Hồi 84: Kéo binh lang đánh ải Lâm Đồng

Bấy giờ Thông Thiên giáo chủ đã duyệt qua khắp trận và các tiên cũng đã xuất hiện đầy đủ.

Lão Tử nói:

– Ta quyết một trận cho biết thấp cao, song lại thương hại cho những kẻ tu hành không được thành tiên, bị Phong Thần nhiều lắm, không phải tại chúng ta.

Thông Thiên giáo chủ nói lớn:

– Ta quyết phen này cho chúng bây biết sức.

Nói rồi giục Khuê ngưu tới chém Lão Tử.

Lão Tử đưa gậy ra đỡ, cười và nói:

– Sức ngươi ta biết rồi. Chắc hôm nay ngươi phải mang tai ách quá.

Nói rồi vung gậy hỗn chiến, cát bụi bay nghịt trời.

Bấy giờ Nguyên Thỉ kêu mười hai vị đệ tử đến nói:

– Hôm nay quyết một trận cho thành công, các ngươi phải ráng hết để đoạt lấy thành công. Vậy hãy mau xông vào phá trận Vạn Tiên.

Các đệ tử Xiển giáo mừng rỡ, đồng xông vào một lượt phá trận.

Văn Thù cỡi Thanh sư, Phổ Hiền cỡi Bạch tượng, Từ Hàng cỡi Kim mao hẩu, ba người này vỗ thú bay vào giữa trận.

Linh Bửu đạo pháp cầm gươm báu xông vô, Thái Ất chơn nhơn cầm binh khí lướt tới, Cù Lưu Tôn, Huỳnh Long chơn nhơn, Nhiên Ðăng đạo nhơn đồng cầm binh khí và bửu bối vào trận.

Sau hết là Tử Nha dẫn các đệ tử theo sau trợ chiến.

Bỗng lại thấy Lục Yểm từ trên mây sa xuống, cũng nhảy vào trận luôn.

Còn bên trận Vạn tiên thì có Kim Linh thánh mẫu, Võ Ðương thánh mẫu, Tì Lư Tiên, Kim Cô Tiên, Thân Công Báo, Khưu Dẫn,…

Hai bên hỗn chiến với nhau, không còn phân biệt gì nữa.

Lão Tử, Nguyên Thỉ đánh với Thông Thiên giáo chủ.

Kim Linh thánh mẫu bị Từ Hàng, Văn Thù, Phổ Hiền phủ vây.

Kim Linh thánh mẫu cầm ngọc Như ý cự với ba vị đạo sĩ một hồi lâu rồi liệng mão xuống đất, bỏ tất cả, ra lực giao tranh.

Rủi gặp Nhiên Ðăng vừa tới. Thấy vậy quăng xâu chuỗi Ðịnh hải châu lên, trúng nhằm Kim Linh thánh mẫu bể đầu, hồn bay lên đài Phong thần.

Quảng Thành Tử thấy hỗn chiến liền quăng gươm Tru tiên lên, Xích Tinh Tử quăng gươm Lục tiên lên, Ðạo Hạnh thiên tôn quăng gươm Hãm tiên, Ngọc Ðảnh chơn nhơn quăng gươm Tuyệt tiên lên.

Bốn cây gươm phép tỏa khói đen ngùn ngụt, bao phủ cả trận Vạn Tiên. Những người có tên trong bảng Phong Thần đều bị bốn cây gươm này chém hết.

Thông Thiên giáo chủ trông thấy thở dài than:

– Thật tàn nhẫn! Ta không ngờ chúng nó lại dùng bốn cây gươm phép của ta mà hại bọn môn đồ ta.

Còn Tử Nha lúc ấy quăng Ðả Thần Tiên lên đánh phụ với mấy gươm báu.

Na Tra hiện ba đầu tám tay chém giết rất hung hăng.

Dương Tiễn múa đao chém người như chém chuối.

Lý Tịnh cầm kích phóng tới như phóng lao. Kim Tra, Mộc Tra quăng gươm linh lên sát phạt.

Vi Hộ quăng Gián ma xử lên đánh chết cũng nhiều.

Lôi Chấn Tử bay lên cao đụng ai đập nấy.

Dương Nhậm mở quạt báu quạt địch thủ tiêu xương.

Tiếp Dẫn đạo nhơn mở túi Càn khôn ra, nhắm những người nào có phước thì thâu vào.

Thông Thiên giáo chủ thấy đệ tử mình gần chết hết, nổi giận hét lớn:

– Trường nhĩ Ðịnh Quang Tiên đâu, sao không rung phướng lục hồn trợ chiến?

Thông Thiên giáo chủ kêu mãi mà chẳng thấy phướng rung. Bởi vì Ðịnh Quang Tiên thấy Xiển giáo nhiều phép, đã cuốn phướng lạc hồn đến núp dưới Lư Bồng ẩn mặt để khỏi chết oan.

Thông Thiên giáo chủ kêu không thấy, biết Ðịnh Quang Tiên đã trốn, tức mình muốn qua Lư Bồng mà kiếm, song bị bốn vị giáo chủ ngăn đón, Thông Thiên giáo chủ ý muốn lui về non tiên lại sợ hổ mặt với môn đồ mình, túng phải đánh liều tới đâu hay tới đó.

Ðánh được một lúc, Thông Thiên giáo chủ bị lão Tử đập xuống một gậy, nổi xung lấy trái Chùy Tử Lôi quăng lên.

Lão Tử cười lớn:

– Báu vật ấy hại ta sao được.

Tức thì trên đầu Lão Tử hiện ra một cái tháp đỡ Tử Lôi chùy.

Thông Thiên giáo chủ thất kinh, bị Nguyên Thỉ đánh một ngọc Như ý trúng vai gần té. Liền gượng dậy ráng sức giao công, nhìn lại thấy nhị thập bát tú đã chết sạch.

Thân Công Báo và Võ Ðương thánh mẫu biết tình thế không xong liền bỏ chạy trước, Khưu Dẫn thấy thế chạy theo sau.

Lục yểm giở bầu gươm phép chém Khưu Dẫn rụng đầu.

Tì Lư Tiên chui vào túi Càn khôn, sau về Tây phương thành Tì Lư phật. Còn nhiều người khác phước đức cũng chui vào túi Càn khôn hết.

Bây giờ Chuẩn Ðề hiện hai mươi bốn đầu mười tám tay, cầm đủ các phép đánh Thông Thiên giáo chủ.

Thông Thiên giáo chủ chém một gươm.

Chuẩn Ðề cầm nhành cây thất bửu gạt ngang, gươm của Thông Thiên gãy từng đoạn. Thông Thiên giáo chủ giục Khuê ngưu bại tẩu, ba trăm tiên Triệt giáo còn lại chạy theo thầy.

Bốn vị giáo chủ không đuổi truyền hồi chuông vàng khánh ngọc, đồng nhau kéo về Lư Bồng.

Về đến nơi, Nguyên Thỉ thấy Ðịnh Quang Tiên núp dưới Lư Bồng lấy làm lạ hỏi:

– Ngươi là môn đồ Triệt giáo, sao lại trốn nơi đây?

Ðinh Quang Tiên quỳ lạy thưa:

– Thầy tôi có luyện cây phướng Lục Hồn, đề tên hai vị sư bá, hai vị giáo chủ Tây phương, Châu Võ Vương và Khương Nguyên soái, dặn tôi chờ lúc hỗn chiến rung phướng ấy. Song tôi nghĩ thầy tôi hay nghe lời học trò, làm nhiều điều trái lẽ, nên chẳng nỡ làm, cuốn phướng ấy qua ẩn mặt nơi đây.

Nguyên Thỉ nói:

– Lạ thật! Ngươi học trò Triệt giáo sao lại có nhơn đức như vậy? Hay là ngươi muốn theo Xiển giáo? Nếu không có cốt tiên lẽ nào đừng lương tâm.

Nói rồi truyền Ðịnh Quang Tiên theo lên Lư Bồng.

Lão Tử bảo Ðịnh Quang Tiên:

– Ngươi đưa cây phướng Lục Hồn xem thử.

Ðịnh Quang Tiên tuân lệnh dâng lên.

Tiếp Dẫn đạo nhơn nói:

– Chúng ta xé tên Võ Vương và Khương Thượng, rồi xổ phướng ấy ra rung thử.

Sau khi xé tên xong, Ðịnh Quang Tiên phất qua phất lại ít lần, thấy trên đầu Nguyên Thỉ hiện vừng mây ngũ sắc, trên đầu Lão Tử hiện cái tháp Lung linh, trên đầu Chuẩn Ðề hiện hào quang, trên đầu Tiếp Dẫn hiện xá lợi, Ðịnh Quang Tiên rung mãi không thấy gì, liền quăng cây phướng lạy bốn vị giáo chủ và thưa:

– Như vậy thầy tôi đã làm việc vô ích, hại mạng môn đồ.

Tiếp Dẫn đạo nhơn nói:

– Ngươi nghe thử bài kệ này:

Cảnh Tây phương sắc sảo,

Nước Cực lạc bình yên

Châu ngọc như đá sỏi,

Loan phụng đậu thường xuyên

Bông sen thay xác tục,

Tòa báu đãi người tiên

Ai có công tu niệm,

Từ bi mới gặp duyên.

Ngâm rồi nói:

– Ðịnh Quang Tiên là người hiền, nên rước về Phật cảnh.

Nguyên Thỉ nói:

– Ngươi có phước đức mới gặp đạo huynh. Hãy lạy mà thọ giáo.

Ðịnh Quang Tiên y lời, lạy hai vị giáo chủ Tây phương nguyện theo về Cực lạc.

Bấy giờ Tử Nha đứng dưới Lư Bồng, nói với các đệ tử:

– Nay trận Vạn Tiên phá rồi, khỏi lo Triệt giáo ngăn trở nữa.

Ai nấy đều vui mừng.

Thông Thiên giáo chủ từ khi trận Vạn Tiên bị phá, các đệ tử có đức hạnh đều chun vào đãy Càn khôn về Tây phương, những người chưa đáng thành tiên hồn lên đài Phong Thần hết thảy. Duy còn ba trăm đệ tử mới tu, không có tên trong bảng Phong Thần còn sót lại chạy theo thầy.

Thông Thiên giáo chủ chạy đến chân núi kia ngồi nghỉ, nhìn lại ba trăm môn đệ ứa nước mắt nói:

– Ta bị Ðịnh Quang Tiên trở lòng, lấy phướng Lục Hồn trốn mất, lại bị Nguyên Thỉ và Lão Tử dùng bốn cây gươm báu của ta sát lại môn đồ. Hai lẽ đó làm cho ta bại trận. Nay mặt mũi nào về cung Bích Du nữa. Ta muốn trở lại lập một trận nữa, giết môn đệ chúng nó để trả thù.

Các đệ tử đồng nói:

– Tôn sư định lập trận gì?

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Ta định lập trận Ðịa thủy hỏa phong.

Các đệ tử hỏi:

– Trận ấy so với Tru Tiên và Vạn Tiên như thế nào?

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Trận Tru Tiên và Vạn Tiên ta lập đó chẳng qua là để cảnh cáo. Dầu sao ta với hai vị sư bá của các ngươi cũng là bằng hữu, trước kia cùng học một thầy, giận nhau không nỡ dùng độc thủ. Thế mà hai người ấy cậy đông, ỷ sức, làm nhục ta hai lần. Trận Ðịa thủy hỏa phong này không phải chỉ giết môn đệ của chúng mà thôi, mà giết cả hai vị giáo chủ của Xiển giáo nữa.

Các môn đệ nghe nói mừng rỡ reo lên:

– Nếu vậy xin thầy ra tay một trận, để cứu lấy danh dự giáo phái chúng ta.

Thông Thiên giáo chủ buồn bã nói:

– Ðó là một việc lớn, có thể làm chấn động đến cơ trời, chẳng phải tầm thường. Vì trận ấy là một trận dữ, mà suốt đời tu hành ta đã luyện được. Ta tính đến cung Tử Tiêu, thưa với thầy ta là Hồng Quân lão tổ, rồi mới dám lập.

Dứt lới Thông Thiên giáo chủ ngồi yên trong trầm lặng, hình như đang tìm một cơ năng huyền diệu trong người để phát động một năng lực mới.

Giữa lúc đó, nơi hướng Nam có một vừng mây năm sắc hiện ra, hào quang chiếu sáng lòa, gió quyện mùi hương thơm nực.

Rồi có một ông lão đi đến ngâm lớn:

Từ đời Bàn cổ ẩn trong rừng,

Dạy được ba trò dạ rất ưng

Xiển giáo chia ra cùng Triệt giáo,

Cho hay cũng một gốc Hồng quân.

Thông Thiên giáo chủ giật mình, biết Hồng Quân lão tổ đến, liền quỳ mọp xuống đất nghinh đón và thưa:

– Ðệ tử không hay sư phụ đến, nên nghinh tiếp trễ. Xin sư phụ tha tội.

Hồng Quân lão tổ hỏi:

– Sao ngươi lập trận Vạn Tiên thiệt hại môn đồ ngươi nhiều như vậy?

Thông Thiên giáo chủ thưa:

– Bởi hai vị sư huynh khi dễ Triệt giáo, để học trò mắng nhiếc đệ tử quá lời, chẳng nghĩ đến tình thầy, khinh thường bạn hữu.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Sao ngươi không tự trách mình, mà tìm lời trách bạn? Ngươi không nhớ lời giao ước khi mới lập bảng Phong Thần sao? Việc danh lợi là chỉ kẻ phàm, việc giận dữ là phần con gái. Nếu không dằn tánh ấy sao gọi là tiên? Vả lại ba anh em ngươi tu luyện từ thuở hỗn độn đến nay không phải một kiếp. Chẳng lẽ vì việc nhỏ nhen mà dứt nghĩa đồng song. Ta biết Lão Tử, Nguyên Thỉ cũng có nhiều điều trái lẽ, làm cho môn đồ Triệt giáo ngậm hờn, song hai người ấy thuận theo mà quấy động đạo trời. Ðã biết mỗi phái hệ có một đường tu, song đường tu nào kết cuộc cũng phải về lẽ chánh. Nếu ngươi thù hiềm mãi, cố lập trận Ðịa thủy hỏa phong, làm khó dễ cho hai vị sư huynh ngươi, thì phần ngươi cũng không an được. Ta lấy tình sư đệ xuống đây giải hòa. Ðạo nào lo dạy đạo nấy.

Thông Thiên giáo chủ thưa:

– Sư phụ quở trách đệ tử không dám cãi, nhưng xét ra Triệt giáo không làm gì hại đến Xiển giáo mà Xiển giáo cố áp bức, gây sát kiếp. Như hai trận vừa rồi, Xiển giáo mời hai vị giáo chủ Tây phương xuống đánh đệ tử, rồi chia nhau bắt môn đồ đệ tử một số hiện nguyên hình để sai khiến một số bắt đem đi để dùng riêng. Như vậy còn gì ức hiếp bằng. Sư phụ không nghĩ điều ấy quở trách đệ tử thật oan ức.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Thì ta đã bảo hai bên đều có lỗi lầm cả. Nay phải bỏ lỗi lầm để hòa thuận với nhau. Nếu các ngươi có đứa nào không nghe lời, ta không nhìn là đệ tử nữa.

Nói rồi quay lại bảo ba trăm môn đồ Triệt giáo:

– Các ngươi hãy về động tiếp tục tu luyện, đừng nghĩ đến oán cừu nữa.

Thông Thiên giáo chủ thấy thầy mình nói gắt như vậy, nuốt hận thưa:

– Sư phụ đã dạy, đệ tử không dám cãi lời, nhưng thật không còn mặt mũi nào nhìn thấy ai nữa.

Hồng Quân lão tổ dắt Thông Thiên giáo chủ tới Lư Bồng.

Na Tra đứng ngoài đang bàn luận với các tiên, thấy Thông Thiên giáo chủ với một ông già tóc bạc chống gậy đến, hào quang chói mắt, vội chạy vào nói lớn:

– Có Thông Thiên giáo chủ và một lão sư đến đây.

Nguyên Thỉ và Lão Tử biết sư phụ mình đến, liền ra khỏi Lư Bồng quỳ mọp xuống đất nghinh đón.

Các đệ tử tiên gia thấy vậy thất kinh, ai nấy quỳ thành một hàng dài, sau hai vị giáo chủ.

Lão Tử và Nguyên Thỉ thưa:

– Chúng tôi không hay tin sư phụ đến, nên nghinh tiếp trễ tràng, xin sư phụ từ bi hỉ xả.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Bởi các ngươi dạy đệ tử không nghiêm, nên sanh ra sát kiếp, Xiển giáo và Triệt giáo tranh nhau. Nay ta xuống đây lo việc giải hòa. Tai ta không muốn nghe cãi lý, mắt ta không muốn thấy tranh hành. Hai bên đều có những lỗi lầm, từ nay phải ăn năn chừa lỗi.

Lão Tử và Nguyên Thỉ đồng cúi đầu dạ một tiếng và thưa:

– Chúng tôi không dám cãi lệnh.

Nói rồi rước Hồng Quân lão tổ lên Lư Bồng.

Tiếp Dẫn và Chuẩn Ðề xin làm lễ, Hồng Quân lão tổ xua tay nói:

– Ba đứa học trò tôi là đệ tử, phải giữ lễ với thầy, còn quý vị đạo hữu xin cho tôi miễn điều ấy.

Tiếp Dẫn và Chuẩn Ðề bái một cái, rồi ngồi hầu hạ hai bên.

Các đệ tử lạy ra mắt, rồi đồng đứng hầu tả hữu.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Ba đệ tử ta lại đây cho ta bảo.

Thông Thiên giáo chủ, Nguyên Thỉ và Lão Tử đều đến quỳ trước mặt, Hồng Quân lão tổ phán:

– Bởi khí số nhà Thương đã dứt, nhà Châu ra đời, nên hội chư tiên phải thuận theo lòng trời mà vạch bảng Phong Thần, dứt đời thịnh trị. Trên bước đường hành đạo, vì giáo lý của hai bên khiếm khuyết nên mới có cuộc tranh hành. Nhưng cũng do mệnh trời định, gấp rút cho đủ số Phong Thần. Song về lỗi lầm, ta xét Thông Thiên lỗi nhiều hơn, không phải ta thiên vị.

Tiếp Dẫn và Chuẩn Ðề đồng khen:

– Tôn sư xử đoán công bình lắm.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Tuy vậy ta đến đây không phải luận phải quấy, mà chỉ hy vọng giảng hòa. Vì phải quấy không ích gì, chỉ có hòa thuận mới là quý. Hai bên phải nhịn nhau một ít, rời bỏ những khí tánh của mình, trở về núi tu hành, đừng sinh sự lôi thôi.

Ba vị đệ tử đồng cúi đầu. Hồng Quân lão tổ trút trong bầu thuốc lấy ra ba viên, chia cho ba người và nói:

– Chúng bây hãy nuốt mỗi đứa một viên thuốc này rồi ta sẽ giảng cho nghe.

Ba vị đệ tử nuốt mỗi người một hột.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Thuốc này không phải là thuốc bổ mà là thuốc bịnh. Bịnh ấy là bịnh nóng giận. Hãy nghe bài kệ này:

Bởi vì ba gã khiến đua tranh,

Lỗi đạo làm em, lỗi phận anh

Từ ấy còn mang lòng cự địch,

Thuốc linh khắc phạt mạng tan tành.

Ba vị đệ tử đồng tạ ơn thầy.

Hồng Quân lão tổ đứng dậy, từ giã Tiếp Dẫn và Chuẩn Ðề, rồi bảo Thông Thiên theo chân mình về cung Tử Tiêu, đừng dạy ai học nữa.

Thông Thiên giáo chủ vâng lời.

Cùng lúc đó, Tiếp Dẫn, Chuẩn Ðề cùng từ giã trở lại Tây phương, còn các đệ tử đều lạy đưa Hồng Quân lão tổ.

Xong việc, Lão Tử và Nguyên Thỉ nói với Tử Nha:

– Nay hai ta và mười hai vị tiên trưởng đệ tử đâu về động đó tu hành. Còn ngươi lo việc phạt Trụ. Hoàn thành bảng Phong Thần, rồi mới trở về tu luyện được.

Nói rồi xuống Lư bồng, Tử Nha quỳ lạy thưa:

– Chẳng hay từ nay việc chinh phạt lành dữ thế nào xin sư phụ cho biết?

Lão Tử nói:

– Hãy nghe bài kệ này thì rõ:

Việc muốn xong rồi lựa hỏi ra?

Nạn dầu có gặp, gặp liền qua

Chư hầu gần hội tám trăm vị,

Các cuộc Phong thần vốn chẳng xa.

Lão Tử ngâm rồi đi về với Nguyên Thỉ.

Mười hai vị tiên ông cũng từ giã Tử Nha, nói:

– Nay chúng ta lui về, không gặp mặt nhau nữa.

Tử Nha bịn rịn; ngâm mấy câu tiễn đưa:

Khi đến Lâm Ðồng gặp gỡ nhau,

Nay chia hai ngã nghĩ càng đau

Từ rày cách mặt bao giờ thấy?

Kẻ tục người tiên đã khác màu.

Các tiên lui về hết.

Lục Yểm nắm tay Tử Nha nói:

– Việc chinh phạt bình yên, không có gì mà sợ. Dầu gặp nguy hiểm cũng có người cứu. Song còn vài chỗ khó khăn, nên ta để bầu gươm phép lại cho mà dùng. Từ nay ta về núi tu hành, chắc ít khi gặp mặt.

Tử Nha tạ ơn, lãnh bầu phi đao.

Lục Yểm giã từ đằng vân biến mất.

Khi Nguyên Thỉ đi một lúc, Bạch hạc đồng tử thấy Thân Công Báo cỡi cọp chạy ngang, Bạch Hạc đồng tử thưa:

– Thân Công Báo nhập theo Triệt giáo trong trận Vạn Tiên, nay trận bị phá Thân Công Báo tìm đường trốn thoát.

Nguyên Thỉ nghe nói liền trao ngọc Như ý và truyền Huỳnh cân lực sĩ bắt Thân Công Báo giam tại núi Kỳ Sơn để trị tội.

Huỳnh Cân lực sĩ lãnh ngọc Như ý chạy theo kêu lớn:

– Thân Công Báo! Ngươi chạy đi đâu cho khỏi? Ta vâng lệnh Thiên Tôn bắt ngươi đem về núi Kỳ Sơn.

Nói rồi dùng ngọc Như ý bắt Thân Công Báo tức thì.

Nguyên Thỉ đi xe trầm hương, đến chân núi Kỳ Sơn thì Huỳnh Cân lực sĩ đã đem nạp Thân Công Báo, Nguyên Thỉ nói:

– Khi trước ngươi thề làm sao, thì bây giờ ta làm như vậy.

Thấy Thân Công Báo cúi mặt làm thinh, Nguyên Thỉ lấy tấm nệm quăng ra, truyền Huỳnh Cân lực sĩ bó Thân Công Báo như cuốn kèn, đem nhận đầu xuống biển Bắc.

Có bài thơ rằng:

Cũng là Xiển giáo phải tầm Thương,

Công Báo vì đâu giúp Trụ Vương,

Quấy bạn rủ ren ba mươi sáu đạo,

Bây giờ chết đuối chẳng ai thương.

Huỳnh Cân lực sĩ nhận Thân Công Báo xuống biển Bắc, bị cái nệm phép nên độn không ra được, uống nước đầy bụng, thở chẳng ra hơi. Huỳnh Cân lực sĩ trở về thưa lại với Nguyên Thỉ mọi việc.

Bấy giờ Tử Nha đem các tướng về ải Lâm Ðồng ra mắt Võ Vương.

Võ Vương nói:

– Nay Thượng phụ đã về, tướng sĩ đủ mặt, xin kéo binh qua ải Lâm Ðồng để hội chư hầu kẻo trễ.

Tử Nha vâng lệnh truyền tấn binh, đến cách ải Lâm Ðồng tám mươi dặm hạ trại.

Chủ tướng ải Lâm Ðồng này là Âu Dương Thuần nghe tin Tử Nha kéo binh đến cướp ải, liền bàn với Biện Kim Long, Quế Thiên Lộc và Công Tôn Ðạt:

– Nay Khương Thượng kéo đại binh đến cướp ải, so với quân nó thì quân ta chẳng bằng một phần thì làm sao chống lại.

Các tướng nói:

– Ngày mai ta ra quân đánh với chúng một trận xem sao, nếu thắng thì cướp dinh chúng luôn nếu bại thì vào bế thành rồi viết sớ về triều ca xin viện binh.

Âu Dương Thuần khen phải, trong lòng đỡ lo.

Rạng ngày, Tử Nha ra khách hỏi:

– Tướng nào muốn đánh ải Lâm Ðồng?

Hoàng Phi Hổ xin đi.

Tử Nha nhận lời, Hoàng Phi Hổ kéo binh đi đến dinh thương khiêu chiến.

Quân vào báo.

Âu Dương Thuần hỏi các tướng:

– Tướng nào dám ra trận bắt nó?

Tiên phuông Biện Kim Long lãnh mạng kéo quân đi ra khỏi trại kêu Hoàng Phi Hổ hỏi:

– Tướng Châu tên họ là chi?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ta là Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ.

Biện Kim Long nổi giận mắng:

– Phản tặc! Dòng họ ngươi hưởng lộc vua thế mà không biết lo trả ơn lại đi phò giặc làm phản. Chuyến này gặp Kim Long này thì đừng thoát chết.

Hoàng Phi Hổ nổi giận đâm một thương.

Biện Kim Long đưa búa đồng ra đỡ. Ðánh được ba mươi hiệp thì Biện Kim Long bị Hoàng Phi Hổ đâm một giáo nhào xuống ngựa chết tươi.

Hoàng Phi Hổ cắt lấy thủ cấp rồi truyền thu binh về dinh, và đem thủ cấp dâng cho Tử Nha.

Âu Dương Thuần nghe tin Biện Kim Long tử trận thất kinh liền cho người báo tin cho vợ của Biện Kim Long là Từ Thị hay.

Từ Thị hay tin khóc lóc thảm thiết.

Lúc này con trai lớn của Biện Kim Long là Biện Kiết đang ở sau vườn nghe mẹ khóc vội chạy vào hỏi ra thì biết cha mình bị Hoàng Phi Hổ chém chết, Biện Kiết mím chặt hai môi, bỏ vào phòng nai nịt chỉnh tề, ra thưa với mẹ:

– Xin mẫu thân đừng khóc lóc vô ích. Ðể con ra trận báo thù cho cha.

Từ Thị không nghe lời can của con cứ khóc mãi, Biện Kiết nóng lòng vội bước ra ngoài thì thấy trời tối, liền vào phủ Âu Dương Thuần:

– Nay lỡ trời tối, xin để mai báo cừu.

Nói rồi trở về nha sai gia binh khiêng một cái cũi màu đỏ ra ngoài cửa ải, trước cửa dựng một cây phướng cao năm trượng rồi mở tủ lấy đầu phướng treo lên. Phướng này dùng một trăm cái sọ người xâu lại như xâu chuỗi được gọi là Bá cốt phang.

Người sau có bài thơ rằng:

Phướng kết sọ người thấy bắt ghê,

Ai đi qua đó cũng hôn mê,

Ví bằng Vua Võ không hồng phước,

Ngàn tướng muôn binh khó trở về.

Ðêm ấy Biện Kiết vẽ bùa, cho mỗi gia tướng mình giắt một lá trên mão.

Rạng ngày, Biện Kiết dẫn gia tướng đến trước dinh Châu múa kích kêu lớn:

– Tướng nào giỏi hôm qua bữa nay ra đánh thử.

Quân vào báo. Tử Nha hỏi:

– Tướng nào muốn xuất quân?

Nam Cung Hoát lãnh mạng ra trận. Ðến nơi thấy một tướng nhỏ mặt mày hung dữ.

Biện Kiết thấy Nam Cung Hoát kéo binh ra liền hỏi:

– Tướng Châu tên họ là gì?

Nam Cung Hoát cười lớn nói:

– Ngươi là thằng con nít miệng còn hôi sữa, không biết ta là đại tướng Nam Cung Hoát cũng phải.

Biện Kiết nói:

– Thôi ta chẳng giết ngươi là kẻ vô can hãy về kêu Hoàng Phi Hổ ra đây chịu chết. Vì nó giết cha ta thì ta phải hại mạng nó trước rồi mới đến phiên các ngươi.

Nam Cung Hoát nổi giận múa đao đến chém liền.

Biện Kiết đưa kích ra đỡ. Ðánh được ba mươi hiệp, Biện Kiết giục ngựa bỏ chạy, Nam Cung Hoát thừa thắng đuổi theo.

Nhưng Nam Cung Hoát vừa chạy đến chỗ cây phướng thì hôn mê bất tỉnh sa xuống ngựa.

Bọn gia tướng bắt trói lại kéo Nam Cung Hoát qua khỏi cây phướng thì Nam Cung Hoát tỉnh hồn mở mắt ra mới hay mình bị bắt.

Biện Kiết vào thưa với chủ tướng đã bắt được tướng Châu là Nam Cung Hoát, Âu Dương Thuần truyền dẫn vào.

Nam Cung Hoát vẫn đứng sững, Âu Dương Thuần nổi giận mắng:

– Phản tặc đã bị bắt sao không chịu quỳ van xin tha mạng, tới đây còn ngang ngạnh với ai? Ðao phủ đâu, mau dẫn ra chém và bêu đầu trước ải.

Công Tôn Ðạt vội can rằng:

– Hiện ở triều ca bọn nịnh thần tâu dối vua rằng chúng ta bịa ra chuyện giặc giã để chu cấp binh lương, cho nên đã dâng sớ, Thiên Tử chẳng những không thêm binh mà còn chém sứ. Ý tôi muốn giam Nam Cung Hoát chờ bắt Hoàng Phi Hổ rồi giải về Triều Ca cho gian nịnh trổ mòi và thiên tử hết nghi ngại.

Âu Dương Thuần khen phải, truyền giam Nam Cung Hoát sau dinh.

Tử Nha nghe tin Nam Cung Hoát bị bắt thì lo ngại.

Bữa sau quân vào báo:

– Biện Kiết đến khiêu chiến và kêu quyết Võ Thành Vương ra trận.

Hoàng Phi Hổ dẫn Hoàng Minh, Châu Kỷ kéo binh xông ra.

Biện Kiết chống kích hỏi:

– Ai là Hoàng Phi Hổ?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ta đây!

Biện Kiết nổi giận mắng:

– Mi là đứa phản chúa, cả gan giết cha ta, ta quyết bằm thây ngươi ra trăm mảnh để rửa hờn.

