sao, bà ta chậm rãi một lúc rồi hỏi

– Làm sao thế? Chắc là bà lớn và cô lại nhớ đến mợ Hai?

Xảo Thư nghe nhắc đến mẹ mình, càng khóc to lên. Bình Nhi nói

– Bà đừng nói chuyện suông nữa. Bà đã là mẹ nuôi của cô, cũng nên biết việc này.

Rồi chị ta kể hết đầu đuôi, làm bà Lưu khiếp sợ sửng sốt.

Một lúc sau bà ta bỗng phá lên cười

– Chị là người lanh lợi như thế mà chưa nghe khúc “Cổ nhi từ” 2 à. Việc ấy còn có nhiều cách, khó khăn gì đâu.

Bình Nhi vội hỏi

– Bà ơi. bà có cách gì, xin nói mau lên?

– Việc ấy có gì khó khăn đâu? Không để cho một người nào trong bọn họ biết, rồi thình lình trốn đi lã xong.

– Bà nói bậy rồi? Con nhà chúng tôi thể diện như thế này, trốn đi đâu được?

– Chỉ sợ các cô không chịu đi thôi, nếu đi thì cứ đến chỗ quê tôi. Tôi sẽ dấu kín cô Xảo đi, rồi bảo cô ấy tự tay viết một bức thư. Tôi lập tức bảo anh rể tôi tìm người, mang ngay đến chỗ cậu Hai, chắc cậu ấy sẽ về ngay, như thế không được ư?

– Nếu bà Cả biết thì sao?

– Khi tôi đến bà lớn biết không?

– Bà Cả ở nhà phía trước. Bà ta đối đãi với người dưới rất khắc nghiệt, có tin tức gì không ai báo cho bà ấy cả. Nếu bà đi vào cửa trước thì họ biết ; nhưng bà lại đi cửa sau, thì không can gì.

– Các cô định bao giờ đi, thì tôi bảo anh rể tôi đem xe đến đón.

– Còn đợi đến bao giờ nữa? Thôi mời bà hãy ngồi đây đã.

Rồi chị ta vội vàng đi vào, tránh những người đứng xung quanh, trình rõ những lời bà Lưu vừa nói với Vương phu nhân. Vương phu nhân nghĩ một lúc, thấy không ổn. Bình Nhi nói

– Chỉ có cách ấy thôi. Vì là bà lớn nên cháu mới dám nói rõ. Bà lớn cứ giả làm như không biết, rồi cứ vờ hỏi bà Cả. Còn chúng cháu ở bên này sẽ sai người đi, chắc cậu Hai cũng về nhanh.

Vương phu nhân không nói gì, chỉ thở dài. Xảo Thư nghe vậy, liền thưa với Vương phu nhân

– Xin bà cứu lấy cháu! Dù sao lúc cha cháu trở về, cũng chỉ biết ơn bà mà thôi.

Bình Nhi nói

– Không cần phải nói nữa, xin mời bà lớn về đi thôi. Chỉ nhờ bà lớn sai người đến coi nhà cho.

Vương phu nhân nói

– Phải kín đáo một tí. Nhớ mang theo áo quần chăn nệm của chúng cháu đấy.

Bình Nhi nói

– Phải đi nhanh mới kịp, nếu để họ giao giá xong trở về thì rắc rối đấy.

Câu nói ấy như giục giã Vương phu nhân. Bà ta nói

– Phải rồi, các cháu cứ soạn sửa nhanh lên! Đã có ta đây!

Sau đó Vương phu nhân trở về, lại sang bên Hình phu nhân nói chuyện suông, để giữ bà ta lại. Bên này Bình Nhi bảo người sắp sửa ra đi, và dặn dò

– Đừng giấu diếm gì. Nếu có người trông thấy thì cứ nói là bà Cả truyền bảo, cần một cỗ xe để đưa bà Lưu về.

Rồi lại đem tiền lót cho người canh cửa sau, bảo thuê xe đến. Bình Nhi cải trang cho Xảo Thư giả làm con Thanh, cháu gái bà Lưu, rồi vội vàng lên xe đi ngay. Sau đó Bình Nhi làm bộ tiễn khách, nhân lúc người ta không để ý, cũng nhảy lên xe đi

luôn. Số là gần đây cửa sau phủ Giả tuy mở, nhưng nhà rộng, đầy tớ ít, nên chỉ một vài người canh, trông nom không xuể, rất là trống trải. Vả lại Hình phu nhân là người không biết thương kẻ dưới. Người trong nhà tuy biết việc ấy không hay, nhưng họ lại nhớ ơn Bình Nhi ăn ở tử tế, nên thông đồng với nhau, để mặc cho

Xảo Thư đi. Hình phu nhân vẫn còn ngồi nói chuyện với Vương phu nhân, có để ý gì đến việc ấy. Riêng Vương phu nhân là không yên tâm chút nào. Bà ta nói chuyện một lúc, rồi lặng lẽ sang ngồi bên phòng Bảo Thoa, lòng lo ngay ngáy. Bảo Thoa thấy Vương phu nhân sắc mặt hoảng hốt, liền hỏi

– Trong bụng mẹ nghĩ việc gì phải không?

Vương phu nhân nói thầm việc ấy với Bảo Thoa, Bảo Thoa nói

– Làm liều quá. Bây giờ phải sai cháu Vân mau mau sang đình chỉ bên kia đi mới yên chuyện.

– Ta cho tìm thằng Hoàn không thấy đâu cả.

– Mẹ cứ vờ như không biết, để con tìm người sang nói cho bác biết mới được.

Vương phu nhân gật đầu; mặc cho Bảo Thoa tìm người. Số là đức vương này muốn mua mấy người con gái để hầu hạ, vì chưa tin lời người mối, nên mới sai người đi xem mặt. Người đi xem về bẩm rõ. Đức vương hỏi đến con nhà dòng dõi

thế nào, họ không dám dấu đành phải nói thực. Đức vương nghe xong, biết rõ nhà ấy đã mấy đời có công và có họ ngoại với nhà vua, nên bảo

– Không xong đâu! Việc ấy phạm lệ cấm đấy, suýt nữa làm hỏng việc lớn! Vả lại ta về chầu vua đã xong, phải chọn ngày lên đường. Nếu có người nào nói đến việc ấy nữa, phải đuổi đi ngay.

Hôm ấy vừa lúc Giả Vân và Vương Nhân đưa canh thiếp đến, bỗng thấy người trong cửa phủ ra nói

“vâng mệnh đức vương truyền, người nào còn dám đem

người trong phủ Giả mạo nhận là con gái nhà thường dân thì phải bắt lấy để trị tội. Hiện nay đương đời thái bình, ai dám to gan như vậy.” Nghe vậy, Vương Nhân khiếp sợ, cúi cổ bỏ trốn, oán trách người đã nói lộ chuyện, rồi cả bọn cụt hứng ra về. Giả Hoàn ở nhà chờ tin, nghe Vương phu nhân truyền gọi, hắn lo cuống quít. Bỗng thấy Giả Vân về một mình, hắn vội đón lại hỏi

– Đã xong chưa?

Giả Vân hoảng hốt dẫm chân nói

– Không xong rồi. không xong rồi! Chẳng biết đứa nào đã để lộ chuyện ra.

Rồi hắn kể lại chuyện đã bị mắng nhiếc. Giả Hoàn tức giận sửng sốt, nói

– Ban sáng tôi đến trình với bác việc tốt đẹp như thế, giờ biết xử trí ra sao đây? Thực là bọn các anh chôn sống tôi rồi?

Bỗng nghe phía trong có tiếng kêu ầm lên, gọi tên bọn Giả Hoàn và nói

– Bà Cả và bà lớn đang gọi đấy.

Hai người đành phải thất thểu đi vào. Liền thấy Vương phu nhân nổi giận hầm hầm nói

– Chúng mày làm việc giỏi nhỉ? chúng mày bức bách con Xảo Thư và con Bình chết đâu rồi. Mau mau tìm thấy chúng về ngay cho ta.

Hai người đều quỳ xuống. Giả Hoàn không dám nói gì.

Giả Vân cúi đầu thưa

– Chúng cháu không dám làm việc gì. Chỉ tại cậu cả Hình và cậu Vương nói là làm mối cho em Xảo Thư, chúng cháu mới dám trình với các vị. Bà Cả bằng lòng, mới gọi cháu viết canh thiếp đưa đi. Người ta còn không muốn lấy nữa là, sao lại buộc cho chúng cháu là bức bách em?

Vương phu nhân nói

– Chúng Hoàn đã thưa với bà Cả là nội trong ba ngày họ sẽ đón đi. Lại có cái thói làm mối làm manh như thế à? Thôi ta cũng không cần hỏi nữa, chúng mày phải đem cháu Xảo Thư trả ngay cho ta, đợi ông lớn về đây rồi sẽ nói chuyện!

Hình phu nhân cũng không nói được một câu, chỉ chảy nước mắt. Vương phu nhân mắng Giả Hoàn

– Cái dì Triệu ấy là đồ bậy bạ sinh ra thằng con cũng bậy bạ nốt!

Bà ta nói xong bảo a hoàn đến đỡ, rồi đi về phòng. Giả Hoàn, Giả Vân và Hình phu nhân chỉ oán trách lẫn nhau. Mấy người bảo nhau

– Bây giờ chưa cần oán trách vội. Chắc Xảo Thư không đến nỗi chết đâu, lại con Bình đem nó trốn đi ở một nhà bà con nào đó thôi.

Hình phu nhân cho gọi mấy người canh gác cửa trước, cửa sau đến, mắng và hỏi

– Chúng mày có biết Xảo Thư và Bình Nhi đi đâu không?

Nào ngờ bọn đầy tớ đều một loạt thưa

– Bà Cả không cần phải hỏi chúng con. Xin hỏi mấy ông quản gia sẽ rõ. Xin bà Cả đừng nóng nảy, đợi khi bà lớn chúng con hỏi đến, chúng con sẽ có lời thưa lại. Nếu cần đánh, cần phạt, chúng con đều sẵn sàng xin chịu. Từ khi cậu Hai đi vắng, ở ngoài kia họ làm bậy bạ vô cùng. Tiền gạo hàng tháng của chúng con họ không phát. Họ đánh bạc uống rượu, chơi trai, lại còn dắt cả gái ở ngoài về nữa. Đó chẳng phải các ông ấy làm hay sao?

Những câu ấy làm cho bọn Giả Vân ngậm miệng không nói lại được. Bên Vương phu nhân lại sai người sang thúc giục

– Các cậu phải đi tìm về mau.

Bọn Giả Hoàn cuống quít chỉ giận không có lỗ nẻ để chui xuống.Chúng lại không dám tra hỏi những người bên nhà Xảo Thư. Chúng biết người ta đều căm ghét, chắc là họ đã đem Xảo Thư giấu di đâu rồi, nhưng điều đó không dám trình với Vương phu nhân. Chúng đành phải đi đến các nhà thân thích để nghe ngóng, vẫn chẳng ăn thua gì. Trong mấy ngày liền, bên trong thì Hình phu nhân, bên ngoài thì bọn Giả Hoàn, đều rối rít lên, đêm ngày không yên.

Đến ngày ra trường thi, Vương phu nhân trông đợi Bảo Ngọc và Giả Lan về nhà. Đợi mãi đến trưa cũng không thấy về. Vương phu nhân, Lý Hoàn và Bảo Thoa hoảng hốt, sai người đến nhà trọ nghe ngóng. Một bọn đi, bặt không tin tức.

Sau đó lại sai bọn khác đi, cũng không thấy về nốt. Ba người ruột nóng như lửa, đợi mãi đến xế chiều, mới thấy một mình Giả Lan về. Mọi người vui mừng hỏi

– Còn chú Bảo đâu?

Giả Lan không kịp chào hỏi mọi người, liền khóc oà

– Chú Bảo lạc mất rồi!

Vương phu nhân nghe vậy, ngẩn người đi một lúc lâu, không nói năng gì, rồi ngã sóng sượt giữa giường. May có bọn Thái Vân ở phía sau đỡ dậy, cố hết sức mới gọi tỉnh lại được. Bà ta cứ khóc. Bảo Thoa thì trợn ngược mắt lên Bọn Tập Nhân đều nước mắt đầm đìa. Lý Hoàn khóc và mắng Giả Lan

– Đồ ngốc! Mày ở với chú Hai một chỗ. Sao chú ấy lại lạc mất?

Giả Lan nói

– Ở nhà trọ, con với chú Hai cùng ăn cùng ngủ một nơi. Khi vào trường, hai người lúc nào cũng gần gũi nhau. Sáng hôm nay chú Hai làm bài thi xong sớm, còn chờ cháu. Chúng cháu đi nộp quyển một lần, rồi cùng ra cửa. Nhưng đến khi chen nhau ở cửa long môn, cháu ngoảnh lại không thấy chú ấy đâu nữa. Người nhà đi đón đều lại hỏi cháu. Anh Lý Quý còn nói, có trông thấy cậu Hai chỉ cách nhau vài bước, không biết làm sao chen một cái rồi không thấy đâu cả. Hiện giờ bọn Lý Quý đang chia nhau đi tìm. Cháu cũng đem người đi tìm khắp các nơi, không thấy, nên đến bây giờ mới về.

Vương phu nhân khóc lóc, không nói được ra lời. Bảo Thoa trong bụng đã hiểu rõ tám, chín phần. Tập Nhân thì cứ gào khóc mãi. Bọn Giả Tường không đợi ai sai bảo, cũng chia nhau đi tìm. Đáng thương cho mọi người trong phủ Vinh, ai ai cũng dỡ sống dỡ chết, uổng công sửa soạn bữa tiệc để đón tiếp người đi thi về.

Giả Lan cũng quên hẳn mỏi mệt, muốn tự mình đi tìm. Nhưng Vương phu nhân ngăn lại nói

– Cháu ơi! Chú đã lạc mất rồi, lại còn để mất cả cháu nữa sao? Thôi cháu cứ đi nghỉ ngơi đã.

Nhưng Giả Lan nào chịu nghe? Bọn Vưu thị phải hết sức khuyên can mãi. Trong mấy người đó chỉ một mình Tích Xuân là hiểu rõ, nhưng không chịu nói ra, cô ta vờ hỏi Bảo Thoa

– Anh Hai có mang viên ngọc đi không?

– Đó là vật tùy thân của cậu ấy, sao lại không mang đi?

Tích Xuân nghe xong không nói gì.

Tập Nhân nhớ lại việc mất viên ngọc lúc trước, cũng đoán chừng là vị hoà thượng tác quái, nên bụng đau như cắt, nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào khóc mãi. Chị ta nghĩ lại mối tình Bảo Ngọc đối với mình khi trước. Có lúc mình trêu tức

cậu ta, tuy cậu ta giận, nhưng cũng có chỗ tốt làm cho người ta phải hồi tâm lại, còn tấm lòng thể tất ôn tồn thì không cần phải nói nữa, có lúc mình trêu quá, cậu ta thề sẽ đi tu, không ngờ ngày nay lại ứng với câu nói ấy.”

Hãy gác chuyện Tập Nhân nghĩ ngợi bực mình. Hôm ấy đã đến canh tư, vẫn không được tin gì về Bảo Ngọc cả. Lý Hoàn sợ Vương phu nhân thương xót sinh ốm, nên hết sức khuyên giải và đưa bà ta về phòng. Mọi người đều theo đến hầu, chỉ một

mình Hình phu nhân về nhà. Giả Hoàn thì trốn tránh không dám ra. Vương phu nhân bảo Giả Lan về và nằm suốt đêm không ngủ.

Sáng hôm sau tuy có người nhà trở về, nhưng ai nấy đều nói

– Tìm khắp nơi không ai thấy bóng dáng Bảo Ngọc đâu cả.

Tiết phu nhân, Tiết Khoa, Sử Tương Vân và thím Lý lũ lượt đến thăm và hỏi tin. Qua mấy ngày liền như thế, Vương phu nhân khóc đến nổi bỏ cả ăn uống. Người đã sắp nguy. Bỗng có người nhà vào trình

– Có một người ở miền bể, nói là người nhà quan thống chế sai đến và thưa, cô Ba nhà ta ngày mai sẽ về kinh.

Vương phu nhân nghe nói Thám Xuân về kinh, tuy nhiên không khuây hẳn nỗi mong nhớ Bảo Ngọc, nhưng cũng hơi được yên tâm.

Đến hôm sau, quả nhiên Thám Xuân về. Mọi người ra đón từ xa, trông Thám Xuân lại càng xinh đẹp, ăn mặc lộng lẫy hơn trước. Thấy Vương phu nhân dáng người tiều tụy và ai nấy đều khóc sưng mắt lên, cô ta cũng khóc to một lúc lâu rồi mới

chào hỏi mọi người. Thám Xuân thấy Tích Xuân ăn mặc theo lối nhà tu, trong bụng rất là khó chịu. Lại nghe nói đến việc Bảo Ngọc bị lạc, trong nhà xảy ra nhiều chuyện không hay nên mọi người lại khóc. May có Thám Xuân khôn khéo, kiến thức cao, đem lời khuyên giải dần dần, bọn Vương phu nhân mới khuây khỏa ít nhiều.

Sáng hôm sau nữa thì chồng Thám Xuân đến, biết trong nhà xảy ra nhiều việc, nên để chị ta ở lại khuyên giải. Các a hoàn, bà già theo hầu Thám Xuân, nay được gặp lại, chị em cùng nhau kể lể tâm tình sau khi xa cách. Từ đó người trên kẻ dưới, ngày đêm chỉ chờ tin tức Bảo Ngọc.

Một hôm, đã quá canh năm, có mấy người nhà ở ngoài vào cửa thứ hai báo tin mừng. Mấy a hoàn nhỏ xô nhau chạy vào, không kịp nói với các a hoàn lớn, liền chạy thẳng vào nhà trong trình

– Xin mừng bà lớn và các mợ!

Vương phu nhân đoán chừng đã tìm thấy Bảo Ngọc, liền đứng dậy vui vẻ hỏi

– Tìm thấy nó ở đâu? Bảo nó vào đây mau!

Người ấy thưa

– Đã đậu cử nhân thứ bảy.

Câu nói ấy lại làm cho Vương phu nhân khóc to lên. Lý Hoàn nói

– Từ xưa đã có nhiều vị thành Phật thành tiên, quả là vứt bỏ hết cả giàu sang chức tước.

Vương phu nhân khóc

– Nếu nó bỏ cha mẹ mà đi, tức là bất hiếu, sao lại thành Phật thành tiên được.

Thám Xuân nói

– Người đời không nên có cái gì kỳ lạ quá. Anh Hai khi mới sinh đã có sẵn viên ngọc, ai cũng bảo là việc tốt ; nhưng nay xét lại cũng vì có viên ngọc ấy mà không tốt. Nếu mấy ngày nữa không tìm thấy, tức là có duyên cớ. Con nói xin mẹ đừng giận, mẹ cứ nên xem như không sinh ra anh ấy là được. Nếu quả anh ấy có duyên kiếp từ trước, tu được thành chánh quả, cũng là do mẹ tích phúc mấy đời đấy.

Bảo Thoa nghe xong không nói gì. Tập Nhân không nén được nữa đâm ra đau ruột, choáng đầu, ngã nhào xuống. Vương phu nhân thấy thế thương hại, sai người vực chị ta về nhà. Giả Hoàn thấy anh và cháu đều thi đậu, lại thêm việc Xảo Thư, nên trong bụng rất là khó chịu, chỉ oán trách Giả Tường, Giả Vân. Hắn lại nghĩ Thám Xuân nay về thăm nhà, tất không chịu bỏ qua việc ấy, nhưng cũng không dám bỏ trốn, vì vậy mấy hôm nay cứ như cá nằm trên thớt.

Hôm sau Giả Lan đành phải đi tạ ơn trước. Lại biết Chân Bảo Ngọc cũng thi đậu, mọi người cùng nhau tỏ tình đồng khoa. Khi nhắc đến việc Bảo Ngọc vì mê mẫn bị lạc, Chân Bảo Ngọc tỏ lời than thở yên ủi.

Quan chấm trường xem các quyển thi đậu, tâu tới nhà vua mở ra xem, thấy những bài văn lấy đậu đều là đúng đắn thông suốt. Thấy Giả Bảo Ngọc đậu thứ bảy là người Kim Lăng; Giả Lan đậu thứ một trăm ba mươi cũng là người Kim Lăng, nhà vua truyền chỉ xuống hỏi

“Hai người họ Giả ở Kim Lăng có phải cùng họ với Giả phi không?” Quan đại thần vâng mệnh ra truyền gọi Gả Bảo Ngọc và Giả Lan vào hỏi. Giả Lan trình rõ việc Bảo Ngọc sau khi ra khỏi trường, đi lạc mất và khai rõ cha ông ba đời, rồi quan đại thần thay lời tâu lên.

