Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Hoàng Cổn dẫn hai đứa cháu đến trước ải quì lạy, nói với Hàng Vinh:
– Hoàng Cổn cúi ra mắt quan Tổng binh mà chịu tội.
Hàng Vinh đáp lễ rồi nói:
– Lão tướng quân! Việc này là việc triều đình, rất trọng tôi chẳng dám tự chuyên. Lão tướng có điều gì muốn nói, xin trình bày thử.
Hoàng Cổn nói:
– Họ Hoàng tôi phạm tội chết đã đành, không thể dung được. Nhưng có việc này quan Tổng binh có thể châm chế được. Nếu quan Tổng binh mở lòng nhân đức thì cha con tôi dầu chết cũng mang ơn.
Hàng Vinh nói:
– Lão tướng muốn xin gì cứ tỏ bày nghe thử.
Hoàng Cổn nói:
– Con tôi gây nên tội, tôi làm cha có chết cũng đành lòng. Song nghĩ họ Hoàng mấy đời trung nghĩa, có công lao với nước nhà, nay chẳng may mắc nạn, nếu để chết tuyệt tộc cũng thảm thương. Bởi vậy tôi đến mong nhờ Tướng quân xin thương trẻ thơ ngây vô tội rộng dung cho đứa cháu bảy tuổi của tôi qua khỏi ải để sau này hương lửa cho họ Hoàng.
Hàng Vinh đáp:
– Lão tướng quân nói lầm rồi, vả tôi cầm quyền quan ải, trấn thủ địa đầu, lẽ nào đi vị tình riêng mà quên phép chánh? Nếu tôi muốn được lòng lão tướng thì phạm luật triều đình. Hễ thương người thì hại mình, thà chịu mất lòng lão tướng để khỏi tội sau này.
Hoàng Cha nói:
– Xin Tổng binh xét lại, cứ nạp bốn cha con tôi và thằng cháu lớn về Triều Ca cũng đũ rồi, còn thằng Thiên Tường là đứa con nít mới lên bảy tuổi, tha nó cũng chẳng can chi.
Hàng Vinh nói:
– Tôi chỉ có quyền bắt mà không có quyền tha. Lão tướng muốn gì thì cứ đợi về Triều Ca trước mặt vua mà xin.
Hoàng Cổn thở dài nói:
– Tổng binh nở nào hẹp lượng như vậy. Lời xưa có nói: Kẻ có quyền cao mà hẹp lượng ví như vào núi báu mà lại về không. Người đời mấy ai được vô sự trăm năm. Vả chăng họ Hoàng tôi không phải khi không mà tạo phản. Tôi e chẳng bao lâu tai nạn sẽ đến bất cứ một kẻ nào hiện là trung liệt, thờ vua.
Hàng Vinh nói:
– Lão tướng không cần phải chỉ dạy tôi nhiều. Chừng nào tôi làm phản qua đất Tây Kỳ sẽ thả Hoàng Thiên Tường ra.
Hoàng Cổn năn nỉ hết sức, Hàng Ving cũng nhất định không nghe.
Hoàng Cổn nổi giận nói với hai cháu:
– Vì thương hai cháu, ông đã hạ mình năn nỉ hết lời, nhưng Hàng Vinh là đứa mặt người dạ thú. Thôi ba ông cháu chúng ta cứ vào ngục, để nó giải về triều, dù chết cũng thơm danh hơn là xin xỏ quân thất phu vô đạo.
Hoàng Phi Hổ thấy cha mình dắt hai đứa cháu vào ngục vùng khóc lớn lên:
– Không dè hôm nay lại đúng như lời cha nói hôm trước. Thật tội con đáng chết làm hư tiếng trọn mấy mươi năm.
Hoàng Cổn nói:
– Ngươi đã làm lỡ việc, còn ăn năn làm gì nữa. Thân làm một vị vương ở tại triều, cầm đầu các tướng lảnh trong nước, dù muốn phản Trụ đầu Châu ít ra cũng phải sắp đặt trong ngoài cho gọn, đưa những tướng tâm phúc của mình ra trấn ải ngoài để lúc ra đi khỏi bị ai ngăn trở. Ðàng này ngươi chỉ biết tức tối hôn quân giết vợ mình vụt ra đi, không nghĩ gì nguy hiểm như thế còn gì bất trí hơn.
Hoàng Phi Hổ nghe cha mắng, biết lỗi làm thinh, lòng thầm trách các gia tướng:
– Cũng tại bọn này đốc thúc, trong lúc bối rối ta đã quên tất cả. Ðến nay mới rõ lời cha ta là đúng.
Còn Hàng Vinh sau khi bắt trọn gia đình Hoàng Phi Hổ liền cướp hết báu vật, đoạt hết quân lương, làm mấy chiếc tù xa sắp đặt giải về Triều Ca lãnh thưởng. Quan quân dọn tiệc ăn mừng, suốt ngày đêm vui cười không dút.
Hôm sau, Hàng Vinh chọn tướng giải tù xa.
Dư Hóa nói:
– Từ đây đến Triều Ca đường sá xa xôi tôi phải ra tay giải tù mời chắc chắn.
Hàng Vinh nói:
– Nếu tướng quân chịu khó với ta phen này thì ta yên lắm không còn lo lắng gì nữa.
Nói rồi vào trướng nghỉ ngơi.
Rạng ngày, Hàng Vinh cấp ba ngàn nhân mã theo Dư Hóa, giải mười một phạm nhân. Các tướng canh dọn tiệc tiễn hành đồng theo đưa Dư Hóa hai dặm đường.
Dư Hóa kéo quân ra đi giữa bầu không khí tưng bừng náo nhiệt.
Ði khỏi tám mươi dặm thì đến ải Giới Bài. Hoàng Cổn ngồi trong tù xa thấy quan ải của mình thì ngậm ngùi rơi lụy. Dân chúng trong thành đều kéo nhau ra xem, ai nấy thương tình che mắt khóc.
Dư Hóa truyền tấn binh, thẳng đến ải Xuyên Vân.
Nói về núi Càng Nguyên, động Kim Quang, ông Thái Ất đang ngồi trên giường Bích du, cảm thầy trong lòng hồi hộp, liền đánh tay xem thử việc gì, thấy gia quyến họ Hoàng mắc nạn, thì nghĩ:
– Họ Hoàng phản Trụ đầu Châu là thuận theo lẽ trời, nay rủi mắc nạn, lẽ nào ta biết mà làm ngơ không cứu.
Liền gọi Kim Hà đồng tử truyền rằng:
– Hãy mời sư huynh ngươi ra đây cho ta dạy việc.
Kim Hà đồng tử tuân lệnh, thẳng đến vườn đào, thấy Na Tra đang tập võ liền gọi lớn:
– Thầy cho mời sư huynh đến lập tức.
Na Tra vội vào lạy trước giường, thưa:
– Chẳng hay thầy dời đệ tử đến dạy việc chi?
Thái Ất nói:
– Cha con Hoàng Phi Hổ đều mắc nạn tại ải Xuyên Vân, ngươi mau xuống đó cứu người đưa qua ải Tụy thủy rồi trở về đây.
Na Tra tánh ưa chinh chiến, nghe thầy sai đi đánh người thì mừng lắm, liền cầm giáo lên xe Phong Hỏa, thẳng xuống ải Xuyên Vân.
Người sau có bài thơ nói việc Na Tra xuống Xuyên Vân ải như sau:
Chân đạp xe linh thấu chín trùng
Càng nguyên phép báu tặng anh hùng
Ào ào gió lửa bay như chớp
Thẳng đến Xuyên Vân lẹ chẳng cùng.
Chẳng mấy chốc Na Tra đã đáp xuống trước ải Xuyên Vân, đứng trên một gò ruộng, nhìn quanh bốn phía, thấy một đạo quân cờ xí rộn ràng, gươm giáo lởm chởm.
Na Tra nghĩ thầm:
– Mình là kẻ vô can, đón đánh chúng mà không có duyên cớ thì lạt lẽo lắm. Vậy phải kiếm chuyện gây rắc rối cho chúng nổi xung rồi mới đánh thì thú vị hơn.
Nghĩ rồi đạp xe ra đón giữa đường, hát nghêu ngạo:
Sống lâu như núi mấy muôn đời
Chỉ sợ thầy ta chẳng sợ trời
Hôm trước lão quân đi lỡ bước
Cục vàng mãi lộ tặng cầm hơi.
Na Tra đón đường ca hát, quân sĩ không đi được trở lại báo với Dư Hóa:
– Có một tướng đứng trên xe đón đường, chúng tôi không qua được.
Dư Hóa truyền lệnh đồn binh giục thú chạy đến xem.
Na Tra liền hỏi:
– Tướng nào đến làm gì vậy?
Dư Hóa nói:
– Sao ngươi chặn đường không cho quân ta đi?
Na Tra nói:
– Ta chiếm cứ đất này đã lâu, bất luận vua quan hay dân sự ai đi qua cũng phải nạp tiền mãi lộ. Nếu ngươi muốn cho đoàn quân đi qua đây thì cứ đếm đầu người mà tính tiền.
Dư Hóa cười ngất nói:
– Ta là quan Tiên phuông, họ Dư tên Hóa, là bộ hạ của Hàng Vinh làm chức Tổng binh tại ải Tụy thủy. Nay ta vâng lệnh giải mấy tên phản tặc họ Hoàng về Triều ngươi tài cán chi mà dám đón đường chận ngõ. Mau tránh ra kẻo mất mạng.
Na Tra nói:
– Ôi chà, ta tưởng ngươi kéo quân đi đánh giặc, chớ ngươi là quan giải tội nhân thế nào cũng ăn nhiều của hối lộ, vậy thì cứ tính đầu người trả gấp hai tiền mãi lộ ta mới chịu.
Dư Hóa nổi giận hét lớn:
– Súc sanh, ta hơi đâu mà nghe ngươi nói xàm.
Nói rồi đâm Na Tra một kích. Na Tra cầm giáo gạt ngang, đánh được ít hiệp. Na Tra sức mạnh như thần, Dư Hóa thất kinh không dám chống cự, quay thú chạy dài.
Na Tra hét lên:
– Ngươi trốn đàng nào cho khỏi?
Vừa nói vừa đạp xe đuổi theo. Dư Hóa mừng thầm lấy Lục Hồng Phang quăng lên, quyết bắt Na Tra, chẳng ngờ Na Tra đưa tay túm lấy cây phướng phép giắt vào lưng gọn trơn.
Dư Hóa mặt biến sắc, Na Tra kêu lớn:
– Dư Hóa, ngươi còn phép chi nữa không?
Dư Hóa mất phép, túng thế phải quay lại đánh liều.
Na Tra nghĩ thầm:
– Thầy ta dặn xuống đây cứu họ Hoàng, nếu ham giao đấu để chúng giết mất cả gia quyến họ Hoàng thì nguy.
Nghĩ rồi lấy Kim Chuyên quăng lên.
Dư Hóa thấy hào quang chói sáng thất kinh chưa biết tránh né ra sao thì đã bị Kim Chuyên đánh vào mặt, phun máu, ôm lưng thú chạy dài.
Na Tra không đuổi theo, quay xe lại đánh đuổi đoàn quân giải tù xa chạy tán loạn.
Na Tra thấy mấy người ngồi trong tù xa, tóc bay phất phới, lệ nhỏ dầm dề, liền gọi lớn:
– Ai là Hoàng tướng quân?
Hoàng Phi Hổ hỏi lại:
– Ân nhân là ai vậy?
Na Tra nói:
– Tôi là học trò của ông Thái Ất ở núi Càng Nguyên, động Kim Quang. Thầy tôi biết các ông mắc nạn, nên sai tôi xuống giải cứu.
Hoàng Phi Hổ mừng rỡ tạ ơn.
Na Tra lấy Kim Chuyên đập bể tù xa, cứu các nạn nhơn ra khỏi. Ai nấy đều tạ ơn.
Na Tra nói:
– Các ông thủng thỉnh mà đi. Tôi sẽ theo đưa các ông qua khỏi ải Tụy thủy.
Các tướng nói:
– Ơn tướng quân giải cứu, chúng tôi chẳng bao giờ dám quên.
Na Tra nói:
– Chúng ta ngày nay chưa quen biết. Nhưng sau nay còn nhiều gặp gỡ.
Mừng được thoát nạn, các tướng đều hăm hở cầm thương lên ngựa trở lại ải Tụy Thủy.
Bấy giờ Dư Hóa bị Na Tra đánh một Kim Chuyên, hộc máu chạy trở về ải Tụy Thủy. Nhờ con thú chạy mau nên đến nơi chẳng mấy chốc.
Hàng Vinh đang ngồi uống ruợu trong dinh, bàn chuyện họ Hoàng với chúng tướng, xảy nghe báo Dư Hóa trở lại thì kinh hải nghĩ thầm:
– Dư Hóa mới đi sao lại trở về, chắc có việc gì biến loạn.
Liền đòi Dư Hóa vào dinh hỏi:
– Sao Tướng quân trở lại? Ta xem hình như Tướng quân bị thương.
Dư Hóa quì thưa:
– Chúng tôi giải phạm nhân gần đến ải Xuyên Vân, xảy gặp một người đứng trên hai bánh xe. Người ấy không xưng họ tên, chỉ ca lảm nhảm trong miệng và đón đầu binh đòi tiền mãi lộ. Tôi tức giận giao đấu với người ấy mấy hiệp, chẳng ngờ người ấy sức mạnh phi thường, tôi đánh không lại, phải dùng Lục Hồng Phang ra bắt. Nhưng người ấy có tài thâu mất phép báu của tôi. Tôi trở lại đánh nữa bị gã liệng phép mầu đánh tôi gần bể mặt, nhờ con thú của tôi chạy nhanh tôi mới về được đến đây, chớ nếu là ngựa thường thì bỏ mạng rồi.
Hàng Vinh hỏi:
– Còn cha con Hoàng Phi Hổ thì thế nào?
Dư Hóa thưa:
– Thân tôi chạy thoát chết, không hiểu thế nào nữa.
Hàng Vinh giậm chân than:
– Công lao chúng ta rất nhiều nhưng lại không cầm được phản thần. Nếu Thiên tử hay được việc này thì tội chúng ta chẳng nhỏ.
Các tướng đồng thưa:
– Chúng tôi nhắm sức Hoàng Phi Hổ không thể qua khỏi ải, cũng không dám trở lại Triều Ca. Xin Tổng binh cho lệnh thủ thành, kẻo quân gian thừa cơ đoạt ải.
Các tướng đang bàn tính, bỗng có quân vào báo:
– Ngoài thành có một tướng cỡi xe, cầm giáo, gọi Dư tướng quân ra đấu chiến.
Dư Hóa nói:
– Ấy là người đã đánh tôi chạy đó.
Hàng Vinh nổi giận truyền quân đồng kéo ra thành, bổn thân cầm gươm đi trước.
Na Tra xem thấy Hàng Vinh đội mão vàng, cỡi ngựa kim, cầm thương sắt, mặc áo đỏ, nịt đai ngọc, liền giục lẹ đến.
Hàng Vinh hỏi:
– Ngươi là người nào mà dám đến cửa ải?
Na Tra nói:
– Ta là Na Tra, học trò của ông Thái Ất, vâng lệnh thày xuống cứu họ Hoàng. Vì ta chưa đánh chết Dư Hóa nên phải đến đây.
Hàng Vinh nói:
– Ngươi cả gan dám cướp tù xa, còn dám đến đây sanh sự?
Na Tra nói:
– Nhà Thương đã hết số, chúa Tây Kỳ sắp ra đời. Dòng họ Hoàng phản Trụ đầu Châu là hợp với khí số trời đất, sao ngươi dám bắt.
Hàng Vinh nổi giận lướt ngựa tới đánh liền. Cờ phất trống rung tướng vây, binh ó, làm rộn cả chiến trận.
Na Tra thương pháp thần, múa giáo vù vù không hề nao núng.
Hàng Vinh đang đánh với Na Tra, xảy thấy anh em Hoàng Phi Hổ xốc tới quyết bắt cho được Hàng Vinh để rửa hận.
Dư Hóa gượng gạo đưa binh ra cự.
Na Tra thấy Hoàng Phi Hổ theo tới liền quăng cục Kim Chuyên lên, đánh trúng vào kính hộ tâm của Hàng Vinh bể nát.
Hàng Vinh kinh hãi chạy dài.
Dư Hóa hét lớn:
– Na Tra chớ hiếp chủ ta.
Nói rồi xông vào hổn chiến.
Na Tra quăng Càn Khôn Quyện lên, đập Dư Hóa gãy tay, lòi xương cánh. Dư Hóa gần sa xuống đất, liền giục thú tìm đàng chạy trốn.
Na Tra lấy ải Tụy Thủy, còn Hoàng Phi Hổ và các tướng rượt quân chạy như ong.
Vào ải rồi, anh em Hoàng Phi Hổ kiểm điểm quân lương, thâu lại những báu vật và lương thảo mà mình đã bị mất, tuyển lại ba ngàn binh đã theo mình từ ải Giới Bài, cùng nhau đề huề lên đường sang Tây Kỳ.
Na Tra đưa tới núi Kim Kê thì từ giã.
Hoàng Phi Hổ và các tướng đồng nói:
– Chúng tôi nhờ ơn Công tử giải nạn, nếu sau này gặp nhau, nguyện kết cỏ ngậm vành.
Na Tra nói:
– Các tướng nay về đầu Châu, ngày sau chúng ta còn gặp gỡ. Tôi cũng sẽ xuống Tây Kỳ phò Châu chúa, khi ấy sẽ xum vầy.
Các tướng từ biệt. Na Tra đạp xe Phong Hỏa trở về núi Càng Nguyên.
Hoàng Phi Hổ dẫn ba ngàn gia binh, gia tướng cũ, bảo hộ cha già con trẻ hiệp đoàn trải qua non nước xa xôi.
Có bài thơ người sau như vầy:
Ðã qua năm ải chẳng lo chi
Lặn suối trèo non có ngại gì?
Từ ấy Tử Nha binh đã động
Ðể xem các nẻo phạt Tây Kỳ.
Ðoàn người của Hoàng Phi Hổ đi khỏi núi Thú Dương, qua núi Ðào Hoa, núi Yên Sơn, rồi đến núi Tây Kỳ. Từ đó đến Tây Kỳ còn chỉ có bảy mươi dặm.
Hoàng Phi Hổ truyền đóng trại lại nghỉ ngơi và thưa với cha:
– Con xin vào Tây Kỳ trước yết kiến Tử Nha xem sự việc thế nào. Nếu Võ Vương dùng chúng ta thì con trở lại dẫn binh tướng vào thành, còn không cha con mình sẽ tính phương khác.
Hoàng Cổn nói:
– Con tính như vậy phải lắm.
Hoàng Phi Hổ mặc đồ trắng, lên yên thẳng đến Tây Kỳ, dọc đường ngắm phong cảnh tốt tươi nhân dân thuần hậu, già trẻ kính vì, phong tục thanh cao.
Hoàng Phi Hổ nhủ thầm:
– Nhiều người khen đất Tây Kỳ có Thánh nhân, thật quả không sai. Ấy là đất Thuấn trời Nghiêu.
Quân trong thành trông thấy liền dẫn Hoàng Phi Hổ đến nơi.
Hoàng Phi Hổ nói với những tên quân gác cổng:
– Các ngươi vào bẩm giùm với Thừa Tướng có Hoàng Phi Hổ từ Triều Ca đến đây xin ra mắt.
Nói rồi đưa một lá đơn đệ nạp. Quân hầu vào báo.
Tử Nha xem rồi, nghĩ thầm:
– Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ có việc gì đến đây ra mắt?
Liền sửa soạn áo mão chỉnh tề ra đón vào.
Hoàng Phi Hổ trông thấy Tử Nha liền làm lễ ra mắt, Tử Nha đáp lễ và nói:
– Ðại vương đến phủ tôi trễ tiếp nghinh, xin rộng lòng miễn chấp.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tôi là người mắc nạn, nay bỏ Thương về Châu khác nào chim đã mất rừng, xin đỗ nhờ một nhánh, như Thừa Tướng chẳng bỏ, tôi nguyện cảm đức vô cùng.
Tử Nha mời ngồi.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tôi là kẻ mạt tướng của nhà Thương ruồng bỏ, dám đâu sánh vai cùng Thừa Tướng.
Tử Nha nói:
– Tôi tuy nay làm Thừa Tướng nhưng trước kia là người dưới tay của Ðại Vương. Ðại Vương chớ nên khiêm nhường thái quá.
Hoàng Phi Hổ thấy Tử Nha thiệt tình hậu đãi, xá một cái, rồi ngồi ghé sang một bên.
Tử Nha hỏi:
– Ðại Vương có điều gì bực tức mà bỏ Trụ Vương?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Trụ Vương mồi ngày mỗi vô đạo không còn kể gì đạo thần tử nữa, vừa rồi nghe lời Ðắt Kỷ hiếp vợ tôi bỏ mình, Hoàng Quí Phi đến can gián cũng bị Trụ Vương bênh Ðắt Kỷ ném xác xuống Lộc đài. Tôi nghĩ rằng vua chẳng chính thì tôi đầu ngoại quốc. Ấy cũng là lẽ thường, nên tôi bỏ Triều Ca thoát qua năm ải đến đây xin làm trâu ngựa. Nếu Thừa Tướng mà dùng, không chê kẻ bất tài thiếu trí thì chúng tôi xin đội ơn.
Tử Nha mừng rỡ nói:
– Nếu Ðại Vương bằng lòng ở đây giúp sức thì Võ vương may mắn biết chừng nào. Vậy xin đại vương ra nghỉ đỡ ngoài công quán, chờ tôi vào tâu lại.
Hoàng Phi Hổ từ giã lui ra ngoài quán dịch, còn Tử Nha vào đền Hiển thánh ra mắt Võ vương.
Bấy giờ Võ vương ra ngồi trên điện, thấy có quan đương giá vào tâu:
– Có Thừa Tướng đến hầu việc.
Võ Vương truyền chỉ mời vào.
Tử Nha làm lễ xong, Võ vương phán:
– Tướng Phụ ra mắt quả nhơn có việc chi?
Tử Nha tâu:
– Chúa Công có việc vui mừng lắm! Nay Võ Thành vương Hoàng Phi Hổ bỏ Trụ đầu Châu ấy là điềm Tây Kỳ làm chúa thiên hạ.
Võ Vương hỏi:
– Hoàng Phi Hổ có phải là dòng quốc thích nơi Triều Ca không?
Tử Nha tâu:
– Ðúng vậy. Xưa tiên vương thường nói, khi ở Dũ Lý ra nhờ ơn Hoàng Phi Hổ mới thoát nạn, nay Hoàng Phi Hổ về đầu phải lấy lễ mà hậu đãi.
Võ vương nhớ lại lời Văn vương trước kia liền truyền chỉ cho mời.
Hoàng Phi Hổ được lệnh mời vào, vội quì lạy, tâu:
– Tôi là Hoàng Phi Hổ kẻ mắc nạn, xin chúc đại vương muôn tuổi.
Võ vương đáp lễ và nói:
– Quả nhơn mộ danh tướng quân đã lâu, vì tướng quân danh vang trong thiên hạ, ân trải bốn phương, ai cũng mến đức, khen tài. Ngày nay quả nhơn được gặp mặt thì may mắn biết chừng nào.
Hoàng Phi Hổ tâu:
– Nhờ đức Ðại Vương dung nạp người cô thế, lánh dữ tìm lành, chúng tôi nguyện rán sức mà báo đền ơn chúa.
Võ Vương phán hỏi Tử Nha:
– Xưa Hoàng tướng quân làm chức gì?
Tử Nha tâu:
– Làm chức Trấn quốc Võ Thành vương.
Võ vương phán:
– Nay quả nhơn cải đi một chữ, phong làm Khai quốc Võ Thành vương.
Hoàng Phi Hổ quỳ lạy tạ ơn.
Võ vương truyền yến tiệc thết đãi.
Trong bữa tiệc, Hoàng Phi Hổ thuật lại chuyện Trụ Vương lỗi đạo cang thường.
Võ vương nói:
– Vua tuy chẳng ngay, tôi cũng phải chính. Ta cốt ở cho trọn đạo thì thôi.
Kế đó Võ vương truyền Tử Nha xây cất dinh thự cho Hoàng Phi Hổ.
Tử Nha tuân lệnh thi hành.
Tiệc mãn ai nấy ra về.
Hôm sau, Hoàng Phi Hổ vào đền lạy tạ và tâu với Võ vương:
– Cha tôi là Hoàng Cổn, em ruột tôi là Phi Báo, Phi Bưu, con tôi là Thiên Lộc, Thiên Tước, Thiên Tường, em bạn tôi là Hoàng Minh, Châu Kỷ, Long Hoàn, Ngô Khiêm, độ ngàn gia đinh và ba ngàn nhơn mã, còn đang đóng trại ngoài Kỳ Sơn, chưa dám vào một lượt.
Võ Vương phán:
– Nếu có Lão tướng quân theo nữa, xin rước vào vào thành, còn các binh tướng tùy tùng, y như chức cũ.
Nhắc lại Thái Sư Văn Trọng từ khi theo Hoàng Phi Hổ đến ải Lâm Ðồng, bị Thanh Hư đạo nhân vải thần sa lừa phỉnh nên kéo binh trở lại.
Khi Văn Trọng theo đuổi gần đến Triều Ca thì đạo nhơn thâu sa biến mất.
Bá quan ra tiếp đón, hỏi thăm công việc Võ Thành vương, Thái Sư Văn Trọng thuật lại đầu đuôi câu chuyện, ai nấy đều ngơ ngác không rõ vì sao cả.
Văn Trọng nghĩ thầm:
– Dầu Hoàng Phi Hổ có trốn ở đâu nữa thì bên tả có ải Thanh Long, do Quế Phương ngăn trở. Bên hữu có ải Giai Mộng, do tứ tướng trấn giử, còn đường đi Tây Kỳ phải qua năm ải là ải Lâm Ðồng, Ðồng Quan, Xuyên Vân, Giới Bài và Tụy Thủy. Hoàng Phi Hổ dầu có cánh bay lên trời cũng khó lắm.
Thái Sư Văn Trọng ngồi chết điếng chưa kịp mở miệng thì đã nghe quân vào báo nữa:
– Hoàng Cổn theo làm phản, bỏ ải Giới Bài rồi.
Rồi lại thấy quân ở Tụy Thủy chạy về trình một phong thư của Hàng Vinh.
Văn trọng vội xé thư ra xem, rồi nổi giận nói lớn:
– Tiên vương thác cô ta gìn giữ giang sơn, không dè đến nay vua bất minh, thần bất chánh, làm loạn bốn phương. Ðông Bá Hầu, Nam Bá Hầu làm phản trước, rồi đến giặc dậy trong thành, khiến Võ Thành vương bội quân phản chúa. Ấy là điềm trời đã định, nay hưng vong chưa chắc, thành bại khó lường. Tuy nhiên bổn phận ta không thể phụ lời thác cô của thiên tuế.
Nói rồi truyền quân gióng trống nhóm họp các tướng luận bàn. Các tướng ứng hầu đủ mặt. Văn Trọng nói:
– Nay Hoàng Phi Hổ đầu Châu ắt sanh loạn. Ý ta muốn đem binh vấn tội, các quan tính lẽ nào?
Quan Tổng binh Lỗ Hùng thưa:
– Ðông Bá Hầu đang đánh ải Du Hồn, Ðậu Dung chống cự không nổi. Nam Bá Hầu đánh ải Tang Sơn, Cửu Công ngồi đứng không yên. Nay Hoàng Phi Hổ đầu Châu tuy có thể thêm một mũi giặc, nhưng Thái Sư chớ nên nóng giận mà gây thêm việc can qua. Ðang lúc này kho lẫm chưa đầy lương tiền chẳng đủ Nếu Cơ Phát có cất binh thì đã có bảy ải ngăn ngừa. Xin Thái Sư xét lại cần phải cân nhắc lúc tiến lúc thủ thì mới trị an thiên hạ.
Văn Trọng nói:
– Tướng quân luận cũng phải, song Tây châu thế đang mạnh, lại có Khương Tử Nha cầm đầu, nếu không liệu trước để đến chừng chúng nó đủ cánh đủ vi khó mà trừ được.
Lỗ Hùng thưa:
– Nếu Thái Sư nghi ngại xin sai vài tướng đi thám thính Tây Kỳ. Nếu thấy chúng êm đi thì thôi, còn muốn cử sự thì ta sẽ tính trước.
Văn Trọng khen phải và hỏi các tướng:
– Ai dám đến Tây Kỳ thám thính?
Cựu thánh tướng quân là Triều Ðiền bước ra thưa:
– Mạc tướng xin lĩnh mạng đến Tây Kỳ thăm dò tình hình, vì tôi có một người em là Triều Lôi chẳng sợ hang hùm nọc rắn.
Văn Trọng thấy anh em Triều Ðiền tình nguyện, liền cấp cho ba muôn binh mã và lương thực để tùy nghi ứng dụng.
Người sau có thơ rằng:
Muốn dọ binh tình tại cõi Tây
Cất quân ba vạn kéo như mây
Tử Nha kế nhiệm ngừa đôi nẻo
Bắt quách hai chàng trói một dây.
Triều Ðiền, Triều Lôi dẫn ba vạn binh thám thính, vượt khỏi năm ải, đến Tây Kỳ đóng trại.
Tử Nha đang ngồi trong phủ bỗng có quân thám thính về báo:
– Binh Triều Ca kéo đến ba vạn, đóng cách Tây môn mười dặm không rõ việc chi.
Tử Nha cũng ngạc nhiên, không rõ vì đâu có chuyện lạ lùng như vậy, liền tập chư tướng và nói:
– Không biết việc gì Trụ vương sai tướng kéo binh đến chiếm đóng nước ta.
Các tướng đều ngơ ngác, không ai đoán hiểu ra sao cả.
Tử Nha ngồi làm thinh bấm trán suy nghĩ.
Bấy giờ Triều Ðiền truyền quân đóng trại xong, bàn luận với em rằng:
– Nay chúng ta vâng lệnh Thái Sư, đến dò xem hư thiệt. Té ra chúng nó thờ ơ không phòng thủ, ta thừa cơ đánh thốc vào thành, nếu thắng trận thì lập được công to.
Triều Lôi khen:
– Anh tính vậy phải lắm.
Hai anh em liền cầm đao lên ngựa, kéo binh đến trước thành khiêu chiến.
Ðang ngồi ngẫm nghĩ, có quân vào báo:
– Có tướng Trụ đến ngoài thành khiêu chiến.
Tử Nha hỏi:
– Có ai thay mặt ta ra trận để chất vấn việc này cho minh bạch?
Nam Cung Hoát thưa:
– Tôi xin làm nhiệm vụ ấy cho.
Tử Nha liền cấp một đạo binh mã.
Nam Cung Hoát cầm đao lên ngựa kéo quân ra khỏi cửa thánh hỏi lớn:
– Tây Kỳ chúng tôi không có lỗi gì, sao thiên tử vô cớ sai tướng đến chinh phạt?
Triều Lôi lướt ngựa tới, nói:
– Ta vâng chỉ Thiên tử, phụng mệnh Thái Sư đến vấn tội Cơ Phát, vì lẽ nào đám tự ý xưng vương, lại dung nạp Hoàng Phi Hổ là tôi phản chúa. Ngươi hãy vào thưa với chúa ngươi mau đi dẫn Hoàng Phi Hổ ra đây mới khỏi tội.
Nam Cung Hoát cười lớn nói:
– Triều Lôi! Tội Trụ Vương kể sao cho hết nào giết Hoàng Sở phụ người có công trận, chém Nguyên Tiến xử tệ công thần, làm Sái Bồn hại cung nga, chế Bào Lạc đốt quan gián nghị. Mổ tim chú làm thuốc, cất Lộc đài hại dân, hiếp vợ tôi bỏ mạng, quăng thứ hậu dập xương, can thường đổ nát, tôi chúa loạn luân. Còn chúa ta ngồi trấn Tây Kỳ, giữ theo phép nước, vua lành tôi thảo chia ba phần thiên hạ, nhập hai cõi giang sơn. Nếu ngươi cất binh đánh vô cớ, ta e phải thiệt mạng nhơ danh.
Triều Lôi nổi giận vỗ ngựa tới chém Nam Cung Hoát.
Nam Cung Hoát đưa đao ra đỡ.
Ðánh được ba chục hiệp, Triều Lôi đuối tay bị Nam Cung Hoát bắt sống quăng xuống ngựa truyền quân trói.
Nam Cung Hoát kéo binh vào thành ra mặt Tử Nha và thưa:
– Triều Lôi đến đánh Tây Kỳ, tôi đã bắt sống được, xin đem nạp cho Thừa Tướng định liệu.
Tử Nha truyền dẫn tới, quân sĩ vâng lịnh dẫn Triều Lôi đến trước đền.
Triều Lôi vào đứng chẳng chịu quỳ.
Tử Nha nói:
– Ngươi đã bị bắt sao không quỳ xuống mà chịu tội bảo toàn tánh mạng.
Triều Lôi trợn mắt nói:
– Ngươi bất quá là đứa bán bột, đan gàu, còn ta là một bậc đại tướng đường đường, lẽ đâu quỳ lạy ngươi để cầu khẩn.
Tử Nha sợ để Triều Lôi nói dai, truyền đem chém.
Các tướng nghe Triều Lôi nói: biết được dĩ vãng của Tử Nha đều cười thầm.
Tử Nha biết ý chúng tướng khinh mình, liền nói:
– Triều Lôi chê ta là kẻ đan gàu bán bột không phải là nhục ta đâu. Ðời xưa ông Y Doãn là người cày ruộng ở Sàng Dã mà sau giúp vua Thành Thang dựng nên cơ nghiệp. Ấy là tại kẻ anh hùng không sớm gặp thời chớ nào phải nhục vinh.
