Hồi 14: Na Tra nhờ thầy cứu nhập xác bông sen

Hồn Na Tra phưởng phất bay về núi Càn Nguyên, Kim Hà đồng tử trông thấy vào thưa với Thái Ất:

– Không hiễu anh tôi vì sao hồn phách dật dờ bay về đây.

Thái Ất đã biết trước việc ấy, liền ra trước động nói với Na Tra:

– Chốn này không phải chỗ ngươi nương thân. Hãy về mách bảo với mẹ ngươi đến ải Túy Bình, cách ải Trần Ðường bốn mươi dặm lập một cái miếu cho ngươi ở. Ngươi hưởng được ba năm hương lửa tự nhiên trở lại hình người. Ngày sau cứu nước phò vua, danh vang bốn biển. Hãy nghe lời ta chớ chậm trễ.

Na Tra nghe lời thầy dạy, liền trở về ải Trần Ðường, nhân lúc canh khuya vào phòng ứng mộng.

Ðêm ấy, Ân phu nhân đang ngủ, bỗng thấy Na Tra đứng trước mặt kêu nói:

– Thưa mẹ, con là Na Tra, vì chết oan uổng nên vong hồn không siêu thoát, vậy xin mẹ lập miễu tại núi Túy Bình, để con nhờ hương khói siêu rỗi linh hồn. Nếu được vậy ơn đức mẹ tày trời, con mang ơn tợ biển.

Ân phu nhân thức dậy, thương nhớ Na Tra, khóc mãi không thôi.

Lý Tịnh thấy vậy hỏi đuyên cớ. Phu nhân thuật lại câu chuyện trong mộng vừa rồi.

Lý Tịnh nói:

– Bởi phu nhân lòng thương con nên sanh ra chiêm bao mộng mị như vậy. Ðừng khóc lóc nữa.

Ân phu nhân làm thinh, không dám cãi.

Ðêm sau, Ân phu nhân lại nằm mộng, và cũng thấy Na Tra kêu nói như vậy nữa. Rồi bảy đêm liền, không đêm nào không thấy Na Tra. Ân phu nhân sợ Lý Tịnh, không dám nói lại.

Còn Na Tra thấy mẹ mình bỏ qua, không kể lời mình, tức giận nói:

– Con năn nỉ với mẹ đã mấy đêm liền, nếu mẹ không thương tưởng đến con, lập miễu cho con ở, con sẽ phá nhà cho mẹ coi.

Na Tra lúc sống tánh hung hăng, lúc chết chắc cũng không vừa.

Phu nhân sợ hãi không dám bỏ qua nữa, lén sai người lên núi Túy Bình cất miễu, chạm cốt Na Tra bằng gỗ, như người sống. Chỉ trong mười bữa hoàn thành.

Na Tra từ lúc ấy linh thiêng, tiếng đồn dậy núi. Dân chúng bảo gì được nấy, trăm việc trăm thành. Vì hiển thánh như vậy nên bá tánh tự động góp tiền góp của, sửa sang miễu Na Tra rực rỡ, ngày ngày thường cúng tế, đêm đêm không ngớt hương đèn.

Bấy giờ Lý Tịnh nghe tin Ðậu Dung trấn ải Du Hồn cự không lại Khương Văn Hoàn, nên ngày đêm lo luyện tập binh mã ở núi Giả Mã để phòng giữ ải mình.

Ngày kia, Lý Tịnh kéo binh đi ngang qua núi Túy Bình, thấy thiên hạ dâng hương đông như hội liền hỏi quân sĩ:

– Thiên hạ đi đâu đông như vậy?

Quân lính thăm dò một lúc rồi trở về báo:

– Núi này có một cái miễu, trong miếu có vị thần linh lắm, hễ cầu phước thì được phước, cầu may thì được may, thiên hạ được khắp chốn, ai nấy lũ lượt đến đó dâng hương, lúc nào cũng đông như ngày hội.

Lý Tịnh hỏi:

– Ông thần đó thiên hạ gọi là thần gì?

Quân lính thưa:

– Họ gọi là Thần Na Tra.

Lý Tịnh nghe nói nỗi giận truyền quân đóng binh lại, rồi một mình cỡi ngựa lên núi xem thử.

Khách dâng hương thấy Lý Tịnh lên núi đều tránh đường cho Lý Tịnh để Lý Tịnh đến nơi, thấy có một cái miễu thắp nhang khói tỏa mịt mù, trước cửa có treo một tẩm biển đề bốn chữ lớn: “Na Tra hành cung “.

Bước vào trong, Lý Tịnh thấy trên bàn, một cốt tượng bằng gỗ, tạc hình giống Na Tra như lúc sống, hai bên lại có hai tên quỉ sứ đứng hầu, trông có vẻ oai nghi lắm.

Lý Tịnh lấy roi chỉ vào mặt Na Tra hét:

– Nghịch tử! Lúc sống mày báo mẹ báo cha, lúc chết lại làm quỉ gạt gẫm dân chúng, khuấy rối thiên hạ.

Mắng rồi vung roi đập nát pho tượng, nổi lửa đốt miễu cháy tan tành. Lại nói với đân chúng hành hương:

– Nó không phải thần thánh gì đâu, đừng cúng tế nữa. Nó là đứa con ngỗ nghịch, gạt gẫm đồng bào đấy.

Khách dâng hương thất kinh, tản ra về hết, vì ai cũng sợ Na Tra linh hiển, lụy đến thân mình.

Người sau có thơ rằng:

Binh mả ngang cảnh Túy Bình

Gặp dân dua cúng miễu anh linh

Roi đưa vun vút thần tan rã

Chân đá đùng đùng quỷ hãi kinh.

Lửa đốt miếu thiêng, trời đỏ mặt

Khói un cây cỏ núi đen mình

Vì hờn một chút gây nên chuyện

Khiến nổi cha con dứt nghĩa tình

Lý Tịnh kéo binh trở về đến ải Trần Ðường bố trí canh đâu đó xong xuôi, vào hậu đường nói với Ân phu nhân:

– Nghịch tử đã chết thì thôi, bày chuyện lập đền lập miếu thờ cúng làm gì cho sanh chuyện.

Ân phu nhân thuở nay vốn nể chồng không dám nói. Cực chẳng đã phải thở than:

– Dù sao nó cũng là con mình mang nặng đẻ đau. Nay nó liều chết để khỏi lụy đến mẹ cha cũng là chuyện hiếu. Tôi nằm rnộng thấy nó về gọi mãi, xin lập miễu để vong hồn nó an hưởng, lẽ nào nỡ bỏ qua.

Lý Tịnh nói:

– Lập mấy miễu cũng được, chuyện đó không ăn nhằm gì. Nhưng báo hại, dân chúng rủ nhau đến đó cúng tế dập dìu làm náo động cả một vùng Túy Bình, thật là điều bất tiện.

Ân phu nhân nói:

– Cúng tế là do lòng ngưỡng mộ của chúng dân, có can gì đến tướng quân.

Lý Tịnh thở dài:

– Sao lại không. Tôi thuở nay không ưa hối lộ với Vưu Hồn, Bí Trọng, chúng thường để ý bươi móc những sơ hở của tôi để sàm tấu. Nếu hai thằng nịnh ấy biết được việc này tất chúng tâu với Thiên tử, vu cho tôi tội mị đân. Như vậy mang tiếng với triều đình. Nay tôi đập pho tượng đốt miễu rồi, không để cho dân chúng tụ họp cúng tế nữa.

Ân phu nhân nghe nói buồn thiu, nhưng không dám cãi.

Bấy giờ, Na Tra đi chơi vắng, không có ở miễu, lúc trở về thấy miễu cháy tan hoang, tượng thần bể nát, hai tên quỷ sử khóc mếu máo, chạy ra nghênh đón.

Na Tra hỏi:

– Vì cớ sao miễu cháy tan tành như vậy?

Quỉ sứ thưa:

– Lý Tổng binh kéo quân đi ngang qua núi, chẳng biết vì sao lại đốt miễu, đập phá tan tành.

Na Tra nỗi giận nói:

– Xương thịt ta đã trả lại rồi, còn tình nghĩa cha con gì nữa. Nỡ nào đập tượng, đốt miễu, ta biết nương dựa vào đâu. Việc này ta phải trở về núi thưa lại với thầy ta kẻo oan ức quá.

Bấy giờ hồn Na Tra đã hưởng được nửa năm hương khói, nên có vẻ cứng cáp lắm rồi. Khi Na Tra bay về tới động, Kim Hà đồng tử trông thấy vội dắt vào yết kiến. Thái Ất hỏi:

– Sao ngươi không ở miễu, trở về động làm gì?

Na Tra thưa:

– Cha tôi kéo binh đến đập phá tượng cốt, đốt miễu tan tành, đệ tử không có chỗ nương thân nên phải về đây xin sư phụ chỉ dạy.

Thái Ất nghĩ thầm:.

– Việc này lỗi tại Lý Tịnh. Là tình cha con, việc gì lại khắc bạc đến thế. Nếu không nhờ hương lửa cho thành hình thì làm sao ra đời phò vua giúp nước? Vả lại lúc này Khương Tử Nha cũng gần ra mặt, mà Na Tra hiện hình chưa kịp thì biết làm sao tính chuyện chiến chinh? Thế này ta phải dùng cách khác cứu nó mới xong.

Nghĩ rồi liền truyền Kim Hà đồng tử đi hái hai cái bông sen và ba chiếc lá sen nguyên cọng.

Kim Hà đồng tử tuân lệnh hái bông lẫn sen đem về. Thái Ất bẻ ra làm ba trăm sáu mươi khúc (cọng sen), sắp cọng sen làm xương, lấy bông sen làm thit, đắp ba lá sen làm da, rồi để hột thuốc kim đơn vào giữa.

Sắp đặt xong xuôi, Thái Ất niệm chú, thâu hồn Na Tra xô nhập vào hình sen, hét lớn lên một tiếng:

– Hãy hoàn hồn nhập xác.

Bỗng nghe có tiếng ư, rồi một xác người ngồi dậy, mặt tợ dồi phấn, môi thể thoa son, hai con mắt sáng ngời, mình cao mười sáu thước, hình hài tuy cao lớn, nhưng không khác gì Na Tra trước kia mấy.

Thái Ất nói:

– Lý Tịnh đánh cốt đốt miễu là chuyện khắt khe, tuy nhiên đệ tử chớ lấy đó mà hận lòng.

Na Tra tánh hung hăng, nghĩ đến hành động Lý Tịnh đối xử với mình không sao dằn lòng được, nói lớn:

– Thân xác con đã trả lại cho cha mẹ con rồi, tình cha con không còn gì nữa, Thưa thầy hận cừu này không trả không thể an lòng được.

Thái Ất bảo:

– Thôi chuyện đã qua đừng nhắc đến làm gì. Hãy theo thầy ra vườn luyện tập võ nghệ.

Na Tra theo Thái Ất ra vườn. Thái Ất giao cho Na Tra một cây giáo dài, lưỡi có uốn khúc như lưỡi con rắn liu điu đỏ lòm như lửa gọi là Hỏa Tiên thương.

Na Tra rất thông minh chỉ học qua một lượt đã thuộc hết các phép. Thái Ất nói:

– Phép đánh giáo của con đã tinh thông, vậy thầy cho con thêm một bánh xe gió và một bánh xe lửa làm chân thế ngựa.

Nói rồi truyền mấy câu chú. Lại giao một túi da beo, có đựng các phép báu như: Càn Khôn Quyện, Hổn Thiên Lăng, và một cục Kim Chuyên.

Giao xong các báu vật, Thái Ất lại bảo:

– Thầy cho con xuống ải Trần Ðường ra mắt vợ chồng Lý Tịnh để cởi mở hận lòng.

Na Tra cầm giáo lên xe trở về ải Trần Ðường.

Thật ra đối với Lý Tịnh, Na Tra có cái hận trong lòng, nếu không cởi mở, Na Tra sẽ trở thành độc dữ hơn, vì vậy Thái Ất cũng muốn cho hận thù ấy kết toán.

Na Tra nghĩ mình đã lóc thịt xương trả lại công sanh thành nên không còn là con của Lý Tịnh nữa, vì vậy khi đến ải Trần Ðường, Na Tra đứng ngoài thành gọi lớn:

– Quân bay vào bảo Lý Tịnh ra ta nói chuyện.

Quân sĩ thấy Na Tra cầm giáo dài, mặt mày giận dữ, lại kêu tên Lý Tịnh mà nói như vậy thất kinh vào báo:

– Có đệ tam công tử trở về mời gia gia ra ngoài thành nói chuyện.

Lý Tịnh nạt:

– Bây chớ nói xàm. Ðời nào chết đi còn sống lại được!

Lý Tịnh nói vừa dứt tiếng đã có tên quân khác vào thưa:

– Xin chủ tướng ra mau kẻo công tử xông vào không ngăn kịp.

Lý Tịnh nói:

– Việc này rất lạ. Na Tra đã chết lẽ đâu còn trở lại hình người. Ðây chắc vong hồn nó hiện quỉ về phá rối chăng?

Nói rồi cầm kích lên ngựa ra trước ải, quả thấy Na Tra cao lớn hơn xưa, đang đứng trên hai bánh xe, tay chàng ngang ngọn giáo.

Lý Tịnh thất kinh hỏi:

– Nghịch tử! Khi sống làm yêu, lúc chết hiện quỉ, trở về đòi nợ hay sao?

Na Tra nói:

– Ta với ngươi không còn tình cha con gì nữa. Xác thịt ta đã trả lại công sanh thành rồi. Bây giờ ta với ngươi chỉ là hai kẻ thù. Tại sao ngươi đập tan cốt tượng, đốt miễu của ta. Thù nãy chưa trả ta quyết không đạp đất đội trời.

Vừa nói Na Tra vừa xông tới, dùng giáo dài đâm Lý Tịnh.

Lý Tịnh nổi giận cầm kích đỡ ra rồi chém lại. Hai đàng đánh nhau được hai mươi hiệp, chẳng ngờ Na Tra sức mạnh phi thường, càng đánh càng hăng, còn Lý Tịnh mồ hôi ướt giáp, hơi thở khò khè, tay chân run rẩy, liệu thế đánh không lại phải quày ngựa chạy dài.

Na Tra gọi lớn:

– Chạy đi đâư cho khỏi? Phen này ta quyết giết chết được ngươi mới nghe!

Vừa nói vừa rượt theo.

Lý Tịnh hoảng hốt độn thổ tức thì.

Na Tra cười lớn nói:

– Ðối với thế gian thì độn thổ là phép lạ còn đối với tiên gia, độn thổ là chuyện tầm thường, làm sao trốn được?

Nói rồi đạp hai bánh xe Phong Hỏa nghe gió dậy lửa hừng đi theo như mây bay gió táp.

Lý Tịnh chết điếng không biết liệu cách nào, than:

– Ta không ngờ sanh con lại tạo cho mình một nghiệp báo?

Giữa lúc đó bỗng có một người đi tới, miệng ca mấy câu:

Trăng chiếu lên khe nước bích

Gió đưa dựa cánh hoa dào

Ngàn dặm non xanh trải khắp

Một vầng mây bạc bay cao

Lý Tịnh thoáng thấy một tên đạo đồng, mình mặc áo tràng, đầu đội mũ đảnh. Nhìn kỹ thì đó là Mộc Tra, con trai của Lý Tịnh, học trò của ông Phổ Hiền ở động Bạch Hạc.

Lý Tịnh thấy Mộc Tra, lòng bớt sợ gọi lớn:

– Con ơi, cứu cha với.

Mộc Tra thưa:

– Cha đừng sợ, có con đến đây.

Bấy giờ Na Tra đã rượt theo kịp, thấy Lý Tịnh đang nói chuyện với tên Ðạo đồng, liền xốc đến làm dữ, Mộc Tra cản lại nạt lớn:

– Nghịch tử! Mầy dám làm chuyện vô đạo, rượt đánh cha, trời đất nào dung cho mày. Hãy xin lỗi thì ta dung thứ.

Na Tra hỏi:

– Mầy là ai mà phách lối như vậy?

Mộc Tra nói:

– Té ra mầy chưa biết tao sao? Ta là Mộc Tra, anh ruột của mầy mà. Lâu nay chưa lần nào gặp nhau nên mầy không biết cũng phải.

Na Tra nói:

– Anh Mộc Tra, anh chưa biết câu chuyện này. Ðể tôi nói lại cho anh nghe.

Ðoạn Na Tra kể lại các việc vừa xảy ra và nói:

– Tình cha con đã hết thì thù hận phải trả cho rành.

– Dù sao thiên hạ cũng nói mầy là con của Lý gia gia. Nếu mày hành động như vậy thì mang tiếng con nhà vô giáo dục.

Na Tra nói:

– Nhưng cha làm quấy tất nhiên con không thể kính vì.

Mộc Tra nói:

– Lẽ thường xưa nay, cha mẹ không làm quấy bao giờ.

Na Tra nói:

– Xương thịt đã trả lại rồi, không còn cha con gì nữa.

Mộc Tra giận quá, mắng lớn:

– Mày quả là đứa nghịch tử, không để làm chi.

Nói rồi chém Na Tra một gươm. Na Tra vung giáo đỡ, và nói:

– Tôi với anh không thù oán gì. Hãy tránh ra để tôi trả mối thù cùng Lý Tịnh.

Mộc Tra hét:

– Ðừng nói bậy. Hãy ngửa cổ chịu chết cho rồi.

Na Ta không nhịn, cầm giáo dài đâm Mộc Tra. Mộc Tra đỡ ra rồi rượt đánh. Hai anh em đánh với nhau lối ba mươi hiệp, Na Tra nóng lòng trả thù Lý Tịnh, sợ Lý Tịnh trốn mất, nên tính giải quyết với Mộc Tra cho sớm, liền lấy cục Kim Chuyên ném lên. Bửu bối này có hình như cái bánh ú, rơi nhằm lưng Mộc Tra làm cho Mộc Tra chống không lại, nhào lăn xuống đất.

Na Tra nói:

– Mầy muốn thế mạng cho Lý Tịnh đấy.

Nói rồi bỏ Mộc Tra nằm đấy, múa giáo đâm Lý Tịnh, Lý Tịnh sợ hãi cong lưng chạy riết.

Na Tra vừa cười vừa nói:

– Dù ngươi có chạy đến góc bể đầu non nào ta cũng quyết lấy thủ cấp cho được để trả thù việc đập cốt, đốt miễu ngày trước.

Lý Tịnh nghe Na Tra nói lại càng hoảng sợ, chạy trốn chẳng khác con chim bị ná, con cá vừa thoát lưới.

Ðàng sau, Na Tra đạp xe phong hỏa đuổi theo rất gấp.

Lý Tịnh than dài:

– Mình đầu thai lỡ kiếp, đi tu tiên không thành, trở về với công danh thì lại bị loài quỉ dữ vương nghiệp báo. Nhục nhã quá sống cũng chẳng làm chi, thà chết cho mát ruột.

Than rồi muốn dùng gươm đâm họng tự vận. Bỗng nghe có tiếng gọi:

– Lý Tướng quân chớ chạy, có bần đạo đến đây.

Lý Tịnh dừng chân, nghe người ấy ngâm bốn câu thơ:

Ngoài nội ngọn dông đưa liễu

Trong ao mặt nước trôi hoa

Hỏi thử: Non xanh phải động

Ðáp rằng: mây hạc là nhà

Người vừa ngâm bốn câu thơ là một đạo nhân, hiệu Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn thầy của Mộc Tra đó.

Văn Thù tay cầm phủ phất từ từ đi tới bảo Lý Tịnh:

– Tướng quân hãy vào động nghỉ, để ta xử trị với nó cho.

Lý Tịnh thấy Văn Thù Thiên Tôn, vội cầu cứu:

– Xin Ðạo sư ra ơn cứu tôi với.

Vừa nói vừa chạy tọt vào động.

Na Tra mặt hầm hầm, tay cầm giáo dài chân đạp hai bánh xe vừa đến nơi, không thấy Lý Tịnh đâu, chỉ thấy một ông đạo sĩ đầu chừa hai vá, mình mặc áo nịt một dây đang đứng bên bàn thạch, liền hỏi:

– Ông đạo có thấy một vị tướng vừa chạy qua đây không?

Văn Thù nói:

– Lý Tổng binh đã chạy vào động Vân Tiêu rồi, ngươi hỏi làm gì?

Na Tra nói:

– Ðạo sư chưa rõ, người ấy chính là thù nhân của tôi đấy.

Văn Thù cười lớn:

– Con mà gọi cha mẹ là thù nhân à?

Na Tra trợn mắt nói:

– Tại sao ông biết? Tôi đã lóc hết xương thịt trả lại rồi, còn cha con gì nữa?

Văn Thù nói:

– Lóc thịt xương chỉ mới là thể xác, còn tinh thần thì sao?

Na Tra hỏi:

– Tinh thần là cái gì?

Vản Thù đáp:

– Tinh thần là mối liên hệ giữa tình thương, là cái đạo của con người đối với con người.

Na Tra nóng lòng gắt:

– Tôi không muốn nghe những lời ấy. Nếu ông muốn yên ổn thì giao cừu nhân cho tôi, còn không tôi đâm ông ba giáo.

Văn Thù cười gằn:

– Mầy là giống gì mà phách lối như vậy? Ðừng khoác lác lỗ miệng mà hại đến thân.

Na Tra không biết Văn Thù là bậc Ðạo sư có địa vị khá cao, nên hùng hổ nói:

– Ta là Na Tra, học trò của ông Thái Ất chơn nhơn. Nếu người còn không biết điều, trẻ nít không giữ lễ.

Văn Thù nói:

– Ta không nghe Thái Ất có học trò là Na Tra. Mầy ngông cuồng như vậy ắt mang khốn. Ta sẽ bắt treo ngược lên không, đánh đòn ba trăm gậy.

Na Tra tánh ương ngạnh đã quen, không kể đến ai, liền vung giáo đâm Văn Thù.

Văn Thù giả thua bỏ chạy, Na Tra đắc ý đuổi theo, Văn Thù lấy Ðộn Long Thung (dây nọc cột rồng) trong túi quăng lên tức thì bốn bề nổi gió, tám hướng mịt mù, bụi đất tối trời. Na Tra mù mịt, không còn biết đâu là đâu nữa, mê man một lúc.

Khi tỉnh dậy thì thấy mình bị trói vào ba cái khoen bằng vàng, hai cái khoen niềng hai bắp vế, một cái khoen niềng ở cổ, buộc cứng vào một cái nọc.

Văn Thù mắng lớn:

– Mày quen thói ngang tàng, gặp ta, ta trị cho một bữa.

Nói rồi khiến Kim Tra đem gậy ra đánh Na Tra một chập. Na Tra bị trói trong cột, đau quá toát mồ hôi mặt đổ lửa, mũi ra hơi nóng.

Ðánh được vài trăm gậy, Văn Thù khiến Kim Tra thôi đánh, bỏ vào trong động.

Na Tra ngồi một mình tức bực khó chịu, đã không trả thù Lý Tịnh được, lại bị ông đạo sĩ này hành hình, rêm mình rêm mẩy.

(Nguyên vì Thái Ất chơn nhơn biết Na Tra tánh hung hăng nên gạt Na Tra đến động Vân Tiêu, nhờ tay Vân Thù trừng trị cho chừa tánh lỗ mãng).

Bởi vậy, trong lúc Na Tra đang hậm hực, mặt nhăn mằy nhó, ngồi ủ rũ nơi chiếc cột thì Thái Ất đi ngang qua.

Na Tra trông thấy vội kêu cứu.

Thái Ất không thèm ngó lại, cứ đi thẳng vào động.

Văn Thù mở cửa ra tiếp vừa cười vừa nói:

– Anh để học trò nghinh ngang quá, làm tôi nhọc công dạy dỗ.

Thái Ất nói:

– Tôi biết tánh nó hung lắm nên mượn tay anh răn dạy một lần.

Văn Thù liền khiến Kim Tra ra mở trói cho Na Tra.

Kim Tra tuân lệnh ra mở trói, và nói:

– Thầy dạy ngươi vào ra mắt.

Na Tra nói:

– Ta không ngờ thầy ta lại sợ cái lão sói đầu này, nếu biết trước ta không sanh sự với lão làm gì?

Kim Tra nói:

– Ngươi phải bỏ tánh hung hăng, nếu không thầy ta còn trừng trị nhiều cách khác nữa.

Na Tra lườm mặt:

– Ðã có thầy ta trong đó ta còn sợ gì lão sói.

Kim Tra dẫn Na Tra vào trong.

Na Tra thấy Văn Thù ngồi bên tả, Thái Ất ngồi bên hữu. Hai người có vẻ thân mật như anh em.

Thái Ất bảo Na Tra:

– Hãy ra mắt Bá Bá của mầy đi.

Na Tra không dám cãi lời, liền quỳ xuống ra mắt Văn Thù.

Thái Ất lại gọi Lý Tịnh ra.

Lý Tịnh bước đến lạy mừng hai vị Ðạo sư.

Thái Ất nói:

– Về sau, cha con phải thuận hòa, cha đừng khắc khe với con, con chớ vô lễ với cha nữa, được như vậy mới tốt đẹp.

Lý Tịnh tuân lời, lạy tạ lui ra. Na Tra vẻ mặt không vui, đôi mắt chứa đầy uất khí.

Thái Ất thấy vậy mỉm cười nói với Lý Tịnh:

– Thôi! Lý Tướng quân trở về ải an nghỉ.

Lý Tịnh cáo từ ra khỏi động, Na Tra đưa mắt nhìn theo với cử chỉ hậm hực.

Thái Ất nói:

– Ta bảo ngươi từ nay một lòng hòa thuận để giữ đạo làm người, tại sao ngươi không tuân?

Na Tra thưa:

– Không trả thù được, lòng đệ tử không an.

Thái Ất biết tánh Na Tra hung dữ, khó nguôi được liền bảo:

– Hãy trở về giữ động, để ta chơi với bác mày vài ván cờ rồi sẽ về sau.

Na Tra nghe nói mừng quýnh, vội cúi lạy, ra khỏi động Vân Tiêu, đạp hai bánh xe phong hỏa, đuổi theo Lý Tịnh tức khắc.

Lý Tịnh đang độn thổ trở về ải bỗng nghe có tiếng Na Tra gọi lớn:

– Lý Tịnh, trốn đi đâu cho khỏi, có ta theo lấy đầu ngươi, trả thù đây!

Lý Tịnh ngó ngoái lại thấy Na Tra trợn mắt đuổi theo gần kịp, kinh hãi, nghĩ thầm:

– Ông Thái Ất dạy học trò dữ đã không ráng dạy nó còn ngầm khiến nó theo hại ta nữa. Mới bảo ta trở về, lại sai học trò theo đánh. Ngoài mặt giả nhân giả nghĩa, trong lòng chứa đựng gươm đao. Thầy bất nhân, trò làm sao không thất đức?

Vừa nói, Lý Tịnh vừa chạy trối chết, Na Tra cứ đuổi theo mãi, Lý Tịnh không biết làm sao trốn thoát.

Trong cơn bối rối, bỗng thấy một đạo sĩ đứng dựa lưng bên cội tòng, hỏi:

– Phải Lý Tịnh chạy đó không?

Lý Tịnh đáp:

– Chính tôi là Lý Tịnh đây.

Ðạo sĩ nói:

– Việc gì mà chạy? Cứ bình tĩnh đi cho khoẻ.

Lý Tịnh nói:

– Na Tra rượt theo quyết giết tôi, xin đạo sĩ làm ơn cứu mạng.

Ðạo sĩ nói:

– Không hề gì đâu. Cứ núp sau lưng ta đây, nó không dám làm gì mà sợ.

Lý Tịnh vâng lời chạy đến núp sau lưng đạo sĩ, thở hào hển.

Na Tra rượt đến thấy vậy nhủ thầm:

– Tại sao mấy lão này cứ theo bênh vực cừu nhân của ta mãi. Chẳng lẽ lần này bị đòn nữa?

Liền xông đến bắt Lý Tịnh.

Ðạo sĩ cản lại hỏi:

– Vì cớ gì ngươi đuổi theo Lý Tịnh?

Na Tra kể lại câu chuyện thù hận của mình, đạo sĩ nói:

– Nơi núi Cửu Long ngươi đã bằng lòng thảo thuận với cha mẹ anh em, sao bây giờ ngươi không tôn trọng lời hứa?

Na Tra nói:

– Thầy tôi dạy bảo, tôi không dám không tuân, thật ra hận thù không thể quên được.

Ðạo sĩ nói với Lý Tịnh:

– Thằng nhỏ phách lối. Nó đã cố ăn thua với ngươi, ngươi sợ gì không đánh với nó ít hiệp cho nó kinh hoàng?

Lý Tịnh nói:

– Nó đã mạnh và hung hăng lắm, tôi đánh không lại.

Ðạo sĩ liền thổi vào mặt Lý Tịnh một hơi rồi đánh sau lưng một phát, nói:

– Cứ đánh nó đi, bề nào đã có ta đây! Ðừng sợ.

Lý Tịnh tuân lệnh cầm kích xông ra, Na Tra được dịp báo thù, mừng quýnh, cầm giáo dài đâm tới. Hai cha con đánh nhau một lúc, ước có hơn năm mươi hiệp. Na Tra đánh không lại, mệt thở khò khè, mồ hôi nhỏ giọt, mắt lòa đom đóm, nghĩ thầm:

– Trước đây lão thua mình, sao bây giờ lão mạnh dữ vậy? Hay lão nhờ đạo sĩ thổi một hơi, đập một cái sau lưng chăng? Chi bằng ta đuổi đạo sĩ này đi chỗ khác, rồi mới giết Lý Tịnh sau.

Nghĩ như vậy, Na Tra thôi đánh với Lý Tịnh, tiến đến truớc mặt đạo sĩ, xuất kỳ bất ý đâm một giáo. Chẳng ngờ đạo sĩ lanh lẹ phi thường, hả mồm phun ra một cái bông sen, cản mũi giáo của Na Tra lại.

Ðạo sĩ nói:

– Thằng quỉ! Mầy đánh với Lý Tịnh sao lại trở giáo đâm tao? Tao với mầy có thù oán gì đâu?

Na Tra nói:

– Lý Tịnh trước kia đánh với tôi thua liểng xiểng, bởi ông thổi một hơi, vỗ sau lưng một cái, làm tôi đánh không lại. Tôi thù ông lắm.

Ðạo sĩ cười lớn:

– Thằng con nít ăn nói hồ đồ. Mầy thử đâm tao một giáo nữa xem sao?

Na Tra vốn hung hăng, lỗ mãng đã quen, đâu còn kể gì, nghe đạo sĩ nói nổi xung, nhảy tới đâm thêm một giáo nữa.

Ðạo sĩ nhảy trái sang một bên, rũ tay áo một cái, tức thì môt luồng hào quang tung ra sáng chói nửa lừng. Hào quang hiện ra một cái tháp chụp Na Tra nhốt vào trong ấy. Ấy là đạo sĩ dùng Lung Linh Tháp, bắt Na Tra trị tội.

Ðạo sĩ đưa tay vỗ vào tháp một cái, Na Tra thấy bốn bề lửa dậy phừng phừng, nóng như muốn tiêu cả xương thịt.

Na Tra kêu lớn:

– Xin tha tội tôi lần thứ nhất.

Ðạo sĩ cười khúc khích hỏi:

– Mầy đã chịu nhìn cha mầy chưa?

Na Tra nói:

– Ông ơi! Tôi xin tuân lời. Xin thả tôi ra.

Ðạo sĩ nói:

– Ngươi đã có ý tốt, ta tha ngươi đó.

Nói rồi niệm chú, tháp Lung Linh tự động giở lên. Na Tra mừng quá nhảy ra, xem lại quần áo không cháy chút nào, nghĩ:

– Lạ lùng chưa! Nóng như cháy thịt, mà quần áo vẫn nguyên vẹn là thế nào?

Ðạo sĩ nói:

– Ngươi đã chịu nhìn cha sao không cúi lạy ra mắt?

Na Tra có ý giục giặc. Ðạo sĩ cầm tháp giơ lên, Na Tra hoảng hồn cúi lạy đỡ, chứ thực lòng không phục.

Ðạo sĩ thấy vậy, bảo:

– Ngươi đã lạy sao không xin lỗi?

Na Tra đứng nhăn mặt làm thinh. Ðạo sĩ nói:

– Nếu ngươi không gọi Lý Tịnh bằng cha và xin lỗi, ta đốt.

Na Tra sợ quá, phải cúi mình, nói:

– Xin cha tha lỗi, từ nay con không dám ngỗ nghịch với cha.

Tuy ngoài miệng nói vậy, song trong lòng Na Tra vẫn nghi lão này không lẽ theo mãi Lý Tịnh, bắt ta gọi bằng cha? Ta chịu đỡ cho qua cơn nguy, rồi sẽ bắt Lý Tịnh trả thù.

