Chương 14: Trái lệnh, Châu Thiên Tử nổi xung – Gặp ma, Tề Tương Công hoảng hốt

Công-chúa Vương-cơ từ lúc về với Tề tuyên-công lòng sầu khôn xiết . Vương-cơ vốn là một người thông-minh, tề-chỉnh nay gặp tánh nết Tề tương-công lòng đã bất bình, lại biết được câu chuyện nàng Văn-khương nên buồn bã mà thọ bệnh, chẳng bao lâu từ trần.

Từ ngày Vương-cơ thác rồi, Tề tương-công không còn kiêng nể ai nữa, hễ lúc nào nhớ Văn-khương thì giả đi săn bắn nơi đất Chước rồi sai người đến Chúc-khâu rước Văn-khương đến đó mà vui vầy . Tuy nhiên, lại sợ Lỗ trang-công hay được mà sanh sự, bèn lấy việc binh đao ra hăm dọa .

Tề tương-Công cất binh sang đánh nước Kỷ lấy ba thành ở đất Bình, đất Tư và đất Ngô, rồi kéo thẳng đến Hề-thành kêu Kỷ-hầu bảo rằng :

– Nếu muốn cho nước Kỷ còn , phải đầu hàng lập tức.

Ký-hầu đau đớn than thầm :

– Tề là một nước cựu thù, lẽ nào ta lại quên lấy thù mà cầu an sao !

Nghĩ rồi bèn khiến vợ là Bá-Cơ, con gái Lỗ huệ-công viết thư về nước cầu cứu viện binh.

Tề tương-công hay được tin ấy, dọa rằng :

– Nước nào đem binh cứu nước Kỷ, nước đó sẽ bị quân Tề kéo đến tàn phá ngay.

Lỗ-hầu nghe nói cũng sợ, cho sứ sang nước Trịnh yêu cầu nước Trịnh họp binh với mình cứu nước Kỷ.

Nhưng, Trịnh-nghi vì sợ Trịnh đột đem binh từ đất Lịch về cướp ngôi nên từ chối việc hợp tác.

Lỗ trang-công thấy mình cô thế không dám xuất quân.

Còn vua nước Kỷ thấy không ai cứu viện, bèn giao quyền lại cho em là Doanh-quý, rồi bõ trốn ra nước ngoài .

Doanh-quý họp triều-thần bàn rằng :

– Bây giờ chỉ có hai việc, một là liều chết giữ nước, hai là đầu làng để bảo vệ sinh linh. Vậy ta nên theo đàng nào ?

Các quan đều nói :

– Nay nước Kỷ bị cô thế, dầu có hy sinh đến đâu, cuối cùng cũng chịu thảm bại chi bằng đầu hàng để cứu vớt mạng dân và giữ gìn tôn miếu của tiên-quân.

Doanh-quý theo lời, viết thư sai sứ dâng cho Tề tương-công, cùng nạp các sổ sách dinh điền , cầu xin đầu hàng.

Tề tương-công chấp thuận, cho Doanh-quý được thâu thuế ba mươi bộ trong nước để phụng thờ tôn miếu.

Vợ vua Kỷ là Bá-Cơ, buồn bã nhuốm bịnh rồi chết.

Tề tương-Công an-táng rất trọng thể, mục đích để mua lòng nước Lỗ.

Trong thời gian đó, tại nước Sỡ, vua Hùng-thông lên kế vị, tự xưng vương-hiệu là Sỡ võ-vương, trách Tùy không đến chầu mình nên cử binh sang đánh. Song đi mới nữa đường mang bịnh mà thác.

Quan Lịnhđoãn là Đấu-kỳ, Mạc-ngao và Khuất-trọng giấu nhem việc ấy không phát tang, kéo quân thẳng đến vây thành của Tùy.

Tùy hầu sợ sệt, xin cầu hòa .

Khuất-trọng thay mặt đứng ra làm lễ chiêu an rồi kéo binh về nước, tôn con Hùng-thông là Hùng-xi lên nối ngôi, lấy Vương-hiệu là Sở văn-vương.

Còn Tề tương-công sau khi thắng được nước Kỷ kéo quân về ngang đất Chúc-khâu, rước nàng Văn-khương qua đất Chước để vui câu tình tự. Nào tiệc nào tùng, đờn ca hát xướng vui say ngày đêm trong hoan-lạc .

Tề tương-công lại khiến Văn-khương viết thư mời Lỗ trang-công đến đó để phó hội.

Lỗ trang-công vốn sợ oai Tề, lại không dám trái lời mẹ, nên vội đến đất Chước mà ra mắt Văn-khương.

Văn-khương khiến Lỗ trang-công, theo lễ cậu cháu ra mắt Tề tương-công và tạ ơn Tề tương-công việc chôn cất Bá-Cơ.

Lỗ trang-công không vui, nhưng phải tuân lời mẹ.

Tề tương-công rất đẹp dạ , bày tiệc đãi đằng, say sưa tưởng như trời nghiêng đất ngửa .

Văn-khương nghe Tề tương-công mới sinh được một gái bèn nói với Lỗ trang-công :

– Con chưa định người nội-chủ , mà cậu con vừa sanh đặng một gái , mẹ tưởng đó cũng là dịp may, con nên đính ước đi .

Lỗ trang-công nhìn mẹ, ngơ ngác, nói :

– Con đã chừng này tuổi, còn con gái của cậu mới sanh, lẽ nào đính việc hôn nhân .

Văn-khương giận dữ nói :

– Con không muốn gần gũi với họ ngoại sao ?

Lỗ trang-công thưa :

– Thưa mẹ, con đâu có ý ấy , song tuổi tác cách biệt rất khó lòng làm cái chuyện đó được !

Văn-khương nói :

– Cứ đợi đến hai mươi năm nữa sẽ cưới không được sao ?

Lỗ trang-công nín lặng không dám cãi.

Tề tương-công cũng nễ lời , hai đàng cùng nhau uống ly rượu hứa hẹn cuộc hôn nhân ấy.

Đã cậu ruột mà lại là cha vợ nữa thì còn gì thân thiết bằng ! Có lẽ vì thế mà Tề và Lỗ càng thắt chặt mối dây thân mật hơn trước !

Ngày kia, Lỗ trang-công cùng Tề tương-công rủ nhau đi săn bắn.

Lỗ trang-công có tài thiện-xạ, bắn mười phát trúng cả mười, ai này đều khâm phục, riêng Tề tương-công lại càng đẹp lòng hơn.

Trong đám quân sĩ, ngoài những lời tấm tắc ngợi khen lại còn có cả lời châm biếm nữa.

Họ thì thào :

– Chàng rể hờ của Chúa-công ta đó.

Lỗ trang-công lấy làm hổ thẹn, truyền bắt những người đã thốt ra lời nói vô lễ ấy đem chém .

Nhưng Tề tương-Công vẫn thản-nhiên không trách cứ.

Từ ấy Văn-Khương không kiêng nể nữa, thường thường ở chung với Tề tương-Công, khi thì đất nhau ở đất Phong, khi thì gặp nhau nơi đất Cốc, có lúc lại về Tề đô mà vui với Tề tương-công đến sáu bảy ngày liền rồi mới trở về đất Chước.

Một hôm Tề tương-công ở đất Chước về xảy thấy Vệ-Sóc ra đón tiếp và nhắc lại lời hứa trước kia .

Vệ-Sóc nói :

– Trước kia Chúa-công có hứa sẽ cử binh đánh Vệ giúp cho tôi phục-nghiệp , từ ấy đến nay việc chưa thành.

Tề tương-công nói :

– Sở dĩ ta chưa đánh Vệ vì Kiềm-mâu là phò-mã của vua Châu . Nay nàng Vương-cơ đã thác, ta không còn e ngại gì nữa. Tuy-nhiên muốn đánh Vệ , phải hiệp binh với chư hầu thì mới thắng nỗi. Cháu phải chờ đợi ít hôm đã.

Vệ-Sóc tạ ơn lui ra.

Cách vài ngày sau Tề tương-công làm một tờ hịch , sai sứ đểrr qua các nước Lỗ , Tống, Trần và Sái hẹn hợp binh đánh Vệ Kiềm-mâu để đưa Vệ-Sóc về nước phục nghiệp .

Tờ hịch như sau :

Nước Vệ không may bị bọn nghịch thần Tiết và Chức tác loạn , phế vua này, lập vua khác , Vệ huệ-công (Vệ-Sóc) phải bỏ chạy ẩn tránh nơi nước tôi đã bảy năm trời. Lẽ ra phải trừng phạt để bảo vệ công bình, song lâu nay nước tôi bận nhiều công việc chưa tính đặng. Lại nghĩ rằng để lâu ngày bất tiện, nên nay tôi nguyện đem hết binh lực nước Tề hiệp cùng quý-quốc giúp cho Vệ-Sóc hưng binh vấn tội kẻ tặc loàn. Được quý-quốc tưởng đến thật lấy làm may mắn.

Nhận được tờ hịch ấy bốn nước đều hưng binh.

Riêng Tề tương-công đem năm trăm cỗ xe, cùng với Vệ-Sóc kéo thẳng đến biên giới nước Vệ.

Vệ Kiềm-mâu hay tin, lòng lo lắng, cho đòi Công-tử Tiết và Công-tử Chức vào thương nghị .

Công-tử Chức nói :

– Nay binh năm nước đồng kéo binh đến một lượt, nước Vệ ta không tài nào đũ sức cản ngăn , xin Chúa-công cho người sang cầu cứu với vua nhà Châu mới được .

Vệ Kiềm-mâu y lời, viết tờ cáo-cấp sai quan Đại-phu Ninh-quý vào triều Châu cầu cứu.

Châu trang-vương xem văn biểu rồi hỏi các quan :

– Ai dám thay mặt trẫm đem binh cứu nước Vệ chăng ?

Châu-công Hắc-kiên quỳ tâu :

-Tâu Bệ-hạ, từ khi nhà Châu thua Trịnh, lòng quân giải đải nay nếu đi chinh phạt e khó thắng. Vả lại, các chư hầu lấy cớ lập lại Chúa Trịnh là danh chánh ngôn thuận. Mà đã danh chánh ngôn thuận thì binh ắt mạnh, ta khó thắng nổi.

Quách-công Kỵ-Phủ cũng cho lời nói đó là phải.

Bỗng có một người bước ra tâu :

– Lời nói của hai ông không đúng. Nếu nói rằng binh các chư hầu mạnh hơn binh của triều thì có lý. Nhưng nếu cho việc lập Chúa Trịnh lại là danh chánh ngôn thuận thì thật quả đã lầm.

Các quan xem lại, người ấy là Tử Đột, đang làm chức Hạ-sĩ.

Châu-công Hắc-kiên quắc mắt nhìn Tử đột, hỏi :

– Một nước chư-hầu bị tiếm ngôi , các nước khác đem binh tới cứu , thế mà không danh chánh ngôn thuận ư .

Tử đột nói :

– Việc lập Kiềm-mâu lên ngôi Trịnh đã có Vương-mạng thì sao gọi là tiếm-vị ? Vương-mạng mà không kể , lại lấy việc chư-hầu này lập chư-hầu kia mà cho là thuận sao ?

Quách-công Kỵ-Phủ nói :

– Đừng nói đến thuận nghịch gì cả , việc binh-gia phải căn-cứ vào sức mạnh. Cái mạnh bao giờ cũng có hễ lý mà có lý tức là lẻ phải rồi .

Tử đột nói :

– Lý lẽ và sức mạnh là hai việc khác nhau . Mạnh yếu là tại sức còn hơn thua là tại lý. Nếu bỏ lý mà vẫn nên việc ắt thiên hạ phải đảo điên không còn một ai theo lẽ phải nữa.

Châu-công Hắc-kiên đỏ mặt nói :

– Ấy vậy nếu đem binh cứu Vệ, ngươi có dám gánh vác việc ấy chăng ?

Tử đột nói :

– Cứ lấy lý mà nói thì tôi sẽ thắng vì tôi sẽ đem lý lẽ của tôi mà khuyến dụ các chư-hầu. Một khi các chư-hầu đã nhìn nhận lẻ phải thì gươm giáo không còn là vật đáng sợ nữa.

Các quan nghe Tử đột lý lẽ như vậy ai nấy đều muốn thử-thách tài năng, nên tâu với vua cho phép Tử đột được hưng binh cứu Vệ .

Châu trang-vương nhậm lời, khiến Ninh-quý về báo với Vệ-hầu trước.

Đoạn, truyền cho Quách-công Kỵ-Phủ phát cho Tử đột ba muôn binh ròng.

Châu-công Hắc-kiên đã có ý ghét Tử đột nên chỉ phát có hai trăm cỗ binh xa mà thôi.

Tử đột ngạc nhiên hỏi :

– Sao ngài lại phát quân cho tôi ít như vậy ?

Châu-công Hắc-Kiên nói :

– Nếu ngươi dùng sức mạnh mà thắng giặc thì ta sẽ phát binh nhiều, nhưng nay ngươi chỉ dùng lý-lẽ để thắng giặc thì cần chi đến quân sĩ cho đông ?

Tử đột làm thinh, qua nhà Thái-miếu lạy tạ rồi kéo binh ra đi.

Lúc ấy binh của năm nước Chư-hầu đã đến vây đánh nước Vệ đông nghẹt.

Công-tử Tiết và Công-tử Chức không dám chống cự chỉ thủ thành chờ cứu binh đến.

Nhưng thảm thay ! Tử đột đến với một toán binh quá ít , người lao mã liệt, xe cộ ngửa nghiêng như một nhóm tàn quân vừa thất trận.

Tử đột mới tới, chưa kịp đóng trại, binh của năm nước đã áp lại đánh nhầu một trận , quân sĩ chạy tán loạn, không kịp thốt ra nữa lời.

Tở đột ngước mặt lên trời than :

– Ta vâng mạng Thiên-tử đến đây dầu có thác cũng được làm con ma trung nghĩa.

Nói rồi, liều chết vung đao giết đặng hơn mười người rồi mới tự vận.

Quân sĩ trong thành Vệ thấy binh thiên triều bị thua, lớp tử trận, lớp bỏ trốn , hoảng hốt mở cửa thành mà chạy.

Các nước chư-hầu đốc quân tràn vào.

Công-tử Tiết và Công-tử Chức cùng Ninh-quý thu góp tàn quân , phò Kiềm-mâu chạy trốn.

Nhưng vừa lọt qua khỏi vòng vây thứ nhứt thì bị địch quân bắt lại.

Duy có Ninh-quý lanh trí, cởi bõ xiêm giáp , lộn vào đám quân Tề thoát ra khỏi thành chạy qua nước Tần lánh nạn.

Chiến trận vừa tan , các chư hầu đưa Vệ-Sóc vào thành, dẫn Kiềm-mâu , Công-tử Tiết và Công-tử Chức vào nạp.

Tề tương-công sai đao phủ-thủ dẫn Tiết và Chức ra chém đầu, còn Kiềm-mâu vì nghĩ tình anh em bạn rể, nên bõ vào tù xa sai người đem về nạp cho vua nhà Châu.

Vệ-Sóc lên tức vị , lấy hiệu cũ là Vệ huệ-Công rồi đem vàng bạc châu báu trong kho nạp cho Tề để đến ơn.

Tề tương-công nói :

– Bắt đặng Kiềm-mâu là công của Lỗ-hầu, vậy nước Lỗ phải liệng thiên-lnểu chl cho Thiên-tử nhà Châu được hướng công đầu.

Nói rồi chia hai của ấy cho Lỗ, lại khiến Vệ-hầu thu góp các báu vật khác thưởng cho Tống, Trần, Sái.

Sau khi mở tiệc đãi đằng, các chư hầu lần lượt kéo quân về.

Tề tương Công về đến Kinh đô lòng rất lo lắng. Bụng bảo dạ : Thắng Kiềm-mâu thì chẳng nói làm chi, nay lại thắng cả binh thiên triều là điều đáng ngại. Vua Châu ắt cử binh sang vấn tội, ta nên đề phòng trước thì hơn.

Nghĩ rồi liền sai Liên-xứng làm Chánh-tướng Quản chí-phủ làm Phó tướng đem binh ra đồn trú nơi đất Quý-châu để trấn giữ mặt Đông-Nam.

Hai tướng vâng lệnh, kiểm điểm binh mã kéo đi.

Nhưng trong lức bái-biệt, hai tướng tâu với Tề tương-công :

– Tâu Chúa-công, việc đồn trú nơi biên-ải là một công lao cực nhọc cần phải có hạn-kỳ để quân sĩ khối nản lòng vì buồn chán.

Tề tương-công đang ngồi ăn dưa hấu, nghe tâu, đáp vội :

– Đến mùa dưa hấu năm sau ta sẽ cho người ra thay.

Hai tướng cúi lạy giã từ.

Tháng ngày thắm thoát trôi, trôi trên sự mong chờ của đoàn lính xa nhà, gối tuyết màn sương, nơi chốn biên cương lạnh lẻo.

Rồi, mùa dưa đến, đoàn quân biên-khu khoắc-khoải mơ ước được hồi hương , mà tin vua biền-biệt không thấy đến.

Hai tướng Liên-xứng và Quản chí-phủ cho người về kinh đô do thám.

Quân về báo :

– Chúa-công ở nơi Cốc-thành vui riêng với nàng Văn-khương đã một tháng nay chưa về triều.

Liên-xứng nghe báo nổi giận, nói :

– Vương-cơ đã thác, lẽ thì em gái ta là Liên-thị đặng làm phu-nhân, nhưng hôn quân vô đạo, đã không đoái tưởng mà lại còn tiếp tục việc dâm loạn với Văn-khương, thật là quá lắm. Thân ta cực nhọc đồn trú nơi biên-thùy biết bao giờ mới được về triều ?

Quản chí-phủ nói :

– Chúa-công đã hứa với ta, đến mùa dưa hấu cho người đến thay, vậy ta làm sớ về triều nhắc lại. Nếu Chúa-công bỏ qua, chừng ấy lòng quân sanh oán, ta sẽ tùy cơ ứng biến.

Liên-xứng khen phải, sai người đem sớ về Kinh trình tấu.

Tề tương-công xem sớ, nổi giận mắng lớn :

– Việc binh dời đổi là quyền của ta, cớ sao lại được xin ?

Nói rồi ra lệnh cho người dâng sớ trở về nói lại với hai tướng chờ đến mùa dưa năm sau nữa sẽ định liệu.

Liên-xứng được tin, mặt giận hầm hầm, nói với Quản chí-phủ :

– Hôn quân vô đạo đã không giữ lời hứa , ta há lại đem thân trung thành với kẻ thất tín sao . Ý ta muốn thí-quân lập vua khác, tướng công liệu lẽ nào ?

Quản chí-phủ nói:

– Nếu muốn thí Tề tương-Công trước hết phải định người thay thế. Công-tôn Vô-tri là con của Di trọng-niên , thuộc dòng thứ . Trong lúc Tiên-quân còn sống rất mực yêu mến Vô-Tri . Từ ngày Chúa-công lên ngôi có sự xích mích , nên đem lòng oán ghét.

Liên-xứng hỏi :

– Tại sao có sự xích mích ấy ?

Quản chí-phủ nói :

– Nguyên trước kia Vô-tri ở trong cung hay cãi nhau với Tề tương-công. Một hôm Vô-tri nổi giận đá Tề tương-công ngã xuống ghế. Lại một hôm nọ, Vô-Tri tranh với quan Đại-phu Ung-Lẫm đi trước nên Tề tương-công rất ghét. Tôi xem ý Vô-tri muốn mưu loạn, ngặt không ai giúp sức, nay ta viết thư về nhờ Vô-tri làm nội ứng thì việc cả ắt nên.

Liên-xứng nói :

– Thế thì nên thừa cơ hội nào mà thực hiện ý định .

Quản chí-phù nói :

– Tề tương-công là người giỏi binh pháp, nhưng tính lại ưa săn bắn, vậy phải dụ cọp ra khỏi hang thì mới trị nổi. Ta cứ chờ dịp nào Tề tương-công ra ngoài là hành-sự.

Liên-xứng nói :

– Em gái tôi là Liên thị, bị thất-sũng, lâu nay cũng rất oán ghét Tề tương-công, bây giờ viết thư dặn Vô-tri tư-thông với Liên-thị, lúc nào Tề tương-công đi săn bắn phải lập tức cho chúng ta biết.

Quản chí-phủ khen phải bèn viết thư sai người đem đến cho Vô-tri.

Thư ấy như vầy:

Tiên quân ngày trước rất yêu mến Công-tôn, thế mà nay Tề tương-Công ỷ mình quyền theo không kể mình anh em tộc họ. Vả lại, Tề tương-Công lại là một hôn quân dâm loạn, trong bỏ bê việc triều chính, ngoài không nghĩ đến lương dân. Chúng tôi đi đồn trú suốt cả năm đã không ngó-ngàng đến lại còn trách-cứ. Lòng quân rất oán hận muốn khởi loạn , ngặt chưa có dịp . Nếu nay Công-tôn đồng lòng với chúng tôi phế bỏ hôn-quân, thật là một dịp tốt. Trong cung lại có Liên-thị, có thể giúp Công-tôn làm nội ứng được. Xin chớ bỏ qua .

Công-tôn Vô-tri được thư, lòng mừng khấp khởi , vội viết thư phúc đáp :

Lòng trời đã chán ghét hôn quân nên mới xui tướng-quân nghĩ đến việc ấy. Tôi xin thành tâm hiệp lực, và lúc nào có dịp, sẽ tin cho tướng quân hay .

Đoạn Vô-tri cho người vào cung bàn tính với Liên-thị, lại hứa với Liên-thị rằng : Nếu chiếm được ngai vàng sẽ lấy Liên-thị làm phu nhân.

Liên-thị mừng lắm .

Mùa đông năm ấy, Tề tương-công sắp đặt đến núi Bối-Kỳ nơi đất Cô-phần để săn bắn.

Liên-thị hay tin, sai người nói lại với Công-tôn Vô-tri.

Công-tôn Vô-tri liền viết một mật thư, đưa ra biên giới cho Liên-xứng hẹn ngày khởi sự.

Liên-xứng bàn với Quản chí-phù :

– Hôn quân đi săn bắn, trong nước không có ai bọn ta kéo binh về thẳng Tề đô mà lập Công-tôn lên ngôi cho rồi.

Quản chí-phủ nói :

– Tuy Tề tương-công là một hôn quân dâm loạn, song có liên kết với các chư-hầu, và các chư hầu cũng hết lòng tương trợ. Nếu để hôn quân còn sống , viện binh nước ngoài về đánh chúng ta cự sao lại. Chi bằng phục binh mà giết quách đi , rồi sau sẽ tôn Vô-tri lên cũng chẳng muộn.

Hai tướng bàn bạc xong, kéo binh sang đất Cô-phần phục sẵn.

Chỉ mấy ngày sau, Tề tương-công sắm sửa xe giá, dẫn đoàn ngự lâm quân cùng hai viên cận-tướng là Thạch-chi Phân-như và Mạnhđương theo hầu, cùng nhau đến núi Bối-Kỳ.

Cạnh núi Bối-kỳ rất đẹp, có khe, có suối hai bên đá dựng chập-chồng, rừng cây rậm rạp .

Tề tương-công truyền đốt lửa ở hai bên ven rừng để dồn các muông thú vào giữa mà săn bắn.

Lửa cháy rần rần, gió reo vi vút, những loài điểu thú sợ lửa bay nhảy tán loạn.

Vua tôi được một dịp trổ tài xạ kích.

Bỗng từ nơi ven rừng một con quái vật xuất-hiện, hình dung kỳđị, to bằng con trâu, nữa giống cọp nữa giống heo, chạy đến trước mặt Tề tương-công rồi dừng lại.

Tề tương-công quay lại, gọi Mạnhđương bảo :

– Ngươi hãy bắn con quái vật đó cho ta.

Mạnhđương, tay rút tên, mắt nhìn chăm chăm con quái vật đó, rồi nói to :

– Tâu Chúa-công con quái-vật này giống Công-tử Bành-sinh quá !

Tề tương-công nói :

– Bành-sinh đã chết, sao còn dám đến đây phạm giá .

Nói rồi giật lấy cung tên, bắn một mũi.

Quái-vật kia né tên .

Tề tương-công bắn luôn ba phát mà vẫn không trúng.

Bỗng quái-vật đứng dậy, đi hai chân như người, lại khóc lóc rất thê-thảm.

Tề tương-công cả người rởn ốc, té nhào xuống xe , trợt chân rơi ra một chiếc giày.

Quái-vật chạy đến tha chiếc giày biến mất.

Kẻ tả hữu vội chạy đến đỡ Tề tương-công lên xe, rồi phò về ly-cung nơi Cô-phần an nghỉ.

Đêm ấy, Tề tương-công lòng nóng như đốt, không làm sao ngủ được , lại bị trặc chân, đau nhức vô cùng, mới bảo Mạnhđương đở mình đi lại trong phòng cho thư thả.

Nhìn lại, thấy mất một chiếc giày , Tề tương-công cho đòi Đồ nhân-phí là kẻ hầu cận vào, hỏi :

– Sao giày ta chỉ còn một chiếc thế này ?

Đồ nhân-phí tâu :

– Tâu Chúa-công, lúc Chúa-công bị té, chiếc giày văng ra, con quái vật ngoạm lấy tha đi mất.

Tề tương-công cả giận hét :

– Ngươi giữ việc y-quan, thế mà để con quái vật đó tha mất chiếc giày của ta, mà ngươi vẫn còn sống sao ?

Nói xong rút roi da đánh bổ vào lưng Đồ nhân-phí.

Đánh đến máu chảy dầm dề mới chịu thôi.

Đồ nhân-phí vừa khóc lóc, vừa bước ra cửa.

Bỗng gặp Liên-Xứng đi với hai người tùy tùng đến đó mà thám thính.

Thấy Đồ nhân-phí, Liên-xứng liền thộp ngực, hỏi :

– Hôn-quân hiện giờ ở đâu ?

Đồ nhân-phí ngạc nhiên không hiểu Liên-xứng đang trấn nơi biên thùy, sao lại đến đây tác-loạn, bèn hỏi :

– Sao tướng quân lại đến đây và có ý gì đó ?

Liên-xứng nói :

– Ta quyết giết đứa hôn quân để đem lại hạnh phúc cho bá tánh. Ngươi đừng có nhiều lời, hãy nói mau.

Liên-xứng vừa nói, vừa giơ đao muốn chém.

Đồ nhân-phí cả sợ nói :

– Tôi vừa bị hôn-quân đánh một trận, thịt còn sưng, máu còn chảy đây. Xin tướng-quân tha chết cho tôi để tôi làm nội ứng cho.

Liên-xứng xem lại thấy Đồ nhân-phí áo quần lem luốc những vệt máu, mới tin lời, và dặn :

– Hãy vào xem hôn quân ngủ ở đâu, rồi ra báo với ta lập tức .

Nói xong, quay lại gọi Quản chí-phủ bảo dẫn quân sĩ thẳng vào ly-cung.

Đồ nhân-phí vào khỏi cửa gặp Thạch-chi Phân-như liền kể lại chuyện Liên-xứng khởi loạn.

Hai người dắt nhau đến báo cho Tề tương-công hay.

Tề tương-công cả sợ, chưa biết tính lẽ nào, Đồ nhân-phí tâu :

– Việc đã quá gấp, xin Chúa-công cho một người giả Chúa-công , liều chết thay mạng nằm trên giường, còn Chúa-công lo ẩn núp sau cửa , may có cơ-hội thoát nạn.

Mạnhđương nói :

– Tôi mang ơn Chúa-công rất trọng, nay nguyện liều mình chết thế.

Nói rồi trèo lên giường, nằm ngoảnh mặt vào trong.

Tề tương-Công cởi áo cẩm-bào khoác lên mình Mạnhđương rồi lẻn ra phía sau mà trốn.

Thấy Đồ nhân-phí không theo mình, Tề tương-công hỏi :

– Ngươi không đi trốn sao ?

Đồ nhân-phí tâu :

– Tôi phải hiệp sức với Thạch-chi Phân-như để cự địch .

Tề tương-công nhìn Đồ nhân-phí nói :

– Lưng của ngươi đau như thế mà không ngại sao ?

– Dẫu chết còn chưa tiếc thì cái đau đó đâu đáng kẻ.

Tề tương-công than dài :

– Ôi ! ngươi quả là đấng trung thần, tiếc rằng ta đã không có con mắt nhận xét.

Đồ nhân-phí bảo Phân-như cầm dao đứng chận nơi cửa.

Lúc ấy Liên-xứng cũng vừa phá được cửa ngoài, ồ ạt bước vô.

Đồ nhân-phí xốc đến toan chém, nhưng Liên-xứng đã lẹ tay đâm một gươm lòi ruột, nhào xuống đất chết ngay.

Phân-như thấy vậy nhãy tới cũng bị Liên-Xứng vớt cho một gươm , đầu lìa khỏi cổ .

Giết xong hai viên cận-vệ , Liên-xứng bước đến bên giường ngủ của Tề tương-công, không thấy bọn cận vệ đâu cả, chỉ thấy một người nằm đắp cẩm bào sau bức màn thêu. Ngỡ đó là Tề tương-công, Liên-xứng liền vung gươm chém một nhát, đầu văng ra khỏi gối.

Liên-xứng lượm đầu lên xem, thấy không râu, biết mình đã lầm, vội khiến quân lục lạo khắp nơi.

Khi ra đến phòng sau, Liên-xứng bắt gặp một chiếc giày thêu bỏ nơi cửa hậu. Chiếc giày ấy chính là chiếc giày mà con quái-vật đã tha đi. Vì vậy ai cũng tin là Công-tử Bành-sinh báo oán.

Trông thấy chiếc giày , Liên-xứng nghi Tề tương-công núp đâu đây vội phá cửa bước ra.

Quả thật, lúc đó Tề tương-công đang núp ở xó cửa.

Liên-xứng nắm cổ, đè xuống đất, hét lớn :

– Hôn quân dâm loạn ! Mi không kể đến sự nghiệp Tiên-quân , gây nên nhiều tội ác, khiến dân chúng lầm than khổ sở. Không nghe lời cha dạy khinh bỏ việc công ấy là bất hiếu, gian dâm với em gái mình, đó là phi-nghĩa, bắt người đi đồn thú rồi sai ước, đó là bội-tín, cậy sức mạnh, giết oan mọi người đó là bất nhân. Cả nhân nghĩa, hiếu, tín đều phạm phải, dầu ta có phân thây mi làm mấy mảnh cũng vẫn chưa đền được tội.

Nói xong, chặt Tề tương-công ra làm hai khúc, rồi cùng với Quản chí-phủ kéo quân trở về Tề đô.

Công-tôn Vô-tri hay tin mở cửa thành nghênh tiếp.

Hai tướng vào thành tôn Công-tôn Vô-Tri lên kế vị.

Công-tôn Vô-tri lập Liên-thị làm phu-nhân phong Liên-xứng làm Chánh-Khanh, Quản chí-Phủ làm á-khanh còn các quan Đại phu đều giữ nguyên chức.

Triều thần tuy không ai phản đối nhưng ít ai khâm phục.

Riêng có Ung-lẫm, trước kia vì có tội dành đi trước với Vô-tri nên nay cúi lạy xin lỗi , còn Cao-quốc là người có thân thế nhất tại triều, cáo bịnh không vào chầu.

Vô Tri lên ngôi được mấy hôm, thì Quản chí-phủ khuyên Vô-tri nên treo bảng cầu người hiền ra giúp nước, lại tiến cử người cháu họ của mình là Quản di-ngô, yêu cầu Vô-tri thuđụng để chung lo việc triều-chính.

Chương 15: Ung Lẫm lập mưu giết tân chúa – Lỗ công bại trận nơi Kiều thời

Nói về Quản di-ngô tên chữ là Trọng, một người tướng mạo khôi ngô, thông minh xuất chúng, học rộng, mưu cao, đũ tài kinh thiên vĩ địa. Lúc còn là hàn sĩ, làm bạn với Bảo thúc-Nha. Hai người thường đi buôn chung. Nhưng mỗi khi kiếm được lời, Quản di-ngô bao giờ cũng nhận lấy phần hơn, chỉ chia cho Bảo thúc-nha chút ít mà thôi. Tuy-nhiên, Bảo thúc-nha chẳng hề tỏ ý phàn-nàn.

Người ngoài thấy nói với Bảo thúc-nha :

– Cùng công cán như nhau, sao ông lại để cho Quản di-ngô hiếp mình như thế ?

Bảo thúc-nha đáp :

– Quản di-ngô đâu phải tham-lam, ấy chỉ vì nhà nghèo, tiêu không đủ, nên ta nhường cho va đó.

Sau đến lúc ra phò Tề tương-công giúp việc quân-vụ, mỗi lần ra trận, Quản di-ngô đi sau, nhưng đến lúc lui binh về thì Quản di-Ngô lại đi trước. Ai nấy cho Quản di-ngô là nhát gan.

Bảo thúc-nha nói :

– Không phải Quản di-ngô nhát gan đâu, chỉ vì va còn mẹ già nên muốn giữ lấy thân để phụng dưỡng mẹ.

Việc làm của Quản di-ngô phần nhiều bị thất bại. Ai nấy cho là kẻ bất trí.

Bảo thúc-nha nói :

– Đó là con người chưa gặp thời . Nếu lúc Quản di-ngô đã gặp thời , thì nói mười lời không sai một.

Quản di-ngô nghe Bảo thúc-nha nhận xét mình như thế, lòng rất khâm phục, than thầm :

– Sinh ra ta ấy là cha mẹ, mà hiểu biết ta thì trong đời chỉ có một Bảo thúc-nha mà thôi.

Từ lúc đó, hai người trở nên tương đắc.

Quản di-ngô cũng như Bảo thúc-nha được tiếng là học rộng , đều được Tề tương-công chọn làm Sư-phó.

Nguyên Tề tương-công có hai người con, người lớn là Công-tử Cả mẹ người nước Lỗ, người nhỏ là Tiểu-bạch, mẹ người nước Cư .

Hai vị Công-tử này tuy không phải con dòng đích, nhưng Tề tương-công thấy đã khôn lớn cần phải tìm thầy dạy dỗ.

Quản di-ngô nói với Bảo thúc-nha :

– Tề-hầu có hai người con tuy là dòng thứ mặc lòng, song không có dòng đích thì ngày sau dòng thứ phải được nối ngôi. Bây giờ chúng ta lãnh mỗi đứa một người mà dạy dỗ , sau này nếu người nào được nối ngôi thì chúng ta tiến cử lẫn nhau để được trọng dụng.

Bảo thúc-nha khen phải.

Hai người vào triều yết kiến Tề tương-Công.

Bảo thúc-nha thì lãnh Công-tử Tiểu-bạch còn Quản di-Ngô lãnh Công-tử Củ, có Thiệu-hốt giúp đỡ.

Một thời gian sau Tề tương-công ham mê săn bắn , thường đến đất Chước để tư tình với Văn-khương .

Thúc-Nha mới tỏ ý với Tiểu-bạch rằng :

– Chúa-công dâm loạn, dân tình không phục, tôi e trong nước sanh biến chẳng lâu, Công-tử nên có lời can gián.

Tiểu-bạch y lời.

Một hôm vào tâu với Tề tương-công :

– Lỗ-hầu bị thác, thiên hạ dị-nghị rất nhiều, xin phụ thân nên tị hiềm, đừng đi săn bắn mà sinh hậu-hoạn.

Tề tương-công nổi giận xách giày liệng Tiểu-bạch, hét :

– Mày là đứa con nít biết gì đến công việc ta mà nói .

Tiểu-bạch thất-kinh, bõ chạy về nói lại với Thúc Nha.

Thúc-Nha buồn bã nói :

– Đã không bỏ được lòng tà, ắt tai họa phải đến. Vậy Công-tử nên cùng tôi sang một nước khác lánh nạn, ngày sau sẽ tính.

Tiểu Bạch hỏi :

– Bây giờ phải qua nước nào ?

Thúc-nha nói :

– Nước lớn thường cậy thế cậy thần , tánh tình hay thay đổi. Còn nước nhỏ thủ phận, ít sinh chuyện lôi thôi . Vậy ta nên sang nước Cử, gần gũi với nước Tề, sau này có trở về cũng dễ.

Tiểu bạch thuận tình. Hai người cùng trốn qua nước Cử.

Cách đó không lâu, Tề tương-công bị giết . Công-tôn Vô-tri nên đoạt ngôi và sai người đến triệu Quản di-ngô vào triều nghị việc .

Quản di-ngô nói :

– Bọn ấy gươm đã sắp kề cổ mà không biết đến mình còn muốn làm phiền luỵ đến kẻ khác nữa sao ?

Nói rồi bàn với Thiệu-hốt phò Công tử Củ chạy sang nước Lỗ.

Nước Lỗ vốn là bên ngoại của Công-tử Củ , nên Công-tử Củ được Lỗ trang-công trọng đãi, cho ở nơi đất Sinhđậu .

Còn Vô-tri từ khi lên kế vị, quần thần không phục, Liên-xứng và Quản chí-phủ được tin dùng nên mỗi lúc một làm cao, khiến ai nấy bất bình ra mặt.

Ung Lẫm thấy tình trạng ấy, một hôm tìm cách thử lòng mọi ngươi, bèn phao lên một tin đồn, nói :

– Có người nước Lỗ cho biết Lỗ-hầu sắp đem quân phạt Tề . Tề đưa Công-tử Củ lên ngôi . Chẳng hay các ngài có ai nghe tin ấy chăng ?

Các quan đều ngơ ngơ ngác nhìn nhau thầm tỏ vẻ đắc ý.

Khi bãi triều, các quan lần lượt đến dinh Ung-lẫm để thăm dò.

Ung-lẫm hỏi :

– Nếu việc đó là sự thật các ngài sẽ tính sao ?

Đông quách-nha nói :

– Tiên-quân ta vô đạo, nhưng con của người đâu có tội chi, lẽ nào chúng ta lại phò một người khác.

Ung-lẫm đưa mắt nhìn mọi người thấy ai nấy đều có vẻ cảm động, bèn nói :

– Trước kia sở dĩ tôi lạy lục xin tha tội là có ý muốn dành thân này đặng dùng vào việc ngày nay . Nếu các ngài giúp tôi trừ bọn phản-nghịch đem ngôi lại cho con cái Tiên-quân thì thật là việc đại nghĩa.

Đông quách-Nha hỏi :

– Nhưng ngài đã có kế hoạch gì để mưu việc đại nghĩa ấy chưa ?

Ung-lẫm nói :

– Cao-quốc là một lão thần, được nhiều người kính trọng, cả đến Liên-xứng và Quản chí-Phủ cũng phải sợ, chẳng dám cậy quyền-uy mà lên mặt. Nay ta đến bàn với Cao-quốc mở một tiệc rượu mời Liên-xứng và Quản chí-phủ đến dự thì thế nào hai đứa ấy cũng đến. Lúc bấy giờ chúng ta vào triều, gạt Vô-tri ra khỏi cung mà giết, đồng thời, đóng cửa nhốt Quản chí-phủ và Liên-Xứng nơi dinh Cao-quốc, để lo việc lập vua mới .

Đông quách-nha nói :

– Cao-quốc lâu nay vì ghét bọn nịnh thần nên chẳng thèm ngó đến việc triều chính. Nay đem mưu ấy mà bàn ắt Cao-quốc không từ chối . Vậy tôi xin lãnh việc ấy cho.

Nói rồi, Đông quách-Nha vội vã đến dinh Cao-quốc, đem ý kiến của Ung-lẫm thuật lại.

Cao-quốc nhận lời, sai Đông quách-Nha đi mời Liên-Xứng và Quản chí-phủ.

Liên-xứng và Quản chí-phủ lâu nay thấy Cao Quốc không trọng mình nên lòng không vui.

Nay được tin Cao-Quốc đặt tiệc khoản đãi lấy làm hớn hở, lập tức đến dự.

Trong bữa tiệc , Cao-quốc nói với Liên-xứng và Quản chí-phủ :

– Xưa Tiên-quân thất đức, lão phu chi sợ e nước phải mất , không ngờ được nhị vị tướng quân ra tay cứu nước, lập lên tân quân nắm giữ giềng mới thật là may mắn. Nay phận tôi già yếu, không còn sức lực để chung lo việc triều chính, vậy có chén rượu lạt này nhờ nhị vị tướng quân tưởng tình mà che chở cho con cháu tôi, tôi rất mang ơn .

Liên-xứng và Quản chí-phủ tỏ lời khiêm nhượng , rồi cả hai uống đến say vùi .