Nói rồi đâm một kích, Hoàng Phi Hổ vung giáo đỡ ra rồi đánh lại.

Hai bên giao chiến hơn ba mươi hiệp, Biện Kiết trá bại chạy dài.

Hoàng Phi Hổ giục ngựa đuổi theo vừa tới cột phướng liền hôn mê và cũng bị bắt như Nam Cung Hoát.

Biện Kiết đem đại tướng nạp cho Âu Dương Thuần và xin chém Hoàng Phi Hổ báo thù cha.

Âu Dương Thuần nói:

– Tuy tiểu tướng nóng báo cừu, nhưng Hoàng Phi Hổ là một tên đại phản, cần phải giải về Triều Ca cho thiên tử trị tội. Làm như vậy tiểu tướng đã báo được phụ cừu, mà còn được thiên tử ghi ơn.

Nói rồi truyền quân đem Hoàng Phi Hổ giam vào hậu dinh.

Biện Kiết ứa nước mắt bước ra ngoài.

Còn Châu Kỷ với Hoàng Minh xông vào cứu Hoàng Phi Hổ, đã không được lại suýt bị bắt, sợ hãi chạy về báo lại với Tử Nha.

Tử Nha nghe hai tướng bị bắt một lúc, kinh hãi hỏi:

– Tướng địch đánh cách nào mà một trận bắt đến hai người?

Châu Kỷ thuật lại mọi việc. Tử Nha than:

– Ðó cũng là phép tà đạo! Ðể ngày mai ta ra trận sẽ hay.

Hôm sau, Tử Nha dẫn các tướng ra trận, thấy cây phướng khói đen bay mù mịt, hơi lạnh ghê hồn.

Na Tra thấy mỗi cái sọ có vẽ bùa bằng châu sa, liền hỏi Tử Nha:

– Sư thúc có thấy bùa vẽ trên những cái sọ kia chăng?

Tử Nha nói:

– Ta thấy rồi. Ðó là phép tà đạo, các tướng đừng chạy qua cây phướng ấy thì chẳng hại gì.

Quân trong thành thấy Tử Nha xuất hiện, liền vào báo với Âu Dương Thuần.

Âu Dương Thuần dẫn quân đi nép một bên cửa, bước ra.

Tử Nha nói với các tướng:

– Rất đỗi chủ tướng còn không dám đi gần cây phướng, các ngươi không thấy sao?

Các tướng đều gật đầu tuân lệnh.

Tử Nha bước tới hỏi Âu Dương Thuần:

– Ngươi có phải là chủ tướng ải Lâm Ðồng không?

Âu Dương Thuần đáp:

– Ngươi không biết ta sao?

Tử Nha nói:

– Ngươi không biết thời trời. Năm ải chỉ còn có một, sao ngươi dám cự lại?

Âu Dương Thuần nổi giận nạt:

– Ngươi tài chi mà khoe khoang như vậy.

Nói rồi bảo Biện Kiết:

– Hãy bắt Khương Thượng cho ta.

Biện Kiết và các tướng xông tới.

Lôi Chấn Tử đón lại hét lớn:

– Tặc tướng đừng làm hỗn, có ta đây.

Nói rồi vỗ cánh bay lên cầm côn đập xuống.

Ðánh được ít hiệp, Biện Kiết trá bại bỏ chạy.

Lôi Chấn Tử nghĩ thầm:

– Cái phướng kia độc quá, chi bằng ta bay lên cao, đánh Biện Kiết thì lợi hơn.

Nghĩ rồi quạt cánh bay bổng. Chẳng ngờ trên ngọn phướng cũng có khí yêu, Lôi Chấn Tử mới giá côn lên, liền rơi xuống đất như chim bị đạn.

Quân của Biện Kiết bắt được tréo cặp cánh của Lôi Chấn Tử lại như tréo cánh gà rồi dùng dây trói cả hai tay.

Vi Hộ thấy vậy nổi nóng quăng Gián ma xử lên cố đánh phướng yêu cho nát chẳng ngờ Gián ma xử bị khí yêu chiếu vào rơi xuống đất.

Vi Hộ thấy Gián ma xử bị rớt chắt lưỡi than thầm, các tướng đều nhìn nhau mặt mày ngơ ngẩn.

Biện Kiết giục ngựa chạy ra kêu lớn:

– Tử Nha, hãy chịu trói cho sớm thì được toàn mạng.

Na Tra nổi giận giục xe xông tới hiện ba đầu tám tay hét lớn:

– Thất phu, đừng làm phách! Có ta đến đây.

Nói rồi đâm một giáo.

Biện Kiết thấy Na Tra dị tướng thì hết hồn nên chỉ đánh vài hiệp chưa kịp trá bại đã bị Na Tra quăng Càn khôn quyện đập vào mình gần sa xuống ngựa.

Biện Kiết kinh hãi bỏ chạy.

Lý Tịnh xốc tới Âu Dương Thuần.

Quế Thiên Lộc múa đao xông ra cản lại. Ðánh được ít hiệp, Lý Tịnh đâm Quế Thiên Lộc một kích nhào xuống ngựa chết tươi.

Âu Dương Thuần nổi giận xách búa đồng xông vào đánh Lý Tịnh.

Lý Tịnh đưa kích đỡ không muốn nổi. Tử Nha truyền giục trống trợ uy. Tân Giáp, Tân Miễn, Mao Công Toại, Châu Công Ðáng, Thiên Công Thích đồng vào tiếp chiến.

Âu Dương Thuần bị vây vào giữa tuy có sức mạnh như thần, song một mình cự sao cho lại.

Hồi 85: Hai vị chư hầu đầu thánh chúa

Âu Dương Thuần bị vây, đánh đỡ không kịp, khôi giáp tơi tả, mồ hôi ướt đầm, biết tướng Châu ỷ đông ăn hiếp mình nếu đánh lâu mang hại liền giục ngựa nhảy vụt ra chạy riết về thành đóng cửa lại.

Còn binh Châu binh tướng rất đông mà để Âu Dương Thuần chạy vụt, đều ngơ ngác nhìn nhau bẽn lẽn.

Tử Nha thâu binh về trại thầm lo cho Lôi Chấn Tử không biết lành dữ thế nào.

Âu Dương Thuần chạy về thành, thấy Biện Kiết bị thương, liền cho về nhà dưỡng bệnh rồi viết sớ sai người đem về Triều Ca xin cứu viện.

Người dâng sớ đến Triều Ca nhằm lúc quan trung Ðại phu Ác Lai thâu sớ.

Ác Lai coi biểu xong, Vi Tử Khải bước vào, Ác Lai đưa cho Vi Tử Khải xem.

Vi Tử khải thất kinh than:

– Khương Thượng kéo binh đến ải Lâm Ðồng còn cách Triều Ca có mấy trăm dặm mà Thiên Tử vẫn ăn ngon ngủ yên là cớ làm sao.

Than rồi ôm sớ vào dâng cho vua Trụ.

Bấy giờ gặp lúc vua Trụ đang uống rượu với ba con yêu trên Lộc đài, nghe nội thị vào tâu, liền đòi Vi Tử khải đến hỏi:

– Hoàng huynh có việc gì dâng sớ?

Vi Tử Khải tâu:

– Khương Thượng phò Cơ Phát, đoạt hai ải bìa là Thanh Long và Giai Mộng tiếp đến lấy luôn bốn ải chính là Tỵ Thủy, Giới Bài, Xuyên Vân và Ðồng Quan. Nay đương đánh ải Lâm Ðồng giết binh chém tướng thế mạnh như hòn núi đè trứng gà, tợ con hùm ăn thịt thỏ. Âu Dương Thuần viết sớ về viện binh, xin bệ hạ lâm triều, xem xã tắc là trọng.

Tâu rồi dâng sớ, vua Trụ xem thấy kinh hãi nói:

– Không lẽ Khương Thượng mạnh mẽ như vậy. Nếu trước không lo trừ, sau sẽ mang họa. Phán rồi truyền dọn xe lâm triều, gióng trống dọng chuông, bá quan chầu chực đủ mặt. Bởi Trụ Vương ít khi lâm triều nên mỗi lần lâm triều bá quan đều mừng rỡ.

Trụ Vương phán:

– Nay Khương Thượng hưng binh trợ Cơ Phát làm phản, lấy hai ải bìa và bốn ải chính, nay lại phá ải Lâm Ðồng. Nếu không dùng đại binh trừ khử thì họa đến chẳng sai. Các khanh có kế nào thương nghị chăng?

Quan Ðại phu Lý Thông tâu:

– Bình thường bệ hạ không coi việc nước là trọng, say sưa tửu sắc, bỏ việc triều đình làm cho quỷ giận thần hờn, trời sầu đất thảm, bốn phương ly loạn, trăm họ điêu linh. Nay sấm dậy mới bùng tai, khát nước mới đào giếng thật là tai họa. Tuy vậy Triều Ca cũng còn người hiền, chư hầu cũng có kẻ tài năng, chỉ tại bệ hạ không trọng dụng nên bây giờ kẻ trung lương không phò bệ hạ. Nay phía Ðông có Khương Văn Hóa đánh ải Du Hồn ngày đêm không nghỉ, phía Nam Ngạt Thuận đánh ải Tam Sơn binh tướng hao mòn, phía Bắc Sùng Hắc Hổ vây ải Trần Ðường đã thất thủ gần một tháng. Cơ Phát đánh ải Lâm Ðồng nhắm lấy thành cũng chẳng bao lâu. Ví như lửa cháy cả lò, nửa chén nước tưới sao cho tắt? Lầu cao ba trượng, cột một cây dầu có cứng cũng phải xiêu. Tôi liều thác mới tỏ lời ngay, bệ hạ nên hồi tâm xét lại. Như cho lời tôi là phải, xin bệ hạ bỏ điều tửu sắc lo việc triều đình. Vì bỏ tửu sắc chính là bệ hạ đã thắng được một mũi giặc lớn bên trong. Ðược vậy tôi xin tiến cử hai người hào kiệt ra ngăn trở binh Châu họa may trời thương cơ nghiệp Thành Thang khỏi mất.

Vua Trụ hỏi:

– Khanh tiến cử hai người nào vậy?

Lý Thông tâu:

– Có hai vị chư hầu ở gần đây, tên Nhuế Kiết và Ðặng Côn vốn là kẻ trung nghĩa lại có tài năng là thủ thành được.

Vua y tấu truyền đòi hai người đến lập tức.

Nhuế Kiết và Ðặng Côn đều vào đền yết kiến.

Vua Trụ phán:

– Nay có quan đại phu Lý Thông tiến cử hai khanh là trang trung nghĩa trí dõng vẹn toàn nên trẫm ban búa việt cờ mao, hai khanh phải hết lòng ngoài trận ra trấn ải Lâm Ðồng. Nếu bắt được Khương Thượng và Cơ Phát, dẹp được binh Châu thì trẫm cắt đất phong vương cho hai khanh.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết tạ ơn, tâu:

– Bệ hạ hậu đãi như vậy, chúng tôi phải ráng sức đền ơn.

Vua Trụ truyền dọn yến tại đền, sai Vi Tử coi đãi tiệc rồi trở lại Lộc đài.

Trong lúc đãi tiệc, Vi Tử, Cơ Tử rót chén rượu dâng cho hai vị, vừa khóc vừa nói:

– Nước nhà còn mất lúc này do nơi hai vị. Xin hết sức đỡ ngăn.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết thưa:

– Xin hai ngài đừng lo. Chúng tôi trọng nghĩa thuở nay không lẽ bây giờ đổi dạ. Dám đâu trên quên ơn bệ hạ tin cậy, dưới phụ tình bạn tiến cử hay sao.

Mãn tiệc, Ðặng Côn và Nhuế Kiết từ giã lui về kéo binh ra Mạnh Tân, rồi qua sông Huỳnh Hà lần đến ải Lâm Ðồng.

Nói qua việc Thổ Hành Tôn đi vận lương mới về, thấy dưới cửa thành có cây phướng, dưới cây phướng lại có treo hai món binh khí là Huỳnh Kim côn của Lôi Chấn Tử và Gián ma xửa của Vi Hộ thì thấy làm lạ, nghĩ thầm:

– Sao hai vật này lại ở đó?

Ngẫm nghĩ một lúc rồi về trước dinh vào ra mắt Tử Nha thưa:

– Ðệ tử kỳ này vận lương đủ số, khi đi ngang trước cửa thành thấy dưới cây phướng có treo Gián ma xử và Kim côn, chẳng biết có gì lạ vậy?

Tử Nha thuật chuyện, Thổ Hành Tôn tuy không dám nói nhưng không tin có chuyện lạ lùng.

Na Tra bấm Thổ Hành Tôn ra ngoài nói nhỏ:

– Biện Kiết bị ta đánh một Càn khôn quyện mấy bữa nay không dám ló ra ngoài.

Thổ Hành Tôn nói:

– Ðể ta đi lấy hai món binh khí và thăm tin các tướng ra thế nào?

Na Tra nói:

– Không được đâu! Cây phướng ấy mà lại gần thì hôn mê bất tỉnh, chắc khỏi đi vận lương nữa.

Thổ Hành Tôn mím môi bỏ đi. Ðợi đến lúc đỏ đèn độn thổ đến dưới cây phướng.

Thổ Hành Tôn vừa ở dưới đất ló lên nơi chân phướng, liền bị hôn mê bất tỉnh nằm ngủ như điên.

Binh Châu thấy vậy liền về báo với Tử Nha.

Tử Nha họp các tướng hỏi:

– Nay Thổ Hành Tôn lén đi lấy trộm binh khí bị hôn mê nằm dưới cột phướng, ai có kế gì giải cứu chăng.

Các tướng nghe nói đều sợ sệt.

Tử Nha cũng buồn bã làm thinh.

Quân thám thính trên thành trông thấy một thằng lùn nằm dưới cây cột phướng, liền vào báo với Âu Dương Thuần:

– Có một thằng lùn chẳng biết ở đâu tới nằm mê dưới cột phướng.

Âu Dương Thuần mừng rỡ, truyền quân mở cửa ra bắt. Chẳng ngờ bao nhiêu quân sĩ đến đó cũng đều mê man nằm một đống với Thổ Hành Tôn.

Mấy tên lính đi sau thấy vậy liền vào báo lại.

Âu Dương Thuần hồ nghi vội cho người mời Biện Kiết đến.

Biện Kiết đang dưỡng bệnh, nghe đòi phải ráng vào hầu.

Âu Dương Thuần thuật lại chuyện, Biện Kiết thưa:

– Phướng ấy ai đến gần cũng bị hôn mê. Muốn bắt thằng lùn sao chủ tướng không hỏi tôi. Nói rồi truyền gia tướng của mình ra thả bọn binh sĩ trong ải và trói tướng lùn lại.

Tướng lùn bị dẫn vào, Âu Dương Thuần hỏi:

– Ngươi là người gì, phải khai thiệt?

Thổ Hành Tôn nói:

– Tôi là người đi ăn trộm của rơi, muốn lấy cây côn vàng, bởi ngủ quên nên mới bị bắt. Biện Kiết nổi giận mắng:

– Thất phu dám cả gan giỡn cợt với ta.

Nói rồi truyền quân đem chém. Ðao phủ quân tuân lệnh dẫn ra ngoài.

Thổ Hành Tôn cười lớn, rồi độn thổ trốn mất.

Tả đao thấy vậy kinh hãi, vào báo:

– Chúng tôi đưa đao toan chém, thì thằng lùn nhào xuống đất biến mất.

Âu Dương Thuần nói với Biện Kiết:

– Chắc tướng lùn ấy là Thổ Hành Tôn. Chúng ta phải đề phòng kẻo nó thừa cơ vào thích khách.

Trong thành nghe nói ai nấy cũng kinh hoàng.

Còn Thổ Hành Tôn động thổ về dinh, vào ra mắt Tử Nha nói:

– Cây phướng ấy thiệt độc, nếu tôi không có phép địa hình chắc mất mạng rồi.

Tử Nha thấy Thổ Hành Tôn trở về được cũng bớt nỗi buồn lo.

Bấy giờ Biện Kiết đã hết bịnh, liền đến bên dinh Châu khiêu chiến.

Quân vào báo, Tử Nha hỏi:

– Tướng nào muốn ra trận?

Na Tra lên xe cầm giáo ra khỏi dinh, thấy Biện Kiết đang diệu võ dương uy, liền xốc tới đánh liền.

Biện Kiết thấy Na Tra như con chim sợ tên, không dám đánh, cứ ngó chừng Càn khôn quyện, sợ rủi một lần nữa thì bỏ mạng.

Ðánh được ít hiệp, Biện Kiết bỏ chạy về phía cây phướng quyết dụ Na Tra.

Na Tra đã biết cây phướng độc, nên không thèm đuổi theo.

Dù Na Tra có đuổi theo cũng chẳng hề gì, vì Na tra là cốt bông sen, nhưng tánh Na Tra thận trọng, không muốn liều lĩnh cầu may.

Biện Kiết thấy Na Tra không đuổi đến, liền vào thành thưa lại với Âu Dương Thuần:

– Tôi có dụ Na Tra đến bên cây phướng, nhưng nó không dám, thu binh trở về dinh.

Âu Dương Thuần nói:

– Bây giờ biết làm cách nào thắng địch?

Biện Kiết trầm ngâm nghĩ kế, nhưng chưa tìm ra cách nào.

Bỗng có quân vào báo:

– Ngoài thành có hai người xưng là Ðặng hầu, Nhuế hầu đem binh đến tiếp.

Âu Dương Thuần dẫn các tướng ra ngoài rước vào, nhường cho hai vị chư hầu ngồi trên, còn Âu Dương Thuần ngồi dưới.

Ðặng Côn hỏi:

– Thiên Tử xem sớ của Tướng quân, nên sai hai tôi ra đây tiếp chiến. Bởi Khương Thượng dấy binh hùng tướng mạnh, đoạt ải lấy thành rất lợi hại, không phải Tướng quân bất tài. Tuy vậy Lâm Ðồng là ải quan trọng, coi như bức bình phong của triều ca, phải có nhiều binh tướng trấn giữ, mới mong chống lại địch quân được. Chẳng hay việc chinh chiến mấy bữa nay ra sao?

Âu Dương Thuần nói:

– Trận thứ nhất Biện Kim Long bị Hoàng Phi Hổ đâm chết, nhờ con Biện Kim Long là Biện Kiết dùng cái phướng phép gọi là U hồn bách cốt phang mới ngăn quân địch được. Trận thứ nhì Biện Kiết bắt Nam Cung Hoát, trận thứ ba bắt Hoàng Phi Hổ, trận thứ tư bắt Lôi Chấn Tử. Những tướng bị bắt hiện đang bị cầm ngục.

Ðăng Côn nghe nói Hoàng Phi Hổ bị bắt, liền hỏi vội:

– Có phải phản thần Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ trước kia bỏ Trụ đầu Châu chăng?

Âu Dương Thuần nói:

– Chính là kẻ phản thần ấy.

Ðặng Côn nói:

– Tướng quân bắt được phản thần công lao rất lớn.

Chẳng ngờ Hoàng Phi Hổ là dượng của Ðặng Côn, vì Ðặng Côn kêu Giả Thị bằng dì ruột. Ðặng Côn tuy ngoài miệng nói gượng, song trong lòng không vui.

Âu Dương Thuần liền bày tiệc thết đãi.

Mãn tiệc, Ðặng Côn trở về phòng ngồi suy nghĩ:

– Không biết làm sao để cứu Hoàng Phi Hổ. Ta nghĩ lại, Hoàng Phi Hổ là kẻ trung liệt mấy đời, sở dĩ bỏ Trụ đầu Châu cũng vì Trụ Vương vô đạo. Kẻ vô đạo lúc bát loạn cần người hiền, đến lúc thái bình thì xem người hiền như kẻ thù địch. Hiện nay, tám trăm chư hầu đã theo Châu bỏ Trụ, phần ta cũng chỉ là kẻ cầm đầu một trấn chư hầu, đâu phải người hưởng lộc nhà Thương mà buộc phải đem thân hy sinh cho người thiếu đức. Binh Châu đã lấy hết bốn ải lớn rồi, còn một cái ải này làm sao giữ nổi, chi bằng phò Châu thuận theo chư hầu là hay hơn. Song chưa rõ Nhuế Kiết ý nghĩ thế nào. Thôi, để ngày mai ra đánh một trận xem thử thế địch ra sao sẽ quyết định.

Hôm sau, hai vị chư hầu ra khách, các tướng đứng hầu hai bên, Nhuế Kiết nói:

– Chúng ta vâng lệnh đến đây tiếp chiến, vậy phải ra binh trừ Khương Thượng cho sớm, để khỏi làm khổ lê dân.

Âu Dương Thuần truyền dẫn binh ra trận.

Biện Kiết thưa với hai vị chư hầu:

– Xin hai vị lão gia đem binh đi phía tả, đừng đến gần cây phướng phép.

Nhuế Kiết gật đầu, rồi dẫn quân đi nép một bên.

Quân Châu xem thấy vào báo với Khương thượng:

– Có hai đại tướng đem binh cứu viện ải Lâm Ðồng, nay kéo binh đến trước dinh, mời chúa công ra nói chuyện.

Tử Nha nghĩ thầm:

– Hai người này là hai vị chư hầu, nếu mời chúa công ra trận chắc có ý gì riêng.

Nghĩ rồi sai tướng đi mời Võ Vương. Võ Vương theo Tử Nha lên xe, phát pháo khai dinh, các tướng đều theo hộ giá.

Nhuế Kiết và Ðặng Côn xem thấy Tử Nha oai phong lẫm liệt, tướng binh chỉnh tề, lại thấy dưới cây tàn lọng đỏ có một người, biết là Võ Vương, liền lướt tới hỏi lớn:

– Người ngồi dưới lọng kia có phải là Võ Vương chăng?

Tử Nha đáp:

– Chính là Chúa công ta đấy. Còn hai ngươi là ai?

Ðặng Côn đáp:

– Ta là Ðặng Côn, còn người này là Nhuế Kiết. Tướng nước Tây Châu không biết nhân nghĩa lễ trí mới dám tự ý xưng vương, đã chứa phản thần lại cướp đoạt ải chúa, giết binh tướng triều đình, cướp đất đai Thiên tử. Sao chẳng nghĩ đạo vua tôi lại hành động táo bạo như vậy?

Còn Nhuế Kiết cũng chỉ vào mặt Võ Vương mắng:

– Tiên vương của ngươi thật có đức tuy bị bảy năm Dũ Lý không một tiếng oán hờn, giữ đạo làm tôi một niềm thảo thuận. Bởi vậy Thiên Tử mến người hiền phong đến tước vương, lại ban búa Việt, cờ Mao cho về quê như cũ. Ðáng lẽ các ngươi phải cám ơn Thiên tử, báo nghĩa quân vương. Song Văn Vương chết chẳng bao lâu, các ngươi nghe lời Tử Nha làm phản chúa, chấp phản thần, giết tướng triều đình, chiếm đất đoạt thành bêu nhục cho tổ tông, làm xấu hổ cho dòng họ. Nếu nghe lời ta khuyên, lui binh về ải giữ nước xưng thần, ấy là tự ăn năn cải hóa, còn cứ đi trên lối cũ, ta e không đất chôn thây, chạy trời không khỏi nắng.

Tử Nha cười lớn:

– Hai vị hiền hầu chỉ luận đúng với lẽ thường mà không thông cuộc biến. Lời xưa nói: Ngôi trời không chừng, ai có đức thì được. Nay Trụ Vương bất nhân, ham mê tửu sắc, giết hại vợ con, trên chẳng tế tiên vương, dưới không trọng hiền sĩ, bốn phương chẳng phục, trăm họ oán hờn nên tám trăm chư hầu đều về Châu, can qua phạt Trụ hội nơi Mạnh Tân để vấn tội hôn quân. Hai vị hiền hầu đối với Trụ Vương như người ở đậu, chưa biết ai là chủ mình, sao không xem thời thế bỏ tà về chánh, còn dùng miệng lưỡi làm chi?

Ðặng Côn làm bộ giận dữ hét lớn:

– Biện Kiết hãy ra bắt lão tặc đó cho ta.

Biện Kiết tuân lệnh cầm kích xông ra.

Triệu Thắng múa gươm xông ra, ngăn Biện Kiết lại đánh.

Nhuế Kiết cầm siêu đao lướt tới, Tôn Diệm Hồng đưa búa ra ngăn, còn Võ Kiết nhảy ra trợ chiến.

Na Tra hiện ra ba đầu tám tay, bộ như quỹ dữ xông vào, đánh Ðặng Côn.

Ðặng Côn ngỡ là yêu quái hiện lên không dám chống cự truyền gióng kiểng thâu binh vào thành.

Tử Nha thấy vậy cũng thâu binh về trại.

Ðặng Côn, Nhuế Kiết vào trại, Âu Dương Thuần dọn tiệc đãi đằng, ai nấy đều khen binh tướng Châu tài phép song toàn, anh hùng thượng thủ.

Khi mãn tiệc, trời đã tối, Ðặng Côn về phòng nghĩ thầm:

– Trụ Vương bạo ngược, khó giữ giang sơn, Châu Võ nhân từ chắc được thiên hạ. Ta xem cốt cách Võ Vương tướng mạo phương phi, còn Tử Nha oai phong lẫm liệt, trí dõng toàn tài, lại thêm nhiều tướng kỳ tài trợ lực, ải Lâm Ðồng không thể giữ được lâu, chi bằng cứu dượng theo Châu, cho hợp với chư hầu bốn biển. Song chưa hiểu ý kiến Nhuế Kiết thế nào.

Giữa lúc ấy, Nhuế Kiết về phòng, cũng nghĩ riêng:

– Thiên hạ đồn không sai. Quả thật Tây Kỳ tôi hiền chúa thánh, đáng mặt trị thiên hạ. Nay chư hầu đã quy phục, ta làm sao đi ngược lại lòng dân. Thế tất phải về Châu mới thuận.

Tuy nghĩ như vậy song còn dò ý Ðặng Côn, không biết thế nào.

Rạng ngày, Ðặng Côn và Nhuế Kiết ra khách, các tướng đều ứng hầu, Ðặng Côn nói:

– Hôm qua ra trận xem Khương Thượng quả thật tài năng, dụng binh phải phép, vả lại nhiều thần thông phò tá, lắm tướng võ nghệ cao cường, chúng ta biết tính làm sao đuổi binh Châu cho được?

Biện Kiết thưa:

– Làm tôi phải hết lòng thờ chúa, đem thân đền nợ nước trong lúc lâm nguy. Còn việc được thua phần lớn là do hồng phước của Thiên tử. Nếu Thiên Tử đang còn thạnh trị thì sẽ có người tài ra giúp, sợ gì binh Châu đông, tướng Châu giỏi?

Ðặng Côn nói:

– Biện tướng quân nói cũng phải, song người hào kiệt ra giúp thì không thấy đâu, còn quân giặc ngày đêm đóng ngoài thành, chúng ta không có kế gì lui binh thì ải Lâm Ðồng làm sao giữ được?

Biện Kiết nghe mấy lời, biết ý Ðặng Côn muốn đầu Châu, nhưng mình là tiểu tướng, đâu dám dùng lời phải trái nói nhiều, liền thưa:

– Nay có phướng ngăn đường, quân Châu không thể nào lấy ải được, xin cứ chậm rãi sẽ có nhân tài ra mặt thối lui binh Châu.

Ðặng Côn không nói lại. Nhuế Kiết biết ý Ðặng Côn rồi, nên tối về phòng, sai người tâm phúc mời Ðặng Côn đến uống rượu.

Ðặng Côn được tin mừng rỡ, liền đến hội kiến tức thì.

Bấy giờ Khương Thượng thấy hai tướng mới đến đều là hai vị chư hầu, tài năng không có mấy, ý muốn lấy ải Lâm Ðồng cho sớm, ngặt cái phướng phép của Biện Kiết chưa có cách nào phá nổi, phần các tướng bị bắt trong thành chưa rõ hung kiết lẽ nào, Tử Nha lại có cảm giác như trong thành Lâm Ðồng có gì khác lạ, liền gọi Thổ Hành Tôn đến bảo:

– Ðêm nay ngươi dùng thuật địa hành vào trong ải Lâm Ðồng thám thính xem các tướng bị nhốt hiện tình ra sao?

Thổ Hành Tôn vâng lệnh chờ đến canh hai, độn thổ vào thành, mò đến chỗ đề lao, thấy quân canh còn thức không dám gây tiếng động, liền đến chổ khác ẩn thân. Bỗng đi ngang qua một căn phòng, nghe hai người ngồi uống rượu và đàm đạo. Ðó là Ðặng Côn và Nhuế Kiết.

Lúc này Ðặng Côn và Nhuế Kiết truyền bọn tả hữu ra ngoài hết, trong phòng chỉ còn hai người.

Thổ Hành Tôn lắng tai nghe thử, thấy Nhuế Kiết nốc xong chén rượu, cười và nói:

– Tôi đố hiền hầu cuộc chiến này Thương thắng hay Châu thắng?

Ðặng Côn nói:

– Chúng mình đều là bạn thân, mỗi người giữ một khoảng đất nhỏ của nhà Thương. Thế cuộc nay đã đổi dời, cần gì phải bàn luận.

Nhuế Kiết nói:

– Nhưng đây là tình bạn với nhau, chúng ta nói riêng nghe thử, can chi mà sợ?

Ðặng Côn nói:

– Lẽ nào tôi dám nói thẳng. Dù biết cũng không dám cạn lời. Nếu luận bàn lấy có thì hiền hầu sẽ chê tôi dốt nát, còn nói cho cạn lẽ thì địa vị mình không cho phép.

Nhuế Kiết nói:

– Hai ta tuy tình bạn, song coi như nghĩa tay chân. Nếu đã thân nhau mà không dám tỏ nỗi lòng, sao gọi là tri kỷ?

Ðặng Côn nói:

– Hiền hầu đã thật dạ, tôi đâu dám phụ tình. Theo tôi tưởng Trụ Vương lỗi đạo đã nhiều, không thể nào giữ nổi cơ nghiệp nhà Thương nữa. Còn Võ Vương nhân đức, tiếng rãi muôn phương, tám trăm chư hầu đều tuần phục, cố lòng phạt Trụ. Lòng dân là ý trời. Dù cho Trụ Vương có bao nhiêu tướng tài đi nữa cũng không chống lại nổi, huống chi hiện nay triều đình đã tàn tạ, nhân tài không còn ai ra sức đảm đương. Lúc này đối với Trụ Vương chẳng qua như ngọn đèn hết dầu, chỉ chờ ngày tắt lụn.