Nói rồi truyền chém Triều Lôi tức khắc.
Hoàng Phi Hổ thưa:
– Triều Lôi hôm nay chỉ biết có Trụ, không biết có Châu. Xin cho tôi khuyên gã vài lời, nếu gã hàng thì chúng ta có thêm người đánh Trụ.
Tử Nha y lời.
Hoàng Phi Hổ ra trước cửa phủ thấy Triều Lôi đang quỳ đợi chém liền gọi lớn:
– Triều tướng quân ơi!
Triều Lôi ngoảnh mặt thấy Võ Thành vương liền cúi đầu chẳng nói.
Hoàng Phi Hổ khuyên:
– Ngươi không biết thời vận, không thông thuận nghịch nên mới cố thủ như vậy. Nay thiên hạ kêu oan, Võ vương chiếm hết hai phần. Nam, Bắc, Ðông, Tây không ai theo Trụ. Trụ tuy còn sống gượng, nhưng chẳng khác nào ngọn đèn trước gió, sức mạnh của một ông già. Trụ vương lỗi đạo đã nhiều, thiên hạ đâu đâu cũng biết, mầm loạn lạc sắp dấy lên bốn phương tám hướng, rõ ràng là cơ nghiệp nhà Thương đến ngày diệt vong rồi. Còn Võ vương nhân đức rất cao dày, biết trọng tôi trung, biết thương dân chúng. Trọng người hiền, mến kẻ sĩ, ấy là sự nghiệp đang lên. Như ta khi trước làm Trấn quốc Võ Thành vương, nay Võ vương chỉ sửa lại một chữ là Khai quốc Võ Thành vương. Bởi vậy ai cũng đành bỏ Trụ, người người đều muốn theo Châu. Còn nói đức hạnh Võ vương chẳng thua Thuấn, Nghiêu đời trước. Nay ta đã năn nỉ với Thừa Tướng xin tội cho ngươi, nếu ngươi hàng đầu thì được hiển vinh, còn nghịch mạng thì chắc phải chết.
– Hoàng tướng quân ôi! Lúc nãy tôi xúc phạm đến Tử Nha, e Tử Nha không dung thứ.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Như ngươi thiệt tình đầu hàng, ta sẽ hết lòng bảo lãnh cho.
Triều Lôi nói:
– Nhờ tướng quân cứu mạng, coi như đức tái sanh. Tôi xin nghe lời dạy.
Hoàng Phi Hổ trở vào phủ thuật lại mọi điều với Tử Nha.
Tử Nha nói:
– Giết kẻ đầu hàng là bất nghĩa, Hoàng tướng quân bảo cứu ta cũng bằng lòng.
Nói rồi truyền quân mở trói.
Triều Lôi vào quỳ lạy Tử Nha và thưa:
– Mạt tướng buông lời lỗ mãng, tội đáng gia hình. Nay nhờ lượng hải hà, tôi xin đội ơn trời bể.
Tử Nha nói:
– Tướng quân đã thật lòng đầu chúa, quyết ý phò vua thì tôi với tướng quân là tôi đồng trào, là dân một nước, có bao giờ hẹp lượng mà oán trách lẫn nhau. Vậy thì tướng quân hãy dẫn binh vào nạp.
Triều Lôi nói:
– Anh tôi là Triều Ðiền còn ở ngoài trại, xin cho tôi đi thuyết hàng
Tử Nha nhận lời.
Triều Lôi từ giã ra ngoài thành.
Bây giờ Triều Ðiền nghe tin Triều Lôi bị bắt, lòng rồi như vò, đang ngồi tìm mưu tính chước. Bỗng nghe quân báo Triều Lôi đã trở về, Triều Ðiền lấy làm lạ nghĩ thầm:
– Thái Sư sai chúng ta đi thám thính, chúng ta làm sai ý nghĩa đem quân đánh thành nên em ta mới bị bằt, nay chẳng biết vì sao mà về được.
Nghĩ rồi truyền quân mời vào.
Triều Lôi đến ra mắt Triều Ðiền và nói:
– Em bị Nam Cung Hoát bắt được đem nạp cho Tử Nha, em mắng Tử Nha là kẻ đan gàu bán bột, nên Tử Nha nổi giận truyền đem chém, may nhờ có Hoàng Phi Hổ can gián, và cắt nghĩa cho em nghe nhiều điều lợi hại. Bởi vậy em đã chịu đầu dưới trướng và ra đây xin mời anh nhập thành.
Triều Ðiền nghe nói miệng lớn:
– Ðồ thất phu! Ðáng tội chết! Lẽ nào nghe lời Hoàng Phi Hổ chịu đầu Khương Tử Nha? Ngươi là một đảng với bọn phản thần, còn mặt mũi nào nhìn thấy Thái Sư nữa.
Triều Lôi nói:
– Anh không rõ nên tức mới nói như vậy, chớ nay thiên hạ đều đầu Châu hết thảy, chẳng riêng một mình chúng ta mà thôi đâu.
Triều Ðiền nói:
– Ta há không biết tội ác của Trụ Vương làm cho thiên hạ điêu linh, bốn phương đều gây loạn, người người đều bỏ Trụ đầu Châu hay sao, nhưng nếu anh em ta bắt chước họ thì cha mẹ chúng ta ở Triều Ca bị vua giết hết, ngươi đành quên chữ hiếu hay sao?
Triều Lôi than:
– Bây giờ biết tính làm sao?
Triều Ðiền nói:
– Em hãy lên ngựa vào thành tỏ bày như thế này thì mới lập được công cao, và mới có thể trở về ra mắt Thái Sư được.
Tiếp đó Triều Ðiền dặn nhỏ Triều Lôi một hồi. Triều Lôi y kế, lên ngựa về tướng phủ ra mắt Tử Nha, thưa rằng:
– Tôi về trại nói thiệt hơn, anh tôi cũng chịu đầu hàng, nhưng chỉ ngại có một điều là anh tôi vâng lệnh chinh Tãy, nếu bó tay quy thuận, e tướng chê quân sĩ cười. Xin Thừa Tướng cho người đến mời để anh tôi còn chút thể diện.
Tử Nha vừa cười vừa nói:
– Việc ấy cũng chẳng khó gì.
Liền quay lại hỏi:
– Có tướng nào tình nguyện đi chăng?
Hoàng Phi Hổ bước ra thưa:
– Tôi xin lãnh mạng.
Triều Lôi và Hoàng Phi Hổ đi rồi, Tử Nha lập tức đòi Tân Giáp, Tân Miễn đến và viết hai lá thiệp, cắt nghĩa rõ ràng, dạy hai tướng ấy coi theo thiệp mà hành động. Rồi lại viết một lá thiệp khác sai Nam Cung Hoát ra đi.
Còn Hoàng Phi Hổ theo Triều Lôi đến trại thì Triều Ðiền đã sắp đặt sẳn sàng, thân hành ra tận cửa nghênh đón, và nói:
– Xin mời thiên tuế vào trại.
Hoàng Phi Hổ vào đến nơi, vừa ngồi xuống ghé, thì Triều Ðiền trợn mắt hét lên một tiếng, quân phục hai bên nổi dậy, áp tới bắt Hoàng Phi Hổ trói lại.
Hoàng Phi Hổ giận mắng:
– Quân khốn nạn! Ta làm ơn lại mắc oán.
Triều Ðiền nói:
– Ta không mang ơn đứa phản thần. Ta quyết chí bắt ngươi giải về Triều Ca để cho Thái Sư trị tội.
Anh em Triều Ðiền dùng mưu bắt được Hoàng Phi Hổ rồi thì mừng rỡ, truyền quân nhổ trại, rón rén kéo nhau về dẹp trống cất chiêng chạy mau như tên bắn.
Ði được ba dặm đường vừa tới chân núi Long Sơn bỗng thấy hai ngọn cờ phất phới, trong rừng xông ra hai tướng hung hăng nạt lớn:
– Triều Ðiền! Phải trả Vô Thành vương lại cho mau. Ta là Tân Giáp, Tân Miễn vâng lệnh Thừa Tướng phục binh ở đây đã lâu.
Triều Ðiền nổi giận nói:
– Ta không hạ tướng tá Tây Kỳ, sao dám đón đường đoạt khâm phạm, vung đao chém tới Tân Giáp đưa búa ra đỡ. Hai tướng đánh nhau được hai mươi hiệp.
Tân Miễn liền xốc ngựa tới cứu Hoàng Phi Hổ.
Triều Lôi thấy Tân Miễn lòng và liền vung đao cản lại. Hai tướng lại đánh nhau, giáo gươm khua lẻng kẻng Tân miễn sức mạnh như thần, Triều Lôi đánh một hồi mồ hôi ra ướt giáp liệu thế cự không lại, liền chém bậy một đao, quất ngựa chạy vào rừng trốn mất Miễn đuổi giết quân Trụ tan tành, và mở trói cho Hoàng Phi Hổ.
Hoàng Phi Hổ tạ ơn cứu mạng, rồi ra trước trận thấy Tân Giáp đang đánh với Triều Ðiền, lòng giận như lửa đốt, nhìn Triều Ðiền hét lớn:
– Ta làm ơn cho ngươi, ngươi lại bạc tình phản phúc.
Nói rồi cầm gươm xông vào đánh, bắt sống Triều Ðiền trói lại và mắng lớn:
– Ngươi là đứa nghịch tặc, trời nào để ngươi sống! Như không nhờ Thừa Tướng biết trước lòng của bọn ngươi, bố trí binh phục, thì ta đã bị hại về tay ngươi rồi.
Còn Triều Lôi hoảng kinh chạy vào rừng rậm, không biết đường nẻo nào ra, lính quýnh cho đến canh ba mới thoát ra đến mé rừng, nhìn thấy đèn đuốc tỏ rạng, lòng sanh nghi, bèn giốc ngựa tìm đường chạy riết.
Nhưng chỉ chạy được một đoạn đường, bỗng nghe một tiếng pháo nổ vang, có một viên đại tướng dẫn binh ra đón đường. Tuy ánh sáng mập mờ, Triều Lôi cũng nhìn thấy tướng đó là Nam Cung Hoát, bèn năn nỉ:
– Xin tướng quân rộng tình tha tội. Tôi nguyện ơn trả nghĩa đền.
Nam Cung Hoát cười hi hi nói:
– Thôi xuống ngựa chịu trói cho rồi, đừng nói nhiều chuyện.
Triều Lôi nổi giận chém Nam Cung Hoát một đao.
Nam Cung Hoát né khỏi, rồi hét một tiếng, nắm đầu Triều Lôi kéo xuống yên, khiến quân trói lại giải về dinh.
Sáng hôm sau Tử Nha ra khách, Hoàng Phi Hổ vào lạy tạ ơn, và thưa:
– Nếu Thừa Tướng không cứu tôi thì tôi đã lầm tay phản tặc rồi.
Tử Nha nói:
– Tôi coi ý Triều Lôi lúc trở về có vẻ khác thường, nên mới sinh nghi, truyền hai ngả phục binh, kết quả đúng như vậy.
Tân Giáp bước tới kể chuyện bắt Triều Ðiền và cứu Võ Thành vương.
Tiếp đến Nam Cung Hoát vào thưa:
– Tôi vâng lệnh mai phục tại Kỳ sơn bắt được Triều Lôi giải về trưuớng phủ.
Tử Nha truyền dẫn Triều Ðiền và Triều Lôi ra trước trướng, mắng rằng:
– Thất phu! Chúng bây dụng mưu gian gạt ta sao được?
Nói rồi truyền quân sĩ dẫn ra chém hết cả hai.
Ðao phủ quân vâng lệnh kéo hai người ra khỏi cửa.
Triều Lôi lớn tiếng kêu oan.
Tử Nha vừa cười vừa nói:
– Anh em nó là đồ phản phúc, ngoài miệng nói một đường, trong lòng nghĩ một nẻo, chết là đáng lắm.
Triều Lôi vẫn cứ kêu oan mãi.
Tử Nha truyền quân dẫn Triều Lôi lại hỏi:
– Anh em ngươi bày mưu độc bắt người trung, ngỡ là về nước nạp Võ Thành vương mà ăn công hưởng lộc, chẳng ngờ ta biết trước phục binh bắt lại. Tội ấy chém đã đành, còn kêu oan gì nữa.
Triều Lôi thưa:
– Anh em tôi cũng muốn về Châu, song sợ cha mẹ ở Triều Ca bị tội. Cũng vì chữ hiếu mà chúng tôi mới lập mưu gian. Nếu Thừa Tướng không xét lại thì tội nghiệp cho anh em chúng tôi lắm.
Tử Nha hỏi:
– Nếu ngươi còn cha mẹ tại Triều Ca sao không nói trước cho ta biết, đặng ta tìm cách rước hết gia tướng đem về, lại nỡ dùng kế độc hại người ơn?
Triều Lôi thưa:
– Chúng tôi tài hèn, trí thấp, không biết tính xa, nếu thưa trước với Thừa Tướng biết, thì có đâu mắc họa.
Nói rồi cất tiếng khóc vang.
Tử Nha nói:
– Ngươi nói thiệt như vậy sao?
Triều Lôi thưa:
– Nếu tôi không còn cha mẹ mà dối gạt để gỡ tội thì Võ Thành Vương cũng biết.
Tử Nha hỏi Hoàng Phi Hổ:
– Triều Lôi còn cha mẹ chăng?
Hoàng Phi Hổ thưa:
– Hai người này quả còn cha mẹ tại Triều Ca.
Tử Nha nói:
– Nếu vậy thì thật tình hiếu đạo kể cũng khá thương.
Liền truyền quân mở trói cho hai anh em một lượt.
Triều Lôi, Triều Ðiền lạy tạ ơn.
Tử Nha giữ Triều Ðiền ở lại Tây Kỳ, rồi viết một lá thiệp trao cho Triều Lôi và dặn:
– Ngươi về Triều Ca cứ theo lời trong thiệp mà làm thì cứu được gia quyến.
Triều Lôi vâng mật lệnh của Tử Nha kéo quân trở về phục lệnh tới dinh của Thái Sư Văn Trọng.
Thái Sư Văn Trọng hay tin, cho đòi vào hỏi:
– Tây Kỳ động tĩnh thế nào?
Triều Lôi thưa:
– Chúng tôi đến Tây Kỳ thì Nam Cung Hoát dẫn quân ra khiêu chiến. Tôi ra đánh ba mươi hiệp sức vẫn cầm đồng. Vì trời tối nên hai bên phải thâu quân. Rạng ngày anh tôi ra binh, đánh Tân Giáp chạy dài, kế bữa sau tướng khác xuất quân, chưa phân thắng bại. Kể ra thì Tây Kỳ cũng chẳng khó đánh lắm đâu, ngặt một điều là Hàng Vinh không chịu phát lương, nên quân sĩ chẳng an. Lương thảo là tánh mạng nhơn mã, mà người không lương, ngựa không cỏ, còn đánh giặc làm sao được? Cực chẳng đã tôi phải về bẩm với Thái Sư, xin phát thêm lương thảo và tăng cường quân lính. Ðược như vậy mới thắng nổi Tây Kỳ.
Văn Trọng ngẫm nghĩ một lúc lúc rồi hỏi:
– Ngươi đi có hỏa bài, lệnh tiễn, vì sao Hàng Vinh chẳng chịu phát lương? Thôi, ngươi hãy đi xin thêm ba ngàn quân và một ngàn lương thảo qua Tây Kỳ ứng tiếp. Ta sẽ cho tướng theo sau.
Triều Lôi tuân lệnh cứ làm y như vậy, không hề trễ nải, rồi lén đem gia quyến ra khỏi năm cửa ải thẳng đến Tây Kỳ.
Người sau có thơ rằng:
Ý niệm mưu cao ít ai bằng
Khen ông Khương Thượng thiệt tài năng
Gạt toi Văn Trọng thâu lương thảo
Gia quyến Triều Lôi khỏi họa căn.
Khi Triều Lôi ra đi được bốn ngày, Thái Sư Văn Trọng mới sực nghĩ lại, nhủ thầm:
– Hàng Vinh lẽ nào không phát lương thảo? Chắc cũng có duyên cớ chi đây?
Liền lấy tiền xủ quẻ. Khi đoán ra được các việc, tức tối vô cùng vỗ án hét:
– Quân phản phúc gạt ta. Ta không ngờ nên bị lầm rồi!
Liền cho quân đến tư dinh hai tướng, thì quả nhiên gia quyến của hai tướng đã đi hết.
Văn Trọng muốn đem binh rượt theo, nhưng nhắm Triều Lôi đi đã xa, không còn đuổi theo kịp nữa liền triệu tập các tướng lại, tỏ bày mọi việc, và nói:
– Triều Ðiền, Triều Lôi đã làm phản thì kế hoạch đề phòng của ta đối với Tây Kỳ đã bại lộ rồi. Nay phải động binh, chinh Tây mới kịp. Nhưng chưa biết nên sai tướng nào có đủ khả năng làm việc này.
Kiết Lập và Dư Khánh đồng thưa:
– Nếu muốn định Tây Kỳ trọn thắng thì chỉ có Trương Quế Phương, quan Tổng trấn ải Thanh Long cầm binh mới mong thành công.
Văn Trọng khen phải, liền sai quân hỏa bài cầm lệnh tiễn ta ải Thanh Long, truyền Trương Quế Phương cất binh chinh phạt Tây Kỳ, lại sai Thần Oan đại tướng quân là Khưu Dẫn ra trấn ải Thanh Long thế cho Trương Quế Phương.
Nói qua Triều Lôi đem gia quyến đến Tây Kỳ, vào tướng phủ ra mắt Tử Nha, thưa:
– Tôi nhờ Thừa Tướng liập kế thần nên đem được cha mẹ vợ con đến đây hết, nay đã vào thành, chúng tôi xin đến tạ ơn Thừa Tướng.
Kế đó thuật lại mấy lời Thái Sư Văn Trọng dặn.
Tử Nha nói:
– Ta liệu chắc Văn Thái Sư sẽ cử binh đến đánh Tây Kỳ vậy phải đề phòng mới được.
Giữa lúc ấy, tại ải Thanh Phong, Trương Quế Phương tiếp được hỏa bài của Thái Sư tức thì điểm mười muôn binh mã, khiến Phong Lâm làm Tiên phuông, chuẩn bị chinh Tây. Ðến lúc Khưu Ðẩu tới. Trương Quế Phương giao việc xong xuôi mới phát binh ra đi.
Ðoàn quân tiến nhanh như gió, không bao lâu đã đến Tây Kỳ an dinh hạ trại.
Tử Nha đang bàn luận với các tướng, bỗng nghe quân báo:
– Trương Quế Phương dẫn mười muôn binh hạ trại cách cửa Nam mười dặm.
Tử Nha hỏi Hoàng Phi Hổ:
– Trương Quế Phương dụng binh thế nào?
Hoàng Phi Hổ thưa:
– Thừa Tướng đã hỏi tôi đâu dám giấu.
Tử Nha nói:
– Tướng quân với tôi cùng phò một chúa, ngại gì mà chẳng dám cạn lời?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Trương Quế Phương là tướng giỏi, võ nghệ siêu quần. Nhưng việc đó không đáng kể, chỉ sợ nó có tà thuật mà thôi.
– Nó dùng phép gì mà gọi là tà thuật?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Phép ấy lạ lắm! Lúc xông ra trận, hai bên đấu chiến với nhau, nếu Quế Phương biết được tên địch thủ thì nó kêu lên một tiếng, tức thì địch thủ nhào xuống ngựa mê man bất tỉnh. Vì vậy, nó ra trận bắt tướng như lấy đồ trong túi. Xin Thừa Tướng dặn những người nào ra trận chớ nên xưng tên, vì hễ nó biết tên là bị nó bắt sống ngay.
Tử Nha nghe nói cau mày. Nhưng các tướng không ai tin cả, đồng nói rằng:
– Có lẽ nào kêu tên mà làm cho đối phương chết ngất được? Nếu quả như vậy, nó kêu trăm tiếng cũng đủ bắt hết tướng Tây Kỳ này rồi?
Kẻ này xầm xì, người kia cười châm biếm.
Bấy giờ Quế Phương đã an dinh hạ trại xong, sai Phong Lâm ra trận.
Phong Lâm vâng lệnh cầm đao lên ngựa đến thành khiêu chiến.
Quân vào báo Tử Nha hỏi các tướng:
– Ai dám ra đánh trận đầu.
Cơ Thúc Càng là con thứ mười hai của vua Văn vương tánh nóng nảy, lại không tin có phép lạ như vậy, nên bước ra thưa:
– Tôi xin xuất trận đầu cho.
Nói rồi cầm thương lên ngựa khai thành thấy một tướng đứng dựa bên cây Thanh kỳ, tóc đỏ như máu, mặt xanh như chàm, râu hồng đầy mép, ngồi trên ngựa cao, tay cầm cây giáo rất lớn.
Cơ Thúc Càng thấy tướng dữ dằn như vậy, liền hỏi:
– Ngươi có phải là Trương Quế Phương không?
Phong Lâm đáp:
– Không! Ta là Tiên phuông Ðại tướng, họ Phong tên Lâm, vâng chiếu triều đình bắt loài phản loạn, chúa ngươi tiếm xưng vương hiệu lại dung nạp phản thần, nay binh trời đã đến không biết chịu tội còn muốn chống lại sao. Hãy xưng tên họ cho mau, đặng ta lấy đầu đem nạp.
Cơ Thúc Càng nổi giận mắng:
– Nay chư hầu thiên hạ đều về nhà Châu, đó là lòng trời đã định. Ngươi thờ bạo chúa, quen thói hung hăng đã đem mạng đến đây nộp mà còn không biết. Ta dung cho ngươi trở về gọi Trương Quế Phương ra trận.
Phong Lâm giận quá mắng lớn:
– Phản tặc dám khi dễ ta thái quá!
Nói rồi cầm đao đâm tới, Cơ Thúc Càng đưa giáo ra đỡ. Hai tướng đánh với nhau trên ba mươi hiệp, Cơ Thúc Càng vận giáo như thần, múa vun vút, đâm chém liền không hở, Phong Lâm lúng túng đỡ gạt không nổi, bị Cơ Thúc Càng đâm một thương trúng đùi bên tả phải quay ngựa bỏ chạy.
Cơ Thúc Càng rượt theo, không ngờ Phong Lâm dùng phép, miệng niệm chơn ngôn, tức thì hai lỗ mũi xịt khói ra, luồng khói có hình tựa như một mành lưới, biến thành một trái châu to bằng miệng chén, đánh vào mặt Cơ Thúc Càng.
Thương ôi! Người con thứ mười hai của Văn vương bị trái châu đánh trúng nhào xuống ngựa.
Phong Lâm thừa dịp lấy gươm cắt thủ cấp rồi thâu binh về trại.
Trương Quế Phương thấy Phong Lâm đem thủ cấp của địch về liền truyền hiệu ngoài cửa ải.
Quân thua vào báo lại, Tử Nha thất kinh.
Võ vương than khóc một hồi, không nói ra tiếng.
Chư tướng đều nghiến răng, chặt lưỡi thở dài.
Bữa sau Trương Quế Phương dẫn binh tới trước thành, kêu đích tên Tử Nha ra trận.
Tử Nha nói:
– Nếu chẳng vào hang hùm làm sao bắt hùm được.
Liền truyền các tướng nai nịt chỉnh tề theo hầu tả hữu, kéo binh ra ngoài ải, trông thấy Trương Quế Phương đội mão bạc như tuyết, mặc giáp trắng, cỡi ngựa kim, đeo giáp bạc, đứng dưới cây bạch kỳ, uy phong lẫm liệt.
Thấy cửa thành mở, quân tướng ồ ạt kéo ra.
Trương Quế Phương thấy Tử Nha râu bạc trắng, hai mắt long lanh như ngọc, mình mặc áo bát quái, tay cầm gươm thư hùng, buộc đai bằng tơ, đội mão đuôi cá, lại thấy Hoàng Phi Hổ cầm giáo ngồi trên thần ngưu đi một bên, liền gọi Tử Nha nói:
– Khương Thượng! Ngươi cũng là tôi nhà Thương, ăn lộc thiên tử, triều đình không bạc đãi ngươi, sao ngươi lại phò Cơ Phát tiếm xưng vương hiệu chứa chấp phản thần, dùng kế xảo buộc Triều Ðiền bỏ chúa, lập mưu gian bày Triều Lôi cướp lương. Tội đáng chết mười phần. Nay ta vâng lệnh đến đây chinh phạt, khuyên ngươi xuống ngựa nạp mình, ăn năn hối lỗi. Bằng chống cự thì trúc chẻ ngói tan, ngọc đá không còn.
Tử Nha ngồi trên ngựa cười lớn:
– Ông nói sai rồi! Chim khôn chọn cây lành mà đỗ, tôi hiền chọn chúa thánh mà thờ. Kẻ bất trí là những kẻ cúi đầu thờ một ông vua hung bạo, không biết thương dân, không sợ mất nước, muốn giết ai thì giết, cả ngày chỉ biết tửu sắc mà thôi. Nay cả thiên hạ đều bỏ Trụ vương, chẳng phải một mình Tây Kỳ mà thôi. Tuy vậy chúa tôi hằng giữ đạo trung thần, chúng tôi không có lòng xâm đoạt. Nay ông đem binh đến đánh Tây Kỳ, thật là nước trên phạm nước dưới, chẳng phải nước dưới phạm nước trên. Xét lại việc binh, thắng bại lẽ thường, nếu ông rủi ro một trận thì hổ thẹn ngàn ngày. Chi bằng ông thu quân về, bờ cõi ai nấy giữ.
Trương Quế Phương nói:
– Ta nghe ngươi học đạo tại núi Côn Lôn, lẽ nào ngươi không biết trong vũ trụ rất nhiều người tài phép. Lời ngươi nói đó chẳng phải là kẻ tài trí.
Nói rồi truyền tiên phuông Phong Lâm ra binh bắt Khương Thượng.
Phong Lâm giục ngựa tới đánh với Tử Nha, xảy có một tướng cỡi ngựa hồng, cầm siêu đao cản lại, xem lại tướng ấy là Nam Cung Hoát. Hai tướng hỗn chiến một hồi.
Trương Quế Phương thấy Hoàng Phi Hổ ngồi trên thần ngưu thì giận lắm, lướt ngựa tới, cầm giáo đâm đùa.
Hoàng Phi Hổ giơ gươm ra đỡ.
Hai tướng đánh được mươi lăm hiệp, Trương Quế Phương kêu lớn:
– Hoàng Phi Hổ chưa hạ mã qui hàng còn đợi chừng nào!
Hoàng Phi Hổ thất kinh, liền sa xuống ngựa, quân Thương vừa áp đến muốn bắt trói, thì có Châu Kỷ cầm búa cản lại đánh với Trương Quế Phương còn Hoàng Phi Báo và Hoàng Phi Bưu thì xông ra cướp được Hoàng Phi Hổ đem về dinh.
Trương Quế Phương thấy tướng Châu đông quá, sợ bắt không được Châu Kỷ, nên giả cách trá bại chạy dài. Châu Kỷ đuổi theo được nửa dặm.
Trương Quế Phương quay lại kêu lớn:
– Châu Kỷ chưa té xuống ngựa còn đợi chừng nào!
Tức thì Châu Kỷ sa xuống, quân Châu tiếp cứu không kịp bị quân Thương áp lại bắt trói dẫn về dinh.
Bấy giờ Phong Lâm hỗn chiến với Nam Cung Hoát một hồi, Phong Lâm đánh không lại, giục ngựa chạy ngay. Nam Cung Hoát thừa thắng đuổi theo, Phong Lâm niệm chú, tức thì trong lỗ mũi xịt ra hai luồng khói xám biến thành cục châu đánh Nam Cung Hoát té xuống ngựa. Quân Thương bắt trói Nam Cung Hoát đến về dinh.
Còn Trương Quế Phương cũng thâu binh về trại truyền dẫn Nam Cung Hoát và Châu Kỷ vào.
Trương Quế Phương hỏi:
– Chúng bây đã bị bắt sao chưa chịu quì?
Nam Cung Hoát hét lớn:
– Ta đã đem thân thờ chúa còn sợ chết hay sao? Ngươi dùng tà thuật bắt được ta thì cứ giết đi cho rồi.
Quế Phương truyền đem hai tướng cầm tại tù xa, đợi phá Tây Kỳ xong giải về Triều Ca xử tội.
Bữa sau, Trương Quế Phương đồn binh đến thành khiêu chiến.
Tử Nha truyền treo miễn chiến bài, không dám sai ai ra trận.
Trương Quế Phương cười lớn nói:
– Khương Thượng mới ra binh một trận đã sợ khiếp vía rồi.
Nói rồi thâu binh về trại.
Bấy giờ ông Thái Ất chơn nhơn đang ngồi trong động thấy lòng hồi hộp liền đánh tay biết rõ Tây Kỳ đang nguy, liền sai Kim Hà Ðồng tử đòi Na Tra đến dạy việc.
Kim Hà vâng lệnh chạy đến vườn đào gọi Na Tra nói:
– Sư huynh! Thầy cho đòi sư huynh đến lập tức.
Na tra vội vào yết kiến.
Thái Ất nói:
– Nay đã đến lúc lập công, ta cho ngươi xuống thế. Hiện nay Tây Kỳ đang nguy cấp, tướng Trụ đến hoành hành, ngươi xuống đó theo sư thúc của ngươi là Khương Tử Nha mà lập công danh sự nghiệp. Ngươi phải rán hết lòng phò tá minh trung.
Na Tra nghe nói mừng rỡ, lạy thầy giã bạn mang túi phép, cầm giáo dài lên xe Phong Hỏa thẳng xuống Tây Kỳ.
Người sau có thơ khen:
Hai bánh xe linh gió cuốn cờ
Ði cùng thế giới một đôi giờ
Na Tra nay xuống phò vua Võ
Gặp hội rồng mây dựng cõi bờ.
Na Tra đạp xe phép đi nửa lừng, đến Tây Kỳ liền sa xuống đất hỏi thăm tướng phủ, rồi tìm đến nơi, gọi quân vào báo với Tử Nha.
Quân hầu vâng lệnh vào thưa:
– Có một đạo đồng đến trước cửa phủ muốn ra mắt Thừa Tướng.
Tử Nha vốn trọng đạo, nghe nói bèn truyền binh sĩ mời vào.
Na Tra vào trước án thi lễ và nói:
– Tôi xin ra mắt sư thúc.
Tử Nha hỏi:
– Ngươi ở động nào ta chưa rõ?
Na Tra thưa:
– Ðệ tử ở núi Càng Nguyên, động Kim Quang, tên Na Tra, học trò của ông Thái Ất. Nay tôi vâng lịnh thầy đến hiệp lực với sư thúc giúp chúa lập công.
Tử Nha nghe nói mừng rỡ khôn cùng.
Hoàng Phi Hổ thấy Na tra vội bước tới tạ ơn cứu tử ngày trước.
Na Tra hỏi Tử Nha:
– Chẳng hay tướng nào đám đến đánh thành trì ta vậy?
Tử Nha nói:
– Trương Quế Phương là tướng trấn ải Thanh Long. Tướng này rất lợi hại, dùng tà thuật bắt luôn hai tướng trong một trận, nên ta phải treo miễn chiến bài.
Na Tra nói:
– Tôi đã vâng lịnh thày xuống đây trợ chiến, chẳng lẽ ngồi không, xin cho tôi ra trận đánh thử với Quế Phương xem sao.
Tử Nha nhận lời, truyền quân dẹp bảng treo miễn chiến bài.
Quân thám thính thấy vậy về bảo với Trương Quế Phương:
– Tây Kỳ đã gỡ bỏ bảng treo miễn chiến bài rồi.
Trương Quế Phương nói với Phong Lâm:
– Mấy hôm nay Tử Nha không dám ra binh, nay chắc có cứu binh đến tiếp cứu, nên mới dự tính giao tranh như vậy, ngươi dẫn ba ngàn quân ra khiêu chiến.
Phong Lâm vâng lệnh cầm thương lên ngựa đến cửa thành mắng chửi.
Na Tra cầm giáo dài, lên xe thẳng ra trận, Tử Nha gọi lại dặn:
– Ngươi phải đề phòng mới được, vì Phong Lâm có tà thuật lợi hại lắm.
Na Tra thưa:
– Ðệ tử sẽ tùy cơ ứng biến, xin sư thúc đừng lo.
Na Tra ra khỏi ải.
Phong Lâm xem thấy hỏi lớn:
– Ngươi là ai dám ra đây chịu chết?
Na Tra nói:
– Ta là sư điệt của Khương Thừa Tướng, họ Lý tên Na Tra, còn ngươi có phải là Trương Quế Phương, con cú độc miệng kêu tên làm cho người ta té hay không?
Phong Lâm đáp:
– Không phải. Ta là tiên phong Ðại tướng tên Phong Lâm.
Na Tra nói:
– Thôi ta tha ngươi khỏi chết, hãy về kêu Trương Quế Phương ra đây cho ta bảo.
Phong Lâm nổi giận vung giáo đâm liền. Na Tra cũng ra tài cự địch. Xe ngựa xông pha, đánh trên hai mươi hiệp
Phong Lâm nghĩ thầm:
– Lối đánh của Na Tra kỳ lạ lắm thế nào cũng có phép thần thông. Nếu ta không ra tay trước ắt phải lụy.
Nghĩ rồi quầy ngựa chạy dài. Na Tra giục xe đuổi theo như gió.
Phong Lâm thấy Na Tra theo gần đến liền phun khói lỗ mũi hóa ra trái châu.
Na Tra trông thấy cười lớn:
– Phép ấy dở lắm!
Tức thì đưa tay chỉ một cái, tự nhiên trái châu tan mất.
Phong Lâm thấy Na Tra phá mất phép mình, nổi giận quày ngựa trở lại đánh liều, bị Na Tra quăng Càng Khôn Quyện đập trúng vai bên tả, vỡ thịt lòi xương, đau quá gần rơi xuống ngựa. Phong Lâm gắng gượng ôm cổ ngựa chạy thẳng về dinh.
