Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Kim Tra thấy hai tướng đánh đồng lực, liền quăng Ðộn Long Thun trói mèo Ðậu Binh lại. Khương Văn Hoán chém một đao đứt làm hai đoạn.
Thương thay! Ðậu Binh có tài tiến thủ, trấn ải Du Hồn hai mươi năm, Khương Văn Hoán và hai trăm chư hầu thường đánh phá nhưng không nổi, bởi thời trời khiến nên mắc kế Kim Tra.
Còn Mộc Tra ở trên lầu với Triệt Ðịa phu nhân, thấy hai trăm chư hầu kéo tới, liền lén quăng gươm Ngô Câu lên và vái thầm:
– Xin bửu bối trở mình.
Gươm Ngô Câu ở trên cao quay như chong chong chém Triệt Ðịa phu nhân rụng đầu.
Thật là những kẻ trung tín trọn đạo hai đường. Chồng vợ thành thần một lượt.
Mưu cao kế rộng xòe tay trắng,
Má phấn môi son nhuốm giọt hồng.
Mộc Tra chém Triệt Ðịa phu nhân xong, đứng trên mặt thành nói lớn:
– Ta là Mộc Tra, vâng lệnh Khương Nguyên soái đến đây lấy ải Du Hồn, nay chủ tướng đã bị giết rồi, nếu ai hàng đầu thì dung, bằng nghịch mạng thì giết.
Trong thành các tướng sĩ ai nấy đều quỳ lạy hàng đầu.
Mộc Tra truyền mở cửa ải. Khương Văn Hoán kéo hai trăm chư hầu vào ải.
Giao Trung cự không lại, liền liều thân tự vận theo chủ tướng.
Khương Văn Hoán tra khảo lương tiền, chiêu an bá tánh và thả Mã Triệu ra.
Kim Tra nói với Khương Văn Hoán:
– Hiền hầu kéo binh đi sau. Tôi phải về Mạnh Tân trước để báo tin cho Nguyên soái hay biết mới được.
Khương Văn Hoán y lời.
Kim Tra và Mộc Tra từ giã đằng vân trở về Mạnh Tân.
Bấy giờ Tử Nha thấy đã đến ngày mồng chín là ngày Mậu ngũ mà Khương Văn Hoán chưa đến kịp, ngày đêm trông ngóng, bỗng có quân báo:
– Kim Tra, Mộc Tra đã trở lại.
Tử Nha mừng rỡ đòi vào mắt. Kim Tra, Mộc Tra thuật hết mọi chuyện.
Tử Nha khen kế nhiệm mầu, rồi nói:
– Trời định ngày Mậu ngũ, chư hầu nhóm đủ mặt nơi Mạnh Tân để kéo đến Triều Ca. Nay quả như vậy.
Ðến rạng đông ngày Mậu ngũ, Khương Văn Hoán và hai trăm chư hầu đến Mạnh Tân vào ra mắt Tử Nha.
Tử Nha dẫn tất cả vào ra mắt Võ Vương, cộng cả thảy là tám trăm chư hầu, còn các chư hầu nhỏ thì không kể, cộng binh là một trăm sáu mươi vạn, tế cờ rồi kéo đến Triều Ca truyền quân đóng trại.
Các dãy trại của tám trăm chư hầu đóng dài thườn thượt, bao bốn phía thành, quân đông như kiến, cờ xí nghịt trời, gươm giáo như rừng, thật chưa bao giờ từng thấy sức mạnh tập trung như vậy.
Quân thủ thành Triều Ca trông thấy vội chạy vào báo.
Quan đương giá vào tâu với Trụ Vương:
– Nay tám trăm chư hầu đóng quân quanh thành Triều Ca, binh mã ước một trăm sáu mươi vạn.
Trụ Vương thất sắc, ngự lên lầu xem thử, quả thật như vậy, liền quay lại hỏi các quan đại thần:
– Bá quan tính kế gì cho chư hầu về nước?
Quan thủ thành là Lỗ Nhân Kiệt tâu:
– Nay nhà đã cháy, xã tắc đã mục nát, một cây cột khó chống nổi dù cho tường dài đến đâu cũng không thể đổi lòng quân. Nay xin bệ hạ sai sứ cầu hòa, lấy nghĩa quân thần khuyên chư hầu về nước.
Vua Trụ nghe nói ngồi làm thinh.
Quan Trung Ðại phu Phi Liêm tâu:
– Xin ra chỉ trọng thưởng thì sẽ có tướng tài ra giúp sức, thành Triều Ca rộng hơn trăm dặm, hy vọng trong dân chúng còn người tài ẩn mặt. Vả lại Lỗ Nhân Kiệt là người tài trí, ra sức thủ thành cũng chưa đến nỗi gì. Trong thành quân sĩ còn hơn mấy mươi vạn, lương thực còn nhiều, chư hầu mới kéo tới đã lo nghị hòa họ sẽ chê cười ta yếu đuối.
Trụ Vương khen phải, truyền lập quán cầu hiền treo bảng rao trong dân chúng, nếu ai có tài, ra cầm binh đánh đuổi được chư hầu thì trẫm phong vương chia đất, cả họ được làm quan.
Bấy giờ, cách thành Triều Ca ba mươi dặm, có một người hiền ở ẩn tên Ðinh Sách, thấy chư hầu vây Triều Ca, Trụ Vương ra bảng chiêu hiền thì nghĩ thầm:
– Trụ Vương bất chánh, Ðắt Kỷ lộng quyền, ưa nịnh giết trung tham hoa đắm sắc, nên người hiền lớp bỏ chức, lớp đầu Châu, trong triều chỉ còn một số tham quan ô lại, chỉ có tài xu nịnh. Nay ở trước tình thế này, dù cho kẻ tài năng đến đâu cũng phải bó tay mà chịu, cứu sao khỏi cơn binh biến? Còn ta, tuy biết binh pháp mặc lòng, song không thể cãi mệnh trời được. Nghĩ thương vua Thành Thang đầy lòng nhân đức, nhờ Y Doãn đuổi vua Kiệt nhà Hạ qua đất Nam Sào, dựng nên nghiệp cả, truyền ngôi 644 năm, đến bây giờ mất nước.
Than rồi ngâm:
Nghĩ nhớ Thành Thang những bấy lâu,
Lấy nhân đuổi kiệt nhóm chư hầu
Truyền ngôi cho đến đời vua Trụ,
Một mối sơn hà để lại Châu.
Xảy thấy người bạn nữa là Quách Thần bước vào, Ðinh Sách hỏi:
– Hiền đệ đến chơi hay có chuyện chi lạ?
Quách Thần đáp:
– Nay chư hầu vây thành, vua treo bảng cầu hiền, em đến bàn với anh ra tài giúp chúa để hưởng lộc triều đình, cho rạng danh, khỏi uổng công lâu nay rèn luyện.
Ðinh Sách cười rằng:
– Hiền đệ nói cũng phải, trong lúc nước nhà nguy biến thì người dân đều có trách nhiệm. Song Thiên Tử lỗi đạo, thiên hạ trở lòng đầu Châu phản Trụ, chúng ta khó đem một gáo nước mà rưới muôn xe lửa đỏ. Vả lại Tử Nha là người tài trí, tướng tá đều là đệ tử tiên gia, chúng mình ra sức chỉ thiệt thân, lại làm hại cả muôn ngàn binh sĩ.
Quách Thần nói:
– Chúng ta lâu nay sống nhờ ngọn rau tấc đất, lẽ nào quên nghĩa quân vương? Nước còn thì mình còn, nước mất thì mình mất, sao lại nghĩ chuyện tham sanh. Trong nguy biến mới biết tôi trung, lúc bình thường ai kể đến? Tài trí của anh lại thua Tử Nha hay sao mà sợ, anh đừng nhút nhát, hãy cứu chúa lập công.
Ðinh Sách nói:
– Ðây là chuyện đại sự, đã làm không thể hối hận được, phải suy tính kỹ càng, chớ nóng nảy.
Xảy có một người cao lớn bước vào. Ðinh Sách đứng dậy chào hỏi:
– Ðổng hiền đệ đến chơi có gì vội vã vậy?
Người mới vào là Ðổng Trung, hăm hở nói:
– Tôi thỉnh anh ra phò chúa diệt Châu. Bởi tôi thấy bảng cầu hiền, lấy làm toại chí, có viết tên anh và tên anh Quách đứng chung đem nạp cho Phi Liêm. Phi Liêm đem nạp cho Thiên tử, và truyền ngày mai vào hầu, nên tôi đến cho anh hay trước.
Ðinh Sách trách:
– Sao hiền đệ không nói với ta, tự ý biên tên như vậy?
Ðổng Trung nói:
– Tôi nhắm anh có tài, đủ sức giúp nước phò vua trong cơn binh lửa nên đã thay mặt anh tiến cử, xin anh chớ giận.
Quách Thần khen phải, cười lớn nói:
– Ta đương ép đại huynh ra phò vua giúp nước, nay hiền đệ đã biên tên dâng lên vua rồi thì hợp lý lắm.
Ðinh Sách thấy việc đã lỡ, dù cưỡng cũng chẳng được nào, nên lấy rượu ra đãi hai bạn, để cùng bàn việc đánh Châu.
Rạng ngày, ba anh em đến ngọ môn hầu chỉ.
Quan giữ cửa vào báo lại, vua Trụ đòi vào.
Ba người xưng tên, quỳ lạy chúc mừng xong, vua Trụ phán:
– Hôm qua Phi Liêm tiến cử ba khanh tài cao, nếu dẹp được binh Châu thì trẫm phong thưởng theo lời đã hứa trong bảng cầu hiền.
Ðinh Sách tâu:
– Chúng tôi thực không mong một quyền tước địa vị nào. Nay vì báo ơn vua nên trong nguy biến phải liều thân với nước. Việc chinh chiến là chuyện hiểm nghèo, cực chẳng đã mới phải dùng đến. Ðang lúc chư hầu thế mạnh như vũ bão, sức như núi Thái Sơn đè quả trứng, chúng tôi xin liều mạng cầu trời, việc thắng bại không dám chắc.
Trụ vương mừng rỡ, phong Ðinh Sách làm Thượng tướng, Quách Thần và Ðổng Trung làm Oai võ tướng quân, ban cẩm bào khôi giáp.
Ba tướng tạ ơn, vua Trụ truyền Lỗ Nhân Kiệt cầm đầu, dẫn quân ngự lâm ra cự chiến.
Gặp lúc Tử Nha dẫn các tướng đến trước thành khiêu chiến, Lỗ Nhân Kiệt cùng ba tướng khai thành, bước ra xá Tử Nha một cái.
Tử Nha đáp lễ và hỏi:
– Chẳng hay tướng quân là ai?
Lỗ Nhân Kiệt đáp:
– Tôi là Tổng đốc binh mã Ðại tướng quân Lỗ Nhân Kiệt. Ông là người có đạo đức sao không trọng nghĩa quân thần, nỡ nhóm chư hầu phạt Chúa, làm cho mang tiếng khi quân, biết mấy ngàn năm rửa tội ấy. Nay Thiên Tử rộng lượng, không bắt tội khi quân, vậy nên khuyên các chư hầu lui binh về nước đặng cống sứ, Thiên Tử cũng trọng đãi như thường, bằng không nghe lời, Thiên Tử nổi giận đem hết binh trào qua phạt cả nước, thì không còn ăn năn nữa.
Tử Nha cười nói:
– Tội Trụ vương đã nhiều, tám trăm chư hầu đến đây cứu dân phạt tội, một vài ngày nữa Trụ vương sẽ mất nước, tướng quân đã biết chán rồi, còn nói gượng làm chi?
Lỗ Nhân Kiệt nổi giận nói:
– Thất phu! Ta tưởng ngươi có đạo đức, nên đem lẽ phải phân trần té ra ngươi là đứa hồ đồ, ăn nói lỗ mãng.
Nói rồi nhìn tả hữu hỏi:
– Tướng nào bắt nghịch tặc cho ta?
Quách Thần nói lớn:
– Có tôi đây.
Liền giục ngựa múa siêu lướt tới. Nam Cung Hoát cản lại đánh liền.
Ðinh Sách cầm thương xông vào trợ chiến, Võ Kiết đón lại giao phong.
Nam Bá Hầu Ngạc Thuận xông ra gặp Ðổng Trung cự địch, Khương Văn Hoán nổi giận giục ngựa tới chém Ðổng Trung.
Na Tra ngứa tay cũng xông vào đánh.
Dương Tiễn nói lớn:
– Chúng ta vượt năm ải đến Triều Ca, lẽ nào đứng ngó.
Nói rồi vỗ ngựa xông vào.
Hai bên hỗn chiến một hồi, Na Tra quăng Càn Khôn Quyện đập Ðinh Sách nát sọ, Quách Thần bại tẩu bị Dương Tiễn bay ngựa theo chém rụng đầu, Ðổng Trung bị Khương Văn Hoán đâm lủng ruột.
Thương thay, ba tướng chết cùng một lúc.
Lỗ Nhân Kiệt thất kinh chạy vào thành đóng cửa.
Tử Nha thâu quân về trại.
Lỗ Nhân Kiệt vào ra mắt Trụ vương tâu việc ba tướng tử trận, Trụ vương buồn bực phán:
– Tình thế này biết tính làm sao?
Ân Phá Bại tâu:
– Nay mười phần không kể một, nhân dân náo loạn, thiên hạ đảo huyền. Song trước kia tôi có quen với Tử Nha, nay xin liều chết đến dinh Châu nói việc trái phải, khuyên chư hầu kéo binh về. Nếu được như vậy thì phước của bệ hạ, bằng không được tôi quyết mắng giặc mà chết, không trở về nữa.
Trụ vương y tấu.
Ân Phá Bại từ tạ ra đi.
Tử Nha đang đàm đạo với chư hầu, xảy nghe quân báo:
– Có thiên sứ đến.
Tử Nha liền mời vào.
Ân Phá Bại bước đến, thấy Tử Nha ngồi giữa, chư hầu ngồi xung quanh, vội vã bái một cái.
Tử Nha hỏi:
– Lão tướng quân đến chỉ dạy việc gì?
Ân Phá Bại nói:
– Lão phu cách mặt Nguyên soái đã lâu, không ngờ lâu nay Nguyên soái quản suất chư hầu, vang danh bốn biển, nên đến đây chúc mừng và thưa với Nguyên soái một việc, chẳng biết Nguyên soái có bằng lòng chăng.
Tử Nha mời ngồi và nói:
– Lão tướng quân nhằm chuyện gì đáng nói thì nói cho chúng tôi nghe, còn việc không đáng nói thì thôi, đừng đem ra bàn luận vô ích.
Ân Phá Bại nói:
– Tôi có nghe rằng: Thiên Tử sánh với trời, mà phá trời sao phải lại trong phép nước, nếu ai tự ý chinh phạt, thì là loạn thần, tội loạn thần không thể dung được. Còn làm tôi phản chúa thì là nghịch thần, tội ấy tru di cả họ, ai giết cũng vô can. Ðời xưa vua Thành Thang nhân đức mười phần, thế ngôi nhà Hạ, truyền đến nay hơn sáu trăm năm, thì chư hầu thiên hạ đều mang ơn hết thảy, ai cũng là tôi nhà Thương. Nay chẳng lo đền ơn, lại nhóm chư hầu làm phản, giết dân lấy đất, hại tướng hãm thành, vây triều ca tội nặng không kể xiết, muôn đời không quên. Tôi lấy làm bất bình với Nguyên soái điều ấy. Theo ý tôi tưởng thì nếu vua thất đức, làm tôi chỉ nên khuyên vua, các chư hầu nên làm sớ, vạch lỗi của vua, buộc vua phải từ bỏ lỗi lầm, xa lánh tửu sắc, gần trung, xa nịnh. Nếu vua vẫn không nghe thì sẽ hành động cách khác, còn vua đã nghe thì cũng nên giữ đạo làm tôi, chư hầu ai về nước nấy, hưởng phúc thái bình. Chẳng hay Nguyên soái cho lời nói tôi thế nào?
Tử Nha cười, và nói:
– Lão tướng luận sai rồi. Thiên hạ là của chung, chẳng phải riêng ai, tại sao chúng ta cứ cố định một mình Trụ vương mới là vua, trong lúc đó Võ Vương nhà Châu nhân đức rãi dày, bốn phương đều biết Trụ vương vô đạo, thiên hạ đảo huyền ai ai cũng ghét? Xưa vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn, vua Thuấn truyền ngôi cho vua Võ đâu có luận đến giống dòng. Ðến đời vua Kiệt vô đạo đắm mê tửu sắc, yêu nịnh giết trung bỏ việc triều đình kém bề nhân đức khiến vua Thành Thang là người nhân nghĩa phải đạo làm vua đuổi vua Kiệt ra Nam Sào, bủa đức trị dân dựng nên nghiệp cả như thế cũng bảo vua Thành Thang là bất trung bất nghĩa sao? Nay nhà Thương truyền hơn sáu trăm năm, khí số đã hết. Trụ vương noi dấu vua Kiệt ngày xưa làm điều bạo ngược, dĩ nhiên xã tắc phải dời đổi. Chúng ta trung với vua, nhưng vua đã không có đạo làm vua thì còn trung với ai nữa. Xưa nay có vì vua nào bạo ngược như vậy chăng? Nay chư hầu phạt kẻ vô đạo cứu dân, cũng như trước kia vua Thành Thang phạt Kiệt không gọi là đánh chúa.
Ân Phá Bại nghe mấy lời của Tử Nha biết là lẽ phải, không còn lời lẽ nào thuyết phục nữa. Song đã mang sứ mệnh đến đây hễ không được việc không trở về thì thà mắng vài tiếng rồi chết cho xong.
Nghĩ rồi mắng lớn:
– Ta tưởng chúng bay là người đạo nghĩa nên đến giải phân, không ngờ là kẻ hồ đồ, nói năng lỗ mãng, không biết nghĩa quân vương, không nể tình tôi chúa.
Khương Văn Hoán giận quá, xách gươm bước tới chỉ mặt Ân Phá Bại nói:
– Ngươi làm đại thần hàng ngày không can vua, để vua hung bạo giết hại nhân dân làm lắm điều độc ác, nay ngươi còn đến đây dùng miệng lưỡi để mắng nhiếc ta sao? Lẽ ra biết phận mình lui về cho sớm.
Khương Văn Hoán tuy làm thinh song trong lòng rất hậm hực.
Ân Phá Bại thấy vậy mắng lớn:
– Cha ngươi mưu với Hoàng hậu mà thí vua, Thiên Tử giết đã đáng ngươi không biết sửa mình lại đem lòng phản nghịch.
Khương Văn Hoán không cầm được giận dữ, trợn mắt hét:
– Thất phu! Cha ta phải thác oan mẫu quốc bị hại chắc cũng do ngươi bày mưu. Nếu không giết ngươi để báo cừu thì còn sống sao được nữa?
Nói rồi rút kiếm chém Ân Phá Bại một gươm bay đầu.
Tử Nha ngăn trở không còn kịp nữa.
Các chư hầu đều nói:
– Ân Phá Bại già mồm hỗn láo giết đi là phải lắm.
Tử Nha lắc đầu nói:
– Không nên làm như vậy. Ân Phá Bại là đại thần của Thiên Tử đến đây lấy lễ giảng hòa, lẽ nào chúng ta chém đi? Dù phải trái cũng vậy chúng ta không nên để cho mình mang tiếng bất nghĩa.
Khương Văn Hoán nói:
– Bởi nó uốn lưỡi mắng tôi trước chư hầu làm nhục tôi như vậy làm sao tôi chịu được.
Tử Nha nói:
– Chuyện đã lỡ rồi ăn năn cũng đã muộn. Thôi hãy chôn thây cho tử tế rồi lo việc tấn binh.
– Quân thám thính dò biết Ân Phá Bại giảng hòa không được, chọc giận Khương Văn Hoán, bị Khương Văn Hoán chém đầu rồi.
Vua Trụ kinh hãi ngồi làm thinh.
Ân Thành Tú khóc và thưa:
– Hai nước đua tranh, không nên chém sứ, lẽ nào Khương Văn Hoán khi bệ hạ lắm. Vậy xin cho tôi ra trận liều chết báo thù cha.
Trụ Vương an ủi:
– Tuy khanh trung hiếu mặc lòng, song cũng phải đề phòng.
Ân Thành Tú lạy tạ, kéo binh ra trước dinh Châu khiêu chiến.
Quân vào báo, Khương Văn Hoán xin đi, Tử Nha nhận lời, Khương Văn Hoán liền dẫn binh ra trận, kêu Ân Thành Tú nói:
– Ân Thành Tú! Ngươi ra đánh báo cừu cho cha ngươi phải không? Bởi cha ngươi xúc phạm đến chư hầu, nên ta xử tội. Còn ngươi muốn chết theo phải không?
Ân Thành Tú nổi giận mắng:
– Thất phu! Hai nước đang giao tranh sao được phép chém sứ? Cha ta vâng lệnh Thiên Tử đến giảng hòa, nỡ nào ngươi đem chém đi. Ta quyết ra đây hỏi tội ngươi báo cừu cho thân phụ.
Nói rồi xong tới đánh.
Hai bên hỗn chiến một hồi.
Khương Văn Hoán là con hổ phương Ðông, Ân Thành Tú làm sao chống cự lại vừa đánh được vài mươi hiệp, Khương Văn Hoán chém Ân Thành Tú rơi đầu xách về nạp cho Tử Nha.
Tội nghiệp! Ân Thành Tú nên trang trung hiếu, chỉ vì nóng trả thù cha mà mang hại.
Trụ vương nghe tin Ân Thành Tú tử trận, kinh hãi hỏi triều thần:
– Binh chư hầu mạnh như vậy, biết làm sao?
Triều thần chưa có kế gì, ngồi im không đáp.
Bỗng có quân vào báo:
– Binh chư hầu công phá thành trì một loạt.
Lỗ Nhân Kiệt tâu:
– Tôi xin đem quân thủ thành rồi sẽ tính.
Tử Nha cùng các chư hầu công thành, thấy Lỗ Nhân Kiệt thủ thành phải phép, biết không thể phá gấp được, liền thâu binh về, hội chư hầu thương nghị.
– Lỗ Nhân Kiệt có tài và trung liệt, hết lòng thủ thành. Vả lại thành triều ca chắc lắm, nếu có ráng phá được cũng còn lâu. Các tướng có mưu gì không?
Các đệ tử thưa:
– Chúng tôi xin độn vào thành làm nội công. Nguyên soái đốc quân bên ngoài làm ngoại kích thì lấy thành như chơi, có gì mà lo.
Tử Nha nói:
– Không nên làm như vậy. Nếu độn vào lấy thành không khỏi gây ra cuộc đấu chiến, làm hại bá tánh trong thành. Thành Triều Ca lâu nay đã bị hôn quân làm khổ nhiều rồi, chúng ta đến đây với mục đích cứu dân, lẽ nào còn gây cho dân chết chóc. Như thế chúng ta khác nào vua Trụ.
Các tướng nghe nói đều khen phải.
Tử Nha nói:
– Mấy năm nay Trụ vương bắt dân chịu sưu thuế nặng nề, nào cất Lộc đài, nào chặt chân xem tủy, nào mổ bụng đàn bà chửa xem thai, oán hận chồng chất trong lòng người dân, nay chúng ta muốn lấy thành tốt hơn làm hịch bắn vào thành, khuyên dân chúng tản bớt đi, còn thành không thì dễ phá.
Các tướng đồng nói:
– Nguyên soái luận phải lắm.
Tử Nha liền viết tờ hịch truyền quân dùng cung tên bắn vào thành như bươm bướm.
Có bài thơ rằng:
Quân tướng triều ca ráng thủ thành,
Vì chúng sợ chết phải hà canh
Nếu không yết thị làm cho rã,
Vây phủ mười năm cũng nhọc nhằn.
Khi thấy Tử Nha truyền quân sao mấy chục ngàn tờ cáo thị và bắn vào bốn cửa thành, dọc theo đường sá.
Binh Thương trông thấy lượm lên xem thì thấy cáo thị ấy viết như sau:
“Tây Kỳ đại Nguyên soái Khương Thượng.
Dùng cáo thị một chương, rao cho quân dân bốn cửa. Bởi vua Trụ độc như nước lửa, nên dân Thương tha oán lầm than. Cất Lộc đài dân chết cả vạn, yêu Ðắt Kỷ giết chết chẳng biết bao nhiêu người. Muốn coi tủy thì chặt chân, muốn xem thai thì mổ bụng. Bày ao rượu giết người hầu hạ, sai chinh Tây, giết kẻ chiến trường. Vì vợ đau mổ bụng Tỷ Can, nghe vợ nói cạo đầu Cơ Tử. Chém Ðiện hạ độc hơn hùm dữ, giết Chánh Cung lòng khác người phàm. Hại Ngạc Hầu nên mới có giặc Nam phương, giết Quốc trượng mới gây thù Ðông trấn. Tám trăm cõi chư hầu đều giận, mấy triệu binh hào kiệt đồng lòng nên vào năm ải như không, phá thành nào cũng dễ. Thương là thương con đỏ, cám là cám dân đen, nên lửa than chẳng muốn nhuốn nhen, vì ngọc đá hãy còn lẫn lộn. Tờ cáo thị hết lòng khuyên bảo, muộn lẽ dân sớm tính việc hàng đầu, dâng thành đặng được sống lâu, nếu nghịch mạng ắt chết oan ức, hoặc là kiếm phương xa ẩn dật, hoặc là tìm đồng trống mà náu nương, nếu canh chấu đón đường, ắt xe rồng khó tránh, mau mau xa lánh, chóng chóng dời chân, bằng đợi đốt rừng ắt là uổng mạng.”
Ai nấy xem cáo thị đều khen:
– Võ Vương quả thật nhơn đức. Nguyên soái dạy quá rõ ràng. Nếu nghịch lại không dâng thành thì e khó sống. Vì năm ải rất nhiều tướng tài mà thủ không được, huống hồ chi một thành này. Nghĩ kỹ lại Trụ Vương vô đạo bất nhơn, mình có liều cũng vô ích.
Quân dân đồng lòng đợi tới tối mở cửa dâng thành.
Các tướng biết được hết sức trừng trị nhưng không ai nghe theo cả.
Ðến canh ba, quân dân mở cửa thành kêu lớn:
– Chúng tôi là dân tị nạn xin mở cửa dâng nạp Triều Ca.
Kẻ nói trước, người nói sau vang trời dậy đất.
Lúc này Tử Nha đang ngồi trong dinh tính mưu phá thành.
Xảy thấy quân vào báo:
– Bẩm Nguyên soái! Bốn cửa thành Triều Ca đều mở, quân dân kêu Nguyên soái đến họ dâng thành.
Tử Nha mừng rỡ, truyền các binh tướng vây ngoài thành cứ một đạo là một cửa, cấm không được sát hại quân dân trong thành, và không được lấy những thứ gì dù lớn dù nhỏ. Nếu ai trái lệnh sẽ xử ngay lập tức. Binh sĩ tuân lịnh vào thành bình an. Chư hầu đóng binh từ Ngọ môn trở lại.
Lúc này Trụ Vương đang ăn uống với Ðắt Kỷ nơi Lộc đài, bỗng nghe quân ó vang trời, tiếp đó lại có Hoàng môn quan vào quỳ mọp tâu:
– Quân dân mở cửa thành cho bọn giặc vào rồi. Hiện chư hầu và Khương Thượng đang đóng binh tại Ngọ môn…
Trụ Vương thất kinh, vội gióng trống lâm triều.
Bá quan đông đủ. Trụ Vương hỏi:
– Trẫm không ngờ quân dân trở lòng mở cửa dâng thành cho Khương Thượng. Bây giờ tính làm sao đây?
Lỗ Nhân Kiệt tâu:
– Chư hầu và Khương Thượng đóng quân tại Ngọ môn thì trước sau cũng vào đây. Chi bằng tảng sáng chúa tôi ta điểm binh ngự lâm đến đánh liều một trận, may thắng thì tốt, nếu thất trận có chết cũng đành. Chứ chẳng lẽ bó tay chờ chết sao?
