Hồi 64: La Tuyên nổi lửa đốt Tây Kỳ

Ân Giao nghe quân vào báo:

– Có một vị đạo trưởng mời điện hạ ra trước dinh.

Ân Giao nghĩ thầm:

– Chắc sư phụ ta đến đó rồi.

Liền nai nịt cỡi ngựa ra, thấy Quảng Thành Tử đang đứng chờ, Ân Giao cúi đầu thưa:

– Ðệ tử mang giáp trong mình, làm lễ không trọn xin thầy tha cho.

Quảng Thành Tử thấy Ân Giao mặc vương phục, nổi giận hét:

– Súc sanh! Ngươi thề trên núi với ta như thế nào mà bây giờ ngươi trở lòng như vậy?

Ân Giao khóc và nói:

– Xin sư phụ cho phép con thưa vài lời. Con đã thề với sư phụ chẳng bao giờ dám đổi ý. Khi xuống trần con có gặp Mã Thiện và Ôn Lương, sau đó lại gặp Thân Công Báo khuyên con phò Trụ. Tuy nhiên con không kể lời ấy, vì biết cha mình là người bạo ngược, mắc tội với thiên hạ đã nhiều. Con chỉ hận có một điều là Tử Nha đem Thái Cực Ðồ đốt Ân Hồng là em trai con thành tro bụi. Em con thù oán gì, mà Tử Nha đối xử như vậy? Sư phụ bảo con phải theo phò kẻ thù, đánh lại cha con, thì dù lòng con có là đất đá, không biết tri giác, cũng không thể nhịn nổi. Thầy hiểu cho tâm trạng con.

Quảng Thành Tử nói:

– Ngươi không rõ, Thân Công Báo là kẻ thù của Tử Nha nên kiếm lời nói gạt. Chuyện ấy do em ngươi liều lĩnh, không chịu nghe lời thầy, và cũng do số trời định cả.

Ân Giao mỉm cười cay đắng:

– Xin sư phụ nghĩ lại. Con không kể lời nói của Thân Công Báo làm gì. Chẳng lẽ em con tự nhiên chạy vào Thái Cực Ðồ cho chết hay sao? Còn số trời định thì số trời có bảo Tử Nha đem Thái Cực Ðồ giết em con không? Tại sao Tử Nha tạo ra chuyện ác tâm như vậy? Rồi bảo là do trời định? Nay lòng con thảm thiết quá, không thể nào khác hơn là giết Tử Nha để rửa hận. Xin thầy về núi nghỉ ngơi, để con liều mình giết Tử Nha rồi sẽ đầu Châu lấy năm ải.

Quảng Thành Tử nói:

– Ngươi không nhớ lời thề của ngươi hay sao?

Ân Giao nói:

– Ðệ tử nào không nhớ, song chết vì lời thề cũng đành, sống làm chi một mình cho đời thêm tủi nhục.

Quảng Thành Tử nỗi giận chém một gươm.

Ân Giao đưa kích ra đỡ và nói:

– Sư phụ bênh Tử Nha, không kể đến nghĩa thầy trò, sao gọi là nhân đạo, thiên đạo?

Quảng Thành Tử chém tiếp một gươm nữa. Ân Giao cũng đỡ ra và nói:

– Sư phụ cố tình buộc con vào thế bí, phải mang tiếng thất lễ với thầy ư? Sư phụ muốn có một đứa đệ tử hèn hạ, quên tình cha con, anh em theo phò một kẻ thù không?

Quảng Thành Tử nói:

– Ấy là số trời đã định. Nếu ngươi không biết ăn năn hối cải thế nào cũng uổng công ta dạy dỗ.

Ân Giao nói:

– Nếu trời bắt con phải bỏ thù em, bỏ hiếu cha, để cúi đầu vâng theo mệnh lệnh của một kẻ giết em, đánh cha mình thì thà con cãi lại mệnh trời để bị bỏ xác còn hơn.

Quảng Thành Tử nổi giận chém bồi một gươm nữa, Ân Giao khóc lớn:

– Thầy đã không tưởng tình thầy trò, thì đệ tử làm saogiữ được đạo kính vì. Thôi thì đành chịu làm đứa thất phu vậy.

Nói rồi đâm Quảng Thành Tử một kích.

Quảng Thành Tử cũng hét lên một tiếng, hai thầy trò đánh nhau một lúc.

Ân Giao liền móc túi lấy Phiên Thiên Ấn quẳng lên.

Quảng Thành Tử kinh hãi, biết Phiên Thiên Ấn là một báu vật lợi hại, liền hóa ra hào quang bay về thành.

Trước đây Quảng Thành Tử trao Phiên Thiên Ấn cho Ân Giao đi đánh giặc, không ngờ Ân Giao lại dùng chính Phiên Thiên Ấn đánh thầy.

Quảng Thành Tử chạy vào thành, mặt mày buồn xo, Tử Nha trông thấy hỏi:

– Ân Giao đã chịu phép chưa?

Quảng Thành Tử nói:

– Nó bị Thân Công Báo mê hoặc, tôi khuyên không được, nổi giận chém nó vài gươm, nó lấy Phiên Thiên Ấn ném trả nên tôi phải chạy về đây.

Tử Nha không rõ Phiên Thiên Ấn là báu vật lợi hại như thế nào mà Quảng Thành Tử phải kinh hãi như vậy thì có quân vào báo:

– Có Nhiên Ðăng đại sư đến.

Tử Nha và Quảng Thành Tử ra cửa rước vào, Nhiên Ðăng nói:

– Cái đèn lưu ly của tôi nó cũng đi khuấy ông thật là thiên số.

Tử Nha nói:

– Trời khiến sao chịu vậy, biết trốn vào đâu.

Nhiên Ðăng nói:

– Ân Giao là chuyện lớn, còn Mã Thiện là chuyện nhỏ, để bần đạo thâu Mã Thiện về cho rảnh rang rồi sẽ tính đến việc Ân Giao.

Tử Nha nói:

– Xin tuân theo ý kiến quyết định của đạo trưởng.

Nhiên Ðăng nói:

– Muốn bắt Mã Thiện, ngươi phải làm kế này giúp ta mới được.

Liền kề tai dặn nhỏ Tử Nha một hồi, Tử Nha vâng lời cầm roi, lên lưng Tứ Bất Tướng, đến trước cửa trại Thương kêu lớn.

– Mã Thiện hôm nay ta quyết chém đầu ngươi.

Quân vào báo lại Ân Giao nghĩ thầm:

– Hôm qua sư phụ ta vừa bỏ chạy, nay lại Tử Nha đến khiêu chiến một mình, e chúng lập mưu giết ta như giết Ân Hồng trước kia chăng?

Nghĩ rồi sai Mã Thiện ra trận xem thử thế nào.

Mã Thiện tuân lệnh cầm thương ra trận, thấy Tử Nha vểnh râu chửi mắng.

Mã Thiện nói:

– Thằng già hỗn quá! Sao dám chửi ta nhiều lời như vậy?

Tử Nha nói:

– Ngươi có tài phép chém không bay đầu, ta chửi một chập cho ngươi mất đầu chơi.

Mã Thiện giận quá, khua đao tới chém, Tử Nha đánh được ít hiệp rồi bỏ chạy về hướng Nam, Mã Thiện dừng ngựa không đuổi theo, Tử Nha thấy vậy quay ngựa lại chửi nữa. Mã Thiện giận quá chịu không nổi, quất ngựa đuổi theo. Chừng hai dặm đường đến một cội dương, Mã Thiện không thấy Tử Nha đâu, thấy một đạo sĩ bước ra chặn mặt, nói:

– Mã Thiện, ngươi biết ta chăng?

Vì Nhiên Ðăng làm phép ẩn mặt nên Mã Thiện không biết, liền đâm Nhiên Ðăng một giáo.

Nhiên Ðăng lấy đèn lưu ly trong tay áo quăng lên, Mã Thiện xem lại biết là thầy mình, kinh hãi ẩn mình không kịp, bị đèn lưu ly hút vào.

Nhiên Ðăng cười lớn, sai Huỳnh Cân lực sĩ đem đèn về núi trước.

Bấy giờ quân thua chạy về báo với Ân Giao:

– Mã tướng quân theo đuổi Tử Nha thấy một luồng hào quang xông lên, rồi Mã tướng quân biến mất chỉ còn con ngựa mà thôi!

Ân Giao nghe nói lấy làm lạ, liền dẫn quân đến thành khiêu chiến.

Tử Nha liền mời Nhiên Ðăng và Quảng Thành Tử đến thương nghị.

Nhiên Ðăng hỏi Quảng Thành Tử:

– Ân Giao bị Thân Công Báo xúi giục làm loạn, nay đạo huynh tính lẽ nào?

Quảng Thành Tử nói:

– Tôi trao hết báu vật cho nó rồi, nay không biết cách nào để thu hồi lại.

Bỗng có quân vào báo nữa:

– Ân Giao gọi quyết tên Thừa Tướng ra trận.

Tử Nha sợ Phiên Thiên Ấn, không biết có nên xuất trận hay không.

Nhiên Ðăng nói:

– Tử Nha có Hạnh Huỳnh Kỳ vật che thân rất bảo đảm, Phiên Thiên Ấn làm gì được mà lo.

Tử Nha nghe lời liền dẫn quân ra thành nói với Ân Giao:

– Ân Giao! Ngươi cãi lời thầy dạy, không nhớ lời thề thế nào cũng bị lưỡi cày đâm trúng bụng. Nếu thuận theo ta, xuống ngựa hàng đầu may ra thoát nạn.

Ân Giao cười lớn:

– Nếu ta theo phò ngươi mà tránh lời thề thì ta chết còn hơn. Ngươi tàn nhẫn đốt em ta ra thành tro bụi, thù ấy ta quyết không đội trời chung.

Nói rồi đâm Tử Nha một kích.

Tử Nha đưa gươm báu ra đỡ.

Hai người đánh với nhau một hồi, Ôn Lương xông vào trợ chiến, Na Tra đón lại giao công.

Ôn Lương quăng Bạch Ngọc hoàn đánh Na Tra, Na Tra quăng Càn Khôn Quyện lên nghe một tiếng chát tai.

Bạch Ngọc hoàn vỡ vụn, nát như tro.

Ôn Lương hét lớn:

– Ngươi phá phép báu của ta, ta không thể dung ngươi được.

Nói rồi hỗn chiến với Na Tra. Na Tra quăng Kim chuyên lên đánh nhằm lưng Ôn Lương gần sa xuống đất.

Dương Tiễn thừa thế bắn Ôn Lương một viên đạn bể đầu chết tốt.

Ân Giao thấy Ôn Lương bị chết, nổi giận ném Phiên Thiên Ấn lên đánh Tử Nha.

Tử Nha thất kinh, xổ Hạnh Huỳnh Kỳ ra, lập tức muôn đạo hào quang chiếu sáng loà, hàng ngàn bông sen rơi xuống, che chở khắp mình Tử Nha, Phiên Thiên Ấn không dám rơi xuống.

Tử Nha liền quăng roi Ðả Thần Tiên lên, đánh trúng lưng Ân Giao, Ân Giao sa xuống ngựa, Dương Tiễn bước tới chém đầu, may nhờ Trương Sơn, Lý Cẩm lanh tay đỡ thương.

Ân Giao độn thổ chạy mất.

Tử Nha thắng trận thâu quân về thành, Nhiên Ðăng nói với Quảng Thành Tử:

– Phiên Thiên Ấn khó thu về được, mà ngày bái tướng đăng đàn của Tử Nha gần đến, nếu để trễ tội của đạo huynh không tránh khỏi.

Quảng Thành Tử nói:

– Xin đạo trưởng tìm kế gì trừ nó kẻo tôi mắc tội oan.

Nhiên Ðăng nói:

– Ở đây không có phép gì trị được nó biết tính làm sao?

Quảng Thành Tử ngồi làm thinh buồn bã.

Lúc này Ân Giao cũng về dinh, trong người đau đớn vì vừa bị một roi chí tử, không biết làm cách nào giết Tử Nha để trả thù cho Ân Hồng.

Bỗng có quân vào báo:

– Có một đạo sĩ xin vào ra mắt.

Ân Giao truyền mời thì thấy một vị đạo sĩ mặt đỏ như trái táo, râu tóc cũng đỏ hoe mình mặc áo đỏ, đội mão đuôi cá, bước đến xá Ân Giao.

Hỏi ra thì hay đó là La Tuyên ở Hỏa Long động, hiệu là Diêm Trung tiên. Do Thân Công Báo đến thỉnh cầu nên đến giúp Ân Giao.

Ân Giao mừng rỡ vô cùng, dọn tiệc đãi đằng.

La Tuyên nói:

– Bần đạo lâu nay ăn chay đã quen nên không dùng đồ mặn.

Ân Giao truyền đem cơm chay đãi La Tuyên rất hậu.

La Tuyên ở lại dinh đã ba hôm mà không nhắc gì đến việc giao tranh.

Ân Giao hỏi:

– Ðạo trưởng đến giúp tôi sao không tính kế đánh Khương Tử Nha.?

La Tuyên nói:

– Ta có hẹn với một người bạn. Ðợi người ấy đến đây rồi tính ra binh cũng chẳng muộn.

Ngày hôm sau quân vào báo:

– Có một đạo sĩ tìm đến trước cửa dinh.

Ân Giao và La Tuyên truyền ra nghinh tiếp, thấy đạo nhân này mọc râu quai nón, mặt vàng, thân thể vạm vỡ.

Ân Giao liền mời ngồi và tiếp đãi rất hậu.

La Tuyên hỏi đạo sĩ:

– Vì sao hiền đệ đến trễ vậy?

Ðạo sĩ đáp:

– Tiểu đệ cần luyện thêm một phép nữa cho hoàn bị rồi mới đến đây hiệo lực với sư huynh.

Ân Giao hỏi:

– Chẳng hay nhị đạo sư danh hiệu là gì?

Ðạo sĩ mới đến đáp:

– Bần đạo là Lưu Hoàn ở Cửu Long đảo.

Ân Giao truyền dọn tiệc đãi đằng hai vị đạo sư rất hậu.

Rạng ngày La Tuyên và Lưu Hoàn đến trước thành Tây Kỳ kêu quân mời Tử Nha ra nói chuyện.

Quân vào báo, Tử Nha dẫn quân ra ngoài thành, thấy La Tuyên khác thường, liền nói với các đồ đệ:

– Người này xem chẳng khác cục lửa đỏ.

Các đồ đệ thưa:

– Ðạo Triệt giáo nhiều người dị tướng, trông mà ghê.

La Tuyên giục ngựa tới hỏi:

– Ngươi phải Khương Tử Nha chăng?

Tử Nha nói:

– Phải. Còn đạo huynh từ đâu đến, xin cho biết danh hiệu?

La Tuyên nói:

– Ta là La Tuyên, hiệu Diêm Trung Tiên ở Hỏa Long đảo, bởi ta nghe ngươi ỷ tài phép cung Ngọc Hư làm nhục Triệt giáo ta nhiều lắm, nên ta phải đến đây tranh tài cao thấp. Ta thiết tưởng chỉ cần ta và ngươi tranh tài mà thôi, đừng sai học trò nhỏ ra múa men làm gì cho mất công, uổng mạng.

Nói rồi liền chém tới một gươm, Tử Nha múa gươm xông vào giao đấu.

Ðánh được một lúc, Na Tra nổi nóng xông vào, Lưu Hoàn bước ra cản lại.

Dương Tiễn, Hoàng Thiên Hóa, Lôi Chấn Tử, Thổ Hành Tôn, Vi Hộ đồng áp tới trợ chiến với Tử Nha, La Tuyên đỡ không kịp, chuyển mình một cái biến thành ba đầu sáu tay cự với các tướng.

Ðánh một hồi, La Tuyên đập Hoàng Thiên Hóa một bánh xe nhào xuống đất, Kim Tra và Mộc Tra vội lướt tới cứu Hoàng Thiên Hóa đem về thành.

Tử Nha quăng Ðả Thần Tiên lên đánh La Tuyên gần hạ mã, vội độn thổ trốn mất.

Còn Na Tra quăng Càn Khôn Quyện đánh Lưu Hoàn đổ hào quang.

Lưu Hoàn thất kinh lui về trại.

Trương Sơn khi ấy lược trận, quan sát thấy sức mạnh của các tướng Châu vô cùng lợi hại, nên thở dài:

– Cơ nghiệp Thành Thang sau này thế nào cũng về tay Võ Vương rồi.

Khi Trương Sơn trở vào dinh thì Lưu Hoàn và La Tuyên cũng về đến, người nào bộ tướng cũng xơ rơ, La Tuyên ân cần tiếp đãi và tìm lời an ủi.

La Tuyên nói:

– Vì ta vô ý bị Tử Nha đánh một roi gần hạ mã.

Liền lấy thuốc trong bầu ra uống, và nói với Lưu Hoàn:

– Ta không muốn giết nhiều mạng, thế mà chúng nó quyết tranh tài, biết làm sao? Ðêm nay ta sẽ đốt hết thành Tây Kỳ, không để sống sót một tên lính nào thì chúng nó mới thấy được phép thuật màu nhiệm của ta.

Lưu Hoàn nói:

– Nếu không trổ tài chúng tưởng thế gian này chỉ có Xiển giáo là thần thông hơn hết.

Ðêm ấy vào lối canh ba, La Tuyên và Lưu Hoàn lấy Vạn Lý Vân Yên là thứ tên lửa, đem ra bắn mù mịt vào thành Tây Kỳ, lửa dậy phừng phừng.

Thầy trò Tử Nha thấy thắng trận không đề phòng, đến chừng bá tánh trong thành kêu la mới hay.

Nhiên Ðăng và Quảng Thành Tử đồng ra ngoài quan sát.

Riêng Võ Vương thấy lửa thất kinh, quỳ dưới đất lạy trời van vái rằng:

– Cơ Phát có tội nên trời trừng phạt thế này, xin đốt toàn gia quyến tôi mà thôi còn bá tánh xin dung tha kẻo tội.

Võ Vương vừa vái vừa khóc òa, nhưng lửa mỗi lúc mỗi cháy dữ hơn biến thành Tây Kỳ thành một hòn núi lửa cao ngất.

La Tuyên và Lưu Hoàn chưa hài lòng, còn làm phép đổ cả bầy quạ lửa cả muôn con bay vào đốt khắp thành, còn trên không trung thì sai hai con rồng lửa phun lửa xuống.

Thật là một trận chiến ác liệt. Nhân dân thành Tây Kỳ kinh khiếp.

Bấy giờ Long Kiết Công chúa tại núi Phụng Hoàng đã có lòng giúp Tử Nha đánh Trụ, nay thấy La Tuyên hóa phép dữ đốt thành, liền thừa dịp này chữa lửa làm ơn, liền sai Bích Vân đồng nhi quăng lưới Vụ Lộ càn khôn mà bắt bầy quạ lửa. Vụ Lộ là sương mù, thuộc thủy, khi bủa ra thì bầy quạ lửa sa vào chết hết, nên lửa tắt tức thì.

La Tuyên không rõ nguyên nhân nào mà bầy quạ lửa biến mất hết, nhìn lên trời cao thấy một vị tiên cô đang cỡi loan xanh, mặc áo đỏ đầu đội mão đuôi cá, nhan sắc thoát trần, liền kêu lớn:

– Ai cỡi chim loan đó? Sao dám bắt quạ lửa của ta?

Long Kiết công chúa cười lớn:

– Ta là Long Kiết công chúa, ngươi tài phép bao nhiêu mà dám sanh ác tâm như vậy? Ngươi nên xa lánh chốn này kẻo mang họa.

La Tuyên nổi giận quăng bánh xe Ngũ Long lên.

Long Kiết công chúa cười lớn:

– Phép tắc ngươi chỉ chừng đó thôi sao?

Nói rồi lấy bình Tứ Hải đưa ra, thâu bánh xe vào đó, tức thì rồng lửa ra biển.

La Tuyên nổi giận lấy tên lửa bắn Long Kiết công chúa.

Long Kiết công chúa dùng Nhị Long kiếm phóng lên, chém Lưu Hoàn đứt làm hai khúc.

La Tuyên thấy bạn mình bị hại, hiện ba đầu sáu tay, lấy ấn Chiếc Thiên quăng công chúa.

Long Kiết cầm gươm chỉ một cái, ấn sa xuống tức thì, rồi quăng luôn gươm nhị long lên.

La Tuyên biết cự không lại, giục ngựa Xích yên chạy dài.

Gươm Nhị long bay theo chém con ngựa Xích yên một cái, ngựa té nhào.

La Tuyên rơi xuống đất độn thổ trốn đi.

Long Kiết công chúa bèn hóa mưa chữa lửa cho thành Tây Kỳ.

Dân chúng trong thành thấy lửa tắt hết, đồng reo mừng nói lớn:

– Thật nhờ hồng phước của minh quân, mới khiến trời mưa cứu cả thành khỏi chết.

Bá quan dầm mưa đến thăm nhau suốt đêm không ai ngủ được.

Trờo mờ sáng có quân vào báo:

– Một vị Tiên cô giáng trần, xin vào thành thăm viếng.

Tử Nha mừng rỡ ra rước vào, thì thấy cô nương ấy là Long Kiết công chúa.

Nhiên Ðăng và Quảng Thành Tử ra mắt tạ ơn.

Tử Nha hỏi:

– Vì đâu công chúa đến nơi này, xin chỉ dạy.

Long Kiết công chúa nói:

– Trước kia ta phạm lỗi tại hội bàn đào, nên mẹ ta là Diêu Trì kim mẫu bị đày xuống Phụng Hoàng san. Nay ta thấy La Tuyên đốt thành Tây Kỳ, nên làm mưa giải cứu, nhân dịp ở lại đây giúp Thừa Tướng chinh Ðông, lập công đền tội, để sau này trở lại cung tiên.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ, truyền a hoàn dọn một nhà riêng cho công chúa ở.

Bấy giờ thành Tây Kỳ tuy dân chúng thoát nạn hỏa tai, nhưng thành quách hư hại rất nhiều, phải tốn công phu mới sửa chữa được như xưa.

Còn La Tuyên chạy đến núi, mệt thở không ra hơi, ngồi xuống bàn thạch, dựa vào gốc tùng ngẫm nghĩ:

– Ta bị Long Kiết công chúa thâu hết phép, thù này biết thuở nào nguôi.

Giữa lúc đó đàng sau có tiếng người ngâm:

Lánh chốn hồng trần khỏi thị phi,

Nửa đời áo mão ở thành trì

Kích dài một trượng người kiêng sức,

Tháp nặng ngàn cân cọp khiếp uy

Ẩn mặt trước còn nương thạch động,

Trổ tài nay mới xuống Tây Kỳ

Biết thời Trụ mạt, Châu đương thịnh,

Cái mạng La Tuyên cũng hiểm nguy.

La Tuyên nghe ca ngó lại thấy một người đội mão kim khôi mình mặc đạo phục, tay cầm kích liền hỏi:

– Ngươi là ai mà dám ngạo nghễ ta như vậy?

Người kia đáp:

– Ta là Lý Tịnh nay xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha đoạt thâu năm ải. Ta không thể làm lễ ra mắt nên mới mượn tạm cái đầu của ngươi.

La Tuyên nổi giận đứng dậy chém một gươm, Lý Tịnh liền đâm lại.

Hai người hỗn chiến một hồi lâu, Lý Tịnh quăng Huỳnh Kim bửu tháp kên, và kêu lớn:

– La Tuyên! Ngươi trốn đâu cho thoát.

La Tuyên tránh không kịp bị bửu tháp sa xuống đầu.

Giết La Tuyên rồi, Lý Tịnh liền đằng vân xuống Tây Kỳ, tìm vào trướng phủ.

Kim Tra, Mộc Tra thấy cha mình đến, mừng rỡ vào bẩm với Tử Nha:

– Có cha tôi là Lý Tịnh xin vào ra mắt.

Nhiên Ðăng nói với Tử Nha:

– Người này trước kia là tôi vua Trụ, làm đến chức Tổng Binh.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ, rước vào thành hậu đãi, ai nấy đều vui vẻ.

Riêng Quảng Thành Tử thấy Ân Giao ngăn trở, sợ trễ kỳ bái tướng đăng đàn, liền hỏi Nhiên Ðăng:

– Nay Ân Giao không chịu phép, biết liệu làm sao?

Nhiên Ðăng nói:

– Phiên Thiên Ấn là bửu bối lợi hại, nếu không có cờ Ly Ðịa diệm quang tại cung Huyền Ðô, cờ Thanh Liên bửu sắc bên Tây Phương, và cờ Hạnh Huỳnh thì khó bắt Ân Giao được. Nay cờ Hạnh Huỳnh đã có, nếu mượn được hai cây cờ nữa là xong.

Quảng Thành Tử nói:

– Học trò tôi làm bậy, tôi phải ráng sức đi mượn cho được hai cây cờ đó.

Nói rồi lập tức độn thổ đến cung Huyền Ðô, song không dám vào, cứ đứng ngoài cửa mà chờ.

Bỗng có Huyền Ðô đại pháp sư bước ra.

Quảng Thành Tử bái chào và nói:

– Xin đạo huynh làm ơn bẩm lại với sư bá lão gia, tôi xin vào ra mắt.

Huyền Ðô đại pháp sư vào thưa lại.

Lão Tử nói:

– Ðừng bảo Quảng Thành Tử vào đây mất công, ngươi đem cây cờ Ly Ðịa diệm quang cho nó mượn.

Huyền Ðô pháp sư vânh lệnh đem cờ trao cho Quảng Thành Tử và nói:

– Thầy dạy đạo huynh khỏi vào, đem cờ về kẻo trễ.

Quảng Thành Tử bái tạ trở về Tây Kỳ, giao cờ lại cho Tử Nha.

Hồi 65: Ân Giao mắc lời thề bỏ mạng

Quảng Thành Tử giao cờ cho Tử Nha rồi hóa hào quang lập tức bay sang tận Tây phương Cực Lạc quốc.

Nơi đây hoa cảnh tốt tươi, cỏ hoa như vẽ. Có bài thơ khen Cực Lạc Tây phương:

Non bồng phong cảnh đẹp như mơ,

Hoa cỏ bốn mù gió phất phơ

Nước gối sườn non như lụa trải,

Mây đùn mặt nước đá xây bờ

Cá nghe chuông mõ ngừng bơi lội,

Chim lắng mùi hương cánh ngẩn ngơ

Ðây cảnh Tây phương miền Cực lạc,

Xa mùi thế tục lánh mùi nhơ.

Quảng Thành Tử đến trước cửa chùa nhưng không dám vào, chờ một lúc thấy có một đạo đồng bước ra hỏi:

– Ðạo sĩ từ đâu đến.

Quảng Thành Tử nói:

– Xin làm ơn vào thưa với thầy có Quảng Thành Tử đến xin ra mắt.

Ðồng tử vào một lúc rồi trở ra, nói:

– Thầy tôi xin thỉnh đạo huynh vào.

Quảng Thành Tử bước vào thấy một vị sư mình cao một trượng sáu, da mặt vàng lườm, đầu trọc lóc. Ðó là vị Tiếp Dẫn đạo nhân.

Tiếp Dẫn đạo nhân bái chào Quảng Thành Tử và hỏi:

– Nghe tiếng đạo huynh là người cung Ngọc Hư, lòng hằng ước vọng nay được gặp mặt, còn gì may mắn bằng?

Quảng Thành Tử nói:

– Ðệ tử vì phạm tội sát sinh, bị đày xuống thế. Nay Ân Giao cãi mệnh trời, đánh Khương Thượng làm lễ kỳ đăng đàn bái tướng, nên tôi đến đây yết kiến cao sư, mượn cờ Thanh Liên bửu sắc để trị nó.

Tiếp Dẫn đạo sư nói:

– Bần đạo là vô vi thanh tịnh, dưỡng tánh tại Tây phương, không nghĩ đến chuyện chinh phạt, hằng lo độ thế chúng sinh. Nay đạo huynh mượn cờ ấy làm việc hồng trần, thật tôi không dám.

Quảng Thành Tử nói:

– Chúng tôi và đạo tuy khác đạo mặc lòng, song cùng một tông chỉ là thuận theo thiên hành đạo. Nay Châu Võ là chân chúa, phạt Trụ cứu dân, số trời đã định, chúng ta tuy ở trong tam giáo cũng như ở một nhà, lẽ phải giúp nhau, xin cao sư mở lòng từ bi rộng lượng.

Tiếp Dẫn đạo sư nói:

– Không phải tôi hẹp hòi, song chốn từ bi không nhúng tay vào việc sanh sát. Công việc hồng trần là của hồng trần, chúng tôi chỉ tế độ mà không có trừng phạt.

Quảng Thành Tử nói:

– Nếu cao sư không ra tay từ bi cứu độ vua nhân đức, diệt vua bạo ngược thì làm sao tế độ chúng sanh.

Tiếp Dẫn đạo sư mỉm cười đáp:

– Ðó là chủ trương quý phái, còn chúng tôi thiết tưởng chỉ có tế độ người ta khỏi bến mê thôi, chứ không trừng phạt người trong bến mê. Vả lại cờ Thanh Liên bửu sắc không chịu nhuốm hồng trần, biết làm sao được?

Hai người còn đang bàn luận, xảy thấy Chuẩn Ðề đại sư đến.

Tiếp Dẫn mời ngồi và thuật chuyện lại.

Chuẩn Ðề nói với Quảng Thành Tử:

– Ðạo huynh đi mượn, vì việc đó trái với chính nghĩa Từ bi của chúng tôi. Song có một điều chúng tôi có thể giúp đạo huynh được.

Nói rồi quay qua bàn với Tiếp Dẫn đạo sư:

– Trước đây tôi có nói với đạo huynh là phía bên Ðông, và phía bên Nam hiện có ba ngàn trượng hào quang chiếu sáng, đó là những người có duyên phận về với Tây phương. Họ là những người lương thiện, cần được chúng ta tiếp dẫn họ. Nhân dịp này, chúng ta cũng nên cho mượn cờ, để Khương Thượng chinh Ðông, và chúng ta có dịp đến đó rước họ về cực lạc. Tuy chúng ta là người phương Tây, song cũng nên đón những người phương Nam và phương Ðông mới phải.

Tiếp Dẫn đạo sư nói:

– Ðạo sư dạy như vậy cũng phải.

Liền lấy cờ trao cho Quảng Thành Tử và dặn:

– Xin đạo huynh đem trả gấp cho chúng tôi, đừng để nhuốm hồng trần nhiều.