Na Tra đuổi theo kêu Quế Phương ra trận.
Phong Lâm về đến dinh thuật lại các việc cho Quế Phương nghe.
Quế Phương nổi giận, cầm cương giục ngựa ra khỏi trại, trông thấy Na Tra, liền hỏi:
– Tên súc sanh đứng trên xe đó có phải Na Tra không?
Na Tra đáp:
– Ta là Na Tra đây.
Quế Phương nói:
– Ngươi vừa đánh tên tướng Tiên phuông của ta khi nãy phải không?
Na Tra cười lớn đáp:
– Ta nghe ngươi có tài kêu tên ai thì ngươi ấy té nên ta đến đây bắt ngươi.
Nói rồi cầm giáo đâm liền.
Trương Quế Phương đưa thương ra đỡ. Hai tướng đánh vùi với nhau được bốn mươi hiệp, Na tra múa thương hay lắm, chẳng khác mưa bay gió bão, Trương Quế Phương đánh không lại, bèn cất tiếng kêu lớn:
– Na Tra không té xuống xe còn đợi chừng nào?
Na Tra nghe kêu thất kinh, hai chân kềm cứng trên xe, song coi bộ tự nhiên, thư bình vô sự.
Trương Quế Phương lấy làm lạ nghĩ thầm:
– Thầy ta dạy phép thâu hồn này, hễ kêu lên là đối phương phải hôn mê bất tỉnh. Từ trước đến nay hiệu nghiệm lắm, bây giờ sao lại hết linh.
Nghĩ rồi lại kêu nữa.
Na Tra không thèm nói lại, Quế Phương kêu đến ba lượt, Na Tra nổi xung mắng lớn:
– Ngươi là đứa thất phu! Ta đã không chịu xuống xe, ngươi gọi mãi mà làm chi?
Trương Quế Phương giận lắm vung giáo đánh tiếp một hồi, nhưng cự với Na Tra không lại, mồ hôi ướt giáp, hơi thở phì phào.
Na Tra liền lấy Càn Khôn Quyện quăng lên, đánh trúng cánh tay trái của Trương Quế Phương đứt gân gãy xương, gần nhào xuống ngựa.
Na Tra thấy Quế Phương bại tẩu liền trở vào thành, đến tướng phủ ra mắt Tử Nha.
Tử Nha hỏi:
– Ngươi cùng Trương Quế Phương giao chiến thắng bại lẽ nào?
Na Tra thưa:
– Trương Quế Phương bị đệ tử đánh cho một Càn Khôn Quyện, gãy tay, lọi xương chạy tuốt về dinh.
Khương Tử Nha nói:
– Nó có dùng tà thuật gọi tên ngươi hay không?
Na Tra thưa:
– Nó có gọi tên tôi ba lần, nhưng tôi không thấy ứng nghiệm gì cả.
Các tướng ghe Na Tra nói lấy làm lạ.
Nguyên phép thu hồn của Trương Quế Phương lợi hại lắm, nhưng chỉ tác dụng đối với những người thường, có khí huyết, có thịt xương do bào thai sinh ra, còn Na Tra thân thể kết tụ bằng bông sen, cho nên phép thu hồn của Trương Quế Phương không linh ứng.
Khi ấy, Trương Quế Phương đã gãy cánh tay, Phong Lâm cũng bị thương, cả Nguyên soái và tiên phuông đều không thể ra quân được nên túng thế phải sai người về nước, trình với Thái Sư Văn Trọng xin binh tiếp viện.
Còn Tử Nha tuy thắng được một trận, song lòng hồi hộp không an, sợ Trương Quế Phương viện binh đến đánh, thì Tây Kỳ nhỏ hẹp không chống ngăn nổi, bèn tính trở về núi cầu cứu thầy mình là Nguyên Thỉ chỉ giáo.
Sáng hôm sau, Tử Nha dậy sớm thay đổi áo quần theo lối đạo sư ra mắt Võ Vương.
Võ Vương thấy lạ, hỏi:
– Thượng phụ hôm nay có việc gì cho ra mắt quả nhân sớm như vậy?
Tử Nha tâu:
– Xin Chúa công cho phép hạ thần trở về núi một phen.
Võ vương nói:
– Quân địch đóng ngoài ải, binh tướng trong thành đang lo việc chống ngăn.Thượng phụ ra đi việc binh cần gấp ai điều khiển?
Tử Nha nói:
– Tôi tính Trương Quế Phương vừa thua một trận bị thương nặng, chưa dám động binh, nên tính việc xa hơn. Tôi đi lâu lắm là ba hôm sẽ trở lại, việc nhà tôi đã sắp đặt xong, xin Chúa công chớ lo.
Võ Vương nói:
– Nếu vậy Thượng phụ về cho sớm, chớ dần dà trên non cao mà quả nhân trông đợi.
Tử Nha tuân lệnh, từ tạ về dinh, gọi Na Tra đến dặn:
– Ngươi cùng Võ Kiết thủ thành, chẳng nên ra trận, đợi ta trở về sẽ tính việc ra quân.
Sắp đặt đâu đó xong xuôi, Tử Nha độn thổ thẳng đến núi Côn Lôn.
Có thơ khen rằng:
Tự nhiên biến hóa nhiệm vô cùng.
Bay khỏi non cao biết mấy trùng
Phép độn ngũ hành đi quá lẹ
Gió thanh một trận thấu tiên cung.
Tử Nha độn thổ giây phút đã ra khỏi núi Kỳ Lân, bèn trồi lên mặt đất, thấy núi Côn Lôn vui vẻ tốt tươi, bất giác thở dài than:
– Mình mới rời khỏi núi này mười năm mà phong cảnh khác xưa rất nhiều.
Thực vậy, bên đầu cầu các cây kiễng đã sum xuê, trước cửa động mấy cội tùng xanh biếc, trên núi đào tươi như dệt gấm, dưới khe nước trong vắc, chảy róc rách như tiếng nhạc xa vời, ngàn chim đua hót, thú rừng chạy từng đoàn.
Tử Nha đến trước cửa cung Ngọc Hư, nhưng không dám vào phải đứng bên ngoài đợi lệnh.
Xảy thấy Bạch Hạc đồng tử bước ra, Tử Nha hỏi:
– Có sư phụ trong động không?
Bạch Hạc đồng tử nói:
– Có, chẳng hay sư huynh về động có việc chi?
Tử Nha nói.
– Xin vào báo với thầy có Tử Nha trở về ra mắt.
Bạch Hạc đồng tử vào động, đến trước đài bát quái quì thưa:
– Có Khương Thượng xin vào ra mắt.
Nguyên Thỉ gật đầu nói:
– Ta cũng đang trông nó tới.
Bạch Hạc đồng tử ra ngoài cửa động truyền rằng:
– Thầy cho mời sư huynh vào cung.
Tử Nha đến trước đài bát quái quì lạy thưa:
– Ðệ tử là Khương Tử Nha đến ra mắt tôn sư.
Nguyên Thỉ nói:
– Nay ngươi lên đây đúng lúc lắm. Ðể ta sai Nam Cực tiên ông trao bảng phong thần cho ngươi đem về Tây Kỳ lập một cái đài phong thần mà treo bảng ấy thì xong công việc của ngươi.
Tử Nha nói:
– Nay Trương Quế Phương có phép tà thuật, đem quân đến đánh Tây Kỳ, đệ tử tài năng còn kém, không cự lại, xin thầy ra ơn trợ giúp đệ tử.
Nguyên Thỉ nói:
– Ngươi làm quan đến chức Thừa Tướng, hưởng lộc triều. Võ vương phải kêu ngươi bằng Thượng phụ, thế mà ngươi sợ tà đạo, đến đây cầu cứu nỗi gì?
Tử Nha năn nỉ:
– Nhưng Trương Quế Phương ỷ phép thuật hoành hành, không người chống nổi.
Nguyên Thỉ cười lớn:
– Chúa Tây Kỳ có đức, không đến nỗi gì mà lo. Ngươi đừng sợ tà đạo cứ về đi. Lúc nào gặp việc hiểm nghèo sẽ có người tài đến giúp.
Tử Nha không dám nói nữa liền cúi lạy bước ra khỏi cửa thì Bạch Hạc đồng tử đã bước theo gọi lại:
– Sư huynh, thầy gọi lại có việc.
Tử Nha vội bước vào quì dưới đài.
Nguyên Thỉ nói:
– Ngươi về dọc đường, nếu gặp ai kêu đừng đứng lại, nếu ngươi nói chuyện với người ấy ngày sau sẽ có ba mươi sáu đạo binh đến đánh ngươi,còn tại Ðông Hải có một người đang chờ ngươi đó, ngươi đến đó sẽ gặp. Ta nói trước cho ngươi hay để khỏi ân hận. Thôi, hãy về đi.
Tử Nha lạy tạ ra khỏi cửa động, bỗng gặp Nam Cực tiên ông đón lại, trao bảng phong thần và theo đưa đón.
Tử Nha than:
– Sư huynh ơi! Tôi về đây cầu thầy giúp sức, cho tôi phép mầu để trị Trương Quế Phương nhưng thầy không nhận lời, tôi chẳng biết tính làm sao được.
Nam Cực tiên ông nói:
– Số trời đã định, không thể lậu thiên cơ, sư đệ phải nhớ lời thầy dậy, trên đường về nghe ai kêu đừng dừng lại nói chuyện với họ là mọi việc xong luôn. Nay tôi đưa sư đệ đến đây thôi, còn theo xa hơn nữa bất tiện.
Tử Nha từ giã ôm bảng phong thần đi đến núi Kỳ Lân toan độn thổ mà đi, xảy nghe có tiếng gọi cheo chéo sau lưng:
– Bớ Khương Tử Nha!
Tử Nha nghĩ thầm:
– Thật quả có người kêu ta. Nhưng thầy đã dặn không nên dừng lại nói chuyện với ai.
Nghĩ rồi lầm thinh lầm lũi đi tới.
Tiếng gọi đàng sau lại khẩn thiết hơn:
– Khương Tử Nha ơi! Ði đâu vậy? Hãy dừng lại ta nói câu chuyện này.
Tử Nha làm thinh không đáp.
Tiếng gọi lại gần hơn:
– Này Khương Tử Nha Thừa Tướng, coi bộ anh làm cao làm sao.
Khưong Tử Nha cứ làm thinh.
Người ấy gọi đến năm lần thấy Khưọng Tử Nha không quay lại nổi giận trách:
– Khương Thượng! Anh làm đến chức Thừa Tướng rồi quên cả tình xưa bạn cũ hay sao? Anh quên hẳn trước đây bốn mươi năm, tôi cùng anh đồng tu luyện tại cung Ngọc Hư sao?
Tử Nha nghe nói liền quay lại xem thử người nào, thì thấy người ấy cỡi trên lưng cọp, đầu bịt bao đánh xanh, mình mặc áo rộng, tay cầm gươm báu sáng ngời. Nhìn kỹ Tử Nha nhận ra là Thân Công Báo nên mừng rỡ nói:
– Ủa sư đệ đây mà! Bởi thầy tôi có dặn trên đường về nếu gặp ai kêu hỏi đừng trả lời, vì vậy tôi sợ trái lời thầy, chẳng ngờ lại gặp sư đệ. Vậy xin miễn chấp.
Thân Công Báo hỏi:
– Anh cầm bức tượng gì vậy?
Tử Nha nói:
– Ðây là bảng Phong Thần, không phải bức tượng.
Thân công Báo hỏi:
– Bây giờ anh đem đi đâu?
Tử Nha nói:
– Tôi đem về Tây Kỳ làm đài Phong Thần mà treo bảng ấy.
Thân Công Báo mỉm cười hỏi:
– Sau này anh tính phò ai?
– Sư đệ hỏi gì vậy? Tôi đang làm Thừa Tướng Tây Kỳ, được Văn vương thác cô phò Võ Vương thế thì tôi còn tính phò ai nữa?
Thân Công Báo nói:
– Cần gì phải câu chấp. Ðại trượng phu trong trời đất muốn làm gì thì làm, muốn chọc trời khuấy nước lúc nào không được, tại sao lại phải buộc mình trong nghĩa vụ thác cô?
Tử Nha nói:
– Nay thiên hạ chia ba, giang sơn đã về nhà Châu hai phần rồi, tám trăm chư hầu đều bỏ Trụ, vả lại Võ Vương ân đức cao dày sánh với bậc Nghiêu, Thuấn. Khi số đã định, phụng gáy tại non Kỳ, Thánh chúa ra đời là vua Võ còn cơ nghiệp Thành Thang tối tăm, chỉ truyền được một đời này nữa là đứt, há sư đệ không biết hay sao? Bởi vậy tôi phò Châu diệt Trụ là thuận theo lòng trời, đúng theo đạo chính.
Thân Công Báo nói:
– Anh bảo là khí số nhà Thương đã dứt, vậy thì anh cứ xuống phò Châu, tôi phò Trụ xem thử thế nào cho biết.
Tử Nha nói:
– Sao sự đệ lại nói bừa như vậy? Lẽ nào cải mạng trời?
Thân công Báo nói:
– Theo tôi thì không phải khí số gì cả. Nói đến khí số chẳng qua lời gạt gẫm của giáo phái độc tài muốn dùng chiêu bài để tác yêu tác quái trong thế gian này thôi.
Tử Nha nói:
– Trong trời đất có luật tuần hoàn, trong mỗi người chúng ta đều có số mệnh, trong thế gian phải có vận khí. Ðó là lẽ chánh trong càn khôn. Anh nói như vậy thì dựa vào đâu mà hành đạo.
Thân Công Báo nói:
– Sư huynh còn non nớt lắm, chỉ chết chìm trong giáo điều của các giáo hệ độc tài về tư tưởng. Tôi hỏi anh khí số là gì? Ðinh mệnh là gì? Ai tạo ra những điều ầy? Chẳng lẽ ý muốn của một nhóm người nào đó tạo ra rồi bảo là vận mạng, khí số sao?
Tử Nha cãi:
– Vận mạng, khí số là quy luật tự nhiên của càn khôn, vũ trụ, sự chuyển vận của trời đất, chúng ta làm sao phủ nhận được.
Thân Công Báo nói:
– Chúng ta có thể tìm hiều quy luật tự nhiên ấy, và cải biến đi được. Cũng như chúng ta đang tu luyện tức là sửa đổi lại con người của chúng ta.
Tử Nha nói:
– Như vậy là sư đệ theo tà đạo rồi.
Thân Công Báo nói:
– Tà đạo hay chính đạo vẫn là đạo, không có cái nào xấu tốt. Nói cho đúng hơn kẻ nào chống lại các giáo hệ độc tài thì gọi là tà mà thôi. Tôi nói thật với sư huynh tôi sẽ xuống phò Trụ diệt Châu. Nếu sư huynh muốn cho tình anh em chúng ta sau này khỏi xích mích thì cùng tôi phò Trụ.
Tử Nha nói:
– Sư đệ luận sai rồi. Tại sao chúng ta đi phò một hôn quân mà bỏ một chúa thánh?
Thân Công Báo nói:
– Vua Trụ là hôn quân, nhưng nhà Thương không phải là những ông vua bạo ngược cả. Cũng như Võ Vương nhân đạo, nhưng các đời vua nối tiếp vẫn còn nhân đạo hay không? Như vậy từ một hôn quân trở thành một thành chúa, rồi từ một thánh chúa trở thành một hôn quân, chẳng qua chỉ qua chỉ là một thể tướng chớ không phải là một chân tướng. Chúng ta chạy theo thể tướng mà không hiểu gì đến chân tướng ư?
Tử Nha nói:
– Sư đệ có ý như vậy, nhưng tôi không thể trái lời thầy. Vả lại lúc nào tôi cũng phục tùng thiên mệnh.
Thân Công Báo nổi giận nói:
– Tử Nha ngươi tu luyện có bốn mươi năm, công lực bao nhiêu mà dám phò Châu. Ngươi hãy nghe ta biểu dương công lực của ta đây.
Nói rồi ngâm lớn:
Ngũ hành biến hóa đã tinh thông
Trút biển dời non chẳng nhọc công
Lừng lẫy Nam sơn mình cỡi cọp
Nghinh ngang Bắc hải sức thâu rồng
Hào quang ánh sáng ba ngàn trượng
Bửu kiếm hơi lòa chín khúc sông
Chân đạp rừng mây chơi khắp xứ
Muôn năm thong thả dạo Tây Ðông.
Khương Tử Nha nói:
– Công phu của ngươi thì ngươi biết, công phu của ta thì ta hay cần gì phải luận cao thấp.
Thân Công Báo nói:
– Ngươi chẳng qua học thông ngũ độn, di sơn đảo hải mà thôi, sánh với ta sao được. Ta chặt thủ cấp liệng lên trời, đi chơi muôn dặm rồi mây đỏ chở thủ cấp đem ráp lại như thường, vậy mới đáng công học đạo. Chớ như ngươi tài phép gì mà dám cự cùng ta. Nếu nghe lời ta, cùng xuống Triều Ca, đốt bản Phong thần đi thì cũng chẳng mất công hầu khanh tướng.
Tử Nha nghĩ thầm:
– Lẽ nào lại có thể cắt đầu quăng lên trời cho bay một hồi rồi lắp lại được?
Nghĩ rồi liền nói với Thân Công Báo:
– Nếu quả sư đệ làm được như vậy, tôi xem tỏ tường, sẽ đốt bảng phong thần xuống phò Trụ Vương.
Thân Công Báo nói:
– Ngươi phải giữ lời, chớ nên thất tín.
Tử Nha nói:
– Ðấng trượng phụ đã nói ra thì nhớ, lẽ nào lại quên.
Thân Công Báo liền mở hồ bao lấy ra một thanh gươm, tay trái nắm tóc mình, tay mặt cứa lưỡi gươm vào cổ, cắt đứt cái đầu, quăng bỗng lên trời, mà cái mình vẫn trơ trơ không ngã xuống.
Tử Nha trông thấy thất kinh, không hiểu tại sao có chuyện lạ lùng như vậy.
Bấy giờ Nam Cực tiên ông, sau khi đưa Tử Nha ra khỏi cửa, thơ thẩn mải chưa vào cung, thấy Thân Công Báo cởi beo chạy theo Tử Nha đến núi Kỳ Lân lại múa tay múa chân mà nói chuyện. Xảy thấy đầu của Thân Công Báo bay qua bay lại trên trời. Nam Cực tiên ông nghĩ rằng:
– Tử Nha tánh tình thật thà e lầm mưu gian trá.
Liền gọi Bạc hạc đồng tử nói:
– Ngươi hãy hiện nguyên hình, tha đầu Thân Công Báo đem qua Nam hải cho ta.
Ðồng tử vâng lệnh hóa ra con hạc trắng bay nửa lừng trời tha đầu Thân Công Báo.
Có thơ than rằng:
Phép tà quyết ý nghịch lòng trời
Bạch hạc tha đầu khó dạo chơi
Sống lại rước binh băm sáu đạo
Làm cho thiên hạ chết tơi bời.
Tử Nha thấy Bạch hạc tha đầu Thân Công Báo bay qua Nam hải thì thất kinh, giậm chân kêu lớn:
– Ðồ yêu nghiệt từ đâu đến tha đầu người bay mất.
Nam Cực tiên ông hiện đến vỗ vào lưng Tử Nha một cái, làm Tử Nha bất thần quay đi hỏi:
– A! Sư huynh! Chẳng hay sư huynh theo tôi có việc chi dạy bảo không?
Nam Cực tiên ông chỉ Tử Nha nói:
– Ngươi điên cuồng hay sao mà tin nhảm như vậy. Thân Công Báo là tà đạo, dùng tà thuật, ngươi tưởng thật à? Chỉ nội trong một giờ ba khắc mà không ráp đầu được, nó sẽ tuôn máu ra mà chết. Thầy dặn ngươi không được nói chuyện với ai, sao ngươi không tuân lời. Nó sẽ kêu ba mươi sáu đạo binh đến đánh ngươi đó. Ta nghe ngươi giao ước với nó đốt bảng phong thần xuống Triều Ca phò vua Trụ, ngươi tưởng bản Phong Thần dễ đốt lắm sao? Ta thấy vậy nên sai Bạch hạc tha đầu nó quăng xuống Nam hải đặng quá giờ nó chết cho rồi. Hễ nó chết là ngươi khỏi lo.
Tử Nha nói:
– Nếu sư huynh biết quá giờ mà không ráp được đầu nó sẽ chết thì xin tha cho một phen. Lòng đạo ai cũng lấy tình thương làm trọng. Thân Công Báo tu luyện đã lâu năm, chẳng lẽ vì biểu diễn công lực cho bạn bè xem mà hại nó như vậy?
Nam Cực tiên ông nói:
– Ngươi có tình thương đối với nó, nhưng nó không có tình thương đối với ngươi đâu. Ngày nay tha nó, ngày sau có ba mươi sáu đạo binh đến đánh ngươi, ngươi đừng than thở.
Tử Nha nói:
– Chừng nào nó bất nghĩa sẽ hay, nay vì tình bạn, nó biểu diển công lực cho xem mà lại giết nó, lòng tôi không nỡ.
Nam Cực tiên ông thấy Tử Nha năn nỉ mải liền ngoắt Bạch hạc về.
Còn Thân Công Báo bị Bạch Hạc tha đầu, cái mình đứng trơ trơ mà đợi, sợ quá giờ khắc thì tánh mạng không còn. Kế Bạch hạc tha đầu về thả xuống, cái đầu rớt nhằm chỗ mà trở mặt ra sau lưng.
Thân Công Báo đưa tay sửa lại, mở con mắt ra, nhìn Nam Cực tiên ông chứa đầy thù hận.
Nam Cực tiên ông hét lớn:
– Ngươi là yêu nghiệt, theo cám dỗ Tử Nha, bảo đốt bảng Phong thần bỏ Chậu phò Trụ. Lẽ ra ta bắt ngươi dẫn đến cung Ngọc Hư cho thầy ta trị tội, nhưng nghĩ tình ngươi tu luyện không nỡ ác tâm.
Thân Công Báo cau mày nói:
– Mỗi người có một hướng đi, không ai bắt buộc ai được cả.
Tử Nha sợ Thân Công Báo cãi lẩy sanh chuyện, nên nói:
– Thôi, sư đệ hãy trở về núi cho yên. Chúng ta đều là bạn tu hành cả, tranh đua nhau làm chi.
Thân Công Báo hậm hực lên lưng beo, còn quay đầu nói lại:
– Rồi đây sẽ thấy pháp thuật của tà đạo lợi hại đến mức nào.
Thấy Thân Công Báo giục beo đi khuất rồi, Tử Nha giã biệt tiên ông độn thổ đi về ngang Ðông hải, thấy nơi ven biển non cao lởm chởm, cây mọc tốt tươi, tiếng gió thổi rì rào vào các khóm hoa bốc mùi thơm phức.
Tử Nha than thầm:
– Biết ngày nào ta mới dứt được nợ đời vào núi này tu luyện. Nhìn vào mặt biển, xảy thảy sóng dậy ầm ầm, gió giông nổi dậy, sấm chớp bủa giăng, chỉ trong khoảnh khắc sắc thái của không gian thay đổi cả.
Tử Nha giật mình kinh hãi, không rõ vì đâu lại có hiện tượng lạ lùng.
Ngoái nhìn xuống đáy biển thấy có một người trần truồng đang cố nhoi lên trên mặt nước, cất giọng gọi lớn:
– Ðại tiên ôi! Hồn oan lạnh lẽo ngàn năm chưa được siêu rỗi, ngày trước tôi vâng lệnh Thanh Hư đạo nhân đợi nơi đây, chờ pháp sư đến cầu xin ra ơn cứu nạn trầm luân. Nay gặp được pháp sư xin ra ơn tái tạo, ơn đức bằng non.
Tử Nha nói:
– Ngươi là ai? Bị oan ức làm sao mà ở Ðông hải làm sóng, hãy nói cho ta rõ đã.
Người ấy nói:
– Tôi là Bá Dẫm, giữ chức Tổng binh, phò vua Quỳnh đế Hiên Viên đi đánh giặc Xi Vưu, bị nhâm hỏa nổ phải sa xuống biển mà chết. Hồn tôi ở đây hơn ngàn năm chưa được siêu thăng. Xin pháp sư cứu tôi làm phước.
Tử Nha nói:
– Ngươi là Bá Dẫm thì hãy nghe theo sắc chỉ Ngọc Hư, hãy về ở Tây Kỳ mà hầu sai khiến.
Nói rồi vỗ tay như sấm nổ, Bá Dẫm lên khỏi biển Ðông.
Bá Dẫm mừng thoát nạn, lạy Tử Nha tạ ơn rồi độn thổ theo Tử Nha về Tây Kỳ.
Hai người đến núi Kỳ Sơn, nghe gió thổi ào ào, thấy Ngũ Lôi thần đến nghinh tiếp, Năm vị thần ấy thưa:
– Xưa chúng tôi đều ở Triều Ca, nhớ ơn thầy dạy đến Kỳ Sơn mà đợi. Nay thấy thầy đi ngang qua đây nên chúng tôi nghênh tiếp.
Tử Nha nói:
– Ta chọn ngày tốt lập đài Phong thần, ủy nhiệm Bá Dẫm làm đốc công, các ngươi cố sức giúp việc. Chừng nào xong ta sẽ treo bảng Phong thần.
Nói rồi truyền Bá Dẫm ở lại Kỳ Sơn, sai Ngũ Lôi thần làm đài. Sáu người vâng lệnh.
Còn Tử Nha độn thổ trở về tướng phủ.
Võ Kiết và Na Tra hay tin vội ra nghênh tiếp.
Tử Nha hỏi:
– Mấy hôm nay Trương Quế Phương có đến khiêu chiến chăng?
Vỏ Kiết thưa:
– Từ bữa Sư phụ đi vắng đến nay chúng cố thủ dinh trại, không thấy hành động gì cả.
Tử Nha vào ra mắt Võ Vương.
Võ Vương mời ngồi, và hỏi:
– Thượng phụ về núi công việc thế nào?
Tử Nha không dám nói rõ việc thầy mình quở trách, nên tâu:
– Các việc đều xong cả.
Võ Vương nói:
– Thượng phụ vì ta mà đau khổ, lòng ta chẳng yên.
Tử Nha tâu:
– Tôi lo cho lợi nước yên nhà, miễn sao làm trọn lời thác cô của Tiên vương, dầu lao khổ đến đâu cũng chẳng nài.
Võ Vương truyền dọn tiệc đãi đằng, Tử Nha dự tiệc xong lui về tướng phủ.
Hôm sau, Tử Nha thăng trướng, các tướng nghe trống lệnh lập tức ứng hầu.
Tử Nha liền viết lịnh tiễn trao cho Hoàng Phi Hổ, Na Tra và Tân Giáp, Tân Miễn, dặn các tướng cứ theo mật lệnh mà thi hành.
Nói về Trương Quế Phương bị Na Tra đánh xụi một cánh tay nằm mãi trong dinh đợi binh tướng Triều Ca đến tiếp ứng. Bỗng vào lúc canh ba đêm ấy nghe tiếng pháo nổ vang, bốn phía binh reo tở mở.
Trương Quế Phương và Phong Lâm vội mang giáp lên ngựa ra đến cửa dinh thấy binh Châu đèn đuốc sáng ngời, giáo gươm lởm chởm.
Na Tra đứng trên xe Phong Hỏa, cầm giáo dài xông vào, thế mạnh như cọp.
Trương Quế Phương thấy Na Tra chẳng khác gà chạy độ, không dám giao phong.
Còn Phong Lâm thấy Hoàng Phi Hổ cỡi ngũ sắc thần ngưu xông tới, nổi giận mắng:
– Phản tặc! Ðừng hòng lợi dụng đêm tối đến cướp dinh ta.
Nói rồi giục ngựa vung thương đánh với Hoàng Phi Hổ. Hai tướng ra tài hỗn chiến.
Giữa lúc đó. Tân Giáp, Tân Miễn xông vào dinh bên hữu, binh tướng Trụ không ai chống lại. Hai tướng thừa thắng đánh riết vào hậu dinh, tháo tù xa cứu Nam Cung Hoát và Châu Kỷ
Nam Cung Hoát và Châu Kỷ bị cầm tù mấy bữa nay như cọp xổ lồng, giựt gươm chém binh Thương chạy tán loạn, thây nằm rợp đất máu chảy đầy chơn.
Trương Quế Phương và Phong Lâm thấy quân ngũ vỡ tan, biết không thể nào cầm cự nổi, liền giục ngựa bôn tẫu.
Thương hại cho binh Trụ lớp chết lớp bị thương, thây chồng lên nhau một số còn lại tìm đường chạy thoát.
Trương Quế Phương và Phong Lâm chạy riết một hồi đến núi Kỳ Sơn mới dám dừng lại, thu góp tàn quân thì thấy còn không đầy một nửa.
Trương Quế Phương than:
– Thuở nay ta cầm binh chưa bao giờ biết bại trận, thế mà hôm nay bị hao binh tổn tướng thế này!
Than rồi ngồi viết biểu sai người về Triều Ca cáo cấp.
Thái Sư Văn Trọng tiếp được tờ biểu của Trương Quế Phương kinh hãi triệu tập các tướng đến thương nghị, và nói:
– Trương Quế Phương thất trận hao binh, lão phu phải thân chinh mới được. Ngặt vì hai cỏi Ðông và Nam chưa yên, trong triều lại không còn tướng giỏi, nếu bỏ ra đi dẹp loạn thì ai coi việc Triều Ca.
Kiết Lập nghe nói, thưa:
– Chinh phạt là việc nhỏ, giữ nước là việc lớn. Nay trong triều chỉ còn Thái Sư điều khiển mọi việc, nếu Thái Sư cầm binh chinh phạt tôi e trong triều sinh biến, chi bằng cử một vài vị sư hữu qua Tây Kỳ trợ lực với Quế Phương, trừ Khương Thượng thì tiện hơn.
Thái sư Văn Trọng nghe Kiết Lập nhắc đến bằng hữu, liền nhớ lại bốn người bạn ở Hải đảo, nên đắc ý vỗ tay nói lớn.
– Ta mải lo việc nước nên quên mất mấy người bạn thân. Nếu không có ngươi nhắc đến thì biết bao giờ thiên hạ thái bình.
Nói rồi ra lệnh cho Kiết Lập và Dư Khánh giữ gìn trướng phủ, và nói:
– Các ngươi ở nhà trông coi mọi việc, ta đi ba bữa sẽ về.
Văn Trọng sửa soạn xong, cỡi hắc kỳ lân, đưa tay vỗ vào đầu nó một cái, con kỳ lân bốn chân chúm lại, bay thẳng lên mây.
Người sau có thơ khen rằng:
Hắc kỳ lân vật báu cõi đời này
Vỗ gạc chân sanh bốn cụm mây
Bay khắp cỏi trần trong một lát
Phép tiên mầu nhiệm ở trong tay.
Văn Thái Sư bay đến Cửu Long đảo thấy khói un cuồn cuộn, sóng bủa trùng trùng, liền giục kỳ lân sa xuống trước cửa động
Xem thấy phong cảnh rất xinh, bá tòng rậm rạp.
Thật là:
Chỉ có người tiên chơi cảnh ấy
Vốn không thoát tục đến nơi đây.
Văn Thái Sư đang xem hoa, bỗng có đồng tử bước ra.
Văn Thái Sư hỏi:
– Có thầy ngươi ở nhà không?
Ðồng tử đáp:
– Thầy tôi đang đánh cờ trong động.
Văn Trọng nói:
– Ngươi vào thưa có Thái Sư ở trào Thương đến ra mắt.
Ðồng tử vào báo. Bốn vị đạo sĩ hay tin liền ra trước cửa động đón tiếp.
Văn Thái Sư gặp bạn mừng rỡ đi theo vào động.
Một trong bốn vị đạo sĩ nắm tay Văn Trọng nói:
– Chúng tôi ẩn mặt tại bốn cù lao này đã lâu vắng bạn bè, nay hiền hữu có việc gì tìm đến?
Văn Thái Sư nói:
– Tôi chịu ơn vua và lời thác cô của Tiên đế nên mải lo việc nước, không có dịp đến thăm quý hữu. Vừa rồi tại Tây Kỳ có Khương Thượng, vốn là học trò tu tại núi Côn Lôn, cậy phép thần thông giúp Cơ Phát làm loạn. Tôi sai Trương Quế Phương đi đánh dẹp, nhưng Trương Quế Phương cự không lại. Tôi muốn đem binh thảo phạt ngặt vì trong nước không có ai, nên phải đánh liều đến đây cầu cứu quý hữu giúp giùm một tay trừ loài cường bạo cứu kẻ suy vi thì thật may cho tôi lắm.
Ông đạo sĩ ngồi trước cất tiếng lanh lảnh nói:
– Ðạo huynh đã đến đây, bần đạo lẽ nào không ra giúp Trương Quế Phương mà trừ Khương Thượng cho an xã tắc.
Ba vị đạo sĩ ngồi sau đồng nói:
– Vương đạo huynh đã vì Văn đạo huynh mà ra sức, ba tôi lẽ nào lại ngồi yên.
Văn Thái Sư nghe cả bốn vị đạo sư đều tỏ ý giúp mình, lòng mừng khôn xiết.
Bốn vị đạo sĩ ấy là:
1. Vương Ma
2. Dương Sum
3. Cao Hữu Càng
4. Lý Hưng Bá
(Bốn vị này sau phong thần làm tứ Thánh, chầu tại đình Linh Tiêu. Tất cả những vị tu tiên mà ít phước đều phải thành thần).
Khi ấy Vương Ma nói với Văn Trọng:
– Ðạo huynh về trước. Chúng tôi sẽ sửa soạn đến sau.
Văn Trọng căn dặn:
– Quý hữu đã thương tình, xin đừng để trễ việc.
