Chương 44: Thúc Thiêm lâm hình cãi vua Tấn – Huyền Cao giả mệnh khao quân Tần

Tần Mục công giảng hòa riêng với nước Trịnh, kết lập điều ước, rồi rút quân về. Tấn Văn công nổi giận. Hỗ Yến nói rằng :

Quân Tần dẫu đi, nhưng cũng chưa xa, tôi xin đem quân đi đuổi đánh Quân Tần đã có lòng về thì tất không có chí muốn đánh, tôi chắc rằng chỉ một trận là đủ phá được quân Tần ; ta đã phá được quân Tần thì quân Trịnh sẽ mất vía, không đợi đánh mà tự khắc phải hàng.

Tấn Văn công nói :

– Không nên ! Ngày xưa ta nhờ sức vua Tần mà được phục quốc, nếu không có vua Tần thì sao ta được thế này ? Thành đắc Thần vồ lễ với ta, mà ta còn lui quân ba xá để trả ơn nước Sở, huống chi là vua Tần ! Vả không có quân Tần, ta cũng vây nổi nước Trịnh, chứ có lo gì !

Nói xong, liền chia quân mấy mặt, cứ việc vây thành nước Trịnh. Trịnh Văn công lại bảo Chúc Vũ rằng :

Tần chịu lui quân là nhờ sức nhà ngươi, nhưng quân Tấn chưa lui thì biết làm thế nào ?

Chúc Vũ nói :

Tôi nghe nói vua Tấn yêu công tử Lan lắm, nay ta sai người đón công tử Lan về mà giáng hòa thì tất thế nào vua Tấn cũng thuận cho

Trịnh Văn công nói :

– việc này lại phải nhờ đến lão đại phu đi giúp cho mới được.

Thạch Thân Phủ nói với Trịnh Văn công rằng :

– Chúc Vũ nhọc lắm rồi, để tôi xin đi thay.

Nói xong, liền đem lễ vật đến dinh Tấn Văn công, xin vào yết kiến. Tấn Văn công cho vào. Thạch Thân Phủ sụp lạy dâng lễ vật nói với Tấn Văn công rằng :

Chúa công tôi vì cớ ở gần nước Sở, vậy nên không dám ra mặt chống cự với Sở, nhưng kỳ thực vẫn thần phục nhà vua. Nay. nhà vua đem quân đến đánh, chúa công tôí biết tội đã nhiều, sai tôi đem những bảo vật của cha ông để lại đến dâng nhà vua để tạ tội. Chúa công tôi có người em là công tử Lan, lâu nay được hầu hạ nhà vua, xin nhà vua vì tình công tử Lan mà cho nước tôi được giáng hòa ; xin nhà vua cho công tử Lan về giám sát quyền chính nước Trịnh, công Tử Lan ngày ngày có mặt, nước tôi đâu dám đổi lòng.

Tấn Văn cồng nói :

Nước ngươi lập kế khiến cho Tần lui quân là có ý khinh ta một mình không hạ nổi nước Trịnh ; nay lại xin giảng hòa, chẳng qua là muốn dùng kế hoãn binh để đợi quân Sở đến cứu viện đó thôi. Nay muốn cho ta lui quân thì tất phải theo ta hai điều.

Thạch Thân Phủ nới :

– Hai điều ấy là gì, xin nhà vua dạy cho.

Tấn Văn công nói :

– Một là phải lập công tử Lan làm thế tử ; hai là phải đem Thúc Thiêm sang nộp ta, có như thế mới tỏ rõ tấm lòng thành thực của Trịnh hầu được.

Thạch Thân Phủ về nói với Trịnh Văn công. Trịnh Văn công nói :

Ta chưa có con trai, mà công tử Lan thì ngày xưa có ứng vào mộng triệu, nay lập làm thế tử cũng có thể được ; còn Thúc Thiêm là bề tôi tay chân của ta, ta bỏ đi thế nào cho đành !

Thúc Thiêm nói :

– Vua Tấn đòi nộp tôi, nếu tôi không sang thì không chịu lui quân, vậy thì có đâu tôi dám sự chết mà để nỗi lo cho chúa công. Xin chúa công cứ cho tôi đi.

Trịnh Văn công nói :

Ta không muốn để cho nhà ngươi đi, vì nhà ngươi đi thì tất phải chết !

Thúc Thiêm nói :

– Chúa công không nỡ để cho tôi chết, mà nỡ để cho trăm họ phải chịu lầm than khổ sở hay sao ? BỎ một mạng tôi mà cứu được trăm họ, chúa công tiếc gì !

Trịnh Văn công ứa nước mắt cho đi. Thạch Thân Phủ đưa Thúc Thiêm sang nộp Tấn Văn công, và xin đón công tử Lan về để lập làm thế tử. Tấn Văn công bằng lòng, bảo Thạch Thân Phú hãy đợi ở trong dinh, rồi sai HỒ Yến đến Đông ĐÔ triệu công tử Lan.

Khi Tấn Văn công trông thấy Thúc Thiêm thì quát to lên mà mắng rằng :

Nhà ngươi cầm quyền chính nước Trịnh mà để cho vua Trịnh thất lễ với ta, đó là một tội ; nước Trịnh đã dự hội với ta, mà sau lại bội ước, đó là hai tội !

Nói xong, liền sai quân sĩ đem vạc ra, sắp sửa để nấu Thúc Thiêm. Thúc Thiêm vẫn cứ nghiễm nhiên, không sợ hái gì cả, chắp tay mà nói với Tấn Văn công rằng :

Tôi đành phận chết, nhưng xin nhà vua hãy cho tôi nói hết lời.

Tấn Văn công nói :

– Nhà ngươi nói điều gì ?

Thúc Thiêm nói :

Khi trước nhà vua qua nước tôi, tôi có nói với chúa công tôi rằng : nhà vua là người hiền minh, mà các người đi theo hầu lại toàn là những bậc tài giỏi cả, vậy thì khi về nước tất làm bá chủ ; đến khi nhà vua hội chư hầu ở đất ôn ấp, tôi lại khuyên chúa công tôi một lòng thờ Tấn, chớ có bội ước, nhưng trời làm hại nước tôi, khiến cho lời

nói của tôi không được dùng. Nay nhà vua đòi bắt tôi, chúa công tôi cũng thương là vô tội, toan không cho đi ; tôi xin liều một mình tôi để cứu cho trăm họ. Phàm người ta, việc gì cũng liệu trước được, thế là trí ; một lòng giúp nước, thế là trung ; không tránh hoạn nạn, thế là dũng ; liều mình để cứu trăm họ, thế là nhân. CÓ người bề tôi đủ cả nhân, trí, trung, dũng như thế thì cố nhiên theo pháp luật nước Tấn phải đem bỏ vào vạc mà nấu !

Nói xong, tay nắm tai vạc mà kêu to lên rằng :

– Từ nay trở đi, những người làm bề tôi, nên lấy Thúc Thiêm này làm răn ?

Tấn Văn công hoảng hốt, liền thuyền tha ngay Thúc Thiêm rồi nói với Thúc Thiêm rằng :

– Ta thử nhà ngươi đó thôi ! Nhà ngươi thật là một người giỏi !

Từ đó Thúc Thiêm được kính trọng và hậu đãi khác thường.

được mấy ngày thì công tử Lan ở Đông ĐÔ đến. Tấn Văn công báo cho biết sự thể nước Trịnh đón về, lại bảo Thúc Thiêm và bọn Thạch Thân Phủ lấy lễ thế tử mà yết kiến công tử Lan, rồi rước vào trong thành nước Trịnh. Trịnh Văn công lập công tử Lan làm thế tử. Bấy giờ Tấn Văn công mới rút quân về nước. Năm ấy, Ngụy Thù say rượu, ngã xe gãy tay, bệnh cũ lại phát, rồi hộc máu ra mà chết. Tấn Văn công cho

con Ngụy Thù là Ngụy Khỏa được nối quan tước. Chưa được bao lâu, HỒ Mao và HỖ Yến cũng đều ốm chết cả. Văn công thương xót vô cùng khóc mà rằng :

– Ta được thoát hoạn nạn mà có ngày nay là sức của hai quốc cữu, chẳng ngờ hai quốc cữu lại bỏ ta mà đi, khiến cho ta như người mất cánh tay phải, thương ôi !

Tư Thần nói với Tấn Văn công rằng :

– Chúa công tiếc tài hai vị HỒ quốc cữu, tôi xin cử một người khác cũng có tài làm khanh tướng được.

Tấn Văn công nói :

– Nhà ngươi định cử ai ?

Tư Thần nói :

– Ngày trước tôi đi sứ qua đổng Ký Giã, thấy một người đang cày ruộng ; người vợ đem cơm đến bờ ruộng, hai tay bưng đưa cho chồng, chồng cũng kính trọng mà đỡ lấy. Lúc người chồng ăn thì người vợ đứng hầu ở bên cạch, chỉ hai vợ chồng với nhau, mà còn kính trọng nhau như khách lạ, huống chi là khi đối với người khác. Tôi nghe nói người biết giữ lễ phép là người có đức hạnh, nên tôi đến hỏi họ tên thì ra đó là con trai của Khước Nhuế, tên gọi Khước Khuyết. Nếu nước Tấn ta dùng được người ấy thì cũng chẳng kém gì HỒ quốc cữu.

Tấn Văn công nói :

Cha có tội, chẳng lẽ lại dùng con ư ?

Tư Thần nói :

– Nghiêu, Thuấn là thánh nhân mà có con là Đan Chu và Thương Quân là người bất đức ; Cổn là người ác mà có con là vua Vũ là bậc thánh nhân, thế mới biết thiện ác không phải là cha truyền con nối. Sao chúa công lại nghĩ đến điều ác của cha mà bỏ cái tài hữu dụng của con ?

Tấn Văn công khen phải mà bảo rằng :

– Nhà ngươi triệu Khước Khuyết đến đây cho ta.

. Tư Thần nói :

Nguyên tôi sợ người ấy trốn sang nước khác thì người ta dùng mất, vậy đã mời về ở tại nhà tôi. Xin chúa công sai sứ đến triệu, mới phải đạo cầu hiền.

Tấn Văn công theo lời sai nội thị đem áo bào mũ giải đi mời Khước Khuyết. Khước Khuyết sụp lạy mà từ chối rằng :

Tôi là một kẻ nông phu Ởø Ký Giã, chúa công nghĩ đến tội cha tôi mà khoan dung cho cũng đã đội ơn lắm rồi, đâu còn dám lạm dự quan tước.

NỘI thị về nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công hai ba lần sai nội thị khuyên mời, Khước Khuyết mới đội mũ mặc áo vào triều.

Khước Khuyết mình dài chín thước, mũi cao mặt to, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông. Tấn Văn công trông thấy mừng lắm, liền cho Tư Thần làm chánh tướng ở đạo hạ quân, mà lấy Khước Khuyết làm phó tướng Nước Tấn lại mới lập ra hai đạo quân là : tân thượng quân và tân hạ quân. Tân Thượng quân thì cho Triệu Thôi làm chánh tướng, mà lấy Cơ Trịnh làm phó tướng. Tân hạ quân thì cho Tư Anh (Con Tư Thần) làm chánh tướng, mà lấy Tiên ĐÔ làm phó tướng.

Sở Thành vương nghe tin nước Tấn sửa sang quân chính có ý sợ hãi, mới sai quan đại phu là Đấu Chương xin giảng hòa. Tấn Văn công nghĩ đến ơn cũ, cũng bằng lòng, sai quan đại phu là Dương Xử Phủ sang ăn thề với nước Sở.

Trịnh Văn công mất năm 24 đời Chu Tương vương. Triều thần tôn công tử Lan lên nối ngôi, tức là Trịnh Mục công, quả ứng vào cái triệu nằm mộng thấy cành hoa lan ngày trước. Mùa đồng năm ấy, Tấn Văn công ốm nặng, gọi bọn Triệu Thôi, Tiên Chẩn, HỒ Xạ CÔ và Dương Xử Phủ vào nghe di mệnh , để sau phù tá thế tử hoan nối được

nghiệp bá. Lại sợ các vị công tử khác có lòng tranh cạnh, mới cho công tử Ung (con nàng ĐỖ Kỳ) sang làm quan ở nước Tần ; công tử Lạc (con nàng Doanh Thần) sang làm quan ở nước trần ; còn người con bé là Hắc điền thì cho sang làm quan ở nhà Chu, để cầu thân với thiên tử.

Tấn Văn công mất, ở ngôi được tám năm, thọ 68 tuổi. Thế tử Hoan lên nối ngôi, tức là Tấn Tương Công Tấn Tương công rước linh cữu Tấn Văn công đưa ra quàn ở đất Khúc ốc. Khi ra khỏi cửa thành, tự nhiên trong linh cữu có tiếng kêu to như tiếng trâu rống, mà linh cữu thì nặng lắm, xe không đi được. Triều thần từ lớn đến nhỏ ai cũng sợ hãi.

Quan thái bốc là Quách Yển bói một quẻ, rồi đoán trong quẻ bói rằng :

Trong mấy ngày qua thì có giặc tự tây phương đến, nhưng quân ta đánh được, bởi vậy tiên quân báo trước cho chúng ta biết.

Triều thần lạy tạ ở trước linh cữu. Bấy giờ linh cữu lại đi được như thường Tiên Chẩn nói : “Tây phương tức là nước Tần”, liền sai người đi do thám tin nước Tần.

Lại nói chuyện ba tướng nước Tần là Kỷ TỬ, Phùng Tôn và Dương Tồn đóng quân để phòng ngự cho nước Trịnh, thấy nước tấn đưa công tử lan về lập làm thế tử và giải vây cho nước trịnh thì lấy làm tức giận nói:

Chúng ta đóng quân ở đây để giúp nước trịnh đối phó với nước tấn, ai ngờ trịnh lại đầu hàng nước tấn, vậy công chúng ta thật uổng .

Nói xong, liền sai người mật báo với Tần Mục công. Tần Mục công trong lòng cũng có ý giận, nhưng nể Tấn Văn công, không dám nói ra, đến lúc công tử Lan lên làm vua nước Trịnh, tiếp đãi bọn Kỷ Tử cũng không ra gì. Kỷ Tử mới cùng với Phùng Tôn và Dương Tôn thương nghị rằng: .

– Chúng ta đóng đồn ở đây, không biết bao giờ cho xong việc, chi bằng ta mật tâu với chúa công đem quan sang đây để đánh úp nước Trịnh thì chúng ta kiếm được lợi to mà về.

Trong khi ba người đang thương nghị với nhau, thì lại nghe tin Tấn Văn công mất. Kỷ Tử liền chấp tay lên trán mà nói :

đó là lòng trời muốn giúp cho chúng ta được thành công đó ?

Kỷ Tử sai người tâm phúc về mật tâu với Tần Mục công rằng :

Nước Trịnh giao cho chúng tôi giữ mặt Bắc môn, nếu chúa công cho một đạo quân lẻn sang đánh Trịnh, thì đã có chúng tôi làm nội ứng, vậy tất phá vỡ được. Nước Tấn đang có tang, tất không sang cứu nước trịnh và vua Trịnh cũng mới lên nối ngôi, việc phòng thủ chưa được cẩn thận lắm, chúa công chớ nên bỏ mất cơ hội này.

Tần Mục công tiếp được mật thư liền cùng với Kiển Thúc và Bách Lý Hề thương nghị. Kiển Thúc và Bách Lý Hề đồng thanh mà can rằng :

– Nước Tần ta xa cách Trịnh, kể hàng nghìn dặm, không thể chiếm cứ lấy nước Trịnh được, chẳng qua chỉ lấy được của cải đem về mà thôi. Ta đem quân đi nghìn dặm, tài nào mà che được tai mắt thiên hạ, nếu kẻ kia biết mà phòng thủ trước, có phải là ta uổng công khó nhọc không ? Vả mới đây mình đem quân sang để giữ hộ nước cho

người ta mà nay lại đánh, sao gọi là tín được ? Nhân lúc người ta có tang mà đánh, sao gọi là nhân được ? Việc này nếu thành thì cái lợi cũng nhỏ thôi mà nếu không thành thì cái bại lớn lầm, thế sao gọi là trí được ? Mất cả ba điều ấy, thì chúng tôi không thấy việc này nên làm ở chỗ nào đây.

Tần Mục công phật ý đáp rằng :

– Ta đây, ba lần lập vua cho nước Tấn, hai lần dẹp loạn cho nước Tấn, uy danh lừng lẫy khắp thiên hạ. Chỉ vì vua Tấn đánh được quân sở ở Thành Bộc, vậy nên ta nhường cho Tấn làm bá chủ, nay vua Tấn tạ thế rồi, thiên hạ chẳng còn ai địch nổi ta. Nước Trịnh theo Tấn chẳng qua như con chim tựa người, có lúc cũng phải bay đi, chi bằng ta nhãn cơ hội này sang diệt nước Trịnh, rồi đổi cho Tấn mà lấy đất Hà Đông thì Tấn tất phải nghe, sao lại bảo rằng không lợi ?

Kiến Thúc lại nói :

Sao chúa công không sai người sang viếng tang nước Tấn, nhân tiện mà viếng tang nước Trịnh để dò xem tình hình nước Trịnh có nên đánh hay không ? Chớ nên nghe lời bọn Kỷ Tử vội.

Tần Mục công nói : .

Nếu đợi đi viếng tang, rồi mới đem quân sang đánh thì những đi cùng về đã gần một năm, cái đạo dùng binh phải như sét đánh ngang trời, không kịp bưng tai mới được. Nay nhà ngươi già lẫn rỗi không hiểu điều ấy !

Nói xong, liền sai người mật báo cho bọn Kỷ Tử biết trước rằng đến thượng tuần tháng hai thì đem quân tới Bắc môn để đánh Trịnh, rồi tức khắc cho mạnh Minh (con Bách Lý Hề) làm chánh tướng, Tây Khất Thuật và Kiến Bính (con Kiến Thúc) làm phó tướng đem hơn hai nghìn quân thẳng đường tiến sang nước Trịnh. Khi Mạnh Minh

và Kiến Bính đem quân đi, Bách Lý Hề cùng với Kiến Thúc ra tiễn, khóc mà bảo rằng :

Than ôi ? Ta trông thấy con đi, mà không được trông thấy con về ?

Tần Mục công giận lắm, sai người trách Bách Lý Hề và Kiến Thúc rằng :

Sao nhà ngươi lại dám khóc quân ta, muốn làm cho quân ta ngã lòng hay sao ?

Bách Lý Hề và Kiến Thúc nói :

Chúng tôi có dám khóc quân sĩ đâu, chỉ khóc riêng con chúng tôi mà thôi.

Kiến Bính thấy cha khóc, toan từ chối không đi. Kiến Thúc nói :

Cha con ta ăn lộc nước Tần bấy lâu, nay con chết để báo ơn nước Tần cũng là phải đạo !

Nói xong, liền đưa cho Kiến Bính một bức thư, niêm phong rất kỹ, lại dặn một câu rằng :

Con cứ theo lời dặn trong thư này ?

Kiến Bính vâng lời rồi đi, nhưng trong lòng vừa nghi hoặc, vừa buồn rầu, chỉ có Mạnh Minh cậy tài vũ dũng, chắc là thế nào cũng thành công không cần nghĩ ngợi. Khi đại binh đã đi rồi, Kiến Thúc cáo ốm không vào triều và xin từ chức. Tần Mục công cố ép mãi, Kiến Thúc cáo là ốm nặng, rồi xin về ở diệt Thôn. Bách Lý Hề đến nhà hỏi thăm, bảo Kiến Thúc rằng :

Tôi không phải là không biết cơ mà từ chức đâu, sở dĩ còn ở lại đây là còn mong có ngày được trông thấy mặt con tôi. CÓ điều gì xin Ngô huynh chi bảo cho.

Kiến Thúc nói :

– Quân Tần ta đi chuyến này tất thua, hiền đệ nên mật báo công tôn Chi sắp thuyền bè ở sông Hoàng Hà, may ra các tướng thoát được thì đón về. Nhớ kỹ, nhớ kỹ !

Tần Mục công nghe nói Kiến Thúc quyết chí xin về làm ruộng, thì ban cho vàng đỏ hai mươi cân, lụa hoa một trăm tấm. Các quan đều đi tiễn ra đến ngoài cửa quan mới về. Bách Lý Hề cầm tay công tôn Chi, đem lời nói của Kiến Thúc thuật lại cho nghe, và dặn công tôn Chi rằng :

– Việc này, Kiến tiên sinh không ủy thác ai mà ủy thác tướng quân, là biết tướng quân trung dũng, hết lòng lo việc nước, vậy tướng quân nên lưu ý, chớ tiết lộ cho ai biết.

Công tôn Chi nói :

– Xin vâng lời.

Nói xong liền sắp sẵn thuyền bè ở bên sông Hoàng Hà.

Mạnh Minh thấy Kiến Thúc đưa cho Kiến Bính một phong mật thư thì nghi là trong thư tất có kỳ kế để phá quân Trịnh, đêm hôm ấy đến dinh Kiến Bính xin cho xem. Kiến Bính mở thư ra đọc. Trong thư có mấy hàng chữ như sau : “Chuyến đi này, không lo gì quân Trịnh, chi lo quân Tấn mà thôi. Chỗ Hào Sơn địa thế hiểm lắm, con nên cẩn

thận. Không khéo thì ta phải nhặt xương con ở chỗ ấy đó

Mạnh Minh trông thấy, liền đứng dậy đi ra rất nhanh, vừa đi vừa nói :

– Thôi thôi ! Điềm chẳng lành . Điềm chẳng lành !

Kiến Bính cũng cho là vị tất đã như thế. Quân Tần khởi hành từ tháng chạp năm trước, đến tháng giêng năm sau qua cửa Bắc nhà Chu. Mạnh Minh nói :

– Đây là chỗ thiên tử ở, ta nên kính nể mới phải !

Nói xong, truyền cho các tướng đều hạ mũ trụ, xuống xe đi đất.

Tướng tiên phong quân Tần là Bao Man Tử, vốn người có tài vũ dũng, khi đi khỏi Bắc Môn rồi, lại lên xe phóng ngựa như bay. Mạnh Minh khen rằng :

– Giả sừ ai cũng như Bao Man Tử thì việc gì chẳng làm xong !

Các tướng sĩ nghe nói, đều nhao nhao bảo nhau rằng :

Sao chúng ta lại chịu kém Bao Man Tử ! .

Bấy giờ các tướng sĩ đều ganh đua nhau đi trước, quân kéo mau quá như gió cuốn, như chớp nhoáng, thoáng một nhát đã không thấy đâu.nữa. Chu Tương Vương sai vương tử HỔ và vương tôn Mân xem quân Tần. Vương tử HỔ tâu với Chu Tương Vương rằng :

– Quân Tần vũ dũng như thế, còn nước nào địch nổi ?

Bấy giờ vương tồn Mãn tuổi hây còn nhỏ , nghe vương tử HỔ nói

chỉ mỉm cười mà không nói gì. Chu Tương Vương hỏi :

Cậu bé con kia, nghĩ gì thế ?

Vương tôn Mân nói :

Theo lễ, thì các nước đem quân qua chỗ thiên tử ở, tất phải cuốn áo giáp và bỏ binh khí lại rồi đi cho mau, bây giờ quân Tần chỉ hạ mũ trụ mà thôi, thế là không biết giữ lễ ! Quân đã không biết giữ lễ tài nào khỏi rối loạn ; chuyến đi này tôi chắc là quân Tân phải thua !

Nước Trịnh có một người lái buôn, tên gọi Huyền Cao, vẫn làm nghề buôn trâu. từ khi vương tử Đái nhả Chu thích chơi trâu, các lái trâu ở nước Trịnh và nước Vệ đem trâu đến bán, được lãi to lắm, bởi vậy Huyền Cao còn giữ nghề ấy. Huyền Cao dẫu là người lái buôn, nhưng Vẫn có lòng trung quân ái quốc, chỉ vì không gặp người tiến

dẫn, thành ra chẳng ai biết đến. Bấy giờ Huyền Cao buôn được mấy trăm con trâu béo, định đem sang nhà Chu để bán. Khi đi đến gần bến Lê Dương, gặp một người bạn cũ tên là Kiến Tha mới ở nước Tần về. Huyền Cao hỏi :

Nước Tần độ này có chuyện gì lạ không ?

Kiến Tha nói :

– Trong hồi tháng chạp mới rồi, nước Tần có sai ba tướng đem quân đi, hình như muốn đánh úp nước Trịnh, không bao lâu nữa quân Tần sẽ sang đến nơi.

Huyền Cao giật mình mà nói rằng :

– Nước cha mẹ của ta, nay có cái tai nạn ấy, ta không nghe được thì thôi, nếu nghe được mà không cứu thì một mai nước mất, ta còn mặt mũi nào mà trở về nữa !

Huyền Cao nghĩ ra một kế, bèn từ biệt Kiến Tha, rồi một mặt sai người phi báo cho nước Trịnh biết mà phòng bị ; lại một mặt chọn hai mươi con trâu béo để sửa soạn làm lễ khao quân. Huyền Cao ngồi một cái xe nhỏ đi đón quân Tần.

Đi đến đất Diên Tân nước Hoạt, gặp tiền đội quân Tần, Huyền Cao đón ngang dọc đường mà nói với quân Tần rằng :

– Tôi là sứ thần nước Trịnh xin yết kiến quan nguyên soái.

Quân tiền đội báo với Mạnh Minh, Mạnh Minh giật mình, nghĩ rằng :

Tại sao nước Trịnh biết có quân ta đến mà sai sứ thần đón ? âu là ta hãy tiếp kiến, để xem thế nào.

Mạnh Minh nói xong, liền tiếp huyền Cao. Huyền Cao làm như phụng mệnh vua Trịnh nói với Mạnh Minh rằng :

Chúa công tôi nghe tin ba vị tướng quân, sắp sửa đem quân đi qua nước tôi, vậy có sai tôi dâng lễ mọn này, để khao các hàng quân sĩ. Nước tôi tiếp giáp các nước lớn, thường hay có việc can thiệp, nhờ có quân quý quốc đóng đồn để giữ hộ cho, nhưng nước tôi vẫn lo sợ rằng lỡ khi có sự bất trắc, lại nên tội với thượng quốc, bởi vậy phải hết sức ngày đêm phòng giữ, không dám trễ nải, xin ba vị tướng quân xét cho .

Mạnh Minh nói :

– Vua Trịnh sai nhà người khao quân, sao không có quốc thư ?

Huyền Cao nói :

– Chúa công tôi nghe tin các vị tướng quân khởi hành từ tháng chạp, mà quân đi gấp lắm, sợ đợi sửa quốc thư thì không kịp nghênh tiếp bời vậy chỉ truyền miệng cho tôi ra đây, xin các vị tướng quân lượng thứ cho.

Mạnh Minh ghé tai Huyền Cao mả bảo nhỏ rằng :

– Chúa công tôi sai chúng tôi đem quân đi đây là định đánh nước Hoạt, không phải có ý đến nước Trịnh đâu !

Nói xong, truyền đóng quân lại ở đất Diên Tân. Huyền Cao tạ ơn lui ra. Tây Khất Thuật và Kiến Bính hỏi Mạnh Minh rằng :

– Tướng quân đóng quân lại đây, là có ý gì ?.

Mạnh Minh nói :

– Quân ta đi xa hai nghìn dặm, chỉ có nhân lúc nước Trịnh bất ngờ để tiến đánh, nay người nước trịnh đã biết mà phòng bị trước, ta đánh cũng chẳng được nào. Vả ta muốn vây nước Trịnh thì lại không có quân tiếp ứng, chi bằng tiện đây ta đánh úp nước Hoạt, để khỏi mang tiếng là đem quân đi mà không được việc gì.

Đêm hôm ấy, ba tướng nước Tần chia quân làm ba mặt lẻn vào đánh lấy thành nước Hoạt. Vua nước Hoạt bỏ chạy sang nước Địch.

Quân Tần bắt lấy hết sạch châu báu ngọc lụa của nước Hoạt. Nước Hoạt bị tàn phá, và sau đó lại bị nước Vệ kiêm tính mất.

Trịnh Mục công tiếp được mật báo của Huyền Cao, chưa lấy gì làm tin lắm, tức thì sai người dò thám bọn Kỷ Tử, xem tình hình thế nào. Bấy giờ đã thượng tuần tháng hai, bọn Kỷ Tử đang sửa soạn xe cộ và khí giới chỉ đợi quân Tần đến nơi thì trong ngoài hợp sức mà đánh Quân sĩ về báo Trịnh Mục công. Trịnh Mục công sợ hãi, liền sai lão đại phu là Chúc Vũ đến yết kiến bọn Kỷ Tử, đưa biếu mỗi người một tấm lụa mà bảo rằng :

– Các ngài đóng quân ở nước tôi, nước tôi vì việc khoản đãi mà hươu nai ở chốn Nguyên Phố đã hết sạch cả, nay nghe tin các ngài đang sửa soạn quân mã, tất là muốn thu quân về nước. Hiện nay Mạnh Minh cùng các tướng đã tiến quân đến nước Hoạt, sao các ngài không đi theo ? .

Kỷ Tử giật mình, thầm trong lòng rằng :

– Mưu kế của ta đã tiết lộ ra rồi, quân đến mà vô công thì ta là hữu tội, chẳng những không ở yên được nước Trịnh, mà muốn về nước Tần cũng không được nữa. .

Kỷ Tử xin lỗi với Chúc Vũ, rỗi bỏ trốn sang nước Tề. Phùng Tôn và Dương Tôn cũng sợ tội, bỏ trốn sang nước Tống. Quân lưu thú không có chủ tướng họp nhau toan nổi loạn. Trinh Mục công sai Dật Chi HỖ đem lương thực cấp phát cho quân Tần để về nước ; rồi ghi công Huyền Cao, cử cho làm chức quận úy: Từ đó nước Trịnh được yên ổn. . .

Tấn Tương công đang thủ tang ở đất Khúc ốc, nghe tin nước Tần sai Mạnh Minh thống lĩnh đại binh đi về phía đông, không biết là đi đâu liền họp triều thần lại để thương nghị. Tiên Chẩn đã cho người đi dò thám, biết rõ mưu quân Tần định lẻn đánh nước Trịnh, tức khắc vào yết kiến Tấn Tương công.

Chương 45: Mạnh Minh cậy tài bị Tấn vây – Tiến Chẫn cởi giáp cho địch bắn

Nguyên soái nước Tấn là Tiên Chẩn đã biết rõ mưu quân Tần định đánh úp nước Trịnh, mới vào nói với Tấn Tướng công rằng:

– Vua Tần không nghe lời Kiến Thúc và Bách Lý Hề, đem quân đi kế hàng nghìn dặm, định lẻn đánh nước người ta, chính ứng vào cái lời của quan thái bốc là Quách Yến nói có giặc ở tây phương đến, ta nên mau mau đón đường mà đánh, chớ bỏ mất cơ hội này !

Loan Chi nói:

– Vua Tần có ơn với tiên quân ta ngày xưa to lắm, nay ta chưa đền ơn mà đã chực đón đánh thì đối với tiên quân, sao cho phải đạo?

Tiên Chẩn nói:

– Nay ta đánh Tần, chính là theo được cái chí tiên quân đó ! Tiên quân tạ thế đi, các nước đến viếng tang cả, chỉ có Tần không đến viếng tang, thế là nước Tần vô lễ với ta, còn ân nghĩa gì ! Vã nước Tần đã có giao ước với ta rằng: hai nước có việc binh thì đồng lòng giúp nhau, thế mà khi vây Trịnh, nước Tần bội ước rút quân, đủ biết tình nghĩa nước Tần như thế nào. Người ta đã không thủ tính thì tội gì mình phải nhớ ơn?

Loan Chi nói:

– Quân Tần chưa xâm phạm gì nước ta, mà ta đón đánh thì chẳng cũng quá lắm ư !

Tiên Chẩn nói:

– Ngày trước nước Tần giúp tiên quân ta, không phải yêu gì nước Tấn, chẳng qua là vì tư lợi. Khi tiên quân ta lên làm bá chủ, nước Tần dẫu ngoài mặt phải theo, nhưng trong lòng vẫn ghen ghét, nay nhân lúc ta có tang mà đem quân sang đánh Trịnh, thế là có ý khinh ta không dám cứu Trịnh, tất cũng có ngày lên đánh nước at. Tục ngữ có câu rằng: “Một ngày tha giặc, để họa mấy đời!” Nếu ta không đánh Tần thì sao tự lập được?

Triệu Thôi nói:

– Nước Tần dẫu nên đánh, nhưng chúa công đang lúc có tang mà gây việc chiến tranh, tôi sợ không hợp lẽ.

Tiên Chẩn nói:

– Ðể tang là cốt giữ cho trọn đạo hiếu, mà đánh giặc là để giữ yên nước nhà;còn điều gì hiểu hơn nữa ! Nếu các ngài cho là không nên thì tôi xin đi một mình.

Bọn Tư Thần đều tán thành lời nói của Tiên Chẩn. Tấn Tướng công nói:

– Nguyên soái liệu xem quân Tần đi đánh Trịnh, độ bao giờ trở về?Khi về thì đi theo đường nào?

Tiên Chẩn tính đốt ngón tay, rồi đáp lại rằng:

– Ði xa mà không có tiếp ứng, không thể đi lâu được, kể cả đi lẫn về hơn bốn tháng thì đầu mùa hạ thế nào cũng đi qua Thăng Trì. Thăng Trì là chỗ giáp nước Tần và nước Tấn, phía tây có hai dãy núi Hào Sơn, từ Ðông Hào đến Tây Hào cách nhau ba mươi nhăm dặm. Chỗ ấy hiểm lắm, cây cối rậm rạp, đá núi lởm chởm, nhiều nơi xe không đi được, phải tháo ngựa ra. Nếu ta phục một đạo binh ở đấy rồi đổ ra mà đánh thì bắt sống được hết quân Tần

Tấn Tướng công nói:

– Việc đó ta ủy thác cho quan nguyên soái.

Tiên chẩn sai con là Tiên Thả Cư cùng với Ðỗ Kích đem năm nghìn quân phục ở phía tả núi Hào Sơn, sai con Tư Thần là Tư Anh cùng với Hồ Cúc Cư đem năm nghìn quân phục ở phía hữu núi Hào Sơn, đợi khi quân Tần đến thì đổ ra mà đánh. Lại sai con Hồ Xạ Cô cùng với Hàn Tử Dư đem năm nghìn quân phục ở phía tây núi Hào Sơn, rồi đẵn gỗ lấp ngang đường, để cho quân Tần không đi được, sai con Lương Do Mỹ là Lương Hoằng cùng với Lai Câu đem nghìn quân phục ở phía đông Hào Sơn, đợi khi quân Tần qua đó thí đem quân ra mà đuổi. Tiên Chẩn cùng với bọn Triệu Thôi và các tướng theo Tấn Tướng công đem quân đóng ở ngoài Hào Sơn hai mươi dặm để tiếp ứng.

Quân Tần diệt được nước Hoạt, về gần đến Hào Sơn, Kiển Binh nói với Mạnh Minh rằng:

– Hào Sơn hiểm lắm, khi trước phụ thân tôi đã có lời dặn nguyên soái nên cẩn thận mới được.

Mạnh Minh nói:

– Ta đem quân đi nghìn dặm, còn chẳng sợ hải gì, huống chi đi khỏi Hào Sơn tức là địa giới nước nhà, còn ngại gì nữa !

Tây Khất Thuật nói:

– Nguyên soái cũng nên phòng xa, sợ khi quân Tấn có mai phục, đỗ ra đánh thì ta chống lại sao nổi?

Mạnh Minh nói:

– Tướng quân sợ nước Tần như thế, tôi xin đi trước, nếu có quân mai phục, để mặc tôi đối địch.

Mạnh Minh sai Bao Man Tử đi tiên phong, rồi đến nhị đội là Mạnh Minh, tam đội là Tây Khất Thuật, tứ đội là Kiển Binh, mỗi toán quân cách nhau đến một hai dặm. Bao Man Tử tay cầm phương thiên họa kích nặng tám mươi cân sắt, tự đắc cho là thiên hạ không ai địch nổi. Khi đi đến phía đông Hào Sơn, bỗng có một viên đại tướng đem quân ra đón đường hỏi rằng:

– Nhà ngươi có phải là đại tướng nước Tần, tên gọi Mạnh Minh đó không? Chúng ta chờ đợi đã lâu lắm rồi !

Bao Man Tử nói:

– Nhà ngươi họ tên là gì, nên nói trước cho ta biết?

Viên đại tướng ấy đáp:

– Ta đây đại tướng nước Tấn tên gọi Lai Câu !

Bao Man Tử nói:

– Nước mày có Loan Chi và Ngụy Thù đến, họa chăng đối địch với ta được mấu hợp, mày là đứa vô danh tiểu tốt, biết điều thì tránh ra một bên để quân ta đi, kẻo ta cho một ngọn kích này thì khôn toàn được tính mệnh!

Lai Câu giận lắm, xông lại đánh Bao Man Tử. Bao Man Tử cầm kích đánh vào cái ngáng ở trên xe Lai Câu, gãy làm hai đoạn. Lai Câu thấy Bao Man Tử sức mạnh như vậy thì bất giác khen rằng:

– Ta vẫn nghe tiếng Mạnh Minh, thật cũng không sai.

Bao Man Tử bật cười mà rằng:

– Ta là một viên tiểu tướng, tên gọi là Bao Man Tử !Nguyên soái ta khi nào lại thèm giao chiến với lũ chuột !Chúng bây nên mau mau tránh đi, kẻo nguyên soái ta tới đây thì không còn mống nào sống sót !

Lai Câu nghĩ thầm:

– Tiểu tướng nước Tần mà còn giỏi như thế, huống chi là Mạnh Minh, không biết giỏi đến đâu!

Lai Câu liền quát to lên mà bảo Bao Man Tử rằng:

– Ta tránh cho nhà người đi, nhà ngươi chớ nên xâm phạm đến quân ta.

Nói xong, lại thu quân đứng dẹp một bên, nhường cho Bao Man Tử đi. Bao Man Tử tức khắc sai quân truyền báo với chủ soái là Mạnh Minh rằng:

– Nước Tấn có một toán quân mai phục, đã bị tôi đánh tan rồi, xin nguyên soái mau mau tiến binh. Lai Câu thu quân về yết kiến Lương Hoằng, khen Bao Man Tử là người tài giỏi. Lương Hoằng cười mà nói rằng:

– Dẫ cá mập thuồng luồng mà đã chui vào lưới sắt, cũng chẳng cựa quậy được nữa!Chúng ta nên tránh một bên cho quân Tần đi qua hết, rồi sẽ đuổi đánh thì chắc được toàn thắng!

Bọn Mạnh Minh kéo quân qua phía đông Hào Sơn. Ði được mấy dặm thì thấy núi đá cheo leo, cây rừng rậm rạp, đường lối rất hiểm trở, xe ngựa không tài nào đi được, nhưng thấy quân tiền đội của Bao Man Tử đi đã xa rồi, Mạnh Minh mới bảo các tướng rằng:

– Bao Man Tử đi đã xa như vậy thì chắc là không còn có quân mai phục nữa!

Nói xong, truyền cho quân sĩ bỏ mũ trụ áo giáp ra, rồi dắt ngựa mà đi đất, không có hàng ngũ nào cả. Ði được một quãng, bỗng nghe báo ở mặt sau có quân Tấn đuổi theo. Mạnh Minh nói:

– Ta đi khó khăn thế này thì chúng ta đi cũng chẳng dễ nào! Ta chỉ sợ có quân ngăn trở, chớ không sợ có quân đuổi theo.

Mạnh Minh truyền cho các đội quân đều mau mau kéo trước, còn mình thì đi sau, để đối địch với quân Tấn. Lại đi khỏi mấy ngọn núi nữa, bổng nghe báo có nhiều cây gỗ bỏ chặng ngang đường, quân không đi được. Mạnh Minh nói:

– Nếu vậy thì tất có quân mai phục!

Mạng Minh trèo lên ngọn núi đứng nom, trông thấy ở khe núi có cắm một ngọn cờ đỏ cao hơn ba trượng, trên lá cờ đề một chữ “Tấn”, còn dưới thì có nhiếu cây gỗ bỏ ngang lấp cả lối đi. Mạnh Minh nói:

– Ðây là kế nghi binh của quân Tấn đó!

Nói xong, truyền cho quân sĩ nhổ lá cờ đỏ, rồi xúm nhau xô gỗ ra để lấy đường đi. Ai ngờ lá cờ đỏ ấy là ký hiệu của quân Tấn, quân Tấn thấy mất là cờ đỏ, biết là quân Tần đã đến, tức khắc bốn mặt đổ ra đón đánh. Kiển Binh truyền cho quân sĩ đứng lại để đối địch, bỗng thấy ở trên ngọn núi có một vị tướng quân, tức là Hồ Xạ Cô, quát to lên rằng:

– Tướng tiên phong của nhà ngươi là Bao Man Tử, đã bị bắt trói ở đây rồi, nhà ngươi nên mau mau đầu hàng đi thì mới bảo toàn được tính mệnh!

Nguyên Bao Man Tử cậy có sức khỏe;xung đột đi trước, bỗng sa xuống một cái hầm sâu, quân Tấn thả câu liêm xuống móc lên, rồi trói lại đưa lên từ xa. Kiển Binh sợ lắm, sai người truyền báo cho Tây Khất Thuật và Mạnh Minh biết. Mạnh Minh thấy chỗ ấy chỉ rộng chừng một thước, mà một bên thì núi đá chênh vênh, một bên thì hố sâu muôn trượng, đại binh không thể co duỗi được, thì nghĩ ra một kế, mới truyền cho đại binh lui về phía đông Hào Sơn để cùng với quân Tấn quyết chiến. Quân Tấn vừa lui lại một quãng thì bỗng thấy một viên đại tướng là Lương Hoằng, và một viên phó tướng là Lai Câu đem năm nghìn quân Tấn đổ ra đón đánh. Mạnh Minh kinh hãi, truyền cho quân sĩ theo hai phía trèo núi vượt khe để tìm lối đi, bổng thấy ở đầu núi phía tả, chiêng trống rầm rĩ, có một viên đại tướng quát to lên rằng:

– Ta đây là đại tướng nước Tấn, tên gọi Tiên Thả Cư, Mạnh Minh nên mau mau đầu hàng đi !

Mạnh Minh trông sang đầu núi phía hữu, lại thấy hiện cờ của một viên đại tướng nước Tấn tên là Tư Anh.

Quân Tần chạy trốn tán loạn, kẻ trèo núi, người vượt khe, đều bị quân Tấn chém giết hoặc bắt sống. Mạnh Minh tức giận, lại cùng với Tây Khất Thuật và Kiển Binh đánh thốc lên phía trước. Ai ngờ trong đống cây gỗ ngổn ngang dọc đường, đều có lưu hoàng diêm tiêu là vật dẫn hỏa, bị tướng nước T- án là Hàn Tử Dư châm lửa đốt lên, tàn bay đỏ rực, khói tỏa mù trời. Phía sau lại có quân Lương Hoằng tiến đến, thành ra bên phải bên trái, phía trước phía sau, đều có quân Tấn cả, quân Tần không còn có đường nào mà chạy thoát được. Mạnh Minh bảo Kiển Binh rằng:

– Kiển tiên sinh (trỏ Kiển Thúc)thật là thần toán ! Ngày nay chúng ta đành chết ở đây mà thôi ! Tướng quân nên cùng với Tây Khất Thuật thay hình đổi dạng, tìm đường trốn đi, họa may có người nào thoát vế nước được, tâu với chúa công ta, để ngày khác đem quân sang đánh báo thù thì ta dẫu chết xuống suối vàng, cũng được thỏa dạ.

Tây Khất Thuật và Kiển Binh khóc mà rằng:

– Chúng ta sống chết có nhau, lòng nào mà bỏ nhau !

Tây Khất Thuật và Kiển Binh nói chưa dứt thì quân sĩ chạy trốn đã gần hết, xe cộ khí giới bỏ lại ngổn ngang chồng đống trên đường.