Chẳng ngờ Ðạo sĩ biết rõ ý định của Na Tra, liền bảo Lý Tịnh.

– Ngươi quỳ xuống đây ta truyền phép này cho. Nếu thằng con đó còn trở lòng, ngươi dùng phép này đốt xác.

Na Tra không còn dám hung hăng nữa, nghĩ đến phép lạ giật mình.

Ðạo sĩ nói:

– Từ nay con thảo cha lành, sau cũng tôi hiền, chúa thánh, đổ đồng làm quan một triều, đừng có chấp nhau nữa. Chuyện cũ bỏ qua, mưu đồ việc sắp tới.

Na Tra thấy Ðạo sĩ trao phép báu cho Lý Tịnh phải chịu phép, cúi đầu từ giã lui về động.

Lý Tịnh quì lạy thưa:

– Nhờ thầy ra ơn cứu mạng, xin thầy cho biết quí danh để đệ tử có dịp đền ơn.

Ðạo sĩ nói:

– Ta là Nhiên Ðăng ở núi Linh Tựu, động Nguyên Giác. Ngươi vốn tu hành chưa được, phải hưởng việc giàu sang. Nay vua Trụ bất nhân, cơ nghiệp Thành Thang sắp mất. Ngươi hãy từ quan về núi ẩn thân, lánh họa, đợi vua Võ nhà Châu ra đời ngươi sẽ theo phò, gắng sức lập công, hưởng công danh phú quí.

Lý Tịnh vâng lời, từ tạ. Nội ngày hôm ấy trở về ải Trần Ðường, làm sớ xin từ chức Tổng binh, dẫn vợ con lên non ẩn tích.

(Việc này do Thái Ất cậy Nhiên Ðăng đến đó trị Na Tra, làm cho Na Tra bỏ oán bỏ thù với Lý Tịnh, cha con hòa thuận nhau. Sau này Lý Tịnh cũng đi tu thành chánh quả và được trời phong chức Thác Tháp Thiên Vương).

Hồi 15: Khương Thượng về trần cưới vợ

Nói về tại núi Côn Lôn, cung Ngọc Hư, có ông Nguyên Thỉ làm Giáo chủ Xiển Giáo, có mười hai người đệ tử đều là tiên phạm luật sát sanh, nên bị đọa, ngày sau phải xuống trần để gánh chịu tai nạn.

Bởi cớ ấy nên ông Nguyên Thỉ không dạy nữa, đóng cửa động không giảng kinh.

Hơn nữa Thượng đế đã có lệnh truyền mười hai vị tiên phạm tội ấy xuống trần, làm tôi nhà Châu. Và, cả hai giáo phái: Xiển giáo và Triệt giáo, số người tu hành phạm tội gom có hơn ba trăm sáu mươi lăm người, đều được biên tên vào bảng Phong Thần để đủ số cho Trời sai khiến.

Bảng Phong Thần này chia ra làm tám bộ.

Bốn bộ trên là: Bộ Lôi, Bô Hoa, Bộ Ôn, Bộ Ðẩu.

Bốn bộ dưới là: Thần Mây, Thần Mưa, Thần Sao, Thần Núi.

Nhân khi Trụ Vương mất nước vua Võ ra đời, ông Nguyên Thỉ được Thượng đế ủy nhiệm phong thần, xét ông hiền, ông dữ, ngôi cao, ngôi thấp mà định đoạt.

Nguyên Thỉ định cho học trò mình là Tử Nha xuống làm tướng, vì vậy ông sai Bạch Hạc đồng tử đi đòi Tử Nha (Khương Thượng) đến dạy việc.

Bạch Hạc đồng tử tuân lệnh đến đòi. Tử Nha ứng hầu lập tức.

Ðợi Tử Nha làm lễ xong xuôi. Nguyên Thỉ truyền:

– Ngươi lên núi này được mấy năm?

Tử Nha thưa:

– Ðệ tử tu hồi hai mươi ba tuổi đến năm này đã được bảy mươi hai rồi.

Nguyên Thỉ nói:

– Số ngươi thành tiên chưa được, còn vương vấn công danh. Nay Thành Thang ra hết vận Tây Châu ra đời vậy ngươi phải thay mặt ta xuống trần ra công giúp nước. Sống làm tướng, chết làm thần, như vậy công tu luyện của ngươi mấy mươi năm trời không uổng. Còn chỗ này không phải là chổ ngươi ở được lâu.

Tử Nha năn nỉ:

– Ðệ tử cố bỏ nhà lên núi. Dốc lòng lánh tục tìm tiên bốn chục năm dư nguyện bỏ đời theo đạo. Vẫn biết tu hành là khổ, muốn thành chánh quả không phải một sớm một chiều, nhưng đệ tử đã theo thầy học lâu nay, xin thầy làm ơn cứu rỗi, nỡ nào đuổi đệ tử trở lại phàm trần.

Nguyên Thỉ nói:

– Vẫn biết ý muốn ngươi như vậy, song số phần ngươi không được toại nguyện, ta biết làm sao? Thần tiên đều một cõi như nhau, ngươi chớ tị hiềm việc ấy.

Tử Nha năn nỉ:

– Xin sư phụ thương con, tìm cách cho con được lánh cõi trần này.

Nam Cực tiên ông khuyên:

– Số ngươi đã không thành tiên đạo mà lại từ bỏ công danh thì hai đàng đều hỏng. Chi bằng xuống giúp thế gian, sau được phong thần rồi sẽ lên non giữ đạo mới yên.

Tử Nha không còn biết nói sao hơn, đành sửa soạn ra đi, và hỏi Nguyên Thỉ:

– Nay đệ tử vâng lời về chốn phàm trần, chẳng hay việc sắp đến ra thế nào, xin thầy chỉ giáo.

Nguyên Thỉ nói:

– Ta có tám câu kệ, chỉ rõ trọn đời ngươi. Ngươi hãy nhớ lấy.

Nói rồi ngâm rằng:

Mười năm chịu túng áo còn bâu

Gượng gạo mua vui chớ chác sầu

Ngồi đá Bàn Khê câu đợi vận

Chờ xe vương giả rước về lầu

Tám mươi lẻ nửa mang đai ngọc

Chín chục dư ba buộc ấn hầu

Mậu ngũ chư hầu trăm trấn phục

Phong Thần chín tám bốn xuân thu

Nguyên Thỉ ngâm kệ rồi nói:

– Tuy bây giờ ngươi xuống đời, nhưng ngày sau cũng về núi.

Tử Nha lạy thầy giã bạn, ra khỏi cung Ngọc Hư.

Nam Cực tiên ông theo đưa ít dặm, đến núi Kỳ Lân dặn Tử Nha:

– Mấy lời thầy đã dạy hiền hữu chớ bôn chôn. Ngày nay xa cách, nhưng có lúc gặp nhau. Xin tạm biệt.

Tử Nha lạy tạ, cáo từ Nam Cực tiên ông rồi một mình thơ thẩn, nghĩ thầm:

– Mình bỏ nhà lên núi tu tiên đã lâu, nay không còn mẹ cha, con cháu, bà con, họ hàng cũng chẳng còn ai, biết trú ngụ vào đâu. Mình xuống trần chẳng khác chim lìa rừng cá xa vực, lẻ loi, cô độc.

Suy đi nghĩ lại, Tử Nha sực nhớ đến một người anh em bạn ở Triều Ca, trước kia thường lui tới tên Tống Dị Nhân. Nhưng chẳng biết mấy mươi năm qua, người ấy còn hay mất. Thế sự có đổi dời chăng? Nhưng nếu không đến với Dị Nhân thì biết trú ngụ vào đâu?

Tữ Nha đành nhắm hướng Triều Ca lần đến tìm người xưa cảnh cũ.

Ðến nơi thấy nhà cửa Tống Dị Nhân vẫn như thường, tường rêu lóm đóm, khung cửa trang viện màu hồng tuy có vẻ phai nhạt hơn trước, song không khác mấy. Tử Nha bước đến gọi gia nhân, nói:

– Có viên ngoại ở nhà không?

Gia nhân hỏi:

– Ông là ai xin cho biết tên họ để chúng tôi tiện bề thưa lại.

Tử Nha nói:

– Ngươi vào thưa với Tống viên ngoại có ta là Khương Tử Nha đến viếng.

Tống Dị Nhân đang tính sổ, nghe có Khương Tử Nha đến thăm, hồi tưởng lại tình bạn thuở xưa, liền buông viết bước ra nghênh tiếp mời vào đối diện dùng trà.

Dị Nhân hỏi:

– Vì sao mấv chục năm biền biệt đã không lui tới, lại chẳng có thư từ. Tôi trông hiền hữu đến mỏi mắt. Ngày nay hiền hữu ở đâu, đến thăm tôi hay nhân tiện việc gì ghé chơi?

Tử Nha nói:

– Từ thuở quen nhau dạo ấy, tôi bỏ nhà lên núi tu tiên. Chẳng may số kiếp tôi không thành nên trở về đây nối lại tri kỷ.

Dị Nhân nói:

– Hiền hữu bây giờ ăn chay hay ăn mặn, cho tôi biết để sai trẻ dọn cơm.

Tử Nha nói:

– Ðã mang tiếng tu hành, đâu dám dùng rượu thịt?

Dị Nhân nói:

– Lâu ngày gặp nhau, tình tri kỷ không có rượu sao tìm thấy thú vị. Vả lại rượu là đồ chay, các vị tiền bối gọi là Quỳnh tương, sao hiền hữu không dùng?

Tử Nha hỏi:

– Hiền huynh đã có lòng đoái tưởng, tiểu đệ đâu đám từ chối.

Dị Nhân hỏi:

– Hiền hữu đi tu được bao lâu?

Tử Nha nói:

– Ðã bốn mươi năm.

Dị Nhân chắc lưỡi:

– Bốn mươi năm ẩn thân trên núi, kể cũng lâu quá rồi, chẳng biết hiền hữu đã học được phép tắc gì chưa?

Tử Nha nói:

– Nếu không học được phép tiên thì ở núi làm gì!

Dị Nhân hỏi:

– Phép tiên thế nào xin nói cho tôi rõ.

Tử Nha nói:

– Gánh nước tưới cây, chụm lửa nấu thuốc.

Dị Nhân tức cười:

– Tiên tìm tiên học phép mà lại gánh nước, chụm lửa, thì ở thế gian lại không có chuyện gánh nước, chụm lửa hay sao? Ðó là cái nghiệp làm đầy tớ, đâu phải làm tiên?

Tử Nha thấy Dị Nhân không thông đạo lý, nên chẳng giải thích làm gì, chỉ cười nửa miệng.

Dị Nhân nói tiếp:

– Tôi với hiền hữu trước kia là bạn nay tình ấy chưa phai, vậy hiền hữu ở đây với tôi chung hưởng giàu sang, không phải gánh nước chụm lửa như lúc tu tiên nữa, hiền hữu bằng lòng chứ?

Tử Nha thấy Dị Nhân thật tình lòng cũng được an ủi phần nào nói:

– Hiền huynh đã có lòng tưởng đến, tiểu đệ lẽ nào dám trái.

Dị Nhân nói:

– Trong đời không gì bất hạnh bằng không con nối hậu. Tôi sẽ lo việc vợ con cho hiền hữu, để dòng họ Khương khỏi mai một.

Tử Nha khoát tay nói:

– Tuổi đã chừng này, anh đừng tính chuyện ấy.

Hai người chuyện vãn cho đến nửa đêm mới đi nghỉ.

Ngày hôm sau Dị Nhân cỡi lừa, lén sang nhả họ Mã lo việc hỏi vợ cho Tử Nha.

Khi đến trang viện. Mã viên ngoại hay tin mừng rỡ ra rước vào trà nước. Mã viên ngoại nói:

– Lâu lắm mới gặp anh. Lâu nay anh làm gì bên ấy mà không sang chơi?

Dị Nhân nói:

– Bấy lâu mắt lo kế sinh nhai, không thì giờ rảnh nếu không vì chút việc quan hệ chắc cũng chưa ghé thăm anh được.

Mã viên ngoại hỏi.

– Cha chả! Việc gì mà quan hệ vậy?

Di Nhân nói:

– Tôi tính đến trước thăm anh, sau làm mai ái nữ cho một người tử tế…

Mã viên ngoại ngắt lời:

– Người nào cậy anh vậy. Chỗ anh em cứ nói thiệt tình đừng ngại gì cả.

Dị Nhân nói:

– Không ai xa lạ. Người này chính là bạn thân của tôi lúc truớc, quê ở Hứa Châu,. thuộc Ðông Hải, họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha, biệt hiệu là Phi Hùng. Thật là đấng anh hùng thời nay.

Mã viên ngoại nói:

– Tôi với ông là chỗ thâm tình, con tôi chẳng khác con ông, ông đã định trước, tôi chẳng lẽ không vâng.

Tống Dị Nhân được lời liền lấy bốn nén bạc trao cho Mã viên ngoại làm lễ cầu hôn.

Mã viên ngoại nhận lãnh rồi hối gia đinh dọn tiệc đãi đằng rất hoan hỉ.

Tiệc mãn, Dị Nhân từ tạ ra về.

Bấy giờ Tử Nha ở nhà một mình thấy Dị Nhân đi vắng suốt ngày không về, lòng ái ngại, hỏi bọn gia đinh:

– Viên ngoại đi đâu suốt ngày vậy?

Bọn gia đinh thưa:

– Gia gia chúng tôi ra đi từ sáng sớm, chắc đi đòi nợ đâu xa.

Tử Nha còn đang hoài nghi thì có bóng người từ ngoài ngõ bước vào, Tử Nha chạy ra thấy Dị Nhân đã về, mừng rỡ hỏi:

– Anh đi đâu suốt ngày, tôi tìm mãi không thấy?

Dị Nhân nói:

– Mừng cho hiền đệ đấy!

Tử Nha ngạc nhiên, hỏi:

– Tôi có việc gì đâu mà mừng?

Dị Nhân bảo gia đinh dắt lừa vào chuồng, rồi theo Tử Nha vào sảnh đường nói:

– Tôi đi tìm vợ cho hiền đệ. Duyên thắm đã đượm rồi. Quả thật nợ ba sinh nên tình giai ngẫu.

Tử Nha mỉm cười hỏi:

– Anh đến nói con gái ai vậy?

Dị Nhân tỏ bày Mã Hồng. Cô này tài sắc vẹn toàn, nết na có tiếng.

Tử Nha nói:

– Nay tôi tuổi đã già, ngoài bảy mươi, biết người ta có chịu không?

Dị Nhân nói:

– Sao lại không chịu. Nhà họ Mã đã nhận tiền sính lễ rồi. Vả lại con gái nhà họ Mã tuy còn trinh, nhưng tuổi hơn sáu mươi, sánh với hiền đệ xứng đôi lắm. Có lẽ trời dành riêng cho hiền đệ đấy.

Nói rồi truyền gia đinh dọn tiệc ăn mừng, hai anh em bạn vui cười không ngớt. Hôm sau, Dị Nhân chọn ngày lành, sắm sanh lễ vật, bảo Tử Nha đi cưới vợ.

Tử Nha nói:

– Anh đã thương tình, cố lòng bao bọc thì anh muốn thế nào tôi cũng nghe theo.

Dị Nhân bảo vợ sửa soạn đâu đó đàng hoàng, dọn phòng huê chúc để Tử Nha cùng cô gái họ Mã đẹp duyên.

Ngày cưới vợ của Tử Nha cũng rất rộn rịp, trai già đi cưới nàng tóc bạc. Nếu đời loài người là một trăm năm thì đôi vợ chồng này còn hưởng dư hai mươi năm tình ái cũng không phải ngắn ngủi gì?

Ðời sau có thơ nói về Tử Nha có vợ muộn:

Tu chẳng thành tiên tiếc Tử Nha

Về trần cưới vợ cũng vui nhà

Sáu mươi tám tuổi, cành dâu xế

Bảv chục dư hai chú rể già

Xem đuốc hàm râu e táp lửa

Soi gương mái tóc tợ sương sa

Lá lay Nguyệt Lão xe tơ muộn

Dẫu đến trăm năm nhắm chẳng xa!

Tử Nha tuy cưới vợ mặc lòng, song lòng hoài vọng núi non xưa cũ, quen kiếp tu hành, nên việc ái ân không nồng thắm. Mã thị không rõ tánh chồng, ngỡ anh chàng vô dụng, không phải khách đa tình.

Ngày kia, Mã thị hỏi chồng:

– Lang quân định ở như thế này mãi sao?.

Tử Nha hỏi:

– Hiền thê nghĩ gì mà hỏi tôi như vậy?

Mã thị nói:

– Tôi thường nghe nói: Dầu anh em ruột mà ở chung nhau lâu ngày không lo sinh kế thì cũng mất lòng nhau, không thể hòa thuận nhau được. Lang quân đối với Tống huynh chỉ là tình bằng hữu, sao không lo tính chuyện làm ăn, cứ ăn nhờ ở đụt với Tống huynh mãi coi sao được.

Tử Nha nói:

– Hiền thê nói cũng phải. Song tôi từ nhỏ đến lớn lo việc tu hành không biết nghề nghiệp gì cả. Nay phải mưu kế thì biết tính thế nào.

Mã thị nói:

– Phải tìm cách sanh nhai mới được. Trước kia phu quân không có gia đình chưa vợ con, thì việc ấy chưa cần, nay đã thành gia thất, chuyện trăm năm đâu phải nhỏ.

Tử Nha suy nghĩ một lúc rồi nói:

– Lúc nhỏ tôi có biết đan gàu giai, chẵng biết ngày nay có thể dùng sinh sống được không?

Mã thị nói:

– Ðó cũng là một nghề sanh sống. Ðã là nghề nghiệp thì dầu lớn dầu nhỏ cũng có thể kiếm ra tiền. Vả lại sau vườn nhiều tre phu quân có thể dùng tre này đan gàu giai đem xuống chợ bán, vợ chồng giả ăn cũng đủ.

Tử Nha nghe lời Mã thị đan một gánh gàu giai, gánh xuống chợ Triều Ca, ngồi từ sớm mai đến chiều vẫn không thấy ai hỏi đến. Tử Nha sợ trời tối, gánh gàu chạy riết về nhà.

Con đường xa hơn ba mươi lăm dặm, Tử Nha đi về ngót bảy chục dặm, bụng đói như cào chân mỏi rũ rượi, không có một đồng xu trong túi để vào quán uống nước.

Về đến nhà, sắc mặt Tử Nha đượm buồn. Mã thị thấy chồng gánh gàu về không mất cái nào, lòng không đẹp, hỏi:

– Không bán được cái nào sao?

Tử Nha nỗi xung càn nhằn với vợ:

– Mụ bất nhân tâm, cứ để tôi ở không cho rảnh, bày chuyện buôn bán thêm phiền. Từ sáng đến chiều tôi ngồi giữa chợ không ai hỏi đến tên, báo hại tôi sưng vai, mỏi gối mà chẳng ích gì.

Mã thị háy chồng:

– Gàu giai là vật dụng cần thiết của mọi người, tại sao không ai mua. Buôn bán đã không xong lại trở về mắng vợ.

Hai vợ chồng tiếng lại, la ó vang nhà. Tử Nha đứng vuốt râu. Mã thị ngồi trề miệng, hai người không ai nhịn ai.

Tống Dị Nhân nghe được vội bước ra hỏi:

– Việc gì mà vợ chồng gây gỗ nhau vậy?

Tử Nha thuật lại mọi điều, Dị Nhân lắc đầu nói:

– Thôi, hiền đệ không cần tính chuyện bán buôn nữa. Dẩu có mười miệng ăn đi nữa tôi cũng nuôi hết. Hãy dẹp bỏ bất bình vợ chồng thuận hòa nhau mới vui.

Mã thị nói:

– Vẫn biết lòng anh chị đối với vợ chồng chúng tôi tốt như vậy, song chúng tôi đã thành vợ chồng dĩ nhiên phải lập nghiệp, không thể sống nhờ vả mãi cho đến trọn đời.

Dị Nhân nói:

– Nếu muốn làm ăn thì thiếu gì chuyện, cần chi phải bán gàu giai? Trong vựa tôi có sẵn lúa mì, thiếm xoay bột cho chú đem đi bán.

Mã thị nghe lời xúc lúa đem ra xay bột, phơi thật khô. Tử Nha lại gánh xuống chợ Triều Ca bán.

Tử Nha ngồi suốt ngày vẫn không có người nào hỏi đến. Tử Nha nghĩ thầm:

– Hay là ta không miệng lưỡi, mời mọc khách hàng như những kẻ khác, nên họ chê?

Nghĩ như vậy. Tử Nha thấy ai đi qua cũng mời mua hàng.

Mặc dù Tử Nha đã mời đến khan giọng, gánh bột vẫn còn nguyên.

Tử Nha ngồi một hồi lâu thấy trời đã về chiều, vội cất gánh lên vai trở về kẻo tối.

Tử Nha vừa bước đi một quảng không xa lắm, bỗng có người gọi lại mua:

– Ông già bán bột, hãy để tôi mua.

Tử Nha mừng quá, đoán chừng mình gặp may bạn hàng chiều. Nào ngờ người ấy chỉ mua có một đồng tiền, thế mà cũng làm Tử Nha mất công gánh lên để xuống.

Mặc dù vậy Tử Nha cũng không phiền, vì có bán hơn về không, Tử Nha lay hoay múc bột trong gánh gói lại trao cho khách hàng, bỗng đàng sau có tiếng vó ngựa chạy đến rầm rập. Tử Nha thất kinh quay lại thì thấy một con ngựa chạy đến, trên lưng có một vị quan lại, hình như đang đi việc gì khẩn cấp.

Hai thúng bột của Tử Nha bị con ngựa ấy vướng vào vó mang đi, đổ rải rác cùng đường.

Tử Nha la lên chói lói con ngựa vẫn không dừng lại.

Tiếc của quí, Tử Nha chạy theo, bột dính đầy cả quần áo mốc xếnh.

Người mua bột thấy vậy bỏ đi, không mua nữa.

Tử Nha biết ngựa của nhà quan, không thể bắt đền được, đành nhặt thúng gánh không, lểnh mểnh trở về mặt buồn như ma đói.

Mã thị thấy chổng quảy gánh không về, mặt hớn hở, ngỡ chồng bán đắt, bước ra tận ngoài sân đón rước.

Tử Nha ném gánh xuống đất mắng vợ:

– Mụ bày chuyện không xong!

Mã thị cười mơn:

– À, hôm nay chẵc là bán đắt nên lên mặt với tôi chứ gì.

Tử Nha nói:

– Không thâu được đồng điếu nào. Suốt buổi không ai hỏi đến, lúc ra về bị ngựa máng đổ hết cả gióng gánh giữa đường. Từ chợ Triều Ca về đây đói quá đi không nổi.

Mã thị mặt nhăn lại:

– Thiệt tốt phước! Già đầu mà làm gì cũng chẳng nên trò, chỉ biết ăn thôi. Quả đời tôi gặp nghiệp báo.

Tử Nha bị vợ mắng, giận quá toan bước tới nắm đầu đánh cho một trận. Nhưng không may, Mã thị cũng chẳng vừa, Tử Nha vừa bước đến đã bị mụ nắm râu chặt cứng. Hai vợ chồng té nằm một đống.

Dị Nhân và Tôn thị bước ra can:

– Một gánh bột giá đáng là bao nhiêu, vợ chồng đối xử với nhau như vậy sao phải!

Tôn thị đỡ Mã thị dậy, còn Dị Nhân dắt Tử Nha vào thư phòng nói nhỏ:

– Hiền đệ chớ nên nóng giận như vậy. Nghĩa vợ chồng ấm lạnh có nhau.

Tử Nha nói:

– Thân trai vô dụng, chừng này tuổi mà không làm nên việc nhỏ mọn như vậy để vợ mắng tôi thấy hổ thẹn quá.

Dị Nhân nói:

– Hoa nở có mùa, người nên có vận. Lúc chưa gặp vận thì đủ có tài giỏi đến đâu cũng chẳng làm gì nên. Hiền đệ hiện giờ tuy nghèo khó, nhưng lúc gặp thời cũng vinh hoa phú quý như ai. Hiền đệ đừng nản lòng. Tôi có nhiều phương tiện giúp đỡ hiền đệ được.

Tử Nha nói:

– Ðược anh đùm bọc, ơn ấy không biết lúc nào mới trả nổi.

Di Nhân nói:

– Vợ chồng hiền đệ dẫu ở không suốt đời cũng chẳng hại gì. Nhà tôi đủ nuôi tất cả. Song để làm vui lòng hiền đệ, tôi sẽ giúp hiền đệ việc này, chắc chắn không sợ thất bại.

Tử Nha hỏi:

– Anh định việc gì vậy?

Dị Nhân nói:

– Tôi có ba mươi lăm cái quán bán rượu tại chợ Triều Ca. Ðể tôi mời các chủ quán đến đây chơi cho biết mặt hiền đệ rồi bảo họ nhường quán cho hiền đệ bán mỗi quán một ngày. Cứ luân phiên như vậy mà làm. Việc này họ đã tổ chức sẵn sàng nhân công trong mỗi quán đều có sẳn, hiền đệ chỉ đến đó thu tiền thôi.

Tử Nha nói:

– Nếu thế tôi nhờ ơn anh nhiều quá!

Hôm sau, Dị nhân mời các chủ quán đến để bày tỏ sự tình.

Ai nấy đều bằng lòng, định ngày mai khởi sự nhường cho Tử Nha bán tại quán họ Trương là chỗ đông khách nhất, vì quán này ở ngay tại ngã ba đường, chỗ nhiều người qua lại. Ðã vậy ngày nào quân lính ở Triều Ca đi tập cũng vào quán ấy ăn uống.

Chủ quán họ Trương truyền cho bọn giúp việc trong quán theo thường lệ làm thịt heo, thịt dê, dọn bày đặc biệt, để Tử Nha có cơ hội đắt hàng.

Rượu thịt ê hề, Tử Nha đứng làm chủ quán thu tiền, ai nấy cũng đinh ninh Tử Nha sẽ thu lợi một ngày gấp bội. Nào ngờ hôm ấy trời mưa xối xả, Hoàng Phi Hổ ra lệnh quân binh nghỉ tập, còn bộ hành lo đụt mưa chẳng ai vào quán cả.

Ðợi cho đến chiều tối, trời vẫn còn mưa lai rai, đồ ăn nguội hết. Tử Nha sợ thiêu thối, nên bảo những người làm công trong quán đem ra ăn, còn lại cho những người làm công ở quán khác.

Thấy thời vận không thông Tử Nha mặt buồn ủ rũ. Ðến tối trở về nhà. Dị nhân hỏi:

– Hôm nay hiền đệ thu được bao nhiêu tiền?

Tử Nha nói:

– Trời mưa, quân binh không đi tập, bộ hành không một người vào quán. Ðồ ăn thiu hết, tôi phải cho những người làm công thanh toán cho xong. Ðã không có lời lại bị lỗ vốn.

Dị Nhân tươi cười nói:

– Hiền đệ chớ lo, bởi chưa đến thời nên mới khiến xui như vậy.Ngày mai tôi sẽ sai bọn gia đinh đi mua cho hiền đệ một số heo, dê để hiền đệ đem ra chợ bán lấy lời. Những con vật sống nếu bán không được thì đem về chờ ngày khác không lỗ đâu mà sợ.

Tử Nha tuy tuân lời, song đã thất bại nhiều phen, lòng không tin việc gì có thể thành công được.

Bấy giờ Trụ vương càng mê say Ðắt Kỷ hơn trước, làm lắm điều lỗi đạo vua tôi, trăm họ thán oán. Ðã vậy trời lại sanh tai biến nơi Triều Ca nửa năm không được một giọt mưa, Trụ vương nghe lời Bí Trọng, Vưu Hồn bày chuyện đảo võ, cấm sát sanh yết thị khắp nơi, cấm dân chúng không được làm thịt súc vật trong ngày ấy.

Tử Nha không hề hay biết, hôm ấy đem heo dê, ra chợ. Vừa ló mặt đến đã bị bọn lính tuần nạt lớn:

– Lão già này trái lệnh cấm, hãy bắt trói lão giải về triều.

Tử Nha thất kinh chưa biết làm sao đã thấy một bọn lính tay cầm giáo mác, đuổi đến, làm Tử Nha phải bỏ cả heo dê thoát thân.

Tuy Tử Nha trốn được, nhưng bầy heo, dê bị lính triều bắt hết, chỉ còn mình không chạy về nói với Di Nhân:

– Thôi thôi, công việc chẳng ra sao, tôi làm phiền anh quá sức.

Dị Nhân thấy Tử Nha mặt mày tái ngắt, bộ tịch xụi lơ, liền hỏi:

– Có việc gì chẳng lành xẩy ra vậy?

Tử Nha kể lại đầu đuôi câu chuyện, Di Nhân cười lớn:

– Ðã không kiếm được tiền, thôi thì cứ lấy rượu giải khuây, đợi chừng nào thuận tiện sẽ tính chuyện buôn bán.

Dứt lời truyền gia đinh bưng rượu thịt lên, mời Tử Nha cùng ngồi ăn uống với mình, chuyện trò rất thân mật.

Thấy Tử Nha không vui vì ám ảnh những việc vừa rồi, Dị Nhân sai gia đinh đem rượu thịt ra vườn hoa để Tử Nha cùng mình vừa ngắm cảnh, vừa uống rượu cho tiêu sầu.

Hồi 16: Tử Nha đốt quỷ hóa tỳ bà

Tử Nha theo Dị Nhơn ra dạo vườn hoa xem thấy phong cảnh rất đẹp. Tường cao vòi vọi, vườn rộng thênh thênh, bên tả một khóm dương xanh, tỏa tản mát rượi, bên hữu có mấy cụm tòng lá xanh dờn. Chính giữa có lầu ngoạn cảnh, trồng đủ màu hoa lạ, phía trước là một cái ao sen, cá lội lăn tăng. Tử Nha xem một hồi thấy, cách khung nhà hóng gió và ao cá còn một khoảng đất trống, liền nói:

– Chỗ này rất tốt, sao anh không xây cất một ngôi lầu?

Dị Nhân hỏi:

– Cất lầu làm gì?

Tử Nha nói:

– Theo địa lý thì nơi đây có khí tụ rất nhiều, Nếu cất năm căn nhà lớn thì sẽ có ba mươi sáu người làm quan. Tôi có biết về địa lý nên tỏ bày với anh để đền ơn.

Dị Nhân hỏi:

– Hiền đệ thạo về địa lý thì đó cũng là một nghề sinh sống đấy. Nhưng tôi không giấu gì hiền đệ, chỗ này đã nhiều lần tôi dựng lên gian nhà, và sau đó bị cháy liền. Tôi chắc đó là lửa ma, không thể nào làm được, nên tôi đành bỏ qua, chừa đất trống vậy.

Tử Nha nói:

– Ðể tôi chọn ngày tốt cho anh xây cất. Anh cứ lo tiệc để đãi đằng thợ thầy, còn phần lửa ma để mặc em ếm cho. Nhất định nó không làm gì nổi.

Dị Nhân nói:

– Hiền đệ cũng biết khoa ếm tà trừ ma nữa à?

Tử Nha nói:

– Việc đó tôi rành lắm, anh đừng ngại.

Dị Nhân vui vẻ nói:

– Nếu vậy tôi cho thợ thầy làm ngay. Ý tôi muốn đã lâu nhưng không sao thực hiện được.

Mấy hôm sau, Dị Nhân đi kêu thợ, trong nhà sẵn cây cối nên dựng lên chẳng mấy chốc.

Tử Nha núp trong nhà mát để theo dõi sự tình.

Nửa đêm hôm ấy bỗng nghe gió thổi ào ào, cát bụi bay mịt mù, trong hơi gió có hiện ra năm con yêu mặt xanh, mặt trắng, mặt đỏ, mặt vàng, mặt đen.

Tử Nha vội bỏ tóc xõa cầm gươm chỉ mặt hét lớn:

– Năm con yêu không sa xuống còn đợi chừng nào?

Nói vừa dứt, Tử Nha bắt ấn, tức thì một tiếng sấm vang lên, năm con yêu sa xuống một lúc, quỳ trước mặt Tử Nha năn nỉ:

– Chúng tôi không ngờ có tiên ông đến đây, xin lấy lượng khoan hồng tha cho chúng tôi khỏi chết.

Tử Nha nói:

– Bây quen thói hành hung, đốt nhà người ta mấy lượt. Nay có ta đến đây để chúng bay sống làm chi?

Nói rồi cầm gươm đến chém. Năm con yêu thất kinh khóc than:

– Chúng tôi ra công tu luyện nên mới được như ngày nay, tiên ông nỡ nào dứt bỏ cho đành, chúng tôi nguyện từ nay về sau chẳng dám làm càn.