Vương Ma nói:
– Ðể tôi sai đồng tử đưa các con thú đến Tây Kỳ trước, chúng tôi sẽ tới Triều Ca gặp đại huynh.
Văn Thái Sư tạ ơn rồi giã biệt. Cỡi Hắc kỳ lân ra khỏi động.
Bốn vị đạo sĩ sắp đặt xong đều độn thổ qua Triều Ca nội trong ngày ấy.
Ngươi sau có thơ khen:
Ngũ hành độn thổ rất linh thiêng
Chẳng dụng ngựa xe chẳng dụng thuyền
Trời đất giáp vòng đi một khắc
Trong đời ai sánh phép thần tiên.
Bốn vị đạo sĩ đến Triều Ca, quân dân trong thành trông thấy khiếp vía. Vì Vương Ma mặt tròn như mặt nguyệt, mình mặc áo đen. Dương Sum mặt đen như lọ, râu đỏ như máu, cặp chân mày vàng, hình dung cổ quái. Cao Hữu Càng mặc áo điều, mặt và tóc đỏ trên đầu chừa hai vá, còn Lý Hưng Bá thì đầu đội mão đuôi cá, mình mặc áo huỳnh bào, mắt đỏ như trùng táo, râu dài đến rún, mình cao một trượng rưỡi.
Vương Ma đến trước cửa thành gọi quân canh hỏi:
– Dinh Văn Thái sư ở đâu?
Quân trong thành không dám ló đầu ra, chỉ lên tiếng đáp:
– Ði thẳng qua hướng Nam, đến cầu Nhị long thì tới.
Bốn vị đạo sĩ tìm đến trướng phủ.
Văn Thái Sư mừng rỡ đón chào, rước vào dinh dọn tiệc đãi đằng, vì mấy vị này thuộc về Triệt Giáo, không ăn chay.
Sáng hôm sau, Văn Thái Sư vào chầu vua Trụ và tâu:
– Tôi vừa thỉnh được bốn vị đạo sư ở Cửu Long đảo, nhờ họ đến Tây Kỳ chinh phạt Võ vương.
Vua Trụ phán.
– Các vị ấy có lòng giúp quả nhơn, sao Thái Sư không đưa họ vào ra mắt ta?
Văn Thái Sư vâng chỉ, vội vã về dinh dắt bốn vị đạo sĩ vào chầu.
Vua Trụ xem thấy thất kinh, mặt mày tái mét.
Bốn đạo sĩ nói:
– Chúng tôi đồng ra mắt thánh thượng.
Vua Trụ phán:
– Trầm cảm ơn bốn vị tiên trưởng. Nhờ Thái Sư thay mặt trẫm dọn tiệc tại đền Hiển Thánh đãi đằng.
Vua Trụ phán rồi lui vào cung.
Tiệc mở tưng bừng, Văn Thái Sư mời bốn vị đạo sĩ vào đãi yến.
Vương Ma nói:
– Nay ăn uống chưa vui, đợi chúng tôi đến Tây Kỳ trừ Khương Tử Nha xong sẽ về đây vui say một bữa cho phỉ tình.
Nói rồi bốn người đồng ra khỏi.
Văn Thái Sư đưa đi hơn bốn dặm đường mới trở về trướng phủ.
Còn bốn vị đạo sĩ độn thổ đi một lát đã tới Tây Kỳ, đồng tìm đến trại Trương Quế Phương.
Quân vào báo, Trương Quế Phương vội ra ngoài nghênh tiếp, thỉnh bốn vị vào nội dinh làm lễ ra mắt.
Vương Ma thấy Trương Quế Phương và Phong Lâm trong người có vẻ đau đớn, liền hỏi:
– Chắc hai ngươi bị thương gì đó phải không?
Phong Lâm đưa chả vai ra, thuật chuyện giao tranh vừa rồi bị Na Tra đánh trúng.
Vương Ma xem xét vết thương một hồi rồi nói:
– Ấy là Càn Khôn Quyện, bửu vật của Thái Ất chơn nhơn đánh nhằm.
Liền lấy viên thuốc trong bầu nhai nhỏ, thoa vào vết thương, tức thì vết thương lành lại như trước.
Trương Quế Phương thấy vậy mừng rỡ, cởi áo đưa cánh tay ra xin điều trị.
Vương Ma cũng thoa thuốc như vậy, rồi hỏi:
– Khương Tử Nha đóng quân cách bao xa?
Trương Quế Phương thưa:
– Tử Nha đóng quân tại thành Tây Kỳ cách đây bảy mươi dặm. Bởi tôi thất trận, bị chúng cướp trại nên mới lui về chốn này.
Vương Ma truyền tấn binh.
Trương Quế Phương tuân lệnh, đốt một tiếng pháo lớn làm hiệu, kéo binh đến đóng trại tại Ðông môn.
Quân thám mã trông thấy vào báo với Tử Nha:
– Ðại binh Trương Quế Phương kéo tới Ðông môn, đang hạ trại.
Tử Nha đang bàn luận việc binh, nghe tin ấy, liền hỏi các tướng:
– Quế Phương vừa bại trận, nay lại kéo đến đây chắc là có binh viện. Chúng ta phải đề phòng mới được.
Nói rồi truyền các tướng quân phòng đâu đó nghiêm nhặt.
Bên ngoài Trương Quế Phương cũng chỉnh đốn binh mã, đợi lệnh giao tranh.
Vương Ma nói với Trương Quế Phương:
– Ngày mai ngươi đem binh ra khiêu chiến, gọi cho được Tử Nha ra ngoài thành, chúng ta núp dưới cờ để nói chuyện với nó một chút.
Dương Sum lại nói với Phong Lâm:
– Ta cho mấy đạo bùa này ngươi đem giăng trên cổ ngựa, kẻo ngựa của ngươi thấy con thú ta cỡi sẽ bị rũ liệt bốn chân.
Phong Lâm theo lời dặn, đem bùa giắt trên các cổ ngựa.
Rạng ngày Trương Quế Phương kéo binh ra trận, đến trước cửa thành kêu lớn:
– Tử Nha! Hãy ra đây ta nói chuyện cho mau!
Quân vào báo:
– Trương Quế Phương gọi đích danh Thừa Tướng ra trận.
Tử Nha liền kéo cờ năm sắc, tay cầm gươm báu chói lòa, kéo quân ra khỏi thành, gọi Trương Quế Phương mắng lớn:
– Ngươi là tướng bại trận, còn mặt mũi nào đám đến đây.
Trương Quế Phương nói:
– Việc binh thắng bại là lẽ thường, có gì mà xấu hổ.
Trương Quế Phương vừa dứt tiếng thì đã nghe trống lệnh nổ ầm ầm, bốn vị đạo sư cỡi bốn con thú dữ xông ra.
Vương Ma cỡi con Bê Ngang, Dương Sum cỡi con Ton Nghê, Cao Hữu Càng cỡi con Beo gấm, Lý Hưng Bá cỡi con Trạnh Nanh.
Tử Nha và các tướng vừa trông thấy đều té nhào xuống ngựa.
Bởi các con ngựa chiến thấy bốn con thú dữ, đều rũ chân ngã lăn xuống, duy có Na Tra đứng trên xe và Hoàng Phi Hổ cỡi thần ngưu nên không té.
Bốn vị đạo sĩ thấy Tử Nha té đến nỗi sập mão đều cười lớn và nói:
– Không hề gì đâu! Cứ thủng thẳng mà dậy.
Tử Nha sửa áo mão ngay thẳng, nhìn bốn vị đạo sĩ thấy một người mặt đen, một người mặt trắng, một người mặt đỏ, một người mặt vàng, cỡi bốn con quái thú, liền hỏi:
– Chẳng hay bốn vị đạo huynh ở núi nào, động nào đến đây có việc chi chỉ bảo?
Vương Ma nói:
– Chúng ta ở Cửu Long đảo tên Vương Ma, Dương Sum, Cao Hữu Càng, Lý Hưng Bá, vốn là người tu về đại tiên. Bởi Văn Thái Sư cầu khẩn, nên đến đây tỏ vài ý kiến với ngươi.
Tử Nha hỏi:
– Quí vi đại huynh muốn nói gì xin cho biết?
Vương Ma nói:
– Chúng ta muốn tỏ ba điều, mong rằng ngươi không từ chối.
Thứ nhất: Võ vương phải làm tôi vua Trụ.
Thứ nhì: phải xuất của kho mà khao quân
Thứ ba: phải giao Hoàng Phi Hổ cho Trương Quế Phương giải về Triều Ca.
Tử Nha nói:
– Ðiều thứ nhất chúa công tôi là Võ vương luôn luôn giữ phận không bao giờ có ý khi quân, chưa bao giờ có hành động tạo phản thì vẫn là tôi của nhà Thương. Còn điều thứ hai và thứ ba tôi chưa thể quyết định ngay bây giờ được, xin hẹn lại ba hôm để về tâu với chúa công tôi quyết định liệu.
Nói rồi truyền lui binh vào thành. Bên này Quế Phương cũng thâu binh vào trại.
Sau khi Tử Nha vào thành xong, Hoàng Phi Hổ đến trước quỳ thưa:
– Xin Thừa Tướng đem gia đình tôi nạp cho Trương Quế Phương để Võ vương khỏi lụy.
Tử Nha đỡ dậy và nói.
– Hoàng tướng quân đừng nghĩ như vậy. Sở dĩ ta phải dùng kế hoãn binh là vì chúng nó có những con quái thú chưa từng thấy. Nếu giao binh phần thất lợi hãy về chúng ta, ta định vào thành cùng các tướng tìm mưu đối địch.
Hoàng Phi Hổ lạy tạ và lui về.
Chiếu hôm ấy Tử Nha tắm gội xong xuôi, gọi Na Tra và Võ Kiết đến dặn:
– Hai ngươi ở lại giữ thành, ta phải về núi Côn Lôn một lần nữa. Nói rồi độn thổ đi liền.
Khi về đến trước cửa động, gặp Bạch Hạc đồng tử đi ra, Tử Nha đón lại nói:
– Ngươi vào thưa với thầy, có ta về đây xin ra mắt.
Bạch Hạc đồng tử vào báo.
Nguyên Thỉ đòi Tử Nha vào, nói:
– Bốn anh em Vương Ma đánh ngươi, ngươi sợ gì mà chạy về?
Tử Nha thưa:
– Bốn người ấy dùng bốn con quái thú làm cho các ngựa chiến trông thấy đều bị rũ liệt, té lăn xuống đất. Thật là chuyện phi thường, đệ tử chưa từng thấy.
Nguyên thỉ nói:
– Ta cũng có dùng một con thú sống từ thuở khai thiên lập địa đến nay gọi là con Tứ Bất Tướng.
Nói rồi truyền Bạch Hạc vào vườn đào dắt con thú ấy ra. Con thú ấy hình dạng như vầy:
Ðầu lân đuôi trại vóc như rồng
Chân đạp hào quang thấu chín trùng
Bốn biển mười châu đi nhứt khắc
Ba non năm núi đến như không.
Bạch Hạc đồng tử dắt con Tứ Bất Tướng ra, Nguyên Thỉ nói:
– Khượng Thượng, bởi ngươi tu bành bốn mươi năm khó nhọc lại thay ta lo việc phong thần, nên ta cho ngươi con thú này, cỡi về Tây Kỳ mà đấu với các con quái thú ở Cửu Long đảo.
Nói rồi truyền Nam Cực tiên ông lấy ra cho Tử Nha một cây roi dài ba thước năm tấc sáu phân, có hai mươi sáu mắc, mỗi mắc có bốn điệu bùa. Roi ấy gọi là Ðả Thần Tiên.
Nam Cực tiên ông đưa roi cho Tử Nha.
Tử Nha quỳ xuống nhận lãnh, rồi lạy Nguyên Thỉ và thưa:
– Còn việc gì khác xin thầy làm ơn chỉ dạy.
Nguyên Thỉ nói:
– Ngươi đi qua biển Bắc, có một người đang đợi ngươi. Vậy ta cho ngươi một cây Hạnh Quỳnh Kỳ. Cờ này thuộc thổ, trong cờ có thẻ mà không có chữ. Khi có việc gì nguy hiểm nó sẽ hiện chữ ra, ngươi cứ xem đó thì biết.
Tử Nha mừng rỡ, lãnh cờ và từ giã.
Ra khỏi cửa động, Nam Cực tiên ông theo đưa đến núi Kỳ Lân rồi mới trở về cung Ngọc Hư.
Tử Nha leo lên lưng Tứ Bất Tướng, vỗ lên gạc nó một cái, tức thì nó bay lên mây, chỉ chốc lát nó lại sa xuống núi bên kia gần mé biển.
Núi ấy mặt trước cao vòi vọi, tòng bá mịt mù, cỏ hoa thơm ngát. Dưới chân núi là biển lớn, sóng vỗ bao la.
Tử Nha xem thấy phong cảnh khen rằng:
– Núi này có long mạch rất tốt, chắc có anh hùng ẩn dật.
Nói vừa dứt tiếng, thấy dưới chân núi nổi lên một lùm mây, một ngọn gió thổi tạt qua làm cho vầng mây ấy tan đi, và hiện ta một vật rất kỳ dị, ghê gớm:
Ðầu giống lạc dà dữ tợn thay
Cổ cao như ngỗng lúc co ngay
Tai bằng trâu nước che lên sợ
Râu tợ tôm càng gió lắc lay
Chân tợ móng hùm mà một cẳng
Tay như vút ó đủ hai tay
Mắt lồi sáng chói dường sao Ðẩu
Vảy cá cùng mình nhảy thật hay!
Tử Nha xem thấy con quái ấy nhảy chồm tới thất kinh, mồ hồi toát ra đầy mình.
Con quái ấy hét lớn:
– Ăn một miếng thịt của Khương Thượng sống cả ngàn năm. Ðố ngươi chạy đi đâu cho khỏi.
Tử Nha quýnh quáng hỏi:
– Vốn không thù oán gì sao ngươi lại muốn ăn thịt ta?
Cơn quái ấy nói:
– Ăn một miếng thịt sống ngàn năm, cần gì phải nói đến chuyện thù oán?
Tử Nha không biết tính lẽ nào, nhớ đến cây Hạnh Quỳnh Kỳ vội giở ra xem. Quả nhiên cây cờ ứng chữ rõ ràng.
Tử Nha xem xong bình tĩnh nói với con quái vật:
– Số ta bị ngươi ăn thịt thì dù có chạy đi đâu cũng không khỏi. Nhưng ta thách ngươi một điều, nếu ngươi nhổ được cây cờ ta lên thì ta nộp mạng cho ngươi, còn nhổ không được thì đừng hòng làm bậy.
Nói rồi dựng cây cờ xuống đất, con quái vật thấy cây cờ cao chừng hai trượng, tưởng đó là một trò chơi, làm phách bước đến đưa tay trái giở thử, nhưng giở không lên, nó đổi sang tay mặt giở cũng không nổi, nó giận lắm dùng cả hai tay nhưng vẫn không nhúc nhích.
Tử Nha liền vỗ tay một cái, nghe tiếng sấm nổ vang, hai tay con quái dính trong cán cờ, lấy ra không được.
Tử Nha rút gươm báu cầm tay nói lớn:
– Ta chém quách đồ yêu nghiệt.
Con quái liền năn nỉ:
– Xin Thượng tiên lấy lòng từ bi dung mạng cho tôi. Vốn tôi không biết, tại Thân Công Báo lừa phỉnh tôi.
Tử Nha nghe nói đến Thân Công Báo, lấy làm lạ hỏi:
– Ngươi hung dữ muốn ăn thịt ta, chớ Thân Công Báo có can hệ gì trong việc này?
Con quái thưa:
– Tôi là Long Tu Hồ, sanh nhằm đời vua Thiếu Hạo, cha là rồng, mẹ là heo. Tôi luyện khí âm dương cầu trường sanh bất tử, không có ác tâm, nhưng vì hôm trước Thân Công Báo đi ngang qua đây có nói với tôi là hễ ai ăn được thịt Khương Tử Nha thì sống lâu ngàn tuổi. Tôi nghe lầm lời ấy, nên mới hành động thế này, không dè ngài đức trọng đạo cao, xin mở lòng hà hải, dung cho tôi một chuyến.
Tử Nha nói:
– Nếu ngươi chịu làm đệ tử của ta thì ta dung tha tánh mạng.
Long Tu Hồ nói:
– Tôi xin kính ngài làm sư phụ.
Tử Nha truyền Long Tu Hồ nhắm mắt lại, rồi vỗ tay một cái.
Long Tu Hồ nghe một tiếng sấm vang, hai tay không còn dính trong cây cờ nữa, vội quỳ xuống làm lễ tạ ơn.
Tử Nha hỏi:
– Ngươi có tài phép gì không?
Long Tu Hồ thưa:
– Ðệ tử có tài quăng tay không mà ra đá chẳng khác nào mưa vãi, dầu quăng mấy ngày cũng không hết.
Tử Nha nghe nói mừng rỡ nghĩ thầm:
– Nếu dùng người nay đi cướp dinh trại địch thì hay lắm.
Liền lên lưng con Tứ Bất Tướng đem Long Tu Hồ về Tây Kỳ.
Khi Tử Nha vào đến trướng phủ, Long Tu Hồ cũng theo sau.
Các tướng trông thấy kinh hãi thầm thì với nhau:
– Hôm nay Thừa Tướng dẫn yêu tinh ở đâu về như vậy!
Tử Nha thấy các tướng sợ sệt, liền cười lớn nói:
– Người này là Long Tu Hồ ở Bắc hải, ta mới thâu về làm đệ tử.
Các tướng đồng đến gần ra mắt.
Tử Nha hỏi:
– Mấy hôm nay công việc thế nào?
Võ Kiết thưa:
– Binh tướng bên Thương không đến nữa.
Tử Nha truyền quân phòng bị đợi đến lúc thuận tiện sẽ tính việc giao chiến.
Bấy giờ Trương Quế Phương đợi đến năm ngày, không thấy Tử Nha khai binh, và nạp Hoàng Phi Hổ, liền vào thưa với bốn vị đạo sư:
– Nay đã quá kỳ sao chưa thấy Tử Nha đến trại, chắc là nó gạt chúng ta đấy.
Vương Ma nói:
– Nếu Tử Nha không tuân lệnh thì chúng ta sẽ làm cho thành Tây Kỳ máu chảy thành sông, xương phơi tợ núi.
Qua đến ngày thứ tám.
Dương Sum nói với Vương Ma:
– Khương Tử Nha đến hôm nay vẫn chưa thấy trả lời, vậy chúng ta phải hỏi nó cho giáp mặt.
Vương Ma bảo Trương Quế Phương:
– Ngươi chuẩn bị dẫn quân ra trước thành, kêu Khương Tử Nha ra mà hỏi, nếu nó còn ấm ứ, chúng ta đánh cho một trận rồi ban sư cho sớm.
Trương Quế Phương vâng lệnh khiến Phong Lâm phát pháo kéo binh ra.
Tử Nha nghe quân báo liền truyền Na Tra, Long Tu Hồ và Hoàng Phi Hổ đồng kéo binh ra thành.
Vương Ma thấy Tử Nha cởi Tứ Bất Tướng thì giận mắng lớn:
– Khương Thượng, ngươi là đứa thất phu, hứa hẹn với ta để có thì giờ đi mượn con Tứ Bất Tướng. Ấy là ngươi quyết tình giao đấu với chúng ta rồi.
Dứt lời giục Bê Ngang đến, vung gươm chém.
Na Tra cản lại và nói:
– Không được phạm đến Sư thúc ta.
Liền vung giáo dài ra đỡ. Hai người đồng ra sức đánh với nhau gươm giáo như bay, chém đâm tở mở.
Vương Sum sợ Vương Ma đùng gươm ngắn không cự nổi với giáo dài, liền lấy hột châu Khai Thiên trong túi da beo liệng vào mặt Na Tra một cái.
Na Tra bị Khai Thiên Châu trúng mặt, không thấy đường nào đánh đỡ nữa, té nhào xuống xe.
Vương Ma lướt tới muốn chém, Hoàng Phi Hổ kịp thời cản lại, quân sĩ khiêng Na Tra về thành.
Vương Ma đang đánh với Hoàng Phi Hổ, Dương Sum lại quăng trái châu ra nữa, Hoàng Phi Hổ tối mặt té xuống thần ngưu.
Long Tu Hồ nhẩy ra đỡ thương, quân Châu cứu Hoàng Phi Hổ về được.
Long Tu Hồ hét lớn:
– Ðừng giết Ðại tướng, có ta đến đây.
Vương Ma xem thấy tướng kỳ dị, ngỡ là yêu quái hiện đến.
Có bài thơ nói về Long Tu Hồ như vầy:
Ðầu lạc đà nên lớn
Cổ tiên hạc quá dài,
Cả mình như vảy cá
Cặp mắt tợ sao mai
Mười dấu tai quăng đá
Một giò cứ nhảy nai
Gặp Long Tu Hồ tới
Không chết cũng mang tai!
Cao Hữu Càng thấy tướng quái gở, liền lấy Hỗn Nguyên Bửu Châu quăng lên.
Long Tu Hồ bị trái châu đập nhằm vai, đau quá chạy riết vào thành.
Vương Ma và Dương Sum đồng giục thú đến đánh với Tử Nha.
Tử Nha đưa gươm ra đỡ, song thấy tướng tá của mình bị thương hết nên lòng kinh hãi. Bị Lý Hưng Bá quăng Tinh Ðại Châu trúng nhằm ngực, suýt nhào xuống đất.
Tử Nha giục con Tứ Bất Tướng chạy như bay về hướng Bắc hải.
Vương Ma giục Bê Ngang đuổi theo, quyết bắt Tử Nha cho được, nên người chạy như tên bắn, kẻ đuổi theo lẹ tợ gió bay.
Tử Nha đã bị thương lại bị đuổi nà đến, thất kinh vỗ vào đầu con Tứ Bất Tướng bay thẳng lên trời.
Vương Ma cười lớn nói:
– Ðó là phép thường không có gì là lạ.
Nói rồi vỗ đầu con Bê Ngang bay vút lên mây đuổi theo như vũ bão.
Bởi số Tử Nha phải chịu bầm dập, nên trốn không khỏi tai nạn.
Vương Ma lấy cục Khai Thiên Châu quăng tới, trái châu đánh nhằm lưng. Tử Nha nhào xuống đất chết tươi. Con Tứ Bất Tướng cũng sa xuống, đứng một bên giữ thây chủ.
Vương Ma cho thú đáp xuống quyết lấy thủ cấp.
Xảy nghe trong rừng có tiếng ca vọng ra:
Liễu mùa gió đưa phưởng phất
Hoa trôi nước chảy là đà
Ướm hỏi ở đâu cho biết,
Vừng mây vốn thật là nhà.
Vương Ma trông thấy người vừa ca biết ngay đó là Văn Thù quảng pháp thiên tôn ở động Vân Tiêu, liền hỏi:
– Ðạo huynh đi đâu vậy?
Văn Thù nói:
– Vương đạo hữu! Bần đạo vâng lệnh Ngọc Hư cung đến đây gặp đạo huynh để có vài lời. Ðạo huynh không nên giết Tử Nha vì năm lẽ sau đây:
Thứ nhất: khí số thành Thang đã dứt.
Thứ hai: Tây Kỳ chân chúa ra đời.
Thứ ba: đạo Xiển Giáo của ta phải phạm sát sinh.
Thứ tư: Tử Nha được hưởng giàu sang trên thế gian.
Thứ năm: Tử Nha thế cho Ngọc Hư cung lo việc Phong thần.
Vì năm điều ấy nên sai Tử Nha xuống thế. Còn đạo hữu là người tu Triệt Giáo, thân hưởng thanh nhàn, lẽ đâu ngừng tay làm việc dữ, há chẳng nhớ đôi liễn trên cung Bích Du có nói:
Tách mình qua Tây thổ là người tên đứng bảng phong thần.
Tuy đạo hữu đánh chết Tử Nha mà còn có thể an toàn được, như đạo hữu nghe lời khuyên của bần đạo trở về Cửu Long đảo quyết chí tu thân. Như vậy coi như trăng chưa khuyết, đá chưa mòn, còn nếu cãi lời bần đạo thì ăn năn muộn lắm.
Vương Ma nghe nói nổi xung hét lớn:
– Văn Thù chớ khoe tài trí. Ngươi với ta cùng một thể sao dám buông lời trăng khuyết trăng tròn. Ngươi có Danh sư, ta cũng có Giáo chủ, ai dám khi dễ ai?
Nói rồi cầm gươm chém Văn Thù một nhát.
Ngay lúc đó có một đạo đồng mặc áo vàng, chừa hai vá, ở sau lưng Văn Thù cầm song kiếm lướt tới, kêu lớn:
– Chớ vô lễ với thầy ta. Có ta là Kim Tra đấu sức.
Nói rồi hỗn chiến với Vương Ma.
Có bài thơ rằng:
Hai người ba kiếm quyết giao phong
Chuyển động bên sườn núi Ngũ Long
Cũng bởi Thành Thang cơ nghiệp dứt
Xui người bạc phước khó dằn lòng.
Văn Thù thấy hai người giao đấu không phân thắng bại, liền lấy Ðộn Long Thun là vật báu của Phật, kêu là Thất Bửu Kim Liên hình giống như một cây nọc, có ba cái khoen, quăng lên, tức thì hiện ra ba cái vòng lớn tròng lấy Vương Ma.
Vương Ma bị xiềng một vòng nơi cổ, một vòng nơi lưng, và một vòng nơi chân, đứng chết cứng bên chiếc nọc vàng.
Kim Tra thấy Vương Ma bị trói trong Ðộn Long Thun liền vung kiếm chém một nhát rụng đầu, hồn Vương Ma bay lên đài phong thần, Bá Dẫm là Thanh Phước Thần cầm cây phướng Bá Linh mà rước.
Còn Văn Thù thâu Ðộn Long Thun lại, lạy về núi Côn Lôn tám lạy vái rằng:
– Ðệ tử phạm sát sanh, cam thọ tội.
Lạy rồi truyền Kim Tra cõng Tử Nha lên núi, đổ nước kim đơn vào miệng.
Một lúc lâu, Tử Nha mới hoàn hồn tĩnh dậy, thấy Văn Thù tôn sư liền hỏi:
– Chẳng hay tôi vì sao ở chốn này?
Văn Thù nói:
– Ðó là vận mệnh của ngươi chứ không phải ngẫu nhiên.
Còn Văn Thù trao Ðộn Long Thun cho Kim Tra, và dặn rằng:
– Nay con theo sư thúc đến Tây Kỳ trợ chiến, lo giúp nhà Châu, chẳng bao lâu thầy cũng xuống theo.
Kim Tra từ giã lạy thầy, rồi cùng Tử Nha lên lưng Tứ Bát Tướng bay về thành Tây Kỳ.
Còn Văn Thù đem xác Vương Ma chôn nơi sườn núi.
Bấy giờ tại Tây Kỳ ai nấy bỗng thấy Tử Nha trở lại đều kinh hãi.
Võ vương hay tin đến phủ thăm viếng, và truyền quân thám mã đi lùng kiếm khắp nơi, xảy thấy Tử Nha dắt Kim Tra về phủ.
Võ vương mừng rỡ hỏi:
– Tướng Phụ chạy đi đâu mà quả nhân truyền quân thám mã tìm khắp nơi không gặp?
Tử Nha tâu:
– Như hạ thần không gặp thầy trò Kim Tra thì không còn tánh mạng.
Kim Tra bước đến làm lễ Võ Vương, thuật lại việc giải cứu Tử Nha, giết Vương Ma, rồi nhìn Na Tra là em ruột mình cùng nắm tay hoan hỉ.
Võ Vương mừng rỡ, truyền quân mở tiệc ăn mừng ngày hội ngộ.
Bên kia, Dương Sum thấy Vương Ma rượt Tử Nha mãi đến tối không thấy về lòng nghi ngại, đánh tay xem thử rồi vùng ta lớn:
– Thôi rồi! Còn gì đâu!
Cao Hữu Càng và Lý Hưng Bá đồng hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Dương Sum giậm chân nói:
– Uổng công danh ngàn năm tu luyện, nay bỏ mình tại núi Ngũ Long.
Ba anh em tức tối, đêm ấy ngủ khôn an.
Rạng ngày ba người dẫn binh đến bên thành khiêu chiến, gọi Tử Nha ra trận.
Quân vào báo với Tử Nha.
Tử Nha bị thương chưa lành nên có ý buồn bực, Kim Tra liền bước tới thưa:
– Có đệ tử bảo hộ xin sư thúc ra thành.
Tử Nha nghe lời, dẫn quân xuất trận. Ba vị đạo sĩ thấy Tử Nha nổi giận mắng:
– Khương Thượng ngươi giết anh ta, ta quyết xé xác ngươi!
Vừa nói vừa ào tới đánh liền.
Kim Tra và Na Tra đồng một lượt giốc tới cản lại, giao chiến.
Năm người biểu diễn một trận thư hùng, thật là:
Tiếng đao rang rảng vang trời đất
Khí giận ùn ùn toả núi sông.
Tử Nha trông thấy cuộc chiến không phân thắng bại, cố tìm cách rút ngắn thời gian, vùng nhớ đến cây roi Ðả Thần Tiên của Nguyên Thỉ cho, liền rút roi ấy ném lên không, tức thì roi thần tỏa hào quang như chớp nhoáng, đánh bể đầu Cao Hữu Càng, linh hồn lên đài Phong thần.
Dương Sum thấy Cao Hữu Càng tử nạn, tức mình hét lên một tràng, lướt đến đánh Tử Nha, chẳng ngờ bị Na Tra quăng Càn Khôn Quyện, Dương Sum lo bắt Càn Khôn Quyện bị Kim Tra quăng Ðộn Long Thun lên nữa tròng cổ Dương Sum trói cứng vào cây nọc vàng.
Kim Tra lướt tới chém Dương Sum một gươm đứt làm hai khúc, linh hồn Dương Sum cũng bay lên đài Phong thần họp bạn.
Trương Quế Phướng và Phong Lâm thấy hai vị đạo sĩ bị chết một cách chớp nhoáng như vậy, đồng xông vào trợ chiến với Lý Hưng Bá, giao đấu với Kim Tra và Na Tra.
Xảy nghe trên thành Tây Kỳ, một tiếng pháo nổ vang có một viên tướng nhỏ mình mang giáp bạc, cỡi ngựa kim, cầm giáo dài. xông ra giữa trận. Mọi người xem lại thì thấy tướng ấy là Hoàng Thiên Tường, con út của Hoàng Phi Hổ.
Hoàng Thiên Tường tuy còn nhỏ tuổi, nhưng con nhà tướng, sức mạnh như thần. Vừa đến nơi đã đâm trúng Phong Lâm một giáo lòi ruột, nhào xuống đất chết tươi.
Trương Quế Phương và Lý Hưng Bá rối loạn, nhắm bề cự không lại bỏ chạy về dinh.
Sau khi thu góp tàn quân, Trương Quế Phương thấy quân sĩ hao hụt quá nhiều, lòng buồn khôn tả.
Lý Hưng Bá nói với Trương:
– Bốn anh em chúng tôi đến đây trợ giúp tướng quân, không ngờ rủi ro chết mất ba người, nay chỉ còn một mình tôi, liệu thế khó bề chiến thắng. Vậy tướng quân nên viết biểu về Triều Ca báo với Văn Thái Sư liệu định.
Trương Quế Phương tuân lời, viết chiếu sai hỏa tốc đem về triều trình với Văn Trọng.
Còn Tử Nha trọn thắng, kéo quân vào thành khao binh thưởng tướng ai nấy cũng khen tài uy dũng của Hoàng Thiên Tường, mới bao nhiêu tuổi đầu đã dám ra trận đâm chết đại tướng
Kim Tra thưa với Tử Nha:
– Chúng ta vừa thắng trận, không nên bỏ qua dịp tốt, ngày mai nên lựa binh ra ngoài thành đoạt ải, đuổi Trương Quế Phương chạy khỏi Tây Kỳ, thì mới khỏi lo về sau.
Tử Nha khen phải, truyền các tướng chỉnh đốn đội ngũ, đợi rạng ngày xuất quân.
Ngày hôm sau, Tử Nha dẫn các tướng đến trại Thương khiêu chiến.
Quân vào báo, Trương Quế Phương mắng lớn:
– Phản tặc dám khinh dễ Nguyên soái thiên triều. Ta quyết trận này một còn một mất.
Nói rồi kéo binh ra khỏi trận, gặp tiểu tướng Hoàng Thiên Tường đang diệu võ dương oai.
Trương Quế Phương hét:
– Tiểu tặc! Hôm qua ngươi lên đâm chết được Phong Lâm, ngươi tưởng tài ngươi vô địch sao? Ta lấy đầu ngươi cho ngươi biết.
Nói rồi xông lại đánh với Hoàng Thiên Tường.
Hai tướng hổn chiến với nhau hơn ba mươi hiệp không phân thắng bại.
Tử Nha truyền quân giống trống, tức thì có tám viên tướng Tây Kỳ, gọi là bát tuấn, cùng một lượt áp vào trận.
Tám tướng này là: Bá Ðạt, Bá Hoạt, Trọng Ðột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quí Tòa, Quí Hoa.
Lại thêm một số tướng cạnh của Tử Nha là: Mao Công Toại, Châu Công Ðáng, Thiện Công Tích, Nam Cung Hoát, Tân Giáp, Tân Miễn, Thái Ðiền, Hoàng Yên, Hoàng Minh, Châu Kỷ đều áp vào phủ vây Trương Quế Phương vào giữa.
Trương Quế Phương như hùm mây gặp gió, một mình xông đột múa giáo như tên bay, không hề khiếp sợ tí nào.
Khi ấy, Lý Hưng Bá thấy Trương Quế Phương bị vây liền vỗ thú xông vào giải cứu.