Nhà vua rất là thánh minh nhân đức. Người nhớ đến công ơn họ Giả, truyền xuống các quan đại thần xét và tâu lên. Các quan xét kỹ và tâu rõ. Nhà vua rất là thương xót, sai một vị quan xét lại bản án Giả Xá phạm tội đầu đuôi thế nào, rồi tâu lên. Nhà vua lại xem một bản tâu về “các việc sắp đặt sau khi đã dẹp yên bọn giặc ven biển và rút quân về”, trong bản án ấy nói rõ hiện nay bể lặng sông yên, muôn dân làm ăn vui vẻ. Nhà vua rất vui, truyền các quan cửu khanh kê rõ công lao để định thưởng, và ban ơn đại xá cả thiên hạ.

Bọn Giả Lan sau khi vào hầu xong ra về, liền đến chào lạy các quan chấm trường, lại nghe tin trong triều có ban ơn đại xá liền trình với bọn Vương phu nhân. Cả nhà đều vui mừng, chỉ mong chờ Bảo Ngọc trở về. Tiết phu nhân lại càng vui vẻ hơn, liền lo việc chuộc tội cho Tiết Bàn.

Một hôm, người nhà báo có cụ Chân và chồng cô Ba đến mừng. Vương phu nhân sai Giả Lan ra tiếp. Một lúc sau Giả Lan vào, cười vui vẻ trình với Vương phu nhân

– Thưa các bà, có tin mừng, cụ Chân ở trong triều nghe nói đã có chỉ truyền, ông Cả được tha tội hẳn. Bác Trân không những được tha tội, vẫn còn được tập chức Ninh quốc công hạng ba. Còn thế chức bên phủ Vinh thì vẫn do ông nội chúng ta tập, chờ khi hết hạn nghỉ tang rồi sẽ thăng chức lang trung bộ công. Bao nhiêu gia sản bị tịch thu, đều trả lại hết. Nhà vua xem văn chương của chú Hai, rất vui thích. Người ban hỏi biết rõ là em đức bà Nguyên phi, Bắc Vĩ anh vương lại tâu về phẩm cách chú Hai cũng tốt nên vua truyền chỉ đòi vào chầu. Các quan đại thần tâu

“Theo lời người cháu là Giả Lan đã trình, thì anh ta đã đi lạc mất sau khi ra khỏi trường, hiện đang tìm hỏi khắp nơi”. Nhà vua đã xuống chỉ, truyền các nha môn năm doanh đều để ý tìm tòi. Chỉ đã xuống rồi. Xin bà cứ yên lòng. Đội ơn nhà vua như thế, lẽ nào lại không tìm được!

Nghe nói, bọn Vương phu nhân mới chúc mừng nhau và tỏ vẻ vui mừng. Chỉ có bọn Giả Hoàn vẫn cuống quít đi tìm Xảo Thư khắp nơi.

Xảo Thư đi theo bà Lưu, cùng Bình Nhi ra khỏi thành. Khi về đến thôn trại, bà Lưu cũng không dám khinh rẻ Xảo Thư. Bà ta quét dọn gian phòng nhà trên, mời Xảo Thư và Bình Nhi ở. Hàng ngày bà ta cung cấp các món ở thôn quê, nhưng cũng sạch sẽ lại có con Thanh làm bạn, nên họ cũng tạm khuây khỏa.

Trong thôn đó có mấy nhà giàu. Biết có một vị tiểu thư phủ Giả đến nhà già Lưu, ai nấy đều chạy lại xem. Họ cho là nàng tiên trên trời sa xuống. Rồi có người đưa món ăn thức quả đến, có người đưa các thứ dã vị đến, cũng khá nhộn nhịp. Trong

số ấy có một nhà rất giàu là họ Chu, gia tài tới hàng vạn, ruộng đất có đến nghìn khoảnh. Nhà ấy chỉ có một con trai, dáng người văn nhã thanh tú, mới mười bốn tuổi. Cha mẹ anh ta rước thầy về dạy học, khoa mới rồi thi đậu tú tài. Hôm nọ mẹ anh ta trông thấy Xảo Thư, trong bụng tấm tắc khen ngợi, nghĩ bụng

“Chúng mình là người ở thôn trại, làm gì mà sánh đôi được với vị tiểu thư con nhà thế gia như vậy?”. Rồi bà ta cứ ngẩn người ra.

Già Lưu đã dò biết tâng sự bà ấy. liền nói

– Tôi biết bụng bà rồi, để tôi làm mối hộ cho.

Bà Chu cười

– Thôi bà đừng lừa tôi nữa. Họ là con nhà như thế nào, đời nào chịu gả cho chúng tôi là người ở thôn trại.

– Thì cũng cứ nói thử xem.

Thế rồi hai người đi hai nơi.

Già Lưu nhớ đến phủ Giả, liền bảo Bản Nhi vào thành nghe ngóng. Một hôm vừa đi đến phố Ninh Vinh. Bỗng thấy có nhiều xe kiệu ở đó. Bản Nhi đến chỗ gần xung quanh lắng nghe. Hắn nghe nói hai phủ Ninh, Vinh đã được trả lại chức quan, trả lại gia sản. Nay trong phủ lại sắp trở nên thịnh vượng. Chỉ có cậu Bảo Ngọc thi đậu cử nhân, rồi không biết đi đâu mất. Bản Nhi trong bụng vui mừng, đã định trở về. Lại thấy có mấy con ngựa chạy đến rồi một người đến trước cửa xuống ngựa.

Bỗng thấy người canh cửa ra chào, hỏi thăm, và nói

“Cậu Hai đã về! Mừng quá? ông Cả đã mạnh khỏe rồi chứ?” Người ha hả cười bảo

“Khỏe rồi? Lại vừa có ân chỉ tha tội, người cũng sắp về đấy.” Cậu ta lại hỏi

“Mấy người kia làm chuyện gì đấy”. Người canh cửa thưa. “Đó là các quan đến truyền chỉ, cho đi nhận lại gia sản”. Người kia vui mừng cuống quít đi vào. Bản Nhi đoán chừng đó là Giả Liễn. Anh ta không nghe ngóng nữa, vội quay về thưa với bà ngoại.

Già Lưu nghe nói mừng rỡ, nở từng khúc ruột, đến chỗ Xảo Thư kể lại một lượt những điều Bản Nhi vừa nói.

Bình Nhi cười bảo

– Thật là nhờ già bày ra cách ấy. Nếu không thì cô tôi cũng không còn gặp được dịp vui vẻ này nữa.

Xảo Thư lại càng vui mừng. Đang nói chuyện, thì người đưa tin cho Giả Liễn cũng về, và nói

– Cậu Hai rất là cảm kích, dặn tôi sau khi về đến nhà, phải đưa cô về phủ mau. Lại còn thưởng cho tôi mấy lạng bạc nữa.

Bà Lưu nghe nói rất mừng, liền cho người đi tìm hai cỗ xe, rồi mời Xảo Thư và Bình Nhi lên xe về. Bọn Xảo Thư ở trong nhà bà Lưu đã quen, nên cứ dùng dằng không chịu chia tay. Con Thanh lại khóc lóc, giận không sao giữ họ lại được nữa. Già Lưu thấy chúng không nỡ xa nhau, nên cho con Thanh đi theo vào thành, rồi mấy người đi một mạch về phủ Vinh.

Giả Liễn trước kia được tin Giả Xá ốm nặng, liền đi đến chỗ bị đày. Cha con gặp nhau, khóc lóc một hồi, sau đó Giả Xá dần dần lành bệnh. Đến khi Giả Liễn tiếp thơ, biết rõ việc nhà, trình với Giả Xá rồi đi về, dọc đường nghe tin đại xá, lại đi gấp hai ngày nữa. Hôm nay về đến nhà, vừa gặp lúc vua ban ân chỉ. Trong nhà thì bọn Hình phu nhân đang lo không có người tiếp chỉ. Tuy có Giả Lan, nhưng vẫn còn ít tuổi. Bỗng nghe người báo tin, cậu hai Liễn đã về. Mọi người gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Chưa kịp nói chuyện, Giả Liễn liền ra nhà khách, vái chào quan khâm mạng. Vị quan ấy hỏi thăm sức khỏe Giả Xá, rồi bảo

– Ngày mai vào nội phủ lĩnh thưởng. Dinh thự bên phủ Ninh nay giao trả cho dọn về ở.

Rồi mọi người đứng dậy từ biệt. Giả Liễn tiễn họ ra cửa. Sau đó thấy có vài cỗ xe đến. Người nhà không cho đỗ lại. Đang cơn ồn ào thì Giả Liễn đã biết rõ đó là xe của Xảo Thư về, liền mắng bọn người nhà

– Bọn chúng bay là người vô lương! Nhân lúc ta đi vắng, chúng bây sinh lòng lừa dối hại chủ, bắt buộc con ta phải bỏ đi ; bây giờ người ta đưa về, bay lại muốn ngăn cản à? Có phải chúng bây thù oán gì ta không?

Bọn người nhà vốn sợ Giả Liễn trở về làm lôi thôi, nhưng cũng tưởng ít lâu rồi việc mới lộ, nào ngờ Giả Liễn lại nói ra rõ ràng như thế. Họ không hiểu ra sao, đành phải đứng lại thưa

– Sau khi cậu ra đi, bọn chúng cháu đứa thì ốm, đứa thì xin nghỉ. Việc ấy là do cậu Ba, cậu Tường và cậu Vân làm chủ, chứ không can gì đến chúng cháu cả.

Giả Liễn nói

– Đồ khốn nạn! Xong việc rồi ta sẽ nói chuyện với chúng bây. Mau ra đưa xe vào!

Giả Liễn đi vào, thấy Hình phu nhân cũng không nói gì, lại quay sang bên Vương phu nhân gục đầu quỳ xuống thưa

– Việc này đều nhờ ơn thím đùm bọc cả? Em Hoàn thì không cần phải nói nữa. Chỉ ghét cái thằng Vân, lần trước coi nhà, đã làm bậy bạ, nay cháu mới đi mấy tháng, nó đã gây ra chuyện như thế. Cháu xin trình trước với thím, cái giống người

ấy thì đuổi cổ đi, không cho nó đi lại nữa cũng đáng.

Vương phu nhân nói

– Cái thằng Vương Nhân đốn mạt ấy không biết vì sao cũng hư tệ như thế?

– Thím không cần phải nói. Cháu đã có cách.

Đang nói thì bọn Thái Vân vào trình

– Cô Xảo đã vào đây rồi.

Bấy giờ Xảo Thư vào chào Vương phu nhân. Tuy xa cách chưa bao lâu, nhưng nhớ lại tình cảnh lúc đi trốn, bất giác rơi nước mắt. Xảo Thư cũng khóc oà lên. Giả Liễn vội đến tỏ lời cảm tà bà Lưu. Vương phu nhân kéo bà cụ ngồi xuống, lại nhắc đến câu chuyện ngày trước. Giả Liễn trông thấy Bình Nhi, bề ngoài tuy không tiện nói, nhưng trong lòng rất là cảm kích, bất giác ứa nước mắt. Từ đó anh ta càng kính trọng Bình Nhi, định đợi Giả Xá trở về, sẽ lập Bình Nhi làm vợ chính. Đó là chuyện sau, chưa vội nhắc đến.

Về phần Hình phu nhân thì đang sợ Giả Liễn không tìm thấy Xảo Thư, chắc sẽ gây chuyện rắc rối ; lại nghe Giả Liễn đang ở bên Vương phu nhân, nên càng sốt ruột liền bảo a hoàn đi dò xem sao. A hoàn về trình

– Xảo Thư cùng bà Lưu đang nói chuyện ở bên ấy.

Hình phu nhân như tỉnh giấc mơ, biết là bọn họ chơi khăm. Lại oán trách Vương phu nhân. Bà ấy chỉ xúi cho mẹ con mình bất hòa với nhau? Nhưng vẫn không biết đứa nào đã đưa tin cho Bình Nhi? Đang tự hỏi thì thấy Xảo Thư cùng bà Lưu dẫn cả Bình Nhi đến, Vương phu nhân cũng đi theo sau. Trước hết họ đem những chuyện đó đổ tội cả cho Giả Vân và Vương Nhân, rồi nói

– Bà lớn nguyên chỉ nghe theo lời người ta, cũng muốn được việc tốt lành, biết đâu được bọn quỷ quái bên ngoài!

Hình phu nhân nghe nói, cảm thấy thẹn thùng, nghĩ lại ý định của Vương phu nhân là đúng, trong bụng cảm phục. Từ đó Hình phu nhân và Vương phu nhân lại vui vẻ với nhau. Bình Nhi trình với Vương phu nhân rồi dẫn Xảo Thư sang phòng của Bảo Thoa thăm hỏi. Mỗi người đều nhắc đến nỗi khổ của mình. Họ lại nói – Đội ơn hoàng thượng, phủ ta sẽ trở lại thịnh vượng. Chắc cậu Bảo cũng sẽ trở về.

Họ vừa nói đến câu ấy, thấy Thu Vân ra vẻ cuống quít sợ sệt chạy đến thưa

– Chị Tập Nhân nguy rồi! Không biết đã xảy ra việc gì?

[1]      Ý nói được đội mũ mệnh phụ vì có con ra làm quan.

[2]      Cố nhi từ hoặc cổ tử từ – tên một từ khúc đời xưa, vừa dùng lời nói vừa hát, do nhiều khúc điệu và nhiều đoạn văn xuôi kết hợp lại.

Chương 120: Chân Sinh ẩn kể rõ cảnh thái hư – Giả Vũ Thôn kết thúc Hồng lầu mộng

Chân Sinh ẩn kể rõ cảnh thái hư

Giả Vũ Thôn kết thúc Hồng lầu mộng

Bảo Thoa nghe Thu Vân nói đến Tập Nhân nguy cấp, vội đi xem. Xảo Thư và Bình Nhi cũng đi theo. Khi đến trước giường Tập Nhân, thấy cô ta bụng đau quặn, có lúc cứ thở dốc. Bảo Thoa dùng nước nóng đổ cho tỉnh lại, đỡ cô ta nằm xuống, rồi sai người đi mời thầy thuốc.

Xảo Thư nhân hỏi Bảo Thoa

– Chị Tập Nhân tại sao ốm đến như thế?

– Chiều hôm kia chị ấy khóc quá thương tâm, choáng váng ngã xuống. Bà sai người đỡ về. Chị ấy liền nằm lịm luôn. Vì ngoài nhà còn bận, chưa mời được thầy thuốc đến thăm, nên mới đến nổi thế.

Đang nói thì thầy thuốc đến. Bọn Bảo Thoa tạm lánh mặt. Thầy thuốc vào xem mạch, bảo bệnh này do uất ức mà ra, liền kê đơn rồi về. Số là Tập Nhân thoáng nghe nói, nếu Bảo Ngọc không về, sẽ cho người hầu trong nhà về hết. Chị ta cuống lên, lại càng ốm thêm. Sau khi thầy thuốc xem bệnh, Thu Văn lo sắc thuốc dùm. Chị ta nằm một mình, tâm thần chưa định, cứ tưởng như Bảo Ngọc đứng ở trước mặt. Lại thấp thoáng như thấy một vị hòa thượng, tay cầm một quyển sổ, mở ra xem rồi lại nói, “chị đừng có lầm, tôi không nhận các chị đâu.” Tập Nhân còn muốn nói chuyện với anh ta thì Thu Văn đến nói

– Thuốc được rồi. Chị uống đi.

Tập Nhân mở choàng mất nhìn, mới biết là chiêm bao, nhưng cũng không nói với ai. Uống thuốc xong, chị ta suy nghĩ một mình, “cậu Bảo chắc là đi theo vị hòa thượng rồi. Lần trước cậu ta định cầm viên ngọc đi ra, đó là ý muốn thoát thân. Lúc cậu ta bị mình giữ lại, xem bộ dạng không giống như ngày thường, cứ xô đẩy mình túi bụi, không nể nang chút nào ; sau lại đối đãi với mợ Hai càng lạnh nhạt và cũng không nhìn ngó gì đến các chị em khác. Đó là cậu ta đã ngộ đạo. Nhưng ngộ đạo mà bỏ mợ Hai đi thì làm thế nào!” Còn mình là người của bà lớn sai sang hầu cậu ấy tuy số tiền lương tháng chiếu theo lệ ấy mà lĩnh 1 nhưng thực ra trước mặt ông lớn, bà lớn mình chưa bao giờ được nhận rõ ràng là vợ lẽ của cậu ấy. Nếu ông lớn và bà lớn cho mình về, mình cố chết ở lại, thì sợ người ta chê cười. Mình mà về thì nghĩ đến mối tình cậu Bảo đối với mình, thực là không nỡ!… Chị ta nghĩ đi nghĩ lại, càng thấy khó xử. Lại nhớ đến giấc mộng vừa rồi, hình như Bảo Ngọc vô duyên với mình, chẳng thà chết quách đi cho rảnh.

Không ngờ sau khi uống thuốc, chứng đau bụng đã bớt nhiều, nằm mãi cũng khó coi, đành phải miễn cưỡng dậy. Qua vài ngày nữa, chị ta dậy hầu hạ Bảo Thoa. Bảo Thoa tưởng nhớ Bảo Ngọc, cứ khóc thầm, than thân tuổi phận. Bảo Thoa biết mẹ đang định lo việc chuộc tội cho anh, cần chạy vạy nhiều, nên cũng phải lo liệu giúp mẹ.

Giả Chính rước linh cữu của Giả mẫu, Giả Dung đưa quan tài của Tần thị, Phượng Thư và Uyên Ương, về đến Kim Lăng an táng xong. Sau đó Giả Dung lại đưa quan tài của Đại Ngọc đi an táng. Giả Chính thì lo việc xây đắp phần mộ.

Một hôm Giả Chính tiếp được thư nhà, lần lượt đọc từng hàng, trước xem thấy Bảo Ngọc và Giả Lan thi đậu, trong bụng vui mừng, sau xem đến chỗ Bảo Ngọc lạc mất, thì lại lo buồn, đành phải trở về nhà gấp. Dọc đường, lại nghe có chỉ ân xá, rồi

lại tiếp được thư nhà nói Giả Xá đã được tha tội phục chức, lại càng vui vẻ, liền đi luôn cả ngày đêm.

Một hôm đi đến trạm Côn Lăng, trời rét, tuyết xuống, thuyền đậu ở chỗ vắng vẻ. Giả Chính sai người lên bộ, đưa danh thiếp đi từ tạ bầu bạn, nói thuyền sẽ đi ngay, không dám phiền ai đến thăm hỏi. Khi ấy đầu thuyền chỉ để lại một đứa nhỏ để hầu. Giả Chính ở trong thuyền viết thư, định cho người đi bộ đem về nhà trước. Khi viết đến việc Bảo Ngọc, liền dừng bút lại, ngẩng đầu lên, bỗng thấy đầu thuyền lờ mờ có dáng một người trong bóng tuyết, đầu trọc chân trần, mình khoác chiếc áo đi mưa bằng lông vượn màu đại hồng, ngoảnh vào Giả Chính và sụp xuống lạy. Giả Chính chưa nhìn được rõ, vội ra đầu thuyền, muốn đến đỡ dậy để hỏi. Người ấy lạy bốn lạy, rồi đứng dậy chào theo lối nhà Phật. Giả Chính còn muốn vái đáp, chợt nhìn thấy trước mặt mình không phải ai lạ mà chính là Bảo Ngọc. Giả Chính kinh ngạc vô cùng, vội hỏi

– Có phải Bảo Ngọc không?

Người ấy không nói gì, như mừng như tủi. Giả Chính lại hỏi

– Nếu mày là Bảo Ngọc, thì sao lại ăn mặc như thế mà đến chỗ này?

Bảo Ngọc chưa kịp trả lời, bỗng thấy một nhà sư, một đạo sĩ đến đầu thuyền. Hai người nắm tay Bảo Ngọc nói

– Tục duyên đã hết, không đi nhanh lên à?

Nói rồi, ba người vùn vụt lên bờ đi. Giả Chính không kể đất trơn, vội vàng chạy theo. Thấy ba người đi trước, nhưng không sao theo kịp. Chỉ nghe một người nào trong bọn họ hát

Chỗ ta ở chừ, đỉnh núi thanh u,

Chỗ ta chơi chừ, cõi không mịt mù;

Ai đi cùng ta chừ, ta đi theo với?

Mênh mông mù mịt chừ, về nơi Đại hoang!

Giả Chính chạy đuổi theo, đến một cồn đất nhỏ, bỗng không thấy nữa. Giả Chính thở dốc lên, trong lòng ngờ vực. Lúc quay lại thì thấy tên hầu nhỏ cũng chạy theo sau. Giả Chính hỏi

– Mày có trông thấy ba người vừa rồi không?

– Có trông thấy. Vì cháu thấy ông lớn chạy theo, nên cháu cũng chạy. Nhưng rốt cuộc chỉ thấy ông lớn, chứ không thấy ba người kia nữa.