Mạnh Minh và các tướng không còn kế gì đành ngồi ở khe núi chờ chịu trói. Quân Tấn bốn mặt vây kín, tất cả tướng sĩ nước Tần đều bó tay chịu tù. Tiên Thả Cư và chư tướng hội họp ở dưới núi Ðông Hào, đem ba tướng nước Tần và Bao Man Tử, bỏ vào tù xa cùng với quân sĩ, xe ngựa và bao nhiêu trai gái ngọc lụa của nước Hoạt, giải về đại dinh Tấn tướng công. Quân Tấn vui mừng, hò reo vang động. Tấn Tướng công hỏi tên họ ba tướng và hỏi Bao Man Tử là ai. Lương Hoằng nói:

– Viên ấy dẫu là tiểu tướng, nhưng có tài vũ dũng hơn người, khi trước Lai Câu ra đối địch với hắn, đã bị thua một trận, nếu hắn không sa xuống hầm sâu thì cũng khó lòng mà bắt được.

Tướng công kinh ngạc nói:

– Hắn vũ dũng như thế, để hắn tất có ngày sinh biến !

Rồi gọi Lai Câu đến trước mặt bảo rằng:

– Ngày trước nhà ngươi bị hắn đánh thua, nay ta cho phép nhà ngươi được chém đầu hắn ở trước mặt ta, để nhà ngươi thỏa dạ.

Lai Câu vâng mệnh, đem Bao Man Tử trói vào cái cột ở giữa sân, rồi tay cầm thanh đao, toan bổ vào đầu Bao Man Tử. Bao Man Tử thét lên rằng:

– Mày đã bị ta đánh thua, sao dám phạm đến ta !

Tiếng thét của Bao Man Tử, khác nào một tiếng thét ở lưng chừng trời, làm cho cửa nhà chuyển động cả. Trong khi Bao Man Tử miệng thét mà hai tay vùng vằng, bao nhiêu dây trói đứt sạch cả. Lai Câu giựt mình kinh sợ, tay chân rụng rời, đánh rơi thanh đao xuống đất. Bao Man Tử tức khắc cướp lấy đao, bỗng một viên tiểu tướng tên gọi Lang Ðàm, đứng gần đấy trông thấy, vội vàng cầm đao xông vào chém Bao Man Tử ngã xuống rồi cắt đầu đem nộp ở trước mặt Tấn Tướng công. Tấn Tướng công mừng lắm nói:

– Vũ dũng của Lai Câu, lại không bằng một viên tiểu tướng !

Nói xong, liền cách chức Lai Câu không dùng nữa, cho Lang Ðàm làm chức xa hữu. Lang Ðàm tạ ơn lui ra, nghĩ rằng tài năng của mình đã được nhà vua biết, bèn không đến yết kiến quan nguyên soái là Tiên Chẩn. Tiên Chẩn có ý không bằng lòng.

Ngày hôm sau, Tướng công cùng các tướng nổ bài nhạc “Khải Hoàn”mà trở về. Vì linh cữu của Văn công còn quàn ở Khúc Ốc, cho nên đại binh ghé vào đấy để dâng chiến công trước linh cữu, rồi chôn cất một thể. Ba tướng nước Tần cũng được đưa về Khúc Ốc để làm lễ dâng tù lên Thái miếu, chờ đến khi trở về Giáng đô đem hành hình. Văn công phu nhân là Doanh thị (con gái nước Tần)cũng đến hội tang ở Khúc Ốc. Phu nhân đã biết tin ba tướng bị bắt rồi nhưng cố ý hỏi Tấn Tướng công rằng:

– Ta nghe nói quân Tấn thắng trận, bọn Mạnh Minh đều bị bắt cả, đó là cái phúc lớn của nước nhà, chẳng hay đã đem bọn ấy ra hành hình chưa?

Tướng công nói:

– Chưa !

Phu nhân nói:

– Tấn Tần hai nước đã mấy đời làm thân gia với nhau, thế mà bọn Mạnh Minh muốn lập công, gây việc binh đao, để làm cho hai nước đổi ân thành oán. Ta chắc rằng vua Tần cũng giận bọn ấy lắm. Bây giờ ta giết thì cũng vô ích thôi, không bằng thả cho chúng về để vua Tần tự tay giết lấy, như thế thì gỡ được mối thù oán của hai nước, chẳng cũng hay lắm sao?

Tấn Tướng công nói:

– Bọn Mạnh Minh rất đác dụng ở Tần, nay ta tha cho về, có hại cho Tấn.

Phu nhân nói:

– “Kẻ nào thua giặc thì chịu tử hình”, đó là phép nước, bởi vậy khi quân sở thua trận, thì Thành Ðắc Thần bị xử tử;Thế thì há nước Tần lại không có quân Pháp hay sao?Và Tấn Huệ công ngày xưa bị vua Tần bắt, vua Tần biết trọng đãi, lại tha cho về, Tần đã có ơn với ta như thế, bây giờ chỉ có mấy viên bại tướng mà ta cứ muốn giết đi cho được, chẳng hoá ta bạc tình lắm sao?

Tấn Tướng công nghe nói đến việc vua Tần tha cho Tấn Huệ công ngày trước, thì trong lòng cảm động, tức khắc truyền tha cho bọn Mạnh Minh về nước. Bọn Mạnh Minh được tha, chẳng vào lạy tạ nữa, cứ việc cắm đầu trốn đi. Tiên Chẩn đang ngồi ăn cơm ở nhà, nghe tin Tấn Tướng công tha bọn Mạnh Minh, vội vàng nhả miếng cơm ra mà vào yết kiến Tấn Tướng công, nét mặt hầm hầm tức giận, hỏi Tướng công rằng:

– Bọn tù nhân nước Tần đâu cả?

Tấn Tướng công nói:

– Mẫu phu nhân xin tha cho về nước để mặc vua Tần giết đi, ta đã theo lời mà tha cho họ về rồi !

Tiên Chẩn nổi giận nhổ vào mặt Tấn Tướng công mà mắng rằng:

– Úi chà ! Thật rõ là con nít chẳng biết gì Vũ sĩ trăm nghìn gian khổ, mới bắt được bọn tù ấy, nay vì nửa câu nói của người đàn bà ma hỏng hết! Thế mới thật thả hổ về rừng, tất có ngày hối không kịp nữa !

Tấn Tướng công bây giờ mới nghĩ ra, lấy áo chùi mặt mà xin lỗi Tiên Chẩn rằng:

– Ðiều ấy tôi xin chịu lỗi !

Rồi ngảnh lại hỏi các tướng rằng:

– Có ai dám đuổi tướng nước Tần hay không?

Dương Xử Phủ xin đi. Tiên Chẩn bảo Dương Xử Phủ rằng:

– Tướng quân dùng lời nói khéo mà lừa bắt họ lại được thì thật là công to lắm!

Dương Xử Phủ tức khắc lên ngựa truy phong, cầm dao đi đuổi theo bọn Mạnh Minh. Bọn Mạnh Minh từ khi được tha trón đi, vừa đi vừa bàn nhau rằng:

– Chúng ta có qua khỏi sông Hoàng Hà, mới chắc được sống, nếu không thì còn sợ vua Tấn hối lại mà đuổi theo, khó lòng đã thoát nạn.

Khi đi đến bến sông Hoàng Hà, chẳng có một chiếc thuyền nào cả, bọn Mạnh Minh thở dài than rằng:

– Thế này thì thật là trời hại chúng ta!

Bỗng thấy một ông lão đánh cá chèo chiếc thuyền nhỏ ở phía tây đi đến, đang ngâm nga rằng:

“Con vượn kia được thoát cũi

Con chim kia được sổ lồng !

Nay đã gặp ta ở đây, dẫu thua cũng là thành “công” !

Mạnh Minh nghe câu hát, lấy làm lạ, liền gọi mà bảo rằng:

– Ông lão đánh cá kia ôi ! Cho chúng tôi sang với.

Ông lão đánh cá nói:

– Lão chỉ chở người Tần, chứ không chở người Tấn !

Mạnh Minh nói:

– Chúng tôi là người Tần đây ! Mau mau cho chúng tôi sang.

Ông lão đánh cá nói:

– Nhà ngươi có phải là người thua trận ở Hào Sơn đấy không?

Mạnh Minh nói:

– Phải !

Ông lão đánh cá nói:

– Ta phụng mệnh của công tôn tướng quân, cắm thuyền ở đây để đón các ngài đã lâu lắm ! chiếc thuyền này nhỏ không thể chở được, tướng quân nên men bờ sông đi độ nửa dặm nửa dặm nữa, đã có thuyền lớn đợi ở đó.

Ông lão đánh cá ấy nói xong, lại chèo thuyền đi về phía tây. Thuyền đi như bay. Bọn Mạnh Minh men sông đi về phía tây, chưa được nữa dặm, quả nhiên thấy mấy chiếc thuyền lớn đậu ở dưới sông, cách bờ một quãng ngắn. Ông lão đánh cá đã đứng ở đấy để mời bọn Mạnh Minh xuống thuyền. Chưa kịp mở lái thì trông lên trên bờ, thấy có một vị tướng quân ruổi xe đi đến, tức là Dương Xử Phủ. Dương Xử Phủ gọi to lên rằng:

– Các tướng nước Tần kia, hãy thư thả một chút!

Bọn Mạnh Minh nghe tiếng, đều giật mình kinh sợ. Dương Xử Phủ trông thấy bọn Mạnh Minh đã xuống thuyền rồi, liền nghĩ ngay một kế:giả cách phụng mệnh Tấn Tướng công, đem một con ngựa đến ban cho Mạnh Minh, rồi nói với Mạnh Minh rằng:

– Tôi phụng mệnh chúa công tôi đem con ngựa hay này đến tặng tướng quân để tỏ lòng kính mến, xin tướng quân nhận cho.

Dương Xử Phủ định lừa cho Mạnh Minh lên bờ nhận ngựa thì thừa cơ mà bắt lấy, nhưng Mạnh Minh không chịu lên, chỉ đứng trên mũi thuyền cúi đầu bái tạ và nói rằng:

Chúng tôi đội ơn nhà vua không giết, cũng đã cảm tạ lắm rồi, nay lại còn cho ngựa, chúng tôi không dám nhận. Chuyến này chúng tôi về nếu không bị chúa công chúng tôi tra lục, thì sau ba năm nữa, chúng tôi lại xin sang tạ ơn nhà vua.

Dương Xử Phủ vừa toan đáp thì lại thấy thủy thủ đã bẻ lái chèo thuyền ra giữa dòng rồi vùn vụt đi thẳng. Dương Xử Phủ ngao ngán trở về, đem lời nói của Mạnh Minh tâu lại với Tấn Tướng công. Tiên Chẩn tức giận mà nói rằng:

– Hắn nói sau ba năm nữa sẽ sang tạ ơn là nói sau ba năm nữa sẽ sang báo thù đó, chi bằng ta nhân dịp hắn mới thua, đem quân đánh trước đi là hơn.

Tấn Tướng công lấy làm phải, mới bàn định việc cử binh đi đánh Tần. Tần Mục công nghe tin bọn Mạnh Minh bị nước Tấn bắt, vừa buồn vừa giận, bỏ ăn bỏ ngủ, sau mấy ngày nữa, lại nghe tin bọn mạnh Minh được tha về, nỗi mừng tỏ rõ trên mặt. Các quan đều nói:

– Bọn Mạnh Minh làm nhục nước, nên bắt tội chết. Ngày trước vua Sở giết Thành Ðắc Thần để cho quân sĩ phải khiếp sợ, nay chúa công cũng nên theo phép ấy.

Tần Mục công nói:

– Ta không nghe lời Bách Lý Hề và Kiển Thúc, để di lụy dến bọn Mạnh Minh, thế là lỗi tại ta đó!

Nói xong, liền thân hành ra đón ngoài cõi, rồi lại dùng Mạnh Minh làm chủ tướng, càng có ý trọng đãi lắm. Bách Lý Hề nói:

– Cha con tôi ngày nay lại được gặp nhau, thật là một sự bất ngờ !

Bách Lý Hề cáo lão về hưu. Tần Mục công dùng Do Dư và Công Tôn Chi làm tả, hữu thứ trưởng, để thay Kiển Thúc và Bách Lý Hề.

Tấn Tướng công đang bàn việc đánh Tần, bỗng nghe báo có vua nước Ðịch là Bạch Bộ Hồ đem quân đến đánh, đã tiến vào đất Cơ Thành, Tấn Tướng công giật mình kinh sợ, nói:

– Ta với nước Ðịch, không có hiềm khích gì với nhau, mà sao vua Ðịch lại đem quân sang xâm phạm bờ cõi ta?

Tiên Chẩn nói:

– Tiên quân ta ngày xưa trốn sang ở nước Ðịch, vua nước Ðịch đem hai người con gái là Thúc Ngỗi và Qúy Ngỗi, gả cho tiên quân ta và Triệu Thôi, trong mười mấy năm trời, vẫn một lòng trọng đãi. Khi tiên quân ta về nước, vua nước Ðịch có sang mừng, lại đưa Thúc Ngỗi và Qúy Ngỗi về nước ta, thế mà tiên quân ta không hề có sai sứ sang tạ ơn lần nào cả, bởi vậy vua Ðịch cùng giận, nhưng nể mà không nói, nay con là Bạch Bộ Hồ lên nối ngôi, cậy có sức mạnh, mới đem quân sang đánh ta.

Tấn Tướng công nói:

– Tiên quân ta ngày xưa lo công việc bá chủ, không kịp nghĩ đến ơn riêng, nay vua địch lại nhân đất nước ta có tang mà đem quân đánh, thế tức là một nước cừu địch với ta, vậy nguyên soái nên vì ta mà đem quân ra đối địch.

Tiên Chẩn sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:

– Trước kia, khi tôi nghe tin bọn Mạnh Minh được tha về, tôi đã quá nóng nảy, nhổ vào mặt chúa công, thật có gì vô lễ hơn nữa. Con người vô lễ thì không làm tướng được, vì vậy dám xin chúa công bãi chức nguyên soái của tôi mà chọn người khác xứng đáng hơn.

Tấn Tướng công nói:

– Nguyên soái vì việc nước mà tức giận, đó là bởi lòng trung thành khích động, ta lại không rõ hay sao ! Nay ta muốn chống lại với quân nước Ðịch, trừ phi nguyên soái thì không ai đương nổi, nguyên soái chớ nên từ chối.

Tiên Chẩn bất đắc dĩ phải vâng mệnh. Khi ở trong triều ra, Tiên Chẩn thở dài mà than rằng:

– Ta vốn muốn chết với quân Tần, ai ngờ lại thành ra chết với quân Ðịch !

Các quan triều thần không ai hiểu ý ra làm sao cả. Tấn Tướng công thu quân trở về Giáng Ðô. Tiên Chẩn trèo lên tướng đài, điểm duyệt quân sĩ, rồi hỏi các tướng rằng :

– Ai là người dám lãnh chức tiên phong?

Bỗng có một người ngang nhiên bước ra mà nói rằng :

– Tôi xin đi !

Tiên Chẩn nhìn xem ai thì tức là Lang Ðàm, hiện mới lĩnh chức xa hữu. Nguyên trước Lang Ðàm mới lĩnh chức không chịu vào yết kiến Tiên Chẩn, bởi thế Tiên Chẩn có ý không bằng lòng, ngày nay lại thấy Lang Ðàm xin đi tiên phong, thì lại càng ghét, mắng rằng:

– Mày là một tên tiểu tốt, chém chết một thằng giặc mà được trọng dụng, thế mà nay đã kiêu ngạo tự đắc, dám khinh bọn tướng sĩ ta không có ai là người tài giỏi hay sao !

Lang đàm nói:

– Tiểu tướng tình nguyện ra sức giúp nước, sao nguyên soái lại ngăn trở như vậy?

– Ở đây không thiếu gì người ra sức, mày có tài trí gì mà dám vượt qua chủ tướng?

Tiên Chẩn liền thét đuổi Lang Ðàm, không dùng mà cho Hồ Cúc Cư vào thay, vì có cái công giáp chiến ở Hào Sơn khi trước. Lang đàm cúi đầu thở dài, lui ra, bỗng gặp người bạn là Tiên Bá ở ngoài đường. Tiên Bá hỏi rằng:

– Tôi nghe quan nguyên soái đang tuyển tướng để đi đánh giặc, sao nhà ngươi lại lửng thửng đi đâu đấy?

Lang Ðàm nói:

– Tôi đã tình nguyện đi tiên phong, để ra sức giúp nước ai ngờ lại gặp phải lúc nguyên soái nổi giận, mắng tôi là tài trí gì mà dám vượt qua các tướng, hiện nay đã cách chức tôi, không dùng nữa rồi.

Tiên Bá nổi giận, nói:

– Tiên Chẩn ghen ghét tài năng như thế, âu là ta cùng nhau vào giết chết nó đi, cho hả cái lòng bất bình của chúng ta. Dâũ có chết nữa cũng được thỏa lòng.

Lang Ðàm nói :

– Không nên ! Không nên ! Ðại trượng phu chết phải có danh nghĩa. Chết mà không có danh nghĩa thì không gọi là vũ dũng được !Chúa công biết ta là người vũ dũng mà dùng ta làm chức xa hữu, nay Tiên Chẩn cách chức ta đi, nếu ta làm điều bất nghĩa mà chết thì thành ra Tiên Chẩn được tiêng là cách chức một người bất nghĩa, vậy nên thư thả mà đợi dịp.

Tiên Bá thở dài mà than rằng :

– Nhà ngươi thật là cao kiến, ta không bằng được.

Nói xong, cùng nhau trở về.

Tiên Chẩn dùng con là Tiên Thả Cư làm tiên phong, rồi xuất quân. Quân Tấn và quân Ðịch gặp nhau ở Cơ Thành, hai bên đều hạ trại. Tiên Chẩn hợp các tướng lại mà bảo rằng:

– Ở Cơ Thành này có một cái thung lũng rộng, chỗ ấy có thể đánh bằng xe trận, mà hai bên cây cối rậm rạp, có thể phục binh được. Loan Thuẫn và Khước Nhuế nên đem hai đạo quân phục ở chỗ ấy, đợi khi nào Tiên Thả Cư giao chiến với quân Ðịch, giả cách thua chạy vài thung lũng, bấy giờ đổ ra mà đánh thì chắc là bắt được vua Ðịch;còn Hồ Tần và Hồ Cúc Cư đem hai đạo quân đi tiếp ứng, để phòng khi quân Ðịch đến cứu.

Ngày hôm sau, vua Ðịch là Bạch Bộ Hồ đem hơn trăm quân kỵ mã đến đánh. Tiên Thả Cư ra nghênh chiến được mấy hợp, giả cách thua chạy. Bạch Bộ Hồ không biết là mưu kế, ra sức đuổi theo, bị Tiên Thả Cư dụ vào trong thung lũng. Phục binh ở hai bên đổ ra đón đánh. Bạch Bộ Hồ tả xung hữu đột, hơn trăm kỵ binh chết đã gần hết. Quân Tấn cũng tổn hại rất nhiều. Ðược một lúc Bạch Bộ Hồ phá tan mấy vòng quân Tấn mà không ai địch nổi. Khi ra gần đến cửa hang, gặp đại tướng Tấn là Khước Khuyết giương cung bắn trúng vào mặt. Bạch Bộ Hồ ngã ngựa, chết ngay. Khướt Khuyết nhận mặt, biết là vua Ðịch, liền cắt lấy đầu để đem về nộp Tiên Chẩn. Tiên Chẩn nghe tin Bạch Bộ Hồ bị bắt, ngữa mặt lên trời mà reo mừng:

– May cho vua Tấn ta lắm ! May cho vua Tấn ta lắm !

Ðoạn lấy giấy bút viết một tờ biểu đề ở trên thư án, không nói cho các tướng biết, rồi cùng với mấy người tâm phúc tức khắc xông vào trận địa quân Ðịch. Em Bạch Bộ Hồ là Bạch Ðôn, chưa biết là Bạch Bộ Hồ đã chết, toan đem quân đi tiếp ứng, bỗng thấy đại tướng Tiên Chẩn cưỡi binh xa sừng sực xông đến, Bạch Ðôn vội vàng ra nghênh chiến. Tiên Chẩn cầm ngang ngọn giáo, trợn mắt thét to một tiếng, mí mắt rách hết cả, máu chảy dòng xuống mặt. Bạch Ðôn kinh sợ, lui lại mấy mươi bước, nhưng trông thấy Tiên Chẩn không có quân theo, liền truyền cho quân Ðịch xúm quanh lại, giương cung ra bắn. Tiên Chẩn hăng hái ra sức, giết chết ba người đầu mục, và hơn hai chục quân sĩ, mà khắp mình không bị phải mũi tên nào cả, bởi quân Ðịch thấy Tiên Chẩn là người vũ dũng, thảy đều kinh hồn khiếp đảm, thành ra run tay, bán chẳng trúng được phát nào. Vả Tiên Chẩn mình mặc mấy lần áo giáp, dẫu tên trúng cũng không trúng, mới thở dài than rằng:

– Ta không giết giặc thì không tỏ được cái tài vũ dũng của ta, nay quân giặc đã biết ta là người vũ dũng, còn giết lắm làm gì ! Thôi thì ta đánh chết ở đây cho rồi !

Tiên Chẩn nói xong, liền cởi áo giáp ra để cho quân Ðịch bắn. Quân Ðịch bắn một lúc, mũi tên cắm vào mình Tiên Chẩn như lông nhím. Tiên Chẩn chết rồi mà người vẫn đứng trơ trơ, không hề chuyển động. Bạch Ðôn toan chém lấy đầu, nhưng thấy Tiên Chẩn vẫn trợn mắt vểnh râu như người còn sống, nghĩ lại khiếp sợ, không dám vào chém. Trong đám quân Ðịch, có người nhận được mặt, nói với Bạch Ðôn rằng:

– Người ấy là nguyên soái nước Tấn, tên gọi Tiên Chẩn.

Bạch Ðôn liền cùng với các quân sĩ sụp lạy, rồi bảo nhau rằng:

– Ngài thật là một bậc thần nhân !

Nói xong, lại quỳ trước mặt Tiên Chẩn mà khấn rằng:

– Thần có cho chúng tôi đem về nước Ðịchđể thờ cúng thì xin ngã xuống.

Tiên Chẩn vẫn đứng yên như trước. Bạch Ðôn lại khấn rằng:

– Hay là thần muốn về nước Tấn thì chúng tôi xin đưa về.

Khấn xong, tự nhiên Tiên Chẩn ngã xuống

Chương 46: Thượng Thần giết cha ở trong cung – Quân Tần chết trận được cúng tế

Vua nước Ðịch là Bạch Bộ Hồ bị giết rồi,quân sĩ trốn về báo với Bạch Ðôn.Bạch Ðôn khóc rằng:

– Khi trước ta đã nói là nước Tần có trời giúp,không dễ đánh nổi,mà anh ta không nghe lời, để đến nổi bị hại !

Bạch Ðôn sai người sang nói với quân Tấn,xin đem thi thể Tiên Chẩn đổi lấy thi thể Bạch Bộ Hồ.

Lại nói chuyện Khước Khuyết chém được thủ cấp Bạch Bộ hồ,cùng với các tướng đem về nộp Trung quân nguyên soái,nhưng không thấy Tiên Chẩn đâu cả,liền hỏi các quân sĩ,quân sĩ đều nói:

– Nguyên soái vừa đi khỏi,có truyền cho chúng tôi phải canh giữ cẩn mật,không biết ngài đi đâu !

Tiên Thả Cư nghe nói,có ý nghi ngờ,bỗng thấy trên án thư có một tờ biểu,vội vàng lấy xem.Tờ biểu nói như sau:

– “Trung quân đại phu là Tiên Chẩn có lời tâu lên chúa công:Tôi đây là kẻ bề tôi mà đã vô lễ với vua,chúa công đã không trị tội,lại dùng cho làm nguyên soái.Ngày nay thắng trận,tất sao chúa công cũng ban thưởng,nếu tôi về mà chịu thưởng thì thành ra kẻ vô lễ cũng được quận công còn lấy gì làm phép cho kẻ khác.Vậy tôi xin liều thân xông vào quân Ðịch, để mượn tay quân Ðịch thay cho sự trừng phạt của nhà vua ! Con tôi là Tiên Thả Cư có tướng tài,có thể thay tôi được. Ðứng trước cái chết tôi mạo muội dâng thư”

Tiên Thả Cư nói:

– Như vậy thì thân phụ tôi xông vàp quân Ðịch mà chết mất rồi !

Nói xong,khóc òa lên một hồi,rồi toan xông vào quân Ðịch để tìm Tiên Chẩn.Các tướng xúm lại can ngăn,xxin hãy sai người đi dọ thám trước xem nguy- en soái sống chết thế nào,rồi sẽ tiến binh.Bỗng có quân báo em vua Ðịch là Bạch Ðôn sai người đến xin đổi thi thể Tiên Chẩn lấy thi thể Bạch Bộ Hồ.Tiên Thả Cư nghe tin cha chết,liền vật mình lăn khóc,rồi hẹn với quân Ðịch đến ngày hôm sau thì đem hai thi thể đổi lẩn cho nhau.Sứ nước Ðịch cao từ lui về.Tiên Thả Cư lại bảo các tướng rằng:

– Quân Ðịch hay gian dối lắm,ngày mai ta cũng nên phòng bị mới được !

Nói xong,truyền cho các tướng đều phục quân sẵn để phòng khi có việc giao chiến.Ngày hôm sau,Thiên Thả Cư mặc tang phục,ra nơi trận tiền để nhận thi thể Tiên Chẩn.Bạch Ðôn sợ vong hồn Tiên Chẩn thiêng,mới nhổ hết những mũi tên ở mình Tiên Chẩn ra, đem nước trầm hương tắm rửalại phủ thêm cái áo cẩm bào, đạt lên trên xe,trông như người còn sống,rồi đưa ra trận tiền,giao trả Tiên Thả Cư.Quân Tấn cũng đem thủ cấp Bạch Bộ Hồ giao trả cho quân Ðịch.Bạch Ðôn trông thấy quân Tấn chỉ gaio trả có thủ cấp Bạch Bộ Hồ thôi,không được đủ thân thể,liền không bằng lòng mà nói rằng:

– Nước Tấn thật hay lừa người ! Sao không giao đủ thân thể?

Tiên Thả Cư sai người truyền bảo Bạch Ðôn rằng:

– Có muốn lấy đủ thân thể thì nhà ngươi phải vào thung lũng mà tìm ờ trong đống xác người chết ấy.

Bạch Ðôn giận lắm,cầm cáo khai sơn đại phủ,vẫy quân xông vào đánh.Tướng nước Tấn là Hồ Xạ Cô đem quân ra đối địch.Hai bên vừa giao chiến được mấy hợp thì phía tả có Khước Khuyết,phía hữu có Loan Tần đổ ra đón đánh.Bạch Ðôn thấy quân Tấn đông quá,vội vàng quay ngựa bỏ chạy.Quân Tấn tranh nhau đuổi theo Bạch Ðôn.Khi đuổi gần đến nơi,Bạch Ðôn trông thấy,liền hỏi Hồ Xạ Cô rằng:

– Ta trông tướng quân quen mặt lắm,có phải Hồ Xạ Cô đó không?

Hồ Xạ Cô nói:

– Phải !

Bạch Ðôn nói:

– Vậy tôi xin có lời chào tướng quân ! Cha con tướng quân khi trước ở nước tôi mười hai năm trời,nước tôi có điều gì bạc đãi đâu,ngày nay tướng quân nên nghĩ lại một chút,tôi chính là em ruột Bạch Bộ Hồ,tên gọi Bạch Ðôn đây.

Hồ Xạ Cô thấy Bạch Ðôn nhắc lại chuyện cũ,không nỡ giết chết,liền đáp lại rằng:

– Thôi thì ta khoang tha cho nhà ngươi,nhà ngươi nên mau mau thu quân về ngay,chớ ở đây nữa !

Hồ Xạ Cô quay ngựa trở lại. Ðêm hôm ấy,Bạch Ðôn rút hết quân kéo về nước Ðịch.Bạch Bộ Hồ không có con trai,Bạch Ðôn phát tang,rồi lên nối ngôi làm vua nước Ðịch.Quân Tấn thắng trận rồi các tướng về yết kiến Tấn Tướng công và đệ trình tờ di biểu của Tiên Chẩn.Tướng công thương xót vô cùng,truyền đem thi thể Tiên Chẩn ra xem,trông thấy hai mắt vẫn mỡ trừng trừng như lúc còn sống,vội vàng ôm lấy thi thể mà khóc rằng:

– Tướng quân vì việc nước mà chết ! Sống khôn chết thiêng ! Xem mấy lời di biểu này thì đủ biết tướng quân là người trung nghĩa.

Tấn Tướng công nói xong,sụp lạy ở trước linh cữu Tiên Chẩn,phong cho Tiên Thả Cư làm nguyên soái.Bấy giờ hai mắt Tiên Chẩn mới nhắm lại.Về sau,người nước Tấn có lập đền thờ Tiên Chẩn ở đất Cơ Thành.

Tấn Tướng công lại khen Khước Khuyết có công giết dược Bạch Bộ Hồ,phong cho đất Ký Ấp mà bảo rằng:

– Nhà ngươi biết đền bồi cáo lỗi của thân phụ nhà ngươi ngày xưa,vậy nên ta trả lại cho đất Ký Ấp là đất ăn lộc của thân phụ nhà ngươi trước.

Tấn Tướng công lại bảo Tư Thần rằng:

– Nhà ngươi có công tiến cử Khước Khuyết,nếu không có nhà ngươi thì sao ta biết Khước Khuyết mà dùng.

Tấn Tướng công bèn đem đất Tiêu Mao thưởng cho Tư Thần.

Nước Hứa và nước Sái từ khi Tấn Văn Công mất đi,lại thần phục nước Sở.Tấn Tướng công cho Dương Xử Phủ làm đại tướng, đem quân sang đánh nước Hứa và nước Sái.Sở Thành Vương sai Ðấu Bột và Thành Ðại Tâm đem quân đi cứu. Ði đến bến sông Chi Thủy,trông thấy quân Tấn ở bờ bên kia,liền truyz- én cho quân sĩ đóng lại ở bờ sông nên này.Hai bên chỉ cách nhau một dòng nước chảy.Quân Tấn bị quân Sở ngăn trở,không qua sông được, đã hơn hai tháng,thành ra hết cả lương ăn.Dương Xử Phủ định rút quân về,nhưng sợ người nước Sở đuổi theo,lại e rằng người ta cười mình chịu kém quân Sở,mới lập kế sai sứ sang nói với tướng nước Sở là Ðấu Bột rằng:

– “Ðã đến thì không sợ, đã sợ thì không đến”,tướng quân muốn đánh nhau với quân Tấn tôi thì quân Tấn tôi xin rút quân lùi lại một xá, để nhường cho tướng quân qua sông mà bày trận,rồi ta sẽ cùng nhau giao chiến,nếu tướng quân không muốn qua sông thì tướng quân cũng lùi lại một xá, để nhường cho quân T- án tôi qua sông mà bày trận và xin định ngày giao chiến.Bằng nay không lui thì hai bên cùng nhọc công tốn của,phỏng có ích gì ! Xin tướng quân nghĩ lại.

Ðấu Bột nổi giận nói :

– Nước Tấn khinh ta không dám qua sông sao !

Nói xong,toan đem quân qua sông để đánh Tấn.Thành Ðại Tâm vội vàng ngăn lại mà nói rằng:

– Người nước Tấn xin rút quân lùi lại một xá là nói dối để dụ quân ta sang đó mà thôi,ngài chớ nên tin vội.Nếu quân ta sang được một nữa,tất quân Tấn đánh ngay,bấy giờ ta tiến cũng dở mà thoái cũng dở,chi bằng ta hãy rút quân,nhường cho quân Tấn sang trước.

Ðấu Bột khen phải,rồi truyền quân sĩ lùi ra ba mươi dặm (tức là một xá) để nhường cho quân Tấn sang sông.Sứ nước Tấn về nói với Dương Xử Phủ.Dương Xử Phủ đôn đốc trong quân rằng:

– Tướng nước Sở là Ðấu Bột sợ thế quân ta,hiện đã rút quân trốn đi rồi.

Quân sĩ tưởng thực, đem chuyện ấy truyền cho nhau.Dương Xử Phủ lại nói:

– Quân Sở đã trốn đi rồi thì ta còn qua sông làm gì nữa ! Bây giờ ngày hết tết đến,tiết trời lại rét, âu là hãy thu quân về nghĩ,rồi sau sẽ liệu.

Dương Xử Phủ bèn thu quân về nước. Ðấu Bột chờ đã hai ngày không thấy quân Tấn qua sông,sai người đi dò thám thì ra quân T- án rút về đã xa rồi,mới cũng truyền lệnh thu quân về nước.

Lại nói chuyện Sở Thành Vương có người con trưởng tên là Thương Thần,khi trước Sở Thành Vương muốn lập làm thái tử hỏi ý kiến Ðấu Bột. Ðấu Bột nói:

– Nước Sở ta mấy đời nay vẫn lập con thứ,không lập con trưởng,và tôi xem tướng mạo Thương Thần,mắt như mắt cú,tiếng như tiếng heo;là người có tính tàn nhẫn,ngày nay đại vương yêu mà lập nên,ngày khác lại ghét mà trút đi,tất hằn nổi loạn.

Sở Thành Vương không nghe,liền lập Thương Thần làm thái tử và cho Phan Sùng làm chức thái phó.Thương Thần nghe nói Ðấu Bột không muốn lập mình làm thái tử,có ý căm tức, đến lúc Ðấu Bột đem quân về,Thương Thần mới đem lời dèm pha với Sở Thành Vương rằng:

– Ðấu Bột ăn lễ của Dương Xử Phủ,vậy nên mới rút quân về.

Sở Thành Vương tin lời,khi Ðấu Bột về,không cho vào yết kiến,lại sai người đưa cho một thanh kiếm đâm cổ mà chết.Thành Ðại Tâm vào yết kiến Sở Thành Vương,sụp lạy kêu khóc,thuật lại cái cớ Ðấu Bột rút quân về,hkông phải ăn lễ của Dương Xử Phủ,nếu bắt tôi về việc rút quân thì Thành Ðại Tâm cũng xin chịu tội.Sở Thành Vương nói:

– Nhà ngươi nói mà chi nữa ! Ta cũng lầy việc ấy làm hối hận.

Sở Thành Vương từ bấy giờ có ý nghi thái tử Thương Thần,sau Sở Thành Vương lại yêu người con thứ tên là Chức;muốn bỏ Thương Thần mà lập Chức làm thái tử,nhưng lại sợ Thương Thần nổi loạn,mới định tìm cớ để giết đi.Có người cũng nhận nghe được tin ấy,nói với Thương Thần.Thương Thần còn ngần ngừ chưa cho điều ấy làm thực,thuật chuyện lại cho quan thái phó là Phan Sùng nghe.Phan Sùng nói:

– Tôi xin hiến một kế,có thể dò xét được điều ấy thực hay là giả.

Thương Thần hỏi:

– Kế gì?

Phan Sùng nói:

– Em gái đại vương ta,lấy chồng ở nước Giang,gọi là nàng Giang Vu,nay về thăm dại vương ta, ở chơi trong cung lâu ngày,tất biết rõ điều ấy.Thái tử nên bày một tiệc rượu,mời Giang Vu đến ăn tiệc,rồi trong khi ăn tiệc,cố ý làm ra bộ khinh bỉ, để khiến cho Giang Vu phải tức giận.Giang Vu đã túc giận,tất thế nào cũng nói lộ điều ấy ra.

Thương Thần nghe lời,bày tiệc rượu để mời Giang Vu.Lúc Giang Vu mới đến thì Thương Thần tiếp đãi rất lễ phép,khi uống rượu tới nữa chừng,dần dần làm ra bộ khinh bỉ,sai người nhà bếp đưa món ăn mà không thèm đứng dậy mời,lại cố ý ngảnh mặt nói chuyện riêng với mấy đứa thị nữ hầu rượu.Giang Vu hai lần hỏi chuyện Thương Thần đều không trả lời.Giang Vu giận lắm, đạp bàn đứng dậy mà xỉ mắng Thượng Thần rằng:

– Mày tệ quá như thế,thảo nào mà đại vương định giết mày để lập công tử Chức.

Thương Thần giả cách xin lỗi.Giang Vu không thèm nhìn mặt,lên xe đi ngay,vừa đi vừa mắng Thương Thần thậm tệ.Ngay đêm hôm ấy,Thương Thần đến bảo Phan Sùng,và hỏi kế để thóat nạn,Phan Sùng nói:

– Thái Tử có thể cúi đầu mà thần phục công tử Chức được không?

Thương Thần nói:

– Ta là con trưởng mà phải thần phục con thứ thì chịu đựng thế nào được?

Phan Sùng nói:

– Nếu không chịu thần phục người ta thì chi bằng trốn sang nước khác.

Thương Thần nói:

– Trốn cũng vô ích,chỉ thêm nhục thôi !

Phan Sùng nói:

– Ngoài hai cách ấy ra thì chẳng còn cách gì nữa !

Thương Thần lại cố ý hỏi mãi.Phan Sùng nói:

– Có một kế này rất thần diệu,nhưng chỉ sợ thái tử không nỡ làm.

Thương Thần nói:

– Trong lúc đang nguy cấp này lại còn điều gì là điều không nỡ !

Phan Sùng ghé tai mà bảo rằng:

– Chỉ làm đại sự thì mới có thể đổi họa làm phúc được.

Thương Thần nói:

– Việc đó ta làm được !

Nói xong,liền tụ tập quân sĩ, đến nữa đêm vào vây cung Sở Thành Vương.Phan Sùng tay cầm thanh kiếm,cùng với mấy người lực sĩ đi thẳng đến trước mặt Sở Thành Vương.Các nội thị sợ hải,, đều bỏ chạy tán loạn cả.Thành Vương hỏi:

– Nhà ngươi vào đây có việc gì?

Phan Sùng nói:

– Ðại Vương làm vua đã bốn mươi sáu năm rồi,cũng nên thôi đi ! Nay người trong nước đều mong có vua mới,xin đại vương truyền ngôi lại cho thái tử.

Thành Vương kinh sợ mà nói rằng:

– Ta bằng lòng nhường ngôi lại cho,nhưng chẳng biết các người có để ta sống hay không?

Phan Sùng nói:

– Vua nọ chết đi thì vua kia mới lập lên,có lẽ nào một nước hai vua bao giờ ! Sao đại vương đã già mà còn chưa hiểu việc đời?

Thành Vương nói:

– Ta vừa mới sai nhà bếp nấu món chân gấu, đợi chín cho ta ăn một miếng thì dẫu chết ta cũng cam lòng

Phan Sùng quát to lên rằng:

– Món chân gấu thì còn lâu mới chín được,hay là đại vương định dùng dằng đợi người đến cứu đó chăng?Xin đại vương tự liệu đi,chớ để tôi phải động thủ.

Phan Sùng cởi dây lưng ném trước mặt Thành Vương.Thành Vương ngửa mặt lên trời mà kêu rằng:

– Ôi Ðấu Bột ! Ôi Ðấu Bột ! Ta không nghe lời nói của trung thần, đến nổi phải tai vạ,còn nói gì nữa !

Nói xong,liền cầm lấy giây lưng mà buộc vào cổ.Phan Sùng sai mấy người đứng hai bên nắm đầu guây mà kéo, được một lúc thì Thành Vương tắt hơi.Giang Vu nghe tin,thở dài mà than rằng:

– Thôi ! Chính ta làm hại anh ta rồi đó !

Giang Vu cũng thắt cổ tự tử.Thương Thần đã giết xong Thành Vương,nói dối là Sở Thành Vương bị cảm mà chết,sai người báo tang cho chư hầu biết,rồi lên nối ngôi,tức là Sở Mục Vương;Sở Mục Vương gia phong cho Phan Sùng làm chức thái sư,và giao binh quyền cho, để coi giữ vương cung.Quan lệnh doãn nước Sở là Ðấu Ban cùng các quan đều biết là Sở Thành Vương bị giết mà không dám nói. Ðấu Nghi Thân nghe tin SởThành Vương bị giết,liền cùng với quan đại phu là Trọng Quy bàn mưu để giết Sở Mục Vương,chẳng ngờ việc tiết lộ,Mục vương truyền cho quan tư mã là Ðấu Việt Tiêu bắt Ðấu Nghi Thân và Trọng Quy mà giết đi.Ngày trước có người thầy đồng tên là Duật Tự đã nói: “Sở Thành Vương cùng với Thành Ðắc Thần và Ðấu Nghi Thân,ba người đều bất đắc kỳ tử” đến bây giờ quả nhiên ứng nghiệm. Ðấu Việt Tiêu có ý muốn làm lệnh doãn mới nói với Sở Mục Vương rằng:

– Tôi thấy Ðấu Ban nói chuyện với người ta,thường phàn nàn về nỗi cha con nhà hắn chịu ơn tiên vương nhiều lắm;mà không giúp nên được cái chí lớn của tiên vương ngày xưa thì lấy làm xấu hổ.Hắn muốn lập công tử Chức lên làm vua,mới rồi Ðấu Nghi Thân làm phản là mưu tự Ðấu Ban,nay Ðấu Nghi Thân đã bị giết rồ, Ðấu Ban có ý lo sợ,tôi e rằng hắnlại bày mưu khác, đại vương nên phải phòng bị mới được.

Sở Mục công đem lòng nghi Ðấu Ban,mới triệu Ðấu Ban vào,sai đi giết công tử Chức. Ðấu Ban chối từ không chịu đi,Mục vương nổi giận,nói:

– Nhà ngươi muốn giúp nên cái chí lớn của tiên vương ngày xưa có phải không?

Mục vương liền cầm cái dùi đồng đánh chết Ðấu Ban.Công tử Chức sợ hải, định chạy sang nước Tấn. Ðấu Việt Tiêu đuổi theo đến ngoài cõi,giết chết công tử Chức.Sở Mục Vương cho Thành Ðại Tâm làm lệnh doãn,chưa được bao lâu thì Thành Ðại Tâm chết,Mục Vương liền cho Ðấu Việt Tiêu làm lệnh doãn,và nhớ đến công tử Văn ngày xưa,mới cho Ðấu Khắc Hoàng (con Ðấu Ban,cháu Tử Văn)làm quan châm doãn.

Tấn Tướng công nghe tin Sở Thành vương chết,bão Triệu Thuẫn rằng:

– Thế là lòng trời đã chán nước Sở rồi !

Triệu Thuẫn nói:

– Vua nước Sở trước là dẫu là bạo ngược,nhưng còn có thể đem điều lễ nghĩa mà giáo hoá được,Thương Thần là đứa Vô phụ,cha còn không tha huống là người khác ! Tôi e rằng cái vạ chư hầu chưa thật là hết !

Mấy năm sau,quả nhiên Sở Mục vương đem quân đi đánh các nước, đúng như lời nói của Triệu Thuẫn.

Tướng nước Tần là Mạnh Minh nói với Tần Mục công xin đem quân đánh Tấn, để báo thù trận thua ở Hào Sơn khi trước.Tần Mục công khen mà cho đi.Mạnh Minh liền cùng với Kiển Binh và Tây Khất Thuật đem quân đi đánh Tấn.Tấn tướng công vẫn lo nước Tần đem quân sang báo thù,ngày nào cũng sai người đi dò thám,khi được tin mạnh Minh lại sắp sang đánh,mới cười mà bảo rằng:

– Nước Tần nay đã sắp sang tạ ơn ta đó !

Tấn Tướng công bèn cho Tiên Thả Cư làm chánh tướng,Triệu Thôi làm phó tướng,Hồ Cúc Cư làm chức xa hữu, để đợi quân Tần sang đến nơi thì đánh.Khi đại binh sắp khởi hành,Lang Ðàm nói với Tiên Thả Cư xin đi theo.Tiên Thả Cư cho đi.Bấy giờ bọn Mạnh Minh chưa sang đến nơi,Tiên Thả Cư bảo các tướng rằng:

– Ðợi quân Tần đến mới đánh,chi bằng ta kéo sang mà đánh quân Tần.

