Hồi 35 – Núi Quảng Võ, Hán Sở tranh chiến

Hạng vương kéo binh về đến Quảng Võ, cùng với Hạng Bá, Chung Ly Muội và các tướng bàn bạc.

Hạng vương nói:

– Hiện nay quân Hán đang họp cả chư hầu, chỉnh đốn quân mã định cùng ta quyết chiến song quân ta đang thiếu lương thực, biết liệu làm sao?

Hạng Bá nói:

– Thái công hiện đang bị giam giữ ở đây, ta bắt Thái công viết một bức thư bảo Hán phải lui quân. Hễ quân Hán chịu lui thì ta thả Thái công về Thành Cao, bằng không, ta giết Thái công đi để cho Lưu Bang trở thành một kẻ tội nhân muôn thuở. Nếu Ðại vương làm theo kế ấy thì sức mạnh bằng mấy vạn hùng binh.

Hạng vương theo lời Hạng Bá sai người về Bành Thành, bắt Thái công giải đến.

Chẳng bao lâu, Thái công bị dẫn đến Quảng Võ, đưa vào yết kiến Hang vương.

Hạng vương nói:

– Con ngươi là Lưu bang, ngày ngày cùng ta tranh chiến, không đoái tưởng gì đến ngươi cả. Rõ hắn là một đứa con bất hiếu. Nay ta gọi ngươi đến đây định sai viết một bức thư khuyên Lưu Bang hưu chiến. Ðược vậy, ta sẽ tha ngươi và Lã hậu trở về Thành Cao, để cha con, chồng vợ được xum họp. Ngươi nghĩ thế nào?

Thái công nói:

– Lưu Bang thuở nhỏ vẫn là kẻ tham tài hiếu sắc, không nghĩ gì đến cha mẹ, chỉ lấy phú quý làm trọng. E rằng tôi viết thư gửi cho con tôi cũng chẳng ích gì!

Hạng vương nói:

– Thì ngươi cứ viết thư thử xem nếu Lưu Bang có lòng gì khác ta sẽ liệu.

Thái công liền viết mật thư trình lên Hạng vương.

Hạng vương xem thư xong nói:

– Lưu Bang xem thư này mà không lui binh thì thật là loài lang thú.

Liền sai Trung Ðại phu là Tống Tử Liên mang thư đến Thành Cao.

Tử Liên đến báo tin cho Hán vương biết.

Hán vương liền đòi Trương Lương và Trần Bình đến thương nghị.

Hán vương nói:

– Sở vương sai Trung Ðại phu Tống Tử Liên đem thư Thái công đến đây là ý thế nào?

Trương Lương nói:

– Ðây chắc là kế của Sở vương muốn cho ta lui binh, nên buộc Thái công viết thư. Vậy Ðại vương thấy thế không nên buồn rầu khóc lóc, chỉ nên trả lời một cách mạnh dạn thì mới cứu được Thái công khỏi nạn.

Hán vương theo lời đòi Tử Liên vào bệ kiến.

Tử Liên trình bức thư của Thái công lên, Hán vương bóc ra xem.

Trong thư viết:

Thái công thống thiết ngỏ cùng Hán vương Lưu Bang.

Ta từng nghe vua Thuấn là bạc đại hiếu, dẫu tranh thiên hạ, nhưng không bỏ đạo trời. Nay, ngươi chỉ lấy phú quý làm trọng, coi ta như kẻ qua đường. Từ khi bị bắt ở Thư Thủy đến nay đã ba năm mà ngươi chẳng một lần nhắc đến. Ta nhờ Sở vương rủ đức nếu sinh không nỡ giết, giam giữ nơi công sở ngày ngày cấp dưỡng, nên mới tồn sanh.

Vương hậu Lã Thị nhớ mong Thái tử, nước mắt không lúc nào vơi. Vậy mà ngươi cứ việc tung hoành trong thiên ha, ruột gan như gan đá, không biết gì đến gia đình, thật là đứa bất hiếu, bất nghĩa.

Hiện Sở vương đã đem ta đến Quảng Võ, mấy lần định giết, treo đầu ở Thành Cao, để gương cái tiếng bất hiếu của ngươi trong thiên hạ. Nhưng ta van xin mãi, Sở vương không nở, nên chưa phải chết. Nay ta viết thơ này cho ngươi nên nghĩ thân mình do đâu mà có, muôn vật trong thế gian có gì đáng trọng. Hãy bãi binh, đón ta về nước, khiến cho cha con, chồng vợ đoàn tụ. Còn nếu ngươi cứ động binh chống cự, mạng ta e chẳng còn.

Ngươi dẫu có lấy được thiên hạ, mà bỏ cha, bỏ mẹ, muôn đời thóa mạ thì đó cũng không phải là vinh. Ngươi nên tự tính. “

Hán vương bấy giờ mới uống rượu xong, đôi mắt lờ mờ, hơi men chưa tỉnh đọc xong bức thư mà không để ý gì cả, nói với Tử Liên:

– Ta cùng Hạng vương năm xưa cùng thờ vua Hoài vương, kết làm anh em,. vậy cha ta cũng tức là cha của Hạng vương. Cha ta ở Sở cũng như ở Hán, ta chàng phải bận lòng gì cả. Nếu Hạng vương giết cha ta, thiên hạ không chỉ nguyền rủa ta, mà nguyền rủa cả Hạng vương nữa. Ngày trước, Hạng vương ngầm xui Quý Bố giết vua Nghĩa Ðế, khiến thiên hạ căm hờn đến nay chưa quên. Nếu lại giết cha ta nữa chẳng sợ thiên hạ thán oán sao?

Ngươi về nói hộ với cha ta cứ yên tâm ở Sở, coi như là đang ở trong dinh Hán vậy.

Hán vương chỉ nói bấy nhiêu lời không đề cập gì đến chuyện bãi binh cả.

Ðoạn, sai hai người con gái mời Tống Tử Liên nghỉ ngơi sau trướng.

Tống Tử Liên muốn về, nhưng chưa nhận được phúc thư còn ráng ở lại.

Sau đó Trương Lương và Trần Bình tiếp đón, đãi rượu Tử Liên, giục Tử Liên về Sở.

Tử Liên không biết phải làm thế nào nên đành quay gót về Quảng Võ thuật lại mọi việc cho Hạng vương nghe.

Hạng vương trầm mặc nghĩ ngợi.

Hạng Bá bước ra nói:

– Tình cha con mà Hán vương lạnh nhạt như thế thì Hán vương không phải là người có thể làm nên việc lớn. Xin Ðại vương cứ chuẩn bị giao chiến, thế nào cũng thắng.

Hạng vương nói:

– Thế thì Lưu Bang là tuồng tửu sắc, coi cha mẹ vợ con như nước lã, kẻ ấy không còn nói chuyện phải, trái được.

Tống Tử Liên nói:

– Khi tôi vào yết kiến Hán vương, thấy Hán vương còn say rượu chưa tỉnh. Lúc xem bức thư, Hán vương cùng chẳng có vẻ gì ân cần đến Thái công.

Sở vương nói:

– Thôi hãy giử Thái công lại trong quân, chờ ta giao chiến với Lưu Bang rồi sẽ liệu.

Nói rồi, triệu tập các tướng, và tuyển hai mươi vạn tinh binh, đóng sẵn dinh trại để chờ Hán quân kéo đến.

Bấy giờ, Hàn Tín thao luyện quân mã đã xong, vết thương của Hán vương cũng đã lành. Vua tôi bàn kế đánh Sở.

Hàn Tín nói:

– Bá vương đóng quân ở Quảng Võ lâu ngày, thế nào cũng sinh trễ biếng. Vậy ta phải cử binh đánh ngay mới được. Xin Ðại vương hạ lệnh tiến binh.

Hán vương nói:

– Chuyến này ta trông cậy ở Nguyên soái đó.

Liền hạ lênh xuất quân. Hàn Tín thống lĩnh đại binh đi trước, quân kỳ phất phới, tiếng reo ó vang trời, binh lực mười phần hùng khí.

Ðến Quảng Võ. Hàn Tín truyền hạ trại cách dinh Sở hơn ba mươi dặm, và dặn dò các tướng phải lưu tâm phòng giữ.

Hán vương kéo binh đến sau, lập trại đối diện với trái Hàn Tín.

Buổi tối, Hán vương cùng Trương Lương, Tiêu Hà, Trần Bình sai người triệu Hàn Tín đến để bàn kế.

Sai nhân đến trại Hàn Tín, về báo:

– Nguyên soái không có trong dinh. Bọn quân hầu bảo rằng Hàn Nguyên soái vừa dẫn mấy mươi kỵ binh đi về phía Ðông Nam, nhưng không biết đi đâu.

Hán vương kinh ngạc nói:

– Hán, Sở đang chống nhau, hai bên dàn quân ở mặt trận, thế mà chủ tướng lại bỏ đi là ý gì? Hay Hàn Tín thấy quân Sở mạnh bỏ trốn? Hoặc giả lừa bỏ ta ở đây liên kết với Bá vương chăng?

Trương Lương và Trần Bình mỗi người bàn một ý, không hiểu ra sao cả.

Hán vương liền sai một tên tiểu hiệu sang dinh Hàn Tín để nghe động tịnh thế nào.

Một lúc, tên tiểu hiệu trở về báo:

– Bên đó canh phòng rất nghiêm ngặt, hàng ngũ chỉnh tề. Duy chỉ có Nguyên soái vắng mặt.

Hán vương nóng lòng, bảo:

– Người cứ đến gần trại, nghe ngóng cho rõ ràng rồi về báo lại.

Hán vương thắp đèn ngồi đợi. Mãi cho đến trống canh ba, ánh trăng đã chìm sâu sau đỉnh núi cao, tên tiểu hiệu mới chạy vội về báo:

– Nguyên soái đã về trại rồi.

Hán vương do dự hồi lâu rồi sai Tiêu Hà đến dinh Hàn Tín xem thử.

Tiêu Hà đem mấy tên quân hầu đến nơi, gặp Quán Anh đang đốc quân tuần tiễu.

Quán Anh hỏi:

– Ðêm khuya, Thừa tướng đi đâu vậy?

Tiêu Hà đáp:

– Ta sang thăm Hàn Nguyên Soái.

Quán Anh nói:

– Nguyên soái vẫn còn thắp đèn ngồi trong trướng chứ chưa đi nằm.

Liền đưa Tiêu Hà vào trung quân hội kiến với Hàn Tín.

Hàn Tín hỏi:

– Thừa Tướng đến đây chắc có điều gì ngờ vực chăng?

Tiêu Hà hỏi:

– Nguyên soái đêm tối ra đi, chẳng hay đi đâu vậy?

Hàn Tín nói:

– Trận chiến nơi đồng bằng, Bá vương là tay vũ dũng, lấy sức mà địch e khó thắng. Vì vậy tôi phải tìm một kế để giết họ Hạng.

Tiêu Hà hỏi:

– Chẳng hay kế ấy như thế nào?

Hàn Tín đáp:

– Quân cơ không tiện tỏ bày, dẫu vua tôi, cha con cũng không nên nói trước. Chúa thượng cùng các ngài ngày mai xem cuộc giao tranh sẽ thấy.

Tiêu Hà không hỏi nữa, lòng mừng phơi phới, trở về thuật lại với Hán vương.

Hán vương nghe Tiêu hà nói cũng an dạ, vào trướng an nghỉ.

Ngày hôm sau, Hàn Tín gọi các tướng vào nghe quân lệnh.

Các tướng tụ họp đủ mặt, Hàn Tín phân binh:

– Phàn Khoái, Quán Anh làm đội thứ nhất ; Chu Bột, Chu Xương làm đội thứ nhì ; Ngân Hấp, Lư Quán làm đội thứ ba ; Lã Mã Thông, Dương Hỷ làm đội thứ tư; Trương Nhĩ, Trương Lương làm đội thứ năm ; Lâm Phiền làm đội thứ sáu ; Tào Tham, Sài Võ làm đội thứ bảy ; Hạ Hầu Anh, Vương Lăng làm đội thứ tám ; Anh Bố làm đội thứ chín.

Hán vương cùng các tướng làm đội thứ mười. Mỗi đội lãnh năm ngàn tinh binh chia ra từng khu đóng quân, khi nghe pháo hiệu thì đổ ra một lượt, đánh dồn địch quân vào chân núi Quảng Võ.

Hàn Tín điều bát binh mã xong thì bên kia, Hạng vương cũng vừa dẫn quân đến.

Hàn Tín ra ngựa, gọi Bá vương ra nói chuyện. Bá vương vỗ ngựa xông ra, nói lớn:

– Hởi Hàn Tín, nhà ngươi là cựu thần nước Sở. Lẽ ra, đối với Sở phải có đôi phần quyến luyến. Vừa rồi ta có sai Vũ Thiệp đến tỏ lời phải trái, và việc lợi hại trong thế chiến đương thời, thế mà ngươi ngu dốt, không biết nghe lời. Hôm nay gặp ta, ngươi chớ giở trò gian kế, hãy cùng ta quyết một trận hơn thua.

Hàn Tín đáp:

– Ðại vương là người quyền quý, lẽ ra phải ngồi một nơi khiển tướng điều binh, sao lại cầm đao ra chiến trận làm chi, tôi e không tránh khỏi lụy thân.

Hạng vương nói:

– Nhà ngươi chỉ có tài tráo trở, dùng mưu gian lường gạt địch quân. Nếu ngươi dám cùng ta tranh mười hiệp, ta sẽ hiến cả sự nghiệp nước Sở cho ngươi.

Hàn Tín nói:

– Dùng mưu kế thắng giặc mới là kẻ trí cao, còn như sức mạnh chỉ là cái sức riêng mà trời đã giao phó cho mọi sinh vật trong vũ trụ mà thôi, tôi tưởng không nên coi nó là một tài năng. Giống voi, trâu cũng có một sức mạnh đáng kể, nhưng có ai cho đó là đáng sợ. Bá vương tức giận thúc ngựa đến hét lớn:

– Ta phải lấy đầu thằng luồn khố này mới được

Bọn Chung Ly Muội, Hạng Bá, Hạng Trạng, Chu Lan, Ngu Tử Kỳ, Hoàn Sở, Ðinh Công, Ung Sĩ đều đốc quân đến, vây bắt Hàn Tín.

Hàn Tín vừa đánh vừa chạy, lùi dần đến chân núi Quảng Võ.

Chung Ly Muội vội chạy đến nói với Bá vương:

– Núi Quảng Võ chỉ có một đường ra, nếu địch quân phục binh chặn chẹt đường thì khốn. Ðại vương nên đóng trại nơi đây nhận xét địa hình đã.

Chung Ly Muội nói chưa dứt lời, thì tiền quân đã trở lai báo:

– Hàn Tín chạy đi đàng nào mất hút, trước mặt là rừng núi, không có đường ra.

Bá vương nói:

– Nếu mặt trước không có đường thì cứ tạm đóng quân lại đây, đợi hậu quân đến rồi sẽ liệu.

Một lúc sau có tin hậu quân đến báo:

– Hậu quân bị tướng Hán là Phàn Khoái và Quán Anh đánh đứt làm hai đoạn không thể tiến được.

Hạng vương chưa biết phải xoay trở làm sao thì bốn mặt chiêng trống vang rền, quân Hán chẳng biết từ đâu đến, đổ ra vây như kiến.

Chung Ly Muội nói:

– Trước mặt có núi lớn ngăn trở, sau lưng quân Hán vây phủ, Ðại vương đóng quân nơi đây bất lợi, phải cố phá vòng vây, cứu lấy hậu quân, bảo vệ lực lượng mới được.

Hạng vương nói:

– Quân Hán đánh bọc hậu, chắc là đạo quân chủ lực ta khó mà phá nổi. Dẫu có phá được cũng hao binh tổn tướng rất nhiều. Chi bằng cứ tiến quân trèo núi, qua đèo tìm đường thoát nạn.

Hạng Bá nói:

– Núi Quảng Võ ngậm trùng nguy hiểm, nếu đại quân không thể tiến được thì làm thế nào?

Ðang lúc bàn bạc, ý kiến chưa quyết thì bốn mặt hỏa pháo nổ tơi bời, quân Hán mỗi lúc một xiết chặt thêm vòng vây.

Quân Sở mất tinh thần không còn dám chống cự nữa, đổ dồn vào một góc.

Hạng vương nổi giận hét:

– Ta từ lúc ta xuất trận, diệt mấy trăm vạn quân Tần chẳng hề chịu thua bao giờ. Nay gặp quân Hán phải sợ như thế này ư?

Nói rồi xua quân chống cự, đuổi đánh quân Hán.

Bỗng gặp Cửu Giang vương Anh Bố vung gươm ra cản.

Hạng vương hét lớn:

– Ðứa phản quốc? Ngươi còn mặt mũi nào nhìn thấy ta.

Anh Bố nói:

– Ðuổi giết vua Nghĩa Ðế là âm mưu của ngươi, thế mà thiên hạ lại nguyền rủa ta. Vậy ta phải giết ngươi để thanh minh việc này.

Nói rồi vác đao nhảy xổ vào đánh. Hai người giao chiến được năm mươi hiệp thì binh mã Lâm Phiền kéo đến.

Quân Sở rối loạn, Quý Bố, Hoàn Sở xông ra trợ chiến, và nói lớn:

– Xin Ðại vương nghì ngơi để chúng tôi giết thằng giặc ấy cho.

Hạng vương dừng thương, quay ngựa vào đường núi, đứng xem hai tướng giao tranh.

Bấy giờ trời đã sẩm tối, bên Hán các đạo binh của Tao Tham, Sài Võ lại kéo đến nữa, vây quân Sở dày máy lớp

Chung Ly Muội đến gần Hạng vương nói:

– Trời tối, quân binh thất thế không thể cầm cự được lâu, Ðại vương nên tìm đường thoát nạn.

Hạng vương quất ngựa theo con đường cũ tiến tới. Vừa đi đến nửa đường núi thì thấy Hàn Tín đóng trại bên trên, ngồi cao ngất ngưởng, hai bên đàn sáo réo rắt, như đang mở tiệc vui.

Hạng vương nổi giận, mắng:

– Thằng chui khố ấy dám khinh ta như thế sao?

Liền thúc quân trèo lên núi để bắt Hàn Tín.

Các tướng Sở thấy Hạng vương lên núi, cũng kéo theo. Nhưng đi chưa được bao xa, trên núi gỗ đá lăn xuống bơi bời.

Hạng vương nghiến răng, trợn mắt, lòng căm tức đến cực dộ.

Quý Bố nói:

– Không nên, đó là gian kế của Hàn Tín, cố làm cho Ðại vương tức giận trèo lên, thừa lúc đêm tối hãm hại. Chi bằng nấn ná cho qua đêm nay, đợi sáng mai xem chỗ nào ít quân sẽ mở huyết lộ thoát ra mới được.

Hạng vương theo lời, kìm ngựa lại, định nghỉ ngơi giây lát. Bỗng bốn bề cây cối nổi lửa, ngọn lửa đùa gió cháy đến vùn vụt.

Hạng vương thất kinh, quân Sở tan rã, mạnh ai nấy chạy, bị quân Hán vừa bắt sống, vừa giết chết chỉ còn trơ lại Hạng vương cùng các tướng và hơn một trăm quân kỵ ở giữa vòng vây.

Hạng vương thấy thế quân Hán quá mạnh, bèn gắng sức mở vòng vây. Bỗng gặp Lâm Phiền vung đao đến đánh.

Hạng vương nổi giận hét lên một tiếng, chém Lâm Phiền đứt làm hai đoạn, dẫn các tướng thoát khỏi vòng vây.

Vừa toan tìm đường chạy. thì gặp bọn Sài Võ, Vương Lăng đem quân đến chặn đường.

Hạng vương phải gắng hết sức mới đánh lui được hai tướng, và chạy đến dưới chân núi Nam Sơn.

Trước mặt, một con suối sâu réo rắt chảy, Hạng vương dừng ngựa lại nghĩ thầm:

– Trời tối, suối sâu qua đó bất tiện.

Còn đang suy nghĩ thì đàng sau quân Hán lại đuổi theo, vây Hạng vương vào giữa.

Hạng vương đang cùng kế thì may thay, đàng sau quân Hán nhao nhao chạy giạt cả ra.

Hạng vương thừa thế đánh tháo thì gặp hai tướng Sở là Chu Ân và Hoàn Sở đang đốc quân đánh vào cứu mạng.

Hạng vương hỏi ra mới biết hai tướng này lãnh năm ngàn binh, nhưng chưa bị tan rã, nghe Hạng vương lâm trận tìm đến giải cứu.

Hạng vương lợi dụng số binh mã ấy, xông vào quân Hán đánh giết một hồi. Quân Hán đã quá mỏi mệt, phải bỏ chạy.

Hạng vương nhờ đó mới thoát thân.

Trời rừng sáng, Hạng vương thấy bốn mặt đâu đâu cũng có quân Hán đóng đồn, quân kỳ rợp đất, tiếng chuông trống vang trời.

Hạng vương nói với Chu Ân:

– Ta từ lúc phát binh nơi Cối Kê đến nay, cùng chư hầu giao tranh, kể hơn ba trăm trận, nhưng chưa từng thấy ai dụng binh lợi hại như Hàn Tín.

Chu Ân nói:

– Vì Ðại vương có tiếng là oai hùng nên Hàn Tín mới dự bị một cuộc chiến như vậy.

Hạng vương thở dài thu góp tàn quân trở về dinh, kiểm điểm lại thấy hao hơn tám phần.

Các tướng như Quý Bố, Chung Ly Muội cũng thoát chết, song ai nấy đều bị thương ít nhiều.

Hàn Tín thắng trận, đem đại binh trở về dinh.

Hán vương sai mời Hàn Tín đến, ân cần khen ngợi:

– Ta nhờ tài dụng binh của Nguyên Soái, phá quân Sở được một trận rất lớn. Sau này quân Sở nghe đến quân Hán phải vỡ mật, khôg dám giao tranh.

Hàn Tín nói:

– Ðó cũng là nhờ uy đức của Ðại vương. Tuy nhiên, Hạng vương ta chưa bắt được cần phải đánh gấp để cho hắn không có thì giờ nghỉ ngơi dưỡng sức.

Hán vương nói:

– Nguyên soái khá lo việc điều binh khiển tướng. Ta chờ mong hát khúc khải hoàn để ba quân sớm được nghỉ ngơi, thiên hạ hưởng cảnh thanh bình.

Hàn Tín vâng lệnh, kiểm điểm binh mã, kéo đến đánh dinh Sở.

Giữa lúc đó, nơi dinh Sở binh lao mãnh liệt, các tướng như Chu Ân, Quý Bố, Hoàn Sở, Ngu Tử Kỳ đều bị thương chưa lành.

Hạng vương đang lo lắng tìm cách điều trị, thì lại có tín Hàn Tín kéo quân đến.

Hạng vương thất kinh, đòi Chung Ly Muội, Hạng Bá vào thương nghị.

Chung Ly Muội nói:

– Quân Hán rất đông, lại thêm Hàn Tín dùng binh rất hay, quân ta ở đây không thể nào chống đối. Hiện Thái công đang ở trong dinh, ngày mai ra trận Ðại vương mang Thái công theo, đặt sẵn trên thớt, kề dao vào bụng, bắt Hán vương phải lui quân, bằng không mổ ruột Thái công giữa trận. Tình cha con, lẽ nào Hán vương không đau xót?

Hạng vương nói:

– Giết Thái công không khó khăn gì, chỉ sợ thiên hạ cười chê.

Chung Ly Muội nói:

– Muốn làm cái mưu thoái binh còn sợ ai chê cười?

Hạng vương ngẫm nghĩ một lúc rồi nhận lời.

Hôm sau, Hạng vương đem quân ra trận trói Thái công đặt trên lừng ngựa, thẳng ngựa đến trại Hán.

Quân Hán trông thấy vào báo.

Hán vương khóc òa, nói:

– Ta sinh ra ở đời đã không phụng dưỡng được cha mẹ. Nay vì cớ tranh thiên hạ mà để cha ta phải khổ. Thôi thà hàng Sở, để cứu lấy cha ta về nước, tròn được hiếu đạo.

Trương Lương, Trần Bình can:

– Ðại vương chớ câu chấp như vậy. Ðành rằng làm con không nên bỏ chữ hiếu, song việc thiên hạ cũng không nên khinh. Sở dĩ Hạng vương bức bách Thái công như vậy là vì thấy quân ta đánh phá gấp quá, nên phải làm kế để ta lui binh, xin thủng thỉnh rồi sẽ liệu.

Hán vương nói:

– Nghe cha ta bị trói trên yên ngựa, lòng ta đau nhói, không thể chịu nổi. Việc địch thiên hạ là việc lâu dài, cứu Thái công khỏi nạn là việc cần gấp.

Trương Lương và Trần Bình đều nói:

– Giết Thái công mà ích gì cho Hạng vương, chẳng qua Hạng vương muốn cho ta lui binh, nên làm như thế mà thôi. Nếu Ðại vương vương khóc, Hạng vương lại còn đày đọa Thái công nhiều hơn. Chi bằng giả cách điềm nhiên, hẳn Hạng vương không cần đến sự hăm dọa Thái công nữa.

Hai người vừa nói dứt lời, lại có quân vào báo:

– Bá vương đến trước trận, mời Ðại vương ra nói chuyện.

Hàn Tín nghe Bá vương đến, liền bày trận ở Bình Xuyên, chung quanh bố trí chiến xa yểm hộ.

Bá vương trông thấy có ý khiếp sợ, dừng quân trước trận.

Hán vương từ trong dinh cười ngựa xông ra, kêu Bá vương nói:

– Hạng Vũ. Ngươi đã đến lúc binh cùng thế khốn, còn chưa đầu hàng sao?

Hạng vương nổi giận hét:

– Ngươi là đứa thất phu ở Phong Bái, tài cán gì mà đòi nói đến chuyện tranh thiên hạ.

Nói xong, cầm kích đâm tới.

Hàn Tín ra lệnh cho ba tướng Phàn Khoái, Chu Bột, Vương Lăng đổ ra chặn đánh.

Hạng vương một mình chống cự với bốn tướng rất hăng. Chẳng bao lâu, giữa trận có một tiếng pháo lệnh nổ, ngọn cờ vàng huy động, tức thì quân mã từ bốn phương, tám hướng kéo đến rầm rộ, vây Hạng vương vào giữa.

Hạng vương đưa mắt nhìn xa, thấy chung quanh chiến xa vây kín, sát khí đằng đằng, giáo gươm lởm chởm, không còn phân định phương hướng, không còn biết đâu là chỗ tiến thối nữa.

Hạng vương đánh một hồi, vòng vây mỗi lúc một xiết chặt hơn. Mây sầu ảm đạm, trận chiến mù mịt, quân Sở lớp chết, lớp bị thương, thây nằm chật đất.

Hạng vương nghĩ thầm:

– Không biết Hàn Tín lập trận này là trận gì. Song xét về thế trận thì phải có quân lực từ bên ngoài đánh vào thì mới giải thoát nổi.

Liền lúc đó, bỗng thấy thế trận xoay chiều. Nơi cửa Ðông bốn tướng Sở là Quý Bố, Chu Lan, Chu Ân, Chung Ly Muội, kéo quân từ bên ngoài đánh dồn đến. Hạng vương thừa thế từ bên trong đánh ra, giải thoát cho mấy vạn binh, nhắm đường chạy.

Hàn Tín không dám đuổi theo, Hạng vương thu góp tàn quân trở về dinh Sở, họp các tướng hỏi:

– Người nào hiểu được trận này?

Chu Lan bước ra tâu:

– Hàn Tín bày trận ấy là trận Thái ất, có cửa sanh, cửa tử, có trận âm, trận dương. Nếu đi cửa sanh mà vào trận dương thì phá được, bằng đi cửa khác không thoát khỏi. Hạ thần thuở nhỏ có theo học ông Lý Thiếu ở Hoa Sơn, từng được nghe nói về trận Thái Ất, vì vậy hôm nay mới cứu Ðại vương được.

Hạng vương bưng chén ngự tửu ban cho Chu Lan.

Chung Ly Muội nói:

– Ngày mai, xin Ðại vương đem Thái công ra để nơi mặt trận, kỳ cho Hán vương phải lui quân, đừng giao chiến làm gì cho tổn sức. Ðại vương cứ trở về Bành Thành chiêu tập binh mã, tăng cường binh lực rồi sẽ tính.

Bá vương theo lời, vào nội dinh an nghỉ.

Trời đêm sương lạnh, chiến trường còn văng vẳng nhịp trống, tiếng kèn của quân Hán canh phòng.

Cũng trong đêm ấy, Trương Lương và Trần Bình bàn mưu để cứu Thái công.

Hai người chọn trong bọn hàng quân của Sở, một tên lanh lợi, gọi vào trướng, lấy lời phủ dụ:

– Ta xem tướng mạo nhà ngươi, sau này cũng có công danh, cớ sao lẫn lộn vào đám sĩ tốt để không bao giờ lập thân được. Vậy nay ta giao cho nhà ngươi đi làm một việc này, nếu thành công sẽ được trọng thưởng.

Tên quân ấy thưa:

– Quân sư muốn sai gì, tôi cũng tận tâm.

Trương Lương nói:

– Ta có một phong thư, sai ngươi sang dinh Sở, thừa lúc vắng người lén đưa cho Hạng Bá. Nếu Hạng Bá có trả lời, ngươi khá lẻn về đây tin cho ta biết.

Tên quân nói:

– Chuyện đó rất dễ. Tôi là quân Sở, đường lối trong dình đã thông thạo, lại không ai nghi ngờ gì.

Trương Lương mừng rỡ, thưởng cho tên này mấy nén vàng rồi trao thư.

Tên quân âm thầm lẻn vào dinh Sở. Quân tuần bên Sở tưởng quân trong trại, không để ý.

Ngày hôm sau, Hạng Bá đang ngồi kiểm quân mã, tên quân ấy nhìn thấy xung quanh không có ai, liến bước đến dâng thư và nói:

– Tôi là quân Sở, bị quân Hán bắt được nơi mặt trận những tưởng bỏ mạng, ngờ đâu vào dinh Hán lại gặp Trương Lương bảo tôi đem thư này về trình lão Ðại vương.

Hạng Bá tiếp thư, mở ra xem. Trong thư viết:

“Cố hữu Trương Lương kính dâng thư Ðại quan Tư mã họ Hạng.

Từ độ giao du, đến nay cách biệt. vương tôi lúc này ở lại Hán, không phải vì quyến luyến công danh, mà vì Hán vương là người đại nghĩa, không nở rời. Cây hiền lòng chim ưa thích, chẳng lẽ lại đậu trên cành lại không tiếng hót.