Giả Chính còn muốn chạy theo, nhưng chỉ thấy một cánh đồng tuyết tùng mênh mông, không có người nào, Giả Chính lấy làm kỳ lạ, đành trở về. Bọn người nhà về thuyền, thấy Giả Chính không ở trong khoang, hỏi bọn chèo thuyền họ nói ông lớn đang lên bộ theo nhà sư và đạo sĩ..Bọn họ cũng theo dấu chân trên tuyết đi tìm, xa xa trông thấy Giả Chính trở về. Họ đến đón rồi cùng về thuyền. Giả Chính ngồi xuống, thở một lát, rồi kể qua một lượt về việc trông thấy Bảo Ngọc. Mọi người nói, nên đi kiếm quanh miền này.

Giả Chính thở dài

– Chúng mày không hiểu rõ! Đó là chính mắt ta trông thấy, chứ có phải ma quỷ gì đâu. Vả lại nghe tiếng ca, có vẻ rất huyền diệu? Bảo Ngọc khi sinh ra, ngậm viên ngọc.. cũng đã kỳ lạ. Ta vẫn biết trước là điềm không tốt, chỉ vì cụ bà thương yêu nó, nên mới nuôi nó đến ngày nay. Còn vị hòa thượng và vị đao sĩ ấy, ta đã gặp ba lần, lần thứ nhất hai người ấy đến nói về sự linh thiêng của viên ngọc; lần thứ hai, lúc Bảo Ngọc ốm nặng, vị hòa thượng đến, cầm viên ngọc tụng niệm một hồi, thì Bảo Ngọc lành ; lần thứ ba, ông ta đưa viên ngọc đến trả, ngồi ở nhà khách, ta vừa ngoảnh đi một cái, bỗng không thấy đâu. Trong bụng ta lấy làm lạ. Nhưng cho là Bảo Ngọc thực có phúc phận, nên các bậc cao tăng tiên đạo đến phù hộ cho nó. Ngờ đâu nó là người đổi kiếp xuống cõi trần. Rốt cục lừa dối cụ bà suốt mười chín năm, đến nay ta mới biết rõ!

Ông ta nói đến đấy, nước mắt ròng ròng. Mọi người thưa

– Cậu Bảo nếu quả là một vị hòa thượng xuống trần gian, thì không nên đậu cử nhân. Vì sao thi đậu rồi mới bỏ đi?

– Các người biết sao được? Phàm các tinh tú trên trời, các cao tăng trên núi, hay những tinh linh trong động, đều có một tánh tình riêng. Các ngươi thử xem Bảo Ngọc thường có chịu đọc sách đâu ; nhưng hễ nó để bụng đến thì không có cái gì là không làm được. Còn tính khí của nó cũng không giống người ta!

Ông ta nói xong, lại than thở. Người nhà liền đem việc Giả Lan thi đậu, nhà lại thịnh vượng, để khuyên giải. Giả Chính viết tiếp bức thư, nói luôn cả việc ấy, và khuyên người nhà không cần nhớ nhung nữa. Ông ta viết xong, niêm phong lại, rồi bảo người nhà mang về trước, còn mình sẽ về sau.

Sau khi nghe tin đại xá,Tiết phu nhân sai Tiết Khoa đi giật tạm các nơi. Lại bòn nhặt thêm của nhà cho đủ số bạc để chuộc tội. Bộ hình chuẩn y, thu đủ số bạc, rồi làm công văn, tha cho Tiết Bàn về. Mẹ con anh em chị em trong nhà lại được gặp

nhau, tất nhiên vừa mừng vừa tủi, không cần nói hết. Tiết Bàn thề:

– Nếu con mắc lại tật xấu như trước, nhất định bị băm vằm.

Tiết phu nhân thấy thế, liền bịt miệng hắn lại, nói

– Chỉ cần con giữ chí cho vững là được, chứ mở miệng thề nguyền độc địa như thế làm gì? Riêng con Hương Lăng theo hầu con, đã chịu đựng biết bao nhiêu nỗi khổ. Vợ con thì chính tự nó làm hại đời nó. Nay trong nhà tuy túng thiếu, nhưng cũng còn có bát cơm ăn. Theo như ta nghĩ, thì ta coi Hương Lăng là con dâu rồi, không biết bụng con nghĩ sao.

Tiết Bàn gật đầu bằng lòng. Bọn Bảo Thoa cũng nói

– Thật đáng như thế.

Việc đó làm cho Hương Lăng đỏ ửng má, nói

– Đằng nào cũng là hầu hạ cậu cả, cần gì phải làm như thế?Người trong nhà liền gọi Hương Lăng là mợ cả, ai cũng mến phục.

Tiết Bàn liền đi lạy tạ bên phủ Giả. Tiết phu nhân và Bảo Thoa cũng theo sang. Khi gặp mọi người, hai bên đông đủ, lại cùng nhau chuyện trò một hồi.

Đang nói chuyện thì vừa lúc người nhà Giả Chính về đem trình bức thư và nói

– Ông lớn nay mai cũng về đấy.

Vương phu nhân bảo Giả Lan đọc thư. Giả Lan đọc đến đoạn Giả Chính đã trông thấy Bảo Ngọc, ai nghe cũng khóc. Vương phu nhân, Bảo Thoa và Tập nhân lại càng khóc nhiều. Mọi người lại nhắc lời Giả Chính dặn trong thư, “Bảo Ngọc chỉ là mượn bào thai giáng sinh. Trong nhà không cần phải thương nhớ.” Họ đem những câu ấy ra để khuyên giải, nếu làm quan mà gặp lúc vận mệnh không tốt, can phạm việc gì, đến nỗi tan nhà hại của, lại chẳng hay gì, thà rằng trong nhà mình có một vị Phật giáng sinh là hơn. Chỉ vì ông lớn bà lớn tích đức nên cậu ấy mới đầu thai vào nhà này. Không phải chúng tôi ăn nói không biết gìn trước giữ sau đâu. Lúc trước cụ bên phủ Đông cũng đã lu luyện đến mười mấy năm, mà vẫn không thành tiên được. Còn thành Phật thì lại càng khó nữa! Bà lớn nghĩ lại như thế, thì lòng sẽ nguôi nguôi.

Vương phu nhân khóc nói với Tiết phu nhân

– Bảo Ngọc bỏ tôi mà đi. Tôi còn giận nó đấy? Tôi lại phàn nàn cho con dâu xấu số, mới lấy nhau được một vài năm. Sao nó nỡ đành tâm bỏ ra đi được.

Tiết phu nhân nghe nói cũng thương tâm. Bảo Thoa khóc đến mê đi không biết gì cả. Khi đó bọn đàn ông đều ở nhà ngoài.

Vương phu nhân nói

– Suốt đời tôi cứ phải lo sợ về nó. Nó vừa mới lấy vợ, thi đậu cử nhân. Tôi lại biết con dâu đã có thai, mới hơi vui mừng một chút. Không ngờ lại kết thúc như thế! Nếu sớm biết vậy, thì không nên hỏi vợ cho nó, để khỏi làm hại đến con gái người ta!

Tiết phu nhân nói

– Điều đó đã có duyên phận nhất định. Khuôn phép nhà chúng ta đây còn nói gì khác nữa. May mà cháu nó đã có mang, sau sinh ra đứa cháu, chắc sẽ làm nên, thế là tốt phúc. Chị thử xem mợ cả kia. Cháu Lan đã đậu cử nhân, sang năm đậu tiến sĩ. Thế không phải sẽ làm quan sao? Mợ ấy trước kia đã chịu khổ, nay được sung sướng cũng là do mợ ấy đứng đắn tử tế. Con cháu nhà tôi, chị cũng đã biết, không phải là người khắt khe, nông nỗi, chị không cần phải lo nghĩ.

Vương phu nhân nghe Tiết phu nhân bàn giải một hồi, rất có lý, nghĩ bụng, “Bảo Thoa từ nhỏ đã có tính trầm tĩnh, ít hay ham muốn, rất thích giản dị mộc mạc, nên mới có việc như thế. Nghĩ lại người ta ở đời, đều do số mệnh định trước! Ta xem Bảo Thoa dù khóc lóc, cũng vẫn giữ nguyên được vẻ đoan trang, lại còn trở lại khuyên ngăn ta nữa. Điều đó thực là hiếm có! Không ngờ thằng Bảo Ngọc là người như thế, mà lại không được hưởng một chút phúc nào ở cõi trần.” Nghĩ một lúc, bà ta cũng thấy an tâm, rồi lại nghĩ đến phận Tập Nhân. “Nếu các a hoàn khác thì không có gì khó xử. Đứa lớn cho ra lấy chồng, đứa nhỏ cho ở lại hầu mợ Hai là được. Chỉ có Tập Nhân thì nên đối xử như thế nào đây?” Bấy giờ đông người bà ta chưa tiện nói, đành đợi đến tối bàn với Tiết phu nhân.

Hôm đó Tiết phu nhân cũng chưa về nhà, sợ Bảo Thoa khóc lóc nên ở lại trong nhà chị ta để khuyên giải. Bảo Thoa là người rất hiểu lẽ, biết suy trước nghĩ sau, “Bảo Ngọc là hạng người kỳ dị. Kiếp trước duyên xưa, đã sẵn như thế. Không thể oán trách ai được.” Bảo Thoa lại đem việc đạo lý ra nói một lượt. Mọi người đều yên lòng. Chị ta lại còn đem những câu đạo lý thưa lại với mẹ. Tiết phu nhân cũng được yên tâm, liền đến phòng Vương phu nhân, thuật lại những câu nói của Bảo Thoa. Vương phu nhân gật đầu than

– Nếu bảo là tôi không có đức, thì không đáng được người con dâu đứng đắn như thế.

Nói xong bà ta lại thấy đau lòng. Tiết phu nhân lại khuyên giải một lúc, rồi nhắc đến Tập Nhân, và nói

– Tôi thấy Tập Nhân gần đây gầy quá, vì nó một lòng tưởng nhớ cháu Bảo. Nếu là vợ chính, thì theo lẽ phải thủ tiết, vợ lẻ xin thủ tiết cũng có. Tập Nhân tuy được xem như một người vợ lẻ, nhưng đối với cháu Bảo, danh phận chưa có gì rõ ràng cả.

Vương phu nhân nói

– Tôi vừa nghĩ đến, đang muốn chờ dì để bàn định. Nếu cho về, sợ nó không thuận, lại đòi chết đòi sống ; muốn để nó ở lại cũng được, nhưng sợ ông lớn không nghe, cho nên việc này khó xử.

– Tôi xem chừng ông nhà cũng không muốn cho chị ta thủ tiết đâu. Vả chăng bác cũng chưa biết rõ việc Tập Nhân, cho rằng chẳng qua là một a hoàn. Lẽ nào lại ở lại? Chỉ cần chị gọi người nhà nó đến, dặn dò kỹ lưỡng, bảo tìm cho nó một nơi tử tế, lại cho nó khá nhiều lễ vật hồi môn. Con bé ấy cũng khá, lại còn trẻ. Thế cũng khỏi uổng công nó theo hầu chị bấy lâu, và như thế là chị đối đãi tử tế với nó rồi. Còn về phần Tập Nhân, tôi sẽ khuyên bảo nó cặn kẽ. Dù khi người nhà đến, cũng chưa cần cho nó biết trước. Đợi lúc người nhà nó đã bàn định xong nơi tử tế, chúng ta cũng còn phải dò la xem, nếu quả là một nhà đủ ăn đủ mặc, thằng chồng lại ra dáng người, thì sẽ cho nó về.

Vương phu nhân nghe vậy nói

– Dì nghĩ thế rất phải, nếu không thì ông lớn nhà tôi sẽ xử trí nông nỗi, thế chẳng phải là tôi lại làm hại một người nữa hay sao.

Tiết phu nhân nghe xong, gật đầu nói

– Thực đúng như vậy.

Lại nói chuyện vài câu rồi từ biệt Vương phu nhân trở về phòng Bảo Thoa.

Tiết phu nhân thấy Tập Nhân khóc sướt mướt, liền khuyên giải một hồi. Tập Nhân xưa nay vốn thực thà, đâu phải là người lanh mồm lém mép, nghe Tiết phu nhân nói một tiếng thì cô ta dạ một tiếng, rồi thưa

– Cháu là người bậc dưới, bà dì không xem thường cháu, mới nói với cháu những câu ấy. Lâu nay cháu không có việc gì dám làm trái ý bà.

Tiết phu nhân nghe cô ta nói, nghĩ thầm, “Thật là một con bé ngoan!” Trong bụng lại càng vui mừng.

Cách mấy ngày sau, Giả Chính về nhà, người nhà đều ra đón. Giả Chính thấy Giả Xá, Giả Trân đều đã về, anh em chú cháu gặp nhau, ai nấy cùng bày tỏ tình cảnh từ khi cách biệt. Sau đó đến lượt gia quyến vào chào. Nhắc đến Bảo Ngọc, mọi người đều thương xót. Giả Chính quát chặn đi và bảo

– Đó là lẽ nhất định! Từ nay ở bên ngoài chúng ta lo liệu việc nhà, ở bên trong các người cố sức giúp đỡ, nhất thiết không được bê trễ như trước nữa? Việc các phòng thì nhà nào lo việc nhà ấy, không cần phải đặt người coi chung. Còn việc nhà chúng ta đây, bên trong đều giao cho bà Cả, cứ nên theo lẽ phải mà làm.

Vương phu nhân lại thưa rõ việc Bảo Thoa đã có thai, và nói

– Rồi đây bọn a hoàn đều cho về cả.

Giả Chính nghe xong, giật đầu không nói gì.

Hôm sau Giả Chính vào triều xin các vị đại thần truyền bảo, và nói

– Đội ơn hoàng thượng, tôi rất là cảm kích. Nhưng vì chưa hết tang, thì cách tạ ơn nên như thế nào, xin các vị chỉ bảo cho.

Các triều thần hứa sẽ thay mặt tâu lên để đợi chỉ vua. Ơn vua rộng rãi, cho vào bệ kiến. Giả Chính vào triều tạ ơn xong, hoàng thượng lại ban xuống nhiều đạo chỉ, và hỏi đến việc Bảo Ngọc. Giả Chính cứ thực tâu lên. Hoàng thượng cho là lạ, bèn truyền chỉ, “văn chương của Bảo Ngọc trong sáng ly kỳ, chắc mẩm anh ta có tiên duyên kiếp trước nên mới như vậy. Nếu còn ở lại trong triều, thì có thể bổ dụng ; nhưng đã không dám nhận chức tước của thánh triều, thì ban thường cho đạo hiệu Văn diệu chân nhân.” Giả Chính lại gục đầu tạ ơn rồi lui.

Khi về đến nhà, Giả Liễn và Giả Trân ra đón. Ông ta kể lại một lượt những việc trong triều, mọi người đều vui vẻ. Giả Trân lại thưa

– Nhà cửa bên phủ Ninh đã thu xếp đâu vào đấy, rồi xin trình lại để dọn về ở. Còn am Lũng Thúy ở trong vườn, thì giao cho cô Tư làm nơi tu dưỡng.

Giả Chính không nói gì, hồi lâu mới dặn dò mấy câu về việc báo đáp ơn vua.

Giả Liễn lại nhân dịp thưa

– Việc hôn nhân của cháu Xảo, cha mẹ cháu đều bằng lòng gả cho nhà họ Chu.

Giả Chính hôm qua đã biết rõ đầu đuôi việc Xảo Thư liền nói

– Hai bác làm chủ là được rồi. Đừng bảo người ở thôn quê không tốt, miễn là người ta thanh bạch, thằng bé biết lo học hành, làm nên danh phận là được. Các quan trong triều đình, không lẽ đều là người thành thị cả sao?

Giả Liễn vâng dạ rồi lại thưa

– Cha cháu đã có tuổi. Vả lại có sẵn chứng đờm, cần phải tĩnh dưỡng ít năm, mọi việc nhờ chú làm chủ cho.

Giả Chính nói

– Nhắc đến việc về ở thôn quê tĩnh dưỡng, thì rất hợp ý ta, chỉ vì ta đội ơn vua rất nặng, chưa báo đáp được đấy thôi.

Giả Chính nói xong, vào nhà. Giả Liễn sai đi mời bà Lưu đến để nói về việc ấy.

Bà Lưu vào chào bọn Vương phu nhân, liền nói những chuyện sau này nào là được thăng quan, nào là nhà thịnh vượng, con cháu đông đúc… –

Đang nói chuyện thì a hoàn vào trình

– Vợ anh Hoa Tự Phương vào hầu.

Vương phu nhân hỏi mấy câu. Vợ Hoa Tự Phương liền kể lại việc người bà con làm mối Tập Nhân cho nhà họ Tưởng ở phía Nam ngoài thành. Anh ta có nhà, có đất, lại có cả cửa hiệu nữa. Người chồng có lớn hơn vài tuổi, nhưng chưa hề lấy vợ. Vả lại vẻ đẹp của anh ta thì thực trăm người khó lòng được một.

Vương phu nhân nghe cũng bằng lòng, bảo

– Cháu cứ về nhận lời đi, vài ngày nữa sẽ đến đây đón cô em cháu về.

Vương phu nhân lại sai người đi dò hỏi, họ đều nói thế.

Bà ta liền nói với Bảo Thoa, rồi lại nhờ Tiết phu nhân bảo riêng với Tập Nhân.

Tập Nhân khóc thương mãi, nhưng không dám trái lời, trong bụng nhớ lại năm nọ, sai khi Bảo Ngọc ra chơi nhà mình, chính mình đã nói dầu chết cũng không trở về nhà nữa, nay bà lớn đứng làm chủ, nếu mình ở vậy, thì sợ người ta bảo là không biết xấu hổ ; nếu bỏ ra về thì thực không đành lòng? Rồi cô ta nghẹn ngào khóc, không nói ra lời. Tiết phu nhân và Bảo Thoa lại cố khuyên giải, cô ta mới nghĩ lại

“nếu mình mà chết ở đây, lại làm uổng mất lòng tốt của bà lớn, mình phải về chết ở nhà mới được”. Tập Nhân bèn nuốt tủi vái chào mọi người. Khi các chị em chia tay, tất nhiên càng đau xót. Tập Nhân lên xe với tấm lòng quyết chết. Đến khi về chào anh chị, cũng cứ khóc lóc, không nói nên lời. Hoa Tự Phương liền đem những lễ cưới của nhà họ Tưởng và những món tư trang mới mua sắm cho cô ta xem, rồi bảo

– Vật này là bà lớn thưởng cho, vật là là ở nhà sắm lấy.

Tập Nhân càng khó nói. Ở nhà hai ngày, suy nghĩ lại, “anh mình xử sự cũng đúng, nếu mà chết ở trong nhà anh. Không phải là mình làm hại anh sao?” Tính trước nghĩ sau, đằng nào cũng khó. Thực là ruột rối như tơ vò, hầu như đứt đoạn, đành phải nín nhịn chịu vậy. Đến ngày rước dâu, Tập Nhân vốn không phải là tay gan dạ, nên cứ lủi thủi lên kiệu ra đi, trong bụng nghĩ, hãy sang bên kia rồi sẽ liệu. Không ngờ về đến nhà chồng, thấy họ Tưởng sắp đặt rất là chu đáo, việc gì cũng theo lề lối cưới vợ chính. Vừa mới vào nhà, thì đàn bà con gái hầu hạ đều gọi là “mợ”. Tập Nhân khi ấy muốn chết ở đó, nhưng lại sợ làm hại người ta, uổng mất tấm lòng họ đối xử tử tế với mình. Đêm ấy cũng vẫn cứ khóc, không chịu thuận theo. Người chồng lại tỏ ra dịu dàng, chiù theo ý chị ta.

Đến ngày thứ hai, Tập Nhân mở rương ra, người chồng trông thấy cái thắt lưng màu đỏ, mới biết chị ta là a hoàn của Bảo Ngọc 2. Nguyên trước đây người chồng chỉ nghe nói cô dâu là người hầu của Giả mẫu, cũng không ngờ người ấy là Tập Nhân. Khi đó Tưởng Ngọc Hàm nhớ đến mối ơn của Bảo Ngọc đối với mình. Cảm thấy rất là hổ thẹn, nên càng âu yếm ; rồi cả ý đưa ra cái thắt lưng màu xanh hoa thông mà Bảo Ngọc đã đổi cho mình. Tập Nhân nhìn thấy, biết anh chàng họ Tưởng này chính là Tưởng Ngọc Hàm, mới tin rằng nhân duyên của mình đã định từ trước. Chị ta mới bày tỏ hết tâm sự của mình. Tưởng Ngọc Hàm cũng than thở kính phục, không dám cưỡng ép, lại càng tỏ ra dịu dàng thể tất, làm cho Tập Nhân muốn chết cũng không chết được nữa.

Bạn đọc, việc đời tuy có tiền định, không biết làm thế nào ; nhưng những kẻ con hiếu, tôi trung, chồng nghĩa, vợ tiết, không phải ai cũng đổ vì ba chữ “bất đắc dĩ” được cả. Vì vậy Tập Nhân mới ở trong “Hựu phó sách”. Đó chính như câu thơ người đời xưa khi đi qua Đào hoa miếu đã nói

Khó nhất trên đời là cái chết.