Tử Nha nói:

– Thôi, ta cũng tha cho chúng bây một lần làm phước. Chúng bay không được ở đây nữa phải đi núi Kỳ Sơn tạm trú, chờ lúc chiến chinh ra cho ta sai khiến, ta sẽ phong Thần.

Năm yêu cúi lạy rồi hóa gió bay mất.

Bấy giờ Mã thị và Tôn thị đang rình xem Tử Nha trừ yêu, ếm quỉ, nhưng không thấy yêu quỉ đâu cả, chỉ thấy Tử Nha đứng xõa tóc, cầm gươm một mình như một người điên.

Mã thị nói với Tôn thị:

– Chị coi ông lão điên kìa. Một mình đứng láp nháp mãi.

Nói rồi, xốc tới nắm áo Tử Nha kéo lại, hỏi:

– Ông làm gì vậy?

Tử Nha đáp:

– Ðàn bà mà biết gì? Tôi đang trừ ma ếm quỉ.

Mã thị cười lớn:

– Khéo kiếm chuyện lừa phỉnh. Làm những chuyện tầm thường chưa nên, lại còn muốn làm thầy thiên hạ.

Tử Nha nói:

– Coi bói, coi quẻ, trừ ma ếm quỉ là sở trường của tôi.

Mã thị nói:

– Sao không lấy đó làm nghề sinh nhai?

Tử Nha nói:

– Nếu tôi có một căn phố tại chợ thì có thể lập ra một phòng xem bói, xem tướng được.

Mã thị không tin:

– Tôi chỉ sợ ông nói bậy không đúng, người ta nhổ răng, đập đồ nghề, xé sách thì xấu.

Vợ chồng đang tranh luận thì Dị Nhân bước ra hỏi:

– Mấy lần trước hễ gió lớn như vậy tức thì nhà bị cháy, nhưng lần này lửa ma không thấy phá phách nữa.

Tử Nha nói:

– Năm con yêu nổi gió đến đốt phá, chúng gặp tôi không dám hung hăng. Tôi bắt chúng rời khỏi vùng đất này, từ nay không được phá phách nữa.

Di Nhân mừng rỡ nói:

– Nhờ phép của hiền đệ, từ nay tôi có thể dựng căn lầu lên được. Hiền đệ có tài như vậy thật không uổng công tu luyện hơn bốn mươi năm.

Tôn thị nói với chồng:

– Hiền thúc vừa than không có một căn phố tại chợ để mở phòng coi bói. Vậy nhà mình có phố nhiều, cũng nên nhường cho hiền thúc một căn.

Dị Nhân nói:

– Muốn việc ấy thì chẳng khó gì. Nhà tôi có bảy tám mươi căn phố tại chợ Triều Ca. Tôi cho hiền đệ một căn muốn dùng làm việc gì cũng được.

Dứt lời sai gia đinh đến chợ Triều ca dọn dẹp một căn phố chỗ đông người nhất, giao cho Tứ Nha sử dụng.

Tử Nha mừng rỡ, chọn ngày tốt mở phòng coi bói. Ngày đêm ở luôn nơi chỗ làm việc.

Từ hôm ấy, người qua đường đều thấy một phòng coi bói bày biện rất lịch sự. Trước cửa dẫn một đôi liễn đỏ chót, đề rằng.

Ðã thông cao thấp trăm điều thiệt

Chẳng nói tầm thường nửa tiếng sai

Ðôi liễn kế bên trong viết rằng:

Miệng nói như ghi, biết khắp nhân gian lành dữ

Mắt xem tợ kiếng, soi cùng thiên hạ thạnh suy

Dựa nơi bàn ngồi lại có đôi liễn đề rằng:

Tay áo đựng càn khôn

Cái bầu thâu nhật nguyệt

Tuy vậy ngót ba tháng trời, không một người khách nào vào hàng xem quẻ cả.

Tử Nha ngồi buồn, ngày nào cũng ngáp dài ngủ gật.

Mã thị cằn nhằn:

– Bỡi ông xem bói không hay nên người ta không đến!

– Chưa có một người nào vào xem thì làm sao biết thầy hay hay dỡ? Chẳng qua thời vận tôi chưa đến, nên khiến làm ăn không xong.

Mã thị lườm chồng:

– Mấy người bất tài đều đổ thừa thời vận. Tôi chẳng biết ông đến bao nhiêu tuổi nữa mới tới thời. Trên đầu tóc đã bạc phơ mà chẳng làm gì nên hình cả.

Tử Nha đành nhịn vợ, không biết phải giải thích làm sao hơn.

Ngày kia, có một ông tiều đi ngang qua, tên Lưu Càng, để gánh củi ngoài sân, bước vào vỗ bàn nói lớn:

– Chào thầy.

Tử Nha đang gục mặt trên bàn ngủ, bỗng giật mình mở mắt, thấy một người cao lớn phi thường, hai con mắt lồ lộ, tướng mạo hung hăng.

Tử Nha hỏi:

– Anh đi bói quẻ hay xem số?

Lưu Càng không đáp hỏi lại:

– Thầy tên họ là gì?

Tử Nha nói:

– Tôi họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha biệt hiệu Phi Hùng.

Lưu Càng hỏi:

– Ðôi liễn thầy viết trên cột đây có ý gì xin thầy cắt nghĩa cho tôi nghe thử?

Tử Nha hỏi:

– Ba câu liễn của tôi ông muốn hỏi câu liễn nào?

Lưu Càng chỉ tay vào câu liễn gần nhất, hỏi:

– Tay áo đựng càn khôn, cái bầu thâu nhật nguyệt là nghĩa gì vậy?

Tử Nha giải thích:

– Tay áo đựng càn khôn là biết cả những việc đã qua và sắp tới. Cái bầu thâu nhật nguyệt là biết phép tiên, sống hoài không chết.

Lưu Càng nói:

– Thầy khoe biết cả những việc đã qua và chưa tới, vậy tôi xin bói một quẻ, hễ trúng thì tôi thưởng thầy hai chục đồng tiền, còn trật thì tôi sẽ tặng thầy vài đấm, bảo dọn đồ về xứ, không cho ở chợ Triều Ca này lừa phỉnh thiên hạ.

Tử Nha thở dài nghĩ thầm:

– Mấy tháng trời không gặp một khách hàng nay lại có thằng tướng dữ này vào phá đám, nếu coi không trúng chắc nguy với nó chớ chẳng chơi.

Nghĩ rồi, Tử Nha hỏi Lưu Càng:

– Ông muốn xem việc gì cứ nói.

Lưu Càng nói:

– Tôi là người tiều phu đi bán củi. Vậy ông chỉ cho tôi nên đi ngả nào, bán củi được bao nhiêu tiền.

Tử Nha gieo quẻ xong, viết bốn câu như vầy:

Ði qua bên phía Nam

Gặp ông già cội liễu

Bán được một trăm hai chục đồng

Bốn bánh lót lòng vài chén rượu

Lưu Càng cãi lại:

– Thầy bói quẻ này chắc không trúng rồi. Tôi đi bán củi đã mấy mươi năm, không ai cho uống rượu bao giờ.

Tử Nha nói:

– Cớ đi thử rồi sẽ biết.

Lưu Càng nghe theo lời, gánh củi nhắm phía Nam đi thẳng.

Ði một lúc xa xa, bỗng gặp một ông già đang đứng dưới một gốc dương liễu gọi lại, bảo:

– Hãy đem củi đây ta mua.

Lưu Càng khen thầm:

– Quẻ linh thật.

Ông già hỏi:

– Gánh củi ông bán chắc giá bao nhiêu?

Lưu Càng cố ý thử quẻ, liền nói:

– Nhất định một trăm đồng, không đòi lên xuống gì cả.

Ông già nói

– Gánh củi nặng và khô tốt lắm. Tôi không trả thiếu làm gì, hãy gánh vào nhà tôi đưa tiền cho.

Lưu Càng mừng thầm, gánh củi vào nhà ông lão.

Tánh Lưu Càng lại thích sạch sẽ, nên trước khi chất củi vào nhà chứa, quét dọn rất tươm tất.

Ông lão bước ra thấy sạch sẽ, khen:

– Hôm nay lũ trẻ ở nhà quét dọn vừa mắt lắm.

Lưu Càng nói:

– Thưa ông, ông lầm rồi, chính tôi mới quét dọn giùm cho ông đó.

Ông già rất hài lòng, khen:

– Bữa nay là ngày cưới vợ cho con trai tôi. Tôi mua được củi tốt lại gặp người tử tế như ông thật ít có.

Nói rồi ông lão vào nhà trong sai một tên gia đinh đem ra cho Lưu Càng một dĩa bánh và một chai rượu nhỏ, nói:

– Viên ngoại bảo ông ăn bánh lót lòng rồi sẽ về.

Lưu Càng khen:

– Ông thầy bói họ Khương quả thần thánh. Ðể ta rót rượu xem có y như vậy không?

Quả nhiên, ve rượu chỉ rót vừa hai chén thì cạn.

Lưu Càng ăn uống xong, thấy ông lão buớc ra, liền nói:

– Tôi cảm ơn viên ngoại nhiều lắm.

Ông lão liền trao cho Lưu Càng hai gói tiền, một gói lớn, một gói nhỏ, và nói:

– Ðây là một trăm tiền củi. Còn đây là hai mươi đồng tiền thưởng riêng, vì hôm nay gặp ngày hỉ sự, ông cầm lấy uống rượu cho vui.

Lưu Càng mừng rỡ, vội từ tạ ra về, vừa đi vừa nghĩ:

– Nay đất Triều Ca có thần tiên ra mặt, chẳng biết thế gian có gì đổi mới chăng?

Nghĩ rồi xăm xăm trở lại chợ, để trả tiền coi bói.

Trong lúc đó, từ sáng sớm, nhiều người thấy Lưu Càng hăm đánh Tử Nha, sợ Tử Nha sẽ mang họa với con người cộc cằn ấy

Vì vậy, khi Lưu Càng đi rồi, có nhiều người vào nói với Tử Nha:

– Lưu Càng là quân hoang, khét tiếng ở chợ Triều Ca này, không nên đánh cuộc với nó. Liệu bề quẻ không linh thì trốn mất cho xong.

Tử Nha nói:

– Tôi làm thầy có sách vở đâu phải chuyện phỉnh phờ. Cứ chờ xem thì biết.

Mọi người thấy Tử Nha già cả cũng thương, đợi Lưu Càng trở về nếu có xảy ra bề nào sẽ can gián giùm.

Ðược một lúc thấy Lưu Càng từ đầu phố chạy bon bon về, vào thẳng cửa hàng Tử Nha.

Tử Nha hỏi:

– Sao? Quẻ có linh không?

Lưu Càng nói lớn:

– Tôi phục thầy là ông Thánh sống rồi. Quẻ đúng y ngay, không sai một chút nào. Thầy về ở chợ Triều Ca này thì thiên hạ rất may mắn, lánh dữ, tìm lành.

Tử Nha nói:

– Quẻ đúng thì phải trao tiền cho tôi chứ.

Lưu Càng nói:

– Tôi hứa thưởng ông hai chục đồng tiền, trong túi tôi có sẵn, tôi không gạt ông đâu. Nhưng chậm rãi, để tôi làm việc này đã.

Lưu Càng đứng trước thềm, giây phút thấy một người mặc áo vải mang đai da, chạy như tên bắn.

Lưu Càng liền đuổi theo níu lại.

Người ấy trợn mắt nói:

– Anh kéo tôi làm gì?

Lưu Càng nói:

– Phố này có ông thầy coi bói rất thần tình. Mời anh ghé vào xem một quẻ, bỏ qua uổng lắm.

Người kia trố mắt nhìn Lưu Càng lấy làm lạ, nói:

– Coi bói hay không mặc tôi, tại sao anh bắt buộc tôi?

Lưu Càng nói:

– Chỉ thầy bói giỏi, mách thuốc hay là việc làm ơn, tôi đâu phải ác ý với anh mà anh phàn nàn.

Người kia lắc đầu:

– Nhưng tôi không muốn xem.

Lưu Càng giật mạnh vạt áo:

– Tại sao lại không xem. Thầy bói này hay lắm.

Người kia mở to đôi mắt nhìn Lưu Càng, thấy Lưu Càng tợn mạnh khỏe lòng cũng sợ, nhưng ỷ mình là công sai của triều đình, nên lên tiếng gắt:

– Tôi không xem thì anh làm gì tôi chớ?

Lưu Càng nghiến răng nói:

– Nếu anh không coi, tôi nhận nước anh rồi tôi cùng chết luôn.

Vừa nói, Lưu Càng vừa lôi người công sai ra bể nước.

Mọi người biết Lưu Càng tuy là gã tiều phu, nhưng có tánh bướng bỉnh, hễ nói là làm, nên xúm nhau khuyên người công sai.

Người công sai cằn nhằn:

– Tôi không có chuyện gì, coi bói làm sao được?

Lưu Càng nói coi đi. Hễ không đúng tôi trả tiền cho, còn quẻ đúng anh phải mua rượu cho tôi uống.

Người công sai thấy Lưu Càng ngang ngạnh quá, túng phải theo vào phòng coi bói.

Người công sai nói với Tử Nha:

– Tôi là công sai của triều đình, đi ngang đây không có việc gì để xin quẻ, bởi anh em ép nên phải vào nhờ thầy một chút.

Tử Nha hỏi:

– Anh muốn nhờ việc chi?

Người công sai nói:

– Tôi nhờ thầy bói một quẻ xem tôi đi thâu tiền được bao nhiêu?

Tử Nha gieo quẻ rồi viết ra bốn câu như vầy:

Quẻ Cấn, thâu không vẹn

Tiền lương chúng còn hẹn

Nếu chẳng đợi chờ lâu

Một trăm lẻ ba nén

Người công sai hỏi:

– Tiền quẻ bao nhiêu?

Lưu Càng không đợi Tử Nha nói, xen vào:

– Quẻ này linh lắm không phải giá thường. Cứ mỗi quẻ phải trả năm chỉ bạc.

Người công sai lườm mắt ngó Lưu Càng nói:

– Anh không phải làm thầy sao lại ra giá?

Lưu Càng nói:

– Anh đừng lo đắt. Nếu quẻ không đúng tôi trả bạc lại cho.

Người công sai sợ ở lâu trễ việc quan, liền móc túi lấy năm chỉ bạc trao rồi lật đật dời gót.

Lưu Càng cũng từ giã ra đi, Tử Nha nói:

– Cám ơn anh rất lớn.

Lưu Càng nhe răng cười:

– Có gì đâu. Tôi đền ơn thầy đó.

Nói rồi quảy đòn gánh lên vai, bôn bả vào núi,

Dân chúng thấy Lưu Càng níu kéo viên công sai xúm nhau xem đông nghẹt. Chừng rõ được câu chuyện, ai nấy thấp thỏm đợi người công sai trở về xem quẻ bói có linh không.

Chẳng bao lâu, người công sai trở về, ghé vào phố Tử Nha khen:

– Tuy tốn năm chỉ bạc, nhưng quẻ linh đáng giá ngàn vàng. Thầy quả thật là tiên. Tôi thu đúng một trăm lẻ ba nén.

Từ ấy Tử Nha nổi tiếng, nội Triều Ca kéo đến xem bói rất đông, cứ mỗi lần xem năm chỉ bạc.

Mã thị thấy chồng làm được nhiều tiền, trọng chồng quá sức.

Phòng xem bói Tử Nha đông nườm nượp, được nửa năm thì các khách xa cũng tìm đến.

Bây giờ, nói về ngoài cửa Nam, tại mã Huỳnh Ðế, có con Ngọc Thạch Tỳ bà, trước kia là bạn với Ðắt Kỷ, lâu ngày xa cách, nên tìm đến Triều Ca thăm Ðắt Kỷ.

Ðắt Kỷ mừng lắm, tiếp đón rất ân cần ngày đêm ở trong cung vui đùa không ngớt. Tuy vậy, Ngọc Thạch Tỳ bà vốn là loài yêu quái tánh ăn thịt người đã quen, không thể nhịn lâu được. Cứ mỗi đêm, Ngọc Thạch Tỳ bà lại hiện nguyên hình yêu, bắt bọn cung nữ trong cung ăn thịt, bỏ xương tại mé Thái Hồ cả đống.

Hôm nọ, Ngọc Thạch Tỳ bà từ giã Ðắt Kỷ tàng hình trở về động. Khi băng ngang đến trước phố Tử Nha, thấy thiên hạ vào ra rất đông, cười nói xôn xao, ai cũng đồn thầy xem bói tài tình lắm.

Tỳ bà nghĩ thầm:

– Khéo kiếm chuyện lừa gạt dân gian. Bói quẻ có gì mà linh như vậy. Ðể ta giả hình người vào coi thử xem cho biết.

Nghĩ rồi liền hóa ra một thiếu nữ, mặc tang phục, bước vào gọi Tử Nha nói:

– Xin thầy làm ơn bói giùm tôi một quẻ.

Mọi người nhìn lại thấy một thiếu nữ sang trọng và xinh đẹp phi thường, liền tránh ra chừa lối cho nàng vào.

Tử Nha thoáng thấy khí yêu hiện trên nét mặt người đàn bà, mỉm cười thầm nhủ:

– Loài yêu nghiệt, dám đến trước mặt ta mà chọc tức. Nếu ta gặp yêu mà không trừ đi thì đâu phải kẻ có bản lãnh cao cường?

Nghĩ rồi liền nói với khách hàng mình:

– Xin các ngài tránh ra để tôi xem cho người đàn bà này trước, kẻo nam nữ đứng gần nhau lâu bất tiện.

Khách hàng nghe theo lời, chừa chỗ cho Tỳ bà tiến đến trước bàn.

Tử Nha nói với Tỳ bà tinh:

– Cô đưa bàn tay tôi xem thử.

Tỳ bà tinh hỏi:

– Thầy chuyên coi bói mà cũng biết xem tướng nữa sao?

Tử Nha nói:

– Nghề gì tôi cũng biết. Trường hợp của cô đặc biệt hơn, nên phải coi tướng trước rồi coi bói sau nói mới đúng được.

Tỳ bà tinh không ngờ Tử Nha đã rõ chân tướng mình liền mỉm cười xòe bàn tay ra đưa trước mặt.

Tử Nha nắm lấy cổ tay ấn vào bộ mạch, dùng phép âm không cho yêu quái biến hình. Tỳ bà tinh vẫn không hiểu, tưởng Tử Nha muốn chọc ghẹo mình, vội nói:

– Thầy xem không nói gì lại nắm cườm tay tôi mãi như vậy?

Khách hàng ngồi xung quanh thấy Tử Nha có cử chỉ bất lịch sự ấy, liền la lớn:

– Ông thầy đã già mà còn hiện quỉ, nắm tay con gái làm chuyện trêu đàm. Nếu có một quan chức đi ngang đây trông thấy thì tội không nhỏ.

Tử Nha thấy mọi người nhao nhao, liền thanh minh:

– Nó không phải đàn bà con gái đâu. Nó là giống yêu tinh giả hình vào quấy rối.

Không ai tin lời nói của Tử Nha, người này nhìn mặt người kia với vẻ bất bình.

Tử Nha không để ý đến cử chỉ phản đối của mọi người cứ nắm chặt lấy cổ tay của Tỳ bà tinh, không cho biến xác. Qua một lúc, Tử Nha thấy không có vật gì có thể giết được yêu quái trừ nghiên mực để trên bàn, liền thò tay lấy nghiên mực đập mạnh vào đầu Tỳ bà tinh.

Tỳ bà tinh ré lên một tiếng, máu chảy đỏ ối. Tuy vậy, Tỳ bà tinh vẫn còn mạnh, giãy dụa lung tung, mà không sao biến đi được.

Thiên hạ trông thấy Tử Nha đánh người đàn bà đổ máu, đều ra mặt phẫn nộ.

– Lão thầy bói quái gở, đã chọc ghẹo đàn bà con gái lại còn giở trò hung hăng. Chúng ta đi báo với quan địa phương.

Một số người nắm giữ Tử Nha lại, còn một số đi trình quan.

Tử Nha vẫn nắm chặt tay Tỳ bà tinh không thả.

Vừa lúc ấy có Tỉ Can cỡi ngựa đi qua đấy, thấy dân chúng xôn xao liền hỏi:

– Thiên hạ làm gì đông vậy?

Mọi người đồng hô lớn:

– Kéo cổ Tử Nha ra đây cho quan Thừa Tưởng xử.

Tỉ Can không rõ việc gì, hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Dân chúng thưa:

– Có lão thầy bói tên Tử Nha làm chuyện phạm pháp, lợi dụng nghề coi bói nắm tay con gái đàn bà. Cô ả không chịu, lão thầy bói lại làm ngang, lấy nghiên mực đánh nàng đổ máu.

Tỉ Cang nghe nói nổi xung, truyền bắt Tử Nha dẫn đến.

Tử Nha bị lôi ra trước mặt Tỉ Cang, nhưng ông ta vẫn không chịu thả tay Tỳ bà tinh ra.

Tỉ Can trông thấy tận mắt, lớn tiếng mắng Tử Nha:

– Trên đầu ngươi đã hai thứ tóc, sao lại không biết xét mình, làm chi chuyện xấu xa như vậy?

Tử Nha quỳ thưa:

– Tôi là người có học, lẽ đâu không biết phép vua? Dẫu có lì lợm đến đâu cũng không thể đối xử với đàn bà như vậy. Quả thật người này là yêu quái trá hình. Tôi thấy tại Triều Ca khí yêu quá lộng, e không trừ thì sớm tối nước nhà không yên. Tôi dẫu là dân, đã ăn ngọn rau tấc đất của Thánh Hoàng chẳng lẽ bỏ qua, không trừ quỷ dữ. Xin Thừa Tướng xét lại.

Tỉ Cang nhìn người đàn bà đang nằm mê man như chết, hỏi:

– Người đàn bà ấy bị ngươi đánh đã chí tử, ngươi còn tiếc gì còn nắm tay?

Tử Nha thưa:

– Không, nó làm bộ yếu đó. Nếu tôi thả tay nó biến mất còn đâu bằng cớ? Thừa Tướng dầu không xét, chém đầu tôi, tôi cũng không dám thả tay ra.

Tỉ Cang suy nghĩ hồi lâu nói:

– Việc này ta không thể nào xét xử được. Ðể ta vào Triều tâu với Thiên tử đã.

Nói rồi liền khiến quan sở tại dẫn Tử Nha đến trước đền, còn mình cỡi ngựa về thẳng hoàng cung, vào ra mắt Trụ vương tâu mọi việc.

Trụ vương ngỡ ngàng, không hiễu cớ sự ra sao, Ðắt Kỷ đã rõ ngọn ngành, nghiến răng thầm trách:

– Khổ quá. Em đi về sao lại không về cho đến nơi, ghé vào xem bói làm gì cho chúng đánh. Việc này chị phải báo thù cho em mới được.

Nghĩ rồi liền tâu với Trụ vương:

– Việc ấy nghe mơ hồ quá. Xin Bệ hạ truyền Tử Nha vào bệ kiến mới rõ được.

Trụ vương nghe lời liền truyền dẫn Tử Nha vào.

Tử Nha kéo thây Tì bà cùng với mình vào quì trước bệ.

Trụ vương hỏi:

– Nhà ngươi là ai đó?

Tử Nha tâu:

– Tôi là Khương Thượng, quê ở Hứa Châu, trước đây có học phép thần tiên nên rõ được yêu quái. Nay tôi đang xem bói, gặp con yêu nay giả hình vào quấy rối, nên tôi bắt nó để đền ơn Bệ hạ.

Trụ vương nói:

– Nó là người đàn bà rõ ràng, sao ngươi bảo là yêu quái.

Tử Nha nói:

– Con mắt người thường không thể phân biệt được. Nếu Bệ hạ muốn thấy tận mắt xin cho phép tôi dùng lửa đốt nó. Nó sẽ hiện nguyên hình cho bệ hạ xem.

Trụ vương y tấu, truyền quân đem củi lửa đến chất lên nghi ngút trước sân chầu.

Tử Nha liền họa bùa trên xoáy Tỳ bà tinh, lôi quăng nó vào lửa.

Lạ thay, lửa đốt đến hai giờ đồng hồ mà xác con yêu vẫn còn nguyên không hề bị cháy. Quân sĩ lấy làm lạ, triều thần ngơ ngác.

Vua Trụ nói với Tỉ Cang:

– Ðốt không cháy thì nó quả thật là yêu quái rồi?

Tỉ Cang tâu:

– Ðúng vậy. Song không biết nó là giống gì thành yêu.

Trụ vương phán:

– Ngươi xuống dưới sân chầu hỏi Khương Thượng xem yêu này là giống gì vậy?

Tỉ Cang vâng lệnh đến hỏi Tử Nha.

Tử Nha nói:

– Nếu muốn bắt nó hiện nguyên hình cũng chẳng khó gì.

Hồi 17: Đát Kỷ lập Sái Bồn giết hại cung nga

Tử Nha nói rồi dùng lửa Tam muội trong con mắt, lỗ mũi phun ra, cháy cả trời đất.

Tỳ bà tinh trông thấy thất kinh, lồm cồm ngồi dậy, nói lớn:

– Ta không cừu oán gì với ngươi sao ngươi nỡ dùng lửa thần đốt xác?

Tử Nha nói:

– Ngươi là giống yêu quái, tác hại mọi người, ta giết ngươi để cứu dân, cần gì phải thù oán.

Vua Trụ thấy người đàn bà đã chết lại còn lồm cồm ngồi dậy nói như thế thì sợ, mình mọc ốc, trán đổ mồ hôi, lập cập đứng dậy vào trong.

Tử Nha tâu:

– Xin Bệ hạ vào trong cung cho mau kẻo có sấm nổ.

Ðợi cho Trụ vương khuất bóng sau rèm, Tử Nha đưa hai tay vỗ nhẹ một cái, tiếng sấm nổi lên rền trời. Lửa tam muội cháy rần rật. Chừng lửa tắt, không ai còn thấy xác người đàn bà coi bói nữa mà chỉ thấy một cây đờn tỳ bà bằng ngọc thạch, nằm giữa sân triều.

Các quan thấy vậy vỗ tay cười lớn, chúc mừng tài Tử Nha.

Các hoạn quan vội chạy vào báo với Trụ vương:

– Yêu quái đã hiện hình ra cây đờn tỳ bằng ngọc thạch rất đẹp.

Vua Trụ sửng sốt nói với Ðắt Kỷ:

– Ðờn tỳ bà bằng ngọc thạch cũng có thể thành yêu sao?

Ðắt Kỷ không trả lời, mặt buồn dàu đàu, lòng đau xót.

Nàng nghiến răng trách thầm:

– Sao muội mnội đến thăm ta rồi không chịu trở về, chọc chi chúng nó cho sanh tai vạ như vậy. Ta quyết lấy đầu Khương Thượng cho rõ mặt hồ ly.

Nghĩ rồi gượng cười chúm chím nhìn Trụ vương nói:

– Thần thiếp nghe nói cây đờn tỳ bà bằng ngọc thạch thì thích lắm, vậy bệ hạ cho thần thiếp để đánh đờn cho bệ hạ nghe. Khương Thượng có tài trừ yêu quái đáng được trọng dụng, xin Bệ hạ phong quan cho Khương Thượng để giúp việc triều chính.

Trụ vương nói:

– Phong quan cho Khương Thượng không có gì trở ngại, còn đem đờn tỳ bà vào cung, rủi nó thành yêu tinh trở lại, Trẫm sợ lắm.

Ðắt Kỷ nói:

– Nó đã bị đốt xác thành cây đờn, còn trở thành yêu tinh sao được, xin Bệ hạ chớ lo.

Vua Trụ nghe theo lời, truyền lấy cây đờn tỳ bà trao cho Ðắt Kỷ.

Ðắt Kỷ cúi lạy tạ ơn, liền đem cây đờn tỳ bà để trên lầu Trích Tinh, lấy hơi sương nắng. Vì Ðắt Kỷ biết rằng với hơi sương nắng ấy, chỉ trong sáu năm, Tỳ bà tinh có thể hiện lại nguyên hình.

Kế đó Trụ vương truyền đòi Tử Nha vào triều phong làm chức Tư Thiên trông coi việc thiên văn.

Tử Nha tuân lệnh, lãnh áo mão, rồi từ tạ Trụ vương trở về trang viện của Dị Nhân sắp xếp việc ra làm quan.

Dị Nhân thấy Tử Nha trở về, có cả áo mão hiển vinh thì mừng rỡ khôn cùng.

Ðêm ấy đôi bạn mở tiệc mừng, ăn uống say tưởng không còn gì vui hơn.

Ngày hôm sau, Tử Nha từ tạ Dị Nhân đến đài Thiên văn nhận việc. Từ chỗ một gã thầy bói trở thành một viên triều thần không có gì khó khăn cả.

Ngày kia Trụ vương truyền tam cung lục viện đến lầu Trích Tinh hầu rượu.

Ðắt Kỷ đến ca múa hát tưng bừng, Trụ vương như say như tỉnh ngồi ngất ngưởng trên long sàn.

Ðắt Kỷ múa hát môt hồi, liếc mắt nhìn thấy các cung nga ai cũng vui tươi chỉ có một nhóm cung nữ hơn bảy mươi người mặt ủ mày châu, không có một nụ cười tiếng nói.

Bấy giờ Ðắt Kỷ đã lên ngôi vị Chánh cung, đủ quyền chế ngự tam cung lục viện, không còn sợ ai nữa, nên thấy bọn cung nga khác thường kia, liền bước đến hỏi:

– Chúng bay hầu hạ ở cung nào mà có thái độ như vậy?

Bọn cung nga ấy thưa trước kia là cung nữ hầu hạ Chánh cung họ Khương.

Ðắt Kỷ nổi giận nói:

– Chúng bay oán trách ta hả? Chủ bây làm phản, toan hại Thánh hoàng, tội ấy đáng lẽ các ngươi có liên quan, ta đã vì nhân đạo không nói đến, các ngươi không biết ơn ta?

Một vài cung nga không nhịn được lối hống hách của Ðắt Kỷ đáp:

– Khương Hoàng hậu nào có tội gì, chẳng qua Bệ hạ nghe lời dua mị, hành hạ Khương hậu đến thác oan.

Ðắt Kỷ tâu với Trụ Vương:

– Bệ hạ trừ kẻ phản mà để tiếng ác lại cho thần thiếp. Thần thiếp nghĩ mình lên chức Chánh cung chưa làm được gì mà chịu phải tiếng oan.

Nói rồi khóc nức nở. Vua Trụ giận quá, đòi đem bảy mươi hai cung nga ấy ra ngoài đập chết hết.

Ðắt Kỷ can:

– Lũ cung nga phạm tội xin chớ giết vội, hãy giam vào lãnh cung chờ thần thiếp chế ra một hình phạt đã.

Quan Phụng Ngự tuân lệnh, dẫn 72 cung nga đem giam vào lãnh cung hết.

Ðắt Kỷ tâu với Trụ Vương:

– Xin Bệ hạ truyền nhân công đào một cái hầm giáp vòng quanh lầu Trích Tinh. Dài 200 thước, sâu 50 thước. Xong lại truyền cho dân chúng ở Triều Ca mỗi nhà nạp vào cung năm con rắn độc. Rắn đó sẽ thả xuống hầm gọi là Sái Bồn.

Trụ Vương hỏi:

– Hậu định lập Sái Bồn để làm gì?

Ðắt Kỷ nói:

– Nếu không dùng Sái Bồn để làm hình phạt thì cung nhân còn sợ uy của thần thiếp sao được. Cung nhân phạm tội sẽ bị lột hết xiêm y quăng xuống Sái Bồn cho rắn xé xác. Làm như vậy bệ hạ sẽ thấy thích thú khi thấy loài rắn đói ăn thịt người và sức kháng cự của những kẻ gần cái chết.

Trụ Vương nói:

– Chánh cung bày phép lạ như vậy trị bọn cung nga mới yên.

Liền truyền quân sĩ ngày đêm đào hầm, và ra chiếu chỉ cho dân chúng quanh Triều Ca mỗi nhà phải nạp rắn độc.

Lệnh vua ban hành, chẳng ai dám trái. Vì vậy dân chúng tấp nập vào triều.

Ngày kia, quan Ðại phu Dao Cách đang xem sổ sách trong đền,thấy dân chúng di dập dìu, trên tay có xách một giỏ rắn đem vào nộp, lấy làm lạ, hỏi viên quan thu rắn:

– Thiên tử dùng vật ấy làm gì mà thu nạp nhiều như thế?

Viên quan thu rắn thưa:

– Tôi chỉ được lệnh thu rắn đem nạp chứ không rõ.

Dao Cách hoài nghi bước ra ngoài hỏi đám dân lành.

