Chương 54: Sở Vương đuổi quân Lâm Phủ – Ưu Mạnh đóng vai Tôn Thúc Giao

Tấn Cảnh cũng nghe tin Sở Trang vương thân hành đem quân sang đánh Trịnh, mới phong Tuân Lâm Phủ làm trung quân nguyên soái, Tiên Cốc làm phó nguyên soái, để đem quân sang cứu.Khi đi đến sông Hoàng Hà, có quân thám tử báo rằng:

– Trịnh bị Sở vây, đợi mãi không thấy quân ta đến cứu, đã hàng Sở rồi.Quân Sở đã sắp sửa rút về.

Tuân Lâm Phủ bèn triệu các tướng vào để hội nghị.Sĩ Hội nói:

– Ðem quân đi cứu mà không kịp, bây giờ đánh Sở cũng chẳng ra thế nào, chi bằng ta hãy rút về, sau sẽ định liệu.

Tuân Lâm Phủ khen phải, toan truyền rút quân về.Bỗng có một viên đại tướng đứng dậy can rằng:

– Không nên ! Nước Tấn ta làm được bá chủ là vì biết bênh vực kẻ yếu, nay Trịnh đợi mãi không thấy quân ta đến cứu, mới phải hàng nước Sở, ta đánh được nước Sở thì Trịnh tất lại về với ta.Nếu ta bỏ Trịnh mà tránh quân Sở thì các nước nhỏ còn trông cậy vào ta nổi gì ! Nước Tấn không làm được bá chủ nữa rồi.Nếu nguyên soái nhất định rút quân về, thì tôi tình nguyện đem quân bản bộ của tôi ra đánh một trận.

Tuân Lâm Phủ nhìn xem ai là quan phó nguyên soái Tiên Cốc.Tuân Lâm Phủ bảo Tiên Cốc rằng:

– Vua Sở thân hành đem quân tới đây, binh nhiều tướng mạnh, nếu ta đem một toán quân sang đánh, khác nào như ném thịt vào hổ đói mà thôi, phỏng có ích gì !

Tiên Cốc thét lên rằng:

– Nếu ta không đi thì sẽ có người bảo rằng đường đường nước Tấn mà không có một người nào dám đánh, chẳng cũng xấu hổ lắm ư ! Chuyến này ta đi, dẫu chết tại trậncũng còn được tiếng là người có chí khí !

Tiên Cốc nói xong, tức khắc lui ra. Ði đến cửa dinh gặp anh em Triệu Ðồng và Triệu Quát.Tiên Cốc bảo Triệu Ðồng và Triệu Quát rằng:

– Quan nguyên soái sợ nước Sở muốn rút quân về, chỉ một mình ta quyết đem quân đi đánh.

Triệu Ðồng và Triệu quát nói:

– Ðại trượng phu phải như thế ! Anh em tôi cũng xin đem quân bàn bộ đi theo tướng quân.

Ba người cùng nhau đem quân qua sông Hoàng Hà.Tuân Thủ không thấy Triệu Ðồng và Triệu Quát, liền hỏi quân sĩ mới biết hai người đã theo Tiên Cốc qua sông Hoàng Hà để đón đánh quân Sở, liền giật mình kinh sợ, và nói với quan tư mã Hàn Quyết.Hàn Quyết vào bảo Tuân Lâm Phủ rằng:

– Nguyên soái không biết việc Tiên Cốc qua sông Hoàng Hà hay sao?Nếu gặp quân Sở thì tất bị thua, ngài làm nguyên soái mà để cho Tiên Cốc bị thua thì lỗi ở ngài đó !

Tuân Lâm Phủ kinh sợ hỏi kế, Hàn Quyết nói:

– Việc đã lỡ ra như vậy, chi bằng ta kéo cả đại binh sang đánh, nếu được thì công về ngài, nếu không được thì cả các tướng cùng phải chịu tội, chẳng hơn là ngài chịu tội một mình hay sao?

Tuân Lâm Phủ khen phải, truyền kéo đại binh qua sông.Tiên Cốc nghe tin, mừng mà nói rằng:

– Ta vẫn biết là nguyên soái phải theo lời nói của ta !

TRịnh tướng công cho người đi dò thám, biết là quân Tấn cường thịnh lắm, chỉ sợ một mai chiến thắng thì lại trị cái tội theo Sở, mới hợp triều thần lại để thương nghị.Quan đại phu là Hoàng Thủ nói:

– Tôi xin sang sứ bên quân Tấn dể khuyên Tấn đánh Sở, Tấn được thì theo Tấn, Sở được thi theo Sở.Bên nào mạnh thế thì ta theo, chứ có lo gì !

Trịnh Tương công khen phải, rồi sai Hoàng Thú đi.Hoàng Thú đến nói với quân Tấn rằng:

– Chúa công tôi mong quý quốc đến cứu, khác nào đại hạn mong mưa.Chỉ vì xã tắc lâm nguy nên mới phải theo Sở trước mặt chứ không phải dám phản bội thượng quốc.Nay Sở chiến thắng mà sinh kiêu, vả lại đi lâu mỏi mệt, nếu thượng quốc đánh quân Sở thì nước Trịnh tôi cũng xin theo.

Tiên Cốc nói:

– Ta đánh được Sở và làm cho Trịnh phải phục, chỉ ở trận này !

Loan Thư nói:

– Người nước Trịnh hay phản phúc lắm, ta chớ nên tin lời !

TRiệu Ðỗng và Triệu Quát nói:

– Người nước Trịnh xin theo ta để cùng đánh Sở, đó là một cơ hội chớ nên bỏ ! Ta nên theo lời Tiênn Cốc

Hai người nói xong, bèn không vân lệnh Tuân Lâm Phủ, mà lại tự tiện theo Tiên Cốc cùng với Hoàng Thú định ước đánh Sở, Trịnh Tương công lại sai sứ đến quân Sở, khuyên Sở Trang vương giao chiến với Tấn.Quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao lo quân Tấn cường thịnh, nói với Sở Trang vương rằng:

– Người nước Tấn không có ý quyết chiến, chi bằng ta cho người sang giảng hoà, giảng hoà mà không được, bấy giờ ta sẽ giao chiến thì lỗi tại nước Tấn.

Sở Trang vương lấy làm phải, liền sai Sái Cưu Cư sang quân Tấn xin giảng hòa.Tuân Lâm Phủ mừng lắm, nói:

– Nếu vậy thì là phúc cả cho hai nước!

Tiên Cốc trỏ vào mặt Thái Cưu Cư mà mắng rằng:

– Nước người đã cướp thuộc quốc của ta, nay lại còn sang giảng hòa ! Dẫu nguyên soái ta cho hòa, ta cũng nhất định không chịu, ta quyết đánh cho chẳng còn một mống nào trở về, khiến nước ngươi biết tay Tiên Cốc này.Nhà ngươi nên mau mau về báo với vua Sở, liệu mà trốn trước đi, kẻo nữa khó toàn tính mệnh đó !

Sái Cưu Cư bị Tiên Cốc sỉ mắng một hồi, cúi đầu lui ra. Ði đến cửa dinh, lại gặp anh em Triệu Ðồng và Triệu Quát, Triệu Ðồng và Triệu Quát giơ gươm trỏ vào mặt Sái Cưu Cư mà bảo rằng:

– Nếu mày còn sang đây lần nữa thì ta sẽ cho mày nếm lưỡi gươm này !

Sái Cưu Cư ra khỏi dinh quân Tấn là Triệu Chiên.Triệu Chiên giương cung vào mặt Sái Cưu Cư mà bảo rằng:

– Mày là miếng thịt ở đầu mũi tên của ta, chẳng bao lâu ta sẽ bắt sống mày, hãy cho mày trở về báo trước cho vua Sở mày biết.

Sái Cưu Cư trở về nói với Sở Trang vương.Sở Trang vương nổi giận, hỏi các tướng xem ai dám sang khiêu chiến với quân Tấn không? Quan đại tướng là Nhạc Bá xin đi.Nhạc Bá ngồi một cái xe tiến sang vòng quân Tấn.Gặp một bọn quân hơn mười người, Nhạc Bá bắn chết một người, rồi quay xe trở về.Quân Tấn chia làm ba toán đuổi theo, toán đi giữa là Bảo Quý, toán đi phía tả là Bảng Ninh, toán đi phía hữu là Bàng Cái.Nhạc Bá hét to lên rằng:

– Ta bắn về phía tả thì trúng ngựa, bắn về phía hữu thì trúng người , nếu bắn không trúng thì ta thua !

Nhạc Bá giương cung bắn luôn mỗi bên một phát, phát bên tả trúng suốt ba bốn con ngực, xe không đi được nữa, phát bên hữu trúng Bàng Cái, còn quân sĩ thì bị thương rất nhiều.Bởi vậy toán quân phía tả và phía hữu đều không dám theo nữa, chỉ có Bảo Quý chỉ huy toán quân di giữa là cố sức đuổi gần đến nơi, Nhạc Bá chỉ còn có một phát tên, toan giương cung ra bắn Bảo Quý, nhưng lại nghĩ thầm rằng:

– Nếu phát tên này ta bắn không trúng thì tất nhiên bị hại !

Nhạc Bá còn đang nghĩ ngợi thì bỗng có một con hươu to ở đâu chạy qua trước mặt.Nhạc Bá liền bắn chết con hươu ấy rồi sai Nhiếp Thúc xuống xe lấy con hươu, đưa biếu Bảo Quý.Bảo Quý thấy Nhạc Bá bắn chẳng sai phát nào, trong lòng sợ hãi, nhân thấy Nhạc Bá sai người biếu con hươu, mới giả cách than rằng:

– Tướng nước Sở biết giữ lễ như vậy thì ta không dám xâm phạm.

Bảo Quý quay xe trở về.Tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ biết Bảo Quý thả cho Nhạc Bá chạy, nổi giận mà nói rằng:

– Nước Sở có người đến khiêu chiến, mà nước Tấn ta không ai dám sang trận địa quân Sở, tôi e rằng người nước Sở tất cũng cười ta, vậy tôi xin sang để dò xem quân Sở mạnh yếu thế nào.

TRiệu Chiên cũng nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Tôi xin cùng với NGụy tướng quân cùng đi.

Tuân Lâm Phủ nói :

– Khi trước Sở sang xin giảng hòa với ta rồi mới đánh, nay các người sang quân Sở, cũng phải xin giảng hòa trước để gọi là đáp lễ lại Sở.

Ngụy Kỳ xin vâng mệnh.Triệu Chiên đưa Ngụy Kỳ lên xe trước mà bảo rằng:

– Tướng quân báo lại việc Sái Cưu Cư, còn tôi xin báo lại việc Nhạc Bá.

Quan thượng quân nguyên soái là Sĩ Hội nghe tin Triệu Chiên và Ngụy Kỳ sang trận địa quân Sở, vội vàng vào yết kiến Tuân Lâm Phủ, đeẻ can ngăn việc ấy, nhưng vào đến nơi thì hai tướng đã đi rồi.Sĩ Hội mới nói riêng với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Ngụy Kỳ và Triệu Chiên còn ít tuổi nóng nảy bồng bột, không biết tùy cơ ứng biến, tất làm cho quân Sở phải tức giận.Nếu quân Sở bất thình lình mà đến đánh thì ta làm thế nào?

Bấy giờ quan phó tướng là Khước Khắc cũng đến nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Tình ý nước Sở khó mà lường được, ta nên phòng bị trước !

Tiên Cốc thét to lên rằng:

– Sắp sửa giao chiến, lại còn phòng bị gì nữa !

Tuân Lâm Phủ không biết đằng nào mà quyết đoán.Sĩ Hội lui ra, nói riêng với Khước Khắc rằng:

– Nguyên Soái chẳng khác gì người bù nhìn ! Thôi chúng ta phải tự liệu lấy mới được.

Sĩ Hội nói xong, liền bảo Khước Khắc rủ hai quan thượng quân đại phu là Củng Sóc và Hàn Xuyên đem quân bản bộ ra phục ở trước núi ngao Sơn.Quan Trung quân đại phu là Triệu Anh Tề cũng lo quân Tấn thua, sai người sắp thuyền sẵn ở cửa sông Hoàng Hà đề phòng khi chạy trốn.Ngụy kỳ vẫn ghét Tuân Lâm Phủ, muốn làm cho Tuân Lâm Phủ mang tiếng, nên trước mặt Tuân Lâm Phủ thì nói đến việc hoà, nhưng khi sang đến quân Sở thì lại nói đến việc đánh.Tướng nước Sở là Phan Ðảng biết chuyện trước kia Sái Cưu Cơ sang sứ nước Tấn, bị tướng nước Tấn sĩ nhục nay thấy Ngụy Kỳ đến, bàn tính sự báo thù, vội vàng bước vào đại binh thì Ngụy Kỳ đã ra khỏi dinh rồi.Phan Ðảng tức khắc dục ngựa đuổi theo, bèn toan quay lại để đối địch, bỗng thấy trông rừng có sáu con hươu lớn, nhân nghĩ đến việc tướng nước Sở biếu hươu khi trước, liền giương cung bắn chết một con, sai người hầu xe đem biếu Phan Ðảng mà nói rằng:

– Khi trước Nhạc tướng quân có cho quân Tấn tôi một con hươu, nay quân Tấn tôi đáp lễ lại.

Phan Ðảng nghĩ thầm rằng:

– Quân Tấn cũng bắt chước lối cũ của ta như vậy, nếu ta đuổi theo thì chẳng hóa ra người nước Sở ta vô lễ lắm ư! Bèn cùng truyền quay xe trở lại.Ngụy Kỳ về đến dinh quân Tấn, nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Vua nước Sở không cho giảng hòa, định đánh một trận để quyết thắng phụ.

Tuân Lâm Phủ hỏi:

– Triệu Chiên đâu?

Ngụy Kỳ nói:

– Tôi đi trước, hắn đi sau, thành ra tôi không được gặp.

Tuân Lâm Phủ nói :

– Nước Sở đã không cho giảng hòa thì Triệu Chiên tất nhiên bị hại !

Nói xong, sai Tuân Dinh đem quân đi đón Triệu Chiên.Nguyên Triệu Chiênđang đêm đi đến trước cửa dinh quân Sở, giải chiếu xuống đất ngồi, đem rượu ra uống, rồi sai hơn hai mươi người giả cách nói tiếng nước Sở, lén vào trong dinh quân Sở.Quân Sở biết là giả, nắm lại để hỏi.Người ấy rút dao đâm chết một người trong đám quân Sở.Quân Sở náo động cả lên, đốt đuốc đuổi bắt được mấy người.Những người khác trốn thóat chạy ra, trông thấy Triệu Chiên vẫn còn ngồi trên chiếu, thì vội vàng ôm lên xe, rồi tìm người dong xe thì đã mắc trong đám quân Sở, không ra được rồi.Triệu Chiên phải cầm cương ngựa lấy, ngựa đói không thể đi được.

Sở Trang vương nghe nói có giặc lên đến, liền thân hành đem quân ra đuổi.Quân đuổi gấp lắm, Triệu Chiên vội vàng bỏ xe trốn vào trong rừng.Tướng nước Sở là Khuất Ðăng trông thấy cũng xuống xe đuổi theo, Triệu Chiên cởi áo giáp và xe ngựa đem về nộp Sở Trang vương.Sở Trang vương vừa toan quay xe trở về thì thấy Phan Ðảng chạy đến.Phan Ðảng trỏ về phía bắc mà bảo Sở Trang vương rằng:

– Trông cắt bụi bay lên thế kia thì đại nước Tấn sắp sửa kéo đến!

Sỡ dĩ có đám cát bụi ấy là bởi có toán quân của Tuân Dinh phụng mệnh Tuân Lâm Phủ đi đón Triệu Chiên, Phan Ðảng trông không rỏ, tưởng là đại binh quân Tấn, làm cho Sở Trang vương sợ hãi, mặt xám xanh lại, may gặp có toán quân của quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao kéo đến.Sở Trang vương mới được yên lòng.Sở Trang vương hỏi Tôn Thúc Ngao rằng:

– Sao lệnh doãn biết có đại binh nước Tấn sắp tới mà đem quân ra cứu ta?

Tôn Thúc Ngao nói:

– Tôi không biết có đại binh nước Tấn, nhưng tôi sợ đại vương khinh thường xông vào quân giặc, nên tôi phải đem quân tiếp ứng, còn đại binh ta cũng sắp tới đây bây giờ.

Sở Trang vương ngảnh về phía bắc, trông lại một lượt, thấy đám cát bụi cũng không thấy gì làm cao;mới bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

– Không phải đại binh nước Tấn.

Tôn Thúc Ngao nói:

– Nay các tướng đều đả đến cả, xin đại vương cứ truyền lệnh tiến đánh, nếu ta đánh được một toán thì các toán khác đều phải vỡ tan.

Sở Trang vương liền truyền lệnh tiến binh.Tuân Lâm Phủ cũng đem quân ra đối địch, nhưng quân Sở nhiều quá, quân Tấn không thể nào địch nổi, tức khắc bỏ chạy tán loạn.Tuân dinh đi đón Triệu Chiên, không thấy đâu cả, lại gặp tường nước Sở là Hùng Phụ Cơ, hai bên giao chiến một lúc, hưng Tuân Dinh thấy quân Sở đông quá, cũng phải bỏ chạy, bị Hùng Phụ Cơ bắt sống.Tướng nước Tấn là Bàng Bá đem hai con là Bàng Ninh và Bàng Cái cùng ngồi một cái xe nhỏ để chạy trốn, đi chận không, da bàn chân trầy ra hết.Triệu Chiên trông thấy, kêu to lên rằng:

– Ai đi xe thế kia, cứu tôi với !

Bàng Bá nghe tiếng Triệu Chiên, bảo hai con chớ ngảnh cổ lại.Hai con không hiểu ý cha, tức thì ngảnh cổ nom lại phía sau xem ai.Triệu Chiên trông thấy liền gọi:

– Bàng Bá cho ta lên xe với !

Hai con nói với Bàng Bá.Bàng Bá tức giận lắm, nói:

– Ðã như vậy thì hai đứa mày nhường chỗ cho người ta ! Bàng Bá tức thì đuổi hai con xuống mà cho Triệu Chiên lên xe.Bàng Ninh và Bàng Cái mất xe thành ra chết ở trong đám loạn quân.Tuân Lâm Phủ và Hàn Quyết cùng một bọn tàn quân chạy men bờ sông Hoàng Hà, ngảnh lại trông thấy Tiên Cốc bị thương ở ttrán, máu chảy đầm đià, đang xé áo chiến bào ra để buộc.Tuân Lâm Phủ trỏ vào mặt Tiên Cốc mà bảo rằng:

– Tướng quân hăng hái lắm mà sao cũng như thế !

Ði đến cửa sông Hoàng Hà, gặp Triệu Quát cũng đến, Quát nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Anh tôi là Triệu Anh Tề, khi trước có sắp sẵn thuyền bè, nay đã qua sông rồi, mà chẳng bảo cho chúng ta biết, như vậy thì còn ra nghĩa lý gì nữa !

Tuân Lâm Phủ nói:

– Những lúc nguy cấp này còn bảo nhau sao kịp !

Triệu Quá vẫn hầm hầm tức giận, từ bấy giờ cùng với Triệu Anh Tề thành ra hiềm khích.

Tuân Lâm Phủ nói:

– Quân ta không thể đánh nhau với Sở được nữa, bây giờ nên mau mau nghĩ kế để qua sông.

Tuân Lâm Phủ liền sai Tiên Cốc đi tìm thuyền, nhưng chỉ tìm được có mấy chiếc.Tuân Lâm Phủ chưa kịp qua sông thì lại thấy có vô số quân ùn ùn chạy đến.Tuân Lâm Phủ nhìn xem quân nào thì tức là toán quân của Triệu Sóc và Loan Như bị tướng nước Sở là công tử Trách đánh đuổi, cùng chạy đến đây.Tuân Lâm Phủ ngảnh về phía nam, trông thấy cát bụi bay lên ngỡ là quân Sở đuổi tới, mới sai đánh trống và hạ lệnh rằng:

– Ai sang trước thì sẽ có thưởng !

Quân sĩ tránh cướp thuyền chở, thành ra giết hại lẩn nhau.Dưới thuyền người đã đầy rồi, mà còn nhiều người chen nhau bước xuống đến nổi đắm mất ba mươi chiếc thuyền.Tiên Cốc đứng ở trong thuyền lại thét to lên rằng:

– Ðứa nào bíu vào mái chèo và mạn thuyền thì cứ lấy dao mà chặt tay đi !

Các thuyền đều theo lệnh lấy dao ra chặt, ngón tay rơi vào trong thuyền, khác nào hoa rụng, phải bốc từng bốc mà ném xuống sông.Trên bờ người khóc như ri, nghe rất thê thảm ! Mặt sau lại có bọn Tuân Thủ, Triệu Ðồng, Ngụy Kỳ, Bàng Bá và Bảo Quý lục tục kéo đến.Tuân Thủ đã xuống thuyền rồi, không trông thấy con là Tuân Dinh, sai người đứng ở trên bờ gọi rầm lên.Có người biết là Tuân Dinh bị bắt, nói với Tuân Thủ.Tuân Thủ nói:

– Con ta đã bị bắt thì ta không chịu về không !

Nói xong tức thì lên bờ để lại xông vào đám quân Sở.Tuân Lâm Phủ can rằng:

– Tuân Dinh đã bị bắt thì tướng quân đi cũng vô ích.

Tuân Thủ nói:

– Nếu tôi bắt được tướng nước Sở thì cũng có thể đòi lại được con tôi.

Ngụy Kỳ vốn chơi thân với Tuân Dinh, bởi vậy cũng xin theo đi.Tuân THủ mừng lắm, đem mấy trăm quân trở lại.Quân sĩ nhiều người vẫn kính phục Tuân Thủ, cho nên đều vui lòng theo cả, có người đã xuống thuyền rồi, nghe nói Tuân Thủ định trở lại để tìm Tuân Dinh, cũng đều lên bờ xin theo.Tuân Thủ là người bắn giỏi lắm, bấy giờ xông vào quân Sở, trông thấy tướng nước Sở là Tương Lão đang đi thu thấp những xe ngựa và khí giới của quân Tấn bỏ lại, có ngờ đâu quân Tấn thình lình kéo đến, không kịp đề phòng, bị Tuân Thủ bắn cho một phát, ngã lăn xuống đất.Công tử CỐc Thần trông thấy Tương Lão bị mũi tên, vội vàng đến cứu.

Ngụy Kỳ xông vào, giao chiến với công tử Cốc Thần.Tuân Thủ lại bắn luôn phát nữa, trúng ngay vào cánh tay phải của công tử Cốc Thần.Công tử Cốc Thần đau quá, đứng lại để nhổ mũi tên, bị ngụy Kỳ bắt sống và lấy thêm cả cái xác của Tương Lão mang về, Tuân Thủ nói:

– Ðem công tử Cốc Thần và xác Tương Lão này cũng đủ chuộc lại được con ta, ta nên trở về.

Nói xong, liền giục ngựa về ngay.Khi quân Sở biết mà đuổi theo thì đã khôn gkịp.Côn gtử Anh Tề đem quân đuổi đánh Sĩ HỘi.Sĩ Hội vừa đánh vừa chạy, may nhờ có quân của Cung Spốc tiếp ứng, mới chạy thoát được.Công tử Anh Tề có sức đuổi theo, lại gặp tướng nước Tấn là Khước Khắc đem quân đến.Công tử Anh Tề thấy vậy, phải thu quân trở về.Tuân THủ về đến cữa sông Hoàng Hà, thấy toán quân của Tuân Lâm Phủ chưa qua sông thết, có ý kinh sợ, may nhờ có toán quân của Triệu Anh Tề đã qua sông rồi, cho người đem thuyền sang đón, quân Tấn mới qua được sông Hoàng Hà.

Ðại Bình quân Sở đã kéo đến Bí Thành, NGũ Sâm nói với Sở Trang vương xin mau mau đuổi theo để đánh quân Tấn.Trang vương nói:

– Nước Sở ta từ khi thua Tấn ở đất Thành Bộc, vẫn lấy làm xấu hổ, nay được một trận này đủa rưả cái thẹn năm xưa, nhưng hai bên rồi cũng nên giảng hòa với nhau, ta còn giết hại làm gì nữa.

Sở Trang vương truyền đóng quân lại.Trịnh Tương công biết là quân Sở thắng trận, thân hành đến Bí Thành để khao thưởng quân sĩ, đón Sở Trang Vương về đất Hành Ưng, rước vào ở trong vương cung, mở tiệc chúc mừng.Phan Ðảng nói với Sở Trang vương xin chất xác quân Tấn để đắp một cái đài gọi là “Kinh quán” kỷ niệm võ công của người nước Sở.Sở Trang vương nói:

– Ta chỉ nhờ may mà đánh được quân Tấn, sao đáng gọi là vũ công !

Sở Trang vương nói xong, truyền cho quân sĩ nhặt chôn những xác người chết, lại làm văn tế thần sông Hoàng Hà, rồi thu quân về.Khi về đến nước Sở, ban thưởng công thần, cho ngũ Sâm làm quan đại phu.Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao thở dài mà than rằng:

– Tuân Lâm Phủ là một bậc đại thần.Việc đánh Sở này bởi tại Tiên Cốc trái lệnh, đến nổ thua quân, nay chúa công giết một Tiên Cốc, cũng đủ làm gương cho kể khác.Ngày xưa nước Sở giết Thanéh Ðắc Thần mà Tấn Văn công mừng;nước Tấn tha Mạnh Minh mà Tấn Tướng công sợ, xin chúa công tha tội cho Tuân Lâm Phủ, khiến được lập công về sau.

Tấn Cảnh công theo lời, liền chém Tiên Cốc, phục chức cho Tuân Lâm Phủ, và sai luyện tập quân mã, đợi ngày khác đi đánh báu thù.

– Quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao ốm nặng, dặn con là Tôn An rằng:

– Ta có một tờ di biểu, khi ta chết rồi, mày nên đem dâng đại vương. Ðại vương có cho mày làm quan thì mày chớ nhận.Tài mày nhỏ mọn, không nên dự vào đám quan trường.Nếu đại vương có phong ấp cho mày, mày phải từ chối, từ chối mà không được thì nên xìn đất Tẩm Khâu.Tẩm Khâu là một chỗ đất xấu, chẳng ai thèm tranh dành, hoạ may con cháu về sau mới được hưởng cái lộc ấy.

Nói xong thì chết, Tôn An đem tờ di biểu vào dâng Sở Trang vương;Trang vương mở ra đọc.Tờ di biểu như sau này:

– “Tôi vốn là kẻ khốn cùng đội ơn đại vương cất nhắc cho làm lệnh doãn, trong mấy năm nay không có công trạng gì đáng kể phụ lòng đại vương ủy thác, cũng lấy àm hổ thẹn.Nay nhờ uy linh của đại vương được mệnh chung trong nhà, thật là may cho tôi! Tôi chỉ có một đứa con ngu dốt, không thể cho làm quan được, còn cháu tôi là Viễn Bằng thì cũng có tài năng, có thể dùng được.Nước Tấn làm bá chủ đã mấy đời, mời rồi dẫu bị thua, nhưng chúa công chớ nên xem thường.Dân nước Sở ta khổ về việc chiến tranh đã lâu, chúa công nên nghĩ lại mà khiến cho dân được yên nghĩ.Người ta đến lúc sắp chết, câu hỏi thường hay họp lẽ phải.Xin chúa công xét cho”.

Sở Trang vương đọc xong, than rằng:

– Tôn Thúc Ngao gần chết mà vẫn không quên việc nước.Trời làm cho Tôn Thúc Ngao chết, cũng là một sự không may cho ta.

Trang vương nói xong thân hành đến nhà Tôn Thúc Ngao ôm lấy áo quan mà khóc.Các quan đi theo hầu, cũng đều khóc cả.Ngày hôm sau, Trang vương cho công tử Anh Tề làm quan lệnh doãn, và cho Viễn Bằng làm quan châm doãn.Trang vương lại muốn cho Tôn An làm quan công chính, nhưng Tôn An theo lời cha dặn, nhất định xin từ chối, trở về xin làm ruộng.Trang vương có yêu một người kép hát là Mạnh Thù Nho, vẫn gọi là Ưu Mạnh. Ưu Mạnh là người lùn, không đầy năm thước, nguyên là một người kép hát, rất giỏi lại có tài khôi hài, được Trang vương yêu lắm.Một hôm, Ưu Mạnh ra chơi ngoài đồng, gặp Tôn An đi kiếm củi, quẩy một gánh củi trở về. Ưu Mạnh đón mà hỏi rằng:

– Sao công tử chịu khó nhọc mà gánh củi như vậy?

Tôn An nói:

– Cha tôi làm tướng quốc trong mấy năm trời, không lấy một đồng tiền nào của ai, đến lúc chết chẳng còn lý gì, bởi vậy tôi phải gánh củi.

Ưu Mạnh than rằng:

– Công tử cứ vững lòng, rồi đây thế nào đại vương cũng triệu công tử!

Ưu Mạnh về nhà chế ra một bộ mũ áo giống như của Tôn Thúc Ngao ngày trước, lại bắt chước dáng điệu ăn nói của Tôn Thúc Ngao luyện tập trong ba ngày, cái gì cũng giống, thật là Tôn Thúc Ngao sống lại !Gặp bấy giờ Sở Trang vương ngự yến ở trong cung, triệu Ưu Mạnh vào làm trò. Ưu Mạnh sai một người khác ra trò trước, đóng vai Sở Trang vương, làm ra bộ tưởng nhớ Tôn Thúc Ngao, còn mình thì đóng vai Tôn Thúc Ngao.Sở Trang vương (vai trò) trông thấy, giật mình king sợ mà nói rằng:

– Ô hay ! Tôn Thúc Ngao hãy còn sống à? Ta tưởng nhớ nhà ngươi lắm, nhà ngươi nên ở lại mà giúp ta !

Ưu Mạnh nói:

– Tôi đây chỉ giống Tôn Thúc Ngao mà thôi, có phải là Tôn Thúc Ngao thật đâu!

Sở Trang vương (vai trò ) nói:

– Ta tưởng nhớ Tôn Thúc Ngao mà không được trông thấy, nay thấy nhà ngươi giống Tôn Thúc Ngao, cũng khiến cho ta được đỡ nhớ.Ta cho nhà ngươi cứ làm tướng quốc, nhà ngươi chớ từ.

Ưu Mạnh nói:

– Đại vương tin dùng tôi như vậy, rất hợp với sở nguyện của tôi , nhưng tôi có lão thê ở nhà, rất là từng trải tinh đời để tôi xin về bàn với lão thê tôi, rồi mới dám vâng lệnh.

Ưu Mạnh trở vào buồng trà, một lúc lại bước lên sàn hát mà tâu với Sở Trang vương(vai trò ) rằng:

– Vừa rồi tôi có bàn với lão thê tôi, thì lão thê tôi khuyên tôi chớ nhận.

Sở Trang vương (vai trò) hỏi:

– Sao vậy?

Ưu Mạnh nói:

– Lão thê tôi có đặt một bài hát để khuyên tôi, vậy tôi xin hát.

Nói xong liền hát:

– Quan tham không nên làm, thế mà nên làm !

Quan liêm nên làm, thế mà không nên làm !

Quan tham không nên làm, đã tham thì tất đê hạ, mà nên làm vì con cháu được lên xe xuống ngựa !

Quan liêm nên làm, đã liêm thì tất cao khiết, mà không nên làm vì con cháu phải ăn đói mặc rách !

Chàng chẳng thấy:

Quan lệnh doãn nước Sở ta là Tôn Thúc Ngao, lúc sống làm quan không lấy của ai một đồng nào.

Chẳng may thất lộc( người làm quan chết đi, người ta gọi là thất lộc, nghĩa là mất lộc(lương bổng ) đi rồi, con cháu nghèo hèn đói khát, chỉ có cái túp chui ra chui vào…

Chàng, chàng ôi, chàng chớ học đòi Tôn Thúc Ngao !

Quân vương nào có nhớ công lao!

Trang vương trông thấy Ưu Mạnh lời ăn tiếng nói, giống hệt như Tôn Thúc Ngao thuở xưa, đã động lòng thương xót, sau nghe đến bài hát của Ư Mạnh, bỗng ứa nước mắt mà nói rằng:

– Khi nào ta dám quên công Tôn Thúc Ngao !

Trang vương liền sai Ưu Mạnh đi triệu Tôn An.Tôn An mặc áo rách, đi giày cỏ, vào yết kiến Trang vương.Trang vương hỏi:

– Nhà ngươi đến nổi cùng khốn như thế ư?

Ưu Mạnh đứng bên cạnh, đỡ lời mà tâu rằng:

– Nếu không cùng khốn thì đã không tỏ được cái nhân đức của quan lệnh doãn ngày trước!

Trang vương nói:

– Tôn An khi trước đã từ chối không muôn làm quan, nay ta nên phong cho một cái ấp lớn.

Tôn An đã cố ý xin từ chối.Trang vương nói:

– Ta đã quyết định như thế, nhà ngươi chớ nên từ chối.

Tôn An nói

– Nếu đại vương nghĩ đến chút công lao của tôi, mà muôn cho tôi được ấm no thì xin phong cho tôi ở đất TâmẩKhâu là đủ.

Trang vương nói:

– Khi cha tôi gần mất có dặn tôi như vậy, nếu không phong cho đất Tảm Khâu thì tôi không dám nhận.

Trang vương theo lời.Về sau, người ta thấy rằng Tẩm Khâu là một nơi đất xấu, không ai muốn tranh đoạt.Con cháu Tôn Thúc Ngao cứ nối đời được hưởng lộc ấy.

Tuân Lâm Phủ nước Tấn nghe tin Tôn Thúc Ngao chết, biết là quân Sở chưa có thể đi cứu Trịnh được, mới tâu với vua Tấn xin đem quân đi đánh Trịnh, nhưng chỉ cướp phá biên giới nước Trịnh, rồi thu quân trở về.Các tướng nói với Tuân Lâm Phủ xin vây kín thành nước Trịnh.Tuân Lâm Phủ nói:

– Ta vây kín thành nước TRịnh, cũng chưa chắc đã lấy nổi, vạn nhất nước Sở đem quân đến cứu thì lại thành ra thêm việc, chi bằng ta hãy để cho người nước Trịnh phải sợ ta.

Trịnh Tương công thấy vậy, quả nhiên sợ lắm, sai sứ sang bàn mưu với nước Sở và đưa người em là công tử Chương sang nước Sở, đổi lấy công tử Khứ Tật về về nước TRịnh để cùng cầm quyền chính trong nước.Sở Trang vương nói:

– Nếu nước Trịnh biết thủ tín, thì chẳng cần gì phải giữ người làm tin.

Sở Trang vương nói xong, liền cho cả hai người đều về, rồi hợp các quan triều thần lại để thương nghị.

Chương 55: Giắt dao lẻn vào dinh quân Sở – Kết cỏ bắt được tướng nước Tần

Sở Trang vương họp triều thần lại để thương nghị việc cùng chống quân Tấn.Công tử Trác nói với Sở Trang vương rằng:

– Nước Tống xưa nay vẫn một lòng theo Tấn, nay ta đem quân đi đánh Tống thì Tấn tất phải sang cứu, khi nào còn dám tranh nước Trịnh của ta.

Sở Trang vương nói:

– Nhà ngươi bàn dẫu phải, nhưng ta chưa có cớ gì mà đánh Tống được.Tiên quân ta ngày xưa đánh Tống một trận ở sông Hoằng Thủy, vua Tống bị thương chết, thế mà nước Tống cũng chịu nhịn ta; đến khi ta hội chư hầu ở đất Quyết Lạc, vua Tống lại hết sức cung phụng nước ta.Sau đó Tống Chiêu công bị giết, công tử bão lên nối ngôi, nay đã mười tám năm rồi, ta muốn đánh Tống mà chưa tìm được cớ gì cả.

Công tử Anh Tề nói:

– KHó gì điều ấy ! Vua Tề đã mấy lần Triều sính nước ta, mà ta chưa đáp lại nay ta mượn đường nước Tống để sang sứ nước Tề, nếu Tống không hco hay là vô lễ với sứ nước ta thì sẽ gây sự mà đem quân sang đánh.

Sở Trang vương nói:

– Bây giờ sai ai đi sứ?

Công tử Anh Tề nói:

– Thân Vô Úy khi trước đã có theo tiên quân ta sang hội ở đất Quyết Lạc.Người ấy nên sai đi.

Sở Trang vương liền sai Thân Vô Úy đi sứ nước nước Tề.Thân Vô Úy tâu với Sở Trang vương rằng:

– Sang sứ nước Tề, tất phải đi qua nước Tống, xin đại vương cấp cho một đạo văn thư để mượn đường.

Trang vương nói:

– Khi trước tiên quân ta hội chư hầu ở Quyết Lạc, rồi cùng với các vua chư hầu đi săn ở Mạnh Chư, vua Tống trái lệnh, tôi bắt người thị vệ mà giết đi, bởi vậy nước Tống oán giận tôi lắm.Nay tôi qua nước Tống, nếu đại vương không cấp cho một đội văn thư mượn đường thì nước Tống tất giết tôi.

Trang vương nói:

– Trong đạo văn thư gửi sang Tề, ta để tên là Thân Chu, mà không dùng tên cũ Thân Vô Úy của nhà ngươi nữa !

Thân Vô Úy vẫn chưa chịu đi, nói rằng:

– Tên đổi được, nhưng mặt không thể đổi được.

Trang vương nổi giận nói:

– Nếu nước Tống giết nhà ngươi thì ta quyết vì nhà ngươi báo thù mà đem quân diệt nước Tống.

Thân Vô Úy không dám từ chối nữa.Ngày hôm sau đưa người con là Thân Tề vào yết kiến Trang vương mà kêu rằng:

– Tôi chết vì việc nước, xin đại vương trông nom cho con tôi.

Trang vương nói:

– Đó là việc của ta, nhà ngươi chớ lo ngại?

Thân Vô Úy từ giả rồi đi.Người con là Thân Tề tiễn ra đến ngoài cõi.Thân Vô Úy dặn rằng:

– Cha đi chuyến này, tất chết ở nước Tống, con nên tâu với đại vương báo thù cho cha, con chớ quên lời cha dặn.

Hai cha con cùng ứa nước mắt mà từ giả với nhau.Vô Úy đi đến địa giới nước Tống.Quan trấn thủ nước Tống biết là sứ nước Sở, đòi xem văn thư, Vô Úy nói:

– Ta phụng mệnh vua Sở, chỉ có đạo văn thư sang sứ nước Tề, chứ không có đạo văn thư mượn đường nước Tống.

Quan trấn thủ giam giữ sứ giả là Thân Chu, rồi sai người phi báo với Tống Văn Công.Bấy giờ Hoa Nguyên đang cầm quyền chính với nước Tống liền tâu với Tống Văn công rằng:

– Nước Sở là một nước cừu địch với ta, nay sai sứ sang nước ta, mà không có văn thư mượn đường, thế là khinh ta quá lắm, xin chúa công bắt sứ nước Sở mà giết đi.

Tống Văn công nói:

– Ta giết sứ nước Sở thì tất nước Sở đem quân sang đánh, biết làm thế nào?

Hoa Nguyên nói:

– Chẳng thà bị quân Sở đem quân sang đánh, còn hơn là để cho nước Sở khinh ta, nước Sở đã khinh ta thì rồi thế nào cũng đem quân sang đánh. Đằng nào ta cũng bị quân Sở đánh, chi bằng ta hãy giết sứ nước Sở đi, để cho khỏi hổ thẹn.

Hoa Nguyên bèn sai người áp giải sứ giả là Thân Chu về trong triều.Hoa Nguyên trông thấy Thân Chu thì nhận được ngay là Thân Vô Úy, lại càng tức giận mà mắng rằng:

– Ngày trước nhà ngươi dám giết thị vệ của tiên quân ta, nay lại đổi tên là Thân Chu toan tránh khỏi tội chết hay sao?

Thân Vô Úy biết mình thế nào cũng chết, mới quát to lên mà mắng rằng:

– Thằng Bão (tên Tống Văn công )kia, mày thông gian với tổ mẫu lại giết chết đích điệt, may mà thóat nạn, lại còn dám vô lễ với sứ thần nước lớnQuân Sở ta kéo sang đây thì vua tôi mày tan xác ra như cám !

Hoa Nguyên sai cắt lưỡi Thân Chu trước, rồi sau mới chém, lại đốt văn thư của nước Sở, đem tro ném ra ngoài cõi.Người theo hầu Thân Chu về báo với Sở Trang vương, Sở Trang vương đang ăn cơm, nghe tin Thân Chu bị giết, thì ném đủa xuống chiếu, rồi đứng ngay dậy, sai quân tư mã là công tử Trắc sửa soạn binh mã để thân hành sang đánh Tống, lại cho Thân Tề (con Thân Chu )làm chức quân chính để theo đi đánh.Quân nước Sở vây kín thành Thư Dương (kinh thành nước Tống ), làm ra những cái thang cao bằng mặt thành, bốn mặt đánh vào.

Hoa Nguyên cố sức chống giữ, lại sai quân đại phu là Nhạc Anh Tề lẻn sang cáo cấp với nước Tấn;Tấn Cảnh công toan đem quân đi cứu.Mưu thần là Bá Tôn can rằng:

– Tuân Lâm phủ đem đại quân đi đánh quân Sở mà bị thua ở đất Bí Thành, ấy là lòng trời gíup cho nước Sở đó ! Nay ta đi cứu Tống, vị tất đã nên việc.

Cảnh công nói:

– Hiện bây giờ chỉ có nước Tống là thân với ta, nếu ta không cứu thì bỏ mất nước Tống !

Tấn Cảnh công khen phải, hỏi các quan trong triều xem có ai dám sang sứ nước Tống.Quan đại phu là Giải Dương xin đi.Tấn Cảnh công nói :

– Việc này trừ phi Tử Hồ (tên tự của Giải Dương )thì không còn ai đương nổi !

Giải Dương mặc quần áo thường dân đi sang nước Tống, bị quân Sở bắt được, đem nộp Sở Trang vương.Sở Trang vương nhận biết lé tướng nước Tấn, tên gọi Giải Dương, mới hỏi Giải Dương rằng:

– Nhà ngươi đến đây có việc gì,

Giải Dương nói:

– Tôi phụng mệnh chúa công tôi đến dụ nước Tống cứ cố sức chống giữ để đợi quân cứu viện.

Sở Trang vương nói:

– Ngày trước nhà ngươi đã bị tướng nước ta là Vĩ Giả bắt được, ta đã không nỡ giết mà tha cho về, nay nhà ngươi lại chui đầu vào lưới thế là nghĩa lý gì, nhà ngươi thử nói ta nghe !

Giải Dương nói:

– Tấn và Sở là cừu địch, thì tôi bị giết là phải lắm, còn nói gì !

Trang vương khám trong mình GIải Dương, bắt được đạo văn thư, liền mở ra xem, xem xong bảo rằng:

– Kinh thành nước Tống, chẳng qua chỉ nay mai thì ta sẽ phá vỡ mà thôi, bây giờ nhà ngươi phải nói trái lại những lời đã viết trong văn thư mà bảo nước Tống rằng: “Nước Tấn ta ngày nay có nhiều việc cần kíp, không thể nào sang cứu nước Tống được, sợ để cho nước Tống phải mong đợi mãi thì lỡ công việc, vậy chúa công tôi có sai tôi đến nói cho nước ngươi biết !”Như thế thì người nước Tống không còn mong đợi gì nữa, tất phải ra hàng, nhân dân hai nước sẽ tránh khỏi được vạ chiến tranh khổ sở.Khi việc đã thành rồi, ta sẽ trọng thưởng nhà ngươi và cho làm quan ở nước Sở ta.

Giải Dương cùi đầu nín lặng, không nói gì cả.Sở Trang vương nói:

– Nếu nhà ngươi không nghe lời thì ta sẽ chém đầu.

Giải Dương vốn không muốn nghe lời, nhưng sợ mình chết ở trong đám quân Sở thì không có ai đem lời vua Tấn mà truyền báo cho nước Tống biết, mới gỉa cách xin vâng mệnh.Sở Trang vương để Giải Dương đứng ở trên xe, bắt phải ra truyền bão cho người nước Tống.Giải Dương liền gọi người nước Tống mà bảo rằng:

– Ta là sứ nước Tấn, tên gọi Giải Dương, bị quân Sở bắt được, bảo ta dụ nước ngươi ra hàng, nhưng nước ngươi chớ nghe, chúa công ta sắp sửa đem đại binh đến cứu đó !

Sở Trang vương nghe tiếng, liền sai lôi xuống mà mắng rằng:

– Nhà ngươi đã nhận với ta mà lại bội ước thế là ngươi thất tín, chớ trách ta tàn ác.

Sở Trang vương truyền cho vũ sĩ đem Giải Dương ra chém.Giải Dương chẳng sợ hải chút nào cả, thong dong mà đáp rằng:

– Sao đại vương lại bảo là tôi thất tín ! Nếu tôi theo lời đại vương thì lại thất tín với nước Tống tôi lắm.Giả sử nước Sở có người bề tôi nào ăn lễ của nước khác mà trái lời đại vương thì đại vương cho là người biết thủ tín hay sao?Tôi xin chịu chết để tỏ ra rằng chữ tín của nước Sở là ở bên ngoài chứ không ở bên trong !

Sở Trang vương khen rằng:

– Nhà ngươi là một trung thần không sợ chết !

Nói xong, liền tha cho về.Hoa Nguyên nghe thấy Giải Dương nói là quân Tấn sắp sửa sang cứu, lại càng cố sức chống cự với quân Sở.Công tử Trắc (tướng nước Sở )sai quân sĩ làm một cái chòi cao ở phía ngoài thành nước Tống mà ở phía ngoài thành nước Tống mà ở, để dứng trên nhìn vào trong thành, xem tình hình nước Tống.Hoa nguyên cũng làm một cái chòi ở phía trong thành để nhìn ra.Hai bên giữ nhau từ tháng chín năm trước đến tháng năm năm sau, trong thành nước Tống, lương thực hết sạch cả, nhiều người bị chết đói.Hoa Nguyên đem những lời trung nghĩa khuyên bão kẻ dưới, người nước Tống đều cảm động mà khóc đổi con cho nhau mà ăn, lượm lặt xương người chết mà nấu.

Sở Trang vương không biết làm thế nào.Quân sĩ lại tâu rằng:

– Lương thực trong dinh, chỉ còn bảy ngày nữa thì hết.

Sở Trang vương nói:

– Ta không ngờ nước Tống mà đánh khó như thế.