Nhuế Kiết nói:

– Hiền hầu luận như vậy thì hoàn cảnh chúng ta phải làm sao?

Ðặng Côn giả bộ nói:

– Chúng ta đã lãnh trách nhiệm trước mặt Thiên Tử thôi thì đành liều một thác cho hết tiếng thị phi chớ còn biết sao hơn.

Nhuế Kiết nói:

– Chúng ta chỉ là hai trấn chư hầu nhỏ, nếu theo phò Vua Trụ sao này Trụ Vương mất chúng ta không khỏi bị Thiên hạ chê cười là bất trí. Sao chúng ta không noi gương các trấn chư hầu phò Châu phạt Trụ cho rạng danh nghĩa, thuận lòng trời?

Ðặng Côn nói:

– Ý tôi cũng muốn như vậy, nên mới có cuộc đàm đạo hôm nay và cũng để dò lòng hiền hầu một thể.

Nhuế Kiết nói:

– Nếu hiền hầu đã cố tình về Châu tôi xin một dạ. Chỉ ngặt thiếu một người nói giúp chúng ta một lời cho Võ Vương biết.

Ðặng Côn nói:

– Việc đó không khó gì. Nếu chúng ta đã quyết lòng sớm muộn cũng tìm ra phương kế.

Bấy giờ Thổ Hành Tôn ở dưới đất nghe đã rõ ràng, nghĩ thầm:

– Gặp dịp này mình cũng nên ra mặt giúp hai người để khỏi uổng công thám thính.

Nghĩ rồi trồi đầu lên núp sau xó cửa bước tới chào hai người và nói:

– Tôi xin ra mắt hai vị. Nếu hai vị muốn đầu Châu thì tôi sẽ giúp cho.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết nghe nói sững sờ. Không biết Thổ Hành Tôn là người nào từ đâu đến.

Thổ Hành Tôn biết ý nói:

– Xin hai vị hiền hầu đừng ngại. Tôi chính là quan vận lương của Khương Nguyên soái tên Thổ Hành Tôn đây.

Hai người nghe nói bước tới hỏi:

– Ban đêm giờ canh nghiêm ngặt, sao tướng quân vào ải được?

Thổ Hành Tôn nói:

– Tôi không dấu với hai vị hiền hầu, vì tôi có phép địa hành nên Nguyên soái sai tôi vào đây thám thính. Nãy giờ tôi ở dưới đất nghe hai vị nói chuyện đã rõ ràng, hai vị muốn đầu Châu, ngặt thiếu người giúp sức, nên tôi mới ra mặt lãnh nhiệm vụ ấy, hai vị chớ nghi ngờ. Nguyên soái tôi là kẻ trọng hiền đãi sĩ, mọi người có ý tìm ánh sáng trở về đều được Nguyên soái tôi trọng dụng.

Hai người mừng rỡ, đồng đứng dậy bái và nói:

– Anh em chúng tôi không biết tướng quân đến, nên không nghinh tiếp, xin rộng lượng bao dung.

Thổ Hành Tôn đáp lễ và nói:

– Hai vị hiền hầu dạy quá lời, tôi đâu dám như vậy?

Ðặng Côn cầm tay Thổ Hành Tôn nói:

– Bởi Võ Vương phước lớn, nên mới được nhiều người tài ra phò. Tôi thấy Võ Vương và Nguyên soái trong lòng cảm mến mười phần, có ý muốn theo phò, nên mới bàn luận, không ngờ gặp được tướng quân, thật may mắn biết chừng nào.

Thổ Hành Tôn nói:

– Vậy thì không nên để lâu, hai vị viết thơ để tôi đem về dâng cho Nguyên soái, thừa lúc nào tiện dịp hai vị dâng ải đầu hàng, chúng tôi ở bên ngoài tiếp ứng.

Ðặng Côn y lời, viết một bức thư trao cho Thổ Hành Tôn và dặn:

– Xin tướng quân dâng thơ cho Nguyên soái tính mưu phá ải, còn tướng quân cũng thường qua lại để chúng tôi có dịp hẹn hò.

Thổ Hành Tôn từ giã, cầm thơ nhào xuống đất một cái, biến mất.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết trông thấy khen thầm.

Có bài thơ rằng:

Lên ải Lâm Ðồng lúc tối đen,

Ðặng Côn, Nhuế Kiết sợ rồi khen

Ðem thơ trao lại, làm nên việc,

Công Thổ Hành Tôn thật chẳng hèn.

Thổ Hành Tôn về đến trại thì đã hết canh tư, thấy Tử Nha còn thức, liền ghé qua dinh ra mắt.

Tử Nha trông thấy Thổ Hành Tôn liền hỏi:

– Ngươi đi thám thính việc ấy như thế nào?

Thổ Hành Tôn thuật lại hết mọi chuyện rồi dâng thơ cho Tử Nha.

Tử Nha xem thơ xong, mừng rỡ nói:

– Thật là hồng đức của chúa công quá lớn. Thôi, ngươi hãy trở lại dinh an nghỉ, để ta tính kế sáng lấy ải.

Thổ Hành Tôn vâng lệnh trở về dinh.

Sáng hôm sau, Ðặng Côn và Nhuế Kiết ra khách, các tướng đến hầu đông đủ.

Ðặng Côn nói:

– Ta vâng lệnh Thiên Tử ra trấn ải này, hôm trước ra quân bị bại. Ta lấy làm hổ thẹn. Vậy ngày mai các tướng phải ra hết sức, đánh chúng một trận cho vỡ mật, tan ra không còn một mảnh giáp, đặng ban sư cho sớm.

Âu Dương Thuần nói:

– Ðặng tướng công tính phải lắm.

Các tướng ai nấy đều vâng lệnh, sửa soạn binh khí đặng rạng ngày ra quân.

Rạng ngày, Ðặng Côn và Nhuế Kiết dẫn binh ra.

Ðến trước cửa ải, Ðặng Côn truyền:

– Quân bây! Hãy đem dẹp cây phướng này đi cho rảnh.

Biện Kiết nghe nói thất kinh, thưa:

– Nhờ phướng ấy mà đón được binh Châu. Nếu bỏ đi ắt là ải Lâm Ðồng sẽ lọt vào tay quân giặc.

Nhuế Kiết nói:

– Ta là một vị chư hầu, vâng lệnh Thiên Tử chinh phạt, trong tay có búa Việt cờ Mao, nếu cứ nẹp mình đi cửa tả, còn ngươi là tướng cạnh mà đi cửa chánh, thì binh Châu xem thấy cười chê, dẫu thắng cũng nhục nhã. Ta bảo ngươi dẹp đi là phải lắm.

Biện Kiết nghĩ thầm:

– Mình là hộ tướng, không lẽ cãi lệnh hai vị chư hầu. Dầu sao họ cũng thay mặt Thiên Tử đến đây điều khiển. Nhưng lấy phướng đi, binh Châu ào tới thì cừu cha đã không trả được mà tánh mạng cũng không còn. Hay là ta đừng tiếc điệu bùa, giao cho họ mỗi người một lá thì tiện hơn.

Nghĩ rồi thưa:

– Xin đừng bỏ phướng ấy, mời hai vị hiền hầu vào thành thương nghị, và muốn đi cửa chánh cũng chẳng khó gì.

Hai người bằng lòng vào ải, Biện Kiết vẽ ba lá bùa, một lá đưa cho Nhuế Kiết, một lá đưa cho Ðặng Côn, còn một lá đưa cho Âu Dương Thuần và nói:

– Giắt bùa này vào trong mão thì đi qua phướng tự nhiên.

Ba người làm y lời. Quả nhiên đi ngang qua phướng ấy vô sự.

Ba người mừng rỡ kéo đến trại Tử Nha khiêu chiến.

Quân vào báo, Tử Nha dẫn binh tướng ra ngoài.

Hai người kêu lớn:

– Tử Nha! Nay chúng ta quyết đánh với ngươi một trận cho biết thấp cao.

Nói rồi lướt tới đánh liền. Hoàng Phi Báo, Hoàng Phi Bưu xông ra trợ chiến.

Biện Kiết thấy vậy đứng yên không được liền cầm kích xông vào, nói:

– Xin hai vị hiền hầu ráng sức, có tiểu tướng trợ lực đây.

Võ Kiết liền đón Biện Kiết lại giao công.

Ðánh một hồi, Biện Kiết trá bại, Võ Kiết sợ mắc kế không theo.

Tử Nha truyền gióng kiểng thâu quân.

Âu Dương Thuần và hai vị chư hầu lui binh về ải.

Về đến trại Tử Nha lấy làm lạ, nghĩ thầm:

– Trước kia có một mình Biện Kiết đi ngang qua phướng ấy, còn ai nấy đều đi tránh một bên, sao hôm nay cả ba người này cũng đi ngang qua chỗ ấy được?

Tử Nha đem ý kiến ấy nói với các tướng.

Thổ Hành Tôn thưa:

– Nếu vậy để đệ tử lén vào thành hỏi thăm hai vị chư hầu thì rõ.

Tử Nha nói:

– Nếu được vậy thì hay vô cùng. Ngươi phải đi hỏi lập tức.

Vào lúc hết canh một, Thổ Hành Tôn dùng phép địa hành vào ải.

Hai vị chư hầu trông thấy mừng rỡ, nói:

– Chúng tôi đang trông tướng quân.

Thổ Hành Tôn nói:

– Có chuyện gì quan hệ không?

Hai vị chư hầu nói:

– Chúng tôi vừa biết được cây phướng đó gọi là U hồn bạch cốt, lợi hại phi thường. Chúng tôi buộc Biện Kiết bỏ đi, để binh Châu thừa dịp đoạt thành, nhưng Biện Kiết lại không chịu, chỉ cho chúng tôi ba lá bùa giắt trên mão. Lá bùa ấy mà giắt lên thì qua lại như không.

Thổ Hành Tôn nói:

– Xin hai vị đưa hai bùa ấy cho tôi đem về dâng cho Nguyên soái.

Nguyên soái sẽ lấy họa thật nhiều bùa, phát cho binh tướng thì cây phướng ấy vô dụng.

Hai vị chư hầu mừng rỡ, lấy hai lá bùa trao cho Thổ Hành Tôn và nói:

– Tướng quân về thưa với Nguyên soái, chúng tôi sẽ tìm cách nội công để dâng ải.

Thổ Hành Tôn từ giã, độn thổ về dinh, dâng hai lá bùa cho Tử Nha và thuật hết mọi việc.

Tử Nha mừng rỡ, dùng châu sa bắt chước theo lá bùa của Biện Kiết vẽ thật nhiều bùa phát cho binh tướng.

Hồi 86: Ngũ Nhạc trở về thiên tào

Tử Nha viết thật nhiều bùa phát cho các tướng truyền giắt vào tóc hoặc trong mão và sắp xếp ngày hôm sau ra trận đuổi Biện Kiết chạy đến đó rồi đoạt cây phướng quăng đi dẫn binh tràn vào lấy ải.

Bên trong Ðặng Côn và Nhuế Kiết đã sẳn sàng nội ứng.

Các tướng đều tuân lệnh chuẩn bị đâu đó sẳn sàng.

Rạng ngày Tử Nha dẫn quân đến khiêu chiến.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết sai Biện Kiết ra thành nghênh địch.

Biện Kiết tuân lệnh kéo quân ra, hét lớn:

– Tử Nha! Hôm nay ta quyết với chúng bay một trận.

Nói rồi giục ngựa lướt tới, vung kích đâm Tử Nha.

Các tướng Châu một loạt ùa ra vây phủ, Biện Kiết chỉ có một mình tả xông hữu đột, đỡ người này hết người khác, không lúc nào rảnh.

Tuy vậy, Biện Kiết cũng ráng hết sức mình chống cự trên ba mươi hiệp.

Giữa lúc đang giao tranh, Biện Kiết thừa cơ Võ Kiết vô ý phóng đến một kích, Võ Kiết tràn ngang tránh khỏi để trống một chỗ, Biện Kiết giục ngựa nhảy vọt ra chỗ trống ấy chạy về.

Các tướng ùa nhau đuổi theo.

Biện Kiết đứng dựa cửa thành, chờ các tướng chạy ngang cây phướng hôn mê té xuống mà bắt, chẳng ngờ tướng nào tướng nấy lướt tới gần cửa thành mà vẫn vô sự.

Biện Kiết lấy làm lạ, ngỡ là trời khiến mất nước nên số phép hết linh liền chạy vào thành truyền quân đóng cửa lại.

Các tướng không phá ải, giật ngã cây phướng và lấy Kim côn, Gián ma xử đem về.

Biện Kiết vào đến trướng, Nhuế Kiết làm bộ hỏi:

– Nay tướng quân bắt được mấy người?

Biện Kiết thưa:

– Một mình tôi bị hai mươi mấy tướng Châu vây phủ. May tôi giải vây được chạy về, có ý dụ chúng tới phướng mà bắt, không rõ vì cớ nào mà cây phướng hết linh, tướng Châu đi qua không người nào bị hại. Thật không phải tội tôi rõ là trời khiến cơ nghiệp Thành Thang đến hồi như vậy.

Nhuế Kiết cười gằn nói:

– Khi trước sao phướng linh bắt luôn bốn tướng, bây giờ lại hết linh?

Ðặng Côn nói:

– Có gì lạ đâu mà hỏi! Chắc Biện Kiết thấy trong thành binh ít, giữ ải không nổi, nên tư thông với giặc, trá bại dẫn giặc vào thành. May mà quân sĩ đóng cửa kịp, nếu không chúng ta bị bắt hết rồi.

Dứt lời truyền võ sĩ bắt Biện Kiết ra ngoài xử trảm. Võ sĩ tuân lệnh trói Biện Kiết dẫn ra chém liền.

Còn Âu Dương Thuần trông thấy sững sờ, ngồi rưng rưng nước mắt.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết nói:

– Biện Kiết không biết thời trời, muốn hại cả thành này cho chết dẫu xử tử cũng không oan. Nay thiên hạ đã về Châu, chúng ta giữ thành này không nổi. Bởi Trụ Vương vô đạo, nên xã tắc phải đổi dời, chúng ta liều thân phò hôn quân đã chẳng ích lợi còn làm cho khổ dân nữa. Xin tướng quân xét lại.

Âu Dương Thuần nghe nói nổi giận mắng lớn:

– Biết ăn lộc vua mà quên ơn nước, dâng ải, đầu giặc, bán nước cầu vinh, đã giết oan kẻ trung thành còn ép trí người nghĩa sĩ. Thật chúng bây là cầm thú, không phải loài người. Thây ta có thể nát, đầu ta có thể rơi, nhưng lòng ta không thể nhuộm mực. Ðừng đem lời gian ác mà nói với ta.

Ðặng Côn, Nhuế Kiết nổi giận hét lớn:

– Nay thiên hạ phản Trụ đầu Châu, chẳng lẽ trong bầu trời này ai cũng bất trung hết cả sao? Trụ Vương không phải chúa, chỉ là một người dữ hại dân. Còn Võ Vương là đấng vua hiền, cứu trăm họ trong nước lửa, chúng ta lại bỏ người hiền mà phò người dữ là sao?

Âu Dương Thuần ngửa mặt lên trời kêu lớn:

– Bệ hạ ôi! Bởi bệ hạ dùng lầm hai tên phản tặc nên mất ải Lâm Ðồng. Nay tôi liều chết giết hai tên nghịch thần, gọi là đền ơn chúa.

Nói rồi rút gươm xốc tới. Ðặng Côn, Nhuế Kiết cũng vung gươm hỗn chiến. Ðánh được một lúc Âu Dương Thuần đuối sức, bị Nhuế Kiết chém đầu.

Giết Âu Dương Thuần xong, Ðặng Côn liền ra sau dinh thả bốn tướng.

Hoàng Phi Hổ gặp Ðặng Côn mừng rỡ vô cùng. Hai bên trò chuyện với nhau một hồi rồi bốn tướng về trước thông tin với Tử Nha, sau đó Ðặng Côn và Nhuế Kiết thi hành đến dinh Châu yết kiến.

Tử Nha ra ngoài ngõ đón tiếp hai vị chư hầu.

Hai người làm lễ xong, Tử Nha đỡ dậy an ủi.

– Nay hai vị về Châu thật là đại trí.

Hai người thưa:

– Xin thỉnh Nguyên soái vào ải chiêu an bá tánh kẻo lòng dân mong chờ.

Tử Nha truyền quân kéo vào ải.

Võ Vương thấy bá tánh đem rượu đón rước đầy đường.

Tử Nha kiểm điểm lương tiền, rồi truyền bày tiệc khao quân.

Cách vài hôm, Khương Thượng dẫn binh đến huyện Dẫn Trì, cách thành hai dặm hạ trại.

Quan Tổng binh huyện Dẫn Trì là Trương Khuê nghe tin binh Châu hạ trại gần thành vội vàng triệu tập hai tướng tiên phuông là Vương Tá và Trịnh Xuân đến thương nghị. Trương Khuê nói:

– Nay binh Châu qua khỏi năm ải rồi, chỉ còn cách con sông Huỳnh Hà nữa là tới triều ca. Huyện Dẫn Trì chúng ta tuy nhỏ, thành lũy đơn sơ, song chúng ta phải cố thủ, nếu để địch quân qua được sông Huỳnh Hà thì khó lòng ngăn trở lắm.

Các tướng tuân lời, kiểm điểm binh mã, canh phòng nghiêm ngặt.

Ngày hôm sau Khương Thượng ra khách, định kế đánh Dẫn Trì bỗng có quân vào báo:

– Ðông Bá Hầu sai sứ đem thơ.

Tử Nha truyền vào lấy thư đọc, rồi nói với các tướng:

– Nay Ðông Bá Hầu Khương Văn Hoán xin viện binh ta không lẽ từ chối.

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Chư hầu đều theo Châu nay cầu cứu, chúng ta phải phân binh ứng tiếp.

Tử Nha nói:

– Tướng nào muốn giúp Ðông Bá Hầu ra đánh ải Du Hồn?

Kim Tra, Mộc Tra đồng thưa:

– Chúng tôi xin kéo binh ra đó trợ chiến cho.

Tử Nha nhậm lời lấy cho hai tướng năm ngàn quân kéo ra ải Du Hồn.

Tử Nha hỏi lại:

– Ai muốn ra đánh trận đầu lấy thành Dẫn Trì mà lập công?

Nam Cung Hoát lãnh mạng đem binh ra khiêu chiến.

Trương Khuê nghe tin báo có tướng Châu dẫn binh kéo đến liền hỏi các tướng:

– Ai dám ra binh?

Vương Tá lãnh mạng mở cửa thành kéo ra.

Nam Cung Hoát thấy Vương Tá liền trợn mắt hỏi:

– Ngũ quan đã về Châu, còn cái huyện Dẫn Trì bé nhỏ này tài chi mà chống cự? Mau dâng ải kẻo lụy thân.

Vương Tá cũng trợn mắt mắng:

– Phản tặc đã tới số nên đến nạp mình.

Nói rồi múa siêu đao tới chém. Hai tướng đánh với nhau được ba mươi hiệp, Nam Cung Hoát chém Vương Tá một đao đứt làm hai khúc rồi chặt lấy thủ cấp đem về dinh.

Quân Thương vào báo lại, Trương Khuê hay tin buồn bực cả ngày.

Bữa sau lại có Hoàng Phi Hổ đến khiêu chiến.

Trịnh Xuân xin ra trận. Hai người đánh được hai mươi hiệp, Trịnh Xuân bị Hoàng Phi Hổ đâm chết, cắt đầu đem về nạp dâng công.

Trương Khuê nghe tin càng buồn bã hơn nữa.

Còn Tử Nha thắng luôn hai trận, giết luôn hai tướng, thừa thế kéo quân phá thành.

Bấy giờ Trương Khuê đang ở sau dinh, bàn luận với người vợ là Cao Lan Anh.

Trương Khuê than:

– Hai ngày mất luôn hai tướng, e thành này khó giữ.

Cao Lan Anh nói:

– Tướng quân có phép địa hành, lại thêm cỡi con thú Ðộc giác ô yên, chạy mau như gió, lẽ nào không thắng giặc.

Trương Khuê nói:

– Các tướng anh hùng năm ải, thiếu gì người tài phép hơn mình, thế mà còn cự không lại thay. Như vậy cũng đủ thấy lòng trời dời đổi, Thiên Tử lại không chừa tửu sắc, không nghĩ đến giang sơn, chúng mình biết làm sao được.

Xảy nghe quân báo:

– Binh Châu phá thành rất gấp, quân sĩ giữ không nổi.

Trương Khuê liền nai nịt, cầm đao cỡi thú thăng hành.

Cao Lan Anh đem binh lượt trận.

Trương Khuê kêu lớn:

– Khương Thượng, đừng làm hỗn, có ta đây.

Tử Nha nói:

– Trương tướng quân là người trí dõng sao không biết cơ trời. Hãy về Châu thì công danh chẳng mất, còn cự địch chắc gãy theo vết xe của năm ải.

Trương Khuê vừa cười vừa nói:

– Ngươi đoạt năm ải đừng tưởng là tài. Ta e đến đây không còn trông mong.

Tử Nha nói:

– Sao tướng quân không biết việc thịnh suy. Từ đây đến Triều Ca chỉ còn vài trăm dặm, mà tám trăm chư hầu bốn phía phủ vây. Cái huyện nhỏ này thủ sao được, chẳng khác một sợi chỉ mành treo đá.

Trương Khuê nổi giận hét một tiếng, giục thú tới chém Tử Nha.

Hai vị điện hạ là Cơ Thúc Minh, Cơ Thúc Thăng đồng lướt tới đỡ.

Một mình Trương Khuê cự với hai người. Cơ Thúc Minh, Cơ Thúc Thăng thấy Trương Khuê sức mạnh như thần, tính bề đâm bậy một thương rồi trá bại.

Chẳng ngờ con thú Ðộc ô yên của Trương Khuê chạy mau như chớp nhoáng. Trương Khuê vỗ sừng nó một cái, nó đã nhảy tới bên lưng.

Hai vị điện hạ không kịp trở tay đều bị Trương Khuê chém rụng đầu hết.

Tử Nha kinh hãi truyền thâu quân về trại.

Võ Vương nghe tin hai em tử trận khóc rống một hồi. Tử Nha khuyên giải cả ngày chưa nguôi sầu thảm.

Còn Trương Khuê thắng trận, vợ chồng dẫn binh về dinh, viết sớ sai người về Triều Ca viện thêm binh tướng.

Hôm sau Tử Nha ra khách nói với các tướng:

– Ta không ngờ cái huyện nhỏ như vầy mà mất hai vị điện hạ.

Các tướng thưa:

– Chỉ tại con thú của nó cỡi chạy lẹ như chớp nên trở tay không kịp.

Bỗng có quân vào báo:

– Có Bắc Bá Hầu Sùng Hắc Hổ xin vào nghị việc.

Tử Nha nghe Sùng Hắc Hổ đến mời vào. Sùng Hắc Hổ, Vân Sinh, Khôi Anh, Tưởng Hùng, bốn người đồng ra mắt.

Tử Nha đáp lễ mời ngồi, và hỏi:

– Quân hầu đến Mạnh Tân đã bao lâu?

Sùng Hắc Hổ nói:

– Tôi lấy ải Trần Ðường, vào đồn binh ở Mạnh Tân đã vài tháng nay. Nghe Nguyên soái đã kéo đại binh đến đây, nên tìm đến ra mắt cầu cho Nguyên soái sớm hội chư hầu.

Tử Nha vui vẻ hối đem trà nước đãi đằng.

Hoàng Phi Hổ tạ ơn Sùng Hắc Hổ và nói:

– Khi trước nhờ ơn quân hầu giúp sức, giết chết Cao Kế Năng, ơn ấy đối với tôi rất trọng.

Mãn tiệc trà, Tử Nha truyền dọn tiệc rượu để cùng nhau hoan hỉ.

Sáng hôm sau, quân vào báo:

– Có Trương Khuê đến khiêu chiến.

Sùng Hắc Hổ thưa:

– Nay có tôi đến đây xin ra giúp sức một trận.

Tử Nha nhận lời.

Sùng Hắc Hổ dẫn Vân Sinh, Thôi Anh, Tưởng Hùng và toàn binh mã của mình ra trận.

Sùng Hắc Hổ giục thú tới vung cặp búa nói lớn:

– Có tôi đến trợ giúp đây.

Năm tướng vây Trương Khuê đánh đến bốn mươi hiệp không phân thắng bại.

Sùng Hắc Hổ thấy Trương Khuê mạnh quá, tính trá bại dùng phép thả ó ra nên đang đánh bỗng bỏ chạy. Bốn tướng biết ý cũng chạy theo.

Trương Khuê đợi cho năm người chạy hơn trăm thước mới đưa tay vỗ đầu con thú. Con thú phóng lên như điện giật vút đến Văn Sinh, Trương Khuê vớt một đao Văn Sinh bay đầu, Sùng Hắc Hổ chưa kịp giở bầu phép bị Trương Khuê chém đứt làm hai đoạn.

Thôi Anh, Tưởng Hùng, Hoàng Phi Hổ đồng quay ngựa hỗn chiến với Trương Khuê.

Cao Lan Anh xông vào lược trận lấy cái bầu đỏ mở nút quăng lên bốn mươi chín cây kim bay ra đâm vào mắt ba tướng.

Trương Khuê lướt tới chém ba tướng bay đầu một lúc.

Bấy giờ Dương Tiễn vận lương về đến trại, vào thưa với Tử Nha:

– Tôi vận lương đủ số và không trễ ngày.

Tử Nha nói:

– Nay đã lấy được ngũ quan, gần đến Mạnh Tân hội chư hầu, việc đốc lương không cần nữa, sư điệt nên ở lại đây giúp sức với các tướng mà lập công.

Dương Tiễn tuân lời.

Kế đó quân vào báo:

– Năm tướng ra trận bị Trương Khuê chém hết.

Tử Nha thất kinh hỏi:

– Nó dùng phép gì mà giết hết năm tướng một lúc?

Quân thưa:

– Ban đầu năm vị trá bại, bị con thú của Trương Khuê đuổi theo như chớp, Văn Sinh, Sùng Hắc Hổ trở tay không kịp bị chém bay đầu.

Hoàng Phi Hổ, Thôi Anh, Tưởng Hùng hiệp lực chống cự một hồi cũng bị giết hết.

Tử Nha than:

– Thương hại cho nhà Võ Thành Vương chưa trả được thù mà chết gần hết.

Bỗng có quân vào báo:

– Trương Khuê lại đến trước dinh khiêu chiến.

Hoàng Phi Bưu nóng máu thù cha bước ra xin xuất trận.

Tử Nha sai Dương Tiễn đi theo trợ lực.

Hoàng Phi Bưu ra đánh với Trương Khuê gần ba mươi hiệp.

Trương Khuê mạnh quá, Hoàng Phi Bưu đánh không lại, nhưng quyết trả thù cha. Hoàng Phi Bưu vẫn đánh liều không chạy, bị Trương Khuê chém đầu.

Dương Tiễn thấy con ngựa của Trương Khuê cỡi, biết là loài thú lạ, vì nó có mọc sừng, nên tính trừ con ngựa có sừng ấy trước.

Dương Tiễn liền giục ngựa đến, nạt lớn:

– Trương Khuê chạy đi đâu cho khỏi. Có ta đến đây.

Trương Khuê hỏi:

– Ngươi là ai đó? Muốn chết hay sao?

Dương Tiễn xưng tên, rồi nói:

– Thất phu dùng tà thuật hại người, nay gặp ta chắc không sống nổi.

Nói rồi chém một đao. Trương Khuê đỡ ra đánh lại.

Hai bên đánh được bốn mươi hiệp, Dương Tiễn liệu bề khó thắng, cố ý chém hụt một đao cúi xuống, Trương Khuê thừa thế nắm dây đai xách hỏng lên, ném Dương Tiễn xuống đất truyền quân trói lại dẫn về thành.

Sau khi đã nghỉ ngơi lại sức, Trương Khuê lên ngồi trên trướng, truyền dẫn Dương Tiễn tới.

Dương Tiễn đứng sững trợn mắt nhìn.

Trương Khuê hét:

– Ngươi đã bị bắt sao còn nghịch mạng không quỳ?

Dương Tiễn mắng lại:

– Thất phu! Ngươi là người gì mà phách lối như vậy?

Trương Khuê nổi giận truyền quân đem chém. Tả đao vâng lệnh, chém Dương Tiễn bêu đầu.

Giây phút, tên giữ ngựa vào báo với Trương Khuê:

– Bẩm lão gia, có việc lạ lùng!

Trương Khuê hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Tên quân giữ ngựa thưa:

– Con ngựa Ô yên đang không bị rơi đầu, hình như ai chém.

Trương Khuê nghe nói thất sắc, giậm chân than:

– Ta nhờ con thú Ô yên thắng luôn mấy trận, nay sao có chuyện lạ lùng như vậy.

Bỗng có quân vào báo:

– Cái đầu Dương Tiễn treo trước ải biến thành cái đầu con ngựa Ô yên.

Trương Khuê rối lòng, ngồi chết điếng.

Lại có quân vào báo:

– Viên tướng mới bị chém lúc nãy bây giờ sống lại, đang khiêu chiến ngoài thành.

Trương Khuê biết Dương Tiễn không chết, dùng tà thuật để giết con ngựa Ô yên nên tức giận cỡi ngựa cầm đao ra trận hét lớn:

– Nghịch tặc! Ngươi hại con Ô yên của ta, ta quyết giết ngươi rửa hận.

Dương Tiễn cười nói:

– Ngươi nhờ con ngựa ấy mà giết tướng Châu, nên ta phải giết con ngựa ấy để báo thù cho các tướng. Ta nói cho ngươi biết ngươi còn động đến ta nữa thì ăn năn.

Trương Khuê nghiến răng hậm hực:

– Ðố ngươi chạy đi đâu cho khỏi.

Trương Khuê giận quá trổ thần lực đánh với Dương Tiễn một hồi rồi bắt sống Dương Tiễn đem vào thành truyền quân lấy dây trói cho thật chặt, bỏ ngoài nắng cho lại gan.

Cao Lan Anh bước ra nhà khách, thấy mặt Trương Khuê hầm hầm liền hỏi:

– Tướng quân vừa ra trận về, sao khi giận chưa nguôi.

Trương Khuê than:

– Mấy hôm nay ta nhờ con Ô yên thắng luôn mấy trận. Vừa rồi bắt được Dương Tiễn sai quân đem chém nó, nhưng nó không chết mà con Ô yên rụng đầu.