Nhân hôm nọ, Bá vương định giết Thái công làm kế lui quân Hán. Nhưng Hán vương đóng quân ở đây, lui về đâu được? Quân Hán không lui, Bá vương tất giết Thái công. Thiết tưởng, để Thái công chết chẳng nhưng danh dự của Bá vương bị mất, mà tình Tần, Tấn giữa ngài và Hán vương hứa trước kia nơi Lam Ðiền vì thế mà tổn thương. Sau này trong tình thông gia còn mặt nào nhìn thấy nhau.

Ấy vậy Lương tôi xin gởi thư này đến ngài, nếu khi nào Bá vương sắp sửa giết Thái công, xin ngài cố gián, khiến cho Thái công được nhờ đức tôi sinh Hán vương khỎi tiếng bất hiếu, ân nghĩa vẹn toàn. Nếu ngài đồng ý, xin phúc thư để an lòng mong mỏi của Hán vương và Lương tôi. Ða tạ “

Hạng Bá xem thư xong, nói:

– Mày đã đem thư cho Trương Tử Phòng, tất mày là một tên tâm phúc dưới trướng.

Tên quân nói:

Nêu Ðại phu có thư trả lời, tôi xin tan lòng, giữ cẩn mật.

– Hạng Bá hậu thưởng tên quân và viết phúc thư trao cho hắn, giấu vào mình, đoạn sai tả hữu đưa đến tận dinh Hán.

Tên quân vào yết kiến Trương Lương thuật lại mọi việc, và trao thư Hạng Bá lên.

Trương Lương mở ra xem. Thư rằng:

” Tiểu đệ Hạng Bá phục thư Trương hiền hữu.

Xa cách bấy lâu, lòng mong nhớ chẳng cùng. Nay được mấy lời dạy bảo, lẽ nào dám chẳng quân. Song Bá tôi thiết nghĩ: Giải binh cầu hòa là sự lợi ích giữa hai nước.

Thái công bấy lâu ở đây, được tôi trông nom, không đến nỗi cực khổ lắm. Tuy nhiên, nếu không giao hòa Thái công mong gì trở về được.

Tôi tuy tận tụy giải cứu song chỉ là cái kế nhất thời. Gần đây, tả hữu đều khuyên can Bá vương giết Thái công, tôi chỉ e đến khi cơn giận, thì khó ai ngăn cản nổi, vì vậy hiền hữu nên lưu tâm định liệu “.

Trương Lương xem thư xong mừng rỡ, trọng thưởng cho tên quân ấy, và sai ghi công vào sổ bộ để chờ khi tuyển dụng.

Nhắc lại Hạng vương sau khi nghe lời Chung Ly Muội, thân hành dẫn đại binh đến trước dinh, bày thành trận thế, rồi sai khiêng một vạc dầu lớn để ở trước trận, đem Thái công đặt lên thớt, khiến quân tuyên bố rằng:

– Nếu quân Hán không mau lui về, Thái công sẽ bị mổ ruột, bỏ vào vạc dầu tức khắc.

Hán vương được tin ấy, bàn với quần thần, rồi vỗ ngựa ra trước trận nói:

– Ta cùng Bá vương đều ngoảnh mặt về phía Bắc, thờ vua Hoài vương, và cùng kết nghĩa làm anh em với nhau. Vậy cha ta cũng tức là cha của Bá vương. Nếu Bá vương luộc cha ta, xin cho ta một bát nước luộc với.

Nói xong, tươi cười như thường, không tỏ chút gì đau đớn.

Hạng vương nổi giận mắng:

– Ðồ súc sanh, coi hiếu đạo như trò đùa, còn biết gì liêm sỉ.

Liền khiến quân đem bỏ Thái công vào vạc dầu.

Hạng Bá vội bước ra can:

– Phàm những kẻ đã nặng tình nước tất nhẹ tình nhà. Ngày xưa vua Ðại Võ là bậc thánh nhân, có cha là Cổn, vì trị thủy không thành nên bị vua Nghêu giết, thế mà Ðại Võ vẫn cứ trị thủy. Trong ba năm trời, ba lần đi qua cửa mà không ghé vào nhà thăm. Nay Hán vương không hề nhắc đến Thái công, coi tình cha con nhẹ hơn tình nước. Nếu Ðại vương có giết Thái công cũng chẳng ích gì cho chiến cuộc, mà lại mang tiếng với xã hội, nhân quần. Chi bằng Ðại vương hãy thu binh về dinh, rồi tính kế khác để bảo vệ cái uy vũ muôn đời.

Hạng vương theo lời Hạng Bá, truyền chỉ không giết Thái công, và thu quân về trại.

Hôm ấy, hai bên không giao chiến.

Hán vương về đến dinh, khóc òa lên, nói:

– Thái công tuy tạm thời khỏi chết nhất thời, nhưng vẫn không về nước được, ta thật là một tội nhân trong thiên hạ.

Trương Lương nói:

– Nếu muốn Thái công về nước thì phải giảng hòa.

Nay bên Sở đang thiếu lương, yếu thế, cầu hòa rất dễ.

Hồi 36 – Cắt Hồng Câu, Lưu, Hạng giảng hòa

Hán vương nghe Trương Lương nói đến việc giải hòa để đưa Thái công về nước liền hỏi:

– Ai có thể qua Sở thương thuyết được việc này?

Hán vương vừa hỏi dứt lời, có một người bước ra tâu:

– Hạ thần xin lãnh trách nhiệm ấy.

Hán vương xem lại thấy đó là Hầu công.

Hầu công vốn người Lạc Dương, gặp lúc nhà Tần loạn lạc, không chịu ra làm quan, từ nhỏ đã có sẵn khí phách, và có tài nói giỏi, được dân chúng trong vùng mến phục. Sau đó, nhân lúc Hán vương đem quân đánh Sở, đi qua Lạc Dương, Hầu công dẫn bọn Ðổng Công, Tam lão vào vết kiến. Nay thấy Hán vương muốn sai người sang Sỡ giảng hòa, Hầu công ra nhận trách nhiệm ấy.

Trung Lương nói:

– Hạng vương tính nóng như lửa, không đủ kiên nhẫn ngồi nghe lời phải trái. Hiền công sang đó, nếu lỡ một lời nói không hợp, chẳng những tánh mạng Thái công không an toàn mà còn làm nhục đến mệnh vua, xin Hiền công nghĩ lại.

Hầu công nói:

– Tiên sinh nói như vậy chẳng là Hạng vương không thể yết kiến được Thái công không thể đón về được, còn tôi đây, chúa thượng nuôi bấy lâu dưới trướng là vô dụng ư?

Hán vương nói:

– Người này đã có khí phách như thế, tất việc lớn thành được.

Liền viết thư đưa cho Hầu công.

Hầu công từ biệt Hán vương sang dinh Sở.

Hạng vương nghe Hầu công đến, biết là Hán vương sai đến giảng hòa, liền sai quân đao phủ dàn ra hai bên, còn mình chống gươm ngồi trên trướng, trợn mắt tròn vo, oai phong lẫm hệt.

Hầu công ung dung từ ngoài bước vào miệng cười khúc khích.

Hạng vương nổi giận mắng:

– Ngươi là sứ giả nhà Hán, sang đây giảng hòa mà dám tự đắc như thế, không sợ chết sao?

Hầu công đáp:

– Ðại vương là một vị vua vạn thắng, oai vũ lẫy lừng, ai ai lại không biết! Vậy mà nay thấy tôi là một đứa bần sĩ, mặt không khí sắc, tài còn xa với Quản, Nhạc, mà lại dàn quân đao phủ để thị uy. Dẫu Ðại vương không làm như thế thì kẻ bần sĩ này cũng đã khiếp sợ rồi? Huống hồ Ðại vương thị uy như thế, thì tôi nhịn cười sao được.

Hạng vương thấy Hầu công tâng bốc mình, thích ý, ném gươm xuống đất, đuổi bọn đao phủ ra rồi hỏi:

– Nhà ngươi sang đây định ý thế nào?

Hầu công đáp ;

– Tôi sang đây để bàn với Ðại vương bãi việc binh nhung, khiến cho hai nước Hán, Sở giao hòa thiên hạ khỏi phải chìm trong bể điêu linh, tang tóc. Hiện có bức thư của vua Hán gửi đến cho Ðại vương.

Hạng vương đổi giận làm vui, tiếp thư mở ra xem.

Trong thư viết:

” Hán vương kính đệ tâm thư dâng Hạng vương nhã giám.

Bang tôi nghe nói làm vua cốt mưu cầu hạnh phúc cho muôn dân, tạo cho xã hội một cảnh thái bình thịnh trì. Nếu dân không được an cư lạc nghiệp, thì nhiệm vụ làm vua không tròn.

Tôi cùng quý quốc mấy năm tranh hùng, trải hơn bảy mươi trận đánh, xương khô phơi đầy bãi, máu nhuộm đỏ cỏ cây. Nếu nghĩ đến dân thì cảnh ấy là một vết thương cho những ai cầm đầu thiên hạ.

Nay tôi sai Hầu công sang quý quốc giảng hòa, lấy Hồng Câu làm giới hạn, từ Hồng Câu về Tây thuộc Hán, từ Hồng Câu về Ðông thuộc về Sở. Hai bên ai giữ nước ấy, bãi việc đao binh, cùng nhau hưởng cảnh thanh nhàn, muôn dân cũng nhờ đó thoát khỏi vòng máu lửa, vui với gia đình. Quý quốc nên sớm quyết định “.

Hạng vương xem thư xong, nghĩ thầm:

– Lâu nay ta cùng Hán giao tranh, quân mã mỏi mòn, lương thực đã gần hết, nếu không tạm nghỉ để tăng cường quân lực thì không thể nào thắng nổi. Chi bằng nhân cơ hội này cùng Hán giao ước, hai bên bãi binh, ta trở về Bành Thành sống yên ổn, rượu ngon gái đẹp, chẳng thú vị lắm sao?

Nghĩ rồi nói với Hầu công:

– Ta vẫn có ý định cùng Hán vương tranh đấu đến cùng. Nay thấy lời nói của Hán vương có vẻ khiêm tốn, hiểu được lẽ phải. Vậy ta sẽ cho người đến ước định bờ cõi cùng với Hán vương thảo bản điều ước, mỗi bên giữ một bản để làm bằng. Ngươi trở về đi. Ngày mai ta sẽ cùng Hán vương tương kiến.

Hầu công bái biệt Bá vương trở về dinh Hán, thuật lại mọi điều.

Hán vương mừng rỡ. Tiếp đó lại có sứ Sở đến, chiếu sự ước hẹn viết ra hai tờ giao ước, đợi lúc hai vua gặp nhau để trao đổi.

Hán vương nói:

– Ngày mai ta sẽ cùng Bá vương gặp mặt để nối lại tình anh em như cũ. Cuộc gặp mặt là cuộc thân hữu, hai bên không cần phải bày đại binh, không cần phải mặc giáp trụ. Nhà ngươi về nói lại với Bá vương biết, điều cốt yếu là phải đưa Thái công về Hán, thì cuộc giao ước mới tốt đẹp

Sứ giả nói:

– Tôi và Hầu công trở về tâu lại với Bá vương, chắc Bá vương cũng chẳng có ý lưu Thái công lại bên đó làm gì.

Hán vương bèn trọng thưởng cho sứ giả, rồi sai Hầu cùng sang dinh Sở tỏ bày ý nguyện.

Hạng vương thấy Hầu công cùng sứ giả trở về liền hỏi:

– Hầu công lại sang đây có việc gì?

Hầu công nói:

– Chúa thượng tôi muốn xin Ðại vương một lời hứa là ngày mai lúc tương ngộ, xin Ðại vương giao trả Thái công và Lã Hậu về Hán, cho cuộc giao trả được trọn vẹn.

Hạng vương nói:

– Lời ta đã hứa lẽ nào làm sai. Ngươi về tâu lại với Hán vương, không phải lo việc ấy.

Sau khi Hầu công từ giã Hạng vương, Chung Ly Muội và Quý Bố đến nói:

– Tuy rằng Ðại vương nên cùng Hán giảng hòa, song chớ nên giao trả Thái công vội. Hán vương là kẻ phản phúc, không đủ tín nghĩa. Nếu trả Thái công e Hán vương sanh lòng phản trắc.

Hạng vương nói:

– Ta lấy Thái công làm kế lui binh Hán, thiên hạ chê cười. Ðó là một vết nhơ cho thanh danh ta rồi. Nay lời ta đã hứa, lẽ nào không thi hành!

Hạng Bá nói:

– Thái công bị giam ở Sở, Ðại vương không giết, đủ tỏ lòng nhân của Ðại vương rồi. Nay lại cho về nước ơn ấy như trời biển, lẽ nào Hán vương còn đem lòng phản phúc?

Hạng vương nói:

– Lời ấy phù hợp với ý nghĩ của ta.

Ngày hôm sau, Hạng vương truyền văn võ, tướng sĩ đều mặc thường phục, đi dàn ra hai bên, Thái công và Lã hậu theo sau ngựa.

Bên kia Hán vương cũng không dùng đồ giáp binh gì cả.

Hai vua gặp nhau cùng làm lễ tương kiến, rồi mỗi người cầm một tờ hiệp ước, tự tay trao đổi nhau.

Hạng vương nói:

– Từ nay Sở và Hán không còn giao tranh nữa, bên nào nấy giữ lấy cõi bờ của mình. Phần tôi, tôi sẽ đem quân về phía Ðông.

Nói xong, sai tả hữu dẫn Thái công và Lã hậu giao cho Hán vương.

Hán vương mừng rỡ ra đón, rồi đến tạ ơn Bá vương và nói:

– Thân phụ tôi lâu nay nương tựa dưới cờ Ðại vương, nhờ ơn nuôi dưỡng, ơn ấy chẳng bao giờ tôi dám quên.

Ðoạn, hai vua từ giã trở về dinh. Cách đó vài ngày, có tin Hạng vương thu binh về Ðông.

Hán vương được tin ấy, vội truyền lui binh về Tây.

Trương Lương bước đến can:

– Mấy năm, Ðại vương chiến đấu vất vả, các tướng sĩ theo phò Ðại vương những mong được một ngày về Ðông xúm họp với quê hương, rạng danh nơi đất tổ. Nay Ðại vương một sớm cùng Sở giảng hòa kéo binh về Tây, tướng sĩ ai nấy đều nhớ cha mẹ vợ con tất sẽ trốn về quê cả Ðại vương cô thế, làm sao giữ nổi giang san. Vả lại, nay Thái công đã về Hán, thế quân lừng lẫy, thiên hạ theo về, cái cơ được thua đã đương nhiên, việc gì lại chia đất giảng hòa. Cổ nhân đã nói: trời không hai mặt, đất chẳng hai vua, thiên hạ không khuông phò hai chúa. Ấy vậy Ðại vương nên tiếp tục nghiệp lớn để cho thiên hạ sớm hưởng một cuộc đời thanh bình thạnh tri.

Hán vương nói:

– Ta đã cắt Hồng Câu giao ước với Sở, nay lại bội ước thì còn gì tín nghĩa.

Trương Lương nói:

– Kẻ có chí lớn không nên câu nệ điều nhỏ. Việc cắt đất giảng hòa chẳng qua là một âm mưu của ta để đưa Thái công và Lã hâu về nước. Trong thiên hạ ai chẳng biết lẽ ấy. Chỉ có Hạng vương lầm kế mà thôi. Trên trường chiến đấu, dùng trí dũng để thắng không phải là thất tín. Nếu sự nghiệp nửa đường mà bõ đi, công khó của Ðại vương và chúng tôi đều vô ích.

Trần Bình, Lục Giả, Tùy Hà và các mưu sĩ cũng đều tỏ ý:

– Lời nói của Tử Phòng rất phải Ðại vương cất quân thiên hạ theo về, chư hầu ngưỡng vọng là mong Ðại vương thống nhất bờ cõi, đập tan bạo lực của Hạng vương nếu chia đất cầu hòa đó mới là chuyện mất tín nghĩa.

Hán vương thấy các tướng đều nhất quyết đánh Sở, không biết nghĩ sao, đành phải nghe theo, truyền sắm sửa binh mã để cùng Sở quyết chiến.

Nhắc lại Hạng vương, kéo quân về Bành Thành, lòng thấy khoan khoái như trút tất cả những gì cực nhọc trong mấy năm qua, truyện mở tiệc khoản đãi quần thần, rồi ngày nào cũng ở trên lầu cùng Hoàng hậu Ngu Cơ say sưa tửu sắc. Lại cho các tướng về nhà nghỉ ngơi coi như không còn chinh chiến nữa Chu Lan thấy vậy dâng sớ can:

” Xưa nay, các bậc thánh đế minh vương, an không quên nguy, trị không quên loạn. Dẫu nước nhà vô sự, việc võ bị cũng chẳng chút trễ tràng.

Huống hồ hôm nay Lưu Bang, dưới trướng bọn mưu thần toàn là những kẻ quỷ quyệt, trao trở khó lường. Nếu

Lưu Bang lại nghe lời bọn mưu thần dấy động can qua, trong lúc Ðại vương giải giáp nghĩ ngơi, quân binh trể biếng thì làm sao chống nổi?

Thiết nghĩ dầu Ðại vương có muốt an hưỡng nơi một góc trời cũng phải tu nhân tích đức, rèn luyện võ nghệ, kén chọn kẻ tài trí sung vào dưới trướng, sớm hôm lo việc nước thì mới giữ được giang sơn.

Một tấm lòng trung, mấy lời chân thật, xin Ðại vương xét cho “.

Hạng vương xem sớ, trầm ngâm một lúc rồi gọi Chu Lan vào nói:

– Lưu Bang đã cùng ta thề ước, lẽ nào lại bội tín như ngươi quá lo xa. Tuy nhiên ta cũng sẽ chuẩn y lời sớ của nhà ngươi để không xảy ra điều ân hận.

Liền đòi Chung Ly Muội đến nói:

– Chu Lan dâng sớ khuyên ta đừng bỏ việc dở, phòng Hán vương sanh biến tâm. Vậy các ngươi nên ra vũ trường luyện tập ba quân đề phòng sanh biến.

Chung Ly Muội lãnh chỉ thao luyện quân mã.

Giữa lúc đó, Hán vương đã hội quân nơi Cố Lăng cùng với Trương Lương, Trần Bình bàn việc đánh Sở.

Hán vương nói:

– Bội ước với Sở cũng được, song hiện nay ta cùng Sở giảng hòa, bọn Hàn Tín và binh mã các chư hầu đều kéo về, vậy làm cách nào mà triệu tập?

Trương Lương nói:

– Ðại vương nên một mặt đưa thư bội ước với Sở, một mặt sai người đi gọi binh mã các xứ. Ðợi khi binh mã các lộ chư hầu tập họp đông đủ, bấy giờ mới tuyên chiến.

Hán vương nói:

– Ta thề ước với Sở, bây giờ lại tuyên chiến, thiên hạ thấy rõ lòng phản bội của ta. Ta muốn làm cách nào cho Sở cử binh đánh ta trước, có được chăng?

Lục Giả bước ra nói:

– Tôi xin lãnh thư sang Sở, dùng ba tấc lưỡi, khích cho Hạng vương khởi binh đánh trước, để tránh cho Hạng vương lời dị nghị trong thiên hạ.

Hán vương nói:

– Không nên! Hạng vương là người nóng tính, thấy ta bội ước tất nổi giận giết nhà ngươi mất.

Lục Giả nói:

– Chẳng hề chi, tôi đã có cách bảo tồn tánh mạng.

Xin Ðại vương chớ lo.

Hán vương lòng nghi ngại, nhưng không có cách nào hơn, cuối cùng đành phải sai Lục Giả làm sứ sang Sở.

Lục Giả lãnh thư, đến Bành Thành vào yết kiến.

Hạng vương cho vào, hỏi:

– Lục Ðại phu sang đây có việc gì vậy?

– Ngày trước, Hán vương vì muốn đón Thái công và Lã hậu về Hán, nên giả cách cùng Ðại vương giảng hòa. Nay Hán vương sanh lòng tráo trở, hội binh nơi Cố Lăng để cùng Ðại vương quyết chiến, lại sai hạ thần đi sứ, hạ chiến thư. Hạ thần trộm nghĩ, Ðại vương oai võ lẫy lừng, thiên hạ cúi đầu tùng phục, Hán vương được một nửa đất cũng đã đủ lắm rồi, còn sinh tâm tranh chấp, thật không biết sức mình. Hạ thần bất đắc dĩ phải dem chiến thư đến đây dám đâu xúc phạm Ðại vương.

Nói xong dâng thư cho hạng vương. Hạng vương mở ra xem.

Thư rằng:

” Hán vương, Lưu Bang gởi Bá vương tri khán.

Ngày trước, Thái công, Lã hậu ở Sở, được nhờ nhà vua chăm nuôi tử tế, song nhà vua lại giữ mãi không cho về nước, dùng kế hăm dọa, đem ra trận đặt lên thớt nấu dầu, hành động ấy quả nhân không sao nguôi được những muốn đánh mấy trận, lấy đầu kẻ vô liêm sĩ ấy.

Tuy nhiên, đánh chuột kiêng đồ ngần ngại mãi, bất đắc dĩ phải giảng hòa chia đất, đó chỉ là cái kế để đón Thái công về mà thôi.

Bởi lẽ đạo làm con, dù bỏ mình mưu cầu hạnh phúc cho song thân cũng chẳng quản, huống hồ là dùng trí thuật.

Lấy trí thắng kẻ ngu, lấy lợi mê hoặc kẻ gian, làm cho cá phải cắn câu. chim mắc vào lưới, chính là các việc giảng hòa của quả nhân vừa làm đó.

Nay Thái công, Lã hậu đã về nước, không còn phải lo ngại gì nữa, quả nhân lại xổ cờ, gióng trống, cùng quý quốc tranh phong. Quân Hán đã tập họp nơi Cố Lăng, nếu quân Sở không sợ thì mau đem binh đến quyết chiến Xin chớ sai lời “.

Hạng vương xem thư xong nổi giận xé tan thư và quát lớn:

– Lưu Bang là đứa thất phu, dám đang tâm bội ước lại định cùng ta quyết chiến. Ta từ lúc khởi binh nơi Cối Kê, chưa hề lui bước trước địch quân. Lưu Bang chăng qua chỉ là một tên tiểu nhân đắc ý, ta quyết bắt nó trị tội.

Nói xong, truyền cho Lục Giả trở về hẹn sẽ kéo binh đến giao chiến.

Lục Giả từ giã Hạng vương trở về Cố Lăng yết kiến Hán vương tâu:

– Hạng vương rất giận dữ, sắp đem quân đến hội chiến, xin Ðại vương định liệu.

Hán vương nghe Lục Giả nói, lòng lo lắng, vội đòi Trương Lương và Trần Bình vào nói:

– Chiến thư đã hạ, Hạng vương sắp kéo đại binh đến đây, bọn Hàn Tín lại không thấy về, bây giờ nên tính lẽ nào?

Trương Lương nói:

– Binh mã Ðại vương hiện khá đầy đủ. Vậy một mặt chia cho các tướng quản lĩnh, dự bị đánh Sở, một mặt sai người thúc giục Hàn Tín đem quân về tiếp ứng.

Chưa đi được mấy ngày có quân thám thính về báo:

– Hạng vương cử hơn ba mươi vạn quân, từ Từ Châu kéo sang, đi đến đâu các phủ huyện đều chạy trốn, không nơi nào dám ngăn cản. Hiện binh Sỡ đang hạ trại cách Cố Lăng ba mươi dặm.

Hán vương nói:

– Quân Sở mới đến, nhuệ khí đang hăng, ta không nên đánh vội.

Trần Bình nói:

– Ðại vương luận rất phải. Quân ta chỉ nên canh phòng cẩn mật chờ quân Sỡ trễ biếng sẽ giao tranh.

Ba quân tuân lệnh, đâu đó giữ gìn nghiêm nhặt, không xuất trận.

Hạng vương an dinh hạ trại xong, cho quân sĩ đi thám thính, thấy quân Hán bất động, lòng sinh nghi, hội các tướng bàn bạc:

– Hán vương đã sai người hạ chiến thư, vậy mà ta đem quân đến đây, họ lại bất động là sao?

Quý Bố và Chung Ly Muội nói:

– Ðó là kế của Hán vương, đợi lâu ngày quân ta chểnh mảng mới xuất quân đó.

Chu Lan nói:

– Không phải như thế. Quân ta từ xa kéo đến thế đang hăng, còn quân Hán thì Hàn Tín chưa về, nên cố diên trì chờ đợi, chưa dám xuất trận. Ngày mai, Ðại vương nên đem quân cùng Hán giao tranh để tiêu hao lực lượng của họ.

Hạng vương khen phải. Ngày hôm sau truyền lệnh mở cờ gióng trống, kéo đến đánh Hán.

Hán vương nghe báo, vội vã sai Vương Lăng, Phàn Khoái, Quán Anh, Lư Quán dẫn binh ra nghênh chiến.

Hạng vương đến trước trận, gọi Hán vương ra nói chuyện.

Tướng Hán đáp:

– Chúa thượng ta sai chúng ta đến đây bắt vua Sở đem về nấu dầu để trả lại cái thù của Thái công ngày trước

Hạng vương nổi giận, vung đao xông vào đánh. Bốn tướng Hán cùng nhau kéo vào một lượt. Ðánh được vài mươi hiệp, bốn tướng Hán không cự nổi, phải kéo lui về.

Bá vương thúc quân đuổi theo.

Vừa được mươi dặm thì quân Hán có hơn mười viên kiện tướng là bọn Ngân Hấp, Chu Xương, Cao Khởi, La Mã Thông… xông ra, chặn Hạng vương lại đánh.

Bấy giờ, bên Sở bọn Quý Bố, Chung Ly Muội cũng đã đuổi đến kịp, xông vào trợ chiến với Hạng vương.

Hai bên đánh nhau rất hăng, chiêng trống vang trời.

Bỗng trong dinh Sở có một tiếng pháo lệnh, Chu Lan xuất lĩnh một cánh binh, kéo ra tràn vào trận Hán, đánh quân Hán đứt ra làm nhiều đoạn.

Hạng vương thừa thắng chém giết quân Hán rất nhiều, các tướng Hán biết không cự nổi bỏ chạy vào thành Cố Lăng đóng chặt cửa lại.

Quân Sở đuổi đến dưới thành, nói với tướng sĩ:

– Dịp này không nên bỏ lỡ, phải bắt cho được Lưu Bang rửa hận.

Các tướng nói.

– Ðại vương đốc xuất quân sĩ đánh từ buổi sáng đến giờ ai nấy đều mỏi mệt. Vậy phải đóng trại cho quân sĩ nghỉ ngơi một đêm, rạng ngày hôm sau sẽ công thành.

Thành Cố Lăng là một thành nhỏ, trơ trọi, phá vỡ không khó.

Hạng vương nói:

– Nếu đóng trại nghỉ ngơi đêm nay các tướng phải đề phòng cẩn mật, kẻo quân Hán kéo vào cướp trại thì nguy.

Các tướng đều tuân lệnh cho quân hạ trại dưới thành.

Bấy giờ Hán vương ở trong thành Cố Lăng thấy quân thua chạy về, các tướng đều hết vía, lòng bối rối, bàn với Trương Lương và Trần Bình:

– Cố Lăng là thành nhỏ, quân Sở vây thành làm thế nào thoát được Các ngươi có kế gì chăng?

Trương Lương nói:

– Quân Sở đóng trại chưa xong, trời đã tối, đêm nay nên thừa dịp sai một số dũng tướng kéo quân ra, lựa phía nào quân Sở ít ỏi, đánh tháo chạy về Thành Cao để tránh cái nhuệ khí của địch. Trong lúc trời tối, tôi chắc quân Sở không dám đuổi theo.

Hán vương nói:

– Nếu vậy ta phải định liệu gấp mới được.

Trương Lương liền truyền lệnh các tướng lĩnh bị binh mã, dự bị thoát ra ngoại thành, đồng thời sai một tiểu hiệu lên mặt thành xem thế địch quân.

Tên tiểu hiệu sau khi quan sát khắp nơi trở lại nói:

– Cửa phía Bắc, quân Sở thưa thớt, có thể đánh ra được Hán vương liền sai Phàn Khoái, Chu Bột, Sài Võ, Ngân Hấp, bốn tướng mở cửa thành phía Bắc dẫn quân ra một lượt.

Sau đó, Hán vương cùng đoàn tùy tùng đều kéo theo.

Tướng Sở đóng quân ở phía Bắc là Hoàn Sở, vì lúc đêm tối quân sĩ suốt ngày mỏi mệt, lại không chuẩn bị trước nên không cự lại.

Ðến. lúc đại binh Hạng vương hay, kéo đến tiếp ứng thì quân Hán đã thoát khỏi vòng vây.

Chung Ly Muội bàn với Hạng vương:

– Lúc tối tăm sợ có quân mai phục ta chớ đuổi theo đợi trời sáng sẽ liệu.

Hạng vương theo lời, không cho quân mình truy kích, nhờ đó Hán vương cùng các tướng chạy trốn được xa.

Chạy hơn tám mươi dặm, trời mới rựng sáng Trần Bình bàn với Hán vương:

– Tuy tướng sĩ suốt đêm chạy vất vả song chớ nên đóng quân nơi đây phải chạy đến Thành Cao mới được.

Hán vương nói:

– Nếu đến Thành Cao, quân Sở lại kéo đến vây nữa thì biết làm thếnào?

Trương Lương nói:

– Việc ấy không lo. Quân ta về Thành Cao độ ba ngày quân Sở ắt phải lui.

Hán vương hỏi:.

– Tiên sinh có kế gì lui được quân Sở?

Trương Lương tâu:

– Quân Sở chiếm đâu không thể giữ đất được, vì đường vận lương từ Bành Thành đến đây rất khó khăn.

Vả lại vừa rồi tôi được tin Bành Việt đem quân chận đường vận lương của Sở rồi Muốn chắc ý tối lại sai hai tướng Trương Thương, Trang Tà lẻn đốt kho lương của Sở rồi, vì vậy không bao lâu quân Sở phải kéo về.

Hán vương nghe nói an lòng, truyền quân mã thẳng đường đến Thành Cao.

Sáng ngày hôm sau, Hạng vương được tin quân Hán bỏ Cố Lăng về Thành Cao, liên đốc quân đến vây.

Sau ba ngày công phá, bỗng có Chung Ly Muội và Quý Bố chạy đến báo:

– Hiện nay trung quân bị thiếu lương. Vừa rồi lại có tin kho lương Liễu Thôn bị quân Hán cướp đốt rồi. Nếu nay mai Hàn Tín kéo quân đến đây quân ta không thể nào rút lui được, ắt phải chết đói.

Hạng vương nói:

– Ta đã lo việc thiếu lương thực. Nay kho Liễu Thôn bi đốt thì còn đóng quân ở đây làm sao được.

