Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Hôm sau, Tô Hộ viết thư phúc đáp Tây Bá Hầu và tặng Nghi Sanh một số vàng bạc, nhờ Nghi Sanh về thưa lại cho rành rằng mình đã nghe lời dâng con chuộc tôi.
Nghi Sanh từ tạ ra về, Tô Hộ đưa đón hơn hai dậm đường, rồi trở về nói với Hắc Hổ:
– Chúng mình sống trên tình nghĩa. Tây Bá Hầu đã tỏ lời khuyên giải, chúng mình không lẽ không nghe theo. Thực ra trước đây tôi có chủ trương liên minh với chư hầu chống lại Trụ Vương, nhưng hiện thời ý định ấy không còn nữa.
Sùng Hầu Hổ nói:
– Nếu hiền huynh đã quyết định như vậy thì phải đưa ái nữ vào chầu Thiên Tử cho sớm để khỏi bị cản trở.
Tô Hộ liền truyền lệnh sắm sửa đưa Ðắc Kỷ đến Triều Ca. Hắc Hổ nói:
– Việc của hiền huynh như vậy đã xong rồi. Tôi xin trở về thả Toàn Trung ra và bàn với ca ca tôi giải binh, đồng thời làm sớ dâng về triều để hiền huynh tiện bề dâng con chuộc tội. Hiền huynh chớ tính lui tính tới nữa mà hỏng việc.
Tô Hộ nói:
– Tôi có cảm tình với hiền đệ và nặng nghĩa với Tây Bá Hầu lẽ nào tiếc một đứa con gái hay sao? Hiền đệ cứ an lòng trở về, chúng ta còn nhiều ngày gặp gỡ.
Hai đàng chia tay trong luyến tiếc.
Hắc Hổ vừa ra khỏi thành, trở lại đại trại, quân thám thính hay được liền vào báo cho Sùng Hầu hổ hay.
Sùng Hầu Hổ lật đật mời Hắc Hổ vào hỏi:
– Vì sao em về được? Từ khi em bị bắt đến nay anh lo lắng không yên, thường ngày cho người dọ thám, nhưng không nghe tin tức gì cả.
Hắc Hổ nói:
– Tô Hộ chịu dâng con chuộc tội rồi. Chúng ta nên giải binh thôi. Em tuy bị bắt, nhưng Tô Hộ vẫn đối đải tử tế, không sao cả.
Sùng Hầu Hổ nghiến răng hỏi:
– Tô Hộ nghe lời thuyết phục của Tây Bá Hầu rồi sao? Thật đáng ghét. Nó trái lệnh Thiên Tử, nằm ở nhà không tốn một tên quân, chỉ viết một phong thư sai một tên quan quèn đem đến, thế mà được việc, còn ta hao tổn bao nhiêu xương máu mà công lao không thành. Chẳng lẽ bây giờ ta lại giải binh thì nhục nhã quá.
Sùng Hắc Hổ nói:
– Anh thật bất trí. Cùng một chư hầu lớn với người ta, anh ỷ tài đem quân chinh phạt đến nỗi hao binh tổn tướng như vậy, còn người ta chỉ viết một phong thư, không cần mất một mũi tên mà thành công. Anh không biết hổ thẹn sao? Thôi giải binh trở về, đừng nói nhiều nữa.
Sùng Hầu Hổ hậm hực nói:
– Em theo phe bọn chúng, không kể đến tình anh em nữa à?
Sùng Hắc Hổ giận dữ:
– Anh đã làm ô nhục giòng họ Sùng, từ nay em không còn muốn thấy mặt anh nữa.
Dứt lời, truyền quân thả Tô Toàn Trung. Tô Toàn Trung thấy Hắc Hổ tỏ tình như vậy rất mến phục, cúi đầu tạ ơn:
– Chú sanh cháu một lần, cháu coi ơn ấy như trời biển.
Sùng Hắc Hổ nói:
– Cháu về hối thúc phụ thân vào triều chầu vua cho sớm.
Toàn Trung đi rồi, Sùng Hắc Hổ mặt lầm lì kéo quân trở về. Còn Sùng Hầu Hổ lưỡng lự một chút, nhắm bề không xong, cũng giải binh trở lại đất Bắc, làm sớ dâng về triều tạ tội.
Toàn Trung vào thành Ký Châu ra mắt Tô Hộ.
Tô Hộ nói:
– Nay có thư Tây Bá Hầu khuyên giải, cha tính dâng em con cho thiên tử mà chuộc tội để cứu lấy giang san trăm họ. Lẽ nào tiếc một đứa con gái làm khổ nhân dân đất Ký Châu.
Toàn Trung nói:
– Giận là giận hôn quân không lo sửa đức trị dân thôi. Còn cá nhân dù phải hy sinh cũng chẳng hại gì. Nay phụ thân đã quyết định như vậy con đâu dám cãi.
Tô Hộ hỏi:
– Vậy thì con ở nhà quyền trị Ký Châu, sớm tối phải siêng năng chăm lo công việc, đừng sanh sự lôi thôi. Ðể cha đem em con dâng cho vua xong cha sẽ trở về.
Toàn Trung vâng lệnh. Tô Hộ trở vào hậu cung thuật rõ ý định mình cho phu nhân là Dương thị hay.
Dương thị khóc òa, nói:
– Con gái mình lâu nay chưa từng biết phép tắc triều đình, nay tiến cung biết có điều gì khổ thân không?
Tô Hộ nói:
– Phúc họa làm sao biết trước đưọc. Việc đến đâu hay đến đó, bây giờ đưa Ðắc Kỷ vào chầu vua để cứu đất Ký Châu này khỏi nạn đao binh đã.
Dương thị khóc mãi, Tô Hộ khuyên giải suốt đêm vẫn chưa nguôi.
Hôm sau, Tô Hộ chọn ba ngàn quân kỵ mã, năm trăm gia thần sắm sửa xe loan, bảo Ðắc Kỷ điểm trang lên kiệu ra đi.
Ðắc Kỷ nghe dạy nước mắt như mưa, lạy mẹ và anh từ giã bịn rịn hơn nửa ngày chưa ra khỏi cửa. Thế nữ hai bên khuyên dỗ, phu nhân mới chịu rời, bước vào phòng để cho Ðắc Kỷ ra đi.
Tô Toàn Trung theo đưa năm dậm mới trở lại. Tô Hộ cỡi ngựa theo sau xe loan, đàng trước trương một cây đại kỳ đề hai chữ “Quí Nhân”.
Ðoàn ngựa nhắm hướng Triều Ca thẳng tới, trải không biết bao nhiêu khó nhọc, lúc xuống thác, lúc leo gềnh, lặn lội mấy ngày mới đến huyện Qua Châu.
Ngày kia, đoàn người ngựa đến trạm Ân Châu thì trời tối, dịch thừa được tin liền đón tiếp rước vào trạm nghĩ ngơi. Tô Hộ bảo dịch thừa dọn thính đường cho quí nhân nghĩ.
Chẳng dám dấu ngài, trạm này hơn ba năm nay có yêu tinh làm lộng, ai đi đường lỡ tối cũng không dám ngủ ở thính đường mà chỉ ngủ ở đại trại thôi. Vậy xin để quí nhân ngủ nơi đại trại mới bình yên vô sự.
Tô Hộ nói:
– Người quý của thiên tử, yêu tinh nào dám phá? Sẵn đây có nhà trạm lại ngủ trong trại coi sao được?
Dịch đường không dám trái mệnh, liền hối bộ hạ quét dọn nhà thính đường, thắp hương cho tan yêu khí, dọn một căn phòng rộng để cho quý nhân ngủ.
Tô Hộ dẫn Ðắc Kỷ vào phòng, có năm mươi thế nữ theo hầu hạ, năm trăm gia tướng theo canh cửa, ba ngàn binh mã đóng bên ngoài. Còn Tô Hộ thắp đèn nến ngồi trước nhà khách, nghĩ thầm:
– Chỗ này là trạm dịch, khách qua đường đi lại đông đảo, xung quanh dân chúng cư ngụ rất nhiều, thế mà bảo có yêu quái phá phách thật là chuyện lạ. Tuy nhiên ta cũng nên phòng bị là hơn.
Nghĩ như vậy, Tộ Hộ liền lấy cây roi đuôi beo để trên bàn, rồi ngồi xem sách.
Trời khuya,bên ngoài ánh sao lờ mờ, bốn bề đều yên lặng, chỉ còn một mình Tô Hộ thức mà thôi. Nghe tiếng trống trở canh xa xa vừa điểm. Tô Hộ nghi ngại trong lòng, cầm roi bước vào phòng xem chừng, thấy bọn thế nữ và tiểu thơ đều ngủ im lìm hết. Tô Hộ yên lòng, trở về ngồi xem binh thơ.
Qua một hồi lâu, Tô Hộ nghe trống trở canh hai, không thấy có động tĩnh gì cả. Tô Hộ ngồi xem sách mãi…
Trống canh ba vừa điểm, bỗng có một luồng gió lạnh toát thổi đến, ngọn nến gần muốn tắt rồi tỏ lại. Tô Hộ thấy lòng hồi hộp, toan xách roi chạy xuống phòng ngủ, thì đã nghe có tiếng la của bọn thế nữ hoảng hốt:
– Yêu quái! Yêu quái!
Tô Hộ vội xách roi cầm đèn chạy xuống, nhưng gió thổi tắt đèn, Tô Hộ phải hối quân thắp lên. Lúc xuống đến nơi thì thấy bọn thế nữ run cầm cập không nói ra tiếng.
Tô Hộ vén màn hỏi Ðắc Kỷ:
– Con có thấy yêu quái gì không?
Ðắc Kỷ thưa:
– Con đang chiêm bao nghe thế nữ la hoảng, còn chờ dậy thì thấy bóng đèn của phụ thân dọi vào, không thấy yêu quái gì cả.
Tô Hộ nói:
– Ðội ơn trời phù hộ cho con khỏi giật mình. Thôi con nghỉ đi.
Tô Hộ trở lại nhà khách cho đến sáng. Tô Hộ có biết đâu lúc đèn tắt thì Ðắc Kỷ đã bị hồ ly hớp hồn rồi nhập vào xác Ðắc Kỷ trả lời với Tô Hộ. Chính hồ ly tinh đã mượn xác Ðắc Kỷ báo Trụ Vương sau này mất nước.
Suốt đêm đi tuần không thấy yêu tinh gì hết. Tô Hộ mừng quá tự nhủ:
– Nếu con gái ta đêm nay có bề nào thì không khỏi mang tội với thiên tử.
Thật ra hiện Ðắc Kỷ chỉ còn cái xác thôi, phần hồn đã bị yêu tinh chiếm đoạt rồi. Tô Hộ lầm yêu tinh là con mình, thật tội nghiệp.
Sáng hôm sau lên đường, đi suốt mấy ngày đêm nữa mới đến Triều Ca. Tô Hộ truyền quân đóng trại nghỉ ngơi rồi sai người vào thành dâng sớ nhờ Hoàng Phi Hổ vào tâu với Trụ Vương xin dâng con chuộc tội.
Hoàng Phi Hổ bèn cho người mời hai cha con Tô Hộ nhập thành trước, còn quân sĩ thì đóng ở ngoài thành chờ lệnh.
Vưu Hồn, Bí Trọng hay tin Tô Hộ đem con chuộc tội, lại không thấy dâng lễ vật gì với chúng, thầm nói với nhau:
– Tuy đã đem con gái vào triều, nhưng tánh vua hờn giận không chừng, một lời nói của chúng ta cũng đủ làm cho mầy mất mạng đừng tưởng thế là xong. Rồi đây mầy sẽ biết hai đứa tao lợi hại bực nào.
Bấy giờ vua Trụ đang ngự tại đền Long Ðức, có kẻ hầu cận vào tâu:
– Có Bí Trọng xin vào yết kiến.
Trụ Vương cho vào. Bí Trọng vào lạy mừng và nói:
– Nay Tô Hộ đem con đến dâng để chuộc tội, hiện còn ở ngoài thành chờ lệnh.
Trụ Vương nổi giận mắng Tô Hộ:
– Ðồ thất phu vô đạo. Khi trước nhờ hai khanh bảo tấu, Trẫm mới tha chết đuổi về, nó lại dám đề phản thi ngoài ngọ môn, rồi chống lại binh trời. Tội ấy làm sao dung thứ được. Sáng mai Trẫm sẽ xử tội nó trước mặt triều thần cho rõ tội khi quân.
Bí Trọng tâu:
– Pháp luật đặt ra không phải dành riêng cho ai cả mà để trị chung cho cả nước. Nay Tô Hộ khi quân như vậy, nếu không xử trị thì luật nước đâu còn?
Trụ Vương nói:
– Khanh tâu rất phải. Ðể ngày mai Trẫm sẽ trừng trị kẻ tôi loàn ấy cho xứng đáng.
Bí Trọng từ tạ lui ra. Hôm sau, Trụ Vương lâm triều, bá quan vào chầu đủ mặt, Hoàng Môn Quan vào tâu:
– Có Tô Hộ xin vào yết kiến, và dâng con chuộc tội.
Trụ Vương cho đòi vào. Tô Hộ mình mặc áo tù, đầu không đội mão, quì lạy trước sân, tâu:
– Kẻ tội nhân đáng chết, xin bệ hạ rộng dung.
Trụ Vương vỗ án hét:
– Tô Hộ! Ngươi đã đề phản thi trước ngọ môn, trọn đời không vào chầu Thương. Sau đó Sùng Hầu Hổ cử binh vấn tội, ngươi còn dám ra binh sát hại binh triều, nay ngươi còn vào đây làm gì.
Dứt lời, hối võ sĩ dẫn Tô Hộ đem ra pháp trường xử trảm để bêu đầu răn chúng.
Quan Thừa Tướng Thương Dung quỳ tâu:
– Tô Hộ phản Thương, tội rất nặng. Song trước kia bệ hạ vì muốn chọn Phi Hậu mà làm Tô Hộ lỗi đạo. Nay Tô Hộ đã biết ăn năn, dâng con hối lỗi, tưởng bệ hạ cũng nên rộng lòng dung tha.
Bí Trọng cũng quỳ tâu:
– Xin bệ hạ truyền đòi Ðắc Kỷ vào chầu, nếu Ðắc Kỷ xinh đẹp, bệ hạ dùng được thì hãy xá tội cho Tô Hộ. Còn nếu Ðắc Kỷ dung nhan không đẹp ý, bệ hạ sẽ truyền giết cả hai cha con cũng được.
Trụ Vương khen phải, liền truyền Ðắc Kỷ vào chầu. Ðắc Kỷ được lệnh, bước tới trước ngai vàng quỳ lạy.
Vua Trụ trông thấy Ðắc Kỷ tóc mai da tuyết, mắt phụng má đào, lưng nhỏ dịu dàng, mày xanh tiên tuế, ngón tay như mũi viết, da mặt tợ phù dung, trong lòng mê mẩn.
Làn môi son hé mở, đôi mắt phụng liếc rất tình tứ, Ðắc Kỷ tâu:
– Tôi là con kẻ phạm tội xin vào chầu, chúc Thánh hoàng vạn tuế.
Vua Trụ vừa trông thấy dung nhan lạnh lùng, lại thêm tiếng nói thanh tao như chim hót, trong người có một cảm giác đê mê, không thể nào nói được. Ngồi chết điếng một lúc mới mở miệng truyền gọi bọn cung phi:
– Chúng bay hãy mau dẫn Tô nương nương đến lầu Thọ Tiên đợi Trẫm.
Ðắc Kỷ theo bọn cung phi bước vào khuất bóng sau rèm, đôi mắt nhà vua vẫn còn say sưa.
Giây lát, Trụ Vương phán:
– Tô Hộ đã biết hối cải, dâng con chuộc tội, Trẫm xóa bỏ hết lỗi lầm. Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ, Trẫm gia phong cho Tô Hộ thêm chức Quốc Thích, truyền mở tiệc nơi đền Hiển Khánh ba ngày để bá quan văn võ từ chức Thừa Tướng trở xuống đều đến đó làm lễ chúc mừng Quốc Thích. Xong tiệc, các quan đưa Quốc Thích dạo khắp Triều Ca, để cho dân chúng hoan hỷ, và sau đó hai quan văn, ba quan võ đại diện Trẫm đưa Quốc Thích về nước.
Tô Hộ cúi lạy tạ ơn. Trụ Vương liền bãi triều, lui về hậu cung.
Các quan triều thần thấy Trụ Vương đam mê sắc dục như vậy có ý không bằng lòng, nhưng vì Trụ Vương bãi triều quá sớm, không thể cản ngăn, đành trở lại đền Hiển Khánh để cùng các quan dự yến chúc mừng Tô Hộ.
Vua Trụ về cung Thọ Tiên ăn uống vui vầy với Ðắc Kỷ, đêm ấy loan phụng giao hòa rất tương đắc. Ý tình gắn bó như keo sơn.
Từ khi Ðắc Kỷ vào cung, vua Trụ ngày thì mở tiệc ăn chơi, tối đến vui riêng trong cung cấm, bỏ phế việc triều nghi, không hề để mắt đến những lời sớ của các quan nữa. Có ai vào xin ra mắt, vua Trụ cũng không cho.
Ngày qua tháng lại như thoi đưa, thì giờ đối với kẻ si mê sắc dục chẳng khác bóng câu qua cửa sổ. Loáng mắt đã hai tháng trời, vua Trụ không một lần ngự triều, cứ ở mãi trong cung Thọ Tiên vui riêng với Ðắc Kỷ. Bá quan dâng sớ chất đống cao ngập đầu, vẫn không thấy mặt rồng đâu hết. Như vậy lấy ai nghị việc?
Ðây nói chuyện ông Vân Trung Tử là một vị tiên, tu luyện đã ngàn năm trên núi Chung Nam. Ngày kia Vân Trung Tử xách giỏ đi hái thuốc thấy yêu khí bốc lên đến mây xanh, liền xem xét một hồi, rồi than:
– Con hồ ly tinh đã nhập vào xác người tác quái. Ta mang nghiệp tu hành cốt làm điều nhân đức, nếu không vì thiên hạ, trừ con yêu ấy thì có lẽ nhân gian sinh ra lắm chuyện khổ đau.
Than rồi liền gọi học trò là Kim Hà đồng tử đến bảo:
– Ngươi đi bẻ cho ta một khúc cây tòng khô để ta đẽo chiếc gươm trừ yêu.
Kim Hà đồng tử hỏi:
– Thưa thầy, sao không dùng guơm báu chém yêu cho dứt hậu hoạn?
Vân Trung Tử nói:
– Con yêu ấy chỉ là giống hồ ly tu luyện ngàn năm, cần gì phải dùng đến gươm báu. Ta dùng thanh gươm gỗ cũng đủ trừ nó rồi.
Ðồng tử vâng mệnh đi bẻ một nhánh tùng. Vân Trung Tử đẽo thành một thanh gươm phép, dặn học trò giữ động, rồi đằng vân thảng đến Triều Ca.
Bấy giờ vua Trụ đang đắm sắc, đã lâu ngày chẳng lâm triều.
Bá quan văn võ không biết làm sao nên đàm luận xôn xao.
Quan Thượng Ðại Phu Mai Bá nói với Thừa Tướng Thương Dung và Á Tướng Tỉ Can:
– Nay Bệ hạ đắm sắc, bỏ cả triều chính, không coi giang sơn là trọng ấy là điểm loạn lớn. Các ông quyền cao lộc cả, gần gũi bệ hạ hơn, lẽ nào lại khoanh tay ngồi ngó. Xưa nay hễ vua làm quấy thì tôi can, cha làm sai thì con bàn, bạn làm sai thì có bạn khuyên. Các ông không hiểu lẽ ấy hay sao?
Thừa Tướng Thương Dung nói:
– Bệ hạ ngày đêm ở mãi trong cung cấm, không làm sao thấy mặt được, các ông bảo chúng tôi làm thế nào bây giờ?
Mai Bá nói:
– Chúng ta hội đủ mặt văn thần võ tướng rồi giống chuông trống thỉnh bệ hạ ra đền, đồng một loạt can gián. Nếu người này tâu mà bệ hạ không nghe thì đến người khác, quyết làm sao cho bệ hạ từ bỏ sắc đẹp, tránh xa kẻ nịnh mới được.
Thừa Tướng Thương Dung nói:
– Quang Ðại Phu nói rất phải. Chúng ta đồng lòng can vua mới đưọc. Bệ hạ đang lâm vào trạng huống này, một mình tôi không đủ sức.
Các quan đồng ứng lên một lượt:
– Xin Thừa Tướng mời bệ hạ lâm triều cho được. Chúng tôi nguyện nhất loạt ủng hộ lời can gián của Thừa Tướng.
Thương Dung liền truyền nổi trống đền rất gấp. Vua Trụ đang ở nơi lầu Trích Tinh nghe nhạc với Ðắc Kỷ, bỗng có tiếng trống nổi lên inh ỏi, thất kinh nói với Ðắc Kỷ:
– Mỹ nhân ở đây chờ Trẫm một chút. Trẫm ngự triều xem chuyện gì gấp mà các quan nỗi trống đền như vậy?
Ðắc Kỷ nói:
– Thần thiếp đoán chắc không có việc gì đâu. Chẳng qua triều thần thấy bệ hạ yêu mến thần thiếp nên ganh tỵ mời bệ hạ ra để can gián thế thôi.
Trụ vương nói:
– Mỹ nhân chớ lo. Trẫm ra ngoài một chút là vào ngay, dù triều thần có nói gì Trẫm cũng không nghe theo.
Ðắc Kỷ vội vã lạy đưa. Vua Trụ lên xe đến ngai ngồi ngự. Trăm quan văn võ lạy mừng xong, Vua Trụ thấy Thừa Tướng Thương Dung tay ôm một chồng sớ rất dầy. Bên kia thấy Hoàng Phi Hổ và các quan Ðại phu cũng chuẩn bị như sắp có nhiều việc tâu trình, thì thất kinh, vì bị tửu sắc nhiều, trong đời Vua Trụ hình như không còn muốn làm việc gì khác nữa.
Tuy nhiên, đã lâm triều không lẽ trở vào hậu cung ngay, đành ngồi nán lại mà lòng buồn bã.
Thừa Tướng Thương Dung quỳ tâu:
– Tâu bệ hạ các chư hầu lâu nay dâng sớ về đợi bệ hạ phê chuẩn rất nhiều việc, chẳng biết vì sao bệ hạ không lâm triều, ngày đêm luôn ở nơi cung cấm. Hạ thần chắc có người ở gần bệ hạ cám dỗ chăng? Xin bệ hạ xem việc xã tắc là trọng.
Vua Trụ thở dài nói:
– Trẫm nghe bốn biển bình yên, muôn dân lạc nghiệp. Duy phía Bắc có loạn thì Trẫm đã sai Thái Sư đi dẹp rồi. Ðó chẳng qua như mụt ghẻ lở, có nghĩa gì. Còn việc triều chính đã có các khanh thay Trẫm điều hành, Trẫm dù có nghỉ ngơi một thời gian cũng chẳng sao. Các khanh chớ học đòi theo khuôn sáo cũ mà chê Trẫm không chiếu cố đến xã tắc. Người tôi trung không thấy vua nghỉ ngơi chút ít mà bỏ việc, hoặc có ý khi quân.
Thương Dung tâu:
– Mọi việc đều do bệ hạ quyết định cả, nếu bệ hạ giao cho một đại thần nào mà không tránh khỏi tiếng chuyên quyền, và bệ hạ lại mang tiếng không cần mẫn. Xin bệ hạ xa lánh con đường cũ, đuổi kẻ gian, bỏ sắc dục, trọng đức thương dân, thì xã tắc mới bền vững, nước mới giàu, dân mới mạnh.
Vua Trụ lắc đầu:
– Thôi thôi, Trẫm không muốn nghe mãi những lời nhàm tai ấy. Các khanh không có lời nói nào khác để Trẫm đẹp lòng hay sao?
Trụ Vương nói đến đây thì có Quan Huỳnh Môn vào tâu:
– Có ông Vân Trung Tử xưng là đạo sĩ ở núi Chung Nam xin vào yết kiến bày tỏ mật sự.
Trụ Vương nghi thầm:
– Các quan hôm nay cố can gián nhiều việc, nếu ta để chúng nói mãi nghe khó chịu, lại rườm tai, chi bằng cho vị đạo sĩ này vào nói qua loa vài câu cho vui rồi bãi chầu là hay hơn.
Nghĩ như vậy, Trụ Vương liền ra lệnh mời đạo sĩ vào.
Vân Trung Tử mặc áo rộng xanh, mặt như dồi phấn, môi tợ thoa son, bước vào trước đền khoan thai để giỏ hoa xuống, nghiêng đầu xá vua Trụ một cái, không lạy, và nói:
– Tôi xin ra mắt bệ hạ.
Vua Trụ thấy đạo sĩ chỉ xá mà không lạy nên không bằng lòng nghĩ thầm:
– Trẫm trị ngôi trời, giàu sang bốn biển, ai ở trong đất nước đều là bề tôi cả, đạo sĩ tuy là kẻ tu hành, song cũng không thoát ra ngoài bản đồ của Trẫm, tại sao có ý khi quân như vậy?
Tuy nghi thế, song nếu chấp trách Trụ Vương lại sợ triều thần khinh mình hẹp hòi, nên làm ra vẻ đại lượng, hỏi qua gốc tích.
– Ðạo sĩ từ đâu đến đây?
Vân Trung Tử nói:
– Tôi theo mây nước đến đây.
Trụ Vương hỏi:
– Sao gọi là mây nước?
Vân Trung Tử đáp:
– Lòng tự vừng mây trắng, ý như dòng nước trong.
Trụ Vương mĩm cười, có ý trêu chọc:
– Nếu mây tan nước cạn thì người về đâu?
Vân Trung Tử nói:
– Mây tan vần nguyệt rạng, nước cạn trái châu bày.
Câu này ý Vân Trung Tử muốn nói: Nếu mây tan thì hiện vào cung Nguyệt, nước cạn thì ẩn vào trái Châu.
Vua Trụ thấy Vân Trung Tử đối đáp thông suốt, đổi giận làm vui phán:
– Lúc nãy đạo sĩ làm lễ mà không triều bái, Trẫm cho là thất lễ. Nhưng bây giờ thấy đạo sĩ có nhiều ý lạ, Trẫm rất vui lòng. Vậy Trẫm bỏ qua đấy.
Nói rồi chỉ một chiếc cẩm đôn, mời Vân Trung Tử ngồi.
Vân Trung Tử chẳng hề khiêm nhượng, liền ngồi xuống ghế, cúi đầu nói:
– Như thế mới phải chứ. Ngôi cửu trùng cũng quý, mà đạo tam giáo cũng cao, lẽ nào không ý thức đưọc?
Trụ Vương hỏi:
– Ðạo tiên cao ở chổ nào?
Vân Trung Tử nói:
– Xin bệ hạ nghe tôi đọc thì rõ:
“Ðạo chia tam giáo, Tiên trọng muôn phần. Trên chẳng chầu thiên tử, dưới chẳng lạy công khanh, lánh tục trần nên ở ẩn, bỏ lưới tục mới đi tu. Uống nước suối không màng danh lợi, ở gành non quên nhục quên vinh. Ðội trời không biết nắng, mặc áo rách coi đời, bẻ bông tươi đội làm nón, cắt cỏ khô làm mền. Lấy nước suối súc miệng, ăn trái cây sống đời. Có lúc vổ tay reo lớn, có khi duổi cẳng nằm dài. Gặp khách tiên thì giảng kinh, nói chuyện, gặp bạn đạo thì uống rượu ngâm thơ. Cười vui theo ý muốn, nói năng theo thích lòng. Không cần bó buộc, chẳng cần nể nang. Luận việc thịnh suy thời thế, xét điều côi rẽ hồn linh. Mặc ý nắng mưa thay đổi, không cần câu thúc thời gian. Ðời già hóa trẻ, tóc bạc trở xanh. Vào non hái thuốc, trị bịnh cứu người. Biết dữ lành vì thông quẻ bói, biết họa phúc vì rõ lòng người. Truyền phép đạo mở lòng cứu thế, làm phép bùa trừ khử yêu ma. Ðạo cao rồng cọp sợ, đức trọng quỷ thần kiêng. Cỡi mây xanh bay lên phủ tía, ngồi hạc trắng dạo khắp cung tiên. Biết mấy thiên tạo hóa, thông đạo đức thần linh. Coi danh lợi như mây trôi bèo dạt, so nghề pháp như cứu cánh tinh thần. Tuy tam giáo là trọng, song chỉ một đạo là cao”.
Vua Trụ nghe nói cũng vui tai, liền phán hỏi:
– Trẫm nghe lời đạo sư nói, nghe mình nhẹ nhàng như thoát khỏi càn khôn, ngẫm lại giàu sang khác gì mây gió. Song chưa biết đạo sư ở động nào? Nhơn việc chi đến đây xin cho Trẫm biết.
Vân Trung Tử nói:
– Bần đạo là Vân Trung Tử, ở động Ngọc Trụ, tại núi Chung nam, nhân lúc thung dung đi hái thuốc, thấy khí yêu xuất hiện tại Triều Ca, khi đến đây thấy quái khí tụ nơi cung cấm, bởi vậy bần đạo có ý xin bệ hạ trừ yêu quái để cứu muôn dân.
Trụ Vương nói:
– Nơi cung cấm là chỗ canh phòng nghiêm ngặt ngày đêm đều có quan quân ứng hầu, đâu phải chốn rừng núi u tịch mà có yêu quái lộng hành? Có lẽ đạo sư lầm chăng?
Vân Trung Tử vừa cười vừa nói:
– Yêu quái là giống tà ma, nếu biết nó thì nó không dám đến. Sở dĩ nó dám lộng hành là vì bệ hạ không biết nó. Nếu không trừ sớm sau này tai họa không nhỏ. Tôi xin đọc bốn câu thơ này cho bệ hạ rõ:
Sắc sắc màu dở khấy bệnh nhân
Hao mòn thể chất lẫn tinh thần!
Nếu ai biết nó là yêu mị
Yêu mị làm sao giết được thần?
Trụ Vương hỏi:
– Nếu trong cung có yêu thì làm cách gì trừ được?
Vân Trung Tử nói:
– Không khó gì. Tôi có một thanh gươm bằng gỗ, bệ hạ đem trấn trong cung tự nhiên yêu ma phải chết.
Nói rồi giở giỏ ra, lấy thanh gươm trao cho Vua Trụ, và đọc tiếp bốn câu thơ nữa:
Ðẻo nên hình kiếm vốn cây khô
Phù phép thần tiên đã luyện vô
Một đạo hào quang chưa thấy ánh
Ba ngàn yêu khí đã ra tro
Trụ Vương hỏi:
– Gươm này trấn tại đâu?
Vân Trung Tử nói:
– Trấn tại lầu Phấn Cung (gần cung cấm) trong ba ngày sẽ thấy hiệu nghiệm.
Trụ Vương liền sai nội thị đem gươm treo tại lầu Phấn Cung như lời Vân Trung Tử nói.
Nội thị vâng lệnh đi tức khắc.
Trụ Vương lại nói với Vân Trung Tử:
– Ðạo sư có phép lạ, thấu được thiên cơ, biết trừ yêu mị, nếu đạo sư chịu rời bỏ Chung Nam sơn về đây giúp Trẫm, Trẫm sẽ phong cho quan tước, hưởng lộc đời đời, như vậy không sung sướng sao, dại gì ở góc núi đầu non, phí một cuộc đời tài ba như vậy.
Vân Trung Tử nói:
– Bệ hạ có lòng chiếu cố đến kẻ núi non,quê mùa. Song bần đạo là kẻ biếng nhác, không từng biết chuyện trị nước trị dân. Sáng dậy mặt trời lên ba sào còn ngủ nướng ở trần trùn trục vẫn ngao du…
Trụ Vương ngắt lời:
– Như thế có gì là sung sướng, sao cho bằng áo tía đai vàng, con sang vợ quý, muốn hưởng gì cũng có.
Vân Trung Tử nói:
– Tuy vậy có rất nhiều cái hay, tôi xin đọc cho bệ hạ nghe:
Mình thảnh thơi
Lòng thong thả
Muôn việc mênh mông không đoác cả
Chẳng bận lo công danh như lặt rau
Chẳng muốn cướp đất như nhổ mạ
Chẳng tham lưng buộc đai ngời
Chẳng muốn mình mang gấm lạ
Chẳng ham làm Tể Tướng mà vuốt râu
Chẳng muốn dựa quân vương cho phỉ dạ
Chẳng tham lên ngựa xuống xe
Chẳng muốn vào quỳ ra xá
Chẳng ham ba họ hưởng quyền cao
Chẳng muốn ngàn chung ăn lộc cả
Lều tranh bao quản hẹp hòi
Áo vải chỉ nài tơi tả
Túi khô sẳn đóa hoa tươi
Áo rách có hồ sen lá
Mê mang giấc điệp mặt nghinh ngang
Mường tượng tiệc đào môi giục giả
Quản bao thỏ lặn ác tà
Mãn xuân sang hạ…
Vua Trụ nghe đến đây, khen:
– Trẫm nghe lời đạo sư ca thật là thanh lịch.
Liền khiến quân đem hai mâm vàng biếu cho Vân Trung Tử làm lộ phí về đường. Vân Trung Tử cười lớn:
– Cảm tình bệ hạ, nhưng bần đạo không biết dùng những thứ đó, xin bệ hạ nghe bần đạo ngâm bài thơ này:
Theo duyên theo phận ẩn sơn lâm
Tợ nước, đường mây, kinh ít cuốn
Nắm dây cầm bản, gậy non tầm
Thuốc hay trong túi cho người mạnh
Thơ mới bền lòng gặp khách ngâm
Mỗi hột kim đơn ngàn tuổi lẻ
Chẳng ham vàng bạc đựng đầy mâm
Vân Trung Tử ngâm xong, xá Vua Trụ một cái, rồi giũ tay áo đi thẳng.
Bấy giờ các quan muốn thay nhau lên tâu trình công việc, nhưng Trụ Vương ngồi lâu đã mỏi mệt, liền đứng dậy về cung.
Bá quan ngơ ngác, cùng nhau tự động bãi triều, chờ dịp khác.
Vua Trụ về đến dinh Thọ Tiên không thấy Ðắc Kỷ ra đón, lòng hồi hộp không yên.
Có quan nội thị ra rước, vua hỏi:
– Tô mỹ nhân sao không ra đón trẫm?
Nội thị tâu:
– Tô mỹ nhân lâm bệnh nặng nằm thiêm thiếp trên giường. Trụ Vương thất kinh, vội bước xuống long xa, hối hả vào phòng khoát màn, xem thấy Ðắc Kỷ mặt trắng nhợt, môi như giấy bạch, nằm thở pheo pheo như gần đứt hơi.
Vua Trụ gọi lớn:
– Mỹ nhân, trước khi Trẫm lâm triều diện mạo mỹ nhân còn như đóa hoa tươi, sao mới chốc lát sắc diện mỹ nhân như thế này Trẫm biết làm sao bây giờ?