Thương tâm đâu chỉ Tức phu nhân 3

Tập Nhân từ đó lại ở trong một cảnh ngộ khác, không cần nhắc đến nữa.

Giả Vũ Thôn trước đây can án tham lam, yêu sách, đã xét rõ và định tội. Nay gặp lúc đại xá, được tha về làm thường dân. Vũ Thôn cho gia quyến đi trước, mình chỉ đem theo một tên hầu nhỏ và một xe đồ đạc. Đi đến cửa sông Giác Mê ở bến Cấp Lưu, vừa gặp một đạo sĩ từ trong lều cỏ bên bến đi ra, chắp tay chào.

Vũ Thôn nhận ra người ấy là Chân Sĩ ẩn, vội vàng chào lại, Sĩ ẩn nói

– Giả tiên sinh, từ khi chia tay, vẫn mạnh khỏe chứ?

– Té ra lão tiên ông đây là Chân lão tiên sinh, sau lần trước gặp nhau ngài lại tránh mặt không nhận tôi? Sau nghe nói gian nhà cỏ bị cháy, tôi rất sợ hãi. Hôm nay may được gặp, càng thấy lão tiên ông là người đạo cao đức lớn. Chỉ vì kẻ quê hèn này là người hết sức ngu độn, không sửa đổi được chút nào, nên mới đến nông nỗi này!

– Khi trước người còn quan cao chức trọng, bần đạo đâu dám nhìn nhận? Vì là chỗ bạn cũ, nên bần đạo mới dám tặng vài lời. Không ngờ ngài lại bỏ quên bần đạo! Nhưng mà mọi việc giàu sang may rủi, không phải là ngẫu nhiên. Hôm nay chúng ta lại được gặp nhau, thực là một chuyện lạ? Ở đây cũng gần lều cỏ xin mời ngài vào lều nói chuyện một lát, không biết ý ngài thế nào?

Giả Vũ Thôn vui vẻ nhận lời. Hai người dắt tay nhau đi. Tên hầu nhỏ đẩy xe theo sau. Đến một gian nhà tranh, Sĩ ẩn mời vào. Vũ Thôn ngồi xuống. Tiểu đồng bưng trà lên. Vũ Thôn hỏi về việc tiên ông siêu thoát ra ngoài cõi trần như thế nào.

Sĩ ẩn cười bảo

– Chỉ trong ý nghĩ khác nhau là cõi trần đổi hẳn. Lão tiên sinh sống cảnh phồn hoa, có biết trong chốn giàu sang êm ấm có anh chàng Bảo Ngọc hay không?

– Sao lại không biết? Gần đây nghe tiếng đồn đại lung tung, bảo rằng anh ta cũng đã đem thân vào cửa Phật. Kẻ ngu muội này lúc trước cũng có gặp anh ta vài lần, nhưng không ngờ con người ấy mà lại kiên quyết từ bỏ được như thế.

– Không phải như vậy! Cái căn duyên lạ lùng ấy, tôi đã biết trước. Năm xưa khi tôi cùng tiên sinh trò chuyện trước cửa ngôi nhà cũ trong ngõ Nhân Thanh, tôi đã gặp anh ta một lần.

Vũ Thôn lạ lùng hỏi

– Kinh thành cách quí quán rất xa, sao lại gặp anh ấy được?

– Chúng tôi giao du với nhau trên tinh thần đã lâu.

– Đã vậy thì hiện nay Bảo Ngọc ở đâu, chắc tiên ông biết rõ?

Bảo Ngọc tức là viên bảo ngọc. Năm nọ, trước khi phủ Vinh và phủ Ninh bị khám xét. Bảo thoa và Đại Ngọc xa cách nhau, viên ngọc ấy đã ra khỏi cõi đời, một là để tránh khỏi tai vạ, hai là để nên đôi vợ chồng. Từ đó duyên nợ xong xuôi, hình và chất nhập lại làm một. Viên ngọc lại tỏ rõ linh thiêng, đậu cao, con quí, thế mới rõ đó là trời đất rèn đúc ra, khác hẳn mọi vật ở giữa trần gian. Trước kia Mang Mang đạo sĩ và Diễu Diễu chân nhân đem nó xuống cõi trần, đến nay duyên nợ đã hết, lại do hai vị ấy đem nó về chỗ cũ. Đó là nơi qui kết của Bảo Ngọc.

Vũ Thôn nghe xong, tuy không biết rõ hết cả, nhưng mười phần cũng hiểu được bốn năm, liền gật đầu than

– Thế mà kẻ ngu dốt này không hiểu! Nhưng tôi muốn xin tiên ông chỉ giáo cho điều này

Bảo Ngọc đã có lai lịch, tại sao lại còn mê mẩn vì tình? Rồi lại ngộ đạo mau mắn như thế?

Sĩ ẩn cười

– Việc này nói ra chưa chắc tiên sinh đã hiểu hết. Cõi Thái- hư ảo cảnh, tức là cõi phúc “chân như”. Bảo Ngọc đã hai lần mở cửa sổ vận mệnh ra xem, những việc nguyên do từ trước đến sao đều thấy rành rành, thì làm gì mà không ngộ đạo? Cây

giáng tiên đã về tiên giới, lẽ nào ngọc “thông linh” chẳng trở lại chốn xưa?

Vũ Thôn nghe xong, vẫn không hiểu rõ, nhưng biết đó là việc tiên cơ, không tiện hỏi thêm, rồi lại nói

– Về việc Bảo Ngọc, tôi đã được tiên ông dạy cho biết rồi. Nhưng còn con gái khuê các trong họ tôi nhiều đến thế, mà sao từ Nguyên phi trở xuống, người nào kết cục cũng chỉ bình thường thôi?

Sĩ ẩn than thở

– Lời nói của tôi, xin tiên sinh đừng lấy làm lạ, con gái trong họ ngài đều từ trong trời tình hiển khổ mà ra. Xưa nay con gái cố nhiên không thể mắc vào chữ “dâm”, mà cũng không được vấn vương đến chữ “tình”! Cho nên Thôi Oanh, Tô tiểu muội, chẳng qua là tiên nữ vướng lòng trần ; Tống ngọc, Tương Như, đều hạng văn nhân mang vạ miệng. Những kẻ đã trót dan díu đến chữ tình, kết cục sẽ không đáng nói đến nữa?

Vũ Thôn nghe đến đó, bất giác vuốt râu thở dài, rồi lại nói

– Xin hỏi tiên ông ; hai phủ Vinh, Ninh còn có thể trở lại thịnh vượng như trước không?

– Ở lành gặp phúc, dâm dục mang tai, xưa nay đã có lẽ nhất định. Hiện nay trong hai phủ Vinh và Ninh, người thiện tu phúc, người ác ăn năn tội lỗi. Sau này lan quế đua thơm, nghiệp nhà trở lại như trước, cũng là lẽ tất nhiên vậy.

Vũ Thôn gục đầu hồi lâu, rồi bỗng cười

– Phải rồi, phải rồi? Hiện nay trong phủ Giả có một anh tên là Lan đã đậu cử nhân, chính là ứng vào chữ “lan”. Vừa rồi tiên ông có nói “lan quế đua thơm”, lại nói Bảo Ngọc đậu thủ khoa và sinh quí tử”, có lẽ anh ta còn có đứa con trong thai, sau

này có thể phát đạt lên to chăng?

Sĩ ẩn mỉm cười nói

– Đó là việc về sau, không tiện nói trước.

Vũ Thôn còn muốn hỏi nữa, nhưng Sĩ ấn không đáp, rồi bảo người dọn cỗ mời Vũ Thôn cùng ăn, ăn xong, Vũ Thôn còn muốn hỏi việc chung thân của mình. Sĩ ẩn nói

– Lão tiên sinh hãy nghỉ tạm trong lều cỏ này. Tôi còn mắc mối trần duyên, hôm nay phải gỡ cho hết.

Vũ Thôn lấy làm lạ hỏi

– Tiên ông tu hành như thế, không biết vì sao lại còn mắc mối trần duyên?

– Thì cũng chẳng qua là chút tình riêng con cái mà thôi.

Vũ Thôn nghe nói, lại càng lấy làm lạ

– Xin tiên ông cho biết vì sao lại có câu nói ấy?

– Tiên sinh chưa biết rõ, con gái tôi là Anh Liên. Hồi con nhỏ gặp phải kiếp xấu. Khi tiên sinh mới ra làm quan, đã từng xử việc này. Nay nó lấy anh chàng họ Tiết, gặp lúc sinh đẻ khó, nên đã thoát kiếp, sinh được một đứa cháu cho nhà họ Tiết để nối dõi. Chính bây giờ là lúc nó trút hết nợ trần. Tôi phải đưa nó đi.

Ông ta nói xong, liền vẫy ống tay áo đứng dậy.

Vũ Thôn trong bụng mơ mơ màng màng, rồi nằm ngủ luôn trong lều cỏ ở cửa sông Giác Mê nơi bến Cấp Lưu. Sĩ ẩn độ thoát cho Hương Lăng, rồi đưa chị ta đến Thái

Hư ảo cảnh, giao cho nàng tiên Cảnh ảo để ghi sổ. Khi ông ta vừa đi qua một cái nhà bia, thì thấy một hòa thượng và một đạo sĩ thoăn thoắt bước tới, Sĩ ẩn đón lại hỏi

– Thưa hai vị chân nhân. Đáng mừng! Đáng mừng! Những mối tình duyên kết liễu đã giao lại xong xuôi chưa?

Hai vị ấy nói

– Tình duyên vẫn chưa xong, nhưng cái vật xuẩn ngốc ấy thì đã trở về rồi. Còn phải đưa nó về chỗ cũ, rồi ghi rõ những việc sau này của nó để không uổng công nó đã xuống cõi trần mấy lâu.

Sĩ ẩn nghe xong, vái chào tạm biệt Hòa thượng là đạo sĩ lại mang ngọc đến dưới núi Thanh Ngạnh, đặt viên bảo ngọc ấy ở chỗ Nữ Oa luyện đá vá trời, rồi đều vân du. Từ đó về sau

Sách ngoài trời chép chuyện ngoài trời,

Người hai kiếp làm người một kiếp.

Một hôm, Không Không đạo nhân lại đi qua núi Thanh Ngạnh, trông thấy viên đá chưa dùng “vá trời” hãy còn ở đó, trên mặt nét chữ vẫn nguyên như cũ, liền xem lại một lượt từ đầu đến cuối thấy sau bài kệ lại ghi chép nhiều chuyện “duyên nợ đã trải qua ở dưới trần”, liền gật đầu than

– Trước kia ta thấy đoạn văn lạ lùng của Thạch huynh, nghĩ rằng có thể đem làm chuyện lạ cho đời, nên ta sao chép lại, nhưng chưa thấy ghi rõ việc trở lại gốc cũ, không biết câu chuyện hay ho này được thêm vào lúc nào? Thế mới biết Thạch

huynh xuống trần một lần, đã tỏa ra chất sáng lóa, rồi lại tu hành trọn đạo, cũng có thể nói là không còn ân hận gì nữa? Chỉ sợ sau này ngày tháng trôi qua, nét chữ mờ đi không rõ, lại có sự gì sai lầm chăng. Chi bằng ta sao chép lại một lần nữa, rồi tìm một người thanh nhàn vô sự ở trên đời, nhờ họ truyền khắp, để cho người đời biết việc này lạ không ra lạ, tục không ra tục, thật không ra thật, giả không ra giả. Hoặc giả

“Cõi trần lật đật giấc mơ, đành phải mượn chim gọi lại. Thần núi say sưa mến khách từ nơi hóa đá bay về, cũng chưa biết chừng?”

Đạo nhân nghĩ xong, liền sao chép lại, rồi mang đến những nơi phồn hoa thịnh vượng tìm hỏi một lượt. Nhưng trong các chỗ ấy, nếu không phải là những kẻ tính toán lập công lập nghiệp thì lại là hạng người chạy vạy lo áo kiếm cơm, có ai rảnh

rỗi đâu mà đi nói chuyện với viên đá? Đạo nhân tìm mãi đến trong gian lều cỏ ở cửa sông Giác Mê nơi bến Cấp Lưu, thấy một người nằm ngủ. Chắc hắn ta là người rảnh rỗi, đạo nhân định đem chuyện Thạch đầu ký đã sao chép được cho hắn xem. Nào ngờ gọi mãi người ấy không tỉnh. Đạo nhân cố sức kéo. Hắn mới từ từ mở mắt ngồi dậy, rồi cầm lấy truyện ấy xem qua, lại đặt xuống nói

“Việc này tôi đã trông thấy và đã biết hết, bản sao chép của đạo nhân cũng không sai. Tôi xin chỉ cho đạo nhân một người, rồi nhờ người ấy truyền ra, thì có thể kết thúc được cái án mới mẻ này.”

Không Không đạo nhân vội hỏi là người nào. Người ấy nói

– Đạo nhân phải đợi cho đến năm nọ, tháng nọ, ngày nọ, đi đến một chỗ gọi là hiên Điệu Hồng, sẽ thấy ở đó có ông Tào Tuyết Cần, và bảo rằng

“Giả Vũ Thôn nói nhờ ông ta như thế như thế.”

Người trong lều nói xong, lại nằm xuống ngủ.

Không Không đạo nhân ghi nhớ kỹ những lời nói ấy. Sau đó không biết trải qua mấy đời mấy kiếp, quả thấy có hiên Điệu Hồng, và Tào Tuyết Cần đang ở đấy giở xem những sách cổ sử xưa nay. Không Không đạo nhân liền thuật lại câu nói của Giả Vũ Thôn rồi đem truyện Thạch đầu ký ra. Tào Tuyết Cần cười bảo

– Quả thực là Giả Vũ Thôn nói rồi! [4]

Không Không đạo nhân liền hỏi

– Tiên sinh vì sao biết được người ấy, mà chịu truyền thuật truyện này thay cho ông ta?

Tào Tuyết Cần cười nói

– Người ta gọi ngài là Không Không, quả nhiên trong bụng không có gì cả! Truyện này toàn là câu chuyện thêu dệt, thì cất sao khỏi những chỗ sai lầm, mâu thuẫn, chỉ để khi cơm no rượu say, đêm mưa đèn sáng, sẽ cùng mấy người chung chí hướng đọc với nhau, làm tiêu tan những nỗi hiu quạnh là được. Chứ cần gì phải có những bậc đại nhân bình phẩm và truyền khắp trên đời. Còn như ngài muốn dò xét từ ngành ngọn thì thật hết sức câu nệ. Chẳng khác “vạch vào thuyền để tìm gươm, gắn phím để gãy đàn vậy? “

Không Không đạo nhân nghe xong, ngửa mặt lên trời cười to rồi vứt bản sao lại, vùn vụt ra đi, vừa đi vừa nói

– Té ra toàn là chuyện bày đặt viễn vông cả? Không những người làm không biết, người chép không biết, mà cả người đọc cũng không biết nữa. Chẳng qua chỉ là thứ văn chương du ký, để cho thích thú tính tình mà thôi.

Nhưng ráng chiếu cố một đoạn nữa, vì những câu thơ ghi nhớ sẽ hiểu rõ hơn.

Người đời sau thấy bản truyền kỳ này, cũng đã viết bốn câu kệ, để bổ sung vào những lời nói từ đầu của tác giả.

Nói đến nỗi chua cay,

Hoang đường lại buồn thay.

Xưa nay đều cảnh mộng,

Chớ bảo người đời ngây.

[1]      Ý nói theo lệ lương tháng của bọn vợ lẻ, mỗi tháng hai lạng.

[2]      Việc Tưởng Ngọc Hàm tặng thắt lưng cho Bảo Ngọc và Bảo Ngọc đưa 

thắt lưng ấy cho Tập Nhân, xin xem lại hồi thứ 28

[3]      Sở Văn Vương lánh nạn, vợ vua nước Tần, Tức phu nhân bị bắt về làm thiếp, sinh được hai con. Sở Văn Vương hỏi phu nhân, sao vẫn không chịu nói năng gì. Phu nhân nói ” Tôi là một người đàn bà đã phải lấy hai lần chồng, chỉ còn khác một cái chết, có gì đáng nói nữa?” Đời sau tôn là Đào Hoa phu nhân, lập miếu thờ phụng.

[4]      Cũng như chú thích ở hồi một. Chữ ” Giá ngữ thôn ngôn ” (nói bịa) với “Giá Vú Thôn ngôn” (Giá Vũ Thôn nói) đọc giống nhau. Tác giả lấy chữ “Giả Vũ Thôn ngôn” thay cho “Giá ngữ thôn ngôn”, chữ nọ đánh ra chữ kia.

Hồi 1: Trụ Vương tế miễu bà Nữ Oa

Theo sử Trung Hoa thì trước kia đời Nghiêu, Thuấn vợ thứ hai của vua Ðế Cốt là Giảng Ðịnh đi cầu con ở gò Cao Mai trông thấy chim én đẻ rơi trước mặt. Bà Giảng Ðịnh cho là điềm lành, liền lấy trứng chim én ấy nuốt vào bụng. Quả nhiên vì nuốt trứng, bà thọ thai sinh được một trai đặt tên là Khiết.

Khiết lớn lên phò vua Nghiêu, rồi đến vua Thuấn, được phong làm chức Tư Ðồ. Vì có công dạy dân, về sau Khiết được phong làm Lạc Ấp, và làm chúa một xứ.

Dòng dõi ông Khiết vẫn nối chức cai trị Thái Ấp cho đến đời ông Thái Ất, tức là Thành Thang.

Thành Thang là người nhân đức và trung hậu, nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí, thất thời ẩn cư cày ruộng nơi Sằn Dã, liền đến rước về, dâng cho vua Kiệt, nhà Hạ dùng. Ấy là vì lòng trung, Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình.

Ai ngờ vua Kiệt bất trí, không biết dùng người tài, nghe lời dua mị, không trọng dụng Y Doãn. Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang.

Bấy giờ vua Kiệt càng ngày càng đắm say tửu sắc. Giết quan Long Phùng là một vị gián quan có công với nước, nên chẳng ai dám ra can ngăn nữa.

Hành động của vua Kiệt mỗi lúc một thối nát hơn. Ông Thành Thang thấy vậy sai người qua khóc lóc để khuyên can. Vua Kiệt đã không nghe còn bắt ông Thành Thang giam tại Hạ Ðài suốt một thời gian mới thả về.

Trong lúc vua Kiệt ham dâm, độc ác như vậy thì ông Thành Thang lại tỏ cho thiên hạ thấy ông là một người nhân hậu có tiếng.

Một hôm, ông Thành Thang ra ngoài đồng thấy người đi săn bủa lưới bốn phía, và vái:

– Trên trời sa xuống, dưới đất chun lên, tất cả bốn phương đều vô mảnh lưới.

Ông Thành Thang nghe lời vái ấy than thầm:

– Nếu vậy muôn cầm đìểu thú đều bị bắt hết còn gì?

Ông bèn truyền mở ba phía lưới ra, rồi khiến các thợ săn vái rằng:

Muốn lại thì lại, muốn qua thì qua

Ở trên trời sa xuống, có cánh bay xa

Ở dưới đất chun lên, có chân chạy ra

Con nào liều mạng, thì vào lưới ta

Cầm thú đều ra khỏi lưới hết. Bởi vậy đời sau người ta thường nói: “Mở lưới Thành Thang ” tức là ý muốn nhắc đến tích ấy.

Giăng lưới để bắt cầm thú để ăn thịt mà chỉ giăng một mặt, chừa chỗ cho con thịt thoát ra thì lòng nhân còn gì hơn. Bởi vậy tiếng đồn tới cõi Hớn Nam, thiên hạ đều khen Thành Thang đức lớn, hơn bốn mươi nước đều theo.

Ðến sau, vua Kiệt vô đạo, hại dân gần chết, ông Y Doãn phò Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào.

Các chư hầu hội đũ mặt, tôn Thành Thang lên làm Thiên tử, Thành Thang vẫn từ chối, chỉ muốn nhận bổn phận chư hầu thôi, nhưng vì các chư hầu khác ép buộc, Thành Thang cực chẳng đã phải thuận lời lên ngôi Thiên tử lập Kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi mở đầu nhà Thương.

Vua Thành Thang bỏ các điều luật ác hiểm của vua Kiệt, đặt ra những việc dân ưa, dân mến, lấy đức trị dân, nên ai nấy đều theo về cả.

Trong thời gian đầu, vì vua Kiệt bất nhân, nên trời hạn hán suốt bảy năm, vua Thành Thang mới cầu mưa thì trời liền mưa xuống.

Vua trị dân nhân đức, dân coi vua như cha mẹ, trong nước không xảy ra điều gì cần phải xài đến luật pháp nữa.

Vua Thành Thang trị vì được 13 năm, thọ được 100 tuổi, rồi truyền xuống con cháu đến 28 đời, tổng cộng là 564 năm, đến đời Ân Thọ (vua Trụ) thì nhà Thương mới mất.