Liền truyền lệnh lút quân về, sai Hoàn Sở. Ngu Tử Kỳ đi đoạn hậu đề phòng quân Hán đuổi theo.

Ba quân lớn nhỏ đang lúc lo thiếu lương chợt có lệnh giải binh tức thời như gió cuốn mây bay, chưa đầy nửa ngày đã rút về hết sạch. Quân Hán ở trên thành thấy quân Sở rút về, vội vào báo cáo với Hán vương.

Hán vương nói:

– Nếu quân Sở rút lui, ta nên truy kích để tiêu hao lực lượng địch.

Trần Bình nói:

– Không nên! Quân Sở rút về, tất có sai dũng tướng đi đoạn hậu, nếu đuổi theo trúng kế. Vả lại quân Sở không phải thua trận mà rút, lực lượng còn đang mạnh lắm.

Hán vương khen phải, không truyền quân truy kích.

Hạng vương kéo quân về đến Bành Thành, gọi người coi kho lương đến khiển trách, rồi chém đầu răn chúng

Từ đó, Hạng vương lo việc tăng gia binh bị đề phòng khi xuất chinh.

Bấy giờ, nơi Thành Cao, Hán vương cũng đang lo củng cố quân ngũ, ngày đêm bàn việc tác chiến.

Một hôm, Hán vương đòi Trần Bình và Trương lương vào nói:

– Hàn Tín, Anh Bố và Bành Việt, ba người ấy cho gọi mãi mà không đến, nay phải làm thế nào?

Trương Lương nói:

– Hàn Tín tuy phong vương vị, nhưng chưa phong cho một mảnh đất nào. Bành Việt thì đã từng lập công to, nhưng chưa phong tước còn Anh Bố từ khi bỏ về Hán, Ðại vương chưa lúc nào dùng trọng lễ hậu đãi. Ðối với ba người ấy đều là những kẻ vì lợi quên nghĩa, tham mà tự kiêu. Nếu nay Ðại vương hậu ban tước thưởng, cắt đất phong cho, khiến cho họ đều có phong ấp để cai trị riêng, ắt họ phải hả lòng cố sức đem thân giúp Ðại vương diệt Sở.

Hán vương nói:

– Lời Tiên sinh luận rất phải, hiểu thấu được tâm trạng ba kẻ ấy. Vậy phiền Tiên sinh đem ba đạo phù hịch, gia phong cho Hàn Tín làm Tam Tề vương, cai trị quận Lam Trì. Tất cả lương tiền, dân chúng quận ấy đều thuộc về quyền sử dụng của Hàn Tín. Bành Việt thì phong làm Ðại Lượng vương tất cả sản vật trên đất Lương do quyền thống trị của Bành Việt. Còn Anh Bố thì làm Hoài Nam vương thống trị mảnh đất Hoài Nam.

Hịch văn viết xong, Trương Lương lãnh mệnh đi ba nơi ấy.

Hồi 37 – Trương Lương cố sức họp chư hầu

Trương Lương lãnh các tờ hịch của vua Hán, trước hết đến nước Tề, tin cho Hàn Tín biết.

Hàn Tín vội mời Trương Lương vào bệ kiến.

Trương Lương nói:

– Ngày nay không phải như trước Nguyên soái là chúa một nước, tọa trấn hơn bảy mươi thành, tôi đâu dám ngồi bình diện.

Hàn Tín vừa cười vừa đáp:

– Tín tôi không nhờ Tiên sanh thì đâu có vinh dự như ngày hôm nay. Vả lại Tiên sinh là bậc tôn sư, Tín tôi phải đối đải như bậc thầy mới đáng, đâu dám cậy vương tước mà tự tôn mình.

Trương Lương liền trao tờ hịch cho Hàn Tín xem.

Hàn Tín mở ra đọc, lòng phấn khởi, truyền mở tiệc đãi đằng.

Trương Lương nói:

– Hiện nay Bá vương thế cô, sức yếu, Chúa thượng hối hận việc cắt Hồng Câu giao ước, nên đã cùng Sở giao binh. Vừa rồi, Chúa thượng đốt kho lương thực của Sở, khiến cho quân Sở phải giải binh, kéo về Bành Thành. Tôi tưởng lúc này Nguyên Soái cũng nên đem quân đến hội với Chúa thượng, ra công diệt Sở, định thiên hạ, để cùng nhau chung hưởng thái bình. Sở có chết thời ngôi của Nguyên soái mới vững chắc.

Hàn Tín nói:

– Ngày trước hội binh ở Quảng Võ đã sắp phá được Sở, nhưng vì muốn đón Thái công về nước, nên Chúa thượng giảng hòa với Sở, do đó, Tín tôi phải kéo binh về.

Nay Chúa thượng có ý ấy, còn gì làm cho tướng sĩ hân hoan hơn. Sớm tối tôi sẽ đem quân diệt Sở, để Chúa thượng ngồi giữa Trung quốc, vỗ yên bốn cõi, lên ngôi Thiên tử thống lảnh chư hầu, giang sơn về một mối, bá tánh vui một lòng.

Trương Lương nghe Hàn Tín nói đứng dậy tỏ ý cảm tạ và nói:

– Nguyên Soái có ý ấy thật là phúc cho xã tắc, lẽ ra Lương tôi phải tiển Nguyên Soái lên đường nhưng Lương tôi còn phải qua hai xứ nơi Anh Bố và Bành Việt, giục họ điều binh về trợ Nguyên Soái.

Hàn Tín mừng rỡ nói.

– Thế thì Tín tôi xin đem binh về Thành Cao trước để tiện việc thao luyện quân mã.

Trương Lương bèn từ biệt Hàn Tín đi sang Hoài Nam yết kiến Anh Bố.

Anh Bố mời Trương lương vào tương kiến. Trương Lương đem tờ hịch Hán vương trao cho anh Bố.

Anh Bố mở ra đọc, thấy Hán vương phong cho dải đất từ Cửa Gianh trở xuống, quản thủ một vùng rộng lớn, lòng mừng khấp khởi, quay mặt về phía Tây lạy tạ ơn vua rồi đặt tiệc khoản đãi Trương Lương.

Trương Lương nói:

– Tướng quân làm vua nơi đây, ngôi nhân thần như thế đã là tột bực. Song Hạng vương chưa diệt được, chắc lòng tướng quân chưa yên. Hiện nay Hàn Nguyên soái đã đem quân đến Thành Cao đánh Sở, Tướng quân nên đem binh trợ lực, sớm trừ Hạng vương. Sở có diệt thì ngôi tướng quân mới vững vàng.

Anh Bố nói:

– Hạng vương là người thù của tôi lẽ nào tôi quên được.

Nói rồi liền điểm quân đến Thành Cao.

Trương Lương lại cùng kẻ tùy tùng sang Ðại Lương yết kiến Bành Việt.

Bành Việt hay tin mừng rỡ, sắm sửa tiếp đón Trương Lương rất hậu.

Trương Lương trao hịch văn của Hán vương cho Bành Việt, có kèm theo chiếu thư phong Bành Việt làm Lương vương.

Bành Việt sai tả hữu đặt hương án, và mở ra đọc.

Chiếu rằng:

Kẻ làm tôi mong hưởng lộc vua, kẻ có công mong ngày đền đáp, đó là lẽ công bằng. Xét vì Tướng quốc Bành Việt phò Hán đã lâu, công lao rất lớn, nhiều lần đánh chẹt đường vận lương của Sở, khiến cho nghiệp Hán vững vàng, quân thù khiếp đảm.

Nay phong cho làm Ðại Lương vương, cai quản năm mươi quận đất Lương, hưởng lộc đời đời.

Nhà ngươi nên gìn lòng trung chớ trái mệnh trẫm.”

Bành Việt đọc chiếu xong, cúi lạy tạ ơn, lòng hân hoan khôn xiết, vội sai bày tiệc khoản đãi Trương Lương.

Trương Lương nói:

– Tướng quân lâu nay có công rất lớn, vì vậy Chúa thượng sai tôi đến đây phong thưởng. Theo ý tôi, tướng quân nên tỏ lòng tri ân bằng cách cử binh đến Thành Cao, họp với Hàn Nguyên Soái để diệt Sở. Bởi vì, Sở chưa diệt dân chúng còn trong cảnh lầm than, dẫu có hưởng lộc cao sang đến đâu, kẻ anh hùng vẫn chưa thỏa dạ.

Bành Việt nói:

– Lời Tiên sinh dạy rất phải, vậy xin Tiên sinh lưu lại đây vài hôm, tôi sắp xếp binh mã xong sẽ thượng lộ.

Trương Lương cố chối từ, nhưng Bành Việt vẫn nài nỉ, Trương Lương phải ở lại mấy hôm.

Trong lúc thừa nhàn, Trương Lương dạo xem phong cảnh Ðại Lương, thấy sông núi bao quanh, hình thế hùng tráng, thật là yết hầu của đất Cửu Châu, then móng của Trung Quốc.

Trương Lương chợt nghĩ:

– Bá vương không đóng đô ở Hàm Dương lại đóng đô ở Bành Thành, không giữ ở Ðại Lương mà lại ở Từ Châu, không lấy thóc kho Ngao Thương mà lại lấy thóc kho Liễu Thôn, đó là cái cớ khiến cho Bá vương mất thiên hạ vậy!

Trương Lương ở chơi mấy ngày rồi giã từ trước khi Bành Việt hội binh phá Sở.

Nhắc lại Hàn Tín, từ khi tiếp được hịch văn của Hán vương, liền hiểu dụ các huyện, thu góp lương thảo rồi kéo binh đến Thành Cao.

Lúc bấy giờ Khoái Kiệt đã lâu vẫn đi lang thang nơi đầu đường xó chợ, nay nghe tin Hàn Tín sắp khởi binh phá Sở, liền đến trước phủ, nói với kẻ tả hữu xin vào yết kiến Hàn Tín.

Hàn Tín mời vào hỏi:

– Tiên sinh đã lâu, ra đi không về, trách Tín tôi không nghe lời dạy. Nay Tiên sinh trở về đây, hẳn có điều chi dạy bảo?

Khoái Kiệt nói:

– Tôi chịu ơn của ngài, không nỡ để cho ngài sa vào tai vạ vì vậy không nể xấu hổ, đến đây tương kiến, xin ngài chớ quở trách.

Hàn Tín hỏi:

– Tai vạ gì vậy?

Khoái Kiệt nói:

– Ngài đóng quân nơi đây, Hán vương mấy lần bị Sở vây khốn, mà ngài không tiếp cứu. Vì vậy, Hán vương buộc lòng phải sai Trương Lương đem hịch văn đến gia không cho ngài làm Tam Tề vương. Việc gia phong ấy chẳng qua là dùng miếng mồi ngon nhử cho ngài đem binh phá Sở đó thôi. Lúc ngài đã phá Sở xong rồi, Hán vương sẽ nhớ lại việc cũ nghi cho ngài là kẻ mưu tâm bắt bí để định bá đồ vương, thế nào cũng tìm mưu trừ ngài đi để khỏi lo hậu quả. Chừng ấy chẳng những vương vị của ngài bị mất, mà tấm thân của ngài cũng khó bảo tồn được. Ðó là một tai vạ, xin ngài xét lại.

Hàn Tín hỏi:

– Theo ý Tiên sinh thì nên thế nào?

Khoái Kiệt nói:

– Không nên diệt Sở, ngài nên chiếm cứ đất Tề, chia thiên hạ làm ba, giữ lấy thế chân vạc thì địa vị ngài mới vững.

Hàn Tín nói:

– Trương Lương thân hành đến triệu tôi. Tôi đã nhận lời, nếu không đi thì trái mệnh vua, bội ân, phản phúc. Lời,nói của Tiên sinh cũng có lý, song lòng Tín này không thể ăn cơm đá bát được.

Khoái Kiệt nói:

– Bây giờ ngài không nghe lời tôi, tất có ngày hối hận.

Hàn Tín bỏ đứng dậy, khoác áo vào nhà trong, rồi sai người đưa Khoái Kiệt ra.

Khoái Kiệt lại vẫn giả cách điên rồ đi lang thang như cũ, và làm một bài ca, hát nghêu ngao ở chợ rằng:

Hán vương nguy khốn, không về cứu

Chia đất phong vương, mới ra quân

Tuy người mưu trí

Nhưng việc không thông

Gây lấy tội

Họa vào thân

Vạc dầu Lịch Sinh còn đó

Thời gian có xóa được không

Sở chưa diệt thân ông còn

Sở bị mất, thân ông diệt

Trong cơ mưu ai biết được lời ta

Sao bằng giữ nước Tề

Thiên hạ chia làm ba

Ngồi cao trông thế sự

Ngao cò tranh lẫn nhau

Ngư ông thu cả cặp

Ngồi không mà thành công

Nay bỏ phí nghiệp lớn

Nhảy vào lò lửa hồng

Lời ta lời sắt đá

Không nghe khờ dại lạ!

Thiên hạ khinh ta điên

Nhưng ta thật khôn quá

Kẻ điên chẳng nghe lời

Ta lo tránh tội vạ

Lòng vũ trụ thênh thang

Núi non đầy hoa lá

Khoái Kiệt hát nghêu ngao mãi ở chợ. Quân sĩ thấy vậy vào báo với Hàn Tín.

Hàn Tín nói:

– Ôi! Chẳng qua là những lời đã nói với ta hôm nọ còn nghe làm gì.

Bèn phát hiệu khởi binh, kéo về Thành Cao, vào tạ ơn Hán vương về việc phong đất, rối đóng trại ngoài thành để thao luyện quân sĩ.

Chẳng bao lâu, Trương Lương cũng về đến, vào yết kiến Hán vương, thuật lại mọi việc.

Hán vương khen ngợi, nói:

– Nếu không nhờ Tiên sinh đi chuyến này thì ba tướng ấy đâu có hăng hái giúp ta.

Trương Lương nói:

– Ðó không phải là tài năng của tôi, mà chính là lòng nhân đức của Ðại vương, khiến cho lòng người không nỡ phản phúc. Ðại vương đã thắng thiên hạ bằng đạo đức vậy

Cách mấy ngày sau, Anh Bố và Bành Việt lục tục kéo quân đến, vào triều kiến và tạ ơn Hán vương.

Hán vương dùng lời ngon ngọt vỗ về, và bảo hai người tùy tiện an dinh hạ trại, dưới quyền quản lãnh của Hàn Tín.

Bấy giờ, các trấn chư hầu cũng đều hứa hẹn đến họp quân từ Thành Cao đến Huỳnh Dương một dải đường dài mấy trăm dặm đều là quân Hán.

Hàn Tín kiểm điểm quân mã, ghi nhận như sau:

Quân Yên vương 15 vạn, quân Anh Bố 5 vạn, quân Bành Việt 5 vạn, quân nước Ngụy 20 vạn, quân Tiêu Hà 16 vạn, quân Trang Tà 3 vạn, quân Lạc Dương 5 vạn, quân Tam Tần 6 vạn, quân của Hán vương 20 vạn, quân của Hàn Tín 15 vạn. Tổng cộng cả thảy hơn một trăm vạn. Các danh tướng hơn tám trăm viên, các đại thần mưu sĩ hơn năm mươi người.

Hán vương thấy bản danh sách ấy, lòng mừng rỡ, liền khiến Tiêu Hà và Trần Bình đem thóc Ngao Thương Tam Tần vận đến, cấp phát cho quân sĩ, kẻ nào nghèo khổ được thêm phần phụ lãnh kẻ nào tật nguyền, chết chóc, được cấp cho gia quyến chi dùng. Ba quân lớn nhỏ nhảy nhót vui mừng. Ðó chính là cái nhân đức mà Hán vương đã biết dùng nó để thu thiên hạ.

Sau khi kiểm điểm quân mã xong, Hán vương triệu Hàn Tín đến để bàn kế.

Hán vương nói:

– Binh lương đã sung túc, chẳng hay Nguyên Soái đã có phương lược nào phá Sở chăng?

Hàn Tín nói:

– Quân tướng càng đông, việc điều khiển càng phải thận trọng. Hạ thần còn phải cân nhắc các tướng tùy tài mà giao việc, phân công. Lúc nào hạ thần làm việc ấy xong, sẽ tâu với Ðại vương nghênh giá xuất chinh.

Hán vương hỏi:

– Lần này không hạ chiến thư, khích Hạng vương đến đây sao?

Hàn Tín đáp:

– Hạng vương đã mấy lần kéo quân đến đây, quân lương hao hụt. Nay nghe tin quân chư hầu hội chiến, lẽ nào dám đến. Ðại vương phải thân hành đến Bành Thành đóng quân để giao tranh. Phần tôi, tôi sẽ quản thủ binh mã lập bày thế trận để đối địch.

Hán vương rất hài lòng, chờ đợi Hàn Tín sắp xếp các tướng lãnh.

Bấy giờ có quân tế tác về Bành Thành, báo với Hạng vương:

– Hán vương họp quân chư hầu, gồm trăm vạn, đóng từ Thành Cao đến Huỳnh Dương dài hơn trăm dặm, đêm ngày lửa đốt rực trời, lương thực từ Ngao Thương và Trần Lưu chở đến không lúc nào dứt.

Hạng vương nghe báo thất kinh, hồi tưởng lại lời khuyên của Phạm Tăng trước kia bảo phải giết Lưu Bang để sau này khỏi mang họa. Lời ấy đến nay Hạng vương mới thấy là quan trọng.

Liền đòi bọn Hạng Bá, Quý Bố, Chung Ly Muội và Chu Lan vào hội diện.

Hạng vương nói:

– Hán vương họp chư hầu hơn trăm vạn, còn quân ta chỉ có ba mươi vạn, quân mã các nơi chưa đến, biết cách nào đối địch?

Các tướng nói:

– Giang Ðông là nơi Ðại vương khởi binh, lòng người lâu nay vẫn kính mến, vậy phải sai người đến miệt Cối Kê tuyển chọn một số binh mã. Còn Chu Ân trấn thủ nơi đó lâu nay, đã mấy lần đòi đến mà hắn không bệ kiến nay nên bắt hắn phải đoái công chuộc tội, thống lĩnh binh mã bản bộ đến đây hội chiến với Hán.

Bá vương nói:

– Chu Ân, lâu nay ở Thư Lục, nghe nói cùng Anh Bố tương đắc lắm, nay Anh Bố đã hàng Hán thì tin Chu Ân sao được. Chi bằng lừa hắn đến đây, rồi giết đi để trừ họa.

Hạng Bá nói:

– Lời Ðại vương luận rất đúng.

Bá vương liền sai quan Thiên Hộ là Lý Ninh đem hai đạo hịch văn đi gọi Chu Ân và đi lấy quân Ngô, lại dặn phải mau mau trở về.

Lý Ninh đến Thư Lục, vào yết kiến Chu Ân trao tờ hịch của Bá vương.

Chu Ân mở ra đọc. Hịch như sau:

” Lâu nay nhà ngươi trấn giữ ở Thư Lục, quân binh được an toàn, khỏi phải vất vả cực nhọc. Nay quân Hán cùng Sở hội nên, thế trận rất lớn, ta sai Lý Ninh đến đòi ngươi, dẫn quân bản bộ đến Bành Thành để giúp sức đánh Hán. Nhà ngươi trước đây đã nhiều lần bê tha, nay chớ noi gương cũ mà trọng tội “

Chu Ân xem hịch, lòng không vui, thầm nghĩ:

– Bá vương lực yếu, thế cô, lẽ ra phải dùng đạo đức chinh phục nhân tâm, lại cứ mãi cái thói dùng uy vũ hăm dọa. Nếu ta đem quân đến Bành Thành không khỏi mất mạng. Chi bằng nhân dịp này chiếm lấy Thư Lục, ngồi xem Hán, Sở tranh hùng. Ðợi cho Hán diệt Sở rồi, ta sẽ dựa vào Anh Bố hàng Hán, ắt công hầu chẳng mất.

Nghĩ rồi nói với Lý Ninh:

– Ðất Thư Lục có nhiều giặc cướp, tôi trấn nơi đây hàng ngày phải đi đánh dẹp khắp nơi, nay bỏ ra đi không tiện. Xin ngài trở về tâu lại với Bá vương, lúc nào tôi dẹp giặc cướp xong sẽ đem quân hội chiến.

Lý Ninh nói:

– Việc có khi gấp có khi hoãn. Giặc cướp nơi Thư Lục là chuyện nhỏ, còn việc Sở hưng binh chống Hán là việc lớn, và rất nguy cấp. Tướng quân không nên lấy việc nhỏ mà làm hư chuyện lớn.

Chu Ân nói:

– Tôi có nhiệm vụ trấn thủ mảnh đất này chứ không có nhiệm vụ đi đánh Hán vương. Nhiệm vụ của tôi, tôi phải làm tròn trước đã. Vả lại, tôi muốn dùng mảnh đất này dưỡng lão, không thể đi xa được.

Lý Ninh biết Chu Ân đã sinh biến tâm, không nói lời nào nữa, giã từ sang Cối Kê.

Quan Thái thú Cối Kê là Ngô Dan, tiếp được tờ hịch, mở ra xem, biết Bá vương định lấy quân Ngô để cùng Hán quyết chiến liền đòi tả hữu phân bố công việc, truyền xuống các quận huyện tuyển lựa binh mã.

Chỉ trong mấy bửa đã thu thập được tám vạn binh, Ngô Dan liền sai phó tướng là Trịnh Hanh quản lĩnh, cùng Lý Ninh dẫn đến Bành Thành, yết kiến Hạng vương.

Lý Ninh kể lại việc Chu Ân kháng lệnh, không chịu hội binh. Hạng vương tức giận, muốn đem binh giết Chu Ân trước, rồi mới đánh Hán.

Hạng Bá nói:

– Chu Ân chẳng qua là một bệnh ghẻ lở ngoài da, có gì mà ngại. Ðại vương kíp mang binh mà đánh Hán, chớ nên chậm trể.

Hạng vương theo lời Hạng Bá, kiểm điểm binh mã cả thảy được năm mươi vạn, định ngày xuất chinh.

Giữa lúc đó, Hàn Tín 10 sai người thăm dò địa thế để liệu việc đóng quân.

Tất cả các miệt xung quanh Bành Thành đều là những chỗ không dụng võ được, chỉ có vùng Cửu Lý, núi đồi hiểm trở, có thể dùng làm chiến trường được, vì vậy Hàn Tín sai người đến lấy bản đồ.

Sai nhân đem bản đồ Cửu Lý về trình. Hàn Tín xem xong mừng lắm, gọi Lý Tả Xa đến nói:

– Núi Cửu Lý thật ưu thế. Phía tả có gò đống, phía hữu có núi đầm, trước mặt có chiến ứng, phía sau có ẩn phục, làm một chiến trường rất tốt. Song không biết cách nào để lừa Hạng vương vào đó. Tiên sinh có kế chi chăng?

Tả Xa nói:

– Hạng vương lừa rất dễ. Tuy nhiên, quần thần không để Hạng vương bị lừa như vậy đâu. Nếu họ đào hào đắp luỹ cố thủ không ra đánh, quân ta đông, tổn phí nhiều, không thế nào tập trung lâu được. Họ đợi lúc quân ta thiếu thốn, kéo quân ra phản công tất quân ta phải thua.

Hàn Tín bấm trán suy nghĩ một lúc rồi hỏi:

– Tiên sinh có kế gì khiến cho Hạng vương kéo binh đến đánh chăng?

Tả Xa nói:

– Nay phải có người trá hàng, đến đó bày mưu cho Hạng vương, đem cái lợi trước mắt mà nhử, may ra Hạng vương vì nông cạn, sa vào cái mưu của Nguyên Soái.

Hàn Tín mừng rỡ nói:

– Người đi trá hàng phải là Tiên sinh mới mong thành công. Vậy Tiên sinh có vui lòng giúp đỡ chăng?

Tả Xa nói:

– Bấy lâu hầu hạ dưới trướng mang ơn tri ngộ. Nay dẫu khổ cực đâu dám chối từ. Thế thì ngay lúc tôi ra đi, Nguyên Soái phải đem quân bố trận mới được.

Hàn Tín nhận lời, Tả Xa liền giả biệt, đem theo những binh mã cũ của nước Triệu, tìm đường tắt thẳng đến Bành Thành.

Ðến nơi, Tả Xa nói với bọn quân canh:

– Tôi là Quảng Vũ Quân nước Triệu cũ, tên Lý Tả Xa, muốn vào yết kiến lão Ðại vương.

Quân canh vào báo với Hạng Bá.

Hạng Bá nghĩ thầm:

– Lý Tả Xa là kẻ mưu sĩ của nước Triệu trước kia, nay đến tương kiến chắc có điều gì quan trọng. Nghĩ rồi sai tả hữu mời Tả Xa vào.

Hai bên thi lễ xong, Hạng Bá hỏi:

– Lâu nay nghe ông ở bên Tề làm mạc khách của Hàn Tín, chẳng hay có việc gì lại hạ cố đến đây?

Tả Xa đáp:

– Triệu vương không nghe lời tôi, sai Trảm Dư đem địch với Hàn Tín, nên bị Hàn Tín dùng trận bối thủy chém chết. Tôi không có chỗ nương thân, đành phải ở với Hàn Tín làm mưu sĩ, chẳng ngờ, nay Hàn Tín được Hán vương phong chức Tề vương, ngông nghênh, hợm hĩnh, ỷ mình tài trí, không kể đến ai. Tôi buồn lòng bỏ đi, đến đây xin tình nguyện nương thân dưới cờ. Tôi tuy bất tài song xin lấy cái chết để rửa lòng uất hận. Tôi liệu mưu kế Hàn Tín không qua nổi mắt tôi.

Hạng Bá nói:

– Trong lúc hai nước giao tranh, những mưu mô dối gạt rất nhiều, Tiên sinh sang đây biết đâu cũng để trá hàng, dò xem quân tình của Sở, tôi sao tin được?

Tả Xa nói:

– Ngài lầm rồi! Tôi chẳng qua là một kẻ mưu sĩ, biết gì đến việc quân binh. Vả lại, nếu ngài dùng tôi, tôi sẽ đem mưu kế ra bàn, nghe hay không là tùy ở ngài, tôi có quyền gì bắt ngài phải theo. Còn như việc dò xét quân cơ, ngày nào Hàn Tín chẳng sai người theo dõi, hà tất tôi phải sang đây trá hàng để làm cái chuyện đó. Tôi chỉ tiếc một điều là tôi xét lầm độ lượng của ngài. Ðường đi đã lỡ, tấm thân lạc lõng bơ vơ thà chết cho an thân.

Nói xong, rút thanh kiếm đeo bên mình, toan tự vận.

Hạng Bá vội đứng dạy ôm lấy Tả Xa, tự nhận lổi mình, và nói:

– Trong lúc hai nước giao tranh, Tiên sinh từ dinh Hán sang đây, tài nào tôi không nghi ngờ. Tiên sinh chớ có trách.

Liền mời Tả Xa lên ngôi, đặt tiệc khoản đãi, và lưu lại ở đó ngủ một đêm.

Ngày hôm sau, Hạng Bá vào yết kiến Bá vương, kể việc Tả Xa đến đầu và xin giúp mưu lược chống với quân Hán.

Bá vương nói:

– Ta đang lúc thiếu người mưu sĩ, nay được Tả Xa về hàng thì còn gì may mắn hơn.

Liền cho Tả Xa vào triều kiến và hỏi:

– Ta vốn nghe tiếng Quảng Vũ Quân, lòng mong được hội kiến, nay nhà ngươi đến đây thực là may lắm.

Tả Xa nói:

– Tôi ở nước Triệu, nhưng Triệu vương không biết dùng, phải sang làm mạc khách với Hàn Tín. Hàn Tín cũng lại không biết dùng, nên bơ vơ chiếc thân bốn bể.

Nay đến đây được Ðại vương trọng dụng, chẳng khác nào con gặp cha mẹ, tôi nguyện đem hết tâm sức dẫu chết cũng chẳng màng.

Bá vương nói:

– Nhà ngươi đã thực tâm theo ta, vậy sớm tối phải chầu bên cạnh để cùng nhau bàn bạc.

Từ đó, Bá vương lưu Tả Xa làm mưu sĩ. Lại thấy Tả Xa nói năng lưu loát, khí phách hơn người, lòng không chút gì ngờ vực.

Trong thời gian ấy, Hán Vương thấy đóng quân lâu ngày mà chưa xuất trận, nên triệu Hàn Tín đến hỏi:

– Ðại binh đóng đã lâu, tốn kém quá nhiều, ta muốn ra quân cùng Sở giao tranh, Nguyên Soái có ý chi chăng?

Hàn Tín nói:

– Khi tôi phá Triệu có chiêu tập được hai người rất dũng cảm, bấy lâu, sai dùng rất đắc lực. Nay nếu sai làm tiên phong chắc nên việc.

Hán vương nhận lời, tnlyền cho hai người ấy vào yết kiến.

Hai người bước vào, Hán vương thấy hai người sức vóc to lớn, diện mạo đường đường, liền hỏi họ tên quê quán.

Hai tướng ấy một người họ Khổng tên Hy, một người họ Trần tên Hạ, từ lúc nhỏ chỉ theo nghề cung kiếm, nhân lúc nhà Tần loạn lạc ẩn náu nơi Ðăng Vân, núi Thái Sơn, sau nghe Hàn Tín chiêu nạp hiền sĩ tìm đến hầu hạ dưới trướng.

Hán vương mừng rỡ, phong Khổng Hy làm Liên Hầu, Trần Hạ làm Hạ Hầu, sai xuất binh ba vạn quân đi tiên phong gặp núi mở đường, gặp sông bắc cầu.

Hai tướng dập đầu lạy tạ, lãnh binh đi trước. Hàn Tín cũng thống lãnh đại binh kéo theo sau ra khỏi Thành Cao. Người ngựa nối liền nhau mấy trăm dặm đường, quân kỳ phất phới, gươm giáo sáng lòa.

Dọc đường, bá tánh vẫn không bị quân binh làm bận rộn chút nào. Thật xứng đáng là một đoàn quân vì nghĩa.

Hồi 38 – Nàng Ngu Cơ viết thư khuyên Hạng Vũ

Mùa thu, năm thứ năm nhà Ðại Hán, Hán vương đem đại binh ra khỏi Thành Cao, Hàn Tín thống lĩnh ba quân tấn phát.

Quân Hán kéo đến chân núi Cửu Lý, Hán vương sai thiết lập dinh trại, rồi khiến người đến Bành Thành dò xét địch quân.

Hàn Tín lập một cái lầu cao, treo một tấm biển trên đề một bài thơ:

Sở diệt, Lưu hưng

Ý trời đã định

Một trận tranh phong

Hạng vương mất mạng

Quân thám thính trông thấy, trở về báo với Hạng vương và có chép lại bài thơ đệ trình cho Hạng vương xem.