Cao Lan Anh nói:

– Chắc là Dương Tiễn có phép thần thông biến hóa. Nếu lần sau có bắt được nó phải dùng phép mới chém nó được.

Trương Khuê nói:

– Ta đã bắt được nó lần nữa dẫn về thành trói bỏ phơi nắng trước dinh kia.

Cao Lan Anh truyền dẫn Dương Tiễn tới xem qua rồi nói:

– Tôi có phép trừ được. Trước phải dùng xương cổ, sau làm phép yêu trên đầu, rồi lấy máu chó mực, gà ô hòa lộn phân và nước tiểu đổ lên đầu nó thì nó không biến hóa hoặc thế hình được. Sau đó chém nó thì nó mới thiệt chết.

Trương Khuê nghe lời làm theo phép ấy, rồi chém Dương Tiễn rụng đầu. Vợ chồng đắc ý ngồi trong trướng phủ.

Bỗng có bọn a hoàn hơ hải chạy tới khóc và thưa:

– Thái phu nhơn đang ngồi trong phòng, không biết máu và phân ở đâu đổ xuống đầy đầu rơi xuống như bị ai chém.

Trương Khuê nghe nói khóc rống lên, chạy vào hậu dinh ôm xác mẹ nói:

– Dương Tiễn đã hại mẹ ta rồi! Ơn cúc dục cù tao chưa đền, con xin chịu tội bất hiếu.

Khóc hơn nửa ngày rồi mới lo chuyện chôn cất.

Còn Dương Tiễn về thưa với Tử Nha:

– Lần trước tôi trừ ngựa báu, làm cho Trương Khuê sầu thảm, lần sau tôi giết mẹ nó, cho nó đau đớn đến quẩn trí, sau này tôi bắt nó như chơi.

Tử Nha khen:

– Tướng quân nhiều mưu trí lắm.

Hôm sau, Trương Khuê nóng trả thù mẹ, cầm đao lên ngựa đến trước dinh Châu, kêu Dương Tiễn ra chịu chết.

Hồi 87: Vợ chồng Thổ Hành Tôn tử trận

Tử Nha đương lúc thương nghị với các tướng, xảy có quân vào báo:

– Trương Khuê đến khiêu chiến.

Na Tra lãnh mạng ra đi, kéo quân đến trước dinh, hiện ra ba đầu tám tay, giục xe chống giáo, gọi Trương Khuê nói:

– Trương Khuê, nếu ngươi chẳng hàng đầu, ăn năn không kịp.

Trương Khuê trông thấy Na Tra làm dữ, nổi giận đánh một hồi.

Na Tra cự không lại, liền quăng Cửu long thần hỏa lên, chụp Trương Khuê vào chiếc nom lửa mà đốt.

Na Tra vỗ vào nom một cái, lửa dậy rần rần, chẳng ngờ Trương Khuê có phép địa hành, độn thổ trốn mất.

Na Tra giở nom ra, không thấy Trương Khuê, ngỡ Trương Khuê đã cháy thành tro rồi nên kéo binh về dinh, thuật lại với Tử Nha.

Tử Nha ngỡ Trương Khuê chết thiệt, mừng rỡ khôn cùng.

Còn Trương Khuê trốn về thành thuật chuyện với vợ.

Cao Lan Anh nói:

– Vậy thì đêm nay tướng quân lén vào dinh Châu giết Võ Vương và các khanh cần gì ra trận đấu thương cho mệt.

Trương Khuê nói:

– Bởi ta bị Dương Tiễn giết chết mẹ già nên lòng bối rối không tìm ra kế, phu nhơn nói rất phải, ta cần gì phải ra trận tranh hùng, cứ một phép địa hành của ta vào dinh địch giết mấy người không được.

Giữa lúc đó, bên trại Châu, Tử Nha ngỡ Trương Khuê đã bị nom thần đốt chết, nên truyền quân sĩ canh ba nấu cơm, canh tư ăn uống, canh năm hãm thành.

Qua căn hai, Trương Khuê độn thổ đến ngoài dinh, còn núp dưới đất chưa ló đầu lên, bỗng gặp Dương Nhậm đi tuần trại.

Bởi Dương Nhậm có con mắt mọc trong hai bàn tay nhỏ, nên trông thấy ngàn dặm, dù trên trời, dưới đất cũng trông thấy rõ được.

Dương Nhậm trông thấy Trương Khuê cầm kiếm, đi dưới đất liền nói:

– Trương Khuê, ta đã trông thấy ngươi rồi. Ðừng hòng làm lén.

Trương Khuê nghe Dương Nhậm nói thất kinh nghĩ thầm:

– Bên dinh Châu nhiều người thần thông, thấy cả trên trời dưới đất, ta biết làm sao hành thích được. Song ta đi dưới đất mau dù nó có chạy vào báo tin cũng không kịp. Ta giết Tử Nha rồi sẽ tính?

Dương Nhậm thấy Trương Khuê cắm đầu chạy vào trại như bay, liền vỗ đầu thú nhảy qua ba vòng binh khắc sanh hiệu la lớn:

– Có thích khách vào dinh, các tướng phải bảo vệ Chúa công và Nguyên soái.

Tử Nha nghe la truyền quân rút gươm khỏi vỏ, thắp thêm đèn lên cho sáng và hỏi:

– Thích khách đi ngõ nào? Nó làm sao vào trại được?

Dương Nhậm nói:

– Trương Khuê cầm đao đi dưới đất, nó đã đến trước cửa phủ của Nguyên soái.

Tử Nha kinh ngạc hỏi:

– Trương Khuê đã bị Na Tra đốt cháy bận chiều rồi sao bây giờ lại còn Trương Khuê nào đến đây thích khách?

Các tướng đều kinh hãi. Cả dinh náo động.

Dương Tiễn nói:

– Nếu quả vậy chúng ta chỉ nên canh phòng nghiêm ngặt đợi ngày mai sẽ tính.

Ðêm ấy dinh Châu không một tên quân nào dám ngủ, nơm nớp lo sợ Trương Khuê ám sát mình.

Còn Trương Khuê thấy dinh Châu đề phòng không làm gì được, cầm gươm lơ láo trở về.

Trương Khuê về đến thành, Cao Lan Anh hỏi:

– Ðêm nay tướng quân đi công việc thế nào?

Trương Khuê nói:

– Chẳng được việc gì, bên dinh Châu nhiều người tài phép quá, hèn chi đánh lấy năm ải như chẻ tre là phải.

Nói rồi thuật hết mọi việc cho vợ nghe.

Cao Lan Anh nói:

– Nếu vậy tướng quân phải viết sớ dâng về Triều Ca viện binh nếu để cái thành con này cô thế thì khó giữ.

Trương Khuê y lời viết sớ dâng về triều lập tức.

Rạng ngày Dương Tiễn đem binh đến khiêu chiến kêu tên Trương Khuê ra đối địch. Trương Khuê nai nịt ra khỏi thành trông thấy Dương Tiễn liền mắng lớn:

– Thất phu, ngươi giết mẹ ta, ta với ngươi quyết không chung đội trời.

Nói rồi cùng hỗn chiến với Dương Tiễn.

Ðánh được ít hiệp Dương Tiễn quăng Hạo Thiên Khuyển lên, Trương Khuê sợ chó cắn nhảy xuống ngựa độn thổ đi mất.

Dương Tiễn thâu binh về trại, Tử Nha hỏi:

– Bữa nay tướng quân ra trận thế nào?

Dương Tiễn thưa:

– Trương Khuê tài lắm, có phép địa hình còn hơn Thổ Hành Tôn nữa. Nếu đêm hôm không có Dương Nhậm thì chúng ta bị nguy với nó rồi.

Nói rồi thuật các chuyện vừa giao chiến. Tử Nha nói:

– Nếu vậy từ nay phải giao trách nhiệm tuần phòng cho Dương Nhậm.

Còn Trương Khuê bại tẩu về thành nói với vợ:

– Dương Tiễn tài cao phép lạ, vừa rồi thả chó cắn ta, ta phải dùng thuật địa hành về đây. Nhắm vợ chồng ta thủ thành này không nổi, chi bằng bỏ huyện Dẫn Trì chạy về Triều Ca sẽ tính kế.

Cao Lan Anh nói:

– Tướng quân tính như vậy không được đâu. Vợ chồng mình trấn ải này lâu lắm, nay lẽ nào bỏ mà đi, thiên hạ chê cười. Vả lại, thành này cũng như cái bình phong của triều ca, nếu bỏ thành này thì binh Châu tràn qua sông Huỳnh Hà không khó. Tướng quân an nghỉ, ngày mai thiếp ra quân một bữa xem sao.

Hôm sau Cao Lan Anh khai thành khiêu chiến, Tử Nha nghe báo hỏi các tướng:

– Ai dám ra binh cự với nữ tướng?

Ðặng Thiền Ngọc xin đi, Tử Nha dặn:

– Phải cẩn thận lắm mới được.

Ðặng Thiền Ngọc tuân lời, phát pháo kéo cờ, ra trước dinh hỏi lớn:

– Nữ tướng kia tên họ là chi?

Cao Lan Anh đáp:

– Ta là vợ của Trương tướng quân, trấn thành Dẫn Trì, gọi là Cao Lan Anh. Còn ngươi là ai?

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Ta là Ðặng Thiền Ngọc, vợ quan vận lương Thổ Hành Tôn.

Cao Lan Anh nghe nói nổi giận mắng:

– Ngươi là đứa khốn nạn! Cha ngươi vâng lệnh chinh Tây, lại đầu giặc. Còn ngươi lại lấy giặc làm chồng, nay còn mặt nào nhìn thấy quê hương?

Ðặng Thiền Ngọc vung đao hỗn chiến.

Cao Lan Anh mặc đồ trắng, Ðặng Thiền Ngọc mặc đồ hồng, hai nàng đánh với nhau như hai đóa hoa sen trắng hồng lẫn lộn.

Ðược vài mươi hiệp, Ðặng Thiền Ngọc trá bại, Cao Lan Anh đuổi theo, Ðặng Thiền Ngọc nghe tiếng lạc ngựa đến gần, liền quăng Ngũ quang thạch, trúng mặt Cao Lan Anh, miệng mũi sưng vù.

Cao Lan Anh giục ngựa chạy về thành.

Còn Ðặng Thiền Ngọc về báo tin thắng trận.

Tử Nha mừng rỡ ghi công.

Kế có quân vào báo:

– Thổ Hành Tôn vận lương về xin ra mắt.

Tử Nha đòi vào.

Thổ Hành Tôn đến làm lễ và thưa:

– Tôi vận lương đã đủ số, và mãn kỳ, xin nạp ấn lại.

Tử Nha nói:

– Ðây đã khỏi ngũ quan, lương thực có chư hầu trợ giúp. Từ nay việc vận lương không cần thiết nữa.

Thổ Hành Tôn thấy vắng Hoàng Phi Hổ liền hỏi thăm.

Na Tra nói:

– Cái huyện Dẫn Trì này nhỏ hơn hết, thế mà vừa đến nơi đã chết mất năm viên đại tướng là Hoàng Phi Hổ, Sùng Hắc Hổ, Văn Sính, Thôi Anh, Tưởng Hùng.

Thổ Hành Tôn hỏi:

– Tướng địch có tài gì mà hành động như vậy?

Na Tra nói:

– Ban đầu nó có con ngựa một sừng, đuổi địch như chớp nhoáng, năm tướng vì chạy không kịp nên bị nó giết.

Thổ Hành Tôn hỏi:

– Chúng ta không có cách nào trừ con ngựa một sừng sao?

Na Tra nói:

– Con quái thú đã bị Dương Tiễn giết mất rồi.

Thổ Hành Tôn vỗ đùi cười lớn:

– Thế thì nó còn gì nữa mà sợ nó? Sao không lấy thành cho sớm?

Na Tra nói:

– Hồi hôm thiếu chút nữa giết hết cả dinh chứ đừng nói chuyện lấy thành.

Thổ Hành Tôn trợn mắt hỏi:

– Sao lạ vậy?

Na Tra nói:

– Trương Khuê có phép địa hành còn hay hơn tướng quân nữa. Nó lén vào thích khách, may nhờ Dương Nhậm trông thấy. Suốt đêm binh tướng trong dinh không ai dám ngủ.

Thổ Hành Tôn nghĩ thầm:

– Trước kia thầy truyền phép ấy cho ta, nói là thiên hạ không ai biết địa hành cả, sao bây giờ có kẻ lại như mình? Ðể mai ra trận cho biết.

Nghĩ rồi vào phòng hỏi Ðặng Thiền Ngọc xem có quả thật như vậy không.

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Trương Khuê quả biết phép địa hành, không phải Na Tra nói dối đâu.

Thổ Hành Tôn lấy làm lạ, thao thức cả đêm, sáng ngày xin đi khiêu chiến.

Ðặng Thiền Ngọc, Dương Tiễn, Na Tra, cùng đi theo lượt trận.

Trương Khuê nghe quân báo, liền phát pháo khai thành, dẫn binh tướng ứng chiến.

Vừa ra đến nơi thấy một tướng lùn, liền hỏi:

– Ngươi là ai vậy?

Thổ Hành Tôn nói:

– Ta là Thổ Hành Tôn đây.

Vừa nói vừa vác gậy sắt đánh với Trương Khuê, Na Tra, Dương Tiễn đồng áp vào trợ lực.

Na Tra quăng Càn khôn quyện lên, Trương Khuê trông thấy nhào xuống đất độn thổ. Thổ Hành Tôn lập tức nhào theo.

Trương Khuê xem thấy kinh hãi nghĩ thầm:

– Nếu bên Châu có người biết địa hành như mình thì thật khó chịu lắm.

Chạy được một lúc, Trương Khuê trồi đầu lên giao chiến với Thổ Hành Tôn.

Hai bên đánh nhau ít hiệp, Trương Khuê bỏ chạy về thành.

Thổ Hành Tôn về thưa lại với Tử Nha:

– Phép địa hình của Trương Khuê hay lắm, tôi đuổi theo không kịp nên phải trở về. Nó giữ thành này thật khó mà phá.

Tử Nha nói:

– Lúc trước Cù đạo huynh dùng phép chỉ đất cứng mà bắt ngươi. Nay phải dùng phép ấy trị Trương Khuê mới được.

Thổ Hành Tôn thưa:

– Nếu vậy Nguyên soái viết thư đặng tôi đem về núi Hiệp Long cầu cứu thầy tôi mới được.

Tử Nha liền viết thơ thăm bạn, trao cho Thổ Hành Tôn.

Thổ Hành Tôn vào thành từ giã vợ, rồi độn thổ qua núi Hiệp Long.

Còn Trương Khuê trở về thành, tâm trí rối loạn, ngồi than với vợ:

– Bên Châu nhiều tướng kỳ dị, chúng ta đánh không lại đâu.

Cao Lan Anh hỏi:

– Tướng kỳ dị là ai?

Trương Khuê nói:

– Thổ Hành Tôn cũng biết địa hành như ta. Nếu có kẻ tài năng như mình thì thật khó hành động.

Cao Lan Anh thưa:

– Hay vợ chồng mình bế thành mà chịu, đợi binh triều tiếp viện sẽ hay.

Bỗng có một trận gió thổi hắt ngọn cờ trước dinh, Cao Lan Anh kinh hãi, nói với Trương Khuê:

– Ấy là điều bất lợi.

Nói rồi dọn bàn hương án, gieo quẻ rồi nói:

– Ðiềm ứng Thổ Hành Tôn qua núi Hiệp Long cầu cứu Cù Lưu Tôn, dùng phép chỉ đất cứng mà bắt tướng quân. Vậy chúng ta phải lo trước mới được.

Trương Khuê nghe nói kinh hãi, vội nai nịt chỉnh tề, cầm gươm độn thổ thẳng đến núi Hiệp Long đón đường Thổ Hành Tôn.

Thuật địa hành của Trương Khuê giỏi hơn nên đi sau mà đến trước. Khi đến núi Hiệp Long, Trương Khuê núp vào gành Mãnh thú, đợi Thổ Hành Tôn đến.

Còn Thổ Hành Tôn đến sau, chun lên khỏi đất thấy phong cảnh như cũ, chẳng có gì khác xưa, liền lên đến chân núi để vào động. Nhưng khi đi ngang gành Mãnh thú, Trương Khuê nhảy ra thộp được hét lớn:

– Thổ Hành Tôn, ngươi cố hại ta sao?

Dứt lời chém Thổ Hành Tôn một gươm rơi đầu.

Có bài thơ rằng:

Ðầu Châu thuở trước ít ai bì,

Nai ải vận lương chẳng trễ kỳ

Cướp trại cứu người đà lắm lúc,

Vào thành trộm báu cũng nhiều khi

Na Tra, Dương Tiễn đều yêu chuộng,

Nhuế Kiết, Ðặng Côn rất kính vì

Nay chết thình lình do tại số,

Uổng công trong sổ mấy lần ghi.

Trương Khuê xách thủ cấp Thổ Hành Tôn độn thổ về thành khoe với vợ rồi truyền bêu trước ải làm lịnh.

Binh Châu trông thấy vào báo với Tử Nha:

– Không rõ vì cớ nào trên thành Dẫn Trì lại có bêu thủ cấp Thổ Hành Tôn.

Tử Nha nghĩ thầm:

– Thổ Hành Tôn đi qua Hiệp Long sơn thỉnh phép, không phải ra trận giao chinh, tại sao bị giặc bêu đầu.

Nghĩ rồi đánh tay xem thử, vỗ án nói lớn:

– Thổ Hành Tôn chết thiệt rồi!

Ðặng Thiền Ngọc nghe tin chồng chết khóc òa và xin ra đánh báo thù.

Tử Nha nói:

– Chớ nên nóng lòng, phải thủng thỉnh tính kế mới được.

Thiền Ngọc không nghe giục ngựa đến trước thành khiêu chiến.

Cao Lan Anh nghe báo có nữ tướng cầm binh biết là Ðặng Thiền Ngọc nghĩ thầm:

– Ta ra giết ngươi đặng báo thù việc quăng đá hôm trước.

Nói rồi cầm đao lên ngựa xông ra.

Hai người đánh được ít hiệp, Cao Lan Anh trút bầu kim vãi lên Ðặng Thiền Ngọc bị đâm đui mắt không thấy gì cả bị Cao Lan Anh chém rụng đầu.

Quân binh Châu trông thấy về báo với Tử Nha.

Tử Nha chắt lưỡi nói với các tướng:

– Cao Lan Anh có binh khí bắn vào mắt người. Các ngươi ra trận phải đề phòng mới được.

Nam Cung Hoát thưa:

– Huyện Dẫn Trì rất nhỏ, thành Dẫn Trì là một thành rất sơ sài, nếu cứ giao tranh với Trương Khuê mãi biết chừng nào lấy được. Chi bằng dùng áp lực đem đại binh vây bốn phía giẫm nát bờ thành ào vô một lượt, Trương Khuê dù có tài cũng phải bỏ chạy, chứ làm sao giữ nổi.

Tử Nha cho đó là ý kiến hay.

Bấy giờ vợ chồng Trương Khuê ráng sức thủ thành nên binh Châu bốn phía phủ vây vẫn không sao xông vào được.

Qua hai ngày hỗn chiến, Tử Nha thấy phá không được thành, phải thu binh về trại.

Trương Khuê thấy trong thành binh sĩ ít oi liền viết sớ sai một tên quân đem về Triều Ca. Tên quân ấy qua khỏi sông Huỳnh Hà thấy bốn trăm chư hầu dồn binh tại Mạnh Tân chật ních liền lén lút qua khỏi Mạnh Tân, về đến Triều Ca dâng sớ.

Bữa ấy nhằm phiên Vi Tử thâu biểu.

Vi Tử xem xong đem đến Lộc đài dâng cho vua Trụ.

Trụ Vương hỏi:

– Hoàng bá dâng sớ gì vậy?

Vi Tử tâu:

– Võ Vương đánh thành Dẫn Trì, vợ chồng Trương Khuê cự không lại, nên dâng sớ xin cứu binh. Nếu không tiếp ứng để giữ thành Dẫn Trì thì vợ chồng Trương Khuê phải liều mình đền ơn chúa. Từ huyện Dẫn Trì đến thành đô chỉ có năm trăm dặm mà bệ hạ còn yến ẩm trên Lộc đài, không xem xã tắc mất còn. Vả lại bốn trăm chư hầu hiện đồn binh tại Mạnh Tân đợi binh Võ Vương tới, đồng kéo nhau về Triều Ca vấn tội. Việc chẳng khác chi lửa cháy, tôi nóng nảy vô cùng. Xin bệ hạ mau chọn hiền tài giúp nước ăn năn sửa mình, kẻo họa đến nơi rồi.

Vua Trụ xem sớ kinh hãi nói:

– Không dè Cơ Phát dẫn binh tới Dẫn Trì. Trẫm phải thân chinh mới được.

Quan đại phu Phi Liêm tâu:

– Không nên! Nay bốn trăm chư hầu đồn binh tại Mạnh Tân nếu bệ hạ thân chinh chư hầu sẽ mở vòng binh, chờ bệ hạ kéo quân qua khỏi sẽ chận ngõ về thì trước sau đều có giặc. Chi bằng bệ hạ phong bảng chiêu hiền cầu người tài giúp sức. Hễ trọng thưởng thì có người hiền tài ra giúp sức. Cần gì bệ hạ phải thân chinh.

Trụ Vương truyền ủy thác cho Phi Liêm thảo bảng cầu hiền treo khắp nơi. Nếu ai chịu đánh giặc thì phong quan trọng thưởng.

Bảng cầu hiền được dán khắp nơi. Cả Triều Ca đều nô nức.

Chẳng bao lâu có ba người đến lãnh bảng cầu hiền.

Quân lính đưa vào dinh ra mắt Phi Liêm.

Ba người ấy thưa:

– Chúng tôi biết mình tài non trí cạn, song Thiên Tử đã chiêu hiền giúp nước thì phải liều chết với non sông.

Phi Liêm thấy ba người mạnh bạo không phải kẻ tầm thường, liền trọng đãi và nói:

– Xin mời ba vị anh hùng ngồi đây đàm đạo.

Ba người thưa:

– Chúng tôi là dân dã, lẽ nào dám ngồi cùng với quan đại phu?

Phi Liêm nói:

– Nay Thiên Tử cầu anh hùng dẹp loạn, thỉnh hào kiệt cứu dân, không phải là việc nhỏ. Tôi tuy làm quan nhưng trong lúc ly loạn, không cứu dân cứu nước được, thì giá trị đâu bằng quý vị anh hùng? Xin quý vị chớ khiêm nhượng.

Ba người bái và ngồi xuống. Phi Liêm hỏi:

– Chẳng hay ba vị ở đâu, xin cho hạ quan biết danh hiệu.

Ba người đưa ba tấm thiệp ra. Phi Liêm xem thấy một người họ Viên tên Hồng, một người họ Ngô tên Long, một người họ Thường tên Hạo, cả ba đều ở núi Mai Sơn.

Phi Liêm liền dẫn ba người vào đền Hiển thánh.

Vua Trụ đang đánh cờ với Ác Lai, nghe báo có Phi Liêm hầu chỉ, thì truyền vào.

Phi Liêm quỳ tâu:

– Nay có ba người hào kiệt ở núi Mai Sơn, xin tình nguyện ra giúp nước, hiện còn đứng ngoài chờ lệnh.

Vua Trụ mừng rỡ đòi ba vị vào. Ba người lạy mừng xong đứng hầu hai bên. Vua Trụ phán:

– Ba khanh định dùng chước chi mà bắt Khương Thượng?

Viên Hồng tâu:

– Khương Thượng dùng mánh khóe hại người khiến chư hầu làm phản. Nay chỉ cần bắt Khương Thượng, rồi bệ hạ xuống chiếu tha tội tám trăm chư hầu, thì ai nấy cũng sẽ mang ơn bệ hạ, kéo binh về nước.

Trụ Vương nghe tâu đẹp lòng, phong Viên Hồng làm Nguyên soái, Ngô Long và Thường Hạo làm tả hữu tiên phuông, lại sai Ân Phá Bại làm tham quân, Lôi Khai làm đô đốc, Ân Thành Tú, Lôi Khôn, Lôi Bàng, Lỗ Nhân Kiệt làm bộ tướng tùy tùng, rồi truyền đãi yến tại đền Gia Khánh.

Trong số đó Lỗ Nhơn Kiệt là người tài trí, nhìn thấy Viên Hồng biết không phải là tướng tài, song cũng làm thinh để coi cho biết.

Rạng ngày Viên Hồng tập binh, Lỗ Nhơn Kiệt dòm ngó, thấy Viên Hồng còn lắm vụng về, biết không thể nào đánh lại Tử Nha được.

Hôm sau, Viên Hồng vào chầu, Trụ Vương phán:

– Nguyên soái mau đem binh ra thành Dẫn Trì giúp Trương Khuê đánh Khương Thượng.

Viên Hồng tâu:

– Tôi nhắm thế binh chẳng nên đi xa.

Vua Trụ hỏi:

– Vì cớ nào vậy?

Viên Hồng tâu:

– Nay tại Mạnh Tân có binh bốn trăm chư hầu đồn ở đó. Nếu tôi đem binh ra cứu Dẫn Trì thì bốn trăm chư hầu chận kín ngõ sau, không đường vận lương, trước sau đều có giặc, dù không ai đánh cũng phải chịu thua, bởi lương thực là việc quan hệ đứng đầu, thiếu một ngày cũng sanh loạn. Chi bằng đem hai mươi vạn binh mã cản đường Mạnh Tân, thì giặc vào triều ca không được. Nếu nó đánh thì nó sẽ thất bại, vì đồn quân lâu ngày thế phải hết lương. Ðợi chúng nó hết lương, ta phá một trận thì chư hầu chạy hết.

Vua Trụ phán:

– Nguyên soái luận phải lắm thật đáng tướng tài. Vậy tự ý khanh toan liệu.

Viên Hồng tạ ơn rồi dẫn binh tướng đi đón nơi Mạnh Tân.

Hồi 88: Tử Nha độ binh vượt Huỳnh Hà

Trương Khuê thủ thành trông mãi không thấy quân Triều Ca tiếp viện, bỗng có quân thám mã về báo:

– Thiên Tử vừa phong Viên Hồng làm Nguyên soái, dẫn hai mươi vạn binh đón chư hầu tại Mạnh Tân, không thấy tiếp cứu huyện Dẫn Trì.

Trương Khuê nghe báo thất kinh, nói:

– Không cứu viện Dẫn Trì thì ta làm sao giữ thành nổi? Còn đồn binh tại Mạnh Tân đón chư hầu làm gì? Nếu Tử Nha lấy được thành này rồi, hiệp binh với bốn trăm chư hầu thì dù có thiên binh ngàn tướng đón ở Mạnh Tân cũng chẳng ích gì cả.

Cao Lan Anh nói:

– Nhắm lại vợ chồng ta thủ thành này cũng đủ, nay có Viên Hồng đón chư hầu tại Mạnh Tân, chư hầu không dám đánh bọc hậu, chúng ta cứ bế thành, chờ cho Viên Hồng đuổi chư hầu xong, chúng ta sẽ khai thành giao chiến, thì ấy thế địch bị phân hóa thì không đáng sợ.

Trương Khuê tuy làm theo ý vợ mình, nhưng lòng buồn bã, không hy vọng một thành công nào.

Bấy giờ Tử Nha thấy phá không được thành Dẫn Trì mà hao binh tổn tướng quá nhiều, ngày đêm tính mãi không ra kế.

Bỗng có quân vào báo:

– Ngoài dinh có một đạo đồng xin vào ra mắt.

Tử Nha truyền mời vào. Ðạo đồng vào làm lễ rồi thưa:

– Tôi là học trò Cù Lưu Tôn. Bởi sư huynh tôi bị Trương Khuê đón giết tại gành Mãnh thú, thầy tôi không cứu, sợ lỗi số trời, nên sai đệ tử đem thơ này dâng cho sư thúc.

Nói rồi dâng thơ.

Tử Nha xem rõ thấy có một lá bùa và mấy lời dặn làm kế bắt Trương Khuê.

Tử Nha tạ ơn, cho đạo đồng về núi, rồi trao bùa và thiệp cho Na Tra cứ theo đó mà làm.

Tử Nha lại kêu Dương Nhậm, Dương Tiễn, Vi Hộ đến phân phối công tác và dặn cứ làm y theo kế.

Hôm sau, vào cuối giờ Ngọ, Tử Nha đem binh phá thành, làm rộn Trương Khuê một chặp rồi thâu binh về.

Hôm sau nữa, Tử Nha tâu với Võ Vương:

– Xin Chúa công đi với tôi xem địa thế lấy thành.

Võ Vương tánh chơn chất, bảo sao hay vậy.

Võ Vương lên ngựa, Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng đồng đi dạo một vòng khắp thành và chỉ chỗ này chỗ kia nói với Võ Vương:

– Phía này binh mỏng, dùng đại pháo bắn vào thì lấy được thành.

Trương Khuê ở trên thành, đi tuần các cửa, bỗng có quân báo:

– Tử Nha đi với một người mặc áo bào, vòng quanh thành chỉ chỏ.

Trương Khuê liền lên mặt thành thấy Tử Nha đi với Võ Vương, đang quan sát địa thế, chỉ chỏ lăng xăng, Trương Khuê nghĩ thầm:

– Tử Nha thấy ta thủ thành không ra trận nên khi dễ ta đến trước thành vua tôi đàm đạo như vậy.

Nghĩ rồi vào trong bàn với vợ.

Cao Lan Anh nói:

– Ðó là chúng nó lập kế dụ địch, tướng quân chớ nóng nảy.

Trương Khuê nói:

– Ðể ta ra thành bắt Võ Vương và Khương Thượng, phu nhân cố gắng giữ thành cũng đủ. Nói rồi cầm thương lên ngựa dẫn quân ra.

Cao Lan Anh không yên lòng, nên lên trên mặt thành ngó chừng theo.

Trương Khuê giục ngựa ra ngoài nói lớn:

– Cơ Phát và Khương Thượng! Hôm nay chúng bây chắc chết.

Khương Tử Nha làm bộ kinh hãi chạy trước, Võ Vương thất sắc giục ngựa theo sau. Trong dinh Châu không thấy tướng nào ra tiếp, Trương Khuê thấy vậy giục ngựa đuổi nà tới, Tử Nha giục Tứ Bất Tướng chạy về phía Tây, Võ Vương cũng chạy theo bén gót.

Trương Khuê đuổi được vài mươi dặm, bỗng nghe quân ó vang tai, trống khua dậy đất, nhìn lại thấy binh Châu chia nhau bốn phía hãm thành.