Cao-quốc khiến người đóng chặt cửa dinh lại.

Giữa lúc ấy, Ung-lẫm dắt dao trong mình, đi vào cung nói với Vô-Tri :

– Công-tử Củ sắp đem quân Lỗ về đánh, xin Chúa-công lâm triều mà nghị kế.

Vô-tri hỏi :

– Liên-xứng và Quản chí-phủ không có mặt ở đây sao ?

Ung-lẫm tâu :

– Hai người ấy đi uống rượu chưa về, song việc binh rất gấp các quan đã hội đủ mặt xin Chúa-công ra mà thương-nghị.

Vô-trị tin lời, khoác long bào bước ra.

Ung-lẫm bước theo sau thừa cơ hội đâm lén Vô-tri một dao, ngã quỵ xuống đất máu tuôn lai láng.

Giết Vô-tri xong, Ung-Lẫm liền khiến đốt lửa làm hiệu .

Cao-quốc cùng với Liên-xứng và Quản chí-Phủ uống rượu trong dinh, thấy lửa cháy, biết việc đã thành, liền bõ đứng dậy hô võ sĩ bắt Liên-xứng và Quản chí-phủ trói lại, dẫn ra ngoài chợ chém đầu.

Ung-lẫm cùng các quan lại nhóm họp nơi nhà Cao-quốc để bàn việc cho người sang nước Lỗ , rước Công-tử Củ về nối nghiệp.

Còn Liên-thị, vợ Vô-Tri hay được tin cả sợ, rút gươm tự-vận .

Tính lại, từ lúc Vô-tri lên ngôi đến nay chỉ có một tháng mà thôi .

Ngày kia, Lỗ trang-công đang ngồi nghị việc, xảy có nước Tề đem thư đến , kể rõ việc giết Vô-Tri và xin rước Công-tử Củ về nước .

Lỗ trang-công cả mừng, muốn cho người cất quân đưa Công-tử Củ đi .

Xảy có Thi-bá bước vào tâu :

– Tâu Chúa-công, nước Tề bị tai biến, đó là việc tốt. Hễ Tề yếu thì Lỗ mạnh xin Chúa-công hãy thư thả mà tính việc.

Lỗ trang-công nghe nói lòng dù dự chưa quyết .

Lại nói đến nàng Văn-khương , từ khi nghe Tề tương-công bị giết liền bõ đất Chước trở về Lỗ , khuyên Lỗ trang-công cất quân đánh Tề để báo thù cho anh mình. Nay được nghe kẻ thù Vô-tri bị giết liền hối thúc Lỗ trang-công đưa Công-tử Củ về kế vị.

Lỗ trang-công tuy nễ lời Thi-bá nhưng không dám cãi lời mẹ, liền khiến người đem quân hộ tống Công-tử Củ về nước.

Quản di-Ngô nghe được tin vội vã vào triều tâu với Lỗ trang-Công :

– Tâu Chúa-công, Tề tương-công hiện còn hai đứa con là Công-tử Củ và Công-tử Tiểu-bạch. Hiện nay Tiểu-bạch đang trú nơi nước Cử là nước giáp liền với Tề. Tôi e Tiểu-bạch được tin về nước trước mà lên ngôi. Vậy xin Chúa-công cho tôi mượn một con ngựa hay và một ít quân binh đặng đón đường Tiểu-bạch . Như thế mới tranh ngôi cho Công-tử Củ được .

Lỗ trang-công hỏi :

– Ngươi muốn đem bao nhiêu quân ?

Quản di-ngô đáp :

– Không cần nhiều lắm. Chỉ độ ba mươi cỗ xe là đũ .

Lỗ trang-công liền phát binh.

Quản di-ngô lãnh mạng kéo quân đi.

Ngay lúc ấy, bên nước Cử, Công-tử Tiểu-bạch cũng đã hay tin Vô-Tri bị giết, liền bàn với Bảo thúc-nha mượn một trăm cỗ xe của nước Cử, hộ tống trở về Tề.

Cử và Tề sát biên giới, Công-tử Tiểu-bạch đi chưa bao lâu đã khỏi biên giới nước Cử.

Còn Quản di-ngô đem binh đuổi theo, đến biên giới thì đã nghe tin Tiểu-bạch đi qua rồi .

Quản di-ngô vội vã đuổi theo hơn ba mươi dặm nữa mới theo kịp.

Vừa thấy Tiểu-Bạch .

Quản di-ngô gọi lớn :

– Từ ngày các mặt nhau đến nay Công-tử vẫn được mạnh giỏi chứ ? Chẳng hay Công-tử cất binh đi đâu mà gấp lắm vậy ?

Công-tử Tiểu-bạch đáp :

– Tôi muốn về nước lo việc cư-tang cho phụ-thân tôi .

Quản di-ngô nói :

– Việc cư-tang đã có Công-tử Củ là anh cả , còn Công-tử là em thì vội làm gì . Xin hãy đình lại đã.

Thúc-nha nói :

– Chúng ta, ai vì chúa nấy xin Di-ngô chớ nhiều lời.

Nói xong, thúc quân tiến bước.

Quản di-ngô muốn cản lại, nhưng thấy binh cửa Tiểu-bạch đông hơn binh mình gấp bội, liệu thế khó đương bèn rút cung tên nhắm ngay Tiểu-bạch bắn một mũi.

Tiểu-bạch la lên một tiếng , trào máu miệng té ngửa trong xe.

Thúc-nha thất kinh, lật đật đến cứu.

Bọn tùy tùng trông thấy khóc rống lên.

Quản di-ngô tin chắc Tiểu-bạch đã thác, vội vã quảy xe lui binh trỡ về lòng hớn hở, nghĩ thầm :

– Công-tử Củ có phước lắm ! Thế là ngôi báu kia không còn ai tranh đoạt nữa !

Khi về đến nơi, Quản di-ngô thuật rõ câu chuyện bắn chết Tiểu-bạch cho Lỗ-hầu nghe.

Lỗ-hầu lấy làm thích thú, truyền dọn tiệc ăn mừng rồi lo việc đưa Công-tử Củ về nước.

Tuy-nhiên, Quản di-ngô đã lầm, mũi tên kia không giết được Công-tử Tiểu-bạch , vì mũi tên đó xẹt qua chiếc dây đai thắt lưng. Còn Công-tử Tiểu-bạch là người lanh trí, biết tài bắn của Quản di-Ngô nên giả vờ cắn chót lưỡi phun máu ra, rồi ngả ngựa trên xe, để Quản di-ngô khỏi bắn tiếp mũi tên thứ hai. Trí của Tiểu-bạch lanh như vậy đến nỗi Thúc-nha cũng không ngờ. Khi thấy Tiểu-bạch không bị thương tích gì, Thúc-nha vội thay quần áo và giấu vào trong một cỗ xe riêng, hối quân tiến gấp .

Ðến nơi, Thúc-nha vào thành, ra mắt các quan, tiến cử Công-tử Tiểu-bạch và xin lập lên kế vị.

Các quan nói :

– Chúng tôi đã cho người qua nước Lỗ, rước Công-tử Củ rồi, nếu bây giờ tôn Tiểu-bạch lên nay mai Công-tử Củ về tới biết liệu .

Thúc-nha nói :

– Nước không nên để một ngày không có vua. Các quan đi rước Công-tử Củ mà Công-tử Củ chưa về, còn Công-tử Tiểu-bạch lại có mặt. Ðó là lòng trời muốn Tiểu-bạch lên ngôi. Vả lại, nếu để nước Lỗ đem binh đưa Công-tử Củ trở về phục nghiệp thế nào nước Lỗ cũng kể công ơn mà đòi hối lộ như trường hợp nước Tống với Trịnh-hốt ngày trước, thật là xấu hổ.

Các quan Ðại-phu lại nói :

– Nếu vậy chúng ta phải dùng kế chi mà trả lời với Lỗ-hầu ?

Thúc-nha nói :

– Hễ nước đã có vua tự nhiên Lỗ-hầu phải kéo binh về, không cần phải dụng kế gì cả.

Quan Ðại-phu Thấp-bằng và Ðông quách-nha đều khen phải.

Bèn mở cửa thành rước Công-tử Tiểu-bạch vào tôn lên ngôi, tức là Tề hoàn-công.

Tề hoàn-công được Thúc-Nha giúp đỡ, chỉnh đốn việc triều chính, ban bố ân đức cho mọi người.

Các quan tuy tôn Tề hoàn-công lên ngôi, song lòng hồi họp lo lắng, sợ binh Lỗ kéo đến bất ngờ.

Bảo thúc-Nha tâu với Tề hoàn-Công :

– Bây giờ muốn cho cả triều thần được an tâm, xin Chúa-công cho một đạo binh ra đón nơi biên thùy để ngăn quân Lỗ thì khỏi lo gì cả .

Tề hoàn-công chuẩn tấu, sai Trọng tôn-thu dẫn ba trăm chiến xa ra đóng nơi quan ải, nếu binh Lỗ kéo đến thì nói cho Lỗ-hầu biết là nước Tề đã có vua.

Ngày kia, Lỗ trang-công kéo binh rần rộ, đưa Công-tử Củ về nước để phục nghiệp. Nhưng vừa tới biên giới, hay được sự tình lòng hậm hực, nói :

– Theo thứ tự, hễ lớn thì được nối ngôi nay Tiểu-bạch là em lại tranh giành như vậy thật là vô lễ. Ta quyết không chịu lui binh .

Trọng-thu thấy thái độ giận dữ của Lỗ-hầu lập tức viết thư về triều cáo cấp.

Tề hoàn-công hỏi Thúc-nha :

– Quân Lỗ không chịu lui thì làm thế nào ?

Thúc-nha đáp :

– Nếu không lui binh thì ta phải đem binh chống cự.

Tề hoàn-công lập tức khiến Vương-tử Thành-phù và Ninh-việt cầm đạo binh bên tả, Ðông quách-nha cầm đạo binh bên hữu, Ung-Lẫm đi tiên phuông còn Thúc-nha thì phò xe giá đi trung quân.

Ðông quách-nha quì tâu :

– Quân Lỗ thế nào cũng sợ ta dự bị trước, chẳng dám tiến gấp nay xin đem quân ra nơi đất Kiều-thời mà mai phục, chờ cho quân Lỗ đến đó đồn binh, chúng ta xuất kỳ bất ý xua binh hỗn chiến, làm cho hàng ngũ binh Lỗ rối loạn thì thế nào cũng đặng trọn thắng.

Thúc-nha khen phải, khiến Trọng tôn-thu và Ninh-việt kéo binh đi trước, chận đường mai phục sẵn, còn Vương-tử Thành-phủ và Ðông quách-nha thì đi đường tắt, chận đường về. Lại khiến Ung-Lẫm dẫn một đạo binh đi dọ thám, hễ gặp binh Lỗ thì giả thua mà dụ địch. Các tướng tuân lệnh, kéo binh ra đi.

Khi Lỗ trang-công và Công-tử Củ kéo binh đến đất Kiều-Thời, Lỗ trang-công ra lệnh đóng quân đồn trú.

Quản di-ngô nói :

– Tiểu-bạch vừa lên ngôi, việc quân chưa định, nay phải đánh gấp nếu diên trì e khó thắng.

Lỗ trang-công nói :

– Tiểu-Bạch đoạt ngôi anh thế nào cũng đề-phòng nếu ta ào ạt kéo đến không khỏi lầm kế. Vậy cứ đóng quân nơi đây dò xét tình hình rồi sẽ liệu.

Lỗ trang-công nói vừa dứt lời, có quân thám-thính về báo :

– Binh Tể đã đến, Ung-lẫm dẫn một đoàn binh đến đây cách chừng vài dặm .

Lỗ trang-công nói :

– Nếu ta không đề phòng ắt lầm kế của quân Tề rồi.

Liền khiến Lương-tử và Tần-Tử dàn quân ra hai đạo tiếp ứng .

Còn Lỗ trang-công đốc quân tiến tới.

Vừa gặp Ung-lẫm, Lỗ trang-công chỉ vào một mắng :

– Ngươi đã ra công giết Vô-tri, cho người sang Lỗ rước Công-tử Củ về tức vị , cớ sao ngươi lại lập Tiểu-bạch lên . Thế thì còn gì là tín nghĩa ?

Nói rồi trương cung bắn Ung-lẫm.

Ung-Lẫm giả đò hổ ngươi đem binh trở lại.

Lỗ trang-Công khiến Tào-Muội đuổi theo .

Ung-lẫm quay xe trở lại đánh.

Nhưng đánh chưa được mười hiệp lại bỏ chạy nữa.

Tào-Muội tức giận, đốc binh tiến tới.

Lỗ trang- Công sợ Tào-Muội có điều sơ thất, liền khiến Tần-Tử và Lương-Tử kéo binh theo tiếp ứng.

Hai tướng kéo binh đi chưa khỏi vài dặm đường bỗng gặp đạo quân của Bảo Thúc-Nha chận lại.

Hai bên giao chiến rất hăng.

Lỗ trang-công được tin vội vã kéo đại binh đến tiếp cứu , chẳng ngờ vừa tới nơi thì binh phục của Ninh-Việt và Tôn trọng-Thu đã chờ sẵn nổi dậy phủ vây bốn mặt.

Binh Lỗ bị chận đánh nhiều đoạn, quân-lực không đủ, lại bị đánh bất ngờ, hàng ngũ rối loạn bõ chạy.

Bảo thúc-nha xua binh chém giết một hồi, rồi hô lớn :

– Ai bắt được Lỗ-hầu thì được trọng thưởng.

Binh Tề được lịnh xông vào đạo trung quân vây rất ngặt .

Tần-Tử thất kinh vội rút cây cờ hiệu của Lỗ trang-công quăng xuống đất.

Lương-tử lại nhặt lên, cắm vào xe mình.

Tần-Tử hỏi :

– Ta đã muốn cứu nguy cho Chúa công nên mới quăng cờ đi , sao Tướng-quân lượm làm chi ?

Lương-tử đáp :

– Ta cũng vì muốn cứu nguy cho Chúa-công mà lượm đó.

Lỗ trang-công hiểu ý cởi cả áo mão bỏ trên xe Lương-tử , rồi sang qua xe khác mà trốn .

Lương-tử tiếp lấy áo mão mặc vào, rồi đốc binh cự địch.

Ninh-việt thấy trên xe có cắm cờ hiệu, lại có người mặc long bào, ngỡ là Lỗ trang-công, nên dồn cả quân-lực về phía đó, quyết bắt sống cho được để lãnh thưởng.

Lương-tử chống cự một lúc, rồi cởi áo, nói lớn :

– Ta đây là Lỗ-tướng chứ đâu phải Lỗ-hầu mà chúng bay đánh hăng như vậy ?

Quân Tề nghe nói, xem lại thấy tướng Lỗ là Lương-Tử, nỗi giận chưởi rủa om sòm, rồi áp lại bắt sống, đem nạp cho Tề hoàn-công.

Tề hoàn-công truyền chém đầu tại chỗ.

Bảo thúc-nha biết Lỗ trang-công đã trốn thoát liền xua quân đuổi theo truy kích.

Quân sĩ la ó vang trời.

Lúc đó, Quản di-Ngô đang phòng thủ nơi hậu dinh, nghe tin báo trung quân của Lỗ-hầu bị bại trận, liền khiến Thiệu-hốt ở lại phò Công-tử Củ, còn mình xuất quân cứu ứng.

Vừa ra khỏi dinh đã gặp Lỗ trang-công hơ hải dẫn một số tàn-quân chạy về.

Lỗ trang-công nói :

– Quân ta đại bại, thế giặc rất hăng. Phải gấp gấp nhổ trại lui binh kẻo không kịp.

Quản di-ngô tuân lệnh , truyền nhổ trại tức khắc.

Ði chưa được bao xa, xảy thấy trước mặt có một đạo binh kéo đến.

Ấy là binh của Vương-tử Thành-phủ và Ðông Quách-nha vâng lệnh Bảo thúc-nha phục binh đón đường về.

Lỗ trang-công thất kinh than rằng :

– Ta đã lầm kế phục binh, trận này ắt khó thoát !

Tào-muội thấy thếm vội nói lớn :

– Chúa công hãy mau đi trước, để tôi liều thác đây mà cự với giặc.

Nói xong, quay qua hỏi Tần-Tử :

– Tướng-quân có vui lòng cùng tôi hy-sinh chăng ?

Tần-tử nói :

– Ðiểu đó ngài khỏi phải bận tâm.

Hai người giục ngựa tới trước, vung gươm cản Vương-tử Thành-phù và Ðông quách-nha lại.

Còn Quản di-ngô thì phò Lỗ trang-công, Thiệu-Hốt phò Công-tử Củ tìm đường tắt mà chạy về nước Lỗ.

Hai tướng Tề thấy Lỗ-hầu chạy thoát liền bỏ Tào-muội và Tần-tử, giục ngựa đuổi theo .

Lỗ trang-Công vội vàng rút cung tên bắn trở lại.

Quản di-ngô cũng tiếp tay .

Lỗ trang-công và Quản di-ngô là hai tay thiện-xạ , nên tướng Tề cả sợ chẳng dám tới gần.

Đến lúc Tào-muội và Tần-Tử theo kịp thì hai tướng Tề không dám đuổi theo nữa, quay lại đánh.

Tào-muội chống cự một lúc rồi mở huyết lộ thoát thân, còn Tần-tử thì bị chết giữa trận tiền.

Giết được tướng Lỗ, quân Tề đắc thắng trở về.

Bảo thúc-nha ra lệnh tập họp các toán binh sĩ, rồi cùng nhau hộ giá hồi loan.

Về đến Lâm-tri, Tề hoàn-công mở tiệc khao thưởng ba quân. Chúa tôi vui mừng hỉ-hạ.

Bảo thúc-nha nói :

– Công-tử Củ còn ở bên Lỗ, có Quản đi-Ngô và Thiệu-hốt phò tá lại thêm Lỗ-hầu bị thất bại vừa rồi, hết tình giúp đỡ, như thế thì mầm khởi loạn vẫn còn, chưa phải lúc chúng ta hoan-hỉ.

Tề hoàn-công hỏi :

– Vậy muốn trừ hậu-hoạn phải làm thế nào ?

Bảo thúc-nha nói :

– Nay nhân Lỗ-hầu vừa thất trận, quân sĩ kinh-hoàng, chúa tôi thất đởm , ta nhơn cơ-hội này kéo binh đến đóng nơi biên-giới, ép Lỗ hầu phải nạp Công-tử Củ. Tôi chắc rằng Lỗ-hầu phải sợ mà tuân lời .

Tề hoàn-công nói :

– Mọi việc ta cũng ủy-thác cho khanh, vậy khanh hãy liệu-lượng .

Bảo thúc-nha được lệnh, kiểm điểm ba vạn binh ròng và hai trăm cỗ chiến-xa, kéo đến đóng nơi mé sông Vạn-thủy . Rồi viết một phong thư sai Công tôn Thấp-bằng đem dâng cho Lỗ trang-công .

Bức thư như sau :

Ngoại-thần Bảo thúc-nha kính đệ Lỗ-hầu ngự lãm. Thuở nay, nhà không hai chủ, nước không thể để hai vua. Nay Chúa tôi đã thuận theo lòng dân, lên tức vị, nối nghiệp Tiên-quân thế mà Công-tử vẫn còn tranh lập là trái lẽ . Tuy nhiên, Chúa tôi vì tình ruột thịt không nỡ nhúng tay trong việc cốt-nhục tương tàn, cho nên cậy tay hiền- hầu vì Chúa tôi, mà giúp việc ấy. Còn Quản di-ngô và Thiệu-hốt là ngươi thù của Chúa tôi, xin hiền-hầu bắt nạp về cho Chúa tôi trị tội. Được thế, tình thân của hai nước Tề và Lỗ sẽ bền vững muôn đời.

Khi Thấp-bằng lãnh thư ra đi, Thúc-nha lại dặn thêm :

– Quản di-ngô là người kỳ-tài trong thiên-hạ, tôi đã tâu với Chúa-công xin đem va về dùng. Vậy tướng quân đến đó phải tùy cơ ứng-biến, đừng để cho Quản di-ngô bị chết hoặc liều mình .

Thấp-bắng nói :

– Nếu Lỗ-hầu muốn giết , thì tôi biết lấy lời gì mà can đặng ?

Thúc-nha nói :

– Tướng-quản nhắc lại chuyện bắn Chúa-công, ắt Lỗ-hầu phải nghe theo.

Thấp-bằng tuân lệnh, lãnh thư ra đi.

Chương 16: Giữ lời hứa , Thúc Nha tiến Quản Trọng – Lập mưu cao, Tào Quới thắng binh Tề

Thấp-bằng qua đến nước Lỗ, và dâng thư cho Lỗ trang-công.

Lỗ trang-công vội-vã cho đòi Thi-bá đến, nói :

Ngày trước vì ta không nghe lời ngươi nên mới bị thua , nay binh lao mã liệt, Tiểu-bạch lại còn sai Bảo thúc-nha đem quân đến biên-giới, đòi nạp Công-tử Củ nữa. Nay chỉ có hai đường. Một là giết Công-tử Củ, hai là quyết sống chết với Tề một phen, ý khanh liệu thể nào ?

Thi-bá nói :

– Tiểu-bạch mới lập lên mà được lòng quân mến phục. Đánh một trận nơi Kiều-thời, ta đã thấy rõ Tiểu-bạch tài trí hơn Công-tử Củ nhiều . Nếu vì tình mà bảo vệ Công-tử Cũ , e nước Lỗ phải lâm nguy . Còn giết Công-tử Củ để bảo vệ nước Lỗ, lại tổn-thương đến tình nghĩa. Hai việc rất khó tính.

Lỗ trang-công suy nghĩ một lúc rồi hỏi :

– Khanh có cách gì tính cho song toàn chăng ?

Thi-bá nói :

– Đành phải hy-sinh Công-tử Củ vậy .

Lỗ trangCông ứa nước mắt, ruột xót như bào.

Lúc bấy giờ Công-tử Củ, Quản di-ngô và Thiệu-hốt đang ở tại Sanhđậu.

Lỗ trang-công sai Công-tử Yến đem binh đến giết Công-tử Củ bắt Quản di-ngô và Thiệu-hốt bỏ vào tù xa.

Thiệu-hốt thấy vậy than rằng :

– Làm con nên vì cha mẹ mà chết, làm tôi nên vì Chúa mà hy-sinh , ấy mới phải đạo. Nay Công-tử Củ đã chết thì Hốt nấy còn sống mà làm chi.

Nói rồi đập đầu vào một cây cột mà tự vận .

Quản di-ngô nói :

– Nếu Thiệu-hốt đã liều chết theo Chúa, thì ta cũng nên vì Chúa mà giữ thân này lại, để có ngày minh oan cho Chúa ta.

Nói rồi bó tay chịu trói mà vào tù xa.

Công-tử Yến giải Quản di-ngô về triều .

Thi-bá thấy Quản di-ngô liền tâu với Lỗ trang-công :

– Công-tử Củ đã chết, lẽ ra Quản di-ngô phải vì Chúa và buồn rầu, nhưng tôi trông sắc mặt của va vẫn tươi tỉnh như thường, tỏ rằng va không sợ nước Tề bắt về giết. Nếu Tề đã không giết ắt dùng va, mà va là một nhân tài có thể đồ vương, định bá được. Vậy xin Chúa Công lưu lại mà dùng.

Lỗ trang-công nói Quản di-ngô là kẻ thù của Tiểu-bạch, lẽ nào Tiểu-bạch lại chịu dùng ?

Thi-bá nói :

– Một ông vua chí lớn, biết mưu đồ đại sự sẽ không vì một tư thù nhỏ mọn mà giết đi một nhân tài. Nếu Chúa-công không muốn dùng, xin đem giết đi rồi trả xác lại cho Tề mới khỏi lo về sau .

Lỗ trang-công còn đang dụ dự , Thầp-bằng vội quỳ tâu :

– Quản di-ngô trước kia đã bắn Chúa-công, Chúa-công tôi muốn tự tay mình giết chết mới hả lòng. Nay nếu quí-quốc đem giết đi, rồi trả xác lại, ắt Chúa-công tôi sẽ không nguôi được giận.

Lỗ trang-công giết Công-tử Củ cốt làm hài lòng nước Tề, nay sứ nước Tề tỏ ý như thế, nên không dám giết Quản di-ngô, bèn truyền đem Quản di-ngô, giao cho sứ Tề giải về nước.

Thấp-bằng lãnh tù xa, rồi bái biệt lui về.

Ngồi trong tù xa, Quản di-Ngô đoán biết đó là mưu của Bảo thúc Nha muốn cứu mình. Song lại sợ Thi-bá ăn năn cho người đuổi theo bắt giết đi, nên nóng lòng, muốn cho quân-sĩ mau mau vượt qua khỏi biên giới Lỗ.

Quản di-ngô bèn đặt ra bài hát cho vui mà quên cực nhọc, để đi cho mau .

Bài hát như vầy :

Thương chim hồng hộc mắc lồng

Ngoài kia bát ngát chập chổng núi non

Tấm lòng son

Dạ không mòn

Rừng cây còn đó, chim càng ước mong

Màn vũ-trụ , thu phong man-mác

Kiếp hải hồ, mây bạc lửng-lơ

Lồng son của kín bây giờ

Ngày mai ai biết mà ngờ ngày mai.

Thực vậy nhờ bài hát ấy mà quân sĩ quên cả mệt nhọc đi rất mau không mấy lúc qua khỏi biên giới nước Lỗ.

Lỗ trang-công sau khi đàm luận với Thi-bá, ăn năn hồi hận, vội sai Côqg-tử Yến đem quân đuổi theo để bắt Quản di-ngô lại, nhưng theo không kịp, đành phải trở về.

Quản di-ngô ngước mặt lên trời cười lớn, nói :

– Mạng ta chắc đặng sống rồi.

Khi đi tới đất Đường-phụ , Bảo thúc-nha đã chờ sẵn nơi đó để nghênh-tiếp.

Vừa thấy mặt Quản di-ngô, Thúc-nha mừng rỡ chạy đến mở tù xa đưa Quản di-ngô ra.

Quản di-ngô nói :

– Chưa có quân-mạng sao lại mở tù xa.

Bảo thúc-nha nói :

– Không hề chi, tôi sẽ tiến cử ông với Tề-hầu. Ông đã quên lời hứa của chúng ta ngày trước rồi sao ?

Quản di-ngô nói :

– Làm sao mà quên được. Nhưng trước kia khác, nay khác. Tôi với Thiệu-hốt phò Công-tử Củ mà chẳng làm nên việc, lại không trọn tiết làm tôi, còn mặt mũi nào dám chịu ơn kẻ địch !

Bảo thúc-nha nói :

– Câu chấp những việc nhỏ nhặt không thể thành danh được, cũng như không nhẫn nhục được những tiếng xấu nhỏ nhen, chẳng bao giờ làm nên đại sự . Ông có tài trị thiên hạ nhưng chưa gặp thời, còn chúa tôi là một người đại-lượng, nhưng thiếu người giúp. Nếu ông không tị-hiềm phò chúa tôi, chẳng khác nào như cây nước gặp nhau, dựng nên nghiệp bá, oai danh lừng lẫy trong thiên hạ, để tiếng muôn đời, thật là quí hóa.

Quản di-Ngô làm thinh như đang suy nghĩ điều gì.

Bảo thúc- Nha mở trói, dắt Quản di-ngô vào nhà Công-quán đãi đằng, rồi cầm Quản di-ngô ở lại nơi Đường-phụ, một mình trở về triều ra mắt Tề hoàn-công, tâu rằng :

– Tôi về đây để chia buồn và đồng thời cũng chia vui với Chúa-công.

Tề hoàn-công hỏi :

– Có việc gì buồn, vui ta chưa hề biết ?

Bảo thúc-nha nói :

– Việc buồn là Công-tử Củ, anh ruột của Chúa-công đã bõ mình. Biết rằng vì nước bất đắc dĩ phải để Công-tử Củ chết, nhưng tình cốt-nhục không thể không buồn !

Tề hoàn Công nghe nói thở dài.

Bảo thúc-nha nói tiếp :

– Còn việc vui là Quản di-ngô chưa chết, và đã được đưa về nước Chúa-công sẽ gặp được một nhân tài lẽ nào lại chẳng vui .

Tề hoàn-công nói :

– Quản di-ngô bắn ta một mũi tên, hiện nay mũi ten ấy ta còn giữ, lòng oán hận chưa nguôi, lẽ nào ta lại dùng va được sao ?

Bảo chúc-nha nói :

– Làm tôi thì ai cũng phải hết lòng vì Chúa. Quản di-ngô bắn Chúa-công là vì lúc đó Quản di-ngô phò Công-tử Củ, trong lòng chỉ biết có Công-tử Củ mà không biết đến Chúa-công. Nay Chúa-công dùng Quản di-Ngô, thì Quản di-ngô lại vì Chúa-công mà bắn thiên-hạ. Chính những kẻ như thế mới đáng là trung thần.

Tề hoàn-công tươi ngay nét mặt, như hiểu được sự kỳđiệu của lòng người, nói :

– Nếu khanh không nói, thì ta đã nghĩ đến điều oán-hận nhỏ nhen mà quên cả đại-sự.

Bảo thúc-Nha cả mừng cúi lạy lui ra, đến đón Quản di-Ngô, mời về tưđinh mà bàn bạc.

Tề hoàn-công nghị thưởng các công thần đã có công với nước, phong cho Cao-Quốc làm chức Thế-khanh, và Bảo thúc-nha làm Thượng khanh, lại muốn giao hết việc triều-chính cho Bảo thúc-nha.

Bảo thúc-nha tâu :

– Chúa-công ban ơn cho tôi được no ấm thì cũng đũ rồi , còn việc trị nước, tài tôi thật không đũ.

Tề hoàn-công nói :

– Ta hiểu tài đức của khanh lắm, khanh chớ khiêm nhượng làm chi .

Bảo thúc-nha nói :

– Chúa-công biết tôi là người kính-cẩn , có thể giữ đúng bổn phận của mình chứ không phải có tài chính-trị. Tài chính-trị phải là kẻ nhìn xa thấy rộng, trên hiểu lòng vua, dưới rõ bụng dân, biết sức mình, lượng sức địch, lúc thái-bình cũng như cơn nguy biến, đũ sức làm chủ được mình mà điều khiển công việc. Những điều đó tôi không thể có được.

Tề hoàn Công nghe nói mỉm cười, bước đến bên Thúc-nha hỏi nhỏ :

– Người mà khanh vừa nói đến, trong đời này có thể có được chăng ?

Bảo thúc-nha nói :

– Có Người đó đang ở trong nước chúng ta. Nếu Chúa-công xét thấy cần người như vậy thì đã sẵn có Quản di-ngô.

Tề hoàn-công nói :

– Tài Quản di-ngô lại hơn khanh được sao ?

Bảo thúc-nha nói :

– Có năm điều tôi không bằng được Quản di-ngô : Thứ nhất rộng rãi mềm mỏng, ra ơn với dân, tôi không bằng được Thứ hai : lấy trung tín mà mua lòng bá tánh, tôi không bằng được. Thứ ba: trị nước không sai giềng mối, tôi không bằng được. Thứ tư: chế lễ nghĩa ra khắp bốn phương , tôi không bằng được. Thứ năm : cầm dùi thẳng đứng giữa ba quân giục lòng quân sĩ, tôi không bằng được .

Tề hoàn-công nói :

– Nếu Quản di-ngô là kẻ có tài thì khanh đòi vào yết kiến, để ta xem thư tài học vấn của Quản di-ngô đến bực nào?

Bảo thúcha nói :

– Người hèn không dám gần gũi với kẻ sang, kè sơ không dám sánh với người thân. Nếu Chúa-công muốn dùng Quản di-ngô thì phải cho va làm đến chức Tướng-quốc, đối đãi như sư-phụ, thì con người tài ấy mới đem hết sở-năng của mình mà hiến cho Chúa-công được.

Tề hoàn-công nói :

– Theo ý của khanh thì ta phải làm cách nào để triệu Quản di-ngô ?

Bảo thúc-nha nói :

– Quản di-ngô là bậc phi-thường trong thiên-hạ. Các bậc Tiên-vương thuở xưa muốn được người hiền phải thân hành đem lễ vật đến cầu. Lúc người hiền đã về triều thì phải để ăn chung một bàn , ngồi chung một chiếu. Xin Chúa-công hãy noi gương ấy để thiên-hạ thấy Chúa-công là người biết quí kẻ hiền-sĩ.

Tề hoàn-công nghe lời, đòi quan Thái-bốc đến hỏi ngày lành, rồi thân hành đi đón Quản di-ngô.

Bảo thúc-nha tin cho Quản di-ngô biết trước để nghinh đón.

Tề hoàn-công và Quản di-ngô cùng ngồi chung một xe mà về triều.

Mọi người đón xem đông đặc, ai nấy đều lấy làm lạ lùng.

Quản di-ngô về đến Kim-loan điện , phục lạy Tề hoàn-công, và tâu:

– Tâu Chúa-công, tôi là kẻ trọng tội, đáng chết, được Chúa-công dung thứ đã là may lắm. Nay Chúa-công lại nhọc lòng ban ơn nữa . Thật tôi không biết phải lấy gì đến đáp cho xứng đáng.

Tề hoàn-công nói :

– Tiên-quân ta có âm đức rất lớn, mới khiến ta được gặp khanh . Vậy khanh hãy vì ta mà có đôi lời chỉ giáo, chẳng những ta mang ơn, mà cả dân chúng nước Tề cũng lấy làm vinh hạnh .

Nói xong, đỡ Quản di-ngô dậy, mời ngồi nơi chiếc cẩm đôn bên cạnh.

Quản di-ngô sụp lạy rồi mới lên ghế ngồi.

Tề hoàn-công hỏi :

– Nước Tề ta vốn là một nước lớn, Tiên-quân ta là Hi-công đã làm cho các chư-hầu kính nể. Đến đời Tương-Công chính lệnh bất thường, đến nỗi xẩy ra tai biến. Nay ta vừa mới lên ngôi, lòng dân chưa định thế nước chưa yên, nay muốn cho nước mạnh dân an phải làm điều gì trước ?

Quản di-ngô nói :

– Lễ , nghĩa, liêm, sĩ là bốn điều cốt yếu để trị nước. Nếu thiếu một trong bốn điều đó tai-biến sẽ xảy ra. Nếu cả bốn điều đó không có, thì nước sẽ mất.

Tề hoàn-Công hỏi :

– Nếu đã có bốn điều đó thì dùng cách nào mà trị dân ?

Quản di-ngô nói :

– Muốn trị dân trước hết phải yêu dân.

Tề hoàn-công hỏi :

– Muốn yêu dân phải làm cách nào ?

Quản di-ngô nói :

– Yêu dân phải dạy dân lấy đạo thân ái, chăm sóc đời sống hàng ngày cho dân, bớt xâu giảm thuế , làm cho dân giàu. Hễ dân giàu tức là nước mạnh.

Tề hoàn-công hỏi :

– Dân giàu, nhưng binh-khí, quân-cụ trong nước thiếu-thốn thì phải làm sao ?

Quản di-ngô đáp :

– Muốn đũ binh khí, quân-cụ thì hình pháp trong nước nên đặt lệ cho chuộc tội : Tội nặng cho chuộc một cái tê-giáp, tội nhẹ cho chuộc một cái quy-thuẫn, tội nhỏ cho nạp kim-khí, tội nghi thì tha hẳn. Kẻ nào tụng lý tương đối thì bắt nộp một bó tên rồi giải hòa . Làm như thế ắt quân dụng không thiếu.

Tề hoàn-công hỏi :

– Đã làm như vậy nhưng không đũ dùng thì phải làm sao ?

Quản di-ngô nói :

– Khai mỏ, đúc tiền , nấu nước bể làm muối, trữ hàng hóa lấy lãi , cắt ba trăm nhà nữ-lưu cho các khách buôn bán đi lại tụ họp ở đó mà đánh thuế. Như vậy, công quỹ phải đủ dùng.

Tề hoàn-công hỏi :

– Của dùng đã đủ , nhưng quân lính còn ít, không đũ sức mạnh thì làm sao ?

Quản di-ngô nói :

– Quân không cần nhiều, chỉ cần tinh nhuệ. Mạnh không vì sức, mà cốt ở tinh thần. Do đó, Chúa-công muốn có binh mạnh chỉ cần giử vững lòng quân , rèn luyện kỹ thuật chiến đấu là đủ .

Tề hoàn-công hỏi :

– Binh thế đã mạnh, có nên đi đánh các nước chư-hầu chăng ?

Quản di-ngô đáp :

– Chưa nên đánh vội . Làm chủ các chư hầu không phải đem sức mạnh hăm dọa, mà phải đem đạo đức ra chinh phục. Trước hết , phải đặt mình lên một địa vị chính đáng đã, sau sẽ dùng cái địa vị đó mà trấn an các chư-hầu.

Tề hoàn-công hỏi :

– Làm thế nào để đặt mình vào địa vị chính đáng ?

Quản di-ngô đáp :

– Danh chánh ngôn thuận là ý muốn của mọi người. Các chư-hầu đều có bổn phận phải tuân vương-mạng. Vậy trước tiên, Chúa-công phải kính trọng nhà Châu và bắt các chư-hầu cũng phải kính trọng như mình.

Tề hoàn-công hỏi :

– Rồi làm thế nào để trấn an các chư-hầu.

Quản di-ngô đáp :

– Phải đem đạo đức mà giao hữu với họ. Đem tất cả các đất đai đã chiếm được trả cho họ để tỏ ra mình không tham lam, lại đem lễ vật đến khắp nơi cầu người hiền đem về nước mà dùng . Nước chư-hầu nào bị loạn tặc, đem quân đến cứu. Làm như vậy nước nào không mến phục.

Tề hoàn-công hỏi :

– Xưa nay đất rộng, dân đông là biểu hiệu cho nước giàu mạnh mà khanh lại bảo không nên đem quân lấn đất giành dân thì làm sao cho nước hùng ?

Quản di-Ngô nói :

– Đem sức mạnh chiếm đất cũng chỉ chiếm được một phần nhỏ nào thôi, vì chiếm rồi còn phải giữ , nếu không đủ sức giữ sẽ bị mất. Còn đem đạo đức mà chiếm đặt thì đặt không cần phải giữ, do đó có thể chiếm bao nhiêu cũng được.

Tề hoàn-công cùng Quản di-ngô nói chuyện trong ba ngày đêm , mà không biết chán.

Tề hoàn-công lấy làm đắc ý, phong cho Quản di-ngô làm Tể-tướng.

Quản di-ngô từ chối không nhận .

Tề hoàn-Công nói :

– Bởi ta muốn theo sách lược của khanh nên phải dùng khanh bỉnh chánh , cớ gì khanh lại từ chối ?

Quản di-ngô nói :

– Không phải sức một cây gỗ có thể làm nên một nhà lớn, không phải sức một giòng nước tạo nỗi một bể cả . Nếu Chúa-công đã có chí lớn thì nên dùng đến năm kiệt-sĩ.

Tề hoàn-công hỏi :

– Năm kiệt-sĩ ấy là ai ? Tài năng như thế nào ?

Quản di-ngô nói :

– Có tài giao-thiệp, biết giữ lễ phép thì tôi không bằng Thấp Bằng, xin cho Thấp-bằng làm Đại Tư-hanh. Có tài khai khẩn, biết cách trồng trọt thì tôi không bằng Ninh-Việt, xin cho Ninh-việt làm Đại Tư điền. Có tài luyện tập quân-sĩ, khiến cho người ta quên chết thì tôi không bằng Thành-phủ, xin cho Thành-phủ làm Đại Tư-mã. Có tài xử đoán, khiến người ta khỏi bị hàm oan, thì tôi không bằng Tân tu-vô, xin cho Tân tu-vô làm Đại Tư-lý. Có tính cương trực, thấy điều trái tất phải nói ngay, thì tôi không bằng Đông quách-nha, xin cho Đông quách-nha làm Đại Giám-quan. Chúa-công trọng dụng năm người ấy ắt trong nước được cường thịnh.

Tề hoàn-công nghe theo lời Quản di-ngô phong-chức cho năm người ấy, và quyết định phong cho Quản di-ngô làm Tể-tướng.

Quản di-ngô nói :

– Chúa-công đã có chí lớn, dẫu tài tôi hèn mọn cũng xin cố sức mà vâng lệnh Chúa-công.