Hạng vương nổi giận, xé tan bài thơ, hét lớn:

– Nếu không giết được thằng luồn khố quyết không kéo quân về.

Nói xong, truyền tướng sĩ ngay chiều hôm ấy khởi binh.

Quý Bố và Chu Lan đồng can:

– Ðó là kế của Hàn Tín khiêu khích để dụ quân ta. Nếu khởi binh tất trúng kế Hàn Tín.

Hạng vương nói:

– Ta suốt đời dọc ngang thiên hạ, chưa chịu nhục bao giờ. Nay Hàn Tín dám nhục mạ ta như thế mà ta cứ đóng quân nơi đây, còn mặt mũi nào trông thiên hạ?

Chu Lan nói:

– Binh Hán thế rất mạnh, lại thêm có Hàn Tín rất nhiều quỉ kế, Ðại vương chớ nên khinh địch. Cứ như ngu ý Ðại vương chỉ nên đào hào, đắp lũy cố thủ. Ðợi quân địch đóng lâu ngày, lương thực mỏi mòn, quân cơ trể biếng, chừng ấy ta sẽ kéo đến đánh. Nếu Ðại vương nóng giận ắt hẳn hỏng việc lớn.

Hạng vương trầm ngâm không quyết, khoác áo trở về cung, mặt mày buồn bã.

Nàng Ngu Cơ ra đón, thấy vẻ mặt Hạng vương không vui, liền hỏi:

– Thiếp có nghe nói quân Hán kéo đến gần lắm, chẳng hay Ðại vương định chống cự bằng cách nào?

Hạng vương đem lời nói của Chu Lan thuật lại.

Ngu Cơ nói:

– Lời của Chu Lan nói rất phải. Nếu Ðại vương nghe theo mưu ấy, xã tắc sẽ bền vững, bằng không khó lòng thắng được quân Hán, mà Bành Thành cũng không giữ nổi.

Hạng vương nói:

– Thôi, để sáng mai ta sẽ cùng quần thần bàn tính lại

Ngày hôm sau, Hạng vương triệu tập quần thần đến nói:

– Chu Lan khuyên ta đừng nên giao chiến, các ngươi thấy lời ấy như thế nào?

Lý Tả Xa nói:

– Nếu Ðại vương không cử binh giao chiến tất quân Hán cho là Sở ta yếu thế, kéo binh đến đánh Bành Thành.

Bành Thành mất, Ðại vương còn biết chạy đi đâu? Cái kế ngày nay phải tìm địch mà đánh để địch khỏi tính đến đánh nơi cơ sở chính yếu của ta. Nếu thắng, Ðại vương tạo được cơ hội, bằng bại, sẽ trở về thủ Bành Thành, cũng chẳng muộn.

Chu Lan nói:

– Lời luận ấy rất nông cạn. Tôi thiết tưởng quân Sở nay đã ít mà kéo đi xa, lực lượng hao mòn, rủi bị thua, ba quân thất đởm, còn tinh thần nào giữ thành.

Tả Xa nói:

– Chính ta cố thủ, không dám xuất chinh mới là làm cho ba quân nhụt chí, và làm cho thiên hạ chê cười quân ta sợ quân Hán.

Hạng vương nói:

– Lời Tả Xa luận rất phải.

Liền truyền lệnh khởi binh, nhắm núi Cửu Lý tấn phát.

Vừa ra khỏi thành, chợt có trận gió thổi đến rất mạnh, làm gãy cây đại kỳ. Ba quân đều giật mình, kinh sợ Con ngựa Ô truy của Hạng vương, đến dưới lầu bỗng hét lên mấy tiếng.

Chu Lan, Hạng Bá thấy vậy, bàn với nhau:

– Cờ gãy, ngựa hét không phải là điềm tốt, chúng ta phải cố can vua đừng tiến tới.

Hạng vương vừa đến Tây Quan, thấy Hạng Bá, Chu Lan cùng các tướng đình binh, quỳ xuống đất.

Hạng vương hỏi:

– Việc gì thế?

Hạng Bá tâu:

– Ðại vương vừa ra khỏi thành, đại kỳ bị gãy, ngựa cỡi hét vang, đó là diều tối ky trong việc hành quân. Ðại vương nên hoãn lại, cho người dò xét địch tình, rồi sẽ lựa ngày khác xuất phát.

Hạng vương nói:

– Xưa vua Trụ mất nước vì ngày giáp tý, nhưng vua Vũ được nước cũng vì ngày giáp tý. Cờ gãy, ngựa hét chẳng qua là chuyện ngẫu nhiên, lẽ đâu đại binh kéo đi muôn dân đều biết, mà lại kéo về.

Nói xong, giục binh mã tiến đi. Vừa lúc đó có tin Hoàng hậu sai người đưa thư đến.

Hạng vương cười lớn nói:

– Ngự thê lại đưa thư nói gì đây?

Liền bóc thư ra xem, thì thấy chính những dòng chữ của Ngu Cơ đã viết như sau:

” Vua Văn vương nghe lời can của bà phi hậu làm nên bậc thánh. Vua Ðại Vũ đọc bài trâm của La Bồ Sơn mà dấy nghĩa. Nói chung các bậc vương xưa dựng nên nghiệp lớn, cũng nhờ nghe lời can ngăn của mọi người. Thiếp tuy phận đàn bà, kiến thức nông cạn, song nghe Hàn Tín mưu gian kế quỉ, Ðại vương cần phải thận trọng lắm mới được. Lời nói của Chu Lan đúng là lời trung thành, sáng suốt, Ðại vương chớ nên bỏ qua. Hơn nữa, chuyến đi này gió lớn gãy cờ, ngựa truy gầm thét, đó là điều bãi thương. Vậy Ðại vương dừng binh xét sửa, tìm kế khác giao tranh, tránh được cái bất lợi ngày nay. Ðược vậy, thiếp xin đội ơn muôn thuở. “

Hạng vương xem thư xong có ý dùng dằng, Tả Xa liền bước tới nói:

– Tôi vừa có người nhà ở Bái Quận đến đây, nói rằng Hán vương dẫn một toán quân về Thành Cao, Hàn Tín cũng có ý đem quân trở về. Tôi nghĩ đó là vì quân Hán nhiều quá, lương không đủ dùng, sợ đại binh của Ðại vương kéo đến, khó bề chống chọi. Binh pháp có nói: ” Binh đã, tướng lụt ” huống hồ lại thiếu lương thì làm sao đóng quân lâu được. Nếu Ðại vương thừa dịp này tấn binh, thế nào cũng trọn thắng.

Hạng vương nghe lời nói của Tả Xa, quyết ý tấn binh. Các quan không ai còn dám ngăn trở nữa.

Chẳng bao lâu, quân Sở kéo đến núi Cửu Lý, cách năm mươi dặm hạ trại. Hạng vương sai người đến dinh Hán thám thính.

Quân thám thính về báo:

– Ðại binh của Hán vương đóng ở gò Thê Phương, suốt ngày đàn hát rượu chè, còn đại binh của Hàn Tín đóng nơi núi Cửu Lý, suốt ngày thao luyện, không có ý rút về. Dinh trại san sát không chỗ nào dứt.

Hạng vương ngơ ngác, cho đòi Tả Xa đến hỏi, nhưng Tả Xa chẳng thấy đâu nữa cả.

Quân tuần vào báo:

– Tả Xa đã đem bọn tùy tùng đi trốn, chạy về hướng Bắc, chúng tôi đuổi theo nhưng không kịp.

Hạng vương nổi giận hét:

– Tả Xa quả là người của Hàn Tín sai đến trá hàng để dò xét quân tình.

Liền đòi Hạng Bá đến trách:

– Nhà ngươi không rõ lai lịch của Tả Xa, cớ sao lại tiến cử vào ta. Ta không có thì giờ xét kỹ, tin lời xảo ngôn của nó, đến nỗi lầm lỡ việc lớn.

Hạng Bá nói:

– Tôi vẫn nghe danh của Tả Xa tưởng hắn đầu hàng thật, không ngờ bị mắc gian kế. Thực tội của tôi rất trọng.

Chu Lan tâu:

– Quan Tư Mã (Hạng Bá) chỉ vì lòng ngay, không rõ được gian ý của địch. Nay đại binh đã đến đây, chỉ nên bàn cái kế xuất chiến, không nên hối lại việc trước mà bê trễ quân cơ.

Hạng vương theo lời, miễn tội cho Hạng Bá và trọng thưởng cho bọn Chu Lan, rồi trở vào trướng, thăm Ngu Cơ và nói:

– Tả Xa trá hàng, lừa quân ta đến đây. Ta hối hận vì không nghe lời ngự thê!

Ngu Cơ nói:

– Lời nói của thiếp không nên nhắc đến nữa, chỉ mong Ðại vương gắng sức, xuất chinh, yêu thương tướng sĩ, khiến họ tận tâm giúp sức, xây dựng cơ đồ, sớm đem lại nước nhà thái bình thịnh trị.

Hạng vương nói:

– Lời của ngự thê quả là một kẻ hiền đức, có thể an ủi ta nơi mũi đạn đầu tên.

Ngày hôm sau Bá vương triệu các tướng vào trướng, nói:

– Các ngươi theo ta đến nay trải bao chiến trận, chưa bao giờ bị nhục. Ngày nay, quân Hán thế to, khinh bỉ ta quá lắm. Tuy nhiên phải thận trọng lắm mới được Chung Ly Muội dẫn ba vạn binh đóng ở phía tả, Quý Bố lãnh ba vạn binh đóng ở phía hữu, Hoàn Sở làm tiền bộ, Ngu Tử Kỳ làm hậu ứng. Hễ địch thua chớ đuổi xa, hễ ta thua quay vào cứu viện. Cốt đánh kéo dài thời gian, để cho quân địch thiếu lương phải chạy.

Chư tướng phục lạy nói:

– Sự thần toán của Ðại vương, chúng tôi không thể theo kịp.

Nhắc lại Hàn Tín từ lúc kéo quân đến đóng nơi núi Cửu Lý, ngày đêm thao luyện, phân bố các nẻo, chỗ nào quan hệ đều có phục binh, mỗi tướng đều lãnh một trách nhiệm, tùy cơ ứng dụng.

Chẳng bao lâu, lại có tin Lý Tả Xa trở về.

Hàn Tín vội mời vào dinh, Tả Xa kể hết mọi việc mình đã làm, và các việc hư thực nơi dinh Sở.

Hàn Tín nói:

– Nếu không nhờ Tiên sinh đi chuyến này, Hạng vương chẳng dám đến đây. Nay Hạng vương đã đến đây rồi, phải làm thế nào gạt Hạng vương vào trận địa. Tiên sinh có kế gì chăng?

Tả Xa nói:

– Việc nay chắc Nguyên Soái đã có diệu kế rồi, chăng qua hỏi thử tôi thế thôi. Tôi cũng có một kế, nhưng sợ không hợp với ý Nguyên Soái chăng?

Hàn Tín nói:

– Hạng vương đã mấy lần bị tôi dùng kế, nay khó mà gạt được. Nếu lúc giao chiến, giả thua bỏ chạy, Hạng vương sẽ không bao giờ dám theo nữa.

Tả Xa nói:

~ Ðúng vậy. Song tánh nóng giận của Hạng vương văn không thay đổi. Ðó là nhược điểm của đối phương. Ngày mai thế nào Hạng vương cũng gọi Chúa thượng ra trận, Chúa thượng sẽ dùng lời khích lệ rồi bỏ chạy vào trọng địa. Nếu Hạng vương không đuổi theo, tôi sẽ xông ra cười rất lớn. Hạng vương thấy tôi nghĩ đến chuyện trá hàng vừa rồi tất không thể nhịn được.

Hàn Tín nói:

– Tiên sinh nói rất hợp ý ta. Liền cùng Tả Xa đến lại yết kiến Hán vương, kể rõ lời bàn lúc nãy.

Hán vương nói:

– Nếu muốn ta ra khích Hạng vương thì sai tả hữu bảo vệ cho kỹ càng mới được.

Hàn Tín nói:

– Thế thì nên sai Khổng Hy, Trần Hạ, hai tướng ấy theo phò Ðại vương ắt khỏi lo. Ðại vương nên dụ Hạng vương đến Cai Hạ, tôi phục binh đợi sẵn ở đó.

Vua tôi bàn định xong, Hàn Tín trở về trung quân, truyền các tướng đến lãnh quân lệnh.

Các tướng họp mặt đông đủ, Hàn Tín nói:

– Chúa thượng từ khi ở Bao Trung ra, cùng Hạng vương giao tranh đã năm năm, trải hơn bảy mươi trận chịu muôn cay nghìn đắng, nay họ Hạng lực yếu thế cô được thua chỉ ở trận này, vậy các tướng nên cố sức để tạo thành nghiệp lớn, an hưởng lộc trời, muôn đời bền vững.

Các tương đồng thanh hoan hỉ. Hàn Tín chiếu theo bát quái trận bố trí như sau:

“Càn” là trời, sai Ðại tướng Vương Lăng, lãnh mười sáu viên phó tướng, quân bốn vạn, cờ xí sáu mươi bốn lá, mai phục hướng Tây. “khảm” là nước, sai Ðại tướng Lư Quán lãnh mười sáu viên phó tướng, quân bốn vạn, cờ xí sáu mươi bốn lá, mai phục hướng Tây – Bắc.

“Cấn” là nước sai Ðại tướng Tào Tham, cũng lãnh một số phó tướng và quân mã như trên, mai phục hướng Tây – Nam

“Chấn” là sấm, sai Ðại tướng Anh Bố, cũng lãnh một số phó tướng và binh mã như trên, mai phục ở phương Ðông

“Tốn” là da, sai Ðại tướng Bành Việt, cũng lãnh một số phó tướng và binh mã như trên, mai phục hướng Ðông – Nam.

“Ly” là lửa, sai Ðại tướng Chu Bột, quản lãnh số quân tướng như trên, mai phục hướng Ðông – Bắc. “khôn” là đất, sai Trương Nlũ, lãnh một số quân, tưóng như trên, mai phục phía chính Nam.

“Ðoài” là đầm sai Trang Tà, lãnh một số quân tướng như trên, mai phục hướng lãnh Bắc.

Trước bày bát quái xong, sau lại bày ngũ hành, tả phù, hữu bật đều án theo phương hướng.

Hạ Hầu Anh, lãnh binh mười vạn, theo Hán vương làm quân cứu ứng.

Trương Lương, lãnh bình mười vạn, ở phía tả làm quân phòng vệ.

Trần Bình, lãnh quân mười vạn, ở phía hữu làm quân cứu ứng.

Khổng Ly. Trần Hạ lãnh mười vạn binh, làm tả chi hữu dực của Hán vương.

Lã Mã Thông, La Huống lãnh hai vạn binh, điều khiến mười hai viên tướng mạnh, làm mười hai phương. Sài Võ lãnh hai vạn binh, phân thành hai mươi tám vì sao, án theo nhị thập bát tú.

Nhâm Ngao lãnh hai vạn binh coi giữ đại trại của Hán vương.

Lưu Trạch dẫn ba nghìn binh, đóng nơi núi Kê Minh, trương cờ xí, giả làm thanh thế.

Lưu Giao lãnh năm ngàn quân đi tuần tiễu ở hậu quân.

Bạc Chiêu, Tôn Nhã Hoài, Cao Khởi, Trương Thương, Thích Tư, mỗi người đều lãnh hai nghìn quân do con đường nhỏ đến phía tả Từ Châu, đợi quân Sở bỏ thành kéo ra, thì đoạt thành, bắt gia quyến của Hạng vương.

Các tướng đều tuân lệnh, bày thành trận thế.

Bỗng có một người bước ra nói lớn:

– Nguyên Soái khinh tôi là kẻ vô dụng sao?

Hàn Tín nghe tiếng biết là Phàn Khoái, liền nói:

– Không phải tôi quên tướng quân đâu! Tôi chưa phân công cho tướng quân là muốn giao cho tướng quân một việc lớn. Song tôi lại sợ, nếu tướng quân không thận trọng thì trăm vạn hùng binh phải tan rã hết.

Phàn Khoái nói:

– Nguyên Soái có việc gì sai bảo xin cứ an tâm, tôi chẳng bao giờ dám thất trách.

Hàn Tín nói:

– Trận thế bố trí đã xong chỉ còn việc điều khiển. Vậy tướng quân lãnh ba vạn quân, lên núi Cửu Lý, đóng quân nơi chỗ cao dùng lá đại kỳ làm hiệu cho các tướng trông theo. Hễ thấy Hạng vương chạy về hướng nào thì phất cờ chạy về phía ấy để vận chuyển ba quân.

Phàn Khoái nói:

– Ban ngày sáng thì trông hiệu kỳ được, còn ban đêm phải làm thế nào?

Hàn Tín đáp:

– Ðêm thì dùng đèn lồng lớn, dựng ở đỉnh núi, xây theo bốn mặt.

Phàn Khoái tuân lệnh, âm thầm kéo quân tấn phát.

Bấy giờ nơi dinh Sở, Hạng vương cũng đòi bọn Quý Bố, Chung Ly Muội, Chu Lan vào phân phối binh mã.

Hạng vương nói:

– Tại sao người dò thám quân Hán, quả quyết thế quân Hán lớn lắm, còn ta chỉ có năm chục vạn quân. Vậy ta lãnh hai chục vạn đi trung quân, còn ba chục vạn giao các tướng chia làm sáu đạo quản lãnh. Chung Ly Muội và Chu Lan phải theo ta hộ vệ.

Phân phối xong, Hạng vương lên ngựa, kéo quân ra trước trận.

Hồi 39 – Một trận thư hùng, Hạng Vương lầm chước quỉ

Hạng vương xuất trận, gọi Hán vương ra đấu chiến.

Hán vương cũng mặc giáp trụ, lên ngựa xông ra, tả hữu có bọn Khổng Hy, Trần Hạ hộ vệ.

Hạng vương thấy mặt Hán vương liền hét lớn:

– Lưu Bang, ngươi đã thất hứa ở Cố Lăng, ta tha cho khỏi chết, sao lại còn dám bội ước cùng ta giao tranh?

Bấy lâu nay, ta cùng ngươi chưa hề thử sức, chẳng biết võ nghệ của ngươi đến bực nào.

Hán vương nói:

– Việc dùng binh cần ở mưu lược chứ đâu phải ở sức mạnh. Ta xem ngươi như một giống hổ lang, chỉ khoe khoang võ nghệ mà không có chút gì khôn ngoan cả.

Hạng vương giận dữ, vung đao đâm tới, Khổng Hy và Trần Hạ lướt ra đỡ thương ngăn lại, đánh.

Quân sĩ hai bên lui ra năm mươi thước. Hạng vương hét lên một tiếng, đâm Trần Hạ một đao, té nhào xuống đất, Khổng Hy định xông vào cứu, nhưng đã bị một đường thương của Hạng vương chém tới quá gấp. Khổng Hy cúi rạp mình để tránh, ngọn đao chém phớt qua chóp mũ, làm cho mũ Khổng Hy rơi xuống đất.

Khổng Hy thất kinh, phóng ngựa chạy, may nhờ có hai tướng Ngân Hấp và Sài Võ cản Hạng vương lại kịp nên Khổng Hy mới khỏi chết.

Hạng vương tức giận, xông vào đánh Ngân Hấp và Sài Võ.

Trong lúc đang giao tranh, Hạng vương nghe có tiếng gọi tên mình chưởi mắng, liền quay đầu lại, thấy Hán vương đang gò ngựa đứng trên một đồi cao, dương oai, diệu võ.

Hạng vương tức giận, bỏ Ngân Hấp và Sài Võ, giục ngựa rượt theo Hán vương.

Hán vương thấy vậy, vội vã chạy về hướng Ðông Bắc.

Hạng vương xua quân đuổi theo. Ðuổi được năm dặm, thấy quân Hán rải rác đóng dày.

Quý Bố vội ngăn Hạng vương lại nói:

– Hán vương tuy chạy nhưng binh mã vẫn không chịu lui, e rằng Hàn Tín dùng mưu dụ ta, xin Ðại vương chớ vào sâu nội địa của địch.

Hạng vương khen phải, quảy ngựa trở lại.

Bỗng thấy Lý Tả Xa hiện đến trước mặt, cười khanh khách nói lớn:

– Tôi xin chào Ðại vương đó. Lúc tôi còn ở Sở, được Ðại vương hậu đãi, nay đến đền ơn, Ðại vương đầu Hán, tôi sẽ tâu với Hán vương tha cho tội tru lục.

Hạng vương giận dữ, mắng:

– Ðứa thất phu này dám lợi dụng lòng tin của ta, âm mưu lừa gạt. Ta muốn phân thây ngươi ra muôn mảnh cho hả giận. Nay ngươi lại dẫn xác đến đây, chạy đi đâu cho thoát.

Dứt lời, thúc ngựa đuổi theo bắt Tả Xa. Ban đầu, thấy Tả Xa chạy chờn vờn phía trước, nhưng sau đuổi được mười dặm, không thấy Tả Xa đâu nữa, chỉ thấy quân Hán bốn mặt ầm ầm kéo đến bổ vây.

Hạng vương nhờ bọn Quý Bố, Chung Ly Muội hộ tống, cố gắng chống cự, nhưng không làm sao chạy thoát.

Càng đánh, quân Hán càng vây phủ đông hơn, bốn bề mù mịt, tiếng quân la ó vang trời.

Một lúc sau, đạo quân của Hàn Tín lại kéo đến nữa, tinh kỳ phất phới gươm giáo sáng lòa, như một đám rừng gươm.

Hạng vương chống đỡ một lúc thấy quanh mình quân sĩ chết rụi hết, chỉ còn mấy nghìn ky binh, lớp bị thương, lớp mất binh khí, hớt hải theo sau không còn tinh thần mà kháng cự nữa, Hạng vưong nói với Chung Ly Muội và Quý Bố:

– Thôi, chuyến này ta dã lầm tay Hàn Tín rồi, cơ đồ ắt hưu chỉ.

Ðang cơn rối loạn, bỗng thất hên ngoài có một toán quân Sở đánh vào, thế rất mạnh, khiến cho quân Hán phải vẹt ra hai bên. Cầm đầu toán quân ấy là Chu Lan.

Hạng vương trông thấy Chu Lan mừng rỡ hỏi:

– Nhà ngươi không cứu ứng thì chắc mạng ta chẳng còn.

Chu Lan nói:

– Hàn Tín lập trận trường bát quái, gạt Ðại vương vào trọng địa. Muốn phá trận này phải có đầy đủ binh lực. Nay quân ta quá ít nên tôi thừa cửa sanh đánh vào giải cứu xin Ðại vương hãy theo tôi ra khỏi trận kẻo nguy tính mạng.

Hạng vương liền theo Chu Lan trở ra. Nhờ toán quân của Chu Lan, đốc thúc đánh phá vòng vây thoát ra ngoài trận, về đến dinh Sở thì trời đã tối.

Ngu Tử Kỳ đón vào trại, nàng Ngu Cơ bước ra tiếp rước, và nói:

– Ðại vương thoát khỏi trận này, lòng thiếp không còn gì mừng hơn.

Hạng vương nói:

– Tuy thoát chết, song thế quân Hán quá to, ta không thể đóng đây lâu được, nửa đêm hôm nay kéo về Bành Thành chỉnh đốn quân mã rồi sẽ liệu kế.

Ngu Tử Kỳ nói:

– Tôi vừa nghe tin có một cánh quân Hán đến Bành Thành cướp lấy cung quyến, chẳng biết tin ấy có thực chăng? Bây giờ Ðại vương muốn về Bành Thành e bất tiện. Nhân lúc binh mã còn hơn hai vạn, ta bỏ Bành Thành, kéo về miệt binh Sở, Hồ Tương đóng quân, chỉnh đốn quân mã, chiêu hiền đãi sĩ, lo kế phục hưng là hơn.

Hạng vương nói:

– Cung quyến ta đều ở Bành Thành, tin ấy chưa xác thực, ta muốn lén về Bành Thành thu thập cung quyến rồi kéo đến đóng nơi Lỗ Quận, tại Sơn Ðông. Nơi đó không xa cách lắm, có thể tiếp tế lương thực được.

Các tướng nói ;

– Ðại vương tính như vậy rất phải.

Hạng vương ra lệnh cho quân sĩ nấu cơm ăn, rồi theo đường nhỏ kéo rốc về Bành Thành.

Ðại quân đi vừa đến Tiêu huyện cách Bành Thành đô năm trăm dặm thì đêm đã tàn. Xa xa phất phới tinh kỳ, và vang lại tiếng hò reo của quân sĩ.

Hạng vương thất kinh hỏi các tướng:

– Tại sao có quân Hán đóng nơi đây. Hay là chư hầu hợp binh với quân Hán?

Chung Ly Muội nói:

– Các lộ chư hầu đều phản Ðại vương, phò Hán. Cái nguy cơ ấy khó tránh. Quân chư hầu đã đóng nơi đây tức là Bành Thành không còn. Vậy xin Ðại vương cùng chúng tôi thu góp tàn quân chạy xuống miền Giang Ðông, để liệu thế tiến thủ, không nên lưu luyến cung quyến, ở mãi nơi đây mà mang hại.

Chu Lan nói:

– Lời Chung Ly Muội nói rất có lý, xin Ðại vương xem đó là một quốc sách.

Hạng vương tức giận dậm đất nghiến răng nói:

– Ta từ khởi binh đến nay chưa có tướng nào địch nổi cây đao của ta. Nay tuy quân Hán đông. Song tướng Hán là bọn bất tài, lẽ nào lại bỏ trốn để mất thanh danh?

Các ngươi cứ đi theo ta, xem ta giao chiến với tướng Hán.

Nếu kẻ nào dám đánh với ta ba mươi hiệp ta sẽ tự sát, không thèm sống trên đời này nữa.

Các tướng thấy Hạng vương nóng giận, không ai dám can ngăn, vội điều động quân mã theo Hạng vương trợ chiến.

Khi gần đến Bành Thành, có tên tiểu hiệu chạy đến báo:

– Bành Thành đã về tay quân Hán rồi, trên thành cắm toàn cờ Hán.

Hạng vương nghe nói bước xuống ngựa, sửa lại mũ áo rồi hét lên một tiếng như sấm nhảy thóc lên lưng Ô truy quảy ngựa thẳng đường chạy về lúa núi Cửu Lý.

Quân Hán đang đóng nơi núi Cửu Lý thình lình thấy Hạng vương vùn vụt kéo quân đến, vội vã phi báo.

Phàn Khoái hay tin, tức thì điều dộng cây đại kỳ quân Hán bốn mặt bổ vây. Các đạo binh trấn tám hướng đánh ập vào một lượt.

Hạng vương không hề sợ hãi, tay cầm đại đao vung tít tới lui hùng hổ, chẳng khác nào một mãnh thú vùng vẫy giữa rừng xanh.

Tướng Hán tuy đông, nhưng không có ai dám đến tan. Lớp này thua lớp khác lại ứng chiến.

Trong khoảng một ngày, Hạng vương đánh lui hơn 60 viên tướng Hán, mà ngọn đao không hề nhụt, ngựa không hề lui.

Hạng vương quay lại hỏi các tướng Sở:

– Sức ta địch vạn năng. Các ngươi có thấy ta yếu đi tí nào chăng?

Các tướng nói:

– Ðại vương quả có sức mạnh vạn năng, song giao chiến cả ngày, giờ đây tướng Hán đều lui ra ngoài cả, Ðại vương cũng nên đóng dinh nơi đây để cho Hoàng hậu tạm nghỉ.

Hạng vương theo lời, tạm thời đóng trại giữa trận rồi sai Ngu Tử Kỳ mời Ngu Cơ đến hội kiến.

Hạng vương nói:

– Hôm nay ngự thê bị quân Hán cướp thành, vậy tối không có chỗ an nghỉ, chắc là mệt nhọc lắm.

Ngu Cơ nói:

– Tiện thiếp nhờ thiên uy của Ðại vương bảo vệ, và nhờ các tướng săn sóc, không đến nỗi mệt nhọc lắm. Song thấy trong một ngày, Ðại vương địch hơn sáu mươi viên tướng Hán, vậy cũng nên nghỉ ngơi, an dưỡng mình rồng.

Hạng vương nói:

– Ngày trước ta đi đánh Chương Hàm, chín ngày chưa được một bữa ăn no, thế mà ta còn thắng huống chi nay chỉ có một ngày.

Các tướng nghe nói đều thương xót. Chu Lan bước đên tâu:

– Ðại vương tuy ngày nay được thắng, song quân Hán còn to thế lắm, bốn mặt vây đánh rất gấp, đêm nay nên phòng quân địch đến cướp trại.

Hạng vương nói:

– Lời ấy chính hợp ý ta.

Liền truyền ba quân lớn nhỏ trong đêm phải bớt ngủ, đề phòng cẩn thận.

Ðoạn sai đem rượu thịt đến để cùng Ngu Cơ giải trí.

Giữa lúc đó, nơi dinh Hán, Hàn Tín thấy các tướng hợp sức vẫn không địch nổi Hạng vương lòng lo lắng, gọi Lý Tả Xa đến nói:

– Cái sức mạnh vạn năng của Hạng Vương dầu hàng trăm dũng tướng cũng không thể địch nổi. Nay tôi định sẽ cùng Hạng vương giao chiến nữa, cứ vây riệt Hạng Vương giữa vòng vây, trong vài ngày hết lương, thế nào Hạng Vương cũng đầu hàng. Người dẫu mạnh đến đâu mà đói khát cũng phải yếu đuối.

Lý Tả Xa nói:

– Ý Nguyên soái cũng phải, song tôi chỉ sợ một điều, lúc hết lương, trong thế nguy, Hạng Vương lại ra sức mở vòng vây, tướng lĩnh bên ta có ai dám địch. Hiện nay dưới tay Hạng Vương còn có bọn Quý Bố, Chung Ly Muội, Chu Lan trung thành phò tá. Nay phải làm sao bọn đó cũng như quân sĩ bỏ rơi Hạng Vương thì mới có cơ hội bắt Hạng Vương được.

Hàn Tín nói:

– Mưu của Tiên sinh rất cao, song tìm cách làm cho quân tưóng bỏ rơi Hạng Vương không phải dễ. Ðiều này phải nhờ mưu Trương Tử Phòng mới được.

Liền sai Lục Giả đến mời Trương Lương.

Một lát sau, Trương Lương đến và cùng Hàn Tín tương kiến.

Hàn Tín nói:

– Luôn mấy ngày đánh với Hạng Vương, các tướng Hán không ai địch nổi. Lại thêm bọn Quý Bố, Chu Lan, Chung Ly Muội một lòng giúp đỡ. Nếu để Hạng Vương thoát ra được, trốn về Giang Ðông lo việc phục hưng thì chiến sự kéo dài biết bao giờ yên. Trước tình hình nan giải ấy, chúng tôi phải mời Tiên sinh đến để cho chúng tôi một lời chỉ giáo.