Hai mươi tám đời vua nhà Thương truyền nối như sau:

1 – Thành Thang

2 – Thái Giáp

3 – Óc Ðinh

4 – Thái Canh

5 – Tiển Giáp

6 – Ứng Kỷ

7 – Thái Hậu

8 – Trọng Ðỉnh

9 – Ngoại Nhâm

10 – Hà Ðản Giáp

11 – Tổ Ất

12 – Tổ Tân

13 – Óc Giáp

14 – Tổ Ðinh

15 – Nam Canh

16 – Ðương Giáp

17 – Bàn Canh

18 – Tiểu Tân

19 – Tiểu Ất

20 – Võ Ðinh

21 – Tổ Canh

22 – Tổ Giáp

23 – Lâm Tân

24 – Canh Ðịnh

25 – Thái Ðỉnh

27 – Ðế Ất

28 – Ân Thọ (Trụ Vương).

Truyện này nói về cuối đời nhà Thương, lúc Trụ Vương mất nước, và nhà Châu lên kế vị.

Vua Trụ là con thứ ba của vua Ðế Ất. Vua Ðế Ất có ba người con là Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển và Ân Thọ.

Nhân khi vua Ðế Ất ngự ngoài vười xem hoa mẫu đơn với các quan, thấy lầu Phi Vân gãy mất một kèo, liền truyền các quan thay cây kèo ấy. Các quan xúm lại đỡ không nổi.

Bấy giờ có Ân Thọ đi theo, thấy vậy một mình xốc lại, một tay đỡ cây kèo, một tay nhổ cột lên thay.

Các quan trông thấy sức mạnh của Thọ Vương ai cũng quỳ lạy chúc mừng.

Thừa Tướng Thương Dung và quan Ðại Phu Mai Bá, Triệu Khải đồng quỳ tâu với vua Ðế Ất:

– Thọ Vương tuy là con út nhưng tài năng như vậy có thể làm rạng rỡ nhà Thương sau này, xin Bệ hạ phong làm Thái Tử, để nối ngôi.

Ðế Ất bằng lòng, lập Ân Thọ lên làm Thái Tử.

Vua Ðế Ất trị vì được ba mươi năm thì băng hà. Lúc lâm chung có phú thác Thọ Vương cho Thái Sư Văn Trọng, nên sau đó Thọ Vương được lên ngôi Thiên tử tức Trụ Vương, đóng đô tại Triều Ca.

Hai người anh của vua Trụ tuy không được nối ngôi, song vẫn một lòng hiếu thuận, không hiềm khích, hoặc có ý ganh tỵ. Bởi vậy từ trong đến ngoài đều an lạc.

Văn thì có Thái Sư Văn Trọng đủ tài trị nước, võ thì có Trấn Quốc Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ đủ tài trấn áp các nước chư hầu.

Trong cung ba bà cung hậu như Chánh Cung Khương hoàng Hậu, Tây Cung Hoàng Thị (em Hoàng Phi Hổ), Ninh Khánh Cung Ðương thị đều có đức hạnh, trinh chính, hòa nhã, hiền lành.

Vua Trụ ngồi hưởng thái bình, muôn dân lạc nghiệp, mưa hòa gió thuận, tưởng không có gì sung sướng hơn.

Bấy giờ nhà Thương cầm đầu một số chư hầu gồm bảy trăm Trấn chia làm bốn Cõi có một chư hầu lớn thay mặt nhà Thương điều khiễn.

Bốn Trấn chư hầu lớn gồm có:

1 – Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở (cha của Khương Hoàng Hậu).

2 – Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ

3 – Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương)

4 – Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ.

Mỗi Trấn chư hầu lớn cai trị gần một trăm chư hầu nhỏ, cộng bảy trăm Trấn chư hầu.

Sau khi Trụ Vương lên ngôi được bảy năm thì có một số chư hầu nhỏ phía Bắc do Viên Phước Thông cầm đầu nổi loạn. Thái Sư Văn Trọng phải tuân lệnh đi đánh dẹp.

Văn Trọng ra đi, việc triều chính thiếu người định đoạt, nên vua Trụ thường gần gũi hai tên Vưu Hồn và Bí trọng, là hai tên xu nịnh, trước kia đã nhiều lần Văn trọng can không cho vua Trụ gần hai tên ấy.

Một hôm vào tiết tháng ba, vua Trụ ngự triều, Thừa Tướng Thương Dung tâu:

– Ngày mai là ngày rằm, nhằm vía bà Nữ Oa, xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước.

Vua Trụ hỏi:

– Bà Nữ Oa là người thế nào đến nỗi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương?

Thương Dung tâu:

– Bà Nữ Oa là em gái của vua Phục Hy, hiện là một vị thần linh hiển lắm. Trước kia Cung Công làm phản, đụng đầu vào núi Bất Châu, đất bị nghiêng sụp, bà Nữ Oa bèn lấy năm sắc đá vá trời. Bởi có công với đời như vậy, nên mấy triều vua đều lập miễu phụng thờ. Nơi nào thờ miễu Bà thì nơi ấy mưa thuận gió hòa, mối nước được yên, dân gian khỏe mạnh. Xin bệ hạ đến đó dâng hương, chẳng nên khinh dễ.

Vua Trụ nhận lời:

– Nếu vậy mai Trẫm sẽ đến đó dâng hương cầu phước, sẵn dịp du ngoạn một chuyến.

Hôm sau, vua trụ truyền long giá ra đi, các quan đi theo phò tá rất đông. Ba ngàn binh kỵ mã, tám trăm quân Ngự Lâm do Hoàng Phi Hổ điều khiển, trước sau đông nghẹt.

Xa giá đến đâu dân chúng đều thắp nhang đèn trước cửa vọng bái.

Khi đến trước đền thần Nữ Oa, vua Trụ bước xuống xe đến nơi chính điện đặt một đĩnh trầm, và các quan đồng lạy.

Vua Trụ trông thấy trong điện trang nghiêm lắm, những hình tượng toàn bằng vàng ngọc đứng hầu hai bên. Những cặp con trai cầm phướng đúc vàng, những tượng con gái chạm bằng ngọc đứng dâng hương. Trên điện không thiếu gì hạc múa loan xòe, rồng bay phượng lộn, đèn chưng như sao mọc, khói tỏa như mây mờ, uy nghiêm chẳng khác gì đền vua.

Trụ Vương đang say mê, thì bỗng một luồn gió nhẹ thổi qua làm bức màn vẹt qua, vua trông thấy tượng bà Nữ Oa rất rõ, hình dung như một người sống chẳng khác gì một nàng tiên, hương trời sắc nước không đâu bì kịp.

Lời xưa thường nói:

– Nước gần mất thì có yêu nghiệt hiện ra.

Vua Trụ nhìn tượng thần Nữ Oa không nháy mắt tự nhủ với lòng:

– Ta tuy làm vua giàu có bốn biển, nhưng trong tam cung lục viện không thấy có người nào được cái nhan sắc như vậy.

Nghĩ rồi truyền thị vệ đem bút mực đến, và đề một bài thơ ngay trên vách tường:

Lạnh lùng trướng phủ xõa màn loan

Bóng sắc khen ai khéo điểm trang

Liễu uốn mày ngài khoe sắc lục

Xiêm tung sóng nưóc điểm non vàng

Hải đường sương đượm màu tươi tốt

Thược dưọc mưa nhuần bóng vẻ vang

Ðem về cung điện dựa thiên nhan

Thừa Tướng Thương Dung thấy vua Trụ đề thơ như vậy thất kinh quỳ tâu:

– Bà Nữ Oa là thần thánh đời thượng cổ. Tôi tưởng bệ hạ chỉ nên dâng hương cầu phước cho mưa thuận gió hòa, sóng trong biển lặng. Còn việc đề thơ có ý trêu cợt như vậy không nên. Xin bệ hạ truyền lấy nước rửa đi kẻo thiên hạ trông thấy truyền ngôn cho bệ hạ không có đức chánh.

Vua Trụ nói:

– Trẫm thấy tượng thần xinh đẹp, đề một bài thơ tán thưởng chớ chẳng có ý gì khác. Vả lại Trẫm là thiên tử cũng nên để lại mấy vần thơ này cho thiên hạ rõ nhan sắc của bà, và chiêm ngưỡng vần thơ của Trẫm chứ?

Dứt lời truyền hồi loan. Các quan không ai dám nói lời nào nữa. Về đến đền Long Ðức, các quan chúc mừng rồi ai về dinh nấy.

Bấy giờ nói đến bà Nữ Oa đi lên cung Hỏa Vân chầu ba Thánh là: Phục Hy, Thần Nông, và Hoàng Ðế.

Khi chầu xong bà Nữ Oa trở về đền, lên ngồi nơi chánh điện. Hai bên gái ngọc trai vàng làm lễ, bà Nữ Oa nhìn qua bên vách thấy bài thơ của vua trụ, nổi giận nói:

– Ân Thọ hôn quân! Không lo sửa mình trị thiên hạ lại sanh tâm tà bậy, không sợ luật trời. Thật đáng ghét! Trước kia vua Thành Thang đuổi vua Kiệt thu thiên hạ, hưởng dư sáu trăm năm đến nay tuần thời đã hết. Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh.

Nói rồi liền đằng vân bay vào triều, cố vật chết vua Trụ để rửa hờn. Nhưng vừa lướt đến phía ngoài hậu cung Nữ Oa gặp hai đạo hào quang xông đến cản lại.

Hai đạo hào quang này là của Ân Hồng và Ân Giao (Nguyên vua Trụ có hai người con trai, người anh là Ân Hồng, người em là Ân Giao, sau này đều được phong thần, nên mới có hào quang như vậy). Hôm ấy hai anh em vào hậu cung chầu vua Trụ. Bà Nữ Oa bị hào quang cản trở, tính ra mới biết vua Trụ còn hai mươi tám năm nữa mới tận số, nên đằng vân trở về miễu.

Tuy nhiên, lòng vẫn căm tức không nguôi, bà liền gọi Thể Vân đồng tử lấy bầu vàng đem ra để giữa sân giở nút, rồi đưa tay chỉ một cái, tức thì trong bầu bay ra một đạo hào quang trắng phau như giải lụa, dài hơn năm trượng. Ðạo hào quang lại hiện ra hình một cậy phướng ngũ sắc tua tủa khắp một vùng.

Phướng này gọi là phướng chiếu yêu. Trong giây phút sa mù bao phủ, gió lộng áo ào, các yêu đều hiện đến.

Bà Nữ Oa ra lệnh cho Thể vân đồng tử bảo các yêu trở về động hết, chỉ chừa lại ba con yêu tại mả Huỳnh Ðế và cho vào ra mắt.

Ba yêu vâng lệnh, vào quỳ lạy xưng:

– Chúng tôi là hồ ly ngàn năm, chim trĩ chín đầu và đàn tỳ bà bằng đá ngọc thạch đến chầu nương nương.

Bà Nữ Oa nói:

– Nay cơ nghiệp Thành Thang đã mỏi mòn, vua Trụ sắp đến ngày mất nước. Núi Kỳ Sơn phụng gáy nhà Tây Châu, người đó là khí số do trời định. Ba chị em bây hãy dấu mình yêu quái, trà trộn vào cung điện, làm cho Trụ vương điêu đứng. Ðợi cho Võ vương đánh trụ thành công, ta cho chúng bay thành thần. Song ta cấm một điều là không được tàn hại bá tánh, chỉ trả thù Trụ Vương thôi.

Ba yêu vâng lệnh lui ra, đằng vân về động.

Vua Trụ từ khi dâng hương đền Nữ Oa trở về, mê bóng sắc pho tượng đến nỗi đêm ngủ không ngon, ngày ăn không được, coi ba cung sáu viện như cỏ rác, chẳng đoái hoài đến. Tâm tư canh cánh bên lòng buồn bã không muốn nói chuyện với ai nữa.

Ngày kia Trụ Vương đến đền Hiển Thánh, có các hoạn quan theo phò trong lúc buồn bã, Trụ Vương sực nhớ đến Vưu Hồn, Bí Trọng, hai tên này thường nói nhiều điều vui tai, vua có thể nhờ hai người này tìm cách giải khuây được, bèn cho đòi Bí Trọng đến.

Bí Trọng lúc này là Trung Gián Ðại Phu, nghe vua đòi liền ứng hầu ngay, và tâu:

– Bệ hạ có việc gì cần sai khiến hạ thần?

Trụ vương buồn bã nói:

– Vừa rồi Trẫm có đi dâng hương đền Nữ Oa thấy tượng Nữ Oa xinh đẹp đến nỗi trong tam cung lục viện của Trẫm cũng không có kẻ nào bằng. Nếu sắc đẹp ấy Trẫm không được thưởng thức thì dầu Trẫm có làm vua cũng không toại nguyện. Khanh có cách gì giải buồn cho Trẫm không?

Bí Trọng tâu:

– Bệ hạ giàu có bốn biển, đức sánh Thuấn, Nghiêu. Mọi vật trên đời này đều là của bệ hạ hết, có gì mà bệ hạ không toại nguyện? Nếu bệ hạ cần một sắc đẹp tuyệt mỹ thì bệ hạ chỉ cần xuống lệnh cho bốn Trấn chư hầu tuyển bốn trăm mỹ nữ đem dâng thì thiếu gì kẻ tuyệt sắc.

Trụ Vương nghe tâu rất đẹp dạ, phán:

– À, thế mà Trẫm như ngu độn không nghĩ ra. Thôi để ngày mai Trẫm sẽ truyền như vậy.

Rồi Trụ Vương trở về triều.

Hồi 2: Phản nước Thương, Tô Hộ đề thơ

Vua Trụ nghe Bí Trọng tâu mừng lắm, lập tức về cung. Sáng hôm sau lâm triều, Trụ Vương phán:

– Nay Trẫm muốn ra chỉ dụ cho bốn trấn chư hầu kén chọn mỗi trấn một trăm mỹ nữ, chẳng luận giàu sang, quí tộc, miễn là dung nhan đẹp đẽ, cốt cách dịu dàng, ăn nói khuôn phép để sung vào cung sai khiến.

Quan Tể Tướng Thương Dung quỳ tâu:

– Xưa nay, hễ vua phải đạo thì muôn dân noi gương, không cần dạy dỗ, nước vẫn yên vui, dân vẫn tùng phục. Hiện trong cung bệ hạ đã có dư ngàn cung nữ, hậu phi lại hiền đức không ai bằng, nếu bệ hạ còn kén thêm nữa, thần e rằng dân gian không phục. Thần có nghe nói, đạo làm vua nên vui cái vui của dân, nên lo cái lo của dân. Hiện nay trời đang hạn hán, bệ hạ không lo cái khổ của dân, lại chọn nữ sắc, hạ thần thấy không phải lẽ. Ðời Nghiêu, Thuấn dạy thiên hạ không cần khí giới, không dùng hình pháp, khiến cho trời xuống điềm lành, sao Kiêu chiếu sáng trời, chim phụng đỗ nơi sân, cỏ chỉ mọc đầy nội, người đi lại đầy đường, chó không tiếng sủa, ngày nắng, đêm mưa, lúa trổ hai gié, ấy là điềm thạnh trị.

Trụ Vương nói:

– Ta kế vị nhà Thương mấy năm nay, tuy không được như đời Nghiêu, Thuấn, nhưng trăm họ yên vui, bốn phương quy thuận, há không phải là đời thuận sao?

Tể Tướng Thương Dung tâu:

– Nay phương Bắc đang có giặc, mọi miền dân chúng đang khốn đang khốn đốn vì nạn binh đao. Thái sư phải bỏ việc triều đình đi dẹp loạn, nếu bệ hạ lo cái lo của dân thì phải dùng người hiền, đuổi kẻ nịnh, lấy nhân đức làm đầu, tự nhiên thiên hạ thái bình, khí hòa rải khắp thiên hạ. Còn bệ hạ phải ưa nhìn tà sắc, tai ưa nghe tiếng dâm, săn thú dục vườn, vui riêng cái vui của sắc dục, tất nhiên không tránh khỏi loạn ly. Theo ý hạ thần, bệ hạ không nên tuyển mỹ nữ vào cung trong lúc này, xin bệ hạ xét lại.

Vua Trụ ngồi suy nghĩ hồi lâu, mặt buồn bã nói:

– Lời của khanh rất phải! Thôi Trẫm bãi bỏ ý định chọn mỹ nữ vào cung.

Dứt lời, Trụ Vương truyền bãi chầu.

Qua năm thứ tám, vào tiết tháng tư, bốn trấn chư hầu lớn đưa mấy trăm chư hầu nhỏ về Triều Ca để chầu nhà Thương theo thể thức hàng năm.

Bấy giờ các chư hầu đều biết Thái Sư Văn Trọng đi dẹp loạn chưa về, quyền binh trong triều do Bí Trọng, Vưu Hồn, hai tên nịnh thần ấy gần gũi vua xúi giục, muốn cho vua Trụ khỏi quở trách, ai cũng đem ít nhiều lễ vật hối lộ nơi tư dinh của hai tên gian thần ấy.

Duy có một mình Tô Hộ, làm Ký Châu Hầu, tánh tình cương trực không chịu dua mị ai, việc phải trái đều nói thẳng trước mặt, nên không đem lễ vật riêng đút lót cho Bí Trọng và Vưu Hồn.

Hai tên gian thần này đem lòng oán trách Tô Hộ, chờ dịp để trả thù.

Ðến ngày mồng một là ngày lành. Trụ Vương lâm triều, các quan ứng hầu đủ mặt. Huỳnh Môn Quan vào tâu:

– Năm nay nhằm lễ chung, chư hầu lớn nhỏ đều tề tựu đến chầu bệ hạ để nghe dạy việc. Tất cả đang đứng ở ngoài chờ lệnh.

Trụ Vương hỏi Thương Dung:

– Thừa Tướng định tiếp đón chư hầu như thế nào cho tiện?

Thương Dung tâu:

– Bệ hạ chỉ cần đòi bốn trấn chư hầu lớn vào chầu để hỏi thăm dân tình mọi nơi và nếp sống ra sao thôi. Bệ hạ nên dùng lời giả ơn họ. Còn các trấn chư hầu nhỏ thì để họ đứng chầu ngoài ngọ môn cũng được.

Trụ Vương nghe theo, liền sai Huỳnh Môn Quan đòi các trấn chư hầu lớn vào đền ra mắt.

Bốn trấn chư hầu tuân lịnh, qua khỏi cửa Cửu Long, đến quỳ trước sân. Vua Trụ bước xuống ngai, đứng nơi thềm rồng phủ dụ:

– Các khanh giúp Trẫm vỗ an dân thứ, trấn ải dẹp loạn, đánh xa trị gần, có công khó nhọc như vậy Trẫm rất hài lòng.

Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở tâu:

– Chúng tôi đội ơn trên ban chức tổng trấn, hằng ngày ráng lo nhiệm vụ, sợ không tròn trách nhiệm bệ hạ giao phó, nếu có nhọc sức ngựa trâu đôi chút bất quá cũng chỉ mong đền bổn phận làm tôi. Nay được bệ hạ ra ơn vỗ về, thật chúng tôi vạn hạnh.

Trụ Vương rất vui mừng, truyền Thừa Tướng Thương Dung và Á Tướng Tỉ Can khiến quân dọn tiệc tại đền Hiển Thánh, đãi đằng bốn vị tổng trấn cho tử tế.

Bốn trấn chư hầu lạy tạ rồi theo Thương Dung và Tỉ Can đến dự tiệc. Trụ Vương bãi triều vào hậu cung đòi Bí Trọng và Vưu Hồn đến hỏi:

– Năm ngoái các khanh khuyên ta xuống chiếu nhờ bốn trấn chư hầu kén chọn mỹ nữ, nhưng bị Tể Tướng Thương Dung cản ngăn. Năm nay sẵn dịp bốn trấn chư hầu về đủ mặt, Trẫm có nên phán truyền lệnh ấy hay không?

Bí Trọng tâu:

– Thừa Tướng trước kia can việc kén mỹ nữ, bệ hạ đã nghe theo, bây giờ lại truyền kén nữa, tôi e các chư hầu hay được mất uy tín của bệ hạ chăng? Tôi có nghe đồn con gái Ký Châu Hầu Tô Hộ quốc sắc khuynh thành, huê nhường nguyệt thẹn, nếu bệ hạ chọn vào cung cấm chắc được toại nguyện. Vả lại đòi một người vào cung không làm cho dân chúng xôn xao, và cũng không có gì.

Vua Trụ khen:

– Khanh thật là kẻ đa mưu túc trí. Như vậy mới đủ sức giúp Trẫm trong lúc này.

Nói rồi khiến nội thị ra ngoài đòi Tô Hộ vào ra mắt.

Nội thị tuân lệnh ra đến nhà trạm truyền:

– Thiên Tử cho mời Ký Châu Hầu vào thương nghị việc nước.