Trụ Vương khen phải, liền truyền Lỗ Nhân Kiệt điểm binh.
Bấy giờ Tử Nha họp chư hầu bàn rằng:
– Ðã gần sáng rồi, các vị hãy điểm binh lập tức, phải lấy hết sức mình đánh với Trụ Vương một trận, đừng nên để thất bại.
Chư hầu đồng thưa:
– Chúng tôi xin y lệnh Nguyên soái đánh trận này, dẫu có chết cũng quyết không chạy. Nếu ai nhút nhát, bại tẩu thì xin Nguyên soái trảm tức thì.
Vua Trụ lúc này sốt ruột ngồi chờ Lỗ Nhân Kiệt điểm quân thì xảy thấy Hoàng môn quan hơ hải chạy vào tâu:
– Chư hầu mời bệ hạ đến Ngọ môn nói chuyện.
Vua Trụ liền nai nịt hẳn hoi, cầm siêu đao lên ngựa truyền cầm cờ long phụng đi trước, còn mình theo sau.
Lỗ Nhân Kiệt nghe tin liền đem quân theo bảo giá, Lôi Côn, Lôi Hàng hầu hai bên.
Ra đến nơi, Trụ Vương thấy Tử Nha đứng trước, bốn vị chư hầu đứng sau.
Tử Nha trông thấy Trụ Vương liền bước ra xá và nói:
– Lão thần là Khương Thượng vì mặc giáp trong mình nên làm lễ không trọn, xin bệ hạ rộng dung.
Trụ Vương phán hỏi:
– Ngươi là Khương Thượng đó hay sao?
Tử Nha tâu:
– Phải!
Vua Trụ lại phán:
– Ngươi khi trước là quan đại phu của trẫm, tại sao lại lỗi đạo làm tôi trốn qua Tây Kỳ bày điều phản nghịch. Nay lại dụ chư hầu cướp thành lấy ải của trẫm, lại giết thiên sứ phơi thây. Tội đáng chết mười phần, hôm nay trẫm đã ra đến đây sao chưa chịu bó mình chịu tội, hay là ngươi muốn cự với trẫm phải không?
Tử Nha tâu:
– Bệ hạ cầm quyền trị muôn dân chư hầu đều cống lễ, giữ trọn nghĩa làm tôi, lẽ nào dám nghịch thiên tử. Bởi bệ hạ trên chẳng kính trời lỗi đạo thất chánh, hành hạ bá tánh chém giết đại thần nghe lời đàn bà không nghe lời trung thần can gián. Bệ hạ vô đạo đã lâu nhưng không biết sửa mình thì còn trách cứ chư hầu muôn dân phản nghịch làm sao? Bệ hạ tội chất bằng núi, oán rộng tợ biển, trời hờn người giận thiên hạ trở lòng. Nay tôi vâng theo phép trời phạt tội đại ác. Xin bệ hạ đừng gọi hai tiếng phản vua.
Trụ Vương nghe nói phán:
– Trẫm đã làm những gì các ngươi gọi là tội ác?
Tử Nha mỉm cười nói lớn:
– Tất cả binh tướng chư hầu, dân chúng hãy nghe cho kỹ tôi kể tội Trụ Vương đây.
Nói rồi quay lại hài tội Trụ Vương rằng:
1. Bệ hạ làm thiên tử, tức là cha mẹ dân sao lại ham mê tửu sắc, không kính đất trời, không tế sơn hà, chẳng trọng xã tắc, xa người hiền, gần người dữ bỏ điều đức hạnh lỗi đạo cang thường. Ấy là tội thứ nhất.
2. Khương hoàng hậu là mẹ các nước không phạm tội chi, sao bệ hạ nghe lời Ðắt Kỷ dứt bỏ tình nghĩa, khoét mắt đốt tay, hành hình một cách thảm thiết. Rồi lại phong Ðắt Kỷ là chính cung, hễ Ðắt Kỷ nói gì nghe nấy bỏ chánh quên nhân. Ấy là tội thứ hai.
3. Thái tử là từ quân. Ðông cung là vua phó sau nối cơ nghiệp cai trị chư hầu, sao bệ hạ nghe lời dứt tình phụ tử, ban gươm lệnh cho Triều Ðiền, Triều Lôi đi chém hai vị Ðiện hạ, không trọng phần hương lửa, mang tội với tổ tông. Hùm dữ chẳng ăn thịt con, sao bệ hạ độc hơn cầm thú. Ấy là tội thứ ba.
4. Những quan triều của tiên vương trước kia để lại giúp việc chánh cho thiên hạ thái bình, không có lỗi gì sao bệ hạ nỡ giết như đốt Mai Bá hại Dao Cách giết Thương Dung, mổ tim Tỷ Can, cạo đầu Cơ Tử. Ấy là tội thứ tư.
5. Chữ tín là cội rễ vua phải lấy điều tín nghĩa trị dân, sao bệ hạ gạt chư hầu vào chầu dùng kế độc phân thây Ðông bá hầu Khương Hoàng Sở, giết Nam Bá Hầu Ngạc Sùng Võ làm thiên hạ đảo điên. Ấy là tội thứ năm.
6. Việc hình phạt cốt để răn người, sao bệ hạ nghe lời Ðắt Kỷ chế Bào Lạc giết quan gián nghị, lập Sái Bồn hại kẻ cung nga, khói độc lên ngút trời xanh, hồn oan kêu vang địa ngục. Trời sầu đất oán quỷ giận thần kinh. Ấy là tội thứ sáu.
7. Của là báu của nước, tiền là mạng của dân, đáng việc mới dùng, bệ hạ xài phí đào ao chứa rượu, găm thịt làm rừng, lập Lộc đài lãng phí gần hết của kho, sai Hầu Hổ đốc công nhũng lạm tiền dân chúng. Kẻ giàu thì hao bạc, dân khó phải làm sưu, hiếp đáp dân nghèo kẻ mạnh phải mang bệnh người đau phải bỏ mình. Chỉ vì cuộc chơi mà làm cho nhân dân thảm họa. Ấy là tội thứ bảy.
8. Làm con người phải biết hổ thẹn, huống chi bậc chí tôn. Bệ hạ nghe lời của Ðắt Kỷ gạt Giả thị lên lầu trêu hoa ghẹo nguyệt, vua bất chính với vợ tôi thần, khiến người đàn bà trinh tiết phải gieo mình xuống lầu tự vận. Hoàng Quý Phi vì chị dâu đến can gián, bệ hạ cũng quăng xuống lầu giập thịt tan xương. Nỡ nào làm chuyện bất nhân như vậy? Ấy là tội thứ tám.
9. Bệ hạ thay trời trị dân, phải ở cho nhân đức, nỡ nào chặt chân kẻ bộ hành xem tủy, mổ bụng đàn bà chữa xem thai, mạng dân như cỏ rác, chỉ việc vui chơi mà làm cho vợ mất chồng, con xa mẹ, tội ác không lấy gì so sánh được. Ấy là tội thứ chín.
10. Ðạo làm vua, việc yến ẩm phải chừng mực, lẽ nào ngày đêm cùng với Ðắt Kỷ vui say mãi trên Lộc đài, không nhớ đến việc nước, không lâm triều, bỏ cả chánh sự, nghe lời Ðắt Kỷ bắt con nít thiến dương vật ăn cho bổ dưỡng, làm cho đứa con trai tuyệt tự, chết oan. Ấy là tội thứ mười.
Tuy có trung thần can gián, bệ hạ cũng không nghe, làm cho thiên hạ trở lòng, tướng binh bỏ mạng. Như Thiên tử, quả là kẻ dữ hại dân. Nay chúng tôi phò vua Võ là vua nhân đức đến đây cứu dân phạt tội. Bệ hạ không nên dùng tiếng phản vua mà nói.
– Ân Thọ, có ta đến đây! Chị ta tội gì ngươi khoét mắt đốt tay, cha ta tội gì ngươi phân thây xẻ thịt? Thù sâu tợ biển, oán chất bằng non. Nay nhờ Võ Vương hội chư hầu đến đây, ta quyết trừ kẻ vô đạo báo cừu.
Nói rồi chém một đao. Trụ Vương đỡ khỏi, Khương Văn Hoán chém tiếp một nhát, Trụ Vương đỡ rồi đánh lại.
Chư hầu xông vào trợ chiến. Chúa tôi ấu đả nhau trước Ngọ môn.
Võ Vương trông thấy than:
– Bởi thiên tử vô đạo nên mới sinh ra cớ sự như vậy. Chúa tôi đánh với nhau còn chi là cang thường nữa?
Than rồi nói với Tử Nha:
– Ba vị chư hầu sao không lấy lẽ phải can với thiên tử, nỡ nào hỗn chiến với vua?
Tử Nha nói:
– Bởi Trụ Vương phạm mười tội với trời đất, không phải đạo làm vua. Ðã không phải vua thì ai đánh cũng được. Tôi không dám can chư hầu.
Võ Vương nói:
– Tuy vua bất chánh, song đạo làm vua không nên đánh vua như vậy, xin Nguyên soái gỡ rối này.
Tử Nha tâu:
– Nếu Ðại Vương muốn như vậy thì truyền quân gióng trống lên để cứu Trụ Vương.
Võ Vương không hiểu, ngỡ đánh trống thì chư hầu lui về, nên truyền đánh trống rất dữ. Chư hầu nghe hiệu trống đồng xông vào các tướng áp tới phủ vây.
Khi ấy các tướng và các chư hầu nghe trống giục, đồng lướt tới phủ vây Trụ Vương.
Lỗ Nhân Kiệt nói với Lôi Côn, Lôi Bàng:
– Vua mắc nạn thì tôi cũng bị nhục. Chúng ta lúc này phải liều chết rửa nhục, không lẽ đứng ngoài xem bọn phản thần đánh chúa?
Lôi Côn nói:
– Anh em nói phải lắm.
Ba người đồng phá trùng vây, xông vào cứu giá.
Bấy giờ Trụ Vương hỗn chiến đã lâu, một mình chống cự với các tướng Châu vây phủ bốn phía.
Trụ Vương nổi giận, hét lên một tiếng, chém Nam Bá Hầu một đao đứt làm hai.
Lỗ Nhân Kiệt đâm Lâm Thiên nhào xuống ngựa.
Na Tra nổi giận lướt tới, nói:
– Các ngươi đừng ỷ mạnh, có ta đây.
Lôi Chấn Tử, Kim Tra, Mộc Tra đều xông vào, nói:
– Ðã đến Triều Ca lẽ nào chúng ta chịu thua trước mặt tám trăm chư hầu.
Nói rồi xông tới đánh liền. Dương Tiễn chém được Lôi Côn.
Na Tra quăng Càn khôn quyện đập Lỗ Nhân Kiệt bể đầu nhào xuống.
Lôi Chấn Tử đập Lôi Bàng chết tươi.
Vua Trụ còn có một mình tả xông hữu đột đánh với các tướng.
Khương Văn Hoán liền buông siêu đao xuống, lấy cây giản tràng giắt sau lưng, chui vào phía sau, đập lên lưng vua Trụ một giản.
Vua Trụ suýt té xuống ngựa, vội bại tẩu vào cung.
Chư hầu đuổi theo, nhưng cửa ngọ môn quân sĩ đóng kịp, không sao vào được, Tử Nha liền gióng kiểng thâu quân về trại, kiểm điểm binh tướng thì thấy trận này hao hết hai mươi sáu viên tướng, và mất hơn ba ngàn quân.
Các chư hầu đều thở ra, nói với nhau:
– Không ngờ Trụ Vương lại có sức mạnh dường ấy.
Tử Nha nói:
– Sức mạnh không thắng nổi đạo đức. Kẻ mất đạo đức phải bị diệt vong.
Võ Vương nói:
– Chúng ta đánh với Thiên Tử đã lỗi đạo làm tôi. Tôi thấy Khương Văn Hoán đánh Thiên Tử một giản lòng ta bất mãn quá.
Tử Nha nói:
– Xin Ðại vương chớ nghĩ như vậy. Lúc là kẻ nhân đạo, cầm quyền chỉ nước thì là bậc chí tôn, nhưng khi đã xa lìa đạo đức, bỏ mất thiên mệnh, đạo lý, thì chỉ là một người dâm đạo, hại dân, không coi là Thiên Tử nữa. Ðại vương còn thương xót nổi gì?
Vua Trụ chạy vào đền, ngồi lên ngai than:
– Ta hối tiếc vì không nghe lời trung thần can gián nên ngày nay mới bị nhục. Thương hại Lỗ Nhân Kiệt, Lôi Côn, Lôi Bàng đều vì ta tử trận cả.
Phi Liêm và Ác Lai tâu:
– Bệ hạ võ nghệ như thần, Một mình cự được trăm người mà còn giết được tướng, chỉ rủi ro bị một giản, nhắm chừng ít bữa cũng lành, rồi sẽ ra trận. Hạ thần tưởng chắc thế nào cũng thắng.
Trụ Vương nói:
– Trung thần không còn ai, các tướng chết hết trẫm lại bị thương còn mong gì chiến đấu.
Nói rồi cởi giáp vào cung.
Phi Liêm nói với Ác Lai:
– Giặc vây tại Ngọ môn, ngoài chẳng có binh, trong không còn võ tướng, tình thế này chắc chết, chúng ta liệu làm sao? Nếu binh chư hầu kéo vào đây ngọc đá không còn, vàng thau tiêu hết, chúng ta lâu nay tàn trữ được một số của cải mà phải tan tành thì uổng biết chừng nào.
Ác Lai nói:
– Cần gì phải đắn đo cho mệt. Kẻ trí thì coi theo tình thế mà làm. Trong ít ngày nữa, Trụ Vương phải chết, chúng ta thừa dịp đầu Châu cũng không mất phần công danh phú quý. Võ Vương nhân đức, Khương Thượng cao minh, chắc không bao giờ làm tội người đầu hàng mà sợ.
Phi Liêm nói:
– Nếu đã có ý ấy thì phải tính một kế nào để lập công. Theo ý tôi thì đợi lúc binh Châu đến phá, chúng ta trộm lấy ngọc ấn đem giao cho Võ Vương, thế nào chúng ta cũng được quyền cao chức trọng.
Hai người bàn luận với nhau trong có vẻ đắc chí lắm.
Bấy giờ Trụ Vương vào nội cung, Ðắt Kỷ, Hồ Hỷ Mỵ và Ngọc Mỹ Nhân đồng ra nghinh tiếp.
Trụ Vương rơi lụy, nói với Ðắt Kỷ:
– Trẫm coi Cơ Phát là tiểu tử, Khương Thượng là thất phu, chẳng tài cán chi, chẳng dè chúng hội binh tướng quá đông, nhóm chư hầu vây trước ngõ. Trẫm ra binh chém được ít tướng, rủi bị Khương Văn Hoán đập một giản trúng lưng. Còn Lỗ Nhân Kiệt, Lôi Côn, Lôi Bàng đã liều mình tử trận. Trẫm chắc cơ nghiệp tiên vương đến đây là dứt, ăn năn thì đã muộn.
Trụ Vương thở dài, lau nước mắt rồi nói tiếp:
– Nghĩ thương ba mỹ nhân ở với trẫm tới nay, mà trẫm phải liều mình, để cho chúng bắt ba vị mỹ nhân của trẫm. Một khi trẫm đã chết rồi, thì cả ba ái khanh đều về tay Cơ Phát hết. Trẫm nghĩ đến đó lòng đau như cắt.
Nói rồi nước mắt dầm dề.
Ba nàng yêu thấy vua Trụ khóc thảm thiết cũng động lòng khóc theo, rồi quỳ tâu:
– Ba chúng tôi nhờ ơn bệ hạ yêu dấu lâu nay, ghi lòng khắc cốt không quên, nay trong ly loạn bệ hạ tính đi đâu? Và bỏ chúng tôi sao đành?
Trụ Vương nói:
– Nếu trẫm để chúng bắt thì nhẹ thể lắm, nên phải từ giã ba ái khanh mà đi kẻo trễ.
Ðắt Kỷ níu áo khóc sướt mướt:
– Thần thiếp nghe bệ hạ nói ruột gan như dao cắt. Bệ hạ nở bỏ thần thiếp mà đi đâu?
Nói rồi cúi mặt trên đầu gối Trụ Vương mà khóc lớn.
Vua Trụ thương quá, không nỡ bỏ đi, vội hối quân dọn tiệc rượu giã biệt.
Có bài thơ rằng:
Nghĩ tới vui xưa tại Lộc đài,
Dứt tình vì giặc đánh bên ngai
Uyên ương kết cánh từ năm ấy,
Loan phụng chia lìa nội bữa nay
Binh tợ mây đen tan trống rỗng,
Tướng như sao sáng, lặn lai rai
Biệt ly chiến rượu say rồi tỉnh
Ðoái lại giang sơn vốn của ai.
Vua Trụ uống mãi, Ðắt Kỷ rót hoài.
Trụ Vương phán:
– Ta uống rượu hôm nay là uống cả nguồn ly biệt.
Ðắt Kỷ tâu:
– Xin bệ hạ chớ phiền vì thiếp là con nhà tướng, biết cỡi ngựa cầm đao, và Hồ Hỷ Mỵ, Ngọc Mỹ Nhân đều có học phép. Ðêm nay ba chị em tôi cướp dinh Khương Thượng, đánh đuổi binh Châu, nếu được thành công thì giải phá thành sầu cho bệ hạ.
Trụ Vương nghe nói gượng vui phán:
– Nếu Hoàng hậu ra công dẹp giặc này thì trẫm vui sướng biết chừng nào.
Bốn vua tôi cùng uống rượu đến hết canh hai. Ba con yêu nai nịt chỉnh tề đi cướp dinh.
Bấy giờ các chư hầu nóng lòng, hối Tử Nha ra lệnh phá đền.
Tử Nha tính toán một hồi rồi nói:
– Chỉ trong một ngày Giáp Tý vua Trụ diệt tuyệt, cần gì phải vào cung làm hư hại ngôi báu.
Bởi tính như vậy nên không đề phòng.
Ðêm ấy Ðắt Kỷ, Hồ Hỷ Mỵ và Ngọc Mỹ Nhân đồng cỡi ngựa xách song kiếm đi cướp trại. Ba con yêu đều làm phép gió ngút mây bay, binh Châu không biết Ðông Tây, chẳng phân Nam Bắc. Binh tuần đều vỡ chạy, tướng tuần cũng ngã lăn, vì trời đất tối tăm, không thấy đường nào chạy. Ba con yêu giết binh Châu rất nhiều.
Khi ấy khí yêu chiếu vào trướng, các tướng nghe hỗn loạn chạy vào bảo.
Tử Nha đánh tay biết ba con yêu hành động, liền truyền các tướng bắt cho được ba con yêu ấy, không để trốn thoát.
Na Tra liền đạp xe tới, Dương Tiễn xách đao giục ngựa ra.
Lôi Chấn Tử bay lên cao cầm côn đập xuống, Vi Hộ ở dưới thấp lấy Gián ma xử quăng lên.
Lý Tịnh múa kích xông vào, Kim Tra, Mộc tra đồng áp đến.
Ba chị em Ðắt Kỷ hỗn chiến một hồi.
Dương Tiễn kêu lớn:
– Yêu nghiệt! Sao chúng bây không sợ chết đem thây đến đây mà nạp.
Nói rồi cùng nhau vây phủ rất gắt.
Tử Nha làm phép ngũ lôi, vỗ tay sấm nổ.
Ba con yêu hãi kinh, liền nổi gió chạy về.
Vua Trụ ở trước Ngọ môn đang nghe ngóng tin tức, đợi mãi đến canh tư mới thấy ba nàng hơ hải chạy đến.
Trụ Vương hỏi:
– Ba khanh đi cướp trại, thắng bại lẽ nào?
Ðắt Kỷ tâu:
– Khương Thượng đề phòng rất kiên cố. Ba chị em tôi giết được một số binh tướng, nhưng rồi bị trùng vây suýt bỏ mạng.
Vua Trụ nghe nói thất sắc, trở vào buồn bã nói:
– Chẳng ngờ trời đã dứt nghiệp nhà Thương, không còn mong cứu giải.
Ðắt Kỷ cũng khóc và nói:
– Thiếp cũng quyết cướp trại đuổi binh Châu cho yên xã tắc ngờ đâu Trời chẳng cho khôi phục, bây giờ biết tính làm sao?
Trụ Vương nói:
– Trẫm cũng biết cơ nghiệp nhà Thương đến đây đã dứt, lòng trời đã khiến như vậy. Thôi trẫm với ba khanh từ giã mạnh ai nấy tìm chỗ ẩn mình, chẳng nên bận bịu nữa.
Nói rồi Trụ Vương đi thẳng lên lầu Trích tinh.
Ðắt Kỷ nói với Hồ Hỷ Mỵ Và Ngọc Mỹ Nhân:
– Bây giờ Trụ Vương đi liều mình, còn chị em chúng ta tính trốn đâu cho khỏi họa.
Hồ Hỷ Mỵ nói:
– Chỉ có Trụ Vương mê chúng mình mà thôi, nhắm không ai thương hại chúng mình hết, bây giờ trốn chỗ nào cũng không khỏi chết, chi bằng trở về trốn cũ mà nương thân.
Ngọc Mỹ Nhân nói:
– Phải lắm. Chúng ta cùng nhau trở về mả Huỳnh Ðế là tiện hơn cả.
Bàn luận xong, ba con yêu bắt cung nga ăn thịt một cấp nữa, mới chịu ra đi.
Lúc ấy Tử Nha điểm binh lại, và nói với các tướng:
– Ta sơ ý thiếu chút nữa dinh trại tan tành, may nhờ các tướng tài phép mới đuổi được yêu tinh. Nay phải tính trước kẻo chúng trốn hết.
Nói rồi truyền đặt bàn hương án, chiếu quẻ xem rõ, rồi nói:
– Nếu trễ chút nữa thì ba con yêu trốn rồi. Vậy Dương Tiễn đi bắt cho được con Trĩ chín đầu là Hồ Hỷ Mỵ, Lôi Chấn Tử đi bắt cho được Hồ Ly chín đuôi là Ðắt Kỷ, còn Vi Hộ phải đi bắt cho được Ngọc Mỹ Nhân là cây đờn tỳ bà bằng đá. Nếu để chúng nó trốn hết thì ta xử trảm các ngươi hết.
Ba tướng tuân lệnh, ra khỏi cửa bàn với nhau:
– Chuyện này khó quá! Biết nó trốn ở đâu mà kiếm?
Dương Tiễn nói:
– Bây giờ chúng nó thấy Trụ Vương yếu thế chắc trốn ra ngõ sau cung, chúng ta bay lên mây xem xuống thế nào cũng thấy.
Lôi Chấn Tử khen phải, vỗ cánh bay lên mây.
Lúc này ba con yêu ăn thịt cung nga vừa rồi, nổi gió bay lên, tính về hang cũ.
Dương Tiễn trông thấy đón lại kêu lớn:
– Ba con quái chạy đâu cho khỏi. Có ta đến bắt ngươi đây.
Hồ Hỷ Mỵ nổi giận, vung gươm mắng:
– Chị em ta gởi sự nghiệp Thành Thang cho Cơ Phát, nên chúng bây mới thành công, sao chẳng biết ơn còn bắt lại nghĩa là sao?
Dương Tiễn nổi giận mắng:
– Loài nghiệt súc! Chớ nói nhiều lời, bây mau bó tay chịu trói.
Nói rồi xông vào hỗn chiến. Lôi Chấn Tử xông vào đón Ðắt Kỷ lại đánh, Vi Hộ cũng xông vào đánh với Ngọc Mỹ Nhân.
Ðánh được một lúc, Dương Tiễn thả Hạo Thiên Khuyển ra, cắn con trĩ gãy hết một đầu, máu nhỏ ra từng giọt, song nó sợ quá quên cả đau đâm đầu chạy.
Bỗng thấy cặp phướng vàng xuất hiện, mùi hương thơm xông lên ngào ngạt, kế đó có hai tiên nữ theo hầu và Nữ Oa cỡi hạc bay đến.
Ba con yêu bị hào quang chiếu vào mặt nên chạy không được, túng thế phải quỳ xuống thưa:
– Chúng tôi không ngờ nương nương đến nơi đây, nên nghinh tiếp trễ, xin nương nương thứ lỗi. Nay Dương Tiễn và hai tướng quyết đuổi bắt chúng tôi, xin nương nương cứu mạng.
Nữ Oa nói:
– Bích vân! Ðem dây phược yêu trói chúng nó lại giao cho Dương Tiễn đem về nạp cho Tử Nha trị tội nó.
Bích Vân đồng nhi y lịnh.
Ba con yêu nghe nói vừa khóc vừa thưa:
– Năm xưa nương nương dùng phướng chiếu yêu gọi chị em tôi đến, sai vào cung cấm phá trí khôn Trụ Vương, làm nhiều điều trái lẽ, phá tan tành cơ nghiệp Thành Thang. Chúng tôi vâng lệnh làm Trụ Vương hết vây cánh, nước nhà nghiêng ngửa. Nay chúng tôi định đến tâu cùng nương nương thì bị Dương Tiễn và hai tướng đuổi theo. Xin nương nương cứu mạng chị em tôi. Nếu nương nương bắt chị em tôi giao nạp cho Tử Nha thì nương nương xuất hồ phản hồ sao?
Nữ Oa nói:
– Ta sai chúng bây phá cơ nghiệp vua Trụ là hợp ý trời. Ta có dặn các ngươi là đừng giết hại kẻ vô tội. Song chúng bây không nghe, làm nhiều điều tội ác, giết cả tôi trung. Nay tội đáng chết, sao các ngươi dám bảo ta xuất hồ phản hồ?
Lúc Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử, Vi Hộ đang đuổi ba con yêu, xảy thấy hào quang sáng lóa, mùi hương thơm phức, Dương Tiễn xem rõ, nói với Vi Hộ và Lôi Chấn Tử:
– Ấy là Nữ Oa nương nương giáng hạ, chúng ta ra mắt cho mau.
Nói rồi ba người kéo tới lạy và thưa:
– Chúng tôi không dè nương nương đến nên không kịp tiếp nghinh, xin tha tội.
Nữ Oa nói:
– Dương Tiễn, ta đã bắt trói ba con yêu rồi, ngươi dẫn về cho Tử Nha xử tội.
Ba người đồng tạ ơn, dẫn ba con yêu trở lại.
Có bài thơ rằng:
Ba yêu làm dữ hại tôi hiền,
Vua Trụ say mê đến ngửa nghiêng
Mới biết ngày nay trời báo ứng,
Hết trông về ở mé Hiên viên.
Dương Tiễn giục ba con yêu xuống trước cửa dinh, còn mình độn thổ về sau.
Quân giữ cửa thấy ba người đàn bà trên mây sa xuống, đều bị trói một dây, kế lại có ba tướng về tới liền báo với Khương Thượng.
Ba tướng được lệnh vào ra mắt.
Tử Nha hỏi:
– Các ngươi đã bắt được ba con yêu chưa?
Dương Tiễn thuật hết mọi việc, Tử Nha truyền dẫn ba nàng vào dinh.
Chư hầu và các tướng xúm lại xem đông nức.
Tử Nha nói với ba yêu nữ:
– Ba đứa bây làm nhiều điều độc ác, hại trăm họ lầm than, làm cho cơ nghiệp Thành Thang bị mất. Tuy là thiên số song cũng tại các ngươi bất nhân, xui Trụ vương chế Bào Lạc đốt trung lương, lập Sái Bồn hại cung nữ, cất Lộc đài làm hao tốn của, dân khó bỏ thây, bày Tửu Trì, Nhục Lâm giết thị thần, thái giám, chặt xương xem tủy, mổ bụng coi thai, thất đức kể không cùng, dầu thiên hạ lóc thịt các ngươi vẫn chưa đền hết tội.