Tề hoàn-công lại hỏi :

-Ta bình sanh có tánh ưa săn bắn, lại thích nữ sắc chẳng hay hay điều ấy có hại đến nghiệp bá chăng ?

Quản di-ngô đáp :

– Đã rõ được nhược điểm của mình tất không hại.

Tề hoàn-công hỏi :

– Thế thì điều gì mới có hại cho nghiệp bá ?

Quản di-ngô nói :

– Không biết người hiền là hại. Biết người hiền mà không dùng là hại. Dùng người hiền mà không dám phú thác việc lớn là hại . Phú chác việc lớn mà để kẻ tiểu nhơn xen vào là hại .

Tề hoàn-công khen phải.

Từ đó công việc triều chính đều phó thác cho Quản di-ngô, lại gọi Quản di-ngô bằng Trọng-phụ . Hễ có việc gì lớn, đều hỏi ý kiến Quản di-ngô trước. Tề hoàn-công lại cấm người trong nước không được gọi Quản di-Ngô, mà chỉ gọi là Quản-Trọng. Vì Trọng là tên chữ, còn Di-Ngô là tên tộc.

Nhắc qua Lỗ trang-công từ ngày thả Quản-trọng về nước Tề có ý hơi tiếc, nay lại được nghe Tề-hầu phong cho Quản-trọng làm Tướng-quốc, lòng tức tối không an, kéo binh sang đánh trả thù việc thất trận ngày trước .

Tề hoàn-công hay đặng tin, hỏi Quản-trọng :

– Ta mới lên ngôi, không muốn để cho nước ngoài tới đánh, vậy nên tính chuyện phạt Lỗ trước là hơn.

Quản-trọng nói :

– Quân chánh chưa yên, chưa thể dùng chinh phạt được.

Tề hoàn-công không nghe khiến Bảo thúc-nha làm tướng, đem binh thẳng đến đất Trường-thược mà đánh Lỗ .

Lỗ trang-công hay tin, hỏi Thi-bá :

– Nước Tề khinh ta thái thậm. Ta muốn đem binh phạt Tề nhưng chưa kịp, thì Tề đã sai tướng sang đánh nước ta . Vậy khanh có kế chi cự địch chăng ?

Thi-bá nói :

– Tôi xin tiến cử một người đủ tài trí, có thể đánh lui binh Tề đặng.

Lỗ trang-công cả mừng, hỏi :

– Chẳng hay người ấy là ai ?

Thi-bá nói :

– Tôi có quen biết ai một người ở ẩn tại làng Đông-bình, tên là Tào-quới , thuở nay chưa ra làm quan, nhưng kinh luân thao lược gồm đũ.

Lỗ trang Công chuẩn tấu, khiến Thi-bá đến Đông-bình rước Tào-quới về triều.

Thi-bá đến nơi, nói rõ ý định của mình.

Tào-Quới vừa cười vừa nói :

– Người ăn thịt còn lo chưa nỗi, huống hồ kẻ đang ăn rau.

Thi-bá nói :

– Ăn rau mà có tài rồi cũng đến ngày ăn thịt vậy.

Hai người dắt nhau đến yết kiến Lỗ trang-công.

Lỗ trang-công hỏi Tào-quới :

– Muốn cự binh Tề phái liệu kế chi ?

Tào-quới tâu :

– Việc binh phải tùy cơ ứng biến. Chưa nắm được địch tình không thể định trước.

Lỗ trang-công khen phải, bèn cùng với Tào-Quới cử binh kéo đến Trường-thược.

Bảo thúc-Nha vì trước đây đã thắng binh Lỗ, nên nay có ý khinh địch. Nghe tin Lỗ-hầu kéo binh tới thì lập tức hạ lệnh tiến quân.

Trại quân Lỗ vừa đóng xong binh Tề đã ào tới.

Lỗ trang-công muốn đem binh xuất trận, Tào Quái can rằng :

– Quân Tề ỷ mạnh, thế quân đang hăng. Ta nên chống giữ đã.

Nói xong, truyền cho quân sĩ chống giữ các cửa trại , nhất thiết không được trái lệnh.

Quân Tề thấy quân Lỗ không đánh, buộc phải rút lui.

Bảo thúc-Nha nghĩ thầm :

– Quân Lỗ bị thất trận trước kia đến nay còn khiếp sợ , nếu ta giục trống đến cướp trại, ắt chúng phải bỏ chạy.

Nghĩ rồi giục trống cho quân sĩ ào tới trại Lỗ một lần nữa.

Quân Lỗ vẫn cố-thủ, quân Tề không làm sao xông vào nỗi, nên một lần nữa lại phải rút lui.

Lúc đó Tào-quới tâu với Lỗ trang-công :

– Lúc này có thể phá quân Tề được, xin Chúa-công ra lệnh tiến quân.

Lỗ trang-công nghe theo, giục trống ra lệnh cho quân Lỗ ào ra khối trại , áp tới đánh quân Tề như vũ bão.

Tề cả thua, bõ chạy.

Lỗ trang-công muốn giục trống đuổi theo.

Tào-quới nói :

– Hãy khoan, xin để tôi xem lại thế trận đã. Nói xong, liền xuống xe, leo lên chỗ cao xem xét một hồi , rồi nói : Đúng là nên đuổi theo truy cản.

Lỗ trang-công xua binh đuổi theo chém giết binh Tề, đoạt khí giới và lương thực không biết bao nhiêu mà kể.

Chương 17: Nước Tống ăn lễ giết Trường Vạn – Vua Sở tham sắc bắt Tức Hầu

Lỗ trang-công phá xong binh Tề, đắc thắng kéo kinh về kinh đô , người người lòng vui khôn xiết.

Lỗ trang-công mới hỏi Tào-quới :

– Thế chiến vừa rồi, tại sao ta lại thắng được giặc ?

Tào-quới nói :

– Phàm việc quân lấy oai làm sức mạnh. Quân Tề xông trận đã hai phen , mà hai phen phải bị đẩy lui, thì oai của địch đã mất. Ta thừa lúc địch mất oai ta thị oai, như thế tất thắng.

Lỗ trang-công nói :

– Lúc quân Tề đã thua chạy, ý gì khanh lại chưa cho truy cản.

Tào-quới đáp :

– Trong binh pháp có chỗ dĩ hư vi thiệt. Nhiều lúc địch-quân giả thua để mà thắng nếu không đề phòng ắt lầm kế. Vì vậy, trước khi truy cản phải nắm địch tình.

Lỗ trang-công nghe nói khen ngợi chẳng cùng, phong cho Tào-Quới làm Đại-phu, và trọng thưởng Thi-bá về việc tiến cử hiền tài.

Quân Tề thất trận, kéo nhau về nước, manh giáp tơi bời .

Bảo thúc-Nha vào yết kiến Tề hoàn-công mà tạ tội.

Tề hoàn-công tức giận nói :

– Không thắng được binh Lỗ thì làm sao các chư-hầu kính-nễ ?

Bảo thúc-nha nói :

– So với quân lực nước ta không kém Lỗ. Trước đây Lỗ đem binh đánh nước ta, Lỗ là khách, ta là chủ, nên ta thắng được Lỗ . Ngày nay ta kéo binh sang đánh Lỗ, ta là khách, Lỗ là chủ vì vậy mà Lỗ thắng ta . Xin Chúa-công cho sang Tống mượn thêm quân mà báo thù .

Tề hoàn-công nhận lời, sai sứ sang nước Tống cầu viện.

Lúc bấy giờ , vua nước Tống là Tống mẫn-công đang kế vị . Vì muốn giao hảo với Tề , nên Tống mẫn-công sai Nam-cung Trường-vạn làm Chánh-tướng , Mảnh-Hoạch làm Phó-tướng , hiệp binh với Tề do Bảo thúc-nha cầm quân, kéo đến đóng nơi đất Lang-thành.

Lỗ trang-công được tin, triệu tập quần thần bàn kế.

Lỗ trang-công nói:

– Bảo thúc-nha vì thù trước , quyết hợp binh với Tống mà đánh ta . Tướng Nam-cung Trường-Vạn ai có sức mạnh phi thường , nước ta làm sao cự nỗi ?

Quan Đại-phu là Công-tử Yến, tâu :

– Tôi xin ra trận để đò xét quân địch rồi sẽ trở về nghị kế .

Lỗ trang-công nhận lời.

Công-tử Yến ra Lang-thành xem xét rồi trở về tâu :

– Bảo thúc-nha lần này không khinh địch như lần trước , có ý đề phòng cẩn mật lắm . Duy có tướng Nam-cung trường-vạn ỷ có sức mạnh không ai địch nỗi , nên để binh mã lộn xộn . Tôi thiết tưởng nếu quân ta xuất kỳ bất ý đánh úp một trận ắt binh Tống phải chạy. Hễ Tống mà thua thì Tề đâu dám đánh .

Lỗ trang-công nói :

– Ta e không ai cự nỗi Nam-cung Trường-vạn !

Công-tử Yến nói :

– Xin Chúa-công cho tôi thử thi hành mưu chước ấy.

Lỗ trang-công nói :

– Nếu khanh đã quyết ta cũng bằng lòng song phải cẩn-thận .

Công-tử Yên bái mạng, kéo quân ra đi .

Lỗ trang-công nói :

– Ta phải tiếp-ứng cho Công-tử Yến mới xong .

Bèn điểm binh kéo theo sau, cách vài dặm.

Đêm ấy trăng lờ mờ sáng, Công-tử Yến lấy vài trăm tấm da cọp bao lên mình ngựa, rồi khiến quân dẹp cờ giấu trống, âm thầm kéo qua cửa Vu-môn.

Đi đã gần tới dinh Tống mà chẳng ai hay biết gì cả .

Công-tử Yến bèn cho quân ó lên một tiếng , phất cờ giục trống , xông vào trại Tống.

Binh Tống thấy xa xa có một bầy cọp kéo tới, thảy đều run sợ, bỏ chạy tán loạn.

Nam-cung Trường-vạn thấy quân-sĩ mình chạy hết, cũng quày xe bỏ chạy, không dám cự địch.

Kế đó Lỗ trang-công tiếp binh tới, rượt theo chém binh Tống rất nhiều.

Nam-cung Trường-vạn thấy thế nói với Mảnh-hoạch :

– Bây giờ nếu không tử chiến ắt bị giặc bắt.

Mảnh-hoạch nghe nói quày ngựa lại đánh với Công-tử Yến.

Còn Nam-cung. Trường-vạn hươi thương xông vào đám quân Lỗ gặp ai đâm nấy .

Lỗ trang-công nói với Siềng tôn-sanh :

– Người có tiếng là mạnh, nay dám đương đầu với Nam-cung Trường-vạn một phen chăng ?

Siềng tôn-sanh nói :

– Dẫu va có sức mạnh đến đâu mà một ngựa một thương cũng chưa đủ sợ .

Nói rồi hét lên một tiếng, vung đao lướt tới đâm ngay vào bụng tướng Nam-cung Trường-Vạn.

Nam-cung Trường-Vạn đỡ ra một đao nẩy lửa làm cho Siềng tôn-sanh bủn rủn cả tay chân.

Lỗ trang-công biết Siềng tôn-Sanh không cự nỗi , vội bảo kẻ tả hữu :

– Hãy lấy kim-hộc-cô ra cho ta.

Kẻ tả hữu dâng tên, Lỗ trang-công lắp cung nhắm tướng Trường-Vạn bắn ra một mũi .

Mũi tên bay đèn găm vào vai phía hữu của Trường-vạn thấu xương.

Trường-vạn hét lên một tiếng, đưa tay rút mũi tên ra.

Siềng tôn-Sanh thừa cơ hội đâm bồi một giáo trúng nơi cánh tay phía tả, Trường-Vạn bị té xuống đất toan vùng dậy chạy, Siềng tôn-sanh liền nhẩy xuống xe, bắt sống trói lại.

Mảnh-Hoạch thấy chúa-tướng bị bắt vội bỏ xe chạy trốn.

Lỗ trang-công trọn thắng thu binh về, truyền dẫn Trường-vạn vào dưới trướng .

Trường-Vạn tuy bị thương song vẫn còn đủ sức mạnh đi đứng như thường, chẳng hề tỏ về đau đớn gì cả.

Lỗ trang-công mến tài Trường-vạn nên lấy lễ mà đãi.

Còn Bảo thúc-nha thấy binh Tống bị thua nghĩ mình cô thế, phải rút binh về.

Tề hoàn-công thấy Thúc-nha hai phen thua nước Lỗ, mặt buồn dau dàu, tuy không nói ra nhưng lòng hậm hực không an.

Năm ấy, Tề hoàn-công sai quan Đại hành là Thấp-bằng sang nhà Châu để cầu hôn.

Qua năm sau Châu hoàn-vương sai sứ qua nước Lỗ , khiến Lỗ trang-công đứng làm chủ hôn đặng gả Công-chúa Vương-cơ cho Tề hoàn-công .

Nhân việc Chủ hôn ấy mà Tề và Lỗ lại giao hảo như xưa bỏ hết những thù oán cũ.

Bấy giờ nước Tống bị một trận lụt rất lớn , các Chư hầu đều cho sứ đến viếng thăm.

Lỗ trang-Công trước kia có thù với Tống , nay đã thân thiện với Tề thì không còn ghét gì Tống nữa, nên cũng cho sứ sang viếng thăm.

Nước Tống cảm nghĩa, cũng cho sứ sang trả lễ và xin tha cho Trường-vạn về nước .

Lỗ trang-công nhận lời.

Nam-cung Trường-vạn được đưa về ra mắt Tống mẫn-công .

Tống mẫn-công trông thấy Trường-vạn bèn nói đùa rằng :

-Ngày trước ngươi là tướng, ta rất mực kính yêu, nhưng nay người là tù của nước Lỗ, ta không còn kính yêu nữa.

Nam-cung Trường-vạn nghe nói thẹn đỏ mặt, cáo từ lui ra.

Quan Đại-phu Cửu-mục hiểu ý nói riêng với Tống mẫn-công :

– Vua tôi giao tiếp với nhau cần phải đứng đắn, không nên đùa bỡn. Nếu đùa bỡn là mất lễ nghi sinh điều khinh lờn phản nghịch. Xin Chúa-công xét lại. Tống mẫn-công nói :

– Ta cùng Nam-cung Trường-vạn quá ư thân thiết. Đã thân thiết mà còn giữ lễ thì sao gọi là thân ? Ta tưởng điều ấy chẳng tai hại gì.

Năm ấy vua Trang-vương nhà Châu mất, Thái-tử Hồ-Tề lên nói gối tức là vua Hi-vương.

Châu hi-vương gởi tờ cáo phó khắp các chư-hầu. Lúc đến nước Tống thì gặp lúc Tống mẫn-công đang cùng các cung-phi vui chơi nơi Mông-trạch. Lại khiến Nam-cung Trường-vạn ném kích làm trò vui: Nguyên Nam-cung Trường-vạn có tài ném kích lên trời cao đến mấy trượng rồi lại giơ tay bắt lấy, trăm cái không trật một. Cung-nhân nghe nói ai nấy cũng muốn xem, nên Tống mẫn-công cho Nam-cung Trường-vạn theo hầu, và bảo làm trò ném kích ấy.

Các cung-nhân xem thấy tài của Trường-vạn đều vỗ tay khen ngợi không dứt lời.

Tống mẫn Công không bằng bằng lòng, có ý ghen tài, liền sai nội thị đem bàn cờ ra để đánh với Nam-cung Trường-vạn, hễ ai thua phải uống một bát rượu rất lớn.

Tống mẫn-công vốn là tay cao cờ, Trường-vạn thua luôn năm ván .

Trường-Vạn đã ngà ngà say nhưng lòng chưa thua, xin đánh thêm ván nữa.

Tống mẫn-công nói :

– Tù-nhân thì tất phải thua, dù đánh thêm mấy ván cũng chẳng thắng nỗi.

Nam-cung Trường-vạn xấu-hổ, ngồi lặng thinh không nói.

Bỗng có tin sứ nhà Châu đem thiệp cáo phó đến .

Tống mẫn-công nói :

– Thế thì ta phải sai ngươi vào triều Châu điếu tang và chúc mừng vua mới. Nam-cung Trường-vạn nói :

– Tôi nghe Kinh đô nhà Châu đẹp lắm, mà mắt chưa từng xem , xin Chúa-công cho tôi đi sứ .

Tống mẫn-công vừa cười, vừa nói :

– Khi nào nước Tống không còn ai nữa thì mới sai tù-nhân đi sứ .

Các cung-nhân đều cười ầm lên.

Trường-Vạn mặt đỏ bừng, vì thẹn quá mà hoá giận, lại đang lúc say rượu chẳng còn nghĩ gì đến đạo vua tôi, cả tiếng mắng :

– Hôn quân vô lễ ! Ngươi phải biết rằng tù-nhân có thể giết người được !

Tống mẫn-công nổi giận, nói :

– A ! Thằng tù-nhân ! Mày dám nói càn đến thế sao ?

Nói xong giật cây kích của Trường-vạn, toan đâm một nhát.

Nam-cung Trường-vạn giật ngay bàn cờ đập vào đầu Tống mẫn-công té xuống, rồi phang luôn mấy cái , Tống mẫn-công chết tươi.

Bọn cung nhân sợ hãi, bỏ chạy tán loạn.

Nam-cung Trường-vạn hơi giận chưa nguôi cầm kích ra khỏi ly-cung, gặp quan Đại-phu Cửu-mục.

Cửu Mục hỏi :

– Chúa-công có ở trong đó chăng ?

Nam-cung Trường-vạn đáp :

– Hôn quân vô lễ ! Ta đã giết chết rồi, chớ hỏi làm gì !

Cửu-Mục ngỡ Nam-cung Trường-vạn say rượu, nói sảng, nên mỉm cười nói :

– Uống bao nhiêu rượu mà say đến thế ?

Nam-cung Trường-vạn nói :

– Ta không say rượu. Ta nói thật đấy.

Vừa nói Nam-cung Trường-vạn vừa giơ bàn tay lên cho Cửu-mục xem. Máu me còn dính ràng rụa.

Cửu-mục thất kinh mắng lớn :

– Đồ phản-nghịch giết vua ! Tội ấy khó dung.

Nói rồi liền giơ cái hốt lên đánh Nam-cung Trường-vạn.

Nam-cung Trường-vạn bỏ cây kích xuống đất , tay trái đỡ văng cái hốt đi , tay mặt đấm mạnh vào đầu Cửu-mục .

Đầu Cử-mục vỡ nát ra từng mảnh , răng gãy bắn vào một chánh cửa, ghìm sâu vào đấy.

Giết xong Cửu-mục, Nam-cung Trường-vạn lượm kích lên cầm tay thủng thẳng bước lên xe, coi như không có việc gì cả.

Quan Thái-tể Hoa đốc hay tin, vội vàng dẫn quân đến bắt.

Khi đến gần Đông-cung, gặp Nam-cung Trường-vạn đi tới, nét mặt lầm-lì .

Hoa đốc chưa kịp múa gươm đã bị Nam-cung Trường-vạn xáng cho một kích , chết không kịp mắng chưởi tiếng nào.

Nam-cung Trường-vạn vào triều, tôn Công-tử Du lên nối ngôi .

Các Công-tử khác nghe tin đều bỏ trốn ra nước ngoài, trong số đó có Công-tử Nghị-thuyết trốn sang nước Bạc.

Nam-cung Trường-vạn nói :

– Nghị-thuyết là người học giỏi có tài, nay trốn sang nước Bạc , ắt về sau sinh biến. Chỉ cần giết được Nghị-thuyết là xong, còn các Công-tử khác chẳng làm chi nỗi mà sợ.

Nói rồi liền sai con là Nam-cung-ngưu, cùng với Mảnh-hoạch đem quân vây đất Bạc.

Công-tử Nghị-thuyết hay tin bàn với Bạc-chúa sai người qua nước Tiêu cầu cứu .

Chúa nước Tiêu đem binh đến, lại họp với các Công-tử vừa chạy đi lánh nạn, mà giải vây.

Công-tử Nghị Thuyết thấy có cứu binh đến vội mở cửa thành tiếp-ứng.

Hai bên đánh dồn lại, quân Tống vỡ loạn, đầu hàng Công-tử Nghị-thuyết rất nhiều.

Tướng Nam cung-ngưu bị tử rạn, còn Mảnh-hoạch không dám trở về, trốn qua đất Vệ cư trú.

Dẹp được binh Tống, Đái thúc-bì bày kế cho Nghị-thuyết dựng cờ hiệu của binh Tống, kéo về kinh đô giả làm đoàn quân của Nam cung-ngưu chiến thẳng kéo về.

Nam-cung Trường-vạn ngỡ thiệt không chút đề phòng.

Các Công-tử kéo quân thẳng vào trong thành, hô lớn :

– Hãy bắt tên phản nghịch Nam-cung Trường-vạn mà giết !

Nam-cung Trường-vạn thất kinh, lật đật vào cung phò Công-tử Du lánh nạn, nhưng vừa vào đến cửa đã nghe tin Công-tử Du bị giết .

Trường-vạn thở dài nghĩ thầm :

– Các nước chư hầu đều có giao-hảo với Tống cả, nay chỉ có nước Trần là nghịch với Tống mà thôi . Vậy ta qua đó mới yên thân .

Nghĩ rồi toan thoát ra cửa, nhưng sực nhớ đến mẹ già hơn tám mươi tuổi, còn ở nơi dinh thất, bèn quay về nhà ôm mẹ lên xe , tay trái cầm kích, tay phải đẩy xe cho mẹ, phá cửa thành chạy nhanh như bay, không một ai dám cản trở cả.

Từ Tống sang Trần đường xa hơn ba trăm dặm, mà Nam-cung Trường-vạn chỉ 41 một ngày đã đến nơi . Thật là một người sức khỏe lạ lùng, xưa nay ít có !

Công-tử Du bị chết, Công-tử Nghị-thuyết lên nối ngôi xưng hiệu là Tống hoàn-công. .

Tống hoàn-công phong cho Đái thúc-bì làm Đại-phu, lại sai sứ sang nước Trần, yêu cầu Trần bắt giao Nam-cung Trường-vạn về nước .

Lúc bấy giờ Công-tử Mụcđi mới lên năm tuổi, đứng bên cạnh Tống hoàn-công, nghe nói cười lớn, thưa :

– Không bắt được Nam-cung Trường-vạn đâu.

Tống hoàn-công hét :

– Mi là con nít, biết chi mà nói .

Công-tử Mụcđi nói :

– Người có sức khoẻ ai mà chẳng kính trọng. Tống bỏ đi thì Trần tất dùng. Nếu không có lễ-vật để mua lòng, chẳng bao giờ Trần chịu bắt Trường-vạn.

Tống hoàn-công nghĩ lại, khen phải, liền sai sứ đem nhiều lễ-vật châu-báu sang cống hiến cho Trần. Đồng thời cũng sai sứ sang nước Vệ yêu cầu bắt Mãnh-hoạch nữa.

Sứ Tống qua đến Vệ, vào ra mắt .

Vệ huệ-công hỏi quần thần.

Quần thần đều thưa :

– Mãnh-hoạch trong lúc nguy cấp sang đầu ta , lẽ nào ta lại bỏ.

Quan Đại-phu Công tôn-nhĩ can :

– Dung dưỡng kẻ hung ác thật chẳng ích chi. Nước Vệ và Tống xưa nay vẫn giao-hảo với nhau nay chỉ vì muốn giữ Mãnh-hoạch làm cho hòa-khí hai nước mất đi, đó là thất sách !

Vệ huệ-Công khen phải, truyền trói Mảnh-Hoạch giải sang nước Tống .

Lại nói qua việc sứ Tống sang Trần yêu cầu bắt Nam-cung Trường-vạn.

Sứ Tống mang lễ vật rất nhiều, vào ra mắt.

Trần tuyên-Công tham lễ, thuận trả Nam-cung Trường-Vạn, nhưng lại sợ sức

mạnh của Nam-cung Trường-vạn khó mà bắt được bèn bảo Công-tử Kết đến nói với Nam-cung Trường-vạn rằng :

– Chúa-công tôi được tướng-quân đến đây khác nào như được mười thành, dẫu nước Tống cố xin đến đâu, Chúa công tôi cũng chẳng nghe. Chúa-công tôi sợ tướng-quân có lòng nghi, nên sai tôi ngỏ lời tâm-phúc để tướng-quân được biết. Nếu tướng quân có chê nước Trần là nhỏ mọn, muốn đi đến một nước khác thì cũng xin thư thả. Chúa-công tôi sẽ vì tướng quân mà sắp sửa hành trang.

Nam-cung Trường-vạn cảm động nói :

– Chúa-công có lòng bao dung, tôi rất mến phục, xin ở đây để đem sức mình mà đền ơn.

Công-tử Kết bày tiệc rượu đãi đằng, rồi xin cùng Trường-vạn kết làm anh em.

Ngày hôm sau, Nam-cung Trường-vạn thân hành đến tưđinh Công-tử Kết để tạ ơn.

Công-tử Kết cũng bày tiệc thết đãi, khiến các tỳ-thiếp dâng rượu cho Trường-vạn uống đến say mèm.

Công-tử Kết lấy một tấm da dê rất lớn khiến bọn võ sĩ bó Trường-vạn lại,

bên ngoài dùng dây gân trâu cột rất chắc. Lại bắt cả bà mẹ của Trường-vạn nữa, rồi áp giải một lượt qua Tống.

Đi đến nữa đường, Nam-cung Trường-Vạn tỉnh rượu, vùng vẫy rất dữ, nhưng da dê bền và trói chặt quá không làm sao tung ra được. Khi đến gần thành Tống, tấm da dê rách, tay chân Trường-Vạn lòi ra ngoài, bọn quân-sĩ lấy gậy đánh đến dập cả xương ống.

Tống hoàn-công truyền đem Nam-cung Trường-Vạn và Mãnh-Hoạch ra lóc từng mảnh thịt để làm mắm, rồi chia cho các quan mỗi người một ít và bảo :

– Kẻ nào làm tôi không trọn đạo thờ vua hãy trông vào thứ mắm đó.

Mẹ Nam-Cung Trường-Vạn già hơn tám mươi tuổi cũng bị giết chết.

Nhắc qua Tề hoàn-công từ khi thua Lỗ ở đất Trường-thược, lấy làm hối hận, nghĩ thầm :

– Bởi ta không nghe lời Quản-trọng nên mới thất binh như vậy. Từ đó, giao tất cả quyền-chính cho Quản-Trọng, ngày nào cũng ở trong cung uống rượu với các cung-phi.

Nếu có ai đem việc nước nói đến thì Tề hoàn-công bảo :

– Sao nhà ngươi không nói với Quản-trọng ?

Bầy giờ có Thụ điêu là đầy tớ yêu của Tề hoàn-công, từ khi Tề hoàn-công giao việc quốc-chính cho Quản-trọng , thường ở trong cung, ít ra ngoài, nên Thụ điêu không làm sao thân cận đặng, vì ra vào nội đình là chuyện cấm.

Thụ điêu bèn tự thiến mình rồi xin cho vào cung hầu hạ.

Tề hoàn-công thấy vậy thương tình, cho hầu cận một bên.

Lại có Dịch-Nha là người rất thạo về nghề đánh xe, bắn giỏi, nấu ăn rất khéo.

Ngày kia, Công-chúa Vương-Cơ có bịnh, Dịch-nha nấu đồ ăn dâng lên, Vương-cơ ăn xong khỏi bịnh. Do đó, Vương-cơ đem lòng yêu mến.

Dịch-nha lại đem nghề nấu ăn của mình khoe với Thụ điêu, nhờ Thụ điêu tiến cử mình được yết kiến vua .

Thụ điêu tâu lại với Tề- hoàn-công.

Một hôm Tề hoàn-công gọi Dịch-nha đến hỏi :

– Ngươi có phải là kẻ nấu ăn khéo không ?

Dịch-nha tâu :

– Tâu Chúa-công , tài ấy không ai sánh kịp.

Tề hoàn-công nói đùa :

– Các giống điểu thú trùng ngư ta đã dùng đũ, bây giờ chỉ có thịt người ta chưa biết vị mà thôi.

Dịch-nha lui ra. Đến bữa trưa đem vào dâng một mâm thịt chín, mềm như thịt dê non, mùi thơm ngào ngạt .

Tề hoàn-công ăn xong, hỏi Dịch-nha :

– Thịt gì mà ngon thế ?

Dịch-nha tâu :

– Đó là thịt người.

Tề hoàn-công giật mình, kinh ngạc, hỏi .

– Nhà ngươi lấy ở đâu ?

Dịch-nha tâu :

– Đứa con trai đầu lòng của tôi mới lên ba tuổi. Tôi thiết tưởng đã trung với vua thì còn kể gì đạo nhà, nên làm thịt con đem dâng cho Chúa-công ăn.

Tề hoàn-công trầm mặt nói :

– Thôi, ngươi hãy lui ra.

Từ ấy Tề hoàn-công cho rằng Dich-nha có lòng trung nghĩa, nên vẫn yêu quí như Thụ điêu vậy.

Thụ điêu và Dịch-nha không ưa Quản-trọng, nay thấy mình được vua tin dùng, bèn tâu với Tề hoàn-công :

– Tâu Chúa-công, chúng tôi thiết tưởng quyền hạn vua tôi có giới hạn, nay mỗi mỗi Chúa-công đều giao cho Quản-trọng, tựa hồ như nước Tề không còn có vua.

Tề hoàn-công vừa cười vừa nói :

– Ta đối với Trọng-phụ chẳng khác nào như thân thể đối với tay chân nếu tay chân mà mất, thân thể bị tàn phế, có dùng được việc gì ? Chúng bây là tiểu-nhân biết gì mà nói.

Thụ điêu và Dịch-nha từ đó không dám nói nữa.

Quản-trọng từ ngày bỉnh chánh, đem lại cho nước Tề khá thịnh vượng.

Thời bấy giờ nước Sư đương hồi cường thạnh, mấy nước nhỏ ở miệt Hớn đông đều phục tùng cống lễ, duy có nước Sái, cậy thế kết thân với Tề, nên không chịu tùng phục.

Nước Sái và nước Tức đều kết-hôn với nước Trấn. Sái-hầu cưới người chị, Tức-hầu cưới người em. Tức phu-nhân là Tức-Vỉ nhan sắc tuyệt vời, đã đẹp mà tánh tình lại đoan chính trông rất khả ái.

Một hôm Tức-Vĩ được phép Tức-hầu cho về nước Trần để viếng quê hương. Khi đi ngang qua thành nước Sái .

Sái-hầu hay tin , bụng bảo dạ :

– Tức phu-nhân là em vợ ta, nhân lúc đi ngang qua đây lẽ nào ta lại không rước vào thành hội kiến.

Bèn sai người đón Tức phu-nhân rước vào cung đãi tiệc.

Trong lúc ăn uống, Sái-hầu dùng lời trêu ghẹo, tỏ ra không đứng đắn.

Tức phu-nhân nổi giận, bỏ tiệc ra đi.

Tức-hầu hay được chuyện Sái-hầu vô lễ, chọc ghẹo vợ mình, lòng căm phẫn nghĩ cách báo thù, liền sai sứ vào triều-cống nước Sở và mật-cáo với Sở văn-vương rằng :

– Sái-hầu cậy thế có Tề che chở nên không phục Sở. Vậy xin Sỡ cứ cất binh qua đánh nước tôi. Nước tôi sẽ sang cầu cứu nước Sái. Sái-hầu là người nông nổi, thì tất đem binh đến cứu . Bấy giờ quí-quốc sẽ hiệp binh với nước tôi mà bắt Sái-hầu trị tội.

Sở văn-vương được kế, mừng lắm, cất quân sang nước Tức .

Quân-sĩ rần rộ kéo đến vây thành.

Tức hầu liền viết mật thư sai sứ sang nước Sái cầu cứu.

Đúng như lời Tức-hầu đã dự tính .

Sái-hầu không suy nghĩ gì cả cơ binh đến nước Tức mà giải vây.

Nhưng vừa đến nơi thì bị binh Sở phục nơi yếu lộ, đánh một trận tơi-bời, quân sĩ rối loạn.

Sái-hầu thất kinh, toan chạy vào thành nước Tức mà trốn. Nhưng Tức-hầu đóng chặt cửa thành không cho vào .

Biết mình đã mắc kế, oán hận thấu trời, Sái-hầu đành bó tay nộp mình cho nước Sỡ.

Sở văn-vương dẫn Sái-hầu về nước, truyền quân đem xử trảm.

Dục-quyền bước ra can rằng :

– Đại Vương đang muốn mở mang thế lực khắp Trung-quốc đáng gì một Sái-hầu mà không thể tha thứ, để cho thiên hạ cho nước Sở ta không phải là một nước đại độ .

Sở văn-vương nói :

– Sái hầu là một đứa ngạo nghễ, lâu nay không đầu phục, hận ấy chưa nguôi. Nay đã bắt được lẽ nào lại tha đi.

Nói rồi truyền quân đem chém.

Dục-quyền cản lại nói :

– Không, không, xin Đại-vương nghĩ lại, lẽ nào vì một oán nhỏ mà quên đại-sự. Nếu Đại-vương cho Sái-hầu về nước ắt từ nay Sái-hầu không còn dám ngạo mạn nữa. Đã vậy các chư-hầu khác trông thấy gương nấy mà mến đức Đại-vương.

Sở văn-vương nhất định không nghe.

Dục-quyền nổi giận một tay nắm áo Sở văn-vương một tay rút gươm nói lớn :

– Thà tôi cùng chết với Đại-vương còn hơn để Đại-vương làm mất nghiệp cả.

Sở văn-vương thay thế sợ sệt nói vội :

– Thôi, thôi ta chịu nghe theo lời khanh.

Nói xong , truyền tha cho Sái-hầu.

Dục-quyền thấy vua đã tha chết cho Sái-hầu, vội vã quăng gươm, quỳ tâu :

– Tâu Đại-vương Đại-vương đã nghe lời can gián của tôi, thật may mắn cho nước Sở. Nhưng tôi phạm tội hiếp vua thực đáng chết . Vậy xin cúi đầu chịu tội.

Sở văn-vương nói :

– Lòng trung thành của ngươi đã vượt quá tội lỗi. Ta không thể vì lỗi nhỏ ấy mà làm cho lu mờ tấm gương trung nghĩa.

Dục-quyền tâu :

– Tâu Đại-vương . Đại-vương tưởng tình tha cho tôi, nhưng tôi tôi không thể tha cho tôi được.

Nói xong, cúi xuống, lượm thanh gươm cắt đứt một chân, rồi hét to :

– Kẻ nào làm tôi vô lễ với vua thì hãy xem đây.

Sở văn-vương quá cảm động truyền đem cái chân của Dực-Quyền cất vào kho, để ghi cái lỗi mình không chịu nghe lời can gián.

Đoạn sai ngự y chuyên chữa cho Dực-Quyền.

Sau một thời gian , Dục-quyền được lành bịnh, nhưng không đi được .

Sở văn-vương phong cho làm chức Đại-hôn để giữ cửa thành.

Kế đó, Sở văn-vương mở tiệc tiễn hành đưa Sái-hầu về nước .

Trong tiệc, Sở văn-vương truyền bọn vũ-nữ đờn ca hát-xướng tưng bừng. Lại truyền cho mỹ-nữ dâng rượu. Trong lúc đang đối ẩm , Sở văn-vương chỉ vào một mỹ-nữ, nói :

– Nàng này đã đẹp lại có tài ht hay.

Nói xong, bảo mỹ-nữ ấy dâng cho Sái-hầu một chung rượu .

Sái-hầu tiếp lấy uống cạn, rồi tự tay rót một chén đầy bước đến dâng cho Sở văn-vương để tạ ơn .

Sở văn-vương tiếp lấy chén rượu vừa cười vừa hỏi :

– Sái-hầu đã bao giờ trông thấy một người nào đẹp tuyệt trần chưa ?

Sái hầu nghe nói, sực nhớ đến mối thù của Tức-hầu vừa rồi đã xui Sở đánh Sái, bèn tâu :

– Tâu Đại-vương, theo nhận xét của tôi, trên thế gian này không ai đẹp bằng Tức-Vĩ. Nàng ấy quả sánh với tiên-nga trên cung Quản.

Sở văn Vương hỏi :

– Cái đẹp của Tức-Vĩ như thế nào ?

Sái-hầu nói :

– Mắt trong như thu-thủy, má ửng như nhuỵ đào mình mai , vóc liễu gót sen uyển chuyển như án mây chiều trước gió , tưởng không tài nào tả hết.

Sở văn-vương nói :

– Người đẹp đến thế, tiếc rằng ta không làm sao thấy mặt.

Sái hầu nói :

– Uy đức của Đại-vương dẫu Tề-khương, Tống-tử cũng chẳng khó gì, huống chi Tức-Vĩ chỉ là một người đàn bà trong vòng thế lực của mình.

Sở văn-Vương ngh nói rất đẹp lòng.

Tiệc mãn , Sái-hầu bái tạ về nước.

Sở văn-Vương muốn thấy mặt Tức-Vĩ liền giả kế đi tuần du qua nước Tức.

Tức-hầu hay tin ra khỏi thành tiếp đón rất trọng thể.

Hai vua cùng dắt nhau vào thành mở tiệc chung vui.

Tức-hầu bưng chén rượu dâng cho Sở văn-vương mừng cuộc hội ngộ .

Sở Văn-vương tiếp lấy, vui vẻ nói :

– Ngày trước ta cũng có chút công mọn với quí phu-nhân , vậy nay xin mời quí phu-nhân ra đây tương kiến mà mời ta một chung rượu cho vui .

Tức-hầu không dám trái ý, vội bước vào cung, gọi Tức-Vĩ ra .

Giữa lúc ấy, Sở văn-vương ngồi một mình mắt mơ màng nhìn vào hậu cung, tay mân mê ly rượu, tỏ vẻ nóng lòng.

Cánh màn se sẽ động , những chuỗi ngọc lóng lánh với ánh huyền đăng, nàng Tức-Vĩ từ từ bước ra, gót hài thoăn thoắt, hơi hương ngạt ngào, khiến cho Sở văn-vương cảm thấy như mình đang lạc vào chốn tiên bồng.

Tức-Vĩ đến sụp lạy Sở văn-vương rồi đưa tay lấy ly rượu rất đầy .

Bàn tay ngọc, với ly ngày không phân biệt màu sắc.

Sở văn-vương ngẩn ngơ nhìn, rồi đứng dậy toan tiếp lấy chén rượu, nhưng Tức-Vĩ đã trao cho một cung-nữ để dâng lên cho Sở văn-vương.

Sở văn-vương vừa cạn chén thì Tức-vĩ đã bái tạ lui vào cung.

Rèm châu khép kín bóng hồng, hơi hương còn thoảng, rượu nồng chưa phai.

Ngày hôm sau, Sở văn-vương lại bày tiệc nơi quán dịch cho quân giáp-sĩ phục xung quanh, rồi mời Tức hầu ra dự tiệc .

Lòng đã định trước, nên tiệc đến nửa chừng , Sở văn-vương mượn giọng say rượu quở trách Tức-hầu :

– Ta có công với quí phu nhân rất nhiều nay quân đến đây , quí phu-nhân lại không vì ta mà khao thưởng ?

Tức-hầu nói :

– Nước tôi nhỏ bé, không sẳn vật thực để khao thưởng quân sĩ cho đủ, xin Đại-vương cho phép tôi được sắp đặt đã.

Sở văn Vương đập tay xuống bàn, làm mặt giận, nói :

– Thật là đứa bội phản, tìm lời khéo léo để từa ta, bây đâu , hãy bắt đứa vong-ân trói lại.

Quân giáp-sĩ nhảy xổ ra bắt Sái-hầu tức khắc.

Nàng Tức-Vĩ hay tin chồng bị bắt, ngữa mặt lên trời than :

– Ôi ! Đi rước cọp về nhà nên mới sinh họa.

Than rồi chạy thẳng ra vườn hoa , toan nhảy xuống giếng tự vận.

Giữa lúc đó, Sở văn-vương đã kéo binh vào cung để tìm bắt Tức-Vĩ , nhưng không thấy Tức-Vĩ đâu, mới truyền các tướng toa? ra khắp nơi lục soát .

Nàng Tức-Vỉ chưa kịp tự-vận, liền bị tướng nước Sở là Đấu đan bắt lại và nói :

– Phu-nhân không muốn sống để mà cứu mạng cho chồng sao ? Tội gì cả hai vợ chồng chịu chết .

Tức-Vĩ lặng thinh.

Đấu đan dẫn vào nạp cho Sở văn-vương.