– Bệ hạ ơi! Khi sớm mai thần thiếp đưa bệ hạ lâm triều, thần thiếp đoán chừng bệ hạ gần về nên ra ngoài đón, chẳng ngờ khi đi ngang lầu Phấn Cung, thần thiếp thấy cây gươm treo ở đấy nên giật mình toát mồ hôi ra, bịnh tình thế này. Thần thiếp tủi phận mình bạc phước vô duyên, không được hầu bệ hạ được lâu. Xin bệ hạ an dưỡng mình rồng, đừng nghĩ đến thần thiếp nữa…
– Lão đạo sĩ nói là trong cung có yêu, cho gươm linh để trừ yếm, tại sao Tô mỹ nương trông thấy gươm ấy lại lâm bịnh. Tô Ðắc Kỷ là con gái của Tô Hộ, thì sao lại là yêu quái được. Chắc đạo sĩ đã gạt ta dùng tà thuật để hại người yêu của ta.
Nghĩ như vậy, Trụ Vương thuật chuyện Vân Trung Tử đến tặng gươm thiêng cho Ðắc Kỷ nghe. Ðắc Kỷ vừa khóc vừa nói:
– Bệ hạ đã nghe lầm loài quỉ mị, dùng tà thuật gây rối cung vi, nếu bệ hạ không đốt cây gươm ấy thì thần thiếp chết mất.
Trụ Vương liền truyền nội thị đem gươm phép đốt tức khắc.
(Cơ nghiệp Thành Thang đã đến lúc suy đồi, nên khiến Vân Trung Tử không dùng gươm thiệt. Nếu Vân Trung Tử dùng gươm thiệt thì hồ ly tinh trông thấy đã chết ngay, còn đâu phá rối Trụ Vương mất nước?)
Ðến khi sức khỏe Ðắc Kỷ đã bình phục. Trụ Vương trở lại ăn chơi như cũ.
Bấy giờ Vân Trung Tử chưa về núi, còn ở chốn Triều Ca, thấy yêu khí bỗng nhiên từ trong cung xông lên nữa, lấy làm lạ đánh tay tính quẻ một hồi rồi gật đầu thầm nhủ:
– Ta muốn đem gươm báu trừ yêu khí, giúp cơ nghiệp Thành Thang một thời gian nữa nào ngờ số trời đã định, khó nổi đổi dời, nên khiến gươm tùng bị đốt. Như vậy nhà Thương hết vận nhà Châu ra đời, thần tiên sẽ bị nạn. Ôi đã mất công xuống trần một phen lại không làm nên việc. Tiện đây ta cũng nên viết ít chữ để lại cho người đời sau thấy.
Nghĩ rồi lấy viết đề lên bức tường đài Tư Thiên hai mươi bốn chữ như vầy:
“Yêu phong uế loạn cung đình. Thánh đức bá vương Tây thổ. Yết trí huyết nhiễm Triều Ca. Mậu ngủ trung giáp tý “
Nghĩa là: “Khí yêu quấy rối cung càn. Thánh đức bủa giăng hướng dậu. Muốn hay máu nhuộm Triều Ca. Giáp tý trong năm Mậu ngũ “.
Ðề thơ xong, Vân Trung Tử lui về núi. Thiên hạ thấy đạo sĩ đề thơ xúm lại xem, nhưng không hiểu ý.
Nhiều người tự cho mình là hay chữ, vây quanh đông nức, xem mãi vẫn không tìm ra được ý thơ.
Bấy giờ có quan Thái Sư coi việc thiên văn là Ðổ Nguyên Tiến ở triều về, thấy dân chúng xúm lại bên vách Ðài Tư Thiên liền hỏi:
– Chuyện gì dó vậy?
Quân canh bẩm:
– Ông đạo sĩ đề thơ trên vách, nên dân chúng xúm nhau xem.
Ðổ Thái Sư ngồi trên ngựa thấy hai mươi bốn chữ, ý rất xa xôi xem qua khó hiểu, liền truyền quân đem nước rửa đi, đoạn về dinh ngẫm nghĩ mãi mà vẫn không tìm ra đưọc dụng ý.
Qua mấy ngày chiêm nghiệm, Ðổ Nguyên Tiến nghĩ thầm:
– Ðây chắc là đạo sĩ dâng gươm đã đề như vậy. Theo ý đạo sĩ thì trong cung yêu khí xuất hiện. Còn ta xem thiên văn lại thấy hung tinh ứng ở cung Càn, ắt việc chẳng lành.
Nay bệ hạ đam mê tửu sắc, bỏ phế công việc trong triều, sớm tối thể nào cũng xảy ra đại họa. Ta làm tôi hưởng lộc nước đã hai triều, lẽ nào trong lúc lâm nguy khoanh tay ngồi ngó, không một lời can gián sao? Ta xem văn võ trong triều ai nấy đều lo sợ, buồn bực vô cùng, sẳn dịp này ta viết một tờ sớ khuyên vua, may ra giúp ích được gì chăng?
Nghĩ như vậy, Ðổ Nguyên Tiến nội đêm ấy viết sớ cho xong.
Sáng hôm sau, Ðổ Nguyên Tiến đem vào đưa cho Thừa Tướng Thương Dung, và nói:
– Tôi xem thiên văn thấy hung tinh xâm phạm cung Càn, còn bệ hạ vui say tửu sắc, bỏ bê việc triều chính, họa đến chẳng xa. Tôi làm sớ này dâng lên bệ hạ, xin Thừa Tướng chuyển dùm.
Thương Dung nói:
– Thái Sư đã dâng sớ lẽ nào tôi không chuyển đạt, ngặt vì mấy hôm nay bệ hạ không lâm triều, các quan không ai được thấy mặt, chỉ có cách là tôi phải mạo hiểm vào cung cấm mà dâng mới xong.
Ðổ Nguyên Tiến nói:
– Ðó là bổn phận của Thừa Tướng, làm sao cho Thiên tử hối cải, chúng ta là tôi thần, dẫu có bị sấm sét, búa rìu chút ít mà xã tắc được yên thì cũng cam.
Thương Dung vội từ tạ Nguyên Tiến đi thẳng vào cung cấm. Qua khỏi chín căn đền lớn, đi ngang qua đền Long Ðức, đến đền Hiển Thánh, đến Tỉ Thiện rồi đến Phấn Cung lầu.
Thương Dung ra mắt quan Phụng Ngự, nói:
– Tôi có việc cần xin vào bái yết hoàng thượng.
Quan Phụng Ngự nói:
– Thọ Tiên là cung cấm, chổ Hoàng thượng an nghỉ, các quan ngoài không vào được đâu.
Thừa Tướng Thương Dung nói:
– Ta làm Thừa Tướng há chẳng hiểu luật triều đình sao? Chẳng qua là Thiên tử không lâm triều, ta có việc cần nên phải đem thân đến đây. Ngươi mau vào tâu với Thiên tử có Thừa Tướng Thương Dung đang đứng chầu ngoài cửa.
Quan Phụng Ngự không dám cãi lời, vội vào tâu.
Trụ Vương phán:
– Thừa Tướng Thương Dung có việc gì cần thiết phải vào nội cung chầu Trẫm kìa? Tuy Thương Dung là tôi bên ngoài, nhưng phò tá nghà Thương đã ba trào, lại già cả, cho vào chầu cũng được.
Quan Phụng Ngự liền trở ra truyền đòi Thừa Tướng vào.
Thương Dung vào quỳ trước long sàng.
Trụ Vương hỏi:
– Thừa Tướng có việc gì khẩn cấp mà phải vào cung cấm chầu Trẫm?
Thương Dung tâu:
– Có Thái Sư Ðổ Nguyên Tiến xem thiên văn thấy yêu khí ẩn trong cung, tai họa tới không lâu. Bởi vậy có làm sớ nhờ tôi dâng đến bệ hạ. Ðổ Nguyên Tiến là tôi già, tay chân của bệ hạ không nỡ ngồi nhìn cơ nghiệp điêu tàn, xin bệ hạ xét lại, chăm lo mối nước để trăm quan được vui vẻ, dân chúng nhớ đức phụng thờ.
Nói rồi hai tay dâng sớ lên.
Trụ Vương giở ra xem, trong sớ viết đại lược như sau:
“Tôi là Ðổ Nguyên Tiến, coi đài thiên văn, vì nhiệm vụ cúi trình qua Thiên tử mấy lời tâm huyết. Tôi nghe nói: nước nhà thịnh thì có điềm lành, nước nhà lâm nguy thì sanh loài yêu nghiệt. Tôi xem đài thiên văn thấy điều bất lợi, khí yêu quyện nơi đền vua, hơi ngút nơi cung cấm. Bởi bệ hạ đốt mất gươm thiêng, nên khí yêu tái hiện nơi hoàng cung, nếu khí ấy lên đến Ðẩu Ngưu thì tai ương rơi vào xã tắc.
Thần trộm nghĩ: Từ ngày Tô Hộ dâng con đến nay, ngai vàng bụi đóng, mối nước buông lòng, sân chầu cỏ mọc xanh um, trước thềm rêu phong màu lục. Trăm quan hết sức mong chầu chực, việc nước không kẻ ngó ngàng. Tôi không thấy mặt rồng, chúa vẫn vui đùa tửu sắc, khác nào mây che mặt nguyệt, khói tỏa cung thềm, đàn sáo quen tai, vua tôi lạ mắt. Biết chừng nào chầu chực như xưa, thái bình như cũ.
Nay tôi chẳng từ rìu búa, không ngại dữ lành, lòng lo cho nước non, quên mình mang tội, nếu bệ hạ nghe tiếng phải, thấy điều ngay thì trăm họ rất mang ơn “.
Vua Trụ xem xong cho lời Nguyên Tiến là phải, song nhớ lại chuyện đạo sĩ Vân Trung Tử tặng gươm trừ yêu, suýt hại mạng mỹ nhân, thì nổi giận, nói:
– Sớ này cũng nói đến chuyện yêu mị chẳng khác tên đạo sĩ trước kia. Thật là chuyện rắc rối.
Liền quay qua hỏi Ðắc Kỷ:
– Trong sớ, Ðổ Nguyên Tiến cũng nói yêu mị trong cung là tại sao vậy?
Ðắc Kỷ quỳ tâu:
– Ngày trước,Vân Trung Tử là một gã yêu đạo bày chuyện dối vua, khiến muôn dân nghe việc ấy mà loạn động, tư tuởng không an. Nay Ðổ Nguyên Tiến làm chức Thái Sư tại triều mà cũng cùng một hành động dối vua như tên yêu đạo đó nữa thì dân chúng sẽ đảo huyền, lòng người xao loạn. Yêu mị ở Triều Ca chính là bè lũ mị chúa ấy, xin bệ hạ truyền chém hết những ai có ý mê hoặc như vậy mới giữ gìn xã tắc được.
Trụ Vương nghe Ðắc Kỷ nói, mặt đỏ bừng, quay lại nói với Thừa Tướng Thương Dung:
– Tô mỹ nhân luận rất phải. Yêu mị đó chính là bọn theo phe yêu đạo, mê hoặc lòng dân, gây mầm phản loạn. Ðổ Nguyên Tiến tuy là tôi già song tội không thể dung tha.
Liền truyền lệnh chém Ðổ Nguyên Tiến bêu đầu để răn chúng.
– Ðổ Nguyên Tiến là tôi ba đời, tuổi cao tác lớn, lâu nay trải mật, gìn giữ lòng son, khuông phò xã tắc, sớm lo trả ơn vua, tối lo đền xã tắc. Việc bất đắt dĩ nên phải nói, bệ hạ nỡ giết đi sao đành? Chỉ vì lời can gián của Thái Sư mà bệ hạ đem giết. Thái Sư dẫu chết cũng được tiếng trung thần, song tôi e bệ hạ không khỏi mang tiếng gièm pha, trăm quan bất bình nổi loạn. Xin bệ hạ nghĩ lại tha tội cho Thái Sư kẻo oan.
Trụ Vương nói:
– Thừa Tướng không hiểu việc này. Bởi tên yêu đạo mị dân, khi vua, buông lời huyền hoặc Thái Sư lại cũng một phe với nó, làm cho lòng dân đảo huyền, nếu không chém Thái Sư Ðổ Nguyên Tiến thì không thể trấn an thiên hạ được.
Thương Dung quỳ tâu mãi, nhưng Trụ Vương nhất định không nghe, hối thúc quan thái giám đuổi Thương Dung ra ngoài và truyền chỉ chém Ðổ Nguyên Tiến tức khắc.
Thương Dung nhất định không chịu ra về, Trụ Vương phải sai hai quan thái giám khiêng Thương Dung bỏ ra ngoài cửa cung rồi đóng cửa lại.
Thương Dung bất đắc dĩ phải dứng dậy lễnh mễnh trở ra, về đến nhà ngự thư thấy Ðổ Nguyên Tiến râu tóc bạc phơ, đôi mắt chứa chan hy vọng, đang đợi Thương Dung
Thương Dung nhìn mặt Ðổ Nguyên Tiến chua xót vô cùng.
Thì ra Ðổ Nguyên Tiến bị vua truyền chém đầu răn chúng mà Nguyên Tiến vẫn chưa biết, còn hy vọng ở lời sớ của mình có thể sửa đổi được lòng vua.
Ðổ Nguyên Tiến thấy Thương Dung liền hỏi lớn:
– Sao? Thừa Tướng đã dâng sớ của tôi lên Thiên tử rồi chứ?
Thương Dung buồn bã nói:
– Bệ hạ xem sớ rồi, nhưng….
Ðổ Nguyên Tiến còn đang ngơ ngác thì đàng sau một tốp võ sĩ và một quan thái giám bước đến đọc tờ chiếu chỉ của Trụ Vương:
“Ðổ Nguyên Tiến khi quân dối vua, lừa gạt dân chúng, tội đáng chém đầu, nay xử theo phép nước “.
Quan thái giám đọc chiếu xong, võ sĩ áp lại trói Ðổ Nguyên Tiến dẫn ra pháp tràng.
Nhưng mới dẫn đến cầu Cửu Long xảy gặp một viên quan Ðại Phu mặc áo rộng đỏ, trông thấy cản lại hỏi:
– Ðổ Thái Sư phạm tội gì mà bệ hạ truyền chém?
Ðổ Nguyên Tiến thấy quan Ðại Phu ấy là Mai Bá, một kẻ trung thần xưa nay có tiếng, liền chắc lưỡi than:
– Thiên tử ham mê tửu sắc, bỏ việc triều chánh, tôi làm sớ khuyên can Thiên tử lại cho tôi là đồng đảng với đạo sĩ hôm nọ, tìm lời ủy mị để dụ lòng dân làm loạn, nên truyền chém đầu tôi để răn chúng. Vua đã bảo chết, đạo làm tôi đâu dám trái, chỉ thương hại cơ nghiệp Thành Thang xây dựng bao nhiêu đời, nay vì sắc đẹp mà tiêu theo mây khói. Ôi, chắc quan Ðại Phu cũng thấy như tôi, đời người chỉ là tai ương thảm họa, công danh chỉ là mây bay, đời đã vậy còn luyến tiếc gì sự sống nữa.
Mai Bá xua tay bảo đao phủ thủ hãy khoan hành quyết Nguyên Tiến, để mình đến trước mặt vua minh oan đã.
Dứt lời mai bá hối hả chạy vào đền, bỗng gặp Thừa Tướng Thương Dung mặt buồn dàu dàu, đang đứng nhìn sững về phía pháp trường, Mai Bá hỏi:
– Thừa Tướng ơi, Ðổ Thái Sư bị tội gì mà bệ hạ đem giết?
Thương Dung nói:
– Thái Sư dâng sớ can vua, bệ hạ nghe lời Tô mỹ nhân bắt tội Thái Sư. Tôi hết lời can gián, nhưng bệ hạ không nghe, biết làm sao?
Mai Bá nghe nói nổi xung:
– Thừa Tướng nói sao lạ vậy? Bổn phận ông coi về chuông vạc, sửa chữa âm dương, thấy nịnh thì trừ, gặp gian thì giết, khen kẻ giỏi, tiến người hiền. Vua phải thì làm thinh, vua trái thì can gián. Nay Thiên tử nghe lời nữ sắc, giết hại tôi hiền, Thừa Tướng không dám mở lời cản ngăn, ấy là tham sống sợ chết, lánh tội tiếc thân, như vậy đâu phải bổn phận một vị Thừa Tướng?
Thương Dung buồn bã nói:
– Quan Ðại Phu chớ trách tôi như vậy. Bệ hạ không nghe thì còn biết làm sao?
Mai Bá quay lại nạt bọn đao phủ thủ:
– Hãy khoan khai đao, đợi ta và Thừa Tướng vào cung xin tội cho Thái Sư đã.
Nói rồi nắm tay Thương Dung dắt đến cung Thọ Tiên, vào thẳng Phấn lầu, quỳ mọp dưới đất.
Quan thái giám trông thấy vào tâu:
– Có quan Thừa Tướng và quan Ðại Phu Mai Bá xin vào yết kiến.
Trụ Vương nổi giận nói:
– Như quan Thừa Tướng già nua, đã ba đời phò chúa thì vào được còn Mai Bá sao dám đương nhiên vào đây.
Liền dạy cho Thương Dung vào, và đuổi Mai Bá đi. Mai Bá nhất định không chịu, khiến cho thái giám không thể nào đuổi được. Thừa dịp Thương Dung vào chầu, Mai Bá cũng theo quỳ một bên.
Trụ Vương trông thấy hỏi:
– Mai Bá, ta không truyền đòi ngươi vào, sao ngươi vào đây?
Mai Bá tâu:
– Lâm triều là nhiệm vụ của bệ hạ, chầu chực để nghe dạy việc là phận làm tôi.
Trụ Vương mắng:
– Ngươi không hiểu luật triều đình, vào cung cấm là phạm tội sao?
Mai Bá tâu:
– Hạ thần đã hiểu, nhưng hạ thần là tôi của bệ hạ. Làm tôi phải đến chầu vua, nếu không biết vua ở đâu mà chầu thì hạ thần còn biết làm tôi với ai? Nếu bệ hạ ngự triều xét việc thì hạ thần không phạm tội vào cung cấm.
Trụ Vương thấy Mai Bá nói dằng dai bực mình hỏi:
– Ngươi vào đây có việc gì?
Mai Bá tâu:
– Xin quỳ nghe lời chỉ giáo của bệ hạ.
Trụ Vương nói:
– Ta không có việc gì cần đến ngươi cả. Hãy ra ngoài mau.
Mai Bá nói:
– Nếu bệ hạ không có việc gì sai khiến thì hạ thần xin hỏi bệ hạ Ðổ Thái Sư phạm tội gì mà bệ hạ đem giết?
Trụ Vương nói:
– Ðổ Nguyên Tiến đồng mưu với yêu đạo, đặt chuyện làm cho lòng dân rối loạn, không phân biệt chánh tà. Một vị đại thần đáng lẽ lo trấn an bá tánh thì lại gây hoang mang trong triều, Trẫm hành hình là đáng lắm, tại sao không tội.
Mai Bá nói lớn:
– Tôi nghe các bậc minh quân ngày xưa trị dân theo khuôn phép, nghe lời phải của trung thần, hằng ngày ngự triều lo việc, quên cả ăn ngủ, như thế mới gây được cơ nghiệp, giữ vững được mối nước. Nay bệ hạ đam mê tửu sắc, sáu tháng không ngự biết gì đến chánh lệnh, thế mà có người dâng sớ can gián lại bị bệ hạ chém đầu răn chúng, thì hạ thần thiết nghĩ không biết bệ hạ răn như thế nào? Vua cũng như một tòa nhà, tôi trung như rường cột. Nếu bệ hạ chặt bỏ hết rường cột thì tòa nhà làm sao đứng vững. Xin bệ hạ xét lại, tha tội cho Ðổ Thái Sư để khỏi làm phật ý trăm quan, và thiên hạ trông thấy cảm đức.
Vua Trụ bị Mai Bá nói một hồi bực mình hét:
– Nghịch thần! Ðã trái lệnh vào cung còn lắm miệng, già mồm. Tội ngươi thông đồng với Nguyên Tiến đáng xử trãm, song Trẫm nghĩ ngươi là tôi có công, nên truyền cách chức Ðại phu, không dùng ngươi nữa.
Mai Bá ré lên:
– Hôn quân, ngươi nghe lời Ðắc Kỷ bỏ đạo vua tôi. Nay bệ hạ chém đầu Ðổ Nguyên Tiến chẳng khác nào chém đầu tất cả bá tánh nơi Triều Ca này. Tôi bị cách chức không hại gì, công danh như mây khói, tôi không màng, chỉ tiếc cơ nghiệp Thành Thang gây dựng mấy đời vì hôn quân hám sắc mà đổ nát. Bởi Thái Sư Văn trọng mắc dẹp loạn Bắc phương nên hôn quân mới vứt bỏ lề luật, u ám như vậy. Mai Bá này chết xuống suối vàng vẫn còn xấu hổ không dám nhìn thấy mặt tiên quân.
Trụ Vương bị Mai Bá mắng giận lắm, truyền võ sĩ bắt Mai Bá đem ra pháp trường lấy dùi đồng đập cho nát đầu để làm gương.
Ðắc Kỷ quỳ tâu:
– Xin bệ hạ tạm hoãn lại đạ.
Trụ Vương hỏi:
– Loạn thần mắng vua như thế, mỹ nhân còn can gián làm gì?
Ðắc Kỷ tâu:
– Làm tôi mà đứng trước đền trợn mắt, nhíu mày, dùng lời lẽ sỉ mắng vua như vậy thì dù có đập nát đầu cũng chưa đền tội được. Xin bệ hạ truyền cầm tù Mai Bá một đôi ngày để thần thiếp chế ra một dụng cụ hành hình, làm cho những kẻ nghịch thần trông thấy khiếp vía thì sau này mới trấn áp được những kẻ ngông cuồng như Mai Bá.
Vua Trụ hỏi:
– Mỹ nhân định chế ra dụng cụ gì?
Ðắc Kỷ tâu:
– Vật ấy gọi là Bào Lạc, hình thù như cây cột đồng, bề cao 29 thước, bề tròn 8 thước, có khoét ba cái miệng đựng lửa than. Cột đồng ấy đúc bằng đồng lọc. Lúc muốn hành hình một tội nhân thì quạt lửa cho cột đồng đỏ lên, rồi trói tội nhân lại dí vào đấy, tức thì xương thịt tội nhân cháy thành tro trong nháy mắt. Thần thiềp nghĩ rằng không dùng hình phạt như vậy thì không sao trừ được những kẻ già mồm miệng, những tôi thần phản nghịch mắng vua, không kể pháp luật.
Trụ Vương khen:
– Lối trừng phạt của mỹ nhân quả xứng đáng. Vậy mỹ nhân vẽ kiểu để truyền quân sĩ làm Bào Lạc cho gấp.
Nói rồi truyền dẫn Mai Bá đem nhốt ở thiên lao, chờ ngày hành tội.
Thương Dung thấy Vua Trụ nghe lời Ðắc Kỷ làm Bào Lạc hại tôi trung để ở trước cung Thọ Tiên thì nghĩ thầm:
– Nay nước nhà gần mất, vua nghe lời của yêu mị không kể gì đến tình vua tôi nữa. Ta những tưởng có thể khuyên can để cải hóa Cửu Trùng, ngờ đâu càng ngày vua càng thiếu đức, nếu ta còn góp mặt ở triều đình thì cũng chì làm bù nhìn cho hôn quân, chẳng ích gì cho dân chúng nữa. Chẳng thà lánh mặt đi là hơn.
Nghĩ rồi vào tâu với Vua Trụ:
– Nay thiên hạ thái bình, nước nhà thạnh trị, tôi tuổi tác đã già, lẩm cẩm không giúp ích được việc gì cho bệ hạ nữa, nếu cứ mãi ở địa vị cao sang mà không tròn trách vụ, e mắc tội với triều thần, vậy xin được phép đem nắm xương tàn về thôn dã, cởi áo mão gửi lại, nhường cho kẻ tài ba. Hạ thần làm tôi đã ba trào, tài hèn đức mọn, không bị quở trách cũng là ơn lắm rồi.
Vua Trụ nói:
– Khanh tuy tuổi đã cao, nhưng sức còn mạnh, lẽ nào bỏ Trẫm mà về quê hưởng thú thanh nhàn.
Thương Dung nói:
– Bệ hạ cho thần cáo hưu về xứ, nếu còn sống được ngày nào cũng ước mong được thấy mặt trời Nghiêu, ơn đức ấy còn gì hơn.
Trụ Vương nói:
– Khanh là tôi có công mấy đời với nghiệp đế chưa hề bị lầm lỗi điều gì. Nay ý khanh đã quyết, Trẫm đâu dám làm phật ý.
Liền sai hai vị thái giám dùng lễ vật đưa Thương Dung về quê, truyền quan sở tại phải ân cần thăm viếng Thương Dung luôn để tỏ tình tôi chúa.
Bấy giờ các quan nghe tin Thừa Tướng Thương Dung trả chức về hưu đều mến tiếc.
Có người cho Thương Dung hèn nhát, gặp lúc quốc gia nguy vong không đem thân cứu nước, trốn tránh nhiệm vụ, tìm lẽ sống riêng.
Có kẻ cho hành động Thương Dung là một hành động phản đối Trụ Vương, mong cho Trụ Vương thấy đó mà hồi tỉnh lại. Tuy vậy, không ai dám nói ra.
Hoàng Phi Hổ, Tỉ Can, Vi Tử, Cơ Tử, Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển và các vị thân vương đồng họp nhau làm tiệc nơi Trường Ðình để tiễn hành.
Tỉ can hỏi Thương Dung:
– Hôm nay Thừa Tướng hồi hương, chúng tôi ai cũng bùi ngùi cảm mến. Ðã ba trào vua, Thừa Tướng là người đứng đầu trong nước, giúp chúa trị dân, nay nỡ nào đành bỏ cơ nghiệp Thành Thang, bỏ cả bạn hữu đồng triều, lánh mặt về quê hưởng riêng một thú?
Thương Dung rươm rướm nước mắt nói:
– Xin các vị vương thân chớ chê trách. Tôi dẫu phải nghiền xương đền nợ nước cũng không dám từ nan. Ngặt nay chúa thượng nghe lời Ðắc Kỷ chế hình Bào Lạc hại trung thần. Một hình phạt rất dã man tàn nhẫn, tôi không thể can gián nổi. Nghĩ mình tài hèn trí mọn, không xứng ngồi ghế Thừa Tướng trong lúc này, nên cởi áo từ quan ước mong có một kẻ nào đủ tài đức, cứu vãn được cảnh tai ương này, lên thế tôi cầm quyền chính, giác ngộ thánh hoàng, thì cơ nghiệp Thành Thang mới có cơ bền vững, bằng không nước nhà ly loạn không lâu. Tôi từ chức là vì lẽ đó, chớ đâu dám trốn tránh nhiệm vụ, nuôi dưỡng tấm thân yếu hèn này làm gì. Hôm nay các ngài làm tiệc tiễn hành, nhưng chẳng may nước nhà vẫn không thoát khỏi cơn khói lửa thì những ly rượu này vẫn là những ly rượu hẹn ngày tái ngộ trong phút lâm chung, xin các ngài hiểu lòng tôi như vậy.
Nói rồi tay bưng rượu, miệng ngâm bài thơ:
Cảm nghĩa đưa nhau rượu một chung
Trrường đình giả bạn tủi khôn cùng
Nghoảnh đầu trông lại thành hai kiếp
Về ruộng cầu mong vững chính trùng
Nhật đỏ không tiêu danh Hạ, Kiệt
Lòng son khó nhuộm máu Long, Phùng
Tỏ lời lệ nhỏ hòa chun rượu
Mong thuở về trào viếng bạn trung
Ai nấy nghe mấy vần thơ của Thương Dung cũng rơi lệ.
Thương Dung lên ngựa, các quan đưa đón hơn mười dậm mới trở về.
Trong lúc đó Vua Trụ vẫn chìm ngập trong tửu sắc, khồng hề nghĩ đến việc nước nhà.
Cách ít hôm, thợ làm Bào Lạc đã xong, Vua Trụ mừng lắm, hỏi Ðắc Kỷ:
– Bào Lạc đã làm rồi, mỹ nhân định liệu thế nào?
Ðắc Kỷ truyền đem Bào Lạc đến xem.
Quân sĩ tuân lệnh đẩy Bào Lạc đến trước cửa cung.
Trụ Vương và Ðắc Kỷ bước ra xem thấy một cột đồng cao lớn, dưới có bánh xe, đẩy đi rất dễ.
Ðắc Kỷ soát lại một hồi rồi khen:
– Thợ làm rất đúng cách. Trụ đồng này nếu đốt lửa thì sức nóng phi thường, không tưởng tượng nổi.
Trụ Vương nói:
– Ðể ngày mai Trẫm đem ra thí nghiệm đốt Mai Bá tại triều cho quần thần thấy kinh hoàng vỡ mật.
Ðắc Kỷ nói:
– Bệ hạ đủ can đảm làm như vậy thì bọn nghịch thần mới khiếp uy.
Trụ Vương nói:
– Mỹ nhân chế ra được báu vật trị đời, công của mỹ nhân rất lớn.
Sáng hôm sau, tuy trong mình mỏi như giần, Trụ Vương vẫn gượng dậy sớm ra trước triều, truyền đánh ba hồi trống triệu tập quần thần lại.
Triều thần đã hơn nửa năm không thấy mặt vua, nay được thiết triều ai nấy mừng rỡ, vội vã ứng hầu đủ mặt.
Sau khi triều bái xong. Vua Trụ không xem sớ, cũng không xét việc gì khác, chỉ truyền quân đẩy Bào Lạc ra trước sân rồng.
Hoàng Phi Hổ thấy trụ đồng cao chất ngất, không hiểu là vật gì, để dùng làm gì. Còn các quan hình như cũng không ai hiễu, đưa mắt nhìn nhau không dám nói gì.
Vua Trụ truyền lệnh dẫn Mai Bá ra, đồng thời đốt từng lửa, quạt cho ống đồng thật đỏ, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, trông thật ghê hồn.
Quân vào ngục dẫn Mai Bá ra đến ngọ môn.
Các quan thấy Mai Bá đầu bù tóc rối, không đội mảo, không mặc áo, mình mẩy dơ bẩn vì đã bị giam vào ngục hơn một tuần rồi.
Mai Bá đến trước sân rồng, quỳ nói:
– Tôi là Mai Bá cúi đầu ra mắt bệ hạ.
Vua Trụ chỉ Bào Lạc, gọi Mai Bá nói:
– Thằng khốn nạn! Ngươi biết vật gì đó không?
Mai Bá nhìn không biết vật gì kỳ lạ, liền tâu:
– Hạ thần không hiểu vật đó để làm gì cả.
Trụ Vương nói:
– Bởi ngươi già hàm, vào cung lớn tiếng chửi vua, nên Trẫm chế ra vật ấy để đốt ngươi cho tan xương nát thịt, làm gương cho những kẻ bất trung, phản nghịch đó.
Mai Bá nghe nói nổi giận, mắng lớn:
– Hôn quân vô đạo! Ta làm quan Ðại Phu đã ba trào, công nghiệp đến bực nào mà phải chịu hành hình như vậy? Ta coi cái chết như lông hồng, chỉ tiếc cơ nghiệp Thành Thang một phút bị đứa hôn quân làm đổ nát. Ta chết không nỡ nhìn thấy các tiên vương dưới suối vàng.
Vua Trụ giận dữ, truyền quân dùng lòi tói cột hết tay chân Mai Bá dí vào Bào Lạc. Tội nghiệp! Mai Bá chỉ kịp ré lên một tiếng, xương thịt cháy khét lẹt, phút chốc thành tro. Một tấm lòng trung, một thân đầy nghĩa khí, chỉ một phút chốc không còn gì hết.
Người sau xem chuyện này có làm thơ than:
Xương thịt tuy là hóa bụi tro
Lòng son vì nước giữ bo bo
Sống vì nghĩa chúa lo ngay thẳng
Chết giữ danh thơm chẳng đắn đo
Lửa đốt hồn linh chầu tiên đế
Tiếng khen sử sách vẫn không mờ
Hỡi ai đầu bẹo trên cờ trắng
Có nhớ lời trung nước dặn dò
Ðốt Mai Bá trước sân chầu, Trụ Vương cố ý làm cho triều thần khủng khiếp, không dám can gián vua nữa. Nhưng sự thực, trước mặt Trụ Vương ai trông thấy cũng chán nãn không muốn can gián làm gì. Người nào mặt cũng lầm lầm lì lì không nói.
Họ không sợ chết, không dám can vua, nhưng vì họ thấy can cũng vô ích, thà từ quan lui về đồng ruộng còn hơn. Do đó chẳng ai nói một lời, cứ đưa mắt nhìn nhau thôi.
Vua Trụ không hề hiểu tâm trạng của triều thần lúc ấy, tưởng các quan ai cũng sợ cách trừng phạt của mình, nên trong lòng lấy làm đắc ý.
Vua truyền bãi chầu về cung, các quan lặng lẽ lui gót, chỉ còn lại các vì Vương nghẹn ngào trong đau đớn.
Tỷ Can nói với Hoàng Phi Hổ:
– Trong lúc Bắc phiên nổi loạn, Thái Sư Văn Trọng bận đi dẹp giặc xa, không ngờ ở nhà thiên tử đắm say tửu sắc nghe lời Ðắc Kỷ chế hình Bào Lạc giết tôi trung. Nếu tiếng đồn đến tai chư hầu chẳng biết thiên hạ sẽ đảo huyền đến bực nào. Chúng ta hưởng lộc triều đình đã mấy trào, chẳng lẽ khoanh tay ngồi ngó tai ương thân họa sắp đến?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Bệ hạ đốt Mai Bá không phải chỉ đốt một tôi trung mà đốt cả cơ nghiệp Thành Thang đấy. Lời xưa có nói: Vua bất minh tôi ắt loạn. Mối nước không thể nào gìn giữ được nữa. Chúng ta ngồi đây cũng không biết chết sống ngày nào, đừng nói là Mai Bá.
Các vị thân vương đều nhìn nhau thở dài, nhưng không ai có kế sách gì cả, đều gạt lệ trở về tư dinh.
Còn Vua Trụ, sau khi đốt Mai Bá xong, hăm hở trở về cung Thọ Tiên, có Ðắc Kỷ bước ra nghênh tiếp.
– Mỹ nhân bày ra Bào Lạc thật hay lắm. Bữa nay Trẫm đem Mai Bá ra đốt giữa sân triều, các quan đều kinh tâm táng đỡm, không ai dám thò đầu ra nói lời nào. Thật Bào Lạc là vật báu trị dân, yên nhà lợi nước. Từ rày sắp tới Trẫm không còn kẻ hỗn láo, buông lời nhục mạ Trẫm nữa.
Ðắc Kỷ nói:
– Những kẻ khi quân nếu không dùng đến cực hình ghê gớm thì trị sao nổi. Thần thiếp còn nhiều cách khác chưa dùng đến.
– Mỹ nhân có cách gì hay cứ cho Trẫm biết, đừng ngại gì cả.
– Trẫm được mỹ nhân bên cạnh thì lo gì trị nước không xong.
Khen rồi tuyền nội thị bày yến tiệc đãi Ðắc Kỷ, tán thưởng tài năng của mỹ nhân.
Bấy giờ, tiếng tơ vọng trúc vang rền, bàn tiệc không thiếu gì món ngon vật lạ, Vua Trụ vừa ăn vừa xem Ðắc Kỷ múa hát, tâm hồn như bay bổng trên chín từng mây, không còn biết gì là khuya sớm nữa. Cho đến lúc trống đã trở canh ba mà tiếng nhạc còn réo rắc vang một góc trời.
Ðêm ấy Khương hoàng hậu không ngủ được, nghe tiếng nhạc vang vầy, liền hỏi mấy cung nữ:
– Trống đã trở canh ba, sao còn tiếng nhạc ở đâu náo nhiệt như thế?