Nói xong, liền đứng lên trên xe để xét xem tình hình quân sĩ nước Tống, thì thấy quân sĩ giữ thành rất nghiêm chỉnh.Sở Trang vương bèn thở dài, rồi triệu công tử Trắc để bàn việc rút quân về.Thân Tề (con Thân Vô Úy )sụp lạy, trước xe Sở Trang vương, khóc mà nói rằng:

– Cha tôi liều chết để phụng mệnh đại vương, nay đại vương lại thất tín với cha tôi hay sao !

Sở Trang vương có ý hổ thẹn.Thân THúc THời bấy giờ đang cầm cương trên xe Sở Trang vương, mới hiến kế rằng:

– Nước Tống không chịu hàng là vì biết chừng quân ta không ở lâu được, nếu ta truyền cho quân sĩ làm nhà ở, và cầy ruộng để lấy thóc ăn, tỏ cho nước Tống biết là quân ta còn ở đây lâu thế thì nước Tống tất sợ mà phải đầu hàng.

Sở Trang vương khen phải, truyền cho quân sĩ đi đốn gỗ làm nhà ở xung quanh thanéh.Trong mười ngươì thì để năm người vây thành, còn năm người cày ruộng, cứ mười ngày lại thay đổi nhau một lần.Hoa Nguyên nghe thấy tin ấy, nói với Tống Văn công rằng:

– Quân Sở không có ý rút về mà quân Tấn cũng không thấy đến cứu, biết làm thế nào, âu là tôi xin lẻn vào dinh quân Sở để hiếp công tử Trắc, bắt phải cho giảng hoà thì họa chăng mới được việc.

Tống Văn công nói:

– Nước ta còn hay mất, quan hệ ở việc này lắm, tướng quốc phải cẩn thận mới được!

Hoa Nguyên dò biết là công tử Trắc vẫn ngủ ở trên chòi cao, lại dò biết hết cả họ tên những người thị vệ của Sở Trang vương. Đêm hôm ấy Hoa Nguyên thay hình đổi dạng làm người thị vệ, dòng dây xuống thành, lẻn đến dinh quân Sở.Gặp quân Sở đang đi tuần, Hoa Nguyên hỏi rằng:

– Quan nguyên soái có ở trên chòi không?

Quân Sở nói:

– Có !

Hoa nGuyên lại hỏi:

– Ngài đã ngủ chưa,

Quân Sở nói:

– Mấy ngày hôm nay, ngài khó nhọc quá, hôm nay đại vương ban cho một thẩu rượu, ngài uống xong đã đi nghĩ rồi !

Hoa Nguyên vội trèo thẳng lên trên chòi.Quân Sở ngăn lại Hoa Nguyên nói:

– Hôm nay đại vương có việc cơ mật, cần phải dặn bảo quan nguyên soái, mới rồi lại có cho quan nguyên soái uống rượu, đại vương sợ quan nguyên soái uống rượu mà ngủ quên đi mất, nên phải sai tôi đến đây để dặn lại cho thất cặn kể rồi về nói ngay cho đại vương biết.

Quân Sở tưởng thực, để cho Hoa Nguyên trèo lên.Trên chòi đèn thấp còn sáng, công tử TRắc cởi áo, nằm ngủ đã say, Hoa Nguên trèo ngay lên giường nắm se sẽ lấy tay lay công tử Trắc.Công tử Trắc tỉnh dậy, bị Hoa nGuyên nắm lấy hai cánh tay.Công tử Trắc vội vàng hỏi:

– Ai thế này?

Hoa Nguyên nói sẽ mà đáp rằng:

– Nguyên soái chớ sợ ! Tôi là Hoa Nguyên nước Tống đây ! Tôi phụng mệnh chúa công tôi lên sang đây để xin giảng hòa nếu quan nguyên soái nghe lời thì hai nước cùng nhau đời đời giao hiếu, nhươc bằng quan nguyên soái không nghe thì tôi và nguyên soái cùng chết đêm nay.

Hoa Nguyên tay trái giữ lấy công tử Trắc, tay phải rút một con dao nhọn ở trong mình ra.Trong dưới bóng đèn, thấy lưỡi dao sáng quắc, công tử Trắc vội vàng đáp rằng:

– Có việc thì thương lượng với nhau, cần gì mà phải thô lỗ.

Hoa nguyên rụt lưỡi dao lại mà xin lỗi rằng:

– Nguyên soái chớ lấy làm lạ ! Vì sự thế gấp quá, cho nên tôi phải làm như vậy.

Công tử Trắc nói:

– Tình hình nước Tống bây giờ thế nào?

Hoa Nguyên nói:

– Chẳng nói giấu gì nguyên soái, nước tôi đổi con cho nhau mà ăn, nhặt xương người mà nấu, cùng khốn lắm rồi !

– Tình hình nước Tống đã đến nỗi cùng khốn quá như vậy kia à?Sao nhà ngươi lại chịu đem thực tình mà báo cho ta biết?

Hoa Nguyên nói:

– NGười quân tử thấy người ta cùng khốn thì có lòng thương, tôi chắc quan nguyên soái là người quân tử, vậy nên tôi không dám giấu.

Công tử Trắc nói:

– Thế thì vì cớ gì mà nước Tống còn không chịu đầu hàng?

Hoa Nguyên nói:

– Tình hình nước tôi dẫn cùng khốn, nhưng chí khí dân nước tôi vẫn chưa sờn, cho nên vua và dân nước tôi cố sức chống giữ, thà rằng cùng chết với nhau, còn hơn cái nhục đầu hàng ở dưới chân thành.Nếu quan nguyên soái có lòng thương dân mà rút quân ra ngoài ba mươi dặm, thì chúa công tôi cũng xin một lòng thần phục quý quốc, không bao giờ dám trái lời.

Công tử Trắc nói:

– Ta cũng chẳng dấu gì nhà ngươi, quân Sở ta cũng chỉ còn có lương ăn trong bảy ngày mà nước người không đầu hàng thì quân Sở cũng phải rút về thôi.Mới rồi, ta sai quân sĩ làm nhà ở và cày ruộng, là lập kế khiến cho nước ngươi sợ đó mà thôi.Sáng mai ta tâu với vua Sở lui quân ba mươi dặm, vua tôi nhà ngươi chớ có thất tín.

Hoa Nguyên nói:

– Tôi xin cùng với Nguyên soái ăn thề, hai bên đều không sai lời nhau !

Công tử Trắ cùng Hoa Nguyên ăn thề xong, lại xin kết nghĩa anh em.Công tử Trắc lấy một chiếc lệnh tiễn trao cho Hoa Nguyên, dặn phải đi mau.Hoa Nguyên có chiếc lệnh tiễn ấy thì cứ công nhiên đi thẳng đến dướu thành, làm ám hiệu cho trên thành thả dây xuống rồi kéo l ên, đi thẳng vào trong cung, đem lời công tử Trắc tâu với Tống Văn công.Sáng hôm sau, công tử Trắc cũng đem lời Hoa Nguyên thuật lại cho Sở Trang vương nghe, và tâu rằng:

– Xuýt nữa thì mệnh tôi chết về lưỡi dao của Hoa Nguyên đêm hôm qua rồi, may mà Hoa Nguyên có lòng nhân từ đem tình hình trong nước bảo thực với tôi và xin tôi rút quân, tôi đã nhận lời rồi, xin đại vương xuống chỉ.

Sở Trang vương nói:

– Nước Tống cùng khốn như thế, ta nên cố đánh cho kỳ được !

Công tử Trắc sụp lạy mà tâu rằng:

– Quân ta chỉ còn có lượng ăn trong bảy ngày, tôi đã trót bảo thực với Hoa Nguyên rồi.

Trang vương nổi giận mà nói rằng:

– Sao nhà ngươi lại nói thực với quân giặc?

Công tử Trắc nói:

– Một nươc Tống nhỏ mọn như vậy, còn có người bề tôi không chịu nói dối, huống chi đường đường nước Sở ta mà lại không có người bề tôi như thế hay sao !

Trang vương nguôi cơn giận mà bảo rằng:

– Quan tư mã nói phải lắm!

Trang vương bèn hạ lệnh rút quân, ra đóng ở ngoài ba mươi dặm.Thân Tề thấy Trang vương đã hạ lệnh rút quân về, không dám ngăn trở, nhưng vật mình ôm bụng mà kêu khóc.Trang vương sai người khuyên bảo Thân Tề rằng:

– Nhà ngươi chớ phiền ! Thế nào ta cũng làm cho tỏ được lòng hiếu của nhà ngươi !

Hoa Nguyên phụng mệnh Tống Văn công đến dinh quân Sở để làm tờ giao ước.Công tử Trắc theo Hoa Nguyên vào thành nước Tống, cùng với Tống Văn công ăn thề.Tống Văn công sai Hoa Nguyên đưa linh cửu Thân Chu sang trả quân Sở và sang ở lại nước Sở đế làm tin.Sở Trang vương rút về nước Sở, làm lễ an táng cho Thân Chu rất trọng thể.Các quan trong triều đều đi đưa tất cả.Sở Trang vương lại cho Thân Tề được nối chức cha làm quan đại phu.Hoa Nguyên ở nước Sở, chơi thân với công tử Trắc và nhân đó lại kết giao với công tử Anh Tề.

Một hôm hai người ngồi chơi với nhau, bàn đến thời sự, công tử Anh Tề thở dài mà than rằng:

– Nay Tấn và Sở tranh nhau, binh hoà liên miên biết bao giờ cho thiên hạ được thái bình !

Hoa Nguyên nói:

– Tôi nghĩ đang khi Tấn và Sở tranh nhau, không bên nào chịu thua, như bây giờ nếu được một người đứng lên nói cho hai bên giảng hòa với nhau, các nước phụ thuộc của hai bên nào thì triều cống về bên ấy, rồi cùng nhau yên nghĩ, khiến cho nhân dân trách khỏi lầm than khổ sở, như thế cũng chẳng may cho đời lắm ru !

Công tử Anh Tề nói:

– Việc ấy nhà ngươi có làm nổi hay không?

Hoa Nguyên nói:

– Ta có giao du với tướng quân nước Tấn là Loan Thư, năm trước tôi sang sứ nước Tấn, Loan Thư cũng có nói đến việc ấy, tiếc rằng không có ai ở giữa mà liên hợp hai nước với nhau được.

Ngày hôm sau, công tử Anh Tề đem lời Hoa Nguyên nói với công tử Trắc.Công tử Trắc nói:

– Hai nước còn chưa chán sự tranh chiến, việc ấy đã bàn đến thế nào được.

Hoa Nguyên ở Sở đã được sáu năm thì Tống Văn công (Bão)chết, con là Tống Cung công(Cố)lên nối ngôi.Hoa Nguyên mới về nước Tống để chịu tang.

Lại nói chuyện Tấn Cảnh công nghe tin quân Sở vây quân Tống đã hơn một năm, mới bảo Bá Tôn rằng:

– Nước Tống cố giữ được như vậy, cũng đã mỏi mệt lắm rồi, ta chớ nên thất tín, phải đem quân đi cứu mới được;

Tấn Cảnh công đem quân đi cứu Tống.Bỗng nghe báo có sứ nước Lộ đưa mật thư đến.Nguyên xưa nước Lộ tức là một giống Xích Địch, ở tiếp giáp với nước Lê, đến đời Chu Bình vương, vua nước Lộ đuổi vua nước Lê mà chiếm lấy đất, từ đó mỗi ngày một cường thịnh.Bấy giờ vua nước Lộ tên gọi Anh Nhi , lấy người chị Tấn Cảnh công là Bá Cơ làm phu nhân.Anh Nhi hèn yếu, quan tướng quốc là Phong Thư chuyên quyền, khi trước có Hồ Xạ Cô là công thần nước Tấn trốn sang ở nước Lộ, Phong Thư còn e sợ, không dám hoành hành lắm, từ lúc Hồ Xạ Cô chết rồi, Phong THư không còn e sợ ai cả, muốn cho vua Lộ tuyệt giao với Tấn, liền vu tội cho Bá Cơ, bảo vua nước Lộ giết đi.

Một hôm, Phong Thư cùng với vua nước Lộ (tức là Anh Nhi) đi săn ở ngoài cõi, nhân khi uống rượu say, thinhau bắn chim, Phong Thư bắn sẩy tay khiến vua nước Lộ bị thương ở mắt.Phong thư ném cung xuống đất, cười mà nói rằng:

– Tôi bắn không trúng nên phạt một chén rượu.

Vua nước Lộ không thể nhịn được, nhưng liệu sức mình không làm gì nổi Phong Thư mới làm tờ mật thư đưa sang nước Tấn, xin nước Tấn đem quân sang hỏi tội Phong Thư.Mưu thần nước Tấn là Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng:

– Nay ta giết Phong Thư, chiếm lấy đất nước Lộ và cả mấy nước xung quanh nữa thì phía tây nam nước Tấn ta mỗi ngày một mở rộng, cơ hội ấy chớ nên bỏ phí !

Tấn Cảnh công cũng giận vua nước Lộ về việc giết vợ là Bá Cơ (chị Tấn Cảnh công), mới sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng.Nguy Khóa (con Ngụy Thù) làm phó tướng, đem quân đi đánh nước Lộ.Phong Thư đem quân ra đất Khúc Lương để chống cự với quân Tấn, bị quân Tấn đánh thua, bỏ chạy sang nước Vệ.Vệ Mục công (Tốc) đang củng với nước Tấn giao hiểu, liền bắt Phong Thư đưa sang nộp quân Tấn.Tuân Lâm Phủ sai giải Phong Thư về Giáng Đô(kinh thành nước Tấn)mà giết đi.Quân Tấn kéo thẳng vào kinh thành nước Lộ.Vua nước Lộ là Anh Nhi ra đón.Tuân Lâm Phủ ra đón.Tuân Lâm Phủ kể tội Anh Nhi giết oan Bá Cơ , rồi bắt đem về nước Tấn, lại mượn cớ, dân nước Lê nhớ vua cũ, liều tìm con cháu vua nước Lê, daađp thành cho ở một chỗ, tiếng là khôi phục nước Lê, kỳ thực là dể diệt nước Lộ.Vua nước Lộ là Anh Nhi nghĩ đến nước mà thương xót, rồi tự vẫn chết.Người nước Lộ lập đền thờ.Tấn Cảnh công sợ Tuân Lâm Phủ chưa đánh được nước Lộ, mới đem đại binh đóng ở Tắc Sơn để tiếp ứng.

Khi Tuân Lâm Phủ đánh được nước Lộ rồi, đến Tắc Sơn báo tin thắng trận, mới lưu phó tướng là Ngụy Khóa ở lại nước Lộ, để giữ lấy nước ấy.Bỗng có một tóan quân kéo đến nước Lộ, hỏi ra mới biết là đại tướng nước Tấn tên gọi là Đỗ Hồi.Nguyên từ khi Tần Khang công chết, con là Tấn Cung công (Đạo)nối ngôi, nhân việc Triệu Xuyên sang đánh Sùng, là một nước phụ thuộc của Tần, bởi vậy Tần mới kết giao với Phong Thư để chống nhau với Tấn. Được bốn năm thì Tần Cung công chết, con là Tần Hoàn công (Vinh) lên nối ngôi, bấy giờ, bấy giờ đang là năm thứ mười một đời Tần Hoàn công, nghe tin nước Tấn sang đánh Phong Thư, Tần toan đem quân đến cứu, nhưng lại nghe tin nước Tấn đã giết Phong Thư và bắt vua nước Lộ, Tần bèn sai Đỗ Hồi đem quân sang để tranh lấy địa giới nước Lộ.

Đỗ Hồi vốn là một người lực sĩ đã có danh tiếng ở nước Tần, hàm răng nhọn hoắt, khóe mắt tròn xoe, tay cứng như đồng, mặt đen tựa sắt, râu xòm tóc quăn, mình cao hơn trượng, lại có sức khỏe, vẫn thường cầm một cái búa khai sơn, nặng một trăm hai mươi cân.Nguyên Đỗ Hồi thuộc giống Bạch Địch, khi trước đã có một lần ở Thanh My sơn Đỗ Hồi đâm chết luôn ba con hổ, rồi lột da đem về, Tần Hoan công nghe nói là người vũ dũng, cho lamé xa hữu tướng quân, lại một lần nữa, Đỗ Hồi chỉ đem b atrăm người mà phá vỡ được hơn một vạn giặc cướp ở Xa Nga Sơn, bởi vậy uy danh mỗi ngày một lừng lẫy, thân làm đến đại tướng.

Ngụy Khỏa thấy Đỗ Hồi đem quân đến, tức khắc bày trận để đợi giao chiến. Đỗ Hồi tay cầm búa khai sơn, đem ba trăm quân đến tận nơi, chém giết quân Tấn, khác nào như một vị thiên thần giáng hạ.Quân Tấn sợ hải, bỏ chạy tán loạn.Ngụy Khỏa vội vàng rút quân vào trại, rồi giữ thế thủ, không dám ra đánh nữa. Đỗ Hồi đến khiêu chiến luôn trong ba ngày mà Ngụy Khỏa nhất định không ra.Bỗng nghe báo có tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ(em Ngụy Khỏa) đem quân đến tiếp ứng.Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng:

– Chúa công sợ bọn Xích Địch kết liên với nước Tần mà sinh biến, vậy có sai tôi đến đây để tiếp ứng.

Ngụy Khỏa thuật lại những chuyện vũ dũng của tướng nước Tần là Đỗ Hồi cho là không ai địch nổi.Ngụy Kỳ không tin, nói rằng:

– Làm gì đám giặc cỏ ấy !Ngày mai tôi r atrận, thế nào cũng quyết đánh tan được !

Ngày hôm sau, Đỗ Hồi lại đến khiêu chiến.Ngụy Kỳ tức giận, toan xông ra đánh.Ngụy Khỏa cố ý ngăn lại.Ngụy Kỳ không nghe, đem quân ra giao chiến với Đổ Hồi. Đổ Hồi lại múa búa khai sơn, tả xung hữu đột, chém chết quân Tấn.Ngụy Kỳ thua to, may nhờ có Ngụy Khỏa đem quân ra tiếp ứng, mới về được trong trại. Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa đang ngồi trong trại, ngh’ quanh nghĩ quẩn, không biết dùng mưu kế gì, đang mơ mơ mòng mòng, bỗng nghe tiếng người ghé vào tai mà đọc ba tiếng: “Thanh Thảo bi”, đến lúc tỉnh dậy, không hiểu là nghĩa làm sao, mà chợp mắt ngủ đi thì lại thấy như trước, bèn đem chuyện nói với Ngụy Kỳ.

Ngụy Kỳ nói:

– Cách đây độ mười dặm, có một cái bãi cỏ, tên gọi “Thanh Thảo bi”hay là quân Tần sau này tất sẽ phải thua trận ở đấy chăng, vậy tôi xin đem một toán quân đến đó mai phục sẵn, rồi anh lập kế đem quân giặc đến, hai bên cùng đánh thì mới phá vỡ được.

Ngụy Kỳ liền đem quân đến mai phục sẵn ở Thanh Thảo bi.Ngụy KHỏa giả cách thua chạy, dụ Đỗ Hồi đến gần Thanh Thảo bi.Quân mai phục của Ngụy Kỳ ở hai bên đổ ra, cùng với Ngụy Khỏa vây chặt lấy Đỗ Hồi. Đổ Hồi chẳng sợ hải chút nào cả, vẫn cầm búa khai sơn, tả xung hữu đột, dần dần tiến đến phía Thanh Thảo bi.Bỗng thấy Đổ Hồi mỗi bước lại ngã một cái, khác nào như người trượt nước băng.Quân Tấn thấy vậy, reo ầm cả lên.Ngụy Khỏa ngừng trông, thấy một ông lão già, mình mặc áo vải, chân đi giày đay, đang kết những dây cỏ lại, để làm cho vướng chân Đỗ Hồi.Quân Đỗ Hồi thấy chủ tướng bị bắt, đều bỏ chạy tán loạn cả, bị quân Tấn đuổi bắt, số ba trăm người chỉ trốn thóat được độ bốn năm chục người mà thôi.

Ngụy Khỏa hỏi Đỗ Hồi rằng:

– Ngươi cậy có sức khỏe, cớ sao cũng để bị bắt thế này?

Đỗ Hồi nói:

– Không biết hai chân ta vướn gphải vật gì mà thành ra khó cử động quá. Đó là trời hại ta, chứ không phải sức ta không đánh nổi.

Ngụy Khỏa nghĩ lấy làm lạ.Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng:

– Đỗ Hồi đã có sức khoe, nếu ta để y sống thì e sẽ sinh biến.

Ngụy Khỏa nói:

– Ý ta cũng nghĩ như vậy !

Nói xong, truyền chém Đỗ Hồi, rồi đem đầu về Tắc Sơn nộp Tấn Cảnh công để lấy công. Đêm hôm ấy, Ngụy Kỳ nằm ngủ, lại thấy ông lão già ngày hôm trước đến mặt vái chào mà nói rằng:

– Tướng quân có biết vì cớ gì mà Đổ Hồi bị bắt hay không? Vì tôi kết cỏ lại để làm cho Đổ Hồi vướng chân mà ngã đó.

Ngụy Khỏa kinh sợ , nói rằng:

– Tôi chưa được biết cụ bao giờ, sao cụ lại giúp tôi như vậy, tôi biết lấy gì mà trả ơn cụ?

Ông lão già nói:

Nàng tiếp cận hắn, sát cánh hóa giải bao vụ án, đâu ngờ thân thế và mục đích của nàng có nhiều uẩn khúc

Bị cô lập trong chính GĐ mình, cô gai góc với thế giới nhưng lại là công chúa nhỏ của riêng anh

Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa, nàng vừa chạy thoát gã đàn ông đáng chết, thì lại đúng trúng một kẻ vô lại hơn!

Nổi máu anh hùng cứu cô một lần, 3 năm sau, tình cờ gặp lại, hai từ duyên phận dường như trở nên càng trớ trêu
– Tôi là thân phụ nàng Tổ Cơ.Tướng quân biết theo lời dặn sáng suốt của tiền nhân mà gả chồng cho con gái tôi, vậy tôi cảm cái ơn ấy, đến đây để giúp tướng quân.Sau này con cháu tướng quân được đời đời vinh hiển mãi.

Nguyên xưa thân phụ Ngụy Khỏa là Ngụy Thù có một người thiếp yêu, tên gọi Tổ Cơ.Mỗi khi Ngụy Thù đi đánh giặc lại dặn Ngụy Khỏa rằng:

– Nếu ta ra trận mà chết đi, mày nên cho Tổ Cơ đi lấy chồng được nơi xứng đáng, khiến Tổ Cơ có chổ nương tựa, chớ để cho hắn phải khổ sở thì ta dẫu chết cũng được yên lòng !

Đến lúc Ngụy Thù ốm nặng, lại dặn Ngụy Khỏa rằng:

– Tổ Cơ là người thiếp yêu của ta;khi ta chết rồi, mày phải đem nàng ấy chôn theo ta, cho ta ở dưới suối vàng có người bầu bạn.

Nói xong thì chết.Ngụy Khỏa an táng cho cha, nhưng lại không bắt Tổ Cơ chôn theo.Ngụy Kỳ nói:

– Anh không nhớ lời cha dặn lúc gần mấy hay sao?

Ngụy KHỏa nói:

– Thân phụ ta lúc thường vẫn dặn ta sau này gã chồng cho Tổ Cơ, đến lúc gần mất, lại dặn phải đem nàng đem chôn theo, đó chỉ là lời dặn lúc mê hoảng mà thôi, người hiếu tử nên theo lời dặn của cha khi còn sáng suốt, chớ theo lời trối khi lúc mê hoảng.

Về sau, Ngụy Khỏa gả Tổ Cơ cho một nho sĩ.Vì NGụy Khỏa có âm đức ấy, cho nên linh hồn thân phụ Tổ Cơ mới hiện lên kết cỏ lại để báo ơn.Ngụy Khỏa thuật chuyện chiêm bao cho NGụy Kỳ nghe.Ngụy Kỳ lấy làm chuyện lạ lùng.

Vua tôi nước Tần nghe tin Đổ Hồi thua trận, đều sợ hãi mất vía.Tấn Cảnh công thưởng cho Ngụy Khỏa đất Linh Hồ, để làm thái ấp, lại đúc một quả chuông để ghi công thắng trận.Vì quả chuông là “Cảnh chung”.Tấn Cảnh công lại sai Sĩ Hội đem quân đi diệt nước Điền Thị, nước Lưu Vu và nước thuộc Lưu Vu là nước Đạc Thần.Mấy nước ấy đều là của người Xích Địch, từ đó đất đai Xích Địch đều thuộc về nước Tấn tất cả.

Bấy giờ nước Tấn mất mùa, trộm cướp nổi lên như ong.Tuân Lâm Phủ dùng được một người có tài dò xét kẻ trộm, người ấy tên gọi Khước Ưng.KHước Ưng thường ra chơi chợ, trỏ vào ai mà bảo là kẻ trộm; đem bắt về tra hỏi thì quả nhiên là kẻ trộm thật.Tuân Lâm Phủ hỏi Khước Ưng rằng:

– Tại sao nhà ngươi lại biết được như vậy?

KHước Ưng nói:

– Tôi trong con mắt người ấy, khi thấy hàng hóa ở chợ thì có ý tham, thấy người ở chợ thì có ý thẹn, sao thấy tôi tới nơi thì có ý sợ, bởi thế mà tôi biết đích là kẻ trộm.

Khước Ưng mỗi ngày bắt được mấy chục đứa kẻ trộm, nhưng số kẻ trộm lại càng ngày càng nhiều.Quan đại phu là Dương Thạch Chức nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Nguyên Soái dùng Khước Ưng để bắt trộm, nhưng tôi e rằng kẻ trộm chưa bắt được hết mà KHước Ưng đã chết đến nơi !

Tuân Lâm Phủ giật mình kinh sợ hỏi rằng:

– Sao thế?

Chương 56: Tề Khoảnh Công bày cuộc mua cười – Phùng Sửu Phủ thay hình cứu chủ

Tuân Lâm Phủ dùng Khước Ung để bắt kẻ trộm, Dương Thạch Chức biết là tất có kẻ sẽ giết chết Khước Ung, bèn nói với Tuân Lâm Phủ . Tuân Lâm Phủ hỏi cớ làm sao, Dương Thạch Chức nói:

– Khước Ung cậy có tài dò xét, nhưng một mình không thể bắt hết được kẻ trộm; thế nào rồi đây kẻ trộm cũng bày mưu lập kế để hại Khước Ung, còn gì mà không chết!

Được ba ngày nữa, Khước Ung đang đi chơi, bị một lũ mấy mươi đứa kẻ trộm túm lại đánh chết; chúng cắt đầu Khước Ung đem đi mất . Tuân Lâm Phủ lo lắm, cũng ốm nặng mà chết . Tấn Cảnh công nghe thấy Dương Thạnch Chức khi trước có nói với Tuân Lâm Phủ về việc Khước Ung, mới triệu vào mà hỏi rằng:

– Nhà ngươi đã đoán trước được việc Khước Ung, vậy thì nhà ngươi có biết dùng mưu kế gì mà dẹp yên được lũ trộm cắp kia không ?

Dương Thạch Chức nói:

– Dùng mưu trí mà trị kẻ trộm khác nào lấy đá chặn xuống cỏ, cỏ vẫn mọc lách vào khe đá được; dùn vũ lực mà trị quân trộm, khác nào lấy đá mà chọi với đá, hai bên tất cùng phải vỡ . Nay muốn dẹp yên quân trộm thì phải làm thế nào khiến chúng biết liêm sĩ, chứ bắt nhiều cũng không ích gì! Xin chúa công tôn trọng những thiện nhân ở trong triều, khiến cho kẻ bất thiện trông thấy mà biết sửa đổi, như thế thì lo gì chẳng có ngày dẹp yên được quân trộm .

Tấn Cảnh công lại hỏi rằng:

– Thiện nhân nước Tấn ta ngày nay, ai là hơn cả, nhà ngươi thử nói cho ta biết .

Dương Thạch Chức nói:

– Không ai bằng Sĩ Hội . Sĩ Hội là người tín nghĩa, ôn hoà mà không nhu nhược, uy nghiêm mà không dữ tợn, chúa công nên dùng .

Đến lúc Sĩ Hội có công dẹp được mấy nước thuộc về giống Xích Địch, thì Tấn Cảnh công tâu với Chu Định vương . Chu Định vương cho Sĩ Hội phẩm phục chức thượng khanh, Sĩ Hội được thay quyền Tuân Lâm Phủ, lại kiêm chức thái phó, được phong ở đất Phạm, sau thành ra tổ họ Phạm . Sĩ Hội đem những khoa điều bắt trộm, xóa bỏ tất cả, chỉ chuyên đem giáo hóa mà khuyên dân làm điều thiện, từ bấy giờ bai nhiêu quân trộm nước Tấn đều trốn sang nước Tần, nước Tấn mỗi ngày một cường thịnh . Tấn Cảnh công lại có ý muốn làm bá chủ . Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng:

– Đời Văn công ta hội chư hầu ở Tiền Thổ, đến đời Tương công ta hội chư hầu ở Tân Thành, chư hầu đều một lòng theo Tấn cả . Từ khi ta thất tín ở Lịnh Hồ, thành ra tuyệt giao với Tấn; đến lúc Tề, Tống có kẻ giết vua mà ta không sang hỏi tội, bởi vậy các nước ở Sơn Đông mới khinh nước Tấn ta mà theo Sở . Sau nước Sở đánh Trịnh và Tống, ta cũng không sang cứu, thành ra Trịnh và Tống lại theo Sở nốt; chỉ còn mấy nước nhỏ như Vệ, Tào là theo Tấn mà thôi . Nay chúa công muốn làm bá chủ, tất phải kết thân với nước Lỗ và nước Tề rồi rình xem nước Sở có biến cố gì, ta sẽ thừa cơ sang đánh mới có thể đắc chí được .

Tấn Cảnh công khen phải, liền sai thượng quân nguyên sóai là Khước Khắc đem nhiều lễ vật sang sứ nước Lỗ và nước Tề .

Lỗ Tuyên công cảm cái ơn Tề Huệ công định vị cho mình, bởi vậy thường sai người sang sính lễ nước Tề; đến đời Tề Khoảnh công (Vô Giá) lên nối ngôi, nước Lỗ vẫn theo lệ cho người sang sính lễ . Khước Khắc phụng mệnh Tống Cảnh công sang sứ nước Lỗ, rồi cáo từ Lỗ Tuyên công sang sứ nước Tề . Lỗ Tuyên công nhân tiện đến kỳ sang sính lễ nước Tề, mới sang quan thượng khanh là Quý Tôn Hàng Phủ cùng đi với Khước Khắc .

Khi Khước Khắc cùng Quý Tôn Hàng Phủ sang đến nước Tề, thì vừa gặp có sứ nước Vệ là Tôn Lương Phu và sứ nước Tào là công tử Thủ, cũng sang sính lễ nước Tề . Sứ thần bốn nước cùng vào triều kiến Tề Khoảnh công và dâng lễ vật . Tề Khoảnh công trông thấy hình dáng bốn vị sứ thần, nghĩ thầm lấy làm quái lạ, mới nói với bốn vị sứ thần rằng:

– Xin mời các ngài về nghỉ ở nhà công quán, rồi ngày mai cùng dự tiệc cho vui!

Sứ thần bốn nước cáo từ lui ra . Tề Khoảnh công vào cung, trông thấy mẹ là Tiêu Thái phu nhân, vẫn hãy còn nhịn cười không được . Nguyên Tiêu Thái phu nhân là con gái Tiêu Quân, kết duyên với Tề Huệ công . Khi Tề Huệ công chết rồi, Tiêu Thái phu nhân ngày đêm thương khóc . Tề Khoảnh công là người có hiếu, việc gì cũng cố làm cho mẹ được vui lòng . Phàm những chuyện buồn cười ở chốn dân thôn, đều thuật lại cho mẹ nghe, để cho mẹ được tươi cười vui vẻ . Hôm ấy, Tề Khoảnh công cứ cười ngặt nghẽo mà không nói là việc gì . Tiêu Thái phu nhân hỏi rằng:

– Có chuyện gì mà con vui cười như vậy ?

Tề Khoảnh công nói:

– Hôm nay có một chuyện rất quái lạ là: Tấn, Lỗ, Vệ, Tào bốn nước đều sai sứ thần đến sính lễ nước ta, mà sứ thần nước Tấn là Khước Khắc thì chột, chỉ nhìn được bằng một mắt mà thôi; sứ thần nước Lỗ là Qúy Tôn Hàng Phủ thì hói, trên đầu chẳng có một sợi tóc nào; sứ thần nước Vệ là Tôn Lương Phu thì khiễng chân, một bên cao và một bên thấp; sứ thần nước Tào là công tử Thủ thì gù lưng, mặt cúi xuống đất . Con thiết tưởng người ta có tật là thường, nhưng bốn người mỗi người một tật, mà lại cùng đến nước ta một lúc, chuyện quái lạ như vậy, tài nào chẳng phải buồn cười!

Tiêu Thái phu nhân không tin, nói rằng:

– Ta muốn xem có được không ?

Tề Khoảnh công nói:

– Cứ theo lệ thì sứ thần đến nước mình, sau khi công yến, tất có tư yến . Ngày mai con bày tiệc ở vườn hoa, mời sứ thần bốn nước vào ăn yến, tất họ phải đi qua dưới Sùng Đài; bấy giờ thân mẫu mắc màn ngồi ở trên Sùng Đài mà nom trộm phỏng có khó gì!

Khi các sứ thần cùng dự công yến xong, Tề Khoảnh công lại mời vào vườn hoa để dự tư yến . Cứ theo như lệ cũ: sứ thần chư hầu đến nước nào thì nước ấy phải cung ứng xe ngựa và người hầu, để cho kẻ tùy tùng của sứ giả được tạm nghỉ . Tề Khoảnh công chú ý muốn làm cho mẹ buồn cười, mới mặt truyền chọn lấy bốn người: một người chột mắt, một người hói đầu, một người khiễng chân va một người gù lưng để dong xe cho sứ thần bốn nước:

1. Khước Khắc (sứ thần nước Tấn) chột mắt thì lại dùng người chột mắt dong xe .

2. Qúy Tôn Hàng Phủ (sứ thần nước Lỗ) hói đầu thì lại dùng người hói đầu dong xe .

3. Tôn Lương Phủ (sứ thần nước Vệ) khiễng chân thì lại dùng người khiễng chân dong xe .

4. Công tử Thủ (sứ thần nước Tào) gù lưng thì lại dùng người gù lưng dong xe .

Quan thượng khanh nước Tề là Quốc Tá (con Quốc Qúy Phú) can rằng:

– Việc tiếp đãi sứ thần các nước là một việc lớn, nên phải kính cẩn mới được, không phải chuyện đùa!

Tề Khoảnh công không nghe . Bấy giờ sứ thần các nước đi xe qua dưới Sung Đài, thành ra một xe có hai người chột mắt, một xe có hai người hói đầu, một xe có hai người khiễng chân, và một xe nữa có hai người gù lưng . Tiêu Thái phu nhân ngồi ở trên đài mở màn ra trông, bỗng bật cười to lên . Các thị nữ hầu xung quanh cũng đều bưng miệng cười cả . Tiếng cười vang ra đến ngoài . Khước Khắc lúc mới trông thấy người dong xe chột mắt, cũng cho là sự ngẫu nhiên, không lấy làm lạ, đến lúc nghe tiếng phụ nữ ở trên đài, thì trong lòng nghi hoặc, chỉ uống qua loa mấy chén rượu, rồi cáo từ lui ra . Về đến nhà công quá, sai người hỏi xem ai ở trên đài mà cười như vậy, mới biết là Tiêu Thái phu nhân .

Được một lúc, sứ thần nước Lỗ, nước Vệ và nước Tào đều đến thuật chuyện với Khước Khắc và bảo Khước Khắc rằng:

– Nước Tề cố ý chọn người cầm cương để bỡn cợt chúng ta, mà làm trò vui cho đàn bà, thế thì còn ra nghĩa lý gì nữa!

Khước Khắc nói:

– Chúng ta vì lòng tốt mà đến sính lễ, lại bị họ làm nhục, nếu không báo thù thì sao gọi là trượng phu ?

Bọn Quý Tôn Hàng Phủ ba người đồng thanh đáp rằng:

– Nếu ngài đem quân đánh Tề thì chúng tôi xin tâu với chúa công tôi dốc hết sức nước tôi mà đánh giúp .

Khước Khắc nói:

– Các ngài đã đồng tâm như vậy thì xin cùng nhau quệt máu ăn thề .

Thề rằng: “Khi khởi binh đánh Tề, hễ ai không chịu cố sức thì quỉ thần tru diệt!”

Sứ thần bốn nước đêm hôm ấy họp nhau thương nghị suốt sáng: đến sáng hôm sau, nước nào về nước ấy, chẳng vào cáo từ với Tề Khoảnh công nữa . Quốc Tá (quan thượng khanh nước Tề) thở dài mà than rằng:

– Tai vạ nước Tề ta sinh ra từ việc này!

Bấy giờ Qúy Tôn Hàng Phủ đang cầm quyền chính nước Lỗ, từ khi đi sứ nước Tề về, mới quyết chí báo thù Tề . Nghe tin Khước Khắc nói với Tấn Cảnh công xin khởi binh đánh Tề, chỉ vì cùng với quan thái phó là Sĩ Hội không hợp ý nhau, cho nên Tấn Cảnh công chưa cho . Qúy Tôn Hàng Phủ lại càng nóng nảy, liền tâu với Lỗ Tuyên công cho người sang mượn quân nước Sở . Vừa lúc bấy giờ Sở Trang vương (Lữ) ốm chết, thế tử Thẩm nối ngôi, mới lên mười tuổi, tức là Sở Cung vương . Sở Cung vương đang có tang, mới từ chối không cho nước Lỗ mượn quân . Quý Tôn Hàng Phủ đang lúc tức giận thì bỗng có người ở nước Tấn về thuật chuyện Khước Khắc ngày đêm khuyên bảo Tấnh Cảnh công đánh Tề, nói là đánh Tề có lợi, nếu không đánh Tề thì không làm được bá chủ, bởi vậy Tấn Cảnh nghe lời . Sĩ Hội biết là không thể nói cho Khước Khắc làm trung quân nguyên soái, cầm quyền chính nước Tấn, chẳng bao lâu nữa sẽ khởi binh đi đánh . Quý Tôn Hàng Phủ mừng lắm, liền sai công tôn Quy Phủ (con Trọng Toại) sang sứ nước Tấn, hẹn ngày khởi binh . Bấy giờ họ Mạnh Tôn, Thúc Tôn và Quý Tôn ở nước Lỗ, con cháu mỗi ngày một cường thịnh . Lỗ Tuyên công lo lắm, mới nhân khi công tôn Quy Phủ sang sứ nước Tấn, mới cầm tay Quy Phủ mà dặn rằng:

– Ba họ Hoàn mỗi ngày một cường thịnh, mà nhà vua mỗi ngày một suy yếu, nhà ngươi cũng đã biết cả . Nay nhà ngươi sang sứ Tấn, nên đem sự tình nói với vua Tấn, nhờ binh lực mà trừ ba họ ấy đi thì xin mỗi năm một lần công hiến, không bao giờ dám quên ơn . Nhà ngươi phải cẩn thận, chớ tiết lộ cho ai biết .

Công tôn Quy Phủ phụng mệnh đem nhiều lễ vật sang nước Tấn, nghe nói Tấn Cảnh công đang tin yêu Đồ Ngạn Giả, cho làm quan tư khấu, mới đem lễ vật vào biếu Đồ Ngạn Giả và nói việc Lỗ Tuyên công muốn đuổi ba họ Hoàn . Đồ Ngạn Giả khi trước đắc tội với Triệu Thuẫn, mới kết giao với Long Thư và Khước Khắc rất thân mật, liền đem lời công tôn Quy Phủ nói với Loan Thư . Loan Thư nói:

– Quan nguyên soái ta (trỏ Khước Khắc) đang giao hiếu với Quý Tôn Hàng Phủ để cùng đánh Tề thì việc ấy khó lòng làm được, âu là ta thử dò ý xem sao .

Loan Thư nhân lúc thong thả, nói chuyện với Khước Khắc . Khước Khắc nói:

– Công tôn Quy Phủ muốn làm loạn nước Lỗ, ta chớ nên nghe!

Khước Khắc bèn viết một tờ mật thư sai người phi báo với Qúy Tôn Hàng Phủ ở nước Lỗ . Qúy Tôn Hàng Phủ nổi giận, nói:

– Ngày trước giết công tử Ác và công thử Thị, đều là mưu của Trọng Toại, ta đã làm ngơ, không thèm nói đến, nay con là công tôn Quy Phủ lại lập mưu để định đuổi ta, thế mới thật là nuôi hổ có ngày di hại!

Nói xong, liền lấy tờ mật thư của Khước Khắc đưa cho Thúc Tôn Kiều Như xem . Thúc Tôn Kiều Như nói:

– Chúa công không ra coi triều, đã một tháng nay, nói là đang ốm, chẳng qua chỉ là giả dối mà thôi . Bây giờ chúng ta cùng vào thăm, đến tận trước giường nằmg để hỏi xem việc này ra sao .

Thúc Tôn Kiều Như lại sai người mời Trọng Tôn Miệt đến để cùng vào một thể . Trọng Tôn Miệt từ chối nói rằng:

– Vua tôi không có phép đối chất phải trái với nhau, tôi không dám đi .

Qúy Tôn Hàng Phủ và Thúc Tôn Kiều Như lại rủ quan tư khấu là Tang tôn Hứa (con Tang Văn Trọng) cùng đi . Ba người vào đến cửa cung, nghe tin Lỗ Tuyên công ốm nặng, thì không vào yết kiến nữa, mà lại rủ nhau cùng về . Ngày hôm sau, Lỗ Tuyên công mất . Qúy Tôn Hàng Phủ lập thế tử Hắc Quang lên nối ngôi (bấy giờ mới mười ba tuổi), tức là Lỗ Thành công . Lỗ Thành công tuổi hãy còn nhỏ, việc gì cũng giao quyền cho Quý Tôn Hàng Phủ . Qúy Tôn Hàng Phủ họp các quan đại phu lại thương nghị rằng:

– Nay vua thi nhỏ, nước thì yếu, tất phải chỉnh đốn hình pháp lại mới được . Trọng Toại ngày trước giết vua nọ lập vua kia để cố ý du nịnh nước Tề, khiến ta cùng với nước Tấn bất hoà với nhau, bây giờ ta nên xét lại mà trị tội .

Các quan đại phu đều vâng dạ xin theo mệnh . Quý Tôn Hàng Phủ liền sai quan tư khấu là Tang tôn Hứa đuổi hết những tộc đảng của Trọng Toại . Khi công tôn Quy Phủ ở nước Tấn về chưa đến địa giới nước Lỗ, đã nghe tin Lỗ Tuyên công mất, Quý Tôn Hàng Phủ đang trị tội người nhà mình, tức khắc bỏ trốn sang nước Tề . Tề Khoảnh công nghe tin Lỗ cùng Tấn hợp mưu đánh Tề, thì một mặt sai người giao hiếu với Sở, còn một mặt đem quân sang đánh Lỗ, tiếp binh qua đất Bình Âm, kéo thẳng đến thành Long Ấp . Tướng nước Tề là Lư Bồ Tựu Khôi bị quân ở cửa bắc thành Long Ấp bắt được . Tề Khoảnh công sai người gọi quân Lỗ ở trên mặt thành mà bảo rằng:

– Hễ chịu trả lại Lư Bồ tướng quân tức là Lư Bồ Tựu Khôi của ta thì ta sẽ rút quân về!

Quân Lỗ không tin, giết chết Lư Bồ Tựu Khôi, đem căng xác ở trên mặt thành . Tề Khoảnh công nổi giận, truyền cho quân sĩ bốn mặt ra sức cố đánh . Khi phá vỡ được thành Long Ấp rồi, Tề Khoảnh công đem bao nhiêu người ở cửa bắc, bất cứ quân dân, đều giết chết sạch cả, để báo cái thù giết chết Lư Bồ Tựu Khôi . Tề Khoảnh công toan tiến binh thì nghe báo có tướng nước Vệ là Tôn Lương Phu đã đem quân vào địa giới nước Tề . Tề Khoảnh công nói:

– Nước Vệ rình lúc ta đem quân đi vắng mà đến xâm phạm nước ta, nay ta nên tức khắc quay về để đón đánh quân Vệ .

Tề Khoảnh công lưu một toán quân đóng giữ Long Ấp còn đại binh thì rút về phía nam . Đi đến đất Tân Trúc (đất nước Vệ) bỗng gặp quân nước Vệ . Quan phó tướng nước Vệ là Thạch Tắc nói với Tôn Lương Phu rằng:

– Ta phụng mệnh sang đánh Tề là nhân lúc vua Tề đem quân đi vắng; nay vua Tề đã về, thì ta không nên đánh vội, hãy chờ quân Tấn và quân Lỗ đến để cùng hợp sức mới có thể toàn thắng được .

Tôn Lương Phu nói:

– Ta chỉ cốt báo cái thù vua Tề cười ta khi trước, nay gặp vua Tề, có lẽ nào lại không đánh .

Tôn Lương Phu không nghe lời Thạch Tắc, đêm hôm ấy đem quân tiến sang đánh dinh quân Tề . Quân Tề biết là quân Vệ thế nào cũng lẻn đến đánh, đã phòng bị trước cả . Khi Tôn Lương Phu vào đến dinh quân Tề, thì là mộtcái dinh bỏ không . Tôn Lương Phu toan quay trở ra thì phái tả có Quốc Tá, phía hữu có Cao Cố đem quân vây kín lại . Tề Khoảnh công cũng kéo đại binh đến, quát to lên rằng:

– Thằng khiễng chân kia, liệu mà nộp đầu đi!

Tôn Lương Phu liều chết chống lại, may sao có toán quân của Ninh Tướng và Hướng Cầm đến tiếp ứng, mới chạy theo được . Tề Khoảnh công giục quân đuổi theo, lại vừa gặp có toán quân của Thạch Tắc (tướng nước Vệ) kéo đến . Thạch Tắc bảo Tôn Lương Phu rằng:

– Quan nguyên soái cứ đi trước, để mặc tôi đối địch với quân Tề .

Tôn Lương Phu vội vàng kéo quân chạy thẳng . Chạy chưa được một dặm, lại thấy ở trước mặt có một toán quân kéo đến . Tôn Lương Phu thở dài mà nói rằng:

– Ở đây mà có quân Tề mai phục, thì ta khó lòng mà sống được .

Khi gần đến nơi, có một viên tướng ngồi ở trong xe, cúi đầu chào mà nói rằng:

– Chúng tôi không biết là nguyên soái giao chiến với quân Tề, vậy nên không kịp đến tiếp ứng, xin nguyên soái tha lỗi .

