Chương 64: Loan Doanh diệt tộc thành Khúc Ốc – Kỷ Lương tử chiến cửa Thả Vu

Phạm Mang dẫu sai con là Phạm Uởng đi triệu Ngụy Thư, nhưng chưa biết hay dở thế nào, trong lòng áy náy không yên, mới trèo lên mặt thành để trông, thấy Phạm Uởng và Ngụy Thư cùng ngồi một xe ở phía xa đi đến, liền mừng mà nói rằng:

– Thế là họ Loan thật là cô thế, chẳng làm gì nổi !

Nói xong, truyền mở cửa cung đóng vào . Ngụy Thư trông thấy Phạm Mang thì mặt lộ vẻ hoang mang . Phạm Mang cầm lấy tay mà bảo rằng:

– Người ngoài không hiểu rõ, bảo là tướng quân tư thông với họ Loan, nhưng tôi đây vẫn biết tướng quân không phải là người như thế . Nếu tướng quân giúp sức với tôi mà diệt họ Loan, thì tôi xin đem đất Khúc Ốc đền công cho tướng quân .

Bấy giờ Ngụy Thư đã vào tròng của Phạm Mang rồi, bất đắc dĩ phải vân mệnh, cùng vào yết kiến Tấn Bình công để bàn mưu dẹp giặc . Được một lúc thì Triệu Vũ, Tuân Ngô, Trí Sóc, Hàn Vô Kỵ (con trưởng Hàn Quyết), Hàn Khởi (con thứ hai của Hàn Quyết), Kỳ Ngọ, Dương Thiệct Xích, Dương Thiệt Bật và Trương Mạnh Địch đều lục tục đến cả . Mỗi người lại đem theo một toán quân, thanh thế rất mạnh! Cố Cung có hai cửa . Phạm Mang sai Triệu Vũ và Tuân Ngô giữ cửa nam; anh em Hàn Vô Kỵ giữ cửa bắc, còn bọn Kỳ Ngọ thì đi tuần bốn mặt . Hai cha con Phạm Mang và Phạm Uởng cứ ở liền bên cạnh Tấn Bình công . Loan Doanh tiến quân vào trong thành, không thấy Ngụy Thư ra đón thì trong lòng nghi ngại, bèn đóng quân ở Thị Khẩu rồi sai người đi dò tin tức . Quân thám tử về báo rằng:

– Vua Tấn đã chạy vào Cố Cung, nhân dân đều theo vào đấy cả, cả Nguỵ Thư cũng vào .

Loan Doanh nổi giận, nói:

– Ngụy Thư đánh lừa ta! gặp mặt ta quyết làm cho một nhát!

Liền vỗ vào lưng Đốc Nhung mà bảo rằng:

– Nhà ngươi phá vỡ được Cố Cung thì ta sẽ cùng hưởng phú qúi với nhà ngươi!

Đốc Nhung nói:

– Xin chia quân làm đôi, tôi đánh cửa nam; còn ân chủ thì đem các tướng đánh cửa bắc, thử xem ai vào được trước!

Bấy giờ Thực Xước và Qúach Tối dẫu theo Loan Doanh, nhưng vẫn căm tức Châu Xước và Hình Khoái, vì Châu Xước và Hình Khoái là người của Loan Doanh đem sang Tề, mà lại được Tề Trang công tin yêu . Châu Xước và Hình Khóai lại tỏ ý khinh bỉ Thực Xước và Quách Tối . Huống chi Loan Doanh động mở miệng thì chỉ khoe cái tài giỏi của Đốc Nhung mà không nghĩ gì đến Thực Xước và Quách Tối cả, cho nên hai người không hề có lòng sốt sắng với Loan Doanh mà chỉ ngồi chờ xem bên nào được bên nào thua . Loan Doanh chỉ trông cậy vào một mình Đốc Nhung . Bấy giờ Đốc Nhung tay cầm hai cái kích, ngồi xe đi thẳng đến Cố Cung, dừng ngoài cửa nam xem ngắm hình thế, rồi đi đi lại lại, uy phong lẫm liệt, khác nào như một vị hung thần giáng hạ . Quân Tấn vốn biết Đốc Nhung là người vũ dũng, nên ai trông thấy cũng đều sợ khiếp đảm . Triệu Vũ cũng tấm tắc khen tài . Bộ hạ của Triệu Vũ có hai viên dũng tướng, tên gọi Giải Ung và Giải Túc là hai anh em ruột, xưa nay đã có tiếng là người giỏi đánh giáo . Giải Ung và Giải Túc nghe thấy chủ tướng mình khen Đốc Nhung, có ý không phục, nói với Triệu Vũ rằng:

– Đốc Nhung dẫu giỏi, anh em tôi cũng xin đem một toán quân ra để bắt sống .

Triệu Vũ nói:

– Nhà ngươi nên cẩn thận, chớ có khinh thường .

Giải Ung và Giải Túc mở cửa ra, đứng ở phía trong lần hào, quát to lên mà bảo Đốc Nhung rằng:

– Nhà ngươi có phải là Đốc Nhung đó không ? Ta tiếc cho nhà ngươi là một người anh hùng mà lại đi theo đứa phản nghịch! mau mau đầu hàng đi thì còn có thể đổi hoạ làm phúc được!

Đốc Nhung nghe nói nổi giận, truyền cho quân sĩ lấp một khúc hào để sang . Quân sĩ còn đang đội đất vác dá để lấp hào, Đốc Nhung nóng nảy, cầm hai ngọn kích chống thẳng xuống đất, rồi nhảy tót qua bên kia hào . Giải Ung và Giải Túc kinh hãi, cùng cầm giáo đến đánh Đốc Nhung . Đốc Nhung hai ta múa giáo, chạy thẳng đến mà nghênh chiến . Con ngựa kéo xe của Giải Ung bị một đòn kích của Đốc Nhung gãy một xương sống, xe không đi được . Con ngựa kéo xe của Giải Túc thấy vậy liền rí rầm lên, không chịu chạy nữa . Anh em họ Giải nhảy xuống xe để đánh bộ . Bị Đốc Nhung đánh gãy cái giáo, Giải Túc bỏ chạy . Giải Ung hoảng sợ run tay, bị Đốc Nhung đâm cho một kích ngã lăn xuống đất . Đốc Nhung lại đuổi theo Giải Túc . Giải Túc giỏi chạy, bon thẳng đến cửa bắc, leo thành mà vào . Đốc Nhung không đuổi kịp liền quay lại định đâm chết Giải Ung thì quân sĩ nước Tấn đã cứu Giải Ung đem vào cửa rồi . Đốc Nhung tức giận, chống kích xuống đất mà quát to lên rằng:

– Còn ai dám ra đối địch với ta nữa không ?

Trong cửa không ai dám ra cả . Đốc Nhung về dinh, truyền cho quân sĩ sửa soạn để ngày mai lại đánh . Giải Ung bị thương nặng quá, đêm hôm ấy chết . Triệu Vũ thương xót vô cùng . Giải Túc nói:

– Ngày mai, tôi xin ra quyết chiến một trận nữa để báo thù cho anh tôi, dẫu chết cũng thoả lòng!

Tuân Ngô nói với Triệu Vũ rằng:

– Bộ hạ tôi, là lão tướng Mâu Đăng, có hai con là Mâu Cương và Mâu Kính . Hai người ấy đều có sức khoẻ mang nổi nghìn cân, hiện đang ở trong đội thị vệ của chúa công . Tôi xin bảo Mâu Đăng tức khắc gọi hai con đến, để sáng mai cùng ra trận với Giải Túc . Ba người đánh một thì thua làm sao được!

Triệu Vũ nói:

– Nếu vậy thì hay lắm!

Tuân Ngô bảo Mâu Đăng đi gọi hai co . Sáng sớm hôm sau, Mâu Cương và Mâu Kính đều đến cả . Triệu Vũ trông thấy hai người vóc dáng cao lớn, khí thế hùng hổ, liền phủ dụ mấy câu, rồi sai cùng với Giải Túc ra trận . Sáng hôm sau, quân Đốc Nhung đã lấp bằng được một khúc hào, tiến thẳng đến tận dưới cửa để khiêu chiến . Mâu Cương, Mâu Kính và Giải Túc mở cửa mà ra . Đốc Nhuung quát to lên rằng:

– Chúng bay không sợ chết à ?

Ba người không nói năng gì cả, xúm lại đánh Đốc Nhung . Đốc Nhung chẳng sợ hãi chút nào, đang ngồi trên xe, nhảy xô xuống đất, hai tay cầm hai cái kích, múa lên mà đánh . Trục xe của Mâu Cương bị Đốc Nhung đánh gãy . Mâu Cương bất đắc dĩ cũng phải ở trên xe nhảy xuống, lại bị Đốc Nhung đánh một ngọn kích chết ngay . Mâu Kính giận lắm, cố sức xông vào, nhưng không thể được . Mâu Đăng ở trên cửa quan, liền nổi hiệu thu quân, rồi mở cửa cho Mâu Cương và Giải Tú vào . Đốc Nhung truyền cho quân sĩ phá cửa . Trên cửa bắn xuống, tên đạn như mưa, quân sĩ nhiều người bị thương mà Đốc Nhung vẫn không sợ hãi chút nào, thật là một viên dũng tướng! Triệu Vũ và Tuân Ngô thua luôn hai trận, sai người cáo cấp với Phạm Mang . Phạm Mang nói:

– Một mình Đốc Nhung, còn không đánh nổi thì dẹp thế nào được cánh họ Loan .

Đêm hôm ấy, Phạm Mang đốt đèn mà ngồi, nét mặt buồn bã . Có một kẻ gia nô đứng hầu bên cạnh, sụp lạy mà hỏi rằng:

– Quan nguyên soái có ý buồn bã, hay là ngài lo về việc Đốc Nhung ?

Phạm Mang nhìn xem ai thì tức là Phi Báo . Phi Báo nguyên là một thủ hạ của Đồ Ngạn Giả, tên gọi Phi Thành, sau vì việc Đồ Ngạn Giả mà phải tội, bị sung làm nô lệ nhà quan . Phạm Mang nghe Phi Báo nói, lấy làm lạ, liền hỏi Phi Báo rằng:

– Nhà ngươi có kế gì trừ được Đốc Nhung thì ta sẽ trọng thưởng cho .

Phi Báo nói:

– Tôi là một người có tên trong sở tội án, dẫu tài gỉoi đến đâu, cũng không bao giờ tiến thân được . Nếu quan nguyên soái xoá tên tôi ở trong sở tội án đi thi tôi xin giết Đốc Nhung để đền ơn lại .

Phạm Mang nói:

– Nhà ngươi giết được Đốc Nhung thì ta sẽ tâu với chúa công đốt cả sổ tội án đi, mà dùng nhà người làm trung quân nha tướng .

Phi Báo nói:

– Quan nguyên soái chớ nên thất tín!

Phạm Mang thề rằng:

– Nếu ta thất tín thì xin có mặt trời soi xét! nhưng chẳng hay nhà ngươi phải dùng bao nhiêu binh mã ?

Phi Báo nói:

– Khi trước Đốc Nhung còn ở Giáng Đô, có quen với tôi, vẫn cùng tôi đấu vũ . Người ấy tính nóng nảy, chỉ thích đánh nhau độc lực, nếu dùng binh mã thì không thể đánh được . Tôi xin đi một mình, tự khắc có kế bắt được Đốc Nhung .

Phạm Mang nói:

– Hay là nhà ngươi định trốn đi mà không trở lại nữa!

Phi Báo nói:

– Tôi còn có mẹ già, năm nay bảy mươi tám tuổi, còn có con nhỏ, vợ dại, sao tôi lại chịu làm điều bất trung bất hiếu ấy, để phạm tội lần nữa! nếu tôi trái lời thì cũng xin có mặt trời soi xét!

Phạm Mang mừng lắm, cho ăn cơm uống rượu, và thưởng cho một bộ áo giáp . Phi Báo trong mặc áo giáp, ngoài mặc áo nhung, đầu đội mũ cao, chân đi giày cỏ, lưng giắt dao nhọn, tay cầm cái dùi đồng nặng năm mươi hai cân, từ biệt Phạm Mang mà nói rằng:

– Tôi đi chuyến này, giết được Đốc Nhung thì thôi, bằng không thì cũng chết về tay Đốc Nhung, quyết không cùng sống được!

Phạm Mang nói:

– Ta cũng thân hành ra để xem nhà ngươi ra sức .

Phạm Mang truyền thắng xe, rồi cùng với Phi Báo đi đến cửa nam . Triệu Vũ và Tuân Ngô ra tiến kiến Phạm Mang, kể chuyện Đốc Nhung tài giỏi, làm hại mất hai tướng . PHạm Mang nói:

– Ngày nay Phi Báo xin một mình ra trận, chỉ còn mong nhờ vào hồng phúc của chúa công ta .

Phạm Mang nói chưa dứt lời thì Đốc Nhung đã đến khiêu chiến ngoài cửa . Phi Báo đứng trên cửa, gọi Đốc Nhung mà bảo rằng:

– Nhà ngươi có còn nhớ Phi Đại hay không ?

Đốc Nhung nói:

– Nay Phi Đại cũng định liều chết mà ra đó chăng ?

Phi Báo nói:

– Ai sợ nhà ngươi, chứ Phi Báo quyết không sợ! nhà ngươi nên truyền cho quân sĩ lui lại phía sau, rồi hai ta cùng nhau giao chiến, hai tay chọi với hai tay, binh khí chọi với binh khí, thử xem ai sống ai chết, để lưu tiếng anh hùng về mai sau!

Đốc Nhung nói:

– Nhà ngươi nói hợp ý ta lắm!

Đốc Nhung bèn truyền cho quân sĩ lui lại phía sau . Phi Báo mở cửa, ra giao chiến với Đốc Nhung . Hai bên đánh nhau hơn hai mươi hợp, chưa phân thắng phụ . PHi Báo giả cách nói:

– Khoan đã! ta còn dở có một chút việc cần!

Phi Báo trông thấy phía tây có một chỗ tường thấp, liền chạy thẳng vào đấy . Đốc Nhung đuổi theo, quát to lên rằng:

– Chạy đằng nào cho thoát!

Bọn Phạm Mang đứng trên cửa, trông thấy Đốc Nhung đang đuổi Phi Báo, đều sợ toát mồ hôi ra, ai ngờ Phi Báo dụng kế, khi chạy đến chỗ tường thấp, bèn nhảy qua vào phía trong, Đốc Nhung cũng nhảy vào theo, Phi Báo nấp ở dưới cây lớn, chờ khi Đốc Nhung nhảy vào, nhân lúc bất ngờ, cầm cái dùi đồng nặng năm mươi hai cân đánh ngay một cái, trúng vào giữa đầu . Đốc Nhung vỡ óc ngã ngay xuống đất, mà còn giơ chân phải đá vào ngực Phi Báo, bật mất một mảnh áo giáp . Phi Báo rút lưỡi dao nhọn, cắt lấy đầu Đốc Nhung, rồi lại nhảy qua tường ra . Trên cửa mọi người thấy Phi Báo tay xách một cái đầu lâu, đầm đìa những máu, biết là Phi Báo đã giết được Đốc Nhung, liền mở rộng cửa cho Giải Túc và Mâu Cương đem quân ra đuổi đánh . Quân họ Loan thua chạy, một nửa bị giết, một nửa đầu hàng, không mấy người trốn thoát . Phạm Mang rót chén rượu, ngửa mặt lên trời, rưới rượu mà nói rằng:

– Thế này mới thật là nhờ hồng phúc của chúa công ta!

Nói xong, lại rót một chén rượu nữa thưởng cho Phi Báo, rồi đưa Phi Báo vào yết kiến Tấn Bình công . Tấn Bình công ghi công Phi Báo vào bậc thứ nhất .

Trước đó, Loan Doanh đem quân đánh cửa bắc, liên tiếp được tin thắng trận của Đốc Nhung, mới bảo các tướng sĩ rằng:

– Nếu ta có hai Đốc Nhung thì Cố Cung này có gì mà không phá vỡ nổi!

Thực Xước nghe nói, lấy chân giẫm vào chân Quách Tối, Quách Tối cũng đưa mắt để đáp lại, hai người đều cúi đầu, chẳng nói câu gì . Loan Nhạc và Loan Phường muốn lập công trạng, cố xông pha tên đạn để đánh cửa bắc . Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi nhân thấy cửa nam thua luôn, cũng không dám ra đánh, chỉ giữ thế thủ mà thôi . Đến ngày thứ ba, Loan Doanh tiếp được tin Đốc Nhung bị giết, quân sĩ đều tan mất cả, thì tay chân bủn rủn, không biết làm ra thế nào, mới gọi Thực Xước và Quách Tối để thương nghị . Thực Xước và Quách Tối cười mà nói rằng:

– Đốc Nhung còn bị thua, huống chi là chúng tôi!

Loan Doanh ứa nước mắt hồi lâu . Loan Nhạc nói:

– Chúng ta nên liều chết cố đánh . Canh ba đêm hôm nay truyền cho quân sĩ phóng hỏa đốt cửa quan, may ra có thể vào được!

Loan Doanh theo kế ấy, Tấn Bình công thấy Đốc Nhung chết, mở tiệc ăn mừng . Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi cũng đều đến dự tiệc . Khi tiệc vừa tan, Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi trở về cửa bắc, bỗng thấy lửa cháy ngất trời, quân si của Loan Doanh phá cửa tiến vào, Loan Nhạc đi trước, Loan Phường theo sau, chiếm được một lần cửa ngoài . Bọn Hàn Vô Kỵ lui vào giữ lần cửa trong, rồi sai người cáo cấp với Phạm Mang. Phạm Mang sai Nguỵ Thư ra cửa nam, để thay cho Tuân Ngô đem quân đến cửa bắc đánh giúp . Anh em Hàn Vô Kỵ cùng với Tấn Bình công trèo lên trên đài, trông thấy quân Loan Doanh đóng ở lần cửa ngoài im lặng như tờ . Phạm Mang nói:

– Đó tất là có kế! nên truyền cho quân sĩ ra sức phòng giữ .

Đêm hôm ấy, quân Loan Doanh lại phóng hoả đốt cửa quan, nhưng quân Tấn đã phòng bị sẵn, chăng mấy lần da trâu có tẩm nước, lửa không bén được . Phạm Mang nói:

– Giặc đã tiến đến tận nơi, nếu ta để lâu không dẹp được thì quân Tề lại thừa kế sang đánh, thật là nguy cho nước nhà lắm!

NÓi đoạn sai con là Phạm Uởng cùng Phi Báo đem một toán quân, đi qua cửa nam, vòng sang cửa bắc, để đánh mặt ngoài, hẹn đúng thời khắc cho anh em Hàn Vô Kỵ biết, trong khi đó thì Tuân Ngô cùng Mâu Cương đem một toán quân mở cửa quan đán ra, khiến cho quân Loan hai mặt bị đánh, không thể xoay kịp . Lại sai Triệu Vũ và Nguỵ Thư đem quân đóng ở ngoài phía nam để đón đường Loan Doanh khi thua chạy . Phạm Mang truyền bảo đâu đấy, lại rước Tấn Bình công lên đài để đứng xem . Phạm Uởng lúc đi, nói với Phạm Mang rằng:

– Con hãy còn trẻ tuổi, chưa có uy vọng, vậy xin cha cho mượn hiệu cờ của đạo quân trung .

Phạm Mang thuận cho, Phạm Uởng cầm kiếm lên xe, cắm cờ đại bái mà đi ra cửa nam qua; lúc sắp đi, Phạm Uởng bảo thuộc hạ rằng:

– Trận đấu ngày nay, chỉ có tiến chứ không có thoái . Chẳng may mà thua thì ta quyết tự vẫn trước, chứ không thể cho các ngươi chết một mình .

Quân sĩ nghe nói: đều vui lòng xin theo . Tuân Ngô vâng lời Phạm Mang, truyền cho quân sĩ sửa soạn sẵn để đợi lệnh khai chiến . Được một lúc, Tuân Ngô trông thấy quân Loan Doanh rối loạn, lui ra lần cửa ngoài, biết là toán quân của Phạm Uởng đã đến, liền nổi hiệu trống, mở rộng cửa quan . Mâu Cương đi trước, Tuân Ngô theo sau, đem quân ra đánh . Loan Doanh cũng sợ quân Tấn trong ngoài giáp công, đã sai Loan Phường đem xe sắt lấp lần cửa ngoài, chia quân canh giữ .

Toán quân của Tuân Ngô không thể ra được . Khi Phạm Uởng đem quân đến, Loan Doanh trông thấy là cờ đại bái, giật mình kinh sợ mà nói rằng:

– Nguyên soái nước Tấn thân hành đến đây hay sao! bèn sai người đi dò thám, mới biết là toán quân của Phạm Uởng . Loan Nhạc nói:

– Nếu bậy thì không sợ!

Bèn truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn . Em Loan Nhạc là Loan Vinh can rằng:

– Quân ta nên hà tiện tên mới được, bắn hão vô ích!

Loan Nhạc mới không bắn nữa . Được một lúc Loan Vinh trông thấy một cái xe ở đằng xa đi tới, trong xe có một viên tướng mũ da áo đũi, hình dung cổ quái, liền trỏ mà bảo Loan Nhạc rằng:

– Người ấy tên gọi Phi Báo, tức là người giết Đốc Nhung của ta đó, nên bắn chết đi!

Loan Nhạc nói:

– Đợi hắn đến gần độ một trăm thước bấy giờ ta sẽ bắn .

Nói chưa dứt lời, lại thấy có một cái xe ở bên đi ngang qua . Loan Nhạc nhìn rõ trong xe có Phạm Uởng, mới nghĩ thầm rằng:

– Ta bắn chết Phạm Uởng, chẳng hơn bắn chết Phi Báo hay sao!

Liền đuổi theo Phạm Uởng mà bắn . Loan Nhạc xưa nay bắn cung, trăm phát trúng cả trăm, chẳng ngờ phát tên ấy lại không trúng . Phạm Uởng ngảnh lại, trông thấy Loan Nhạc, bèn quát to lên rằng:

– Phản tặc! mày gần chết đến nơi, lại còn bắn ta!

Loan Nhạc quay xe lui chạy, không phải là sợ Phạm Uởng, mà nhân phát tên ấy bắn không trúng, muốn dụ hắn đuổi theo đến gần, rồi sẽ bắn phát khác . Thực Xước và Quách Tối trông thấy, sợ Loan Nhạc bắn trúng, thành công mất, mới reo rầm lên rằng:

– Quân họ Loan thua rồi!

Người dong xe nghe tiếng kêu, lại ngỡ là toán quân khác bị thua, ngẩng đầu trông thấy bốn mặt, cầm cương không vững, ngựa lồng chạy quanh, bánh xe va phải cây hoè ở bên đường, làm xe đổ . Loan Nhạc ngã lăn xuống đất, vừa gặp Phi Báo đi đến, tức khắc đâm chết Loan Nhạc .

Loan Vinh sợ hãi, vội vàng bỏ chạy . Thực Xước và Qúach Tối cũng không dám trở về nước Tề . Thực Xước chạy sang nước Vệ, Quách Tối chạy sang nước Tần . Loan Doanh nghe tin Loan Nhạc chết, vật mình lăn khóc, quân sĩ đều có lòng thương xót . Loan Phường cùng với Loan Doanh chạy về phía nam . Tuân Ngô và Phạm Uởng họp quân đuổi theo . Loan Phường liều chết cố đánh một trận, quân Tấn mới chịu lui về . Loan Doanh và Loan Phường đều bị trọng thương, đi được một quãng đường, lại gặp toán quân của Nguỵ Thư . Loan Doanh ứa nước mắt mà bảo Ngụy Thư rằng:

– Tướng quân không nhớ năm xưa cùng ở với tôi ở hạ quân hay sao ? Nay tôi đành phận chết, nhưng không đáng chết vào tay tướng quân .

Nguỵ Thư trong lòng bất nhẫn, liền tránh cho Loan Doanh đi . Loan Doanh và Loan Phường chạy về Khúc Ốc . Được một lúc, Triệu Vũ đến, hỏi Ngụy Thư rằng:

– Loan Doanh đi qua, sao không đuổi theo mà bắt lấy ?

Ngụy Thư nói:

– Kẻ kia như con cá trong hũ, đã có nhà bếp làm thịt . Tôi nghĩ đến cái tình của tiên nhân tôi ngày xưa, không nỡ cầm dao mà giết .

Triệu Vũ nghe nói, cũng động lòng thương, không đuổi theo nữa . Phạm Mang biết là Loan Doanh đã chạy qua mà Ngụy Thư tha cho đi, nhưng làm ngơ không nói đến, liền bảo Phạm Uởng rằng:

– Quân của Loan Doanh đều là người Khúc Ốc . Kẻ kia vây cánh đã hết cả, nhà người chỉ đem một toán quân vây Khúc Ốc thì tự khắc dẹp xong .

Tuân Ngô cũng xin theo đi . Phạm Mang thuận cho Phạm Uởng và Tuân Ngô đem quân vây Khúc Ốc . Phạm Mang lại mời Tấn Bình công trở về cung cũ, rồi đem sổ tội án đốt bỏ đi, thành ra vì một Phi Báo mà cả thảy hơn hai mươi nhà cùng được khỏi tội . PHạm Mang lại xin cho Phi Báo làm trung quân nha tướng .

Tề Trang công từ khi giúp quân cho Loan Doanh trở về nước Tấn, cũng sửa soạn quân mã, cho Vương Tôn Huy làm đại tướng, Thân Tiên Ngu là phó tướng, Châu Xước và Hình Khoái làm tiên phong, Án Ly làm hợp hậu, còn bọn Giả Cử thì cho đi hộ giá, chọn ngày cất quân sang đánh nước Vệ . Người nước Vệ cố giữ không dám ra đánh . Quân Tề kéo thẳng qua đất Đế Khâu sang địa giới nước Tấn, đánh lấy đất Triều Ca . Tề Trang công lên núi Triêu Dương để khao quân, rồi chia quân làm hai đạo: Vương Tôn Huy đi về phía tả, qua ải Mạnh Môn; Tề Trang công cùng hai đạo long tước và hổ tước đi về phía hữu, qua Cơ Sơn . Hai đạo hẹn nhau cùng kéo đến núi Thái Hàng thì hợp làm một .

Khi Tề Trang công đi đến Côn Sơn, Hình Khóai ngủ đêm giữa trời dưới chân núi, bị con rắn độc cắn, sưng bụng lên mà chết . Tề Trang công thương tiếc vô cùng . Khi hai đạo quân đến núi Thái Hàng, Tề Trang công trèo lên đỉnh núi, nom về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) để nghĩ kế đánh Tấn; bỗn nghe Loan Doanh đã thua chạy về Khúc Ốc, đại binh nước Tấn đuổi theo, cũng sắp đến nơi, liền thở dài mà nói rằng:

– Nếu vậy thì hỏng việc rồi, còn làm gì được nữa!

Nói xong, truyền rút quân về . Quan trấn thủ đất Hàm Đan là Triệu Thắng (con Triệu Chiên) đem quân đuổi theo . Tề Trang công tưởng là đại binh nước Tấn, vội vàng bỏ chạy chỉ để Án Ly ở lại sau đối địch . Án Ly thua trận, bị Triệu Thắng chém chết .

Phạm Uởng và Tuân Ngô vây thành Khúc Ốc hơn một tháng, bọn Loan Doanh đánh lại không nổi, trong thành chết mất quá nửa, đành chịu tan vỡ . Tư Ngọ rút gươm đâm cổ mà chết . Loan Doanh và Loan Vinh đều bị bắt cả . Loan Doanh than rằng:

– Tiếc thay, ta không nghe lời Tân Du, đến nổi thế này!

Tuân Ngô muốn giam Loan Doanh để giải về Giáng Đô . Phạm Uởng bảo Tuân Ngô rằng:

– Chúa công ta không quyết đoán, vạn nhất hắn kêu van mà lại tha ra thì kẻ thù của ta bao giờ trừ được!

Đêm hôm ấy, Phạm Uởng mật sai người thắt cổ Loan Doanh giết đi, lại giết cả Loan Vinh nữa . Bao nhiêu người họ Loan đều đem giết sạch cả, chỉ có Loan Phường trèo qua thành trốn sang nước Tống được . Bọn Phạm Uởng rút quân về, Tấn Bình công đem việc họ Loan bá cáo cho các nước biết . Nhiều nước, sai người đến chúc mừng . Phạm Mang xin cáo lão về nghỉ . Tấn Bình công cho Triệu Vũ thay cầm quyền chính .

Tề Trang công chưa đánh được nước Tấn vẫn còn căm tức, khi về đến địa giới nước Tề, không chịu vào vội mà bảo tướng sĩ rằng:

– Trận Bình Âm ngày trước, phải báo lại mới được!

Bèn đóng đồn ở ngoài thành để kiểm duyệt quân mã . Bọn Châu Xước và Giả Cử được thưởng mỗi người năm cỗ xe, gọi la ngũ thặng tân .

Giả Cử khen hai người ở Lâm Tri là Hoa Chu và Kỷ Lương là dũng sĩ, Tề Trang công tức khắc cho đi triệu Hoa Chu và Kỷ Lương . Hai người vào yết kiến . Tề Trang công cho hai người chung nhau một cỗ xe, để đi theo quân mà lập công . Hoa Chu lui về, giận lắm không ăn cơm mà bảo Kỷ Lương rằng:

– Chúa công đặt ra ngũ thặng tân là để đãi người vũ dũng, nay thấy chúng ta là dũng sĩ triệu ta đến, cho chúng ta hai người chung nhau một cỗ xe có phải là biết dùng ta đâu, chẳng qua chỉ là làm nhục ta đó thôi, chi bằng ta từ chối mà đi phương khác .

Kỷ Lương về hỏi mẹ . Mẹ nói:

– Mày sống mà vô nghĩa, chết mà vô danh thì dẫu được dự vao ngũ thặng tân, người ta cũng cười cho . Mày nên phải cố gắng, chớ có trái mệnh vua .

Kỷ Lương đem lời nói của mẹ, thuật lại cho Hoa Chu nghe . Hoa Chu nói:

– Người đàn bà còn không quên mệnh vua, huống chi là ta .

Bèn cùng với Kỷ Lương ngồi chung một xe theo hầu Tề Trang công . Tề Trang công nghỉ trong ba ngày, rồi để Vương Tôn Huy đóng quân ở lại, còn mình thì đem đại binh đi đánh nước Cử . Hoa Chu và Kỷ Lương cùng xin đi tiền đội . Tề Trang công hỏi rằng:

– Hai ngươi muốn dùng bao nhiêu giáp binh ?

Hoa Chu và Kỷ Lương nói:

– Chúa công cho hai chúng tôi chung nhau một cỗ xe, cũng đã đủ rồi, chúng tôi xin đi trước .

Tề Trang công muốn thử tài hai người bèn cười mà cho đi . Hoa Chu và Kỷ Lương thay đổi nhau cầm cương xe . Khi sắp đi, hai người phàn nàn rằng:

– Giá được một người nữa làm xa hữu thì có thể đương nổi một đội!

Một người lính trẻ tuổi chạy đến nói rằng:

– Tôi muốn xin theo hai tướng quân, chẳng hay hai tướng quân có thuận cho hay không ?

Hoa Chu hỏi họ tên . Người lính trẻ tuổi ấy nói:

– Tôi là người bản quốc, tên gọi Thấp Hầu Trọng vì mến lòng nghĩa dũng của hai tướng quân, cho nên muốn theo .

Ba người cùng ngồi một xe, thẳng đường tiến sang nước Cử . Ngày hôm sau, vua nước Cử là Lê Tị công biết quân Tề sắp đến, thân hành đem ba trăm giáp sĩ ra đi tuần, gặp xe Hoa Chu và Kỷ Lương, toan bắt lại hỏi . Hoa Chu và Kỷ Lương trừng mắt quát to lên rằng:

– Hai ta là tướng nước Tề, có ai dám cùng ta quyết chiến hay không ?

Lê Tị công kinh hãi, nhưng trông thấy, không có quân tiếp ứng, mới truyền cho quân sĩ vây kín lại . Hoa Chu và Kỷ Lương bảo Thấp Hầu Trọng rằng:

– Nhà ngươi cứ đánh trống luôn cho ta!

Hai người nói xong, mỗi người cầm một cái kích, xuống xe xông vào đánh quân nước Cử . Ba trăm quân giáp sĩ nước Cử chết đến một nửa . Lê Tị công nói:

– Ta đã biết dũng lực của hai tướng quân rồi, hai tướng quân chớ nên tử chiến, ta xin cùng với hai tướng quân chia nhau nước Cử .