Cung nữ thưa:
– Ðó là tiếng đàn bên cung Thọ Tiên. Chúa thượng cùng Tô mỹ nhân vui chơi đó.
Khương hoàng hậu than:
– Lúc này ta có nghe tin hoàng thượng nghe lời Tô Ðắc Kỷ chế hình Bào Lạc đốt Mai Bá giữa triều. Mai Bá là một tôi trung, phò vua đã ba đời, sao nỡ hành hình thảm thiết như vậy? Thế là hoàng thượng bị con khốn kiếp này khuynh đảo tinh thần, không còn phân định được phải trái nữa. Ta làm hoàng hậu chưởng quản tam cung lục viện lẽ đâu thấy việc trái mắt mà không nói tới.
Nói rồi truyền cung nữ đẩy xe, xách đèn đến cung Thọ Tiên.
Lúc này Trụ Vương đang uống rượu với Ðắc Kỷ, có Huỳnh Môn quan vào tâu:
– Khương hoàng hậu đến trước cửa cung xin vào ra mắt.
Trụ Vương đang say rượu, lại thức khuya, hai con mắt lim dim lè nhè nói với Ðắc Kỷ.
– Có Chánh cung đến, mỹ nhân nên ra thủ lễ rước Chánh cung vào.
Ðắc Kỷ tuân lệnh bước ra trưóc cửa nghiêng mình uốn gối quỳ xuống tiếp đón.
Khương hoàng hậu truyền đỡ Ðắc Kỷ dậy.
Ðắc Kỷ dắt Khương hoàng hậu vào cung, đồng yết kiến Trụ Vương.
Trụ Vương truyền dành chổ cho Khương hoàng hậu ngồi và tiếp tục bày tiệc đãi Khương hoàng hậu.
Khương hoàng hậu ngồi một bên Vua Trụ, trong lúc đó Ðắc Kỷ lễ mễ đứng hầu trông rất phải phép.
Vua Trụ đẹp lòng nói với Khương hoàng hậu:
– Ái hậu sang đây chung vui, Trẫm mừng lắm.
Liền truyền Ðắc Kỷ đờn ca múa hát để cho hoàng hậu xem.
Ðắc Kỷ tuân lệnh vua, vừa múa vừa ca, thân hình yểu điệu, xiêm y lả lướt chẳng khác gì Hằng Nga múa khúc Nghê Thường trên Nguyệt điện, tiếng hát lại thanh tao như tiếng chim đầu Xuân.
Vua Trụ mê ly quên cả trời đất.
Còn Khương hoàng hậu mặt dàu dàu, ngồi nhìn xuống đất, không uống rượu, cũng không thưởng thức nhạc khúc của Ðắc Kỷ đang trình diển trước mắt.
Trụ Vương trông thấy không hài lòng, hỏi:
– Hậu ơi! Ngày tháng như thoi đưa, đời người chẳng khác bóng câu qua cửa sổ, chẳng mấy chốc đã trở về già, không ăn chơi cho thỏa chí bình sanh thì còn gì thú vị nữa. Như giọng ca tiếng hát của Tô mỹ nhân đây, dù Hằng Nga trên cung trăng cũng không sánh kịp, sao Hậu không uống rượu nghe đàn, lại buồn rầu như vậy.
Khương hoàng hậu vội bước xuống quỳ tâu:
– Thần thiếp lòng không vui, dù có tiên xuống phàm múa hát cũng không làm khuây được.
Trụ Vương lè nhè:
– Thì Tô mỹ nương có thua gì tiên nữ chốn bồng lai? Hậu không biết thưởng thức cái hay cái lạ đó?
Khương hoàng hậu nói:
– Ðắc Kỷ múa hát có gì gọi là báu lạ đâu?
Trụ Vương hỏi:
– Như vậy thì thế nào mới gọi là báu lạ?
Khương hoàng hậu nói:
– Thần thiếp nghe nói hễ vua có đạo đức thì khinh của quí mà trọng đức lành, đuổi tôi gian, xa sắc dục. Ðó mới chính là cái báu lạ của nhà vua.
Trụ Vương cười ha hả, nói:
– Trẫm làm vua, giàu sang bốn biển, muốn hưởng thú gì không có, dẫu trong trời đất, báu lạ nào Trẫm lại không có quyền hưởng đến?
Khương hoàng hậu nói:
– Trời chỉ có những báu lạ là mặt nhật, mặt nguyệt và các vì tinh tú. Ðất chỉ có những báu lạ là năm thứ thóc, năm thứ giống trái. Nước chỉ có báu lạ là tôi ngay, tướng giỏi. Nhà chỉ có báu lạ là con cháu thảo hiền. Những báu lạ như vậy bệ hạ không tìm hưởng, lại chọn ca, lựa múa, nghe lời dua nịnh, giết tôi ngay, gần gũi sắc dục, đó không phải là báu lạ mà chính là thứ làm mất nước, xin bệ hạ bỏ đi dừng tiếc. Bớt rượu, xa tửu sắc, chăm lo chính sự, sửa nết răn mình, thì họa may trời xuống phúc, thiên hạ thái bình, bốn biển yên vui.
Vua Trụ đang say nghe những lời nói của Khương Hậu chẳng khác nào như những gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt, cơn giận dữ nổi lên, mắng lớn:
– Ðồ khốn nạn, không biết điều. Trẫm tưởng tình sai mỹ nhân múa hát cho nghe, đã không màng tới còn làm ra mặt dạy đời. Khổ vì nó ở địa vị chánh cung, do tiên quân lựa chọn, nếu không ta sai lấy dùi đồng đập cho nát óc mới hả giận.
Vua Trụ nói lảm nhảm, đôi mắt lim dim, ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.
Ðến canh tư, Trụ Vương mới giật mình tỉnh rượu thấy trong mình không được khoan khoái, nhớ lại những lời của Khương Hoàng Hậu vừa rồi thì lửa giận còn đang trong lòng, liền gọi Ðắc Kỷ bảo:
– Mỹ nhân ơi, Chánh cung vô lễ, lòng Trẫm chưa nguôi, vậy mỹ nhân múa hát một hồi nữa để Trẫm làm khuây.
Ðắc Kỷ quỳ tâu:
– Từ rày sắp lên thần thiếp không dám múa hát nữa.
Trụ Vương hỏi:
– Vì sao mỹ nhân lại nói thế?
Ðắc Kỷ tâu:
– Hoàng Hậu quở trách việc ca hát là hư nhà hại nước, thần thiếp xét lời ấy cũng có lý. Thần thiếp thân phận tôi đòi, vào chầu bệ hạ, được bệ hạ yêu dấu gần gũi một phút không rời. Nếu trái lệnh Hoàng hậu, một là phải bị đuổi ra khỏi cung cấm không còn được thấy mặt bệ hạ nữa, hai là Hoàng Hậu lấy cớ nói thần thiếp quyến rũ bệ hạ bỏ bê việc nước, kết tội thần thiếp thì thần thiếp lấy gì mà che chở nổi?
Ðắc Kỷ nói dứt lời, đôi dòng nước mắt chảy ròng ròng xuống má, mặt mày ủ ê, trông rất khổ nảo.
Vua Trụ thấy thế càng giận Khương Hoàng Hậu hơn, nói:
– Mỹ nhân cứ ca hát cho Trẫm giải khuây. Con khốn nạn ấy chẳng đếm xỉa tới làm gì. Ðể mai Trẫm sẽ phế nó xuống, lập mỹ nhân lên làm Hoàng Hậu. Trẫm uy quyền tuyệt đỉnh, muốn làm gì chẳng được?
Ðắc Kỷ giả cách hoan hỉ, múa hát tưng bừng, suốt đêm không nghỉ.
Ngày kia nhằm ngày mồng một, các cung phi đều phải vào chầu Hoàng Hậu theo lệ thường.
Hoàng Quý Phi và Dương Quý Phi đến trước.
Hoàng Hậu và hai Quý Phi đang ngồi tâm sự thì có cung nga vào báo:
– Có Tô Ðắc Kỷ đứng hầu ngoài cửa.
Khương Hoàng Hậu cho vào.
Ðắc Kỷ khép nép vào đến nơi, thấy Khương Hoàng Hậu ngồi giữa, Hoàng Quý Phi và Dương Quý Phi ngồi hai bên vội sụp lạy ra mắt.
Khương Hoàng Hậu truyền cung phi đỡ dậy, Ðắc Kỷ đứng hầu một bên trông rất là phải lễ.
Dương Quý Phi đến trước mặt hỏi:
– Tô mỹ nhân là người này có phải không?
Khương Hoàng Hậu đáp:
– Phải. Nàng này chính là Tô Ðắc Kỷ, con gái Tô Hầu ở Ký Châu.
Dứt lời, Khương Hoàng Hậu quay trở lại quở Ðắc Kỷ:
– Thiên tử ở cung Thọ Tiên, ngày đêm đắm mê tửu sắc, phế việc triều đình, sao ngươi không có một lời can gián, cứ ngày đêm đờn ca múa hát, làm cho rối lòng thiên tử, đến nỗi thiên tử không tưởng đến việc phải quấy, nghe lời nịnh, giết tôi ngay, bỏ phép Thành Thang, làm suy mối nước. Những việc ấy là tại ngươi cả. Nếu ngươi không chừa thói cũ, chẳng tuân lệnh trên. Ta sẽ lấy phép công mà trị đó.
Ðắc Kỷ giận đỏ mặt, nhưng buộc thế phải làm thinh, cúi đầu không nói nửa lời.
Tan buổi chầu, Ðắc Kỷ trở về ngồi một mình than thở.
Người cung nga hầu cận là Cổn Quyên trông thấy thế, bước đến hỏi:
– Nương Nương vào chầu Hoàng Hậu có việc gì không vui?
Ðắc Kỷ nghiến răng:
– Ta là Hậu Phi, được bệ hạ yêu dấu, mà Khương Hoàng Hậu ỷ quyền Chánh Cung mắng nhiếc ta trước mặt hai vị Quý Phi, xấu hổ không thể tả. Oán này biết bao giờ mới trả được?
Cổn Quyên nói:
– Bệ hạ đã hứa cho Nương Nương lên làm Hoàng Hậu thì lo gì oán ấy không trả xong?
Ðắc Kỷ nói:
– Tuy bệ hạ yêu ta mà hứa như vậy, chớ phế một Hoàng Hậu không phải là dễ. Triều thần sẽ ngăn cản, thiên hạ sẽ dèm siểm. Hơn nữa, Chánh Hậu còn sờ sờ ra đó. Bệ hạ làm sao xô xuống được mà đưa ta lên chiếc ghế uy quyền ấy? Muốn được việc phải tìm cách giết Chánh Cung đi thì mới xong. Ngươi có mưu nào hay không?
Cổn Quyên nói:
– Tôi là phận đàn bà con gái, tính kế sao được? Nếu Nương Nương muốn mưu việc lớn thì nên cậy một vị đại thần bày mưu mới tiện.
Ðắc Kỷ hỏi:
– Vị đại thần nào dám vào đây? Vả lại, ta xem phần các quan trong triều đều chống đối bệ hạ, nếu ta mời tới e lậu tiếng chăng.
Cổn Quyên nói:
– Tôi có biết quan cận thần Bí Trọng được vua yêu dùng và cũng rất ham tiền của địa vị. ngày mai nhân lúc bệ hạ đi dạo vườn, Nương Nương cho mời Bí Trọng đến đây tôi sẽ cậy Bí Trọng bày một kế mà hại Hoàng Hậu. Xong việc, Nương Nương nhớ bảo tâu với Thánh Hoàng cho Bí Trọng thăng chức thì thế nào Bí Trọng cũng thỏa lòng.
Ðắc Kỷ nói:
– Việc này ta cậy vào ngươi. Nhớ đừng để lộ chuyện nguy hiểm đấy.
Cổn Quyên nửa nói đùa nửa nói thật:
– Ðịa vị của Nương Nương hiện giờ muốn gì chẳng được, huống hồ hại một Hoàng Hậu. Xin cứ để tôi lo cho.
Ðắc Kỷ nói:
– Ta chỉ sợ Bí Trọng không chịu giúp.
Cổn Quyên nói:
– Danh giá là miếng mồi sai khiến muôn người. Chỉ sợ Nương Nương không cần đến thôi, chứ nếu sai khiến thì ai chẳng tuân.
Hôm sau trời nóng, Ðắc Kỷ rủ Trụ Vương ra dạo ngoài vườn hoa. Cổn Quyên thừa dịp sai nữ tỳ mời Bí Trọng đến cung, lén đưa cho Bí Trọng một bức mật thư và nói:
– Thư này do Tô Nương Nương gởi. Quan Ðại Phu phải coi một mình đừng tiết lộ cho ai biết. Nếu việc thành công thì tước quyền không nhỏ. Phải mau mau tính kế, đừng để trễ.
Bí Trọng nhận mật thư, trở về dinh mở ra xem, thấy Ðắc Kỷ nhờ tìm kế giết Khương Hoàng Hậu.
Bí Trọng nghĩ thầm:
– Khương Hoàng Hậu là con gái của Khương Hoàn Sở, mà Khương Hoàn Sở đang trấn tại Ðông Lổ, binh rồng tướng mạnh vô địch khắp chư hầu. Ðã vậy, Khương Hoàn Sở có đứa con trai là Khương Văn Hoán tài năng xuất chúng, cầm đầu tướng lãnh dư ngàn người, nếu ta hại không được e chết cả họ. Vả lại Khương Hoàng Hậu ở với thiên tử đã sanh được hai vị Hoàng Tử, thế lực trong ngoài như vậy thực khó lòng trừ được. Tốt hơn hết ta không nên động đến nguy hiểm.
Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Bí Trọng thấy cũng không xong. Ðắc Kỷ là cục cưng của vua Trụ, nếu không lập kế hại Khương Hoàng Hậu, làm phật lòng Ðắc Kỷ, thì trong lúc vua say rượu, hoặc đang lúc ấp yêu, Ðắc Kỷ tâu ra tâu vào, mạng mình chắc chết….
Tới lui khó nghĩ, ngồi đứng không yên, Bí Trọng tính cả ngày vẫn không tìm ra được mưu kế nào thích đáng. Bỗng có tên gia nhân khổ người vạm vỡ, mình cao một trượng, lưng nách như voi vừa đi tới. người tên Khương Hoàn, trước kia ở tại Ðông Lổ, nghèo khổ được Bí Trọng đem về sai khiến bấy lâu nay.
Vừa thấy Khương Hoàn, Bí Trọng nẫy sanh ra một kế, vội gọi Khương Hoàn đến hỏi:
– Khương Hoàn, ngươi đi đâu vậy?
Khương Hoàn thưa:
– Tôi thấy vắng đại quan nơi thính đường nên đi tìm. Xin đại quan tha lỗi.
Bí Trọng nói:
– Ngươi có lòng với ta như vậy là điều tốt, tội lỗi gì đâu. Ngươi ở với ta được bao nhiêu lâu rồi?
Khương Hoàn nói:
– Ðã năm năm, tôi từ Ðông Lổ sang đây sống nhờ đại quan. Trước kia tôi nghèo khổ quá, ngày nay được no ấm như vầy, tôi tưởng ơn của đại quan không biết ngày nào tôi trả nổi.
Bí Trọng nói:
– Ta nuôi ngươi lâu nay là có ý dùng vào việc lớn. Nay việc lớn đã đến, chẳng biết ngươi có vì ta mà hết lòng không?
Khương Hoàn thưa:
– Tôi mang ơn đại quan, dù tan xương nát thịt tôi vẫn không dám từ nan. Nếu đại quan có việc gì cần đến kẻ ngu muội này thì xin cứ chỉ bảo.
Bí Trọng nói:
– Việc này hệ trọng lắm. Nếu ngươi làm được chẳng những lộc lớn quyền cao mà ngươi có thể tiến thân nữa. Nhưng nếu ngươi để lậu ra cho người ngoài biết được thì chúng ta chết cả lũ.
Khương Hoàn nói:
– Xin đại quan tin vào lòng trung thành của tiểu nhân là đủ.
Bí Trọng liền dặn nhỏ Khương Hoàn hồi lâu rồi trao mật kế. Khương Hoàn tuân lệnh ra đi.
Bí Trọng lại thảo một mật thư, nói rõ kế của mình, lén trao cho Cổn Quyên trình lên cho Ðắc Kỷ biết.
Ðắc Kỷ xem thư mừng lắm, đinh ninh chuyến này nhất định hại Khương Hoàng Hậu như chơi.
Ngày kia nhân lúc Trụ Vương đang vui, Ðắc Kỷ liền tâu:
– Bệ hạ vì quá quyến luyến thần thiếp không ngự triều. Thần thiếp e bỏ lâu ngày các quan sanh dị tâm. Vậy ngày mai bệ hạ nên bỏ chút ít thì giờ ra đàm luận quốc sự.
Trụ Vương khen:
– Mỹ nhân có ý lo đến xã tắc. Ðàn bà như vậy thật là ít có, dẫu những Phi Hậu hiền đức tới đâu cũng không sánh kịp. Thôi để ngày mai Trẫm lâm trào họp bàn với các quan cho mỹ nhân đẹp dạ.
Trụ Vương có ngờ đâu đó là mưu mô của Bí Trọng đã thông đồng với Ðắc Kỷ.
Sáng hôm sau Ðắc Kỷ lại hối thúc Trụ Vương lâm triều.
Trụ Vương truyền nổi trống đền để triệu tập các quan đến hầu cho đủ mặt.
Các quan ai nấy đều lạ lùng, không hiểu tại sao đã mấy tháng trời đắm mê tửu sắc, ở mãi trong cung, bỏ phế triều chính, nay Trụ Vương bỗng nhiên đổi khác.
Mọi người đều sửa soạn triều bái chúc mừng.
Vua Trụ từ trong cung Thọ Tiên ngồi long xa đi ra, hai bên có tả hữu hộ giá. Khi đến Phấn Cung, đèn thắp sáng lòa, mùi hương ngào ngạt. Xẩy có một người cao lớn, ẩn mình trong xó, đầu bịt khăn ngang, tay cầm gươm báu, nhảy ra hét lớn:
– Hôn quân đắm mê tửu sắc, ta vâng lệnh Hoàng Hậu đến giết hôn quân, đem sự nghiệp Thành Thang về cho chúa ta sửa trị.
Nói rồi lướt tới đâm đùa. Các quan bảo giá liền cản lại giật gươm, bắt trói người ấy tức khắc.
Vua Trụ giận lắm, truyền dẫn tên thích khách ra trước triều vấn tội.
Các quan tung hô xong, Trụ Vương gọi Hoàng Phi Hổ và Tỉ Can đến trước đền, nói:
– Hôm nay Trẫm lâm triều có chuyện lạ lùng lắm.
Tỉ Can hỏi:
– Bệ hạ có việc gì vậy?
Trụ Vương nói:
– Lúc ta ra đền, vừa đến Phấn Cung, có một người trong xó tối nhảy ra chém Trẫm. Tuy đã bắt được nó rồi, nhưng việc này rất trọng đại, cần phải tra xét kỹ càng để hiểu rõ ngọn nghành hành động phản loạn ấy.
Hoàng Phi Hổ thất kinh, hỏi các quan:
– Ðêm hôm rồi vị nào tuần đền mà để gian tế lén vào cung được?
Quan Tổng Binh Lê Hùng quỳ thưa:
– Tôi tuần cả đêm không thấy ai hết. Chắc là vào lối canh năm nó trà trộn với quan trào vào lầu Phấn Cung để xuẩn nghịch đấy.
Hoàng Phi Hổ truyền dẫn tên thích khách ra.
Trụ Vương nói:
– Ai muốn thay mặt Trẫm tra xét vụ này?
Bí Trọng liền bước tới quỳ tâu:
– Hạ thần xin lãnh việc này cho.
Ðó chính là âm mưu của Bí Trọng lập ra trước.
Tên thích khách là Khương Hoàn, gia nhân của Bí Trọng sai khiến.
Bí Trọng làm quan gián nghị, lẽ ra không có quyền tham dự vào việc tra xét gian nhân, nhưng vì Bí Trọng sợ để người khác tra xét, đánh đập, Khương Hoàn khai toạc ra thì mang họa.
Trụ Vương nhận lời.
Bí Trọng dẫn Khương Hoàn ra trước Ngọ Môn, không tra hỏi, đánh đập gì hết mà Khương Hoàn vẫn khai đủ điều.
Bí Trọng vội vào trước bệ, quì tâu:
– Hạ thần đã tra hỏi gian nhân xong. Việc rất quan trọng.
Các quan ai nấy đều lắng tai nghe.
Trụ Vương hỏi:
– Ðứa hung phạm nghe lời ai sai khiến mà hành động như vậy?
Bí Trọng gật gù tâu:
– Việc này hạ thần chẳng dám tâu.
Trụ Vương hét:
– Ngươi đã lãnh mệnh tra hỏi gian nhân, sao lại ú ớ như vậy?
Bí Trọng nói:
– Nếu bệ hạ tha tội cho hạ thần, hạ thần mới dám thuật lại lời của gian nhân đã cung khai.
Trụ Vương nói:
– Ngươi cứ khai sự thật, giữa đây có đầy đũ mặt văn võ bá quan xét xử.
Bí Trọng tâu:
– Thích khách họ Khương tên Hoàn là gia tướng của Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở. Nó vâng lệnh Khương Hoàng Hậu làm chuyện thí quân để Khương Hoàng Sở có dịp cướp ngôi. Nay bệ hạ phước lớn tày trời nên gian nhân mới bị bắt.
Trụ Vương nghe tâu vổ án hét như sấm:
– Khương Hậu là người hôn phối của Trẫm mà làm điều phản nghịch như vậy thì còn đạo lý gì nữa. Nếu trong cung đã sinh tệ thì họa tới bên mình. Giặc bên ngoài còn đề phòng được chớ giặc trong thành làm sao giữ được? Trẫm giao việc này cho Tây Cung Hoàng Quí Phi tra hỏi Khương Hậu cho rõ ràng rồi tâu lại cho Trẫm biết.
Dứt lời Trụ Vương đứng dậy về cung tức khắc, không hỏi han gì đến các việc khác đang chờ mệnh vua.
Các quan hôm ấy vào triều bệ kiến đã sắp xếp rất nhiều công việc để tâu trình, nhưng gặp việc bất thường như vậy ai nấy đều bàn tán xôn xao quanh vụ thí quân, và cũng không nói đến việc riêng của mỗi người nữa.
Quan Ðại Phu Dương Nhậm nói với Hoàng Phi Hổ:
– Khương Hoàng Hậu lâu nay có tiếng đoan chính và hiền lành, trị trong cung rất phải phép, chưa chắc đã làm chuyện như vậy. Tôi nghi trong cung có kẻ bày mưu để hại Hoàng Hậu chăng? Nếu chúng ta bỏ về hết, gian nhân có dịp lộng hành thì oan cho Hoàng Hậu lắm. Vậy chúng ta ở lại đây, đợi tin Tây Cung Hoàng Quí Phi tra xét ra sao đã rồi sẽ liệu.
Các quan nghe theo, họp nhau nơi đền Cửu Giao chờ tin tức.
Bây giờ Khương Hậu đang ngồi trong cung, xẩy thấy quan Phụng Ngự cầm chiếu vua đem vào. Khương Hậu vội quỳ nghe đọc chiếu như sau:
“Hoàng Hậu ví thiên tử như đất sánh với trời, làm mẹ chung cả thiên hạ, mà chẳng lo đức chánh cho tròn. Lẽ ra phải coi sóc việc trong cung, giữ gìn giềng mối, để tiếng tốt về sau. Thế mà lại nuôi trai mạnh là Khương Hoàn, khiến núp trong Phấn Cung đón đường giết Trẫm. May mà mạng Trẫm chưa tuyệt nên mới bắt được gian nhân. Sau tra trước đền, gian nhân thú nhận rằng Khương Hậu tư thông với cha là Khương Hoàng Sở toan cướp ngôi vua. Như thế đạo tam cang không tròn. Trẫm đã truyền bắt Khương Hoàng Hậu giải đến Tây Cung, nhờ Thứ Phi tra hỏi. Vậy Thứ Phi cứ chiếu theo công luận chớ nên vị tình.
– Ôi chao! Tại sao có việc lạ lùng? Ta xưa nay ở trong cung lo bề đức hạnh, tránh điều lỗi, sợ tiếng chẳng lành. Chẳng biết thằng giặc nào sanh sự, đổ tiếng xấu cho ta như vậy? Nay thiên tử không xét, lại giải đến Tây Cung, thân ta còn gì nhục nhã hơn. Mất còn không kể, chỉ uổng tiếng làm người không trọn nghĩa nhân.
Hoàng Hậu tuy khóc nức nở, song phải theo quan Phụng Ngự đến Tây Cung.
Hoàng Quí Phi tiếp chỉ, xem xong để trên án.
Khương Hoàng Hậu quì nói:
– Lâu nay tôi sửa trị trong cung việc gì cũng ngay thẳng, lấy nhân đức làm gương. Nay chẳng biết việc dữ do đâu xảy đến, bệ hạ không xét lại nhất quyết đổ lỗi cho tôi. Xin Quí Phi xét lại kẻo oan tình.
Hoàng Quí Phi nói:
– Trong chiếu, thiên tử đề quyết Hoàng Hậu sai Khương Hoàn thí vua, đoạt giang sơn cho Khương Hoàng Sở. Vua lại có ý dứt tình hôn phối, bỏ nghĩa cang thường. Nếu việc này như vậy, tội đáng tru di.
Khương Hoàng Hậu nói:
– Xin Quí Phi xét lại. Cha tôi cầm đầu hai trăm trấn chư hầu nhỏ, thân làm Quốc Trượng, chức đến Tam Công, con gái làm Chánh Cung, cháu ngoại làm Thái Tử, sau bệ hạ muôn tuổi có phải con tôi lên nối ngôi không? Hễ con nối nghiệp thì tôi làm Thái Hậu, cha tôi thêm vinh hiển. Lẽ đâu cha tôi mưu phản để hai trăm chư hầu kéo binh tới vấn tội, để tiếng xấu thiên thu. Tôi dẫu đàn bà cũng không đến đổi ngu muội làm chuyện thí quân vô lý như vậy. Nếu Quí Phi đem lời này nói đến tai thiên tử, may ra thiên tử thấu đáo lý tình, tôi được giải oan, thì ơn của Quí Phi không nhỏ.
Hoàng Quí Phi còn đang băn khoăn thì chiếu đã đến giục.
Hoàng Quí Phi liền lên kiệu đến cung Thọ tiên.
Vua Trụ hỏi:
– Con khốn đó đã chịu tội chưa?
Hoàng Quí Phi tâu:
– Tôi tuân lệnh tra hỏi rất nghiêm, Khương Hoàng Hậu quả là kẻ vô tội. Tôi chắc trong triều có gian tế, hành động như vậy để vu oan giá họa cho Hoàng Hậu đó.
Trụ Vương hỏi:
– Ái khanh lấy bằng chứng gì mà luận như vậy?
Hoàng Quý Phi tâu:
– Tôi xét Khương Hoàng Hậu là người hôn phối của bệ hạ đã lâu ngày, lại sanh được Ðông Cung. Nếu sau bệ hạ chầu trời, tự nhiên Hoàng Hậu sẽ lên ngôi Thái Hậu, ức gì đâu mà lại gây họa dữ? Còn như Ðông bá Hầu thân làm Quốc Trượng trị hai trăm trấn chư hầu, bỏ chức mình lên làm vua, còn Hoàng Hậu bỏ chức mình lên làm Công Chúa? Ðiều ấy dù đứa ngu cũng chưa làm, huống hồ cha con Khương Hoàng Sở là kẻ ngay vua thảo chúa? Xin bệ hạ xét lại lý tình, nghĩ công ơn và đạo đức của Chánh Cung đã mười mấy năm theo hầu bệ hạ mà tha tội cho Chánh Cung thì ơn ấy rất trọng.
Vua Trụ nghe nói ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
– Lời của Quý Phi phân tách rất rành rẽ, tình lý thấu đáo. Ðây chắc Hoàng Hậu bị hàm oan, nhưng rõ nguyên nhân do đâu.
Ðắc Kỷ bước tới, chúm chím cười, Trụ Vương hỏi:
– Mỹ nhân cười gì vậy?
Ðắc Kỷ tâu:
– Hoàng Quý Phi đã bị Chánh Cung dùng tình cảm lung lạc sự thật rồi. Xưa nay kẻ làm dữ bao giờ cũng sắp đặt lý lẽ để chống đối. Chớ căn cứ vào lý lẽ mà tin theo hành động. Lý lẽ chỉ có giá trị đối với người ngay thẳng mà không có nghĩa gì đối với kẽ tham lam. Nay tội ác đã vỡ lở ra rồi, dù là kẽ ba đầu sáu tay cũng không ai chịu mình là tội phạm. Hành động thí quân tang chứng đã rành rành. Khương Hoàn là tay chân của Khương Hoàng Sở, ai cũng biết, thì Hoàng Hậu còn chối vào đâu nữa. Vả lại trong tam cung lục viện, Khương Hoàn không chỉ ai, lại đề quyết Hoàng Hậu thì sao gọi Hoàng Hậu là vô tội được?
Vua Trụ ngồi trầm tư:
– Tình lý thật khó minh.
Ðắc Kỷ nói:
– Trong đời không ai chịu mình là kẻ có tội. Nếu muốn tỏ rõ sự thật bệ hạ chỉ cần đem cực hình ra tra khảo tự nhiên biết hết.
Hoàng Quý Phi nói:
– Tô mỹ nhân nói sai rồi. Hoàng Hậu án với vua là mẹ thiên hạ. Từ Tam Hoàng, Ngũ Ðế đến nay, hễ Chánh Cung có tội hình chỉ được phép lưu đày, hoặc biếm sang lãnh cung, chớ không được tra tấn, chém giết.
Ðắt Kỷ nói:
– Xưa khác, nay khác. Luật hình là để sửa trị muôn người, không vì sang mà không chịu tội, cũng không vì hàn mà phải cực hình. Nếu luật chỉ đặt ra để trừng trị riêng kẻ thiếu uy quyền thì còn gì lẽ công bình? Xin bệ hạ cứ xuống lệnh khoét Hoàng Hậu một con mắt. Con mắt là mộng của trái tim, Hoàng Hậu sợ đau tất phải khai thiệt.
Vua Trụ nói:
– Ta bỏ điều luật tiên quân trừng trị Chánh Cung như vậy, các triều thần dị nghị chăng?
Ðắc Kỷ nói:
– Triều thần sẽ cho bệ hạ là một minh quân, không thiên vị. Dù vợ con có tội vẫn xét trị ngay thẳng.
Vua Trụ khen phải, liền truyền chỉ thi hành.
Hoàng Quý Phi thấy lệnh vua độc ác như vậy chết điếng, đứng nhìn một lúc rồi lên kiệu ra về.
Bấy giờ Khương Hoàng Hậu còn ở tại Tây Cung, đợi lời xin tội của Hoàng Quý Phi.
Hoàng Quý Phi về đến thấy Khương Hậu thì khóc oà, nói:
– Hoàng Nương ơi! Tôi có lòng tâu xin cho Hoàng Nương khỏi tội, bệ hạ sắp nghe theo, nhưng Ðắc Kỹ ghen hờn, thù oán, bày bệ hạ khảo tra, khoét một con mắt của Hoàng Nương để Hoàng Nương nhận tội. Bệ Hạ không tưởng tình chăn gối, đã nghe theo lời con ác phụ đó. Bây giờ biết làm sao? Hay Hoàng Nương chịu tội đỡ để bảo vệ thân xác rồi sau sẽ liệu.
Khương Hoàng Hậu vừa khóc vừa nói:
– Cám ơn em có lòng thương chị, song chị cũng là người có học, lẽ nào tiếc sinh mạng mình mà chịu tiếng nhơ. Chị đã không có hành động giết chồng, phản vua, thì chịu đỡ làm sao được. Nếu vua không thương chị thì thì chị chịu tan xương nát thịt mà thôi. Dầu phải chết để bảo tồn danh tiết chị cũng vui, huống hồ khoét một mắt.
Hoàng Quý Phi nói:
– Tôi xem Ðắc Kỷ tàn nhẫn lắm, thế tất bày nhiều việc ác nữa. Bệ Hạ là đấng chí tôn, thân xác chúng ta không dám tiếc, chỉ cần chúng ta làm sao bảo vệ được tiếng thơm muôn đời, không phản vua, hại nước là được rồi.
Hoàng Hậu và Quý Phi còn đang than thở thì đã có chiếu vua đến giục, bảo Hoàng Hậu phải khoét một mắt.
Quý Phi quá đau lòng, lại một lần nữa khuyên Hoàng Hậu:
– Hay chị chịu đỡ cho qua cơn sóng gió rồi sẽ tính. Nếu để khoét mắt thì còn chi tính mạng?
Khương Hoàng Hậu nói:
– Thà chết cũng đành, tôi không thể chịu tội vô cớ được.
Quang Phụng Ngự nhiều lần thúc hối, cực chẳng đã Quý Phi mới tuân lệnh khoét một mắt của Khương Hoàng Hậu để trong chậu vàng đem về dâng cho vua. Máu chảy lai láng. Hoàng Hậu ngã lăn xuống đất bất tỉnh.
Có thơ than:
Khoét mắt đau lòng kẽ trung lương
Ðắm sắc quên tình, nịch quân vương
Ngàn năm oán hận đời còn nhớ
Số kiếp phôi pha mảnh má hường
Hoàng Quý Phi động lòng khóc tức tưởi, theo chân viên quan Ngự phụng đến cung Thọ Tiên để yết kiến vua Trụ.
Vua Trụ thấy mặt Hoàng Quý Phi liền hỏi:
– Con khốn nạn ấy bị khoét mắt đã thú nhận tội lỗi rồi chứ?
Hoàng Quý Phi quỳ tâu:
– Khương Hậu không có lòng bất nghì, quyết không chịu tội oan. Tôi ép chịu đỡ, Khương Hậu cũng không nghe, thà chịu chết chớ không chịu tiếng nhơ. Tôi phải tuân lệnh bệ hạ khoét mắt đến dâng, thật đau đớn khi nhìn vào chậu này.
Trụ Vương nhìn vào trong chậu vàng có để con mắt đầy máu tươi, lòng bất nhẫn, nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ ăn năn hối hận, nhưng đã muộn, liền day qua trách Ðắc Kỷ:
– Trẫm nghe lời mỹ nhân khoét con mắt của Hoàng Hậu, té ra vẫn không tra ra án. Nếu Hoàng Hậu vô tội mà bị hành hình như vậy các quan trách Trẫm thì Trẫm biết phải trả lời làm sao?
Ðắc Kỷ nói:
– Thần thiếp tưởng Chánh Cung có bụng hại chồng phản chúa. Nay việc đã lỡ như vậy rồi, nếu không làm cho Chánh Cung chịu tội thì tội ác sẽ dồn lên bệ hạ hết. Hơn nữa, Ðông Bá Hầu đang trấn một cõi, binh hùng tướng mạnh, nếy hay được chuyện này tất đem binh vấn tội bệ hạ, báo oán cho con, bệ hạ liệu làm sao?
Trụ Vương nghe nói toát mồ hôi, hỏi:
– Bởi ta nghe lời mỹ nhân mới sanh chuyện như vậy. Bây giờ ta biết liệu làm sao?