– Chúng bay bắt rắn ở đâu nạp nhiều như vậy?

Dân chúng thấy quan cận thần Dao Cách hỏi, vội khúm núm thưa:

– Lệnh vua truyền dân chúng Triều Ca mỗi người nạp bốn con rắn độc. Tại Triều Ca không có rắn độc, chúng tôi phải đến mãi tận vùng rừng núi đặt mua đem về đây.

Dao Cách hỏi:

– Các ngươi có biết loại rắn độc ấy dùng làm gì không?

Dân chúng lăc đầu:

– Chúng tôi là kẻ ngu phu làm sao hiễu được.

Dao Cách liền vào đại điện tìm Tỉ Can, Hoàng Phi Hổ, Cơ Tử, Vi Tử và Dương Nhậm để hỏi ý kiến. May mắn, vừa đến nơi thấy đã các vị đại thần này cũng hội đủ mặt.

Dao Cách nói:

– Các ông có biết Bệ hạ truyền nạp rắn vào cung để làm việc chi không?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Hôm qua tôi đi tập quân, thấy dân chúng than thở về việc triều đình bắt nạp rắn, chẳng rõ duyên cớ nên định đến hỏi các ngài đây.

Tỉ Can và Cơ Tử đồng lắc đầu nói:

– Trong cung lại truyền dân nạp rắn độc thật là chuyện phi thường, thuở nay chưa thấy. Chúng tôi nghiệm không ra lẽ.

Hoàng Phi Hổ liền đòi viên quan thâu rắn đến dặn:

– Ngươi cố dọ xét thử Bệ hạ dùng số rắn nhiều như vậy để làm gì rồi báo cho ta biết, ta sẽ trọng thưởng.

Viên quan thu rắn tuân lệnh lui ra.

Qua bảy hôm, số rắn dân chúng đến nạp đã nhiều, viên quan thu rắn liền vào cung tâu với vua Trụ:

– Rắn độc không còn chỗ chứa nữa, chúng đói muốn phá giỏ ra, hạ thần phải truyền quân giữ rất khó nhọc, xin bệ hạ chỉ dạy.

Trụ Vương hỏi Ðắt Kỷ:

– Khanh định liệu thế nào?

Ðắt Kỷ truyền đem rắn thả hết xuống hầm, và chấm dứt việc thu nhận rắn. Bây giờ rắn độc đầy hầm, bò qua bò lại, chồng chất lên nhau, cất đầu le lưỡi trông rất sợ.

Trụ Vương nói:

– Khanh còn định gì nữa?

Ðát Kỷ nói:

– Thế là Sái Bồn đã hoàn thành. Xin Bệ hạ truyền chỉ bắt 72 cung nga phạm tội, lột hết xiêm y, bỏ xuống từng người cho rắn độc phân thây. Ðứa sau thấy cái chết của đứa trước, chúng mới kinh sợ.

Trụ Vương gật gù nói:

– Khanh lập các hình phạt rất hay. Nhưng trẫm thấy gớm ghiếc quá!

Ðắt Kỷ mỉm cười nói:

– Bệ hạ là đấng uy quyền nhất vũ trụ, xưa nay các vì vua chúa đã ai được thấy cảnh ấy, thần thiếp thiết tưởng bệ hạ trông thấy sẽ thích thú không gì bằng.

Trụ Vương nói:

– Thấy rắn thì gớm chứ sao lại thích thú?

Ðắt Kỷ nói:

– Thích thú ở chỗ bầy rắn ăn thịt người. Ðó là một nghệ thuật xé mồi, không phải như những con thú khác. Trước khi xe nát từng miếng thịt, mỗi con rắn trườn tới, dùng nọc độc cắn tội nhân. Có những thứ nọc độc làm cho tội nhân tê đi, có những thứ nọc độc làm cho tội nhân đau đớn giảy giụa khổ sở… Những cái ấy trông thấy còn thích hơn là xem một tuồng hát độc đáo nhứt trong cung vàng điện ngọc này.

Trụ Vương cười nói:

– Nếu không có khanh giảng giải, Trẫm làm sao biết được.

Liền truyền chỉ dẫn 72 cung phi đến Sái Bồn lột hết quần áo, cứ từng người xô xuống. Bầy rắn đói gặp thịt người, đổ tới như gió, cắn, đớp… chỉ loáng mắt, từng miếng thịt của cung nhân vào bụng rắn.

Bọn cung nga còn lại trông thấy sợ hãi khóc rống lên. Tiếng khóc thảm thiết hòa thành một điệu vang dội cả nội cung.

Bây giờ Dao Cách đang theo dõi hành động của Trụ Vương bỗng nghe trong cung có tiếng khóc. Kế viên quan thu rắn chạy ra thét:

– Ngài ơi! Ghê gớm quá! Bệ hạ đựng rắn đầy hầm, lại bắt cung nhân xô xuống cho rắn độc xé xác.

Dao Cảnh nổi nóng, vội chạy thẳng lên lầu Trích Tinh, thấy một số đông cung nhân lõa thể, quần áo bị lột hết, không còn một mảnh vai che thân, tóc thả bù xù, đang khóc than thảm thiết.

Trước mắt Dao Cách như một cảnh địa ngục ma quái.

Dao Cách hét quân sĩ bảo không được xô cung nhân xuống hầm nữa, và chạy đến trước mặt Trụ Vương tâu:

– Xin Bệ hạ hồi tỉnh lại, nỡ nào bày ra chuyện quái gở như vậy.

Trụ Vương đang ngồi với Ðắt Kỷ xem rắn ăn thịt người thấy Dao Cách đến quỳ trước mặt, liền hỏi:

– Trẫm không cho đòi, sao khanh dám đến?

Dao Cách vừa khóc vừa nói:

– Bệ hạ di vào con đường dữ, càng làm cho thiên hạ oán hờn. Chẳng hay cung nga có tội gì mà Bệ hạ hành hình độc ác như thế?

Trụ Vương nói:

– Nước có giềng mối, đạo có quân thần. Trong cung nhiều người làm sai phép nước, nếu không lập Sái Bồn răn chúng thì cơ nghiệp khó giữ. Khanh làm quan Ðại phu lại không rõ hay sao?

Dao Cách thở dài:

– Ôi! Bệ hạ nghĩ sai rồi, cơ nghiệp bị mất là do hành động tàn nhẫn của Bệ hạ chứ không phải do đám cung nhân phạm kỷ luật đâu. Dân chúng vừa qua cảnh bảo lụt tai ương, lại phải khổ sở tốn tiền mua rắn độc để dâng Bệ hạ bày chuyện bất nhơn xưa nay chưa từng thấy. Xưa thời Nghiêu Thuấn, không dùng đến hình phạt mà thiên hạ vẫn thái bình, bốn phương đều an lạc, cơ nghiệp vững bền. Thế thì việc giữ nước trị dân đâu phải là hình phạt mà chính là nhân đức. Xin bệ hạ xét lại.

Trụ Vương nói:

– Ta há không biết sao mà ngươi phải giảng dạy. Song trong đời không phải ai cũng thấy đức mà sợ. Có kẻ chỉ sợ hình phạt thôi. Ðối với hạng người ấy, nếu không dùng hình phạt thì không thể dạy được.

Dao Cách nói:

– Cung nga là những tay chân, hầu hạ, đâu có lỗi gì nặng đến đâu nữa cũng chưa phải quan hệ lắm, việc gì phải bày hình pháp? Tôi thiết tưởng, những kẻ có lòng nhân mới làm được việc nhân. Bệ hạ xô người xuống hầm cho rắn xé thịt mà bệ hạ không ghê rợn thì bệ hạ đâu có lòng nhân. Dại khờ nhất là đám tôi thần vô dụng này, đòi hỏi một ông vua bất nhân phải làm điều nhân là chuyện không thể có…

Trụ vương không kịp nghe hết lời can gián của Dao Cách, nổi giận đùng đùng, mắng:

– Loài thất phu, dám mắng vua, nghịch mạng. Ðáng chết! Quân, hãy cởi hết quần áo nó rồi ném xác nó xuống Sái Bồn lập tức.

Dao Cách đứng dậy điểm mặt Trụ Vương nói:

– Ta không ngờ hôn quân ngày hôm nay đến nỗi này. Kẻ dại khờ là những kẻ mê muội, chỉ biết nghe lời bên gối, trông những sắc đẹp bên mình mà không thấy gì xa hơn. Ta đoán chắc ngày kia lúc hôn quân sáng mắt lên thì đã muộn. Ta, bọn tôi thần bất trí, thờ nhằm một hôn quân thì chết cũng cam, nhưng ta đâu phải chết vì Sái Bồn, ta là một Giám Nhị, có chết cũng tìm chỗ trong sạch.

Nói dứt lời, nhào xuống lầu Trích Tinh tự vận. Lầu Trích Tinh là một cái lầu cao chót vót. Dao Cách nhảy xuống thì còn gì thịt xương. Tuy vậy, Trụ vương vẫn chưa hết giận, truyền xô hết 72 cung nga xuống Sái Bồn, rồi lượm thây Dao Cách ném luôn xuống hầm cho rắn ăn luôn.

Người sau có thơ khóc Dao Cách:

Mặt đỏ lòng son chẳng lợt màu

Họ Dao nhảy xuống thác bên lầu

Phải dè cơ nghiệp Thành Thang dứt

Cơn giận làm chi đến dập đầu…

Cuộc hành hình trông rất khủng khiếp. Nếu Trụ Vương còn một chút ít nhân tính, không thể nào nhìn cảnh dã man ấy được.

Bọn cung nhân kêu khóc một hồi rồi cũng đến lúc oán hận, không còn sợ chết, không kể đến thân xác, chỉ vào mặt Ðắt Kỷ ngâm nghiến:

– Chúng ta sống không ăn thịt người được, chết nguyện làm ma quỉ hóp hồn ngươi…

Số cung nhân bị xô xuống Sái Bồn một lượt, đàn rắn đói cất cổ phùng mang, con thì cắn, con thì xé, con thì chun vào bụng, con thì quấc ngoài da, quang cảnh không thể nói cho cùng.

Ðắt Kỷ nói với Trụ vương:

– Nếu không dùng cách ghê gớm thì khó trị được loài ngang nghạnh.

– Nhưng bình phạt nặng quá chúng sẽ oán ta.

Ðắt Kỷ nói:

– Oán trách mà không hành động chống lại thì nước không mất. Còn hơn là để chúng khi quân, nay mắng, mai chửi bệ hạ, làm cho phép nước rối loạn, quân phản nghịch do đó nổi dậy. Bệ hạ không thấy sao? Từ khi lập Bào Lạc, đốt Mai Bá, triều thần khiếp vía, không còn ai dám đem những giáo điều nhân nghĩa đến trước mặt Bệ hạ nguyền rủa nữa. Như vậy kết quả của trừng phạt là tuyệt đối.

Vua Trụ nghe Ðắt Kỷ nói mùi tai, gật đầu:

– Khanh thật là người thông thái có thể giúp trẫm trị nước được.

Ðắt Kỷ được khen rất hài lòng, tâu với Trụ Vương:

– Làm vua phải có gì cao cả trong đời mình. Nay bệ hạ tuy quyền đã có nhưng sức giàu sang chưa phô diễn tuyệt đỉnh.

Trụ Vương hỏi:

– Sức giàu sang như thế nào mới tuyệt đỉnh?

Ðắt Kỷ nói:

– Sức giàu sang tuyệt đỉnh là sức mà thiên hạ không bao giờ tưởng tượng đến.

Trụ Vương hỏi:

– Trẫm có tiền bạc đầy kho cung điện nguy nga, vàng son lộng lẫy, như vậy thiên hạ chưa tưởng tượng được sao?

Ðắt Kỷ nói:

– Tiền bạc, vàng son, cung điện, các nước chư hầu cũng có. Họ vẫn được cảnh sung mãn ấy.

Trụ Vương hỏi:

– Thế thì Trẫm phải có thứ gì mới gọi là giàu sang?

Ðắt Kỷ tâu:

– Nay Bệ hạ đã lập Sái Bồn nuôi rắn rồi. Rắn dữ đầy hầm, đó là chuyện ít ai có. Nhưng nếu bên tả Bệ hạ làm một hòn núi hèm, để ủ rượu, đống hèm luôn luôn cao chót vót, dùng những cành cây cắm lên, rồi lấy thịt móc vào làm đá! đặt tên là Nhục Lâm (núi thịt). Bên hữu, Bệ hạ khiến xây một hầm sâu, đổ đầy rượu như một hồ nước mênh mông, gọi là Tửu Trì. Ðược như vậy hỏi trong thế gan này ai dám sánh?

Vua Trụ đắc ý khen:

– Khanh chế cách chơi như vậy sang trọng lắm. Nếu không thông minh làm sao nghĩ được chuyện to tác như vậy?

Vua Trụ liền truyền bọn Thái giám đốc suất ngự lâm quân làm trong một khoảng thời gian ngắn thì xong. Công việc hoàn thành, vua Trụ và Ðắt Kỷ ngự ra Nhục Lâm và Tửu Trì xem xét.

Trụ Vương khoái chí, truyền Ðắt Kỷ đờn ca múa hát cho vui.

Ðắt Kỷ tâu:

– Ðờn ca múa hát mãi cũng chán xin Bệ hạ tìm thú vui mới lạ đẹp mắt hơn.

Trụ vương hỏi:

– Khanh có thú nào vui chăng?

Ðắt Kỷ tâu:

– Trong cung có một số thái giám và cung nữ, vây bệ hạ truyền bọn thái giám và cung nữ chia làm hai phe, vật lộn nhau, kẻ nào thắng thì được ăn Nhục Lâm, uống Tửu Trì, còn kẻ nào bại thì quăng thây xuống Sái Bồn cho rắn dữ.

Vua Trụ nghe theo, truyền thái giám và cung nga vật lộn làm vui

Ai nấy sợ lệnh vua không dám cãi, kết cuộc có một số cung nga vì yếu sức, bị Ðắt Kỷ truyền quân xô xuống hầm rắn, làm mồi cho giống độc.

Sở dĩ Ðắt Kỷ bày ra chuyện này là để giết bớt một số cung nga làm cho thâm cung vắng vẻ, thừa lúc nửa đêm hiện hình ra đống hèm ăn thịt người, uống rượu.

Người sau có thơ than:

Gặp thịt như rừng rượu cả ao

Trụ nghe Ðắc Kỷ độc chừng nào

Sái Bồn nuôi rắn thương chi xiết

Bào Lạc thành tro thảm biết bao

Văn võ hết lo nền xã tắc

Quan quân không trổ chí anh hào

Lòng dân nhen nhúm hờn bạo ngược

Sắc đẹp mê hồn, chẳng biết sao?

Trụ Vương với Ðắt Kỷ mê man trong Nhục Lâm, Tửu Trì, bao nhiêu công việc triều chính không hề để mắt đến.

Ngày kia, Ðắt Kỷ nhớ lại mối thù với Tử Nha, chưa có cơ hội kết toán, nên nghĩ ra một kế, vẽ ra một bức họa đồ cất trong tay áo rộng, thừa lúc vua Trụ say, quì tâu:

– Thần thiếp vừa vẽ ra một bức họa đồ rất công phu, xin bệ hạ xem thử.

Trụ vương tiếp lấy, trải lên long sàng xem một hồi rồi hỏi:

– Ðây là họa đồ của một lâu đài tráng lệ, ái khanh có ý định gì mà vẽ họa đồ này?

Ðắt Kỷ tâu:

– Ðây là họa đồ xây một Lộc đài theo kiểu Bồng Lai. Bệ hạ giàu có muôn xe, uy trải bốn biển, nếu không thụ hưởng Lộc đài thì uổng lắm.

Ðắt Kỷ chỉ từng chỗ, giải thích cho Trụ vương nghe, Lộc đài bề cao 49 thuớc, cột vàng kèo bạc, chạm trổ rất công phu, chổ nào cũng có gắn hạt châu, mã não, hổ phách, ban đêm chiếu sáng ngời, chẳng khác lầu Ngọc Khuyết.

Trụ vương mê man, hỏi:

– Lầu cao và đẹp như thế sẽ tốn rất nhiều của kho, chẳng biết Trẫm ngự ở đấy sẽ tìm được thú vui nào đặc biệt?

Ðắt Kỷ nói:

– Bệ hạ ngự ở Lộc đài khác nào cảnh thượng giới, ban đêm sẽ có tiên ông, tiên nữ xuống chơi, bệ hạ sẽ làm quen với tiên nga, ngắm nhiều tuyệt sắc. Ðã vậy, bệ hạ được sống lâu gần gũi mãi với thần thiếp, hưởng lộc trời…

Trụ vương nói:

– Trẫm có nghe hễ được gần tiên thì tuổi thọ, nay ái khanh tính lập Lộc đài tức là nghĩ đến tuổi già của Trẫm đó. Nhưng chẳng biết tiên có xuống chơi Lộc đài với trẫm không?

Ðắt Kỷ nói:

– Nếu có một Lộc đài cao quý như vậy, thần thiếp dám chắc tiên nga sẽ đến đờn ca múa hát, chầu bệ hạ suốt đêm.

Trụ vương nghe nói đắc ý, bảo:

– Tiền bạc tốn phí Trẫm không ngại gì, chỉ khó ở chỗ tìm người có đủ tài năng mới điều khiển đuợc thợ khéo làm đúng theo họa đồ của ái khanh.

Ðắt Kỷ nói:

– Bệ hạ dạy rất đúng. phải cần kẽ thông thiên văn, am địa lý mới thấu rõ huyền cơ của ngôi Lộc đài được. Nội trong triều thần thiếp chỉ thấy một mình Khương Thượng có đủ tài năng cáng đáng việc này. Xin Bệ hạ phong cho Khương Thượng làm Ðốc công thì thế nào cũng vừa ý.

Vua Trụ nghe theo, liền khiến quan thái giám đến dinh Tỉ Can đòi Khương Thượng vào dinh dạy việc.

Khương Thượng được lệnh, bói một quẻ, biết trước tai bay vạ đến chẳng lâu, liền nói với viên Thái giám.

– Ngài về trước tâu với bệ hạ rằng ta sẽ vào chầu lập tức.

Viên Thái giám đi rồi, Tử Nha nói với Tỉ Can:

– Tôi vói ngài lâu nay khuya sớm có nhau, tình nghĩa khắng khít. Nếu vì một duyên cớ nào hai ta cách trở thì biết bao giờ mới gặp nhau?

Tỉ Can nói:

– Vì cớ gì ông lại nói câu này?

Tử Nha nói quẻ, hôm nay vào chầu vua dữ nhiều lành ít, họa gởi tai bay.

Tỉ Can nói lần xem việc thiên văn đâu phải quan giám nghị mà lo tội vạ. Nếu vào chầu Bệ hạ có hỏi gì ông cứ nói không biết là xong. Vả lại, va mới phong chức cho ông, lẽ nào cách chức.

Tử Nha nói:

– Tôi có một phong thư để dưới nghiên mực, trong đó có nói lời tiên tri. Nếu sau này ngài có điều gì trắc trở nên theo đó mà làm may tránh khỏi vạ. Ðó là tôi đền ơn ngài vậy.

Dứt lời, Tử Nha tỏ ý giã biệt.

Tỉ Can quyến luyến nói:

– Ông đừng vội bi quan, nếu ông có điều gì rắc rối tôi nguyện đem thân ra bênh vực.

Tử Nha nói:

– Trời đã định mỗi người có một số mệnh riêng, ngài chớ lo mà nhọc tinh thần. Tôi e cứu vớt tôi không được mà ngài bị chìm luôn trong tai họa. Chi bằng xuôi theo vận mệnh tốt hơn.

Tỉ Can đưa Tử Nha ra khỏi phủ.

Tử Nha đến trước Trích Tinh lầu, thấy Trụ Vương đang cùng Ðắt Kỷ uống rượu.

Tử Nha xin vào yết kiến. Trụ Vương đòi vào phán:

– Nay trẫm muốn lập Lộc đài, nhưng trong triều không ai đủ tài giúp trẫm. Nếu khanh chịu khó thay mặt Trẫm hoàn thành thì công của khanh chẳng nhỏ.

Hồi 18: Khương Tử Nha lội sông trốn chúa

Khương Tử Nha tiếp lấy họa đồ xem thử, thấy công trình rất nhọc, không biết làm mấy năm cho rồi, bèn nghĩ thầm:

– Triều Ca là chốn tạm của ta, lẽ đâu ta dốc sức làm việc này để mang tiếng theo hùa với hôn quân hại dân hại nước. Chi bằng tìm lời thối thác, nếu hôn quân giận, ta sẽ đào tẩu trước cho rồi, đừng để lụy thân.

Nghĩ như vậy, Tử Nha cứ cầm bản đồ xem hoài, không nói gì cả.

Vua Trụ chờ lâu, hỏi:

– Khanh nhắm họa đồ này làm bao nhiêu thời gian thì hoàn tất?

Tử Nha tâu:

– Ðài cao 49 thước, lại dùng châu ngọc gắn khắp nơi, đâu đâu cũng chạm trỗ rất tinh tế, hạ thần nhận thấy muốn hoàn thành phải ít nhất trong vòng 35 năm.

Trụ Vương thở dài quay sang Ðắt Kỷ nói:

– Khương Thượng trù tính 35 năm mới xong, như thế trẫm cất Lộc đài làm gì cho hao tốn. Người không trăm tuổi, mà trẫm đã nửa đời người, sống tạm như vậy hưởng cảnh thanh nhàn cũng được, cần gì tính đến chuyện trồng cây, xây núi.

Ðắt Kỷ nói:

– Lão thầy bói này quen tánh nói dối. Cất một cái đài dầu có lâu đến đâu cũng không thể qua ba năm. Tử Nha đã có ý khi quân, không muốn làm tôi, Bệ hạ xin đem xử Bào Lạc cho rồi.

Trụ Vương còn đang lưỡng lự, Tử Nha nói tiếp:

– Tôi xin Bệ hạ chớ nghĩ đến chuyện lạc thú ở đời mà quên cái khổ của muôn dân. Trong lúc kho tàng trống rỗng, thiên hạ gặp nhiều hạn hán, lúa thóc không đủ ăn, tôi trung vì chán nản việc triều chánh, kẻ nịnh lợi đụng tình thế dèm pha, cái nguy vong của nước nhà đã thấy rõ. Xưa vua Kiệt lập cung Quỳnh Dao mà mất nước. Nay Bệ hạ lập Lộc đài chẳng khác dẫm chân lên con đường ấy, e cơ nghiệp sẽ về tay một chư hầu khác. Tuy đã muộn, nhưng vẫn còn có thể cứu nguy được nếu Bệ hạ biết tự sửa mình chinh phục nhân tâm, lo cho xã tắc. Tôi tri ân Bệ hạ nên có lời tâm huyết, không nỡ lấy mắt nhìn.

Trụ Vương nổi giận mắng lớn:

– Ðứa già miệng, dám mắng vua. Nếu không dùng hình phạt trị tội thì còn ai kính nể trẫm nữa. Quân bây, đem Bào Lạc ra đốt lão già này cho thành tro để làm gương kẻ khác.

Võ sĩ chưa kịp áp tới Tử Nha đã co chân nhảy xuống lầu. Vua Trụ cười lớn, nói:

– Người nhát như thỏ mà giở thói ngang tàng, dẫu có lẹ chân như nai cũng không thể chạy trốn được.

Nói rồi truyền ngự lâm quân đuổi theo bắt lại.

Tử Nha nhảy xuống lầu, chạy một mạch đến cầu Cửu Long, thấy đàng sau quan quân theo bắt, liền nói lớn:

– Các ngươi đừng bắt ta làm gì cho mệt. Vua truyền đem Bào Lạc đốt ta, tánh ta không ưa lửa, nên thà chết nước cho mát thân.

Nói rồi nhảy ùm xuống sông mất xác. Quan quân chạy đến, không còn thấy Tử Nha đâu nữa, ngỡ là Tử Nha đã mượn dòng nước quyên sinh, có ngờ đâu Tử Nha bản lĩnh đầy mình, độn thủy trở về xứ.

Quan quân đứng nhìn một hồi, rồi trở về tâu lại với vua Trụ:

– Khương Thượng đã liều mình nhẩy xuống sông tự vận rồi.

Trụ vương nói:

– Số lão chết nước, không muốn chết lửa. Thôi, bề nào lão cũng chết thì thôi.

Bây giờ có vài viên quan vì mến Tử Nha nên đứng mãi trên cầu than thở, xảy có quan Thượng Ðại phu là Dương Nhậm đến hỏi:

– Việc gì mà các ông buồn bã đứng đây?

Các quan thưa lại mọi việc, Dương Nhậm thở dài trở về thư phòng, lòng rối như tơ vò.

Xong việc Khương Thượng rồi, Trụ Vương lại hỏi Ðắt Kỷ:

– Ái khanh còn có ý lập Lộc đài chăng?

Ðắt Kỷ nói:

– Lộc đài là nguồn sống của Bệ hạ thần thiếp tưởng không nên bỏ qua.

Trụ Vương hỏi:

– Khương Thượng đã chết nay sai ai làm Ðốc công?

Ðắt Kỷ nói:

– Sùng Hầu Hổ là người tận tâm với Chúa, nên bổ nhậm chức ấy.

Trụ Vương theo lời, sai sứ triệu Sùng Hầu Hổ về triều.

Thiên sứ tuân lệnh, vừa ra khỏi đền, gặp Dương Nhậm đón lại hỏi:

– Khương Thượng phạm tội gì mà phải nhào xuống sông tự tận?

– Bệ hạ sai Khương Thượng làm Ðốc công, cất Bá Lộc đài theo họa đồ của Hoàng Hậu. Khương Thượng đem lời ngay can gián. Bệ hạ truyền xử Bào Lạc. Khương Thượng thất kinh nhảy xuống lầu chạy đến Cửu Long kiều tự vẫn.

Dương Nhậm hỏi:

– Nay Bệ hạ sai ông đi đâu vậy?

Thiên sứ thưa:

– Bệ hạ sai tôi triệu thỉnh Sùng Hầu Hổ về triều để tiếp tục ý định xây Lộc đài.

Dương Nhậm hỏi:

– Lộc đài ra thế nào?

Thiên sứ nói:

– Bề cao tới bốn mươi chín thước, làm toàn ngọc ngà châu báu, có thể sánh với cung Quỳnh Dao đời vua Kiệt thuở xưa. Nếu làm đúng như vậy thì tốn kém của dân không biết bao nhiêu mà kể. Quan Ðại phu là người hưởng lộc lâu nay, tôi tưởng cũng nên có ít lời can gián may ra cứu dân khỏi nạn này.

Dương Nhậm nói:

– Thôi, ông khoan đi đã, để tôi vào yết kiến bệ hạ can gián vài lời. Xem có kết quả gì không.

Nói rồi thẳng đến đến trước lầu Trích Tinh, vòng tay đứng mãi. Trụ Vương trông thấy, gọi đến hỏi:

– Khanh đến đây có việc gì chăng?

Dương Nhậm tâu:

– Tôi nghe trong đạo thiên hạ hễ dân loạn thì nước hư, nước hư thì vua mất. Nay Khương Văn Hoán thù cha, cử binh bốn mươi vạn dánh ải Du Hồn, quan Tổng Trấn chống cự đã ba năm, tướng tổn người hao. Ngạt Thuận quyết lòng báo hiếu, kéo hai mươi vạn quân đánh ải Tìm Sơn. Ðặng Cửu Công cự địch hơn mấy năm đã không sao dẹp được. Trong lúc đó, Thái Sư Văn Trọng cầm quân dẹp Bắc Phiên mười mấy năm chưa thấy trở về. Tuy bên trong ổn mà bên ngoài chứa đầy mầm loạn lạc. Thế mà Bệ hạ không lo cứ ngày đêm đam mê tửu sắc, lập Bào Lạc hại tôi ngay, lập Sái Bồn giết cung nữ, chế Nhục Lâm, Tửu Trì để vui chơi… Rồi lại đòi lập Lộc đài cao bốn muơi chín thước để sánh với cung Quỳnh Dao thời vua Kiệt thật là chuyện phi thường. Hạ thần e Lộc đài hoàn thành, bệ hạ chưa hưởng được lạc thú mà cái khó đã đến bên mình. Muốn tránh những cái hại gần phải lo những cái hại xa. Lời nói của hạ thần ngày nay tưởng cũng thừa, vì trước đây đã nhiều vị quan triều tận trung can gián và bỏ mạng rồi. Tuy nhiên, hạ thần làm tôi bệ hạ, ngày nào Bệ hạ còn lầm lỗi là còn phải can ngăn.

Trụ Vương nói:

– Ngươi một đời theo sáo ngữ mà không biết cái nghĩa uyên thâm của một bậc minh quân sửa trị ngôi trời. Trẫm dùng luật nghiêm trị những đứa phản loạn thì mầm phản loạn làm sao sanh ra được. Bốn phương tuy có giặc, những đứa phản vua tuy hành động điên cuồng, song ngày nào đó chúng sẽ chịu trừng trị trước hình pháp của trẫm.

Dương Nhậm cười lớn:

– Bệ hạ nhờ ai nắm vững ngôi vua? Giặc đến, bệ hạ phải nhờ tướng tài, quân mạnh để chống lại. Thế mà Bệ hạ lại bạc đãi quân tướng mình thì ai chịu ra sức phò bệ hạ, chống giặc?

Vua Trụ nói:

– Binh tướng sẽ khiếp sợ trước luật pháp triều đình mà xả thân đánh giặc. Còn lấy nhân đạo đối với chúng chẳng khác nào đưa chúng đến chỗ dễ ngươi, khi quân phản quốc. Thí dụ, ta đã lấy lòng thương đãi ngươi, gọi ngươi vào đây, ngươi dám đem lời khi quân mắng vua, chứ nếu ta cấm ngặt không cho ngươi vào thì ngươi dám vào không?

Dương Nhậm nghe nói cười to:

– Thế Bệ hạ cho lũ quan triều này đều sợ chết mà phục tùng Bệ hạ sao?

Trụ Vương nói:

– Nếu ta đưa ngươi đến Bào Lạc, ngươi có dám nói lời khuyên can ta không?

Dương Nhậm ngửa mặt lên trời nói:

– Dù Bệ hạ có khoét mắt, cắt lưỡi, hạ thần vẫn nói. Lời nói của hạ thần vì sự nghiệp của tiền nhân, vì nhiệm vụ của một tôi thần đâu phải vì lẽ sống cá nhân. Bệ hạ nên thấy khác biệt giữa lời nói của kẻ nịnh, người trung thì mới rõ.

Trụ Vương bị Dương Nhậm mắng liền một lúc, tức quá nạt lớn:

– Ta khoét mắt ngươi xem ngươi còn dám nói lời nào nữa không?

Dứt lời truyền quân đè cổ Dương Nhậm xuống khoét mắt. Dương Nhậm vẫn nói oang oang không nín. Ðến lúc Dương Nhậm đau quá chết điếng mới thôi.

Quân đem tròng mắt của Dương Nhậm dâng lên trước long sàng.

Trụ vương chưa nguôi giận mắng:

– Xảo ngôn! Sao nằm im đấy không mắng nữa ta nghe thử.

Trụ vương vừa dứt lời thì bỗng một luồng gió thổi đến như bão, đá cát bụi bay ngất trời. Vua Trụ phải bỏ chạy vào trong lánh mặt. Dương Nhậm tuy chết giấc mà tâm gan trung liệt vẫn không sờn, hồn oan lên đến tận mây xanh.

Bấy giờ ông Thanh Hư đạo nhân ở núi Thanh Phong, trông thấy oán khí bốc lên đánh tay hiễu rõ sự tình, liền sai Huỳnh Cân lực sĩ xuống trần, nổi trận gió thâu hốt xác của Dương Nhậm đem về núi, bỏ trong động Tử Dương.

Luồng gió dữ vừa rồi chính là do Huỳnh Cân lực sĩ tạo ra đó.

Trụ vương sợ gió chạy vào trong một lúc, khi gió tạnh, quan Phụng Ngự chạy vào báo:

– Dương Nhậm bị gió thổi bay đâu mất rồi.

Trụ vương nói:

– Lúc trước trẫm chém hai vị Thái tử cũng bị gió bay. Như vậy là chuyện thường không có gì đáng ngại.

Tiếp đó Trụ vương quay sang nói với Ðắt Kỷ:

– Dương Nhậm bị gió bay mất, Sùng Hầu Hổ chắc cũng gần tới triều vậy phải lo gấp chuyện lập Lộc đài kẻo mất thì giờ, thời xuân không chờ ai để trễ không hưởng được thú thần tiên thì uổng lắm.

Ðắt Kỷ nói:

– Bệ hạ cương quyết như vậy thì làm gì sự nghiệp không vững bền. Thần thiếp tưởng chỉ có hình phạt mới đem lại yên vui cho một ông vua, khỏi bị những kẻ tự phụ cho mình là thông thái đem những sáo ngữ ra chỉ trích xàm xàm.