Tôn Lương Phu hỏi:

– Nhà ngươi là ai ?

Viên tướng ấy đáp rằng:

– Tôi là quan trấn thủ ở đất Tân Thúc, tên gọi Trọng Thúc Vu Hề . Quân sĩ của tôi đem theo đây, cũng đủ giao chiến với Tề một trậnn, xin nguyên soái chới ngại!

Tôn Lương Phu mới được yên lòng, bảo Trọng Thúc Vu Hề rằng:

– Quan phó tướng quân Thạch Tắc còn ở phía sau, nhà người nên đem quân tiếp ứng .

Trọng Thúc Vu Hề vâng lời, liền đem quân đi ngay . Lại nói chuyện Tề Khoảnh công gặp quân Thạch Tắc, vừa toan giao chiến thì nghe báo có quân của Trọng Thúc Vu Hề đến tiếp ứng . Tề Khoảnh công sợ ở đất nước Vệ, binh lực không tiếp viện được, mới rút quân trở về . Thạch Tắc và Trọng Thúc Vu Hề cũng không đuổi theo nữa . Tôn Lương Phu thu thập quân thua, vào trong thành Tân Trúc yên nghỉ mấy ngày . Các tướng hỏi Tôn Lương Phu, xin cho biết hôm nào thì rút quân về .

Tôn Lương Phu nói:

– Ta vốn định báo thù nước Tề, nay lại bị nước Tề đánh thua, còn mặt mũi nào về trông thây chúa công ta nữa! Nay ta định sang mượn quân nước Tấn để bắt cho được vua Tề thì ta mới thoả lòng!

Tôn Lương Phu liền lưu bọn Thạch Tắc đóng quân ở Tân Trúc, còn mình thì thân hành sang nước Tấn để mượn quân . Gặp bấy giờ quan tư khấu nước Lỗ là Tang Tôn Hứa cũng sang mượn quân nước Tấn, mới cùng Tôn Lương Phu vào gặp Khước Khắc trước, rồi sau mới yết kiến Tấn Cảnh công . Trong ngoài đồng lòng, một xướng một hoạ dù Tấn Cảnh công muốn không nghe cũng không được, bèn cho Khước Khắc cử đại binh đi đánh Tề . Tang Tôn Hứa về nước Lỗ để báo trước cho Quý Tôn Hàng Phủ biết, Qúy Tôn Hàng Phủ cũng đem quân sang hội ở đất Tân Trúc . Tôn Lương Phủ lại sai người sang ước với công tử Thủ ở nước Tào . Công tử Thủ cũng đem quân đến Tân Trúc để bàn việc đánh Tề . Quân thám tử của Tề Khoảnh công nghe tin quan tư khắc nước Lỗ là Tang Tôn Hứa mượn được quân Tấn, về báo Tề Khoảnh công . Tề Khoảnh công nói:

– Nếu để cho quân giặc vào đất ta thì dân trong nước đều sợ hãi, âu là ta đem quân ra ngoài cõi để mà đón đánh .

Tề Khoảnh công bèn đem quân đi đón quân Tấn, nghe nói quân Tấn đã đóng ở núi Ma Kê, mới sai sứ sang thỉnh chiến . Khước Khắc hẹn đến ngày hôm sau thì khai chiến . Quan đại tướng nước Tề là Cao Cố nói với Tề Khoảnh công rằng:

– Nước ta cùng với nước Tấ, xưa nay chưa giao chiến bao giờ, không biết người nước Tấn bạo dạn hay là nhát gan để tôi xin sang trước, thử xem ra làm sao .

Cao Cố bèn lên xe đi thẳng sang dinh quân Tấn để khiêu chiến . Trong dinh quân Tấn có một viên tiểu tướng đi xe ra . Cao Cố cầm một miếng đá lớn, ném trúng vào đầu viên tiểu tướng ấy . Viên tiểu tướng ấy ở trên xe ngã lăn xuống . Người dong xe sợ hãi, vội vàng bỏ chạy . Cao Cố nhảy ngay lên xe của quân Tấn, tay cầm dây cương, đánh ngựa kéo thẳng về dinh quân Tề; lại đi diễu một vòng nữa, vừa đi vừa reo rầm lên rằng:

– Ai có mua sức khoẻ, ta bán bớt cho!

Quân Tề đều vỗ tay cười . Khi quân Tấn biết mà ra đuổi theo thì đã không kịp . Cao Cố vào nói với Tề Khoảnhg công rằng:

– Quân Tấn dẫu nhiều, nhưng ít người có can đảm, không có gì đánh sợ .

Ngày hôm sau, Tề Khoảnh công xông vào trong trận, truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn . Quân Tấn chết hại rất nhiều . Giải Trương (tướng nước Tấn) cánh tay bị hai mũi tên, máu chảy dòng dòng xuống bánh xe, mà vẫn cố gắng cầm cương ngựa . Khước Khắc đang đánh trống thúc quân tiến vào, cũng bị một mũi tên trúng sườn bên tả, máu chảy xuống đến tận giầy . Tiếng trống nghe đã hơi chầm chậm . Giải Trương nói:

– Dẫu bị thương, nhưng chưa đến nỗi chết thì cũng phải cố sức mà đánh .

Trịnh Khâu Hoãn (quan xa hữu nước Tấn) khen lời Giải Trương nói phải, bảo Khước Khắc rằng:

– Chết sống tại số, không can chi mà sợ hãi!

Khước Khắc lại ra sức đánh trống để thúc quân, Giải Trương giục ngựa, nhằm thẳng phía tên bắn mà tiến vào . Trịnh Khâu Hoãn tay trái cầm nón che cho Khước Khắc, tay phải cầm giáo để đánh giặc . Quân Tấn nghe tiếng trống, tưởng là thắng trận, tranh nhau tiến vào, quân Tề không thể địch nổi, vội vàng bỏ chạy . Hàn Quyết thấy Khước Khắc bị thương nặng, liền nói rằng:

– Quan nguyên sóai hãy tạm nghỉ, để mặc tôi đuổi theo quân giặc .

Hàn Quyết đem quân đuổi theo . Quân Tề sợ hãi, bỏ chạy tán loạn . Tề Khoảnh công vòng quanh núi Hoa Bất Trú mà chạy . Hàn Quyết trông thấy cỗ xe thếp vàng của Tề Khỏanh công, liền cố sức đuổi đánh . Phùng Sửu Phủ (quan xa hữu nước Tề) bảo viên tướnng dong xe cho Tề Khoảnh công là Bính Hạ rằng:

– Tướng quân giao cương ngựa cho tôi, rồi tháo ra ngoài vòng vây, để lấy quân cứu viện .

Bấy giờ quân Tấn kéo đến nhiều lắm, vây núi Hoa Bất Trú ba vòng . Phùng Sửu Phủ bảo Tề Khoảnh công rằng:

– Bây giờ đã nguy cấp lắm rồi! chúa công nên cởi ngay áo cẩm bào ra để tôi mặc, tôi giả cách làm chúa công, còn chúa công thì mặc áo của tôi mà cầm cương xe, để đánh lừa quân Tấn . Không may có điều gì, tôi xin chết thay chúa công, chúa công mới có thể trốn thóat được .

Tề Khoảnh công theo lời, vừa đổi áo xong thì quân Hàn Quyết kéo đến . Hàn Quyết trông thấy người mặc áo cẩm bào, tưởng là Tề Khoảnh công, mới nắm lấy cương ngựa cúi đầu hai xá mà nói rằng:

– Chúa công tôi theo lời xin của nước Lỗ và nước Vệ, có sai tôi đem quân tới đây; nay được gặp nhà vua, tôi xin cầm ngựa để rước nhà vua quá bộ sang nước tôi một chút .

Phùng Sửu Phủ giả cách kêu khát nước, không thể nói được, rồi cầm cái bầu đưa cho Tề Khoảnh công mà bảo rằng:

– Phùng Sửu Phủ! Nhà ngươi đi lấy cho ta bầu nước .

Tề Khoảnh công xuống xe, giả cách ra suối lấy nước, khi lấy được nước, Phùng Sửu Phủ lại kêu là nước đục, Tề Khoảnh công lại đi tìm chỗ nước trong, rồi lần đi quanh về phía hữu mà trốn; may lại gặp có tướng nước Tề là Trịnh Chu Phủ vừa đi xe đến, bảo Tề Khoảnh công rằng:

– Bính Hạ nay đã bị hãm ở trong đám quân Tấn, không ra được rồi! Thế lực quân Tấn bây giờ to lắm, có con đường này là ít quân giặc mà thôi, chúa công nên thừa cơ đi mau .

Trịnh Chu Phủ tức thì đưa dây cương cho Tề Khoảnh công . Tề Khoảnh công lên xe chạy thoát . Hàn Quyết sai người báo với Khước Khắc rằng:

– Đã bắt được vua Tề rồi!

Khước Khắc mừng lắm . Khi Hàn Quyết giải Sửu Phủ đến . Khước Khắc trông thấy biết là không phải vua Tề liền nổi giận mà hỏi Phùng Sửu Phủ rằng:

– Nhà ngươi là ai ?

Phùng Sửu Phủ nói:

– Tôi là quan xa hữu nước Tề, tên gọi Phùng Sửu Phủ, còn chúa công tôi tức là người lúc nãy xuống suối đi lấy nước đó .

Khước Khắc giận lắm, nói:

– Nhà ngươi dám mạo nhận làm vua Tề, để đánh lừa quân ta thì tất phải chiếu quân pháp mà trị tội .

Khước Khắc truyền cho quân sĩ đem Phùng Sửu Phủ ra chém . Phùng Sửu Phủ kêu to lên rằng:

– Quân sĩ nước Tấn hãy nghe ta nói: từ nay chớ ai có thay vua trong lúc hoạn nạn như Phùng Sửu Phủ này mà chết mất mạng đó .

Khước Khắc sai cởi trói cho Phùng Sửu Phủ mà nói rằng:

– Người ta đã biệt tận trung với vua, ta không nên giết! Nói đoạn truyền lấy xe chở lương thực và quân dụng chở Phùng Sửu Phủ đi theo sau quân Tề . Khoảnh công về đến dinh quân Tề, nghĩ cái ơn Phùng Sửu Phủ, ra rồi lại vào, cả thảy đến ba lần . Quốc Tá và Cao Cố nghe tin Khoảnh công thua trận, vội vàng đem quân đến tiếp ứng, thấy Khoảnh công ở trong đám quân Tấn ra, giật mình hỏi rằng:

– Sao chúa công lại khinh thường mà xông vào trong chỗ hang hổ như vậy .

Khoảnh công nói:

– Phùng Sửu Phủ vì ta thay ta mà bị hãm ở trong đám quân giặc, chưa biết sống chết thế nào cho nên ta ngồi không yên được, lại phải xông vào để tìm .

Nói chưa dứt lời thì nghe báo quân Tấn đã kéo đến . Quốc Tá nói với Khoảnh công rằng:

– Nay quân ta đã bất lợi, chúa công chớ ở đây lâu, nên mau mau rút quân về nước, để đợi quân Sở đến cứu!

Tề Khoảnh công theo lời, rút quân về Lâm Tri (kinh thành nước Tề) Khước Khắc đem đại binh cùng với quân Lỗ, Vệ, Tào kéo thẳng sang nước Tề, đi qua quan ải nào, cũng đốt phá tàn hại, thẳng đến kinh đô, định diệt hẳn nước Tề .

Chương 57: Vu Thần kết duyên với Hạ Cơ – Trình Anh đền ơn cho Triệu Thuẫn

Quân Tấn đuổi theo Tề Khoảnh công đến đất Viên Lân . Tề Khoảnh công sợ hãi, họp các tướng lại để hỏi kế . Quốc Tá nói rằng:

– Tôi xin đem cái lò nghiễn (lò hai tầng, trên chưng, dưới nấu) của Kỷ hầu và cái khánh ngọc sang lễ nước Tấn để xin giảng hoà; còn những đất ta xâm chiếm của nước Lỗ và nước Vệ khi trước thì trả lại cho hai nước ấy .

– Như thế là ta xử với Tấn quá phải lắm rồi, nếu Tấn không nghe thì thế nào cũng phải cố sức đánh!

Quốc Tá vâng lệnh đem lò nghiễn và khánh ngọc sang dinh quân Tấn, vào nói trước với Hàn Quyết . Hàn Quyết nói:

– Vì Lỗ và Vệ than phiền bị Tề luôn luôn xâm chiếm, cho nên chúa công tôi thương tình mà đến cứu, chứ chúa công tôi có thù gì với nước Tề!

Quốc Tá nói:

– Tôi xin tâu với chúa công tôi trả lại những đất xâm chiếm của Lỗ và Vệ thì tướng quân nghĩ thế nào ?

Hàn Quyết nói:

– Việc ấy quyền tại quan nguyên soái (trò Khước Khắc) tôi chứ tôi không dám quyết .

Nói xong, liền đưa Quốc Tá vào yết kiến Khước Khắc . Khước Khắc trông thấy Quốc Tá, hầm hầm nổi giận . Quốc Tá đối đáp vẫn có lễ phép . Khước Khắc nói:

– Nước ngươi đã sắp mất đến nơi, lại còn muốn dùng lời nói khéo để làm kế hoãn binh hay sao! Nếu thực lòng xin giảng hoà thì phải theo ta hai điều .

Quốc Tá nói:

– hai điều đó là gì, xin ngài cho biết .

Khước Khắc nói:

– Một là nước ngươi phải đưa người con gái của Tiêu Quân sang ở nước ta để làm tin; hai là trong địa giới nước Tề phải đắp một con đường từ tây sang đông, để vạn nhất sau này nước Tề có bội ước thì ta giết người làm con tin ấy, và khi đem quân sang đánh ta có thể đi suốt từ tây sang đông được .

Quốc Tá nổi giận mà nói rằng:

– Nguyên sóai nghĩ sai rồi! Con gái của Tiêu Quân là ai, tức là thân mẫu chúa công tôi, cũng chẳng khác gì thân mẫu vua Tấn, lẽ nào lại đem quốc mẫu làm con tin bao giờ! Còn ruộng đất ở trong nước tôi là phải tuỳ theo địa thế mà đắp, nếu vì nước Tấn mà đổi lại tất cả thì khác gì một nước đã mất rồi . Nguyên soái nói như thế là ý không muốn cho nước tôi giảng hoà .

Khước Khắc nói:

– Không muốn cho giảng hoà thì nước ngươi làm gì ?

Quốc Tá nói:

– Nguyên soái chớ có khinh nước Tề tôi quá! Nước tôi dẫu bị thua một trận, nhưng chưa lấy gì làm tổn hại cho lắm, nguyên soái không cho hoà thì chúng tôi xin thu thập quân mã, cùng với nguyên soái quyết chiến một trận . Một trận không được thì hai trận; hai trận không được thì ba trận, nếu ba trận cũng không được thì bấy giờ cả nước Tề tôi là của nước Tấn, cần gì còn phải gửi người làm tin và đắp đường từ tây sang đông làm gì ? Ngay bây giờ, tôi xin từ biệt nguyên soái .

Quốc Tá liền đặt cái lò nghiễn và cái khánh ngọc xuống đất, rồi chắp tay vái chào mà lui ra . Qúy Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu đứng ở sau màn nghe nói, chạy ra bảo Khước Khắc rằng:

– Làm như vậy thì nước Tề giận ta quá lắm, tất cố sức mà đánh, không lẽ ta thắg mãi, chi bằng ta theo lời giảng hoà là hơn .

Khước Khắc nói:

– Sứ nước Tề đã đi rồi thì biết làm thế nào ?

Qúy Tôn Hàng Phủ nói:

– Ta nên sai người đuổi theo mà gọi lại .

Khước Khắc liền sai người đuổi theo, mời Quốc Tá hãy trở lại dinh quân Tấn . Khước Khắc bảo Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu cùng Quốc Tá làm lễ tương kiến, rồi lại nói với Quốc Tá rằng:

– Tôi sợ không làm nổi việc ấy thì có lỗi với chúa công tôi, cho nên tôi chưa dám nhận lời; nay hai quan đại phu nước Lỗ và nước Vệ (trở Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu) đã cùng nói với tôi, thì tôi cũng không dám trái ý . Vậy tôi xin nghe lời đại phu .

Quốc Tá nói:

– Nguyên soái đã thuận cho nước tôi giảng hoà thì xin ăn thề:

“Nước Tề nhận phải triều cống nước Tấn, lại trả những đấ xâm chiếm của nước Lỗ và nước Vệ . Nước Tấn nhận phải rút quân về và không được xâm phạm của cải nước Tề”.

Hai bên đều phải lập tờ thệ văn, Khước Khắc truyền đem tiết sinh ra, cùng nhau ăn thề rồi từ biệt . Khước Khắc lại tha cho Phùng Sửu Phủ trở về nước Tề . Tề Khoảnh công cho Phùng Sửu Phủ làm thượng khanh .

Bọn Khước Khắc thắng được quân Tề, trở về nước Tấn . Tấn Cảnh công đều gia phong thái ấp cho; lại cho Hàn Quyết làm tân trung quân nguyên soái, Triệu Quát làm phó; Củng Sóc làm tân thượng tuân nguyên soái, Hàn Xuyên làm phó; Tuân Trụ làm tân hạ quân nguyên soái, Triệu Chiên làm phó, mọi người đều được phong tước quan khanh cả .

Quan tư khấu là Đồ Ngạn Giả thấy họ Triệu hưng phấn càng đem lòng ghen ghét, ngày đêm chỉ cố tìm sự lầm lỗi của họ Triệu để dèm pha với Tấn Cảnh công; lại mật kết với họ Loan và họ Khước, khiến cho hai họ ấy cùng về bè với mình .

Tề Khoảnh công từ khi bị thua về, hết lòng sửa sang chính trị, để định báo thù nước Tấn . Vua tôi nước Tấn cũng sợ nước Tề báo thù, không giữ được nghiệp bá chủ, lại bắt các nước phải trả lại cho nước Tề những đất xâm chiếm mà nước Tề đã phải trả lại cho họ khi trước (theo minh ước) . Từ bấy giờ các nước chư hầu cho rằng nước Tấn không có tín nghĩa, bèn không tin phục nước Tấn nữa .

Lại nói chuyện Hạ Cơ nước Tần từ khi kết duyên với quan liên doãn nước Sở là Tương Lão, chưa được một năm thì Tương Lão phải đi đánh trận ở Bí Địa . Hạ Cơ mới cùng với con riêng của Tương Lão là Hắc Sái tư thông; đến lúc Tương Lão chết trận, Hắc Sái say mê Hạ Cơ, bỏ không đi tìm xá Tương Lão, người trong nước ai cũng chê cười . Hạ Cơ lấy làm xấu hổ, muốn mượn tiếng đi tìm xác Tương Lão để trở về nuớc Trịnh, (nguyên Hạ Cơ là con gái nước Trịnh, trước lấy chồng ở nước Tần), Tước thân công ở nước Sở là Khuất Vu thuê người mật báo với Hạ Cơ rằng:

– Thân công có lòng yêu mến nàn lắm, nàng về nước Trịnh hôm nào thì hôm ấy thân công sẽ sang xin cưới ngay .

Khúất Vu lại sai người nói với Trịnh Tương công rằng:

– Hạ Cơ muốn về nước nhà, sao nhà vua không sai người đón về ?

Trịnh Tương công quả nhiên sai sứ sang nước Sở để xin đón Hạ Cơ . Sở Trang vương hỏi các quan đại phu rằng:

– Hạ Cơ muốn tìm xác Tương Lão, người nước Trịnh có ý muốn giúpp cho được việc, vậy nên mới sai người sang đón về .

Trang vương nói:

– Xác Tương Lão chết ở nước Tấn, người nước Trịnh giúp thế nào được ?

Khuất Vu nói:

– Tuân Dinh là con yêu của Tuân Thủ, nay bị giam ở nước Sở ta . Tuân Thủ thương nhớ lắm! Bây giờ Tuân Thủ mới được lên làm chức trung quân phó tướng ở nước Tấn, lại quen biết với quan đại phu nước Trịnh là Hoàng Thủ, thì tất thế nào rồi cũng nhờ Hoàng Thủ điều đình với nước Sở ta, xin đem thi thề công tử Cốc Thần (con Sở Trang vương) và Tương Lão sang đổi lấy Tuân Dinh về . Vua nước Trịnh vì việc giao chiến ở Bí Địa, sợ nước Tấn đem quân sang hỏi tội, cũng muốn nhân việc này để lấy lòng nước Tấn, đó là tình thực, chứ không còn nghi ngờ gì nữa!

Nói chưa dứt lời thì Hạ Cơ vào từ biệt Sở Trang vương, tâu việc xin về nước Trịnh, vừa tâu vừa khóc, nước mắt như mưa . Lại nói với Sở Trang vương rằng:

– Nếu không tìm được Tuơng Lão thì thiếp xin thề không về nước Sở nữa!

Sở Trang vương có lòng thương mà cho đi . Hạ Cơ đi sang nước Trịnh . Khuất Vu lại mật đưa thư cho Trịnh Tương công, xin cưới Hạ Cơ làm vợ . Trịnh Tương công biết việc Sở Trang vương và công tử Anh Tề khi trước muốn lấy Hạ Cơ, lại thấy Khuất Vu đang được trọng dụng ở nước Sở, cũng muốn kết thân, mới nhận lễ và cho cưới . Người nước Sở không ai biết chuyện ấy cả . Khuất Vu lại sai người sang bảo Tuân Thủ nước Tấn đem thi thể công tử Cốc Thần và Tương Lão sang đổi lấy Tuân Dinh về . Tuân Thủ viết thư nhờ Hoàng Thủ (quan đại phu nước Trịnh) ở giữa nói hộ với Sở Trang vương .

Sở Trang vương muốn được thi thể con mình là công tử Cốc Thần, mới tha cho Tuân Dinh về và nước Tấn cũng giả lại hai thi thể . Đến lúc quân nước Tấn đánh Tề, Tề Khoảnh công sai sứ sang cầu cứu nước Sở, chính gặp lúc nước Sở mới có tang, chưa đem quân sang cứu, sau nghe tin quân Tề thua trận và quan đại phu nước Tề là Quốc Tá đã phải xin giảng hoà với Tấn, Sở Cung vương mới bảo triều thần rằng:

– Nước Tề theo Tấn là vì nước Sở ta chưa kịp đến cứu, đó không phải là bản tâm nước Tề . Nay ta nên cử binh đi đánh Lỗ và Vệ để báo thù cho nước Tề, có ai dám vì ta đem cái ý ấy sang nói cho vua Tề biết ?

Khuất Vu xin đi . Sở Cung vương nói:

– Nhân tiện nhà ngươi đi qua nước Trịnh, nên nước với vua Trịn đến tháng mười đem quân sang hội nhau ở địa giới nước Vệ, và cũng nói cho vua Tề biết .

Khuất Vu về nhà thu xếp tiền của và cho gia quyến đi trước còn mình thì ở lại sau, rồi thẳng đường tiến sang nước Trịnh . Khuất Vu đem lời nói của vua Sở vào ước với vua Trịnh, rồi lui ra nhà quán xá cùng với Hạ Cơ làm lễ thành thân . Đêm hôm ấy Hạ Cơ nỉ non bên gối, hỏi Khuất Vu rằng:

– Việc này khi trước phu quân có tâu với vua Sở không ?

Khuất Vu đem chuyện Sở Trang vương và công tử Anh Tề khi trước đều muốn lấy Hạ Cơ nói lại cho Hạ Cơ nghe, lại bảo Hạ Cơ rằng:

– Ta vì ái khanh mà chịu phí bao nhiêu tâm cơ, ngày nay ba sinh mới phỉ mười thuyền, ta không dám về nước Sở nữa; sáng mai ta cùng với ái khanh tìm chốn nương thân, cùng nhau bách niên giai lão, ái khanh nghĩ thế nào ?

Hạ Cơ nói:

– Phu quân đã không về nước Sở thì việc đi sứ Tề này biết làm thế nào ?

Khuất Vu nói:

– Ta chẳng đi sứ Tề nữa! Ngày nay, cùng với nước Sở chống nhau, chỉ có nước Tấn, âu là ta cùng ái khanh sang ở nước Tấn .

Ngày hôm sau, Khuất Vu viết một đạo biểu giao cho người hầu đem về tâu với Sở Cung vương, rồi cùng Hạ Cơ trốn sang nước Tấn . Tấn Cảnh công đanh lấy việc thua nước Sở làm xấu hổ, nghe tin Khuất Vu đến, mừng lắm nói rằng:

– Thế này thì thật là trời đem người ấy đến giúp ta!

Tấn Cảnh công nói xong, liền cho Khuất Vu làm quan đại phu, lại phong cho đất Hình Địa để làm thái ấp . Khuất Vu mới bỏ họ Khuất, lấy chữ Vu làm họ, đặt tên là Thần . Từ bấy giờ vẫn gọi là Vu Thần . Sở Cung vương tiếp được tờ biểu của Vu Thần, mở ra đọc, đại lược nói rằng:

“Vua Trịnh đem Hạ Cơ gả cho tôi, tôi trót dại, không thể từ chối được . Nay tôi sợ đại vương trị tội, vậy phải tạm trốn sang nước Tấn; còn việc sứ Tề, xin đại vương chọn sai người khác . Tôi cam chịu tội chết!”

Sở Cung vương nổi giận, triệu công tử Anh Tề và công tử Trắc vào đưa tờ biểu cho xem . Công tử Trắc nói:

– Nước Sở ta và nước Tấn xưa nay vôn là cừu định với nhau, nay Vu Thần trốn sang nước Tấn, tức là làm phản, phải trừng phạt để làm gương .

Công tử Anh Tề nói:

– Hắc Sái thông dâm với kế mẫu là Hạ Cơ, cùng là có tội, cũng phải trừng phạt mới được .

Sở Cung vương theo lời, liền sai công tử ÁnhTê đem quân đến vây bắt gia tộc của Vu Thần, và sai công tử Trắc đến bắt Hắc Sái mà chém đi . Bao nhiêu gia tài của Vu Thần cùng Hắc Sái đều bị công tử Anh Tề và công tử Trắc chiếm lấy hết cả . Vu Thần nghe tin ấy mới đưa thư cho công tử Anh Tề và công tử Trắc, đại lược nói rằng:

“Các ngươi xui giục vua Sở làm những việc tham tàn, giết hại kẻ không có tội; ta quyết làm cho các người phải khổ sở ở nơi đường sá mà chết!”

Bọn công tử Anh Tề giấu bức thư ấy đi, không dám nói cho Sở Cung vương biết . Vu Thần bày mưu lập kế cho nước Tấn để sang thông hiếu với nước Ngô; rồi đem những phép xa chiến dạy người nước Ngô; lại cho con là Hồ Dung sang làm quan hành nhân ở nước Ngô, để thông tin tức cho nước Ngô và nước Tấn . Từ bấy giờ nước Ngô mỗi ngày một cường thịnh, chiếm lấy những thuộc quốc ở phía đông của nước Sở; vua nước Ngô là Trọng Mộng tiếm hiệu xưng vương . Sở Cung vương cho công tử Anh Tề làm đại tướng cùng với quân nước Trịnh sang đánh Vệ, tàn phá bờ cỡ nước Vệ, rồi lại đem quân sang xâm chiếm nước Lỗ, đóng đồn ở đất Dương Kiều . Trọng Tôn Miệt (tướng nước Lỗ) đem thợ khéo và con gái dệt cửi thêu thùa giỏi của nước Lỗ, mỗi hạng một trăn người sang dâng nước Sở và được giảng hoà . Nước Tấn cũng sai sứ ước với Lỗ Thành công cùng sang đánh Trịnh . Lỗ Thành công nhận lời .

Năm thứ 20 đời Chu Định vương, Trịnh Tương Công (Kiên) mất, thế tử Phi lên nối ngôi, tức là Trịnh Nhiệu công . Trịnh Nhiệu công cùng với nước Hứa tranh nhau địa giới . Vua nước Hứa sang kêu với Sở Cung vương . Sở Cung vương cho vua Hứa là phải lẽ, sai người trách Trịnh Nhiệu công . Trịnh Nhiệu công tức giận, mới bỏ Sở theo Tấn . Năm ấy, Khước Khắc nước Tấn bị thương, què mất cánh tay trái, liền cáo lão về nhà, chẳng được bao lâu thì mất . Loan Thư thay làm chức trung quân nguyên soái (tức là tướng quốc). Năm sau công tử Anh Tề nước Sở sang đánh Trịnh, Loan Thư đem quân đi cứu .

Lúc bấy giờ Tấn Cảnh công thấy nước Trịnh và nước Tề đều thần phục mình, thì sanh lòng kiêu ngạo, lại tin dùng Đồ Ngạn Giả, và ham sự chơi bời săn bắn như Tấn Linh công thuở xưa . Triệu Đồng và Triệu Quát có ý bất hoà với anh là Triệu Anh, vu cho việc dâm loạn, rồi đuổi sang nước Tề, Tấn Cảnh công cũng không thể nào mà ngăn cấm nổi . Bấy giờ núi Lương Sơn tự nhiên sụt đá xuống làm nghẽn một khúc sông, nước sông ba ngày không chảy được . Tấn Cảnh công sai quan thái sử bói xem tốt xấu thế nào . Đồ Ngạn Giả đút tiền cho quan thái sử để nói về việc hình phạt không hợp lẽ . Tấn Cảnh công nói:

– Ta dùng hình phạt, chưa hề có làm quá bao giờ, sao lại bảo là không hợp lẽ ?

Đồ Ngạn Giả nói với Tấn Cảnh công rằng:

– Hình phạt không hợp lẽ nghĩa là không đán tội mà trị tội, cũng như đán tội mà không trị tội . Triệu Thuẫn giết vua Linh công ta ở Đào Viên, việc ấy chép vào sử sách, đó là một tội không thể dung tha được; thế mà Thành công không trị tội, lại giao quyền chính trong nước cho kẻ phạm tội, dây dưa mãi đến bây giờ, con cháu của kẻ phạm tội làm quan, đầy khắp trong triều, thế thì lấy gì làm răn cho kẻ khác được ? và tôi nghe tin bọn Triệu Đồng và Triệu Quát cậy nhiều vây cánh, có ý muốn làm phản, Triệu Anh can ngăn không được, phải chạy ra nước ngoài; còn họ Loan và họ Khước, cũng sợ thế họ Triệu, không dám nói ra . Việc núi Lương Sơn đồ này, chính là ý trời muốn khiến chúa công giải tỏ nỗi oan của Linh công trước và trị tội họ Triệu đó!

Tấn Cảnh công từ trận đánh nhau ở Bí Địa đã ghét bọn Triệu Đồng và Triệu Quát chuyên quyền xấc xược, nay nghe lời noi của Đồ Ngạn Giả thì xiêu lòng bèn đem lời nói ấy mà hỏi Hàn Quyết . Hàn Quyết nói:

– Việc giết vua Linh công ở Đào Viên không dự gì đến Triệu Thuẫn . Và họ Triệu từ Triệu Thôi trở xuống, đời đời có công to với nước Tấn, sao chúa công lại nghe lời nói của đứa tiểu nhân mà nghi con cháu công thần ?

Cảnh công vẫn còn hồi nghi, lại hỏi Loan Thư và Khước Kỳ . Đồ Ngạn Giả đã dặn Loan Thư và Khước Kỳ trước, bởi vậy Loan Thư và Khước Kỳ cứ hàm hồ, không chịu biện bạch cho họ Triệu . Cảnh công mới cho lời nói của Đồ Ngạn Giả là thực liền ghi tội Triệu Thuẫn vào cái mộc bài, giao cho Đồ Ngạn Giả mà bảo rằng:

– Nhà ngươi liệu thế nào cho khỏi kinh động người trong nước thi cứ việc mà làm .

Hàn Quyết biết mưu của Đồ Ngạn Giả, đêm hôm ấy đến bảo với Triệu Sóc, bảo Triệu Sóc nên đi trốn . Triệu Sóc nói:

– Thân phụ tôi ngày xưa chỉ vì không chịu để cho tiên quân giết, đến nỗi mang tiếng xấu về sau, nay Đồ Ngạn Giả phụng mệnh chúa công để giết tôi thi tôi đâu dám trách . Nhưng vợ tôi hiện đang có thai, đã gần đến tháng, nếu sinh gái, thì chẳng nói làm chi, may mà sinh trai thì còn có thể giữ được dòng giống họ Triệu . Một giọt máu thừa ấy, xin tướng quân bảo toàn cho thì tôi dẫu hồn về chín suối, cũng được hả dạ!

Hàn Quyết khóc rằng:

– Tôi chịu ơn Triệu tướng quốc (trỏ Triệu Thuẫn) ngày xưa, chẳng khác tình cha con . Ngày nay tôi sức hèn tài mọn, không thể chém được đầu giặc (trỏ Đồ Ngạn Giả), tôi đã lấy làm xấu hổ lắm, nay còn một việc này, tôi xin hết sức! Nhưng quân giặc căm tức đã lâu, nay nhân dịp báo thù, không còn phân biệt ngọc đá vàng thau, tôi có làm gì cũng là vô ích, chi bằng ngài hãy cho công chúa (vợ Triệu Sóc, con gái Tấn Thành công) tránh nạn vào ở trong cung, mai sau sinh đặng con trai thì tất có cơ báo thù được .

Triệu Sóc vâng lời, rồi hai người gạt nước mắt mà từ biệt nhau . Triệu Sóc ước riêng với vợ là Trang Cơ rằng:

– Ngày sau sinh con gái thì đặt tên là Văn, nếu sinh con trai, nên đặt tên là Vũ, bởi vì văn thì vô dụng mà có vũ thì mới báo thù được!

Triệu Sóc lại nói chuyện cho Trình Anh biết . Trình Anh hộ tống cho Trang Cơ ra cửa sau đi một cái xe kín lên trốn vào cung ở với mẹ là Thành phu nhân (mẹ Tấn Cảnh công) . Sáng hôm sau, Đồ Ngạn Giả đem quân vây nhà họ Triệu, lấy cái mộc bài của Tấn Cảnh công ghi tội Triệu Thuẫn treo ở trước cửa, rồi kể tội họ Triệu phảnh nghịch, bắt bọn Triệu Sóc, Triệu Đồng, Triệu Quát, Triệu Chiên, cùng bao nhiêu già trẻ trai gái trong nhà đem giết tất cả . Con Triệu Chiên là Triệu Thắng bấy giờ đang ở đất Hàm Đan, nhờ vậy thóat nạn, bỏ trốn sang nước Tống . Đồ Ngạn Giả không tìm thấy Trang Cơ liền nói:

– Trang Cơ không cần phải bắt vội, nhưng nghe đâu đã có thai, vạn nhất sinh con trai thì vẫn còn cái giống phản nghịch, thêm di họa về sau!

Quân sĩ báo rằng:

– Nửa đêm hôm qua, có người đi một cái xe kín vào cung .

Đồ Ngạn Giả nói:

– Đó tất là Trang Cơ .

Nói xong, vào tâu với Tấn Cảnh công rằng:

– Toàn gia bọn phản nghịch đã trừ hết được rồi, chỉ còn có công chúa (trỏ Trang Cơ) trốn vào trong cung, xin tâu để chúa công định đoạt .

Cảnh công nói:

– Mẹ ta yêu công chúa lắm, không hỏi được đâu!

Đồ Ngạn Giả nói:

– Công chúa có mang sắp đẻ, nếu sinh hạ con trai, thì để lại giống phản nghịch, ngày sau lớn lên thế nào cũng báo thù, việc Đào Viên tất nhiên lại xảy ra một lần nữa, chúa công nên nghĩ cho kỹ!

Cảnh công nói:

Để sau này hễ sinh con trai thì ta sẽ trừ đi cũng được!

Đồ Ngạn Giả ngày đêm sai người dò thăm xem Trang Cơ sinh trai hay sinh gái . Mấy hôm sau, Trang Cơ quả nhiên sinh được con trai . Thành phu nhân truyền cho cung nhân nói dối là sinh con gái . Đồ Ngạn Giả không tin, muốn sai một người vú vào cung để khám nghiệm xem . Trang Cơ sợ hãi, cùng với Thành phu nhân thương nghị, nói dối là đứa con gái sinh ra, đã chết mất rồi . Bấy giờ Tấn Cảnh công say mê tửu sắc, chính sự trong nước để mặc Đồ Ngạn Giả muốn làm gì thì làm . Đồ Ngạn Giả nghi Trang Cơ không phải sinh con gái, và con cũng chưa chết, mới thân hành đem nữ bộc vào khám xét trong cung . Trang Cơ đem đứa cô nhi buộc vào trong đũng quần, rồi khấn rằng: “Nếu lòng trời định làm tuyệt họ Triệu thì hãy khiến đứa cô nhi này khóc; nhược bằng họ Triệu không đến nỗi tuyệt tự thì xin cho đứa cô nhi này cứ nằm im như không”.

Khi nữ bộc dắt Trang Cơ ra ngoài rồi vào khám xét trong cung thì chẳng thấy gì cả . Đứa cô nhi ở trong quần cứ nằm im, không kêu khóc chút nào . Đồ Ngạn Giả khám xong trở về, nhưng trong lòng vẫn còn ghi hoặc . Có người bảo là cô nhi đã được đem ra khỏi cung rồi . Đồ Ngạn Giả liền yết thị rằng: “Hễ ai phát giác được đứa cô nhi ấy thì thưởng cho một nghìn nén vàng; nếu biết mà không nói thì cũng coi như là kẻ chứa giấu đồ gian, phạm tội phản nghịch, toàn gia sẽ bị xử trảm” .

Đồ Ngạn Giả lại truyền cho quân sĩ canh giữ cửa cung rất nghiêm mật; ai ra vào đều phải khám xét thật kỹ .

Triệu Thuẫn khi trước có hai người môn khách tâm phúc, một người là Công tôn Chử Cữu, một người là Trình Anh . Công tôn Chử Cữu được biết tin Đồ Ngạn Giả vây nhà họ Triệu trước Trình Anh liền bàn với Trình Anh cùng đến chịu nạn với họ Triệu, Trình Anh nói:

– Kẻ kia giả mệnh chúa công đến bắt họ Triệu thì dù chúng ta có đến để chịu chết, cũng chẳng ích gì cho họ Triệu cả .

Công tôn Chử Cữu nói:

– Vẫn biết là không ích gì, nhưng ân nhân mình có nạn, lẽ nào mình lại tránh cái chết cho được ?

Trình Anh nói:

– Trang Cơ (vợ Triệu Sóc) hiện đang có thai, nếu sinh con trai thì ta cùng nhà ngươi hết lòng mà ủng hộ, chẳng may mà sinh con gái thì bấy giờ chúng ta hãy chết, cũng chưa chậm kia mà!

Đến lúc nghe tin Trang Cơ sinh con gái, công tôn Chử Cữu khóc mà than rằng:

– Lòng trời định làm tuyệt họ Triệu hay sao!

Trình Anh nói:

– Chưa lấy gì làm chắc, âu là ta hãy dò xét xem đã!

Trình Anh liền đút tiền cho các cung nhân để báo tin cho Trang Cơ . Trang Cơ biết Trình Anh là người trung nghĩa, mới viết một chữ “Vũ” đưa ra . Trình Anh mừng thầm rằng:

– Công chúa quả nhiên sinh con trai rồi!

Sau Đồn Ngạn Giả vào khám xét trong cung, không thấy gì cả . Trình Anh mới bảo công tôn Chử Cữu rằng:

– Cô nhi họ Triệu vẫn ở trong cung mà Đồ Ngạn Giả không tìm thấy, đó mới thật là lòng trời . Nhưng giấu như thế chẳng qua cũng chỉ giấu được một lúc mà thôi, sau này việc tiết lộ ra, Đồ Ngạn Giả tất lại khám xét, âu là ta phải lập kế đem ra giấu ở một nơi xa thì mới bảo toàn được .

Công tôn Chử Cữu ngẫm nghĩ trong nửa ngày, rồi hỏi Trình Anh rằng .

Trình Anh nói:

– Liều chết thì dễ, chứ giữ lấy cô nhi là một việc khó .

Công tôn Chử Cữu nói:

– Nhà ngươi nhận lấy việc khó, để ta làm việc dễ cho . Nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Trình Anh nói:

– Bây giờ nhà ngươi định kế gì ?

Công tôn Chử Cữu nói:

– Làm thế nào tìm được một đứa cô nhi khác, nói dối là cô nhi của họ Triệu, ta ẵm được vào giấu ở trong núi Thú Dương, rồi nhà ngươi ra thú, để cho Đồ Ngạn Giả vào bắt . Khi hắn đã bắt được cô nhi giả ấy rroi thì đứa cô nhi thật kia mới có thể thóat nạn được .

Trình Anh nói:

– Tìm đứa cô nhi khác không khó, chỉ khó một nỗi làm thế nào đem cô nhi thật ở trong cung ra cho được toàn vẹn ?

Công tôn Chử Cữu nói:

– Trong bọn các tướng, chỉ có Hàn Quyết là chịu ơn họ Triệu rất nhiều, việc đem đứa cô nhi ở trong cung ra, có thể nhờ Hàn Quyết được .

Trình Anh nói:

– Ta mới sinh con trai, cũng gần ngày với đứa cô nhi họ Triệu, có thể thay được; nhưng nhà ngươi đã có cái tội giấu đứa cô nhi ấy, tất nhiên se bị giết . Nhà ngươi chết trước ta thì ta sao đành lòng!

Trình Anh nói xong, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng .

công tôn Chử Cữu nổi giận mà nói rằng:

– Đó là một việc hay cho ta, sao nhà ngươi lại khóc!

Trình Anh liền gạt nước mắt, rồi từ giã lui về . Đêm hôm ấy, Trình Anh ẳm con giao tay cho công tôn Chử Cữu; lại sang yết kiến Hàn Quyết, đưa cho Hàn Quyết xem chữ “Vũ” rồi sau mới nói đến cái mưu của công tôn Chử Cữu cho Hàn Quyết nghe . Hàn Quyết nói:

– Trang Cơ đang có bệnh, sai ta đi tìm thầy thuốc, nếu nhà ngươi đánh lừa cho Đồ Ngạn Giả đi vào núi Thú Dương, tự khắc ta có kế đem được cô nhi họ Triệu ra .

Trình Anh liền phao lên cho mọi người biết rằng:

– Quan tư khấu họ Đồ (tức là Đồ Ngạn Giả) muốn bắt cô nhi họ Triệu, sao lại tìm ở trong cung ?

Người nhà Đồ Ngạn Giả nghe nói, liền hỏi Trình Anh rằng:

– Nhà ngươi có biết chỗ cô nhi họ Triệu ở đâu không ?

Trịnh Anh nói:

– Cho ta một nghìn nén vàng, ta mới chịu bảo .

Người nhà Đồ Ngạn Giả liền đưa Trình Anh vào yết kiến Đồ Ngạn Giả . Đồ Ngạn Giả hỏi họ tên là gì . Trình Anh nói:

– Tôi họ Trình tên Anh, cùng với công tôn Chử Cữu cùng làm tôi họ Triệu, nay công chúa (trỏ Trang Cơ) sinh con trai, có sai người ẵm ra giao cho hai chúng tôi đem giấu . Nhưng tôi sợ sau này có người tố giác thì nghìn nén vàng thưởng về tay họ được, mà cả nhà tôi tất bị chết oan, vậy nên tôi phải thú được .

Đồ Ngạn Giả nói:

– Đứa cô nhi ấy nay giấu ở đâu ?

Trình Anh nói:

– Ngài cho đuổi hết người xung quanh đi, rồi tôi xin nói .

Đồ Ngạn Giả tức khắc truyền cho tả hữu lui ra . Trình Anh nói với Đồ Ngạn Giả rằng:

– Hiện nay giấu ở trong núi Thú Dương, đi ngay mới bắt được, nếu chậm thì y trốn sang nước Tần mất! Nhưng ngài nên thân hành đi, người khác phần nhiều là thân tình với họ Triệu, chớ nên ủy thác cho ai cả .

Đồ Ngạn Giả nói:

– Nhà ngươi cứ đưa ta đi . Nếu là việc thực thì ta trọng thưởng cho, nếu không thì có tội đó!

Trình Anh nói:

– Tôi cũng vừa ở trong núi về đây, bụng đói quá, xin ngài cho ăn một bữa .

Đồ Ngạn Giả sai người dọn cơm cho ăn . Trình Anh ăn xong, lại giục Đồ Ngạn Giả đi ngay . Đồ Ngạn Giả đem ba nghìn quân theo Trình Anh thẳng đường đi vao núi Thú Dương . Đường đi quanh co, kể hàng mấy dặm, trông thấy ở bên kia suối có mấy gian nhà gianh, cửa đóng kín mít . Trình Anh trỏ cái nhà ấy mà bảo Đồ Ngạn Giả rằng:

– Đây tức là chỗ công tôn Chử Cữu giấu đứa cô nhi!

Trình Anh đến trước gọi cửa . công tôn Chử Cữu mở cửa ra đón, trông thấy quân sĩ, giả cách hoảng hốt chạy trốn . Trình Anh gọi mà bảo rằng:

– Nhà ngươi chớ chạy, quan tư khấu họ Đồ đã biết đứa cô nhi họ Triệu ở đây rồi; ngài thân hành đến bắt, nhà ngươi nên mau mau đem nộp đi .

Trình Anh nói chưa dứt lời thì quân sĩ đã trói ngay công tôn Chử Cữu lại, đem đến trước mặt Đồ Ngạn Giả . Đồ Ngạn Giả hỏi:

– Đứa cô nhi họ Triệu bây giờ để đâu ?

Công tôn Chử Cữu đáp:

– Thực quả không có!

Đồ Ngạn Giả sai người lục sóat trong nhà thì thấy cửa buồng khóa kỹ lắm . Giáp sĩ phá cửa mà vào . Trong buồng rất tối, nghe như có tiếng trẻ con sợ khóc ở trên một cái giường, bèn ẵm ra ngoài thì thấy tã lót toàn bằng gấm vóc, rõ là một đứa bé con nhà quý phái . Công tôn Chử Cữu trông thấy, muốn chạy đến giành lấy, nhưng bị trói không làm gì được, mới quát to lên mà mắng Trịnh Anh rằng:

– Trình Anh thật là một đứa tiểu nhân! Khi trước họ Triệu bị bắt, ta ước với mày cùng nhau liều chết mà đến cứu, mày có bảo ta rằng công chúa (trỏ Trang Cơ) đang có thai, nếu chết đi thì sau này ai là người phù tá cho cô nhi . Nay công chúa đem cô nhi giao cho mày với ta cùng giấu vào chỗ núi này, bây giờ mày lại tham nghìn nén vàng mà đi tố giác . Ta dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, chỉ tiếc rằng không đền được cái ơn của họ Triệu mà thôi!