Trương Khuê biết mình mắc mưu “điệu hổ ly sơn”, ngước mặt lên trời than:

– Bởi ta không nghe lời vợ, nên mới lầm mưu chúng.

Than rồi quày ngựa lại, không đuổi theo nữa, cố trở về cứu thành.

Bấy giờ Cao Lan Anh đang ngóng theo chồng mình đề phòng nguy hiểm, bỗng thấy một tiếng pháo nổ rất lớn, bốn phía thành quân Châu bủa vây đông nghẹt.

Trước nhất, Na Tra đạp xe Phong hỏa bay lên mặt thành, hiện ba đầu tám tay, Cao Lan Anh liền ra sức cự địch.

Nhưng đánh được ít hiệp, Cao Lan Anh cự không lại phải bại tẩu, chạy xuống thành, Na Tra đuổi theo bén gót.

Còn Lôi Chấn Tử lúc ấy bay lên mặt thành giết quân sĩ vô số, lại mở bét các cửa, cho quân Châu ùa vào.

Cao Lan Anh thấy tình thế rối loạn, thành Dẫn Trì sắp mất không phương giải cứu, còn Na Tra cứ đuổi theo mãi, không biết làm sao, túng phải hốt một nắm kim phép vãi lên để giết Na Tra trước, chẳng ngờ trong cơn hoảng hốt, không kịp lấy kim phép, bị Na Tra quăng Càn khôn quyện lên, đánh trúng đầu nhào xuống đất.

Na Tra lướt tới đâm bồi một giáo chết tươi.

Binh Thương thấy chủ tướng tử trận đều bó tay đầu hàng hết.

Na Tra giao cho Lôi Chấn Tử thủ thành, còn mình chạy theo tiếp cứu với Tử Nha.

Nhắc lại, Trương Khuê lúc nghe pháo nổ, ngoảnh đầu lại thấy binh Châu vây phủ thành trì, biết mình mắc kế, toan quay về cứu. Tử Nha gọi lớn:

– Trương Khuê, ngươi đã bị mất thành sao chẳng chịu hàng đầu cho toàn tánh mạng?

Trương Khuê không thèm nói, cứ giục ngựa chạy riết về thành, vừa đến nửa đường thì gặp Na Tra.

Na Tra đón lại mắng:

– Nghịch tặc, chưa chịu trói còn đợi chừng nào?

Trương Khuê nổi xung hỗn chiến.

Ðánh chừng ba hiệp, Na Tra quăng nơm phép chụp Trương Khuê, Trương Khuê nhào xuống ngựa độn thổ trốn đi, Na Tra thấy Trương Khuê dùng phép địa hành, chạnh nhớ đến Thổ Hành Tôn lòng buồn khôn xiết.

Kế đó Na Tra đến rước Võ Vương và Tử Nha vào thành.

Võ Vương truyền đem thủ cấp các tướng Châu chôn cất tử tế.

Còn Trương Khuê đi dưới đất chạy ra ngã Huỳnh Hà, vì biết thành Dẫn Trì đã mất, có trở lại cũng chẳng ích gì, chẳng ngờ Tử Nha đã sai Dương Nhậm và Vi Hộ đón sẳn. Dương Nhậm đứng bên trên, trông thấy Trương Khuê đi dưới đất, liền chỉ tay nói với Vi Hộ:

– Kia kìa, Trương Khuê đang chạy dưới đất kìa. Chúng ta phải theo cho kịp. Cứ theo ngón tay tôi chỉ mà phóng Gián ma xử.

Trương Khuê đang chạy, thấy Dương Nhậm cỡi thú Vân Hà đuổi theo mãi thì thất kinh chạy sảng.

Còn Dương Nhậm cứ ngó Trương Khuê mà chỉ, Vi Hộ cầm Gián ma xử nhắm hướng Dương Nhậm chỉ mà quăng.

Trương Khuê chắt lưỡi than:

– Nó thấy được ta chạy dưới đất thì biết đường nào trốn được. Vậy thì chạy về Triều Ca rồi sẽ liệu.

Nghĩ rồi chạy thẳng ra mé sông Huỳnh Hà.

Bấy giờ Dương Tiễn đã được lệnh cầm búa chỉ đất cứng đứng chờ sẳn, bỗng thấy Dương Nhậm giục thú đến nói lớn:

– Trương Khuê chạy đã gần đến mé sông ấy.

Dương Tiễn nghe nói liền đốt bùa.

Trương Khuê đang chạy đến vùng đất ấy tự nhiên dừng lại, vì xung quanh đất cứng như sắt.

Trương Khuê kẹt dưới đất chẳng khác bị trói, cựa quậy không được nữa.

Dương Nhậm chỉ chỗ cho Vi Hộ, Vi Hộ nhắm ngay đó phóng mạnh Gián ma xử xuống, Trương Khuê bể đầu.

Dương Nhậm nói:

– Trương Khuê chết rồi.

Ai nấy nghe nói mừng rỡ, đồng trở về thành Dẫn Trì thưa với Tử Nha, Tử Nha truyền dưỡng binh hai ngày rồi kéo qua sông Huỳnh Hà.

Lúc này vào tiết Ðông, khí trời lành lạnh, binh Châu đến mé sông đóng trại.

Tử Nha truyền quân đi khắp ven sông, mướn thuyền của bá tánh để chở quân sĩ sang sông. Trong số các thuyền mướn được, lựa một chiếc sang trọng hơn, để Võ Vương và Tử Nha dùng, còn quân sĩ thì cứ tùy theo sức thuyền chở mà xuống thuyền.

Ðoàn thuyền bồng bềnh trên mặt sóng, lướt ra đến giữa dòng.

Võ Vương chưa từng qua sông lớn, thấy sóng gió rất lo sợ, nhìn chân trời mặt nước mênh mông, không biết đâu bờ bến.

Tử Nha thấy Võ Vương có ý sợ sệt, tìm lời khuyên giải.

Khi thuyền ra đến giữa sông, bỗng có một con cá trắng như bạc nhảy lên thuyền, Võ Vương càng giật mình hơn nữa. Con cá lớn phi thường, dài đến năm sáu thước mộc. Nó lăn lộn trong thuyền, nhảy từ khoang này đến khoang kia, nhưng không nhảy khỏi be thuyền để trở về với dòng sông.

Võ Vương lấy làm lạ hỏi:

– Cá bạc nhảy vào thuyền chẳng biết điềm lành dữ?

Tử Nha tâu:

– Mừng Ðại vương phạt Trụ được, nên trời ứng điềm lành. Bởi Trụ Vương trọng sắc trắng nên khiến cá bạc nhảy vào thuyền nạp mình. Trời khiến sự nghiệp nhà Thương về nhà Châu đó.

Nói rồi truyền bọn đầu bếp đem cá làm thịt, Võ Vương không bằng lòng, bảo thả cá xuống sông làm phước.

Tử Nha nói:

– Trời đã cho mà Ðại vương không dùng e mắc tội.

Liền hối quân làm thịt cá dâng cho Võ Vương, còn dư thì đãi các tướng.

Giây phút sóng êm gió lặng, thuyền qua khỏi sông Huỳnh Hà, bốn trăm chư hầu đang sửa soạn nghênh tiếp.

Tử Nha nghĩ thầm:

– Võ Vương tánh nhân đức, chẳng chịu phản vua, e chư hầu tôn Vương, Võ Vương sẽ giật mình từ chối. Nếu để chư hầu thối chí thì uổng công mình biết chừng nào, vậy ta phải liệu trước mới được.

Nghĩ rồi tâu với Võ Vương:

– Tuy thuyền đã tới bến song Ðại vương chớ nên rời thuyền hãy ở nán lại đây để tôi lên trước, sắp đặt quân ngũ cho chỉnh tề, rồi đến rước Ðại vương.

Võ Vương nói:

– Tùy ý Thượng phụ định liệu.

Tử Nha lên bờ kéo quân đến Mạnh Tân đóng trại.

Bốn trăm chư hầu đồng vào ra. Tử Nha đón tiếp và dặn:

– Xin chư vị hiền hầu lúc ra mắt Võ Vương chớ nói đến việc điếu dân phạt Trụ, cứ nói là đi xem chính lệnh nhà Thương mà thôi, đợi phá Trụ xong sẽ thương nghị.

Các chư hầu đều y lời.

Tử Nha sai Dương Tiễn, Na Tra đem binh đi rước Võ Vương.

Hai trăm chư hầu Tây phương cũng theo Võ Vương nữa, cộng hết là sáu trăm chư hầu. Chỉ còn thiếu hai trăm chư hầu phương Ðông, vì Khương Văn Hoán chưa phá được ải Du Hồn nên chưa dẫn đến họp mặt.

Khi ấy Võ Vương đi gần đến trại, Tử Nha dẫn chư hầu ra nghênh tiếp.

Năm vị chư hầu lớn và sáu bá kể ra sau.

Năm vị chư hầu là:

– Nam Bá hầu Ngạc Thuận.

– Bắc Bá hầu Sùng Ứng Loan.

– Ðông Bá hầu Chung Chí Minh.

– Tây Nam Dự châu hầu Dao Sở Lượng.

– Ðông Bắc Cổn châu hầu Bành Tổ Thọ.

Còn sáu vị Bá là:

– Di Môn Bá Võ Cao Quì.

– Tả Bá Tông Trí Minh.

– Hữu Bá Dao Thứ Long.

– Viễn Bá Thường Tín Nhân.

– Cận Bá Tào Tông.

– Bân châu Bá Ðinh Kiến Thiết.

Tuy chưa đủ tám trăm chư hầu, song sáu trăm chư hầu và các bá lớn nhỏ cũng đông lắm.

Có bài thơ rằng:

Hết thảy chư hầu nhóm Mạnh Tân,

Bụi bay mù mịt khắp xa gần

Lọng, cờ đủ vẻ đông như hội,

Gươm giáo đầy tràn cắm tợ rừng

Binh nhạn oai phong như địa sát,

Tướng hùm khí dữ tợ thiên thần

Sáu trăm mão áo đồng nghênh tiếp,

Rõ mặt Tây châu đến cứu dân.

Các chư hầu và các bá đều mời Võ Vương vào ngồi giữa trướng để mọi người ra mắt. Võ Vương khiêm nhượng nhiều lần, song bị ép quá không lẽ từ chối hoài, phải đáp lễ rồi ngồi giữa.

Chư hầu đồng quỳ tâu:

– Nay Ðại vương đến đây hội diện, chúng tôi được thấy thiên nhan, xin Ðại vương ra ơn cứu thiên hạ trong nước lửa, chúng tôi rất đội ơn.

Võ Vương nói:

– Tôi nối nghiệp tiên vương, hằng thẹn mình chưa đủ tài đức, cảm ơn chư vị hiền hầu đoái tưởng mời đến, tôi chẳng dám cãi nên phải bái tướng vào đây, để ngõ cùng Thiên tử, ăn năn cần mẫn việc chánh, xin các hiền hầu đừng xem tôi là chủ hội này, vì tôi chỉ vâng lời mời đến cho đủ mặt mà thôi.

Dự chư hầu là Dao Sở Lượng tâu:

– Trụ Vương vô đạo, giết hại vợ con,, bỏ việc cúng tế, dùng gian nịnh hại trung lương, mắc tội trời nên khiến mất nước. Xin Ðại vương phạt một kẻ dữ, cứu trăm họ dân lành, để muôn phương cảm đức.

Võ Vương nói:

– Thiên Tử lỗi đạo chỉ tại nghe lời Ðắt Kỷ và gian thần. Chúng ta đến đây coi việc chánh, bắt bọn ấy đi thì Thiên Tử sẽ ăn năn sửa lỗi.

Cổn châu hầu là Bành Tổ Thọ tâu:

– Ngôi trời không chừng, ai có đức thì được. Xưa vua Nghiêu không nhường ngôi con mình là Ðơn Châu, lại truyền cho Ðế Thuấn, còn vua Thuấn không nhường ngôi cho con mình là Thương Quân, lại truyền cho Ðại Võ. Ấy là tại con vua Nghiêu, vua Thuấn thiếu đức. Sau vua Ðại Võ truyền cho con là vì con có đức, nối dòng đến vua Kiệt. Vua Kiệt lại thất đức bỏ việc nhà Hạ, bạo ngược với muôn dân, nên vua Thành Thang đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào, cứu dân trong nước lửa, nên chư hầu mới tôn vua Thành Thang làm Thiên tử, gây cơ nghiệp nhà Thương, truyền đến đời vua Trụ. Nay vua Trụ lỗi đạo hơn vua Kiệt thuở xưa, trời khiến Ðại vương cứu dân trong nước lửa, xin Ðại vương phạt Trụ cho đẹp dạ chư hầu, chẳng nên khiêm nhượng.

Võ Vương cứ việc từ chối mãi, Tử Nha nói:

– Xin quý vị chư hầu đợi xem việc chánh nhà Châu xong sẽ luận.

Chư hầu đồng khen phải.

Võ Vương truyền mở tiệc đãi đằng.

Bấy giờ Viên Hồng đồn quân tại Mạnh Tân, nghe quân báo:

– Nay Võ Vương và Khương Thượng đã vượt sông Huỳnh Hà, hội chư hầu ở Mạnh Tân.

Ân Phá Bại nói:

– Cơ Phát cầm đầu hội chư hầu này, binh tướng mạnh như hùm, xin Nguyên soái chớ dễ ngươi, phải cố gắng phòng thủ.

Viên Hồng nói:

– Tham quân thấy quân chư hầu đông và mạnh như vậy lo lắng cũng phải, song tôi thấy các chư hầu chỉ có Khương Thượng là đáng kể mà thôi. Tuy nhiên, đối với Khương Thượng thì cũng chỉ là một gã câu cá, chưa đủ tài làm tướng. Tham quân sẽ xem tôi đánh Khương Thượng một trận không còn một manh giáp.

Hôm sau Tử Nha ra khách, Di Môn Bá là Võ Cao Quì nói:

– Lâu nay mấy trăm chư hầu đồn binh tại Mạnh Tân này mà chưa dám phạt Trụ, vì đợi Võ Vương đến đặng ra binh. Nay không bắt Viên Hồng thì đứa thất phu ấy khi dễ người tài trí.

Tử Nha nói:

– Luận như vậy cũng phải. Thôi để tôi hạ chiến thơ, rồi bắt đầu giao tranh.

Nói rồi lấy bút viết một phong thơ, sai Dương Tiễn đem trao cho Viên Hồng.

Dương Tiễn đến dinh Thương kêu lớn:

– Ta vâng lệnh Khương Nguyên soái đến hạ chiến thơ.

Quân vào báo lại, Viên Hồng cho đòi vào, mở thơ ra xem rồi nói với Dương Tiễn:

– Ta không cần viết thơ trả lời. Ngươi về thưa lại cho Khương Thượng chuẩn bị ngày mai giao chiến.

Dương Tiễn về thưa lại.

Tử Nha tin cho chư hầu hay để sửa soạn giao công.

Rạng ngày Tử Nha truyền phát pháo kéo binh ra, bên tả có Nam Bá Hầu Ngạc Thuận, bên hữu có Bắc Bá Hầu Sùng Ứng Loan, đằng sau dàn mấy trăm chư hầu coi thế như vũ bão, đồng kéo đến trước trại.

Quân vào báo lại, Viên Hồng kéo binh tướng ra, Tử Nha hỏi:

– Có phải Thương triều Nguyên soái Viên Hồng chăng?

Viên Hồng gật đầu hỏi lại:

– Còn ngươi có phải là Khương Tử Nha không?

Tử Nha nói:

– Nay Trụ Vương lỗi đạo, thiên hạ về Châu, sức ngươi như một gáo nước làm sao tưới muôn xe cho được? Nếu hàng đầu thì còn mạng bằng cự lại phải lụy thân.

Viên Hồng cười lớn:

– Khương Thượng! Ngươi có tài bắt cá biết nước cạn sâu chớ làm sao biết đến chuyện cầm binh khiển tướng mà nói phách. Bởi năm ải không có tướng tài nên ngươi mới lọt đến đây. Ðã vậy sao không lấy đó làm may còn cố đem thân vào cõi chết?

Dứt lời, Viên Hồng quay lại hỏi các tướng:

– Tướng nào chịu ra sức bắt gã ngư phủ cho ta?

Thường Hạo ứng tiếng nói lớn:

– Ðể tôi bắt nó cho.

Nói rồi cầm đao lướt tới. Hữu Bá Dao Thứ Long nổi giận xách búa giục ngựa tới hét:

– Thất phu đừng phách lối! Có ta lấy đầu ngươi đây!

Nói rồi hỗn chiến.

Thường Hạo thấy Dao Thứ Long múa búa như bay nhắm bề cự không lại tính chạy trước cho êm.

Dao Thứ Long liền giục ngựa đuổi theo lập tức.

Hồi 89: Vua Trụ chặt chân lương dân để xem tủy

Dao Thứ Long đuổi theo Thường Hạo bỗng thấy khói tỏa mịt mù, làm mờ một khoảng lớn. Ấy là Thường Hạo hiện khói đen làm cho người ngoài không thấy rồi hóa hình mãng xà phun hơi độc.

Dao Thứ Long bị hơi độc té nằm ngay dưới đất, Thường Hạo hiện lại hình người, vung đao chặt đầu Dao Thứ Long.

Giây phút khói tan, mọi người trông thấy Thường Hạo cầm đầu Dao Thứ Long giơ cao nói lớn:

– Ta bắt được Khương Thượng cũng chặt đầu như thế này.

Cổn chư hầu là Bành Tổ Thọ nổi giận hét lớn:

– Thất phu, cả gan dám giết Hữu bá.

Ngô Long cầm song đao giục ngựa lướt ra đón đầu giao chiến.

Hai người đánh được mười hiệp, Ngô Long liền hóa khói đen mù mịt, hiện hình một con rít chúa, phà hơi độc.

Bành Tổ Thọ bị hơi độc hôn mê, Ngô Long hiện lại hình người, chém đầu Bành Tổ Thọ.

Các chư hầu đều lấy làm lạ, không biết khói đen ở đâu trong trận như vậy.

Dương Tiễn nói với Na Tra:

– Hai tướng ấy không phải người thật, chắc là loài yêu mỵ. Anh em mình phải ra tay mới được.

Ngô Long chém Bành Tổ Thọ rồi giục ngựa đến trước nói lớn:

– Ai muốn chết thì ra đây nạp mạng?

Na Tra mắng lớn:

– Quái vật, ngươi chớ quen dùng tà thuật hại người.

Nói rồi đâm một giáo, Ngô Long đưa song đao ra đỡ và hỏi:

– Ngươi là tướng chi đó?

Na Tra không thèm xưng tên, lướt tới chém liền, rồi hiện ra ba đầu tám tay đánh Ngô Long đỡ không kịp.

Chư hầu thấy Na Tra hiện hình như vậy đều lấy làm lạ.

Còn Na Tra đánh được bốn mươi hiệp, liền lấy Cửu long thần hỏa quăng lên chụp Ngô Long. Ngô Long thất kinh hóa gió bay mất.

Na Tra vỗ chiếc nơm phép đốt không người thật uổng công.

Thường Hạo xem thấy nổi xung, giục ngựa tới hét lớn:

– Na Tra đừng làm dữ! Có ta đến đây.

Vừa nói vừa chém Na Tra. Dương Tiễn thấy vậy giục ngựa vào trợ chiến.

Thường Hạo cự không lại hai người, quày ngựa bỏ chạy.

Na Tra không đuổi theo.

Dương Tiễn lấy đạn bắn một viên ngay sau lưng Thường Hạo, nhưng viên đạn bay gần tới thì tan mất.

Na Tra nổi giận quăng nơm phép chụp liền.

Thường Hạo hóa hào quang bay mất. Ai nấy trông thấy đều kinh hãi.

Viên Hồng thấy hai vị tiên phuông chạy hết, nổi giận lướt tới hét lớn:

– Khương Thượng! Ngươi có giỏi thì tranh thắng phụ với ta.

Dương Nhậm cỡi thú Vân Hà lướt tới đánh với Viên Hồng.

Hai bên đánh được bảy hiệp, Dương Nhậm nhảy trái sang một bên, dựng cây giáo Phi Vân xuống đất, rồi lấy quạt Ngũ hỏa ra quạt.

Nhưng Dương Nhậm quá chậm chạp, Viên Hồng đã nhảy xuống ngựa biến mất.

Dương Nhậm quạt một cái con ngựa Viên Hồng cháy tiêu ra tro.

Tử Nha truyền thâu binh về trại.

Các trấn chư hầu đều hội đủ mặt, Khương Thượng than:

– Thương thay cho hai vị chư hầu.

Dương Tiễn thưa:

– Tôi coi ba người ấy cốt yêu, không dễ gì hại chúng được.

Các chư hầu đều bàn luận về ba người ấy có phép lạ lùng.

Còn Viên Hồng về dinh ngồi trước trướng, Ngô Long, Thường Hạo cũng vào hầu.

Viên Hồng nói:

– Cái nơm của Na Tra, cây quạt của Dương Nhậm thật là hai vật dữ không phải phép thường.

Ngô Long cười, nói:

– Nó nơm quạt ai, chớ hại chúng mình sao được? Hôm nay quyết bắt Khương Thượng, té ra giết có hai vị chư hầu, tưởng lại cũng không thắng.

Viên Hồng liền viết sớ về Triều Ca báo tiệp, tâu cho vua Trụ biết đã giết được hai vị chư hầu.

Bấy giờ Lỗ Nhơn Kiệt nói riêng với Ân Thành Tú, Lôi Côn, Lôi Bàng:

– Hôm nay anh em đã thấy Viên Hồng, Ngô Long, Thường Hạo đánh với Tử Nha chưa? Ấy là điềm mất nước, nên có yêu quái ra đời. Nay sáu trăm chư hầu hội binh không phải chuyện nhỏ, lẽ nào ba con yêu ấy cự nổi sao?

Ân Thành Tú nói:

– Anh chớ nóng lòng. Cứ để xem chúng nó hành động thế nào cho biết.

Lỗ Nhơn Kiệt nói:

– Ta chịu ơn nhà Thương đã ba đời, bề nào cũng liều thân báo chúa.

Bấy giờ công sai dâng biểu đến Phi Liêm.

Phi Liêm xem xong mừng rỡ, đem vào dâng vua Trụ và tâu:

– Viên Hồng mới cự với Khương Thượng một trận mà chém được hai vị chư hầu. Thuở nay chưa thấy vị Nguyên soái nào thắng trận như vậy. Nhờ hồng đức bệ hạ, chắc dẹp được giặc Tây Kỳ.

Vua Trụ mừng rỡ nói:

– Khanh tiến cử Viên Hồng, mới đánh một trận mà giết luôn hai tướng, thật đáng bực công thần. Trẫm truyền chỉ ban cho Viên Hồng một cái áo gấm, vàng bạc và thịt rượu, đợi dẹp yên giặc sẽ chia đất phong vương.

Phi Liêm lãnh chỉ ra khao thưởng.

Viên Hồng và các tướng đều tạ ơn.

Ðắt Kỷ hay tin ấy, bước ra tâu với vua Trụ:

– Thiếp mừng bệ hạ dùng Viên Hồng làm tôi xã tắc. Thế nào cũng dẹp yên chư hầu, trừ Khương Thượng. Bệ hạ hưởng thái bình, thần thiếp cũng nhờ phước lớn. Xin dọn tiệc ăn mừng.

Vua Trụ phán:

– Ái khanh nói rất hiệp ý trẫm.

Liền truyền quân dọn yến trên Lộc đài, vua Trụ, Ðắt Kỷ, Hồ Hỷ Mỵ, Ngọc Mỹ Nhơn đồng ngồi vào tiệc.

Ba con yêu luân phiên nhau dâng rượu, và chúc tụng mãi.

Bỗng thấy tuyết xuống dầm dề, gió lạnh tạt vào cửa.

Trụ Vương liền cuốn rèm lên, để xem phong cảnh trời Ðông, nhìn thấy thành Triều Ca như bịt bạc.

Vua Trụ truyền Ðắt Kỷ ca múa một chặp, để uống rượu vui say.

Giây phút mặt trời lên cao, tuyết tan thành nước, cảnh vật như tan biến trong thủy tinh. Vua Trụ nhìn xuống Lộc đài, thấy gần cửa Tây môn, nước trong kinh chảy ra cuồn cuộn.

Bởi vua Trụ lấy đất đắp Lộc đài, nên mới có con kinh ấy. Bây giờ tuyết tan ra nước liền chảy xuống kinh, ai đi ngang qua cũng phải vén quần mà lội.

Xảy thấy một ông già, xăng quần lội qua trước, đi đứng rất ung dung, tiếp đó một chàng trai theo sau, thấy nước thì sợ không dám lội, dùng dằng mãi mới qua khỏi con kinh, chân rung cầm cập.

Trụ Vương liền nói với Ðắt Kỷ:

– Việc này thật kỳ quái. Già lại không sợ lạnh, mà trẻ lại co ro. Có phải trái lẽ không?

Ðắt Kỷ tâu:

– Bởi ông già ấy được sinh ra lúc cha mẹ đương mạnh, nên tủy xương tràn đầy, tuy già cả mà vẫn có sức mạnh như thường. Còn chàng trai kia sanh ra trong lúc cha mẹ nó già yếu, khí huyết đã suy, bẩm thọ bạc nhược, tủy trong ống xương chẳng có bao nhiêu, nên tuổi nhỏ mà sợ lạnh.

Vua Trụ cười rằng:

– Khanh nói gạt trẫm, lẽ nào có chuyện như vậy. Hễ con người ta trai tráng phải mạnh hơn già cả mới đúng lẽ.

Ðắt Kỷ tâu:

– Nếu bệ hạ không tin xin cho đòi hai người ấy vào đây thì biết.

Trụ Vương sai quân ra bắt ông già và chàng trai ấy vào, quân sĩ tuân lệnh, chạy đến thộp cổ hai người ấy.

Hai người ấy sợ sệt thưa:

– Chúng tôi có tội gì mà bắt?

Quân sĩ nói:

– Không phải có tội. Bệ hạ đòi lên lầu để nói chuyện.

Nói rồi dắt hai người đến dưới đài.

Trụ Vương truyền chặt mỗi người một chân lên xem thử. Quả nhiên ống chân chàng trai tủy lưng, còn ống chân ông già tủy đầy hơn.

Vua Trụ xem xong truyền quân kéo thây hai người bỏ ngoài đồng nội.

Thương hại hai người dân vô tội bị thác oan.

Có bài thơ rằng:

Chẳng sợ chư hầu tại Mạnh Tân,

Nghe lời Ðắt Kỷ chặt chân dân

Nếu không Châu Võ đem binh phạt,

Trăm họ gần xa bị giết lần.

Trụ Vương thấy Ðắt Kỷ nói trúng liền vuốt lưng khen:

– Ái khanh thật thông minh, thấu hiểu mọi việc.

Ðắt Kỷ tâu:

– Tuy tôi phận gái, nhưng có học sách âm phủ, đoán việc cao không sai. Tủy trong ống xương người là việc dễ hiểu, còn như coi đàn bà mà biết có thai mấy tháng, con trai hay con gái, đứa nhỏ trong bụng quay mặt về phía nào, thì tôi nói trăm người không trật một.

Trụ Vương phán:

– Ái khanh luận việc tủy xương người đã trúng thì nói việc có thai cũng chắc không sai.

Liền truyền thị thần ra ngoài chợ Triều Ca bắt ít người có chửa đem vào đền xem thử. Thị thần vâng lệnh bủa vây khắp chợ bắt đàn bà có thai.

Thương hại dân chúng kêu chẳng thấu trời, khóc than tở mở:

– Chúng tôi không phạm phép nước chẳng thiếu thuế vua, sao bắt người có thai đem vào cung cấm làm cho con lìa mẹ vợ xa chồng.

Mặc cho tiếng than khóc của dân. Bọn thị thần bắt hơn mười người đàn bà chửa dẫn đi. Vừa đến ngọ môn, gặp Cơ Tử, Vi Tử, Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển và Tôn Vinh đang bàn luận việc nước, nghe tiếng khóc lấy làm lạ đồng bước ra ngoài xem thử.

Bọn thị thần trông thấy đình lại, không dám níu kéo nữa.

Cơ Tử bước tới hỏi bọn thị thần:

– Mấy người này vì sao bị bắt?

Số đàn bà chửa khóc lóc nói:

– Chúng tôi chẳng phạm tội chẳng biết Thiên Tử sai bắt làm gì. Lão gia là vị đại thần, xin cứu chúng tôi làm phước.

Cơ Tử nổi giận nói:

– Giặc đến bên thành, hôn quân không lo việc nước, cứ nghe lời yêu phụ vô cớ giết dân. Thôi các ngươi đứng dậy để tôi vào can vua đã.

Nói rồi đi trước, các quan đồng theo sau đến Lộc đài.

Vua Trụ đang chờ thị thần bắt đàn bà chửa về mổ bụng xem thai bỗng thấy quan đương giá vào tâu:

– Có Cơ Tử xin hầu chỉ.

Vua Trụ đòi vào.

Cơ Tử quỳ lạy vừa khóc vừa nói:

– Chẳng ngờ cơ nghiệp Thành Thang vì bệ hạ vô đạo mà dứt. Bệ hạ chẳng ăn năn chừa lỗi lại mù quáng hại dân. Một mai chết xuống suối vàng mặt mũi nào trông thấy tiên đế.

Vua Trụ nổi giận mắng:

– Cơ Phát làm phản đã có Nguyên soái Viên Hồng đánh dẹp, chẳng bao lâu cũng hết loạn. Nay trẫm xem tuyết thấy chuyện quái gỡ nhờ Hoàng hậu cắt nghĩa thông minh, chuyện ấy cũng không có tội gì. Còn việc thử xem thai nghén cho biết gái trai cũng không là đại sự, sao ngươi dám mắng vua và nói động đến tiên vương.

Cơ Tử vừa khóc vừa tâu:

– Tôi nghe làm cha mẹ dân thì coi dân như con, chưa từng nghe làm cha mẹ dân mà coi dân như kiến. Chặt chân không thể nối liền lại được, mổ bụng không thể không hại mạng người. Ở đời ai lại không sợ chết. Mình sợ chết mà không kể đến mạng sống của người chết sao gọi là nhân? Nay bệ hạ không sợ phép trời, không lo việc chánh, chặt chân dân lành, mổ bụng đàn bà có thai nghén. Gieo sầu thảm trong dân gian, nếu chư hầu đến được Triều Ca, trăm dân bỏ theo giặc, thì xã tắc của bệ hạ cò còn không. Sao bệ hạ chỉ biết có hoàng hậu mà không biết đến tổ tiên, không biết đến triều đình, không biết đến dân, đến nước.