Trụ vương gật đầu hỏi:

– Do đâu mà ái khanh có một tầm hiểu biết cao xa như vậy?

Ðắt Kỷ nói:

– Làm vua chẳng khác nào như cha mẹ. Cha mẹ dạy con bằng lối chiều chuộng thì không bao giờ làm vừa lòng con cái. Vì mỗi đứa con có mỗi tánh khác nhau. Còn nếu dùng uy lực trừng trị thì không đứa con nào không sợ. Ðó là đạo trị người vậy.

Vua Trụ nghe Ðắt Kỷ nói lòng ngất ngây, truyền quân đem rượu đến, uống say mèm.

Bấy giờ Huỳnh Cân lực sĩ đem thây Dương Nhậm bỏ ở động Tử Dương, rồi vào thưa lại với Thanh Hư đạo nhân.

Ðạo nhân liền xuất động, sai Bạch Vân đồng tử đem hai hạt linh đơn bỏ vào lỗ mắt của Dương Nhậm bị khoét. Tức thì, trong lỗ mắt ấy mọc ra hai cánh tay, có hai con mắt thần, sáng ngời như sao, xem thấu rõ trên trời dưới đất, thấu cả việc đời.

Tuy vậy, Dương Nhậm vẫn còn mê man chưa tỉnh, Bạch Vân đồng tử liền hớp một hơi sinh khí thổi vào mặt Dương Nhậm hét:

– Dương Nhậm không tỉnh lại còn chần chờ gì.

Dương Nhậm cựa mình, lồm cồm ngồi dậy, thấy quang cảnh trước mặt biết không phải là chốn phàm trần, lại thấy một tiên ông đứng trước cửa, Dương Nhậm liền bước đến quì thưa:

– Có phải ngài là ân nhân đã cứu tôi?

Thanh Hư đạo nhân nói:

– Ta thấy ngươi lòng ngay can chúa mà thác oan nên động lòng sai lực sĩ xuống trần hóa gió cứu ngươi đem về đây. Ngày sau ta sẽ cho ngươi xuống trần phò vua Võ, lập công, hưởng phú quí.

Dương Nhậm lạy tạ ơn và nói:

– Tôi nhờ tiên ông cứu tử hoàn sanh, ơn ấy rất trọng. Tôi xin tôn tiên ông làm Tôn sư và theo làm đệ tử.

Thanh Hư đạo nhân nói:

– Ðược. Ta nhận ngươi làm đệ tử, nhưng số ngươi chưa dứt hết nợ trần, chỉ gần ta một thời gian, sau này ngươi phải trở về phò vua giúp nước.

Dương Nhậm bái tạ, theo Bạch Vân đồng tử ra sau động học tập.

Nói về Sùng Hầu Hổ tuân lệnh Trụ vương xây cất Lộc đài tốn công, tốn của không biết bao nhiêu mà nói. Dân chúng các vùng lân cận bắt buộc phải đi làm sưu dịch, người đào đất, kẻ khiêng cây, dải nắng dầm sương, khổ cực trăm bề.

Người giàu có thì dùng tiền bạc lo lót để khỏi làm sương, kẻ nghèo khó phải nai lưng ra gánh chịu. Những kẻ nghèo thì đông, người giàu thì ít, vì vậy dân chúng đói rách không chịu nổi cảnh khổ cực bỏ trốn rất nhiều. Có một số người chết vì mang bệnh, lại có một số người vì tai nạn lao công.

Sùng Hầu Hổ rất trung thành trong việc xây cất Lộc đài nên thi hành ráo riết, dùng lệnh Thiên tử rất nghiêm, ai trễ đều bị đem ra xử tử giữa chợ làm gương kẻ khác.

Bấy giờ Tử Nha độn thủy về trang viện của Dị Nhân. Vợ Tử Nha là Mã thị nghe tin chồng về vội ra đón tiếp. Nàng ngỡ Tử Nha còn đang làm quan nên trọng vọng lắm.

Tử Nha nói:

– Nay ta đã thôi làm quan rồi.

Mã thị sững sốt hỏi:

– Vì cớ sao vây?

Tử Nha nói:

– Thiên tử bảo tôi làm Ðốc công xây cất Lộc đài, làm việc này tốn của tốn công dân chúng không biết bao nhiêu mà nói. Trong lúc đó Thiên tử lại chỉ nghĩ đến sắc đẹp, không kể đến việc mất còn thiên hạ, như thế bảo ta nghe theo sao được? Ta tìm lời can gián, thiên tử truyền đem ta xử Bào lạc, ta bỏ chức chạy về đây.

Mã thị giận nói:

– Ông là lão thầy bói, thời may được vua thương phong chức, vinh hiển một thời, lẽ ra phải đem thân khuyển mã thờ vua, đền lại ơn thâm nghĩa trọng, khéo bắt chước người ta học đòi lý sự, ra mặt can vua để đến nỗi suýt vong mạng. Nay ông trở về đây là mang tội với triều đình, còn trốn ngỏ nào được nữa để trở lại đời lão thầy bói già trước kia.

Khương Tử Nha nói:

– Làm trai chọn chúa mà thờ. Trụ vương đã không phải chúa thánh, ta không thể làm một tôi hiền. Vậy vợ chồng ta nên trốn sang Tây Kỳ, tìm kế sanh nhai, đợi lúc gặp chơn chúa ra phò cũng không mất vinh hoa phú quý đâu.

Mã thị nguýt chồng nói:

– Công danh trước mặt mà chưa biết hưởng lại đi tìm một ảo vọng xa xôi. Vua sai làm Ðốc công xây Lộc đài đã vừa lợi vừa danh giá, mấy người được vua tín nhiệm phú thác việc lớn. Lợi không biết lợi, danh không biết danh, nay mất cả rồi, khéo làm tướng phách lối.

Tử Nha nói.

– Ðàn bà chỉ biết cái lợi trước mắt mà không thấy cái hại về sau, công danh không chính đáng là công danh hão huyền. Tôi muốn tự tài tôi lập nên chức vị, không cần phải ở may mắn nào. Bà hãy theo tôi sang Tây Kỳ, bỏ chốn Triều Ca này cũng chẳng hại.

Mã thị giận nói:

– Tôi là dân Triều Ca không phải kẻ trôi sông lạc chợ mà quên tổ quên tông, bỏ quê bỏ xứ. Nay đã xui cớ sự như vầy ông không thể ở đây được nữa, còn tôi cũng không thể theo ông đi xứ khác, vậy từ đây ai làm nấy ăn, ai sang ấy hưởng.

Tử Nha nói:

– Xưa nay hễ đàn bà con gái xuất giá tùng phu, chồng sang thì nhờ, chồng khó thì cam chịu, chồng đi đâu phải theo đó, vinh nhục có nhau, tại sao bà lại có ý như vậy?

Mã thị nói:

– Ông là kẻ có tội với triều đình, đang tìm nơi trốn tránh. Tôi là người ngay thẳng, không ai có quyền buộc tôi phải theo người có tội cả. Tốt hơn ông viết cho tôi một tờ ly dị, từ đây cầm sắt phân đôi.

Tử Nha đau lòng nhìn vợ, nói:

– Bà đừng nói quấy. Tài tôi không phải với chức Ðại phu nhỏ bé như vậy đâu. Ngày nay tuy khổ, nhưng ngày mai nhất định hiển vinh. Tôi không nỡ lúc khó vợ chồng có nhau, đến lúc hiển vinh mình tôi riêng hưởng.

Mã thị nói:

– Ông được hiển vinh thì nhờ, phần tôi nghèo khó tôi chịu. Ông cưới vợ khác để sau này phong làm nhất phẩm phu nhân.

Tử Nha không biết nói sao đành năn nỉ. Tuy vậy, Mã thị đã cố tình oán ghét, một hai nằng nằng đòi làm tờ ly dị để tìm kế sinh nhai, không theo Tử Nha nữa.

Tống Dị Nhân thấy vậy bước ra nói với Tử Nha:

– Chuyện nay một phần do tôi gây nên. Bởi tôi làm mai không đúng chỗ nên ngày nay mới xảy ra lắm chuyện xích mích như vậy. Thôi, người vợ đã cố tâm dứt bỏ thì nguời chồng dầu muốn chung sống cũng chẳng có gì hạnh phúc, hiền đệ nay trong tai nạn, phải trốn vua, sang nơi khác lánh thân, trong đời cũng chẳng thiếu đàn bà, cứ ly dị nhau cho ổn thỏa.

Tử Nha nói:

– Thưa anh, tôi nghĩ lúc vợ chồng khó nhọc có nhau, đến lúc hiển vinh một mình riêng hưởng e mang tiếng phụ tình. Thế mà vợ tôi khinh tôi đến nước ấy chẳng còn làm sao nữa? Nay có lời anh dạy, tôi xin làm theo cho mát lòng vợ.

Tử Nha cầm viết tay tờ ly hôn, trao cho Mã thị, và nói:

– Nếu bà quyết lòng từ bỏ tôi thì cầm giấy này, còn nếu vì giận nhau thì hãy nén giận rồi theo tôi. Tôi không còn thì giờ nào chểnh mãng nữa.

Mã thị vội lãnh tờ ly hôn, thái độ không một chút nuối tiếc.

Tử Nha thở dài, buồn bã ngâm bốn câu thơ:

Miệng con rắn hà nàm

Nọc con ong vò vẽ

Hai món độc vừa vừa

Bụng đàn bà quá lẽ.

Mã thị không nhìn mặt Tử Nha, đút tờ ly hôn vào túi rồi bưng rổ may về xứ kiếm chồng.

Tử Nha cũng vội sửa soạn hành trang lên đường đến Tây Kỳ ẩn mặt, và thưa với Tống Dị Nhân:

– Nhờ ơn anh chị hết lòng đùm bọc lâu nay, tôi chưa trả được ơn sâu mà phải lên đường cách biệt.

Tống Dị Nhân tìm lời an ủi, làm tiệc tiễn hành và hỏi:

– Bây giờ hiền đệ định đi đâu?

Tử Nha nói:

– Trụ Vương là một hôn quân, không thể giữ nổi giang sơn được. Tây Kỳ nhân hòa khí thuận, dễ sanh Chúa thánh tôi hiền. Tôi muốn qua đó ẩn mặt, chờ ngày tiến thân.

Di Nhân nói:

– Nếu trời thương, cho hiền đệ được sớm gặp hội rồng mây thì gởi thư về cho tôi biết kẻo lòng tôi mong đợi.

Tử Nha tạ ơn rồi từ biệt lên đường, Dị Nhân theo đưa đón hơn hai dặm đường mới trở lại.

Ði khỏi sông Mạnh Tân, Tử Nha qua thuyền vượt sông Hoàng Hà đến Ðồng Quan ải. Nơi đây là địa đầu của xứ Tây Kỳ. Bỗng thấy một số người rất đông, trai có, gái có vừa dắt vừa đi vừa than thở. Trông lối ăn mặc, Tử Nha biết họ là dân Triều Ca, liền gọi lại hỏi:

– Các ngươi ở Triều Ca, sao lại đến nơi đây than khóc?

Trong nhóm ấy có vài người biết Tử Nha, liền đến gần thưa:

– Chúng tôi thật là dân Triều Ca, nhân vì Thiên tử xây cất Lộc đài khiến Sùng Hầu Hổ làm Ðốc công. Sùng Hầu Hổ quá khắc nghiệt, ăn của nhà giàu, bắt nhà nghèo chúng tôi làm thục mạng. Dân chúng chết vì đói khát vì nạn lao công. Chúng tôi chịu không nổi phải bỏ trốn, vì nghĩ rằng ở Triều Ca thì sớm muộn cũng bỏ thây.

Tử Nha hỏi:

– Các ngươi đã trốn được đến đây coi như thoát nạn, tại sao còn than thở?

Dân chúng thưa:

– Trương Tổng binh trấn ải này không rõ hoàn cảnh của chúng tôi nên đuổi chúng tôi trở về, không cho qua ải để tỵ nạn. Nếu chúng tôi trở về chắc phải chết.

Tử Nha nói:

– Thôi, các ngươi chớ than khóc làm gì, để ta vào nói với Trương Tổng binh cho.

Dân chúng mừng rỡ nói:

– Nếu lão gia thương tưởng như vậy chúng tôi nguyện biết ơn suốt đời.

Tử Nha đưa cho dân chúng coi giữ gói hành trang mình, rồi đến trước cửa thành kêu quân gát cửa nói:

– Chúng bây vào thưa với Trương Tổng binh có ta là Hạ Ðại phu Khương Thượng xin vào ra mắt.

Quân vào báo, Tổng binh Trương Phụng nghĩ thầm:

– Tử Nha là quan văn tại triều, còn ta là quan võ trấn ải ngoài. Nếu không trọng vọng hắn, hắn tìm cách tâu ra tâu vào với Thiên tử, e mang hại.

Nghĩ rồi truyền quân mở cửa ải đón Tử Nha vào thính đường trà nước. Nhưng khi Tử Nha vừa vào, Trương Phụng thấy Tử Nha không mặc triều phục, lại mặc áo nhà tu, lấy làm ngạc nhiên.

– Sao quan Ðại phu lại ăn mặc như vậy?

Tử Nha nói:

– Tôi đến đây không phải vì việc công, chỉ vì Thiên tử khiến Sùng Hầu Hổ làm Ðốc công xây Lộc đài, Sùng Hầu Hổ ăn của hối lộ nhà giàu, bắt dân Triều Ca làm sưu quá nặng nề, dân chúng chịu không nổi phải bỏ trốn. Nhưng quan Tổng binh lại không rõ sự tình, không cho chúng qua ải tỵ nạn. Tôi tưởng việc này quan Tổng binh nên làm ơn cho chúng một phần, để tiếng nhân đức về sau.

Trương Phụng ngạc nhiên nói:

– Khương Ðại phu nói sao khó nghe vậy. Nếu Sùng Hầu Hổ làm việc không công bình, hiếp đáp dân lành thì còn có triều thần minh oan cho dân chúng lẽ nào để dân chúng trốn ra khỏi biên thùy mà gọi là nhân nghĩa, ông làm chức Ðại phu, sao không có một lời tâu với vua, lại theo đám dân trốn tránh ấy?

Tử Nha nói.

– Tôi không giấu gì Trương Tổng binh, chính chuyện xây cất Lộc đài trước kia bị bệ hạ ủy nhiệm cho tôi, nhưng tôi thấy việc làm tổn phí, đã hao của kho, lại nhọc dân chúng, mà chẳng lợi gì cho quốc gia, vì vậy tôi tỏ lời hơn thiệt can ngăn. Bệ hạ nghe lời Ðắt Kỷ cách chức tôi, đuổi về quê quán. Hôm nay trên đường về quê, tôi gặp đám dân lành này tị nạn, tôi thiết tưởng trong triều không còn ai đủ sức đứng ra bênh vực dân chúng nữa, Trương Tổng binh nên xét tình trạng ấy làm ơn cho dân lành.

Bấy giờ, Trương Phụng mới biết Tử Nha là kẻ có tội, đi lẩn trốn, nên ra mặt khinh bỉ nói:

– Chú là kẻ trôi sông lạc chợ, may nhờ lộc nước ơn vua mà hiển vinh, lẽ ra phải đáp đền ơn Chúa. Ðã không biết điều, bị cách chức âm mưu trốn đi, còn muốn cầm đầu cho đám đân chúng hờn trách Bệ hạ nữa. Tôi nói thật, tôi trấn nơi ải này không để một kẻ nào lợi dụng. Lẽ ra tôi bắt chú đem về nạp cho Bệ hạ xử tội, song mới gặp nhau lần đầu, làm như vậy cũng quá bạc bẽo.

Nói rồi truyền quân đuổi Tử Nha ra lập tức. Tử Nha hổ thẹn bước ra cửa ải, thấy dân chúng đang ngồi một nhóm rất đông, mắt ngong ngóng chờ tin.

Tử Nha buồn bã bước đến nói:

– Không xong rồi, tôi đã hết lời năn nỉ mà Trương Tổng binh chẳng chút vị tình, còn đòi bắt tôi đem về triều dâng nạp.

Dân chúng nghe nói khóc òa. Tiếng khóc hòa vào nhau làm rúng động cả bầu trời ảm đạm.

Tử Nha thấy thương hại, nói:

– Dầu Trương Tổng binh có ác ý chúng ta cũng chẳng hại gì. Ðể ta tìm cách đưa các ngươi đến Tây Kỳ tìm sinh kế.

Dân chúng không tin, nói:

– Cửa ải đóng chặt, lão gia làm sao đưa một số hơn tám trăm người chúng tôi đi qua được?

Tử Nha nói:

– Trước kia ta làm thầy bói, ta có phép lạ trừ yêu, nay thế lại không có cách gì đưa các ngươi qua ải sao? Các ngươi cứ yên tâm, ngủ một giấc cho đến canh ba, hễ nghe có gió thổi thì nhắm mắt lại, kẻ nào mở mắt ra mang họa đừng trách ta không nói trước.

Nghĩ đến việc Tử Nha dùng phép lạ trừ yêu trước kia, dân chúng đều mừng rỡ, riu ríu nghe theo.

Qua đến canh ba, Tử Nha hướng về núi Côn Lôn quỳ lạy một hồi, rồi niệm chú. Tức thì gió dông nổi dậy, cát bụi mịt mù. Tử Nha bảo dân chúng nhắm mắt lại. Trận gió thần hốt đám dân chúng lôi đi chẳng mấy chốc đã vượt qua năm ải là: Lâm Ðồng, Ðồng Quan, Xuyên Vân, Tị Thủy và Giới Bài.

Khi đến núi Kim Kê lãnh, Tử Nha thâu phép lại, dông gió lặn yên mới bảo dân chúng mở mắt.

Dân chúng ngồi chùm nhum dưới đất nhìn nhau trong lúc trời chưa sáng.

Tử Nha nói:

– Ðây là núi Kim Kê, thuộc về nước khác, thành Tây Kỳ ở trước mặt chúng ta không xa, đợi sáng chúng ta sẽ tìm vào.

Mấy trăm đân chúng đều cúi lạy tạ ơn và nói:

– Biết ngày nào chúng tôi đáp được ơn này.

Tử Nha tỏ lời giã biệt, tìm đến chân núi Bàn Khê ẩn mặt, chờ thời, đợi vận.

Người sau có thơ khen Tử Nha:

Bỏ trốn Triều Ca lánh thị thiềng

Ðưa dân khỏi ải thật thần tiên

Gieo câu sông Vị chờ qua vận

Uống nước Bàn Khê đợi gặp duyên

Võ Kiết ra tay người chỉ ngõ

Phi Hùng ứng mộng chúa cầu hiền

Tám mươi mới đặng yên công nghiệp

Ra giúp nhà Châu sửa mối giềng

Bấy giờ nói về tám trăm dân chúng ngồi đợi sáng, khi ánh dương ló dạng, mọi người đều xem rõ cõi Tây Kỳ núi sông tươi đẹp. Ai nấy đều vui mừng, qua khỏi Kim Kê lãnh thì tới Yên Sơn. Ði đến núi Thu Hương, qua làng Bạch Liễu. Mọi người mở cơm khô ra ăn uống nước suối, đoạn đi thêm bảy chục dặm đường nữa thì đến thành Tây Kỳ. Nơi đây người thanh cảnh lịch, nước biếc non xanh, quả là một nước giàu mạnh. Dân chúng tuy đông, nhưng sống trong trật tự, người khỏe nhường người yếu, kẻ mạnh kính người già, chợ búa không tiếng cai vã, thành quách, dinh thự không có quân canh. Thật là trời Nghiêu đất Thuấn, nước Thánh vua Hiền.

Mấy trăm dân Triều Ca đến nơi làm đơn xin được tị nạn.

Quan Ðại phu Táng Nghi Sanh chấp đơn đệ vào trình với Giám Quốc Bá Ấp Khảo.

Bá Ấp Khảo xem đơn xong, truyền rằng:

– Bởi vua Trụ độc ác, không lòng thương dân, bắt dân làm xâu nặng nhọc, nên dân không chịu nổi phải lìa bỏ quê hương đến xin tị nạn. Nước ta cốt làm việc nghĩa nhân không thể từ chối được. Vì ta đối đãi với họ như dân bản xứ, kẻ nào không tiền giúp tiền, kẻ nào không lúa giúp lúa, cốt tạo cho họ một đời sống ấm no.

Táng Nghi Sanh tuân lời, đưa mấy trăm dân Triều Ca vào ở nơi nội thành, và giúp đỡ hết sức nồng hậu.

Cách đó ít hôm Bá Ấp Khảo lâm triều, bá quan ứng hầu đủ mặt, Bá Ấp Khảo nói:

– Nay vua cha bị cầm tù tại thành Dũ Lý đã hơn bảy năm, ta muốn đem lễ vật đến cống Thiên tử để chuộc tội vua cha trở về các ngươi nghĩ sao?

Táng Nghi Sanh thưa:

– Khi Chúa công ra đi có coi quẻ, thấy mình mắc nạn bảy năm, dặn Công tử ở lại Tây Kỳ chăm lo việc nước, không cho đến Triều Ca, chờ Chúa công hết nạn sẽ trở về. Nay nếu Công tử muốn tỏ tình hiếu đạo thì sai người vào Triều Ca thăm viếng cũng đủ, không nên cãi lời Chúa công đã ủy thác.

Hồi 19: Bá Ấp Khảo dâng báu vật chuộc cha

Bá Ấp Khảo than:

– Vua cha bị cầm nơi Dũ Lý đã bảy năm, không người quen thuộc viếng thăm, đạo làm con chẳng lẽ cũng mãi nơi đây sao đành, phụ vương ta có chín mươi chín người con, nay đã khôn lớn, thế mà vô dụng không giúp ích gì được cho cha già. Thôi thì ta liều thác đem báu vật của ông bà để lại đến Triều Ca dâng cho Trụ Vương chuộc tội, may Trụ Vương ham báu vật thả phụ vương ta về nước chăng?

Táng Nghi Sanh can:

– Không nên đâu. Lúc ra đi Chúa công đã dặn dò mọi việc, nay Công tử vì thương cha làm trái ý, tình thương ấy đã không làm cho Chúa công vui, còn làm cho Chúa công giận nữa là khác.

Bá Ấp Khảo nói:

– Làm vua một nước chư hầu, triều thần đông đũ, con cái hơn trăm người, lúc bị hoạn nạn không một ai gần gũi, ta không đành để phụ vương ta như vậy. Thôi ngươi chớ can gián nữa, ta đã quyết hy sinh mình ta, may chuộc tội cho phụ vương ta.

Táng Nghi Sanh không làm sao cản được, phải im lặng lui ra.

Bá Ấp Khảo vào cung kể lại ý định mình với mẹ. Bà Thái Cơ hỏi:

– Nếu con đi thăm cha con thì việc nước giao lại cho ai?

Bá Ấp Khảo thưa:

– Em con là Cơ Phát tánh tình thuần hậu, khí tiết chói ngời, có thể thay con lo việc nước rất dễ. Vả lại trong triều việc văn đã có Táng Nghi Sanh, việc võ đã có Nam Cung Hoát, con chẳng còn phải bận tâm. Con đi chuyến này nếu may mắn con sẽ cứu phụ vương con khỏi vòng lao lý, còn rủi con có bề nào cũng chẳng hại gì cho giang sơn Tây Kỳ này cả.

Bà Thái Cơ thấy Bá Ấp Khảo đã quyết lòng, không dám can ngăn liền dặn dò:

– Con có đi thì mọi việc phải cẩn thận lắm mới được.

Bá Ấp Khảo lạy mẹ bước ra, đến dinh Cơ Phát tự tình:

– Em ơi! Nay anh định vào Triều Ca dâng báu vật chuộc tội cho phụ vương, em phải ở nhà thay mặt anh lo việc trị nước. Công việc trong nước anh đã xếp đặt xong, với tài trí của em, anh không còn lo lắng gì nữa.

Cơ phát hỏi:

– Anh định đi bao lâu thì trở về?

Bá ẤpKhảo nói:

– Lâu lắm là ba tháng. Nếu công việc không có gì trắc trở thì hai tháng rưỡi anh về đến.

Hai anh em tâm sự một hồi, Bá Ấp Khảo từ giã Cơ Phát trở về cung, chọn ngày tốt khởi hành.

Ba ngày sau, Bá Ấp Khảo lên đường, chín mươi tám người em và triều thần đều tựu đến đủ mặt, đưa đón, Bá Ấp Khảo tỏ lời cảm ơn. Nhìn quê cũ, rồi lên yên từ giã Tây Kỳ. Ðàng trước có cờ hiệu, đàng sau quân sĩ khiêng lễ vật hộ tống. Tuy là một cuộc ra đi không lấy gì quan trọng, nhưng lòng hiếu đạo của Bá Ấp Khảo làm cho dân chúng Tây Kỳ ai nấy đều cảm mến.

Ðoàn người trải gió dầm sương, đi một thời gian mới đến ải Tị Thủy. Quân giữ cửa vào thưa với quan trấn ải là Hàn Vinh, Hàn Vinh lập tức hối quân mở cửa ải đón tiếp.

Bá Ấp Khảo qua năm ải như vậy mới qua sông Huỳnh Hà, đến Mạnh Tân. Nơi đây Ấp Khảo ngồi thuyền vượt sóng sang sông, rồi đi một thời gian nữa mới đến Triều Ca.

Bây giờ gặp lúc trời tối, Bá Ấp Khảo phải vào ở đỡ nơi trại Hoàng Hoa, mai sáng mới đến dinh Thừa Tướng tìm gặp Tỉ Can.

Rủi thay, Tỉ Can đi vắng đã năm ngày, Bá Ấp Khảo lóng nhóng mãi, tuy vậy Bá Ấp Khảo vẫn không lấy thế làm buồn lòng.

Ngày kia, Bá Ấp Khảo đang đứng ngoài cửa dinh chờ đợi, bỗng nghe tin Tỉ Can về, Bá Ấp Khảo vội vã quỳ xuống nghênh đón.

Tỉ Can giục ngựa về đến thấy Bá Ấp Khảo liền hỏi:

– Tướng quân là ai?

Bá Ấp Khảo nói:

– Tôi là con trai của Cơ Xương, tên Bá Ấp Khảo, từ Tây Kỳ đến đây xin ra mắt Thừa Tướng.

Tỉ Can nghe nói vội xuống ngựa đỡ Bá Ấp Khảo dậy, hai người cùng đứng ngang nhau nói chuyện, Tỉ Can hỏi:

– Công tử từ Tây Kỳ sang đây có việc chi?

Bá Ấp Khảo nói:

– Cha tôi bi Thiên tử kết tội, cầm nơi Dũ Lý nay đã bảy năm, tuổi tác đã già, không được hưởng cảnh thanh nhàn, thật đau xót. Tôi thiết tưởng trời có khi nắng khi mưa, Thiên tử sao khỏi có lúc vui 1úc buồn. Ðạo làm con lấy hiếu làm trọng, nên tôi không nài khó nhọc, không sợ oai búa rìu, đem ba báu vật từ Tây Kỳ đến đây yết kiến Thừa Tướng, nhờ Thừa Tướng tìm cách tâu với vua tha cho cha tôi được đem nắm xương tàn về xứ thì ơn của Thừa Tướng, cha con tôi suốt đời không dám phụ.

Tỉ Can hỏi:

– Công tử đem vật gì đến cống sứ?

Bá ấp Khảo thưa:

– Tôi có ba vật báu tổ truyền là xe Thất Hương, nệm Tỉnh Tửu, và con vượn bạch, mặt tợ da người. Ngoài ra tôi còn chọn thêm năm cặp mỹ nữ dẫn đến đây nữa.

Tỉ Can hỏi:

– Gái đẹp thì ta đã biết ở Tây Kỳ không thiếu gì, nhưng ba món bửu bối kia có gì quí?

Bá Ấp Khảo nói:

– Ba vật báu di lưu từ đời ông thủy tổ chúng tôi tức là ông Ðăng Phù. Như Thất Hương xa là xe của vua Huỳnh Ðế dùng để vượt Bắc Hải đánh giặc Xi Vưu, kẻ nào dùng xe ấy thì chẳng cần người đẩy, hễ muốn đi đâu xe ấy tự động đi ngay. Còn Tỉnh Tửu chiên là nằm giã rượu. Lúc đang say mà nằm trên nệm ấy thì tức khắc tỉnh liền. Lại như con vượn bạch, mặc dù loài thú, nhưng thông minh đáo để, nó thuộc hơn tám trăm bản đàn, biết ba ngàn bài hát tiếng ca nó lảnh lót như tiếng chim, trong lúc yến tiệc nó vừa múa vừa hát trên bàn tay, dịu dàng như một cành liễu.

Tỉ Can nghe nói cau mày:

– Ba báu vật ấy trên đời này hiếm có thật, song Công tử đem đến đây cống sứ ta thấy chẳng vui.

Bá Ấp Khảo hỏi:

– Vì sao Thừa Tướng dạy như vậy?

Tỉ Can nói:

– Trụ Vương lâu nay ham tửu sắc, không kể đến xã tắc, suốt ngày đêm đờn ca múa hát, tìm thú vui để trốn mặt quần thần. Nước mất nhà tan cũng vì vậy. Nay Công tử lại đem đến những món phụ họa vào thú tiêu khiển của vua thì cơ nghiệp nhà Thương càng sớm tiêu tan hơn nữa.

Bá Ấp Khảo nghe nói thở dài:

– Nếu không có báu vật làm cho vua thích thì không bao giờ vua chịu tha tội cho cha tôi, xin Thừa Tướng rộng lòng, nghĩ lại…

Tỉ Can nói:

– Làm tôi phải thấy trước những tai hại mà can vua. Lẽ ra ta không chấp nhận những báu vật này, nhưng thấy Công tử là người chí hiếu, từ ngàn dặm đến đây chuộc tội cho cha, lẽ nào ta không giúp. Thôi, hãy theo ta vào đền, ta tâu giúp cho.

Bá Ấp Khảo lạy tạ, theo Tỉ Can đến trước đền Trích Tinh.

Huỳnh Môn quan trông thấy vào báo.

Trụ Vương kêu lên lầu phán hỏi:

– Ta không có lệnh đòi, sao Thừa Tướng tự ý vào đây?

Tỉ Can tâu:

– Nay có con trai Cơ Xương là Bá Ấp Khảo đem dâng ba vật báu chuộc tội cho cha, nên tôi phải dẫn vào ra mắt.

Trụ Vương hỏi:

– Bá Ấp Khảo dâng báu vật gì?

Tỉ Can liền trao tờ sớ của Bá Ấp Khảo cho Trụ vương xem. Trụ vương lập tức đòi Bá ấp Khảo lên lầu.

Bá Ấp Khảo quì mọp dưới sàng, tâu:

– Tôi là Bá Ấp Khảo, con kẻ phạm tội, xin chúc Bệ hạ sống lâu muôn tuổi.

Trụ Vương nói:

– Cơ Xương nghịch mạng nên bị trẫm làm tội, nay ngươi đem báu vật đến dâng quả là con chí hiếu đó.

Bá Ấp Kbảo tâu:

– Cha tôi phạm tội, Bệ hạ không giết lại đày nơi Dũ Lý, ơn ấy cha con tôi ghi nhớ muôn đời. Vậy tôi xin dâng chút vật mọn, nhờ bệ hạ mở lòng thương cho phép cha tôi được đem nắm xương tàn về cố quốc.

Nói đến đây, Bá Ấp Khảo khóc òa.

Trụ vương nghe tiếng khóc của người con chí hiếu cũng phải động lòng, liền truyền Bá Ấp Khảo đứng dậy.

Bá Ấp Khảo lạy tạ rồi cúi đầu đứng hầu dưới các.

Lúc ấy, Ðắt Kỷ núp trong rèm nhìn ra thấy Bá Ấp Khảo răng ngọc môi son, mày tằm mắt phụng, gương mặt sáng rở; giọng nói thanh tao, liền truyền thế nữ khoác rèm châu, bước ra xem cho rõ mặt.

Vua Trụ liền nói với Ðắt Kỷ:

– Ái khanh ơi! Nay có Bá Ấp Khảo, con trai của Tây Bá Hầu đến đây dâng báu vật chuộc tội cha. Người này rất hiếu hạnh.

Ðắt Kỷ tâu:

– Thần thiếp nghe tiếng Bá Ấp Khão ở Tây Kỳ đàn hay lắm, trên đời này có một không hai.

Vua Trụ gạn hỏi:

– Sao ái khanh biết?

Ðắt Kỷ tâu:

– Lúc thần thiếp còn ở Ký Châu, tuy phận gái không bước khỏi khuê môn, nhưng tiếng đồn dội vào cung cấm. Trên đời, hễ có mùi hương sao khỏi gặp gió thoảng. Nay muốn biết tiếng đồn ấy đúng hay không xin bệ hạ truyền Bá Ấp Khảo đờn thử thì biết.