Công tôn Chử Cữu xỉ mắng Trình Anh luôn miệng, một điều tiểu nhân, hai điều tiểu nhân, khiến Trình Anh hổ thẹn, mặt đỏ bừng, bảo Đồ Ngạn Giả rằng:

– Sao ngài không giết chết nó đi!

Đồ Ngạn Giả truyền đem công tôn Chử Cữu ra chém, rồi xách đứa cô nhi họ Triệu ném mạnh xuống đất chết tươi . Trong khi Đồ Ngạn Giả thân hành vào núi Thú Dương để băt cô nhi họ Triệu, thì ở khắp khinh thanh không có chỗ nào là không bàn tán xôn xao về việc này, người thi mừng thay cho Đồ Ngạn Giả, người thi thương thay cho họ Triệu, bởi vậy quân sĩ canh giữ cửa cung, cũng hơi trễ nải việc khám xét . Hàn Quyết sai một người tâm phúc, giả cách làm thầy thuốc vào cung xem bệnh cho Trang Cơ, đem cái mảnh giấy có chữ “Vũ” của Trình Anh đưa khi trước dán ở trên cái đẫy đựng thuốc . Trang Cơ trông thấy chữ “Vũ” liền hiểu ý ngay . Người thầy thuốc bắt mạch xong, giả cách theo lối đoán bệnh, nói qua mấy câu: thai tiền sản hậu v…vv.. Trang Cơ thấy cung nhân đứng xung quanh đều là người tâm phúc cả, liền đem đứa cô nhi đặt vào đẫy thuốc . Đứa cô nhi kêu khóc rầm lên . Trang Cơ lấy tay vỗ ở ngoài đẩy thuốc mà khấn rằng:

– Triệu Vũ! Triệu Vũ! Nhà ta trăm mạng chết oan, sự việc báo thù chỉ trông vào một thân con đó thôi, khi con ra cửa cung, chớ có kêu khóc!

Trang Cơ dặn xong thì đứa cô nhi không khóc nữa; khi đem ra cửa cung, cũng chẳng ai khám xét gì cả . Hàn Quyết đem được cô nhi họ Triệu ra, khác nào như người được của báu, liền giấu vào một nơi nhà kín, giao cho vú nuôi, dẫu người trong nhà cũng chẳng ai biết được .

Đỗ Ngạn Giả về dinh, đem nghìn nén vàng thưởng cho Trình Anh . Trình Anh từ chối, không chịu nhận thưởng . Đồ Ngạn Giả nói:

– Nhà ngươi chỉ vì cầu thưởng mà ra thú, cớ sao lại còn chối từ ?

Trình Anh nói:

– Tôi trước làm môn khách họ Triệu đã lâu, nay giết cô nhi họ Triệu để gỡ tội, đã làm một điều bất nghĩa, nay lại còn dám tham vàng hay sao . nếu nghĩ đến cái công nhỏ mọn của tôi thì xin dùng số vàng ấy để thu táng cho một nhà họ Triệu, gọii là chút tình của tôi đối với họ Triệuu ngày xưa .

Đồ Ngạn Giả bằng lòng mà nói rằng:

– Nhà ngươi thật là một người có nghĩa! Những thây rơi của họ Triệu, ta cho phép nhà ngươi được dùng số vàng này mà thu táng .

Trình Anh lạy tạ, nhận lấy nghìn nén vàng, rồi thu táng thây rơi họ Triệu, ở bên cạnh mộ Triệu Thuẫn . Khi thu táng đã xong, lại đến tạ ơn, thì Đồ Ngạn Giả muốn giữ lại để bổ dụng . Trình Anh ứa nước mắt mà nói rằng:

– Tôi chỉ vì tham sống sợ chết mà làm cái việc bất nghĩa này, còn mặt mũi nào trông thấy người nước Tấn nữa! Từ đây, chỉ xin bỏ cửa nhà để đi kiếm ăn nuôi miệng ở phương xa mà thôi!

Trình Anh cáo từ Đồ Ngạn Giả, rồi đến yết kiến Hàn Quyết . Hàn Quyết đem đứa cô nhi họ Triệu và một người vú nuôi giao cho Trình Anh . Trình Anh nhận làm con mình, đem vào núi Mạnh Sơn để nuôi giấu . Về sau người ta gọi núi ấy là Tàng Sơn .

Đến ba năm sau, Tấn Cảnh công ra chơi Tân Điền, thấy chỗ ấy ruộng đất tốt lắm, mới thiên đô ra ở đấy, gọi là Tân Giáng, còn đô thành cũ thì gọi là Cố Giáng . Triều thần làm lễ chúc mừng . Cảnh công đặt tiệc ở nội cung để khoản đãi . Trời đã gần tối, nội thị sắp sửa thắp nến, thì bỗng có một trận gió dữ, cuốn vào trong cung điện, hơi lạnh buốt người, ai cũng kinh sợ . Trận gió vừa qua thì Tấn Cảnh công thấy một con ma đầu bù, mình dài hơn trượng, xoã tóc đến tận đất, ở ngoài cửa bước vào, quát tó lên mà mắng rằng:

– Trời ơi! con cháu ta có tội gì mà nhà ngươi giết đi, ta đã tâu với Ngọc hoàng thượng đế, cho đến đây để đánh chết nhà ngươi .

Nói xong, giơ đùi đồng đánh Tấn Cảnh công . Tấn Cảnh công kêu rầm lên rằng:

– Các quan cứu ta với!

Miệng kêu, tay rút thanh kiếm để chém con ma, chẳng ngờ lại chém phải ngón tay của mình . Triều thần không hiểu ra làm sao, vội vàng xúm lại giật lấy thanh kiếm . Tấn Cảnh công hộc máu tươi ra đằng miệng, rồi ngã lăn xuống đất.

Chương 58: Ngụy Tướng sang Tần đón thầy thuốc – Dưỡng Thúc vì vua bắn kẻ thù

Tấn Cảnh công bị con ma đánh, hộc máu tươi ra đằng miệng, ngã lăn xuống đất . Nội thị vực vào trong phòng, giờ lâu mới dần dần tỉnh lại . Các quan đều không được vui mà tan về cả . Cảnh công ốm nặng không dậy được . Nội thị tâu rằng ở đất Tang môn có người thầy cúng cao tay lắm, ban ngày trông thấy ma quỷ được, xin cho đi triệu đến . Tấn Cảnh công cho đi triệu . Thầy cúng đất Tang Môn mới vào cửa phòng, đã nói ngay là có ma quỷ . Cảnh công hỏi hình dáng ma quỷ ấy thế nào . Thầy cúng nói:

– Đầu bù tóc xoã, mình cao hơn trượng, thường hay lấy tay đánh vào ngực, trông rất hung tợn!

Cảnh công nói:

– Thầy cúng nói chính hợp với măt ta trông thấy . Con ma ấy bảo là ta giết oan con cháu nó, không biết nó là ai ?

Thầy cúng nói:

– Tất là người công thần đời trước mà nay con cháu bị chết oan!

Cảnh công ngạc nhiên nói rằng:

– Ý chừng người ấy là tổ họ Triệu!

Đồ Ngạn Giả đứng bên cạnh, liền tâu với Cảnh công rằng:

– Thầy cúng này nguyên là môn khách họ Triệu, nên mượn chuyện này để nói gỡ cho họ Triệu, chúa công chớ nên nghe .

Cảnh công nín lặng . Được một lúc lại hỏi thầy cúng rằng:

– Con ma ấy có thể cúng được không ?

Thầy cúng nói:

– Con ma ấy đang có lòng căm tức, dẫu cúng cũng vô ích .

Cảnh công nói:

– Vậy thì cái hạn lớn của ta thế nào ?

Thầy cúng nói:

– Tôi xin liều chết mà nói thẳng rằng cứ như bệnh tình của chúa công thì e không kịp nếm lúa mạch mới .

Đồ Ngạn Giả bảo thầy cúng rằng:

– Chỉ trog một tháng nữa thì lúa mạch chín . Chúa công dẫu có bệnh, nhưng tinh thần còn tráng kiện, đã đến nỗi nào! Nếu chúa công được nếm lúa mạch mới thì ta chém đầu nhà ngươi!

Đồ Ngạn Giả nói xong, liền đuổi thầy cúng ra . Sau đó bệnh Tấn Cảnh mỗi ngày một nặng thêm . Y sinh nước Tấn vào xem, không biết là chứng bệnh gì, không dám cho thuốc . Quan đại phu là Nguỵ Tướng (con Ngụy Kỳ) nói với mọi nguời rằng:

– Ta nghe nói nước Tần có hai người danh y là Cao Hoà và Cao Hoãn, được Biển Thước truyền nghề cho, chữa bệnh tài lắm, hiện đang làm chức thái y ở nước Tần . Nay muốn chữa bệnh cho chúa công thì tấ phải mời người ấy mới được .

Mọi người đều nói:

– Tần là một nước cừu địch với ta, khi nào lại chịu cho thầy thuốc sang chữa bệnh cho chúa công ta!

Nguỵ Tướng nói:

– Có tai nạn gì thì giúp đỡ lẫn nhau, ấy là việc hay của nước láng giềng! Tôi dẫu hèn mọn, cũng xin đem ba tấc lưỡi mà báo được nước Tần phải cho danh y sang cứu chữa cho chúa công .

Mọi người đều nói:

– Nếu được như vậy thì cả triều đều cám ơn ông lắm .

Ngụy Tướng tức khắc thẳng đường đi sang nước Tần . Tần Hoàn công hỏi đến có việc gì .

Ngụy Tướng tâu rằng:

– Chúa công tôi chẳng may bị bệnh, nghe nói quý quốc có hai danh y là Cao Hoà và Cao Hoãn, có tài khởi tử hồi sinh, vậy tôi sang mời, để về chữa bệnh cho chúa công tôi .

Tần Hoàn công nói:

– Nước Tấn đã nhiều lần vô lý đánh nhau với quân ta; nước ta dẫu có danh y, khi nào lại chịu chữa bệnh cho vua Tấn!

Nguỵ Tướng nghiêm nét mặt đáp rằng:

– Nhà vua nghĩ thế là sai lắm! Quý quốc cùng tôi là láng giềng, bởi vậy vua Hiến công tôi ngày xưa cùng vua Mục công ở bên quý quốc đã kết thân với nhau, để định đời đời cùng nhau giao hiếu, thế mà vua Mục công lúc trước dẫu có giúp vua Huệ công tôi về nước, lại gây việc tranh chíên ở đất Hàn Nguyên; lúc sau dẫu có giúp vua Văn công về nước, lại bội lời thề ước ở sông Dĩ Thuỷ, có phải là những sự thù oán đều tự quý quốc ra cả đó không ? Khi vua Văn công tôi tạ thế đi rồi, Tần Mục công lại quá nghe lời Mạnh Minh, khinh vua Tương công tôi hãy còn trẻ tuổi, đem quân qua núi Hào Sơn, đánh lén nước phụ thuộc của nước tôi, để đến nỗi thua quân; nước tôi bắt được ba quan nguyên sóai mà đều tha cho về, rồi sau qúy quốc lại trái lời thề, đem quân sang đi đánh Sùng mà quý quốc lại đem quân cùng với nước tôi giao chiến; đến chúa công tôi bây giờ, sang hỏi tội nước Tề thì nhà vua lại sai Đỗ Hồi đem quân cứu Tề . Lúc thua không chừa, lúc được không thôi; những mối thù oán, đều là tại qúy quốc cả ! Nhà vua thử nghĩ xem như thế là nước tôi xâm phạm quý quốc, hay là quý quốc xâm phạm nuớc tôi ? Nay chúa công tôi có bệnh, muốn cầu danh y của quý quốc, các quan triều thần nước tôi đều nói: “Tần là một nước cừu địch với ta, khi nào chịu cho” ! Tôi cãi rằng: “Không phải! Vua Tần đã làm nhiều việc trái lẽ, chắc đâu không biết hối, chúyến này, tôi sẽ nhân việc cầu danh y mà nối lại cái tình hoà hảo của đấng tiên quân ta thuở xưa”. Nay nhà vua không cho thì lời nói của các quan triều thần nước tôi là trúng lắm rồi . Thế là cái đạo láng giềng nên phải giúp nhau mà nhà vua không giúp; cái đạo làm thầy thuốc là phải cứu sống người mà nhà vua ngăn thầy thuốc đi cứu sống người, tôi dám chê nhà vua lắm!

Tần Hoàn công thấy Nguỵ Tướng lời lẽ khảng khái, bày tỏ rành mạch thì bất giác sinh lòng kính trọng mới bảo Nguỵ Tướng rằng:

– Nhà ngươi trách ta như thế là phải, ta xin vâng lời .

Nói đoạn truyền cho thái y là Cao Hoãn sang ngay nước Tấn . Ngụy Tướng tạ ơn, rồi cùng với Cao Hoãn ngay đêm ấy rời khỏi Ung Chân mà tiến thẳng về Tân Giáng . Tấn Cảnh công ốm nặng, ngày đêm mong đợi thầy thuốc nước Tần, bỗng nằm mộng thấy hai đứa bé con ở trong lỗ mũi chui ra . Một đứa nói: “Cao Hoãn nước Tần là danh y đời bây giờ, nếu hắn đến chữa thuốc thì chúng ta tất bị hại, biết làm thế nào mà tránh được ?” Đứa kia nói: “Chúng ta tránh vào phía trên mạng mỡ, phía dưới quả tim thì hắn làm gì ta nổi!”

Được một lúc thì Tấn Cảnh công kêu đau bụng rầm rĩ cả lên, không thể chịu được . Nguỵ Tướng đưa Cao Hoãn vào . Cao Hoãn xem mạch xong, nói với Tấn Cảnh công rằng:

– Bệnh này không thể nào mà chữa được nữa!

Tấn Cảnh công hỏi:

– Tại sao ?

Cao Hoãn nói:

– Bệnh này ở phía trên mạng mỡ, phía dưới quả tim, dẫu đốt cũng không thấu được, dẫu châm cũng không tới được, còn chữa làm sao, chẳng qua cũng là mệnh trời!

Tấn Cảnh công khen rằng:

– Nhà ngươi thật là danh y! Lời nói hợp với trong mộng của ta lắm!

Nói xong truyền đem lễ vật tiễn đưa Cao Hoãn trở về nước Tần . Bấy giờ có một người tiểu nội thị tên gọi Giang Trung, hầu hạ mỏi mệt quá, đang giữa ban ngày, bỗng chợp mắt ngủ đi, thấy mình công Tấn Cảnh công bay lên trên trời; khi tỉnh dậy, nói chuyện với những người xung quanh, lại vừa gặp Đồ Ngạn Giả vào cung thăm bệnh, nghe được cái mộng ấy liền nói với Cảnh công rằng:

– Trời là dương minh, bệnh là âm ám, nay thấy bay lên trên trời, thế là bỏ chỗ âm ám mà tới chỗ dương minh, bệnh chúa công tất gần đến ngày khỏi .

Tấn Cảnh công hôm ấy thấy trong mình cũng hơi dễ chịu, lại nghe lời nói của Đồ Ngạn Giả, có ý mừng thầm . Bỗng có kẻ điền nhân đem lúa mạch mới vào dâng . Tấn Cảnh công muốn ăn ngay, liền sai nhà bếp đem một nữa giã nhỏ ra để nấu cháo . Đồ Ngạn Giả căm tức người thầy cúng về việc nói họ Triệu chết oan, mới tâu với Cảnh công rằng:

– Ngày trước thầy cúng nói: chúa công không kịp nếm lúa mạch mới, nay câu nói ấy không nghiệm, xin triệu đến mà bảo cho hắn biết .

Tấn Cảnh công theo lời, triệu người thầy cúng đất Tang Môn vào, rồi sai Đồ Ngạn Giả quở trách rằng:

– Lúa mạch mới đã để đây rồi, nhà ngươi còn dám bảo là chúa công không kịp nếm nữa hay thôi ?

Thầy cúng nói:

– Chưa chắc!

Tấn Cảnh công nghe nói tức thì biến sắc . Đồ Ngạn Giả nói:

– Bề tôi mà dám nguyền rủa vua thì tội đáng chém!

Đồ Ngạn Giả truyền đem người thầy cúng ra chém . Người thầy cúng thở dài mà than thân rằng:

– Thương hại cho ta, vì giỏi một nghề nhỏ mọn mà đến nỗi thiệt đời!

Quân sĩ đem đầu người thầy cúng đất Tang Môn vào nộp, lại vừa gặp nhà bếp dâng bát cháo lúa mạch; bấy giờ trời đang trưa, Tấn Cảnh công toan cầm lấy bát cháo lúa mạch để ăn, tự nhiên bụng phát chướng lên, muốn đi ra ngoài, vội vàng gọi Giang Trung, bảo cõng ra nhà xí . Giang Trung cõng ra đến nơi thì Tấn Cảnh công đau bụng quá, chân đứng không vững, ngã lăn xuống hố xí . Giang Trung lóp ngóp ẵm lên thì đã tắt hơi . Chung qui vẫn là không kịp nấu lúa mạch mới mà giết oan người thầy cúng cao tay ở đất Tang Môn, đó đều là cái tội của Đồ Ngạn Giả . Quan thượng khanh là Loan Thư cùng triều thần lập thế tử Châu Bồ lên nối ngôi, tức là Tấn Lệ công . Triều thần công nghị rằng:

– Giang Trung khi trước đã nằm mộng thấy cõng vua Cảnh công ta lên trời, sau có cõng ra nhà xí, chính là ứng cái mộng ấy, bèn đem Giang Trung tuẫn táng . Người nước Tấn nhân việc Cảnh công chết về bệnh ma quỷ, đều bàn tán về nỗi oan ức của họ Triệu, nhưng họ Loan và họ Khước đều thân thiện với Đồ Ngạn Giả còn Hàn Quyết một mình thế cô, nên cũng không dám nói .

Bấy giờ, Tống Cung sai quan thượng khanh là Hoa Nguyên sang nước Tấn để viếng vua cũ và mừng vua mới . Hoa Nguyên cùng với Loan Thư thương nghị, muốn cho Tấn và Sở giảng hoà với nhau, để khỏi gây ra việc tranh chiến . Loan Thư nói:

– Nước Sở không nên tin!

Hoa Nguyên nói:

– Tôi với công tử Anh Tề nước Sở là chỗ quen thân, việc này tôi có thể đảm nhiệm được .

Loan Thư liền sai con là Loan Hàm cùng với Hoa Nguyên sang nước Sở, vào yết kiến công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề trông thấy Loan Hàm hãy còn trẻ tuổi, mặt mũi khôi ngô, liền hỏi Hoa Nguyên . Hoa Nguyên nói là con quan trung quân nguyên soái ở nước Tấn, công tử Anh Tề muốn thử tài, mới hỏi Loan Hàm rằng:

– Phép dùng quân của qúy quốc thế nào ?

Loan Hàm nói:

– Nghiêm chỉnh .

Công tử Anh Tề lại hỏi:

– Còn có cái gfi hay hơn nữa không ?

Loan Hàm nói:

– Nhàn hạ .

Công tử Anh Tề nói:

– Người ra rối loạn mà mình nghiêm chỉnh, người ta vội vàng mà mình nhàn hạn thì đánh đâu mà chẳng được . Câu nói ấy thật giản dị mà có thể tóm tắt hết được phép dùng quân .

Vì vậy công tử Anh Tề càng thêm kính trọng Loan Hàm, và đưa vào yết kiến Sở Cung vương, để bàn định việc giảng hoà của hai nước . Sở Cung vương bằng lòng rồi hẹn ngày cho ăn thề . Ngày hôm ấy Sĩ Nhiếp nước Tấn và công tử Bỉ nước Sở cùng làm lễ quệt máu ăn thề ở ngoài cửa tây nước Tống .

Quan tư mã nước Sở là công tử Trắc không được dự bàn về việc ấy, mới nổi giận mà nói rằng:

– Nam bắc từ xưa vẫn không giao thông với nhau, nay công tử Anh Tề lại muốn chuyên cái công hợp nhất, làm thế nào ta cũng phải phá mới được .

Công tử Trắc dò thám biết tin Vu Thần hợp với vua nước Ngô là Thọ Mộng cùng các quan đại phu nước Tấn, nước Lỗ, nước Tề, nước Tống, nước Vệ và nước Trịnh, hội ở đất Chung Ly, mới nói với Sở Cung vương rằng:

– Nước Tấn giao thông với nước Ngô, tất là có ý mưu hại nước Sở ta . Nay Tống và Trịnh đều theo Tấn thì các nước phụ thuộc của Sở ta không còn gì nữa!

Sở Cung vương nói:

– Ta muốn đánh Trịnh, chỉ ngại về lời thề ở Tây Môn .

Công tử Trắc nói:

– Công việc ngày nay, đàng nào lợi thì làm, cần gì lời thề!

Sở Cung vương liền sai công tử Trắc đem quân đi đánh Trịnh . Nước Trịnh lại bỏ Tấn theo Sở . Tấn Lệ công giận lắm, họp các quan đại phu để bàn việc đánh Trịnh . Bấy giờ Loan Thư dẫu làm trung quân nguyên soái, nhưng quyền chính ở tay ba người họ Khước:

1. Khước Kỳ (con Khước Khắc) làm thượng quân nguyên soái .

2. Khước Thù (em họ Khước Khắc) làm thượng quân phó tướng .

3. Khước Chí (cháu Khước Bộ Dương) làm tân quân phó tướng .

Con Khước Thù là Khước Nghị và em Khước Chí là Khước Khất đều làm quan đại phu . Bá Tôn là người ngay thẳng, đã nhiều lần đem việc họ Khước chuyên quyền nói với Tấn Lệ công, bảo nên chọn người nào tài giỏi, hãy cho làm quan, để nén bớt quyền thế họ Khước đi thì mới bảo toàn được con cháu công thần . Lệ công không nghe lời . Ba người họ Khước căm tức Bá Tôn, mới dèm pha Bá Tôn hay chê bai triều chính . Tấn Lệ công bèn bắt Bá Tôn đem giết đi . Con Bá Tôn là Bá Châu Lê trốn sang nước Sở . Nước Sở dùng làm quan thái tề, để bàn mưu làm hạii nước Tấn . Tấn Lệ công vốn có tính kiêu ngạo xa xỉ, ngoài thì tin yêu bọn Tư Đồng (con Tư Khắc, cháu Tư Giáp) là một lũ thiếu niên mà đều được làm quan đại phu cả; còn trong thì những mỹ cơ ái tỳ, không biết bao nhiêu mà kể, ngày đêm vui chơi, chẳng thiết gì đến triều chính . Bởi vậy triều thần ai cũng có ý chán nản . Sĩ Nhiếp thấy triều chính mỗi ngày một dỡ, nên không muốn đánh Trịnh nữa . Khước Chí nói:

– Nếu không đánh Trịnh thì sao cho chư hầu phục ?

Loan Thư nói:

– Ngày nay bỏ mất nước Trịnh thì Tống và Lỗ tất cũng ly tán mà thôi, Ôn Qúy (tức là Khước Chí) nói phải lắm!

Miêu Bí Hoàng (hàng tướng nước Sở, sang làm quan ở nước Tấn) cũng khuyên Tấn Lệ công nên đánh Trịnh . Tấn Lệ công nghe lời, liền giao quốc chính cho Tuân Dinh, rồi đem quân tiến sang nước Trịnh; lại một mặt sai Khước Thù cùng Loan Áp sang mượn thêm quân Lỗ và Vệ .

Trịnh Thành công nghe nói quân Tấn thế mạnh thì toan sai người ra xin hàng . Quan đại phu là Diêu Câu Nhĩ nói:

– Nước Trịnh ta nhỏ mọn, ở và giữa khoảng hai nước lớn, chỉ nên chọn một nước mạnh mà theo, cớ sao lại nay Sở mai Tấn, để đến nỗi năm nào cũng phải chịu cái tai vạ chiến tranh .

Trịnh Thành công nói:

– Vậy thì biết làm thế nào ?

Diêu Câu Nhĩ nói:

– Cứ như ý tôi thì không gì bằng sang nước Sở cầu cứu, hễ quân Sở đến thì ta cùng với Sở cố sức mà đánh vỡ quân Tấn, mới có thể giữ yên được trong mấy năm .

Trịnh Thành công liền sai Diêu Câu Nhĩ sang nước Sở để cầu cứu . Sở Cung vương vẫn ngại về lời thề ở Tây Môn, không muốn cất quân, mới hỏi công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề nói:

– Vì ta thất tín, Tấn mới đem quân đánh Trịnh, nay ta lại cứu Trịnh đánh Tấn thì làm khổ dân mà vị tất đã đánh được, chi bằng ta hãy đợi thời .

Công tử Trắc nói:

– Người nước Trịnh không nỡ bội nước Sở ta, vậy nên mới đến cầu cứu . Nước ta trước đã không cứu Tề, nay lại không cứu Trịnh thì chư hầu, ai còn muốn theo ta nữa . Tôi dẫu hèn mọn, cũng xin đem một toán quân theo đại vương đi cứu Trịnh .

Sở Cung vương bằng lòng, cho công tử Trắc làm đại tướng, rồi đem quân tiến sang nước Trịnh . Sĩ Nhiếp nghe tin quân Sở sang cứu Trịnh, bảo Loan Thư rằng:

– Chúa công ta còn trẻ tuổi, không biết việc nước, nay ta giả cách sợ nước Sở mà lui quân, khiến cho chúa công ta biết nghĩ lại, mới có thể giữ yên được nước nhà .

Loan Thư nói:

– Sợ nước Sở mà lui quân việc ấy tôi không dám làm!

Sĩ Nhiếp lui ra, rồi thở dài mà nói rằng:

– Chuyến này thua là may, nếu thắng trận thì ta chỉ e rằng trong nước lại sinh ra biến loạn .

Bấy giờ quân Sở đã kéo đến đất Yên Lăng . Quân Tấn không tiến binh được nữa, phải đóng lại ở Bành Tổ Cương . Ngày hôm sau nhằm vào ngày nguyệt tận, gọi là ngày hối . Theo như binh pháp thì ngày hối phải kiêng không cất quân, bởi vậy quân Tấn chẳng phòng bị gì cả . Gần hết canh năm, vào báo rằng quân Sở đã bày trận hò hét om sòm, quân canh vào báo rằng quân Sở đã bày trận ở phía ngoài dinh, Loan Thư giật mình kinh sợ mà nói rằng:

– Quân Sở đã kéo đến tận dinh ta mà bày trận, nếu ta giao chiến, tất là bất lợi, chi bằng ta hãy họp các tướng lại để thương nghị .

Các tướng mỗi người nói một cách: người thì nói nên chọn quân tinh nhuệ mà xông vào quân Sở; người thì nói nên rút về phía sau . Bấy giờ con Sĩ Nhiếp là Sĩ Mang, mới 16 tuổi, nghe các tướng bàn mãi không xong, liền vào nói với Loan Thư rằng:

– Nguyên soái lo không có chỗ bày trận hay sao, tôi thiết tưởng đó là một việc rất dễ!

Loan Thư nói:

– Nhà ngươi có kế gì ?

Sĩ Mang nói:

– Ta mật truyền quân sĩ đóng chặt cửa dinh lại, rồi đem bao nhiêu những bếp đun, san phẳng cả đi, còn giếng thì dùng ván bắc ngang lên mà lấy kín lại, như thế thì chỉ trong một hồi lâu là có thừa chỗ bày trận mà thôi . Khi đã bày trận xong sẽ mở cửa dinh ra để giao chiến, thì quân Sở làm gì ta nổi!

Loan Thư nói:

– Bếp và giếng là những chỗ cần dùng, nếu san bếp lấp giếng thì lấy gì mà ăn ?

Sĩ Mang nói:

– Ta hãy truyền cho quân sĩ sắ sẵn lương khô và ước uống đủ dùng trong một, hai ngày, đợi khi bày trận xong, sẽ cho những quân già yếu ra phía sau dinh, làm bếp khác và khai giếng khác .

Sĩ Nhiếp vốn không muốn đánh, thấy con hiến kế, nổi giận mà mắng rằng:

– Việc binh thắng hay là phụ quan hệ ở mệnh trời . Mày biết gì mà dám nói láo!

Nói xong cầm giáo đuổi theo . Các tướng vội vàng đổ ra, ôm Sĩ Nhiếp lại, Sĩ Mang mới chạy thoát . Loan Thư cười mà bảo rằng:

– Trí khôn của đứa trẻ ấy lại có phần hơn Phạm Mạnh (tức là Sĩ Nhiếp)!

Loan Thư theo kế Sĩ Mang, truyền cho quân sĩ san bếp lấp giếng, rồi định ngày để giao chiến với quân Sở . Sở Cung vương tiến áp đến dinh quân Tấn mà bày trận, trong lòng nghĩ thầm rằng ta nhân lúc bất ngờ mà làm như thế, tất nhiên quân Tấn phải rối loạn, sau thấy quân Tấn vẫn im lặng như tờ, mới hỏi quan thái tể là Bá Châu Lê rằng:

– Tại sao quân Tấn im lặng như vậy, nhà ngươi là người nước Tấn, tất biết rõ cớ ấy ?

Bá Châu Lê nói:

– Xin đại vương trèo lên xe chòi mà xem

Sở Cung vương trèo lên xe chòi, cho Bá Chân Lê đứng ở bên cạnh . Sở Cung vương hỏi:

– Quân Tấn làm gì mà lúc thì chạy sang phía tả, lúc thì chạy sang phía hữu như thế kia ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là đang gọi quân lại .

Sở Cung vương nói:

– Sao bây giờ lại họp cả ở trung quân như vậy ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là họp để bàn mưu .

Sở Cung vương nói:

– Căng màn ra làm gì thế kia ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là làm lễ cáo với tiên quân .

Sở Cung vương nói:

– Sao bây giờ lại cất màn đi ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là đang tuyên bố hiệu lệnh .

Sở Cung vương nói:

– Tại sao trong quân huyên náo, lại có nhiều cát bụi bay mù lên như vậy ?

Bá Châu Lê nói:

– Quân Tấn đang san bếp lấp giếng để lấy chỗ bày trận .

Sở Cung vương nói:

– Xe đều đóng ngựa rồi! Tướng sĩ đều lên xe rồi!

Bá Châu Lê nói:

– Đó là đã kết thành trận thế .

Sở Cung vương nói:

– Tướng sĩ đã lên xe, sao lại còn xuống ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là sắp giao chiến mà còn cúng thần .

Sở Cung vương nói:

– Ta xem quân Tấn khí thế hùng dũng lắm! hay là có vua Tấn ở đó chăng ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là họ Loan và họ Phạm lấy uy danh vua Tấn mà bày trận, ta chớ nên khinh thường .

Sở Cung vương biết hết tình hình quân Tấn, mới truyền cho quân sĩ phải sửa soạn sẵn sàng, để đến ngày hôm sau giao chiến . Hàng tướng nước Sở là Miêu Bí Hoàng (con Đấu Việt Lâm trống sang làm quan ở nước Tấn) cũng đứng hầu ở bên cạnh Tấn Lệ công, tâu với Tấn Lệ công rằng:

– Từ khi quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao chết đi, quân chính nước Sở chẳng có phép tắc gì cả, hai đạo tinh binh gọi là Lưỡng Quảng, lâu ngày không tuyển mộ thêm, nhiều người già yếu không thể giao chiến được, hai quan nguyên soái thì bất hoà với nau, tôi chắc rằng ta chỉ đánh một trận là phá được quân Sở .

Ngày hôm ấy, hai bên vẫn còn giữ thế chưa giao chiến, tướng nước Sở là Phan Đảng ra sau dinh tập bắn, vừa bắn trúng luôn ba phát, các tướng đều reo mừng, khen ngợi rầm rĩ lại vừa gặp có Dưỡng Do Cơ đến, các tướng trông thấy đều nói:

– Lại có một tay thần tiễn nữa đến kia!

Phan Đảng nổi giận nói rằng:

– Ta bắn như thế, phỏng đã kém Dưỡng Thúc (tức là Dưỡng Do Cơ) cái gì ?

Dưỡng Do Cơ nói:

– Nhà ngươi bắn trúng cái đích kia, chưa lấy gì làm lạ, ta đây có thể bắn “bách bộ xuyên dương” kia!

Các tướng đều hỏi:

– “Bách bộ xuyên dương” là thế nào ?

Dưỡng Do Cơ nói:

– Trước đây có người lấy thuốc màu đánh dấu một cái lá trên một cây dương, ta đứng ở ngoài trăm bước bắn một phát mà trúng vào giữa cái lá ấy, bởi thế mới gọi là “bách bộ xuyên dương”.

Các tướng nói:

– Ở đây cũng có cây dương, nhà ngươi thử bắn xem có được không ?

Dưỡng Do Cơ nói:

– Sao lại không được!

Các tướng mừng lắm nói:

– Ngày nay ta lại được xem mũi tên thần của Dưỡn thúc!

Các tướng lấy mực bôi vào một cái lá ở trên cây dương, để cho Dưỡng Do Cơ đứng ngòai trăm bước mà bắn thử . Dưỡng Do Cơ đứng bắn một phát . Các tướng không thấy cái tên rơi xuống đất, liền xúm lại xem thì ra cái tên ấy vướng ở trên cành cây dương mà mũi tên xuyên qua cái lá đã bôi mực . Phan Đảng nói:

– May mà trúng đó thôi! Bay giờ ta theo thứ tự mà đánh dấu vào ba cái lá, nhà ngươi lại theo thứ tự mà bắn trúng được cả ba thì mới là tay giỏi!

Dưỡng Do Cơ nói:

– Ta chưa dám chắc, nhưng hãy xin bắn thử!

Phan Đảnhg đánh dấu ba cái lá ở trên cây dương, ở ba chỗ cao thấp khác nhau: cái đề chữ “nhất”, cái đề chữ “nhị” và cái đề chữ “tam” . Dưỡn Do Cơ nhìn qua một lượt, rồi lui ra ngoài trăm bước, lấy ba cái tên, cũng ghi số hiệu nhất, nhị, tam, rồi theo thứ tự mà bắn luôn ba phát, đều trúng tất cả . Các tướng cùng chắp tay vái Dưỡng Do Cơ mà khen rằng:

– Nhà ngươi thật là người thần!

Phan Đảng dẫu trong lòng khen thầm, nhưng lại muốn khoe tài của mình, mới bảo Dưỡn Do Cơ rằng:

– Dưỡng thúc bắn như thế cũng cho là giỏi, nhưng nghề bắn lại cần phải có sức khỏe mới được; ta đây có thể bắn suốt qua được mấy lần áo giáp, để ta thử bắn cho các ngươi xem .

Các tướng đều nói:

– Chúng tôi muốn xem lắm!

Phan Đảng sai quân sĩ xếp liền với nhau năm lần áo giáp .

Các tướng nói:

– Thôi thế cũng đã đủ rồi!

Phan Đảng lại sai để thêm hai lần nữa, cả thảy là bảy lần . Các tướng đều nghĩ thầm: bảy lần áo giáp, có khi dày gần tới một thước, tài nào bắn xuyên qua được! Phan Đảng sai đem bảy lần áo giáp treo lên trên cái đích bia, rồi đứng ở ngoài trăm bước, cố sức thẳng cánh giương cung bắn ngay một phát, chỉ nghe tiếng tên bay vụt đi, không thấy rơi xuống đất . Các tướng xúm lại xem, ai nấy đều reo rầm lên rằng:

– Bắn giỏi quá! giỏi quá!

Nguyên Phan Đảng bắn mạnh quá, cái tên ấy suốt qua bảy lần áo giáp, như đang đóng cột, không thể lay động được . Phan Đảng nét mặt có ý khoe khoang, bảo quân sĩ đem mấy lần áo giáp ấy xuống, và cứ để cái tên y nguyên như vậy, định đưa khắp cho cả dinh cùng xem . Dưỡng Do Cơ mới bảo các tướng rằng:

– Khoan đã! đừng hạ xuống vội, để ta thử bắn một phát nữa xem sao!

Các tướng nói:

– Ừ, phải đó! để chúng ta xe tài Dưỡng thúc chuyến nữa!

Dưỡng Do Cơ giương cung lên, toan bắn lại thôi . Các tướng hỏi:

– Sao Dưỡng thúc lại không bắn ?

Dưỡng Do Cơ nói:

– Nếu cứ theo lối cũ mà bắn thì không lấy gì làm lạ; ta đây có một cách bắn khác .

Dưỡng Do Cơ nói xong, liền bắn ngay một phát . Phát tên ấy không cao, không thấp, không lệch về hai bên, lại cắm thẳng ngay vào cái đốc tên của Phan Đảng mà đẩy sang phía bên kia, còn cái tên của Dưỡng Do Cơ thì lại thế vào chỗ thủng ấy . Các tướng trông thấy, ai cũng lắc đầu lè lưỡi mà khen là tài . bấy giờ Phan Đảng mới chịu phục mà nói rằng:

– Dưỡng thúc thật là một tay tuyệt vời, ta không thể theo kịp!

Các tướng nói:

– Nay Tấn, Sở hai nước sắp giao chiến với nhau, chính là lúc cần dùng tài bắn, hai vị tướng quân có tài như vậy, ta nên tâu lên đại vương biết .

Các tướng bèn sai quân sĩ khiêng mấy lần áo giáp ấy đến trước mặt Sở Cung vương . Dưỡng Do Cơ và Phan Đảng cũng cùng đến cả . Các tướng đem những việc hai người bắn thi với nhau thuật lại cho Sở Cung vương nghe, và tâu với Sở Cung vương rằng:

– Nước ta có người bắn giỏi như thế thì dẫu trăm vạn quân Tấn cũng chẳng làm gì nổi ?

Sở Cung vương nổi giận mà mắng rằng:

– Làm tướng đánh giặc, cần phải dùng mưu kế, chứ sao lại cầu may ở một mũi tên! nhà ngươi tự phụ như thế thì tất có ngày lại chết về nghề!

Sở Cung vương liền thu lấy cái tên của Dưỡng Do Cơ, không cho bắn nữa . Dưỡng Do Cơ hổ thẹn lui ra .

Đầu trống canh năm hôm sau, Tấn Lệ công và Sở Cung vương cùng truyền cho quân sĩ nổi hiệu trống đem quân ra trận . Trịnh Thành công cũng đem quân đến tiếp ứng cho quân Sở . Tấn Lệ công đem quân ra, tiến thẳng đến trận địa quân Sở, chẳng ngờ có một chỗ bùn lầy, xe Tấn Lệ công sụt bánh, ngựa không thể nào kéo lên nổi . Con Sở Cung vương là Hùng Phiệt tuổi trẻ hăng hái trông thấy Tấn Lệ công sa lầy, liền thúc quân đến đánh . Tướng nước Tần là Loan Hàm vội vàng ở trên xe nhảy xuống, đứng giữa bùn lấy hết sức bình sinh, hai tay nâng hai bánh xe lên, bấy giờ ngựa mới ra khỏi được . Khi Hùng Phiệt đem quân đến nơi thì vừa gặp có toán quân của Loan Thư đến . Loan Thư quát to lên rằng:

– Tiểu tướng không đựơc vô lễ!

Hùng Phiệt trông thấy trên lá cờ để bốn chữ: “Trung quân nguyên soái”, biết là đại binh, giật mình khinh sợ, vội vàng bỏ chạy . Loan Thư đuổi theo, bắt sống được Hùng Phiệt . Quân Sở thấy Hùng Phiệt bị bắt, đều đổ xô lại cứu, nhưng vừa lúc ấy thì Sĩ Nhiếp và Khước Chí cũng đem quân đến, quân Sở sợ có mai phục, lại phải thu quân trở về . Quân Tấn cũng không đuổi theo quan Sở nữa . Loan Thư giải Hùng Phiệt về nộp Tấn Lệ công . Tấn Lệ công toan chém . Miêu Bí Hoàng nói với Tấn Lệ công rằng:

– Vua Sở nghe tin con bị bắt, ngày mai tất nhiên đem quân đến đánh, ta nên bỏ Hùng Phiệt vào tù xa, đem ra trước trận mà dụ vua Sở .

Tấn Lệ công khen phải . Sáng hôm sau, Loan Thư truyền mở cửa dinh để sửa soạn khai chiến với quân Sở . Quan đại tướng là Nguỵ Kỳ báo Loan Thư rằng:

– Đêm qua tôi nằm mộng thấy tôi giương cung bắn trúng vừng trăng, một dải hào quang ở trong mặt trăng toé thẳng xuống đất, tôi vội vàng lùi lại, chẳng ngờ trượt chân sa xuống chỗ bùn lầy, rồi giật mình tỉnh dậy, không biết đó là điềm gì ?

Loan Thư đóan rằng:

– Cùng họ với nhà Chu ta là mặt trời thi khác họ tất là mặt trăng, bắn trúng mặt trăng, tất là bắn trúng vua Sở; nhưng lùi lại mà sa vào bùn lầy thì không phải là điềm lành, tướng quân nên cẩn thận mới được!

Nguỵ Kỳ nói:

– Nếu phá vỡ quan Sở thì tôi dẫu chết, cũng được thoả lòng!

Loan Thư liền cho Ngụy Kỳ đem quân ra trận, gặp tướng nước Sở là Doãn Tương ra nghênh chiến . Hai người đánh nhau mới được mấy hợp thì quân Tấn đem tù xa chở Hùng Phiệt ra . Sở Cung vương trông thấy, hầm hầm nổi giận, tức khắc giục ngựa tiến vào, định cướp lấy Hùng Phiệt đem về . Ngụy Kỳ trông thấy Sở Cung vương, thì không giao chiến với Doãn Tương nữa, mà quay lại đuổi theo Sở Cung vương, bắn một phát trúng ngay vào mắt bên tả . Sở Cung vương vội vàng bỏ chạy, cố nghiến răng mà rút cái tên ra, cầm ném xuống đất, con ngươi xóc ở đầu mũi tên . Có một đứa tiểu tốt nhặt lấy dâng lên Sở Cung vương và nói rằng:

– Đây là mắt rồng, đại vương không nên bỏ!

Sở Cung vương cầm lấy mà bỏ vào trong túi tên . Quân Tấn thấy Ngụy Kỳ thắng trận, đều cùng nhau tiến binh . Nguyên soái nước Sở là công tử Trắc cố sức chống cự, mới cứu thoát được Sở Cung vương . Khước Chí (tướng nước Tấn) đem quân vây Trịnh Thành công, người dong xe của Trịnh Thành công đem lá cờ đại tỉnh giấu vào trong túi cung . Trịnh Thành công mới chạy thoát được . Bấy giờ Sở Cung vương giận lắm, truyền gọi thần tiễn tướng quân là Dưỡn Do Cơ đến để cứu giá . Dưỡng Do Cơ vâng lệnh chạy đến, nhưng trong mình chẳng có một cái tên nào cả . Sở Cung vương rút hai cái tên đưa cho Dưỡng Do Cơ và bảo rằng:

– Người bắn ta vừa rồi là người râu xồm, mặc áo bào màu lục, tướng quân báo thù cho ta . Tướng quân đã là người bắn giỏi, tưởng cũng không cần phải dùng đến nhiều tên .

Dưỡng Do Cơ lĩnh lấy hai cái tên ấy, rồi tức khắc tiến sang quân Tấn, gặp một người râm xồm, mặc áo bào lục, tức là Ngụy Kỳ . Dưỡng Do Cơ quát to lên mà mắng Ngụy Kỳ rằng:

– Đứa thất phu kia! sao mày dám bắn đại vương ta!

Ngụy Kỳ vừa toan trả lời thì Dưỡng Do Cơ bắn một phát tên trúng ngay vào cổ . Nguỵ Kỳ ngã phục xuống mà chết ngay . Loan Thư tức khắc đem quân đến, cướp lại được thi thể Ngụy Kỳ đưa về . Dưỡng Do Cơ còn thừa một cái tên, đem về nộp Sở Cung vương và tâu rằng:

– Tôi nhờ uy linh của đại vương, đã bắn chết được viên tướng râu xồm mặc áo bào màu lục rồi .

Sở Cung vương mừng lắm, liền cởi ngay áo cẩm bào ban cho Dưỡng Do Cơ, lại ban cho một trăn cái tên bằng ngà . Bấy giờ quân Sở đều gọi Dưỡng Do Cơ là Dưỡng Nhất Tiễn, nghĩa là chỉ bắn một phát tên thứ nhất đã trúng được ngay, không phải bắn đến phát thứ hai . Bấy giờ quân Tấn đuổi theo quân Sở gấp lắm . Dưỡng Do Cơ đứng chắn ngang đường giương cung ra bắn . Quân Tấn không dám đến gần . Tướng nước Sở là công tử Anh Tề và công tử Nhâm Phu nghe tin Sở Cung vương bị thương, đều đem quân đến tiếp ứng, lại hỗn chiến một chập nữa, rồi quân Tấn mới chịu lui về . Loan Hàm trông thấy hiệu cờ lệnh doãn, biết là toán quân của công tử Anh Tề, mới nói với Tấn Lệ công rằng:

– Khi trước tôi sang sứ nước Sở, quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề có hỏi tôi về việc dùng binh của nước Tấn ta, tôi đáp rằng nghiêm chỉnh và nhàn hạ . Nay hai bên hỗn chiến, chưa thấy cái gì là nghiêm chỉnh; hai bên tháo lui, chưa thấy cái gì là nhàm hạ, tôi xin sai người đem rượu sang dâng công tử Anh Tề, để theo được như lời ngày trước .

Tấn Lệ công khen phải . Loan Hàm sai một người mang hũ rượu sang công tử Anh Tề mà nói với công tử Anh Tề rằng:

– Chúa công tôi thiếu người, Loan Hàm đang phải cầm giáo hộ vệ ở trên xe, vì vậy Loan Hàm không thể đến đây mà khao quân quý quốc được, có sai tôi thay mặt đem dâng hũ rượu này .

Công tử Anh Tề nhớ đến câu nói về sự nghiêm chỉnh và nhà hạ khi trước, mới khen rằng:

– Tiểu tướng quân thật là nhớ việc lắm!

Nói xong, liền nhận hũ rượu ấy, rót một chén uống mà bảo sứ giả rằng:

– Ngày mai ta sẽ ra trước trận để tạ lại .

Sứ giả nước Tấn về thuật lại cho Loan Hàm nghe . Loan Hàm nói:

– Vua nước Sở bị mũi tên như thế, mà quân Sở còn chưa chịu lui thì biết làm thế nào ?

Miêu Bí Hoàng nói:

– Ta cứ sửa soạn sẵn để sáng sớm mai quyết một trận thắng phụ, chứ có sợ gì quân Sở .

Bấy giờ Khước Thù cùng Loan Áp đi mượn quân nước Lỗ và Vệ đã trở về, nói là hai nước hiện đã cất quân sang gần đến nơi, chỉ còn cách đây độ 20 dặm . Thám tử báo tin cho Sở Cung vương biết . Sở Cung vương kinh sợ mà nói rằng:

– Quân Tấn đã nhiều mà nay lại có quân Lỗ và quân Vệ đến giúp, biết làm thế nào ?