Tử Nha trông thấy liền khiến Na Tra và Kim Tra đón đánh. Ba người giao phong một hồi.
Tử Nha thấy không nên kéo dài trận chiến, liền quăng roi Ðả Thần Tiên lên, Lý Hưng Bá xem thấy thất kinh vỗ đầu con Tranh Nanh bay bỗng lên không trung trốn thoát.
Na Tra và Kim Tra thấy Lý Hưng Bá bỏ chạy, liền quay lại trợ lực với các tướng vây thêm Trương Quế Phương một vòng nữa.
Triều Ðiền gọi Trương Quế Phương nói:
– Binh tướng của ngươi đã tan tành, ngươi liệu sức phá nổi vòng vây hay không mà liều chết như vậy? Mau xuống ngựa qui hàng, đã cứu được mạng sống còn hưởng được vinh hoa phú quí.
Trương Quế Phương đỏ mặt mắng lớn:
– Phản tặc! Nói càn mà không biết xấu! Ta liều mình chết tại chiến trận, đem thân đền nợ nước, há như lũ bay chỉ biết có phú quí mà quên cả nhục vinh?
Mắng rồi lại đánh với các tướng Tây Kỳ từ giờ thìn đến giờ ngọ, mà giải vây không được, tay chân rũ liệt, liền ngửa mặt lên trời than:
– Bệ hạ ôi! Hạ thần không thể lập công đền nợ nước thì đành liều thân mà trả ơn Vua.
Than rồi trở giáo đâm vào bụng mình tự vận.
Có bài thờ điếu Trương Quế Phương rằng:
Làm tướng như vầy vẹn chữ trung
Quế Phương dầu thác cũng anh hùng
Tử Nha hồi trước không đương lại
Châu Kỷ khi xưa khó địch cùng
Chịu trận nữa ngày không hoảng hốt
Liều thân một giáo giữa gian truân
Kêu lên một tiếng đầy trung liệt
Thấu đến mây xanh, tận chín từng.
Binh Thương thấy chủ tướng liều mình rồi đều vỡ tan bỏ chạy, lớp bị bắt, lớp đầu hàng, lớp trốn vào rừng núi.
Tử Nha đắc thắng dẫn binh tướng vào thành, truyền đem thủ cấp của Trương Quế Phương bêu tại cửa Ðông, mở tiệc khao quân, khen tài các tướng:
– Trận này ai nấy đều ra tài làm cho binh Thương vỡ mật.
Giữa lúc ấy, Lý Hưng Bá cỡi Trạnh Nanh bay đến núi Cửu Cung mới dám dừng lại, xuống đất ngồi bên một gốc tòng nghỉ ngơi và nghĩ thầm:
– Ta tu luyện tại Cửu Long đảo đã lâu nay, tài trí mọi người đều nể. Nay thất trận tại Tây Kỳ thì còn mặt mũi nào trở về nhà thấy bạn bè. Ta phải trở lại Triều Ca báo tin với Văn Trọng tìm cách đến đây báo oán một trận để cứu lấy thể diện.
Nghĩ rồi toan lên lưng quái thú trở lại Triều Ca, bỗng nghe trong rừng tòng có nhiều tiếng hát vọng ra:
Trời khiến người phàm được phẩm tiên
Thành tiên mới thấy ý Hoàng thiên
Chớ chê ta nói lời ngang dọc
Bền chí thời nên lẽ tự nhiên.
Lý Hưng Bá ngoảnh lại thấy một đạo đồng lệnh mệnh bước ra.
Ðạo đồng đến trước mặt Lý Hưng Bá cúi chào, và hỏi:
– Chẳng hay đạo sư ở núi nào, có việc gì dừng chân nơi đây mà vẻ mặt lo âu buồn bã?
Lý Hưng Bá nói:
– Ta là Lý Hưng Bá ở Cửu Long đảo đến Tây Kỳ trợ chiến với Trương Quế Phương, bởi thất trận nên đến đây nghỉ mệt.
Ðạo đồng nghe nói mừng rỡ, đáp:
– Thế thì tôi khỏi phải nhọc công tìm kiếm.
Lý Hưng Bá hỏi:
– Ngươi tìm ai?
Ðạo đồng nói:
– Tôi là Mộc Tra, học trò Phổ Hiền chân nhân ở núi Cửu Cung, động Bạch Hạc. Nay tôi vâng lệnh thày tôi xuống Tây Kỳ ra mắt sư thúc tôi là Tử Nha để giúp nhà Châu. Thầy tôi có dặn đi dọc đường nếu gặp Lý Hưng Bá thì bắt đem nạp cho Tử Nha. Bây giờ mới rõ lời thầy tôi rất đúng.
Lý Hưng Bá vừa cười vừa nói:
– Thằng nhỏ điên khùng! Mấy khi dễ ta đến mức đó sao?
Nói roi cầm gươm chém liền.
Mộc Tra có hai cây gươm phép gọi là cặp gươm Ngô Câu, gồm có một cây trống, một cây mái. Thấy Lý Hưng Bá làm dữ, Mộc Tra liền rút cây gươm mái ra đỡ và chém lại.
Hai người đánh nhau được ít hiệp, Mộc Tra uốn mình ném cây gươm trống lên.
Số Lý Hưng Bá sau này làm Tứ thánh, không tránh khỏi bảng phong thần, nên thờ ơ bị gươm phép chém một nhát bay đầu.
Than ôi!
Ngàn năm tu luyện miền Tây hải
Một phút rơi đầu tại Cửu Cung.
Mộc Tra chém Lý Hưng Bá xong, đem chôn xác nơi mé núi, rồi độn thổ tìm đến Tây Kỳ, vào yết kiến Khương Tử Nha.
Quân trong thành thấy một đạo đồng còn nhỏ tuổi vào xin ra mắt, vội đến báo với Tử Nha.
Tử nha truyền mời vào.
Mộc Tra vào làm lễ gọi Tử Nha bằng sư thúc.
Tử Nha hỏi:
– Ðạo đồng ở tại núi nào?
Mộc Tra chưa kịp đáp thì Kim Tra trông thấy đã ứng tiếng nói:
– Người này là em ruột của tôi học trò của ông Phổ Hiền ở núi Cửu Cung động Bạch Hạc, tên Mộc Tra đó.
Tử Nha khen:
– Ba anh em đồng ra phò chúa Thánh, lập công để tiếng muôn đời.
Nói rồi bèn dọn tiệc đãi đằng.
Từ ấy Tây Kỳ rất đông binh đông tướng, mạnh mẽ vô cùng.
Nói về Thái Sư Văn Trọng ở tại Triều Ca đang lo việc chánh. Chỉnh đốn bởi những tàn bạo của Trụ Vương, xảy thấy quan Toan trấn ải Tụy Thủy là Hàng Vinh sai người về dâng sớ.
Văn Thái Sư xem sớ xong tức giận vỗ ghế, hét:
– Các vị đạo huynh ta vì ta mà thác oan thật tội nghiệp. Ta mải lo việc nước, không rảnh để đem quân chinh phạt Tây Kỳ, bao nhiêu binh tướng đến đó đều thảm bại là tại làm sao?
Liền truyền nổi trống đền triệu tập các tướng lại thương nghị.
Chư tướng nghe hiệu trống ứng hầu đủ mặt.
Văn Trọng nói:
– Vừa rồi ta có nhờ bốn vị đạo huynh ở Cửu Long đảo sang Tây Kỳ giúp Trương Quế Phương dẹp loạn nhưng chẳng biết tình thế ra sao mà ba vị đạo huynh đã bỏ mình, Phong Lâm là tướng tiên phuông cũng tan xác, chỉ còn lại Lý Hưng Bá và Trương Quế Phương. Vậy nay có tướng nào thay mặt ta kéo binh đến đó rửa hờn chăng?
Lão tướng Lỗ Hùng bước ra thưa:
– Tôi tuy tuổi cao tác lớn, song cũng vì triều đình, xin gánh trách nhiệm ấy cho.
Văn Thái Sư thấy Lỗ Hùng đầu đã bạc trắng, râu đã hoa râm liền nói:
– Lão tướng sức yếu tuổi già sợ không đủ sức chống với giặc dữ.
Lỗ Hùng cười, nói:
– Trương Quế Phương tuy có sức mạnh, ỷ phép thần thông, thực ra chưa biết cầm binh, chưa đủ tài làm tướng, còn Phong Lâm hữu dõng vô mưu, nên phải bỏ mình nơi chiến địa.
Văn Trọng hỏi:
– Ý lão tướng phải thế nào mới thắng giặc?
Lỗ Hùng nói:
– Theo tôi thì đạo làm tướng trước phải xét thời trời, chiếm thế đất và dụng nhân hòa, trong hiểu nghề văn ngoài hiểu việc võ, hễ tịnh thì thủ, hễ động thì công, đổi mất ra còn, biến suy ra mạnh, tính xa ngàn dặm, chiếm may nửa giờ. Việc nào cũng phải cẩn trọng, phải rõ cái lý tự nhiên, phải biết kinh quyền mới già mưu trí, ấy là đạo làm tướng, cầm binh. Tôi tuy tuổi già chớ mưu trí chưa lẩm cẩm, nếu Thái Sư cho tôi hai vị Tham quân theo giúp đỡ, thì có thể đương đầu với mũi giặc Tây Kỳ được.
Văn Thái Sư thấy Lỗ Hùng nói thông lắm, nên chẳng dám chê già xét lại cũng là người trung nghĩa, nên đồng ý cho đi.
Tuy nhiên việc chọn hai người tài trí, phong chức Tham quân là việc khó.
Thái Sư nghĩ một hồi nhớ đến Bí Trọng, Vưu Hồn, liền cho người đòi đến.
Từ khi Văn Thá Sư về triều, Vưu Hồn, Bí Trọng không dám xu nịnh, khiến Trụ vương làm điều bạo ngược nữa, cả hai đều đóng cửa dinh kín mít, ngày tối không hề ló ra ngoài, nay được lệnh Văn Thái Sư đòi.
Bí Trọng, Vưu Hồn đều tái mặt.
Khi hai người này đến lạy dưới trướng, Văn Thái Sư nói:
– Nay Trương Quế Phương thất trận. Phong Lâm bỏ mình, Lỗ Hùng xin cầm binh đến trợ chiến, ta cần tới tướng giữ chức Tham quân. Ta xem chỉ có hai ngươi mới xứng với chức ấy. Vậy phải đồng tâm hiệp lực ra dẹp Tây Kỳ, nếu thắng trận về trào sẽ được gia phong tước lộc
– Chúng tôi chỉ biết về văn, chưa từng nghiệp võ, e làm không xong việc mang tội với triều đình.
Văn Thái Sư nói:
– Hai ngươi có tài quyền biến, rộng trí nhiều mưu, làm chức Tham quân là lo bày mưu kế, còn việc võ thì đã có Lỗ Hùng. Nay nước nhà bối rối. Không lẽ hai ngươi cứ ngồi hưởng thái bình sao?
Nói rồi gọi tả hữu đem hai cái ấn ra. Bí Trọng, Vưu Hồn từ chối không được, đành phải lãnh án đeo vào người, cùng với Lỗ Hùng sắp đặt việc Tây chinh.
Văn Thái Sư mời Lỗ Hùng đến dinh đãi rượu.
Ba người dẫn năm vạn binh nhắm Tây Kỳ thẳng tiến.
Người sau có thơ rằng:
Lỗ Hùng lão tướng thật trung can
Bí Trọng, Vưu Hồn rối ruột gan
Mùa hạ kéo binh hơi nóng nực
Quan văn cỡi ngựa dạ kinh hoàng.
Bày mưu với chúa nên ly loạn
Trả nợ cho dân dám thở than?
Tế bảng Phong thần còn thiếu lễ
Tử Nha mưu tính bắt quân gian.
Lỗ Hùng cùng với Vưu Hồn, Bí Trọng vừa kéo binh ra khỏi ngũ quan, đã nghe quân thám thính về báo Trương Tổng binh thất cơ tử trận, bị Khương Tử Nha cắt thủ cấp bêu tại Ðông môn.
Lỗ Hùng nghe báo thất sắc, nói với Vưu Hồn, Bí Trọng:
– Trương Quế Phương đã tử trận, binh ta chẳng nên kéo tới gần.
Liền quay lại hỏi quân thám tử:
– Ðây là núi gì?
Quân thám tử thưa:
– Ðây là núi Tây Kỳ cách thành hơn bảy mươi dặm.
Lỗ Hùng truyền quân đóng trại bên rừng rậm, rồi sai người đem thơ trở về dâng cho Văn Thái Sư rõ.
Quân thám thính ở Tây Kỳ biết được Lỗ Hùng kéo binh đến, vội về thám báo với Tử Nha:
– Tại núi Tây Kỳ có binh Thương đến đóng trại
Tử Nha nghe báo nghĩ thầm:
– Nay thần Thanh Phước là Bá Dẫm làm đài phong thần đã xong, ta phải lo lễ phật mà tế đài. Vậy thì mượn vài cái thủ cấp của tướng Trụ mà dâng lễ.
Nghĩ rồi truyền Nam Cung Hoát và Võ Kiết đem năm ngàn quân đóng tại Kỳ Sơn để ngăn cản quân Lỗ Hùng.
Hai tướng vâng lệnh phát pháo dẫn binh mã ra khai thành kéo đến Kỳ Sơn đồn binh đóng trại.
Lúc này vào mùa hè trời nóng như đốt, Võ Kiết nói với Nam Cung Hoát.
– Chúng ta nên tìm nơi mát để mà đóng quân, lợi dụng chỗ có bóng cây cho đỡ nắng thì quân sĩ mới giữ gìn được sức khõe.
Nam Cung Hoát y lời đóng binh cách xa chân núi vài dặm.
Chẳng ngờ ngày hôm sau, Tử Nha lại sai Tân Giáp đến dinh nói với Nam Cung Hoát và Võ Kiết:
– Thừa Tướng dạy phải đóng quân trên đỉnh núi.
Nam Cung Hoát và Võ Kiết lấy làm lạ, sửng sốt nhìn nhau than:
– Trời mùa hạ nóng như đốt mà đồn binh lên núi, chắc là Thừa Tướng muốn cho ta mau chết.
Tân Giáp nói:
– Lệnh Thừa Tướng truyền như vậy chúng ta dám cãi lời sao?
Hai tướng phải vâng lời kéo binh lên núi. Quân lính bị nắng hè thiêu đốt, ai nấy thở dốc.
Ðến khi đóng trại xong, tìm khắp bốn phía các suối đều khô cạn, không tìm đâu ra một gánh nước để nấu cơm.
Quân sĩ đều than oán.
Còn Lỗ Hùng đồn binh dưới mé rừng cây cối rậm rạp mát mê vô cùng, trông thấy binh Châu đóng trại trên núi thì cười lớn:
– Mùa này mà đóng trại trên đỉnh núi thì chỉ trong ba ngày không ai đánh cũng phải chết khô.
Lỗ Hùng an lòng đợi quân triều đến tiếp viện rồi sẽ giao phong.
Hôm sau Tử Nha dẫn ba ngàn quân đến nơi Kỳ Sơn, Nam Cung Hoát và Võ Kiết đồng xuống núi nghinh tiếp.
Tử Nha dẫn binh lên núi sát nhập thành một đoàn, kéo vải làm trại cho mát, rồi sai Võ Kiết đắp đài đất cao ba thước sau trại, để Tử Nha lên đài ấy làm phép hô phong, hoán vũ.
Võ Kiết tuân lệnh.
Lại thấy Tân Miễn chở nón lá và áo ấm đến cho Tử Nha.
Tử Nha truyền đem đến phát cho binh tướng.
Ba quân xem thấy sững sờ mỗi người lãnh một cái nón và một cái áo ấm cười ngất, nói nhỏ với nhau:
– Mùa này mà Thừa Tướng bắt đội nón mặc áo ấm như thế này, chắc muốn quay xác chúng ta cho ra mỡ.
Tối hôm ấy, đài đắp xong, Võ Kiết vào báo với Tử Nha.
Tử Nha xõa tóc cầm gươm lên đài, trở mặt về phía núi Côn Lôn lạy tám lạy, rồi đốt bùa phun nước niệm chú một hồi. Trời đang nắng chang chang bỗng nổi lên gió lớn.
Có thơ rằng:
Tử Nha cầm kiếm đến đài cao
Gọi gió kêu mưa giỏi bực nào
Xõa tóc đốt bùa rồi niệm chú
Một giây giông tố nổi ào ào.
Bên kia Lỗ Hùng thấy nổi cơn gió lớn, quân sĩ mát mẻ nghĩ thầm:
– Nếu Văn Thái Sư đem binh ra nhằm lúc mát mẻ này thì dễ đánh lắm.
Vưu Hồn, Bí Trọng cũng nói:
– Bởi Thiên tử hồng phước cao dày, nên có gió mát trợ lực.
Chẳng ngờ giông gió nổi lên một hồi, mưa rơi tới tấp, chỉ cách một hai giờ, tuyết sa lộp độp.
Binh sĩ của Lỗ Hùng bị rét lạnh, than:
– Chúng ta áo thưa giáp sắt, chịu đựng sao nổi cảnh lạnh lùng.
Lỗ Hùng nói với Vưu Hồn, Bí Trọng:
– Ðầu tháng bảy mà mưa tuyết thình lình, thật là lạ lắm?
Lỗ Hùng lớn tuổi chịu lạnh không nổi. Còn còn hai ông tham mưu cũng run cầm cập. Quân mã ai nấy dồn lại từng đống.
Quân của Tử Nha đóng trên núi được cấp phát nón và áo ấm, không còn ai than van nữa, lại tỏ ý cảm ơn Thừa Tướng.
Tuyết rơi được hai ngày Tử Nha hỏi Võ Kiết:
– Nước cao được mấy thước?
Võ Kiết thưa:
– Ở trên núi tuyết đông chừng hai thước, còn ở chân núi thì gió đùa tuyết xuống nên cao quá năm thước.
Tử Nha liền xõa tóc cầm gươm lên đài làm phép nữa. Chốc lát mây tan gió tạnh, mặt trời nắng chang chang như lửa. Tuyết tiêu ra nước chảy xuống chân núi ồ ồ.
Tử Nha đợi cho tuyết trên núi tan chảy xuống hết thì đốt bùa niệm chú, nổi gió kéo mây, cảnh mưa rơi tuyết đổ mù mịt như cũ, bao nhiêu nước tuyết đông lại thành giá dưởi chân núi Tây Kỳ.
Bấy giờ nơi dinh Lỗ Hùng không còn một bóng ngựa, không nghe một tiếng người, cờ xí ngã rạp, dinh trại chìm trong bể tuyết.
Tử Nha sai Nam Cung Hoát và Võ Kiết dẫn vài chục tên quân đến dinh Lỗ Hùng mà bắt tướng.
Hai người vâng lịnh dẫn binh xuống núi, đi đến dinh Thương, thấy quân địch chết lạnh rất nhiều.
Lỗ Hùng nằm cù queo một đống với Vưu Hồn, Bí Trọng, tuyết đóng xung quanh như ướp xác.
Nam Cung Hoát truyền quân moi tuyết bắt sống ba người đem lên núi mà nạp cho Tử Nha.
Nam Cung Hoát và Võ Kiết bắt được ba tướng Trụ đưa về dinh nạp cho Tử Nha.
Tử Nha thấy Lỗ Hùng đứng sững không quì.
Còn Vưu Hồn, Bí Trọng thì quì móp dưới đất xin dung mạng.
Tử Nha nói với Lỗ Hùng:
– Bậc anh hùng phải trông thời thế rõ được cơ trời, am tường máy tạo. Nay nhà Thương đã đến lúc suy vi, thiên hạ hai phần đã bỏ Trụ theo Châu, lão tướng không biết hay sao mà làm nghịch lại đến nỗi mang họa?
Lỗ Hùng nói:
– Ngươi trước kia cũng làm tôi cho nhà Thương ăn lộc Ðại phu, nay phản phúc đến đây đầu Châu nghịch Trụ, thế thì người là kẻ tham quyền cố vị, mưu sống cầu vinh, chớ đâu phải bậc hiệu lương quân tử. Ta không chối cãi tội ác Trụ Vương đã làm thiên hạ đảo huyền, muôn dân đồ thán, bằng cớ theo lẽ thì trung thần nếu không can vua được thì chịu chết, chứ không theo phò người khác làm tôi. Ta tuổi đã già rồi, chết đi để tiếng thơm muôn đời thì có gì đáng tiếc.
Tử Nha truyền quân giam giữ ba tướng lại một nơi rồi cầm gươm lên đài làm phép, tức thì mây tạnh giá tan, nắng mùa hè trở lại như cũ. Trong năm vạn binh mã của Trụ chết lạnh hơn bốn ngàn, còn bao nhiêu trốn về Nam ải.
Tử Nha sai Nam Cung Hoát về thành thỉnh Võ Vương đến núi Kỳ Sơn.
Nam Cung Hoát tuân lệnh ra đi về đến nơi ra mắt Võ Vương và tâu:
– Hạ thần vâng lệnh Thừa Tướng về triều thỉnh chúa công ngự đến Kỳ Sơn để luận bàn công việc.
Võ Vương nhậm lời, dẫn bá quan đến chân núi đã thấy Tử Nha đón tiếp.
Võ Vương hỏi Tử Nha:
– Thượng phụ cho rước quả nhân đến đây để làm gì?
Tử Nha thưa:
– Tôi thỉnh chúa công đến đây để làm lễ tế núi Kỳ Sơn.
Võ Vương nói:
– Tế núi sông là chính lẽ, trẫm không từ chối.
Tử Nha đặt văn tế Võ vương ngỡ là tế núi không ngờ cúng đài Phong thần.
Võ vương quì xuống thắp hương, còn Tử Nha truyền Võ Kiết chém đầu Lỗ Hùng, Vưu Hồn, Bí Trọng đem ba thủ cấp đến đặt lên đài cao làm lễ tế.
Võ Vương trông thấy ba thủ cấp thất kinh hỏi:
– Sao lại giết người mà tế núi?
Tử Nha tâu:
– Hai người ấy là Vưu Hồn, Bí Trọng, tôi nịnh của Trụ vương, trước kia gây nhiều tội lỗi, nay phải đền tội với nhân dân.
Võ Vương không muốn giết người làm đồ tế lễ như vậy, song nghe đến Vưu Hồn, Bí Trọng là hai tên đại nịnh thì chết cũng an lòng nên không tỏ ý phàn nàn nữa.
Tế xong, tôi chúa đồng đem gia tướng về thành, còn Bá Dẫm dẫn hồn ba tướng lên đài lập tức.
Người sau có thơ nói đến cái chết của Vưu Hồn, Bí Trọng:
Năm xưa kêu ngạo quẻ Cơ Xương
Bị giá ngày nay nghĩ mới tường
Bí Trọng lạnh lùng rơi cổ rắn
Vưu Hồn run rét rụng đầu lươn
Kẻ gian tợ dựa cây gươm báu
Gần dữ như vào đãy cá ươn
Họ Lỗ liên can thương hại bấy
Kẻ trung người nịnh họa đồ vương.
Tàn binh của Lỗ Hùng sau khi thoát nạn tuyết lạnh chạy trở về ải Tụy Thủy.
Hàng Vinh biết được tin, bèn viết sớ dâng về triều cáo cấp.
Lúc ấy Văn Thái Sư đang ngồi xem tờ biểu của Ðặng Cửu Công gởi về, trong biểu nói việc Nam Bá Hầu Ngạc Thuận đánh không lại kéo binh bại tẩu, thì mừng rỡ nhủ thầm:
– Thể thì an được mối giặc ở phía Nam.
Kế đó Văn Thái Sư xem đến tờ biểu của Hàng Vinh nói việc Lỗ Hùng và Bí Trọng, Vưu Hồn đều tử chiến.
Văn Thái Sư thất kinh than:
– Không ngờ binh Tây Kỳ mạnh đến như vậy. Khương Thượng đã giết Trương Quế Phương, nay lại chém đầu Lỗ Hùng và Vưu Hồn, Bí Trọng nữa. Thế này ta phải thân chinh mới được, ngặt phương Ðông còn giặc, không dám bỏ đi.
Ngẩm nghĩ một lúc. Thái Sư quay qua hỏi Kiết Lập và Dư Khánh:
– Nay nhắm tướng nào có thể đến đẹp loạn Tây Kỳ được?
Kiết Lập thưa:
– Trước đây chúng ta đánh giá nhân vật Tây Kỳ quá thấp nên mới bị hao binh tổn tướng như vậy. Cứ như Trương Quế Phương cầm binh không lại, bốn vị đạo sư ở Cửu Long đảo bỏ mình thì biết binh tướng Tây Kỳ nhiều kẻ đa mưu túc trí lắm. Vậy phải cho người ra ải Giai Mộng truyền bốn tướng họ Ma đem binh chinh phạt mới mong thắng được.
Văn Trọng nói:
– Bốn tướng họ Ma có nhiều phép lạ, song việc giữ ải Giai Mộng cũng quan trọng lắm.
– Xin sai Hồ Thắng, Hồ Lôi ra đó trấn ải thay cho Ma gia tứ tướng. Tôi thiết tưởng bốn tướng bọ Ma cầm binh thì chinh phục Tây Kỳ chẳng bao lâu.
Văn Trọng khen phải liền viết lệnh tiễn, sai anh em họ Hồ ra trấn ải Giai Mộng, và truyền Ma gia tứ tướng đem binh chinh phạt Tây Kỳ.
Ma gia tứ tướng tiếp được công văn, cười ngất nói với nhau:
– Thái Sư đã từng chinh chiến nhiều, sao lại lẩn thẩn như vậy. Bên Tây Kỳ chỉ có lão thầy bói Khương Thượng và đứa tôi loàn là Hoàng Phi Hổ mà thôi, việc gì phải bắt chúng ta bỏ ải mà đi đánh thật là cắt cổ gà lại dùng đến dao mổ trâu.
Bốn anh em bọ Ma cười nói một hồi, rồi giao ải cho Hồ Thắng, Hồ Lôi, rồi điểm mười muôn binh mã, nổi một tiếng pháo lệnh kéo qua Tây Kỳ như vũ bão.
Ngày đi đêm nghĩ, chẳng bao lâu đoàn quân Ma gia tứ tướng đã vượt qua năm ải đến núi Ðào Hoa.
Quân thám mã vào báo:
– Bẩm chúa tướng, nơi đây đã đến địa phận Tây Kỳ rồi, cách phía Bắc thành Tây Kỳ chừng năm mươi dặm.
Ma gia tứ tướng truyền quân đóng trại nghỉ ngơi, rồi sẽ tìm hiểu địch tình.
Bấy giờ, Tử Nha sau khi hô phong hoán võ, dùng tuyết lạnh bắt ba tướng Trụ tế đài phong thần thì khí thế uy hùng, quân ngũ nức lòng đánh giặc, ai nấy tin tưởng vào tài làm tướng của Tử Nha.
Ngày kia có quân thám mã về báo:
– Trụ vương sai Ma gia tứ tướng kéo quân đến thành Bắc đóng trại cách đây năm mươi dặm.
Tử Nha triệu tập các tướng bàn kế hoạch đánh phá.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Xin Thừa Tướng phải để phòng. Bốn tướng này tài hay phép lạ không phải tầm thường.
Tử Nha hỏi:
– Ma gia tứ tướng là những kẻ thế nào, xin tướng quân nói rõ cho ta biết?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Ma gia tứ tướng là bốn người dòng họ Ma. Cả bốn người đều có phép tà đạo.
Thứ nhứt là: Ma Lễ Thanh, mình cao hai trượng bốn thước gương mặt như loại cua đinh, hàm râu đỏ loét, thường đùng cây giáo đài, không cỡi ngựa, trong mình có cây gươm báu của thần tiên gọi là Thanh Vân kiếm. Gươm này có bùa, giữa có khắc bốn chữ địa, thủy, hỏa, phong. Nếu nó chỉ gươm niệm chú thì lửa và gió cùng nổi lên một lúc. Trong gió ấy có hàng vạn thanh gươm bay tua tủa hễ gió bay đến đâu thì binh tướng thây nằm đến đấy. Còn lửa cháy đến đâu thì binh tướng chết thui đến đấy, không ai chữa nổi.
Thứ nhì là: Ma Lễ Hồng có một cây lọng gọi là Hỗn Nguyên Tán. Cây lọng ấy có kết đủ các thứ hạt châu dính chuyền với nhau. Các hột châu ấy gồm có:
1. Tổ Mẫu Lục
2. Tô Màu Bích
3. Dư Minh châu.
4. Tị Thần châu.
5. Tị Hỏa châu.
6. Tị Thủy châu.
7. Tiêu Lương châu.
8. Cửu Khúc châu.
9. Ðịnh Nhan châu.
10. Ðịnh Phong châu.
Lại còn có những hạt trân châu kết chuyền ra bốn chữ Trang Tải Càn Khôn. Cái lọng ấy vô cớ chẳng dám giương lên, vì hễ giương lên tối tăm trời đất, Càn khôn chuyển động.
Thứ ba là: Ma Lễ Hải sở trường một cây giáo lại có mang theo cây đờn tỳ bà. Bốn dây đờn chia ra: địa, thủy, hỏa, phong. Khảy lên ít tiếng thì gió, lửa nổi dậy như Thanh Vân kiếm.
Thứ tư là: Ma Lễ Thọ có một con chuột trắng gọi là Hoa Hồ Ðiêu. Hễ quăng nó lên cao thì nó lớn bằng của voi trắng, hóa ra hai cánh bay theo ăn thịt tướng binh. Ma Lễ Thọ còn có tài đánh cặp roi hay lắm.
Bởi Ma gia tứ tướng tài phép như vậy nên tôi mới thưa với Thừa Tướng cẩn thận và đề phòng.
Tử Nha hỏi:
– Vì sao tướng quân biết rõ như vậy?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Trước kia bốn tướng này là bộ hạ của tôi, giúp tôi đi đánh Ðông hải. Lúc ra trận, bốn tướng có dùng các phép ấy.
Tử Nha nghe rõ, ngồi làm thinh, vẻ mặt buồn bã vô cùng.
Giữa lúc đó bốn anh em Ma gia tứ tướng an cơ hạ trại, cho quân sĩ nghĩ ngơi xong, bàn với nhau:
– Nay chúng ta vâng lệnh Thiên Tử sang đánh Tây Kỳ, đóng trại nơi đây đã ba ngày rồi, cũng nên tính việc động binh trừ quân phản loạn để khỏi phụ lòng Thái Sư tiến cử.
Bốn anh em bàn bạc xong, quyết đinh ngày mai nhổ trại, kéo thẳng đến thành Tây Kỳ khiêu chiến.
Ðạo binh Ma gia tứ tướng kéo đến nơi, an dinh hạ trại xong, phất cờ phát pháo, đến cửa thành Tây Kỳ, gọi Tử Nha ra đối địch.
Quân vào báo, Tử Nha lưỡng lự không dám ra binh.
Kim Tra, Mộc Tra và Na Tra biết ý đồng thưa:
– Sư thúc nghe Hoàng tướng quân kể tài ba anh em họ Ma nên sợ thất trận, không dám ra binh phải không. Chúng tôi thiết nghĩ khí số nhà Châu trị đời thì mọi việc đâu có trời đất che chở, hơi đâu mà sợ!
Tử Nha ngẫm nghĩ một hồi rồi truyền lệnh trương cờ ngũ sắc cùng với các tướng kéo binh ra khỏi thành.
Ma gia tứ tướng thấy Tử Nha dùng binh tề chỉnh, cởi con Tứ Bất Tướng, cầm gươm thư hùng, đội mão đuôi cá, bèn lướt tới trước hỏi:
– Khương Thượng! Ngươi không giữ bổn phận, đem dạ bội quân, lại chứa phản tặc là Hoàng Phi Hổ. Các vị đại thần đến đây vấn tội ngươi lại bêu đầu, ấy là ngươi chẳng nể triều đình, không kiêng phép nước. Nay binh trời đã tới, sao chẳng chịu bó mình. Hay ngươi muốn chống cự với chúng ta, khiến cho binh sĩ Tây Kỳ tiêu tan thành bột chăng?
Tử Nha nói:
– Quí vị nói sai rồi! Chúng tôi là tôi nhà Thương, sắc phong một cõi, hằng giữ phép nước, có làm phản bao giờ đâu. Chỉ vì vua nghe lời các đại thần đem quân đến đánh Tây Kỳ, chúng tôi phải bảo vệ đất đai, giữ gìn cương thổ. Thực ra, chúng tôi chưa hề xâm phạm đến năm ải của nhà Thương, sao lại bảo là phản loạn?
Ma Lễ Thanh nổi giận hét:
– Ngươi dám lộng ngôn, đổ tội cho đại thần sanh chuyện, ngươi không biết cả thành Tây Kỳ sập đổ hay sao?
Nói rồi cầm giáo lướt tới đâm Tử Nha.
Nam Cung Hoát lướt tới đưa siêu đao ra đỡ, và hét lớn:
– Có ta đây, ngươi đừng vô lễ.
Hai người hỗn chiến với nhau.
Ma Lễ Hồng cầm kích xông tới.
Tân Giáp giơ búa đánh liền.
Ma Lễ Hải cầm giáo xốc vào.
Na Tra ngăn lại giao chiến.
Ma Lễ Thọ xách cặp giản lướt lên, thế mạnh như hùm, liền thấy có tướng Châu mặc giáp trắng, cỡi ngựa kim, cầm giáo dài, đội mũ bạc đón Ma Lễ Thọ giao thương, ấy là Võ Kiết.
Tám tướng đánh vùi với nhau một trận rất dữ, kẻ hết lòng phò Minh chúa, kẻ hết sức giúp Thành Thang.
Người sau có thơ rằng:
Vì nước quân thần vẹn chữ trung
Ai binh chúa nấy cũng anh hùng
Bọc thây đã phú cho da ngựa
Trong trận chi sờn sự kiết hung.