Trụ Vương giận quá mắng lớn:

– Thất phu! Ngươi khinh trẫm quá lẽ, trẫm như người mất nước còn tội nào lớn hơn.

Liền truyền vệ sĩ kéo Cơ Tử xuống lầu đập chết.

Cơ Tử nói lớn:

– Tôi chết cũng an thân, chỉ e hôn quân sẽ bị hành hình, còn để tiếng xấu muôn đời.

Võ sĩ kéo Cơ Tử xuống đài.

Vi Tử, Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển trông thấy la lớn:

– Hãy khoan! Ðể chúng ta can vua đã.

Nói rồi đồng lên đài khóc lớn và tâu:

– Cơ Tử là trung thần, có công lớn với xã tắc, nay can vua mà chết thật không đáng tội. Xin bệ hạ xét lại. Vả lại giặc gần đến bên thành mà bệ hạ đối xử với trung thần như vậy chẳng khác nào mở cửa cho giặc vào. Xin bệ hạ tha tội cho Cơ Tử, thương xót tôi dân, gần lành tránh dữ.

Vua Trụ thấy vậy, phán:

– Trẫm vì lời thần bá, hoàng huynh, tha Cơ tử khỏi chết, song phải cách chức đuổi Cơ Tử về làm dân.

Ðắt Kỷ ở sau bình phong đứng ra quỳ tâu:

– Cơ Tử mắng vua, tội khi quân đã đáng chết nếu tha về dân dã sao khỏi oán hờn? Thần thiếp e Cơ Tử qua đầu Võ Vương, bộc lộ việc binh cơ, hoặc mộ dân phản nghịch thì hại ấy chẳng nhỏ.

Vua Trụ hỏi:

– Theo ý Hoàng hậu thì thế nào?

Ðắt Kỷ tâu:

– Thần thiếp tưởng nên cạo đầu Cơ Tử, giam vào ngục cho rõ phép nước, như vậy tôi dân mới sợ, kẻ khi quân không còn dám dùng miệng lưỡi mắng vua.

Trụ Vương y lời.

Vi Tử thấy vua nghe lời Ðắt Kỷ, nhắm tâu nữa cũng uổng công, liền lui xuống đài, vừa khóc vừa nói với Vi Tử Ðiển và Vi Tử Khải:

– Cơ nghiệp Thành Thang hơn sáu trăm năm, nay bị hôn quân làm mất. Ấy cũng tại trời khiến, biết cứu làm sao? Vậy thì ta với hai ngươi lén đến nhà Thái miếu, đội hai mươi tám vị thần chủ trốn đi, cải tên đổi họ nương náu cõi ngoài, họa may còn hương lửa.

Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển đều nghe theo.

(Việc này về sau đức Khổng Tử khen nhà Thương có ba người nhơn là Vi Tử, Cơ Tử và Tỷ Can).

Kế đó vua Trụ truyền dẫn đàn bà chửa lên đài.

Ðắt Kỷ chỉ từng người nói:

– Người này chửa con trai, thằng nhỏ ngồi day mặt phía hông bên tả.

Cứ mỗi người như vậy, Trụ Vương truyền mổ bụng ra xem, quả y như lời Ðắt Kỷ không sai tí nào.

Trụ Vương truyền mổ một lúc mười người, và khen Ðắt Kỷ:

– Ái khanh đoán thiệt như thần, dầu thầy bói hay cũng đoán không lại.

Từ đấy các trung thần đều xa lánh, tôi trong triều chẳng còn ai, Trụ Vương càng ngày càng lộ, hại dân Triều Ca không kể xiết.

Có bài thơ rằng:

Coi tuyết vui say tại Lộc đài,

Nghe lời yêu nghiệt chẳng thương ai

Trung thần xa lánh triều thần vắng,

Tiếng trống không khua bụi mốc ngai.

Ngày vua Trụ mổ bụng đàn bà có thai thì trời tối mịt, cả ngày không nắng, đêm chẳng thấy trăng.

Ngày sau quân vào báo:

– Vi Tử, Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển đồng đóng cửa dinh bỏ trốn.

Vua Trụ phán:

– Vi Tử già rồi, ở đây cũng vô dụng. Còn Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển có mặt tại triều cũng chẳng ích chi. Chúng muốn đi đâu thì đi, khỏi làm rầy tai trẫm. Nay trẫm có Nguyên soái Viên Hồng, nhắm Cơ Phát không làm chi nổi.

Từ đó, vua Trụ càng hoang phế hơn xưa, bá quan đều đóng cửa nằm nhà chờ binh Châu tới.

Một hôm, có hai người đến nơi yết bảng cầu hiền xin vào ra mắt, hai người này hình dung cổ quái, nanh dài miệng rộng, da mặt xanh lét, con mắt vàng lườm, cao lớn mạnh bạo.

Quân vào báo với Phi Liêm.

Phi Liêm bước ra tiếp đón xem thấy hết hồn, vội hỏi:

– Hai vị tráng sĩ tên họ là chi, quê quán chốn nào?

Hai người thưa:

– Tôi tên là Cao Minh, em tôi là Cao Giác, tuy là dân dã, song cám nghĩa quân vương, vì thấy Khương Thượng nghịch thần, đánh vua cướp nước, nên anh em tôi không sợ đầu tên mũi đạn, quyết đền tấc đất ngọn rau, có ý giúp triều đình, không mong quyền tước.

Phi Liêm dẫn hai người ấy đến trước Lộc đài, rồi lên lầu tâu:

– Nay có hai vị anh hùng là Cao Minh và Cao Giác, không muốn phong chức, chỉ xin ra đánh giặc giúp nước mà thôi.

Vua Trụ rất đẹp lòng, đòi hai người vào ra mắt, nhưng khi thấy hai người dị tướng, vua Trụ thất kinh nhưng phải gượng gạo phán:

– Hai khanh nên trang hào kiệt, trẫm phong chức Thần Võ tướng quân.

Cao Minh, Cao Giác tạ ơn. Vua Trụ truyền ban áo mão và đãi yến.

Rạng ngày, vua Trụ truyền chỉ sai Cao Minh, Cao Giác đi với Khâm sai, đem ngự tửu ban thưởng cho Viên Hồng.

Hồi 90: Liễu Quỷ Đào Tinh bị đả thần

Nói về Cao Minh, Cao Giác giải ngự tửu đến thưởng Viên Hồng, Viên Hồng biết mặt hai anh em họ Cao là Ðào tinh và Liễu quỷ ở núi Kỳ Bàng, còn hai anh em họ Cao cũng biết Viên Hồng là con vượn bạch ở núi Mai Sơn nên gặp nhau mừng rỡ lắm.

Kế đó thiên sứ trở về Triều Ca còn Viên Hồng, Cao Minh, Cao Giác đồng hợp lực dẫn quân khiêu chiến.

Tử Nha nghe tin tướng Thương khiêu chiến liền hỏi các tướng:

– Ai dám ra đối địch?

Na Tra xin đi, Tử Nha nhậm lời.

Na Tra lên xe, xông ra trận, hỏi hai tướng:

– Chúng bay lên gì?

Cao Minh nói:

– Ta là Cao Minh, em ta là Cao Giác vâng lệnh Viên nguyên soái ra binh bắt Tử Nha, ngươi là ai dám ra đây thế mạng?

Na Tra nổi giận mắng:

– Loài yêu quái dám vô lễ.

Nói rồi đâm một thương, Cao Minh đưa búa ra đỡ, Na Tra hiện ba đầu tám tay đánh với hai tướng.

Qua mấy hiệp, Na Tra quăng Càn khôn quyện lên đánh trúng đầu Cao Giác đổ hào quang và quăng Cửu long thần hỏa trạo lên chụp Cao Minh đốt một hồi.

Thấy hai tướng địch đâu mất, Na Tra trở về thưa với Tử Nha:

– Tôi đập Cao Giác một Càn khôn quyện nát ra tro và đốt Cao Minh trong nơm phép tiêu thành khói.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ, khen Na Tra oai hùng.

Chẳng ngờ Cao Minh, Cao Giác không chết chạy về dinh ra mắt Viên Hồng thưa:

– Khương Thượng cậy các tướng thần thông thu thành đoạt ải, nay gặp chúng ta thì chúng nó không làm gì nổi.

Viên Hồng khen ngợi chẳng cùng.

Hôm sau, sai anh em họ Cao đến dinh Châu khiêu chiến nữa.

Quân vào báo:

– Có Cao Minh, Cao Giác đến khiêu chiến.

Tử Nha lấy làm lạ hỏi Na Tra:

– Ngươi nói là hai anh em họ Cao đã bị người giết hết sao lại còn đến đây?

Na Tra nói:

– Có khi hai tướng ấy học phép Tiềm thân nên mới khỏi. Xin Nguyên soái cho tôi ra trận xem thử.

Tử Nha truyền sáu trăm chư hầu đồng theo xem trận.

Khi ấy Cao Minh nói với Cao Giác:

– Na Tra nói anh em chúng ta có phép Tiềm thân nên bảo Tử Nha ra trận để dò xét. Tử Nha lại truyền sáu trăm chư hầu đi theo, vậy anh em ta phải trổ tài một phen cho chúng biết.

Nói vừa dứt lời đã thấy nơi dinh Châu quân sĩ kéo ra đông nghịt, Tử Nha ngồi trên Tứ Bất Tướng, hai bên các tướng theo hầu, đàng sau mấy trăm chư hầu đông nghẹt.

Khương Thượng lướt tới, gọi Cao Minh, Cao Giác nói:

– Các ngươi dám ngịch mạng trời, chuốc họa vào thân sao?

Cao Minh cười ngất nói:

– Khương Thượng! Ta cũng biết ngươi là học trò núi Côn Lôn, song lâu nay ngươi chưa gặp người hay cứ tưởng mình là giỏi. Hôm nay ta cho ngươi thấy lẽ cao thấp.

Nói rồi đâm một kích. Dương Nhậm giục thú tới, đưa giáo Phi Vân đỡ liền.

Cao Giác xách búa xông vào, Lý Tịnh cầm kích lướt tới ngăn lại.

Dương Tiễn đứng ngoài xem rõ, biết Cao Minh, Cao Giác không phải người, nhưng không rõ loài yêu gì hiện thân.

Dương Nhậm đánh với Cao Minh một hồi, liền lấy quạt Ngũ hỏa quạt một cái, Cao Minh la lên một tiếng, hóa khói đen bay mất.

Còn Lý Tịnh quăng cái tháp vàng lên, chụp Cao Giác, nhưng khi giở ra thấy cái tháp không.

Viên Hồng thấy hai tướng bại tẩu, liền sai Ngô Long, Thường Hạo ra tiếp.

Thường Hạo hét lớn:

– Có ta đến đây, chớ khá dễ ngươi.

Dương Tiễn nổi xung, giục ngựa ra cự chiến.

Ngô Long xông vào, bị Na Tra cản lại giao công, còn Viên Hồng quyết đánh một trận mà bắt Tử Nha liền xách thiết bảng vào trận.

Lôi Chấn Tử, Vi Hộ thấy Viên Hồng xông vào lập tức cản lại.

Lôi Chấn Tử vỗ cánh bay lên, giơ côn đập xuống, Vị Hộ quăng Gián ma xử đánh Viên Hồng.

Viên Hồng biết Gián ma xử là báu vật cầm trong tay thì nhẹ, nhưng quăng lên cao rớt xuống thì nặng như núi, nên hiện hào quang bay đi.

Gián ma xử sa nhằm con ngựa của Kim Viên Hồng nát như tương.

Dương Tiễn quăng Hạo thiên khuyển, Thường Hạo hóa gió bay đi.

Na Tra quăng nơm phép ra, Ngô Long hóa mây xanh bay mất.

Té ra Tử Nha thắng trận cũng như không, liền thâu binh về trại.

Dương Tiễn thưa:

– Cứ giao chiến như vậy thật vô ích. Khi thầy tôi gần về có dặn binh tới Mạnh Tân sẽ gặp Mai Sơn thất quái ngăn trở, phải ráng giữ gìn. Nay tôi thấy mấy tướng ấy đều có hào quang, chắc là chúng nó. Xin sư thúc phải dùng phép gì mới được.

Tử Nha suy nghĩ một hồi rồi lập trận bát quái cửu cung, sai Lý Tịnh trấn giữ hướng Ðông, Na Tra trấn giữ hướng Tây, Lôi Chấn Tử trấn giữ hướng Nam, Dương Nhậm trấn giữ hướng Bắc, Dương Tiễn thủ tại trung ương.

Các tướng đều đóng nọc bằng cây đào, trên nọc có dán bùa, bốn phía đều có cắm sẳn đồ ô uế như máu chó mực, gà ô, phân, nước tiểu.

Tử Nha lại trao mỗi tướng nột cái thiệp, dặn:

– Nếu thấy ta dụ Cao Minh, Cao Giác vào trận, phải dùng đồ ô uế đổ lên cây đào, thì loài yêu quái biến không được.

Lại dặn Dương Tiễn:

– Nếu ngươi thấy bốn cửa đổ vật ô uế trên nọc rồi thì ngươi dùng phép ngũ lôi đánh xuống.

Các tướng đều tuân lệnh, đâu đó sắp đặt sẳn sàng.

Bấy giờ Cao Giác nghe Tử Nha bàn soạn cũng nực cười.

Cao Minh thấy bố trận thì cười ngất. Bởi Cao Minh mắt thấy xa ngàn dặm, còn Cao Giác thì tai nghe ngàn dặm, cho nên việc gì trong trại binh Châu hai người cũng biết.

Hai anh em cười nói với nhau rằng:

– Chúng khéo bày chuyện con nít, dễ gì mà bắt anh em ta được.

Hôm sau Khương Thượng dẫn binh khiêu chiến.

Viên Hồng nghe tin sai Cao Minh, Cao Giác ra đón địch.

Hai anh em họ Cao ra trước trận cười lớn nói:

– Tử Nha! Ngươi xưng là đại Nguyên soái Tây Kỳ, song không bằng một đứa thất phu? Nếu ngươi có tài thì điều binh khiển tướng, sao lại đóng nọc đào, dán bùa tà, dùng phân với nước đái đàn bà mà làm gì. Ta không phải yêu tinh ủy mỵ, dùng phép tà đạo đâu.

Nói rồi áp tới đánh liền.

Nam Cung Hoát, Võ Kiết xông ra hỗn chiến, cái búa đồng của Cao Minh chạm với siêu đao của Nam Cung Hoát nẩy lửa, còn cây thương của Võ Kiết rất lẹ, địch với cây kích của Cao Giác cũng tài.

Tử Nha thấy bốn tướng đánh cầm đồng, liền múa gươm xông vào trợ chiến.

Ðánh được ít hiệp, Tử Nha giục Tứ Bất Tướng chạy ngay, Cao Minh cười lớn:

– Tử Nha, ta biết ngươi muốn dụ ta vào trận cửu cung bát quái, song ta há sợ sao.

Nói rồi Cao Minh, Cao Giác đồng đuổi theo Tử Nha.

Bấy giờ Lý Tịnh, Na Tra, Lôi Chấn Tử, Dương Tiễn đang trấn tại các cửa trận, thấy hai tướng rượt Tử Nha nhảy vào, liền vội vã đổ những vật ô uế lên đầu cây đào.

Dương Tiễn bắt ấn sấm nổ vang trời.

Vi Hộ và Tử Nha xông ra cố ý bắt hai tướng chẳng ngờ hai tướng ấy đã hóa hào quang xanh bay mất.

Tử Nha ngơ ngác thu binh về trại, nổi giận nói:

– Trong dinh có kẻ phản phúc, đem tin báo với giặc thì biết ngày nào thành công.

Dương Tiễn thưa:

– Xin sư thúc xét lại, binh tướng Tây Kỳ theo Nguyên soái đến đây, trước cự ba mươi sáu đạo binh, sau qua năm ải, nhiều trận sinh tử còn chưa nói lộ ra ngoài, huống chi nay đã gần tới Triều Ca lẽ nào theo giặc. Tôi coi Cao Minh, Cao Giác là loài yêu mỵ, chắc nó độn vào dinh nghe lóng mà thôi. Ðể tôi đi thăm dò, tìm cho ra gốc tích của nó rồi sẽ liệu.

Tử Nha nói:

– Ngươi định đi đâu bây giờ?

Dương Tiễn thưa:

– Không nên nói trước. Nếu bàn tính trước chúng biết được khó thành công.

Tử Nha không hỏi nữa, và tối hôm ấy Dương Tiễn một mình lén ra đi.

Bên kia, Cao Minh, Cao Giác vào dinh ra mắt Viên Hồng, thuật chuyện phá trận:

– Bữa nay Dương Tiễn đi đâu không biết, chắc là đi tìm lý lịch của chúng ta, song chúng nó làm gì tìm được?

Nói rồi ba tướng đồng cười với nhau.

Trong lúc đó, Dương Tiễn độn thổ đến động Kim Hà, thấy cửa đá đóng chặt, bèn gõ cửa và kêu.

Ðồng tử ra hỏi:

– Sư huynh về đây có chuuyện gì?

Dương Tiễn nói:

– Ta về yết kiến thầy có việc gấp, hãy vào thưa giùm.

Ðồng tử vào thưa lại. Ngọc Ðảnh chơn nhơn đòi Dương Tiễn vào và hỏi:

– Ngươi về đây làm gì?

Dương Tiễn đem hết các việc tường trình một hồi.

Ngọc Ðảnh chơn nhơn nói:

– Hai con quái vật ấy là Ðào Tinh, Liễu Quỷ. Ðào Tinh râu đỏ, Liễu Quỷ mặt xanh. Nguyên tại Kỳ bàn có cây liễu và cây đào lâu năm, lớn lắm, rễ bò ba mươi dặm, thọ khí âm dương nhờ hơi nhật nguyệt thành ra hai con tinh. Tại núi ấy có miễu Huỳnh Ðế Hiên viên, trong miễu có lên cốt hai con quỷ sứ bằng đất, một con tên là Thiên lý nhãn, một con tên là Thuận phong nhĩ, Ðào Tinh, Liễu Quỷ nhập vào hai cốt ấy, nên Thiên lý nhãn trông thấy ngàn dặm, Thuận phong nhĩ nghe xa ngàn dặm, nếu ngoài ngàn dặm thì không thấy, không nghe được. Vậy ngươi bảo Tử Nha sai người đến Kỳ Bàn sơn bứng gốc đào, cột liễu, đốt cho tiêu ra tro, và đập nát hai cái hình quỷ sứ trong miễu Hiên viên, thì nó hết linh, hết phép, rồi làm theo kế này, tự nhiên trừ tuyệt.

Dương Tiễn tuân lệnh từ tạ lui ra về, ra khỏi núi Ngọc Tuyền, trở lại Mạnh Tân.

Tử Nha thấy Dương Tiễn về ra mắt, liền hỏi:

– Ngươi đi việc ấy ra thế nào?

Dương Tiễn lắc đầu không nói.

Tử Nha hồ nghi hỏi:

– Bữa nay ngươi làm gì lạ vậy?

Dương Tiễn nói:

– Bữa nay đệ tử chưa dám tỏ bày, xin cho mượn cây cờ lệnh để sai khiến chút việc.

Tử Nha biết có việc mật nhiệm, nên không dám hỏi nữa, liền lấy cờ lệnh đưa ra.

Dương Tiễn lãnh cờ ra sau dinh điểm ba ngàn binh truyền hai ngàn quân cầm hồng kỳ phất bốn phía, còn một ngàn quân thì đánh trống, xáng thanh la, nghe chát lỗ tai trông lòa con mắt.

Tử Nha lấy làm lạ, không hiểu cớ gì.

Dương Tiễn lại gần thưa:

– Cao Minh, Cao Giác là Thiên lý nhãn và Thuận phong nhĩ, nên phất cờ đỏ cho Cao Minh không thấy, xáng thanh la cho Cao Giác không nghe.

Nói rồi thuật hết mọi chuyện, và thưa:

– Thầy tôi dạy trừ căn nó rồi phải dùng phép thiên la địa võng cho ngút khói tỏa tứ bề, dụ chúng nó vào vòng, quăng Ðả Thần Tiên đánh mới được.

Tử Nha mừng rỡ y lời, sai Lý Tịnh đem ba ngàn quân đào gốc hai cây ấy, lại sai Lôi Chấn Tử đi đập hai cốt quỷ sứ trong miễu Hiên viên.

Hai tướng đều tuân lệnh.

Lúc ấy Cao giác nghe bên binh Châu gióng chiêng nổi trống, liền bảo Cao Minh:

– Anh xem thử bên dinh Châu làm cái gì vậy?

Cao Minh nói:

– Cờ đỏ phất tứ bề, coi lòa con mắt, không thấy vật gì cả. Hiền đệ nghe thử chúng đang nói chuyện gì đó?

Cao Giác nói:

– Chiêng trống vang trời, chát lỗ tai muốn điếc, dầu nó nói chuyện gì cũng chẳng nghe được.

Hai anh em hồ nghi và tức tối vô cùng.

Còn Tử Nha đợi Lý Tịnh và Lôi Chấn Tử trở về mới dám bày binh bố trận.

Bữa sau, Lôi Chấn Tử trở về thưa:

– Tôi đập cốt trong miễu Hiên viên nát tan, và tự lịnh đốt luôn miễu ấy làm cho tuyệt tích trừ căn, để chúng nó hết chỗ nương dựa, đợi phạt Trụ xong sẽ cất miễu lại cho ngài.

Tử Nha khen phải, truyền Na Tra, Võ Kiết lập trận Ngũ hành, xung quanh đều có bùa, chính giữa để một cái chén.

Lập trận xong rồi, Lý Tịnh trở về thưa lại:

– Hai cây cổ thụ đã bị đào tận gốc.

Tử Nha mừng rỡ, chờ đến sáng đem quân ra khiêu chiến.

Bỗng nghe quân vào báo:

– Trịnh Luân vận lương đã về.

Tử Nha truyền vào, Trịnh Luân đem nạp quan ấn, và nghe Thổ Hành Tôn đã chết, Trịnh Luân buồn bã vô cùng.

Bấy giờ Viên Hồng đánh với binh Châu đã lâu mà không phân thắng bại, nhóm các tướng truyền rằng:

– Ðêm nay chúng ta thừa lúc bất ngờ đi cướp trại địch, quyết một chuyến cho thành công.

Nói rồi liền khiến Cao Minh, Cao Giác, Thường Hạo, Ngô Long, bốn người chia làm bốn hướng đi trước. Còn các tướng Ân Phá Bại, Lôi Khai, Ân Thành Tú, Lỗ Nhân Kiệt đi theo biến ứng.

Các tướng đều tuân lệnh kéo binh ra đi.

Cũng lúc ấy binh Châu, Tử Nha đang ngồi đàm đạo bỗng thấy trận gió thổi tới, cát bay mịt mù, liền đánh tay biết rõ, vội sai quân đóng nọc đào làm phù phép bủa lưới dưới trên như sa mù, nhìn không thấy trận rồi truyền Lý Tịnh thủ hướng Ðông, Dương Nhậm thủ hướng Bắc, Vi Hộ và Dương Tiễn thủ giữa đài. Còn Nam Cung Hoát, Võ Vương trong dinh. Các tướng đều tuân lệnh.

Ðến canh hai, Cao Minh, Cao Giác đi đầu, Thường Hạo, Ngô Long đi đội giữa, khi đến gần trại Châu chia làm bốn mặt công phá, còn các tướng Ân Phá Bại, Lôi Khai, Ân Thành Tú, Lỗ Nhân Kiệt cũng chia làm bốn đạo tiếp ứng.

Lỗ Nhân Kiệt nói với Ân Thành Tú:

– Ðêm nay đi cướp trại, chẳng những không thắng mà còn lâm hại nữa.

Ân Thành Tú hỏi:

– Vì sao vậy?

Lỗ Nhân Kiệt nói:

– Tử Nha dùng binh như thần, lại thêm nhiều tướng tài phép lẽ nào không đề phòng, chúng ta thủng thẳng đi sau, coi mòi bại trận thì chạy trước.

Lúc này Cao Minh, Cao Giác đã đến dinh Châu liền phát ba tiếng pháo.

Hai tướng xông vào hai mặt, Ngô Long và Thường Hạo tiếp theo.

Tử Nha đứng trên đài xõa tóc làm phép gió thổi mây bay, khói dậy sa mù tối tăm trời đất.

Hồi 91: Tử Nha lập kế thiêu Văn Hóa

Khi ấy Tử Nha làm phép trên đài, bủa thiên la, địa võng, cho nên Cao Minh, Cao Giác xông vào trại Châu thấy chớp giăng, sấm bủa binh ó trống rung.

Tử Nha đứng trên đài có Dương Tiễn bên tả, Vi Hộ bên hữu, Lý Tịnh, Dương Nhậm, Lôi Chấn Tử và Na Tra đồng chia ra bốn hướng trấn giữ vây phủ Cao Minh, Cao Giác. Cao Minh, Cao Giác không ngờ bị trận phủ vây tứ tướng, không biết đường nào mà chạy, bị Tử Nha quăng Ðả Thần Tiên đánh Cao Giác bể đầu, Cao Minh nát óc hai hồn bay về đài Phong thần.

Bấy giờ Viên Hồng nghe trong dinh Châu chiêng trống rầm trời, tiếng quân reo dậy đất, liền dẫn binh vào tiếp ứng, đến nơi thấy Vi Hộ đánh với Ngô Long, Vi Hộ quăng Gián ma xử, Ngô Long hóa hào quang bay mất, còn Thường Hạo đánh với Na Tra.

Na Tra quăng Cửu long thần hỏa trạo lên, Thường Hạo cũng hóa hào quang bay mất. Viên Hồng tức giận xông vào, bị Dương Nhậm cản lại, Viên Hồng đánh với Dương Nhậm một hồi, rồi hiện hình con vươn bạch trên đầu, cầm một cây côn đánh xuống. Dương Nhậm vừa lấy quạt ra toan quạt Viên Hồng nhưng không kịp, bị con vượn bạch trên đầu Viên Hồng cầm côn đánh xuống, trúng đầu Dương Nhậm chết tươi.

Tiếp đó hai bên hỗn chiến với nhau một hồi cho đến sáng, Tử Nha giống kiểng thâu quân. Dương Tiễn nói:

– Hôm nay tuy chúng ta giết được Cao Minh, Cao Giác nhưng lại mất Dương Nhậm thì cũng không gọi là thắng. Tôi xem Viên Hồng là yêu quái, ngặt không rõ vật gì hóa ra tôi xin đến núi Chung Nam mượn kiếng chiếu yêu đem về tìm căn nguyên của nó mới được. Nếu cứ để nó đón đường ở đây mãi biết bao giờ mới đến Triều Ca.

Tử Nha nói:

– Tướng quân tính rất hay, vậy phải đến núi Chung Nam gấp rồi về kẻo ta trông đợi.

Dương Tiễn đằng vân thẳng đến núi Chung Nam, vào ra mắt Vân Trung Tử, mượn kiếng chiếu yêu và nói:

– Chẳng biết Viên Hồng thuộc loại gì hóa thân?

Vân Trung Tử nói:

– Nó là bảy con quái tại Mai Sơn, sức ngươi bắt được nó còn dư.

Nói rồi đưa kiếng chiếu yêu cho Dương Tiễn.

Dương Tiễn từ tạ độn thổ về dinh thuật lại mọi việc với Tử Nha.

Lúc này bên dinh Thương, Viên Hồng cũng nóng lòng, triệu tập các tướng đến nghị kế phá địch. Viên Hồng hỏi:

– Các tướng ai có mưu chi trừ giặc không?

Ân Phá Bại nói:

– Lâu nay hai bên giao tranh không phân thắng bại, vừa rồi chúng ta lại mất hai vị đại tướng, nếu cứ giữ tình thế này mãi khó lòng, chi bằng ngày mai quyết ra giao tranh một trận cho phân thắng phụ.

Viên Hồng khen phải, liền ra lệnh chuẩn bị sẳn sàng, rạng ngày kéo quân đến trước dinh Châu khiêu chiến.

Tử Nha hay tin cũng dẫn binh tướng ra ngoài.

Viên Hồng giục ngựa đến trước, Tử Nha cản lại nói:

– Sao túc hạ không biết cơ trời, còn cản đường chư hầu để cho lê dân đồ thán? Như hàng đầu thì được phong hầu, còn nghịch mạng ắt không khỏi hối hận?

Viên Hồng cười nói:

– Ngươi bất quá là gã câu cá tại Bàn Khê, có tài gì dám khoe khoang như vậy.

Nói rồi quay lại bảo Thường Hạo:

– Bắt Khương Thượng cho ta.

Thường Hạo vâng lệnh giục ngựa tới, Dương Tiễn đón lại đánh liền.

Ðánh được mười lăm hiệp, Thường Hạo bại tẩu, Dương Tiễn đuổi theo và lấy kiếng chiếu yêu ra soi, thấy Thường Hạo nguyên hình là con Bạch xà rất lớn.

Khi ấy Thường Hạo hóa ra khói đen hiện hình Bạch xà, quyết hại Dương Tiễn.

Dương Tiễn cất kiếng chiếu yêu, chỉ còn thấy khói đen mà thôi, liền hóa hình thành một con rít lớn, có cánh hai càng sắt bén như hai cái kéo, bay vào trong khói đen, kẹp cổ con mãng xà té nhào.

Dương Tiễn hiện hình người, chặt đầu con rắn, rồi bắt ấn ngũ lôi hóa sấm, đánh thây con rắn nát như tro.

Viên Hồng thấy Thường Hạo chết rồi, nổi giận hét lớn:

– Dương Tiễn cả gan dám giết đại tướng của ta.

Nói rồi giục ngựa tới. Na Tra hiện ba đầu tám tay đón Viên Hồng mà đánh.

Dương Tiễn soi kiếng, thấy Viên Hồng là con Vượn bạch, biết vật linh khó trị lắm.

Na Tra đánh ít hiệp rồi lấy gươm phép quăng lên, chụp Viên Hồng mà đốt, chẳng ngờ Viên Hồng độn hỏa trốn khỏi.

Còn Ngô Long lướt tới đánh với Na Tra.

Dương Tiễn lấy kiếng soi, thấy con rít chúa.

Ngô Long đánh không lại, quày ngựa bỏ chạy. Na Tra giục đuổi theo.

Dương Tiễn kêu lại nói:

– Ðạo huynh, hãy nhường công ấy cho tôi.

Nói rồi giục ngựa đuổi theo Ngô Long.