Tiên Thả Cư nói xong,liền kéo quân sang đất Bành Nha (đất nước Tần) để đón quân Tần.Khi quân Tần đến nơi,hai bên đã bày thành trận thế,Lang Ðàm nói với Tiên Thả Cư rằng:

– Tiên nguyên soái ngày xưa chê tôi là người vô dũng,vậy nên truất bỏ không dùng,ngày nay tướng quân hãy thử cho tôi ra trận,tôi không dám cầu công,chỉ mong rửa được cái điều xấu hổ trước mà thôi.

Tiên Thả Cư bằng lòng.

Lang Ðàm cùng với bạn là Tiên Bá đem hơn một trăm người xông thẳng vào trong đám quân Tần.Bọn Lang Ðàm đi đến đâu thì quân Tần tan rã đến đấy,Tiên Bá bị Kiển Binh giết chết.Tiên Thả Cư đứng ở trên xe,trông thấy quân Tần rối loạn,mới giục quân tiến vào.Bọn Mạnh Minh không thể chống lại được,tức thì bỏ chạy.Tiên Thả Cư tìm cứu Lang Ðàm ra thì thân thể Lang Ðàm chỗ nào cũng bị thương cả, được hơn một ngày thì chết.Quân Tấn đã được thắng trận kéo nhau trở về.Tiên Thả Cư tâu với Tấn Tướng công rằng:

– Ngày nay thắng trận là nhờ sức của Lang Ðàm chứ không dự gì đến tôi.

Tấn Tướng công truyền theo lễ quân thượng đại phu mà an táng Lang Ðàm ở Tây Quách,bắt các quan triều thần phải đi đưa cả.

Mạnh Minh thua trận,chạy về nước Tần,tự nghĩ mình lần này tất phải tội chết,ai ngờ Tần Mục công chẳng trách giận gì cả,lại sai người ra đón,và vẫn giao quyền chính cho như trước.Mạnh Minh tự nghĩ xấu hổ vô cùng,mới dốc một lòng sửa sang quyền chính,lại đem hết những của riêng ra để tư cấp cho những nhà có người chết trận để đánh báo thù nước Tấn.Cuối năm ấy,Tấn Tướng công lại sai Tiên Thả Cư liên hợp với quan đại phu nước Tống là công tử Thành,quan đại phu nước Trần là Viên Tuyển,quan đại phu nước Trịnh là công tử Quý Sinh,cung đem quân sang đánh Tần,chiếm lấy đất Giang và đất Bành Nha,rồi rút quân về,lại nói giỡn một câu rằng:

– Mới rồi,nước Tần sang tạ ơn ta thì ngày nay ta đáp lại đó !

Mạnh Minh không đem quân đi đánh quân Tấn,chỉ vì chưa gặp thời đó thôi.

Ðến thắng năm năm sau,Mạnh Minh luyện tập quân sĩ đều đã tinh nhuệ cả rồi,mới xin Tần Mục công thân hành đi đánh,lại nói với Tần Mục công rằng:

– Nếu lần này tôi không báo thù được nước Tấn thì quyết không sống mà về làm gì !

Tần Mục công nói:

– Quân ta đã ba lần bị quân Tấn đánh thua rồi ! Nếu lần này lại thua thì ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà về nước nữa !

Tần Mục công nói xong,liền chọn ngày cử đại binh đi đánh Tấn,phàm các quân sĩ phải đi tòng chinh, đều tư cấp cho người nhà rất hậu.Các quân sĩ thấy vậy, đều hăng hái xin hết sức.Khi đại binh đã qua sông Hoàng Hà,Mạnh Minh truyền đem bao nhiêu thuyền bè đốt hết sạch cả.Tần Mục cônglấy làm lạ hỏi rằng:Tại sao nguyên soái lại đốt hết cả thuyền bè như vậy?

Mạnh Minh nói:

– Quân có khí thế mới đánh được giặc ! Quân ta thua luôn mãi,khí thế đã mất hết cả rồi,nay tôi đốt thuyền bè đi là tỏ cho quân ta biết rằng: Chỉ có tiến chứ không có thoái,khiến cho khí thế quân ta được thêm hăng hái,nếu quân ta đã thắng trận rồi,thì lo gì không có thuyền bè trở về.

Tần Mục công khen phải.Mạnh Minh kéo quân đi tiên phong,xông vào đánh lấy thành Vương Quan.Quân nước Tấn phi báo Tấn Tướng công.Tấn Tướng công hợp triều thần lại để thương nghị.Triệu Thôi nói:

Nước Tần căm tức ta nhiều lần,lần nay vua Tần thân hành cử đại binh sang,cố chết mà đánh ta,ta không thể địch nổi,chi bằng ta hãy tạm tránh,khiến cho quân Tần thỏa lòng, để dập tắt mối oán thù hai nước.

Tiên Thả Cư cũng nói với Tấn Tướng công rằng:

– Vua Tần lấy việc ngày trước thua ta làm xấu hổ,mà các tướng nước Tần cũng đều hăng hái,nếu không thắng được ta thì thế tất không thôi.Tướng công nên nghe lời Tử Dư.

Tấn Tướng công truyền cho quân sĩ các nơi, đều một mực cố thủ,không được giao chiến với quân Tần,Do Dư bảo Tần Mục công rằng:

– Quân Tấn sợ ta rồi ! Ta nên nhân dịp này đem quân đến dãy núi Hào Sơn,thu nhặt lấy hài cốt của quân sĩ ta ngày trước để mai táng,cho khỏi điều hổ thẹn.

Tần Mục công theo lời,kéo quân thẳng tới Hào Sơn,quân Tấn không thấy có một người nào dám ra ngăn trở cả.Tần Mục công sai người thu nhặt lấy hài cốt quân Tấn chết trận khi trước, đem mai táng ở một nơi,rồi giết trâu bò đế cúng tế.Tần Mục công mặc tang phục đứng rót rượu để làm lễ,lại ứa nước mắt rồi khóc òa lên.Mạnh Minh và các tướng đều sụp lạy mà khóc cả.Quân sĩ trọng thấy ai cũng chảy nước mắt.Dân ở đất Giang và đất Bành Nha nghe tin Tần Mục công thắng được quân Tấn,liền cùng nhau tụ hợp, đuổi các quan trấn thủ nước Tấn đi,rồi lại theo về nước Tần.

Tần Mục công thu quân về nước ban thưởng cho Mạnh Minh,Kiển Binh và Tây Khất Thuật.

Vua Tây Nhung là Xích Ban,khi trước thấy quân Tần hai ba lần bị thua,có ý khinh nước Tần hèn yếu, định làm phản nước Tần. Ðến lúc Tần Mục công thắng được quân Tấn,thu quân trở về,toan sẽ sang đánh Tây Nhung.Do Dư mới nói với Tần Mục công ,xin truyền hịch cho Tây Nhung bắt phải triều cống,nếu không chịu triều cống,bấy giờ sẽ đánh.

Xích Ban nghe tin Mạnh Minh nước Tần thắng được quân Tấn, đang có lòng lo sợ,thấy có tờ hịch thì vội vàng rủ nhau hai mươi nước nhỏ ở phía Tây cùng vào triều cống nước Tần,tôn Tần Mục công làm bá chủ tất cả các nước ở Tây Phương.Uy danh Tần Mục công đồn đến chốn kinh sư nhà Chu.Chu Tương vương bảo Doãn Vũ công rằng:

– Ngày xưa Trùng Nhĩ (tức là Tống Văn công)nước Tấn đại hội chư hầu,trẫm sách phong cho làm bá chủ,nay Nhâm Hiếu (tức là Tần Mục công ) nước Tấn cường thịnh,chẳng kém gì nước Tần,trẫm cũng muốn sách phong cho,nhà ngươi nghĩ thế nào?

Doãn Vũ công nói:

– Nước Tần dẫu cường thịnh,nhưng chưa có công trạng gì với nhà Chu ta,nay lại có ý bất hòa với Tấn,mà Tấn hầu ngày nay, đang nối được nghiệp cha.Nếu ta sách phong cho Tần thì mếch lòng Tấn,chi bằng ta sai sứ ban thưởng cho Tần,thế thì Tấn biết ơn ta,mà Tấn cũng chẳng oán gì ta được.

Chu Tương vương theo lời.

Chương 47: Lộng Ngọc cưỡi phượng theo Tiêu Sử – Triệu Thuẫn bội Tần lập Di Cao

Tần Mục công đã làm bá chủ các nước ở Tây phương. Chu Tương vương sai Doãn Vũ công đem một cái trống đồng ban thưởng cho Tần Mục công. Tần Mục công viện lẽ tuổi già, không vào triều được, sai công tông Chỉ sang nhà Chu để tạ ơn. Năm ấy Do Dư ốm chết, Mục công thương tiếc vô cùng, liền cho Mạnh Minh thay Do Dư làm chức hữu thứ trưởng. Công tôn Chỉ khi ở nhà Chu về, biết ý Mục công có một người con gái bé;lúc mới sinh, gặp có kẻ đem dâng viên ngọc phác, Tần Mục công sai thợ đẽo dũa đi, thành một viên ngọc sắc biếc mà đẹp lắm. Ðến lúc con gái Mục công đầy tuổi tôi, trong cung bày đồ toái bàn, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy Mục công đặt tên cho con là Lộng Ngọc.

Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc tuyệt trần, lại thêm tính trời thông minh, tài thổi ống sinh lắm, không học ai cả, mà thành âm điệu. Mục công sai thợ làm một cái ống sinh bằng ngọc để cho nàng thổi. Nàng thổi ống sinh ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng. Mục công yêu lắm, lại lập một cái lầu cho nàng ở, đặt tên là Phượng lâu, trước lầu có xây một cái đài. Năm Lộng Ngọc đã mười lăm tuổi, Tần Mục công muốn kéo rễ cho nàng, Lộng Ngọc tự thề với mình rằng:

– Người nào có tài thổi sinh, có thể họa với ta được, ta mới chịu lầy làm chồng, còn ai thì ta cũng chẳng thiết.

Mục công sai người đi tìm, chẳng được một người nào vứa ý. Một hôm Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh, thấy trời tạnh mây trong, trăng sáng như gương, gọi thị nữ đốt lên một nén hương, rồi đi cái ống sinh bằng ngọc bích, đến bên cửa sổ mà thổi. Tiếng sinh véo von vọng lên vòm trời gió hây hây thổi, bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa. Lộng Ngọc không hkỏi băng khoăn, bèn ngừng lại không thổi nữa, có ý để nghe xem sao. Tiếng họa bỗng im đi, nhưng dư âm còn lẽo đẽo không dứt. Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió, như một ngưới vừa đánh mất vật gì. Chốc đã nữa đêm, trăng xế hương tàn, nàng đem ống sinh để trên đầu giường, gắng gượng đi nằm. Nàng đang thiêm thiếp, bỗng thấy về phía tây nam trên trời, cửa mỡ rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống, đứng trước Phượng đài bảo nàng rằng:

– Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng thượng đế cho ta kết duyên với nàng, đến ngày trung thu này thì đôi ta gặp nhau, ấy là duyên số định sẵn như vậy !

Chàng trẻ tuổi ấy nói xong, thò tay vác bên mình, cởi ống ngọc tiêu, rồi đứng dựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên, cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa.

Tiếng phượng cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa, cùng nhịp với nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái. Lộng Ngọc mê mẩn tâm thần, hỏi rằng:

– Khúc này là khúc ở đâu?

Chàng trẻ tuổi ấy nói:

– Ấy là khúc “Họa Sơn Ngâm” đó!

Lộng Ngọc lại hỏi:

– Khúc này có học đưọc không?

Chàng trẻ tuổi ấy nói:

– Khi ra đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được.

Chàng trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt , cầm lấy tay của LỘng Ngọc;Nàng giật mình tỉng dậy, thì ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Mục công nghe. Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn. Kẻ nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng:

– Hôm rầm tháng bảy mới rồi, có một người lạ mặt, đến làm nhà ở trên núi này, ngày nào cũng xuống mua rượu uống, đến buổi chiều lại thổi chơi khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không biết là người ở đâu. Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên. Mạnh Minh biết là không phải người thướng , mới đến trước mặt vái chào, mà hỏi họ tên người ấy. Người ấy nói:

– Tôi họ Tiêu, tên Sử, chẳng hay ngài là ai? Ðến đây có việc gì?

Mạnh Minh nói:

– Tôi là chức hữu thứ trưởng nước này, tên gọi Mạnh Minh. Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng. Người con gái chúa công tôi, tài thổi ống sinh, muốn tìm một người như thế nữa mà kết duyên, nay nghe ngài am hiểu âm nhạc, vậy chúa công tôi sai đến đón!

Tiêu Sử nói:

– Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là có biết âm nhạc đôi chút mà thôi, có đâu tôi dám vâng mệnh.

Mạnh Minh nói:

– Xin ngài cứ đi cùng tôi xuống yết kiến chúa công.

Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Mục công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào. Mục công ngồi ở trên Phượng đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng:

– Chùng tôi ở thão dã chưa biết lễ nghi, có điều gì sơ suất, xin chúa công miễn thứ cho.

Mục công thấy Tiêu Sử hìng dung thanh tú, không phải là ngưòi thướng, trong lòng đã có mấy phần vui vẻ, mới cho ngồi ở bên cạnh mà nói rằng:

– Ta nghe nhà ngươi tài thổi ống tiêu, tất cũng tài thổi cả ống sinh nữa !

Tiêu Sử nói:

– Tôi chỉ biết thổi tiêu, không biết thổi ống sinh.

Mục công nói:

– Ta định tìm một người tài thổi ống sinh, nếu chỉ biết thổi ống tiêu thì không sánh đôi với con ta được !

Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử ra. Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Mục công rằng:

– Tiêu với sinh cũng là một loài, người ta đã atéi thổi ống tiêu thì sao chúa công không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài.

Mục công lấy làm phải, lại bảo Tiêu Sử thổi ống tiêu. Tiêu Sử mới thổ một khúcthì thấy có gió mát hây hây;thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt, đến khúc thứ ba thì có đôi hạc trắng múa lượn trên không, lại có mấy đôi khổn gtước bay về, và các giống chim kêu ríu rít;một lúc lâu rồi mới tan đi. Mục công rất bằng lòng. Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng:

– Người ấy thật đánh làm chồng ta !

Mục công lại hỏi Tiêu Sử rằng:

– Nhà ngươi biết ống sinh và ống tiêu làm ra từ đời nào không?

Mục công nói:

– Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguyên ủy cho ta nghe.

Tiêu Sử nói:

– Nghề tôi ở ống tiêu, vậy tôi xin kể nguyên ủy ống tiêu:Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn gọi là nhã tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc, thứ nhỏ gọi là tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc. Cả hai thứ gọi chung một tiếng là tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là đồng tiêu. Về sau vua Hoàng Ðế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê, chế làm ống địch, ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản dị lắm ! Người đời sau thấy tiêu quản nhiều ống quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa.

Mục công lại hỏi:

– Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có giống chim bay đến?

Tiêu Sử nói:

– Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ cũng vẫn giống tiếng chim phượng. Chim phượng là đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng, đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc “Tiêu Thiều” mà chim phượng còn hay bay đến, huống chi là các giống chim khác !

Tiêu Sử ứng đối trôi như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng. Mục công càng bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng:

– Ta có một người con gái, tên gọi LỘng Ngọc, cũng có biết âm nhạc , không muốn gã cho phường ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên.

Tiêu Sử nghe nói, nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:

– Tôi vốn là người thôn giã, có đâu dám sánh với bậc tôn quý !

Mục công nói:

– Con gái ta vốn có lời thề nguyện, có chọn được người nào tài thổi ống sinh thì mới lấy làm chồng. Nay nhà ngươi mới thổi ống tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi ống sinh nhiều lắm. Vả con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rầm tháng tắm, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ.

Tiêu Sử lạy tạ. Mục công sai quan thái sử chọn ngày để làm lễ cưới. Quan thái sử nói:

– Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin chúa công cho làm lễ cưới, để hợp cái nghĩa ân ái vẹn tròn.

T- àn Mục công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến phượng lâu, để cùng với Lộng Ngọc kết duyên. Ngày hôm sau, Tần Mục công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu. Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chínhcả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng lâu, lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi. Lộng Ngọc học được phép tiên của Tiêu Sử, cũng không ăn cơm. Tiêu Sử lại dạy nàng thổi ống tiêu. Vợ chồng ở với nhau ước được nữa năm thì một đêm, bóng trăng vằng vặc, hai vợ chồng đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu.

Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng:

– Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về sử sách, mới gọi là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng thượng đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn. Vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhưng không nên ở mãi chốn trần gian này Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi.

Lộng Ngọc toan vào từ biệt với cha. Tiêu Sử can rằng:

– Không nên ! Ðã là thần tiên thì chớ nên quyến luyến chút tình riêng !

Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng NGọc cỡi con Phượng cùng bay lên trời. Ngày hôm sau, nội thị vào báo với Mục công. Mục công thở dài mà than rằng:

– Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vua nữa !

Mục công liền sai người đến núi Họa Sơn để tìm, nhưng chẳng thấy Tiêu Sử đâu cả, mới truyền lập đền thờ, gọi là đền Tiêu Nữ. Mục công bấy giờ chán việc chiến tranh, giao hết quốc chính cho Mạnh Minh, rồi ngày nào cũng ham mê đường tu luyện. Chẳng bao lâu, côn gtôn chỉ cũng mất, Mạnh Minh tiến dẫn ba con Tử Xa Thị là Yêm Tức, Trọng Hàng và Kiểm Hồ, Mục công đều cho làm quan đại phu. Một hôm Mục công ngồi ở trên Phượng đài, ngắm cảnh trăng sáng, lại nhớ đến Lộng Ngọc, bỗng chợp mắt ngủ đi, trông thấy Tiêu Sử và Lộng Ngọc đem một con phượng đến đón, Mục công cưỡi phượng lên chơi cung trăng, khí lạnh buốt vào tận xương. Ðến lúc tỉnh dậy, liền bị bệnh cãm hàn, sau mấy ngày thì tạ thế. Ai cũng cho là Tần Mục công đắc đạo thành tiên.

Nguyên trước Mục công lấy con gái Tấn HIếu công sinh thế tử Oánh, đến bấy giờ thế tử Oánh lên nối ngôi, tức là Tần Khang công. Tần Khang công an táng Mục công theo tục nước Tần, dùng một trăm bảy mươi bảy người đem chôn sống. Trong số người bị chôn theo ấy có cả ba con Tử Xa Thị, người trong nước ai cũng thương tiếc.

Lại nói chuyệnTấn Tướng công lập con là Di Cao làm thế tử, cho thứ đệ là công tử Lạc sang làm quan ở nước Trần. Bấy giờ Triệu Thôi, Loan Chi, Tiêu Thả Cư và Tư Thần đều dần dần chết cả. Năm sau Tấn Tướng công ra duyệt binh ở đất Di (đất nước Tấn), rồi muốn bổ dụng Si Cốc và Lương Ích Nhĩ làm tướng ở đạo trung quân, Cơ Trịnh Phủ và Tiên Ðô (con Tiên Chẩn) làm tướng ở đạo thuợng quân. Con Tiên Thả Cư là Tiên Khắc nói với Tướng công rằng:

– Họ Hồ và họ Triệu có công to với nước Tấn, chúa công chớ nên bỏ con cháu của hai họ ấy mà không dùng. Nay Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ đều chưa có chiến công, đã cho làm ngay đại tướng, sao cho người ta phục?

Tướng công theo lời mới cho Hồ Xạ Cô làm trung quân nguyên soái, mà lấy Triệu Thuẫn làm phó tướng, cho Cơ Trịnh Phủ làm thượng quân nguyên soái;mà lấy Tuân Lâm Phủ làm phó tướng, cho Tiên Miệt làm hạ quân nguyên soái, mà lấy tiên đô làm phó tướng. Hồ Xạ Cô trèo lên tướng đài, tuyên bố hiệu lệnh cho các tướng sĩ, có ý kiêu ngạo, không coi ai ra gì cả. Quan tư mã là Du Biền can rằng:

– Tôi nghe trong quân phải có nhân hoà, nay các tướng đều là những bậc lão luyện thế thầ, nguyên soái chớ nên coi khinh. Ngày xưa Thành Ðắc Thần chỉ vì kiêu ngạo mà phải thua nước Tấn, nguyên soái nên lấy làm răn.

Hồ Xạ Cô nổi giận, quát to lên ràng:

– Nay ta đang tuyên bố hiệu lệnh cho các tướng sĩ, kẻ thất phu kia sao dám nói càn !

Nói xong, truyền nọc Du Biền đánh một trăm roi. Các tướng sĩ trông thấy, đều có ý không phục. Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ nghe nói Tiên Khắc nói với Tấn Tương công không nên dúng mình nên đem lòng oán giận. Tiên Ðô không đưọc giữ chức thượng quân nguyên soái, cũng có ý oán giận Tiên Khắc. Bấy giờ Dương Xử Phủ đang sang sứ nước Vệ, không dự biết việc ấy, đến lúc về nước, nghe tin HỒ Xạ Cô được làm nguyên soái, liền mật tâu với Tấn Tương crằng:

– Hồ Xạ Cô là người cương cường mà hiếu thắng, không được lòng dân, không thể làm đại tướng, chỉ có con Triệu Thôi là Triệu Thuẫn, rất có đức độ, mà lại có tài, chúa công muốn chọn nguyên soái thì nên dùng Triệu Thuẫn.

Tấn Tướng công theo lời, liền ra duyệt binh ở đất Ðồng. Hồ Xạ Cô chưa biết ý Tấn Tướng công muốn dùng người khác, vẫn nghiễm nhiên tự nhận làm trung quân nguyên soái. Tấn Tướng công gọi Hồ Xạ Cô mà bảo rằng:

– Ngày trước ta cho nhà ngươi làm nguyên soái, nay ta muốn để cho Triệu Thuẫn chức ấy, mà cho nhà ngươi làm phó tướng giúp Triệu Thuẫn.

Hồ Xạ Cô không dám nói gì, vâng dạ mà lui xuống. Tấn Tướng công liền cho Triệu Thuẫn làm trung quân nguyên soái, mà lấy Hồ Xạ Cô làm tướng, còn thượng quân và hạ quân vẫn dể yên như cũ?Triệu Thuẫn từ khi cầm quyền chính trong nước, chỉnh đốn pháp lệnh, người trong nước ai cũng kính phục. Có người bảo Dương Xử Phủ rằng:

– Ngài dám nói thẳng mà không kiêng nể ai, thật là một lòng vì nước, nhưng ngài không sợ người ta thù oán hay sao?

Dương Xử Phủ nói:

– Nếu có lợi cho nước thì ta chẳng sợ gì thù oán !

Ngày hôm sau, Hồ Xạ Cô vào yết kiến Tấn Tướng công, nhân lúc vắng vẻ mới hỏi Tấn Tướng công rằng:

– Chúa công nghĩ dến công lao của tiên nhân tôi ngày xưa mà cho tôi làm nguyên soái, nay lại đổi cho ngưòi khác, chẳng hay tôi có tội gì, xin chúa công chỉ bảo cho biết. Hay là vì cái công lao của tiên nhân tôi là Hồ Yến không bằng cái công lao của Triệu Thôi chăng?

Tấn Tướng công nói:

– Không phải có gì khác đâu ! Chỉ vì Dương Xử Phủ nói với ta rằng nhà ngươi không mấy người phục, khó làm được đại tướng , nên ta mới dùng người khác.

Hồ Xạ Cô nín lặng lui ra. Ðến tháng ba năm sau, Tấn Tướng công ốm nạng, khi sắp chết, triệu quan thái phó là Dương Xử Phủvà quan thượng khanh là Triệu Thuẫn với nhiều vị triều thần đến cạnh giường nằm mà dặn rằng:

– Ta đây nối theo nghiệp cha, , đánh đông dẹp bắc, chưa hề chịu kém ai, ngày nay chẳng may cùng với các người từ biệt, thế tử Di Cao tuổi hãy còn nhỏ, các khanh nên hết lòng giúp thế tử mà giao hiếu với các nước láng giềng, để giữ lấy sự nghiệp bá chủ.

Các quan đều sụp lạy xin vâng mệnh. Tấn Tướng công mất. Ngày hôm sau, triều thần định tôn thế tử Di Cao lên nối ngôi. Triệu Thuẫn nói:

– Nước ta ngày nay gặp lúc lắm việc, phải đối địch với nước Tần và nước Ðịch, không nên lập vua nhỏ, nay có công tử Ung, hiện đang làm quan ở nước Tần, ta nên đ&on về làm vua.

Các quan không ai dám nói gì. Hồ Xạ Cô nói:

– Chi bằng ta lập công tử Lạc ! Côn tử Lạc nay đang làm quan ở nước Trần, mà nước Trần lại thân với nước ta, không như nước Tần là một nước cừu địch, từ nước ta sang nước trần, chỉ sáng đi thì chiều đến nơi mà thôi.

Triệu Thuẫn nói:

– Không được ! Trần là một nước nhỏ mà ở xa, Tần là nước lớn mà ở gần. Ta sang nước Trần đón vua, cũng khônh thêm được tình thân ái, mà sang nước Tần đón vuathì lại bỏ được cái điều thù oán năm xưa và còn thêm vây cánh cho ta nữa. Như thế thì tất phải đón công tử Ung mới được!

Các quan đều nín lặng cả;Triệu Thuẫn liền sai Tiên Miệt làm chánh sứ, Sĩ Hội làm phó sứ;sang nước Tần báo tang, và đón công tử Ung về làm vua. Lúc Tiên Miệt sắp đi, Tuân Lâm Phủ ngăn lại mà bảo rằng:

– Phu nhân và thế tử đều ở đây cả, mà lại sang nước khác để đón vua, tôi e rằng nếu việc không thành thì tất có biến, sao nhà ngươi không cáo ốm mà từ chối đi?

Tiên Miệt nói:

– Quyền chính ở tay Triệu Thuẫn, sao lại có biến được !

Tuân Lâm Phủ nói riêng với người khác rằng:

– Ta cùng với Tiên Miệt là bạn đồng liêu với nhau, nên ta mới thực lòng mà bảo, nhưng hắn không nghe, ta e hắn khó lòng đã về được !

Hồ Xạ Cô thấy Triệu Thuẫn không theo ý mình, trong lòng tức giận mà nói rằng:

– Họ Hồ và họ Triệu, có kém gì nhau ! Ta quyết phen này có họ Triệu thì không họ Hồ!

Hồ Xạ Cô bèn mật người sang nước Tần đón công tử Lạc về, để tranh lấy ngôi vua. Có người báo tin với Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn sai công tôn Chử Cữu đem hơn một trăm người phục sẳn ở dọc đường, đón công tử Lạc mà giết đi. Hồ Xạ Cô thấy thế càng tức giận mà nói rằng:

– Làm cho Triệu Thuẫn được cầm quyền chính là bởi Dương Xử Phủ, nay có các nước đến hộ tang, Dương Xử Phủ ra ngủ ở ngoài thành để tiếp đón, nếu ta sai người ra đâm chết hắn thật dễ như chơi ! Và Triệu Thuẫn đã giết chết công tử Lạc thì ta giết Dương Xử Phủ chứ sao !

Hồ Xạ Cô bèn bàn mưu với em ruột là HỒ Cúc Cư. Hồ Cúc Cư nói:

– Việc ấy tôi có thể làm được !

Hồ Cúc Cư liền cùng với người nhà giả hìng làm kẻ trộm, nửađêm trèo tường vào chỗ Dương Xử Phủ ở. Dương Xử Phủ đang ngồi xxem sách ở bên cây nến, Hồ cúc Cư xông đến mà đánh, trúng vào vai Dương Xử Phủ. Dương Xử Phủ giật mình bỏ chạy. Hồ Cúc Cư đuổi theo giết chết, rồi cắt đầu đem về. Người nhà Dương Xử Phủ có kẻ nhận được mặt Hồ Cúc Cư, chạy vào báo với Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫngiả cách không tin mà mắng rằng:

– Dương thái phó bị kẻ trộm giết chết, sao nhà ngươi dám vu oan cho Hồ Cúc Cư?

Triệu Thuẫn bèn sai người khâm liệm cho Dương Xử Phủ. Ðến tháng mười năm ấy, làm lễ an táng Tấn Tướng công ở đất Khúc Ốc. Tương phu nhân là Mục Doanh và thế tử Di Cao cũng đi đưa đám. Mục Doanh bảo Triệu Thuẫn rằng:

– Tiên quân có tội gì, thế tử có tội gì, mà ngài nỡ bỏ thế tử, để đi đón vua ở nước khác?

Triệu Thuẫn nói:

– Ðó là việc quan trọng của nước nhà, không phải ý riêng của một mình tôi !

Khi đã làm xong lễ an táng Tương công rồi, lúc rước thần chủ vào nhà miếu, Triệu Thuẫn đứng ở trong miếu, bảo các quan đại phu rằng:

– Tiên quân ngày xưa, chỉ vì biết dùng pháp luật mà làm bá chủ được chư hầu, nay linh cữu hãy còn để đấy, mà Hồ Cúc Cư dám tự tiện giết chết quan thái phó;khiến cho triều thần ai cũng lo sợ, tội ấy không thể tha được !

Triệu Thuẫn bèn cho bắt Hồ Cúc Cư giao cho quan tư khấu kết án mà chém đi. Triệu Thuẫn lại sai người đến khám nhà Hồ Cúc Cư, tìm thấy đầu Dương Xử Phủ, rồi đem chấp vào thi thể Dương Xử Phủ để an táng. HỒ Xạ Cô sợ Triệu Thuẫn biết cái mưu ấy tự mình bày ra, nhân lúc đêm hôm trốn sang nước Ðịch, vào đầu với vua nước Ðịch là Bạch Ðôn. Bấy giờ nước Ðịch có người tên gọi Kiều Như, mình dài một trượng năm thước, bởi vậy mới gọi là Trường Ðịch. Trường Ðịch có sức khỏe, mang nổi nghìn cân, đầu rắn như đồng trán cứng như sắt, cầm gạch ngói mà đập vào, cũng không thể xây xát được. Bạch Ðôn dùng làm tướng, sai đi đánh nước Lỗ?Lỗ Văn công sai Thúc Tôn Ðắc Thần đem quân ra đối địch. Bấy giờ đang tiết mùa đông, sương mù nhiều lắm, quan đại phu là Phú Phủ Chung Sanh biết rằng trời sắp mưa tuyết, mới bảo Thúc Tôn Ðắc Thần rằng:

– Kiều Như là người vũ dũng lạ thường, không lấy sức khỏe mà địch nổi, phải dùng mưu kế mới đánh được.

Nói xong, liền sai người đào hố ở các nơi hiểm yếu, rồi đem đất và cỏ phủ kín trên mặt. Ðêm hôm ấy quả nhiên trời mưa tuyết to lắm, mặt đất phủ đầy những tuyết, không biết chỗ nhận là hầm hố cả. Phú Phủ Chung Sanh đem một toán quân đến cướp phá đồn trại của Kiều Như. Kiều Như đem quân ra đánh. Phú Phủ Chung Sanh giả cách thua chạy. Kiều Như vội vàng đuổi theo. Phú Phủ Chung Sanhdã có ý đi tránh những nơi có đào hầm có hố còn Kiều Như vô tình ngã lăn xuống hố. Thúc Tôn Ðắc Thần đem quân ra đuổi đánh;Phú Phủ Chung Sanh cầm giáo đâm suốt qua cổ họng Kiều Như, Kiều Như chết, Phú Phủ Chung Sanh đem xác để lên một cái xe lớn rồi kéo đi, ai trông thấy cũng phải kinh sợ. Năm ấy Thúc Tôn Ðắc Thần nhân sinh được đứa con trai trưởng, mới đặt tên là Thúc Tôn Kiều Như, để kỷ niệm trận tháng ấy. Từ bấy giờ nước Lỗ, nước Tề và nước Vệ cùng hợp nhau dể đánh nước Ðịch. Hồ Xạ Cô lại chạy sang Xích Ðịch nương tựa vào quan đại phu nước Xích Ðịch là Phong Thư.

Triệu Thuẫn nói:

– Hồ Xạ Cô có công với tiên quân ta nhiều lắm, ta giết Hồ Cúc Cư là muốn cho Hồ Xạ Cô yên lòng, ai ngờ hắn lại sợ tội bỏ trốn, nay ta nỡ lòng nào mà khiến cho hắn phải bơ vơ một mình ở nơi đất khách !

Nói xong, liền sai Du Biền đưa vợ con Hồ Xạ Cô sang nước Xích Ðịch giao trả cho Hồ Xạ Cô. Khi Du Biền vừa sắp sửa khởi hành, thì người nhà Du Biền nói vói Du Biền rằng:

– Ngày trước ngài đã bị Hồ Xạ Cô làm sĩ nhục một lần, cái thù ấy cũng nên báo lại, nay quan nguyên soái sai người đưa vợ con Hồ Xạ Cô sang nước Xích Ðịch, đó là trời cho ta cái dịp để báo thù ! Ta nên giết cả đi.

Du Biền gạt đi mà bảo rằng:

– Không nên ! Không nên ! Nguyên soái đem việc ấy giao cho ta là có lòng tin cậy ta. Nguyên soái muốn giao trả người ta, mà ta lại giết đi thì tất nguyên soái giận ta lắm. Nếu ta nhân lúc người ta nguy cấp mà làm hại thì không phải là nhân, làm một việc mà để cho người ta giận thì không phải là trí.

Du Biền liền mời vợ con HỒ Xạ Cô lên xe đưa đi, còn bao nhiêu gia tài của Hồ Xạ Cô, đều biên vào trong một quyển sổ, mà đem sang trả tận nơi, không để mất tí gì cả. HỒ Xạ Cô thấy vậy, thở dài mà than rằng:

– Du Biền là người có hiền đức mà ta không biết ! nay ta phải chạy trốn thế này, cũng là đáng lắm !

Triệu Thuẫn từ bấy giờ kính trọng Du Biền, có ý muốn trọng dụng. Tiên Miệt và Sĩ Hội sang đến nước Tần, xin đón côngtử Ung về làm vua. Tần Khang công mừng mà nói rằng:

– Tiên quân ta ngày xưa hai lần lập vua cho nước Tấn nay ta lại lập côn gtử Ung, như vậy thì các vua nước Tấn đều tự tay nước Tần ta lập cả.

Tần Khang công sai Kiển Bính đem quân đưa công tử Ung về nước Tấn. Phu nhân Mục Doanh từ khi đưa đám Tấn Tướng công xong rồi, ngày nào cũng cứ mờ mờ sáng đã ẵm thế tử Di Cao vào chốn triều đường ngồi khóc và bảo các quan đại phu rằng:

– Con trưởng của tiên quân đây, sao các ngài lại bỏ đi?

Lúc đã tan buổi triều, lại đi xe đến nhà Triệu Thuẫn, nói với Triệu Thuẫn rằng:

– Khi quân sắp mất, có đem đứa bé này ủy thác cho ngài, nay tiên quân dẫu khuất mặt đi rồi, nhưng lời nói ấy bên tai ta hãy còn văng vẳng, nếu ngài lập ngưòi khác thì định để đứa bé này vào chỗ nào? Thôi thì mẹ con tôi cũng liều một thác cho rồi !

Nói xong, lại vật mình lăn khóc. Người trong nước nghe nói, ai cũng có lòng thương xót mà đổ lỗi cho Triệu Thuẫn. Các quan đại phu cũng lấy việc đi đón công tử Ung làm thất sách. Triệu Thuẫn lo lắm, bàn mưu với Khước Khuyết rằng:

– Tiên Miệt đã sang nước Tần đón công tử Ung rồi, có lẽ nàota lại lập thế tử Di Cao được.

Khước Khuyết nói:

– Ngày nay bỏ thế tử Di Cao mà lập công tử Ung, ngày khắc thế tử Di Cao lớn lên, tất lại sinh biến, chi bằng ta kiếp sai người sang nước Tấn để gọi Tiên Miệt về.

Triệu Thuẫn nói:

– Ta lập vua đã rồi sẽ sai sứ đi !

Triệu Thuẫn bèn hợp các quan triều thần, lập thế tử Di Cao lên nối ngôi, tức là Tấn Linh công. Bấy giờ Tấn Linh công còn bé, mới lên bảy tuổi. Các quan triều thần vừa lạy mừng xong thì bỗng nghe có báo đại binh nước Tần hiện đã đưa công tử Ung về đến sôngHoàng Hà rồi. Các quan đại phu nói:

– Nay ta thất tính với nước Tần, biết nói lại làm sao cho được !

Triệu Thuẫn nói :

– Nếu ta lập công tử Ung thì Tần là nước thân tình với ta, nay ta không chịu lập thì Tần lại thành ra một nước cừu địch, chi bằng ta cứ đem quân ra đánh.

Triệu Thuẫn sai quan thượng quân nguyên soái là Cơ Trịnh Phủ ở nhà để phù tá Tấn Linh công, còn mình thì đem quân đi đối địch với quân Tần. Quân Tần đến đất Linh Hồi, nghe báo phía trước có quân Tấn, vẫn tưởng là đến đón công tử Ung, vậy nên không phòng bị gì cả. Tiên Miệt đi trước đến chỗ quân Tấn đóng, vào yết kiến Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn nói cho biết là đã lập thế tử Di Cao rồi. Tiên Miệt trừng mắt lên mà bảo rằng:

– Tự ai bàn mưu đi đón công tử Ung, mà nay lại lập thế tử Di Cao?

Nói xong, liền đứn ngay dậy, quay mình đi ra, lại gặp Tuân Lâm Phủ, Tiên Miệt bảo Tuân Lâm Phủ rằng :

– Tiếc thay, ta hkông nghe lời nhà ngươi trước, để đến nỗi thế này !

Tuân Lâm Phủ can rằng:

– Ngài là bề tôi nước Tấn, bỏ nước Tấn sao được !

Tiên Miệt nói:

– Ta đã phụng mệnh sang nước Tần để đón công tử Ung thì công tử Ung tức là vua ta, mà nước Tần tức là một nước phù tá cho vua ta, nay ta chịu trái lời nói trước mà cu lấy sự phú quý ở chốn cố hương hay sao !

Tiên Miệt nói xong, đi thẳng sang trại quân Tần?Triệu Thuẫn nói:

– Tiên Miệt đã không chịu theo Tấn thì ngày mai quân Tấn tất tiến sang đánh ta, chi bằng đêm hôm nay nhân lúc quân Tần bất ngờ, ta sang đánh ngay thì có thể thang được.

Nói xong, truyền cho quân sĩ sữa soạn binh mã để đêm hôm ấy sang đánh quân Tần, thì vừa canh ba, quân Tần đang ngủ, hoảng hốt vùng dậy, bỏ chạy tán loạn cả. Quân Tấn đuổi mãi tận đất Hoa Thủ (giáp giới Tấn và Tần ), Kiển Bính liều chết mới chạy thoát được, còn công tử Ung thì chết ở trong đám loạn quân, Tiên Miệt than rằng :

– Triệu Thuẫn bội ước với ta, nhưng ta không nên bội ước với Tần !

Nói xong, liền chạy sang nước Tần. Sĩ Hội cũng than rằng:

– Ta cùng với Tiên Miệt cùng đi sứ, nay Tiên Miệt đã trốn sang nước Tần, ta cũng không nên trở về nước Tấn một mình nữa !

Nói xong, cũng theo Tiên Miệt trốn sang nước Tần, Tần Khang công đều cho làm quan đại phu. Tuân Lâm Phủ nói với Triệu Thuẫn rằng:

– Ngày xưa Hồ Xạ Cô chạy sang nước Ðịch, ngài nghĩ tình đồng liêu, sai người đưa vợ con đi theo, nay Tiên Miệt và Sĩ Hội cùng tôi, cũng là đồng liêu với nhau, tôi xin bắt chước lối cũ.

Triệu Thuẫn nói:

– Nhà ngươi trọng nghĩa như vậy, chính hợp với ta.

Triệu Thuẫn bèn sai người gia quyến và tài sản của Tiên Miệt cùng Sĩ Hội đưa sang nước Tần.

Việc đánh nhau mới rồi, các tướng nước Tần đều có công thắng trận cả;chỉ có Khoái Ðắc, bộ tướng của Tiên khắc (trung quân phó nguyên soái )cứ thẳng đường đuổi theo mãi, bị quân Tần đánh thua . Tiên Khắc đã toan theo quân luật đem Khoái Khắc ra chém. Các tướng đều xin hộ Khoái Khắc. Tiên Khắc nói với Triệu Thuẫn, rồi truất bỏ lộc điền của Khoái Khắc. Khoái Khắc đem lòng căm tức.

Cơ Trịnh Phủ, Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ vốn chơi thân với nhau, từ khi Triệu Thuẫn lên làm trung quân nguyên soái, Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ đều mất hết quyền thế, mới cùng với Cơ Trịnh Phủ cùng oán giận Triệu Thuẫn. Bấy giờ Triệu Thuẫn đem quân đi đánh quân Tần, Cơ Trịnh Phủ cùng Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ hợp nhau mà thương nghị rằng:

– Triệu Thuẫn chuyên quyền, tự ý bỏ người nọ lập người kia, nay đại binh nước Tần đưa công tử Ung về, Triệu Thuẫn đang đem quân ra đánh, chi bằng nhằm lúc hai bên còn giữ nhau, chúng ta nổi dậy đánh Triệu Thuẫn, bỏ Di Cao đi mà đón công tử Ung về, như vậy thì quyền chính nước Tấn sẽ ở trong tay chúng ta cả.

Chương 48: Năm tướng bàn nhau làm loạn Tấn – Thọ Dư lập kế đánh lừa Tần

Cơ Trịnh Phủ cùng với Sĩ Cốc và Lôi Ích Nhĩ, ba người bàn nhau, chỉ đợi quân Tần thắng trận thì thừa cơ nổi loạn, mà tranh lấy quyền chính của Triệu Thuẫn, chẳng ngờ Triệu Thuẫn phá tan được quân Tần, thì ba người lại càng căm tức.Bấy giờ Tiên Đô làm tướng ở đạo hạ quân, thấy chủ tướng mình là Tiên Miệt bị Triệu Thuẫn đánh lừa mà phải trốn sang nước Tấn, cũng có ý căm tức Triệu Thuẫn.Khoái Đắc bị Tiên Khắc truất mất lộc điền, đem lòng oán giận, mới bàn mưu với Sĩ Cốc, Sĩ Cốc:

– Tiên Khắc cậy thế Triệu Thuẫn, làm nhiều điều ngang ngược, nếu được một người can đảm, giết chết Tiên Khắc đi thì Triệu Thuẫn thế cô không làm gì được nữa, nhưng việc này trừ phi Tiên Đô ra thì không ai dám làm nổi.

Khoái Đắc nói với Sĩ Cố rằng:

– Tiên Đô thấy chủ tướng là Tiên Miệt bị Triệu Thuẫn đánh lừa, phải trốn qua Tần, cũng có ý căm tức Triệu Thuẫn đấy.

Sĩ Cốc nói:

– Nếu vậy thì khó gì mà không giết được Tiên Khắc.

Nói xong, liền ghé vào tai Khoái Đắc mà bảo thầm mưu kế giết Tiên Khắc.Khoái Đắc mừng lắm, nói:

– Để ta sẽ nói với Tiên Đô!

Nói xong, tức khắc đến yết kiến Tiên ĐộTiên Đô nói với Khoái Khắc rằng:

– Triệu Thuẫn bội ước với Tiên Miệt, lại lén đánh quân Tần, chẳng có tín nghĩa chút nào cả, ta cũng khó lòng mà ở với hắn được !

Khoái đắc đem lời Sĩ Cốc nói với Tiên ĐộTiên Đô nói :

– Nếu vậy thì là phúc cho nước Tần lắm !

Bấy giờ hết mùa đông, sang mùa xuân, Tiên Khắc đi ra Cơ Thành để bái yết miếu tổ là Tiên Chẩn.Tiên Đô sai người phục ở ngoài Cơ Thành, khi Tiên Khắc đi đến nơi thì đổ ra giết chết.Những người theo hầu Tiên Khắc thấy vậy, đều bỏ chạy tán loạn cả.Triệu Thuẫn nghe tin Tiên Khắc bị giết, tức thì nổi giận, truyền cho quân tư khấu phải lùng để bắt quân gian, hạn trong nam ngày phải bắt cho bằng được.Bọn Tiên Đô luống cuống, cùng với Khoái Đắc bàn mưu với nhau, rồi xui giục Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ khởi sự gấp.Lương Ích Nhĩ lúc rượu say, nói lộ chuyện cho Lương Hoàng biết.Lương Hoàng kinh sợ mà nói rằng:

– Nếu vậy thì chết cả họ, chứ chẳng chơi đâu !