Ðắc Kỷ nói:
– Việc đã lỡ rồi. Bây giờ phải làm thế nào cho Khương Hoàng Hậu nhận tội thì mới che mắt được các quan, và Ðông bá Hầu khỏi viện cớ để cử binh.
Trụ Vương bấy giờ như bị dồn vào tường, lòng bối rối, không biết phải tính sao, tới lui đều bất tiện, ngồi làm thinh giây lâu mới mở lời hỏi Ðắc kỷ:
– Mỹ nhân có cách nào làm cho Khương Hoàng Hậu chịu tội không?
Ðắc Kỷ nói:
– Bệ hạ cứ truyền cho Hoàng Quý Phi tra khảo đến mức, thế nào khương Hoàng hậu cũng không chịu đau nổi, buộc lòng phải nhận tội.
Trụ Vương hỏi:
– Mỹ nhân định tra khảo cách nào?
Ðắc Kỷ nói:
– Dùng bàn ủi đồng thật nóng, ủi vào hai bàn tay, hơi nóng cháy ruột gan, lẽ nào không chịu tội?
Trụ Vương nói:
– Theo lời Hoàng Quý Phi thì Khương hậu đã chịu hàm oan, ta khoét một mắt đã là tàn nhẫn lắm rồi, nỡ nào còn dùng lửa đốt hai bàn tay nữa?
Ðắc Kỷ nói:
– Việc đã đến nước này chẳng khác nào cỡi cọp, nhảy xuống sẽ bị cọp ăn mất. Thà để Khương Hoàng Hậu chịu oan còn hơn bệ hạ mắc tội với chư hầu và các quan văn võ.
Trụ Vương cực chẳng đã phải truyền chỉ làm y như lời Ðắc Kỷ.
Hoàng Quý Phi nghe nói hồn vía lên mây, vội vả trở về cung, thấy Khương Hậu máu me dầm dề, còn nằm rên rỉ dưới đất, trông rất thảm thiết.
Hoàng Quý Phi nói:
– Chị ơi! Chuyến này chắc chết. Vua nghe lời Ðắc Kỷ bày chuyện tàn nhẫn. Chẳng biết kiếp trước chị mang tội gì mà kiếp này mắc phải tai ương như vậy.
Vừa nói vừa đỡ Khương Hậu dậy. Sau một hồi đau đớn, Hoàng Quý Phi lại khuyên:
– Thôi chị đánh liều chịu đỡ để bảo tồn tánh mạng. Tôi thấy bệ hạ quá nuông chìu Ðắc Kỷ không kể đến tình vợ chồng rồi. Nếu chị không nhận tội, bệ hạ sẽ truyền nướng bàn ủi đỏ dí vào hai bàn tay chị. Hình phạt thảm khốc như vậy làm sao chị chịu nổi.
Khương Hậu khóc lóc nói:
– Số phần chị đã như vậy thì liều một thác cho xong. Thôi em làm chứng cho lòng chị, chị đành nhắm mắt, cắt đứt dây oan nghiệt.
Nói vừa dứt lời thì có quan Phụng ngự đem bàn ủi đến và truyền lệnh:
– Vâng chỉ bệ hạ, nếu khương Hoàng Hậu không chịu tội thì đốt hết hai bàn tay.
Khương Hậu lòng sắc đá, chẳng thà chết chớ không chịu nhơ danh, liền đưa hai bàn tay ra hứng lấy cực hình.
Quan Phụng ngự để hai bàn ủi nóng lên, thịt cháy xèo xèo, khét lẹt, mấy ngón tay cong quắp lại, các gân guốc cháy khô.
Khương Hậu hét lên một tiếng rồi chết giấc.
Người sau có làm thơ than:
Bàn ủi đỏ lòm ngọn lửa than
Hai tay như sắt, dạ như vàng
Thương cho bảy lá gan trinh tiết
Dẫu nạn mười năm chữa hết oan
Hoàng Quý Phi không dám mở mắt nhìn, bụm mặt khóc như mưa.
Thấy Khương Hoàng hậu chết giấc, Hoàng Quý Phi khiến quan Phụng ngự thôi tra khảo rồi lên xe đến cung thọ Tiên tâu với Trụ vương:
– Khương Hoàng hậu bị hành hình hai bận, chết giấc hai lần, vẫn nhất thiết không nhận hàm oan. Tôi chắc trong cung có gian thần bày mưu hại Khương Hậu đó. Nay bệ hạ đối xử với Chánh Cung quá tàn nhẫn trong lúc Chánh Cung vô tội, tôi e sẽ xảy ra việc chẳng lành.
Vua Trụ thất kinh, nói:
– Việc này trẫm lỡ nghe lời mỹ nhân, bây giờ biết làm sao?
Ðắc Kỷ lại quỳ tâu:
– Bệ hạ chớ lo, Khương Hoàn còn đó, xin bệ hạ cho Hổ Oai tướng Triệu Ðiền, Triệu Lôi dẫn Khương Hoàn đến cung Tây đối nại trước mặt giai nhân mình, Khương Hậu không còn chối cãi vào đâu nữa.
Hoàng Quí Phi về đến Tây Cung thì Triều Ðiền, Triều Lôi cũng dẫn Khương Hoàn đến quỳ dưới đất.
Hoàng Quý Phi trông thấy thở dài, nói với Khương Hậu:
– Nương Nương ơi, bệ hạ lại truyền dẫn thằng oan nghiệt đến đây để đối nại. Thật là mưu của Ðắc Kỷ hết. Song việc này em chẳng thấy ngại gì. Em sẽ có cách làm cho đứa gian manh khai ra kẻ bày mưu, để bệ hạ rõ chuyện trắng đen.
Thật ra Hoàng Quý Phi đã có dự mưu, muốn dùng hình phạt tra tấn Khương Hoàn để tìm hiểu sự thật.
Khương Hậu trông thấy gần đó có một gã tráng hán tay chân bị trói chặc, thân hình cao lớn, mặt mũi hung ác liền mắng lớn:
– Thằng khốn kiếp! Mày nghe lời ai làm điều quấy lại đổ tội cho ta. Tàn ác như vậy, trời nào để mày sống.
Khương Hoàn nói lanh lãnh:
– Tôi là kẽ gia nhân của Hoàng Hậu trước kia. Hoàng Hậu quên rồi sao? Hoàng Hậu muốn thí vua đem cơ nghiệp Thành Thang cho Ðông Bá Hầu sửa trị, nên sai tôi làm việc ấy. Nay việc không thành, tôi bị bắt, cứ sự thực khai ngay. Hoàng Hậu bảo tôi phải nói làm sao bây giờ?
Hoàng Quý Phi nổi giận mắng Khương Hoàn:
– Phản thần! Mày làm cho Hoàng Hậu thân thể ra nông nổi này mà không chút gì ăn năn hối hận sao? Nếu mày không nói rõ kẻ nào sai biểu mày thì ta quyết đánh mày cho đến chết.
Lúc bấy giờ An Giao và Ân Hồng là hai vị Hoàng Tử con ruột của Khương Hoàng Hậu đang đánh cờ ở Ðông Cung, bỗng có thái giám Dương Dung chạy vào gọi lớn:
– Hai vị Hoàng Tử, hãy thôi đánh cờ đã. Có việc trọng đại xảy đến.
Ân Giao, Ân Hồng tánh còn con nít, ham chơi, không thèm để ý tới lời nói của thái giám.
Thái giám Dương Dung la lớn:
– Không biết đứa phản tặc nào đã âm mưu thích khách bệ hạ rồi đổ tội cho Chánh Cung, khiến Bệ Hạ hành hình Chánh Cung một cách thảm thiết.
Ân Giao đứng phắt dậy, hỏi vội:
– Mẫu Hoàng ta bị hành hình như thế nào?
Dương Dung nói:
– Bệ hạ đã khoét mắt còn đốt cả hai tay, cố tình tra khảo nhưng Chánh Cung vì oan tình quyết chẳng chịu tội.
Ân Hồng nói:
– Phụ Hoàng ta lại nỡ nào đối xử với Mẫu Hậu ta như thế. Ðây chắc có kẻ phản nghịch xúi Phụ Hoàng ta bỏ đạo cang thường.
Ân Giao hỏi:
– Mẫu Hoàng ta hiện giờ ở đâu?
Dương Dung nói:
– Hiện đang cùng với đứa gian nghịch đối chất nơi Tây Cung.
Ân Giao kêu lên một tiếng, cùng với Ân Hồng chạy vội đến Tây Cung. Vừa bước vào thấy Khương Hậu máu chảy dầm dề, nằm thở hổn hển. Cả hai vị Thái Tử đều ôm chầm lấy Hoàng Hậu khóc rống lên.
Ân Giao mếu máo:
– Vì sao Mẫu Hậu lại ra nông nỗi này. Dù Mẫu Hậu có phạm tội gì đi nữa cũng không thể chịu trừng phạt như vậy.
Khương Hậu thấy hai con mình, khóc tức tưởi:
– Con ơi! Cha con mê sắc, không kể đến nghĩa vợ chồng, nghe lời Ðắc Kỷ khoét mắt và đốt hai tay mẹ cháy như vầy. Khương Hoàn, kẻ phản nghịch đang ở trước mặt các con kia, nó đã âm mưu với bọn ác tâm, thí quân rồi khai cho mẹ chủ mưu. Mẹ thà chết chớ không chịu tiếng nhơ. Hai con phải trả cho mẹ thù này, ấy là các con đền ơn mẹ sanh thành dưỡng dục.
Nói đến đây Khương Hậu rú lên một tiếng rồi tắt thở, có lẽ giờ phút đó Khương Hậu bị kích động quá không còn chịu nổi.
Ân Giao thấy mẹ mình chết thảm, đau lòng quá, nhẩy xổ đến trước cửa cung, giật một thanh gươm chém Khương Hoàn một nhát đứt thành hai đoạn. Máu tuôn như suối. Tuy vậy Ân Giao vẫn chưa hã giận, cầm gươm chạy ra cửa, nói lớn:
– Ta phải giết chết Ðắc Kỷ để rửa hận cho Mẫu Hoàng ta.
Ân Giao xách gươm chạy như tên bắn.
Triều Ðìền, Triều Lôi thấy Ân Giao giết Khương Hoàn lại xách gươm đến cung Thọ Tiên, liền chạy về phi báo.
Hoàng Quý Phi thấy thế thất kinh, than:
– Ấu nhi, chưa thạo việc đời, e rằng sẽ mang họa.
Liền khiến Ân Hồng chạy theo gọi Ân Giao lại.
Ân Hồng không dám cãi lệnh Dương Quý Phi, vội chạy theo gọi:
– Hoàng Huynh! Hãy mau trở lại để Nương Nương dạy việc.
Ân Giao cực chẳng đã phải quay trở lại, mặt hằm hằm sát khí.
Hoàng Quý Phi nói:
– Ðiện Hạ nóng nảy quá! Tại sao lại chém Khương Hoàn. Nó là đứa oan nghiệt, làm cho Hoàng Hậu bị hành hình. Nhưng cũng chính nhờ nó mà ta có thể rửa oan cho Hoàng Hậu. Ta đã có cách tra hỏi, nay Ðiện Hạ giết mất Khương Hoàn rồi còn ai để khai ra sự thật nữa? Ta định đốt tay nó, để nó chịu không nổi mà khai ra đứa chủ mưu.
Bấy giờ Ân Giao mới thấy việc nóng nảy của mình là tai hại.
Hoàng Quý Phi lại nói:
– Ðiện Hạ còn xách gươm vào cung giết Ðắc Kỷ nữa. Ðắc Kỷ đang gần gũi với Bệ Hạ, nếu Ðiện Hạ cầm gươm vào đó, Bệ Hạ nghe theo lời đứa gian nịnh, kết tội Ðiện Hạ muốn giết vua thì Ðiện Hạ lấy lý nào mà gỡ được? Ta chắc Triều Ðiền, Triều Lôi, hai đứa ấy đã về cung Thọ Tiên đặt điều tâu dối rồi.
Ân Giao ăn năn nhưng việc đã muộn, lòng nóng như lửa đốt mà không biết phải làm cách nào cho nguôi cơn bực tức được.
Quả thật, lời dự đoán của Hoàng Quý Phi không sai. Triều Ðiền, Triều Lôi về đến cung Thọ Tiên, thở hổn hển vào tâu với Trụ Vương:
– Ðiện Hạ đã giết chết Khương Hoàn còn xách gươm chạy vào cung, không biết ý định thế nào?
Vua Trụ giận lắm, hét:
– Tội phản nghịch của Khương Hậu chưa tra xét xong, còn dám xách gươm vào hại cha. Tội ấy không dung được.
Nói rồi liền trao gươm Long Phụng cho hai tướng, truyền chém đầu Ân Giao, Ân Hồng đem về nạp.
Hai tướng vâng lệnh đến Tây Cung.
Bọn thể nữ trông thấy vội vào báo với Hoàng Quí Phi:
– Bệ Hạ trao gươm Long Phụng cho hai tướng Triều Lôi, Triều Ðiền bảo đi tìm hai vị Hoàng Tử giết.
Hoàng Quí Phi nghe nói mặt xám ngắt, nghĩ thầm:
– Ðã hại vợ lại giết con thì còn đạo đức gì nữa. Con là nguồn huyết mạch, sao nỡ cắt bỏ cho đành? Nếu ta không liều lĩnh thì không thể cứu hai vị HoàngTử phen này.
Liền chạy vọt ra trước cửa cung, đón hai tướng lại hỏi:
– Sao bây loạn phép, dám xông vào cung cấm?
Hai tướng thưa:
– Chúng tôi vâng lệnh Bệ Hạ đi tìm hai vị Thái Tử hạ sát đem đầu về nạp.
Hoàng Quí Phi hét lớn:
– Loạn thần! Chớ xảo ngôn, lúc nãy các ngươi ở đây đã thấy hai vị Thái Tử ra khỏi Tây Cung rồi, tại sao các ngươi còn đến đây tìm? Rõ ràng là các ngươi mượn lệnh Thiên Tử đột nhập vào cung cấm để trêu chọc các cung phi. May phước chúng bây có gươm Vua, nếu không ta chém đầu hết.
Triều Ðiền, Triều Lôi nghe nói thất sắc, vội cúi mặt chạy thẳng qua Ðông Cung, không dám nói lời nào nữa.
Hai tướng đi rồi, Hoàng Quí Phi vào gọi Ân Giao, Ân Hồng nói:
– Hôn quân quyết giết hết vợ con. Nay Quốc Mẫu đã chết, hai vị Ðiện Hạ cũng khó sống được, phải liệu cách mà trốn đi.
Ân Giao hỏi:
– Phụ Hoàng còn có hành động nào nữa?
Hoàng Quí Phi chỉ ra cửa cung nói:
– Bệ Hạ vừa sai hai tướng họ Triều cầm gươm Long Phụng đến tìm giết hai vị Ðiện Hạ đấy. Vậy hãy sang tạm chổ Dương Quí Phi lánh mặt một thời gian, đợi các quan can gián xem sao.
Hai vị Hoàng Tử khóc òa nói:
– Phụ Hoàng không nghĩ đến tình vợ con nữa, chúng con còn biết nương cậy vào đâu. Hoàng nương thương chúng con bảo bọc, ơn ấy rất trọng.
Hoàng Quí Phi nói:
– Hãy lo lánh mặt kẻo trễ thì họa đến chẳng kịp nữa. Ơn nghĩa nhị vị xin đừng nói đến.
Ân Giao nói:
– Nay Mẫu Hoàng bị chết thảm thiết như vậy, xin Hoàng nương tìm cách khâm liệm dùm, kẻo tội nghiệp quá!
Hoàng Quí Phi nói:
– Việc đó tôi đang lo. Hai vị Ðiện Hạ cứ tin lòng tôi là đủ.
Ân Giao, Ân Hồng lạy tạ rồi trốn qua cung Hình Khánh.
Vừa đến nơi đã thấy Dương Quí Phi đang đứng trước cửa cung ngóng chờ tin tức của Khương Hoàng Hậu.
Ân Giao trông thấy khóc rống lên.
Dương Quí Phi thất kinh hỏi:
– Hai vị Ðiện Hạ có việc gì vậy? Chẳng hay tin tức của Mẫu Hậu thế nào?
Ân Giao thưa:
– Phụ Hoàng tôi nghe lời Ðắc Kỷ dùng cực hình tra tấn khoét mắt và đốt tay Mẫu Hoàng tôi. Mẫu Hoàng tôi chết rồi. Nay Phụ Hoàng lại trao gươm rồng, truyền hai tướng họ Triều tìm giết anh em tôi nữa. Xin Dương nương nương thương tình cứu mạng.
Dương Quí Phi nghe nước mắt tràn trề nói:
– Thật là tàn nhẫn! Thôi, hai vị Ðiện Hạ hãy mau vào cung trốn đỡ rồi sẽ liệu.
Ân Giao, Ân Hồng liền vào trong tìm chổ kín ẩn thân.
Còn Dương Quí Phi thì đứng canh chừng ngoài cửa, phòng anh em họ Triều đến lục soát.
Quả nhiên, Triều Ðiền, Triều Lôi lục soát bên Ðông Cung không tìm thấy Ân Giao, Ân Hồng liền xách gươm thẳng đến cung Hình Khánh.
Gặp lúc Dương Quí Phi đứng ngoài cửa cung, trông thấy liền truyền các quan thái giám bắt hai tướng họ Triều trói lại, và nói:
– Chỗ này là cung cấm, sao chúng bây dám đến xông vào, vô kỷ cương như vậy? Ta tru di tam tộc đó.
Anh em họ Triều mất vía, run rẩy nói:
– Chúng tôi tuân lệnh Bệ Hạ đến tìm bắt hai vị Ðiện Hạ. Vì có gươm lệnh trong mình nên không dám làm lễ, xin Quí Phi chỉ dùm hai vị Ðiện Hạ cho chúng tôi.
Dương Quí Phi hét:
– Ðừng nói bậy! Ðiện Hạ ở nơi Ðông Cung, còn cung Hình Khánh là cung riêng của ta, chúng bây đến đây lớ quớ ta chém đầu lập tức. May mà có gươm lệnh, nếu không hai đứa bây đã mất đầu rồi.
Hai tướng túng thế phải quay về.
Dương Quí Phi liền vào cung gọi Ân Giao, Ân Hồng nói:
– Chỗ này tai mắt rất đông, hai vị Ðiện Hạ ở lâu không tiện, hãy đến đền Cữ Gian vào ra mắt Vi Tử, Cơ Tử, Tỉ Can, Tử Ðiền, Hoàng Phi Hổ, may ra những vị đại thần ấy có thể tâu với vua xin tội cho nhị vị.
Hai anh em Ân Giao lạy tạ ra đi.
Dương Quí Phi ngồi một mình buồn bã nghĩ thầm:
– Khương Hoàng Hậu là vị hôn phối của vua, còn hai Ðiện Hạ là dòng máu của vua, thế mà vua còn nghe theo lời của Ðắc Kỷ dứt bỏ tình nghĩa, cắt lìa ruột thịt, huống chi ta là cung ba, phận bọt bèo, lại không có con cái gì hết, sớm muộn không khỏi bị Ðắc Kỷ làm nhục. Hơn nữa nếu Trụ Vương hay chuyện dấu hai vị Hoàng Tử trong cung thì tội ấy không thể trốn lánh vào đâu, chi bằng tính trước cho yên.
Nghĩ như vậy, Dương Quí Phi than khóc nữa ngày rồi vào hậu cung thắt cổ tự vận.
Quan Thái Giám biết được, vội vào báo với Trụ Vương.
Trụ Vương không rõ Dương Quí Phi buồn vì việc gì mà tự sát như vậy, liền truyền tẩn liệm, quàn nơi Bạch Hổ.
Bấy giờ, Hoàng Quí Phi cũng vào cung Thọ Tiên khóc lóc, tâu:
– Khương Hậu bị hành hình chịu không nổi đã chết rồi. Trước khi chết, Khương Hậu có trối trăn rằng: “Tôi thờ Bệ Hạ đã mười mấy năm chẳng hề phạm lỗi, không chút ghen tương. Chẳng biết gian nhân nào đã bày điều vu oan giá họa để Bệ Hạ ra hình phạt như vậy. Thần chết không bằng thú vật, tiếng nhơ không biển nào rửa cho hết. Sau khi tôi chết, xin Bệ Hạ để xác tôi nơi đền Bạch Hổ cho các quan luận tội minh oan”. Ðó là mấy lời Khương Hậu cậy tôi tâu lại với Bệ Hạ. Hiện giờ xác Khương Hậu vẫn còn ở Tây Cung, xin Bệ Hạ nghĩ tình nguyên phối cho phép tẩn liệm để khỏi tiếng thị phi.
Vua Trụ truyền làm theo lời của Hoàng Quí Phi.
Hoàng Quí Phi lạy tạ, rồi về cung lo việc tẩn liệm thi hài của Khương Hậu rất trọng thể.
Trong lúc đó hai tướng Triều Ðiền, Triều Lôi từ cung Hình Khánh trở về tâu lại với Trụ Vương:
– Chúng tôi tới Ðông Cung tìm khắp nơi vẫn không thấy hai vị Ðiện Hạ.
Vua Trụ hỏi:
– Hay là chúng tới Tây Cung thăm Khương Hậu?
Hai tướng tâu:
– Không có bên Tây Cung, cũng không có nơi cung Hình Khánh.
Vua Trụ nói:
– Không có trong ba cung tức chúng đã trốn ra đền lớn, thông tư với triều thần, âm mưu khởi loạn chăng. Phải bắt giết cho được.
Hai tướng tuân lệnh, một lần nữa vác gươm rồng ra đi.
Bấy giờ Ân Giao, Ân Hồng đã thoát ra được trước đền lớn, thấy bá quan còn hội đủ mặt để chờ tin Hoàng Hậu.
Hai vị Hoàng Tử khóc lên.
Hoàng Phi Hổ lật đật nghênh đón, hỏi:
– Vì cớ vì hai vị Ðiện Hạ kinh hãi như vậy?
Ân Giao nói:
– Võ Thành Vương ơi! Hãy cứu mệnh chúng tôi với. Mẫu Hậu không có lòng phản nghịch mà Phụ Vương tôi nghe lời Ðắc Kỷ chẳng xét oan tình, ra lệnh khoét mắt, rồi đốt cháy cả hai bàn tay, khiến Mẫu Hậu phải bỏ mình. Chúng tôi thấy Khương Hoàn đứa phản nghịch thí vua có mặt trong Tây Cung để đối chứng, nổi giận chém đi, Phụ Vương tôi lại sai hai tướng họ Triều, trao gươm rồng, tìm giết. Thật không còn tình nghĩa gì nữa. Xin các quan tìm cách cứu vãn tình thế, minh oan cho Mẫu Hậu, cứu mạng anh em chúng tôi trong cơn nước lửa này.
Ân Giao, Ân Hồng kể lể một hồi, lại khóc lớn lên. Các quan thấy cảnh ấy cũng phải động lòng. Có một người đề nghị:
– Chúng ta hưởng lộc nước, mũ cao áo dài, ngồi chễm chệ thế này, lẽ nào nước nhà đảo lộn lại ngồi ngó. Vậy thì nổi trống đền lên, mời Bệ Hạ lâm triều để tra xét phân minh vụ án này, trước minh oan cho Quốc Mẫu, sau truy tầm đứa gian nghịch trừ loạn.
Các quan còn phân vân chưa biết phải làm gì thì có một người hét lên một tiếng như sấm:
– Thiên Tử đắm say tửu sắc, giết vợ hại con, bày Bào Lạc đốt tôi trung. Tình vua tôi đã tổn thương, tình gia đình đã đổ vỡ, mối nước không thể giữ nổi nữa đâu. Chi bằng chúng ta tính chuyện khác cho rồi.
Một người khác lại ứng tiếng phụ họa:
– Phải rồi! Chim khôn chọn cây hiền mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nay vua giết vợ hại con, nhơn nghĩa không còn, cương thường đảo lộn. Một ông vua như vậy chúng ta cứ khom lưng tôn thờ, đã mang tiếng xấu hổ, lại không ích gì cho quốc gia. Còn cứ nhìn nhau khóc lóc như đàn bà lại là hèn hạ. Theo ý tôi, nên đồng lòng phế hôn quân xuống, tôn vua khác lên ngôi. Như vậy mới bảo vệ xã tắc được.
Các quan xem lại thì người ấy là Phương Bật và Phương Tướng, hai anh em ruột đang làm chức Triều Ðiển tướng quân.
Hoàng Phi Hổ nghe nói nạt lớn:
– Hai ngươi là quan nhỏ, sao dám loạn ngôn như vậy? Bao nhiêu cận thần đây không đủ trí để định đoạt à? Các ngươi tội đáng chết. Không trốn đi còn đứng đó đợi bị bắt hay sao?
Phương Bật và Phương Tướng cúi đầu lui ra ngôi vị mình. Tuy nhiên hai người cũng ngầm hiểu ý của Hoàng Phi Hổ muốn gì rồi.
Hoàng Phi Hổ thấy việc nước sanh nhiều tai biến, lòng dân rời rã, triều thần không còn cách gì đứng vững, buồn bã than với các quan đại thần. Những vị trung thần tuổi trẻ, nghiến răng trợn mắt, hậm hực vô cùng.
Còn các bậc lão thành có công xây dựng lâu nay, mang nhiều tình cảm, không có ý định thay trật đổi ngôi, chỉ căm hận kẻ đã gây ra thảm họa.
Quan cận thần Dương Nhậm, một lão quan lớn tuổi thở dài nói:
– Vua bị mờ ám, giết vợ hại con, không kể đến tình tôi chúa, nhất định bên trong có kẻ gian nịnh âm mưu làm loạn. Một lũ chúng ta bây giờ chỉ làm trò cười cho chúng, và một ngày nào đó, tánh mạng chúng ta cũng không khỏi chết.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Lời của Dương Ðại Phu nói rất phải. Song chúng ta làm tôi Thành Thang đã ba đời, bề nào cũng phải khuyên vua bỏ lỗi sửa mình.
Tỉ Can, Vi Tử Khải, và Vi Tử Ðiểu nhớ đến cơ nghiệp của tiền nhân, khóc sụt sùi không dứt.
Phương Bật và Phương Tướng thấy tình trạng không giải quyết đến đâu liền hô lớn:
– Vua Trụ lỗi đạo lắm, giết vợ, hại con, bỏ cương thường, nay chúng tôi đưa hai vị Ðiện Hạ đến Ðông Lổ viện binh trừ hôn quân và tôn Ðông Cung lên làm vua thay thế Vua Trụ kế nghiệp Thành Thang.
Nói rồi hai anh em họ Phương cõng Ân Giao, Ân Hồng chạy ra khỏi triều, rời Triều Ca, nhắm Ðông Lổ chạy riết.
Ân Giao, Ân Hồng nhờ anh em Phuơng Bật, Phương Tướng mà thoát đại nạn.
Người sau có thơ tặng anh em họ Phương:
Anh em Phương Bật thật anh tài
Cõng Chúa ra ngoài chẳng sợ ai
Nghĩa khí khuyên đừng chê lổ mãng
Ðem thân làm ngựa, chúng kinh oai
Các quan thấy Phương Bật, Phương Tướng làm phản, hết thảy đều kinh tâm. Chỉ riêng Hoàng Phi Hổ làm như không biết, và cũng không để ý đến.
Tỉ Can là chú của Vua Trụ, bước đến hỏi nhỏ Hoàng Phi Hổ:
– Anh em họ Phương ra mặt phản loạn giữa triều, sao Võ Thành Vương để yên như vậy?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tôi tiếc nội trào không ai bằng anh em họ Phương cả. Chúng nó tuy lỗ mãng song còn biết thương Quốc Mẫu thác oan, lo hai vị Thái Tử bị hại. Vì chức nhỏ, không được phép can gián, nên trong tình thế nguy cấp không biết làm thế nào, phải liều thân cõng hai vị Thái Tử chạy đỡ. Chúng cũng biết, một khi triều đình đem quân đuổi bắt thì tánh mạng chẳng còn. Chúng ta cũng nên thương tình hơn là chấp trách.
Các quan chưa kịp đàm luận thì đã nghe tiếng chân người chạy rần rần. Xem lại là Triều Ðiền và Triều Lôi cầm gươm lệnh chạy đến giữa đền, hỏi:
– Có hai vị Ðiện Hạ đến đây chăng?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Hai vị Ðiện Hạ vừa đến đây khóc lóc. Anh em họ Phương động lòng cõng chạy trốn rồi. Họ vừ thoát ra cửa Nam thành, hai ông có lệnh vua sai thì hãy đuổi theo bắt về trị tội.
Triều Ðiền và Triều Lôi nghe Phương Bật và Phương Tướng làm phản đều thất kinh, không dám đuổi theo. Bởi vì Phương Bật mình cao mười sáu thước, còn Phương Tướng mình cao mười bốn thước, cả hai sức mạnh như voi, hung dữ như cọp, nếu hai tướng họ Triều đuổi theo anh em họ Phương nổi giận đá cho mấy đá là toi mạng.
Thật ra Hoàng Phi Hổ thấy anh em họ Ðiền không có lương tâm, quyết lòng giết hai vị Thái Tử nên cố nói gạt, để chúng đuổi theo anh em họ Phương, ăn đòn một trận cho bỏ ghét, nhưng Triều Ðiền và Triều Lôi đã lượng sức mình, nói xuôi:
– Hai vị Ðiện Hạ đã trốn thì thôi. Ðể tôi về tâu lại với Thiên Tử.
Nói rồi về cung Thọ Tiên tâu:
– Phương Bật, Phương Tướng làm phản, cõng hai vị Ðiện Hạ chạy sang Ðông Lổ rồi.
Trụ Vương nổi giận hét:
– Hai ngươi phải đuổi theo bắt chúng nó cho mau.
Triều Ðiền tâu:
– Anh em họ Phương vũ dũng phi thường, chúng tôi bắt sao được. Xin Bệ Hạ giáng chỉ sai Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ mới được.
Trụ Vương liền viết chiếu đưa ra. Triều Ðiền cầm chiếu vua đến giữa đại điện truyền rằng:
– Hoàng Phi Hổ phải lãnh gươm lệnh đuổi theo bắt anh em họ Phương và lấy thủ cấp Ân Giao, Ân Hồng về phục chỉ.
Hoàng Phi Hổ cười rằng:
– Tôi biết rồi, Triều Ðiền muốn giao gánh cho ta đó.
Liền lãnh gươm và chiếu của vua trở về dinh.
Các tướng Hoàng Minh, Châu Kỳ, Long Hoàn, Ngô Khiêm xin theo phò tá, Hoàng Phi Hổ nói:
– Các em theo làm gì. Ta đi rồi trở về ngay.
Liền lên lưng trâu ngũ sắc, lướt ra cửa thành như gió. Con trâu này chạy nhanh hơn ngựa, một ngày đi tám trăm dậm.
Bấy giờ anh em Phương Bật cõng hai vị Ðiện Hạ chạy bộ một ngày thảng thốt chỉ mới ba chục dậm đường. Kể ra như vậy anh em họ Phương cũng đã có sức khỏe vô địch rồi. Thấy đã mệt mỏi, hai người để Ân Giao, Ân Hồng xuống nghỉ chân.
Ân Giao, Ân Hồng nói:
– Ơn hai vị tướng quân biết ngày nào chúng tôi mới trả được?
Phương Bật nói:
– Anh em tôi thấy Bệ Hạ vô đạo, giết vợ hại con, lòng không đành ngó hai vị Ðiện Hạ chết oan nên liều mình cõng chạy. Thế nào cũng gặp nguy hiểm. Một là triều đình đem quân đuổi bắt, hai là không biết chỗ nào nương dựa.
Trong lúc đang bàn bạc, bỗng thấy Hoàng Phi Hổ cỡi trâu năm sắc chạy tới, Phương Bật thất kinh, nói với hai vị Ðiện Hạ:
– Nguy rồi! Chúng tôi biết không tránh khỏi đại họa. Thiên Tử sai Võ Thành Vương theo bắt chúng ta kia, biết liệu làm sao?
Phương Tướng nói:
– Võ Thành Vương là người nhân đức, không đến nỗi dã tâm, xin nhị vị Ðiện Hạ lấy lời hơn lẽ thiệt phân giải, thế nào người cũng không sát hại.
Còn đang bàn bạc thì Hoàng Phi Hổ đã tới.
Ân Giao vội quỳ xuống đất hỏi:
– Có phải Võ Thành Vương theo bắt chúng tôi chăng?
Hoàng Phi Hổ thấy vậy thất kinh, xuống trâu, quỳ đáp lễ và nói:
– Tội tôi muôn thác, xin Ðiện Hạ đứng dậy, đừng làm như thế.
Ân Giao nói:
– Võ Thành Vương đến đây có việc gì?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tôi vâng lệnh Thiên Tử đem gươm Long Phụng đi bắt hai vị Ðiện Hạ lấy thủ cấp về dâng, nhưng tôi không nỡ, xin hai vị Ðiện Hạ dạy cho tôi biết làm thế nào để khỏi tội?
Ân Giao nói:
– Võ Thành Vương không thấy Mẫu hậu chết thảm thiết sao? Chúng tôi là con, máu huyết Thành Thang, thế mà Phụ hoàng tôi lại nhẫn tâm giết hại, đó là tại Ðắc Kỷ xui nên. Nếu Võ Thành Vương để chúng tôi sống, tìm cách giết Ðắc Kỷ để báo thù cho Mẫu hậu thì ân ấy quyết không quên.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tôi há lại không biết điều ấy hay sao? Ngặt vì có lệnh vua, nếu tha hai vị Ðiện Hạ thì mang tội dối vua, còn tuân lệnh thì chẳng khác nào hùa với kẻ gian ác làm bậy. Cả hai đường đều khó xử, tôi còn đang lưỡng lự.
Ân Giao nói:
– Nếu thế tôi đã có cách. Võ Thành Vương tuân lệnh vua đến đây chẳng thể về không, vậy thì xin lấy thủ cấp tôi đem về nạp, còn Ân Hồng em tôi còn thơ bé lắm, xin để cho nó sống tị nạn nơi khác đặng ngày sau khôn lớn báo thù cho mẹ tôi. Nếu được vậy, tôi dù thác cũng chẳng dám quên ơn.
Dứt lời liền tiếp lấy gươm Long phụng toan tự cắt lấy thủ cấp mình.
Ân Hồng vội chạy đến giựt gươm nói:
– Không nên! Anh là Ðông Cung Thái Tử, thừa kế sự nghiệp tổ tông. Em còn thơ dại không làm gì nên việc, để em chết thay anh mới phải.
Rồi quay sang nói với Hoàng Phi Hổ:
– Xin Võ Thành Vương đem đầu tôi về nạp, tha cho anh tôi trốn sang Ðông Lổ hay Tây kỳ viện binh báo oán. Tôi chết cũng không dám tiếc.
Ân Giao ôm Ân Hồng nói:
– Không được! Em còn nhỏ tuổi, tội gì phải mang tai họa như vậy? Tuổi em là tuổi phải được hưởng những gì hạnh phúc, sống trong yêu thương. Nay Mẫu hoàng đã mất, tình gia đình không còn, anh lại để em chết thay anh sao đành?
Hai anh em dành nhau thanh gươm để được chết.
Phương Bật và Phương Tướng thấy thảm cảnh khóc oà la lớn:
– Ôi! Thật là đứt ruột!