Sở văn-vương kiếm lời dịu ngọt dỗ dành :

– Nếu nàng chịu về Sở, ta sẽ tha chết cho Tức-hầu.

Tức-Vĩ đôi dòng lệ đọng trên đôi mí mắt long lanh như mặt nước hồ thu nỗi sóng , đứng im không thốt ra lời.

Sở văn-vương phong cho nàng làm phu-nhân . Và thấy đôi má nàng tựa hoa đào, nên gọi nàng là Đào-hoa phu-nhân .

Kế đó Sở văn-vương đày Tức-hầu ra đất Nhữ-thủy, chẳng bao lâu Tức-hầu vì đau buồn mà lìa trần.

Chương 18: Tào muội vung gươm dọa Tề hầu – Hoàn công thắp đuốc phong Ninh Thích

Năm ấy, vào năm thứ nhứt của vua Ly-Vương nhà Châu, Tề hoàn-công sau một thời gian giao việc triều chính cho Quản-trọng, thấy trong nước dân tình yên ổn, binh lương dồi dào bèn hỏi Quản-trọng :

– Trước kia nước Tề chưa đủ sức, trong thì việc triều chính chưa an, ngoài lòng dân chưa ổn , nay đã tạm yên , chẳng hay cái mộng làm bá-chủ các nước chư hầu đã nên thực hiện chưa ?

Quản-trọng đáp :

– Các chư-hầu còn nhiều nước mạnh hơn Tề. Như phía Nam có Sở phía Tây có Tần và Tấn. Tuy nhiên, nước nào cũng chỉ mạnh về binh-lực chứ không phải mạnh về chính nghĩa , vì họ không biết tôn vua nhà Châu. Nhà Châu dẫu có suy yếu, vẫn là Thiên-tử chung của thiên hạ, thế mà từ khi quân Trịnh bắn vua Hoàn Vương , quân Vệ chống vua Trang-vương, các nước chư-hầu khinh khi bỏ cả việc triều cống. Thậm chí ở nước Sở, Hùng-thông tiếm xưng Vương hiệu nước Trịnh, nước Tống giết vua mà không ai dám hỏi tội.

Nước Tề ta, muốn mạnh phải nắm cho chính nghĩa, luôn luôn thi hành theo mệnh lệnh thiên triều. Nay nước Tống tuy vừa giết được Nam-cung Trường-vạn, khôi phục ngôi vua , nhưng Tống-hầu vẫn chưa được các nước công nhận . Chúa-công nên vào triều Châu , xin Vương mệnh , hợp các chư hầu , công nhận vua nước Tống, còn các chư hầu nào suy yếu ta nên giúp đỡ, các chư-hầu nào ngang-ngược , ta nên họp sức nhau mà vấn tội. Làm như thế các chư hầu phải tùng phục Tề , không cần phải dùng đến binh lực.

Tề hoàn-công nghe nói rất hài lòng, vội sai sứ vào triều Châu , xin phép được tổ chức hội họp.

Vua Ly-vương nói :

– Lâu nay các nước chư hầu đều dễ ngươi không ai về triều bái, nay Tề hầu đã có lòng tưởng đến trẫm, vậy trẫm cho phép được thay mặt trẫm mà lo việc ấy.

Sứ giả trở về báo lại với Tề hoàn-công.

Tề hoàn-công phụng mệnh Thiên-tử, bố cáo khắp chư-hầu triệu-tập các nước họp nhau nơi đất Bắc-hạnh thuộc đất Tề.

Tề hoàn-công lại hỏi Quản-trọng :

– Lần này hội chư hầu ta phải dùng bao nhiêu binh-sĩ ?

Quản-trọng nói :

– Hội họp là để bàn luận với nhau, nếu dùng đến quân sĩ tỏ ra dùng sức mạnh áp-bức, làm sao mọi người phục ?

Tề hoàn-công theo lời sai cất một cái đài cao ba trượng, chính giữa lập bàn hương án để vọng bái Thiên-tử, còn chung quanh bày trí các lễ vật đâu đó rất uy-nghi.

Đến ngày hội, Tống hoàn-công (Nghị-thuyết) đến trước, vào tạ ơn Tề hoàn-công. Kế đến nước Trần, nước Châu đến một lượt, sau cùng là nước Sái, vì Sái-hầu oán nước Sở bắt mình ngày nọ, quyết đến hội để minh oan.

Bốn nước Tống, Trần , Châu, Sái thấy Tề không dùng đến quân sĩ , nhìn nhau khen thầm :

– Tề-hầu quả đem lòng chân thật mà đối đãi với chúng ta.

Bốn nước đều bàn với nhau lui quân ra ngoài cách mười dặm.

Tề hoàn-công hỏi Quản-trọng :

– Nay chư hầu không hội đông đủ, có nên hoãn lại một ngày khác chăng ?

Quản-trọng nói :

– Nay đã có bốn nước đến đũ, như vậy cũng có thể bàn luận được , nếu hẹn lại tức là thất tín. Mà đã thất tín thì sau này mời sẽ không ai đến.

Sáng hôm ấy , Tề hoàn-công thay mặt vua Châu, đứng ra tuyên-bố :

– Tôi phụng mệnh Thiên-tử, mời quí quốc đến đây, mục đích gặp nhau thảo luận việc chính-trị, chỉnh đốn các cơ-cấu tương-quan giữa các chư-hầu . Được như thế, chúng ta mới cùng nhau giữ vững đạo vua tôi và sự công bình trong thiên-hạ. Muốn làm được việc đó , điều cần thiết chúng ta phải tôn lên một nước làm minh-chủ, có quyền hạn điều khiển các nước chư-hầu.

Các nước chư-hầu đều thì thào bàn bạc không dứt . Người thì muốn tôn nước Tống vì nước Tống đã rộng mà phẩm-tước lại cao hơn nước Tề. Nhưng có kẻ cho rằng vua nước Tống mới lập, còn phải nhờ Tề đại diện cho Thiên-tử mà tấn phong.

Cuộc bàn cãi kéo dài mãi không dứt . Cuối cùng, nước Trần đứng lên nói :

– Nay Thiên-tử đã giao quyền cho nước Tề đứng ra triệu-tập chư-hầu, thì đã mặc nhiên công nhận nước Tề là minh-chủ rồi, lựa phải bàn cãi làm chi, xin tôn nước Tề làm minh chủ.

Các nước đồng thanh nói :

– Chỉ có nước Tề mới đảm đương nổi nhiệm vụ đó.

Tề hoàn-công đôi ba phen từ chối, rồi mới bước lên đàn tuyên bố thứ vị :

– Nước Tề làm minh chủ, thứ đến nước Tống , nước Trần, nước Sái, và sau cùng là nước Châu.

Định thứ vị xong, các nước lần lượt vào trước đài bái mạng Thiên-tử , rồi Trọng tôn-thu thay mặt Tề hầu, đọc tờ ước-thệ như sau :

Châu ly-vương năm đầu , tháng ba, ngày mồng một.

Chúng tôi là : Tề-hầu Tiểu-bạch, cùng với Tống, Trần , Sái, Châu, vâng lệnh thiên-tử , hội nơi Bắc-hạnh để làm ước thệ, nguyện trung thành với vua Châu và giúp đở nhau trong lúc cần thiết . Hễ ai trái ước, các nước có quyền họp binh vấn tội.

Nghe xong, các nước chư hầu đều nghiêng mình bái mạng.

Quản-trọng bước lên thềm nói lớn :

– Các nước Lỗ, Vệ, Trịnh, Tào có ý khinh khi Thiên-tử, miệt hạ chư-hầu, lẽ ra phải hiệp binh vấn tội trước, xin các nước quyết định.

Ba nước Trần, Sái, Châu đồng thanh nói :

– Chúng tôi xin vâng mệnh.

Duy có nước Tống, làm thinh không nói gì cả.

Chiều hôm ấy, Tống hoàn-công về nhà quánđịch, nói với Đái thúc Bì :

– Tề-hầu có ý tự đắc, không kể ngôi thứ, vượt lên làm minh chủ, lại còn có ý lấy binh các nước mà thị oai. Nếu ta vâng theo ý ấy ắt sau này ta phải bị phục tùng mãi mãi.

Thúc-bì nói :

– Hiện nay chư-hầu không phải một ý, kẻ theo, người không, dầu Tề có muốn làm bá-chủ cũng chưa thể được . Nếu ta chịu giúp Tề, đánh Lỗ và Trịnh, chẳng khác nào ta củng cố địa vị cho Tề. Như thế có hại cho Tống. Hiện nay, trong bốn nước đến dự, chỉ có Tống là lớn , nếu Tống không giúp thì ba nước kia cũng phải thôi.

Tống hoàn-công nói :

– Mục đích ta đến đây dự hội là để nhận lấy Vương-mạng. Nay Vương-mạng đã nhận xong, còn ở đây làm gì ?

Đêm hôm ấy Tống hoàn-công lẵng-lặng đem quân về nước.

Tề hoàn-công hay tin tức giận nói :

– Chưa chi mà nước Tống đã tính chuyện bội ước rồi.

Bèn sai Trọng tôn-thu đuổi theo.

Quản-trọng nói :

– Tống đã làm sai, mà mình đuổi theo lại là việc trái. Nếu muốn phạt Tống phải tâu với thiên-tử đem quân đến đánh mới được.

Tề hoàn-công nói :

– Nếu vậy, ta cho sứ về triều Châu xin việc ấy.

Quản-trọng nói :

– Đánh Tống chưa lợi. Tống là nước xa, Lỗ là nước gần , muốn cho Tống phục, trước phải đánh Lỗ.

Tề hoàn-công hỏi :

– Muốn đánh Lỗ phải lập mưu chi ?

Quản-trọng thưa :

– Phía Đông-Bắc có nước Toại, thuộc Lỗ. Nước ấy nhỏ lắm, dân cư có bốn họ, ta đem quân lấy nước ấy không khó. Mà chiếm được nước ấy rồi, Lỗ phải sợ. Chừng ấy ta sai sứ sang trách Lỗ-hầu về việc không đi dự hội, một mặt thông tin cho Văn-khương biết việc xích mích giữa Tề, Lỗ hiện nay. Hễ Văn-khương biết được Lỗ-hầu không hòa hiếu với bên ngoại , ắt khiển trách. Trong thì sợ mẹ, ngoài sợ uy ta , làm sao Lỗ-hầu không xin hòa. Lúc bấy giờ ta mới đem quân đánh Tống.

Tề hoàn-công khen phải, liền hưng binh đi đánh nước Toại.

Lỗ trangCông hay tin vội họp triều thần bàn kế.

Công-tử Khánh-phủ thưa :

– Binh Tề đã đem binh đến nước ta hai lần, lần nào cũng bị thua, nay xin Chúa-công cho tôi đem binh ra đánh.

Thi-Bá nghe nói, can rằng :

– Không nên khinh địch. Hiện nay Quản-trọng nắm quyền bỉnh-chánh , quân luật nghiêm minh, ta khó mà thắng nỗi. Vả lại, nước Lỗ ta trước đây rất nhiều ơn huệ với Tề như việc giết Công-tử Cũ , đứng làm chủ-hôn cho Vương-cơ, mà Tề-hầu chưa thể quên được . Nay xin cứ giải-hòa để giữ lấy ân-huệ đó là hơn.

Các quan còn đang thương nghị , bỗng có thư Tề hoàn-công gởi đến.

Lỗ trang-công cả mừng, mở ra đọc.

Thư rằng :

Tôi và hiền-hầu cũng thờ một Thiên-tử nhà Châu, khác nào như anh em, hơn nữa hai nước Tề, Lỗ là chỗ thân thuộc, thế mà kỳ hội vừa rồi nơi Bắc-hạnh, hiền-hầu không chịu đi dự, đã trái với lệnh Thiên-tử lại thương tổn đến tình thân. Tôi rất đau lòng khi phải đem binh sang nước của hiền-hầu để đạo đạt bức thư này.

Tề hoàn-công lại gởi riêng một bức thư cho Văn-khương, vì vậy khi được thư , Văn-khương gọi Lỗ trang-công vào hậu cung nói :

– Tề, Lỗ là hai nước thân thuộc, nếu Tề-hầu có điều không phải với ta đi nữa, ta cũng không nên làm giãm tình thân , huống chi Tề đã có ý muốn cầu hòa với ta mà con lại không nghe sao ?

Lỗ trang-Công không dám cãi lời mẹ liền sai Thi-Bá viết thư phúc đáp :

– Kỳ hội nơi Bắc-hạnh, tôi bị đau không đến dự được, tự thấy mình có lỗi. Nay quí-quốc trách vấn, tôi rất ăn năn. Tuy-nhiên, nếu bắt tôi phải nhận những điều cam kết dưới thành, thật là điều quốc-sĩ. Quí-quốc lui binh ra khỏi biên-giới bấy giờ nước tôi sẽ tuân mệnh.

Tề hoàn-công tiếp được thư rất đẹp lòng, truyền kéo binh khỏi nước Lỗ, ra đóng nơi đất Kha, để chờ Lỗ-hầu đến hội-kiến.

Lỗ trang-công sắp sửa đến đất Kha, hỏi triều thần :

– Có ai dám theo ta đến đất Kha hộiđiện với Tề chăng ?

Tào-muội bước ra xin đi.

Lỗ trang-Công nói :

– Ngươi ba lần giao chiến bị thua nước Tề, nay xin ra đó không sợ nước Tề chê cười sao ?

Tào-muội thưa :

– Chỉ vì bị thua nước Tề ba lần nên tôi mới xin theo Chúa-công để rửa nhục !

Lỗ trang-công nói :

– Ngươi muốn rửa nhục mà theo ta trong chuyến này chỉ thêm xấu hổ. Vì đến ăn thề với họ, tự nhiên mình đã là kẻ chiến bại rồi .

Tào-muội nói :

– Tôi quyết không để cho nước Lỗ mang cái danh biểu xấu xa ấy.

Lỗ trang-công nhận lời cùng Tào-muội lên đường.

Khi đến đất Kha, Tề hoàn-công đã sai người đắp một cái đài rất lớn , bày sẵn lễ vật, đợi Lỗ trang-Công đến làm lễ huyết thệ . Lại truyền lệnh chỉ cho một người được theo hầu Lỗ trang-công lên đài thôi, còn bao nhiêu quân sĩ phải đứng xa, cách hai trăm thước.

Tào-Muội trong mặc áo giáp, ngoài cầm gươm đi theo sau lưng Lỗ trang-công.

Lỗ trang-Công có ý sợ, trái lại Tào-Muội rất hùng dũng.

Hai người vừa bước khỏi thềm .

Đông quách-nha bảo Tào-muội :

– Ngày nay hai nước giao-hòa, gặp nhau để bàn bạc, xin tướng quân hãy bỏ đồ binh khí đi.

Tào-muội trừng mắt nhìn Đông quách-nha, hai khóe mắt toét ra, rươm rướm máu.

Đông quách-nha thấy vậy bước lùi ra sau .

Tào-Muội ungđung bước theo Lỗ trang-công đến trước bàn hương án .

Thấp-Bằng bưng bát máu dâng lên để Lỗ trang-công cùng Tề hoàn-công ăn thề .

Tào-muội mặt hầm hầm, một tay nắm áo Tề hoàn-công , một tay rút gươm nói :

– Hãy khoan !

Quản Trọng vội vã xen vào giữa, hỏi Tào-muội :

– Quan Đại-phu làm gì thế ?

Tào-muội đáp :

– Nước Lỗ bị suy yếu, đã hao tổn nhiều về chiến-tranh thế mà ngày nay những nước tự xưng mình là minh-chủ, hối chư-hầu để cứu giúp những kẻ suy yếu, lại đến làm khổ nước Lỗ nữa, như vậy dám tự hào là chính đáng sao ?

Quản-trọng nói :

– Nước tôi đã làm điều gì hại cho quí-quốc ?

Tào-muội nói :

– Cậy sức mạnh, đem quân chiếm lấy đất Vânđương của nước tôi , sao lại bảo là không làm hại . Nếu quí-quốc thực-tình giao-hảo , hãy trả đất ấy lại cho Lỗ, Chúa-công tôi mới chịu ăn thề. Bằng không tôi nhất định liều chết. .

Quản-trọng ngoảnh lại, nói với Tề hoàn Công :

– Xin Chúa-công chấp thuận lời xin ấy.

Tề hoàn-công nói :

– Thôi, quan Đại-phu hãy buông ra. Tôi hứa sẽ trả đất ấy lại.

Tào-muội nghe nói vội bỏ thanh kiếm xuống, bưng lấy bát máu thay cho Thấp-bằng mà dâng lên .

Lỗ trang-công cùng với Tề hoàn-công làm lễ huyết-thệ .

Xong Tào-muội lại nói :

– Quản-trọng giữ quyền-binh nước Tề, tôi xin cùng Quản-Trọng ăn thề để khỏi có điều hối-hận.

Tề hoàn-công nói :

– Bất tất phải làm như vậy, lời ta đã hứa lẽ nào lại lành trái được sao.

Lễ tuyên-thệ xong các quan nước Tề ai nấy hậm-hực, muốn tìm cách trả thù Tào-muội.

Tề hoàn-công nói :

– Ta đã hứa với Tào-muội rồi ! Dẫu kẻ thất phu đã ước với ai câu gì cũng không nên sai lời, huống hồ ta là Chúa một nước .

Bấy giờ các quan mới chịu thôi.

Sáng hôm sau, Tề hoàn-công lại bày tiệc ở nhà Công-quán để tiễn biệt Lỗ trang-công, rồi đem đất Vânđương trả lại cho nước Lỗ.

Các nước chư-hầu nghe được việc ấy, kêu Tề hoàn-công là người tín nghĩa. Hai nước Vệ và Tào sai sứ đến tạ tội và xin ăn thề.

Tề hoàn-công sai sứ vào tâu với vua Ly-vương nhà Châu , xin cất quân phạt Tống.

Châu Ly-vương nhậm lời, khiến quan Đại-phu Đơn-miệt, kéo binh sang hội với binh Tề.

Lúc ấy nước Trần, nước Tào hay tin cũng xin đem binh giúp sức.

Tề hoàn-công khiến Quản-trọng dẫn một đạo binh đi trước để đón binh hai nước Trần và Tào . Còn mình thì đi với Thấp-bằng , Vương-tử Thành-phủ và Đông quách-Nha, thống lãnh đại binh, hẹn hội nhau nơi đất Thượng-kỳ.

Quản-trọng lãnh mệnh kéo quân ra đi.

Quản-Trọng vốn có một người tiểu-thiếp tên Tĩnh-nương, nàng này tuy phận quần thoa, nhưng lại thông minh học rộng. Vì vậy Quản-trọng đi đâu cũng đem nàng theo hầu.

Ngày kia, Quản-trọng vừa kéo binh đến núi Dao-sơn, bỗng gặp một người chăn trâu, mình mặc áo cộc , đầu đội nón rách ngồi trên lưng trâu, gõ sừng ca hát.

Quản-trọng nghe tiếng ca biết không phải là người tầm thường khiến quân sĩ đem rượu thịt đến cho.

Người chăn trâu ăn xong hỏi quânsĩ :

– Tôi muốn được yết kiến quan Tể-tướng.

Quân sĩ đáp :

– Xe của quan Tê-tướng đã đi xa rồi. Vậy thì cứ ăn cho no mà thôi, cần chi phải gặp mặt.

Người chăn trâu nói :

– Tôi có một lời muốn nói cùng quan Tể-tướng.

Quân sĩ hỏi :

– Lời gì ? Nếu chỉ nói một lời thì bọn ta nói giúp cho cũng được.

Người chăn trâu nói :

– Nước trong leo léo

Quân sĩ đem lời ấy nói lại với Quản-trọng.

Quản-trọng không hiểu gì cả, liền hỏi Tĩnh-nương.

Tĩnh-nương nói :

– Thiếp có nghe, xưa có một bài thơ “Nước trong” .

Bài thơ ấy có câu rằng : “Nước trong leo lẻo , cá lội giữa dòng, người đến triệu ta , ta cũng bằng lòng”. Ý chừng người ấy muốn ra làm quan.

Quản-trọng khiến dừng xe lại , rồi sai người đòi gã chăn trâu đến hỏi .

Gã chăn trâu cúi đầu thi lễ chứ không lạy .

Quản-trọng hỏi tung tích, ng­ười chăn trâu nói :

– Tôi là Ninh-thích, người đất Vệ, được nghe T­ướng-quốc là kẻ ưa hiền, chuộng sĩ, nên tìm qua n­ước Tề để tiến thân, ngặt không có ai tiến dẫn nên phải chăn trâu cho người trong làng mà nuôi sống .

Quản-trọng thử-thách trình độ học thức .

Ninh-thích ứng đáp rất rành mạch.

Quản-trọng nói :

– Kẻ hào-kiệt lúc chưa gặp vận cũng khó thi thố tài năng của mình được. Đại binh của Chúa-công ta cũng sắp đến đây , ta viết cho nhà ngươi một phong thơ , nhà ngươi an lòng ở đây mà chờ, lúc nào Chúa-công ta đến, hãy xin yết kiến mà trình thơ , ắt đ­ược trọng dụng .

Nói xong Quãn-trọng viết một phong thơ , trao cho Ninh-thích.

Ninh-thích lãnh thơ , rồi ở nơi núi Dao-sơn chăn trâu như cũ .

Cách ba ngày sau, đại binh của Tề hoàn-công kéo đến .

Ninh-Thích lại gõ sừng trâu ca hát vang trời .

Hát rằng :

Mặt Thường-lan nhấp nhô đá trắng

Thân lý-ngư thầm lặng xuôi dòng

Đời không hiền-sĩ

Đất thiếu minh-quân

Thương thân, ta lại tủi thầm

Hởi con trâu trắng

Hơi cụm rừng thâm

Hùng anh sống với âm thầm mãi ư ?

Tề hoàn-công nghe giọng ca lấy làm lạ , khiến kẻ tả hữu bắt dẫn đến hỏi thăm họ tên, quê quán.

Ninh-thích tâu :

– Tôi người nước Vệ, lưu lạc nơi đây .

Tề hoàn-công hỏi :

– Ngươi là một đứa chăn trâu, cớ sao lại dám chê bai thiên hạ ?

Ninh-thích nói :

– Tôi đâu có chê bai . Tôi chỉ tiếc rằng đời nay không có người hiền.

Tề hoàn-công hỏi :

– Sao ngươi lại dám chê rằng “đời thiếu minh-quân” , trong lúc Thiên-tử nhà Châu đang trị vì thiên-hạ, còn ta một nước chư hầu giàu mạnh, trên phục tùng Thiên-tử, dưới chế-ngự chư-hầu đem lại thái bình cho thiên hạ .

Ninh-thích nói :

– Một minh-quân tất phải biết mình, hiểu người rõ được thời bình, thấy được lúc biến, đem ân đức rãi khắp nhân gian, lấy lòng nhân mà trị thiên hạ. Như nhà Châu hiện nay vận nước mỗi lúc một suy, trong thì dân tình không phục, ngoài thì chư hầu bất tuân, tài trị nước không có, sao gọi là minh-quân ? Đến như Chúa-công, giết anh ruột mình mà cướp ngôi , mượn uy thiên-tử để chế ngự chư hầu, nlưng chư hầu đều không phục, sao gọi là giàu mạnh ?

Tề hoàn-công nghe nói nỗi giận mắng lớn :

– Đứa thất phu, dám nói càn.

Liền hô kẻ tả hữu bắt Ninh-thích đem chém.

Ninh-thích không chút sợ hãi, ngước mặt lên trời than :

– Ngày xưa vua Kiệt giết Long-bàng, vua Trụ giết Tỉ-can, nay tôi cùng với hai ông ấy kể là ba người ?

Thấp-bằng thấy thế tâu với Tề hoàn-công :

– Người ấy lời nói không dua mị, lòng không sợ uy nghiêm, chắc không phải là kẻ tầm thuờng, xin Chúa-công chớ nên giết.

Tề hoàn-Công sực nghĩ lại cơn giận đã nguôi, bước tới mở trói cho Ninh-thích, và nói :

– Ta thử nhà ngươi đó thôi . Nhà ngươi quã là một người khí phách.

Ninh Thích thò vào túi lấy phong thư của Quản-trọng dâng cho Tề hoàn-công.

Tề hoàn-công tiếp lấy đọc.

Trong thư viết :

Tôi phụng mệnh đem quân qua núi Dao-sơn , có tiếp được một người nước vệ, tên là Ninh-thích. Người này là một nhân tài trong thiên hạ , không phải những kẻ chăn trâu tầm thường, xin Chúa-công thu dụng, đừng để người ấy đi nước khác mà hối tiếc.

Tề hoàn-công nói :

– Nhà ngươi đã có bức thư của Trọng-phụ sao không tâu trình cho sớm ?

Ninh-thích nói :

– Tôi nghe nói vua hiền chọn người ngay , tôi trung chọn Chúa có đức . Nếu Chúa-công ghét người thẳng , ưa kẻ nịnh , thì thà tôi chết đi còn hơn là đưa thư để được trọng dụng.

Tề hoàn-công rất đẹp lòng, truyền ngồi vào một cỗ xe theo sau .

Tối hôm ấy đóng quân lại nghĩ, Tề hoàn-công sai thắp đuốc tìm mũ áo Tề phong chức cho Ninh-Thích.

Thụ điêu tâu :

– Từ đây đến nước Vệ không xa, xin Chúa-công đợi đến đó hỏi xem Ninh-thích quả là người hiền không đã, rồi sẽ phong cũng chẳng muộn.

Tề hoàn-công nói :

– Đã nghi thì không nên dùng, mà đã dùng thì đừng nghi. Giả thử Ninh-Thích trước kia có một vài lỗi nhỏ đi nữa, nay ta cũng không nên vì lỗi nhỏ ấy mà bỏ phí một nhân tài.

Nói xong, ngay đêm ấy, phong cho Ninh-thích làm quan Đại-phu, lại khiến cùng với Quản-trọng coi việc quốc-chánh.

Ninh-thích lạy tạ lui ra.

Tề hoàn-công truyền tấn binh.

Chẳng bao lâu, đại-binh của Tề hoàn-công đã kéo đến biên-giới nước Tống , hợp với binh các nước chư-hầu đông như kiến cỏ.

Tề hoàn-công họp các tướng bàn kế lấy thành.

Ninh-thích tâu :

– Chúa-công phụng mệnh Thiên-tử đem binh chế-ngự chư-hầu . Mục đích bắt họ phục tùng chứ không phải chiếm đất. Ấy vậy quân lực chỉ làm cho người ta sợ uy chứ không mến phục. Theo ý tôi, chớ nên đánh vội . Tôi dẫu hèn mạt, dám xin đem ba tấc lưỡi mà bảo vua nước Tống phải giảng-hòa.

Tề hoàn-công nghe theo, truyền đóng quân lại, sai Ninh-thích vào trước nghị hòa với Tống hoàn-công.

Ninh-thích ngồi một chiếc xe nhỏ đem theo mấy tên gia-nhân thẳng đến ThưĐương , xin vào yết-kiến.

Tống hoàn-công hỏi Đái thúc-bì :

– Ninh-thích là người thế nào ?

Đái thúc-Bì thưa :

– Tôi nghe người ấy là một kẻ chăn trâu, được Tề-hầu mới dùng làm quan, tất người ấy có tài ứng đối.

Tống hoàn-công nói :

– Vậy thì nên đối xử như thế nào ?

Đái thúc-bì thưa :

– Xin Chúa-công triệu vào lấy lễ mà đãi, để xem ý tứ Ninh-Thích như thế nào. Nếu va có điều chi lỗ mãng, tôi sẽ vuốt giải mão làm hiệu, Chúa-công khiến võ-sĩ bắt giam lại. Như thế mưu của Tề ắt phải hư .

Tống hoàn-công gật đầu khen phải, truyền võ-sĩ mai phục xong xuôi , rồi mới cho Ninh-thích vào.

Ninh-thích mặc áo rộng, thắt đai lớn ung dung bước vào xá Tống hoàn-công một cái.

Tống hoàn-công ngồi yên không đáp lễ.

Ninh-thích ngước mặt lên trời than :

– Nước Tống đã đến lúc nguy khốn rồi.

Tống hoàn-công nghe nói, lấy làm lạ hỏi :

– Ta làm đến bực Thượng-công, phẩm trật đứng trên các chư-hầu , trong nước binh hùng tướng mạnh, dân chúng an vui , sao gọi là nguy khốn .

Ninh-thích nói :

– Hiền-hầu có thể sánh được với Châu-công ngày xưa chăng ?

Tống hoàn-công nói :

– Châu-công là bậc thánh, ta làm sao sánh được.

Ninh-thích nói :

– Châu-công ngày xưa, trong lúc thiên-hạ thái bình thế mà còn phải hết lòng trọng người hiền-sĩ . Lúc đang ăn cơm, nghe người hiền sĩ vào vội nhả miếng cơm, để ra tiếp đón . Trong lúc đang tắm nghe người hiền sĩ đến vội vẫy nắm tóc để ra mời. Nay Hiền-hầu là dòng dõi một nước đã mất rồi, lại gặp buổi loạn lạc, các liệt-quốc tranh hùng, dẫu bắt chước như Châu-công, hết lòng cầu kẻ sĩ , chưa chắc hiền sĩ đã chịu đến, huống hồ lại còn tự đắc, kiêu căng thì những lời trung-trực có bao giờ đến trước mặt hiền-hầu

được . Thế mà lại không cho là nguy khốn sao ?

Tống hoàn-công nghe nói sững sờ, giây lâu mới đứng dậy , nói với vẻ ăn năn :

– Ta mới lên ngôi, chưa được nghe lời giáo huấn của quân-tử, vậy xin tiên sinh miễn chấp.

Thúc-bì đứng hầu một bên thấy Tống hoàn-công đã tỏ ý xiêu lòng, vội đưa tay vuốt giải mão. Nhưng vuốt đến đôi ba lần mà Tống hoàn-công vẫn không thèm nói tới.

Tống hoàn-công hỏi Ninh-thích :

– Chăng hay tiên-sinh đến đây có điều chi dạy bảo tôi chăng ?

Ninh-thích nói :

– Nay Thiên-tử suy-yếu, chư hầu đoạt quyền, việc tranh chấp càng ngày càng khốc liệt, dân gian đồ thán. Tề-hầu không nỡ để cho thiên hạ lâm cảnh tóc tang, phải phụng mệnh Thiên-tử liên kết chư-hầu để lo việc tương thân và trách phạt. Hiền-hầu bội tín làm cho Thiên tử nổi cơn thịnh nộ, nên sai chư hầu đến đây vấn tội. Nếu Hiền-hầu cự với binh triều thì chưa đợi giao binh đã thấy được lẽ thắng phụ rồi.

Tống hoàn-công hỏi :

– Theo sở kiến của Tiên-sinh thì việc này phải thế nào ?

Ninh-thích nói :

– Theo ý tôi, Hiền hầu nên dùng chút đỉnh lễ vật mà cầu hôn . Trên chẳng trái với Châu-vương, dưới vẫn đặng quyền cùng minh-chúa. Như thế nước Tống không cần phải động binh mà vẫn vững vàng thư non Thái.

Tống hoàn-công nói :

– Trước kia ta đã không trọn ước, nữa đêm kéo quân bỏ về không dự hội. Nay Tề-hầu đã đem binh đến đây biết có chấp thuận việc hòa ước của ta chăng ?

Ninh-thích nói :

– Tề-hầu là một người đại nhân đại độ, không kể đến lỗi lầm của kẻ khác. Trước đây Lỗ-hầu không chịu dự hội, sau đến xin ăn thề nơi đất Kha, Tề-hầu vẫn đem đất Vânđương trả lại. Huống chi Hiền-hầu là kẻ đã có lòng đến dự hội, lẽ nào Tề-hầu lại không cho giảng hòa .

Tống hoàn-công hỏi :

– Bây giờ phải dùng những lễ vật chi để cống hiến ?

Ninh-thích nói :

– Là một kẻ đại nhân đại độ, không bao giờ xem của cải là trọng . Hiền-hầu chỉ dùng một vật mọn cũng đũ .

Tống hoàn-công mừng rỡ, sai sứ mang lễ vật xin hòa ước với Tề.

Đái thúc-bì hổ thẹn lui ra.

Sứ Tống đến trại Tề dâng mười cặp bạch-ngọc, ngàn nén vàng ròng, mà tạ tội.

Tề hoàn-công nói :

– Có chỉ mạng của Thiên-tử, ta đâu dám tự chuyên. Phải cậy đại thần của Thiên-tử chuyển tấu về triều Châu mới đặng.

Bèn giao những vàng ngọc ấy lại cho Đơn-miệt.

Đơn-miệt nói :

– Quân hầu đã rộng lòng tha lỗi, nay lại cậy tôi chuyển tấu về triều, tôi đâu dám từ chối.

Tề-hầu tin cho Tống hoàn-Công hay để sắm sửa qua triều Châu, rồi các nước thâu binh về.

Chương 19: Trịnh Lệ công lập mưu về nước – Châu Huệ vương tìm kế phục thù

Tề-hầu kéo binh về nước, mở tiệc khao quân .

Quãn-Trọng tâu rằng :

– Từ ngày nhà Châu thiên sang Đông đô đến nay, các nước chư hầu không nước nào mạnh bằng Trịnh. Kinh đô nước Trịnh là nơi Đông-quách, chỗ ấy phía trước có núi Trung-sơn, phía sau có sông Hà, phía hữu có sông Lạc, phía tả có sông Tề, thật là nơi hiểm địa.

Hơn nữa, từ lúc Trịnh trang-công thắng được Tống và Hứa, lại kết thân với Sỡ là nước tiếm xưng vương-hiệu, đất rộng binh hùng. Hai nước ấy cấu kết với nhau, nước Tề ta khó bề thắng được.

Tề hoàn-công hỏi :

– Như thế thì biết làm thế nào cho hai nước ấy tùng phục ?

Quản-trọng nói :

– Nhất định phải hạ cho được Sở. Mà muốn hạ Sở trước phải dẹp Trịnh.

Tề hoàn-công nói :

– Ta vẫn biết Trịnh là nơi cốt yếu, muốn thâu đoạt đã lâu, song không biết dùng kế gì đặng.

Ninh-thích nói.

– Công-tử Đột bên nước Trịnh, trước kia lên ngôi chỉ có hai năm, bị Tế-Túc đuổi ra nước ngoài, cư trú nơi đất Lịch. Hiện nay nước Trịnh, Công-tử Nghi đang ở ngôi. Tế-Túc là tôi mà dám đuổi Chúa, Công-tử Nghi là em mà chiếm ngôi anh đó trái là lễ. Xin Chúa-công cho người đến đất Lịch đưa Trịnh đột về nước , lập lên ngôi, ắt Trịnh đột phải mang ơn Chúa-công mà tùng phục nước Tề .

Tề hoàn-Công khen phải, khiến Tân tu-vô đem hai trăm binh ra đóng đồn nơi đất Lịch , rồi sai người đến tỏ ý với Trịnh đột.

Lâu nay Trịnh đột nghe Tế-Túc đã qua đời thường cho người dò xét tình hình nước Trịnh để tính việc phục nghiệp, xảy được tin nước Tề muốn giúp mình về nước, lòng mừng khôn xiết cho người đến đón Tân tu-vô vào thành thết đãi.

Trong lúc đang ăn uống, Tân tu-vô hỏi :

– Chẳng hay nước Trịnh hiện nay ai thay cho Tế-túc ?

Trịnh đột đáp :

– Thay Tế-Túc là Thúc-Thiêm. Người này có tài trị nước , nhưng không có tài cầm binh.

Giữa lúc ấy, bỗng có quân vào báo rằng :

– Kinh-thành nước Trịnh vừa xảy ra một chuyện rất lạ : Phía trong cửa Nam môn có một con rắn dài tám thước, đầu xanh đuôi vàng, cắn lộn với một con rắn phía ngoài cửa dài hơn một trượng, đầu đỏ đuôi xanh. Hai con cắn nhau đến mười bảy ngày thì con rắn trong bị con rắn ngoài cắn chết. Con rắn ngoài chạy thẳng vào thành, đến nhà Thái-Miếu thì biến mất. Thiên hạ đến xem đông nghẹt, nhưng chẳng ai dám lại gần.

Tân tu-vô nghe nói đứng dậy chức mừng Trịnh đột :

– Như thế chắc chắn hiền-hầu sẽ khôi phục được ngôi nước Trịnh.

Trịnh đột hỏi :

– Sao ngài biết được ?

Tân tu-vô đáp .

– Con rắn ngoài cửa tức là hiền-hầu, vì hiền-hầu là anh, nên rắn ấy dài hơn một trượng, còn con rắn trong cửa tức là Công-tử Nghi. Công-tử Nghi là em nên có tám thước. Đến ngày thứ mười bẩy , con rắn bên trong chết, nghĩa là từ khi hiền-hầu bỏ ngôi đến nay đã mười bảy năm, nay trở về phục-quốc được thành công. Đó là điềm trời cho biết trước.

Trịnh đột mừng rỡ nói :

– Nếu quả đúng như vậy, dầu trọn đời tôi chẳng đám quên ơn Tề-hầu .

Nói xong, rót rượu đưa mời Tân tu-vô uống .

Hai người rất tương đắc.

Sáng hôm sau , Tân tu-vô bàn với Trịnh đột đem quân lẻn về lấy đất Đại-lăng.

Quan giữ thành Đại-lăng là Phó-Hà, nghe được tin Trịnh đột kéo quân đến đánh , vội điểm quân khai thành đối địch .

Chẳng ngờ Tân tu-vô phục binh nơi phía sau, tràn vào chiếm thành .

Phó-hà tưởng quân Trịnh đột, sau biết được có binh Tề giúp sức , liệu thế không chống lại, phải xin đầu hàng.

Trịnh đột vốn căm hờn Phó-Hà trong mười bảy năm qua, đã giữ thành rất gắt chống lại quân mình, nên truyền quân đem chém

Phó-Hà la lớn :

– Nếu muốn về nước Trịnh mà Chúa-công đem giết tôi thật là thất sách .

Trịnh đột nghe nói, liền bảo đao phủ thủ dừng lại hỏi :

– Ngươi có kế gì hay sao

Phó-hà nói :

– Tôi có thể lấy đầu Công-tử Nghi được !

Trịnh đột lắc đầu nói :

– Ngươi là một tiểu-tướng, tài cán, mưu mô chi mà làm được chuyện đó , chẳng qua ngươi tham sanh úy tử, kiếm lời gạt ta để khỏi chết mà thôi.

Phó-hà nói :

– Quyền chính trong nước ngày nay thuộc về tay Thúc-thiêm. Tôi cùng với Thúc-thiêm thân nhau lắm. Nếu Chúa-công không chê tôi bất tài, để tôi sống, tôi sẽ về bàn mưu với Thúc-thiêm giết Công tử Nghi đem đầu nạp cho Chúa-công.

Trịnh đột hét to :

– Tên lão tặc ! Đừng gạt ta. Mi muốn trở về bàn với Thúc-Thiêm đem quân đến đây chống cự với ta, ta đã biết rõ.

Nói rồi truyền đao-phủ-thủ đem chém.

Tân tu-vô cản lại, nói :

– Vợ con Phó-hà nay còn trên đất Đại-lăng này. Ta hãy giam lại để làm tin .

Phó-hà nghe nói quỳ móp xuống đất rên rỉ :

– Vợ con tôi còn đó, chẳng lẽ tôi ham sống một mình, bỏ vợ bỏ con tôi sao .

Nói xong ngước mặt lên trời thề.

Lúc đó Trịnh đột mới tin , truyền quân mở trói thả đi.

Đêm ấy, Phó-Hà lẻn về Kinh đô nước Trịnh , vào yết kiến Thúc-thiêm.

Trông thấy Phó-Hà, Thúc-thiêm ngạc nhiên hỏi :

– Nhà ngươi đang trấn thủ Đại-lăng sao lại về đây ?

Phó-hà nói :

– Tề-hầu sai tướng Tân tu-vô đem quân đưa Công-tử Đột về nước , nay đã chiếm được Đại-lăng . Nay mai ắt đại binh kéo đến Kinh-thành. Ngài nên làm cách nào chém được Công-tử Nghi, đem đầu dâng cho Công-tử Đột thì mới khỏi mất ngôi Công-khanh. Vả lại Công-tử Đột là anh đáng lý phải ở ngôi mới thuận.