Tô Hộ theo nội thị vào thẳng đến Long Ðức, làm lễ tung hô rồi quỳ nghe lệnh. Trụ vương hỏi:

– Trẫm nghe khanh có một người con gái nết na dịu dàng, tánh tình thuần hậu, Trẫm muốn chọn vào hậu cung để được gần Trẫm, nếu được vậy khanh sẽ là quốc thích, ăn lộc trời, hưởng ngôi lớn, yên trấn nơi Ký Châu, danh vang bốn biển. Ðời người được vinh hiển, giàu sang như vậy ai lại không thích, chẳng biết ý khanh như thế nào?

Tô Hộ nghe Trụ Vương nói mặt lạnh như tiền, tâu:

– Bệ hạ có tam cung lục viện, cung nữ hơn ngàn người thì thiếu gì kẻ mặt liễu mày hoa? Bệ hạ còn chưa thỏa mãn sao? Xin Bệ hạ chớ nghe lời kẻ dua mị nghĩ điều dục vọng. Vả lại con tôi còn thơ dại, lễ phép chưa biết gì, đức hạnh và nhan sắc đều thiếu, bệ hạ nhọc lòng tưởng đến làm chi. Xin hãy bền lòng lo việc chánh, để thiên hạ mến đức như vậy không rạng rỡ đức trị dân sao?

Vua Trụ cười lớn nói:

– Xưa nay ai cũng muốn cho con gái mình làm rạng rỡ tông môn, đáp đền hiếu thảo. Nay con gái của khanh vào làm Phi hậu sánh vai với Trẫm, còn khanh thì lên hàng Quốc thích, vinh hiển nhất đời còn gì hơn? Sao khanh không nghĩ chuyện ấy, cố chấp làm gì?

Tô Hộ đón biết do Vưu Hồn, Bí Trọng mất ăn, bày chuyện trả thù, nên giận nói lớn:

– Tôi nghe nói: Vua làm điều có đức thì muôn dân mến phục, bốn phương quy thuận, muôn dân kính vì, lộc trời trọn hưởng. Xưa Vua Kiệt nhà Hạ vì đam mê sắc dục, làm lắm điều ác, còn nhà Thương thì không màn của lợi, đức lớn ân nhiều, nên thiên hạ theo về, dựng lên đại nghiệp. Nay Bệ hạ không bắt chước tổ tông, lại noi theo gương nhà Hạ, dẫm chân lên bước đường vong quốc, hạ thần lấy làm tiếc. Hễ Hoàng đế ham sắc thì mất xã tắc, Ðại phu ham sắc thì mất cơ nghiệp, thứ dân tham sắc thì lụy thân. Vua là tấm gương của bầy tôi, hễ Vua lỗi đạo thì tôi lăng loàn, lập phe tụ đảng, mối nước rối ren. Tôi chỉ sợ cơ nghiệp nhà Thương gầy dựng sáu trăm năm nay, vì bệ hạ mà sụp đổ.

Trụ Vương nghe Tô Hộ nói xúc phạm, giận đỏ mặt mắng:

– Xưa nay hễ đạo làm tôi phải gìn lòng trung nghĩa, vua cho hầu thì lật đật đến hầu chẳng dám đợi xe, Vua khiến chết chẳng dám từ chối. Nay Trẫm chỉ cần kén một đức con gái vào làm Hậu Phi mà ngươi dám buông lời chống trả, mắng nhiếc Trẫm, lại sánh Trẫm với vua kiệt là một ông vua mất nước. Có ai dám vô lễ như thế không?

Liền truyền cho nội thị bắt Tô Hộ đem đến tòa pháp ti kết tội khi quân. Nội thị tuân lệnh bắt Tô Hộ trói lại.

Vưu Hồn, Bí Trọng vội quỳ tâu:

– Tội khi quân của của Tô Hộ đáng xử phạt lắm, nhưng vì Bệ hạ nuốn kén con gái của Tô Hộ rồi lại làm tội Tô Hộ e thiên hạ không hiểu sự tình nghĩ lầm rằng Bệ hạ trọng sắc khinh hiền. Xin Bệ hạ ra ân tha tội cho Tô Hộ về nước. Tô hộ sẽ cảm đức bệ hạ, đem ái nữ dâng vào cung. Như vậy Bệ hạ sẽ tránh được tiếng thị phi, mà tỏ mình có lòng nhân nữa.

Vua Trụ nghe nói bớt giận, truyền tha tội cho Tô Hộ, bảo phải về nước, không được nấn ná ở triều ca ngày nào nữa.

Lệnh vua vừa ban xuống, nội thị liền mở trói đuổi Tô Hộ ra lập tức.

Tô Hộ trở về trạm dịch. Các tướng xúm lại nghênh tiếp, và hỏi thăm:

– Chẳng hay Thiên tử mời Chúa công vào triều bàn chuyện cơ mật gì vậy?

Tô Hộ hơi giận chưa nguôi, thốt lời mắng Trụ Vương:

– Hôn quân vô đạo chẳng tiếc sự nghiệp của tổ ông để lại, nghe lời nịnh thần buộc ta phải tiến dâng con gái để sung vào Hậu Phi. Ta đoán chắc việc này do Bí Trọng, Vưu Hồn xúi giục, muốn đem sắc đẹp mê hoặc lòng vua để tranh uy thế? Ta can vua nhưng vua không nghe, lại bảo ta nghịch mạng truyền dẫn đến pháp ti bắt tội.

Các tướng thở dài, hỏi:

– Nếu vậy Chúa công làm thế nào về được?

Tô Hộ nói:

– Hai đứa gian nịnh ấy lại tâu xin với hôn quân tha tội cho ta trở về để cải hối, và dâng ái nữ cho hôn quân. Việc này nếu Thái Sư Văn Trọng có ở triều, hai đứa gian thần ấy đâu dám lộng hành như vậy? Hôn quân đã sa vào tội lỗi, tiếc thay cơ nghiệp Thành Thang sớm tối phải tan tành.

Các tướng hỏi:

– Vậy chúa công có ý định thế nào đối với việc này?

Tô Hộ nói:

– Nếu không dâng Ðắc Kỷ vào cung thế nào hôn quân cũng đem quân đánh phá nước ta, bằng dâng Ðắc Kỷ vào đó sau này hôn quân thiếu đức làm hư xả tắc, thiên hạ sẽ cho ta là kẻ bất trí. Các tướng có mưu nào gở rối chăng?

Các tướng đồng nói:

– Hễ vua bất chánh thì tôi không phục, nay Thiên tử trọng sắc khinh hiền, Chúa công cũng cần gì phải tôn thờ. Cứ trở về giữ lấy nước mình an vui một cỏi.

Tô Hộ đang giận nghe mấy lời của các tướng chẳng khác nào lửa cháy đổ thêm dầu, mặt giận phừng phừng nói:

– Ðấng trượng phu chẳng bao giờ thèm làm lén, đi ở phân minh.

Nói rồi khiến quân đem bút mựt ra, đề bốn câu thơ trên vách tường trước cửa đền, để thiên hạ rõ ý mình không tùng phục nhà Thương nữa:

Quân loạn thần cương

Hữu bại ngũ thường

Ký Châu Tô Hộ

Vĩnh bất triều Thương

Có nghĩa là:

Vua chẳng kỷ cương

Lỗi đạo luân thường

Ký Châu Tô Hộ

Chẳng chầu nhà Thương

Sau khi đề ra bài phản thi Tô Hộ dẫn các tướng ra khỏi Triều Ca trở về nước.

Còn vua Trụ tuy nghe lời Vưu Hồn, Bí Trọng tha Tô Hộ nhưng sợ Tô Hộ trở về không chắc chịu dâng Ðắc Kỹ, nên lòng vẫn buồn bực không an. Tiếp đến có Huỳnh Môn Quan vào tâu:

– Tô Hộ đề phản thi trước ngõ, hạ thần chẳng dám dấu, xin phép vào trình bệ hạ rõ.

Nói rồi trải tấm giấy trên long án. Vua Trụ xem xong nổi giận mắng:

– Trẫm thuận theo lòng người ưa dung tha những kẻ có tội không giết loài chuột, mới cho về xứ. Thế mà nó không biết xét thấy thân phận, lại đề phản thi trước đền, lăng nhục triều đình. Ta không thể bỏ qua hành động ấy được.

Liền cho lệnh đòi ba viên đại tướng là Ân Phú Bại, Triều Ðiển, và Lổ Hùng vào phán:

– Tô Hộ bất trung, làm phản thi đề ngoài ngọ môn nhục mạ Thiên Triều. Các khanh hãy điểm hai mươi muôn binh đi tiên phuông, Trẫm sẽ dẫn các quan theo sau hậu tập.

Lổ Hùng cuối đầu nghĩ thầm:

– Tô Hộ là người trung nghĩa thuở nay, tánh tình ngay thẳng, chẳng biết vì sao lại có hành động như vậy. Hay kẻ nào thù oán phao vu chăng? Tội trạng còn chưa rõ ràng, nếu để nhà vua thân chinh thì Ký Châu còn gì?

Nghĩ như vậy, Lổ Hùng quỳ tâu:

– Tô Hộ có tội, cần gì Bệ hạ thân chinh cho nhọc. Nay bốn trấn chư hầu còn đó, nếu muốn bắt Tô Hộ, Bệ hạ chỉ cần sai một trong bốn chư hầu ấy đem quân vấn tội cũng đủ.

Trụ vương hỏi:

– Bốn trấn chư hầu ấy Trẫm nên sai ai đi bắt Tô Hộ?

Bí Trọng quỳ tâu:

– Ký Châu thuộc phần đất Bắc Bá Hầu điều khiển, xin Bệ hạ sai Sùng Hầu Hổ đem binh bắt Tô Hộ là phải lẽ.

Trụ Vương y lời, Lổ Hùng lại nghĩ thầm:

– Sùng Hầu hổ là người tham lam hung dữ, nếu lấy oai thiên tử đi chinh phạt, dân Ký Châu sẽ bị thảm họa không ít. Sẵn đây có Tây Bá Hầu là người nhân đức, nếu tiến cử Tây Bá Hầu thì lưỡng toàn.

Nghĩ như vậy, Lổ Hùng tâu:

– Sùng Hầu Hổ tuy làm tổng trấn cõi Bắc, nhưng ân đức chưa có bao nhiêu, nếu thay Bệ hạ đi chinh phạt e không thắng, chi bằng sai Tây Bá Hầu là Cơ Xương, lâu nay nổi tiếng nhân nghĩa, may ra không tốn tên đạn mà bắt Tô Hộ dễ hơn.

Trụ Vương ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:

– Thôi để Trẫm sai cả hai trấn chư hầu ấy cùng hợp sức đem binh vấn tội thì tiện hơn.

Tiếp đó, Trụ Vương thảo chiếu sai nội thị truyền đạt.

Bấy giờ, bốn trấn chư hầu đang dự tiệc với Thừa tướng Thương Dung và Tỉ Can tại đền hiển Thánh, bổng có sứ đến dạy Tây và Bắc Bá Hầu nghe truyền chiếu chỉ.

Hai trấn chư hầu thấy có chiếu Thiên tử vội quỳ mọp dưới đất, Sứ thần tuyên đọc như sau:

“Trẫm nghe: Mão đội trên đầu, dép đi dưới chân, không thể làm trái ngược được. Chúa trị dân tôi thờ chúa, ấy là do đạo trời. Nay Tô Hộ chẳng biết đạo nghĩa, không kể phận vua tôi, khinh lờn phép nước, Trẫm vì lòng nhân tha cho về nước, nhưng lại không biết hối cải ăn năn, đề phẩn thơ có ý nghịch mạng trời, nay Trẫm ban bùa việt, cờ mao, uy quyền cho Tây và Bắc Bá Hầu thay mặt Trẫm, đem binh đến Ký Châu vấn tội. Nếu ai vì tình riêng dung tha kẻ tôi loàn sẽ bị liên can “

Thiên sứ đọc chiếu xong, hai vị tổng trấn đều lạy tạ, vâng mạng.

Ðoạn Tây Bá Hầu nói với Thừa Tướng Thương Dung và ba vị tổng trấn kia:

– Tô Hộ đến chầu Thiên tử chưa vào đền ra mắt, sao trong chiếu lại nói không kể phận vua tôi, khinh lờn phép nước? Việc này chưa hiểu nguyên nhân ra sao. Vả chăng Tô Hộ là người trung nghĩa thuở nay, hằng có công với triều đình. Còn việc đề thơ ngoài ngõ phản đối thiên triều, tôi e không xác đáng. Nếu Bệ hạ nghe theo lời kẻ quấy, sai chinh phạt tôi trung, e không hợp với lòng dân. Xin Thừa Tướng và Á Tướng ngày mai vào chầu, hỏi xem tội Tô Hộ là tội gì cho biết. Nếu đáng trừng phạt thì trừng phạt, còn không đáng thì phải can vua kẻo tội nghiệp Ký Châu Hầu.

Tỉ Can nói:

– Lời Tây Bá Hầu luận rất phải. Phàm trị một người nào cũng nên nêu rõ tội trạng cho minh bạch đã.

Sùng Hầu Hổ nói:

– Dù sao lệnh thiên tữ đã ban, chúng ta không nên làm trái. Tôi chắc Tô Hộ có ý phản Thương, nếu không lẽ nào thiên tử kết tội?

Tây Bá Hầu Cơ Xương nói:

– Lời ông luận chỉ đúng theo lẽ thường. Còn ở đây Tô Hộ là người quân tử, lòng thẳng dạ ngay. Tận trung phò chúa. Một người như vậy đâu thể phản phúc một cách dễ dàng. Nếu chúng ta không dè đặt. Thiên tử đã nghe lời sàm tấu, chúng ta cứ tuân theo mệnh lệnh thiên triều, chẳng hóa ra chúng ta cùng một lũ vô dụng, không biết gì phải trái sao?

Sùng Hầu Hổ to tiếng:

– Ông nói sao lạ vậy? Không cần biết lệnh vua phải hay trái, chúng ta là tôi thần, vua sai gì chúng ta không thể không tuân. Kẻ nào trái mệnh vua tự nhiên đã mang tội khi quân rồi.

Tây Bá Hầu cười nhạt:

– Nếu vậy ông hưng binh đi trước. Tôi sẽ theo sau.

Sùng Hầu Hổ lập tức từ giã về nước. Tây Bá Hầu còn nán lại nói với Thừa Tướng Thương Dung:

– Tôi sẽ về Tây kỳ cất binh theo sau.

Tiệc mãn, các trấn chư hầu ai về nước nấy.

Khi Tô Hộ về đến Ký Châu, con trai lớn là Tô Toàn Trung đem các tướng ra khỏi thành nghênh tiếp. Cha con mừng rỡ, kéo nhau vào thành. Các tướng quỳ lạy chúc mừng và hỏi:

– Chúa công vào triều thiên tử năm nay có điều gì khác lạ không?

Tô Hộ buồn bã nói:

– Nay thiên tử từ bỏ hết các việc chánh, nghe lời nịnh thần làm điều phi nghĩa, bắt ta dâng con gái vào triều làm Hậu Phi. Ta dùng lời ngay can gián. Thiên tử cho ta phản nghịch. Ðang cơn giận dữ ta đề phản thi vào ngọ môn rồi bỏ về đây. Sớm tối chắc có binh chư hầu tuân lệnh hôn quân kéo đến đây vấn tội. Vậy các tướng lo chỉnh đốn binh mã, trên thành dự bị cung tên trí thủ đâu đó sẵn sàng, chờ ngày đối phó.

Các tướng tuân lệnh ngày đêm canh phòng cẩn mật.

Ngay lúc đó, Sùng Hầu Hổ về nước lập tức điểm năm vạn quân, người ngựa rộn ràng, kéo đến Ký Châu đánh Tô Hộ. Khi đến nơi Sùng Hầu Hổ truyền lệnh an dinh hạ trại xong cho các tướng nghỉ ngơi một bữa, rồi mới ra binh.

Quân thám thính trong thành hay được vào báo với Tô Hộ.

Tô Hộ hỏi:

– Chư Hầu nào hưng binh vậy?

Quân sĩ thưa:

– Thấy hiệu cờ đề Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ.

Tô Hộ giận nói:

– Nếu người khác thì dùng phải trái tỏ bày được, chớ Sùng Hầu Hổ là kẻ bất chấp nhơn nghĩa, có nói cũng uổng lời thôi. Chi bằng sẵn dịp này ta xua binh đánh nó một trận cho nó thấy cái oai của ta.

Nói rồi điểm binh ra ngoài thành khiêu chiến. Các tướng theo hầu rất đông. Tô Hộ cho ngựa lướt đến trước trại Sùng Hầu Hổ, nói:

– Ta là Ký Châu Hầu muốn mời Bắc Bá Hầu ra nói chuyện.

Sùng Hầu Hổ được tin liền dàn quân bố trận, trước mặt dựng hai cây cờ thêu rồng, sau lưng có người con trai lớn là Sùng Ứng Bưu theo phò tá. Còn Sùng Hầu Hổ thì mặc giáp vàng, đầu đội kim khôi sáng chói, lưng buộc đai ngọc, tay cầm đại đao uy phong lẩm liệt. Tô Hộ thấy vậy xá Sùng Hầu Hổ một cái và nói:

– Ngài vẫn mạnh giỏi chứ? Tôi vì mặt giáp trụ trong người không được trọn lễ xin ngài miễn chấp. Chẳng biết ngài kéo binh tới Ký Châu này để làm gì?

Sùng Hầu Hổ nói:

– Ngươi đề thơ phản thiên triều, nghịch mạng thiên tử, nên thiên tử sai ta đem binh đến vấn tội.

Tô Hộ nói:

– Hễ vua bất minh tôi phải loạn. Nay thiên tử vô đạo, trọng nịnh khinh hiền, không lo việc nước lại nghĩ đến điều sắc dục, khiến kén Hậu Phi. Như thế chẳng bao lâu nhà Thương sẽ ly loạn. Còn tôi là tay chân của ngài, đem thân bảo vệ bờ cỏi, sao ngài lại không bênh vực. Nghe lời hôn quân chinh phạt làm gì?

Sùng Hầu Hổ nạt lớn:

– Ngươi là đứa phản thần, tội đáng tru lục. Nay ta vâng lệnh đem binh hỏi tội, lẽ ra ngươi phải bó tay nạp mình, còn cầm đao lên ngựa ra đây đối diện với ta sao?

Dứt lời Hầu Hổ đưa mắt nhìn sang một bên, hỏi lớn:

– Có ai dám ra bắt tên phản tặc đó cho ta không?

Phía tả có một tướng đầu đội kim khôi, mình mang giáp vàng, cỡi ngựa ô, lách ngựa đến trước nói:

– Xin Chúa công để tôi bắt nó cho.

Bên kia, Tô Toàn Trung thấy vậy vỗ ngựa tới hét lớn:

– Ðừng phách lối! Ngươi là Mai Võ ta đã biết tài ngươi rồi, chớ hợm hĩnh mà mất mạng.

Mai Võ thấy Toàn Trung cản lại, mặt đỏ ngầu, hét:

– Cha con bây đã phạm tội phản nghịch còn liều lĩnh chống lại binh trời. Ta chắc chắn sẽ không tránh khỏi nạn diệt tộc đó.

Tô Toàn Trung vỗ nhựa múa kích đâm ngang hông. Mai Võ đưa búa ra đỡ. Hai bên đánh nhau được hai mươi hiệp. Mai Võ bị Toàn Trung đâm một kích trúng ngay yết hầu nhào xuống ngựa.

Tô Hộ thấy con mình đã giết được tướng địch, thừa thắng gióng trống lên. Những viên dõng tướng Ký Châu là: Triệu Bính, Trần Qui Trinh đồng giục ngựa múa đao lướt tới đốc quân hãm chiến. Quân Sùng Hầu Hổ túng thế bỏ chạy, quân Ký Châu chạy theo đâm chém tơi bời.

Rượt quân giặc trên hai mươi dậm, Tô Hộ mới gióng kiểng thu quân, kéo vào thành khao thưởng tướng sĩ, và hỏi:

– Hôm nay chúng ta thắng trận đầu, thế nào Sùng Hầu Hổ cũng sẽ củng cố lực lượng báo thù. Nếu Sùng Hầu Hổ tăng cường các tướng ở các trấn áp đảo Ký Châu ta thì liệu làm sao?

Phó tướng Triệu Bình thưa:

– Việc chinh chiến thắng bại là thường. Vả lại thế chiến không phải một trận là hết. Ngày trước Chúa công đã đề phản thi bất khuất thiên thư, nay lại ra binh giết hại chư hầu, ấy là thế cỡi cọp, không thể xuống được. Theo ngu ý của tôi đã hành động phải dứt khoát, không nên lưỡng lự. Sùng Hầu Hổ vừa thua một trận binh tướng xiểng liểng, ta nên thừa cơ truy kích, đánh cho Sùng Hầu Hổ một trận nữa không còn manh giáp, tiếp đó phải giao thiệp với các trấn chư hầu, lấy nhân nghĩa đối đãi, thu những chư hầu nào có cảm tình với ta dựa thế để làm hậu viện, như vậy mới giữ được Ký Châu này.

Tô Hộ nghe nói khen:

– Ý kiến ngươi rất hay. Vậy phải thực hiện gấp phương pháp đó.