Hoa Chu và Kỷ Lương đồng thanh đáp rằng:

– Nếu bỏ nước mà theo giặc thì sao gọi là trung ? đã phụng mệnh vua mà không hết lòng thì sao gọi là tín ? tôi chỉ biết xông vào mà giết cho nhiều là chức phận làm tướng; còn cái lợi nước Cử, tôi nào dám nghĩ đến!

Hai người lại cầm kích tiến đánh . Lê Tị công không thể đương nổi, vội vàng bỏ chạy . Đại binh của Tề Trang công đến nơi, nghe nói Hoa Chu và Kỷ Lương thắng được quân Cử, thì sai sứ đi triệu đến mà bảo rằng:

– Ta đã biết tài của hai tướng quân rồi, hai tướng quân bất tất phải tiến đánh nữa, ta xin cùng với hai tướng quân chia nhau nước Tề .

Hoa Chu và Kỷ Lương đồng thanh đáp rằng:

– Chúa công đặt ra ngũ thặng tân mà tôi không được dự, thế là bỉ cái tài của tôi; nay lại lấy lợi mà dụ, thế là khinh cái bụng của tôi . Tôi chỉ biết xông vào mà giết cho nhiều là chức phận làm tướng; còn cái lợi nước Tề, tôi nào dám nghĩ đến !

Hai người liền chắp tay vái sứ giả rồi lại thẳng đường tiến vào cửa thành nước Cử . Lê Tị công sai người đào sẵn một cái rãnh chặn ngang đường rồi đốt than ở dưới, lửa cháy ngùn ngụt . Hoa Chu và Kỷ Lương không thể qua được . Thấp Hầu Trọng nói:

– Người ta dám liều chết thì mới được tiếng về sau . Tôi có thể giúp hai tướng quân qua rãnh được!

Thấp Hầu Trọng bèn cắp cái một nằm đè lên trên đống than lửa để cho Hoa Chua và Kỷ Lương giẫm mà đi qua . Hoa Chu và Kỷ Lương bước qua được cái rãnh, ngoảnh lại thì thấy người Thấp Hầu Trọng đã cháy sém cả rồi! Hoa Chu và Kỷ Lương đứng nhìn mà khóc . Được một lúc, Kỷ Lương gạt nước mắt, Hoa Chu còn khóc chưa thôi . Kỷ Lương nói:

– Nhà ngươi sợ chết hay sao! làm sao mà khóc lâu như thế ?

Hoa Chu nói:

– Nào có phải ta sợ chết đâu! chỉ tiếc thay cho người này cũng vũ dũng như ta, mà lại chết trước ta, nên ta thương lắm!

Lê Tị công thấy Hoa Chu và Kỷ Lương đã qua được cái rãnh than lửa, vộivàng truyền cho quân sĩ phục sẵn ở bên cửa thành đợi khi hai người gần đến thì bắn . Hoa Chu và Kỷ Lương tiến thẳng đến cửa . Quân sĩ hai bên bắn ra như mưa . Hoa Chu và Kỷ Lương đến nơi, lại giết chết được hai mươi bảy người nữa . Quân sĩ ở trên mặt thành cùng chõ xuống mà bắn . Kỷ Lương bị thương nặng mà chết . Hoa Chu bị mấy mươi mũi tên không thể đánh được nửa, chịu cho ngươi nước Cử bắt, nhưng chưa tắt hơi . Lê Tị công sai đem vào thành .

Tề Trang công tiếp được tin của sứ giả, biết là Hoa Chu và Kỷ Lương có lòng quyết tử, liền dẫn đại binh tiến theo . Khi đến cửa thành nước Cử, nghe nói ba người đều chết cả, tức thì nổi giận, toan thúc quân tiến đánh . Lê Tị công sai sứ đến tạ tội rằng:

– Chúa công tôi chỉ thấy một cái xe vào cõi, không biết là đại quốc sai đến, vậy nên trót lầm lỡ mà xâm phạm . Vả đại quốc chết có ba người mà nước tôi bị giết đã hơn trăm người rồi; ba người kia cố ý xông vào chỗ chết, chứ không phải nước tôi dám gây việc binh đao, chúa công tôi sợ uy đại quốc sai tôi đến đây tạ tội, từ nay trở đi, xin một lòng triều cống nước Tề, không dám sai lời .

Tề Trang công còn chưa nguôi cơn giận, không thuận cho giảng hoà . Lê Tị công lại sai sứ ra cố nài, xin đưa Hoa Chu và thi thể Kỷ Lương sang trả, lại xin đem vàng, lụa sang khao thưởng quân sĩ . Tề Trang công còn chưa thuận cho, bỗng tiếp được tin cấp báo của Vương Tôn Huy, nói:

– Vua Tấn cùng với vua các nước Tống, Lỗ, Vệ, Trịnh hội nhau ở đất Di Nghi, để bàn mưu đánh Tề, xin mời chúa công mau mau rút quân về .

Tề Trang công mới cho nước Cử giảng hoà . Lê Tị công đem vàng lụa sang khao thưởng quân nước Tề, lại đưa Hoa Chu và thi thể Kỷ Lương sang trả . Còn thi thể Thấp Hầu Trọng ở trong đống lửa đã hoá ra tro rồi, không còn gì nữa . Ngay ngày hôm ấy Tề Trang công truyền rút quân về, sai đem thi thể Kỷ Lương quàn ở ngoài cõi nước Tề . Khi về đến kinh thành gặp vợ Kỷ Lương là nàng Mạnh Khương ra đón thi thể chồng ở ngoài cõi . Tề Trang công dừng xe, sai xứ đến viếng . Nàng Mạnh Khương nói với sứ giả rằng:

– Chồng thiếp mà có tội thì không dám nhận lời viếng của chúa công; nhược bằng vô tội thì chồng thiếp cũng còn chỗ viếng ta, thiếp không dám nhận .

Tề Tràng công có ý thẹn nói rằng:

– Đó là điều lỗi của ta!

Bèn sai người làm bài vị ở nhà Kỷ Lương mà đến viếng . Nàng Mạnh Khương rước linh cữu chồng để đem chôn ở ngoài thành, ngủ giữa trời ba đêm, ôm linh cữu mà khóc, đến nỗi hết cả nước mắt, chảy máu tươi ra . Bỗng thành nuớc Tề sụt lở mất mấy thước, người ta bảo rằng đó là vì nàng Mạnh Khương khóc lóc thảm thiết, nỗi tình thành của nàng cảm động đến trời đất như vậy .

Hoa Chu về đến nước Tề, vết đau nặng quá, chưa được bao lâu cũng chết . Vợ Hoa Chu khóc chồng cũng bội phần thảm thiết .

Năm ấy nước lên to lắm, sông Hoàng Hà đầy tràn, mặt đất nước sâu hơn thước . Tấn Bình công lại thôi không dám đánh Tề nữa .

Quan hữu khanh nước Tề là Thôi Trữ, ghét Tề Trang công dâm loạn, vẫn muốn đợi quân Tấn đến đánh để thừa cơ khởi sự, đã cùng với quan tả khanh là Khánh Phong thương nghị , định khi nào thành việc, sẽ chia đôi nước Tề . Sau nghe tin Tấn Bình công vì nước lụt mà hoãn việc đánh Tề , thì Thôi Trữ rất là thất vọng . Bấy giờ Tề Trang công có một người nội thị tên gọi Giả Thụ, vì một việc nhỏ mà bị Tề Trang công đánh một trăm roi . Thôi Trữ biết là Giả Thụ oán giận, liền đút tiền cho, để kết làm tâm phúc, phàm Tề Trang công làm việc gì thì Giả Thụ đều đến báo cho Thôi Trữ biết cả.

Chương 65: Giết Tề Quang, Thôi, Khánh cướp quyền – Rước Vệ Khản, Ninh Hỉ chuyên chính

Vua nước Cử là Lê Tị công nhân vì giảng hoà với nước Tề, năm ấy thân hành ang Lâm Tri (kinh thành nước Tề) để triều cống . Tề Trang công mừng lắm bày tiệc ở Bắc Bỉ để thiết đãi Lê Tị công . Phủ đệ của Thôi Trữ cũng ở Bắc Bỉ . Thôi Trữ định thừa cơ giết Tề Trang công, mới giả cách cáo ốm, không đến dự tiệc, rồi mật sai người tâm phúc đến hỏi tin Giả Thụ . Giả Thụ mật báo rằng:

– Chúa công định tiệc xong thì đến thăm quan tướng quốc .

Thôi Trữ cười mà nói rằng:

– Chúa công có nghĩ đến bệnh của ta, ta có bệnh thì chúa công càng lợi . Chẳng quan chỉ muốn đến để làm việc vô sĩ đó thôi!

Thôi Trữ lại bảo vợ là nàng Đường Khương rằng:

– Ngày nay ta muốn trừ bỏ đứa hôn quân vô đạo ấy đi, nàng chịu theo kế ta thì ta sẽ không nói đến sự xấu của nàng nữa, ngày sau lại lập con nàng làm đích tử . Nếu nàng không theo lời nói của ta thì ta chém đầu mẹ con nàng trước .

Nàng Đường Khương nói:

– Vợ thì phải theo chồng . Phu quân bảo gì mà thiếp chẳng nghe!

Thôi Trữ sai Đường Vô Cữu phục quân ở hai bên cạnh nhà, Thôi Thành và Thôi Cương phục quân ở bên trong cửa, Đông Quách Yển phục quân ở bên ngoài cửa, hẹn nhau đến bấy giờ thì rung chuông làm hiệu; lại sai người mật báo cho Giả Thụ biết . Tề Trang công say mê nàng Đường Khương, quên ăn quên ngủ, không lúc nào không nghĩ đến, chỉ vì Thôi Trữ phòng giữ nghiêm mật, nên không dám thường thường đi lại . Hôm ấy nghe nói Thôi Trữ cáo ốm, thì lấy làm may lắm, thần hồn vơ vẩn bay đến với nàng Đườn Khương trong khi ngự yến với Lê Tị công, nên chỉ thù tiếp qua loa cho xong việc, rồi đi thẳng đến nhà Thôi Trữ để thăm bệnh . Người canh cửa nhà Thôi Trữ nói dối rằng:

– Quan tướng quốc tôi đau nặng quá, hiện vừa uống thuốc xong, mới đi nằm .

Tề Trang công hỏi:

– Nằm ở chỗ nào ?

Người canh cửa nói:

– Nằm ở nhà ngoài .

Tề Trang công mừng lắm, đi thẳng vào nhà trong . Bấy giờ Châu Xước, Giả Tử, công tôn Ngao và Lũ Nhân đi theo hầu . Giả Thụ bảo rằng:

– Chúa công đến đây làm gì, hẳng các ngươi đã biết, sao không đứng cả ở bên ngoài, theo vào làm gì để kinh động quan tướng quốc .

Bọn Châu Xước khen phải, liền đứng cả ở ngoài cửa . Chỉ có Giả Cử không chịu ra ngoài mà nói rằng:

– Một mình ta ở đây thì phỏng có hại gì!

Nói xong liền đứng ở nhà giữa . Giả Thụ đóng cửa giữa, rồi đi trở vào . Người canh cửa cũng đóng cửa lớn ở ngoài mà khóa chặt lại . Tề Trang công vào đến nội thất, nàng Đường Khương trang điểm rất lịch sự ra đón, nhưng chưa kịp nói một câu nào thì có thị tỳ chạy đến bảo:

– Quan tướng quốc kêu khô miệng, muốn uống nước ngọt .

Đường Khương nói với Tề Trang công rằng:

– Thiếp đi lấy nước ngọt đã, rồi sẽ đến ngay .

Đường Khương theo thị tỳ rón rén qua cửa ngang mà đi . Tề Trang công tựa bao lan đứng đợi, mãi không thấy Đường Khương ra, bỗng nghe dưới nhà có tiếng gươm giáo . Tề Trang công ngạc nhiên nói:

– Quái lạ, ở đây lại có quân sĩ hay sao!

Nói xong liền gọi Giả Thụ, không thấy Giả Thụ thưa . Được một lúc quân sĩ hai bên đổ ra . Tề Trang công kinh hãi, biết là có biến, vội vàng chạy ra cửa sau thì cửa sau đã đóng chặt rồi, Tề Trang công sức khoẻ, phá cửa mà ra, trèo lên trên một cái lầu . Đường Vô Cữu đem quân giáp sĩ vây lầu, quát to lên rằng:

– Ta phụng mệnh quan tướng quốc đến bắt dâm tặc!

Tề Trang công đứng trên lầu bảo Đường Vô Cữu rằng:

– Ta là vua nhà ngươi, nhà ngươi tha cho ta!

Đường Vô Cữu nói:

– Quan tướng quốc truyền như vậy, ta không dám trái lệnh .

Tề Trang công nói:

– Quan tướng quốc ở đâu ? ta xin thề rằng ta không làm hại gì quan tướng quốc cả !

Đường Vô Cữu nói:

– Quan tướng quốc ốm, không thể đến đây được!

Tề Trang công nói:

– Ta biết tội của ta rồi! nhà ngươi khoan cho ta được vào nhà thái miếu tự tử để tạ tội với quan tướng quốc, phỏng có nên chăng ?

Đường Vô Cữu nói:

– Chúng ta chỉ biết bắt đứa dâm tặc, chứ không biết vua là ai cả; thôi thì liệu mà tự tử ngay đi, chớ để phải chịu nhục!

Tề Trang công bất đắc dĩ phải nhảy ra cửa sổ, trèo lên hoa đài toan leo tường để chạy . Đường Vô Cữu giương cung bắn theo, trúng ngay vào đùi bên tả . Tề Trang công từ trên tường cao ngã lăn xuống đất . Quân giáp sĩ kéo đến, đâm chết Tề Trang công . Đường Vô Cữu sai người rung mấy tiếng chuông làm hiệu . Bấy giờ trời đã mờ tối, Giả Cử ở nhà giữa, lắng tai nghe thấy mấy tiếng chuông, lại thấy Giả Thụ tay cầm đèn mở cửa đi ra mà nói rằng:

– Trong nhà có giặc, chúa công sai triệu nhà ngươi, nhà ngươi vào trước đi để ta còn ra báo với bọn Châu Xước .

Giả Cử nói:

– Đưa đèn cho ta!

Giả Thụ đưa đèn cho Giả Cử, giả cách buột tay để rơi xuống đất . Đèn tắt . Giả Cử cầm kiếm đi rờ mà vào . Vào đến cửa giữa, vướng dây ngã xuống đất . Thôi Cương ở bên cửa chạy ra, giết chết Giả Cử . Bọn Châu Xước ở ngoài cửa, không biết chuyện gì cả, Đông Quách Yển giả cách thân tình, mời sang một cái nhà bên thắp đèn uống rượu cho vui; lại cho cả các người theo hầu đều được ngồi vào tiệc . Đang vui chén, bỗng nghe thấy trong nhà Thôi Trữ có tiếng chuông rung . Đông Quách Yển nói:

– Chắc bây giờ chúa công ta đang uống rượu!

Châu Xước nói:

– Vậy chúa công ta không e quan tướng quốc à ?

Đông Quách Yển nói:

– Quan tướng quốc ốm nặng, còn phải e gì nữa!

Được một lúc, lại nghe có tiếng chuông rung . Đông Quách Yển nói:

– Để tôi vào xem có việc gì ?

Đông Quách Yển vừa đi khỏi thì quân giáp sẽ đổ ra . Bọn Châu Xước vội vàng tìm gươm thì Đông Quách Yển đã sai người lấy trộm mất từ bao giờ rồi! Châu Xước giận lắm, trông thấy trước cửa có viên đá, liền vác lấy để đánh; chẳng ngờ Lũ Nhân vừa đi đến nơi, Châu Xước đánh lầm phải, Lũ Nhân gãy một chân . Châu Xước sợ hãi bỏ chạy . Công tôn Ngao nhổ cái cọc buộc ngựa mà múa . Quân giáp sĩ nhiều người bị thương . Mọi người cầm đuốc xông vào công tôn Ngao cháy hết cả râu tóc .

Bấy giờ cừa lớn bỗng thấy mở toang, Thôi Thành và Thôi Cương lại đem quân giáp sĩ từ trong kéo ra . Công tôn Ngao giơ tay bóp gãy cánh tay của Thôi Thành . Thôi Cương cầm kích đâm chết công tôn Ngao, lại giết chết cả Lũ Nhân nữa . Châu Xước cướp được cái kich của quân giáp sĩ, quay lại để đánh . Đông Quách Yển quát to lên rằng:

– Hôn quân dâm loạn đã bị giết rồi! không can dự gì đến các ngươi cả, sao các ngươi chẳng biết lưu cái thân lại, để mà thờ vua mới ?

Châu Xước ném cái kích xuống đất mà nói rằng:

– Ta là một người đi trốn, chịu ơn của vua Tề, nay đã không cứu được vua Tề, lại làm hại Lũ Nhân, chẳng qua cũng là tại trời! ta nên liều mình báo ơn vua Tề, chứ nỡ nào tham sống để mua tiếng cười ở nước Tề và nước Tấn hay sao!

Nói xong, liền đập đầu vào tường đá . Ba bốn viên đá vỡ tung ra; đầu Châu Xước cũng vỡ . Bính Sư nghe tin Tề Trang công chết, cũng tự đâm cổ ở ngoài triều, Phong Cụ thắt cổ ở ngoài nhà . Đạc Phủ và Trương Doãn rủ nhau đến khóc Tề Trang công, đi đến nửa đường, nghe tin bọn Giả Cử chết cả, cũng đều tự sát . Vương Hà rủ Lư Bồ Quí cùng chết, Lư Bồ Quí nói:

– Chết cũng vô ích! chi bằng ta trốn đi, rồi sau sẽ liệu, may ra có một người nào phục quốc được thì ta lại tiến dẫn cho nhau .

Vương Hà nói:

– Nếu vậy thì ta cùng thề .

Thề xong, Vương Hà bỏ trốn sang nước Cử . Lư Bồ Quí sắp đi, bảo em là Lư Bồ Miết rằng:

– Chúa công đặt ra dũng tước là cần để có người hộ giá; nay ta vì chúa công mà chết, cũng không ích gì cả . Ta đi rồi, nhà ngươi cố cầu cạnh vào làm tôi Thôi Trữ và Khánh Phong để xin cho ta về, ta sẽ nhân đó mà báo thù cho chúa công, như thế thì dẫu chết cũng không uổng .

Lư Bồ Miết nhận lời . Lư Bồ Qúi liền trốn sang nước Tấn . Lư Bồ Miết xin vào làm tôi Khánh Phong . Khánh Phong dùng làm gia thần . Thân Tiên Ngu trốn sang nước Sở, sau làm quan hữu doãn ở nước Sở . Bấy giờ các quan đại phu nước Tề, nghe tin Thôi Trữ nổi loạn, đều đóng cửa đợi tin, không ai dám đến cả, chỉ có Án Anh đến thẳng tận nhà Thôi Trữ, gối đầu vào đùi Tề Trang công mà khóc . Khi Án Anh trở ra, Đường Vô Cữu bảo Thôi Trữ rằng:

– Tất phải giết Án Anh đi thì mới tránh khỏi lời phỉ báng của mọi người!

Thôi Trữ nói:

– Án Anh vốn có tiếng là người giỏi, nếu ta giết đi thì sợ mất lòng người trong nước .

Án Anh đến bảo Trần Tu Vô (cháu tằng tôn Trần Kính Trọng) rằng:

– Sao nhà ngươi không bàn lập vua mới ?

Trần Tu Vô nói:

– Thế thần nước Tề ta thì có họ Cao, họ Quốc, mà cầm quyền chính ngày nay thì có họ Thôi, họ Khánh, chứ tôi làm gì nổi !

Án Anh về, Trần Tu Vô nói:

– Loạn tặc ở trong triều, ta không nên cùng hắn đồng sự .

Nói xong, liền bỏ sang nước Tống . Án Anh lại đến nói với Cao Chỉ và Quốc Hạ . Cao Chỉ và Quốc Hạ đều nói:

– Việc ấy quyền ở họ Thôi và họ Khánh, tôi làm gì nổi!

Án Anh thở dài mà về . Khánh Phong sai con là Khánh Xá đi bắt vây cánh của Tề Trang công, đuổi giết gần hết, rồi đem xe đón Thôi Trữ vào triều . Thôi Trữ sai người triệu họ Cao và họ Quốc đến để bàn lập vua mới . Họ Cao và họ Quốc nhường quyền cho Thôi Trữ và Khánh Phong . Khánh Pong lại nhường quyền cho Thôi Trữ . Thôi Trữ nói:

– Con vua Linh Công là công tử Chử Cữu, năm nay đã lớn tuổi . Người mẹ là con gái quan đại phu nước Lỗ tên gọi Thúc Tôn Kiều Như . Lập người ấy thì nước ta có thể giao hiếu với nước Lỗ .

Triều thần đều vâng dạ xin theo . Thôi Trữ lập công tử Chử Cữu, tức là Tề Cảnh công . Bấy giờ Tề Cảnh công hãy còn nhỏ . Thôi Trữ tự lập làm hữu tướng, lại lập Khánh Phong làm tả tướng; cùng với triều thần thề ở nhà thái miếu rằng:

– Các ngươi, hễ ai không cùng lòng với họ Thôi và họ Khánh thì đã có mặt trời soi xét!

Thôi Trữ thề xong đến Khánh Phong, rồi đến họ Cao và họ Quốc . Đến lượt Án Anh, Án Anh ngửa mặt lên trời mà thề rằng:

– Nếu các ngươi biết tận trung với vua để làm lợi cho nước mà tôi không cùng lòng thì đã có trời sôi xét!

Thôi Trữ và Khánh Phong đều biến sắc . Cao Chỉ và Quốc Hạ nói:

– Việc hai tướng quốc làm ngày nay, chính là việc trung vua lợi nước!

Thôi Trữ và Khánh Phong mới bằng lòng . Bấy giờ vua nước Cử là Lê Tị hãy còn ở nước Tề . Thôi Trữ và Khánh Phong phụng Tề Cảnh công hội thề với Lê Tị côg . Lê Tị công trở về nước Cử . Thôi Trữ sai Đường Vô Cữu đem thi thể bọn Châu Xước và Tề Trang công cùng chôn ở Bắc Quách, giảm bớt nghi lễ, không cho giáp binh đi hộ tang, nói rằng sợ lại loạn ở dưới âm phủ! Thôi Trữ truyền cho quan thái sử Bá vào chép sử là Tề Trang công bị bệnh sốt rét mà chết . Quan thái sử Bá không nghe, chép vào thẻ rằng:

– “Ngày ất hợi, tháng 5, mùa hạ, Thôi Trữ giết vua là Quang” .

Thôi Trữ nổi giận, giết thái sử Bá . Thái sử Bá có ba người em là Trọng, Thúc, Quí . Trọng lại chép như trước . Thôi Trữ lại giết đi . Thúc cũng chép thế . Thôi Trữ lại giế . Quí lại chép như vậy . Thôi Trữ cầm lấy cái thẻ mà bảo Qúi rằng:

– Ba anh mày đều chết cả, còn mày không sợ chết à ? Nếu mày chịu chép khác đi thì ta tha chết cho .

Quí nói:

– Chép đúng sự thực là chức phận của người làm sử, nếu trái chức phận mà sống thì chẳng thà chết còn hơn! ngày xưa Triệu Xuyên giết Tấn Linh công, quan thái sử là Đổng Hổ cho rằng Triệu Thuẫn là chính khanh mà không biết trị tội qân giặc, bèn chép rằng: “Triệu Thuẫn giết vua là Di Cao” thế mà Triệu Thuẫn không lấy làm quái . Thế thì biết chức phận của người làm sử không thể bỏ được! nếu tôi không chép, trong thiên hạ tất cũng có người khác chép! tôi không chép cũng không có thể che được sự xấu của quan tướng quốc, mà lại để cho thức giả chê cười, nên tôi liều chết mà chép, xin tướng quốc cứ tuỳ ý định đọat!

Thôi Trữ thở dài mà nói rằng:

– Ta sợ nước nhà nghiêng đổ, bất đắc dĩ mà phải làm việc này! nhà ngươi dẫu chép thẳng, thiên hạ cũng xét tấm lòng cho ta!

Nói xong, liền ném cái thẻ đưa trả Quí . Quí cầm cái thẻ đi ra, sắp đến cửa sử quán, lại gặp Nam Sử Thị, Quí hỏi đi đâu, Nam Sử Thị nói:

– Ta nghe nói anh em nhà ngươi đều chết cả, sợ bỏ mất cái việc ngày ất hợi, tháng 5, mùa hạ mới rồi, vậy nên ta cầm thẻ đến để chép .

Quí đưa cái thẻ của mình chép cho Nam Sử Thị xem . Nam Sử Thị mới cáo từ mà về .

Thôi Trữ lấy việc thái sử Quí chép thẻ làm xấy hổ, mới đổ tội cho Giả Thụ mà giết đi .

Cũng trong tháng ấy, Tấn Bình công thấy nước sông đã rút xuống, lại họp chư hầu ở Di Nghi, để bàn mưu đánh Tề . Thôi Trữ sai quan tả tướng là Khánh Phong đem việc Tề Trang công bị giết mà cáo với quân Tấn và nói rằng:

– Triều thần chúng tôi sợ đại quốc hỏi tội thì nguy cho xã tắc chúng tôi, cho nên đã thay đại quốc mà trừ kẻ có tội và đã lập vua mới là Chử Cữu . Từ nay xin một lòng thần phục đại quốc . Khi trước đại quốc đã chiếm đất Triều Ca thì xin đem đất ấy dâng đại quốc, ngoài ra còn có những tế khí và nhạc khí cũng xin đại quốc thu nạp cho .

Lại đem lễ vật biếu các vua chư hầu nữa . Tấn Bình công bằng lòng, rút quân về nước . Các vua chư hầu cũng đều về cả . Từ bấy giờ Tề và Tấn lại giảng hoà với nhau . Thực Xước ở nước Vệ, nghe nói Châu Xước và Hình Khóai đều chết cả, lại trở về nước Tề . Khi Vệ Hiến công (Hãn) trống sang nước Tề, vốn biét Thực Xước là người vũ dũng, bèn sai công tôn Đinh đem lễ vật đến triệu . Thực Xước lại theo Vệ Hiến công .

Năm ấy vua nước Ngô là Chư Phàn sang đánh Sở đi qua nước Sào, đem quân đánh cửa thành . Tướng nước Sào là Ngưu Thần đứng nấp ở bên cái tường thấp bắn chết Chư Phàn . Triều thần nước Ngô theo lời dặn của Thọ Mộng khi gần chết, mới lập em Chư Phàn là Dư Sái lên làm vua . Dư Sái nói:

– Anh ta không phải vì đất Sào mà chết, chẳng qua theo lời dặn của tiên vương (tro Thọ Mộng) mà cố ý liều chết, để ngôi chóng truyền đến Qui Trát (em Dư Sái) đó mà thôi!

Từ bấy giờ Dư Sái đêm nào cũng khấn trời để cầu cho mình chóng chết . Các quan đều nói:

– Người ta ai cũng muốn thọ, nay đại vương lại muốn mình chóng chết, chẳng cũng trái nhân tình lắm sao ?

Dư Sái nói:

– Vua Thái vương ta ngày xưa bỏ con lớn lập con nhỏ, mới nên được đại nghiệp, nay anh em ta bốn người, cứ theo thứ tự mà truyền ngôi cho nhau, nếu ai cũng thọ cả thì Quí Trát già mất! bởi vậy ta phải cầu cho chóng chết .

Lại nói chuyện quan đại phu nước Vệ là Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đã đuổi Vệ Hiến công (Hãn), mới lập em Vệ Hiến công lên làm vua (tức là Vệ Thương công) . Sau Ninh Thực ốmg nặng, bảo con là Ninh Hi rằng:

– Họ Ninh ta, mấy đời nay vẫn một lòng trung quân . Việc đuổi vua này là tự họ Tôn cả, chứ ta không có ý gì, thế mà người trong nước đều bảo là họ Tôn và họ Ninh đuổi vua, ta không thể nào giải tỏ ra được, còn mặt mũi nào mà trông thấy tổ phụ ở dưới đất! con làm thế nào mà đem được vua cũ về để chuộc lỗi cho ta, thế mới là hiếu tử; nếu không thì dẫu con có cúng tế, cha cũng không hưởng đâu!

Ninh Hi sụp lạy, vừa khóc vừa nói:

– Con xin cố gắng!

Ninh Hi nối cha làm chức tả tướng, từ bấy giờ có chí muốn đem Vệ Hiến công về, ngặt vì Thương Công vẫn đi dự hội với các vua chư hầu, trong nước không có biến cố gì cả; quan thượng khanh là Tôn Lâm Phủ lại là cừu địch với Vệ Hiến công, bởi vậy không thể làm thế nào được . Năm thứ 24 đời Chu Linh vương, Vệ Hiến công chiếm được đất Di Nghi, mới sai công tôn Đinh lẻn vào thành Đế Khâu bảo Ninh Hi rằng:

– Nhà ngươi biết đổi lại cái ý của cha mà giúp cho ta về nước thì quyền chính nước Vệ, ta giao hết cho nhà ngươi, ta chỉ giữ một việc cúng tế mà thôi .

Ninh Hi vẫn nhớ lời cha dặn, nay lại thấy Vệ Hiến công nói giao hết quyền chính cho, thì lấy làm mừng lắm, nhưng nghĩ thầm rằng: bây giờ vua Vệ đang mong về nước, cho nên dỗ ngọt ta, đến khi về rồi, lại sinh lòng khác, bấy giờ biết làm thế nào ? nay có công tử Chuyên là người hiền mà thủ tín, nếu hắn nhận cho một lời thì sau này mới không thể sai được . Nghĩ xong liền viết một tờ mật thư đưa lại cho Vệ Hiến công, đại lược nói rằng:

– “Đó là việc lớn nước nhà, một mình tôi không thể làm nổi . Người trong nước ngày nay ai cũng có lòng tin lời Tử Tiên (tên tự công tử Chuyên), nếu được công tử nhận cho một lời thì mới có thể bàn định được”.

Vệ Hiến công bảo công tử Chuyên rằng:

– Ta có phục quốc được là nhờ tay Ninh Hi, vậy em nên gắng đi cho ta một chuyến .

Công tử Chuyên tuy nhận lời, nhưng vẫn nấn ná không chịu đi . Vệ Hiến công cố giục mãi . Công tử Chuyên nói:

– Thiên hạ có vua nào lại không nắm quyền chính! chúa công bảo rằng giao hết quyền chính cho Ninh Hi, tôi chắc sau này không giữ lời được, chẳng khiến cho tôi thất tín với Ninh Hi lắm sao! bởi vậy tôi không dám vâng lệnh .

Vệ Hiến công nói:

– Nay ta nương náu ở đây thì lấy đâu làm quyền chính! nếu ta giữ được việc cúng tế tiền nhân, thì cũng là mãn nguyện rồi, khi nào lại dám sai lời để lụy đến em .

Công tử Chuyên nói:

– Chúa công đã nhất quyết thì tôi nào dám từ chối để hỏng việc của chúa công .

Nói xong, liền lẻn sang Đế Khâu, vào yết kiến Ninh Hi, lại thuật cái ước của Vệ Hiến công . Ninh Hi nói:

– Nếu công tử nhận lời cho thì tôi xin hết sức!

Công tử Chuyên ngửa mặt lên trời mà thề rằng:

– Nếu tôi trái lời thì không được ăn thóc của nước Vệ!

Ninh Hi nói:

– Lời thề của công tử vững như núi Thái Sơn!

Công tử Chuyên về, thuật lại cho Vệ Hiến công nghe, Ninh Hi đem lời dặn của cha nói với Cử Viên . Cử Viên bưng tai mà chạy, vừa chạy vừa nói:

– Tôi đã không dự đến việc vua đi, có đâu dám biết đến việc vua về!

Cử Viên liền bỏ nước Vệ sang ở nước Lỗ . Ninh Hi lại đem chuyện nói với quan đại phu là Thạch Ác (con Thạch Giả, cháu Thạch Tắc) và Bắc Cung Di (con Bắc Cung Quát) . Thạch Ác và Bắc Cung Di đều tán thành . Ninh Hi lại đem chuyện nói với hữu tề Cốc .

Hữu tề Cốc gạt đi mà bảo rằng:

– Không nên! lập vua mới đã mười một năm rồi, vua mới chưa có điều gì thất đức, nay định đem vua cũ về, tất phải bỏ vua mới . Nếu vậy thì cha con nhà ngươi, hai đời đều có tội cả, thiên hạ còn ai tha được nữa!