Ðắt Kỷ quỳ lạy, khóc lóc thưa:
– Thiếp ở Ký Châu, con gái Tô Hộ, nương phòng khuê từ tấm bé không hiểu việc đời, bởi Thiên Tử lấy oai trời, đòi vào cung hầu hạ nên phải tuân theo chẳng ngờ Khương Hoàng hậu chầu trời sớm. Thiên Tử ép thiếp lên thay mặt Chánh Cung, việc gì cũng do đại thần, điều chi cũng bởi quyền Thiên tử, thiếp chẳng qua là một đứa đàn bà nâng khăn sửa trấp, dọn cung, dâng rượu mà thôi, còn việc triều đình thiếp tự chuyên sao được? Bởi Trụ vương thất chánh đến bá quan can gián còn chẳng được thay, huống chi tôi là phận đàn bà mà ngăn cản vua làm sao? Nay Nguyên soái oai vang bốn biển, Võ Vương đức trải khắp chư hầu, chẳng bao lâu Trụ vương cũng sẽ dâng nước đầu. Nguyên soái có giết một đứa đàn bà cũng chẳng ích chi? Lời xưa có nói: “Ðàn ông có lỗi không luận đến đàn bà. Xin Nguyên soái rộng lòng cho tôi về được quê quán thì tôi đội ơn ngàn thuở”.
Tử Nha nói:
– Ngươi mượn tiếng con gái Tô hầu để nói mỵ với thiên hạ, chứ ta đã biết rõ ngươi là Hồ Ly tinh, khi Ðắt Kỷ nghỉ tại trạm Ký Châu, ngươi hớp hồn nhập vào xác, rồi vào cung xui khiến Trụ vương làm nhiều việc bất nhân. Nay bị bắt còn tìm lời gỡ tội cũng chẳng lợi ích gì.
Nói rồi truyền quân dẫn Ðắt Kỷ ra ngoài xử trảm.
Tả đao vâng lệnh.
Các chư hầu nghe Ðắt Kỷ nói trúng lý đều động lòng thương, không tin là yêu quái.
Còn hai con yêu quỳ trước trại.
Tử Nha truyền Dương Tiễn coi việc giám sát Hồ Hỷ Mỵ, Vi Hộ coi việc giám sát Ngọc Mỹ Nhân, còn Lôi Chấn Tử coi giám sát Ðắt Kỷ.
Dương Tiễn vâng lệnh làm phép trấn trên đầu Hồ Hỷ Mỵ, Vi Mộ làm phép trấn trên đầu Ngọc Mỹ Nhân rồi truyền Tả đao xử trảm, hai con quỷ rụng đầu.
Dương Tiễn và Vi Hộ đem hai thủ cấp vào trình.
Còn Lôi Chấn Tử khiến quân trói Ðắt Kỷ ngoài cửa ải.
Ðáng lẽ trong trường hợp này Ðắt Kỷ mặt ủ mày chau, nhưng trái lại mặt Ðắt Kỷ nở hoa, những đường thanh sơn cẩm thú nổi bật lên trên hình hài nhi nữ, khiến cho ai trông thấy cũng động lòng.
Tên tả đao trông thấy Ðắt Kỷ cặp mắt hữu tình, miệng nói duyên dáng, hàm răng như hạt lựu, môi tợ thoa son, đứng nhìn không nháy mắt.
Khi Lôi Chấn Tử truyền khai đao, Ðắt Kỷ nói với tên tả đao rằng:
– Thiếp chết thật hàm oan, xin tướng quân dừng tay trong giây phút. Sớm muộn cũng chết nhưng tướng quân rộng lòng thêm một khắc giá ngàn vàng.
Tên tả đao thấy Ðắt Kỷ gọi mình bằng tướng quân lòng thêm lính quýnh, đã sẳn ý thương hoa tiếc ngọc, bây giờ lại được mỹ nhân lấy lòng như vậy, nên tay chân rời rã, cầm đao không nổi nữa, thả rơi xuống đất, mình mẩy chết tê, cặp mắt nhìn Ðắt Kỷ trân trân không nháy.
Lôi Chấn Tử thấy tả đao rớt gươm, đứng sững như hình trồng, liền truyền tên khác đến thay. Tên ấy nghe Ðắt Kỷ năn nỉ cũng rơi gươm, đúng trơ như tên trước.
Lôi Chấn Tử đổi ba bốn tên Tả đao kế tiếp, tên nào cũng chết trân như vậy, cất gươm không nổi.
Lôi Chấn Tử tuy hò hét, khiến Tả đao hạ thủ nhưng thật ra chính Lôi Chấn Tử thấy dung nhan và nghe lời năn nỉ của Ðắt Kỷ cũng rủn lòng, chân bước tới không nổi.
Lôi Chấn Tử nghĩ thầm:
– Chẳng biết con yêu này có tà thuật gì mà làm mê hoặc mọi người như vậy? Nếu tình trạng này tiếp diễn mãi thì làm sao chém Ðắt Kỷ được.
Nghĩ rồi cố gắng lê bước đến trước trướng báo lại với Tử Nha:
– Thưa sư thúc, tôi không làm nổi trách nhiệm này.
Bấy giờ Tử Nha đã truyền bêu đầu Hồ Hỷ Mỵ và Ngọc Mỹ Nhân, thấy Lôi Chấn Tử vào tay không, lại nói như vậy, vụt miệng hỏi:
– Cửu vĩ hồ ly tinh đã chạy mất rồi sao?
Lôi Chấn Tử thuật chuyện lại.
Tử Nha nổi giận mắng:
– Ngươi giám sát một con yêu mà không xong, còn mặt mũi nào làm tướng. Còn các tên Tả đao tội đáng chém đầu.
Nói rồi truyền Dương Tiễn và Vi Hộ ra thay Lôi Chấn Tử coi việc giám sát.
Hai người tuân lệnh, dẫn các tên đao phủ mới ra, bắt các tên đao phủ cũ trói lại, chờ chém Ðắt Kỷ xong sẽ xử tội các tên đao phủ bất lực ấy.
Chẳng ngờ bọn đao phủ mới này khi đến nơi thấy Ðắt Kỷ thì tay chân cũng rời rã, mình mẩy tê cứng, không sao cầm nổi cây đao.
Dương Tiễn trong người cũng thấy nôn nao, nói với Vi Hộ:
– Nó là con hồ ly tu luyện ngàn năm, có tài làm cho ngươi ta mê mẩn. Rất đỗi, Trụ vương là vị Chúa, còn phải say đắm đến mất nước, huống hồ lũ quân gia. Chúng ta phải vào thưa lại với sư thúc định liệu, kẻo giết oan bọn Tả đao tội nghiệp.
Hai người vào thưa lại với Tử Nha.
Các chư hầu nghe nói lấy làm lạ, đều có ý muốn ra pháp trường xem thử.
Tử Nha cùng chư hầu ra đến nơi, cảm thấy Ðắt Kỷ xinh đẹp mười phần, nhan sắc quyến rũ thật khó lòng giết. Tâm trạng mọi người đều giống nhau là tiếc ngọc, thương hương, nhưng không ai dám nói.
Tử Nha nói với mọi người:
– Nó là con hồ ly tu luyện ngàn năm, nên có thuật khêu gợi, làm cho lòng người mê mẩn. Rất đỗi các đệ tử tiên gia còn không cầm lòng được, thì người thường làm sao không động tâm. Thế này tôi phải dùng đến bửu bối mới trừ nó được.
Nói rồi khiến Dương Tiễn vào lấy bầu gươm phép đặt bàn hương án, để hồ lô trên bàn, và van vái:
– Xin bửu bối trở mình.
Các chư hầu và binh tướng ai nấy đều hồi hộp. Sự hồi hộp ấy thật khó tả. Có lẽ họ không nỡ giết một mỹ nhân sắc nước hương trời như Ðắt Kỷ chăng?
Tử Nha vái dứt tiếng thì nắp hồ lô mở ra, hào quang chiếu sáng lóa. Trong hào quang hiện ra một cây gươm có hai con mắt và hai cái cánh chiếu thẳng vào đầu Ðắt Kỷ.
Lưỡi gươm bay qua lại hai lần trên không trung đầu Ðắt Kỷ rụng xuống, máu vọt ra lai láng.
Các chư hầu đều thương tiếc, chắc lưỡi thở ra.
Người sau có thơ rằng:
Tả đao mê mẩn đứng xuôi tay,
Bởi sắc khuynh thành nhắm dễ say
Tranh vẽ mịn màng coi cũng kém,
Hoa cười tươi tốt vẫn không tà
Hớp hồn gái ngọc thương khi trước,
Sốt mặt anh hùng gớm buổi nay
Yêu quái hại người, người khác hại,
Bia danh Ðắt Kỷ thật oan thay.
Tử Nha chém Ðắt Kỷ xong, truyền bêu đầu.
Các chư hầu trông thấy càng thương xót.
Bấy giờ Trụ Vương đang ngồi tại đền Hiển thánh thấy cung nga chạy ùa vào đông như kiến, lấy làm lạ hỏi:
– Các ngươi vì sao kinh hãi? Hay giặc đã vào trong cung?
Cung nga quỳ tâu:
– Ba vị nương nương đang đêm đi đâu mất, nên chúng tôi phải vào đây tâu lại.
Ấy là cung nga sợ tội, nên đến báo với Trụ Vương, thực không phải mến tiếc.
Trụ Vương nghe tâu, liền khiến cung nga đi lục soát khắp cung điện để tìm kiếm, và tâu lại.
Nhưng sự tìm kiếm ấy chẳng mang lại kết quả nào.
Chẳng bao lâu nội thị vào tâu:
– Ngoài cửa, Tử Nha bêu đầu ba vị nương nương.
Vua Trụ nghe tâu thất kinh, liền bước xuống lầu Ngũ phụng xem thử, quả nhiên thấy rõ ràng ba chiếc đầu của ba giai nhân bêu bên đường.
Người sau có thơ rằng:
Ngọc nát hoa rơi thật thảm thương,
Tóc mây, da tuyết bẹo bên đường
Ca thanh, múa lịch theo luồng gió,
Tướng dịu, lời khôn vắng cõi dương
Gối phụng ngửa nghiêng mơ má phấn,
Phòng loan man mác bặt mùi hương
Bể dâu thay đổi đà ra thế,
Nghĩ lại dường như cắt thịt xương.
Trụ Vương thở dài than ngắn, xảy nghe pháo nổ dậy đất, binh ó vang trời, biết chư hầu đã xâm nhập hoàng cung, liền vội vã xuống lầu Ngũ Phụng qua đến điện Cửu Giang. Ở đây, tiếng quân reo, tiếng trống trận càng chát chúa hơn, Trụ Vương liền lên lầu Trích Tinh để cho xa bớt.
Nhưng khi đến lầu Trích Tinh thì quang cảnh thường ngày lại khác xưa, lòng Trụ Vương không còn thấy ngôi lầu cao này ấm áp, tươi đẹp nữa, mà thấy mười phần trống trải, mặc dầu các đồ vật trên lầu không thiếu món nào.
Một luồng gió thổi đến làm cho Trụ Vương rùng mình rởn óc, cảm thấy hình như muôn ngàn hồn oan từ dưới Sái Bồn hiện đến. Rồi trước mặt Trụ Vương hàng vạn người bỏ tóc xõa, áp tới trước mặt vua Trụ đòi thường mạng. Lại thấy Triệu Khải, Mai Bá kêu lớn:
– Hôn quân. Nay đã đến ngày cùng tận rồi.
Trụ Vương hơ hải bỏ chạy lại thấy Khương hậu níu lại mắng:
– Hôn quân vô đạo, giết vợ hại con, nay đã đến ngày tuyệt mạng rồi, mặt mũi nào nhìn thấy các bậc tiên vương nơi chín suối. Trụ Vương hất tay Khương hậu, vừa chạy được ít bước thấy Giả thị chỉ vào mặt mắng:
– Hôn quân bênh vợ, làm sỉ nhục ta ném xuống lầu, nay số mạng đã tuyệt, còn chạy đi đâu nữa.
Nói rồi tát vào mặt Trụ Vương một cái. Trụ Vương giật mình tỉnh lại, mới biết vừa rồi mình bị hôn mê.
Tuy vậy, Trụ Vương cũng sợ hãi, thất thiểu bước lên trên chót lầu.
Quan giữ lầu vội nghênh tiếp.
Trụ Vương thấy mặt Châu Thăng, buồn bã nói:
– Tiếc rằng ta không nghe lời can gián của trung thần, nên ngày nay mới sanh ra cớ sự như vầy. Ăn năn thì đã muộn. Nghĩ lại, trẫm là một vị chí tôn, không lẽ đợi chúng phá được thành vào bắt làm nhục. Trẫm muốn liều mình lại e thân xác còn đó thiên hạ đàm tiếu chi bằng lập giàn hỏa tự thiêu mình trọn vẹn. Vậy ngươi mau làm cho ta một giàn hỏa trên lầu này chớ nên trễ nải.
Châu Thăng khóc và tâu:
– Tôi theo hầu bệ hạ đã lâu năm, nay gặp hoạn nạn đã không có tài gì để báo quân vương thì lẽ nào lại đi thiêu chúa.
Nói rồi khóc rống lên.
Trụ Vương phán:
– Ấy là trời khiến, ngươi có tội chi? Vả lại trước kia trẫm có nhờ Cơ Phát xem số đoán rằng về sau trẫm bị chết thiêu đó cũng là số mạng tránh sao được. Hãy lập giàn hỏa cho mau kẻo trễ.
Châu Thăng không nỡ, lạy lục cầu khẩn đôi ba lần xin Trụ Vương chậm chậm sẽ tính kế. Vua Trụ nổi giận nói:
– Việc đã gấp rồi, trẫm tính hết kế, không còn cách nào hay hơn nữa. Nếu ở để chư hầu phá Ngọ môn vào đây thì tội của ngươi chẳng nhỏ. Phải lập giàn hỏa cho ta lập tức.
Châu Thăng cực chẳng đã phải xuống lầu, chất củi và đổ thuốc dẫn hỏa làm một cái giàn lớn.
Cung nga xem thấy đều kêu khóc chạy qua cung khác ẩn mình.
Châu Thăng khóc lớn:
– Bệ hạ ôi! Tôi cũng xin chết theo cho tròn trung tiết.
Nói rồi nhảy vào đống lửa.
Người sau có thơ rằng:
Trích tinh ngọn lửa cháy bừng lên,
Ngọc nát vàng tan cháy rụi đền
Cơ nghiệp Thành Thang thành tro bụi,
Sáu trăm năm lẻ nghĩ buồn tênh.
Châu Thăng liều mình chết theo Chúa nghĩ cũng đáng khen.
Trụ Vương thấy lửa cháy, vỗ ngực than:
– Ta chẳng nghe lời can gián của trung thần, nên ngày nay mất cả cơ nghiệp, mặt mũi nào còn trông thấy các tiên vương nơi chín suối.
Bấy giờ Tử Nha đang đốc quân phá cửa ngọ môn, xảy nghe quân báo:
– Lửa cháy nơi lầu Trích Tinh rất dữ.
Tử Nha dắt Võ Vương và chư hầu đến xem thử.
Võ Vương thấy trên chót lầu có một người mặc áo vàng, đội mão trẩm, cầm Ngọc Khuê, bốn phía khói un mù mịt không rõ mặt, liền hỏi tả hữu:
– Phải Thiên Tử ngồi trên lầu chăng?
Tử Nha tâu:
– Chính là hôn quân vô đạo đó. Bởi hôn quân độc ác mười phần, nên nay bị trời phạt chết thảm.
Võ Vương nghe nói lấy tay áo che mặt, quay ngựa về dinh.
Tử Nha tâu:
– Tại sao Ðại Vương có cử chỉ như vậy?
Võ Vương nói:
– Tuy Trụ Vương bạo ngược mặc lòng, song trước giờ chết tất hối hận. Chúng ta không thể đứng nhìn một kẻ sắp thiêu mình trong đống lửa, thà trở về để trước mắt khỏi thấy cảnh thương tâm.
Tử Nha nói:
– Việc đời có nhân quả. Kẻ làm dữ phải mang hậu hoạn, làm sao tránh khỏi. Ðại Vương thấy thương tâm, chẳng qua là do lòng nhân đại của Ðại Vương mà thôi, chứ cái chết của Trụ Vương thật xứng đáng.
Võ Vương vẫn bỏ ra về.
Các chư hầu thấy vậy đồng theo Võ Vương trở về hết.
Còn Tử Nha ở lại xem lửa cháy, xảy thấy lầu Trích Tinh bị sập, đánh ầm một tiếng dường như núi lở, chôn vùi Trụ Vương vào giữa.
Linh hồn Trụ Vương đã lên đài Phong Thần.
Khi ấy các quan ngự lâm và cung nga mở cửa ra đón chư hầu.
Tử Nha truyền rước Võ Vương và các chư hầu nhập cung.
Trong lúc các quân nhân ra sức chữa lửa, Tử Nha họp mặt với Võ Vương và chư hầu nghị luận.
Võ Vương nói:
– Trụ Vương vô đạo, các cung nhân và triều thần lâu nay mang họa, những kẻ nào càng gần Trụ Vương càng khổ nhiều; nay Trụ Vương đã chết, chúng ta chớ làm cho những người ấy khổ thêm, vậy phải cấm quân sĩ không nên thừa dịp này cướp bóc hãm hại muôn dân.
Tử Nha tuân lệnh truyền ra cho quân sĩ biết kẻ nào lợi dụng việc chữa lửa, lấy của giết người thì sẽ chiếu theo quân luật xử trảm.
Võ Vương nhìn về phía đông thấy hai mươi cây cột đồng đỏ hực lấy làm lạ hỏi Tử Nha:
– Chẳng hay đó là vật gì vậy?
Tử Nha tâu:
– Ðó là Bào Lạc do Trụ Vương chế ra để đốt các quan Gián nghị.
Võ Vương kinh hãi than:
– Như vậy thì làm sao quốc thái dân an được. Chẳng những nạn nhân trông thấy hết hồn, cho đến ta cũng khiếp vía. Thật Trụ Vương không có dạ thương người.
Tử Nha nói:
– Bào Lạc mới là một trong những lối hành hình tàn nhẫn của Trụ Vương mà thôi.
Võ Vương hỏi:
– Còn gì tàn nhẫn nữa?
Tử Nha liền thỉnh Võ Vương đến lầu Trích Tinh và chỉ Sái Bồn cho Võ Vương xem.
Võ Vương thấy dưới hầm rắn bò ngổn ngang trông khiếp vía, vội hỏi:
– Vật gì vậy?
Tử Nha tâu:
– Ðó là Sái Bồn, chỗ nuôi rắn độc để kẻ nào không tuân mệnh. Trụ vương truyền lột hết quần áo ném xuống cho rắn xé xác.
Võ Vương nghe nói lạnh mình.
Tử Nha lại chỉ Tửu Trì, Nhục Lâm cắt nghĩa rõ từng chút.
Võ Vương than:
– Ta không ngờ Thiên Tử không có lòng nhân đức, chẳng chút lương tâm.
Võ Vương thấy lửa còn cháy, khói đen ngun ngút, số cung nga chết cháy hơn phân nửa, hơi tanh khét lẹt, lòng không đành, liền truyền:
– Hãy cứu lấy thi thể bị nạn đem ra ngoài chôn cất cho tử tế.
Rồi lại hỏi Tử Nha:
– Chẳng biết thi thể Trụ Vương ở đâu? Chúng ta phải tìm cho được làm lễ an táng, nếu để vậy chúng ta mang tội không nhỏ.
Tử Nha tâu:
– Trụ Vương vô đạo, chết như vậy là do trời phạt, nay Ðại Vương nhân đức, truyền tống táng thì lòng nhân của Ðại Vương không gì bì kịp.
Liền khiến quân tìm xác Trụ Vương tẩn liệm và tống táng theo lễ Thiên tử.
Sau đó, Võ Vương cùng Tử Nha và chư hầu đến Lộc đài, xem thấy lầu cao chót vót, cảnh vật xinh tươi, trong đài gắn toàn những châu báu, ngọc ngà hào quang sáng lóe, Võ Vương chắt lưỡi than:
– Thiên Tử thâu của dân xa xỉ như vầy bảo dân chúng không cùng khổ sao được. Ðã không có lòng thương dân thì mất nước là chuyện dĩ nhiên.
Tử Nha tâu:
– Từ xưa đến nay, hễ tiết kiệm thì lâu dài, xa xỉ thì mất nước. Kẻ minh quân lấy đức hạnh làm quý không coi châu báu, ngọc ngà là đẹp.
Võ Vương nói:
– Dân chúng lâu nay bị đóng góp vào Lộc đài nên cùng khổ, nay cũng nên phá Lộc đài chia của cho dân nghèo, lại lấy kho lúa tại Cự Kiêu phát chẩn cho dân chúng bớt đói khổ.
Tử Nha nói:
– Ðại Vương có ý như vậy thì đức rải bốn phương. Xin truyền lệnh lập tức.
Võ Vương làm y lời, truyền phá Lộc đài lấy báu vật phân phát cho dân và phá kho lấy lúa cấp chẩn.
Dân chúng được của mừng rỡ vô cùng.
Xảy có tin vào báo:
– Bắt được đứa con út của Trụ Vương là Võ Cảnh hiện trốn sau hậu cung.
Võ Cảnh là con trai của Ðắt Kỷ mới sanh sau.
Võ Cảnh tuy còn nhỏ, song cũng khôn lanh, thấy Võ Vương liền sụp lạy.
Chư hầu nổi giận nói:
– Ân Thọ vô đạo, tội ác dẫy đầy, cũng nên chém Võ Cảnh để đền tội với thiên hạ.
Võ Vương can:
– Trụ Vương lỗi đạo là tại Ðắt Kỷ và nịnh thần bày, còn Võ Cảnh có tội chi? Rất đỗi các quan đại thần như Tỷ Can, Vi Tử mà còn không can gián được thì Võ Cảnh một đứa bé bỏng làm gì được? Thói thường tội của cha không luận đến con, các chư hầu nên noi đức ấy sau này. Chúng ta đợi có một tân quân là yêu cầu phong cho Võ Cảnh một cõi ngõ hầu nối kiếp lửa hương, như vậy tức là chúng ta đền ơn Thiên Tử vậy.
Chư hầu không dám cãi. Khương Văn Hoán nói:
– Nay các việc đã xong, chúng ta cũng nên tôn một tân quân lên kế vị, trời không thiếu một ngày vắng mặt nhựt, nước không nên để một bữa thiếu vua. Hễ ai có nhân đức thì ra trị thiên hạ. Tôi thấy Võ Vương nhân đức có thừa, đáng mặt lên ngôi thiên tử, xin tính chuyện ấy cho đẹp dạ chư hầu.
Các chư hầu đều nói:
– Khương hiền hầu luận phải lắm.
Võ Vương nói:
– Tôi đức mỏng tài hèn, chỉ lo giữ mình cho trong sạch còn chưa xong, dám đâu trị thiên hạ. Tôi ước mong được về nước giữ đạo thần tử mà thôi. Xin chư hầu chọn người khác cho xứng đáng với chức vị thiêng liêng ấy.
Khương Văn Hoán nói:
– Ðại Vương chớ nên khiêm nhượng. Hiện nay nhắm trong thiên hạ không ai nhân đức bằng Ðại Vương, bởi vậy chư hầu đều tùng phục nhà Châu, chỉ ước mong được có ngày hôm nay. Nếu Ðại Vương từ chối thì thật phụ lòng tám trăm chư hầu theo Ðại Vương đến đây trừ bạo cứu dân.
Võ Vương nói:
– Tôi đức hạnh bao nhiêu mà hiền hầu nói quyết như vậy, xin chọn kẻ khác đủ tài đức lên nối trị ngôi trời mới xứng.
Khương Văn Hoán nói:
– Xưa vua Nghiêu có con trai là Ðơn Châu, kém bề nhân đức nên vua Nghiêu nhường ngôi vua Thuấn. Sau Thuấn sanh con là Thương Quân cũng ít đức nên truyền ngôi cho vua Hạ Võ. Vua Hạ Võ sanh ông Khải hiền đức nên mới truyền ngôi cho, kế vị được mười bảy đời đến đời vua Kiệt bạo ngược vua Thành Thang lấy nhân đức đuổi vua Kiệt ra đất Nam Sào gầy dựng nhà Thương, truyền đến đời Trụ Vương thì vì Trụ Vương vô đạo mà nhà Thương bị mất. Thế thì nhân đạo là yếu tố xứng đáng để trị đời. Ðại Vương không dùng việc can qua mà thu phục tám trăm chư hầu, thì đã thấy đức độ Ðại Vương đến bực nào rồi. Trời khiến nhà Thương về nhà Châu, Ðại Vương từ chối sao phải.
Võ Vương nói:
– Ðức hạnh tôi còn kém, đâu dám sánh với Hạ Võ, Thành Thang?
Khương Văn Hoán nói:
– Chúng tôi theo Ðại Vương đến đây trừ bạo cứu dân, nay Ðại Vương từ chối không nhận ngôi thiên tử thì chúng tôi biết cử ai bây giờ?
Võ Vương nói:
– Khương hầu tài cao đức trọng, đáng thay mặt nhà Thương trị thiên hạ. Các chư hầu đều nói lớn:
– Chư hầu đầu Châu đã lâu, xin Ðại Vương đừng khiêm nhượng. Nếu Ðại vương quyết lòng từ chối thì chư hầu ai về nước nấy, trên không Thiên tử, mạnh ai nấy tranh hùng, thiên hạ hãy còn loạn lạc nữa.
Tử Nha nói:
– Xin quý vị đừng nóng nảy, để thủng thỉnh bàn luận thế nào cũng yên.
Nói rồi quay lại tâu với Võ Vương:
– Bấy lâu nay chư hầu kéo đầu Châu chính là muốn trừ bạo, cứu dân, tôn Ðại Vương lên ngôi Thiên Tử để thiên hạ thái bình, ấy là điềm nhân thuận, thiên lý tùng. Hễ lòng người thuận thì trời phải theo. Nếu Ðại Vương cãi lòng người, trái mệnh trời chỉ thiên hạ loạn, các chư hầu sẽ mạnh ai xâu xé nhau, thành ra cuộc cứu dân trừ bạo hôm nay chẳng ích gì cả.
Võ Vương nói:
– Tuy chư hầu có lòng thương, song ta tự xét tài hèn, đức mỏng, đảm đương nhiệm vụ to tát sẽ làm trò cười cho thiên hạ, và để tiếng xấu về sau.
Khương Văn Hoán nói:
– Lòng muôn người như một, ước ao Ðại Vương lên kế vị ngôi trời xin tính việc ấy cho sớm kẻo thiên hạ ngã lòng.
Tử Nha nói:
– Xin Ðại Vương lên ngôi đỡ, nếu sau này có người nào hiền đức hơn mình thì Ðại Vương nhường ngôi lại cũng chẳng muộn.
Chư hầu hiểu dụng ý của Tử Nha đều hết sức đốc vào.
Tử Nha liền vẽ họa đồ đài tôn vương và đặt văn sớ, rồi giao cho Châu Công Ðáng sửa sang mọi việc.
Châu Công Ðáng coi theo họa đồ cất đài cao ba tầng, chính giữa đặt bàn hoàng thiên hậu thổ hai bên có bàn thần núi, thần sông tả hữu có mười hai cây địa chỉ, mười hai cây cờ ấy đều cắm dưới đất. Xung quanh tầng trên thì dùng mười cây cờ Thiên cang. Lại có bốn cây cờ tứ quy án theo bốn mùa. Lễ vật cúng tế bày ra rất long trọng.
Bấy giờ Tử Nha thỉnh Võ Vương lên đài cùng tế, Châu Công đọc sớ rồi đốt đi.
Võ Vương ngồi giữa, chư hầu chầu chực hai hàng nhạc thiều trổi lên, ai nấy tung hô vạn tuế.
Chúc lạy xong, Võ Vương phán:
– Các khanh bình thân. Trẫm đại xá thiên hạ.
Phán rồi xuống đài truyền chỉ dọn yến tiệc đãi đằng.