Ngô Long thấy Dương Tiễn đến gần hiện khói đen, hóa hình con rít lớn phun độc. Dương Tiễn liền rùng mình, hóa ra một con gà ngũ sắc, cao lớn dị thường bay vào khói đen, mổ con rít lủng đầu rơi xuống.

Tử Nha thấy giết được hai tướng địch liền thâu binh về.

Ân Phá Bại và Lôi Khai xem thấy rắn rít, cười thầm nói với nhau.

– Yêu quái trổ mặt là điềm mất nước. Ai đời rắn rít mà lại cầm quân, làm đến Phó tướng.

Viên Hồng thấy các tướng bàn luận thẹn đỏ mặt, nói đỡ:

– Ta không ngờ Ngô Long, Thường Hạo là hai con tinh, thiếu chút nữa hỏng việc.

Các tướng đều nói:

– Tử Nha rất thao lược, bên dưới lại còn có nhiều tướng thần thông giúp sức, chúng tôi nhắm nơi đây khó giữ, chi bằng thâu binh về giữ Triều Ca nơi đó thành lũy chắc chắn, chư hầu đánh lâu sẽ nản lòng kéo binh trở về.

Viên Hồng nói:

– Các tướng nhu nhược quá thì làm sao có tinh thần đánh giặc, chốn này là nơi trọng đại, nếu bỏ giặc chiếm cứ thì giữ triều ca sao nổi. Ý kiến các ông là muốn rước giặc vào thành đấy.

Các tướng thấy Viên Hồng nói gắt, không ai dám vào bàn luận nữa, bỏ ra ngoài nói chuyện riêng, Lỗ Nhân Kiệt nói nhỏ với Âu Thành Tú:

– Nhắm Tây Châu thế nào cũng thu giang sơn nhà Thương, nên khiến triều đình phong yêu quái làm tướng. Chúng ta con dòng trung nghĩa mấy đời, bề nào cũng chết cho trọng tiết. Song ở đây liều mình theo yêu quái nhắm cũng chẳng ích chi, thà về thủ Triều Ca rồi chết.

Âu Thành Tú nói:

– Hiền huynh nói phải lắm, thà chết với vua chớ không chết với yêu quái. Vậy chúng ta thừa lúc chúng sai khiến bỏ trốn về Triều Ca cho yên.

Hai người bàn luận xong, trở vào hầu hạ Viên Hồng như cũ.

Kế đó có quan đốc lương đến bẩm với Viên Hồng:

– Lương chỉ còn đủ dùng năm ngày.

Viên Hồng viết biểu về Triều Ca xin vận lương, và hỏi các tướng:

– Ai muốn đi dâng sớ vận lương?

Lỗ Nhân Kiệt xin đi.

Viên Hồng nhậm lời.

Bấy giờ tại Triều Ca có một người mình cao hai trượng, sức mạnh vô cùng, đến nỗi chèo ghe trên bộ cũng như chạy dưới sông, một bữa ăn trọn một con bò, tay cầm một cây Bài bác mộc tên Ô Văn Hóa.

Hôm ấy, Ô Văn Hóa đến lấy bảng cầu hiền xin ra đánh giặc giúp nước.

Vua Trụ phong chức Oai võ tướng quân, truyền khâm sai dẫn đến Mạnh Tân cho Viên Hồng điều dụng.

Quân vào báo với Viên Hồng, Viên Hồng đòi vào, thấy Ô Văn Hóa cao lớn phi thường liền hỏi:

– Tướng quân chắc là tài trí phi thường, vậy có mưu gì đánh binh Châu không?

Ô Văn Hóa thưa:

– Tôi bất quá chỉ có sức mạnh thôi, vâng lệnh Thiên Tử đến đây cho Nguyên soái sai khiến.

Viên Hồng mừng rỡ nói:

– Có tướng quân giúp sức chắc bắt được Tử Nha.

Hôm sau, Ô Văn Hóa xin dẫn quân ra khiêu chiến.

Viên Hồng nhậm lời, Ô Văn Hóa đến trước dinh Châu, chống chỉa ba dưới đất kêu lớn:

– Hãy bảo Khương Thượng ra đây chịu chết.

Tử Nha nghe tiếng thét như sấm, nhìn ra thấy một người cao lớn phi thường, đứng vòi vọi như cây tre, chống chỉa ba dài quá. Ai nấy đều giựt mình.

Long Tu Hổ thưa:

– Tôi xin ra trận.

Nói rồi nhảy ra.

Ô Văn Hóa ngó xuống cười rằng:

– Ngươi là con tôm càng thành tinh thì phải.

Long Tu Hổ thấy Ô Văn Hóa râu dài ba thước hình tượng như thần Kim cang, liền lướt tới. Ô Văn Hóa hỏi:

– Vật gì nhảy ra đó?

Long Tu Hổ nổi giận mắng:

– Thất phu, vô lễ! Ta là học trò thứ ba của Khương Nguyên soái tên Long Tu Hổ, sao ngươi dám chế nhạo?

Ô Văn Hóa cười ngất, nói:

– Ngươi là súc sanh, không giống hình người, sao xưng học trò Tử Nha?

Long Tu Hổ nói:

– Ta là Oai võ tướng quân.

Ô Văn Hóa nói:

– Ngươi về kêu Tử Nha ra đây nạp mình chớ giết ngươi vô ích lắm.

Long Tu Hổ nổi giận quăng một cục đá.

Ô Văn Hóa đâm một chỉa ba.

Long Tu Hổ né khỏi, lưỡi chỉa ba lút xuống đất hơn ba thước rút không lên.

Khi Ô văn Hóa rút chỉa lên được lủng một chỗ đất sâu và trong lúc ấy cũng đã bị Long Tu Hổ quăng đá trúng cùng mình.

Ðứng chịu một lúc Ô Văn Hóa sưng cả mình mẩy đau quá bỏ chạy.

Long Tu Hổ đắc ý đứng cười ngất rồi trở về dinh nói với Tử Nha.

– Tướng ấy cao lớn nhưng vô dụng.

Tử Nha nghe nói cũng bỏ qua, không bàn đến chuyện Ô Văn Hóa vóc lớn nữa.

Còn Ô Văn Hóa cao giò chạy một lúc đã quá hai mươi dặm, nhìn lại thấy con tôm càng không đuổi theo mới ngồi xuống một gốc cây trên mé gò cao vén đầu gối xem thử các chỗ sưng rồi vò lưng, vò cổ một hồi cho bớt đau mới trở về dinh ra mắt Viên Hồng.

Viên Hồng thấy Ô Văn Hóa thuật chuyện liền quở rằng:

– Mới ra trận đầu sao không ráng thủ thắng?

Ô Văn Hóa nói:

– Tôi không ngờ con quái thú ấy quăng đá. Xin Nguyên soái bớt giận để đêm nay tôi cướp trại báo cừu.

Viên Hồng nói:

– Ngươi cố gắng giữ gìn ta sẽ đem binh theo giúp sức.

Canh hai đêm ấy dinh Châu nghe một tiếng pháo nổ rất lớn.

Ô Văn Hóa xông vào đâm chết binh tướng vô số.

Viên Hồng theo sau tiếp ứng hiện khí yêu mịt trời binh tướng chẳng thấy đường mà chạy.

Còn Tử Nha nghe tin Ô Văn Hóa cướp dinh thất kinh lấy Hạnh Huỳnh kỳ cỡi Tứ Bất Tướng bay mất.

Các đệ tử thấy cặp con mắt Ô Văn Hóa có ngời như hai ngọn đèn, đều hãi kinh, độn thổ đi hết.

Tứ hiền bảo vệ Võ Vương đi trốn còn các tướng sĩ ai chạy khỏi thì sống ai vô phước thì bỏ mạng.

Ô Văn Hóa xông vào dinh Châu như vào chỗ không người, cây chỉa ba đâm một cái có hơn mười tên quân bị chết một lượt, thật là chuyện hi hữu.

Xông vào đến trại gặp Long Tu Hổ, Ô Văn Hóa nổi giận đâm một chỉa ba Long Tu Hổ chết tốt.

Ô Văn Hóa cắt đầu, lần theo cửa trại ra đến sau dinh.

Dương Tiễn đang giữ kho lương đàng sau thấy Ô Văn Hóa đến, sợ Ô Văn Hóa đốt lương liền nhổ một cây cỏ biến ra một người cao lớn bằng hai Ô Văn Hóa kêu lớn:

– Ô Văn Hóa đừng tới nữa, có ta đây.

Ô Văn Hóa nhìn không rõ thấy người cao lớn ngỡ cha mình hiện hồn về liền kéo chỉa ba bỏ chạy.

Ðàng sau Dương Tiễn hiện hình cao lớn đuổi theo mãi bỗng gặp Viên Hồng tiếp ứng Dương Tiễn hét lớn:

– Tinh vượn chớ làm dữ, có Dương Tiễn đây.

Nói rồi xáp vào hỗn chiến.

Ðánh vài hiệp Dương Tiễn thả Hạo thiên khuyển ra.

Viên Hồng trông thấy liền hóa hào quang bay mất.

Nhắc lại các chư hầu nghe nói có người cao lớn cướp dinh liền đem binh đến cứu.

Hai bên quân lính chống cự với nhau cho đến sáng mới trở về.

Còn Tử Nha cùng các đệ tử theo phò Võ Vương chạy mãi cho đến sáng mới dám tìm đường về trại, điểm binh hao hơn hai mươi vạn, tướng trận hao hết ba mươi bốn người. Thật từ lúc khởi binh đến nay chưa trận nào Tử Nha thất bại như vậy.

Kế đó Tử Nha được tin Long Tu Hổ bỏ mình buồn rầu không kể xiết.

Dương Tiễn thuật lại việc hóa hình dọa Ô Văn Hóa và giao tranh với Viên Hồng.

Tử Nha khen:

– May nhờ tướng quân có phép thần thông nếu không binh lương đều tiêu hết. Bởi ta sơ ý không ngờ con người vũ phu ấy lại có trí đến cướp trại.

Viên Hồng thắng trận liền dâng sớ về báo với Trụ Vương.

Trụ Vương được tin binh Châu chết mười muôn thì không còn lo sợ nữa, đờn ca yến tiệc suốt canh thâu.

Bấy giờ Dương Tiễn bàn với Tử Nha:

– Phải tính trừ Ô Văn Hóa trước rồi mới phá Viên Hồng.

Tử Nha nói:

– Trừ đứa vũ phu ấy chẳng khó gì.

Liền ra một mật kế trao cho Dương Tiễn.

Dương Tiễn lãnh mạng đến núi Mạnh Tân dọ đường vào nơi Bàng long cách dinh Châu chừng sáu mươi dặm đặt địa lôi dưới đường, hai bên dùng bổi khô chất sẳn.

Lúc ấy Trụ Vương mừng thắng trận sai người đem áo cẩm bào và rượu thịt thưởng Viên Hồng và Ô Văn Hóa.

Hai người tạ ơn, Viên Hồng nói với Ô Văn Hóa:

– Thiên Tử hậu đãi như vậy, chúng ta phải hết lòng giúp nước.

Ô Văn Hóa nói:

– Ðể ngày mai tôi xuất kỳ bất ý bắt Khương Thượng mà ban sư.

Viên Hồng truyền mở yến tiệc khao quân.

Trong lúc đang ăn uống bỗng có quân vào báo:

– Võ Vương và Khương Thượng đang xem lén dinh ta.

Viên Hồng liền sai Ô Văn Hóa lẻn ra ngõ sau, đi vòng bắt Võ Vương và Khương Thượng.

Ô Văn Hóa vâng lệnh xách chỉa ba bọc ngõ sau, chạy ồ tới la lớn:

– Khương Thượng! Ngươi chạy đâu cho khỏi, phen này ta quyết bắt ngươi mà dâng công.

Võ Vương thất kinh giục ngựa chạy trước, Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng theo sau.

Ô Văn Hóa thấy hai người chạy qua Tây Nam, thì mừng lắm, liền cong lưng đuổi riết.

Tử Nha làm bộ ngó lại nói:

– Xin Ô tướng quân trở về, dung cho chúa tôi một thuở, chúng tôi nguyện kéo binh về Tây Kỳ, không dám làm loạn nữa.

Ô Văn Hóa đắc ý nói:

– Nếu tha chúng bay phen này thì ngàn đời không còn gặp cơ hội này nữa.

Vừa nói vừa chạy như dông. Nhưng Ô Văn Hóa chạy bộ nên đuối chân chỉ được năm mươi dặm thì chậm lại.

Tử Nha kêu lớn:

– Ngươi dám đánh với ta ba hiệp chăng?

Ô Văn Hóa nghe nói khích nổi giận lướt tới:

– Ta lại gì sợ ngươi sao?

Nói rồi múa chỉa ba đâm thật mạnh.

Tử Nha làm cách sợ sệt, bỏ chạy nữa.

Ô Văn Hóa thấy hai người chạy vào đường núi, lòng mừng khấp khởi, nói lớn:

– Chúng bay chạy vào đây chẳng khác con thú cùng đường. Ta chỉ còn có việc bắt đem về làm thịt mà thôi.

Hồi 92: Dương Tiễn ra tài bắt Tử Chân

Nhắc lại Ô Văn Hóa rượt Võ Vương và Tử Nha.

Hai người này chạy đến giữa núi liền tìm đường ẩn thân, còn Ô Văn Hóa chạy theo hoài không thấy đâu cả, chẳng ngờ Nam Cung Hoát và Võ Kiết xô cây lấp đường đốt ngòi lôi một tiếng nổ chát chúa những bổi khô cháy sáng trời nóng như một cái lò bát quái. Thương hại Ô Văn Hóa bị cháy trong động lửa hồng, không còn đường nào chạy thoát.

Có bài thơ rằng:

Tài cao sức mạnh cướp dinh Châu,

Mấy vạn hùng binh thảy rụng đầu

Khinh địch, không mưu theo đuổi nột,

Vào hang bị lửa tợ thui trâu.

Nam Cung Hoát và Võ Kiết thấy Ô Văn Hóa cháy thui rồi, liền trở về thưa lại với Tử Nha.

Tử Nha nói với Dương Tiễn:

– Nay đã trừ được Ô Văn Hóa rồi tướng quân liệu cách gì phá Viên Hồng?

Dương Tiễn nói:

– Viên Hồng là con vượn bạch ở núi Mai Sơn nên linh thiên và thần thông lắm phải chậm rãi tính kế trừ mới được.

Tử Nha nói:

– Vậy chúng ta cứ ở đây đợi Ðông Bá Hầu đến sẽ kéo binh qua Mạnh Tân một thể.

Bấy giờ Viên Hồng nghe tin Ô Văn Hoá bị thiêu chết trong đường núi lấy làm buồn bã. Bỗng có quân vào báo:

– Có một thầy sãi xin ra mắt.

Viên Hồng truyền mời vào và hỏi:

– Thầy ở đâu? Ðến đây dạy việc chi?

Thầy sãi nói:

– Tôi họ Trư, tên Tử Chân ở núi Mai Sơn cách chỗ Nguyên soái một đỗi, Nghe tin Nguyên soái cầm binh nên tìm vào giúp sức.

Viên Hồng mừng rỡ mời ngồi và nói:

– Nếu vậy thì tốt lắm.

Ân Phá bại nói nhỏ với Lôi Khai:

– Không xong rồi có yêu đến nữa.

Còn Viên Hồng trọng Trư Tử Chân lắm, truyền dọn tiệc đãi đằng.

Bữa sau Trư Tử Chân cầm gươm dẫn quân đến trước dinh Châu khiêu chiến.

Quân vào báo, Tử Nha dẫn Nam Cung Hoát và Bắc bá hầu ra trận, các đệ tử đều theo hầu.

Ra đến nơi thấy một người thầy chùa lai râu cạo mới ra mặt đen như mực, môi dài tai lớn, mày rậm mắt lồi.

Tử Nha hỏi:

– Ngươi ở đâu mới đến?

Tử Chân nói:

– Ta là Trư Tử Chân ở núi Mai Sơn.

Tử Nha nói:

– Sao không ở núi cho an thân lại đến đây nạp mạng?

Tử Chân cười lớn nói:

– Nhà Thương truyền ngôi hai mươi mấy đời, chúng bây hưởng lộc cả bầy sao nay nỡ làm phản? Ta đến đây thì chúng bay phải tỉnh ngộ quy hàng bằng cãi lời chết không còn một đứa.

Tử Nha mắng:

– Súc sanh! Chết đến nơi mà không biết lại múa lưỡi làm hung.

Trư Tử Chân cầm gươm lướt tới.

Phó tướng Nam Bá Hầu là Dư Trung ỷ mạnh cầm thiết bản xông ra.

Tủ Chân thấy tướng ấy mặt đỏ hầm như trái táo, ba chòm râu dài liền vung đao hỗn chiến.

Ðánh được hai mươi hiệp Tử chân bỏ chạy, Dư Trung thừa thắng đuổi theo.

Tử Chân hả miệng khói đen bay ra ngùn ngụt kín một vùng, liền hiện hình heo rừng cắn đứt nửa thân hình Dư Trung mà nuốt.

Ðoạn Trư Tử Chân hiện hình người trở lại kêu lớn:

– Khương Thượng dám đánh với ta chăng?

Dương Tiễn giục ngựa tới nạt lớn:

– Có ta đây.

Nói rồi hỗn chiến. Ðánh ít hiệp Tử Chân cũng bỏ chạy nữa, Dương Tiễn cũng đuổi theo Tử Chân cũng hiện nguyên hình heo rừng, cắn Dương Tiễn ăn thịt như Dư Trung.

Tử Nha thấy vậy liền truyền quân gióng kiểng thâu quân.

Trư Tử Chân thắng trận hăm hở về dinh thuật chuyện với Viên Hồng.

Viên Hồng mừng rỡ làm tiệc khoản đãi.

Trong lúc đang uống rượu có quân vào báo.

– Ngoài dinh có một vị anh hùng xin vào ra mắt.

Viên Hồng truyền mời đến.

Người ấy bước vào ra mắt. Người này mặt trắng phau phau, râu dài đuôn đuột, trên đầu có hai cái sừng như hai sừng dê, Viên Hồng hỏi:

– Tráng sĩ quê quán ở đâu?

Người ấy thưa:

– Tôi họ Dương tên Hiển, ở núi Mai Sơn.

Viên Hồng mừng rỡ mời ngồi vào tiệc.

Tử Chân và Dương Hiển khoe tài với nhau.

Ân Phá Bại nghi là người cũng một đảng với Viên Hồng, nên ngồi nhìn Lôi Khai cười chúm chím.

Uống rượu đến canh hai tiệc chưa mãn.

Bỗng nghe trong bụng Tử Chân có tiếng nói:

– Tử Chân! Ngươi biết ta là ai không?

Tử Chân thất kinh, hỏi:

– Người là ai? Ở đâu mà nói đó?

Lúc này Dương Tiễn ở trong bụng Tử Chân, thấy Tử Chân không biết, cười lớn nói:

– Ta là Dương Tiễn, học trò Ngọc Ðảnh chơn nhơn, đang ở trong bụng ngươi. Bởi ngươi ở Mai Sơn ăn thịt nhiều người, nay đã tới số. Ta rút bộ đồ lòng của ngươi để ngươi chừa thói cũ.

Nói rồi chà vào gan ruột Tử Chân.

Tử Chân đau quá la lớn:

– Ðau chết đi! Xin đại tiên làm ơn đừng chê trách loài súc vật.

Dương Tiễn hỏi:

– Ngươi muốn sống hay muốn chết?

Tử Chân thưa:

– Xin đại tiên mở lòng thương phận súc sanh dày công tu luyện nay mới được thành hình người.

Dương Tiễn nói:

– Nếu ngươi muốn sống thì hiện nguyên hình qua quỳ trước dinh Châu thú tội. Còn cãi lời ta xé mất một nửa lá gan.

Tử Chân sợ chết song nghĩ lại hiện nguyên hình, khó coi lắm, nên cứ năn nỉ cầm chừng. Dương Tiễn hỏi lớn:

– Ngươi trái lệnh ta phải không? Nói cho ta biết đặng ta ra tay cho sớm?

Tử Chân sợ chết bất đắc dĩ phải hiện nguyên hình con heo rừng chạy lon ton ra cửa trại.

Còn Viên Hồng hổ ngươi ngồi gãi má, Dương Hiển mắc cỡ gục đầu.

Các tướng ngồi ngẩn ngơ, ba quân bịt miệng nhau cười chúm chím.

Heo rừng ngoắt đuôi chạy miết đến trại Châu quỳ trước cửa dinh.

Bấy giờ trống đã trở canh tư Nam Cung Hoát đi tuần tới cửa trại thấy một con heo ngồi sù sụ, liền kêu binh sĩ dậy:

– Ấy là heo của dân đi lạc, chúng bay đừng bắt nó, để sáng có ai nhìn thì cho lại.

Dương Tiễn ở trong bụng heo, nói:

– Không phải đâu! Ấy là trư tinh ở Mai Sơn. Nay tôi đã vào trong bụng mà bắt nó, xin tướng quân báo cho Nguyên soái rõ.

Nam Cung Hoát nghe tiếng nói biết Dương Tiễn liền sai người thỉnh Tử Nha dậy và bẩm lại mọi điều.

Tử Nha truyền thắp đèn đuốc sáng rỡ như ban ngày nổ một tiếng pháo lệnh, các chư hầu và các tướng đồng theo tử Nha ra trước cửa dinh, thấy một con heo rừng quá lớn.

Tử Nha hỏi:

– Sao ngươi đến đây chịu chết?

Dương Tiễn ở trong bụng thưa:

– Xin Nguyên soái truyền chém nó đi cho tuyệt hậu họa.

Tử Nha truyền Nam Cung Hoát chém một đao, đầu heo rơi xuống đất, máu phụt đỏ ối. Dương Tiễn theo vòi máu ấy nhảy ra, ai nấy đều lạ lùng.

Tử Nha truyền bêu đầu heo rừng trước cửa.

Viên Hồng và Dương Hiển hay việc tồi tệ như vậy không lẽ làm thinh.

Viên Hồng nói:

– Chúng ta tu luyện ở núi Mai Sơn cả ngàn năm, một người bị hiện nguyên hình làm cho hư danh cả bọn, xấu hổ biết chừng nào! Ta quyết bắt Tử Nha báo cừu mới hả giận.

Dương Hiễn nói:

– Dương Tiễn ỷ tài cao phép lạ, làm cho Tử Chân mắc kế. Nếu không báo thù thì chẳng phải là người.

Bỗng có quân vào báo:

– Có thiên sứ đến.

Viên Hồng ra nghinh tiếp.

Thiên sứ vào truyền:

– Nay vâng chỉ đem cho tướng quân một người tài năng, để tướng quân sai khiến.

Viên Hồng vâng chỉ đưa Thiên sứ ra khỏi dinh rồi trở vào hỏi người mới đến:

– Tướng quân tên chi?

Người ấy thưa:

– Tôi họ Ðài tên Lễ, quê ở Mai Sơn, nghe vua cầu hiền nên đến giúp nước.

Viên Hồng nói với các tướng:

– Nay có người tài đến giúp, chúng ta đồng ra hỗn chiến một trận cho biết thấp cao.

Nói rồi dẫn quân đến trại Châu khiêu chiến.

Quân vào báo.

Tử Nha dẫn các tướng ra trận, nói:

– Viên Hồng, ngươi không biết cơ trời, binh tướng mỗi ngày mỗi hại, sức ngươi như châu chấu đá xe, làm sao chống nổi?

Viên Hồng cười lớn nói:

– Dầu ngươi có thiên binh ngàn tướng cũng không thể vượt qua khỏi Mạnh Tân này.

Nói rồi quay lại hỏi các tướng:

– Có ai ra bắt Khương Thượng cho ta?

Dương Hiển liền giục ngựa tới, vung đao chém Khương Thượng, Dương Tiễn đón lại cự địch.

Ðài Lễ múa cặp đao xông vào nói:

– Dương huynh hãy cố gắng, có tôi trợ lực đây.

Na Tra xông ra đón Ðài Lễ lại, hỏi:

– Ngươi là ai? Hãy nói nghe thử?

Ðài Lễ đáp:

– Ta là phó tướng tên Ðài Lễ.

Nói rồi đánh vùi với Na Tra.

Dương Tiễn đánh với Dương Hiển được ba chục hiệp, Dương Hiển liền quay người bỏ chạy.

Dương Tiễn đuổi theo, lấy kiếng chiếu yêu ra rọi, thấy một con dê núi, đang phun hào quang trắng xóa, che khuất một vùng, rồi hiện hình dê núi đứng chờ Dương Tiễn.

Dương Tiễn hóa ra một con cọp, nhảy đến chụp con dê.

Dê thấy cọp sợ quá kêu lên một tiếng lăn cù dưới đất.

Dương Tiễn hiện lại hình người chém đầu dê xách về trước trại nói lớn:

– Bẩm Nguyên soái, tôi đã giết được con quái này rồi.

Còn Ðài Lễ hỗn chiến với Na Tra một hồi, rồi phun một cục châu đỏ lớn bằng cái chén. Na Tra trông thấy thất kinh bại tẩu.

Dương Tiễn xông ra kêu lớn:

– Ðài Lễ! Ngươi chớ hành hung, có ta đến đây.

Nói rồi xông vào hỗn chiến.

Ðánh được ba mươi hiệp, Ðài Lễ bỏ chạy.

Dương Tiễn đuổi theo, Ðài Lễ phun trái châu, Dương Tiễn quăng Hạo thiên khuyển lên, Ðài Lễ chạy không kịp bị chó cắn nhằm.

Trong lúc Ðài Lễ lúng túng, Dương Tiễn chém một đao. Ðài Lễ rụng đầu, coi lại là con chó sói.

Tử Nha thấy thắng trận truyền gióng kiểng thâu về.

Còn Viên Hồng nghe tin hai tướng mình bị chết. Bối rối chưa biết tính sao, bỗng có quân vào báo:

– Có một vị tướng xin ra mắt.

Viên Hồng truyền vào thấy tướng mình cao mười sáu thước đầu mọc cặp sừng, áo đỏ giáp vàng, tai nhọn môi trớt, vào bái Viên Hồng.

Viên Hồng hỏi:

– Tướng quân tên họ là chi?

Người ấy thưa:

– Tôi họ Kim tên Ðại Thăng, quê quán ở Mai Sơn.

Viên Hồng truyền dọn tiệc đãi đằng.

Bữa sau Kim Ðại Thăng cỡi thú một sừng cầm đao, đến trước trại Châu khiêu chiến.

Quân vào báo, Tử Nha hỏi các tướng:

– Ai muốn ra trận?

Trịnh Luân bước tới xin đi, Tử Nha nhận lời.

Trịnh Luân cỡi thú ra trước trận hỏi lớn:

– Ngươi là ai đó?

Kim Ðại Thăng nói:

– Ta là phó tướng Kim Ðại Thăng. Còn ngươi tên họ là chi?

Trịnh Luân nói:

– Ta là Quan lương Trịnh Luân. Ta xem tướng ngươi kỳ dị, không phải loài người. Sao lại đến đây mà chịu chết?

Kim Ðại Thăng nổi giận giục con thú một sừng lướt tới, múa đao chém liền.

Trịnh Luân đỡ ra và đánh lại.

Ðánh được ít hiệp Kim Ðại Thăng phun cục Ngưu hoàng to bằng cái chén, trúng vào mặt Trịnh Luân. Trịnh Luân té nhào xuống ngựa, Kim Ðại Thăng chém một đao đứt làm hai khúc.

Quân vào báo với Tử Nha:

– Kim Ðại Thăng chém chết Trịnh Luân rồi.

Tử Nha than:

– Trịnh Luân từ khi theo Tô Hầu về Châu công trận rất nhiều không ngờ bữa nay bị tướng vô danh sát hại.

Các tướng đều buồn bã, ai nấy thương tiếc vô cùng.

Có bài thơ rằng:

Phép nhiệm thâu hồn ít kẻ đang,

Nào hay tới số bởi tay ngang

Gió thổi linh hồn nương mây bạc,

Vào cửa phong thần hưởng khói nhang.

Bữa sau Tử Nha hỏi các tướng:

– Ai muốn ra trận báo cừu cho Trịnh Luân?

Dương Tiễn lãnh mạng, cầm giáo lên ngựa, đến trước trại Thương kêu lớn:

– Kim Ðại Thăng hãy ra đây trả nợ máu.

Quân vào báo, Kim Ðại Thăng cỡi thú một sừng, cầm giáo ba mũi, xông ra.

Hai bên đánh được ba mươi hiệp, Kim Ðại Thăng phun cục Ngưu hoàng bay ra như than lửa đỏ.

Dương Tiễn không biết vật gì, phải hóa hào quang bay tránh qua hướng Nam, Kim Ðại Thăng giục thú đuổi theo.

Dương Tiễn lấy kiếng chiếu yêu ra coi, thấy nó là một con trâu nước, liền định cách biến hóa để trừ nó, xảy có mùi hương bát ngát, xa xa có ngọn phướng phất phơ, có tám nàng đồng nữ theo hầu.

Nàng đồng nữ kêu lớn:

– Dương Tiễn! Mau đến ra mắt nương nương.

Dương Tiễn không biết là ai, song cũng quỳ lạy thưa:

– Ðệ tử là Dương Tiễn, xin làm lễ nương nương.

Ðạo cô nói:

– Ta là Nữ Oa, vì thấy Trụ mạt Châu hưng, nên đến giúp ngươi bắt Mai Sơn thất quái.

Nói rồi truyền Thanh Vân đồng nữ đem dây phục yêu bắt Ngưu tinh.

Thanh Vân đồng nữ vâng lịnh, cầm dây đến đón đầu.

Bỗng thấy Kim Ðại Thăng giục thú một đầu chạy tới Thanh Vân đồng tử cản lại, kêu lớn:

– Yêu nghiệt! Ta vâng lệnh nương nương đến đây bắt ngươi đây.

Kim Ðại Thăng liền chém một đao.

Thanh Vân đồng tử tránh khỏi, quăng Phục yêu sách lên, sai Huỳnh Cân lực sĩ bắt Kim đại Thăng xỏ mũi, rồi giơ trái chùy đánh trên lưng ba bốn cái.

Kim Ðại Thăng rống lên ba tiếng, hiện hình con trâu nước.

Huỳnh Cân lực sĩ giao trâu nước cho đồng nữ bắt đem nộp cho Nữ Oa.

Dương Tiễn mừng rỡ, tạ ơn.

Nữ Oa đạo cô dặn:

– Dương Tiễn, ngươi dắt con trâu nước này đem về dinh cho Khương Nguyên soái xử tội. Chẳng bao lâu ta cũng cho phép ngươi bắt Viên Hồng.