Ninh Hi nói:

– Ta chịu lời dặn của tiền nhân ta, không thể không làm việc này được .

Hữu tể Cốc nói:

– Ta thử đi yết kiến vua cũ, xem đức tính có hơn ngày xưa không, rồi mới có thể bàn được .

Ninh Hi khen phải . Hữu tể Cốc bèn lẻn sang Di Nghi, xin vào yết kiến Vệ Hiến công, Vệ Hiến công đang rửa chân, nghe tin hữu tể Cốc đến, không kịp xỏ giày, đi chân đất mà ra, hớn hở bảo hữu tể Cốc rằng:

– Nhà ngươi từ chỗ quan tả tướng (trỏ Ninh Hi) mà đến đây, tất có tin hay .

Hữu tể Cốc nói

– Tôi tiện đường sang thẳng đây, quan tả tướng không biết .

Vệ Hiến công nói:

– Nhà ngươi chỉ có việc nói giúp cho ta với quan tả tướng rằng nên mau mau làm xong việc lớn ấy đi . Quan tả tướng dẫu không muốn đem ta về, nhưng há lại không muốn được cầm quyền chính nước Vệ hay sao ?

Hữu tể Cốc nói:

– Làm vua chỉ thích vì có quyền chính trong tay, nếu không có quyền chính thì làm vua làm gì ?

Vệ Hiến công nói:

– Không phải thế! làm vua chỉ cốt được cái danh hiệu tôn qúi, ăn ngon mặc tốt, lên xe xuống ngựa, cửa cao nhà rộng, của lắm tiền nhiều, vào trong thì vui thú với đám phi tần, ra ngòai thì dong chơi về sự săn bắn, cứ gì phải có cầm quyền chính, mới là sướng hay sao!

Hữu tể Cốc nín lặng mà lui ra, lại vào yết kíên công tử Chuyên, và thuật những lời nói của Vệ Hiến công cho công tử Chuyên nghe . Công tử Chuyên nói:

– Bởi chúa công lưu lại lâu ngày, mong được về nước, cho nên nói như vậy! chứ làm vua thì cốt phải kính lễ đại thần, thu dụng hiền tài, làm việc gì phải có lòng nhân, nói câu gì phải giữ chữ tín, như vậy thì mới giữ được cái danh hiệu tôn quí . Chúa công còn lại gì mà không biết điều ấy!

Hữu tể Cốc bảo Ninh Hi rằng:

– Ta vào yết kiến chúa công, nghe câu nói thêm bẩn cả tai! chúa công vẫn giữ thói cũ .

Ninh Hi nói:

– Thế nhà ngươi có vào yết kiến công tử Chuyên hay không ?

Hữu tể Cốc nói:

– Công tử Chuyên nói phải lắm nhưng chắc chúa công không theo được!

Ninh Hi nói:

– Ta trông cậy vào công tử Chuyên, và lại ta vâng lời dặn của cha ta thuở xưa, thế nào ta cũng phải giúp!

Hữu tể Cốc nói:

– Có muốn khởi sự cũng còn phải chờ cơ hội đã .

Bấy giờ Tôn Lâm Phủ đã già, cùng với con trưởng là Tôn Khoái về ở Thích Ấp; mà để cho con thứ là Tôn Gia và Tôn Tương ở trong triều . Tôn Gia phụng mệnh Vệ Thương công sang sứ nước Tề, chỉ có một mình Tôn Tương ở nhà . Nhân bấy giờ Vệ Hiến công lại sai công tôn Đinh đến giục Ninh Hi khởi sự, hữu tể Cốc mới bảo Ninh Hi rằng:

– Nhà ngươi muốn khởi sự, nên nhân dịp này! ta bắt được Tôn Tương thì xong việc!

Ninh Hi khen phải, liền sai hữu tể Cốc và công tôn Đinh đem quân đến bắt Tôn Tương . Phủ đệ của họ Tôn kiên cố lắm, không kém gì cung vua, có gia giáp một nghìn người, lại có hai viên gia tướng là Ung Thư và Chử Đái thay nhau đi tuần phòng . Hôm ấy, Chử Đái đang đi tuần, trông thấy hữu tể Cốc đem quân đến, vội vàng đóng cửa, trèo lên trên lầu đứng hỏi . Hữu tể Cốc nói:

– Ta có việc cần muốn thương nghị với Tôn tướng quân .

Chử Đái nói:

– Muốn thương nghị, sao lại đem quân đến ?

Nói xong, toan giương cung ra bắn . Hữu tể Cốc vội vàng lui lại, rồi thúc quân phá cửa . Tôn Tương cũng thân hành đứng ở trên cửa để đốc quân chống giữ . Chử Đái truyền cho quân sĩ giương cung chõ ra cửa sổ mà bắn, có mấy người chết .

Ung Thư nghe nói có giặc, cũng đem quân đến tiếp ứng .

Hữu tể Cốc biết chừng không đánh nổi, bèn rút quân trở về . Tôn Tương thúc quân đuổi theo . Khi đến nơi, Tôn Tương cầm cái câu liêm móc vào xe hữu tể Cốc mà lôi lại . Hữu tể Cốc kêu to, bảo công tôn Đinh bắn mau . Công tôn Đinh trông thấy Tôn Tương, liền giương cung ra, bắn trúng vào ngực . Ung Thư và Chử Đái vội vàng đến cứu đem về . Hữu tể Cốc về nói với Ninh Hi rằng:

– Nhà họ Tôn khó đánh lắm . Nếu không nhờ về thần tiễn của công tôn Đinh bắn trúng Tôn Tương thì hắn còn đuổi theo ta mãi .

Ninh Hi nói:

– Lần thứ nhất mà đã không đánh được hắn thì lần sau càn khó đánh nữa! nhưng đã bắn trúng được Tôn Tương thì quân sĩ tất nhiên rối loạn, đêm hôm nay ta lẻn đến mà đánh, nếu không thành công, thì phải tức khắc trốn đi, để tránh tai vạ . Ta cùng họ Tôn quyết không thể cùng sống đựơc .

Nói xong, liền một mặt sắp sửa đồ đạc, cho vợ con ra ngoài cõi trước, vì sợ thua quân, thóat thân không kịp; lại một mặt sai người đi do thám tin tức nhà họ Tôn . Quân thám tử về bảo rằng:

– Trong nhà họ Tôn, có tiếng kêu khóc . Kẻ ra người vào coi bộ bối rối lắm .

Ninh Hi nói:

– Đó tất là Tôn Tương bị thương nặng đã chết rồi!

Nói chưa dứt lời thì bỗng thấy Bắc Cung Di đến, nói Tôn Tương đã chết, nên đánh ngay mới được . Canh ba đêm hôm ấy, Ninh Hi cùng với Bắc Cung Di, hữu tể Cốc và công tôn Đinh đem quân đến nhà họ Tôn . Ung Thư và Chử Đái đang ôm lấy thi thể Tôn Tương mà khóc, nghe báo có quân họ Ninh đến liền mặc áo giáp lên ngựa, thì quân họ Ninh đã phá vỡ lần cửa ngoài . Bọn Ung Thư vội vàng đóng cửa giữ lại, nhưng quân sĩ bỏ chạy tán loạn cả, không có người chống giữ, cũng bị quân họ Ninh phá vỡ . Ung Thư trèo qua tường sau mà trốn, chạy say Thích Ấp . Chử Đái chết trong đám loạn quân .

Bấy giờ trời đã sáng rõ . Ninh Hi chém lấy đầu Tôn Tương, đem vào yết kiến Vệ Thương công mà nói rằng:

– Họ Tôn chuyên quyền đã lâu, vẫn có ý phản nghịch, tôi đã đem quân đến đánh chém được đầu Tôn Tương đây rồi .

Vệ Thương công nói:

– Họ Tôn phản nghịch, sao nhà ngươi không nói trước với ta ? Nhà ngươi đã chẳng coi ta ra gì thì còn đến yết kiến ta làm gì nữa!

Ninh Hi đứng dậy, rút gươm mà nói rằng:

– Chúa công là bởi họ Tôn lập lên, không phải là do phụng mệnh tiên quân, nay dân nước Vệ đều có lòng nhớ vua cũ, xin chúa công nhường ngôi lại, để nên được cái đức Nghiêu Thuấn .

Vệ Thương công nổi giận nói:

– Nhà ngươi tự tiện giết kẻ thế thần, toan sự bỏ vua, chính là người bề tôi phản nghịch! ta lên làm vua đã mười ba năm trời nay, thà chết thì thôi chứ không chịu nhục!

Vệ Thương công tức thì cầm giáo đuổi theo Ninh Hi . Ninh Hi lui ra ngoài công môn . Vệ Thương công trông thấy quân họ Ninh đã đứng đầy cả ở ngoài cửa, mới lùi trở lại . Ninh Hi hô quân xông lên bát Vệ Thương công . Thế tử Dốc tiến ra ngăn quân sĩ bị công tôn Đinh giết chết . Quân sĩ của Ninh Hi bắt Vệ Thương công giam lại, sau đó buộc Thương công uống thuốc độc chết .

Vệ Hiến công về thành Đế Khâu cho Ninh Hi làm tướng quốc; bọn công tôn Đinh, công tử Chuyên, Bắc Cung Di, Tề Ác, Thạch Ác, công tôn Miễn Dư, Hữu tể Cốc, Cử Viên đều được phong quan tước cả .

Riêng Thái Thúc Nghi là con Thành công, cháu Văn công không đến gặp Vệ Hiến công và không chịu nhận quan tước Hiến công phải sai người thuyết phục mãi Thái Thúc Nghi mới nghe lệnh .

Tôn Gia đi sứ ở Tề về nghe tin có biến liền không về Đế Khâu mà đến với Tôn Lâm Phủ ở Thích Ấp . Tôn Lâm Phủ, Ung Thư, Tôn Gia biết không chống nổi Vệ Hiến công liền sai người sang Tấn xin thần phục Tấn và xin Tấn đem quân đánh Vệ . Vua Tấn chỉ cho ba trăm quân sang Vệ . Ninh Hi sai tướng đem quân vây chặt ba trăm quân Tấn . Tôn Lâm Phủ bàn với Tôn Gia và Ung Thư:

– Chỉ có ba trăm quân Tấn thì làm sao chống được quân Vệ, chi bằng cứ để Ninh Hi giết hết đám quân Tấn này, Tấn Bình công sẽ căm giận mà mang đại quân diệt Vệ .

Thế là Tôn Lâm Phủ không cho người tiếp cứu quân Tấn và ba trăm quân Tấn bị tiêu diệt hoàn toàn.

Chương 66: Miễn Dư giết hại nhà Ninh Hi – Thôi Trữ mắc lừa mưu Khánh Phóng

Sau khi giết chết ba trăm quân Tấn, Ninh Hi sai Thực Xước đem quân đến Thích Ấp tìm cha con Tôn Lâm Phủ hỏi tội . Tôn Khoái biết Thực Xước sức khỏe muôn người khôn địch nên phàn nàn với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ nổi giận mắng Tôn Khóai rằng:

– Chỉ mới mộ tên vô danh nước Tề mà đã lo sợ hết vía thì làm sao chống lại được quân Vệ . Thôi liệu mà đem quân ra trận chiến thắng trở về .

Tôn Khóai buồn rầu mà lui ra, cùng với Ung Thư thương nghị, Ung Thư nói:

– Thực Xước một mình địch nổi muôn người, khó lòng đánh nổi, ta nên phải dùng kế mà lừa thì mới được .

Tôn Khóai nói:

– Phía tây đất Mao Thị, có một chỗ tên gọi Vi Thôn, chung quanh cây cối rậm rạp; giữa thon có một cái núi đất nhỏ, ta sai người đào hố ở trên núi, lấy cỏ phủ lên cho kín . Nhà ngươi dụ hắn đến đấy, rồi ta đóng quân ở trên núi, xỉ mắng hắn một lúc, tất nhiên hắn phải nổi giận mà xông lên đánh, tất là mắc kế của ta đó!

Ung Thư theo lời, đem quân sang đất Mao Thị, giả cách đi do dám . Khi gặp quân Thực Xước, Ung Thư làm ra dáng sợ hãi, quay đầu bỏ chạy . Thực Xước cậy có sức khoẻ, lại thấy Ung Thư ít quân, tức khắc đuổi theo . Ung Thư chạy quanh mãi về đến Vi Thôn, rồi đi tắt vào trong đám cây rậm . Thực Xước nghi trong đám cây rậm có quân phục, không dám tiến vào; bỗng thấy trên ngọn núi đất có một toán quân và một viên tướng hãy còn trẻ tuổi . Viêng tướng ấy réo tên Thực Xước mà mắng rằng:

– Mày là một đứa không ra gì ở nước Tề . Họ Loan đã xem mày như đồ bỏ, không thể dùng được; nay mày đem thân sang ăn hại nước Vệ, chẳng biết xấu hổ, lại còn thò mặt ra . Mày không biết họ Tôn ta là một nhà thế thần để tám đời rồi hay sao, mà dám xâm phạm, thật là không bằng giống cầm thú!

Thực Xước nghe nói nổi giận . Trong quân có người biết mặt Tôn Khóai, mới nói với Thực Xước rằng:

– Viên tướng ấy là con trưởng Tôn Lâm Phủ, tên gọi Tôn Khóai .

Thực Xước nói:

– Ta bắt được Tôn Khoái, tức là trừ được nửa Tôn Lâm Phủ!

Thực Xước tức thì giục ngựa thẳng tới chân núi, chẳng ngờ cả người lẫn ngựa, ngã lăn xuống hố . Tôn Khoái đã sai quân sĩ sắp sẵn cung tên, để khi Thực Xước ngã xuống thì xún lại mà bắn . Thực Xước chết ở dưới hố . Tôn Khoái dùng câu liêm kéo thi thể lên rồi cắt lấy đầu đem về nộp Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ nói:

– Bây giờ nếu nước Tấn trách ta không cứu để cho quân Tấn bị giết thì ta có lỗi, chi bằng ta giấu việc này đi mà nói là thua .

Nói xong, liền sai Ung Thư sang cáo cấp với nước Tấn . Tấn Bình công nghe tin quân Tấn bị giết, có ý giận, sai quan chính khanh là Triệu Vũ đại hội chư hầu ở đất Thiều Uyên, sắp đem quân đánh Vệ . Vệ Hiến công và Ninh Hi thân hành sang nước Tấn kể tội Tôn Lâm Phủ . Tấn Bình công bắt giam lại . Quan đại phu nước Tề là Án Anh nói với Tề Cảnh công rằng:

– Vua Tấn vì Tôn Lâm Phủ mà bắt vua Vệ, như thế thì những đứa cường thần đều cậy quyền mà làm càn! chúa công nen sang xin với vua Tán, khiến cho trọn cái ơn khi ở Lai Thành .

Tề Cảnh công khen phải, liền sai sứ ước với Trịnh Giản công để cùng sang nước Tấn xin hộ cho vua Vệ . Tấn Bình công dẫu có ý nể, nhưng trước đã nghe lời Tôn Lâm Phủ, cho nên chưa kịp tha vua Vệ . Án Anh nói riêng với Dương Thiệt Bật rằng:

– Nước Tấn là bá chủ thì chức phận của nước Tấn là phải đè nén kẻ cường bạo, bênh vực kẻ hèn yếu . Tôn Lâm Phủ khi trước đuổi vua, ta đã không đem quân đến đánh, nay lại còn bắt giam vua Vệ để giúp Tôn Lâm Phủ, như thế phỏng còn ai dám làm vua nữa ? ngày xưa Tấn Văn công nghe lầm lời nói của Nguyên Huyến mà bắt Vệ Thành công đem nộp thiên tử nhà Chu, thiên tử nhà Chu còn chê là trái lễ, Văn công xấu hổ mà phải tha, huống chi mình là chư hầu mà lại bắt giam vua chư hầu là nghĩa làm sao ? các ngài không biết can, thế là tư vị bề tôi mà đè nén vua, tài nào cho khỏi mang tiếng! tôi chỉ sợ nước Tấn không giữ được nghiệp bá nữa, cho nên phảii nói riêng với ngài .

Dương Thiệt Bật liền nói với Triệu Vũ để cố xin với Tấn Bình công . Tấn Bình công tha cho Vệ Hiến công về nước, nhưng vẫn không chịu tha Ninh Hi . Hữu tể Cốc bảo Vệ Hiến công đem mười hai nữ nhạc công sang dâng vua Tấn để xin chuộc Ninh Hi . Tấn Bình công bằng lòng, tha cho Ninh Hi về . Ninh Hi từ khi về, càng có ý tự phụ, việc gì cũng tự tiện quyết đoán, không bẩm mệnh Vệ Hiến công . Các quan đại phu vẫn đến họp ở nhà riêng Ninh Hi để bàn việc chính tri . Vệ Hiến công chỉ ngồi khoanh tay, không dự một việc gì cả .

Bấy giờ quan tá sư nước Tống là Hướng Thú (cháu huyền tôn của Tống Hoàn công) quen thân với Triệu Vũ nước Tấn, lại quen thân cả với quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến nữa . Hướng Thú sang sứ nước Sở, nói đến việc Hoa Nguyên nước Tống ngày xưa, muốn cho Tấn và Sở giảng hoà với nhau . Khuất Kiến nói:

– Việc ấy rất hay! chỉ vì chư hầu chia rẽ mà cuộc giảng hoà không thành, bây giờ làm sao cho các thuộc quốc của Tấn và Sơ đều giao hiếu với nhau, coi nhau như một nhà, thì nạn binh đao mới có thể dẹp yên được .

Hướng Thú khen phải, liền xướng nghị vua Tấn và vua Sở hội nhau ở nước Tống để cùng nhau giảng hoà . Nước Sở từ đời Cung Vương đến bấy giờ, thường bị nước Ngô xâm nhiễu . Khuất Kiến muốn kết liên với Tấn để được chuyên một mặt chống cự nước Ngô; còn Triệu Vũ thì nhân thấy quân Sở hay sang đánh Trịnh, cũng muốn giảng hoà cho được yên việc, bởi vậy hai bên đều đồng ý sai sứ đi báo ngày hội với các thuộc quốc của mình . Khi sứ nước Tấn đến nước Vệ, Ninh Hi không báo cho Vệ Hiến công biết, mà sai Thạch Ác đi dự hội . Vệ Hiến công nghe nổi giận lắm, phàn nàn với công tôn Miễn Dư . Công tôn Miễn Dư nói:

– Tôi xin lấy lẽ phải đến trách bảo Ninh Hi .

Rồi đến bảo Ninh Hi rằng:

– Hội với chư hầu là một việc lớn, sao ngài lại không báo cho chúa công biết ?

Ninh Hi phật ý nói:

– Khi trước công tử Chuyên đã có ước với ta, ta ví như các bề tôi khác thế nào được!

Công tôn Miễn Dư về nói với Vệ Hiến công rằng:

– Ninh Hi vô lễ quá lắm, sao chúa công không giết đi .

Vệ Hiến công nói:

– Nếu khong có Ninh Hi thì sao ta được thế này! ta đã có lời ước, không nên hối lại .

Công tôn Miễn Dư nói:

– Tôi chịu ơn chúa công, không biết lấy gì mà đền lại được, xin tự đem gia thuộc trừ bỏ họ Ninh đi, nếu việc thành thì lợi cho chúa công, mà không thành thì chỉ một mình tôi chịu hại mà thôi . Vệ Hiến công nói:

– Nhà ngươi liệu mà làm, chớ để di lụy đến ta .

Công tôn Miễn Dư đến bảo hai người em họ là công tô Vô Địa và công tôn Thần rằng:

– Quan tướng quốc (trở Ninh Hi) chuyên quyền, các ngươi hẳn đã biết! chúa công ta câu nệ một chữ tín, ẩn nhẫn không chịu nói, mai sau thế lực hắn một ngày một to thì tai vạ cũng chẳng kém gì họ Tôn trước, biết làm thế nào ? công tôn Vô Địa và công tôn Thần nói:

– Sao không giết đi ?

Công tôn Miễn Dư nói:

– Ta đã nói với chúa công, nhưng chúa công không theo chi bằng chúng ta nổi lên mà giết hắn, may mà thành sự thì là phúc cho chúa công, nhược bằng không thành thì chúng ta chẳng qua cũng đến trốn sang nước khác là cùng!

Công tôn Vô Địa nói:

– Hai anh em tôi xin đi tiên phong!

Công tôn Miễn Dư xin cùng thề . Bấy giờ nhà Ninh Hi đang mở tiệc xuân yến, công tôn Vô Địa bảo công tôn Miễn Dư rằng:

– Nhà Ninh Hi đang mở tiệc xuân yến, tất không có phòng bị, để tôi xin thử vào trước, rồi nhà ngươi vào theo sau .

Công tôn Miễn Dư nói:

– Sao không bói xem ?

Công tôn Vô Địa nói:

– Việc tất phải làm, còn bói chi nữa!

Công tôn Vô Địa và công tôn Thần đem quân đến nhà Ninh Hi . Phía trong cửa nhà Ninh Hi xưa nay vẫn có đặt một cái cạm . Cái cạm ấy, là một cái hố sau, trên lát ván gỗ, dưới có cựa gà; hễ chạm phải cựa gà thì ván gỗ ấy bật lên mà người ngã xuống hố . Thường thì cái cạm ấy ban ngày cất đi, đêm lại đem ra, để phòng giữ quân gian .

Ngày hôm ấy, nhà Ninh Hi nhân có mở tiệc xuân yến; người nhà tụ họp cả ở nhà trong, đang xem làm trò, không có ai trông cửa, nên mới đặt cái cạm ấy để khỏi phải canh giữ . Công tôn Vô Địa không biết, chạm phải cựa gà, ngã lăn xuống hố . Người nhà Ninh Hi kinh động tranh nhau kéo ra, bắt được công tôn Vô Địa . Công tôn Thần cầm giáo đến cứu, nhưng người nhà Ninh Hi đông lắm, không thể nào địch nổi, liền bị giết chết .

Ninh Hi hỏi công tôn Vô Địa rằng:

– Ai xui nhà ngươi đến đây ?

Công tôn Vô Địa trừng mắt mắng rằng:

– Mày cậy công chuyên quyền, làm tôi không trung . Anh em ta vì nước giết mày, nay việc không thành là tại số mệnh, ai xui ta được!

Ninh Hi giận lắm, trói công tôn Vô Địa vào cột, đánh cho đến chết, rồi mới đem chém . Hữu tể Cốc nghe tin Ninh Hi bắt được quân gian, đang đêm đi xe đến để hỏi thăm . Người nhà Ninh Hi vừa mới ra mở cửa thì gặp công tôn Miễn Dư đem quân đến; công tôn Miễn Dư thưa cơ lẻn vào, chém ngay hữu tể Cốc ở bên ngoài cửa . Người nhà Ninh Hi bấy giờ náo động cả lên . Ninh Hi trong khi hoảng hốt, chưa hiểu đầu đuôi, liền hỏi:

– Người nào nổi loạn làm vậy ?

Công tôn Miễn Dư nói:

– Cả nước đều một lòng như thế, định hỏi người nào!

Ninh Hi sợ hãi bỏ chạy . Công tôn Miễn Dư cầm gươm đuổi theo, chạy quanh cái cột ba vòng . Ninh Hi bị hai mũi gươm, chết ở chân cột . Công tôn Miễn Dư giết hết người nhà Ninh Hi, rồi về báo với Vệ Hiến công . Vệ Hiến công truyền đem thi thể Ninh Hi và hữu tể Cốc bày ở trong triều . Công tử Chuyên nghe nói, vội vàng đi chân vào thẳng trong triêu, ôm lấy thi thể Ninh Hi mà khóc rằng:

– Không phải là chúa công thất tín, chính tại ta lừa nhà ngươi! nhà ngươi chết, ta còn mặt mũi nào đứng ở triều đình nước Vệ này nữa!

Khóc xong, lại kêu trời ba tiếng thật to, rồi về nhà, tức khắc đem cả vợ con trốn sang nước Tấn . Vệ Hiến công sai người mời ở lại . Công tử Chuyên không nghe . Khi đi đến sông Hà, Vệ Hiến công lại sai quan đại phu là Tề Ác đuổi theo mời lại . Công tử Chuyên nói:

– Muốn cho ta trở về nước Vệ . Phải làm thế nào cho Ninh Hi sống lại mới được .

Tề ác biết là không thể nói được, phải quay trở về . Công tử Chuyên trốn sang nước Tấn, ẩn ở đất Hàm Đan . Vợ chồng con cái làm nghề khâu giày để kiếm ăn, cả đời không nói gì đến chuyện nước Vệ nữa . Tề Ác về nói với Vệ Hiến công . Vệ Hiến công thở dài, truyền mai táng cho Ninh Hi và hữu tể Cốc, lại muốn lập công tôn Miễn Dư làm chức chính khanh . Công tôn Miễn Dư nói:

– Tôi chưa có danh vọng gì cả, xin chúa công hãy dùng Thái Thúc Nghi .

Vệ Hiến công liền cho Thái Thúc Nghi coi giữ quyền chính . Từ bấy giờ nước Vệ mới hơi được yên ổn .

Lại nói chuyện quan tả sứ nước Tống xướng nghị Tấn, Sở bãi binh . Bấy giờ quan chính khanh nước Tấn là Triệu Vũ, quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến, đều đến hội ở nước Tống . Các quan đại phu các nước cũng đều lục tục đến cả . Thuộc quốc của nước Tấn và Lỗ, Vệ, Trịnh theo nước Tấn đóng dinh ở phía tả . Thuộc quốc của nước Sở là Sái, Trần, Hứa theo nước Sở đóng dinh ở phía hữu . Nướg Tống là chủ .

Hai bên nghị định : cứ chiếu lệ đến kỳ triều sinh thì thuộc quốc nước Sở đến triều sinh nước Tấn, thuộc quốc nước Tấn đến triều sinh nước Sở . Còn nước lớn như Tề, Tống thì cho là ngang hàng, không thể vào số thuộc quốc . Thuộc quốc nhỏ của Tấn như Châu, Cử, Đằng, Tiết; thuộc quốc nhỏ của Sở như Đốn, Hổ, Thẩm, Mi nước nào có đủ vật lực triều sính được thì tuy ý, bằng không thì cho phụ theo với các nước lân cận . Nghị định như vậy, rồi sắp sửa làm lễ ăn thề ở cửa tây nước Tống . Khuất Kiến nước Sở mật truyền cho quân sĩ đều mặc áo giáp ở trong mình, để định đến lúc thề thì xông vào mà giết Triệu Vũ nước Tấn . Bá Châu Lê cố can, Khuất Kiến mới thôi . Triệu Vũ nghe nói quân Sở mặc áo giáp ở trong, mới hỏi Dương Thiệt Bật để nghĩ cách phòng bị . Dương Thiệt Bật nói:

– Hội thề lần này là cốt để bãi binh, nếu nước Sở làm như vậy thì nước Sở thất tín với chư hầu trước, chư hầu còn ai phục nữa . Ngài nên thủ tín, không can chi mà lo ngại!

Đến lúc sắp hội thề, Khuất Kiến nước Sở muốn vào sáp huyết trước, mới sai Hướng Thú truyền bảo cho nước Tấn biết . Hướng Thú đến dinh quân Tấn, không dám nói ra, người theo hầu phải nói thay cho Hướng Thú . Triệu Vũ nói:

– Tiên quân ta là vua Văn công ngày xưa, phụng mệnh thiên tử nhà Chu ở đất Tiễn Thổ, làm chủ chư hầu, thì sao nước Sở lại sáp huyết trước nước Tấn được ?

Hướng Thú về, thuật chuyện lại với Khuất Kiến, Khuất Kiến nói:

– Nếu nói đến vương mệnh thì nước Sở ta cũng phụng mệnh vua Huệ vương nhà Chu . Tấn và Sở ngang hàng với nhau, Tấn làm chủ đã lâu ngày nên phải nhường lại cho Sở, nếu không thì hóa ra Sở vẫn phải chịu kém Tấn, sao gọi là ngang hàng được!

Hướng Thú lại sang nói lại với Triệu Vũ . Triệu Vũ nhất định không nghe . Dương Thiệt Bật bảo Triệu Vũ rằng:

– Làm bá chủ cốt ở đức, chứ không ở thề! có đức thì dẫu sáp huyết sau, chư hầu cũng vẫn tin theo; không có đức thì dẫu sáp huyết trước, chư hầu cũng làm phản . Vả chăng hội thề lần này là chủ ý để bãi binh, mà bãi binh là một việc lợi cho thiên hạ, nếu tranh nhau sáp huyết thì phải dụng binh, dụng binh thì phải thất tín, ngài nên nhường cho Sở sáp huyết trước .

Triệu Vũ nghe lời, nhường cho nước Sở sáp huyết trước . Hai bên quyệt máu, cùng thề, rồi đâu về đấy . Quan đại phu nước Vệ là Thạch Ác đang dự hội, nghe tin Ninh Hi bị giết, không dám trở về nước Vệ, liền theo Triệu Vũ sang ở nước Tấn . Quan hữu tướng nước Tề là Thôi Trữ từ khi giết vua Trang công, lập vua Cảnh công, uy danh lừng lẫy nước Tề . Quan tả tướng là Khánh Phong, tính hay uống rượu, lại hay đi săn bắn, không mấy khi ở nhà, bởi vậy quyền chính ở tay Thôi Trữ cả . Thôi Trữ lại càng ngang ngược lắm . Khánh Phong trong lòng cũng có ý ghét . Thôi Trữ nguyên trước có hẹn với nàng Đường Khương định lập Thôi Minh là đích tử, nhưng thấy trưởng là Thôi Thành bị gãy cánh tay, không nỡ nói ra . Thôi Thành biết y, xin nhường ngôi đích tử lại cho Thôi Minh, mà xin cho mình đất Thôi Ấp để dưỡng lão . Thôi Trữ thuận cho, Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu không nghe mà nói rằng:

– Thôi Ấp tất phải để cho đích tử!

Thôi Trữ bảo Thôi Thành rằng:

– Ta muốn định đem Thôi Ấp phong cho nhà người, nhưng Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu không nghe, biết làm thế nào!

Thôi Thành nói chuyện với Thôi Cương. Thôi Cương nói:

– Ngôi đích tử anh đã nhường cho, mà lại còn tiếc một chỗ Thôi Ấp hay sao ? cha ta hãy còn mà bọn Đông Quách Yển đã ngang ngược như thế; huống chi khi cha ta mất rồi thì anh em chúng ta dẫu cầu làm đầy tớ vị tất đã được!

Thôi Thành nói:

– Ta hãy nhờ quan tả tướng (tức là Khánh Phong) xin hộ cho!

Thôi Thành và Thôi Cương bèn đến nói với Khánh Phong . Khánh Phong nói:

– Thân phụ các ngươi chỉ một mực nghe lời Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu, dẫu ta có nói, cũng vị tất đã nghe . Ta e sau này bọn ấy lại làm hại thân phụ các ngươi mà thôi, sao các ngươi không trừ đi ?

Thôi Thành và Thôi Cương nói:

– Chúng tôi cũng muốn như vậy, nhưng sức hèn tài mọn, không thể làm nổi .

Khánh Phong nói:

– Để thong thả ta nghĩ xem đã!

Thôi Thành và Thôi Cương về . Khánh Phong đem chuyện ấy nói với Lư Bồ Miết . Lư Bồ Miết nói:

– Họ Thôi loạn thì họ Khánh ta càng lợi chứ sao!

Khánh Phong mới nghĩ ra . Được mấy ngày nữa, Thôi Thành và Thôi Cương lại đến, kể những điều ác của Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu . Khánh Phong nói:

– Nếu nhà ngươi xử sự thì ta giúp binh khí cho .

Nói xong, liền đưa cho Thôi Thành và Thôi Cương một trăm chiếc áo giáp rất tốt và binh khí đủ số . Thôi Thành và Thôi Cương mừng lắm, đêm hôm ấy đem quân mặc áo giáp, cầm binh khí, đến phục chung quanh nhà Thôi Trữ . Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu ngày nào cũng đến yết kiến Thôi Trữ . Thôi Thành và Thôi Cương chờ khi Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu vào cửa, truyền cho quân sĩ đổ ra đâm chết . Thôi Trữ nghe tin giận lắm, vội vàng gọi người nhà thắng xe để đi thi người nhà đã bỏ trốn sạch cả rồi, chỉ còn có một người nuôi ngựa ở chuồng ngựa, liền sai người ấy thắng xe và cho một tiểu thụ giong xe, đến yết kíến Khánh Phong, kể lại việc biến ở trong nhà . Khánh Phong giả cách không biết, ngạc nhiên nói:

– Họ Thôi và họ Khánh cũng như một nhà . Mấy đứa trẻ con, sao dám càn dỡ như vậy! ngài có muốn bắt, tôi xin giúp sức .