Rạng ngày Võ Vương lâm triều, chư hầu, văn võ chầu chực đủ mặt, Võ Vương phán:
– Trụ Vương thất chánh thâu của dân xa xỉ, làm cho đất nước lụy mình. Nay trẫm nhờ ơn chư hầu tôn lên ngôi thiên tử, trẫm xuất hết của kho vua Trụ mà thưởng các chư hầu. Châu ngọc, vàng bạc trên Lộc đài cũng chia nhau luôn thể. Xin các vị chư hầu về nước giữ theo đạo chánh, dùng kẻ hiền năng, lạy dân lấy kỷ cang làm trọng lấy đức làm lòng, lấy tín nghĩa làm nhân bản.
Chư hầu vâng lệnh từ tạ kéo binh về nước. Còn Võ Vương truyền phá hết lầu đài vua Trụ cấp phát tiền của cho dân, tha tù Cơ Tử, phong mộ Tỷ Can viếng nhà Thương Dung, thả cung nga về xứ.
Thiên hạ thấy việc binh chấm dứt, mừng rỡ khôn cùng.
Võ Vương ở nán lại Triều Ca hơn mười bữa, chiêu an bá tánh xa gần, đâu đâu cũng tùng phục.
Tử Nha tâu:
– Xin bệ hạ chọn người hiền đức để trấn nhậm Triều Ca.
Võ Vương phán:
– Tự ý Thượng phụ xếp đặt.
Tử Nha nói:
– Bệ hạ đã không giết Võ Cảnh thì cũng nên ra ơn cho Võ Cảnh ở Triều Ca giữ phần hương khói. Nhưng phải dùng người giám thủ mà giữ gìn.
Võ Vương phán:
– Ðể mai lâm triều sẽ thương nghị.
Rạng ngày, Võ Vương lâm triều phán rằng:
– Nay trẫm phong Võ Cảnh trấn tại Triều Ca, nối đời thờ phụng nhà Thương. Các khanh định ai làm Giám quốc.
Quần thần đồng tâu:
– Việc này phải dùng người thân của vua mới được. Chúng tôi nhắm hai vị ngự đệ là Cơ Thúc Tiên và Cơ Thúc Ðộ có đủ tài trí để dùng việc này.
Võ Vương y lời, giao cho hai vị ngự đệ ở lại Triều Ca làm Giám quốc với Võ Cảnh.
Hôm sau Võ Vương lên xe về nước. Khi ngự giá vừa ra khỏi ngọ môn thì thấy bá tánh đón đường lạy, và tâu:
– Bệ hạ cứu chúng dân trong cơn nước lửa, thật chúng tôi cảm đức mười phần. Xin bệ hạ đình giá để chúng tôi đền ơn.
Võ Vương an ủi:
– Trẫm đã để hai vị ngự đệ ở lại Triều Ca làm Giám quốc thì cũng như trẫm có mặt tại đây miễn các ngươi tuân theo phép nước, lấy nhân đạo làm gốc là đủ rồi cần gì phải lạy tạ.
Nói rồi quay lại dặn Cơ Thúc Tiên và Cơ Thúc Ðộ.
– Hai khanh phải lấy dân làm gốc, đừng bao giờ để cho dân khổ nhọc, được như vậy mới giữ được quốc thái dân an, bằng trái lời trẫm thì tội chẳng nhỏ.
Phán rồi truyền đẩy xe ra khỏi Triều Ca, bá tánh theo đưa còn khóc lóc sụt sùi.
Võ Vương dẫn binh đến Mạnh Tân, qua khỏi Huỳnh Hà, lần hồi vượt qua năm ải. Ngày khải hoàn vui vẻ ghê!
Khi đi khỏi núi Kim Kê, đến núi Thú Dương bỗng có hai đạo sĩ đến đón đầu binh.
Quân chạy về báo:
– Có hai đạo sĩ mời Nguyên soái ra nói chuyện.
Khương Tử Nha ra xem thì thấy hai người ấy là Bá Di, Thúc Tề, liền hỏi:
– Chẳng hay hai vị đến đây dạy việc chi?
Bá Di hỏi lại:
– Hôm nay Nguyên soái đem binh về nước chẳng hay Trụ Vương ra thế nào?
Tử Nha đáp:
– Trụ Vương vô đạo, thiên hạ đều trở lòng, tôi đem binh qua năm ải hợp chư hầu tại Mạnh Tân, Trụ Vương tuy đông binh; nhưng vô đạo không thể thắng chính đạo. Bởi cớ ấy Ân Thọ tự thiêu mình, Võ Vương vào triều ca lấy các kho lúa phát chẩn cho dân, phá hết đền đài của Ân Thọ đã hút máu xương thiên hạ, thả tù Cơ Tử, phong mộ Tỷ Can viếng nhà Thương Dung tỏ ra kính hiền đãi sĩ. Chư hầu đều phục, tôn Võ Vương lên nối ngôi Thiên tử. Nay nhà Thương đã thuộc về nhà Châu.
Bá Di, Thúc Tề ngước mặt lên trời khóc lớn nói:
– Thảm thay! Thảm thay! Ðem dữ mà đổi dữ ta còn trông nỗi gì?
Nói rồi lui vào núi Thú Dương chẳng ăn cơm nhà Châu, hái rau rán, rau díp ăn cho đỡ dạ. Sau hai ngươi này làm ra thể ca “Ăn rau” người đời đều biết.
Có một người đàn bà gặp Bá Di, Thúc Tề, liền hỏi:
– Vì sao hai ông không ăn cơm nhà Châu?
Bá Di, Thúc Tề thuật lại; người đàn bà cười nói:
– Chẳng ăn cơm nhà Châu mà ăn rau nhà Châu thì cũng vậy.
Bá Di, Thúc Tề bỏ cả ăn uống chết tại núi Thú Dương.
Người sau có thơ rằng:
Vua Võ hưng binh trước đón đàng
Lòng trung một tấm nhớ Thành Thang
Hai phần đã hết còn chung thỉ
Muôn thác không từ chọn chữ cang
Bờ cõi đời nay buồn chẳng có
Non sông chúa cũ nghĩ thêm càng
Thương ôi, thẹn mặt không cầu sống
Chê gạo nhà Châu xuống suối vàng.
Tử Nha kéo binh đi khỏi núi Thú Dương đến núi Yên Sơn, thấy dân Châu nghênh tiếp đây đường.
Rồi đến Tây Kỳ có Táng Nghi Sanh, Hoàng Cổn dẫn bá quan tiếp giá, đồng quỳ lạy trước xe.
Võ Vương thấy Hoàng Thiên Tước theo sau lưng Hoàng Cổn liền phán:
– Trẩm chinh Ðông năm năm nay, thấy các quan tiếp giá lòng bùi ngùi:
Táng Nghi Sanh tâu:
– Nay bệ hạ đã lên ngôi trời, đáng lẽ vui mừng mới phải. Chúng tôi tiếp giá thấy mặt rồng ủ rũ là tại làm sao?
Võ Vương nói:
– Bởi trẫm muốn hội chư hầu nên phải qua năm ải, các tướng theo trẫm kẻ mất người còn, không được chung hưởng hạnh phúc, nên trẫm buồn quá.
Táng Nghi Sanh tâu:
– Ðạo làm thần tử thì liều mình với Chúa, để tiếng thơm muôn đời. Nếu bệ hạ có thương thì phong tước lộc cho con cháu cũng đủ đền đáp thâm ân, cần gì phải buồn bã.
Võ Vương về tới đền, thiên hạ theo xem như hội.
Võ Vương vào ra mắt Thái Khương, Thái Nhâm rồi vào cung. Thái Cơ mừng rỡ đón tiếp.
Võ Vương truyền dọn yến tiệc thiết đãi bá quan.
Rạng ngày Võ Vương lâm triều, bá quan vào chầu, Tử Nha tâu:
– Tôi phạt Trụ đã xong, bệ hạ dựng nghiệp nhà Châu đã yên, song còn mấy người tử trận chưa phong thần, xin bệ hạ cho tôi về núi Côn Lôn ít ngày, để lãnh sắc của Chưởng giáo tôn sư mà phong thần cho rồi việc.
Võ Vương y tấu.
Xảy có quân báo:
– Phi Liêm và Ác Lai là tôi vua Trụ trước kia bỏ trốn, nay tìm đến xin ra mắt bệ hạ.
Võ Vương hỏi Tử Nha:
– Hai người ấy là tôi của vua Trụ đến đây ra mắt trẫm làm gì?
Tử Nha tâu:
– Phi Liêm và Ác Lai là hai đức tôi nịnh của Trụ Vương, trong loạn lạc ẩn mình, nay thái bình đến đây nhờ tước lộc. Loài gian hùng như vậy còn để làm chi? Song tôi đã có việc dùng, xin bệ hạ cứ đòi vào phong chức tước.
Võ Vương truyền chỉ đòi hai người vào.
Phi Liêm và Ác Lai vào quỳ trước bệ chúc tụng xong.
Võ Vương hỏi:
– Hai khanh có việc gì đến đây ra mắt trẫm?
Phi Liêm tâu:
– Trụ Vương không nghe lời tôi ngay, đắm mê tửu sắc, nên trời xui mất cả giang sơn. Chúng tôi nghe bệ hạ nhân đức bủa khắp thế gian nên chẳng nài đường xa ngàn dặm tìm đến Tây Kỳ, cầu bệ hạ cho chúng tôi hầu việc đánh xe thì thật may cho chúng tôi lắm. Và chúng tôi xin đem dâng ấn ngọc bệ hạ dùng.
Tử Nha làm bộ khen:
– Hai vị Ðại phu khi trước cũng tận trung với chúa, bởi Trụ Vương chẳng suy xét nên mới mất thành trì. Nay hai vị đem ấn ngọc đến đây đầu Châu thật là bỏ chỗ tối tìm chỗ sáng đó. Xin bệ hạ phong chức cho hai người.
Võ Vương y tấu, đồng phong cho hai người làm chức Trung Ðại phu.
Ác Lai và Phi Liêm đều lạy tạ ơn.
Bây giờ nhắc lại Mã Thị, từ khi chê Tử Nha bất tài bất trí, đòi từ hôn, sau về lấy một ông già làm rẫy tên Trương Tam Lão. Vợ chồng sống đắp đổi qua ngày. Ðến nay Võ Vương nhờ Tử Nha phạt Trụ thâu một cõi giang sơn, thiên hạ đều nghe danh đàm luận.
Ngày kia có một bà già lối xóm đến hỏi Mã thị:
– Người chồng trước của bà nay phò Võ Vương làm đến chức Thừa Tướng, tại sao bà không tìm đến nhờ cậy?
Mã thị nói:
– Biết có phải ông ấy không?
Bà hàng xóm nói:
– Còn gì nghi ngờ nữa. Người ấy là Khương Tử Nha, lúc thất thời ngồi câu ở Bàn Khê, sau đó Võ Vương rước về phong làm Thừa tướng. Mới đây Tử Nha phò Võ Vương hội chư hầu tại Mạnh Tân, chư hầu tôn Võ Vương phong Tử Nha làm Thừa Tướng, vinh hiển nhất đời ai lại không biết.
Mã thị nghe nói thẹn đỏ mặt.
Bà hàng xóm lại nói:
– Bà dại lắm! Phải chi đừng bỏ đời chồng trước thì bây giờ vinh hiển biết chừng nào. Nay người ta cao sang tột bực, còn bà thì hẩm hút như vầy thật đáng tiếc.
Mã thị hối hận vô cùng, bỏ vào phòng nằm một mình nghĩ thầm:
– Tức vì mình có mắt mà không biết xem người. Bà hàng xóm nói phải lắm. Thật ta vô phước. Bây giờ ta có sống đến trăm tuổi vẫn trong cảnh cực khổ này. Ðã vậy lại bị thiên hạ gièm pha chế biếm. Thà chết cho khuất đi còn hơn.
Song lại nghĩ:
– Hay là ta lầm! Trong đời thiếu gì kẻ trùng tên, chắc gì lão già ấy đã làm nên việc lớn? Nếu nghe lầm mà chết thì cũng oan, chi bằng đợi chồng về hỏi cho rõ ràng đã.
Ðến chiều Trương Tam Lão đi bán cải trở về.
Mã thị dọn cơm cho chồng ăn rồi hỏi:
– Thiếp nghe Khương Tử Nha phò Võ Vương làm đến chức Thừa Tướng có phải không?
– Việc ấy quả có như vậy. Vừa rồi Khương Tử Nha đem tám trăm chư hầu đánh triều ca, diệt Trụ hưng Châu, làm đến chức Thừa Tướng. Lúc đó tôi muốn bàn với phu nhân đến yết kiến Thừa Tướng xin làm một chức nhỏ song lại sợ người giận khó lòng.
Mã thị tức tối không an.
Trương Tam Lão theo an ủi mãi, Mã thị vào phòng dùng dây thắt cổ tự vận, hồn bay lên đài Phong Thần.
Rạng ngày Trương Tam Lão mới hay, mở dây đem xuống chôn cất.
Có bài thơ cho rằng:
Chồng vinh thì hiệp, nhục thời ly,
Nay mới ăn năn có ích gì?
Hổ mặt với đời đành tự vận,
Muôn năm còn để tiếng vô nghì.
Bấy giờ Khương Tử Nha sửa soạn trở về núi lo việc Phong thần, Võ Vương dặn dò mau mau trở về kẻo mỏi lòng trông đợi.
– Ta đã định trước rồi. Ngươi cứ về tại đài Phong Thần sẽ có sắc lệnh đến đó.
Tử Nha lạy tạ với Nguyên Thỉ về tâu lại với Võ Vương và lòng nhóng đợi sắc chỉ.
Ngày kia, bỗng nghe có tiếng nhạc inh ỏi mùi hương nồng nực ngó thấy Huỳnh Cân lực sĩ cầm phướng che tàn, Bạch Hạc đồng tử bưng sắc ấn từ trên mây sa xuống.
Tử Nha ra trước phủ nghinh tiếp, đón nhận sắc chỉ để trên bàn hương án rồi lạy tạ, Bạch Hạc đồng tử và Huỳnh Cân lực sĩ từ giã trở về.
Tử Nha sửa soạn xong, đệ sắc ấn đến núi Kỳ Sơn.
Thanh Phước thần là Bá Giám hay tin vội ra nghinh tiếp.
Tử Nha vào trong đài để sắc ấn trên bàn án truyền Võ Kiết, Nam Cung Hoát làm phướng Bát quái bằng giấy trấn tám hướng và mười mấy cây cờ Thiên cang, mười hai cây cờ Ðịa chi, dẫn binh mã ba ngàn, lập trận Ngũ phương xung quanh đài.
Khương Thừa Tướng tắm gội rồi truyền đặt bàn hương án, bên tả dựng Hạnh Huỳnh kỳ, bên hữu dựng Ðả Thần Tiên, mặc áo giáp hẳn hòi mở sắc ra tuyên đọc các hồn nghe cho rõ. Sắc chỉ như sau:
“Hỗn nguyên giáo chủ, Nguyên Thỉ Thiên Tôn ban sắc:
Hỡi ôi!
Tiên phàm khác bậc, người không đạo đức khó thành. Thần, quỷ riêng phần, kẻ ở gian tà phải đọa.
Ðịa tiên dầu rõ điều biến hóa, không lòng cũng mất lẽ trường sanh.
Thiên tiên tuy thông hiểu Huyền quan, ra trận dữ cũng khó thành chánh quả.
Các ngươi:
Tuy thông đạo cả, một điều không dập lửa lòng, ra trận giao phong, sa trường bạt mạng. Khiến kẻ tôi ngay, con thảo, vì trung này hiếu nọ mà bỏ mình.
Có người đức hạnh tiết trinh, bởi lẽ ấy tiết trinh hủy hoại.
Bị luân hồi báo oán, mắc nhân quả trả oan.
Nên ta chẳng an, động lòng phải thưởng.
Nay ban sắc cho Khương Thượng thay mặt đứng phong Thần từ bậc ba phần, phong vào làm tám bộ. Các ngươi khỏi luân hồi chịu khổ, một lòng cố báo bổ giúp đời. Nếu có công hưởng lộc trời, bằng có lỗi sẽ bị oai sấm sét.”
– Bá Giám hãy treo bảng Phong Thần dưới đài cho các hồn xem rõ, lúc nào kêu tên các hồn mới được lên.
Bá Giám tuân lệnh, mở bảng Phong Thần ra thấy tên mình đứng trên hết.
Các hồn đồng đến xem.
Bỗng Tử Nha gọi Bá Giám đến nghe sắc, Bá Giám cầm phướng lên đài quỳ xuống, Tử Nha đọc rằng:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Bá Giám xưa là Nguyên soái của Huỳnh Ðế, vâng lịnh đánh Xi vưu trước cũng lập công nhiều phen, sau bị chết nơi biển Bắc, hồn trung lạnh lẻo cũng khá thương, chừng gặp Khương Thượng đem về giữ đài Phong Thần, có công tiếp dẫn, nay phong chức là Thanh Phước thần, đứng đầu tám bộ gồm 365 vị.
Bá Giám tạ ơn xuống đài, Tử Nha truyền Bá Giám dẫn Hoàng Thiên Hóa lên, bảo quỳ và nghe sắc chỉ:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Hoàng Thiên Hóa xuống cứu cha là vì hiếu vì vua, tử trận chưa hưởng vinh hoa, thiệt mạng đáng thương lắm, nên phong làm chức Bỉnh Linh công, Tam sơn chánh thuận, cai trị ba hòn núi.
Hoàng Thiên Hóa tạ ơn bước xuống.
Tử Nha truyền dẫn Ngũ Nhạc lên đài.
Năm vị đồng quỳ nghe đọc sắc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Hoàng Phi Hổ trung thần bị nạn, phải trốn sang nước khác, hết lòng đền ơn tri ngộ Võ Vương, nên chết tại huyện Dẫn Trì, nghĩ cũng khá thương. Còn Sùng Hắc Hổ, Văn Sính, Thôi Anh, Tưởng Hùng bốn anh em kết bạn, quyết lòng phạt Trụ hưng Châu, rủi thác một lượt với Hoàng Phi Hổ, nên phong làm thần Ngũ Nhạc, cai trị năm hòn núi.
Vậy thời:
– Hoàng Phi Hổ làm Ðông nhạc Thái Sơn, Tề Thiên nhân thánh Ðại đế, làm đầu ngũ Nhạc, cai trị phần hồn. Dầu ai mới thác cũng phải đến cho thần Ðông nhạc xét tra. Ðến lúc đi đầu thai cũng vậy.
– Sùng Hắc Hổ làm Nam nhạc Hoàng sơn, Tư thiên Chiêu thánh đại đế.
– Văn Sính làm Trung nhạc Hoành sơn. Trung thiên Sùng thái Ðại đế.
– Thôi Anh làm Bắc nhạc Hằng sơn, An thiên huyền thánh Ðại đế.
– Tưởng Hùng làm Tây nhạc Hoa sơn, Kim thiên thư thánh Ðại đế.
Các người này phải lo bổn phận xem họa phước cho dân.
Năm thần tạ ơn xuống đài.
Tử Nha truyền đem Lôi Bộ lên đài.
Thái sư Văn Trọng không chịu ai tiếp dẫn, một mình dắt hai mươi bốn vị bổn hộ lên đài đứng sững không chịu quỳ.
Tử Nha rút roi Ðả Thần Tiên hét lớn:
– Lôi Bộ Chánh thần quỳ nghe đọc sắc.
Văn Trọng lúc đó mới chịu quỳ.
Tử Nha thấy 25 vị thần đã chịu phép quỳ hết mới tuyên đọc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Văn Trọng có công tu luyện, không được thành tiên, xuống phò hai trào đều tận trung, sau thất một trận mà mãn số. Trung liệt cũng đáng thương, nay cho làm đầu Lôi Bộ, cai trị 24 vị Thiên Quân xem gió, mưa, mây, chớp. Lấy oai ấm sét trị tội loài tà.
Vậy thì:
Văn Trọng làm chức Cửu thiên Nguyên lôi thinh phổ hóa thiên tôn.
Còn 24 vị thiên quân kể ra như sau:
Theo Lôi Bộ
Chức vụ: Tên người: Nhiệm vụ
Thiểm điển thần: Kim Quang thánh mẫu: coi việc sấm chớp
Hưng vân thần: Thể vân Tiên cô: coi việc kéo mây
Trợ phong thần: Hạm chi Tiên cô: coi việc làm gió
Bố võ thần: Kim Tô: coi việc làm mưa
Ðặng Trung: Ðặng thiên quân: Trương Tiết: Trương thiên quân
Ðào Vinh: Ðào thiên quân: Bàng Hồng: Tân thiên quân
Tuân Chương: Tuân thiên quân: Tất Hoàn: Tất thiên quân
Tần Hoàn: Tần thiên quân: Triệu Gian: Triệu thiên quân
Ðổng Toàn: Ðổng thiên quân: Viên Giác: Viên thiên quân
Lý Ðức: Lý thiên quân: Tôn Lương: Tôn thiên quân
Bạch Hổ: Bạch thiên quân: Vương Diệt: Vương thiên quân
Dao Tân: Dao thiên quân: Trương Triệu: Trương thiên quân
Kiết Lập: Kiết thiên quân: Dư Khánh: Dư thiên quân
Các thần lãnh chức tạ ơn lui xuống.
Tử Nha lại truyền dẫn Hỏa Bộ chánh thần lên đài, rồi đọc sắc.
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
La Tuyên xưa tu tại Hỏa Long đảo, gần thành tiên, bởi tánh lửa không dằn được mới bỏ mạng. Nay cho làm đầu Hỏa Bộ, coi việc lành dữ mà răn đời.
Vậy thì:
La Tuyên làm chức Nam phương Tam khí, Hỏa đức tinh quân chánh thần.
Lữ Nhạc tu hành dày công, bị nghe lời thị phi, xuống lập trận Ôn Hoàng mà chết. Nay nghĩ công khi trước, cho làm đầu bộ Ôn, trừ kẻ ác trong đời.
Vậy thì:
Phong Lữ Nhạc làm Chủ chưởng Ôn Hoàng Hạo thiên Ðại đế.
Còn sáu vị thần trong Ôn hộ là:
Tên thần: Chức vụ
Châu Tín: Ðông phương hành ôn sứ giả
Lý Kỳ: Nam phương hành ôn sứ giả
Châu Thiên Lân: Tây phương hành ôn sứ giả
Dương Văn Huy: Bắc phương hành ôn sứ giả
Trần Canh: Khuyến thiên Ðại sứ
Lý Bình: Hòa ôn Ðạo sĩ.
Sáu vị thần đồng tạ ơn bước xuống.
Tử Nha truyền dẫn Ðẩu Bộ Chánh thần lên, rồi tuyên đọc sắc chỉ.
Kim Linh Thánh mẫu đạo đức đủ điều, ngôi tiên đã sẵn, vì chưa dứt giận hờn, lập trận dữ nên mang họa. Nay phong chức:
Ðẩu chánh thần, ngồi trên phương Bắc, cai trị các vì tinh tú. Tám mươi bốn ngàn vì sao lớn nhỏ đều được sai khiến:
Năm Bộ Ðẩu kể ra sao:
Ðông đẩu tinh quân gồm có các thần: Tô Hộ, Kim Khuê, Cơ Thúc Minh, Triệu Bình.
Tây đẩu tinh quân gồm có: Hoàng Thiên Lộc, Long Hoàn, Tôn Tử Võ, Hồ Thăng, Hồ Văn Bằng.
Trung đẩu tinh quân gồm có: Lỗ Nhân Kiệt, Triều Lôi, Cơ Thúc Thăng, do Cơ Bá Ấp Khảo làm trung thiên Bắc cực tử vi Ðại đế.
Nam đẩu Tinh quân gồm có: Châu Kỷ, Hồ Lôi, Cao Quý, Dư Thành.
Bắc đẩu tinh quân gồm có: Thiên Cang, Hoàng Thiên Tường, Văn Khúc, Tỉ Can, Võ Khúc, Ðậu Vinh, Tả phụ Hàng Thăng, Hữu bậc Hàng Biên, Phú quân Tô Toàn Trung, Thăng lang Ngạc Thuận, Cự môn Quách Thần, Chiêu diên Ðổng Trung.
Các vì sao được phong như sau:
Tên sao: Tên người
Thanh long tinh: Ðặng Cửu Công
Ðằng xà: Trương sơn
Thái Dương: Từ Cái
Thái Âm: Khương Hoàng Hậu
Câu trận: Lôi Bàng
Bạch Hổ: Ân Thành Tú
Châu Tước: Mã Phương
HuyềnVõ: Từ Khôn
Ngọc Ðường: Thương Dung
Thiên Quý: Cơ Khúc Càng
Long Ðức: Hồng Cẩm
Hồng Loan: Long Kiết Công Chúa
Thiên hỉ: Trụ Vương
Thiên đức: Mai Bá
Nguyệt đức: Hạ Chiêu
Thiên xá: Triệu Khải
Mạo đoan: Giả Thị
Kim phủ: Tiêu Trăng
Mộc phu: Ðặng Hoa
Thủy phủ: Dư Nguyên
Hỏa phủ: Hỏa Linh
Thổ phủ: Thổ Hành Tôn
Lục hiệp: Ðặng Thiền Ngọc
Bất sĩ: Ðỗ Nguyên Tiến
Lực sĩ: Ô Văn Hóa
Tấn thơ: Dao Cách
Hà khôi: Hoàng Phi Bưu
Nguyệt Khôi: Triệt Ðịa Phu Nhân
Ðế xa: Khương Hoàng Sở
Thiên tự: Hoàng PhiBáo
Hoàng ân: Lý Cẩm
Thiên y: Tiền Bảo
Ðịa hậu: Hoàng Quý Phi
Trạch Long: Cơ Thúc Ðức
Phục long: Hoàng Minh
Dịch mã: Lôi Khai
Huỳnh phan: Ngụy Bôn
Báo vĩ: Ngô Khiêm
Tán môn: Trương Quế Phương
Ðiều khách: Phong Lâm
Câu giảo: Bí trọng
Quyện thiệt: Vưu Hồn
La hầu: Bành Tuân
Kế đô: Vương Báo
Phi liêm: Cơ Thúc Khôn
Bạo hao: Sùng Hầu Hổ
Tiểu hao: Ân Phá Bại
Quách sách: Khưu Dẫn
Lang cang: Long An Kiết
Phi đâu: Thái Loan
Ngũ quỷ: Ðặng Tú
Dương nhận: Triệu Thăng
Huyết quang Tôn: Diệm Hồng
Quan phù: Phương Nghĩa Chân
Cô thần: Dư Hóa
Thiên cẩu: Quý Phương
Binh phù: Vương Tá
Toàn cốt: Trương Phụng
Tử phù: Biện Kim Long
Thiên bại: Bạch Hiển Trung
Phù trầm: Trịnh Xuân
Thiên sát: Biện Kiết
Tuế sát: Trần Canh
Tuế hình: Từ Phương
Tuế phá: Triều Ðiền
Ðộc hỏa: Âu Dương Thuần
Huyết chi: Mã Trung
Vong thần: Cơ Thúc Ngang
Nguyệt phá: Vương Hổ
Nguyệt du: Thạch Cơ Nương
Nguyệt yểm: Giao Trung
Thất sát: Trương Khuê
Ngũ cốc: Ân Hồng
Trừ sát: Tử Trung
Thiên hình: Âu Dương Thiên Lộc
Thiên la: Trần Ðồng
Ðịa võng: Cơ Thúc Kiết
Thiên không: Mai Võ
Huê cái: Ngao Binh
Thập ác: Châu Tín
Tàm súc: Huỳnh Nguyên Tế
Ðào hoa: Cao Thị Lan Anh
Tảo chẩu: Mã Thị
Ðại họa: Lý Cấn
Lang Tịch: Hàng Vinh
Phi ma: Lâm Thiện
Cửu xủ: Long Tu Hổ
Nhất Tam thi: Tác Kiên
Nhị Tam thi: Tác Cường
Tam Tam thi: Tác Dõng
Ấm thác: Kim Thành
Dương sai: Mã Thành Long
Nhân sát: Công Tôn Ðạt
Tứ phế: Viên Hồng
Ngũ cùng: Tôn Hiệp
Ðịa không: Mai Ðức
Hồng diệm: Dương Quý Phi
Lưu Hà: Võ Vinh
Quả Tú: Châu Thăng
Thiên ôn: Kim Ðại Thăng
Hoán vu: Ðài Lễ
Thai thần: Cơ Thúc Lễ
Phục đoạn: Trư Tử Chân
Phản ngâm: Dương Hiển
Phục ngâm: Dao Thứ Long
Ðao châm: Thường Hạo
Diệt một: Trần Kế Trinh
Tuế yểm: Bành Tổ Thọ
Phá tối: Ngô Long.