Trương Lương nói:

– Việc đó chẳng khó gì. Bây giờ cứ làm cho các tướng và quân Sở phân tán, rời bỏ Hạng vương. Hễ Hạng vương bị cô lập ta có thể bắt được dễ dàng.

Hàn Tín nói:

– Chúng tôi cũng nghĩ vậy, song chẳng biết kế nào để làm cho binh tướng Sở ly tán?

Trương Lương đứng dậy, kéo ghế đến gần Hàn Tín, nói nhỏ:

– Tôi thuở nhỏ qua chơi Hạ Bì, gặp một dị nhân thổi ống tiêu rất giỏi, âm điệu vừa du dương vừa tha thiết.

Nhân lúc giao bôi, tôi học được khúc tiêu ấy. Tiếng tiêu thổi lên có thể làm cho người ta động lòng nhớ quê. Người vui nghe nó càng vui Người buồn nghe nó thì mối buồn càng thắm thía. Nay đương độ thâm thu, hiu hắt gió vàng, cỏ cây trút lá, người xa cách quê hương nghe nó không khỏi động lòng. Tôi sẽ nhân lúc đêm tàn canh vắng vào núi Kê Minh thổi ống tiêu lên, binh tướng Hạng vương không thể nào còn nghĩ đến việc chiến chinh nữa.

Hàn Tín nói:

– Tiên sinh có tài như vậy tưởng không còn gì quý hóa hơn.

Trương Lương từ tạ Hàn Tín, trở về dinh. Ngày hôm sau, Hàn Tín đóng quân lại, không cùng quân Sở giao chiến nữa, bốn bề đặt nhiều chiến xa, tăng thêm giáp sĩ vây phòng rất cẩn mật.

Giữa lúc đó, Hạng vương thấy quân tình yên ổn cũng không ra trận.

Bọn Quý Bố, Hạng Bá vào dinh yết kiến, và tâu:

– Hiện nay quân hết lương, ngựa hết cỏ, người người đều thán oán. Nếu địch quân thừa dịp cho người lẻn vào trong quân buông lời dèm xiểm, tất lòng quân sinh biến. Vậy xin Ðại vương đốc thúc ba quân cùng chúng tôi, cố sức mở vòng vây lánh sang Tương Giang hoặc Giang Ðông, rồi hãy mưu tính kế lâu dài.

Hạng Vương nói:

– Quân sĩ hết lương là việc nguy khốn, ý kiến các ngươi rất phải, song chi sợ quân Hán thế mạnh, không thể giải vây được chăng?

Quý Bố nói:

– Tôi xem tám nghìn tử đệ, lâu nay theo phò Ðại vương, xông pha trăm trận, vẫn một lòng một dạ. Nếu nay vì nguy biến mà mở huyết lộ thoát thân, ai ai cũng hăng hái.

Hạng vương nói:

– Nếu các tướng quân và ba quân đã có lòng hy sinh với ta như thế thì chắc vòng vây quân Hán phải vỡ.

Liền truyền lệnh sáng hôm sau mở vòng vây thoát nạn.

Quân sĩ được lệnh, ai nấy đều hăng hái, lo sửa sang binh khí, lương thực gói theo mình, nhao nhao không ngủ.

Ðêm càng khuya, gió thu càng lạnh lẽo, trăng thu buồn bã nhả ánh sáng màu vàng nhạt, rắc trên ngọn cây cao.

Bỗng từ xa, một giọng tiêu buồn vang đến, kèm theo khúc bi ca nỉ non, réo rắt. Tiếng tiêu như gợi vào lòng người một mối buồn viễn chinh. Quân Sở mặt mày ngơ ngác nhìn nhau, hồi lâu xúm lại thì thầm:

– Bọn chúng ta tòng quân lâu ngày bỏ nhà, xa vợ con, theo Bá Vương những tưởng có ngày thanh bình đoàn tụ. Ngờ đâu, binh thế mỗi lúc một tiêu tan. Nếu ở mãi như vầy, không chết giữa trận tiền cũng chẳng có ngày nào hưởng được thú vui đầm ấm của gia đình.

Tiếng thì thầm chuyền đi mãi khắp dinh trại.

Trong lúc đó, giọng tiêu càng réo rắt, càng thê lương, như những tiếng chinh phụ đang mong chồng nỉ non trong canh dài cô quạnh.

Tiếng tiêu đó chính là tiếng tiêu của Trương Lương đã thổi trên núi Kê Minh, khiến cho kẻ có lòng sắt đá đến đâu cũng phải yếu mềm như cành liễu non trước cơn gió lốc.

Tiếng tiêu ấy kèm theo bản bi ca như sau:

Ðêm thu mù mặt trời sương

Có người thiếu phụ quê hương lạnh lùng

Sa trường vó ngựa

Trầy gót binh nhung

Con thơ nheo nhóc mịt mùng dặm xa,

Cơ hàn, đau đớn mẹ cha

Canh khuya vò võ tuổi già đợi con

Chí trai vạn dặm

Hồ thỉ bốn phương

Nhưng con đi đã lầm đường

Giúp người tàn bạo không thương dân tình

Mơ màng nửa giấc ba sinh

Một đi một nhớ một mình canh thâu

Ðêm ấy vừa tàn canh, quân Sở đứa khóc, đứa buồn mặt mày ủ rũ, ngồi đứng không an.

Chúng bàn nhau rằng:

– Chúng ta nên bỏ trốn khỏi cảnh này là hơn. Nếu quân Hán bắt được, chúng ta nên tỏ thật nỗi tình, xin về quê quán, chắc Hán Vương cũng không nỡ giết chúng ta.

Ba quân bàn tán nhau, rồi không nghe lệnh các tướng, cùng nhau bỏ trốn đi hết. Chỉ trong chốc lát, dinh Sở trống không.

Các tướng thất kinh, muốn vào tâu với Hạng Vương, nhưng thấy Hạng Vương đang cùng Ngu Cơ ngủ say trong trướng, không dám vào.

Các tướng bàn nhau:

– Tình thế nguy ngập lắm rồi, nếu quân Hán biết việc này, đổ dồn lại đánh thì chúng ta tất bị bắt. Chi bằng lộn vào đám quân, trốn ra khỏi vòng vây, sau này kiếm kế giúp cho Ðại Vương trả thù.

Chung Ly Muội nói:

– Lời các ông nói rất phải.

Rồi đó, các tướng thu góp hành trang bỏ ngựa lại, cùng với quân sĩ lẩn trốn.

Trong số đó có Hạng Bá nghĩ mình ngày trước ở Hồng Môn có cứu Trương Lương, sau lại cùng Hán Vương kết nghĩa thông gia, nay đến Trương Lương xin hàng, nếu không được phong Hầu cũng không đến nỗi tuyệt giòng họ Sở.

Nghĩ như vậy, Hạng Bá liền đeo gươm, ra khỏi dinh, tìm Trương Lương xin hàng.

Còn Chu Lan và Hoàn Sở bàn với nhau:

– Chúng ta chịu ơn tri ngộ của Bá vương, dù chết cũng không nên bỏ. Bọn kia đều là lũ tham sống sợ chết, lúc bình tranh nhau hưởng lộc, lúc biến rủ nhau bỏ đi.

Chúng ta bây giờ gom góp những tên quân còn lại, giữ vững lấy trung quân, đợi Ðại Vương thức dậy, liều chết, thoát nạn. Nếu không may, trời không giúp Sở, Ðại Vương ngộ nạn thì chúng ta cũng chết theo cho trọn đạo.

Hai người bàn xong, đi thu góp những tên quân còn sót lại ước tám trăm tên, cố thủ cửa trại.

Chẳng bao lâu, Hạng Vương thức dậy, nhìn quanh thấy dinh trại trống không, thất kinh chạy ra ngoài hỏi:

– Quân Hán đã chiếm được trại Sở rồi hay sao mà quân lính mất hết vậy?

Chu Lan và Hoàn Sở chạy đến, vừa khóc vừa nói:

– Quân ta bị Hàn Tín dùng kế thổi ống tiêu, làm cho lòng quân tan rã, cả đến các tướng cũng bỏ trốn, chỉ còn hai chúng tôi và tám trăm quân ở lại đây hầu hạ Ðại Vương. Xin Ðại Vương phải đánh gấp phá vòng vây, chậm trễ quân Hán kéo đến không thế thoát được.

Hạng vương nghe nói đôi dòng nước mắt chảy ràn rụa, bước vào trướng thuật lại đầu đuôi câu chuyện với Ngu Cơ.

Nàng Ngu Cơ cũng không cầm được giọt lệ, thở dài nói:

– Trời cố diệt chúng ta chăng?

Hồi 40 – Ngu Cơ liều thân nơi Cai Hạ

Hạng vương thấy Ngu Cơ khóc sướt mướt, cầm tay nói:

– Tướng sĩ nay đã trốn hết, quân Hán vây đánh rất ngặt. Ta định từ giã nàng, liều mình xông ra trận. Tuy nhiên, lòng lại không nỡ, vì hai ta sống với nhau đã bao năm, chưa từng rời nhau sớm tối, dẫu trong thiên binh vạn mã cũng vẫn có nhau. Nay một phút muốn vĩnh biệt với nàng, lòng ta thấy quyến luyến.

Ngu Cơ khóc nghẹn ngào, và nói:

– Thiếp đội ơn Ðại vương thương tưởng, nguyện khắc cốt ghi lòng. Nay chẳng may trên bước đường ly loạn, dẫu chết cũng khó rời nhau.

Bá vương lau nước mắt, truyền quân bày tiệc rượu ở trung quân để cùng với Ngu Cơ đối ẩm.

Hơi men không sưởi ấm được lòng người trong phút não nề, Hạng Vương buồn bã ngâm nấy câu thơ:

Tấm thân lấp biển, vá trời

Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang

Giờ đây mưa gió phũ phàng

Anh hùng mạt lộ giang san tiêu điều

Hạng vương ngâm thơ xong, mời Ngu Cơ uống mấy chén rượu.

Ngu Cơ cũng ngâm lên mấy câu thơ buồn như sau:

Cát đằng nương bóng cội cùng

Bấy lâu khăng khít thủy chung một lòng

Tơi bời vì ngọn gió Ðông

Cội tùng xiêu vẹo, cát đằng bơ vơ

Bá vương cùng Ngu Cơ uống rượu ngâm thơ mãi cho đến lúc tàn canh, bên ngoài trời rạng sáng.

Chu Lan và Hoàn Sở từ bên ngoài bước vào giục:

– Trời sắp sáng rồi, xin Ðại vương lo khởi hành.

Hạng vương đứng dậy, từ biệt Ngu Cơ nói:

– Thôi! Ðã đến lúc tôi phải đi, ngự thê ở lại bảo trọng lấy thân thể.

Ngu Cơ quỳ gối nói:

– Thiếp xin theo Ðại vương, để cùng nhau sinh tử.

Hạng vương nói:

– Trong chốn muôn quân nghìn tướng, phận liễu bồ làm sao chịu được cực nhọc. Trước kia binh tướng còn nhiều có người bảo vệ, nay ta đơn thương độc mã làm sao có thể mang nàng theo được.

Hạng vương rút thanh kiếm đeo bên mình, đưa cho Ngu Cơ. Ngu Cơ tiếp lấy, đứng dậy nói:

– Thiếp mang ơn Ðại vương không biết lấy gì đền đáp. Nay trong cơn nguy khốn, nếu thiếp đi theo Ðại vương không khỏi làm cho Ðại vương bận bịu, mang hại vào thân.

Nói xong, đâm lưỡi gươm vào cổ tự vận.

Hạng vương đau lòng, hét lên một tiếng, toàn thân run rẩy.

Chu Lan và Hoàn Sở bước lại đỡ Hạng vương và nói:

– Xin Ðại vương lấy giang san làm trọng, đừng quá bi lụy như thế.

Hạng vương nghiến răng, vung đao lên ngựa ra khỏi dinh, cùng tám trăm quân xông vào trận địch.

Quân Hán được tin, chạy về trung quân phi báo.

Hàn Tín liền thống xuất đại binh, hợp với các tướng kéo đến phủ vây.

Hạng vương một mình, cời ngựa Ô Truy, vung đao xông đến, gặp tướng đánh tướng, gặp quân chém quân, như vào chỗ không người. Ai nấy thấy vậy sợ hãi, không dám ngăn cản.

Hạng vương thoát ra được tám vòng vây, ngoảnh lại thấy Chu Lan và Hoàn Sở đã lạc đâu mất, sau lưng mình chỉ còn vài mươi quân kỵ.

Hạng vương vẫn không nản lòng, vừa giục ngựa xông tới, vừa đâm chém.

Hàn Tín cùng các tướng Hán thấy vậy bảo nhau:

– Hạng Vương có sức mạnh như thần, lại gặp lúc cùng quẫn, nếu chết khó ai địch nổi. Chi bằng vây hai tướng Chu Lan, Hoàn Sở để cho Hạng vương hoàn toàn cô lập

Các tướng liền bỏ Hạng vương xúm lại vây Chu Lan và Hoàn Sở.

Chu Lan và Hoàn Sở sức yếu làm sao địch lại, chống đỡ một lúc, biết không thể thoát được, ngửa mặt lên trời nói lớn:

– Ðại vương ôi! Chúng tôi đã kiệt sức rồi.

Nói xong, hai tướng rút gươm tự sát.

Giữa lúc đó, Hạng Vương thoát ra khỏi trận theo sau chỉ con hơn vài chục tên quân, nhắm hướng Ðông mà chạy.

Chạy được mấy dặm, đến vùng Sảm Lăng đường sá ngoằn ngoèo, không rõ phương hướng, chung quanh toàn là sông ngòi và bụi bờ mù mịt.

Chợt gặp một lão nông đang đứng bên đường, Hạng vương hỏi:

– Sang Giang Ðông đi về phía nào?

Lão nông trông thấy người áo mũ khác thường, đoán biết Bá vương, nghĩ thầm:

– Ông ta đóng đô nơi Bành Thành đã mấy năm, chẳng có ân đức gì với bá tánh, chỉ chuyên dùng vũ lực chém giết đánh đập, dân chúng phải chịu nhiều tai ương thảm họa, nay bị quân Hán đuổi, ta không nên chỉ đường làm gì.

Trong lúc lão nông đang ngẫm nghĩ, chưa kịp đáp, Hạng vương hỏi tiếp:

– Ông lão đừng sợ, ta đây là Bá vương. Vì lâm trận bị quân Hán đuổi rất gấp, muốn tìm sang Giang Ðông, nhưng không thuộc đường.

Lão nông giả vờ trỏ tay về phía tả, là con đường cùng, nói:

– Nên chạy ngả ấy.

Hạng vương theo lời, giục ngựa dong ruổi. Ði được vài dặm, đường bị nghẽn, con ngựa sa xuống một vũng lầy rất lớn. May nhờ con ngựa Ô truy phi mình nhảy thoát.

Vừa lúc đó lại gặp một cánh quân Hán kéo đến, cầm đầu là Dương Hỷ.

Hạng vương gọi Dương Hỷ nói:

– Ta sa xuống vũng lầy vừa thoát khỏi, người mỏi ngựa mệt không thể đánh nhau được nữa, nhà ngươi trước kia đã từng theo ta mấy năm, nay lại phò Hán làm gì, hãy theo ta về Giang Ðông để chiêu tập binh mã, mong việc phục hưng. Lúc đó ta sẽ phong cho nhà ngươi làm Vạn Hộ hầu, giàu sang sung sướng.

Dương Hỷ nói:

– Ðại vương bạc ác, nhiều kẻ cản ngăn, nhưng không chịu nghe. Nay cớ sự như vầy, dẫu tôi có theo Ðại vương đến Giang Ðông, Ðại vương cũng không làm gì nên chuyện. Chi bằng theo tôi về hàng Hán, chắc Ðại vương không mất ngôi công hầu.

Hạng vương nổi giận, vung đao đâm Dương Hỷ, Dương Hỷ đưa thương ra đỡ. Ðánh được hai mươi hiệp, Hạng vương rút cây roi đeo sau lưng vụt Dương Hỷ một cái Dương Hỷ né không kịp bị sa xuống ngựa.

Hạng vương toan vung đao chém đầu thì có hai tướng Hán là Dương Võ, Lã Mã Thông đến kịp, cản lại cứu Dương Hỷ.

Hạng vương lại cùng hai tướng giao tranh.

Ðàng sau, Anh Bố, Bành Việt, Chu Bột chia quân vây bọc, Hạng vương không dám ham đánh, quảy ngựa chạy về hướng Ðông, ngoảnh trông lại còn có mười tên tùy tốt.

Bọn tùy tốt nói:

– Ðại vương giao chiến suốt ngày, người đói, ngựa khát trời lại sắp tối, chi bằng tìm chỗ ẩn thân để dưỡng sức. Chúng tôi đoán chừng nơi đây cây cối rậm rạp, quân Hán chưa dám mạo hiểm vào đây xáp chiến.

Hạng vương theo lời, gò ngựa lại, trông xa trong khóm rừng thấy có ánh đèn thấp thoáng, liền dẫn quân đến đó.

Khi đến nơi, thấy đó không phải nhà ở của dân chúng mà là một cổ viện.

Hạng vương nói:

– Tuy không phải nhà thường dân song cũng tạm nghỉ được.

Bọn tùy tốt theo Hạng vương bước vào trong.

Bên trong có tiếng suối róc rách chảy. Hạng vương lần đến thấy một cái khe nước trong vắt.

Hạng vương bảo bọn tùy tốt dắt ngựa cho uống nước và mài thanh bảo kiếm của mình để chuẩn bị rạng ngày chiến đấu.

Bọn tùy tốt yếu sức, không mang nổi thanh kiếm, Hạng vương phải tự mình đến suối cầm thanh kiếm liếc vào một tảng đá lớn.

Chỗ ấy là viện Hưng Giáo cách Ô Giang mười lăm dặm. Hạng vương lần theo hành lang bước vào trong viện, không thấy một bóng người nào.

Lần ra phía sau thì thấy một vài ông lão đang ngồi quanh một lò sưởi.

Một tên lính hỏi:

– Sao trong viện hiu quạnh thế?

Một ông già đáp:

– Bản viện nguyên trước có vài người ở. Gần đây nghe Sở – Hán tranh hùng, sợ hãi trốn đi hết. Chúng tôi là người trong thôn ấp sợ viện bỏ vắng lỡ mất trộm chăng nên lén ra đây coi chừng. Chẳng hay đêm khuya các người ra đây có chuyện gì?

Tên lính nói:

– Nay có Tây Sở Bá vương bị quân Hán đuổi đến đây, bữa cơm tối chưa kịp dùng, định vào nghỉ tạm trong viện này một đêm, sáng mai sẽ đi sớm. Các ông có cơm thì đem dâng cho Bá Vương dùng.

Các ông lão nghe nói có Hạng Vương đến lật đật đứng dậy ra cửa phục xuống đất, mời Hạng vương vào nhà trong, nói:

– Chúng tôi là những kẻ nông phu ở thôn dã, không hiếu lễ xin Ðại vương tha thứ cho.

Hạng vương nói:

– Các ngươi ở đây có sẵn gạo không? Ði thổi cơm cho mọi người ăn một bữa. Nếu bình được giặc, ta chẳng quên ơn.

Một ông lão tâu:

– Tâu Ðại Vương, nơi đây thuộc đất Sở, Ðại Vương lâm nguy đến đây dùng chút lương gạo của chúng tôi có gì là ân huệ.

Nói xong, vào trong lấy ra một thạch gạo, đem nấu cho Hạng Vương và tùy tốt ăn.

Ăn xong, Hạng vương dựa lưng vào ghế đá nghỉ.

Chợt thấy một vầng mặt trời đỏ ối nổi lên mặt sông. Kế đó lại thấy Hán Vương cỡi mây năm sắc lờ lững đến nơi, ôm vầng mặt trời vào lòng, rồi lại cưỡi mây mà đi. Dưới chân hàng ngàn tia sáng tiếp nối không dứt. Hạng vương thấy Hán ôm vầng mặt trời bay lên, vội cởi áo nhảy ùm xuống nước, chực cướp lại, chẳng ngờ bị Hán vương co chân đạp vào mặt, Hạng vương ngã lăn xuống nước. Hán vương vẫn chậm rãi ôm mặt trời đi về hướng Tây.

Hạng vương giật mình thức giấc, thì ra đó là giấc mộng, lòng sợ hãi, thở dài nói:

– Ôi! Mệnh trời đã vậy, không thể cưỡng lại được.

Vừa dứt lời, một tên tùy tốt chạy vào cấp báo:

– Quân Hán đã kéo đến cửa rừng rồi, xin Ðại vương tìm đường thoát hiểm.

Hạng vương vội vã mặc áo giáp lên ngựa, dẫn mười tên tùy tốt lánh ra cửa rừng.

Trời tang tảng sáng, quân Hán chia làm hai cánh đánh bọc vào. Tướng đi đầu là Quán Anh xông đến chém.

Hạng vương hét lên một tiếng, con ngựa của Quán Anh sợ hãi thối lui mười bước.

Ðàng sau, Dương Võ, Lã Thắng, Sài Võ, Ngân Hấp đồng xông vào một lượt. Hạng Vương vung đao vun vút, đánh dẹp, cả quân Hán, không tướng nào dám đến gần.

Tuy nhiên, biết mình cô thế, Hạng Vương không ham đánh, bảo vệ bọn tùy tốt thoát vòng vây chạy trốn.

Chạy đặng mười dặm đến sông Ô Giang. Ðàng sau quân Hán đuổi theo, gươm giáo như rừng, tiếng reo hò dậy đất.

Hạng Vương đưa mắt nhìn một lúc, sực nhớ giấc mộng vừa rồi, thở dài nói với ba quân:

– Cơ trời đã muốn tuyệt Sở, dẫu chống lại cũng chẳng ích chi. Tuy nhiên với sức mạnh của ta, chờ đến lúc kiệt quệ, ta cũng còn có thể thắng địch quân mấy trận nữa. Vậy để ta chém tướng địch mở vòng vây cho các ngươi thoát nạn, hẹn đêm nay gặp nhau nơi chân núi Ðông Sơn.

Bọn tùy tốt vâng lệnh. Liền lúc đó quân Hán đã ồ ạt kéo đến vây phủ. Hạng Vương lui tới một mình chém luôn ba tướng Hán, và mấy trăm quân. Quân Hán sợ hãi phải lùi lại. Hạng Vương nói với bọn tùy tốt:

– Sao chúng bay không chạy ra ngoài thoát nạn?

Bọn tùy tốt đồng nói:

– Chúng tôi xin theo phò đại vương cho đến phút cuối cùng.

Lời nói ấy như an ủi lòng kẻ mạt lộ, Hạng Vương lại vung đao đánh liều với quân Hán.

Ngày hôm ấy, Hạng Vương đánh cả thảy chín trận, giết chín tướng Hán và chém chết một ngàn quân Hán, thoát ra khỏi vòng vây, cùng bọn tùy tốt chạy đến bờ phía Bắc Ô giang.

Quân Hán không dám đuổi theo gấp như trước nữa. Hạng vương gò ngựa đi thong thả, hỏi bọn tùy tốt:

– Ta đánh với quân Hán như thế nào?

Bọn tùy tốt tâu:

– Ðại vương sức địch muôn người, thật là bậc anh hùng cái thế.

Ðến bờ sông, Hạng Vương muốn qua đò, và người Ðình trưởng Ô giang cũng đã cắm thuyền đợi sẵn nơi đó.

Hạng vương hỏi:

– Sao ngươi biết ta đến đây đem thuyền đón?

Người đình trưởng thưa:

– Tôi nghe Ðại vương thất trận, cơ đồ chỉ còn một con thuyền này, vì vậy đem thuyền đợi rước. Giang Ðông tuy nhỏ, nhưng đất vuông nghìn dặm, có thể làm chỗ phục hưng. Ðại vương sang đó, chiêu tập hào kiệt, tích thảo đồn binh thì cái cơ lấy lại thiên hạ không khó. Xin Ðại vương kíp sang đò, đừng để lỡ dịp.

Hạng vương thở dài, lắc đầu nói:

– Ta từ lúc khởi binh đến nay bách chiến bách thắng, nay lâm nguy chạy trốn thực là nhục.

Ðình trưởng nói:

– Hay Ðại Vương sợ quân Hán đuổi theo, không thoát được? Ở đây chỉ có một con thuyền của tôi mà thôi.

Ðại Vương xuống thuyền tôi dong ra giữa vời, tức là coi như Ðại vương đã ngồi trên ngai vàng bệ ngọc, không sợ gì nữa.

Hạng Vương nói:

– Trời đã muốn cho ta tận diệt, ta còn sang sông làm gì. Dẫu trở về Giang Ðông, dân chúng còn yêu ta, để ta làm vua, ta cũng không còn mặt mũi nào trông thấy họ nữa.

Ðình trưởng thở dài, lặp bặp nói:

– Thành bại không luận anh hùng. Ðã có chí lớn chớ nên câu nệ việc nhỏ. Ðại vương đừng thẹn vì thất trận mà nên lo cho cái nhục mất nước. Xin Ðại vương sang sông kẻo muộn.

Hạng Vương nhìn người Ðình trưởng, lòng bùi ngùi cảm động nói:

– Ta đã không thể sống nhục thì dẫu có sống cũng chẳng làm được việc gì nữa. Nhà ngươi nên bằng lòng vậy.

Người Ðình trưởng cắm thuyền phàn nàn mãi.

Hạng Vương biết là kẻ có chí lớn, song tự thấy mình không đủ can đảm để sống nhục nên cầm tay người Ðình trưởng nói:

– Ta có con ngựa quí, dùng đã mấy năm trong việc chiến chinh. Một ngày đi nghìn dặm, nó là một con thần mã rất khôn ngoan. Nay sợ quân Hán bắt được, mà giết đi thì không nỡ. Nhà ngươi nên đưa nó sang sông, đem về nuôi dưỡng. Sau này thấy nó cũng như thấy ta.

Dứt lời, sai tên tùy tốt dắt ngựa xuống thuyền.

Ngựa hí lên mấy tiếng, đưa mắt nhìn Hạng Vương, ra vẻ quyến luyến không nở rời, Hạng Vương lòng đau như cắt.

Vừa bước xuống thuyền người Ðình trưởng sắp buông chèo thì ngựa chúm bốn vó nhảy ùm xuống nước mất dạng.

Ai nấy kinh hồn, nhìn làn sóng của tràng giang như muốn ghi vào đáy những dòng lịch sử bất diệt.

Ðàng sau quân Hán reo hò kéo đến. Thuyền xuôi mái ra giữa dòng, Hạng Vương chống gươm đứng nơi mé bờ, đưa mắt nhìn địch quân hùng hổ bao vây.

Bọn tùy tốt nói:

– Ðại vương đã không chịu qua sông, bây giờ phải làm cách nào để đối địch?

Hạng Vương không đáp, vung kiếm nhảy tới chém chết một lúc mấy trăm quân Hán.

Chợt thấy trong đám Hán tướng có Ðại tướng Lã Mã Thông vừa đến, Hạng vương gọi lớn:

– Nhà ngươi có phải là cố nhân của ta chăng?

Lã Mã Thông đáp:

– Phải, tôi cùng Ðại vương khởi binh ở Cối Kê, nay vắng cách đã lâu; lẽ ra tôi phò Ðại vương, nhưng vì Ðại vương lấy uy lực áp đảo sanh linh, lấy bạo lực trị thiên hạ, chính sách đó không thuận lòng trời, hợp lòng người. Hán vương tuy không có uy vũ, song đạo đức tràn đầy, ai ai cũng mến. Trời dành thiên hạ cho kẻ có đức chứ không phải cho kẻ có uy vũ, do đó Ðại vương thất bại là phải. Tôi phò Hán không phải bội phản Ðại vương mà theo nguyện vọng của tôi.

Hạng vương nói:

– Ngày nay lòng ngươi đối với ta như thế nào?

Lã Mã Thông nói:

– Tôi vẫn khâm phục cái tài kinh thiên vĩ địa của Ðại Vương. Nếu trời không giúp Hán, thì không thể nào Ðại Vương mất nước được. Tôi tuy theo bước đường lý tưởng, chuộng đạo đức, diệt bạo tàn, song vẫn xem Ðại Vương là cố nhân.

Hạng vương nói:

– Lòng ngươi còn nhớ nghĩa xưa, ta không lấy gì đến đáp. Nghe rằng Hán Vương treo giải trong quân, ai lấy được đầu ta phong làm vạn hộ. Vậy ta cho ngươi chiếc đầu của ta đem về lập công.

Nói xong, rút gươm đâm cổ tự vận.

Bọn Dương Hỷ, Dương Vó, Vương Ê, Lã Thông đều xông đến cắt đầu Hạng vương đem về dâng cho Hán vương.

Hạng vương sanh năm Tần Thủy Hoàng thứ mười lăm, đến năm Hán Cao Tổ thứ năm thì tự vận ở Ô Giang thọ ba mươi mốt tuổi.

Người sau có thơ rằng:

Sức mạnh kinh thiên vạn cổ truyền

Vẫy vùng yên mã đoạt giang biên

Hạ thành ai luận anh hùng sự

Mãnh hổ sa cơ cũng phải hèn

Lã Mã Thông cùng năm tướng xách đầu Hạng vương về dinh nạp cho Hán vương.

Hán vương trông thấy khóc òa, nói:

– Tôi cùng nhà vua kết làm anh em, sau vì tranh thiên hạ mà trở nên hiềm khích. Song nhà vua tuy bắt Thái Công, Lã hậu mà vẫn nuôi dưỡng tử tế, không hề xúc phạm, đó là hành động của bậc trượng phu, tôi không bằng được. Không ngờ nay nhà vua chết đi như vậy, tôi tiếc thương biết chừng nào.

Các tướng thấy lòng nhân đạo của Hán vương đều cảm phục.

Hạng vương đã chết, đất Sở đã định, Hán vương phong cho Lã Mã Thông làm Trung Thủy hầu, Vương Ê làm Ðỗ Diễn hầu, Dương Hỷ làm Xích Toàn hầu, Dương Võ làm Ngô Phòng hầu, Lã Thắng làm Niết Dương hầu.

Sai lập miếu thờ Hạng Vương ở bến Ô Giang, bốn mùa tế lễ.

Nhắc lại, Hạng Bá bỏ Sở sang đầu Trương Lương, Trương Lương vì thấy đang lúc binh nhung bận rộn, không dám tâu với Hán vương, nay Sở đã diệt, liền dẫn Hạng Bá vào yết kiến, và tâu:

– Hạng Bá trong khi quân Sở tan rã, có đến xin đầu ở dinh hạ thần. Hạ thần trộm nghĩ Hạng Bá vốn có tình cũ, lại là người có công ở Hồng Môn năm xưa nên lưu lại trong dinh, chờ Ðại vương xét định.