Quảng Thành Tử tạ ơn, bái biệt, trở lại Tây Kỳ vào ra mắt Nhiên Ðăng, thuật hết các việc.

Nhiên Ðăng nói:

– Nếu vậy thì xong rồi. Nay hướng Nam dùng cờ Ly Ðại Diệm quang, hướng Ðông dùng cờ Thanh Liên bửu sắc, hướng Tây dùng cờ Tô Sắc vân giới, chính giữa dùng Hạnh Huỳnh Kỳ, chừa hướng Bắc cho Ân Giao vào thì trị được.

Quảng Thành Tử hỏi:

– Ðạo sư dùng phép ấy dụng ý thế nào.

Nhiên Ðăng làm thinh không đáp.

Quảng Thành Tử buồn bã, còn các tướng đều lui về hết.

Nhiên Ðăng lại nói với Quảng Thành Tử:

– Chúng ta chỉ có ba cây cờ, còn thiếu một chưa biết tính làm sao?

Quảng Thành Tử hỏi:

– Cờ Tô Sắc ở đâu mà có?

Nhiên Ðăng buồn bã ngồi lặng thinh.

Thổ Hành Tôn thấy vậy trở về phòng mình, nói với Ðặng Thiền Ngọc.

– Chúng ta còn lâu mới ra binh.

Ðặng Thiền Ngọc hỏi:

– Tại sao vậy?

Thổ Hành Tôn nói:

– Còn thiếu một cây cờ Tô Sắc vân giới nữa mới lập trận bắt Ân Giao được, nhưng Nhiên Ðăng đạo sư không biết cờ ấy ở đâu.

Long Kiết công chúa ở sát vách tường Ðặng Thiền Ngọc, nghe Thổ Hành Tôn nói như vậy, liền bước sang nói với Ðặng Thiền Ngọc:

– Cờ Tô Sắc là cờ của mẹ ta, người khác không có được. Cờ ấy cũng gọi là Tụ Tiên kỳ. Khi nào mẹ ta làm hội Diêu Trì thì dựng cờ ấy lên cho các tiên tựu đến.

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Thế thì may lắm, nay Khương Thừa Tướng đã mượn được hai cây rồi còn thiếu một cây Tô Sắc nữa, để tôi đến trình Thừa tướng biết.

Long Kiết công chúa nói:

– Cờ ấy không ai mượn được chỉ trừ Nam Cực tiên ông mới mượn được mà thôi.

Thổ Hành Tôn vội vàng đến trướng phủ thưa với Nhiên Ðăng:

– Ðệ tử bàn luận với Ðặng Thiền Ngọc về việc mượn cờ Tô Sắc, Long Kiết công chúa có nói cờ ấy là của mẹ nàng, chỉ có Nam Cực tiên ông mới mượn được thôi.

Nhiên Ðăng nghe nói liền sực nhớ đến cờ Tụ Tiên của Tây vương mẫu, liền sai Quảng Thành Tử cậy Nam Cực tiên ông mượn giùm.

Quảng Thành Tử tuân lệnh, hiện hào quang đến núi Kỳ Lân, vào viếng Nam Cực tiên ông thuật rõ mọi điều.

Nam Cực tiên ông nói:

– Ðạo huynh cứ về núi nghỉ để việc ấy tôi lo cho.

Quảng Thành Tử cảm tạ rồi trở về Tây Kỳ. Còn Nam Cực tiên ông thay đổi y quan, mặc triều phục, cầm cái hốt đeo chuỗi ngọc, cỡi hạc, bay qua cung Diêu Trì, thấy cửa đóng kín, liền quỳ xuống trước thềm tâu:

– Tôi là Nam Cực tiên ông xin trình tấu một việc. Hiện nay non Kỳ phụng gáy, thánh chúa ra đời, các tiên phải phạm tội sát sanh, nên các giáo chủ hội nhau lập bản phong thần và xuống phò Châu diệt Trụ. Chẳng ngờ Ân Giao cãi lời thầy, nghịch lòng trời, đem binh đánh Khương Thượng, làm trễ kỳ bái tướng, lỡ cuộc phong thần, nên tôi vâng lệng cung Ngọc Hư đến cầu vương mẫu, xin mượn cờ Vân Giới đặng trị tội Ân Giao.

Tâu rồi cứ quỳ đợi lệnh.

Giây phút nghe có tiếng nhạc nổi lên, bốn nàng tiên mở cửa, đem cờ Vân Giới đưa cho Nam Cực tiên ông và truyền rằng:

– Vương mẫu bảo xong thì phải đem trả gấp, không nên để nhẹ thể cờ tiên.

Nam Cực tiên ông tạ ơn, lãnh cờ trở lại Tây Kỳ.

Khi đến trước trướng phủ, Dương Tiễn trông thấy liền chạy vào báo với Tử Nha.

Tử Nha và Quảng Thành Tử đều ra ngoài đón rước và tạ ơn.

Nam Cực tiên ông nói:

– Ngày bái tướng của Tử Nha đã gần đến, phải lo trừ Ân Giao cho sớm.

Nói rồi giã biệt trở về động, các tiên đưa ra khỏi thành.

Nhiên Ðăng trở về trướng hội các tướng bàn luận:

– Nay đã có cờ Tụ tiên, song phải nhờ ba vị chơn nhơn, thì mới đủ sức bắt Ân Giao.

Bỗng có Na Tra từ ngoài cửa chạy vào báo:

– Có Xích Tinh Tử đến ra mắt.

Tử Nha mừng rỡ ra đón rước, và nói với Nhiên Ðăng:

– Việc này nhờ Xích Tinh Tử một tay thì tiện lắm.

Xích Tinh Tử vào đến nơi, Quảng Thành Tử nói:

– Tôi và anh đều mắc cái họa để học trò làm bậy, vậy anh phải giúp tôi trận này.

Bỗng thấy Dương Tiễn chạy vào báo:

– Có Văn Thù đến nữa.

Tử Nha cũng ra rước vào.

Văn Thù cười ha hả nói với Tử Nha:

– Tôi kính chúc mừng ông đây.

Tử Nha nói:

– Tôi định chinh phạt mấy năm nay, ngày đêm ăn ngủ không yên, biết chừng nào về núi cho hưởng thanh nhàn?

Văn Thù nói:

– Ðã gần đến ngày đăng đàn bái tướng thì ông sắp thành công lớn rồi.

Nhiên Ðăng nói:

– Hãy gác việc tâm tình để lo công việc đã.

Quảng Thành Tử nói:

– Nay đã có đủ các vị đạo huynh, xin đạo trưởng phân công chỉ dạy.

Nhiên Ðăng nói:

– Nay Văn Thù đạo hữu đem cờ Thanh Liên bửu sắc dựng bên phía Ðông núi Tây Kỳ, Xích Tinh Tử dựng cờ Ly Ðịa diệm quang ở bên phía Nam, còn tôi cầm cờ Hạnh Huỳnh ở giữa. Còn cờ Tụ Tiên nơi phía Tây phải nhờ đến Võ Vương mới được.

Tử Nha biết ý Võ Vương, nếu hay việc bắt được Ân Giao sẽ không bằng lòng, nên đành phải nói dối:

– Xin Ðại vương đi với tôi đến Tây Kỳ lược trận, vì trận này cần nhờ có hồng phúc của chúa công mới được.

Võ Vương nói:

– Thượng phu đã dùng đến lẽ nào ta từ chối.

Tử Nha truyền các tướng gióng trống, kiểm điểm binh mã, sai Hoàng Phi Hổ phá cửa trại Ân Giao, Ðặng Cửu Công phá trại lương bên tả, Nam Cung Hoát phá phá trại lương bên hữu. Na Tra, Dương Tiễn đồng tiếp ứng tả dinh, Vi Hộ, Lôi Chấn Tử tiếp ứng hậu dinh, Kim Tra, Mộc Tra và Lý Tịnh theo sau làm hậu tập.

Ðiều binh khiển tướng xong, Tử Nha qua phía Tây dựng cờ với Võ Vương.

Bấy giờ Trương Sơn, Lý Cẩm đang ngồi trong dinh bàn luận xảy nghe hơi dữ vương vất trước thềm, liền vào bẩm với Ân Giao:

– Binh đóng tại đây đã lâu mà không thắng, xin điện hạ lui về Triều Ca, chỉnh đốn thực lực rồi sẽ chinh phạt.

Ân Giao nói:

– Ta chưa được lệnh phụ vương ta giao sứ mệnh chinh phạt Tây Kỳ, để ta viết biểu xin viện binh, phá thành rồi sẽ trở về Triều Ca yết kiến.

Trương Sơn nói:

– Khương Thượng dùng binh rất giỏi, lại có chư tiên trợ lực, tôi e một mình điện hạ không hạ nổi.

Ân Giao nói:

– Chẳng sợ gì! Thầy ta mà còn sợ Phiên Thiên Ấn, huống chi những tay tầm thường.

Ba người bàn luận đến hết canh hai, bỗng nghe một tiếng pháo nổ vang trời, cha con Hoàng Phi Hổ xông vào cửa trước, Ân Giao cầm kiếm lên ngựa thúc quân ùa ra.

Ân Giao gọi Hoàng Phi Hổ nói lớn:

– Hoàng Phi Hổ! Ngươi dám cướp dinh ta thật tới số rồi.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Tôi vâng lệnh chủ tướng không dám cãi lời.

Nói rồi đâm Ân Giao một giáo, Ân Giao đỡ ra rồi đánh lại.

Mấy cha con Hoàng Phi Hổ cùng xáp chiến lại một lượt vây Ân Giao vào giữa.

Còn Ðặng Cửu Công, Thái Loan, Ðặng Tú, Triệu Thăng, Tôn Diệm Hồng đồng thời xông vào phá dinh bên tả chỉ gặp một mình Trương Sơn ra sức chống lại.

Bên phía hữu, Nam Cung Hoát, Tân Giáp, Tân Miễn, Thái Ðiên, Hoàng Yêu đều xông vào một lượt, chỉ gặp một mình Lý Cẩm một người một ngựa đón chặn.

Tiếp đó Na Tra và Dương Tiễn vào trợ lực với cha con Hoàng Phi Hổ đánh Ân Giao, Ân Giao thấy Na Tra hành hung, liền lấy chuông Lạc Hồn rung lên hai ba lượt song Na Tra vẫn đứng yên.

Ân Giao ngỡ phép ấy hết linh cất chuông phép múa kích giao đấu.

Dương Tiễn xông vào, dùng giáo dài đâm túi bụi, Ân Giao nổi giận lấy Phiên Thiên Ấn quăng lên chẳng ngờ Dương Tiễn có Thất thập nhị huyền công, Phiên Thiên Ấn đánh không phỉ, Ân Giao quăng chuông Lạc Hồn lên nữa, Na Tra liệng cục Kim Chuyên đánh chuông đổ hào quang làm cho Ân Giao kinh hãi.

Bấy giờ, Nam Cung Hoát chém được Lý Cẩm, nên dẫn binh vào giữa tiếp ứng, đánh Ân Giao.

Bên tả Trương Sơn cầm cự với Ðặng Cửu Công, bị Tôn Diệm Hồng phun lửa vào mặt lính quýnh bị Ðặng Cửu Công chém một đao rụng đầu.

Ðặng Cửu Công cũng dẫn các tướng xông vào giữa vây Ân Giao.

Thương hại một mình Ân Giao mà bị binh tướng vây nhiều lớp, dẫu có ba đầu sáu tay đánh đỡ cũng không kịp.

Ân Giao thấy binh mình hỗn loạn, Lý Cẩm và Trương Sơn đều chết hết, dẫu liều mình chống cự cũng chẳng ích chi, liền đưa chuông Lạc Hồn ngay mặt Hoàng Thiên Hóa rung một cái, Hoàng Thiên Hóa té xuống ngọc kỳ lân, tạo thành một chỗ trống.

Ân Giao thoát ra nơi ấy chạy về núi Kỳ Sơn.

Các tướng kéo binh đuổi theo hơn ba mươi dặm mới trở về dinh.

Còn Ân Giao chạy riết một hồi, xem thấy trời đã rạng Ðông, quân sĩ quanh mình chỉ còn một số ít, mình mẩy đều bị thương.

Ân Giao than:

– Ta không dè thình lình bị thất trận, tổn tướng hao binh như thế này. Nay phải vượt năm ải, trở về Triều Ca, ra mắt phụ vương, chỉnh đốn binh lực, rồi sẽ tính kế báo thù.

Nghĩ rồi giục ngựa chạy về phía chân núi, theo con đường trở về ải Tị Thủy.

Vừa đi được mấy dặm.

Bỗng có Văn Thù chạy đến đón đường và nói:

– Ân Giao! Ngươi trốn đi đâu được?

Ân Giao bái và thưa:

– Sư thúc! Nay đệ tử trở về triều, sư thúc đón đường làm chi?

Văn Thù nói:

– Ngươi đã bị sa vào lưới hãy mau xuống ngựa mà chịu tội để khỏi bị lưỡi cày xoi thủng bụng.

Ân Giao nghe nói nổi xung, đâm Văn Thù một kích.

Văn Thù đưa gươm ra đỡ.

Ân Giao quăng Phiên Thiên Ấn lên, Văn Thù xổ cờ Thanh Liên bửu sắc, chiếu muôn đạo hào quang, hiện ra hột xá lợi.

Có bài thơ rằng:

Muôn đạo hào quang thấu chín trùng,

Mới hay xá lợi phép vô cùng

Ngọn cờ tế độ Tây phương Phật,

Cái ấn Phiên thiên khó vẫy vùng.

Khi ấy hột xá lợi đánh Phiên Thiên Ấn sa xuống, Ân Giao thất kinh thâu ấn lại chạy qua phía Nam, bỗng thấy Xích Tinh Tử kêu lớn:

– Ân Giao! Ngươi chạy đi đâu? Ngươi đã phụ lời thầy, thề sao được vậy.

Nói rồi xông vào hỗn chiến, Ân Giao đưa kích ra đỡ, rồi quăng Phiên Thiên Ấn lên, Xích Tinh Tử liền xổ cờ Ly Ðịa diệm quang. Vật này là báu vật của cung Huyền Ðô, trị ngũ hành các phép, hào quang muôn trượng cản Phiên Thiên Ấn lại.

Ân Giao thất kinh thâu ấn cắm đầu chạy vào giữa.

Nhiên Ðăng thấy Ân Giao chạy đến, quát lớn:

– Ân Giao! Bởi ngươi cãi lời thầy nên một trăm cái cày chờ sẵn ngươi đàng kia đó.

Ân Giao nói:

– Tôi chưa hề phạm gì vị sư tôn, sao hôm nay đón khắp nẻo đường không cho tôi đi?

Nhiên Ðăng nói:

– Trước kia ngươi thề cùng trời đất, nên hôm nay ta bắt ngươi trị tội.

Ân Giao nổi giận giục ngựa xông vào đánh, Nhiên Ðăng đưa gươm ra đỡ và khen:

– Hay lắm!

Ðánh được ba hiệp, Ân Giao quăng Phiên Thiên Ấn lên.

Nhiên Ðăng xổ cờ Hạnh Huỳnh ra, tức thì hàng trăm hoa sen rớt xuống, làm cho Phiên Thiên Ấn lửng lơ trên trời.

Ân Giao thấy vậy, sợ Nhiên Ðăng thâu hồi mất ấn, vội thâu lại và cắm đầu chạy nữa.

Vừa chạy vừa nghĩ thầm:

– Các nơi đều có người mai phục cả, chỉ còn có hướng Tây mà thôi. Vậy ta cứ theo hướng đó xem sao.

Nghĩ rồi liền quay ngựa chạy theo hướng Tây, thì thấy Tử Nha đứng dưới cờ Long Phụng, Ân Giao gặp được cừu nhân, nổi giận, giục ngựa xông đến:

– Khương Thượng có ta đến đây ngươi đừng hòng chạy thoát.

Võ Vương thấy Ân Giao ba đầu sáu tay, cầm kích xông đến, không biết lành dữ thế nào, kinh hãi than:

– Hôm nay chắc ta bỏ mạng tại đây rồi!

Tử Nha nói:

– Ðại vương đừng sợ, người ấy là Ân Giao điện hạ!

Võ Vương nói:

– Ðã gặp từ quân, ta phải mau xuống ngựa ra mắt kẻo mang tội!

Tử Nha cản lại nói:

– Nay đang ở giữa chiến trường đại vương đừng làm vậy mà mang họa vào thân. Hơn nữa đã có tôi đây thì có gì mà đại vương lo sợ.

Tử Nha nói dứt lời thì Ân Giao từ đàng xa phóng ngựa đến đánh liền.

Tử Nha đưa gươm ra đỡ. Ðánh được bốn hiệp thì Ân Giao quăng Phiên Thiên Ấn lên, Tử Nha xổ cờ Tụ Tiên ra, mùi hương thơm ngào ngạt, chiếu hào quang cản Phiên Thiên Ấn lại và quăng roi Ðả Thần Tiên lên.

Ân Giao thất kinh, vội thâu ấn lại, và cắm đầu chạy trối chết về hướng Bắc.

Nhiên Ðăng thấy vậy liền vỗ tay một cái, sấm nổ vang rền, các tướng đuổi theo sát gót.

Ân Giao chạy một lúc thì cùng đường, quay lại thì thấy binh tướng đuổi theo quá đông, than:

– Nếu phụ vương tôi còn trị thiên hạ, thì tôi quăng Phiên Thiên Ấn lên núi nứt làm hai có đường cho tôi thoát. Còn nếu nhà Thương hết thì núi không nứt hai.

Dứt lời Ân Giao quăng Phiên Thiên Ấn lên, tức thì hòn núi nứt làm hai, Ân Giao mừng quá nói:

– Thế thì số nhà Thương ta chưa dứt!

Nói rồi liền xuống ngựa, một mình chạy theo đường tắt. Chạy được một lúc, Ân Giao quay đầu lại thì thấy tướng đã tới chân núi cùng với Nhiên Ðăng, Ân Giao liền hốt một nắm đất quăng lên độn thổ bay mất. Nhưng không ngờ khi ló đầu lên khỏi núi thì Nhiên Ðăng vỗ tay một cái, hai bên núi khép lại, kẹp Ân Giao chỉ còn cái đầu ló ra ngoài thôi.

Hồi 66: Hồng Cẩm đẹp số se duyên

Bấy giờ binh tướng Châu đều kéo lên núi, Võ Vương thấy Ân Giao bị núi kẹp, liền xuống ngựa quỳ lạy bẩm rằng:

– Tiểu thần là Cơ Phát, vâng theo phép nước gìn giữ Tây Kỳ, chẳng dám khi quân phạm thượng, nay Thừa Tướng làm cho Ðiện hạ ra thân thể này, khiến tiểu thần mang tiếng muôn đời.

Tử Nha vội đỡ Võ Vương dậy và nói:

– Ân Giao cãi mệnh trời, chết là do số mạng. Ðại vương giữ đạo làm tôi như vậy, cũng đã đủ lắm rồi.

Võ Vương nói:

– Thượng phụ kẹp điện hạ trong núi, tội ấy về ta. Xin các tiên trưởng mở lòng từ bi, tha cho điện hạ khỏi nạn.

Nhiên Ðăng cười lớn:

– Hiền vương không biết số trời, Ân Giao bị trời phạt cứu làm sao được?

Võ Vương nằng nặc năn nỉ hai ba phen. Tử Nha làm mặt nghiêm nói:

– Tôi thuận theo lòng trời cứu thiên hạ chẳng dám trái mệnh trời để làm hại chúa công.

Võ Vương không biết làm sao, quỳ lạy khóc lớn:

– Tôi hết lòng cầu khẩn, xin tha cho điện hạ, ngặt các vị tiên trưởng cứ bảo là thuận theo mệnh trời, tôi không biết làm sao hơn.

Nhiên Ðăng thấy Võ Vương lạy rồi liền mời xuống núi, lại truyền Võ Kiết đem cày lên.

Quảng Thành Tử thấy học trò như vậy động lòng rơi lụy.

Võ Kiết dùng cày cày vào đầu Ân Giao, làm cho Ân Giao lủng đầu chết.

Có bài thơ rằng:

Vì em bỏ xác nghĩ càng thương,

Ơn mẹ chưa đền nát thịt xương

Tuy chưa trả thù Tô Ðắt Kỷ,

Cũng đà đáp nghĩa Võ Thành Vương

Lưỡi cày bạc mệnh thề linh hiển,

Cái ấn khi sư tội chán chường

Chớ trách họ Thân bày phản phúc,

Thiệt là vua Trụ để tai ương.

Võ Kiết giết Ân Giao rồi, thần Bá Giám đem phướng rước Ân Giao lên đài phong thần.

Hồn Ân Giao chưa chịu phép, hóa thành một trận gió bay về Triều Ca, nhằm lúc vua Trụ đang uống rượu trên Lộc Ðài với Ðắt Kỷ.

Trụ Vương nghe thấy trận gió ngần ngật nằm mê, thấy một người ba đầu sáu tay đến trước mặt tâu:

– Con là Ân Giao vì nước bị lưỡi cày đâm chết, xin phụ vương tu nhơn tích đức, lánh dữ tìm lành, để cho cơ nghiệp Thành Thang không rơi vào tay kẻ khác. Nay nên lựa tướng hiền tài, phong làm Nguyên soái, đi dẹp Tây Kỳ, nếu không chẳng bao lâu Khương Thượng vào lấy năm ải. Ðợi binh Châu đến Triều Ca thì ăn năn không kịp. Con muốn tâu cho hết ý, song sợ trễ giờ không vào được đài Phong Thần, vậy xin bái biệt.

Vua Trụ giật mình tỉnh dậy nói:

– Lạ quá! Ta vừa thấy điềm chẳng lành.

Ðắt Kỷ nói:

– Bệ hạ mộng thấy điều gì mà lạ?

Vua Trụ thuật lại điều chiêm bao.

Ðắt Kỷ tâu:

– Hễ trong bụng nghĩ gì thì chiêm bao thấy việc ấy. Xin bệ hạ chớ nghi.

Vua Trụ trấn an lòng mình bằng những chén rượu của Ðắt Kỷ dâng mãi cho đến tận đêm khuya.

Bấy giờ Hàng Vinh trấn ải Tị Thủy, hay tin sai người đem sớ về triều, nhằm lúc Vi Tử xem sớ.

Vi Tử thất kinh, ôm sớ lên Lộc Ðài làm lễ, rồi dâng cho vua Trụ.

Vua Trụ nói:

– Trương Sơn tử trận. Ân Giao chết tại Tây Kỳ thật là chuyện chẳng lành.

Nói rồi lâm triều hội các tướng.

Văn võ bá quan đến chầu đủ mặt, vua Trụ phán:

– Cơ Phát xưng Võ Vương lại giết tướng triều đình, sanh lòng soán nghịch. Nay nên cử ai làm đại tướng thay Trương Sơn cầm binh chinh phạt?

Quan đại phu Lý Ðăng thưa:

– Ðã mười mấy năm bốn phương dấy loạn, dẹp mãi không yên. Tuy vậy các mũi giặc khác không đáng kể, chỉ ngặt Tây Kỳ Khương Thượng trợ Cơ Phát làm loạn, mà các tướng tài đều một dạ quy hàng. Binh thế Tây Kỳ đánh mạnh, nội Triều Ca tôi nhắm chừng không tướng nào cự nổi, xin bệ hạ sai Hồng Cẩm hiện làm Tổng Binh trấn ải Tam Sơn cầm binh dẹp loạn. Tôi biết Hồng Cẩm tài cao phép lạ, có hy vọng dẹp loạn Tây Kỳ.

Vua Trụ liền giáng chỉ, sai sứ ra Tam Sơn.

Thiên sứ vâng chiếu, đến nơi thì trời đã tối, bèn vào quán trọ nghỉ ngơi.

Rạng ngày có quân vào báo, Hồng Cẩm dẫn hai tướng ra tiếp thánh chỉ đem về dinh.

Ðọc chiếu xong Hồng Cẩm tạ ơn, giao ải cho Khổng Tiên trấn giữ, còn mình kéo binh mười vạn, sai Quý Khương và Bá Hiển Trung làm chánh phó tiên phong, thẳng đến Tây Kỳ đóng trại.

Hôm sau Hồng Cẩm ra khách nói với Quý Khương và Bá Hiển Trung.

– Nay ta vâng chiếu chỉ chinh Tây, các ngươi phải hết lòng báo quốc. Khương Thượng là người tài cao trí rộng, chẳng phải tầm thường, đừng để chúng khinh dễ mà nhẹ uy Thiên tử.

Rạng ngày, Quý Khương vâng lệnh đến thành khiêu chiến.

Tử Nha nghe quân vào báo, mừng rỡ nói:

– Ba mươi sáu đạo quân đã đủ rồi, trừ được tướng này nữa là hết giặc. Nay ai muốn trổ tài?

Nam Cung Hoát xin ra trận. Tử Nha nói:

– Tướng quân phải cẩn thận lắm mới được.

Nam Cung Hoát vâng lời dẫn quân ra, thấy tướng Thương mặt đen như than hầm, liền hỏi:

– Tướng kia tên họ là chi?

Quý Khương nói:

– Ta là Quý Khương, bộ tướng tiên phong của Hồng Nguyên soái, vâng lệnh chiếu chỉ chinh Tây. Ngươi là phản tặc, sao chưa xuống hàng đầu?

Nam Cung Hoát cười lớn:

– Tây Kỳ đã giết bao nhiêu tướng Trụ, sao các ngươi không sợ mà dám đến đây?

Quý Khương nghe nói nổi giận, chém một đao.

Nam Cung Hoát đưa gươm ra đỡ rồi rước đánh.

Hai tướng đánh ba mươi hiệp vẫn cầm đồng.

Quý Khương niệm thần chú, hiện trên đầu một khóm mây đen, khóm mây ấy lại hiện thành một con chó nhảy táp vào lưng Nam Cung Hoát một miếng.

Nam Cung Hoát bị rách áo, đứt dây đai, thất kinh bại tẩu về thưa lại các việc với Tử Nha, Tử Nha buồn bã vô cùng.

Còn Quý Khương về thưa với Hồng Cẩm.

Hồng Cẩm khen:

– Trận này thắng ắt sẽ gây uy tín cho chúng ta nhiều lắm.

Hôm sau, Bá Hiển Trung vâng lệnh khiêu chiến.

Tử Nha sai Ðặng Cửu Công ra trận.

Ðặng Cửu Công vốn biết mặt Bá Hiển Trung, nên trông thấy liền hét lớn:

– Bá Hiển Trung! Nay thiên hạ đều đầu Châu chúa, sao ngươi chưa chịu phép, còn bẻ nạng chống trời.

Bá Hiển Trung đáp:

– Ta không phải là đứa thất phu như ngươi, quên nghĩa quên ơn, bỏ vua đầu giặc.

Ðặng Cửu Công nổi giận đâm Bá Hiển Trung một giáo. Hai tướng đánh vùi với nhau một trận, tối tăm trời đất. Ðược ba mươi hiệp, Ðặng Cửu Công chém trái một đao, Bá Hiển Trung đỡ không kịp bị đứt làm hai đoạn.

Ðặng Cửu Công chặt lấy thủ cấp về nạp cho Tử Nha.

Tử Nha truyền bêu đầu trước mặt thành làm lệnh.

Hồng Cẩm hay tin Bá Hiển Trung bị giết, lòng nóng như lửa đốt, muốn bắt Tử Nha báo thù, nên rạng ngày dẫn binh đến thành khiêu chiến.

Quân vào báo, Tử Nha lật đật dẫn binh tướng ra nghinh địch.

Lúc Tử Nha đi chưa tới, Hồng Cẩm đã thấy xa nhiều hổ tướng theo phò, uy phong lẫm liệt, thì biết nay không phải dễ thắng. Ðợi Tử Nha đến gần, Hồng Cẩm ôn tồn nói:

– Ngươi có phải là Khương Thượng không?

Tử Nha nói:

– Phải! Còn ngươi là ai?

Hồng Cẩm nói:

– Ta là Hồng Cẩm, lãnh chức Ðại nguyên soái chinh Tây. Bởi các ngươi chẳng giữ gìn bổn phận, lỗi đạo làm tôi, kháng cự với binh trời, nên ta quyết giết các ngươi cho hết loài phản phúc.

Tử Nha cười lớn:

– Hồng Cẩm! Ngươi xưng là đại tướng sao chẳng biết thời cơ. Nay tướng tài đều quy tụ về Châu, chư hầu một lòng phò Minh Chúa. Sức ngươi một gáo nước, lẽ nào chống nổi muôn xa? Tám trăm chư hầu chẳng bao lâu sẽ họp tại Mạnh Tân kéo về Triều Ca vấn tội. Nếu ngươi trái ý trời, phò kẻ nịnh e mang họa tức thì.

Hồng Cẩm nổi xung, múa siêu đao xông tới.

Cơ Thúc Minh hét lên một tiếng, cầm thương giục ngựa xông ra đánh với Hồng Cẩm.

Hai tướng hỗn chiến một hồi.

Cơ Thúc Minh là con thứ bảy mươi hai của Văn Vương, tánh nóng như lửa, sức mạnh như hùm, đánh ba chục hiệp Hồng Cẩm tay chân luýnh quýnh, liền giục ngựa chạy trái qua một bên, rút cây cờ giắt sau lưng rung lên một cái. Cờ ấy hóa ra cái cửa nhỏ, còn Hồng Cẩm đứng đàng sau.

Cơ Thúc Minh xông vào cửa đuổi theo, bị Hồng Cẩm chém một đao rơi đầu xuống đất.

Tử Nha xem thấy thất kinh hồn, Hồng Cẩm thâu cờ giục ngựa lướt tới kêu lớn:

– Kẻ nào có tài thì ra đánh với ta?

Ðặng Thiền Ngọc lướt tới, vung kiếm chém Hồng Cẩm, nói:

– Có ta đây ngươi đừng khoe giỏi.

Hồng Cẩm thấy tướng nữ, liền chém trái một đao.

Ðặng Thiền Ngọc đánh được vài hiệp, Hồng Cẩm lại rung cờ làm theo thói cũ. Chẳng ngờ Hồng Cẩm không đuổi, ném cục đá vào sống mũi Hồng Cẩm kêu một tiếng bốp.

Hồng Cẩm mặt mày đổ hào quang, thất kinh thâu cờ bại tẩu.

Tử Nha thâu binh về thành, nghĩ đến cái chết của Ðiện hạ, lòng buồn bực vô cùng, sai người ra ngoài thành lượm xác Cơ Thúc Minh đem vào mai táng.