Hoàng Phi Hổ đứng trân một lúc rồi nói:
– Thôi, hai tướng chớ khóc lóc làm gì, hai vị Ðiện Hạ cũng không cần tranh nhau cái chết nữa. Chuyện này chỉ có năm người trong chúng ta biết mà thôi, xin chớ để lộ ra ngoài mà mang họa. Thà tôi chịu tội dối vua còn hơn mang tiếng độc ác. Bây giờ Phương Bật hãy đưa Ðông Cung qua Ðông Lổ cho Khương Hoàng Sở, còn Phương Tướng thì đưa nhị Ðiện Hạ qua Nam Ðô cho Ngạt Sùng Võ. Ðến nơi hai người nói với hai trấn chư hầu ấy biết là ta tha hai vị Ðiện Hạ giữa đường, nhờ hai trấn chư hầu ấy đem binh về Triều Ca dẹp nịnh. Chừng đó mọi việc đã có ta.
Phương Bật nói:
– Hai anh em tôi nóng nảy lại bất trí, thấy việc trái ý thì làm, không suy nghĩ trước. Nay đến đây trong túi không có một đồng, còn Ðông Lổ và Nam Ðô là hai nơi vòi vọi, nếu đi bộ phải mất mấy ngày đường, cơm gạo đâu mà ăn? Nhịn đói đi sao nổi?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Việc này ta cũng không tính trước, nên cũng không có đem tiền theo.
Ngẫm nghĩ hồi lâu, Hoàng Phi Hổ lấy chiếc ấn đeo trong mình trao cho hai tướng và nói:
– Ấn này bằng vàng, có thể bán lấy tiền mua thức ăn được. Hai ngươi lấy mà dùng.
Hai tướng cúi lạy tạ ơn, và thấy rõ lòng nhân đạo của Hoàng Phi Hổ thật bao la.
Hoàng Phi Hổ lại dặn hai vị Thái Tử:
– Xin hai Ðiện Hạ cứ yên tâm đi tới chỗ. Lần này tôi mang tội dối vua một chuyến không sao.
Dứt lời, Hoàng Phi Hổ lên lưng trâu ngũ sắc trở về triều thì trời đã sẩm tối. Bá quan còn đang đứng chực nơi Ngọ Môn để đón tin tức. Thấy Hoàng Phi Hổ về, Tỉ Can hỏi:
– Công việc ra thế nào?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Hai tướng cao giò chạy mau quá, tôi theo không kịp, trời tối nên phải về phục mệnh.
Các quan nghe nói, ai cũng mừng thầm.
Võ Thành Vương vào cung tâu với Vua Trụ:
– Tôi vâng lệnh theo hơn bảy mươi dậm đường, đến một ngả ba hỏi thăm kẻ đi đường, họ đều nói không thấy. Tôi không biết ngõ nào tìm nữa, phải trở về tâu lại với Bệ Hạ hay.
Trụ Vương nói:
– Chúng nó chạy thoát thì thôi. Khanh cứ về an nghỉ, sáng mai Trẫm sẽ lâm triều đàm luận.
Võ Thành Vương lui ra khỏi cung.
Ðắc Kỷ thấy không bắt được Ân Giao, Ân Hồng lòng lo lắng, tâu với Vua Trụ:
– Bệ Hạ chớ xem nhẹ việc này. Ân Giao, Ân Hồng là cháu ngoại của Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở, nếu hai vị Ðiện Hạ về đến Ðông Lổ thế nào cũng sanh biến. Chi bằng sai hai tướng Ân Phá Bại và Lôi Khai dẫn ba ngàn quân cấp tốc đuổi theo bắt lại. Như vậy mới khỏi sợ sanh ra hậu họa.
Trụ Vương khen phải, liền đòi hai tướng ấy đến. Truyền chỉ đem ba ngàn binh mã, bất luận ngày đêm phải theo cho kịp để bắt cho được hai vị Thái Tử.
Hai tướng tuân lệnh lạy tạ lui ra, thẳng đến dinh Hoàng Phi Hổ để lãnh binh mã.
Bấy giờ Hoàng Phi Hổ vừa trở về dinh, đang ngồi buồn lo phải trái, nghĩ đến cảnh loạn ly của thiên hạ không sao tránh khỏi. Xảy nghe quân báo:
– Có hai tướng Lôi Khai và Ân Phá Bại đến hầu.
Hoàng Phi Hổ truyền cho vào. Hai tướng vào làm lễ xong, Hoàng Phi Hổ hỏi:
– Nơi đại điện vừa gặp mặt, việc gì lại đến đây?
Hai tướng thưa:
– Bệ Hạ truyền chỉ dạy hai chúng tôi lãnh ba ngàn binh đuổi theo bắt hai vị Ðiện Hạ đem về trị tội, và anh em Phương Bật đem về gia hình. Xin Nguyên Soái cho chúng tôi lãnh binh kẻo trễ.
Hoàng Phi Hổ nghĩ thầm:
– Nếu hai tướng này đem binh đuổi theo bắt được hai vị Ðiện Hạ thì té ra ta có công tha cũng như không.
Liền nói với hai tướng:
– Bây giờ đang đêm, quân binh lộn xộn, khó điểm được. Vậy đợi đến canh năm ta phát cho.
Vì Hoàng Phi Hổ nguyên là Nguyên Soái coi việc quân binh, còn Ân Phá Bại và Lôi Khai là tướng, đâu dám trái lệnh. Hai người đành trở về dinh, đợi qua canh năm mới khởi hành được.
Hoàng Phi Hổ đưa hai tướng ra ngoài trở vào nói với Châu Kỷ:
– Ngày mai, lúc canh năm, ngươi lựa loại ngựa què, lính bệnh, đủ ba ngàn cấp cho hai tướng Lôi khai và Ân Phá Bại, cốt làm cho chúng không đuổi theo kịp hai vị Ðiện Hạ.
Rạng ngày hai tướng đến lãnh binh mã thì Châu Kỷ đã lựa đủ số người ngựa theo ý định cấp cho. Hai tướng thấy toàn thứ binh lao mã liệt trong lòng không vui, nhưng không dám nói.
Ðoàn quân kéo nhau ra khỏi Triều Ca rất mệt nhọc. Trong đó cũng có lộn một ít ngựa khỏe và những tên quân bệnh nhẹ, nhưng người mạnh phải chờ người yếu, ngựa khỏe phải chờ ngựa mệt, nên hàng ngủ so đo, lểnh mểnh suốt buổi vẫn chưa đi được mấy dậm đường.
Bấy giờ Phương Bật và Phương Tướng phò hai vị Hoàng Tử đi đã hai ngày đến một vùng xa xôi hẻo lánh, tiền bạc trong túi không có, nhà cửa lại lưa thưa, không nơi tạm trú. Tuy có kim quyết của Hoàng Phi Hổ tặng nhưng nơi này là vùng thôn dã, vàng ngọc không thể bán được, đành nhịn đói mà đi.
Ðến ngã ba lộ, Phương Bật nói với Phương Tướng:
– Chúng ta phò hai vị Ðiện Hạ đến đây cũng đã thoát nạn rồi. Vậy hai ta để hai vị Ðiện Hạ đi trước, chúng ta tìm chổ bán chiếc Kim Quyết kiếm tiền rồi sẽ theo sau.
Hai tướng bàn định xong liền tỏ ý với Ân Giao, Ân Hồng.
Ân Giao, Ân Hồng thuận tình, mỗi người đi mỗi hướng. Ân Hồng qua Nam Ðô, Ân Giao qua Ðông Lổ. Còn Phương Bật và Phương Tướng sau khi bán vàng xong sẽ chia nhau theo phò.
Sắp đặt xong, ai nấy chia tay, mỗi người đi một ngã.
Ân Hồng nước mắt không ráo, thương anh nhớ mẹ, tủi phận khôn cùng. Con vua cháu chúa, chưa từng đi bộ, nay mới đi mấy dậm đường đã thấy mỏi chân, đói lòng. Ân Hồng rẽ vào một xóm, thấy nhà kia đang ăn uống cơm hẩm canh rau, liền bước vào xin ăn.
– Tôi đi lỡ đường, xin cho tôi ăn với.
Gia đình người nông phu thấy tướng mạo Ân Hồng khôi ngô, ăn mặc sang trọng, vội dọn cơm lên ghế mời dùng bữa. Ân Hồng ăn xong nói:
– Ơn này biết ngày nào tôi mới trả được?
Mấy người trong nhà hỏi thăm:
– Quí khách là ai? Từ đâu đến mà lỡ đường?
Ân Hồng nói:
– Ta tên Ân Hồng, con Vua Trụ, định sang Nam Ðô ra mắt Ngạt Sùng Võ.
Cả gia đình người nông phu nghe thất kinh, vội sụp lạy và nói:
– Chúng tôi xác phàm mắt tục, không biết Ðiện Hạ nên thất lễ, xin Ðiện Hạ dung thứ.
Ân Hồng hỏi:
– Ðây phải là đường qua Nam Ðô không?
Người chủ đáp:
– Phải. Cứ đường này đi thẳng chừng lối ba mươi dặm đường nữa thì tới. Nếu không dùng ngựa. Ðiện Hạ phải đi mất chừng một ngày.
Ân Hồng từ giã, nhắm hướng ấy thẳng tới. Tuy nhiên chỉ đi chừng vài dặm, chân đã mỏi mê, không sao bước nổi nữa, lại gặp khoảng đồng trống, không có nhà cửa, phần thì trời tối, biết nơi nào tạm trú?
Ân Hồng nhìn thấy đàng trước, xa xa trong cụm rừng có cái miễu lớn, chắc có thể nghỉ chân được, liền ráng sức lần đến.
Trước miễu có một tấn biển đề ba chữ: Miễu Huỳnh Ðế.
Ân Hồng vào trong quỳ lạy, vái:
– Hiên Viên Huỳnh Ðế là vua Thánh chế ra lễ, nhạc, áo xiêm, đứng vào hàng Ngũ Ðế. Tôi là Ân Hồng, cháu vua Thành Thang đời thứ ba mươi mốt, vì cha tôi là Trụ Vương nghe lời dua nịnh, giết vợ hại con, nên tôi phải đi tỵ nạn, lỡ đường xin ngụ một đêm, xin nhờ ơn vua Thánh che chở. Nếu ngày sau tôi lập nên nghiệp đế, tôi sẽ đúc tượng vàng, trùng tu miếu võ để đền ơn.
Vái xong, vì quá mỏi mệt Ân Hồng nằm xuống ngủ mê.
Còn Ân Giao đi tới được hơn bốn mưoi dặm đường xảy thấy một cái dinh, trên đề ba chữ “Thái Sư Phủ “.
Ân Giao nghĩ thầm:
– Ðây là dinh quan vào xin ngủ nhờ tiện lắm.
Liền bước đến cổng gọi lớn:
– Có ai giữ cửa chăng?
Ân Giao gọi luôn mấy tiếng vẫn không thấy ai trả lời, liền đi thẳng vào trong.
Bỗng nghe có tiếng ngâm thơ văng vẳng:
Quỉ vào cung cầm án con trời
Khiến người ngay hóa lửa trơi
Hổ phận tôi già về ruộng rẫy
Biết sao can gián một đôi lời
Ân Giao lắng tai nghe hết bài thơ, rồi cất tiếng hỏi:
– Có ai trong dinh không?
Trong dinh có tiếng hỏi vọng ra văng vẳng:
– Ai đó? Trời tối quá không thấy rõ ràng.
Ân Giao nói:
– Tôi là kẻ xa lạ, đi viếng bà con, lỡ đường trời tối, xin vào đây ngủ tạm một đêm, sáng mai dời gót.
Giọng nói trong dinh lại vọng ra:
– Tiếng nói người nào giống tiếng nói của người ở Triều Ca?
Ân Giao vội đáp:
– Phải. Tôi là người ở Triều Ca đến đây.
Trong dinh hỏi:
– Ở gần thành vua không?
Ân Giao đáp:
– Gần lắm.
Vừa dứt tiếng thì bên trong cánh cửa mở, một ông già bước ra mời Ân Giao:
– Hãy vào đây cho lão hỏi thăm chút việc.
Ân Giao thoáng thấy đã biết ngay là cựu Thừa Tướng Thương Dung, nhưng Thương Dung vì quá già cả, con mắt đã yếu không trông rõ trong bóng tối lờ mờ được.
Ân Giao xá một cái và nói:
– Tôi xin chào Thừa Tướng đây.
Bây giờ Thương Dung mới nhận ra là Ân Giao, vội vã sụp lạy nói:
– Ðiện Hạ đến đây mà tôi không hay để nghênh đón, tội tôi rất nặng xin Ðiện Hạ dung thứ.
Ân Giao nói:
– Xin quan Thừa Tướng chớ câu chấp như vậy.
Thương Dung nói:
– Ðiện Hạ đi một mình đến chổ quạnh hiu như thế này chắc là trong triều có việc gì hệ trọng. Hãy nói cho lão phu biết.
Ân Giao lau nước mắt, thuật lại mọi việc vừa xảy ra ở triều đình. Thương Dung dậm chân kêu trời nói:
– Không ngờ Thiên Tử đến nỗi này. Tam cang, ngũ thường đều đổ nát, mối nước ngữa nghiêng, tôi tuy ở trong rừng mà lo việc triều nội, nơm nớp trong lòng, ăn ngủ không yên. Nay cớ sự đến thế này, Hoàng Hậu bị chết oan, hai vị Ðiện Hạ bị lưu lạc, các quan triều không ai dám mở miệng can ngăn, thế thì còn gì xã tắc. Thôi Ðiện Hạ hãy an lòng, để tôi liều mạng già về Triều Ca viết sớ can vua lần nữa xem sao.
Nói rồi đưa Ân Giao vào trong bày tiệc thết đãi.
Lúc này Ân Phá Bại và Lôi Khai dẫn đám quân lao mã liệt đi trọn ngày không nghỉ, nhưng chỉ được vài chục dặm đường. Qua ngày thứ nhì đi càng chậm hơn, đến ngày thứ ba đi chậm hơn nữa. Lần hồi mới đến ngã ba lộ, chỗ hai vị Thái Tử chia tay.
Lôi Khai thấy tình thế bi đát, nói với Ân Phá Bại:
– Chúng ta nên tuyển lựa một số binh mạnh, chia làm hai tốp kéo qua Ðông Lổ, còn một tốp tôi dẫn đến Nam Ðô cho kịp ngày giờ. Nếu cứ dẫn cả lũ lão nhược như vầy biết chừng nào mới theo kịp?
Ân Phá Bại nói:
– Võ Thành Vương đã cấp cho chúng ta ba ngàn quân, nếu đuổi bớt về e rằng người giận chúng ta chăng?
Lôi Khai nói:
– Không cần đuổi về. Cứ cho những quân lính tàn tật, bệnh hoạn đóng lại ở đây, chờ chúng ta trở lại sẽ đưa họ về triều.
Ân Phá Bại cho ý kiến ấy rất hay, liền tuyển một số người ngựa khả dĩ dùng được, còn bao nhiêu cho đóng đồn an nghỉ nơi ngã ba đường, cấm không được đi đâu hết.
Lôi Khai lại nói:
– Nếu anh về trước thì đợi tôi nơi đây, còn tôi về trước cũng sẽ đợi anh nơi đây. Chúng ta dùng ngả ba này làm chỗ hò hẹn.
Kế hoạch xếp đặt xong, hai tướng lựa được hơn hai trăm người ngựa, chia làm hai tốp kéo đi. Còn bao nhiêu quân lính bệnh hoạn được phép nghỉ ngơi, mừng không thể tả.
Triệu Khải thấy quân đem thây Thương Dung đi bỏ ngoài đồng nổi giận ra nói lớn:
– Tôi không thể phụ ơn vua trước, nên quyết chết giữa đền để tạ tội với tiên quân.
Nói rồi chỉ vào mặt Trụ Vương mắng:
– Hôn quân, nghe ta hài tội đây: Giết Thừa Tướng, hại quan trung, chư hầu sẽ không còn kính trọng. Mê Ðắc Kỷ giết vợ bỏ con, cơ nghiệp không còn. Làm vua mà không tròn bổn phận làm vua, tam cang ngũ thường đổ nát, như thế còn ai kính phục.
Trụ Vương nổi giận đỏ mặt hét:
– Ðồ thất phu, không còn biết giữ đạo vua tôi là gì nữa. Tả hữu đâu, đem Bào Lạc đốt nó đi cho khuất mắt ta.
Triệu Khải nói:
– Ta chết đi không hại gì, vì tên vua ngu muội sẽ được tiếng trung thần, còn hôn quân mất nước sẽ bị nghìn đời sỉ vả, tiếng xấu thiên thu.
Triệu Khải nói một hồi thì lửa Bào Lạc đã đỏ, quân sĩ bắt Triệu Khải trói lại, lột hết áo mão, xiềng vào Bào Lạc. Phút chốc thịt xương Triệu Khải tan thành tro bụi. Triều thần ai nấy đều thương xót, thở vắn than dài.
Trụ Vương truyền bãi trào về cung, Ðắc Kỷ ra nghênh tiếp, Vua Trụ nói:
– Bữa nay Thương Dung đập đầu tự tử, Triệu Khải bị ta dùng Bào Lạc đốt thành than. Tuy vậy, ta xem lối hành hình ấy chúng nó không ghê, vậy Khanh tính kế nào trị bọn triều thần mới được.
Ðắc Kỷ tâu:
– Xin Bệ Hạ yên tâm, thần thiếp suy tính một hôm sẽ có cách.
Trụ Vương nói:
– Nay mỹ nhân đã làm Hoàng Hậu, không còn ai vô lễ với mỹ nhân nữa, chỉ sợ Khương Hoàng Sở ở Ðông Lỗ cử binh về đánh, trong lúc Thái Sư Văn Trọng chưa về, biết ai chống cự?
Ðắc Kỷ tâu:
– Thần thiếp là phận đàn bà, mưu trí không bao nhiêu, xin Bệ Hạ đòi Bí Trọng vào hỏi xem có mưu gì hay không?
Trụ Vương khen:
– Ái khanh nói rất phải.
Liền đòi Bí Trọng ứng hầu, và nói:
– Trẫm đang lo Khương Hoàng Sở cử binh làm phản, báo cừu cho Khương Hậu, Khanh có kế gì hay để ngăn ngừa mũi giặc ấy hay không?
Bí Trọng quì tâu:
– Khương Hậu đã mất, hai vị HoàngTử bị gió thổi bay mất, Thương Dung đập đầu tự vận, Triệu Khải bị Bào Lạc ra tro, các quan văn võ thế nào cũng oán trách Bệ Hạ, và nhắm vào lực lượng Khương Hoàng Sở có thể báo thù được. Mũi giặc ấy tất không tránh khỏi. Nay Bệ Hạ nên xuống chiếu, triệu bốn Trấn chư hầu về chầu, chém đầu hết. Như vậy, tám trăm Trấn chư hầu nhỏ sẽ không ai làm chủ chẳng khác rắn không đầu, cọp thiếu vây, dù chúng có muốn làm phản cũng không được. Ðó là Bệ Hạ biết lo xa.
Vua Trụ khen:
– Khanh thật là kẻ mưu cao trí rộng. Tô Hoàng Hậu tiến cử không lầm.
Bí Trọng cúi lạy ra về. Trụ Vương liền viết chiếu sai sứ giả đi bốn Trấn. Bốn vị sứ thần tuân lệnh ra đi…
Vị sứ thần đến Tây Kỳ thấy phong tục rất tốt, cảnh vật hiền hòa, từ dân chúng đến các quan đều một lòng yêu nước, tuân theo lề luật quốc gia, không gian tham, không trộm cắp, không một tiếng gây gỗ ngoài chợ.
Sứ thần khen:
– Nghe đồn ông Bá Cơ nhân đức, trị nước ôn hòa, quả nhiên đúng như thuở Thuấn Nghiêu, lời đồn ấy không sai.
Bấy giờ, Tây Bá Cơ Xương đang lâm triều nghị việc với các quan văn võ, bỗng nghe có tin báo:
– Thiên sứ xin vào yết kiến.
Tây Bá liền dẫn bá quan văn võ ra khỏi thành nghênh tiếp.
Sứ thần bước vào trước điện, truyền đặt bàn hương án, và đọc chiếu như sau:
“Biển Bắc dậy loạn, thiên hạ đảo huyền, các quan triều thần đều hết phương hết kế. Trẫm lấy làm lo lắm nên ban chiếu triệu bốn Trấn chư hầu về Triều Ca cùng Trẫm bàn việc binh đao. Nếu được chiếu này, Tây Bá hãy đến cho mau, kẻo Trẫm trông đợi. Như dẹp xong giặc, Trẫm sẽ chia đất phong thêm. Trẫm không quên lời, Khanh chớ trễ bước”.
Tây Bá lạy rồi truyền dọn yến đải sứ và sáng hôm sau sắm lễ vật đưa Thiên sứ lên đường.
Tây Bá nói với Thiên sứ:
– Xin ngài về trước báo tin với Thiên tử hay tôi sắp xếp xong sẽ về Triều Ca liền để kịp họp mặt cùng bốn Trấn.
Sứ thần lên ngựa ra đi.
Tây Bá trở vào kêu Táng Nghi Sanh dặn:
– Ta đi khỏi thì việc trong giao cho quan Ðại phu, việc ngoài giao cho Nam Cung Hoắt và Tân Giáp.
Nói rồi cho đòi Bá Áp Khảo đến dạy rằng:
– Hôm qua Thiên tử đem chiếu đòi cha, cha có bói thử một quẻ thấy chuyến đi này dữ nhiều lành ít. Dẫu không đến chết cũng bị tù nạn bảy năm. Con ở Tây Kỳ phải noi theo lề luật, không nên đổi phép nước, cứ theo đường lối cũ mà làm. Anh em phải hòa thuận, tôi chúa phải yêu thương, muốn làm việc gì phải tính cho kỹ lưỡng. Dân nghèo phải xuất kho cứu giúp, dân no phải dạy dỗ, chớ có hành hạ khắt khe, đợi bảy năm nữa mãn hạn cha sẽ về, chớ nên thăm viếng.
Bá Áp Khảo quì thưa:
– Tâu phụ vương. nếu phụ vương bị bảy năm tai nạn vậy để con đi thế cho.
Tây Bá nói:
– Mỗi người đều có một số mạng do do trời đất an bài, trốn tránh sao được. Con cứ ở nhà làm đúng như theo lời giáo huấn của cha là giữ được hiếu đạo rồi.
Tây Bá vào cung thăm mẹ là bà Thái khuông, thưa rành các việc.
Thái Khương nói:
– Vừa rồi mẹ có gieo quẻ thấy con bị nạn bảy năm, con có biết không?
Tây Bá nói:
– Thiên tử có lệnh đòi con, con vừa gieo quẻ cũng thấy như vậy. Nay mọi việc con đã sắp xếp xong, giao cho triều thần quản lãnh, còn Bá Áp Khảo thay con thế ngôi, con vào thưa cho mẹ rõ, mai sáng con lên đường vào Triều Ca.
Bà Thái Khương căn dặn:
– Con đến Triều Ca phải giữ mình, coi bản thân là trọng.
Tây Bá lạy tạ, nói:
– Con tuân lời mẹ.
Nói rồi từ giả Nguyên Phi Thái Cơ.
(Tây Bá có bốn cái vú và hai mươi bốn người vợ, sinh được chín mươi chín người con. Con trai lớn là Bá Áp Khảo, con thứ là Cơ Phát, sau lên ngôi Thiên tử gọi là Võ Vương).
Bữa sau Tây Bá sắm sửa ra đi đem năm mươi binh mạnh.
Thế tử Bá Áp Khảo cùng quần thần là Táng Nghi Sanh, Nam Cung Hoát, Mao Công Toại, Châu Công Ðán, Thiệu Công Thích, Tất Công, Vinh Công, Tân Giáp, Tân Miễng, đến trường đình dọn tiệc tiễn hành.
Tây Bá uống rượu với các quan và nói:
– Hôm nay ta cùng các quan cách biệt, nhưng bảy năm nữa vua tôi sẽ trùng phùng.
Tây Bá dặn đi dặn lại, Bá Áp Khảo:
– Anh em con nên hòa thuận để cha khỏi nhọc lòng lo.
Các quan đều quyến luyến không nỡ rời. Giờ tiễn hành kéo dài hơn nửa buổi.
Tây Bá lên ngựa đi bảy mươi dặm thì mới đến núi Kỳ Sơn. Lần hồi đi hơn ba mươi dặm nữa mới thấy núi Yên Sơn trước mặt.
Bấy giờ trời đã gần tối, Tây Bá truyền quân dừng lại và nói:
– Trời sắp có mưa to, chúng bay hãy coi có khoản rừng rậm hoặc nhà ai gần đây núp mưa đã.
Quân lính nghe nói ngạc nhiên thì thầm:
– Trời không có chút mây, nắng chang chang như lửa, mưa sao đuợc!
Thế rồi chỉ chốc lát, mây kéo nghịt trời. Tây Bá hối quân sĩ vào rừng rậm cho mau.
Vừa chạy tới cụm rừng đã thấy trời trút nước xuống như thác đổ hơn nửa giờ vẫn chưa tạnh.
Tây Bá lại nói với quân sĩ:
– Hãy ngồi xít vào kẻo có sấm lớn.
Quân sĩ vội nép mình vào trong, xảy nghe một tiếng sấm như xé không gian, như núi lở đất long, làm ai nấy kinh hãi
Trời dứt mưa, quân sĩ uể oải lên đường. Tây Bá ướt cả áo giáp ngồi trên ngựa, nói:
– Sấm lớn quá chắc có tướng tinh ra đời. Chúng bay đi tìm đi tìm tướng tinh xem thử.
Quân sĩ đưa mắt nhìn nhau cười thầm:
– Tướng tinh là ai? Biết đâu mà tìm?
Tuy vậy quân sĩ không dám trái lệnh, phân nhau bốn hướng đi lang thang làm ra bộ tìm kiếm để dạo cảnh luôn.
Bỗng nghe bên gò mả có tiếng con nít khóc oa oa. Quân sĩ xúm lại, thấy một đứa trẻ sơ sinh ai bỏ rơi ở đó. Chúng bàn với nhau:
– Có khi tướng tinh là đứa bé bỏ rơi này chăng?
Bèn bồng đứa bé đến trao cho Tây Bá.
Tây Bá thấy thằng nhỏ mặt như nhụy đào, mắt như sao nháy, mừng lắm, nói với quân sĩ:
– Ta đã có chín mươi chín đứa con, nay nuôi thằng nhỏ này nữa cho đủ một trăm. Tướng mạng nó ngày sau quí lắm. Bây giờ bồng nó vào xóm mướn người nuôi dưỡng, đợi bảy năm nữa ta sẽ rước về.
Tây Bá cùng đoàn quân tìm đến một thôn xóm, bỗng gặp một vị đạo sĩ, tay cầm gậy bước ra cản đường nói:
– Xin chào Chúa công.
Tây Bá liền xuốg ngựa đáp lễ và hỏi:
– Ðạo sư ở động nào, đến đây có việc gì?
Ðạo sĩ nói:
– Tôi ở động Ngọc Trụ, thuộc núi Chung Nam tên là Vân Trung Tử, vì nghe sấm có biết có vì tướng ra đời nên đến đây tìm.
Tây Bá truyền đem hài nhi ra cho Ðạo sĩ xem.
Vân Trung Tử liền bồng xem một hồi rồi nói:
– Tướng tinh đợi đến lúc này mới chịu ra mắt.
Rồi nói với Tây Bá:
– Ðể tôi mang nó về núi nuôi dưỡng, chừng Chúa công trở lại tôi sẽ giao trả.
Tây Bá nói:
– Ðạo sư muốn như thế cũng được. Song tôi muốn đặt cho nó một cái tên, để sau này tôi dễ dàng gặp lại nó.
Vân Trung Tử nói:
– Do tiếng sấm đó mà sinh ra nó, vậy đặt tên nó là Lôi Chấn Tử cho tiện.
Tây Bá khen phải, trao đứa bé cho Vân Trung Tử. Vân Trung Tử từ giã, bồng Lôi Chấn Tử về động.
Còn Tây Bá đi khỏi năm ải qua sông Huỳnh Hà, thẳng đến Triều Ca, vào trạm Kim Ðình đã thấy ba Trấn chư hầu cùng nhau ngồi uống rượu.
Trông thấy. Tây Bá mọi người đều mừng rỡ đón chào, Khương Hoàng Sở hỏi:
– Tây Bá Hầu sao đến trễ vậy?
Tây Bá nói:
– Ðường xa quá, tôi lật đật mà vẫn đến sau.
Kế quân dọn tiệc, bốn vị chư hầu ngối lại uống rượu cho đến tối.
Tây Bá nói:
– Chẵng biết có việc chi quan trọng lắm, nên Thiên Tử cho đòi chúng ta, chớ như giặc Bắc thì đã có Võ Thành Vương thừa sức cán đáng, xếp đặt trong triều thì có Tỉ Can tài ba lỗi lạc, chúng ta về đây chẳng biết việc gì?
Ba trấn chư hầu kia cũng không ai định được duyên cớ, cứ ngồi uống rượu mãi.
Bấy giờ rượu đã ngà ngà say, Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ lâu nay nghe tiếng Sùng Hầu Hổ bóc lột của dân, tham nhũng nhiều việc, nên ngứa họng nói:
– Này, Bắc Bá Hầu tôi muốn nói với ngài một lời, chẳng biết ngài có giận tôi không?
Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ cười lớn:
– Có chuyện gì thì cứ nói ra nghe. Chúng ta cùng là chức hầu cả, chỗ thân tình còn e ngại gì!
Ngạt Sùng Võ nói:
– Nếu thế thì còn gì thân mật bằng. Tôi nghe ông có nhiều tăm tiếng không tốt, mất thể diện đại thần! Ông bóc lột của dân, chia với Vưu Hồn, Bí Trọng là hai tên dua mị. Việc ấy có hay không?
Sùng Hầu Hổ đỏ mặt, nói:
– Ai nói với ông như vậy!
Ngạt Sùng Võ cười lớn:
– Ðó là tiếng đồn, cần gì phải có chứng cớ. Tôi nghe ông lúc làm lầu Trích Tinh đã lấy của nhà giàu, bắt nhà nghèo nai lưng gánh chịu, thật mất lẽ công bình. Lời xưa nói: chứa lành được phước, chứa dữ gặp họa. Tôi với ông là chỗ thân tình, không lẽ cứ để ông mang tiếng xấu ấy mãi sao. Ông nên sửa chữa hành động của mình để chuộc lại tiếng xấu ấy.
Sùng Hầu Hổ ỷ thế Vưu Hồn, Bí Trọng nên tánh tình ngang ngạnh, khi đã chạm tự ái rồi không còn kể gì phải trái nữa, trợn mắt nhìn Ngạt Sùng Võ hét lớn:
– Khốn nạn! Mày dám tìm lời bêu xấu ta truớc mặt chư hầu à?
– Nam Bá Hầu lấy lời phải khuyên nhủ, sao ông lại làm dữ như vậy. Giữa tiệc có chúng tôi, lẽ nào chúng tôi để ông đánh Nam Bá Hầu. Nếu ông có lỗi thì ăn năn, bằng không thì cũng nên thanh minh, rồi bỏ qua, nối lại tình giao hảo với nhau không tốt hơn sao?
Sùng Hầu Hổ muốn đánh Ngạt Sùng Võ, nhưng thấy Tây Bá Hầu can ngăn, đành rút tay về, toan ngồi xuống, chẳng ngờ Ngạt Sùng Võ đã lẹ tay hơn, đánh ngay vào mặt Sùng Hầu Hổ một cái đau thấu xuơng.
Sùng Hầu Hổ không còn nhịn được nữa, xốc tới ôm Ngạt Sùng Võ vật xuống. Hai người bám sát nhau.
Khương Hoàng Sở vội chen vào giữa vẹt hai người ra, nói lớn:
– Ðại thần mà đánh lộn với nhau thì còn gì thể thống nữa! Bắc Bá Hầu ơi đêm đã khuya, nên đi nghỉ là hơn.
Sùng Hầu Hổ nuốt hận đi ngủ.
Có thơ rằng:
Uống rượu bày lời nói thấp cao
Tôi gian toan kế hại anh hào
Loạn ly từ đấy tràn thiên hạ
Dân ở Triều Ca mấy vạn hao.
Sùng Hầu Hổ đi ngủ, chỉ còn ba vị chư hầu ba trấn ngồi nói chuyện suốt đêm.
Có một tên quân hầu thấy vậy lén ngâm nhỏ một câu:
Nửa đêm rượu cúc vui canh lụn
Tảng sáng máu hường nhuốm chợ mai.
Vì đêm khuya, giọng ngâm rất nhỏ, nhưng nghe rất rõ ràng.
Tây Bá Hầu bỗng hỏi lớn:
– Ai vừa ngâm câu thơ đó hãy ra đây ta bảo.
Mấy tên quân hầu đều đến quì trước mặt không ai dám nhận cả.
Tây Bá Hầu nói:
– Ta vừa nghe rõ ràng, chúng bay chối sao được. Nếu không có đứa nào thú nhận ta truyền chém hết.
Bọn quân hầu thất kinh, chỉ vào một tên quân đàng trước nói:
– Tai họa xảy ra thế này là tại tên Dao Phước đó.
Tây Bá liền hỏi tên quân gọi là Dao phước:
– Vì đâu mà ngươi lại ngâm hai câu thơ ấy. Hãy nói thiệt, ta trọng thưởng.
Dao Phước thưa:
– Việc này rất trọng đại và bí mật. Tôi là đứa bộ hạ của quan nội giám nên mới rõ. Sở dĩ Khương Hoàng Hậu thác oan, hai vị Hoàng Tử bị gió thổi bay mất vì Thiên tử đam mê mỹ sắc, không nghe lời can gián của tôi trung, chế hình Bào Lạc hại tôi hiền, do đó Thiên tử sợ chư hầu dấy binh nổi loạn, nên nghe lời kẻ dua nịnh gạt các ngài về đây để chém đầu. Tôi thấy các ngài là những đại thần không nỡ giấu nên mới tiết lộ điều đó.
Khương Hoàng Sở nghe nói hỏi:
– Khương Hậu phạm tội gì mà bị hành hình đến chết?
Dao Phước kể lại mọi việc vừa xảy ra trong cung cấm và ngoài triều thần trong giai đoạn vừa rồi.
Khương Hoàng Sở nghe xong ngã lăn ra chết giấc. Tây Bá thương hại, vội đỡ dậy.
Khương Hoàng Sở quá đau đớn, nói:
– Con tôi bị khoét mắt, đốt tay, thật là một cực hình chưa bao giờ có đối với một vị Hoàng Hậu.
Tây Bá khuyên:
– Người chết rồi không sống đậy được nữa. Hiền hầu có than khóc cũng chỉ làm cho kẻ khác tủi lòng. Ðể mai, chúng ta đồng viết sớ vào triều can gián, may ra Bệ hạ hồi tâm sửa mình, lo việc chánh.
Khương Hoàng Sở nói:
– Trước đây các vị trung thần như Thương Dung, Triệu Khải, Mai Bá chỉ vì can vua mà bỏ mình. Nay các ngài vì tôi dự vào việc này e không khỏi họa. Thôi, cứ để mình tôi dâng sớ mà thôi.
Tây Bá Hầu nói:
– Hiền hầu dâng lên một sớ, còn chúng tôi đứng chung một sớ. Tất cả đều có lời can vua mới phải đạo làm tôi trong lúc quốc biến gia vong này.
Khương Hoàng Sở vừa khóc vừa ngồi lại viết sớ.