Thôi Trữ tưởng thật, tạ ân mà nói rằng:

– Nếu ngài trừ hộ hai đứa nghiệt tử ấy để nhà họ Thôi tôi được yên ổn thì tôi xin bắt Thôi Minh phải thờ ngài làm cha .

Khánh Phong liền triệu Lư Bồ Miết đến, sai đem quân đi, rồi dặn kế riêng cho biết, để cứ theo kế đó mà làm . Lư Bồ Miết phụng mệnh, tức khắc đem quân đi ngay . Thôi Thành và Thôi Cương thấy Lư Bồ Miết đem quân đến, đóng cửa không cho vào . Lư Bồ Miết dụ rằng:

– Ta phụng mệnh qua tả tướng (tức là Khánh Phong) tới đây là để làm lợi cho các ngươi, chứ có làm hại gì nhà các ngươi đâu!

Thôi Thành bảo Thôi Cương rằng:

– Hay là quan tả tướng muốn trừ khử Thôi Minh đó chăng ?

Thôi Cương nói

– Cũng có lẽ!

Thôi Cương bèn mở cửa cho Lư Bồ Miết vào . Lư Bồ Miết vào trước, giáp sĩ kéo ồ theo sau . Thôi Thành và Thôi Cương ngăn lại không được, mới hỏi Lư Bồ Miết rằng:

– Quan tả tướng ngài dạy thế nào ?

Lư Bồ Miết nói:

– Thân phụ các ngươi đến kêu với quan tả tướng, quan tả tướng sai ta đi lấy đầu các ngươi .

Nói xong, truyền cho quân giáp sĩ chém lấy đầu Thôi Thành và Thôi Cương . Thôi Thành và Thôi Cương chưa kịp trả lời thì đầu đã rơi xuống đất . Lư Bồ Miết thả cho quân giáp sĩ cướp bóc trong nhà, xe ngựa, phục sức, không còn cái gì, lại đem cửa ngõ phá tan . Nàng Đường Khương sợ hãi, thắt cổ ở trong phòng mà chết; chỉ có Thoi Minh đi vắng, nên không mắc nạn . Lư Bồ Miết treo đầu Thôi Thành và Thôi Cương ở trên xe, rồi về nói lại với Thôi Trữ . Thôi Trữ trông thấy hai đầu con, vừa thương vừa giận, hỏi Lư Bồ Miết rằng:

– Chẳng hay có kinh động nội thất ta hay không ?

Lư Bồ Miết nói:

– Bẩm không, hiện người đang ngủ yên chưa dậy .

Thôi Trữ có ý mừng, bảo Khánh Phong rằng:

– Ta muốn về, ngặt vì đứa tiểu thụ này không quen giong xe, xin cho mượn một người khác .

Lư Bồ Miết nói:

– Để tôi xin giong xe hầu quan tướng quốc .

Thôi Trữ tạ ơn Khánh Phong hai ba lần, rồi lên xe trở về . Khi đến phủ, thấy cửa mở toang cả, không có một người nào, liền đi thẳng vào, đến phòng trong thì thấy nàng Đường Khương thắt cổ, hãy còn treo ở đấy . Thôi Trữ chẳng còn hồn vía nào, toan quay lại hỏi Lư Bồ Miết thì Lư Bồ Miết đã về từ bao giờ rồi! Thôi Trữ đi tìm khắp cả, không thấy Thôi Minh đâu, liền khóc oà lên rằng:

– Nay ta bị Khánh Phong đánh lừa, cửa nhà tan nát, còn sống làm chi nữa!

Nói xong, cũng thắt cổ mà chết . Nửa đêm hôm ấy Thôi Minh lẻn về phủ, lấy trộm thi thể Thôi Trữ và Đường Khương bỏ vào trong một cai áo quan, để lên xe đem ra, đào một cái huyệt ở bên cạnh tổ mộ mà chôn giấu xuống đấy . Chỉ có một mình người coi ngựa biết mà thôi, ngoài ra không ai biết cả . Chôn xong, Thôi Minh trốn sang nước Lỗ .

Khánh Phong tâu với Tề Cảnh công rằng:

– Thôi Trữ có tội giết tiên quân ta thuở xưa, vậy nên tôi phải trừ bỏ .

Tề Cảnh công chỉ ư ừ mà thôi . Từ bấy giờ Khánh Phong một mình làm tướng quốc, sai người đi triệu Trần Tu Vô trở về nước Tề . Trần Tu Vô cáo lão . Con là Trần Vô Vũ được nối chức cha .

Bấy giờ Ngô và Sở thường đánh nhau luôn . Sở Khang vương luyện tập thủy sư để sang đánh Ngô, nhưng Ngô có phòng bị, Sở không làm gì nổi, lại phải rút về . Vua nước Ngô là Dư Sái mới lên làm vua được hai năm, vốn là người cậy có sức khoẻ, hay liều chết, giận nước Sở đến đánh mình, liền sai quan tướng quốc là Khuất Hồ Dung (con Vu Thần) sang dụ nước Thư Cưu là thuộc quốc nước Sở làm phản nước Sở .

Quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến đem quân đánh nước Thư Cửu . Dưỡng Do Cơ (tướng nước Sở) nói với Khuất Kiến xin đi làm tiên phong, Khuất Kiến nói:

– Tướng quân già lắm rối! Thư Cưu là một nước nhỏ, đánh tất phải được, không dám phiền đến tướng quân .

Dưỡng Do Cơ nói:

– Nước ta đánh Thư Cưu thì Ngô tất đem quân sang cứu, tôi đã nhiều lần đánh nhau với quân Ngô, biế hết tình hình, vậy xin theo đi, dẫu chết cũng thoả !

Khuất Kiến thấy Dưỡng Do Cơ nói đến chết, trong lòng cũng hơi áy náy . Dưỡng Do Cơ nói:

– Tôi chịu ơn tiên vương thuở trước vẫn muốn liều mình để báo đáp mà chưa có dịp nào, nay đầu râu đã khác xưa cả, nếu một mai ốm chết ở xó nhà, thì chẳng hóa ra ngài phụ lòng tôi lắm sao!

Khuất Kiến thấy ý Dưỡng Do Cơ đã nhất quyết mới thuận cho đi, sai quan đại phu là Tức Hoàn đi giúp . Dưỡng Do Cơ đi đến Ly Thành (kinh thành nước Thư Cưu) . Em vua Ngô là Di Muội cùng quan tướng quốc là Khuất Hồ Dung đem quân sang cứu nước Thư Cưu . Tức Hoàn muốn đợi đại bih nước Sở kéo đến, rồi mới khai chiến . Dưỡng Do Cơ nói:

– Người nước Ngô chỉ giỏi nghề đánh thuỷ, nay bỏ thuyền lên cạn, mà lại không giỏi bắn cung và giong xe, ta nên nhân lúc họ mới đến mà đánh ngay đi thì có thể phá vỡ được .

Dưỡng Do Cơ tay mang cung tên, xông vào đánh trước, bắn chỗ nào thì chỗ ấy có người chết . Quân Ngô lui chạy, Dưỡng Do Cơ đuổi theo, trông thấy Khuất Hồ Dung ở trên xe, liền mắng rằng:

– Thằng giặc phản quốc kia! mày còn mặt mũi nào mà trông thấy ta nữa!

Dưỡng Do Cơ toan bắn Khuất Hồ Dung . Khuất Hồ Dung quay xe trở lại, đi nhanh như bay . Dưỡng Do Cơ kinh sợ mà nói rằng:

– Người nước Ngô cũng tài nghề dong xe hay sao! tiếc thay ta không bắn ngay một phát!

Nói chưa dứt lời thì quân Ngô đã đem xe vay kín bốn mặt . Các tướng sĩ ở trên xe đều là những tay bắn giỏi cả, hàng vạn cung nỏ cùng bắn một lúc, Dưỡng Do Cơ chếtngay dưới trận mưa tên . Tức Hoàn chạy về báo với Khuất Kiến . Khuất Kiến thở dài mà rằng:

– Dưỡng thúc (tức là Dưỡng Do Cơ) thật là muốn tìm cái chết .

Khuất Kiến liền phục quân ở Nhi Sơn, rồi sai Tử Cương đem quân đi dụ quân Ngô . Tử Cương giao chiến với quân Ngô dược hơn mười hợp thì vội vàng bỏ chạy . Khuất Hồ Dung nghi là có quân phục, không dám đuổi theo . Di Muội trèo lên chỗ cao đứng trông, không thấy quân Sở, bèn bảo Khuất Hồ Dung rằng:

– Quân Sở đã trốn hết rồi!

Di Muội liền kéo ra đuổi . Đuổi đến chân núi Nhi Sơn thì Tử Cương quay lại đánh, phục binh bốn mặt đổ ra, vây kín Di Muội lại . Di Muội cố sức đánh giải vây mà không ra nổi . May nhờ có quân Khúât Hồ Dung đến, mới phá vỡ vòng vây, đem được Di Muội ra . Quân Ngô bị thua bỏ về . Khuất Kiến liền diệt nước Thư Cưu .

Năm sau, Sở Khang vươnng lại muốn đánh Ngô, sai sứ sang mượn quân nước Tấn . Tấn Cảnh công sai em là công tôn Hàm sang giúp . Nước Ngô đem quân giữ vững cửa sông . Quân Sở không thể vào được, liền sang xâm Trịnh vì nước Trịnh lâu nay vẫn thần phục nước Tấn . Quan đại phu nước Sở là Xuyên Phong Thú, bắt được tướng nước Trịnh là Hoàng Hiệt ở trận tiền . Công tử Vi muốn tranh lấy để nhận công . Xuyên Phong Thú không nghe . Công tử Vi lại vào kêu với Sở Khanh vương rằng:

– Tôi đã bắt được tướng nước Trịnh là Hoàng Hiệt, lại bị Xuyên Phong Thú tranh mất .

Được một lúc, Xuyên Phong Thú giải Hoàng Hiệt đến nộp và cũng nói là công tử Vi muốn tranh công . Sở Khanh vương không biết quyết đóan thế nào, mới sai quan thái tể là Bá Châu Lê xét việc ấy . Bá Châu Lê tâu rằng:

– Tù nước Trịnh (trỏ Hoàng Hiệt) là quan đại phu, chứ không phải dân thường, ta hỏi tù nhân thì khắc biết .

Bá Châu Lê để Hoàng Hiệt đứng ở dưới sân, Bá Châu Lê đứng ở bên hữu, công tử Vi và Xuyên Phong Thú đứng ở bên tả, Bá Châu Lê chắp tay hướng vào công tử Vi mà bảo Hoàng Hiệt rằng:

– Ông này là công tử Vi, là em đại vương ta đó .

Lại hướng vào Xuyên Phong Thú, là quan huyện doãn ở ngoài Phương Thành! trong hai ông này, ông nào bắt được nhà ngươi, nhà ngươi phải nói thực .

Hoàng Hiệt nghe nói, hiểu ý Bá Châu Lê thiên vị công tử Vi, mới giả cách trừng mắt nhìn kỹ công tử Vi mà nói rằng:

– Tôi bị công tử bắt được .

Xuyên Phong Thú giận lắm, liền rút ngay cái giám cắm ở giá gần đó, toan đâm chết công tử Vi . Công tử Vi sợ hãi bỏ chạy Xuyên Phong Thú đuổi theo không kịp . Bá Châu Lê khuyên giải mãi, Xuyên Phong Thú mới thôi . Bá Châu Lê nói với Sở Khang vương chia đôi công ấy, rồi lại bày một tiệc rượu, bắt hai người phải giảng hoà với nhau .

Nước Việt giáp giới nước Ngô . Vua nước Việt là dòng dõi vua Vũ nhà hạ, được phong tử Vô Dư, truyền mãi cho đến Doãn Thường . Doãn Thường chăm lo chính sự, nước Việt mới cường thịnh . Nước Ngô thấy nước Việt cường thịnh, lấy làm lo lắm . Vua nước Ngô là Dư Sái lên nối ngôi, mới được bốn năm, đã đem quân sang đánh nước Việt, bắt được một người tôn tộc nước Việt, đem về chặt chân, sai giữ chiếc thuyền Dư Hoàng . Một hôm, Dư Sái đi chơi thuyền, say rượu nằm ngủ, người tôn tộc cởi thanh gươm của Dư Sái, đâm chết Dư Sái, bấy giờ nội thị mới biết, liền giết người tôn tộc ấy đi . Em Dư Sái là Di Muội theo thứ tự lên nối ngôi, giao quyền chính cho Qui Trát . Quí Trát xin bãi việc chiến tranh và thông hiếu với các nước lớn . Di Muội theo lời, liền sai Quí Trát sang sứ nước Lỗ, để xét xem âm nhạc của đời Ngũ đại và của các nước; Quí Trát xem đến đâu, bình phẩm đến đấy, câu nào cũng đích đáng, người nước Lỗ phục là một tay tri âm . Sau sang sứ nước Trịnh, chơi thân với công tôn Kiều; sang nước Vệ, chơi thân với Cử Viên; sang nước Tấn, chơi thân với Triệu Vũ, Hàn Khởi và Ngụy Thư, toàn là những bậc hiền thần đời bấy giờ, xem thế cũng đủ biết Quí Trát là một người hiền đức.

Chương 67: Lư Bồ Quí đuổi được Khánh Phong – Sở Linh Vương tranh làm bá chủ

Con trưởng vua Linh vương nhà Chu tên là Tấn, tên tự là Tử Kiều, vốn người thông minh trời phú, hay thổi ống sinh, theo tiếng chim phượng hoàng . Chu Linh vương lập làm thái tử . Năm mười bảy tuổi, đi chơi sông Y và sông Lạc, lúc về ốm chết . Linh vương thương xót vô cùng . Có người báo rằng:

– Chúng tôi trông thấy thái tử cưỡi con hạc trắng, đang thổi ống sinh, lại nhắn bảo cư dân nói lại với thiên tử rằng thái tử the Phù Khâu (một vị tiên) đi chơi Tung Sơn, vui vẻ lắm, thiên tử chớ nên thương nhớ .

Chu Linh vương sai đào mộ lên xem thì chỉ thấy có áo quan không, mới biết là đã lên tiên rồi . Mấy năm sau, Linh vương nằm một thấy thái tử Tấn cưỡi hạc đến đón; khi tỉnh dậy, còn nghe văng vẳng có tiếng sinh ở ngoài cửa . Linh vương nói:

– Con ta đã đến đón thi ta nên đi!

Bèn truyền ngôi cho con thứ là Quí, rồi không bệnh mà chế . Qúi lên nối ngôi, tức là Chu Cảnh vương . Năm ấy, Sở Khang vương cũng chết . Quan lệnh doãn là Khuất Kiến liền lập người em cùng mẹ với Sở Khang vương lên làm vua . Chưa được bao lâu Khuất Kiến cũng chết . Công tử Vi thay làm lệnh doãn .

Lại nói chuyện quan tướng quốc nước Tề là Khánh Phong từ khi chuyên giữ quyền chính, càng sinh ra hoang dâm vô độ . Một hôm, uống rượu ở nhà Lư Bồ Miết . Lư Bồ Miết sai vợ ra mời rượu . Khánh Phong trông thấy làm vừa ý, liền cùng với vợ Lư Bồ Miết tư thông, rồi gia cả quyền chính cho con là Khánh Xá, đem vợ cùng nàng hầu và của cải sang ở nhà Lư Bồ Miết . Khánh Phong tư thông với vợ Lư Bồ Miết . Lư Bồ Miết cũng cùng với vợ và nàng hầu của Khánh Phong tư thông, hai bên không kiêng kỵ gì nữa, nhiều khi họp nhau uống rượu đùa bỡn, khi đã say thì chung chạ lăng nhăng, các người xung quanh ai cũng phải bưng miệng mà cười . Lư Bồ Miết nói với Khánh Phong xin triệu nguời anh là Lư Bồ Quí ở nước Lỗ về, Khánh Phong thuận cho . Khi Lư Bồ Quí về đến nước Tề, Khánh Phong để cho theo hầu người con là Khánh Xá . Khánh Xá sức khoẻ hơn người, thấy Lư Bồ Quí cũng có sức khoẻ và lại khéo nói, nên có lòng yêu, bèn gả con gái là Khánh Khương cho Lư Bồ Quí . Lư Bồ Quí chỉ dốc một lòng báo thù cho Tề Trang công, nhưng không biết ai là người cùng lòng, mới nhân khi theo Khánh Xá đi săn, hết sức khen tài vũ dũng của Vương Hà . Khánh Xá hỏi:

– Vương Hà bây giờ ở đâu ?

Lư Bồ Quí nói:

– Hiện đang ở nước Cử .

Khánh Xá sai nguời đi triệu Vương Hà về, Vương Hà về nước, Khánh Xá cũng có lòng yêu . Từ khi Thôi Trữ và Khánh Phong nổi loạn, hai người sợ bị ám sát, nên đi đâu cũng có quân sĩ cầm giáo hộ vệ, sau thành ra lệ quen . Khánh Xá tin yêu Lư Bồ Qúi và Vương Hà, mới dùng hai người ấy cầm giáo theo hầu ở bên cạnh .

Theo lễ cũ, nhà công dọn bữa ăn cho các quan khanh và đại phu thì mỗi ngày dùng hai con gà . Bấy giờ Tề Cảnh công hay ăn chân gà, một bữa hết mấy chục con; các quan đại phu cũng đều bắt chước, thành ra gà là một món ăn quí, giá mua vọt lên, nhà bếp chi tiêu không đủ, phải sang nói với Khánh Xá để xin thêm .

Lư Bồ Quí muốn tỏ điều ác của Khánh Xá, mới xui Khánh Xá không cho, bảo rằng:

– Đồ ngự thiện (món ăn của vua) tuỳ ý mà làm, cứ gì phải gà!

Vì vậy nhà bếp lấy thịt vịt thế vào . Lũ nhà bếp lại tưởng thịt vịt không phải là đồ ngự thiện nên đã ăn vụng đi cả . Ngày hôm ấy, quan đại phu là Cao Mại (tên tự là Tử Vĩ) và Loan Táo (tên tự là Tử Nhã) ngồi hầu cơm . Tề Cảnh công trông thấy mâm cơm không có món chân gà, chỉ có xương vịt mà thôi bèn nổi giận nói rằng:

– Họ Khánh cầm quyền chính mà dám bớt ngự thiện, khinh ta đến thế là cùng!

Nói xong liền bỏ ăn mà đi ra . Cao Mại toan đến trách Khánh Phong . Loan Táo can ngăn mãi, Cao Mại mới thôi . Sau có người nói chuyện với Khánh Phong . Khánh Phong bảo Lư Bồ Miết rằng:

– Cao Mại và Loan Táo có ý giận ta, biết làm thế nào ?

Lư Bồ Miết nói:

– Giết thì giết đi, can chi mà sợ!

Lư Bồ Miết đem chuyện nói với anh là Lư Bồ Quí . Lư Bồ Quí bàn mưu với Vương Hà rằng:

– Cao Mại và Loan Táo đang giận nhau với họ Khánh, ta có thể nhờ sức được .

Đêm hôm ấy, Vương Hà đến yết kiến Cao Mại, nói với Cao Mại rằng:

– Họ Khánh đang muốn trị họ Cao và họ Loan .

Cao Mại nổi giận nói:

– Khánh Phong ngày xưa đồng mưu với Thôi Trữ để giết Trang công, nay họ Thôi đã diệt rồi, chỉ còn có họ Khánh, ta nên báo thù cho tiên quân .

Vương Hà nói:

– Tôi vẫn có chí ấy! quan đại phu mưu việc ngoài, tôi mưu việc trong, làm gì mà không nổi!

Cao Mại liền đi bàn mưu với Loan Táo định thừa cơ khởi sự . Bọn Trần Vô Vũ, Bão Quốc (cháu Bão Thúc Nha) và Án Anh đều biết cả, nhưng ai cũng ghét họ Khánh chuyên quyền, không ai chịu nói . Lư Bồ Quí và Vương Hà bói việc đánh họ Khánh, trong quẻ có câu rằng:

– “Con hổ dời huyệt con bưu thấy huyết”.

Lư Bồ Quí đem đến hỏi Khánh Xá rằng:

– Có người muốn đánh kẻ thù, bói được quẻ này không biết tốt hay xấu ?

Khánh Xá nói:

– Đánh được! Hổ cùng bưu là cha con, đã phải dời huyệt và thấy huyết, còn gì mà không đánh được! chẳng hay kẻ thù là ai ?

Lư Bồ Quí nói:

– Một người trong đám hương lý .

Khánh Xá không nghi hoặc gì cả . Tháng tám năm ấy Khánh Phong đem Khánh Tự và Khánh Di đi săn bắn ở Đổng Lai; lại cho Trần Vô Vũ đi theo . Trần Vô Vũ từ biệt cha là Trần Tu Vô . Trần Tu Vô bảo rằng:

– Họ Khánh nguy đến nơi! ta e rằng nếu con cùng đi thì sẽ mắc nạn, sao không từ chối đi ?

Trần Vô Vũ nói:

– Nếu từ chối thì hắn sinh nghi, vậy nên con không dám từ chối . Để khi con đã đi rồi, thân phụ sẽ lấy cớ khác mà triệu con về .

Nói xong, liền đi thao Khánh Phong . Khi Khánh Phong đã ra đi, Lư Bồ Quí mừng lắm, nói:

– Trong quẻ bói có câu “con hổ dời huyệt” thật là nghiệm lắm!

Lư Bồ Qúi định chờ khi Khánh Xá ra tế thu thì khởi sự . Trần Tu Vô biết tin, sợ con là Trần Vô Vũ mắc nạn với Khánh Phong, liền nói dối là vợ mình ốm, sai người đi triệu Trần Vô Vũ về . Trần Vô Vũ nhờ Khánh Phong bói hộ một quẻ, nhưng trong lòng khấn thầm xin bói sự lành dữ của họ Khánh .

Khánh Phong bói xong, đoán rằng:

– Quẻ này là quẻ diệt thân . Bệnh của lão phu nhân chưa khỏi được .

Trần Vô Vũ nước mắt chảy xuống ròng ròng . Khánh Phong thương lắm, liền cho về . Khánh Tự, trông thấy Trần Vô Vũ lên xe, hỏi rằng:

– Nhà ngươi đi đâu ?

Trần Vô Vũ nói:

– Mẹ tôi ốm, vậy nên tôi phải về .

Khánh Tự nói với Khánh Phong rằng:

– Trần Vô Vũ nói dối, chứ không phải mẹ ốm! tôi sợ trong nước có biến, tướng công nên chóng về .

Khánh Phong nói:

– Đã có con ta ở nhà, còn lo gì nữa!

Trần Vô Vũ về qua sông Hà, phá cầu mà đục thuyền ra, khíến cho Khánh Phong không có đường về, Khánh Phong vẫn không biết . Bấy giờ đã thượng thần tháng tám . Lư Bồ Qúi tụ tập quân sĩ để khởi sự . Vợ là nàng Khánh Khương (con gái Khánh Xá) hỏi rằng:

– Phu quân làm việc mà không bàn với thiếp thì tất không thành .

Lư Bồ Quí cười mà nói rằng:

– Đàn bà biết gì mà đòi dự bàn!

Nàng Khánh Khương nói:

– Phu quân không nghe nói có người đàn bà tài trí hơn đàn ông hay sao! vua Vũ vương có mười người bề tôi giỏi; trong mười người ấy có bà Áp Khương . Sao lại bảo đàn bà không dự bàn được ?

Lư Bồ Quí nói:

– Ngày xưa quan đại phu nước Trịnh là Ung Củ, đem mật mưu của vua Trịnh tiết lộ ra cho vợ là nàng Ung Cơ biết, mà đến nỗi bị giết, lại hại cả vua, ta rất lấy làm sợ .

Nàng Khánh Khương nói:

– Đàn bà phải theo chồng, chồng nói thì vợ nghe, huống chi lại có mệnh vua . Nàng Ung Cơ nghe mẹ mà hại chồng, đó là con sâu trong đám khuê các, không đáng kể .

Lư Bồ Quí nói:

– Giả sử nàng là Ung Cơ thì nàng xử thế nào ?

Nàng Khánh Khương nói:

– Giúp được thì giúp, bằng không thì thôi, cũng không tiết lộ cho ai biết .

Lư Bồ Quí nói:

– Nay chúa công ta ghét họ Khánh chuyên quyền, có bàn mưu với họ Cao và họ Loan để đuổi họ Khánh nàng, nên ta phải phòng bị, nàng chớ tiết lộ cho ai biết .

Nàng Khánh Khương nói:

– Quan tướng quốc (trỏ Khánh Phong) vừa mới đi săn có thể thừa cơ được .

Lư Bồ Quí nói:

– Ta muốn đợi đến ngày thu tế .

Nàng Khánh Khương nói:

– Thân phụ thiếp vốn người ngang ngạnh, lại đam mê tửu sắc, không có ai nói khích thì hoặc giả lại không đi, biết làm thế nào ? Thiếp xin về bên ấy cố ý ngăn lại thì việc đi tế thu tế mới xong được .

Lư Bồ Qúi nói:

– Ta đem tính mệnh mà phó thác cho nàng, nàng chớ bắt chước Ung Cơ ngày trước .

Nàng Khánh Khương đến bảo Khánh Xá rằng:

– Con nghe nói họ Cao và họ Loan định đến ngày thu tế này thì hại thân phụ, xin thân phụ chớ đi .

Khánh Xá nổi giận, nói:

– Hai họ ấy như giống cầm thú, sống chết ở trong tay ta, khi nào dám như vậy ! mà dẫu có thế nữa, ta cũng không sợ!

Nàng Khánh Khương về nói với Lư Bồ Quí . Đến kỳ tế thu, Tề Cảnh công vào làm lễ ở nhà thái miếu . Các quan đại phu đều đi theo cả . Khánh Thăng hiến tước . Quân họ Khánh đóng giữ chung quan nhà thái miếu . Lư Bồ Qúi và Vương Hà cầm giáo đứng ở bên cạnh Khánh Xá, không rời một bước . Họ Trần và họ Bão, hai nhà ấy có một người coi ngựa, khéo làm trò, cho ra múa hát ở đường Ngư Ly, cố ý làm cho ngựa của Khánh Xá phải lồng chạy . Quân họ Khánh đuổi theo bắt được ngựa, rồi đem buộc một chỗ và cởi áo giáp ra, xúm lại xem làm trò .

Quân họ Cao, họ Loan, họ Trần và họ Bão họp cả ở trước cửa nhà thái miếu . Lư Bồ Qúi giả cách ra ngoài, mật truyền cho quân sĩ vây kín xung quanh, rồi lại trở vào, đứng ở sau lưng Khánh Xá, cầm ngược ngọn giáo, để ra hiệu cho Cao Mại biết . Cao Mại hiểu ý, sai người nhà gõ cửa ba tiếng, quân sĩ kéo ồ cả vào .

Khánh Xá kinh sợ đứng dậy . Lư Bồ Quí ở sau lưng đâm ngay một cái, trúng vào cạnh sườn . Vương Hà cầm giáo đánh vào vai bên tả, gãy hẵn bả vai . Khánh Xá trông thấy Vương Hà, liền nói:

– Thế ra chúng bay nổi loạn à ?

Nói xong, giơ tay phải cầm cái hồ rượu ném vào Vương Hà . Vương Hà chết ngay lập tức . Lư Bồ Miết truyền cho giáo sĩ bắt ngay Khánh Thăng giết đi . Khánh Xá bị thương nặng, đau quá không thể chịu được, ôm lấy cột nhà thái miếu mà rung, chuyển động cả nhà thái miếu, rồi kêu to lên một tiếng mà chết . Tề Cảnh công thấy vậy, kinh sợ toan chạy . Án Anh mật tâu rằng:

– Các quan triều thần vì tiên quân mà diệt họ Khánh để yên nước nhà, chứ không có ý gì khác cả .

Tề Cảnh công mới yên lòng, lên xe về cung . Lư Bồ Miết đem quân đi trừ họ Khánh, rồi chia giữ các cửa thành để chống nhau với Khánh Phong . Khánh Phong đi săn, về đến nửa đường, gặp người nhà đến báo tin, giận lắm, tiến quân vào phía cửa tây, nhưng trong thành canh phòng nghiêm mật, không thể phá nổi . Quân Khánh Phong dần dần bỏ trốn hết cả . Khánh Phong sợ hãi chạy sang nước Lỗ . Tề Cảnh công sai người nói với nước Lỗ, chớ nên dung nạp đứa phản nghịch . Người nước Lỗ toan bắt Khánh Phong đưa trả nước Tề . Khánh Phong nghe tin sợ hãi, chạy sang nước Ngô .

Vua Ngô là Di Muội để cho Khánh Phong ở đất Chu Phương, và cấp lương cho rất hậu, có phần hơn khi ở nước Tề, để khiến Khánh Phong dò xét tình hình nước Sở . Quan đại phu nước Lỗ là Tử Phục Hà nghe tin, báo Thúc Tôn Bảo rằng:

– Khánh Phong sang ở Ngô, lại càng giàu lắm, chẳng lẽ, trời giáng phúc cho đứa dâm nhân hay sao!

Thúc Tôn Báo nói:

– Người thiện mà giàu thì là phúc, đứa dâm mà giàu thì là hoạ . Cái họa của Khánh Phong sắp đến nơi, sao gọi là phúc được ?

Nước Tề từ khi Khánh Phong trốn thì Cao Vĩ cùng Loan Táo cầm quyền chính, mới tuyên bá tội trạng của Thôi Trữ và Khánh Phong cho người trong nước biết, rồi đem phơi thây Khánh Xá ở trong triều; lại treo giải thưởng để tìm áo quan của Thôi Trữ, hễ ai biết mà cáo tố ra thì cho một viên ngọc bích của Thôi Trữ ngày trước . Người coi ngựa nhà Thôi Trữ tham được ngọc bích, liền chỉ dẫn chỗ chôn Thôi Trữ . Đào lên thì thấy hai cái thây (Thôi Trữ và nàng Đường Khương). Tề Cảnh công toan đem cả hai cái thây ấy mà phơi ra . Án Anh can rằng:

– Hành hạ thi thể của người đàn bà là không hợp lễ .

Tề Cảnh công mới truyền đem thây Thôi Trữ căng ra giữa chợ . Người nước Tề xúm lại xem, nhiều người còn nhớ mặt, bảo nhau rằng:

– Chính là thây Thôi Trữ đó!

Các quan đại phu chia nhau các thái ấp của Thôi Trữ và Khánh Phong, thấy gia tài của Khánh Phong đều ở nhà Lư Bồ Miết, liền trị Lư Bồ Miết về tội dâm loạn, đuổi sang ở nước Bắc Yên . Lư Bồ Qúi cũng theo sang . Bao nhiêu gia tài của hai họ ấy, các quan triều thần mỗi người lấy một ít, tan nát cả, chỉ có Trần Vô Vũ không lấy một tí gì . Nhà Khánh Phong còn hơn trăm xe gỗ, các quan đại phu bàn để cho Trần Vô Vũ . Trần Vô Vũ lại đem phân phát cho người trong nước tất cả . Bởi vậy người trong nước đều ca tụng Trần Vô Vũ là người nhân đức .

Năm sau, Loan Táo chết, con là Loan Thi nối làm quan đạii phu, cùng với Cao Mại cùng cầm quyền chính . Cao Mại ghét con Cao Hậu là Cao Chỉ, và không muốn trong một nước mà hai người họ Cao đắc dụng, mới đuổi Cao Chỉ . Cao Chỉ cũng chạy sang Bắc Yên . Con Cao Chỉ là Cao Kiên chiếm giữ đất Lư Ấp . Tề Cảnh công sai quan đại phu là Lư Khâu Anh đem quân đến vây . Cao Kiên nói:

– Ta không phải làm phản, chỉ vị sợ họ Cao không có người cúng tế .

Lư Khâu Anh hứa lời lập hậu cho họ Cao . Cao Kiên bỏ trốn sang nước Tấn . Lư Khâu Anh về nói với Tề Cảnh công . Tề Cảnh công truyền lập Cao Yên để giữ việc cúng tế họ Cao . Cao Mại căm tức mà rằng:

– Sai Lư Khâu Anh đi là cốt để trừ bỏ họ Cao, nay bỏ một người lại lập một người, nào có khác gì ?