Hồng Cẩm bị thương về dinh lấy thuốc thoa lên sống mũi.

Rạng ngày đem binh đến thành khiêu chiến, quyết bắt cho được nữ tướng báo thù, nên kêu đích danh Ðặng Thiền Ngọc.

Quân vào báo, Tử Nha không biết tính làm sao phải sai quân thông tin với Ðặng Thiền Ngọc khiến Ðặng Thiền Ngọc ra trận.

Thổ Hành Tôn dặn vợ:

– Hồng Cẩm có cây cờ phép, nếu nó có dùng miếng cũ chớ nên đuổi vào cửa cờ.

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Thiếp đánh giặc tại ải Tam Sơn đã hơn mấy năm lẽ nào không biết bản lĩnh của tướng Trụ. Kẻ nào muốn bỏ mạng mới vào cửa cờ ấy, tướng quân không cần dặn thiếp làm chi.

Long Kiết công chúa ở sát vách nghe được, liền bước qua nói:

– Hai vợ chồng trù tính chuyện gì đó?

Thổ Hành Tôn nói:

– Ðại tướng bên Thương là Hồng Cẩm, dùng cờ biến thành cửa dinh, điện hạ Cơ Thúc Minh xông vào bị nó chém chết. Vợ tôi sắp ra giao chiến, nên tôi phải dặn dò.

Long Kiết công chúa mỉm cười:

– Ấy là Kỳ môn độn pháp, phép ấy cũng chẳng hay gì, để ta ra bắt nó.

Thổ Hành Tôn mừng rỡ vào thưa với Tử Nha.

Tử Nha liền mời Long Kiết công chúa ra trướng phủ, tỏ ý cảm ơn.

Long Kiết công chúa bái Tử Nha, nói:

– Xin cho tôi mượn một con ngựa ra trận bắt tướng.

Tử Nha truyền đem ngựa hồng để công chúa lên yên xuất trận.

Hồng Cẩm xem thấy không phải tướng cũ, liền hỏi:

– Nữ tướng là ai vậy?

Long Kiết công chúa nói:

– Ngươi hỏi làm gì? Ta có xưng tên ngươi cũng không biết. Hãy xuống ngựa chịu trói cho rồi.

Hồng Cẩm nổi giận mắng:

– Con a hoàn này khinh ta dường ấy?

Nói rồi chém một đao, Long Kiết công chúa đưa song kiếm ra đỡ.

Ðánh được bốn năm hiệp, Hồng Cẩm cũng lấy cờ ra rung, Long Kiết công chúa liền lấy cây cờ trắng vụt tới, cầm gươm chỉ một cái, hóa ra một khung cửa ngoài, rồi độn thổ vào cửa trong theo chủ.

Hồng Cẩm không thấy Long Kiết công chúa đâu, đang kinh hãi, bị Long Kiết công chúa độn thổ theo sau lưng chém vào vai một nhát.

Hồng Cẩm thất kinh bỏ phép chạy dài.

Long Kiết công chúa thấy Hồng Cẩm chạy về phía Bắc liền đuổi theo gọi lớn:

– Hồng Cẩm hãy xuống yên chịu chết. Ta là Long Kiết công chúa, con gái bà Diêu Trì kim mẫu, xuống đây trợ lực với Tử Nha. Dẫu ngươi chui xuống đất, hay bay lên trời, ta cũng quyết theo lấy đầu cho bằng được.

Nói rồi đuổi theo mãi.

Hồng Cẩm thất kinh chạy đến xơ xác, phần bị thương đau quá, phần mệt đã hết hơi, liền độn thổ mà trốn.

Long Kiết công chúa cười ngất nói:

– Ta lạ gì năm phép độn thổ mà ngươi biểu diễn với ta.

Nói rồi độn thổ đuổi theo. Hai người chạy một đỗi thì ra đến biển Bắc.

Mặt biển mông mênh, sóng vỗ ầm ĩ.

Hồng Cẩm nhớ lại phép báu của mình, mừng thầm tự nhủ:

– May ta có báu vật kình long, nếu không ắt mang khốn.

Nói rồi quăng Kình long xuống biển, hóa ra một con cá to lớn phi thường.

Hồng Cẩm cỡi con Cá kình lội ra giữa biển.

Long Kiết công chúa cười lớn:

– Tài mọn mà cũng đem khoe.

Nói rồi lấy Thần kinh trong túi quăng xuống biển, Thần kinh hiện ra một hòn núi to như núi Thái Sơn nổi trên mặt nước. Long Kiết công chúa leo lên hòn núi, đuổi theo Hồng Cẩm.

Kình long thấy Thần kinh thì sợ hãi, vì nhỏ phải thua lớn, phàm phải sợ thần.

Long Kiết công chúa đuổi theo gần đến quăng dây Khổn long ra trói Hồng Cẩm, sai Huỳnh Cân lực sĩ đem về nộp Tây Kỳ.

Huỳnh Cân lực sĩ tuân lệnh xách Hồng Cẩm về thành ném xuống trước sân.

Tử Nha và các tướng xem thấy mừng rỡ.

Hồi 67: Đàn Kim Đài, Tử Nha bái tướng

Tử Nha thấy Hồng Cẩm bị trói từ trên sa xuống biết là Long Kiết công chúa đã bắt được đem về.

Chẳng bao lâu, Long Kiết công chúa vào phủ, Tử Nha đứng dậy thưa:

– Nhờ công chúa cứu độ, xã tắc và muôn dân đều mang ơn.

Long Kiết công chúa nói:

– Từ lúc tôi xuống Tây Kỳ đến nay chưa lập được công chi, nay bắt Hồng Cẩm về đó, tùy ý Thừa tướng xử trí.

Nói rồi vào phòng an nghỉ. Tử Nha truyền dẫn Hồng Cẩm đến và nói:

– Những tướng nghịch mạng như ngươi chẳng tướng nào trở về được.

Liền truyền Nam Cung Hoát đem ra pháp trường xử trảm.

Nam Cung Hoát vâng lệnh vừa dẫn ra, bỗng có một ông già vừa chạy đến thở hổn hển, la lớn:

– Hãy khoan chém đã.

Nam Cung Hoát thấy ông lão ấy dung mạo như một đạo sĩ, nên không dám trái lời, vội chạy vào phủ thưa với Tử Nha:

– Có một vị đạo nhân đến ngăn cản, không cho chém Hồng Cẩm, xin Thừa Tướng quyết định lẽ nào?

Tử Nha truyền mời đạo sĩ vào. Ðạo sĩ nói với Tử Nha:

– Tôi là Nguyệt Hiệp lão nhân Nguyệt lão đến đây vì Phù Nguyên tiên ông có nói Long Kiết công chúa và Hồng Cẩm trời định mối lương duyên và Thừa Tướng sẽ có thêm một tướng phá năm ải, vì vậy lão phu đến đây, xin Thừa Tướng chớ cãi lời.

Tử Nha nghĩ thầm:

– Long Kiết công chúa là một vị tiên cô trên thượng giới, lẽ nào sánh duyên với một kẻ phàm tục?

Nghĩ rồi truyền Ðặng Thiền Ngọc đến kể hết mọi điều, và dạy Ðặng Thiền Ngọc trao lời lại với Long Kiết công chúa, xem Long Kiết công chúa quyết định như thế nào.

Ðặng Thiền Ngọc tuân lệnh, mời công chúa qua phòng mình đàm đạo.

Long Kiết công chúa hỏi Ðặng Thiền Ngọc:

– Cô nương mời ta qua đây nói chuyện chi?

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Nay Nguyệt lão đến đây bảo Long Kiết công chúa có nhân duyên với Hồng Cẩm, vì tơ duyên đã buộc chân, Thừa Tướng và Nguyệt lão đang bàn luận trong trướng.

Long Kiết công chúa hỏi:

– Vì sao cô nương lại nói chuyện ấy với ta?

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Thừa Tướng cho đòi tôi đến, bảo tôi thưa lại với công chúa, xem ý kiến Long Kiết công chúa quyết định lẽ nào cho niết.

Long Kiết công chúa than:

– Vì ta phạm tội, bị đày xuống núi Phụng Hoàng không được về cung Diêu Trì hầu hạ mẹ ta là Vương mẫu. Nay xuống đây giúp Thừa Tướng chinh Ðông, lập công chuộc tội để sớm được về cõi tiên, không ngờ lại mắc dây oan nghiệt!

Ðặng Thiền Ngọc không dám nói nữa.

Bỗng có Tử Nha và Nguyệt lão bước tới, Long Kiết công chúa và Ðặng Thiền Ngọc ra chào.

Nguyệt lão nói:

– Bởi công chúa vương chút duyên trần nên phải đọa vào cảnh tục, nợ trần thế xong rồi thì mai sau cũng trở về tiên. Vả Tử Nha cũng gần bái tướng đăng đàn, vào lấy Ngũ quan, Long Kiết công chúa và Hồng Cẩm đều có sức giúp đỡ, lưu tiếng ngàn thu, cũng nên lập một chút công cho tiêu tội, mai sau Diêu Trì kim mẫu sẽ có chiếu chỉ rước về. Số trời định như vậy chẳng lẽ trái được. Bần đạo tuân lệnh Phù Nguyên tiên ông đến đây tác hợp, nếu trễ chút nữa, Hồng Cẩm bị chém đầu thì cuộc nhân duyên lỡ làng, chúng tôi mang tội và công chúa vẫn còn dai dẳng nợ hồng trần

Long Kiết công chúa nói:

– Không ngờ dây oan trái tìm đến vấn vương. Tiên ông là người coi việc nhân duyên trong thiên hạ, ta làm sao cãi được.

Nguyệt lão và Tử Nha mừng rỡ, liền tha Hồng Cẩm, đem thuốc tiên đơn xức các vết thương, định ngày phối ngẫu.

Hồng Cẩm được xe duyên cùng Long Kiết công chúa, còn gì sung sướng hơn, vội ra ngoài thành bảo Quý Khương đem binh đến hàng Châu.

Ðêm Hồng Cẩm và Long Kiết công chúa động phòng hoa chúc vào ngày mồng ba tháng ba, năm thứ hai mươi của niên hiệu vua Trụ.

Rạng ngày Võ Vương lâm triều, bá quan chầu chực, Tử Nha dâng biểu như sau:

“Tôi dâng sớ là Thừa tướng Khương Thượng, trộm nghe trời đất là cha mẹ muôn loài, con người khôn ngoan hơn vạn vật. Làm vua trị nước, làm thầy dạy dân, giúp Thượng Ðế trấn bốn phương, vỗ an trăm họ.

Nay Ân Thọ bỏ nghiệp Thành Thang, bá tánh không an, trời đất đều giận. Trụ Vương giết tôi can gián, bỏ đạo luân thường, xa kẻ trung lương, mê đường tửu sắc, cứ việc ăn chơi, sống trên đau khổ của trăm họ. Tám trăm chư hầu quyết hội nơi Mạnh Tân. Cầu chúa thượng kéo binh hùng qua Tị Thủy. Người vô đạo phải trị, dân bất hạnh cũng nên thương, xin chọn ngày tốt buông cương kẻo chư hầu hoài vọng.

Xin trên xuống lệnh để dưới thi hành.

Nay sớ.”

Võ Vương nghe xong, ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

– Thượng phụ kết tội Trụ vương vô đạo, bất nhân, cũng nên chinh phạt, song Tiên vương lúc chết có di ngôn: Làm con không được cãi cha, làm tôi không được đánh chúa. Ta không thể trái lời tiên vương được. Vậy chư hầu ai muốn phạt Trụ mặc họ, ta với Thượng phu cũng nên giữ lời di chúc cho tròn đạo là hơn.

Tử Nha tâu:

– Tôi không dám cãi lời Tiên vương di chúc, song hiện nay chư hầu đều họp mặt tại Mạnh Tân, quyết mời chúa công dấy binh phạt Trụ, cứu dân, nếu chư hầu nào chẳng nghe theo, chư hầu sẽ cho kẻ ấy là đồng đảng của vua Trụ, và họ sẽ đem binh chinh phạt nước nghịch trước rồi mới phạt hôn quân sau. Tôi e nước ta mắc tội với mấy trăm chư chư hầu, nên phải làm biểu xuất sư.

Võ Vương nói:

– Những chư hầu đòi phạt Trụ là những chư hầu nào?

Tử Nha tâu:

– Cả tám trăm chư hầu, trong đó có ba trấn chư hầu lớn như Ðông Bá hầu, Nam Bá hầu, Bắc Bá hầu.

Võ Vương nói:

– Ðã có ba chư hầu lớn ấy thì họ thay mặt ta chinh phạt Trụ cũng được rồi. Thượng phụ cần phải chinh phạt làm gì cho nhọc công, đã trái lời Tiên Vương, lại không tròn niềm thần tử. Ta xét thấy các chư hầu sẽ không hẹp hòi vấn tội ta đâu.

Tử Nha tâu:

– Trời đất là cha mẹ loài người. Nơi trần gian kẻ có đức, có tài được ủy nhiệm chăm dân, làm cha mẹ thiên hạ. Nay Trụ Vương độc ác, làm hại muôn dân, trời muốn đưa chúa công lên trị vì thiên hạ đem lại ấm no cho muôn dân. Nếu chúa công trái ý trời đất, không đổi loạn làm yên, chắc sau này tội ấy về chúa công gánh chịu.

Táng Nghi Sanh tâu:

– Thừa Tướng luận rất phải. Hiện nay các chư hàu họp mặt ở Mạnh Tân, truyền hịch phạt Trụ, nếu chúa công không tham dự tỏ ra chúa công khinh dễ chư hầu lắm. Như vậy e tám trăm chư hầu sẽ không phục và còn đổ lỗi cho chúa công giúp Trụ làm loạn, và đem binh đến chinh phạt Tây Kỳ thì chừng đó chúa công có ăn năn cũng không kịp. Vả lại Trụ Vương nghe lời sàm tấu đem binh phạt Tây Kỳ làm cho ta hao binh tổn tướng và nhiều phen suýt bỏ mạng. Nay thái bình một buổi, mai giặc giã ngàn ngày, biết chừng nào Trụ hết đánh Châu, và để cho muôn dân an cư lạc nghiệp. Theo ý hạ thần thì chúa công nên nghe theo lời Thừa Tướng mà đến Mạnh Tân họp chư hầu. Trước thị oai để cho Trụ Vương khiếp sợ cải thiện, sau không làm hạ nhuệ khí của muôn dân và tiếng tăm của Tiên vương. Xin chúa công xét lại cho, đừng để mất cơ hội.

Võ Vương ngồi suy nghĩ một lúc rồi gật đầu, nói:

– Quan đại phu bàn rất chí lý. Nhưng hôm nay muốn xuất quân phải dùng bao nhiêu nhân mã?

Táng Nghi Sanh tâu:

– Chúa công muốn kéo quân qua ngũ ải thì phải phong Thừa Tướng làm Ðại Nguyên soái, cấp cờ mao, ban búa việt, cai trị muôn binh như vậy mới đi được.

Võ Vương nói:

– Theo lời quan đại phu thì phải phong Tướng phụ là làm Ðại tướng quân đặng cầm quyền chinh phạt.

Táng Nghi Sanh tâu:

– Ngày xưa vua Huỳnh Ðế phong chức ấy cho Phong Hậu, có làm lễ bái tướng nhu có lập một cái đài cao để tế trời đất cùng non sông thánh thần. Xin chúa công làm theo đó.

Võ Vương nói:

– Mọi việc đều nhờ ở quan đại phu định đoạt giùm Trẫm.

Nói rồi truyền bãi chầu.

Táng Nghi Sanh liền đến dinh Tử Nha báo tin mừng. Các tướng nghe tin hoan hỉ vô cùng.

Rạng ngày Táng Nghi Sanh bàn với Tử Nha, sai Nam Cung Hoát và Tân Giáp qua Kỳ Sơn coi lập tướng đài. Hai tướng vâng lệnh ra Kỳ Sơn xem lập đài xong về báo lại với Tử Nha.

Táng Nghi Sanh nghe tin vào tâu với Võ Vương:

– Tướng đài đã lập xong, hạ thần định ngày rằm tháng ba chúa công bái tướng.

Võ Vương nói:

– Ðược, các khanh lo cho chu đáo để đến ngày bái tướng.

Ðến ngày mười ba tháng ba, Tử Nha sai Tân Giáp đi treo bảng điều lệ.

Bản điều lệ gồm có mười sáu khoản kể sau:

1. Nghe trống chẳng tới, nghe chiêng chẳng lui, dỡ cờ chẳng dậy, hạ cờ chẳng mọp. Ấy là lờn phép, phạm thì xử trảm.

2. Kêu tên chẳng dạ, hỏi tên không đứng dậy. Ấy là khí phép, phạm là xử trảm.

3. Ðêm canh nghe hiệu lệnh đẩu phải đánh tiếp theo. Nếu đến trái giờ, hoặc không đúng phép, làm cho việc tuần hàng bị trễ nãi, bắt được xử trảm.

4. Buông lời thù oán, chê bai chủ tướng, không nghe theo lời dạy, ấy là ngang ngạnh, bắt được xử trảm.

5. Cười reo giỡn cợt trước dân chúng, đánh lộn ngoài đường. Ấy là khinh phép, phạm thì xử trảm.

6. Khí giới không chịu chăm sóc, cung đứt quăng không thay, tên hết khôn sắm, gươm giáo bỏ mặc không mài, cờ rách không may. Lấy tiền công qũy đem về xài. Ấy là quân tham lam biếng nhác, bắt được xử trảm.

7. Ðặt lời ca diễu, đặt điều để gạt dân chúng, bày chuyện tà mị làm loạn lòng binh. Ấy là quân yếu, phạm xử trảm.

8. Thày lay sinh chuyện, xúi giục người làm bậy. Ấy là quân thầy lây bắt xử trảm.

9. Tới đâu hiếp dân tới đó, khuấy phá đàn bà con gái. Ấy là dâm ô, bắt xử trảm.

10. Ðứng rình bên rèm nghe trộm việc người khác, bắt được xử trảm.

11. Ðem cơ mưu mật lệnh mật báo cáo giặc biết, đó là đồ phản, bắt được xử trảm.

12. Có việc cần đến thì rút cổ co đầu không chịu phục tùng. Ðó là đồ nhát, phạm đến xử trảm.

13. Binh sĩ không hàng ngũ, la ó, đánh lộn làm ồn ào, đó là loạn quan, phạm xử trảm.

14. Không đau giả bịnh, giả bị thương để khỏi đi đánh giặc, giả chết để trốn đi. Ðó là quân gian, phạm thì xử trảm.

15. Phát lương không đều. Thuế má thì người ngoài thu nhiều người trong họ thu ít làm cho quân sĩ, dân chúng oán thán. Ðó là quân tệ, phạm là xử trảm.

16. Thám thính không rõ về báo không rành thấy ít nói nhiều thấy nhiều lại nói ít, giặc chưa tới thì nói giặc tới, tới sát đến nơi mà nói chưa tới. Ðó là quân xớn xác, phạm đến thì xử trảm.

Qua ngày thứ mười bốn tháng ba, Táng Nghi Sanh vào chầu thưa:

– Sáng ngày mai xin chúa công thỉnh Thừa Tướng lên đài đặng bái tướng.

Võ Vương hỏi:

– Bái tướng phải làm như thế nào?

Táng Nghi Sanh tâu:

– Xin chúa công cứ làm như Huỳnh Ðế bái tướng Phong Hậu thì được.

Võ Vương nói:

– Như thế thì tốt lắm.

Rạng ngày rằm tháng ba, Võ Vương đem bá quan đến ngoài trướng phủ. Xảy nghe lạc đổ ba lần, pháo nổ ba tiếng, cánh cửa từ từ mở ra, Táng Nghi Sanh từ trong bước ra hộ giá vào trong.

Trong lúc đó thì quân vào báo với Tử Nha:

– Bẩm Thừa tướng! Có Ðại vương đem xa giá đến thỉnh Thừa Tướng.

Tử Nha vội mặc áo bát quái rồi bước ra, Võ Vương bái và nói:

– Trẫm xin thỉnh Nguyên soái lên xe.

Tử Nha đáp lễ rồi theo Võ Vương ra ngoài cửa trướng phủ.

Ðến đây, Võ Vương lại bái Tử Nha lần nữa rồi truyền quân đỡ Tử Nha lên xe.

Táng Nghi Sanh đứng ở sau nói nhỏ với Võ Vương:

– Chúa công nhớ truyền quân đẩy xe đi ba vòng nhé.

Võ Vương gật đầu.

Người sau có làm bài thơ khen Tử Nha hiển vinh như sau:

Vua Võ chinh Ðông cậy tướng tài,

Tử Nha mày bạc rỡ cân đai

Ðầy trời phảng phớt mùi hương khói,

Rợp đất cờ treo phỉ chí trai

Bái tướng hiển vinh thêm tuổi hạc,

Cầm binh rạng rỡ khách mày ngài

Tám trăm năm lẻ gây từ đấy,

Trần thế anh hùng ai biết ai.

Tử Nha xem thấy cờ đỏ cắm ở hai hàng, từ cửa thành đến trướng đài suốt bảy mươi dặm trai gái già trẻ, đông nức kéo nhau đến xem.

Tử Nha đến Kỳ Sơn, thấy trên trướng đài có treo một câu đối.

Ba ngàn xã tắc về Châu chúa

Một mối sơn hà thuộc Võ Vương.

Võ Vương thấy đài cao ba trượng, rộng đến hai mươi bốn trượng, gồm có ba từng lầu. Từng thứ nhất, chính giữa có hai mươi lăm người mặc áo vàng, cầm phướng vàng, bên trong có hai lăm người mặc áo xanh, cầm phướng xanh. Bên Tây có hai lăm người mặc áo trắng, cầm phướng trắng. Bên Bắc có hai lăm người mặc áo đen, cầm phướng đen.

Từng thứ nhì có ba trăm sáu mươi người, mỗi người cầm một cây cờ đỏ.

Từng thứ ba có bảy mươi hai tướng mạnh, cầm gươm giáo đao chùy. Mỗi từng có bàn hương án và đồ lễ.

Táng Nghi Sanh liền thỉnh Võ Vương xuống kiệu rồi dặn Võ Vương đến mời Tử Nha xuống xe.

Võ Vương đến trước xe Tử Nha bái và thưa:

– Xin mời Nguyên soái đăng đàn.

Tử Nha lên đài.

Táng Nghi Sanh đóng vai trò lễ bộ, đọc bản văn cáo với thần linh năm non bốn biển, rằng:

“Hỡi ôi! Trời sanh muôn loài. Xưa Thành Thang mở vận, nay truyền ngôi đến Ân Thọ, khí số đã mỏi mòn.

Ân Thọ nghe lời vợ dữ, trợn khách khinh hiền, giết hại bá tánh tôi ngay, coi mạng người như cỏ rác.

Trời buồn đất thảm, trăm họ như rơi vào đống bùn nhơ, té trong lửa đỏ.

Nay Cơ Phát chuộng hiền lánh dữ, đem nhân đức mà hủy bỏ bạo tàn, cậy Tử Nha là anh hùng ra công giúp thế.

Cầu thần linh ngưỡng mộ, ra giúp phò trì. Non nước chứng tri nhờ ơn cổ võ.

Cúi xin nhận lễ”.

Khi Táng Nghi Sanh đọc bản văn tế xong, Châu Công Ðáng thỉnh Tử Nha lên tầng thứ hai, rồi cùng xướng lên một bài văn như sau:

“Năm thứ mười ba, tháng ba, ngày vọng, Tây Bá khiến Châu Công Ðáng cáo với Nhật Nguyệt, Tinh tú, Thần gió, Thần mưa và các vị Hoàng đế thuở xưa.

Hỡi ôi! Càn khôn che muôn vật, Nhật Nguyệt sáng muôn loài.

Nay Ân Thọ chẳng thờ Thượng đế thần tri, lại không tế tiên tông miếu:

Ham mê tửu sắc, không biết trọng tôi hiền, chỉ lo trang điểm lâu đài cho hoan lạc, lại chọn những tôi nịnh cho muôn dân điêu đứng.

Chẳng biết thương vợ con, đem hành hình thảm thiết. Thuế má thâu rất nặng làm cho muôn dân đói khổ.

Chẳng những thế lại còn hung hăng sai tướng đem binh phạt nơi này nơi khác gây cho dân cảnh màn trời chiếu đất, vợ xa chồng, cha lìa con, mẹ mất con.

Nay Cơ Phát động lòng, phong Tử Nha làm Nguyên soái, noi theo Y Doãn thay mình dẹp loạn để cứu muôn dân trong cảnh lầm than.

Cúi xin Thượng đế ban ơn mưa móc, bốn biển thanh bình, gương nhật nguyệt chói lòa bốn biển.

Cúi xin nhận lễ.”

Châu Công Ðáng đọc văn tế xong, rước Tử Nha lên lầu trên.

Mao Công Toại bước ra tay cầm vợt vàng, cờ trắng chúc:

– Từ nay Nguyên soái phải lấy hết mình ra giúp dân, vâng lệnh trời trừ bạo chúa và ban phước cho khắp dân chúng.

Tử Nha quỳ xuống lãnh búa việt cờ mao rồi trao cho tả hữu.

Quan lễ nói:

– Xin Nguyên soái quay mặt về hướng Bắc đặng lãnh ấn.

Tử Nha quỳ xuống xong, tức thì kèn trống trổi lên.

Triệu Công Thích đọc bài văn tế như sau:

“Năm thứ mười ba, tháng ba, Tây Bá Hầu khiến Triệu Công Thích cáo cùng Hoàng thiên, hậu thổ cùng Thần Kỳ.

Hỡi ôi!

Hễ người làm lành thì trời ban phước đức.

Nay Trụ Vương bất cần ông bà, không thèm cúng tế, không biết tu thân.

Khoét mắt chánh cung hoàng hậu, phanh thây quốc trượng tức là phạm tội cang thường, mổ bụng Hoàng thúc đặng chữa bệnh cho Ðắt Kỷ là diều bạo ngược.

Lại xuất kho tiêu xài những chuyện phung phí gây cho binh sĩ, dân chúng nhiều điều phiền toái.

Nay Trụ Vương lỗi đạo với dân, vô nghi với trên trước, nên Cơ Phát vâng lệnh thiên công, Khương Thượng đem hết tài mưu lược để giành lại sự ấm no cho dân chúng.

Vậy cúi xin Thượng đế giúp vận giải nạn cho dân, chỉ dạy đường đi nước bước.

Cúi xin Thượng đế chứng kiến”.

Triệu Công Thích đọc văn tế xong, ba từng đồng đốt sớ một lượt, Tử Nha đứng giữa, liền giống trống dựng cờ.

Tân Giáp bưng mâm sơn đỏ có mão kim khôi, hồng bào.

Kim Giáp dâng ngọc đái lên cho Nguyên soái.

Tử Nha đội mũ, mặc áo, nai nịt đàng hoàng, liền đứng giữa đài đợi dâng kim ấn.

Tân Giáp lại đem lên một cái giám, có móc ba món đồ là ba món báu vật của thiên tử dùng để hiệp với chư hầu:

Thứ nhất lịnh Thiên Tử kỳ.

Thứ nhì lịnh Thiên Tử ấn.

Thứ ba lịnh Thiên Tử kiếm.

Kế đó Tân Giáp cầm ấn, gươm dâng lên cho Tử Nha. Tử Nha cầm gươm ấn đưa lên ngang mày.

Táng Nghi Sanh nhắc Võ Vương bái tướng. Võ Vương làm lễ lạy hai lạy dưới đài.

Có bài thơ rằng:

Ấn vàng vuông vức lớn bằng đồng,

Chinh phạt thần kinh qủy cũng sầu.

Lữ Vọng từ nay làm chủ soái,

Giang san tay Trụ thuôc về Châu.

Võ Vương lạy rồi, Khương nguyên soái lấy cờ lịnh thiên tử trao cho Tân Giáp, truyền đem cờ ấy xuống thỉnh Võ Vương.

Tân Giáp vâng lệnh, cầm cờ xuống đài kêu lớn:

– Tôi vâng lệnh Nguyên soái thỉnh Võ Vương lên đài.

Võ Vương y lịnh.

Nguyên soái truyền Tân Giáp mở gươm và ấn ra, rồi thỉnh Võ Vương ngồi giữa, Tử Nha quỳ lạy tạ ơn, và tâu:

– Trị nước không bắt đầu từ bên ngoài, cầm binh không bắt đầu từ bên trong. Hai lòng thì khó thờ vua, nghi ngại thì khó đánh giặc. Tôi đã lãnh cờ mao búa việt nên phải ráng đền ơn tri ngộ chúa công.

Võ Vương nói:

– Thượng phu nay làm Nguyên soái chinh Ðông, còn ta chỉ đến Mạnh Tân hội chư hầu rồi trở về nước.

Tử Nha tạ ơn, Võ Vương xuống đài. Các tướng đều làm lễ ra mắt.

Tử Nha truyền lệnh rằng:

– Ba hôm nữa các tướng sẽ tựu tại diễn trường để nghe hiệu lệnh, còn hôm nay ta mắc tiếp rước bằng hữu, vì các vị tiên trưởng đến đưa ta.

Võ Vương và các tướng ở lại kim đài, còn Tử Nha đến Lư Bồng họp mặt các vị tiên.

Hai mươi vị tiên trưởng thấy Tử Nha đến, vỗ tay cười lớn:

– Tướng già mà oai nghi thay! Ăn mặc lại càng mạnh.

Tử Nha bái và thưa:

– Nhờ các vị tiên trưởng trợ giúp tôi mới được thế này.

Các vị tiên bàn rằng:

– Chờ giáo chủ đến đây chúng ta sẽ rót rượu tiễn hành mới phải.

Bỗng nghe tiếng hạc vang trời, mọi người biết Nguyên Thỉ thiên tôn giáng hạ, liền xuống khỏi Lư Bồng quỳ lạy nghinh tiếp.

Nguyên Thỉ lên ngồi giữa Lư Bồng, đệ tử đồng làm lễ.

Tử Nha quỳ lạy đợi lời chỉ dạy, Nguyên Thỉ nói:

– Khương Thượng! Công ngươi ở núi bốn mươi năm chứa nhiều âm đức, bây giờ làm thầy một bậc đế vương không phải chuyện nhỏ. Nhờ phước lâu dài, phạt Trụ có công, sau được vinh hoa phú quý, con cháu triền miên toại hưởng. Nay bần đạo tiễn hành ba chén rượu.