Bấy giờ Vưu Hồn, Bí Trọng thấy các trấn chư hầu đã về đủ mặt liền vào cung báo cho Trụ Vương hay.
Trụ Vương mừng lắm hỏi Bí Trọng:
– Trẫm phải làm sao bây giờ?
Bí Trọng tâu:
– Ngày mai bốn chư hầu thế nào cũng dâng sớ can gián, xin Bệ hạ đừng xem đến làm gì, cứ việc truyền đem chém đầu hết.
Vua Trụ nhận lời, sáng hôm sau, Trụ Vương lâm triều Huỳnh Môn quan vào báo:
– Bốn trấn chư hầu được lệnh bệ hạ xin vào ra mắt.
Vua Trụ cho vào. Bốn chư hầu lạy chúc mừng xong, Khương Hoàng Sở dâng lá sớ lên.
Tỉ Can tiếp lấy trải trước long sàng.
Vua Trụ không thèm xem, hỏi Khương Hoàng Sở:
– Khanh đã biết tội chưa?
Khương Hoàng Sở tâu:
– Tôi trấn Ðông Lỗ, bình an một cõi, noi theo lề luật nào có tội gì. Bệ hạ mê sắc, nghe lời nịnh thần không kể đến nghĩa vợ chồng, khoét mắt, đốt tay Hoàng Hậu hành hình một cách ghê gớm như vậy đâu phải luật Thành Thang. Ðã vậy còn ra lệnh chém hai vị Ðiện Hạ, làm Bào Lạc đốt tôi trung. Tôi đội ơn tiên đế không kể mạng sống, liều mình dâng sớ khuyên can. Xin Bệ hạ bỏ tà quy chánh, giết kẻ nịnh thần, xa rời mỹ sắc lo việc trị dân sửa đức thì người sống cũng mang ơn, mà người chết cũng cam tâm nhắm mắt.
Trụ Vương nổi giận mắng lớn:
– Lão tặc! Ngươi dám thông đồng với con gái mưu giết Trẫm soán đoạt ngôi trời. Tội ấy lớn bằng non, không lo chịu tội còn tìm lời mắng Trẫm. Võ sĩ đâu, hãy bắt tên phản tặc này đem phân thây mau.
Võ sĩ áp lại lột hết áo rnão.
Khương Hoàng Sở mắng vãi vào mặt Trụ Vương không dứt.
Ba trấn chư hầu đều quì xuống tâu:
– Khương Hoàng Sở lòng ngay phò chúa, chẳng có hành động thí quân, xin Bệ Hạ xem sớ của chúng tôi rồi xét lại.
Vua Trụ quyết tình giết hết bốn Trấn chư hầu nên không thèm coi sớ.
Triệu Khải thấy quân đem thây Thương Dung đi bỏ ngoài đồng nổi giận ra nói lớn:
– Tôi không thể phụ ơn vua trước, nên quyết chết giữa đền để tạ tội với tiên quân.
Nói rồi chỉ vào mặt Trụ Vương mắng:
– Hôn quân, nghe ta hài tội đây: Giết Thừa Tướng, hại quan trung, chư hầu sẽ không còn kính trọng. Mê Ðắc Kỷ giết vợ bỏ con, cơ nghiệp không còn. Làm vua mà không tròn bổn phận làm vua, tam cang ngũ thường đổ nát, như thế còn ai kính phục.
Trụ Vương nổi giận đỏ mặt hét:
– Ðồ thất phu, không còn biết giữ đạo vua tôi là gì nữa. Tả hữu đâu, đem Bào Lạc đốt nó đi cho khuất mắt ta.
Triệu Khải nói:
– Ta chết đi không hại gì, vì tên vua ngu muội sẽ được tiếng trung thần, còn hôn quân mất nước sẽ bị nghìn đời sỉ vả, tiếng xấu thiên thu.
Triệu Khải nói một hồi thì lửa Bào Lạc đã đỏ, quân sĩ bắt Triệu Khải trói lại, lột hết áo mão, xiềng vào Bào Lạc. Phút chốc thịt xương Triệu Khải tan thành tro bụi. Triều thần ai nấy đều thương xót, thở vắn than dài.
Trụ Vương truyền bãi trào về cung, Ðắc Kỷ ra nghênh tiếp, Vua Trụ nói:
– Bữa nay Thương Dung đập đầu tự tử, Triệu Khải bị ta dùng Bào Lạc đốt thành than. Tuy vậy, ta xem lối hành hình ấy chúng nó không ghê, vậy Khanh tính kế nào trị bọn triều thần mới được.
Ðắc Kỷ tâu:
– Xin Bệ Hạ yên tâm, thần thiếp suy tính một hôm sẽ có cách.
Trụ Vương nói:
– Nay mỹ nhân đã làm Hoàng Hậu, không còn ai vô lễ với mỹ nhân nữa, chỉ sợ Khương Hoàng Sở ở Ðông Lỗ cử binh về đánh, trong lúc Thái Sư Văn Trọng chưa về, biết ai chống cự?
Ðắc Kỷ tâu:
– Thần thiếp là phận đàn bà, mưu trí không bao nhiêu, xin Bệ Hạ đòi Bí Trọng vào hỏi xem có mưu gì hay không?
Trụ Vương khen:
– Ái khanh nói rất phải.
Liền đòi Bí Trọng ứng hầu, và nói:
– Trẫm đang lo Khương Hoàng Sở cử binh làm phản, báo cừu cho Khương Hậu, Khanh có kế gì hay để ngăn ngừa mũi giặc ấy hay không?
Bí Trọng quì tâu:
– Khương Hậu đã mất, hai vị HoàngTử bị gió thổi bay mất, Thương Dung đập đầu tự vận, Triệu Khải bị Bào Lạc ra tro, các quan văn võ thế nào cũng oán trách Bệ Hạ, và nhắm vào lực lượng Khương Hoàng Sở có thể báo thù được. Mũi giặc ấy tất không tránh khỏi. Nay Bệ Hạ nên xuống chiếu, triệu bốn Trấn chư hầu về chầu, chém đầu hết. Như vậy, tám trăm Trấn chư hầu nhỏ sẽ không ai làm chủ chẳng khác rắn không đầu, cọp thiếu vây, dù chúng có muốn làm phản cũng không được. Ðó là Bệ Hạ biết lo xa.
Vua Trụ khen:
– Khanh thật là kẻ mưu cao trí rộng. Tô Hoàng Hậu tiến cử không lầm.
Bí Trọng cúi lạy ra về. Trụ Vương liền viết chiếu sai sứ giả đi bốn Trấn. Bốn vị sứ thần tuân lệnh ra đi…
Vị sứ thần đến Tây Kỳ thấy phong tục rất tốt, cảnh vật hiền hòa, từ dân chúng đến các quan đều một lòng yêu nước, tuân theo lề luật quốc gia, không gian tham, không trộm cắp, không một tiếng gây gỗ ngoài chợ.
Sứ thần khen:
– Nghe đồn ông Bá Cơ nhân đức, trị nước ôn hòa, quả nhiên đúng như thuở Thuấn Nghiêu, lời đồn ấy không sai.
Bấy giờ, Tây Bá Cơ Xương đang lâm triều nghị việc với các quan văn võ, bỗng nghe có tin báo:
– Thiên sứ xin vào yết kiến.
Tây Bá liền dẫn bá quan văn võ ra khỏi thành nghênh tiếp.
Sứ thần bước vào trước điện, truyền đặt bàn hương án, và đọc chiếu như sau:
“Biển Bắc dậy loạn, thiên hạ đảo huyền, các quan triều thần đều hết phương hết kế. Trẫm lấy làm lo lắm nên ban chiếu triệu bốn Trấn chư hầu về Triều Ca cùng Trẫm bàn việc binh đao. Nếu được chiếu này, Tây Bá hãy đến cho mau, kẻo Trẫm trông đợi. Như dẹp xong giặc, Trẫm sẽ chia đất phong thêm. Trẫm không quên lời, Khanh chớ trễ bước”.
Tây Bá lạy rồi truyền dọn yến đải sứ và sáng hôm sau sắm lễ vật đưa Thiên sứ lên đường.
Tây Bá nói với Thiên sứ:
– Xin ngài về trước báo tin với Thiên tử hay tôi sắp xếp xong sẽ về Triều Ca liền để kịp họp mặt cùng bốn Trấn.
Sứ thần lên ngựa ra đi.
Tây Bá trở vào kêu Táng Nghi Sanh dặn:
– Ta đi khỏi thì việc trong giao cho quan Ðại phu, việc ngoài giao cho Nam Cung Hoắt và Tân Giáp.
Nói rồi cho đòi Bá Áp Khảo đến dạy rằng:
– Hôm qua Thiên tử đem chiếu đòi cha, cha có bói thử một quẻ thấy chuyến đi này dữ nhiều lành ít. Dẫu không đến chết cũng bị tù nạn bảy năm. Con ở Tây Kỳ phải noi theo lề luật, không nên đổi phép nước, cứ theo đường lối cũ mà làm. Anh em phải hòa thuận, tôi chúa phải yêu thương, muốn làm việc gì phải tính cho kỹ lưỡng. Dân nghèo phải xuất kho cứu giúp, dân no phải dạy dỗ, chớ có hành hạ khắt khe, đợi bảy năm nữa mãn hạn cha sẽ về, chớ nên thăm viếng.
Bá Áp Khảo quì thưa:
– Tâu phụ vương. nếu phụ vương bị bảy năm tai nạn vậy để con đi thế cho.
Tây Bá nói:
– Mỗi người đều có một số mạng do do trời đất an bài, trốn tránh sao được. Con cứ ở nhà làm đúng như theo lời giáo huấn của cha là giữ được hiếu đạo rồi.
Tây Bá vào cung thăm mẹ là bà Thái khuông, thưa rành các việc.
Thái Khương nói:
– Vừa rồi mẹ có gieo quẻ thấy con bị nạn bảy năm, con có biết không?
Tây Bá nói:
– Thiên tử có lệnh đòi con, con vừa gieo quẻ cũng thấy như vậy. Nay mọi việc con đã sắp xếp xong, giao cho triều thần quản lãnh, còn Bá Áp Khảo thay con thế ngôi, con vào thưa cho mẹ rõ, mai sáng con lên đường vào Triều Ca.
Bà Thái Khương căn dặn:
– Con đến Triều Ca phải giữ mình, coi bản thân là trọng.
Tây Bá lạy tạ, nói:
– Con tuân lời mẹ.
Nói rồi từ giả Nguyên Phi Thái Cơ.
(Tây Bá có bốn cái vú và hai mươi bốn người vợ, sinh được chín mươi chín người con. Con trai lớn là Bá Áp Khảo, con thứ là Cơ Phát, sau lên ngôi Thiên tử gọi là Võ Vương).
Bữa sau Tây Bá sắm sửa ra đi đem năm mươi binh mạnh.
Thế tử Bá Áp Khảo cùng quần thần là Táng Nghi Sanh, Nam Cung Hoát, Mao Công Toại, Châu Công Ðán, Thiệu Công Thích, Tất Công, Vinh Công, Tân Giáp, Tân Miễng, đến trường đình dọn tiệc tiễn hành.
Tây Bá uống rượu với các quan và nói:
– Hôm nay ta cùng các quan cách biệt, nhưng bảy năm nữa vua tôi sẽ trùng phùng.
Tây Bá dặn đi dặn lại, Bá Áp Khảo:
– Anh em con nên hòa thuận để cha khỏi nhọc lòng lo.
Các quan đều quyến luyến không nỡ rời. Giờ tiễn hành kéo dài hơn nửa buổi.
Tây Bá lên ngựa đi bảy mươi dặm thì mới đến núi Kỳ Sơn. Lần hồi đi hơn ba mươi dặm nữa mới thấy núi Yên Sơn trước mặt.
Bấy giờ trời đã gần tối, Tây Bá truyền quân dừng lại và nói:
– Trời sắp có mưa to, chúng bay hãy coi có khoản rừng rậm hoặc nhà ai gần đây núp mưa đã.
Quân lính nghe nói ngạc nhiên thì thầm:
– Trời không có chút mây, nắng chang chang như lửa, mưa sao đuợc!
Thế rồi chỉ chốc lát, mây kéo nghịt trời. Tây Bá hối quân sĩ vào rừng rậm cho mau.
Vừa chạy tới cụm rừng đã thấy trời trút nước xuống như thác đổ hơn nửa giờ vẫn chưa tạnh.
Tây Bá lại nói với quân sĩ:
– Hãy ngồi xít vào kẻo có sấm lớn.
Quân sĩ vội nép mình vào trong, xảy nghe một tiếng sấm như xé không gian, như núi lở đất long, làm ai nấy kinh hãi
Trời dứt mưa, quân sĩ uể oải lên đường. Tây Bá ướt cả áo giáp ngồi trên ngựa, nói:
– Sấm lớn quá chắc có tướng tinh ra đời. Chúng bay đi tìm đi tìm tướng tinh xem thử.
Quân sĩ đưa mắt nhìn nhau cười thầm:
– Tướng tinh là ai? Biết đâu mà tìm?
Tuy vậy quân sĩ không dám trái lệnh, phân nhau bốn hướng đi lang thang làm ra bộ tìm kiếm để dạo cảnh luôn.
Bỗng nghe bên gò mả có tiếng con nít khóc oa oa. Quân sĩ xúm lại, thấy một đứa trẻ sơ sinh ai bỏ rơi ở đó. Chúng bàn với nhau:
– Có khi tướng tinh là đứa bé bỏ rơi này chăng?
Bèn bồng đứa bé đến trao cho Tây Bá.
Tây Bá thấy thằng nhỏ mặt như nhụy đào, mắt như sao nháy, mừng lắm, nói với quân sĩ:
– Ta đã có chín mươi chín đứa con, nay nuôi thằng nhỏ này nữa cho đủ một trăm. Tướng mạng nó ngày sau quí lắm. Bây giờ bồng nó vào xóm mướn người nuôi dưỡng, đợi bảy năm nữa ta sẽ rước về.
Tây Bá cùng đoàn quân tìm đến một thôn xóm, bỗng gặp một vị đạo sĩ, tay cầm gậy bước ra cản đường nói:
– Xin chào Chúa công.
Tây Bá liền xuốg ngựa đáp lễ và hỏi:
– Ðạo sư ở động nào, đến đây có việc gì?
Ðạo sĩ nói:
– Tôi ở động Ngọc Trụ, thuộc núi Chung Nam tên là Vân Trung Tử, vì nghe sấm có biết có vì tướng ra đời nên đến đây tìm.
Tây Bá truyền đem hài nhi ra cho Ðạo sĩ xem.
Vân Trung Tử liền bồng xem một hồi rồi nói:
– Tướng tinh đợi đến lúc này mới chịu ra mắt.
Rồi nói với Tây Bá:
– Ðể tôi mang nó về núi nuôi dưỡng, chừng Chúa công trở lại tôi sẽ giao trả.
Tây Bá nói:
– Ðạo sư muốn như thế cũng được. Song tôi muốn đặt cho nó một cái tên, để sau này tôi dễ dàng gặp lại nó.
Vân Trung Tử nói:
– Do tiếng sấm đó mà sinh ra nó, vậy đặt tên nó là Lôi Chấn Tử cho tiện.
Tây Bá khen phải, trao đứa bé cho Vân Trung Tử. Vân Trung Tử từ giã, bồng Lôi Chấn Tử về động.
Còn Tây Bá đi khỏi năm ải qua sông Huỳnh Hà, thẳng đến Triều Ca, vào trạm Kim Ðình đã thấy ba Trấn chư hầu cùng nhau ngồi uống rượu.
Trông thấy. Tây Bá mọi người đều mừng rỡ đón chào, Khương Hoàng Sở hỏi:
– Tây Bá Hầu sao đến trễ vậy?
Tây Bá nói:
– Ðường xa quá, tôi lật đật mà vẫn đến sau.
Kế quân dọn tiệc, bốn vị chư hầu ngối lại uống rượu cho đến tối.
Tây Bá nói:
– Chẵng biết có việc chi quan trọng lắm, nên Thiên Tử cho đòi chúng ta, chớ như giặc Bắc thì đã có Võ Thành Vương thừa sức cán đáng, xếp đặt trong triều thì có Tỉ Can tài ba lỗi lạc, chúng ta về đây chẳng biết việc gì?
Ba trấn chư hầu kia cũng không ai định được duyên cớ, cứ ngồi uống rượu mãi.
Bấy giờ rượu đã ngà ngà say, Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ lâu nay nghe tiếng Sùng Hầu Hổ bóc lột của dân, tham nhũng nhiều việc, nên ngứa họng nói:
– Này, Bắc Bá Hầu tôi muốn nói với ngài một lời, chẳng biết ngài có giận tôi không?
Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ cười lớn:
– Có chuyện gì thì cứ nói ra nghe. Chúng ta cùng là chức hầu cả, chỗ thân tình còn e ngại gì!
Ngạt Sùng Võ nói:
– Nếu thế thì còn gì thân mật bằng. Tôi nghe ông có nhiều tăm tiếng không tốt, mất thể diện đại thần! Ông bóc lột của dân, chia với Vưu Hồn, Bí Trọng là hai tên dua mị. Việc ấy có hay không?
Sùng Hầu Hổ đỏ mặt, nói:
– Ai nói với ông như vậy!
Ngạt Sùng Võ cười lớn:
– Ðó là tiếng đồn, cần gì phải có chứng cớ. Tôi nghe ông lúc làm lầu Trích Tinh đã lấy của nhà giàu, bắt nhà nghèo nai lưng gánh chịu, thật mất lẽ công bình. Lời xưa nói: chứa lành được phước, chứa dữ gặp họa. Tôi với ông là chỗ thân tình, không lẽ cứ để ông mang tiếng xấu ấy mãi sao. Ông nên sửa chữa hành động của mình để chuộc lại tiếng xấu ấy.
Sùng Hầu Hổ ỷ thế Vưu Hồn, Bí Trọng nên tánh tình ngang ngạnh, khi đã chạm tự ái rồi không còn kể gì phải trái nữa, trợn mắt nhìn Ngạt Sùng Võ hét lớn:
– Khốn nạn! Mày dám tìm lời bêu xấu ta truớc mặt chư hầu à?
– Nam Bá Hầu lấy lời phải khuyên nhủ, sao ông lại làm dữ như vậy. Giữa tiệc có chúng tôi, lẽ nào chúng tôi để ông đánh Nam Bá Hầu. Nếu ông có lỗi thì ăn năn, bằng không thì cũng nên thanh minh, rồi bỏ qua, nối lại tình giao hảo với nhau không tốt hơn sao?
Sùng Hầu Hổ muốn đánh Ngạt Sùng Võ, nhưng thấy Tây Bá Hầu can ngăn, đành rút tay về, toan ngồi xuống, chẳng ngờ Ngạt Sùng Võ đã lẹ tay hơn, đánh ngay vào mặt Sùng Hầu Hổ một cái đau thấu xuơng.
Sùng Hầu Hổ không còn nhịn được nữa, xốc tới ôm Ngạt Sùng Võ vật xuống. Hai người bám sát nhau.
Khương Hoàng Sở vội chen vào giữa vẹt hai người ra, nói lớn:
– Ðại thần mà đánh lộn với nhau thì còn gì thể thống nữa! Bắc Bá Hầu ơi đêm đã khuya, nên đi nghỉ là hơn.
Sùng Hầu Hổ nuốt hận đi ngủ.
Có thơ rằng:
Uống rượu bày lời nói thấp cao
Tôi gian toan kế hại anh hào
Loạn ly từ đấy tràn thiên hạ
Dân ở Triều Ca mấy vạn hao.
Sùng Hầu Hổ đi ngủ, chỉ còn ba vị chư hầu ba trấn ngồi nói chuyện suốt đêm.
Có một tên quân hầu thấy vậy lén ngâm nhỏ một câu:
Nửa đêm rượu cúc vui canh lụn
Tảng sáng máu hường nhuốm chợ mai.
Vì đêm khuya, giọng ngâm rất nhỏ, nhưng nghe rất rõ ràng.
Tây Bá Hầu bỗng hỏi lớn:
– Ai vừa ngâm câu thơ đó hãy ra đây ta bảo.
Mấy tên quân hầu đều đến quì trước mặt không ai dám nhận cả.
Tây Bá Hầu nói:
– Ta vừa nghe rõ ràng, chúng bay chối sao được. Nếu không có đứa nào thú nhận ta truyền chém hết.
Bọn quân hầu thất kinh, chỉ vào một tên quân đàng trước nói:
– Tai họa xảy ra thế này là tại tên Dao Phước đó.
Tây Bá liền hỏi tên quân gọi là Dao phước:
– Vì đâu mà ngươi lại ngâm hai câu thơ ấy. Hãy nói thiệt, ta trọng thưởng.
Dao Phước thưa:
– Việc này rất trọng đại và bí mật. Tôi là đứa bộ hạ của quan nội giám nên mới rõ. Sở dĩ Khương Hoàng Hậu thác oan, hai vị Hoàng Tử bị gió thổi bay mất vì Thiên tử đam mê mỹ sắc, không nghe lời can gián của tôi trung, chế hình Bào Lạc hại tôi hiền, do đó Thiên tử sợ chư hầu dấy binh nổi loạn, nên nghe lời kẻ dua nịnh gạt các ngài về đây để chém đầu. Tôi thấy các ngài là những đại thần không nỡ giấu nên mới tiết lộ điều đó.
Khương Hoàng Sở nghe nói hỏi:
– Khương Hậu phạm tội gì mà bị hành hình đến chết?
Dao Phước kể lại mọi việc vừa xảy ra trong cung cấm và ngoài triều thần trong giai đoạn vừa rồi.
Khương Hoàng Sở nghe xong ngã lăn ra chết giấc. Tây Bá thương hại, vội đỡ dậy.
Khương Hoàng Sở quá đau đớn, nói:
– Con tôi bị khoét mắt, đốt tay, thật là một cực hình chưa bao giờ có đối với một vị Hoàng Hậu.
Tây Bá khuyên:
– Người chết rồi không sống đậy được nữa. Hiền hầu có than khóc cũng chỉ làm cho kẻ khác tủi lòng. Ðể mai, chúng ta đồng viết sớ vào triều can gián, may ra Bệ hạ hồi tâm sửa mình, lo việc chánh.
Khương Hoàng Sở nói:
– Trước đây các vị trung thần như Thương Dung, Triệu Khải, Mai Bá chỉ vì can vua mà bỏ mình. Nay các ngài vì tôi dự vào việc này e không khỏi họa. Thôi, cứ để mình tôi dâng sớ mà thôi.
Tây Bá Hầu nói:
– Hiền hầu dâng lên một sớ, còn chúng tôi đứng chung một sớ. Tất cả đều có lời can vua mới phải đạo làm tôi trong lúc quốc biến gia vong này.
Khương Hoàng Sở vừa khóc vừa ngồi lại viết sớ.
Bấy giờ Vưu Hồn, Bí Trọng thấy các trấn chư hầu đã về đủ mặt liền vào cung báo cho Trụ Vương hay.
Trụ Vương mừng lắm hỏi Bí Trọng:
– Trẫm phải làm sao bây giờ?
Bí Trọng tâu:
– Ngày mai bốn chư hầu thế nào cũng dâng sớ can gián, xin Bệ hạ đừng xem đến làm gì, cứ việc truyền đem chém đầu hết.
Vua Trụ nhận lời, sáng hôm sau, Trụ Vương lâm triều Huỳnh Môn quan vào báo:
– Bốn trấn chư hầu được lệnh bệ hạ xin vào ra mắt.
Vua Trụ cho vào. Bốn chư hầu lạy chúc mừng xong, Khương Hoàng Sở dâng lá sớ lên.
Tỉ Can tiếp lấy trải trước long sàng.
Vua Trụ không thèm xem, hỏi Khương Hoàng Sở:
– Khanh đã biết tội chưa?
Khương Hoàng Sở tâu:
– Tôi trấn Ðông Lỗ, bình an một cõi, noi theo lề luật nào có tội gì. Bệ hạ mê sắc, nghe lời nịnh thần không kể đến nghĩa vợ chồng, khoét mắt, đốt tay Hoàng Hậu hành hình một cách ghê gớm như vậy đâu phải luật Thành Thang. Ðã vậy còn ra lệnh chém hai vị Ðiện Hạ, làm Bào Lạc đốt tôi trung. Tôi đội ơn tiên đế không kể mạng sống, liều mình dâng sớ khuyên can. Xin Bệ hạ bỏ tà quy chánh, giết kẻ nịnh thần, xa rời mỹ sắc lo việc trị dân sửa đức thì người sống cũng mang ơn, mà người chết cũng cam tâm nhắm mắt.
Trụ Vương nổi giận mắng lớn:
– Lão tặc! Ngươi dám thông đồng với con gái mưu giết Trẫm soán đoạt ngôi trời. Tội ấy lớn bằng non, không lo chịu tội còn tìm lời mắng Trẫm. Võ sĩ đâu, hãy bắt tên phản tặc này đem phân thây mau.
Võ sĩ áp lại lột hết áo rnão.
Khương Hoàng Sở mắng vãi vào mặt Trụ Vương không dứt.
Ba trấn chư hầu đều quì xuống tâu:
– Khương Hoàng Sở lòng ngay phò chúa, chẳng có hành động thí quân, xin Bệ Hạ xem sớ của chúng tôi rồi xét lại.
Vua Trụ quyết tình giết hết bốn Trấn chư hầu nên không thèm coi sớ.
Ba vị Tổng trấn chư hầu thấy vua chẳng xem sớ, cứ việc truyền chém Khương Hoàng Sở, vội vã quì tâu:
– Chúa là đầu não, bầy tôi như kẻ tay chân. Bệ không xét lẽ phải trái, chém trung thần như chém kẻ thù nghịch, chúng tôi e trăm họ không phục mà sanh biến chăng? Xin Bệ hạ xét lại.
Tỉ Can liền trải tờ sớ ra trước mặt Trụ Vương. Trụ Vương cực chẳng đã phải xem.
Tờ sớ viết:
“Chúng tôi đâng sớ là Ngạt Sùng Võ, Cơ Xương, Sùng Hầu Hổ, cúi đầu trước bệ, cúi xin Bệ hạ nhận lời ngay.
Lời xưa ví: Vua Thánh trị thiên hạ chăm lo việc nước, gần người hiền, xa kẻ dữ chẳng chuộng lâu đài, không ham tửu sắc.
Vua Thuấn, Vua Nghiêu nhờ noi đức ấy mà thiên hạ thái bình.
Ðến nay Bệ Hạ nối ngôi, chưa từng làm việc chính, lại chuộng sắc, gần gian tà, trong thì giết vợ hại con, ngoài làm Bào Lạc hại tôi trung.
Vợ con và tôi thần đều là người gần gũi Bệ hạ, coi như tay chân Bệ Hạ, bệ hạ nỡ chặt bỏ đi tất nhiên Bệ hạ phải suy yếu,
Mối nước mỗi ngày một lầm than. Kẻ nịnh xúi Bệ Hạ làm những việc đó tức là đã dụng tâm đưa Bệ Hạ vào con đường bệnh hoạn để chúng một ngày kia thu đoạt giang san. Mong bệ hạ tỉnh ngộ, tự sửa mình, xa rời tửu sắc, giết Ðắt Kỷ, chém đầu Bí Trọng, Vưu Hồn, để mắt khỏi thấy loài dâm dục, tai khỏi nghe tiếng sàm tấu nịnh thần. Ðược vậy giang sơn sẽ vững bền mãi mãi,
Vua Trụ xem xong tờ sớ nổi giận xé nát, ném luống đất hét lớn:
– Quả là một lũ gian thần, đùa theo đảng nghịch. Võ sĩ đâu, đem chém đầu hết cho Trẫm.
Trong bốn trấn chư hầu này có Sùng Hầu Hổ lâu nay có dính líu với Bí Trọng, Vưu Hồn về việc tham nhũng nên không lẽ để
Sùng Hầu Hổ cùng chết trong đám ấy, cho nên Vưu Hồn, Bí Trọng vội quì tâu:
– Bốn Trấn đều xúc phạm đến uy trời, lẽ ra không được hưởng ân huệ. Tuy nhiên, chúng tôi xét thấy Sùng Hầu Hổ mặc dầu đứng chung trong sớ, chứ thật tình không có ý khi quân. Bằng chứng là trước đây, Sùng Hầu Hổ đã trải lòng ngay giúp nước, cất lầu Trích Tiên, lập cung Thọ Tiên, công đức cao dày, khó nhọc biết bao. Nay chỉ vì nói xuôi theo các trấn mà phạm tội chết, nghĩ cũng oan tình, xin Bệ Hạ xét lại từng người để tha cho Sùng Hầu Hổ. Nếu trắng đen không phân biệt, ngọc đá đều đem đốt một lần kẻ có công cũng như người có tội, chẳng hóa ra Bệ Hạ bất minh sao? Xin Bệ Hạ tha chết cho Sùng Hầu Hổ để đoái công chuộc tội sau này.
Trụ Vương nói:
– Cứ theo lời hai khanh tâu thì Sùng Hầu Hổ là kẻ có công với triều đình. Vậy tha chết cho Sùng Hầu Hổ, còn ba trấn kia khi mệnh trẫm, truyền xử hình lập tức.
Hoàng Phi Hổ, Tỉ Can, Vi Tử, Cơ Tử Vi Tử Khải, Vi tử Ðiền Bá Di và Thúc Tề đều quì xuống một lượt
Tỉ Can thay mặt tâu:
– Khương Hoàng Sở trấn bên Ðông Lỗ công trận rất nhiều, nếu bắt tội thí quân thật là oan ức, vì không có bằng cớ nào cả. Còn Cơ Xương dạ thẳng lòng ngay, một lòng thờ chúa, nhân đức trải khắp miền, ai ai cũng đều cảm mến. Ðến như Ngạt Sùng Võ thân trải đao binh biết bao trận vào sanh ra tử để bảo vệ nhà Thương, một cõi phương Nam bình yên lạc nghiệp. Ba người đều có công lớn với triều đình như vậy xin Bệ Hạ ra ơn tha chết để thiên hạ khỏi dị nghị là Bệ Hạ bất minh.
Trụ Vương nói:
– Khương Hoàng Sở làm phản, Cơ Xương và Ngạt Sùng Võ đều phạm tội mắng vua, hai tội ấy không tha được. Các ngươi chớ can gián nữa.
Hoàng Phi Hổ tâu:
– Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ đều nổi danh một cõi, không phạm tội gì. Còn Cơ Xương là bậc quân tử hiền lành mà bị giết như vậy. Tôi e thiên hạ không phục. Vả lại, xứ Bắc giặc giã chưa yên, nay Bệ Hạ giết các vị Tổng Trấn chư hầu ba phía nữa, thiên hạ nổi loạn. Ðông, Tây, Nam, Bắc đều có giặc, biết làm cách nào dẹp được. Chư hầu bốn Trấn cũng hơn mấy mươi vạn, không phải chuyện thường.
Trụ Vương nghe Hoàng Phi Hổ phân tách điều lợi hại, lại thấy nhiều vị Ðại thần can gián, lòng cũng sợ, vội phán:
– Trẫm nghe tiếng Cơ Xương hiền đức, sao lại nghe theo đường dữ làm gì. Lẽ ra xử tội liên can, song Trẫm vị tình các quan nên tha chết. Còn Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ quả là đáng nghịch, tội chết không thể bỏ được. Các quan chớ can gián nhiều lời.
Quan Ðại phu Dao Cách và Dương Nhậm quì tâu:
– Bốn trấn đều bị một tội mà Bệ hạ tha Cơ Xương và Sùng Hầu Hổ, còn Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ lại không tha sao phải lẽ. Xét Khương Hoàng Sở cũng như Cơ Xương, xưa nay không có gì thất đức, trị dân phải phép, phò chúa một lòng. Còn tội thí vua chẳng qua là chuyện huyền hoặc, không đủ bằng cớ kết tội được. Ngạt Sùng Võ thì dùng lời thẳng can vua. Lời xưa có nói: Vua sáng thì tôi nói thẳng. Lấy lời thẳng mà can trước mặt vua là tôi ngay. Ðã được tiếng tôi ngay mà bị giết sao phải. Xin Bệ Hạ nghĩ lại dung tha cả bốn Trấn chư hầu như thế mới phải tình tôi chúa, vui vẻ trời Nghiêu.
Vua Trụ giận, vỗ án nói lớn:
– Ngạt Sùng Võ mắng vua, Khương Hoàng Sở thí chúa, không chém đầu làm gương thì còn ai tuân phép nước. Trẫm còn thấy kẻ nào xin tội cho hai người ấy tức là kẻ ấy đã hùa theo đảng dữ, phải tội liên can.
Thấy vua Trụ giận dữ, chẳng ai dám tâu dai. Vua Trụ truyền đem Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ ra hành hình lóc thịt.
Võ sĩ tuân lệnh bắt Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ đóng đinh lên cột, rồi lóc thịt gia hình.
Người sau có thơ điếu:
Một dòng Hoàng Sở thảy trung lương
Vua Trụ ham dâm giết thảm thương
Cả họ thác oan trời cũng xót
Hôn quân vô đạo mất nhà Thương
Sau đó Trụ Vương truyền bãi chầu. Tây Bá lạy tạ ơn các quan đã cứu mình và khóc:
– Khương Hoàng Sở vô tội thác oan, Ngạt Sùng Võ can vua bị chém, tôi sợ hai cõi Ðông và Nam sanh loạn.
Các quan lau nước mắt nói:
– Bây giờ chúng ta lo việc mai táng thi hài hai vị chư hầu rồi sau sẽ tính.
Bọn gia tướng của Ðông Bá và Nam Bá thấy chúa mình bị hại đều trốn về hết.
Tỉ Can vào đền tâu với vua Trụ:
– Xin Bệ Hạ cho chôn cất hai thây của hai vị chư hầu, và thả Cơ Xương về nước.
Vua Trụ nhận lời. Bí Trọng hay được việc ấy vào tâu:
– Cơ Xương ngoài mặt hiền lành, song trong lòng gian, trải chuốt ngọt lời nói để gạt các quan. Nếu tha về thế nào va cũng xui con Khương Hoàng Sở là Khương Văn Hoán và con Ngạt Sùng Võ là Ngạt Thuận khởi binh làm loạn để báo cừu, ấy là thả cọp về rừng, cho rong về biển.
Trụ Vương nói:
– Trước triều Trẫm đã tuyên bố tha chết cho Cơ Xương rồi, các quan ai cũng biết. Nay lấy lý do gì mà bắt giết.
Bí Trọng nói:
– Tôi đã tính sẵn một kế, có thể trừ được Cơ Xương.
Trụ Vương hỏi:
– Cớ gì vậy?
Bí Trọng nói:
– Ngày mai thế nào Cơ Xương cũng đến lạy ngoài ngõ mà về, vì các quan thế nào cũng thân hành đưa đón. Tôi sẽ đến trường đình dọ dẩm, nếu cơ xương thật lòng trung nghĩa thì thôi, bằng tỏ ra bất mãn thì Bệ hạ truyền bắt lại, giết quách cho rồi để khỏi sanh hậu họa.
Vua Trụ khen phải, ngầm sai Bí Trọng, Vưu Hồn, lợi dụng cuộc đưa đón dò xét ý tứ của Tây Bá Hầu.
Bấy giờ Tỉ Can sau khi vào chầu vua Trụ, lén qua quán dịch thăm Tây Bá và nói:
– Tôi vào hậu cung xin phép Thiên Tử chôn cất thi thể Ðông và Nam Bá Hầu, nhân tiện tôi có xin cho hiền hầu về nước.