Thúc-thiêm ngẫm nghĩ một lúc rồi nói :

– Trước kia ta đã có ý đưa Công-tử Đột là vua cũ, về nước nối ngôi, nhưng bị Tế-túc ngăn cản . Nay Tế-túc đã thác, việc này không khó.

Phó-hà hỏi :

– Nếu vậy thì liệu kế nào ?

Thúc-thiêm nói :

– Tin cho binh Tề kéo đến. Lúc đó ta giả đò mở cửa thành đem quân đối địch, tất nhiên Công-tử Nghi phải lên mặt thành đứng xem . Nhà ngươi theo hầu, rút gươm chém đầu Công-tử Nghi, còn ta , ta mở cửa rước Công-tử Đột vào tôn lên ngôi .

Hai người bàn tính xong, mật sai người báo tin với Trịnh đột.

Phó-hà lại vào ra mắt Công-tử Nghi, nói :

– Quân Tề giúp Công-tử Đột chiếm được Đại-lăng rồi .

Công-tử Nghi giật mình nói :

– Thế thì phải viết thư qua nước Sở cầu cứu mới được.

Thúc-thiêm bên ngoài tuân lệnh , nhưng bên trong cố ý chần chờ, đã hai ngày mà không sai sứ qua nước Sở. Bỗng có tin quân Tề kéo đến vây thành.

Thúc-thiêm xin phép Công-tử Nghi khai chành chống cự, rồi hẹn Phó-Hà lên mặt thành mà phòng giữ.

Công-tử Nghi lầm kế, cũng theo Phó-Hà lên mặt thành xem xét binh tình. Vừa đến nơi Phó-hà rút gươm đâm Công-tử Nghi một nhát, ngã quỵ xuống đất tắt thở.

Bên ngoài Thúc-thiêm mở cửa , đón Công-tử Đột và Tân tu-vô , vào Thanh-cung bắt hai con của Công-tử Nghi giết đi, rồi cùng nhau tôn Công-tử Đột lên ngôi, lấy hiệu cũ xưng là Trịnh lệ-công.

Người nước Trịnh lâu nay vẫn mến Trịnh lệ-công , nên dân tình vẫn được yên ổn.

Trịnh lệ-công cảm tạ Tân tu-vô, lo việc đãi đằng, khao thưởng binh Tề rồi tiễn Tân tu-vô về nước.

Lúc bấy giờ Trịnh lệ-công mới đòi Phó-Hà đến nói :

– Ngươi giữ đất Đại-lăng trong mười bẩy năm, cố sức cùng ta chống cự, thật đã hết lòng với chúa cũ. Nay tham sống, sợ chết, vì ta mà giết bỏ vua cũ, như thế ngươi là một kẻ nham hiểm, tâm địa không biết đâu mà lường. Ta phải giết nhà ngươi đi, mới khỏi lo hậu hoạn.

Nói xong, truyền võ sĩ đem Phó-Hà ra chém, còn vợ con thì cho về.

Nguyên-phồn trước kia tán thành việc lập Công-tử Nghi, nay sợ Trịnh lệ-Công bắt tội nên xin từ chức .

Trịnh lệ-Công sai người đến trách mắng .

Nguyên-phồn thắt cổ tự vận.

Trịnh lệ-công lại bắt trị tội những người đuổi mình khi trước.

Cường-thủ trốn vào nhà Thúc-thiêm, nhờ Thúc-thiêm xin cho mới khỏi , nhưng cũng phải bị chặt chân.

Định-Thúc trốn sang nước Vệ, nhưng cách ba năm sau Trịnh lệ-công lại cho triệu về.

Thúc-thiêm vẫn giữ chức Chính-khanh, Đổ-thúc và Sư-thúc đều được phong chức Đại-phu.

Người nước Trịnh gọi là “tam lương” nghĩa là ba người hiền.

Đây nói qua việc Sở văn-vương, từ khi lấy được nước Tức, bắt nàng Tức-Vỉ làm vợ , đêm ngày ấp ủ không rời. Chỉ ba năm mà sanh đặng hai con. Người lớn là Hùng-hi, người nhỏ là Hùng-vận.

Trong ba năm trời , Tức-Vỉ không nói chuyện với Sở văn-vương câu nào. Sở văn-vương lấy làm lạ, một hôm cố hỏi Tức-Vỉ vì cớ gì mà không chịu nói. Tức-Vỉ chỉ ứa nước mắt, không đáp.

Sở văn-vương năn nỉ hết lời, nàng mới tấm tức thưa :

– Thần thiếp phải thờ hai chồng, đã không biết giữ tiết thì còn mặt mũi nào mà chuyện trò với ai .

Sở văn-vương nói :

– Việc này cũng bởi Sái-hầu trước kia giới thiệu phu-nhân cho ta, nên ngày nay mới sanh ra thảm cảnh này. Ta sẽ vì phu-nhân đem quân đến bắt Sái hầu đền tội.

Nói xong, cất binh đi đánh nước Sái .

Sái hầu hay tin thất kinh, thân hành đến đất Phu , quì móp giữ đường đợi Sở văn-vương đến mà tạ tội. Lại đem tất cả vàng bạc châu báu trong kho ra mà cống lễ.

Sở văn-vương nhận lễ vật, rồi rút binh về.

Vừa về đến nước Sở, lại có tin Trịnh lệ-công sai sứ đến tỏ việc mình đã phục-vị và xin cầu hoà.

Sở văn-vương cả giận nói :

– Trịnh đột về nước đã hai năm , nay mới cho cho sứ đến ra mắt nước ta thật là vô lễ .

Bèn đem binh phạt Trịnh.

Trịnh lệ-công phải ra ngoài thành tạ tội, xin dâng lễ vật, Sở văn-vương mới chịu thâu quân.

Từ đó Trịnh lệ-công sợ oai nước Sở không dám cho sứ sang chầu nước Tề. Tề hoàn-công biết được tâm trạng ấy cho người đến trách cứ.

Trịnh lệ-công không biết phải làm sao , bèn sai sứ đến thưa với Tề hoàn-công rằng :

– Chúa-công tôi vì bận lo việc kiên-thủ sợ binh Sở đến đánh, không có dịp để triều cống Tề . Nếu Minh-công lấy oai trị được nước Sở thì Chúa tôi mới an lòng vâng mạng Tề được.

Tề hoàn-công nghe lời nói của sứ nước Trịnh không được khiêm tốn, tức giận, bắt giam vào ngục.

Sứ nước Trịnh trốn thoát, về nước.

Từ đó, nước Trịnh lại phản, về đầu Sở như cũ.

Giữa lúc đó, bên nhà Châu , vua Ly-vương thăng hà , con là Ngân lên nối ngôi, tức Châu huệ-vương.

Nhơn lúc nhà Châu mới lập, các chư-hầu bận việc điếu tang, và chúc tụng vua mới, Sở văn-vương kéo quân quấy nhiễu nước Ba , đánh nước Thân, làm lắm điều hiếp chế.

Nước Ba căm thù, kéo quân lẻn sang nước Sở chiếm đất Na .

Tướng giữ đất Na là Diêm-ngao cự không lại bỏ thành trốn về tâu lại với Sở văn-vương .

Sở văn-vương truyền đem Diêm-ngao ra chém.

Thân tộc của Diêm-ngao uất hận vô cùng, quyết lòng rửa nhục , mới tư thông với nước Ba , yêu cầu đem binh phạt Sở, và hứa sẽ đứng ra làm nội ứng.

Nước Ba nghe theo, cử binh kéo đến vây thành.

Sở văn-vương thân hành đem binh ra đối địch, chẳng ngờ thân tộc của Diêm-ngao lẻn vào vòng binh đốt dinh phá trại.

Binh Sở không đề phòng nên rối loạn.

Quân nước Ba thừa thế đánh tan được quân Sở.

Sở văn-vương bị một mũi tên nơi gò má , giục xe chạy dài.

Tuy thắng trận, nhưng nước Ba là nước nhỏ, không dám đuổi theo, vội vã thâu quân về nước.

Còn thân tộc Diêm-ngao cũng theo về nước Ba mà cư trú.

Sở văn-vương về đến Phướng thành đã nữa đêm, bèn gọi quan giữ cửa là Dục-quyền khai thành đón tiếp.

Dục-quyền hỏi :

– Chúa-công thắng trận chăng ?

Sở văn-vương đáp :

– Không, ta vừa bị thất trận.

Dục-quyền nói :

– Tiên-vương xưa ra đánh trận nào cũng thắng, nay. Đại-vương thân chinh đánh nước Ba là một tiểu quốc mà bị thua ắt thiên hạ chê cười. Xin chớ vào thành.

Sở văn-vương hỏi .

– Việc đã rồi, khanh bảo ta phải làm thế nào bây giờ ?

Dục-quyền nói :

– Gần đây có nước Hoàng, không chịu chầu Sở đã lâu , nếu Đại vương đem binh đánh nước Hoàng mà đắc thắng thì mới rửa bớt điều nhục ấy.

Sở văn-vương quay lại nói với quân sĩ :

– Nếu ta đánh không thắng nước Hoàng quyết không về Sở.

Nói xong lập tức kéo binh sang đánh nước Hoàng.

Đến nơi, Sở văn-vương cầm trống giục quân tử chiến .

Quân nước Hoàng không làm sao cự lại kéo nhau bỏ chạy, thây nằm chật đất , gướm bỏ đầy đường.

Sở văn-vương truyền đóng trại nghĩ ngơi.

Đêm ấy , Sở văn-vương ngũ trong dinh , nằm mộng thấy Tức-hầu, mặt hầm hầm chạy đến trước mặt hét lớn :

– Ta có lỗi gì mà mi giết ta, xâm chiếm đất ta , gian dâm với vợ ta. Nay ta đã minh oan với thượng đế rồi !

Nói xong giơ tay tát vào mặt Sở văn-vương một cái.

Sở văn-vương giật mình thức dậy, thấy vết thương nơi mặt lỡ toét ra, máu

chảy đầm đìa, đau nhức khôn xiết.

Sở văn-vương liền truyền lệnh thu quân về nước.

Nhưng vừa về đến Thu địa , thuộc đất Sở , thì từ trần.

Tướng sĩ phò thi thể của Sở văn-vương về Kinh đô tẩn liệm, làm ma chay. Con trưởng Sở văn-vương là Hùng-hi lên nối ngôi.

Dục-quyền sau khi lo việc ma chay cho Sở văn-vương tự nghĩ :

– Ta đã hai lần phạm đến chúa ta, dẫu vua không bắt tội, ta cũng không có quyền sống.

Nghĩ rồi kêu con cháu dặn rằng :

– Ta có chết, chúng bây đem chôn ta nơi cửa thành, để con cháu đời sau biết ta là người gát cửa .

Nói xong rút gươm tự vận .

Hùng-hi động lòng, phong cho con cháu nối đời làm chức Đại-hôn.

Trịnh lệ-Công được tin Sở văn-vương chết, có ý mừng thầm nói :

– Sở văn-vương đã chết, ta không còn lo gì nữa .

Thúc-thiêm nói :

– Nước Trịnh nay phải thần phục nước người, một bên là Tề , một bên là Sở cố tranh nhau bắt chẹt. Tôi tưởng đó là điều quốc-sĩ. Thuở xưa, tiên-quân ta Hoàn-công, Võ-công, Trang-công đều làm đến bực Khanh-sĩ nơi triều Châu, đứng đầu liệt quốc , xử phạt chư-hầu, nay xin Chúa-công vào triều Châu nhờ ơn Thiên-tử gia-phong để lấy oai mà chế lại các chư-hầu thì mới khỏi bị ai lấn áp.

Trịnh lệ-công khen phải sai quan Đại-phu là Sư-thúc qua Châu triều Cống.

Sư Thúc đi chưa được mấy ngày trở về báo :

– Nhà Châu lúc này loạn lắm.

Trịnh lệ-công hỏi :

– Sao mà loạn ?

Sư Thúc nói :

– Nguyên trước kia, vua Trang-vương nhà Châu yêu nàng Diên-cơ, có sanh đặng một con là Vương-tử Đồi, Châu Trang-vương mến Vương-tử Đồi lắm sai quan Đại-phu Vỉ-quốc làm chức sư-phó để dạy dỗ. Vương-tử Đồi có tánh thích chơi trâu. Một mình nuôi trong nhà hơn hai trăm con trâu, ngày nào cũng cho ăn uống , chăm sóc rất kỹ lưỡng, lại cho trâu mặc toàn là gam vóc, và đặt tên là văn thú.

Vương-tử Đồi đi đâu đều có đàn trâu đi theo, dậm nát cả ruộng nương, vườn tược mà không ai dám nói. Hơn nữa Vương-tử Đồi còn kết thân với năm quan Đại-phu là : Vỉ-quốc , Biên-bá, Tử-cầm, Chúc-quỵ và Thiêm-phủ, là những kẻ có thế lực trong triều. Vì vậy trong lúc Châu ly-vương còn ở ngôi cũng phải kính nể.

Vừa rồi, vua Huệ-vương lên ngôi, Vương-tử Đồi ỷ mình là chú, càng lên mặt kiêu ngạo hơn nữa.

Châu huệ-vướng rất ghét , tìm cách trấn áp Vương-tử Đồi cùng bè đảng. Chẳng ngờ một hôm tên thiện phu là Thạch-tốc, dâng đồ ngự thiện không được tinh sạch .

Châu huệ-vướng cách chức không dùng nữa .

Thạch-tốc bất bình nhập bọn với Vương-tử Đồi làm nội ứng , bày mưu cho Vương-tử Đồi đem quân đánh Châu huệ-vương để cướp ngôi, may nhờ có Châu-công Kỵ-phủ và Châu Bá-Liên cố sức chống giữ nên bọn Vương-tử Đồi bị thua chạy trốn sang đất Tô.

Trịnh lệ-công hỏi :

– Chúa đất Tô là ai ?

Sư-thúc đáp : .

– Chúa đất Tô tên Phận-sanh, trước kia có nhiều công trạng với đời Võ-vương nên được phong làm Tô-công. Đến sau Phận-Sanh thác, con Phận- Sanh bị nước Địch hiếp chế cho nên phải bỏ vua thờ địch . Qua đến đời Châu hoàn-vương mới lấy đất Tô-công phong cho Trịnh, vì vậy Tô-công mất đất đem lòng oán hận nhà Châu gặp lúc Vương tử Đồi trốn sang , bàn mưu mượn binh nước Vệ để phản loạn. Còn Vệ huệ-công tức Vệ-Sóc trước kia có cư hiềm với vua Châu việc phong lập cho Kiềm-Mâu, nên cố lòng giúp sức, cử đại binh sang đánh . Châu công Kỵ-phủ và Châu bá-Liên cự không lại phải phò Châu huệ-vương chạy sang đất Yên. Hiện nay Vương tử Đồi đã chiếm ngôi , nhưng lòng dân không phục. Nếu chúa-công đem quân đến đất Yên rước Châu Huệ-vương về Lạc-vương, khôi phục được vương-vị thì ắt đặng công lớn với triều đình.

Trịnh lệ Công khen phải, những lại nghĩ rằng :

– Vương tử Đồi là nhu nhược, đặng thành công là nhờ sự giúp đỡ của nước Vệ. Nay trước tiên phải đem lời lẽ phân giải, nếu Vương-tử Đồi không nghe

ta sẽ dùng đến binh lực cũng chẳng muộn.

Nghĩ như vậy , một mặt sai người đến đất Yên đón Châu huệ-Vương , một mặt sai người đưa thư cho Vương-tử Đồi.

Thư rằng :

Tôi, Trịnh đột, được nghe người ta nói : hễ làm tôi phạm đến vua là bất trung, làm em nghịch với anh là bất thuận. Người đã bất trung bất thuận ắt trời chẳng dung . Nay Vương-tử nghe lời bọn dua nịnh, đuổi thiên-tử đoạt ngôi là điều quấy. Nếu Vương-tử biết ăn-năn , rước Thiên-tử về bó mình chịu tội , sẽ không mất phú-quí, xin Vương-tử nên xét lại.

Vương-tử Đồi tiếp được thư, lòng lưỡng lự, Vỉ-Quốc quỳ tâu:

– Tâu Bệ-hạ, ngày nay Bệ-bạ chẳng khác nào như người đang cởi trên lưng cọp. Nếu bước xuống ắt bị cọp phân thây. Vả lại mình đang làm Thiên-tử lại trở xuống làm tôi là chuyện không thể được . Trịnh đột muốn lừa Bệ-hạ đó, xin Bệ-hạ chớ nghe theo.

Vương-tử Đồi bèn đuổi sứ Trịnh trở về nước.

Trịnh lệ-công-tức giận họp lực với Quắc-công (chúa nước Quắc) , cất quân phò Châu huệ-vương kéo đến Lạcđương vấn tội.

Quân-sĩ Vỉ-quốc thất kinh chạy vào cung tâu lại với Vương-tử Đồi.

Lúc đó vương-tử Đồi đang bận cho Trâu ăn nên không ra tiếp.

Vĩ-quốc nói lớn :

– Việc nguy cấp lắm rồi !

Nói xong giả mệnh vua sai các tướng đem quân đối địch.

Quân sĩ nhà Châu vốn không phục Vương-tử Đồi nên ra khỏi thành đều bỏ chạy về phía Châu huệ-vương.

Vỉ-Quốc thấy vậy vội vã thảo chiếu sang nước Vệ cầu cứu . Nhưng tờ chiếu thảo chưa xong, đã nghe quân báo :

– Châu huệ-Vương đã vào thành ngự triều rồi.

Vỉ-Quốc biết không thể thoát nỗi , liền đâm gươm vào cổ tự vận .

Chúc-quy và Tử-cầm bị chết giữa đám loạn quân , còn Biên-bá và Thiềm-phủ thì bị bá tánh bắt trói đem nạp.

Vương-tử Đồi thì chạy ra cửa phía Tây, khiến Thạch-tốc lùa trâu đi trước . Nhưng vì trâu quá mập nên đi chậm , quân Trịnh hay được đuổi theo bắt lại .

Châu huệ-vương khiến quân dẫn Vương-tử Đồi, Biên-Bá , Thiềm-phủ và Thạch-tốc ra pháp trường xử trảm .

Đoạn cắt đất Hô-lao thưởng cho nước Trịnh, và lấy đất Tử-Toàn thưởng cho nước Quắc.

Trịnh lệ-công và Quắc-công cáo từ về nước.

Trịnh lệ-công về mới nữa đường bị mang bịnh mà thác .

Quần thần lo việc an-táng rồi tôn Thế-tử Tiệp lên ngôi, hiệu là Trịnh Văn-Công.

Lúc đó, Trịnh lệ-công lại còn có một người con tên Công-tử Huấn, tên chữ là Kỉnh-trọng, có chơi thân với Công-tử Ngự-khấu . Về sau Công-tử Ngự-khấu toan cướp ngôi Trần tuyên-công , nên bị Trần tuyên-công giết đi . Công-tử Kỉnh-trọng sợ liên luỵ đến mình, bỏ nhà trốn sang nước Tề, được Tề hoàn-công phong chức Công-chính.

Một hôm, Tề hoàn-công đến chơi nhà Kỉnh-trọng, uống rượu đàm đạo rất vui . Gặp trời tối, Tề hoàn-công sai thắp đèn lên để uống thêm cho trọn cuộc.

Kỉnh-trọng nói :

– Tôi không tính đãi tiệc Chúa-công lúc ban đêm, vì vậy nên không dám đốt đèn, xin Chúa-công miễn chấp .

Tề hoàn-công cười lớn, nói :

– Kỉnh-trọng giữ lễ với ta như thế thực là hiếm có .

Nói xong, từ giã ra về.

Từ ngày ấy Tề hoàn-công thường khen Kỉnh-trọng là một hiền thần, và cắt đất phong cho Kỉnh-Trọng . Đến sau con cháu của Kỉnh-trọng nối nghiệp và Kỉnh-trọng là Thỉ-tổ của họ Điền.

Lại nhắc qua việc Văn-khương từ ngày Tề tương-công qua đời, lòng thương tiếc chẳng cùng. Và cũng vì thương tiếc thái quá mà mang tâm bịnh.

Một hôm, nội thị đưa viên thầy thuốc nước Cử đến xem mạch điều trị, Văn-khương chạnh lòng nhớ đến chuyện xưa, liền lưu vị thầy thuốc lại trong cung để ăn uống và vui hưởng hoan lạc.

Thấy Văn-khương quá dâm dục, biết mình không phải là tay đối thủ, vị thầy thuốc vội từ giã trở về nước Cử .

Văn-khương lại giả cách đi tìm thầy thuốc, ghé qua nước Cử , đến nhà vị thầy thuốc đó đôi ba phen .

Vị thầy thuốc không biết tính sao phải tìm người khác thay mình để làm cho Văn-khương vừa ý . Nhưng Văn-khương vẫn không hài lòng, tiếc rằng không bằng được Tề tướng-công thuở trước.

Qua năm thứ tư của Châu huệ-vương , bịnh của Văn-khương càng ngày càng nặng, tính không sống được lâu, bèn trở về nước Lỗ mà thác.

Trong lúc lâm chung , Văn-khương trối với con là Lỗ trang-công :

– Con của anh ta đã đặng mười tám tuổi, theo lời hứa thuở nọ, con nên mau cưới về, đừng câu chắp. Được như thế mẹ mới mát lòng nơi cửu tuyền.

Lỗ trang-công cúi đầu tuân lời mẹ, Văn-khương lại dặn :

– Nước Tề đương dựng nghiệp bá, oai thế càng ngày càng mạnh, con chớ nên bỏ việc giao hảo.

Nói rồi trút hơi thở cuối cùng.

Nhắc đến Văn-khương, người sau có thơ rằng :

Non nước đầy vơi thật khó lường

Ngàn đời còn mãi gái Văn-khương

Trăm năm miệng túi càn khôn khép

Lòng chửa phôi-pha mảnh má hường.

Lỗ trang-công chôn cất xong, tính theo lời di-chúc nghị việc hôn nhân

Quan Đại-phu Tào-quới can :

– Đại tang chửa mãn , xin Chúa-công hãy thư thả đã.

Lỗ trang-công nói :

– Lời mẹ ta đã dạy, nếu trái lời e bất hiếu. Song cưới vợ trong lúc tang chế lòng ta không an. Vậy thì, chờ đến giáp năm sẽ tính việc ấy.

Qua năm sau, Lỗ trang.Công cho người qua Tề cầu hôn.

Tề hoàn-công nói :

– Lỗ-hầu chửa mãn tang. Xin chờ đến hai năm nữa đã.

Vào năm thứ bảy của Châu huệ-vương, Lỗ trang-công hết tang mẹ thì đã ba mươi bẩy tuổi, mới cưới được con gái Tề tướng-công đem về Lỗ, tức là nàng Ái-khương.

Từ ngày Khương-thị về Lỗ, Tề và Lỗ giao-hảo rất thân thiết.

Tề hoàn-công lại khiến Lỗ trang-công hiệp binh đánh nước Từ và nước Nhung.

Hai nước này không dám chống cự, phải đem lễ vật triều cống, chịu làm tôi nước Tề.

Chương 20: Tấn Hiến công mê sắc lập Ly cơ – Sở Thành Vương chuộng tài phong Đấu Cấu

Trịnh văn-công thấy uy thế nước Tề mỗi ngày một mạnh, sợ đem binh đến đánh nước mình, bèn sai sứ cầu hòa.

Vào năm Châu huệ-vương thứ mười, Tề hoàn-công họp các nước Tống, Lỗ, Trần, Trịnh nơi đất U làm lễ huyết-thệ.

Từ ấy, các nước đều tùng phục nước Tề.

Sau lễ huyết-thệ, Tề hoàn-công trở về nước bày tiệc khao thưởng các quan. Tiệc nữa chừng, Bảo thúc-nha rót một chén rượu đầy dâng cho Tề hoàn-công và chúc thọ.

Tề hoàn-công rất đẹp lòng nói :

– Tiệc rượu ngày hôm nay vui vẻ biết bao !

Bao thúc-nha tâu :

– Bậc minh-quân, hiền-sĩ tuy vui mà chẳng quên lo . Chúa-công chớ nên quên những ngày chạy trốn sang nước Cử, Quản-Trọng chớ quên những ngày ở trong tù xa, Ninh-thích đừng quên lúc cỡi trâu dưới núi.

Tề hoàn-công cười lớn, đứng dậy xá hai cái, và nói :

– Nếu chúng ta không bao giờ quên những lúc gian nan, đó là phúc lớn cho nước ta đó.

Ngày ấy Chúa tôi vui vầy, rượu càng say, lòng người càng hoan-hỉ .

Một hôm, có sứ nhà Châu sai đến.

Tề hoàn-Công vội vã ra nghinh-tiếp.

Sứ triều truyền chỉ phong cho Tề-hầu làm Phương-bá, có quyền đem quân vấn tội các chư-hầu.

Lại giao cho Tề hoàn-công một tờ mật chiếu như sau :

Vệ hầu Sóc, đem quân giúp Vương-tử Đồi, gây loạn Thiên-triều , lòng trẫm tích oán đã mười năm, song chưa chinh phạt đặng. Nay trẫm cậy khanh toan liệu việc ấy mà rửa hờn cho trẫm.

Tề hoàn-công bái mạng, rồi đưa Thiên-sứ về nước .

Cách đó không lâu, Tê hoàn-Công hưng binh phạt Vệ.

Lúc ấy Vệ huệ-công (tức Vệ-sóc) đã qua đời , con là Thế-tử Xích lên nối ngôi xưng hiệu Vệ ý-công.

Vệ ý-công nghe binh Tề kéo đến, không cần hỏi nguyên do, cứ việc đem quân ra thành chống cự. Nhưng đánh không lại, bị thua một trận khá lớn, phải kéo binh trở về cố thủ.

Tề hoàn-Công đem binh vây thành hạch tội Vệ huệ-Công thuở trước.

Vệ ý-công nói :

– Đó là lỗi của Tiên-quân ta, đâu có can hệ gì đến ta mà sợ !

Nói rồi sai con trưởng là Khai-phương đem lễ vật xin giảng hòa .

Tề hoàn-công nói :

– Theo phép nhà Châu ta thì không bắt tội đến con cháu. Nay Vệ huệ-công đã chết, ta cũng nên khoan thứ.

Nói rồi, thâu lễ vật , thừa nhận việc cầu hòa, rồi rút quân về nước.

Công-tử Khai-phương thấy nước Tề cường-thịnh, xin được làm quan nơi nước Tề .

Tề hoàn-công nói :

– Ngươi là con trưởng của Vệ-hầu, tất ngày sau lên nối ngôi , tại sao lại bỏ ngôi của mình mà sang làm tôi ở nước ta ?

Công-tở Khai-phương tâu :

– Chúa-công là bậc hiền đức trong thiên-hạ, nếu được hầu hạ chúa-công tôi tưởng còn sung sướng hơn là làm vua.

Tề hoàn-công suy nghĩ, rồi phong cho Khai-phương làm quan Đại phu, và cũng thân yêu như bọn Thụ điêu và Dịch-Nha vậy.

Người nước Tề gọi ba người này là “Tam quí” . Nghĩa là ba người

được vua tin nhứt.

Công-tử Khai-phương lại nói với Tề hoàn-công rằng :

– Vệ huệ-công trước kia còn lại một người con gái rất đẹp , chưa định vu-quy.

Tề hoàn-công hỏi :

– Con gái Vệ huệ-công là Vệ-Cơ ta đã cưới về làm phu-nhân rồi , nay còn một người em nữa sao ?

Công-tử Khai-phương nói :

– Tâu Chúa-công, thật đúng vậy. Nàng này là em nhưng nhan sắc còn mặn mà hơn.

Tề hoàn-công mừng rỡ sai người đến thương lượng với Vệ ý-Công , xin rước về làm tiểu thiếp.

Vệ ý Công không dám trái lời, phải đưa Vệ-Cơ sang Tề.

Tề hoàn-Công gọi người chị là Trưởng Vệ-Cơ, người em là Thiếu Vệ-Cơ để

phân biệt. Hai chị em đều được Tề hoàn-công yêu chuộng cả.

Đây nói qua việc Tấn. Chúa nước Tấn lúc bấy giờ là Tấn hiền-Công , con của Xưng đại tức là Tấn Võ-công.

Hiến-công lúc còn làm Thế-tử, cưới nàng Giả-thị làm chánh thất nhưng không con, bèn cưới cháu gái của Khuyển-Nhung là Hồ-Cơ làm thứ thất, sinh đặng một trai là Trùng-nhĩ . Sau đó lại cưới thêm con gái họ Doãn, sinh đặng một trai là Di-ngô.

Lại nữa, trong lúc Tấn võ-Công còn sang có cưới nàng Tề-Khương, con nhà tôn-thất nước Tề làm tiểu thiếp. Nhưng Tấn võ-công đã già, còn nàng Tề-khương còn trẻ, nên Hiến-Công tư thông với Tề-khương (tiểu thiếp của cha) ăn ở với nhau sinh đặng một trai là Thân-sanh.

Đến lúc Hiến-công lên ngôi, thì chánh thất Giả-thị đã qua đời .

Tấn hiến-công bèn lập nàng Tề-Khương lên làm chánh-thất, và con nàng Tề-khương là Thân-sanh lên làm Thế-tử, mặc dầu lúc đó Trùng-Nhĩ, Di-ngô, cũng là con của Tấn hiền-công, đã lớn tuổi hơn .

Sau đó Tề-khương sinh thêm được một gái nữa, mới mãn phần .

Nàng Tề-khương chết , Tấn hiến-công cưới em gái nàng Giả-thị là Giả-quân làm tiểu thiếp, nhưng Giả-quân cũng không con, Tấn hiến-Công bảo phải nuôi con gái mới sinh của Tề-khương làm con nuôi.

Chưa hết, Tấn hiến-công lên ngôi được mười lăm năm , cử binh sang đánh nước Ly-nhung. Chúa Ly-nhung bị thua, dâng hai người con gái cho Tấn hiến-công mà cầu hòa. Hai người con gái ấy , người lớn là Ly-cơ, người nhỏ là Thiếu-Cơ. Nàng Ly-cơ xinh đẹp phi thường, nhan sắc không thua Tức-Vĩ , tướng mạo không nhường Đắc-Kỷ, lại thêm lòng dạ nham hiểm, đũ mánh khoé làm say lòng người , do đó Tấn hiến-công rất yêu chuộng.

Chẳng bao lâu, Ly-cơ sanh đặng một trai là Hề-Tề, còn Thiếu-Cơ cũng sanh đặng một trai là Trác-tử .

Vì quá yêu nàng Ly-cơ, Tấn hiến-công không còn thiết gì đến mối tình nàng Tề-Khương thuở trước, muốn lập Ly-Cơ lên làm chánh-thất, bèn đòi quan Thái-bốc là Quách-yến vào triều bảo :

– Khanh thử bói một quẻ xem ta lập Ly-cơ lên chánh-thất có đặng chăng ?

Quách-yến tuân lời gieo quẻ, rồi nói :

– Quẻ không tốt. Điềm ứng việc thay đổi lộn xộn không hay.

Tấn hiến-công không tin, truyền quan Sử-tô bói lại.

Quan Sử-tô cũng cho là xấu, và nói :

– Tâu Chúa-công, chư-hầu không đặng cưới vợ hai lần , nay Chúa-công đã lập chánh thất rồi, mặc đầu chánh thất sớm lìa trần nhưng vẫn có con trai. Nếu Chúa-công lập chánh-thất nữa thật trái lẽ .

Tấn hiến-công không nghe, chọn ngày cáo với Thái-miếu , rồi lập Ly-cơ làm Chánh-cung, Thiếu-cơ làm Thứ-phi.

Sử-tô thấy vậy thở dài , nói riêng với quan Đại-phu Lý-khắc :

– Nước Tấn ta sắp mắt rồi ! Biết làm sao !

Lý-khắc nghe nói giật mình hỏi :

– Sao thế ! Ai làm mất nước Tấn ?

Sử-tô đáp :

– Nước Tấn ắt phải bị mất về tay nước Ly-nhung. Ngày xưa vua Kiệt nhà Hạ, đánh nước Thi , người nước Thi dâng nàng Muội-Hỉ, vua Kiệt yêu Muội-Hỉ mà nhà Hạ mất. Vua Trụ nhà Ân đánh nước Tô, người nước Tô dâng Đắc-kỷ, vua Trụ yêu Đắc-Kỷ mà nhà Ân mất. Vua U-vương nhà Châu đánh nước Bao, người nước Bao dâng Bao-tự, vua U-vương yêu Bao-tự nên nhà Tây Châu suy mất. Nay Chúa-công đi đánh nước Ly-Nhung người Ly-Nhung, dâng gái đẹp mà Chúa-Công say mê như thế , lẽ nào nước Tấn còn được.

Lúc đó có quan Thái-bốc là Quách-yến bước vào, Lý-khắc đem những lời của Sử-tô thuật lại.

Quách-yến nói :

– Cứ theo quẻ, thì nước Tấn ta bị loạn chứ chưa mất , vì tiên-quân ta mới được thọ-phong ở nước Tấn này, nên vận nước còn dài.

Lý Khắc hỏi :

– Đến bao giờ thì loạn ?

Quách-yến nói :

– Chi trong mười năm nữa mà thôi.

Ba vị đại thần nhìn nhau buồn bã rồi lui về.

Kế đó, Tấn hiến-công tỏ ý muốn lập con trai nàng Ly-cơ lên làm Thế-tử. Một hôm nói với Ly-cơ :

– Nay phu nhân ở chức chánh cung, chẳng lẽ không lập Hề-Tề , con trai của phu-nhân, lên làm Thế-tử sao phải lẽ ?

Ly-cơ nghe nói lòng mừng khấp-khởi, nhưng nàng vốn là một kẻ mưu mô, thâm hiểm, bèn nghĩ thầm :

– Thân-sanh được phong Thế-tử đã lâu , nay vô cớ mà phế đi ắt quần thần chẳng phục. Hơn nữa Trùng-nhĩ và Di-ngô lại thân mật với Thân-sanh lắm. Nếu bây giờ nói ra chưa làm chi được, mà họ lại biết trước đề phòng, thì sau này rất khó.

Nghĩ như vậy, bèn tâu với Tấn hiến-công :

– Khi Chúa-công lập Thế-tử Thân-sanh, cả chư-hầu đều biết. Nay Thế-tử không có tội gì mà Chúa-công tính việc phế-lập, thiếp thà chết chứ không dám vâng mệnh.

Tấn hiến-công ngỡ Ly-cơ có lòng tốt , khen ngợi vô cùng, rồi bỏ qua việc ấy không nói đến nữa.

Trong triều có hai người tôi được Tấn hiến-công rất yêu mến.

Một người là Lương-ngũ và một người là Đông quang-ngũ. Cả hai họp sức với Tấn hiến-công lo việc quốc-chính. Vì được yêu dùng nên hai người này làm lắm chuyện lộng quyền, đến nỗi người nước Tần gọi là “nhị-ngũ” . Nghe tiếng “nhị-ngũ” ai cũng phải sợ.

Cũng trong lúc ấy, có một phường hát tên Ưu-thi, trẻ tuổi, đẹp trai, có tài khôi hài rất duyên dáng, vì vậy Tấn hiến-công rất thích , cho phép được tựđo ra vào cung điện, không ai ngăn cấm cả.

Ly-cơ được thế, tư tình với Ưu-thi, hai bên tỏ ra tương đắc .

Một hôm, Ly-cơ đem ý muốn lập Thế-tử Hề-Tể nói với Ưu-Thi .

Ưu Thi đáp :

– Ba vị Công-tử kia còn ở tại Kinh đô, việc đó khó thực hiện được . Nay phải tìm cách đưa ba người ra trấn cõi ngoài rồi tùy cơ ứng biến.

Ly-cơ hỏi :

– Thế thì ta đem ý ấy bàn với Chúa-công có đặng chăng ?

Ưu-thi nói :

– Không nên, nay trong triều có “nhị ngũ” nói gì mà Chúa-công chẳng nghe . Phu-nhân nên đem vàng bạc mua lòng mà giao kết với họ. Hễ “nhị ngũ” thưa thuận thì việc chẳng khó gì .

Ly-cơ liền đưa vàng bạc cho Ưu-thi đem lo lót cho Lương-Ngũ và Đông quang-ngũ.

Ưu Thi lãnh mạng, đến nhà Lương-ngũ trước và nói :

– Thưa ngài, phu-nhân muốn làm đẹp lòng ngài nên sai tôi đem lễ vật đến đây, mong ngài không từ chối .

Lương-ngũ nghe nói, ngạc nhiên hỏi :

– Phu-nhân có dặn điều chi chăng ? Nếu không nói rõ tôi đâu dám nhận ?

Ưu Thi đem mưu kế của Ly-cơ , thuật lại.

Lương-ngũ nói :

– Việc này phải có Đông quang-ngũ giúp sức mới xong.

Ưu Thi nói :

– Phu-nhân củng có lễ vật biếu Đông-quang-ngũ như ngài.

Hai người liền dắt nhau đến nhà Đông quang-ngũ để cùng nhau đàm luận.

Sáng hôm sau, Lương-Ngũ vào triều thưa với Tấn hiến-công :

– Đất Khúc-ốc là chỗ Tiên-quân thuở xưa lập nghiệp, hiện nay tôn miếu hãy còn. Còn đất Bồ và đất Khuất, tiếp giáp với Nhung định là một nơi trọng địa. Ba chỗ ấy cần phải có người ra trấn thủ, xin Chúa-công sai Thế-tử Thân-sanh ra trấn nơi Khúc-ốc, Công-tử Trùng-Nhĩ ra trấn nơi đất Bồ và Công-tử Di-ngô ra trấn nơi đất Khuất . Được như vậy giang-san nước Tấn mới vững vàng.

Tấn hiến-công nói :

– Đất Khúc-ốc thì phải rồi, còn đất Bồ và đất Khuất là hai nơi hoang địa, tại sao lại phải cho hai vị Công-tử ra trấn giữ ?

Đông quang-Ngữ quỳ tâu :

– Tuy hoang địa nhưng lại là nơi trọng địa. Nếu xây thành sửa sang cho kiên cố thì đất ấy trở nên trù mật. Và nước Tấn sẽ giàu mạnh hơn các chư hầu.

Tấn hiến-Công nghe lời sai Thế-tử Thân-sanh ra trấn thủ nơi Khúc-ốc, có quan Thái-Phó Đỗ nguyên-Khoản theo hầu . Công-tử Trùng-Nhỉ ra trấn nơi đất Bồ, có Hồ-Mao theo hầu . Công-tử Di-Ngô ra trấn nơi đất Khuất, có Lã di-Sảnh theo hầu .

Ba vị Công-tử đi rồi trong triều chỉ còn có Hề-Tề và Trác-tử gần gũi Tấn hiến-công .

Nàng Ly-cơ lại tìm hết mánh khóe để làm say lòng vua Tấn.

Lức bấy giờ Tấn hiền-công chia quân ra làm hai đạo : Thượng quân và hạ quân. Đạo thượng quân thì do Tấn hiến-công điều khiển, còn đạo hạ quân thì giao cho Thế-tử Thân-sanh xử dụng.

Thân-sanh cùng với quan Đại-phu Triệu-Túc và Tất-Vạn kéo quân sang chinh phục nước Cảnh, nước Quắc và nước Ngụy.

Ba nước này đánh không lại phải đầu hàng.

Vì vậy công lao của Thế-tử Thân-sanh rất lớn.

Mà cũng vì vậy, nàng Ly-cơ ngày đêm buồn bã, tính chưa ra kế để làm hại Thế-tử Thân-sanh được.

Đây nói đến việc nước Sở. Từ khi Sở văn-vương tạ thế, Hùng-hi lên nối ngôi. Hùng-Hi và Hùng-Vận cùng là con nàng Tức-Vĩ sinh ra, nhưng Hùng-vận tài trí hơn anh , do đó Tức-Vĩ có lòng yêu dấu . Cả đến người trong nước cũng mến phục.

Hùng-hi thấy vậy muốn tìm kế giết Hùng-vận đi để khỏi di-họa về , sau ngặt vì Hùng-vận được các quan trong triều hết lòng che chở , nên Hùng-hi không tìm ra kế.

Lần hồi, Hùng-hi chán nản, bỏ bê việc triều chính, thích săn bắn nơi chốn hoang vu . Vì vậy, Hùng-hi lên ngôi đã hơn ba năm mà chưa chỉnh đốn được việc gì cả.

Một hôm, Hùng-vận mật sai người đón đường giết Hùng-hi đi , rồi nói dối với Tức-vĩ là Hùng-hi đi săn gặp tai nạn mà thác.