Nói rồi truyền Bạch Hạc đồng tử rót một chén trao cho Tử Nha và nói:

– Chén này khuyên ngươi có công phò chúa.

Tử Nha tiếp lấy chén rượu uống cạn.

Nguyên Thỉ truyền rót thêm chén nữa và nói:

– Chén này khuyên ngươi trị nước cho công minh.

Tử Nha cũng lãnh lấy và uống.

Nguyên Thỉ truyền rót chén thứ ba, rồi nói tiếp:

– Chén này khuyên ngươi sớm họp mặt chư hầu.

Thấy Tử Nha đã uống hết ba chén rượu mà chưa đứng dậy, Nguyên Thỉ hỏi:

– Ngươi còn muốn hỏi điều chi?

Tử Nha thưa:

– Nhờ ơn sư phụ dạy dỗ, đệ tử mới dám lãnh ấn chinh Ðông, song chẳng biết đường đi hung kiết lẽ nào, xin sư phụ chỉ dạy.

Nguyên Thỉ nói:

– Ngươi đừng ngại gì cả, hãy nhớ bài kệ này là đủ.

Nói rồi ngâm rằng:

Ải Giới Bài, Tru tiên lập trận,

Xuyên Vân sao khỏi gặp Ôn Hoàng

Giữ gìn Ðạt, Triệt, Quang, Tiên, Ðức,

Qua trận Vân tiêu thân mới an.

Tử Nha nghe xong tạ ơn:

– Ðệ tử không dám quên bài kệ.

Nguyên Thỉ nói:

– Thôi các ngươi ở lại mà đưa đón, ta trở về cung.

Nói rồi đằng vân lên không trung, các đệ tử đồng lạy đưa.

Tiếp đó Nam Cực tiên ông tới, mỗi ông tiên đồng rót ba chén rượu đưa Tử Nha lên đường. Tử Nha vị tình uống hết.

Còn các trò nhỏ thấy Tử Nha hỏi Nguyên Thỉ về số mệnh cũng bắt chước theo, hỏi thầy mình.

Kim Tra lạy Văn Thù thưa:

– Chẳng hay đệ tử đi chinh chiến hung kiết thế nào?

Văn Thù ngâm:

Ðã sẵn có công về tám cõi,

Lo chi không thoát khỏi năm thành.

Na Tra cũng lạy và hỏi Thái Ất:

– Chẳng hay đệ tử đi chinh chiến hung kiết thế nào?

Thái Ất ngâm:

Khi vào ???????? càng thêm phép,

Mới biết liên hoa lại hóa hình.

Mộc Tra cũng lạy thầy và hỏi như vậy, Phổ Hiền ngâm:

Gươm báu Ngô câu là phép mạnh,

Ðường trường quan ải dễ ai ngăn.

Vi Hộ cũng lạy thầy và hỏi như vậy, Ðạo Hạnh ngâm:

Dẫu bao nhiêu bạn tu hành kỹ,

Có một mình ngươi quả vị thành.

Lôi Chấn Tử cũng lạy thầy và hỏi như vậy, Vân Trung Tử ngâm:

Rõ ràng trái hạnh sanh hai cánh,

Bảo hộ nhà Châu đặng tám trăm.

Dương Tiễn cũng lạy thầy và hỏi như vậy. Ngọc Ðảnh chơn nhơn cười và nói:

– Ngươi khác người ta xa lắm.

Tập luyện huyền công ai sánh kịp,

Tung hoành thế giới bực nào hơn?

Lý Tịnh cũng lạy Nhiên Ðăng hỏi về số mạng, Nhiên Ðăng đáp:

– Ngươi lại khác người ta xa lắm.

Nói rồi ngâm rằng:

Thành luôn phần xác về tiên cảnh,

Hẳng những phần hồn đến Ngọc kinh.

Hoàng Thiên Hóa cũng lạy thầy hỏi như vậy. Ðạo Ðức chơn nhơn biết học trò mình chết non, nhưng chẳng nỡ nói, ngồi làm thinh một lúc, thầm nghĩ:

Nếu không nói cũng không tránh khỏi số trời. Liền ngâm rằng:

Tài giỏi thì xông tới,

Phép cao khá chạy ngay

Gà vàng không biết gáy,

Ong nghệ lại ưa bay

Một trận ghi công trọng,

Ngàn năm để tiếng hay

Nếu quen nghề tự phụ,

Ðâu chắc rủi cùng may?

Tuy Ðạo Ðức chơn nhơn căn dặn mặc dù, song Hoàng Thiên Hóa ỷ tài không lấy gì làm sợ.

Thổ Hành Tôn cũng lạy thầy hỏi như vậy. Cù Lưu Tôn biết học trò mình vào được ải, sau bị Trương Khuê giết đi, nên cũng ngâm một bài kệ rằng:

Ðịa hành phép ấy cũng là thông,

Song chớ gây hơn đặng lập công

Bắt được con heo liền cắn cổ,

Trước non thú dữ huyết rơi hồng.

Cù Lưu Tôn ngâm rồi, Thổ Hành Tôn lạy tạ.

Các tiên từ giã về non.

Khi ấy Tử Nha xuống Lư bồng, trở lại tướng đài mời Võ Vương về cung, còn các quan ai về dinh nấy.

Rạng ngày Tử Nha làm sớ vào tạ ơn vua, và tâu:

– Thần nhờ ơn Tiên vương đem về, chưa đền bồi mảy may. Nay cảm ơn đại vương bái tướng, tri ngộ mười phần, dầu thịt nát xương tan, phải đem thân làm trâu ngựa, tôi cũng quyềt không sờn lòng. Vậy xin dâng lá biểu này, xin chúa công thuận theo lòng trời, cho đẹp lòng thiên hạ.

Võ Vương nói:

– Ta đã trao quyền Nguyên soái cho Thượng phụ định đoạt việc binh lẽ nào dám cãi lời?

Nói rồi liền xem sớ. Trong sớ đại khái như sau:

“Ðại Châu năm thứ mười ba, tôi là Nguyên soái Khương Thượng từng nghe đạo thánh, hưng vong là máy tuần hoàn.

Nay Ân Thị chẳng noi Nghiêu, Thuấn vô đạo lỗi nghi, nên Tây Châu phải học theo Thang, Y cứu dân phạt Trụ. Chư hầu gần mở đại hội, chúa công phải thân chinh, làm cho bốn biển thái bình, muôn dân lạc nghiệp”.

Võ Vương xem sớ xong hỏi:

– Thượng phụ định ngày nào xuất binh?

Tử Nha tâu:

– Ðể thần tập binh xong, lựa ngày tốt sẽ tâu lại.

Võ Vương truyền tả hữu dọn yến tiệc đãi đằng.

Hôm sau, Tử Nha đến diễn trường điểm tướng, truyền Tân Giáp đòi Nam Cung Hoát, Võ Kiết, Na Tra, Hoàng Thiên Hóa bốn tướng đồng lên đài.

Khương Tử Nha nói:

– Binh ta sáu mươi vạn, nên phải phong bốn tướng đi tiên phong, chia ra làm tiền, hậu, tả, hữu. Các ngươi ai bắt thăm trúng nhiệm vụ nào thì lãnh ấn thi hành.

Bốn tướng vâng lệnh bốc thăm, Hoàng Thiên Hóa bắt trúng tiền đội tiên phong, Nam Cung Hoát làm tả tiên phong, Võ Kiết làm hữu tiên phong, Na Tra làm hậu đội.

Tử Nha ban ấn tiên phong cho bốn tướng, thưởng mỗi người ba chung rượu.

Bốn tướng tạ ơn.

Tử Nha đòi Dương Tiễn, Thổ Hành Tôn, Trịnh Luân cho ba người này làm chức đốc lương, cũng bắt thăm nhất, nhì, ba cho biết. Dương Tiễn bắt được số một, Thổ Hành Tôn số hai, Trịnh Luân số ba. Tử Nha thưởng mỗi người ba chén rượu.

Kế đó Tử Nha đem sổ bộ ra, kiểm tướng.

Các tướng Tây Kỳ hiện có như sau:

Hoàng Phi Hổ, Hoàng Phi Bưu, Hoàng Phi Báo, Hoàng Minh, Châu Kỷ, Long Hoàn, Ngô Khiêm, Hoàng Thiên Tước, Hoàng Thiên Lộc, Hoàng Thiên ường, Tân Miễn, Thái Ðiền, Hoàng Yên, Kỳ Công, Doãn Công.

Ngoài các tướng ấy còn có Tứ Hiền và Bát Tuấn.

Tứ hiền là Châu Công Tráng, Triệu Công Thích, Mao Công Toại, Tất Công Cao.

Bát tuấn là:

Bát Ðạt, Trọng Hối, Quý Tòa, Bá Hoát, Thục Dạ, Quý Hoa.

Bát tuấn gồm có tám người, nhưng đã mất hết hai nay chỉ còn sáu.

Còn các vị điện hạ con Văn Vương là:

Cơ Thúc Khiên, Cơ Thúc Khôn, Cơ Thúc Khương, Cơ Thúc Chánh, Cơ Thúc Khải, Cơ Thúc Ðảng, Cơ Thúc Nguyên, Cơ Thúc Trung, Cơ Thúc Liêm, Cơ Thúc Ðức, Cơ Thúc Mỹ, Cơ Thúc Kỳ, Cơ Thúc Thuận, Cơ Thúc Bình, Cơ Thúc Quảng, Cơ Thúc Trí, Cơ Thúc Dõng, Cơ Thúc Kỉnh, Cơ Thúc Sùng, Cơ Thúc An.

Cộng là hai mươi người có võ nghệ. Nguyên Văn Vương có chín mươi chín người con, tính thêm Lôi Chấn Tử là một trăm chẵn. Tuy vậy, chỉ có ba mươi sáu người, nay chỉ còn hai mươi vị.

Còn các tướng hàng đầu là:

Ðặng Cửu Công, Thái Loan, Ðặng Tú, Trịnh Thăng, Tô Diệm Hồng, Triều Ðiền, Triều Lôi, Hồng Cẩm, Quý Khương, Tô Hộ, Tô Toàn Trung, Triệu Bính, Tôn Tử Võ.

Có hai nữ tướng là Long Kiết công chúa, Ðặng Thiền Ngọc.

Tử Nha gọi tên các tướng đủ mặt rồi đòi Hoàng Phi Hổ, Ðặng Cửu Công, Hồng Cẩm lên đài, nói:

– Khí số Trụ Vương tuy đã kiệt, song tướng năm ải có tài, ta chẳng nên khinh địch, phải tập luyện binh cơ đồ trận cho tinh thông.

Nói rồi truyền Tân Giáp đem binh thư lên đài, truyền bá tướng theo cách thức tập luyện các trận sau:

1. Nhứt tự trường xà trận.

2. Nhị long xuất thủy trận.

3. Tam sơn nguyệt nhi trận.

4. Tứ môn đẩu để trận.

5. Ngũ hổ ba sơn trận.

6. Lục giáp mê hồn trận.

7. Thất túng thất cầm trận.

8. Bát quái âm dương tử mẫu trận.

9. Cửu công bác môn trận.

10. Thập đại minh vương trận.

Và hai trận bí hiểm là:

11. Thiên địa nhơn tam tài trận.

12. Bao la vạn tượng trận.

Tử Nha lại nói tiếp:

– Trong mười hai trận có sáu thao ta đã giảng nghĩa rõ ràng, ba vị tướng quân cứ theo đó tập quân tiến thối. Bắt đầu từ trận thứ nhứt đến trận thứ mười hai.

Ba tướng vâng lệnh xuống đài, truyền quân lập trận, từ trận trường xà đến trận Ngũ hổ hàng ngũ rất chỉnh tề, qua đến trận Lục giáp mê hồn trận binh ngũ lộn xộn.

Tử Nha đòi ba tướng lên đài dạy:

– Việc chinh Ðông không phải dễ, nếu hàng ngũ không chỉnh tề thì không thể nào thắng giặc nổi. Các tướng phải tập luận cho tinh mới được.

Ba tướng tuân lệnh xuống đài ngày đêm cố công luyện tập.

Còn Khương Tử Nha trở về trướng phủ.

Hồi 68: Núi Thú Dương nghĩa sĩ cầm cương

Vài hôm sau, Khương Thượng vào chầu, tâu với Võ Vương:

– Binh tướng đã kiểm điểm xong, xin Ðại vương ngự giá thân chinh!

Võ Vương hỏi:

– Thượng phụ định bao giờ xuất chinh và việc nước giao cho ai coi sóc?

Tử Nha tâu:

– Tôi nhắm Táng Nghi Sanh là người đủ mưu trí, có thể đảm đương việc ấy.

Võ Vương hỏi:

– Còn việc binh bị trong nước thì giao cho ai?

Tử Nha tâu:

– Hoàng Cổn là tướng từng trải việc, có thể tin cậy được.

Võ Vương nói:

– Thượng phụ chọn rất đúng. Thế thì ta an lòng.

Kế đó Võ Vương vào cung tâu với Thái Tỷ rằng:

– Nay Tử Nha hội chư hầu tại Mạnh Tân để phạt Trụ, con phải thân chinh đến đó cho đủ mặt, chừng nào xong việc, con xin trở về gấp không dám trễ nãi, và không dám trái lời di chúc của phụ vương.

Thái Tỷ dạy rằng:

– Thượng phụ đã được tiên vương ủy thác, mỗi con phải nghe theo lời thượng phụ mới được, vì thượng phụ là người mưu trí, lại từng trải.

Nói rồi dọn tiệc tiễn hành.

Rạng ngày Võ Vương và Khương Thượng kéo sáu mươi muôn binh thẳng đến trường đình thấy các vị đệ ngự đã sẳn sàng dọn tiệc đưa đón. Anh em chúa tôi ăn uống xong giã biệt lên đường, quan quân tiền hô hậu ủng, tướng sĩ hăng say dưới cờ phạt Trụ. Lúc đó vào ngày hai mươi bốn năm thứ ba mươi của vua Trụ.

Ðoàn quân qua khỏi núi Yên Sơn, đến núi Thú Dương bỗng gặp Bá Di, Thúc Tề chặn đường, không cho binh mã đi tới. Quân sĩ thấy hai người không khí giới, đứng cản đường không hiểu việc chi, mặt ngơ ngác.

Bá Di và Thúc Tề nói:

– Bây hãy báo với chúa công, hai ta là Bá Di và Thúc Tề xin ra mắt!

Võ Vương và Tử Nha nghe báo đồng đến trước xem, và hỏi:

– Hai vị đón đường nói chuyện chi?

Bá Di và Thúc Tề hỏi:

– Hiền hầu cùng ông Tử Nha kéo binh đi đâu vậy?

Tử Nha thay lời Võ Vương đáp:

– Vua Trụ vô đạo, chẳng sợ oai trời, làm hại muôn dân, giết tôi trung đãi kẻ nịnh, không kể đến giềng mối Thành Thang, coi chư hầu như cừu địch. Chúa công nay hội chư hầu nơi Mạnh Tân, đồng kéo đến Triều Ca vấn tội.

Bá Di và Thúc Tề đồng nói:

– Chúng tôi có nghe nói đạo làm người thì con không hài tội cha, tôi không kể lỗi của chúa, Hễ chúa sai thì tôi gián, cha không phải thì con can, thà chứa đức cho cảm động lòng vua chứ nên lấy oai làm tội vua. Xưa Văn Vương vì một lòng thờ chúa nức tiếng nhân đạo, không có lòng tham quyền quý nên thiên hạ mới theo về, nay Võ Vương đem quân phạt Trụ, tỏ cho thiên hạ thấy mình thiếu đức, muốn chiếm đoạt cơ nghiệp Thành Thang, bao nhiêu tình cảm của thiên hạ đối với nước Châu ta trước kia sẽ vì thế mà mất hết. Hễ có nhân thì dân phục, thất đức thì dân chẳng ưa. Xin chúa công nghe lời chúng tôi kéo binh trở về, kẻo sau này mang tiếng với thiên hạ.

Võ Vương dừng ngựa làm thinh, Tử Nha nói:

– Hai ông nói cũng phải, song ý kiến hai ông chưa được cầu xa. Sở dĩ thiên hạ phục Châu là vì thấy chúa công ta nhân đức, có thể đem lại cho họ một đời sống thịnh vượng, ấm no. Nếu chúa công không đem đức độ mình trừ kẻ bạo loạn, cứu dân độ thế thì chẳng há ra chúa công ta đã phụ công thiên tử hay sao? Thiên hạ đang ra trong nước lửa, cố cầu cạnh người hiền đứng ra giúp vớt mà mình cứ tị hiềm bo bo giữ chút lòng trung nhỏ hẹp, thì sao gọi là nhân đạo.

Tử Nha vừa nói vừa kéo Võ Vương đi.

Bá Di và Thúc Tề thấy vậy vội nắm cương ngựa của Võ Vương níu lại và nói:

– Con cãi cha là bất hiếu, tôi đánh chúa là bất trung. Tôi e đời sau làm nhơ tiếng hiền đức của chúa công, nên nhất định can ngăn, không cho chúa công làm chuyện ấy.

Tả hữu nổi giận muốn đâm chết hai người ấy, Tử Nha không cho và nói:

– Hai người này chính là nghĩa sĩ trên đời này phải trọng họ.

Nói rồi truyền quân gỡ tay Bá Di và Thúc Tề ra cho Võ Vương qua.

Khi Tử Nha kéo quân đến Kim Kê lãnh, quân thám thính thấy một đạo quân xông ra đón đường đàng trước có hai cây cờ đỏ, liền báo với Tử Nha:

– Trước mặt có một đạo binh ngăn đón.

Tử Nha truyền quân đóng trại và tìm kế đối phó. Nhưng chưa bao lâu đã có tin:

– Tướng giặc dẫn binh đến khiêu chiến.

Tử Nha không rõ đạo binh nào liền hỏi các tướng:

– Có ai dám ra binh để biết tướng giặc ấy là ai không?

Tả tiên phong Nam Cung Hoát xin đi.

Tử Nha nhận lời và dặn:

– Trận đầu phải giữ gìn cho chu đáo kẻo nhẹ uy quân ta.

Nam Cung Hoát vâng lệnh kéo quân đi, vừa ra trước dinh thấy một tướng uy vũ phi thường, liền hỏi lớn:

– Ngươi là ai mà dám kéo binh đến đón đường quân ta?

Người kia đáp:

– Ta là Ngụy Bôn. Còn ngươi là tướng gì và cử binh đi đâu đó?

Nam Cung Hoát nói:

– Ta là tiên phong của Khương Nguyên soái đem binh phạt Trụ cứu dân. Ngươi tài cán gì mà dám đón đườn nhân mã?

Nói rồi chém một đao.

Ngụ Bôn đưa thương ra đỡ.

Hai tướng đánh được ba mươi hiệp.

Nam Cung Hoát toát mồ hôi tay chân bủn rủn, nghĩ thầm:

– Binh hùng vừa kéo ra đã gặp tướng dữ đón đường. Nếu nhịn thua bỏ chạy, thì phạm quân luật, bằng đánh nữa chắc phải chết.

Trong lúc đang lúng túng, Nam Cung Hoát bị Ngụ Bôn chém một đao, Nam Cung Hoát đỡ không nổi rơi thương xuống đất.

Ngụy Bôn nắm Nam Cung Hoát vật xuống ngựa và nói:

– Ta không cần giết ngươi, hãy về kêu Tử Nha ra đây nói chuyện.

Nam Cung Hoát ôm đầu chạy về dinh chịu tội, thuật lại mọi điều.

Tử Nha nổi giận hét lớn:

– Ngươi dẩn đầu sáu mươi muôn binh, mới ra trận đầu đã bị bắt còn gì uy vũ của chúa công. Sao không tự sát còn về ra mắt ta làm gì?

Nói rồi truyền quân đem Nam Cung Hoát ra ngoài xử trảm.

Quân sĩ tuân lệnh dẫn Nam Cung Hoát ra trước cửa dinh toan chém.

Bỗng Ngụy Bôn lướt ngựa tới kêu lớn:

– Ðừng chém tiên phong. Hãy mời Khương Nguyên soái ra đây đặng ta bàn luận.

Quân vào báo, Tử Nha nổi giận mắng thầm:

– Quân thất phu! Ðã không chém tướng ta, cũng lại cản ngăn không cho ta chém tướng. Thật lạ lùng.

Nói rồi dẫn các tướng ra trận. Ngụy Bôn xem thấy Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng, áo mão chỉnh tề liền hỏi lớn:

– Tướng kia có phải là Khương Tử Nha không?

Tử Nha đáp:

– Ngươi là ai đó? Mời ta ra có việc gì?

Ngụy Bôn liền xuống ngựa, quỳ dưới đất thưa:

– Tôi nghe Nguyên soái hưng binh phạt Trụ cứu dân muốn theo phò dưới trướng, song chưa thấy mặt nên chưa biết uy đức thế nào. Nay xem hàng ngũ nghiêm trang, đáng mặt làm đầu muôn tướng. Tôi xin hết sức theo phò, đánh một người vô đạo cứu trăm họ lầm than.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ liền thâu binh vào trại.

Ngụy Bôn theo vào, quỳ trước trướng thưa:

– Lâu nay tôi chiêu dụ một số binh mã, rèn tập đao thương chờ lúc cứu dân nhưng chưa gặp chúa. Bây giờ được Nguyên soái thu dùng theo chúa thánh, tôi rất phỉ nguyền. Còn Nam Cung Hoát rủi ro thất trận, xin Nguyên soái rộng lượng khoan dung, để không mang tiếng mới ra binh đã giết tướng.

Tử Nha nói:

– Tuy Nam Cung Hoát ra binh thất trận mà được Ngụy tướng quân, ấy là điềm tiền hung hậu kiết.

Nói rồi truyền tha Nam Cung Hoát.

Nam Cung Hoát vào lạy tạ ơn, Tử Nha nói:

– Ngươi là tướng tiên phong, mới ra trận đầu đã bại, xử trảm rất đúng, song có Ngụy Bôn đầu Châu, lại xin lỗi cho ngươi, ngươi mới khỏi chết. Như vậy ngươi phải giao ấn soái cho Ngụy Bôn để theo hầu sai khiến. Chừng nào đoái công chuộc tội sẽ hay.

Nam Cung Hoát vâng lịnh, giao ấn tả tiên phong cho Ngụy Bôn.

Tử Nha truyền lịnh tiến binh.

Nhắc lại từ khi Hồng Cẩm đầu Châu, quân về báo lại với Hàng Vinh nơi ải Tị Thủy, Hàng Vinh vội tiếp sớ sai người đem về Triều Ca khẩn tấu.

Vi Tử đưa sớ vào trình với Trụ Vương.

Trụ Vương xem thấy thất kinh, liền lâm triều hội bá quan thương nghị.

Bá quan chầu chực đủ mặt, Trụ Vương phán:

– Nay Cơ Phát làm phản, càng ngày càng bất tuân chính lệnh, lại có ý muốn xâm lấn bờ cõi, các khanh biết mưu gì hay trừ Tây Kỳ, thì Trẫm sẽ gia ân không nhỏ.

Quan Ðại phu Phi Liêm quỳ tâu:

– Khương Thượng là người có phép tiên, lại được các đệ tử tiên gia giúp sức. Tướng thường không thể ngăn nổi. Xin bệ hạ xuống chiếu sai Khổng Tuyên, hiện trấn tại ải Tam Sơn cử binh đi chinh phạt Tây Kỳ. Người này biết độn thổ hành, lại có học phép tiên chắc trừ được Khương Thượng.

Vua Trụ nghe nói liền viết chiếu sai sứ giả đem đến ải Tam Sơn ngay lập tức.

Sứ thần đem chiếu đến ải Tam Sơn, Khổng Tuyên đặt bàn hương án, và quỳ nghe đọc chiếu như sau:

“Thiên Tử cầm quyền chinh phạt. Nguyên Nhung có trách nhiệm trông thành. Nay Khương Thượng hoành hành, phò vương phản nghịch. Tướng trào không ai cự lại, quân giặc mỗi lúc một thêm uy. Nghe khanh là người có phép tài lại thấm nhuần mưu lược, nên Trẫm ban gươm ấn, khanh khá trổ tài ra sức dẹp Tây Kỳ, nếu đặng ban sư, Trẫm sẽ phong vương cho. Nay chiếu”.

Khổng Tuyên tạ ơn mở tiệc đãi đằng thiên sứ, kiểm điểm binh mã mười vạn kéo qua Tây Châu.

Khi đến ải Tị Thủy, Hàng Vinh ra rước vào mở tiệc khoản đãi và nói:

– Nguyên soái đến đây trễ lắm rồi!

Khổng Tuyên hỏi:

– Cớ nào mà tướng quân gọi là trễ.

Hàng Vinh nói:

– Võ Vương có ý vượt qua năm ải, xâm phạm Triều Ca, nên đã đăng đàn bái tướng, phong Tử Nha làm Nguyên soái, điều khiển quân viễn chinh. Hiện nay, Tử Nha đã kéo đại binh qua khỏi Tây Kỳ không bao lâu cũng đến ải Tị Thủy này.

Khổng Tuyên nói:

– Ta nhắm Khương Thượng cũng chẳng tài năng gì mấy. Ðể ta bắt hết chúa tôi Cơ Phát giải về triều ca, kẻo lâu nay nó đã nhiều phen làm nhục Thiên triều.

Nói rồi truyền mở cửa ải, kéo binh thẳng đến Tây Kỳ, nhưng mới đi được hai bữa, đến Kim Kê lãnh thì có quân thám mã về báo:

– Ðại binh Tây Kỳ đang kéo tới, cách đây hai dặm.

Khổng Tuyên truyền đóng trại đón đường.

Hồi 69: Khổng Tuyên ra tài bắt tướng

Bấy giờ Tử Nha đang kéo quân đi, bỗng nghe quân thám mã về báo:

– Có một đạo binh Thương kéo đến đón tại Kim Kê lãnh.

Tử Nha truyền quân hạ trại, và ngẫm nghĩ:

– Ba mươi sáu đạo binh đã đủ rồi sao còn có kẻ chặn đường? Hay còn thiếu số nên đạo binh này bổ khuyết chăng?

Bỗng có quân vào báo:

– Tướng Thương đến trước dinh khiêu chiến.

Tử Nha hỏi các tướng:

– Ai dám ra binh?

Hoàng Thiên Hóa xin ra trận, Tử Nha dặn:

– Phải đề phòng chớ nên khinh địch.

Hoàng Thiên Hóa tuân lệnh, cỡi kỳ lân cầm song chùy xông ra thấy tướng Thương đang chống kích đứng chờ, Hoàng Thiên Hóa hét lớn:

– Nghịch tặc! Ngươi là ai mà dám ngăn cản binh trời?

Tướng Thương nói:

– Ta là Trần Canh bộ tướng của Khổng Nguyên soái, vâng lệnh thiên tử đến đây trừ loài phản tặc. Còn ngươi tên họ là gì mà dám khoe khoang như vậy?

Hoàng Thiên Hóa nói:

– Ta là tiên phong của Khương Nguyên soái tên Hoàng Thiên Hóa. Nếu ngươi đã nghe tên thì cũng nên xuống ngựa để quân sĩ ta bắt trói cho rồi khỏi nhọc công ta ra sức.

Trần Canh nổi giận đâm Hoàng Thiên Hóa một kích, Hoàng Thiên Hóa đỡ ra rồi rước đánh, đánh được ba mươi hiệp, Hoàng Thiên Hóa trá bại chạy dài, Trần Canh đuổi theo bị Hoàng Thiên Hóa lấy Hỏa Long Phiêu vụt một cái, trúng nhằm vai bất tỉnh, rơi xuống ngựa.

Hoàng Thiên Hóa cắt lấy thủ cấp đem về dinh.

Tử Nha thấy Hoàng Thiên Hóa trở về ra mắt liền hỏi:

– Ngươi ra trận thắng bại ra sao?

Hoàng Thiên Hóa thưa:

– Nhờ uy nguyên soái, tôi đã lấy được thủ cấp tướng tiên phong của địch là Trần Canh đem về trước dinh.

Tử Nha mừng rỡ liền lấy bút ghi Hoàng Thiên Hóa công đầu. Nhưng vừa rút nắp viết ra thì ngòi viết rơi xuống lòng thòng, Tử Nha cắm chặt ngòi bút vào mới ghi công được.

Ðó là điềm Hoàng Thiên Hóa bị chết non, chỉ lập công được trận này mà thôi.

Binh Thương thua trận, về báo lại với Khổng Tuyên:

– Tiên phong thất cơ bị Hoàng Thiên Hóa chém đầu bêu ngoài cửa.

Khổng Tuyên cười cay đắng, nói:

– Ðứa thất phu, bất tài thì chết cũng đáng.

Hôm sau, Khổng Tuyên lại sai Tôn Hiệp ra trận.

Quân vào báo, Tử Nha chưa định sai ai đi thì Võ Kiết bước đến thưa:

– Ðệ tử xin ra trận.

Nói rồi cầm thương lên ngựa phát pháo dẫn binh ra thành, thấy Tôn Hiệp mặc áo đỏ, cầm siêu đao, cỡi ngựa đạm liền hét lớn:

– Tướng nào đó?

Tôn Hiệp nói:

– Ta là bộ hạ của Khổng Nguyên soái. Còn ngươi có phải là kẻ giết tướng tiên phong của ta không?

Võ Kiết nói:

– Ta là hữu tiên phong của Nguyên soái, tên là Võ Kiết.

Tôn Hiệp cười lớn:

– A, té ra Tử Nha là ông câu còn ngươi là lão tiều thuở xưa. Hai thầy trò đứng chung một bức họa đồ thì xứng lắm.

Võ Kiết nổi giận mắng:

– Ngươi là đứa thất phu sao dám giỡn cợt.

Nói rồi đâm Tôn Hiệp một thương, Tôn Hiệp đưa đao ra đỡ.

Hai người đánh nhau được ba mươi hiệp chưa phân thắng bại.

Võ Kiết giả thua bỏ chạy, Tôn Hiệp khinh Võ Kiết là gã tiều phu đốn củi ở bàn khê nên đuổi theo. Chẳng ngờ Võ Kiết trước kia nhờ Tử Nha rèn luyện võ nghệ tinh thông, thấy Tôn Hiệp đuổi theo liền đâm trái một thương.

Tôn Hiệp bất ngờ đỡ không nổi, nhào xuống ngựa chết tươi.

Võ Kiết cắt lấy thủ cấp mang về. Tử Nha khen ngợi vô cùng.