Na Tra đánh với Ma Lễ Hải một hồi liền lấy Càn Khôn Quyện liệng lên.
Ma Lễ Hồng trông thấy liền đỡ búa Tân Giáp, rồi nhảy ra ngoài lấy cây lọng Hỗn Nguyên giương lên thâu Càn Khôn Quyện.
Kim Tra thấy vậy liền lấy Ðộn Long Thun quăng lên, cũng bị lọng phép thâu mất.
Tử Nha ném cây roi Ðả Thần Tiên lên quyết đánh bốn tướng.
Ai ngờ roi ấy đánh thần, chớ không phải đánh tiên và kẻ thế, còn Ma gia tứ tướng là con nhà Phật, cách một ngàn năm nữa mới làm thần, cho nên roi ấy đánh không được, cũng bị lộng Hỗn Nguyên thâu mất.
Ma Lễ Thanh bỏ Nam Cung Hoát, nhảy ra ngoài lấy gươm Thanh Vân giá ba cái, tức thì gió mây nổ lên mù mịt, gươm giáo bay tua tủa tối trời.
Có thơ rằng:
Trận gió gươm đao giữa chiến trường
Tướng binh giáp mão nát như tương
Huống chi xương thịt người phàm tục
Dầu kẻ đa đồng cũng bị thương.
Ma Lễ Hồng thấy anh mình dùng gươm phép, liền giương cây lọng Hỗn Nguyên ra, rung rinh ba cái, tức thì trời đất tối tăm, khói lửa ngất trời.
Có thơ rằng:
Lửa cháy tứ bề khó đụt xông
Dẫu cho người đá cũng nung hồng
Tử Nha phép nhiệm không đương lại
Binh tướng Tây Kỳ chẳng đất chôn.
Ma Lễ Hải khảy đờn tì bà trợ chiến, Ma Lễ Thọ giở túi beo thả con Hoa Hồ Ðiêu bay lên nữa lừng trời lớn như con tượng bạch nhăn nanh múa vuốt, ăn thịt tướng binh.
Trận này quân Châu thất điên bát đảo.
Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng bay lên nửa lừng trời, Kim Tra, Mộc Tra độn thổ trốn khỏi.
Na Tra nhờ xe Phong Hỏa bay thẳng vào thành, Long Tu Hồ độn thủy vào dinh, Hoàng Phi Hổ cỡi thần ngưu chạy thoát. Còn các tướng trận dầu khỏi chết cũng bị bắt.
Tử Nha vào thành kiểm điểm binh tướng thì thấy chỉ còn hơn phân nữa, tướng tử trận hết chín người. Người con thân lại Văn vương cũng bỏ mình với ba tên phó tướng.
Tử Nha buồn bã vô cùng vì từ lúc cầm quân đến nay chưa thua trận nào nặng nề như vậy.
Ma gia tứ tướng thắng trận về dinh, cùng nhau mừng rỡ.
Ma Lễ Hồng nói:
– Ngày mai chúng ta kéo binh đến vây thành hỗn chiến một trận nữa, thế nào cũng bắt được Tử Nha mà ban sư về nước.
Ma Lễ Thanh khen phải, bốn anh em đồng uống rượu thâu canh.
Hôm sau, bên tướng dẫn quân đến bên thành khiêu chiến.
Tử Nha không đám ra nữa, truyền quân treo miễn chiến bài.
Ma gia tứ tướng thấy vậy khiến quân vây thành công phá.
Tử Nha sai mấy tướng không bị thương như Na Tra, Mộc Tra, Kim Tra, Hoàng Phi Hổ, Long Tu Hồ đốc quân giữ thành, dùng gỗ đá, nước sôi và cung ná, cố thủ nghiêm ngặt.
Ma gia tứ tướng đốc quân phá thành ba ngày không nổi mà quân sĩ hao hớt cũng nhiều.
Ma Lễ Thanh truyền gióng trống thu quân về trại.
Bốn anh em họ Ma lại bàn tính:
– Khương Tử Nha là lão thầy tu trên núi Côn Lôn bản lãnh không vừa, chúng đã thủ thành thì cũng khó bề phá gấp được, chi bằng chúng ta cứ vây riết ngoài thành, đợi cho trong thành hết lương thảo, bên ngoài không tiếp viện được thì thế nào chúng cũng phải đầu hàng.
Bàn định xong, bốn anh em họ Ma lại kéo binh đến vây nữa, nhưng lần này không công phá mà chỉ chận đường không cho binh tiếp viện, giải lương mà thôi.
Bốn anh em họ Ma vây thành Tây Kỳ ngày đêm không dứt, tính ra đã hai tháng có dư.
Ma Lễ Thanh nóng lòng nói với ba em:
– Văn Thái Sư sai chúng ta đánh Tây Kỳ, nay đã gần ba tháng mà phá thành không nổi, binh lương hao tốn, như sau này Thái Sư khiển trách thì chúng ta còn thể diện gì nữa. Chi bằng tối nay anh em chúng ta dùng bửu bối quăng vào thành, phá thành cho tan hoang, bắt Tử Nha đem về nạp cho sớm.
Ba người em khen phải, đóng chuẩn bị kế hoạch đợi đêm đến phá thành.
Bên kia, Tử Nha đang ngồi bàn luận xảy nghe gió thổi vùn vụt cậy cờ lệnh trước trướng gãy đổ xuống đất. Thất kinh, liền lấy tiền gieo quẻ, mặt biến sắc, vội vàng đi tắm gội đốt hương làm phép đảo hải mà cứu binh Châu.
Tử Nha bỏ tóc xõa, cầm gươm phép, vận nước biển bao thành Tây Kỳ.
Bấy giờ Nguyên Thỉ Thiên Tôn đang ngồi trong động, biết Tây Kỳ mắc họa, tuy Tử Nha đảo hải nhưng cũng cứu không nổi, liền lấy bình lưu ly có nước Tam quan thần thủy rảy xuống thành Tây Kỳ, nước ấy nổi trên mặt biển.
Ðêm ấy Ma Lễ Thanh quăng Thanh Vân kiếm, Ma Lễ Hồng ném Hỗn Nguyên Tán, Ma Lễ Hải khảy đờn tỳ bà, Ma Lễ Thọ quẳng con Hoa Hồ Ðiêu tức thì mây kéo mịt mù, gió gào lửa táp, vũ trụ rung chuyển, hình như trời sập đất long. Quân tướng trong thành đều vỡ mật. Bốn anh em họ Ma chắc là thành Tây Kỳ đã tan nát thành đống gạch vụn, định đến sáng ngày sẽ ban sư.
Ai ngờ:
Nhọc sức hoài công không được việc
Vang trời dậy đất có ra chi.
Ma gia tứ tướng làm phép đến khuya mới thu bửu bối trở về trại.
Còn Tử Nha mượn nước biển cứu thành Tây Kỳ, nội đêm ấy tướng binh không ai ngủ được. Trời rừng đông, Tử Nha trả nước về biển Bắc, thành Tây Kỳ vẫn thấy còn nguyên vẹn không chết một cành cây cọng cỏ nào.
Binh sĩ thấy thành Tây Kỳ vẫn còn y nguyên, vào báo lại với bốn anh em họ Ma.
Ma gia tứ tướng ra xem, thấy quả như vậy lấy làm lạ không hiểu vì cớ gì, chẳng lẽ bảo vật của họ không linh ứng?
Ma gia tứ tướng không còn biết làm cách nào hơn là cứ việc vây riệt, đợi trong thành hết lương thực phải đầu hàng.
Qua trưa ấy rồi, Tử Nha lại truyền các tướng thủ thành nghiêm nhặt. Bên ngoài anh em họ Ma vẫn bao vây, còn bên trong cũng chẳng có cách nào để giải vây.
Ngày kia quan coi kho đến thưa với Tử Nha:
– Kho Tam tế lương đã gần hết rồi, chỉ còn dùng được mười ngày nữa thôi.
Tử Nha kinh hãi nói:
– Bị vây là chuyện nhỏ, hết lương là chuyện lớn. Nếu trong thành mà cạn lương thì chỉ có cách đầu hàng.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Xin Thừa Tướng ra yết thị cho những dân chúng giàu có trong thành bảo họ cho vay đỡ lúc nào giải vây xong sẽ trả cả vốn lẫn lời.
Tử Nha nói:
– Không nên làm như vậy. Ngoài thành quân địch đang vây, trong thành báo động hết lương thế nào cũng sanh biến. Liệu còn dùng được mười ngày thì cứ thủng thỉnh sẽ liệu.
Tám ngày nữa trôi qua, mà tình trạng vẫn không thay đổi.
Bấy giờ lương thực chỉ còn có hai ngày nữa là hết.
Tử Nha buồn rầu nghĩ không ra kế.
Trong lúc bối rối bỗng có hai vị đạo đồng một người mặc áo xanh, một người mặc áo đỏ đồng đến trước cửa thành xin vào ra mắt Khương Tử Nha.
Quân canh liền vào báo.
Tử Nha nói:
– Giặc đang vây bên ngoài, chớ nên tin. Phải để ta coi lại cho rõ người nào đã.
Liền bước ra cửa thành hỏi:
– Hai vị ở núi nào, động nào? Có việc chi tìm đến?
Hai đạo đồng thưa:
– Chúng tôi là Hoàng Ðộc Long và Tiết Ác Hổ ở động Ngọc Ốc núi Kim Ðình học trò ông Ðạo Hạnh thiên tôn. Nay vâng lệnh thầy đến vận lương cho sư thúc.
Tử Nha nghe nói mừng rỡ rước vào thành và hỏi:
– Lương thực hiện giờ ở đâu?
Hoàng Ðộc Long thưa:
– Chúng tôi có đem theo đây.
Nói rồi lấy thư đưa ra. Tử Nha mở thư ra xem, và nói:
– Trước kia thầy ta có dặn, lúc nào ngặt nghèo sẽ có người này đến giúp, thật quả không sai.
Liền truyền đạo đồng lấy lương ra, các tướng trông thấy nín cười, nhìn nhau bảo nhỏ:
– Giúp lương thực cho cả thành mà đem đến một vốc gạo như vậy sao?
Khương Tử Nha liền bảo Hoàng Ðộc Long đem gạo đến kho Tam tế.
Hoàng Ðộc Long tuân lệnh đem gạo đổ vào kho.
Vừa được vài giờ sau, quân coi kho đến báo với Tử Nha:
– Kho Tâm tế gạo đã đầy nhóc.
Tử Nha mừng làm. Binh tướng đều vui mừng không ai còn lo chết đói nữa.
Có thơ rằng:
Võ Vương nhân đức đất trời thương
Xui khiến thần tiên đến giúp lương
Thiên Hóa ít ngày qua trợ chiến
Một mình giết hết tứ thiên vương.
Bây giờ Tử Nha lương nhiều tướng mạnh, quân sĩ no đủ nhưng sợ tài phép bốn anh em họ Ma, cứ thủ thành mãi, không dám xuất trận.
Còn Ma gia tứ tướng vây thành gần giáp một năm, mà hãm thành không được, liền viết sớ gởi về Thái Sư Văn Trọng, trong sớ nói:
– Tử Nha đánh cũng hay, thủ thành cũng giỏi nên chúng tôi không thể hãm thành được…
Ngày kia, Tử Nha đang bàn luận việc binh xảy thấy quân canh vào báo:
– Có một ông đạo sĩ đến trước cửa thành xin ra mắt.
Tử Nha cho đòi vào thì thấy đạo sĩ ấy đầu đội mão phiến vân, mình mặc áo bát quái, chân đi giày cỏ, lưng buộc giải tỷ.
Tử Nha hỏi:
– Ðạo sĩ từ đâu đến?
Ðạo sĩ làm lễ ra mắt và thưa:
– Ðệ tử là học trò Ngọc Ðảnh chân nhân họ Dương, tên Tiển vâng lệnh thầy dạy xuống hầu sư thúc sai khiến.
Tử Nha thấy Dương Tiển dung mạo khác thường, lòng mừng thầm, gọi các tướng đến cho biết mặt. Các tướng cùng chào mừng giới thiệu với nhau.
Tử Nha lại dẫn Dương Tiển đến ra mắt Võ Vương.
Võ vương nói:
– Các khanh có lòng đến đây giúp quả nhân, ơn ấy quả nhân không dám quên.
Nói rồi truyền mở tiệc đãi đằng.
Sau bữa tiệc, Dương Tiển hỏi Tử Nha:
– Chẳng hay binh nào vây ngoài thành mà sư thúc không chịu ra quân?
Tử Nha thuật chuyện Ma gia tứ tướng có phép lạ, không ai đánh lại nên phải treo miễn chiến bài.
Dương Tiển nói:
– Nay có đệ tử đến đây, xin sư thúc bỏ miễn chiến bài để đệ tử ra đánh với Ma gia tứ tướng một trận cho biết. Nếu cứ cố thủ thành mãi làm sao tính được mưu kế.
Tử Nha nhận lời, truyền Dương Tiển ra quân.
Quân thám thính thấy thành Tây Kỳ bỏ miễn chiến bài, vội chạy về dinh báo với Ma gia tứ tướng:
– Thành Tây Kỳ bỏ miễn chiến bài rồi.
Ma gia tứ tướng liền nai nịt chỉnh tề, đồn binh đến trước cửa thành khiêu chiến.
Dương Tiển cầm giáo xuất trận, Tử Nha khiến Na Tra theo trợ chiến.
Vừa ra khỏi thành, Dương Tiển thấy bốn tướng:
Oai hùng vùn vụt sanh giông gió
Hơi lửa phừng phừng ngút tận mây.
Còn bốn tướng thấy Dương Tiển cầm giáo bạc, cỡi ngựa kim, dung mạo không phải người tu, cũng không phải kẻ tục thì lấy làm lạ.
Ma Lễ Thanh hỏi:
– Ngươi là ai đó?
Dương Tiển đáp:
– Ta là sư điệt của Khương Thừa Tướng, họ Dương, tên Tiển. Các ngươi tài cán bao nhiêu mà dám hung hăng như vậy. Các ngươi thường dùng phép tà mà hại người, nay ta đã đến đây, e chúng bây không có đất mà chôn thây.
Nói rồi cầm giáo đâm tới. Ma gia tứ tướng lâu ngày không ra trận, nên tay chân đã ngứa ngáy, đồng ra hỗn chiến với Dương Tiển một lượt.
Giữa lúc đó có quan giải lương tại Sở Châu là Mã Thành Long vừa giải lương tới, cỡi ngựa xích thố, cầm siêu đao. Người này tánh nóng như lửa, thấy bốn tướng và Dương Tiển choáng cả đường đi không ngõ đem lương qua, liền trợn mắt nạt lớn:
– Cẩu tặc chớ hành hung, có ta đến đây.
Vừa nói vừa giực ngựa xông vào tiếp tay với Dương Tiển.
Ma Lễ Thọ nổi giận đánh với Mã Thành Long mười hiệp, rồi quăng con Hoa Hồ Ðiêu lên, hóa ra một con vật lớn như con voi trắng, miệng đỏ như chậu máu, nhe nanh bạc như gươm trường, cắn Mã Thành Long đứt nghiến nửa mình và nuốt vào bụng.
Có bài thơ rằng:
Thú ấy lâu năm hứng gió trăng
Âm dương thọ khí đã thâm căn
Biến ra lớn nhỏ tùy theo ý
Nuốt sống ăn tươi cọp chẳng bằng.
Dương Tiển trông thấy nghĩ thầm:
– Nó có nuôi vật dữ giết người, hèn chi tướng Châu đánh không lại. Ta sẽ làm cho nó biết tay.
Còn bốn tướng họ Ma không biết Dương Tiển có Thất thập nhị huyền công nghĩa là bảy mươi hai phép biến hóa; nên Ma Lễ Thọ cũng để con Hoa Hồ Ðiêu cắn nuốt Dương Tiển như đã nuốt Mã Thành Long vậy.
Na Tra trông thấy Dương Tiển chun vào bụng con quái thú, thất kinh chạy vào thành báo với Tử Nha:
– Sư thúc ơi! Dương Tiển bị Hoa Hồ Ðiêu cắn đứt nửa mình nuốt vào bụng rồi.
Tử Nha sững sờ nói không ra tiếng, các tướng đều trợn mắt nhìn nhau không ai nói nửa lời.
Ma gia tứ tướng thắng trận kéo binh về dinh, mở tiệc mừng ăn uống cho đến hết canh hai vẫn chưa ngủ.
Ma Lễ Thọ nói:
– Ðể tôi sai con Hoa Hồ Ðiêu bay vào thành Tây Kỳ cắn chết Võ Vương, nuốt sống Tử Nha, hai người ấy mà chết rồi thì chúng ta đánh một trận là ban sư về nước, chẳng lẽ chúng ta ở đây vây nó cả đời sao?
Ma Lễ Thanh khen:
– Nếu con Hoa Hồ Ðiêu của em sai khiến được như vậy thì bắt tướng không cần phải xuất quân.
Ma Lễ Thọ liền lấy túi da beo ra, bắt con Hoa Hồ Ðiêu, và dặn:
– Bửu bối! Nếu ngươi vào thành cắn chết Võ vương và Tử Nha thì được trọng thưởng.
Nói rồi liệng Hoa Hồ Ðiêu lên không trung.
Con Hoa Hồ Ðiêu tuân lời bay vút ra khỏi trận.
Lúc này Dương Tiển nằm trong bụng con Hoa Hồ Ðiêu, vì Dương Tiển có bảy mươi hai phép biến hóa, nên Hoa Hồ Ðiêu của nuốt vào bụng vẫn không chết, khi nghe Ma Lễ Thọ dặn con quái thú như vậy mừng rỡ nghĩ thầm:
– Tặc tướng! Ðừng hòng bửu bối của ngươi hành động như vậy.
Nói rồi đợi cho con Hoa Hồ Ðiêu bay ra khỏi cửa trại, ở trong bụng hét lớn lên một tràng:
– Quái thú! Mi biết ta là ai không?
Nói rồi rứt đứt trái tim. Con Hoa Hồ Ðiêu ré lên một tràng rồi nhào xuống đất chết tươi.
Dương Tiển hiện hình chui ta ngoài, xé Hoa Hồ Ðiêu đứt làm ba đoạn, rồi về đến cửa thành thì đã canh ba.
Bấy giờ Tử Nha còn thức đang bàn luận với Na Tra, xảy có quân vào báo:
– Dương Tiển trở về thành kêu cửa.
Tử Nha kinh hãi nói:
– Ðã chết đi sao còn sống lại?
Liền khiến Na Tra lên mặt thành xem thử thật hay giả.
Na Tra vâng lịnh đến trước cửa hỏi lớn:
– Dương đạo huynh đã bị con quái thú xé xác sao còn sống lại mà về đây?
Dương Tiển nói:
– Chúng ta đều là đệ tử của thần tiên, mỗi người hay mỗi phép. Thôi, mở cửa cho mau đặng ta vào thưa với sư thúc những việc cần thiết.
– Hỏi sớm mai tướng quân đã bị tử trận, lầm sao bây giờ sống lại được? Hay là tướng quân có phép hồi sinh?
Dương Tiển thưa:
– Ðệ tử vào trong bụng con Hoa Hồ Ðiêu, nghe Ma Lễ Thọ sai con quái thú ấy vào thành ăn thịt Võ Vương và sư thúc, đệ tử đã giết chết con chuột ấy rồi, nên về thưa lại.
Tử Nha nói:
– Nếu tướng quân có tài hóa như vậy còn sợ gì phép lạ của chúng nó.
Dương Tiẽng thưa:
– Bây giờ tôi tính trở qua dinh địch để tìm cách phá rối.
Na Tra hỏi:
– Dương đạo huynh làm thế nào vào dinh nó được?
Dương Tiển đáp:
– Thầy tôi dạy đủ Thất thập nhị huyền công, biến hóa đủ bảy mươi hai cách.
Hãy nghe bài thơ này:
Bảy mươi hai phép thuật biến huyền công
Thày dạy lâu năm luyện đã xong
Dầu nước dầu non dầu sắt đá
Hoặc vàng hoặc bạc hoặc chì đồng
Khi cần biết tới Loan cùng phụng
Tẩu thú hiện ra cọp với rồng
Thấy chết nhiều lần nhưng chẳng chết
Theo phò thánh chúa lập nhiều công.
Tử Nha nghe Dương Tiển khoe tài liền nói:
– Ngươi có phép hay như vậy hãy biến một vài cách cho ta xem thử.
Dương Tiển rùng mình một cái, biến ra con Hoa Hồ Ðiêu nhảy cùng dưới đất.
Tử Nha mừng rỡ cười lớn:
– Thật là thần thông quảng đại.
Dương Tiển thưa:
– Ðể tôi bay sang dinh nó phá phách một hồi cho vui.
Tử Nha nói:
– Không cần phá phách làm chi, ngươi tìm cách nào lấy được các phép mầu của chúng đem về đây, thì chúng nó như gãy mất tay chân không làm gì được.
Dương Tiển vâng lệnh, giả làm con Hoa Hồ Ðiêu bay tuốt qua dinh Ma gia tứ tướng.
Vừa đến nơi Ma Lễ Thọ đưa tay bắt lấy, giở bụng con quái thú xem, thấy bụng không no, biết chưa ăn Khương Thượng, bèn bỏ vào túi da beo.
Bấy giờ đã canh tư, bốn anh em họ Ma đồng đi ngủ.
Dương Tiển thấy bốn tướng ngủ khì, liền ở trong túi nhảy ra, hiện hình người như cũ, lại quơ trúng cây lọng đụng nhằm gươm Thanh Vân rơi xuống đất kêu lẻng kẻng.
Dương Tiển sợ chúng hay, đớp cây lọng phép đi mất.
Ma Lễ Hồng giật mình thức dậy đưa mắt nhìn quanh, không thấy có ai, chỉ thấy cây gươm rơi xuống đất thì chắt lưỡi nói:
– Ðem gươm vô ý để rớt như vậy.
Liền lấy gươm móc lên vách như cũ, rồi lật đật nằm xuống ngủ nữa.
Dương Tiển trở về dinh đem cây Hỗn Nguyên Tán dâng cho Tử Nha.
Ba anh em Kim Tra đồng xúm lại xem lọng báu.
Còn Dương Tiển từ giả bay qua dinh Thương, chun nằm vào túi da beo như cũ.
Rạng ngày bốn anh em họ Ma thức dậy.
Ma Lễ hồng không thấy cây lọng phép, thất kinh nói lớn:
– Lạ quá! Cây Hỗn Nguyên Tán đâu mất.
Bốn anh em tìm kiếm một hồi, rồi hỏi bọn quân tuần và lính gát cửa.
Bọn quân canh thưa:
– Bụi bay không lọt vào dinh, có gian tế nào vào đây mà lấy cho được.
Ma Lễ Hồng chắt lưỡi than:
– Ta nhờ cây lọng này mà lập công dẹp giặc, nay mất đi biết tính làm sao?
Bốn anh em thấy mất phép báu đều buồn bã không bàn đến chuyện chinh chiến nữa.
Ðây nói về động Tử Dương núi Thanh Phong, ông Thanh Hư đạo nhân đang ngồi tu luyện xảy thấy lòng mình hồi hộp, biết Tây Kỳ có việc, và đã đến lúc đưa đệ tử xuống trần, liền sai Kim Hà đồng tử gọi Hoàng Thiên Hóa đến dạy.
Hoàng Thiên Hóa nghe đòi vội bước vào làm lễ:
– Sư phụ cho đòi đệ tử có việc chi?
Thanh Hư nói:
– Ngươi ra sau vườn đào để ta truyền phép, sai xuống Tây Kỳ, trước là đoàn tụ gia đình sau phò vua giúp nước.
Nói rồi dắt Hoàng Thiên Hóa ra vườn đào, trao cặp song chùy cho Hoàng Thiên Hóa tập trận.
Khi đã thuần thục, Thanh Hư nói với Hoàng thiên Hóa:
– Thầy cho con Ngọc Kỳ Lân mà cỡi và đem Hóa Long Phiêu xuống Tây Kỳ. Con khá kính thành, chớ quên cội rễ.
Hoàng Thiên Hóa lạy thầy giã bạn, lên lưng Ngọc Kỳ Lân, đưa tay vỗ vào gạc một cái, tức thì bốn cẳng sanh mây, bay mau như gió. Bởi con kỳ lân này là của Thanh Hư cỡi, dùng để dạo chơi ba núi năm non nên nó bay đi mau lắm.
Chỉ phút chốc, Hoàng Thiên Hóa đã đến Tây Kỳ xin vào thành.
Quân vào báo:
– Có một đạo đồng đang ngoại thành xin ra mắt Thừa Tướng.
Tử Nha truyền lệnh mời vào.
Hoàng Thiên Hóa quỳ lạy thưa:
– Tôi là Hoàng Thiên Hóa vâng lệnh thầy xuống Tây Kỳ, hầu dưới trướng sư thúc để lập công.
Tử Nha hỏi:
– Ngươi ở động nào, núi nào?
Không đợi cho Hoàng Thiên Hóa trình bày, Hoàng Phi Hổ bước ra thưa:
– Hoàng Thiên Hóa là con trai lớn của tôi, đệ tử ông Thanh Hư đạo nhân ở núi Thanh Phong, động Tử Dương.
Tử Nha mừng rỡ khen:
– Tướng quân có con học đạo ta có lòng mừng cho đấy.
Cha con Hoàng Thiên Hóa gặp nhau, đồng vào vương phủ, mở tiệc vui vầy
Khi trước Hoàng Thiên Hóa ở núi ăn chay, nay về thế gian lại ăn mặn.
Tiệc mãn, Hoàng Thiên Hóa cổi bỏ quần áo tu hành, bới tóc đội mão vàng, trong mặc hồng bào, ngoài mang kim giáp, nịt đai ngọc, theo thể thống con vua.
Rạng ngày Hoàng Thiên Hóa vào chầu dưới trướng.
Tử Nha trông thấy lối ăn mặc như vậy trách rằng:
– Hoàng Thiên hóa, ngươi là đệ tử của thần tiên, sao lại đổi thay y phục. Ta tuy làm Thừa Tướng, vẫn phải mặc đồ tu còn ngươi mới về thế gian đã vội quên cội rễ.
Hoàng Thiên Hóa bị trách liền thay áo mão, bỏ đai ngọc, cột dây tơ và thưa:
– Tôi không dám quên nguồn gốc, bởi vâng lệnh thầy ra đấu tứ tướng, phải nai nịt theo thế thường.
Tử Nha nói:
– Ma gia tứ tướng có phép tài, ngươi phải cẩn thận đề phòng mới được.
Hoàng Thiên Hóa thưa:
– Thầy tôi đã dặn kỹ, xin sư thúc chớ lo.
Nói rồi cỡi Ngọc kỳ lân ra ngoài thành khiêu chiến.
Ma gia tứ tướng đang buồn rầu vì việc mất lọng báu không còn bàn tính đến chuyện chinh chiến nữa. Bỗng nghe quân báo:
– Có tướng Châu đến khiêu chiến.
Bốn tướng nổi giận liền phát pháo khai dinh, dẫn quân ra trước trại. Ðến nơi thấy một tướng nhỏ cỡi Ngọc kỳ lân, Ma Lễ Thanh hỏi:
– Thằng con nít, tên họ là gì?
Hoàng Thiên Hóa nói:
– Ta là Hoàng Thiên Hóa, con trai lớn của Võ Thành vương, vâng lệnh Khương Thừa Tướng ra trận giết mấy người.
Ma Lễ Thanh nghe nói nổi xung cầm giáo lướt tới đâm một nhát.
Hoàng Thiên Hóa đưa song chùy ra đỡ. Hai tướng đánh vùi với nhau hơn hai mươi hiệp vẫn không thắng bại.
Ma Lễ Thanh liền quăng chiếc Bạch ngọc kim cương lên, hào quang chiếu sáng lòa, đánh trúng lưng Hoàng Thiên Hóa, làm cho Hoàng Thiên Hóa té nhào xuống Ngọc kỳ lân.
Ma Lễ Thanh xông tới toan chém đầu, nhờ có Na Tra đứng trước cửa thành, thấy Hoàng Thiên Hóa thất cơ, vội giục xe tới đã thương và hét lớn:
– Có ta đến trợ chiến, ngươi đừng giết đạo huynh ta.
Ma Lễ Thanh mắc cự với Na Tra, nên binh Châu đoạt thây Hoàng Thiên Hóa đem vào thành.
Còn Na Tra ra sức đánh với Ma Lễ Thanh một hồi, cây giáo đâm vun vút chẳng khác vũ bão.
Ma Lễ Thanh quăng chiếc Bạch ngọc kim cương lên nữa.
Na Tra lấy Càn Khôn Quyện quăng trả.
Hai bửu bối gặp nhau, Càn Khôn Quyện đập Bạch ngọc kim cương tan nát, vì ngọc bở hơn vàng.
Ma Lễ Thanh và Ma Lễ Hồng đồng hét lớn:
– Na Tra, ngươi phá bửu bối của ta, ta quyết rửa hờn cho được.
Bốn anh em đều áp tới, đánh nhầu với Na Tra.
Na Tra thấy bốn tướng làm hung, phải nhịn thua mà chạy.
Ma Lễ Hải lấy đờn tỳ bà khảy lên, nhưng Na Tra đã chạy tuốt vào thành, anh em họ Ma lui về dinh, buồn bã vì mất thêm một bửu bối nữa.
Hoàng Phi Hổ thấy quân đem thây Hoàng Thiên Hóa về thành thất kinh, khóc lớn:
– Không dè cha con mới gặp nhau chưa nhìn tận mặt đã cách biệt.
Tử Nha xem thấy cũng động lòng, nhưng không biết làm cách nào cứu chửa.
Hoàng Phi Hổ đem thây Hoàng Thiên Hóa về dinh mình.
Bổng nghe quân báo:
– Có một đạo đồng đến trước cửa thành xin ra mắt.
Tử Nha truyền mời vào hỏi:
– Ngươi từ đâu đến đây?
Ðạo đồng cúi đầu làm lễ và nói:
– Tôi là Bạch Vân đồng tử, học trò Thanh Hư đạo nhân, ở động Tử Dương, núi Thanh Phong. Nay thầy tôi sai xuống cõng sư huynh tôi là Hoàng Thiên Hóa về núi.
Tử Nha mừng rỡ dẫn Bạch Vân đồng tử đến dinh Hoàng Phi Hổ chỉ thây Hoàng Thiên Hóa cho Bạch Vân mang về.
Bạch Vân cõng Hoàng Thiên Hóa đến trước cửa động Thanh Hư đạo nhân bước ra xem, thấy Hoàng Thiên Hóa mắt nhắm khít rịt, da mặt vàng lườm, liền sai Bạch Vân múc nước hòa với tiên đơn, rồi lấy gươm cạy răng đổ thuốc.
Giây lâu Hoàng Thiên Hóa tỉnh lại mở mắt nhìn thấy Thanh Hư đạo nhân liền ngồi dậy thưa:
– Vì sao đệ tử lại về đây? Xin sư phụ dạy cho biết?
Thanh Hư quở rằng:
– Súc sanh! Ngươi mới rời khỏi non tiên đã ăn mặn, đó là tội thứ nhất. Thay đổi y phục không nhớ cội căn, đó là tội thứ hai. Nếu ta không vị tình Tử Nha thì để cho ngươi chết quách.
Hoàng Thiên Hóa biết tội liền vập đầu xuống đất lạy thầy xin tha lỗi.
Thanh Hư đạo nhân lấy một cái đãy gấm đưa cho Hoàng Thiên Hóa và dặn:
– Ngươi đem báu vật này xuống Tây Kỳ mà trừ Ma gia tứ tướng, chẳng bao lâu ta cũng sẽ đến giúp Châu.
Hoàng Thiên Hóa lạy thầy giã bạn, rồi độn thổ trở lại Tây Kỳ.
Vừa đến nơi, quân trên thành trông thấy vào báo với Tử Nha:
– Hoàng Thiên Hóa đã trở về.
Tử Nha đòi vào, Hoàng Thiên Hóa đến trước trướng, kể lại mọi việc.
Hoàng Phi Hổ thấy con sống lại thì lòng mừng khấp khởi.
Rạng ngày, Hoàng Thiên Hóa cỡi Ngọc Kỳ lân, xách song chùy ra trận, gọi lớn:
– Ma gia tứ tướng! Hãy mau ra đây chịu chết.
Quân vào báo, Ma Lễ Thanh mắng thầm:
– Thằng khốn kiếp đó hôm qua đã chết rồi, sao còn sống lại.
Bốn tướng cùng kéo binh ra, thấy Hoàng Thiên Hóa mặt hằm hằm, tay cầm song chùy lướt tới.
Ma Lễ Thanh liền đâm một giáo.
Hoàng Thiên Hóa đỡ ra, đánh lại.
Hai tướng giao đấu được năm hiệp, Hoàng Thiên Hóa giả cách bại trận bỏ chạy.
Ma Lễ Thanh thừa thắng đuổi theo.
Hoàng Thiên Hóa mở túi gấm ra, thấy một cây đinh dài bảy tấc rưỡi hiện hào quang chói sáng ngời.
Hoàng Thiên Hóa dùng cây đinh ấy phóng lên, báu vật nhanh như chớp đâm thủng trái tim Ma Lễ Thanh trong nháy mắt.
Ma Lễ Thanh rên lên một tiếng, nhào xuống đất tắt thở máu phụt ra đỏ ói.
Ma Lễ Hồng thấy anh mình tử nạn, liền cầm kích rượt theo Hoàng Thiên Hóa.
Hoàng Thiên Hóa thâu đinh thép lại rồi phóng tới nữa.
Ma Lễ Hồng tránh không kịp bị đinh đâm thủng đến sau lưng. Báu vật ấy cứ đâm ngay trúng tim, nên Ma Lễ Hồng chỉ kịp la lên một tiếng rồi chết.