Tức-Vĩ lòng nghi ngờ nhưng không tiện nói ra, bèn truyền cho các quan lập Hùng-vận lên nối ngôi, hiệu là Sở thành-vương.

Sở thành-vương phong cho người chú là Vương-tử Nguyên làm Tể-tướng.

Vương-tử Nguyên từ khi Sở văn-vương chết đi, đã có ý muốn cướp ngôi, lại thấy chị dâu là Tức-Vĩ, nhan sắc tuyệt vời, đem lòng ham muốn. Trước kia, vì sợ Đấu bá-tỷ là một Đại-thần cương-trực , lại có nhiều tài trí nên chẳng dám làm càn . Nay Đấu bá-tỷ đã chết, Vương-tử Nguyên không còn kính trọng ai nữa, mới lập lên một ngôi nhà bên cạnh cung Tức-Vĩ, ngày đêm bắt vũ-nhạc múa hát, cốt làm cho Tức-Vĩ say lòng.

Tức-Vĩ nghe tiếng, hỏi bọn thế nữ :

– Tiếng đờn ca ở đâu mà gần thế ?

Bọn thế-nữ tâu :

– Đó là tiếng nữ-nhạc bên nhà mới của quan Tể-tướng đó.

Tức-Vĩ thở dài nói :

– Tiên-quân ngày xưa chăm lo luyện tập binh-sĩ đánh dẹp các chư hầu, vì vậy các nước đều thần phục. Bây giờ quân nước Sở ta đã mười năm nay, không tiến được nữa bước trên đất Trung-quốc , thế mà quan Tể-tướng không nghĩ những điều xấu hổ ấy lại bày việc đờn ca, hát xướng bên cung gái góa này, thật lạ lùng làm sao !

Nội-thị đem mấy lời ấy thuật lại với Vương-tử Nguyên.

Vương-tử Nguyên lấy làm xấu hổ , nghĩ thầm :

– Một người đàn bà còn có chí như vậy, lẻ nào ta đây là một đấng trượng-phu lại chẳng nghĩ đến sao ! Nếu không đánh được nước Trịnh quyết chẳng

làm người.

Nói rồi, điểm sáu trăm cỗ binh xa, khiến Đấu ngự-cương và Đấu Ngô làm tiên-phuông, Vương-tôn Du và Vương-tôn Gia đi hậu tập rầm rộ kéo đến nước Trịnh.

Trịnh văn-công nghe tin binh Sở kéo đến đánh liền hội quần-thần thương nghị.

Đỗ-thúc nói :

– Quân-sở rất hùng mạnh, ta làm sao địch lại , chi bằng xin giảng hòa rồi sẽ tính.

Sư Thúc nói :

– Nước ta đã có minh thệ với Tề, nếu cầu cứu ắt Tề đem binh đến giúp. Xin cứ cố-thủ chờ viện binh.

Thế-tử Hoa bấy giờ còn trẻ tuổi, lòng bồng-bột nghe nói vội xin đem quân ra đối địch.

Trịnh văn-công chưa quyết lẽ nào, Thúc-thiêm quỳ tâu :

– Trong ba lời nói vừa rồi, chỉ có lời của Sư-thúc là hợp ý tôi . Tôi đoán binh Sở chẳng bao lâu phải kéo về.

Trịnh văn-công hỏi :

– Vương-tử Nguyên đã đem binh đến đây, nếu không bị thua lẽ nào chịu lui về.

Thúc-thiêm nói :

– Xưa nay nước Sở đi đánh nước ngoài chưa bao giờ dùng binh lực nhiều như thế. Lần này Vương-tử Nguyên cốt ý làm cho vừa lòng Tức-Vĩ. Nhưng đã cố thắng tất sẽ thua. Vì vậy không đáng sợ .

Các quan còn đang thương nghị bỗng có tin báo :

– Binh Sở đã phá đặng Kiết-thất quan, nay đã vào đến Thuần-môn rồi.

Đỗ-thức nói :

– Ấy vậy, nếu không muốn giảng hòa thì phải qua nơi đất Đồng-khâu để tránh nhuệ khí của giặc .

Thúc-thiêm nói :

– Đừng sợ gì cả ! Tôi đã có kế làm cho quân giặc phải lui .

Nói xong, sai quân giáp sĩ mai phục trong thành, rồi khiến mở bét cả bốn cửa thành ra. Dân sự, chợ búa vẫn đi lại như thường.

Tướng nước Sở là Đấu ngự-cương vừa kéo quân đến thầy vậy lòng nghi ngờ, nói với Đấu-ngô :

– Ta đến đây mà quân Trịnh không chút gì xao dộng, tất có mưu kế chi đây. Ta không nên tiến quân vội, phải án binh đợi quan Tể-tướng đã.

Nói xong, truyền đóng quân ngoài thành, cách xa năm dặm .

Được một lúc, đại binh của Vương-tử Nguyên kéo đến, Đấu ngự-Cương cáo-báo lại quân tình.

Vương-tử Nguyên lấy làm lạ, trèo lên chỗ cao xem, thấy trong thành Trịnh quân-sĩ có thứ lớp, cờ xí rộn-ràng, liền thở dài, nói :

– Nước Trịnh có ba người tài (ý nói Thúc-thiêm, Đỗ-Thúc và Sư-thúc) ắt có mưu kế chi đây. Nếu ta sơ-xuất còn mặt mũi nào trông thấy nàng Tức-Vĩ. Chi bằng cho quân thám thính kỹ, nắm được địch mình rồi sẽ liệu.

Ngày hôm sau, có quân thám thính về báo :

– Quân nước Tề , Lỗ, Tống đồng hưng binh qua cứu Trịnh.

Vương-tử Nguyên giật mình, bảo các tướng :

– Nay các nước chư hầu đem binh đến đây, trong đánh ra, ngoài đánh vào, quân ta cự sao lại. Thôi thì ta tiến quân được đến đây cũng gọi là thắng trận rồi. Bây giờ rút lui về nước thì tiện hơn .

Nói xong, truyền quân-sĩ cuốn cờ im trống, ngay đêm hôm ấy lẻn ra khỏi địa-giới nước Trịnh.

Nhưng khi về đến biên giới nước Sở lại truyền mở cờ đánh trống lên ầm-ĩ.

Về chưa đến Kinh-thành Vương-tử Nguyên đã sai người đến báo cho Tức-Vĩ hay tin quân Sở đắc thắng khải-hoàn.

Tức-Vĩ nói :

– Nếu quan Tề-tướng đắc thắng thì cáo-tế với nhà Thái-miếu, rồi truyền bá cho dân chúng biết chứ nói với gái góa này làm chi ?

Quân về báo lại. Vương-tử Nguyên thẹn thùng, lểnh mểnh đem quân vào thành mặt buồn khôn xiết.

Cũng trong đêm ấy, tại nước Trịnh, Thúc-thiêm thấy bốn bề yên lặng, mới cho người ra dò xét.

Quân vào báo :

– Trại quân Sở không còn một bóng người.

Thúc-thiêm dẫn các quan lên mặt thành xem, rồi chỉ vào trại địch nói :

– Quân Sở đã bỏ trốn rồi.

Các tướng không tin hỏi :

– Tại sao ngài biết được ?

Thúc-thiêm nói :

– Dinh quan Đại tướng bao giờ cũng phải có quân canh gác cẩn mật, nay thấy có đàn quạ đậu trên cây mà kêu thì biết đó là trại không người. Tôi chắc rằng quân Sở hay tin các nước chư hầu kéo đến nên đã âm thầm rút lui.

Đang lúc bàn bạc, bỗng có quân vào báo :

– Quân các nước chư hầu vừa kéo đến biên giới, hay tin quân Sở đã bỏ về nên các chư hầu đem binh trở lại.

Ai nấy vỗ tay reo hò, khen ngợi Thúc-thiêm là người cao kiến.

Trịnh văn-công mừng rỡ, mở tiệc vui vầy, Chúa tôi hỉ-hạ.

Còn Vương-tử Nguyên, từ khi đi đánh nước Trịnh không được công-trạng gì lại bị Tức-Vĩ thờ ơ, lãnh đạm, lòng áy-náy muốn cướp ngôi nước Sở. Tuy nhiên, Vương-tử Nguyên lại định ý tư thông với Tức-Vĩ trước đã.

Gặp lúc Tức-Vĩ bị bệnh, Vương-tử Nguyên giả cách vào thăm , rồi ở mãi trong cung, không chịu về.

Quan Đại-phu là Đấu-liêm hay được, liền vào cung thấy Vương-tử Nguyên đang soi gương, chải đầu.

Đấu-liêm nói :

– Quan Tể-tướng dẫu là chú vua, nhưng vẫn là kẻ bề tôi. Vã lại, quốc-mẫu góa chồng, nam nữ nên tị-hiềm, sao Tể-tướng không nghĩ đền điều ấy.

Vương-tử Nguyên nỗi giận nói :

– Quyền bỉnh nước Sở hiện ở trong tay ta. Sao ngươi dám nói càn .

Liền sai bọn thủ-hạ bắt Đấu-liêm trói lại, giam vào ngục.

Tức-Vĩ thấy hành động lăng-loàn của Vương-tử Nguyên liền sai nội thị đến báo với Đấu-cấu ô đồ (con của Đấu bá-tỷ) tìm mưu diệt loạn.

Đầu-cấu ô đồ tâu với Sở thành-vương, rồi cùng với Đấu ngự-cương, Đấu-ngô và Đấu-bàn (con của Đấu-cấu) đem quân vào cung.

Vương-tử Nguyên đang vui say với bọn cung-nữ, nằm ngủ mơ màng, nghe tiếng quân reo, giật mình thức dậy, cầm gươm chạy ra.

Vừa đền cửa, gặp Đấu-ban bên ngoài cầm kiếm xốc tới .

Vương-tử Nguyên hét to :

– Thằng ranh con này, mày dám đến đây tác-loạn sao ?

Đấu Ban nói :

– Ta đâu có làm loạn, ta đến để trừ loạn đấy chứ !

Nói xong vung kiếm chém Vương-tử Nguyên.

Hai bên đánh một lúc thì Đấu-ngô và Đấu ngự-cương đến tiếp ứng .

Vương-tử Nguyên nhắm thế cự không lại bõ chạy .

Đấu-ban rượt theo chém một nhát, rơi đầu.

Giết được Vương-tử Nguyên rồi, Đấu-cấu ô đồ mở trói cho Đấu Liêm rồi cùng nhau đến thăm Tức-Vĩ.

Xảy có lệnh Sở thành-vương triệu tập quần thần để chọn người thay thế Vương-tử Nguyên làm chức Tể-tướng.

Các quan tề tựu đũ mặt.

Sở thành-Vương muốn chọn Đấu-Liêm, nhưng Đấu-liêm một mặt chối từ, nói :

– Hiện nay nước ta có một đối thủ đáng sợ là nước Tề .

Nước Tề dùng Quản-Trọng và Ninh-Thích mà nước giàu, quân mạnh, nay Đại-vương muốn chỉnh đốn lại nước Sở tất phải dùng Đấu Cấu Ô đồ mới được.

Chương 21: Quản Trọng đoán thần Du nhi – Tề hầu đánh nước Cô Trúc

Quân Sơn-nhung tức là nước Linh-Chi , phía Tây giáp nước Yên , phía Đông Bắc giáp với Tề và Lỗ. Chúa nước Linh-chi ỷ mình là nơi hiểm địa, không ai dám xâm lấn nên chẳng chịu tùng phục ai, lại còn phá phách nhiều nơi, cướp bóc của cãi .

Trước đây, đã một lần xâm lấn nước Tề, bị Thế-tử Hốt nước Trịnh, đem binh giúp Tề đánh một trận phải lui về . Nay nghe nước Tề làm bá chủ, nên cử đại binh sang đánh nước Yên, mục đích làm cho nước Yên sợ oai mình, không dám tùng phục Tề nữa .

Nước Yên cự không lại, phải sai sứ sang Tề cầu cứu .

Tề hoàn-công hay tin hỏi Quản-trọng :

– Nước Yên bị giặc Sơn-nhung xâm lấn, ta phải làm cách nào để cứu nước Yên .

Quản-trọng nói :

– Yên là một nước trong hội minh chủ, nay đã cầu cứu thì không bỏ qua được. Vả lại, quân Sơn-Nhung lâu nay không tùng-phục nhà Châu, ta cũng nên mượn cớ mà đem quân chinh phạt.

Tề hoàn-công nhậm lời, kiểm điểm binh mã kéo đi .

Khi qua đến sông Tề-thức thuộc địa giới nước Lỗ, Lỗ trang-công thân hành đến nơi tiếp đón, làm tiệc đãi đằng.

Lỗ trang-công nói :

– Minh công đánh được quân Sơn-nhung chẳng những nước Yên đội ơn, mà nước Lỗ tôi cũng lấy làm toại nguyện . Vậy xin Minh-công cho tôi được đem quân giúp sức.

Tề hoàn-công nói :

– Tôi không dám làm phiền Hiền hầu đến những nơi hiểm địa ấy . Nếu tôi không thắng được sẽ cần đến sự giúp đỡ của Hiền-hầu cũng chẳng muộn.

Nói xong từ biệt Lỗ trang-công kéo quân đi .

Lúc ấy Chúa nước Linh-chi tên Mật-lư , đem quân quấy nhiễu nước Yên đã hai tháng rồi, cướp bóc của cải, bắt đàn bà, con gái không biết bao nhiêu mà kể . Nay nghe tin binh Tề đến cứu, bèn lật đật rút lui về nước.

Tề hoàn-Công đem binh đến nơi .

Yên trang-Công khai thành nghinh tiếp, và tạ ơn khó nhọc đã đem binh đến cứu .

Quản-trọng nói :

– Quân Sơn-nhung chưa thua mà kéo về, nếu quân ta trở về ắt chúng lại đến phá rối nữa . Bây giờ phải thừa thế thẳng đến nội địa mà đánh mới dứt hậu hoạn được.

Tề hoàn-công khen phải, truyền tiến binh .

Yên trang-công thưa :

– Tôi xin đem binh đi tiên phong mà giúp Minh công .

Tề hoàn-công nói :

– Nước Yên vừa bị quân giặc tàn phá, ta nở nào để hiền-hầu đi tiên phong . Xin Hiền-hầu cứ đem binh đi sau làm tiếp ứng mà trợ oai cũng đủ.

Yên trang-công nói :

– Cách đây tám mươi dặm có một nước gọi là Vô-chung cũng là giống người Sơn-nhung nhưng không thuộc nước Linh-chi, Minh công nên sai người đi dụ để mượn chúng đưa đường thì mới tinh .

Tề hoàn-công đắc ý, liền sai Thấp-bằng đem vàng bạc đến dụ vua nước Vô-chung .

Vua nước Vô-chung sai tướng Hồ nhi-bang đem hai ngàn quân đến giúp.

Hồ nhi-bang theo Thấp-bằng đến ra mắt Tề hoàn-công .

Tề hoàn-công hậu thưởng, và khiến đi tiền đội .

Đi độ ba ngày , đến một nơi rừng núi hiểm trở, hai bên đá dựng chập chồng, Tề hoàn-công hỏi Yên trang-công :

– Chỗ này kêu là chỗ gì ?

Yên trang-công thưa :

– Đây là Quy-từ, yết lộ của Sơn-nhung ra vào.

Tề hoàn-công thương nghị với Quản-trọng rồi cho đốn cây lập đồn, khiến Bảo Thúc-nha ở lại đó trấn thủ, coi việc vận lương .

Cách hai ngày sau, đại binh tiến bước.

Chúa nước Linh-chi, hay được tin binh Tề đến đánh, liền sai mời Đại-tướng Tốc-mãi đến thương nghị.

Tốc-mãi nói :

– Quân Tề từ xa đến đây, binh lao mã liệt ta phải đánh gấp chớ nên trì hoãn.

Mật-lư y lời, đem quân mai phục trong rừng, rồi sai Tốc-mãi dẫn một ngàn binh, đợi nghênh-chiến.

Hồ nhi-bang vừa kéo binh thì gặp Tốc-mãi đã dàn quân sẵn.

Hai bên đánh nhầu một trận.

Tốc-mãi giả thua, kéo binh chạy.

Hồ nhi-bang đuổi theo, vừa đến giữa rừng , binh phục của Mật-Lư nổi dậy, ó lên một tiếng, áp đến chém giết, quân của Hồ nhi-Bang bị chết rất nhiều, bỏ chạy trở lại.

Còn Hồ nhi-bang bị quân của Mật-Lư bắt trói.

May thay , đại binh của Tề hoàn-Công đền kịp đánh đuổi Mật-Lư, giải cứu cho Hồ nhi-bang khỏi tay giặc đem về trại.

Hồ nhi-bang có ý thẹn thuồng.

Tề hoàn-công vỗ về, an ủi .

– Ra trận thắng-bại lẽ thường, tướng quân chớ lấy thế làm áy náy .

Nói xong chọn một con ngựa tốt tặng cho Hồ nhi-bang .

Hồ nhi-bang cảm tạ lui ra .

Tề hoàn-công tiến quân đến núi Phục-long truyền quân đóng trại nơi đỉnh núi . Lại khiến Vương-tử Thành-phủ và Tân tu-vô đóng trại dưới núi, đem những binh xa kết liền với nhau làm một bức thành giả, canh giữ rất nghiêm nhặt.

Sáng hôm sau, Mật-lư cũng với Tốc-mãi đem hơn một vạn quân đến khiêu chiến. Nhưng vì bị bức thành binh xa ngăn đón không làm sao tiến quân được, phải đánh cầm chừng.

Quản-trọng trèo lên ngọn núi cao xem thấy quân sĩ Sơn-nhung lớp nằm lăn xuống đất lớp ôm nhau nô đùa, bỏ cả ngựa xe, vũ khí . Bèn vỗ vai Hồ nhi-bang, nói :

– Lúc này là lúc tướng quân có thể đem quân ra đánh trả thù đó .

Hồ nhi-bang trợn mắt, nhìn số quân Sơn-nhung đang nằm dưới bãi rồi hậm hữuc kéo quân ra đi .

Thấp-bằng nói :

– Tôi e giặc Sơn-nhung dùng kế để dụ ta chăng ?

Thữuc vậy quân Sơn-nhung thấy quân Tề không ra đánh nên cho hai đội quân phục nơi mé rừng, rồi khiến một số quân sĩ giả cách trễ biếng mà dụ địch.

Tuy nhiên, Quản-Trọng đâu phải không biết binh-pháp, nhìn Thấp-bằng mỉm cười nói :

– Ta đã liệu trước cả rồi.

Nói xong khiến Thành-phủ đem một toán quân đi về phía tả, Tân tu-vô dẫn một toán quân đi về phía hữu, để chận quân mai phục.

Hồ nhi-bang vừa kéo quân xuống khỏi núi quân giặc ào ào bỏ chạy .

Hồ nhi-bang giục ngựa đuổi theo . Nhưng nghe trên núi có tiếng kẻng thu quân, nên Hồ nhi-bang quay ngựa trở lại .

Mật-lư thấy Hồ nhi-bang không đuổi theo lòng tức tối, ra hiệu cho hai toán quân trong rừng ùa ra truy kích.

Vừa lúc ấy hai đạo quân của Thành-phủ và Tân tu-vô cũng vừa kéo đến đổ ra đánh.

Hai bên xáp chiến một hồi, hai đạo binh Sơn-nhung vỡ loạn bỏ chạy, bị chết không biết bao nhiêu mà kể.

Mật-lư thu góp tàn quân, thấy hao hơn nữa, lòng buồn bã nói với tướng Tốc-mãi.

– Xưa nay chưa hề có nước nào đem binh đánh nước ta mà thắng trận như vầy . Nay ngươi có kế chi chăng ?

Tốc-mãi nói :

– Quân Tề đóng trên đỉnh Phúc-long sơn xung quanh không có suối nước , chỉ có con sông Nhụ-thuỷ mà thôi . Nay ta đắp ngang nguồn sông, làm cho nước sông không chảy tới, ắt binh Tề phải chết khát .

Mật-lư nói :

– Kế ấy tuy hay, song phải kéo dài thời gian . Hiện nay, quân ta hao hụt quá nhiều, nếu quân Tề thiếu nước uống liều chết mà tiến binh thì ta lấy gì cự địch.

Tốc-mãi, nói :

– Một mặt phải sai sứ qua nước Cô-Trúc viện binh thêm .

Mật-lư đẹp ý, truyền quân chặt cây, đào đất lấp dòng sông Nhụ-thuỷ, rồi sai người qua cầu cứu nước Cô-trúc .

Tề hoàn-công đang ở trên núi Phúc-long bàn bạc với các tướng sĩ mưu việc tiến quân, xảy nghe quân vào báo :

– Giặc Sơn-nhung lấp lòng sông Nhụ-thuỷ quân sĩ không còn nước uống .

Mọi người kinh hãi ngơ ngác nhìn nhau .

Tề hoàn-công hỏi :

– Xung quanh núi này không có một khe nước nào sao ?

Quân sĩ tâu :

– Chúng tôi đã tìm kiếm khắp nơi, nhưng không thấy một vũng nước nào cả .

Quản-trọng nói :

– Xin cho quân sĩ đào giếng, lấy nước mà uống.

Tề hoàn-công truyền đào giếng lấy nước, hễ ai đào được giếng có nước trước thì sẽ trọng thưởng.

Quân sĩ thi nhau đào khắp nơi nhưng tuyệt nhiên, không chỗ nào có mạch nước cả.

Phần thì mệt phần lại khát ai nấy chán nản.

Tề hoàn-công muốn rút quân về.

Thấp-bằng nói :

– Xin Chúa-công hãy chậm rãi, tôi còn có cách này.

Nói xong dẫn quân đi tìm ổ kiến.

Tề hoàn-công trông thấy hỏi :

– Trong lúc quân sĩ thiếu nước, khanh lại đi tìm ổ kiến làm chi ?

Thấp-bằng thưa :

– Giống kiến là một linh vật, nơi nào có nước ắt nó làm tổ mà ở.

Quân sĩ đi tìm một lúc lâu, bắt gặp một tổ kiến nơi hướng mặt trời mọc.

Thấp-bằng cho đào nơi đó.

Quả nhiên, tìm được một mạch nước rất trong trẻo.

Quân sĩ reo hò, không còn sợ chết khát nữa.

Tề hoàn Công khen Thấp-bằng là bậc kỳ tài và đặt tên giếng nước ấy là Thánh-tuyền.

Chúa nước Linh-chi, sau khi đắp xong dòng sông Nhụ-thuỷ cho người dò xét, thấy binh Tề lâu ngày mà không thiếu nước, lấy làm lạ hỏi tướng Tốc-mãi :

– Đã lâu sao binh Tề vẫn chưa thiếu nước ?

Tốc-mãi nói :

– Tôi có nghe quân Tề vừa đào được suối nước, đặt tên là Thánh-tuyền. Nhưng đó chỉ là sống tạm với thời gian, thế nào cũng phải kéo binh về . Ta chờ họ rút binh, đem quân truy kích, đoạt một số vũ khí mà dùng.

Chúa tôi đắc ý, cả ngày say sưa không còn lo nghĩ gì nữa .

Bỗng một hôm, có tin báo :

– Quân Tề đem đại binh đến vây thành .

Mật-Lư và Tốc-mãi kinh hãi bỏ trốn.

Quân Sơn-nhung mất Chúa, chạy tán loạn, lớp thì đầu hàng, lớp ôm nhau kêu khóc.

Tề hoàn Công không cho quân sĩ giết hại một người nào, kéo quân vào thành mở ngục thả một số đàn bà con gái rất đông , mà trước đây bọn Sơn-nhung đã bắt bên nước Yên .

Đoạn chiêu an bá tánh.

Quân Sơn-Nhung thấy vua Tề nhơn đức, rủ nhau ra đầu hàng hết.

Tề hoàn-công hỏi quân Sơn-nhung :

– Chúa bây hiện giờ trốn nơi nào ?

Quân Sơn-nhung thưa :

– Nước tôi giáp với nước Cô-Trúc, hai nước vốn giao hảo với nhau . Trước đây Chúa-công tôi có cho người sang mượn quân, nhưng chưa kịp đi . Nay Chúa-công tôi tất trốn qua nước đó .

Tề hoàn-công hỏi :

– Nước Cô-trúc mạnh hay yếu đường sá thế nào ?

Quân Sơn-nhung thưa :

– Cô-Trúc là một nước lớn, địa thế hiểm-trở, cách đây chừng trăm dặm, có suối Tỵ-Nhỉ làm giới hạn.

Quản-trọng nói :

– Người Sơn-nhung chiếm miền rừng núi, tuyệt địa khó lòng, sớm đánh tối đầu, rất nên nguy hiểm. Nay nước Linh-Chi và Cô-trúc đã kết giao, nếu lấy được Linh-Chi mà không phá được Cô-Trúc thì Linh-chi không thể giữ nỗi . Xin Chúa-công kéo quân đánh Cô-trúc một thể .

Tề hoàn-công nhậm lời , truyền nghĩ binh lại đó ba ngày, rồi kéo sang đánh Cô-trúc.

Nói về Chúa nước Linh-chi là Mật-Lư sau khi bỏ thành chạy trốn sang nước Cô-trúc , đem việc bại binh thuật lại.

Chúa nước Cô Trúc là Đáp lý-kha nghe nói than rằng :

– Ta vừa toan cất binh đến giúp chẳng ngờ Hiền-hầu lại bị thảm bại như vầy. Thôi thì cứ ở lại đây, chờ ta chỉnh tu binh mã dõng sẽ mưu việc phục quốc cho .

Mật-lư cúi đầu cảm tạ, lòng buồn không vơi .

Xảy có quân vào báo :

– Quân nước Tề chiếm nước Linh-chi nay lại cử binh sang đánh Cô-trúc nữa.

Đáp lý-kha cười lớn nói :

– Đã lấy được nước Linh-chi, còn mạo hiểm đến đây mà chịu chết !

Nói rồi truyền quân thu hết các thuyền bè nơi suối Tỵ-Nhỉ để ngăn giặc.

Đại tướng Hoàng-hoa thưa :

– Tôi sợ quân Tề có thể đóng bè qua suối, xin Chúa-công cho quân sĩ phục nơi mé rừng mà phòng bị trước là hơn .

Đáp lý Kha nói :

– Việc đóng bè để đổ binh qua sông không phải chốc lát mà làm xong . Ta không cần phải lo sớm.

Nói rồi cùng Mật-lư uống rượu say sưa cả ngày không lo gì cả.

Trong lúc đó, binh Tề đã kéo đến bên Tỵ-nhĩ .

Nơi đây núi đá lởm chởm cỏ cây rậm rạp chận kín đường đi .

Quản-trọng liền khiến lấy diêm tiêu, lưu hoàng rải khắp nơi rồi đốt lửa.

Lửa cháy rần rần cây cối hai bên đường thành tro, mở đường cho xe ngựa đi được .

Tuy nhiên, núi đá lởm chởm, những xe lương thữuc đi rất chậm chạp khó khăn . Quân-sĩ đem lòng chán nản.

Quản-trọng thấy thế đặt vài bài hát, để quân sĩ hát cho vui mà quên cực nhọc.

Bài hát như vầy :

Non cao vòi vọi, đèo đá chơ vơi

Mây trôi man mác bên trời

Khó khăn đâu dễ làm vơi được lòng

Bánh xe dù long , bàn tay người đở

Thân trai là nợ , há sọ gian truân

Quyết lòng xẻ núi lấp sông

Núi dầu cao mấy, chẳng bằng quân ta .

Quân sĩ vừa hát, vừa đẩy xe đi, quên cả mệt nhọc.

Chẳng mấy chốc, xe đã qua khỏi đồi núi hiểm nghèo.

Tề hoàn-công ngoảnh đầu nhìn lại, tấm tắc khen thầm :

– Sức mạnh của câu ca, lời hát quả thữuc nhiệm mầu !

Quản-trọng nói :

– Thể xác và tinh thần của con người là hai mối tương-quan , thể xác mệt mỏi, tinh thần tất yếu đuối. Ngược lại như tinh thần hưng khởi , thể chất ắt sung mãn. Do đó, kích thích tinh thần là điều cần thiết.

Tề hoàn-công nói :

– Trọng-phụ qua là một kẻ thấu đáo nhân tình.

Qua khỏi vài hòn núi nữa, lại đến một cụm núi cao, xe cộ phải dừng lại, không có lối đi . Trước mặt hai bên đá dựng như vách, chỉ có một con đường nhỏ ở giữa vừa một người một ngựa.

Tề hoàn-công biến sắc, nói :

– Chỗ này nếu bị phục binh, chúng ta sẽ không còn một mạng .

Nói vừa dứt lời mặt vua xây xẩm, thoáng thấy trong kẹt đá nhảy ra một quái thú, nữa người nửa vật, mình mặc áo đỏ, đầu đội mũ đen, bước đến trước mặt Tề hoàn-công cúi đầu thi lễ, rồi giơ tay một vén vạt áo lên đoạn chạy biến vào núi.

Tề hoàn-công kinh hãi, quay qua hỏi Quản-trọng :

– Khanh có thấy gì chăng ?

Quản-trọng đáp :

– Tôi không thấy gì cả .

Tề hoàn-công thuật lại quái-trạng vừa rồi cho Quản-trọng nghe .

Quản-trọng đáp :

– Theo tôi đoán, đó là thần Du-nhi . Một vị thần núi đến mách bảo với Chúa-công đó.

Tề hoàn-công hỏi :

– Tại sao lại vén áo lên để làm gì ?

Quản- trọng đáp :

– Vén áo là ý nói, phía trước mặt có nước, mà vén phía tay mặt là ý nói phía tay mặt nước sâu, bảo phải đi phía trái. Nay xin đóng quân nơi đây do thám thì biết.

Tề hoàn-công khiến quân thám-tử đi dò xét.

Quân về báo :

– Phía trước có suối Tỵ-nhỉ, sâu lắm. Chúa nước Cô-trúc đã thâu đoạt hết thuyền bè, không thể qua đặng.

Tề hoàn-công còn đang suy nghĩ , bỗng có toán quân khác về báo :

– Suối Tỵ-nhỉ phía mặt sâu thăm thẳm, nhưng về phía trái thì cạn, lội không quá gối.

Tề hoàn-công vỗ tay, cười lớn :

– Thế thì đúng theo lời thần Du-nhi đã mách bảo rồi.

Yên trang-công nói :

– Thuở nay tôi không nghe nói suối Tỵ-Nhỉ có chỗ nào cạn như vậy . Đây chắc là thần Du-nhi muốn độ Minh-công qua sông đó .

Tề hoàn-công hỏi :

– Từ đây đến Cô-trúc còn bao xa ?

Yên trang-công đáp :

– Thành quách nước Cô-trúc mới dựng lên từ đời nhà Thương . Qua khỏi suối Tỵ-nhỉ có ba hòn núi cách nhau ba mươi dặm gọi là Tiên đoàn sơn , Mã-tiên sơn và Song-tử sơn . Ba hòn núi ấy chính là ba ngôi mộ của Tiên-quân xứ Cô-trúc. Khỏi ba hòn núi ấy đến Vô đệ thành tức là Kinh đô rồi .

Tề hoàn-công cả mừng, truyền quân theo triền núi tiến về hướng trái mà lội qua suối.

Lúc ấy Chúa nước Cô-trúc đang ăn uống, nghe quân báo rằng quân Tề đã qua suối rồi lòng hoảng sợ, sai tướng Hoàng-hoa đem năm ngàn quân ra cự địch.

Mật-lư nói :

– Tôi tới đây đã lâu chưa lập được công trạng gì, xin đi với Tốc-mãi làm tiên-phuộng

Tướng Hoàng-hoa cười lớn :

– Thôi thôi, một vị vua mất nước, một bại tướng không còn một tên quân, lại muốn theo tôi mà làm gì ?

Nói xong, tướng Hoàng-hoa kéo quân ra đi .

Mật-lư có ý trẽn tràng.

Đáp lý-kha thấy vậy nói :

– Hiền-hầu kéo binh đi trước mà tiếp ứng cho Hoàng-Hoa, rồi tôi sẽ đem quân đến sau .

Mật-lư tuân lệnh, kéo quân đến Mã-tiên sơn, nghĩ đến lời nói của Hoàng-hoa lòng không nguôi giận .

Hoàng-Hoa kéo quân vừa đến mé suối Tỵ-nhỉ, gặp đại binh của Tề hoàn-công, cầm đầu là tướng Cao-hắc.

Hai bên khai chiến đánh với nhau một lúc .

Cao-hắc yếu thế gần bỏ chạy, xảy có Vương-tử Thành-phủ đem binh tiếp ứng.

Hai bên đánh với nhau dư trăm hiệp, bất-phân thắng bại.

Vương-tử Thành-phủ cả giận hét :

– Sơn cẩu ! Mi tài cán chi mà dám đương sức với ta .

Nói xong, giục trống cho ba quân áp trận.

Hoàng-Hoa vẫn là tay thao lược, có sức mạnh hơn người, nên không lấy thế làm nao núng, trợn mắt, chỉ vào mặt Vương-tử Thành-phủ nói :

– Ta quyết xây nấm mồ để vùi xác chúng bây !

Hai bên đánh năm mươi hiệp nữa thì đạo trung-quân của Tề hoàn-công tiếp đến , bên hữu có Công-tử Khai-phương, bên tả có Thụ điêu, áp tới đánh nhầu.

Tướng Hoàng-Hoa tuy có sức mạnh, song binh Tề quá đông . Nhắm cự không lại quảy ngựa bỏ chạy.

Binh Tề rượt theo, chém giết binh Cô-trúc không biết bao nhiêu mà kể.

Tướng Hoàng-hoa một mình một ngựa chạy riệt đến Đoàn-tử sơn , thấy trên núi quân Tề đã chiếm mất rồi, bèn quày ngựa chạy vòng ra sau núi tẩu thoát. Chạy một đổi nửa đến chân núi Mã-tiên sơn, thấy quân của Mật-Lư vừa kéo đến, lòng mừng rỡ cho ngựa lần tới.

Thấy tướng Hoàng-hoa mặt mày hơ-hải, Mật-lư mỉm cười hỏi :

– Tướng-quân chưa bao giờ biết thất trận, sao nay lại bỏ cả binh sĩ chạy về đây một mình ?

Tướng Hoàng-hoa thẹn thùng cúi mặt xuống đất không đáp, biết Mật-lư muốn trả thù cử chỉ khinh dễ của mình vừa rồi, song cũng bỏ qua , xin một ít lương khô ăn cho đỡ đói rồi sẽ hay .

Mật-lư sai lấy gói cơm , móc đưa cho Hoàng-hoa ăn .

Ăn xong, Hoàng-hoa xin một con ngựa cởi.

Mật-lư lựa một con ngựa ốm trao cho .

Tướng Hoàng-hoa lòng đầy căm tức, nhưng chẳng biết nói sao, đành lủi thủi trở về Vô đệ thành ra mắt Đáp lý-kha .

Đáp lý-kha nói :

– Bởi ta không nghe lời khanh nên mới thất trận.

Hoàng-hoa nói :

– Bởi Mật-lư trốn sang nước ta , nên binh Tề mới đem quân đến đánh. Chi bằng chém Mật-lư nạp đầu cho Tề hầu , thà giảng hoà thì hơn .

Đáp lý-kha nói :

– Mật-lư cùng khốn về đây với ta, ta nở nào lại xử bạc như vậy.

Quan Tể-tướng Ngột luật-cổ nói :

– Tôi xin dâng một kế có thể phá binh Tề dễ như chơi .

Đáp lý Kha hỏi :

– Kế gì vậy ?

Ngột luật-cổ nói :

– Phía Bắc nước ta có một cái bể cát, không có nước non, cây cối gì cả .Xưa nay người trong nước chết, thường đem thây ra bỏ nơi đây, xương chất thành đống , ban ngày cũng như ban đêm, bóng ma hiện hình kêu khóc rất ghê rợn. Đặc biệt là thỉnh thoảng có lồng luồng gió độc thổi đến, ai ngộ phải đều xây xẩm mặt mày rồi chết ngay . Nếu gạt quân Tề đến đó, tự nhiên phải bỏ mạng.

Đáp lý Kha nói :

– Quân Tề dại gì mà đến nơi đó ?

Ngột luật-cổ nói :

– Chúa-công hãy tạm đem cung-quyến ẩn-trú nơi Dương-sơn, rồi sai người nói dối với Tề hầu rằng Chúa-công trốn đi cầu cứu nước khác,thế nào Tề hầu cũng đem quân đuổi theo .

Hoàng-hoa nói :

– Tôi xin đem quân đến giả cách đầu hàng , rồi dụ binh Tề đến đó cho .

Đáp lý Kha nhậm lời.

Hoàng-hoa kéo quân ra đi, nghĩ bụng :

– Nếu ta không chém đầu Mật-Lư đem nạp thì Tề-hầu đâu có tin ta . Vả lại đó cũng là dịp để ta trả thù quân bội nghĩa.

Nghĩ rồi kéo binh đến Mã-tiên sơn, vào ra mắt Mật-lư .

Lúc ấy Mật-lư đang đốc quân chống lại cuộc tấn công của binh Tề, nghe Hoàng-Hoa kéo binh đến tiếp ứng thì mừng lắm, vội ra tiếp đón.

Hoàng-hoa thừa lúc Mật-Lư bất ý, rút gươm chém một nhát bay đầu .

Tốc-mãi xem thấy nổi giận, giục ngựa đến quyết giết cho được Hoàng-hoa trả thù cho chúa mình.

Hai đàng dành nhau được một lúc, Tốc-mãi mồ hôi ướt giáp, biết mình cự không lại , bỏ cả quân sĩ chạy sang trại Hồ nhi-bang xin đầu hàng.

Hồ nhi-bang cho là giả dối, khiến quân bắt Tốc-mãi đem chém.

Còn Hoàng-hoa xách đầu Mật-lư thẳng đến trại Tề hoàn-công xin-vào ra mắt .

Tề hoàn-công cho vào.

Hoàng-hoa quỳ móp dưới trướng tâu :

– Chúa-công tôi đã đem cả gia quyến đến nước Sa-tích mà viện binh . Tôi can mãi không được nên đến đây đầu đàng. Nếu Minh-công không chê tôi hèn yếu , tôi xin đi trước dẫn đường để đưa Minh-công vào thành.

Tề hoàn-công thấy đầu Mật-lư, nên tin thật bèn cho Hoàng-Hoa làm tiên phong . Rồi kéo rốc binh mã vào thành nước Cô-trúc.

Khi đến nơi, thấy thành quách đều bỏ trống, Tề hoàn-công lại càng tin lời Hoàng-hoa là thật.

Hoàng-hoa nói :

– Nay Đáp lý-ba dẫn gia quyền đi cầu vinh , sớm tối ắt đem quân về báo thù . Xin Minh-công cho người theo truy cản, bắt Đáp lý-ba mà giết đi thì mới giữ thành này được.

Tề hoàn-công khen phải, liền sai Cao-hắc dẫn một ngàn quân theo Hoàng-hoa đi tiền bộ, lại giao thành cho Yên trang-công trấn giữ rồi kéo đại binh theo sau, để phòng binh viện kéo về.

Đi được một lúc thì trời gần tối, không còn thấy đạo binh của Cao-hắc và Hoàng-hoa đâu nữa, trước mặt chỉ thấy một bãi sa-mạc rộng thênh thênh, bốn bề hoang vắng, gió thổi lạnh lùng, xa xa văng vẳng những tiếng ma kêu, quỷ khóc lẫn với tiếng huýt, tiếng gầm của loài hổ-mang và thú dại.

Quân sĩ người người rởn ốc, và cứ thỉnh thoảng một luồng gió thổi đến một số quân binh ngã gục, ngất thở.

Quản-trọng thất kinh nói với Tề hoàn-công :

– Tôi được nghe xứ này có cái bể cát rất độc, chắc bể cát ấy là đây . Xin chớ đến nữa.

Tề hoàn-công truyền thâu quân .

Nhưng quân sĩ lạc đường không biết hướng nào trở lại.

Trong lúc trời tối mịt mùng, rải rác những đống xương khô ngổn-ngang trên bãi, cứ mỗi tên quân lạc ra khỏi đoàn là bị một con ác điểu từ đâu bay đến mổ vào sọ, như một nhát búa , hốt hút lấy tuỷ óc mà ăn .

Quản-trọng truyền đánh kiễng lên thu quân vào một chỗ, rồi bảo vệ Tề hoàn-công tìm đường cũ trở lại.