Vua Trụ truyền Bá Ấp Khảo ra mắt Chánh cung. Ấp Khảo tuân lệnh quì lạy Ðắt Kỷ.

Ðắt Kỷ nói với Bá Ấp Khảo:

– Thiên hạ đồn khanh có nghề cầm ca tuyệt diệu, vậy thì đờn vài bản cho ta nghe được chăng?

Bá Ấp Khảo nói:

– Xin Chánh cung tha tội cho tôi. Tôi trộm nghe làm con gặp lúc cha mẹ có bệnh ăn chẳng biết mùi, nay cha tôi mắc tội, bị đày nơi Dũ Lý, tôi làm con nào vui sướng gì mà khảy đờn cầm, vì vậy lúc này lòng tôi đang bối rối như tơ vò, việc chọn cung lựa ngón khó đúng được. Tôi e đờn lỗi nhịp mang tội khi quân.

Trụ Vương nghe nói, mỉm cười phán:

– Bá Ấp Khảo, ngươi chớ lo. Trong lúc ngươi đang rối lòng rnà đờn được một bản cho thật hay thì trẫm sẽ tha tội cho cha ngươi về nước.

Bá Ấp Khảo mừng rỡ quá không còn e đè gì nữa, bao nhiêu hứng thú nổi lên trong lòng người trai trẻ. Vua Trụ truyền nội thị đem cây đàn cầm đến, Bá Ấp Khảo tiếp lấy, ngồi xếp bằng trên sàng để cây đàn trên đầu gối, so dây chọn tiếng.

Tiếng đàn lảnh lót, cất lên khúc nhạc vui tươi.

Cành dương dùi dụi gió rung rung

Ðào quế đơm bông ửng sắc hồng

Hoa cỏ bên đường như rải gấm

Ðiểm trang xe cộ khắp Tây, Ðông.

Bá Ấp Khảo đờn xong bản nhạc mà hơi đàn chưa dứt, âm thanh vang vang như tiếng trúc thiên thai, gieo vào lòng người tục.

Vua Trụ miên man, quay lại nói với Ðắt Kỷ:

– Thiên hạ đồn không sai. Bá Ấp Khảo với tài đờn cầm trên đời này chỉ có một.

Ðắt Kỷ mỉm cười tâu:

– Nếu không bảo va trổ tài làm sao thấy được tài năng?

Vua Trụ truyền nội thị dọn tiệc trên lầu thết đãi. Trong lúc đó Ðắt Kỷ lén xem trộm dung nhan, thấy Bá Ấp Khảo rõ ràng nước da như tuyết nhuộm, gương mặt tợ trăng rằm, thân mình tròn trịa, hình vóc trẻ măng, so với Trụ Vương ngày nay thì Trụ Vương hàm râu đã quăn riết, da thịt khô cằn, thân hình tóp vì khí lực không còn bao nhiêu nữa.

Trụ Vương là một vì vua, có nhiều quí tướng nhưng ham mê sắc dục gần gũi Ðắt Kỷ quá nhiều, nên ngày nay thân thể ra thế ấy.

Ðắt Kỷ là loài hồ mi, chê tre già, ham măng tươi, thầm nghĩ:

– Con người khỏe mạnh, tươi đẹp thế kia, nếu ta không tìm cách chung tình thì đời ta còn gì sung sướng. Ta mượn kế cầm Bá Ấp Khảo ở lại dạy đờn đem rơm để gần lửa, thế nào cũng toại nguyện.

Nghĩ như vậy, Ðắt Kỷ tâu với Trụ vương:

– Nay Bệ hạ tha cho cha con Tây Bá Hầu về nước thì ơn ấy có thể cảm hóa muôn người. Chỉ tiếc bản đàn cầm hay ho của Bá Ấp Khảo vừa rồi chúng ta không còn bao giờ được nghe nữa.

Trự Vương nói:

– Thật ra trẫm cũng tiếc lắm, nhưng không biết phải làm sao bây giờ.

Ðắt Kỷ nói:

– Thần thiếp có một cách làm vẹn cả đôi bên.

Trụ vương hỏi:

– Ái khanh có cách gì vậy?

Ðắt Kỷ nói:

– Xin bệ hạ lưu Bá Ấp Khảo lại ít ngày, chờ thần thiếp học xong bản đàn cầm ấy sẽ cho cha con Tây Bá Hầu về nước. Như vậy thần thiếp có thêm được một nghề nữa để hầu bệ hạ.

Trụ vương nghe nói vuốt lưng Ðắt Kỷ khen:

– Ái khanh thông minh lắm mới nghĩ ra cách ấy. Trước sau cha con Tây Bá cũng được về nước thì lưu lại ít ngày có hại gì.

Ðắt Kỷ nũng nịu:

– Thần thiếp học bản đàn này vì bệ hạ chứ không phải vì thần thiếp mong muốn đâu.

Trụ Vương cười âu yếm:

– Ái khanh vì trẫm cố gắng học cho thật rành, để sau này đàn hát cho trẫm thưởng thức. Ngón đờn ấy mà vào tay ái khanh, trẫm tin chắc còn hấp dẫn hơn nữa. Nhưng chẳng hay khúc đàn ấy gọi là gì vậy?

Ðắt Kỷ nói:

– Ðó là bản “phong nhập tòng” đồ.

Trụ Vương khoái chí:

– Bản nhạc gió thổi vào cụm tòng hèn chi nghe êm tai là phải.

Dứt lời Trụ Vương liền truyền chỉ, lưu Bá Ấp Khảo ở lại trong cung dạy đờn Ðắt Kỷ.

Ðắt Kỷ mừng thầm, tính dùng kế phục rượu Trụ vương cho say mèm để tiện bề làm chuyện mưa Sở mây Tần, nên khiến quân bày tiệc rượu, mời hôn quân vào trong dự yến.

Trụ vương ngỡ thật, có ngờ đâu lương tâm loài hồ ly quen thói nguyệt hoa. Vào tiệc, Ðắt Kỷ rót rượu ép mời Trụ Vương mãi, Trụ vương vị tình uống đến không còn biết gì trời nghiêng đất ngửa nữa.

Ðắt Kỷ truyền cung nhân bồng nhà vua để nằm nơi long sàng, rồi khiến quan Thái giám đem đến hai cây đờn cầm trao cho Bá Ấp Khảo một cây, và nói:

– Công tử đã có lệnh Thiên Tử, vậy thì mau mau truyền lại bản nhạc cho ta để được mau về nước.

Bá Ấp Khảo tuân lệnh cầm đàn ngồi dưới sàn, và nói:

– Xin Hoàng hậu nghe cho rõ: đờn cầm có sáu luật, năm tiếng, lại có sáu điều kỵ, và bảy diều không nên đờn.

Ðắt Kỷ nói:

– Sáu luật năm tiếng thì ta đã có nghe, còn sáu điều kỵ thì ta chưa hiểu.

Bá Ấp Khảo nói:

– Sáu điều kỵ gồm có:

1) Nghe khóc kể

2) Mình rơi lụy

3) Mắc lo lắng

4) Ðang giận hờn

5) Ðang kinh hăi

6) Tưởng việc tà

Sáu điều này phải kiêng cữ.

Ðắt Kỷ lại hỏi:

– Còn bảy điều không dám đờn là bảy điều gì?

Bá Ấp Khảo nói:

1) Mưa vạy gió may

2) Có tang than khóc

3) Áo mão chẳng ngay

4) Say rượu rối trí

5) Nhơ uế không sạch

6) Chẳng xông huơng là khinh lờn

7) Không kẻ biết nghe là tục.

Bảy điều ấy chẳng nên đờn. Bởi đờn cầm là tiếng chánh, xưa cho ra là ngăn cấm lòng tà, chẳng phải như các món nhạc khác muốn đờn cách nào cũng được.

Ðắt Kỷ nghe Bá Ấp Khảo giảng giải ngồi mỉm cười không nói.

Bá Ấp Khảo so dây lấy giọng, rồi nói tiếp:

– Xin chánh hậu coi theo đây mà tập.

Tiếng đàn vừa khảy lên, nghe rẻo rắc, bổng trầm, khiến cảnh vật xung qnanh biến thành huyền ảo. Ai nghe thấy đàn cũng mê man tâm thần đường đang thoát tục, đuy có Ðắt Kỷ lòng chứa tà ma, không có ý nghe đờn, chỉ lo giỡn mặt, vì vậy Ðắt Kỷ làm bộ mắc cỡ, liếc mắt cười duyên, nhìn Bá Ấp Khảo chăm chăm như mưốn ăn tươi nuốt sống. Bá Ấp Khảo là đứa con chí hiếu, đường xa ngàn dậm, một thân lặn lội đến Triều Ca, cố tìm cách chuộc tội cha già, lòng như sắt đá, lo gì nghĩ bướm ong, do đó, Bá Ấp Khảo không hề ngẩng nhìn Ðắt Kỷ, chỉ lo dạy cho mau rồi.

Ðắt Kỷ làm đủ mánh khóe dâm tà, Bá Ấp Khảo vẫn không để ý.

Ðắt Kỷ thấy phương pháp ấy không thành, gọi Bá Ấp Khảo nói:

– Ông thầy này dạy khó lắm! Vả lại tiếng đàn vừa nghe đã muốn điên, nếu không mượn rượu mạnh để trấn tĩnh tinh thần thì không thể học cho thuộc được.

Nói rồi khiến cung nữ bày tiệc để cùng Bá Ấp Khảo vui vầy.

Bá Ấp Khảo nói:

– Xin Chánh hậu tha cho tôi khỏi hầu tiệc.

Ðắt Kỷ nhất thiết không nghe, gọi cung nữ nhắc ghế để bên mình, truyền Bá Ấp Khảo ngồi dự.

Bá Ấp Khảo thất kinh, thưa:

– Tôi là con kẻ có tội, được Chánh cung tha không giết là may còn Chánh cung là bậc mẫu nghi, mẹ chung thiên hạ, tôi đâu dám vô lễ.

Ðắt Kỷ nói:

– Ngươi nghĩ sai rồi. Cứ như đạo vua tôi thì ngươi chẳng thể cùng ta ngồi chung được, nhưng xét về nghĩa thầy trò, ta với ngươi ngồi chung một bàn có sao đâu?

Bá Ấp Khảo cúi đầu thầm nghĩ:

– Con này chứa tà dâm, muốn làm cho ta mất nhân đức. Ta dòng dõi ông Hậu Tắc xưa phò tá vua Nghiêu truyền lại mấy đời, rạng danh trung nghĩa, lẽ đâu chiều đứa lăng loàn lỗi nghĩa tôi chúa. Ta nói thiệt dù có chết cũng phải chết cho thơm danh, không để nhục dòng họ Cơ mấy đời trung liệt.

Nghĩ như vậy, Bá Ấp Khảo cứ cúi mặt nhìn xuống đất không chịu vào tiệc, Ðắt Kỷ thấy Bá Ấp Khảo chắc gan như vậy không làm gì được, liền nghĩ:

– Ta đã cố tình đeo đuổi, nhưng nó quá dại khờ, không biết thưởng thức những gì tinh hoa vũ trụ. Thôi, để ta tìm kế khác, dắt lửa gần rơm, thì dù tiên phật cũng không thể gìn lòng son sắt nổi.

– Bá Ấp Khảo hãy đứng dậy. Khanh không muốn dự tiệc thì phải dạy đờn.

Bá Ấp Khảo vâng lời, cầm đàn dạy như trước.

Giây lâu Ðắt Kỷ lại nói:

– Không xong rồi. Ta thấy khó học lắm. Khanh ngồi đưới đất ta ở trên cao, ngón đờn đã không thấy rõ, tiếng nhạc lời giảng đi. Khanh hãy đến ngồi gần ta thì ta mới học mau thuộc.

Bá Ấp Khảo nói:

– Xin Chánh hậu chớ nóng lòng, cứ tập lâu sẽ thuộc.

Ðắt Kỷ nói:

– Không! Khanh phải đến ngồi sau lưng choàng tay chỉ ngón, làm được như vậy chỉ trong khoảnh khắc ta thuộc ngay. Nếu cứ kéo dài tình trạng thế này, sáng mai Thiên tử hỏi lại ta không thuộc chút nào không khỏi bị quở trách.

Bá Ấp Khảo hồn vía lên mây, thầm nghĩ:

– Ta đã đem thân vào hang cọp rồi, bề nào cũng bị diệt vong. Thôi thà chết trong sạch còn hơn sống nhục.

Nghĩ rồi cất giọng phân trần:

– Nếu Chánh hậu dạy như vậy tôi thà chết chẳng đám vâng lời. Chánh hậu là bậc mẫu nghi, tiếng tăm rất trọng, lẽ nào vì chuyện học đờn tiểu tử mà để thiên hạ cười chê. Dầu Chánh hậu có trong sạch tận đâu mà hành động như vậy sử sách đời sau cũng không thể bỏ qua, ghi lại những vết nhơ trong cung điện. Xin Chánh hậu nghĩ lại sửa mình.

Ðắt Kỷ bị Bá Ấp Khảo dùng lời ngay nhục mạ, mặt sượng sùng ngồi chết điếng. Biết mình có lỗi Ðắt Kỷ không nói nữa, chỉ thở dài một hơi, rồi nói:

– Thôi ngươi hãy lui về nghỉ.

Bá Ấp Khảo tuân lệnh, xuống lầu trở về quán dịch.

Ðắt Kỷ cau đôi mày liễu, nét hoa ủ rũ, nửa giận nửa hờn, ngồi trước đèn thầm nhủ:

– Hoa đã sẳn lòng chờ bướm, bướm không đoái tưởng đến hoa. Nếu chẳng vừa lòng thì thôi, nó lại lên mặt dạy đời nói nhiều câu vô lễ. Ta phải làm cho nó nát thịt tan xương, nó mới thấy cái khôn của nó.

Buồn bã một lúc, Ðắt Kỷ nghiến răng chui vào long sàng nằm ngủ với vua Trụ.

Sáng hôm sau, vừa mở mắt vua Trụ đã hỏi:

– Ðêm hôm ái khanh học đờn dã thuộc câu nào chưa.

Ðắt Kỷ sụt sùi bên gối tâu:

– Bá Ấp Khảo không cố ý dạy đờn, tỏ nhiều cử chỉ trêu hoa nghẹo nguyệt, thần thiếp thấy vậy không muốn học nữa.

Vua Trụ nghe nói nổi giận trợn mắt vểnh râu, mắng:

– Loài thất phu! Ta đã không giết, ban ân cho còn dám ý khi quân sao?

Lập tức ngồi dậy, truyền quan thị thần đến quán dịch đòi Bá Ấp Khảo.

Bá Ấp Khảo tuân lệnh thẳng đến lầu Trích Tinh ra mắt vua Trụ.

Vua Trụ hỏi:

– Sao ngươi dạy đờn không hết lòng, cố dần dai cho mất thì giờ vậy?

Bá ấp Khảo tâu:

– Phép học đàn cầm chẳng có gì khó chỉ cần người học phải đứng đắn, chuyên cần.

Ðắt Kỷ sợ Bá Ấp Khảo nói toạc ra câu chuyện đêm vừa rồi, vội ngăn đón:

– Nếu ngươi cố tình chỉ dạy thì ta thông hiểu rồi. Bởi ngươi nói không rành rẽ, còn nghe đờn cầm ta chưa biết nên không hiểu nổi.

Vua Trụ nghĩ đến cử chỉ Bá Ấp Khảo trêu chọc Ðắt Kỷ đêm vừa rồi tức giận lắm, song không thể nào mở miệng nói thẳng được, liền truyền Bá Ấp Khảo đờn ca một bản, nếu lời ngay lẽ chánh thì thôi, bằng có ý tà bậy sẽ vịn vào đó để trị tội.

Bá Ấp Khảo tuân lời, ngồi dưới sàn so phím, vừa đàn vừa hát lên một bản, dụng ý thanh minh tiết liệt của mình.

Bản hát:

Một tấm lòng ngay chói thấu trời

Cầu cho Hoàng thượng sống muôn đời

Mưa hoà gió thuận muôn dân thạnh

Một mối giang san chẳng đổi dời.

Vưa Trụ nghe tiếng đàn trong vắc, chứa đựng lời ngay ý thẳng chẳng chút tà tâm. Lòng vua bắt đầu khuây khỏa, bao nhiêu hờn giận bỗng tan biến hết.

Ðắt Kỷ thấy Trụ Vuơng ngồi làm thinh hiểu ngay tiếng đờn Bá Ấp Khảo đã chấn chỉnh được lòng vua, liền tìm một kế khác, đến tâu với Trụ Vương:

– Bá Ấp Khảo có dâng một con vượn bạch biết múa hát rất hay sao bệ hạ không cho thần thiếp xem thử?

Vua Trụ nghe nói nhớ lại, bảo Bá Ấp Khảo:

– Hồi hôm trẫm mải nghe đờn, quên con vượn bạch. Bây giờ ngươi đem nó đến đây ca múa một bài xem hay dở.

Bá Ấp Khảo tuân lệnh trở về quán dịch xách lồng vượn bạch đem đến trước mặt Trụ Vương mở ra.

Con vượn bạch ra khỏi lồng ngồi bẹp dưới sàn.

Bá Ấp Khảo trao cặp sanh, khiến nó hát.

Con vượn Vừa nhịp vừa ca, tiếng như tiêu thiều, hơi nghe lảnh lót, giọng cao như phượng gáy giọng thấp như loan kêu, khiến ngươi tỉnh cũng phải mơ, trẻ khóc cũng phải nín. Người lo lắng nghe tiếng hát thì vui vẻ, kẻ buồn rầu nghe tiếng hát cũng mỉm cười. Trụ Vương nhìn mê man, Ðắt Kỷ say sưa đến gục đầu, bọn cung nữ mừng vui quá sức, cả chốn cung vi yên lặng như tờ, chỉ có tiếng hát và tiếng sanh của vượn bạch lúc ngân dài, lúc trầm bổng mà thôi.

Vì quá say sưa Ðắt Kỷ không giữ mình, tâm hồn như ngây như dại, khiến khí yêu xuất ra. Con vượn bạch là giống vật đã sống trên ngàn năm, hai con mắt như mạ vàng, hai tròng như hai than lửa đỏ coi thấu loài yêu ma. Lúc đang ca hát, vượn bạch thoáng thấy con hồ ly ngồi bên Trụ Vương, liền nhảy chồm đến chụp.

Ðát Kỷ giật mình nhảy trái sang một bên, trong lúc ấy Trụ vương lanh tay, giật lấy cây bửu kiếm bên vách đâm vượn bạch một nhát lòi ruột chết ngay.

Cung nga đỡ Ðắt Kỷ dậy. Ðắt Kỷ giận đỏ mặt tâu với Trụ vương:

– Bá Ấp Khảo đem con vượn này theo làm thích khách. May mà bệ hạ giết nó được, nếu không tánh mạng thần thiếp không còn.

Trụ Vương hơi giận chưa nguôi, truyền tả hữu lôi Bá Ấp Khảo xuống Sái Bồn cho rắn xé xác.

Bá Ấp Khảo la lớn:

– Hạ thần nào có tội gì. Bệ hạ giết rất oan ức.

Vua Trụ nạt:

– Ngươi đem con vượn bạch theo vào cung suýt hại mạng Chánh cung, tội ấy đã rõ ràng sao còn kêu oan?

Bá Ấp Khảo nói:

– Con vượn là loài thú, thích ăn trái cây, thấy trên bàn có nhiều quả ngon nên nhảy đến ăn, đâu phải cố ý làm hại Hoàng hậu. Xin bệ hạ xét lại. Vả chăng, tôi mong ơn Bệ hạ tha tội cho cha tôi, nay mai cha con tôi được về xứ, ơn ấy ngàn ngày chẳng quên lẽ nào tôi lại tính chuyện thí quân để mang hại vào thân.

Vua Trụ nghe Bá Ấp Khảo nói cũng có lý, liền đổi giận làm vui, quay lại nói với Ðắt Kỷ:

– Chánh cung. Lời Bá Ấp Khảo cỏ vẻ ngay thẳng lắm, ái khanh chớ nên nghĩ lầm.

Thấy Ðắt Kỷ làm thinh. Bá Ấp Khảo vội quỳ lạy tạ ơn Trụ Vương.

Ðắt Kỷ liếc nhìn Vua, tâu:

– Lòng người nham hiểm khó lường. Nếu muốn biết ngay gian xin Bệ hạ truyền Bá Ấp Khảo đờn ca một bài, xem tiếng nhạc có thực tình ngay thẳng hay không thì biết.

Trụ vương nói:

– Phải! Ái khanh định như vậy rất minh, vì tiếng đàn bao giờ cũng xuất phát từ tâm trạng con người. Nói rồi truyền Bá Ấp Khảo đờn ca một bản nữa.

Bá Ấp Khảo thở dài, nhủ thầm:

– Thân ta đã vào chốn hang hùm nọc rắn. Ðắt Kỷ đã cố tình hãm hại thì dù có giữ mình cách nào cũng không khỏi chết. Chi bằng lấy lời ngay can vua, để cái chết được rạng đanh còn hơn.

Nghĩ rồi liền bấm phiến vừa đờn vừa ca lên một bản:

Vua sáng thì đức rộng thênh thênh

Vua tối thì dùng nhiều cực hình…

Chế Bào Lạc đốt xương thịt cháy

Lập Sái Bồn nuôi rắn sát sinh…

Thâu thuế dân cho rừng thịt kia ngùn ngụt

Vét của tiền cho ao rượu nọ mênh mông.

Lập đài cao tốn máu xương bá tánh

Làm cầu lớn đau đớn dân tình…

Xin vua minh, việc chính sửa mình

Ðuổi tôi nịnh, xa bề tửu sắc.

Bá Ấp Khảo đờn xong mà vua Trụ ngẩn ngơ vì tiếng nhạc, nghe không kịp.

Ðắt Kỷ chỉ vào mặt Bá Ấp Khảo mắng:

– Ngươi là đứa lớn mật, dám mượn tiếng đàn tiếng hát mắng vua tội chết đã đành, đừng kêu oan ức.

Trụ Vương hỏi Ðắt Kỷ:

– Trong bản nhạc có gì khi quân, trẫm nghe không rõ.

Ðắt Kỷ giải nghĩa từng chữ. Trụ vương giận lắm, liền truyền bắt Bá Ấp Khảo ném xuống Sái Bồn.

Bá Ấp Khảo tâu:

– Tôi còn một bản nhạc rất hay, trước khi chết tôi muốn gảy hầu bệ hạ.

Nói rồi, đờn tiếp một bản nữa. Bản đàn ấy như sau:

Xin vua lánh sắc, giử đạo can thường

Xa chánh cung mới tránh được tai ương

Dứt khí chư hầu tùng phục

Hết dâm tà thì xã tắc quật cường

Ấp Khảo chết có cần gì thân xác

Giết hồ ly mới giữ đạo quân vương

Hát vừa dứt tiếng thì Bá ấp Khảo cầm đờn phang vào mặt Ðắt Kỷ.

Ðắt Kỷ đã để ý trước nên tràn qua một bên né khỏi, cây đờn rơi vào một chồng ly ngà chén ngọc vỡ tan tành.

Mấy tên cung nga vội chạy lại đỡ Ðắt Kỷ dậy.

Trụ vương giận quá hét lớn:

– Quân khốn kiếp! Lúc nãy con vượn thích khách người tìm lời chối quanh, bây giờ đến việc ngươi ám sát Chánh hậu, tội ấy ngươi còn chối đi đâu nữa?

Nói rồi truvền cung nhân bắt Bá Ấp Khảo xô xuống hầm rắn.

Ðắt Kỷ tâu:

– Bá Ấp Khảo hai lần muốn giết thần thiếp tội ấy xin giao cho thiếp gia hình.

Trụ vương y lời, giao Bá Ấp Khảo cho Ðắt Kỷ tùy ý trả thù.

Ðắt Kỷ truyền lấy bốn cây đinh lớn, đóng hai tay hai chân Bá Ấp Khảo lên một cây cột, lột hết áo quần, xẻo từng miếng thịt. Bá Ấp Khảo không hề nói một tiếng đành cắn răng cho đến hơi thở cuối cùng.

Trong lúc đó, Ðắt Kỷ rất hài lòng, vì đã trả thù được kẻ làm nhục mình.

Thương hại cho một kẻ tận trung tận hiếu chỉ trong nửa tiếng đồng hồ đã trở thành bộ xương trắng hếu.

Trụ Vương truyền đem thịt xương của Bá Ấp Khảo ném xuống Sái Bồn cho rắn độc ăn.

Ðắt Kỷ cản lại:

– Tôi nghe người ta đồn Tây Hầu Cơ Xương là ông Thánh biết rõ đường họa phước, thông hiểu mọi âm dương. Nay thần thiếp dùng thịt này làm bánh cho ngon, bệ hạ sai người đem tặng. Nếu Cơ Xương không biết, ăn thịt con thì Cơ Xương chỉ là kẻ phàm phu tục tử, không có gì đáng kể, bệ hạ tha tội cho về nước để được tiếng nghĩa nhân. Còn nếu Cơ Xương quả biết thịt con mà không ăn, thì Bệ hạ cũng nên giết phứt đi để trừ hậu họa.

Vua Trụ nói:

– Ái khanh là người cơ trí, nói rất hiệp ý trẫm.

Liền truyền đem thịt Bá Ấp Khảo làm bánh đưa sang tặng Tây Bá Hầu.

Hồi 20: Táng Nghi Sanh mua lòng bọn nịnh

Nói về Tây Bá Hầu bị cầm nơi Dũ Lý đến nay đã bảy năm, thường ngay đóng cửa làm sách Diệc là loại sách về bói toán, có ý truyền lại đời sau. Nhân khi rảnh, Tây Bá đem đàn ra khảy, nghe tiếng đàn kêu chan chát, biết có việc chẳng lành, liền cất đàn lấy tiền ra gieo quẻ.

Sau khi bói xong, Tây Bá khóc và than:

– Ôi con ta đã bỏ mạng rồi! Bởi không nghe lời ta nên phải mang hại. Giờ đây, nếu ta không ăn thịt con thì chết, bằng ăn thịt con thì nuốt sao vô. Lời xưa có nói: “Hùm dữ cũng chẳng ăn thịt con”. Ta chưa phải là loài cầm thú!

Than thở một lúc, Tây Bá oán trách kẻ đã bày mưu độc, khiến cha con phải đành mang tiếng bất nhân.

Buồn quá, Tây Bá lấy viết mực ra làm một bài thơ điếu như sau:

Muôn dặm đến Triều Ca

Một mình đi viếng cha

Chưa vào thành Dũ Lý

Trước túi chốn chương tòa

Quyết ném đờn trừ quỉ

Ðành liều mạng, hóa ma

Măng khô tre thảm thiết

Thương trẻ động lòng già

Tây Bá Hầu viết bài thơ ngũ ngôn, ai nấy đều không hiểu.

Bỗng có Thiên sứ đến, Tây Bá Hầu mừng rỡ ra chào. Thiên sứ nói:

– Bệ hạ thấy hiền hầu bị giam cầm đã lâu nên đem lòng thương sót nay săn được ít thịt nai, gởi đến hiền hầu một thố, hiền hầu dùng đỡ gọi là tình vua tôi.

Tây Bá lạy tạ và nói:

– Nhờ ơn Thiên tử cho bánh thịt nai, tôi xin cầu chúc bệ hạ sống muôn năm ngõ đặng trị vì bốn biển.

Lạy rồi lấy ba chi bánh ăn. Sứ thần thấy vậy cười thầm:

– Ai cũng đồn Tây Bá Hầu xem quẻ như thần, đoán việc như Thánh, té ra ăn thịt con mà không biết.

Tây Bá vương nói với Thiên sứ:

– Tôi không dám đến lạy tạ, vì là kẻ có tội, xin ngài thương tình tâu giùm rằng tôi khao khát bấy lâu được Bệ hạ ban vật quí.

Nói rồi giã từ, Thiên sứ ra về.

Người sau có bài thơ như vầy:

Từ thuở dời chân dặn rõ ràng

Ðừng thăm mà mắc họa liên can

Những ngờ dâng lễ tìm đầu bạc

Hay nói liều thân xuốnq suối vàng

Gián Chúa dạn dày gan bảy lá

Thương con chan chứa lụy đôi hàng

Hồn oan theo gió còn linh hiển

Sử sách đề tên để thế gian.

Tây Bá Hầu ăn bánh rồi buồn bã vào phòng ngủ.

Bấy giờ Trụ Vương đang đánh cờ với Bí Trọng, Vưu Hồn, tại đền Hiển Ðức, xảy thấy thiên sứ bước vào tâu việc Tây Bá Hầu ăn hết bánh và tạ ơn.

Vua Trụ nói với Bí Trọng:

– Ta nghe đồn Tây Bá bói hay, trăm quẻ không sai một, nay ăn thịt con mà không biết, thế thì không phải là Thánh. Trẫm nghĩ lại cầm tù Cơ Xương đã gần bảy năm, nay cũng nên cho va về nước, chứ giam giữ một kẻ ngu si như vậy chẳng ích gì.

Bí Trọng tâu:

– Cơ Xương bói hay lắm lẽ nào chẳng biết thịt con? Chắc Cơ Xương là kẻ trí, không ăn sợ họa đến mình, nên phải dùng đỡ, xin Bệ ha suy đi nghĩ lại, kẻo mắc kế hắn.

Trụ Vương nói:

– Nếu Cơ Xương biết thịt con lẽ nào lại ăn như vậy? Dù hùm dữ cũng chẳng nỡ ăn thịt con huống hồ một người hiền?

Bí Trọng tâu:

– Cơ Xương ngoài mặt tuy làm bộ thật thà, nhưng bên trong thừa điều dối trá. Nhiều người lầm kế, ít kẻ rõ được lòng gian, xin Bệ hạ cầm Cơ Xương lại làm chắc, ví như cọp ngồi trong rọ, chim ở trong lồng, còn thả ra tôi e họa tới. Vả lại phía Ðông và phía Nam còn đang có loạn, dẹp hơn mấy năm nay chưa xong. Nếu Cơ Xương về nữa thì lại thêm một mũi giặc.

Vua Trụ khen:

– Lời khanh bàn rầt hợp ý trẫm.

Ấy là tại vận mạng của Tây Bá Hầu chưa mãn nên khiến tôi nịnh ngăn trở như vậy.

Người sau có bài thơ:

Bảy năm chưa đủ vận còn suy

Bí Trọng bày ra tiếng thị phi

Nếu chẳng Nghi- Sanh dâng hối lộ

Làm sao Tây Bá lại Tây Kỳ.

Lúc này quân theo Bá Ấp Khảo hay việc giết chủ, liền trốn về nước.

Cơ Phát là vị Công tử thứ hai đang ngồi trên điện bàn việc nước thấy quân về quỳ lạy khóc, lật đật hỏi:

– Việc gì bi lụy như vậy hãy nói mau?

Quân nhân thưa:

– Ðệ nhất công tử vào triều cống sứ chưa rõ mặt Chúa công, không biết vì sao Vua Trụ phân thây công tử.

Cơ Phát chết điếng trên ngai, qua một lúc mới khóc lên được.

Ðại tướng công là Nam cung Hoát nổi giận hét lớn:

– Ấu chúa đi cống lễ, Trụ Vương lại phân thây như vậy đã cắt nghĩa chúa tôi gây ra thù oán. Nay bên Nam cũng làm phản và phía Nam cũng trở lòng, chăng ta nhân cơ hội này kéo muôn binh xuống đánh Nam ải trước đánh vua dữ sau làm chúa hiền, đổi loạn ra bình cứu dân trong cảnh khốn đốn.

Các tướng võ đồng gật đầu nghiến răng đồng ý với Nam Cung Hoát, Các tướng lãnh lúc này lòng rối như tơ không biết đường nào suy xét nữa.

Táng Nghi Sanh bước đến thưa:

– Xin Công tử yên lòng nghe hạ thần tâu việc.

Cơ Phát hỏi:

– Quan Ðại Phu có kế gì hay hãy nói thử?

Táng Nghi Sang thưa:

– Xin Công tử chém Nam Cung Hoát trước rồi mới mưu việc được.

Cơ Phát và các quan đều ngơ ngáo hỏi:

– Nam Cung Hoát có tội gì mà chém?

Táng Nghi Sanh nói:

– Nam Cung Hoát là tôi phản chúa đòi cử binh, ỷ mạnh không mưu. Nếu chúng ta báo thù thì Chúa công không khỏi bị chết ở thành Dũ Lý. Ðã khiến làm điều hại như vậy còn để làm chi.