Nhị thập bát tú (28 vì sao)
Các vì sao này đã rút ra nói ở trận Vạn Tiên rồi, nay xin kể tắt:
Tam thập lục thiên cang tức ba mươi sáu vị sao Ðẩu tử trận Vạn Tiên kể ra sau:
Tên sao: Tên người
Thiên khôi tinh: Cao Diễn
Thiên Cang Tinh: Huỳnh Chơn
Thiên cơ: Lư Xương
Thiên giang: Kỷ Xương
Thiên dõng: Giao Công Hiếu
Thiên hùng: Thi Cối
Thiên mãnh: Tôn Ất
Thiên oai: Lý Báo
Thiên anh: Châu Nghĩa
Thiên quý: Trần Khảm
Thiên phú: Lê Tiên
Thiên mãng: Phương Bảo
Thiên cô: Chiêm Tú
Thiên thương: Lý Hồng Nhơn
Thiên quyền: Vương Long Mậu
Thiên thiệp: Ðặng Ngọc
Thiên ám: Lý Tân: Thiên hựu: Từ Chánh Ðạo
Thiên không: Ðiển Thông
Thiên tốc: Ngô Húc
Thiên dị: Lữ Tư Thành
Thiên sát: Nhậm Lại Sinh
Thiên vi: Cung Thanh
Thiên tổn: Ðường Thiên Chánh
Thiên bại: Thân Lễ
Thiên lao: Văn Kiệt
Thiên huệ: Trương Trí Hùng
Thiên bạo: Tất Ðức
Thiên khốc: Lưu Ðạt
Tiên xảo: Trình Tam Ích
Thất thập nhị địa sát (72 vì sao theo Bộ Ðầu)
Ðịa khôi tinh: Trần Kế Chân
Ðịa sát tinh: Huỳnh Kiển Nguyên
Ðịa hung: Lỗ Tu Ðức
Ðịa oai: Hồ Bá Nhạn
Ðịa anh: Tôn Tường
Ðịa kỳ: Vương Bình
Ðịa mãnh: Bá Hữu Hoạn
Ðịa văn: Hoa Cao
Ðịa chánh: Khao Cách
Ðịa tịch: Lý Toại
Ðịa hạc: Lưu Hoành
Ðịa cường: Hạ Tường
Ðịa ám: Dư Trung
Ðịa phụ: Bao Long
Ðịa hội: Lỗ Chi
Ðịa tá: Huỳnh Bính Khánh
Ðịa hưu: Trương Kỳ
Ðịa linh: Quách Kỷ
Ðịa thú: Kim Nam Ðạo
Ðịa vi: Trần Nguyên
Ðịa huệ: Xa Khôn
Ðịa hạo: Tang Thành Ðạo
Ðịa mặc: Châu Canh
Ðịa xương: Tề Công
Ðịa cuồng: Hoát Chi Nguyên
Ðịa phi: Diệp Trung
Ðịa tẩu: Cố Tòng
Ðịa xảo: Lý Xương
Ðịa minh: Phương Kiết
Ðịa tấn: Từ Kiết
Ðịa thôi: Phán Oan
Ðịa mãng: Trát Công
Ðịa toại: Khổng Thành
Ðịa châu: Giao Kim Tu
Ðịa ẩn: Nịnh Tam Ích
Ðịa dị: Dư Trí
Ðịa lý: Ðổng Trinh
Ðịa tuấn: Viễn Ðảnh Tướng
Ðịa lạc: Uông Tường
Ðịa thiệp: Cảnh Nhan
Ðịa tốc: Hình Tam Loan
Ðịa trấn: Khương Trung
Ðịa kê: Khổng Thiệu Triệu
Ðịa ma: Lý Dượt
Ðịa yêu: Cung Thiên
Ðịa u: Ðoạn Thanh
Ðịa phục: Môn Ðạo Chánh
Ðịa tịch: Tố Lâm
Ðịa không: Tiên Ðiển
Ðịa cô: Ngô Tứ Ngọc
Ðịa kim: Khuôn Ngọc
Ðịa đoản: Thái Công
Ðịa giác: Lam Hổ
Ðịa tù: Tống Lộc
Ðịa tàn: Quan Bâu
Ðịa bình: Long Thành
Ðịa tổn: Huỳnh Ô
Ðịa nô: Không Ðạo Linh
Ðịa sát: Trương Hoàn
Ðịa ác: Lý Tín
Ðịa xủ: Từ Sơn
Ðịa số: Cát Phương
Ðịa ám: Tiêu Long
Ðịa hình: Tần Tường
Ðịa tráng: Võ Diễn Công
Ðịa liệc: Phạm Bân
Ðịa kiện tinh: Diệp Kiển Xương
Ðịa bao tinh: Giao Hoa
Ðịa tặc: Tôn Kiết
Ðịa Cẩu: Trần Mộng Canh
Cửu diện tinh quân (chín vì sao theo bộ Ðầu)
1. Sùng Ứng Bưu
2. Cao Hệ Bình
3. Hàng Bàng
4. Lý Tế
5. Vương Phong
6. Lưu Cấm
7. Vương Từ
8. Bành Cửu Nguyên
9. Lý Tam Ích
Thủy Ðức tinh quân (năm vì sao Thủy tinh)
1. Cơ Thủy Báo: Dương Chơn
2. Thủy Ðức Tinh: Lỗ Hùng
3. Bích Thủy Du: Phương Tiết Thanh
4. Sâm Thủy Viên: Tôn Tường
5. Chẩn Thủy Dẫn: Hồ Ðạo
Các vị tinh tú được phong rồi lạy tạ ơn xuống đài.
Tử Nha truyền Bá Giám dẫn Ân Giao, Dương Nhậm và bổn bộ lên, rồi đọc sắc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Ân Giao là con của vua Trụ, vì nóng lòng mẹ nên động đến cha, thiếu chút nữa anh em phải lụy. Sau cãi lời thầy dạy, không kể lời thề, tuy nghe Thân Công Báo mặc lòng, song cũng tại mình bội sư mang họa.
Còn Dương Nhậm can vua mà bị khoét mắt, sau về Châu vì Chúa liều mình.
Vậy phong Ân Giao chức Trị niên Thái quân, coi điều lành dữ trong mãn năm, phong Dương Nhậm làm Giáp tí Thái tuế đem các vị bổn hộ tuần du xét người lành dữ.
Bộ hạ hai vị thần Thái Tuế kể ra sau đây:
1. Nhựt du thần: Ôn Lương
2. Dạ du thần: Kiều Khôn
3. Tăng phước thần: Tiết A¨c Hổ
4. Tôn phước thần: Hàng Ðộc Long
5. Hiển đạo thần: Phương Bậc
6. Khai lộ thần: Phương Tướng
7. Trị niên thần: Lý Bình
8. Trị nguyệt thần: Huỳnh Thừa Ất
9. Trị nhật thần: Châu Ðáng
10. Trị thời thần: Lưu Ðồng.
Các thần được phong đều tạ ơn lui xuống đài.
Tử Nha truyền đòi anh em Vương Ma lên, rồi đọc sắc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Anh em Vương Ma trước ở tại Cửu Long đảo, bởi không giữ phần thanh tịnh, xuống trần lo việc can vua, nên mất tiên cang, phải sa thần đạo. Nay phong bốn anh em họ Vương làm Tứ thánh Ðại nguyên soái hầu hạ đền Linh Tiêu.
Bốn người này là: Vương Ma, Dương Sum, Cao Thế Càng, Lý Hưng Bá.
Bốn thần tạ ơn lui gót.
Tử Nha truyền đòi Triệu Công Minh và bốn vị Kiết thần lên, rồi tuyên đọc sắc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Triệu Công Minh, công quả đã cao, tu hành phải đạo, bởi nghe tiếng thị phi mà nóng tánh, nên sa vào trần tục, chuốt lấy rủi ro, sống không được thành tiên chết cũng về chánh quả. Nay phong làm chức Kim Long như ý Chánh nhứt Long Hổ, Huyền đăng Chơn quân, quản xuất bốn vị chánh thần mà cứu giúp người lương thiện.
Bốn vị Chánh thần phong như sau:
1. Châu bửu Thiên tôn: Tiên Thăng
2. Nạp trân Thiên tôn: Tào Bửu
3. Chiêu tài Sứ giả: Trần Cửu Công
4. Lợi thị tiên quân: Dao Thiếu Tư.
Năm vị Chánh thần tạ ơn lui xuống.
Tử Nha truyền dời bốn anh em họ Ma lên đài, rồi đọc sắc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Bốn anh em họ Ma học được phép lạ, ý muốn chống trời, song thấy ngay vua cũng khá khen, nghĩ tử tiết càng thêm thương, nay phong bốn người làm Tứ đại Thiên vương coi bốn chữ: Phong điều võ thuận.
Ma Lễ Thanh làm Tăng trưởng Thiên vương, cầm Thanh quang bửu kiếm.
Ma Lễ Hồng làm Quang mục Thiên vương cầm Hỗn nguyên châu táng.
Ma Lễ Hải làm Ða văng Thiên vương cầm Hoa hồ điêu.
Bốn vị Thiên vương tạ ơn lui xuống đài.
Tử Nha truyền dẫn Trịnh Luân và Trần Kỳ lên, tuyên đọc.
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Trịnh Luân bỏ Trụ về Châu phải trang hiền thần vận lương ra trận đáng bậc công lao, chưa hưởng quyền cao đã lìa trần thế.
Còn Trần Kỳ, tuy đón binh Châu, cãi thiên mệnh, song lòng ngay với chúa cũng đáng khen. Vậy phong hai người làm Hanh ngáp nhị tướng giữ cửa núi Tây phương.
Hai thần tạ ơn lui xuống.
Tử Nha truyền dẫn vợ chồng Dư Hóa Long lên, rồi đọc sắc:
Cha con Dư Hóa Long thờ chúa hết lòng, đáng tôi lương đống, liều thân trọn tiết, nên hưởng lửa hương. Nay phong Dư Hóa Long làm chức Chủ đậu bích hà nguyên quân. Vợ là Kim thị phong chức: Vệ phòng Thánh mẫu.
Chồng coi việc bông, trái; vợ cứu việc sanh thai.
Còn năm người con phong chức sau đây:
Ngũ phương chủ đậu thánh thần
1. Ðông phương chủ đậu thánh thần: Dư Ðạt
2. Tây phương chủ đậu thánh thần: Dư Triệu
3. Nam phương chủ đậu thánh thần: Dư Quang
4. Bắc phương chủ đậu thánh thần: Dư Tiên
5. Trung ương chủ đậu thánh thần: Dư Ðức
Vợ chồng, con cái Dư Hóa Long tạ ơn xuống đài.
Tử Nha truyền đòi Tam Cô lên, tuyên đọc.
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Ba chị em Vân Tiên tuy học đạo lớp Thiên hoàng mà chưa chứng quả, vì nóng báo cừu huynh trưởng lập trận Huỳnh Hà hại người đại đức nên phải lụy thân. Nay phong ba người làm Cảm ứng tùy thế tiên cô.
Tuy làm vị nương nương. Song phải coi việc sinh sản mà đền tội hại tiên ra phàm.
Cảm ứng tùy thế tiên cô gồm có:
1. Vân Tiêu nương nương
2. Quỳnh Tiêu nương nương
3. Bích Tiêu nương nương
Cả ba vị tiên cô đều tạ ơn lui gót.
Tử Nha truyền dẫn Thân Công Báo lên đài tuyên đọc.
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Thân Công Báo tu theo Xiển giáo, dám cãi lời thầy, quyết trợ Trụ đánh Châu, bày đặt dụ dỗ nhiều người làm bậy. Tuy số trời đã định, kẻ có tên trong bảng phải bỏ mình, song lỗi ấy thật khó dung, đã một lần thề thốt mà không chừa thói cũ. Nay dầu mang họa, nhưng nghĩ tình phong cho làm Phân thủy tướng quân, coi nước lớn, nước ròng tại Ðông Hải hay việc ấm lạnh trong hai mùa. Hạ thì giá tan. Ðông thì nước đặc. Nếu làm trái lại sẽ bị phạt nặng nề.
Thân Công Báo tạ ơn lui xuống biển.
Các vị thần ai giữ việc ấy, đều rời khỏi đài.
Từ ấy trong đài hết âm khí, gió hòa nắng tốt như thường.
Tử Nha xuống đài, truyền Nam Cung Hoát về đền ra lệnh cho bá quan văn võ ngày mai phải đến Kỳ Sơn cho đủ mặt.
Ngày hôm sau, bá quan văn võ tề tựu, đồng ra mắt Tử Nha.
Tử Nha truyền trói Phi Liêm và Ác Lai lại.
Hai người thất kinh kêu lớn:
– Chúng tôi phạm tội là kẻ bày cho vua Trụ làm hại dân nước thì thật có công đối với nhà Châu sao Thừa thường tướng lại bảo là tội. Cơ nghiệp này, nếu Trụ Vương không nghe lời chúng tôi hủy phá thì làm sao hôm nay rơi vào tay nhà Châu được? Kẻ được thiên hạ lại không biết ơn chúng tôi sao?
Tử Nha nói:
– Chúng bay thật là đứa gian hùng, thốt ra nhiều lời kỳ dị. Nếu để chúng bay sống thì cơ nghiệp nhà Châu có ngày bị hại.
Nói rồi truyền võ sĩ đem hai người ra xử trảm.
Tử Nha lại lên đài phong Thần tuyên đọc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Phi Liêm và Ác Lai là hai tôi gian nịnh, ngỡ trộm ấn cầu vinh, không dè đem thân đi nạp. Bởi có tên trong bảng Phong Thần nên khó trốn. Nay phong Phi Liêm làm Băng tiêu, Ác Lai làm Ngõa giải tuy là chức xấu, không được làm hung.
Phi Liêm và Ác Lai cúi đầu nghe đọc sắc xong tạ ơn bay đi. Tử Nha trở xuống đài.
Bữa sau, Châu Thiên Tử lâm triều, bá quan vào chầu đủ mặt.
Tử Nha tâu việc chém hai tên nịnh thần, và nói:
– Tôi theo ý sắc Ngọc Hư, phong các thần cao thấp theo thứ bậc, từ nay bệ hạ khỏi lo. Song còn một điều là bệ hạ phải chia đất ít nhiều, phong cho các tôi có công trận.
Võ Vương phán:
– Trẫm có ý ấy đã lâu, song đợi Thượng phụ phong Thần nên trễ việc, nay phong thần đã xong tự ý Thượng phụ định liệu.
Bốn cha con Lý Tịnh, Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử bảy người đồng quỳ tâu:
– Chúng tôi là người núi non, vâng lệnh thầy xuống giúp bệ hạ mà thôi, nay đã thái bình thạnh trị, chúng tôi xin về núi tu hành, còn việc phú quý chúng tôi không muốn.
Võ Vương phán:
– Trẫm nhờ các khanh tài cao phép lạ, công khó trí dày mới cứu nước cứu dân, nay thái bình thì các khanh lại không chịu hưởng giàu sang, trẫm nỡ nào để các khanh về núi.
Bảy người đồng tâu:
– Chúng tôi tuy đội ơn bệ hạ, nhưng không dám cãi thầy. Vả lại lòng tu hành còn nặng, không có ý hưởng tước quyền, xin bệ hạ cho chúng tôi toại nguyện.
Võ Vương biết không thể lưu lại được, buồn bã nói:
– Trước khi khởi binh, những trung thần nghĩa sĩ như mây rợp đất, thế mà sau cuộc chiến chinh, nửa đường bỏ mạng rất nhiều, trẫm lấy làm thảm thiết. Nay các khanh đòi rời trẫm, trẫm không thể ngăn được, vậy đợi trẫm tổ chức một tiệc tiễn hành các khanh lợi dụng lúc trẫm uống thật say mà ra đi để trẫm khỏi đau lòng.
Hôm sau, tiệc dọn tại trường đinh, bảy người tụ đủ mặt, Võ Vương bá quan đưa đón.
Bảy người ra tiếp giá, Võ Vương nắm tay phán:
– Các vị nay về núi tức là bậc tiên thần, không còn ràng buộc đạo vua tôi nữa. Vậy chớ khiêm nhường, hãy cùng trẫm đồng bàn uống cho thật say một bữa.
Bảy người đồng tạ ơn, ngồi vào dự tiệc.
Thiên hạ nghe đồn Thiên Tử đưa thần tiên về núi, đến xem rất đông.
Mãn tiệc, bảy vị từ giã, Võ Vương rưng rưng nước mắt.
Bảy người đồng an ủi:
– Xin bệ hạ an lòng cho chúng tôi về núi, ngày sau có dịp đến chầu.
Võ Vương y lời từ biệt.
Còn Tử Nha theo đưa một đỗi, hai bên gạt lệ chia tay.
Bảy vị sau này đều thành chánh quả.
Có bài thơ rằng:
Từ giã về non lánh tục trần
Thanh nhàn cảnh tỉnh rất an thân
Quyết thành chánh quả thành tiên thánh
Khỏi đọa luân hồi trả oán hận
Hai chữ thị phi đà chẳng bợn
Một câu vinh nhục cũng không cần
Vui chơi nào biết mùi dương thế
Dâu bể màng chi đổi mấy lần.
Rạng ngày, Châu Võ Vương lâm triều, bá quan tung hô đủ mặt, Tử Nha và Châu Công Ðáng quỳ tâu.
– Nhờ bệ hạ cho bảy người về núi tu hành, vậy xin xuống chỉ phân phong cho đẹp lòng các tôi có công trận.
Võ Vương phán:
– Hôm qua bảy vị về non, trẫm buồn quá sức nay đến việc phân phong trẫm giao cho Thượng phụ và Ngự đệ thay mặt trẫm làm cho công bằng.
Hai vị vâng chỉ trở về dinh bàn với nhau làm sớ tâu trình.
Hôm sau, Võ Vương lâm triều, Châu Công Ðáng dâng sớ Võ Vương xem qua rất hài lòng, truyền Châu Công Ðáng tuyên đọc bản phân phong.
Châu Công Ðáng tuân lệnh lần lượt đọc rằng:
“Trước truy phong cho Vương tổ là Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương, ba vị đồng làm Thiên tử.
Còn các vị cháu, chắc các trào vương khác được chia ra làm ngũ đẳng là: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
Nếu nước nào nhỏ hơn năm bực ấy thì gọi là phụ dung.
Các chư hầu, mới chia nước kể ra như sau:
1. Nước Lỗ: Phong Hầu, Cơ Ðáng (Châu Công Ðáng) là con thứ tư vua Văn Vương. Bởi Châu Công phò Văn Vương, Võ Vương, sau con vua Võ Vương là Thành Vương còn nhỏ cũng nhờ Châu Công phò tá, có công giám quốc nên Thành Vương phong cho vuông vức 700 dặm làm chỗ thờ phụng Châu Công.
2. Nước Tề: Phong Hầu, Khương Thượng, Nguyên thuở trước cháu vua Thần nông là Bách, gọi là Tứ Nhạc, vốn họ Lữ. Vì phong làm Lữ hầu nên lấy nước làm họ. Lại có công trị thủy nên cho theo họ Khương. Bởi vậy nên có hai họ, Khương Thượng tên tộc là Vọng, nên gọi là ông Lữ Vọng. Nay được phong Tề Hầu, lại được chức Thái công nên đời sau gọi là Thái Công Vọng, nước Tề thuộc tỉnh Sơn Ðông, Huyễn huyện, lớn hơn các nước chư hầu khác.
3. Nước Yên: Phong Bá, do Cơ Quân Thích. Cơ Quân Thích là tôi có công trận, đồng tánh với vua, phò Văn Vương, Võ Vương đến lúc thâu thiên hạ làm chức Thái bảo. Bởi có đất riêng nơi ấp Thiệu nên gọi là Thiệu Công Ích. Nước Yên thuộc U Châu huyện Kế. Sau con là Bắc Yên Bá.
4. Nước Ngụy: Phong Bá, do Cơ Cao, Cơ Cao gọi là Tất Công Cao, cũng là tôi đồng tánh với vua. Nước Ngụy thuộc tỉnh Hà Nam huyện, huyện Cao Mật.
5. Nước Quản: Phong Hầu, do Cơ Thúc Tiên, nay thuộc tỉnh Hà Nam huyện Tín Dương. Phong ở gần Triều Ca mà giám quốc.
6. Nước Thái: Phong Hầu, Cơ Thúc Ðộ, nay thuộc về tỉnh Hà Nam, phủ Nhữ Ninh, huyện Thái. Cũng phong gần Triều Ca mà giám quốc. Sau lấy nước làm họ, nên kêu Thái Thúc Ðộ, Quản Thúc Tiên.
7. Nước Tào: Tào Bá, Cơ Thúc Ðạt, em Võ Vương. Nước Tào nay gọi là phủ Tế Dương, huyện Ðịnh Ðào.
8. Nước Thành: Thành Bá, Cơ Thúc Võ, em Võ Vương. Nước Thành nay thuộc về tỉnh Sơn Ðông, phủ Diễn Châu, huyện Văn Thượng.
9. Nước Hoắc: Hoắc Bá, Cơ Thúc Xử, em Võ Vương. Nay thuộc về tỉnh Sơn Tây, phủ Bình Dương.
10. Nước Vệ: Vệ Hầu, Cơ Khương Thúc, em một mẹ với Võ Vương. Nước Vệ thuộc về Ký Châu.
11. Nước Ðằng: Ðằng Hầu, Cơ Thúc Tú, em Võ Vương. Nay thuộc về tỉnh Sơn Ðông, huyện Khưu.
12. Nước Tấn: Tấn hầu, con vua Võ Vương, phong tại đất Ðường, gọi là Ðường Thúc Ngu, sau mới cải lại nước Tấn. Nay thuộc về tỉnh Sơn Tây, phủ Bình Dương, huyện Ðáng, thành Ðộng Dực.
13. Nước Ngô: Ngô Tử là con cháu Thái Bá, ông Thái Bá là con lớn vua Thái Vương. Nay thuộc về Ngô Quận.
14. Nước Ngu: Ngu Công con cháu Trọng Ung, ông Trọng Ung là con cháu giữa vua Thái Vương. Bởi vua Võ Vương phạt Trụ rồi, tìm con cháu của ông mà phong.
15. Nước Quách: Quách Công là Trọng Quách em ruột vua Văn Vương. Nước Quách tại đất Hoàng Nông, huyện Hiệp.
16. Nước Sở: Sở Tử họ Mỹ, dòng giống vua Chuyên Húc. Mỹ Tử là Dực Hùng, làm thầy vua Văn Vương. Bởi có công lao, nay Võ Vương phong nước Sở, làm đầu coi các nước di dịch tại Kính Man. Bây giờ thuộc quận Ðơn Dương, huyện Chi Giang.
17. Nước Hứa: Hứa Nam, họ Khương cũng dòng giống ông Lữ Nhạc. Nay thuộc về Hứa Châu.
18. Nước Tần: Tần Bá họ Dinh, dòng giống vua Chuyên Húc. Bởi đời trước có công, nên Võ Vương phong Khương Bá Y¨ làm Bá nước Tần. Nay thuộc về tỉnh Hiệp Tây, phủ Tây An.
19. Nước Cử: Cử Tử họ Dinh dòng giống vua Thiếu Hạo. Bởi đời trước có công, nên Võ Vương phong Tử Dữ Kỳ làm Bá nước Cử.
20. Nước Kỷ: Kỷ Hầu họ Khương, là con thứ ông Tử Nha. Bởi Võ Vương nhớ công lao Tử Nha nên phong con thứ Tử Nha riêng một nước Kỷ, còn con trưởng nam Tử Nha nối chức cha ở nước Tề. Ấy là việc sau này, ở đây có sẳn dịp nói luôn. Nước Kỷ thuộc huyện Kịch.
21. Nước Trâu: Phong chức Tử cho họ Tào, con thứ năm ông Lục Chung. Nay thuộc về tỉnh Sơn Ðông, huyện Trâu.
22. Nước Tiết: Phong Tiết Hầu, họ Nhậm, dòng giống vua Huỳnh Ðế, gọi là Nhậm Trọng Huề, nay thuộc về tỉnh Sơn Ðông, Châu Nghi.
23. Nước Tống: Tấn Công, họ Vi Tử, con trai lớn dòng thứ của vua Ðế Ất. Bởi Trụ Vương vô đạo, Vi Tử ôm thần chủ và đồ tế qua đầu Châu. Bây giờ được phong bậc Công, trị nước Tống. Nay thuộc huyện Hoài Dương.
24. Nước Khởi: Khởi Bá họ Tỉ, dòng giống vua Hạ Võ, vua Võ Vương tìm ra Tỷ Ðông Lâu, phong làm Bá trị nước Khởi để hương khói cho vua họ Võ. Nay thuộc về phủ Khai Phong, huyện Uông Khưu.
25. Nước Trần: Trần Hầu, họ Huy, dòng giống vua Thuấn, làng Ác Phủ, có nghề làm đồ gốm cho Võ Vương. Võ Vương truy ra nên gả con lớn là Thái Cơ, phong làm hầu trị tước nước Trần để thờ phượng vua Thuấn. Nay gọi là huyện Trần.
26. Nước Kế: Kế Hầu, họ Cơ, dòng giống vua Nghiêu. Nay thuộc về tỉnh Bắc Kinh, phủ Thuận Thiên.
27. Nước Cao Ly: Cao Ly Tử là con cháu ông Cơ Tử. Bởi Cơ Tử không chịu đầu Châu, Võ Vương mời ra mắt, Cơ Tử nói đến sách Hồng Phạm một hồi rồi từ giã qua đất Liêu Ðông ẩn dật. Võ Vương phong nước này làm nước Cao Ly, Cơ Tử nối dòng làm tước tử tại đó.
Ấy là nói sơ lược hai mươi bảy nước lớn, con bà con với Võ Vương, với dòng họ các vua đời trước, cùng kẻ có công trận, cộng là bảy mươi hai nước, kể sao cho cùng. Ví dụ nước Việt nơi quận Cốc Kê, phong đất Hướng nơi Tiều Quốc, đất Phàng phong làm nước Cáp, nước Túc phong làm Ðông Bình, phong nước Cáo thành nước Tế Âm, phong nước Ðặng nơi đất Vĩnh Xuyên, phong nước Nhung nơi đất Trần Lưu, phong nước Duế nơi đất Phúng Dực, phong nước Cực làm phụ dung, phong nước Cốc nơi đất Nam Dương, phong nước Mâu nơi đất núi Thái Sơn, phong nước Cát nơi Lượng quốc, phong nước Nghiêu làm phụ dung, phong nước Ðàm nơi đất Bình Lăng, phong tước Hượt nơi tỉnh Hà Nam, phong nước Hinh nơi Tương quốc, phong nước Giang nơi đất Như Nam, phong nước Ký nơi Bì huyện, phong nước Tử nơi huyện Hàm Hỉ, phong nước Thơ nơi đất Lư Giang, phong nước Huyền nơi đất Dực Dương, phong nước Tằng nơi đất Lang Nha, phong nước Lộ nơi đất Nghĩa Dương, phong nước Hạnh nơi đất Nhữ Nam, phong nước Anh nơi đất Sở, phong nước Thân nơi đất Nam Dương, phong nước Cung nơi quận Cấp, phong nước Di nơi Thành Dương.
Các nước ấy nói sơ lược mà thôi, nếu đem vào truyện thì sẽ gây khó chịu cho người đọc.