Cao Mại mật sai người giết chết Lư Khâu Anh . Các công tử như bọn Tử Sơn, Tử Thương và Tử Chu thấy vậy, đều có ý bất bình, thường thường nghị luận về việc ấy . Cao Mại giận lắm, mượn việc khác mà đuổi hết các công tử đi . Người trong nước ai cũng sợ hãi . Chưa được bao lâu, Cao Mại chết, con là Cao Cương nối làm đại phu . Cao Cương hãy còn ít tuổi, chưa được làm thượng khanh, vậy nên quyền chính nước Tề về cả một tay Loan Thi .

Bấy giờ Tấn và Sở giảng hoà, các nước đều được yên nghỉ . Quan đại phu nước Trịnh là Lương Tiêu (tên tự là Bá Hữu, con công tôn Triếp, cháu công tử Khứ Tật) đang làm thượng khanh, cầm quyền chính nước Trịnh . Lương Tiêu kiêu ngạo xa xỉ, lại thích uống rượu, mỗi bận uống rượu thường uống suốt đêm; trong khi uống rượu, không muốn tiếp một người nào, không muốn nghe một việc gì, mới sai làm một cái nhà hầm ở dưới đất, đem đồ uống rượu và nhạc khí xuống đấy để uống rượu, cả bọn gia thần đến cũng không được vào yết kiến . Một hôm đang giữa trưa, Lương Tiêu nhân khi say rượu, vào triều nói với Trịnh Giản công, định sai công tôn Hắc (tên tự là Từ Tích, con công tử Tứ, sau đổi là họ Từ) sang sứ nước Sở . Công tôn Hắc đang cùng với công tôn Hạ (tên tự là Từ Nam, con công tôn Mại) tranh nhau định lấy em gái Từ Ngô Phạm, cho nên không muốn đi xa, mới đến yết kiến Lương Tiêu để xin miễn cho việc đi sứ . Người canh cửa không cho vào mà bảo rằng:

– Quan tướng quốc đã xuống nhà hầm rồi, tôi không dám vào hầm .

Công tôn Hắc giận lắm, đêm hôm ấy cùng với Ấn Đoàn (con công tử Phong) đem quân vây nhà Lương Tiêu, rồi phóng hoả đốt cháy .

Lương Tiêu đang say rượu, người nhà vực lên xe, chạy sang đất Ung Lương (đất nước Trịnh) . Khi tỉnh rượu, nghe tin công tôn Hắc đem quân đánh mình, Lương Tiêu căm tức vô cùng . Ở Ung Lương được mấy ngày thì các gia thần dần dần kéo đến, thuật lại chuyện trong nước, nói các họ đang kết ước với nhau để chống cự họ Lương, chỉ có họ Quốc và họ Hãn là không dự vào việc ấy . Lương Tiêu mừng mà nói rằng:

– Tất thế nào họ Quốc và họ Hãn cũng có lòng giúp ta!

Nói xong, liền đem quân về đánh cửa bắc nước Trịnh . Công tôn Hắc sai cháu là Tử Đái cùng với Ấn Đoàn đem quân ra đánh . Lương Tiêu thua, trốn vào trong hàng thịt dê, bị quân Tử Đái giết chết . Bao nhiêu gia thần Lương Tiêu cũng bị giết sạch cả . Công Tôn Kiều (tên tự là Từ Sản, con công tử Phát) nghe tin Lương Tiêu chết, vội vàng đi sang Ung Lương, ôm lấy thi thể Lương Tiêu mà khóc rằng:

– Anh em cùng hại nhau! trời ơi! sao mà thảm vậy!

Công tôn Kiều thu thập thi thể bọn gia thần đem chôn chung với Lương Tiều ở thôn Đẩu Thành . Công tôn Hắc giận lắm, nói:

– Tử Sản (tức công tôn Kiều) lại vào cánh với họ Lương hay sao!

Nói đoạn toan đem quân đi đánh công tôn Kiều . Quan thượng khanh là Hãn Hổ (tên tự là Tử Bì, con công tôn Xá) can rằng:

– Từ Sản biết giữ lễ cả với người chết, huống chi là người sống! đìều lễ là gốc trong nước, giết người biết giữ lễ là không hay . Công tôn Hắc mới thôi .

Trịnh Giản công giao quyền chính cho Hãn Hổ . Hãn Hổ nói:

– Tôi không bằng Tử Sản .

Trịnh Giản công liền giao cho công tôn Kiều cầm quyền chính . Công tôn Kiều lên cầm quyền chính nước Trịnh, chính đốn pháp luật, phong tục và cách thứ làm ruộng; lại kể tội công tôn Hắc mà giết đi, đúc ra hình thư để dân biết sợ phép; lập ra hương hiệu để dân biết lỗi mình, bởi vậy người trong nước ai cũng ca tụng công đức .

Một hôm, một người nước Trịnh đi ra cửa bắc, trong khi hoảng hốt, trông thấy Lương Tiêu mình mặc áo giáp, đầu đội mũ trụ, tay cầm cái giáo, vừa đi vừa nói:

– Tử Đái và Ấn Đoàn hại ta, ta tất phải giết chết!

Người ấy về thuật chuyện với người khác, rồi thành bệnh ốm . Bấy giờ trong nước huyên truyền nhau, cho là hồn Lương Tiêu hiện lên, kéo nhau chạy trốn như chạy loạn . Chưa được bao lâu thì Tử Đái bị bệnh mà chết . Mấy ngày nữa Ấn Đoàn cũng chết . Người trong nước đều sợ, ngày đêm náo động . Công tôn Kiều nói với Trịnh Giản công, cho con Lương Tiêu là Lương Chỉ làm đại phu, để giữ việc cúng tế họ Lương; lại lập con công tử Gia là công tử Tiết . Từ bấy giờ người trong nước mới không huyên náo nữa . Chức hành nhân là Du Cát (tên tự là Tử Vũ) hỏi công tôn Kiều rằng:

– Lập hậu cho Lương Tiêu mà trong nước khỏi huyên náo là cớ làm sao ?

Công tôn Kiều nói:

– Phàm những đứa hung ác, khi chết đi thì hồn phách không tan được, hay làm tai làm quái, nếu có chỗ nương tựa thì không thế nữa . Ta lập hậu cho y là muốn cho y có chỗ nương tựa .

Du Cát nói:

– Nếu vậy thì lập Lương Chi mà thôi, cần gì phải lập đến công tôn Tiết, chẳng lẽ lại lo công tử Gia cũng hiện lên làm tai làm quái nữa sao ?

Công tôn Kiều nói:

– Lương Tiêu có tội, không nên lập hậu, nếu nhân việc làm tai làm quái mà lập hậu thì người trong nước tất mê hoặc về chuyện quỷ thần, cho nên ta mượn cớ khác mà lập hậu cả cho họ Lương và họ Khổng, để cho người trong nước khỏi mê hoặc .

Du Cát nghe nói, mới chịu phục là người giỏi .

Sái Cảnh công cưới con gái nước Sở là Vu thị làm vợ thế tử Ban, rồi lại tư thông với Vu thị . Thế tử Ban giận lắm nói:

– Cha đã chẳng ra gì thì con cần gì phải giữ đạo con!

Thế tử Ban lập kế nói dối đi săn, rồi cùng với mấy người nội thị tâm phúc phục sẵn ở trong phòn Vu thị . Sái Cảnh công tưởng là thế tử Ban đi vắng, liền đi thẳng vào phòng Vu thị . Thế tử Ban và mấy người nội thị đổ ra đâm chết, rồi sai người cáo với chư hầu là Sái Cảnh công ngộ cảm mà chết . Ban lại tự lập lên làm vua, tức là Sái Linh công .

Năm ấy trong cung nước Tống đang đêm thất hỏa . Các cung nữ trông thấy lửa cháy, bẩm với vợ vua Tống là nàng Bá Cơ (con gái nước Lỗ) để tránh ra nơi khác . Bá Cơ nói:

– Theo lễ thì người đàn bà, nếu không có phó mẫu ở bên cạnh thì đang đêm không được đi đâu cả . Dẫu lửa cháy dữ dội đến đâu, ta đây cũng không nên trái lễ .

Khi phó mẫu đến nơi thì Bá Cơ đã chết cháy rồi, người nước Tống ai cũng thương tiếc . Tấn Bình công thương nước Tống có cái công hợp thành mà lại bị hoả hoạn, mới họp chư hầu ở đất Thiên Uyên, quyên tiền để giúp nước Tống .

Năm thứ tư đời Chu Cảnh vương, Tấn và Sở vì khi trước hội thề ở nước Tống, nay lại định hội nhau ở đất Quắc (đất nước Trịnh). Bấy giờ công tử Vi nước Sở thấy Khuất Kiến làm lệnh doãn . Công tử Vi là thứ tử của Sở Cung vương, là người lớn tuổi hơn hết, tính tình ngang ngược ngạo mạn cậy tài không muốn ở dưới người . Công tử Vi thấy vua sở hèn yếu, việc gì cũng chuyên quyết cả; thấy Viễn Yên là người trung thực, thì vu cho tội phản nghịch, bắt đem giết đi mà cướp lấy nhà, lại giao kết với quan đại phu là Viễn Bãi và Ngũ Cử, để âm mưu làm những sự phản nghịch . Một hôm, công tử Vi đi săn, dùng tinh kỳ của vua Sở . Đi đến Vu Ấp, quan trấn thủ đất Vu Ấp là Thần Vô Vũ kể tội công tử Vi tiếm phận, thu lấy tinh kỳ cất vào kho, bởi vậy công tử Vi hơi nhụt . Đến bấy giờ công tử Vi sắp sang dự hội ở đất Quắc, liền nói với vua Sở, xin sang nước Trịnh trước, để định hỏi con gái họ Phong làm vợ . Lúc công tử Vi sắp đi, tâu với vua Sở là Hùng Mi rằng:

– Nước Sở ta đã xưng vương thì ngôi ở trên chư hầu . Phàm sứ thần nước Sở ra ngoài xin cho dùng lễ vua chư hầu, để cho các nước biết nước Sở là đấng tôn trọng .

Vua Sở thuận cho . Công tử Vi tiếm dùng nghi vệ của vua chư hầu có hai người cầm giáo đi dàn mặt . Khi đến địa giới nước Trịnh, người nước Trịnh tưởng là vua Sở, vội vàng phi báo với vua Trịnh .

Vua Trịnh sợ hãi, thân hành ra ngoài thành để nghênh tiếp, khi trông thấy, mới biết là công tử Vi . Công tôn Kiều thấy vậy, có ý ghét công tử Vi, sợ để hắn vào thành thì sinh biến, liền sai chức hành nhân là Du Cát từ chối rằng nhà công quán trong thành đổ nát, chưa kịp chữa lại, xin mời ở tạm ngoài thành . Công tử Vi sai Ngũ Cử vào trong thành để xin cưới con gái họ Phong . Vua nước Trịnh, thuận cho . Khi sắp cưới, công tử Vi lại nảy ra ý muốn đánh lẻn nước Trịnh, định mượn tiếng đón con gái họ Phong rồi sắm sửa xe cột rất nhiều để thừa cơ đánh Trịnh . Công tôn Kiều nói:

– Công tử Vi, là người bất trắc, ta phải bắt để quân sĩ ở cả ngoài thành rồi mới cho vào .

Du Cát nói:

– Để tôi ra thương thuyết với công tử Vi .

Du Cát ra yết kiến công tử Vi, nói rằng:

– Quan lệnh doãn (trỏ công tử Vi) định đem quân vào đón con gái họ Phong, nhưng thành nước tôi nhỏ hẹp, không thể dùng nổi, xin dọn một chỗ ở ngoài thành để làm lễ cưới .

Công tử Vi nói:

– Chúa công đã có lòng yêu tôi mà cho cưới con gái họ Phong, nếu lại đón ở ngoài thành sao cho thành lễ ?

Du Cát nói:

– Cứ theo như lễ thì đồ binh khí không được đem vào thành, nay quan lệnh doãn muốn dùng quân để đón dâu cho trọng thể thì nên bỏ binh khí đi .

Ngũ Cử mật nói với công tử Vi rằng:

– Người nước Trịnh đã phòng bị rồi, ta bỏ binh khí đi .

Ngũ Cử bèn truyền cho quân sĩ bỏ hết binh khí mà vào đón con gái họ Phong .

Lễ cưới xong, công tử Vi mới ra dự hội với chư hầu . Triệu Vũ nước Tấn cùng với các quan đại phu Tống, Lỗ, Vệ, Trần, Sái, Trịnh và Hứa đều đã có đấy cả . Công tử Vi sai người nói với Triệu Vũ rằng:

– Sở và Tấn khi trước đã hội thề với nhau, ngày nay bất tất phải sáp huyết nữa, chỉ đem hoà ước cũ mà tuyên bá lại để cho các ngài chớ quên mà thôi .

Kỳ Ngọ bảo Triệu Vũ rằng:

– Công tử Vi nói thế là có ý sợ nước Tấn ta vào sáp huyết trước, bởi vì lần trước ta nhường cho Sở, lần này Sở tất phải nhường cho ta, nếu chỉ đọc lại minh ước cũ thì bao giờ Sở cũng vẫn ở trước, ngài nghĩ thế nào ?

Triệu Vũ nói:

– Công tử Vi sang dự hội mà nghi vệ theo như vua Sở, không những chống đối với nước ngoài, mà còn có mưu gian ở trong nước, vậy ta hãy theo lời nó, để cho nó sinh kiêu .

Kỳ Ngọ nói:

– Đành vậy, nhưng lần trước Khuất Kiến cho quân sĩ mặc áo giáp ở trong để đến dự hội, may mà không xảy ra chuyện gì; nay công tử Vi lại quá hơn nữa, ngài nên phòng bị mới được .

Triệu Vũ nói:

– Việc hội chư hầu này cốt để theo cái ước bãi binh, ta chỉ biết thủ tín mà thôi, còn điều khác ta không biết .

Khi khai hội, công tử Vi xin đọc lại minh ước cũ . Triệu Vũ vâng lời . Khi tan hội, công tử Vi vội về . Các quan đại phu đều biết công tử Vi rồi sau tất nhiên làm vua nước Sở . Trong lòng Triệu Vũ vẫn lấy việc đọc lại bản ước cũ, để Sở đứng trước Tấn làm xấu hổ, sợ người ta nghị luận, mới đem cái nghĩa thủ tin, nói đi nói lại mãi cho quan đại phu các nước nghe . Khi Triệu Vũ về đi qua nước Trịnh, có quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Báo cùng đi . Triệu Vũ lại nói với Thúc Tôn Báo .

Thúc Tôn Báo nói:

– Có phải tướng công cho rằng cái ước bãi binh có thể giữ được mãi không ?

Triệu Vũ nói:

– Chúng ta giữ được ngày nào hay ngày ấy, việc gì mà lo đến chuyện lâu dài .

Thúc Tôn Báo nói riêng với quan đại phu nước Trịnh và Hàn Hổ rằng:

– Triệu Vũ sắp chết đến nơi! ta nghe lời nói thấy có ý trễ biếng lắm không nghĩ gì đến chuyện lâu dài . Vả lại Triệu Vũ chưa đầy năm mươi tuổi, mà đã bo bo như ông già tám mươi, còn sống lâu sao được!

Chưa được bao lâu thì Triệu Vũ quả nhiên ốm chết . Hàn Khởi thay cầm quyền chính nước Tấn .

Công tử Vi nước Sở về nước gặp Hùng Mi đang ốm ở trong cung, bèn vào cung hỏi thăm, giả cách nói có việc cơ mật, đuổi hết nội thị đi, rồi cởi giải mũ, buộc vào cổ Hùng Mi mà thắt . Một lúc thì Hùng Mi chết . Hùng Mi có hai con là Hùng Mô và Hùng Bình, nghe có biến cầm gươm vào đâm công tử Vi; nhưng công tử Vi sức khoẻ lắm, hai người không thể địch nổi, đều bị công tử Vi giết chết . Em Hùng Mi là Hùng Tị (tên tự là Tử Can) và Hùng Hắc Quang (tên tự là Tử Tích) nghe tin cha con Hùng Mi bị hại, sợ mắc tai vạ, đều trốn đi cả . Hùng Tị trống sang nước Tấn . Hùng Hắc Quang trốn sang nước Trịnh .

Công tử Vi báo tang với chư hầu rằng:

– “Vua nướcc tôi là Hùng Mi thất lộc đi, quan đại phu là công tử Vi là người thừa kế”.

Ngũ Cử đổi lại rằng:

– “Các con vua Cung vương tôi thì có công tử Vi nhiều tuôi hơn cả”.

Bấy giờ công tử Vi lên làm vua, đổi tên là Hùng Kiền, tức là Sở Linh vương . Sở Linh vương cho Viễn Bãi làm lệnh doãn, Trịnh Đan làm hữu doãn, Ngũ Cử làm tả doãn, Đấu Thành Nhiên làm giao doãn . Quan thái tể là Bá Châu Lê, bấy giờ đang có việc công ở đất Giáp . Sở Linh vương sợ Bá Châu Lê không phục, sai người đi giết chết, rồi cho Viễn Khải Cương làm quan thái tể . Lại lập trưởng tử là Hùng Lộc lên làm thế tử . Sở Linh vương từ khi đắc chí lại càng kiêu căng, ngang ngược, muốn làm bá chủ ở trung nguyên, sai Ngũ Cử sang nước Tấn đòi họp chư hầu; lại nghĩ con gái họ Phong hèn hạ, không đáng làm phu nhân, mới sai người sang cầu hôn ở nước Tấn, Tấn Bình công thấy Triệu Vũ mới mất, sợ thế nước Sở, không dám trái ý, điều gì cũng nghe cả . Năm ấy Trịnh Giản công và Hứa Điệu công sang nước Sở . Sở Linh vương lưu lại để đợi tin báo của Ngũ Cửu . Khi Ngũ Cửu về Sở, nói vua Tấn thuận cả hai việc . Sở Linh vương bằng lòng, sai sứ ước với chư hầu đến tháng ba năm sau thì đại hội ở đất Thân . Trịnh Giản công xin đến đất Thân trước, để nghênh tiếp chư hầu . Sở Linh vương thuận cho . Mùa xuân năm sau, chư hầu lục tục đến dự hội, chỉ có Lỗ và Vệ mượn cớ khác từ chối không đến . Nước Tống sai quan đại phu là Hướng Thú đi thay, còn các nước nhỏ như Sái, Trần, Từ và Đằng đều đến cả . Sở Linh vương đem quân đến đất Thân . Chư hầu đều lại yết kiến .

Quan tả doãn là Ngũ Cửu tâu rằng:

– Tôi nghe nói muốn làm bá chủ, tất phải được lòng chư hầu; muốn được lòng chư hầu, tất phải giữ lễ . Nay đại vương mới hội chư hầu, có Hướng Thú nước Tống và công tôn Kiều nước Trịnh đều là người biết lễ, ta càng phải nên cẩn thận mới được .

Sở Linh vương nói:

– Đời xưa, lễ hội chư hầu như thế nào ?

Ngũ Cửu nói:

– Vua Khải nhà Hạ hội chư hầu ở Quân Đài, vua Thang nhà Thương hội chư hầu ở Cảnh Bạc, vua Vũ vương nhà Chu hội chư hầu ở Mạch Tân, vua Thành vương hội chư hầu ở Kỳ Dương, vua Khang vương hội chư hầu ở Phong cung, vua Mục vương hội chư hầu ở Đồ Sơn, Tề Hoàn công hội chư hầu ở Thiệu Lăng, Tấn Văn công hội chư hầu ở Tiễn Thổ . Sáu vua thiên tử và hai vua chư hầu ấy làm cuộc hội minh, đều có đặt ra lễ, tuỳ ý đại vương chọn đấy mà dùng .

Sở Linh vương nói:

– Nay ta muốn làm bá chủ thì nên dùng lễ của Hoàn công nước Tề hội chư hầu ở Thiệu Lăng, nhưng chẳng hay lễ ấy thế nào ?

Ngũ Cửu nói:

– Tôi nghe nói Hoàn công nước Tề đánh được Sở lui quân về Thiệu Lăng . Nước Sở sai quan đại phu Khuất Hòan sang quân Tề . Vua Hoàn công dàn quân tám nước để cho Khuất Hoàn biết là Tề cường thịnh, rồi mới họp chư hầu cùng với Khuất Hoàn cùng thề . Nay chư hầu mới phục, đại vương cũng nên phô trương thế lực, khiến cho chư hầu sợ hãi, không còn nước nào dám trái mệnh nữa .

Sở Linh vương nói:

– Ta muốn dùng binh để ra uy với chư hầu, bắt chước như việc Hoàn công nước Tề đánh Sở khi xưa, chẳng hay trước hết nên đánh nước nào ?

Ngũ Cửu nói:

– Khánh Phong nước Tề giết vua, trốn sang nước Ngô; nước Ngô đã không trị tội lại cấp lương vào cho ở đất Chu Phường, khiến cho hắn lại giàu có hơn trước, bởi vậy người nước Tề oán giận lắm! nước Ngô là cừu địch với ta, nếu ta mượn tiếng hỏi tội Khánh Phong mà đem quân đánh Ngô thì thật là nhất cử lữơng đắc .

Sở Linh vương khen phải, liền dàn quân để doạ chư hầu, rồi hội thề ở đất Thân . Sở Linh vương thấy mẹ vua nước Từ là con gái nước Ngô, nghi vua Từ cùng cánh với nước Ngô, bắt giam lại trong ba ngày . Vua Từ xin đi hướng đạo để đánh Ngô . Sở Linh vương mới tha cho rồi sai quan đại phu là Khuất Thân, đem quân chư hầu đi đánh Ngô, vây đất Chu Phương, bắt KhánhPhong và giết hết gia thuộc . Khuất Thân nghe nói người nước Ngô có phòng bị, liền thu quân về, đem Khánh Phong nộp Sở Linh vương, Sở Linh vương toan giết Khánh Phong để tuyên bá cho chư hầu biết .

Ngũ Cửu can rằng:

– Mình không có điều gì trái thì mới để tội người khác được, nếu ta giết Khánh Phong thì tất thế nào hắn cũng quai mồm kể xấu ta .

Sở Linh vương không nghe, truyền trói Khánh Phong đem ra trước hàng quân, kề dao vào cổ, rồi bắt Khánh Phong phải tự mình kể tội mình rằng: “quan đại phu các nước nghe ta nói: chớ ai như Khánh Phong nước Tề, giết vua đi rồi hiếp con mồ côi mà hội thể với các quan đại phu”.

Khánh Phong quát to lên rằng:

– Quan đại phu các nước có nghe ta nói: “Chớ ai như thứ tử Sở Cung vương, tên là Vi, giết vua là Hùng Mi, rồi cướp lấy ngôi vua mà hội thề với chư hầu”.

Các người đứng xem, đều bưng miệng cười . Sở Linh vương hổ thẹn, truyền giết ngay Khánh Phong . Sở Linh vương tự đất Thân trở về nước Sở, thấy Khúât Thân ở đất Chu Phương đã rút quân trở về, không chịu tiến binh, liền nghi là tư thông với Ngô, bắt đem giết đi, rồi cho Khuất Sinh (con Khuất Kiến) thay làm quan đại phu . Viễn Bãi sang nước Tấn đón nàng Cơ thị về, lập làm Sở Linh vương phu nhân . Năm ấy, vua Ngô là Di Muội đem quân đánh Sở, tiến vào đất Cúc, đất Linh và đất Ma, để báo thù trận đánh ở Chu Phương . Sở Linh vương giận lắm, đem quân chư hầu sang đánh Ngô .

Vua nước Việt là Doãn Thường giận nước Ngô hay sang quấy nhiễu, cùng quan đại phu là Thường Thọ Qúa đem quân đến hội với nước Sở . Tướng nước Sở là Viễn Khải Cương đi tiên phong, đem quân thủy đến Thước Ngạn, bị người nước Ngô phá vỡ . Sở Linh vương thân hành đem đại quân đến đất La Nhuế . Vua Ngô là Di Muội sai người em họ là Quệ Do đến khao thưởng quân sĩ nước Sở . Sở Linh vương giận lắm, bắt Quệ Do, toan giết để lấy máu bôi vào mặt trống trận nhưng sai sứ giả ra hỏi trước một câu rằng:

– Khi nhà ngươi sang đây, có bói xem tốt xấu thế nào không ?

Quệ Do nói:

– Bói được qủe tốt lắm!

Sứ giả nói:

– Đại vương ta định lấy máu nhà ngươi đem bôi mặt trống, còn tốt về nỗi gì!

Quệ Do nói:

– Nước tôi chỉ bói việc chung của nhà nước chứ có bói sự xấu tốt riêng của một người đâu! chúa công tôi sai tôi sang tới đây khao thưởng quân sĩ là để dò xem đại vương nóng nảy hay là khoan hoà mà nghĩ cách đối đãi . Đại vương vui vẻ mà nghênh tiếp sứ thần thì nước tôi sinh lòng trễ biếng, tất có ngày phải suy mất; nếu dùng máu sứ thần mà bôi mặt trống, thì nước tôi biết là đại vương căm tức, mà hết sức phòng bị thì chắc là đủ sức để chống với đại vương, còn gì tốt hơn điều ấy!

Sở Linh vương nói:

– Người ấy thật là hiền sĩ!

Nói xong, liền tha cho về, Sở Linh vương đem quân đến địa giới nước Ngô, thấy nước Ngô phòng bị nghiêm mật lắm, không thể đánh nổi, liền rút quân về . Bây giờ Sở Linh vương mới thở dài mà nói rằng:

– Ngày trước ta giết oan Khuất Thân!

Sở Linh vương từ khi về nước, xấu hổ về việc đánh trận vô công, mới bày ra việc thổ mộc, muốn đem của cải và công binh để khoe với chư hầu . Sở Linh vương truyền làm một cái cung gọi là cung Chương Hoa, dài rộng bốn mươi dặm; ở giữa xây một cái đài cao, trông ra bốn mặt, gọi là Chương Hoa đài, cũng gọi là Tam Hưu đài .

Trong cái cung ấy cửa nhà rất là mỹ lệ, cho dân chúng ở chung quanh . Bao nhiêu kẻ có tội trốn đi, đều gọi cho về ở đấy . Khi làm xong cái cung ấy, Sở Linh vương sai sứ đi triệu chư hầu đến để khánh thành.

Chương 68: Tấn Bình Công thích nghe âm nhạc – Trần Vô Vũ chịu phóng gia tài

Sở Linh vương có tính thiên là yêu người lưng nhỏ . Bất cứ trai gái, phàm người nào vòng lưng thô lớn thì Sở Linh vương ghét, không muốn nhìn . Khi đã dựng xong cung Chương Hoa, liền truyền những gái đẹp có vòng lưng nhỏ, cho vào ở đấy, lại đặt tên là Tế Yêu cung . Các cung nhân muốn được Linh vương yêu, đều ăn ít hoặc nhịn đói để cho lưng nhỏ lại, thậm chí có người đói quá, đến nỗi chết mà cũng đành . Người trong nước bắt chước, đều cho lưng to là xấu, không ai dám ăn no; dẫu các quan trong khi triều, cũng dùng dây nịt thắt chặt lại để cho vua khỏi ghét . Linh vương luôn ở Tế Yêu cung, ngày đêm uống rượu mua vui, tiếng ca tiếng nhạc không lúc nào ngớt . Một hôm, Linh vương đang uống rượu ở trên đài, bỗng thấy ở dưới đài có tiếng huyên náo, lúc sau thì Phan Tử Thần điệu một viên quan đến trước mặt nhà vua Linh vương nhìn xem ai thì là quan trấn thủ ở Vu Ấp tên gọi Thân Vô Vũ . Linh vương kinh hãi hỏi cớ gì .

Phan Tử Thần nói:

– Thân Vô Vũ không phụng mệnh mà dám tự tiện vào chốn vương cung, bắt tên lính canh, thế là một người vô lễ, vậy nên tôi bắt giải tới đây, để đại vương trị tội .

Linh vương hỏi Thân Vô Vũ rằng:

– Nhà ngươi bắt ai vậy ?

Thân Vô Vũ nói:

– Tôi bắt một tên lính canh của tôi . Nguyên trước tôi sai nó canh cửa, nó lấy trộm tửu khí của tôi, rồi trèo tường trốn đi; tôi tìm đã hơn một năm nay mà không bắt được, bây giờ nó sung vào làm lính canh ở đây, vậy nên tôi bắt .

Linh vương nói:

– Hắn đã làm lính canh ở đây thì nhà ngươi nên tha cho hắn .

Thân Vô Vũ nói:

– Tôi nghe nói trong một nước có người trên kẻ dưới, kẻ dưới có phục tùng người trên thì nước mới khỏi loạn . Tôi có một tên lính canh cửa mà tôi không thi hành được pháp lệnh, khiến nó ẩn núp vào chỗ vương cung . Một đứa như vậy mà có chỗ ẩn núp, thì trộm cướp sẽ hoành hành còn ai ngăn cấm được nữa . Chẳng thà tôi chịu tội chết, chứ không dám vâng mệnh .

Sở Linh vương khen phải, liền bắt tên lính ấy giao giả Thân Vô Vũ và xá cái tội tự tiện vào chốn vương cung . Thân Vô Vũ lạy tạ, lui ra .

Qua mấy ngày nữa, quan đại phu nước Sở là Viễn Khải Cương sang nước Lỗ, mời được Lỗ Chiêu công đến nước Sở . Linh vương mừng lắm . Viễn Khải Cương tâu rằng:

– Vua Lỗ lúc trước không chịu đi, tôi đem cái tình hoà hiếu của Lỗ Thành công khi trước với quan đại phu nước ta là Anh Tề hai người cùng nhau hội thề ở đất Thục, mà kể lại hai ba lần và lấy nạn binh đao ra dọa, bấy giờ vua Lỗ mới sợ mà phải đi . Vua Lỗ là người hiểu lễ phép lắm, xin đại vương phải lưu tâm, chớ để cho vua Lỗ chê cười .

Linh vương hỏi:

– Vua Lỗ là người thế nào ?

Viễn Khải Cương nói:

– Vua Lỗ mặt trắng mình cao, râu dài hơn thước, rất là uy nghi .

Sở Linh vương liền mật truyền chọn lấy mười người to lớn râu dài, cho đội mũ mặc áo thật đẹp bắt tập lễ trong ba ngày, rồi sai làm chức thấn tướng, để ra tiếp kiến Lỗ Chiêu công .

Lỗ Chiêu công thoắt thấy thì lấy làm lạ, trong lòng tấm tắc mãi bèn cùng với người ấy vào chơi cung Chương Hoa . Khi vào đến cung Chương Hoa, Lỗ Chiêu công trông thấy lâu đài mỹ lệ, thì khen ngợi không ngớt mồm! Sở Linh vương hỏi rằng:

– Bên quí quốc có cái cung nào đẹp như thế này không ?

Lỗ Chiêu công đứng khúm núm mà đáp lại rằng:

– Nước tôi nhỏ mọn có đâu dám sánh với quí quốc .

Sở Linh vương không khỏi lộ vẻ tự kiêu, bèn cùng với Lỗ Chiêu công trèo lên Chương Hoa đài . Đài cao chót vót, mỗi tầng lại có một bọn mỹ đồng múa hát và chuốc rượu; khi lên đến tầng cao nhất, tiếng tơ tiếng trúc, nghe văng vẳng như ở lưng chừng trời, chẳng khác gì một nơi thiên tiên động phủ . Lỗ Chiêu công uống rượu say, cáo từ lui ra . Sở Linh vương đem một cái cung Đại Khuất đưa tặng Lỗ Chiêu công. Hôm sau, Sở Linh vương nghĩ đếnc cái cung ấy, lại có ý tiếc mới nói chuyện với Viễn Khải cương . Viễn Khải Cương nói:

– Tôi xin báo vua Lỗ trả lại cái cung ấy .

Viễn Khải Cương liền đến yết kiến Lỗ Chiêu công, giả cách không biết mà hỏi rằng:

– Hôm qua nhà vua ngự tiệc với đại vương tôi, đại vương tôi có tặng nhà vua cái gì không ?

Lỗ Chiêu công đưa cái cung cho Viễn Khải Cương xem . Viễn Khải Cương trông thấy cái cung, sạp lạy mà chúc mừng, Lỗ Chiêu công nói:

– Làm gì một cái cung mà phải chúc mừng ?