Nam cung Hoát biết lỗi lui ra, các tướng lãnh cũng đều ngậm miệng.

Táng Nghi Sanh nói:

– Xưa Chúa công đi có dặn đợi mãn hạn bảy năm thì về chẳng cho ai đến viếng. Bỡi Công tử thương nhớ Chúa công, chẳng nghe lời can gián, nên mới bị bỏ mình. Bây giờ phải viết thư sai người bí mật đến dâng cho Bí Trọng, Vưu Hồn. Hai người này là tôi nịnh, hễ được của hối lộ thì ắt tâu cho Chúa công khỏi tội. Chừng Chúa công về nước dùng đức mà dụ dân làm cho vua Trụ hết thời rồi sẽ đem binh lấy ải. Nếu vội vàng thì không nên việc.

Cơ Phát nghe nói khen:

– Khanh luận phải lắm song không biết phải dùng vật chi để dâng cho Vưu Hồn, Bí Trọng?

Táng Nghi Sanh thưa:

– Châu sáng ngọc lành, vàng ròng đai tốt. Lễ phân hai mớ, tướng dụng đôi người là Thái Ðiên và Hoằng Yêu, giả dạng khách thương đem dến. Thái Ðiên dâng lễ cho Bí Trọng, Hoằng Yêu dâng lễ cho Vưu Hồn như vậy nội trong ít ngày Chúa công ắt về nước.

Cơ Phát khen phải truyền sắm đủ lễ sai ngươi bí mật ra đi.

Người sau có bài thơ khen:

Ngọc lành châu sáng với vàng ròng

Ém miêng tôi gian việc mới xong

Quả thiệt thầ tiên hay cứu mạng

Làm cho quỷ sứ phải xuôi lòng

Ðua tài với cọp thần như kiến

Ðưa thuốc cho hùm nọc quá ong

Mới biết mưu cao hơn sức mạnh

\/ăn Vương chức trọng sắt dà phong.

Thái Ðiên và Hoằng Yêu được Cơ Phát sai khiến liền giả làm thương gia, đến thành Triều Ca lập tức. Cách ít ngày sau lại người này tìm được cách liên lạc với Bí Trọng, Vưu Hồn, đem dâng lễ vật.

Bí Trọng thấy Thái Ðiên liền hỏi:

– Ngươi là ai vậy?

Thái Ðiên nói:

– Tôi làm chức Thần Võ tướng quân ở Tây Kỳ vâng lệnh Táng Nghi Sanh đến dâng lễ vật cho quan lớn.

Bí Trọng tiếp lấy bức thư của Táng Nghi Sanh, mở ra xem. Trong thơ đại ý viết:

“Tôi là Táng Nghi Sanh ở Tây Kỳ cúi lạy dâng thư cho Bí ân công Thượng Ðại phu.

Lâu nay tôi hằng nghe danh quan Thượng Ðại phu, song chưa thấy mặt, lấy làm tiếc. Chúa tôi là Tây Bá Hầu vì nặng lời can vua được quan Thượng Ðại phu thương tình tâu xin không giết, cho ở thành Dũ Lý đã gần bảy năm, ơn ấy chúng tôi Tây Kỳ không thuở nào quên. Tôi không được phép vào chầu Thiên Tử để đền ơn trời biển, nên sai Thái Ðiên đem chút lễ mọn đến dâng, xin quan Thượng Ðại phu nghĩ tình dung nạp. Chúa tôi nay đã già tuổi tác cũng chẳng được bao nhiêu nữa, nếu quan Thượng Ðại phu nghĩ tình tâu với Thiên Tử một tiếng để cho Chúa tôi về nước, đoàn tụ với mẹ già chôn xương nơi cố quốc thì cả dân xứ Tây Kỳ này thảy đều mang ơn “.

Bí Trọng thấy lễ vật quá nhiều, lòng tham nổi dậy ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói với Thái Ðiên:

– Ngươi về thưa với Táng Nghi Sanh ta nhận lễ thế nào cũng tâu với Thánh hoàng cho Chúa ngươi về nước. Ta không viết thơ hồi âm vì sợ lưu tiếng khó lòng. Chẳng sớm thì muộn, thế nào việc cũng xong.

Thái Ðiên từ tạ lui ra quán dịch đợi tin Hoằng Yêu.

Trong lúc đó Hoằng Yêu cũng dâng lễ cho Vưu Hồn và cũng được Vưu Hồn hứa như vậy.

Khi Hoằng Yêu trở ra quán dịch, hai người kể lại sự việc vừa qua cho nhau nghe, rồi cùng trở lại Tây Kỳ.

Bí Trọng và Vưu Hồn tuy cùng một đường lối, nhưng mỗi khi có việc hối lộ lại giấu nhau, không dám nói. Vì vậy phần ai nấy giữ.

Ngày kia vua Trụ đánh cờ với Vưu Hồn, Bí Trọng thắng luôn hai bàn một lúc, lòng vua phơi phới, truyền mở tiệc vui vầy.

Ðang khi ăn uống! Trụ vương vui miệng nói:

– Bá Ấp Khảo đờn rất hay con vượn bạch múa cũng thật khéo ước gì trong bữa tiệc này có tiếng đờn, tiếng ca của chúng nó mới thú vị.

Ba người cùng cười Vua Trụ lại nói thêm:

– Chỉ tội nghiệp có lão thầy bói dở làm tuồng hay, ăn thịt con mà không biết, ngỡ là thịt nai.

Bí Trọng nhân dịp ấy, tâu:

– Tôi nghi Cơ Xương bị cầm nơi Dũ Lý, có lòng oán hận bệ hạ, nên thường ngày bí mật cho người đến dò xét luôn.

Trụ Vương hỏi:

– Khanh nghĩ thiên hạ đồn Cơ Xương thế nào?

Bí Trọng tâu:

– Khắp cả dân trong thành Dũ Lý đều ca tụng Cơ Xương là kẻ trung nghĩa. Cứ hằng tháng, vào ngày Sóc, Vọng đều thắp hương cầu cho Thiên tử nước thạnh dân yên, mưa hòa gió thuận, bốn phương lặng lẽ, trăm họ bình yên. Họ còn ca tụng Cơ Xương là ngươi chung thủy, gần bảy năm giam cầm không một lời oán than.

Trụ Vương hỏi:

– Trước kia khanh bảo Cơ Xương là kẻ nham hiểm ngoài mặt thật thà, trong lòng gian trá, sao nay lại nói Cơ Xương trung liệt?

Bí Trọng tâu:

– Trước đây tôi lầm tưởng Cơ Xương như vậy nên mới sai người đi dọ thám. Chẳng ngờ Cơ Xương quả là bậc quân tử khác đời. Thật là đường dài mới biết sức ngựa, sống lâu mới rõ bụng người.

Trụ Vương quay lại hỏi Vưu Hồn:

– Khanh xét lời nói ấy thế nào?

Vưu Hồn sẵn dịp tâu liền:

– Lời nói của Bí Trọng quả đúng sự thật. Từ lúc Cơ Xương bị cầm nơi Dũ Lý thường dạy dỗ nhân dân, khiến nhiều kẻ trung thành nhiều người hiếu đạo. Bởi Cơ Xương ở phải, nên dân chúng mới noi theo. Dầu Bí Trọng không tâu, hạ thần cũng trình cho Bệ hạ rõ.

Trụ Vương hỏi.

– Bây giờ có nên tha cho Cơ Xưong về nước hay không?

Bí Trọng tâu:

– Tha hay không là quyền của Bệ hạ chúng tôi đâu dám bàn đến. Chúng tôi chỉ thấy giam cầm người hiền lâu ngày rất tội nghiệp. Nếu Bệ hạ tha Cơ Xương về nước dĩ nhiên Cơ Xương không thể quên ơn. Rất đỗi bị giam cầm mà chưa oán trách, thì nếu được tha lẽ nào phản bội.

Vưu Hồn thấy Bí Trọng cố gỡ tội cho Tây Bá Hầu hiểu ngay Bí Trọng đã ăn của hối lộ khá nhiều rồi. Nhân dịp này, Vưu Hồn cũng muốn làm một cái gì đặc biệt để lưu tình với Tây Bá, liền xen vào nói:

– Như Bệ hạ muốn tha Tây Bá về xứ thì cũng nên lưu chút nhân tình. Nay Văn Hoán đánh mãi ải Du Hồn, Ðậu Dung chống bảy năm đã mỏi mệt. Ngạt Thuận phá ải Tam Sơn, Cửu Công chống giử lâu ngày cũng đã mỏi mệt. Theo ý hạ thần thì Bệ hạ nên phong Vương cho Tây Bá, cấp bút việt cờ mao, truyền Tây Bá đem quân đánh Ðông dẹp Bắc. Tây Bá là người hiền, đã được lòng quân sĩ, lại nói gì thiên hạ cũng nghe, dùng Tây Bá dẹp giặc chẳng khác nào dùng chánh đẩy lui tà. Hạ thần dám chắc Tây Bá chưa đánh, quan giặc đã tan, thật có lợi cho Bệ hạ.

Vua Trụ khen:

– Vưu Hồn đáng mặt kẻ tài trí, luận rất hiệp ý trẫm, còn Bí Trọng ưa trung ghét nịnh, Cơ Xương sẽ mang ơn.

Nói rồi truyền chỉ đến thành Dũ Lý, tha tội Tây Bá Hầu lập tức.

Tây Bá Hầu tiếp được chiếu chỉ liền nhắm phương Bắc lạy tạ ơn. Dân trong thành hay được tin Tây Bá khỏi tội về nước mến đức không cùng, khiêng rượu và lễ vật đến tiễn chân đông nức.

Các vị bô lão thay mặt cho dân, nói:

– Thiên tuế ngày nay về nước chẳng khác rồng ra biển, phượng đậu cành ngô. Mấy năm nhờ ơn dạy dỗ, kẻ già nguời trẻ đền rõ đạo hiếu trung, con gái đàn bà đều giữ gìn danh tiết, nay Thiên tử về xứ, chẳng lẽ chúng tôi không mừng. Nói rồi sa nước mắc ròng ròng.

Tây Bá nói:

– Bảy năm sống chung trong thành Dũ Lý, tôi nhờ bá tánh hết lòng giúp đỡ mới được ngày nay, ơn ấy tôi chưa biết ngày nào trả được, xin các ông chớ nhọc lòng đưa đón. Nếu còn nhớ nhau thì xin giữ lấy nề nếp xưa nay, để khỏi điều tội lỗi.

Tây Bá nói xong từ giã khắp dân chúng trong thành xong thẳng đến Triều Ca yết kiến vua. Vừa ra khỏi thành đã thấy các quan đến đón, cùng nhau mừng rỡ hỏi thăm.

Trụ Vương truyền đòi Tây Bá vào chầu. Tây Bá mặc đồ trằng quỳ trước sân nói:

– Tôi là Cơ Xương, kẻ có tội, nay nhờ Bệ hạ mở đức tái sanh, xin chúc Bệ hạ sống lâu muôn tuổi.

Trụ Vương phán:

– Ðã bảy năm, khanh bị cầm nơi Dũ Lý không oán trách trẫm còn cầu chúc cho trẫm sống lâu, thiên hạ thái bình, thật là một đấng tôi trung. Trẫm đã phụ khanh nhiều lắm. Nay trẫm quyết định tha tội cho khanh, cấp cờ mao, búa việt, nhờ khanh đem binh chinh phục các nơi, lấy đức vỗ an lê thứ. Ðược như vậy trẫm sẽ không phụ lòng. Bắt đầu ngày mai trẫm phong cho khanh làm chức Văn Vương cho dạo khắp Triều Ca ba ngày để phô trương quan tước, sau đó sẽ truyền hai viên quan võ, hộ tống khanh về nước.

Tây Bá Hầu lạy tạ, đội áo mão tước Vương, đến đền Long Ðức cùng các quan dự tiệc. Văn võ tụ họp đủ mặt chúc mừng.

Trong lúc dự tiệc, Văn Vương tỏ ý cảm tạ ơn vua, bá quan đều khen ngợi.

Tiệc mãn, Văn Vương tuân lệnh đi tham quan ba bữa, cỡi ngựa dạo khắp thị thành, dân chúng khắp Triều Ca hay tin đều ra đường đón xẹm mặt, và thì thầm:

– Thật ông trời có mắt. Người trung liệt trước sau cũng được đền bù.

Văn Vương đang dạo chơi, xảy thấy trước mặt bóng cờ phất phới tiếng nhạc ngựa vang vầy, giáo gươm lố nhố không rõ là đạo binh nào, liền hỏi kẻ tùy tùng:

– Binh nào kéo đến Triều Ca như vậy.

Quân hầu thưa:

– Ðó là đạo quân của Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ hàng ngày đi tập luyện ở thao trường.

Văn Vương vội vàng xuống ngựa, đứng nép bên đường, vòng tay đợi Hoàng Phi Hổ đến xá dài một cái, và nói:

– Tôi là Cơ Xương xin ra mắt.

Hoàng Phi Hổ cũng lật đật xuống ngựa, nắm tay Văn Vương nói:

– Tôi không kịp tránh đường, xin Ðại Vương miễn chấp.

Văn Vương nói:

– Võ thành Vương dạy quá lời. Tôi là kẻ có tội vừa được vua rải đức ban ơn phong tước Vương, có gì phải nhọc lòng ngài như vậy.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ðây cũng gần tư dinh của tôi, xin mời hiền vương quá bộ chơi, uống chén rượu lạt trao đổi tâm tình, chẳng biết hiền vương có vui lòng không?

Văn Vương nói.

– Võ Thành Vương đã dạy, tôi đâu dám trái lời.

Hoàng Phi Hổ dắt tay Văn Vương rước về tư dinh, hối quân mở tiệc đãi đằng. Hai người ngồi đối diện tỏ khúc tâm tình cho đến lúc trời tối mịt, quân thắp đèn nến bưng ra, Hoàng Phi Hổ mới nhớ việc quan trọng mình sắp bàn với Văn Vương, liền đuổi quân hầu ra hết, kề tai nói nhỏ.

– Hiền vương ơi! Hôm nay tuy là ngày vui, song lúc này vui buồn lẫn lộn, kỷ cương bị tửu sắc và nịnh thần làm đổ vở mất rồi. Hiền vương may mắn được vua tha tội, phong chức Văn vương, đó là trời giúp người ngay, sao hiền vương không tự xét mình sớm lánh mặt, dạo phố khoe quan làm chi. Hiền vương về nước sớm được ngày nào chẳng khác rồng ra biển, cọp vào rừng, còn ở đây tai họa có thể rơi xuống không lường trước nổi.

Văn Vương nghe nói tay chân bãi hoải trán toát mồ hôi, trìu mến nhìn Hoàng phi Hổ, nói:

– Ngài có lòng thương tôi như vậy dẫu chết tôi cũng chưa quên. Tôi cũng biết lúc này Bệ hạ vui buồn bất thường lắm, cũng muốn xa lánh chốn Triều Ca, ngặt vì trốn đi thì không làm sao qua được năm ải…

Hoàng Phi Hổ nói:

– Chuyên ấy không khó gì. Tôi có thể giúp đỡ hiền vương được.

Liền lấy cờ, lệnh tiễn trao cho Văn Vương, và dặn:

– Phải thay đổi áo quần giả dạng người có việc gấp đi đêm, thì qua năm ải không ai cản trở.

Văn Vương mừng rỡ nói:

– Ơn Võ Thành Vương như trời biển, không biết ngày nào tôi mới đền đáp nổi.

Bây giờ đã đầu canh hai Hoàng Phi Hổ truyền đòi hai tướng Long Hoàn và Ngô Khiêm đến đưa Văn Vương ra khỏi thành Tây lập tức.

Hồi 21: Văn Vương khoe quan qua 5 ải

Ðêm ấy Văn Vương ra khỏi Triều Ca dục ngựa thẳng tới một nước.

Bấy giờ quân coi trạm thấy Văn Vương đến tối không về liền vào báo tin với Bí Trọng.

Bí Trọng nghĩ thầm:

– Việc này tại mình bảo tấu, nếu xảy ra lôi thôi ắt mắc tội.

Liền vội vã đến nói với Vưu Hồn:

– Tại anh bảo tấu với Văn Vương Tây Bá. Nay Tây Bá mới dạo chợ hai ngày đã trốn mất, việc này là việc lớn chẳng phải chơi, nếu có bề gì hai ta làm sao tránh khỏi tội. Vả lại, phía Ðông, phía Nam đều có giặc, nếu thêm mũi giặc của Cơ Xương nữa binh tướng kéo qua anh em mình chết trước.

Vưu Hồn ngồi thừ ra một lúc rồi nói:

– Anh đừng lo, ngày mai chúng ta sẽ vào triều tâu cho vua hay và sai hai tướng đem binh đến bắt về, trị tội Văn Vương là xong.

Rạng ngày, vua Trụ đang ngự trên lầu, Bí Trọng vào tâu:

– Bệ hạ cho Văn Vương khoe quan hai bữa mới đi dạo có hai ngày, rồi lén trốn về không vào lạy tạ, ấy là thói vô lễ bất trung. Chúng tôi e sau này sanh chuyện nên phải vào tâu cùng bệ hạ.

Vua Trụ nổi giận mắng:

– Hai khanh thật lắm điều hồi trước hai khanh tâu Cơ Xương là trung liệt, trẫm mới tin lời, tha tù phong chức. Nay xảy ra việc này hai khanh còn tâu gì nữa? Có phải hai khanh muốn nói sao thì nói, muốn làm sao thì làm có phải vậy hay không?

Bị vua khiển trách, Vưu Hồn thất kinh quỳ tâu:

– Từ xưa đến nay lòng người khó lường lắm, trước mặt nói vầy sau lưng nói khác. Sanh con há dễ sanh lòng, vẽ cọp không thể vẽ ruột được. Biển khô còn thấy đáy, lòng người đến chết vẫn chưa tường. Vả lại Cơ Xương đi cũng chưa xa, xin bệ hạ sai Ông Phá Ðại và Lôi Khai theo bắt lại, chờ tội Cơ Xương rõ ràng mới giết đi cũng là điều lợi.

Vua Trụ y lời, liền sai hai tướng đem hai ngàn binh đuổi theo bắt Cơ Xương về trị tội.

Ông Phá Ðại và Lôi Khai đồng lãnh binh nơi dinh Võ Thành Vương, người ngựa kéo ra đi. Ðoàn quân đuổi theo như gió, oai phong lẫm liệt.

Ðêm ấy Văn Vương ra khỏi Triều Ca, qua sông Mạch Tân, đến sông Huỳnh Hà, mệt quá nên vừa đi vừa nghỉ lần hồi đến huyện Dao Trì xảy nghe đàng sau có tiếng quân la ó vang vậy, nhìn lại thấy bụi bay mù mịt. Văn Vương biết quân đuổi theo bắt mình, thế nào cũng không thoát tội được. Nếu về triều thì chắc chết mười phần, nên cố sức chạy mau lánh nạn. Khi ấy Văn Vương như chim lạc lối, như cọp sổ lồng giục ngựa chạy như bay, phút chốc đã thấy ải Lâm Ðồng trước mặt.

Bây giờ nói về ông Vân Trung Tử đang ngồi trong động đánh tay biết rõ mọi việc, thầm nhủ:

– Tây Bá đã mãn hạn rồi, còn bị tai ương một chút. Nay đúng kỳ giao ước, ta phải cho con xuống cứu cha.

Liền sai Kim Hà đồng tử gọi Lôi Chấn Tử vào dạy rằng:

– Nay cha ngươi mắc nạn, ngươi phải đi cứu cho mau.

Lôi Chấn Tử thưa:

– Thưa thầy, chẳng hay cha tôi là ai?

Vân Trung Tử thuật hết mọi chuyện cũ rồi nói.

– Cha nuôi ngươi đang mắc nạn tại ải Lâm Ðồng, ngươi ra nơi chân núi Hỗ, kiếm vài binh khí đem đây ta dạy ít miếng võ đặng xuống cứu cha.

Lôi Chấn Tử vâng lời đến núi Hỗ tìm chẳng thấy vật gì có thể làm vũ khí được, lại thường nghe nói đồ binh khí là gươm đao, hương, kích, chùy, gậy, roi, mà trong mấy món đó không biết phải dùng vật nào, tính trở về hỏi lại Vân Trung Tử.

Xảy đâu có một trận gió thơm ngát thổi đến, lại thấy nước suối trong vắt, tiếng reo rất trong lành. Nhìn theo phong cảnh rất đẹp mắt, bên rừng trồng cam mát rượi, tre mọc giáp vòng, chim kêu ríu rít trên cành, trái cây quằng nhánh, bông núi đầy rừng. Lôi Chấn Tử liền leo cành cây gần đó thấy hai trái hạnh đào chính mộng, vì tánh con nít thấy trái cây tươi thì mừng lắm Lôi Chấn Tử vội leo lên hái hai trái. Hơi thơm bát ngát, Lôi Chấn Tử nghĩ thầm:

– Thôi mình ăn một trái còn một trái kia đem về cho thầy.

Ai ngờ Lôi Chấn Tử vừa ăn xong thấy ngon miệng quá không sao để dành được liền cắn thêm một trái ăn nữa.

Nhưng Lôi Chấn Tử lại giật mình thầm nghĩ:

– Mình định trái này để dành đem về cho thầy, nhưng mình lại ăn nữa, hóa ra bất nghĩa. Thôi thì cứ ăn hết đi rồi về im lặng là xong.

Nghĩ như vậy Lôi Chấn Tử liền ăn hết hai trái Mộng đào.

Nhưng ăn vừa rồi Lôi Chấn Tử thấy trong lòng ngứa ngáy khó chịu, rồi bên sườn bên trái mọc ra một cái cánh quá dài. Lấy làm lạ, Lôi Chấn Tử hai tay cầm cái cánh, chắt lưởi than:

– Không xong! Không xong! Có khi mình hóa thiên lôi rồi chăng?

Lôi Chấn Tử muốn nhổ cánh quăng đi nhưng nhổ ra thì đau lắm, thử làm gan bứt được vài sợi lông, phút chốc sườn bên kia cũng mọc ra một cái cánh nữa. Lôi Chấn Tử xem thấy hồn vía rụng rời ngã lăn xuống đất.

Một lúc lâu, Lôi Chấn Tử tỉnh lại rờ sống mũi, thấy sống mũi cao quá, lông lá ra khỏi môi, hai mắt lòi ra khóe, mặt xanh lè, hai mắt đỏ hoe, mình dài hai trượng, lưng lớn mười vần, Lôi Chấn Tử không biết vụ gì mà lại biến hình biến tướng như vậy.

Bỗng thấy Kim Hà đồng tử chạy đến gọi lớn:

– Thầy dạy anh vô biểu.

Lôi Chấn Tử nói:

– Không hiểu gì mà thân thể tôi thế này?

Kim Hà đồng tử vừa cười vừa nói:

– Anh có phép thần thông biến hóa tôi làm sao biết được?

Lôi Chấn Tử than:

– Rồi bây giờ bình thù tợ yêu quái không dám ra mắt thầy.

Kim Hà đồng tử nói:

– Thầy cho đòi anh lập tức. Anh không về không được.

Lôi Chấn Tử không dám cãi lời, đi ít bước lại ngó cặp cánh của mình, trăm bề hổ thẹn. Lúc vào động, Lôi Chấn Tử không dám nhìn thầy.

Vân Trung Tử trông thấy vỗ tay cười lớn, nói:

– Lạ lắm! Lạ lắm!

Cười rồi chỉ mặt Lôi Chấn Tử mà ngâm một bài thơ như vầy:

Ăn hai hạnh đỏ sanh đôi cánh

Cầm một gậy vàng giúp đế vương

Quay khắp đất trời làm sóng gió

Biết nhiều phép tắc định âm dương

Mắt lồi sáng giới đôi tròng bạc

Tóc dựng phất phơ một sắc thường

Tướng tợ Lôi Công oai tợ sắc

Phò vua dụng nước dẹp nhà Thương.

Vân Trung Tử ngâm rồi dắt Lôi Chấn Tử ra vườn đào luyện phép và trao cho Lôi Chấn Tử một cây gậy vàng. Lôi Chấn Tử được truyền thụ, ra sức học hành, múa men như gió bão.

Chẳng bao lâu, các môn võ nghệ đều tinh thông, Vân Trung Tử lấy viết đề vào cặp cánh Lôi Chấn Tử một bên là chữ “phong”, một bên là “lôi”. Ðoạn niệm thần chú, hét lên một tiếng, tức thì Lôi Chấn Tử bay vụt lên nửa lừng trời như một con chim khồng lồ vậy.

Lôi Chấn Tử đảo qua đảo lại một lúc, xem chừng thú vị lắm. Khi đã thỏa mãn, Lôi Chấn Tử mới đáp xuống lạy thầy, thưa:

– Nhờ thầy truyền phép lại thế nào đệ tử cũng cứu được phụ thân.

Vân trung Tử nói:

– Ngươi mau đến ải Lâm Ðồng cứu cha ngươi là Tây Bá, song chẳng nên giết tuớng Trụ, cũng chẳng nên theo cha, hãy trở lại núi Chung Nam này học thêm phép tắc, ngày sau anh em sẽ họp mặt, cả nước phỉ nguyền.

Lôi Chấn Tử tuân lời thầy, cúi đầu tạ ơn, xách cây gậy đồng ra khỏi động, vỗ cánh bay lên không như sấm gió.

Bay một lúc, Lôi Chấn Tử gặp một hòn núi cao đón lại, liền xếp cánh đáp xuống, nhìn quanh quất thấy không có người, chắt lưỡi than:

– Mình vô ý quả không hỏi thăm thầy trước, bây giờ biết hình dạng cha mình thế nào mà tìm?

Vừa dứt lời thấy một người đội mũ mặc áo cỡi ngựa Kim chạy đến rất mau coi bộ hơ hãi lắm. Lôi Chấn Tử tự nhủ:

– Chắc cha mình mắc nạn nên chạy sấn sổ thế kia.

Nghĩ rồi liền lớn tiếng hỏi:

– Ai chạy dưới chân núi đó? Có phải là Tây Bá Hầu Cơ lão gia chăng?

Văn Vương nghe kêu tên liền dừng lại nhìn bốn phía không thấy ai lắc đầu than:

– Chắc mình đã tới số nên ma quỷ diễu cợt chăng tại sao nghe tiếng nói mà chẳng thấy người?

Nguyên Lôi Chấn Tử da mặt đã xanh, lại mặc đồ lục đứng trên hòn núi cao nên lộn với cây lá, phần thì Văn Vương chạy mệt chóa mắt không trông thấy rõ.

Lôi Chấn Tử thấy ông già dừng ngựa lại ngó dáo giác mà không nói gì rồi giục ngựa mà đi, liền kêu lớn:

– Ông có phải là Tây Bá Hầu Cơ Thiên Tuế đó chăng?

Tíếng hỏi vang trời như sấm dậy, bấy giờ Văn Vương mới ngó lên, thấy một người đứng trên chót núi tóc đỏ mặt xanh nanh dài miệng rộng, con mắt như lục lạc sáng tự hào quang, ngỡ là yêu tinh, thất kinh nghĩ thầm:

– Nếu quả là yêu tinh sao lại nói tiếng người? Mình đã đến nước này dầu có sợ cũng không được. Nó đã kêu, mình cứ thử lên núi xem thử thế nào?

Nghĩ rồi giục ngựa đến nửa chừng núi hỏi:

– Tướng quân là ai mà biết tôi vậy?

Lôi Chấn Tử liền bay xuống quỳ lạy và thưa:

– Xin vua cha rộng lượng tha tội bất hiếu cho con. Vì trẻ chậm chân nên cha nhọc sức.

Văn Vương nói:

– Tướng quân là ai đó, ta không biết mặt, sao Tướng quân xưng là con?

Lôi Chấn Tử tâu:

– Vua cha trước kia gặp con đặt tên là Lôi Chấn Tử…

Văn Vương sực nhớ lại, lấy làm lạ hỏi:

– Lúc cha gặp con tại đó thì giao cho Vân Trung Tử đem về núi Chung Nam. Nay mới bảy năm sao hình tướng con cao dường ấy.

Lôi Chấn Tử tâu:

– Bởi thầy con dạy phép lạ nên biến tướng cải hình, lại dạy con phải xuống đuổi tướng Trụ về mà cứu cha qua năm ải.

Văn.Vương nghe nói nghĩ thầm:

– Mình đã trốn chúa tội lỗi cửa triều đình, nay trời khiến con. Nhưng nếu để nó giết tướng thì mình lỗi đạo với vua, chi bằng lấy lời lành đặng khuyên nó đừng làm dữ.

Nghĩ rồi nói với Lôi Chấn Tử:

– Cha bội chúa trốn đi nên sai vua tướng bắt về, nếu con muốn cứu cha thì đừng giết tướng.

Lôi Chấn Tử tâu:

– Thầy con cũng có dặn như vậy, con sẽ khuyên chúng nó lui binh để đưa cha về nước mà thôi.

Xảy nghe tiếng chiêng trống vang trời, tướng binh rần rộ. Lôi Chấn Tử bèn vỗ cánh bay tới trước cầm gậy vàng, bộ tịch như thiên lôi chận đầu binh nạt lớn:

– Chúng bay đừng tới nữa.

Quân binh thấy Lôi Chấn Tử thất kinh chạy lùi lại báo với hai tướng:

– Có một ông thần dữ cản đường nên chúng tôi không dám đi nữa.

Ông Pháo Ðại và Lôi Khai nghe rõ đồng giục ngựa đến xem.

Hồi 22: Văn Vương thương con mửa thịt hóa thỏ

Lôi Khai và Ân phá Bại giục ngựa lướt tới thấy một người hình thù kỳ dị, thất kinh muốn quay ngựa lại, song sợ quân sĩ cười mình nhát gan, nên nhắm mắt hét lớn:

– Nhà ngươi là ai dám cản đuờng chúng ta?

– Ta là Lôi Chấn Tử, đứa con thứ một trăm của Văn Vương. Cha ta là kẻ nhân dức, thờ mẹ chí hiếu, thờ vua tận trung, lấy đạo dạy dân, lấy lễ trị thiên hạ. Trụ Vương ham mê tửu sắc, tàn ác phi thường, bắt cha ta cầm tù nơi Dũ Lý đã bảy năm, nay cho về nước sao còn theo bắt. Ta vâng lệnh thầy ta xuống núi đưa cha ta về Tây Kỳ, không thèm giết các ngươi làm chi, hãy đem quân trở về.

Lôi Khai và Ân Phá Bại đồng làm gan mắng lại:

– A, chúng ta tưởng ngươi là thiên lôi trời sai xuống, ai ngờ cũng chỉ là xác phàm, con của một đứa khi quân bội chúa. Tướng mạo ngươi hung dữ như vậy mặc lòng, song chúng ta có thiên binh ngàn tướng, không đủ trị ngươi sao?

Nói rồi hè nhau xốc tới múa siêu đao chém liền.

Lôi chấn Tử cầm gậy đồng đỡ ra thật mạnh, hét lên:

– Bây muốn thử sức ta à! Ta nghĩ vì có lời thầy dạy và có ý cha răn, nếu không ta giết cả binh tướng chúng bay như trở bàn tay.

Lôi Khai và Ân phá Bại nghe tiếng hét như sấm đã hoảng hồn, còn dám đâu đấu chiến.

Lôi chấn Tử nói:

– Chắc chúng bay chưa thấy tài lực của ta, thôi để ta triển thần uy cho chúng bay thấy.

Nói rồi liền vỗ cánh bay bổng lên cao, đáp xuống một tảng đá kêu Ân Phá Bại và Lôi Khai nói:

– Ta khẽ cục đá này cho chúng bay thấy sức mạnh ta đến bực nào, liệu cái đầu chúng bay có cứng bằng cục đá này chăng?

Lôi chấn Tử đưa gậy lên trời, đập mạnh xuống một cái. Hòn đá vỡ tung lên, lăn xuống đè ngã một vùng cây cối.

Ðập nát hòn đá lớn, Lôi Chấn Tử vỗ cánh bay xuống trước đầu ngựa, nói:

– Bây giờ chúng bay muốn giao tranh với ta thì cứ đánh đi.

Hai tướng thấy Lôi Chấn Tử sức mạnh như thần, nhìn nhau le lưỡi lắc đầu, kéo quân trở về.

Lôi chấn Tử cười lớn, bay đến trước mặt Văn Vương thưa:

– Con đã khuyên hai tướng Trụ trở lại Triều Ca rồi, vậy cha theo con đưa cha về Tây Kỳ cho sớm.

Văn Vương nói:

– Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ đã cho cha cờ lệnh tiễn, qua ải không ai dám ngăn trở, con không cần phải đưa đón làm gì?