Còn Nam Cung Hoát, Táng Nghi Sanh, Hoằng Yên đều được phong cấp nhỏ hết.
Võ Vương lại còn xuất của kho thưởng cho các người đó.
Ðến khi mãn tiệc, các chư hầu đều lui về nước lo cai trị dân mình.
Có bài thơ rằng:
Võ Vương gầy dựng sự nghiệp Châu,
Luận công chia đất đặt chư hầu
Ba vua chớ gọi nơi nền nếp,
Nhờ có rào thưa mới trị lâu.
Bấy giờ chỉ có Châu Công Ðáng, Triệu Công Thích ở lại triều ca phò Võ Vương trị nước.
Võ Vương nói với Châu Công Ðáng:
– Hạo kinh chính giữa thiên hạ quả là khí tượng đế vương. Vậy ngự đệ với Triệu Công Thích dời đế đô về đó, trẫm đẹp lòng nơi đó.
Châu Công Ðáng vâng lệnh, truyền chỉ lại, Triệu Công Thích tuân theo dời đô về nơi đó. Nay gọi là tỉnh Hiệp Tây, phủ Tây An, huyện Hàm Dương.
Võ Vương lại phán:
– Tướng phụ nay đã già, ở triều chầu chực mệt lắm, hôm nay trẫm cho cung nữ, ngọc ngà châu báu, búa Việt cờ Mao, được quyền chinh phạt về nước Tề cai trị, hưởng phúc thái bình.
Khương Thái Công tạ ơn lãnh thưởng của Võ Vương rồi lên đường về Tề quốc.
Võ Vương lại truyền quân dọn tiệc thết đãi để tiễn Khương Thái Công về nước.
Khương Thái Công tạ ơn và thưa:
– Tôi được phong cai trị một cõi, ngặt vì nay già nua không chầu bệ hạ được, không biết ngày nào vua tôi gặp nhau.
Võ Vương an ủi:
– Bởi tướng phủ già nua lại mệt nhọc theo việc trào, nên trẫm cho về nước đặng dưỡng lão.
Khương Thái Công không biết nói sao đành lủi thủi lên xe về nước.
Ngày kia, Khương Thái Công về đến nước Tề, sực nhớ đến Tống Dị Nhơn, người ơn của mình, bởi lâu nay lo việc nước nên không lui tới hỏi thăm được, nay thiên hạ thái bình, Khương Thái Công muốn đền đáp ơn xưa, liền sai quân về Triều Ca thỉnh rước. Nhưng vợ chồng Tống Dị Nhơn đã qua đời, chỉ còn con cái nhưng nay đã giàu sang, liền viết thơ cho sứ.
Sứ thần đem thơ về dâng, Khương Thái Công xem xong buồn bực, sai người đem lễ vật sang biếu con Dị Nhân.
Bấy giờ Khương Thái Công cai trị nước Tề được năm tháng thì thiên hạ nghiêm trang, sau Khương Thái Công sanh được người con trưởng tên Cáp và con thứ.
Về sau Khương Thái Công qua đời, công tử Cáp lên nối ngôi cha.
Võ Vương lại phong con thứ của Thái Công làm Hầu trị nước Kỷ.
Võ Vương cai trị thiên hạ thái bình.
Sau Võ Vương băng hà, con là Thành Vương lên nối ngôi, cũng được Châu Công phò tá thiên hạ thái bình, lạc nghiệp.
Từ lúc vua Trụ mất nước Võ-vương lập lên nhà Châu, dân chúng sống trong cảnh thái-bình thịnh trị.
Các triều vua kế tiếp như Thành-vương, Khương-vương, đều nhờ lấy đức trị dân, lại được các bậc trung thần như : Châu-công , Thiệu-công, Tất-công, Sử Đật, hết lòng phò tá, lên cơ-nghiệp vững-bền.
Qua đến đời vua thứ tám là Di-vương, cơ-nghiệp nhà Châu bắt đầu suy-yếu.
Ðến đời vua thứ chín là Lệ-vương lại càng nhu-nhược hơn. Trong nước nổi loạn, nịnh-thần thí vua, toan tiếm ngôi may nhờ có Châu-công và Thiệu-công, đồng tâm hiệp lực, lập Thái-tử Tịnh lên kế vị.
Thái-tử Tịnh lên ngôi xưng hiệu là Tuyên-vương , trong thì lo sửa sang triều-chính chiêu- đãi hiền-thần, ngoài thì lo vỗ an bá-tánh, vì thế các bậc hiền-tài lúc bấy giờ như Phương-Chúc, Thiệu-Hổ, Doãn-kiết-phủ, Châu-Bá, Trọng-sơn-phù, đều dốc lòng bảo giá . Tuyên-vương đem lại thái bình cho nhà Châu được mười chín năm thì giặc Khương-nhung dấy-loạn, vua phải ngự-giá thân-chinh.
Thế giặc quá mạnh, Tuyên-vương thua luôn mấy trận, quân-sĩ hao hụt rất nhiều, bèn trở về Thái-nguyên kiểm- điểm dân số để mộ thêm binh lính.
Khi đi ngang qua một khu phố nhỏ gần Kiểu-kinh có một bầy trẻ xúm nhau vỗ tay hát :
Thỏ lên, ác lặn non mờ ,
Túi cơ cung yểm bơ phò nước non.
Vua nghe câu hát lấy làm tức giận, truyền quân vây bắt.
Bọn trẻ cả sợ chạy tán loạn, chỉ bắt được có hai đứa.
Vua quát hỏi :
– Ai bày cho chúng bay hát như thế ?
Hai đứa trẻ run lẩy bẩy, cúi đầu tâu :
– Cách đây ba hôm, có một đứa nhỏ mặc áo đỏ, đến tại chợ này dạy chúng con hát. Nhưng chẳng biết vì sao, cùng một lúc, cả trẻ con trong khu phố đều biết các câu hát ấy.
Vua lại hỏi :
– Hiện bây giờ thằng bé mặc áo đỏ ấy ở đâu? Hai đứa bé đáp :
– Chẳng biết nó đi đâu , từ ấy đến nay chúng con không còn gặp nó nữa.
Vua Tuyên-vương cau mày, suy nghĩ rồi truyền đuổi hai đứa bé ấy đi. Lại khiến quan Tư-thị loan-báo khắp khu-phố cấm không cho con nít hát như thế nữa. Nếu đứa trẻ nào còn hát cha mẹ nó phải chịu tội. Kế đó vua ngự-giá về cung.
Sáng hôm sau, lâm triều bá quan vào chầu đủ mặt, vua bèn thuật lại câu hát ấy, và hỏi có ai đoán được hư thiệt không ?
Quan Lễ-Bộ Triệu-hổ quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, cây yểm là thứ cây dâu núi, dùng làm cung , còn cơ là loại cỏ dùng đan giỏ đựng tên. Cứ theo câu hát ấy mà bàn thì chắc trong nước sẽ bị nạn binh- đao !
Tuyên-vương đưa mắt nhìn các quan cận-thần hỏi ý-kiến.
Quan Thái-tế Trọng-sơn-phủ quỳ tâu :
– Theo ý Ngu-thần thì cung tên biểu hiệu cho binh- đao, nay Bệ-hạ đang muốn kiếm dân, bắt lính đánh dẹp rợ Khương, điềm ấy e ảnh hưởng không lành đến dự-tính của Bệ-hạ.
Tuyên-vương gật đầu hỏi lại :
– Thế thì thằng con nít mặc áo đỏ là ai?
Thái-sư Báđương-phụ tâu :
– Chúng con nít mặc áo đỏ thuộc hỏa, còn sao Huỳnh-hoặc cũng thuộc hỏa. Ấy là ông trời muốn răn vua, nên khiến sao Huỳnh-hoặc biến ra đứa trẻ đó .
Tuyên-vương nghe nói cho là phải, bèn phán :
– Vậy bây giờ trẫm tha tội cho Khương-nhung, rút quân ở Thái-nguyên về, truyền đốt tất cả số cung tên lưu trữ trong kho, như thế có tránh được điềm họa kia chăng ?
Dương-phụ lại quỳ tâu :
– Hạ-thần xem thiên văn thấy điềm dữ ứng tại cung vua, chớ không can chi đến bờ cõi. Hơn nữa, luận theo câu hát “thỏ lên, ác lặn” có nghĩa là âm thạnh, dương suy, hạ thần e rằng việc nước sẽ do tay đàn bà quấy rối.
Tuyên-vương nói :
– Trong cung có Khương-hậu là kẻ hiền- đức, cai quản tam-cung, lục-viện. Mỗi một cung phi đều do tay Khương-hậu chọn lựa, làm sao có thể xảy ra tai họa ấy được ?
Dương-phụ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, ý trong câu hát không phải là việc bây giờ, xin Bệ-hạ cứ thi nhân, bố đức, may ra việc dữ trở nên lành , còn cung tên trong kho chẳng nên đốt làm chị
Tuyên-vương nghe xong, lòng rất nghi-hoặc, bèn bãi chầu lui vào hậu cung, đem các việc thuật lại cho Khương-hậu nghẹ
Khương-hậu tâu :
– Tâu Bệ-hạ, điềm dữ vừa ứng, trong cung lại có việc lạ lùng, thần-thiếp định tâu cùng Bệ-hạ.
Tuyên vương ngơ-ngác hỏi :
– Chẳng hay trong cung lại có việc gì chẳng lành sao?
Vừa rồi trong cung có một phi-tần của Tiên-vương để lại, tuổi ngoài năm mươi, có thai đã bốn mươi năm trời, đêm qua lại sanh ra một gái.
Tuyên-vương giật mình hỏi :
– Ðứa con gái ấy bây giờ ở đâu?
Khương-hậu nói :
– Thần-thiếp cho là quái-thai, nên đã sai người đem vứt xuống sông Thanh-thủy, cách đây vài mươi dậm.
Vua cho là chuyện lạ, bèn đòi người cung-phi già đó đến hỏi tự sự .
Người cung-phi già được lệnh, đến quỳ móp xuống đất, tâu rằng :
– Tiện tỳ được nghe nói vào đời Hạ-kiệt, tại Bao-thành có thần-nhân hóa ra hai con rồng sa xuống giữa sân triều, nhả nước dãi ra rồi kêu vua Kiệt nói : “Ta là hai vị Ðế-vương của Bao-thành đây ” . Vua Kiệt cả sợ, muốn giết hai con rồng ấy, song quan Thái-sư bói quẻ và tâu rằng : Thần nhân hạ giáng, ắt có điềm lành , xin Bệ-hạ hãy lấy nước dãi mà để dành. Vì nước dãi là tinh-khí của rồng, để dành trong cung ắt đặng hưởng phúc . Vua Kiệt nghe theo truyền đem mâm vàng hứng lấy nước dãi, đựng vào một chiếc hộp son, cất kỹ trong khọ Vừa cất xong thì trời nổi mưa, hai con rồng bay đi mất. Từ ấy đến nay đã hơn sáu trăm bốn mươi bốn năm, qua nhà Hạ, đến nhà ân, rồi đến nhà Châu ta thêm nữa mà vẫn chưa ai dám mở hộp ấy. Ðến đời Tiên-vương , chiếc hộp ấy có hào quang rực rỡ, quan giữ kho trông thấy tâu lại với Tiên-vương. Tiên-vương truyền đem sổ bộ tra cứu, mới hay trong hộp đó đựng nước dãi rồng, bèn truyền mở ra xem. Rủi thay Tiên-vương sơ ý làm rơi chiếc hộp xuống đất, nước dãi đổ lai láng rồi hóa thành một con giãi nhỏ chạy tung tăng khắp sân triều. Nội-thị theo đuổi bắt con giãi kia chạy vào cung rồi biến mất. Lúc đó tiện-tỳ mới lên mười hai tuổi. Vì đạp nhằm đầu con giãi ấy mà thọ thai. Tiên-vương lấy làm lạ, đem tiện tỳ giam vào lãnh cung. Ðến nay hơn bốn mươi năm trời mới sanh ra một gái ! Nội-thị không dám giấu, vào tâu với Hoàng-hậu. Hoàng-hậu cho là quái-thai nên đã đem vất xuống sông, xin Bệ-hạ rộng lòng tha cho tiện-tỳ khỏi tội.
Tuyên-vương nghe xong, lo lắng thở đài, phán :
– Ấy là việc đời trước, có can chi đến ngươi mà phải sợ sệt.
Nói xong, vội sai nội thị đến bờ sông Thanh-thủy xem đứa bé ấy thể nào.
Một lát sau, nội thị trở về tâu :
– Tâu Bệ-hạ, đứa bé ấy đã trôi đi đâu mất tích.
Nhà vua an lòng, trở vào hậu cung an nghĩ.
Sáng hôm sau vua cho vời quan Thái-sư Dương-phụ đến kể việc nước miếng rồng cho Dương-phụ và bảo :
– Nay đứa bé ấy đã chết rồi, khanh hãy chiếm một quẻ xem oan nghiệt đã dứt chưa?
– Cười cười khóc khóc, dê mắc lưới, ngựa sa lầy. Sợ thay ! Sợ thay ! Nước non tang-tóc.
Vua không hiểu ý, hỏi lại Dương-phủ tâu rằng :
– Dê chỉ về Mùi, ngựa ứng về Ngọ. Cười cười, khóc khóc nói về chuyện vui buồn. Quẻ này ứng qua năm Ngọ, năm Mùi sẽ có chuyện vui buồn đó. Theo dự đoán của hạ thần, tuy yêu-quái ra khỏi cung nhưng chưa trừ đặng.
Tuyên-vương nghe tâu, mặt buồn dàu đàu, hạ chiếu truyền rao khắp dân chúng, ai tìm ra đứa con nít ấy, bất kỳ sống thác đều được thưởng ba trăm tấm lụa, ngược lại ai giấu diếm mà nuôi, sẽ bị xử-tử toàn gia.
Vua truyền giao việc này cho quan Thượng- đại-phu Ðỗ-bá xem xét.
Lại ra lệnh cho quan Ðại-phu Tả-nho nghiêm cấm khắp nơi, từ thành-thị đến thôn quê không ai được làm cung bằng gỗ yểm và giỏ tên bằng cỏ cợ Ai trái lệnh được quyền bắt chém.
Nhânđân nghe lệnh, nhất nhất tuân theo. Duy có các miền xa vắng, lệnh của nhà vua chưa được ban bố, nên cách hai ngày sau có một người đàn bà xách mấy cái túi tên bằng cỏ cơ, và một người đàn ông vác mấy cây cung bằng gỗ yểm đến chợ bán.
Quân tuần trông thấy áp lại bắt, nhưng người đàn ông lanh chân chạy thoát.
Chúng dẫn người đàn bà vào nạp cho quan Ðại-phu Tả-nhọ
Tả-nho nghĩ thầm :
– Hai vật này đúng theo lời hát của lũ trẻ rồi. Vả lại, quan Thái-sư bảo là có nữ họa, thế thì người đàn-bà này là mối họa lớn của quốc-gia, ta phải vào triều phục chỉ.
Nghĩ như vậy, Tả-nho giấu việc người đàn ông bỏ trốn , chỉ dắt người đàn bà vào triều tâu nạp .
Nhà vua truyền đem tội nhơn xử-tử, và đem tất cả các túi tên ra chợ đốt đi để răn dân chúng.
Trong lúc đó, ngươi đàn ông kia hoảng vía chạy trối chết , không hiểu cớ gì quan quân lại đón bắt vợ chồng mình. Mãi đến ngày hôm sau, anh ta mới biết lệnh cấm, và nghe đồn người đàn bà bán giỏ tên bị xử tử, lòng nóng như đốt, anh ta than thầm :
– ôi ! vợ ta đã bị giết rồi, giờ đây ta biết nương tựa vào đâu ! đau đớn thay .
Than rồi, anh ta khóc rống lên, nhưng sợ khóc lớn quan quân hay được, bèn tìm nơi vắng vẻ để khóc cho thỏa lòng .
Anh ta đi lần đến mé sông Thanh-thủy, đôi mắt đỏ ngoe , dòng châu lả chả , bỗng thoáng thấy đàng xa có bầy chim kêu rả-rít, xúm nhau ngậm một chiếc chiếu cuốn tròn , nổi trên sông, mà đem vào bờ.
Lấy làm lạ, anh ta chạy đến giở chiếc chiếu ra xem, thì thấy trong đó gói một đứa bé gái vừa mới lâm bồn 1.
Anh ta nghĩ thầm :
– Con ai đem bỏ như vầy. Ðã không chết mà lại có bầy chim cứu nạn, ắt là một quí-nữ. Ta đem về nuôi để ngày sau nhờ cậy.
Nghĩ như vậy bèn cỡi áo gói đứa bé ôm vào mình, rồi thẳng đường sang Bao-thành lánh nạn.
Từ khi giết người đàn-bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ, Tuyên-vương cho rằng điềm họa trong nước đã diệt được, nên không còn lo ngại gì nữa. Tuy nhiên, cứ cách vài năm nhà vua lập đàn tế-lễ nơi Thái-miếu 2 , ăn chay nằm đất để cầu phúc.
Năm ấy vào năm thứ bốn mươi ba, vua ngủ nơi trai-cung 3 , trống canh hai vừa đổ, xảy có một người con gái, dung nhan đẹp đẽ từ phía Tây xăm xăm đi lại.
Vua cả giận nghĩ rằng :
– Ðàn bà con gái sao dám đến chỗ chay cấm , bèn quát lên một tiếng hô nội thị đến bắt.
Vua gào rát cổ, mà vẫn không thấy một tên nội-thị nào.
Người đàn bà kia cứ ungđung đi vào Thái-miếu, góp nhặt các bài-vị bó thành một bó, rồi bước ra cười ba tiếng, khóc ba tiếng, đoạn chậm rãi tiến về hướng Ðông 4 .
Vua bèn rượt theo, bỗng giật mình thức dậy mới biết là chiêm-bao, trong lòng kinh hãi, đòi Thái sư Báđương-phụ đến hỏi.
Báđương-phụ tâu rằng :
– Lời đồngđao 5 cách đây ba năm Bệ-hạ đã quên rồi sao?
Hạ-thần tiên đoán nhà Châu sẽ bị nữ-họa. Nay yêu-khí chưa dứt, mà người đàn bà ấy lại khóc ba tiếng, cười ba tiếng, thì đúng theo quẻ hạ thần đã tiên đoán vậy.
Tuyên-vương lo lắng hỏi :
– Ngày trước trẫm đã giết người đàn bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ rồi, như thế chưa trừ đặng câu đồngđao ấy hay sao?
Báđương-phụ tâu.
– Tâu Bệ-hạ, đạo trời mầu nhiệm lắm, đâu phải dễ gì giết một người đàn bà hèn mọn kia mà có thể làm biến- đổi được thiên-cơ 6 .
Vua nghe nói lòng buồn rã rượi, ngồi đứng không an, giây lâu sực nhớ đến việc ba năm trước có sai Ðỗ-bá truy tầm đứa bé thả trôi sông, sao đến nay chưa nghe kết quả , bèn đòi Ðỗ-bá vào hỏi.
Ðỗ-bá quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, hạ-thần hết sức tìm kiếm, nhưng chẳng thấy. Khắp trong dân gian cũng không ai tìm được xác, chứng tỏ quái-thai kia đã bị chìm mất tích rồi. Vả lại Bệ-hạ đã xử-tử người đàn bà bán cung, thì lời đồngđao đâu còn linh-ứng ? Nếu cứ tra xét thì e động đến dân-tình .
Tuyên-vương cả giận mắng :
– Ðã không làm được việc, lại không phục-chỉ , rõ là một đứa khi quân.
Bèn sai võ-sĩ dẫn Ðỗ-bá ra pháp-trường xử trãm.
Giữa lúc đó, quan Hạ- đại-phu Tả-nho, vốn là bạn thân của Ðỗ-bá, thấy vội quỳ móp trước sân triều can gián :
– Tâu Bệ-hạ, đời vua Nghiêu bị lụt chín năm, đời vua Thang nắng hạn đến bảy năm, mà chẳng hề sanh biến loạn. Nay chỉ vì giết không được một đứa con nít mà Bệ-hạ xử-tử một đại thần e các lân-bang chê cười, xin Bệ-hạ xét lại.
Tuyên-vương mặt giận phừng phừng, nói :
– Nếu vì tình bạn mà can gián, thì ngươi qua đã trọng bạn khinh vuạ
Tả-nho tâu :
– Vua phải bạn trái thì nên theo vuạ Bạn phải vua trái thì nên theo bạn . Tội Ðỗ-bá không đáng gì, mà Bệ-hạ đem giết, thiên hạ sẽ cho Bệ-hạ là bất minh. Hạ thần biết mà không can gián, thiên-hạ sẽ cho Hạ-thần là bất trung. Nếu Bệ-hạ giết Ðỗ-bá, hạ thần xin cùng chết.
Tuyên-vương nói :
– Trẫm chém Ðỗ-bá như chém cỏ rác, ngươi chớ nhiều lời làm chị
Nói xong, nạt võ-sĩ đem Ðỗ-bá ra chém.
Còn Tả-nho về đến nhà cũng tự-vận mà thác.
Người sau, cảm lòng trung nghĩa, lập miếu nơi Ðồ-lăng mà thời gọi là miếu Tả-tướng-quân.
Con trai Ðỗ-bá là Thấp-thúc trốn qua nước Tấn , lành đến chức Sĩ-sư, sau con cháu đổi ra họ Phạm.
Khi Tuyên-vương nghe tin Tả-nho tự vận, lòng hối-ngộ, ăn ngủ không yên, mà sanh bệnh, bỏ cả việc triều chính.
Khương-hậu thấy vậy cũng không dám phàn nàn.
Một hôm, vào tiết mùa thu, Tuyên-vương muốn đi săn bắn để giải muộn bèn truyền Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ sắm sửa xe giá lên đường. Hai bên tiền hô, hậu ủng thẳng đến Ðông-giao.
Ðến nơi, vua truyền hạ trại, và dặn dò quân-sĩ không được đạp phá mùa màng, làm chấn động lê dân. Ðoạn truyền lịnh hễ ai bắt được nhiều thú rừng sẽ được trọng thưởng.
Tuyên-vương hét lên một tràng thất thanh rồi té xỉu xuống.
Các quan hộ giá xúm lại đỡ dậy, lo thuốc men cứu chữa.
Nhà vua ôm ngực rên la cho đến lúc về tới cung.
Ai nay đều sợ sệt, nhìn nhau không biết nguyênđo nào xảy ra như vậy.
——————————–
[1]Lâm bồn : mới sanh; [2]Thái-miếu : nơi thờ-phượng các Tiên-vương [3]Trai-cung : nhà chaỵ [4] Ấy là điềm ứng cho nhà Châu phải dời qua hướng Ðông [5]Ðồngđao: câu hát của con nít [6]Thiên cơ : máy trời, sự mầu nhiệm của tạo hóa
Từ khi săn bắn ở Ðông-giao về, Tuyên-vương lâm bệnh nặng , đêm nào chợp mắt cũng thấy Ðỗ-bá và Tả-nho đến đòi mạng
Biết mình không thể sống được lâu, bèn cho đòi Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ đến để thác cô .
Hai người này vào quỳ dưới long-sàng hỏi thăm căn bịnh. .
Vua khiến nội-thị đỡ dậy và nói :
– Trẫm nhờ sức của hai khanh mới ở ngôi đặng bốn mươi sáu năm, chẳng ngờ hôm nay lâm bịnh nặng, không thể sống được nữa, Thái-tử là Cung-niếc tuổi tuy đã lớn mà tánh-tình ngu-muội, xin chư khanh hãy hết lòng phò tá kẻo hư cơ-nghiệp.
Hai người cúi đầu lãnh mạng, bái tạ lui ra.
Vừa đến cửa cung xảy gặp quan Thái-sử Bá đương-phụ bước vào.
Thiệu-hổ hỏi :
– Có phải ngài đến để thăm Bệ-hạ không ? Bịnh tình Bệ-hạ rất nguy kịch, khó mà sống đặng.
Doãn-kiết-phù nói :
– Trước kia là tiếng hát rao, nay lại đến hồi quỷ hiện, vận nước thật khó an toàn.
Báđương-phụ nói :
– Ðêm qua tôi có xem thiên-văn, thấy yêu-tinh phục nơi sao Tử-vị Quốc gia còn gặp nhiều tai biến nữa.
Thiệu-hổ nói :
– Tuy trời định hơn người, song người cũng có thể thắng mạng trời. Các ông cứ nói theo thiên- đạo mà bỏ nhân-lực sao ! Cả triều thần không đủ sức chống lại mọi tai biến ư ?
Ba người nhìn nhau, mỗi người riêng một ý nghĩ, rồi ai về nhà nấy.
Ðêm hôm ấy Tuyên-vương băng-hà.
Khương Thái-hậu bèn ra ý chỉ triệu các vị lão-thần Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ xuất lãnh bá quan, phò Thái-tử Cung-niếc vào làm lễ cử ai, rồi tức vị trước linh-cữu, xưng hiệu là U-vương , lập con gái Thân-bá lên làm Hoàng-hậu, lập con trai là Nghi-cựu lên làm Thái-tử, phong Thân-Bá làm Thân-hầu.
Sau khi Tuyên-vương chết, bà Khương-hậu buồn rầu vô cùng, chẳng bao lâu cũng tạ thế.
Còn U-vương lại là một ông vua bạo ngược, háo sắc. Mặc dù trong tang chế, ngày nào cũng ăn uống rượu chè, đắm say vật dục đến nỗi bỏ bê cả việc triều-chánh.
Thân-hầu ngày ngày can gián không được, buồn giận lui về nước Thân tá túc.
Bấy giờ khí số nhà Châu cũng đã sắp tàn, nên khiến các vị lão thần như Doãn-kiết-phủ, Thiệu-hổ, đều lần lượt quy-thiên.
U Vương lại dùng Quách-công, Tế-công, và con của Doãn-kiết-phủ là Doãn-cầu lên làm bực Tam-công.
Ba người này đều là những kẻ dua nịnh tham quyền, cố-vị còn Trịnh-hữu-bá là người trung-trực vua lại không tin dùng.
Một hôm, thiết-triều tại Kỳ-sơn , có quan thủ-thần vào tâu :
– Tâu Bệ-hạ, chẳng biết cớ gì sông Kinh, sông Hà, sông Lạc cùng động đất một lúc.
Không một chút lo lắng, U-vương mỉm cười nói :
– Núi lở đất động là việc thường, nhà ngươi tâu với trẫm làm gì ? Nói xong, liền di-giá về cung
Quan Thái-sử Báđương-phụ cầm tay quan Ðại-phu Triệu-thúc-Ðái than rằng :
– Thuở trước sông Ỷ , sông Lạc cạn , nhà Hạ mất ; sông Hà cạn , nhà Thương hư ; nay cùng một lúc ba sông đều động một lượt ấy là trời muốn lấp nguồn, nhà Châu khó tránh khỏi tai biến.
Triệu-thúc- đái hỏi :
– Theo dự đoán của ngài thì bao giờ mới xảy ra tai biến ấy?
Báđương-phụ đánh tay xem lại, rồi đáp :
– Nếu vua biết răn mình, chuộng hiền lánh dữ thì trong khoảng mười năm, bằng ngược lại họa sẽ tới gấp không chừng.
– Nay Thánh-thượng chẳng kể việc quốc-chính , xa những tôi trung gần gũi nịnh thần , chẳng lẽ chúng ta khoanh tay ngồi ngó trong lúc nước nhà bại vong. Vậy chúng ta phải can gián, dù được hay không cũng tròn bổn phận.
Bá-đương-phụ cũng thở dài rồi lắc đầu nói :
– Dù chúng ta có làm gì cũng vô ích .
Trong lúc hai người nói chuyện có kẻ rình mò nghe được , thuật lại với Quách-công.
Quách-công sợ nếu để Thúc- đái can gián ắt lòi chuyện gian-nịnh của mình, bèn thẳng vào hậu cung tìm lời sàm tâu rằng :
– Bá-đương-phụ và Triệu-thúc- đái chê bai triều- đình, làm cho dân chúng hoang-mang.