Viễn Khải Cương nói:

– Cái cung này có danh tiếng lắm . Khi trước Tề, Tấn và Việt đều sai người đến cầu, mà đại vương tôi vẫn không cho ai cả, ngày nay lại đưa tặng nhà vua, tất thế nào Tề, Tấn và Việt cũng có lòng ghen tức; qúi quốc nên phòng bị ba nước kia mà giữ lấy của báu này, vậy tôi xin chúc mừng .

Lỗ Chiêu công có ý buồn mà nói rằng:

– Tôi không biết cái cung này qúi đến thế, nếu vậy thì tôi không dám nhận .

Lỗ Chiêu công liền sai người đem cái cung ấy trả lại Sở Linh vương, rồi cáo từ về . Ngũ Cử nghe thấy chuyện ấy, thở dài mà nói rằng:

– Đại vương ta khó lòng mà toàn được! vì viẹc khánh thành, sai sứ đi triệu chư hầu, không nước nào chịu đến, chỉ có một mình nước Lỗ, mà lại còn tiếc một cái cung để thất tín với người ta . Đã tiếc của mình như thế tất muống lấy của người, tài nào không có kẻ thù oán, giữ sao cho toàn được !

Tấn Bình công nghe tin nước Sở vì việc khánh thành cung Chương Hoa mà sai sứ đi triệu chư hầu mới bảo các quan đại phu rằng:

– Sở là một nước rợ mọi mà còn biết đem lâu đài mỹ lệ khoe với chư hầu, huống chi nước Tấn ta lại chịu kém hay sao!

Quan đại phu là Dương Thiệt Bật nói:

– Bá chủ mà được chư hầu tâm phục là cốt ở đức, chứ không ở lâu đài . Cung Chương Hoa là một điều dở của nước Sở, sao chúa công lại muốn bắt chước ?

Tấn Bình công không nghe, liền sai dựng một cái cung ở bên sông Phần, thuộc địa giới Khúc Ốc, làm theo kiều cung Chương Hoa nước Sở, to lớn không bằng, nhưng tinh xảo thì có phần hơn, đặt tên là Kỳ cung; cũng sai sứ đi bá cáo chư hầu . Các vua chư hầu nghe tin ấy, đều lấy làm chê cười, nhưng cũng phải sai sứ đến chúc mừng . Chỉ có Trịnh Giản công khi trước sang dự hội với Sở Linh vương, chưa đến triều nước Tấn bao giờ và Vệ Linh công mới lên nối ngôi cũng chưa đến triều nước Tấn, hai vua ấy đều định nhân việc khánh thành Từ Kỳ cung để thân hành đến yết kiến Tấn Bình công . Vệ Linh công đi đến sông Bộc Thủy, trời tối, nằm ngủ ở quán xá . Đêm hôm ấy, nằm mãi không ngủ được, nghe văng vẳng có tiếng đàn cầm, liền khóac áo trở dậy, ngồi tựa gối mà nghe . Tiếng đàn ty tỷ rất nhỏ mà có thể nghe rõ được, xưa nay chưa có ai gảy được như thế! Vệ Linh công hỏi các người xung quanh thì đều tâu là không nghe thấy tiếng gì cả .

Vệ Linh công vốn là người thích âm nhạc có quan thái sư tên là Quyên, tinh nghề âm nhạc, Vệ Linh công yêu lắm, đi đâu cũng đem đi theo, bấy giờ sai người triệu Sư Quyên (tức là quan thái sư tên là Quyên) . Sư Quyên đến . Tiếng đàn vẫn chưa dứt, Vệ Linh công bảo Sư Quyên rằng:

– Nhà ngươi thử lắng tai nghe, tựa hồ tiếng ma qủi .

Sư Quyên nghe một hồi lâu thì tiếng đàn im .

Sư Quyên nói:

– Tôi đã nhận được đại lược rồi . Nếu nghe thêm một đêm nữa thì tôi có thể gảy được .

Vệ Linh công truyền ở thêm lại một đêm nữa . Nửa đêm hôm ấy, lại nghe có tiếng đàn . Sư Quyên lấy đàn cầm mà tập gảy theo, bắt chước được hết cái thần diệu của tiếng đàn . Khi đến nước Tấn, triều kiến xong rồi, Tấn Bình công bày tiệc ở trên đài Từ Kỳ để thết đãi Vệ Linh công .

Rượu đã ngà ngà say, Tấn Bình công nói với Vệ Linh công rằng:

– Tôi vẫn nghe noi nước Vệ có Sư Quyên là người tinh nghề âm nhạc, chẳng hay nhà vua có cho theo đó không ?

Vệ Linh công nói:

– Hiện đang đứng ở dưới đài .

Tấn Bình công nói:

– Cho gọi lên đây .

Vệ Linh công bèn cho gọi Sư Quyên lên . Tấn Bình công cũng cho gọi Sư Khoáng đến . Người hầu tức khắc dắt Sư Khoáng đến . Sư Quyên và Sư Khoáng hai người chào nhau . Tấn Bình công cho Sư Khoáng ngồi, rồi bảo Sư Quyên ngồi ở bên cạnh Sư Khoáng, và hỏi Sư Quyên rằng:

– Độ này có khúc âm nhạc nào mới không ?

Sư Quyên nói:

– Mới rồi trong khi đi đường, tôi có được nghe một khúc đàn, xin cho tôi mượn cây đàn cầm để gảy .

Tấn Bình công sai người bắc ghế, đem một cây đàn cầm để ở trước mặt Sư Quyên . Sư Quyên lên dây gảy . Mới gảy được mấy tiếng, Tấn Bình công đã khen hay . Khi gảy đến nửa chừng, Sư Khóang lấy tay gạt đi mà bảo rằng:

– Thôi thôi, khúc nhạc vong quốc ấy chớ nên gảy!

Tấn Bình công nói:

– Tại sao biết ?

Sư Khoáng nói:

– Về cuối đời nhà Ân, có Sư Diên là quan âm nhạc, cùng với vua Trụ làm ra khúc nhạc uỷ mị, vua Trụ nghe lấy làm thích lắm, tức là khúc này . Đến khi Vũ vương ta đánh vua Trụ, Sư Diên ôm đàn chạy về phía đông, nhảy xuống sông Bộc Thuỷ . Từ bấy giờ có ai thích âm nhạc đi qua đấy thì lại có tiếng đàn văng vẳng ở dưới nước . Khúc này Sư Quyên nghe được ở trong khi đi đường, tất là khúc đàn ở trên sông Bộc .

Vệ Linh công nghĩ thầm lấy làm lạ . Tấn Bình công lại bảo Sư Khóang rằng:

– Đó là âm nhạc của đời trước, dẫu gảy nghe chơi, phỏng có hại gì!

Sư Khoáng nói:

– Vua Trụ vì mê khúc đàn ấy mà đến nỗi mất nước, đó là một thứ âm nhạc bất tường, vậy chớ nên gảy .

Tấn Bình công nói:

– Ta thích nghe âm nhạc mới, Sư Quyên hãy vì ta gảy nốt khúc đàn ấy .

Sư Quyên lại lựa dây rồi gảy nốt khúc đàn ấy . Tiếng đàn êm ái, lên bổng xuống trầm, như than như khóc .

Tấn Bình công bằng lòng, hỏi Sư Khoáng rằng:

– Khúc đàn này là điệu gì ?

Sư Khoáng nói:

– Đó là điệu Thanh thương .

Tấn Bình công nói:

– Điệu Thanh thương nghe bi ai như thế à ?

Sư Khoáng nói:

– Điệu Thanh thương dẫu bi ai, cũng chưa bằng điệu Thanh chuỷ .

Tấn Bình công nói:

– Nhà ngươi có thể gảy cho ta nghe điệu Thanh chuỷ được không ?

Sư Khoáng nói:

– Không nên! ông vua có đức mới được nghe điệu ấy, nay chúa công bạc đức, không nên nghe .

Tấn Bình công nói:

– Ta thích nghe âm nhạc mới, nhà ngươi chớ nên chối từ .

Sư Khoáng bất đắc dĩ phải cầm lấy đàn mà gảy . Mới gảy được một khúc, thì có một đàn chim hạc ở phương nam bay đến, đậu trước cung môn, đếm cả thảy được tám đôi . Gảy khúc nữa thì chim hạc bay xuống, đứng sắp hàng ở dưới thềm, mỗi bên tám con . Gảy thêm khúc nữa thì chim hạc vỗ cánh mà múa, vươn cổ mà kêu, theo vần cung thương, tiếng vang đến tận trời . Tấn Bình công vỗ tay mà khen . Các người đứng xem ai cũng lắc đầu lè lưỡi, lấy làm sự lạ . Tấn Bình công truyền lấy chén bạch ngọc, rót đầy rượu vào, rồi đứng dậy cầm đưa cho Sư Khoáng . Sư Khoáng đỡ lấy uống .

Tấn Bình công khen rằng:

– Âm nhạc đến như điệu Thanh chuỷ thì không còn gì hơn nữa!

Sư Khóang nói:

– Còn chưa bằng điệu Thanh dốc .

Tấn Bình công ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Lại còn có điệu hay hơn Thanh thuỷ nữa! sao nhà ngươi không cho ta nghe nốt ?

Sư Khóang nói:

– Điệu Thanh dốc không như điệu Thanh chuỷ, tôi không dám gảy . Ngày xưa vua Hoàng đến hội các thần ở núi Thái Sơn, rồi làm ra điệu Thanh dốc; vua đời sau đức bạc, không sai khiến được các thần, vậy nên thần và người cách biệt nhau . Nếu bây giờ gảy khúc ấy thì các thần lại hiện xuống cả, không khéo thì có tai vạ .

Tấn Bình công nói:

– Ta nay đã già rồi, nếu được nghe điệu Thanh dốc mà chết thì cũng thoả lòng!

Sư Khóang nhất định không chịu gảy . Tấn Bình công đứng dậy, hai ba lần cố ý nài ép . Sư Khoáng bất đắc dĩ lại phải ômg cầm mà gảy . Mới gảy một khúc, có đám mây đen ở phương tây hiện lên; gảy khúc nữa thì bỗng nổi một cơn dông, bao nhiêu ngói ở trên nóc điện bay tung lên và cột hiên gãy hết, lại thấy có tiếng sét dậy trời, rồi mưa như trút nước . Dưới đài ngập mấy thước, trong đài chỗ nào cũng ước cả, Tấn Bình công sợ hãi, cùng với Vệ Linh công nằm phục vào một nơi . Khi mưa gió đã im lặng rồi, nội thị mới vực Tấn Bình công và Vệ Linh công ở trên đài xuống . Đêm hôm ấy, Tấn Bình công vì sợ mà thành bệnh, nằm mộng thấy một vật sắc vàng, to bằng cái xe, lù lù đến trước mặt . Trông kỹ ra thì hình như con ba ba, phía trước hai chân, phía sau một chân, đi dến đâu thì nước tuôn ra đến đấy . Tấn Bình công kêu lên một tiếng, rồi giật mình tỉnh dậy .

Sáng hôm sau, các quan vào cung vấn an . Tấn Bình công kể chuyện chiêm bao cho các quan nghe . Các quan đều không hiểu ra làm sao cả . Được một lúc, nghe báo có Trịnh Giản công đến, hiện đã ở ngoài công quán . Tấn Bình công sai Dương Thiệt Bật ra tiếp kiến . Dương Thiệt Bật mừng mà nói rằng:

– Nếu vậy thì cái mộng của chúa công có thể đóan ra được .

Các quan đều xúm lại hỏi cớ . Dương Thiệt Bật nói:

– Quan đại phu nước Trịnh là Tử Sản (tên tự của công tôn Kiều) vốn người học rộng biết nhiều, tất thế nào vua Trịnh cũng cho người ấy đi theo . Ta sẽ đem mộng của chúa công ta mà hỏi người ấy .

Dương Thiệt Bật ra tiếp kiến Trịnh Giản công và nói cho Trịnh Giản công biết là vua Tấn có bệnh, không thể ra tiếp kiến được . Bấy giờ Vệ Linh công cũng vì sợ mà hơi mệt trong mình, mới cáo từ về nước . Trịnh Giản công cũng cáo từ xin về, cho công tôn Kiều ở lại, để hỏi han bệnh tình của Tấn Bình công . Dương Thiệt Bật hỏi công tôn Kiều rằng:

– Chúa công tôi nằmg mộng thấy một vật hình như con ba ba, mình vàng mà ba chân, không hiểu là thế nào ?

Công tôn Kiều nói:

– Ngày xưa vua Nghiêu sai ông Cổn đi trị thuỷ, ông Cổn làm không được việc, vua Nghiêu mới chặt một chân mà đem đầy ra Đông Hải . Về sau, hồn ông Cổn hóa làm con rồng vàng . Từ khi con ông Cổn là Vũ lên nối ngôi, cho đến bây giờ vẫn tế thần ấy; nhà Chu suy đồi, quyền chính ở bá chủ, bá chủ nên giúp thiên tử để tế các thần, hoặc giả vua Tấn bấy giờ chưa tế thần ấy chăng ?

Dương Thiệt Bật đem lời công tôn Kiều tâu lại với Tấn Bình công . Tấn Bình công sai quan đại phu là Hàn Khởi đi tế thần Cổn, bấy giờ bệnh mới hơi bớt . Tấn Bình công khen công tôn Kiều rằng:

– Tử Sản thật là một người bác vật!

Khi công tôn Kiều sắp về nước Trịnh, thì nói riêng với Dương Thiệt Bật rằng:

– Nhà vua không biết thương dân mà lại bắt chước sự xa xỉ của nước Sở, thế là cái tâm đã thiên đi rồi, nếu cơn bệnh trở lại, thì không cứu được nữa! mới rồi, tôi nói chuyện thần Cồn là muốn mượn chuyện ấy để khiến cho nhà vua được nguôi lòng đó mà thôi .

Bấy giờ có người hành khách đang buổi sáng sớm đi qua đất Ngụy Du (đất nước Tấn), nghe ở dưới chân núi có tiếng mấy người họp bàn việc nước Tấn; khi tới gần, nom kỹ thì chẳng thấy người nào cả, chỉ có hơn chục viên đá mà thôi . Đi khỏi rồi, lại nghe thấy như trước . Người ấy vội vàng ngảnh cổ lại thì ra tiếng nói ở trong viên đá mà ra, mới giật mình kinh sợ, rồi thuật chuyện lại cho người ở đấy biết . Người bản xứ nói:

– chúng tôi nghe thấy đá nói đã mấy ngày nay rồi, chỉ vì chuyện quái dị nên không dám nói đến .

Sau có tiếng đồn đến Giáng Đô (kinh thành nước Tấn). Tấn Bình công triệu Sư Khóang đến mà hỏi rằng:

– Tại sao đá lại biết nói ?

Sư Khóang tâu rằng:

– Đó tất là quỷ thần xui khiến ra như vậy . Quỷ thần dựa vào dân, dân có yên thì quỷ thần mới yên, nay chúa công sửa sang lâu đài, khiến cho dân tốn tiền hao sức, bởi thế mà đá biết nói .

Tấn Bình công nín lặng . Sư Khóang lui ra, bảo Dương Thiệt Bật rằng:

– Thần và nguời đều oán giận cả thì chúa công chắc không sống lâu được .

Được hơn một tháng nữa, Tấn Bình công lại ốm nặng rồi chết . Các quan triều thần lập thế tử Di lên nối ngôi, tức là Tấn Chiêu công .

Lại nói đến chuyện quan đại phu nước Tề là Cao Mại đuổi Cao Chỉ và giết Lư Khâu Anh, cả triều ai cũng không bằng lòng, đến đời con là Cao Cương nối cha làm chức đại phu, đang ít tuổi mà lại nghiện rượu, bấy giờ Loan Thi cũng nghiện rượu, bởi vậy hai người rất là tương đắc với nhau, mà không có ý thân thiết với Trần Vô Vũ và Bão Quốc . Bốn họ Cao, Loan, Trần, Bão ấy chia làm hai cánh . Họ Cao cùng họ Loan, mỗi khi họp nhau uống rượu say, lại nói xấu họ Trần và họ Bão . Họ Trần và họ Bão biết chuyện, mới đem lòng nghi kỵ họ Cao và họ Loan .

Một hôm, Cao Cương nhân khi say rượu, đánh đứa hầu trai . Loan Thi đã không xin hộ, lại xúc thêm vào . Đứa hầu trai căm tức, đêm hôm ấy sang báo với Trần Vô Vũ rằng:

– Họ Cao cùng họ Loan đang họp quân, để định đến sáng ngày mai thì sang đánh họ Trần và họ Bão .

Nói xong, nó lại sang báo với Bão Quốc . Bão Quốc tin lời, vội vàg sai đứa hầu đến ước với Trần Vô Vũ để cùng đánh họ Cao và họ Loan . Trần Vô Vũ tức khắc trao áo giáp cho bọn người nhà rồi cùng lên xe, định sang nhà Bão Quốc . Đi đến nửa đường, gặp Cao Cương đang đi xe . Cao Cương đã ngà ngà say, ngồi trên xe chắp tay chào và hỏi rằng:

– Đem người nhà mặc áo giáp đi đâu ?

Trần Vô Vũ nói:

– Tôi đi bắt một đứa đầy tớ làm phản .

Trần Vô Vũ lại hỏi Cao Cương rằng:

– Ngài định đi đâu ?

Cao Cương nói:

– Tôi định sang uống rượu với họ Loan .

Trần Vô Vũ từ biệt Cao Cương, rồi thẳng tới nhà Bão Quốc, đã thấy Bão Quốc đang họp quân để sắp đi . Trần Vô Vũ thuật lại lời Cao Cương cho Bão Quốc nghe và nói với Bão Quốc rằng:

– Không biết hắn có sang uống rượu với họ Loan thật không ? Âu là ta thử sai người đi dò xem .

Bão Quốc sai người nhà sang dò thám nhà Loan . Người nhà về báo rằng:

– Họ Cao và họ Loan đang cởi hết cả mũ áo ra, rồi cùng nhau ngồi xổm uống rượu .

Bão Quốc nói:

– Nếu vậy thì đứa hầu kia nói càn rồi .

Trần Vô Vũ nói:

– Đứa tiểu thụ dẫu nói càn, nhưng Cao Cương gặp ta ở giữa đường, thấy ta đem quân đi, có hỏi ta đi đâu thì ta trả lời là đi đánh đứa đầy tớ làm phản . Nay Cao Cương thấy ta không đánh ai cả, tất sinh lòng nghi, hoặc lập mưu mà đuổi ta trước thì bấy giờ ta hối lại sao kịp, chi bằng ta nhân lúc này hắn uống rượu say mà đánh trước thì hơ .

Bão Quốc khen phải, tức khắc cùng với Trần Vô Vũ đem quân đến nhà Loan thi, vây kín cả bốn mặt . Loan Thi đang cầm chén rượu sắp uống, nghe tin họ Trần và họ Bão đem quân đến vây, thì giật mình kinh hãi, đánh rơi chén rượu xuống đất . Cao Cương dẫu say rượu, nhưng còn có chủ kiến, bảo Loan Thi rằng:

– Chúng ta vào triều, phụng mệnh chúa công để đánh họ Trần và họ Bão thì tất phải được .

Loan Thi tức khắc cùng với Cao Cương đem quân mở cửa sau, phá vòng vây chạy vào tới cung môn . Trần Vô Vũ và Bão Quốc đem quân đuổi theo . Tề Cảnh công ở trong cung, thấy bốn họ đem quân kéo đến, không biết là việc gì, vội vàng truyền cho quân sĩ đóng chặt cửa Hổ Môn lại . Cao Cương và Loan Thi không được vào, mới đóng quân ở bên hữu Hổ Môn . Trần Vô Vũ và Bão Quốc cũng đóng quân ở bên tả . Hai bên cùng chống giữ nhau . Được một lúc thì Án Anh đi xe đến . Bốn họ đều sai người gọi .

Án Anh không ngảnh lại, nói rằng:

– Tôi chỉ biết theo mệnh vua, không dám có ý riêng với ai cả .

Quân sĩ mở cửa cho Án Anh vào . Án Anh vào yết kiến Tề Cảnh công . Tề Cảnh công hỏi rằng:

– Nay bốn họ cùng đánh nhau, đem quân tới đây, ta nên xử ra thế nào ?

Án Anh nói:

– Họ Cao và họ Loan chuyên quyền cậy thế, kể đã lâu ngày, đuổi Cao Chi, giết Lư Khâu Anh, người trong nước ai cũng tức giận, nay lại đem quân tiến vào Hổ Môn, tội ấy không thể tha được; còn họ Trần và họ Bão chưa phụng mệnh vua mà dám đem quân đến đây, cũng không phải là vô tội, xin chúa công định đoạt .

Tề Cảnh công nói:

– Tội của họ Cao, họ Loan nặng hơn tội họ Trần, họ Bão, ta nên trừ họ Cao, họ Loan đi . Nhưng bây giờ biết sai ai cho được ?

Án Anh nói:

– Quan đại phu là Vương Hắc có thể sai được .

TỀ Cảnh công truyền cho Vương Hắc đem quân giúp họ Trần cùng họ BÃo, để đánh họ Cao và họ Loan . Cao Cương và Loan Thi đánh thua, rút lui ra đường cái . Người trong nước ghét Cao Cương và Loan Thi, đều xúm lại đánh . Cao Cương vẫn chưa tỉnh rượu, không thể đánh nổi . Loan Thi chạy ra cửa đông . Cao Cương cũng chạy theo, Vương Hắc cùng với họ Trần và họ Bão đuổi kịp đến nơi, lại cùng nhau giao chiến ở cửa đông . Quân Cao Cương và Loan Thi bỏ chạy tán loạn cả . Cao Cương và Loan Thi trốn sang nước Lỗ . Trần Vô Vũ cùng với Bão Quốc đuổi hết vợ con họ Cao và họ Loan đi, rồi chiếm lấy gia sản . Án Anh bảo Trần Vô Vũ rằng:

– Nhà người tự tiện đuổi kẻ thế thần mà lại chiếm lấy của cải, rồi thế nào người ta cũng nghị luận; sao không biết đem những của cải ấy mà nộp vào công khố, như thế có phải ai cũng bảo nhà ngươi là người có đức, sẽ có ích cho nhà ngươi về sau này nhiều lắm .

Trần Vô Vũ nói:

– Đa tạ lời ngài chỉ giáo, tôi xin vâng mệnh .

Trần Vô Vũ liền đem những của cải đã chiếm được của họ Cao và họ Loan mà biên và một quyển sổ, rồi đem dâng Tề Cảnh công . Tề Cảnh công bằng lòng . Trần Vô Vũ lại có lễ vật riêng đem dâng bà Mạnh Cơ là thân mẫu Tề Cảnh công, bà Mạnh Cơ nói với Tề Cảnh công rằng:

– Trần Vô Vũ trừ bỏ kẻ quyền thần khiến cho nước nhà được cường thịnh, mà bao nhiêu tài lợi, lại nộp vào công khố cả . Cái nhượng đức ấy thật là đánh khen! Sao không đem đất Cao Đường mà phong cho hắn ?

Tề Cảnh công theo lời . Từ đó họ Trần thành ra giàu có . Trần Vô Vũ muốn được tiếng là người tốt, mới nói với Tề Cảnh công, xin triệu các công tử về, vì các công tử khi trước bị Cao Mại đuổi, thật là vô tội . Tề Cảnh công nghe lời . Trần Vô Vũ sai người đi triệu các công tử về, phàm những mùng màn đồ đạc của các công tử và áo quần dày dép của các người hầu đều do Trần Vô Vũ xuất của nhà ra để cung đốn cả . Các công tử thấy vậy, cảm kích vô cùng . Trần Vô Vũ lại thi ân với họ nhà vua, phàm các công tử, công tôn người nào không có lương, đều xuất của nhà mà chu cấp cho . Những người ngheo khổ trong nước đến vay thóc, lúc cho vay thì đong đấu lớn, lúc đem trả thì đong đấu nhỏ; người nào cùng quá, không thể trả được thì đốt văn tự đi . Bởi vậy, người trong nước ai cũng ca tụng lòng nhân đức của Trần Vô Vũ .

Tề Cảnh công dùng Án Anh làm tướng quốc . Án Anh thấy lòng dân đều mến phục họ Trần, thường nói riêng với Tề Cảnh công và khuyên Tề Cảnh công phải mở lòng làm ơn với dân thì mới thu được nhân tâm, nhưng Tề Cảnh công không biết theo .

Lại nói chuyện Sở Linh vương khánh thành cung Chương Hoa, các vua chư hầu đến ít lắm, sau nghe nói nước Tấn khánh thành cung Từ Kỳ, chư hầu đều đến đông cả, thì có ý bất bình, mới triệu Ngũ Cửu vào để thương nghị, muốn cất quân sang đánh Trung nguyên . Ngũ Cửu nói:

– Đại vương lấy nghĩa lý triệu chư hầu, nếu chư hầu không đến thì mới nên trách, chứ lấy việc thổ mộc triệu chư hầu, mà trách chư hầu không đến thì sao cho người ta phục ? đại vương muốn đánh trung nguyên, thì nên tìm kẻ nào có tội mà đánh, mới khỏi mang tiếng .

Sở Linh vương nói:

– Ngày nay nước nào là nước có tội nên đánh ?

Ngũ Cửu nói:

– Thế tử Ban nước Sái giết cha mà cướp lấy ngôi vua, đến nay đã chín năm . Lúc đại vương mới hội chư hầu, vua Sái có đến dự hội, bởi vậy ẩn nhẫn mà không giết, nhưng những đứa loạn tặc, dẫu đến đời con cháu cũng không khỏi tội, huống chi là đang đời mình . Nước Sái lại tiếp giáp với nước Sở ta, nếu đánh Sái mà chiếm lấy đất thì nghĩa và lợi đều trọn cả đôi đường .

Ngũ Cửu nói chưa dứt lời thì có tin báo Trần Ai Công (Nịch) chết, con là công tử Lưu lên nối ngôi . Ngũ Cửu nói với Sở Linh vương rằng:

– Thế tử Yển Sư nước Trần đã có tên ở trong sổ sách của chư hầu, nay lại lập công tử Lưu, thì thế tử Yển Sư ở vào địa vị nào! cứ như ý tôi, thì tất là nước Trần lại có biến loạn.Được đề xuất cho bạn.

Chương 69: Sở Linh Vương cậy thế hùng cường – Án Bình trọn thi tài ăn nói

Trần Ai công tên là Nịch . Người chánh phi là Trịnh Cơ, sinh con là Yển Sư, đã được lập làm thế tử . Còn người thứ phi sinh ra công tử Lưu; người thứ ba sinh ra công tử Thắng . Người thứ phi khéo nịnh được yêu, khi đã sinh được công tử Lưu thì Trần Ai công yêu lắm, trong lòng những muốn cho làm thế tử, nhưng vì trót đã lập Yển Sư làm thế tử, không vì cớ gì mà bỏ được, mới lấy người em là công tử Chiêu làm thái phó, công tử Quá làm thiếu phó để giúp cho công tử Lưu, và dặn Yển Sư ngày sau phải truyền ngôi cho công tử Lưu . Năm ấy Trần Ai công ốm nặng, đã lâu không ra coi triều, công tử Chiêu bảo công tử Qúa rằng:

– Con thế tử Yển Sư là công tôn Ngô, năm nay đã lớn tuổi . Nếu thế tử Yển Sư lên nối ngôi thì tất là lập công tôn Ngô làm thế tử, bao giờ truyền đến công tử Lưu được . Nay chúa công ốm nặng, quyền chính ở trong tay chúng ta, chi bằng ta giả cách phụng mệnh chúa công giết thế tử Yển Sư đi mà lập công tử Lưu thì sau mới khỏi hối .

Công tử Qúa khen phải, liền cùng với quan đại phu là Trần Khổng Hoán thương nghị . Trần Khổng Hoán nói:

– Thế tử Yển Sư ngày nào cũng vào cung hỏi thăm chúa công ba lần, sớm tối ở bên cạnh chúa công, ta không thể nói dối được, chi bằng sai người nấp ở cửa cung, đợi khi ra vào mà đâm chết đi là hơn .

Công tử Qúa ban nhau với công tử Chiêu, rồi giao việc ấy cho Trần Khổng Hoán, và ước với Trần Khổng Hóan rằng khi đã lập công tử Lưu rồi, sẽ phong cho một ấp lớn .

Trần Khổng Hóan sai một lực sĩ tâm phúc đứng lẫn vào trong đám quân sĩ canh cửa . Quân sĩ canh cửa tưởng là người theo hầu thế tử Yển Sư, không nghi ngờ gì cả . Thế tử Yển Sư vào thăm bệnh xong, đang đêm ra đến cửa cung, người lực sĩ bèn tắt đèn, rồi đâm chết đi . Cửa cung náo loạn . Được một lúc, công tử Chiêu và công tử Quá đến, giả cách kinh sợ, một mặt sai người tầm nã quân giặc, còn một mặt nói vua Trần ốm nặng, nên lập công tử Lưu lên nối ngôi .

Trần Ai công biết chuyện, giận quá thắt cổ mà chết . Công tử Chiêu phụng công tử Lưu đứng chủ tang, rồi lập lên làm vua; lại sau quan đại phu là Vu Trưng Sư đến cáo với vua Sở là Trần Ai công ốm nặng mà chết . Bấy giờ Ngũ Cử đang đứng hầu ở bên cạnh Sở Linh vương thấy nói nước Trần đã lập công tử Lưu lên làm vua, không biết thế tử Yển Sư đi đâu, có ý nghi hoặc, bỗng nghe báo có người con thứ ba của Trần Ai công là công tử Thắng và người cháu gọi bằng chú là công tôn Ngô (con thế tử Yển Sư) xin vào yết kiến . Sở Linh vươg cho vào . Công tử Thắng và công tôn Ngô sụp lạy, khóc lóc mà nói rằng:

– Đích huynh tôi là thế tử Yển Sư bị công tử Chiêu và công tử Qúa bày mưu giết đi, để đến nỗi thân phụ tôi phải thắt cổ mà chết, rồi bọn kia lại tự tiện lập công tử Lưu lên làm vua . Chúng tôi sợ bị hại, vậy phải đem nhau sang đây để nhờ ơn qúi quốc .

Sở Linh vương hỏi Vu Trưng Sư . Vu Trưng Sư còn chối, nhưng bị công tử Thắng biện bác, không thể cãi lại được . Sở Linh vương nổi giận mà mắng rằng:

– Nhà ngươi tức là vây cánh công tử Chiêu và công tử Quá!

Nói xong truyền quân đao phủ trói lại đem ra chém . Hành hình xong, Ngũ Cử tâu rằng:

– Đại vương đã giết Vu Trưng Sư thì nên giúp công tôn Ngô để trị tội công tử Chiêu và công tử Quá, danh chính ngôn thuận, ai mà không phục . Đã dẹp yên nước Trần rồi, sẽ đến lượt nước Sái, như thế tôi chắc rằng có thể noi theo được sự nghiệp của vua Trang vương ta thuở xưa .

Sở Linh vương bằng lòng, mới đem quân sang đánh Trần . Công tử Lưu nước Trần nghe tin Vu Trưng Sư bị giết, sợ có tai vạ, không dám lên làm vua, liền trốn sang nước Trịnh . Có người bảo công tử Chiêu sao không đi theo công tử Lưu . Công tử Chiêu nói:

– Nếu quân Sở đến, ta sẽ có kế làm cho phải lui .

Sở Linh vương đem quân đến nước Trần . Người nước Trần đều thương thế tử Yển Sư chết oan, trông thấy công tôn Ngô về, ai cũng mừng rỡ, kéo nhau ra mà đón rước . Công tử Chiêu thấy việc đã nguy cấp lắm, sai người mời công tử Quá đến thương nghị . Công tử Quá đến, hỏi công tử Chiêu rằng:

– Khi trước ngài nói có kế làm cho quân Sở phải lui, chẳng hay là kế gì ?

Công tử Chiêu nói:

– Tất phải dùng một vật mới lui được quân Sở, ta muốn mượn nhà ngươi vật đó .

Công tử Quá hỏi:

– Chẳng hay vật gì ?

Công tử Chiêu nói:

– Cái đầu nhà ngươi!

Công tử Quá kinh sợ, vừa toan đứng dậy thì quân hầu xúm lại đánh chết mà chém lấy đầu . Công tử Chiêu đem đầu công tử Quá sang quân Sở, sụp lạy Sở Linh vương mà tâu rằng:

– Việc giết thế tử Yển Sư mà lập công tử Lưu, đều là công tử Quá làm . Tôi núp dưới uy của đại vương, chém đầu công tử Quá mà đem nộp, xin đại vương xá tội .