Sở Cung vương tức khắc sai người đi triệu quan trung quân nguyên soái đến để thương nghị.

Chương 59: Tư Đồng cậy thế tấn Lệ Công – Triệu Vũ báo thù Đồ Ngạn Giả

Trung quân nguyên sóai nước Sở là công tử Trắc, vốn là người nghiện rượu, mỗi lần uống kể hàn trăm bầu không thôi, mỗi lần say kể hàng suốt ngày không tỉnh . Sở Cung vương vẫn biết như vậy, nên trong khi đi trận, thường nghiêm cấm không cho công tử Trắc uống rượu . Bấy giờ Tấn và Sở gây việc tranh chiến, công tử Trắc đang làm trung quân nguyên sóai, không dám uống một hớp rượu nào cả . Khi Sở Cung vương bị mũi tên trở về, vừa thẹn vừa giận, công tử Trắc nói với Sở Cung vương rằng:

– Nay quân hai bên đều đã mỏi mệt, ngày mai đại vương hãy cho đình chiến một hôm, để tôi xin nghĩ mưu kế báo thù .

Công tử Trắc về dinh, ngồi đến nửa đêm, chưa nghĩ được mưu kế gì . Có một tên người nhà là Cốc Dương vốn là người thân cận của công tử Trắc thấy công tử Trắc lo nghĩ buồn rầu, nhân có giấu được ba lọ rượu thật ngon, liền hâm một lọ, đem dâng lên công tử Trắc . Công tử Trắc cầm chén ngửi ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Rượu à ?

Cốc Dương dẫu biết là công tử Trắc muốn uống, nhưng sợ người xung quanh lộ chuyện ra ngoài, mới giả cách nói:

– Không phải rượu, đây là nước tiêu thang đó .

Công tử Trắc hiểu ý, uống một hơi hết ngay, vị ngọt hương thơm, không biết thế nào mà kể! công tử Trắc uống xong lại hỏi:

– Còn nước tiêu thang không ?

Cốc Dương nói:

– Bẩm còn!

Cốc Dương lại rót một chén đầy nữa dâng lên . Công tử Trắc lâu nay thèm rượu quá, cứ gọi Cốc Dương lấy nước tiêu thang mãi . Rót xong liền uống, uống xong lại rót, thành ra uống nhiều quá, say lử người ra, rồi nằm phục ở trên chiếu mà ngủ . Sở Cung vương nghe tin quân Tấn định đến gà gáy hôm sau thì giao chiến, có quân Lỗ và quân Vệ cũng đến đánh giúp, vội vàng sai nội thị đi triệu công tử Trắc để bàn mưu kế . Ai ngờ công tử Trắc đã say tít cung thang, gọi cũng chẳng thưa, lôi cũng chẳng dậy, chỉ thấy mùi rượu nồng sực cả lên . Nội thị vào tâu với Sở Cung vươg . Sở Cung vương lại sai người gọi, cả thảy đến mười tin luôn, nhưng càng gọi gấp bao nhiêu thì công tử Trắc lại càng ngủ lỳ bấy nhiêu . Cốc Dương thấy vậy, khóc mà nói rằng:

– Ta yêu nguyên soái mà dâng rượu, ai ngờ thành ra hại nguyên sóái! nay đại vương biết thì tính mệnh ta cũng khó lòng mà toàn vẹn đuợc, chi bằng ta bỏ trốn đi là hơn .

Sở Cung vương thấy công tử Trắc không đến, không biết làm thế nào, phải sai người triệu công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề vốn bất hoà với công tử Trắc, liền tâu với Sở Cung vương rằng:

– Tôi đã biết là quân Tấn mạnh thế lắm, không thể đánh được, cho nên từ trước tôi vẫn không muốn cứu Trịnh . Việc này đều tại quan tư mã (trỏ và công tử Trắc) cả, nay quan tư mã tham chén quá say, tôi cũng không biết dùng mưu kế gì cho được, chi bằng đêm hôm nay ta rút quân về, để khỏi chịu thua nhục nhã .

Sở Cung vương nói:

– Đã đành như thế, nhưng nay quan tư mã say rượu quá, nếu bị quân Tấn bắt được, thì nhục quốc thể lắm đấy!

Nói xong gọi Dưỡng Do Cơ vào mà bảo rằng:

– Ta trông cậy vào thần tiễn của nhà ngươi để hộ vệ quan tư mã ra khỏi địa giới . Chỉ còn Dưỡng Do Cơ ở lại sau . Dưỡng Do Cơ nghĩ thầm nếu đợi quan tư mã tỉnh rượu thì biết đến bao giờ!

Bèn sai nguời vực công tử Trắc dậy, đem dây da trói lại, rồi đặt lên trên xe, cho đi trước còn mình thì cùng với ba trăm quân cung tên, thong thả đi sau . Sáng hôm sau, quân Tấn mở cửa dinh ra để giao chiến, kéo thẳng đến dinh quân Sở, chẳng thấy một người nào cả, biết là quân Sở đã trốn đi rồi . Loan Thư toan đem quân đuổi theo . Sĩ Nhiếp cố ý can . Loan Thư lại nghe báo rằng khắp địa giới nước Trịnh, chỗ nào cũng có quân phòng thủ, biết là thế không làm gì nổi, mới truyền rút quân trở về nước Tấn . Quân Lỗ và quân Vệ cũng đều về nước cả .

Công tử Trắc đi được 50 dặm đường, dần dần tỉnh rượu, thấy tay chân đều vướng bận, mới kêu rầm lên rằng:

– Ô hay! ai trói ta thế này!

Quân sĩ nói:

– Quan tư mã say rượu quá, Dưỡng tướng quân sợ đi xe không vững, vậy nên phải làm như thế .

Nói xong, liền cởi trói cho công tử Trắc . Công tử Trắc hai mắt hãy còn hoa mờ cả lên, ngoảnh lại hỏi quân sĩ rằng:

– Xe ngựa ta đi đâu thế này ?

Quân sĩ nói:

– Đường về nước ta đó!

– Tại sao lại về ?

Quân sĩ nói:

– Đêm qua đại vương mấy lần ra triệu quan tư mã, vì quan tư mã say rượu quá, vậy nên đại vương sợ quân Tấn đến đánh, không có ai chống lại nổi, đã phải rút quân trở về rồi!

Công tử Trắc khóc mà nói rằng:

– Cốc Dương làm hại ta rồi!

Công tử Trắc truyền gọi Cốc Dương thì Cốc Dương đã bỏ trốn đi đâu mất . Sở Cung vương đi khỏi hai trăm dặm, mới được yên lòng . Lại sợ công tử Trắc lo tội mà tự tử, mới sai người truyền bảo rằng:

– Ngày xưa Tử Ngọc (tên tự Thành Đắc Thần) thua trận mà bị tội, là vì lúc bấy giờ tiên quân ta không đi, nay ta thân hành đem quân đi thì tội tại ta, không dự gì đến quan tư mã .

Công tử Anh Tề muốn cho công tử Trắc tự tử chết, bèn sai người nói với công tử Trắc rằng:

Việc Tử Ngọc ngày xưa thua trận mà tự tử, hẳn quan tư mã cũng đã biết; giả sử đại vương không trị tội, quan tư mã còn mặt mũi nào đối với quân sĩ nước Sở ngày nay!

Công tử Trắc thở dài mà nói rằng:

– Quan lệnh doãn (tức là công tử Anh Tề) trách ta thế là phải lắm, có lẽ nào ta lại dám tham sống làm gì!

Nói xong, thắt cổ mà chết . Sở Cung vương rất là thương tiếc .

Tấn Lệ công thắng được quân Sở, tự cho mình là thiên hại vô địch, càng có ý kiêu ngạo lắm . Sĩ Nhiếp biết là nước Tấn thế nào cũng loạn, đem lòng lo nghĩ, thành ra ốm nặng, liền sai quan thái thúc cúng thần, để khẩn xin cho được chóng chết . Chưa được bao lâu thì Sĩ Nhiếp chết .

Bấy giờ Tư Đồng là người khéo nịnh hót, Tấn Lệ công có lòng tin yêu, muốn cho làm quốc khanh, nhưng ngặt vì một nỗi chức quốc khanh không khuyết, Tư Đồng mới tâu với Tấn Lệ công rằng:

– Nay ba người họ Khước đều giữ binh quyền, vây cánh to lắm, làm nhiều điều trái phép, chỉ sợ sau lại sinh lòng phản nghịch, ta nên trừ trước đi; nếu trừ được họ Khước thì chức khanh khuyét nhiều, bấy giờ tuỳ ý chúa công, yêu ai thì cho người ấy .

Tấn Lệ công nói:

– Họ Khước chưa làm sự gì phản nghịch cả, mà ta giết đi thì e rằng triều thần không ai phục .

Tư Đồng lại tâu rằng:

– Trận đánh ở Yên Lăng, Khước Chí đã vây vua Trịnh, lại cùng vua Trịnh tư ước, rồi tha cho đi, xem thế thì biết là tất có tư thông với Sở . Chúa công nên gọi Hùng Phiệt (con Sở Cung vương bị quân Tấn bắt được) vào mà hỏi thì tự khắc biết rõ sư. thực .

Tấn Lệ công sai Tư Đồng đi gọi Hùng Phiệt . Tư Đồng bảo Hùng Phiệt rằng:

– Công tử có muốn về nước Sở không ?

Hùng Phiệt nói:

– Muốn lắm, nhưng làm thế nào mà về được ?

Tư Đồng nói:

– Công tử nghe ta điều này thì ta sẽ xin cho công tử được về .

Hùng Phiệt nói:

– Ngài bảo gì, tôi xin vâng lệnh!

Tư Đồng liền ghé tai nói nhỏ với Hùng Phiệt, để khi vào yết kiến Tấn Lệ công thì vu tội cho Khước Chí . Khi Hùng Phiệt vào yết kiến, Tấn Lệ công đuổi hết người xung quanh đi, rồi hỏi Hùng Phiệt rằng:

– Khước Chí có tư thông với nước Sở hay không ? Nhà ngươi nên nói thật thì ta sẽ cho nhà ngươi về nước .

Hùng Phiệt tâu rằng:

– Chúa công có tha tội thì tôi mới dám nói .

Tấn Lệ công nói:

– Ta đang muốn nghe nhà ngươi nói thật, khi nào lại còn bắt tội .

Hùng Phiệt nói:

– Khuớc Chí cùng công tử Anh Tề nước tôi, hai người chơi thân với nhau, vẫn có thư tín đi lại, nói: “Nhà vua không tin quan đại thần, ngày đêm chơi bời, nhân dân đều oán, không đáng làm vua! hiện nay ai cũng nhớ đến vua Tương công ngày xưa, vua Tương công có người cháu tên là Chu, nếu quân Tấn thua trận thì ta sẽ lập Chu lên làm vua mà thần phục nước Sở” . Tôi chỉ biết có một việc ấy, còn việc gì khác, thật quả tôi không được biết .

Hùng Phiệt nói chưa dứt lời thì Tư Đồng lại tâu rằng:

– Thảo nào mà trận đánh nhau ở Yên Lăng ngày trước, Khước Thù cùng công tử Anh Tề đối trận mà không bắn một phát tên nào, đủ biết là có ý tư thông với nước Sở . Xem thế thì việc Khước Chí tha vua Trịnh, còn ngờ gì nữa! nếu chúa công chưa tin thì nên sai Khước Chí sang nhà Chu báo tin thắng trận, rồi cho người đi rình, nếu Khước Chí quả có âm mưu, thì thế nào cũng tìm đến công tôn Chu để cùng nhau thương nghị .

Tấn Lệ công khen phải, liền sai Khước Chí sang nhà Chu báo tin thắng trận . Tư Đồng mật sai ngươi báo Công tôn Chu rằng:

– Quyền chính nước Tấn, một nửa ở tay họ Khước, nay Khước Chí sang báo tin thắng trận, công tôn nên nhân tiện cùng với Khước Chí giao kết thì sau này công tôn về nước, có phải cũng thêm vây cánh không ?

Công tôn Chu lấy làm phải . Khi Khước Chí đến, Công tôn Chu vào yết kiến, rồi hỏi thăm những công việc nước nhà . Khước Chí đều bảo thật tất cả . Hai người cùng nhau thương nghị, trong nửa ngày trời, Tấn Lệ công sai người rình, biết sự thể như vậy, liền cho lời nói Hùng Phiệt là thật, mới có ý muốn trừ vây cánh họ Khước . Một hôm, Tấn Lệ công cùng với cung nữ uống rượu, sai nguời nội thị là Mạnh Chương đi mua thịt hươu gấp lắm, để vội về làm việc . Bấy giờ trong chợ hết cả thịt hươu, lại vừa gặp Khước Chí đi săn về qua đến chợ, trên xe có mang theo một con hươu, Mạnh Chương chẳng hỏi gì cả, cướp ngay con hươu ấy đem đi . Khước Chí giận lắm, giương cung bắn chết Mạnh Chương, rồi lấy lại con hươu . Tấn Lệ công nghe tin nổi giận mà nói rằng:

– Khước Chí khinh ta quá lắm!

Nói xong, liền triệu bọn Tư Đồng, Di Dương Ngũ, và Trường Ngưu Kiểu đến để bàn việc giết Khước Chí . Tư Đồng nói:

– Ta giết Khước Chí thì Khước Kỳ và Khước Thù tất làm phản, chi bằng ta trừ cả đi .

Di Dương Ngũ nói:

– Đêm hôm nay ta nhân lúc bất ngờ, phụng mệnh chúa công đem quân lẻn đến thì có thể bắt được .

Trường Ngưu Kiểu nói:

– Quân sĩ của ba người họ Khước gấp đôi quân sĩ trong cung, nếu ta đến bắt mà không được thì lại đi họa đến chúa công . Nay Khước Chí kiêm chức tư khấu, Khước Thù kiêm chức sĩ sư, chi bằng ta giả cách vào hầu kiện, để nhân tiện mà giết đi, rồi các người đem quân tiếp ứng .

Tấn Lệ công nói:

– Kế ấy hay lắm! để ta sai kẻ lực sĩ là Thanh Phí Khôi đi giúp nhà ngươi .

Trường Ngưu Kiểu dò biết hôm ấy ba người họ Khước hội nghị ở nhà giảng vũ, liền cùng với Thanh Phí Khôi đem tiết gà bôi vào mặt, giả hình làm hai người đánh nhau, mỗi người tay cầm một con dao, kéo vào nhà giảng vũ để kiện nhau . Khước Thù không biết là mưu kế, mới ngồi hỏi kiện . Thanh Phí Khôi giả cách đến gân để bẩn nhỏ, rồi rút dao đâm trúng vào lưng Khước Thù, Khước Thù ngã lăn xuống đất . Khước Kỳ vội vàng giơ dao chém Thanh Phí Khôi, lại bị Trường Ngưu Kiểu xông đến, hai người giao chiến với nhau, Khước Chí tức khắc chạy ra, lên xe bỏ trốn . Thanh Phí Khôi vội vàng đâm thêm Khước Thù một nhát nữa thấy Khước Thù đã chết rồi, cũng xông lại để đánh Khước Kỳ . Khước Kỳ dẫu là vũ tướng, nhưng Thanh Phí Khôi có sức khoẻ lạ thường, và Trường Ngưu Kiểu cũng là một tay nhanh nhẹn, một mình Khước Kỳ địch sao nổi hai người, cũng bị Thanh Phí Khôi đâm chết . Trường Ngưu Kiểu thấy Khước Chí bỏ chạy, liền đuổi theo . Khước Chí đang chạy, lại gặp Tư Đồng và Di Dương Ngũ đem quân đến tiếp ứng . Tư Đồng và Di Dương Ngũ quát to lên rằng:

– Ta phụng mệnh chúa công đi bắt bọn phản nghịch là họ Khước, chớ để cho nói chạy thóat được!

Khước Chí sợ hãi, quay xe trở lại vừa gặp Trường Ngưu Kiểu đi đến nơi . Trường Ngưu Kiểu nhảy ngay lên xe Khước Chí, rồi chém lấy đầu . Thanh Phí Khôi cũng chém lấy đầu Khước Kỳ và Khước Thù để đem về nộp Tấn Lệ côg . Quan thượng quân phó tướng là Tuân Yển nghe tin chủ sóai của mình là Khước Kỳ bị hại, không biết người nào nổi loạn, tức thì đi xe thẳng tới triều môn, định vào tâu với Tấn Lệ công, rồi xin phụng mệnh dẹp giặc quan trung quân nguyên soái là Loan Thư nghe tin ấy cũng vội vàng thẳng tới triều môn . Khi Loan Thư và Tuân Yển tới triều môn thì vừa gặp Tư Đồng kéo đến, Loan Thư và Tuân Yển nổi giận mà mắng rằng:

– Ta tưởng là người nào nổi loạn, chẳng ngờ lại là lũ chuột này! triều môn là nơi cấm địa, sao nhà ngươi lại dám đem quân tới đây!

Tư Đồng chẳng trả lời làm sao cả, chỉ gọi quân sĩ mà bảo rằng:

– Loan Thư và Tuân Yển cùng với ba người họ Khước hợp mưu phản nghịch, quân sĩ xông vào mà bắt, ai bắt được sẽ có trọng thưởng .

Quân sĩ xúm lại nắm lấy Loan Thư và Tuân Yển kéo vào trong triều . Tấn Lệ công nghe tin bọn Trường Ngưu Kiểu đã giết được ba người họ Khước rồi, vội vàng ra ngự triều, lại trông thấy quân sĩ kéo đến, giật mình kinh sợ mà hỏi Tư Đồng rằng:

– Tội nhân đã giết được rồi, sao quân sĩ còn tụ hội đông như vậy ?

Tư Đồng tâu rằng:

– Hiện bắt được kẻ đồng mưu với bọn phản nghịch là Loan Thư và Tuân Yển, xin chúa công xử đoán .

Tấn Lệ công nói:

– Việc này có can dự gì đến Loan Thư và Tuân Yển ?

Trương Ngưu Kiểu quỳ gần ở trước mặt Tấn Lệ công mà mật tuân rằng:

– Loan Thư vốn là người cùng cánh với họ Khước, Tuân Yển lại là bộ tướng của Khước Kỳ, nay ba người họ Khước bị giết thì Loan Thư và Tuân Yển tất không yên tâm, thế nào cũng báo thù cho họ Khước; nếu chúa công không giết Loan Thư và Tuân Yển đi thì khó lòng yên việc được!

Tấn Lệ công nói:

– Một lúc mà giết ba người họ Khước, lại giết lây đến họ khác nữa thì ta không đành lòng!

Tấn Lệ công truyền tha cho Loan Thư và Tuân Yển . Loan Thư và Tuân Yển tạ ơn lui ra . Trường Ngưu Kiểu thở dài mà nói rằng:

– Chúa công không nỡ giết hai người ấy, nhưng ta chỉ e hai người ấy lại giết chúa công mà thôi .

Nói xong liền bỏ trốn sang nước Tây Nhung . Tấn Lệ công trọng thưởng cho quân sĩ, rồi truyền đem ba cái đầu họ Khước ra bêu ở chốn triều môn trong ba ngày . Bao nhiêu người cùng cánh với họ Khước còn đang làm quan ở trong triều, đều phải cách chức đuổi về cả; lại phong chức cho Tư Đồng, Di Dương Ngũ và Thanh Phí Khôi: Tư Đồng thay Khước Kỳ làm thượng quân nguyên soái, Di Dương Ngũ thay Khước Thù làm tân quân nguyên soái, Thanh Phí Khôi thay Khước Chí làm tân quân phó tướng . Công tử Hùng Phiệt được tha về nước Sở . Loan Thư va Tuân Yển không muốn đồng sự với Tư Đồng, thường cáo ốm không vào triều . Tư Đồng cậy có Tấn Lệ công, cũng không để ý . Một hôm, Tấn Lệ công và Tư Đồng ra chơi nhà Tượng Lệ Thị ở phía nam núi Thái Âm, cách kinh thành hơn 20 dặm, đã ba hôm chưa về . Tuân Yển nói riêng với Loan Thư rằng:

– Chúa công vô đạo, nhà ngươi cũng đã biết . Nay chúng ta cáo ốm không vào triều, dẫu không việc gì, nhưng sau này bọn Tư Đồng sinh nghi thì tất cả lại vu cho ta có lòng oán vua, ta e rằng cái vạ họ Khước, ta khó lòng mà tránh khỏi đuợc!

Loan Thư nói:

– Vậy thì biết làm thế nào ?

Tuân Yển nói:

– Làm quan đại thần, nên lấy nước làm trọng, lấy vua làm khinh . Nay trong tay nhà ngươi cũng có kể hàng trăm vạn quân, nếu lập vua khác, ai là người dám trái ý .

Loan Thư nói:

– Có chắc làm nổi không ?

Tuân Yển nói:

– Con giao long còn ở dưới vực sâu thì không ai dám làm gì, chứ đã lên trên cạn, chỉ một đứa trẻ con cũng có thể trị nổi! nay chúa công ra chơi nhà Tượng Lệ Thị, ba ngày chưa về, ấy tức là con giao long đã lên trên cạn đó, còn ngại gì!

Loan Thư thở dài mà rằng:

– Nhà ta mấy đời nay trung với Tấn, nay vì việc nước mà phải dùng kế này, thế nào mai sau cũng mang cái tiếng thí nghịch đây .

Loan Thư và Tuân Yển thương nghị với nhau giả cách nói đã khỏi bệnh, có việc cần kíp, muốn yết kiến Tấn Lệ công, rồi mật sai Trình Hoạt đem ba trăm quân phục sẵn ở núi Thái Âm . Rồi hai người đến nhà Tượng Lệ Thị tâu với Tấn Lệ công rằng:

– Chúa công bỏ việc triều chính, đi chơi đã ba ngày nay chưa về, khiến cho quan dân đều có lòng trông đợi, vậy chúng tôi đến đây để đón thánh giá về triều .

Tấn Lệ công không thể từ chối được, phải lên xe về triều, Tư Đồng đi trước, Loan Thư và Tuân Yển theo sau . Đi đến núi Thái Âm, bỗng nghe có tiếng pháo nổ, phục binh đổ ra giết chết Tư Đồng . Tấn Lệ công kinh sợ, ở trên xe ngã lăn xuống đất . Loan Thư và Tuân Yển truyền cho quân sĩ bắt đem giam vào một nơi, rồi đóng quân ở núi Thái Âm . Loan Thư bảo Tuân Yển rằng:

– Ta chỉ e Sĩ Mang và Hàn Quyết sau này lại có ý khác, chi bằng ta sai người giả cách phụng mệnh chúa công triệu hai người ấy đến đây .

Tuân Yển khen phải, liền sai người đi triệu Sĩ Mang và Hàn Quyết . Sứ giả đến triệu Sĩ Mang, Sĩ Mang hỏi:

– Chúa công triệu ta có việc gì ?

Sứ giả luống cuống, không biết đằng nào mà trả lời .

– Việc này đáng nghi lắm!

Sĩ Mang bèn sai người nhà dò thám xem Hàn Quyết có đi hay không thì ra Hàn Quyết cũng cáo ốm không chịu đi . Sĩ Mang nói:

– Thế mới biết kiến thức của người trí giả thường vẫn giống nhau!

Loan Thư thấy Sĩ Mang và Hàn Quyết không đến, lại hỏi Tuân Yển rằng:

– Việc này giờ tính thế nào ?

Tuân Yển nói:

– Nhà ngươi đã cưỡi lên lưng hổ, lại còn định xuống hay sao!

Loan Thư hiểu ý gật đầu, ngay đêm ấy sai Trình Hoạ dâng thuốc độc cho Tấn Lệ công . Tấn Lệ công uống vào chết ngay . Loan Thư truyền làm lễ an táng ở ngoài cửa đông . Sĩ Mang và Hàn Quyết nghe tin, cũng vội vàng đến để chịu tang, nhưng không hỏi gì về việc tại sao Tấn Lệ công chết . Khi lễ an táng đã xong, Loan Thư họp các quan đại phu lại, để bàn lập vua mới . Tuân Yển nói:

– Ngày trước ba nguời họ Khước bị giết, là vì Tư Đồng nói dèm bảo họ Khước muốn lập công tôn Chu lên làm vua, điều đó thành ra một lời sấm, vậy ta nên đón mà lập công tôn Chu .

Các quan đạ phu đều bằng lòng cả . Loan Thư liền sai Tuân Doanh sang nhà Chu, để đón công tôn Chu về làm vua . Bấy giờ công tôn Chu đã 14 tuổi, thông minh đĩnh ngộ, thấy Tuân Doanh đến đón, hỏi hết sự thể đầu đuôi, rồi cùng với Tuân Doanh trở về nước Tấn . Về đến đất Thanh Nguyên, Loan Thư, Tuân Yển, Sĩ Mang, Hàn Quyết cùng các quan đại phu đều họp ở đấy để nghênh tiếp . Công tôn Chu bảo các quan rằng:

– Tá đây ở nước ngoài đã lâu, cũng chẳng muốn được về nước, huống chi lại còn mong làm vua! nhưng làm vua chỉ qúy về một điều chính lệnh ở trong tay mình, nếu lập lên làm vua mà không theo chính lệnh thì chẳng thà đừng lập! các ngươi có chịu một lòng tin theo chính lệnh của ta hay không, cốt ở lúc này, bằng không thi các ngươi lập người khác, chứ ta không muốn đeo một cái hư danh như Châu Bồ ngày trước đâu!

Bọn Loan Thư đều sợ hãi sụp lạy mà nói rằng:

– Chúng tôi mong được vua hiền để mà thờ, có đâu lại dám trái lệnh .

Khi lui ra ngoài, Loan Thư bảo các quan rằng:

– Vua mới ngày nay, không ví như vua cũ được, chúng ta nên giữ gìn cẩn thận mới được!

Công tôn Chu tiến vào kinh thành, làm lễ cáo nhà Thái miếu, rồi lên nối ngôi, tức là Tấn Điệu công . Ngày hôm sau, Tấn Điệu công kể tội bọn Di Dương Ngũ và Thanh Phí Khôi truyền cho quân sĩ đem ra chém tại triều môn, còn những bè cánh đều đuổi sang nước khác; lại đem việc Tấn Lệ công chết, đổi tội cho Trình Hoạt, bắt đem căng thây ở ngoài chợ . Loan Thư thấy vậy, khiếp đảm kinh hồn, suốt đêm không ngủ, ngày hôm sau tức khắc xin cáo lão, rồi tiến dẫn Hàn Quyết để thay mình . Chưa được bao lâu Loan Thư sợ quá, thành bệnh nặng rồi chết . Điệu công nghe nói Hàn Quyết là người hiền, cho làm chức trung quân nguyên sóai để thay Loan Thư . Hàn Quyết giả cách vào tạ ơn, rồi tâu riêng với Điệu công rằng:

– Chúng tôi nhờ công đời trước, mới đuợc thế này, mà công đời trước thì không ai hơn họ Triệu: Triệu Thôi giúp vua Văn công, Triệu Thuẫn giúp vua Tương công, đều một lòng vì nước, dựng nên bá nghiệp; đến đời vua Linh công, tin dùng kẻ gian thần là Đồ Ngạn Giả, Đồ Ngạn Giả lập mưu giết Triệu Thuẫn, Triệu Thuẫn phải chạy trốn, mới được thóat nạn . Sau vua Linh công bị giết, vua Cảnh công nối ngôi, lại tin dùng Đồ Ngạn Giả; Đồ Ngạn Giả nhân khi Triệu Thuẫn đã chết rồi, vu cho tội thí nghịch, rồi bắt chết cả nhà họ Triệu . Việc ấy dân trong nước ai cũng tức thay, may mà họ Triệu còn sót được một người con tên gọi Triệu Vũ, nay chúa công đã trị tội bọn Di Dương Ngũ thì cũng nên nghĩ lại cho cái công họ Triệu ngày xưa!

Điệu công nói:

– Việc ấy ta cũng nghe nói, hiện nay Triệu Vũ ở đâu ?

Hàn Quyết nói:

– Lúc bấy giờ Triệu Vũ mới đẻ, Đồ Ngạn Giả tìm bắt gấp lắm, có hai người môn khách họ Triệu là công ton Chử Cữu và Trình Anh: công tôn Chử Cữu đem thay một đứa trẻ khác rồi liều mình chịu chết để cứu Triệu Vũ; còn Trình Anh thì đem Triệu Vũ vào giấu ở trong núi Mạnh Sơn đã 15 năm nay rồi!

Điệu công nói:

– Nhà ngươi vì ta đi triệu về đây!

Hàn Quyết nói:

– Đồ Ngạn Giả còn ở trong triều, chúa công nên bí mật mới được .

Điệu công nói:

– Ta đã biết rồi!

Hàn Quyết cáo từ lui ra, rồi thân hành đến núi Mạnh Sơn để đón Triệu Vũ và Trình Anh . Hàn Quyết đưa Triệu Vũ vào yết kiến Điệu công . Điệu công giấu Triệu Vũ ở trong cung rồi giả cách ốm . Hàn Quyết đem các quan triều thần vào cung để vấn an . Đồ Ngạn Giả cũng theo vào . Điệu công nói:

– Các ngươi có biết vì cớ gì mà ta ốm hay không ? chỉ vì trong sổ công thần có một điều chưa minh, vậy nên trong lòng ta không được khoan khoái .

Các quan đại phu đều sụp lạy mà hỏi rằng:

– Chẳng hay trong sổ công thần có điều gì chưa minh, xin chúa công dạy cho biết ?

Điệu công nói:

– Triệu Thôi và Triệu Thuẫn đều có công to với nước, nỡ nào để cho tuyệt tự !

Các quan đồng thanh đáp rằng:

– Họ Triệu bị diệt tộc đã 15 nay, bây giờ chúa công dẫu nhớ công họ triệu, cũng chẳng còn ai mà phong được!

Điệu công truyền gọi Triệu Vũ ra chào các quan . Các quan đều hỏi:

– Chẳng hay tiểu lang quân này là người nào ?

Hàn Quyết nói:

– Đó tức là cô nhi họ Triệu, tên gọi Triệu Vũ! còn đứa cô nhi bị giết ngày trước là con Trình Anh, chứ không phải Triệu Vũ .

Đồ Ngạn Giả bấy giờ chẳng còn hồn vía nào cả, cứ phủ phục ở dưới đất, không biết nói ra làm sao . Tấn Điệu công nói:

– Việc này đều tại Đồ Ngạn Giả gây ra, nếu không diệt tộc Đồ Ngạn Giả thì sao cho thoả cái oan hồn họ Triệu!

Điệu công truyền đem Đồ Ngạn Giả ra chém, lại sai Hàn Quyết và Triệu Vũ đem quân vây nhà Đồ Ngạn Giả ra tến ở trước mộ Triệu Sóc . Người nước Tấn ai cũng lấy làm hả lòng . Điệu công đã giết Đồ Ngạn Giả rồi, liền cho Triệu Vũ thay Đồ Ngạn Giả làm chứ tư khấu . Bao nhiêu lộc điền khi trước, đều trả cho tất cả . Tấn Điệu công lại nghe nói Trình Anh là người có nghĩa, muốn dùng chức quân chính .

Trình Anh nói chuyện với mọi người rằng:

– Lúc trước ta không chết vội là vì có cô nhi họ Triệu, nay cô nhi họ Triệu đã báo thù xưa rồi, lẽ nào ta dám tham phú quý để cho công tôn Chử Cữu chịu chết một mình, âu là ta thác xuống suối vàng mà báo tin cho Chử Cữu biết .

Trình Anh nói xong liền đâm cổ mà chết . Triệu Vũ ôm lấy thi thể Trình Anh mà khóc, rồi tâu với Tấn Điệu công, xin gọi là “nghĩa trủng” . Triệu Vũ nhớ ơn Trình Anh, để tang ba năm . Điệu công đã phong chức cho Triệu Vũ, lại sai người sang nước Tống gọi Triệu Thắng về, phong cho đất Hàm Đan . Điệu công biết dùng người hiền tài, trong đám triều thần, người nào cũng xứng đáng cả . Hãy kể mấy viên quan có danh tiếng như sau:

1. Hàn Quyết làm trung quân nguyên soái; 2. Sĩ Mang làm trung quân phó tướng; 3. Tuân Doanh làm thượgn quân nguyên sóai; 4. Tuân Yển làm thượng quân phó tướng; 5. Loan Áp (con Loan Thư) làm hạ quân nguyên soái; 6. Sĩ Phường (con Sĩ Hội) làm hạ quân phó tướng; 7. Triệu Vũ làm tân quân nguyên sóai; 8. Ngụy Tướng (con Ngụy Xứng) làm tân quân phó tướng; 9. Kỳ Hề làm trung quân uý; 10. Dương Thiệt Chức làm trung quân phó uý; 11. Ngụy Giáng (con Nguỵ Thù) làm trung quân tư mã, coi việc thuởng phạt quân sĩ; 12. Chương Lão làm chức hậu yêm, coi việc tùân phòng; 13. Hàn Võ Kỵ (con Hàn Quyết) làm công tộc đại phu, coi việc dạy bảo con em các nhà công tộc; 14. Giả Tâm làm tư không; 15. Sĩ Ốc Trọc làm thái phó, coi việc dạy bảo thế tử; 16. Loan Củ làm thân quân nhung ngự; 17. Tuân Tân làm xa hữu tướng quân; 18. Trình Trịnh làm tán bộc, coi việc ngựa xe của vua; 19. Đạc Át Khấu làm dư uý; 20. Tịch Yển làm dư tư mã .

Nhờ có những người hiền tài giúp, Điệu công chỉnh đốn lại chính sự trong nước, trăm họ bằng lòng . Các nước Tống, Lỗ, v..v. đểu đến triều cống . Chỉ có Trịnh Thành công cảm cái ơn Sở Cung vương vì mình mà phải tổn thương mất một con mắt, bởi vậy không chịu theo Tấn .

Sở Cung vương nghe tin Tấn Lệ công bị giết rất là mừng rỡ, đang nghĩ kế để báo thù, lại nghe nói Tấn Điệu công biết dùn người hiền tài, trong ngòai ai cũng mến phục, có cơ lại làm được bá chủ, liền họp triều thần để thương nghị, muốn tìm cách làm nhiễu loạn trung nguyên, khiến cho nước Tấn không làm bá chủ được . Quan lệnh doãn là công tử Anh Tề chịu bó tay, không nghĩ được mưu kế gì cả . Công tử Nhâm Phu nói với Sở Cung vương rằng:

– Trong các nước trung nguyên, có nước Tống là một nước lớn, lại ở vào giữa khỏang nước Ngô và nước Tấn, nếu ta muốn nhiễu loạn trung nguyên thì nên bắt đầu tự nước Tống trước . Nay quan đại phu nước Tống là Ngư Thạch, Hướng Vi Nhân, Lâm Chu, Hướng Đái và Ngư Phủ, cả thảy năm người, có thù oán với quan hữu sư là Hoa Nguyên bỏ trốn sang nươc Sở ta, ta nên giúp binh lực cho bọn ấy, sai về đánh Tống, hễ đánh quân giặc . Nếu Tấn không cứu Tống thì bỏ mất chư hầu, mà cứu Tống thì phải giao chiến với bọn Ngư Thạch, bấy giờ ta chỉ việc ngồi mà đợi xem thắng bại .

Sở Cung vương theo mưu ấy, liền sai công tử Nhâm Phu làm đại tướng, dùng bọn Ngư Thạch đi dẫn đường, đem đại binh tiến sang đánh nước Tống.

Chương 60: Tuân dinh hiến kế chia quân ngạch chư hầu đem binh vây bức dương

Sở Cung vương dùng mưu kế của qua hữu doãn là công tử Nhâm Phu, thống suất đại binh, cùng với Trịnh Thành công sang đánh Tống, sai bọn Ngư Thạch đi dẫn đường, đánh được đất Bành Thành, cho bọn Ngư Thạch đóng quân ở đấy . Cung vương bảo bọn Ngư Thạch rằng:

– Nước Tấn đang giao thiệp với nước Ngô để chống cự nước Sở ta, mà đất Bành Thành này lại là chỗ tiếp giáp Ngô và Tấn . Nay ta cho các ngươi đóng quân ở đây tiến đánh thì có thể xâm chiếm được địa giới nước Tống; lui giữ thì cũng có thể ngăn trở được đường lối đi lại của quân Tấ và quân Ngô, vậy các ngươi nên cẩn thận; chớ phụ lòng uỷ thác của ta! Dặn bảo xong, Cung vương trở về nước Sở .

Cuối năm ấy, Tống Thành công sai quan đại phu là Lão Tá đem quân vây đất Bành Thành . Ngư Thạch đem quân ra nghênh chiến, bị Lão Tá đánh thua . Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề nghe tin đất Bành Thành bị vây, đem quân đến cứu . Lão Tá cậy có sức mạnh, xông vào trong đám quân Sở, liền bị tên bắn chết . Công tử Anh Tề tiến binh sang xâm phạm nước Tống . Tống Thành công kinh sợ, sai quan hữu sư là Hoa Nguyên sang cáo cấp với nước Tấn . Hàn Quyết nói với Tấn Điệu công rằng:

– Ngày xưa vua Văn công ta làm được bá chủ cũng bởi có việc cứu nước Tống . Cơ hay dở ở một việc này, ta nên đem quân sang cứu mới phải .

Hàn Quyết liền sai sứ đi mượn quân chư hầu . Tấn Điệu công thống suất đại binh đến đóng ở đất Đài Cốc . Công tử Anh Tề nghe tin quân Tấn kéo đến, tức khắc rút quân trở về Sở . Đến năm sau, Tấn Điệu công đem quân 8 nước là: Tống, Lỗ, Vệ, Tào, Cử, Châu, Đằng và Tiết đến vây đất Bành Thành . Quan đại phu nước Tống là Hướng Thú sai quân sĩ đứng lên trên xe, gọi người trong thành mà bảo rằng:

– Ngư Thạch là một đứa phản tặc, không thể dung tha được . Nay nước Tấn sắp đem 20 vạn quân, đạp đổ thành này, không để sót một ngọn cỏ . Bọn các ngươi, nếu biết lẽ phải, nên bắt đứa phản tặt ấy đem nộp, chớ để cho những người vô tội cùng bị chết lây .

Dân trong Bành Thành nghe thấy, biết là Ngư Thạch trái lẽ, liền mở cửa thành ra để đón quân Tấn . Tấn Điệu công tiến vào trong thành . Quân Sở bỏ chạy cả . Hàn Quyết bắt được Ngư Thạch; Loan Áp và Tuân Yển bắt được Ngư Phủ; Hướng Thú bắt được Hướng Vi Nhân và Hướng Đãi; Trọng Tôn Miệt đại phu nước Lỗ bắt được Lân Chu, đều giải đến nộp Tấn Điệu công . Tấn Điệu công truyên đem bọn Ngư Thạch ra chém, rồi kéo quân sang hỏi tội nước Trịnh . Quan hữu doãn nước Sở là công tôn Nhâm Phu đem quân sang xâm phạm địa giới nước Tống, để làm kế cứu Trịnh . Các nước lại đem quân sang cứu Tống, rồi cùng nhau rút quân về nước cả .

Năm ấy Chu Giản vương mất, thái tử Tiết Tâm lên nối ngôi, tức là Chu Linh vương . Chu Linh vương từ khi mới sinh ra, phía trên miệng đã có râu ria mọc, bởi vậy người nhà Chu cũng gọi là Tỳ vương . Năm đầu đời vua Tỳ vương nhà Chu cũng gọi là Tỳ vương . Năm đầu đời vua Tỳ vương nhà Chu, Trịnh Thành công ốm nặng, bảo quan thượng khanh là công tử Phi rằng:

– Vua Sở vì đem quân sang cứu nước ta mà bị thương hỏng mất một mắt, ơn ấy không bao giờ ta dám quên . Sau khi ta chết, các ngươi chớ có bội nước Sở .

Trịnh Thành công nói xong thì chết . Bọn công tử Phi lập thế tử Khôn Ngoan lên nối ngôi, tức là Trịnh Hi công . Tấn Điệu công thấy người nước Trịnh chưa phục, mới đại hội chư hầu ở Thích Địa (đất nước Vệ) để bàn việc đánh Trịnh . Quan đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Miệt hiến kế rằng:

– Đất nước Trịnh không đâu hiểm bằng cửa quan Hổ Lao, đó là một chỗ xung yếu, tiếp giáp nước Trịnh và nước Sở, nếu ta đắp một cái thành ở đấy, rồi đóng quân để chặn ngang thì nước Trịnh tất phải theo ta .

Vu Thần hiến kể rằng:

– Sở và Ngô chỉ cách nhau có một con sông, năm trước tôi sang sứ nước Ngô, có ước với Ngô để cùng đánh Sở . Từ bấy giờ Ngô thường sang quấy nhiễu những thuộc quốc của Sở, người nước sở lấy làm khổ lắm . Nay ta lại sai sứ sang bảo Ngô đánh Sở; nước Sở, phía đông đanh khổ với quân Ngô thì phía bắc tất không cùng ta tranh nhau nước Trịnh được .

Tấn Điệu công theo cả hai kế . Bấy giờ Tề Linh công cùng sai thế tử Quang, cùng với quan thượng khanh là Thôi Trứ sang dự hội để tuân theo mệnh lệnh của nước Tấn . Tấn Điệu công họp quân các nước để đáp thành ở cửa quan Hổ Lao, rồi lấy quân các nước cứ mỗi nước lớn một nghìn quân, mỗi nước nhỏ năm trăm hoặc ba trăm quân, cho đóng giữ ở đấy . Trịnh Hi công sợ hãi, xin giảng hoà với nước Tấn . Lúc bấy giờ quan trung quân uý nước Tấn là Kỳ Hề, đã ngoại bảy mươi tuổi, cáo lão về nghỉ . Tấn Điệu công hỏi:

– Có người nào thay nhà ngươi đựơc không ?

Kỳ Hề nói:

– Không ai bằng Giải Hổ .

Tấn Điệu công nói:

– Ta nghe nói Giải Hổ là người thù của nhà ngươi, sao nhà ngươi lại còn tiến dẫn ?

Kỳ Hề nói:

– Chúa công hỏi ai là ngươi giỏi, chứ có hỏi ai là người thù của tôi đâu!

Tấn Điệu công sai người đi triệu Giải Hổ . Giải Hổ chưa kịp đến nhận chức thì đã ốm chết . Tấn Điệu công lại hỏi Kỳ Hề rằng:

– Trừ Giả Hổ ra không kể, nhà ngươi còn biết ai nữa không ?

Kỳ Hề nói:

– Sau Giải Hổ thì không ai bằng Kỳ Ngọ .

Tấn Điệu công nói:

– Thế Kỳ Ngọ không phải là con nhà ngươi sao ?

Kỳ Hề nói:

– Chúa công hỏi ai là người giỏi, chứ có hỏi ai là con của tôi đâu!

Tấn Điệu công nói:

– Nay quan trung quân phó uý là Dương Thiệt Chức cũng chết, nhà ngươi lại chọn cho ta một người khác để thay .

Kỳ Hề nói:

– Dương Thiệt Chức có hai con là: Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật . Hai người ấy đều gỉoi cả, chúa công muốn dùng người nào thì dùng .

Tấn Điệu công theo lời, cho Kỳ Ngọ làm trung quân uý, Dương Thiệt Xích làm trung quân phó uý . Các quan đại phu, đều lấy làm bằng lòng .

Con Vu Thần là Vu Hồ Dung phụng mệnh Tấn Điệu công sang sứ nước Ngô, vào yết kiến vua Ngô là Thọ Mộng, xin mượn quân để đánh Sở . Thọ Mộng thụân cho, sai thế tử Chư Phàn làm tướng, luyện quân ở bên sông Trường Giang . Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề nghe tin ấy, liền tâu với Sở Cung vương rằng:

– Quân Ngô chưa sang nước Sở ta bao giờ, nếu đã sang được một lần thì rồi lại sang quấy mãi, chi bằng ta đánh trước đi là hơn .

Sở Cung vương khen phải . Công tử Anh Tề tuyển hai vạn thủy quân, cho qua sông Trường Giang, phá vỡ đất Cưu Tư của nước Ngô; lại toan thuận dòng kéo quân thẳng xuống . Tướng nước Sở là Đặng Sưu nói với công tử Anh Tề rằng:

– Sông Trường Giang này nước chảy xiết, tiến dễ mà lui khó, tôi xin đem một toán quân đi trước, nếu thuận lợi thì tiến, mà không thuận lợi thì cũng chẳng đến nỗi thua to . Quan nguyên sóai cứ đóng quân ở

Hách Sơn, tuỳ cơ ứng biến, mới giữ vẹn toàn được .

Công tử Anh Tề khen phải, tức khắc cho Đặng Sưu đem một toán quân tinh nhuệ cùng một trăm chiếc thuyền đi trước . Thế tử Chư Phàn nghe tin đất Cưu Tư bị quân Sở chiếm mất; liền bảo các tướng rằng:

– Quân Sở đã chiếm được đất Cưu Tư thì tất thừa thế kéo xuống, ta phải phòng bị mới được .

Thế tử Chư Phàn sai công tử Di Muội đem một toán quân với vài mươi chiếc thuyền ra Lương Sơn để làm kế dụ quân Sở; còn công tử Dư Sái (em công tử Chư Phàn) đem một toán quân ra phục sẵn ở Thái Thạch cảng . Đặng Sưu (tướng nước Sở) đem quân ra Hách Sơn, trông thấy ở Lương Sơn có binh thuyền của nước Ngô, vội vàng ra sức tiến đánh . Công tử Di Muội giả cách thua chạy . Đặng Sưu thúc quân đuổi theo, qua Thái Thạch cảng, lại gặp đại binh của công tử Chư Phàn đến . Hai bên giao chiến được mười hợp thì công tử Dư Sái ở Thái Thạch càng đem phục binh đổ ra, theo phía sau đánh ập trở lại, tên bắn như mưa . Đặng Sưu bị ba phát tên bắn vào mặt, nhưng rút tên ra mà cố sức đánh .

Bấy giờ công tử Di Muội, cưỡi chiếc thuyền lớn đến, truyền cho quân sĩ cầm giáo dài đâm vào thuyền quân Sở . Thuyền quân Sở vỡ đắm rất nhiều . Đặng Sưu bị bắn, không chịu khuất phục mà chết . Quân Sở cũng chết hại rất nhiều . Công tử Anh Tề sợ tội, toan giấu sự thua trận đi, không tâu cho Sở Cung vương biết, ai ngờ thế tử Chư Phàn thừa thắng đem quân tiến đánh, công tử Anh Tề thua to chạy về và đất Cưu Tư lại thuộc về nước Ngô . Công tử Anh Tề tức giận thành bệnh, chưa về đến kinh thành nước Sở thì chết . Sở Cung vương bèn đưa quan hữu doãn là công tử Nhâm Phu lên làm chức lệnh doãn . Công tử Nhâm Phu tính tham lam, thường bắt các nước phụ thuộc phải lễ đút, Trần Thành công không thể chịu được, mới sai Viên Kiểu Như (cháu bốn đời Viên Đào Đồ) sang xin theo Tấn . Sở Cung vương thấy nước Trần theo Tấn, đổi tội cho công tử Nhâm Phu, đem giết đi; lại dùng người con là công tử Trịnh (tên tự là Tử Nang) làm lệnh doãn cử binh sang đánh Trần .