Na Tra thấy Hoàng Thiên Hóa và Võ Kiết đều được ghi công đầu nên sớm lòng muốn sớm được lập công.

Bấy giờ binh Thương về báo với Khổng Tuyên:

– Tôn tướng quân sa cơ, bị Võ Kiết đâm chết ngoài trận.

Khổng Tuyên nổi giận thét:

– Ta vâng lệnh chinh Tây, không ngờ bị đánh hai trận mà thiệt mất hai tướng.

Liền quay lại hỏi thủ hạ:

– Có ai muốn ra trận lập công chăng?

Tướng hậu tập là Cao Kế Năng xin ra đánh.

Khổng Tuyên dặn:

– Ngươi phải đề phòng chẳng nên khinh địch.

Cao Kế Năng tuân lệnh cầm thương lên ngựa đến dinh Châu đứng trước cửa khiêu chiến.

Quân vào báo lại, Na Tra xin đi, liền lên xe, lướt ra cửa trại kêu Cao Kế Năng mắng lớn:

– Thất phu! Không sợ chết hay sao mà còn dám đem đầu nạp mạng.

Cao Kế Năng nói:

– Na Tra ngươi đừng có ỷ tài, có ta đến đây thì mạng ngươi khó giữ.

Na Tra nói:

– Ngươi đã biết tên ta sao còn chưa xuống ngựa?

Cao Kế Năng cười ngất, nói:

– Ta nghe đồn ngươi tài cao phép giỏi nhưng gặp ta thì danh tiếng ấy không còn.

Na Tra nổi giận vung giáo đánh nhàu.

Cao Kế Năng sợ Na Tra dùng phép trước, liền trá bại bỏ chạy, có ý nhử Na Tra vào kế. Chẳng ngờ Na Tra lẹ tay, quăng Càn Khôn Quyện lên đánh trúng bả vai.

Cao Kế Năng thất kinh chạy thẳng về trại.

Na Tra tức giận vì không giết được địch, buồn bã trở về thuật chuyện với Tử Nha.

Còn Cao Kế Năng ôm vai chạy về soái phủ, thưa lại với Khổng Tuyên.

Khổng Tuyên ngồi làm thinh đưa cho Cao Kế Năng vài viên thuốc bảo Cao Kế Năng xức vào vết thương cho lành.

Rạng ngày, Khổng Tuyên dẫn quân ra trận khiêu chiến:

– Các ngươi vào bảo với Tử Nha, bảo nó ra đây cho ta dạy việc.

Quân vào báo, Tử Nha nai nịt chỉnh tề, dẫn binh tướng ra trận, thấy sau lưng Khổng Tuyên chiếu hào quang ngũ sắc.

Khổng Tuyên hỏi:

– Ngươi phải Khương Tử Nha không?

Tử Nha đáp:

– Phải!

Khổng Tuyên hỏi:

– Trước kia ngươi là tôi nhà Thương, sao nay trở lòng làm phản, đã không giữ bổn phận lại còn cất quân muốn lấy ngũ quan? Nay ta vâng lệnh đến đây, nếu ngươi nghe lời ta kéo quân trở về thì yên nhà lợi nước, bằng trái lời thì ắt Tây Kỳ bị hại, ăn năn không kịp.

Tử Nha nói:

– Ai có đức thì được thiên hạ. Trụ Vương vô đạo dân chúng khổ sở, trời giận đất hờn, tám trăm chư hầu đồng ý hưng binh vấn tội, tướng quân là kẻ cầm binh phải thông việc nưóc, sao không quy thuận cho sớm?

Khổng Tuyên nói:

– Ngươi phò nước nhỏ đánh nước lớn, đó là tội nghịch thiên, đừng dùng lời xảo quyệt mà phỉnh phờ thiên hạ.

Nói rồi chém một đao.

Hồng Cẩm lướt tới đỡ thương và nói:

– Có ta đây Khổng Tuyên đừng vô lễ.

Khổng Tuyên thấy mặt Hồng Cẩm thì nổi giận mắng lớn:

– Phản tặc dám cự với ta sao?

Hồng Cẩm nói:

– Tám trăm chư hầu đều theo Châu, dẫu một mình ngươi có đem lòng trung nghĩa vùi xương trải mật thì cũng chẳng ích chi.

Khổng Tuyên chém Hồng Cẩm một đao, Hồng Cẩm cự lại được năm hiệp liền thò tay vào túi lấy cờ phép ra rung. Khổng Tuyên cười lớn nói:

– Phép đó của ngươi chẳng khác hạt thóc, tài phép bao nhiêu mà khoe.

Nói rồi chiếu đạo hào quang ra, tức thì Hồng Cẩm và cờ lịnh đâu mất.

Các tướng đột nhiên thấy mất Hồng Cẩm ai nấy đều ngơ ngác.

Khổng Tuyên thừa thắng lướt tới vung đao chém Tử Nha. Tử Nha đưa gươm ra đỡ.

Ðặng Cửu Công xông vào trợ chiến.

Ba người quần nhau đánh ba mươi hiệp Tử Nha quăng roi Ðả Thần Tiên lên, không ngờ vừa quăng lên thì đã bị năm đạo hào quang của Khổng Tuyên thâu mất.

Tử Nha kinh hãi vội thâu binh về trại.

Tử Nha về đến trướng phủ trong lòng buồn bực nghĩ thầm:

– Chẳng biết Khổng Tuyên là người như thế nào mà có năm đạo hào quang lợi hại đến thế. Nay Hồng Cẩm bị nó thâu mất không biết hung kiết thế nào. Ta chỉ có cách tối nay thừa lúc nó ơ hờ cướp trại e mới thắng nổi.

Nghĩ rồi liền truyền gọi Na Tra, Hoàng Thiên Hóa, Lôi Chấn Tử vào dặn:

– Tối nay ba ngươi đến cướp trại địch, Na Tra đánh vào ngõ trước, Hoàng Thiên Hóa cướp dinh bên tả, Lôi Chấn Tử lướt đánh thốc ở dinh bên hữu.

Ba tướng vâng lệnh đem binh kéo đi.

Nói về Khổng Tuyên sau khi thắng trận trở về dinh chiếu hào quang sáng lòa, Hồng Cẩm té xuống đất nằm ngay như chết. Roi Ðả Thần Tiên cũng rớt nằm bên Hồng Cẩm.

Khổng Tuyên bước tới lấy roi cất vào túi rồi truyền quân đem Hồng Cẩm giam vào tù xa.

Bỗng một trận gió từ đâu thổi đến làm cuốn ngọn cờ lại.

Khổng Tuyên giật mình đánh tay xem quẻ biết được tối nay binh Châu đến cướp trại nên sai Cao Kế Năng mai phục bên tả, Châu Tín mai phục bên hữu rồi nói với các tướng:

– Ðêm nay binh Châu đến cướp trại nhưng không có Tử Nha thật là uổng!

Qua canh hai bỗng pháo nổ vang trời, ba tướng xông vào, Na Tra đánh thốc vào cửa dinh thì thấy Khổng Tuyên ngồi trước cửa cười lớn nói:

– Na Tra! Ðêm nay ngươi đến cướp dinh chắc phải bỏ mạng tại đây quá.

Dứt lời Khổng Tuyên lên ngựa xông ra. Na Tra chưa biết Khổng Tuyên lợi hại thế nào nên mắng:

– Ðêm nay ta quyết bắt ngươi về dâng cho Nguyên soái, ngươi đừng hòng chạy thoát.

Nói rồi giục xe đến quyết chiến.

Lúc này Lôi Chấn Tử cũng vỗ cánh bay vào thì gặp Châu Tín liền xà xuống lấy gậy đập vào đầu châu Tín.

Châu Tín thấy thế không tránh né kịp bị một gậy nhào xuống ngựa đầu lìa khỏi xác.

Lôi Chấn Tử thừa thắng xông vào trợ chiến với Na Tra.

Khổng Tuyên trông thấy nhắm chừng không cự lại nên chiếu hào quang bắt Lôi Chấn Tử, Na Tra trông thấy thất kinh bỏ chạy. Nhưng không còn kịp nữa bị hào quang chiếu vào người bắt đi.

Lúc này Hoàng Thiên Hóa không hay biết gì cả cứ giao đấu với Cao Kế Năng.

Hoàng Thiên Hóa có cặp song chùy khá nặng, nên khi đánh tới Cao Kế Năng vung giáo ra đỡ, hai vũ khí chạm vào nhau té hào quang.

Cao Kế Năng thất kinh bỏ chạy, Hoàng Thiên Hóa thừa thắng vung chùy đánh bồi thêm một chùy nữa không ngờ Cao Kế Năng chạy kịp khiến chùy đập vào đầu kỳ lân bể nát ngã ra chết, Hoàng Thiên Hóa nhào xuống bị Cao Kế Năng xông đến đâm chết.

Khổng Tuyên thừa thắng xua quân giết quân Châu vô số kể, không còn một mạng. Rồi chiếu hào quang xuống Na Tra, Lôi Chấn Tử rơi xuống nằm mê man.

Khổng Tuyên truyền quân sĩ đem Na Tra, Lôi Chấn Tử giam vào tù xa cùng Hồng Cẩm.

Ðêm ấy Tử Nha không sao nhắm mắt được, nằm nghe trên núi binh tướng la hét inh trời.

Rạng ngày thì có quân vào báo:

– Trước cửa dinh Thương có treo đầu Hoàng Thiên Hóa, còn Lôi Chấn Tử, Na Tra mất tích không thấy đâu cả.

Tử Nha thất kinh ngồi cúi mặt làm thinh.

Còn Hoàng Phi Hổ nghe tin khóc lớn:

– Ta chưa lấy được một tấc đất nhà Thương mà Hoàng Thiên Hóa đã bỏ mạng.

Tất cả gia quyến Hoàng Phi Hổ khi nghe hung tin ai nấy đều khóc thảm thiết.

Nam Cung Hoát thấy vậy khuyên:

– Xin Hoàng tướng quân đừng quá bi lụy, Hoàng Thiên Hóa chết như thế danh tiếng vang khắp đó đây. Hoàng tướng quân phải bình tĩnh báo thù chứ khóc mà có ích gì. Hiện giờ Hoàng tướng quân nên đi mời Sùng Hắc Hổ đến thì ắt bắt được nó.

Hoàng Phi Hổ nghe nói nín khóc, liền bước đến xin phép Tử Nha đến thỉnh Sùng Hắc Hổ.

Tử Nha thấy Hoàng Phi Hổ quá nóng lòng vì con nên vị tình thông cảm.

Hoàng Phi Hổ lên lưng thần ngưu nhắm hướng Sùng thành đi thẳng.

Ði được nửa đường thì đến núi Phi Phụng xảy gặp ba người đang quây quần đánh nhau cát bụi mù trời. Nhưng cả ba người đánh nhau cả trăm hiệp bất phân thắng bại. Ðánh một lúc không ai thắng ai họ nhìn nhau cười ngất.

Hoàng Phi Hổ thấy lạ nên nghĩ thầm:

– Vì cớ gì lại có chuyện lạ thế này? Ta hãy làm bạn hỏi nguyên cớ xem sao.

Nghĩ rồi Hoàng Phi Hổ cho thần ngưu đi tới. Tức thì người cầm chĩa quay lại, thấy Hoàng Phi Hổ dung mạo khác thường, lại mặc triều phục, nên kêu hai người kia nói:

– Hai em hãy dừng tay, khoan tranh cao thấp.

Nói rồi bước tới bái Hoàng Phi Hổ và nói:

– Có phải ngài là Võ Thành Vương chăng?

Hoàng Phi Hổ đáp lễ hỏi lại:

– Vì cớ gì mà các người biết tên tôi?

Hoàng Phi Hổ nói chưa dứt lời thì cả ba người kia vội xuống ngựa và nói:

– Chúng tôi nghe thiên hạ đồn ngài, nên hồ nghi vậy thôi, chẳng ngờ lại thật. Vậy xin mời đại vương ghé vào dinh trại chúng tôi đàm đạo cho vui.

Hoàng Phi Hổ bước xuống lưng thần ngưu theo ba người vào trại, và hỏi:

– Vì cớ gì mà ba ông đánh với nhau quá lâu như vậy?

Ba người thưa:

– Ba anh em chúng tôi ở đây buồn quá không có chuyện gì làm nên đấu võ với nhau giải sầu. Chẳng ngờ đại vương qua đây chúng tôi cam thất lễ.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Chẳng hay danh tánh ba người là chi?

Một nguời thưa:

– Tôi là Văn Sinh. Người này là Thôi Sinh. Còn người này là Trương Hùng.

Về sau ba người này hợp với Hoàng Phi Hổ và Sùng Hắc Hổ thành năm vị thần gọi là thần Ngũ nhạc.

Văn Sinh truyền dọn tiệc thiết đãi và hỏi thăm:

– Chẳng hay đại vương đi đâu đây.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ta vâng lệnh Khương Nguyên soái đến cầu Sùng Hắc Hổ giúp binh phạt Khổng Tuyên tại núi Kim Kê.

Văn Sinh nói:

– Tôi e Sùng Hắc Hổ không đi được.

Hoàng Phi Hổ hỏi:

– Vì sao tướng quân biết trước?

Văn Sinh nói:

– Sùng Hắc Hổ đang luyện binh tướng, lo lấy ải Trần Ðường để kịp hội chư hầu tại Mạnh Tân, nếu đi giúp thì sẽ trễ việc.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Nếu không nhờ các ông cho biết, tôi đến đó uổng công.

Thôi Sinh nói:

– Tuy vậy song Sùng Hắc Hổ muốn vào Mạnh Tân cũng phải đợi Võ Vương. Nếu Võ Vương chưa đến thì Sùng Hắc Hổ đến trước cũng chẳng ích lợi gì. Vậy thì đại vương nghỉ đỡ nơi đây một đêm, sáng mai anh em tôi cùng đi với, may ra Sùng Hắc Hổ bằng lòng trợ chiến.

Hoàng Phi Hổ bằng lòng lưu lại trại Văn Sinh một đêm.

Rạng ngày bốn người đồng lên yên đến trước thành.

Quân trên thành trông thấy kiền vào báo với Sùng Hắc Hổ:

– Có ba vị tướng ở núi Phi Phụng đến thăm.

Sùng Hắc Hổ vội truyền mời vào. Ba tướng bước đến ra mắt.

Thôi Anh nói:

– Có Võ Thành Vương chờ ngoài ngõ.

Sùng Hắc Hổ vội vàng ra rước vào, mời ngồi nơi trướng phủ, và nói:

– Tôi không hay Ðại vương đến đây, nên không kịp đón tiếp, xin đại vương rộng lượng.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Tôi được gặp mặt hiền hầu thật may mắn biết chừng nào.

Sùng Hắc Hổ truyền quân dọn tiệc thiết đãi.

Trong bữa tiệc Văn Sinh thuật chuyện Võ Thành Vương đi cầu viện.

Sùng Hắc Hổ thở ra không nói.

Thôi Anh hỏi:

– Có lẽ Sùng hầu đang tính chuyện vào ải Trần Ðường chăng? Dẫu hiền vương có đến Mạnh Tân trước cũng phải đợi Võ Vương đến đó mới khai hội được. Nay Khương Nguyên soái bị Khổng Tuyên cầm chân tại Kim Kê lãnh, tốt hơn hiền hầu qua đó giết Cao Kế Năng rồi về lấy ải Trần Ðường cũng không trễ.

Sùng Hắc Hổ gật đầu nói:

– Nếu vậy thì mai sáng chúng ta sẽ đi.

Rạng ngày năm người vội vã lên yên. Hơn mấy ngày mới tới núi Kim Kê.

Hoàng Phi Hổ vào thưa với Tử Nha:

– Tôi đi thỉnh một người mà được bốn người, hiện đang đứng trước cửa dinh chờ lệnh.

Tử Nha truyền đem cờ lịnh rước vào.

Bốn vị vào làm lễ ra mắt Tử Nha.

Tử Nha mời ngồi và nói:

– Nay Khổng Tuyên đón đường, phải cây đến hiền hầu giúp sức. Tôi thật mang ơn.

Sùng Hắc Hổ yêu cầu Tử Nha đưa đến ra mắt Võ Vương.

Võ Vương tiếp đãi Sùng Hắc Hổ rất trọng.

Sùng Hắc Hổ nói:

– Nay đại vương đem binh phạt Trụ, cứu dân ơn đức vô cùng. Khổng Tuyên đón đường chỉ là chuyện nhỏ.

Võ Vương nói:

– Ta tài mọn, đức mỏng, được các vị đại vương khuyên bảo nên mới cất nghĩa binh. Nay đi chưa khỏi nước đã có sự ngăn trở. Ta chắc lòng trời chẳng thuận, nên muốn lui binh để sửa mình tu nhân tích đức.

Sùng Hắc Hổ nói:

– Ðại vương nghĩ sai rồi. Nay Trụ vương đáng tội thiên hạ đều oán thán, tám trăm chư hầu đều ước vọng có một minh quân, sá gì Khổng Tuyên mà làm ngã lòng các tướng, thất vọng mọi người.

Võ Vương nghe nói mừng rỡ vội rót rượu đãi Sùng Hắc Hổ.

Sùng Hắc Hổ uống thêm ít chén rồi ra ngoài.

Hôm sau Sùng Hắc Hổ họp lực cùng ba tướng ở núi Phi Phụng kéo binh ra trận gọi tên Cao Kế Năng ra ứng chiến.

Khổng Tuyên nghe quân báo liền sai Cao Kế Năng ra trận.

Cao Kế Năng thấy mặt Sùng Hắc Hổ nổi giận mắng:

– Sao ngươi lại trợ Tây Kỳ? Té ra chúng bay muốn gom lại một chỗ để ta dễ bắt.

Sùng Hắc Hổ nói:

– Thất phu! Không biết lợi hại. Nay bốn cõi đều một lòng bỏ Trụ, ngươi tài năng gì mà dám chống mệnh trời? Có phải hôm trước ngươi đâm chết Hoàng Thiên Hóa không?

Cao Kế Năng cười lớn:

– Chẳng phải một Hoàng Thiên Hóa không đâu, chúng bây cũng không có đứa nào khỏi rơi đầu.

Nói rồi đâm một thương, Sùng Hắc Hổ đưa búa ra đỡ.

Ðánh được ít hiệp, Văn Sinh cầm chĩa ba lướt tới, Thôi Anh, Trương Hùng vào trợ lực, vây Cao Kế Năng vào giữa.

Bấy giờ Tử Nha nghe binh ó, gọi Hoàng Phi Hổ đến nói:

– Sùng quân hầu đến giúp ta sao tướng quân chẳng ra trợ chiến?

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Tôi buồn bực đứa con nên quên mất công việc.

Nói rồi cỡi thần ngưu ra trận gọi lớn:

– Sùng quân hầu! Có tôi trợ chiến đây, quyết giết cho được cừu nhân.

Nói rồi xông vào hỗn chiến.

Hồi 70: Chuẩn Đề hóa phép cưỡi công

Cao Kế Năng cự không lại năm tướng, liền nhảy trái ra ngoài bỏ chạy.

Năm tướng đốc quân đuổi theo.

Cao Kế Năng quen miếng cũ, liền mở túi ong thả ra, ong bay nườm nượp như mây mù, rợp cả trời đất.

Văn Sinh sợ ong cắn giục ngựa chạy như bay, Sùng Hắc Hổ gọi lớn:

– Ðã có ta đây còn sợ gì loài ong!

Nói rồi mở nắp hồ lô, khói đen bay ra, hóa thành con thần ưng rất lớn, bay liệng một vùng, bắt loài ong ăn hết, Cao Kế Năng thấy ong phép mình bị chim thần ăn hết, tức giận trở lại giao chiến một hồi nữa, năm tướng lại xúm nhau lại vây Cao Kế Năng vào giữa.

Khổng Tuyên lúc đó ở trong dinh, nghe tiếng quân ó vang trời, liền hỏi tả hữu:

– Quân ta giao đấu với tướng nào mà không thắng được?

Tả hữu thưa:

– Ðó là quân Cao tướng quân đánh với Hắc Hổ đó.

Khổng Tuyên liền lên ngựa ra khỏi dinh, thấy năm tướng vây Cao Kế Năng vào giữa, còn Cao Kế Năng tay chân đã quýnh quáng, đỡ không nổi nữa.

Khổng Tuyên liền phi ngựa đến trợ chiến, nhưng không kịp, Hoàng Phi Hổ đã lanh tay chém Cao Kế Năng một đao bay đầu, trả thù cho Hoàng Thiên Hóa.

Khổng Tuyên thấy đại tướng mình tử trận, giận đỏ mặt hét lớn:

– Lũ chuột này dám vô lễ thế sao?

Hoàng Phi Hổ thấy Khổng Tuyên ra trận, nói lớn:

– Khổng Tuyên, ngươi không biết cơ trời nên phải bỏ mình.

Khổng Tuyên cười lớn:

– Ta cần gì phải nói chuyện với chúng bây là loài cây cỏ.

Năm tướng áp lại vây Khổng Tuyên vào giữa.

Khổng Tuyên thấy năm tướng sức mạnh phi thường, không dám đánh lâu, liền chuyển mình hóa thành năm đạo hào quang chụp xuống, bắt hết năm tướng đem về trại.

Binh Thương thấy mất năm tướng, thất kinh chạy về báo với Tử Nha:

– Võ Thành Vương đâm chết Cao Kế Năng nhưng bị Khổng Tuyên hóa hào quang bắt hết năm tướng.

Tử Nha thất kinh nói:

– Giết được một tướng mà mất hết năm tướng thì tai hại quá nhiều, chúng ta không nên giao đấu nữa.

Khổng Tuyên thấy trong dinh Châu không có tướng ra trận, liền đem năm tưóng về dinh, ném xuống đất, năm tướng đều mê man, bất tỉnh.

Khổng Tuyên truyền đem nhốt vào ngục, chờ giải về Triều Ca.

Kế đó Khổng Tuyên kiểm điểm binh mình, thấy không còn một tướng nào để sai khiến nữa, tính đồn binh tại đó, đợi xin thêm vài người tướng phụ, rồi sẽ tính đến chuyện giao binh.

Bấy giờ Tử Nha phiền não vô cùng, vì không biết cách nào để trừ Khổng Tuyên.

Kịp lúc Dương Tiễn vừa giải lương về, thấy dinh trại quân hai bên đóng sát nhau mà không giao chiến lấy làm lạ, nghĩ thầm:

– Nguyên soái kéo binh đi đã lâu, sao chưa qua khỏi Kim Kê lãnh. Còn đạo binh nào đóng nơi đây cản đường, có vẻ hùng dũng thế kia.

Quân sĩ trông thấy Dương Tiễn liền vào báo với Tử Nha:

– Dương tướng quân đã giải lương về đến.

Tử Nha nghe tin mừng rỡ liền truyền đòi vào.

Dương Tiễn thưa:

– Tôi vận lương đủ số ba ngàn hộc, không trễ ngày giờ.

Tử Nha khen:

– Quan đốc lương có công lắm.

Dương Tiễn nói:

– Chẳng hay đạo binh nào cản đường mà binh ta không tiến nổi?

Tử Nha thuật lại chuyện có hào quang năm sắc lợi hại bắt một lúc năm tướng, nên không dám sai ai xuất quân.

Dương Tiễn nghe Hoàng Thiên Hóa tử trận vừa buồn vừa bực, nói:

– Nó là loài yêu quái nào mà thần thông như thế. Tôi còn cất gương chiếu yêu của Vân Trung Tử sư thúc đây, để ngày mai Nguyên soái ra binh, tôi đem kính chiếu thử coi nó thuộc giống gì thì trừ không khó.

Tử Nha nói:

– Tướng quân tính rất phải. Ðể sáng mai ta cùng tướng quân ra binh.

Nam Cung Hoát và Võ Kiết nói với Dương Tiễn:

– Chẳng biết Khổng Tuyên bắt năm tướng đem đi đâu. Nó có năm sắc hào quang lợi hại lắm, chúng ta làm sao cứu được năm tướng ấy?

Dương Tiễn nói:

– Phải xem nó là loài yêu quái nào mới định kế được. Các anh cứ yên tâm, ngày mai sẽ định liệu.

Ngày hôm sau, trời vừa rựng sáng. Tử Nha kéo binh ra trước trận kêu Khổng Tuyên ra giao chiến.

Quân vào báo lại, Khổng Tuyên liền cầm thương ra trận, kêu Tử Nha mắng lớn:

– Khương Thượng, ngươi dám cả gan hội chư hầu tại Mạnh Tân để mưu phản. Ta nói thật, dù ngươi mọc cánh cũng không qua khỏi Kim Kê lãnh này, đừng nói chuyện đến Mạnh Tân.

Trong lúc, Tử Nha đứng nói chuyện với Khổng Tuyên, thì Dương Tiễn lén lấy kính chiếu yêu ra chiếu vào mặt, nhưng lạ lùng làm sao, trong kính chỉ thấy một khối ngũ sắc quây tròn như một quả cầu, không rõ là vật gì cả.

Khổng Tuyên trông thấy Dương Tiển lén dùng kính chiếu yêu dám rọi mình, nổi giận hét lớn:

– Dương Tiễn, ta cho ngươi đem kính lại đây mà soi, kẻo ở xa không trông thấy rõ. Việc gì phải lén lút? Ðại trượng phu làm việc gì cũng phải minh bạch chứ.

Dương Tiễn nghe nói biết lộ chuyện liền đem kính tới gần rọi vào Khổng Tuyên, nhưng vẫn thấy như lúc trước, không hiểu là vật gì.

Khổng Tuyên đợi Dương Tiễn soi một lúc xem chừng thất vọng nên lướt tới chém một nhát và nói:

– Ngươi đã biết ta là ai rồi bây giờ thử sức với ta.

Dương Tiễn đưa đao ra đỡ, đánh bốn mươi hiệp vẫn cầm đồng, liền nghĩ thầm:

– Nó dám cho ta rọi kính chiếu yêu mà ta vẫn không tìm ra nó là loài gì, thật lạ. Như vậy khó thắng nó được.

Nghĩ vậy, Dương Tiễn nổi giận quăng Hạo Thiên Khuyển lên, Khổng Tuyên trông thấy liền dùng hào quang ngũ sắc chụp cả Dương Tiễn.

Dương Tiễn thất kinh thâu chó lại, hóa hào quang tùng dấu bay mất.

Khổng Tuyên cười lớn nói:

– Dương Tiễn ngươi khoe có Thất thập nhị huyền công, sao không ở lại đây giao đấu mà lại trốn chạy?

Vi Hộ tức giận xông vào ném Gián ma xử lên bị Khổng Tuyên dùng hào quang thâu mất.

Vi Hộ thất kinh, chun xuống dưới cờ trốn.

Khổng Tuyên kêu lớn:

– Khương Thượng hôm nay ta với ngươi quyết giao đấu một trận cho biết cao thấp.

Vừa dứt tiếng liền xông đến chém liền, Lý Tịnh xông ra mắng:

– Thất phu! Ngươi tài cán bậc nào mà dám vô lễ?

Nói rồi cự với Khổng Tuyên, đánh được một lúc, Lý Tịnh quăng linh lung tháp lên, Khổng Tuyên vận năm sắc hào quang thâu cả bửu bối và Lý Tịnh.

Kim Tra, Mộc Tra thấy cha mình bị bắt liền hét lớn xông ra hỗn chiến đánh điệp ba hiệp Kim Tra quăng Ðộn Long Thun, Mộc Tra quăng Ngô Câu kiếm hai báu vật ấy đều bị hào quang thu mất.

Kim Tra Mộc Tra không chạy kịp bị Khổng Tuyên thâu liền

Tử Nha thấy Khổng Tuyên bắt tướng nhiều quá, nổi giận mắng:

– Ta đã từng cự nhiều tay phép tắc lẽ nào lại sợ một Khổng Tuyên.

Nói rồi xông vào giao đấu.

Ðánh được ba hiệp Khổng Tuyên hiện hào quang chụp Tử Nha.

Tử Nha thất kinh xổ cây Hạnh Huỳnh kỳ che thân, hàng ngàn bông sen rũ xuống bảo vệ khắp thân mình Tử Nha, khiến hào quang Khổng Tuyên không phạm vào mình được. Ấy là nhờ phép của cung Ngọc Hư thuộc vào loại siêu đẳng nên mới nhiệm mầu như thế.

Khổng Tuyên bắt Tử Nha không được giận quá giục ngựa tới đánh nhàu.

Ðặng Thiền Ngọc đứng đàng xa lược trận thấy vậy ném một cục ngũ quang thạch trúng nhằm sống mũi Khổng Tuyên làm cho Khổng Tuyên đổ hào quang bỏ chạy về trại, Long Kiết công chúa ném Phi Loan bửu kiếm theo chém, nhưng chỉ chém trượt sau vai, không làm cho Khổng Tuyên thiệt mạng.

Khổng Tuyên về dinh lấy thuốc xức lành vết thương rồi truyền giam ba cha con Lý Tịnh vào ngục chờ xin được tướng phụ đến giúp sẽ giải cả tù nhân bắt được về triều xử một lượt.

Tử Nha về đến dinh thấy Dương Tiễn ra nghinh tiếp liền hỏi:

– Ta thấy ngươi bị nó dùng hào quang bắt được sao ngươi trốn thoát được về đây?

Dương Tiễn nói:

– Tôi có Thất thập nhị huyền công, nên lúc nó hóa hào quang tôi cũng hào quang tùng theo dấu mà thoát nạn.

Tử Nha thấy an lòng một chút, vì các tướng tuy bị bắt hết, mà còn Dương Tiễn thì có thể tìm ra kế hay để trừ địch.

Tử Nha hỏi Dương Tiễn:

– Kiếng chiếu yêu không tìm biết được Khổng Tuyên, nay liệu lẽ nào?

Dương Tiễn cúi đầu suy nghĩ, không biết kế gì hơn.

Tử Nha than:

– Thầy ta bảo là đến ải Giới Bài mới có trận Tru tiên, sao nay tới núi Kim Kê đã sanh chuyện bất thường?

Bỗng có quân vào thưa:

– Chúa công cho mời Nguyên soái.

Tử Nha tuân lệnh vào chầu.

Võ Vương hỏi:

– Nghe nguyên soái hơn mấy ngày nay không thắng, tổn tướng hao binh. Ta nghĩ rằng vì lời ước hẹn với chư hầu nơi Mạnh Tân mà làm cho tánh mạng các tướng phải mất, binh sĩ xa gia đình bỏ cha mẹ, lìa con thơ, đau khổ. Ðến như ta cũng xa mẹ già, bỏ lời di chúc của tiên vương, thật lỗi đạo làm con. Vậy xin nguyên soái vui lòng nghe lời ta lui binh về nước, mặc chư hầu đủ sức tranh đua, làm gì thì làm. Còn ta và nguyên soái chỉ nên giữ lấy sự nghiệp mà thôi.