Nhưng, đường cũ đã mịt mù, không còn dấu vết.

Quản-trọng nói :

– Nước Chung-vô tiếp giáp với nước này, những con ngựa già xứ Chung-vô ắt thuộc đường, vậy thì bảo Hồ nhi-bang chọn lấy vài con ngựa già thả cho đi trước, quân ta theo sau, ắt thoát đặng.

Tề hoàn-Công làm theo kế ấy, quả nhiên ra khỏi sa mạc.

Nhắc lại tướng Hoàng-hoa, có ý đi trước để đánh lừa binh Tề, và lập kế đưa Cao-hắc đến núi Dương-sơn .

Nhưng đi được một lúc, Cao-hắc thấy Hoàng-hoa cứ một mạch đi thẳng, không chờ đại binh theo sau, lòng nghi ngại, không dám đi nữa.

Hoàng Hoa biết ý, lập tức bắt sống Cao-hắc, rồi thẳng đường đến núi Dương-sơn, vào yết kiến Đáp lý-kha, và nói :

– Mật-lư thua trận ở Mã-tiên sơn , bị quân Tề giết, nay tôi đã trá hàng, gạt được quân Tề vào nơi bể cát, lại bắt sống được tướng Cao-Hắc đem về đây, xin Chúa-công định liệu.

Đáp lý Kha bảo Cao Hắc :

– Nếu nhà ngươi chịu đầu hàng, ta tha chết.

Cao-hắc trừng mắt nhìn lên, hét lớn :

– Ta là quan nước Tề, có bao giờ lại thần phục loài khuyểnđương . Chúng bây đừng có nói những lời vô lễ đó !

Hoàng-hoa cả giận, rút gươm chém Cao-hắc một nhát bay đầu .

Đoạn họp binh lại, cùng với Đáp lý-kha kéo quân về thu phục Kinh-thành.

Yên trang-công chống giữ, nhưng không lại, phải bỏ thành, đem binh chạy về Đoàn-tử sơn .

Trong khi ấy, đại binh của Tề hoài-Công đã ra khỏi biển cát, kiểm điểm binh mã thấy hao hơn hai phần mười.

Tề hoàn-công nói :

– Không giao tranh mà binh mã bị tổn thương thật là đau đớn .

Quản-trọng nói :

– Bây giờ trở lại nơi Kinh-thành Cô-trúc để quân sĩ nghỉ ngơi rồi sẽ tính.

Tề hoàn-công y lời, truyền quân kéo về thành Cô-trúc.

Về gần đến nơi bỗng thấy nhân dân già trẻ, dắt nhau đi lũ lượt .

Quản Trọng sai người đến dò hỏi, mới biết Đáp lý-Kha đã đánh đuổi Yên trang-công mà chiếm thành rồi.

Nhân dân nước kia tránh vào rừng nay nghe thành đã lấy lại nên trở về yên trú.

Tề hoàn-công thất kinh đưa mắt nhìn Quản-trọng.

Quản-trọng nói :

– Tôi đã có cách lấy lại kinh thành Cô-trúc rồi !

Nói xong , khiến Hồ nhi-bang cho quân thay hình đổi dạng lẫn với đám đông người , lẻn vào thành để làm nội ứng. Đoạn truyền quân vây kín ba mặt thành chỉ chừa cửa phía Bắc để phục binh mà bắt Đáp lý-kha .

Đêm ấy Đáp lý-kha hay tin quân Tề kéo đến, liền đốc quân lên mặt thành chống giữ .

Bỗng trong thành lửa cháy sáng ngời , đoàn quân nội ứng của Hồ nhi-bang nổi dậy, ó lên một tràng , tràn ra mở bét bốn cửa thành.

Bên ngoài quân Tề kéo vào ba mặt.

Đáp lý-kha thất kinh vội lên ngựa chạy thoát ra cửa phía Bắc.

Đi được vài ba dặm xảy nghe một tiếng pháo lệnh, binh Tề phục hai bên rừng kéo ra đông như kiến.

Đáp lý-Kha bị bắt, còn tướng Hoàng-hoa và Ngột luận-cổ bị chết trong đám loạn quân .

Tề hoàn-công kéo binh vào thành truyền chém đầu Đáp lý-kha bêu nơi Bắc-môn, rồi treo bản phủ*** nhân dân .

Dân Cô-trúc thuật lại chuyện Cao-hắc bị giết.

Tề hoàn-Công thương tiếc vô cùng, khiến ghi công vào sổ để khi về nước gia-ân .

Yên trang-công đang đóng binh ở Đoàn-tử sơn nghe Tề hoàn-Công đã chiếm được Kinh-thành Cô-trúc liền kéo binh đến chúc mừng.

Tề hoàn-Công nói với Yên trang-công :

– Tôi đem binh sang giúp quí-quốc, may thu phục được hai nước Linh-chi và Cô-trúc này rộng hơn năm trăm dặm vậy xin biếu .

Yên trang-công nói :

– Tôi đã làm phiền Minh-công quá nhiều, và mang ơn quá trọng, lẽ đâu còn dám hưởng ơn huệ ấy.

Tề hoàn-công nói :

– Linh-chi và Cô-trúc, hai nước giáp liền với nước Yên, nếu giao cho người khác ắt bị quấy nhiễu. Hiền-hầu chớ nên chối từ hãy nhận lấy mà mở mang bờ cõi rồi sai sứ vào triều cống nhà Châu như thế tôi cũng đã được một phần vinh dự rất lớn.

Yên trang-công từ chối không được, phải nhận lời.

Tề hoàn-công truyền mở tiệc khao thưởng ba quân, lại cắt một thuở ruộng nơi chân núi Tiên đoàn sơn thưởng công cho Hồ nhi-bang , rồi kéo binh về nước.

Yên trang-Công đưa tiễn Tề hoàn-Công ra khỏi nước Yên , rồi mới trở về .

Từ đấy, nước Yên trở nên một nước hùng mạnh ở phía Bắc.

Khi Tề hoàn-công về đến sông Tể-thủy, địa giới nước Lỗ .

Lỗ trang-công ra đón tiếp, mở tiệc nơi mé sông khoản đãi để chúc mừng .

Tề hoàn-công đem những bảo vật lấy được ở hai nước Linh-chi và Cô-trúc đem chia cho Lỗ trang-công .

Lỗ trang-công vì mến tài Quản-Trọng, lại biết được Quản-trọng có một cái ấp riêng gọi là Tiểu-cốc ở địa phận nước Lỗ, bèn cho người đến đó sửa sang, xây thành quách rất tử tế.

Trong thời gian Lỗ trang-công còn ở ngôi, nước Lỗ được thái bình cường thịnh. Nhưng vào tháng tám năm đó Lỗ trang-công tạ thế khiến cho nước Lỗ sinh ra rối loạn.

Chương 22: Quí Hữu đảm đương nước Lỗ – Tề hầu trông thấy yêu ma

Nguyên Lỗ trang-công có một người em cùng mẹ là Công-tử Quí, trong bàn tay của Công-tử Quí có chữ hữu nên gọi là Quí-hữu .

Quí-hữu vốn tánh cương trực, lại cùng một mẹ, nên Lỗ trang-Công rất yêu quí.

Lỗ trang-công lại còn có một thứ huynh là Khánh Phủ, và một thứ đệ là Thúc-nha, hai người này gian xảo, nên Lỗ trang-Công chẳng phục.

Quý-hữu , Khánh-phủ, Thúc-nha cả ba đều làm chức Đại-phu trong triều.

Trong thời gian Lỗ trang-Công mới lên ngôi, ra chơi nơi đất Lang đài, gặp người con gái họ Đảng tên là Mạnh-Nhâm, nhan sắc tuyệt trần, Lỗ trang-Công đem lòng yêu dấu, sai người đi thỉnh.

Mạnh-nhâm không đến.

Lỗ trang-công sai người đến hứa với Mạnh Nhâm nếu kết duyên tơ tóc sẽ được phong làm chánh thất.

Mạnh-nhâm bắt Lỗ trang-Công phải chích huyết ăn thề mới nhận lời.

Sau khi thề nguyền xong, Lỗ trang-công đem Mạnh-nhâm về cung chung sống.

Qua một thời gian Mạnh-nhâm sanh đặng một trai là Công-tử Ban .

Lỗ trang-công muốn giữ lời thề, lập Mạnh-nhâm lên làm chánh thất, người mẹ Lỗ trang-Công là Văn-khương nhất thiết không thuận , bảo phải lấy nàng Ai-khương, con gái Tề tương-công về làm chánh-thất.

Lỗ trang-công không dám cãi lời mẹ. Tuy-nhiên lúc bây giờ nàng Ai-khương còn bé lắm, phải chờ đợi hai mươi năm trời nữa mới cưới được.

Bởi vậy, Mạnh-Nhâm dù chưa lập chánh-thất nhưng trong hai mươi năm ấy vẫn làm chủ trong cung .

Đến lúc Ai-khương về làm phu-nhân thì Mạnh-nhâm đã qua đời rồi.

Nàng Ai-Khương không con . Em gái Ai khương là Thúc-khương theo Ai-khương sang , lấy Lỗ trang-công sinh được Công-tử Khải .

Trước kia, Lỗ trang-công lại còn lấy nàng Phong-thị làm tiểu-thiếp, có sanh đặng một trai là Công-tử Thân nữa.

Như vậy, Lỗ trang-công có ba trai : Công-tử Ban , Công-tử Khải và Công-tử Thân .

Về phần nàng Ai-khương, tuy được lập làm chánh-thất, song đã chẳng con, lại hận vì trước kia Tề tương-Công giết cha mình, nên bề ngoài kính trọng Lỗ trang-công , mà bên trong ghét thầm.

Ai-khương thấy Khánh-phủ mặt mũi khôi ngô, đem tình dan díu tư thông với nhau; lại kết đảng với Thúc Nha em cùng mẹ của Khánh phủ để mưu lập Khánh-phủ lên ngôi .

Thúc-nha làm Tể tướng.

Một hôm nhân tiết trời không mưa .

Lỗ trang-công đi tế đảo-vũ, truyền bọn nữ-nhạc tập dượt nơi sân nhà quan Đại-phu Lương-thị.

Quan Đại-phu Lương-thị có một đứa con gái khá đẹp, thường đi lại với Công-tử Ban . Hai bên trao tình cá nước, và Công-tử Ban hứa sau này nối ngôi sẽ phong cho nàng làm phu-nhân .

Hôm ấy con gái Lương-thị , bắc thang lên tường xem diễn nhạc, chẳng may gặp Ngữ nhân-Lạc là tên giữ ngựa, đứng ngoài tường trông thấy .

Dẫu là phận tôi đòi, nhưng khát vọng của con người đâu cách biệt, Ngữ nhân-lạc cất lên vài giọng hát đưa tình để ghẹo hoa .

Hát rằng :

Hoa xuân hơ hớ nhuỵ đào

Tiếc thay ! Ong bướm chưa vào vườn xuân

Tường cao vòi vọi

Bóng nguyệt mông lung

Ước ao cá nước tương phùng

Ấp yêu mộng đẹp cho lòng phôi pha !

Công-tử Ban nghe tiếng hát chạy đến, trông thấy Ngữ nhân-lạc , lòng căm tức truyền bắt vào, đánh ba trăm roi, máu tuông lai láng .

Ngữ nhân-lạc khóc lóc van xin .

Công-tử Ban mới tha cho và đem việc ấy thuật lại với Lỗ trang-công .

Lỗ trang Công nói :

– Đối với đứa tiểu-nhân vô lễ, một là bỏ qua , hai là giết đi . Con đánh nó như vậy không khỏi gây thù oán. Vả lại Ngữ nhân-lạc là đứa có sức mạnh phi-thường, mọi người ai cũng biết, con khá cẩn thận.

Quả vậy, Ngữ nhân-lạc tuy là một kẻ tôi đòi , song sức mạnh ít ai sánh kịp. Đã có lần Ngữ nhân-lạc từ trên chòi canh cao hai mươi trượng nhảy xuống đất mà vẫn đứng dậy như chơi . Lại cầm cột chòi canh rung rinh làm cho mọi người phải khiếp sợ.

Bị Công-tử Ban đánh đập ; Ngữ nhân-lạc đem lòng thù oán, đến xin làm tôi cho Khánh-phủ.

Khánh-phủ liền thu dùng.

Năm sau Lỗ trang-Công bệnh biết mình không sống được lâu , lại nghi Khánh Phủ muốn cướp ngôi, nên gọi Thúc Nha và hỏi dò ý kiến.

Quả nhiên Thúc-nha khen Khánh-phủ, và khuyên Lỗ trang-Công nên truyền ngôi lại cho Khánh-phủ.

Lỗ trang-công buồn bã, nhưng không tỏ ý cho Thúc-Nha biết.

Thúc-nha bái tạ lui ra .

Lỗ trang-công lại cho đòi Quí-hữu vào hỏi.

Quí-hữu nói :

– Chúa-công ngày trước đã có lời ước với Mạnh-Nhâm . Tuy không lập Mạnh-nhâm lên chánh-thất nhưng vẫn phải coi con của Mạnh-Nhâm là chính.

Lỗ trang-công nói :

-Thúc-nha khuyên ta nên truyền ngôi cho Khánh-phủ, việc ấy nên chăng ?

Quí-hữu nói :

– Khánh-phủ là một kẻ thiếu đạo đức, không đủ tư-cách làm vua . Thúc-nha muốn mưu cầu quyền lợi, xin Chúa-công chớ nghe theo . Tôi xin hết sức phò Công-tử Ban để cứu lấy nước Lỗ.

Lỗ trang-công gật đầu nở một nụ cười tươi nhìn Quí-hữu tỏ vẻ trìu mến.

Quí-hữu lui ra, nghĩ thầm :

– Nếu không chặt bớt vây cánh của Khánh-phủ, sau này ắt khó trừ đặng. Nghĩ rồi, giả chiếu của Lỗ trang-công triệu Thúc Nha đến tư dinh quan Đại-phu Hàm-quí để nghe lệnh .

Thúc-nha ngỡ thật bôn ba đến.

Quí-hữu bỏ thuốc độc vào một ly rượu, đưa cho Hàm-quí bắt Thúc-nha uống. Lại viết cho Thúc-nha một bức thư, đại ý nói Chúa-công có lệnh bắt Công-tử phải phục độcđược mà chết đi thì con cháu mới được phong chức bằng không toàn gia phải bị tru lục .

Thúc-nha không chịu uống.

Hàm-quí phải đè Thúc-nha xuống đất đổ thuốc độc vào miệng.

Thúc-nha hộc máu chết ngay .

Chiều hôm ấy, Lỗ trang-công từ trần .

Quí-hữu lập Công-tử Ban lên nối ngôi .

Chưa bao lâu, ông ngoại của Công-tử Ban qua đời, Công-tử Ban nghĩ đến tình mẹ mình là Mạnh-Nhâm, nên đến tận nhà thăm viếng.

Khánh-phủ hay được, kêu Ngữ nhân-lạc đến nói nhỏ :

– Ngươi không nhớ cái thù thuở xưa ? Ngày nay con giao-long đã ra khỏi mặt nước thì sức một người có thể bắt được, sao nhà ngươi không đến nhà họ Đảng mà báo thù .

Ngữ nhân-lạc nói :

– Nếu có điều gì xin nhờ Công-tử bênh vực thì tôi mới dám.

Khánh-phủ nói :

– Điều đó ngươi khỏi lo .

Ngữ nhân-Lạc liền giấu một con dao găm vào mình, thừa lúc đêm tối trèo tường vào nhà họ Đảng, đứng núp trước cửa phòng.

Trời tang-tảng sáng, nội thị mở cửa ra lấy nước .

Ngữ nhân-lạc lén vào buồng ngủ.

Lúc ấy, Công-tử Ban cũng đã thức dậy, vừa bước chân xuống đất. Thấy Ngữ nhân-lạc, Công-tử Ban sợ hãi, hét lớn :

– Mầy đến đây để làm gì .

Ngữ nhân-lạc nói :

– Ta đến để báo thù trận đòn năm trước.

Công-tử Ban liền rút thanh kiếm ở đầu giường chém một nhát vào trán Ngữ nhân-lạc đến lòi tuỷ óc ra .

Ngữ nhân-lạc vốn có sức mạnh, tay trái nắm lưỡi kiếm, tay phải cầm dao đâm vào cạnh sườn Công-tử Ban đến lút cán.

Công-tử Ban té nhào xuống đất tắt thở.

Bọn nội thị sợ hãi kêu ầm lên .

Còn Ngữ nhân-lạc, sau khi đâm được Công-tử Ban một nhát trả thù, cũng té xỉu xuống đất chết ngay .

Quí-hữu nghe tin Công-tử Ban chết biết mưu của Khánh-phủ. Liệu mình cô thế, liền bỏ qua nước Trần tị nạn.

Khánh-phủ tuy mưu giết vua, nhưng bên ngoài vẫn làm ra vẻ đạo đức để che mắt thiên hạ, liền đổ tội cho Ngữ nhân-lạc, và bắt cả nhà Ngữ nhân-lạc đem chém.

Lúc bấy giờ nàng Ai-khương muốn lập Khánh-Phủ lên ngôi, nhưng Khánh-phủ lòng sâu độc, muốn cho tăm tiếng được vẹn toàn, nói với Ai-khương :

– Chưa giết được Công-tử Thân và Công-tử Khải thì chưa nên nối ngôi .

Thương hỏi :

– Thế thì có nên lập Công-tử Thân hay không ?

Khánh-phủ nói :

– Công-tử Thân đã trưởng thành, khó kiềm chế, nên lập Công-tử Khải thì hơn .

Công-tử Khải là con nàng Thúc-khương cháu ngoại của Tề hầu , nên Khánh-phủ thân hành sang nước Tề mang lễ vật lo lót với Thụ điêu , yêu cầu Tề hoàn-Công thừa nhận Công tử Khải lên nối ngôi .

Lúc đó Công-tử Khải mới có tám tuổi, tuy được lên ngôi, song bên trong thì sợ Ai-khương , bên ngoài thì sợ Khánh-phủ, không dám quyết đoán điều gì cả.

Cách nữa tháng sau, Công-tử Khải mới làm lễ tức vị xưng hiệu là Lỗ mẫn-công, rồi sai sứ sang Tề xin hội ở đất Lạc-cô thuộc Tề.

Đến ngày hội, Lỗ mẫn-công nắm áo Tề hoàn-công khóc oà, kể lể chuyện Khánh-phủ hiếp chế mình .

Tề hoàn-công hỏi :

– Các quan Đại phu ở nước Lỗ bây giờ có hiền sĩ nào chăng ?

Lỗ hoàn-Công nói :

– Chỉ có Quí-hữu trung trực hơn cả, nay cánh trốn sang nước Trần .

Rồi Tề hoàn-công hỏi :

– Sao không triệu về mà dùng .

Lỗ mẫn-công nói :

– Nếu triệu Quí-hữu về thì Khánh-phủ nghi ngờ khó lòng lắm .

Tề hoàn-công nói :

– Không sao ! Cứ bảo là theo ý nước Tề thì ai dám trái mạng .

Nói xong, sai sứ sang nước Trần triệu Quí-hữu về.

Lỗ mẫn-công chờ Quí-hữu đến. Rồi mới cùng về nước Lỗ.

Về đến nơi, Lỗ mẫn-công phong cho Quí-hữu làm Tể-tướng.

Tề hoàn-công lại sợ nước Lỗ có loạn nên sai Trọng tôn-thu đến dò xét tình hình.

Sau khi nhận xét mọi điều, Trọng tôn-thu vào yết kiến Công-tử Thân .

Công-tử Thân bàn bạc tình hình nước Lỗ rất rành mạch , khiến Trọng tôn-thu cũng phải khen là một kẻ có tài trị nước .

Trọng tôn-thu dặn nhỏ Quí-hữu nên bảo vệ Công-tử Thân và phải trừ Khánh-phủ đi mới được.

Quí-hữu lắc đầu, giơ lên một cánh tay .

Trọng tôn-thu biết Quí-hữu muốn nói mình cô thế, liền đáp :

– Để tôi về tâu với Chúa-công tôi . Nếu có gì cần giúp đỡ, xin ngài cho biết. Trong thời gian Trọng tôn-phu lưu lại nơi nước Lỗ, Khánh-phủ đem vàng bạc, lễ vật đến mua lòng, nhưng Trọng tôn-thu nhất quyết không nhận nói :

– Nếu ngôi là kẻ trung quân ái-quốc, hà tất phải nhọc lòng làm cái việc đó. Khánh-phủ sợ hãi lui ra, lòng áy náy không an .

Khi về đến nước Tề, Trọng tôn-thu kể lại nội tình nước Lỗ cho Tề hoàn-công nghe, và nói :

– Nếu không trừ được Khánh-phủ thì nước Lỗ không thể nào yên được.

Tề hoàn-công nói :

– Ta đem quân sang mà trừ đi, phỗng có nên chăng ?

Trọng tôn-thu nói :

– Tội ác Khánh Phủ chưa rõ ràng, xin cứ chờ cho Khánh-phủ làm loạn sẽ giết cũng chăng muộn.

Tề hoàn-công khen phải, bỏ qua việc ấy không bàn đến nữa.

Thế rồi, thời gian trôi trong âm mưu đen tối của Khánh-Phủ.

Khánh-Phủ lúc nào cũng mong cướp ngôi nước Lỗ , chỉ vì Lỗ-mẫn Công là cháu ngoại của Tề hoàn-công, lại có Quí-hữu hết lòng phò tá nên chưa dám làm vội.

Một hôm, có quan Đại-phu Bốc-Kỳ đến chơi .

Khánh-phủ mời vào thư trang, Bốc-Kỳ mặt hầm hầm nói :

– Thế này thiệt quá ức !

Khánh-phủ ngạc nhiên hỏi :

– Việc gì thế ?

Bốc-Kỳ đáp :

-Tôi có một thửa ruộng tiếp giáp với thửa ruộng quan Thái-phó Thân bất-hại bị Thân bất-hại xâm lấn. Tôi vào tâu với Chúa-công để định lẽ công bằng. Chúa-công bênh-vực quan Thái-phó, bảo tôi nhường thửa ruộng ấy. Thưa Công-tử, như thế còn gì ức hiếp bằng. Nếu Công-tử nói giúp, tôi sẽ nhớ ơn suốt đời.

Khánh phủ cười lớn nói :

– Chúa-công còn bé, chưa rõ được tình đời . Đem điều phải quấy mà bàn thữuc vô ích. Nếu nhà ngươi có thể làm được đại sự ta sẽ vì nhà ngươi mà giết Thân bất-hại cho .

Bốc-Kỳ đưa mắt nhìn Khánh-phủ, tỏ ý dò xét rồi hỏi :

– Công-tử muốn phế lập .

Khánh-phủ chúm chím cười, không đáp.

Bốc-Kỳ nói tiếp :

– Nay Quí-hữu đang bĩnh-chánh, thì việc đại sự ấy không phải dễ . Nếu thất bại làm sao thoát nạn ?

Khánh-phủ nói :

– Thành bại do mưu lược và lòng cương-quyết. Nếu sợ sệt, tính toán chẳng bao giờ làm nên đại sự !

Bốc-Kỳ mỉm môi, hỏi :

– Xin Công-tử cho tôi biết ý.

Khánh-phủ nói :

– Chúa-công hãy còn trẻ tính, nhiều khi đang đêm vẫn ra ngoài phố chơi . Nếu đón đường giết đi rồi đổ tội cho quân trộm cướp có khó gì. Bấy giờ ta phụng mệnh Ai-khương quốc-mẫu mà nối ngôi lại đuổi Quí-hữu đi, thì còn ai ngăn cản.

Bốc-kỳ vâng lời, trở về nhà tìm được một võ-sĩ tên Thu-á, đưa cho một con dao gâm, sai đến phục ở ngoài cửa cung .

Đêm ấy, quả nhiên Lỗ mẫn-công ra ngoài bị Thu-á đâm một dao chết ngay tại chỗ.

Bọn thị vệ kêu ầm lên, xúm đến vây bắt Thu-á.

Trong lúc đó Khánh-phủ lợi dụng cơ hội đến tận nhà giết chết Thân bất-hại.

Quí-hữu đang ở nơi tư dinh hay tin, biết Khánh-phủ làm loạn vội vã đến gõ cửa nhà Công-tử Thân thuật lại mọi việc, rồi bàn với Công-tử Thân trốn sang nước Châu tị nạn.

Nhân dân nước Lỗ lâu nay rất tin phục Quí-hữu, nghe tin Lỗ mẫn-công bị giết , Quí-hữu phải chạy trốn, cả nước đều hậm hữuc, căm tức Khánh-phủ vô cùng, rủ nhau đến vây nhà Khánh-phủ đông như kiến.

Khánh-phủ hoảng hốt, không dám nghĩ đến việc tiếm ngôi, định trốn ra nước ngoài để tránh mối căm phẫn của dân chúng.

Lại sực nhớ đến nước Cử, trước kia Tề hoàn-công cũng nhờ mượn binh nước Cử về phục nghiệp, vả lại Văn-khương trước kia có tư thông với thầy thuốc nước Cử , nay Ai-khương là cháu, ta cùng Ai-Khương đến đó ắt dung thân được.

Bèn sắp sửa hành trang, tin cho Ai-khương biết, rồi trốn đi.

Ai-khương hay được tin Khánh-phủ bỏ trốn, cũng muốn đi theo .

Các cung nhân bàn rằng :

– Vì Khánh Phủ mà phu-nhân lỡ mang tai tiếng, lòng dân oán ghét, nay còn theo Khánh-phủ nữa e họa đến không tránh kịp. Chi bằng qua nước Châu , bàn với Quí-hữu mưu lo việc nước để tránh tiếng tăm.

Ai-khương nghe lời, bõ sang nước Châu vào xin yết kiến Quí-hữu .

Quí-hữu nghe được tin Khánh-phủ đã trốn đi, không chịu tiếp kiến Ái-khương, lập tức đem Công-tử Thân về nước.

Lúc đó Tề hoàn-công được tin nước Lỗ không có vua , liền đòi Trọng tôn-thu vào hỏi :

– Nay nước Lỗ đang rối loạn, chưa người kế vị, ta có nên nhơn cơ hội này đem binh đến chiếm chăng ?

Trọng tôn-thu nói :

– Lỗ là một nước trọng nghĩa, dân chúng chưa quên ơn đức Châu-công. Dẫu gặp biến cố, ta cũng không nên chiếm vội. Vả lại, Công-tử Thân là người thông minh tài trí, còn Quí-hữu cũng am hiểu việc nước, chi bằng nhân dịp này ta đem quân sang giúp, để tỏ ra nước ta là một nước đại nghĩa.

Tề hoàn-công nghe lời, sai quan Thượng-khanh là Cao-hề đem ba ngàn quân sang đóng nơi nước Lỗ nhắm tình hình mà định đoạt . Hễ Công-tử Thân đủ tài trị nước thì ý giao hòa, bằng không, chiếm đoạt ngay nước Lỗ.

Cao-hề tuân lệnh, kéo binh ra đi.

Vừa đến nước Lỗ thì Quí-Hữu cũng vừa phò Công-tử Thân về đến nơi.

Cao-hề thấy Công-tử Thân mặt mũi khôi ngô, nói năng đứng đắn , tỏ ý kính trọng, nên bàn với Quí-hữu lập Công-tử Thân lên ngôi, tức là Lỗ hi-công.

Lỗ hi-công nhờ Cao-hề giúp sức, đắp thành Lộc-môn để đề phòng nước Châu và nước Cử. Đoạn sai Hề-tư theo Cao-hề sang nước Tề để tạ ơn Tề hoàn-công. Lại khiến người đem lễ vật sang nước Cử, nhờ vua nước Cử giết Khánh-Phủ.

Khi Khánh-phủ chạy sang nước Cử , đã đem lễ vật cống hiến cho vua nước Cử rồi, nên mới được dung nạp, nay sứ nước Lỗ lại đem lễ vật đến nhờ giết Khánh-phủ, vua nước Cử không biết làm sao, bèn thu lễ vật, rồi nói với Khánh-phủ :

– Nước Cử tôi nhỏ mọn, binh lực yếu ớt, nếu Công-tử ở đây nước tôi mang họa. Xin Công-tử tạm tránh nơi nước khác.

Khánh-Phủ dùngđằng không chịu đi, vua nước Cử phải sai người đến đuổi.

Khánh-phủ cùng cực nghĩ đến nước Tề, trước kia Thụ điêu có ăn lễ mà bênh vực cho mình. Nay liều sang đó rồi sẽ liệu. Nghĩ rồi lểnh mểnh qua Tề.

Tướng giữ ải nước Tề, từng nghe tiếng Khánh-phủ là gian ác, không cho vào nước.

Khánh-phủ phải tạm trú nơi bờ sông Vạn-thủy để chờ dịp liên lạc với Thụ điêu.

Trong lúc đó, Công-tử Hề-tư, được lệnh Lỗ hi-công sang tạ ơn nước Tề, trở về tới Vạn-thủy gặp Khánh-phủ, bèn nói :

– Nếu đã không được nước nào cho trú ngụ thì về nước còn hơn.

Khánh-phủ buồn bã, nói :

– Quí-Hữu thấy mặt tôi ắt không dung, nếu người có thương tôi thì về trước tâu với Chúa-công nghĩ tình tiên-quân mà tha tội, tôi mới dám về.

Hề-tư từ giã Khánh-phủ trở về ra mắt Lỗ hi-Công , thuật lại lời Khánh-phủ.

Lỗ hi-công động lòng muốn tha tội cho Khánh-phủ về nước .

Quí-hữu nói :

– Nếu kẻ giết vua mà không bắt tội thì còn gì phép nước ?

Lỗ hi-công thở dài, lòng không quyết.

Quí-Hữu kêu Hề-Tư dặn nhỏ :

– Nếu Khánh-phủ chịu xử lấy mình để làm gương cho kẻ khác, ắt con cháu không mất ngôi quyền quí.

Hề-tư đến bờ sông Vạn-thủy, định vào ra mắt Khánh-phủ, nói rõ sự tình, nhưng xét thấy mình không đủ can đảm bắt người tự-vận nên đứng ngoài cửa khóc lớn.

Khánh-phủ nghe tiếng khóc của Hề-tư, biết mạng mình không thể bảo toàn được, ngước mặt lên trời than dài, rồi mở dây lưng thắt cổ tự vận.

Hề-Tư trở về báo tin với Lỗ hi-công.

Lỗ hi-Công buồn bã thở dài.

Bỗng có quân vào báo :

– Nước Cử sai tướng Doanh-nô đem binh đánh Lỗ, đòi tiền lễ tạ về cái chết của Khánh-phủ.

Quí-hữu nói :

– Người nước Cử đã không bắt Khánh-phủ, nay nghe Khánh-phủ chết lại đến đòi tiền công là lý gì ?

Nói xong, tâu với Lỗ hi-công xin đem quân ra đánh .

Lỗ hi-công cởi thanh bửu-kiếm trao cho Quí-hữu nói :

– Đây thanh bửu-kiếm này gọi là Mạnh-lao, tuy dài không được một thước, nhưng lưỡi bén lắm, nó là một bảo vật, xin biếu cho thúc-phụ.

Quí-hữu đeo kiếm vào lưng, cúi lạy tạ ơn, rồi dẫn quân thẳng đến đất Lịch-trì mà cự với tướng Doanh-nô.

Đến nơi, tướng Doanh-nô đã bày trận sẳn sàng .

Quí-Hữu nhủ thầm :

– Chúa ta mới lên ngôi, uy thế chưa vững, nếu rủi ro bị thất trận ắt lòng dân không phục. Vả lại tướng Doanh-nô là người hữu dõng vô mưu, ta phải dụng kế mới thắng nỗi .

Quí-hữu liền tiến ra giữa trận, kêu Doanh-nô nói :

– Nơi chiến trường, quân sĩ là những kẻ vô tội chết oan để bồi đắp danh tiếng cho chủ tướng. Hôm nay ta không muốn như thế. Ngươi vốn là một hổ tướng, nếu có tài hãy cùng ta bõ hết vũ khí đánh bằng tay không, nếu ai thắng sẽ định đoạt số phận kẻ bại.

Doanh-nô cười lớn, nói :

– Lỗ tướng ! Ta chưa hề thầy tướng nào ra trận với ý định lạ lùng đó. Nhưng thôi, dẫu ngươi muốn đánh bằng cách nào ta vẫn không sợ.

Nói xong, truyền quân sĩ dang ra hai bên, rồi cùng với Quí-hữu đấu võ.

Hai người đánh với nhau hơn năm mươi hiệp, bất phân thắng bại .

Quí-hữu có một đứa con trai tên Hạnh-Phủ, lúc bấy giờ mới lên tám tuổi, nhưng có ý kiến ngộ nghĩnh lắm, do đó Quí-hữu yêu mến vô cùng, đi đâu cũng đem theo.

Hạnh-phủ thấy cha mình không thắng nỗi tướng Doanh-nô liền gọi lớn :

– Thanh Mạnh-lao ở đâu sao không dùng đến nó ?

Quí-Hữu nhớ lại thanh gươm báu đeo bên mình, liền sụt lại một bước chờ cho Doanh-nô chồm tới, rút lưỡi kiếm chém sả một nhát.

Đầu Doanh-nô toét từ trán xuồng đến vai, mà thanh kiếm không vấy giọt máu nào . Thật là một thanh gươm sắc bén phi-thường .

Quân binh nước Cử thấy chủ tướng mình đã thác, bỏ chạy rồi .

Quí-hữu đắc thắng thâu quân trở về.

Lỗ hi-cỗng thân hành đón tiếp thưởng một chung ngự tửu, phong cho Quí-hữu làm Thượng-tướng, lại thưởng cho đất Phí-ấp.

Quí-hữu tâu :

– Tôi cùng Khánh-phủ và Thúc-nha đều là cháu của tiên-công nay vì nước phải ép Thúc-Nha uống thuốc độc, buộc Khánh-Phủ thắt cổ , nếu cho đó là công trạng, hưởng lấy lộc nước thật xấu hổ với lương tâm, tôi chẳng dám nhận lãnh.

Lỗ hi-công thông cảm nỗi lòng trung nghĩa của Quí-hữu nói :

– Thế thì khanh muốn thế nào ?

Quí-hữu nói :

– Khánh-phủ và Thúc-nha tuy phạm tội với nước nhưng con cháu không can hệ gì, xin Chúa-công tặng phong cho con cháu để gánh vác việc nước.

Lỗ hi-công y lời, phong cho con Khánh-Phủ ở đất Thành-ấp tức dòng Mạnh-tôn, phong cho con Thúc-nha ở đất Hậu-ấp, tức dòng Thúc-tôn, phong cho Quí-hữu đất Phí-ấp, tức dòng Quí-tôn. Ba dòng Mạnh, Thúc, Quí đều cầm quyền-chính nước Lỗ gọi là Tam hoàn .

Chỉnh đốn xong nước Lỗ, Lỗ hi-công cho người sang viếng nước Tề để kết thêm tình giao hảo.

Tề hoàn-công nghĩ đến Ai-khương là gái nước Tề, nay lại trốn sang nước Châu ấy là điều xấu hổ, liền hỏi Quản-trọng :

– Lỗ hoàn-công và Lỗ mẫn-công đều bị chết do tay Văn-Khương và Ai-khương, gái nước Tề, nếu không trừng phạt e xấu lây đến quốc-thể .

Quản-trọng nói :

– Tuy hai người ấy là gái nước Tề song đã gả về Lỗ rồi, hễ con gái xuất giá tùng phu, hành động đâu còn liên quan đến cố quốc. Nếu Chúa-công muốn trị tội cũng được, nhưng phải âm thầm thì hay hơn.

Tề hoàn-công liền sai Thụ điêu sang nước Châu đưa Ai-khương về Lỗ.

Ai-khương tuân-lệnh, đi đến đất Di địa thì trời vừa xẩm tối phải tìm quán xá nghỉ ngơi.

Thụ điêu nói với Ai-khương :

– Phu-nhân một tay làm hại hai vua, nay còn mặt mũi nào về Lỗ. Chi bằng tự xử lấy mình là hay hơn.

Ai-khương nghe nói, quay lưng vào phòng đóng cửa lại.

Đêm ấy Thụ điêu nghe tiếng khóc sụt sùi suốt đêm trường. Mãi cho đến lúc trời hừng sáng mới dứt.

Thụ điêu chờ mãi không thấy Ai-khương ra liền xô cửa vào xem, thấy Ai-khương đã treo cổ tự vận . Máu hồng còn ướt đẫm, đôi dòng lệ chưa nhòa .

Thụ điêu lập tức sai người qua nước Lỗ phi-báo.

Lỗ hi-công đưa linh cữu Ai-khương về nước tống táng, và tin cho Tề hoàn công hay.

Tề hoàn-công tuy cũng có động lòng nhưng không lấy thế làm buồn bã.

Lúc bấy giờ, mọi việc trong nước Tề hoàn-Công đều giao cho Quản-trọng gánh vác, còn mình chỉ uống rượu, hoặc săn bắn để hưỡng lạc.

Một hôm, Tề hoàn-Công đi săn nơi Đại-trạch, có Thụ điêu theo hầu.

Bỗng Thụ điêu thấy Tề hoàn-công mặt mày ngơ ngác, đôi mắt chăm chăm, đứng nhìn sững về một hướng.

Thụ điêu lấy làm lạ, hỏi :

– Chúa công nhìn thấy gì vậy ?

Tề hoàn-công nói :

– Ta vừa trông thấy một giống ma quỉ, hình thù rất ghê sợ vụt chốc lại biến đi mất, chắc là điềm không tốt.

Thụ điêu nói :

– Ma qui? thuộc về âm, lẽ nào lúc ban ngày lại hiện lên được ?

Tề hoàn-công nói :

– Ngày trước tiên-quân ta cũng đi săn trong lúc ban ngày, thấy beo mà bõ mạng. Ngươi mau mời Trọng-phụ ra đây ta hỏi.

Thụ điêu nói :

– Quản-trọng làm gì biết được chuyện ma quái ?

Tề hoàn-công nói :

– Ngày trước đi đánh Cô-trúc, Quản-trọng đã đoán biết được thần Du-nhi, thì ắt cũng biết đưa giống ma qui? chớ chẳng không.

Thụ điêu thưa :

– Trước kia Chúa-công tả hình dáng thần Du-nhi nên Quản-Trọng phỏng theo đó nói càn, để Chúa-công an lòng đi đánh Cô-trúc . Nay Chúa-công muốn thử tài Quản-trọng, Chúa công đừng nói rõ hình dáng, nếu Quản-trọng biết được mới thực là thánh.

Tề hoàn-công nghe lời thâu quân trở về. Tối hôm đó vì quá sợ sệt nên Tề hoàn-công sanh bệnh sốt.

Rạng ngày, các quan chầu chực đủ mặt để vấn an .

Tề hoàn-Công hỏi Quản-trọng :

– Hôm qua nơi Đi-trạch, ta thấy một giống ma qui? hiện lên chẳng hay khanh có biết được đó là giống gì chăng ? Hình dáng ra sao ?

Quản-trọng không biết trả lời sao, xin hẹn lại đễ suy xét.

Thụ điêu tủm tỉm cười bước đến nói với Tề hoàn-công :

– Tôi đã biết Quản-Trọng không phải là vị thánh.

Tề hoàn-công mỗi ngày một đau nặng.

Quản-trọng rất lo lắng sai người yết bãng khắp nơi, hễ ai biết mà nói được hình dáng giống ma qui? mà Tề hoàn-công đã thấy thì được trọng thưởng.

Yết bảng chưa được ba ngày, có một người mặc áo rách, đội nón mê, xin vào yết kiến.

Quản-trọng cho vào hỏi :

– Ngươi biết được hình dáng ma qui? sao ?

Người ấy thưa :

– Không có giống ma quái nào tôi không thạo. Xin ngài cho tôi được phép vào yết kiến Chúa-công.

Quản-trọng vội vã đưa vào cung, giữa lúc Tề hoàn-công đang ngồi trên long sàng, có hai thị-nữ đấm bóp và Thụ điêu đang dâng nước trà.

Quản-trọng thưa :

– Có người nói được hình dáng ma quái, tôi đã đem đến đây , xin Chúa-công cho phép yết-kiến.

Tề hoàn-công cho vào.

Người ấy quì móp trước long- sàng, cúi đầu thi lễ .