Hán vương nói:

– Hạng công đã từng giúp ta nhiều việc lớn. Ta đang định sai người đi tìm, chẳng ngờ Hạng công đến đây thật là may mắn.

Liền phong cho Hạng Bá làm Ðịch Vương Hầu, cải là họ Lưu.

Hạng Bá mừng rỡ tạ ơn.

Bấy giờ các nơi đã dẹp yên, duy còn nước Lỗ ở Sơn Ðông chưa bình được.

Hán vương nói:

– Lỗ là nước nhỏ, chẳng đáng kể, lúc nào kéo quân đến là lấy được ngay. Nay hãy bàn việc đóng đô đã.

Trương Lương tâu:

– Ðại vương không nên rút quân về vội. Nước Lỗ tuy nhỏ, nhưng có ẩn một mối hậu hoạn. Nếu không để ý e sau này hối không kịp.

Hán vượng ngạc nhiên hỏi:

– Một nước nhỏ như vậy, có gì tai hại về sau?

Trương Lương đến gần Hán vương tâu nhỏ:

– Lỗ là một nước trị dân bằng lễ nghĩa, dân chúng được thuận hòa. Năm xưa, Sở Hoài vương phong cho Hạng vương làm Lỗ công, mà nước Lỗ lại là đất cũ của Hạng vương, dân chúng nước ấy có thể vì Hạng vương khởi binh báo thù. Các tay hào kiệt ở Ðông Ngô cũng nhiều, nếu họ kéo đến Kinh Sở, chiếm lấy Hồ Tương, ta không dễ gì dẹp đặng.

Hán vương thất kinh, nói:

– Nếu không có tiên sinh ta đã lầm việc lớn.

Hồi 41 – Nghi Hàn Tín, Hán Vương cải phong

Hán vương nghe lời trình bày của Trương Lương về quan hệ nước Lỗ, liền kiểm điểm binh mã kéo đến thành Lỗ để chinh phục.

Khi đại binh kéo đến nơi, thấy cửa thành nước Lỗ đóng chặt, cờ xí uy nghi.

Quân Hán đánh phá bốn mặt, muôn mấy ngày mà không thấy trong thành động tĩnh gì cả, chỉ nghe những tiếng đàn ca réo rắt vang ra.

Hán vương nổi giận, muốn dùng hỏa pháo bắn vào, Trương Lương can:

– Không nên! Lỗ là nước của ông Chu công ngày xưa, một nước lễ nghĩa. Nay cứ xem như Ðại vương đem quân đến dưới thành, mà trong thành vẫn tưng bừng tiếng đàn sáo, đủ biết cái nước không thể dùng sức mạnh để chinh phục. Xin Ðại vương đem đầu của Hạng vương bá cáo cho người Lỗ biết, rồi hiểu dụ cho họ thấy đại nghĩa, tự nhiên họ phải quì phục.

Hán vương theo lời, lấy đầu Hạng vương treo dưới thành. Các bậc bô lão trong thành trông thấy đều khóc òa.

Hán vương sai người hiểu dụ rằng:

Hạng vương giết Nghĩa Ðế làm nhiều hành đông bạo ác gây nhiều tang tóc trong dân chúng. người xưa có nói: “Chỉ có đạo đức, lễ nghĩa mới đem lại một xã hội thái bình, thịnh trị. Chỉ có lòng nhân mới đem lại cho dân chúng cảnh sống lạc nghiệp, an cư. Hán vương không có ác cảm với Hạng vương, chỉ vì tôn trọng lòng nhân, diệt tàn bạo mà Hạng vương phải chết. Nay nước Lỗ bế thành trái mạng, không biết theo đạo nghĩa thì sao gọi là một nước của thánh nhân được“.

Các bô lão nghe lời hiểu dụ, cùng với bọn nho sĩ, mở cửa thành ra đầu hàng.

Hán vương dẫn đại binh vào thành, vỗ an bá tánh, rồi đem đầu và mình của Hạng vương ráp lại, dùng hiệu Lỗ Công táng ở phía Ðông Cốc Thành mười lăm dặm.

Các lộ chư hầu đều dẫn quân đến chúc mừng.

Ngày hôm sau, Hán vương truyền cho chư hầu ai nấy đem quân bản bộ trở về nước, còn các văn võ tướng sĩ đều trở về Lạc Dương, chờ cuộc luận công hành thưởng.

Hán vương nhân nghĩ Hàn Tín đóng quân ở đất Tề, cai quản hơn bảy mươi thành, nước lớn, quyền to như vậy e sanh ra hậu hoạn Lại thấy nước Lỗ ở riêng một góc Kinh Nam, dẫu có muốn khởi binh một vài vạn, cũng chẳng dễ gì chiêu tập được, liền gọi Hàn Tín vào phủ dụ:

– Từ khi được tướng quân, tướng quân lập nhiều công lớn, lòng ta chẳng lúc nào quên. Tuy nhiên, ta lại e tướng quân quyền cao, tước trọng, kẻ tiểu nhân ghen ghét, không giữ nổi địa vị, làm cho lòng ưu ái của ta không xứng đáng đền bù. Nay nước Lỗ riêng một góc trời, dàn cư an lạc, ta muốn tướng quân giao ấn Nguyên Nhung, rồi thiên sang trấn thủ nước Lỗ, dựng nghiệp muôn đời. Như thế sự đền ân của ta mới xứng.

Hàn Tín nghe Hán vương nói, không biết làm sao, bèn đem ấn soái trả lại cho Hán vương, sai các tướng lớn nhỏ về bản dinh để chờ Hán vương định đoạt.

Ðoạn, Hàn Tín vào bái yết Hán vương, tâu:

– Nước Tề đội ơn Ðại vương đã phong cho đã lâu, nay nhất đán cải phong, e lòng dân hoang mang chăng?

Hán vương phàn nàn:

– Tướng quân nghĩ như thế là lầm. Xưa Sở, Hán giao binh, lòng người chưa định, đất Tề là cái đất phản phúc, nên sai tướng quân trấn thủ. Ngày nay bốn biển thái hòa, dân Tề đâu còn phải lo lắng nữa. Vả lại, tướng quân là người Hoài Âm, phong tướng quân làm Lỗ vương tức là nơi đất tổ quê nhà, lẽ ấy rất hợp.

Hàn Tín liền đem ấn Tề vương giao trả, đổi lấy ấn Lỗ vương, thiên sang đất Lỗ.

Ðến nơi, Hàn Tín sai người đến Hoài Âm tìm người Phiếu mẫu và gã bán thịt khoảnh ác đã làm nhục mình thuở xưa.

Hai người đến nơi, vào lạy yết kiến. Hàn Tín nhắc lại thuở hàn vi, nhờ cơm Phiếu mẫu, và đền ơn cho Phiếu mẫu một nghìn lạng vàng. Phiếu mẫu lạy tạ trở về.

Còn tên hàng thịt. Hàn Tín phong cho làm chức Trung úy..

Gã hàng thịt nói:

– Năm trước tôi dốt nát, không biết bậc đại quí, nên đa xúc phạm đến Ðại vương. Nay mong ơn Ðại vương không giết, có đâu dám nhận chức phong?

Hàn Tín nói:

– Ta không phải như những kẻ nhỏ nhen, báo thù một cách nhỏ mọn. Ngươi nhận chức, chớ nói nhiều.

Gã hàng thịt lạy tạ lui ra. Những người biết chuyện luồn trôn của Hàn Tín thuở xưa, nay lại thấy Hàn Tín đối xử với gã hàng thịt như vậy đều lấy làm lạ.

Hàn Tín nói:

– Hắn là một ân nhân của ta chứ đâu phải kẻ thù. Nếu ta không bị hắn làm nhục thì đâu có được ngày nay.

Ta phong chức cho hắn là để đền ơn đó.

Tả hữu nói:

– Lòng khoan dung của Ðại vương thật ít ai sánh kịp.

Tháng giêng năm thứ sáu nhà Ðại Hán, Triệu vương Trương Nhĩ, Lỗ vương Hàn Tín, thần xuất các quan vào xin tôn Hán vương lên ngôi Hoàng đế.

Hán vương nói:

– Ta nghe Hoàng đế phải là bậc người hiền đức, ta đâu dám dự vào ngôi ấy.

Quần thần đều nói:

– Ðại vương dùng nhân đạo dấy binh, khu trừ bạo nghịch, bình định bốn bể, kẻ có công đều được phong chức chư hầu. Nếu Ðại vương không lên ngôi Hoàng đế thì sao tỏ được cái đạo tin của thiên hạ.

Hán vương đôi ba phen từ chối, sau đó các chư hầu cố nài ép, Hán vương mới nghe theo và nói:

– Các ngươi xét thấy ta có đủ lòng nhân, cố suy tôn như vậy, ta đâu nỡ chối từ.

Bèn chọn ngày Giáp Ngọ trong tháng hai, làm lễ tế trời đất, rồi lên ngôi Hoàng đế ở phía Nam Dĩ Thủy. Văn võ bá quan đều làm lễ chúc mừng.

Hán vương đổi hiệu là Hán đế, và ban chiếu trong thiên hạ rằng:

Trẫm nghĩ: nhà Châu dứt mối, họ Tần dấy lên, sáu nước kiêm tính, bôn bể tang thương. Ðến đời Tam Thế thiên hạ càng loạn lạc. Trẫm vốn là người dân đất Bái dấy binh khởi nghĩa cốt trừ bạo ngược, cứu giúp muôn dân. Tần diệt, Sở hưng mà Sở lại dẫm trên vết xe củ của Tần muôn dân chưa thoài khỏi lầm than khốn đốn. Nay trẫm được muôn dân chung sức, tướng sĩ hết lòng, dựng nên nghiệp cả, thu thiên hạ về một mối, đem lại thái bình an lạc. Thiết nghĩ: Mình đức bạc tài hèn, không dám tự tôn, nhưng chư hầu một mực nài ép. Chẳng lẽ phụ lòng trăm họ, không kể lời khuyên chư hầu, vì thế mà trẫm phải nghe theo. Nay với ước vọng chung trẫm xưng hiệu Hoàng đế, đánh hiệu của thiên hạ là Ðại Hán, truy tôn khảo tỷ bốn đời làm Thái thượng Hoàng đế, dựng nền xã tắc ở Lạc Dương, phong Lã Hậu làm Hoàng hậu, con trưởng là Lưu Doanh làm Ðông cung Thái tử.

Tất cả những hình phạt cũ của Tần, Sở đều bãi bỏ.

Nay bố cáo cho thiên hạ biết“.

Mùa hạ tháng năm, Hán đế đặt tiệc ở cung Nam thành Lạc Dương thết đãi quần thần.

Rượu được mấy tuần, Hán đế hỏi:

– Trẫm muốn hỏi câu này, liệt hầu và các tướng ai biết cứ trả lời.

Quần thần đều để ý lắng nghe.

– Trẫm sở dĩ có thiên hạ là vì sao? Họ Hạng mất thiên hạ là vì sao?

Cao Khởi, Vương Lăng thưa:

– Bệ hạ chuộng nghĩa thi nhân, được thiên hạ cảm mến, còn Hạng Vũ tuy có sức mạnh tuyệt năng, song thiếu đạo đức. Do đó trời đã dành sẵn sự thành bại này.

Hán đế nói:

– Các khanh chỉ thấy được một phần, chưa thấy được toàn diện. Ðành rằng nhân đạo là gốc, song việc lãnh đạo còn phải ở những yếu tố cần thiết mới thành công được Như vận trù ở trung quân, quyết thắng ra ngoài nghìn dặm, ta không bằng Tử Phòng. Trấn giữ quốc gia, vỗ về trăm họ, vận tải lương thực cho chu toàn, ta không bằng Tiêu Hà. Cầm quân trăm vạn, đánh đâu được đấy, phá đâu lấy đấy, ta không bằng Hàn Tín. Ba người ấy đều là bậc nhân kiệt, mà ta biết dùng, vì thế nên lấy được thiên hạ. Còn Hạng Vũ có một mình Phạm Tăng mà không biết dùng, cho nên bị chết về tay ta.

Quần thần nghe Hán đế nói đều bái phục.

Vua tôi lại bắt đầu chén, vui vầy, Hàn Tín lợi dụng lúc Hán đế vui vẻ, tâu:

– Hạ thần ngày trước bỏ Sở vào Bao Trung, giữa đường có gặp một tiều phu chỉ nẻo. Hạ thần sợ quân Sở đuổi theo nên phải giết lão đi, để lão khỏi chỉ cho kẻ khác.

Sau đến núi Cổ Vân, hạ thần lại gặp một kẻ nghĩa dũng là Tân Kỳ, cùng theo hạ thần đi đánh Sở. Tân Kỳ lập nhiều công trận, rủi bị chết nơi Quảng Võ. Nay, hai kẻ ấy chưa được hưởng ân huệ gì.

Hán đế nói:

– Nếu khanh không bảo tấu, trẫm đã phụ ơn kẻ đã có công rồi.

Liền khiến lập đền thờ, thờ tiều lão, bốn mùa cũng tế, lại phong cho con cháu Tân Kỳ được thế ấm.

Trương Lương nghĩ đến quê hương của mình, vội tâu với Hán đế lập con cháu vua Hàn cũ là Cơ Tín làm Hàn vương, đóng đô ở Dịch Dương, lập lại tôn miếu nước Hàn.

Hán đế nhậm lời. Vương Lăng lại tâu xin lập đền thờ cho mẹ mình.

Hán đế nói:

– Lăng mẫu là bậc đại liền, trẫm làm sao quên được Liền sai lập đền, hàng tháng cấp người đến tế lễ.

(Ðến nay dấu tích đền thờ Lăng mẫu vẫn còn).

Ðoạn Hán đế phong Ngô Nhuế làm Trường Sa vương, đóng đô ở Lâm Tương, còn Hoài Nam vương Anh Bố, Lương vương Bành Việt, Yên vương Trang Tà đều giữ nguyên chức cũ.

Các người họ Lưu cùng gia phong một loạt. Còn các công thần đều phong tước hầu.

Tuy nhiên, những kẻ chưa được thụ phong lao nhao thì thầm chưa biết số phận mình ra sao.

Hán đế trông thế ngạc nhiên, hỏi Trương Lương.

Trương Lương nói:

– Bệ hạ dùng các tướng thu thiên hạ. Nay phong thưởng chỉ nhắm vào người thân, mà không chú trọng đến kẻ sơ, do đó, họ lấy làm bất mãn.

Hán đế nói:

– Sự phong chức phải thủng thỉnh, tùy công xét định, biết làm thế nào?

Trương vương nói:

– Muốn làm an lòng mọi người Bệ hạ nên tìm một người mà hàng ngày Bệ hạ ghét nhất phong chức trước đi để trấn an các tướng.

Hán đế nói:

– Người ta ghét nhất ai cũng biết, là Ung Sĩ.

Nói xong, liền xuống chiếu, phong Ung Sĩ chức Thập Vạn hầu.

Quân thần hân hoan bàn nhau:

– Ung Sĩ mà còn được phong hầu thì bọn mình lo gì Bệ hạ bỏ rơi.

Bấy giờ quần thần mới an định.

Trương Lương lại tâu:

– Hiện nay công việc cần kíp là Ðiền Hoành trốn ở ngoài hải đảo, nếu không khu trừ e sau này mang họa.

Hán đế hỏi:

– Theo ý Tiên sinh bây giờ nên dùng kế gì?

Trương Lương tâu:

– Ðiền Hoành là một kẻ nghĩa sĩ, từ nước Tề trốn ra ngoài để trốn để xem thế mạnh yếu, đủ biết cái chí của hắn không nhỏ. Bệ hạ nếu sai quân đi đánh, bể khơi sóng cả không chắc đã thắng được họ. Cứ như ngu ý của hạ thần nên đem chiếu đến trần thuyết mọi lẽ tha tội cho hắn và triệu về, hứa sẽ lập con cháu nước Tề. Như vậy Ðiền Hoành sẽ mến đức phục tùng.

Hán đế theo lời, sai Trọng Ðại phu Lục Giả đem chiếu sang hải đảo.

Ðiền Hoành hay tin có sứ Hán đến, sai người ngăn cửa trại, không cho sứ Hán vào.

Lục Giả nói:

– Hán đế bình định xong Tây Sở, thiên hạ đều theo về một mối, duy còn có chủ ngươi chưa chịu qui hàng. Lẽ ra đem binh vấn tội, nhưng Hán đế là bậc nhân đức, sai ta đem chiếu đến vời về triều, bày tỏ lẽ thiệt hơn. Chủ ngươi làm như thế là trái đạo.

Quân vào báo. Ðiền Hoành suy nghĩ một lúc rồi ra mở cửa rước Lục Giả vào, mở chiếu ra đọc.

Chiếu rằng:

Xưa, Di Tề không thèm ăn thóc nhà Châu, mà nhà Châu vẫn được thiên hạ ; Giới Tử Thôi không muốn thờ Tấn, mà Tấn vẫn làm bá một nước. Ðiền Hoành dẫu ở hải đảo nhưng rồi tất cũng phải làm tôi nhà Hán, không lẽ vượt ra khỏi cõi nhân gian được. Vậy nên kíp trở về, lớn thì làm vương, nhỏ thì làm hầu, giử lấy sự nghiệp dài lâu, không đến nổi mất tôn tự. Nếu không biết trọng lẽ phải, không biết nghe lời hay, một khi trẫm đã kéo binh sang Ðông thì không thể hối hận được nữa. Ngươi nên chóng chóng trở về chớ lầm“.

Ðiền Hoành đọc chiếu xong, liền khoản đãi Lục Giả, rồi cùng với tả, hữu bàn việc hàng Hán.

Tả, hữu nói:

– Việc đó không nên, Hán đế tuy bề ngoại rộng rãi, nhưng bên trong rất hẹp hòi. Chúa công lâu nay trốn ở hải đảo, không hàng phục, nếu trở về Hán đế nổi giận e mạng chàng còn, hối không kịp nữa. Chi bằng làm thêm tên lửa, cất trại ven bờ, chúng tôi một lòng chống giữ, dẫu quân Hán trăm vạn kéo sang đây, sóng to gió cả, chắc gì đã làm nên việc.

Ðiền Hoành nói:

– Tôi cùng các ông đem nhau ra ở đây, đối với các ông tôi chưa có ân đức gì. Nay Hán đế vời tôi mà tôi không về, tất Hán đế sẽ đem quân đến đây, bấy giờ tôi phải phiền các ông xông pha tên đạn, mang nhiều khổ hận, lòng tôi không nỡ.

Nói xong, đem hai người mạc khách, theo Lục Giả về thành Lạc Dương.

Ði được ba mươi dặm, Ðiền Hoành lại nghĩ thầm:

– Hán đế trước kia giết Tề vương nên ta phải bỏ ra hải đảo, dò xem tình thế để mưu phục hận. Nay Hán đế thu cả thiên hạ, sức ta không chống nổi, nếu cố thủ chỉ làm khổ cho các nghĩa sĩ, còn về hàng thì còn mặt mũi nào nhìn dân chúng nước Tề?

Nghĩ rồi rút gươm đâm vào cổ chết.

Hai người mạc khách cùng Lục Giả nhặt thi thể của Ðiền Hoành đem về trình với Hán đế.

Hán đế ngậm ngùi thương tiếc sai đem mai táng phía Ðông thành Lạc Dương và phong cho hai mạc khách làm chức Ðô Uý.

Hai người khách ra ngoài bảo nhau:

– Ðiền Hoành tự sát, một là không muốn thờ nhà Hán, hai là sợ năm trăm nghĩa sĩ lâm nạn, thật là hành vi của bậc trượng phu. Nay hai ta há tham phú quý mà sống nhục hay sao.

Bèn ra đào một cái hố bên mộ Ðiền Hoành rồi cùng đâm cổ chết theo.

Ngày hôm sau, Hán đế hay tin, giật mình nói:

– Ðiền Hoành tự sát là bậc hào kiệt, hai tướng chết theo lại cũng là anh hùng. Ðiền Hoành được lòng người như thế, e rằng năm trăm người ở ngoài hải đảo, hàng ngày chịu ơn của Ðiền Hoành, hay tin Ðiền Hoành chết, họ nổi loạn chăng.

Liền sai người ra hải đảo chiêu dụ bọn nghĩa sĩ về hàng.

Năm trăm người nghĩa sĩ, nghe tin Ðiền Hoành chết, khóc lóc nói:

– Chúa công vì sợ bọn ta mắc nạn, nên sang nhà Hán mà chết, nay chúng ta còn mặt nào ham sống nữa.

Liền cùng nhau tự tử cả. Sứ Hán thấy mọi người vì nghĩa, chết như vậy, vội về tâu với Hán đế.

Hán đế kinh ngạc nói:

– Thiên hạ sao lại có những kẻ trọng nghĩa như vậy thật đáng kính.

Bèn sai người thu thập tất cả năm trăm thi thể của các nghĩa sĩ chôn cất ở hải đảo. Người sau mộ cái nghĩa khí của Ðiền Hoành, đặt tên đảo ấy là đảo Ðiền Hoành.

Hán đế lại sai lập miếu phụng thờ.

Xong việc Ðiền Hoành, Hán đế lại nói:

– Cái lo hải đảo đã xong, nay còn hai tướng Quý Bố và Chung Ly Muội chẳng biết trốn thoát nơi đâu Xưa, ta thua ở sông Trung, bị hai tướng ấy làm nhục. Nay tuyên bố cho xa gần đều biết, hễ ai tìm được chúng sẽ trọng thưởng nghìn vàng, còn nếu ai che giấu sẽ bị tội liên can.

Nhắc lại Quý Bố, từ lúc lẩn trốn trong quân Sở, chạy ra khỏi vòng vây đến trú nơi nhà Chu Trường tại thành Lạc Dương.

Chu Trường nhân nghe tin vua Hán tìm bắt, bèn bảo Quý Bố:

– Vua Hán mật bắt tướng quân gấp lắm, nếu biết trốn ở nhà tôi, chẳng những một nhà, một họ tôi bị lụy mà tướng quân cũng không khỏi chết. Vậy tướng quân nên nghĩ cách nào cho tiện.

Quý Bố nói:

– Ông không lo. Tôi sẽ có cách.

Hôm sau, Quý Bố cạo hết râu tóc, giả làm người ở thuê, tự bán mình cho người nước Lỗ là Chu Gia.

Chu Gia thấy Quý Bố cử chỉ khác thường lòng nghi hoặc, dò xét biết được Quý Bố, liền gọi vào nói:

– Nhà ngươi chính là tướng nước Sở tên là Quý Bố. Nay vua ban chiếu tìm bắt, nhà ngươi trốn nơi đây e lụy đến tộc họ ta thì làm thế nào?

Quý Bố nói:

– Tôi chính là Quý Bố, tướng Sở, vì bước đường cùng phải giả danh, cải dạng. Lâu nay ông đãi tôi rất hậu, không biết lấy gì đền ơn. Vậy ông đem nạp tôi cho vua Hán để lãnh ngàn vàng. Ðó là cách tôi đền ơn ông vậy.

Chu Gia thở dài nói:

– Ta đâu nỡ đem cái chết của ngươi đổi lấy nghìn vàng. Ta có một người bạn là Hạ Hầu Anh hiện làm quan to ở Lạc Dương, từ nhỏ đến giờ chơi nhau rất thân. Nay ta đem ngươi đến đó xem có cách gì cứu mạng chăng?

Quý Bố tạ ơn nói:

– Nếu ông cứu được tôi thật là ơn tái tạo. Dầu chết chẳng dám quên.

Chu Gia sắm sửa hành lý lên đường, và nói:

– Ðể ta đến có trước có sao rồi sẽ liệu.

Nói rồi một mình tìm đến Lạc Dương, vào thành yết kiến Hạ Hầu Anh.

Hạ Hầu Anh mừng gặp cố nhân, chuyện trò rối rít và đặt tiệc khoản đãi.

Chu Gia hỏi:

– Quý Bố có tội gì mà nhà vua ra lệnh bắt gấp thế?

Hạ Hầu Anh đáp:

– Vì Quý Bố trước kia nhiều lần làm nhục Hoàng thượng, nên nay Hoàng thượng muốn bắt về trị tội.

Chu Gia nói:

– Kẻ làm tôi ai vì chúa nấy! Thánh thượng mới thu được thiên hạ mà sai lùng bắt một người vì mối thù riêng, sao đủ tỏ đại ân của mình. Vả lai, Quý Bố là tay hào kiệt, nếu tìm bắt như vậy phỏng hắn sang Hồ, hoặc sang Việt giúp cho địch quốc thì sao? Ông nên tâu với thánh thượng tha tội cho Quý Bố để rộng lối cầu hiền.

Hạ Hầu Anh cho lời nói ấy là phải, liền vào triều tâu với Hán đế:

– Quý Bố vô tội, sao Bệ hạ tìm bắt gấp thế?

Hán đế nói:

– Hắn đã nhiều lần làm nhục ta giữa trận, sao lại là vô tội ?

Hạ Hầu Anh nói:

– Quý Bố trước kia vì chủ mình, chỉ biết có Sở mà không biết Bệ hạ. Vậy Quý Bố là người tận trung. Nếu cho đó là tội thì ai còn dám trung với vua. Muốn trong triều những kẻ tận trung như Quý Bố theo phò Bệ hạ thì nên tha tội Quý Bố, mà đòi về dùng mới phải.

Hán đế nói:

– Thế thì Quý Bố và Chung Ly Muội đều là những kẻ vô tội cả

Liền ban chiếu tha tội Quý Bố và Chung Ly Muội cho về triều kiến, và cho giữ nguyên chức cũ. Nếu còn trốn tránh sẽ bị toàn gia tru lục.

Hạ Hầu Anh trở về thuật chuyện với Chu Gia.

Chu Gia mừng rỡ, từ giã Hạ Hầu Anh, trở về nước Lỗ, thuật lại cho Quý Bố hay.

Quý Bố hân hoan, sắm sửa hành trang trở về Lạc Dương vào bệ kiến Hán đế.

Hán đế nói:

– Nhà ngươi bốn bể bơ vơ, tấm thân lận đận, sao không sớm trở về chầu?

Quý Bố tâu:

– Nước tan, vua mất, hạ thần xấu hổ vì không cùng Bá Vương chết nơi Ô giang, nên không dám vào chầu.

Hán đế nói:

– Sao trước kia nhà ngươi lại làm nhục ta?

Quý Bố nói:

– Vì hạ thần hết lòng với vua Sở, chỉ sợ không làm nhục được Bê hạ mà thôi.

Hán đế nói:

– Nhà ngươi quả là tôi trung.

Bèn phong chức Lang Trung.

Quý Bố dập đầu tâu:

– Thần là bề tôi của nước đã mất, đầu nhơ, mặt nhuốm không kham gánh nổi công việc. Cúi xin Bệ hạ tha cho hạ thần tội chết đã là may làm rồi, đâu còn dám chịu quan chức.

Hán đế nói:

– Từ chức quan mà không chịu nhận đó là ngươi không quên ơn Sở. Nhưng trẫm thượng là tôi trung mà phong chức là lòng nến của trẫm. Nhà ngươi đã chịu tùng phục sao lại không chịu nhận?

Quý Bố bèn nhận chức rồi lạy tạ lui ra. Tả, hữu bước vào tâu:

– Quý Bố đã về triều, còn Chung Ly Muội vẫn trốn tránh, xin Bệ hạ phán xét.

Hán đế nói:

– Chung Ly Muội là một tên danh tướng nước Sở, tài trí không kém Phạm Tăng, nếu để hắn trốn sẽ thành một mối họa lớn. Cần phải mật bắt cho kỳ được..

Tả, hữu đều tuyên bố khắp xa gần, tìm bắt Chung Ly Muội.

Chợt lúc đó có một người mình mặc áo vải, chân đi dép cỏ, lấn quẩn trong thành Lạc Dương gặp bọn tả, hữu đi truyền lệnh, cười lớn nói:

– Phỏng như một gã Chung Ly Muội thì có đủ gì mà lo. Nay tôi có một việc lớn, muốn vào chầu vua để tâu trình, chỉ hiềm không có ai tiến dẫn.

Người vừa nói đó là người nước Tề, họ Lâu, tên Kính, đi thú Lũng Tây, nhân qua Lạc Dương nghe vua Hán có lệnh lùng bắt Chung Ly Muội nên mới nói thế.

Hồi 42 – Nghe Lâu Kính, Hán Đế thiên đô

Quân sĩ thấy Lâu Kính mặc áo vải, đi dép cỏ, dáng điệu tiều tụy liền nói:

– Nhà ngươi ăn mặc như thế này làm sao chầu vua được?

Lâu Kính nói:

– Vua quan có đồ triều phục của vua quan, còn tôi, là dân giả, tôi có thường phục của dân giả, áo vải, dép cỏ không phải là vật đáng khinh.

Quân sĩ thấy Lâu Kính ăn nói cứng rắn, liền tâu với Hán đế.

Hán đế đòi vào yết kiến và hỏi:

– Nhà ngươi muốn vào yết đến trẫm hẳn có điều gì hay?

Lâu Kính tâu:

– Ngày xưa, Bá vương không theo lời của Phạm Tăng, bỏ Quan Trung, đóng đô nơi Bành Thành, đó chính là cái cớ mất thiên hạ. Nay bệ hạ đóng đô ở Lạc Dương, tuy Bành Thành không sánh kịp song chưa phải là kế lâu dài.

Hán đế nói:

– Xưa nhà Chu đóng đô ở Lạc Dương, vẫn giữ được nghiệp cả muôn đời. Nay ta noi gương đó.

Lâu Kính tâu:

– Bệ hạ lập nghiệp không giống nhà Châu. Nhà Châu khởi đầu từ ông Hậu Tắc, mấy trăm năm tu nhân tích đức, thu đoạt nhân tâm, đến đời vua Vũ Vương mới đánh Trụ mà có thiên hạ. Khi vua Vũ lên ngôi, vì nghĩ Lạc Ấp là chỗ trung tâm, chư hầu bốn phương đều về triều cống. Tuy nhiên, ở chỗ nào, có đức thì dễ hưng, và thất đức thì dễ mạt. Bằng cứ là lúc nhà Châu thịnh, chư hầu bốn mặt về chầu, đến lúc nhà Châu suy, thiên hạ tạo phản khắp nơi. Nhà Châu uy đức trùm thiên hạ mà còn như vậy, huống chi Bệ hạ khởi binh từ Phong Bái, đánh nhau với Hạng Vũ, thâu giang san. Lòng người chưa hẳn đã xem đó là đại nghĩa, làm sao Bệ hạ ví với nhà Châu được? Theo ý ngu thần, Bệ hạ nên thiên đô sang Hàm Dương. Ở đó núi sông hùng vĩ, bốn bề hiểm cố. Lúc bình có thể vỗ an lê dân, lúc biến có thể động binh dễ dàng. Ðó là cái cơ dựng nghiệp muôn đời, hạ thần xin vì Bệ hạ mà tâu bày.