Dương Tiễn tạ ơn, dắt trâu về trại.

Nhắc lại khi Tử Nha nghe tin Dương Tiễn hiện hào quang bại tẩu, còn Kim Ðại Thăng hồng hộc đuổi theo lòng lo lắng không an.

Na Tra thưa:

– Dương Tiễn có thất thập nhị huyền công, có gì mà sợ?

Tử Nha nói:

– Nay Ðông Bá Hầu chưa đến lại thêm thất quái ngăn đường nên ta lo sợ lắm.

Bỗng có quân vào báo:

– Dương Tiễn đã về.

Tử Nha mừng rỡ đòi vào.

Dương Tiễn thuật hết mọi việc và thưa.

– Xin Nguyên soái ra xem tôi trị tội yêu quái.

Tử Nha mừng rỡ dắt các chư hầu đồng đến cửa trại, thấy một con trâu nước rất lớn đang bị xỏ mũi, đứng thở khì khì.

Tử Nha sợ nó sút chạy giựt sứt dây mũi, nên truyền lấy dây sỏ thêm cột chặt rồi bảo Nam Cung Hoát khai đao.

Nam Cung Hoát lấy hết sức mạnh chém vào cổ trâu đến ba lần đầu trâu mới rụng, tám mươi vạn binh đều khen Nam Cung Hoát có sức mạnh phi thường.

Viên Hồng hay tin ấy, tính lại bảy anh em ở Mai Sơn đã chết hết sáu, chỉ còn có một mình thật khó nỗi tới tui.

Tuy Viên Hồng có thất thập nhị huyền công, nhắm cũng khó bề cự được.

Còn Khương Thượng vào dinh ra khách hỏi Dương Tiễn:

– Mai Sơn thất quái hiện nay đã trừ được mấy con?

Dương Tiễn vào thưa:

– Ðã giết hết sáu con, chỉ còn một con vượn già.

Tử Nha nói:

– Thế thì đêm nay hội chư hầu đi cướp trại, ta giao phần ngươi chống cự với Viên Hồng. Hễ trừ được nó thì an mọi việc.

Dương Tiễn nói:

– Con vượn già này nhiều phép tắc lắm xin cho Na Tra theo tôi để phòng rủi ro.

Na Tra bước tới cười hì hì:

– Anh có thất thập nhị huyền công mà sợ con vượn già sao?

Dương Tiễn nói:

– Nó là loài khỉ, tu luyện ngàn năm, thần thông đáo để. Các loài thú ta chỉ sợ có khỉ mà thôi.

Tử Nha nói:

– Nếu vậy thì Na Tra theo bảo vệ Dương Tiễn cho hết lòng.

Tử Nha phân binh xong rồi, đợi tối hôm ấy cướp trại.

Bên kia Viên Hồng rầu rĩ, gượng khách nói với Lôi Khai và Ân Phá Bại:

– Binh Châu đông quá ta sợ khó giữ được chỗ này. Vậy hai ngươi phải dâng sớ viện binh, chớ nên chậm trễ.

Hai tướng y lời.

Ðêm ấy vào hết canh hai, Tử Nha dẫn binh tướng kéo đến trại Viên Hồng, phát lên một tiếng pháo, Nam Bá Hầu Ngạc Thuận dẫn hai trăm chư hầu vào cửa trước, Bắc Bá Hầu Sùng Ứng Loan vào cửa tả, Lý Tịnh, Vi Hộ, Lôi Chấn Tử cửa hữu.

Na Tra, Dương Tiễn xông vào giữa quyết bắt Viên Hồng.

Viên Hồng hay tin quân Châu cướp dinh mặt mày kinh hãi, cầm thiết côn nhảy ra khỏi trướng đã gặp Na Tra và Dương Tiễn xông vào hai bên hỗn chiến ầm ầm.

Lúc này binh Châu vào dinh Thương như cọp vào chuồng dê, muốn giết bao nhiêu cũng được, thây nằm chật đất, máu chảy thành sông.

Dương Tiễn đánh với Viên Hồng không phân thắng bại, vì cả hai đều có thất thập nhị thần công.

Na Tra xen vào trợ lực, nhưng cũng không có ích lợi chút nào, sau cùng đứng bên ngoài để xem hai người đánh nhau.

Viên Hồng hiện nguyên hình trên cao đánh xuống, Dương Tiễn hiện hào quang bay tới chém liền, Viên Hồng hiện hào quang đỡ.

Hai bên đâm chém thế nào cũng không trúng, đánh như gió thoảng mây bay, Dương Tiễn tức giận nói:

– Con khỉ này lợi hại quá. Nếu bắt được ngươi ta lột da.

Viên Hồng nói:

– Ta sẽ bắt ngươi mổ mật mà báo cừu.

Hai người đều biến hóa đủ hình, vì mỗi người đều có bảy mươi hai phép biến, biến đủ hình cây cỏ, chim cá, cầm thú, vân vân.

Ví dụ: Người này biến ra voi, người kia biến ra cọp mà cự, người này biến lại sư tử đánh cọp, người kia biến ra chim bay đi, người này biến bò cắt đâm chim, người kia biến rắn mà trốn. Người này biến rít chạy theo, người kia biến gà mà mổ. Người này biến chồn bắt gà, người kia biến chó sói cự với chồn…

Viên Hồng thấy mình biến vật chi, thì Dương Tiễn đều biến vật khác cự lại, nhắm chừng khó thắng được, bất quá thì cầm đồng, nên nghĩ thầm:

– Nay Ân Phá Bại và Lôi Khai đều chạy trước, còn dinh trại đã bị cướp mất rồi, chi bằng dụ Dương Tiễn đến Mai Sơn, nơi ổ hang của mình nó sẽ thất thế, chừng ấy sẽ tìm cách giết nó báo cừu.

Nghĩ rồi liền trá bại chạy về núi Mai Sơn.

Dương Tiễn đuổi theo bén gót.

Còn Na Tra thấy Dương Tiễn và Viên Hồng tài phép phi thường, dẫu có đuổi theo cũng chẳng đánh được ai, và cũng chẳng giúp được gì, nên ở lại phá dinh với các tướng.

Còn Lôi Khai và Ân Phá Bại lúc này đã chạy trước về Triều Ca, chỉ còn một số binh suy tướng nhược, còn lại quân chư hầu giết sạch.

Ðến sáng chỉ còn cái trại trống trơn.

Tử Nha truyền đốt hết binh trại rồi thâu binh về.

Nói về Viên Hồng thấy Dương Tiễn đuổi theo bén gót, liền bỏ ngựa đằng vân về núi Mai Sơn, Dương Tiễn cũng vội bỏ ngựa đằng vân theo lập tức.

Viên Hồng túng thế hóa ra cục đá.

Dương Tiễn tìm hoài không thấy liền trợn con mắt giữa, thấy cục đá biết là Viên Hồng liền hóa ra người thợ cầm mũi đục đến đục.

Viên Hồng thất kinh liền hóa gió bay mất.

Dương Tiễn theo đến núi Mai Sơn, tìm Viên Hồng không thấy, lại thấy bầy khỉ cả ngàn con, cầm gậy xúm lại vây đánh.

Dương Tiễn biết Viên Hồng hóa ra, song một mình khó cự, liền hóa hào quang bay đến một chót núi khác.

Bỗng nghe mùi hương tiếng nhạc, Nữ Oa nương nương hiện đến.

Dương Tiễn cúi đầu làm lễ, Nữ Oa nương nương nói:

– Ngươi đã rõ phép thuật của Viên Hồng chưa?

Dương Tiễn thưa:

– Con vượn già thật thần thông quảng đại. Tôi không thể thắng được.

Nữ Oa nương nương nói:

– Nó là con khỉ hấp tinh nhật nguyệt thuận khí càn khôn, ngươi là học trò của Ngọc Ðảnh chơn nhơn, ròng nghề biến hóa song cũng không thể nào trừ được. Dầu cho những vị tiên trưởng trên thượng giới, mà không biết cách cũng không giết nó được.

Dương Tiễn thưa:

– Nương nương biết cách nào trừ được con vượn bạch này thì chúng tôi rất đội ơn.

Nữ Oa nương nương nói:

– Ðể ta cho ngươi một phép báu mới bắt nó được.

Nói rồi trao cho Dương Tiễn một bức họa đồ.

Dương Tiễn tạ ơn.

Nữ Oa nương nương trở về cung.

Dương Tiễn giở bức họa đồ ra thấy bên trên có đề năm chữ:

“Sơn hà xã tắc đồ”, giữa họa đồ có vẽ núi sông bên dưới có hàng chữ dạy cách dùng phép ấy, cũng như bản thái cực đồ của Lão Tử vậy.

Dương Tiễn cứ theo phép ấy mà làm, treo bức họa đồ trên một cành cây lớn rồi trở lại núi Mai Sơn.

Viên Hồng thấy Dương Tiễn trở lại, liền gọi lớn:

– Dương Tiễn! Ngươi còn đến đây nạp mình sao?

Dương Tiễn cười ngất, nói:

– Thôi rồi! Lần này thì chắc ngươi phải chết.

Nói rồi cầm giáo gõ lên đầu Viên Hồng rồi bỏ chạy.

Viên Hồng nổi giận đuổi theo.

Dương Tiễn dụ Viên Hồng đến chỗ có treo bản đồ sơn hà xã tắc.

Bản đồ hiện ra phong cảnh núi non rất đẹp.

Dương Tiễn dụ Viên Hồng vào bản đồ ấy, rồi nhảy xuống đất đứng nhìn.

Hồi 93: Kim Tra lập kế đoạt ải Du Hồn

Nói về Viên Hồng lên bức họa đồ mà tưởng như mình đang lên một hòn núi rất đẹp, phong cảnh tốt đẹp, cỏ hoa muôn sắc.

Viên Hồng cảm thấy thảnh thơi, dạo gót khắp nơi, xem cùng bốn phía rồi hiện hình vượn bạch đi kiếm trái cây mà ăn. Hễ tưởng gì thì có nấy, chẳng khác bức Thái Cực Ðồ. Viên Hồng đang tìm trái cây thì nghe mùi hương thơm ngát, thấy trên cây đào có trái chín, liền làm bộ khỉ, nhảy nhót trên cây, đu từ cành này sang cành khác hái được vài trái đào, để vào mũi ngửi rồi ăn. Ðoạn nhảy xuống gốc cây, ngồi trên thạch bàn hóng mát.

Dương Tiễn thấy con vượn bạch nhảy nhót trên họa đồ, lại hái đào mà ăn, rồi ngồi yên trên bàn thạch, thì cứ làm theo lời dạy trên bức họa đồ, cầm đao nhảy lên đón đánh.

Viên Hồng thấy Dương Tiễn vùng đứng dậy, nhưng đứng không nổi, vì ăn mấy trái đào nên mình nặng như treo đá.

Dương Tiễn bắt vượn bạch, lấy dây phược yêu trói lại, nhảy xuống đất thâu bức họa đồ, trở mặt về hướng Nam tạ ơn, rồi xách vượn bạch về dinh.

Về đến nơi Dương Tiễn thưa với Tử Nha:

– Ðệ tử đuổi Viên Hồng đến Mai Sơn, gặp Nữ Oa nương nương cho phép báu, gọi là “Sơn hà xã tắc đồ”, đệ tử đã bắt được Viên Hồng dẫn về dinh chờ lệnh.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ, liền dắt vượn bạch đến, rồi nói:

– Loài thú quái gở, nghịch mạng trời, hại binh Châu, chém nó đi là phải.

Dương Tiễn tuân lệnh xách gươm ra chặt đầu, song không chảy máu mà hơi xanh trong cổ nó bay lên, hiện ra bông sen xanh nở, rồi úp lại, hóa ra cái đầu.

Dương Tiễn chém mấy lần cũng đều mọc đầu lại như vậy.

Chém hoài mọc mãi, không biết làm sao, Dương Tiễn liền vào báo lại với Tử Nha ra xem, và bảo chém thử thì quả như vậy.

Các tướng thấy lạ, mỗi người có tới chém mỗi lần, chém cả hàng trăm lần, con vượn bạch vẫn hoàn đầu như cũ.

Tử Nha nói:

– Con vượn này tu đã lâu năm, nhờ khí càn khôn, hấp hơi nhật nguyệt nên biến hóa lạ thường thật là linh vật.

Nói rồi truyền quân dọn bàn hương án, lấy bầu phép của Lục Yểm để lên bàn, hào quang chói ngút ba trượng.

Tử Nha lạy và bái:

– Xin bửu bối hiện hình.

Tức thì có một vật hiện lên ngọn hào quang dài chừng bảy tấc rưỡi, có hai chưng mày và hai con mắt. Hào quang trong con mắt vật ấy chiếu thẳng lên xoáy con vượn.

Tử Nha lạy và bái:

– Xin bửu bối trở mình.

Liền thấy cây gươm có cánh bay qua bay lại trên không mà vượn bạch rụng đầu, phun máu có vòi. Ai nấy đều kinh hãi.

Có thơ than rằng:

Phi đao Lục Yểm đựng trong bầu,

Phép nhiệm lưu truyền để giúp Châu,

Vượn bạch nay đà văng thủ cấp,

Hồ Ly có thuở cũng rơi đầu.

Các tướng thấy vậy hỏi:

– Chẳng hay gươm ấy làm sao trị được yêu quái?

Tử Nha nói:

– Khi phá trận Vạn Tiên rồi, Lục Yểm có cho ta báo vật ấy để sau này có việc cần dùng. Báu ấy gọi là Phi đao, Lục Yểm luyện dày công mới được. Hào quang trong cặp mắt nó chiếu xuống chính giữa xoáy đầu, dù thần tiên hay yêu quái điều biến không được. Khi trước cũng nhờ nó mới chém được Dư Nguyên.

Ai nấy đều khen Võ Vương có phước.

Bấy giờ Ân Phá Bại và Lôi Khai chạy về Triều Ca tâu với vua Trụ.

– Viên Nguyên soái không phải là người, các tướng lãnh chiêu hiền đều là quái vật, mỗi khi thất trận đều hiện nguyên hình, bởi cớ ấy nên bị tướng Châu giết hết, làm nhẹ thể triều đình. Xin bệ hạ mau mau xuống chỉ thủ thành, nếu trễ chư hầu kéo đến thì khó cản.

Vua Trụ kinh hãi lâm triều phán hỏi:

– Nay binh Châu mạnh bạo như vậy, bá quan tính làm sao?

Văn võ nhìn mặt nhau làm thinh không có một tiếng nói.

Phi Liêm gượng tâu:

– Xin bệ hạ truyền chỉ, treo bảng bốn cửa thành, hễ ai đánh được binh Châu thì phong chức phẩm, lại xét Lỗ Nhơn Kiệt văn hay võ giỏi, sức mạnh trí dày, nếu luyện tập binh mã, lo việc thủ thành, thì giặc cũng khó phá nổi. Vả lại chư hầu ở xa đến đây, nếu đánh mãi mà không phá thành được, sẽ chán nản lui về. Chừng ấy chúng ta đuổi theo, đánh một trận chắc là đại thắng.

Vua Trụ phán:

– Khanh tâu phải lắm.

Liền xuống chỉ treo bảng cầu hiền và giao cho Lỗ Nhơn Kiệt tập binh thủ thành.

Bấy giờ nhắc lại việc Kim Tra và Mộc Tra, trước kia được lệnh của Tử Nha đến giúp Ðông Bá Hầu đánh ải Du Hồn.

Hai anh em đi được nửa đường Kim Tra nói với Mộc Tra:

– Nếu anh em ta đến giúp Ðông Bá Hầu đánh với Ðậu Binh chắc bất lợi, chi bằng mình giả làm đạo sĩ vào giúp Ðậu Binh, hễ nó tin thật chúng mình sẽ làm nội ứng lấy thành dễ như chơi.

Mộc Tra khen:

– Kế ấy hay lắm.

Kim Tra đem kế ấy nói với người đi sứ, bảo về thưa lại với Ðông Bá Hầu rõ, và dặn đừng cho lậu tiếng.

Người đi sứ tuân lời trở về thưa lại với Khương Văn Hoán.

Còn Kim Tra, Mộc Tra độn thổ đến trước cửa ải Du Hồn, kêu quân giữ cửa nói:

– Ngươi vào bẩm với chủ tướng có hai đạo sĩ ở ngoài biển xin ra mắt.

Quân vào báo lại, Ðậu Binh truyền mời vào.

Kim Tra, Mộc Tra bước vào làm lễ. Ðậu Binh mời ngồi, nói:

– Hai vị đến đây có việc gì dạy bảo?

Kim Tra nói:

– Bần đạo là Tôn Ðức, vị này là Từ Nhơn, đồng ở Bồng Lai tu luyện, nhân đi ngang qua đây thấy Khương Văn Hoán muốn đoạt ải này, để hội chư hầu tại Mạnh Tân, đem binh đánh Thiên Tử. Ấy cũng bởi Khương Thượng phản nghịch, dụ hoặc chư hầu, làm cho bốn biển không yên, muôn dân khổ sở. Chúng tôi coi thiên văn thấy số nhà Thương còn vượng lắm, chư hầu và Khương Thượng không làm gì nổi, vậy nên đến giúp sức với tướng quân, bắt Khương Văn Hoán nạp về triều ca rồi thừa thắng đánh đuổi chư hầu.

Ðậu Binh nghe nói và ngẫm nghĩ, chưa biết quyết định ra sao.

Phó tướng là Giao Trung nói lớn:

– Chủ tướng chớ nên tin lời ấy. Bởi các đệ tử Khương Thượng đều là đạo sĩ khó phân biệt được giả nhơn. Vả lại, hôm trước có nghe tin sáu trăm chư hầu hội tại Mạnh Tân, hiệp quan với Cơ Phát. Nay Khương Thượng thấy ải này cản trở, hai trăm chư hầu phương Ðông không qua được, nên sai đệ tử giả dạng vào ải làm nội công. Nếu tin thì mắc kế.

Kim Tra liền cười ngất, nói với Mộc Tra:

– Thật quả như lời đạo hữu đã bàn trước.

Cười rồi quay lại nói với Ðậu Binh:

– Ông tướng quân ấy nghi cũng phải, bởi rắn rồng đương lộn xộn, thiệt giả khó phân. Dầu chúng tôi không phải phe Khương Thượng thật lòng, hễ lạ mặt tướng quân nghi là phải. Song chúng tôi có chuyện này: Bởi sư thúc tôi bị Khương Thượng giết tại trận Vạn Tiên, chúng tôi muốn đánh báo cừu, ngặt binh quyền không có, nên tới cậy binh tướng quân để tru diệt loài phản, trước đền ngọn rau tấc đất, sau lo báo cừu, và giúp tướng quân thành công kẻo thương người trung liệt. Nay tướng quân chẳng tin cậy thì thôi, bần đạo cũng chẳng cãi lẽ làm chi cho mệt, vậy xin kiếu.

Nói rồi đứng dậy vỗ tay cười lớn và trở ra.

Ðậu Binh nghe nói nghĩ thầm:

– Trước kia cũng có nhiều đạo sĩ đánh Tây Kỳ, toàn là kẻ tu trên núi xuống trần, không riêng gì học trò của Tử Nha. Hai người này đã cố tình giúp sức, nếu vì nghi ngờ mà bỏ qua thì uổng lắm.

Nghĩ rồi liền khiến quân chạy theo mời lại.

Anh em Kim Tra vừa ra khỏi ngõ, bỗng nghe sau lưng có tiếng kêu.

– Hai vị đạo sư! Lão gia tôi cho mời.

Kim Tra làm mặt giận nói:

– Ta định đem mấy trăm thủ cấp của chư hầu nạp cho chủ tướng ngươi, mà chủ tướng ngươi lại từ chối. Nay ta có trở vào cũng hổ mặt.

Quân sĩ năn nỉ:

– Nếu vị đạo sư đi luôn thì chúng tôi có tội.

Mộc Tra nói với Kim Tra:

– Ðạo huynh, Ðậu tướng quân đã cho mời thì cứ trở vào xem sao, nếu trọng đãi thì giúp, còn bạc đãi thì đi. Chuyện ấy rất dễ.

Kim Tra giả nét mặt buồn buồn, cùng với Mộc Tra trở lại.

Quân vào báo, Ðậu Binh bước ra nghinh tiếp và nói lả bả:

– Tôi thuở nay bất tài chưa quen với các vị đạo trưởng. Vả lại lúc này đương giặc giã nên bị phó tướng tôi đa nghi, thật mang tội với hai vị xin chịu lỗi mười phần. Nay Khương Thượng đồn binh tại Mạnh Tân còn Khương Văn Hoán phá thành ngày một, lòng dân náo động chẳng hay hai vị có kế chi trừ giặc?

Kim Tra nói:

– Khương Thượng tuy đồn binh tại Mạnh Tân song sáu trăm chư hầu là binh ô hợp, tỉ như đàn quạ cả bầy, hễ thấy cung tên thì bay tản. Riêng đạo binh Khương Văn Hoán, nếu dùng kế bắt được nó thì hai trăm chư hầu thấy phải tan. Chúng ta thừa thắng kéo quân đánh sáu trăm chư hầu tại Mạnh Tân. Chúng thấy Khương Văn Hoán bị bắt thế nào cũng kinh hãi bỏ chạy. Khương Thượng yếu thế tất phải lui binh. Chúng ta thừa thắng đoạt lại năm ải rất dễ dàng.

Ðậu Binh nghe nói mừng rỡ truyền dọn tiệc đãi đằng.

Mộc Tra nói:

– Chúng tôi tu hành không dùng cơm thịt.

Ðậu Binh truyền dọn tiệc chay mời hai người ăn uống.

Rạng ngày có quân vào báo:

– Ðông Bá Hầu sai tướng đến khiêu chiến.

Ðậu Binh hỏi:

– Chẳng hay vị đạo trưởng có kế chi phá trận?

Kim Tra nói:

– Bần đạo đã đến đây phải ra trận cho biết, xem thế giặc ra sao mới liệu kế được.

Nói rồi cầm gươm giáo đứng dậy bảo Ðậu Binh:

– Xin tướng quân cho tôi mượn ít người cầm dây đi theo trói.

Ðậu Binh truyền một toán binh sĩ đi theo, Kim Tra cầm gươm báu theo sau đến giữa trận thấy một tướng cầm đao hét lớn:

– Ðạo sĩ nào đó? Muốn đem cổ ra thử cây siêu ta sao?

Kim Tra hỏi:

– Ngươi là ai mà phách lối như vậy?

Tướng ấy đáp:

– Ta là Tổng binh Mã Triệu bộ hạ của Ðông Bá Hầu.

Kim Tra nói:

– Bần đạo là Tôn Ðức, ở núi Bồng Lai. Ta coi khí số nhà Thương còn dài, mà chư hầu lại nghịch trời làm phản. Khương Văn Hoán chinh phạt mấy năm, quân dân đồ thán, ta động lòng thương phải ra tay dẹp loạn, cứu dân trong nước lửa. Nếu các ngươi hàng đầu thì sống, bằng nghịch mạng phải bỏ mình.

Nói rồi xông vào hỗn chiến.

Hai người đánh được ba mươi hiệp, Kim tra quăng Ðộn Long Thun trói Mã Triệu.

Ðậu Binh thừa thế xua quân áp tới rượt bắt quân của Khương Văn Hoán rất nhiều, rồi truyền gióng kiểng thâu quân.

Sau khi vào thành, Ðậu Binh đắc chí truyền dẫn Mã Triệu vào.

Mã Triệu đứng sững không quỳ, Ðậu Binh trợn mắt hỏi.

– Thất phu, đã bị bắt sao còn kháng cự?

Mã Triệu nổi giận mắng:

– Ta rủi bị yêu đạo dùng tà thuật bắt được, có giết thì giết, cần gì phải nói nhiều.

Ðậu Binh nổi giận truyền quân dẫn ra xử trảm.

Kim Tra can:

– Chẳng nên chém Mã Triệu, vì nó là dõng tướng của Khương Văn Hoán. Ðợi bắt chúng nó trở về Triều Ca lập công.

Ðậu Binh tin Tôn Ðức có tài, chắc sớm muộn cũng bắt được Khương Văn Hoán, nên y lời truyền cầm ngục Mã Triệu.

Bấy giờ Khương Văn Hoán thấy quân thua chạy về báo:

– Có một đạo sĩ ra trận bắt Mã Triệu đem vào thành.

Khương Văn Hoán mừng rỡ nghĩ thầm:

– Chắc không bao lâu sẽ lấy được ải Du Hồn.

Khương Văn Hoán có ý mừng như vậy là vì đã có tin trước của Kim Tra và Mộc Tra.

Ngày hôm sau, Khương Văn Hoán dẫn binh khiêu chiến, Ðậu Binh hỏi:

– Nay Khương Văn Hoán ra trận, hai vị đạo trưởng định kế gì bắt nó?

Kim Tra, Mộc Tra đồng nói:

– Chúng tôi ra trận này để xem binh thế, bữa sau sẽ làm phép bắt Khương Văn Hoán và hai trăm chư hầu phương Ðông.

Nói rồi cầm gươm ra trận, thấy một vị tướng mạnh bạo, cỡi ngựa hồng, cầm siêu đao, mặc áo con rồng, đội mão chư hầu thì biết là Khương Văn Hoán.

Khương Văn Hoán hỏi:

– Yêu đạo tên gì?

Kim Tra nói:

– Hai ta là Tôn Ðức, Từ Nhơn, ở Bồng Lai đảo. Sao ngươi dám phản chúa, không giữ đạo làm tôi, gây loạn lạc mấy năm, tội đáng tru di tam tộc. Nay nếu hàng đầu khỏi chết, bằng nghịch mạng ắt không dung.

Khương Văn Hoán mắng:

– Yêu đạo, cậy tà thuật bắt đại tướng ta, ta quyết giết lũ bây báo thù cho Mã Triệu.

Nói rồi thì chém một đao, Kim Tra đưa gươm ra đỡ.

Ðánh được tám hiệp, Khương Văn Hoán bại tẩu, Kim Tra, Mộc Tra đuổi theo rượt một đỗi xa xa, liền kêu Khương Văn Hoán nói:

– Ðêm nay vào lúc canh hai, hiền hầu đem binh đến, tôi làm kế dâng ải Du Hồn.

Khương Văn Hoán nói:

– Xin y lời.

Nói rồi làm bộ lấy cung tên bắn lại.

Mộc Tra đưa gươm gạt tên, Kim Tra hét lớn:

– Gian tặc, bắn lén ta, không phải mặt anh hùng. Ta cho ngươi sống thêm một đêm, để mai lấy đầu cũng không muộn.

Nói rồi đồng lui về ải.

Ðậu Binh hỏi:

– Sao hai vị không dùng phép bắt nó?

Kim Tra nói:

– Bần đạo vừa lấy phép, nó đã biết trước chạy đi. Thôi, chẳng muộn gì, để ngày mai bắt nó cũng được.

Bỗng có quân vào báo:

– Có phu nhân ở hậu đường ra thương nghị với lão gia.

Nàng ấy chính là vợ Ðậu Binh, tên Triệt Ðịa phu nhân.

Kim Tra, Mộc Tra thấy người đàn bà đi tới, vội đứng dậy thì Triệt Ðịa phu nhân đáp lễ rồi hỏi chồng:

– Hai vị đạo sĩ nào vậy?

Ðậu Binh đáp:

– Hai vị này ở núi Bồng Lai là Tôn Ðức và Từ Nhơn, đến giúp ta đánh Khương Văn Hoán. Hôm qua bắt được Mã Triệu đợi sáng mai bắt Văn Hoán rồi đem binh đánh Khương Thượng và sáu trăm chư hầu, làm cho chúng nó trước sau lui tới không được.

Triệt Ðịa phu nhân nói:

– Lão tướng quân có tin cũng phải đề phòng chẳng nên buông lơ mà lắm hại. Lời xưa có nói: “Muốn câu cá thì dụng mồi thơm, muốn phản người thì dùng tiếng ngọt”.

Kim Tra, Mộc Tra đồng nói:

– Phu nhân nói phải lắm! Chúng tôi còn ở đây làm chi cho sanh chuyện nghi nan. Vậy hai tôi xin kiếu.

– Xin hai vị đạo trưởng miễn chấp. Bởi phu nhân có học binh thơ tinh thông võ nghệ, nên cứ theo binh pháp mà đề phòng, chưa rõ lòng hai vị. Tôi xin chịu lỗi hai vị đừng chấp làm chi.

Kim Tra làm bộ giận nói:

– Bần đạo lòng trung trời đất cũng biết. Bởi phu nhân nghi kỵ anh em tôi mới quyết giã từ, nay lão tướng đã nói hết lời, chúng tôi phải nán lại đây một đôi bữa. Ngày mai tôi dùng phép bắt Khương Văn Hoán cho rõ lòng ngay thật. Chừng ấy e phu nhân không còn mặt mũi nào ngó chúng tôi nữa.

Triệt Ðịa phu nhân thấy chồng mình tin tưởng hai đạo sĩ, lặng lẽ rút lui.

Ðến canh hai nghe ngoài ải binh reo dậy đất, pháo nổ vang trời.

Triệt Ðịa phu nhân nai nịt hẳn hòi còn Ðậu Binh cũng áo giáp chỉnh tề.

Kim Tra nói với Ðậu Binh:

– Nay Khương Văn Hoán phá thành ban đêm, ngỡ ta hơ hỏng. Vậy để tôi với phu nhân thủ thành còn tướng quân và bạn tôi ra cự chiến. Bạn tôi sẽ quăng phép bắt nó cho rồi.

Triệt Ðịa phu nhân nói:

– Ông đạo này thủ thành với tôi chắc vô sự.

Ấy là ý Triệt Ðịa phu nhân muốn cầm chân một người để khỏi lo biến, vì chẳng lẽ hai người bỏ nhau.

Ðậu Binh cầm đao lên ngựa, Triệt Ðịa phu nhân dặn với:

– Giao chiến ban đêm phải giữ gìn vì lắm kế gian. Nhất là không nên theo đuổi giặc.

Kim Tra biết ý ngó Mộc Tra. Mộc Tra cũng hiểu ý dừng lại.

Khi Ðậu Binh đến cửa ải, lướt ra hét lớn:

– Phản thần đêm nay đã tới số.

Khương Văn Hoán không thèm nói lại vung đao chém tới. Ðậu Binh cũng giơ đao ra đỡ rồi hỗn chiến.

Hai bên đèn đuốt như ban ngày.

Ðậu Binh đánh cầm đồng với Khương Văn Hoán.