Thấy người áo rách, nón mê, Tề hoàn-công có ý khinh dễ, hỏi :

– Một kẻ quê mùa như ngươi lại có thể biết được chuyện ma quái sao ?

Người ấy tâu :

– Chúa-công gặp ma quái nơi đâu ?

Tề hoàn-công nói :

– Ta thấy giống ấy nơi Đại-trạch, lúc ban ngày.

Người ấy nói :

– Chúa-công tự làm hại lấy mình, chứ ma quái đâu có làm hại được Chúa-công.

Tề hoàn-công hỏi lớn :

– Nhà ngươi bảo rằng không có ma quái sao ?

Người ấy tâu :

– Hạ thần vẫn cho là có ma quái, như ở dưới nước có giống Võng-ượng, ở gò thì có giống Trăn, ở núi thì có giống Quỉ, ở đồng bằng thì có giống Bàng-hoàng, còn nơi Đại-trạch thì chỉ có giống Uy đà mà thôi.

Tê hoàn-công hỏi :

– Giống Uy đà hình dáng thế nào ?

Người ấy thưa :

– Giống Uy đà to lớn như người, mặc áo đỏ đội mũ đỏ. Giống ấy sợ tiếng xe chạy. Hễ nghe tiếng xe chạy rầm rĩ thì ôm đầu mà đứng. Ai trông thấy giống ấy tất dựng nên nghiệp bá đặng .

Tề hoàn-công nghe xong, vùng đứng dậy, nét mặt tươi tỉnh, không còn đau đớn gì cả, nói :

– Chính ta đã thấy giống ấy, nhà ngươi tên gì ở đâu mà lại có tài xét đoán như vậy ?

Người ấy nói :

– Tôi tên Hoàng-tử, một kẻ nông phu sống nơi cõi Tây nước Tề.

Tề hoàn-công nói :

– Nhà ngươi ở đây ta sẽ phong cho nhà ngươi làm chức Đại-phu.

Hoàng-tử từ chối, nói :

– Tôi không muốn làm quan, chỉ mong Chúa-công sửa sang chính trị, trừ gian diệt nịnh, làm cho nước mạnh dân giàu, khiến cho tôi được yên nghiệp làm ăn là tôi mãn nguyện rồi.

Tề hoàn-công khen là người cao sĩ, ban cho thóc lúa, rồi sai người đến tận nhà viếng thăm.

Lại thưởng cho Quản-trọng rất hậu .

Thụ điêu nói :

– Hoàng-tử nói được chứ Quản-trọng có nói được đâu mà Chúa-công trọng thưởng ?

Tề hoàn-công nói :

– Nếu không có Trọng-phụ thì sao ta được nghe lời nói của Hoàng-tử.

Thụ điêu không dám nói nữa .

Lúc bây giờ, nước Vệ bị nước Bắcđịch đem quân xâm chiếm .

Vệ ý-công sai sứ sang Tề cầu cứu .

Tề hoàn-công nói :

– Quân ta mới đi đánh Sơn-nhung vừa rồi, hãy còn mệt mỏi, quân lực chưa dùng đặng. Nếu nước Vệ thấy nguy cấp nên cầu viện ở nước khác. Sứ nước Vệ nghe Tề hoàn-công nói, buồn bã ra về.

Rồi, cuối năm ấy, có quan Đại-phu nước Vệ là Ninh-Tốc sang Tề báo tin Vệ ý-công đã bị quân Bắcđịch giết , nay phải sang đón Công tử Hủy về nước nối ngôi.

Tề hoàn-công hay tin, thở dài, nói :

– Không sang cứu nước Vệ kịp thời là lỗi tại ta !

Chương 23: Ham chim hạc, Vệ hầu mất nước – Giận sở vương, Tề chúa hưng binh

Nhắc qua việc nước Vệ, Vệ ý-công lên ngôi đã chín năm trời, mà tính tình biếng nhác, chẳng lo chính sự, chỉ thích chơi một giống chim gọi là chim hạc.

Giống chim này tính ưa sạch sẽ, hình dung đã tao nhã lại hát hay, múa khéo.

Người trong nước thấy vua ưa thích , đua nhau bắt chim hạc đem đến dâng rất nhiều. Hễ chim nào tốt thì được Vệ ý-công phong hàm-phẩm, cấp lương bổng, chim nào đẹp thì được ăn lộc Đại-phu, xem như một triều đình chim hạc.

Mỗi khi Vệ ý-công đi chơi đâu trên các cỗ xe loan, chim hạc đậu bao quanh, gọi là Hạc tướng quân.

Các người nuôi hạc lúc bấy giờ ăn lương rất hậu. Triều đình phải thâu thuế của dân thật nặng, để đủ tiền cấp lương cho hạc .

Lúc bấy giờ việc triều chính do tay Thạch-kỳ con cháu Thạch-Thác và Ninh-tốc đảm đương. Hai người này là hai tôi trung liệt đã nhiều lần can gián nhưng Vệ ý-công không nghe.

Công-tử Hủy là thứ huynh của Vệ huệ-công, thấy cháu mình như vậy, biết nước Vệ một ngày nào đó tất sanh biến , bỏ sang nước Tề cư ngụ .

Tề hoàn-công chọn con gái dòng Tôn-thất gả cho, rồi cho ở luôn bên nước Tề.

Nước Vệ sang trong tình trạng ngoắc ngoải ấy mãi cho đến lúc quân Bắcđịch đến xâm lấn bờ cõi.

Bắcđịch là một nước cường thạnh , lâu nay có ý xâm chiếm Trung-nguyên .

Vừa rồi lại nghe Tề hoàn-công đi đánh Sơn-nhung lấy làm tức tối. Vua nước Bắcđịch là Sưu-man, vỗ án hét :

– Quần Tề đem quân đi đánh Sơn-nhung là có ý khinh dễ nước ta lắm, nếu không nghĩ cách mà trị trước, ắt quân Tề còn dễ ngươi nữa.

Nói xong, kéo binh sang đánh nước Hình.

Tề hoàn-công toan đem binh sang cứu nước Hình , thì quân Bắcđịch lại kéo sang đánh nước Vệ.

Lúc ấy, Vệ ý-công đang sai người đẩy xe chim bạc đi chơi, nghe báo có quân Bắcđịch đến đánh thất kinh, hạ lệnh gọi quân đi đánh giặc.

Dân nước Vệ bỏ trốn cả, không ai dám ra đi lính.

Vệ ý-công sai quan Tư đồ đi bắt khắp nơi mới được hơn một trăm người đem về tra hỏi.

Dân nước Vệ thưa :

– Chúa-công chỉ dùng một giống vật cũng đủ đẹp được quân Bắcđịch, hà tất phải gọi lính làm gì ?

Vệ ý Công hỏi :

– Giống vật gì lại có thể đuổi được giặc ?

Dân nước Vệ thưa :

– Giống chim hạc !

Vệ ý-công quát mắng :

– Giống chim hạc làm thế nào mà đánh giặc, các ngươi đám dùng lời khi quân như thế sao ?

Dân nước Vệ vẫn không sợ sệt, đáp :

– Chim hạc không đánh được giặc, thì đó là vật vôđụng thế mà Chúa-công đã dùng vật vô dụng cho hưởng ơn vua lộc nước , còn kẻ hữuđụng lại bõ đi , như vậy làm sao trong cơn hữu-sự dân chúng không bõ trốn ?

Vệ ý-Công tỉnh ngộ, dịu giọng nói :

– Nay ta đã hối lỗi. Ta sẽ theo ý dân đuổi hết chim hạc đi.

Thạch-kỳ tâu :

– Xin Chúa-công thực hành ngay ý định ấy. Tôi e bây giờ đã trễ lắm !

Vệ ý-Công tức khắc sai người đi đuổi chim hạc, nhưng chim hạc lâu nay được nuôi nấng, quen nơi ăn, chốn ở nên cứ quanh quẩn mãi trong cung không chịu bay đi.

Thạch-kỳ và Ninh-Tốc thân hành ra đứng giữa chợ , giảng dụ dân chúng, nói rõ lòng hối hận của Vệ ý-công, dân chúng mới chịu nhập vào quân ngũ.

Thì, lúc đó giặc Bắcđịch đã kéo đến đất Huỳnh-Trạch rồi.

Thạch-kỳ bàn với Vệ ý-công :

– Quân Bắc Địch mạnh lắm, chớ khinh thường. Tôi xin sang nước Tề cầu cứu, nhờ binh Tề giúp sức mới xong.

Vệ ý-Công nói :

– Ngày trước Tề phụng mệnh Thiên-tử đem binh chinh phạt nước ta. Dẵu không bắt tội, nhưng từ ấy đến nay ta chưa sang tạ tội , nay chắc gì Tề chịu đem binh đến giúp. Chi bằng ta liều quyết chiến với Bắc địch một phen rồi sẽ liệu.

Ninh-tốc tâu :

– Nếu vậy xin Chúa-công lo bảo vệ thành trì, để tôi đem quân ra quyết chiến cho.

Vệ ý-công nói :

– Nếu ta không thân hành ra trận, lòng quân không cởi mở được căm hờn.

Nói xong, trao cho Thạch-kỳ một cái ngọc-quyết và dặn :

– Ta giao việc nước cho khanh hãy ráng vì ta mà tận tâm.

Lại giao cho Ninh-tốc một mũi tên, rồi nói tiếp :

– Khanh khá lo việc giữ thành. Nếu không đánh được quân. Bắcđịch ta thề không trở về.

Thạch-kỳ và Ninh-tốc đều ứa nước mắt nhìn Vệ ý-công nghẹn ngào không nói được nữa lời.

Vệ ý Công cùng với tướng Cừ-khổng khai thành, kéo quân đi .

Tuy Vệ ý-công đã ăn năn, nhưng lòng dân oán hận chưa nguôi .

Lúc đi đường, quân lính hát lên nhiều câu ngập tràn uất ức.

Hát rằng :

Hỡi chim hạc ! Hỡi chim hạc !

Lầu son bát ngát !

Chim hạc ăn lương !

Đồng rẫy ruộng nương

Dân thuờng lo cày cấy !

Hạc lai chơi bay nhảy

Xuống ngựa lên xe !

Dân khổ cực trăm bề

Khi hữu sự , bắt lê ra chiến trận

Đi phen này số phận mong manh.

Vệ ý Công nghe hát, lòng buồn rũ rượi.

Khi đến đất Huỳnh-Trạch trông thấy quân Bắcđịch ngựa xe lộn xộn, hàng ngũ không chỉnh tề, Cừ-khổng nói :

– Quân lực BắcĐịch như vậy mà bảo rằng mạnh thì thật là lầm to.

Nói xong giục trống cho quân sĩ xáp chiến.

Quân Bắcđịch giả thua bõ chạy, dụ quân Vệ đến chổ phục quân, đổ ra đánh.

Quân Vệ vốn không cố lòng đánh giặc, thấy quân Bắcđịch quá mạnh hè nhau bỏ trốn.

Vệ ý-công và Cừ-khổng bị quân Bắcđịch vây vào giữa rất ngặt .

Cừ-khổng nói với Vệ ý-công :

– Tình thế rất hiểm nghèo xin Chúa-công bõ cờ hiệu, thay đổi y phục rồi xuống xe mà chạy, may ra mới thoát được.

Vệ ý-Công thở dài nói :

– Ta thà liều chết để tạ tội với bá tánh còn hơn !

Quân Bắcđịch vây mỗi lúc một dày thêm, các tướng Vệ lần lượt bỏ mạng, quân sĩ chết không biết bao nhiêu mà kể, máu tuôn như suối.

Vệ ý-công cầm cự đến phút cuối cùng rồi cũng chết trong đám loạn quân.

Quân Bắcđịch bắt sống được Hoa long-hoạt và Lễ-không, giữ chức Thái-sử, theo Vệ ý-công hộ giá.

Chúa nước Bắcđịch là Sưu-Man truyền đem chém.

Hai người này vồn biết tinh thần tín ngưỡng của người Bắcđịch, nên lập kế nói dối :

– Các ngươi không muốn chiếm nước Vệ hay sao mà chém chúng ta .

Sưu-Man hỏi :

– Để chúng bây mà làm gì ?

Hoa long-Hoạt nói :

– Ta đây làm chức Thái-sử, giữ việc cúng tế . Nếu sống ta sẽ vì các ngươi mà cáo trước với thần linh, nhờ thần linh giúp sức thì mới chiếm nước được.

Sưu-Man tin thực, tha cho hai người lên xe về thành.

Lúc ấy Ninh-tốc đang tuần phòng trên mặt thành thấy Hoa long-hoạt và Lễ Không hơ hải chạy về, thất kinh hỏi lớn :

– Chúa-công đâu ?

Hoa long-hoạt và Lễ-không nói :

– Quân ta tan vỡ, Chúa-công bõ mình rồi ! Quân giặc mạnh lắm hãy mau lánh nạn kẻo trễ !

Ninh-tốc mở cửa thành cho hai người vào.

Lễ-khổng vào thành. Vừa khóc vừa nói :

– Lúc ra đi có Chúa-công, lúc trở về có một mình. Âu là ta chết theo Chúa-công còn hơn.

Nói xong, rút gươm đâm vào cổ tự vận.

Hoa long-hoạt nói :

– Ta làm chức Thái-sử, giữ sổ bộ, không nên liều mình bõ sách sử thất lạc.

Liền vào nhà Thái-miếu ôm tất cả sách sử đem ra.

Thạch-kỳ và Ninh-tốc đưa cung quyến của Vệ ý-công và Công-tử Thân đi trốn.

Hoa long-hoạt cũng ôm sổ sách đi theo.

Dân chúng nước Vệ hay tin hai quan Đại-phu Thạch-kỳ, Ninh-tốc đã bỏ trốn, đều bồng con, dắt vợ bỏ nhà ra đi, tiếng kêu khóc rất thảm thiết.

Hay tin thành nước Vệ bõ trống, quân Bắcđịch kéo vào, một mặt đốt phá cung thất, vơ vét của cải, giết người cướp của, một mặt cho tướng theo Thạch-kỳ và Ninh-tốc truy nã.

Thạch-kỳ và Ninh-Tốc chạy đến sông Hoàng hà hay tin quân Bắcđịch đuổi theo, lòng kinh hãi, tưởng không trốn thoát , may nhờ có đạo quân nước Tống kéo đến, chận quân Bắcđịch lại, hai người mới kịp xuống đò sang sông lánh nạn.

Quân Bắcđịch, sau khi tàn phá Kinh-thành nước Vệ, thu góp vàng bạc, thóc lúa, rồi kéo binh về nước, để lại một cảnh điêu tàn , tang tóc, thê lương.

Giữa lúc đó có quan Đại-phu nước Vệ là Hoằngđiễn, khi trước lảnh mạng Vệ ý-Công sang sứ nước Trần, nay trở về thấy nước Vệ đã bị quân Bắcđịch phá tan-tành, lại nghe Vệ ý-công bị tử chiến nơi Huỳnh-trạch, lòng đau xót, vội vã đến Huỳnh-trạch để tìm xác Vệ ý Công .

Dọc đường, Hoằngđiễn chạy đâu đâu cũng đầy những xác chết và máu me tanh hôi không thể tả.

Đến Huỳnh-trạch, Hoằngđiễn xông vào các đống xác chết kiếm tìm.

Chợt thấy cây cờ hiệu bõ dưới đất, HoằngĐiễn mừng thầm, nói :

– Cờ hiệu nơi đây, ắt xác Chúa-công không đâu xa.

Bèn tiến đến hai bước.

Bỗng nghe trong đống thịt người lại có tiếng rên rỉ, Hoằngđiễn bới lên xem, thì thấy một người nội thị chưa chết, bị gãy cả chân tay, đang nằm ở đây.

Hoằngđiễn hỏi :

– Ngươi có biết Chúa-công chết chỗ nào chăng ?

Người nội-thị hắt hàm qua một bên nói :

– Đây là đống thịt của Chúa-công. Quân giặc bằm nhỏ ra chính mắt tôi trông thấy. Vì vậy dầu bị gãy cả tay chân, tôi vẫn cố nằm nơi đây, đợi người nước Vệ đến mà chỉ.

Hoằngđiễn rơi lệ, hai tay bới đống thịt đã tan nát từng mảnh, chỉ tìm được một buồng gan còn nguyên vẹn mà thôi.

Bèn để buồng gan trước mặt vừa lạy vừa khóc.

Lạy xong, Hoằngđiễn nói :

– Nay Chúa-công ta bỏ xác như vầy không lấy gì mai táng. Vậy ta hy sinh tấm thân của ta làm áo quan mà tẩn liệm cho Chúa-công.

Nói xong quay lại bảo tên gia nhân :

– Sau khi ta chết, ngươi đem chôn ta vào khu vườn này, đợi lúc nào nước Vệ có vua mới, hãy tường trình câu chuyện này lại.

Đoạn cầm dao mổ bụng xách buồng gan của Vệ ý-công bõ vào .

Được một lúc thì chết.

Tên gia-nhân tuân lời dặn , đem Hoằngđiễn mai táng trong rừng, rồi sửa chữa một chiếc xe hư, đưa người nội thị về thành để dò xét tin tức trong nước.

Lúc đó, Thạch-kỳ và Ninh-tốc đã chiêu tập được một số dân chúng, đưa Công-tử Thân vệ lập lên ngôi, tức là Vệ đái-công.

Nhưng Vệ đái-công trước đây bị bịnh, lên ngôi được có mấy hôm thì từ trần.

Ninh-tốc phải sang nước Tề triệu Công-tử Huỷ về kế vị .

Tề hoàn-công sai Công-tử Vô-khuyết đem quân hộ tống Công-tử Hủy trở về , tôn lên ngôi, tức là Vệ văn-công.

Vệ văn-công vừa lên ngôi, được nghe câu chuyện HoằngĐiễn mổ bụng làm áo quan để chôn buồng gan Vệ ý-công, lòng rất cảm động, cho người đến Huỳnh-trạch dùng vương-lễ mai táng Vệ ý-Công , rồi phong cho Hoằngđiễn và dùng con cháu Hoằngđiễn ra làm quan .

Vệ văn-công tính tinh cần mẫn, tuy làm vua vẫn đội mũ lụa xấu, mặc áo vải , ăn cơm đỏ canh rau, lại siêng năng chăm lo việc liêm chính. Vì vậy, chẳng bao lâu dân tình bớt khốn đốn .

Công-tử Vô-khuyết cho ba ngàn quân đến trấn tại Tào ấp để phòng giữ quân giặc, rồi trở về nước Tề, kể lại đạo đức của Vệ văn-công và thuật lại chuyện HoằngĐiễn mổ bụng chôn vua cho Tề hoàn-Công nghe.

Tề hoàn-công khen :

– Một ông vua vô đạo mà có được bề tôi trung nghĩa như vậy thì nước Vệ chưa đến nỗi mất.

Quản-trọng thưa :

– Nay bắt quân sĩ đóng đồn phòng thủ cho nước Vệ thì khổ nhọc lắm , chi bằng đắp cho nước Vệ một cái thành, tuy khó nhọc một lần, song yên ổn mãi mãi.

Tề hoàn-công y lời, toan hội chư hầu sang đắp thành cho nước Vệ .

Bỗng có sứ nước Hình đến cáo-cấp , nói quân Bắcđịch lại kéo đến đánh , xin cho quân cứu viện.

Tề hoàn-công hỏi Quản-trọng :

– Ta có nên cất binh đi cứu nước Hình chăng ?

Quản-trọng thưa :

– Sở dĩ chư hầu phục ta là vì nước ta hay cứu vớt tai nạn các nước khác. Nay đã không cứu Vệ, lại không cứu Hình nữa thì làm sao gọi là bá-chủ .

– Thế thì bây giờ nên đi đắp thành cho nước Vệ, hay đi cứu nước Hình trước ?

Quản-trọng nói :

– Cứu binh như cứu lửa, không nên duyên trì. Cứu xong nước Hình, rồi nhân tiện, đến đắp thành cho nước Vệ thì được lưỡng toàn.

Tề hoàn-Công khen phải, truyền hịch cho các chư hầu, hội nơi đất Nhiếp-bắc để cùng nhau đánh quân Bắcđịch.

Quản-trọng lại thưa với Tề hoàn-công :

– Quân nước Bắcđịch vừa thắng nước Vệ, thế quân đang mạnh lắm. Còn nước Hình cầu cứu, song quân lực chưa phải suy yếu. Nay ta đợi cho hai bên giáp chiến đã. Nước Hình dẫu thua trận, thì quân Bắcđịch lúc đó cũng mệt mỏi. Ta thừa thế kéo binh đến đánh, ắt dễ thắng hơn.

Tề hoàn-Công nghe theo lời, đem binh đến nơi Nhiếp-bắc, giả cách chờ đợi binh các nước chư hầu, rồi sai người do thám tin tức nước Hình.

Quân Bắcđịch đang lúc hung hăng, ngày đêm công thành.

Nước Hình cự không nổi, vua tôi bỏ chạy tán loạn .

Chúa nước Hình là Thúc-Nhan chạy đến trại Tề hoàn- Công cầu cứu .

Tề hoàn-công nói :

– Tôi không đến quí-quốc kịp, thật có lỗi lớn.

Nói xong, họp các chư hầu bàn mưu phá giặc .

Vua Bắcđịch là Sưu-man chiếm được kinh thành nước Hình, vơ vét của cải, đốt phá cung điện, lòng tham đã mãn nguyện, không còn thiết gì nữa, lại nghe quan các nước chư hầu sắp sửa kéo đến, vội vã rút quân về.

Vì vậy khi các nước chư hầu đến thì chỉ còn vườn không nhà trống, cung điện hoang-tàn mà thôi.

Tề hoàn-công hỏi Thúc-nhan :

– Thành cũ còn có thể ở tạm nữa được chăng ?

Thúc-nhan thưa :

– Dân chúng đã bỏ đi quá nữa, đến trú ngụ nơi Di-nghi , bây giờ tôi phải theo ý dân, dời đô sang Di-nghi mới được.

Tề hoàn-công hội chư hầu, giúp vua nước Hình xây đắp thành lũy nơi Di-nghi, và cắp cho trâu bò, lúa thóc rất nhiều.

Vua nước Hình mến đức, ca tụng chẳng cùng.

Tề hoàn-công lại đem quân các chư hầu sang nước Vệ.

Vệ văn-Công ra khỏi thành nghênh tiếp.

Tề hoàn-công thấy Vệ văn-công đội mũ lụa xấu, mặc áo vải thô, lòng thương xót, hỏi :

– Tôi nhờ các chư hầu đến giúp cho quí-quốc xây thành, đắp lũy chẳng hay quí-quốc muốn đóng đô nơi nào ?

Vệ văn-công thưa :

– Tôi đã chọn đất Sở-khâu là nơi cát địa, có thể đóng đô được , song việc xây cất thành quách tổn phí lắm, không thể nào làm nổi.

Tề hoàn-công nói :

– Việc đó đã có tôi và các nước chư-hầu giúp sức, xin hiền-hầu chớ lo .

Nói xong, truyền các nước chư hầu đền đất Sở-khâu , đốc suất việc xây thành đắp lũy cho nước Vệ .

Tiếng đồn vang đến nước Sở .

Sở thành-vương Hùng-vận từ khi dùng Tử-văn Đầu-cầu Ô đồ làm Tể-tướng, chăm lo sửa sang chính-trị trong nước, mưu việc bá-chủ chư-hầu, nay nghe Tề hoàn-công cứu nước Hình , giúp nước Vệ khiến các chư-hầu mến phục, lòng áy náy không an.

Một hôm hỏi Tử-văn :

– Hiện nay các chư hầu đều quy thuận nước Tề, không biết đến nước Sở, ta thật lấy làm xấu hổ, khanh có ý chi chăng ?

Tử-văn tâu :

– Tề-hầu sửa sang việc quốc-chính đã hơn ba mươi chín năm, các chư-hầu đều tin phục. Ta khó địch nỗi với Tề. Bây giờ xin Đại-vương mở mang bờ cõi, thu phục nhân tâm, chuẩn bị lực lượng để ngày sau cùng với Tề đối địch.

Sở thành-vương nói :

– Mở rộng bờ cõi bằng cách nào ?

Tử-văn thưa :

– Nay có nước Trịnh, nằm vào giữa Nam, Bắc, làm tấm bình phong che đỡ cho các nước Trung-nguyên. Nếu Đại-vương muốn mở mang bờ cõi tất phải đánh lấy Trịnh mới được.

Sở thành-vương nói :

– Có ai vì ta ra sức đảm đương việc đánh Trịnh chăng ?

Quan Đại-phu Đầu-Chương bước ra xin đảm nhận.

Sở thành-Vương cấp cho ba vạn binh hùng, khiến Đầu-chương thẳng đường kéo sang nước Trịnh.

Nước Trịnh từ khi bị nước Sở sang quấy nhiễu ở đất Thuần-môn, ngày đêm có ý đề phòng, nay nghe binh Sở kéo đến nữa, Trịnh văn-Công sợ hãi, một mặt sai tướng tăng cường việc phòng thủ Thuần-môn, một mặt sai sứ sang Tề cáo cấp.

Tề hoàn-công hay tin hội các chư hầu bàn mưu cứu Trịnh .

Đầu-Chương kéo quân đến Thuần-môn, thấy quân Trịnh đề phòng cẩn mật, lại hay tin các chư hầu hiệp binh đến cứu liệu thế không làm gì được phải kéo binh về.

Sở thành-vương hay được Đầu-Chương chưa đánh đã lui binh tức giận, rút thanh gươm đeo mình đưa cho Đầu-liêm, bảo đi chém đầu Đầu-chương.

Đầu-Liêm là anh Đầu-chương nên khi được lệnh lòng phân vân, giấu mật lệnh vào mình, không cho ai biết, rồi lén đến cùng với Đấu-chương thương nghị.

Đầu-Liêm nói :

– Em đã trái lệnh vua không tránh khỏi tội . Nay phải tìm cách lập công chuộc tội mới được .

Đầu-Chương sụp lạy nói :

– Nếu anh tưởng tình đến em, xin anh bày kế cho.

Đầu-Liêm nói :

– Nước Trịnh thấy em kéo binh về tất không còn đề phòng nữa . Nay em phải lập tức đến đó xuất kỳ bất ý đánh một trận, may thắng đặng.

Đầu-Chương vâng lời chia quân làm hai đạo kéo đi trước.

Còn Đầu-liêm theo sau tiếp ứng.

Quan giữ thành nơi biên giới nước Trịnh là Đam-Bá , từ lúc thấy quân nước Sở không đánh mà rút về , có ý trễ biếng. Bất ngờ nay Đầu-chương lại kéo đến nữa không còn để phòng kịp, bị Đầu-Chương hãm thành bắt sống trên lưng ngựa, còn quân sĩ chết hơn quá nữa. hừa thắng, Đầu-chương kéo quân thẳng đến vây thành nước Trịnh.

Được hai ngày, Đầu-liêm bàn với Đầu-chương :

– Ta chỉ cốt lập công để chuộc tội chết, nay thắng trận như vầy cũng đã đũ , không nên khinh thường đóng quân trên đất địch lâu.

Hai anh em liền rút quân về.

Đầu-chương vào yết kiến Sở thành-vương và tâu :

– Khi trước tôi lui binh về cốt là để lập mưu đánh lừa giặc chứ không có ý khi quân hay sợ giặc xin Đại-vương xét lại.

Sở thành-vương nói :

– Ngươi đã thắng giặc, bắt được tướng Trịnh, tội ấy có thể dung tha. Nhưng tại sao nước Trịnh chưa chịu đầu hàng mà ngươi đã kéo binh về ?

Đầu-Chương nói :

– Tôi sợ quân ít, không đánh nổi nước Trịnh làm tổn thương đến uyđanh nước Sở nên phải rút binh về.

Sư thành-vương nổi giận hét :

– Nếu đổ thừa cho quân ít thì quả ngươi đã sợ giặc rồi ! Nay ta cấp thêm quân cho ngươi, nếu không đánh được nước Trịnh thì đừng thấy mặt ta nữa.

Đầu-Liêm bước tới, quỳ tâu :

– Xin Đại-vương cho anh em tôi cùng đi. Nếu nước Trịnh không chịu đầu hàng chúng tôi xin đem đầu Chúa Trịnh về nạp cho Đại-vương.

Sở thành-vương nhậm lời, phong cho Đầu-liêm làm Đại-tướng, Đầu-chương làm phó tướng, cấp cho mỗi người năm vạn binh ròng kéo thẳng đến nước Trịnh.

Trịnh văn-công hay được tin Đam-bá bị bắt, lại nghe quân Sở ồ ạt kéo đến nữa, hoảng hốt, sai sứ sang nước Tề cầu cứu.

Quản-trọng thưa với Tề hoàn-công :

– Mấy năm qua, Chúa-công đã giúp nước Yên, cứu nước Lỗ, lại xây thành đấp lũy cho nước Hình và Vệ. Vậy ngày nay Chúa công có thể dùng quân các nước ấy để đánh Sở được . Mà đánh Sở tức là cứu Trịnh vậy.

Tề hoàn-công nói :

– Nếu hội các chư hầu đánh Sở, nước Sở hay được tất phòng bị trước, thì khó thắng.

Quản-Trọng nói :

– Nước Sái là một nước nhỏ, tiếp giáp với Sở, trước kia có lỗi với Chúa-công. Nay Chúa-công mượn tiếng ấy đi đánh Sái, rồi kéo binh qua đánh Sở, thì nước Sở không phòng bị kịp .

Nguyên trước đây Sái-hầu có em gái là Sái-cơ, đem gã cho Tề hoàn-công làm đệ tam phu-nhân. Một hôm, Tê hoàn-công cùng với Sái-cơ chèo thuyền du ngoạn nơi ao sen, Sái-Cơ đùa bỡn, lấy tay khuấy nước làm tung vào mặt Tề hoàn-công. Tề hoàn-Công phải tránh né mãi. Sái-cơ biết Tề hoàn-công sợ nước, mới cố ý làm cho thuyền lay động, nước bắn vào ướt áo.

Tề hoàn-công nổi giận mắng :

– Tiện-tỳ, mi dám vô lễ với ta đến thế ư ?

Nói xong sai Thụ điêu đuổi Sái-cơ về nước .

Sái-hầu thấy vậy giận lắm, nói :

– Ta đã gả em gái cho, mà còn xử bạc, xua đuổi. Thế thì còn tình nghĩa gì nữa.

Sái hầu đem Sái-cơ gả cho Sở thành-vương lập làm phu-nhân.

Từ ấy, Tề hoàn-Công đem lòng căm giận Sái-hầu.

Nay nghe Quản-trọng nhắc đến, Tề hoàn-công nói :

– Sái và Sở đáng phải trừng trị. Nay có nước Giang và nước Hoàng, cũng tiếp giáp với Sở, bị nước Sở quấy nhiễu đem lòng căm phẫn. Ta muốn cùng với hai nước ấy thề ước, và nhờ làm nội ứng phỗng có nên chăng ?

Quản-trọng bàn rằng :

– Nước Giang và Hoàng là hai nước ở xa Tề lại gần Sở. Nếu qui thuận nước ta tất nước Sở giận, kéo quân sang đánh . Chừng đó ta đến cứu thì quá xa xôi, bằng không đến cứu, mang tiếng với chư-hầu, chi bằng liên-kết với nước khác là hơn.

Tề hoàn-công nói :

– Dẫu xa xôi, nhưng họ có lòng hâm mộ về với mình, lẽ nào lại từ chối để cho họ phải thất vọng !

Quản-trọng nói :

– Nếu Chúa-công không nghe lời thì cứ xin ghi lấy lời tôi nói, sau này sẽ thấy điều lợi hại.

Tề hoàn-công sai mời nước Hoàng và nước Giang đền giao hòa, rồi cùng hai nước ăn thề, họp binh đánh Sở.

Vua nước Giang và nước Hoàng bàn với Tề hoàn-công :

– Lâu nay nước Thư vốn giúp cho nước Sở thi hành nhiều điều tàn ác. Ấy vậy, nên đánh nước Thư trước để chặt vây cánh.

Tể hoàn-công y lời viết một phong thư sai người đem đến nước Từ. Nước Từ vốn là một nước tiếp giáp với nước Thư. Vua nước Từ gả con gái cho Tề hoàn-công làm đệ nhị phu-nhân, lâu nay vẫn tùng phục nước Tề, nên nay Tề hoàn-công khiến hưng binh sang đánh nước Thư. Vua nước Từ được lệnh hưng binh .

Chẳng bao lâu lấy được nước Thư .

Tề hoàn-công bảo vua nước Từ đóng quân ở Kinh-thành Thư , phòng khi cấp biến .

Giữa lúc đó, Tề hoàn-công lại tiếp sứ nước Lỗ sang thương nghị.

Sứ nước Lỗ là Quí-hữu vào ra mắt và tâu :

– Nước tôi có hiềm khích nước Châu và nước Cử, nên trước đây không sang đắp thành cho nước Vệ và nước Hình. Nay nghe tin quí quốc hội với nước Giang và Hoàng, sắp sửa tranh chiến , Chúa-công tôi xin đem binh giúp sức.

Tề hoàn-công nghe nói, mừng rỡ đem việc đánh Sở mật ước với Lỗ.

Lúc bấy giờ nước Sở đang đem quân xâm chiếm nước Trịnh, vây thành rất ngặt.

Trịnh văn-công muốn xin giảng hòa để cứu dân nước khỏi cảnh lầm than.

Quan Đại-phu Khổng-thúc can :

– Xin Chúa-công hãy chậm rãi . Nước Tề đang chuẩn bị đánh Sở , mục đích để cứu Trịnh. Ta nên cố thủ chờ xem.

Trịnh văn-công nghe lời, sai người cáo cấp với Tề hoàn-công.

Tề hoàn-công lập tức hội chư hầu, mượn cớ đánh Sái, để đem quân phạt Sở .

Tề hoàn-công phong cho Quản-trọng làm Đại tướng, lại khiến Thụ điêu đem quân sang đánh nước Sái trước.

Nước Sái lâu nay vốn cậy Sở không phòng bị gì cả. Khi thấy Thụ điêu kéo quân đến, mới vội vàng đem quân chống giữ.

Sái hầu thấy Thụ điêu bỗng nhớ lại Thụ điêu trước kia là người hầu hạ Sái-cơ trong cung Tề , là một kẻ tiểu-nhân, bèn sai người đem vàng lụa đến cống lễ , để nhờ Thụ điêu hoãn binh.

Thụ điêu nhận lễ vật rồi đem các điều dự tính của Tề hoàn-công hội chư hầu, trước đánh Sái sau đánh Sở nói cho nước Sái biết, bảo Sái hầu phải đem gia quyến lánh nạn kẻo bị diệt vong .

Sứ tề tâu lại , Sái hầu thất kinh, nội đêm ấy bỏ thành, dắt cung quyến chạy sang nước Sở.

Dân trong thành thấy vua bỏ trốn tức khắc tìm đường lánh nạn.

Thụ điêu kéo quân vào thành, sai người về phi báo với Tề hoàn Công xưng tụng công lao của mình.

Còn Sái-hầu trốn sang nước Sở. Vào ra mắt Sở thành-vương thuật lại những lời nói của Thụ điêu.

Sở thành-vương biết được mưu kế của Tề hoàn-công, liền ra lệnh cho quân sĩ canh phòng khắp nơi cẩn mật.

Lại sai người sang nước Trịnh bão Đầu-chương rút quân về.

Mấy hôm sau, đại binh của Tề hoàn-công kéo đến nước Sái.

Thụ điêu đem quân ra nghênh tiếp, bảy nước chư-hầu cùng đến một lượt quân bị rất chỉnh tề.

Bảy nước ấy là :

1- Tống hoàn-công (Ngự-thuyết)

2- Lỗ hi-công (Thân)

3. Trần tuyên-công (Xử-Cựu)

4- Vệ văn Công (Hủy)

5- Trịnh văn-công (Thiệp)

6.- Tào chiêu-công (Ban)

7- Hứa mục-công (Tân-thần) .

Bảy nước ấy chịu dưới quyền điều khiển của Tề hoàn-Công , Tiểu-bạch làm Minh-chủ.

Lúc ấy Hứa mục-công đang bịnh nhưng cũng ráng đem quân hội nơi nước Sái . Vì vậy, khi đến nơi, Hứa mục-công lâm bịnh nặng bỏ mình.

Tề hoàn-công cảm tình ấy phong cho nước Hứa được đứng trên hàng nước Tào.

Đóng quân nơi nước Sái được ba ngày, an táng Hứa mục-công xong.

Tề hoàn-công cử đại binh thẳng đường kéo qua nước Sở .

Vừa đến biên giới nước Sở, bống thấy một người mũ áo chỉnh tề khép nép bên đường, cúi chào Tề hoàn-công hỏi :

– Ngài có phải Tề-hầu chăng ? Tôi là sứ-thần nước Sở, chờ ngài nơi đây đã lâu.

Nguyên người ấy là Khuất-hoàn , hiện làm quan Đại-phu nước Sở . Nay vâng lệnh Sở thành-vương đến để thuyết khách .

Tề hoàn-công lấy làm lạ, hỏi Quản-trọng :

– Tại sao nước Sở biết được quân ta đến đây mà cho người ra đón ?

Quản-trọng nói :

– Tất có kẻ nào đem mưu kế của ta tiết lậu cho người nước Sở biết. Tuy nhiên nay đã có thuyết khách của Sở đến đây, xin Chúa-công cho phép tôi dùng đại nghĩa mà nhắn nhủ vài lời, làm cho nước Sở phải nhục nhã phục tùng, khỏi dùng đến binh lực cũng nên .

Nói xong bước ra tiếp kiến Khuất-Hoàn.

Hai người chắp tay cùng thi lễ.

Khuất-hoàn nói :

– Chúa-công tôi hay tin quí quốc đem binh đến nên sai tôi thưa với quí-quốc vài lời. Tề với Sở ai có nước nấy. Nước Tề ở Bắc-hải, nước Sở ở Nam-hải cách nhau vạn dặm, cớ gì lại đem binh xâm phạt ?

Quản-trọng nói :

– Ngày xưa vua Thành-vương nhà Châu phong cho Tiên-quân ta nước Tề là Thái-công , có dặn Hễ nước nào không chịu mệnh nhà Châu , nước Tề có quyền đem binh vấn tội . Từ khi nhà Châu thiên sang Đông Đô, các nước chư hầu đều chểnh-mảng không theo vương-lệnh. Chúa ta phụng mệnh Thiên-triều giữ quyền Minh-chủ. Nay nước Sở bỏ lệ hàng năm cống hiến nhà Châu, mặc dầu chỉ một xe cỗ thanh-mao mà không giữ lễ. Như thế nước Sở không có lỗi sao ?

Khuất-hoàn nói :

– Từ lúc nhà Châu suy yếu, các nước đều bỏ lệ triều cống đâu phải riêng gì nước Sở. Nếu quí-quốc cho đó là một tội lỗi thì thật là đáng buồn cười.

Nói xong, cười lớn rồi quay xe trở về.

Quản-trọng nói với Tề hoàn-công :

– Người nước Sở rất tự cao, tự đắc không thể dùng lời chinh phục được, phải dùng binh lực để thị uy mới xong .

Tề hoàn-công truyền các nước tấn binh, đến đánh nơi Kinh địa .

Sở thành-Vương cũng không nhịn, phong Tử-văn làm Đại-tướng , đem quân ra đóng nơi đất Hán-nam để chống với quân các chư hầu .

Tử-văn nói với Sở thành-vương :

– Quản-trọng là một người giỏi binh-pháp, nay đem quân các nước chư hầu đến đây tất đã có sẵn mưu kế , xin Chúa-công cho một người nữa đến dò xét binh tình rồi sẽ tuỳ liệu.

Sở thành-vương nói :

– Bây giờ phải sai ai ?

Tử-văn nói :

– Khuất-hoàn đã biết mặt Quản-trọng, vậy cứ sai Khuất-hoàn đi một phen nữa.

Sở thành-vương chưa có ý kiến, Khuất-hoàn đã nói :

– Lần trước tôi đã gặp Quản-Trọng nhưng không bàn luận được gì, nay đi nữa cũng chẳng ích chi. Nếu Đại-vương muốn hoà , tôi sẽ lựa lời đáp ứng, còn nếu muốn đánh, xin Đại-vương sai người khác.

Sở thành-vương nói :

– Đánh hay hoà là tuỳ ở tình-hình địch quân. Ta giao cho ngươi quyền xét đoán ấy, để định liệu việc nói năng .

Khuất-hoàn phụng-mệnh sang trại Tề thương thuyết.