Bấy giờ Trần Thành công (Ngọ) chết, thế tử Nhược lên nối ngôi, tức là Trần Ai công . Trần Ai công thấy nước Sở thế mạnh, lại xin theo Sở . Tấn Điệu công nghe tin giận lắm, toan cử binh cùng Sở tranh nhau nước Trần, bỗng nghe báo có vua nước Vô Chung là Gia Phủ sai quan đại phu là Mạnh Lạc đem da hổ, da báo cả thảy một trăm chiếc đến dâng và tâu rằng:

– Các nước Sơn Nhung, trước kia Tề Hoàn công đã dẹp yên tất cả, mới rồi nhân nước Yên và nước Tần suy yếu, các nước Sơn Nhung thấy Trung quốc không có bá chủ lại xâm nhiễu . Chúa công tôi nghe nói nhà vua anh minh, sắp nối được bá nghiệp của Tề Hoàn công và Tấn Văn công thuở xưa, vì vậyt chúa công tôi đã tuyên bá uy đức của nhà vua cho Sơn Nhung biết, các nước ấy đều muốn giảng hoà, xin nhà vua định đoạt .

Tấn Điệu công họp các tướng lại để thương nghị . Các tướng đều nói rằng:

– Quân rợ mọi ấy, không biết lẽ phải, ta phải dùng binh uy với nó mới được . Vua Tề Hoàn công thuở xưa, cũng phải trước đánh Sơn Nhung, sau đánh nước Sở, mới làm nên nghiệp bá được .

Quan tư mã là Ngụy Giáng can rằng:

– Không nên! nay ta mới thu phục được chư hầu, mà đã đem quân đi đánh Sơn Nhung thì quân Sở tất thừa hư quấy nhiễu, như vậy thì chư hầu lại bỏ Tấn theo Sở mà thôi . Sơn Nhung là cầm thú, chư hầu là anh em ta theo đuổi quân cầm thú mà bỏ mất cái tình anh em, sao gọi là kế hay được!

Tấn Điệu công nói:

– Vậy thì ta có nên giảng hoà với các nước Sơn Nhung không ?

Ngụy Giáng nói:

– Giảng hoà với các nước Sơn Nhung, có năm điều lợi: Sơn Nhung tiếp giáp với nước ta, nhiều đất bỏ hoang, ta có thể mở rộng đất được, đó là một điều lợi; Sơn Nhung không quấy nhiễu ta nữa thì những dân ở bờ cõi được yên nghiệp làm ăn, đó là hai điều lợi; quân sĩ của ta không phải khó nhọc về sự đánh dẹp, đó là ba điều lợi; Sơn Nhung đã thần phục thì các nước chư hầu cũng phải sợ hãi, đó là bốn điều lợi; ta không phải lo về mặt bắc (tức là phía Sơn Nhung) thì có thể dốc sức về mặt nam (tức là phía nước Sở) được, đó là năm điều lợi . Có năm điều lợi ấy sao chúa công không theo ?

Tấn Điệu công bằng lòng, liền sai Ngụy Giáng làm sứ thần để đi giảng hoà với các nước Sơn Nhung . Nguỵ Giáng cùng với Mạnh Lạc (quan đại phu nước Vô Chung) đến nước Vô Chung, để cùng với vua nước Vô Chung là Gia Phủ thương nghị việc giảng hoà . Gia Phủ sai người đi triệu các nước Sơn Nhung mà bảo rằng:

– Nay vua nước Tấn làm bá chủ ở Trung nguyên, có sai sứ thần sang đây, để cùng với các nước Sơn Nhung giảng hoà . Các ngươi nên một lòng thần phục, từ đây trở đi, không được quấy nhiễu .

Các nước Sơn Nhung đều xin ăn thề, lại bảo nhau đem thổ sản đến dâng Ngụy Giáng . Ngụy Giáng nhất định không lấy gì cả . Các nước Sơn Nhung đều khen Ngụu Giáng là liêm khiết, lại càng có ý kính trọng . Ngụy Giáng về tâu lại với Tấn Điệu công . Tấn Điệu công bằng lòng .

Bấy giờ quan lệnh dõan nước Sở là công tử Trịnh, đã thu phục được Trần, lại đem quân đi đánh Trịnh, chỉ vì cửa quan Hổ Lao có quân Tấn đóng, nên không dám kéo qua sông Dĩ Thủy, phải theo đường nước Hứa mà tiến sang nước Trịnh .

Trịnh Hi công (Khôn Ngoan) sợ lắm, họp sáu quan khanh lại để thương nghị . Trong sáu quan khanh kể tên sau này: 1. công tử Phi, tên tự là Tử Tứ; 2. công tử Phát, tên tự là Tử Quốc; 3. công tử Gia, tên tự là Tử Khổng; (ba người này đều là con Trịnh Mục công, đối với Trịnh Hi công thì là hàng thúc tổ phụ); 4. công tử Chiếp, tên tự là Tử Nhĩ (con công tử Khứ Tật); 5. công tôn Mại, tên tự là Tử Kiều (con công tử Yển); 6. công tôn Xá, tên tự là Tử Triền (con công tử Hi); (ba người này đều là cháu Trịnh Mục công, đối với Trịnh Hi công thì là hàng thúc phụ).

Sáu quan khanh ấy đều là bậc tôn trưởng của Trịnh Hi công cả, từ lau vẫn giữ quyền chính nước Trịnh . Trịnh Hi công là người kiêu ngạo, không biết tôn trọng các bậc tôn trưởng, bởi vậy vua tôi vẫn bất hoà với nhau, nhất là công tử Phi lại càng bất hoà lắm . Trong khi hội nghị, Trịnh Hi công chú ý muốn cố giữ để đợi quân Tấn đến cứu . Công tử Phi nói:

– Tục ngữ có câu rằng: “Nước xa không cứu được lửa gần”, vậy chi bằng ta theo Sở là hơn .

Hi công nói:

– Nếu ta theo Sở, quân Tấn lại sang đánh ta, lấy gì mà chống cự lại ?

Công tử Phi nói:

– Tấn vả Sở chẳng nước nào thương ta cả, ta cũng chẳng cứ phải chọn nước nào, hễ nước nào mạnh thế thì ta theo. Nay ta cứ đem lễ vật ra đợi sẵn ở ngoài cõi, Sở đến thì ta hội thề với Sở, mà Tấn đến thì ta hội thề với Tấn . Hai nước mạnh chọi nhau mãi thì tất có một nước thua, bấy giờ mạnh yếu phân biệt rõ ràng, ta xem nước nào thắng thì theo, để giữ cho nhân dân được yên ổn, thế là hay hơn cả!

Trịnh Hi công không theo kế đó, nói:

– Cứ như nhà ngươi nói, thì tại sao nước Trịnh ta chỉ những hội thề mà không năm nào đựơc yên cả .

Trịnh Hi công sai sứ sang nước Tần cầu cứu . Các quan đại phu đều sợ trái ý công tử Phi, không ai dám đi sứ . Trịnh Hi công giận lắm, thân hành đi sứ . Đêm hôm ấy Trịnh Hi công ngủ ở quán xá, công tử Phi sai người đến giết đi, rồi nói thác rằng Trịnh Hi công bị bạo bệnh mà chết, rồi lập người em là Gia lên nối ngôi, tức là Trịnh Giản công .

Công tử Phi sai người nói dối quân Sở rằng:

– Việc theo Tấn đều là tự ý Không Ngoan (tức là Trịnh Hi công), nay Không Ngoan đã chết rồi, vậy nước tôi lại xin theo thượng quốc .

Công tử Trịnh nước Sở lại cho nước Trịnh giảng hoà . Tấn Điệu công nghe tin nước Trịnh lại theo Sở, liền hỏi các quan đại phu rằng:

– Nay Trần và Trịnh cùng theo Sở cả, ta nên đánh nước nào trước ?

Tuân Dinh nói:

– Nước Tần nhỏ mọn, dẫu có theo ta hay không cũng không có gì là quan trọng cả; còn nước Trịnh là một nước trọng yếu, nếu muốn làm bá chủ, tất phải thu phục lấy nước Trịnh . Thà mất người nước Trần, chứ không nên bỏ mất một nước Trịnh!

Hàn Quyết nói:

– Tử Vũ (tên tự của Tuân Dinh) là người có kiến thức, tất thu phục đựơc nước Trịnh, tôi nay tuổi gia sức yếu, xin đem chức trung quân nguyên soái nhường lại cho Tử Vũ .

Tấn Điệu công bất đắc dĩ phải cho Tuân Dinh thay Hàn Quyết làm trung quân nguyên soái, đem đại binh đi đánh Trịnh . Quân Tấn kéo thẳng đến cửa quan Hổ Lao . Người nước Trịnh xin thề . Tuân Dinh thuận cho . Đến lúc quân Tấn về, Sở Cung vương lại thân hành đem quân sang đánh Trịnh . Người nước Trịnh lại theo Sở . Tấn Điệu công giận lắm, hỏi các quan đại phu rằng:

– Người nước Trịnh phản phúc, quân ta đến thì theo, quân ta về, lại phản, nay muốn làm cho người nước Trịnh phải một lòng theo ta thì nên dùn kế gì ?

Tuân Dinh hiến kế rằng:

– Nước Tấn ta không thu phục được nước Trịnh là vì người nước Sở cố sức mà tranh nước Trịnh với ta . Nay muốn thu phục được nước Trịnh thì tất phải đối địch với Sở, mà muốn làm cho Sở phải khốn quẫn thì nên dùng kế “dĩ giật đãi lao” .

Tấn Điệu công nói:

– Thế nào gọi là “dĩ giật đãi lao” ?

Tuân Dinh nói:

– Quân nước mình không nên dùng luôn, dùng luôn thì người mình nhọc; quân chư hầu không nên điều động luôn, điều động luôn thì chư hầu oán . Trong nhọc mà ngoài oán, cứ như thế thì không bao giờ thắng được nước Sở . Tôi xin đem quân ta mà chia ra làm ba đạo, mỗi đạo quân có mấy nước chư hầu phụ thuộc vào, thay đổi nhau mà đối địch với quân Sở, Sở tiến thì ta lui, Sở lui thì ta tiến, đem một đạo quân của ta mà làm cho cả nước Sở không lúc nào được yên, như thế thì nước Sở khốn quẫn, bấy giờ nước Trịnh tất phải một lòng theo ta .

Tấn Điệu công khen phải liền sai Tuân Dinh luyện quân ở đất Khúc Lương chia làm ba đạo, định phép thay phiên nhau . Tuân Dinh lên tướng đàn . Trên tướng đàn có cắm một lá cờ đại bái sắc vàng, trên đề mấy chữ “Trung quân nguyên sóai Trí”, dưới tướng đài chia quân làm ba đạo: đạo thứ nhất, thượng quân nguyên soái là Tuân Yển, phó tướng là Hàn Khởi, ba nước: Lỗ, Tào, Châu đem quân theo đạo ấy; trung quân phó tướng là Phạm Mang (tức là Sĩ Mang, đổi họ Phạm) đi tiếp ứng . Đạo thứ hai, hạ quân nguyên soái là Loan Áp, phó tướng là Sĩ Phường, ba nước: Tề, Đằng, Tiết đem quân theo đạo ấy; trung quân thượgn đại phu là Ngụy Hiệt đi tiếp ứng . Đạo thứ ba, tân quân nguyên soái và Triệu Vũ, phó tướng là Nguỵ Tướng, ba nước: Tống, Vệ, Nghê đem quân theo đạo ấy; trung quân hạ đại phu là Tuân Hội đi tiếp ứng .

Tuân Dinh truyền lệnh rằng:

– Ba đạo quân, cứ thay phiên nhau đi đánh Trịnh, hễ Trịnh chịu giảng hoà thì lại rút về ngay, nhất thiết không được giao chiến với quân Sở .

Công tử Dương Can là em cùng mẹ với Tấn Điệu công, mới mười chín tuổi, đang làm chức trung quân nhung ngự, tính khí hãy còn hăng hái, chưa từng ra trận bao giờ, nghe nói Tuân Dinh luyện quân để sắp đi đánh Trịnh, múa tay hoa chân, chỉ mong được ra nơi chiến trường, nhưng không thấy Tuân Dinh dùng đến mình, mới tình nguyện xin đi tiên phong . Tuân Dinh nói:

– Ngày nay ta luyện quân là chỉ muốn tiến cho chóng, lại thoái cho mau, không cần đánh quân giặc, tiểu tướng quân dẫu có sức khoẻ, cũng không dùng làm gì!

Công tử Dương Can cố ý xin mãi . Tuân Dinh nói:

– Tiểu tướng quân đã cố xin như vậy thì quyền cho làm bộ hạ quan Tuân đại phu (tức là Tuân Hội) để tiếp ứng đạo tân quân .

Công tử Dương nói:

– Đạo tân quân đến lần thứ ba mới ra đánh thì tôi đợi sao được, xin cho tôi thuộc vào đạo thượng quân .

Tuân Dinh không cho . Công tử Dương Can cậy thế là em Tấn Điệu công, đem ngay quân bạn bộ của mình, đi theo toán quân Phạm Mang . Quan tư mã là Ngụy Giảng trông thấy công tử Dương Can dám rẽ hàng quân để đi lên trước, liền đánh trống mà tuyên cáo với các tướng rằng:

– Công tử Dương Can dám trái tướng lệnh, đi loạn hàng quân, tội đáng chết chém, nay nể là em chúa công, vậy phải giết người dong xe để thay mạng .

Ngụy Giáng truyền cho quân sĩ bắt người dong xe đem chém . Công tử Dương Can căm tức vô cùng, vội vàng vào thuật chuyện lại cho Tấn Điệu công biết, và khóc mà nói rằng:

– Ngụy Giáng khinh bỉ em như vậy thì em không còn mặt mũi nào mà trông thấy các tướng nữa!

Tấn Điệu công vốn có lòng yêu em, không kịp hỏi rõ, liền nổi giận mà nói rằng:

– Nguỵ Giáng làm nhục em ta, khác nào như làm nhục ta, ta tất phải giết, không thể tha được!

Tấn Điệu công bèn truyền gọi quan trung quân phó súy là Dương Thiệt Chức, sai đi bắt Ngụy Giáng . Dương Thiệt Chức nói với Tấn Điệu công rằng:

– Ngụy Giáng là người có chí khí, có việc thì không tránh khó khăn, có tội thì không trốn hình phạt . Khi việc quân đã xong, tất nhiên đến đây tạ tội, bất tất phải cho đi triệu .

Được một lúc thì quả nhiên Ngụy Giáng đến, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm tờ tâu, sắp sửa vào triều để tạ tội . Ngụy Giáng đến triều môn thì nghe tin Tấn Điệu công toan sai người đi bắt mình, liền giao tờ tâu cho người nhà, rồi toan cầm kiếm tự tử . Bỗng có hai viên quan ở đâu hối hả chạy đến, tức là quan hạ quân phó tướng Sĩ Phường và quan chư hậu đại phu Trương Lão . Sĩ Phường và Trương Lão trông thấy Ngụy Giáng toan tự tử, vội vàng giằng lấy thanh kiếm mà nói rằng:

– Chúng tôi nghe nói quan tư mã (trỏ Ngụy Giáng) vào triều, tất là vì việc công tử Dương Can, vậy chúng tôi vội vàng tới đây, định cùng nhau vào tâu để chúa công biết, chẳng hay vì cớ gì mà quan tư mã lại liều mình như thế ?

Ngụy Giáng thuật lại việc Tấn Điệu công toan sai Dương Thiệt Chức đi bắt mình . Sĩ Phường và Trương Lão nói:

– Quan tư mã một lòng giữ phép, không tư vị ai, can gì lại phải liều mình! âu là để chúng tôi vào tâu với chúa công .

Sĩ Phường và Trương Lão đem tờ tâu của Nguỵ Giáng vào dâng Tấn Điệu công . Tấn Điệu công mở ra xem, đại lược nói rằng:

“Chúa công không chê tôi là bất tài mà cho sung vào chức tư mã . Tôi nghe nói tính mệnh của ba quân là ở trong tay quan nguyên soái, mà quyền của quan nguyên sóai là ở trong mệnh lệnh; chỉ vì không tuân mệnh lệnh mà quân ta bị thua ở Hà Khắc và ở Bí Thành . Mới rồi, tôi có giết một kẻ không tuân theo mệnh lệnh ấy là để làm hết chức phận tư mã . Việc ấy xúc phạm đến ngự đệ, tôi biết tội đáng chết, vậy xin liều thân với lưỡi gươm trước mặt chúa công, để tỏ rõ tấm lòng thân ái của chúa công đối với ngự đệ”.

Tấn Điệu công xem xong, hỏi Sĩ Phường và Trương Lão rằng:

– Ngụy Giáng bây giờ ở đâu ?

Sĩ Phường và Trương Lão nói:

– Nguỵ Giáng sợ tôi đã toan tự tử, chúng tôi cố can mãi, hiện bây giờ đang đứng ở ngoài cửa cung .

Tấn Điệu công hoảng hốt dứng dậy, chân không kịp xỏ giày bước ngay ra ngoài cửa cung, cầm lấy ta Ngụy Giáng mà bảo rằng:

– Câu nói của ta là tình riêng; việc làm của nhà ngươi là phép công . Ta không biết dạy em để phạm đến phép công, đó là lỗi tại ta, chứ nhà ngươi có lỗi gì!

Dương Thiệt Chức ở bên cạnh, nói to lên rằng:

– Chúa công đã xá tội cho thì Ngụy Giáng nên lui ra .

Ngụy Giáng lạy tạ . Dương Thiệt Chức cùng với Sĩ Phường và Trương Lão cùng sụp lạy Tấn Điệu công mà chúc mừng rằng:

– Chúa công có người bề tôi biết giữ phép như thế, chắc là thành được nghiệp bá!

Bốn người cùng cáo từ Tấn Điệu công rồi lui về . Điệu công vào cung, xỉ mắng công tử Dương Can rằng:

– Nhà ngươi không biết giữ phép, suýt nữa thì khiến ta mang tiếng xấu, giết lầm một đại tướng của ta!

Lại sai nội thị giải công tử Dương Can đến nhà quan công tộc đại phu là Hàn Vô Ky, bắt họ lễ trong ba tháng, rồi mới được trở về yết kiến . Công tử Dương Can lấy làm hổ thẹn vô cùng .

Tuân Dinh chia quân xong, vừa toan đi đánh Trịnh, bỗng có sứ thần nước Tống đưa văn thư đến, Tấn Điệu công mở xem, mới biết nước Sở và nước Trịnh thường đem quân đi qua Bức Dương sang xâm lược địa giới nước Tống . Vì thế nước Tống phải sai sứ sang cáo cấp với nước Tấn . Quan thượng quan nguyên soái là Tuân Yển nói với Tấn Điệu công rằng:

– Nước Sở đã thu phục được Trần và Trịnh rồi mà lại còn sang xâm phạm nước Tống là có ý muốn cùng nước Tấn ta tranh nghiệp bá . Nay Bức Dương là con đường quân Sở sang đánh một trận có thể chiếm lấy được, rồi phong cho quan đại phu nước Tống là Hướng Thú ở đấy, (vì Hướng Thú đã có công ở trận Bành Thành), để chẹn đường quân Sở, cũng là một kế hay đó!

Tuân Dinh nói:

– Bức Dương dẫu nhỏ, nhưng thành quách vững bền lắm, nếu ta đánh mà không được, tất bị các nước chê cười .

Quan trung quân phó tướng là Sĩ Mang nói:

– Trận Bành Thành, ta đang đánh Trịnh thì Sở xâm Tống để cứu Trịnh; trận Hổ Lao, ta đang cùng với Trịnh giảng hoà thì Sở lại xâm Tống để báo thù, vậy ta muốn phục nuớc Trịnh thì trước hết phải lập mưu giữ nước Tống mới được . Tuân Yển nói phải lắm!

Tuân Dinh nói:

– Hai người có chắc là diệt được Bức Dương hay không!

Tuân Yển và Sĩ Mang đồng thanh đáp rằng:

– Xin nguyên soái cứ chắc ở hai chúng tôi, nếu không thành công thì hai chúng tôi xin chịu tội .

Tấn Điệu công nói:

– Bá Du (tên tự của Tuân Yển) khởi xướng lên mà Bá Hà (tên tự của Sĩ Mang) giúp vào thì lo gì không thành công!

Tấn Điệu công liền phái đạo quân thứ nhất đi đánh Bức Dương, nước Lỗ, nước Tào và nước Châu đem quân theo đạo ấy . Quan đại phu Bức Dương nói với vua Bức Dương rằng:

– Quân Lỗ đóng ở thành cửa bắc, ta giả cách mở cửa thành ra đánh, khiến cho quân Lỗ kéo vào; chờ khi vào được nửa chừng, bấy giờ ta hạ cánh cửa treo ở trên xuống mà chắn ngang . Quân Lỗ đã thua thì quân Tào và quân Châu tất sợ, tự khắc khí thế của nước Tấn cũng phải nhụt đi!

Vua Bức Dương dùng kế ấy . Tướng nước Lỗ là Mạnh Tôn Miệt (tức là Trọng Tôn Miệt) đem bộ thuộc của mình là Thúc Lương Ngột, Tần Cận Phụ và Địch Tây Di đánh cửa bắc . Tần Cận Phụ và Địch Tây Di trông thấy cánh cửa treo mở, liền cậy sức khoẻ tiến vào trước, Thúc Lương Ngột đi theo sau . Bỗng nghe trên mặt thành có tiếng cót két rồi cánh cửa từ từ đẩy lên . Toán hậu đội nước Lỗ thấy vậy liền nổi hiệu thu quân . Tần Cận Phụ và Địch Tây Di vội vàng quay mình trở ra . Tướng Bức Dương là Văn Ban ở trong thành đem quân đuổi theo, trông thấy Thúc Lương Ngột đang giơ tay đỡ cánh cửa treo để cho quân Lỗ rút lui thì kinh hãi, nghĩ thầm rằng: “cánh cửa treo tự trên buông xuống, nặng kể có nghìn cân, nếu tướng kia không có sức khoẻ hơn người thì đỡ lên thế nào cho nổi ? nay ta ra tới đấy mà bị người ây buông xuống thì phỏng còn gì là tính mệnh!” Văn Ban không dám đuổi theo nữa, mới dừng xe lại đứng xem . Thúc Lương Ngột đợi cho quân mình lui ra hết, rồi quát to lên rằng:

– Ta đây là một danh tướng nước Lỗ, tên gọi Thúc Lương Ngột có ai muốn ra đối địch thì nhân khi ta chưa buông tay này mau mau ra đi!

Người trong thành không ai dám nói gì cả . Văn Ban giương cung toan bắng . Thúc Lương Ngột nghiêm mình trở ra, rồi buông hai tay không đỡ nữa . Cánh cửa lại sập thẳng xuống tận đất . Thúc Lương Ngột về dinh bảo Tần Cận Phụ và Địch Tây Di rằng:

– Tính mệnh hai tướng vừa rồi, thật ở trong tay ta!

Tần Cận Phụ nói:

– Nếu hậu đội không nổi hiệu thu quân thì chúng ta cố sức xông vào, đã phá vỡ thành Bức Dương rồi!

Địch Tây Di nói:

– Để đến ngày mai chỉ một mình ta phá vỡ thành Bức Dương cho họ biết sức khoẻ của người nước Lỗ .

Ngày hôm sau Mạnh Tôn Miệt lại đem quân đến dưới thành để khiêu chiến, chia quân ra từng đội, mỗi đội một trăm người . Địch Tây Di nói:

– Ta không cần phải ai giúp, một mình ta làm một đội cũng đủ rồi!

Địch Tây Di lấy một cái áo giáp trùm lên một cái bánh xe, giương lên làm cái mộc, rồi cầm một cái kích thật dài, vừa múa vừa xông vào, chạy nhanh như bay . Quân Bức Dương đứng trên mặt thành, trông thấy Địch Tây Di dũng mạnh như vậy, mới dòng tấm vải xuống mà bảo rằng:

– Ta dòng dây cho mà lên, có dám lên thì mới cho là giỏi!

Nói chưa dứt lời thì trong đám quân Lỗ có một viên tướng bước ra nói:

– Khi nào lại không dám!

Viên tướng ấy tức là Tần Cận Phụ . Tần Cận Phụ lấy ta bíu tấm vải, tay phải tay trái lần thay nhau mà leo lên . Khi gần đến mặt thành thì quân Bức Dương lấy dao cắt đứt tấm vải . Tần Cận Phụ đang ở lưng chừng ngã lăn xuống đất . Thành Bức Dương cao kể mấy nhận (mỗi nhận tám thước),cứ như người khác mà ngã thì chẳng chết cũng bị trọng thương, thế mà Tần Cận Phụ không hề chi cả . Qúân Bức Dương lại dòng tấm vải xuống mà bảo rằng:

– Còn dám lên nữa không ?

Tần Cận Phụ lại bíu tấm vải mà len lên, cũng lại bị quân trên mặt thành cắt đức tấm vải mà ngã lăn xuống đất . Tần Cận Phụ vừa đứng dậy thì quân trên mặt thành lại dòng tấm vải xuống mà hỏi rằng:

– Nào! nào! còn dám lên nữa hay là thôi đấy!

Tần Cận Phụ lại hăng hái nói:

– Nếu không dám lên thì sao gọi là giỏi được!

Nói xong, lại leo lên như trước . Quân Bức Dương ở trên mặt thành trông thấy Tần Cận Phụ đã hai lần ngã mà vẫn dám lên, không chút sợ hãi, thì có ý lo, liền giơ dao cắt tấm vải, ngờ đâu Tần Cận Phụ đã nắm được một người mà vứt xuống, chết ngay lập tức . Tần Cận Phụ cũng ngã theo xuống, lại gọi quân trên mặt thành mà bảo rằng:

– Các người còn dám dòng vải xuống nữa hay thôi ?

Quân Bức Dương đáp:

– Đã biết tài sức của tướng quân rồi, không dám dòng vải xuống nữa!

Tần Cận Phụ sai lấy ba đoạn vải ấy đưa khắp cho quân sĩ xem, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi . Mạnh Tôn Miệt khen rằng:

– Kinh thi có câu “sức khoẻ như hổ”, ba tướng (trỏ Thúc Lương Ngột, Tần Cận Phụ và Địch Tây Di) nay thật xứng đáng với câu ấy!

Văn Ban thấy các tướng nước Lỗ đều mạnh tợn như thế, không dám ra đánh, truyền cho quân sĩ cố giữ thế thủ . Quân các nước vây thành Bức Dương đã hai mươi ngày mà chưa phá nổi, bỗng trời mưa to lắm, mặt đất bị nước ngập sâu ba thước, quân sĩ hoảng sợ . Tuân Yển và Sĩ Mang (tướng nước Tấn) vội vàng vào thương nghị với Tuân Dinh để xin rút quân về .

Chương 61: Tấn Điệu Công cử binh đánh Sở – Tôn Lâm Phủ nổi loạn đuổi vua

Quân Tấn và quân chư hầu vây thành Bức Dương trong hai mươi bốn ngày mà chưa phá vỡ, bỗng trời mưa to lắm, mặt đất bị nước ngập sâu ba thước, Tuân Yển và Sĩ Mang lo sợ, vào nói với Tuân Dinh rằng:

– Chúng tôi vẫn tưởng là thành nhỏ dễ đánh, ai ngờ vây mãi không phá được, mà trời lại mưa to; nay đang mùa hạ, lại là mùa nước lên, sông Bào ở phía tây, sông Tiết ở phía đong, sông Khoách ở phía đông bắc, ba sông ấy đều nhau với sông Tứ, vạn nhất trời mưa mãi, nước mấy sông ấy tràn đến thì khó lòng mà thu quân được, chi bằng ta tạm rút về, rồi sau sẽ liệu .

Tuân Dinh nổi giận, cầm cái ghế đang ngồi, ném xuống trước mặt Tuân Yển và Sĩ Mang mà mắng rằng:

– Ta vẫn bảo thành ấy dẫu nhỏ mà vững bền lắm, chưa dễ phá nổi, các ngươi dám tự quyết là đánh được; khi ở trước mặt chúa công, các ngươi cố ý xin đi đánh, khiến cho ta phải đem quân tới đây . Nay đánh mãi không được, vừa gặp trời mưa, đã muốn rút quân về; các ngươi muốn đến đây thì dễ, chứ muốn rút về thì khó, ta hạn cho bảy ngày nữa, nếu không phá vỡ thành Bức Dương thì sẽ chiếu theo quân pháp mà chém đầu . Muốn tốt thì đi đi cho mau chớ đến đây nữa!

Tuân Yển và Sĩ Mang sợ hãi, xám xanh cả mặt, vâng vâng dạ dạ, luôn mồm mà lui ra, bảo các tướng bộ thuộc của mình rằng:

– Quan nguyên sóai nghiêm hạn trong bảy ngày nữa, nếu không phá vỡ thành Bức Dương thì chém đầu chúng ta, nay ta cũng nghiêm hạn cho các ngươi, nếu trong sáu ngày nữa mà không phá vỡ được thành cũng chém đầu các ngươi trước rồi ta sẽ tự tử để giữ lấy quân pháp .

Các tướng đều sợ hãi nhìn nhau . Tuân Yển và Sĩ Mang nói:

– Quân pháp không phải là nói đùa, chúng ta phải xông pha tên đạn, ngày đêm đánh riết, có tiến mà không thoái!

Nói xong, sai người ước với quân nước Lỗ, nuớc Tào và nước Châu cùng nhau ra sức . Bấy giờ thế nước đã hơi lui, Tuân Yển và Sĩ Mang thúc quân tiến đánh: tên đạn ở trên mặt thành bắn xuống như mưa, mà Tuân Yển và Sĩ Mang nhất định không đánh . Đến ngày thứ năm, trong thành hết cả tên đạn . Tuân Yển mới bắc thang trèo lên, Sĩ mang cũng lên theo, quân tướng các nước đều lục tục kéo nhau lên cả . Văn Ban tiếp chiến trong các ngõ hẻm, kiệt sức mà chết . Tuân Dinh vào thành, vua Bức Dương đem thần thuộc ra xin hàng .

Lúc bấy giờ Tấn Điệu công lo không đánh được thành Bức Dương, lại đem hai nghìn tinh binh đến để trợ chiến . Khi đi đến đất Sở Khâu (đất nước Vệ), nghe tin Tuân Dinh đã hạ được thành Bức Dương rồi, liền sai sứ đến nước Tống, đem thành Bức Dương phong cho quan đại phu nước Tống là Hướng Thú . Hướng Thú cùng với Tống Bình công thân hành đến đất Sở Khâu, yết kiến Tấn Điệu công . Hướng Thú chối từ không dám nhận phong . Tấn Điệu công liền giả đất cho Tống Bình công . Tuân Dinh thuật lại sự dũng cảm của ba tướng nước Lỗ, Tấn Điệu công ban xe và áo cho mỗi người . Các tướng nước Lỗ lạy tạ, rồi thu quân về . Tấn Điệu công trách vua Bức Dương về tội khi trước giúp Sở, giáng làm thứ nhân, lại chọn một người trong họ của vua Bức Dương cho ở đất Hoắc Thành để giữ lấy việc cúng tế .

Mùa thu năm ấy, Tuân Hội tạ thế, Tấn Điệu công thấy Ngụy Giáng là người biết giữ phép, bèn nhấc lên chức tân quân phó tướng; cho Trương Lão thay Ngụy Giáng làm chức tư mã .

Mùa đông năm ấy, đạo quân thứ hai của Tấn lại sang đánh Trịnh, đóng đồn ở đất Ngưu Thủ (đất nước Trịnh) và đất Hổ Lao, vừa lúc ấy, người nước Trịnh là Uý Chỉ nổi loạn, giết công tử Phi, công tử Phát và công tử Triệt ở tây cung . Con công tử Phi là công tôn Hạ (tên tự là Tử Tây) và con công tử Phát là công tôn Kiều (tên tự là Tử Sản) đều đem bọn vũ sĩ trong nhà đi đánh Uý Chỉ . Uý Chỉ chạy về Bắc cung . Công tôn Mại cũng đem quân đuổi đánh, giết chết được Uý Chỉ, rồi lập công tử Gia làm thượng khanh . Loan Áp nói với Tuân Dinh rằng:

– Ta nên nhân lúc nước Trịnh có loạn mà tiến đánh ngay thì tất có thể phá được .

Tuân Dinh nói:

– Nhân lúc người ta có loạn mà đánh là bất nghĩa .

Tuân Dinh truyền hoãn binh không đánh vội . Quan thượng khanh nước Trịnh là công tử Gia xin giảng hoà . Tuân Dinh thuận cho . Đến lúc công tử Trịnh nước Sở đem quân cứu Trịnh thì quân Tấn đã rút về rồi . Nước Trịnh lại cùng với nước Sở giảng hoà . Năm sau, Tấn Điệu công lại cho đạo quân thứ ba sang đánh Trịnh . Toán quân của Hướng Thú nước Tống kéo đến cửa đông . Quan thượng khanh nước Vệ là Tôn Lâm Phủ cũng đem quân đóng ở phía bắc . Quan hạ quan nguyên soái nước Tấn là Triệu Vũ đem quân đóng ở phía tây . Tuân Dinh đem đại binh tự đất Bắc Lâm kéo qua phía tây, tiến đến cửa nam, rồi sai người ước với các toán quân cùng vây nước Trịnh . Trịnh Giản công sợ lắm, lại xin giảng hoà . Tuân Dinh thuận cho, rồi lui quân về địa giới nước Tống . Trịnh Giản công thân hành đến khoao thưởng quân sĩ, cùng với Tuân Dinh hội thề . Sở Cung vương giận lắm, sai công tử Trịnh sang mượn quân Tần để về đánh Trịnh .

Bấy giờ vì Sở Cung vương phu nhân là em gái Tần Cảnh công (con Tần Hoàn công) nên hai nước có tình thân gia với nhau, Tần Cảnh công bèn sai đại tướng là Doanh Thiêm đem quân sang giúp nước Sở . Sở Cung vương đem đại binh thẳng đường tiến sang Huỳnh Dương và nói quả quyết rằng:

– Lần này không diệt được nước Trịnh thì không chịu rút quân về .

Trịnh Giản công từ khi giảng hoà với Tấn, biết chắc rằng thế nào Sở cũng lại đem binh sang đánh, mới họp triều thần lại để thương nghi .

Các quan đại phu đều nói:

– Hiện nay thế lực nước Tấn cường thịnh, nước Sở không bằng, nhưng quân Tấn đi thì mua mà đến thì chậm, cho nên hai nước chưa gặp được nhau để quyết một trận trống mái, thành ra cứ tranh nhau mãi; nếu quân Tấn chịu giúp ta thực sự mà đánh Sở thì quân Sở tự biết sức kém mà phải tránh xa, bấy giờ ta có thể một lòng theo Tấn được .

Công tôn Xá Chi hiến kế rằng:

– Ta muốn cho Tấn thực sự giúp ta thì phải làm cho Tấn tức giận, mà muốn làm cho Tấn tức giận thì không gì bằng đánh Tống . Nay Tống đang giao hiếu với Tấn, vậy ta buổi sớm đánh Tống thì buổi chiều quân Tấn tất sang đánh ta . Quân Tấn đến mau được, quân Sở không đến mau được, bấy giờ ta sẽ có cớ mà nói với quân Sở .

Các quan đại phu đều khen phải . Trong khi đang họi nghị thì có người báo tin nước Sở sang mượn quân nước Tần . Công tôn Xá Chi mừng mà nói rằng:

– Đó là lòng trời khiến cho ta theo Tấn!

Các quan đại phu đều không hiểu ý . Công tôn Xá Chi nói:

– Sở và Tấn cùng sang đánh thì nước Trịnh ta chịu thế nào nổi, chi bằng ta sai người ra nghênh tiếp vua Sở, rồi xui sang đánh Tống . Một là tránh khỏi cái hại quân Sở, hai là làm cho quân Tấn tức giận mà đến mau, có phải là được cả đôi đường không .

Trịnh Giản công theo kế ấy, liền sai công tôn Xá Chi đi nghênh tiếp quân Sở . công tôn Xá Chi qua sông Dĩnh, đi chưa được một xá thì gặp quân Sở . Xá Chi sụp lạy trước xe Cung vương . Cung vương cau mày quắc mắt mà hỏi rằng:

– Nước Trịnh ngươi phản phúc không thường, ta định đem quân đến hỏi tội, nay nhà ngươi tới đây là có ý gì ?

Công tôn Xá Chi nói:

– Chúa công tôi vẫn mến cái đức của đại vương, vẫn sợ cái uy của đại vương muốn suốt đời nương tựa ở dưới bóng đại vương, không bao giờ dám hai lòng; ngặt vì nước Tấn bạo ngược, cùng với nước Tống xâm nhiễu nước tôi . Chúa công tôi sợ nước nhà tàn phá bất đắc dĩ phải giảng hoà để quân Tấn lui về, khi quân Tấn đã lui rồi thì nước tôi lại là một nước phụ thuộc của đại vương . Chúa công tôi sợ đại vương không thấu cái nông nổi ấy, vậy phải sai tôi đến đây để giải bày tâm sự nếu đại vương sang hỏi tội nước Tống thì chúa công tôi xin đi làm tiên phong .

Sở Cung vương đổi giận làm lành mà bảo rằng:

– Nếu vua Trịnh muốn theo ta đánh Tống thì còn nói gì nữa!

Công tôn Xá Chi nói:

– Khi tôi tới đây thì chúa công đã sửa soạn quân sĩ để chực đón đại vương ở phía đông bờ cõi rồi!

Sở Cung vương nói:

– Đã đành rằng thế, nhưng quân Tần hẹn ta hội ở đất Huỳnh Dương, ta phải đợi quân Tần mới được .

Công tôn Xá Chi nói:

– Nước Tần xa cách, tất phải qua Tấn và Chu mới sang đến nước tôi, đại vương sai sứ đi ngăn lại, cũng có thể kịp; cứ như uy linh đại vương và thế lực quân Sở thì cần gì phải mượn đến quân Tần!

Sở Cung vương bằng lòng, liền sai sứ đi từ tạ quân Tần, rồi cùng với công tôn Xá Chi đi về phía đông . Đi đến đất Hữu Sầm thì thấy Trịnh Giản công đã đem quân ra nghênh tiếp, liền cùng nhau sang đánh Tống, cướp phá một phen, rồi rút quân về . Tống Bình công sai Hướng Thú sang cáo cấp với nước Tấn, và kể chuyện nước Trịnh hợp quân với nước Sở . Quả nhiên Tấn Điệu công nổi giận, lại truyền cho đạo quân thứ nhất tiến sang đánh Trịnh . Tuân Dinh bàn rằng:

– Nước Sở phỉ sang mượn quân nước Tần là vì nước Sở trong mấy năm nay chỉ những đi lại mà không thể chịu được sự lao khổ; lần này sang đánh, ta nên tỏ cho nước Trịnh biết sự cường thịnh của ta thì tự khắc nước Trịnh không dám theo Sở nữa!

Điệu công khen phải, liền hội họp các nước: Tống, Lỗ, Vệ, Tề, Tào, Cử, Châu, Đằng, Tiết, Kỷ và Tiểu Châu cùng đem quân sang đánh Trịnh, diễu quân ở phía đông nước Trịnh, bắt được quân dân nước Trịnh rất nhiều . Trịnh Giản công bảo công tôn Xá Chi rằng:

– Nhà ngươi muốn làm cho nước Tấn tức giận, đem quân đến ngay, nay quả nhiên quân Tống đến thật, nhà ngươi tính thế nào ?

Công tôn Xá Chi nói:

– Tôi xin một mặt sai người giảng hoà với Tấn, một mặt sai người cầu cứu với Sở . Quân Sở đến thì tất phải giao chiến với Tấn, bấy giờ ta chọn nước nào thắng thì theo; nếu quân Sở không đến thì ta giảng hoà với Tấn rồi đem vàng ngọc làm lễ đút cho Tấn, để Tấn giúp ta thực sự thì còn lo gì nước Sở nữa!

Trịnh Giản công khen phải, liền sai quan đại phu là Bá Biền sang giảng hoà với quân Tấn, và sai công tôn Lương Tiêu cùng quan thái tể là Thạch Sước sang nói với Sở Cung vương rằng:

– Hiện nay nước Tấn lại đem quân mười một nước chư hầu đến đánh nước tôi, chúng tôi khó lòng mà giữ nổi . Nếu đại vương lấy binh lực mà thị uy với nước Tấn thì đó là sở nguyện của chúng tôi . Nếu không thì xã tắc chúng tôi lâm nguy, chúng tôi không còn có cách gì hơn là xin hoà với Tấn, xin đại vương mở lòng thương mà tha thứ cho chúng tôi .

Sở Cung vương nổi giận, gọi công tử Trinh đến để hỏi kế .

Công tử Trinh nói:

– Quân ta mới rút về, chưa được nghỉ ngoi, đã đi thế nào được ? Chi bằng ta hãy nhương nước Trịnh cho Tấn, lo gì không có ngày lấy lại .

Sở Cung vương vẫn chưa nguôi cơn giận, truyền giam công tôn Lương Tiêu và Thạch Sước lại, không cho về nước . Tấn Điệu công đóng quân ở đất Tiêu Ngư, sứ nước Trịnh là Bá Biền xin vào yết kiến . Tấn Điệu công cho vào, rồi lên tiếng nạt nộ mà hỏi rằng:

– Nước ngươi chỉ mượn việc giảng hoà mà nói dối ta đã nhiều lần rồi! lần này lại còn muốn dùng kế hoãn binh hay sao!

Bá Biền sụp lạy mà nói rằng:

– Chúa công tôi hiện đã sai sứ sang tuyệt giao với quân Sở có đâu dám hai lòng!

Tấn Điệu công nói:

– Ta đem lòng thành tín mà đãi ngươi, nếu nước còn phản phúc nữa thì chẳng những một mình ta tức giận mà các nước chư hầu cùng tức giận cả . Thôi thì nhà ngươi hãy về mà bàn lại với vua Trịnh xem đã .

Bá Biền lại nói:

– Chúa công tôi thành kính mà sai tôi tới đây, thật là muốn một lòng thần phục nhà vua, xin nhà vua chớ nghi ngại .

Tấn Điệu công nói:

– Nếu vậy thì vua Trịnh phải cùng ta hội thề!

Liền sai quan tân quân nguyên soái là Triệu Vũ cùng với Bá Biền vào thành để hội thề với Trịnh Giản công . Trịnh Giản công xin thân hành đến dinh Tấn để cùng với các nước chư hầu hội thề . Tấn Điệu công nói:

– Nếu vua Trịnh có lòng thành tín thì tự khắc quỉ thần chứng giám, hà tất phải thề một lần nữa!

Tấn Điệu công truyền tha hết quân dân nước Trịnh bị bắt, và nghiêm cấm quân sĩ không được xâm phạm một chút gì của Trịnh, lại truyền cho toán quân ở Hổ Lao rút về hết, để cho quân Trịnh giữ lấy cửa ải . Chư hầu đều can rằng:

– Chưa có thể tin được nước Trịnh, nếu họ lại đem lòng phản phúc thì ta lại cho quân sang đóng ở Hổ Lao, chẳng cũng thêm khó một lần nữa sao ?

Tấn Điệu công nói:

– Lâu nay binh hoả liên miên, tướng sĩ các nước khó nhọc ở nơi chiến trường . Bây giờ ta muốn đem lòng thành tín mà đãi nước Trịnh, ta đã không phụ nước Trịnh thì lẽ nào nước Trịnh lại nỡ phụ ta!

Nói xong, liền bảo Trịnh Giản công rằng:

– Ta biết nước Trịnh cũng khổ sở về cuộc binh đao, nay ta muốn cùng nước Trịnh yên nghỉ; từ nay trở đi, theo Tấn hay theo Sở là tuỳ ý nước Trịnh, ta cũng không cưỡng .

Trịnh Giản công cảm động, ứa nước mắt mà nói rằng:

– Nhà vua thành tín như vậy, đến giống cầm thú cũng phải cảm kích, huống chi tôi cũng còn là loài người, lẽ nào dám phụ bạc quên ơn . Tôi còn ăn ở hai lòng thì xin quỉ thần tru diệt!

Trịnh Giản công cáo từ lui ra . Ngày hôm sau, Trịnh Giản công sai công tôn Xá Chi đem ba người nhạc sư, mười sáu người nữ nhạc, ba mươi sáu cái chuông và cái khánh, ba mươi người nữ công, cùng các thứ binh xa, đến dâng Tấn Điệu công . Tấn Điệu công nhận, rồi đem tám người nữ nhạc, mười hai cái chuông thửơng cho Ngụy Giáng mà bảo rằng:

– Nhà ngươi khuyên ta giảng hoà với các nước Sơn Nhung, để chỉnh đốn trung nguyên, nay chư hầu hoà mục với ta, như âm nhạc hoà hài, vậy ta xin cùng nhà ngươi hưởg nhạc .

Tấn Điệu công lại đem một phần binh xa thưởng cho Tuân Dinh và bảo rằng:

– Nhà ngươi khuyên ta chia quân để làm cho Sở phải khốn quẫn; nay nước Trịnh chịu thần phục ta, cũng là công của nhà ngươi .

Ngụy Giáng và Tuân Dinh đều từ chối mà nói rằng:

– Đó là nhờ uy linh của chú công, và công lao của chư hầu, chúng tôi có tài lực gì!

Tấn Điệu công nói:

– Nếu không có hai ngươi thì sao ta được như thế này, hai ngươi chớ từ chối .

Ngụy Giáng và Tuân Dih cùng lạy tạ, chư hầu đều rút quân về nước . Tấn Điệu công lại sai người sang sứ các nước để tạ lại công khó nhọc đem quân đi giúp . Các nước đều bằng lòng . Từ bấy giờ nước Trịnh một lòng theo Tấn . Lúc bấy giờ Tần Cảnh công đánh Tấn để cứu Trịnh, thắng một trận ở đất Lịch, sau nghe tin nước Trịnh đã đầu hàng nước Tấn, liền rút quân về .