Sở Linh vương thấy công tử Chiêu nói năng khiêm tốn, đã có ý bằng lòng . Công tử Chiêu lại quỳ gần ở trước mặt, mà mật tâu rằng:

– Vua Trang vương nước Sở ngày xưa dẹp yên nước Trần, đã lấy nước Trần làm quận huyện, sau lại phong cho nước Trần, thành ra uổng công; nay công tử Lưu sợ tội bỏ trốn, nước Trần không có ai làm chủ, xin đại vương lấy làm quận huyện, chớ để cho lại về quyền họ khác .

Sở Linh vương mừng rỡ nói rằng:

– Lời nói nhà ngươi chính hợp ý ta ? nhà ngươi hãy về trước, quét dọn cung thất để đợi ta đến .

Công tử Chiêu lạy tạ rồi lui ra . Công tử Thắng nghe nói Sở Linh vương tha cho công tử Chiêu về nước, lại vào tâu với Sở Linh vương rằng:

– Việc giết thế tử Yển Sư, thủ mưu tự công tử Chiêu, đến lúc định khởi sự thì công tử Quá sai quan đại phu là Trần Khổng Hoán làm . Nay Chiêu lại đổ tội cho công tử Quá để mong được khỏi chết, như thế thì tiên quân và tiên thế tử tôi ở dưới suối vàng, sao cho được hả lòng ?

Công tử Thắng vật mình lăn khóc, quân sĩ trông thấy, ai cũng cảm động .

Sở Linh vương dỗ bảo rằng:

– Công tử chớ lo, ta sẽ liệu cách phân xử .

Ngày hôm sau, công tử Chiêu sắp sửa xa giá ra đón Sở Linh vương vào thành . Sở Linh vương ngồi ở trên triều đường, các quan văn võ đều đến yết kiến . Sở Linh vương gọi Trần Khổng Hoán đến trước mặt mà mắng rằng:

– Việc giết thế tử Yển Sư, đều bởi tay nhà ngươi, nếu không giết nhà ngươi thì sao làm gương cho kẻ khác được!

Nói xong truyền cho quân sĩ đem Trần Khổng Hoán ra chém, rồi đem đầu Trần Khổng Hoán và đầu công tử Quá bêu ở cửa thành . Sở Linh vương lại bảo công tử Chiêu rằng:

– Ta cũng mốn dung tha cho nhà ngươi, nhưng vì công luận, không thể dùng được . Nay ta tha tội chết cho, nhà ngươi phải đem ngay gia quyến ra xứ Đông Hải mà ở .

Công tử Chiêu sợ quá, không dám cãi lạ, sụp lạy rồi lui ra . Sở Linh vương sai người đem công tử Chiêu ra an trí ở nước Việt . Công tử Thắng và công tôn Ngô sụp lạy Sở Linh vương, tạ cái ơn dẹp hộ quân giặc . Sở Linh vương bảo công tôn Ngô rằng:

– Ta vẫn muốn lập nhà ngươi lên làm vua nước Trần, nhưng vây cánh công tử Chiêu và công tử Quá còn nhiều, tất lại thù oán, làm hại nhà ngươi, nhà ngươi nên theo ta về nước Sở .

Bèn truyền đổi nước Trần làm quận huyện nước Sở . Sở Linh vương thấy Xuyên Phong Thú khi trước dám tranh cái công bắt Hoàng Hiệt nước Trịnh, thế là người không siềm nịnh, mới cho Xuyên Phong Thú trấn thủ ở đó, gọi là Trần Công . Người nước Trần đều không bằng lòng . Sở Linh vương đem công tôn Ngô về nước, nghỉ quân một năm rồi mới đi đánh Sái . Ngũ Cử hiến kế rằng:

– Cái tội ác của vua Sái, nay đã lâu ngày, nếu ta đem quân hỏi tội thì hắn tất cãi lại, chi bằng ta dụ đến mà giết đi .

Sở Linh vương theo kế ấy, mới giả cách ra tuần du Thân Địa và sai người đem lễ vật sang mời Sái Linh công . Sứ nước Sở đem quốc thư đệ trình Sái Linh công, đại lược nói rằng:

“Tôi trông mong được thấy mặt nhà vua, xin mời nhà vua dời gót đến đất Thân . Theo đây, gọi là có những lễ vật nhỏ mọn để khao thưởng kẻ hầu hạ nhà vua, xin nhà vua nhận cho”.

Sái Linh công truyên sắp xa giá để đi . Quan đại phu là công tôn Quí Sinh can rằng:

– Vua Sở là người tham mà không thực, nay sai sứ tới đây, lễ nhiều nói ngọt, tất có ý dụ ta. Chúa công chớ nên đi .

Sái Linh công nói:

– Nước Sái ta không bằng một huyện của nước Sở, nếu vua Sở triệu mà ta không đi, tất người ta đem quân đến đánh, tài nào mà địch lại nổi!

Công tôn Quí Sinh nói:

– Nếu vậy xin lập thế tử rồi hãy đi .

Sái Linh công nghe lời, lập con là Hữu làm thế tử, và giao cho công tôn Qúi Sinh giúp thế tử Hữu giữ nước, rồi tức khắc đi xe sang đất Thân, xin vào yết kiến Sở Linh vương . Linh vương nói:

– Tôi cùng nhà vua biệt nhau, thấm thoát đã tám năm, mừng cho nhà vua thần sắc vẫn còn như cũ .

Sái Linh công nói:

– Nước tôi nhờ ơn đại vương mà được dự hội với chư hầu, chưa biết lấy gì đền ơn lại . Mới rồi, nghe nói đại vương đánh được nước Trần, đã toan sang mừng, chẳng ngờ đại vương lại cho sứ đến triệu, vậy tôi xin sang đây để bái yết .

Sở Linh vương bày tiệc thết đãi, hát xướng linh đình, chủ khách thù tạc rất là vui vẻ, lại sai Ngũ Cử cho các người theo hầu Sái Linh công uống rượu ở ngoài quán . Sái Linh công vui chén uống mãi thành ra qúa say . Khi SỞ Linh vướng ném chén rượu làm hiệu thì quân sĩ ở xung quanh đổ ra, trói Sái Linh công lại, mà Sái Linh công vẫn còn say rượu chẳng biết gì cả . Sở Linh vương sai người tuyên bố rằng:

“Vua Sái giết cha cướp ngôi, nay ta phải thay trời mà trị tội, còn những người theo hầu vua Sái, ai xin hàng thì có thưởng và cũng tha cho được về”.

Sái Linh công xưa nay tiếp đãi các tướng sĩ rất có ân lễ, bởi vậy các tướng sĩ không ai chịu hàng cả . Sở Linh vương truyền cho quân Sở vây kín lại rồi bắt tất cả . Bấy giờ Sái Linh công đã hơi tỉnh rượu, mới biết mình bị trói, trừng mắt nhìn Sở Linh vương mà hỏi rằng:

– Tôi có tội gì ?

Sở Linh vương nói:

– Mày giết cha cướp ngôi, thật là một đứa vô đạo, bây giờ mới chết, cũng là muộn lắm rồi!

Sái Linh công thở dài mà nói rằng:

– Tiếc thay ta không nghe lời công tôn Qúi Sinh!

Sở Linh vương truyền đem Sái Linh công nện đá cho chết, những người tuỳ tùng, dẫu đến kẻ lao dịch; đẩy xe cũng đều bị giết, cả thảy là bảy mươi người . Sở Linh vương ghi tội Sái Linh công vào một cái mộc bản, đem yết lên cho người trong nước biét, và sai công tử Khí Tật đem quân thẳng đường sang nước Sái .

Thế tử Hữu nước Sái, từ khi Sái Linh công sang Thân Địa rồi, vẫn sai người dò thám tin tức, bỗng nghe báo Sái Linh công bị giết, quân Sở sắp sang đến nơi, liền sửa soạn quân mã để phòng giữ . Quân Sở kéo đến, vây kín thành nước Sái đến hai ba vòng . Công tôn Qúi Sinh nói với thế tử Hữu rằng:

– Nước Sái ta dẫu phụ thuộc nước Sở đã lâu, nhưng khi Tấn và Sở giao ước bãi binh với nhau, tôi cũng dự vào đó, chi bằng ta sai sứ sang càu cứu nước Tấn, nước Tấn nghĩ đến lời giao ước ấy tất phải cứu ta .

Thế tử Hữu nghe lời, muốn tìm một người để sai sang sứ nước Tấn . Nguyên trong số bảy mươi người bị Sở Linh vương giết ở Thân Địa khi trước, có một người tên gọi Sái Lược, tức là thân phụ Sái Vi . Sái Vi muốn báo thù cho cha, mới nói với thế tử Hữu xin sang sứ nước Tấn . Sái Vi đang đem trèo qua thành ra, đi sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Chiêu công, vừa khóc vừa kể hết nông nỗi Sái Linh công bị giết . Tấn Chiêu công họp triều thần lại để thương nghị . Tuân Ngô (con Tuân Yển) nói rằng:

– Nước Tấn ta làm bá chủ thì chức trách là phải bênh vực chư hầu . Trước đã không cứu Trần, nay lại không cứu Sái thì sao gọi là bá chủ được!

Tấn Chiêu công nói:

– Vua Sở tàn bạo, nhưng binh lực ta không địch nổi thì biết làm thế nào ?

Hàn Khởi nói:

– Dẫu biết là không địch nổi, nhưng chẳng lẽ cứ ngồi yên hay sao! ta nên họp quân chư hầu mà đi đánh mới phải .

Tấn Chiêu công liền sai Hàn Khởi hội chư hầu ở đất Quyết Ngận . Tống, Tề, Lỗ, Vệ, Trịnh và Tào đều sai quan đại phu đến để dự hội . Hàn Khởi nói đến việc cứu Sái, quan đại phu các nước đều lắc đầu cả, không ai dám nhận lời . Hàn Khởi nói:

– Các ngài sợ nước Sở như thế, là muốn để mặc nước Sở cứ mỗi ngày một lấn dần như tằm ăn dâu hay sao! nếu quân Sở đánh xong Trần Sái, rồi dần dần đến các nước thì bấy giờ chúa công tôi cũng không dám bàn gì nữa!

Mọi người đều nhìn nhau, không ai trả lời . Bấy giờ quan hữu sư nước Tống là Hoa Hợi cũng dự hội . Hàn Khởi bảo Hoa Hợi rằng:

– Khi trước quna hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên xướng nghị lên mà khiến họ Tấn và SỞ hội nhau ở nước Tống để gia ước bãi binh, nếu nước nào trái lời thì các nước cùng đánh . Nay nước Sở bội ước đánh Trần và Sái mà nhà ngươi cứ khoanh tay không nói một câu nào, thế thì không phải, là tại nước Sở thất tín, chính là tại nước ngươi khinh mạn chư hầu đó!

Hoa Hợi sỡ hãi mà đáp rằng:

– Khi nào nước tôi lại dám khinh mạn chư hầu, chẳng qua là tại nước Sở mọi rợ, không nghĩ gì đến tín nghĩa, nước tôi cũng không thể làm thế nào được . Nay các nước nghĩ quân đã lâu mà bỗng nhiên khơi sự chiến tranh thì vị tất đã thắng được Sở, chi bằng ta theo lời giao ước ấy mà sai sứ đến xin vua Sở tha cho nước Sái, chắc vua Sở không thể chối từ được .

Hàn Khởi thấy quan đại phu các nước đều sợ nước Sở, liệu việc cứu Sái không thể thành được, mới bàn viết một bức thư sai quan đại phu là Hồ Phủ sang đất Thân Địa đệ trình Sở Linh vương . Sái Hữu thấy các nước không chịu đem quân cứu Sái, khóc mà trở về . Hồ Phủ sang đến Thân Địa, vào yết kiến Sở Linh vương, đệ trình bức thư, đại lược nói rằng:

“Ngày trước hai nước Sở, Tấn hội thề ở nước Tống, có giao ước cùng nhau bãi binh, đến khi hội thề ở đất Quắc lại nhớ lại ước cũ, đã có qúi thần chứng giám . Chúa công tôi cùng chư hầu noi theo lời giao ước ấy, không dám gây việc chiến tranh . Nay Trần, Sái có tội, quí quốc đem quân đi đánh, dẫu bởi việc nghĩa, nhưng chẳng qua cũng là tòng quyền . Chư hầu thấy đã giết được tội nhân rồi, mà việc binh hãy còn chưa bãi, đều đến trách chúa công tôi sao không biết bênh vực những kẻ hèn yếu, chúa công tôi lấy làm xấy hổ lắm, nhưng vẫn chưa dám cất quân, là vì sợ trái lời giao ước, vậy phải sai tôi là Hàn Khởi, cùng với quan đại phu các nước, đưa bức thư này, xin đại vương tha cho nước Sái . Nếu đại vương nghĩ đến lời giao ước mà để cho nước Sái được toàn vẹn thì chẳng những là người nước Sái mà chúa công tôi và các nước đồng minh đều cám ơn đại vương lắm”.

Cuối bức thư, quan đại phu các nước đều ký tên cả . Sở Linh vương trông thấy cười mà nói rằng:

– Ta đã sắp phá vỡ được nước Sái mà các ngươi muốn đem một câu nói lại đến giải vây, coi ta như đứa trẻ con hay sao! nhà ngươi về nói lại cho vua Tấn biết: Trần Sái là nước phụ thuộc của ta, không phiền các nước phương bắc phải trông nom hộ .

Hồ Phủ toan cố ý nàn xin thì Sở Linh vương đứng dậy trở vào, cũng không viết thư hồi đáp . Hồ Phủ căm tức mà trở về . Vua tôi nước Tấn dẫu giận nước Sở nhưng cũng không biết làm thế nào . Sái Hữu về đến nước Sái, bị quân Sở bắt được, giải đến nộp công tử Khí Tật . Công tử Khí Tật bắt hiếp Sái Hữu phải đầu hàng . Sái Hữu không chịu, Khí Tật bèn đem giam ở hậu quân . Công tử Khí Tật biết quân Tấn không đến cứu, lại càng cố sức đánh thành nước Sái .

Công tử Qúi Sinh nói với thể tử Hữu rằng:

– Bây giờ việc đã nguy cấp rồi, tôi xin liều mình sang dinh quân Sở để xin quân Sở rút về, nếu quân Sở nghe cho thì dân ta không đến nỗi tàn hại .

Thế tử Hữu nói:

– Công việc trong thành, trông cậy ở một tay đại phu, sao đại phu nỡ bỏ tôi mà đi .

Công tôn Qúi Sinh nói:

– Nếu thế tử không bằng lòng cho tôi đi thì con tôi là Triều Ngô, có thể sai đi được .

Thế tử Hữu gọi Triều Ngô đến, khóc mà sai đi . Triều Ngô vào yết kiến công tử Khí Tật . Công tử Khí Tật tiếp đãi tử tế . Triều Ngô nói:

– Công tử đem quân đánh nước tôi, nước tôi chắc thế nào cũng mất, nhưng chưa được rõ là vì tội gì ? nếu vì tội tiên quân tôi thất đức thì thế tử nước tôi có tội gì ? tôn xã nước tôi có tội gì ? xin công tử thương mà xét cho .

Công tử Khí Tật nói;

– Ta cũng biết nước Sái không đáng phải tuyệt diệt, nhưng ta phụng mệnh vua SỞ sang đây, nếu không thành công thì tất phải chịu tội .

Triều Ngô nói:

– Tôi còn có một câu nữa, xin đuổi hết người xung quanh, cho tôi được nói .

Công tử Khí Tật nói;

– Nhà ngươi cứ noi, người xung quanh ta không hề chi cả .

Triều Ngô nói:

– Vua Sở lên ngôi, không do đường chính, công tử hẳn cũng đã biết . Phàm người biết nghĩ, ai là không giận . Nay lại trong làm khổ dân về việc thổ mục, ngoài là khổ dân về việc can qua, lòng tham không chán, năm trước diệt Trần, năm sau lừa Sái . Công tử không nghĩ đến thù vua mà lại ra sức để giúp, tôi e rằng đến khi ta vạ, chắc là công tử cũng phải chịu một phần . Công tử vốn có tiếng là người hiền hậu, sáng suốt, lại có cái điềm đương bích, người nước Sở ai cũng muốn cho công tử lên làm vua; nay công tử đem quân quay về mà trị tội kẻ giết vua hại dân ấy thì còn ai dám chống lại với công tử nữa . Chẳng hơn là thờ một ông vua vô đạo, mà mua oán với thiên hạ hay sao! nếu công tử nghe lời tôi, thì tôi xin đem quân nước tôi đi làm tiên phong giúp công tử .

Công tử Khí Tật nổi giận, nói:

– Đứa thất phu kia, dám đem lời nói khéo để chia rẽ vua tôi nước ta, tội đáng chém chết, nhưng ta hay gửi cái đầu ở trên cổ nhà ngươi đó, cho nhà ngươi về truyền báo thế tử Hữu mau mau ra hàng đi thì còn được toàn tính mệnh!

Công tử Khí Tật truyền quân sĩ đuổi Triều Ngô ra . Nguyên khi trước Sở cung vương có một người thiếp yêu, sinh được năm con: con trưởng là Hùng Chiêu, tức là Sở Khang vương; người thứ hai là Vi, tức là Sở Linh vương; người thứ ba là Tị, tên tự là Tử Can; người thứ tư là Hắc Quang, tên tự là Tử Tích; còn người thứ năm là công tử Khí Tật . Trong năm người con ấy, Sở Cung vương muốn chọn một người để lập làm thế tử mà chưa biết lập ai, muốn tế các thần, rồi chôn một viên ngọc bích ở giữa ở trong sân nhà thái miếu, đánh dấu chỗ chôn rồi đến canh năm cho năm người con vào yết tổ, xem người nào đứng làm lễ đúng vào chỗ chôn ngọc bích, thì người ấy được qủi thần chọn làm vua . Khang vương vào trước, đứng cách ngọc bích xa lắm . Công tử Khí Tật bấy giờ tuổi hãy còn nhỏ, người vú ẵm vào lễ đứng chính giữa ở trên ngọc bích, Sở Cung vương biết là có thần giúp, bởi vậy rất yêu công tử Khí Tật . Khi Sở Cung vương chết, công tử Khí Tật hãy còn nhỏ, thành ra Khang vương lên nối ngôi, nhưng các quan đại phu nước Sở nghe thấy việc chôn ngọc bích ấy, ai cũng biết rằng về sau công tử Khí Tật tất lên làm vua .

Bấy giờ Triều Ngô nước Sái nói đến cái điềm “đương bích”, công tử Khí Tật sợ lời nói ấy truyền bá ra thì tất Sở Linh vương ghen ghét, vậy nên giả cách đuổi Triều Ngô ra, Triều Ngô trở vào trong thành, thuật lại lời nói của công tử Khí Tật cho thế tử Hữu nghe . Thế tử Hữu nói:

– Làm vua thì phải vì nước mà chết, đó là lẽ chính, ta đây dẫu chưa nối ngôi, nhưng cũng là phụng mệnh giữ nước, thì cũng nên vì nước mà liều mình, chẳng hơn chịu cúi đầu làm nô lệ mà thờ kẻ cừu địch hay sao!

Thế tử Hữu nói thế, rồi lại càng cố sức chống với quân Sở . Thành nước Sái bị vây từ tháng bảy mùa hạ, đến tháng mười một mùa đông, công tôn Qúi Sinh mệt nhọc thành bệnh, nằmg không dậy được . Trong thành lương hết, chết đói mất quá nửa . Quân Sở trèo lên mặt thành đông như đàn kiến, liền phá vỡ thành nước Sái . Thế tử Hữu đành ngồi mà chịu trói . Công tử Khí Tật vào thành phủ dụ nhân dân, rồi bắt thế tử Hữu và Sái Hựu giải về nộp Sở Linh vương, còn Triều Ngô vì có câu nói “đương bích” mà được tha . Chưa được bao lâu, công tôn Quí Sinh chết, Triều Ngô mới theo công tử Khí Tật .

Bấy giờ Sở Linh vương đã về Sính Đô nằmg mộng thấy một người vào yết kiến, tự xưng là thần Cửu Cương sơn, bảo Sở Linh vương rằng:

– Nhà ngươi tế ta, ta cho nhà ngươi được thiên hạ!

Khi SỞ Linh vương tỉnh dậy, mừng lắm, liền sắp xa giá ra Cửu Cương sơn nhân gặp công tử Khí Tật báo tin đã diệt được nước Sái . Sở Linh vương toan giết thế tử Hữu để tế thần . Thân Vô Vũ can rằng:

– Ngày xưa, Tống Tương công giết vua Tắng để tế thần Thư Thuỷ mà chư hầu làm phản, đại vương chớ nên theo điều dở ấy .

SỞ Linh vương nói:

– Thế tử Hữu là con một người có tội, ta cũng coi như là giống súc sinh mà thôi .

Thân Vô Vũ lui ra, thở dài mà nói rằng:

– Đại vương bạo ngược như vậy thì toàn vẹn làm sao cho được!

Thân Vô Vũ liền cáo lão về làm ruộng . Sái Vi thấy thế tử Hữu bị giết, thương khóc trong ba ngày . Sở Linh vương cho là trung, rồi tha tội và thu dụng . Sái Vi nghĩ đến cha là Sái Lược khi trước cũng bị Sở Linh vương giết, vẫn còn nuôi lòng báo thù bảo Sở Linh vương rằng:

– Các nước theo Tấn mà không theo Sở, là vì Tấn gần mà Sở xa, nay đại vương đã đánh được Trần, Sái, tiếp giáp với trung nguyên nếu đắp thành cho cao rộng, rồi đặt thêm quân để thị uy với chư hầu thì nước nào không phải sợ . Bấy giờ tiến sang đánh Ngô và Việt, trước tự phía đông nam, sau đến phía tây bắc, tôi chắc có thể thay nhà Chu mà làm thiên tử được .

Sở Linh vương nghe nói bằng lòng, từ bấy giờ mới có ý tin dùng Sái Vi . Rồi truyền đắp thành ở Trần, Sái, cao rộng thêm ra, lại cho công tử Khí Tật trấn thủ ở nước Sái, để đền lại cái công diệt Sái . Lại đắp hai cái thành ở phía đông và phía tây, gọi là Bất Lang thành, để giữ chỗ hiểm yếu của nước Sở . Sở Linh vương cho rằng thiên hạ không nước nào cường thịnh bằng nước Sở, chẳng bao lâu nước Sở sẽ thu được cả thiên hạ, mới gọi quan thái bốc vào để bói xem bao giờ thì được làm thiên tử . Quan thái bốc nói:

– Nhà vua đã xưng vương tức là thiên tử rồi, còn bói làm gì ?

Sở Linh vương nói:

– Nay còn có nhà Chu thì Sở ta chưa phải là vương thật; có lấy được hết thiên hạ mới thật là vương .

Quan thái bốc hơ mai rùa để bói . Tự nhiên mai rùa vỡ . Quan thái bốc nói:

– Thế này là việc không thành!

Sở Linh vương cầm mai rùa ném xuống đất, rồi vùng vằng đứng dậy mà kêu to lên rằng:

– Trời ơi! trời tiếc gì mà không cho ta được thiên hạ! nếu vậy thì trời sinh ta làm gì !

Sái Hựu tâu rằng:

– Việc cốt tại người, chứ cái xương khô ấy biết gì!

Sở Linh vương bằng lòng . Chư hầu thấy nước Sở cường thịnh, đều có ý sợ hãi, sai sứ đến triều cống . Quan đại phu nước Tề là Án Anh (tên tự là Bình Trọng) phụng mệnh Tề Cảnh công sang sứ nước Sở . Sở Linh vương bảo triều thần rằng:

– Án Anh mình không đầy năm thước, mà chư hầu đều khen là người giỏi . Nay các nước chỉ có Sở ta là cường thịnh hơn cả, ta muốn làm cho Án Anh phải sỉ nhục, để nâng cao cái uy của nước Sở, các ngươi thử nghĩ xem có kế gì ?

Quan thái tể là Viễn Khải Cương mật tâu rằng:

– Án Anh là người tài ứng đối, tất phải dùng nhiều cách mới sỉ nhục được hắn .

Viễn Khải Cương liền đem mưu kế nói với Sở Linh vương . Sở Linh vương nghe lời . Đêm hôm ấy, Viễn Khải Cương đem quân ra khoét một cái lỗ nhỏ ở bên cửa đông, vừa vặn độ năm thước, rồi truyền cho quân canh cửa, đợi khi nào sứ nước Tề đến thì đóng chặt cửa giữ lại, rồi bảo chui qua cái lỗ nhỏ ấy mà vào . Được một lúc, Án Anh mặc áo cừu rách, đi cái xe xấu và con ngựa gầy, đến cửa đông, trông thấy cửa thành đóng, liền dừng xe lại, sai người gọi cửa . Quân canh cửa trỏ vào cái lỗ nhỏ ở bên cạnh mà bảo Án Anh rằng:

– Ngài đi qua cái chỗ ấy, cũng rộng rãi chán, cần gì phải mở cửa!

Án Anh nói:

– Đó là chỗ chó chui, chứ không phải chỗ người đi . Có sang sứ nước chó thì mới vào cửa chó, chứ sang sứ nước người thì tất phải đi cửa người .

Quân canh cửa đem lời nói ấy phi báo với Sở Linh vương . Sở Linh vương nói:

– Ta muốn dỡn hắn, ai ngờ lại bị hắn dỡn lại!

Nói xong truyền mở cửa thành cho Án Anh vào . Án Anh vào trong thành, thấy có một toán xa kỵ, người nào cũng to lớn lực lưỡng và rậm râu, tay cầm một ngọn giáo thật dài, trông như vị thiên thần, đến đón Án Anh, có ý muốn tỏ rõ Án Anh là người thấp lùn bé nhỏ, Án Anh nói:

– Ta sang sứ hôm nay là vì việc giao hiếu, chứ không phải là muốn gây việc chiến tranh, dùng làm chi những kẻ vũ sĩ ấy!

Án Anh nói xong bão vũ sĩ đứng ra một bên, rồi giục xe thẳng tới cửa triều . Ngoài cửa triều có hơn mười viên quan, đều mũ cao áo dài, đứng sắp hàng hai dãy . Án Anh xuống xe, chắp tay vái chào . Trong hàng các quan, có một viên trẻ tuổi hỏi Án Anh rằng:

– Ngài có phải là Án Bình Trọng, người ở đất Di Duy (tức là Lai Địa) đó không ?

Án Anh nhìn xem ai thì tức là con Đấu Vi Qúi, tên gọi Đấu Thành Nhiên, hiện đang làm quan giao doãn . Án Anh đáp rằng:

– Phải! chính tôi đó! chẳng hay ngài định dạy điều gì ?

Đấu Thành Nhiên nói:

– Nước Tề, kể từ đời Thái công thuở xưa, vốn là một nước cường thịnh, sao từ khi Hoàn công mất đi rồi, trong nước nhiều loạn, tranh cướp lẫn nhau, hết bị Tấn đánh, lại bị Tống đánh . Vua Tề ngày nay, cũng chẳng kém gì Hoàn công, mà cái hiền đức của ngài phỏng có thua gì Quản Trọng (tức là Quản Di Ngô), sao ngài không biết giúp vua Tề để chấn hưng cơ nghiệp cũ, mà chịu cúi đầu thờ nước lớn như đám nô bộc, thật tôi không hiểu ra làm sao!

Án Anh đáp rằng:

– Có biết thời thế mới gọi là tuấn kiệt, có thông cơ biến mới gọi là anh hào . Từ khi nhà Chu suy, Tề và Tấn làm bá chủ ở Nam Man, dẫu bởi có nhân tài, nhưng chẳng qua cũng là do khí vận . Kìa như Tấn Tương công và Tần Mục công cường thịch biết bao mà sau cũng phải hèn yếu; nước Sở từ khi vua Trang vương mất đi, cũng thường bị quân Tấn và quân Ngô đến đánh, cứ gì một nước Tề! chúa công tôi hiểu lẽ ấy, cho nên vẫn luyện tập quân mã để đợi thời; nay sai tôi sang đây là theo lễ giao hiếu với lân quốc, sao gọi là nô bộc được ? ngài có phải là dòng dõi Tử Văn đó không ? Tử Văn khi xưa là một bậc danh thần ở nước Sở, biết thời thế, thông cơ biến, mà sao lời nói của ngài nghe trái với Tử Văn nhiều lắm!

Đấu Thành Nhiên thẹn đỏ mặt lên, cúi đầu lui ra . Được một lúc, trong hàng bên tả lại có người hỏi Án Anh rằng:

– Án Bình Trọng tự phụ là người biết thời thế, thông cơ biến, nhưng trong khi Thôi Trữ và Khán Phong nổi loạn, thì triều thần nước Tề, tử Giải Cử trở xuống, bao nhiêu tử tiết, Trần Văn Tử cũng bỏ cả cơ nghiệp mà đi . Ngài là thế gia nước Tề, đã không dám đánh giặc, cũng không biết tử tiết, còn bo bo giữ lấy danh vị làm chi!

Án Anh nhìn xem ai thì tức là quan thượng đại phu nước Sở, tên gọi Dương Mang, tên tự là Tử Hà . Án Anh đáp rằng:

– Người có tiết lớn thì không cần những điều nhỏ mọn, người biết lo xa thì không nghĩ đến những sự tầm thường . Ông vua vì nước mà chết thì bề tôi nên chết theo, nay vua Trang công tôi không phải vì nước mà chết, những người chết theo, toàn là vì tình riêng, tôi dẫu hèn mạt, có đâu dám liều chết để mua lấy cái hư danh ấy! vả bề tôi gặp lúc trong nước có nạn không thể làm gì được thì mới nên bỏ đi, tôi không đi là để lập vua mới mà giữ lấy nước, chứ có phải là vì tham danh vị đâu! huống chi việc biến loạn, nước nào chẳng có, ngài chắc các quan triều thần nước Sở đều là những người một lòng tử tiết cả hay sao!, sao ngài chỉ biết trách người mà không biết trách mình ?

Dương Mang nín lặng không đáp được nữa . Bỗng thấy trong hàng bên hữu lại có một người ra hỏi Án Anh rằng:

– Ngài nói là ngài muốn lập vua mới để giữ lấy nước, câu nói ấy có ý khoe khoang quá! trong khi họ Thôi và họ Khánh giết nhau, họ Trần và họ Bão tranh quyền nhau, chẳng thấy ngài có mưu kế gì lại cả, nếu quả ngài có lòng báo quốc thì sao lại như thế!

Án Anh cười mà nói rằng:

– Ngài biết điều ấy, nhưng chưa biết điều khác! lúc bấy giờ, tôi ở liền bên cạnh chúa công, tôi bày mưu lập kế, để giữ yên nước nhà, những kẻ bàng quan tài nào biết rõ được ?

Trong hàng bên tả lại có một người ra bảo Án Anh rằng:

– Đại trượng phu gặp thời, đã có đại tài lược, tất có đại qui mô! tôi xem ra thì ngài khó lòng mà tránh khỏi được cái tiếng bỉ lận .

Án Anh nhìn xem ai thì là quan thái tể nước Sở tên gọi Viên Khải Cương . Án Anh nói:

– Tại sao ngài lại biết là tôi bỉ lận ?

Viễn Khải Cương nói:

– Thân danh ngài làm tướng quốc thì mũ áo và xe ngựa, tưởng cũng nên trang sức để tỏ cái ân huệ của vua, cớ sao lại mặc áo cừu rách, cưỡi con ngựa gầy, mà đi xứ nước ngoài như vậy, chẳng lẽ lương ăn không đủ hay sao ? tôi nghe nói cái áo cừu của ngài, may từ thuở bé, đã ba mươi năm nay không thay; mà mỗi khi tế lễ, ngài dùng con lợn nhỏ quá, đến nỗi vai lợn không chật mâm, như thế không phải bỉ lận là gì!

– Án Anh vỗ tay cười rầm lên mà nói rằng:

– Sao kiến thức của ngài thiển cận như vậy! tôi từ khi làm tướng quốc đến giờ, suốt trong họ hàng nhà tôi đều được mặc áo đẹp, ăn miếng ngon, không ai phải đói rét; những nguời hàn sĩ nhờ tôi mà được ấm no, cả thẩy đến hơn bảy mươi nhà, thế thì muốn tỏ cái ân huệ của vua, còn gì bằng điều ấy!