U Vương nói :
– Chúng là những đứa ngu dốt biết chi mà bàn luận. Thói thường, những kẻ ngu dốt thường học đòi hay xét-nét đến công việc của thiên-hạ , khanh để ý làm gì cho bận tâm.
Quách-công nghe nói thì cúi đầu lui ra, mặt mày hớn hở.
Cách vài ngày sau, quan trấn thủ núi Kỳ-sơn lại dâng biểu về tâu rằng :
– Ba sông đều cạn, núi Kỳ-sơn lại lở, đè chết dân chúng rất nhiều.
U Vương không thèm để ý đến, sai bọn nội giám đi tìm gái đẹp sung bổ vào cung.
Triệu-thúc- đái nóng lòng, dâng biểu can rằng :
– Sơn băng, thủy kiệt là biểu-hiệu của thiên tai. Vả lại Kỳ-sơn là nơi dựng nghiệp đế vương nay lại bị lở đi thì không phải việc nhỏ . Lẽ ra phải chọn hiền tài, để chung lo cứu nước thì Bệ-hạ lại chọn mỹ-nữ để vui riêng, hạ thần lấy làm hổ thẹn .
Nhà vua chưa kịp nói, thì Quách-công đã quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, đất Phong, đất Kiều là chỗ đóng đô còn Kỳ-sơn cũng như chiếc giày rách lâu đời đã bỏ đi, thì việc núi long đất lở có can hệ gì. Ấy là Thúc-đái có ý khi-quân, mượn cớ để phỉ-báng triều đình, xin Bệ-hạ rộng xét.
U-vương nói :
– Lời Quách-công nói rất phải, Thúc-đái đã có ý khi-quân, trẫm không thể nào dung thứ.
Nói rồi vua bèn cách chức Triệu-thúc-đái đuổi về quệ
Thúc- đái ngửa mặt lên trời than :
– Nguy bang bất nhập, loạn bang bất cứ . Tuy-nhiên, ta không khỏi đau lòng nhìn nhà Tây-châu mất nước .
Than rồi bèn dắt cả gia-quyến trở về nước Tấn.
Lúc ấy có quan Ðại-phu Bao-hướng vừa ở Bao-trung về, nghe tin Thúc- đái bị đuổi, bèn vội vã vào triều can gián rằng :
– Tâu Bệ-hạ, nước nhà đang xảy ra nhiều điềm tai biến, Bệ-Hạ lại đuổi cả các tôi hiền, thì lấy ai phò xã tắc.
Vua cả giận, truyền bắt Bao-hướng hạ ngục.
Từ ấy không còn ai dám ngăn cản nữa.
Ðây nhắc qua việc người bán cung lúc trước, sau khi vớt được đứa bé, bèn trốn về Bao-thành ẩn-náu. Nhưng vì nghèo khó nuôi đứa bé không nổi, mới đem cho một nhà giàu, hiếm con, là Tư-đại đặt tên đứa bé là Bao-tự.
Nàng Bao-tự tuổi vừa mười bốn mà cao lớn như một thiếu-nữ mười sáu, mười bảy sắc đẹp tuyệt trần, mắt phượng, mày ngài,
đáng bậc khuynh-thành, khuynh-quốc. Nhưng vì ở chốn thôn quê, dẫu sắc-nước hương-trời cũng không ai biết tới.
Một hôm, Hồng- đức là con của Bao-hướng, nhơn thâu thuế làng đi qua đấy, thấy Bao-tự đang gánh nước.
Hồng- đức đứng sững sờ, chắc lưỡi khen thầm :
– Làng quê mùa như vầy, sao lại có người đẹp đến thế !
Bỗng chàng lại sanh ra một ý nghĩ :
– Cha ta bị tù nơi Kiểu-kinh đã ba năm, mà vua chưa thả. Nay, nếu được nàng này đem dâng cho vua, ắt vua tha tội.
Bèn hỏi thăm tên họ rồi trở về nhà thưa với mẹ :
– Phụ thân con vì tánh ngay thẳng mà trái ý vua, chứ không làm gì nên tội. Nay vua đang tuyển gái đẹp, mà con gái nhà Tư-đại lại đẹp vô ngần, nếu chúng ta mua được đem dâng cho vua, chuộc tội cho phụ thân, ấy là kế của Táng-nghi-sanh cứu Văn-vương ngày xưa đó.
Mẹ Hồng-đức nói :
– Nếu kế ấy mà thành-tựu, đem lại sự sum-họp gia- đình, thì mẹ đâu có tiếc gì vàng bạc .
Ðược lời Hồng- đức cả mừng, đem ba trăm tấm lụa đến nhà Tư-đại hỏi mua nàng Bao-tự.
Việc mua bán không khó khăn lắm, vì Bao-tự là con nuôi, nhà Tư-đại đâu có mến tiếc làm chị
Hồng-đức đem về, hương xông xạ ướp thay đổi xiêm-y, dạy cho biết những phép tắc cần thiết, rồi dẫn đến Kiểu-kinh tìm cách lo lót với Quách-công nhờ bảo tấu.
Quách-công thấy vàng bạc, lòng mừng rỡ vào triều tâu với U Vương rằng :
– Bao-hướng ngỗ-nghịch oai trời, tội đáng muôn thác. Nay có con va là Hồng- đức, chẳng nài khó khăn tìm kiếm khắp nơi mới được một mỹ nhân tên Bao-tự, đem đến dâng cho Bệ-hạ để chuộc tội cha, xin Bệ-hạ nghĩ tấm lòng hiếu thảo mà lượng xét.
U Vương nghe tâu cả mừng truyền dẫn Bao-Tự vào bệ-kiến .
Bao-Tự bước vào quỳ lạy trước ngai.
U-vương xem thay mặt rồng ngây ngất, nhìn mãi không thôi !
Qua một lúc, vua mới sực tỉnh, nghĩ thầm :
– Ðã biết bao nhiêu cung nữ tuyển lựa, nhưng chưa hề có người nào chim sa cá lặn như vầy.
Bèn hạ chỉ tha Bao-hướng và cho phục-chức . Lại truyền dẫn Bao Tự vào một biệt cung, không cho Thân-hậu haỵ
Ðêm ấy U-vương say tình cá nước. Và, từ đó chẳng lúc nào rời Bao-tự. Khi xem trăng, khi sánh nguyệt, khi đối ẩm, lúc ca xang , say sưa mãi nơi cung Quỳnh- đài, chẳng thiết gì đến việc triều chính .
Có khi đến mười ngày cũng không thấy vua lâm triều. Trăm quan đều thở than, lo lắng.
Có người đem chuyện vua mê-say Bao-tự nói với Thân-hậu haỵ
Thân-hậu tức giận, một hôm dẫn bọn cung-nga đến cung Quỳnh-đài xem hư thiệt .
Vừa đến nơi, Thân-hậu thoáng thấy U-vương đang cùng với Bao-tự kề vai trửng-giỡn.
Thân-hậu bước vào Bao-tự vẫn ngồi im, liếc mặt đưa tình nhìn vua chứ không đứng dậy chào đón.
Thân Hậu tức không dằn được, chỉ vào mặt mắng :
– Loài tiện tỳ mi ở đâu dám đến đây làm nhơ nhớp chốn cung vỉ
Vừa nói, vừa muốn xốc tới.
U-vương sợ Thân-hậu làm hỗn vội đứng dậy, cản lại, và nói :
– Ðây là mỹ-nhơn của trẫm mới dùng, chưa định ngôi thứ nên chưa kịp đến ra mắt hậu, xin hậu chớ chấp nhứt làm chị
Thân-hậu mắng nhiếc một hồi rồi hậm-hực lui ra.
Bao-tự hỏi U-vương :
– Tâu Bệ-hạ chẳng hay người ấy là ai mà hung dữ lắm vậy ?
U Vương nói :
– Ấy là Hoàng-hậu đó. Ngày mai khanh phải đến làm lễ ra mắt.
Bao-tự làm thinh, rồi ngày mai cũng chẳng đi chào Hoàng-hậu.
Từ khi biết rõ sự tình, Thân-hậu lòng buồn rười rượi ngày tối than thở mãi trong cung.
Thái-tử Nghi-cựu thấy thế quỳ tâu :
– Tâu mẫu-hậu, mẫu-hậu đã làm chúa tể nơi tam cung lục viện, oai quyền như thế, chẳng hay còn điều chi bất bình mà buồn bã .
Thân-hậu đỡ con dậy, hai hàng nước mắt ràng rụa, nói :
– Con ơi ! phụ-vương con đắm say con Bao-tự, không kể gì đến mẹ nữa. Thân mẹ dù có bị bạc bẽo cũng chẳng sao, duy có giang san sự-nghiệp sau này ắt phải tan tành vì tay con khốn nạn đó.
– Xin mẹ chớ có sầu bị Ngày mai là ngày Sóc (mồng một), phụ-vương con thế nào cũng lâm triều , chừng ấy mẹ sai bọn cung-nữ qua nơi Huỳnh- đài bẻ phá bông hoa , dụ Bao-tự ra khỏi cung , con sẽ đánh cho một trận trả thù cho mẹ. Dẫu phụ-vương con có trách mắng, con xin cam chịu.
Thân-hậu lắc đầu nói :
– Con chớ nên nóng nảy như thế, để thủng-thỉnh mà liệu, kẻo lâm vào độc-kế của con dâm-phụ đó.
Thái-tử Nghi-cựu hậm-hực ra về.
Sáng hôm sau, quả nhiên U-vương lâm-triều.
Nghi-cựu bèn sai một số cung-nhân qua nơi Quỳnh- đài, chẳng nói chi hết cứ việc vác cây đập phá bông hoa.
Bọn thế nữ trong đài trông thấy thất kinh chạy ra cản lại và la lớn rằng :
– Hoa này vốn của Chúa-thượng trồng, để cho Bao-nương ngoạn cảnh chớ nên phá phách mà tội chẳng nhỏ.
Bọn cung-nhân vẫn không ngừng tay, ứng tiếng đáp :
– Bọn ta vâng lịnh Ðông-cung Thái-tử đến bẻ hoa này về dâng cho Chánh-hậu, ai dám cản trở sao !
Hai đàng cãi vả om-sòm, làm cho Bao-tự đang mơ-màng giấc điệp, bỗng giật mình thức dậy, bước ra xem thấy bông hoa tơi tả
Bao-tự cả giận, toan bước tới đánh bọn cung-nữ, chẳng dè Thái-tử núp gần đấy, nhảy tới trợn mắt hét :
– Nghiệt-phụ mi là người chi, danh dự gì mà dám xưng là nương-nương, chẳng kiêng ai hết, nay ta làm cho mi thấy cái nương-nương của mị
Nói dứt lời, Thái-tử nắm đầu Bao-tự tát cho mấy cái.
Thái-tử Nghi-cựu chưa hả giận, nhưng sợ đánh sảy tay bèn buông Bao-tự ra , rồi chỉ vào mặt nói :
– Nếu mi còn ngạo-nghể ta sẽ không bao giờ để cho mi sống yên.
Nói xong quay gót trở về Ðông cung.
Bao-tự biết Thái-tử đánh trả thù cho mẹ, nên phải dằn lòng nhẫn nhục trở vào, nằm vật trên giường than khóc.
Bọn cung-nga thế nữ đồng xúm lại khuyên giải :
– Bề nào cũng còn có Chúa-thượng, nương-nương khóc lóc làm chị
Bao-tự nằm khóc sụt sịt mãi cho đến lúc U-vương bãi triều bước về Quỳnh-đài, nàng mới khóc rống lên .
U-vương vội vã bước vào hỏi :
– Tại sao ái-khanh dung mạo như thế này? Chẳng hay có điều gì xảy đến, hãy nói cho trẫm rõ.
Bao-tự cứ khóc mãi không nói. Ðợi cho U-vương năn nỉ đôi ba phen, nàng mới nghẹn ngào thốt ra lời :
– Hôm nay Thái-tử dẫn một tốp cung-nhân đến hái phá trông hoa dưới đài. Mặc dầu hành động ngang tàng ấy, thiếp cũng chẳng làm nói Thái-tử lại xông vào đánh thiếp. Nếu chẳng có cung-nga can giáng ắt mạng thiếp chẳng còn .
Nói xong lại khóc rống lên nữa.
U-vương đã rõ ngọn-ngành , vừa vỗ về Bao-tự, vừa nói :
– ái khanh ơi ! Chỉ vì ái-khanh không chịu ra mắt Chánh-hậu, nên Chánh-hậu giận, sai Thái-tử làm như vậy chứ không phải tại Thái-tử đâu, ái-khanh chớ hiểu lầm mà trách nó .
Bao-tự làm ra mặt giận nói :
– Thái-tử vì mẹ mà báo thù, Thánh-thượng cũng vì Chánh-hậu mà che chở tội lỗi. Dầu thiếp có chết đi cũng chẳng tiếc. Song, từ khi hầu-hạ Thánh-thượng đến nay, thiếp đã có mang hai tháng. Vậy xin Thánh-thượng cho thiếp ra khỏi cung để bảo tồn giọt máu của Thánh-thượng.
U-Vương mặt mày buồn bã, đỡ Bao-tự dậy, nói :
– Thôi, ái-khanh chớ buồn bã mà đau lòng Trẫm. Trẫm sẽ xét xử công-minh .
Rồi, nội trong ngày hôm ấy, vua truyền chỉ rằng : Thái-tử Nghi-Cựu bạo động vô-lễ, chẳng biết điều thảo thuận, nên phải đưa qua nước Thân cho Thân-hầu dạy dỗ, còn những quan Thái-phó, Thiếu-phó nơi Ðông-cung, dạy dỗ chẳng nghiêm, nên thảy đều bị cách chức.
Thái-tử Nghi-cựu được lệnh vội vã vào cung kêu nài, nhưng U-vương đã biết trước, dặn quan giữ cửa không cho vào.
Thái-tử chẳng biết làm sao, đành lên đường qua nước Thân cư-trú.
Còn Thân-hậu, luôn mấy hôm không thấy con vào thăm trong lòng lo lắng, sai bọn cung-nữ dò hỏi, mới hay Thái-tử đã bị đầy sang nước Thân rồi một mình bơ vơ, ngày ngày nhớ con gào thét thảm-thiết.
Lần hồi ngày tháng thoi đưa, Bao-tự lâm-bồn sanh đặng một trai.
U-vương yêu-mến vô-ngần, đặt tên là Bá-phục. Và, cũng từ ngày ấy, U-vương có ý phế con đích lập con thứ, song chưa có cơ hội thuận-tiện
Quách-thạch-phù (tức Quách-công) dò biết ý vua bèn thương-nghị với Doãn-cầu, rồi thông-tư với Bao-tự rằng:
– Thái-tử hiện bị đày ra khỏi nước, vậy phải lập tự cho Bá-phúc. Bên trong cậy có nương-nương, bên ngoài chúng tôi giúp sức, lo chi việc ấy không thành .
Bao-tự bắt được tin, lòng mừng khắp khởi, vội phúc đáp ngay :
– Ta cậy nhờ hai khanh hết lòng bảo bọc , nếu Bá-phục đặng nối ngôi thì việc giàu sang trong thiên-hạ, ta quyết không bao giờ phụ.
Từ đó, Bao-tự thường lén sai người tâm-phúc, theo dỏi hành-vi của Thân-hậu , dầu việc nhỏ mọn đến đâu cũng không qua mặt nổi.
Còn Thân-hậu sống trong buồn thảm, giận vua nhớ con, cả ngày không ráo nước mắt.
Có một cung-nhân già cả, thấy thế động lòng, kiếm lời bàn bạc :
– Tâu Hoàng-hậu, nay tình mẹ con cách trở, cả hai đều mang nặng nhớ nhung, xin Hoàng-hậu lén biên thư gởi sang nước Thân bảo Ðiện-hạ làm biểu gởi về thỉnh tội may ra Chúa-thượng động tình mà cho phép hồi-hương , như thế mẹ con được sum-họp.
Thân-hậu sụt sùi nói :
– Lời ngươi nói rất phải, ngặt không có ai đem thư, biết liệu làm sao?
Người cung-nhân nói :
– Mẹ tôi là ôn-áo, biết nghề làm thuốc. Vậy Hoàng-hậu giả đau, đòi mẹ tôi vào coi mạch, rồi khiến mẹ tôi đem thư về mà sai anh tôi đi thì khỏi lo chi hết .
Thân-hậu nghe theo lời, viết một bức thự
Trong thư đại ý như sau :
Thiên-tử vô đạo, mê đắm con nghiệt-phụ, làm cho mẫu-tử phân-lỵ Nay con nghiệt-phụ lại sanh đặng một đứa con, Chúa-thượng yêu mến lắm. Vậy con phải gởi biểu để thỉnh tội để Chúa-thượng thương tình, tha con về trào. Chừng ấy mẹ con gặp nhau sẽ tính toán kế khác.
Viết thư xong, Thân-hậu giả bịnh sai người đòi ôn-áo vào cung xem mạch.
Tuy việc rất kín đáo, song không thoát khỏi tầm mắt của bọn tay chân Bao-tự, chúng hay được, chạy về báo.
Bao-tự nghĩ thầm :
– Ðấy chắc là va thông tin tức với Thái-tử. Vậy chờ lúc ôn-áo ra khỏi cung, bắt lại mà xét sẽ biết ngay gian.
Thật vậy, khi ôn-áo xem mạch cho Chánh-hậu xong, bái tạ ra về có ôm theo hai tấm lụa.
Vừa bước chân ra khỏi cung, bị nội-giám đón lại hỏi :
– Lụa này ở đâu mà có vậy?
ôn-áo đáp :
– Tôi vào coi mạch cho Chánh-hậu, được Chánh-hậu tặng thưởng.
Nội-giám đưa mắt nhìn nhau như hỏi ý, rồi một người bước đến giật tấm lựa mở banh ra khám xét. Thấy trong tấrn lụa không có gì nội giám lại xúm nhau lục soát khắp mình. Bỗng bắt gặp trong lai áo, có một phong thư , vội đem về Quỳnh- đài dâng cho Bao-tự.
Bao-tự xem thơ cả giận , truyền bắt ôn-ao xiềng lại, và xé nát hai tấm lụa quăng xuống đất.
Kịp lúc U-vương bước vào, thấy thế hỏi duyên cớ .
Bao-tự khóc và tâu rằng :
– Tiện thiếp hân-hạnh được vào chốn thâm cung, lại được Bệ-hạ rủ lòng thương, ơn ấy dẫu đến chết cũng chưa đáp đền nổi.
Nay vì thiếp sanh được một mụn con trai, làm cho Chánh-hậu đem lòng ghen ghét, viết thư cho Thái-tử, lập mưu ám hại. Tấm thân thiếp thật khó mà toàn mạng.
Nói dứt lời lấy phong thư dâng cho U-vương xem.
U-vương sửng sốt, nhận biết nét chữ của Thân-hậu liền hỏi :
– Người nào đã nhận đem bức thư này.
Bao-tự nói :
Người đó là ôn-áo, hiện Nội-giám còn đang giữ lại.
Vua đòi dẫn ôn-áo vào, rồi chăng hỏi qua một tiếng, rút gươm chém đứt làm hai đoạn.
Sau Nhiêm-ông có thơ than rằng :
Lá thư chưa lọt cửa song ngoài
Máu đã tuôn rồi ! thật đắng caỵ
ám đạm thâm cung, tàn khí uất,
Bâng khuâng nữa giấc mộng chương-đài.
Ðêm đến, Bao-tự lại thỏ thẻ với U-vương rằng .
– Tánh mạng của mẹ con thần thiếp hiện nằm trong tay Thái-tử, chưa biết sống chết lúc nào.
U-vương nói :
– Bề nào cũng còn có trẫm đây, Thái-tử mà làm chi đặng sao.
Bao-tự vừa khóc vừa nói :
Hiện nay được nhờ Chúa thượng che chở, dầu ai có ghét cũng chẳng làm chi, song đến chừng Chúa-thượng qua đời, Thái-tử lên nối ngôi, chừng ấy quyền-bính về tay Chánh-hậu. Chánh-hậu muốn giết mẹ con thiếp lúc nào chẳng được.
Dứt lời, Bao-tự lại khóc rống lên .
U-vương cầm tay thổn-thức :
– Trẫm muốn phế Chánh-hậu và Thái-tử đi, để lập khanh làm Chánh-hậu, và Bá-phục làm Ðông-cung, song e quần-thần chẳng phục .
Bao-tự nói :
– Tôi nghe vua thì thuận, mà vua nghe tôi là nghịch, xin Bệ-hạ hãy đem ý đó mà hiểu*** quần thần, xem nghị-luận thế nào.
U-vương mỉm cười, nói :
– ái khanh nói rất phải, để mai trẫm sẽ tính.
Ðêm ấy Bao-tự sai người tâm-phúc ra nói với Quách-thạch-phủ và Doãn-cầu hay, đặng dự bị trước mà ứng đáp.
Ngày thứ, U-vương lâm trào, các quan triều bái xong, vua truyền chỉ triệu hết công-khanh thượng- điện, mà phán rằng :
– Nay Chánh-hậu sanh lòng tật-đố, không kiêng-nễ phép vua , ngày đêm thốt những lời oán-cừu trẫm. Tội ấy khó dung, chư khanh nghi thế nào
Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
– Hoàng-hậu là một vị quốc mẫu, dẫu có tội chi cũng không nên tra hỏi. Nếu xét không đáng vị Chánh-cung thì xin Bệ-hạ chọn người có đức-hạnh thay thế mà thôi.
Doãn-cầu cũng quỳ xuống tâu theo :
– Tâu Bệ-hạ, kẻ hạ-thần trộm nghe đức-hạnh của Vương-phi Bao-tự, thật đáng làm chúa trong cung lắrn .
U Vương lại hỏi :
– Nay Thái-tử đang ở nước Thân, như bỏ ngôi của Thân-hậu thì địa-vị của Thái-tử sẽ thế nào?
Quách-thạch-phù tâu :
– Nếu đã bỏ mẹ thì dùng con làm gì nữa. Xin Bệ-hạ hãy phế Nghi-cựu mà tôn Bá-phục lên Ðông-cung.
U Vương mừng lắm, lập tức hạ chiếu bắt Thân-hậu giam vào lãnh-cung, cắt ngôi Nghi-cựu, lập Bao-tự lên làm Chánh-hậu, Bá-phục làm Ðông-cung Thái-tử .
Lại ra lệnh nếu ai ngăn-cản sẽ bị khép vào tội phản-nghịch.
Quần-thần nhiều người lấy làm bất bình, nhưng không dám nói, vì thấy ý vua đã quyết, can gián không ích gì mà hại đến thân.
Bá-đương-phụ tức tốc xin từ quan, về làng dưỡng lão, còn các vị trung thần khác, lần lượt bỏ chức cũng nhiều.
Bao-tự tuy được phong làm Hoàng-hậu nhưng chưa lấy thế làm vui. Cả ngày ít nói, không cười, không ai hiểu nổi được lòng nàng cả. Có lẽ nàng đang ước-vọng những cái gì xa xôi nữa chăng ?
U Vương thấy Bao-tự không cười, lòng bâng khuâng lo lắng , bèn triệu tất cả nhạc-công trong triều tập-họp đến để đờn ca hát xướng cho nàng vui, song vẫn không thấy nàng cười lên một tiếng nào.
U Vương nghĩ thầm :
– Ta phế lập Chánh cung và Ðông-cung mục đích để làm vui lòng nàng, thế mà không được nàng trao cho một nụ cười thật là đau đớn .
Nghĩ như vậy bèn thỏ thẻ hỏi Bao-tự :
– Ðờn ca như thế không làm cho ái-khanh vui sao?
Bao-tự đáp :
– Tâu Bệ-hạ, thần thiếp nhớ lại tiếng xé lụa trước đây còn vui tai hơn là tiếng âm nhạc .
U-vương cả mừng nói :
– ái-khanh ưa nghe tiếng xé lụa, sao ái-khanh không nói cho sớm .
Nói rồi truyền quan giữ kho mỗi ngày đem vào cung một trăm tấm lụa, lại khiến các cung-nữ khỏe mạnh thay phiên nhau xé để làm vui Bao-tự.
Nhưng quái thay ! xé đến bao nhiêu lụa vẫn chưa thấy Bao-tự cười một tiếng nào.
U-vương lo lắng, hỏi :
– Ðã ưa tiếng xé lụa, và lụa cũng đã xé rặt nhiều, sao trẫm chưa thay ái-khanh vui.
Bao-tự mặt lầm-lì không đáp.
U-vương se thắt cõi lòng nói :
– Thế nào trẫm cũng tìm cách làm cho ái-khanh cười lên một tiếng.
Bèn ra lệnh khắp triều thần, ai có kế gì làm cho Bao-tự cười lên một tiếng sẽ được thưởng ngàn vàng.
Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, ngày trước Tiên-vương có lập mười cái phong-hỏa- đài tại núi Ly-sơn, lại tạo mấy chục cỗ trống rất lớn, để mỗi khi có giặc Tây-nhung đến xâm lấn thì nổi lửa gióng trống lên. Các chư-hầu nghe thấy đem binh đến cứu. Từ ấy đến nay, trong nước thái-bình, nên phong-hỏa- đài không dùng đến. Nếu Bệ-hạ muốn làm cho Chánh-hậu vui cười, xin Bệ-hạ hãy cùng Chánh-hậu đến Ly-sơn du-ngoạn, rồi nữa đêm đốt phong-hỏa- đài lên, đánh trống cho thật dữ , binh viện các chư hầu ắt đem binh đến cứu. Chừng ấy, không thấy giặc giã gì cả, các chư-hầu phải lục-tục kéo quân trở về, như thế làm sao Chánh-hậu khỏi tức cười.
U vương đắc-ý vỗ tay cười lớn, nói :
– Kế ấy rất hay !
Bèn dắt Bao-tự lên Ly-sơn bày tiệc ăn uống rồi truyền quân nổi lửa đốt phong-hỏa-đài.
Lúc ấy Trịnh-bá-hữu đang làm chức Tư- đồ tại trào, nghe việc ấy thất kinh, vội vã chạy đến Ly-sơn, quỳ móp xuống đất tâu rằng :
– Tâu Bệ-hạ, phong-hỏa- đài Tiên-vương lập lên là để thông tin tức với chư hầu khi trong nước có biến, nay vô cớ mà Bệ-hạ đốt lửa, gạt chư hầu để làm trò vui , về sau thoảng có điều binh đao bất trắc , đốt phong-hỏa- đài lên thì ai còn tin mà đến cứu viện , xin Bệ-hạ chớ nên làm việc đó.
U Vương nổi giận mắng :
– Nay thiên-hạ đang vui hưởng thái bình thì cần gì quân cứu viện . Trẫm và Vương-hậu ra đây du ngoạn, không có gì tiêu-khiển nên mượn kế làm vui. Nếu sau này có giặc lại can hệ gì đến ngươi sao mà ngươi lo lắng .
Trịnh-bá-hữu nghe nói thở dài, lủi thủi bước ra.
U-vương truyền quân đốt lửa, và gióng trống lên. ánh lửa rực trời, tiếng trống vang như sấm.
Các chư hầu ngỡ là Kiểu-kinh có giặc, vội vàng kiểm-binh, điểm tướng suốt đêm kéo đến Ly-sơn. Ðến nơi thì nghe trên lầu đờn ca, hát xướng, lại thấy U-vương cùng Bao-Tự đang uống rượu vui vầy.
Thấy quân-sĩ các chư-hầu rầm rộ kéo đến U-vương mỉm cười ra đứng trước hiên lầu, nói lớn rằng :
– Trẫm may mắn không có giặc giã chi, chẳng dám phiền đến các chư-hầu.
Các chư-hầu đều ngơ ngác nhìn nhau rồi bẽn lẽn cuốn cờ, dẹp trống, ai về nước này.
Bao-tự đứng trên lầu trông xuống thấy quân lính khắp nơi ồ-ạt kéo đến, rồi lại lặng lẽ ra về thích chí vổ tay cười dài.