Hán đế đem lời ấy hỏi quần thần, và nói:

– Nhà Châu đóng ở Lạc Dương trải mấy trăm năm không suy sút. Thủy Hoàng đóng đô ở Hàm Dương mới có vài đời đã bị diệt vong, thế mà Lâu Kính lại khuyên ta như thế là ý gì?

Trương Lương nói:

– Lạc Dương tuy có thành cao, xung quanh có sông Hào, sông Miện, sông Lạc, song bốn mặt đều thù địch, không phải là đất dụng võ. Còn Hàm Dương phía hữu có Lũng, Thục, phía tả có Hào, Hàm, lại có đồng rộng thênh thang, hoa màu bát ngát. Ba mặt kín để cố thủ, mặt trước dùng chế ngự chư hầu thật là một cái thành vàng nghìn dặm. Lời Lâu Kính nói rất phải.

Hán đế nghe Trương Lương nói, liền chọn ngày thiên đô sang Hàm Dương, gọi Lâu Kính vào Phụng Xuân quan ban cho quốc tích.

Bá tánh được tin Hán đế thiên đô, đặt bàn hương án dọc đường vọng bái. Cảnh thái bình tràn ngập khắp nhân gian.

Một hôm, Hán đế ngồi một mình nơi ngự điện, chợt nghĩ đến Chung Ly Muội, lâu nay trốn biệt, không thấy ra trình diện, sợ Chung Ly Muội ngấm ngầm phản loạn, liền triệu quần thần đến nói.

– Chung Ly Muội không thấy về, không ai rõ tin tức, các khanh có ý kiến gì chăng?

Quý Bố bước ra tâu:

– Tâu Hoàng thượng, trước kia Chung Ly Muội cùng với hạ thần bỏ Sở đi trốn, Chung Ly Muội có nói Hàn Tín là bạn thân cũ, có lẽ đến đấy ẩn lánh chăng?

Hán đế nghe nói, lòng càng lo ngại, đòi Trần Bình vào hỏi:

– Hàn Tín ẩn giấu Chung Ly Muội tất có thâm ý.

Nay phái sai người đến dò xem cho đích thực rồi sẽ liệu.

Trần Bình nói:

– Việc ấy không nên nóng nảy, Nếu hở môi, Chung Ly Muội hay được trốn đi, ắt sanh hậu hoạn. Bây giờ sai người đến bảo Hàn Tín tìm cách giết hắn đi là yên.

Hán đế liền sai Tùy Hà sang Lâm Châu, giả cách sửa sang lăng tẩm vua Nghĩa đế, rồi thuận đường sang thăm Hàn Tín để dò tin tức Chung Ly Muội. Nếu quả có Chung Ly Muội ở đó sẽ tìm cách khiêu khích, khiến cho Hàn Tín giết Chung Ly Muội đi.

Tùy Hà lĩnh mệnh, sang Lâm Châu xong, ghé đến thăm Hàn Tín.

Hàn Tín mừng rỡ đặt tiệc khoản đãi.

Trong tiệc rượu, Tùy Hà nhân nói đến công việc triều chính, thừa lúc vui miệng, ghé vào tai Hàn Tín nói:

– Có người mật cáo nói Ðại vương giấu Chung Ly Muội ở đây Nhưng Hoàng thượng không tin, bảo rằng: ngài được thụ phong chức trọng, lẽ nào lại che giấu tên loạn tặc đó. Tuy nhiên, kẻ tả, hữu vẫn kiếm lời dèm pha.

Tôi chịu ơn ngài nên mách giùm câu chuyện ấy. Nếu quả như vậy, ngài nên khu xử, chớ nên vì tình bạn mà để lụy đến thân, bao nhiêu công lao từ xưa đến nay đều hỏng hết.

Hàn Tín nghe Tùy Hà nói dứt lời, ngồi thừ ra hồi lâu không đáp. Lòng áy náy vô cùng.

Qua một lúc, Hàn Tín nói:

– Cứ như lời của quan Ðại phu, bây giờ tôi phải làm thế nào để tuyệt mối nghi ngờ của Hoàng thượng?

Tùy Hà nói:

– Chỉ có cách giết Chung Ly Muội, đem đầu về triều dâng là yên chuyện.

Hàn Tín nói:

– Chung Ly Muội là người bạn cũ của tôi đã mấy mươi năm, nay nỡ giết đi sao đành.

Tùy Hà nói:

– Nếu ngài trọng bạn, khinh phép nước làm sao tránh khỏi tai họa được.

Hàn Tín thở dài nói:

– Lời quan Ðại phu nói rất phải. Ðể tôi nghĩ đã.

Hàn Tín cùng Tùy Hà đối ẩm cho đến lúc trời khuya, tiệc mới mãn.

Sau đó, Hàn Tín ra đàng sau lên một gác nhỏ thăm Chung Ly Muội, kể hết sự tình.

Chung Ly Muội nói:

– Vậy cố nhân định xử trí tôi cách nào bây giờ?

Hàn Tín nói:

– Chỉ có cách tuân theo phép nước, đem đầu ông nạp về Hàm Dương mới khỏi mang vạ.

Chung Ly Muội nói:

– Tôi còn, Hán đế còn cần đến Ðại vương, nhưng nếu tôi mất, Hán đế không cần đến tài điều binh, khiển tướng của Ðại vương nữa, tất Ðại vương cũng bị giết như tôi

Hàn Tín ngồi trầm tư một lúc, ý định giết Chung Ly Muội không còn nữa.

Tùy Hà lưu lại vài hôm, thấy Hàn Tín bỏ qua, không nói đến chuyện giết Chung Ly Muội, liền mật sai người đem thư về dâng cho Hán đế, còn mình thì từ biệt Hàn Tín, sang Lâm Châu.

Một hôm, Hán đế lâm triều, cùng với quần thần bàn kế, bỗng có người đến dâng mật thư.

Hán đế mở ra xem, đó là thư của Tùy Hà nói việc Hàn Tín giấu Chung Ly Muội, cố ý tạo phản.

Hán đế xám mặt, đòi Trần Bình vào hậu cung nói:

– Hàn Tín cậy công làm bậy. Trước kia hắn định chiếm nước Tề, mưu đoạt nghiệp lớn, chính ta đã thấy lòng hắn, mới cải phong sang Lỗ. Nay hắn cải mệnh, chấp chứa Chung Ly Muội tức là lòng phản phúc đã hiển nhiên.

Trẫm thấy cần phải đem binh trừ đi mới khỏi sanh hậu hoạn.

Trần Bình nói:

– Không nên! Hàn Tín không phải như những kẻ khác, tài gồm thao lược, điều binh khiển tướng như thần. Chỗ đất hắn ở lại chính là chỗ xung yếu giữa Tần, Sái. Nếu sanh biến, binh thiên triều khó địch nổi.

Hán đế nói:

– Theo ý Tiên sinh bây giờ nên xử trí bằng cách nào?

Trần Bình nói:

– Cứ ý ngu hạ thì Hàn Tín chỉ nên dùng trí mà bắt, chứ không nên dùng sức mà đánh.

Hán đế hỏi:

– Dùng trí như thế nào?

Trần Bình nói:

– Thần có một kế, không phải dùng binh lực, mà Hàn Tín phải bó tay chịu bắt. Bệ hạ sẽ trừ được mối hại về sau.

Hán đế vội hỏi:

– Kế ấy như thế nào?

Trần Bình nói:

– Theo thường lệ, các bậc Ðế vương thời xưa thỉnh thoảng tuần du đây đó để dò xét dân tình. Nay Bệ hạ ngự giá ra chơi Vân Mộng, hạ chiếu cho chư hầu cõi Tây phải đến tiếp giá. Hàn Tín nghe Bệ hạ đến thế nào cũng nghênh đón. Chừng ấy Bệ hạ chỉ cần sai một đoàn võ sĩ ra bắt là xong.

Hán đế nghe Trần Bình nói rất mừng, hạ chiếu vào mùa đông năm Canh Tý ngự giá tuần du Vân Mộng.

Chư hầu cõi Tây như Anh Bố, Bành Việt nghe lệnh đều sửa sang tiếp đón.

Hàn Tín hay tin ấy, bàn với tả, hữu:

– Ngày trước Tùy Hà đến đây mật tin cho ta biết triều đình đã hay việc giấu Chung Ly Muội ở đây, khuyên ta nên giết Chung Ly Muội để tránh hậu hoạn. Tuy nhiên, vì tình bạn ta không nỡ làm chuyện đó. Nay Thánh thượng tuần du Vân Mộng, nếu hay được việc này, ắt ta không khỏi tội, chi bằng đoạn tình bạn tránh chuyện ưu ái cho xong.

Bàn tính xong, Hàn Tín ra sau vườn hoa, tìm gặp Chung Ly Muội nói rõ việc Hán đế tuần du Vân Mộng, và tỏ ý mình muốn giết bạn.

Chung Ly Muội nói:

– Tôi đã nói với ngài, nếu ngài giết tôi, sớm muộn ngài cũng bị giết. Lời ấy không phải là tôi tham sống mà dọa ngài đâu.

Hàn Tín nói:

– Thà rằng vua phụ tôi chứ tôi không đành lòng phụ vua. Hôm nay tôi quyết lấy đầu của ông đem đến Vân Mộng nạp cho Hán đế.

Chung Ly Muội nổi giận, mắng lớn:

– Khốn kiếp, mày nỡ vô tình đến thế sao? Ta tiếc không được thấy cái chết của mày, sau khi mày đã giết ta.

Nói xong, rút gươm đâm cổ tự vận.

Hàn Tín cắt lấy thủ cấp. Kịp lúc Hán đế khởi giá tuần du Hàn Tín bèn đem quân ra biên giới nghênh đón và dâng đầu Chung Ly Muội.

Hán đế nói:

– Nhân ngươi giấu Chung Ly Muội đã lâu, nay thấy ta ra chơi Vân Mộng, sợ bị lộ nên phải nạp đầu Chung Ly Muội, chứ đâu phải thiện chí.

Dứt lời quát võ Sĩ trói Hàn Tín lại.

Hàn Tín kêu oan. Hán đế nói:

– Việc như vậy mà ngươi còn gọi là oan ức?

Hàn Tín tâu:

– Tôi là một công thần khai quốc, dẫu phạm tội, Bệ hạ nỡ đối xử như thế sao?

Hán đế nói:

– Ðã cố ý tạo phản, thì dẫu là kẻ công thì cũng chỉ là một tội nhân.

Hàn Tín nói:

– Ôi! Lời thiên hạ thường nói: “Chim cao hết, cung tốt phải xếp xó, thỏ cáo hết chó săn bị làm thịt, địch quốc vỡ mưu thần phải tiêu diệt” câu nói ấy kể cũng đúng vậy.

Hán đế nghe nói cũng động lòng, chưa nỡ giết, truyền trói Hàn Tín để sau xe.

Xa giá Hán đế đến Vân Mộng cách ba mươi dặm thì trời sẫm tối, Hán đế xuống xe, cỡi con Bạch Long, lỏng buông tay khấu, từ từ tiến tới.

Bỗng đến một khu rừng gần đó, con Bạch Long ré lên mấy tiếng hãi hùng. Hán đế nói:

– Long mã gầm thét, chắc trong rừng có kẻ thích khách.

Liền sai Phàn Khoái dẫn một trăm quân kỵ vào lục soát Quả thật, Phàn Khoái bắt được một người tuổi độ ba mươi ngồi ẩn dưới gốc cây, giương cung đặt tên sẵn, liền đem nộp cho Hán đế.

Hán đế hỏi:

– Nhà ngươi tên gì? Tại sao lại ẩn núp trong ấy, với hành vi đen tối?

Người ấy nói:

– Tôi ở Hoài Âm, từng được đội ơn dày của Hàn Tín.

Nhân nghe Bệ hạ vô cớ bắt trói ân nhân của tôi, nên tôi định ân trong rừng tìm cách giải thoát.

Hán đế hét:

– Không phải nhà ngươi muốn giải thoát cho Hàn Tín mà chính là muốn ám hại ta.

Liền sai tả hữu đánh chết người ấy.

Hàn Tín ở sau xe hay tin, lòng bùi ngùi cảm động.

Ngày hôm sau, xa giá đến Vân Mộng nghỉ được ít hôm rồi hồi loan.

Quần thần đều vào triều kiến. Quan Ðại Phu Ðiền Khẳng bước ra tâu:

-Bệ hạ nhờ Hàn Tín dựng nên nghiệp lớn, công của Hàn Tín rất trọng. Nay nhất đán đối xử như vậy, hạ thần e những kẻ đem thân lập công đều nghĩ đó mà chán nản chăng?

– Quan Ðại phu luận cũng phải. Song Hàn Tín đã lâu nay vẫn mang ý khác. E rằng một ngày kia Hàn Tín phản loạn, nên trẫm phải đề phòng.

Ðiền Khẳng nói:

– Nếu sợ Hàn Tín sinh biến, Bệ hạ chỉ cần giữ Hàn Tín nơi Hàm Dương, không giao binh quyền, thế cũng đủ rồi.

Hán đế nhậm lời, sai người ra cởi trói cho Hàn Tín, và dụ rằng:

– Tướng quân từ khi bỏ Sở về Hán, trẫm đắp đàn phong tướng trao cho một trách nhiệm lớn lao đãi tướng quân không chút gì bạc. Thế mà tướng quân trái phép nước, chấp chứa kẻ thù của trẫm, mưu tính tà tâm. Nay bắt về đây, đáng lẽ theo quân pháp xử trị, nhưng trẫm nhớ ơn khai quốc công thần, không nỡ hành tội. Vậy trẫm cải phong chức Hoài Âm hầu, lưu lại nơi triều trung để sửa lỗi. Một ngày nào đó, xét thấy tướng quân đã cải hối, ấn vương hầu trẫm sẽ ban cho.

Hàn Tín lạy tạ lui ra mặt buồn dàu dàu, mấy ngày nhuốm bệnh, không thể vào triều kiến.

Từ đó, Hán đế sửa sang cung thất, chỉnh đốn chính trị, sai Tiêu Hà lập ra pháp luật, dựng tôn miếu xã tắc, thiên hạ an hưởng thái bình.

Hán đế cứ năm ngày lại vào chầu Thái công một lần. Mỗi lần như thế đều phục lạy rất trọng lễ.

Tả hữu thấy thế nói với nhau:

– Cứ lấy tình nhà thì là đạo cha con, nhưng lấy theo quốc thể chỉ là đạo vua tôi. Hoàng thượng lấy tình đãi Thái công như thế hóa ra vua lại cúi đầu lạy bề tôi sao.

Thái công nghe câu nói ấy cho là phải, và tự nghĩ:

– Bấy lâu nay ta đã thất lễ với muôn dân.

Ngày hôm sau, Hán đế vào chầu, Thái công cầm cây chổi đứng đón nơi cạnh cửa.

Hán vương trông thấy kinh hãi, hỏi:

– Sao thân phụ lại có cử chỉ ấy?

Thái công nói:

– Bệ hạ là bậc vua chúa một nước, chớ nên vì một kẻ tôi thần này mà trái đạo vua tôi, trái phép thiên hạ.

Hán đế đem việc ấy bàn với quan thần, rồi tôn Thái công lên làm Thái Thượng Hoàng, ban chiếu hiểu cho thiên hạ rằng:

Người chí công không ai bằng cha con. Cho nên, cha có thiên hạ truyền xuống cho con, con có thiên hạ hàm ân cho cha. Ðạo làm người vẫn thế. Trẫm bao năm mặc giáp đeo gươm, chịu bao cam khổ, bình bạo loạn, lập chư hầu, tạo trong thiên hạ một đời thạnh trị. Ðược như vậy là nhờ ơn giáo huấn của Thái công.

Nay sự nghiệp hiển vinh, để đền ơn, trẫm tôn Thái công lên làm Thái Thượng Hoàng.”

Trăm quan đều vào triều làm lễ lạy mừng Ai nấy say sưa hỉ dạ.

Chợt tả hữu vào báo:

– Vua nước Hàn là Cơ Tín, cùng với rợ Hung nô hiệp binh đánh các thành Ấp biên cương rất gấp. Nay quân địch đã chiếm lấy Bạch Thổ ở Thái Nguyên, bọn Man Chính Thần, Vương Hoàng thì bàn lập tướng cũ nước Triệu là Triệu Lợi làm vua, họp quân ba mươi vạn, thanh thế rất mạnh, xin Bệ hạ kịp phái quân đi tiễu trừ.

Hán đế nghe lời tâu, vội vã đòi dọn Trần Bình vào hội kiến.

Trong cuộc thảo luận, có người bàn nên lấy binh mã ở các nơi gần đây đem dẹp giặc, lại có người bàn nên sai tướng đến phong Thái Nguyên phá giặc.

Hán đế nói:

– Ý kiến các ngươi đều chưa đủ chế phục được giặc. Nay trẫm cần phải thống xuất đại binh đến đấy mới mong trừ được.

Hồi 43 – Vào Bạch Ðằng trúng kế, Hán Đế Hầu nguy

Hàn đế bàn tính với triều thần xong, truyền lệnh khởi binh tấn phát.

Quân gồm ba mươi vạn, tướng mạnh năm mươi viên, gồm có Tào Tham, Phàn Khoái, Ngân Hấp, Lư Quán là những tay dõng tướng.

Hán đế giao Tiêu Hà coi việc triều chính, rồi phái người đến Bạch Ðằng, Thái Nguyên xem xét địch tình.

Bấy giờ Hàn vương là Cơ Tín, đóng tại thành Tấn Dương, Chúa Hung Nô là Mặc Ðặc ở đất Ðại Cốc, đều hay tin Hán đế ra binh, cho người đi thám thính, liền đem những binh mã khỏe mạnh giấu cả sau núi, chỉ để lại trong dinh toàn những binh lao, mã liệt, đi đứng liểng xiểng.

Người do thám của Hán đế thấy vậy mỉm cười, trở về báo lại. Giữa lúc đó Hán đế đã đóng binh nơi Triệu Thành.

Hán đế muốn kéo đại binh đến đánh gấp, Trần Bình can:

– Người Hung Nô quỷ quyệt, lại thêm Cơ Tín liên kết e rằng chúng dùng mưu gạt ta đó. Cần phải dò xem biết đích thực mới tiến binh.

Hán đế hỏi:

– Sức mạnh của Mặc Ðặc, Cơ Tín, so với Hạng Vũ ai hơn?

Trần Bình tâu:

– Mặc Ðặc cũng là tay vũ dũng chớ nên xem thường.

Hán đế lòng nghi ngại, vội sai Lâu Kính đi thám thính lần nữa.

Lâu Kính đi vài ngày trở về tâu.

– Xưa nay hai nước đối đích thường đem cái hay, cái mạnh ra khoe. Nay Mặc Ðặc cạnh trại bừa bải,quân mã gầy còm, chắc là hắn giấu những quân tinh nhuệ đi để gạt ta. Vậy xin Bệ hạ hãy thong thả để dò xét kỹ càng đã.

Hán đế hét lớn nói:

– Ta sai nhà ngươi đi thám thính, nhà ngươi đã không dò được địch tình, còn trở về kiếm lời láo khoét làm nhụt chí ba quân.

Nói xong, sai tả, hữu bắt Lâu Kính giam nơi Triệu Thành, rồi truyền quân nhổ trại tấn phát.

Quân đi một ngày đến Bành Thành, Hán đế sai Phàn Khoái thử đi dò thám.

Phàn Khoái đến nơi, thấy quân Mặc Ðặc yếu ớt, đóng đồn trên núi Tiểu Tùng phía Bắc, độ vài vạn người.

Phàn Khoái trở về tâu với Hán đế.

Hán đế cười khúc khích nói:

– Lâu Kính tư thông với Hung Nô, sợ đại binh của trẫm kéo đến nên tìm cách cản trở trẫm, để có thì giờ cho địch quân rút lui. Nay tình hình đã rõ, còn chờ gì không diệt địch.

Nói xong xua ba quân tiến thẳng vào thành. Quân trong thành rất ít, họ kháng cự qua loa rồi mở cửa đầu hàng.

Hán đế đem binh vào thành kiểm điểm ba quân, mở tiệc ăn mừng.

Giữa lúc đó bên ngoài có tiếng súng nổ vang trời.

Tiếp theo đó, tiếng quân reo dậy đất. Quân Hung Nô ồ ạt kéo đến, vây phủ bốn mặt, đèn đuốc nối liền nhau tỏa ánh sáng hơn năm dặm.

Hán đế thất kinh nói:

– Ta đây lầm kế của giặc rồi. Chỉ vì ta không chiu nghe lời Lâu Kính.

Bèn đòi Trần Bình vào vấn kế.

Trần Bình tâu:

– Quân Hung Nô tính hiếu chiến lại liều lĩnh, quân ta không nên dùng sức kháng địch, phải dùng kế lừa họ mới mong thoát khỏi vòng vây.

Hán đế hỏi:

– Kể ấy như thế nào?

Trần Bình nói:

– Hạ thần có nghe Mặc Ðặc thường hay chiều chuộng người vợ là Át Chi. Mọi việt đều do nàng Át Chi chủ trương. Vợ chồng một bước không rời nhau. Nay sai người họa một bức tranh mỹ nhân tuyệt đẹp, đem dâng cho Át Chi và nói: “Vua Hán vì bị vây khốn nên muốn đem mỹ nhân này cống hiến cho Mặc Ðặc, nhờ phu nhân chuyển đạt”. Nàng Át Chi tất ghen chồng, sợ chồng say mê sắc đẹp, khuyên Mặc Ðặc rút quân.

Hán đế khen là diệu kế, truyền Trần Bình lựa thợ khéo vẽ bức tranh, rồi sai người lén ra ngoài thành, dùng vàng bạc đút lót cho kẻ thân tín nàng Át Chi, để dâng cho nàng Át Chi bức tranh ấy.

Át Chi xem bức tranh, rõ được sự tình, lòng ghen tức lẩm bẩm:

– Nếu để Ðại vương vây thành Hán, Hán đế cống mỹ nhân, Ðại vương sẽ say mê người ấy thì địa vị ta sau này ra sao? Chi bằng khuyên Ðại vương rút binh để cho Hán đế khỏi phải tiến dâng mỹ nữ.

Ðêm hôm ấy, nàng Át Chi nói với Mặc Ðặc:

– Hán đế bị vây đến nay đã bảy ngày mà không hề nao núng. Như vậy là lòng trời phù hộ Hán đế. Vả lại Hán đế là chân mệnh, các chư hầu khắp nơi đều tùng phục. Nếu ta cứ vây mãi, lỡ ra binh mã các nơi đến ứng cứu thì ta cự sao lại?

Mặc Ðặc nói:

– Nàng nói cũng phải! Quân ta cần chỗ tốc chiến tốc thắng. Nếu vậy lâu ngày bất lợi.

Sáng hôm sau Mặc Ðặc truyền lệnh giải binh.

Cơ Tín nghe lệnh ấy ngạc nhiên vào yết kiến Mặc Ðặc, nói:

– Ðại vương đã vây Hán đế nơi đây, cớ sao lại giải binh?

Mặc Ðặc nói:

– Quân ta vây nơi đây lâu ngày, chư hầu kéo đến ứng cứu thì cự sao lại. Chi bằng tính trước đi để bảo tồn thực lực.

Cơ Tín nói:

– Ðại vương lầm kế của Hán đế rồi. Tôi có nghe Hán đế họa hình mỹ nhân sang dâng cho Ðại vương yêu cầu Ðại vương rút quân. Việc này chỉ là kế để lừa gạt ta, chứ Hán đế làm gì có mỹ nhân?

Mặc Ðạc nghe nói ngạc nhiên, dò hỏi hồi lâu mới rõ tự sự, liền nói:

– Nếu Hán để đã chịu dâng mỹ nhân vậy ta bắt phải trình diện xem thử.

Ðêm hôm ấy, Mặc Ðặc đứng dưới thành, kêu quân Hán nói:

– Nếu Hán đế chịu dâng mỹ nhân thì phải dẫn lên thành để ta xem mặt.

Quân vào báo. Hán đế liền gọi Trần Bình vào hỏi:

– Mặc Ðặc đòi xem mặt mỹ nhân, nay phải liệu làm sao?

Trần Bình nói:

– Tôi đã tính trước rồi, nên có sai thợ làm mấy tượng hình gỗ. Bây giờ đem trang điểm, cho ăn mặc sang trọng, dắt lên thành, dưới ánh đèn mập mờ, thế nào chúa Hung Nô cũng phải lầm.

Hán đế nhận lời. Trần Bình sai trang điểm các tượng gỗ, dựng trên cửa thành, rồi gọi Mặc Ðặc đến xem.

Dưới ánh đèn lồng, áo xiêm lòe loẹt, son phấn rực rỡ, Mặc Ðặc trông thấy hơn vài mười mỹ nữ, mặt mày xinh xắn, lòng say sưa, không kể lời can gián của Cơ Tính và lòng phẫn nộ của nàng Át Chi, nhất định lui binh, để cho quân Hán thoát nạn.

Hán đế thấy quân Hung Nô rút lui, liền truyền quân kéo ra khỏi thành, nhắm hướng Nam tẩu thoát.

Mạc Ðặc thấy quân Hán đã ra hết liền đem quân vào thành bắt mỹ nữ. Nhưng khi vào đến nơi, thấy các mỹ nữ ấy toàn là tượng gỗ.

Vua tôi ngơ ngác nhìn nhau, lòng căm tức chẳng cùng.

Giữa lúc đó, Hán đế đã lui binh về đến Triệu Thành, cùng văn võ bá quan mở tiệc ăn mừng.

Nghĩ đến Lâu Kính là người bị hàm oan, Hán đế truyền quân mở ngục, thả Lâu Kính ra và phủ dụ rằng:

– Trẫm không nghe lời khanh, suýt bị giặc Hung Nô bắt giết. Nay trẫm đã thấy lỗi, và rõ khanh là kẻ có công.

Vậy trẫm phong cho khanh làm Kiến Tín Hầu.

Ngày hôm sau, Hán đế kéo quân về Nam, đi ngang huyện Khúc Ốc, thấy nơi đó thành trì đẹp đẽ, đường sá thẳng tắp, dân chúng đông đảo, lòng thích thú nói với tả hữu:

– Huyện Khúc Ốc này đẹp thay! Ta đi chu du trong thiên hạ rất nhiều, nhưng không đâu đẹp bằng Lạc Dương và Khúc Ốc.

Nói xong, gọi Trần Bình đến phán:

– Trẫm được khanh nhiều lần bày kế, giúp nhiều việc lớn vậy trẫm phong cho khanh đất Khúc Ốc này.

Trần Bình nói:

– Ðó không phải là tài năng của hạ thần mà chính là nhờ hồng phúc của Bệ hạ.

Hán đế nói:

– Lòng trẫm đã định, khanh chớ khiêm nhượng.

Trần Bình dập đầu tạ ơn.

Mấy ngày sau đại binh về đến Tràng An, thấy Tiêu Hà xây dựng cung Vị Ương rát tráng lệ Hán đế nổi giận:

– Thiên hạ loạn lạc đã mấy năm nay, mới bình định xong, lúc này là lúc cần nên thiết dụng, để thiên hạ đỡ tốn kém, lo việc làm ăn, cớ sao lại phung phí?

Tiêu Hà nói:

– Thiên tử lấy bốn bể làm nhà, nếu cung thất không tráng lệ sao đủ tỏ uy quyền với thiên hạ?

Hán đế nói:

– Cung thất đã làm xong, dẫu có nói cũng không ích gì nữa. Song trẫm không muốn một mình hưởng sự giàu sang đó.

Liền sai tả, hữu mời Thái thượng hoàng đến rồi cùng các quan đặt tiệc vui chung.

Tiệc tan, quần thần đưa Thái thượng hoàng về cung an nghỉ.

Hán đế chợt nhớ đến Hàn Tín lâu nay bị bệnh không vào chầu, liền sai tả, hữu mời Hàn Tín đến phủ dụ.

– Khanh đã lâu không vào chầu. Trong lúc bá quan chung vui an lạc mà vắng khanh, trẫm mong nhớ lắm, nên vời vào đây để thăm viếng.

Hàn Tín nói:

– Ngày xưa, khi thần cầm quân đánh Sở, có khi đến mười ngày không được ăn no, vì mất sức lâu ngày thành bệnh. Nay nhàn rỗi, bệnh cũ trở lại. Hạ thần nhiều lúc cũng nhớ long nhan, song không làm sao đặng.

Hán đế nói:

– Khanh có bệnh, nên tìm thầy thuốc điều trị cho khỏi, chớ nên chậm trễ.

Hàn Tín tâu:

– Hạ thần vì vô sự nên sinh bệnh, chứ nếu được làm công việc gì thì bệnh tật tất khỏi hẳn.

Hán đế nói:

– Khanh là một kẻ có tài, rất quan hệ trong lúc biến loạn. Khanh nên bảo trọng đến tấm thân hữu dụng của khanh.

Ðoạn, Hán đế lại cùng Hàn Tín bàn luận về các tướng, người nào có thể chống được giặc, người nào không cầm được quân.

Hàn Tín nhất nhất tâu bày, Hán đế rất hợp ý, và nhân lúc vui miệng hỏi:

– Như trẫm có thể cầm được bao nhiêu quân?

Hàn Tín nói:

– Bệ hạ bất quá chỉ cầm được mười vạn quân mà thôi.

Hán đế hỏi:

– Trẫm so với tướng quân thì như thế nào?

Hàn Tín nói:

– Như hạ thần thì quân càng nhiều càng tốt.

Hàn đế cười lớn nói:

– Càng nhiều càng tốt cớ sao còn bị trẫm bắt?

Hàn Tín nói:

– Bệ hạ không giỏi cầm quân nhưng giỏi cầm tướng.

Vì thế mà thần bị Bệ hạ bắt. Vả lại, Bệ hạ có trời giúp, không phải sức người mà làm nên như thế được.

Hán đế nghe lời giải bày của Hàn Tín, tuy ngoài mặt vui cười, song lòng thêm nghi kỵ, bèn cho về dinh dưỡng bệnh chứ không tính đến việc gia phong nữa.

Hàn Tín buồn bã, bái tạ Hán đế trở về dinh. Mối buồn quanh quẩn mãi không nguôi.

Trong lúc đó, chẳng những Hàn Tín mang mối sầu riêng, mà Trương Lương cũng buồn bã không kém

Từ khi Hàn vương là Cơ Tín họp binh với Hung Nô mưu phản. Trương Lương cáo bệnh, ngồi nơi tư dinh suốt ngày tịnh cốc.