Ma Lễ Hải thấy hai anh mình bị chết trong nháy mắt, liền nổi xung hét lên như sấm:
– Súc sanh! Ngươi đùng vật gì mà sát hại hai anh ta như vậy?
Nói rồi xông tới. Hoàng Thiên Hóa lại phóng đinh thép đâm thủng trái tim, Ma Lễ Hải chết tươi.
Chỉ còn có Ma Lễ Thọ đứng một mình chơi vơi, giận căm gan, liền mở túi da beo thò tay bắt Hỏa Hồ Ðiêu thả ra để ăn thịt Hoàng Thiên Hóa.
Chẳng ngờ mới thò tay vào miệng túi bị Dương Tiển cắn cho một cái, đau đớn thấu xương.
Ma Lễ Thọ la lên:
– Báu vật, sao hôm nay ngươi phản ta như vậy?
Nói rồi trút túi da beo ra.
Dương Tiển giả hình con Hỏa Hồ Ðiêu nhảy ra và biến thành con voi trắng, nhưng không ăn thịt Hoàng Thiên Hóa mà lại chờn vờn nhảy tới muốn cắn Ma Lễ Thọ.
Ma Lễ Thọ thất kinh bỏ chạy, bị Hoàng Thiên Hóa phóng đinh thần xuyên thủng trái tim té nhào xông đất.
Thế là Ma gia tứ tướng đã cùng chết một lượt trong một trận.
Dẫu tài tinh tế không toàn mạng,
Vì bảng Phong thần có đứng tên.
Hoàng Thiên Hóa đánh chết bốn anh em họ Ma xong toan dùng đinh phép giết luôn con quái thú. Không ngờ con quái thú ấy lại hiện hình ra một đạo sĩ, đứng chần ngần trước mặt.
Hoàng Thiên Hóa thất kinh hãi lớn:
– Ngươi là ai vậy?
Dương Tiển đáp:
– Ta là Dương Tiển vâng lệnh sư thúc ẩn mình trong túi da beo làm nội công nay thấy đạo huynh đã giết bốn tướng rồi, nên hiện hình ra mặt.
Giữa lúc đó có Na Tra đạp xe chạy tới, nói với Dương Tiển và Hoàng Thiên Hóa:
– Hai anh thành công trận này, em rất sung sướng.
Hoàng Thiên Hóa lấy bốn thủ cấp, rồi cả ba cùng kéo nhau về thành ra mắt Tử Nha.
Tử Nha thấy Hoàng Thiên Hóa một mình phóng đinh thép giết luôn bốn tướng thì khen ngợi chẳng cùng, truyền bêu bốn thủ cấp trên mặt thành và tâu với Võ Vương hay.
Chúa tôi mở tiệc đải đằng, binh tướng vui vầy suốt ngày đêm không dứt.
Bấy giờ bọn tàn binh của Ma gia tứ tướng bỏ chạy về ải Tụy Thủy, bảo tin cho Hàng Vinh hay, rồi kéo về ải Giai Mộng.
Hàng Vinh được tin Ma gia tứ tướng tử trận thất kinh, vội làm sớ gởi về Triền Ca báo tin khẩn cấp.
Lúc bấy giờ, Thái Sư Văn Trọng vừa xem biểu chương của hai ải Du Hồn và Tam Sơn.
Nơi Du Hồn, Ðậu Dung đánh đuổi được Ðông Bá Hầu bại tẩu. Còn nơi Tam Sơn, Ðặng Cửu Công nhờ có con gọi là Ðặng Thiều Ngọc đuổi Nam Bá Hầu lui binh.
Tin mừng ấy chưa được bao lâu thì đã có sớ của Hàng Vinh gởi về.
Văn Thái Sư xem sớ, thấy bốn anh em Ma gia tử trận, nổi giận vỗ án hét:
– Không dè Tử Nha hung hăng như vậy, dám giết cả Ma gia tứ tướng bêu đầu trước ải. Thật là một hành động khiêu khích!
Giận quá, Văn Thái Sư trợn con mắt giữa, hào quang chiếu sáng lòa hơn hai thước.
Qua một hồi ngẫm nghĩ, Văn Thái Sư tự nhủ:
– Nay Ðông, Nam hai cõi đã yên, việc nước có thể giao cho triều thần coi giữ. Ngày mai ta vào tâu với vua tự giá thân chinh mới được.
Nghĩ rồi viết sớ, đợi rạng ngày vào dâng.
Hôm sau, Văn Thái Sư vào chầu rất sớm, quì trước Kim Loan dâng biểu xuất sư.
Trụ vương xem biểu, phán:
– Thái Sư vì Trẫm mà lo việc đánh Tây Kỳ, Trẫm cấp búa Việt vàng, cờ Mao trắng, để Thái Sư thay mặt trẫm định liệu mọi việc.
Văn Thái Sư tạ ơn, rồi chọn ngày tốt làm lễ xuất quân.
Trụ vương dọn tiệc, hội các quan đưa đón.
Trụ vương rót một chén rượu đầy ban cho Văn Thái Sư.
Văn Thái Sư bưng chén rượu tâu:
– Tôi đi chuyến nãy mong đẹp yên bờ cõi, xây dựng non sông xin bệ hạ ở nhà nghe theo lời quan gián nghị, đừng để vua tôi cách mặt, trên dưới xa nhau. Lâu lắm là nửa năm, mau lắm là ba tháng cũng trở về chầu bệ hạ.
Trụ Vương nói:
– Thái Sư đã thân chinh dẹp loạn thì thế nào cũng thắng trận ban sư, lòng trẫm không còn lo lắng gì nữa, trẫm chỉ chờ Thái Sư trở về vua tôi chung hưởng thái bình.
Văn Thái Sư uống rượu rồi lên Hắc kỳ lân.
Bỗng con thú nhảy chồm tới, la lên một tràng, làm cho Văn Thái Sư té nhào xuống đất.
– Thái Sư vừa xuất quân mà té như vậy đã là điềm chẳng lành. Xin Bệ hạ sai tướng khác.
Văn Thái Sư nói:
– Quan Ðại phu nói sai rồi. Làm tôi phò chúa thì không phải làm tướng ra trận thì không kể mạng. Lẽ thường một tướng cầm quân không chết cũng bị thương, đó là lẽ đương nhiên, có ai mà sợ. Ta xem con thú này lâu nay không ra trận, ở không lâu cũng yếu đi, nên khó cỡi một chút, xin quan Ðại phu đừng bàn nữa.
Dứt lời, Văn Trọng nhảy lên lưng Hắc kỳ lân đi ngay.
Từ đấy Vua tôi không thấy mặt
Sắp sau hồn phách đã lên trời.
Văn Thái Sư một điểm lòng son ba năm chinh phạt, trên vì chúa dưới thương dân.
Thật là:
Những tưởng lòng trung phò nghiệp chúa
Nào hay máy tạo dứt nhà Thương.
Văn Thái Sư kéo ba vạn binh ra khỏi Triều Ca, đến sông Huỳnh Hà, rồi đến huyện Dẫn Trì. Quan Tổng binh huyện ấy là Trương Khê ra thành nghênh tiếp.
Trương Khuê làm lễ ra mắt xong, Văn Thái Sư hỏi:
– Ðường qua Tây Kỳ ngõ nào gần hơn?
Trươrg Khuê thưa:
– Ði qua ngũ quan thì xa, nếu đi tắt qua ải Thanh Long thì gần hơn hai trăm dặm.
Văn Thái Sư bèn truyền binh tướng đi qua ải Thanh Long.
Quân sĩ tuân lệnh, kéo cờ, gióng trống inh ỏi.
Người sau có thơ như vầy:
Mù mịt bụi hồng lộng khói xanh
Ào ào cờ đỏ chiếu rêu xanh
Vì tham đường tắt vài trăm dặm
Lên suối trèo non chịu nhọc nhằn.
Khi đại binh qua khỏi Thanh Long rồi, đường sá gập ghềnh, rất hiểm trở, cứ đi một bước lại phát chồn chân, đôi khi đi một bước lại trợt chân thành ba bốn bước, có lúc đồn lại thành đống, có lúc phải chạy cả đoàn.
Văn Thái Sư thấy đường đi khổ cực bằng hai, hối hận vô cùng.
Văn Thái Sư nói với chúng tướng:
– Nếu biết đường tắt nguy hiểm như vầy thà đi qua ngũ quan còn nhanh hơn.
Ngày kia, đại binh Thái Sư đến núi Huỳnh Hoa đường sá đi càng chật hẹp khó đi hơn nữa; non núi chập chùng, dãy này tiếp giáp với dãy khác liên miên tưởng không bao giờ dứt.
Văn Thái Sư truyền quân đóng trại nghỉ ngơi, rồi cỡi hắc kỳ lân bay lên không, dò lần phía trước xem có gì nguy hiểm chăng?
Văn Trọng đi một hồi đến một khoảng đất bằng phẳng, cây cối xinh tươi, có suối có hoa, có hang có động. Cảnh thiên nhiên trông đẹp mắt lạ lùng.
Văn Trọng ngắm nghía một hồi rồi nghĩ thầm:
– Hòn núi này xinh đẹp quá, ước gì việc nước thanh bình, ta ở nơi đây hưởng thú thanh nhàn.
Văn Trọng nhìn xa hơn nữa, cách chân núi một dặm đường, thấy tre xanh dờn dợn, ngô đồng cao mịt, rồi tiếng thanh la nổi lên inh ỏi, có một đoàn người khá đông kéo đến một vùng đất trống lập trận. Tướng đi đầu là một người tóc đỏ hung hung, da mặt xanh lét, hình dạng như quỷ sứ, cởi ngựa ô, cầm búa đồng mặc hồng bào, mang kim giáp.
Thấy lạ, Văn Trọng vỗ kỳ lân lướt đến gần, bọn lâu la đang tập trận chợt thấy một ông già có ba con mắt, mặt áo đỏ, cầm roi vàng, cỡi con Kỳ lân đen, liền chạy vào báo với chủ trại:
– Có một ông già đứng trên núi cao đang lén xem Ðại vương lập trận.
Viên chủ trại nhìn lên trông thấy nổi giận, truyền dẹp trận đồ, cỡi ngựa bôn ba lên núi.
Văn Thái Sư thấy tướng ấy mạnh bạo đáng mặt anh hùng, khen thầm:
– Phải chi ta thâu đặng tướng nay đi đánh Tây Kỳ thì tốt lắm.
Tướng ấy vừa đến nơi đã hét lớn hỏi:
– Ngươi là ai mà dám đến đây thám thính núi ta?
Văn Thái Sư nói trớ rằng:
– Bần đạo thấy núi này tốt lắm, muốn tìm một cái động an thân để tụng kinh huỳnh đình, chẳng biết tướng quân chịu hay không?
Tướng ấy nổi giận mắng:
– Yêu đạo dám cả gan đến đây đùa cợt.
Nói rồi chém xuống một búa.
Văn Thái Sư đưa roi vàng ra đỡ.
Hai người đánh nhau trên núi cao.
Văn Thái Sư là tay đã từng chinh chiến nhiều năm, gặp biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt nữa mặc dầu tướng ấy hung hăng.
Văn Thái Sư không hề nao núng, chỉ muốn thâu làm bộ hạ, để giúp đỡ mình mà đánh Tây Kỳ.
Ðánh được vài mươi hiệp, Văn Thái Sư trá bại chạy qua hướng Ðông, người ấy đuổi theo làm dữ. Văn Thái Sư nghe lạc ngựa sau lưng đã gần, liền chỉ ngọn roi xuống đất, hóa ra một cái thành vàng, ấy là phép độn kim, nhốt viên chúa trại trong thành ấy.
Văn Trọng trở lại chỗ cũ, xuống yên kỳ lân ngồi dựa cội tòng.
Ðoàn lâu la trở về báo với hai viên chủ trại khác rằng:
– Có một ông đạo sĩ mặc đại hồng bào, dụ đại thiên tuế vào trận gì bằng vàng không biết.
Hai tướng hỏi lâu la:
– Ðạo sĩ ấy bây giờ ở đâu?
Lâu la thưa:
– Còn đang ngồi trên bàn thạch, hóng mát trên cội tòng.
Hai tướng nghe nói nổi giận, cầm khí giới lên ngựa dẫn lâu la kéo đến chân núi.
Văn Thái Sư xem thấy lập tức lên lưng hắc kỳ lân.
Hai tướng vừa lên đến nơi thấy vị đạo sĩ có ba con mắt, thất kinh hét lớn:
– Yêu đạo ở chốn nào dám đến đây làm dữ. Giấu anh ta ở đâu hãy mau trả lại, thì đặng toàn thân.
Văn Thái Sư nói dối rằng:
– Hồi nãy người mặt xanh xúc phạm ta đánh một roi đã chết rồi. Nay hai ngươi đến đây làm gì nữa? Ta không có ý gì hết, chỉ muốn ở núi này tu luyện mà thôi, hai ngươi có bằng lòng hay không thì nói.
Hai tướng nổi giận kẻ thương người giản chém đùa.
Văn Thái Sư múa cặp roi vàng đỡ vẹt ra, đánh vài hiệp bèn giục kỳ lân bại tẩu qua phía Nam. Hai tướng đuổi theo, Văn Thái Sư chỉ một roi hóa thủy độn một tướng, rồi chỉ một roi nữa, hóa mộc độn một người.
Ðoạn trở ra cội tòng ngồi hóng mát như cũ.
Lâu la chạy về bảo với viên chủ trại thứ nhì rằng:
– Nhị thiên tuế ơi! Chúng ta mắc họa lớn rồi!
Viên chủ trại này là Tân Hoàn nghe báo tin liền hỏi:
– Chuyện gì mà mang họa?
Lâu la thưa:
– Ba vị thiên tuế ở trại thứ nhất bị một đạo sĩ già đánh chết hết rồi..
Tân Hoàn la lên một tiếng, và nói:
– Yêu đạo ở đâu mà dám lộng hành.
Liền một tay xách dùi, một tay xách lưỡi tầm sét, quạt hai cánh như chim bay ầm ầm như sấm.
Ðến chót núi Tân Hoàn thấy Văn Trọng đang ngồi, liền hét lớn:
– Yêu đạo! Ngươi giết mất ba người anh em ta, ta quyết không để cho ngươi toàn mạng.
Văn Thái Sư mở con mắt giữa, thấy một tướng như thiên lôi:
Trên đội mão đầu tròn
Mình mang áo chiến bào
Môi đỏ như trái táo
Miệng nhọn tợ cây đao
Sắt lẽm bốn nanh bạc
Săng ngời cặp mắt sa
Cánh bay như phụng múa
Tầm sét búa giơ cao.
Văn Thái Sư xem thấy khen thầm:
– Anh hùng hào kiệt thường là kẻ dị hình dị tướng, nếu thâu đặng người này làm bộ hạ tay chơn thì rất được việc.
Tân Hoàn đáp xuống đánh Thái Sư một dùi.
Thái Sư đưa roi ra đỡ, và hỗn trận một lúc. Thấy Tân Hoàn múa dùi và tầm sét thật lợi hại, Văn Thái Sư liền giả cách bại tẩu qua phía Ðông.
Tân Hoàn hét lớn:
– Yêu đạo mi chạy đi đâu cho khỏi.
Nói rồi vỗ cánh đuổi theo.
Văn Thái Sư nghĩ thầm:
– Nếu dùng phép độn ngũ hành thì bắt người này không được, bởi người này không ở dưới đất, bay lượn như chim.
Nghĩ rồi lấy roi chỉ cục đá trên đỉnh núi cao, làm phép sai Huỳnh Cân lực sĩ xô đá ấy đè lưng Tân Hoàn.
Huỳnh Cân lực sĩ tuân lệnh tức thì.
Tân Hoàn không ngờ Văn Thái Sư có phép tiên, sai khiến quỷ thần như vậy, nên thờ ơ bị hòn đá đè chặt cứng.
Văn Thái Sư quay kỳ lân lại, giơ roi muốn đập đầu.
Tân Hoàn sợ chết kêu lớn:
– Ðệ tử không biết nên phạm đến oai trời, xin thầy từ bi rộng lượng, tôi mang ơn như trời biển.
Văn Thái Sư để roi trên đầu Tân Hoàn, và nói:
– Ngươi không rõ, chớ ta là Văn Thái Sư ở tại Triều Ca vâng lệnh đi dẹp Tây Kỳ, vừa tới núi này gặp người mặt xanh vô lễ. Thực ta không muốn sanh sự. Nay ngươi muốn sống, hay muốn chết thì nói?
Tân Hoàn thưa.
– Chúng tôi không ngờ Thái lão gia đi qua đây, nếu biết, chúng tôi đã nghênh tiếp.
Văn Thái Sư nói:
– Nếu ngươi thuận tình theo ta đi đánh Tây Kỳ, thì ta tha ngươi khỏi chết, mà sau khi thắng trận về triều, ngươi còn được hưởng giàu sang phú quý nữa.
Tân Hoàn thưa:
– Thái Sư đã có lòng thương, tôi xin theo hầu dưới trướng.
Văn Thái Sư cầm roi chỉ vài cái.
Huỳnh Cân lực sĩ tuân lệnh mở đá cho Tân Hoàn ra.
Bấy giờ Tân Hoàn gần gãy xương, ngồi dậy không nổi phải gần một giờ mới đứng được.
Văn Thái Sư đỡ dậy, rồi ngồi trên bàn thạch còn Tân Hoàn đứng hầu hạ một bên.
Văn Thái Sư hỏi:
– Tại núi Huỳnh Hoa nhơn mã được bao nhiêu?
Tân Hoàn thưa:
– Núi này chu vi sáu mươi dặm, lâu la hơn một vạn, và lương thảo cũng nhiều.
Văn Thái Sư nghe nói mừng rỡ vô cùng, vì binh lương rất cần thiết cho việc chinh Tây.
Tân Hoàn khóc sụt sùi thưa:
– Như Thái Sư ra ơn cứu sống được ba người anh em tôi lúc lấy thì chúng tôi cùng theo làm bộ hạ để Thái Sư sai khiến.
Văn Thái Sư nói:
– Ngươi muốn tha chúng nó làm gì?
Tân Hoàn thưa:
– Tuy anh em chúng tôi khác họ mà tình thương đối với nhau như thể tay chân.
Vãn Thái Sư nói:
– Theo lời ngươi nói thì các ngươi là những kẻ trọng nghĩa.
Nói rồi liền vỗ tay một cái, nghe sấm dậy ầm ầm, dường như đất lở, núi lở lớn.
Ba viên tướng trước đây bị độc mê mang, nay nghe sấm giật mình tỉnh dậy, dụi con mắt nhìn lơ là.
Người thứ nhất tên Ðặng Trung không còn thấy vách tường vàng nữa lồm cồm ngồi dậy. Người thứ hai là Trương Tiết không còn thấy biển cả nữa. Người thứ ba là Ðào Vinh không thấy đám rừng già, cảnh cũ trở về trước mắt, cả ba mừng rỡ giục ngựa về trại.
Khi đi qua đỉnh núi, thấy Văn Trọng ngồi trên bàn thạch, Tân Hoàn đứng hầu một bên, Ðặng Trung nói giận hét lên một tiếng bảo Trương Tiết và Ðào Vinh:
Thấy ba tướng giận dữ kéo nhau lên núi, Tân Hoàn liền bước xuống cản lại và nói:
– Các anh đừng vô lễ. Lão gia là Thái Sư Văn Trọng ở triều Thương, hiện đang cầm quân đánh Tây Kỳ lẽ ra chúng ta phải tiếp đón Thái Sư mới phải.
Ba người nghe nói đều xuống ngựa, đến trước mặt Văn Trọng quì thưa:
– Chúng tôi nghe danh lão gia đã lâu, không nghênh tiếp mà còn xúc phạm, tội chúng tôi thật đáng chết, xin lão gia dung tình.
Văn Thái Sư nói:
– Vì các ngươi không biết nên xúc phạm đến ta thì chẳng có tội chi, nay ta muốn các ngươi theo ta đi dẹp giặc Tây Kỳ để sau này được vinh hiển.
Cả bốn anh em đồng quì lạy tuân lời, và thỉnh Văn Thái Sư về trại để đãi trà nước.
Văn Thái Sư theo bốn người đến nơi, thấy dinh trại cất hai dãy, lâu la đông nghẹt, lương thảo đầy kho.
Văn Thái Sư nói:
– Nay các người đã bằng lòng theo ta thì phải hỏi bọn lâu la, đứa nào muốn theo thì theo, đứa nào không muốn theo thì chia của đã tích trữ bấy lâu nay cho chúng nó về xứ.
Tân Hoàn tuân lệnh truyền lại với lâu la. Ðứa thì muốn theo, đứa lại không muốn.
Tân Hoàn chia của, mỗi đứa lãnh một phần, chúng mừng rỡ vô cùng.
Tính lại số lâu la chịu theo hơn bảy ngàn người, lương thảo được ba vạn.
Sắp đặt xong, bốn anh em đồng ra lệnh đốt trại, nhập vào đội quân triều đình, kéo một lượt qua khỏi núi Huỳnh Hoa.
Người sau có thơ rằng:
Rực rỡ cờ hồng như ngọn lửa
Ruổi đong ngựa chiến tợ bào hao
Tây Kỳ hào kiệt đường mây nhóm
Văn Trọng binh gia tợ sóng xao.
Văn Thái Sư đang kéo binh đi, nhìn thấy trước mặt có một tấm bia khắc ba chữ là: Tuyệt Long lãnh thì dừng kỳ lân cả buổi, buồn bực làm thinh.
Ðặng Trung thấy vậy hỏi:
– Chẳng hay Thái Sư có việc chi nghĩ vậy mà vẻ người bơ phờ?
Văn Thái Sư nói:
– Thuở trước ta học đạo tại cung Ðức Du, lúc chân tài đã năm mươi tuổi. Thầy ta là bà Kim Linh thánh mẫu sai xuống phò cơ nghiệp Thành Thang. Khi ra đi ta có hỏi một lời số mạng. Thày ta bảo là ta không nên gặp chữ Tuyệt. Nay kéo binh đến đây lại gặp chữ ấy, nên lòng ta chẳng vui.
Ðặng Trung và ba tướng đồng thưa:
– Thái Sư đa nghi quá! Lẽ nào một chữ ấy mà định họa phước chung thân cho kẻ trượng phu? Vả lại người lành thì trời giúp. Thái Sư tài cao đức trọng lo gì không dẹp nổi Tây Kỳ.
Tuy có lời khuyên giải, nhưng Văn Thái Sư vẫn chẳng nguôi ngoai. Các tướng thúc quân đi đến. Quân sĩ lướt tới như mây gió, giáo gươm chơm chởm, tiếng chân người dội cả một góc trời.
Ngày kia, trong lúc đại binh đang tiến bước có thám mã trở lại thưa:
– Binh đã gần đến cửa Nam thành Tây Kỳ rồi.
Thái Sư truyền quân đóng trại. Tướng sĩ vào lịnh phát pháo đồn binh.
Bấy giờ bên Tây Kỳ, quân thám thính được tin vội về báo với Tử Nha:
– Văn Thái Sư dẫn ba mươi muôn binh đóng trại phía Nam thành.
Tử Nha nói:
– Trước kia ta có ở Triều Ca, song chưa biết mặt Thái Sư Văn Trọng, nay người đã kéo binh đến đây, để ta xem thử thế nào cho biết.
– Văn Thái Sư nổi danh bốn biển thật xứng đáng. Cứ như lối cầm binh thế này thì tiếng đồn quả không sai.
Nói rồi xuống thành thương nghị.
Hoàng Phi Hổ thưa:
– Xin Thừa Tướng đừng lo. Rất đổi Ma gia tứ tướng còn phải rơi đầu, huống chi Thái Sư Văn Trọng tuổi tác đã già, sức lực bao nhiêu mà ngại.
Tử Nha nói:
– Tuy vậy mặc lòng, song ta buồn vì quân dân Tây Kỳ phải nạn chiến tranh, rơi xương đổ máu, biết chừng nào cho được thái bình.
Các tướng đang bàn luận, có quân vào báo:
– Văn Thái Sư sai sứ đến hạ chiến thư.
Tử Nha cho vào.
Quân giữ cửa tuân lệnh khai thành đón sứ.
Tử Nha tiếp lấy chiến thư, trong thơ đại ý viết như sau:
“Thái Sư nhà Thương gồm chức Chinh Tây Nguyên soái là Văn Trọng, gởi cho Thừa Tướng Tử Nha rõ.
Nghe rằng: Hễ làm tôi phản chúa thì mang tội nghịch thiên. Nay chúa trị chín Châu, oai vang bốn biển, mà Tây Kỳ làm loạn. Cơ Phát xưng vương, lại chứa kẻ phản thần chẳng kiêng quốc pháp. Vua sai binh vấn tội, ngươi nghịch lại thiên oai, dám bêu đầu đại thần, chẳng vị lòng thượng quốc. Dẫu bằm da xé thịt tội ấy chưa đền, lấy nước phá thành cũng chưa xứng đáng.
Nay ta vâng chiếu chỉ đến phá thành trì, như ngươi thương xót mạng dân thì vua tôi hàng đầu thọ tội. Còn không tính trước, đợi cháy núi lở non thì không chừa ngọc đá.
Chiến thư đã tới, thương nghị cho mau”.
Tử Nha đọc chiến thơ xong hỏi sứ thần:
– Ðại tướng tên chi?
Tưởng ấy thưa:
– Tôi là Ðặng Trung
Tử Nha nói:
– Ðặng tướng quân về thưa lại với Văn Thái Sư rằng ta kính lời với Văn Thái Sư trong ba ngày sẽ ra trận.
Ðặng Trung từ giã ra khỏi thành về đến dinh thưa lại với Văn Trọng.
Cách ba hôm sau, Văn Thái Sư phát pháo, dẫn binh ra trước mặt thành.
Giữa lúc đó trong thành Tây Kỳ cũng nổi lên một tràng pháo, tức thì cửa phía Nam mở toạc, bốn cây cờ xanh ra trước, bốn tướng cỡi ngựa theo sau đứng sang hướng Chấn.
Có bài thơ rằng:
Bốn tướng cớ xanh áo mão xanh
Hướng Ðông binh đóng chặt như thành
Cầm thương vác giáo oai như cọp
Một tướng điều binh thảy rạng danh.
Tiếng pháo thứ nhì nổ, bốn cây cờ đỏ ra trước, bốn vị tướng theo sau kéo sang cung Ly bố trận.
Có bài thơ thư vầy:
Cờ đỏ áo điều cỡi ngựa Kim
Khác nào ngọn lửa cháy không trung
Sơn son cung ná thương ngù thắm
Bố trận phương Nam vững tợ đồng.
Tiếng pháo thứ ba nổ, bốn ngọn cờ trắng kéo ra, bốn viên tướng mặc bạch bào bước tới án bên hướng cung Ðoài.
Có bài thơ rằng:
Bạch giáp ngân khôi cỡi ngựa hồng
Gươm trần tợ tuyết rất oai nghiêm
Hướng Tây bố trận trông ghê gớm
Cờ trắng phau phau tuyệt áo xiêm.
Tiếng pháo thứ tư nổ, bốn ngọn cờ đen kéo tới, bốn vị tướng xông ra, dẫn binh trấn tại cung Khảm.
Có bài thơ rằng:
Ngựa Ô tướng giữ phất cờ đen
Tướng Bắc bày binh thật đáng khen
Như thế than hầm cùng khói tỏa
Ngựa xe đông nghẹt chẳng nơi chen.
Tiếng pháo thứ năm nổ, bốn cây cờ vàng phất phới giương ra. Bốn tướng kim khôi kim giáp xuất trận, chiếm cứ trung ương.
Có bài thơ rằng:
Kim khôi kim giáp kéo cờ vàng
Lập trận trung ương thấy rõ ràng
Sai khiến ngũ phương theo hiệu lịnh
Tử Nha bày bố rất nghiêm trang.
Khi ấy Thái Sư Văn Trọng thấy Tử Nha lập trận Ngũ Phương nghiêm trang tề chỉnh, binh tướng có thứ lớp, trận đồ sắp đặt oai nghiêm.
Na Tra cầm giáo đứng trên xe gần một bên. Dương Tiển, Kim Tra, Mộc Tra, Hoàng Ðộc Long, Tiết Át Hổ, Hoàng Thiên Hóa, Võ Kiết,… đồng bảo hộ Tử Nha cỡi con Tứ Bất Tướng đứng giữa trận. Bên hữu lại có Hoàng Phi Hổ cỡi con thần ngưu.
Tử Nha xem thấy Thái Sư Văn Trọng mặt như vàng bạc, râu đài đậm đuộc, gió thổi phất phớt tay cầm cặp Kim tiên oai phong lắm liệt, liền giục thú tới bái một bái và nói:
– Kính mừng Thái Sư! Tôi làm lễ không trọn, xin miễn chấp.
Văn Thái Sư hỏi:
– Ta nghe Khương Thừa Tướng là danh sĩ núi Côn Lôn, sao không biết trọng lẽ phải?
Tử Nha đáp:
– Tôi là đệ tử cung Ngọc Hư, hằng trọng niềm đạo đức, lẽ đâu dám nghịch mạng trời. Tôi phò vua giúp nước trên tuân lời chúa, dưới phụng lòng dân, biết kính người hiền, không ưa kẻ nịnh, giữ gìn bờ cõi, trấn giữ thành trì, trăm họ yên vui, sao gọi là không biết phải?
Văn Thái Sư nói:
– Ngươi chỉ biết trau chuốt lời nói mà không biết lỗi mình, nhà ngươi tôn Võ vương không có lệnh Thiên tử, ấy là tội khi quân tiếm mị. Chứa phản thần là tội đại nghịch. Vua sai tướng hưng binh vấn tội, ngươi dám chém giết muôn binh, ấy là tội phản. Nay ta đến đây ngươi cũng không phục, lựa lời xảo trá chống cự với thiên triều mà còn tưởng mình vô tội sao?
Tử Nha cười nhạt, nói:
– Thái Sư nói sai rồi. Tôi tôn Võ vương chưa kịp tâu với Thiên tử, song xét lại con thế chức cha là việc thường, nào có lỗi chi? Nay chư hầu trong thiên hạ đều phản lại nhà Thương, ấy không phải lỗi tại chư hầu, bởi thiên tử không kỷ cang, nên kẻ có trí không muốn thờ một bạo chúa. Còn việc Võ Thành vương thì quân bất chánh thần đầu ngoại quốc, ấy cũng là lẽ thường. Luận đến việc giết quân binh triều đình, là tại đại thần đem binh đến phá phách bờ cõi, giết tướng công thành, nên tôi phải chống đỡ chớ tôi chẳng hề đem một tên lính nào phạm đến ngũ quan, lại cũng chẳng giúp một chư hầu nào làm nghịch. Thái Sư danh vang bốn biển, oai dậy tám phương, nay đem binh đến đây e không khỏi mang tiếng vô cớ mà khinh địch, chứ tôi nào dám cự với Thái Sư. Nếu Thái Sư không cho lời tôi là dốt nát, xin Thái Sư lui binh về phủ, ai giữ nước nấy, cho trăm họ thái bình. Bằng chẳng xét ý trời, thì việc binh thắng bại không lấy gì làm chắc, xin Thái sư nghĩ lại.
Văn Thái Sư nghe Tử Nha nói cứng, nổi giận phừng phừng, lại thấy Hoàng Phi Hổ đứng gần đó liền nạt lớn:
– Nghịch thần Hoàng Phi Hổ, hãy đến ra mắt ta.
Hoàng Phi Hổ không biết làm sao lẩn mặt, túng phải giục trâu tới bái một bái và thưa:
– Tôi cách mặt đã mấy năm nay, may gặp được Thái Sư mà giải điều oan ức.
Văn Thái Sư hét lớn:
– Dòng họ Hoàng của ngươi giàu sang trong đại quốc, nay phụ vua phản chúa, phò Tây Kỳ mà giết đại thần. Tội đáng chết mười phần, còn tìm lời nói đớ.
Mắng rồi quay lại nói với các tướng:
– Hãy ra tay bắt phản tặc cho mau.
Ðặng Trung giục ngựa lướt ra vung búa chém Võ Thành vương.
Hoàng Phi Hổ đưa gươm ra đỡ.
Trương Tiết cầm gươm giục ngựa tới trợ lực với Ðặng Trung.
Nam Cung Hoát cản lại giao chiến.
Ðào Vinh lướt ngựa ra trước tiếp ứng, Võ Kiết cầm giáo đón lại giao phong.
Sáu tướng chia nhau thành ba cặp hỗn chiến, kẻ qua người lại búa chém thương đâm cát bụi đầy trời, binh reo dậy đất.
Tân Hoàn thấy ba tướng mình khó thắng, liền quạt cánh bay lên cao, cầm dùi sắt đánh vào đầu Khương Tử Nha.
Hoàng Thiên Hóa thấy vậy giục Ngọc kỳ lân bay theo, đưa song chùy đánh tới Tân Hoàn.
Các tướng Châu thấy Tân Hoàn có cánh bay cao, đội mão đầu cọp, mặt đỏ bầm như trái táo ai nấy đều kinh hải.
Còn Văn Thái Sư thấy Hoàng Thiên Hóa cỡi Ngọc kỳ lân cự với Tân Hoàn biết là người có phép tiên, liền giục hắc kỳ lân tới giơ roi đánh với Tử Nha.
Tử Nha đưa gươm thư hùng ra đỡ. Hai người cỡi hai con thú, đánh với nhau nổi gió sanh mây.
Văn Thái Sư quăng cây roi trống lên trời, bởi cặp roi ấy là rồng hóa ra nên sấm sét vang dậy, cây roi trống đánh nhằm vai Tử Nha té nhào luống đất.
Văn Thái Sư xông tới toan lấy thủ cấp, chẳng ngờ có Na Tra giục xe đến giơ thương ra đỡ và nói lớn:
– Không được hại sư thúc ta.