Tây Bá Hầu nói:
– Cám ơn Thừa Tướng thương tình đạy bảo, biết bao giờ tôi mới đền bồi được ơn ấy.
Tỉ Can nắm tay Tây Bá nói nhỏ:
– Triều đình đã loạn, Thiên tử bị mê hoặc, khi không giết hại đại thần, điềm ấy chẳng lành đâu. Ngày mai hiền hầu lạy ngoài ngõ rồi về nước cho mau, nếu nấn ná bọn nịnh thần tìm lời dua mị, nói ra vào e bất tiện.
Sáng hôm sau, Tây Bá đến trước cửa ngọ môn, nhắm về phía ngai lạy xong, đến trường đình, thấy mấy vị đại thần đang chờ đãi tiệc. Các quan mời Tây Bá ngồi lại, rót rượu và nói:
– Nay hiền hầu về nước, chúng tôi xin dâng một tiệc mọn để thưa gởi mấy lời.
Tây Bá khiêm tốn:
– Nếu có việc gì cần xin các ngài chỉ dạy.
Vi Tử nói:
– Tuy Chúa thượng vô đạo, làm mích lòng chư hầu, song hiền hầu nên tưởng tình tiên đế cho trọn đạo vua tôi, chớ đem dạ đổi dời thì chúng tôi rất cám ơn, và muôn dân đều may mắn.
Tây Bá bái, và nói:
– Tôi mang ơn Thiên tử tha tội, là nhờ được quí vị hết lòng bảo vệ, ơn ấy không bao giờ quên được. Tôi nguyện suốt đời không sanh sự.
Các quan cảm mến vô cùng, thi nhau chuốc rượu, Tây Bá uống cả trăm chung.
Kế đó có Vưu Hồn, Bí Trọng bước vào. Các quan thấy vậy không bằng lòng, lui dần về hết.
Tây Bá nói với Vưu Hồn, Bí Trọng:
– Tôi hèn mọn không ra chi, nhọc lòng hai ông đưa đón.
Bí Trọng, Vưu Hồn nói:
– Hôm nav hai tôi bận chút việc nên đến trễ, xin hiền hầu miễn chấp.
Tây Bá thuở nay không gần bọn nịnh, không để ý đề phòng, thấy Vưu Hồn, Bí Trọng làm ra vẻ cúm núm, ngỡ là họ thiệt tình nên đối xử rất tự nhiên.
Vưu Hồn hỏi:
– Tôi nghe hiền hầu có tài bói toán biết được chuyện vị lai chẳng biết có thật linh nghiệm không?
Tây Bá nói:
– Máy âm dương rất đúng, quẻ bói không thể sai được. Tuy vậy người nào bị tai họa mà ăn ở phúc đức thì tai họa cũng qua. Do đó nhiều lúc quẻ không linh là tại duyên cớ ấy.
Bí Trọng hỏi:
– Khí số Bệ hạ, hiền hầu có bói giùm chưa?
Bấy giờ Tây Bá rượu đã xoàng xoàng, nên quên hai thằng nịnh đang kiếm chuyện, nghe hỏi tới việc Thiên Tử liền nhăn mặt thở ra, than:
– Khí số Bệ hạ xấu lắm, sợ chỉ truyền được một đời này thôi. Cuối cùng bị tai nạn khủng khiếp. Ðã vậy Thiên Tử lại làm nhiều việc thất đức, thời gian suy vi đến càng chóng hơn nữa. Mình phận tôi con, không dám nói nhiều.
Nói rồi lau nước mắt. Bí Trọng hỏi:
– Hung tai của Bệ hạ ứng vào năm nào?
T’ây Bá nói:
– Không ngoài hai mươi tám năm, tức là năm Mậu ngũ ngày Giáp tý.
Vưu Hồn, Bí Trọng giả vờ than thở và ép rượu Tây Bá uống mãi.
Qua một lúc, Bí Trọng và Vưu Hồn hỏi:
– Hiền hầu xem giùm quẻ hai ta xem thân phận thế nào?
Tây Bá gieo quẻ ngẫm nghĩ giây lâu rồi nói:
– Quẻ ứng lạ lắm!
Vưu Hồn cười và hỏi:
– Số hai đứa tôi chết về nghiệp gì mà lạ lắm vậy?
Tây Bá nói:
– Người đời có nhiều cách chết, hoặc bị các chứng bệnh, hoặc bị nước, lửa, hoặc bị gươm đao,… Nhưng hai ông không chết vào các trường hợp thường tình như vậy mà chết vì tuyết sa bị chôn trong giá lạnh.
Bí Trọng cười:
– Có lẽ chúng tội thuộc mạng thủy, nên chết chôn dưới tuyết cho mát thân.
Nói rồi rót rượu mời Tây Bá uống nữa. Vưu Hồn hỏi:
– Chắc hiền hầu cũng đã xem số cho hiền hầu rồi chứ?
Tây Bá nói:
– Tôi có xem rồi. Về sau tôi già yếu, mang bệnh mà chết.
Vưu Hồn, Bí Trọng làm bộ mừng, nói:
– Hiền hầu bởi có đức lớn, nên phước thọ song toàn. Cha chả, hai tôi vì mê chuyện vãn nên trễ việc nhà, vậy xin giã từ, chúc hiền hầu vinh qui trị nước.
Hai người nói rồi lên ngựa trở về dinh, vào thẳng hậu cung yết kiến vua Trụ.
Vua Trụ hỏi:
– Cơ Xương có oán trách ta thế nào không?
Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:
– Cơ Xương chẳng những oán trách mà còn mắng khéo vua, tội ấy không thể tha được.
Trụ Vương nổi giận hét:
– Ðồ thất phu, ta đã tha chết cho về nước chẳng biết ơn lại còn ám nhục trẫm. Hai khanh thuật lại lời nói của nó cho Trẫm nghe.
Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:
– Cơ Xương nói đã coi quẻ cho Bệ hạ thấy chỉ truyền được một đời này thôi. Ðã vậy Bệ hạ sẽ chết rất thảm thiết.
Trụ Vương tái mặt vì giận:
– Sao các ngươi không hỏi thử số nó chết vì nghiệp gì?
Bí Trọng tâu:
– Hai tôi có hỏi việc ấy, Cơ Xương nói là số lão đến già mang bệnh chết. Chúng tôi nghĩ rằng Cơ Xương dùng lời ma mị gạt gẫm mọi người, và dùng quẻ bói để mắng khéo bệ hạ đó thôi. Thực ra tánh mạng của Cơ Xương hiện ở trong tay Bệ hạ, Bệ hạ muốn giết lúc nào chẳng được, sao dám bảo chết già.
Trụ Vương hỏi:
– Theo ý hai khanh có nên giết Cơ Xương trong lúc này chăng?
Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:
– Cơ Xương dùng quẻ dịch đối thể mị dân, chửi rủa Bệ hạ đã có hai tôi làm chứng thì đủ bằng cớ để giết Cơ Xương rồi. Xin bệ hạ trừ đi.
Trụ Vương liền sai đòi Triều Ðiền vào, truyền lệnh theo bắt Cơ Xương về chém. Triều Ðiền tuân lệnh ra đi.
Lúc này Tây Bá nói lỡ lời, biết thế nào cũng mang họa liền truyền gia tướng chạy cho mau để lánh nạn. Tây Bá vừa chạy vừa nghĩ:
– Mình có cái nạn bảy năm, lẽ nào bình yên về nước được?
Ngoảnh đầu lại, thấy một tướng cỡi ngựa đuổi theo như bay.
Tây Bá nói:
– Thôi rồi! Tai nạn đến nơi rồi.
Triều Ðiền kêu lớn:
– Tây Bá Hầu, Bệ hạ có lệnh mời Tây Bá Hầu trở lại đã.
Tây Bá Hầu nói:
– Tướng quân ơi tôi đã biết trước rồi.
Liền day lại nói với bọn gia tướng:
– Chúng bay về thưa với Bá Áp Khảo phải giữ gìn phép nước, thảo thuận với anh em, trên kính dưới nhường, không nên dời đổi. Ðợi bảy năm ta mãn hạn sẽ vinh qui.
Bọn gia tướng đều khóc lóc chia tay, còn Tây Bá theo Triều Ðiền trở lại.
Có thơ rằng:
Trường đình thù tạc giả quan viên
Quá chén bầy lời chẳng cữ kiêng
Dũ Lý bảy năm làm sách Diệc
Ouẻ linh rành rẽ để lưu truyền
Quân tuần của Hoàng Phi Hổ thấy Tây Bá bị Triều Ðiền kêu lại lật đật chạy về báo với Hoàng Phi Hổ.
Hoảng Phi Hổ thất kinh, nghĩ thầm:
– Lẽ nào Tây Bá ra đi còn trở lại đây. Có khi hai thằng nịnh kiếrn chuyện cáo gian hại Tây Bá chăng?
Tức thì Hoàng Phi Hổ sai Châu Kỷ mời các quan nhóm họp trước điện.
Các quan văn võ vừa tựu đến thì Tây Bá cũng vừa vào. Hoàng Phi Hổ hỏi Tây Bá:
– Hiền Hầu đã về nước, sao còn lưu lại đây?
Tây Bá nói:
– Không biết việc gì mà có lệnh Bệ hạ đòi trở lại.
Triều Ðiền sau khi bắt Tây Bá lại rồi lập tức vào hậu cung tâu với vua Trụ. Vua Trụ giận nói:
– Hãy dẫn nó vào đây cho mau!
Tây Bá được nội thị dẫn vào quì trước long sàn, tâu:
– Tôi mang ơn bệ hạ tha tội cho về nước, chẳng biết có việc gì bệ hạ chưa cho đi?
Trụ Vương mắng:
– Ðồ thất phu! Trẫm đã cho vinh qui sao không biết nhận, lại còn mắng trẫm.
Tây Bá tâu:
– Tôi dầu ngu muội thế nào trên cũng biết trời, dưới cũng biết đất, giữa cũng biết vua, biết có cha sanh, biết có thầy dạy. Trăm đạo ấy tôi đâu có dám lỗi đạo.
Trụ Vương nói:
– Ngươi chớ điêu ngoa chối lỗi, rõ ràng ngươi dùng việc bói toán, lợi dụng việc thần thánh châm biếm và nhục mạ trẫm lắm lời. Tội ấy không phải gọi là khi quân sao?
Tây Bá tâu:
– Quẻ Tiên thiên do Phục Hy chế ra luận theo Bát quái đồ hình, bói việc dữ lành trong thiên hạ. Tôi học theo phép ấy suy ra các việc, đâu dám đặt điều châm biếm ai. Xin Bệ hạ chớ nghi oan.
Vưa Trụ nói:
– Ngươi thử bói một quẻ xem việc nước và vận mệnh thế nào?
– Việc ấy tôi đã coi quẻ rồi, thấy không tốt, nên tôi có nói với Bí Trọng, Vưu Hồn. Tôi chỉ nói không tốt mà thôi, không hề phạm đến Bệ hạ.
Vua Trụ đứng dậy nói lớn:
– Ngươi chê ta chết một cách thảm thiết, còn ngươi thì lại chết già, như vậy không phải là nhục mạ ta sao? Ngươi quả là đứa lừa đảo, muốn làm cho lòng dân loạn động. Ta sẽ làm cho quẻ của ngươi ứng không linh, để thiên hạ khỏi tin lời nói nhảm của ngươi nữa.
Dứt lời, truyền đao phủ quân đem Tây Bá ra chém tức thì.
Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng nói lớn:
– Không nên chém Cơ Xương.
Vua Trụ nhìn ra thấy Hoàng Phi Hổ và bảy vị Ðại thần đồng vào đều quì lạy, tâu:
– Xin Bệ hạ tha cho Cơ Xương về nước, bởi vì quẻ Diệc do Phục Hy đặt ra, không phải Cơ Xương đặt điều dối gạt đâu. Cơ Xương xem bói nói thẳng tỏ ra người quân tử, thấy sao nói vậy, không dua mị. Bệ hạ nào chém người ngay?
Trụ Vương nói:
– Cơ Xương dựa vào quẻ bói, khi quân, mắng chúa, làm cho lòng dân xao động. Như thế không đáng tội à?
– Nếu lời nói thẳng bi vua chém đầu thì có lẽ từ rày về sau hỏi ai còn dám nói thẳng nữa. Xin bệ hạ xét lại hoàn cảnh khó khăn của Cơ Xương.
Trụ Vương lắc đầu:
– Cơ Xương gian trá, dựa vào quẻ để nói xấu trẫm, tội ấy không tha được.
Tỉ Can tâu:
– Chúng tôi không phải vì Cơ Xương mà vì đại sự quốc gia. Cơ Xương là người hiền, có đức hạnh, các chư hầu đều kính phục. Nếu Bệ hạ bảo Cơ Xương bày chuyện bói mắng vua thì Bệ hạ truyền Cơ Xương bói một quẻ, nếu quẻ đúng là Cơ Xương ngay thật, còn nếu quẻ không đúng thì Bệ hạ bắt tội Cơ Xương dối vua.
Vua Trụ thấy nhiều vị Ðại thần can gián, cực chẳng đã nghe lời truyền Cơ Xương bói thử một quẻ:
– Trong trào có việc gì sẽ xảy ra gần nhất ngươi thử bói xem?
Cơ Xương tuân lời rũ quẻ, rồi nói:
– Xin bệ hạ thỉnh vi thần chủ ra nhà kẻo trưa mai lửa cháy nhà Thái miếu.
Vua Trụ hỏi:
– Ngươi đoán chắc giờ nào?
Tây Bá tâu:
– Ðúng giờ Ngọ trưa mai lửa bốc cháy.
Vua Trụ nói:
– Vậy thì ta giam đỡ ngươi một đêm, đợi đến trưa mai ta sẽ xét xử.
Các quan đồng lui ra ngoài. Tây Bá cũng đi theo, nói:
– Nhờ các ngài tâu xin tôi mới khỏi chết, ơn ấy ngàn ngày khó quên.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Hiền hầu ơi! Chúng tôi còn lo lắng chưa yên. Không biết ngày mai, may rủi thế nào.
Tây Bá nói:
– Quẻ ứng không thể sai được. Cứ đợi trưa mai sẽ rõ.
Vua Trụ truyền đòi Bí Trọng vào nội cung hỏi:
– Nếu trưa mai lửa cháy nhà Thái miếu thì sao?
Bí Trong nói:
– Bệ hạ truyền cho quan giữ nhà Thái miếu ngàv mai cấm không được thắp hương, lại phải canh phòng cho cẩn mật, thì lửa đâu mà cháy được.
Vua Trụ khen phải, truyền lịnh xong xuôi trở vào cung với Ðắt Kỷ.
Ngày hôm sau, Hoàng Phi Hổ và mấy vị Ðai thần đều nhóm nhau trước phủ. Ðến giờ Ngọ không thấy lửa cháy, ai nấy đều lo cho Tây Bá hết thời. Bỗng một tiếng sấm nổ vang trời, quan giữ nhà Thái miếu vội chạy vào báo:
– Tiếng sét vừa rồi làm cho nhà Thái miếu bốc lửa rồi cháy dữ.
Ai nấy đều thất kinh. Tỉ Can than:
– Lửa cháy nhà Thái miếu là điềm chẳng lành. Sợ cơ nghiệp Thành Thang không còn.
Các quan đều dẫn quân đến cứu chữa. Ngọn lửa cất cao ngùn ngụt.
Khói lửa mù mịt che không thấy mặt trời.
Lủa dậy rần rần trông lòa con mắt.
Một luồng gió thổi, rèm châu cột ngọc ra tro.
Mấy mảnh tàn bay ngói tan thành đống.
Người sau có thơ:
Quẻ linh Tây Bá lậu hiên cơ
Lửa dậy ngày mai dám định giờ
Sự nghiệp Thành Thang gần hóa bụi
Hưng vong loáng mắt đám tro mờ
Bấy giờ Trụ Vương đang ngự tại đền Long Ðức, đang ngóng tin, xảy có quan Phụng Ngự vào tâu:
Ngày kia, Hoàng Phi Hổ nghe tin con trai Khương Hoàng Sở là Khương Văn Hoán lên ngôi Ðông Bá Hầu đem bốn mươi vạn binh mã làm phản đánh ải Du Hồn.
Lại nghe con trai Ngạt Sùng Võ là Ngạt Thuận thế chức Nam Bá Hầu cũng dẫn binh mã năm mươi vạn, đến phá ải Tam So dể báo thù cha.
Hai tổng trấn này khuyên dụ bốn trăm chư hầu theo làm phản.
Hoàng Phi Hổ than:
– Thiên hạ đã loạn hết nửa phần rồi. Ôi, từ đây thế cuộc sinh nhiều rắc rối. Hai cõi can qua biết bao giờ cho yên giặc?
Nói rồi ban cờ lệnh, truyền hai ải thủ thành, đợi cho địch quân phá không nổi kéo quân về, chớ không cho xuất quân đối địch.
Ðây nói về ông Thái Ất ở động Kim Quang, thuộc núi Cát Nguyên là một vị tiên đã sống trên một ngàn rưỡi năm, vì phạm luật sát sinh, nên thầy của ông là Nguyên Thỉ đóng cửa không chịu giảng kinh nữa.
(Ấy bởi luật Thiên Ðình muốn dùng các tiên phạm tội sát sanh ra giúp Khương Tử Nha, chém tướng phong thần cho đủ chức, sau khi nhà Châu diệt nhà Thương xong, đem lại thái bình cho muôn dân, chừng ấy ông Nguyên Thỉ mới giảng kinh và các tiên phạm luật mới được phép tu lại).
Hôm ấy ông Thái Ất đang ngồi trong động bỗng thấy Bạch Hạc đồng tử đến nói:
– Ngài Nguyên Thỉ dạy rằng: Chẳng bao lâu sẽ sai Khương Thượng ra đời, vậy ông phải cho Linh Châu Tử xuống đầu thai kẻo trễ.
Thái Ất thấy có lệnh thầy mình ban xuống liền cúi đầu đón nhận:
– Việc ấy ta đã biết rồi.
Bạch Hạc đồng tử liền giã từ ra về.
Bây giờ tại ải Trần Ðường, quan Tổng Binh ải này là Lý Tịnh vốn học trò của ông Ðộ Ách ở núi Côn Lôn, khi còn nhỏ có đi tu, sau bị đuổi về ra phò vua Trụ. Vợ Lý Tịnh là Ân phu nhân sanh được hai con, hình dung tuấn tú. Con lớn tên Kim Tra, con nhỏ tên Mộc Tra. Ðến nay, Ân phu nhân lại mang thai nữa, nhưng lần này rất lạ, thai nghén đã ba năm rưỡi mà chưa khai hoa nở nhụy.
Lý Tịnh buồn bã, than:
– Thai nghén khác thường như vậy chắc là loại quái thai, nếu không sanh ra yêu cũng sanh ra quỉ.
Ân phu nhân cũng sợ, nhưng không biết làm sao.
Ðêm kia, Ân phu nhân đang nằm ngủ trong phòng thấy một vị đạo sĩ đầu chừa hai vá tay cầm gậy, râu dài đuộc bước đến.
Ân phu nhân nạt lớn:
– Thầy là ai? Không biết phép, dám vào phòng riêng của ta?
Ðạo sĩ nói:
– Phu nhân mau lãnh con quí.
Ân phu nhân chưa kịp trả lời, đã thấy Ðạo sĩ tay cầm vật gì không biết, ném ngay giữa bụng mình, làm cho phu nhân giật mình thức dậy mồ hôi ướt đầm mình.
Phu nhân gọi chồng thuật lại câu chuyện vừa chiêm bao. Lý Tịnh còn đang suy nghĩ thì phu nhân đã chuyển bụng, rên la rất dữ.
Lý Tịnh nghĩ thầm:
– Ðây chắc là một vị tướng đầu thai, nhưng chẳng biết tướng hiền hay tướng dữ đây.
Xảy thấy thế nữ vào thưa:
– Phu nhân đẻ ra một quái thai.
Lý Tịnh nghe nói thất kinh, xách gươm vào phòng, nghe mùi thơm ngào ngạt. Ðến bên giường phu nhân thì chỉ thấy một cái bọc lớn bằng cái bánh xe. Lý Tịnh cầm gươm chém rách cái bọc ấy tức thì bên trong một đứa bé nhảy ra, mình chiếu hào quang, mặt như dồi phấn, tay cầm Càn khôn quyện, lưng buộc Hỗn thiên lăng. (Ấy là Linh Châu Tử đầu thai, sau đi tiên phuông cho Khương Thượng, nên buộc mình dây đỏ, tay cầm vòng vàng. Hai vật ấy là bửu bối của Thái Ất chơn nhơn cho).
Lý Tịnh thấy thằng nhỏ chạy giáp vòng, biết không phải yêu quái liền bắt lại, bồng lên giường, đưa cho phu nhân.
Vợ chồng trầm trồ, cưng như trứng mỏng.
Hôm sau, các quan hay tin đồng đến chúc mừng.
Tiếp đó, có một vị đạo sĩ đến trước ải xin vào ra mắt.
Lý Tịnh trước kia là người tu hành, nên không dám xem thường các Ðạo sư, liền ra rước vào.
Lý Tịnh hỏi:
– Chẳng hay đạo sư ở núi nào?
Ðạo sĩ nói:
– Ta là Thái Ất ở động Kim Quang, núi Càn Nguyên, nghe Tướng quân sanh con quí nên đến chúc mừng. Vậy cho ta xem thử.
Lý Tịnh truyền thế nữ bồng đứa bé ra ngoài. Thái Ất bồng đứa bé vào lòng xem xét và hỏi:
– Sanh vào giờ nào vậy?
Lý Tịnh đáp:
– Ðúng vào giờ Sửu.
Thái Ất nói:
– Không tốt.
Lý Tịnh nói:
– Khó nuôi lắm hay sao?
Thái Ất nói:
– Sanh nhằm giờ ấy thì phạm sát sinh. Nó giết hơn một ngàn bảy trăm mạng. Nhưng Tướng quân đặt tên nó là gì?
Lý Tịnh nói:
– Tôi chưa đặt tên.
Thái Ất nói:
– Ðể tôi đặt tên cho nó,và sau này nó theo tôi làm đệ tử được không?
Lý Tịnh nói:
– Ðược đạo sư thương tình như vậy còn gì quí hơn.
Thái Ất hỏi:
– Tướng quân được mấy vị Công tử?
Lý Tịnh đáp:
– Tôi có ba đứa con trai. Thằng lớn tên Kim Tra đi học với Văn Thù ở núi Ngũ Long. Thằng thứ hai là Mộc Tra đi học với Phổ Hiền ở núi Cửu Cung. Còn thằng thứ ba đó, nếu Ðạo sư muốn thu dùng làm đệ tử xin cứ đặt tên.
Thái Ất nói:
– Ta đặt nó là Na Tra, cũng lấy chữ hai đứa lớn.
Lý Tịnh cảm tạ, rồi truyền dọn cơm chay thết đãi.
Thái Ất nói:
– Ta có việc gấp, xin kiếu về.
Lý Tịnh thân đưa ra khỏi phủ.
Ngày kia, Lý Tịnh nghe hai Trấn nổi loạn, vội củng cố binh lực để giữ ải mình. Nhất là nơi núi Giả Mã, chỗ địa đầu, Lý Tịnh cố đóng quân thật nhiều để ngăn ngừa mũi giặc.
Thời gian trôi rất nhanh, thấm thoát đã bảy năm trôi qua…
Na Tra mau lớn phi thường, mình cao sáu thước, vai rộng dềnh dàng. Mới bảy tuổi mà nghịch không thể tả nổi.
Lý Tịnh vì nghe tin Khương Văn Hoàn khởi binh đánh ải Du Hồn nên ngày đêm lo luyện tập binh mã để phòng, không rảnh để dạy dỗ Na Tra. Na Tra được thế không còn kiêng nể ai.
Một hôm, nhân trời nóng nực, Na Tra vào thưa với mẹ:
– Xin cho con ra ngoài chơi hóng mát.
Ân phu nhân vốn cưng con, không nỡ làm phật lòng, liền bảo:
– Con muốn ra ngoài thì đi một chút rồi về, kẻo cha con hỏi không có nhà sẽ rày la đó.
Na Tra nói:
– Thưa mẹ, con biết mà.
Ân phu nhân khiến một tên gia bộc đi theo. Na Tra ra ngoài, đi chưa đầy hai dặm đã thấy đổ mồ hôi, ráng đi đến một rặng dương liễu đụt nắng. Bên hàng dương liễu lại có một giòng sông lớn, ghềnh đá cheo leo, nước trong leo lẻo.
Na Tra nói:
– Hay lắm! Trời đang nóng nực lại gặp dòng sông, không tắm cho mát thì còn gì thú vị?
Tên gia nô nói:
– Không nên. Công tử tắm ở đâv rủi gặp Tướng công điểm binh về trông thấy thì nguy, chi bằng trở về là hơn.
Na Tra nói:
– Không sao đâu! Ta tắm cho mát dẫu gia gia ta trông thấy, lại cấm ngăn à?
Nói rồi cổi hết quần áo, lội xuống sông, ngồi trên một bực đá, dỡn nước.
Dỡn nước chán rồi, Na Tra lại cởi dây lưng đỏ ra giặt, làm cho mặt sông nước loang màu hồng, cả sông nổi sóng.
Sông Củu Loan chảy vào biển Ðông Hải nên lúc ấy vua Long Vương biển Ðông là Ngao Quảng, đang ngự nơi cung Thủy Tinh thình lình thấy đền đài rung rinh cả, liền hỏi quần thần:
– Việc gì mà cung điện rung rinh như vậy?
Triều thần không ai hiểu việc gì cả. Ngao Quảng liền truyền quỉ Dọa Xoa là Lý Lương lên mé biển tuần hành xem thử vật chi.
Lý Lương tuân lệnh vác búa đến mé biển thấy vàm sông Cửu Loan sóng bủa rập rềnh, liền theo dòng sông thẳng đến.
Khi đến nơi, thấy một thằng nhỏ đang ngồi trên ghềnh đá, cởi dây lưng ra giặt. Lý Lương trồi đầu lên hét lớn:
– Thằng nhỏ kia. Mày giặt cái gì mà làm cho nước sông đỏ rực, đền đài của Long Vương rung chuyển như vậy?
Na Tra trông thấy quỉ Dọa Xoa, cười lớn:
– Cha chả. Mầy ở đâu đến đây làm phách vậy? Lâu đài mầy chỗ nào? Tao giặt dây lưng can hệ gì đến mầy?
Lý Lương nói:
– Tao bắt mầy đem về nạp cho Long Vương hỏi tội.
Vừa nói, Lý Lương vừa xách búa chém sả vào Na Tra.
Na Tra thấy quỉ Dạ Xoa làm dữ liền rút càn khôn quyện liệng đùa. Lý Lương nát óc chết tươi.
Na Tra cười lớn:
– Thằng chó chết báo hại cho dơ càn khôn quyện của ta.
Nói rồi lại đem xuống sông rửa.
Thảm hại, những lâu đài thành quách của Long Vương bị báu vật ấy làm rung chuyển, đổ nghiêng chẳng khác một trận bão trên đất liền.
Ngao Quảng thất kinh hỏi triều thần:
– Lý Lương đi chưa về, không biết cái gì càng ngày càng làm cho lâu đài rúng động dữ vậy?
Xảy có bọn thủy quân chạy về báo:
– Trên bờ sông có một đứa bé giặt dây lưng đỏ. Lý tướng quân đã bị thằng nhỏ đó giết chết rồi.
Ngao Quảng thất kinh la lớn:
– Thủy thần Dạ Xoa là tướng trời phong, ai dám giết?
Bèn truyền quân sắm sửa khí giới theo mình đến đó xem thử.
Bỗng có Thải Tử Ngao Bính bước ra tâu:
– Phụ vương định đem quân đánh ai vậy?
Ngao Quảng thuật lại chuyện đứa bé vừa giết Dạ Xoa cho Thái Tử nghe. Ngao Bính nói:
– Việc nhỏ mọn như vậy phụ vương đi làm gì. Ðể con đến đó bắt nó đem về đây cho phụ vương tra hỏi cũng được.
Ngao Bính nói rồi xách kích, cỡi thú ra đi. Ðến vàm sông quả thấy nước tuôn cuồn cuộn, sóng bổ ầm ầm.
Bấy giờ Na Tra đang mải mê đứng xem sóng bủa. Thình lình thấy một con thú từ dưới nước nhảy vọt lên, trên lưng có một chàng trai tay cầm kích, mình mặc giáp, miệng kêu lớn:
– Thằng nhỏ kia. Có phải mầy vừa giết chết tướng Dạ Xoa của tao không?
Na Tra nói:
– Tao giết nó chớ còn ai nữa.
Ngao Bính hỏi:
– Mầy là thằng con nít ở đâu lại hung hăng như vậy?
Na Tra đáp:
– Tao là Lý Na Tra, con ông Lý Tịnh, hiện làm Tổng Trấn này.
Ngao Bính nói:
– Con ông gì mặc kệ mầy. Mày giết tướng trời tất phải đền tội.
Na Tra nói:
– Thằng phách lối. Tao đang tắm nơi đây, đâu phải là một khúc gỗ trôi sông mà nó vác búa đến bửa vào người tao? Tao đánh nó chết lại tội vạ gì?
Ngao Bính nói:
– Tao bắt mầy đem vào Thủy điện rồi mầy muốn nói gì thì nói.
Na Tra trợn mắt:
– Thủy điện là đâu? Mầy là thằng nào?
Ngao Bính nói:
– Tao là Ngao Bính, con của Ngao Quảng, Ðông Hải Long Vương.
Na Tra cười:
– A, nói vậy thì bay là loài rồng ở dưới nước. Nhưng đừng làm phách, hễ chọc đến tao, tao lột da cả cha mầy nữa chứ không phải chỉ một mình mầy thôi đâu.
Ngao Bính tức giận quá, cầm kích lướt tới đâm đùa. Na Tra sợ hãi, quăng Hỗn thiên lăng ra trói. Ngao Bính té xuống lưng thú, rồi nhảy xổ đến đạp chân vào cổ, lấy Càn khôn quyện đập đầu chết tốt biện nguyên hình một con rồng nhỏ.
Na Tra nói:
– Ðể tao rút lấy gân mầy đem về cho cha tao buộc giáp chơi, nghe nói gân rồng chắc lắm.
Nói rồi làm y như vậy. Xong mặc quần áo lại, trở về ải.
Tên gia nô nãy giờ chứng kiến cuộc tàn sát, mặt không còn chút máu, không dám đi gần Na Tra, cứ lểnh mểnh theo sau cách một khoảng.
Phu nhân thấy Na Tra về, liền hỏi:
– Con đi chơi đâu đến nửa ngày mới về?
Na Tra thưa:
– Con mải mê ngắm cảnh đẹp nên về trễ.
Nói rồi đi thẳng ra sau vườn.
Bấy giờ, đoàn thủy quân theo Ngao Bính thấy Ngao Bính bị đánh chết lật đật trở về báo với Ngao Quảng.
Ngao Quảng thất kinh, la lớn:
– Con ta là một vị thần làm mưa, sao nó dám giết đi. Vả ta với Lý Tịnh trước kia kết tình bằng hữu, sao va lại để con đánh chết Ngao Thái Tử, rút lấy gân? Việc này chẳng những một hận thù mà còn là một nhục nhã nữa.
Nói rồi liền hóa ra một vị tú tài thẳng đến dinh Lý Tịnh.
Bấy giờ Lý Tinh mới điểm quân về, nghe quân báo:
– Có Ngao Quảng xin vào yết kiến.
Lý Tịnh mừng rỡ, vì lâu ngày xa cách, nên lật đật ra rước vào.
Ngao Quảng mặt phừng phừng, nói vói Lý Tịnh:
– Tôi đến đây không còn tình nghĩa gì nữa!
Lý Tịnh ngạc nhiên hỏi:
– Anh em lâu ngày xa cách, được gặp nhau là vui lắm, sao hiền huynh buông lời như vậy?
Ngao Quảng nói:
– Tình nghĩa gì nữa mà anh em. Anh để con anh đánh chết tướng Dạ Xoa của tôi, lại giết con trai tôi rút gân đem về. Con cái hung dữ như vậy anh còn bênh nó à?
Lý Tịnh ngạc nhiên đáp:
– Anh lầm rồi, Tôi chỉ có ba đứa con. Hai đứa lớn đi học chỉ còn thằng nhỏ bảy tuổi không hề ra khỏi cửa, lẽ nào có xảy ra chuyện như vậy!
Ngao Quảng nói:
– Chính là thằng Na Tra, con trai nhỏ của anh. Nó có xưng tên xưng họ rõ ràng, chối làm sao được.
Lý Tịnh nói:
– Thằng Na Tra mới có bảy tuổi mà đánh ai được? Tuy vóc nó lớn thật, song còn nhỏ lắm! Thôi anh chớ giận, để tôi gọi nó ra đây cho anh nhìn mặt.
Lý Tịnh nói dứt lời, để Ngao Quảng ngồi đó, ra hậu phòng gọi vợ hỏi:
– Thằng Na Tra đâu?
Ân phu nhân không rõ chuyện gì, thấy nét mặt chồng có điều quan trọng, liền hỏi:
– Ai ở đằng trước vậy?
Lý Tịnh nói:
– Có Ngao Quảng, bạn của ta đến thăm và trách ta để con giết chết vị Thái Tử, con trai của ông ấy. Ta thiết tưởng rằng con trai ta là Na Tra mới có bảy tuổi, chưa từng ra khỏi cửa, có đâu sanh chuyện với ai, chắc Ngao Quảng lầm, nên ta gọi Na Tra ra cho Ngao Quảng thấy mặt.
Ân phu nhân nghe nói lòng nghi ngại, đứng suy nghĩ, Lý Tịnh hỏi:
– Na Tra ở đâu?
Ân phu nhân đáp:
– Nó chơi đâu ngoài vườn hoa.
Lý Tịnh liền Chạy tuốt ra sau vườn, thấy Na Tra đang thơ thẩn ở đó.
Lý Tịnh hỏi:
– Na Tra con làm gì đó?
Na Tra nói:
– Có mấy sợi gân rồng con mới tìm được, định ôm phơi khô để cha dùng làm dây cột giáp, thứ này tốt lắm.
Lý Tình sững sờ, hỏi:
– Gân rồng ở đâu vậy?
Na Tra kể lại chuyện đi tắm sông giết chết thái tử long vương.
Lý Tịnh đứng chết điếng. Giây lâu mới mở miệng mắng:
– Mầy là đồ oan gia nghiệp báo, Ngao Quảng làm chức Ðông Hải Long Vương trước kia là bạn với tao, sao mầy giết con trai người ta rút lấy gân đem về phơi. Nay bác mầy đến đòi thường mạng, mầy tính sao bây giờ?
Na Tra nói:
– Thưa cha, con không biết cha nó là bạn với cha nên lầm lỡ. Vả lại không biết thì chẳng có tội gì, cha đừng lo, gân rồng còn đó, chưa cắt đứt sợi nào, để con lấy đem trả cho lão là yên chuyện.
Na Tra bèn đến trước mặt Ngao Quảng xá một cái và nói:
– Chào bác. Cháu vì không biết nên lầm lỡ xúc phạm đến đại huynh. Nay gân của đại huynh còn nguyên, chưa đứt khúc nào, xin trả lại bác, mong bác tha lỗi.