Nói rồi liền sai Toàn Trung lãnh ba ngàn binh ra mai phục nơi trấn Ngủ Cang, cách Tây môn mười dậm để chờ lịnh.

Toàn Trung vội kéo binh ra đi, Tô Hộ lại khiến Trần Qui Trinh làm Tả Chi, Triệu Bính làm Hữu Dực, còn mình lãnh đạo trung quân, đang lúc hoàng hôn cuốn cờ giấu trống người ngậm thẻ, ngựa cất lạc, kéo đi, đợi nghe tiếng súng lệnh thì ba mặt áp vào cướp trại địch.

Còn Sùng Hầu Hổ ỷ mạnh, đem quân chinh phạt xứ xa, chẳng ngờ mới ra trận đầu đã hao binh tổn tướng, lòng hổ thẹn, dẫn một số tàn quân đóng trại nghỉ ngơi, suốt đêm ngồi than thở với các tướng:

– Từ trước đến nay ta chinh chiến đã nhiều, chưa thua trận nào nhục như trận này, đã mất một tướng, lại hao binh quá sức, nay liệu làm sao?

Ðại tướng Huỳnh Nguyên Tuế thưa:

– Binh gia thắng bại là chuyện thường, Chúa công chớ lấy thế mà buồn rầu. Tôi dám chắc binh của Tây Bá Hầu nay mai sẽ kéo đến đây, chừng ấy chúng ta hợp binh hai mặt đánh một trận trả thù, lấy Ký Châu rất dễ.

Sùng Hầu Hổ bày tiệc ăn uống giải khuây, rồi vào trướng an nghỉ.

Tô Hộ kéo binh tới, cho quân thám thính dọ xét địch tình, thấy trong dinh quân sĩ đều mỏi mệt ngủ say hết, liền ra lệnh đốt ba tiếng pháo, ba ngả binh xông vào một lượt đánh giết tưng bừng.

Quân Sùng Hầu Hổ loạn lên, đạp nhau mà chạy, người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp gác yên, túa ra các cửa trại bị giáo đâm, gươm chém, chết thôi vô số.

Tô Hộ cầm thương cỡi ngựa đi lộn trong quân tìm Sùng Hầu Hổ. Còn Sùng Hầu Hổ lúc ấy đang ngủ say, nghe quân la ó vội ngồi dậy, mang giáp cầm đao, vừa lên ngựa ra khỏi cửa trại đã gặp Tô Hộ lướt tới mắng lớn:

– Hầu Hổ! Ngươi chạy đi đâu? Mau xuống ngựa chịu trói cho rồi.

Dứt lời đâm liền một giáo. Hầu Hổ thất kinh đưa đao ra đỡ, thời may có Sùng Ứng Bưu, Kim Quỳnh và Huỳnh Nguyên Tuế tiếp đến bảo vệ. Bên Tô Hộ cũng có Triệu Bình, Trần Qui Trinh vừa dùa binh đánh đến nơi, trông thấy liền chận ba tướng của Sùng Hầu Hổ lại giáp chiến.

Các tướng đánh nhầu với nhau một lúc, Kim Quỳnh bị Triệu Bình chém đầu. Sùng Hầu Hổ thất kinh không dám cự với Tô Hộ nữa, vừa đánh vừa chạy, nhờ có con là Sùng Ứng Bưu ra sức bảo vệ mới khỏi chết.

Tuy vậy thân xác Hầu Hổ chẳng khác chó nhà hoang, cá lọt lưới chạy thôi giáp mão tơi bời. Thương hại mấy vạn binh của Hầu Hổ chết như rạ, máu chảy thành sông, thây phơi như núi.

Tô Hộ đuổi theo được mười dậm rồi thu binh trở lại. Cha con Hầu Hổ chạy mãi không dám dừng chân. Tiếp đó có Huỳnh Nguyên Tuế và Tôn Tử Võ kéo một mớ tàn quân chạy theo kịp, Cha con Hầu Hổ mới vững bụng thu góp tàn binh, kiểm điểm lại thấy mười phần hao hết phân nửa.

Hầu Hổ than:

– Ta cầm binh tự bấy lâu nay chưa thua trận nào như vậy. Bởi ta khinh Ký Châu là tiểu trấn, không phòng bị nên mới lầm mưu địch. Còn Tây Bá Hầu Cơ Xương thì chắc là không tuân lệnh thiên tử, ngồi ở nhà xem thắng bại thôi. Thật là nhục! Thù này biết bao giờ mới nguôi được?

Sùng Ứng Bưu thưa:

– Quân ta mới thua, uy thế đã nhục lắm rồi. Chi bằng cứ tạm đồn binh nơi đây rồi cho người sang thôi thúc Tây Bá Hầu xem người có ý định như thế nào rồi sẽ tính.

Hầu Hổ nói:

– Con nói như vậy cũng phải. Thôi, cứ để trời sáng sẽ cho người đến Tây Bá Hầu đôn đốc.

Cha con đang đàm luận, bổng nghe tiếng quân ó vang trời, xa xa có một tướng nhỏ, đội mão vàng, giắt hai chiếc lông trĩ, mặc giáp đỏ, cỡi ngựa kim, tay cầm cây kích, mặt tròn tự trăng rằm, môi đỏ như son, bay ngựa tới nạt lớn:

– Sùng Hầu Hổ, ta vâng lệnh phụ thân ta mai phục nơi đây đợi ngươi đã lâu lắm, ngươi không không xuống ngựa bó tay còn đợi đến chừng nào nữa?

Sùng Hầu hổ thấy viên tiểu tướng ấy là Tô Toàn Trung, nổi giận mắng lớn:

– Cha con bay làm phản, Nghịch mạng triều đình, tội chết tày non, dẫu có bầm thây chúng bây đến tan nát cũng chưa đền tội. Ta vô ý nên mắc mưu, chưa phải thắng một trận mà nên công được, chúng bây chớ có vô lễ đón đường chận ngõ, ta e nay mai binh triều kéo đến đây, cha con bây dầu có cánh lên trời cũng chẳng kịp.

Tô Toàn Trung cười ngất:

– Thôi thôi, chớ nhiều lời vô ích, hãy nói chuyện với cây kích của ta đây.

Vừa nói, Toàn Trung vừa vung kích đâm tới. Bên kia Huỳnh Nguyên Tuế lướt ngựa tới cản mũi kích Toàn Trung lại bảo vệ Sùng Hầu Hổ.

Hai tướng đánh nhau chừng vài hiệp, Tôn Tử Võ giục ngựa ra múa chỉa ba đánh giúp với Huỳnh Nguyên Tuế, quyết hạ cho kỳ được Tô Toàn trung. Ai ngờ Tô Toàn trung võ nghệ siêu quần, một mình chấp hai tướng, đánh vùi như mưa Bấc. Ðánh chừng hai chục hiệp, Toàn Trung ra miệng hét lên một tiếng, đâm Tôn Tử Võ một kích nhào xuống ngựa. Huỳnh Nguyên Tuế cả giận, vung thương đâm chém rất dữ, nhưng Toàn Trung không thèm đánh với Huỳnh Nguyên Tuế, lướt ngựa tới đâm Sùng Hầu Hổ.

Sùng Hầu Hổ sợ hãi lui ngựa ra sau. Sùng Ứng Bưu vội lướt tới đỡ cây kích của Toàn Trung rồi hiệp lực với Huỳnh Nguyên Tuế cự chiến. Toàn Trung lúc này đánh với ba tướng, nhưng càng đánh càng hăng, không biết mệt, múa kích như mưa bay gió táp.

Ðánh được một lúc, Sùng Hầu Hổ bị Toàn Trung chém toẹt một đường đứt nửa áo giáp. Hầu Hổ mất vía quất ngựa chạy dài. Ứng Bưu lúng túng bị Toàn Trung đâm một kích nhắm cánh tay, gần nhào xuống ngựa, may nhờ có Huỳnh Nguyên Tuế bảo vệ mới chạy khỏi.

Tô Toàn Trung đắc thắng, rượt đám tàn quân của Sùng Hầu Hổ chém giết một hồi, thấy trời còn khuya chẳng dám đuổi theo, vội thâu binh về.

Khi Toàn Trung về đến chân thành, trời mới rựng sáng, vội kêu quân mở cửa vào ra mắt Tô Hộ thưa:

– Con vâng lệnh thân phụ mai phục tại Ngủ Cang, đến nữa đêm địch quân chạy đến đó, một mình con chém đứt vạt giáp của Sùng Hầu Hổ, đâm chết Tôn Tử Võ và đánh Sùng Ứng Bưu gần sa xuống ngựa, vì trời tối, sợ có điều gì sơ xuất con không dám đuổi theo, xin phụ thân miễn tội.

Tô Hộ nói:

– Con đã làm chúng nó khiếp vía rồi, như thế cũng đủ, khỏi cần truy kích nữa.

Hồi 3: Xem thơ Tây Bá hầu, Tô Hộ dâng Đát Kỷ

Cha con Sùng Hầu Hổ bị thương chạy riết cho đến sáng mới dám dừng lại, kiểm điểm binh mã thấy trong đám tàn quân người nào cũng bị lỗ đầu chảy máu, người thì rách áo cụt tay, không một tên quân nào còn nguyên vẹn.

Binh tướng một đoàn trở thành vô dụng. Nhìn thảm trạng ấy Hầu Hổ thấy lòng đau đớn vô cùng, ngồi than thở mãi.

Huỳnh Nguyên Tuế nói:

– Chúa công hơi đâu than thở? Việc binh thắng bại là thường. Bởi ta sơ ý nên nhằm mưu địch. Vậy Chúa công dừng binh nơi đây, viết thơ thôi thúc Tây Bá Hầu đem binh đến rửa hận. Ký Châu chẳng qua chỉ là một trấn nhỏ, dẫu hùng mạnh đến đâu cũng không chống nỗi binh của thiên triều.

Sùng Hầu Hổ nói lảm nhảm:

– Tây Bá Hầu Cơ Xương không tuân mệnh thiên tử, không chịu đem binh tiếp ứng, ấy là tội khi quân và làm nhục ta. Ta căm hận lắm. Nếu nay ta thôi thúc nó đem binh đến phạt Ký Châu chẳng khác nào ta cứu vớt tội khi quân của nó, và thể diện ta cũng tổn thương.

Mặt Sùng Hầu Hổ lúc đỏ lúc tái, lòng lúng túng chưa biết tính kế gì, thì bổng xa xa có một đoàn quân người ngựa kéo đến đông nghẹt. Hầu Hổ thất kinh vội cầm thương lên ngựa, toan tìm đường chạy.

Nhưng may thay đạo quân này không phải là quân của Ký Châu Hầu Tô Hộ. Cầm đầu là một tướng mặt đen như lọ, râu đỏ như râu tôm, chân mày bạc, con mắt ốc, đầu đội mão da thú, mình mặc giáp liên hoàn, lưng mang đai ngọc, cỡi một con thú mắt lừa tròng vàng, hai tay cầm cặp búa đồng.

Sùng Hầu Hổ thấy tướng ấy thì mừng rỡ reo to:

– A, không phải địch quân. Chính em của ta đem binh đến giúp đỡ.

Thật vậy, tướng ấy là Sùng Hắc Hổ, em ruột của Hầu Hổ, làm Chúa Tào Châu. Các tướng sĩ đều xuống ngựa làm lễ.

Hắc Hổ nói với Hầu Hổ:

– Em nghe anh thất cơ nên đem binh đến giúp, không ngờ lại gặp nhau đây, thật may lắm.

Hầu Hổ thở dài:

– Ngu huynh sơ ý lầm mưu tên phản loạn, bây giờ binh tướng lớp chết, lớp bị thương, còn đánh ai được nữa?

Sùng Hắc Hổ nói:

– Hiền huynh chớ lo. Một mình đạo binh của em đây cũng đủ sức tiêu diệt Ký Châu rồi. Vậy hiền huynh ra lệnh đồng hiệp binh trở lại thành Ký Châu rồi sẽ liệu.

Sùng Hầu Hổ ra lệnh kéo binh trở lại. Hắc Hổ có ba ngàn phi mã nên xông pha đi trước, còn binh mã hai vạn bổ xung vào đội tàn quân của Hầu Hổ kéo theo sau.

Quân thám thính về báo cho Tô Hộ hay:

– Nay có binh của Sùng Hắc Hổ ở Tào Châu kéo đến vây thành.

Tô Hộ nghe nói ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ một lúc lâu, rồi than thầm:

– Sùng Hắc Hổ võ nghệ cao cường, lại có phép tiên, nội thành không tướng nào cự lại. Nay nó kéo binh đến đây biết liệu làm sao?

Hai bên tướng sĩ đều lo lắng. Tô Toàn Trung bước ra thưa:

– Hễ binh đến thì tướng ngăn, nước tràn vào thì lấy đật chận. Một mình Hắc Hổ làm gì nên việc mà phụ thân sợ sệt như vậy?

Tô Hộ thấy con mình nông nỗi nạt lớn:

– Ngươi là đứa hậu sanh, chưa từng trải việc đời, biết gì mà nói. Ngươi tưởng ngươi anh hùng lắm sao? Hắc Hổ là người có học phép tiên, lấy đầu tướng giặc giữa vòng binh như lấy đồ trong túi. Ngươi chớ có khoe khoang mà uổng mạng.

Toàn Trung nói:

– Phụ thân khiếp sợ tài năng của chúng mà quên uy thế của quân ta. Con ra binh trận này, nếu không bắt được Sùng Hắc Hổ quyết không về đây thấy mặt phụ thân nữa.

Tô Hộ nói:

– Thằng phách lối. Ta cho mày ra trận một chuyến cho biết khôn.

Toàn Trung vội nhảy lên ngựa, kéo ba ngàn quân ra trận, kêu lớn:

– Chúng bay vào gọi Sùng Hắc Hổ ra đây cho mau.

Quân trở vào báo với Hắc Hổ:

– Có Tô Toàn Trung mời Chúa công ra nói chuyện.

Hắc Hổ nghĩ thầm:

– Mình kéo quân đến đây không phải để so tài cao thấp mà để gỡ rối việc này. Anh mình nóng nảy, đem quân đánh Tô Hộ là điều thất sách. Nếu có Tô Toàn Trung ra trận thì ta dùng lời phải trái gọi Tô Hộ ra phân giải ắt xong, cởi mở hận thù giữa anh ta với Tô Hộ rất tiện.

Hắc Hổ nghĩ rồi lên ngựa ra trước trại, thấy Toàn Trung đang múa kích mặt giận hầm hầm, thì nói lớn:

– Toàn Trung! Cháu trở về mời phụ thân của cháu ra đây cho chú nói chuyện đã.

Tô Toàn Trung còn nhỏ, chưa hiểu việc đời, lại nghe cha mình khen tài Hắc Hổ là anh hùng, nên không phục, quyết một trận đua tranh, liền lướt ngựa tới mắng lớn:

– Sùng Hắc Hổ, ngươi với ta là thù địch, còn nói chuyện tình nghĩa làm gì? Hãy lui quân về Tào Châu thì giữ được tánh mạng, bằng ở đây giao tranh ắt mất đầu.

Hắc Hổ nổi giận gầm lên một tiếng;

– Thằng súc sanh, vô lễ!

Toàn Trung múa kích chém liền. Hắc Hổ đưa cặp búa đồng ra đỡ.

Hắc Hổ có tiếng là tay võ nghệ cao cường, lúc nhỏ lại có học được phép tiên về phái Triệt Giáo, bởi vậy lúc ra trận có mang bầu phép sau lưng, biến hóa nhiều lối lạ. Toàn Trung không rõ việc ấy, cậy mình có tài sức, múa kích như bay, quyết bắt sống cho được Hắc Hổ làm nổi tiếng anh hùng với thiên hạ chơi.

Toàn Trung đánh với Hắc Hổ năm mươi hiệp, tài múa kích của Toàn Trung quả vô địch, Hắc Hổ cầm búa đồng đỡ gạt đến toát mồ hôi, hơi thở khò khè, còn Toàn Trung vẫn hăng say không biết mệt.

Thấy vậy Hắc Hổ cũng phải khen thầm:

– Tô Hộ có thằng con xứng đáng quá. Cọp cha sanh cọp con là phải.

Nói rồi quày ngựa bỏ chạy. Toàn Trung ngỡ Hắc Hổ cự không lại, cười ngất nói:

– Nếu mình nghe lời cha mình thì mình đã lầm tên tướng dở này rồi! Có thế mà cũng khoe là dũng tướng. Dù mầy là Hắc hay Bạch Hổ mặc kệ, ta quyết bắt sống đem về lột da để thiên hạ biết danh ta.

Nói rồi giục ngựa đuổi theo rất gấp. Hắc Hổ nghe phía sau tiếng lạc ngựa của Toàn Trung đã đến gần, liền mở nút hồ lô niệm chú lâm râm, tức thì trong hồ lô bay ra một làn khói trắng tua tủa. Trong làn khói trắng ấy hiện ra một con chim ó mỏ sắt, kêu chí choé, bay đến mổ vào mắt Toàn Trung. Toàn Trung thất kinh cầm kích xoay tròn, không cho chim ó mổ mắt mình. Chim ó không xông vào được, liền mổ vào mắt ngựa. Con ngựa đau quá ré lên một tiếng nhãy lồng lên ném Toàn Trung xuống đất.

Hắc Hổ nhảy xuống ngựa, đè Toàn Trung hối quân trói lại dẫn về dinh.

Sùng Hầu Hổ nghe tin thắng trận, vội ra ngoài nghênh tiếp, Hắc Hổ nói:

– Em mới ra quân đã bắt được viên tiểu tướng đem về đó.

Hầu Hổ thấy Toàn Trung, nghiến răng trợn mắt nói:

– Ðêm vừa rồi, ngươi đón đường đánh quân ta tại Ngủ Cang, ngươi anh hùng thật. Nay sao lại chịu trói, không tỏ tài anh hùng tao xem thử?

Toàn Trung đứng trợn mắt nhìn Hầu Hổ nói:

– Chúng bay dùng tà thuật bắt ta đâu gọi là anh hùng. Ta tiếc không cầm quân được lâu để bắt chúng bay nhai xương cho đả giận.

Hầu Hổ sỉ sỏ:

– Nay ngươi đã bị bắt, ngươi còn dám vô lễ sao? Cha con ngươi tội đáng tru lục, giờ đây ta chém ngươi trước đã.

Nói rồi liền hô võ sĩ dẫn Toàn Trung ra ngoài xử tử.

Hắc Hổ can:

– Hiền huynh bớt giận. Tội cha con Toàn Trung đáng chết, song cha con nó làm phản triều đình, hiền huynh được ủy thác đến đây vấn tội. Vậy bắt được tội phạm, hiền huynh phải giải về Triều Ca cho thiên tử hành hình, nếu hiền huynh tự tiện giết đi, sau này không khỏi tiếng khi quân. Vả lại, con gái Tô Hộ là Ðắc Kỷ đang được thiên tử mơ ước, nếu sau này Ðắc Kỷ được gần gủi thiên tử, xin tha tội cho Tô Hộ, và Tô Hộ lên hàng Quốc thích, quyền hành trong tay, muốn trả thù hiền huynh là chuyện rất dễ. Chúng ta dại gì chuốc lấy oán cừu, mà không có lợi gì cho chúng ta cả?

Sùng Hầu Hổ nghe nói như sáng con mắt lên:

– Hiền đệ định xử trí việc này ra sao?

Sùng Hắc Hổ nói:

– Cứ giam Toàn Trung lại, chờ bắt được Tô Hộ rồi sẽ giải về triều đình cho Thiên Tử xét xử. Chúng ta chỉ tuân lệnh Thánh hoàng thôi không chuốc lấy ân oán làm gì?

Sùng Hầu hổ hậm hực:

– Hiền đệ nói cũng phải. Song chúng nó làm nhục anh mấy lần nơi trận chiến, nếu không trả được thù hận ấy, anh không thể vui được.

Nói rồi truyền đem giam Toàn Trung đợi giải về Triều Ca và truyền dọn tiệc ăn mừng thắng trận.

Bên kia quân sĩ theo Toàn Trung ra trận, thấy Toàn Trung bị bắt vội vã chạy về báo với Tô Hộ:

– Công tử ra binh, rượt Sùng Hắc Hổ chạy một lúc, bị hắn dùng pháp thuật bắt sống rồi.

Tô Hộ nói:

– Ta đã biết trước rồi, thế nào nó cũng không toàn mạng được. Bởi nó ỷ tài, không nghe lời ta nên mới bị bắt đó.

Nét mặt Tô Hộ dàu dàu. Các tướng xúm lại khuyên giải, và xin ra trận để báo thù cho Toàn Trung. Tô Hộ nói:

– Không được đâu! Hắc Hổ là trang dũng tướng, lại có tà thuật hại người. Các ngươi ra đó chẳng khác gì đem trứng chọi đá. Làm một việc biết chắc không thành công thì không nên làm.