Năm sau, vua nước Ngô là Thọ Mộng ốm nặng, gọi bốn con trai là: Chư Phàn, Dư Sai, Di Muội và Quí Trát đến bên cạnh giường nằm mà bảo rằng:

– Trong bốn anh em mày, chỉ có Quí Trát được lên làm vua mà giữ lấy cơ nghiệp, ai trái mệnh ta, là bất hiếu đó .

Vua nước Ngô nói xong thì chết . Chư Phàn nhường ngôi cho Trát và nói:

– Đó là ta theo ý muốn của thân phụ chúng ta đó!

Quí Trát nói:

– Khi phụ thân hãy còn, em đã cố từ ngôi thế tử, huống chi nay phụ thân đã mất rồi, em lại nhận lấy ngôi vua hay sao! nếu anh cố nhường thì em xin trốn sang nước khác .

Chư Phàn bất đắc dĩ phải lên nối ngôi . Tấn Điệu công sai sứ sang nước Ngô để viếng tang vua cũ và chúc mừng vua mới . Qua năm sau tướng nước Tấn là Tuân Dinh, Lỗ Phường, và Ngụy Tướng đều ốm chết cả . Tấn Điệu công lại luyện quân ở Miêu Sơn, muốn cho Sĩ Mang làm trung quân nguyên soái . Sĩ Mang từ chối mà nói rằng:

– Bá Du (tên tự của Tuân Yển) còn nhiều tuổi hơn tôi, tôi xin nhường Bá Du .

Tấn Điệu công liền cho Tuân Yển được thay Tuân Dinh làm trung quân nguyên soái, Sĩ Mang làm trung quân phó tướng; lại muốn cất nhắc Hàn Khởi lên chức thượng quán nguyên soái . Hàn Khởi nói:

– Triệu Vũ giỏi hơn tôi, tôi xin nhường Triệu Vũ .

Tấn Điệu công liền cho Triệu Vũ thay Tuân Yển làm thượng quân nguyên sóai; Hàn Khởi làm thượng quân phó tướng . Loan Áp vẫn làm hạ quân nguyên soái như cũ, Ngụy Giáng làm hạ quân phó tướng . Còn đạo tân quân chưa có ai làm nguyên soái . Tấn Điệu công nói:

– Chẳng thà để ngôi không mà đợi người giỏi, còn hơn dùng những người không xứng chức!

Bèn truyền cho quân lại đem quan, lính, xe cộ của đạo tàn quân mà nhập vào đạo hạ quân . Các quan đại phu đều nói:

– Chúa công ta dùng người, thật là thận trọng!

Từ bấy giờ ai cũng cố giữ chức phận, không dám trễ biếng . Nước Tấn lại cường thịnh, nối được bá nghiệp của Tấn Văn công và Tấn Tương công thuở xưa . Sau Tấn Điệu công lại bỏ bớt đạo tàn quân, chỉ còn ba đạo (thượng quân, trung quân và hạ quân) để giữ đúng lễ chư hầu .

Năm ấy Sở Cung vương (Thẩm) chết, thế tử Chiêu lên nối ngôi, tức là sở Khanh vương . Vua nước Ngô là Chư Phàn sai quan đại tướng là công tử Đảng đem quân đi đánh Sở . Tướng nước Sở là Dưỡng Do Cơ đem quân ra nghênh chiến, bắn chết công tử Đảng . Quân nước Ngô bị thua rút về . Chư Phàn sai sứ sag cáo cấp với Tấn Điệu công . Tấn Điệu công hội chư hầu ở Hướng Địa để thương nghị . Quan đại phu nước Tấn là Dương Thiệt Bật (con thứ Dương Thiệt Chức) nói với Tấn Điệu công rằng:

– Nước Ngô nhân khi nước Sở có tang đem quân sang đánh thì thua là phải, can gì mà giúp; còn Tần là một nước láng giềng với ta, và cùng ta có tình thân gia, khi trước lại theo Sở cứu Trịnh, đánh bại quân ta ở Lịch Địa, việc ấy nên báo thù . Nếu ta đánh được quân Tần thì thế lực nước Sở phải suy kém đi .

Tấn Điệu công khen phải, liền sai Tuân Yển đem quân cùng với chư hầu đi đánh Tần, còn mình thì đóng quân ở ngoài cõi để đợi tin tức . Tần Cảnh công nghe nói quân Tấn sắp đến thì sai người đem mấy bì thuốc độc bỏ chìm ở thượng lưu sông Kinh Thủy . Quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Báo cùng với quân nước Cử sang đò trước, nhiều người uống phải nước sông, đều trúng độc mà chết . Các toán quân khác không ai dám sang đò nữa . Quan đại phu nước Trịnh là công tôn Kiền đem quân tiến sang, Bắc Cung Quát theo sau, từ bấy giờ các toán quân đều kéo nhau sang cả, đóng đồn ở Vực Lâm . Quan trung quân nguyên soái nước Tấn là Tuân Yển truyền lệnh cho các quân rằng: “Gà gáy thì xuất quân, cứ theo đầu ngựa ta quay về phía nào thì đi phía ấy”. Quan hạ quân nguyên sóai là Loan Áp vốn không phục Tuân Yển, nghe thấy truyền lệnh như vậy, nổi giận mà rằng:

– Việc quân phải có nhiều người tham gia ý kiến mà dầu nếu Tuân Yển có độc đóan thì cũng phải nói rõ cho người ta biết cách tiến thoái như thế nào, có lẽ nào tất cả mọi người ta biết cách tiến thoái như thế nào, có lẽ nào tất cả mọi người trong ba đạo quân mà chỉ nom về đầu ngựa của một người! đây ta cũng là hạ quân nguyên soái, đầu ngựa ta chỉ muốn quay về phái đông .

Loan Áp liền đem quân bộ thuộc rút về phía đong . Quan hạ quân phó tướng là Ngụy Giáng nói:

– Chức phận ta là phải theo quan nguyên soái của ta, không theo lệnh Tuân Yền được!

Nguỵ Gíang cũng theo Loan Áp mà rút quân về, Tuân Yển nói:

– Ta truyền lệnh không rõ, đó là lỗi của ta, nay các tướng đã không theo lệnh thì còn thành công làm sao được!

Nói đọan truyền cho các nước đều rút quân về cả . Nước Tấn cũng rút quân về . Bấy giờ Loan Hàm làm chức nhung hữu ở đạo hạ quân, nhất định không chịu, bảo người con Phạm Mang (tức là Sĩ Mang) là Phạm Uởng rằng:

– Ngày nay ta chỉ cốt sang báo thù nước Tần, nếu không thành công thì thật là xấu hổ . Hai anh em ta (Loan Hàm là em Loan Áp) lẽ nào lại cùng rút quân về, nhà ngươi có dám cùng ta sang đánh quân Tần hay không ?

Phạm Uởng nói:

– Nhà ngươi còn biết nghĩ đến điều quốc sĩ, sao ta lại không theo .

Phạm Uởng cùng với Loan Hàm đem quân sang đánh quân Tần . Tần Cảnh công đang sai người đi do thám xem tình hình quân Tấn thế nào, bỗng thấy có một toán quân tiến đến, Tần Cảnh công sai công tử Vô Địa đem quân ra nghênh chiến . Loan Hàm và Phạm Uởng hai người cùng cố sức tiến đánh, giết được quân Tần nhiều lắm . Quân Tần sợ hãi, đã toan bỏ chạy, nhưng trông thấy toán quân của Loan Áp và Phạm Uởng không có quân tiếp ứng, liền nổi hiệu trống rồi đem quân vây kín xung quanh . Phạm Uởng bảo Loan Hàm rằng:

– Quân Tân thế mạnh lắm, ta không thể đương nổi!

Loan Hàm không nghe, lại gặp có đại binh của tướng nước Tần là Doanh Thiềm kéo đến, Loan Hàm lại cố sức xung đột, một tay giết chết được mấy người nữa, rồi bị luôn bảy mũi tên mà chết . Phạm Uởng cố sức phá vòng vây chạy thóat . Loan Áp trông thấy Phạm Uởng về một mình, liền hỏi:

– Em ta đâu ?

Phạm Uởng nói:

– Đã mắc nạn ở trong đám quân Tần rồi .

Loan Áp nổi giận, cầm giáo đâm Phạm Uởng, Phạm Uởng không dám chống lại, ù té bỏ chạy, Loan Áp đuổi theo . Thân phụ Phạm Uởng là Phạm Mang ngăn Loan Áp lại mà bảo rằng:

– Sao hiền tế lại quá giận như vậy!

Loan Áp vẫn còn hầm hầm nổi giận, quát to lên mà đáp rằng:

– Con ông rủ em tôi cùng sang đánh quân Tần, nay em tôi chết trận mà con ông sống về, thế có phải là con ông giết em tôi hay không ? ông chịu đuổi nó đi, tôi còn có thể tha thứ được, nếu không thì tôi tất phải giết nó để đền mạng cho em tôi!

Phạm Mang nói:

– Việc đó ta không được biết, âu là để ta đuổi nó đi!

Phạm Uởng nghe nói, liền bỏ trốn sang nước Tần, đem sự tình đầu đuôi thuật lại cho Tần Cảnh công nghe . Tần Cảnh công mừng lắm, đãi Phạm Uởng theo lễ thượng khanh . Một hôm, Tần Cảnh công hỏi Phạm Uởng rằng:

– Vua Tấn là người thế nào ?

Phạm Uởng nói:

– Là một ông vua hiền biết nguời và có tài dùng người .

Tần Cảnh công lại hỏi:

– Các quan đại phu nước Tân, ai giỏi hơn cả ?

Phạm Uởng nói:

– Triệu Vũ, Ngụy Giáng, Dương Thiệt Bật, Trương Lão, Kỳ Ngọ và cha tôi là Phạm Mang đều là những bậc tài gỉoi cả; còn các quan công khanh khác, cũng đều biết giữ phép, làm trọn chức phận của mình, tôi không dám khinh xuất mà ban hết được .

Tần Cảnh công lại hỏi:

– Thế thì trong các quan đại phu nước Tấn, người nào có cơ suy vong trước ?

Phạm Uởng nói:

– Họ Loan có cơ suy vong truớc .

Tần Cảnh công nói:

– Ý chừng vì cớ xa xỉ có phải không ?

Phạm Uởng nói:

– Loan Áp dẫu xa xỉ cũng chưa việc gì, đến đời con là Loan Doanh thì tất không tránh khỏi nạn được!

Tần Cảnh công nói:

– Tại sao ?

Phạm Uởng nói:

– Loan Thư ngày xưa thương dân trọng sĩ, lòng người ai cũng yêu mến, bởi vậy dẫu có việc giết vua mà trong nước không ai nói đến, vì nhờ có ân đức cũ; nay Loan Áp chế đi, đến đời Loan Doanh thì ân đức của Loan Thư đã hết rồi, Loan Doanh lại là người không có nhân chính, tài nào giữ cho khỏi suy vong được!

Tần Cảnh công khen rằng:

– Nhà ngươi thật là một người hiểu lễ lắm!

Tần Cảnh công nhân có Phạm Uởng, liền giao kết với Phạm Mang, rồi sai người sang giảng hoà với nước Tấn và xin cho Phạm Uởng được phục chức . Tấn Điệu công thuận cho . Phạm Uởng về nước Tấn, Điệu công cho cùng Loan Doanh đều làm quan công tộc đại phu, và bảo Loan Áp không được báo thù oán Phạm Uởng nữa . Từ bấy giờ Tần và Tấn lại giảng hoà với nhau . Năm ấy Loan Áp chết, con là Loan Doanh thay làm hạ quân phó tướng .

Lại nói chuyện Vệ Hiến công tên là Hãn, thay cha là Vệ Đinh công, lên nối ngôi vua, trong khi có tang mà không tỏ vẻ thương xót chút nào . Bà đích mẫu Vệ Hiến công thấy vậy, biết là Hiến công không thể làm vua được, vẫn thường đem lời khuyên bảo, mà Vệ Hiến công không nghe . Đến lúc hết tang, Vệ Hiến công lại càng phóng túng lắm, chỉ tin dùng đứa du nịnh, và ham mê chơi bời, chẳng thiết gì đến chính sự cả . Vệ Đinh công ngày xưa có người em cùng mẹ là công tử Hắc Bối, vẫn cậy thế chuyên quyền; con công tử Hắc Bối là công tôn Phiếu lại nối tước của cha là quan đại phu, cũng là một người có quyền lược . Quan thượng khanh là Tôn Lâm Phủ, quan á khanh là Ninh Thực thấy Vệ Hiến công vô đạo, bèn cùng với công tôn Phiếu kết giao . Tôn Lâm Phủ lại mật kết với nước Tấn để làm ngoại viện, và đem những đồ bảo ngọc thiên vào Thích Địa, (ấp ăn lộc của Tôn Lâm Phủ), cho vợ con về ở đấy . Vệ Hiến công nghi Tôn Lâm Phủ có ý làm phản, mà chưa dám nói ra . Một hôm, Vệ Hiến công hẹn Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực cùng đến ăn cơm trưa, Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực mặc triều phục đứng đợi ở ngoài cửa cung từ sáng đến trưa mà không thấy lệnh truyền cho vào; ở trong cung cũng không thấy có một người nào đi ra cả .

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực sinh nghi . Trời đã xế chiều, hai người vừa đói vừa nhọc, mới cùng nhau gõ cửa xin vào yết kiến . Nội thị nói:

– Chúa công đang tập bắn ở sau vườn . Hai ngài muốn yết kiến thì mời hai ngài vào đấy .

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực nổi giận, nhưng cũng cố nhịn đói mà vào thẳng sao vườn, trông thấy Vệ Hiến công đang đội cái mũ da (thứ mũ dùng để đi săn) cùng với xạ sư là công tôn Đinh thi bắn . Vệ Hiến công trông thấy Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đến trước mặt, không bỏ mũ da xuống, lại đeo cung vào nách mà hỏi rằng:

– Hai ngưoi hôm nay đến đây có việc gì ?

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đồng thanh đáp:

– Chúng tôi thấy chúa công hẹn cho ăn cơm trưa, chầu chực đến giờ, bụng đã đói lắm, không dám trái lệnh, vậy phải vào đây .

Vệ Hiến công nói:

– Ta ham bắn quá, thành ra quên mất, thôi thì hai ngươi hãy lui về, để đến hôm khác!

Vệ Hiến công nói xong thì vừa có đàn chim bay qua, vừa bay vừa kêu, Vệ Hiến công bảo công tôn Đinh rằng:

– Ta cùng nhà ngươi bắn thi đàn chim này!

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực hổ thẹn lui ra . Tôn Lâm Phủ nói riêng với Ninh Thực rằng:

– Chúa công không biết kính trọng các quan đại thần, chúng ta sau này khó lòng mà khỏi bị hại, biết làm thế nào ?

Ninh Thực nói:

– Chúa công vô đạo thì chỉ hại thân mà thôi, chứ hại chúng ta thế nào nổi ?

Tôn Lâm Phủ nói:

– Ta muốn lập công tôn Phiếu lên làm vua, nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Ninh Thực nói:

– Việc ấy rất phải! Ta cùng nhà ngươi sẽ liệu thế mà làm .

Hai người từ biệt nhau rồi về . Tôn Lâm Phủ về nhà ăn cơm xong, ngay đêm hôm ấy sai người sang Thích Địa gọi bọn gia thần là Dữu Công Sai và Doãn Công Đà sửa soạn quân mã để định nổi loạn; lại sai con trưởng là Tôn Khoái vào yết kiến Vệ Hiến công, để dò xét ý tứ . Tôn Khoái vào tâu với Vệ Hiến công rằng:

– Cha tôi là Tôn Lâm Phủ bị cảm phong, phải về dưỡng bệnh ở bến sông Hà, xin chúa công tha thứ cho .

Vệ Hiến công cười mà bảo rằng:

– Cha ngươi chỉ vì đói quá mà thành bệnh đó thôi, nay ta không dám để cho nhà ngươi lại đóai nữa!

Nói xong truyền nội thị đem rượu ra cho Tôn Khoái uống, lại gọi nhạc công ra để hát . Quan thái sư tâu với Vệ Hiến công rằng:

– Chẳng hay chúa công dạy hát bài gì ?

Vệ Hiến công nói:

– Có chương cuối cùng trong thơ “Xảo ngôn”, thật hợp với thời sự ngày nay, nhà ngươi hát bài ấy .

Quan thái sư tâu rằng:

– Bài thơ ấy ý không được hay, tôi thiết tưởng trong khi tiệc vui, không nên hát đến .

Có một nhạc công là Sư Tào nói át đi rằng:

– Chúa công dạy hát bài gì thì cứ hát bài ấy, can gì lại nói lôi thôi!

Nguyên Sư Tào gẩy đàn cầm hay lắm, Vệ Hiến công sai dạy một người thiếp yêu . Người thiếp yêu không nghe lời dạy bị Sư Tào đánh cho mười roi . Người ấy bèn vào mách với Vệ Hiến công . Vệ Hiến công đánh Sư Tào ba trăm roi ở trước mặt người thiếp yêu, bởi vậy Sư Tào căm tức, bấy giờ biết bài thơ ấy không hay, mà cố ý muốn hát, để làm cho Tôn Khoái phải tức giận . Sư Tào liền cất giọng hát rằng:

“Kẻ kia là ai,

Ở bến sông Hà;

Không tài lực gì,

Mà muốn nỏoi loạn”.

Chủ ý Vệ Hiến công là nhân thấy Tôn Lâm Phủ ở bến sông Hà có ý muốn nổi loạn, vậy nên định mượn câu hát, khiến cho Tôn Lâm Phủ phải sợ . Tôn Khoái nghe câu hát, trong lòng áy náy, xin cáo từ lui ra . Vệ Hiến công nói:

– Bài hát của Sư Tào, vừa rồi ngươi về nên thuật lại cho cha ngươi biết; cha ngươi dẫu ở xa, nhưng có điều gì, đây ta cũng biết cả, nên phải cẩn thận mà giữ gìn bệnh thể .

Tôn Khoái sụp lạy lui ra, về nói chuyện lại với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ nói:

– Chúa công ghét ta đã quá lắm, chẳng lẽ ta cứ ngồi mà chịu chết hay sao! nay có Cừ Viên (tên tự là Bá Ngọc, làm quân đại phu nước Vệ) là người gỉoi, nếu người ấy chịu đồng mưu với ta thì làm gì mà chẳng xong việc!

Tôn Lâm Phủ lẻn đến yét kiến Cừ Viên mà bảo rằng:

– Chúa công vô đạo, nhà ngươi cũng đã biết, ta chỉ e rằng có ngày mất nước thì làm thế nào ?

Cừ Viên nói:

– Bề tôi thờ vua, điều gì can được thì can, điều gì không can đuợc thì đành bỏ mà đi, còn điều khác tôi không dám biết!

Tôn Lâm Phủ liệu chừng không thể lay động Cừ Viên được, mới cáo từ trở về . Ngay ngày hôm ấy, Cừ Viên bỏ trốn sang nước Lỗ . Tôn Lâm Phủ họp quân ở Khâu Cung, sắp sửa đánh Vệ Hiến công . Vệ Hiến công sợ, sai người đến Khâu Cung giảng hoà với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ bắt người ấy giết đi, Vệ Hiến công sai người rình xem Ninh Thực làm gì thì thấy Ninh Thực đang sắp quân để tiếp ứng cho Tôn Lâm Phủ . Vệ Hiến công lại sai người gọi Bắc Cung Quát . Bắc Cung Quát cáo ốm không đến . Công tôn Đinh nói với Vệ Hiến công rằng:

– Bây giờ việc đã nguy cấ, nên mau mau trốn sang nước khác, còn có ngày lại trở về được .

Vệ Hiến công liền đem một toán quân mở cửa đông, định thẳng đương trốn sang nước Tề . Công tôn Đinh mang cung tên đi theo . Tôn Khoái và Tôn Gia (con thứ của Tôn Lâm Phủ) đuổi theo đến Hà Trạch, đánh giết một trận, toán quan của Vệ Hiến công bỏ chạy tán loạn cả, chỉ còn độ hơn mười người mà thôi; may nhờ có công tôn Đinh bắn gỉoi lắm, không sai một phát nào, người nào đến gần, đều bị tên mà chết, bởi vậy mới bảo toàn cho Vệ Hiến công chạy thóat được .

Tôn Khoái và Tôn Gia không dám đuổi theo nữa, quay trở về, vừa đi được ba dặm thì thấy Dữu Công Sai và Doãn Công Đà đem quân đến, nói là vâng lệnh Tôn Lâm Phủ đi đuổi bắt Vệ Hiến công . Tôn Khoái và Tôn Gia nói:

– Có một người bắn gỉoi lắm, các tướng phải phòng bị mới được!

Dữu Công Sai nói:

– Người ấy chắc là thầy ta, tên gọi công tôn Đinh đó!

(Nguyên Doãn Công Đà học nghề bắn với Dữu Công Sai, Dữu Công Sai lại họ nghề bắn với công tôn Đinh, ba người cùng một môn phái, cho nên đều biết tài nhau cả ).

Doãn Công Đà nói:

– Hôn quân đi cũng chưa xa, ta hãy cố đuổi theo .

Bèn đuổi theo mười lăm dặm nữa thì vừa kịp Vệ Hiến công . Người dong xe của Vệ Hiến công bị thương, công tôn Đinh phải cầm cương xe cho Vệ Hiến công, Công tôn Đinh ngảnh lại, trông thấy Dữu Công Sai ở đằng xa, mới bảo Vệ Hiến công rằng:

– Người đuổi theo ấy là học trò của tôi đó . Có lẽ nào học trò lại hại thầy, chúa công chớ ngại!

Công tôn Đinh dừng xe lại để đợi . Dữu Công Sai đi đến nơi, ngảnh lại bảo Doãn Công Đà rằng:

– Thật là thầy ta rồi!

Nói xong, liền xuống xe sụp lạy . Công tôn Đinh chào lại, rồi vẫy tay bảo đi . Dữu Công Sai trèo lên xe mà nói rằng:

– Công việc ngày nay, người nào cũng vì chủ mà làm . Nếu ta bắn thì là bội thầy, mà không bắn thì bội chủ; nay ta có một cách khiến cho trọn vẹn được cả đôi đàng!

Dữu Công Sai liền cầm cái tên gõ xuống bánh xe, bẻ đầu mũi nhọn đi, rồi nói to lên rằng:

– Xin thấy chớ sợ!

Dữu Công Sai nói xong, bắn luôn bốn phát tên: phát trước trúng vào cái thức (cái chắn ngang ở trước mặt), phát sau trúng vào cái chẩn (cái chắn ngang ở sau lưng), còn hai phát nữa trúng vào hai bên tả hữu, chỉ trừ có Vệ Hiến công và công tôn Đinh ngồi ở giữa xe là không can gì! Dữu Công Sai bắn xong, tức khắc quay xe trở về . Công tôn Đinh cũng giục ngựa tiến đi mau . Doãn Công Đà lúc trước trông thấy Vệ Hiến công đã toan giương cung ra bắn, nhưng vì có Dữu Công Sai là thầy mình ở đấy vậy phải nhường thầy . Khi về đến nửa đường, có ý hối lại, mới bảo Dữu Công Sai rằng:

– Thầy cùng với công tôn Đinh là nghĩa thầy trò, vậy phải dụng tình như thế, còn tôi đã cách đi một từng rồi, thế thì ơn thầy chưa trọng bằng mệnh chủ, nếu không cố cho thành công thì chẳng hóa bội chủ lắm sao!

Dữu Công Sai nói:

– Thầy ta (trỏ công tôn Đinh) bắn giỏi lắm, không kém gì Dưỡng Do Cơ, nhà ngươi không địch nổi đâu, khéo chẳng có mất mạng!

Doãn Công Đà không tin lời Dữu Công Sai, lại quay đi đuổi theo Vệ Hiến công.

Chương 62: Chư hầu đem quân vây Tề quốc – Vua Tấn lập kế đuổi Loan Doanh

Doãn công Đà không tin lời Dữu Công Sai, quay lại đuổi theo Vệ Hiến công, được hơn hai mươi dặm thì kịp . Công tôn Đinh hỏi rằng:

– Nhà ngưoi theo ta để làm gì ?

Dõan công Đà nói:

– Thầy ta là Dữu công Sai, cùng với nhà ngươi có tình thầy trò; ta đây dẫu là học trò thầy ta, nhưng chưa hề có học nhà ngươi một ngày nào cả, vậy thì ta coi nhà ngươi khác nào người qua đường, lẽ nào ta lại vì người qua đường mà bỏ công nghĩa hay sao!

Công tôn Đinh nói:

– Nhà ngươi đã học nghề bắn của Dữu công Sai thì cũng nên biết cái nghề ấy tự đâu mà ra! làm người chớ nên quên gốc, mau mau trở về kẻo mất cả lòng tử tế đi!

Doãn công Đà không nghe lời, giương cung ra bắn Công tôn Đinh . Công tôn Đinh chẳng sợ hãi chút nào, sẽ đưa dây cương cho Vệ Hiến công, rồi chờ mũi tên đến, giơ tay bắt lấy, lại để vào cung mà bắn trả lại Doãn công Đà . Doãn công Đà nghiêng mình tránh thì mũi tên trúng ngay vào cánh tay tả, vội vàng bỏ chạy . Công tôn Đinh lại bắn thêm một phát nữa . Doãn công Đà chết ngay . Quân sĩ sợ hãi, bỏ xe chạy trốn .

Vệ Hiến công bảo công tôn Đinh rằng:

– Nếu không nhờ có mũi tên thần của nhà ngươi thi tính mệnh ta còn gì!

Công tôn Đinh lại cầm dây cương giục ngựa đi mau . Đi được hơn mười dặm, lại thấy phía sau có một toán quân kéo đến, Vệ Hiến công nói:

– Lại có quân đuổi theo thì làm thế nào ?

Khi toán quân ấy đi gần đến nơi thì hóa ra quân của người em cùng mẹ với Vệ Hiến công là công tử Chuyên cố theo để hộ giá . Vệ Hiến công mới yên lòng, liền cùng nhau chạy sang nước Tề . Tề Linh công cho ở Lai Thành . Tôn Lâm Phủ đã đuổi Vệ Hiến công rồi, mới bàn nhau với Ninh Thực, lập công tôn Phiếu lên nối ngôi, tức là Vệ Thương công . Tôn Lâm Phủ lại sai người báo tin cho Tấn Điệu công biết . Tấn Điệu công hỏi Tuân Yển rằng:

– Nước Vệ đuổi vua họ lập vua kia là không phải đạo, ta nên xử trí như thế nào ?

Tuân Yển nói:

– Vua Vệ vô đạo, chư hầu ai cũng biết, nay quân dân nước Vệ đều bằng lòng lập công tử Phiếu, âu là ta cứ để mặc thì hơn .

Tấn Điệu công theo lời . Tề Linh công nghe tin Tấn Điệu công không trị tội đuổi vua của Ninh Thực nước Vệ, liền thở dài mà nói rằng:

– Vua Tấn đã có ý lười biếng rồi! ta không nhân dịp này mà tranh lấy nghiệp bá thì còn đợi đến bao giờ!

Tề Linh công đem quân sang cướp phá ấp thành của nước Lỗ . Nguyên Tề Linh công lấy con gái nước Lỗ là Nhân Cơ làm phu nhân, không có con; người thiếp là Dung Cơ, sinh được một con tên là Quang, Tề Linh công lập làm thế tử . Sau Tề Linh công lại có một người thiếp yêu là Nhưng Tử cũng không có con, em gái Nhung Tử là Trọng Tử, sinh được một người con tên là Nha . Nhung Tử nhận Nha làm con mình . Tề Linh công lại có người vợ khác nữa sinh ra công tử Chử Cữu, nhưng Tề Linh công không có lòng yêu . Nhung Tử cậy thế Tề Linh công yêu, đòi lập Nha làm thế tử . Tề Linh công thuận cho . Trọng Tử can rằng:

– Chúa công lập Quang làm thế tử, kể đã lâu ngày! thế tử Quang lại đã nhiều lần dự hội với chư hầu, nay tự nhiên vô cớ mà bỏ đi thì e rằng người trong nước không phục, sau không hối lại được nữa!

Tề Linh công nói:

– Bỏ hay lập là quyền ở ta, ai dám không phục!

Tề Linh công sai thế tử Quang đem quân ra trấn thủ ở Tức Mặc . Thế tử Quang vừa đi xong thì Tề Linh công truyền lệnh bỏ thế tử Quang mà lập Nha làm thế tử; lại cho quan thượng khanh là Cao Hậu (con Cao Quốc) làm thái phó, và kẻ tự nhân (họan quan) là Túc Sa Vệ làm thiếu phó để dạy thế tử Nha . Lỗ Tương công nghe tin thế tử Quang bị bỏ, thì sai sứ sang hỏi xem vì cớ gì . Tề Linh công không thể trả lời được, lại lo nước Lỗ giúp thế tử Quang mà tranh nhau với thế tử Nha, liền đem quân đánh Lỗ, có ý muốn doạ nước Lỗ, rồi sau sẽ giết thế tử Quang . Lỗ Tương công sai người sang cáo cấp với Tấn Điệu công nhưng gặp lúc Tấn Điệu công ốm nặng, không sang cứu Lỗ được . Cuối năm ấy Tấn Điệu công mất, thế tử Bưu lên nối ngôi tức là Tấn Bình công . Lỗ Tương công lại sai sứ sang viếng tang và cáo cấp với Tấn Bình công . Tuân Yển nói với Tấn Bình công rằng:

– Đợi sang mùa xuân, ta sẽ đại hội chư hầu, nếu nước Tề không đến, bấy giờ sẽ đem quân đi đánh, cũng chưa lấy gì làm chậm .

Năm sau, Tấn Bình công đại hội chư hầu ở đất Khứu Lương . Tề Linh công không đến, cho quan đại phu là Cao Hậu đi thay . Tuân Yển nổi giận, toan bắt giam Cao Hậu . Cao Hậu trốn về, lại đem quân cướp phá ấp Phường của nước Lỗ, giết quan trấn thủ ở ấp Phường là Tang Niên . Thúc Tôn Báo nước Lỗ lại sang nước Tấn cầu cứu . Tấn Bình công liền sai Tuân Yển họp quân các nước cùng sang đánh Tề . Tuân Yển vừa điểm duyệt quân mã xong, đêm hôm ấy nằm mộng thấy một sứ giả mình mặc áo vàng, tay cầm một cuốn văn thư, đến bắt Tuân Yển đi đối chứng . Tuân Yển đi theo sứ giả . Đi đến một nơi dinh toà to lớn, trên có đấng vương giả ngồi, mũ cao áo dài, sứ giả liền bảo Tuân Yển quỳ xuống ở dưới sân . Tuân Yển trông thấy những người cùng quì với mình là: Tấn Lệ công, Loan Thư, Trình Hoạt, Tư Đồng, Trường Ngư Kiểu và một bọn người nhà của ba người họ Khước . Tuân Yển lấy làm quái lạ, lại nghe thấy bọn Tư Đồng cùng với ba người họ Khước cãi lý nhau lâu lắm, nhưng nghe không được rõ . Được một lúc thì thấy ngục tốt giải bọn ấy đi chỗ khác, chỉ còn có bốn người ở lại là: Tấn Lệ công, Loan Thư, Trình Hoạt, và Tuân Yển mà thôi . Tấn Lệ công kể hết sự tình đầu đuôi trong khi bị giết . Loan Thư cãi rằng: “Việc ấy tự Trình Hoạt hạ thủ!” Trình Hoạt nói: “Việc ấy chủ mưu tự Loan Thư, tôi chẳng qua phụng mệnh mà làm, sao lại đổ tội cho tôi được!” Đấng vương giả ở trên điện giáng chỉ rằng: “Lúc bấy giờ Loan Thư cầm quyền chính, nên trị tội thủ ác, làm cho trong năm năm nữa thì con cháu phải tuyệt diệt” . Tấn Lệ công có vẻ tức giận mà rằng: “Việc ấy cũng bởi tay Tuân Yển, sao Tuân Yển lại được vô tội ?” Nói đoạn đứng dậy, cầm giáo đánh vào đầu Tuân Yển . Tuân Yển thấy đầu mình rơi xuống trước mặt, vội vàng lấy tay nhặt đầu, quì xuống mà đặt lên cổ, rồi chạy ra ngoài cửa điện . Tuân Yển đang chạy thì gặp người thầy đồng ở đất Ngạch Dương tên gọi Linh Cao .

Linh Cao bảo Tuân Yển rằng: “Sao đầu nhà ngươi lại lệch đi như thế kia ?” Nói đoạn Linh Cao bèn lấy tay sửa lại . Tuân Yển đau quá, sực tỉnh dậy, thành ra một giấc chiêm bao, nghĩ thầm lấy làm lạ . Ngày hôm sau, Tuân Yển vào triều, quả nhiên lại gặp Linh Cao ở giữa đường . Tuân Yển cho Linh Cao lên ngồi cùng xe, rồi kể chuyện chiêm bao cho nghe . Linh Cao nói:

– Thế là oan gia có báo, sắp chết đến nơi!

Tuân Yển nói:

– Nay ta sang đánh Tề, phỏng có kịp hay không ?

Linh Cao nói:

– Còn có thể đánh được nước Tề!

Tuân Yển nói:

– Nếu đánh được Tề thì dẫu chết cũng thoả!

Tuân Yển liền hội quân chư hầu cùng sang đánh Tề . Cả thảy có mười hai đạo quân là: 1. Tấn, 2. Tống, 3. Lỗ, 4. Vệ, 5. Trịnh, 6. Tào, 7. Cử, 8. Châu, 9. Đằng, 10. Tiết, 11. Kỷ, 12. Tiểu Châu .

Tề Linh công sai quan thượng khanh là Cao Hậu giúp thế tử Nha giữ nước, còn mình thì đem đại binh ra đóng ở thành Bình Âm . Phía nam thành Bình Âm có cái trạm phòng thủ, có cổng . Tề Linh công sai Kỳ Qui Phủ đào một dãy hào sâu ở ngoài cổng, bề ngang bề rộng đều một dặm, rồi tuyển quân tinh nhuệ ra phòng giữ ở đấy . Tự nhân Túc Sa Vệ nói với Tề Linh công rằng:

– Quân mười hai nước, vị tất đã đồng tâm được, ta nên nhân lúc mới đến mà ra đánh ngay, phá được một đạo thì các đạo đều sợ mất vía cả; nếu không đánh thì phải tìm nơi hiểm yếu mà giữ, chứ chắc gì ở một dãy hào phía ngoài cửa trạm . Tề Linh công nói:

– Một dãy hào sâu như thế, có họa bay thì mới sang được!

Tuân Yển nghe nói quân Tề đào hào để giữ, thì cười mà nói rằng:

– Quân Tề sợ ta rồi, tất không dám giao chiến, ta nên dùng kế mà phá vỡ!

Bèn truyền cho quân Lỗ, Vệ đi đường Tu Câu; quân Châu, Củ đi đường Thành Dương, đều qua đất Lang Gia mà tiến vào, còn mình thì đem đại binh qua đất Bình Âm, hẹn nhau cùng hội tại dưới thành Lâm Tri (kinh thành nước Tề) . Bốn nước (Lỗ, Vệ, Châu, Cử) đều phụng mệnh đem quân đi . Tuân Yển lại sai quan tư mã là Trương Quân Thần (con Trương Lão) đi cắm cờ ở các nơi rừng núi, bó cỏ làm hình người, rồi mặc áo giáp vào, đặt ngồi trên xe, và đem cành cây buộc ở sau xe, khiến cho khi xe đi thì cát bụi bay mù cả lên, để làm nghi binh . Tuân Yển truyền cho quân sĩ, xe nào cũng phải chất đầy gỗ đá, và mỗi người lại mang thêm một bì đất; khi đến cửa trạm, bao nhiêu gỗ đá trong xe đều đem ném cả xuống hào, lại bỏ mấy vạn cái bì đất xuống đấy nữa, để lấp bằng như mặt đất . Quân Tấn kéo ồ cả sang . Quân Tề không thể đương nổi, chết hại rất nhiều . Kỳ Qui Phủ xuýt nữa bị quân Tấn bắt, phải bỏ trốn vào trong thành Bình Âm, tâu với Tề Linh công . Tề Linh công kinh sợ, mới trèo lên núi Vu Sơn đứng xem thì thấy ở trong rừng, chỗ nào cũng có cờ cắm, giật mình mà nói rằng:

– Quân chư hầu sao nhiều như vậy, âu là ta phải bỏ chạy .

Tề Linh công mới hỏi các tướng xem ai dám đi đoạn cuối, Túc Sa Vệ nói:

– Tôi xin đem một toán quân đi sau cùng, chúa công chớ lo ngại!

Tề Linh công mừng lắm . Bỗng có hai viên tướng tâu rằng:

– Đường đường một nước Tề ta, không có người dũng sĩ nào, lại phải dùng đến kẻ tự nhân (trỏ Túc Sa Vệ) đi đoạn cuối hay sao! các nước người ta sẽ cười cho! hai chúng tôi xin để cho Túc Sa Vệ đi trước .

Hai viên tướng ấy tức là Thực Xước và Quách Tối, vốn là hai tay dũng sĩ, sức địch muôn người . Tề Linh công nói:

– Nếu được hai tướng quân đi sau cho thì ta còn lo gì nữa!

Túc Sa Vẹ thấy Tề Linh công không dùng mình thì hổ thẹn muôn phần, bất đắc dĩ phải theo Tề Linh công đi trước . Đi được hơn hai mươi dặm, đến Thạch Môn sơn là một nơi hiểm yếu, hai bên đều núi đá cả, chỉ có một lối đi ở giữa, Túc Sa Vệ căm tức Thực Xước và Quách Tối, có ý muốn làm hại, mới đợi cho quân Tề đi hết, rồi đem hơn ba mươi cỗ ngựa, giết chết cả đi mà bỏ lấp ở ngang đường, lại đem mấy cỗ xe lớn, cũng bỏ ở đấy . Thực Xước và Quách Tối lững thững đem quân đi sau, khi đến Thạch Môn sơn, thấy ngựa chết và xe lổng chổng giữa đường, không đi qua được mới bảo nhau rằng:

– Đây tất là Túc Sa Vệ căm thù hai ta mà làm ra thế này đây!

Hai người vội vàng truyền cho quân sĩ khiêng những xác ngựa và xe ấy bỏ đi chỗ khác, nhưng đường hẹp khó khiêng, thành ra tốn nhiều công lắm, mãi không đi được . Tướng nước Tấn là Châu Xước đem quân đuổi tới . Thực Xước vừa toan quay xe lại để nghênh chiến thì Châu Xước bắn ngay một phát tên, trúng vả vai bên tả Thực Xước . Quách Tối giương cung toan bắn Châu Xước . Thực Xước lấy ta gạt đi khong cho bắn . Châu Xước thấy vậy, cũng không bắn nữa . Thực Xước không sợ hãi gì cả, giơ tay rút mũi tên ra mà hỏi Châu Xước rằng:

– Nhà ngươi là ai mà bắn trúng được vai Thực Xước này, cũng đáng khen cho là người giỏi! xin nói rõ họ tên ?

Châu Xước nói:

– Tướng quân nói dẫu phải, nhưng người nào vì chủ người ấy, thế tất phải như vậy . Nếu tướng quân chịu đầu hàng đi thì tôi có thể bảo toàn được cho tướng quân .

Thực Xước nói:

– Có quả thật như vậy không ?

Châu Xước nói:

– Tướng quân không tin thì tôi xin thề: “Nếu tôi không bảo toàn được cho tướng quân, thì tôi xin chết theo tướng quân”.

Thực Xước nói:

– Tính mệnh Quách Tối, tôi cũng trao cho tướng quân đó!

Thực Xước cùng với Quách Tối và quân sĩ đều xin đầu hàng cả . Châu Xước đem Thực Xước và Quách Tối về nộp Tuân Yển, lại nói cho Tuân Yển biết hai tướng là người tài giỏi nên dùng . Tuân Yển truyền giam lại để đợi khi thu quân về sẽ định liệu . Đại binh nước Tấn qua thành Bình Âm, thẳng đường tiến vào kinh thành nước Tề . Quân Lỗ, Vệ, Châu, Cử cũng đều đến cả, vây kín bốn mặt thành Lâm Tri đốt phá nhiều nơi . Tề Linh công sợ hãi, mở cửa đông ra chạy . Cao Hậu nghe nói, vội vàng chạy theo, rút gươm cắt dây cương xe đi rồi khóc mà can rằng:

– Quân các nước dẫu hăng hái, nhưng đi xa như vậy, tất sẽ sinh biến, chẳng bao lâu rồi cũng phải rút về . Nay chúa công bỏ đi thì kinh thành không thể giữ nổi, xin chúa công hãy ở lại mười ngày nữa, nếu lực cùng quá, bấy giờ sẽ chạy, cũng chưa lấy gì làm chậm .

Tề Linh công mới ở lại, không bỏ chạy nữa . Cao Hậu đốc suất quân dân hết sức chống giữ . Quân các nước vây thành, đến ngày thứ sáu, bỗng có sứ nước Trịnh đem một phong thư của quan đại phu nước Trịnh là công tôn Xá Chi và công tôn Hạ đến phi báo với Trịnh Giản công, nói có việc cơ mật khẩn yếu . Trịnh Giản công mở ra xem, đại lược nói rằng:

“Tôi là công tôn Xá Chi và công tôn Hạ phụng mệnh chúa công, cùng với Tử Khổng (tức là công tử Gia) giữ nước, chẳng ngờ Tử Khổng có lòng phản nghịch, tư thông với Sở, toan làm nội ứng để cho quân Sở vào đánh Trịnh . Hiện nay quân Sở đã đóng ở đất Ngư Lăng, chẳng bao lâu sẽ kéo đến, việc nguy cấp lắ, vậy xin chúa công tức khắc rút quân về mà cứu lấy nước nhà”.

Trịnh Giảnh công sợ lắm, đem ngay bức thư ấy vào trình Tấn Bình công, Tấn Bình công triệu Tuân Yển đến để thương nghi . Tuân Yển nói:

– Quân ta thẳng đường kéo vào Lâm Tri, đang muốn thừa cơ phá vỡ nước Tề, nay nước Tề chưa phá vỡ được, mà nước Trịnh lại có quân Sở đến đánh; nếu để cho Trịnh mất nước thì lỗi tại ta, chi bằng ta hãy rút quân về cứu Trịnh . Lần này ta dẫu không phá vỡ được nước Tề, nhưng vua Tề chắc cũng kinh sợ, từ sau không dám xâm phạm nước Lỗ nữa!

Tấn Bình công khen phải, liền rút quân về . Trịnh Giản công cáo từ Tấn Bình công rồi xin về nước . Tấn Bình công thấy quân Sở lại sang đánh Trịnh, thì lấy làm lo, khi về đến đất Chúc A, cùng với các vua chư hầu uống rượu, dáng không được vui vẻ . Quan thái sư coi việc âm nhạc, là Sư Khoáng tâu với Tấn Bình công rằng:

– Tôi xin dùng âm luật mà bói xem tốt xấu thế nào .

Sư Khoáng liền thổ sáo, hát khúc nam phong, thấy có nhiều tiếng nghiêm ngặt, sát phạt; lại há khúc bắc phong, thì thấy êm ái dễ nghe . Sư Khoáng nói:

– Khúc nam phong (nước Sở ở về phương nam) không mạnh thì quân Sở chẳng những vô công mà lại sắp có tai vạ, chỉ trong ba ngày nữa, ta sẽ biết tin .

Sư Khoáng, tên tự là Tử Giã, là một học giả thông minh bậc nhất ở nước Tấn, lúc bé học âm luật, thường bực mình về nỗi không được chuyên, mới phàn nàn rằng:

– Nghề không tinh là tại lòng không chuyên nhất, lòng không chuyên nhất là tại con mắt hay nhìn .

Liền lấy lá ngải đốt mù mắt đi, để chuyên tâm về nghệ thuật, bởi vậy tinh thông âm luật lắm, có thể biết khí hậu biến hóa, âm dương lên xuống, sự lành dữ trong việc trời việc người, trong tiếng chim tiếng gió . Bây giờ Sư Khóang làm quan thái sư ở nuớc Tấn, coi về việc nhạc . Tấn Bình công tin yêu lắm, hành quân ở đâu cũng đem đi theo . Bình công nghe Sư Khoáng nói vậy, liền đóng quân lại rồi sai người đi dò thám tin tức quân Sở . Chưa được ba ngày, có quan đại phu nước Trịnh là công tôn Mại đến báo tin quân Sở đã lui rồi . Bình công lấy làm lạ, liền hỏi kỹ đầu đuôi . Công tôn Mại nói:

– Nước Sở, từ khi Tử Canh (tức là công tử Ngọ) thay Tử Mang (tức là công tử Trinh) làm lệnh doãn, muốn báo thù đời trước, mới lập mưu đánh Trịnh . Công tử Gia (nước Trịnh) tư thông với Sở, hẹn khi quân Sở đến thì giả cách nghênh chiến để đem quân ra đón . May nhờ có công tôn Xá Chi và công tôn Hạ biết mưu ấy, đem quân giữ thành, rồi nghiêm cấm những kẻ ra vào; công tử Gia không dám ra đón quân Sở . Tử Canh đem quân qua sông Dinh, không thấy công tử Gia ra đón, liền đóng đồn ở dưới núi Ngư Sĩ, gặp trời mưa tuyết, mấy ngày không thôi, trong dinh nước sâu hơn thước, quân sĩ đều tìm chỗ cao để ẩn mưa, rét quá, chết rất nhiều, ai cũng có lòng oán . Tử Canh bất đắc dĩ phải rút quân về . Nay chúa công tôi đã trị tội giết chết công tử Gia rồi, sợ phiền đến quân các nước, vậy có sai tôi đi đến đây, để tâu với nhà vua .

Tấn Bình công mừng lắm, nói:

– Từ Giã (tên tự Sư Khoáng) thật là thánh về âm luật!

Tấn Bình công truyền cho chư hầu rút quân về . Tuân Yển về đến nữa đường, bỗng nhiên trên đầu nảy ra một cái ung, đau không thể chịu được, mới ở lại đất Chước Ung . Được hai tháng thì cái ung ấy vỡ, rồi lòi mắt ra mà chết . Thực Xước và Quách Tối nhân dịp Tuân Yển chết, phá cũi mà ra, trống về nước Tề, Phạm Mang và con Tuân Yển là Tuân Ngô đưa linh cữu Tuân Yển về nước Tấn, Tấn Bình công cho Phạm Mang thay Tuân Yển làm trung quân nguyên soái và cho Tuân Ngô thay Phạm Mang làm trung quân phó tướng . Tháng năm năm ấy, Tề Linh công ốm nặng, quan đại phu là Thôi Trữ bàn mưu với Khánh Phong, sai người đem xe đón thế tử Quang ở Tức Mặc về .