Lương Hoàng tức thì mật báo cho Du Biền.Du Biền bèn vào n&oi với Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn tức khắc truyền cho quân sĩ phải sẳn sàng đợi lệnh.

Tiên Đô thấy vậy, vội vàng sang nhà Sĩ Cốc, giục kíp khởi sự.Cơ Trịnh Phủ muốn đợi đến ngày thượng nguyên, nhân khi Tấn Linh công mở tiệc tứ bố thì thừa cơ nổi loạn, bởi vậy cứ phân vân, chưa quyết định.Triệu Thuẫn sai Du Biền đến vây nhà Tiên Đô, bắt Tiên Đô đem bỏ ngục.Lương Ích Nhĩ và Khoái Đắc trong khi bối rối, toan cùng Cơ Trịnh Phủ nổi loạn.Triệu Phuẫn bèn sai đem việc Tiên Đô muốn nổi loạn đến báo với Cơ Trịnh Phủ và mời Cơ Trịnh Phủ vào Triều để bàn việc.Cơ Trịnh Phủ nói:

– Triệu Thuẫn sai người mời ta đến bàn việc, thế là vẫn không có ý nghi ta !

Cơ Trịnh Phủ thản nhiên đến ngaỵNguyên Triệu Thuẫn thấy Cơ Trịnh Phủ đang làm thượng quân nguyên soái, sợ hắn hợp quân nổi loạn, nên mới giả cách đem người đến triệu.Cơ Trịnh Phủ không biết kế, vội vàng đi thẳng vào triều.Triệu Thuẫn giữ ở trong triều để bàn việc Tiên Đô, rồi mật sai Tuân Lâm Phủ, Khước Khuyết và Long Thuẫn đem quân bắt Sĩ Cốc, Lương Ích Nhĩ và Khoái Đắc cùng bỏ ngục cả.Bọn Tuân Lâm Phủ về đến trong triều, trông thấy Cơ Trịnh Phủ liền quát to lên rằng:

– Cơ Trịnh Phủ cùng là một người trong đám khởi loạn, mà làm sao không bắt bỏ ngục,

Cơ Trịnh Phủ nói:

– Lúc trước các ông đem quân đi vắng cả, tôi còn không noẩi loạn, huống cho ngày nay các ngài đã thắng quân Tần rồi, tôi lại sinh sự để muốn cầu lấy cái chết hay sao!

Triệu Thuẫn nói:

– Nhà ngươi còn dùng dằng mà chưa nổi loạn, là có ý đợi Tiên Đô và Khoái Khắc đó thôi.Ta đã dò biết hết sự tình, còn cãi gì được nữa !

Cơ Trịnh Phủ cúi đầu chịu vào ngục.triệu Thuẫn tâu với Tấn Linh công, xin đem bọn Cơ Trịnh Phủ ra chém, cả thảy năm người (Cơ Trịnh Phủ, Sĩ Cốc, Lương Ích Nhĩ, Khoái Đắc và Tiên Đô ).Linh công hãy còn ít tuổi, chỉ vâng dạ mà thôi.Khi Linh công đã vào cung, Tương phu nhân nghe tin bọn Cơ Trịnh Phủ bị bắt, mới hỏi Linh công rằng:

– Tướng xử trí việc ấy thế nào ?

Linh công nói:

– Tưog quốc xin trị tội mà đem chém tất cả.

Phu nhân nói:

– Bọn Cơ Trịnh Phủ nổi loạn, là vì tranh quyền lẫn nhau, chứ không can dự gì đến thoán nghịch.Và việc mưu giết Tiên Khắc, chẳng qua chỉ một vài người chủ mưu mà thôi, xử tội phải có thủ phạm tùng phạm, lẽ nào lại tru lục như nhau.Gần đây các bậc lão thành kế tiếp mà chết, thành ra nhân tài rất hiếm.Nay một lúc giết năm đại thần thì triều đình trống trải, không đáng lo lắm sao?

Ngày hôm sau, Linh công đem lời nói của Tương phu nhân, , thuật lại cho Triệu Thuẫn nghẹTriệu Thuẫn nói:

– Bọn hắn nổi loạn, nếu không giết đi thì lấy gì làm gương cho kẻ khác !

Nói xong, truyền đem bọn Cơ Trịnh Phủ ra chém, lại cho con Tiên Khắc là Tiên Cốc làm quan đại phụNgười nước Tấn thấy Triệu Thuẫn nghiêm khắc như vậy ai cũng sợ hãi, Hồ Xạ Cô ở nước Xích Địch nghe thấy việc ấy, cũng giật mình mà nói rằng:

– May thay cho ta được khỏi chết !

Một hôm quan đại phu Xích Địch là Phong Thư hỏi Hồ Xạ Cô rằng:

– Triệu Thuẫn với Triệu Thôi, hai người ấy ai hơn?

Hồ Xạ Cô nói:

– Triệu Thôi khác nào như mặt trời mùa đônh, Triệu Thuẫn khác nào như mặt trời mùa hạ.Mặt trời mùa đông ấm áp thì ai cũng yêu, mặt trời mùa hạ nóng dữ thi ai cũng sợ !

Phong Thư cười mà bảo rằng:

– Nhà ngươi làm tướng đã lâu năm, có nhiều công trạng mà cũng sợ Triệu Thuẫn à !

Lại nói chuyện Sở Mục vương từ khi cướp ngôi lên làm vua, cũng có chí lớn muốn làm bá chủ trung nguyên, nghe Tấn Linh công mới lập, Triệu Thuẫn chuyên quyền, các quan đại phu giết lẫn nhau, thì muốn đem quân sang đánh Trịnh, liền hơp( triều thần lại để thương nghị.Quan đại phu là Phan Sơn nói:

– Vua Tấn tuổi hãy còn nhỏ, các bề tôi chỉ tranh quyền lẫn nhau, còn nghĩ gì đến chư hầu, nay ta thừa cơ đem quân sang đánh lấy các nước ở phía bắc thì còn ai đương nổi !

Sở Mục công bằng lòng, liền sai Đấu Việt Tiêu làm chánh tướng, Vĩ Giả làm phó tướng, đem quân đi đánh Trịnh, còn mình thì đóng đại binh ở đất Lang Uyên để tiếp ứng, lại sai công tử Tiên làm chánh tướng, công tử Phiệt làm phó tướng, đem quân đi đánh Trần.Trịnh Mục công nghe tin quân Sở đến đánh, vội vàng sai công tử Kiên, công tử Mang và Lạc Nhĩ, ba người đem quân ra ngoài cõi để chống cự với quân Sở, lại dặn phải giữ thế thủ, chớ nên giao chiến, rồi cho người sang cáo cấp với nước Tấn. Đấu Việt Tiêu ngày nào cũng đem quân đến khiêu chiến.Quân Trịnh nhất định không rạVĩ Giả mật nói với Đấu Việt Tiêu rằng:

– Từ trận Thành Bộc đến giờ, quân Sở ta đã lâu không kéo sang nước Trịnh, người nước Trịnh chắc đợi có quân nước Tấn đến cứu, vậy mới cố giữ thế thủ mà không giao chiến với tạNay ta nên nhân lúc quân Tấn chưa đến, dụ ra mà đánh thì có thể báo được cái thù năm xưa, nếu để lâu ngày, các nước đem quân đến cứu thì e rằng lại giống như việc Thành Đắc Thần ngày trước, biết làm thế nào !

Đấu Việt Tiêu nói:

– Nay muốn dụ quân Trịnh ra thì làm thế nào?

Vĩ Giả ghé tai mà bảo mưu kế. Đấu Vuệt Tiêu nghe lời, liền giả cách nói lương thực sắp hết, truyền cho các quân sĩ đi ăn cướp ở các thôn xóm, còn mình thì ngày nào cũng ngồi ở trong màn uống rượu nghe hát đến nữa đêm mới thôi.Có người đến đất Lang Uyên báo tin cho Sở Mục vương biết.Sở Mục vương nghi lé Đấu Việt Tiêu có lòng khinh giặc, đã toan đem quân đến đễ đốc chiến.Phạm Sơn nói với Sở Mục vương rằng:

– Vĩ Giả là người có trí, tất là mưu kế chi đây.Tôi chắc chỉ trong mấy ngày nữa, phải có tin thắng trận đưa về.

Bọn công tử Kiên(tướng nước Trịnh )thấy quân Sở không đến khiêu chiến nữa, trong lòng nghi hoặc, mới sai người đi dọ thám xem tình hình quân Sở ra sao.Quân thám tử về báo rằng:

– Quân Sở ngày nào cũng kéo nhau đi cướp phá các thôn xóm, còn Đấu Việt thì chỉ suốt ngày nghe hát và uống rượu, khi rượu say, lại xỉ mắng người nước Trịnh ta là hèn mạt không làm gì được!

Công tử Kiên mừng mà nói rằng:

– Quân Sở đi cướp phà thôn xóm thì trong đồn trại tất bỏ không, mà nguyên soái nước Sở ngày nào cũng nghe hát uống rượu thì trông gì đến việc quan nữa ! Đêm hôm nay ta đem quân sang cướp phá đồn trại quân Sở, có thể toàn thắng được.

Công tử Mang và Lạc Nhĩ đều lấy làm phải. Đêm hôm ấy, ba người cùng đem quân lẻn đến dinh quân Sở, đứng xa trông thấy đèn đuốc sáng rực, lại nghe có tiếng hát véo von.Công tử Kiên nói:

– Đấu Việt Tiêu sắp đến ngày tận số !

Rồi tức thì vẫy quân xông vào.Quân Sở không chống cự gì cả.Công tử Kiên tiến vào tận trong trại, mấy người nhạc công bỏ chạy tán loạn, chỉ có Đấu Việt Tiêu vẫn thấy ngồi trơ, không động đậy chút nào.Công tử Kiên đến gần nhìn kỹ xem sao thì hóa ra một người bằng cỏ kết lại, chứ không phải Đấu Việt Tiêu thật, bấy giờ mới biết là trúng kế, giật mình kinh sợ, toan quay trở rạBỗng thấy ở phía sau trại pháo vang rầm, một viên đại tướng kéo quân ra đuồi đánh, quát to:

– Ta là Đấu Việt Tiêu đây !

Công tử Kiên vội vàng cùng với công tử Mang và Lạc Nhĩ tìm đường trốn chạy.Chạy chưa được một dặm, lại nghe có tiếng súng nổ.Vĩ Giả đem một toán quân chấn ngang giữa đường .Phía trước có Vĩ Giả, phía sau có Đấu Việt Tiêu, hai phía cùng đánh ập lại.Quân Trịnh thua tọCông tử Mang và Lạc Nhĩ bắt.Công tử Kiên chạy lại để cứu, cũng bị quân Sở bắt nốt.Trịnh Mục công kinh sợ, báo các bề tôi rằng:

– Ba tướng nước ta đều bị bắt cả, mà vẫn chưa thấy quân Tấn đến cứu, biết làm thế nào?

Các quan triều thần nói:

– Thế quân Sở mạnh lắm ! nếu ta không xin hàng thì chẳng bao lâu quân ta sẽ bị quân Sở phá vỡ, dẫu nước Tấn cũng không thể phá nổi.

Trịnh Mục công liền sai công tử Phong (con Trịnh Mục công ) đem các đồ lễ vật đến dinh quân Sở để xin giảng hòa. Đấu Việt Tiêu sai người tâu với Sở Mục vương.Sở Mục vương thuận cho, truyền tha công tử Kiên, công tử Mang và Lạc Nhĩ, rồi lại thu quân trở về nước Sở.Bấy giờ công tử Tiên (tướng nước Sở ) đem quân đi đánh Trần bị thua, quan phó tướng là công tử Phiệt bị quân nước Trần bắt.Côn tử Tiên mới đón đường tâu với Sở Mục công xxin thêm quân để đi đánh báo thù.Sở Mục công giận lắm, toan kéo quân sang nước Trần.Bỗng thấy nước Trần sai sứ đem công tử Phiệt sang xin giảng hoà.Sở Mục vương mở thư ra xem, đại lược nói rằng:

– Nước tôi nhỏ mọn, chưa từng được giao tiếp với thượng quốc, nay thượng quốc hành quân sang nước tôi, bọn ở biên giới không biết gì, có thất lễ với công tử Phiệt, tôi lấy làm lo sợ lắm, vậy phải sai sứ đem ngựa sang tạ tội.Từ nay trở đi, nước tôi một lòng thần phục, vậy xin thượng quốc dung thứ cho.

Mục vương cười rằng:

– Nước Trần sợ ta hỏi tội mà xin qui phục, cũng là kiến cơ đó !

Nói xong, thuận cho nước Trần được giảng hoà.Mục vương lại truyền hịch cho vua Trịnh, vua Trần, và vua Sái hẹn đến tháng mười năm ấy thì hội nhau ở đất Quyết Lạc (đất nước Tống ).

Lại nói chuyện Triệu Thuẫn nước Tấn thấy người nước Trịnh đến cáo cấp liền hợp quân bốn nước, Tống , lỗ, Vệ và Hứa để cùng sang cứu nước Trịnh.Chưa sang đến nơi, đã nghe tin nước Trần cũng theo Sở.Quan đại phu nước Tống là Hoa Ngẫu cùng quan đại phu nước Lỗ là công tử Toại đến nói với Triệu Thuẫn xin đem quân sang đánh Trần và Trịnh.Triệu Thuẫn nói:

– Chỉ vì ta không đến cứu nhanh, để đến nổi hai nước phải theo Sở, chớ hai nước ấy có tội lỗi gì ! Chi bằng ta rút quân về mà sửa sang chính sự trong nước còn hơn !

Nói xong liền rút quân về.Cuối mùa thu năm ấy, vua Trần (Sóc ) và vua Trịnh ( Lan) đều đến cả ở Tức Địa để đón Sở Mục vương.Mục vương hỏi:

– Khi trước tôi có hẹn đến hội ở Quyết Lạc, sao hai vua lại còn ở đây?

Vua Trần và vua Trịnh đồng thanh đáp:

– Chúng tôi sợ đến chậm thì có lỗi, vậy phải hợp ở đây để đón đại vương, rồi cùng đi một thể.

Sở Mục vương bằng lòng.Bỗng nghe báo vua Sái (Giáp Ngọ) đã đến ở đất Quyết Lạc rồi.Sở Mục vương liền cùng với vua Trần và vua Trịnh đi gấp đến đất Quyết Lạc.Khi Sở Mục vương đến, vua Sái ra đón, dùng lễ thần hạ, sụp lạy hai lạy.Vua Trần và vua Trịnh giật mình, nói riêng với nhau rằng:

– Vua Sái chịu nhún mình quá như vậy, thì vua Sở tất cho chúng ta là quá vô lễ !

Vua Trần và vua Trịnh mới cùng nhau nói với Sở Mục vương rằng:

– Đại vương thân hành đến đây mà vua Tống không đến nghênh tiếp, xin đại vương cho đem quân đi đánh.

Mục vương cười mà rằng:

– Tôi đem quân tới đây, chính là muốn đánh nước Tống đó.Bấy gìờ Tống thành công đã mất rồi, con là Chủ Cữu (tức là Tống Chiêu Công )lên nối ngôi mới được ba năm, hay tin dùng bọn tiểu nhân, mà ruồng bỏ người trông công tộc, bởi vậy người trong công tộc nổi loạn, giết quan tư mã là công tử Ngang.Quan tư thành là Đãng Y Chư bỏ chạy sang nước Lỗ, nhờ có quan tư khấu là Hoa Ngự Sự hết sức điều đình để triệu Đãng Y Chư về, nước Tống mới được yên ổn.Hoa Ngự Sự nghe tin Sở Mục công hội chư hầu ở đất Quyết Lạc có ý muốn dòm ngó nước Tống, mới nói với Tống Chiêu công ràng:

– Nước nhỏ mà không chịu thần phục nước lớn thì sao giữ được, nay nước Trần và nước Trịnh đều theo Sở cả, chúa công cũng nên thân hành đến mà nghênh tiếp vua Sở, nếu chờ khi vua Sở đem quân đến đánh, rồi mới xin giảng hoà thì sao cho kịp !

Tống Chiêu công lấy làm phải, mới thân hành đến đất Quyết Lạc để nghenh tiếp Sở Mục vương, và mời Sở Mục vương đi sắn bắn ở rừng Mạnh ChựSở Mục vương bằng lòng.Tống Chiêu công cùng với các chư hầu theo Sở Mục vương đi săn.Sở Mục vương truyền lệnh cho các chư hầu đi săn, trong xe đều phải đem theo một cái mồi lửa, phòng khi lấy lửa. Đến lúc đi săn, Sở Mục vương ngảnh lại hỏi Tống Chiêu công lấy cái mồi lửa toan hun đốt đàn cáo.Tống Chiêu công không đem mồi lửa đi theo.Quan tư mã nước Sở là Thân Vô Úy nói với Sở Mục vương rằng:

– Vua Tống trái lệnh như vậy, nếu đại vương không trị tội thì cũng nên đánh người theo hầu vua Tống để giữ phép.

Nói xong, liền thét nọc người dong xe của Tống Chiêu công đánh ba trăm roi, dể làm gương cho chư hầu.Tống Chiêu công hổ thẹn khôn xiết.Bấy giờ nước Sở cường thịnh, sai Đấu Việt Tiêu sang sứ nước Tề và nước Lỗ, nghiễm nhiên tự coi là bá chủ Trung nguyên.Nước Tấn biết vậy mà cũng không kiềm chế nổi.

Năm thứ tư đời Chu Khoảnh vương, Tần Khang công hợp các quan triều thần lại thương nghị rằng:

– Ta nghĩ đến việc Linh Hồ mà căm tức nước Tấn, đến nay đã năm năm trời, bây giờ Triệu Thuẫn nước Tấn chuyên quyền, giết hại các quan đại thần, không biết sửa sang chánh sự.Trần, Sái, Trịnh, Tống đều bỏ Tống theo Sở cả, mà Tấn cũng không làm gì nổi, xem thế đủ biết Tấn đã suy nhược lắm rồi, nay ta không đánh Tấn , còn đọi đến bao giờ !

Các quan đại phu đều nói:

– Chúa công muốn đánh Tấn, chúng tôi xin hết sức.

Tần Khang công liền giao quốc chính cho Mạnh Minh, rồi sai Tây Khất Thuật làm chánh tướng, Kiển Binh làm phó tướng, Sĩ Hội làm tham mưu, đem quân sang nước Tấn đánh lấy đất Cơ Mã.Triệu Thuẫn nghe báo, tức khắc muốn đem quân ra đối địch.Bấy giờ Triệu Thuẫn làm trung quân nguyên soái, cho Tuân Lâm Phủ làm trung quân phó nguyên soái, thay chân Tiên Khắc, dùng Đế Di Minh làm chức xa hữu, lại cho Khước Khuyết làm thượng quân nguyên soái, thay chân Cơ Trịnh Phủ.Triệu Thuẫn có người em họ têngọi Triệu Xuyên, là con rễ Tấn Tướng công, xin làm thượng quân phó nguyên soái, Triệu Thuẫn bảo Triệu Xuyên rằng:

– Nhà ngươi tuổi trẻ, chưa có lịch duyệt, không nên làm vội.

Nói xong liền cho Du Biền làm thượng quân phó nguyên soái, lại dùng Loan Thuẫn làm hạ quân phó nguyên soái, thay chân Tiên miệt, dùng con Tư Thân là Tư Giáp làm hạ quân phó nguyên soái, thay chân Tiên ĐộTriệu Xuyên lại xin đem thân thuộc của mình phụ theo với đạo thương quân để lập công trạng.Triệu Thuẫn thuận chọCon Hàn Tử Dư tên gọi Hàn Quyết, có hiến đức mà lại có tài năng, từ lúc bé vẫn ở nhà Triệu Thuẫn.Bấy giờ khuyết chức tư mã, Triệu Thuẫn liền tiến cử lên Tấn Linh công, mà dùng tư mã. Đại binh từ Giáng Đô kéo ra, rất là chỉnh tề, uy nghiêm ! Đi chưa được mười dặm, bỗng thấy có một người rẽ hàng quân mà quay xe trở lại.Quan tư mã là Hàn Quyết hỏi.Người dong xe ấy nói:

– Triệu Tướng quốc bỏ quên các đồ uống rượu, vậy có sai tôi trở lại lấy.

Hàn Quyết nổi giận nói :

– Đại binh đang đi ma sao nhà ngươi dám rẽ hàng quân trở lại, tất phải đem chém mới được !

Người dong xe ấy khóc mà kêu rằng:

– Việc này là do lệnh quan Tướng quốc.

Hàn Quyết nói:

– Ta làm chức tư mã, chỉ biết quân pháp, chứ không biết quan tướng quốc nào cả!

Nói xong, truyền chém người dong xe của ngài, thật là một kẻ phụ Ơn, xin chớ nên dùng làm gì !

Triệu Thuẫn cười, rồi sai người đi triệu Hàn Quyết.Hàn Quyết đến, Triệu Thuẫn đang ngồi đúng dậy, tỏ ý kính trọng mà bảo rằng:

– Nhà ngươi biết giữ phép như vậy, thật không uổng công ta tiến dẫn ! Nhà ngươi nên gắng thêm nữa !

Hàn Quyết lạy tạ rồi lui rạTriệu Thuẫn lại bảo các tướng rằng:

– Sau ngày Hàn Quyết tất được cầm quyền chính nước Tấn ! Họ Hàn đã sắp đến ngày hưng thịnh !

Quân Tấn đóng đồn ở đất Hà Khúc.Du Biền hiến kế rằng :

– Quân Tấn dương uy sức nhuệ trong mấy năm trời, mới sang đánh ta thì không địch nổi, ta nên cố thủ mà không nên ra đánh, lâu ngày tự khắc quân Tấn phải lui.Khi quân Tần đã lui, bấy giờ ta sẽ đuổi thì tất được toàn thắng.

Triệu Thuẫn theo lời.Tần Khang công thấy quân Tấn không đánh, mới hổi kế Si Hội.Sĩ Hội nói :

– Triệu Thuẫn mới dùng một người tên gọi Du Biền.Người ấy nhiều mưu trí lắm ! Nay quân Tấn không ra đánh là theo mưu của Du Biền, muốn lém cho quân ta lâu ngày mỏi mệt.Tôi nghe Triệu Xuyên là con rễ Tấn Tương công thuở trước, có nói với Triệu Thuẫn không cho, lại dùng Du Biền, Triệu Xuyên không bằng lòng, bởi vậy xin đem thân thuộc đi theo đạo thượng quân, thì tất Triệu Xuyên cậy sức mạnh, vội vàng ra nghênh chiến.Chỉ dùng kế ấy mới đánh nổi được quân Tấn.

Tần Khang công theo lời, liền sai Kiển Binh đến đánh đạo thượng quân.Khước Khuyết và Du Biền đều cố thủ không rạTriệu Xuyên nghe tin quân Tần đến, tức khắc đem thân thuộc của mình ra nghênh chiến.Kiển Binh quay xe bỏ chạy.Xe chạy rất nhanh.Triệu Xuyên đuổi theo đến hơn mười dặm mà không kịp, phải trở về.Triệu Xuyên thấy bọn Du Biền không đem quân tiếp ứng, mới gọi các tướng sĩ mà mắng rằng:

– Ta đem quân đi tới đây là cốt để đánh giặc, nay giặc đến mà ra đánh, vậy thì đạo thượng quân này đều là đàn bà cả hay sao !

Các tướng sĩ nói:

– Nguyên soái đã định sẳn mưu kế để phá quân giặc, chúng tôi không dám trái lệnh.

Triệu Xuyên lại mắng rằng:

– Lũ chuột ấy lại còn có mưu kế gì ! Chẳng qua là sợ chết mà thôi, Ai sợ quân Tần, chứ ta đây quyết không sợ.Ta quyết đem quân ra đánh một trận để khỏi thẹn với quân Tần.

Triệu Xuyên lại tiến quân ra đánh, vừa đi vừa reo to lên rằng:

– Ai có can đảm thì đi theo ta !

Các tướng sĩ không ai theo cả.Chỉ có quan hạ quân phó nguyên soái là tư giáp khen rằng:

– Người ấy thật là anh hùng, ta nên giúp mới phải !

Thượng quân nguyên soái là Khước Khuyết vội vàng sai người đem việc ấy báo cho Triệu Thuẫn biết.Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ mà nói rằng:

– Thằng điên ấy đem quân đi một mình, tất bị quân Tần bắt, ta phải cứu mới được !

Nói xong, liền truyền cho các quân cùng ra, đế giao chiến với quân Tần.

Lại nói chuyện Triệu Xuyên tiến sang quân Tần, cùng với Kiển Binh giao chiến. Đánh được hơn ba mươi hợp, hai bên đang xung đột, thì Tây Khất Thuật vừa toan xông đến để đánh giúp Kiển Binh, bỗng thấy đại binh Tấn kéo ra, nên không dám đánh nữa, lại nổi hiệu thu quân trở về..Triệu Thuẫn thấy vậy cũng thu quân về.

Triệu Xuyên về đến dinh quân Tấn, hỏi Triệu Thuẫn rằng:

– Tôi định dốc lực ra phá vỡ quân Tần, để rửa thẹn cho các tướng, sao ngài lại nổi hiệu thu quân?

Triệu Thuẫn nói:

– Tần là một nước lớn, không nên khinh địch, phải dùng kế mới được.

Triệu Xuyên nói:

Đùng kế ! Dùng kế ! Nghĩ mà chán quá !

Nói chưa dứt lời thì có người vào báo có sứ nước Tần đưa chiến thư đến.Triệu Thuẫn sai Du Biền ra tiếp kiến.Sứ nước Tần đưa bức thư cho Du Biền.Du Biền đệ trình Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn mở ra xem, thư rằng:

“Các chiến sĩ của hai nước chúng ta, đều chưa thiếu ai cả, xin đến ngày mai quyết một trận được thua”.

Triệu Thuẫn nhận lời, sứ nước Tần về rồi, Du Biền bảo Triệu Thuẫn rằng:

– Tôi thấy sứ nước Tần ngoài miệng dẫu nói xin khai chiến, nhưng trông mắt ngơ ngác nhìn quanh có ý sợ hãi ta lắm.Tôi chắc đêm hôm nay quân Tần tất bỏ trốn , xin nguyên soái sai một toán quân ra phục sẳn ở bên Hoàng Hà, chờ khi quân Tần qua sông sẽ đổ ra đánh, tôi chắc là quân ta tất được toàn thắng.

Triệu Thuẫn khen phải, toan sai quân đi mai phục.Tư Giáp nghe thấy mưu ấy, liền nói với Triệu Xuyên.Triệu Xuyên liền với Tư Giáp kéo nhau đến cửa dinh quân Tấn mà reo ầm lên rằng:

– Các quân sĩ, hãy nghe ta nói một câu:nước Tấn ta dùng binh hùng tướng dũng, có kém gì nước Tần , nay nước Tần đưa chiến thư, ta đã nhận lời rồi, mà lại còn đem quân mai phục, để làm kế đánh trộm thì sao gọi là trượng phu được !

Triệu Thuẫn nghe nói, liền gọi Triệu Xuyên và Tư Giáp đến mà bảo rằng:

– Ta có ý đâu ! Các người chớ làm cho quân sĩ náo động !

Thám tử của nước Tần đem chuyện ấy về báo với Tần Khang công. Đêm hôm ấy, quân Tần bỏ trốn, rút về mạt Hà Ấp, qua ải Đào Lâm mà về nước Tần.Triệu Thuẫn cũng thu quân trở về, rồi trị tội những kẻ làm tiết lộ quân tình.Triệu Xuyên là con rễ Tấn Tương công, lại là em họ Triệu Thuẫn, được tha tội, còn Tư Giáp thì phải cách bỏ quan tước, đuổi sang ở nước Vệ.Triệu Thuẫn nói :

– Ta không nên quên công của Tư Thần ngày xưa !

Nói xong, lại cho con Tư Giáp là Tư Khắc làm hạ quân phó nguyên soái.

Triệu Thuẫn sợ quân Tần lại đến, mới sai quan đại phu là Thiêm Gia ra ở Hà Ấp để trấn thủ Ải Đào Lâm.Du Biền nói với Triệu Thuẫn rằng:

– Trận vừa rồi, bày mưu kế cho nước Tần là bởi Sĩ Hội, nếu người ấy còn ở nước Tần thì chúng ta cũng khó lòng mà ngồi yên được.

Triệu Thuẫn lấy làm phải, hợp các quan đại phu lại để thương nghị.Triệu Thuẫn hỏi rằng:

– Nay Hồ Xạ Cô ở nước Xích Địch, Sĩ Hội ở nước Tần, hai người đều lập mưu để hại nước Tấn ta, các quan nghĩ thế nào?

Tuân Lâm Phủ nói:

– Công lao của họ Hồ ngày xưa, ta cũng nên nhớ, nay xin triệu Hồ Xạ Cô về mà phục chức cho y.

Khước Khuyết nói:

– Hồ Xạ Cô nhiều công lao, nhưng có cái tội giết quan đại thần, nếu ta phục chức cho thì lấy gì làm gương cho kẻ khác, chi bằng ta triệu Sĩ Hội.Sĩ Hội là người nhu thuận mà nhiều mưu trí, dẫu có trốn sang nước Tần, nhưng không phải là có tội.Xích Địch xa mà nước Tần gần, ta muốn trừ cái hại nước Tần thì nên triệu Sĩ Hội về.

Triệu Thuẫn nói:

– Nước Tần đang trọng dụng Sĩ Hội, ta triệu thì tất nước Tần không cho về, biết làm thế nào?

Du Biền nói:

– Tôi có nghe một người tên gọi Thọ Dư, tức là cháu Ngụy Thù, hiện nay ăn lộc ở Ngụy Ấp.Người ấy khéo bày mưu kế, muốn triệu Sĩ Hội về, chi giao cho người ấy là được việc !

Nói xong, lại ghé vào tai Triệu Thuẫn mà bảo mưu kế.Triệu Thuẫn mừng lắm nói:

– Nhà ngươi đến gọi người ấy cho ta.

Chiều hôm ấy Du Biền đến nhà Thọ Dư, Thọ Dư mời vào.Du Biền xin vào phòng kín để nói chuyện, rồi đem mưu kế định triệu Sĩ Hội bảo với Thọ DựThọ Dư nhận lời.Du Biền về nói với Triệu Thuẫn.Ngày hôm sau, Triệu Thuẫn vào tâu với Tấn Linh công rằng:

– Người nước Tần thường hay xâm nhiễu nước Tấn ta, ta nên bắt các quan ấp tể ở Hà Đông phải mộ quân ra trấn thủ bến sông Hoàng Hà, lại bắt cả những người có ăn lộc, cũng phải đi đốc biện về việc ấy , nếu sai suyển thì tức khắc trị tội.

Nói xong, truyền gọi Thọ Dư, bắt phải hết sức mà đốc biện việc ấy.Thọ Dư nói với Triệu Thuẫn rằng :

– Chúa công nghĩ đến tiền nhân tôi thuở xưa mà cho tôi được ăn lộc ở Ngụy Ấp, nhưng tôi chưa hề có quen việc quân lữ bao giờ.HUống chi sông Hoàng Hà dài hơ, một trăm dặm, chỗ nào quân giặc cũng có thể sang đò dược, dẫu đem quân ra trấn thủ, chẳng qua cũng vô ích mà thôi.

Triệu Thuẫn nổi giận, nói:

– Sao nhà ngươi lại dám trái lệnh ta ! Hạn cho nhà ngươi trong ba ngày, phải đem quân tịch đến trình, nếu chưa làm xong thì sẽ chiếu quân pháp mà trị tội.

Thọ Dư than thở mà lui ra, khi về đến nhà, có vẻ buồn bả.Vợ con thấy vậy, xúm lại hỏi.Thọ Dư nói:

– Triệu Thuẫn ác nghiệt quá, bắt ta đem quân ra giữ các cửa sông Hoàng Hà thì biết bao giờ cho xong việc ! Các người nên thu thập gia tư, cùng ta trốn sang Tần theo Sĩ Hội là hơn cả.

Nói xong, truyền cho người nhà sắp sửa xe ngựa. Đêm hôm ấy Thọ Dư uống một bữa rượu thật say, rồi nhân cớ món ăn làm không được sạch, Thọ Dư lại đánh người làm bếp hơn một trăm roi, đánh xong, vẫn còn hầm hầm tức giận đe giết người nhà bếp.

Người nhà bếp tức khắc đem việc Thọ Dư có ý định phản Tấn theo Tần báo Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn sai Hàn Quyết đem quân đến bắt.Hàn Quyết để Thọ Dư chạy thoát, chỉ bắt vợ co đem bỏ ngục.Thọ Dư đi suốt mấy đêm sang đến nước Tần, vào yết kiến Tần Khang công, kể tội Triệu Thuẫn ác nghiệt, bắt giam vợ con mình, chỉ có một mình trốn thoát sang xin đầu hàng nước Tần.Tần Khang công hỏi Sĩ Hội xem việc ấy thực hay giả?

Sĩ Hội nói:

– Người nước Tấn hay gian dối lắm, ta chớ nên tin.Nếu Thọ Dưthực lòng đầu hàng, thì có đem được vật gì sang dân nước Tần ta mới phải.Thọ Dư thò vào trong tay áo, rút ra một quyển sổ, biên những thổ địa nhân dân tại Ngụy ấp, đem dân Tần Khang công mà nói rằng:

– Nếu chúa công thu dụng tôi thì tôi xin đem Ngụy ấp mà dân nộp cho chúa công.

Tần Khang công lại hỏi Sĩ Hội rằng:

– Có nên nghe lời Thọ Dư không?

Thọ Dư đua mắt cho Sĩ Hội và sẽ giẫm vào chân Sĩ Hội.Sĩ Hội dẫu ở nước Tần, nhưng lòng vẫn nhớ nước Tấn khi thấy Thọ Dư ra hiệu, mới nói với Tần Khang công rằng:

– Nước Tần ta khi trước bỏ năm thành ở đất Hà Đông mà không lấy, là vì có tình thân gia với Tấn.Bây giờ Tấn đánh nhau với ta luôn mấy năm nay, thì ta còn vì lẽ gì mà không chiếm lấy năm thành ở đất Hà Đông nữa.Và năm thành ở đất Hà Đông thì Ngụy ấp là lớn hơn cả, nếu ta chiếm được Ngụy ấp rồi nhân đấy mà lấy luôn cả năm thành , còn gì hơn nữa ! Tôi chỉ e rằng quân trấn thủ ở Ngụy ấp, sợ uy người nước Tấn, không dám về với nước ta mà thôi.

Thọ Dư nói:

– Quan trấn thủ ở Ngụy ấp dẫu là bề tôi nước Tấn, nhưng vẫn chịu ơn họ Ngụy tôi, nếu chúa công đem một toán quân đóng đồn ở Hà Tây để làm thanh viện, thì tôi có thể dụ cho họ phải theo.

Tần Khang công ngảnh lại bảo Sĩ Hội rằng:

– Nhà ngươi đã am hiểu việc nước Tấn, nên cùng đi với ta.

Tần Khang công cho Tây Khuất Thuật làm chánh tướng.Sĩ Hội làm phó tướng, và thân hành sang đóng đồn ở Hà Tây.

Quân thám tử nước Tần về báo rằng:

– Phía trước có một toán quân Tấn đóng đồn, không biết là ý tứ gì.

Thọ Dư nói:

– Đó tất là người Ngụy ấp, nghe tin quân Tần kéo đến mà phòng bị sẵn đấy ! Đó là vì chúng ta chưa biết có tôi ở bên này.Nay được một người nào am hiểu việc nước Tấn, cho cùng sang trước với tôi, đem sự họa phúc mà dụ bảo chúng thì chúng tất phải theo.

Tần Khang công sai Sĩ Hội đi với Thọ DựSĩ Hội sụp lạy mà nói rằng:

– Người nước Tấn tàn ác như hổ lang, không thể lường được.Chuyến này tôi phụng mệnh sang dụ bảo mà chúng chịu theo thì một sự may cho nước Tần, vạn nhất chúng không theo mà bắt tôi ở bên ấy, tôi e rằng chúa công lại cho tôi là người không làm nổi việc mà trị tội vợ con tôi.Như vậy có phải là không ích gì cho chúa công, mà vợ con tôi cũng phải chịu oan khổ, hối sao cho kịp !

Tần Khang công bèn bảo Sĩ Hội rằng:

– Nhà ngươi cứ nên hết lòng vì ta mà đi, lấy được Ngụy ấp thì ta sẽ hậu thưởng, nếu người nước T- án có bắt giữ nhà ngươi ỡ bên ấy, ta xin sai người đem vợ con sang trả, để tỏ tấm lòng yêu mến bấy lâu.

Nói xong lại trỏ sông Hoàng Hà mà thề với Sĩ Hội.

Quan đại phu nước Tần Nhiễu Triều can Tần Khang công rằng:

– Sĩ Hội là một mưu thần của nước Tấn, đi chuyến này khác nào như con cá lớn được xuống vực sâu, khi nào còn trở lại nữa.Sao chúa công lại quá nghe lời Thọ Dư mà giúp cho địch thêm một mưu thần như thế?

Tần Khang công nói:

– Việc này ta tự gánh lấy, nhà ngươi chớ có lo ngại.

Sĩ Hội và Thọ Dư từ biệt Tần Khang công rồi địNhiễu Triều ra tiễn, đem một cái roi da tặng Sĩ Hội mà bảo rằng:

– Nhà ngươi chớ khinh nước Tần ta không có trí sĩ, chỉ tiếc chúa công không nghe lời ta mà thôi ! Nhà ngươi cầm cái roi này đánh ngựa mà về cho mau, nếu chậm thì chắc có tai vạ.

Sĩ Hội lạy tạ, rồi giục ngựa đi mau.

Chương 49: Công tử Bão phóng tiền mua nước – Tề Ý Công tham sắc hại thân

Sĩ Hồi cùng Thọ Dư qua sông Hoàng Hà, đi về phía đông. Đi chưa được nữa dặm, thấy một viên tướng trẻ tuổi đem môt toán quân đến đón.Viên tướng ấy ngồi trên xe, cúi đầu chào Sĩ Hội.Sĩ Hội lại gần nhìn xem ai thì tức là Triệu Sóc (con Triệu Thuẫn).Sĩ Hội hỏi Triệu Sóc rằng:

– Nhà ngươi đem quân tới đây là có ý gì?

Triệu Sóc nói:

– Tôi phụng mệnh cha tôi, tới đây để đón ngài về triều, mặt sau sắp có đại binh kéo đến.

Nói chưa dứt lời thì bỗng nghe có tiếng pháo nổ, quân Tấn kéo đến đông như nước chảy, đem Sĩ Hội và Thọ Dư về triều.Thám tử nước Tần về báo, Tần Khang công nổi giận, toan đem quân qua sông để đánh Tấn.Lại nghe báo bên kia sông có Tuân Lâm Phủ và Khước Khuyết đem đại binh nước Tấn kéo đến, Tây Khất Thuật bèn nói với Tần Khang công rằng:

– Đại binh nước Tấn đã đến tiếp ứng như thế, tất không để cho quân ta sang sông, chi bằng ta hãy rút về.

Nói xong, liền rút quân về.Bọn Tuân Lâm Phủ thấy quân Tần rút về, cũng đem quân trở về nước Tấn.Sĩ Hội trốn sang nước Tần đã ba năm trời, ngày nay lại về nước Tấn, ngẫm nghĩ trong lòng, xiết bao cảm khái, vào yết kiến Tấn Linh công, sụp lạy tạ tội.Tấn Linh công nói:

– Nhà ngươi có tội gì đâu !

Tấn Linh công cho Sĩ Hội làm quan đại phụTriệu Thuẫn tâu với Linh công thưởng cho Thọ Dư mười cổ xe, để đền công khổ nhọc đi triệu được Sĩ Hội.Tần Khang công sai người đua vợ con Sĩ Hội về trả nước Tấn và bảo Sĩ Hội rằng:

– Ta không lỡ trái lời thề ở sông Hoàng Hà đâu !

Sĩ Hội cảm cái ân nghĩa của Tần Khang công, cũng viết thư cảm tạ, và khuyên Tần Khang công nên nghĩ việc binh, để nuôi sức dân, mà giữ yên bốn cõi.Tần Khang công nghe lời, từ bấy giờ Tần Tấn hai nước không gây việc chiến tranh, được đến vài ba mươi năm.

Chu Khoảnh vương lên ngôi được sáu năm thì băng hà.Thái tử Ban lên nối ngôi, tức là Chu Khuôn vương.Sở Mục vương mất.Thế tử Lữ lên nối ngôi, tức là Sở Trang vương.Triệu Thuẫn thấy nước Sở mới có tang, muốn nhân cơ hội ấy khôi phục lại sự nghiệp bá chủ của nước Tấn trước, liền đại hội chư hầu ở đất Tân Thành.Tống Chiêu công, Lỗ Thành công, Trần Linh công, Vệ Thành công, Trịnh Mục công và Hứa Chiêu công đều đến dự hội.Tống Chiêu công, Trần Linh công và Trịnh Mục công đều bày tỏ sự tình ngày trước, nói phải theo Sở chỉ là việc bất đắc dĩ.

Triệu Thuẫn cũng lấy lời ngọt ngào mà phủ dụ.Chư hầu lại thần phục nước Tấn cả, chỉ có nước Sái vẫn theo Sở như cũ, không đến dự hội.Triệu Thuẫn sai Khước Khuyết đem quân đi đánh nước Sái.Nước Sái xin giảng hoà.Khước Khuyết mới thu quân về nước.Tề Chiêu công vẫn định đến dự hội, nhưng phát bệnh nặng chưa kịp đến đã mất, con là thế tử Xá lên nối ngôi.Mẹ thế tử Xá là con gái nước Lỗ, tên gọi Thúc Cơ, tức là nàng Chiêu CợNàng Chiêu Cơ dẫu là Tề Chiêu công phu nhân, nhưng không được yêu chuộng mà con là Thế tử Xá, thì tài học lại tầm thường, cũng không được người trong nước kính trọng.Công tử Thương Nhân là con nàng Mật Cơ (thiếp của Tề Hoàn công) vốn có chí cướp ngôi, chỉ vì được Chiêu công hậu đãi, nên không nỡ làm vội, vẫn định chờ Chiêu công mất rồi mới khởi sự.Mấy năm sau, Chiêu công triệu công tử Nguyên ở nước Vệ về, giao quốc chính chọCông tử Thương Nhân thấy công tử Nguyên là người giỏi, vẫn có lòng ghen ghét, lại muốn mua chuộc lòng dân, mới đem hết gia tài, cấp phát cho những kẻ nghèo khổ, bởi vậy dân trong nước ai cũng phục. Đến lúc thế tử Xá được lên nối ngôi, bỗng gặp có sao chổi xuất hiện, công tử Thương Nhân mới sai người bói xem tốt xấu thế nào.Người thầy bói nói:

– Đó là cái triệu nước Tống nước Tề và nước Tấn có loạn, mà vua ba nước đều bị giết cả.

Công tử Thương Nhân nói:

– Nếu vậy thì làm loạn ở Tề, chắc là tay ta!

Nói xong, liền sai kẻ tử sĩ vào đâm chết thế tử Xá.Công tử Thương Nhân thấy công tử Nguyên hơn tuổi mình, mới nói dối công tử Nguyên rằng:

– Thế tử Xá không đáng làm vua, tôi làm việc này là vì anh đó !

Công tử Nguyên giật mình kinh sợ và nói rằng:

– Ta vẫn biết nhà ngươi muốn làm vua đã lâu, sao bây giờ lại trút cho tạTa thờ nhà ngươi thi được, chớ nhà ngươi không thể thờ ta được, ta chỉ mong nhà ngươi làm vua bao dung cho ta được trọn đời làm một kẻ thường dân ở nước Tề này, thế là mãn nguyện !