Khương Tử Nha nói:

– Ðại vương thương dân, trọng tướng, nói cũng phải nhưng thà khổ một lúc mà cứu thiên hạ còn hơn phải để thiên hạ phải chịu cảnh lầm than mãi mãi.

Võ Vương nói:

– Nếu trời sai ta cứu dân thì trời không bắt dân chúng khổ sở trong đao binh, nguyên soái đừng cãi lời ta.

Tử Nha thấy Võ Vương nhất quyết không chịu đi, không biết làm sao, đành truyền lịnh lui binh. Các binh tưóng được lệnh, vội xếp cờ cuốn giáo, dẹp trống dẹp chiêng.

Bấy giờ lúc canh hai, trong khi Tử Nha đang sắp xếp xảy thấy Lục Yểm đến kêu cửa.

Quân vào báo:

– Có Lục Yểm đạo nhân tìm đến.

Tử Nha cho mời vào, thấy Lục Yểm thở hổn hển, vội hỏi:

– Ðạo huynh có việc gì cần kíp?

Lục Yểm nói:

– Tôi nghe ông sắp lui binh, nên sợ trễ, đến đây khuyên giải. Tại sao ông lại làm cái việc bất thường ấy?

Tử Nha nói:

– Ðạo huynh không phải là tôi của một chúa, nên tự ý muốn, còn tôi bây giờ là kẻ hầu hạ của Võ Vương, vua khiến mà tôi không nghe thì trái đạo, làm sao tôi còn quyền hành mà điếu khiển ba quân.

Lục Yểm nói:

– Ðể tôi vào thưa lại với Võ Vương đã.

Nói rồi cậy Tử Nha đưa vào yết kiến Võ Vương và nói:

– Ðại vương lui binh lúc này thật tai hại. Thứ nhất các tướng vừa bị bắt phải chết hết, thứ hai trời đã khiến nhà Châu phạt Trụ cứu dân, nếu đại vương không tuân theo mệnh trời sẽ bị trời phạt. Việc chinh Ðông có nhiều khó khăn, không phải dễ, nay mới đánh trận đầu chưa ra khỏi nước mà Ðại vương đã chán nản sao?

Võ Vương nghe Lục Yểm nói ngồi làm thinh.

Tử Nha truyền các tướng bỏ lệnh lui binh, đâu vào đó chờ lệnh mới.

Lục Yểm nói:

– Người tài còn có người tài hơn trị, xin đại vương cho tôi ra trận trừ Khổng Tuyên để đại binh kịp tiến bước.

Võ Vương nghe Lục Yểm nói không dám cãi.

Hôm sau Lục Yểm đến trước cửa dinh, kêu Khổng Tuyên ra đối địch, quân vào báo, Khổng Tuyên nói:

– Lũ chuột bầy này, ta đã định dung cho chúng một thời gian không giết vội, thế mà không biết phận lại cứ đòi ta phải ra tay.

Nói rồi lên ngựa ra trước dinh.

Lục Yểm trông thấy hỏi lớn:

– Ngươi có phải là Khổng Tuyên chăng?

Khổng Tuyên nói:

– Ngươi mới ở xứ nào đấn đây mà chưa biết ta?

Lục Yểm nói:

– Tướng quân làm nguyên soái há không biết thời trời? Trụ vương vô đạo, trăm họ xa rời, lẽ nào một mình tướng quân chống lại?

Khổng Tuyên nói:

– Ta bình sanh không muốn nghe lời xảo ngữ. Nếu có giỏi đánh thắng ta thì kéo binh qua Kim Kê lãnh này.

Lục Yểm nói:

– Tướng quân chớ cậy tài. Người hay có người khác hay hơn nữa. Gặp kẻ bản lãnh hơn, tướng quân ăn năn sao kịp?

Khổng Tuyên nói:

– Ta không cần nghe nhiều lời.

Nói rồi lướt tới chém Lục Yểm.

Lục Yểm đưa gươm ra đỡ.

Hai đàng đánh với nhau được ít hiệp, Lục Yểm muốn phóng gươm trảm tiên lên, xảy thấy hào quang Khổng Tuyên chụp xuống, Lục Yểm thất kinh hóa mống bay mất.

Lục Yểm bay vào dinh, nói với Tử Nha:

– Hào quang của Khổng Tuyên mạnh lắm, tôi không hiểu nó là vật chi nên phải bại tẩu trở về đây.

Tử Nha nghe nói thêm buồn, ngồi làm thinh suy nghĩ.

Bên ngoài có tin Khổng Tuyên khiêu chiến nữa.

Tử Nha nói với Lục Yểm:

– Các tướng phần đông đều bị Khổng Tuyên bắt chưa biết số mệnh ra sao, nay nếy sai tướng khác ra trận cũng chẳng ích gì.

Lục Yểm nói:

– Chúng ta chờ xem, thế nào cũng có người cao kiến đến giúp sức.

Bên ngoài Khổng Tuyên gọi lớn:

– Tử Nha ngươi có tài làm tướng mà không có gan đánh giặc. Hãy ra đây tỉ thí với ta, bằng không hãy lui binh về, để binh tướng đỡ khổ cực.

Tử Nha ngồi làm thinh. Không biết giải quyết cách nào.

Giữa lúc đó có Thổ Hành Tôn vận lương về đến, thấy Khổng Tuyên đứng trước cửa dinh diệu võ dương oai, mắng chửi nhiều lời, tức mình hét lớn:

– Thất phu! Ngươi tài cán gì mà dám nhục mạ Nguyên soái ta?

Khổng Tuyên coi lại là một tướng lùn, cười ngất nói:

– Ngươi đến đây làm gì, và muốn nói chuyện gì đó?

Thổ Hành Tôn không thèm đáp, vung gậy đập vào cẳng ngựa của Khổng Tuyên, khiến con ngựa đau quá chạy bậy. Khổng Tuyên nổi xung vung đao chém, nhưng Thổ Hành Tôn đã lùn lại đứng dưới đất. Khổng Tuyên chém không tới. Hai người đánh nhau một hồi không ai trúng ai mà mệt đổ mồ hôi.

Thổ Hành Tôn nói:

– Ngươi cao ta thấp ngồi trên ngựa khó đánh, hãy bỏ ngựa xuống đất cùng ta tranh cao thấp.

Khổng Tuyên bị khiêu khích, chẳng nghĩ ngợi gì lợi hại, liền xuống ngựa và nói:

– Ta lại sợ ngươi sao?

Hai người hỗn đấu một hồi, cát bụi bay nghịt đất.

Tử Nha đang ở trong trướng nghe tiếng binh khí chạm nhau liền hỏi tả hữu:

– Ai đánh với Khổng Tuyên vậy?

Tả hữu thưa:

– Ðó là Thổ Hành Tôn tướng vận lương về, gặp Khổng Tuyên giao đấu đó.

Tử Nha kinh hãi nói:

– Thổ Hành Tôn lo vận lương sao lại đánh giặc?

Liền sai Ðặng Thiền Ngọc ra ngoài trợ chiến.

Ðặng Thiền Ngọc tuân lệnh cỡi ngựa cầm kiếm ra lược trận, thấy Thổ Hành Tôn nhảy nhót lung tung, còn Khổng Tuyên ra bộ không quen xoay trở rất khó nhọc.

Thổ Hành Tôn dùng gậy đập vào đùi Khổng Tuyên mấy cái đau muốn hụt hơi, Khổng Tuyên nổi giận hóa hào quang chụp xuống đầu Thổ Hành Tôn, chẳng ngờ Thổ Hành Tôn có phép địa hành, độn thổ đi mất.

Khổng Tuyên thấy tướng lùn đang đánh bỗng đâu mất, lấy làm lạ dáo dác nhìn quanh bị Ðặng Thiền Ngọc ném trúng một cục đá vào sống mũi sưng vù.

Khổng Tuyên ngước mặt lên chửi lớn:

– Nghịch tặc, dám quăng lén ta sao?

Nhưng nói chưa dứt lời đã bị Ðặng Thiền Ngọc quăng tiếp một cục đá nữa trúng nhằm cổ, Khổng Tuyên thất kinh chạy tuốt về dinh.

Vợ chồng Thổ Hành Tôn vào thuật chuyện cùng Tử Nha, Tử Nha vui mừng dọn tiệc ăn mừng, ghi công vợ chồng Ðặng Thiền Ngọc.

Trong bữa tiệc Tử Nha thuật chuyện Khổng Tuyên có sắc hào quang bắt gần hết tướng.

Thổ Hành Tôn nghe vậy cũng le lưỡi lắc đầu sợ hãi.

Còn Khổng Tuyên chạy về tức giận vô cùng, vì hôm trước đã bị Ðặng Thiền Ngọc quăng một cục đá xẹp mũi nay lại bị đến hai cục. Cũng may là hai cục đá một cục trúng mũi một cục trúng trúng cổ, chứ nếu hai cục cùng trúng một chỗ thì bể mũi rồi.

Khổng Tuyên lấy thuốc xức lành, sáng hôm sau dẫn binh ra trước trại kêu đích danh Ðặng Thiền Ngọc ra trận để đánh báo thù.

Quân vào báo, Ðặng Thiền Ngọc xin ra binh Tử Nha cản lại nói:

– Không xong đâu, cô nương quăng hai lần đá, Khổng Tuyên thù đến tận xương, nếu ra trận thế nào cũng bị hại.

Nói rồi truyền treo miễn chiến bài, Khổng Tuyên thấy treo miễn chiến bài nuốt hận trở về trướng phủ, ngày đêm đợi tin Triều Ca phái tướng giúp sức.

Cách mấy hôm sau có Nhiên Ðăng đến ra mắt Tử Nha.

Tử Nha được tin mừng ra rước vào kể chuyện Khổng Tuyên đón đường và bắt tướng, Nhiên Ðăng nói:

– Ta biết việc ấy rồi nên mới đến đây trừ Khổng Tuyên để Nguyên soái tiến binh.

Tử Nha liền truyền binh gỡ bảng miễn chiến bài. Quân Thương trông thấy về báo với Khổng Tuyên.

Khổng Tuyên nghĩ thầm:

– Ðã mấy ngày không dám ra binh, nay bỏ bảng miễn chiến chắc có người đến giúp. Tuy nhiên ta há sợ gì.

Liền điểm binh đến trước thành khiêu chiến.

Nhiên Ðăng ra trận, Khổng Tuyên trông thấy biết mặt ngay, liền cười lớn nói:

– Nhiên Ðăng đạo nhân là người thần thông quảng đại, sao không ở nơi thanh nhàn, lại đến chỗ lửa binh?

Nhiên Ðăng nói:

– Ngươi đã biết ta sao chưa chịu đầu Châu phạt Trụ? Ý muốn chống lại ta chăng?

Khổng Tuyên cười to hơn nữa nói:

– Chẳng gặp tri âm chẳng muốn nói chuyện. Nay ta nhìn nhận đạo hữu là thần thông, nên muốn thử nhau một chút. Vậy Nhiên Ðăng đạo hữu có biết ta là ai không?

Nhiên Ðăng không rõ lai lịch Khổng Tuyên thế nào cả, đứng làm thinh không đáp, Khổng Tuyên nói:

– Phàm kẻ thần thông phải biết người, hiểu mình, nếu chỉ biết mình mà không hiểu người thì sao gọi là tài? Ðạo hữu đã không biết ta là ai, thôi để ta ngâm bài kệ này, đạo hữu đoán thử.

Nói rồi Khổng Tuyên ngâm:

Có đất có trời đã có ta,

Thần thông tập luận sức bao la

Thuở nay đủ biết trong mùi đạo,

Từ giã non tiên giúp nước nhà.

Nhiên Ðăng nghe bài kệ ấy vẫn không biết nguồn gốc của Khổng Tuyên ra sao cả, tìm lời nói đỡ:

– Ngươi là người thông thái, sao không hiểu lẽ trời, đem sức mình chống lại thiên mệnh?

Khổng Tuyên nói:

– Các ngươi chớ mượn tiếng mà dối đời. Nếu mệnh trời thì trời trước kia đã định thiên hạ thuộc về tay nhà Thương sao nay các ngươi dám trái?

Nhiên Ðăng nói:

– Ngươi không biết vận số, ăn nói hồ đồ. Trời đã định thì không thể đổi dời được.

Khổng Tuyên nổi giận chém Nhiên Ðăng một đao.

Nhiên Ðăng đưa gươm ra đỡ.

Ðánh được ba mươi hiệp, Nhiên Ðăng quăng Ðịnh hải châu lên, Khổng Tuyên vận hào quang thu xâu chuỗi ấy tức thì. Nhiên Ðăng thất kinh quăng bình bát lên cao, Khổng Tuyên cũng vận hào quang thu nữa.

Nhiên Ðăng liền kêu lớn:

– Ðệ tử của ta đâu?

Tức thì một con chim đại bàng bay tới cánh rợp cả một góc trời.

Khổng Tuyên nhìn thấy liền vỗ vào cái kim khôi một cái, năm sắc hào quang chiếu thấu mây xanh.

Nhiên Ðăng lòa cả hai mắt xem không rõ, chỉ nghe trên không trung ầm ầm như sấm qua một lúc một tiếng nổ vang tức thì chim đại bàng sa xuống, lông lá rối bời.

Khổng Tuyên vận hào quang muốn bắt Nhiên Ðăng.

Nhiên Ðăng thất kinh hiện hào quang trốn mất.

Khổng Tuyên cười lớn rồi kéo quân về trại.

Còn Nhiên Ðăng về trướng phủ ra mắt Tử Nha nói:

– Thật không ngờ Khổng Tuyên này tài phép lạ thường chưa từng thấy. Chẳng biết nó là giống gì mà hào quang mạnh như vậy. Hèn chi nó bắt tướng thâu báu vật như trò chơi.

Tử Nha và Nhiên Ðăng đang còn bàn luận bỗng thấy chim đại bàng hiện hình người vào ra mắt.

Nhiên Ðăng hỏi:

– Ngươi có biết Khổng Tuyên là vật gì hóa hình chăng?

Ðại bàng thưa:

– Ðệ tử ở trên mây trông thấy hào quang xông lên năm sắc chiếu vào người đệ tử như muốn nứt thịt, gãy xương, đệ tử chỉ thấy lờ mờ, hình như nó có hai cánh, không rõ là giống chim gì.

Nhiên Ðăng thở dài:

– Thế này chúng ta khó định rồi biết làm sao.

Bỗng nghe quân vào báo:

– Có một đạo sư xin vào ra mắt.

Tử Nha và Nhiên Ðăng đồng ra ngoài nghinh tiếp, thấy một người cao ốm, mặt vàng, đầu chừa hai vá có giắt hai cành bông, tay cầm nhánh cây bước tới thi lễ.

Nhiên Ðăng mừng rỡ nói:

– Ðạo huynh từ đâu đến?

Ðạo sư nói:

– Tôi ở Tây phương qua Ðông độ, Nam độ nhân đi qua đây thấy Khổng Tuyên là người phước đức, tu luyện lâu năm nên muốn rước về cực lạc.

Tử Nha mời vào trướng phủ, Nhiên Ðăng hỏi:

– Ðạo sư danh hiệu là chi?

– Ðạo sư nói:

– Tôi là Chuẩn Ðề. Khi trước Quảng Thành Tử có một lần đến mượn cờ Bửu sắc. Tuy chúng ta chưa gặp mặt nhau nhưng cũng như đã quen biết. Tôi muốn giúp Khổng Tuyên trọn kiếp tu hành.

Nhiên Ðăng nói:

– Nếu đạo huynh bắt Khổng Tuyên về Tây phương thì cuộc chinh Ðông của chúng tôi chẳng trễ.

Chuẩn Ðề từ giã ra trận, đến chân núi Kim kê kêu lớn:

– Mời Khổng Tuyên ra đây nói chuyện.

Quân vào báo lại, Khổng Tuyên ra trận hỏi:

– Ðạo sư từ đâu đến? Muốn nói với ta điều gì?

Chuẩn Ðề nói:

– Ngươi cùng bần đạo có duyên phần, nên ta đến đây thỉnh ngươi về Cực lạc. Ngươi là kẻ có phước tu hành lâu năm, đáng được hưởng cảnh thanh nhàn. Ở đây cõi trần không phải chỗ người cạnh tranh đường sinh tử.

Khổng Tuyên cười lớn:

– Ngươi dùng lời ấy dối gạt ta sao được?

Chuẩn Ðề nói:

– Ngươi hãy nghe ta đọc bài kệ này thì rõ:

Tây phương vui vẻ gọi thiên đường,

Tích đức tu nhân mới được nương

Giới cấm năm điều nêu sáng rõ,

Từ bi hai chữ giữ hiền lương

Khá theo thanh tịnh nơi am tự,

Chớ mến công danh giữa chiến trường

Ðổi cánh rụng lông thành chín quả,

Múa may chi lắm chốn biên cương.

Khổng Tuyên nghe bài kệ nổi giận vung đao chém Chuẩn Ðề.

Chuẩn Ðề cầm nhành cây gạt đao rơi xuống đất.

Khổng Tuyên lấy roi vàng đánh tiếp,cũng bị Chuẩn Ðề dùng nhành cây Thất Bửu gạt phăng đi.

Khổng Tuyên còn hai tay không tức giận vận hào quang chụp Chuẩn Ðề.

Chuẩn Ðề đứng trơ trơ chịu trận, không tránh né, ai nấy đều thất kinh, vì hào quang bao trùm cả Chuẩn Ðề.

Mọi người tưởng Chuẩn Ðề đã bị Khổng Tuyên bắt rồi, nào ngờ xem lại thấy Chuẩn Ðề đứng giữa hào quang, hiện ra mười tám tay, cầm gươm, cung, tên, kích, cờ, phướng lọng, lục lạc, cành cây Thất Bửu. Rồi lại nghe trong hào quang nổ lên một tiếng. Chẳng biết Chuẩn Ðề làm phép thế nào mà áo mão của Khổng Tuyên rã rời, rớt đầy lưng ngựa còn Khổng Tuyên đứng sững như trời trồng.

Chuẩn Ðề hiện lại bình thường, tới đứng trước Khổng Tuyên nói:

– Khuyên chớ say mê thế tục, hãy cùng ta trở về miền Cực lạc.

Dứt lời mở dây thắt lưng cột cổ Khổng Tuyên lại, lấy Thiết Tiên gác lên vai và bảo:

– Xin đạo hữu hãy hiện nguyên hình cùng nhau về Tây phương Cực lạc.

Tức thì thấy Khổng Tuyên hiện thành con Công một mắt, mình mẩy đỏ tươi cao lớn vô cùng.

Chuẩn Ðề cỡi Châu Khổng Tước đi đến cửa dinh từ giã mọi người.

– Tiện đây tôi xin về luôn nhé.

Tử Nha nói:

– Ðạo sư thần thông quảng đại mới thâu được Khổng Tuyên, ngặt các tướng Châu không biết bị Khổng Tuyên giam cầm nơi đâu.

Chuẩn Ðề nói với Khổng Tuyên:

– Ðạo hữu nay đã tu hành phải trả các tướng lại cho Nguyên soái.

Khổng Tuyên thưa:

– Tôi cầm các tướng tại dinh.

Chuẩn Ðề từ giã mọi người vỗ lên đầu con công một cái, chim ấy xòe hai cánh lên chiếu hào quang sáng chói cả một góc trời.

Hồi 71: Tử Nha kéo binh qua 2 ải

Sau khi trừ được Khổng Tuyên, Tử Nha, Lục Yểm, Vi Hộ đốc binh kép quân lên núi Kim Kê phá trại.

Binh Thương thấy chủ tướng đi đâu mất liền mở cửa dinh đầu hàng.

Tử Nha thả các tướng bị bắt cùng nhau mở tiệc ăn mừng.

Rạng ngày Lục Yểm, Nhiên Ðăng đồng từ giã trở về núi, Dương Tiễn lo đi vận lương, Sùng Hắc Hổ cũng giã biệt trở về Sùng Thành.

Tử Nha kéo binh qua núi, đến gần ải Tỵ Thủy đồn binh, lại sai Na Tra làm chánh ấn tiên phong, còn Nam Cung Hoát đổ vào hậu đội.

Bấy giờ tướng giữ ải Tỵ Thủy là Hàng Vinh nghe Khổng Tuyên thất cơ, binh Châu gần kéo binh đến ải, liền lên mặt thành dò xét.

Khi thấy Tử Nha đóng trại cách thành hai dặm, thì thất kinh, một mặt viết sớ dâng về Triều Ca cáo cấp, một mặt truyền các tướng ngày đêm thủ thành.

Tử Nha đồn binh ba bữa, không khiêu chiến, Na Tra nóng lòng vào thưa:

– Binh đến đã ba ngày, sao sư thúc không sai tướng khiêu chiến?

Tử Nha nói:

– Ðây là yếu điểm của ải địa đầu, ải Tỵ Thủy còn có ải Giai Mộng và ải Thanh Long kèm hai bên, cách nhau không xa lắm. Nếu chúng ta đánh ải Tỵ Thủy thế nào binh Thanh Long và Giai Mộng cũng đến ứng cứu, một mình ta cự với ba đạo binh sao lại.

Na Tra hỏi:

– Thế sư thúc định liệu thế nào?

Tử Nha nói:

– Nay phải chia binh làm ba đạo. Ta sẽ cầm binh đánh Tỵ Thủy, còn một đạo đi đánh Giai Mộng, một đạo đi đánh Thanh Long.

Nói rồi viết lịnh tiễn đòi Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ và Hồng Cẩm đến trước trướng nói:

– Nay hai ngươi mỗi người phải lãnh một đạo binh đi đánh Giai Mộng và Thanh Long. Việc này ta nhắm chỉ có hai ngươi đảm đương nổi mà thôi. Vậy ta viết hai lá thăm, ai bắt được ải nào đi đánh ải nấy.

Hai người tuân lệnh, bắt thăm.

Hồng Cẩm trúng ải Giai Mộng, còn Hoàng Phi Hổ trúng ải Thanh Long.

Hai tướng đồng lãnh binh mười vạn kéo đi.

Hoàng Phi Hổ cử Ðặng Cửu Công làm tiên phong, các bộ tướng gồm có: Hoàng Minh, Châu Kỷ, Long Hòa, Ngô Khiêm, Hoàng Phi Báo, Hoàng Phi Bưu, Hoàng Thiên Lộc, Hoàng Thiên Tước, Hoàng Thiên Tường, Thái Loan, Ðặng Tú, Triệu Thăng, Tôn Diệm Hồng.

Còn Hồng Cẩm sai Quý Khương làm tiên phong, các bộ tướng là: Nam Cung Hoát, Tô Hộ, Tô Toàn Trung, Tân Miễn, Thái Ðiền, Hoàng Yêu, Kỳ Công, Doãn Công.

Khi Hồng Cẩm kéo binh đến ải Giai Mộng truyền quân đóng trại thì trời đã tối, Hồng Cẩm nói với các tướng:

– Ði đường xa quân sĩ mệt mỏi vậy chờ rạng sáng ngày mai sẽ khiêu chiến.

Các tướng nghe lệnh đâu đó nghỉ ngơi dưỡng sức.

Chủ tướng trấn ải Giai Mộng bấy giờ là Hồ Thăng, nghe tin Tử Nha kéo đại binh đến ải Tỵ Thủy, đang bàn luận với các tướng là Hồ Lôi, Từ Khôi và Hồ Vân Bàng bỗng nghe quân báo:

– Có binh Châu đến bên thành đóng trại.

Hồ Thăng truyền quân sĩ canh phòng cẩn mật để dò xét tình hình địch.

Trời vừa rạng sáng đã có quân vào báo:

– Tướng địch đến khiêu chiến.

Từ Khôn nói:

– Tôi xin ra binh bắt tướng Châu cho.

Hồ Thăng nhận lời, Từ Khôn lên ngựa cầm thương mở cửa thành xông ra, thấy Quý Khương liền mắng lớn:

– Quý Khương ngươi là bộ hạ Hồng Cẩm chúng bây toàn là lũ phản chúa. Ta quyết bắt ngươi chém đầu cho hả giận.

Quý Khương nói:

– Nay thiên hạ về Châu hết các ngươi dại gì không tiếc thân. Mau dâng ải đầu hàng cho sớm.

Từ Khôn nổi giận chém một đao. Quý Khương đưa giáo ra đỡ.

Hai bên đánh nhau mười hiệp chưa phân thắng bại.

Quý Khương liền niệm chú trên đầu bay ra một lằn khói đen, lằn khói ấy hóa thành chú chó nhảy đấn táp vào mặt Từ Khôn một miếng.

Từ Khôn đau quá luýnh quýnh bị Quý Khương đâm một giáo chết tốt.

Quý Khương xách thủ cấp trở về dinh ra mắt Hồng Cẩm.

Quân thua chạy về báo lại. Hồ Thăng bị mất tướng buồn bã vô cùng suốt đêm lo nghĩ kế thủ thành.

Sáng hôm sau, Hồng Cẩm lại sai Tô Toàn Trung đến khiêu chiến.

Hồ Vân Bàng nổi giận xin ra trận.

Hồ Thăng nói:

– Chúng ta vừa mất một tướng, nếu tướng quân ra thành phải giữ gìn cho cẩn thận mới được.

Hồ Vân Bàng liền xách búa lên ngựa xông ra, thấy Tô Toàn Trung, vụt miệng mắng lớn:

– Phản tặc! Ngươi là quốc cựu, em gái ngươi làm đến chánh cung, dầu thiên hạ có trở lòng ngươi cũng nên phải. Nay ngươi đầu giặc, không kể tình tôi chúa, lại bỏ nghĩa chị em, trời nào cho ngươi sống. Ta quyết giết ngươi cho khỏi gai mắt.

Nói rồi chém một búa. Tô Toàn Trung đưa giáo ra đỡ. Hai đàng đánh với nhau hơn bốn mươi hiệp.

Tô Toàn Trung càng đánh lại càng thêm sức mạnh, còn Vân Bàng càng đánh càng đuối sức, mồ hôi ra ướt giáp, hơi thở khò khè.

Tô Toàn Trung thấy vậy càng ra sức áp đảo.

Ðánh thêm được vài hiệp nữa, Hồ Vân Bàng đỡ không nổi, bị Tô Toàn Trung chém một đao đứt làm hai khúc, Tô Toàn Trung cắt lấy thủ cấp, thu binh trở về trình với Hồng Cẩm.

Quân thua chạy về thành báo tin:

– Hồ Vân Bàng thất cơ bị Tô Toàn Trung giết rồi.

Hồ Thăng điếng người, nói với em là Hồ Lôi:

– Chúng ta giao binh hai trận thiệt mất hai tướng. Ðó là điềm trời khiến cho nhà Thương phải mất. Nay thiên hạ mười phần đã về Châu hết tám, anh em mình tính trước, dâng ải đầu hàng để khỏi lụy thân, và cứu dân chúng trong thành khỏi nạn binh đao.

Hồ Lôi nói:

– Anh em ta nhờ ơn vua, hưởng quyền cao đức trọng, nay vận nước gặp tai biến, là phải liều thân đền bù, sao anh lại nghĩ như vậy. Mỗi người có hoàn cảnh riêng, anh không nên phân bì với kẻ khác.

Hồ Thăng nói:

– Nhưng đem sức đóm chống lại ánh sáng mặt trời ích gì. Ðã giữ thành không được lại làm hại muôn binh.

Hồ Lôi nói:

– Nếu không giữ thành được thà ta giao thành cho tướng khác, anh em ta vào núi dung thân còn hơn mang tiếng đầu giặc trong lúc thất thủ.

Hồ Thăng làm thinh không nói.

Hồ Lôi nói tiếp:

– Ðể mai em ra trận xem thử sức địch như thế nào cho biết.

Rạng ngày Hồ Lôi dẫn binh đến trước trại khiêu chiên.

Quân vào báo lại, Hồng Cẩm sai Nam Cung Hoát nghinh chiến.

Nam Cung Hoát ra đánh với Hồ Lôi hơn bốn mươi hiệp.

Hai bên sức cầm đồng. Nam Cung Hoát giả kế sa thương, để cho Hồ Lôi chém một đao rồi tràn qua một bên tránh khỏi đoạn nắm cổ Hồ Lôi vật xuống đất hối quân trói lại dẫn về đem nạp cho Hồng Cẩm.

Hồng Cẩm thấy Hồ Lôi bị bắt mà chẳng quỳ nạt lớn:

– Thất phu! Ngươi đã bị bắt sinh mạng nằm trong tay ta sao dám vô lễ?

Hồ Lôi trợn mắt nói:

– Ngươi là quân phản chúa chẳng kể ơn vua đầu giặc không biết nhục lại còn bảo ta trở thành đứa thất phu như ngươi sao?

Hồng Cẩm nổi giận truyền đem Hồ Lôi ra ngoài chém.

Tá đao vâng lệnh dẫn Hồ Lôi ra ngoài chém một đao bay đầu và bêu trước sân.

Hồng Cẩm rất đắc ý truyền mở tiệc ăn mừng thắng trận.

Trong lúc các tướng đang say sưa tiệc rượu bỗng có quân vào báo:

– Có Hồ Lôi đến khiêu chiến ngoài sân.

Hồng Cẩm nạt lớn:

– Hồ Lôi đã bị ta chém còn Hồ Lôi nào nữa? Chúng bay chỉ mê ăn mê ngủ không ngó trước xem sau.

Nói rồi truyền đem tên quân ra chém để làm gương.

Tên quân khóc lóc kêu oan, Hồng Cẩm nói:

– Ngươi không xem xét cho minh bạch tội chết đã đáng còn oan ức gì nữa?

Tên quân thưa:

– Quả thật Hồ Lôi xin chủ tướng xem lại.

Nam Cung Hoát tức giận nói:

– Ðể tôi ra xem thử chân giả thế nào.

Vừa nói vừa lên ngựa cầm cương ra trước dinh quả thật thấy Hồ Lôi đang múa men chửi mắng.

Nam Cung Hoát giục ngựa tới chỉ vào mặt Hồ Lôi nói:

– Loài yêu quái! Dám dùng tà thuật gạt ta? Ta đố ngươi chạy đâu cho thoát.

Nói rồi vung đao hỗn chiến.