Khánh Phong đang đêm đem quân gọi cửa nhà quan thái phó là Cao Hậu . Cao Hậu mở cửa ra đón . Khánh Phong bắt giết đi . Thế tử Quang và Thôi Trữ vào cung, giết nàng Nhung Tử (mẹ nuôi thế tử Nha), lại giết cả thế tử Nha . Tề Linh công nghe tin kinh sợ, hộc máu ra mà chết . Thế tử Quang lên nối ngôi, tức là Tề Trang công . Tự nhân là Túc Sa Vệ đem gia quyến chạy sang ở Cao Đường . Tề Trang công sai Khánh Phong đem quân đi đuổi . Túc Sa Vệ chiếm cứ Cao Đường mà chống cự lại . Tề Trang công đem đại binh đến vây, đã hơn một tháng mà chưa phá vỡ được . Công Lũ người Cao Đường vốn có dũng lực, Túc Sa Vệ dùng để giữ cửa đông . Công Lũ biết Túc Sa Vệ không làm nên việc được, mới đứng trên mặt thành bắn một lá thư xuống, ước với Tề Trang công, xin đến nửa đêm hôm ấy thì làm nội ứng cho quân Tề trèo qua phía đông bắc vào thành . Tề Trang công có ý không tin, Thực Xước và Quách Tối nói với Tề Trang công rằng:

– Việc ấy hai chúng tôi xin đi, để báo lại cái thù Túc Sa Vệ làm hại hai chúng tôi ở Thạch Môn khi trước .

Tề Trang công nói:

– Các ngươi đi trước, phải cẩn thận mới được, rồi ta sẽ đem quân tiếp ứng .

Thực Xước và Quách Tối đem quân tới phía đông bắc chờ đến nửa đêm, bỗng thấy ở trên mặt thành có dòng mấy cái thừng xuống . Thực Xước và Quách Tối cùng quân sĩ bíu thừng leo lên . Công Lũ đưa vào bắt Túc Sa Vệ . Quách Tối mở cửa thành cho quân Tề kéo ồ vào . Trong thành náo động, chém giết lẫn nhau, ước độ một trống canh mới thôi . Tề Trang công vào thành . Công Lũ và Thực Xước trói Túc Sa Vệ giải đến trước mặt Tề Trang công . Tề Trang công xỉ mắng Túc Sa Vệ rằng:

– Ta có phụ bạc gì mày, mà mày lại giúp công tử Nha để hại ta, nay công tử Nha còn đâu! mày đã giúp công tử Nha thì cho xuống âm phủ mà giúp một thể!

Túc Sa Vệ cúi đầu không nói gì cả . Tề Trang công truyền đem Túc Sa Vệ ra chém, lấy thịt ướp, chia cho các quan mỗi người một ít; lại cho Công Lũ trấn thủ Cao Đường, rồi rút quân trở về .

Quan thượng khanh nước Tấn là Phạm Mang vì lần trước đánh Tề chưa được thành công, lại tâu với Tấn Bình công, xin đem quân sang đánh . Khi kéo quân đén sông Hoàng Hà, nghe tin Tề Linh công mất, bảo quân sĩ rằng:

– Nước Tề mới có tang mà ta đem quân sang đánh là bất nhân!

Nói xong, liền đem quân về . Quan đại phu nước Tề là Án Anh nói với Tề Trang công rằng:

– Nước Tấn thấy ta có tang mà không sang đánh, nếu ta bội Tấn thì là bất nghĩa, chi bằng ta cùng Tấn giảng hoà, khiến cho hai nước khỏi sự binh đao khổ sở là hơn .

Án Anh tên tự là Bình Trọng, mình cao không đầy năm thước, vốn là hiền sĩ bậc nhất ở nước Tề . Tề Trang công cũng sợ quân Tấn lại đến đánh, mới nghe lời Án Anh, sai nguời sang tạ tội với nước Tấn . Tấn Bình công đại hội chư hầu ở đất Thiền Uyên, cùng với Tề Trang công làm lễ ăn thề, từ bấy giờ hai nước giảng hoà với nhau .

Lại nói chuyện quan hạ quân phó tướng là Loan Doanh, tức là con Loan Áp . Loan Áp là con rễ Phạm Mang . Con gái Phạm Mang gả cho Loan Áp tên gọi nàng Loan Kỳ . Bấy giờ họ Loan kể từ Loan Tân, Loan Thành, Loan Chi, Loan Thũẫn, Loan Thư, Loan Áp cho đến Loan Doanh, cả thảy bảy đời cùng làm khanh tướng, quyền qúi không ai bằng, các văn vũ trong triều, nửa là môn hạ, nửa là thân thuộc . Loan Doanh lại là người biết khiêm kính, phóng tiền kết khách, vậy nên bọn dũng sĩ cảm tử như Châu Xước, Hình Khoái, Hoàng Uyên, và Cơ Di đều về với Loan Doanh cả, lai có Đốc Nhung là một người vũ dũng, sức mạnh nổi mấy nghìn cân, tay cầm hai kích, đâm đâu trúng đấy, không ai địch nổi, lúc nào cũng theo hầu ở bên mình Loan Doanh . Còn bọn gia thần của Loang Doanh như: Hạnh Du và Châu Tân (em Châu Xước) và những kẻ bôn tẩu dâng công thì không biết mấy mà kể . Khi Loan Áp chết thì vợ là nàng Loan Kỳ mới bốn mươi tuổi, chưa dứt hẳn được lòng dục, mỗi khi Châu Tân vào phủ để trình bẩm với Loan Doanh việc gì thì nàng Loan Kỳ lại đứng đằng sau bình phong dòm ra . Thấy Châu Tân là người đẹp trai, Loan Kỳ liền sai một thị nữ ngỏ ý, rồi cùng Châu Tân tư thông với nhau . Loan Kỳ lại đem những qúy vật trong nhà tặng cho Châu Tân . Khi Loan Doanh theo Tấn Bình công đi đánh Tề, Châu Tân công nhien ngủ ở trong phủ, không còn sợ hãi gì nữa . Loan Doanh về, nghe biết chuyện ấy, nhưng ngại vì thể diện thân mẫu mình, mới mượn việc khác để trừng trị những quân sĩ canh cửa, nghiêm cấm bọn gia thần, không cho được tự do ra vào trong phủ nữa . Nàng Loan Kỳ bấy giờ một là thẹn quá hóa giận, hai là tình dục khôn cầm, ba là sợ Loan Doanh làm hại đến tính mệnh Châu Tân, nhân khi về mừng sinh nhật cha là Phạm Mang liền nói với cha rằng:

– Loan Doanh sắp nổi loạn, biết làm thế nào ?

Phạm Mang hỏi:

– Đầu đuôi thế nào con kể cho ta biết ?

Loan Kỳ nói:

– Loan Doanh thường vẫn nói: “Phạm Uởng giết chú ta (trở Loan Hàm), cha ta khi trước đuổi đi, sau lại cho về nước, đã khỏi tội chết, lại được làm quan, họ Phạm mỗi ngày một thịnh thì họ Loan mỗi ngày một suy, ta thề không đội trời chung với họ Phạm”. Bởi vậy Loan Doanh thường vẫn ngày đem cùng với bọn Trí Khởi, Dương Thiệt Hổ tụ họp ở trong nhà, bàn mưu muốn đuổi hết các quan đại phu đi để lập bè cánh mình . Vì nó sợ con tiết lộ việc ấy, nên truyền quân sĩ canh cửa, cấm con, không cho về thăm nhà . Hôm nay may mà con về được chứ ngày khác vị tất đã lại đuợc trông thấy thân phụ, vì tình cha con, con xin nói thật .

Bấy giờ Phạm Uởng đứng bên cạnh cũng nói thêm vào:

– Con cũng có nghe nói như vậy, nay việc đã quả nhiên! vậy cánh nó nhiều lắm, ta phải phòng bị trước mới được .

Một con trai và một con gái, cùng nói như nhau, tài nào mà Phạm Mang chẳng phải tin lời . Phạm Mang liền mật tâu với Tấn Bình công, xin đuổi họ Loan, Tấn Bình công hỏi riêng quan đại phu là Dương Tất, Dương Tất vốn ghét họ Loan mà yêu họ Phạm, mới nói với Tấn Bình công rằng:

– Loan Thư ngày xưa chính vì giết vua Lệ Công ta mà được truyền đời cho đến Loan Doanh, nay chúa công trừ họ Loan, để tỏ rõ tội thí nghịch của y, thì thật là một đìều đại phúc cho nước nhà .

Tấn Bình công nói:

– Loan Thư có cái tiếng lập tiên quân ta, còn tội trạng Loan Doanh thì chưa được rõ, làm thế nào mà trừ được ?

Dương Tất nói:

– Loan Thư mượn tiếng lập tiên quân ta để che tội ác của mình . Tiên quân ta quên cái thù chung mà nhớ cái ơn riêng, nay chúa công lại ngơ đi thì càng hại to lắm! nếu tội trạng của Loan Doanh chưa rõ thì ta nên trừ bỏ những vây cánh mà xá tội cho hắn, đợi khi hắn mưu sự nổi loạn, bấy giờ ta sẽ trị .

Tấn Bình công khen phải, triệu Phạm Mang vào cung để ban về việc trừ cánh họ Loan . Phạm Mang nói:

– Loan Doanh ở nhà mà mình trừ bỏ vây cánh hắn thì khác nào như giục hắn nổi loạn, chi bằng chúa công sai hắn đi đắp thành ở Trứ ấp . Hắn đã đi rôi thì bọn hắn không có ai làm chủ, mới có thể trừ được!

Tấn Bình công khen phải, liền sai Loan Doanh đi đắp thành ở Trứ ấp . Khi Loan Doanh sắp đi, người trong cánh Loan Doanh là Cơ Di can rằng:

– Họ Loan ta nhiều người oán lắm, hẳn ngài cũng đã biết . Việc đắp thành này không phải là việc gấp, can gì phải sai đến ngài, âu là ngài thử chối từ, dò xem ý chúa công ra sao mà phòng bị .

Loan Doanh nói:

– Mệnh vua, sao ta lại chối từ! ta có tội thì dẫu chết cũng không nên tránh; nhược bằng không có tội thì người trong nước đều có lòng thương ta, ai hại ta nổi!

Loan Doanh liền sai Đốc Nhung dong xe, thẳng đường tiến sang Trứ ấp . Loan Doanh đi được ba ngày, Tấn Bình công ra coi triều, bảo các quan đại phu rằng:

– Xưa kia Loan Thư phạm tội thí nghịch mà không bị trừng phạt, nay con cháu đầy trong triều, ta lấy làm xấu hổ lắm, các quan nghĩ thế nào ?

Các quan đại phu đồng thanh mà đáp rằng:

– Nên đuổi họ Loan đi!

Tấn Bình công truyền đem tội trạng Loan Doanh yết thị ở cửa thàn, rồi sai Dương Tất đem quân đi đuổi Loan Doanh . Bao nhiêu vây cánh, thân thuộc trong nước đều bị đuổi cả . Loan Nhạc và Loan Phường đem người nhà cùng với Châu Xước, Hình Khoái đi theo Loan Doanh . Còn bọn Dương Thiệt Hổ thì đi sau, khi ra đến cửa thành thì cửa thành đã đóng chặt rồi, lại nghe tin quan quân đang đi tìm bắt phe phái họ Loan, mới tụ họp người nhà, định đến đêm hôm ấy thì nổi loạn, phá cửa đông mà ra . Họ Triệu có người môn khách tên là Chương Giám ở cạnh nhà Dương Thiệt Hổ, nghe được mưu ấy, đến báo với họ Triệu . Họ Triệu sang nói với Phạm Mang . Phạm Mang liền sai con là Phạm Uởng đem ba trăm quân đến vây nhà Dương Thiệt Hổ.

Chương 63: Kỳ Hề ra sức cứu Dương Thiệt – Phạm Ưởng lập kế hiếp Ngụy Thư

Cơ Di đang ở trong nhà Dương Thiệt Hổ, đợi Hoàn Uyên đến để định nửa đêm hôm ấy thì nổi loạn; chẳng ngờ Phạm Uởng đem quân vây nhà Dương Thiệt Hổ ở mặt ngoài, cho nên không dám tụ tập nữa, đều bỏ đi cả . Dương Thiệt Hổ bắc thang trèo lên mặt tường hỏi Phạm Uởng rằng:

– Tiểu tướng quân đem quân tới đây có việc gì ?

Phạm Uởng nói:

– Nhà ngươi xưa nay vẫn về phe với Loan Doanh, nay lại định mưu phá vỡ cửa thành để ra tiếp ứng cho Loan Doanh, đó tức là tội phản nghịch, ta phụng mệnh chúa công đến đây để bắt nhà ngươi .

Dương Thiệt Hổ nói:

– Ta có thế bao giờ! việc này tự ai nói ra ?

Phạm Uởng liền gọi Chương Giám đến truớc mặt để làm chứng . Dương Thiệt Hổ vốn người khỏe lắm, lấy tay cạy một viên đá trên mặt tường, ném trúng Chương Giám vỡ đầu ra . Phạm Uởng giận lắm, truyền quân sĩ phóng hỏa đốt nhà . Dương Thiệt Hổ vội vàng nói với Cơ Di rằng:

– Chúng ta chẳng thà liều chết, còn hơn ngồi yên để chịu trói .

Nói đoạn bèn cầm kích xông ra trước . Cơ Di cầm kiếm theo sau . Hai người vừa hò hét om sòm vừa xông qua đám lửa mà ra . Phạm Uởng nhận được mặt hai người trong ánh lửa bèn truyền cho quân sĩ bắn dồn vào . Hai người bị tên ngã xuống, quân sĩ dùng câu liêm loi ra thì đã gần chết rồi, liền trói lại mà để lên xe . Lúc bấy giờ, quan trung quân phó tướng là Tuân Ngô cũng đem quân đi tiếp ứng . Đi đến nửa đường thì gặp Hoàng Uyên, Hoàng Uyên cũng bị Tuân Ngô bắt được . Bấy giờ Phạm Uởng và Tuân Ngô hợp quân làm một, rồi giải Dương Thiệt Hổ, Cơ Di và Hoàng Uyên đến nộp quan trung quân nguyên soái là Phạm Mang . Phạm Mang nói:

– Cánh họ Loan còn nhiều, chỉ bắt có ba người này thì chưa trừ hết được .

Phạm Mang bèn chia quân đi tầm nã các nơi . Trong thành Giáng Đô đêm hôm ấy xiết bao huyên náo . Khi trời sáng rõ . Phạm Mang bắt được Trí Khởi, Tịch Yển và Châu Tân; Tuân Ngô bắt được bọn Trung Hàng Hỉ, Tân Du, Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều giải đến triều môn để đợi lệnh Tấn Bình công.

Lại nói chuyện Dương Thịêt Xích, tên tự là Bá Hoa, Dương Thiệt Bật, tên tự là Thúc Hướng, cùng với Dương Thiệt Hổ dẫu đều là con Dương Thiệt Chức cả, nhưng Dương Thiệt Hổ là con người thứ mẫu sinh ra . Mẹ Dương Thiệt Hổ nguyên trước là thị tì của vợ Dương Thiệt Chức, rất có nhan sắc . Dương Thiệt Chức muốn lấy, nhưng vợ Dương Thiệt Chức không cho . Bấy giờ Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều đã lớn tuổi, can mẹ không nên ghen . Người mẹ cười mà bảo rằng:

– Ta có phải là người ghen đâu: nhưng ta nghe nói đẹp lắm thì hại nhiều, chỗ núi cao vực thẳm thường hay sinh ra giống long xà . Ta e rằng lúc đã sinh ra giống long xà thì lại làm tai vạ cho chúng bay về sau đó .

Bọn Dương Thiệt Xích cố ý nói mãi, mẹ mới cho Dương Thiệt Chức lấy, sau sinh ra Dương Thiệt Hổ .

Khi Dương Thiệt Hổ lớn lên, mặt đẹp như mẹ mà có sức khỏe lạ thường, Loan Doanh yêu lắm . Bởi Dương Thiệt Hổ là người thân của Loan Doanh, thành ra Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều bị bắt cả . Quan đại phu là Nhạc Vương Phụ, tên tự là Phúc Ngư, vốn là người tin yêu của Tấn Bình công, xưa nay nghe tiếng anh em Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật là người giỏi, vẫn muốn kết giao mà chưa được, bấy giờ thấy nói hai người bị bắt, mới vội vàng vào triều, thì vừa gặp Dương Thiệt Bật, Nhạc Vương Phụ bèn vái chào và lấy lời an ủi rằng:

– Nhà ngươi chớ lo! ta vào yết kiến chúa công thế nào cũng cố sức xin cho nhà ngươi .

Dương Thiệt Bật nín lặng, không đáp . Nhạc Vương Phụ có ý thẹn . Dương Thiệt Xích nghe nói, liền trách mắng Dương Thiệt Bật rằng:

– Anh em ta ngày nay mà chết thì họ Dương Thiệt không còn một ai nữa! Nhạc Vương Phụ nay đang được chúa công tin yêu, nói gì nghe đấy, nếu nhờ hắn nói dùm một tiếng, may ra có được tha chăng, cớ sao em lại nín lặng, để mích lòng nguời ta như vậy ?

Dương Thiệt Bật cười mà nói rằng:

– Người ta sống chết đã có số mệnh . Nếu lòng trời giúp ta thì trông nhờ vào quan lão đại phu họ Kỳ (tức là Kỳ Hề) chứ Nhạc Vương Phụ làm gì được!

Dương Thiệt Xích nói:

– Nhạc Vương Phụ lúc nào cũng hầu liền bên cạnh chúa công, sao em lại bảo rằng không làm gì được ? còn quan lão đại phu họ Kỳ đã cáo lão về rồi, em lại bảo rằng có thể nhờ người ấy, ta thật lòng không hiểu ra làm sao!

Dương Thiệt Bật nói:

– Nhạc Vương Phụ chẳng qua chỉ là người du nịnh mà thôi, chúa công bảo phải thì rằng phải, bảo trái thì rằng trái; còn như quan lão đại phu họ Kỳ, thấy ai là bậc hiền tài thì bất cứ kẻ thù hay người thân, cũng đều tiến cử lên chúa công cả, lẽ nào lại bỏ sót họ Dương ta!

Lát sau, Tấn Bình công ra ngự triều . Phạm Mang đem những tên người bị bắt trong cánh họ Loan, mà tâu lên . Tấn Bình công trông thấy tên mấy anh em Dương Thiệt Xích, cũng có ý nghĩ, mới hỏi Nhạc Vương Phụ rằng:

– Dương Thiệct Xích và Dương Thiệt Bật có dự gì đến âm mưu của Dương Thiệt Hổ không ?

Nhạc Vương Phụ vẫn căm về việc Dương Thiệt Bật không thèm nói với mình, mới tâu với Tấn Bình công rằng:

– Còn ai thân hơn anh em, lẽ nào lại không biết .

Tấn Bình công bèn truyền đem giam cả bọn vào ngục, để giao cho quan tư khấu nghị tội .

Bấy giờ Kỳ Hề đã cáo lão về ở đất Kỳ, con là Kỳ Ngọ là bạn đồng liêu với Dương Thiệt Xích liền sai người phi báo cho cha biết, để Kỳ Hề viết thư đưa về cho Phạm Mang mà xin tha cho Dương Thiệt Xích . Hỳ Hề nghe tin, giật mình nói:

– Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều là người giỏi ở nước Tấn ta, nay có việc oan lạ lùng thế này, ta nên thân hành đi cứu .

Kỳ Hề liền tức khắc đi xe tới khinh thành, không đến nhà Kỳ Ngo, mà đi thẳng vào yết kiến Phạm Mang . Phạm Mang nói:

– Quan đại phu già yếu mà chịu dầm sương dãi gió tới đây, tất muốn chỉ báo tôi điều gì chăng ?

Kỳ Hề nói:

– Tôi vi việc mất còn của xã tắc mà tới đây, chứ không phải việc gì khác!

Phạm Mang kinh sợ mà bảo rằng:

– Chẳng hay việc gì khiến cho lão đại phu phải phiền lòng như vậy ?

Kỳ Hề nói:

– Người hiền tài là chỗ dựa của xã tắc . Dương Thiệt Chức khi trước có công với nước Tấn ta, còn Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bất đều nối được nghiệp cha, nay chỉ vì một người con thứ không ra gì mà giết tất cả, chẳng phải đáng tiếc lắm sao ? Ngày xưa Khước Nhuế phảnh nghịch mà con là Khước Khuyết vẫn được quan . Cha con tội cũng còn không liên can với nhau nữa là anh em! nhà ngươi đem một lòng thù riêng mà giết hại kẻ vô tội, ta lấy làm nguy cho nước Tấn lắm!

Phạm Mang vội vàng đứng dậy xin lỗi mà rằng:

– Quan lão đại phu dạy phải lắm! nhưng chúa công còn chưa nguôi cơn giận, xin quan lão đại phu cùng tôi vào triều để tâu với chúa công .

Phạm Mang bèn cùng Kỳ Hề lên xe vào triều, tâu với Tấn Bình công rằng:

– Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật không giống tính Dương Thiệt Hổ, tất không dự biết đến việc họ Loan . Vả lại công lao của Dương Thiệt Chức thuở xưa, chúa công chớ nen vội quên!

Tấn Bình công tỉnh ngộ, tuyên chỉ tha cho Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật, lại cho phục hồi nguyên chức, còn Trí Khởi, Trung Hàng Hỉ, Tịch Yển, Châu Tân và Tân Du đều phải giáng làm thứ nhân; chỉ có Dương Thiệt Hổ, Cơ Di và Hoàng Uyên phải xử tử mà thôi . Dương Thiệt Xich và Dương Thiệt Bật được tha, vào triều lạy tạ; khi trở về, Dương Thiệt Xích bảo Dương Thiệt Bật rằng:

– Ta nên đến tạ ơn quan lão đại phu họ Kỳ .

Dương Thiệt Bật nói:

– Quan lão đại phu họ Kỳ vì nước nhà mà nói, có phải vì riêng ta đâu, cần gì mà phải tạ!

Nói xong, liền lên xe về nhà . Dương Thiệt Xích không đành lòng, thân hành đến nhà Kỳ Ngọ, để xin yết kiến Kỳ Hề . Kỳ Ngọ nói:

– Thân phụ tôi vào yết kiến chúa công, rồi trở về đất Kỳ ngay, có ở lại đây đâu!

Dương Thiệt Xích nói:

– Quan lão đại phu họ Kỳ vốn không nghĩ gì đến sự làm ơn cho ta. Thế mới biết kiến thức của ta lại không bằng Dương Thiệt Bật!

Châu Tân từ khi bị cách chức, lại vẫn đi lại với nàng Loan Kỳ . Phạm Mang nghe biết việc ấy, sai kẻ lực sĩ đến tận nhà đâm chết Châu Tân .

Quan trấn thủ đất Khúc Ốc tên gọi Tư Ngọ, nguyên trước là môn khách của Loan Thư, khi Loan Doanh đi qua Khúc Ốc, Tư Ngọ cung cấp rất trọng hậu . Loan Doanh nói đến việc đắp thành ở Trứ ấp . Tư Ngọ hẹn xin đem quân ở Khúc Ốc sang giúp . Loan Doanh ở lại Khúc Ốc trong ba ngày . Bọn Loan Nhạc đến báo tin, nói Dương Tất đã đem quân đuổi theo . Đốc Nhung là người dong xe của Loan Doanh nói:

– Nếu Dương Tất đến đây thì ta chống cự lại, vị tất đã làm gì ta nổi!

Châu Xước và Hình Khóai nói:

– Chính vì sợ ân chủ thiếu người, nên chúng tôi đã đến đây để giúp ân chủ đó .

Loan Doanh nói:

– Ta có tội gì đâu, chẳng qua họ thù óan mà vu tội cho ta, nếu ta chống cự thì kẻ thù lại có cớ mà nói, chi bằng ta trốn đi, đợi khi chúa công xét lại .

Tư Ngọ cũng nói không nên chống cự . Loan Doanh vội vàng từ biệt Tư Ngọ, rồi trốn sang nước Sở . Khi Dương Tất đem quân đến Trứ ấp, người trứ ấp nói với Dương Tất rằng:

– Loan Doanh chưa tới đây, mới đến Khúc Ốc, đã bỏ trốn rồi .

Dương Tất lại thu quân về, trong khi đi đường, tuyên bố tội trạng của họ Loan .

Dân nước Tấn đều biết họ Loan là công thần, và Loan Doanh là người quảng đại bác ái, cho nên ai cũng thương xót . Phạm Mang nói với Tấn Bình công nghiêm cấm họ Loan, không cho đi theo Loan Doanh, ai theo thì bắt tội chết . Kẻ gia thần của Loan Doanh là Tân Du nghe tin Loan Doanh ở nước SỞ, liền đem mấy xe gia tài đi theo . Ra đến cửa thành, bị quân sĩ bắt được, đem nộp Tấn Bình công . Tấn Bình công hỏi Tân Du rằng:

– Ta đã có lệnh nghiêm cấm, sao nhà ngươi dám trái ?

Tân Du sụp lạy mà nói rằng:

– Tôi ngu dốt không hiểu việc chúa công cấm theo họ Loan có ý nghĩa gì ?

Tấn Bình công nói:

– Theo họ Loan tức là vô quân, nên ta cấm .

Tân Du nói:

– Nếu cấm kẻ vô quân thì tôi tất là khỏi chết! tôi nghe nói mình làm tôi người nào thì người ấy tức là vua mình; ông cha nhà tôi đã ba đời làm tôi họ Loan thì họ Loan tức là vua của tôi, chính vì tôi không dám quên vua, cho nên theo họ Loan, cớ sao lại cấm ? Vả Loan Doanh dẫu có tội, chúa công chỉ đuổi đi mà không nỡ giết, cũng là nghĩ đến cái công lao đời trước của họ Loan, mà muốn bảo toàn cho Loan Doanh; nay Loan Doanh bơ vơ ở nơi đất khách, đồ dùng không có, áo mặc không đủ, nếu một mai vì thế mà chết đi, thì có phải cái nhân đức của chúa công không được trọn vẹn không ? Tôi đi chuyến này là muốn giữ cho hết cái trung nghĩa của tôi, mà hoàn thành được cái nhân đức của chúa công đó!

Tấn Bình công bằng lòng mà bảo rằng:

– Nhà ngươi nên ở lại đây với ta, ta sẽ đem cái lộc của họ Loan mà cho nhà ngươi .

Tân Du nói:

– Thôi đã có nói họ Loan là vua của tôi, nếu tôi bỏ vua ấy mà theo vua khác thì sao cấm được những kẻ vô quân! chúa công giữ tôi thì tôi xin chết .

Tấn Bình công nói:

– Thôi thì ta cũng nghe lời mà cho nhà nguơi đi, để nhà ngươi giữ được cái chí ấy .

Tân Du lạy tạ, rồi đem mấy xe gia tài, ngang nhiên thẳng cửa thành mà đi ra . Loan Doanh ở địa giới nước Sở, đã được mấy tháng, toan vào Sính Đô để yết kiến vua Sở, bỗng nghĩ rằng ông cha mình mấy đời giúp Tấn là thế thù của nước Sở, nếu vua Sở không dung thì làm thế nào; lại toan đi sang nước Tề, chỉ vì tiền lưng hết cả, không thể đi được, may gặp Tân Du đem mấy xe gia tài đến, bấy giờ Loan Doanh mới sửa soạn để đi sang nước Tề . Tề Trang công từ khi thua trận ở trận Bình Âm, lấy làm xấu hổ, muốn thu dùng những kẻ dũng sĩ, đặt ra một đội gọi là “dũng nước”, cho ăn lộc bằng các quan đại phu, tìm những người nào mang nổi nghìn cân, bắn trúng quan bảy lần áo giáp cho sung vào đội ấy . Trước đã có Thực Xước và Quách Tối, sau lại được bọn Gia Cử, Bính Cư, công tôn Ngao, Phong Cụ, Tác Phủ, Tướng Doãn và Lâu Yên, cả thảy chín người . Tề Trang công ngày nào cũng triệu vào cung cùng bắn bia hoặc đấu kiếm mua vui .

Một hôm, Tề Trang công ngự triều, nghe báo có quan đại phu nước Tấn là Loan Doanh bị đuổi, trốn sang nước Tề, liền mừng mà nói rằng:

– Ta vẫn muốn báo thù nước Tấn, nay có Loan Doanh đến thì thật là được việc cho ta!

Nói đoạn toan sai người đi nghênh tiếp Loan Doanh . Quan đại phu là Án Anh can rằng:

– Không nên! nước nhỏ thờ nước lớn, nên phải giữ điều tín . Ta mới cùng nước Tấn ăn thề mà nay lại dung nạp Loan Doanh, nếu người nước Tấn đến trách thì ta biết nói thế nào ?

Tề Trang công cười to lên mà nói rằng:

– Nhà ngươi nói thế là sai lắm! nước Tề ta cùng nước Tấn ngang hàng với nhau, sao lại gọi là lớn và nhỏ ? ngày trước ta chịu thề với Tấn, chẳng qua chỉ vì sự nguy cấp trong một thời mà thôi, chứ lẽ nào lại chịu thần phục nước Tấn mãi như Lỗ, Vệ, Tào, và Châu ?

Tề Trang công bèn không nghe lời Án Anh, sai người đi đón Loan Doanh vào triều . Loan Doanh sụp lạy, vừa khóc vừa kể hết những nông nổi bị đuổi . Tề Trang công nói:

– Nhà ngươi chớ lo! ta sẽ giúp cho nhà ngươi được về nước Tấn .

Loan Doanh lạy tạ . Tề Trang công bày tiệc thết đãi . Trong khi ăn tiệc, Châu Xước và Hình Khoái đứng hầu ở bên cạnh Loan Doanh, Tề Trang công trông thấy Châu Xước và Hình Khoái hình vóc cao lớn, liền hỏi họ tên . Hai người nói thực cả . Tề Trang công nói:

– Trận đánh ở Bình Âm khi trước, bắt được Thực Xước và Quách Tối của ta, có phải là hai người đó không ?

Châu Xước và Hình Khoái sụp lạy tạ tội . Tề Trang công nói:

– Ta mến tiếng các ngươi đã lâu lắm .

Nói xong truyền dọn cơm rượu cho hai người ăn uống . Lại bảo Loan Doanh rằng:

– Ta muốn phiền nhà ngươi một điều, nhà ngươi chớ nên từ chối .

Loan Doanh nói:

– Nếu chúa công có cần dùng điều gì thì dẫu xương óc chúng tôi, chúng tôi cũng không dám tiếc .

Tề Trang công nói:

– Ta không dám phiền gì cả, chỉ xin mượn hai người dũng sĩ để làm bạn với ta .

Loan Doanh không dám từ chối, phải nhận lời ngay, rồi lên xe, mặt buồn rười rượi, than thầm rằng: may mà vua Tề chưa trông thấy Đốc Nhung, chẳng có thì cũng chiếm mất mà thôi .

Tề Trang công cho Châu Xước và Hình Khoái sung vào cuối hàng dũng tước, Châu Xước và Hình Khoái có ý không phục . Một hôm Châu Xước và Hình Khoái cùng với Thực Xước và Quách Tối đứng hầu bên cạnh Tề Trang côg . Châu Xước và Hình Khóai giả cách ngạc nhiên trỏ vào mặt Thực Xước và Quách Tối mà bảo rằng:

– Hai ngươi là tù nhân nước ta, sao lại được đến đây ?

Quách Tối nói:

– Ngày trước chúng ta bị Túc Sa Vệ đánh lừa, chứ không như các ngươi phải theo người ta đi trốn .

Châu Xước giận lắm, nói:

– Mày như con rận ở trong miệng ta, lại còn dám cựa quậy hay sao!

Thực Xước cũng nổi giận nói:

– Ngày nay mày ở nước ta, tức là miếng thịt ở trong mâm cơm của ta đó!

Hình Khóai nói:

– Các ngươi đã không bằng lòng với ta thì ta lại xin về với chủ cũ .

Quách Tối nói:

– Đường đường nước Tề ta, lẽ nào cứ phải nhờ đến hai ngươi mới được hay sao!

Bốn người lớn tiếng cãi nhau, mặt đỏ bừng bừng, tay mó chuôi gươm, toan sự đánh nhau . Tề Trang công dùng lời nói ngọt để khuyên can, và đem rượu cho uống, lại bảo Châu Xước và Hình Khoái rằng:

– Ta vẫn biết hai ngươi không chịu ở dưới người!

Tề Trang công bèn chia đội dũng tước làm hai ban: 1. Hữu ban là Long tước thì Châu Xước và Hình Khóai đứng đầu, lại chọn được người nước Tề là Lư Bồ Quí và Vương Hà thuộc về ban ấy; 2. Tả ban là Hổ tước, thì Thực Xước và Quách Tối đứng đầu, bọn Gía Cử thuộc về ban ấy . Các người được dự vào trog hai ban ấy đều lấy làm vinh hạnh, chỉ có Châu Xước và Hình Khóai, Thực Xước và Quách Tối, bốn người ấy là không hoà thuận với nhau mà thôi .

Bấy giờ Thôi Trữ và Quách Phong có công lập Tề Trang công, đều được làm thượng khanh, cầm quyền chính trong nước . Tề Trang công thường vẫn đến nhà hai người để uống rượu mua vui, hoặc bắn bia đấu kiếm, không còn phân biệt vua tôi nữa . Vợ cả Thôi Trữ sinh được hai con là Thôi Thành và Thôi Cương; cách mấy năm sau thì người vợ ấy chết, Thôi Trữ lại kết duyên với em gái Đông Quách Yển . Em gái Đông Quách Yển nguyên trước là vợ Đường Công, vẫn gọi là nàng Đường Khương, sinh được một con, tên gọi Đường Vô Cữu . Khi Đường Công chết, Thôi Trữ đến viếng ta, trông thấy Đường Khương có nhan sắc, mới nói với Đông Quách Yển xin cưới làm vợ kế, cũng sinh được một con, tên gọi Thôi Minh .

Thôi Trữ yêu nàng Đường Khương lắm, liền dùng Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu làm gia thần, đem con nhỏ là Thôi Minh uỷ thác cho hai người, lại bảo nàng Đường Khương rằng:

– Đợi khi nào Thôi Minh khôn lớn, sẽ lập làm đích tử .

Một hôm, Tề Trang công uống rượu ở nhà Thôi Trữ . Thôi Trữ sai Đường Khương ra mời rượu . Tề Trang công trông thấy Đường Khương nhan sắc, liền đút nhiều tiền cho Đông Quách Yển, để tư thông với nàng Đường Khương . Thôi Trữ dần dần biết chuyện, hỏi Đường Khương . Nàng nói:

– Thật có như vậy! kẻ kia cậy thế là vua một nước mà bắt thiếp thì thiếp cự lại thế nào được!

Thôi Trữ nói:

– Vậy thì sao nàng không nói với ta ?

Đường Khương nói:

– Thiếp tự nghĩ mình có tội, nên không dám nói .

Thôi Trữ nín lặng hồi lâu, rồi nói:

– Việc ấy không can dự gì đến nàng!

Từ bấy giờ Thôi Trữ có ý muốn giết Tề Trang công .

Vua nước Ngô là Chư Phàn sai người sang nước Tấn cầu hôn . Tấn Bình công gả con gái cho . Tề Trang công bàn với Thôi Trữ rằng:

– Ta muốn giúp Loan Doanh trở về nước Tấn mà chưa được dịp nào, nghe nói quan trấn thủ ở Khúc Ốc là người thân với Loan Doanh, nay ta muốn mượn việc tống dắng mà đưa Loan Doanh về Khúc Ốc, khiến Loan Doanh nổi lên đánh nước Tấn, phỏng có nên chăng ?

Thôi Trữ đang căm tức Tề Trang công, muốn cho Tề Trang công kết oán với Tấn, đợi khi nước Tấn đem quân sang đánh thì đổ lỗi cho Tề Trang công mà giết đi, để du nịnh nước Tấn . Nay Tề Trang công lại muốn giúp Loan Doanh, chính là trúng phải kế ấy . Thôi Trữ liền nói với Tề Trang công rằng:

– Người Khúc Ốc có lòng với họ Loan, nhưng vị tất đã làm gì nổi, chúa công nên đem một toán quan đi tiếp ứng, giả cách nói sang đánh Vệ, rồi cùng với Loan Doanh hai mặt đánh ập vào, mới có thể phá vỡ được nước Tấn .

Tề Trang công khen phải, rồi đem mưu ấy nói với Loan Doanh . Loan Doanh mừng lắm . Gia thần của Loan Doanh là Tân Du can rằng:

– Tôi theo ngài tới đây, là để tận trung với ngài, vậy thì tôi cũng muốn ngài tận trung với vua Tấn .

Loan Doanh nói:

– Nhưng vua Tấn không nhận ta là bề tôi thì biết làm thế nào ?

Tân Du nói:

– Ngày xưa vua Trụ giam Văn vương ở ngục Dữu Lý, mà Văn vương vẫn một lòng thần phục vua Trụ; nay vua Tấn chẳng nghĩ đến công lao họ Loan ta trước mà đuổi ngài, khiến ngài phải lưu lạc ở nước ngoài, ai là người không thương xót . Nếu ngài làm điều bất trung thì trong khoảng trời đất, còn ai dung ngài nữa!

Loan Doanh không nghe . Tân Du khóc mà nói rằng:

– Nếu vậy thì ngài đi chuyến này, thế nào cũng chết, tôi xin chết để tiễn chân ngài .

Tân Du nói xong, liền rút gươm đâm cổ mà chết . Tề Trang công chọn một người con gái trong họ để làm dắng nữ, sai quan đại phu là Tích Quy Phủ đưa sang nước Tấn, rồi dùng nhiều xe kín, để Loan Doanh và thân thuộc ngồi ở trong xe, đưa đến Khúc Ốc . Châu Xước và Hình Khóai xin theo Loan Doanh . Tề Trang công sợ Châu Xước và Hình Khoái về nước Tấn mất, mới sai Thực Xước và Quách Tối đi thay, lại dặn Thực Xước và Quách Tối rằng:

– Hai ngươi theo quan tướng quân họ Loan cũng tức như là theo ta!

Khi đến Khúc Ốc, bọn Loan Doanh lén vào trong thành, đang đêm gọi cửa nhà quan trấn thủ ở đấy là Tư Ngọ, Tư Ngọ kinh sợ không biết việc gì . Khi mở cửa ra, trông thấy Loan Doanh, liền giật mình hỏi rằng:

– Sao ngài lại đến đây được ?

Loan Doanh nói:

– Xin vào nhà kín để nói chuyện .

Tư Ngọ liền mời vào trong nhà kín . Loan Doanh cầm lấy tay Tư Ngọ, muốn nói mà chưa nói, bất giác nước mắt chảy xuống ròng ròng . Tư Ngọ nói:

– Ngài có việc gì, xin cứ nói cho biết, chớ nên thương khóc như vậy!

Loan Doanh liền gạt nước mắt mà nói rằng:

– Tôi chỉ vì các nhà họ Phạm, họ Triệu thù oán nhau mà đến nổi phải lưu lạc nước ngoài, nay vua Tề thương tôi là người vô tội, đưa tôi tới đây, mà quân Tề cũng sắp sửa đến sau . Nếu nhà ngươi chịu đem quân Khúc Ốc vào đánh Giáng Đô thì quân Tề đánh mặt ngoài, chúng ta đánh mặt trong, chắc là phải vỡ . Bấy giờ ta sẽ bắt những kẻ thù với ta mà giết chết đi, rồi phụng mệnh vua Tấn để giảng hoà với Tề . Họ Loan mà nổi lên được, chỉ cốt ở một việc này thôi .

Tư Ngọ nói:

– Thế nước Tấn đang mạnh, các nhà họ Phạm và họ Triệu vẫn hoà thuận với nhau, tôi sợ chưa làm gì nổi, lại thêm hại cho mình .

Loan Doanh nói:

– Ta có kẻ dũng sĩ là Đốc Nhung, một người có thể đương nổi được một toán quân . Vả Thực Xước và Quách Tối đều là những kiện tướng ở nước Tề bây giờ; còn Loan Nhạc và Loan Phường cũng đều sức khỏe bắn gỉoi, như thế thì nước Tấn dẫu mạnh cũng chẳng sợ gì! ngày xưa ta giúp Ngụy Giáng ở đạo hạ quân, cháu hắn là Ngụy Thư có nhờ vả điều gi, ta vẫn săn sóc cho cả, hắn vẫn muốn báo ơn ta; nếu được họ Ngụy làm nội ứng thì mười phần xong được đến tám chín . Vạn nhất việc không thành mà phải chết, ta cũng được thoả lòng!

Tư Ngọ nói:

– Đợi ngày mai, tôi dò xem lòng người thế nào, mới có thể làm được .

Bọn Loan Doanh cùng nhan ẩn trong nhà kín . Ngày hôm sau, Tư Ngọ giả cách nói nằm mộng thấy Cung thế tử (tức là Thân Sinh), rồi sửa lễ vào nhà thờ Cung thế tử để tế . Tế xong, mời tất cả các quan thuộc đến uống rượu . Loan Doanh phục sẵn ở sau bình phong . Rượu được ba tuần thì âm nhạc nổi lên . Tư Ngọ liền gạt đi mà rằng:

– Ngày xưa Cung thế tử bị oan, bây giờ chúng ta nỡ nào ngồi mà nghe nhạc được!

Mọi người nghe nói, đều có ý cảm động . Tư Ngọ lại nói:

– Bề tôi cũng như là con . Nay họ Loan mấy đời có công to, mà cả triều cố ý dèm pha, để đến nỗi phải đuổi, thì có gì khác Cung thế tử ?

Mọi người đều nói:

– Việc ấy cả nước ai cũng bất bình! chẳng hay chàng nhụ tử họ Loan còn có thể về nước được không ?

Tư Ngọ nói:

– Giả sử nhụ tử họ Loan bây giờ đã về ở đây thì các người định xử ra làm sao ?

Mọi người đều nói:

– Nếu được chàng nhụ tử họ Loan làm chủ thì chúng tôi xin hết sức, dẫu chết cũng đành lòng!

Trong bọn ngồi đấy, có nhiều người chảy nước mắt . Tư Ngọ nói:

– Các ngươi chớ phiền! chàn nhụ tử họ Loan hiện ở đây rồi!

Tư Ngọ vừa nói xong thì Loan Doanh ở phía sau bình phong đi ra, vái chào mọi người . Mọi người đều sụp lạy . Loan Doanh thuật lại đầu đuôi vì cớ gì mà về được nước Tấn, lại nói với mọi người rằng:

– Nếu được trở về Giáng Đô thì dẫu chết cũng thoả lòng!

Mọi người đều hớn hở xin theo . Ngày hôm ấy, uống rượu rất vui rồi tan . Đến hôm sau, Loan Doanh viết một tờ mật thư, nhờ người lái buôn tại Khúc Ốc đưa đến cho Ngụy Thư ở Giáng Đô . Ngụy Thư cũng thấy việc họ Triệu và họ Phạm làm tàn ác quá, khi tiếp được mật thư của Loan Doanh, liền viết thư trả lời rằng:

– “Chúng tôi vẫn mặc sẵn áo giáp ở trong mình để đợi . Khi nào quân Khúc Ốc đến, xin ra nghênh tiếp “.

Loan Doanh được tin mừng lắm . Tư Ngọ kiểm điểm giáp binh ở Khúc Ốc cả thảy được hai trăm hai mươi binh xa rồi giao cho Loan Doanh . Bè cánh họ Loan, người nào tráng kiện đều xin theo cả, chỉ có người già yếu mới chịu ở lại Khúc Ốc . Đốc Nhung làm tiên phong, Thực Xước và Loan Nhạc ở bên hữu . Quách Tối và Loan Phường ở bên tả . Đêm hôm ấy thẳng đường tiến về Giáng Đô . Khúc Ốc và Giáng Đô chỉ cách nhau có sáu mươi dặm, quân Loan Doanh đi một đêm đến nơi ngay, rồi phá lần thành ngoài mà vào, tiến thẳng đến cửa nam, người Giáng Đô không ai biết gì cả . Quân sĩ canh giữ ở cửa thành, không kịp phòng bị, chỉ một giờ là bị Đốc Nhung phá vỡ . Quân Loan Doanh kéo ồ vào thành, như vào một nơi không có người ở .

Bấy giờ Phạm Mang ở nhà, vừa ăn bữa sáng xong, bỗng thấy Nhạc Vương Phụ hoảng hốt chạy đến, báo việc Loan Doanh đã vào cửa nam . Phạm Mang giật mình kinh sợ, liền gọi con là Phạm Uởng đem quân ra chống cự . Nhạc Vương Phụ nói:

– Việc đã nguy cấp lắm! ta nên đưa chúa công chạy vào Cố Cung thì mới có thể giữ vững được .

Phạm Mang lo rằng trong nước có người làm nội ứng cho họ Loan . Nhạc Vương Phụ nói:

– Các quan đại phu đều ghét họ Loan cả, chỉ đáng lo có một mình họ Ngụy mà thôi; nếu ta phụng mệnh chúa công đi triệu ngay đến đây thì còn có thể giữ được .

Phạm Mang khen phải, liền sai Phạm Uởng phụng mệnh đến triệu Ngụy Thư . Nhạc Vương Phụ nói:

– Việc chưa rõ thế nào, hãy nên kín tiếng mới được!

Bấy giờ Tấn Bình công đang có tang, Phạm Mang và Nhạc Vương Phụ đều mặc áo giáp ở trong, rồi phủ đồ tang phục ở ngoài, trùm kín đầu lại, đi thẳng vào cung, tâu với Tấn Bình công, rồi đưa Tấn Bình công chạy vào Cố Cung . Phạm Uởng đến nhà Ngụy Thư, trông thấy quân sĩ ở nhà Ngụy Thư đã đứng sắp hàng cả ở ngòai cửa, Ngụy Thư mặc đồ nhung phục ngồi trên xe, toan đi đóan Loan Doanh . Phạm Uởng chạy ngay đến trước mặt bảo Ngụy Thư rằng:

– Họ Loan nổi loạn, nay chúa công ở Cố Cung, cha tôi và các quan đại thần đều họp ở đấy cả, có sai tôi đến đây đón ngài .

Nguỵ Thư chưa kịp trả lời, Phạm Uởng nhảy ngay lên xe tay phải cầm gươm, tay trái nắm lấy đai Ngụy Thư, làm cho Ngụy Thư kinh sợ không biết nói thế nào được nữa, rồi Phạm Uởng truyền cho người dong xe đi mau . Người dong xe hỏi đi về phía nào, Phạm Uởng quát to lên rằng:

– Đi sang Cố Cung!

Xe Ngụy Thư liền đi thẳng sang Cố Cung.