Công tử Thương nhân lên nối ngôi, tức là Tề Ý công.Công tử Nguyên ghét Tề Ý công làm những việc tàn nhẫn, mới cáo ốm về nhà, đóng cửa không đi đến đâu cả, cũng không vào triều nữa.Chiêu Cơ thương con chết oan, ngày đêm kêu khóc.Tề Ý công thấy vậy bắt giam vào một nơi, lại cho ăn uống rất kham khổ.Chiêu Cơ đút tiền cho các cung nhân để đưa tin sang cho Lỗ Văn công biết.Lỗ Văn công sợ thế nước Tề mạnh, sai người sang nói với Chu Khuông vương, muốn nhờ uy Chu Khuông vương, xin Tề ý công tha cho Chiêu Cơ, Chu Khuông vương sai Đan Bá sang nước Tề, bảo Tề Ý công rằng:

– Đã giết con thì thôi, còn giam mẹ làm gì ! Sao không tha cho người ta về nước Lỗ, để tỏ lòng quảng đại của nước Tề?

Tề Ý công vẫn muốn giấu việc giết thế tử Xá, bấy giờ nghe lời Đan Bá , mặt đỏ bừng lên, không nói gì cả. Đan Bá về nhà công quán.Tề Ý công truyền đem Chiêu Cơ sang cung khác, rồi sai người nói lừa Đan Bá rằng:

– Chúa công toi đối với quốc mẫu (tức là Chiêu Cơ ), chưa hề dám khinh, huống chi lại có lệnh thei- n tử, kẻ nào mà không tuân theo?Sao cương sứ không vào yết kiến quốc mẫu, để tỏ tấm lòng quyền cố của thiên tử.

Đan Bá tưởng thực, vội vàng vào cung yết kiến Chiêu CợChiêu Cơ ứa nước mắt, kể những nông nổ oan khổ. Đan Bá chưa kịp trả lời bỗng Tề Ý công ở đâu sực đến, quát to lên rằng:

– Đan Bá sao dám tự tiện vào cung tư thông với quốc mẫu, định làm việc bậy bạ hay sao? Ta quyết đem việc này tâu với thiên tử.

Nói xong, truyền đem Đan Bá và nàng Chiêu Cơ mỗi người giam vào một nơi;lại căm tức Lỗ Văn công dám mượn uy lệnh thiên tử mà áp chế nước mình, mới đem quân đi đánh Lỗ.Lỗ Văn công sai quan thượng khanh là Qúy Tôn Hàng Phủ (con công tử Hữu)sang cáo cấp với nước Tấn.Triệu Thuẫn vâng lệnh Tấn Linh công hội các nước Tống, Vệ, Sái, Trần, Trịnh, Tào;và Hứa ở đất Hỗ, để bàn việc đánh Tề.Tề Ý công bèn sai người sang lễ nước Tấn, tha Đan Bá về nhà Chu, lại cho nàng Chiêu Cơ về Lỗ.Các nước đều rút quân về cả.Lỗ Văn công nghe tin nước Tấn không sang đánh Tề, cũng sai công tử Toại sang nước Tề để xin giảng hoà.

Lại nói chuyện Tống Tương công phu nhân là Vương Cơ, tức là chị của Chu Tương vương, thân mẫu của Tống Thành công (Vương Thần )và tổ mẫu của Tống Chiêu công (Chử Cữu ).Tống Chiêu công tử khi còn làm thế tử, vẫn cùng với công tử An, công tử Khổng Thúc và công tôn Chung Ly đi săn bắn, đến khi lên ngôi làm vua, việc gì cũng nghe lời ba người ấy, bỏ hết cả chính sự, chỉ hằng ngày rủ nhau đi săn bắn để mua vui.Quan tư mã Lạc biết cơ nước Tống tất loạn, mới nhường quan chức cho công tử An.Quan tư thành là công tôn Thọ cũng sợ tai vạ, xin cáo lão về hưu.Tống Chiêu công lại dùng người con công tôn Thọ là Đăng Y Chư làm quan tư thành?Tống Tương công phu nhân là Vương Cơ đã già mà còn đa dâm.Tống Chiêu công có người con thứ đệ tên gọi công tử Bão uống rượu thật say, rồi ép công tử Bão thông dâm với mình và hứa sẽ lập làm vuạTừ đó Vương Cơ muốn bỏ Tống Chiêu công mà lập công tử Bắc.Tống Chiêu công sợ các chi họ về Mục công và Tương công mạnh thế lắm, mới bàn mưu với công tử Ngang để đuổi những người ở trong hai chi ấy ra nước ngoài.

Vương Cơ biết mưu, tức khắc mật báo cho hai chi ấy biết.Hai chi ấy nổi loạn, vay bắt công tử Ngang và công tử Chung Ly ở chỗ triều môn mà giết địQuan tư thành là Đăng Y Chư sợ hãi trốn sang nước Lỗ.Công tử Bão vốn được lòng các quan lục khanh, bấy giờ liên kết với bọn ấy và hai chi hộ, không hỏi đến tội giết chết công tửNgang và công tôn Chung Ly, lại sai người sang nước Lỗ triệu Đăng Y Chư về mà phục chức chọCông tử Bão nghe nói công tử Thương Nhân (tức là Tề Ý công ) ở nước Tề, phóng tiền tài để mua lòng người, mà cướp được ngôi vua, thì cũng bắt chước đem hết gia tài chu cấp cho những kẻ nghèo khổ.Năm thứ bảy đời Tống Chiêu công, nước Tống mất mùa, công tử Bão đem thóc gạo phát cho dân đói, lại kính kẻ già, tôn người hiền, phàm những người nào từ bảy mươi tuổi trở lên, cứ mỗi tháng lại sai người biếu thóc lụa và các thứ thực phẩm, mà cấp lương cho, các quan công, khanh, đại phu thì tháng nào công tử Bão cũng có đồ biếu, trong họ tôn thất, bất cứ thân sơ, hễ hơi có việc gì, cũng đem tiền bạc đến tư giúp. Đến năm thứ tám đời Tống Chiêu công, nước Tống lại mất mùa to, côn tử Bão hết cả tiền của.Vương Cơ lại đem của riêng ở trong cung ra mà đưa cho công tử Bão.Bở i vậy cả nước ai cũng khen ngợi công tử Bão là người nhân đức, mà muốn cho công tử Bão lên làm vuạCông tử Bão biết là người trong nước ai cũng bằng lòng với mình mới bàn mưu với Vương Cơ để định giết Tống Chiêu công.Vương Cơ nói:

– Nghe nói Chữ Cữu (tên Tống Chieu công ) sắp đi săn ở đất Mạnh ChựHôm ấy ta dặn công tử (em cùng mẹ với công tử Bão ) đóng cửa thành lại, rồi nhà ngươi đem người đi giết Chữ Cữu thì chắc phải xong việc.Công tử Bão theo lời.Quan tư thành là Đăng Y Chư vốn là người hiền, xưa nay công tử Bão vẫn kính trọng, bấy giờ nghe biết mưu của công tử Bão, liền nói với Tống Chiêu công rằng:

– Chúa công chớ nên đi săn, nếu đi thì tất không trở về được.

Tống Chiêu công nói:

– Nếu có kẻ nào định nổi loạn thì dẫu ta ở nhà, cũng chẳng tránh được nào !

Nói xong, liền sai quan hữu sự là Hoa Nguyên và quan tả sư là công tôn Hữu ở nhà để giữ nước, còn mình thì chuyên chở các thứ bảo ngọc trong kho, thẳng đường tiến ra Mạnh ChựTống Chiêu công mới ra khỏi cửa thành thì Vương Cơ sai người triệu Hoa Nguyên và công tôn Hữu vào mà giữ ở trong cung, rồi sai công tử Tu đóng chặt cửa thành lại.Công tử Bão bảo quan tư mã Hoa Ngẫu tuyên cáo với quân sĩ rằng:

– Ta phụng mệnh Vương Cơ tôn lập công tử Bão lên làm vua, trừ bỏ hôn quân vô đạo đi, các người nghĩ thế nào?

Quân sĩ đều reo ầm lên

– Xinn vâng mệnh !

Người nước Tống nghe nói, ai cũng thuận cả.Hoa Ngẫu đem quân đi đuổi theo Chiêu công.Tống Chiêu công đi đến nữa đường, nghe tin có biến, Đăng Y Chư khuyên Chiêu công chạy sang nước khác.Tống Chiêu công nói:

– Tr- en từ tổ mẫu (trỏ Vương Cơ )dưới đến người trong nước, ai cũng là cừu địch với ta, huống chi là các nước láng giềng ai còn chịu giúp ta nữa.Ta chết ở nước khác, chẳng thà chết ở nước nhà còn hơn !

Nói xong, truyền đóng quân lại, rồi nấu cơm ăn, để cho các người theo hắn đều được ăn no cả. Ăn xong, Chiêu công bảo các người theo hầu rằng :

– Việc này là lỗi tại ta, chứ các người có dự gì đến ! các người theo hầu ta trong mấy năm, ta chưa có gì đền công, nay có các đồ bảo ngọc ở đây, ta chia tặng cho các người.Các người nên trốn đi, kẻo mà chết oan !

Các người theo hầu đều khóc mà nói rằng:

– Xin chúa công cứ đi, nếu có quan đuổi theo, chúng tôi sẽ hết sức cố đánh.

Chiêu công nói:

– Chỉ chết uổng mà thôi, không được ích gì.Các người chớ quyến luyến ta nữa !

Được một lúc quân Hoa Ngẫu kéo đến, vây kín Tống Chiêu công, rồi tuyên cáo với quân sĩ rằng:

– Ta phụng mệnh Vương Cơ, chỉ giết một mình đứa hôn quân vô đạo mà thôi, không hại gì đến các người cả.Chiêu công vội vàng xua đuổi những người theo hầu địCác người theo hầu tan chạy đến quá nữa, chỉ còn Đăng Y Chư vẫn chống gươm đứng bên cạnh Chiêu công.Hoa Ngẫu lại tuyên bố mệnh lệnh của Vương Cơ triệu Đăng Y Chư về. Đăng Y Chư thở dài mà rằng:

– Làm bề tôi mà lúc hoạn nạn lại bỏ vua thì sống làm gì cho nhục, chẳng thà chết đi còn hơn !

Hoa Ngẫu cầm giáo, xông vào giết Tống Chiêu công. Đăng Y Chư lấy mình che cho Chiêu công, rồi cầm gươm đánh nhau với Hoa Ngẫu.Quân Hoa Ngẫu xúm lại, giết Đăng Y Chư trước, giết Tống Chiêu công sau.Các người theo hầu Tống Chiêu công, ai không trốn đi cũng bị giết cả.Hoa Ngẫu đem quân về báo với Vương CợBọn Hoa Nguyên và Công Tôn Hữu cùng với các quan trong triều đều tán tụng công tử Bão là người nhân đức , nên lập làm vuạVương Cơ truyền lập công tử Bão lên nối ngôi, tức là Tống Văn công.Hoa Ngẫu vừa triệu hạ xong, về nhà đau bụng chết ngay lập tức.Tống Văn công khen Đăng Y Chư là người trung thần, mới dùng người em là Đăng Huỷ làm quan tư mã, để thay cho Hoa Ngẫu.Tống Văn công lại cho người em cng mẹ là công tử Tu làm quan tư thành, để thay cho Đăng Y ChựTriệu Thuẫn nghe tin giết Tống có loạn giết vua, liền sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng, hội quân nước Vệ, nước Trần và nước Trịnh để sang đánh Tống.Quan Hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên đến nói với quân Tấn, kể hết những sự tình người trong nước muốn lập công tử Bão, lại đưa mấy xe vàng lụa làm lễ khao quân, va xin giảng hoà với Tấn.Tuân Lam Phủ toan nhận.Trịnh Mục công nói:

– Chúng tôi dựng cờ dóng trống để theo tướng quân sang đánh Tống là muốn trừ những đứa loạn lạc, tướng quân lại cho nước Tống giảng hòa thì những đứa loạn tặc cìn sợ gì nữa!

Tuân Lâm Phủ nói:

– Tề và Tống có khác gì nhau, ta đã khoan dung cho Tề, có lẽ nào lại nghiêm khắc với Tống ! Và người nước Tống đều muốn như vậy, ta nhân đó mà an định nước Tống chẳng là hay lắm sao ?

Nói xong, liền cho nước Tống được giảng hoà.Trịnh Mục công lui ra mà nói rằng:

– Nước Tấn không nghĩ gì đến công nghĩa, chỉ tham lễ vật mà thôi thì làm bá chủ thế nào được ! Nay vua Sở mới lập, chẳng bao lâu tất cũng gây việc chiến tranh, chi bằng ta bỏ Tấn theo Sở, để giữ yên lấy nước nhà là hơn.

Trịnh Mục công liền sai sứ sang giao hảo với nước Sở.Nước Tấn biết vậy mà không làm gì được.Tề Ý công (Thương Nhân)là người ngang ngược, từ khi cha là Tề hoàn công hãy còn, đã có một lần cùng với quan đại phu là Bính Nguyên tranh nhau ruộng đất.Tề Hoàn công giao cho Quản Di Ngô xử đoán việc ấy.Quản Di Ngô mới xử cho Bính Nguyên được nhận ruộng đất ấy.Công tử Thương Nhân tức lắm, đến lúc giết thế tử Xá mà lên làm vua, liền chiếm lấy những ruộng đất của Bính Nguyên, cũng tước bỏ phong ấp của họ Quản, họ Quản sợ tội, trốn sang nước Sở, con cháu làm quan ở nước Sở.Tề Ý công vẫn còn căm tức Bính Nguyên, bấy giờ Bính Nguyên đã cgết rồi, Tề Ý công khi đi săn qua mộ Bính Nguyên, sai quân sĩ khai quật lên mà chặt bỏ chân đi.

Con Bính Nguyên là Bính Súc lúc ấy đang đi theo hầu ở bên cạnh Tề Ý CÔNG.Tề Ý công bèn hỏi Bính Súc rằng:

– Cứ như tôi thân phụ nhà ngươi thì phỏng có đáng chặt chân không?Chắc nhà ngươi oán ta lắm hẳn?

Bính Súc đáp rằng:

– Cha tôi lúc sống được khỏi tội chết, đã là may lắm rồi, huống chi bây giờ chỉ còn một nắm xương không, có đâu tôi dám oán giận.

Tề Ý công bằng lòng mà khen rằng:

– Thế mới thật con chữa được lổi cho cha !

Tề Ý công lại đem những ruộng đất chiếm lấy khi trước trả lại cho Bính Súc.Bính Súc xin chôn lại hài cốt của cha mình.Tề Ý công thuận chọTề Ý công lại mua gái đẹp trong nước, ngày nào cũng dâm đãng vui chơi.Lại nghe nóiquan đại phu là Diêm Chức có người vợ rất đẹp, nhân dịp tết nguyên đán Tề Ý công mới ra lệnh cho các vợ quan đại phu đều phải vào triều ở trong nội cung.Vợ Diêm Chức cũng vâng lệnh vào triều.Tề Ý công trông thấy bằng lòng, liền giữ lại không cho về, rồi sai người ến bảo Diêm Chức rằng:

– Phu nhân ở trong nội cung muốn kết bạn với vợ ngươi, vậy ngươi nên tìm vợ khác.

Diêm Chức tức giận lắm không nói ra.

Phía cửa tây nước Tề có cái ao, tên gọi Thân Trì, nước ao trong sạch, có thể tắm được.Bên ao có nhiều khóm trúc rườm rà.Bấy giờ đang tháng năm mùa hạ, Tề ý công ịnh ra Thân Trì để nghĩ mát, mới cho Bính TRúc và Diêm Chức đi hầu.Quan hữu sư là Hoa Nguyên nói riêng với Tề Ý công rằng:

– Chúa công chặt chân cha Bính Súc và cướp vợ Diêm Chức, hai người ấy biết đâu không căm giận chúa công.Các quan nước Tề thiếu gì người, sao chúa công lại hay thân cận hai người ấy?

Tề công nói:

– Hai người ấy chưa hề oán giận ta bao giờ, nhà ngươi chớ nghi ngại !

Nói xong, liền ngự xe ra chơi Thân Trì, uống rượu rất vui.Tề Ý công rượu say, thấy nóng bức quá, mới sai lấy một cái giường gấm kê ở trong bụi trúc để nằm cho mát.Bính Súc và Diêm Chức cùng tắm ở dưới ao.Bính Súc oán giận Tề Ý công lắm, vẫn muốn giết đi để báo thù cho cha, nhưng chưa được ai đồng lòng với mình.Thấy Diêm Chức cũng có cái thù mất vợ, muốn cùng bàn với Diêm Chức nhưng thấy khó nói quá, nhưng khi cùng tắm ở dưới ao, bèn nghĩ ngay một kế, cầm cái dóng trúc đánh vào đầu Diêm Chức.Diêm Chức nổi giận mà mắng rằng:

– Sao nhà ngươi dám khinh ta như vậy?

Bính Súc tủm tỉm cười mà bảo rằng:

– Người ta cườp vợ nhà ngươi mà nhà ngươi còn khp- ng giận, ta đánh một cái đã hề gì !

Diêm Chức nói:

– Mất vợ dẫu là một điều xấu hổ cho ta, nhưng so với việc cha phải chặt chân thì đằng nào nhục hơn? Nhà ngươi chẳng thiết gì đến cha, mà lại trách ta không biết nghĩ đến vợ, sao ngu tối thế?

Bính Súc nói:

– Ta có mấy lời tâm phúc, vẫn muốn bàn với nhà ngươi mà không dám nói, chỉ sợ nhà ngươi quên mất thù xưathì dẫu ta có nói , cũng không ích gì.

Diêm Chức nói:

– Bụng người ta ai cũng vậy, bao giờ quên được, chỉ vì sức không làm nổi.

Bính Súc nói:

– Nay kẻ thù đang say rượu, nằm ngủ ở trong bụi trúc, mà theo hầu đây thì chỉ có hai ta mà thôi, ấy là trời cho ta cái dịp để báo thù, ta chớ nên bỏ hoài.

Diêm Chức nói:

– Nhà ngươi dám làm đại sự, ta xin giúp một tay.

Hai người cùng lau mình mặc áo, rủ nhau vào trong bụi trúc, trông thấy Tề ý công đang nằm ngủ say, tiếng ngáy như sấm, lại có mấy tên nội thị đứng bên cạnh.

Bính Súc bảo các nội thị rằng:

– Lúc chúa công tỉnh rượu, tất thế nào cũng khát nước, các ngươi nên phải sắp sẳn mới được.

Các nội thị đều đi sửa soạn nước uống.Diêm Chức bèn nắm lấy tay Tề Ý công, Bính Sức thì bóp cổ, rồi rút gươm cắt lấy đầu.Hai người khiêng thi thể Tề Ý công giấu vào trong bụi trúc, rồi đem đầu ném xuống dưới ao.Khi nội thị đem nước uống đến, Bính Súc bảo rằng:

– Thương Nhân giết vua mà cướp ngôi, nay ta trừ bỏ đi rồi, có công tử Nguyên là người hiền, nên lập làm vua.

Các nội thị vâng dạ, không ai dám nói câu gì.Bính Súc cùng với Diêm Chức tiến vào trong thành, lại bày tiệc uống rượunmừng rỡ với nhau.Có người báo với hai quan thượng klà Cao Khuynh (con Cao Hổ )và Quốc Quy Phủ (con Quốc Ý Trọng ).Cao Khuynh nói:

– Bọn Bính Súc làm càn như vậy, ta nên kể tội mà bắt giết đi, để làm gương cho kẻ khác.

Quốc Quy Phủ nói:

– Một đứa giết vua, ta đã không trừ nổi, mà người ta trừ được thì sao gọi là tội.

Bính Súc cùng Diêm Chức uống rượu xong, sai lấy một cổ xe lớn, xếp của cải lên, rồi đem vợ con ra cửa nam.Người nhà khuyên Bính Súc nên đi mau.Bính Súc nói:

– Thương Nhân vô đạo, người trong nước nghe tin chết, ai cũng lấy làm may, ta còn sợ gì nữa !

Nói xong cứ việc thủng thỉnh mà đi sang nước Sở.Cao Khuynh và Quốc Duy Phủ hợp các quan trong triều lại để thương nghị, rồi lập cô, g tử Nguyên lên làm vua, tức là Tề Huệ công.

Lại nói chuyện Lỗ Văn công, tên là Hưng, là con nàng Thanh Khương (con gái Tề Hoà công).Lỗ Văn công lấy con gái Tề Chiêu công là Khương thị làm phu nhân, sinh đươc( hai con là Ác và Thị, lại lấy con gái nước Tần là Kinh Doanh làm thiếp, cũng sinh dược hai con là:Tiếp và Thúc Miện.Trong bốn người con ấy Tiếp là lớn tuổi hơn cả, mà Ác lại là con bà đích phu nhân, bởi vậy mới lập Ác làm thế tử.Bấy giờ quyền chính nước Lỗ, đều ở tay Tam Hoàn cả.

1.Mạnh Tôn thị là công tôn Ngao, sinh con là Cốc và Nạn.

2.Thúc Tôn thị là công tôn Tư, sinh con là Thúc Trọng Bành Sinh và Thúc Tôn Đắc Thần.Lỗ Văn công dùng Thúc Trọng Bành Sinh làm chức thái phó để dạy thế tử Ác.

3.Qúy Tôn thị là Qúy Vô dật(con Qúy Hữu), sinh con là Qúy Tôn Hàn Phủ, tức là Qúy Văn Tử.

Lỗ Trang công có ngươi con thứ là công tử Toại, tức là Trọng Toại, nhân vì công tôn Ngao đắc tội với Trọng Toại chết ở nước ngoài, bởi vậy Mạnh Tôn thị (tức là công tôn Ngao)mất quyền hành nước Lỗ đều về tay Trọng Thị (tức là Trọng Toại ), cùng với Thúc Tôn thị và Qúy Tôn thị.

Lại nói chuyện công tôn Ngao vì cớ gì mà đắc tội?Nguyên công tôn Ngao lấy con gái nước Cử là Đái Kỷ (sinh con là Cốc )và Thanh Kỷ (sinh con là Nạn ). Đến lúc Đái Kỷ chết, công tôn Ngao lại muốn lấy con gái nước Cử là Dĩ Thị, người nước Cử từ chối rằng:

– Còn nàng Thanh Kỷ đó, nên cho làm kế thất.

Công tôn Ngao nói:

– Em tôi là Trọng Toại, chưa có vợ, xin cưới Dĩ Thị cho em tôi.

Người nước Cử bằng lòng chọ Đến năm thứ bảy đời Lỗ Văn công, công tôn Ngao phụng mệnh sang sứ nước Cử nhân tiện xin đón Dĩ thị về cho Trọng Toại.Khi Dĩ thị về đến đất Yên Lăng(đất nước Cử ), công tôn Ngao đứng trên mặt th&énh, trông thấy Dĩ thị có nhan sắc, đêm hôm ấy cùng Dĩ thị ép duyên, rồi đưa về nhà.Trọng Toại thấy công tôn Ngao chiếm mất vợ mình, căm tức vô cùng, mới vào nói với Lỗ Văn công, xin đem quân đến đánh.Thúc Trọng Bành Sinh can rằng:

– Không nên, nếu vậy thì sinh biến loạn mất!

Lỗ Văn công cho triệu công tôn Ngao đến, bắt phải đem Dĩ thị trả lại cho nước Cử, để cho Trọng Toại khỏi giận.Công tôn Ngao và Trọng Toại lại hoà nhau như cũ.Công tôn Ngao vẫn có lòng nhớ Dĩ thị, năm sau phụng mệnh sang viếng tang Chu Tương vương, nhưng không sang nhà Chu mà đem tiền của trốn sang nước Cử, cùng với Dĩ thị đoàn tụ.Lỗ Văn công cũng không hỏi đếnviệc ấy nữa, cho con côn gtôn Ngao là Cốc nối dòng Mạnh Tôn thị.Sau công tôn Ngao nhớ nước Lỗ muốn về, sai người nói với con là Mạnh Tôn Cốc.Mạnh Tôn Cốc liền xin với chú là Trọng Toại.

Trọng Toại bảo Mạnh Tôn Cốc rằng:

– Nếu cha mày muốn về thì phải theo ta ba điều;không được vào triều, không được dự quốc chính, không được đem Dĩ thị về.

Mạnh Tôn Cốc sai người sang nói với công tôn Ngao.Công tôn Ngao muốn về lắm, đành phải theo lời.Công tôn Ngao về Lỗ trong tám năm, quả nhiên chỉ đóng cửa, không đi đến đâu cả bỗng một hôm lại đem hết tiền của trốn sang nước Cử.Mạnh Tôn Cốc nghĩ ngợi nhớ cha, được hơn một năm thì chết.Con là Trọng Tôn Miệt(tức là Mạnh Hiến Tử)hãy còn nhỏ, Lỗ Văn công liền cho Mạnh Tô Nạn nối làm quan khanh.Chưa được bao lâu, Dĩ thị chết, công tôn Ngao lại muốn về nước Lỗ, mới đem hết gia tài lễ đút, Lễ Văn công và Trọng Toại, mà sai con là Mạnh Tôn Nạn đứng xin lỗi cho chạLỗ Văn công thuận cho.

Khi công tôn Ngao trở về đến nước Tề thì ốm không đi được nữa, rồi chết ở đất Đường Phụ.Mạnh Tôn Nạn xin đem thi thể công tôn Ngao về chôn ở nước Lỗ.Mạnh Tôn Nạn là con người có tội, không được dự quyền chính.Qúy Tôn Hàng Phủ giữ mực kính nhường đối với Trọng Toại, Bành Sinh và Đắc Thần cả ba đều thuộc về hàng chú, việc gì cũng phải đến hỏi.Bành Sinh tính nết hiền hậu, làm chức thái phó mà đắc Yhần thì chuyên giữ binh quyền, thế là chỉ có Trọng Toại và Đắc Thần giữ quyền chính nước Lỗ.Nàng Kinh Doanh cậy thế Lỗ Văn công yêu, giận rằng con mình không được làm thế tử, mới đem tiền của lễ đút Trọng Toại nhờ binh vực cho con là công tử OạTrọng Toại nghĩ thầm:

– Thúc Trọng Bàng Sinh là quan thái phó của thế tử Ác, thì tất không chịu đồng mưu với mình, mà Thúc Tôn Đắc Thần, tính tham ăn lễ, có thể lấy lợi mà dụ được.

Liền đem lễ vật của Kinh Doanh cho, chia biếu Thúc Tôn Đắc Thần mà bảo rằng:

– Đây là những lễ vật của Kinh Doanh nhờ ta đưa biếu nhà ngươi.

Trọng Toại lại bảo công tử Tiếp thỉnh thoảng đến thăm Thúc Tôn Đắc Thần để tỏ lòng kính mến, bởi vậy Thúc Tôn Đắc Thần cũng có lòng yêu . Đến năm Lỗ Văn công mất, thế tử Ác làm chủ tang, lên nối ngôi, các nước đều sai sứ đến thăm viếng.Bấy giờ Tề Huệ công(tức công tử Nguyên)mới lên nối ngôi, muốn biến cải những chính lệnh bạo ngược của Tề Ý công (tức là công tử Thương Nhân)khi trước, cũng sai sứ đến viếng tang Lỗ Văn công.Trọng Toại bảo Đắc Thần rằng:

– Tề Lỗ thuở xưa vẫn giao hiếu với nhau, chỉ vì Tề HIếu công gây nên thù oán, kéo dài cho đến Tề Ý công nay công tử Nguyên mới lên nối ngôi, ta chưa sai người sang mừng, mà đã đến viếng tang nước ta, là có ý muốn thân thiện với ta, ta nên sai sứ sang tạ, và nhân cơ hội này giao kết với Tề để làm vây cánh cho công tử Oa.

Hai người bên cùng sang sứ nước Tề.

Chương 50: Trọng Toại tôn lập Oa công tử – Triệu Thuấn khuyên can Tấn Linh Công

Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Ðắc Thần sang nước Tề để mừng vua mới và tạ ơn nước Tề đã sai sứ sang viến tang.Tề Huệ công mời ăn tiệc, nhân hỏi Trọng Toại và Thúc Tôn Ðắc Thần rằng:

– Chảng hay vua mới nước Lỗ sao lại đặt tên là Ác?Thế gian thiếu gì tên đẹp mà lại dùng cái chữ xấu xí ấy?

Trọng Toại nói:

– Tiên sinh tôi lúc mới sinh thế tử Ác, có sai quan thái sứ bói xem tốt xấu thế nào, quan thái sứ bảo rằng cứ theo số tất phải chịu ác tử không được hưởng lộc, vậy nên tiên quân tôi mới đem chữ “Ác” đặt tên để trấn yểm đi.Chỉ vì Ác là con đích mà phải lập làm thế tử chứ tiên quân tôi vẫn không có lòng yêu, tiên quân tôi chỉ yêu người con hơn tuổi nhất là công tử Oa.Công tử Oa tính nết hiền hậu, biết kính trọng các quan đại thần, người trong nước ai cũng muốn tôn làm vua.

Tề Huệ công nói:

– Ðời xưa cũng có phép được lập người con hơn tuổi, huống chi lại là con yêu.

Thúc Tôn Ðắc Thần nói:

– Nước Lỗ tôi vẫn quen lệ lập đích tử, khi nào không có đích tử mới lập người con hơn tuổi, bởi vậy tiên quân tôi bỏ công tử Oa mà lập công tử Ác, người trong nước chẳng ai thuận cả.Nếu quý quốc có lòng vì nước tôi đối lập vua hiền thì công tử Oa xin cùng với quý quốc kết làm hôn nhân, rồi dốc một lòng mà thần phục quý qốc.

Tề Huệ công rất bằng lòng mà nói rằng:

– Nếu đại phu giúp ở bên trong thì tôi đây cũng xin tuân mệnh.

Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Ðắc Thần quệt máu ăn thề và lập tờ hôn ước.Tề Huệ công thuận cho.Bọn Trọng Toại về đến nước Lỗ, bảo Quý Tôn Hàng Phủ rằng:

– Ngày nay sự nghiệp bá chủ của nước Tấn đã suy kém rồi, nước TỀ sắp lại cường thịnh.Nước Tề muốn đem đích nữ gã cho công tử Oa, như vậy thì nước ta lại càng thêm vây cánh.

Quý Tôn Hàng Phủ nói:

– Chúa công bây giờ là cháu gọi vua Tề bằng cậu, vua Tề có con gái, sao không gả cho chúa công mà lại gả cho công tử Oa?

Trọng Toại nói:

– Vua Tề nghe nói công tử Oa là người hiền, muốn kết thân với công tử Oa, nhận làm rễ, còn như bà phu nhân Khương thị là con Tề Chiêu công mà các con Tề Hoàn công thì coi nhau như cừu địch, vậy nên bốn đời vua Tề đều là em lên thay anh, người ta đã chẳng nghĩ gì đến anh, đâu lại còn nghĩ gì đến cháu.

Quý Tôn Hàng Phủ nín lặng, khi ra về thở dài mà than rằng:

– Ðông Môn thị đã có ý khác rồi !

Nói xong, liền mật báo với Thúc Trọng Bành Sinh, Thúc Trọng Bành Sinh nói:

– Ngôi vua đã định rồi, ai còn dám có ý khác !

Thúc Trọng Bành Sinh cũng chẳng nghĩ gì đến nữa.Trọng oại cùng với Kính Doanh bàn mưu đem bọn dũng sĩ phục ở trong chuồng ngựa, sai người báo là ngựa mới đẻ con đẹp lắm.Kính Doanh báo công tử Oa cùng với vua Lỗ (tức là công tử Ác) và công tử Thị thân hành ra chuồng ngựa để xem.Bọn dũng sĩ đổ ra, cầm côn gỗ đánh chết vua LỖ lại giết chết cả công tử Thị nữa.Trọng Toại nói:

– Quan Thái phó là Thúc Trọng Bành Sinh hãy còn, nếu chưa trừ bỏ được người ấy thì tất không xong việc.

Trọng Toại liền sai nội thị giả cách phụng mệnh vua Lỗ đến triệu Thúc Trọng Bành Sinh sắp sửa vào cung.Gia Thần là Công Nhiễm Vụ Nhân vẫn biết chuyện TRọng Toại mật giao với người trong cung mới can Thúc Trọng Bành Sinh rằng :

– Thái phó chớ vào, vào thì tất chết.

Thúc Trọng Bành Sinh nói:

– Vua sai người triệu thì dẫu chết ta cũng đành lòng!

Công Nhiễm Vụ Nhân nói:

– Nếu vua triệu thật quan thái phó không chết, chỉ e rằng không phải vua triệu thì ngài sẽ chết uổng mà thôi.

Thúc Trọng Bành Sinh không nghe.Công Nhiễm Vụ Nhân nắm lấy vạt áo mà khóc.Thúc Trọng Bành Sinh dứt vạt áo, rồi đi thẳng vào cung, đến nơi không thấy vua Lỗ đâu cả, mới hỏi các nội thị.Các nội thị nói:

– Chúa công đi ra chuồng ngựa, để xem ngựa mới đẻ.

Các nội thị liền đưa Thúc Trọng Bành Sinh đi ra chuồng ngựa.Bọn dũng sĩ lại đổ ra giết chết Thúc Trọng Bành Sinh, rồi đem thi thể chôn ở trong đống phân ngựa.Rồi Kính Doanh sai người bảo Khương thị rằng:

– Chúa công cùng công tử Thị đều bị ngựa đá chết rồi.

Khương thị khóa òa, rồi đi ra chuồng ngựa để xem.Khi Khương thị đến chuồng ngựa thì thi thể vua Lỗ và công tử Thị đã được đưa ra ngoài cung môn.Quý Tôn Hàng Phủ nghe tin, biết ngay là do mưu kế của Trọng Toại, không dám nói ra, lại bảo riêng TRọng Toại rằng:

– Nhà ngươi hiểm độc quá, ta nghĩ không đang tâm!

Trọng Toại nói:

– Ðấy là mưu của Kính Doanh, chứ ta có dự đâu đến.

Quý Tôn Hàng Phủ nói:

– Giả sử nước Tấn đem quâ, đến hỏi tội thì ta biết nói ra thế nào?

Trọng Toại nói:

– Xem việc nước Tề và nước Tống trước thì đủ biết, người ta giết ua lớn mà chẳng ai hỏi tội, huống chi ta giết chết hai đứa trẻ con ấy, có lo ngại gì !

Quý Tôn Hàng Phủ ôm lấy thi thể vua Lỗ mà khóc, đến nổi khàn cả tiếng.Trọng Toại nói:

– Quan đại thần nên phải bàn việc lớn trong nước, sao lại bắt chước thói đàn bà !

Quý Tôn Hàng Phủ mới gạt nước mắt không khóc nữa.Thúc Tôn Ðắc Thần đến, hỏi anh mình là Thúc Trọng Bành Sinh ở đâu.

Trọng Toái chối là không biết, Thúc Tôn Ðắc Thần cười mà rằng:

– Anh ta chết đi làm người trung thần, đó là cái chí của anh ta, can gì mà phải giấu.

Trọng Toại mới nói thực với Thúc Tôn Ðắc Thần và bảo với các quan rằng:

– Công việc ngày nay, cần phải lập vua trước đã.Công tử Oa là người hiền mà lại nhiều tuổi hơn cả các công tử, nên lập lên làm vua.

Các quan đều vân dạ xin theo, rồi cùng tôn lập công tử Oa lên làm vua, tức là Lỗ Tuyên công.Thúc Tôn Ðắc Thần bới đống phân ngựa, đem thi thể Thúc Trọng Bành Sinh ra làm lễ an táng.Khương thị nghe tin hai con bị giết, Trọng Toại lập công tử Oa lên làm vua, vật mình lăn khóc, chết đi sống lại mấy lượt.Trọng Toại lại nịnh hót Lỗ Tuyên công, viện lẽ “mẫu dỉ tử qui”mà xin tôn Kính Doanh lên làm quốc mẫu.Khương thị buồn rầu, ngày đêm khóc lóc, sai thị nữ thu xếp đồ đạc để sắp trở về nước Tề;Trọng Toại lại giả cách sai người lưu lại mà nói rằng:

– Chúa công bây giờ dẫu không phải phu nhân sinh ra, nhưng phu nhân vẫn là đích mẫu, bao giờ chúa công cũng kính trọng, can gì phu nhân phải về Tề?

Khương thị mắng rằng:

– Thằng giặc Trọng Toại kia! Mẹ con ta có phụ bạc gì mày;mà mày lại làm những việc tàn ác như vậy?Bây giờ lại còn định nói lừa ta, quỷ thần biết, tất chẳng dung tha cái tội ấy !

Khương thị không vào yết kiến Kính Doanh nữa, tức khắc lên xe đi ngay.Khi đi qua những chỗ chợ to phố lớn, Khương thị lại khóc to lên mà kêu rằng:

– Trời đất ơi ! Trời đất ơi ! Hai con nhỏ của tôi có tội gì, mà thằng giăc Trọng Toại nỡ lòng giết con đích lập con thứ?Nay tôi từ biệt nước Lỗ, không bao giờ trở về nữa !

Người trong nước nghe nói, ai cũng động lòng thương xót, có kẻ chảy nước mắt.Ngày hôm ấy ở nước Lỗ nhiều chợ phải tan, bởi vậy người ta mới gọi khương htị là bà Ai Khương, lại vì Khương thị trở về nước Tề, nên cũng gọi là bà Xuất Khương.Xuất Khương về đến nước Tề, cùng với Chiêu công phu nhân, mẹ con gặp nhau, đem những sự oan khổ kể lể với nhau, rồi hai mẹ con cùng khóc lóc.Tề Huệ công thấy vậy, không muốn nghe, mới sai người làm riêng một cái cung để hai mẹ con ở.

Lại nói chuyện em cùng mẹ của Lỗ Tuyên công là Thúc Miện, vốn người trung trực, thấy anh mình nhờ sức Trọng Toại, giết em mà lên làm vua, trong lòng khinh bỉ, mới không vào chúc mừng.Lỗ Tuyên sai người triệu Thúc Miện, muốn dùng làm quan to.Thúc Miện từ chối, không làm.Có người bạn THúc Miện hỏi Thúc Miện vì cớ gì mà không làm quan, Thúc Miện nói:

– Không phải là tôi có ghét gì phú quý, nhưng trông thấy anh tôi thì lại nhớ đến các em, vậy nên tôi không đành lòng.

Người bạn nói:

– Công tử đã cho anh là bất nghĩa thì sau không bỏ mà sang nước khác?

Thúc Miện nói:

– Anh tôi chưa hề tuyệt tình với tôi, sao tôi nỡ tuyệt tình trước.

Gặp bấy giờ Lỗ Tuyên công sai sứ đến thăm hỏi và đem vàng lụa đưa tặng Thúc Miện.Thúc Miện chối từ không lấy mà nói rằng:

– Tôi đây cũng không đến nổi đói rét, có đâu lại còn dám tham !

Sứ giả hai ba lần nói mãi.Thúc Miện bảo rằng:

– Khi nào tôi có thiếu dùng, tôi sẽ xin đến lấy, chứ bây giờ thì quyết không dám nhận.

Người bạn nói:

– Công tử không chịu làm quan, cũng đủ tỏ cái nghĩa khí rồi, nay trong nhà túng tiêu, chúa công có tặng gì thì xin cứ nhận, việc gì mà từ chối ! Dẫu công tử nhận, cũng không ai dám bảo là tham.

THúc Miện chỉ cười, chẳng nói một lời nào cả.Người bạn thở dài mà lui ra.Sứ giả về nói với Lỗ Tuyên công.Lỗ Tuyên công nói:

– Em ta vốn nghèo, không biết lấy gì mà tiêu cho đủ.

Lỗ Tuyên công bèn sai người đương đêm đến rình xem Thúc Miện làm gì, thì thấy Thúc Miện đang thắp đèn ngồi khâu giầy, để ngày hôm sau đem bán lấy tiền ăn.Lỗ Tuyên công than rằng :

– Em ta muốn học Bá Di, Thúc Tề thuở xưa, hái rau vi ở núi Thú Dương mà ăn hay sao ! Thôi thì ta cũng tùy ý.

Thúc Miện suốt đời không chịu ăn lộc của anh, mà cũng không nhắc đến lỗi của anh bao giờ.Người nước Lỗ ai cũng khen Thúc Miện có nghĩa khí. Ðến đời Lỗ Thành công lại dùng con THúc Miện là công tôn Anh Tề làm quan đại phu.Từ đó, ngoài họ Thúc Tôn thị, lại thêm có Thúc thị, Thúc Lão, Thúc Cung, Thúc Chiết, Thúc Ương, và Thúc Nghệ, đều là con cháu Thúc Miện cả.TRọng Toại nhân tết nguyên đán, tâu với Lỗ Tuyênc công rằng:

– Nay chúa công chưa có nội chủ ở trong cung.Trước đây tôi đã cùng với vua Tề kết lập tờ hôn thư, việc ấy chúa công chớ nên để chậm.

Tuyên công nói:

– Bây giờ nên sai ai sang sứ Tề?

Trọng Toại nói:

– Việc này tự tôi bày ra, xin chúa công cho tôi đi.Lỗ Tuyên công liền sai TRọng Toại sang nước Tề thỉnh hôn.Tháng hai năm ấy, đón con gái nước Tề là Khương thị về lập làm phu nhân.Trọng Toại lại mật tâu với Tuyên công rằng:

– Chuá công mới lên ngôi, tất phải một phen dự hội với chư hầu thì ngôi vua mới vững bền được.Chuá công nên khấn lễ vua Tề, để vua Tề cho chúa công dự hội.

Tuyên công khen phải, liền sai Quý Tôn Hàng Phủ sang tạ ơn vua Tề về việc kết hôn, và nói với vua Tề rằng:

– Chúa công tôi nhờ ơn nhà vua mà được nối ngôi nhưng trong lòng vẫn lo sợ không được liệt vào hàng chư hầu, để đến nổi nhà vua phải hổ thẹn.Nếu nhà vua nghĩ tình mà cho tướng công tôi được đến hội với nhà vua, thì chúa công tôi sẽ xin đem ruộng đất ở Tế Tây mà dâng lên nhà vua để tạ ơn.

Tề Huệ công bằng lòng, ước định đến tháng năm năm ấy sẽ cùng Lỗ Tuyên công ội nhau ở đất Bình Châu (đất nước Tề ). Ðến hôm ấy, Lỗ Tuyên công đến trước, Tề Huệ công đến sau, hai bên làm lễ tưởng kiến.TRọng Toại bưng nhưng sổ biên ruộng đất ở Tề Tây, đưa nộp Tề Huệ công.Tề Huệ công nhận ngay.Lỗ Tuyên công từ biệt Tề Huệ công rồi về.Trọng Toại nói:

– Ngày nay ta mới có thể nằm yên được !

Từ bấy giờ nước Lỗ hết lòng phụng sự nước Tề, đến sau Tề Huệ công cụng thương tình mà trả cho nước Lỗ những ruộng đất ở Tề Tây.

Lại nói chuyện Sở Trang Vương (Lữ ) lên làm vua, đã ba năm trời, mà không làm một việc gì cả, ngày nào cũng đi săn bắn, và cùng với mỹ nữ uống rượu mua vui ở trong cung.Sở Trang Vương ra lệnh tuyên yết ở chốn triều môn rằng:

– Nếu ai can thì sẽ bắt tội chết !

Quan đại phu là Thân Vô Úy vào yết kiến, thấy Sở Trang Vương tay phải ôm Trịnh Cơ, tay trái ôm Sái Nữ, xung quanh chỗ ngồi, đầy những đàn địch chuông trống.Sở Trang vương hỏi Thân Vô Ý rằng:

– Quan Ðại phu vào đây có muốn uống rượu không? Có muốn nghe hát không? Hay là muốn nói điều gì?

Thân Vô Uý nói:

– Tôi tới đây không phải muốn uống rượu và nghe hát, nguyên vì mới rồi tôi đang di chơi, có người đem một câu đố đố tôi, tôi không đoán ra được, vậy tôi muốn tâu lên để đại vương nghe.