Nói rồi đâm một giáo, Văn Thái Sư đưa roi mái ra đỡ.
Tân Giáp thừa dịp ấy cứu Tử Nha vào thành.
Văn Thái Sư đánh với Na Tra được bốn năm hiệp, rồi cũng liệng roi trống lên, cây roi đánh trúng Na Tra nhào xuống đất.
Kim Tra lướt tới vung gươm đánh với Thái Sư.
Văn Thái Sư, thâu roi lại cự chiến, Mộc Tra và Hoàng Ðộc Long đồng xông đến một lượt trợ lực với Kim Tra.
Văn Trọng nổi giận, quăng cả cặp roi lên, cặp roi bay lượn như chim, đánh cả ba người nhào xuống đất một lúc.
Dương Tiển thấy vậy cầm thương giục ngựa lướt vào.
Văn Thái Sư thấy Dương Tiển dung mạo khác thường nghĩ thầm:
– Tây Kỳ có người lạ như vầy không làm phản sao được. Liền thâu roi đánh được ít hiệp, rồi cũng liệng roi lên trời. Cặp roi đánh nhằm đầu Dương Tiển văng lửa, mà đầu Dương Tiển vẫn trơ trơ.
Văn Thái Sư kinh hãi than:
– Thật là thần tiên, không phải người phàm tục.
Còn Ðào Vinh đánh với Võ Kiết thấy các tướng cầm đồng, liền lấy tụ phong phan rung rung vài cái, tức thì mây tuôn gió thổi, đá chạy, cát bay, ban ngày mà tối như ban đêm, trên trời đen như mực.
Quân Châu thất kinh tìm đường mà chạy, liệng chiêng bỏ trống, ném giáo quăng cờ không biết Ðông Tây Nam Bắc, giày xéo nhau mà chết.
Văn Thái Sư thắng trận thâu binh về trại, mở tiệc thưởng tướng khao quân cầm chắc trong vài ngày nữa sẽ lấy được Tây Kỳ.
Bên kia Tử Nha vào thành kiểm điểm binh mã thấy hao hơn phân nữa, liền thở dài than:
– Mới đánh trận đầu mà đã bại, bốn tướng bị thương, nay biết phải làm sao?
Dương Tiển thưa:
– Xin Thừa Tướng tịnh dưỡng vài ngày rồi sẽ tính kế ra binh. Tôi chắc Văn Trọng đắc thắng, thế nào cũng thờ ơ tự phụ.
Tử Nha khen phải, truyền binh tướng nghỉ ngơi, dưỡng sức hai ngày.
Ngày thứ ba, Tử Nha truyền phát pháo khai thành kéo quân ra trận.
Quân thám thính về báo với Văn Thái Sư.
Văn Thái Sư dẫn bốn tướng dàn binh bố trận.
Tử Nha lướt tới kêu Thái Sư Văn Trọng nói:
– Tôi với Thái Sư bữa nay quyết phân cao thấp.
Nói rồi rút song kiếm đánh liền. Văn Thái Sư múa song tiên cự địch.
Na Tra và Dương Tiển trợ chiến với Tử Nha.
Ðặng Trung xông vào, Hoàng Phi Hổ cản lại.
Trương Kiết, Ðào Vinh lược trận, bị Võ Kiết và Nam Cung Hoát cản ngăn.
Tân Hoàn xách dùi bay lên, bị Hoàng Thiên Hóa đón lại.
Năm cặp vừa sức hỗn chiến với nhau.
Văn Thái Sư đánh một hồi liệng cặp thư hùng lên.
Tử Nha liền quăng roi Ðả Thần Tiên cự lại.
Cây roi mái của Văn Trọng cự không lại cây roi Ðả Thần Tiên bị gãy làm đôi rơi xuống.
Văn Thái Sư hét lớn:
– Khương Thượng, ngươi phá phép báu của ta, ta quyết với ngươi một còn một mất.
Nhưng vừa dứt tiếng, Văn Thái Sư đã bị roi Ðả Thần Tiên của Tử Nha đánh nhào xuống kỳ lân, may nhờ có Kiết Lập, Dư Khánh lướt tới đỡ thương, nên Văn Thái Sư mới độn thổ trở về được dinh.
Tử Nha và các tướng Châu thừa thắng đánh binh Trụ tan rồi cùng nhau trở về thành.
Dương Tiển thưa:
– Ðêm nay chúng ta đi cướp trại thế nào cũng thắng.
Tử Nha khen phải, truyền các tướng lui về chuẩn bị sẳn sàng đợi đến canh hai sẽ xuất quân cướp trại.
Bấy giờ Văn Thái Sư bị thua trận trở về ngồi trước trướng buồn bã.
Các tướng vào ra mắt, Văn Thái Sư nói:
– Ta thường đánh Nam đẹp Bắc, chưa hề đại bại. Nay roi phép bị Tử Nha đánh gãy, ta nghĩ lại từ khi thầy ta truyền cặp giao long kim tiên cho đến nay chưa bao giờ bị mất danh tiếng. Nay bị gãy một cây, còn mặt mũi nào ra mắt thầy ta nữa.
Bốn tướng thưa:
– Việc binh thắng bại là lẽ thường, xin Thái Sư đừng phiền, thủng thẳng mà tính kế.
Còn bên thành Tây Kỳ.
Tử Nha chuẩn bị sẳn sàng, vừa hết canh một các tướng đều đến trước trướng nghe dạy việc.
Tử Nha truyền:
– Hoàng Phi Hổ, Hoàng Phi Bưu, Hoàng Minh phá dinh bên tả. Nam Cung Hoát, Tân Miễn, Tân Giáp phá dinh bên hữu. Na Tra, Hoàng Thiên Hóa phá cửa trước. Kim Tra, Mộc Tra, Hoàng Ðộc Long, Tiết Át Hổ, Long Tu Hồ với Võ Kiết đồng theo bảo hộ mình. Dương Tiễn đi đốt lương thảo. Lão tướng Hoàng Cổn thủ thành.
Sắp đặt xong ai lo phận sự nấy.
Bấy giờ Văn Thái Sư đang ngồi nghiệm kế, nhìn thấy hơi dữ ve vãn trước mắt, lòng sanh nghi lấy tiền gieo quẻ, biết đêm nay quân giặc đến cướp dinh. Nhưng Văn Thái Sư cho đó là việc thường không lấy gì làm sợ, bèn truyền:
Na Tra và Hoàng Thiên Hóa xông vào cửa trước Văn Thái Sư cỡi kỳ lân vung roi trống giao phong, phía đỡ giáo Na Tra, phần đỡ song chùy Hoàng Thiên Hóa, Kim Tra, Mộc Tra cầm gươm trợ chiến. Hoàng Ðộc Long, Tiết Ất Hồ cũng vung kiếm xông vào, sáu tướng hùm phủ vây một mình Thái Sư Văn Trọng.
Bên tả, cha con, anh em Hoàng Phi Hổ áp vào, Trương Tiết, Ðặng Trung đồng ra cự chiến.
Bên hữu, Nam Cung Hoát, Tân Giáp, Tân Miễn lướt tới.
Tân Hoàn, Ðào Vinh hiệp lực đón ngăn.
Ba phía dinh đều có tướng binh hổn chiến.
Còn Dương Tiển đi bọc hậu ra sau dinh, dùng tam muội nhơn hỏa là lửa phép trong mình, biến thành một con muỗi, bay thẳng đến kho lương. Tại đó có Dư Khánh và Tiết Lộc, song hai người này làm sao thấy nổi phép thần thông của Dương Tiển.
Kho lương bốc cháy, lửa dậy trùng trùng, làm đỏ rực cả bầu trời.
Bấy giờ Văn Trọng một mình đang đánh với sáu tướng, thấy kho lương cháy bừng như một hòn núi lửa, biết không thể nào thủ thắng được nữa, nên đỡ gạt cầm chừng, chờ cơ hội rút quân.
Bỗng đâu Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng lướt tới, quăng roi Ðả Thần Tiên lên, Văn Thái Sư bị một roi, thất kinh giốc thú bỏ chạy phía tả, cha con anh em Hoàng Phi Hổ đánh với Ðặng Trung, Trương Tiết.
Hai tướng này thấy Văn Thái Sư bại tẩu liền bỏ chạy theo để hộ vệ.
Bên hữu, Nam Cung Hoát, Tân Giáp, Tân Miễn đang đánh với Tân Hoàn, Ðào Vinh, xảy có Dư Khánh và Tiết Lộc đến tiếp chiến.
Hai tướng này giữ kho lương thảo, bị Dương Tiển đốt cháy, không biết làm sao phải qua dinh hữu trợ lực.
Tuy vậy, Ðào Vinh, Dư Khánh, Tiết Lộc thấy Văn Thái Sư đã chạy thì không còn lòng nào giao tranh nữa, vội chém bậy một nhát rồi quất ngựa chạy theo.
Tân Hoàn một mình không đương cự nổi cũng quạt cánh bay bổng lên trời.
Thế là dinh trại binh Thương bị tan vỡ, binh sĩ lớp chết lớp đầu hàng, còn một số đông bỏ chạy vào rừng hợp nhau thành nhóm để chờ tin chủ tướng.
Bấy giờ tại núi Chung Nam, động Ngọc Trụ. Vân Trung Tử đang ngồi trên giường Bích Du, bỗng nhớ đến việc Văn Thái Sư đang kéo binh chinh phạt Tây Kỳ, lúc này cũng nên sai Lôi Chấn Tử xuống lập công đền nợ nước liền gọi Kim Hà đồng tử bảo:
– Ngươi đòi sư huynh ngươi ra cho ta bảo.
Kim Hà đồng tử vâng lệnh ra vườn gọi Lôi Chấn Tử vào.
Vân Trung Tử thấy Lôi Chấn Tử vào quỳ trước mặt, liền nói:
– Ngươi hãy xuống Tây Kỳ ra mắt Võ vương Cơ Phát và sư thúc Khương Tử Nha để phò Châu diệt Trụ, chớ nên trễ nải. Nếu ngươi đi đọc đường, gặp người có cánh, thì phải đánh nó mà lập công đầu.
Lôi Chấn Tử tuân lệnh lạy thầy giã bạn, cầm búa vàng ra khỏi động, vỗ cánh bay cao.
Bay tới địa phận Tây Kỳ, xa xa trông thấy binh Thương bại tẩu.
Lôi Chấn Tử mừng rỡ nghĩ thầm:
– Gặp dịp này may lắm! Ta trổ tài một trận thần oai.
Nghĩ rồi đón đầu binh tướng Văn Thái Sư mà đánh.
Văn Thái Sư đang chạy với các tướng, bỗng thấy một người có cánh bay nửa lừng trời, tóc đỏ, mắt vàng, mắt xanh, nanh bạc liền kêu Tân Hoàn nói:
– Ta xem người có cánh kia rất dữ, đang chú ý bay về phía chúng ta.
Văn Trọng nói chưa dứt lời Lôi Chấn Tử đã bay đến hét lớn:
– Có ta đến đây!
Nói rồi vung búa đánh liền.
Tân Hoàn lấy lưỡi tầm sét ta đỡ.
Hai tướng giao phong giữa không trung, bốn cánh quạt gió ầm ầm.
Tân Hoàn đánh không lại Lôi Chấn Tử, thất kinh bay qua núi Tây Kỳ.
Lôi Chấn Tử nghĩ thầm;
– Không cần đuổi nó làm gì, ta đi ra mắt sư thúc và Hoàng huynh trước đã, sau này sẽ còn gặp nó.
Nghĩ rồi vỗ cánh bay thẳng đến thành Tây Kỳ.
Lúc này Tử Nha trọn thắng, thâu binh vào thành khao thưởng tướng sĩ.
Tử Nha nói:
– Chúng ta thắng được trận nay là nhờ hồng phước chúa công, và cũng như công của các tướng.
Các tướng đều thưa:
– Ấy là hồng phước của quân vương và tôi ước của Thừa Tướng, khiến xui Văn Trọng hơ hỏng.
Bỗng có quân vào báo:
– Có đạo đồng xin ra mắt Thừa Tướng.
Tử Nha truyền mời vào. Lôi Chấn Tử bước đến làm lễ.
Tử Nha hỏi:
– Ngươi là đệ tử động nào?
Lôi Chấn Tử thưa:
– Ðệ tử ở núi Chung Nam, động Ngọc Trụ, học trò Vân Trung Tử. Nay vâng lệnh đến hầu sư thúc, và ra mắt Hoàng huynh.
Tử Nha hỏi:
– Hoàng huynh ngươi là ai?
Lôi Chấn Tử thưa:
– Hoàng huynh tôi là Võ vương.
Các tướng nghe nói đều lấy làm lạ.
Tử Nha gọi các vị điện hạ đứng hai bên, hỏi:
– Có ai biết mặt Lôi Chấn Tử hay không?
Các điện hạ đều nói:
– Chúng tôi đều không biết người này.
Lôi Chấn Tử nói:
– Tôi là Lôi Chấn Tử ở tại núi Yên Sơn. Hồi bảy tuổi tôi có đưa cha tôi là Văn vương qua khỏi năm ải.
Tử Nha sực nhớ lại, nói với các tướng:
– Phải rồi! Tiên vương thường nói Lôi Chấn Tử có cứu người qua khỏi ngũ quan. Nay Chấn Tử về đến đây thật là hồng phước của chúa công.
Nói rồi đưa Lôi Chấn Tử vào cung để ra mắt Võ vương.
Quan chấp điện vào tâu:
– Có Thừa Tướng xin ra mắt.
Võ Vương cho vào.
Tử Nha đến trước long sàng làm lễ và tâu:
– Có Ngự đệ của Ðại vương xin vào hầu.
Võ vương hỏi:
– Ngự đệ ta là ai?
Tử Nha tâu:
– Năm trước tiên vương đi qua núi Yên Sơn, thâu được Lôi Chấn Tử, cho đi học tại núi Chung Nam, nay người ấy về đây bệ kiến.
Võ vương cho mời vào.
Lôi Chấn Tử bước đến làm lễ, Võ Vương nói:
– Thôi, Ngự đệ hãy đứng dậy. Việc này ta đã có nghe tiên vương thuật lại mấy năm trước, nhớ công Ngự đệ đưa tiên vương qua khỏi ngũ quan. Nay anh em ta gặp mặt, còn gì vui hơn.
Tuy thâm tình, nhưng Võ vương thấy Lôi Chấn Tử hình tượng kỳ dị, không dám cho vào lạy mẹ, sợ bà Thái Cơ kinh hãi, mà lỗi đạo làm con, bèn truyền lệnh cho Tử Nha:
– Thượng phụ thay mặt ta đãi yến Ngự đệ.
Tử Nha tâu:
– Lôi Chấn Tử không dám ăn mặn, xin đại vương cho ở với tôi thì tiện hơn.
Võ Vương y tấu, Lôi Chấn Tử và Thừa Tướng từ tạ về dinh.
Nói về Văn Thái Sư bại binh chạy cách núi Kỳ Sơn bảy mươi dặm mới đám dừng lại kiểm điểm tàn quân, thấy binh sĩ hao quá hai muôn.
Văn Thái Sư than:
– Ta đánh giặc đã lâu năm, chưa hề bại binh. Nay tình thế như vầy, ta muốn triệu tướng khác đem binh tiếp cứu, ngặt vì sai tướng thì không lấy ai trấn ải.
Giận quá, Văn Thái Sư trợn con mắt giữa hào quang sáng lòa.
Kiết Lộc thưa:
– Xin Thái Sư chớ lo, đạo hữu trong núi non còn rất nhiều, tài năng mưu trí không ai có thể lường được, chúng ta chỉ cứ thỉnh một vài vị đến trợ chiến thì có thể thành công.
Văn Thái Sư ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:
– Ngươi tính điều ấy rất phải.
Nói rồi truyền Ðặng Trung, Tân Hoàn giữ trại, một mình cỡi hắc kỳ lân bay thẳng ra biển Ðông, tìm đến Kim Ngao đảo.
Văn Thái Sư bay một hồi thấy non cao cảnh lạ, biển rộng, rừng xanh, lòng già lại mến miền yên tịnh, liền cất tiếng than:
– Ta chịu ơn Tiên vương phó thác, hằng lo việc nước, biết ngày nào thanh bình để trở về núi non ngồi trên bàn thạch, tụng kinh huỳnh đình cho thỏa lòng ao ước.
Văn Thái Sư đến Kim Ngao đảo, bước xuống Kỳ lân, không thấy bóng một ngươi nào qua lại, các cửa động đều đóng chặt và vắng tanh.
Cảnh hoang vu ấy làm cho Văn Thái Sư ngao ngán, không hiểu vì cớ nào chốn tu hành lại thay đổi?
Trầm ngâm một lúc Văn Thái Sư định sang núi khác, nhưng mới vừa bước lên lưng kỳ lân, bỗng nghe cô tiếng người ở sau lưng kêu lớn:
– Ðạo huynh đi đâu vậy?
Văn Thái Sư nhìn lại thấy Ham Chi tiên cô liền bái dài và hỏi:
– Sao tiên cô có mặt nơi đây? Chốn này tại sao lại trở thành hoang vu như vậy?
Ham Chi tiên cô mỉm cười, nói:
– Cũng vì đạo huynh mà các đạo hữu đều bỏ động hết.
Văn Thái Sư ngạc nhiên, trố mắt hỏi:
– Tại sao vậy?
Ham Chi tiên cô nói:
– Hiện nay các Ðạo hữu quyết lòng theo giúp đạo huynh, nên bỏ động cùng nhau đến tại Bạch Lộc đảo tập luyện trận đồ. Trước đây, Thân Công Báo có đến thỉnh chúng tôi, và tin cho tất cả giáo phái của chúng ta đồng biết. Các giáo phái của chúng ta đã họp mặt và đồng ý qua Tây Kỳ giúp đạo huynh.
Văn Trọng nghe nói mừng rỡ, nói:
– Thế thì hiện giờ tất cả các đạo hữu đang có mặt tại Bạch Lộc đảo sao?
Ham Chi tiên cô nói:
– Ðúng vậy! Ðạo huynh đến đó thì gặp.
Văn Trọng lại hỏi:
– Còn Tiên cô sao lại ở đây?
Ham Chi tiên cô nói:
– Tôi bây giờ đang luyện một phép trong lò bát quái chưa xong, ít hôm nữa tôi cũng qua đó.
Văn Thái Sư mừng rỡ từ giã Ham Chi tiên cô thẳng đến Bạch Lộc đảo quả thấy một số đông đạo sĩ, kẻ bịt khăn chữ nhật, người chừa vá âm dương, kẻ đội mão bạc, mão vàng, bao đánh xanh, người đội mão đuôi cá ngồi trên bàn thạch nói chuyện với nhau.
Văn Thái Sư kêu lớn:
– Các đạo huynh thật thanh nhàn lắm!
Các đạo sĩ thấy Văn Thái Sư đến, đồng đứng dậy chào hỏi:
Tân Hoàn đừng trước, lên tiếng:
– Chúng tôi biết Văn đạo huynh kéo binh chinh phạt Tây Kỳ có lòng lo. Vì trước đây Thân Công Báo có đến thỉnh anh em chúng tôi trợ chiến. Thân Công Báo lại tổ chức một cuộc họp mặt các quần tiên, non một ngàn người trong giáo phái đều đồng ý ra tài. Riêng chúng tôi có mười người ở Kim Ngao đảo họp nhau luyện trận Thập Tuyệt, để sau này dùng đến. Hôm nay trận tập đã xong, thì may mắn gặp được đại huynh.
Văn Thái Sư hỏi:
– Trận Thập Tuyệt ý nghĩa làm sao?
Tân Hoàn nói:
– Thập Tuyệt gồm có mười trận, do mười chúng tôi lập ra. Những cái huyền diệu không thể nói hết được. Nay mai tới Tây Kỳ anh sẽ thấy.
Văn Thái Sư hỏi:
– Sao ở đây có chín anh em, còn một người nữa đâu vắng.
Tân Hoàn nói:
– Còn Kim Quang Thánh mẫu hiện đi qua Bạch Vân đảo luyện trận Kim Quang, vậy nên không đủ số.
Ðồng Toàn nói:
– Trận Thập Tuyệt chúng ta đã tập xong, vậy thì chúng ta cứ đi trước sang Tây Kỳ, để Văn Thái Sư ở lại đây đợi Kim Quang Thánh mẫu về, rồi đi sau cũng được.
Văn Thái Sư nói:
– Như quí vị đạo huynh có lòng thương tôi như vậy tôi rất cảm ơn.
Chín vị đạo sĩ giã từ Văn Thái Sư, đồng độn thủy qua Tây Kỳ một lượt.
Có bài thơ rằng:
Dạo khắp bầu trời nội nửa trăng
Ðông Tây Nam Bắc dễ ai bằng
Phép tiên độn thủy nhanh như chớp
Giết tướng thâu thành khó cản ngăn.
Chín vị tiên đi rồi, Văn Thái Sư ngồi trên bàn thạch đợi không đầy một giờ, đã thấy một vị tiên cô cỡi ngựa có vằn, đầu đội mão đuôi cá, mình mặc áo bát quái đỏ, lưng nịt dây tơ, vai mang túi của beo, tay cầm song kiếm từ phía Nam phi ngựa tới như gió, thẳng đến hướng Bạch Lộc.
Gần đến nơi, tiên cô không thấy bọn mình, lại thấy đạo sĩ râu mọc năm chồm, có ba con mắt da mặt vàng ngoắt, mặc áo đỏ ngòm, tiên cô xem rõ biết là Thái Sư Văn Trọng, vội xuống ngựa chào mừng.
Văn Thái Sư đáp lễ và nói:
– Kính mừng Kim Quang Thánh mẫu. Tôi đợi Thánh mẫu ở đây đã lâu.
Kim Quang Thánh mẫu nói:
– Chín vị đạo huynh ở đây đi đâu hết?
Văn Thái Sư đáp:
– Chín vị ấy đã đi trước sang Tây Kỳ, đặn tôi ở nán lại đây chờ Thánh mẫu.
Kim Quang Thánh mẫu nói:
– Thế thì chúng ta cũng đi cho kịp.
Nói rồi kẻ cỡi ngựa, người cỡi kỳ lân thẳng đến Tây Kỳ lập tức.
Chẳng bao lâu Văn Trọng và Kim Quang Thánh mẫu cũng theo kịp quý vị đạo sư về trước trại.
Kiết Lộc và các tướng hay tin đồng ra khỏi dinh nghênh tiếp.
Tân Hoàn hỏi Văn Trọng:
– Thành Tây Kỳ cách đây bao xa?
Văn Trọng nói:
– Bởi hôm trước tôi bại binh nên phải chạy đến chốn này đồn trú. Nơi ấy là núi Tây Kỳ, cách đây bảy mươi dặm.
Các đạo sĩ đều nói:
– Vậy thì chúng ta đồng kéo binh đến bên thành để áp đảo địch quân.
Văn Thái Sư theo lời, truyền Ðặng Trung đi tiền đạo. Phát pháo tấn binh đến trước thành Tây Kỳ hạ trại.
Bấy giờ Tử Nha đang vui đắc thắng, cùng các tướng chuyện trò bỗng nghe quân tướng ó vang trời, Tử Nha nói:
– Chắc là Văn Thái Sư viện được binh các ải, kéo đến báo thù.
Dương Tiển thưa:
– Văn Thái Sư bại trận đã nửa tháng nay, bây giờ lại hăm hở kéo tới, tôi nghe Văn Thái Sư là người Triệt Giáo, thế nào cũng thỉnh Tà đạo bàng môn đến trợ giúp. Xin Thừa Tướng đề phòng.
Tử Nha nghe nói cũng nghi ngờ, đồng kéo lên mặt thành xem thử. Quả nhiên thấy dinh trại Thái Sư khác xưa nhiều lắm, hào quang sáng rực, gió dữ rạt rào, khí bốc trùng trùng, mây giăng mịt mịt lại có khói đen mười ngọn, lên thấu nửa lừng.
Tử Nha xem thấy kinh hãi, các tướng đều cau mặt làm thinh.
Ai nấy lặng lẽ xuống dinh, không nói với nhau một lời nào nữa.
Lúc này Văn Thái Sư ngồi nơi đại trại, cùng với mười vị đạo sĩ bàn kế phá Tây Kỳ.
Viên Giác nói:
– Tôi nghe Tử Nha là học trò ông Nguyên Thỉ, ở núi Côn Lôn. Nhưng dù tu đạo nào cũng gồm vào một lý. Trước đây hội quần tiên, Thân Công Báo có nói cung Ngọc Hư ỷ mình Xiển Giáo, chê Triệt Giáo chúng ta là Tà đạo, có ý tìm cách áp chế để sai khiến, lấy quyền phép của mình làm xáo trộn thế gian, rồi bảo đó là lý số trời đất. Xét ra lời nói đó chỉ là một ngụy biện để giành ảnh hưởng cho giáo hội mình, mà Triệt Giáo chúng ta không thể nào cúi đầu tuân theo mệnh lệnh của họ được. Ðã là kẻ tu hành sao lại có chân tu và tà tu. Sao lại có đạo cao đạo thấp? Sao lại có đạo này muốn sai khiến đạo khác? Nay chúng ta đã sẵn có mười trận này thì cứ cùng nhau đấu phép, xem cái chính đạo của Xiển Giáo lợi hại đến bực nào cho biết.
Văn Thái Sư khen phải, liền khiến Ðặng Trung giàn binh bố trận theo kế hoạch đã định.
Rạng ngày, Văn Thái Sư cỡi Ngọc kỳ lân, đến trước cửa thành, mời Tử Nha ra nói chuyện.
Quân vào báo, Tử Nha dẫn tướng kéo binh hai ngàn, cờ chia năm sắc, ra khỏi cửa thành, thấy Văn Trọng cầm roi vàng đứng trước, chín vị đạo sĩ theo sau, trong đó có một vị đạo cô mặt đẹp như hoa, mắt sáng ngời ngồi trên lưng ngựa. Còn tám vị đạo sĩ kia kẻ mặt xanh, mặt đỏ, người mặt vàng, tướng mạo phi thường, đều ngồi trên lưng quái thú.
Tân Hoàn giục hươu tới, dùng lễ xá Tử Nha một cái và hỏi:
– Chúng tôi xin chào đạo huynh.
Tử Nha cũng trả lễ và hỏi:
– Chẳng hay các vị đạo huynh ở núi nào, động nào mới đến?
Tân Hoàn nói:
– Tôi là Tân Hoàn và tám anh em chúng tôi đồng ở Kim Ngao đảo, và ông là người Côn Lôn, đệ tử cung Ngọc Hư, thuộc về Xiển Giáo, lấy đạo đức mà răn lòng, lấy chính lý mà tu nguyện, tại sao các ông lại khinh Triệt Giáo của chúng tôi là tà đạo, muốn dùng quyền lực mà sai khiến chúng tôi, tưởng như vậy có thể gọi là chánh đạo được không?
Khương Tử Nha nói:
– Chúng tôi đã làm gì mà các ông gọi là khi dễ?
Tân Hoàn nói:
– Không cần chối cãi. Thân Công Báo đi khắp năm non bốn bể, kể rõ tư tưởng của Xiển Giáo khinh dễ Triệt Giáo của chúng tôi, giáo hội chúng tôi ai nấy đều ngậm hờn, uất hận. Vừa rồi đạo huynh lại giết bốn dòng họ Ma ở Giai Mộng, và bốn vị đạo sĩ của phái chúng tôi ở Cửu Long đảo, có phải là các ông đã khiêu khích chúng tôi hay không? Giáo phái các ông cho mình là chính đạo, thế mà cho người gây việc đao binh, hại mạng sinh linh, gây nhiều ác sát. Chúng tôi bị các ông chê là tà đạo, nhưng không bao giờ chủ trương gây khổ ải cho nhân loại như vậy. Nếu các ông có tài thì cứ cũng chúng tôi tranh phép thuật, không cần dụng đến đao binh. Hãy để riêng những người trần thế ra, họ không tội gì mà bắt họ phải chết vì chúng ta vô ích.
Khương Tử Nha nói:
– Ðạo huynh phép mầu, đức trọng, học rộng, trí dày, lẽ nào không thông hiểu huyền cơ vũ trụ. Nay Trụ vương lỗi đạo bỏ việc kỷ cang, khí số Thành Thang mờ mịt, còn Võ vương là vua Thánh Tây Kỳ phước đức chói ngời, lẽ nào lập không hướng phần vinh hiển. Chúng tôi thuận theo lòng trời, thuận theo lòng người, phò Châu diệt Trụ đó là chính lý. Còn Ma gia tứ tướng và bốn vị đạo sĩ Cửu Long đảo đi nghịch với lý số trời đất, nên phải diệt vong.
Tân Hoàn nói:
– Cái mà các ông gọi là lý số trời đất chẳng qua là một tấm chiêu bài để các ông dùng nó sai khiến kẻ khác, làm xáo trộn nhân gian. Chúng tôi thừa nhận vua Châu nhân đạo, vua Trụ bạo tàn. Nhân đạo bao giờ cũng thắng bạo tàn. Nhưng trừng trị kẻ bạo tàn không phải dùng chiêu bài của mình làm cho nhân gian chịu tai biến. Các ông lấy đạo đức răn mình, mà trị một ông vua bạo tàn, các ông gây thành binh biến, chém giết sinh linh không biết bao nhiêu mà kể. Sinh linh nào có tội gì? Họ đã khổ vì một ông vua mà còn khổ vì hành động gây rối của các ông nữa. Chủ trương như vậy, các ông dám tự cho mình là chân chính sao?
Tử Nha nói:
– Máy tạo nhiệm mầu, làm sao nói cho hết được. Thuận theo khí số của trời đất, chẳng những một ông vua tàn bạo bị tiêu trừ, mà tất cả những ai chống lại chính lý đều phải bị tiêu trừ như vậy cả. Mọi trầm luân khổ ải, mọi sinh diệt trong trời đất đều phát sinh ở chính lý mà ra. Tôi vâng lệnh cung Ngọc Hư không thể làm khác hơn được.
Tân Hoàn nói:
– Thôi, dầu các ông có cho chúng tôi là tà đạo nghịch thiên nghịch địa gì cũng được, chúng tôi không cãi làm gì, và chúng tôi cũng không muốn cuộc đua tài giữa chúng tôi với các ông tổn thương đến sinh mạng của muôn dân. Chúng tôi có mười trận pháp, sẽ lập cho các ông xem, nếu các ông liệu phá được thì phá, không phá nổi thì nói cho chúng tôi biết, đừng bắt người trần tục phải liều mình thác oan.
Tử Nha nói:
– Quý vị đã nói như vậy, chúng tôi đâu dám cãi.
Mười vị đạo sĩ nghe Tử Nha thuận tình phá trận đồng lui về bố trí một hồi xong xuôi.
Tân Hoàn lại giục hươu đến trước cửa thành gọi Tử Nha nói:
– Bần đạo lập trận rồi, đạo hữu hãy đến xem thử.
Tử Nha liền dắt Na Tra, Hoàng Thiên Hóa, Lôi Chấn Tử, Dương Tiển đồng đến xem trận.
Bấy giờ Thái Sư Văn Trọng đứng ngoài cửa trận để xem thái độ của Tử Nha.
Dương Tiển gọi Tân Hoàn nói:
– Chúng tôi vào xem trận, các ông chớ nên dùng phép báu mà hại chúng tôi. Như vậy mới đúng trượng phu.
Tân Hoàn nói:
– Mặc dầu các ông cho chúng tôi là Bàng môn tả đạo, chúng tôi vẫn không bao giờ có hành động tiểu nhân như vậy đâu. Ðừng quá khinh người, và cũng đừng sợ hãi một cách vô ích như vậy
Na Tra thấy Tân Hoàn khéo miệng như vậy tức giận xen vào:
– Lời nói chẳng ai tin, hành động sẽ chứng tỏ ai là quân tử.
Bốn tướng phò Tử Nha vào xem đủ mười trận, thấy mỗi trận đều treo một tấm bản để ba chữ:
1. Thiên Tuyệt trận.
2. Ðịa Liệt trận.
3. Phong Hầu trận.
4. Hàn Băng trận.
5. Kim Quang trận.
6. Hỏa Huyết trận.
7. Li Diệm trận.
8. Lạc Hồn trận.
9. Hồng Thủy trận.
10. Hồng Sa trận.
Tử Nha và bốn tướng cạnh xem khắp nơi, rồi kéo nhau ra ngoài.
Tân Hoàn hỏi:
– Tử Nha biết mười trận ấy không?
Tử Nha nói:
– Mười trận quí vị vừa lặp tôi đã rõ hết.
Tân Hoàn hỏi:
– Tuy đã biết rõ mà liệu dám phá trận không?
Tử Nha nói:
– Chúng tôi cũng học phép tiên, lẽ nào không phá được?
Viên Giác đứng sau xen vào hỏi:
– Chừng nào đạo huynh mới phá trận?
Tử Nha nói:
– Mười trận ấy chỉ mới là hình thức, chưa được hoàn thành. Ðợi chừng nào quí vị lập xong, tôi sẽ đến phá. Bây giờ xin giã biệt.
Dứt lời, Tử Nha dẫn bốn tướng vào thành, còn mười vị đạo sĩ cũng dẫn nhau vào dinh.
Tử Nha vào thành ngồi ôm đầu buồn bã, Dương Tiển thấy vậy bước đến hỏi:
– Khi nãy sư thúc xem các trận ấy thế nào?
Tử Nha nói:
– Mười trận ấy do Triệt Giáo chế ra phép màu báu lạ, ta chưa từng thấy bao giờ.
Dương Tiển nói:
– Sao sư thúc nói với chúng nó là sư thúc đã rõ hết, và hẹn ngày phá trận.
Tử Nha nói:
– Tuy không biết, song ta không thể để mất thể diện Xiển Giáo chúng ta trước mặt mọi người.