Hồ Lôi đánh không lại Nam Cung Hoát nên chỉ đánh được ba mươi hiệp bị Nam Cung Hoát bắt sống lần nữa dẫn vào nạp cho Hồng Cẩm.

Các tướng đều ngạc nhiên, thì thầm:

– Không biết Hồ Lôi học phép chi mà đã bị chém rồi còn sống lại.

Long Kiết công chúa nghe xì xầm bước ra hỏi nguyên cớ.

Hồng Cẩm thuật lại đầu đuôi, Long Kiết công chúa nhìn Hồ Lôi một lúc rồi mỉm cười nói:

– Ấy là phép thế thân không có gì lạ.

Nói rồi truyền quân rẽ tóc Hồ Lôi, dùng kim Càn khôn dài ba tấc rưỡi, đóng trên xoáy đầu Hồ Lôi, đoạn truyền dẫn ra xử trảm.

Lần này thì Hồ Lôi chết thật, quân sĩ đem đầu Hồ Lôi bêu trước cửa dinh, quân Thương xem thấy về báo với Hồ Thăng:

– Nhị gia tử trận, bị bêu đầu ngoài cửa dinh.

Hồ Thăng thất kinh, than:

– Em ta cãi lời nên bỏ mạng. Nay thiên hạ về Châu, mười phần hết tám, ta phải quy hàng để cứu dân.

Nói rồi liền viết thư, định sáng hôm sau dâng ải cho Hồng Cẩm.

Bấy giờ Hồng Cẩm đang ăn tiệc với các tướng, bỗng có quân vào báo:

– Ải Giai Mộng sai sớ dâng hàng thư.

Hồng Cẩm truyền đòi vào, lấy thơ xem, thì thấy thư ấy viết như sau:

“Tổng binh ải Giai Mộng là Hồ Thăng, xin dâng hàng thư cho đại Nguyên soái. Chúng tôi là tiểu tướng, mấy năm ra phò Trụ vương, được sai trấn giữ biên cương. Bởi cơ trời muốn dứt cơ nghiệp Thành Thang, nên khiến Trụ Vương không tu nhân tích đức, làm cho bá tánh đảo huyền, dân tình oán thán. Nay nhờ Ðại Châu ra sức phạt tội cứu dân, ấy là lẽ công bằng, chỉ tại xá đệ liều thân, nghịch thiên cự địch nên mới bỏ mình. Mạt tướng biết lỗi, nên dâng thư nạp hàng, xin Nguyên soái dung kẻ bỏ cờ, xếp giáo, thâu nạp thành trì. Ðể dân trong thành khỏi bị hại, dung cho kẻ sa cơ”.

Hồng Cẩm xem thư mừng rỡ, ban thưởng sứ thần rồi dặn:

– Ta không kịp viết thư phúc đáp. Vậy ngày mai ta sẽ kéo binh vào ải chiêu an.

Sứ thần tạ ơn, trở về thành thưa lại với Hồ Thăng:

– Hồng tướng quân thấy thuận nhưng không kịp viết thư hẹn sáng mai đem quân vào lấy ải.

Hồ Thăng lật đật truyền quân sĩ dẹp bỏ cờ Thương dựng cờ Châu kiểm điểm sổ bộ lương tiền chuẩn bị ngày mai dâng nạp ải.

Chẳng ngờ tối hôm ấy có quân vào báo:

– Ngoài thành có một đạo cô đến xin ra mắt.

Hồ Thăng ngạc nhiên không biết là ai, truyền mời vào xem thử, thì thấy đó là một người đàn bà đã đứng tuổi ăn mặc theo lối đạo sĩ, đôi mắt sáng quắc cử chỉ rất quắc thường.

Hồ Thăng hỏi:

– Ðạo bà từ đâu đến, có việc gì chỉ dạy?

Ðạo cô nói:

– Ta là Hỏa Linh thánh mẫu, ở núi Khưu Minh. Hồ Lôi là em ngươi mà cũng là học trò của ta, vừa rồi bị Hồng Cẩm hại mạng nên ta xuống đây báo thù. Sao ngươi nỡ quên nghĩa đồng bào không tưởng tình thủ túc. Người ta giết em ngươi mà ngươi lại không trả thù còn muốn phò người cừu địch. Ấy là bất nghĩa, bất trung.

Hồ Thăng nghe nói liền bái và nói:

– Ðệ tử không biết tiên cô đến, nên trễ việc tiếp nghinh, xin niệm tình dung thứ. Chẳng phải tôi muốn đầu cừu địch ngặt ải này ít binh tướng, châu chấu khôn nổi đá xe. Vả lại thiên hạ đều một lòng phò Châu, tôi nghĩ lại nếu một mình giữ ải cũng vô ích.

Hỏa Linh thánh mẫu nói:

– Nay đã có ta đến đây, ngươi khỏi lo thiếu binh thiếu tướng. Ta sẽ hết lòng ra sức giúp người đánh lui quân địch báo thù cho em ngươi.

Hồ Thăng tuân lệnh, truyền quân dựng cờ Thương như trước.

Sáng hôm sau Hồng Cẩm truyền quân sửa soạn kéo vào thành bỗng nghe tin báo:

– Ải Giai Mộng đã bỏ cờ Châu dựng cờ Thương trở lại.

Hồng Cẩm nổi giận mắng:

– Hồ Thăng là đứa thất phu! Nay nó đã dám gạt ta, quyết bắt nó phanh thây xẻ thịt mới hả giận.

Trong khi đó Hỏa Linh thánh mẫu ở trong thành bàn với Hồ Thăng mưu kế đánh lui Hồng Cẩm.

Hỏa Linh thánh mẫu hỏi Hồ Thăng:

– Trong thành này có bao nhiêu quân mã?

Hồ Thăng đáp:

– Cộng tất cả độ hai muôn.

Hỏa Linh thánh mẫu nói:

– Ngươi chọn cho ta ba ngàn binh mạnh để ta luyện tập cách bố trận.

Hồ Thăng tuân lệnh điểm binh mã đem dâng, Hỏa Linh thánh mẫu truyền quân mặc áo đỏ, bỏ tóc xỏa, cắt trái bầu bằng giấy đỏ dám sau lưng, có họa bùa ấn, tay cầm đao phướng người người đều giống nhau.

Sau khi kiểm điểm xong, Hỏa Linh thánh mẫu mới bắt đầu luyện tập.

Hôm sau Hồng Cẩm sai Tô Toàn Trung ra khiêu chiến, Hồ Thăng treo miễn chiến bài, Tô Toàn Trung phải kéo binh về thưa với Hồng Cẩm.

Hồng Cẩm tức tối vô cùng.

Còn Hỏa Linh thánh mẫu luyện tập độ bảy ngày thì quân sĩ đã thành thục, sai khiến dễ dàng, liền ra lệnh cho Hồ Thăng dẹp bỏ miễn chiến bài, mở cửa thành kéo binh ra khiêu chiến.

Hồ Thăng cỡi ngựa ra trước, Hỏa Linh thánh mẫu cỡi hạc theo sau, quân sĩ đâu đó rất có thứ tự.

Hồ Thăng đến trước dinh Châu kêu Hồng Cẩm ra nói chuyện.

Quân vào báo, Hồng Cẩm liền nai nịt hẳn hoi, kéo quân ra mắng lớn:

– Hồ Thăng ngươi là kẻ nghịch tặc, sớm đầu tối đánh, nói chẳng dám nhận lời, nay còn mặt mũi nào nhìn ta nữa?

Nói không đợi Hồ Thăng giải bày, vung đao tới chém.

Hồ Thăng đưa đao ra đỡ, chưa kịp đánh lại thì đã thấy Hỏa Linh thánh mẫu cỡi hạc tới múa song kiếm nói:

– Hồng Cẩm! Nay đã có ta đến đây ngươi chạy đi đâu cho thoát.

Hồng Cẩm nhìn lại thấy một đạo cô mặt đỏ như than lửa, vì da mặt đỏ, lại mặc áo hồng liền hỏi:

– Ðạo cô là ai vậy?

Hỏa Linh thánh mẫu đáp:

– Ta là Hỏa Linh thánh mẫu ở núi Khưu Minh, ngươi giết Hồ Lôi là học trò của ta, nên ta xuống đây báo oán. Nếu biết điều, xuống ngựa dâng đầu để khỏi liên can đến mười muôn binh mã.

Nói rồi chém một gươm, Hồng Cẩm đỡ ra và đón đánh lại. Ước chừng được vài hiệp, Hồng Cẩm lấy cờ đen làm phép chẳng ngờ Hỏa Linh thánh đội mão kim hà trên mão có lúp vàng rũ xuống.

Hỏa Linh thánh mẫu giở cái lúp ấy, hào quang hiện ra cao mười lăm trượng, che khuất mình mẩy khiến Hồng Cẩm nhìn vào loá mắt như nhìn vào mặt trời vậy.

Hỏa Linh thánh mẫu đến gần mà Hồng Cẩm chẳng hay biết nên bị Hỏa Linh thánh chém một gươm sả giáp, máu chảy dầm dề.

Hồng Cẩm la lên một tiếng ôm cổ chạy dài.

Hỏa Linh thánh mẫu truyền ba ngàn binh hỏa lâm kéo vào đốt trại. Binh đến đâu lửa cháy đến đó. Thương hại binh Châu chết thôi vô số.

Long Kiết công chúa ở sau dinh thấy lửa cháy, liền chạy ra xem gặp Hồng Cẩm đang bị thương ôm cổ chạy về.

Long Kiết công chúa hỏi:

– Vì sao thất trận?

Hồng Cẩm chưa kịp đáp thì vừng hào quang hiện đến sáng lòa, Long Kiết công chúa bị lóa mắt, Hỏa Linh thánh mẫu chém một gươm sả trước ngực. Hai vợ chồng đồng la thất thanh chạy về hướng bắc.

Hỏa Linh thánh mẫu xua quân đuổi theo hơn bảy chục dặm mới quay về.

Trận này binh Châu hao hơn một vạn.

Hồ Thăng hớn hở rước Hỏa Linh thánh mẫu về dinh đãi đằng.

Hồi 72: Quảng Thành Tử 3 lần lạy giáo chủ

Long Kiết công chúa vốn là tiên mắc đọa, nên bị nạn một gươm hai vợ chồng chạy hơn bốn mươi dặm đường mới trở về trại. Nhờ có thuốc tiên rất hay, nên hai vợ chồng thoa vào chẳng bao lâu khỏi bệnh.

Thấy binh sĩ hao hơn quá nửa, dinh trại tan hoang, Hồng Cẩm liền sắm sửa đồn binh rồi viết thư về cấp báo với Tử Nha.

Bấy giờ Tử Nha đang bàn kế binh, bỗng có quân vào báo:

– Bộ hạ Hồng tướng quân đem thư về dâng Nguyên soái đang đứng đợi ngoài dinh chờ đợi.

Tử Nha đòi vào, mở thư ra xem. Trong thư viết như sau:

“Phó tướng vâng lệnh đánh ải Giai Mộng là Hồng Cẩm trăm lạy dâng thư lên nguyên soái. Tôi tài sơ trí thiển, xấu hổ vì nhận việc nặng nề, hết lòng lo lắng, trông cho công việc vẹn toàn. Khi đến ải Giai Mộng, nhờ Nam Cung Hoát bắt được Hồ Lôi, nhưng chém không chết, phải dùng phép linh mới trừ được. Chẳng ngờ thầy của Hồ Lôi là Hỏa Linh thánh mẫu xuống núi báo thù, dùng lửa đốt binh trại ra tro, uy thế tan rã. Nay nhờ Nguyên soái tính kế hay trừ Hỏa Linh thánh mẫu cho kíp. Nếu không ải Giai Mộng khó đạt được”.

Tử Nha xem thư thất kinh nói với các tướng:

– Thế này ta đi mới tiện.

Liền giao công việc cho Lý Tịnh rồi dặn:

– Ngươi cứ thủ dinh, không nên xuất trận, đợi ta về sẽ tính kế lấy ải Tỵ Thủy.

Lý Tịnh vâng lệnh, Tử Nha dẫn Na Tra, Vi Hộ và ba ngàn binh mã thẳng tiến Giai Mộng ải.

Khi đến nơi thấy dinh Hồng Cẩm xơ xác.

Vợ chồng Hồng Cẩm cúi đầu nhận tội, kể lại mọi việc.

Tử Nha nói:

– Mình làm đại tướng coi việc chiến chinh phải tùy cơ tiến thối sao lại để đến nỗi dinh trại tan tành?

Hồng Cẩm nói:

– Ba trận đầu đều thắng, giết ba tướng như trở bàn tay. Ngặt có thầy Hồ Lôi là Hỏa Linh thánh mẫu đến giúp Hồ Thăng báo cừu cho đệ tử. Bà ấy đội mão Kim Hà, hào quang chiếu ra mấy trượng, ai nấy nhìn cũng không trông thấy, vì con mắt chói lòa. Lại có ba ngàn binh hỏa lâm kéo tới như hòn núi lửa. Vì vậy tôi phải thất cơ.

Tử Nha nghe nói lạnh lùng, không biết phép gì để phá sào huyệt ấy.

Bấy giờ Hỏa Linh thánh mẫu đợi mấy ngày không thấy Hồng Cẩm trở lại khiêu chiến, bỗng nghe tin Khương Thượng cầm binh đến giao phong, lòng mừng rỡ nói với Hồ Thăng:

– Khương Thượng đã đem binh đến đây mà nạp. Ta xuống thế gian lần này cũng chẳng uổng công. Vậy ngươi hãy chuẩn bị ra binh để ta giết nó cho rồi.

Hồ Thăng tuân lệnh điểm binh ra thành.

Hỏa Linh thánh mẫu dẫn ba ngàn binh hỏa lâm đến trước trại kêu Tử Nha ra nói chuyện.

Tử Nha nghe quân vào báo liền dẫn quân tướng ra ngoài.

Hỏa Linh thánh mẫu trông thấy nói lớn:

– Ngươi phải Khương Thượng không?

Tử Nha đáp:

– Phải. Ðạo hữu là người thông thái lẽ phải, hiểu cơ trời. Bởi Trụ vương vô đạo, khí số đã hết, thiên hạ đồng về Châu để vấn tội hôn quân, sao đạo hữu lại giúp kẻ dữ, trái mệnh trời? Vả lại không phải tôi tự ý phạt Thương mà vâng lệnh cung Ngọc Hư dẹp loạn.

Hỏa Linh thánh mẫu cười lớn:

– Ngươi đừng uốn lưỡi khinh dễ ta như thế. Tài cán chỉ một gã câu cá mà dám đem binh đánh Trụ. Bất quá ngươi đặt điều dối thế mê hoặc lòng người, trước mặt ta ngươi khoe khoang sao được.

Nói rồi lướt tới chém một gươm.

Tử Nha đưa kiếm ra đỡ. Na Tra và Vi Hộ đồng áp vào trợ lực đánh Hỏa Linh Thánh mẫu như mưa bấc.

Hỏa Linh Thánh mẫu một mình cự với ba người không nổi, liền lui ra ba bước, giở lúp mão vàng, hào quang sáng chói một vùng, ai nấy bị chói lòa, không trông thấy gì cả.

Hỏa Linh Thánh mẫu chém Tử Nha một gươm sả ngực máu chảy dầm dề.

Tử Nha kinh hồn, giục Tứ Bất Tướng chạy qua hướng Tây, Hỏa Linh Thánh mẫu đuổi theo kêu lớn:

– Ta đố ngươi phen này chạy đi đâu cho khỏi?

Vừa nói vừa cho đám hỏa quân lướt tới, đốt dinh trại Tử Nha tan hoang, còn mình thì đuổi theo bén gót.

Thương hại Tử Nha già yếu lại bị thương nên chạy không lẹ bị Hỏa Linh Thánh mẫu ném một trái Hổ nguyên chùy trúng lưng nhào xuống Tứ Bất Tướng chết tươi.

Hỏa Linh Thánh mẫu lướt tới chặt thủ cấp, bỗng có người từ trong rừng bước ra đỡ gươm và nói:

– Không được giết sư đệ ta.

Hỏa Linh Thánh mẫu xem lại thấy Quảng Thành Tử nổi giận hét lớn:

– Quảng Thành Tử sao ngươi dám đến đây?

Quảng Thành Tử nói:

– Ta vâng lệnh cung Ngọc Hư, đến đây chờ ngươi đã lâu.

Hỏa Linh Thánh mẫu nói:

– Ðừng phách lối! Ta há sợ bọn đệ tử cung Ngọc Hư sao?

Nói rồi vung gươm chém tới.

Quảng Thành Tử múa kiếm đỡ lấy rồi đánh trả lại.

Hai bên chẳng ai nhịn ai, cuộc chiến mỗi lúc một gay gắt.

Ðánh được năm mươi hiệp, Hỏa Linh Thánh mẫu giở lúp vàng hào quang ra sáng chói.

Quảng Thành Tử liền rũ áo Tao Chấn tức thì hào quang tan biến.

Hỏa Linh thánh mẫu nổi giận mắng:

– Ngươi phá phép ta nhất định phải một còn một mất.

Lửa giận phừng phừng, Hỏa Linh Thánh mẫu đánh với Quảng Thành Tử một hồi.

Quảng Thành Tử biết trận này nhất tử nhất sinh, liền lấy Phiên Thiên Ấn quăng lên, Hỏa Linh Thánh mẫu đỡ không nổi bị Phiên Thiên Ấn đánh bể đầu, chết tại chỗ, linh hồn bay thẳng lên đài Phong Thần.

Quảng Thành Tử thâu Phiên Thiên Ấn, và mão kim hà của Hỏa Linh thánh mẫu rồi xuống suối múc nước hòa với tiên đơn đổ vào miệng Tử Nha.

Giây phút Tử Nha hồi tỉnh, mở mắt thấy Quảng Thành Tử liền tạ ơn:

– Nếu không có đạo huynh đến đâu chắc tôi phải chết. Ơn này xin tạc dạ ghi xương.

Quảng Thành Tử nói:

– Tôi vâng lệnh thầy đón đường Hỏa Linh thánh mẫu. Nay việc đã xong, Nguyên soái trở về dinh lo việc nước.

Tử Nha hỏi:

– Bây giờ đạo huynh đi đâu?

Quảng Thành Tử nói:

– Tôi phải đến chỗ Bích Du cung, là chỗ ông Thông Thiên giáo chủ để trả mão kim hà.

Dứt lời liền từ giã. Còn Tử Nha về đến nửa đường xảy nghe một trận gió lớn làm rạp cây, bay cát, biết là có kẻ cỡi cọp đến.

Quả nhiên loáng mắt đã thấy Thân Công Báo cỡi hùm chạy tới.

Tử Nha kinh hãi nghĩ thầm:

– Người này sâu độc hơn loài thú dữ. Nó khuyên ta theo Trụ không được nên đem lòng cừu oán. Trước kia nó nhờ ta mà thoát chết lại lấy nghĩa làm thù. Nó là kẻ không lương tâm, ta lánh mặt kẻo sanh sự nữa.

Nghĩ rồi cỡi Tứ Bất Tướng chạy vào rừng. Chẳng ngờ Thân Công Báo con mắt lanh lắm, cất tiếng gọi lớn:

– Khương Tử Nha! Ta đã thấy mặt rồi, ngươi trốn đâu cho khỏi?

Tử Nha túng thế phải ra mặt bái chào:

– Chẳng hay đạo huynh đi đâu?

Thân Công Báo cười nói:

– Ta đi tìm ngươi đây, Tử Nha, nay ngươi gặp ta chạy đi đâu cho khỏi.

Tử Nha nói:

– Tôi không thù oán gì với đạo huynh, tại sao lại giận dữ?

Thân Công Báo đáp:

– Ngươi bảo ngươi không làm mích lòng ta sao? Hồi ở núi Côn Lôn ngươi và Nam Cực tiên ông ỷ thế khinh ta là bàng môn tà đạo, lại sỉ nhục ta, bảo Bạch Hạc đồng tử tha đầu ta cho chết. Như vậy sao không là cừu địch? Nay ngươi đăng đàn bái tướng, kéo binh phạt Trụ, ta e ngươi chưa vào ngũ quan mà bỏ mạng rồi.

Nói rồi liền chém một gươm, Khương Tử Nha đỡ gươm nói:

– Ðạo huynh với tôi trước kia dù sao cũng là bạn đồng môn, nỡ nào phụ nhau? Còn lúc đạo huynh làm phép tại Côn Lôn, Nam Cực tiên ông khinh đạo huynh dùng tà thuật, sai Bạch Hạc tha đầu, tôi phải năn nỉ ba phen Nam Cực tiên ông mới trả. Sao đạo huynh không cảm nghĩa ấy mà lại cố thù?

Thân Công Báo nói:

– Chúng bay khinh ta nay lại sợ chết nên dùng lời nói gạt.

Nói rồi chém tiếp một gươm nữa.

Tử Nha đỡ ra và nổi giận nói:

– Không phải ta sợ ngươi mà chỉ sợ thiên hạ chê chúng ta bạn học cùng thầy lại đánh nhau. Sao ngươi hiếp bức ta như vậy?

Thân Công Báo chẳng thèm nói chém tiếp một gươm thứ ba.

Tử Nha đỡ ra và đánh trả lại ngay.

Nhưng Tử Nha mới tu luyện bốn mươi năm công lực sao bằng Thân Công Báo, nên đánh ít hiệp bị Thân Công Báo ném cho một trái thiên châu, nhào xuống đất chết ngay.

Thân Công Báo toan cắt đầu bỏ lên lưng cọp, xảy có Cù Lưu Tôn hối hả chạy tới kêu rằng:

– Thân Công Báo ngươi đừng làm ẩu có ta đến đây.

Thân Công Báo thấy Cù Lưu Tôn biết là do Nguyên Thỉ sai xuống, liền nhảy lên lưng cọp chạy trốn.

Cù Lưư Tôn cười lớn:

– Thân Công Báo mi muốn trốn thoát sao?

Nói rồi quăng dây Khổn Tiên lên trói Thân Công Báo, sai Huỳnh Cân lực sĩ đem bỏ tại núi Kỳ Lân.

Còn Cù Lưu Tôn đỡ Tử Nha dậy, để dựa cội tùng cho uống tiên đơn mới tỉnh lại.

Tử Nha thưa:

– Tôi nhờ đạo huynh cứu mạng, cũng bởi số tôi mang nhiều tai ương, nên phải chết đi sống lại nhiều lần.

Nói rồi từ giã Cù Lưu Tôn lên lưng Tứ Bất Tướng trở về ải Giai Mộng.

Còn Cù Lưu Tôn hiện hào quang về đến núi Kỳ Lân, thì Huỳnh Cân lực sĩ còn giữ Thân Công Báo ở đấy.

Lại nghe mùi hương ngào ngạt, ngọn phướng phất phơ.

Tiếp đó Nguyên Thỉ bước ra khỏi động.

Cù Lưu Tôn vội vã quỳ mọp xuống đất thưa:

– Tôi vâng lệnh sư tôn đón bắt Thân Công Báo đem về nạp.

Nguyên Thỉ nói:

– Ngươi cũng gần xong thủ tục rồi, không bao lâu sẽ trở thành chính quả như khi xưa.

Rồi quay sang Thân Công Báo, chỉ vài mặt mắng rằng:

– Khương Thượng có thì oán gì với ngươi mà ngươi rủ nhiều người chinh phạt. Ðã vậy ngươi còn chưa đã giận lại đón đường giết nó. Nếu ta chẳng sai Cù Lưu Tôn đến kịp chắc ngươi đã lấy đầu Khương Thượng rồi. Khương Thượng là người thay mặt ta, phong các vị thần, nếu ngươi giết nó lấy ai phò Châu diệt Trụ.

Dứt lời quay bảo Huỳnh Cân lực sĩ:

– Ngươi đem thằng quỷ này đè dưới chân núi Kỳ Lân đợi Khương Thượng phong đủ ba trăm sáu mươi lăm vị thần rồi sẽ giở núi cho nó ra.

Thân Công Báo nghe nói thất kinh nếu bị đè dưới chân núi cho đến lúc Khương Thượng phong thần thì lỡ mất công việc đã dự tính, liền kêu lớn:

– Tôi làm gì mà trừng phạt như vậy?

Nguyên Thỉ nói:

– Rõ ràng ngươi quyết giết Tử Nha, sao còn mở miệng kêu oan? Nếu ta đè ngươi dưới chân núi thế nào ngươi cũng cho ta là bênh Tử Nha. Thôi nếu ngươi không làm hại Tử Nha nữa thì thề ta mới tin.

Thân Công Báo thề rằng:

– Nếu tôi còn kêu người đánh Tử Nha thì thân tôi sẽ bị thòng xuống biển Bắc.

Nguyên Thỉ nghe nói liền tha Thân Công Báo, Thân Công Báo lạy tạ bỏ đi, còn Cù Lưu Tôn cũng lạy thầy về động.

Nhắc lại Quảng Thành Tử sau khi đánh chết Hỏa Linh Thánh mẫu liền đem mão Kim hà thẳng đến cung Bích Du giao nộp. Nhưng đến nơi không dám vào chỉ đứng ngoài cửa động.

Giây phút đồng tử trong động bước ra. Quảng Thành Tử nói với đồng tử:

– Cảm phiền đạo hữu vào bẩm với lão gia có Quảng Thành Tử đến xin ra mắt.

Ðồng tử vào thưa lại, Thông Thiên giáo chủ cho vào động.

Quảng Thành Tử vào dinh bái yết vị giáo chủ Triệt giáo xong, Thông Thiên giáo chủ hỏi:

– Quảng Thành Tử! Ngươi đến đây có việc chi?

Quảng Thành Tử dâng mão Kim hà và thưa:

– Bạch sư thúc, bởi Trụ vương vô đạo nên Võ Vương phạt tội cứu dân. Tử Nha đem binh chinh Ðông đến ải Giai Mộng không dè đệ tử sư thúc là Hỏa Linh thánh mẫu cậy có Kim Hà đốt giết binh Châu chết vô số. Trận thứ nhất chém Hồng Cẩm và Long Kiết công chúa. Trận thứ nhì đánh Khương Thượng chết hụt. Tôi vâng lệnh cung Ngọc Hư xuống núi can Hỏa Linh thánh mẫu nhiều lời mà Hỏa Linh Thánh mẫu chẳng nghe cậy phép hành hung quyết chém đệ tử. Túng thế đệ tử phải quăng Phiên Thiên ấn, rủi nhằm chỗ nghiệt nên Hỏa Linh thánh mẫu bỏ mình. Nay đệ tử dâng mão Kim Hà xin sư thúc thứ tội.

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Việc phạt Trụ hàng giáo chủ ta đã nghị bản phong thần, đặng phong người trung nghĩa, hoặc những người tu hành mà ít đức không thành tiên. Tùy công trạng ít nhiều, định ngôi cao thấp. Ðệ tử ta có tên trong bảng phong thần nhiều lắm, ấy là số trời định trước, ngươi chẳng tội chi. Ngươi về có gặp Tử Nha thì bảo: “Nếu có đệ tử ta đón đường thì lấy roi Ðả Thần Tiên đánh chết”. Bởi trước kia ta có dán đôi liễn tại ??????? để ngăn ngừa đệ tử ta nhưng chúng không nghe, thì chúng phải tội. Thôi ngươi hãy về đi.

Quảng Thành Tử vâng lời ra khỏi cung Bích Du, nét mặt hiu hiu tự đắc.

Các đệ tử Triệt giáo trông thấy đã bất bình, lại nghe vị giáo chủ mình nói: “Học trò không nghe lời thầy cho phép Tử Nha đánh chết” thì lòng không phục, đồng kéo ra ngoài đón Quảng Thành Tử lại để trả đũa.

Nhứt là Kim Linh thánh mẫu, cay cú vô cùng cầm tay các bạn nói:

– Hỏa Linh thánh mẫu là học trò của Ða Bửu đạo nhân, mà Quảng Thành Tử đánh chết thì cũng như đánh chúng ta tất cả. Còn nó đem mão Kim Hà đến trả ấy là khi dễ chúng ta, đạo ta. Thầy mình chẳng xét suy, làm cho giáo phái chúng ta hạ thể quá.

Quy Linh thánh mẫu cũng hằn học:

– Vị giáo chủ ta mấy lần họp mặt tam giáo đều có ý thiên vị, trọng giáo khác hơn giáo mình. Bởi vậy các đồ đệ của Xiển giáo mới có ý kiêu ngạo lên mặt. Cứ coi như Quảng Thành Tử đánh chết học trò, đem mão trả lại cho thầy, khác nào nó đến đây mắng vốn? Tại sao cùng tu hành, mà giáo phái mình chịu ít phúc đức, nên bảng phong thần đăng nhiều tên hơn giáo phái khác.

Kim Linh thánh mẫu nói:

– Thầy chúng ta dầu trọng nó, song phần chúng ta cũng nên bắt nó lại mắng vài câu cho bõ ghét.

Nói rồi thoắt ra khỏi động, đón Quảng Thành Tử nói:

– Quảng Thành Tử! Ngươi đừng làm mặt tự cao.

Quảng Thành Tử thấy mặt các đệ tử Triệt giáo hầm hầm, biết sắp có chuyện chẳng lành. Liền làm ra vẻ ôn tồn nói:

– Ðạo hữu muốn nói điều chi?

Qui Linh thánh mẫu bước tới nói:

– Ngươi đã giết chết người trong đạo ta, lại còn đến đây khoe tài trả mão, rõ ràng ngươi có ý khinh dễ giáo ta. Ta nhất quyết báo thù cho Hỏa Linh thánh mẫu.

Nói rồi chém một nhát, Quảng Thành Tử rút gươm ra đỡ nói:

– Ấy là tại Hỏa Linh thánh mẫu gây việc, và cũng do số trời, xin quý vị đạo hữu chớ phiền. Nếu quý đạo hữu quyết đánh báo thù thật không suy xét.

Quy Linh thánh mẫu nói:

– Chúng ta không phải cãi lời thầy, nhưng đánh ngươi vì cái tội đến đây ngạo mạn mà thôi.

Quảng Thành Tử nói:

– Tôi làm gì mà ngạo mạn?

Quy Linh thánh mẫu nói:

– Ngươi đã giết đệ tử của cung Bích Du, còn đến trả báu vật, đó là hành động ngạo mạn rồi.

Dứt lời Quy Linh thánh mẫu chém một nhát nữa.

Quảng Thành Tử đỡ kiếm, rồi làm bộ nghiêm mặt nói:

– Tôi lấy lẽ phải quấy nói với quý đạo hữu mà quý đạo hữu chẳng biết nghe. Tôi chỉ đủ sức nhượng hai gươm thôi, không thể dằn lòng hơn nữa.