Trang vương nói:

– Câu đố gì mà đại vương không đóan ra được, hãy nói cho ta nghe?

Thân Vô Uý nói:

– Có một con chim lớn, lông đủ năm sắc, đậu ở trên gò cao nước Sở, đã ba năm nay, mà không thấy hay, cũng không thấy kêu, không biết là con chim gì?

Trang vương hiểu là Thân Vô Uý có ý can mình, mới cười mà bảo rằng:

– Ta đã biết rồi ! Con chim ấy không phải là con chim thường, ba năm nay không bay, bay tất cao đến tận trời, ba năm không kêu, kêu tất làm cho người phải khiếp sợ.Nhà ngươi hãy đợi mà xem.

Thân Vô Uý sụp lạy rồi đi ra. Ðợi trong mấy hôm thấy Sở vương vẫn chơi bời như cũ.Quan đại phu là Tô Tòng xin vào yết kiến.Khi vào, trông thấy Trang vương, liền khóc oà lên, Trang vương nói:

– Tại sao mà khóc lóc như vậy?

Tô Tòng nói:

– Tôi khóc vì nổi thân tôi sắp chết mà nước Sở cũng sắp mất.

Trang vương nói:

– Vì cớ gì mà nhà ngươi chết, vì sao mà nước Sở mất?

Tô Tòng nói:

– Tôi muốn can đại vương, đại vương tất không nghe mà giết tôi.Tôi chết thì nước Sở không ai dám can nữa.Mà đại vương thì cứ say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính sự, còn gì mà nước Sở không mất !

Trang vương bỗng nhiên biến sắc mà bảo rằng:

– Ta đã có lệnh: ai can thì bắt tội chết, sao nhà ngươi đã biết chết mà còn dám can, chẳng cũng ngu lắm ư?

Tô Tòng nói:

– Tôi dẫu ngu cũng chưa đến nổi ngu lắm như đại vương.

Trang vương nổi giận mà nói rằng:

– Sao nhà ngươi dám bảo là ta ngu lắm?

Tô Tòng nói:

– Ðại vương làm vua một nước, có muôn cổ xe, có đất nghìn dặm, binh mã hùng cường, chư hầu tinh phục, đó là cái lợi muôn đời, nay say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính sự, đến nổi nước lớn đến mặt ngoài, nước nhỏ phản ở mặt trong, thế là chỉ ham cái vui một lúc mà bỏ cái lợi muôn đời, không phải ngu là gì! Cái ngu của tôi chẳng qua chỉ đến chết mà thôi, nhưng đại vương giết tôi, thì đời sau tất gọi tôi là trung thần, ví tôi như Long Bàng và Tí Can thuở trước, vậy thì tôi chẳng ngu chút nào ! Còn cái ngu của đại vương thì đến nỗi muốn làm một đứa thất phu cũng không thể được ! Thôi tôi nói đến đây là hết, xin cho mượn thanh gươm của đại vương đeo để tôi đâm cổ trước mặt đại vương, cho khỏi trái với cái mệnh lệnh của đại vương dã ban bố.

Trang vương vội vàng đứng dậy, ngăn Tô Tòng mà bảo rằng:

– Tôi, xin đại phu hãy thôi ! Lời nói của đại phu thật là trung thực, ta xin nghe !

Nói xong, liền bỏ hết âm nhạc, xa Trịng Cơ, lìa Sái Cơ, mà lập Phàn Cơ làm chũ trong cung.Sở Trang vương nói rằng:

– Khi trước ta hãy săn bắn, Phàn Cơ thường can mà ta không nghe, Phàn Cơ bèn không ăn thịt các giống cầm thú nữa. Ấy là ngươi nội trợ hiền của ta đó !

Trang vương lại bổ dụng Vĩ Giả, Phan Uông và Khuất Ðăng để chia quyền của quan lệnh doãn là Ðấu Việt Tiêu, và chỉnh đốn chính sự trong nước, rồi sai công tử Qui Sinh (người nước Trịnh sang làm quan ở nước Sở ) đem quân đi đánh Tống.Qui Sinh cùng với quân nước Tống là Hoa Nguyên.Lại sai Vĩ Giả đem quân sang cứu Trịnh, cùng với quân nước Tấn đánh nhau ở Bắc Lâm, bắt được tướng nước Tấn là Giải Dương.Sang năm sau Trang vương mới tha cho Hoa Nguyên và Giải vương về nước.Từ bấy giờ thế lực nước Sở mỗi ngày một cường thịnh, Trang vương có ý muốn làm bá chủ Trung nguyên.

Thượng khanh nước Tấn là Triệu Thuẫn thấy nước Sở cường thịnh, muốn kết với Tấn để chống Sở.Triệu Xuyên hiến kế rằng:

– Nước Tấn có một thuộc quốc gọi là nước Sùng, qui phụ nước Tần đã lâu, nay ta đem quân đi đánh Sùng thì Tần tất phải cứu, bấy giờ ta phải giảng hoà với Tần.

Triệu Thuẫn theo lời, liền tâu với Tấn Linh công, sai Triệu Xuyên đem quân đi đánh Sùng, Triệu Sóc nói với Triệu Thuẫn rằng:

– Nước Tần từ xưa vẫn thâm thù với ta, nay ta lại đánh thuộc quốc của Tần, chắc Tần giận lắm, khi nào chịu giảng hòa.

Triệu Thuẫn nói:

– Chủ ý ta đã định rồi !

Triệu Sóc lại nói với Hàn Quyết, Hàn Quyết tủm tỉm cười, rồi ghé tai Triệu Sóc mà bảo rằng:

– Triệu tướng quốc làm việc nay là muốn giúp TRiệu Xuyên giữ lấy quyền thế họ Triệu, không phải là muốn giảng hoà với Tần đâu.

Triệu Sóc nín lặng lui ra.Nước Tần nghe tin nước Tấn đánh Sùng, mà lại đem quân đi đánh Tấn, vây đất Tiêu Ấp.Triệu Xuyên rút quân về cứu đất Tiêu Ấp, quân Tần mới chịu lui.Từ đó, Triệu Xuyên mới được tham dự binh quyền.Du Biền ốm chết, Triệu Xuyên lại thay chức của Du Biền.

Tấn Linh công năm đã lớn tuổi, sinh ra hoang dâm bạo ngược, hăm chơi bời, tin yêu một quan đại phu tên gọi Ðỗ Ngạn Giả lập một cái vườn hoa ở trong kinh thành, đi tìm những thứ hoa đào, cứ về mùa xuân thì hoa đào nở ra trông như gấm vóc, mới đặt tên là Ðào Tiên.Trông vườn xây một cái đài cao ba từng, khỏang giữa lại lập một cái lầu gọi là Giáng Tiên lầu, cột vẽ hoàng sơn, gạch hoa ngói đỏ, bốn bề bao lơn con tiện, đứng trên ấy mà trông xuống thì phố xá thành quách đều như ở trước mặt cả.Linh công thích ý lắm, thường thường lên lầu thưởng lãm hoăc cùng với Ðồ Ngạn Giả thi nhau bắn chim và uống rượu.Một hôm Linh công cho gọi phường hát diễn tuồng ở trên đài, nhân dân đều đứng ở ngoài vườn để xem.Linh công nói với Ðỗ Ngạn Giả rằng:

– Bắn chim sao bằng bắn người, ta cùng với nhà ngươi hãy thử chơi, ai bắn trúng mắt thì được giải nhất, bắn trúng vai và cánh thì không kể, nếu bắn không trúng thì phạt một đấu rượu thực to.

Tấn Ling công bắn về phía hữu, Ðổ Ngạn Giả bắn về phía tả.Nhân dân ở ngoài vườn, người thì bị trúng vào mang tai, người thì bị trúng vào cạnh sườn, đều nhốn nháo bỏ chạy cả, kêu rầm lên rằng:

– Hãy còn bán nữa đấy !

Linh công giận lắm, truyền cho quân sĩ cùng bắn ra như mưa, nhân dân, người thì vỡ đầu, kẻ thì sầy trán, người thì lòi mắt, kẻ thì gẫy răng, tiếng khóc như ri.Linh công ở trên đài trông thấy, ném cái cung xuống đất cười ha hả, bảo Ðỗ Ngạn Giả rằng:

– Ta chơi ở cái đài này, chưa có hôm nào vui như hôm nay !

Từ bấy giờ dân nước Tấn không ai dám đi qua đấy nữa ! Lại có một người nhà Chu đem dâng một con chó dữ, tên gọi Linh ngao, mình cao ba thưóc, sắc như than đỏ, mà lại tinh khôn lắm, biết theo ý người.Người có lỗi, Linh công vẫn gọi Linh ngao sai cắn.Con Linh ngao chồm lên, cắn vào tận mặt, kỳ chết mới thôi.Linh công dùng một người chuyên việc nuôi con Linh ngao mỗi ngày cho ăn mấy cân thịt dê.Con Linh ngao cũng khéo theo ý người nuôi, bảo sao được vậy.Người nuôi con Linh ngao ấy gọi là ngao nô, được ăn lộc quan trung đại phu.Linh công bỏ lễ ngoại triều ở ngoài điện mà bắt các quan phải vào triều ở nội tẩm.Mỗi lần coi triều hoặc đi chơi đâu thì ngao nô vẫn dắt con Linh ngao hầu ở bên cạnh, ai trông thấy cũng phải khiếp sợ.Bọn Triệu Thuẫn thường khuyên Linh công nên dùng người hiền, xa kẻ nịnh, và chăm nom chính sự trong nước.Linh công cứ như người điếc, chẳng thèm để vào tai, lại có ý nghi kỵ.Một hôm tan triều, các quan đại phu đều lui về cả, chỉ co Triệu Thuẫn và Sĩ Hội còn đứng ở cửa cung.Hai người đang nói chuyện với nhau, than thở về việc nước, bỗng thấy có hai người nội thị khiêng một cái giỏ tre ở trong cung ra.Triệu Thuẫn nói:

– Sao lại có cái giỏ tre ở trong cung ra như vậy?Tất là có cớ sao đây !

Nói xong, liền gọi hai người nội thị mà bảo rằng :

– Đem lại đây xem, đem lại đây xem !

Hai người nội thị chỉ cấm đầu đi thẳng, không nói gì cả.Triệu Thuẫn hỏi rằng:

– Trong giỏ tre đựng cái gì thế ?

Nội thị nói:

– Ngài là quan tướng quốc, nếu ngài muốn xem thì xin ngài đến mà xem, chứ chúng tôi không dám nói.

Triệu Thuẫn lòng càng nghi, rủ Sĩ Hội cùng đến để xem, thì thấy một cánh tay người thò ra phía ngoài giỏ.Triệu Thuẫn và Sĩ Hội liền nắm giỏ tre lại, thì thấy ở trong có một cái xác chết.Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ, hỏi đầu đuôi làm sao.Nội thị không dám nói.Triệu Thuẫn nói:

– Nếu nhà ngươi không chịu nói thì ta chém đầu nhà ngươi trước.

Nội thị mới chịu nói:

– Người này nguyên là một tên nhà bếp, chúa công sai nấu món thịt gấu, nấu mãi không xong, chúa công nóng uống rượu, giục hai ba lần, người ấy lật đật dâng lên, khi chúa công ném thì lại chưa chín, bởi vậy chúa công đánh chết, chém làm mấy khúc, rồi sai chúng tôi đem khiêng bỏ ra ngoài đồng.Chúa công đã hẹn thời khắc cho mà đi, nếu chậm thì chúng tôi có tội.

Triệu Thuẫn tha cho nội thị cứ việc khiêng đi.Nội thị đi khỏi rồi, Triệu Thuẫn bảo Sĩ Hội rằng:

– Chúa công bạo ngược quá, coi mạng người như cỏ rác.Nước nhà chẳng bao lâu sẽ đến ngày nguy vong.Âu là hai ta cùng vào khuyên can.

Sĩ Hội nói:

– Hai ta khuyên can mà chúa công không nghe thì sau không ai dám nói nữa, chi bằng để tôi vào trước, nếu tôi khuyên can mà chúa công không nghe, bấy giờ tướng quốc sẽ vào.

Linh công đang ngồi ở trên thềm, trông thấy Sĩ Hội vào, biết là có ý muốn khuyên can, liền bảo Sĩ Hội rằng :

– Đại phu chớ nói, ta đã biết lỗi rồi, để ta xin lỗi.

Sĩ Hội sụp lạy mà tâu rằng :

– Người ta ai là không có lỗi, chúa công đã biết lỗi thì tất sửa đổi, thế là một điều đại phúc cho nước nhà, chúng tôi lấy làm mừng lắm.

Nói xong lui ra, thuật chuyện lại với Triệu Thuẫn.TRIỆU Thuẫn nói :

– Chúa công nếu có lòng đổi lỗi thì chỉ trong ngày hôm nay tất có chinh lệnh khác.

Ngày hôm sau, Linh công truyền thẳng xe đi ra chơi Đào Viên, chờ xa giá đến thì ra yết kiến.Tấn Linh công ngạc nhiên hỏi:

– Ta không cho Triệu sao khanh lại đến đây ?

TRIỆU Thuẫn sụp lạy xin lỗi, và tâu rằng:

– Tôi nghe nói dẫu ông vua vô đạo đến đâu, cũng chưa có lấy ai giết người làm vui bao giờ !Nay tướng công nuôi chó để cắn người, bắn cung để hại người, lại vì một điều lỗi nhỏ mà xả thây đứa nhà bếp, mạng người rất là quan trọng, mà chúa công coi rẻ như vậy thì sao giữ yên được nước nhà ?Nếu tôi không nói thì không ai dám nói nữa, xin chúa công quay xe về triều, sửa đổi lỗi trước, khiến cho nước nhà khỏi sự biến loạn, thì tôi dẫu chết cũng thỏa lòng!

Tấn Linh công có ý hổ thẹn, lấy vạt áo che mặt mà bảo rằng:

– Khanh hãy lui về, đẻ cho ta chơi một hôm nay nữa, từ mai trở đi ta xin nghe lời.

Triệu Thuẫn đứng chắn cửa vườn, không cho Linh công vào.Đỗ Ngạn Giả ở bên cạnh, liền nói:

– Tướng quốc khuyên can chúa công, thế là phải lắm, nhưng xa giá đã đến đây, chẳng lẽ về không, khiến cho người ta chê cười, âu là tướng quốc hãy lui về, đến buổi triều sáng mai rồi sẽ thương nghị.

Triệu Thuẫn bất đắc dĩ đứng tránh ra một bên, đẻ cho Linh công đi, rồi trừng mắt nhìn Đỗ Ngạn Giả mà mắng rằng :

– Làm cho nước nhà đến nỗi nguy vong là bởi lũ mày !

Nói xong, vẫn còn hầm hầm tức giận.Đỗ NGẠN Giả theo Linh công vào chơi trong vườn.Linh công đang vui cười.Đỗ Ngạn Giả bỗng thở dài mà nói rằng:

– Tiếc thay cuộc vui chỉ còn lần này mà thôi !

Linh công nói:

– Sao đại phu lại nói như vậy ?

Đỗ Ngạn Giả nói:

– Tôi chắc rằng sáng mai thì Tiệu tướng quốc lại nói lôi thôi, không để cho tướng công đưọc đến đây nữa.

Linh công nổi giận mà nói rằng:

– Từ xưa đến nay, chỉ có bề tôi bị vua kiềm chế, chưa nghe nói vua bị kiềm chế bao giờ ?Lão ấy còn sống thì lại không tiện cho ta lắm, ta biết dùng kế gì mà trừ đi cho được ?

Đổ Ngạn Giả nói:

– Tôi có một người tên gọi Thư Nghê, nhà nghèo, vẫn được tôi chu cấp cho, bởi vậy cảm cái ơn tôi mà vẫn xin cố sức chết để đền báo.Nếu sai người ấy giết chết Triệu tướng quốc thì chúa công tha hồ mà vui chơi, không lo gì nữa !

Linh công nói:

– Nếu làm được việc ấy thì công nhà ngươi to lắm !

Đêm hôm ấy, Đổ Ngạn Giả mật triệu Thư Nghê đến cho ăn cơm uống ruợu, rồi bảo rằng:

– Triệu Thuẫn chuyên quyền, nay ta phụng nệnh chúa công sai nhà ngươi đến giết đi, nhà ngươi nên phục ở cửa Triệu Thuẫn, đợi đến đầu canh năm, khi hắn vào triều, thì xông lại mà đâm chết, chớ có làm hỏng việc!

Thư Nghê vâng mệnh, liền dắt một con dao nhọn đến dinh Triệu Thuẫn, trông thấy cửa mở toang, xe ngựa đã sắp sẳn ở ngoài cửa.Trên thềm bóng đèn lờ mờ.Thư Nghê mới lẻn vào núp ở một chỗ tối.Bấy giờ Triệu Thuẫn mũ áo đại triều, tay cầm cái hốt, nghiêm trang ngồi ở gian giữa, (nguyên là Triệu Thuẫn muốn vào triều, nhưng còn sớm quá vậy ngồi đấy để đợi cho sáng).Thư Nghê thấy vậy, giật mình kinh sợ, lui ra ngoài cửa, thở dài mà than rằng:

– Người ta một lòng cung kính thế kia, tức là trung thần, nếu ta giết người trung thần thì là bất trung, không giết thì trái mệnh vua, lại là bất tín.Bất trung bất tín thì sống làm gì nữa !

Thư Nghê bèn đứng giữa cửa nói to rằng :

– Ta là Thư Nghê đây, thà trái mệnh vua, không nỡ giết người trung thần !Nay ta tự tử mà chết, nhưng sau này tất chúa công sai người khác đến, tướng quốc phải phòng bị mới được.

Nói xong, liền đập đầu vàào cây hoè trước cửa, vở óc ra mà chết.Người nhà Triệu Thuẫn náo động cả lên, bvội vàng vào báo với Triệu Thuẫn.Viên xa hũu của Triệu Thuẫn là Đề Di Minh nói với Triệu Thuẫn rằng:

– Tướng quốc không nên vào triều vội nếu vào triều thì tôi e có biến.

Triệu Thuẫn nói:

– Chúa công đã hẹn với ta hôm nay vào triều sớm, nếu ta không vào thì là không biết giữ lễ, còn việc chết sống dã có số mệnh, ta có lo gì !

Triệu Thuẫn truyền cho người nhà đem Thư Nghê chôn ở dưới gốc cây hoè rồi lên xe vào triều.Linh công thấy Triệu Thuẫn không chết, liền hỏi Đồ Ngạn Giả về việc Thư Nghê.Đồ Ngạn Giả nói:

– Thư Nghê đi không thấy về, có người nói là đập đầu vào cây hoè mà chết, chư rỏ vì cớ gì.

Linh công nói :

– Kế ấy mà không thành thì biết làm thế nào ?

Đồ Ngạn Giả nói :

– Tôi còn có một kế, chắc hẳn thế nào cũng giết được Triệu Thuẫn.

Linh công nói:

– Kế gì ?

Đồ Ngạn Giả nói:

– Ngày mai chúa công mời Triệu Thuẫn vào uống rượu ở trong cung, rồi phục sẵn giáp sĩ ở phía sau tường, đợi khi đang uống rượu dở dang, chúa công giả cách mượn thanh gươm của Triệu Thuẫn đeo để xem, tất nhiên Triệu Thuẫn phải cởi gươm mà đưa cho tướng công.Bấy giờ tôi đứng bên, sẽ quát to lên là Triệu Thuẫn rút gươm, toan sự hại vua, gọi quân sĩ đến cứu giá, quân sĩ sẽ đổ ra bắt mà giết đi.Như vậy thì người ngoài ai cũng bảo là Triệu Thuẫn làm phản bị giết, chúa công tránh được cái tiếng giết quan đại thần, chúa công nghĩ sao ?

Linh công khen phải, rồi theo kế mà làm.Ngày hôm sau, Linh công ra triều, bảo Triệu Thuẫn rằng:

– Tướng quốc đã hết lòng khuyên bảo ta, nay ta có sửa tiệc rượu ở trong cung, để tạ ơn tướng quốc.

Nói xong, liền bảo Đổ Ngạn Giả đưa Triệu Thuẫn vào cung.Viên xa hữu của Triệu Thuẫn là Đế Di Minh theo vào.Khi bước lên thềm, Đổ Ngạn Giả bảo Đế Di Minh rằng:

– Chúa công cùng với tuớng quốc uống rượu, người khác không ai được lên thềm cả.

Đế Di Minh liền đứng ở dưới thềm.Triệu Thuẫn sụp lạy hai lạy, rồi ngồi ở bên hữu Tấn Linh công.Đổ Ngạn Giả đứng hầu bên tả.Khi uống rượu mới được ba tuần, Linh công bảo Triệu Thuẫn rằng :

– Ta nghe nói thanh gươm của tướng quốc tốt lắm.Tướng quốc cho ta xem.

Triệu Thuẫn không biết là kế, toan cởi gươm ra để đưa.Đế Di Minh ở dưới thềm trông thấy, nói to lên rằng :

– Bề tôi hầu rượu vua, theo lễ không được uống quá ba chén, cớ sao lại rút gươm ở trước mặt vua như thế ?

Triệu Thuẫn biết ý, liền đứng ngay dậy.Đế Di Minh hầm hầm tức giận, bước lên thềm vực Triệu Thuẫn xuống.Đổ NGẠN Giả gọi Ngao Nô thả con Linh ngao đuổi theo, đến gần cửa cung, Đế Di Minh cầm ngay cái dùi đánh con Linh ngao gãy cổ mà chết.LLinh công giận lắm, truyền cho quân sĩ đổ ra bắt Triệu Thuẫn.Đế Di Minh đứng chắn ngang lại, để cho Triệu Thuẫn chạy trước.Giáp sĩ tới nơi, Di Minh cự chiến một hồi, mình mẫy đầy vết thương rồi kiệt sức mà chết.

Triệu Thuẫn đang chạy, thấy có người đuổi kịp đến nơi, Triệu Thuẫn sợ lắm.Người ấy nói:

– Tướng quốc chớ sợ, tôi đến cứu ngài đây!

Triệu Thuẫn nói:

– Nhà ngươi là ai ?

Người ấy nói:

– Tướng quốc không nhớ người nằm ở bụi dâu khi xưa hay sao! Linh Triếp tức là tên tôi đó.

Nguyên năm năm về trước, Triệu Thuẫn có đi săn ở Cửu Nguyên Sơn, ngồi nghĩ trong bụi dâu, trong thấy một người đàn ông nằm lăn dưới đất.Triệu Thuẫn nghi là thích khách mới sai người bắt.Người ấy đói không trở dậy được, hỏi đến họ tên thì người ấy nói:

– Tên tôi là Linh Triếp.Tôi sang học ở nước Vệ, đã ba năm nay, bây giờ trở về, tiền lưng hét cả, không lấy gì mà ăn, nhịn đói đã ba ngày rồi!

Triệu Thuẫn nghe nói thương lắm, sai người mang cho cơm và thịt, Linh Triếp chia cơm thịt làm hai phần, một nữa bỏ vào giỏ con của mình, còn một nữ để ăn.

Triệu Thuẫn hỏi:

– Nhà ngươi cất đi một nữa để làm gì ?

Linh Triếp nói:

– Tôi còn mẹ già, hiện ở cửa.Tôi đi vắng đã lâu ngày, chưa biết mẹ tôi còn hay mất, nay chỉ cách đấy có mấy dặm, may mà mẹ tôi hãy còn thì tôi xin đem lộc của quan tướng quốc ban cho về dâng mẹ tôi.

Triệu Thuẫn khen là hiếu tử, bảo cư ăn hết đi, rồi lấy cơm và thịt khác để xếp vào giỏ cho.Linh Triếp lạy tạ rồi đi.Sau Linh Triếp ứng mộ ra lính, lại ở trong số quân giáp sĩ đuổi bắt Triệu Thuẫn, Linh Triếp nghĩ đến cái ơn Triệu Thuẫn.Bấy giờ người tùy tùng bỏ chạy tán loạn cả.Linh Triếp ghé lưng cõng Triệu Thuẫn chạy ra triều môn.Bọn giáp sĩ giết xong Đế Di Minh lại kéo nhau đuổi theo Triệu Thuẫn.Vừa lúc ấy, thì có Triệu Sóc đem quân đến đón Triệu Thuẫn, tức khắc vực Triệu Thuẫn lên xe.Triệu Thuẫn vội vàng gọi Linh Triếp bảo cùng lên xe thì Linh Triếp đã trốn rồi.Bọn giáp sĩ thấy quân Triệu Sóc đông lắm, không đuổi theo nữa.Triệu Thuẫn bảo Triệu Sóc rằng:

– Nay ta không thể về nhà được ! Một là ta sang nước Địch, hai là sang nước Tần, phải tìm chỗ để nương thân mới xong.

Bấy giờ hai cha con cùng ra cửa tây, đi về phía tây.

Chương 51: Ðồng hồ chép thẳng án Đào Viên – Vua Sở mừng công mở đại hội

Tấn Linh công lập mưu giết Triệu Thuẫn,dẫu không giết được,nhưng thấy Triệu Thuẫn bỏ trốn đi thì trong lòng cũng mừng rỡ khác nào đứa học trò được rời thầy học ra, sự mừng rỡ kể sao cho xiết,liền đem cung quyến đến ở luôn ngày đêm tại Ðào Viên, không về cung nữa. Triệu Xuyên đang đi săn ở Tây Giao trở về, gặp Triệu Thuẫn và Triệu Sóc.Triệu Xuyên hỏi chuyện đầu đuôi và bảo Triệu Thuẫn rằng:

– Thúc phụ chớ sang nước khác vội,hãy đợi trong mấy ngày tôi sẽ có tin báo.

Triệu Thuẫn nói:

– Nếu vậy thì ta hãy tạm ở lại núi Thu Dương để đợi tin nhưng nhà ngươi nên cẩn thận,chớ đẻ thêm tai vạ đấy.

Triệu Xuyên từ biệt Triệu Thuẫn và Triệu Sóc,rồi trở về kinh thành,nghe biết Tấn Linh công chơi ở Ðào Viên,mới giả cách vào yết kiến và xin lỗi với Linh công rằng:

– Tôi là thân thích với người có tội,khi nào lại còn dám hầu hạ ở bên cạnh chúa công,xin chúa công cho tôi được từ chức.

Linh công tin là thực,mới phủ dụ Triệu Xuyên rằng:

– Triệu Thuẫn đã nhiều lần khinh bỉ ta,ta không thể chịu được,việc nàykhông can dự gì đến nhà ngươi,nhà ngươi cứ yên tâm mà giữ chức.

Triệu Xuyên lại tạ,rồi lại tâu rằng:

– Tôi thiết tưởng làm vua chỉ quý hơn người ta là được thoả thích cả về thanh,cả về sắc mà thôi,nay chúa công dẫu có đàn sáo chuông trống,nhưng số nội cung chưa đủ,còn lấy gì làm vui ! Tề Hoàn công thuở xưa biết bao nhiêu phi tần,ngoại vị chánh cung,lại còn sáu bà như phu nhân nữa,tiên quân ta là Tấn Vương công,từ khi còn trốn ở các nước, đến đâu cũng lấy vợ,lúc trở về nước,ngọai sáu mươi tuổi,mà phi tần còn rất đông,nay chúa công đã lập ra đài cao vườn rộng thư thế này,mà sao không sai ngưòi đi tuyển gái đẹp về dạy múa hát để làm trò vui,chẳng cũng hay lắm ư !

Linh công nói:

– Nhà ngươi nói chính hợp ý ta ! Nay ta muốn tuyển gái đẹp trong nước thì nên sai ai được?

Triệu Xuyên nói:

– Quan đại phu là Ðỗ Ngạn Giả đi tuyển con gái,bất cừ trong thành ngoài ấp,phàm có con gái trong hai mươi tuổi bắt phải làm sổ khai trinh,hạn trong một tháng thì về báo tin.Triệu Xuyên mượn việc ấy để sai Ðỗ Ngạn Giả đi biệt chỗ khác,rồi lại tâu với Linh công rằng:

– Ðội quân thị vệ của chúa công ở Ðào Viên hãy còn ít lắm,tôi có tuyển được hai trăm lính tinh dùng,xin chúa công cho sung vào làm quân thị vệ.

Linh công thuận cho,Triệu Xuyên về dinh,tuyển hai trăm quân giáp sĩ.Bọn giáp sĩ hỏi Triệu Xuyên rằng:

– Chẳng hay tướng quân định sai chúng tôi đi đâu?

Triệu Xuyên nói:

– Chúa công chẳng thương gì đến dân,chỉ vui chơi ở chốn Ðào Viên,nay có sai ta tuyển bọn các ngươi vào đấy để ngày đêm canh phòng.Bọn các ngươi đây,ai là người không vợ con nhà cửa,nay đi vào đấy, ăn sương nằm gió,biết bao giờ xong;

Bọn giáp sĩ đều than vãn mà nói rằng:

– Ðưá vô đạo hôn quân ấy,sao không chóng chết đi ! Nếu Triệu tướng qiân (trỏ Triệu Thuẫn)còn ở nhà,tất không có việc này.

Triệu Xuyên nói:

– Ta có một câu nàynmuốn bàn cùng các ngươi,chẳng biết có nên không?

Bọn giáp sĩ đều nói:

– Nếu tướng quân cứu được cho chúng tôi thoát khỏi nông nổi khổ sở này thì ơn tái sinh ấy bao giờ chúng tôi quên được.

Triệu Xuyên nói:

– Chỗ Ðào Viên này không kín đáo lắm,như chốn thâm cung.Canh hai đêm hôm nay,các ngươi xông vào trong vườn,giả cách đòi xin ban thưởng,chờ khi ta vẫy tay áo làm hiệu thì các ngươi giết ngay hôn quân đi,ta sẽ đón quan tướng quốc về lập vua khác,các ngươi nghĩ thế nào?

Bọn giáp sĩ đều nói:

– Chúng tôi xin vâng mệnh !

Triệu Xuyên cho bọn giáp sĩ ăn cơm uống rượu,sai chực sẳn ở ngoài cửa Ðào Viên,rồi vào tâu với Linh công.Linh công lên đài trong thấy bọn giáp sĩ người nào cũng tráng kiện,thì bằng lòng lắm ,bèn giữ Triệu Xuyên ở lại hầu rượu.Uống rượu đến canh hai,bỗng nghe thấy bên ngoài có tiếng uyên náo.Linh công kinh sợ,hỏi là cớ gì.Triệu Xuyên nói:

– Ý chừng quân túc vệ xua đuổi người đi đêm đó mà thôi, để tôi xin ra bảo họ đừng làm kinh động thánh giá.

Triệu Xuyên sai thấp đèn lồng, ở trên đài bước xuống.Bọn giáp sĩ hai trăm người đã phá cửa vào đến nơi.Triệu Xuyên bảo bọn giáp sĩ đứng yên cả ở dưới đài,rồi lại trở lên tâu với Linh công rằng:

– Quân sĩ biết chúa công dự tiệc,vậy muốn xin chúa công ban thưởng cho lộc thừa,chứ không có ý gì khác cả.

Linh công truyền cho nội thị đem rượu ban thưởng cho quân sĩ,rồi đứng tựa bao lơn mà trông xuống.Triệu Xuyên đứng bên cạnh,gọi to lên rằng:

– Chuá công thân hành ra đây ban thưởng cho các ngươi,các ngươi hãy bái tạ ơn trên.

Nói xong,giơ tay áo vẫy một cái .Quân sĩ biết là Linh công liền kéo ồ lên.Linh công sợ hãi,bảo Triệu Xuyên rằng:

– Giáp sĩ trèo lên lầu làm gì thế? Nhà ngươi truyền cho họ xuống đi !

Triệu Xuyên nói:

– Quân sĩ nhớ quan tướng quốc là Triệu Thuẫn,muốn xin chuá công cho đón về.

Linh công chưa kịp trả lời thỉ đã bị quân giáp sĩ xúm lại đâm chém chết ngay.Thi vệ xung quanh đều bỏ chạy tán loạn cả.Triệu Xuyên nói:

– Nay đã trừ được hôn quân rồi,các ngươi chớ nên giết bậy một người nào,phải theo ta đi đón quan tướng quốc về triều.

Ðỗ Ngạn Giả đang đi tuyển gái đẹp ở ngoài cõi xa,nghe báo Linh công bị giết,giật mình kinh sợ,biết là mưu kế của Triệu Xuyên,nhưng không dám nói ra,bèn lẻn về nơi dinh phủ.

Bọn Sĩ Hội nghe tin ấy,cũng vội vàng chạy đến Ðào Viên,nhưng chẳn thấy một người nào cả,biết là Triệu Xuyên đã đi đón Triệu Thuẫn về.Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn về đến kinh thành, đi thẳng vào Ðào Viên.Các quan trong triều đều hợp đông đủ cả.Triệu Thuẫn phục ở bên cạnh thi thể Tấn Linh công mà khóc òa lên,rất là thảm thiết,tiếng khóc vang động đến ngoài vườn.Dân nước Tấn nghe tiếng, đều bảo nhau rằng:

– Xem thế thì biết quan tướng quân là người trung thành.Việc này chẳng qua chỉ bởi chúa công ta gây nên tai vạ,chứ không phải lỗi của quan tướng quốc.

Triệu Thuẫn truyền rước thi thể của Tấn Linh công sang chôn ở đất Khúc Ốc,rồi hợp triều thần để lập vua mới.Bấy giờ Tấn Linh công chưa có con trai.Triệu Thuẫn nói:

– Từ khi tiên quân ta mất đi,tôi đã có xướng nghị rằng không nên lập vua nhỏ,vì nhiều người không thuận,mà thành ra có việc này,bây giờ ta phải thận trọng mới được.

Sĩ Hội nói:

– Trong nước có vua lớn thì là một điều đại phúc,quan tướng quốc dạy phải lắm !

Triệu Thuẫn nói:

– Tiên quân ta (tức là Tấn Văn công) ngày xưa hiện còn một người con.Lúc mới sinh ra,bà mẹ nằm mộng thấy thần nhân giơ bàn tay đen xoa vào đứa bé,bởi vậy mới đặt là Hắc Ðiến.Ngày nay đang làm quan ở nhà Chu,hiện đã lớn tuổi,tôi muốn đón về để lập lên làm vua.

Các quan không dám trái ý, đồng thanh mà nói rằng:

– Quan tướng quốc nghĩ rất phải.

Triệu Thuẫn muốn gỡ cái tội giết vua cho Triệu Xuyên,mới sai Triệu Xuyên sang nhà Chu đón công tử Hắc Ðiến về nước Tấn.Công tử Hắc Ðiến vào triều nhà Thái miếu,rồi nối ngôi lên làm vua,tức là TấnThành công.Tấn Thành công đã lên ngôi,giao hết quyền chính cho Triệu Thhuẫn,lại đem con gái gả cho Triệu Sóc,tức là nàng Trang Cơ.Triệu Thuẫn tâu với Tấn Thành công rằng:

– Mẹ tôi nguyên là con gái nước Ðịch.Bà Triệu Cơ tôi (con gái Tấn văn công gả cho thân phụ Triệu Thuẫn là Triệu Thôi )thuở xưa nhường cho mẹ tôi làm vợ cả,vậy nên tôi được làm đích tử,nhận chức trung quân,nay con bà Triệu Cơ tôi là:Triệu Ðồng,Triệu Quát,và Triệu Anh, đều đã lớn tuổi cả,tôi lại xin nhường lại quyền chức ấy.

Thành công nói:

– Quan tướng quốc không phải nhường, để ta sẽ dùng cho làm quan tất cả.

Nói xong,liền cho Triệu Ðồng,Triệu Quát và Triều Anh làm quan đại phu.Triệu Xuyên nói riêng với Triệu Thuẫn rằng:

– Ðổ Ngạn GIả ngày trước xu nịnh tiên quân để làm hại họ Triệu.Việc Ðào Viên này chỉ có Ðổ ngạn Giả ra ý không thuận,nếu không trừ bỏ người ấy đi thì họ Triệu ta cũng khò lòng mà yên được.

Triệu Thuẫn nói:

– Người ta không bắt tội nhà ngươi thì chớ,nhà ngươi lại định bắt tội người ta hay sao ! Họ Triệu ta ngày nay chỉ nên cùng với các quan triều thần hòa mực với nhau,chớ nên gây ra những việc thù oán.

Triệu Xuyên không dám nói đến việc Ðổ Ngạn Giả nữa. Ðỗ Ngạn Giả cũng một lòng theo ý họ Triệu để được khỏi tội.Triệu Thuẫn vẫn lấy việc Ðào Viên làm áy náy,một hôm sang chơi sử quán, đòi lấy bản chép của quan thái sử là Ðồng Hồ để xem Ðồng Hồ chép việc Ðào Viên ra sao. Ðồng Hồ đem bản thảo đưa trình Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn mở ra xem,trông thấy chép rỏ ràng: “Mùa thu,tháng bảy,năm Ất Sửu Triệu Thuẫn giết vua là Di Cao ở Ðào Viên”.

Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ nói:

– Quan thái sử lầm rồi ! Ta đã chạy ra Hà Ðông cách kinh thành hơn trăm dặm,ta có biết đâu đến việc giết vua,mà quan thái sử lại đổ lỗi cho ta,chẳng cũng oan lắm ư!

Ðồng Hồ nói:

– Ngài làm quan tướng quốc,trốn đi chưa khỏi địa giới nước nhà mà đã có việc giết vua này,khi ngài về lại không trị tội quân giặc,như thế mà bảo không phải tự ngài chủ mưu,còn ai tin được?

Triệu Thuẫn nói:

– Bây giờ có thể chửa lại được không?

Ðồng Hồ nói:

– Ðã gọi là tín sử thì có thế nào phải chép như thế,bởi vậy đầu tôi có thể cắt được,chứ bản thảo này thì không thể chữa lại được.

Triệu Thuẫn thở dài than rằng:

– Thế mới biết cái quyền chép sử,còn lớn hơn cái quyền làm tướng quốc ! Tiếc thay,bấy giờ ta chưa ra khỏi địa giới, để đến nỗi chịu tiếng xấu muôn đời,hối sao cho kịp !

Từ bấy giờ Triệu Thuẩn phụng sự Tấn Thành công,càng thêm kính cẩn.Triệu Xuyên cậy có công to,xin làm chức chính khanh,Triệu Thuẩn sợ mang tiếng,không cho.Triệu Xuyên tức giận,phát ra cái ung ở đằng lưng mà chết.Con Triệu Xuyên là Triệu Chiên xin nối giữ chức vị của cha.Triệu Thuẫn bảo Triệu Chiên rằng:

– Ðợi khi nào nhà ngươi lập được công trạng thì dẫu ngôi khanh tướng cũng chẳng khó gì !

Chu Khuông vương mất.Em là Du lên nối ngôi,tức là Chu Ðịnh vương.Năm đầu Chu Ðịnh vương,Sở Trang vương đem quân đánh đất Lục Hồn,qua sông Lạc Thủy,keó đến địa giới nhà Chu, định dùng uy lực áp chế thiên tử mà cùng với nhà Chu chia đôi thiên hạ.Chu Ðịng vương sai quan đại phu là Vương Tôn Mẫn đến uý dụ Sở Trang vương.Sở Trang vương hỏi:

– Tôi nghe nói vua Ðại Vũ ngày xưa có đúc chín cái đinh,từ nhà Hạ,nhà Thương đến nhà Chu ta vẫn truyền cho nhau,coi là của quý,hiện nay để ở đất Lạc Dương.Chẳng hay những cái đinh ấy hình dáng,lớn bé và nặng nhẹ thế nào,xin quan đại phu cho biết?

Vương Tôn Mẫn nói:

Vua Ðại Vũ nhà Hạ đúc nên chín cái đinh, đến đời vua Kiệt vô đạo,mới thiên sang nhà Thương?Vua Trụ nhà Thương bạo ngưọc,chín cái đinh ấy lại thiên sang nhà Chu,xem thế thì biết đời nào có đức thì mới giữ nổi chín cái đinh ấy.Khi nhà vua Thành vương nhà Chu tôi để chín cái đinh ấy ở Lạc Dương, đã có bói một quẻ thì biết rằng nhà Chu tôi truyền được ba mươi đời,bảy tram năm có lẻ,năm nay vận mệnh nhà Chu hãy còn,nhà vua chớ nên hỏi đến đinh vội !

Sở Trang vương hổ thẹn,từ bấy giờ không dám có ý nom dòm nhà Chu nữa.

Lại nói chuyện quan lệnh doãn nước Sở là Ðấu Việt Tiêu từ khi thấy Sở Thành vương chia mất quyền chính của mình,trong lòng oán giận,lại cậy mình là người tài giỏi và đời trước có công lao,dân trong nước ai cũng tin phục,mới có ý muốn làm phản,thường vẫn nói rằng:

– Nhân tài nước Sở chỉ có một mình Vĩ Giả mà thôi,còn thì chẳng đáng kể.

Khi Sở Trang vương đi đánh Lục Hồn,cũng lo đấu Việt Tiêu làm phản,mới bảo Vĩ Giả ở lại để giữ nước. Ðấu Việt Tiêu thấy Sở Trang vương đem quân đi vắng,mới quyết chí nổi loạn, định đem hết những quân của bản tộc ra để khởi sự. Ðấu Khắc (con Ðấu Ban ) không theo. Ðấu Việt Tiêu giết chết Ðấu Khắc,rồi đem quân đến giết quan tư mã là Vĩ Giả.Con Vĩ Giả là Vĩ Ngao đem mẹ chạy trốn sang Mộng Trạch. Ðấu Việt Tiêu ra đóng đồn ở đất Chưng Giã để chặng đường Sở Trang vương trở về.Sở Trang vương nghe tin Ðấu Việt Tiêu nổi loạn,tức khắc rút quân về nước.Về gần đến đất Chương Lạp, Ðấu Việt Tiêu đem quân ra đối địch.Quân Sở Trang vương trông thấy Ðấu Việt Tiêu đeo cung cầm giáo, đi lại hăng hái ở trước trận, đều có ý sợ hãi.Sở Trang vương nói:

– Họ Ðấu mấy đời có công với nước,nay chẳng thà để cho Ðấu Việt Tiêu hpụ ta,chớ ta không nỡ phụ Ðấu Việt Tiêu.

Nói xong,liền sai quan đại phu là Tô Tùng sang điều đình với Ðấu Việt Tiêu,thuận cho giảng hoà và tha cho cái tội giết quan tư mã. Ðấu Việt Tiêu nói:

– Ta xấu hổ vì phải làm chức lệnh doãn,chứ ta có mong ân xá đâu ! Có dám đánh thì đem quân tới đây !

Tô Tùng hai ba lần phủ dụ mà Ðấu Việt Tiêu không nghe.Khi Tô Tùng về rồi, Ðấu Việt Tiêu truyền nổi hiệu trống tiến quân sang dắnh.Sở Trang vương hỏi các tướng rằng:

– Các tướng,có ai dám đối địch với Ðấu Việt Tiêu không?

Quan đại tướng là Nhạc Bá vâng mệnh ra trận.Con Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Bí Hoàng liền đem quân ra nghinh chiến.Phan Uông trông thấy Nhạc Bá không đánh nổi Ðấu Bí Hoàng,cũng giục ngựa ra trận.Em Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Kỳ cũng đem quân ra giao chiến với Phan Uông.Sở Trang vương ngồi trên xe,cầm dùi đánh trống để đốc chiến. Ðấu Việt Tiêu lại bắn mũi tên nữa,cắm vào cái mộc.Sở Trang vương vội vàng truyền lịnh thu quân.