Ngao Quảng thấy nắm gân rồng càng đau xót dạ, nhớ đến con, liền ngó sang nói với Lý Tịnh:
– Chú sanh con dữ như vậy mà còn đổ lỗi cho tôi xét lầm. Nay tôi không còn tình nghĩa gì hết, quyết đến trước mặt Thượng đế đầu cáo, thử chú tránh khỏi vạ này không?
Ngao Quảng nói rồi bước ra ngoài đi thẳng. Lý Tịnh ngồi chết điếng, không nói nên lời. Qua một lúc, Lý Tịnh bỗng khóc oà!
Ân phu nhân bước ra hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Lý Tịnh nói:
– Con dại cái mang đó là lẽ thường xưa nay. Chúng ta sanh đặng con dữ, không tránh khỏi tai nạn. Ngao Quảng đến trước cửa trời đầu cáo, vợ chồng chúng ta không thể nào toàn thân.
Nói rồi khóc nữa, phu nhân an ủi:
– Công việc chưa biết thế nào, sao Tướng quân vội bi quan?
Lý Tịnh nói:
– Phu nhân không rõ. Lẽ trời không thể tránh được. Tôi trước kia tu luyện không thành, song đã biết được mọi huyền cơ vũ trụ. Trên thượng giới có cả một triều đình. Thượng Ðế có các vì tiên, phật cai quản chia làm hai nghành Xiển Giáo và Triệt giáo. Luật lệ, phép tắc điều định theo lề lối phân minh.
Ân phu nhân nghe chồng giải thích thất kinh, nói với Na Tra:
– Tao có công cưu mang mầy hơn ba năm, mầy không đền đáp lại gây ra tai họa làm hại đến mẹ cha như vậy thật bất hiếu.
Na Tra thấv mẹ mình than vãn, liền quì thưa:
– Nay con không lẽ giấu mẹ cha, con không phải người phàm tục mà chính là học trò của ông Thái Ất ở động Kim Quang. Con có hai món báu vật không ai đánh lại. Ðể con về động thuật lại việc cho thầy con. Nếu Ngao Quảng có làm gì bất quá mạng thế mạng thôi. Quyết không để liên lụy đến mẹ cha.
Nói rồi hốt một nắm đất vãi lên trời, độn vào đất ấy mà bay đi mất.
Vợ chồng Lý Tịnh trông thấy cũng thất kinh, biết con mình là một bậc tướng tài, Thượng Ðế sai xuống đầu thai. Tuy vậy công lý không thể nào trốn tránh được. Giết người vô cớ phải chịu tội mà thôi.
Na Tra độn thổ về đến động Kim Quang. Thái Ất cho đồng tử đòi vào hỏi.
Na Tra đem mọi việc thuật lại một hồi nhờ thầy cứu mạng.
Thái ất nói:
– Ngao Bính số mạng chỉ đến đó thôi. Ngao Quảng là một vị thần mưa lẽ nào không biết, chuyện gì phải đi kiện?
Liền dặn nhỏ Na Tra bảo phải làm y kế rồi họa bùa trên lưng Na Tra, khiến Na Tra đến cửa trời đón đường Ngao Quảng.
Na Tra lạy tạ lui ra, đằng vân thẳng đến cửa trời đứng trước đền Bửu Ðức đợi Long Vương.
Bởi có bùa ẩn thân nên không ai thấy được. Bấy giờ Ngao Quảng mới lểnh mểnh đến, Na Tra trông thấy nổi xung, xách Càn khôn quyện nhắm trên lưng Ngao Quảng đánh xuống. Ngao Quảng bị đánh lén không đề phòng được, té nhào dưới đất. Na Tra lập tức đạp một chân lên lưng, một chân đạp vào cổ, không cho Ngao Quảng ngóc dậy.
Ngao Quảng la ré om sòm nhưng lúc này còn sớm đền Bửu Ðức chưa mở cửa, không một ai can thiệp.
Thương hại cho Ngao Quảng bị Na Tra đạp lên lưng không ngóc đầu dậy nổi, liếc mắt nhìn thấy Na Tra, Ngao Quảng nổi giận mắng lớn:
– Thằng súc sanh vô lễ, mày là đứa nào mà dám giết Dọa Xoa, tướng trời phong, rút gân Ngao Bính là thần làm mưa, lại dám đè đầu ta là một vị chúa Ðông Hải, quần áo lem nhem, không kể gì đến luật trời. Tao kiện đến Ngọc Hoàng, giết cả dòng họ mày cũng chưa hả giận.
Na Tra nghe Ngao Quảng rủa mắng mình, muốn đập một Càn Khôn Quyện cho chết phứt, ngặt không dám trái lời thầy dặn, nên cứ đạp lên cổ, mắng lại:
– Mày xưng là Ðông Hải Long Vương, nhưng đối với tao không kể mày vào đâu cả. Mày biết tao là ai không? Tao là Linh Châu Tử, học trò của ông Thái Ất chơn nhơn, vâng lệnh ông Nguyên Thỉ xuống đầu thai giúp nhà Châu diệt vua Trụ. Tao đi tắm, đâu có chọc ghẹo gì đến mầy mà mày sai bọn bộ hạ vác búa đến bửa. Tao giết chết hai đứa ấy cũng chẳng có tội bao nhiêu, việc gì mày đi kiện Ngọc Hoàng. Nếu mày không bỏ ý định ấy thì tao đánh mày đến chết.
Ngao Quảng ỷ mình là kẽ đang nắm giữ trọng trách, quyền hành do trời ban, nên thách:
– Mầy giỏi cứ đánh tao thử?
Na Tra nói:
– Mày bảo tao đánh thì tao đánh cho mày biết tay.
Nói rồi cầm cú thoi lia lịa.
Ngao Quảng thấy Na Tra làm hỗn, nhưng mắc kẹt không sao dậy được, đành nằm la hoảng.
Na Tra nói:
– Da mày dày lắm, tao đánh mầy bất quá như đấm lưng thôi, ăn nhằm gì. Lời xưa nói: Cọp sợ rút gân, rồng sợ gỡ vẩy. Ðể tao lấy phép đó trị mầy.
Nói rồi xé vạt áo Ngao Quảng lên, vén hông bên tả lên, gỡ lối bốn năm chục cái vảy làm cho Ngao Quảng đau đớn đến thấu xương. Ngao Quảng thất kinh, lớn tiếng van xin tha mạng.
Na Tra nói:
– Mầy muốn chết thì đừng thưa kiện nữa, hãy theo ta về ải Trần Ðường, bằng cãi lại ta đập một Càn Khôn Quyện chết tức thì.
Ngao Quảng đang lúc thất thế, và biết Na Tra là Linh Châu Tử đầu thai, được ông Nguyên Thỉ là chúa tể các vì tiên bảo vệ, nếu lôi thôi nó đánh chết, rồi kiếm chuyện nói dối với Ngọc Hoàng, ta ắt thiệt mạng.
Nghĩ như vậy, Ngao Quảng thuận lời, theo Na Tra về ải.
Na Tra bước xuống, Ngao Quảng liền ngồi dậy. Na Tra nói:
– Rồng thì hay biến hóa. Muốn lớn thì nằm chật cả bầu trời, muốn nhỏ thì trốn trong hột cải cũng vừa. Tao e mầy biến mất không biết đâu mà kiếm, vậy thì hóa ra con rắn nhỏ đặng ta bỏ vào túi mang về dinh cho tiện.
Ngao Quảng khó chối từ, phải hóa ra con rắn nhỏ.
Na Tra bỏ vào túi áo rồi đằng vân về ải Trần Ðường.
Quân sĩ trên ải thấy Na Tra trở về, cho báo với Lý Tịnh:
– Ðệ tam công tử đã trở về trước ải.
Lý Tịnh nghe tin chẳng vui, truyền quân dẫn vào.
Na Tra thấy cha mình mặt châu mày nhăn nhíu, tỏ sắc thái buồn bã vội bước đến tạ lổi.
Lý Tịnh hỏi:
– Mày đi đâu về đây?
Na Tra thưa:.
– Con đến cửa trời đón bác, xin bác nên bãi việc kiện thưa. Bác đã bằng lòng, và con đã rước bác về đây.
Lý Tịnh cười cay đắng:
– Mày đâu phải thần thánh mà đến được cửa trời. Con nói dối cha mẹ như vậy thật là đứa con ngỗ nghịch.
Na Tra thưa:
– Xin cha đừng nóng giận. Việc này có bác làm chứng ạ!
Lý Tịnh càng giận hơn:
– Mày còn nói dối nữa? Bác mầy ở đâu?
Na Tra thưa:
– Bác ở trong túi con đây nè. Liền trút con rắn lục trong túi áo ra.
Ngao Quảng tức thì hiện nguyên hình lại.
Lý Tịnh thất sắc, lật đật cúi mình xin lỗi Ngao Quảng và hỏi:
– Vì sao hiền huynh lại ra nông nỗi?
Ngao Quảng giận quá thuật lại câu chuyện Na Tra đến trước cửa đền làm hỗn, và đưa bụng cho Lý Tịnh xem, rồi nói:
– Anh sanh nhằm loài quái thai, Ðể tôi hội đủ tứ hải Long Vương đến cửa trời đầu tố xem anh có trốn khỏi tội không?
Nói rồi nổi cơn gió lớn, bay vụt ra khỏi ải Trần Ðường biến mất.
Lý Tịnh giậm đất kêu trời nói:
– Chuyện này rất quan hệ, biết tính làm sao? Ðã giết con người ta còn đánh người ta trọng thương. Ngao Quảng là vị Long Vương, vâng lệnh Ngọc Hoàng trấn Ðông Hải, đâu phải nhỏ.
Na Tra quì lạy thưa:
– Xin cha mẹ yên tâm. Thầy con nói rằng con vâng lệnh Ngọc Hư đầu thai giúp chúa, dẫu đánh chết Long Vương bốn biển cũng chẳng có tội gì. Nếu có điều chi thầy con chịu hết.
Lý Tịnh là người đã tu tiên, thông hiểu thiên cơ, thấy Na Tra đến được cửa trời biết quyền lực Na Tra không phải nhỏ. Tuy nhiên, ỷ vào quyền lực tác hại mọi người là điều cấm kỵ, dù cho thầy các vị tiên cũng không thoát khỏi tội lỗi.
Ân phu nhân vốn thương con thấy Na Tra đứng nói vòng vo sợ Lý Tịnh nổi xung đánh cho một trận, nên nháy Na Tra và nói:
– Mầy là con bất hiếu, theo báo hại mẹ cha, đi cho khuất mắt còn đứng đó làm gì?
Na Tra vâng lời mẹ bước ra phía sau hoa viên không dám nói lời nào nữa.
Thấy mình làm phiền đến cha mẹ, Na Tra có ý buồn, một mình thẩn thơ mãi. Bỗng ngó thấy một cái lầu cao trong khu vườn coi bộ mát mẻ lắm, Na Tra nghĩ thầm:
– Thuở nay ta chưa dạo lên lầu ấy, nay sẵn địp buồn lòng trèo lên đó giải khuây.
Nghĩ rồi liền mở cửa vườn, trèo lên vọng đài. Bốn bề mát mẻ, gió thổi hây hây, xa xa trông phong cảnh rất đẹp.
Na Tra thầm nhủ:
– Nếu mình biết chỗ này mát mẻ, lâu nay lên đây hóng gió cũng vui.
Ngó quanh quất một hồi, Na Tra nhát thấy trên tường vọng đài có treo một cây cung lớn chạm ba chữ Càn Khôn Cung, lại có ba mũi tên khắc ba chữ Chấn Thiên Tiễn.
Na Tra thầm nghĩ:
– Thày mình có nói ngày sau mình sẽ làm chức tiên phuông, thu giang sơn Vua Trụ. Vậy thì nay có sẵn Cung tên, tập luyện cho nhuần nhã để ngày sau dùng đến.
Liền lấy cung, lấp tên, kéo thẳng cánh nhắm bắn qua hướng Tây Nam. Bỗng nghe một tiếng nổ vang trời, hình như tiếng sấm, hào quang chói mắt, oai khí ghê mình. Na Tra hoảng hồn, không dám bắn nữa.
(Nguyên cung tên ấy là của Hoàng Ðế trước kia dùng đánh với Xí Vưu. Dư ba mũi tên thần lưu truyền lại đến đời sau, lâu lắm rồi, không ai kéo cung thần ấy nổi, nên dùng làm vật báu để tại ải Trần Ðường).
Bây giờ nói về câu chuyện xảy ra tại núi Khô Lâu, động Bạch Cốt có bà chủ là Thạch Cơ nương nương. Hôm ấy học trò của Thạch Cơ là Bích Vân đồng tử, xách giỏ hoa đi hái thuốc, thơ thẩn ở chân đồi, thình lình bị một mũi tên bay vào đến găm trúng cổ họng chết tươi. Người học trò thứ hai là Thê Vân đồng nhi vừa đi đến thấy vậy vội chạy về báo với Thạch Cơ rằng:
– Thưa sư phụ, chẳng biết sao Bích Vân đang đi hái thuốc bỗng bị tên chết.
Thạch Cơ nương nương nổi giận, nói:
– Kẻ nào cả gan dám bắn lén học trò của ta vậy?
Liền theo chân Thể Vân đến nơi, thấy trên mũi tên có khắc hai chữ “chấn thiên”, lòng hậm hực, nói:
– Chấn thiên là báu tiễn để tại ải Trần Ðường, người giữ ải này là Lý Tịnh. Nếu Lý Tịnh không bắn thì còn ai vào? Trước đây Lý Tịnh tu hành không được, nhờ ta nói giùm với Ðộ Ách chơn nhơn cho về hưởng công danh nay được làm quan trấn ải, đã chẳng báo ơn ta còn bắn học trò ta đến chết. Ta quyết bắt Lý Tịnh đem về động trị tội.
Liền truyền Thể Vân giữ động, một mình cỡi Thanh Loan đến ải Trần Ðường.
Khi đến nơi, Thạch Cơ nương nương đứng trên không kêu lớn:
– Lý Tịnh, ra đây ta bảo.
Lý Tịnh nghe kêu không rõ tiếng ai, liền chạy ra xem thử, thấy trên cao màu vàng muôn trượng, sắc đỏ một vần, nhìn rõ là Thạch Cơ đang cỡi con Loan xanh, liền cúi đầu làm lễ, và thưa:
– Tôi không hay nương nương đến nên tiếp đón chậm trễ, xin nương nương tha thứ.
Thach Cơ nổi giận hét:
– Ngươi là đứa vong ân, khéo chuốc ngọt lời nói.
Liền lấy cái khăn choàng gọi là Bát Quái Vân quang quăng xuống truyền Huỳnh Kim lực sĩ lấy khăn phép vấn vào mình Lý Tịnh bắt đem về động tức thì.
Huỳnh Kim lực sĩ tuân lệnh.
Thạch Cơ cỡi Loan về động.
Chẳng bao lâu, Huỳnh Cân lực sĩ đã dẫn Lý Tịnh đến nơi giao nạp.
Thạch Cơ ngồi giữa động, truyền đem Lý Tịnh vào, nạt lớn:
– Ngươi tu hành không thành nhờ ai mà được hưởng vinh hoa phú quí. Ngươi đã không trả ơn còn gây thù oán. Ta đến bắt ngươi, ngươi làm bộ như là người vô tội là ý làm sao?
Lý Tịnh nghe Thạch Cơ nói không hiểu gì cả, chẳng khác người đang lạc vào cõi mê, liền cúi đầu thưa:
– Nương nương dạy điều gì, kẻ hèn này thực không hiểu!
Thạch Cơ nghiến răng nói:
– Ngươi trả ơn ta bằng cách bắn chết Bích Vân, đứa học trò của ta phải không? Ngươi đừng giả bộ ngây ngô.
Lý Tịnh nói:
– Tôi ở mãi tận ải Trần Ðường không đi đâu hết, suốt ngày đêm lo luyện tập binh mã, làm sao bắn chết Bích Vân đồng tử. Xin nương nương xét lại kẻo oan tình.
Thạch Cơ nói:
– Chính ngươi dùng tên Chấn Thiên bắn từ ải Trần Ðường đến đây, tang chứng đã rõ ràng, tại sao còn chối?
Lý Tịnh nói:
– Xin cho tôi xem mũi tên ấy thử.
Thạch Cơ truyền đem mũi tên ấy đến, và nói:
– Tên này là báu vật của ải Trần Ðường, nếu ngươi không bắn thì làm sao tên bay đến đây?
Lý Tinh xem thấy thất kinh, nói lớn:
– Cha chả, cung Càn Khôn, tên Chấn Thiên là báu vật của vua Huỳnh Ðế từ xưa lưu lại, để trấn ải Trần Ðường, từ xưa đến nay không ai kéo nổi cung ấy. Nay chẳng biết vì đâu tai bay vạ gởi đến với tôi như vậy. Xin nương nương cho tôi về ải tra xét kẻ bắn tên, nếu tôi không tra ra xin đến đây chịu chết.
Thạch Cơ nói:
– Thôi được ta cho ngươi về tra xét, nếu việc này không giải quyết cho xong thì sẽ kiện đến thầy ngươi đấy.
Lý Tinh từ giã Thạch Cơ cầm tên, độn thổ về ải.
Ân phu nhân từ khi thấy chồng bị bắt đem lên trời, không hiểu chuyện gì, than khóc suốt buổi, nay thấy Lý Tịnh trở về lòng mừng khấp khởi, hỏi:
– Chẳng hay phu quân vì sao lại bị bắt đem lên trời như vậy? Thiếp không rõ nguyên nhân, run sợ quá.
Lý Tịnh thở dài, nói:
– Phu nhân ơi, ta làm quan đã hai mươi lăm năm nay không xảy ra điều gì đáng tiếc. Ðến nay thời suy, nên xui khiến lắm tai nạn. Vừa rồi chẳng biết kẻ nào đã dùng hai vật báu Càn Khôn Cung và Chấn Thiên Tiễn, bắn chết người học trò của bà Thạch Cơ ở động Bạch Cốt. Bà ấy bắt ta đòi thường mạng.
Ân phu nhân nói:
– Hai báu vật ấy để trên vọng đài, từ xưa nay không một ai bắn nổi, nay trong ải cũng chẳng có tướng nào mạnh, lẽ đâu dùng được?
Lý Tịnh nói:
– Ta nghi thằng Na Tra tinh nghịch, đã dùng tên thần sát hại.
Ân phu nhân nói:
– Thằng Na Tra mới có bảy tuổi lẽ nào có đủ sức mạnh dùng thần tiễn?
Lý Tinh nói:
– Phu nhân không biết chứ Na Tra là một tướng trời đầu thai làm con mình, tuổi nhỏ nhưng tài cao, sức mạnh vô địch. Chính nó đã dùng sức mạnh đánh cả Ðông Hải Long Vương vừa rồi, phu nhân không thấy sao?
Ân phu nhân thở dài:
– Chuyện kia chưa dứt, chuyện nọ đã dây. Chưa chắc thằng Na Tra đã gây nên chuyện này.
Lý Tịnh ngồi nghĩ một lúc, rồi khiến quân đòi Na Tra đến.
Quân vào tìm Na Tra suốt buổi mới gặp.
Na Tra đến trước mặt Lý Tịnh vòng tay thưa:
– Cha có việc gì sai bảo con?
Lý Tịnh nói:
– Thầy con đã dặn con sau này giúp nước phò vua đồ binh bố trận, vậy nay sẵn dịp thong thả, Sao con không tập cầm cung cỡi ngựa?
Na Tra nói:
– Việc ấy cha không dạy con cũng phải lo. Vừa rồi con lên chơi viễn vọng đài thấy đó để cung tên, con bắn chơi một mũi mà khói đen mù mịt, hào quang chói sáng ngời nghe tiếng sấm vang tai, mũi tên đâu mất?
Lý Tịnh nghe nói ngồi chết điếng. Giây lâu mới thốt lên:
– Mầy là thằng nghiệp báo. Việc giết chết Thái Tử Long Vương còn đó chưa gỡ xong, nay lại chọc giận đến Thạch Cơ, việc càng trói thêm nữa!
Ân phu nhân ngồi nhìn sững.
Na Tra không hiểu gì liền hỏi:
– Chẳng hay có chuyện gì mà song thân kinh hãi như vậy?
Lý Tinh nói:
– Mày dùng tên thần bắn chết học trò của Thạch Cơ, bà ấy vừa bắt tao đến động Bạch Cốt buộc phải thường mạng. Mầy tính lẽ nào thì tính.
Na Tra nói:
– Bạch Cốt là động nào? Học trò bà Thạch Cơ đi đâu mà bị tên vậy? Nếu có thì đó là chuyện rủi ro, do số mạng chứ con đâu cố ý hại người!
Lý Tịnh nói:
– Nhưng tên ấy là tên thần, ai cũng biết báu vật của ải Trần Ðường còn chối cãi vào đâu?
Na Tra nói:
– Xin cha dẫn con đến đó con sẽ đối nại trước mặt bà Thạch Cơ cho. Không liên hệ gì đến cha mẹ cả. Con làm con chịu thôi.
Lý Tinh nói:
– Ừ nếu mầy có giỏi thì đến gặp Thạch Cơ nương nương tạ tội.
Na Tra vâng lời. Hai cha con cùng nhau độn thổ đến núi Khô Lâu động Bạch Cốt.
Lý Tịnh bảo Na Tra đứng ngoài chờ còn mình thẳng vô trong yết kiến Thạch Cơ nương nương.
Thạch Cơ nương nương thấy Lý Tinh đến liền hỏi:
– Sao? Ngươi đã tra ra người bắn tên chưa?
Lý Tịnh thưa:
– Kẻ gây chuyện chính là Na Tra, con trai của tôi đó. Nó là đứa con bất hiếu, tuy nhiên, con dại cái mang, tôi không thể tránh khỏi tội.
Thạch Cơ nói:
– Ngươi có dẫn nó đến đây không?
Lý Tịnh thưa:
– Có, tôi dẫn nó theo để xin lỗi nương nương. Hiện nó còn đứng trước động chờ lệnh.
Thạch Cơ nói:
– Ngươi sanh con dữ không dạy được. Thôi để ta trừng trị nó cho.
Nói rồi liền sai Thể Vân đồng tử ra ngoài gọi Na Tra vào.
Na Tra thấy có người ra gọi mình biết Thạch Cơ sai khiến, liền nghĩ thầm:
– Ðây là ổ hang của chúng, nếu ta chẳng ra tay trước để lọt vào sào huyệt của nó thì khó mà đối phó sau này.
Nghĩ rồi liền ném Càn Khôn Quyện lên đánh Thể Vân. Thể Vân thờ ơ không đề phòng, bị Càn Khôn Quyện đánh trúng té nhào xuống đất, thở hoi hóp.
Thạch Cơ nương nương ở trong động, nghe tiếng Thể Vân la lên biết ngay Na Tra đã sanh sự với học trò mình, mặt giận hầm hầm, xách gươm chạy ra hét lớn:
– Thằng quỷ dữ, mày dám đánh học trò của ta nữa à?
Na Tra mặt lầm lì thấy Thạch Cơ cầm gươm chạy ra liền thâu Càn Khôn Quyện, rồi ném tới đánh Thạch Cơ nữa.
Thạch Cơ biết đó bửu bối của Thái Ất chơn nhơn, lợi hại lắm vội vã đưa tay ra bắt lấy và nói:
– Thái Ất dạy học trò ăn cướp đây mà.
Na Tra thấy Càn Khôn Quyện bị mất thất kinh, quăng luôn sợi dây lưng bảy thước là Hỗn Thiên Lăng lên định trói Thạch Cơ, chẳng ngờ Thạch Cơ đưa tay áo rộng lên hứng, Hỗn Thiên Lăng riu ríu chun vào tay áo.
Thạch Cơ liền kêu Na Tra nói:
– Hãy đem hết các phép của thày mầy quăng ra hết đi.
Na Tra chỉ còn mình không, hết làm mặt dữ, vội co giò bỏ chạy.
Thạch Cơ gọi Lý Tịnh nói:
– Ngươi là người vô tội, ta cho về nghỉ ngơi. Còn thằng con của ngươi ta sẽ bắt để trị tội.
Nói rồi đuổi theo Na Tra như mẹ rượt con, chẳng khác mây bay gió thổi.
Na Tra chạy đã giỏi mà Thạch Cơ rượt theo cũng không chậm. Hai người cút bắt một hồi đã đến trước động của Thái Ất chơn nhơn.
Na Tra quen thuộc đường ngõ nên chạy tọt vào trong đóng cửa lại.
Thái Ất thấy Na Tra chạy vội về, mặt mày hơ hải, liền hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Na Tra thuật lại mọi việc, mình bắn tên thần rủi trúng học trò của Thạch Cơ nương nương, bị bà ta thu hết phép màu và còn đuổi theo bắt nữa.
Thái Ất nói:
– Mầy gây ra lắm chuyện bực mình. Việc Ðông Hải Long Vương dàn xếp chưa xong đã đến chuyện Thạch Cơ nữa
Na Tra năn nỉ:
– Con đâu cố tình bắn chết học trò của Thạch Cơ, tên thần bay lạc, chắc là số mạng của học trò bà ấy…
Thái Ất nói:
– Thôi được, hãy ra sau vườn, để ta đối phó với mụ ấy.
Thái Ất bước ra đứng dựa ngoài hiên, thấy Thạch Cơ mặt giận hàm hầm, cầm gươm xông vào động, cử chỉ rất hung dữ.
Thái Ất cười lớn, hỏi:
– Nương nương đến đây có việc gì mà bộ dạng khó coi như thế?
Thạch Cơ xá Thái Ất một cái, và nói:
– Lão huynh dạy học trò không kỹ càng, phép tắc gì hết.
Thái Ất hỏi:
– Học trò tôi làm điều gì phạm đến nương nương?
Thạch Cơ nói:
– Nó đã dùng tên thần bắn chết học trò tôi là Bích Vân, sau đó lại dùng Càn Khôn Quyện đánh Thể Vân đến ngất ngư, tôi ra can thiệp, nó ỷ có phép của đạo huynh, đánh luôn đến tôi nữa. Nếu đạo huynh muốn tình chúng ta không sứt mẻ thì hãy bảo nó ra đây cho tôi trị tội.
Thái Ất nói:
– Na Tra có mặt trong động, gọi nó ra không khó khăn gì. Song nó là người của cung Ngọc Hư, vâng lệnh Giáo Chủ xuống đầu thai giúp Chúa. Nếu nương nương muốn trừng trị hắn thì hãy đến nói với Giáo Chủ, chừng nào Giáo Chủ dạy ta giao nó cho nương nương thì ta giao liền. Ta không phải tư vị.
Thạch Cơ cười lớn:
– Lão huynh đừng mượn uy của Giáo Chủ dọa dẫm đàn bà. Lão huynh thả học trò ra giết người, phá phách kẻ khác, công lý dù là kẻ quyền uy cũng không thể trốn tránh được. Sát nhân phải đền mạng, đừng đem Giáo Chủ ra dọa tôi.
Thái Ất nói:
– Ðạo nào cũng vậy người dưới phải tôn trọng kẻ trên, nương nương đã là kẻ tu hành lẽ nào không rõ lề luật?
Thạch Cơ nói:
– Tuy cùng là đạo nhưng tôi ở khác ngành, lẽ nào chịu tùng phục Giáo chủ của Ðạo huynh?
Thái Ất chơn nhơn cười lớn:
– Nương nương ý muốn nói người Triệt giáo không tuân tệnh Xiển giáo chứ gì? Theo tôi nghĩ, Xiển Giáo hay Triệt Giáo cũng chịu dưới sự điều khiển của Ngọc Hoàng, không nên có ý ấy. Nương nương cũng biết lúc này số trời đã định, tam giáo phải đồng ghi bảng phong thần cho đủ số. Giáo chủ ta truyền cho chư tiên các động phải sai đệ tử xuống trần giúp nhà Châu, Na Tra cũng vâng lệnh đầu thai, sau làm tiên phuông cho Khương Thượng. Dầu nó lầm lỗi bắn trúng học trò của nương nương thì cũng tại số trời, không phải cố ý sát nhân mà bắt đền mạng. Xét như nương nương đã là kẻ tu niệm, tránh điều lo lắng thì cũng chẳng nên mua cừu chuốc oán làm chi cho lỗi phép đạo?
Thạch Cơ nổi giận nói:
– Tam giáo, đạo nào cũng trọng sao lại có ý chê Triệt Giáo của tôi?
Thái Ất nói:
– Ðạo tuy là một, song có thấp cao, chánh tà phải phân biệt.
Thạch Cơ không còn nhịn được nữa, chém Thái Ất một gươm.
Thái Ất vội né sang một bên tránh, rồi chạy thẳng vào động, rút gươm báu và đãy phép, quì lạy về hướng Ðông, vái:
– Ngày nay cực chẳng đã phải phạm tội sát sanh, đệ tử không đám giấu thầy, xin chịu tội trước.
Vái lạy rồi, Thái Ất ra trước động, điểm mặt Thạch Cơ nói:
– Ngươi còn non nớt lắm, sao chẳng lo tu niệm lại muốn đua tranh, muốn đến cửa lành làm dữ?
Thạch Cơ không nhịn, vung gươm chém đùa. Thái Ất đỡ ra và nói:
– Ngươi là cục đá nhờ âm dương soi sáng, nhật nguyệt thắm nhuần, tuy hóa hình ngàn năm, nhưng chưa đắc quả. Nay số trời đã đến nên khiến ngươi đem chút tài mọn của tà đạo chống với chánh đạo, ta e uổng công tu luyện ngàn năm, không được thành tiên lại trở thành đá.
Thạch Cơ nương nương nghe Thái Ất đem gốc tích mình châm biếm lại càng giận hơn, đôi mày dựng ngược, hai mắt tròn xoe, múa kiếm chém Thái Ất không ngớt.
Thái Ất đưa gươm đối địch. Ðánh nhau được mười hiệp, sức gái không sánh nổi tài trai, Thạch Cơ ra tay trước, liền ném khăn Bát Quái lên, chiếu hào quang sáng chói.
Thái Ất cười lớn:
– Phép tà cự sao lại chánh?
Liền đưa tay chỉ chiếc khăn Bát quái, miệng niệm lâm râm, tức thì khăn Bát quái sa xuống đất.
Thạch Cơ thấy phép mình không hại nổi Thái Ất tức giận múa kiếm như bay, màu trắng tủa ra phủ một vùng.
Thái Ất nói:
– Ngươi đã cố tình không hối cải, quyết làm dữ với ta, lẽ nào ta dung thứ.
Nói rồi bước tránh sang một bên, lấy Cửu Long Thần hóa trạo vụt lên. Bửu bối này có hình một chiếc nơm úp cá.
Thạch Cơ thấy chiếc nơm phép thất kinh bỏ chạy, nhưng không sao tránh khỏi chiếc nơm úp nhằm đầu, Thạch Cơ bị chui vào đấy.
Na Tra thấy thày mình dùng phép úp Thạch Cơ mà đốt, vội chạy ra lớn tiếng nói:
– Phải chi lúc nãy mình được chiếc nơm ấy thì khỏi mất công thầy mình phải ra tay.
Thái Ất ngó ngoái lại thấy Na Tra, nghĩ thầm:
– Thằng quỷ này ý muốn chiếm nơm phép của ta. Nhưng nếu cho nó ngay bây giờ thì gây họa không ít, chi bằng để lúc nó theo Khương Tử Nha làm tướng, ta sẽ cho nó cũng chẳng muộn.
Nghĩ rồi liền gọi Na Tra bảo;
– Na Tra, nay bốn vị Long Lương vâng lệnh Ngọc Hoàng đang bắt tội thân phụ ngươi dưới ải, ngươi hãy trở về cho mau.
Na Tra nghe nói khóc lớn:
– Xin thầy ra ơn cứu con một phen. Con làm lỗi gây tội cho cha mẹ thật lòng con hối hận vô cùng.
Thái Ất thấy Na Tra khóc than lạy lục, liền kề miệng dặn nhỏ vài câu, bảo làm y kế ấy mới cứu được cha mẹ khỏi tội.
Na Tra tuân lệnh, độn thổ trở về ải Trần Ðường.
Còn Thạch Cơ bị chín con rồng lửa trong chiếc nơm thần vấn vít chặc cứng, hơi nóng phừng phừng, khói tỏa mù mịt.
Thương thay! Uổng công mấy ngàn năm tu luyện! Thạch Cơ bị hiện nguyên hình thành một cục đá xanh. Cũng bởi tại lửa trong tâm không dằn được nên mới bị lửa bên ngoài đốt ra tro.
Cục đá xanh tan. Thái Ất thấy Càn Khôn Quyện và Khổn Thiên Lăng không cháy, liền thâu hai vật báu ấy đem cất.
Na Tra độn thổ trở về đến ải Trần Ðường có quân vào báo cho Lý Tịnh hay. Bấy giờ vợ chồng Lý Tịnh đều bị trói còn bốn vị Long Vương là Ngao Quảng, Ngao Thuận, Ngao Nhuận, Ngao Khâm đều ngồi trước mặt, bàn cách xử án.
Khi nghe quân báo có Na Tra về, bốn vị Long Vương đều nghiến răng giận dữ. Na Tra vào ải, thấy cha mẹ bị trói, hét lớn:
– Sao quí vị làm ngang như vậy? Kẻ nào làm không phải kẻ ấy chịu tội thôi. Tôi đã đánh chết Lý Lương và Ngao Bính thì một mình tôi thế mạng, không việc gì bắt trói song thân tôi?
Bốn vị Long Vương đều nhìn Na Tra. Ngao Quảng nói:
– Ngươi giết người, gây nhiều việc đại ác, lại bỏ trốn, không biết xấu còn nói chuyện hiếu đạo!
Na Tra nói:
– Giết người đền mạng. Nay tôi bằng lòng mổ ruột, lóc thịt, chặt xương của tôi ra để đền tội với song thân, trả ơn sanh thành. Quí vị không được làm phiền đến song thân tôi nữa. Nếu quí vị bằng lòng như vậy thì tôi thi hành, bằng không, tôi cùng quí vị đến cửa trời, yết kiến Ngọc Hoàng, nhờ phân xử phải trái.
– Như vậy mới là con có hiếu. Ngươi làm được vậy ta cũng khen ngươi đấy.
Nói rồi mở trói cho vợ chồng Lý Tịnh.
Na Tra lấy gươm ra, tay mặt chặt tay trái, lóc hết thịt, rồi mổ bụng lòi ruột cả đùm. Chỉ chốc lát hồn lìa xác.
Thương ôi, máu me lai láng, xương thịt tan tành, lòng thảo dạ ngay, hồn bay phách lạc.
Người sau có thơ điếu Na Tra:
Mình làm mình chịu dám nài bao
Ðể họa song thân dạ nỡ nào
Lóc thịt quyết đền ơn nhũ bộ
Liều thân đành trả nghĩa cù lao
Lòng bền như đá lăn không núng
Máu chảy như vòi thác chẳng nao
Riêng thẹn phận hèn coi mạng lớn
Nghĩ càng hổ mặt với anh hào
Bốn vị Long Vương thấy Na Tra chết rồi không còn lý nào làm khó Lý Tịnh nữa, đồng lui về hết.
Vợ chồng Lý Tịnh tẩn liệm hài cốt của Na Tra đem chôn, lòng buồn khôn khuây.
Nguyên Na Tra là trái Châu Linh, không hồn phách, bởi đầu thai nên mới có hồn. Nay hồn Na Tra theo gió phất phơ trở về động.