Quy Linh thánh mẫu chém tiếp một gươm.

Quảng Thành Tử giận đỏ mặt vung kiếm đánh lại.

Ðánh được vài hiệp, Quảng Thành Tử sợ đồ đệ của cung Bích Du nhảy vào đông quá vội lấy Phiên Thiên Ấn quăng lên, Quy Linh thánh mẫu sợ Phiên Thiên Ấn rớt nhằm đầu, hiện nguyên hình con rùa quạ rất lớn, vỏ cứng hơn thép đúc.

Phiên Thiên Ấn đánh toát hào quang mà chẳng hề hấn gì.

(Nguyên con rùa quạ từ đời Phục Hy, do Thương Hiệt làm chủ, vì lâu quá nên mới thành người).

Khi ấy Kim Linh thánh mẫu và Ða Bửu đạo nhân đồng áp vào chém Quảng Thành Tử.

Quảng Thành Tử nghĩ thầm:

– Mình đến nhà ngươi mà đánh lộn thì thất thế, dù tài phép đến đâu, ít cũng không chống lại đông. Chi bằng vào bạch lại với Thông Thiên giáo chủ, để Thông Thiên giáo chủ răn dạy học trò.

Nghĩ rồi chạy trở vào Bích Du. Thông Thiên giáo chủ trông thấy lấy làm lạ, hỏi:

– Quảng Thành Tử! Ngươi còn trở lại làm gì?

Quảng Thành Tử quỳ lạy rồi thưa:

– Sư tôn cho tôi trở về nhưng ra khỏi cửa, lịnh đồ Quy Linh thánh mẫu và các lịnh đồ khác lại đón tôi đánh trả thù. Tôi không biết chạy ngõ nào nên phải vào trở lại xin sư tôn tha tội.

Thông Thiên sai Thủy Hỏa đồng tử ra gọi Quy Linh vào trách:

– Sao chúng bay làm ngang như vậy?

Bấy giờ Quy Linh thánh mẫu đã hiện lại hình người quỳ trước pháp đài, cúi đầu thưa:

– Quảng Thành Tử giết đồ đệ của Triệt giáo lại đem mão Kim Hà, giao trả thật có ý khinh Triệt giáo chúng ta, xin sư tôn xét lại.

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Ta là giáo chủ lẽ nào không rõ việc hơn các ngươi? Ấy là Hỏa Linh thánh mẫu cãi lời ta nên mắc họa. Còn Quảng Thành Tử nạp mão là biết điều, không dám lấy báu vật của ta mà dùng. Chúng bay quen thói rừng rú, dám lén ta gây thù kết oán. Từ nay về sau ta đuổi Quy Linh ra ngoài, không cho vào cung nghe giảng kinh nữa.

Các đệ tử đứng ngoài nghe nói đều xầm xì:

– Thầy binh Quảng Thành Tử, kết tội học trò mình thật là mất lẽ công bằng. Hèn chi các phái khác khinh Triệt giáo ta là phải.

Thông Thiên giáo chủ bảo Quảng Thành Tử:

– Thôi ngươi về đi.

Quảng Thành Tử lạy tạ lui ra khỏi cung thì các đệ tử Triệt giáo đón lại và nói:

– Tôn sư tha tội cho ngươi nhưng chúng ta nhất định không để cho ngươi tự do ra khỏi chốn này.

Quảng Thành Tử mặt buồn xo, biết phen này không dễ gì yên thân được. Nếu bước thêm một bước nữa thì khó lòng chi bằng lui vào thưa lại.

Hồi 73: Già trẻ, đôi hùm tranh cao thấp

Quảng Thành Tử vội chạy vụt vào pháp đài, quỳ xuống trước mặt Thông Thiên giáo chủ thở hổn hển nói không ra tiếng, Thông Thiên giáo chủ hỏi:

– Quảng Thành Tử! Vì cớ gì ngươi trở vào với gương mặt hơ hải như vậy? Ngươi lại không giữ phép chạy ngang trước mặt ta.

Quảng Thành Tử thưa:

– Tôi lấy lòng tôn kính tôn sư đem dâng mão Kim Hà, chẳng ngờ cầu vinh lại được nhục. Ðệ tử vâng lệnh tôn sư ra về nhưng ra khỏi cửa cung bị các lệnh đồ đón lại bao vây đòi đánh. Nếu tôi giữ lễ không chạy thì bị ăn đòn rồi. Xin tôn sư từ bi dạy tôi dùng phép nào để về được.

Thông Thiên giáo chủ nổi giận nói lớn:

– Thủy Hỏa đồng tử! Mau gọi bọn súc sanh vào đây.

Thủy Hỏa đồng tử vâng lệnh ra ngoài gọi lớn:

– Chư vị sư huynh! Tôn sư đang giận đòi chư vị vào lập tức.

Các đồ đệ đồng bước vào quỳ gối cúi mặt xuống đất.

Thông thiên giáo chủ hét lớn:

– Chúng bây dám trái lệnh ta đón đường Quảng Thành Tử gây chuyện. Quảng Thành Tử vâng lệnh chung trợ Châu diệt Trụ, còn Hỏa Linh vì nghịch thiên nên phải chết. Các ngươi lấy đó làm cừu oán sao phải.

Các đệ tử đều cúi đầu chịu mắng.

Thông thiên giáo chủ nói:

– Quảng Thành Tử cứ tuân theo chẳng tranh đua với chúng nó làm gì. Thôi ngươi hãy về, để ta trị tội chúng nó.

Quảng Thành Tử lạy tạ lui trở về núi Cửu Tiên.

Các đệ tử cung Bích Du lấm lét nhìn nhau, trong lòng không nguôi tức giận.

Ðợi cho Quảng Thành Tử đi khỏi động. Thông thiên giáo chủ truyền các đệ tử đứng dậy và quở:

– Khương Thượng vâng phép trời, phò Châu diệt Trụ. Trong bảng phong thần ngoài những kẻ trần tục trung hiếu tiết nghĩa thì Xiển giáo cũng như Triệt giáo đều có tên các vị tiên tu hành, nhưng thiếu đức phải làm thần để trời sai khiến. Hỏa Linh cãi lời ta, xuống thế gian sinh sự nên mới bị đọa vào phong thần. Ðâu phải người ta đi tìm mình giết, chính mình đem thân đến chỗ hiểm nguy không nên đổ lỗi cho kẻ khác mà hờn giận. Các ngươi đón đường Quảng Thành Tử là làm xấu ta đó.

Ða Bửu đạo nhân quỳ xuống thưa:

– Lịnh thầy đã truyền, chúng tôi đâu dám cãi, chỉ vì Quảng Thành Tử khoe khoang phép Ngọc Hư, khinh đạo Triệt giáo, nói nhục chúng tôi nhiều lần, nhưng tôn sư không hay nên nghe lời nó quở phạt oan ức chúng tôi như vậy.

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Tam giáo như một cành sen, lá xanh, ngó trắng, hoa màu thắm. Tuy chia làm ba mà cũng như một. Quảng Thành Tử lẽ nào không thông hiểu điều ấy mà chê Triệt giáo chúng ta? Các ngươi đừng sanh sự.

Ða Bửu đạo nhân thưa:

– Tôi sợ lỗi với sư phụ nên không dám thuật lại chứ Quảng Thành Tử vừa rồi chê Triệt giáo chúng ta là Bàng môn tả đạo, những loài có lông mọc sừng, chim cá cũng ở chung với tôn sư một chỗ sao bằng Ngọc Hư là chánh đạo, thanh tịnh vô vị. Bởi nó khi dễ kiêu căng nên chúng tôi chẳng phục.

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Ta thấy Quảng Thành Tử là người lễ phép, hiền lương lẽ nào dám ngạo ta, chắc các ngươi nghe lầm nói bậy.

Ða Bửu đạo nhân nói:

– Quả thật Quảng Thành Tử có nói như vậy, chúng tôi đâu dám đặt điều nói dối sư tôn.

Cả những đồ đệ có mặt ở đó sợ Thông Thiên giáo chủ quở rầy nên đồng một lời nói dối:

– Bạch tôn sư, Quảng Thành Tử rõ ràng có nói như vậy, chúng tôi đều nghe cả.

Thông Thiên giáo vừa cười nói:

– Ta cùng ở với loài cầm thú, còn giáo chủ chúng nó không ở với loài có lông có sừng sao? Thật đứa súc sanh dám buông lời vô lễ.

Dứt lời quay lại bảo Kim Linh thánh mẫu.

– Ngươi ra đàng sau lấy bốn cây gươm báu đem đến đây cho ta.

Kim Linh thánh mẫu vâng lời mang túi gươm đem vào để trước án.

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Ða Bửu đạo nhân ta dặn: Nó chê ta dở hơn nó, vậy thì ngươi hãy đem bốn cây bửu kiếm này đến ải Giới Bài quan lập trận tu tiên coi học trò cung Ngọc Hư phá được hay không cho biết. Nếu có điều gì lạ ta sẽ xuống phân xử.

Ða Bửu đạo nhân thưa:

– Bốn cây gươm ấy phép tắc thế nào xin tôn sư chỉ dạy.

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Bốn thanh gươm này là Tru Tiên kiếm, Lục Thiên kiếm, Hãm Thiên kiếm, Tuyệt Thiên kiếm. Ðem nó treo nơi bốn cửa trận thì sấm vang gió dậy, thần tiên cũng phải rụng đầu.

Xưa có bài thơ khen:

Chẳng phải vàng đồng hay sắt gang,

Ngàn xưa luyện dưới núi Linh San

Không dùng nước lửa rèn trui bén,

Nhờ khí âm dương chế luyện hoàn

Hãm Tuyệt hai cây bay sát khí,

Lục, Tru một cặp chiếu hào quang

Thần tiên muôn kiếp tuy linh hiển,

Gặp bốn gươm này cũng đứt ngang.

Thông Thiên giáo chủ ngâm xong bài kệ đưa bốn thanh gươm cho Ða Bửu đạo nhân và gói bức họa đồ Tru tiên dặn:

– Ngươi coi theo đây lập trận tru tiên tại ải Giới Bài xem chúng nó phá trận như thế nào cho biết.

Ða Bửu đạo nhân tuân lệnh mang gươm phép tạ từ đến ải Giới Bài.

Nhắc lại tại ải Giai Mộng, Khương Tử Nha bị thất trận bỏ chạy, Na Tra phải lặn lội đi tìm mà không gặp, vì lúc Vi Hộ đã tìm được Tử Nha giữa đường dẫn về trại rồi.

Tử Nha hỏi thăm dinh trại, Vi Hộ nói:

– Lúc binh Hỏa Lâm xông đến đốt dinh trại tan vỡ thì Hỏa Linh thánh mẫu mắc đuổi theo Nguyên soái, không ai làm phép nữa, nên lửa tắt hết. Xem thấy bọn Hỏa lâm ngơ ngáo chúng tôi bèn dẫn quân trở lại giết quân ấy sạch trơn. Nay Na Tra và tôi chia ra mỗi người mỗi ngã đi tìm sư thúc.

Tử Nha mừng rỡ theo Vi Hộ về dinh.

Quân vào báo Hồng Cẩm dẫn quân ra nghinh tiếp kiểm điểm binh mã thấy hao hết năm ngàn.

Tử Nha thuật lại chuyện Hỏa Linh thánh mẫu và Thân Công Báo cho các tướng nghe, ai nấy đều mừng rỡ. Vì tuy Tử Nha gặp đại nạn nhưng vẫn gặp may.

Tử Nha truyền lui binh đóng trại cách ải năm mươi dăm để cho quân sĩ nghỉ ngơi và cũng có ý chờ Hồ Thăng dâng ải đầu hàng.

Nhưng cách ba ngày qua vẫn vắng tin, Tử Nha phải truyền kéo binh đến trước ải.

Bấy giờ Hồ Thăng qua mấy ngày không hay tin tức của Hỏa Linh thánh mẫu ra sao hết, xảy nghe quân vào báo:

– Khương Tử Nha kéo binh đến.

Hồ Thăng kinh hãi bàn với viên phó tướng:

– Tử Nha kéo binh đến chắc Hỏa Linh thánh mẫu đã chết rồi. Trước đây ta đã hứa đầu Châu dâng thành nhưng bị Hỏa Linh thánh mẫu đến ngăn trở. Tuy vừa thắng được hai trận nhưng cũng chẳng ích gì, nay trong tình cảnh này ta còn mặt mũi nào nói chuyện đầu hàng?

Viên phó tướng là Vương Tín thưa:

– Nếu tổng binh đổ lỗi cho Hỏa Linh thánh mẫu ngăn trở việc đầu hàng tôi chắc Tử Nha không trách đâu.

Hồ Thăng nói:

– Vậy ta viết hàng thư nhờ tướng quân đem tài thuyết phục xem sao.

Vương Tín bằng lòng. Hồ Thăng viết thư lập tức sai Vương Tín đến dinh Tử Nha nộp.

Hàng thư đại ý như sau:

“Tướng nạp ải Giai Mộng là Hồ Thăng và các tướng nhỏ cúi đầu dâng thư cho Ðại nguyên soái Tây Châu xem rõ.

Nay lửa binh dấy động khí số nhà Thương đã hết tuy là số trời nhưng cũng bởi Trụ vương vô đạo. Tôi đã có ý đầu Châu từ lâu song trước đây bị em là Hồ Lôi ngăn trở sau lại Hỏa Linh Thánh mẫu lộng hành. Trăm dâu đổ đầu tằm, mũi dại quy tôi người cầm lái. Xin nguyên soái sáng soi như nhật nguyệt dầu muôn chậu úp không qua. Lượng cả như hải hà, dầu biển mòn sông cạn nghĩa chẳng quên. Nay sai Vương Tín đệ hàng ngửa mong lời ngọc.”

Tử Nha xem hàng thư xong, nói với Vương Tín:

– Chủ tướng ngươi đã đầu hàng ta không chấp nhất việc cũ. Vậy ta hẹn ngày mai sẽ đến thâu ải.

Hồng Cẩm thưa:

– Hồ Thăng tính không chừng, sớm đầu tối đánh, trước đã gạt tôi một lần như vậy, xin Nguyên soái chớ tin.

Tử Nha nói:

– Trước kia tại Hồ Lôi cản trở, sau bị Hỏa Linh thánh mẫu hoành hành ta xét thấy Hồ Thăng chơn chất, tướng quân chớ luận bàn.

Nói rồi truyền Vương Tín về ải, định ngày mai nhập thành.

Vương Tín từ tạ về thuật chuyện với Hồ Thăng.

Hồ Thăng mừng rỡ truyền dựng cờ Châu ngay lập tức.

Rạng ngày Hồ Thăng truyền các tướng cầm cờ hàng ra trước ải đón rước binh Châu.

Tử Nha vào ngồi trước trướng phủ.

Hồ Thăng lạy mừng và thưa:

– Trước đây tôi có ý đầu Châu, ngặt em tôi là Hồ Lôi không chịu, đến lúc Hồ Lôi chết thì có Hỏa Linh thánh mẫu đến, quyết đánh báo thù, vì vậy tôi mắc tội với nguyên soái, xin Nguyên soái lấy lượng từ bi trời biển dung tha.

Tử Nha nói:

– Tánh ngươi phản phúc bất thường. Ban đầu không chịu thật tâm đầu hàng, vì hết tướng nên phải chịu phép. Sau đó có Hỏa Linh thánh mẫu đến ngươi lại hy vọng đánh Châu. Trở lòng theo gió. Ngươi là đứa tiểu nhân, xu thời nếu để ngươi ắt sẽ sanh hậu họa.

Nói rồi truyền tả hữu dẫn Hồ Thăng ra pháp trường xử trảm. Hồ Thăng ăn năn quá sức nhưng đã muộn. Quân sĩ chém đầu Hồ Thăng bêu trước cửa ải.

Tử Nha lấy được ải Giai Mộng rồi giao cho Kỳ Công trấn giữ, đại binh kéo về ải Tỵ Thủy.

Lý Tịnh hay tin ra nghinh tiếp, Tử Nha vào ra mắt Võ Vương tâu lại các việc. Võ Vương truyền bày yến tiệc khao thưởng.

Bấy giờ nói đến việc Hoàng Phi Hổ dẫn binh đánh ải Thanh Long.

Khi đại binh đến nơi, Hoàng Phi Hổ truyền quân hạ trại nghỉ ngơi.

Chủ tướng ải Thanh Long là Khưu Dẫn, các bộ tướng là Mã Phương, Cao Quý, Tôn Bửu, Dư Thành nghe quân báo có binh Châu đến ải liền họp mặt bàn luận.

Khưu Dẫn nói:

– Tử Nha ỷ tài đem lòng phản Trụ cố vượt ngũ quan xâm chiếm cõi bờ, chúng ta phải hết lòng giữ ải mới được.

Các tướng đồng nói:

– Xin chủ tướng an lòng, chúng tôi nguyền một thác để đền ơn đáp nghĩa quân vương.

Hôm sau Hoàng Phi Hổ ra khách hỏi các tướng:

– Nay binh đến ải Thanh long tướng nào dám ra trận?

Ðặng Cửu Công xin đi, Hoàng Phi Hổ nói:

– Nếu tướng quân trổ tài chắc lập được công lớn thứ nhất.

Ðặng Cửu Công phát pháo lên yên ngựa dẫn binh ra trước thành khiêu chiến.

Quân vào báo, Khưu Dẫn sai Mã Phương ra binh đánh trận đầu.

Mã Phương cầm đao kéo quân ra thấy Ðặng Cửu Công liền hét lớn:

– Phản tặc! Có ta đến đây ngươi đừng hàm hồ mà bỏ mạng.

Ðặng Cửu Công nói:

– Mã Phương ngươi chẳng hiểu cơ trời. Hiện nay ai nấy đều phò Châu đánh Trụ, ngươi tài cán gì mà dám cản ngăn?

Mã Phương mắng:

– Ngươi là đứa phản tặc, đừng nói nhiều lời làm bẩn tai ta.

Nói rồi giục ngựa tới giao tranh. Hai đàng đánh nhau hơn ba chục hiệp.

Ðặng Cửu Công là tay dũng tướng, đã nhiều kinh nghiệm chiến trường, Mã Phương làm sao cự lại, nên đánh thêm vài hiệp nữa Mã Phương sa cơ, bị Ðặng Cửu Công chém rơi đầu.

Ðặng Cửu Công đem thủ cấp về nạp, Hoàng Phi Hổ mừng rỡ, dọn tiệc khao quân.

Còn binh bại trận chạy vào ải báo tin với Khưu Dẫn:

– Mã tướng quân thất cơ bị Ðặng Cửu Công chém giữa trận, cắt thủ cấp rồi.

Khưu Dẫn nghe báo nổi giận, mặt đỏ phừng phừng.

Rạng ngày Khưu Dẫn đích thân đem binh khiêu chiến, quân vào báo lại, Hoàng Phi Hổ nghe tin đại binh xuất trận liền dẫn quân ra khỏi dinh nghênh chiến.

Khưu Dẫn thấy Hoàng Phi Hổ gọi lớn:

– Ngươi là đứa quên ơn, quên nghĩa, không cha không chúa, trốn ra năm ải giết tướng triều đình, trợ Cơ Phát làm loạn, nay còn dám đem binh xâm chiếm bờ cõi.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Nay chư hầu hội binh nơi Mạnh Tân để bắt tội Trụ Vương, ngươi còn nói đến việc trung nghĩa nữa sao?

Dứt lời quay sang hỏi tả hữu:

– Tướng nào dám ra tay bắt Khưu Dẫn?

Hoàng Thiên Tường bước ra thưa:

– Con xin bắt nghịch tặc cho.

Hoàng Thiên Tường lúc này mới có mười bảy tuổi. Nghé tơ đâu biết sợ uy hùm. Tuy vậy Hoàng Thiên Tường có sức mạnh siêu quần, anh hùng tột chúng.

Bên kia Cao Quý xông ra ngăn đỡ, mới đánh được vài hiệp, Hoàng Thiên Tường đâm Cao Quý một thương nhào xuống đất.

Khưu Dẫn nổi giận hét một tiếng xông vào.

Hoàng Thiên Tường thấy Khưu Dẫn đội kim khôi, mặc giáp bạc, cỡi ngựa kim xông vào như gió lướt, thì mừng thầm tự nhủ:

– Nó chịu đánh với ta thế nào ta cũng chiếm công to.

Liền vung thương cản lại đánh liền. Cây thương Hoàng Thiên Tường lẹ làng như chớp giật, Khưu Dẫn chỉ có tài đỡ chứ không đánh lại được một nhát nào.

Bộ tướng của Khưu Dẫn thấy thế liền áo vào hai người là Tôn Bửu và Dư Thành trợ chiến.

Nhưng bên Châu Ðặng Cửu Công đón lại giao công.

Ðánh được vài hiệp, Ðặng Cửu Công chém chết Dư Thành, rồi hỗn chiến với Tôn Bửu.

Còn Khưu Dẫn bị Hoàng Thiên Tường đánh mãi, không hở tay để dụng phép tà, lại thấy Ðặng Cửu Công chém chết Dư Thành lòng thêm bối rối, lớ quớ bị Hoàng Thiên Tường đâm trúng một thương nhằm đùi.

Khưu Dẫn thất kinh bại tẩu.

Hoàng Thiên Tường lấy cung tên bắn tiếp vào vai.

Tôn Bửu thấy chủ tướng bị thương bại tẩu, tay chân rũ liệt, bị Ðặng Cửu Công chém một đao đứt làm hai đoạn.

Hoàng Phi Hổ thắng trận, thâu binh về trại.

Bấy giờ Khưu Dẫn chạy về thành giận dữ hét lớn:

– Ðã bại trận còn hai tướng cũng chết sạch, bốn mạng không còn một, thật xấu hổ, đã bị thằng nhỏ đâm một thương lại trúng thêm mũi tên nữa. Ngày mai nhất định ta sẽ báo thù này.

Khưu Dẫn nguyên là con lươn tu lâu năm thành người, nên dù bị thương xức thuốc qua một đêm là khỏi hẳn.

Rạng ngày Khưu Dẫn khai thành khiêu chiến, gọi quyết tên Hoàng Thiên Tường ra trận, Quân vào báo lại.

Hoàng Thiên Tường tình nguyện ra trận.

Hoàng Phi Hổ hết sức dặn dò cẩn thận, Hoàng Thiên Tường tuân lệnh kéo quân ra.

Khưu Dẫn thấy Hoàng Thiên Tường thì giận lắm, xông vào hỗn chiến tức thì.

Ðánh được ba mươi hiệp, Hoàng Thiên Tường thấy trên đầu Khưu Dẫn ngoài kim khôi ló ra một mớ tóc, biết là người có phép tà mị, liệu thế đánh lâu bất tiện, liền sanh ra một kế cầm giáo phóng tới.

Khưu Dẫn thất kinh tràn qua một bên tránh khỏi, rồi múa thương đâm lại.

Hoàng Thiên Tường lẹ tay chụp lấy cây thương, một tay rút giản đập vào ngực Khưu Dẫn một cái, Khưu Dẫn hộc máu, ôm cổ ngựa chạy về thành đóng cửa không dám ra.

Hoàng Thiên Tường thắng trận trở về dinh.

Hoàng Phi Hổ mừng rỡ khen ngợi chẳng cùng, bàn với Ðặng Cửu Công quyết lấy ải Thanh Long cho sớm.

Hôm sau Hoàng Phi Hổ đem quân khiêu chiến, Khưu Dẫn còn bệnh không dám ra ngoài, lên mặt thành xem xét, rồi truyền quân đóng chặt cửa thành cố thủ.

Hoàng Phi Hổ nổi giận chia binh bốn mặt công phá, nhưng ải này là ải địa đầu, thành quách rất chắc, binh Châu phá hết ba đêm mà không hề nao núng.

Thấy không làm gì được, Hoàng Phi Hổ thâu binh về trại tính mưu khác.

Khưu Dẫn thấy binh Châu không công thành nữa thì mới dám vào trướng nghỉ ngơi dưỡng bệnh, bỗng có quân vào báo:

– Quan đốc lương Trần Kỳ đã về đến nơi xin vào ra mắt.

Khưu Dẫn truyền đòi vào phủ, Trần Kỳ bước vào ra mắt và thưa:

– Tôi vận lương đủ số và đúng kỳ.

Khưu Dẫn khen:

– Tướng quân làm viêc rất chuyên cần.

Trần Kỳ hỏi:

– Chẳng hay chủ tướng cự với binh Châu mấy ngày nay thắng bại thế nào?

Khưu Dẫn nói:

– Khương Thượng chia binh làm ba mặt một lúc đánh ba ải. Mục đích làm chúng ta tuyệt đường lương. Riêng về ải ta mấy trận vừa qua bị hao binh tổn tướng quá nặng. Chúng nó quả thật là những kiện tướng. Ðặng Cửu Công giết Mã Phương, Dư Thành, Tôn Bửu, còn Hoàng Thiên Tường giết Cao Quý lại đâm ta một giáo, bắn ta một mũi tên. Thật là đại thù, nếu ta bắt được thằng nhỏ ấy sẽ moi gan mổ ruột mới hả giận.

Trần Kỳ nói:

– Xin chủ tướng tạm nguôi giận. Ngày mai tôi xin ra binh bắt tướng giặc báo cừu.

Rạng ngày Trần Kỳ cỡi thú mắt lửa tròng vàng tay cầm đoản ma xử, dẫn binh đến trước dinh Châu khiêu chiến.

Quân vào báo, Hoàng Phi Hổ hỏi:

– Tướng nào muốn ra trận?

Ðặng Cửu Công xin đi. Khi kéo binh ra đến nơi, thấy Trần Kỳ cỡi thú, tướng mạo phi thường, Ðặng Cửu Công liền hỏi:

– Ngươi là ai mà dám múa men làm phách?

Trần Kỳ đáp:

– Ta là Trần Kỳ, làm chức Ðốc lương. Còn ngươi là chi hãy khai tên họ rồi chịu chết.

Ðặng Cửu Công nói:

– Ta là phó tướng Ðặng Cửu Công. Qua mấy trận Khưu Dẫn đại bại sao chẳng thấy oai trời, còn bảo ngươi ra đây nạp mạng?

Trần Kỳ cười lớn:

– Ta xem tướng ngươi chẳng qua là đứa lỗ mãng chứ không phải kẻ có tài năng.

Nói rồi vung đoản ma xử chém tới. Hai bên hỗn chiến với nhau một hồi.

Ðặng Cửu Công sức mạnh như hùm, múa đao vun vút, còn Trần Kỳ dùng đoản ma xử ngắn bất lợi nên đánh không lại. Biết không thể cầm cự được lâu, Trần Kỳ liền giơ đoản ma xử lên, ba ngàn binh phi báo kéo tới, tên nào cũng cầm dây và câu móc chờ sẳn.

Ðặng Cửu Công bỡ ngỡ chưa biết chúng dùng làm gì thì Trần Kỳ đã hà miệng ra một luồng hơi vàng.

Ðặng Cửu Công bị luồng khí ấy hôn mê, té nhào xuống ngựa bất tỉnh.

Ðoàn quân phi báo áp đến bắt trói lại dẫn vào thành.

Quân thắng trận vào báo lại với Khưu Dẫn.

Khưu Dẫn truyền dẫn vào trước trướng.

Bấy giờ Ðặng Cửu Công đã hồi tỉnh lại, thấy mình bị trói nổi giận mắng lớn:

– Súc sanh chúng bây dùng tà thuật bắt ta thật hèn hạ.

Khưu Dẫn nói:

– Ngươi giết ba tên phó tướng của ta, nay đền mạng là đáng lắm.

Nói rồi truyền quân dẫn ra ngoài xử trảm, tả hữu vâng lệnh chém Ðặng Cửu Công bêu đầu trước ải.

Binh Châu thấy thủ cấp của Ðặng Cửu Công bị bêu trên thành, thất kinh chạy về báo với Hoàng Phi Hổ:

– Ðặng lão tướng bị Trần Kỳ hà hơi vàng, làm cho hôn mê rồi bắt trói đem về thành bêu đầu trước ải.

Hoàng Phi Hổ thất kinh nói:

– Ðặng Cửu Công là tướng đại tài không ngờ bị phép tà bỏ mạng. Thật tội nghiệp!

Ðặng Tú khóc than thảm thiết. Thái Loan và các tướng đều nghiến răng cừu hận.

Hôm sau Trần Kỳ lại dẫn quân khiêu chiến.

Quân vào lại Thái Loan nóng lòng muốn báo thù cho chủ tướng thưa với Hoàng Phi Hổ:

– Xin cho tôi ra trận.

Hoàng Phi Hổ nhận lời, Thái Loan dẫn binh ra ngoài đánh vùi với Trần Kỳ một lúc Trần Kỳ thấy Thái Loan liều lĩnh vội đưa đoản ma xử lên, đoàn quân phi báo kéo tới rồi Trần Kỳ cũng hà hơi vàng làm cho Thái Loan hôn mê té xuống ngựa, Trần Kỳ khiến quân bắt trói dẫn về nạp cho Khưu Dẫn.

Khưu Dẫn nói:

– Thái Loan là tướng phụ, không giết làm gì. Nên giam nó lại đợi bắt thêm đặng gởi về Triều Ca luôn thể.

Kế đó truyền dọn tiệc ăn mừng.

Còn Hoàng Phi Hổ nghe tin Thái Loan bị bắt nữa, lòng buồn bực muôn phần.

Hôm sau nghe quân vào báo:

– Trần Kỳ đến khiêu chiến.

Hoàng Phi Hổ hỏi:

– Có ai dám ra binh chăng?

Hoàng Thiên Lộc, Hoàng Thiên Tước, Hoàng Thiên Tường đồng thưa:

– Xin phụ thân cho ba con ra trận.

Hoàng Phi Hổ dặn:

– Ba con phải giữ gìn chớ nên khinh địch.

Ba anh em tuân lệnh cỡi ngựa ra trận.

Trần Kỳ trông thấy hỏi lớn:

– Ba viên tiểu tướng tên là gì đó?

Hoàng Thiên Lộc nói:

– Ba anh em ta là con Võ Thành Vương tên Hoàng Thiên Lộc, Hoàng Thiên Tường, Hoàng Thiên Tước.

Trần Kỳ nghe nói có Hoàng Thiên Tường thì mừng thầm:

– Ta bắt được thằng nhỏ này trả thù cho chủ tướng.

Liền vung đoản ma xử lên hỗn chiến.