Ðấu Việt Tiêu cố sức tiến đánh,may có hữu quân đại tướng là công tử Trắc và tả quân đại tướng là công tử Anh Tề,hai mặt đổ lại,bấy giờ Ðấu Việt Tiêu mới lui quân.Nhạc Bá và Phan Uông nghe hiệu cũng thu quân trở về.Về đến đất Hoàng Hử,Sở Trang vương truyền đem hai cái tên của Ðấu Việt Tiêu ra xem thì thấy dài gấp rưỡi cái tên khác,cánh tên bằng lông hạc, đốc tên bằng răng báo,mũi tên sắc không biết thế nào mà kể ! Các người xung quanh trông thấy,ai cũng lắc đầu lè lưỡi,lấy làm sợ hãi,cho là mũi tên thần. Ðêm hôm ấy,Sở Trang vương đi tuần các dinh,nghe thấy quân sĩ chỗ nào cũng hợp nhau bàn về mũi tê thần tiên của Ðấu Việt Tiêu,cho là khó lòng đánh nổi.Sở Trang vương mới lập kế sai người đặt chuyện ra mà nói với quân sĩ rằng:

– Ðời tiên quân ta là Sở Van vương ngày xưa nghe nói người Nhung Nam làm tên tốt lắm,sai sứ đi hỏi,người Nhung Nam mới đem dâng hai cái tên,gọi là “Thấu cốt phong”,vẫn để ở nhà thái miếu. Ðấu Việt Tiêu lấy trộm được hai cái tên ấy,nhưng bắn hai phát là mất rồi,còn sợ gì nữa ! Chỉ đến ngày mai là ta đánh tan được thôi.

Bấy giờ quân sĩ mới được yên lòng.Sở Trang vương hạ lệnh rút quân sang nước Tùy,giả cách nói định mướn quân các nước ở Hán Ðông về đánh Ðấu Việt Tiêu.Tô Tùng nói với công tử Trắc rằng:

– Giặc mạnh ở trước mặt mà ta lui quân thì e hỏng việc.

Công tử Trắc nói:

– Ðấy tất là đại vương lập kế đó thôi ! Chúng ta vào yết kiến thì tự khắc biết rõ.

Ðêm hôm ấy,công tử Trắc cùng với công tử Anh Tề vào yết kiến Trang vương.Trang vương nói:

– Ðấu Việt Tiêu mạnh thế lắm,ta không thể địch nổi,phải dùng kế mới đánh được.

Trang vương đem mật kế bảo với hai tướng,và sai họ đem quân đi mai phục.Cả hai đều vâng mệnh đem quân đi.Gà gáy hôm sau,Trang vương truyền cho đại binh kéo lui. Ðấu Việt Tiêu nghe tin,tức khắc đem quân đuổi theo.Quân Trang vương cố sức đi gấp qua đất Cánh Lăng. Ðấu Việt Tiêu cũng cố sức đuổi theo,một ngày một đêm đi hơn hai trăm dặm, đến cầu Thanh Hà,trông thấy quân Trang vương đang thổi cơm ở bên kia cầu,lại cố sức đuổi theo cho kịp.Khi đấu Việt Tiêu đến nơi thì quân Trang vương bỏ cả nồi niêu mà chạy. Ðấu Việt Tiêu hạ lệnh đuổi theo,cốt ý bắt cho kỳ được Trang vương,rồi mới được ăn cơm sáng.Quân Ðấu Việt Tiêu đang lúc mỏi mệt,lại phải nhịn đói để cố mà tiến lên,bèn theo kịp Trang Uông.Phan Uông bảo Dấu Việt Tiêu rằng :

– Nhà ngươi muốn bắt vua Sở thì sao không cố mau lên một chút !

Ðấu Việt Tiêu tưởng thực mới bỏ Phan Uông,lại cố đuổi theo sáu mươi dặm nữa, đến địa giới Thanh Sơn,gặp toán quân của Hùng Phụ Cơ. Ðấu Việt Tiêu hỏi Hùng Phụ Cơ rằng:

– Vua Sở ở đâu?

Hùng Phụ Cơ nói:

– Vua Sở chưa đi đến đây !

Ðấu Việt Tiêu trong lòng nghi ngờ,lại bảo Hùng Phụ Cơ rằng:

– Nhà ngươi tìm vua Sở cho thìkhi ta lên lém vua,sẽ cho nhà ngươi được quyền chính.

Hùng Phụ Cơ nói:

– Ta trông quân sĩ nhà ngươi đều mệt mỏi cả,nên phải cho ăn no thì mới giao chiến được.

Ðấu Việt Tiêu lấy làm phải,mới đóng quân lại để nấu cơm ăn.Quân Ðấu Việt Tiêu đang nấu cơm ăn,bỗng thấy công tử TRắc và công tử Anh Tề hai mặt đem quân đến đánh.Quân Ðấu Việt Tiêu đói không thể đánh được,bỏ chạy về phía nam,lui về cầu Thanh Hà thì cầu ấy đã bị phá đổ từ bao giờ rồi.Nguyên Sở Trang vương đã đem quân phục sẵn ở bên cầu, đợi cho Ðấu Việt Tiêu qua cầu thì phá cầu đi để chặn lối trở về. Ðấu Việt Tiêu thấy cầu đã bị phá gẫy,giật mình kinh sợ,truyền cho quân sĩ dò xem nước sông nông sâu thế nào để tìm đường sang.Bỗng nghe ở bên kia sông có tiếng pháo nổ,một toán quân Sở quát to:

– Quân Nhạc Bá đóng đây, Ðấu Việt Tiêu mau mau xuống ngựa mà đầu hàng đi !

Ðấu Việt Tiêu giận lắm,truyền cho quân sĩ đứng bên này sông giương cung ra bắn.Trong toán quân Nhạc Bá có một viên tiểu tướng tài nghề bắn cung tên gọi Dưỡng do Cơ,người ta vẫn khen là “thần tiển”.Dưỡng Do Cơ nói với Nhạc Bá xin cùng với Ðấu Việt Tiêu bắn thì Nhạc Bá thuận cho.Dưỡng Do Cơ đứng ở bờ sông bên này,quát to lên mà bảo Ðấu Việt Tiêu rằng:

– Mặt sông rộng nhì thế này,tên nào mà bắn cho thấu ! Tôi nghe nói quan lệnh doãn (tức là Ðấu Việt Tiêu )tài bắn lắm,vậy tôi xin cùng với ngài bắn thi.Hai bên nên đứng giáp ở trên dịp cầu,mỗi bên bắn ba phát,ai may thì sống.

Ðấu Việt Tiêu hỏi rằng:

– Nhà ngươi là ai?

Dưỡng Do Cơ nói:

– Tôi là tiểu tướng thuộc quân Nhạc Bá,tên gọi Dưỡng Do Cơ.

Ðấu Việt Tiêu có ý khinh bỉ,mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng:

– Nhà ngươi muốn bắn thi thì hãy nhường ta bắn trước ba phát.

Dưỡng Do Cơ nói:

– Ðừng nói ba phát,dẫu đến trăm phát,tôi cũng không sợ ! Ai tránh là không giỏi !

Nói xong,liền ra đứng ở trên dịp cầu về phía sông bên này. Ðấu Việt Tiêu đứng ở dịp cầu bên kia,giương cung bắn ngay một phát,tưởng rằng phát tên này bắn ra thì Dưỡng Do Cơ lộn cổ xuống sông mà chết.Ai ngờ Dưỡng Do Cơ trông thấy mũi tên đến,tay cầm đốc cung,gạt liền một cái,mũi tên rơi xuống dưới sông.Dưỡng Do Cơ lại quát to lên mà bảo Ðấu Việt Tiêu rằng:

– Bắn nữa đi ! Bắn nữa đi !

Ðấu Việt Tiêu lại giương cung nhắm thẳng vào Dưỡng Do Cơ bắn luôn một phát nữa.Dưỡng Do Cơ ngồi sụp xuống thì mũi tên ấy qua đầu mà bay đi mất; Ðấu Việt Tiêu nói:

– Nhà ngươi bảo rằng ai tránh là không giỏi,sao lại còn ngồi sụp xuống,như vậy không phải là trưọng phu.

Dưỡng Do Cơ nói:

– Quan lệnh doãn còn được bắn một phát nữa, đến phát này thì tôi không dám tránh,nếu phát này không trúng thì ngài phải nhường cho tôi bắn.

Ðấu Việt Tiêu nghĩ thầm:

– Nếu hắn không tránh thì phát tên này tất phải trúng. Ðấu Việt Tiêu tức khắc giương cung ra bắn.Dưỡng Do Cơ đứng vững hai chân,không cựa cậy chút nào,khi mũi tên tới nơi,liền há mồm thật to,cắn chặt ngay lấy. Ðấu Việt Tiêu bắn ba phát tên cùng không trúng cả,có ý sợ hải,nhưng trót đã hẹn lời,cũng phải để cho Dưỡng Do Cơ bắn lại,mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng:

– Nay ta nhường hco nhà ngươi bắn lại ba phát,nếu bắn không trúng bấy giờ nhà ngươi lại phải nhường ta.

Dưỡng Do Cơ cười mà bảo rằng:

– Có bao giờ mà lại đến ba phát ! Tôi chỉ bắn một phát thì quan lệnh doãn đi đơì mà thôi !

Ðấu Việt Tiêu nói:

– Nhà ngươi nói khoát làm gì thế,hãy thử bắn xem nào !

Ðấu Việt Tiêu nghĩ thầm:

– Hắn bắn phát tên này mà trúng,chẳng kể làm chi,nhược bằng không trúng ta còn sợ nữantha hồ cho hắn bắn.Ai ngờ Dưỡng Do Cơ là người bắn giỏi lắm,trăm phát trúng cả trăm,bấy giờ Dưỡng Do Cơ giả cách giương cung ra bắn,nhưng tay vẫn giữ lấy tên. Ðấu Việt Tiêu nghe tiếng dây cung,tưởng là tên đến,mới nghiêng mình tránh về phía tả.Dưỡng Do Cơ nói:

– Tên vẫn còn ở tay tôi,nào đã bắn đâu ! Quan lệnh doãn bảo ai tránh là không giỏi,cớ sao lại tránh?

Ðấu Việt Tiêu nói:

– Còn sợ ngưòi ta tránh sao gọi là bắn giỏi!

Dưỡng Do Cơ lại gỉa cách giương cung ra bắn. Ðấu Việt Tiêu lại trắnh về phiá hữu.Dưỡng Do Cơ thừa lúc Ðấu Việt Tiêu tránh luôn tay bắn một phát nữa, Ðấu Việt Tiêu không biết tên đến,né tránh không kịp,mũi tên xuyên qua sọ,chết ngay tại trận.Quân Ðấu Việt Tiêu thấy chủ tướng đã chết rồi,bỏ chạy tán loạn.Công tử Trắc và công tử Anh Tề chia đường đuổi theo,giết cho quân Ðấu Việt Tiêu thây chết như núi,máu chảy thành sông.Con Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Bí Hoàng trốn sang nước Tấn,sau vua Tấn dùng làm quan đại phu,phong cho ở đất Miêu,gọi là Miêu Bí Hoàng.Sở Trang vương đã được toàn thắng,thu quân trở về kinh thành,bao nhiêu người họ Ðấu,bất cứ lớn bé đều đem chém đầu cả,chỉ trừ co con Ðấu Ban là Ðấu Khắc Hoàng hiện đang làm quan châm doãn, đương phụng mệnh Sở Trang vương sang sứ nước Tề.Khi Khắc Hoàng về đến nước Tống,nghe tin Ðấu Việt Tiêu nổi loạn,các người theo hầu đều can không nên về vội Ðấu Khắc Hoàng không nghe.

Khi Ðấu Khắc Hoàng về đến kinh thành nước Sở,vào nói với quan tư khấu xin chịu tội và bảo rằng:

– Tổ phụ ta ngày xưa là Tử Văn đã biết Ðấu Việt tiêu có tướng làm phản,tất đến nổi diệt tộc,khi sắp tạ thế,có dặn thân phụ tôi trốn sang nước khác.Thân phụ tôi nghĩ ơn nước Sở,không nơỏ bỏ đi,thành ra bị Ðấu Việt Tiêu giết chết.Nay tôi đã cùng họ với kẻ phản nghịch,lại không theo được lời dặn của tổ phụ tôi,vậy thì còn sống làm gì ! Tôi xin chịu tội chết !

Trang vương nghe nói bèn than rằng:

– Tử Văn ngày xưa thật là thần nhân ! Huống chi lại có công to với nước Sở,nỡ nào lại để cho tuyệt tự !

Nói xong,liền xá tội cho Ðấu Khắc Hoàng,vẫn cho làm quan,lại cho đổi tên là Ðấu Sinh,nghĩa là đáng chết mà được sống.

Trang vương khen Dưỡng Do Cơ có công bắn chết Ðấu Việt Tiêu,cho làm chức xa hữu,nghe nói Ngu Khâu là người hiền,cho quyền chức lệnh doãn.Sở Trang vương truyền mở một tiệc đại yến ở trên tiệm đài,triệu các quan triều thần đến dự tiệc,lại cho cả các phi tần theo đi.Trang vương bải triều thần rằng:

– Ta không uống rượu nghe hát, đã sáu năm trời này,bấy giờ dẹp yên được bọn phản nhgịch rồi,ta xin cùng với các người bày một tiệc vui gọi là thái bình yến.Phàm các quan viên văn vũ,bất cừ to nhỏ đều được dự tiệc cả.

Các quan sụp lạy,rồi theo thứ tự vào ngồi.Chức bào nhân (Người nhà bếp) dâng món ăn,chức thái sử (chức quan coi việc văn hóa,nghệ thuật )tấu nhã nhạc.Khi mặt trời đã gần lặn,tiệc rượu còn đang vui,Sở Trang vương truyền thắp nến lên để uống rượu nữa,lại sai một cung tần được vua yêu là Hứa Cơ, đi mời khắp các quan mỗi người một chén rượu.Các quan đều đứng dậy để uống,bỗng có một trận gío to,bao nhiêu nến thắp ở trên điện,tắt hết cả.Các nội thị còn đang châm lửa chưa đến.Trong các quan đại phu,có một người trông thấy Hứa Cơ đẹp,nhân lúc tối tăm,thò tay nắm lấy vạt áo nàng.Hứa Cơ tay trái dứt vạt áo,tay phải nắm được giải mũ của người ấy.Giải mũ đứt,người ấy sợ lắm,vội vàng buông tay ra,Hứa Cơ lấy được cái giải mũ,rón rén đi đến trước mặt Trang vương,ghé tai mà tâu rằng:

– Thiếp vâng mệnh đại vương ra mời các quan uống rượu,mà có một người vô lễ,dám nhân lúc tắt nến,nắm lấy vạt áo thiếp,thiếp đã dứt được cái giải mũ của người ấy,xin đại vương thắp nến mà xem xét xem.

Trang vương vội vàng truyền cho nội thị chớ thắp nến vội và bảo các quan triều thần rằng:

– Ngày nay ta bày tiệc,mong cùng các người mua vui,các người nên bỏ cả giải mũ đi,rồi cùng ta uống rượu thật say.Nếu ai không dứt giải mũ thì chưa được vui lắm.

Các quan triều thần đều dứt bỏ hết giải mũ.Bấy giờ Trang vương mới thắp nến,thàng ra không biết người nào nắm vạt áo Hứa Cơ cả.Tiệc xong,trở về trong cung,Hứa Cơ tâu với Sở Trang vương rằng:

– Thiếp nghe nói nam nữ phải có phân biệt,huống chi lại là vua tôi. Ðại vương sai thiếp mời các quan uống rượu,là để tỏ lòng kính trọng các quan,nay người ấy nắm lấy vạt áo thiếp mà đại vương không trị tội,thì còn ra thể thống gì nữa !

Trang vương cười mà bảo rằng:

– Ta bày tiệc rượu này là muốn để các quan đều được cùng vui,bởi vậy mới sai thắp nến để uống rượu thêm.Rượu say sinh ra chớt nhả,chẳng qua cũng là thường tình,trị tội một người mà làm cho các quan không được vui, đó không phải là điều ta muốn !

Hứa Cơ thán phục.Về sau người ta gọi tiệc rượu ấy là “Tuyệt anh hội” (nghĩa là hội dứt giải mũ ).Một hôm,Trang vương cùng với Ngu Khâu bàn tiệc chính trị, đêm đã khuya,mới trở cung.Bà phu nhân là Phàn Cơ hỏi Trang vương rằng:

– Ngày hôm nay trong triều có việc gì mà đại vương về chậm như vậy?

Trang vương nói:

– Ta cùng vơi Ngu Khâu bàn việc,thành ra khuya quá mà không biết.

Phàn Cơ nói:

– Ngu Khâu là người hiền ở nước Sở ta.

Phàn Cơ nói:

– Cứ như ý thiếp thì Ngu Khâu vị tất là người hiền.

Trang vương hỏi:

– Sao thế?

Phàn Cơ nói:

– Ngu Khâu mỗi lần cùng với đại vương bàn việc chính trị,thường đến đêm khuya,mà chưa thấy tiến cử một người nào cả.Cái trí của một người thì có hạn,mà số kẻ sĩ nước Sở thì vô cùng.Ngu Khâu muốn đem cái trí của một người để che lấp tất cả kẻ sĩ trong thiên hạ sao gọi là người giỏi được?

Trang vương khen phải.Ngày hôm sau, đem lời Phàn Cơ thuật lại cho Ngu Khâu nghe.Ngu Khân nói:

– Vậy mà tôi chưa kịp nghĩ đến điều đó; để tôi xin liệu ngay.

Ngu Khâu liền hỏi khắp triều thần,xem có ai biết người hiến thì nói. Ðấu Sinh nói với Ngu Khâu rằng:

– Tôi có biết người con của Vĩ Giả tên gọi Vi Ngao là người hiền.Vi Ngao vì tránh cái nạn Ðấu Việt Tiêu mà đi ẩn ở Mộng Trạch,người ấy thật có tài làm tướng quốc.

Ngu Khâu vào tâu,Trang vương nói:

– Vĩ Giả ngày xưa là người trí sĩ thì con Vĩ Giả tất cũng không phải tầm thường,nếu nhà ngươi khôn gnói,có lẽ ta quên mất !

Sở Trang vương bèn sai Ngu Khâu cùng với Ðấu Sinh đi đến Mộng Trạch để triệu Vĩ Ngao.Nguyên Vĩ Ngao tên tự là Tôn Thúc,bởi vậy người ta vẫn gọi là Tôn Thúc Ngao.Tôn Thúc Ngao đem mẹ đi tránh nạn,sang ở Mộng TRạch,làm ruộng nuôi thân.Một hôm,Tôn Thúc Ngao vác cày ra đồng,thấy ở dưới ruộng có con rắn hai đầu,giật mình kinh sợ mà nói rằng:

– Ta nghe nói con rắn hai đầu là vật chẳng lành,ai trông thấy nó là chết,ta nguy đến nơi rồi !

Nói đoạn,lại nghĩ thầm rằng:

– Nếu ta để con rắn ấy sống thì sau này ai trông thấy nó lại bỏ mạng,cho bằng một mình ta đành chịu mà thôi.

Tôn Thúc Ngao nghĩ vậy,mới giơ cái cày đánh chết con rắn,chôn ở bờ ruộng,rồi trở về nhà khóc với mẹ.Bà mẹ hỏi cớ làm sao,Tôn Thúc Ngao nói:

– Con nghe nói ai thấy con rắn hai đầu cũng chết,nay con trông thấy,con lo rằng không sống mà nuôi mẹ được vậy nên con khóc.

Bà mẹ nói:

– Bây giờ con rắn ở đâu?

Tôn Thúc Ngao nói:

– Con sợ người khác lại trông thấy nữa,nên đã giết chết mà chôn đi rồi.

Bà mẹ nói:

– NGười ta hễ có một niềm thiện ở trong lòng,trời tất phù hộ cho.Nay con trông thấy con rắn hai đầu,sợ di lụy đến người khác,giết mà chôn đi,thế là con hơn một niềm thiện nhiều lắm ! Con tất không chết mà lại được phúc nữa.

Mấy hôm sau,bọn Ngu Khâu phụng mệnh Sở Trang vương đến triệu Tôn Thúc Ngao.Bà mẹ mới cười mà bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

– Ðấy là vì việc con chôn rắn mà được phút đó !

Tôn Thúc Ngao đem mẹ theo bọn Tôn Ngu Khâu về kinh thành nước Sở,Sở Trang vương cùng với Tôn Thúc Ngao nói chuyện suốt một ngày,lấy làm bằng lòng lắm,mới bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

– Tôi mới ở chỗ thảo dã tới đây, đại vương đã vội giao quyền chính cho,e rằng người ngoài không phục.Vậy tôi xin theo các quan đại phu.

Trang vương nói:

– Ta đã biết tài nhà ngươi thì nhà ngươi không nên từ chối.

Tôn Thúc Ngao hai ba lần từ chối không,mới nhận làm chức lệnh doãn.Tôn Thúc Ngao chỉng đốn chính trị nước Sở,lập ra quân pháp,cho Ngu Khâu coi đạo trung quân,công tử Anh Tề coi đạo tả quân,công tử Trắc coi đạo hữu quân,Dưỡng Do Cơ đạo hữu quảng,Khuất Ðăng coi đạo tả quảng,hiệu lệnh rất nghiêm,nhân dân được yên ổn,lại đáp đê khơi sông để tiện việc làm ruộng,dân nước Sở ai cũng ca tụng công đức.Triều thần thấy Trang vương tin dùng Tôn Thúc Ngao,thì lúc đầu không phục,nhưng đến lúc Tôn Thúc Ngao sửa sang chính trị hẵn hòi rành mạch,mới tấm tắc mà khen rằng:

– Nước Sở có phúc, được người hiền thần ấy,chẳng kém gì Tử Văn thuở xưa.Tử Văn thuở xưa làm lệnh doãn khiến cho nước Sở được cường thịnh,nay có Tôn Thúc Ngao,khác nào như Tử Văn sống lại !

Bấy giờ Trịnh Mục công (Lan )mất,thế tử Di lên nối ngôi,tức là Trịnh Linh công.Công tử Tống và công tử Quy Sinh cầm quyền chính nước TRịnh,vẫn bắt cá cả hai tay,chưa biết theo Tấn hay theo Sở.Sở Trang vương mới cùng với Tôn Thúc Ngao thương nghị, định đem quân sang đánh Trịnh.Bỗng nghe tin Trịnh Linh công bị công tử Quy Sinh giết chết?Sở Trang vương bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

– Nhân việc này ta đem quân sang đánh Trịnh,lại càng có cơ lắm!

Chương 52: Công tử Tống nghĩ ghen miếng ăn – Trần Linh Công qúa mê sắc đẹp

Công tử Quy Sinh,tên tự là Tử-Gia.Công tử Tống tên tự là Tử-Công,hai người đều là quý thích(họ hàng thân thích của vua) ở nước Trịnh.Bấy giờ đang năm đầu Trịnh Linh Công,công tử Tống và công tử Quy Sinh hẹn nhau cùng vào triều.Bỗng đâu ngón tay trỏ của công tử Tống tự nhiên rung động.Công tử Tống mới giở ngón tay mình đang rung cho công tử Quy Sinh xem.Công tử Quy Sinh lấy làm lạ.Công tử Tống nói:

– Bao giờ ngón tay trỏ của tôi rung động thì thế nào ngày ấy tôi cũng được ăn một món gì lạ.Ngày trước tôi đi sứ nước Tấn, được ăn thạch hoa ngư (cá),sau sang sứ nước Sở, được ăn thiên nga(ngỗng),một lần được ăn hợp hoan quất (quýt),ngón tay trỏ đều báo trước,mà lần nào cũng nghiệm cả.Chưa biết ngày hôm nay được ăn món gì đây !

Khi công tử Tống và công Quy Sinh vào đến triều môn,thấy nội thị phụng mệnh đi gọi đồ tể gấp lắm…Công tử Tống hỏi nội thị rằng:

– Nhà ngươi gọi đồ tể có việc gì?

Nội thị nói:

– Có người ở Hán Giang về,mua được một con giải to lắm,nặng hơn hai trăm cân đem dâng cho chúa công.Chúa công nhận mà thưởng cho người ấy,bây giờ buộc con giải ở dưới thềm,sai tôi đi gọi người vào làm thịt, để định bày tiệc thết các quan đại phu.

Công tử Tống nói:

– Ðó tức là một món ăn quý lạ,ngón tay trỏ của ta rung động quả là có nghiệm.

Khi vào đến trong triều,trong thấy ở chân cột dưới thềm có buộc một con giải thật to,hai người cứ nhìn nhau mà cười. Ðến lúc yết kiến Trịnh Linh Công,nét mặt hai người vẫn còn hớn hở.Trịng Linh Công hỏi:

– Hai người hôm nay có sự gì mà vui mừng như vậy?

Công tử Quy Sinh nói:

– Lúc công tử Tống cùng với tôi sắp vào triều thì ngón trỏ rung động,công tử Tống có nói:hễ ngón tay trỏ rung động thì bao giờ cũng được ăn món gì quý lạ.Nay trông thấy dưới thềm có buộc con giải to,chắc là thế nào chúa công ngự tiệc,cũng có gia ân đến chúng tôi,vậy nên chúng tôi buồn cười.

TRịnh Linh Công nói đùa rằng:

– Nghiệm hay không,việc ấy còn tùy ở ta.

Khi tan triều về,công tử Quy Sinh bảo công tử Tống rằng:

– Miếng ngon dẫu có,nhưng nếu chúa công triệu nhà ngươi thì làm thế nào?

Công tử Tống nói:

– Ðã bày tiệc để thết các quan,có lẽ nào lại quên ta được!

Ðến lúc ngự tiệc,nội thị đi triệu khắp cả các quan đại phu.Công tử Tống hớn hở vào triều trông thấy công tử Quy Sinh.Liền cười mà bảo rằng:

– Tôi vẫn chắc rằng chúa công thế nào cũng triệu tôi.

Ðược một lúc,các quan đều đến cả.Trịnh Linh Công mời ngồi,rồi bảo các quan rằng:

– Thịt giải là một món ăn quý lạ,ta không dám ăn một mình,xin cùng với các ngươi cùng uống rượu.

Các quan cùng nói:

– Chúa công có của ngon vật lạ gì,cũng nhớ đến chúng tôi,chúng tôi biết lấy gì mà báo đền cho được.

Nhà bếp đem món thịt giải dâng lên Trịnh Linh Công trước.Trịnh Linh Công nếm mà khen ngon,rồi sai người ban cho các quan mỗi người một bát thịt giải và một đôi đủa ngà,mà đưa từ bàn dưới lên đến bàn trên.Khi đưa đến bàn nhất,bàn nhì thì chỉ có một bát thịt giải,nhà bếp bèn tâu với Linh Công rằng:

– Thịt giải hết cả rồi,chỉ còn một bát,chúa công dạy đưa cho ai?

Trịnh Linh Công nói:

-Ðưa cho Tử Gia (tức là công tử Quy Sinh).

Nhà bếp đêm bát thịt giải đưa đến trước mặt công tử Quy Sinh.Linh Công cười rầm lên mà bảo rằng:

– Ta định ban khắp cho các ngươi mà lại thiếu một mình Tử-công(tức là công tử Tống).Thế là số Tử Công không được ăn thịt giải.Ngón tay trỏ sao gọi là nghiệm được.

Nguyên Linh công cố ý truyền cho nhà bếp nấu thiếu đi một bát thịt giải đế chứng tỏ rằng ngón tay trỏ của công tử Tống không nghiệm,cốt ý gây nên một câu chuyện cười.Ai ngờ công tử Tống đã trót nói khoát với công tử Quy Sinh,ngày nay thấy các quan đều được ăn cả,mà mình không đưọc ăn,thẹn quá hóa giận,mới chạy thẳng đến trước mặt Linh công,thò ngay tay vào bát thịt giải của Linh Công,vớt lấy một miếng cầm ăn,vừa ăn vừa nói:

– tôi đã được ăn rồi,có phải ngón tay trỏ của tôi không nghiệm đâu!

Nói xong,tức khắc lui ra.Trịnh Linh công nổi giận,ném đũa xuống mà rằng:

– Công tử Tống vô lễ,dám khinh ta như vậy,hay là cho nước Trịnh không có lưỡi gươm sắc chém được đầu hắn chăng!

Bọn công tử Quy Sinh đều sụp lạy mà tâu rằng:

– Công tử cậy tình thân thuộc,muốn được thừa huệ chúa công,có phải dám vô lễ đâu,xin chúa công tha lỗi cho.

– Linh công hầm hầm tức giận.Các quan đều mất vui mà tan về cả.Công tử Quy Sinh tức khắc đến nhà công tử Tống mà bảo rằng:

– Ngày hôm nay chúa công tức giận lắm,sáng mai công tử nên vào triều xin lỗi.

Công tử Tống nói:

– Hễ mình khinh người thì người ta cũng khinh mình dẫu ai cũng vậy,nay chúa công khinh tôi trước,lại còn trách nổi gì!

Công tử Quy Sinh nói:

– Ðã đành rằng thế,nhưng theo lễ vua tôi thì công tử nên tạ mới phải.

Ngày hôm sau,hai người lại cùng vào triều.Công tử Tống cũng đứng trong bạn mình mà làm lễ,nhưng không tỏ ra hối hận sợ hải chút nào, đến nổi công tử Quy Sinh không an tâm mới tâu với Linh công rằng:

– Công tử Tống sợ chúa công quở trách,nay đến tạ tội nhưng sợ quá không nói nên lời,xin chúa công khoan dung cho.

Trịnh Linh công nói:

– Ta sợ có lỗi với Tử Cống chứ Tử Cống có sợ có lỗi với ta đâu!

Nói xong,tức thì vùng vằng đứng dậy.Khi tan triều trở về,công tử Tống mời công tử Quy Sinh đến hà mà bảo rằng:

– Chúa công giận ta lắm,thế nào cũng trị tội ta,chi bằng ta nổi loạn mà giết ngay chúa công đi,thì mới khỏi chết được.

Công tử Quy Sinh lấy tay bịt tai mà bảo công tử Tống rằng:

– Chết nổi! Giống vật mình nuôi lâu ngày,mình còn chẳng nở giết,huống chi là vua một nước,sao công tử lại nói hồ đồ như vậy !

Công tử Tống nói:

– Ta nói bỡn đó thôi,xin chớ tiết lộ cho người khác biết.

Công tử Quy Sinh cáo từ trở về.Công tử Tống dò biết công tử Quy Sinh cùng với em Trịnh Linh công là công tử Khứ Tật chơi bời thân thiết lắm,mới đặt điều nói ngay giữa triều đường rằng:

– Tử Gia (tên tự công tử Quy Sinh) cùng với Tử Lương (tên tự công tử Khứ Tật ) hai người ngày đêm bàn nhau,không biết định làm việc gì ! E rằng việc ấy rất nguy hiểm cho nước Trịnh ta !

Công tử Quy Sinh vội vàng nắm lấy tay công tử Tống dắt đến chỗ vắng người mà bảo rằng:

-Sao công tử lại nói như vậy?

Công tử Tống nói:

– Nhà ngươi không đồng mưu với ta,thế nào ta cũng khiến nhà ngươi chết trước ta một ngày !

Công tử Quy Sinh vốn người nhu nhược,không dám quyết đoán,nghe lời công tử Tống nói,sợ hãi mà hỏi rằng:

– Nhà ngươi định làm thế nào?

Công tử Tống nói

-Chúa công vô đạo,xem một việc chia thịt giải này thì đủ biết.Nếu làm xong đại sự,thì ta cùng nhà ngươi lập công tử Tử Lương (tức là công tử Khứ Tật ) lên làm vua,rồi cầu thân với Tấn mà giữ lấy nước nhà.

Công tử Quy Sinh nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp lại rằng:

– Thôi,mặc công tử muốn làm gì thì làm,ta cũng không tiết lộ cho ai biết cả.

Công tử Tống liền tụ hợp trong nhà,nhân khi Linh công đi làm lễ thu tế,bèn đem nhiều tiền bạc đút lót cho thị vệ,nửa đêm lẻn vào chỗ vua ngủ ở trai cung,lấy cái bị đất đè lên mình mà giết đi rồi nói dối là Linh công bị bệnh trúng áp.Công tử Quy Sinh biết việc ấy mà không dám nói ra.Ngày hôm sau,công tử Quy Sinh và công tử Tống bàn nhau lập công tử Khứ Tật lên làm vua.Công tử Khứ Tật kinh sợ,từ chối rằng:

– Tiên quân ta có tám người con.Nếu định lập người hiền,thì tôi không có tài đức gì cả,mà định lập người nhiều tuổi thì đã có công tử Kiên.Tôi dầu chết thì thôi,chứ không dám quá phận như vậy!

Bấy giờ công tử Quy Sinh và công tử Tống mới lập công tử Kiên lên làm vua,tức là Trịnh Tướng công.Nguyên Trịnh Mục Công thuở xưa,cả thảy có mười ba người con.Trịnh Linh công bị giết,Trịnh Tướng công nối ngôi làm vua.Còn mười một người con nữa là: 1.Công tử KHứ Tật,tên tự là Tử Lương;2.Công tử Hỷ,tên tự là Tử Hán;3.Công tử Phi,tên tự là Tử Tứ;4.Công tử Phát,tên tự là Tử Quốc;5.Công tử Gia,tên tự là Tử Khổng;6.Công tử Yến,tên tự là công tử Du;7.Công tử Phú,tên tự là Tử Ấn;8.Côn gtử Phong;9.Công tử Vũ;10.Công tử Nhiên;11.Công tử Chí.

Trịnh Linh công ghét các em hay bè phái,chỉ sợ ngày sau sinh biến,mới bàn riêng với công tử Khứ Tật, định để một mình Khứ Tật ở nhà,còn thì đuổi hết các em đi sang các nước khác.Công tử Khứ Tật nói:

– Tiên quân ta thuở xưa,lúc mới sinh ra,có ứng vào cái mộng cành lan, đó là điềm họ ta sẽ được hưng thịnh.Anh em trong một nhà cũng ví như cái cây có cành,có lá,nếu đem cắt bỏ cành lá đi mà để cho gốc rễ trơ trọi thì chắc cái cây ấy chẳng bao lâu cũng đến khô héo.Nay chúa công bao dung được các em thì thôi,nhược bằng không bao dung được mà phải đuổi đi thì tôi cũng xin đi,chớ nỡ đâu một mình ở lại,mai sau còn mặt mũi nào trông thấy tiên quân ở dưới suối vàng nữa.

Trịnh Linh công nghe nói cảm động,mới cho cả mười một người em đều ở lại làm quan đại phu,cùng cầm quyền chính.Công tử Tống sai sứ giao kết với nước Tấn, để nhờ che chở cho nước Trịnh.Năm sau,Sở Trang vương sai công tử Anh Tề làm tướng, đem quân sang đánh Trịnh,và hỏi nước Trịnh rằng:

– Sao nước Trịnh dám giết vua?

Nước Tấn sai Tuần Lâm Phủ đem quân sang cứu Trịnh.Nước Sở mới rút quân về đánh nước Trần.

Năm thứ ba đời Chu Ðịnh vương,quan thượng khanh nuớc Tấn là Triệu Thuẩn mất,Khướt Khuyết thay làm trung quân nguyên soái nghe nói nước Trần cùng với nước Sở giảng hòa,liền tâu với Tấn Thành công,sai Tuân Lâm Phủ theo Tấn Thành công, đem quân bốn nước Tống,Vệ Trịnh,Tào,kéo sang đánh nước Trần.Tấn Thành công đi đến nữa đường thì bị bệnh mà chết.Tuân Lâm Phủ liền rút quân về,rồi lập thế tử Nho lân làm vua,tức là Tấn Cảnh Công.Năm ấy Sở Trang vương đánh Trịnh, đóng quân ở đất Liễu Phân(đất nước Trịnh).Khướt Khuyết đem quân sang cứu Trịnh,lẻn đánh quân Sở.Quân Sở bị thua,người nước Trịnh ai cũng mừng rỡ,chỉ có một mình công tử Khứ Tật là sắc mặt lo âu.Trịnh tướng công lấy làm lạ,liền hỏi.Công tử Khứ Tật nói:

– Nước Tấn đánh được quân Sở,chẳng qua là gặp may mà thôi.Tôi chỉ sợ quân Sở căm tức mà lại sang đánh Trịnh, đóng quân ở phía Bắc sông Ðĩnh Thủy.Gặp bấy giờ công tử Quy Sinh bị bệnh chết,công tử Khứ Tật mới truy cứu cái tội nếm thịt giải khi trước,mà giết công tử Tống, đem phanh thây ở trong triều,lại đẽo áo quan của công tử Quy Sinh và đuổi gia quyến đi nơi khác,rồi sai sứ sang tạ tội với Sở Trang vương rằng:

– Nước tôi có kẻ phản nghịch là công tử Quy Sinh và công tử Tống,nay đã trị tội cả rồi,vậy chúa công tôi xin theo vua Trần cùng sang ăn thề mà qui phụ thượng quốc.

Sở Trang vương thuận cho, định họp vua Trần và vua Trịnh cùng ăn thề ở đất Thần lăng,bèn sai sứ sang ước hẹn với vua Trần.Sứ giả ở nước Trần về,nói rằng vua TRần bị quan đại phu là Hạ Trung Thư giết chết,trong nước đại loạn.Nguyên Trần Linh công là con Trần Cung công vốn người lẳng lơ biếng nhác,không có uy nghi gì cả,lại ham mê tửu sắc,chẳng thiết gì đến chính sự,tin dùng hai quan đại phu là Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ.Hai người ấy đều một phường tửu sắc,bởi vậy vua tôi ý hợp tâm đầu,nói cười đùa bỡn,rất là chớt nhã,không còn e lệ gì nữa!

Bấy giờ trong triều có một người hiền thần là Tiết Giả,trung thực dám nói thẳng,Trần Linh công vẫn có ý nễ sợ.Lại có quan đại phu là Hạ Ngự Thúc?Nguyên người cha Hạ Ngự Thúc là công tử Thiếu Tây (con Trần Ðịnh công ),tên tự là Tử Hạ,bởi vậy Ngự Thúc dùng chữ Hạ làm họ,gọi là Hạ Ngự Thúc,vẫn nối đời làm quan tư mã nước Trần, ăn lộc ở đất Châu Lâm.Hạ Ngự Thúc lấy con gái TRịnh Mục công làm vợ,gọi là nàng Hạ Cơ,mắt phượng mày ngài,môi son má phấn,dáng dấp đã chẳng kém gì Ly Cơ,Tức Vi,lẳng lơ lại có phần hơn Ðắc Kỷ,Văn Khương,ai trông thấy cũng phải tâm thần mê mẫn.Hạ Cơ lại còn một câu chuyện ly kỳ nữa là: Năm mới mười lăm tuổi,nằm mộng thấy một chàng đẹp trai,mũ ngọc áo lông,tự xưng là thượng giới thiên tiên,cùng với Hạ Cơ giao hợp,rồi dạy Hạ Cơ những phép hấp tinh đạo khí, để thỏa thích lòng người trong khi giao tiếp.

Khi Hạ Cơ chưa lấy chồng, đã tư thông với anh là công tử Man (thứ huynh của Trịnh Linh công ),chưa được ba năm thì công tử Man ốm quặt quẹo rồi chết non,sau lấy Hạ Ngự Thúc,sinh được một người con trai tên gọi là Hạ Trưng Thư.Hạ Trưng Thư tên tự là Tử Nam,năm mười hai tuổi thì cha là Hạ Ngự Thúc ốm chết.Hạ Cơ thường có ngoại tình,mới để Hạ Trưng Thư ở trong thành theo thầy học tập,còn mình thì về ở đất Châu Lâm.Khổng Ninh và Nghi Hàng phủ nguyên trước là bạn đồng liêu với Hạ Ngự Thúc,trong thấy Hạ Cơ đẹp,vẫn có ý nom dòm.Hạ Cơ có một con thị nữ tên gọi là Hà Hoa là người rất tinh quái,vốn đã hiểu biết tính chủ.Một hôm Khổng Ninh cùng với Hạ Trưng Thư đi săn,nhân tiện đến Châu Lâm,rồi ở chơi ngủ lại ở đấy,Khổng Ninh chịu phí tâm cơ,mật kết cùng Hà Hoa,tặng một cành trâm và nhờ nói hộ với chủ,bởi thế mới cùng Hạ Cơ tư thông.

Khổng Ninh lại lấy trộm cái quần trong bằng gấm của Hạ Cơ đem ra khoe với Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cũng thèm thuồng,mới đem tiền của bàn mưu với Hà Hoa, để nhờ tiến dẫn hộ.Hạ Cơ xưa nay trông thấy Nghi Hàng Phủ là người vóc dạc cao lớn,mặt mũi phương phi,cũng đã có lòng thích,mới bảo Hà Hoa mời đến.Nghi Hàng Phủ khéo làm cho Hạ Cơ được bằng lòng,bởi vậy được Hạ Cơ yêu hơn Khổng Ninh.Nghi Hàng Phủ bảo Hạ Cơ rằng:

– Ngày trước quý nương có cho Khổng Ninh một cái quần gấm,nay đã có lòng yêu tôi,cũng nên cho tôi cái gì để kỷ niệm.

Hạ Cơ cười mà bảo rằng:

– Cái quần gấm ấy là hắn lấy trộm của thiếp,chứ không phải thiếp tặng cho đâu.

Hạ Cơ lại ghé tai bảo nhỏ Nghi Hàng Phủ rằng:

– Dẫu nằm cùng giường với nhau,nhưng cũng có kẻ hậu người bạc chứ!

Nói xong,liền cởi cái áo cánh bằng lụa đưa tặng Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ bằng lòng lắm,từ bấy giờ hai người lại càng thân mật,còn Khổng Ninh thì mỗi ngày Hạ Cơ một nhạt dần.Vì Khổng Ninh khi trước có đem cái quần gấm của Hạ Cơ khoe khoang với Nghi Hàng Phủ,sau Hàng Phủ được cái áo cánh của Hạ Cơ,lại đem khoe với KHổng Ninh.KHổng Ninh hỏi chuyện Hà Hoa,biết là Nghi Hàng PHủ cùng với Hạ Cơ thân mật lam,mới sinh lòng ghen ghét định tìm kế để phá.Khổng Ninh nghĩ thầm rằng:

– Chúa công cũng là người dâm dục,nghe đồn Hạ Cơ đẹp,vẫn có lòng mơ ước, đã nhiều lần nói đến,chỉ tiếc rằng cờ chẳng đến tay,chi bằng ta dắt chúa công đến,tất nhiên chúa công phải ơn ta.Vả chúa công có bệnh hôi nách,chắc là Hạ Cơ cũng không ưa,bấy giờ ta thừa cơ mà hưởng chung cuộc vui thú,khiến Nghi Hàng Phủ phải nhạt bớt đi một vài phần,cho thỏa tấm lòng căm tức của ta, ấy chính là diệu kế đó!

KHổng Ninh bèn lẻn vào yết kiến Trần Linh công,nhân khi đàm luận,nói đến chuyện Hạ Cơ là người đẹp,thiên Hạ không ai bằng.Linh công nói:

– Ta cũng nghe đồn từ lâu,nhưng năm nay chắc nàng đã gần bốn mươi tuổi,e rằng hoa đắc tháng ba,còn gì là xuân nữa!

Khổng Ninh nói:

– Hạ Cơ khéo giữ nhan sắc lắm,năm nay vẫn còn như con gái mười lăm tuổi,và am hiểu cái thuật trong phòng,giao tiếp rất thần diệu.

Linh công bấy giờ lửa dục nổi lên ngùn ngụt,sắc mặt đỏ bừng,bảo Khổng Ninh rằng:

– Nhà ngươi có kế gì khiến cho ta được đi lại với Hạ Cơ thì ta không dám quên ơn.

Khổng Ninh nói:

– Hạ Cơ nhà ở Châu Lâm.Chỗ ấy nhiều cây cối,phong cảnh rất đẹp,sáng mai chúa công giả cách ra chơi Châu Lâm,tât thế nào Hạ Cơ cũng phải nghênh tiếp.Hạ Cơ có một con thị nữ,tên gọi Hà Hoa,cũng khá thông thạo việc tình,dẻ tôi xin đem ý chúa công bảo nó khéo nói với Hạ Cơ,chắc thế nào cũng xong chuyện.

Linh công cười mà bảo rằng:

-Việc này ta tin cậy ngươi đó!