Hễ ai đến chơi, Trương Lương lại nói:

– Ðời người chẳng khác nào bóng câu qua cửa sổ, trăm năm chi là một cái chớp mắt thì công danh phú quý mà chi! Tôi muốn vào núi tầm tiên học đạo, tìm kế trường sinh, thoát vòng danh lợi, nhưng vì Hoàng thượng quá trọng hậu tôi, nên tôi chưa nỡ rời.

Hán vương thấy Trương Lương không vào chầu, lòng nghi hoặc, nhưng khi nghe Trương Lương nói câu ấy lấy làm lạ. Một hôm cho vời Trương Lương vào dò ý:

– Trẫm từ khi được Tiên sinh chẳng khác nào như chim hồng thêm cánh. Nhờ Tiên sinh mà trẫm dựng nên nghiệp cả, ý trẫm muốn lựa một nước lớn phong cho để đền ơn Tiên sinh.

Trương Lương nói:

– Thần từ khi theo Bệ hạ vào đất Quan Trung, được nhờ hồng đức của Bệ hạ làm nên đôi việc. Tuy nhiên, thần là kẻ áo vải, chân không mà được Bệ hạ cho làm Lưu hầu thế cũng đã cao sang lắm rồi, đâu còn dàm mong ước gì hơn. Sau khi đã được đội ơn dày của Bệ hạ thần muốn xa lánh nhân gian, theo ông Xích Tùng Tử tu luyện, nghiên cứu cái phép tịnh cốc làm kế trường sinh, để sống một cuộc đời an nhàn cho thỏa thích.

Hán đế thấy Trương Lương có ý thành thực và khẩn thiết, bèn chuẩn y cho về dưỡng bệnh, lại truyền mỗi tháng phải một lần vào chầu.

Trương Lương từ đó đóng cửa, không bước chân ra khỏi nhà ngồi tu tâm dưỡng tánh, mỗi tháng chỉ theo các quan vào chầu một lần. Khi tan chầu chẳng hề bận nghĩ đến điều gì cả.

Một hôm con Trương Lương là Trương Tích Cường nói với cha:

– Phụ thân suốt đời tận tụy việc nước, công lao rất lớn. Ðến lúc nước thịnh dân an, lẽ ra vui hưởng phú quý, sao lại cam chịu khắc khổ?

Trương Lương nói:

– Mày có biết đâu được thói đời leo cao té nặng, càng vinh hoa phú quý càng mang lấy họa vào thân. Hễ ngồi cao thì bị đời ghen ghét, vua sanh lòng ngờ. Cái phú quý ấy chẳng khác nào như phù vân. Sao bằng đem vinh hoa đổi lấy gió mây, tận hưởng cảnh thanh nhàn, không vướng mùi tục lụy.

Tích Cường bái phục thưa:

– Bây giờ con mới rõ cái tịch cốc của phụ thân tức là phương châm giữ mình vậy.

Sau đó Trương Lương thường ngao du sơn thủy để hưởng nhàn.

Một hôm, đến phía Ðông Cốc thành, chợt thấy một hang đá vàng, Trương Lương chợt nghĩ:

– Năm xưa ta gặp ông già ở Dĩ Thượng, ông ấy có nói sau này có gặp một viên đá vàng ở Cốc Thành tức là ông ta vậy. Thế thì lời nói ấy nay quả ứng nghiệm.

Nghĩ rồi liền phục lạy mấy lạy để đền ơn.

Nhắc lại vua Hung Nô Mặc Ðặc giận vì Hán đế dùng mỹ nhân kế đánh lừa, lòng căm tức, đem đại binh phá rối nơi biên cương, cướp của giết người làm xôn xao thiên hạ.

Các phủ, huyện dâng sớ về triều xin viện binh. Hán đế lấy làm lo lắng.

Lâu Kính thấy vậy bước ra tâu:

– Thiên hạ lâm cảnh chiến tranh lâu ngày, ai cũng chán ngán. Nếu nay lại động binh e trái lòng dân. Vả lại Mặc Ðặc là kẻ phi nhân cướp ngôi cha, lấy vợ cha. Người như thế không thể dùng đạo đức chinh phục được. Chi bằng Bệ hạ đem trưởng công chúa gả cho Mặc Ðặc. Mặc Ðặc yêu công chúa tất lập làm chánh cung, sau này có con nối ngôi sẽ là cháu ngoại của Bệ hạ. Ðiều đó rất có lợi.

Hán đế nói:

– Ta đường đường là một thiên triều, đất cất gồm thâu bốn bể, binh uy cường mạnh, quốc thể không hèn, lại không có cách gì chống đối với Hung Nô hay sao mà phải đem công chúa gả cho phường tanh hôi vô đạo.

Lâu Kính thưa:

– Bệ hạ dùng nhân đức thu phục sơn hà. Ðã bao lâu, sinh linh khổ sở về binh cách. Nay Bệ hạ cầu hòa với Hung Nô không phải vì hèn yếu, mà chính vì muốn cho dân chúng được an lạc, ấm no. Còn việc gả công chúa cho Mặc Ðặc, chỉ cần chọn một mỹ nữ trong dân giả, giả làm công chúa mà thôi.

Hán đế theo lời, lựa một mỹ nhân giả làm công chúa, đưa đến thành Thái Nguyên để cùng Mặc Ðặc giảng hòa.

Mặc Ðặc hay được việc ấy lòng mừng khấp khởi thân hành ra khỏi thành đón rước sứ giả, nhận lãnh công chúa, và dập đầu về phía Nam lạy tạ, hứa chẳng bao giờ quấy rối biên cương nữa.

Sứ giả làm xong việc ấy, về triều phục chỉ. Hán đế mừng rỡ ban thưởng Lâu Kính rất hậu.

Lâu Kính lại tâu:

– Ðất Tần Trung từ sau khi bị tàn phá, dân thưa, ruộng hoang, phía Bắc lại gần rợ Hồ, phía Ðông giáp sáu nước chư hầu Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy. Nay phải tập trung dân giả, cùng các nhà hào kiệt nơi đó lo việc khai khẩn ruộng nương, tích lũy đồn binh, lúc bình thì lo việc sản xuất, lúc biến chuyển ra thế phòng ngự, như thế mới mong cơ nghiệp lâu dài.

Hán đế khen phải, liền ra lệnh di dân sáu nước cùng các hào kiệt các nơi đến đó hơn mười vạn.

Bây giờ trong nước vô sự, triều đình nhàn rỗi.

Một hôm Hán đế thấy nàng Thích Cơ sanh đựợc đứa con trai là Như Ý, tuổi đã lớn khôn, tư chất lại thông minh hơn Thái tử Doanh. Hán đế có ý muốn bỏ Thái tử Doanh lập Như Ý làm Thái tử, nên đem việc ấy bàn với quần thần.

Quan Thượng đại phu là Chu Xương nghe nói thất kinh, bước ra can:

– Không nên! Không nên! Bệ hạ làm như thế tức là tự gây cho mình mối loạn đó.

Hồi 44 – Trần Hy mưu phản Triệu Ðại

Hán đế muốn bỏ Thái tử Doanh, lập Như Ý, quần thần can gián, Hán đế theo lời, không nghĩ đến việc ấy nữa.

Cách vài hôm sau, có quan Thái thú Triệu Ðại sai người vê triều báo rằng:

– Quân Phiên lại kéo đến đánh phá nơi biên giới, dân chúng bỏ chạy trốn, các quận, huyện không làm sao cự nổi, nếu triều đình không kíp phái binh đến e cả vùng Yên, Triệu đều phải thất thủ.

Hán đế chưa biết tính lẽ nào, quần thần ai nấy đều lo lắng. Trần Bình tâu:

– Cứu binh rất gấp, Anh Bố và Bành Việt đều ở xa, không thể gọi ngay được. Hàn Tín thì trí sĩ vô quyền, không thể dùng, duy có Trần Hy, trí dũng gồm đủ, xin Bệ hạ sai đem quân ra biên giới mới cự nổi giặc.

Hán đế cho triệu Trần Hy đến phán:

– Trẫm lâu nay đã mỏi việc binh, lần này quân Phiền lại đến phá rối nữa, thanh thế rất lớn. Nay khanh nên vì ta cử binh mười vạn, đem theo các quân dụng do Hàn Tín trước kia chế ra, đến Ðại Châu trừ khử quân giặc.

Trần Hy tâu:

– Thần vâng chiếu mệnh Bệ hạ, đâu dám chẳng ra công. Nhưng e binh lực không đủ chống với quân giặc chăng?

Hán đế nói.

– Trẫm sẽ ban cho khanh ấn phù, nếu binh mã không đủ thì đi đến đâu lấy thêm đến đấy.

Trần Hy bái biệt Hán đế, đem mười vạn quân đến Ðai Châu.

Nhân lúc đi ngang qua nhà riêng của Hàn Tín, Trần Hy nghĩ mình trước kia chịu ơn Hàn Tín rất nhiều, lại nhờ Hàn Tín chỉ dạy binh pháp nên ghé vào để vấn kế.

Hai người gặp nhau thi lễ xong, Trần Hy nói:

– Tôi vâng mệnh Hoàng thượng đem quân đến Ðại Châu bình Phiên tặc. Nhân ghé sang đây nhờ đại nhân chỉ bảo đôi lời.

Hàn Tín lưu Trần Hy ở lại chơi, đặt tiệc khoản đãi.

Trong lúc đối ẩm, Hàn Tín đuổi hết tả, hữu ra ngoài, rồi nói:

– Ông đem quân bình Phiên sẽ gặp nhiều gian nan khổ sở. Tuy nhiên, cái công khó ấy chẳng đem lại lợi ích gì.

Hàn Tín nói đến đấy, thấy Trần Hy ngơ ngác chưa hiểu, liền nói tiếp:

– Công bình Phiên của ông ngày nay với công phá Sở của tôi trước kia ai hơn?

Trần Hy nói:

– Công phá Sở của đại nhân là cái công muôn đời! Tôi sánh sao kịp?

Hàn Tín nói:

– Thế mà ngày nay tôi bị bỏ rơi, ngồi một xó. Ô dẫu có bình được giặc Phiên cũng chẳng ích gì. Chi bằng sẵn dịp ông đang cầm đại binh trong tay, mưu việc lớn, đoạt thiên hạ. Tôi sẽ tùy cơ làm nội ứng giúp đỡ ông.

Trần Hy suy nghĩ một lúc rồi nói:

– Tôi nghe theo lời dạy của đại nhân.

Hai người bàn định xong, Trần Hy từ biệt ra đi.

Ðại binh kéo đến Triệu Ðại, Trần Hy truyền lệnh đóng quân lại, chờ xem địch tình rồi sẽ quyết định.

Quân do thám đi dò xét vài hôm, rồi trở về báo:

– Quân Phiên có bốn trại lớn mỗi trại có chừng vạn người. Phiên vương đóng trại ngoài thành Ðại Châu quân hơn ba mươi vạn. Thủ hạ Phiên vương có một kiện tướng là Cáp Duyên Xích, sử dụng cây búa lớn nặng trăm cân, muôn người không địch nổi. Nếu Nguyên soái dùng kế gì dụ được tướng ấy đến hàng thì phá quân Phiên không khó.

Trần Hy nghe nói mừng rỡ, hội các tướng, nói:

– Quân Phiên thế mạnh, không thể dùng sức đánh được, phải dùng kế thủ thắng.

Nói xong ban lệnh cho các tướng thi hành.

Ngày hôm sau, Trần Hy đem quân ra trận khiêu chiến. Phiên vương xông ngựa ra trước trận, gọi Trần Hy nói:

– Hán đế nhà ngươi đánh không nổi Mặc Ðặc, phải gả con cho Mặc Ðặc để cầu hòa, thật là xấu hổ. Ta đây binh lực còn mạnh hơn Mặc Ðặc lẽ nào lại không đòi hỏi ở Hán đế một quyền lợi nào sao?

Trần Hy nói:

– Hán đế là một Hoàng đế thiên triều há lại không trị nổi nhà ngươi hay sao?

Dứt lời cầm đao đâm tới. Phiên vương tránh sang một bên ra hiệu cho một Phiên tướng ra đánh.

Phiên tướng cầm búa chém tới rất mạnh, Trần Hy đưa đao ra đỡ. Hai bên đánh nhau một hồi, Trần Hy yếu sức quất ngựa bỏ chạy. Phiên tướng giục ngựa đuổi theo chạy được ba mươi dặm, đến một hòn núi cao, trước mặt có một khe suối cạn. Trần Hy quất ngựa lội qua suối, Phiên tướng cũng cho ngựa băng qua. Nhưng lúc Phiên tướng vừa đến giữa suối thì bỗng nước suối chảy xuống ầm ầm, sâu hơn hai trượng.

Phiên tướng thất kinh, muốn quảy ngựa trở lại nhưng không còn kịp nữa.

Quân Hán đã phục sẵn hai bên suối, nổi dậy dùng tên bắn Phiên tướng nhào xuống ngựa.

Phiên tướng ấy chính là Cáp Duyên Xích, kiện tướng của Phiên vương.

Phiên vương đem quân tiếp cứu, đến nơi thấy nước suối chảy ầm ầm, quân Hán đang vây giết quân Phiên tở mở.

Phiên vương toan đốc quân vào giải vây, thì chợt có quân đến báo:

– Quân Hán thừa lúc Ðại vương dẫn quân đi ứng cứu, đến cướp trại và đốt lương thảo quân ta cháy sạch.

Phiên vương nghe nói không dám trở về trại, dàn quân mã bản bộ nhắm đường Bắc Phiên mà chạy về.

Trần Hy đại thắng, phá vỡ hơn bốn mươi vạn quân Phiên. Ngày hôm sau vào thành đặt tiệc khao thưởng tướng sĩ.

Rượu được vài tuần, Trần Hy nâng cốc nói với các tướng:

– Ta dùng kế thắng quân Phiên, nhưng thực ra nhờ ở sự tận tâm của các tướng. Ðó là một vinh dự, đáng khen. Chỉ hiềm có một điều là Hán đế không biết thương kẻ cực nhọc, lúc biến thì trọng tướng thương quân, lúc bình thì sanh tâm nghi kỵ. Xem như Hàn Tín, công lao phá Sở rất lớn. thế mà nay vẫn bỏ xó không dùng, lại còn muốn tìm cơ hãm hại. Cứ như thiển ý của ta, chúng ta đóng quân nơi đây, trấn giữ những nơi hiểm yếu, tích thảo dồn lương mưu việc thiên hạ. Hán đế hiện nay tuổi tác đã cao, việc binh nhung trễ biếng. Còn trong triều không ai giỏi hơn Hàn Tín, chúng ta còn sợ gì. Nếu nghiệp cả được thành, phú quý ta sẽ cùng các ngươi chung hưởng.

Các tưởng đồng thanh nói:

– Vâng! Chúng tôi xin nguyện làm theo ý của tướng quân.

Tháng bảy năm ấy, Trần Hy truyền hịch ước hội dùng với bọn Vương Hoàng để cùng nhau ứng viện. Ðoạn tự lập lên làm vua, cướp bóc các quận, huyện ở miệt Triệu Ðại.

Ngụy Vương hay việc ấy vội vã viết hịch về triệu cấp báo.

Hán đế xem biểu thất kinh, vội vã triệu Tiêu Hà, Trần Bình vào thương nghị.

Hán đế nói:

– Ta đãi Trần Hy không bạc, cớ sao hắn lại phản?

Tiêu Hà nói:

– Trần Hy vốn có mưu lược lại võ nghệ tinh thông, cả triều không ai địch nổi. Duy có Anh Bố và Bành Việt là hai tay đối thủ. Vậy xin Bệ hạ kíp xuống chiếu vời hai người ấy đến đánh Trần Hy thì mới xong.

Hán đế theo lời, viết chiếu thôi thúc Anh Bố và Bành Việt đem binh dẹp loạn.

Bấy giờ, Hàn Tín được tin Trần Hy làm phản, lại nghe Hán đế lấy quân Sở, Lương để đánh Trần Hy, liền viết một mật thư, sai người đến hai nước xui Anh Bố và Bành Việt đừng đem quân đi đánh Trần Hy.

Anh Bố và Bành Việt được mật thư của Hàn Tín vội mở ra xem. Trong thư đại khái viết:

“Tôi là người có công lớn, thế mà Chúa thượng không tưởng đến công lao, đối xử tệ bạc. Nếu hai ông vâng chiếu đánh Trần Hy, khi Trần Hy bị bắt, ắt các ông cũng bị giết. Bởi vì, Hán đế là người chỉ có thể cùng ở trong lúc ly loạn, mà không có thể cùng ở trong lúc thái bình.

Các ông càng lập được công to, càng dễ bị giết, không mong gì được ngồi yên ở đất Hoài Nam và Ðại Lương đâu.

Tín tôi sợ hai ông không tỉnh ngộ, sa vào cạm bẫy nên sai người đến tỏ bày, mong hai ông đừng dẫm trên bước chân tôi mà hối hận.”

Anh Bố và Bành Việt xem thư xong thác bệnh không chịu xuất quân.

Sứ giả trở vê triều tâu lại, Hán đế lo lắng đòi Trần Bình đến bàn rằng:

– Bành Việt và Anh Bố đều cáo bệnh không đến, phải làm thế nào?

Trần Bình nói:

– Trần Hy làm phản bởi ba nguyên nhân. Một là Trần Hy thấy Hàn Tín bị bãi chức không còn ai có thế đối địch với hắn. Hai là hắn nghĩ Bệ hạ lâu nay chán việc binh, không muốn chinh phạt, nên sanh ra cuồng vọng. Ba là Triệu Ðại, hai nơi ấy đất rộng người đông, dễ bề cố thủ. Nay xin Bệ hạ đừng nản việc binh, cử binh chinh phạt, tạm giao cho Tiêu Hà giúp Hoàng hậu giữ đất Bao Trung, như thế chư hầu mới bái vọng.

Hán đế theo lời, sai Chu Bột, Vương Lăng làm tiên phong, Phàn Khoái, Tào Tham, Hạ Hầu Anh làm tả chi, hữu dực, dẫn bốn mươi vạn quân tấn phát.

Trước khi xuất quân, Hán đế vào cung nói với Lã hậu:

– Nay Trần Hy làm phản, xâm chiếm Triệu Ðại, tự xưng vương vị. Trẫm đã xuống chiếu sai Anh Bố và Bành Việt đem quân đi đánh, nhưng hai người ấy đều cáo bệnh, không tuân. Xét lại các tướng trong triều, không ai địch nồi Trần Hy, nên trẫm phải đem quân trừ loạn. Ái khanh ở nhà coi việc triều đình, nhất là phải để ý đến Hàn Tín, vì Hàn Tín lâu nay bất mãn, có ý ngấm ngầm phản loạn, e thừa túc ta ra ngoài làm kế nội gián. Nếu ái khanh có điều gì khó khăn nên bàn với Trần Bình rồi sẽ quyết định.

Lã hậu tâu:

– Hàn Tín trước kia quyền binh tại thủ, lợi dụng thế lực lập nhiều công lớn. Song hiện nay đã bãi chức, hắn chỉ là một đứa thất phu, có gì đáng ngại. Xin Bệ hạ cứ an lòng xuất chinh.

Hán đế lại gọi Tiêu Hà đến trước điện, phủ dụ:

– Trẫm nay phải ngự giá thân chinh, đất Quan Trung không có người coi giữ. Trẫm giao cho khanh ở nhà giúp cho Hoàng hậu coi việc nhiếp chánh. Phàm việc gì lớn nhỏ đều phải bàn bạc kỹ càng, chớ nên sơ xuất.

Tiêu Hà dập đầu bái lĩnh và tâu:

– Hạ thần chỉ mong Bệ hạ dẹp yên phản tặc, còn việc nhiếp chính thần xin hết lòng lo lắng.

Xa giá khởi hành, trăm quan đưa đón. Ðại binh nhắm miền Triệu Ðại tấn phát.

Một hôm, xa giá đi đến Hàm Ðan, vào thành an nghỉ, các tướng túc trực ứng hầu, Hán đế hỏi:

– Trần Hy hiện nay đóng quân ở đâu, binh mã được bao nhiêu?

Các tướng đòi những quan thị trấn đến hỏi, rồi tâu:

– Quân Trần Hy hiện đóng ở Khúc Dương, binh mã bản bộ và các nơi họp lại ước hơn năm mươi vạn, tướng tá hơn hai mươi người do bọn Lưu Võ cầm đầu.

Hán đế băn khoăn, quay lại hỏi quần thần:

– Theo ý trẫm, Hàm Ðan là hiểm địa, thế mà Trần Hy không thủ nơi đây, lại đóng quân ở Khúc Dương. Xem đó thì kiến thức Trần Hy cũng chẳng đáng sợ.

Quần thần đều khen lời của Hán đế rất phải Hán đế liền sai Chu Xương ra các quận, huyện chung quanh lựa bốn người tráng sĩ đến dùng làm hướng đạo.

Chu Xương lựa được bốn người đem vào dâng nạp.

Hán đế hỏi:

– Các người có dám vì trẫm đi trước dẫn đường cho đại binh chăng?

Bốn tráng si đều tâu:

– Thiên binh của Hoàng thượng từ xa đến đây, thinh thế lẫy lừng. Tuy nhiên chưa rõ đường lõi thì chưa nên tấn binh vội. Quân pháp có câu: “Muốn thắng địch phải nắm vững trận thế trước khi điều binh”. Vậy xin Bệ hạ cho chúng tôi đi dò thăm trước đã.

Hán đế liền phong cho bốn người đó làm chức Thiên Hộ, và ban thưởng rất hậu.

Bốn tráng sĩ mừng rỡ, nhảy nhót ra đi. Các tướng thấy vậy nói với Hán đế:

– Bốn tráng sĩ chưa có tấc công nào, một sớm Bệ hạ đã ban thưởng trọng chức là ý gì vậy?

Hán đế nói:

– Trần Hy làm phản, sách nhiễu dân chúng. Nay binh thiên triều đến đây, nếu không ban ân để mua chuộc lòng dân thì ai còn kể đến cái nhân nghĩa của ta. Phong thưởng bốn người, mà cả dân Triệu, đều ngưỡng vọng, như thế chẳng lợi hơn sao?

Tả, hữu nghe nói đều bái phục.

Rồi đó, bốn tráng sĩ ăn mặc giả làm thương dân đất Ðại đi đến Khúc Dương, dò nghe hư thực.

Chẳng bao lâu, bốn người trở về Hàm Ðan, vào yết kiến Hán đế, tâu:

– Trần Hy dùng bọn tướng tá toàn là những lái buôn vàng ngọc. Nếu Bệ hạ chịu tốn phí một ít vàng bạc, đến mua chuộc họ, thì việc bắt Trần Hy chẳng khó khăn gl.

Hán đế triệu quần thần đến hỏi:

– Bây giờ ai dám len lõi vào trong quân của Trần Hy, đem vàng bạc đút lót, khiến cho các tướng làm nội phản. Như vậy ắt Trần Hy phải thất thủ.

Một người bước ra tâu:

– Hạ thần xin lãnh trách nhiệm ấy.

Hán đế xem lại, thấy người vừa nói là quan Trung đại phu Tùy Hà, lòng mừng rỡ, phán:

– Nếu khanh lành trách nhiệm này thì trẫm không lo gì nữa.

Tùy Hà đem một trăm thoi vàng và mấy người tùy tùng ra đi. Trước hết, Tùy Hà viết một bực thư, nói dối là Hán đế gởi đến dụ hàng.

Trần Hy nghe tin Tùy Hà đưa thư đến dụ hàng, nghĩ thầm:

– Tùy Hà là một gã thuyết khách. Bức thư ấy chắc là hắn dối trá chứ không phải do Hán đế sai đến.

Liền sai tả, hữu mời Tùy Hà vào. Tùy Hà vào trông thấy Trần Hy chào theo lễ vua tôi.

Trần Hy nói:

– Quan Ðại phu với tôi cũng là đồng hàng, cớ sao lại dùng lễ ấy.

Tùy Hà nói:

– Túc hạ cầm quân trăm vạn uy dậy hai nước, nay cùng Hoàng thượng tranh hùng để đồ vương định bá, tôi đâu dám vô lễ mà đem cổ thử gươm!

Trần Hy nói:

– Quan Ðại phu nói quá lời. Sở dĩ tôi đóng quân nơi đây là vì thấy Hán đế hay nghi ky, lúc biến cùng khổ, nhưng lúc bình không được cùng hưởng, lẽ ấy chắc quan Ðại phu cũng rõ. Nhưng chẳng hay quan Ðại phu đến đây muốn phủ dụ tôi như thế nào?

Tùy Hà nói:

– Tôi vâng mệnh Hoàng thượng đến đây để chiêu phủ túc hạ bãi việc chiến tranh. Nếu túc hạ bằng lòng, Hoàng thượng sẽ phong cho túc hạ làm Ðại vương, cai trị miền đất Ðại này.

Trần Hy biết là kế của vua Hán, bụng bảo dạ:

– Nếu ra hàng tất bị bắt.

Liền nói với Tùy Hà:

– Hán đế đã đem quân đến đây, chưa cùng tôi giao chiến, sao quan Ðại phu đã đem thư chiêu phủ. Tôi e thư này không phải thực bụng chăng?

Tùy Hà nói:

– Hoàng thượng lúc mới đến, cũng muốn cùng túc hạ giao tranh, song vừa rồi các tướng can gián, bảo phải trọng sinh mệnh thiên hạ, vì vậy Hoàng thượng đổi ý sai tôi đi dụ hàng. Nếu túc hạ không tin, tôi trở về bẩm mệnh chứ biết làm sao?

Trần Hy nói:

– Hàn Tín công rất lớn lao, thế mà Hoàng thượng còn nghi kỵ, giả cách ra chơi Vân Mộng để bắt, huống hồ tôi đây là kẻ tạo phản, làm sao tin được lời nói của Chúa thượng. Xin phiền quan Ðại phu trở về tâu lại.

Tùy Hà cố ý kéo dài câu chuyện với Trần Hy trong nửa ngày.

Giữa lúc đó, bọn tùy tòng đã đem vàng bạc đút lót cho bọn tướng lĩnh Trần Hy, khuyên đừng nghe lệnh của Trần Hy nữa.

Các tướng lĩnh được vàng, vui vẻ nhận lời.

Tùy Hà giã biệt Trần Hy trở về, yết kiến Hán đế tâu hết mọi việc. Ngày hôm sau Hán đế dẫn quân ra trận, gọi Trần Hy ra nói chuyện.

Trần Hy trông thấy Hán đế, ngồi trên ngựa nghiêng mình nói:

– Bệ hạ xuân thu đã cao, tội gì đem quân ra chỗ chiến địa.

Hán đế nói.

– Trẫm chưa hề phụ ngươi, sao ngươi nỡ phản ta?

Trần Hy nói:

– Bệ hạ giết hại công thần, vô ân bội nghĩa, dẫm chân lên vết xe đổ của Tần Chính, Hạng Vũ, lẽ nào tôi lại không làm phản.

Hán đế nổi giận, quay nhìn các tướng nói:

– Có tướng nào dám ra bắt tên phản loạn đó chăng?

Phàn Khoái, Chu Bột vỗ ngựa xông đến cùng Trần Hy giao chiến. Ðánh nhau được hơn vài mươi hiệp, Vương Lăng và Chu Xương xông ra trợ lực. Trần Hy cự không lại dẫn quân chạy về hướng Nam cố ý chờ bọn Lưu Võ đem quân tiếp cứu.

Nhưng bọn Lưu Võ đã nhận vàng bạc của Hán đế, không tiếp cứu, cứ đóng quân trong trại ngồi xem.

Quân Trần Hy rối loạn, quân Hán đế đuổi theo, chém giết rất hăng.

Trần Hy chạy được hai mươi dặm, đàng sau quân Hán đuổi theo rất gấp, bỗng phía trước mặt có một doanh trại lập rất uy nghi, quân kỳ tề chỉnh. Trần Hy vừa chạy đến đó thì một tiếng pháo lệnh nổ, cửa trại mở ra bốn mặt, quân sĩ ùa ra cứu ứng cho Trần Hy, đánh lùi quân Hán đế lại.

Hán đế thấy trời đã tối, vội vã thu quân về trại, nói với chư tướng:

– Ngày nay tuy chiến đấu mỏi mệt, song đêm nay không nên ngủ, cần phải đề phòng địch quân cướp trại.

Trần Hy bị thua một trận, song nhờ cứu binh, không đến nổi thiệt hại nặng lắm.

Khi về đến bản doanh Trần Hy gọi bọn Lưu Võ đến trách:

– Các ngươi thấy ta lâm trận sao chẳng ứng cứu.

Nếu ta không lập trước cái trại này để phòng bị thì còn gì tánh mạng. Sau này nếu tướng nào còn vi lệnh, ta quyết chẳng dung.

Các tướng đều sợ sệt, lùi ra.

Ngày hôm sau, Hán đế thăng tướng, cùng các tướng đàm luận.

Vương Lăng bước ra tâu:

– Trần Hy là tay mưu lược, xem như trận vừa rồi, Trần Hy lập sẵn trại quân cứu ứng, tỏ ra lối dùng quân rất chu đáo. Nếu ở đây đánh mãi với hắn khó thắng. Chi bằng lui về Hàm Ðan, lấy quân các lộ chư hầu, tích thảo dồn lương, quyết một trận thư hừng, mới bắt Trần Hy nổi.

Hán đế nói:

– Ta tự nhiên lui quân, e bị Trần Hy truy kích.

Vương Lăng nói:

– Quân ta vừa thắng trận, Trần Hy là tay lão luyện, dám đâu đuổi theo. Hắn cũng biết rằng quân lực của ta chưa hao mòn, một khi rút lui tất có binh phục.

Hán đế khen phải. Ðêm ấy phân phối các tướng mai phục hai bên ven đường, rồi truyền lệnh kéo đại binh về Hàm Ðan.

Quân thám thính được tin ấy vào báo. Trần Hy nói:

– Hán đế lui quân là vì thấy đóng nơi đây bất lợi.

Vả lại từ xa kéo đến, lương thực thiếu thốn, không thể đóng lâu được.

Các tướng nói:

– Ta nên nhân cơ hội này truy kích đánh cho quân Hán tan tành.

Trần Hy nói:

– Hán đế lui binh vì thấy bất lợi quân cơ chớ đâu phải bại tẩu. Nếu ta đuổi theo không khỏi bị quân phục đánh chết.

Các tướng không tin, cho người dò xét, quả có quân Hán mai phục hai bên lộ, lòng khen ngợi Trần Hy chẳng cùng.

Hán đế lui quản về Hàm Ðan, an dinh hạ trại. Từ đó hai bên chỉ đóng quân canh giữ, chưa nghĩ đến chuyện đánh nhau nữa.