U-vương ôm Bao-tự vào lòng nói :
– ái khanh ơi ! một tiếng cười của ái-khanh chẳng những làm vui lòng ta, mà còn tô thắm vạn màu tươi trong vũ-trụ , ấy cũng nhờ công của Quách-thạch-phủ đó.
Nói xong, truyền quan giữ kho lấy ngàn vàng đem thưởng cho Quách-thạch-phủ.
Người sau có bài thơ vịnh việc đốt lửa ấy như sau :
Buồn lòng tiêu khiển một trò chơi,
Ðốt lửa đêm thanh đỏ rực trời.
Cờ trống chư hầu bôn bả tới
Giúp vui chỉ một nụ cười tươi.
Ðây nói về Thân-hầu, khi nghe U-vương phế Thân-hậu, lập Bao-Tự, lòng buồn bã, lập sớ gợi đến can rằng :
– Xưa vua Kiệt mê Muội-Hỷ mà nhà Hạ hư, vua Trụ mê Ðắc-kỷ mà nhà Thương mất. Nay Bệ-hạ đắm say Bao-tự , phế bỏ dòng chánh lập ra dòng thứ là trái nghĩa phu thê, hại tình phụ tử . Xin Bệ-hạ lấy cái gương nhà Hạ , nhà Thương mà tránh cho nhà Châu khỏi điều tai biến.
U Vương xem sớ cả giận, vỗ án hét :
– Quân phản-tặc, sao dám loạn-ngôn như thế !
Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, Thân-hầu trước đây thấy Bê-hạ đuổi Thái-tử đem lòng oán-hận , nay lại nghe Chánh-hậu bị truất ngôi, ý muốn mưu phản, nên mới dám dâng biểu hài tội Bệ-hạ như vậy.
U Vương hỏi :
– Như thế thì nay trẫm phải đối-xử làm sao?
Quách-thạch-phủ tâu :
– Thân-hầu vốn chẳng có công cán chi, nhờ Thân hậu mà được phong đến tước hầu. Nay Thân-hậu và Thái-tử đã bị truất-phế, thì cũng nên truất Thân-hầu xuống tước Bá như cũ, rồi dám binh đến vấn-tội để trừ hậu-hoạn.
U Vương y tấu, hạ chỉ cách chức Thân-hầu lại khiến Quách-thạch-phủ kiểm- điểm binh mã, kéo đến nước Thân vấn tội.
Từ ngày Thân Hầu dâng biểu can vua, lòng nơm-nớp lo âu chẳng biết ý vua như thế nào, vội sai quân đi thám thính.
Quân về báo :
– U Vương sai Thạch-phủ làm đại-tướng, dẫn binh sang nước Thân vấn tội.
Thân-hầu thất-kinh, hội các tướng tá thương-nghị.
Thân-hầu nói :
– Nước ta đã nhỏ mà binh lại ít làm sao cự cho lại binh vua
Quan Ðại-phu Lữ-chương quỳ tâu :
– Tâu Chúa-công, tuy nước ta là một chư hầu nhỏ, song Thiên-tử vô đạo, ngoài thì bỏ trung dùng nịnh, trong thì phế chánh, lập thứ , làm lắm điều bạo ngược. Nay nước Tây-nhung binh ròng, tướng mạnh, lại giáp ranh với nước Thân , xin Chúa-công gởi thư cầu cứu , mượn binh kéo về Kiểu-kinh đặng cứu Chánh-hậu, bắt vua phải nhường ngôi cho Thái-tử, ấy là noi theo gương Y-doãn, Châu-công đó.
Thân-hầu khen phải, bèn khiến người đem một xe vàng lụa mang qua nước Tây-nhung mượn quân, lại hứa rằng, nếu phá được Kiểu-kinh thì bao nhiêu vàng bạc trong kho tự ý muốn lấy bao nhiêu cũng được.
Nhung-chúa được thư, nghĩ thầm :
– Thiên-tử bất chánh, Thân-hầu là vị quốc-cựu lại viết thư đến cầu cứu, ta đem quân dựng lại ngôi Thái-tử, đó là thuận lẽ trời, rất hợp với ý ta.
Nghĩ rồi sai Mãng-tốc và Bột- đình, làm tả hữu tiên-phuông, điểm binh mười vạn, kéo đến Kiểu-kinh. Còn Nhung-chúa thống lãnh đạo trung quân đi sau làm hậu-vệ.
Ðến nơi, Nhung-chúa đốc quân vây thành kín mít.
Quân vào báo. U-vương thất-kinh nói :
– Cơ bắt mật, họa tiên phát. Ta chưa kịp cất quân đi đánh mà giặc đã đến vây thành, biết làm sao bây giờ ? Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
– Xin Bệ-hạ sai người đền phong-hỏa-đài đốt lửa lên, tất nhiên các chư hầu đem quân đến cứu. Chừng ấy trong đánh ra ngoài đánh vô ắt quân giặc không còn đường trốn thoát.
U-Vương nghe lời, sai người đến Ly-sơn đốt lửa cháy ngất trời mà chẳng thấy binh của chư hầu nào đến cả. Chỉ thấy binh của Thân-hầu kéo đến hiệp với binh của Nhung-chúa vây thành càng chặt hơn .
U-vương thấy chư-hầu không đến, binh giặc công-phá rất gấp, bèn bảo Quách-thạch-phủ :
– Thế giặc mạnh yếu chưa rõ. Khanh ra đánh thử, rồi trẫm sẽ chọn binh mạnh mẽ mà tiếp ứng.
Quách-thạch-phủ tuy sợ sệt nhưng phải tuân hành, dẫn binh xe hai trăm cỗ khai thành tiến ra.
Trông thấy Quách-thạch-phủ, Thân-hầu chỉ vào mặt, nói với Nhung-chúa :
– Ấy là đứa khi quân hại nước , đừng để nó chạy thoát.
Nhung-chúa thừa thế, cùng với Mãng-tốc, đốc quân đến chém giết quân của U-vương vô số, rồi kéo vào thành, đốt phá nhà cửa lửa cháy mịt mù.
Thân-hầu cũng không biết làm sao ngăn cản được hành động ấy.
Trong thành cả loạn, U-vương tính thế không xong, bèn chở Bao-tự và Bá-phục lên xe nhỏ, rồi mở cửa sau thoát ra khỏi thành.
Quan Tư- đồ Trịnh-bá-hữu chạy theo kêu lớn rằng :
– Xin Bệ-hạ chớ sợ, có hạ-thần theo bảo giá đây.
Nói xong, đẩy xe U-vương, thẳng đến Ly-sơn .
Ði dọc đường gặp Doãn-cầu, hơ-hải chạy đến tâu :
– Tâu Bệ-hạ, Khuyển-nhung đốt hết cung thất , chở hết vàng bạc trong khọ Còn Quách-công đã tử trận rồi.
U Vương run rẩy hối Trịnh-bá-hữu đẩy xe đi cho mau.
Khi đến Ly-sơn , Trịnh-bá-hữu lại đốt phong-hỏa- đài lên, khói bay ngất trời xanh, mà cũng không thấy chư hầu đến cứu.
Chẳng bao lâu, quân Khuyển-nhung tràn tới, vây dưới chân núi đông nghẹt.
U Vương và Bao-tự đều thất kinh, nhìn xuống chân núi rnà khóc ròng.
Trịnh-bá-hữu tâu :
– Việc đã gấp rồi, hạ thần xin liều mình bảo-giá, đưa Bệ-hạ ra khỏi vòng vây, qua bên nước tôi rồi liệu bề khôi phục.
U Vương nói :
– Bởi trẫm chăng nghe lời thúc-phụ nên mới đến nỗi này. Nay trẫm chỉ còn nhờ ở tay thúc-phụ mà thôi.
Trịnh-bá-hữu bèn khiến người nổi lửa đốt Ly-cung đi, đặng gạt Khuyển-nhung, rồi phò U-vương xông xuống núi.
Trịnh-bá-hữu cầm xà mâu đi trước mở đường , Doãn-cầu phò mẹ con Bao-tự theo sau U-vương.
Ði chưa đặng bao xa, gặp viên cận tướng của Khuyển-nhung là Cổ-lý-xích xốc đến đón đường.
Trịnh-bá-hữu cả giận, hươi xà mâu rước đánh.
Hai đàng đánh chưa đặng mười hiệp Cổ-lý-xích cự không lại bị Trịnh-bá-hữu đâm nhào xuống ngựa.
Ðàng sau, binh sĩ lại ó lên, Trịnh-bá Hữu quay nhìn lại, thấy Bột-đình đem binh truy-cản.
Quân Khuyển-nhung quá mạnh, Trịnh-bá-hữu chỉ có một mình không làm sao cự cho nổi, đánh đỡ một hồi, bị tên bỏ mạng !
Còn xe của U-vương bị Mãng-tốc bắt lại đem nạp cho Nhung-Chúa
Nhung-chúa rút đao chém U-vương và Bá-phúc. Còn Bao-tự, vì thấy xinh đẹp, nên Nhung-chúa không chém bắt về nơi trướng mà giao hoan, thù lạc.
Doãn Cầu quá sợ hãi núp trong xe, bị quân Khuyển-nhung trông thấy, kéo cổ ra mà chém .
Giữa lúc đó, Thân-hầu thấy lửa dậy trong cung liền đem binh vào chữa, và thả Thân-hậu ra. Ðoạn đi tìm U-vương, song không thấy đâu cả.
Bỗng thấy Nhung-chúa đem binh vào thành cười hả hê nói :
– Tôi đã giết hôn quân rồi.
Thân-hầu kinh ngạc, nói :
– Tôi muốn đem binh vấn tội để răn vua không ngờ lại xẩy ra cơ hội này. Chúng ta không làm sao tránh khỏi mang tiếng về sau.
Nói rồi sai người khâm liệm, làm lễ an táng U-vương.
Chôn cất xong, Thân-hầu trở về Kinh sư, bài tiệc đãi đằng Nhung-chúa để tạ ơn, và lấy vàng lụa trong kho sắp lên mười xe, để làm quà tiễn hành đưa Nhung-chúa về nước.
Nhưng không ngờ Nhung-chúa lấy việc giết U-vương làm công-trạng, không chịu đem binh về, cứ lần-quần nơi Kinh-thành ăn uống, chơi bời, phá-phách nhân dân. Ai này đều oán-trách.
Thân-hầu không biết làm thế nào, túng phải làm thư sai người đem đến ba xứ chư hầu: Tấn-hầu Cơ-cừu nước Bắc-lộ, Vệ-hầu Cơ-hòa nước Ðông-lộ, và Tần-hầu Dinh-khai nước Tây-lộ.
Lại sai người qua bên nước Trịnh, đem việc Trịnh-bá-hữu bị tử-trận tin cho Thái-tử Quật- đột (con của Trịnh-bá-hữu) đem quân qua báo thù.
Thái-tử Quật- đột tuổi mới mười ba, mà mình cao tám thước, sức mạnh phi-thường, lại thông-minh tài trí ít người sánh kịp.
Ngày kia, nghe được tin cha tử trận đau xót không cùng, liền mặc tang phúc, đem ba trăm cỗ xe trận sang Kiểu-kinh báo thù.
Nhung-chúa hay tin kiểm điểm binh mã, đề phòng dự chiến .
Vừa đến nơi Thái-tử Quật- đột muốn ra quân, nhưng Công-tử Thành can rằng :
– Binh ta đường xa mới đến, còn mệt mỏi, nếu đánh e khó thắng. Xin cứ an dinh hạ trại, chờ binh các nước chư-hầu kéo đến, hiệp sức công phá thì mới thành công đặng.
Quật- đột nói :
– Binh quý thần tốc . Nếu đợi lâu chễnh-mảng lòng quân. Vả lại, nhơn lúc binh Khuyển-nhung đang bê trể, không đánh để trả thù cha còn đợi chừng nào.
Nói xong, thúc quân ra trận, đến trước cửa thành kêu Nhung-Chúa mắng rằng :
– Hỡi tên giặc Mọi ! Hãy đem đầu mà nạp cho ta để đền lại tội phản-phúc !
Trên thành không ai ra ứng đáp.
Quật- đột tức giận, truyền quân công phá.
Trong lúc quân sĩ đang phá thành rất hăng, thì bỗng nghe một hồi thanh la nổi lên vang dậy nơi phía rừng rậm, rồi một đạo quân kéo ra (đó là đạo binh của Nhung-chúa sai phục sẵn ở đó) .
Quật-đột vội vàng xua binh đón đánh.
Trong lúc hai bên đang xáp trận, trong thành lại có tiếng thanh la nổi lên, cửa thành mở rộng, trong thành xông ra một đạo binh nữa.
Quật- đột bị hai đạo binh của Bột- đình và Mãng-tốc đánh ép lại một lượt, làm cho binh sĩ rối loạn bỏ chạy.
Quật- đột cũng hoảng vía, giục ngựa chạy dài. Chạy đến ba mươi dặm mới dám anđinh hạ trại.
Quật- đột bị thất trận trở về than-thở với Công-tử Thành rằng :
– Bởi ta không nghe lời nên mới mang thảm-bại, nay liệu làm sao?
Công tử Thành đáp :
– Từ đây đến Bộcđương không xa , Vệ-hầu là người từng trải, vậy xin chúa-công hãy đến đó cầu cứu người, rồi hiệp binh tấn công một lượt mới thắng nổi.
Quật- đột nghe theo khiến đẩy xe sang Bộcđương thành.
Ði được vài ngày, bỗng thấy một đạo binh mã cờ xí rộn ràng, cầm đầu là một vị chư-hầu mặc áo gấm, buộc đai vàng, tóc xanh râu bạc, giống như một vị tiên thần giáng thế. (Người đó là Vệ-công, tên Cơ-hòa, tuổi đã chín mươi).
Quật- đột mừng rỡ, dừng binh lại, kêu lớn :
– Tôi là Thái-tử nước Trịnh, tên Quật- đột, bị Khuyển-nhung xâm phạm Kinh-sư, giết cha tôi, tôi đem binh vấn tội, chẳng ngờ lại bị thua, phải đến đây cầu cứu ngài.
Vệ-công xuống ngựa thủ lễ và nói :
– Thái-tử hãy an lòng. Tôi nguyện đem binh giúp đỡ. Vả lại tôi có nghe binh Tấn và Tần cũng sắp đến đây thì có lo chi không trừ được lũ giặc đó !
Quật- đột cúi đầu cảm tại rồi hiệp binh cùng với Vệ-công kéo đến Kiểu-kinh.
Ðến nơi binh hai nước chư-hầu Trịnh, Vệ hạ trại cách Kinh-thành hai mươi dặm , lại sai quân đi thám thính tin tức nước Tần và nước Tấn.
Quân thám thính về báo :
– Phía Tây có tiếng chiêng trống vang trại, lại có một ngọn cờ thêu chữ “Tần” rất lớn .
Vệ Công nói :
– Nước Tần tuy là một nước Phụđung (nước phụ chư-hầu, phái cống hiến và nghe theo lệnh nước chư-hầu) ít binh mã, song binh tướng rất tinh nhuệ, đã làm cho rợ Khuyển-nhung lắm phen khiếp sợ.
Nói vừa dứt lời thì lại có tin báo :
– Quân nước Tấn cũng đã kéo đến đóng nơi phía Bắc.
Vệ Công mừng rỡ, nói :
– Quân hai nước Tần, Tấn đã kéo đến thì còn lo gì đại sự chẳng thành.
Bèn sai người sang mời Tần-công và Tấn-công đến hội kiến.
Trong giây phút, hai vị chư hầu ấy đều đến trại Vệ-công đàm- đạo.
Thấy Quật- đột mặc tang phục Tần-công và Tấn-công hỏi :
– Chẳng hay người ấy là ai vậy?
Vệ Công đáp :
– Ðó là Thái-tử Quật- đột, con của Trịnh Bá đó .
Ðoạn kể lại chuyện U-vương và Trịnh-bá-hữu bị chết.
Hai vị chư hầu Tần, Tấn ngậm ngùi thương tiếc.
Vệ-công nói :
– Nay lão phu đã già yếu, đến đây cũng chỉ vì nhiệm-vụ thần-tử . Vậy trăm việc xin ủy thác cho hai ngài định liệu, chẳng hay hai ngài đã có kế hoạch nào chưa ?
Tần-công đáp :
– Quân Khuyển-nhung chẳng qua tham tiền mê sắc mà tác loạn kinh-thành. Nay binh ta mới đến chắc chúng chưa kịp đề phòng. Vậy đêm nay chia quân làm ba mặt, Ðông, Nam, Bắc, mà đánh vào một lượt, còn phía Tây để cho Trịnh Thái-tử đem quân mai phục . Làm như thế ắt trọn thắng.
Vệ-công khen là diệu kế. Mỗi người trở về lo việc điểm quân.
Lúc bấy giờ, Thân-hầu ở trong thành hay được có binh bốn nước đến, trong lòng mừng rỡ, lén bàn với Chu công-huyến rằng :
– Bốn nước đã hiệp binh, thế nào cũng chia làm bốn đạo công phá. Vậy ta chờ họ phá thành sẽ mở cửa ra ứng tiếp.
Ðoạn bàn với Nhung-chúa sai Bột- đình chở vàng bạc lụa là vệ nước để bớt vây cánh. Lại khiến Mãng-tốc kéo binh Khuyển-nhung ra ngoài thành cự địch.
Nhung-chúa đâu rõ kế của Thân-hầu, ngỡ thiệt nên làm theo.
Mãng-tốc kéo binh ra khỏi thành đóng trại nơi cửa phía Ðông đợi rạng ngày sẽ giao chiến, không dè qua đến canh ba, binh Vệ đến cướp trại, túng thế phái bỏ chạy.
Binh ba nước ồ lên phá thành một lượt Thân-hầu vội vã mở tung bốn cửa thành cho quân ngoài tràn vào.
Nhung-chúa đang ngủ say, hay được tin kinh hãi vội lên ngựa chạy ra cửa phía Tây gặp đạo binh phục của Quật- đột chận lại.
Hai đàng rước đánh. Ðương khi nguy cấp xảy có đạo binh thua của Mảng-tốc kéo đến giải vây, nên Nhung-chúa mới chạy thoát được .
Quật- đột không đuổi theo, kéo quân vào thành hội với các nước .
Lúc bấy giờ Bao-tự đang ngủ, giật mình thức dậy thấy Nhung-chúa bỏ chạy, lại nghe bốn mặt thành quân sĩ ó vang, muốn theo Nhung-chúa song không kịp, túng thế phải rút gươm tự vẫn.
ôi thôi ! Hồng nhan một kiếp, cánh hoa sắc nước hương trời mới dựa hơi đông-phong đã phải dập vùi dưới làn mưa bão, không kẻ xót thương.
Người sau có bài thơ trách Bao-tự như sau :
Một kiếp hồng-nhan một nụ cười !
Phong- đài khói tỏa chửa mờ phai.
Nụ cười còn mãi rung trong gió,
Nhung-khuyển, U-vương ai hỡi ai !
Ngày ấy Thân-hầu đặt tiệc khoản- đãi.
Trong lúc đang ăn-uống Vệ-công buồn bã buông đũa nói :
– Nước biến, vua mất, chúng ta còn vui sướng gì mà ngồi ăn uống ?
Các chư-hầu nghe nói đều đứng dậy vòng tay thưa rằng :
– Chẳng hay hiền hầu có điều chi dạy bảo chăng ?
Vệ Công nói :
– Nước không thể để một ngày không có vuạ Nay Thái-tử còn ở bên nước Thân vậy phải rước về mà tôn lên Thiên-tử.
Tần tương-công nói :
– Hiền-hầu nói rất phải, chúng ta nỡ nào ăn uống vui vầy mà quên nhiệm vụ trọng đại đó sao !
Quật- đột nói :
– Tôi chưa có công cán chi, xin nguyện qua nước Thân rước Thái-tử chọ
Vệ-công cả mừng, rót rượu khuyên mời rồi lập tức viết biểu chương và sửa sang xe giá đi đón Thái-tử. Các chư-hầu đều xin đem quân theo hộ tống.
Quật- đột nói :
– Việc này không phải là việc đi đánh giặc, chẳng cần phải nhiều quân. Chỉ một đạo quân của tôi đây cũng đủ rồi.
Hôm sau, Quật- đột lên đường sang nước Thân.
Lúc bấy giờ Thái-tử Nghi-cựu đang ở nước Thân , ngày ngày buồn bực, không biết Thân-hầu ra đi đã lâu lành dữ thế nào, xảy có quân vào báo rằng :
– Trịnh Thái-tử đem biểu-chương đến rước Thái-tử về Kiểu-kinh.
Thái-tử Nghi-cựu nghe nói, lật đật ra rước vào, giở biểu ra xem mới hay U-vương đã thác về tay Khuyển-nhung, liền khóc oà.
Quật- đột tâu :
– Xin Thái-tử lấy giang sơn, xã tắc làm trọng, trở về tức vị cho an lòng dân.
Thái-tử nói :
– Nay ta đã mang danh bất-hiếu với thiên hạ, lẽ ra không nên trở về trị nước, nhưng chẳng lẽ không nể lời các trấn chư hầu.
Nói rồi bèn sửa soạn lên xe trở về Kinh.
Về đến nơi, thấy các trấn chư hầu đã dẫn binh ra cách thành ba mươi dặm đón tiếp.
Thái-tử vào thành, thấy cung điện hoang-tàn sập đổ, lòng bùi-ngùi ứa lệ, rồi phụng-mệnh Thân-hầu làm lễ cáo miếu mà lên ngôi, xưng hiệu Châu-Bình-vương.
Các chư-hầu và bá-quan triều bái tung hộ
Bình-vương cầm tay Thân-hầu phán rằng :
– Trẫm là người đã bị phế, mà còn đặng hưởng nghiệp tổ tông như vầy cũng là nhờ ở Quốc-cựu.
Nói xong, bèn phong chức Thân-hầu làm Thân-công.
Thân-hầu tâu :
– Tâu Bệ-hạ, Kiểu-kinh không mất là nhờ có quân các chư-hầu kéo về giải tỏa. Hạ thần đã không ngăn cản nổi Khuyển-nhung để làm hại Tiên-vương thì thật là đắc tội.
Nói rồi từ chối không nhận.
Bình-vương lại gia phong cho các trấn chư-hầu và phong hàm-ân cho Trịnh-bá-hữu rồi yết bản phủđụ nhânđân.
Ngày thứ, vua Bình-vương lưu Vệ-công làm Tư- đồ, Quật- đột làm Khanh-sĩ tại triều, Chu-công-huyền làm Thái-tử cùng coi việc nước . Riêng Thân-hầu và Tần-tương-công vì đất nước giáp ranh với Khuyển-nhung nên phải cáo từ ra về.
Thân-hầu thấy Quật- đột tướng mạo khôi ngô, thông minh xuất-chúng, bèn đem con gái mình là Khương-thị gả cho Quật- đột.
Nhắc qua Nhung-chúa, từ ngày kéo quân vào Kiểu-kinh đã thuộc đường thuộc nào, tuy bị các chư-hầu đánh bại song quân sĩ còn đông, lại nghĩ đến công lao khó nhọc mà không được hưởng gì, thì giận lắm, xua quân vào đánh phá chiếm một nữa đất Kỳ-phong làm chỗ trú quân để xâm lấn Kiểu-kinh.
Bình-vương thấy đất Kiểu-kinh trong mấy tháng giặc giả tàn-phá, cung thất bị hư, phong-cảnh tiêu- điều, có ý muốn dời đô sang Lạc-ấp, bèn triệu các quan hỏi ý-kiến.
Các quan cùng tâu :
– Lạc-ấp là nơi trung-tâm của thiên-hạ, nên trước đây Tiên-vương đã ra công sửa sang rất vững chắc, gọi là Ðông- độ Năm nào ở đó cũng có hội chư-hầu. Nay nếu Bệ-hạ muốn dời đô sang đó thì tiện lắm.
Vệ Công nghe các quan tâu, thở dài, rồi cúi đầu tâu :
– Tâu Bệ-hạ, hạ-thần đã hơn chín mươi tuổi, được Bệ-hạ tưởng tình cho dự vào quốc-sự, nay nếu các quan luận như vậy mà hạ thần không nói e mang tội bất trung . Vả chăng Kiểu-kinh là nơi lập nghiệp đế, bốn bề núi sông hiểm-trở, còn Ðông- đô tuy là giữa úm nước, nhưng trống trải, không làm sao tránh nổi mũi giặc.
Bình-vương nói :
– Trẫm cũng biết Kiểu-kinh là nơi Tiền-vương lập nghiệp, lẽ ra phải gìn giữ không nên bỏ phế, song hiện nay Khuyển-nhung cướp lấn nơi Kỳ-phong, thế rất hung-hăng. Trong cung, các kho tàng bị cháy, nếu sửa sang e tốn công của muôn dân. Cực chẳng đã trẫm mới dời đô qua đó mà thôi.
Vệ-công tâu :
– Khuyển-nhung là lũ sài-lang chẳng nên cho nó vào nước . Bởi Thân-hầu tính liều, mượn binh của nó chẳng khác nào mở cửa rước kẻ cướp vào, cho nên cung-thất phải tan, Tiên-vương bị hại. Nay Bệ-hạ nên coi đó là một mối thù, quyết lòng rửa hận, bắt Khuyển-nhung mổ mật đem tế nơi Thái-miếu để làm gương. Nếu Bệ-hạ tránh kẻ thù thì kẻ thù sẽ tìm Bệ-hạ mà tới. Thuở trước Ngu Thuấn làm vua ở nhà tranh thềm đất, vua Ðại-võ ở cung thấp hẹp mà không tưởng là xấu, xin Bệ-hạ xét lại.
Chu-công-huyến quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, lời luận của quan Tư- đồ không đúng với quyền biến. Trước kia Tiên-vương bỏ việc quốc-chính, làm rối đạo cang-thường mà sanh giặc. Việc ấy đã lỡ rồi không phải nói làm chi . Nay Bệ-hạ muộn bỏ hết những cái gì xấu xa lúc trước, làm cho mọi người ai cũng thấy rằng Bệ-hạ là tượng trưng cho một sự kiến-quốc mới mẻ, thế thì việc dời đô rất có ảnh-hưởng tốt trong lòng bá tánh.
Vệ Công lắc đầu, tâu :
– Tâu Bệ.hạ, thắng giặc phải căn cứ ở lòng người, mà còn hãy dựa trên sức mạnh, nghĩa là phải giữ được những chỗ hiểm yếu. Nay Thân-hầu đem Khuyển-nhung vào nước đặng thì cũng có thể dẹp nó đặng. Xin Bệ-hạ sai sứ hỏi người xem có kế nào hay chăng ?
Lúc đang thương nghị, bỗng có tin Thân-hầu sai người đem văn biểu đến.
Bình-vương mở ra xem, thấy trong văn biểu viết như sau :
Giặc Khuyển-nhung đem quân xâm lấn nước Thân, xin Bệ-hạ nghĩ tình đem binh cứu ứng, kẻo nước Thân khó bề giữ nổi.
Xem biểu xong, Bình-vương nói :
– Thân-hầu lo phận mình chưa xong, làm sao lo việc trẫm . Thôi, ý trẫm đã quyết các khanh khá tuân lời
Ðoạn truyền quan Thái-sư chọn ngày dời độ
Vệ Công tâu :
– Nay vì tránh giặc mà Bệ-hạ dời đô, e lòng dân không tránh khỏi ly-tán. Vậy xin Bệ-hạ cho phép hạ-thần đăng bảng cho nhân dân hay đã.
Vua nhậm lời. Vệ-công bèn đăng bảng truyềnđụ dân chúng ai-muốn theo qua Ðông- đô thì sắm sửa mà đi.
Kế đó quan Chúc-sử làm văn biểu cáo với nhà Thái-miếu, rồi quan Lễ-bộ phò thần chủ bảy miếu lên xe đi trước.
Tần-tương-công nghe tin vua thiên- đô liền thân hành đem quân hộ giá.
Dân gian già trẻ dìu đắt nhau theo vua chẳng biết bao nhiêu.