Ngày hôm sau,Trần Linh công truyền thẳng ngựa xe ra chơi Châu Lâm,cho quan đại phu là Khổng Ninh đi theo.Khổng Ninh sai người đưa tin trước cho Hạ Cơ để sửa tiệc sẵn,lại tỏ ý cho con Hà Hoa biết,bảo nó nói với Hạ Cơ.Linh công đến Châu Lâm.Hạ Cơ mặc lễ phục ra rước vào trong nhà rồi sụp lạy mà tâu rằng:

– Con trai thiếp là Hạ Trưng Thư đi trọ học vắng nhà,không biết chúa công tới đây,vậy nên không kịp nghêng tiếp,xin chúa công tha lỗi.

Giọng nói thỏ thẻ như tiếng chim oanh,nghe rất êm tai ! Linh công thấy Hạ Cơ nhan sắc chẳng khác gì một vị thiên tiên,bọn phi tần trong cung ít ai bì kịp,mới bảo Hạ Cơ rằng :

– Thôi ta miễn lễ cho quý nương,ta nghe nói quý nương ở đây có cái vườn hoa đẹp,vậy ta muốn vào xem một chút.Hạ Cơ nói:

– Từ khi phu quân tạ thế đi rồi,cái vườn này bỏ hoang,không ai quét dọn,thiếp xin cáo tội trước với chúa công.

Hạ Cơ ứng đối rất lưu loát.Trần Linh công càng thêm có lòng yêu mến,truyền cho Hạ Cơ cởi bỏ lễ phục ra, để đưa vào ngoạn cảnh ở vườn hoa.Hạ Cơ bỏ lễ phục ra,bên trong lại mặc có một bộ quần áo thường rất nhã đạm,trông khác nào như đóa hoa lê ở dưới bóng trăng,chùm mai nhị ở trong đám tuyết, ưa nhìn biết nhường nào ! Hạ Cơ đưa Linh công vào chốn hậu viên.Vườn dẫu chẳng lấy gì làm rộng lắm,nhưng có đủ hoa tươi lá lạ,cây đẹp cỏ thơm,một dòng nước chảy quanh,mấy gian nhà thủy tạ,khoảng giữa lại có hiên cao,tức là chỗ yến khách,hai đầu có hai dãy nhà,lối đi thông vào nội tẩm.Phía trong nữa có một chuồng ngựa,còn về phía tây vườn có một chỗ đất bỏ không, để làm chỗ tập bắn.

Linh công còn đang ngoạn cảnh thì trong hiên đã bày một bàn tiệc thịnh soạn.Hạ Cơ bưng chén rượu đứng mời?Trần Linh công cho ngồi hầu ở bên cạnh.Hạ Cơ khiêm nhượng không dám vào ngồi.Linh công nói :

– Có lẽ nào chủ nhân lại không ngồi! Thôi thì hôm nay ta hãy miễn lễ vua tôi cho,cứ ngồi lại uống rượu cho vui.

Linh công truyền cho Khổng Ninh ngồi bên hữu,Hạ Cơ ngồi bên tả.Trong khi uống rượu,Linh công cứ nhìn Hạ Cơ chòng chọc,mắt không hề chớp.Hạ Cơ cũng liếc mắt đưa tình.Linh công nhân lúc tửu hứng,lại càng si tình.Khổng Ninh ở bên cạnh tán tụng thêm vào,làm cho Linh công tấm lòng phơi phới,rượu uống vào mãi mà không thấy nhiều ! Mặt trời đã lặn về tây,người nhà thắp nến,lại uống một chập nữa,Linh công say quá,nằm gục xuống đấy mà ngủ,tiếng ngáy khè khè.Khổng Ninh bảo riêng với Hạ Cơ rằng:

– Chúa công hâm mộ nhan sắc của quí nương,ngày nay tới đây,tìm cuộc truy hoan,quý nương chớ nên trái ý.

Hạ Cơ mĩm cười,không nói gì cả.Khổng Ninh tức khắc truyền cho quân sĩ đều ra ngoài yên nghỉ.Hạ Cơ sửa soạn gối thêu mền gấm,lại tắm gội sạch sẽ để chờ khi vua ngự.Bấy giờ chỉ để có thị nữ Hà Hoa đứng hầu ở cạnh Linh công. Ðược một lúc,Linh công tỉnh rượu,mở mắt nhìn,trông thấy Hà Hoa,liền hỏi:

– Ai đấy ?

Hà Hoa quỳ xuống mà tâu rằng:

– Tiện tì tên gọi Hà Hoa,phụng mệnh chủ mẫu cho ra đây hầu hạ chúa công.

Nói xong,liền dâng một chén nước mai thang để giã rượu.

Trần Linh công hỏi:

– Nước mai thang này,ai nấu mà khéo nhĩ?

Hà Hoa nói:

– Tâu chúa công,nước mai thang là do tiện tì nấu.

Trần Linh công nói:

– Nhà ngươi biết nấu mai thang,vậy thì nhà ngươi biết làm mối cho ta không?

Hà Hoa giả cách không hiểu mà đáp rằng:

– Tiện tì đây không quen làm mối,nhưng cũng xin hết lòng,chẳng hay chúa công để ý đến người nào?

Trần Linh công nói:

– Ta vì chủ mẫu nhà ngươi mà ruột gan rối loạn.Nếu nhà ngươi giúp ta được thì ta sẽ trọng thưởng.

Hà Hoa nói :

– Chủ mẫu tôi phận hèn,sợ không đáng hầu quý nhân,nếu chúa công có lòng nghĩ đến thì tiện tì xin đưa vào.Linh công mừng lắm,sai Hà Hoa cầm đèn lồng để dẫn lối. Ðường đi khuất khúc,rối vào đến phòng ngủ của Hạ Cơ.Hạ Cơ đang ngồi một mình ở dưới bóng đèn ngẩn ngơ chờ đợi,bổng nghe tiếng giầy,toan hỏi xem ai thì Linh công đã bước vào đến trong cửa.Hà Hoa cầm đèn quay ra.Linh công không nói năng gì, ẫm Hạ Cơ vào màn cùng nằm.Trong khi ân ái thấy chẳng khác gì gái tơ,Linh công lấy làm lạ,liền hỏi.Hạ Cơ nói:

– Thiếp có phép nội thị,sau khi sanh đẻ cũng chẳng qua chỉ ba ngày thì đã lại nguyên cũ.Linh công khen rằng:

– Ta được gặp quý nương,chẳng khác gì được gặp thiên tiên.

Sức Linh công, đã không bằng Khổng Ninh và Nghi Hàng Phú,hơi hám lại không được thơm tho,chỉ vì là ông vua một nước,nên Hạ Cơ cũng ham lợi mà không quản ngại,chiều chuộng đủ điều trong khi cùng giường cùng gối.Linh công thấy vậy,cho là một sự gặp gỡ ít có gần đến gà gáy,Hạ Cơ giục Linh công trở dậy.Linh công nói:

– Ngày nay ta được gần gụi ái khanh,nghĩ lại bọng phi tần,không khác gì đất bùn chẳng hay ái khanh có nghĩ đến ta chút nào không?

Hạ Cơ ngờ Linh công đã biết việc Khổng Ninh và Nghi hàng Phủ đi lại với mình,mới nói với Linh công rằng:

– Xin nói tình thực với chúa công,từ khi phu nhân thiếp tạ thế đi rồi,thiếp không tự chế được mình,cũng có đi lại với người khác,nay đã được hầu hạ chúa công thì từ bây giờ trở đi,thiếp không dám tiếp ai nữa !

Linh công nói:

– Ái khanh xưa nay giao tiếp những ai,nên kể thực cho ta biết,can chi mà phải giấu diếm?

Hạ Cơ nói:

– Hai quân đại phu là khổng Ninh và Nghi Hàng phủ vì cớ đi lại trông nom đứa con nhỏ của thiếp,thành ra có cùng thiếp dan díu,ngoài ra không có một ai.

Linh công cười mà bảo rằng:

– Thảo nào mà Khổng Ninh cứ khen cái tài tiếp của ái khanh.Nếu chưa trải qua sao có biết được !

Hạ Cơ nói:

– Tiện thiếp biết tội đã nhiều,xin chúa công thứ cho.

Linh công nói:

– Khổng Ninh có cái công tiến dẫn ái khanh,ta còn nhớ ơn, ái khanh chớ ngại.Ta chỉ ước ao được cùng ái khanh đi lại lâu dài,còn thì mặc ái khanh,ta chẳng cấm làm gì!

Hạ Cơ nói:

– Chúa công cứ thường thường đi lại thì có khó gì chẳng được lâu dài với nhau.

Linh công trở dậy.Hạ Cơ cởi cái áo lót mình,mặc vào cho Trần Linh công mà nói rằng:

– Mỗi lúc chúa công trông thấy cái áo này cũng như trông thấy tiện thiếp.

Hà Hoa lại cầm đèn lồng đưa Linh công theo lối cũ ra ngoài hiên.Sáng hôm sau,Hạ Cơ mời Linh công lên nhà trên để ngự cơm sáng.Cơm xong.Khổng Ninh lại theo Linh công về triều.Các quan đều hợp cả ở triều môn chờ đợi.Linh công truyền cho miễn triều,rồi đi thẳng vào trong cung.Nghi Hàng Phủ nắm lấy áo Khổng Ninh,cố hỏi xem tối hôm trước Linh công ngủ ở đâu.Khổng Ninh không thể giấu được ,mới phải nói thật cả.

Nghi Hàng Phủ biết là Khổng Ninh tiến dẫn,mới giẫm chân xuống đất mà gắt rằng:

– Món tốt như thế ,sao lại nhường cho người ta hưởng một mình !

Khổng Ninh nói:

– Chúa công lấy làm đắc ý lắm ! Lần sai thì đến phần nhà ngươi,có gì mà lo !

Hai người cười sằng sặc rồi trở về.Ngày hôm sau,Linh công ra triều, đợi lúc quan đã tan về cả,mới gọi Khổng Ninh đến trước mặt mà tạ ơn tiến dẫn Hạ Cơ,lại gọi Nghi Hàng Phủ vào mà hỏi rằng:

– Có ái thú như thế mà không tâu với ta,hai người lại hưởng trước là nghĩa làm sao?

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đồng thanh tâu rằng:

– Thần đằng quả không gì cả !

Linh công nói:

– Chính Hạ Cơ đã thú với ta như vậy,các người lại còn giấu diếm làm gì!

Khổng Ninh nói:

– Thí dụ như một món ăn,bày tôi phải nếm trước,nếu nếm mà không thấy ngon thì không dám tiến dâng.

Linh công cười mà bảo rằng:

– Thí dụ như món chân gấu (là món ăn ngon nhất trong các món ăn của Trung quốc) thì nhường cho ta ăn trước cũng được chứ sao !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đều bưng miệng cười,Linh công lại nói:

– Ta cùng hai người dẫu đều đều đi lại với nàng,nhưng riêng với ta,nàng có tặng một vật để làm kỷ niệm.

Nói xong,liền vạch cái áo lót mình cho Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ xem mà bảo rằng:

– Mỹ nhân cho ta đấy,hai người có được không ?

Khổng Ninh nói

– Tôi cũng có !

Linh công hỏi :

– Nàng tặng nhà ngươi cái gì ?

Khổng Ninh vén áo, để lộ cái quán gấm,rồi nói với Linh công rằng:

– Hạ Cơ tặng cho tôi đấy ! Chẳng những tôi có,Nghi Hàng phủ cũng có.

Linh công lại hỏi Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cởi cái áo cánh lụa đưa trình Linh công.Linh công bật cười mà nói rằng:

– Ba ta người nào cũng đều có một vật tùy thân để làm tang chứng,ngày khác đi ra Châu Lâm,có thể cùng nhau mỡ đại hội “liên sàng” được đấy !

Một vua và hai bày tôi, đùa bỡn nhau ở chốn triều đường,tiếng đồn đến ngoài,làm cho một vi trung thần nghiến răng nghiến lợi mà kêu rằng:

– Triều đình là chỗ phép tắc kỷ cương mà nhảm nhí như vậy thì cơ mất nước đến nơi rồi !

Nói xong,liền đi thẳng vào triều để đem lời can ngăn.

Chương 53: Sở Trang Vương trả lại đất Trần – Tấn Cảnh Công đem quân đánh Trịnh

Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đem những đồ vật của Hạ Cơ tặng cho, đùa bởn với nhau ở chốn triều đường.Quan đại phu là tiết gia nghe nói, liền vào triều để định can Linh công.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vốn sợ Tiết Giã là người chính trực, nay thấy vua không triệu mà Tiết Giã đến, biết là Tiết Giã có ý muốn đem lời can ngăn, mới cáo từ Linh công mà lui ra.Linh công rảo đến trước mặt, nắm lấy vạt áo Linh công, rồi quỳ xuống mà tâu rằng:

– Tôi nghe nói vua tôi phải lễ nghĩa, nam nữ phải có phân biệt, nay vua tôi dắt nhau đi dâm loạn, lại đem chuyện ấy khoe khoang ở chốn triều đường, không còn một mãy may liêm sỉ nào cả. Ðó là cái cơ mất nước, xin chúa công hãy nghĩ lại.

Trần Linh công thẹn toát mồ hôi ra, lấy áo che mặt mà nói rằng:

– Nhà ngươi bất tất phải nói lắm, ta đã biết hối rồi !

Tiết Giã cáo từ lui ra.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đứng ở ngoài cửa, trong thấy Tiết Giã hầm hầm nổi giận mà lui ra, thì lẩn vào trong đám đông người để tránh.Tiết Giã trông thấy, gọi Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại mà trách rằng:

– Vua có điều thiện , bề tôi nên bày ra, vua có điều bất thiện, bề tôi nên dấu đi.Nay hai người đã xui vua làm điều bất thiện, mà lại còn nói ra, nhân dân ai cũng biết cả, thì còn ra thể thống gì, sao hai ngươi không biết xấu hổ !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ không biết nói sao, chỉ vâng dạ và chịu lỗi.Tiết Giã đi khỏi, Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vào yết kiến Linh công, thuật lại những lời nói của Tiết Giã và tâu với Linh công rằng:

– Từ nay trở đi, chúa công chớ đi chơi Châu Lâm nữa !

Linh công nói:

– Vậy thì hai người có đi hay không?

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nói:

– Tiết Giã chỉ cốt can chúa công, chứ có việc gì đến chúng tôi.Vậy thì chúng tôi đi được, mà chúa công không nên đi.

Linh công hăng hái nói rằng:

– Thà rằng ta mất lòng Tiết Giã, chứ đời nào lại chịu bỏ nơi vui thú ấy !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại tâu rằng:

– Nếu chúa công lại đi nữa thì không khỏi Tiết Giã làm rầy rà lôi thôi, biết làm thế nào?

Linh công nói:

– Hai người có kế gì mà khiến Tiết Giã đừng nói nữa không?

Khổng Ninh nói:

– Nếu muốn cho Tiết Giã đừng nói thì chỉ có một cách khiến hắn không mở miệng ra được.

Linh công cười mà nói rằng:

– Hắn có miệng thì hắn nói, ta dùnh cách gì mà khiến cho hắn không mở miệng ra được.

Nghi Hàng Phủ nói:

– Tôi hiểu câu nói của Khổng Ninh rồi ! Người ta chết thì không mở miệng ra được, sao chúa công không hạ lệnh giết chết Tiết Giã đi thì có phải được vui thú suốt đời hay không?

Linh công nói:

– Ta giết hắn thế nào được?

Khổng Ninh nói:

– Hay là dể tôi sai một người rình mà đâm chết hắn đi !

Linh công nói:

– Nhà ngươi cứ làm !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ cáo tự lui ra, rồi bàn nhau đem tiền của thuê thích kháchđứng rình ở một chỗ hẻo lánh đợi Tiết Giã vào triều đi qua, giết chết Tiết Giã.Người nước Trần thấy vậy, cho là Trần Linh công sai người giết, chứ không biết rằng đó là âm mưu của Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ.Tiết Giã chết rồi, vua tôi lại càng không kiêng nễ gì nữa, lâu lâu lại rủ nhau ra chơi Châu Lâm.Trưóc còn giấu giếm, sau lâu ngày quen thói, công nhiên ra chơi chẳng nghĩ gì đến tai tiếng nữa.Người nước Trần có làm một bài thơ “Châu Lâm” để chê Linh công.Hạ Trưng Thư dần dần khôn lớn, biết chuyện mẹ như vậy, trong lòng khác nào dao đâm, nhưng ngại vì có Trần Linh công, không làm thế nào được.Mỗi khi Linh công sắp ra Châu Lâm thì Trưng Thư tạo sự đi vắng, để cho khuất mắt, còn bọn trai gái dâm loạn ấy thấy Hạ Trưng Thư đi vắng thì lấy làm mừng.

Ngày tháng thoi đưa, Hạ Trưng Thư đã mười tám tuổi, cao lớn đẹp đẽ, có sức khỏe, lại giỏi nghề bắn cung.Linh công muốn lấy lòng Hạ Cơ;mới cho Trưng Thư nối chức của cha làm quan tư mã, coi giữ binh quyền.Trưng Thư tạ ơn, rồi vào bái yết Hạ Cơ.Hạ Cơ dặn rằng:

– Ðấy là ân điền của chúa công, con nên một lòng vì nước, chớ nghĩ gì đến việc nhà.

Trưng Thư từ biệt Hạ Cơ vào triều cung chức.Một hôm, Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại ra chơi Châu Lâm.Hạ Trưng Thư cảm ơn vua cho được làm tư mã, về nhà bày tiệc để thết đãi.Hạ Cơ vì có con ở đấy, không dám ra hầu rượu.Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trong khi say rượu, cười nói đùa bỡn, múa tay hoa chân.Hạ Trưng Thư trông thấy ghét lắm mới lui vào sau bình phong để nghe xem nào thế nào.Trần Linh công bảo Nghi Hàng Phủ rằng:

– Hạ Trưng Thư cao lớn đẹp đẻ lắm, trông giống nhà ngươi lắm, hay là con rơi của nhà ngươi đấy?

Nghi Hàng Phủ cười mà nói rằng:

– Hạ Trưng Thư hai mắt lau láu, rất giống chúa công.

Khổng Ninh ở bên cạnh nói bông rằng:

– Chúa công và Nghi Hàng Phủ hãy còn ít tuổi, sinh thế nào được hắn, tôi chắc hắn có nhiều bố lắm, dẫu mẹ hắn cũng không nhớ được hắn là con ai nữa !

Nói xong, ba người lại vỗ tay cười ầm lên.Hạ Trưng Thư nghe nói, hổ thẹn vô cùng, tức thì hầm hầm nổi giận, vào khóa chặt cửa phòng của Hạ Cơ lại, rồi lẻn qua cửa ngang ra ngoài, truyền cho quân sĩ vây kín xung quanh phủ, không được để cho Linh công cùng KHổng Ninh và Nghi Hàng Phủ chạy thoát.

Quân sĩ vâng lệnh, vây kín quanh phủ.Hạ Trưng Thư mình mặc nhung phục tay cầm bảo kiếm, đem một toán quân tiến vào cửa giữa, quát to lên rằng:

– Mau mau bắt lũ dâm tặc !

Linh công đang cười nói khề khà, chẳng biết tí gì cả.Khổng Ninh nghe tiếng, vội vàng nói với Linh công rằng:

– Nguy cấp lắm rồi!

Hạ Trưng Thư đánh lừa ta rồi !Nay hắn đem quân vào, kêu bắt dâm tặc, ta biết chạy đường nào cho thoát?

Nghi Hàng Phủ nói:

– Cửa trước nó đã vây kín thì ta chạy về cửa sau.

Ba người xưa nay ở nhà Hạ Cơ đã thông thuộc cả đường lối, Linh công định chạy vào phòng Hạ Cơ, dể cầu Hạ Cơ cứu cho.Chẳng ngờ khi vào đến nơi, thấy cửa phòng đã khóa chặt, lại càng sợ hãi, liền chạy ra sau vườn.Trưng Thư cầm kiếm đuổi theo.Linh công nhớ rằng ở bên chuồng ngựa, có cái tường thấp, có thể nhảy qua được, mới chạy về phía chuồng ngực.Trưng Thư quát to lên rằng:

– Ðứa hôn quân kia, mày chạy đường nào cho thoát !

Trưng Thư giương cung bắn ngay một phát, nhưng không trúng.Linh công chạy vào chuồng ngựa, toan tìm chỗ ẩn thân, chẳng may bị đàn ngựa cắn đá, vội vàng lui ra.Trưng Thư đuổi kịp, lại bắn thêm một phát nữa, trúng vào giữa bụng, Trần Linh công chết ở cạnh chuồng ngựa.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trông thấy Linh công chạy về phía đông, biết là Hạ Trưng Thư tất nhiên đuổi theo, mới quay về phía Tây chạy vào trường tập bắn, tìm chỗ rào thủng chui ra được, không dám về nhà nữa, rủ nhau trốn sang nước Sở.Hạ Trưng Thư bắn chết Trần Linh công, rồi kéo quân vào thành, nói dối là Linh công say rượu ngộ cảm mà chết, lập thế tử Ngọ lên nối ngôi, tức là Trần Thành công.Trần Thành cọng trong lòng căm tức Hạ Trưng Thư, nhưng sức không làm gì nổi, nên phải ẩn nhẩn không dám nói ra.Hạ Trưng Thư cũng sợ chư hầu đem quân đến hỏi tội mình, mới cố ép Trần Thành công phải sanh chầu nước Tấn, để vững chỗ dựa.

Lại nói chuyện sứ nước Sở phụng mệnh Sở Trang vương sang hẹn Trần Linh công đến hội ở đất Thần Lăng, khi sang chưa đến nước Trần, nghe tin có bạn, mới quay trở về, lại vừa gặp Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trốn sang nước Sở, vào yết kiến Sở Trang Vương, giấu kín những chuyện vua tôi dâm loạn, chỉ nói việc Hạ Trưng Thư làm phản, giết Trần Linh công, cũng giống như sứ nước Sở về báo khi trước.Sở Trang vương mới hợp triều thần để thương nghị.Bấy giờ nước Sở có quan đại phu tên gọi là Khuất Vu , tên tự là Tử Linh (con Khuất Ðăng ).Khuất Vu mặt mày thanh tú, văn vũ toàn tài, chỉ phải cái bệnh hiếu sắc, vẫn chuyên học phòng trung bí thuật của Bành tổ, mấy năm trước sang sứ nước Trần, gặp Hạ Cơ đi chơi được thấy nhan sắc, lại nghe đồn nghề chơi tuyệt diệu, thì trong lòng ước ao lắm. ÐẾn lúc nghe nói Hạ Trưng Thư làm phản, KHuất Vu muốn nhân việc ấy để mà sang lấy Hạ Cơ, mới cố khuyên Sở Trang vương đem quân sang đánh Trần.Quan lệnh doãn là Tôn THúc Ngao cũng nói nên đánh.

Sở Trang Vương mới đưa một đạo hịch sang nước Trần, nói rằng: “Hiếu thị cho nhân dân nước Trần biết, Hạ Trưng Thư có tội giết vua, trên thần dưới người đều tức giận cả, nước Trần không đánh được, vậy ta phải yên lặng, không được náo động”

Người nước Trần đọc hịch, ai cũng đổ lỗi cho Hạ Trưng Thư, muốn nhờ tay nước Sở giết đi, cho nên không muốn chống cự quân Sở.Sở Trang vương củng với các tướng là công tử Anh Tề, công tử Trắc và Khuất Vu đem đại binh kéo thẳng đến kinh thành nước Trần, chẳng có ai chống cự lại cả.Hạ Trưng Thư biết là người trogn nước oán mình, bèn trốn ra Châu Lâm.Bấy giờ Trần Thành Công còn đang ở nước Tấn chưa vềnquan đại phu là Viên Pha (cháu bốn đời Viên Ðào Ðề )cùng với triều thần thương nghị rằng:

– Vua nước Sở đem quân sang đây, chỉ cốt để trị tội Hạ Trưng Thư, chi bằng ta bắt gặp Hạ Trưng Thư đem nộp vua Sở rồi xin giảng hòa.

Triều thần đều lấy làm phải.Viên Pha liền sai con là Kiều Như đem quân tới Châu Lâm để bắt Hạ Trưng Thư?Kiều Như chưa kịp đi thì quân nước Sở đã kéo đến dưới chân thành .Nước Trần lâu nay, chính lệnh không ra gì, và Trần Thành công đi vắng, không ai làm chủ, dân nước Trần mới mở cửa thành cho quân Sở vào.Sở Trang vương kéo quân vào hỏi bọn Viên Pha rằng:

– Hạ Trưng Thư ở đâu?

Viên Pha nói:

– Hiện nay ở Châu Lâm.

Sở Trang vương lại hỏi:

– Sao các quan nước Trần lại dung túng cho Hạ Trưng Thư mà không trị tội?

Viên Pha nói:

– Không phải là chúng tôi không muốn trị tội, nhưng thế không làm gì nổi.

Sở Trang vương liền sai Viên Pha đi dẫn đường rồi đem đại phu tiến sang Châu Lâm, để công tử Anh Tề đóng một toán quân ở trong thành.Hạ Trưng Thư đang thu nhập gia tài, địng đem mẹ là Hạ Cơ trốn sang nước Trịnh, nhưng chưa kịp thì quân Sở vây kín Châu Lâm, bắt được Hạ Trưng Thư.Sở Trang vương không thấy Hạ Cơ đâu cả, sai tướng sĩ sục tìm thì bắt được ở sau vườn, còn Hà Hoa không biết trốn đi đâu mất.Hạ Cơ sụp lạy trước mặt.Sở Trang vương mà tâu rằng:

– Thiếp chẳng may gap lúc nước nhà biến loạn, phận liễu bồ sống chết ở trong tay đại vương, nếu đại vương rủ lòng thương, thì xin cho thiếp được sung vào làm kẻ thị tì phục dịch.

Hạ Cơ nhan sắc đã diễm lệ, lời nói lại trang nhã rạch ròi, Sở Trang vương thấy vậy tâm thần mê mẩn, bảo các tướng rằng:

– Phi Tần nước Sở ta dẫu nhiều, nhưng được như Hạ Cơ thì rất ít, ý ta muốn đem về cung, các người nghĩ thế nào?

Khuất Vu can rằng:

– Ðại vương đem quân sang đây là cốt để trị kẻ có tội, nếu lấy Hạ Cơ thì hoá ra một người tham sắc, sao gọi là bá chủ được?

Trang vương:

– Tử Linh (tên tự của Khuất Vu )nói phải lắm, ta không dám nạp vào hậu cung nữa.Nhưng người đàn bà này là một vật quí ở thế gian nếu để mắt ta trông thấy thì khó lòng nhịn được.

Trang vương bèn truyền cho quân sĩ đuổi Hạ Cơ đi.Bấy giờ công tử Trắc đứng bên cạnh cũng mê nhan sắc của Hạ Cơ, lại thấy Sở Trang vương không dùng, mới quỳ mà tâu rằng:

– Tôi chẳng may góa vợ, xin đại vương cho tôi lấy nàng làm vợ.

Khuất Vu lại can rằng:

– Ðại vương không nên cho.

Công tử Trắc giận lắm, nói:

– Tử Linh không bằng lòng cho ta lấy Hạ Cơ là bởi cớ sao?

Khuất Vu nói:

– Người đàn bà ấy là một vật chẳng lành ở trong trời đất, cứ như tôi đã biết thì công tử Man và Hạ Ngự Thúc chính vì nó mà chết non, vua Trần và Hạ Trưng Thư vì nó mà bi giết, Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vì nó mà phải tan nát.Thiên hạ thiếu gì người có nhan sắc mà lại đi lấy một người như thế, để di họa về sau !

Sở Trang vương nói:

– Cứ như lời Tử Linh nói thì ta cũng sợ lắm !

Công tử Trắc lại bảo Khuất Vu rằng:

– Nếu vậy thì tôi cũng không dám ! Nhưng người bảo đại vương, không nên lấy, và ta cũng không nên lấy, hay nhà ngươi muốn lấy chăng ?

Khuất Vu nói luôn mấy câu rằng:

– Không dám ! Không dám !

Sở Trang vương nói:

– Nếu để hắn vô chủ thì có người tranh, ta nghe nói Tương lão mới rồi vợ chết, âu là ta cho Tương lão lấy làm vợ kế.

Bấy giờ Tương Lão cũng đem quân theo Sở Trang vương, ở toán hậu đội.Trang vương bèn triệu đến mà gã Hậu Cơ.Hai vợ chồng cùng nhau lạy tạ rồi lui ra.

Khuất Vu can Sở Trang vương và công tử Trắc không nên lấy Hạ Cơ là có ý muốn giữ phần cho mình, nay thấy Sở Trang vương đem gả cho Tương Lão thì nghĩ thầm rằng: “Ðáng tiếc ! Ðáng tiếc!”.Nhưng lại tự nhủ rằng:

– Tương Lão chịu nổi Hạ Cơ thế nào được, chẳng qua cũng chỉ trong dăm sáu tháng, một năm thì Hạ Cơ cũng lại góa chồng thôi !Bấy giờ ta sẽ định liệu.

Sở Trang vương đóng quân ở Châu Lâm một đêm, rồi lại trở về kinh thành nuớc Trần.Công tử Anh Tề đón vào trong thành.Sở Trang vương truyền đem Hạ Trưng Thư ra cửa thành mà phân thây, theo như lối Tề Tướng công xử tội Cao Cừ Di ngày trước.Sở Trang vương trị tội Hạ Trưng Thư rồi, thu hết bản đồ nước Trần, lập làm một huyện của nước Sở, cho công tử Anh Tề làm quan trấn thủ, để quản trị dân nước Trần, còn bọn Viên Pha, đều bắt đem về nước Sở cả.

Các nước phụ thuộc vào nước Sở ở Nam Phương nghe tin Sở Trang vương diệt được nước Trần, đều đến triều hạ, chỉ có quan đại phu nước Sở là Thân Thúc Thời đi sứ nước Tề chưa về (bấy giờ Tề Huệ công mất thế tử Vô Giã lên nối ngôi, tức là Tề Khoảnh công.Tề và Sở vẫn giao hiếu với nhau, bởi vậy Sở Trang vương mới sai Thân Thúc Thời sang viếng vua cũ và dùng vua mới ), đến lúc về, thấy Sở Trang vương diệt được nước Trần mà không chúc mừng câu nào cả, Sở Trang vương sai nội thị ra trách mắng Thân Thúc Thời rằng:

– Hạ Trưng Thư vô đạo giết vua, ta đem quân sang hỏi tội, thu được bờ cõi nước Trần, các nước phụ thuộc của ta đều đến triều hạ cả, mà nhà ngươi chẳng nói gì đến, hay có ý cho việc ta đánh Trần là không phải?Thân THúc Thời đi theo sứ giả vào yết kiến để được nói hết lời trước mặt nhà vua.Sở vương thuận cho.Thân Thúc Thời nói rằng:

– Có một người dắt trâu đi tắt qua ruộng người ta, dẫm nát cả lúa mạ.Người chủ có ruộng giận lắm, cướp lấy trâu.Như cái kiện ấy mà đến tai đại vưong thì đại vương định xử ra làm sao?

Sở Trang vương nói:

– Dắt trâu dẫm lúa, dẫu có tổn hại nhưng cũng chẳng là bao, mà lại cướp lấy trâu thì chẳng cũng quá lắm ư ! Nếu ta xử cái kiện ấy thì phạt nhẹ đứa dắt trâu mà trả trâu cho nó, nhà ngươi nghĩ có phải không?

Thân Thúc Thời nói:

– Sao đại vương xử kiện thì sáng như thế mà xử với nước Trần lại tối như vậy ! Hạ Trưng Thư giết vua, thì nó có tội, không phải vì thế mà giết Trần đáng diệt, đại vương trị tội hắn là đủ, nay lại diệt nước Trần thì khác nào như chuyện cướp trâu, còn mừng về nổi gì !

Sở Trang vương nói:

– Nhà ngươi nói phải lắm !

Thân Thúc Thời nói:

– Ðại vương đã cho lời nói tôi là phải thì sao không bắt chước việc trả lại trâu cho người ta?

Sở Trang vương tức khắc triệu quan đại phu nước Trần là Viên Pha vào mà hỏi rằng:

– Hiện nay vua nước Trần ở đâu?

Viên Pha nói:

– Khi trước ở nước Tấn, bây giờ không biết đi đâu?

Nói xong, nước mắt chảy xuống ròng ròng.Sở Trang vương động lòng mà bảo rằng:

– Nay ta định trả lại nước cho nhà ngươi, mà ngươi nên tìm đón vua Trần về, rồi một lòng thần phục nước Sở ta, chớ có quên cái ơn ấy.

Sở Trang vương lại triệu Khổng Ninh và Nghi Hàng PHủ, tha cho về nước để cùng giúp vua Trần .Viên Pha dẫu biết là tai vạ nước Trần bởi tại Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nhưng ở trước mặt Sở Trang vương không dám nói đến, chỉ cùng nhau lạy tạ rồi lui ra.Khi bọn Viên Pha gần ra khỏi địa giới nước Sở thì gặp Trần Thành Công ở nước Tấn về, nghe tin nước nhà bị diệt, cũng toan sang để kêu với Sở Trang vương.

Viên Sa thuật lại cái lòng tử tế của Sở Trang vương cho Trần Thành Công nghe, rồi vua tôi cùng nhau về nước.Quan trấn thủ nước Trần là công tử Anh Tề đã tiếp được thư của Sở Trang vương triệu về nước, mới đem bản đồ nước Trần gaio trả lại cho Trần Thành Công.Khổng Ninh về nước chưa được một tháng, nhiều khi ban ngày trông thấy Hạ Trưng Thư đến bắt đền mạng rồi thành ra bệnh điên cuồng, nhảy xuống ao mà chết. Ðêm hôm Khổng Ninh chết, Nghi Hàng Phủ cũng nằm mộng thấy Trần Linh Công, Khổng Ninh và Hạ Trưng Thư, ba người cùng đến bắt Nghi Hàng PHủ.Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cũng kinh sợ mà chết.

Công tử Anh Tề về đến nước Sở vào yết kiến Trang vương.Trang vương nói:

– Ta đã t rả lại nước Trần rồi, sẽ xin đền cho nhà ngươi chỗ khác.

Công tử Anh Tề xin khu ruộng ở đất Thân và đất Lã.Trang vương toan thuận cho.Khuất Vu liền nói với Trang vương rằng:

– Ðất Thân và đất Lã là một nới trọng yếu, nước Sở ta dùng để chống giữ với nước Tấn, không nên đem thưởng cho ai cả.

Sở Trang vương mới thôi, không cho công tử Anh Tề nữa. Ðến lúc Thân Thúc Thời cáo lão, Trang vương đem đất Thân phong cho Khuất Vu.Khuất Vu chẳng từ chối mà nhận ngay.Công tử Anh Tề vì thế sinh hiềm khích với Khuất Vu.Trang Vương thấy nước Trần dẫu thần phục mình, nhưng còn nước Trịnh vẫn theo nước Tấn, mới cùng triều thần thương nghị việc đánh TRịnh.

Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao nói với Trang vương rằng:

– Ta đánh Trịnh thì nước Tấn tất đến cứu, vậy mới phải đem đại binh đi mới được.

Trang vương liền cử đại binh tiến sang đánh Trịnh.Tương lão đi làm tiền hộ.Viên phó tướng thuộc toán quân của Tương Lão tên là Ðường Giao xin với Tương Lão rằng:

– Trịnh là một nước nhỏ, bất tất phải phiền đến đại binh, tôi xin đem thủ hạ một trăm người để mỡ đường đi trước.

Tương Lão khen mà cho đi. Ðường Giao cố sức xông pha đi trước, quân nước Trịnh không đương nổi, vì thế mà đại binh của Sở Trang vương thấy quân tiền bộ đi được nhanh cóng như vậy, mới khen Tương Lão rằng:

– Ta không ngờ nhà ngươi đã già mà còn khỏe được như thế.

Tương Lão nói:

– Ðó không phải là công tôi, nhờ có viên phó tướng là Ðường Giao cố sức, mới được như vậy !

Trang vương triệu Ðường Giao đến, toan trọng thưởng, Ðường Giao nói:

– Tôi chịu ơn Ðại vương to lắm, ngày nay gọi chút báo đền có đâu lại dám lĩnh thưởng.

Trang vương ngạc nhiên mà nói rằng:

– Ta có biết nhà ngươi bao giờ mà nhà ngươi bảo chịu ơn ta ?

Ðường Giao nói:

– Trong bữa tiệc “Tuyệt Anh”có người nắm vạt áo Hứa Cơ, người ấy tức là tôi đó! Ðại vương rộng lượng tha mà không giết, vậy nên tôi phải cố sức để báo đền.

Trang vương nói:

– May làm sao! Giả sử bấy giờ ta thắp nến lên để trị tội người mất giải mũ vì ta thì sao bây giờ lại có người vì ta mà cố sức như vậy !

Sở Trang vương truyền ghi lấy công Ðường Giao để đợi khi đánh Trịnh xong trở về thì sẽ trọng dụng. Ðường Giao nói chuyện với mọi người rằng:

– Tội ta đáng chết mà đại vương không giết, vậy ta cố sức để báo đền.Nay ta đã nói rỏ ra rồi, chẳng lẽ ta là người có tội mà lại đợi sau này đại vương trọng dụng hay sao?

Ðêm hôm ấy, Ðường Giao tức khắc bỏ trốn, không biết đi đâu mất.Sở Trang vương nghe nói khen rằng:

– Ðường Giao thật là một người giỏi!

Ðại binh nước Sở vây thành nước Trịnh, cả thẩy mười bảy ngày.Trịnh Tương công có lòng trông mong quân Tấn đến cứu, không chịu giảng hòa, quân sĩ chết hại rất nhiều.Phía đông bắc thành nước Trịnh có một chỗ lở hơn mười trượng, quân nước Sở sắp sửa trèo vào.Sở Trang vương nghe trong thành có tiếng khóc rầm rĩ, động lòng thương xót, truyền cho quân sĩ hãy lui lại mười dặm.Công tử Anh Tề nói với Sở Trang vương rằng:

– Ta nên nhân lúc thành lở mà tiến vào, cớ sao lại lui quân?

Sở Trang vương nói:

– Người nước Trịnh chỉ biết sợ uy ta, chưa biết mến đức ta, nay ta lui quân là để tỏ cho nước Trịnh biết ta có lòng nhân đức.

Trịnh Tương công thấy nước Sở lui quân, ngờ là nước Tấn đã đem quân đến cứu, mới chở những nơi thành lở, rồi cố sức chống giỡ.Sở Trang vương biết là nước Trịnh không chịu đầu hàng, lại tiến quân vây thành đến hơn ba tháng.Tướng nước Sở là Nhạc Bá phá cửa thành tiến vào.Sở Trang vương truyền cho quân sĩ không được nhũng nhiễu hại dân.Trịnh Tương công để trần vai áo, dắt đàn dê ra đón quân Sở mà tạ tội rằng:

– Tôi là kẻ ngu dại, không biết thần phục thượng quốc, để đến nổi đại vương nổi giận phải đem quân tới nước tôi, nay tôi biết tội đã nhiều, xin đại vương rộng lượng thương cho nước tôi làm nước phụ thuộc, không đến nổ tuyệt duyệt, thì nước tôi được đội ơn nhiều lắm.

Công tử Anh Tề nói với Sở Trang vương rằng:

– Nước Trịnh cùng quá , mới chịu đầu hàng, nếu ta tha cho thì rồi họ lại làm phản, chi bằng ta diệt hẳn đi.

Sở Trang vương nói:

– Nếu ngày nay ta diệt nước Trịnh mà Thân Thúc Thời hãy còn thì tất lại đem cái chuyện “cướp trâu dẫm lúa” mà cười ta đó.

Sở Trang vương truyền lui quân ba mươi dặm, rồi cho nước Trịnh giảng hoà.Trịnh Tương công thân hành đến đại dinh quân Sở xin hội thề, và cho người em là công tử Khứ Tật sang làm con tin.Sở Trang vương truyền rút quân về đóng ở Diên Ðịa.Quân thám tử về báo với Sở Trang vương rằng:

– Nước Tấn cho Tuân Lâm phủ làm chánh tướng, Tiên Cốc làm phó tướng, đem quân sang cứu Trịnh đã giảng hòa, ta còn sinh sự với Tấn gì nữa, chi bằng ta giữ cho toàn quân mà về.

Có kẻ cận thần là Ngủ Sâm tâu với Sở Trang vương rằng:

– Quan lệnh doãn nói thế là phải ! Nước Trịnh cho sức ta không bằng Tấn, cho nên mới theo Tấn, nay quân Tấn đến mà ta rút về thì tỏ ra rằng thật là ta không bằng Tấn.Vả nước Tấn biết Trịnh theo Sở thì tất đánh Trịnh, vậy ta đánh Tấn để cứu Trịnh, chẳng cũng nên lắm ư!

Tôn Thúc Ngao nói với Sở Trang vương rằng:

– Quân nước Sở ta, năm trước sang đánh Trần, năm nay sang đánh Trịnh, nhọc mệt lắm rồi, nếu đánh mà không mắng thì dẫu ăn thịt Ngũ Sâm, cũng không đáng cái tội của hắn vậy.

Ngũ Sâm nói:

– Nếu đánh mà được thì quan lệnh doãn là người vô mưu, nếu đánh không dược thì thịt Ngũ Sâm này tất bị quân Tấn ăn mất, còn đâu mà để phần người nước Sở nữa!

Sở Trang vương liền hỏi ý tất cả các tướng, đưa cho mỗi người một cai bút để viết vào bà tay, ai định đánh thì viết chữ “Ðánh”, ai định lui thì viết chữ “Lui”.Các tướng viết xong, Sở Trang vương sai mở bàn tay ra xem thì chỉ có bốn người viết chữ “Lui” là: Quan trung quân nguyên soái Ngưu Khâu, quan lệnh doãn Tương lão và hai tướng là Sai Cưu Cơ và Bánh Danh.Còn bọn công tử Anh Tề, công tử Trắc, công tử Cốc Thần, Khuất Ðăng, Phan Ðảng, Nhạc Bá, Dưỡng Do Cơ, Hứa Bá, Hùng Phụ Bá, và Hứa Yển hơn hai mươi người đều viết chữ “Ðánh” cả.

Sở Trang vương nói:

– Ngưu Khâu là bậc lão thành, nay cùng vớ quan lệnh doãn hợp ý nhau, vậy thì lui quân về là phải.

Sở Trang vướng truyền đến sáng mai thì rút qaun về? Ðêm hôm ấy, Ngũ Sâm xin vào yết kiến, nói với Trang vương rằng:

– Ðại vương sợ gì nước Tấn mà phải bỏ nước Trịnh như vậy?

Sở Trang vương nói:

– Nào ta có bỏ nước Trịnh bao giờ?

Ngũ Sâm nói:

– Quân Sở ta vây nước TRịnh ba tháng mới thu phục được nước TRịnh nay quân Tấn đến mà ta rút về, khiến cho Tấn được côn glà cứu nước Trịnh, thế thì chẳng phải ta bỏ nước Trịnh là gì !

Sở Trang vướng nói:

– Quan lệnh doãn bảo ta rằng đánh Tấn vị tất đã được, vậy nên ta phải bỏ.

Ngũ Sâm nói:

– Tôi đã tính trước cả rồi ! Tuân Lâm PHủ nước Tấn mời lên làm trung quân nguyên soái, chưa có uy tính gì để cho người ta phục, quan phó tướng là Tiên Cốc, nguyên là con Tiên Thả Cư, cháu Tiên Chẩn, cậy thế mấy đời có công, làm nhiều điều kiêu ngạo, còn bọn Loan , Triệu đều mỗi người một ý, xem thế thì các tướng nước Tấn, không đồng tâm với nhau, dẫu nhiều quân đến đâu, cũng có thể phá tan được.Vả đại vương làm vua một nước mà phải sợ các tướng nước Tấn, để cho thiên hạ chê cười thì sao cho nước Trịnh chịu phục.

Sở Trang vương ngạc nhiên mà nói rằng:

– Ta dẫu không khéo dùng quân, cũng chẳng chịu thua các tướng nước Tấn !

Nói xong, liền sai người bảo quản lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao cho tất cả chiến xa quay về hướng bắc mà tiến đến Quản Thành để đợi quân Tấn đến thì đánh.