Các tướng thưa:

– Dù sao cũng đem hết sức mình chống giặc đã! Chúa công nói như vậy chẳng lẽ chịu đem Ký Châu này giao cho địch sao?

Tô Hộ thở dài:

– Việc này do ta gây nên. Nay đã lỡ, ta không muốn các ngươi là những kẻ vô tội phải gánh chịu tai ương.

Nói rồi Tô Hộ cấm các tướng không cho ra quân, chỉ truyền kiên thủ thành trì chờ lệnh.

Ðêm ấy Tô Hộ ngồi một mình trước long án, ôm đầu suy nghĩ:

– Ðem thân tùng phục một kẻ vô đạo là kẻ bất trí, ta không thể làm được. Còn chống lại kẻ vô đạo trong lúc cô thế, làm thiệt hại sinh mạng binh tướng ta không bằng lòng. Ôi, chỉ tại ta sanh con Ðắc Kỷ có chút ít nhan sắc, khiến cho hôn quân nghe lời bọn nịnh thần mới sanh chuyện rắc rối như vậy. Bây giờ thế đã cùng, thà ta chịu hy sinh cả gia quyến còn hơn để chúng bắt đem về Triều Ca thêm nhục.

Tô Hộ định giết hết vợ con rồi tự vận cho xong. Vì vậy vào khoảng canh hai đêm ấy, Tô Hộ cầm gươm thẳng đến hậu dinh.

Lúc này Ðắc Kỷ vẫn chưa ngủ, thấy cha mình cầm gươm vào phòng trong lúc đêm khuya, khép nép thưa:

– Thưa phụ thân, đêm khuya rồi sao phụ thân không an nghỉ, lại xách kiếm vào hậu cung?

Nét mặt vô tư và kiều diễm của Ðắc Kỷ làm cho Tô Hộ động lòng. Dù Tô Hộ bực tức đến đâu cũng không thể làm cái chuyện hùm dữ ăn thịt con, huống chi Ðắc Kỷ ngây thơ đẹp đẽ như vậy. Tô Hộ nỡ nào giết con cho đành. Hai hàng nước mắt Tô Hộ rưng rưng chảy. Lần đầu tiên, nước mắt kẻ khẳng khái như Tô Hộ hoen ố trước cảnh đau lòng.

Tô Hộ nói:

– Cha cũng vì sanh con ra mà mang họa đó.

Ðắc Kỷ hỏi:

– Mấy hôm nay con có nghe triều đình đem binh đến vấn tội cha nhưng chẳng rõ cha đã phạm tội gì với thiên tử?

Tô Hộ bùi ngùi:

– Khí số nhà Thương đã hết, khiến Trụ Vương không lo sửa mình gìn giữ sự nghiệp, nghe lời nịnh thần đam mê sắc dục. Vừa rồi cha vào Triều Ca chầu, hôn quân buộc cha tiến dâng ái nữ, cha không tuân lệnh, nên hôn quân khiến chư hầu kéo quân tới đánh Ký Châu ta. Anh con đã bị bắt, trong thành không ai đủ sức chống lại Sùng Hắc Hổ. Sớm tối cả thành đều bị bắt. Cha tính thà liều mình trước còn hơn để chúng bắt mang nhục.

Ðắc Kỷ thưa:

– Chỉ vì con mà cả nước mang khốn như vầy. Thôi để con liều mình cứu nước vậy.

Tô Hộ nói:

– Chết một mình con không cứu được gia đình và tướng sĩ đâu. Chỉ trừ việc con bằng lòng vào triều để thỏa mãn tính dục của hôn quân mà thôi.

Ðắc Kỷ nói:

– Như vậy xin cha cứ tiến dâng con vào triều cũng được. Thân con đâu kể gì, miễn thân phụ khỏi tội, nước nhà được bình yên.

Tô Hộ nói:

– Hôn quân vô đạo, sớm tối cơ nghiệp không còn. Nếu đưa con vào đó không khỏi sau này mang tiếng với thiên hạ.

Cha con Tô Hộ vừa nói đến đây thì bên ngoài có tiếng trống báo nguy. Tô Hộ vội xách kiếm ra khỏi hậu cung, đã thấy quân giữ cửa hối hả chạy vào báo:

– Sùng Hắc Hổ công thành rất gấp.

Tô Hộ truyền lệnh các tướng giử chặc bốn cửa thành, dùng cây đá, tên bắn và nước sôi dội xuống không cho địch quân hãm thành.

Các tướng tuân lệnh quan phòng rất gắt. Bên ngoài Sùng Hắc Hổ cũng không có ý hãm thành, chỉ muốn cho mời Tô Hộ ra để đàm luận thôi, nhưng không thấy Tô Hộ ra buộc lòng phải truyền quân công phá. Khi thấy trên thành kháng cự, Hắc Hổ liền thu quân về trại.

Sùng Hầu Hổ thấy em mình không công thành, lại kéo binh về liền vào trướng hỏi thăm:

– Sao hiền đệ không bắt thang lên đoạt thành?

Hắc Hổ nói:

– Trong thành dự trữ tên đạn khá nhiều, nếu đoạt thành sẽ hao binh không ít. Tôi xem thành Ký Châu lương thảo không bao nhiêu, nếu cố thủ cũng chỉ trong vòng một tháng là cùng. Chúng ta cứ đóng quân nơi đây, đợi quân của Tây Bá Hầu tới sẽ tính kế, Còn Tây Bá Hầu không đến, thành Ký Châu một thời gian nữa cũng sẽ thất thủ, không cần phải đánh.

Sùng Hầu Hổ nghe nói cũng an tâm, truyền mở tiệc khao thưởng quân sĩ. Trong lúc đó Tô Hộ không biết tính lẽ nào, phần nóng lòng vì con mình là Tô Toàn Trung bị bắt, sống chết chưa được tin.

Trong lúc lo lắng thì có Trịnh Luân đi giải lương về.

Tô Hộ than:

– Tuy có thêm lương thực nhưng cũng chẳng ăn thua gì, vì thành Ký Châu này nếu không giải vây được, sớm tối quân sĩ phải chết đói hết.

Trịnh Luân vào chầu, hỏi thăm tin tức:

– Tôi nghe Chúa công phản Thương, Hầu Hổ đem binh vấn tội, tôi lo lắng bôn ba về đây. Chẳng hay Chúa công thắng bại như thế nào?

Tô Hộ buồn bã nói:

– Ta vì không phục hôn quân nên hành động như vậy. Nay Hầu Hổ tuân lệnh hôn quân đến đây vấn tội. Ký Châu ta nhỏ bé, cự sao lại binh triều. Ta tính sai sứ sang các nước chư hầu dọ xét ý tình để liên minh chống cự, như thế mới lâu dài được. Ngặc vì Toàn Trung bị Hắc Hổ bắt giử, chưa biết sai ai đi làm công chuyện ấy.

Trịnh Luân nói:

– Hầu Hổ chẳng qua là đứa bất trí, chúa công sợ gì nó? Còn các trấn chư hầu nếu nghe lời hôn quân cùng đến đây một lúc, tôi thiết tưởng chưa chắc đã lấy được Ký Châu một cách dễ dàng. Ý kiến liên minh các chư hầu để chống lại nhà Thương thì cũng phải biểu dương lực lượng chúng ta đã.

Tô Hộ nói:

– Trước kia các tướng cũng đã bàn đến kế sách ấy. Hai trận đầu ta ra binh, đánh Sùng Hầu Hổ không còn manh giáp, sau đó có Sùng Hắc Hổ đem binh đến trợ lực. Hắc Hổ học phép tiên, tài năng vô địch, trong thành không ai dám đương cự, Toàn Trung cũng vừa bị bắt sống.

Trịnh Luân nói:

– Sá gì một Hắc Hổ mà sợ? Tôi từ lâu nay đã được Chúa công hậu đãi ơn ấy chưa đền. Nay nguyện ra binh bắt Hắc Hổ, cứu công tử cho.

Tô Hộ ngạc nhiên nhìn các tướng, nói:

– Hắc Hổ có phép thuật cao cường, nội thành không ai dám ra đánh. Tướng quân có tài gì mà nói như vậy?

Trịnh Luân rút gươm giơ lên trời nói lớn:

– Nếu tôi ra trận mà không bắt được Hắc Hổ xin dâng đầu cho Chúa công để trừng trị những kẻ phách lối.

Nói rồi nhảy lên con thú mắt đỏ tròng vàng, xách cặp thiết tiên, đốt ba tiếng pháo khai thành, dẫn ba ngàn quân ra trước trại địch, gọi lớn:

– Sùng Hắc Hổ? Hãy ra cho ta bảo đây.

Quân vào báo:

– Có một tướng bên Ký Châu dẫn binh đến khiêu chiến.

Sùng Hắc Hổ đang ngồi nghị luận, nghe quân báo liền đứng dậy nói:

– Hiền huynh để em ra trận xem tướng nào dám vô lễ như vậy?

Nói rồi dẫn ba ngàn quân ra khỏi trại, thấy một tướng mắt như tròng táo, râu như rễ tre, đội mão đỏ, mặc giáp vàng, thắt đai ngọc, cũng cỡi thú như mình, liền lướt tới hỏi:

– Tướng nào đó? Tên họ là gì?

Trịnh Luân nói:

– Ta làm chức Ðốc Lương, tên Trịnh Luân đây. Có phải tên ngươi là Hắc Hổ, đã bắt sống con trai chủ tướng ta chăng? Nếu biết điều hãy mau trả lại, còn cưỡng mệnh thân xác ngươi sẽ tan như bột.

Hắc Hổ nổi giận mắng:

– Thằng khốn! Ðừng phách lối! Chủ mày là Tô Hộ nghịch mạng thiên triều, tội ấy đáng phanh thây. Mày là tôi thần của nó thì cũng liên can, sao chưa chịu quy hàng để bảo tồn tánh mạng, còn dám ra đây múa miệng?

Nói rồi Hắc Hổ giục thú tới, vung búa chém, Trịnh Luân đưa thiết tiên ra đỡ. Hai tướng đánh nhau được hai mươi hiệp chưa phân thắng bại. Trịnh Luân thấy Hắc Hổ có đeo hồ lô sau lưng biết là bầu phép, thầm nghĩ:

– Ðánh người phải ra tay trước mới được. Trước kia mình có học phép hớp hồn của ông Ðộ Ách Chơn Nhơn. Nay dùng phép ấy bắt Hắc Hổ đem về nạp cho Chúa công, để Chúa công khỏi khinh ta là vô dụng.

Nghĩ rồi, Trịnh Luân cầm thiết tiên ngoắt ra sau lưng một cái, ba ngàn binh kéo đến như một con rắn dài, người thì cầm câu móc, kẻ cầm dây xiềng, coi như một đoàn quân chuyên việc trói người.

Hắc Hổ lấy làm lạ, nghe trong lỗ mũi của Trịnh Luân có tiếng như chuông ngân, rồi hai đạo hào quang trắng toát bay ra. Hắc Hổ tối tăm mày mặt, nhào xuống đất, hai chân dãy lia lịa. Trịnh Luân truyền quân bắt Hắc Hổ trói lại. Chỉ chốc lát, Hắc Hổ tỉnh hồn coi lại thấy mình mẩy bị trói gò như một con heo sắp được chọc tiết, thất kinh nghĩ thầm:

– Thằng này có phép thuật gì kỳ lạ, bắt mình không hay biết gì hết?

Trịnh Luân gióng kiểng thu quân, dẫn Hắc Hổ vào thành.

Lúc này Tô Hộ đang ngồi trong trướng lo cho số mạng Trịnh Luân không thoát khỏi tay tà thuật của Hắc Hổ.

Bổng có quân vào báo:

– Trịnh tướng quân đã bắt được Hắc Hổ đem về, còn đứng ngoài chờ lệnh.

Tô Hộ ngạc nhiên, không rõ Trịnh Luân làm thế nào bắt được Hắc Hổ, liền đòi vào khen thưởng, và hỏi:

– Hắc Hổ là một dõng tướng, lại học được nhiều phép tiên, tướng quân làm thế nào bắt được nó?

Trịnh Luân kể lại lúc nhỏ mình có học được phép mầu do tiên gia chỉ giáo, và kể lại trận đánh với Hắc Hổ vừa rồi cho Tô Hộ nghe. Tô Hộ mừng rỡ truyền dẫn Hắc Hổ vào bệ kiến.

Quân dẫn Hắc Hổ đến. Tô Hộ liền bước xuống mở trói cho Hắc Hổ, đoạn quỳ trước mặt Hắc Hổ nói:

– Tôi cam thọ tội với thiên tử, không lấy gì đền được. Trịnh Luân không biết nên xúc phạm oai trời, xin hiền đệ rộng dung.

Hắc Hổ thấy Tô Hộ đối đãi với mình như vậy, vội xụp xuống, nói:

– Trước đây anh em ta kết nghĩa, lòng hẳn chẳng quên. Nay ngu đệ đem binh đến đây chỉ cốt gỡ rối mối thù giữa hiền huynh và Sùng ca ca tôi, chớ đâu có ý chinh phạt. Hôm trước, cháu tuổi nhỏ, cậy sức anh hùng, không chịu mời hiền huynh ra cho tiểu đệ nói chuyện, cố ý giao phong nên tiểu đệ phải bắt về cầm tạm để tiện bề đàm đạo với hiền huynh.

Tô Hộ nói:

– Nếu hiền hầu không quên nghĩa cũ, trọn tình như vậy còn gì quý hơn.

Dứt lời Tô Hộ gọi các tướng lãnh của mình ra mắt Hắc Hổ.

Hắc Hổ thấy Trịnh Luân liền kính cẩn nói:

– Trịnh tướng quân tài phép hơn tôi nhiều. Tôi phục Trịnh tướng quân trọn đời.

Bầu không khí rất hòa nhã. Tô Hộ nhường Hắc Hổ ngồi trên, hối quân đem rượu ra cùng uống.

Ấy mới là:

Ngàn chung tri kỷ, rượu còn ít

Nửa tiếng trái tai, lời quá nhiều

Bấy giờ quân của Sùng Hắc Hổ chạy về báo tin cho Sùng Hầu Hổ hay. Hầu Hổ thất kinh nói:

– Em ta phép thuật cao cường vì cớ gì mà bị bắt?

Quân sĩ thưa:

– Trong lúc đang giao chiến, chúng tôi thấy hai đạo hào quang trắng xóa từ trong lỗ mũi Trịnh tướng quân bay ra, tức thì đệ nhị chủ tướng bị sa xuống ngựa và bị quân sĩ Ký Châu bắt trói giải về thành.

Hầu Hổ nghe nói thất kinh, nghĩ thầm:

– Ôi chao, trong đời lại có phép lạ như vậy sao? Nếu Tô Hộ đã có người tài như vậy giúp sức thì binh ta cự sao lại?

Tiếp đó, Sùng Hầu Hổ cho người đi dọ thám tin tức Tây Bá Hầu.

Xảy có quân vào báo:

– Tây Bá Hầu sai sứ giả đến ngoài trại, xin vào ra mắt.

Hầu Hổ trong bụng không vui, nhưng cũng phải mời vào hội kiến.

Sứ thần của Tây Bá Hầu mặc đồ trắng, lưng thắt đai xanh, bước vào thi lễ và nói:

– Tôi là Táng Nghi Sanh, vâng lệnh Tây Bá Hầu đến ra mắt hiền hầu.

Hầu Hổ nóng lòng hỏi:

– Chúa ngươi không tuân lệnh thiên tử, chẳng chịu động binh, nay sai ngươi đến đây một mình để làm gì?

Táng Nghi Sanh thưa:

– Chúa công tôi cho việc binh đao là việc dư, bất đắt dĩ mới phải dùng đến. Nay Chúa công tôi sai đem đến cho Tô hầu một phong thơ, lấy lời hơn lẻ thiệt khuyên Tô hầu dâng con chuộc tội. Nếu Tô hầu nghe theo thì dân chúng khỏi nạn binh đao, quân sĩ khỏi lo chết chóc. Còn Tô hầu cứ khăng khăng một mực, chừng ấy sẽ đem binh vấn tội cũng chẳng muộn.

Sùng Hầu Hổ nghe nói cười lớn:

– Ta đem quân đến vây thành Ký Châu, giao phong mấy trận thế mà Tô Hộ vẫn cứng đầu ra binh đối địch, không kể mạng lệnh thiên tử nữa. Nay chúa ngươi chỉ sai ngươi đem đến một phong thơ, làm sao Tô Hộ chịu dâng con mà chuộc tội? Ðó là Tây Bá Hầu đã trái mạng thiên tử, nên mới tìm cách gỡ gạc tội lỗi mà thôi. Ngươi cứ đem thư sang đó xem Tô Hộ có chịu đầu hàng không cho biết.

Táng Nghi Sanh nói:

– Chúa công tôi cho lẽ phải có sức mạnh hơn là gươm giáo.

Sùng Hầu Hổ hiu hiu tự đắc:

– Thì ngươi cứ đem thư đưa cho Tô Hộ rồi sẽ rõ.

Táng Nghi Sanh từ giã Hầu Hổ thẳng đến thành Ký Châu, kêu quân canh bảo vào báo tin.

Lúc đó Tô Hộ đang ăn uống với Hắc Hổ, bổng có quân vào báo:

– Tây Bá Hầu sai người đến trao thơ.

Tô Hộ nói:

– Tây Bá Hầu là người hiền đức, ta không nên đối xử vô lễ.

Nói rồi truyền quân khai thành tiếp sứ. Táng Nghi Sanh bước vào thủ lễ, Tô Hộ hỏi:

– Quan Ðại Phu từ Tây Kỳ đến đây có việc gì chỉ giáo chăng?

Táng Nghi Sanh cung kính đáp:

– Trước đây hiền hầu có làm thơ bất phục thiên tử, nhà vua giận sai Chúa tôi đem binh chinh phạt. Nhưng Chúa tôi biết hiền hầu là người ngay thẳng, tánh khí cương trực, nên không dám ra quân, sai tôi đây dâng hiền hầu một bức tâm thư, xin hiền hầu khai phán.

Dứt lời, lấy phong thư dâng lên Tô Hộ.

Tô Hộ thấy trong thư viết như sau:

“Tây Bá Hầu Cơ Xương cúi lạy dưới trướng Ký Châu Hầu. Tôi nghe nói: Người trong một nước đều là tôi của vua. Vua ra lệnh, tôi không dám trái. Nay hiền hầu có một gái đẹp và hiền đức, Thiên tử muốn chọn vào cung, đó cũng là việc phải xưa nay, sao hiền hầu đã nghịch mệnh vua lại đề phản thi trước ngọ môn nữa. Tội đó không thể châm chước được.

Hiền hầu chỉ biết thương con mà quên nghĩa vua tôi. Hiền hầu là kẻ trung nghĩa xưa nay, tôi không nỡ ngồi nhìn thảm họa đất Ký Châu nên tạm gởi vài lời, khuyên hiền hầu đổi họa làm phước.

Nếu hiền hầu dâng con vào đền sẽ hưởng ba điều lợi:

Thứ nhất, con làm hậu phi được vua yêu dấu, cha làm Quốc trượng uy thế lẫy lừng, ăn lộc ngàn chung, vang danh bốn bể.

Thứ nhì, cõi Ký Châu gia quyến an toàn, tướng sĩ không hề bị khổ sở về binh đao.

Thứ ba, nhân dân Ký Châu không vì lòng khẳng khái của hiền hầu mà mang tai họa.

Xin hiền hầu nghĩ lại, phải biết kinh quyền để tránh tai họa. Tôi với hiền hầu cùng làm tôi nhà Thương cả, đã là tôi trong một nước thì lời hơn lẽ thiệt nói cho nhau biết là nhiệm vụ chung, xin hiền hầu đừng chấp nê, xét cho thấu đáo. Tôi đang mong hồi âm”.

Tô Hộ đọc xong ngồi làm thinh và gật gù mãi.

Táng Nghi Sanh thấy vậy thưa:

– Chúa công tôi nghĩ tình đồng trào nên không nỡ đem binh lực chinh phạt, đó là một dụng ý tốt, xin hiền hầu nghĩ lại cho ý kiến gấp.

Tô Hộ trao bức thư cho Sùng Hắc Hổ xem và nói:

– Tây Bá Hầu là người hiền đức, lời nói trong thư cũng rất hòa nhã. Người đã vì ta khuyên ngăn điều hơn thiệt, ta lẽ nào không nghe theo sao?

Sùng Hắc Hổ cũng nói:

– Lời nói phải nặng hơn Thái Sơn, hiền huynh cũng nên vì nghĩa lớn bỏ những câu nệ nhỏ nhen.

Tô Hộ quay sang nói với Táng Nghi Sanh:

– Quan Ðại Phu về thưa lại với Tây Bá Hầu, tôi sẽ dâng con chuộc tội. Tôi tuân theo lời nhơn nghĩa của Tây Bá Hầu chớ không phải tôi sợ binh lực của Tây Kỳ đâu.

Nói rồi truyền quân mở tiệc thết đãi Sanh Nghi nơi quán dịch.