Lối chấn Tử nói:

– Nếu trình lịnh tiễn qua ải thì lâu lắm, e vua cho tướng khác theo bắt đàng trước ngăn đón, đàng sau truy binh cha làm cách nào về Tây Kỳ được. Con sẵn có cặp cánh thần xin cõng cha bay qua năm ải.

Văn Vương nói:

– Ðược vậy thì hay lắm, song bỏ con ngựa lại lòng cha không đành.

Lôi Chấn Tử nói:

– Mất ngựa này tìm ngựa khác, cha hãy lo thân cha làm trọng đã.

Văn Vương nói:

– Con ngựa nay theo cha đã bảy năm, chịu không biết bao nhiêu khổ cực, nay về nước bỏ nó đi là bạc nghĩa.

Lôi Chấn Tử thưa:

– Người quân tử cốt giữ đại sự, còn tiểu sự thì không nên câu chấp.

VănVương lưỡng lự một hồi, rồi bước đến vưốt lưng con ngựa than:

– Không phải ta muốn bỏ ngươi, chỉ sợ binh triều đuổi theo mang khốn. Nay từ giã, ngươi tìm nơi khác nương thân.

Dứt lời, Văn Vương buồn bã, rơm rớm nước mắt ngâm bốn câu thơ:

Cùng nhau muôn dặm đến Triều Ca

Dũ Lý giam cầm chịu với ta

Mắc nạn ải Ðồng nay cách biệt

Ngươi tìm chũ khác chớ dần dà.

Thấy Văn Vương triều mến con ngựa mãi, Lôi Chấn Tử giục:

– Xin cha lên lưng con mau kẻo trễ.

Văn Vương nói:

– Con bay cho khéo kẻo cha sợ lắm.

Lôi Chấn Tử quỳ xuống đất đưa lưng cho Văn Vương leo lên, và nói:

– Xin cha an lòng nhắm mắt lại, chỉ chốc lát sẽ đến Tây Kỳ.

Văn Vương vừa nhắm mắt lại đã nghe gió thổi ù ù như giông bão.

Lôi Chấn Tử bay qua năm ải, chỉ trong một tiếng đồng hồ, rồi đáp xuống chân núi Kim Kê.

Văn Vương mở mắt ra, thấy phong cảnh Tây Kỳ ngỡ như trong mộng. Bảy năm bị cầm nơi Dũ Lý giờ đây mới thấy rõ cố hương, lòng như mừng như tủi.

Văn Vương khen:

– Cũng nhờ sức con cha mới về được xứ sở.

Lôi Chấn Tử thưa:

– Nay cha đã về được Tây Kỳ, con xin trở lại núi Chung Nam để hầu hạ thầy con.

Văn Vương ngơ ngác hỏi:

– Sao con lại không về với cha?

Lôi Chấn Tử thưa:

– Lúc ra đi thầy con có dặn, hễ đưa cha khỏi năm ải rồi phải trở về Chung Nam lập tức, đặng học thêm tài phép, ít lâu sẽ ra giúp nước.

Nói rồi lau nước mắt lạy vua cha. Văn Vương cũng khóc từ giã.

Sau khi Lôi Chấn Tử bay đi mất dạng, Văn Vương còn một mình lững thững dưới chân núi Kim Kê. Bởi tuổi già sức yếu nên đi suốt ngày hôm ấy mới tìm đến một thị trấn, vào quán cơm ăn uống rồi ngủ vùi cho đến sáng.

Hôm sau, Văn Vương từ giã dời chân, tên tửu điếm cản lại hỏi:

– Thưa ông, còn tiền rượu tiền phòng ông chưa tính.

Văn Vương nói:

– Ta đi lỡ đường tiền hết, ngươi cứ biên sổ cho nhớ, lúc ta về đến Tây Kỳ sẽ sai người đến trả gấp đôi.

Tên tửu điếm nói:

– Chỗ này không phải như xứ khác, dù cho quan quyền cũng không đặng làm ngang, chúa ta là Tây Bá Hầu lấy nhơn nghĩa trị dân cấm điều gian lận, bởi vậy đồ bỏ giữa đường không mất, ngưòi đi ngoài lộ phải nhường, ban đêm không dứt tiếng đờn, không nghe tiếng chó sủa. Ðây là trời Nghiêu đất Thuấn, vua thánh tôi hiền, chứ không phải xứ loạn đất hoang mà giở trò dối gạt.

Văn Vương nói:

– Ta là người phải không nói quấy đâu.

Người chủ quán từ bên trong bước ra hỏi:

– Chuyện gì cãi lẫy vậy.

Tên tửu điếm thuật lại đầu đuôi câu chuyện vừa rồi. Người chủ quán thấy Văn Vương tướng mạo khác thường, tuổi tác đã già, liền ôn tồn hỏi:

– Ông đi Tây Kỳ có việc gì mà gấp rút đến nỗi quên đem tiền lộ phí. Vả lại tôi với ông không quen mặt nhau, nếu để chịu biết đâu mà đòi.

Văn Vương túng thế phải nói thật:

– Ta là Tây Bá Hầu bị bảy năm giam cầm nơi Dũ Lý nay vua tha về nước, vì đường xa nên lộ phí bị thiếu hụt. Ngươi cứ ghi sổ ít ngày ta sẽ sai người đến trả.

Chủ quán nghe nói thất kinh, vội sụp lạy tâu:

– Tôi lạy mừng đại vương muôn tuổi. Chúng tôi xác phàm mắt tục, nên không thấy mặt rồng, lỗi với đại vương, xin đại vương dung mạng. Tiện đây, xin thỉnh đại vương vào trong đặng tôi dâng tiệc rồi sẽ sắm sửa đưa đại vương về đền.

Văn Vương hỏi.

– Ngươi tên họ là chi?

Chủ quán tâu:

– Tôi họ Thân tên Kiệt, đã năm đời ở tại thôn này.

Văn Vương mừng rỡ hỏi Thân Kiệt:

– Ngươi có ngựa cho ta mượn đỡ, về tới điện ta sẽ đền ơn.

Thân Kiệt tâu:

– Xóm này nghèo khó lắm, không ai nuôi ngựa. Nhà tôi chỉ có môt con lừa để tôi thắng yên rồi đi theo đại vương hầu hạ.

Văn Vương mừng rỡ, đợi thắng yên cho con lừa xong, mới ngồi lên lưng lừa, theo đường về Kinh đô. Thân Kiệt theo sau hộ giá.

Ngày kia, tại Tây Kỳ bà Thái Khương đang nhớ con là Tây Bá, ngồi thẫn thờ trước hiên, bỗng nghe ba trận gió thổi tới dường như tiếng thú kêu. Bà Thái Khương vội thắp hương, lấy tiền gieo quẻ biết Tây Bá đã về gần đến liền gọi các cháu và bá quan văn võ báo tin mừng, phút chốc tiếng đồn khắp dân gian, thiên hạ dắt dê gánh rượu chật đường đi đón.

Bấy giờ Văn Vương cỡi lừa đi lểnh mễnh hằng lâu mới tới Tây Kỳ. Bỗng nghe một tiếng súng lệnh, xa xa nhấp nhô hai cây cờ đỏ, đàng sau một đoàn người đông như kiến cỏ lũ lượt kéo đến.

Văn Vương nhìn thấy đi đầu là Táng Nghi Sanh và Nam Cung Hoát theo sau là triều thần văn võ, rồi đến dân chúng trong thành.

Khi đoàn người gần đến, Cơ Phát bước đến trước lừa, sụp lạy:

– Phụ vương bị cầm chơn nơi đất khách, bảy năm rồi con chẳng viếng thăm, xin phụ vương mở lượng hải hà tha tội bất hiếu. Nay nhờ trời phụ vương được về nước, các tôi con mừng dường nào.

Văn Vương mừng đến ứa lệ nói:

– Ta nay khác nào như không nhà mà có nhà, không nước mà có nước, không tướng mà có tướng, không con mà có con. Bị cầm tù bảy năm, ta ngỡ bỏ xương nơi đất khách rồi.

Táng Nghi Sanh tâu:

– Xưa vua Thành Thang bị vua Kiệt cầm ở thành Hạ Ðài đến sau về nước lấy được thiên hạ. Nay chúa công chẳng khác gì vua Thành Thang, chỉ cần giữ gìn nhơn đức, nuôi dưỡng tôi dân, đợi thời sẽ tính. Hễ lòng người mà thuận, thì máy tạo cũng theo.

Văn Vương nói:

– Quan Ðại Phu nói như vậy không là kẻ trí thương ta, cũng không là tôi ngay thờ chúa. Vả tội ta đáng giết, vua chỉ cầm tù là đã mang ơn rồi. Nay vua lại phong vương, ban cờ mao búa việt dạy ra lo việc chinh phạt, thì ơn ấy ví bằng trời đất, ta phải lo rán sức trả ơn, lẽ nào nghĩ điều bội chúa. Thôi, từ rày về sau quan Ðại Phu chớ nói như vậy nữa mà ta buồn ý.

Bá quan nghe nói đều làm thinh. Cơ Phát thưa:

– Xin phụ vương thay đổi áo xiêm, lên xe về điện.

Văn Vương đổi lấy áo mão, bước lên xe, truyền Thân Kiệt theo hầu, rồi vua tôi đồng về kinh.

Giữa lúc đó dân chúng đều hô lên một câu lớn:

– Bảy năm nay mới thấy mặt trời, nghe chúa trở về, muôn dân điều ngóng cổ ước ao được thấy mặt.

Văn Vương thấy dân chúng nói như vậy liền xuống xe lên ngựa, chân bước đi giữa rừng người, để dân chúng ai nấy đều trông thấy.

Dân chúng mừng rỡ nói lớn:

– Nay Tây Kỳ đã có chúa, dân sự may mắn biết chừng nào.

Văn Vương đi đến núi Tiểu Long ngó ngoái lại thấy chín mươi tám người con đều đủ mặc, duy thiếu một mình Bá Ấp Khảo thì buồn bã vô cùng. Hai dòng lệ nhỏ xuống má, ruột đau như cắt, lấy áo che mặt khóc lớn than:

Trọn đạo tôi nên dâng lệnh chầu Thương

Vì gián chúa cho vẹn đạo can thường

Mà mắc tội cầm nơi Dũ Lý

Biết thời suy không oán trách triều đường

Vì hiếu Bá Ấp Khảo thương cha chuộc tội

Ðắt Kỷ hiềm, banh xương lóc thịt

Làm thịt con, trao bánh cho cha

Ăn thịt trẻ động lòng từ ái

Nhờ ơn vua mới đặng chức Văn Vương

Trốn nữa đường may gặp Lôi Chấn Tử

Bay vài giờ thấy rõ chốn quê hương

Nay đã được sum vầy mẫu tử

Mất một con đau đớn can trường.

Văn Vương dứt lời than, ré lên một tiếng, và nói:

– Ðau đứt ruột đi thôi.

Liền té xuống ngựa mặt trắng bạch như tờ giấy. Các vị công tử xúm nhau đỡ dậy. Văn Vương mửa ra một miếng thịt, cục thịt ấy mọc ra hai tai bốn cẳng, hóa hình con thỏ, chạy về hướng Tây biến mất. Văn Vương mửa ra hai miếng nữa, thịt cũng hóa thỏ chạy như vậy.

Văn Vương lần lần tỉnh lại, các quan đỡ lên xe đưa về đền tìm ngự y thang thuốc hơn mấy ngày mới mạnh.

Vừa khỏi bệnh, Văn Vương đã vào lạy mẹ chúc mừng và ôm chân khóc kể:

– Con bảy năm lỗi đạo thần tôi, xin mẹ tha tội.

Bà Thái Khương cũng vừa khóc vừa khuyên lơn. Văn Vương lại vào nhà tông miếu làm lễ tông đường.

Rồi đó, Văn Vương thuật hết mọi khó nhọc trong bảy năm bị giam cầm cho văn võ bá quan nghe, tặng thưởng bạc vàng cho Thân Kiệt và cho về quê cũ.

Táng Nghi Sanh quỳ tâu:

– Chúa công đức rải thiên hạ, muôn dân kính vì. Nay cọp đã về rừng, rồng thênh thang bên biển cả, đã qua cơn bỉ cực, phải tìm hồi thái lai. Xét như vua Trụ giết vợ hại con, bày Bào Lạc hại trung thần, lập Sái Bồn giết cung nữ, hành động tàn ác ấy khiến nhiều đấng chư hầu làm phản ba phương thiên hạ trở lòng Triều Ca sẽ không thể trị lâu, cơ nghiệp sẽ không tồn tại.

Táng Nghi Sanh vừa nói dứt, bên võ tướng có một người hét lớn lên:

– Nay Ðại vương đã về đến đây, há chúng ta lại quên thù Công tử. Xin đem binh ròng bốn mươi vạn, tướng mạnh sáu mươi viên, kéo tới lấy một lần luôn năm ải, chém đầu Bí Trọng, mổ ruột Vưu Hồn, bằm Ðắt Kỷ thành tương, phế vua Trụ làm dân dã, tôn người hiền lên Thiên Tử, cứu hoạn nạn cho muôn dân. Ðược như vậy chư hầu thảy mang ơn, muôn dân sẽ mến đức.

Văn Vương thấy người vừa nói là Nam Cung Hoát thì buồn bã trách:

– Ta nghĩ hai khanh trung nghĩa, nên giao phó việc triêu đình, ngờ đâu nay hai khanh lại tỏ lời phản chúa xúi việc bất trung. Ví dầu chúa có lỗi thì tôi cũng chớ oán cừu, còn cha có lầm thì con cũng nên giấu giếm. Ðó là đạo trung thần. Con trách cha, tôi oán chúa sao phải. Nay ta nhờ Thiên Tử phong đến chức Văn Vương, cho về nước cầm quyền chinh phạt, đáng lẽ ngày đêm cầu khẩn cho chúa mạnh dân lành, lẽ đâu làm thói lăng loàn, sanh lòng phản nghịch. Từ rày các khanh chớ nên tỏ ý như vậy nữa mà mang tiếng xấu muôn đời.

Nam Cung Hoát tâu:

– Ngày trước Công tử đi cống sứ, dâng ba vật báu chuộc tội cho cha hành động hiếu đạo như vậy lại bị kẻ tàn ác phân thây! Nếu không báo oán thì làm sao cho nguôi giận?

Văn Vương nói:

– Bá Ấp Khảo bị giết là tại cãi lời cha, nếu không đến viếng thăm làm sao mắc họa. Nay ta phải giữ phép cho vẹn đạo chúa tôi, dầu vua độc ác thế nào cũng còn có chư hầu phán xét, lẽ nào ta đứng đầu gây loạn cho mang tiếng hay sao. Chi bằng lấy việc nuôi dân trị nước làm gốc, miễn tránh cho thiên hạ khỏi lao khổ, chúa tôi được hưởng thanh bình, tai không nghe tiếng giáo gươm, mắt không thấy cảnh giết chóc, lòng khỏi lo thắng bại, mình chẳng sợ đạn tên tướng chẳng giao tranh, dân không nguyền rủa, ấy là vui ấy là phước.

Táng Nghi Sanh và Nam Cung Hoát nghe Văn Vương nói điều nhơn đức, cả hai đều quỳ lạy lui về.

Văn Vương nói:

– Trẫm muốn cất một cái linh đài tại hướng Nam gần thành Tây, để coi sao và xem bói nhưng sợ bày ra thì nhọc sức dân.

Táng Nghi Sanh tâu:

– Chúa công muốn làm đài Thiên văn, coi điềm hung kiết, giữ cho dân được thái bình thịnh trị đó là việc làm có ích lợi. Nhưng muốn cho dân chúng được vui xin chúa công treo bảng mướn nhân công, mỗi người một ngày trả hai chỉ bạc, ai muốn ăn tiền thì làm, không cần bắt ép.

Văn Vương khen:

– Khanh nghĩ vậy rất hay. Vậy hãy treo bảng ngoài thành cho dân biết trước.

Hồi 23: Thấy Phi Hùng điềm lành ứng mộng

Táng Nghi Sanh được lệnh Văn Vương ngày hôm sau treo bảng tuyển lựa nhân công, dân chúng bâu quanh, đọc rằng:

“Tây Bá Văn Vương truyền rao cho dân chúng rõ:

Ta xem thấy khu đất trống dựa thành Tây tốt lắm, muốn lập một cái Linh đài để xem Thiên văn và bói Dịch, biết việc dữ lành trong nước. Người nào muốn đến làm sẽ được trả hai chỉ bạc mỗi ngày, còn ai không muốn làm thì thôi, không bắt buộc.”

Nhân dân bàn luận với nhau:

– Bởi Ðại vương nhân đức nên chúng ta mới được thảnh thơi, mặt trời mọc thì đi chơi, mặt trời lặn thì về ngủ, khỏi lo ly loạn, vui thái bình. Nay Ðại vương muốn cất Linh đài để xem việc dữ lành trong nước, lẽ ra chúng ta phải góp công, góp sức mà làm cần gì phải trả tiền công.

Bàn luận xong, dân chúng cử người thay mặt đến xin yết kiến Táng Nghi Sanh và thưa:

– Chúng tôi xin góp sức làm xong Linh đài, không lấy đồng tiền công nào hết.

Táng Nghi Sanh vào tâu lại, Văn Vuơng không bằng lòng, ép dân chúng phải nhận tiền. Dân chúng mến đức vô cùng, dốc hết sức mình đua nhau làm rất hăng, chỉ trong mười ngày, một cái đài nguy nga đã lập xong.

Văn Vương dẫn bá quan ra xem thấy đài cao hai trượng, chạm trổ đâu đấy rất tinh vi, vẻ huy hoàng tưởng không ngờ được.

Tuy vậy, nét mặt Văn Vương vẫn không vui. Táng nghi Sanh thấy vậy hỏi:

– Linh đài đã lập thành, vì ý gì Chúa công buồn bực?

Văn Vương nói:

– Ta muốn đào thêm trước sân Linh dài một cái ao nữa mới đủ âm dương, song sợ sức dân mệt nhọc.

Táug Nghi Sanh nói:

– Lập cái đài công lao bằng mười lần mà chỉ làm trong mấy bữa, thì đào cái ao phỏng có bao nhiêu công mà Chúa công ngần ngại.

Văn Vương nói:

– Cái ao phải đào bằng Linh đài, thủy hỏa bằng nhau.

Dân chúng nghe Văn Vương có lòng thương dân như vậy xúm nhau đến yết kiến Táng nghi Sanh, nói:

– Việc đào ao công phu có bao nhiêu mà Chúa công lo lắng.

Nói rồi hè nhau chia thành toán, kẻ xúc đất, người hì hục đào.

Niềm vui tớ mở. Khi hầm sâu độ một thước, dân chúng gặp những bộ xương khô trắng hếu, chẳng biết chôn từ đời nào liền móc quăng lên.

Văn Vương trông thây hỏi:

– Vật gì trắng hếu như vậy?

Dân chúng thưa:

– Ðó là những bộ xương người chẳng biết của ai.

Văn Vương nói:

– Phải sắp theo từng bộ, để tẩn liệm, chôn cất hẳn hoi, không nên khinh thường.

Dân chứng tâu:

– Ðó là những nấm mồ hoang vô chủ, không ai thừa nhận còn quý trọng làm gì.

Văn Vương nói:

– Quý trọng cái mà không ai quý trọng là con người có đạo.

Nói rồi truyền mua quan quách, bao nhiêu xương trắng được chôn cất tử tế.

Ðến bộ xương khô mà vua còn thương huống chi người sống. Ai nấy đều cảm kích, nên việc đào ao chỉ vài hôm hoàn thành.

Mấy ngày đêm Văn vương xem đào ao không về điện, truyền quân dọn tiệc trên đài vua tôi ăn uống. Thấy việc đào ao quá mau như vậy Văn Vương đặt tên là Linh chiêu, nghĩa là ao linh.

Yến tiệc xong rồi Văn Vương nằm ngủ trên đài, chiêm bao thấy một ông cọp có cánh, lao mình từ bên Ðông chạy xóc tới nhảy xổ vô màng, Văn Vương thất kinh vừa gọi tả hữu, xảy nghe sau đài nổ một tiếng lớn, lửa cháy rực trời. Văn Vương giật mình thức dậy mồ hôi ướt đẫm như tắm. Bấy giờ trống đã đổ canh ba.

Sáng ngày Văn Vương đòi Nghi Sanh đến hỏi điều lành dữ.

Nghi Sanh tâu:

– Ðó là điều tốt, chúa công sẽ gặp tôi hiền.

Văn Vương hỏi:

– Căn cứ vào đâu mà đoán như vậy?

Táng Nghi Sanh tâu:

– Xưa vua Cao Tông nhà Thương chiêm bao thấy gấu bay mới gặp được Phú Duyệt là tôi tài trí, nay Ðại vương nằm mộng thấy hùm có cánh thì cũng như thấy gấu bay. Còn cõi Tây thì thuộc Kim, mà lại thấy lửa cháy ấy là vàng, nhờ lửa mới nên vật quí trong đời. Quả thật điềm đại lợi cho nước Châu ta vậy.

Các quan nghe nói đều mừng rỡ vô cùng. Văn Vương lui về điện, ngày đêm mong ngóng, mong tìm được người hiền, hiệp với điềm ứng mộng.

Nhắc lại Khương Tử Nha từ khi bỏ xứ Triều Ca cứu dân qua ải rồi ẩn dật nơi Bàn Khê đợi vận, gieo câu sông Vị chờ thời, đói ăn trái cây, khát uống nước suối, vui thì xem kinh luyện phép, buồn thì câu cá giải khuây.

Ngày kia, Tử Nha ngồi trên thạch bàn, cầm cần câu thả xuống nước, ngâm một bài thơ như vầy:

Về thế tám thu chầy

Trần ai chịu đọa đày

Nữa năm nương đất Trụ

Một khắc đến non Tây

Sợi nhợ kinh luân đó

Miếng mồi thao lược đây

Truớc là câu cá nước

Sau đợi hội rồng mây

Tử Nha vừa ngâm xong bài thơ, bước lại cội dương ngồi hứng mát bỗng thấy một ông tiều vai gánh củi, miệng hát lêu nghêu.

Ông tiều thấy Tử Nha liền ghé lại hỏi:

– Tôi thấy ông thường câu cá nơi khúc sông này, muốn nói với ông vài câu chuyện để hưởng thú ngư tiều vấn đáp.

Tử Nha mừng rỡ nói:

– Tốt lắm! Tôi với ông sẽ là bạn với nhau.

Ông Tiều hỏi:

– Ông quê quán ở đâu, tên họ là chi?

Tử Nha nói:

– Tôi ở Hứa Châu, họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha, biệt hiệu là Phi Hùng.

Ông Tiều nghe nói cười ngã nghiêng ngã ngửa. Tử Nha lấy làm lạ hỏi:

– Ông là ai vậy?

Ông tiều đáp:

– Tôi họ Võ tên Kiết ở xứ Tây Kỳ.

Tử Nha hỏi:

– Tại sao ông lại cười như điên vậy?

Võ Kiết đáp:

– Tôi nghe ông xưng hiệu Phi Hùng nên nín cười không được.

Tử Nha hỏi:

– Từ xưa đến nay làm người ai cũng có tên có hiệu, chuyện gì mà cười.

Võ Kiết nói:

– Ðời xưa, những bậc thánh hiền bụng chứa văn chương, lòng đầy thao lược xưng tên xưng hiệu đã đành, còn như ông ngồi câu cá suốt ngày, cái lưng cháy nám mà cũng xưng hiệu Phi Hùng bảo tôi nín cười làm sao. Nếu ông tự xưng là con khỉ ốm thì khỏi ai bắt bẻ.

Võ Kiết vừa nói vừa giở cần câu lên, thấy lưỡi câu ngay đường, liền vỗ tay cười, rồi chắt lưỡi than:

– Hễ có trí thì tuổi thơ cũng có trí, còn không mưu thì đầu bạc cũng không mưu. Muốn câu cá mà để lưỡi câu ngay thì đời nào bắt được cá. Ðể tôi dạy dùm cho. Ðốt cây kim này cho đỏ, cắt ngạnh, uốn cong cong rồi móc mồi cho thơm, nhợ phải cột phao chính giữa, lúc thả xuống sông mà thấy phao động đậy ấy là cá ăn câu, phải giựt lên cho gấp, lưỡi câu móc vào mép cá, mới bắt được cá mà ăn. Khờ dại như ông mà dám cả gan xưng Phi Hùng.

Tử Nha nói:

– Ngươi biết một chẳng biết hai. Ta không dùng lưỡi câu cong để câu cá câu tôm, chỉ dùng lưỡi câu ngay để câu thời cân vận. Nếu làm cong queo thì được của thà cứ thế ngay mà thanh bạch còn hơn. Như ý ta là:

Ngày chờ thời giờ quý

Vậy được của không cầu

Chẳg kiếm tôm kiếm cá

Mà kiếm công kiếm hầu.

Võ Kiết nhướng mắt nhìn Tử Nha từ đầu đến chân, cười lớn:

– Bộ tịch như con khỉ ốm lại muốn chuyện to tuồng. Tôi nghĩ chắc trong thế gian này hết người, nên thiên hạ mới cần đến loài khỉ.

Tử Nha nổi giận mắng:

– Ngươi chê ta bộ mặt khỉ, vậy mặt ngươi tốt lắm sao?

Võ Kiết nói:

– Bộ mặt ta không tốt nhưng cũng khá hơn một chút. Ta tuy là đốn củi, cũng còn sung sướng hơn ông câu, mùa xuân xem đào tươi, mùa hè coi sen nở, mùa thu hái bông cúc, mùa đông bẻ cành mai, vui thú thanh nhàn, quên đường danh lợi.

Võ Kiết nói xong ngâm một bài thơ:

Củi quế hàng ngày đổi gạo châu

Mẹ con chung uống rượu đầy bầu

Cây rừng trái núi là cơ nghiệp

Chẳng được chức công cũng chức hầu.

Tử Nha nói:

– Không phải ta chê bộ mặt ngươi xấu. Ta chê khí sắc của ngươi kìa.

Võ Kiết hỏi:

– Khí sắc của ta có gì xấu?

Tử Nha đọc bài thơ:

Mặt nọ đỏ bầm bầm

Tròng kia xanh dạng sạng

Ra phố đánh chết người

Chúng bắt thường nhơn mạng.

Võ Kiết nạt lớn:

– Nãy giờ tôi nói giỡn với ông một chút không hại gì, sao ông độc miệng rủa tôi như vậy.

Dứt lời Võ Kiết hậm hực gánh củi lên vai đi thẳng xuống thành Tây Kỳ không thèm ngoái đầu lại.

Bấy giờ Văn Vương ngồi xe qua Linh đài bói quẻ, văn võ theo chầu chực rất đông.

Vừa đến Nam môn, thấy người gánh củi đi tới, quân sĩ nạt lớn:

– Tránh đường cho thánh giá đi.

Võ Kiết nghe nạt thất kinh vội day gánh củi lại định nép sang một bên đường. Chẳng ngờ gánh củi kình càng, đụng phải vào mang tai tên lính chết tươi. Quân lính hai bên ó lên:

– Lão tiều này dám đánh chết lính.

Liền bắt Võ Kiết đem nạp cho Văn Vương.

Văn Vương phán:

– Người nào đâu vậy?

Quân lính thưa:

– Người này vô cớ đánh chết tên quân hầu là Vương Tướng.

Văn Vương hỏi:

– Nhà ngươi tên họ là chi? Vì sao lại đánh chết quân lính?

Võ Kiết tâu:

– Tôi là Võ Kiết dân ở Tây Kỳ bởi tránh xe đại vương, đường hẹp khó trở vai nên day gánh củi đụng nhằm chú lính.

Văn Vương phán:

– Võ Kiết đụng chết người phải thường mạng.

Nói rồi truyền vẽ một vòng dưới dất làm trại giam, dựng một cái cây trước cửa Nam làm quân canh, bắt Võ Kiết đứng trong vòng. Bấy giờ ở đất Tây Kỳ luật pháp rất nghiêm minh, trừng phạt rất nhẹ mà không ai dám trốn tránh.

Võ Kiết bị ngồi trong vòng ba bữa, nhớ mẹ than thầm:

– Chắc là mẹ ở nhà dựa cửa trông con, lòng già mòn mỏi.

Than rồi mủi lòng khóc lớn. Mọi người nghe tiếng khóc xúm lại xem.

Táng Nghi Sanh vừa đi đến, thấy vậy hỏi:

– Hôm trước nhà ngươi đụng chết lính, mạng thế mạng lẽ thường, oan ức gì mà khóc?

Võ Kiết thưa:

– Thời vận tôi rủi ro lắm, tránh đường hẹp mà làm chết người, thường mạng đã đành tôi đâu dám than thở, ngặt vì tôi không có vợ con anh em chi hết, còn lại mẹ già tuổi đã bảy mươi, nếu không có tôi lấy ai nuôi dưỡng. Mẹ tôi chắc phải nhào xuống sông mà chết, hoặc nhịn đói nên bỏ mình. Tôi nghĩ tôi bất hiếu với mẹ, nên tủi phận khóc than.

Táng Nghi Sanh nghĩ thầm:

– Võ Kiết là con chí hiếu, còn việc giết người là rủi ro không cố ý, nếu cứ theo luật pháp mà không nghĩ đến hoàn cảnh riêng sao gọi là công bằng.

Liền nói với Võ Kiết:

– Thôi, ngươi đừng khóc nữa, để ta tâu với vua tha cho ngươi về xứ, đặng sắm đủ gạo, mắm, áo quần, tiền bạc hòm rương cho sẵn chu cấp cho mẹ ngươi, rồi đến mùa thu năm tới ngươi sẽ đem mình đến đây mà nạp mạng.

Võ Kiết thưa:

– Nếu được như vậy tôi sẽ làm tròn chữ hiếu và rất đội ơn quan lớn.

Táng Nghi Sanh đến yết kiến Văn Vương, tâu rõ mọi điều. Văn Vương y tấu cho Võ Kiết về xứ.

Võ Kiết ra khỏi ngục thất, vì nhớ mẹ nên không kể trời đất gì nữa, ôm đầu chạy một mạch về đến nhà, mồ hôi thấm rách áo mình mẩy đầy cát bụi.

Bà mẹ Võ Kiết đứng dựa lưng trước ngõ trông con, thấy Võ Kiết chạy về liền hỏi:

– Con đi đâu bỏ mẹ mấy ngày rày? Mẹ tưởng con bị cướp, hùm xé xác trong rừng sâu rồi, đau buồn quá sức.

Võ Kiết thưa:

– Con rủi ro lắm mẹ ơi!

Vừa nói vừa ôm chân mẹ khóc sướt mướt.

Bà Mẹ vuốt tóc con hỏi:

– Chuyện gì nói cho mẹ hay?

Võ Kiết nói:

– Hôm kia con gánh củi xuống thành Tây bán, chẳng ngờ gặp lúc vua ngự ra Linh đài. Bọn quân canh dẹp đường cho Thánh giá đi, đang lúc lúng túng, con trở vai quay gánh củi để tránh đường, chẳng ngờ đụng nhằm mang tai một tên lính chết tươi. Vua bắt con cầm ngục…

Bà mẹ nghe nói đến đây thất kinh hỏi:

– Theo luật pháp, giết người phải thường mạng. Con làm sao trở về đây với mẹ được?

Võ Kiết thưa:

– Lúc con đang bị cầm ngục, con nhớ mẹ quá sức, sợ mẹ trông chờ, sợ không người nuôi dưỡng, nên khóc mãi. May nhờ có quan Ðại Phu thương tình tâu với vua cho phép con về nhà một năm để lo gạo, sắm áo quần, quan quách cho mẹ đủ dùng, mùa thu sang năm con sẽ đến nạp mình chịu tội.

Nói đến đây Võ Kiết khóc òa. Bà mẹ ôm con than:

– Suốt đời con chưa làm việc hung dữ, thờ mẹ rất có hiếu, sao lại xui khiến gặp chuyện tai ương như vậy!

Võ Kiết nói:

– Chắc con bị lão già câu cá ở Bàn Khê độc miệng rủa con nên con mới bị rủi ro như vậy?

Bà lão nói:

– Ông già câu cá rủa thế nào?

Võ Kiết liền kễ lại câu chuyện gặp gỡ Tử Nha, và nói:

– Lão nói mặt con đỏ bầm, hai con mắt tròng xanh tròng đỏ, thế nào cũng đụng chết người, bị bắt thường nhân mạng. Lão độc miệng rủa con như vậy nên con mới bị như vầy, để con tìm lão đánh một trận cho bõ ghét, để lão rủa thiên hạ chết hết.

Bà lão nói:

– Con đừng trách người ta như vậy, theo lời con nói, mẹ đoán chắc ông già ấy có tài xem tướng rất hay, con nên đến đó cầu khẩn ông ta may ra có cách cứu được.

Võ Kiết tuân lời mẹ, lạy tạ tìm đến Bàn Khê.