Án Anh nói chưa dứt lời thì trong hàng bên hữu lại thấy có một người trỏ tay vào mặt Án Anh mà cười vừa nói:

– Tôi nghe nói vua Thành Thang mình cao chín thước là bậc hiền vương, Tử Trang sức địch muôn người là bậc danh tướng . Nay ngài mình thấy không đầy năm thước, sức yếu không tròi nổi một con gà, chỉ nghề bẻo lẻo mồm miệng, tự phụ là tài gỉoi, tôi tưởng nên lấy làm xấu hổ lắm mới phải!

Án Anh nhìn xem ai thì tức là cháu công tử Chân, tên gọi Nang Ngoã, tên tự là Tử Thường, hiện đang làm chức xa hữu . Án Anh tủm tỉm cười mà đáp rằng:

– Tôi nghe nói cái quả cân dẫu nhỏ, bao giờ cũng đè được nghìn cân; cái chèo dẫu dài, bao giờ cũng ngâm ở dưới nước . Trương Địch người cao mà bị giết ở Lỗ, Nam Cung Trường vạn sức khỏe mà bị giết ở Tống; túc hạ mình dài sức khỏe, có lẽ cũng giống hai người ấy . Tôi biết thân không có tài cái gì, nhưng hỏi thì phải nói, sao ngài lại chê là bẻo lẻo mồm miệng ?

Nang Ngoã không biết nói thế nào nữa . Bỗng nghe báo cáo quan lệnh doãn và Viễn Bái đến . Các quan đều sắp hàng đứng đợi . Ngũ Cử mời Án Anh vào triều, rồi bảo các quan đại phu rằng:

– Án Bình Trọng là hiền sĩ nước Tề, sao các ngài lại nói quá như vậy ?

Được một lúc Sở Linh vương ra ngự triều . Ngũ Cử đưa Án Anh vào yết kiến . Sở Linh vương trông thấy Án Anh liền hỏi rằng:

– Nước Tề quả thật không có người hay sao ?

Án Anh nói:

– Người nước Tề tôi, hà hơi thì thành ra mây, vẩy mồ hôi thì thành ra mưa, đi thì phải chen vai, đứng thì phải chen chân, sao gọi là thiếu người ?

Sở Linh vương nói:

– Thế thì sao lại sai tiểu nhân sang sứ nước ta ?

Án Anh nói:

– Nước tôi vẫn có lệ: người hiền sang sứ nước hiền, người ngu sang sứ nước ngu, đại nhân sang sứ đại quốc, tiểu nhân sang sứ tiểu quốc . Tôi là tiểu nhân, bất tài bất đức, vậy mới phụng mệnh sang sứ nước Sở .

Sở Linh vương nghe nói có ý hổ thẹn, nhưng trong lòng lấy làm lạ . Gặp bấy giờ có người ở ngoại thành đem dâng hộp hoan quất (quít). Sở Linh vương vỗ tay cười ầm lên mà bảo rằng:

– Người nước Tề dễ thường không ăn quít bao giờ! cớ sao lại không bóc vỏ ?

Án Anh nói:

– Cứ theo trong lễ thì vua đưa cho quả gì, bề tôi cũng không được bóc võ mà quẳng đi . Nay đại vương đưa cho tôi, cũng như là chúa công tôi đưa cho tôi vậy . Đại vương không truyền cho bóc võ, nên tôi phải ăn cả .

Sở Linh vương bất giác kính phục, mời ngồi uống rượu . Được một lúc, có ba bốn vũ sĩ giải một tên tù đi qua dưới thềm . Sở Linh vương nói:

– Tên tù ấy người ở đâu ?

Vũ sĩ tâu:

– Người nước Tề .

Sở Linh vương hỏi:

– Phạm tội gì ?

Vũ sĩ tâu :

– Tội ăn trộm .

Sở Linh vương ngảnh lại bảo Án Anh rằng:

– Người nước Tề dễ thường quen tính ăn trộm hay sao!

Án Anh biết là Sở Linh vương cố ý bày ra chuyện ấy để chế nhạo mình, mới đáp lại rằng:

– Tôi nghe nói giống quít ở xứ Giang Nam, đem sang trồng ở xứ Giang bắc thì hóa ra chua, là tại thổ nghi không giống nhau . Nay người nước Tề, khi ở nước Tề thi không ăn trộm, khi sang Sở thì hóa ra ăn trộm, thế là tại thổ nghi nước Sở, chứ có tại gì người nước Tề!

Sở Linh vương nín lặng hồi lâu rồi nói rằng:

– Ta định chế nhạo nhà ngươi, chẳng ngờ lại bị nhà ngươi chế nhạo!

Bèn tiếp đãi Án Anh rất trọng thể, cho đến khi về nước Tề . Tề Cảnh công khen công Án Anh, tôn làm thượng tướng, ban cho một cái áo câu giá nghìn lạng vàng, lại muốn phong thêm thái ấp cho nữa, nhưng Án Anh đều từ chối cả . Tề Cảnh công lại muốn lam cho Án Anh một cái nhà mới . Án Anh cũng cố xin thôi .

Một hôm, Tề Cảnh công ra chơi nhà, trông thấy vợ Án Anh, mới hỏi Án Anh rằng:

– Đó là nội tử của khanh đấy à ?

Án Anh tâu rằng:

– Phải!

Tề Cảnh công cười mà nói rằng:

– Chao ôi! già mà xấu lắm! ta có đứa ái nữ, trẻ mà đẹp, để ta gả cho khanh .

Án Anh nói:

– Lúc trẻ trung, người ta lấy mình, là mong lúc già nua có thể nhờ vả được; vợ tôi dẫu già mà xấu, nhưng khi nào tôi nỡ phụ!

Tề Cảnh công khen rằng:

– Vợ con chẳng nỡ phụ, huống chi là vua!

Từ bấy giờ Tề Cảnh công có lòng tin cậy Án Anh lắm.

Chương 70: Giết ba anh, Sở Bình Vương lên ngôi – Hội Chiêu hầu, Tấn Chiêu Công làm chủ

Bấy giờ năm thứ 12 đời Chu Cảnh Vương, Sở Linh Vương đã diệt được Trần và Sái rồi, lại thêm sáu nước nhỏ là Hứa, Hồi, Trần, Đạo, Phòng, Thân sang đất Kinh Sơn, trăm họ phải bỏ nhà bỏ cửa mà đi nơi khác, tiếng than khóc rộn lên khắp đường xá. Sở Linh Vương vẫn cho là thiên hạ đã nắm chắc trong tay mình nên chỉ ngày đêm vui chơi ở Chương Hoa Đài, lại toan sai sứ sang nhà Chu đòi lấy chín cái đỉnh đem về nước Sở. Quan hữu doãn là Trịnh Đan can rằng :

– Nay Tề, Tấn còn mạch, Ngô, Việt chưa theo thì nhà Chu dẫu sợ ta, chư hầu tất cũng không phục.

Sở Linh Vương không bằng lòng nói rằng :

– Có một điều này, xuýt nữa ta quên đi mất ! Khi trước ta hội chư hầu ở Thân Địa, xá tội cho vua Từ, ai ngờ vua Từ lại bội ta mà theo Ngô; nay ta nên đánh Từ trước, rồi đánh Ngô sau, khiến cho các nước từ Trường Giang trở về phía đông, đều là thuộc quốc của ta cả, thế thì thiên hạ về tay đến một nửa rồi.

Sở Linh Vương giao cho Viễn Bài và Sái Hựu giúp thế tử Lộc giữ nước, còn mình thì đi luyện tập quân mã ở cuối sông Di Thuỷ, và sai quan tư mã Đốc đem quân sang vây thành nước Từ.

Đại binh Sở Linh Vương đóng ở Kiên Khê, để làm thanh viện (phô trương thanh thế để khiến người ta sợ) . Mùa đông năm ấy tuyết xuống nhiều lắm, đóng dày mặt đất đến hơn ba thước. Sở Linh Vương hỏi nội thị rằng :

– Ngày trước, nước Tần có dâng ta cái áo cầu “Phục đào” và cái mền “Thuý Vũ”, các người đem ra đây cho ta.

Nội thị đưa áo và mền ra, Sở Linh Vương mặc áo và khoác mền vào, đầu đội mũ dạ, chân đi giầy da, tay cầm cái roi bằng tơ tía ra ngoài trướng đứng xem tuyết. Gặp có quan hữu doãn là Trịnh Đan đến yết kiến. Sở Linh Vương bỏ mũ và mền, vứt roi xuống, rồi đứng nói chuyện với Trịnh Đan, Linh Vương nói :

– Trời rét quá đi mất !

Trịnh Đan nói :

– Đại vương mặc mấy lần áo cừu đứng trong trướng hồ mà còn rét như thế, huống chi quân sĩ áo thì ít, chân thì trần, đầu đội mũ trụ, mình mặc áo giáp, tay cầm binh khí đứng ở trong đám gió tuyết, thì khổ biết dường nào ! Sao đại vương không tạm rút quân đánh Từ về, đợi đến qua xuân, khí giời ấm áp sẽ hay ?

Linh Vương nói :

– Nhà ngươi nói rất phải ! Nhưng từ khi khởi binh đến nay, ta đánh đâu được đấy, chắc rằng chỉ nay mai tất có tin thắng trận.

Trịnh Đan thưa rằng :

– Từ không phải như Trần và Sái. Từ cách nước Sở đến hơn ba nghìn dặm, mà lại còn dựa vào nước Ngô nữa. Nếu nhà vua tham đánh Tùu, khiến cho ba quân ở ngoài giá rét khổ sở, vạn nhất trong nước có biến, lòng quân ly tán, thì tôi dám lấy làm nguy cho đại vương lắm.

Linh Vương cười mà nói rằng :

– Xuyên Phong Thu ở Trần, Khí Tật ở Sái, Ngũ Cử giữ nước với thái tử, thế là có đến ba nước Sở ta còn lo gì nữa ?

Vừa lúc ấy có quan thái sử là Ỷ Tướng đi qua.

Linh Vương trỏ Ỷ Tướng mà bảo Trịnh Đan rằng :

– Đây là một nhà bác vật, phàm các sách như “Tam phần”, “Ngũ điển”, “Bát sách”, “Cửu khâu”, đều thông hiểu cả, nhà người nên trọng đái người ta.

Trịnh Đan nói :

– Đại vương khen quá lời ! Ngày xưa vua Mục vương nhà Chu đi dong chơi khắp thiên hạ. Sái công tức là Mưu Phủ làm thơ “Kỳ thiểu” để can ngăn. Mục vương nghe lời mà trở về tránh khỏi được tai vạ. Thế mà tôi đem thơ ấy hỏi Ỷ Tướng, Ý Tướng không biết, việc bản triều mà còn không biết, huống chi là việc đời xưa !

Linh Vương hỏi :

– Bài thơ “Kỳ thiểu” thế nào, nhà ngươi đọc cho ta nghe. Trịnh Đan đọc. Sở Linh vương lại hỏi nghĩa. Trịnh Đan cắt nghĩa. Sở Linh vương biết là Trịnh Đan có ý can mình, mới nín lặng không nói gì cả, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bảo Trịnh Đan rằng :

– Nhà ngươi hãy lui ra, để ta nghĩ lại xem.

Đêm hôm ấy, Linh vương đã toan rút quân về, bỗng nghe báo quân tư mã Đốc đã thắng nhiều trận, hiện đang vây kinh thành nước Từ. Linh vương nói :

– Nếu vậy thì nước Từ có thể diệt được !

Linh vương bèn nhất định cứ đóng quân ở Kiên Khê, từ ĐSng xuân, ngày nào cũng lấy săn bắn làm vui; lại toan bắt dân phải sửa soạn lâu đài ở đấy, không nghĩ gì đến việc về nước cả.

Bấy giờ có Triều Ngô (con quan đại phu nước Sái là Quí Sinh), theo hầu công tử Khí Tật, ngày đêm vẫn nghĩ mưu để khôi phục nước Sái, mới cùng với Quan Tòng (người nước Sở) thương nghị. Quan Tòng nói :

– Vua Sở gây ra việc tranh chiến, đem quân đi lâu ngày không về, nhân dân ai cũng oán giận, ta nên nhân cơ hội này mà khôi phục lại nước Sái.

Triều Ngô nói :

– Bây giờ làm thế nào khôi phục được ?

Quan Tòng nói :

– Hùng Kiên (tên sở Linh vương) được lập lên làm vua, ba vị công tử (Tử Can, Tử Tích và Khí Tật) đều không phục, nhưng sức không làm gì nổi. Nay ta giả mệnh Sái công (tức Khí Tật) mà triệu Tử Can và Từ Tích về, rồi bức hiếp Sái công phải khởi sự mà chiếm lấy nước Sở. Nước Sở đã mất thì Hùng Kiên mất sào huyệt, còn làm gì được nữa. Đến đời vua sau, tất nhiên ta phục được nước Sái.

Triều Ngô nghe lời, sai Quan Tòng giả mệnh lệnh của Sái công đi triệu Tử Can (tức công tử Tị) ở nước Tấn, và Tử Tích (tức là công tử Hắc Quang) ở nước Trịnh về, nói là Khí Tật định lấy quân Trần, Sái đưa hai vị công tử về nước để chống nhau với Hùng Kiên. Tử Can và Tử Tích mừng lắm, tức khắc đi sang nước Sái để hội nhau với Khí Tật. Quan Tòng về trước báo với Triều Ngô. Triều Ngô đón đường nói với Tử Can và Tử Tích rằng :

– Sái công chưa hề ra lệnh, nhưng ta có thể bức hiếp Sái công bắt phải theo ta.

Tử Can và Tử Tích nghe nói, đều sợ hãi biến sắc, Triều Ngô nói :

– Hùng Kiên đem quân đi, lâu ngày không về, trong nước không có phòng bị. Sái Vĩ nghĩ đến cái thù giết cha, chỉ mong cho có loạn. Đấu Thành Nhiên làm chức giao doãn, vẫn thân nhau với Sái công; nếu Sái công cử sự thì hắn tất làm nội ứng. Xuyên Phong Thu dẫu đã được phong ở Trần, nhưng vẫn không phục Hùng Kiên, nếu Sái công cho người triệu thì hắn tất theo ngay. Đem quân Trần Sái đánh một nước Sở không có phòng bị, khác nào như lấy của ở trong túi mình, hai công tử còn lo nỗi gì!

Tử Can và Tử Tích nghe nói, mới được yên lòng, liền cùng với Triều Ngô hội thể. Trong ước thư lại đề tên Sái công đứng đầu. Thể xong, Triều Ngô đưa Tử Can và Tử Tích lẻn vào Sái thành. Sái công đang ngồi ăn cơm sáng bất ngờ thấy Tử Can và Tử Tích đến, thì hốt hoảng sợ hãi toan đứng dậy tránh mặt. Triều Ngô chạy đến, nắm lấy vạt áo Sái công mà bảo rằng :

– Việc đã đến nơi rồi, ngài còn định đi đâu !

Tử Can và Tử Tích ôm lấy Sái công vừa khóc vừa nói :

– Hùng Kiên vô đạo, giết anh và cháu, lại đuổi bọn chúng tôi. Hai tôi tới đây là muốn nhờ binh lực nhà ngươi để báo thù cho anh. Khi thành sự rồi, sẽ để ngôi vua cho nhà ngươi.

Khí Tật thảng thốt không biết làm thế nào, mới đáp lại rằng :

– Xin để thong thả, rồi sẽ thương nghị.

Triều Ngô nói :

– Hai công tử đói rồi hãy cùng ăn cơm với Sái công.

Tử Can và Tử Tích ăn cơm xong, Triều Ngô giục phải làm ngay, liền tuyên cáo cho mọi người biết rằng:

– Sái công triệu hai công tử đến đây, để cùng khởi sự, hiện đã cùng nhau hội thề ở ngoài cõi, nay cho hai công tử vào Sở trước.

Khí Tật ngăn lại mà bảo rằng :

– Sao lại nói oan cho ta ?

Triều Ngô nói :

– Mới rồi, thề ở ngoài cõi, trong ước thư có tên ngài đứng đầu, ngài còn giấu chi nữa ! Âu là hãy mau mau khởi sự để cùng hưởng phú quí.

Triều Ngô lại tuyên cáo ở ngoài chợ cho người nước Sái biết rằng :

– Vua Sở vô đạo, diệt nước Sái ta, nay Sái công cho ta phục quốc. Bọn các người đều là dân nước Sái, nỡ nào để cho nước nhà phải suy vong, nên rủ nhau theo Sái công và hai công tử cùng sang đánh Sở.

Người nước Sái nghe nói, đều bảo nhau cầm binh khí đến họp ở cửa Sái công. Triều Ngô nói với Sái công rằng :

– Lòng dân đã quả quyết như vậy, ngài nên phủ dụ mà dùng, nếu không thì sinh biến.

Khí Tật nói :

– Nhà ngươi bắt ta phải trèo lên mình hổ hay sao ? Bây giờ nên làm thế nào ?

Triều Ngô nói :

– Hai công tử còn ở ngoài thành, ngài nên mau mau đem quân nước Sái họp với hai công tử,rồi tôi xin sang bảo Trần công (tức Xuyên Phong Thu) đem quân theo ngài.

Khí Tật theo lời, đem quân hợp với Tử Can và Tử Tích. Triều Ngô sai Quan Tòng sang Trần, để nói với Trần công. Quan Tòng đi đến nửa đường gặp một người nước Trần, tên gọi Hạ Khiết, tức là cháu huyền tôn Hạ Trung Thư, cùng với Quan Tòng vốn quen biết nhau. Quan Tòng mới đem việc phục Sái nói với Hạ Khiết. Hạ Khiết nói :

– Ta theo hầu Trần công, cũng là có ý muốn phục Trần, nay Trần công ốm nặng , nhà ngươi bất tất phải sang nữa, cứ về trước đi, rồi ta sẽ đem quân Trần sang giúp.

Quan Tòng về báo với Sái công. Triều Ngô lại viết một tờ mật thư đưa cho Sái Hậu, bảo làm nội ứng. Sái công sai gia thần tà Tu Vụ Mâu làm tiên phong. Sử Ấp làm phó tiên phong, lại sai Quan Tòng làm hướng đạo, đem quân đi trước. Gặp bấy giờ Hạ Khiết cũng đem quân Trần đến. Hạ Khiết nói với Sái công rằng :

– Xuyên Phong Thu đã chết rồi, tôi đem đại nghĩa hiểu dụ người nước Trần, ai cũng vui lòng theo cả.

Sái công mừng lắm, sai Triều Ngô đốc xuất quân Sái và Hạ Khiết đốc xuất quân Trần, thẳng đường tiến sang Sinh Đô. Sái Hựu nghe tin Sái công đem quân đến, tức khắc sai người tâm phúc ra ngoài thành để giúp đỡ lương thực. Đấu Thành Nhiên thân hành ra đón Sái công. Quan lệnh doãn là Viễn Bái đang đem quân để giữ thành thì Sái Hựu đã mở cửa cho quân Sái vào. Tu Vụ Mâu vào trước reo lên to rằng :

– Sái công đã giết được vua Sở ở Kiên Khê rồi, đại binh sắp sửa tới đây !

Người trong nước ghét Sở Linh vương vô đạo, đều muốn cho Sái công làm vua, nên không chống cự gì cả. Viễn Bái toan đem thế tử Lộc đi trốn, nhưng quân Tu Vụ Mâu đã vây kín vương cung. Viễn Bái không vào được, liền về nhà đâm cổ mà chết. Sái công đem đại binh vào đến vương cung, gặp thế tử Lộc và công tử Bái Địch, đều giết chết cả, rồi lập Tử Can lên làm vua. Tử Can từ chối.

Sái công nói :

– Bao giờ cũng phải lập người nhiều tuổi hơn, chớ nên từ chối.

Tử Can mới lên nối ngôi, rồi cho Tử Tích làm lệnh doãn và Sái công làm tư mã. Triều Ngô nói riêng với Sái công rằng :

– Việc này thủ xướng tự ngài, sao ngài lại nhường cho người khác làm vua ?

Sài công nói :

– Vua Sở hãy còn ở Kiên Khê, đã lấy gì làm yên được. Vả lại ta tranh ngôi với hai anh thì người ta cũng chê cười ta.

Triều Ngô hiểu ý mới hiến kế rằng :

-Quân sĩ theo vua Sở ra ở Kiên Khê, bị nhiều sự khổ sở, tất nhiên muốn về; nếu ta sai người đến dụ, chắc hẳn chúng bỏ hết, bấy giờ đại binh ta kéo đến thì có thể bắt được vua Sở.

Sái công khen phải, liền sai Quan Tòng đến Kiên Khê dụ quân sĩ rằng :

– Sái công đã vào kinh thành nước Sở, giết hai con vua Sở và lập Tử Can lên làm vua rồi. Vua mới có lệnh rằng : “Phàm quân sĩ, hễ ai về ngay thì tha tội cho, ai về sau thì bắt tội cắt mũi; nếu ai theo vua Sở cũ thì trị tội ba họ, ai đem đồ ăn, đồ uống cho vua Sở cũ thì cũng bị tội như thế.”

Quân sĩ nghe lệnh, tức khắc tan mất quá nửa. Sở Linh vương hãy còn say rượu, nằm ngủ ở trên đài. Trịnh Đan hoảng hốt vào báo. Linh vương nghe nói hai con bị giết, thì từ trên giường ngã lăn xuống đất, khóc lóc rầm rĩ. Trịnh Đan nói :

– Quân sĩ đã tan rã như vậy thì đại vương nên mau mau trở về.

Linh vương gạt nước mắt nói rằng :

– Có ai yêu con như ta hay không ?

Trịnh Đan nói :

– Giống chim muông còn biết yêu con, huống chi là người !

Sở Linh vương thở dài nói rằng :

– Ta giết con của ngườita nhiều lắm thì bây giờ người ta lại giết con ta !

Được một lúc, nghe báo vua mới (tức là Tử Can) sai Sái công làm đại tướng, cùng với Đấu Thành Nhiên đem quân Trần và Sái tiến đến Kiên Khê, Sở Linh vương giận lắm, nói :

– Ta đãi Đấu Thành Nhiên không có điều gì tệ bạc, hắn lại phản ta ! Chẳng thà ta liều chết mà đánh, còn hơn ngồi để chịu trói !

Linh vương bèn rút quân đi qua Tương Châu, toan về đánh Sính Đô. Trong khi đi đường, quân sĩ bỏ trốn nhiều lắm. Linh vương rút gươm chém chết mấy người mà vẫn không ngăn cấm được. Khi đến đất Si Lương, chỉ còn độ một trăm người đi theo mà thôi. Sở Linh vương nói :

– Hỏng việc rồi !

Nói xong, liền cởi mũ áo treo lên cành liễu. Trịnh Đan nói :

– Đại vương hãy về gần đô thành, để xét xem lòng người trong nước thế nào ?

Linh vương nói :

– Người trong nước đều đã phản lại ta, hà tất phải xem xét nữa.

Trịnh Đan nói :

– Nếu không thì xin trốn sang nước khác, rồi mượn quân về đánh cũng có thể được.

Sở Linh vương nói :

– Chư hầu còn ai yêu ta nữa, điều đại phúc lẽ đâu gặp được mãi, chẳng qua chỉ thêm nhục mà thôi !

Trịnh Đan thấy Linh vương không nghe lời, sợ mắc tại vạ, liền cùng với Y Tướng trốn về nước Sở. Linh vương không thấy Trịnh Đan sợ hãi rụng rời, cứ quanh quẩn ở đất Ly Trạch. Quân sĩ chẳng còn ai cả, chỉ trơ có một mình, đói quá, toan tìm vào chốn hương thôn để kiếm cái ăn, thì lại không biết đường. Dân ở đấy có kẻ biết là vua Sở, nhưng thấy bọn quân sĩ đi trốn nói rằng pháp lệnh của vua mới nghiêm khắc lắm, thì đều sợ hãi mà tránh xa cả. Linh vương suốt trong ba ngày không được một hột cơm, một giọt nước nào vào miệng đói quá nắm lả ở dưới đất, chỉ còn có hai con mắt mở trừng trừng, nhìn kẻ qua người lại, xem có ai quen biết cứu mình chăng.

Bỗng gặp một người đi đến. Linh vương nhìn xem ai thì là một người lính canh cửa trước tên gọi Quyên Nhân Trù. Linh vương bèn gọi mà bảo rằng :

– Quyên Nhân Trù ! Nhà ngươi cứu ta với !

Quyên Nhân Trù nghe tiếng gọi liền đến trước mặt sụp lạy.

Linh vương, nói :

– Ta đói đã ba ngày nay rồi ! Nhà ngươi kiếm cho ta một bát cơm, hoạ may có sống được chăng ?

Quyên Nhân Trù nói :

– Ai cũng sợ lệnh vua mới, tôi còn kiếm đâu được cơm.

Linh vương thở dài, bảo Quyên Nhân Trù đến ngồi gần ở bên cạnh, rồi gối đầu vào đùi Quyên Nhân Trù để ngủ. Quyên Nhân Trù chờ cho Linh vương ngủ say, liền nhấc đầu Linh vương gối lên tảng đất, rồi bỏ trốn đi. Khi Sở Linh vương tỉnh dậy, gọi Quyên Nhân Trù không thấy thưa, mời rờ tay lên đầu thì thấy mình gối vào tảng đất. Linh vương kêu trời mà khóc, tiếng đã khản cả đi. Lúc sau nữa, lại có một người đi xe qua, thấy tiếng Linh vương, xuống xe để nom thì quả là Linh vương thật, mới sụp lạy dưới đất mà hỏi rằng :

– Làm sao đại vương đến nỗi thế này !

Linh vương ràn rụa nước mắt hỏi rằng :

– Nhà ngươi là ai ?

Người ấy tâu rằng :

– Tôi là Thân Hợi, con quan trấn thủ ở Vu Điạ, tên gọi Thân Vô Vũ. Cha tôi hai lần đắc tội với đại vương, mà đại vương không giết, nên khi cha tôi gần mất, có dặn tôi rằng : “Khi nào đại vương có hoạn nạn gì thì phải cố sức mà theo”. Tôi không bao giờ dám quên lời dặn ấy. Mới rồi, nghe tin kinh thành bị phá, Tử Can cướp ngôi, tôi tức khắc ngày đêm thẳng tới Kiên Khê, để tìm đại vương, nhưng tìm mãi không thấy. May sao lòng trời run rủi, lại gặp đại vương ở đây. Bây giờ chỗ nào cũng là vây cánh Sái công, đại vương không nên đi đâu cả. Tôi có nhà tại Cúc Thôn, cũng gần ở đây, xin đại vương tạm vào nhà tôi, rồi sẽ bàn chuyện sau.

Nói xong, liền đem lương khô dâng Linh vương, Linh vương cố nuốt xuống cổ, mới dần dần tỉnh lại. Thân Hợi vực Linh vương lên xe, rồi đưa về Cúc Thôn. Linh vương xưa nay ở cung Chương Hoa, nguy nga tráng lệ, nay thấy nhà Thân Hợi lụp xụp, cúi đầu mới chui vào được, nghĩ lấy làm đau lòng, nước mắt tuôn ra không ngớt. Thân Hợi quỳ mà tâu rằng :

– Xin đại vương cứ yên lòng, ở đây tĩnh mịch lắm, không có ai qua lại. Đại vương hãy đợi mấy ngày xem tình hình thế nào, rồi sẽ liệu sau.

Linh vương thổn thức không nói ra tiếng. Thân Hợi lại quỳ để dâng thực phẩm. Linh vương chỉ khóc mà không ăn uống gì cả. Thân Hợi lại sai hai đứa con gái vào hầu, để Linh vương vui lòng, nhưng Linh vương không cởi đai áo, than thở cả đêm, đến đầu canh năm thì không nghe thấy tiếng thở nữa.

Hai người con gái mở cửa ra, báo với cha rằng :

– Đại vương đã thắt cổ chết rồi !

Thân Hợi nghe nói Linh vương chết, ngậm ngùi thương tiếc, rồi khâm liệm đem chôn, lại bắt hai người con gái đem chôn theo.

Sái công cùng với Đấu Thành Nhiên, Triều Ngô, và Hạ Khiết sang Kiên Khê để đánh Linh vương. Đi đến nửa đường gặp Trịnh Đan và Y Tướng thuật chuyện : Quân sĩ Linh vương bỏ trốn hết, Linh vương chỉ có một thân một mình, đánh liều chịu chết, hai người không nỡ trông thấy phải bỏ mà về.

Sái công nói :

– Bây giờ hai người định đi đâu ?

Trịnh Đan và Y Tướng nói :

– Chúng tôi định về nước Sở.

Sái công nói :

– Hai người hãy theo ta, tìm xem tông tích vua Sở ở đâu rồi sau sẽ về một thể.

Sái công đem đại binh đến đất Si Lương, chẳng thấy vua Sở đâu cả. Có người dân ở đấy biết là Sái công, liền đem mũ áo vua Sở đến nộp và nói rằng :

– Mũ áo này tôi bắt được ở trên cành liễu ba hôm trước.

Sái công hỏi rằng :

– Vua Sở đã chết hay là còn sống, nhà ngươi có biết không ?

Người ấy nói :

– Không biết.

Sái công nhận lấy mũ áo, trọng thưởng cho người ấy, rồi lại cố tìm Linh vương. Triều Ngô nói rằng :

– Vua Sở bỏ mũ áo thế này, là thế cùng lực kiệt lắm rồi, chắc cũng chết ở noi ngòi rãnh, bất tất phải cố tìm nữa; nhưng nay Tử Can đã lên ngôi, nếu để chậm thì hắn được lòng người, ta khó lòng trừ nổi !

Sái công nói :

– Thế thì nên làm thế nào ?

Triều Ngô nói :

– Người trong nước chưa rõ vua Sở sống chết thế nào, ta nhân lúc lòng dân chưa định này, sai vài mươi tên quân gỉa cách thua trận chạy về, nói đại binh của vua Sở sắp tới, rồi lại sai Đấu Thành Nhiên về báo tin với Tử Can, Tử Can và Tử Tích đều là những kẻ dút dát vô mưu, nghe thấy tin ấy, tất nhiên kinh khiếp mà tự tử, bấy giờ ngài cứ việc đem quân về, ung dung lên ngôi làm vua, chẳng còn lo ngại điều gì nữa !

Sái công khen phải, liền sai Quan Tòng đem hơn một trăm quân giả cách thua trận chạy về Sính Đô, vừa chạy vừa kêu rằng :

– Sái công thua trận bị giết rồi ! Đại binh của vua Sở cũng sắp sửa tới nơi !

Người trong nước tin là thực, ai cũng kinh sợ. Được một lúc, Đấu Thành Nhiên đến, cũng nói như vậy, người trong nước lại càng tin lắm, đều trèo cả lên mặt thành để trông ngóng. Đấu Thành Nhiên vào báo với Tử Can rằng :

– Vua Sở giận lắm, định đem quân về trị tội đại vương, đại vương nên liệu kế, khỏi đến bị nhục. Tôi đây cũng xin đi trốn !

Đấu Thành Nhiên nói xong, hoảng hốt bỏ đi ngay. Tử Can triệu Tử Tích vào, nói lại chuyện cho Tử Tích nghe .

Hai anh em ôm nhau mà khóc. Liền đó, lại nghe tin quân Linh vương đã kéo vào thành. Tử Tích rút gươm đâm cổ mà chết. Tử Can kinh sợ, cũng rút gươm tự tử. Trong cung náo động, hoạn quan và cung nữ sợ mà tự tử cũng nhiều, chết nằm ngổn ngang ở trong cung.

Tiếng kêu khóc như ri. Đấu Thành Nhiên lại đem quân vào, thu dọn những thây người chết, rồi đem quân thần ra đón Sái công. Khi Sái công đến, người trong nước chưa biết, vẫn tưởng là Linh vương; đến lúc thấy Sái công, mới biết rằng những tin hoảng báo trước đều là mưu kế của Sái công bày ra cả. Sái công vào thành lên ngôi, đổi tên là Hùng Cư, tức là Sở Bình vương. Dân nước Sở chưa ai biết là Sở Linh vương chết, thường thường náo động, có khi đang đêm huyên truyền nhau là Sở Linh vươngvề, ai nấy đều kinh sợ.

Bình vương lo lắm, mới bàn mưu vơi Quan Tòng, mặt sai người lấy một cái thây người chết, đội mũ mặc áo Sở Linh vương vào, thả ở thượng lưu sông Hán để cho trôi trở xuống, nói dối là thi thể Sở Linh vương, vớt lên đem quàn ở đất Si Lương, và hiểu dụ cho người trong nước biết : từ bấy giớ dân Sở mới được yên lòng. Cách ba năm sau, Bình vươnglại sai người tìm thi thể Linh vương. Thân Hợi mới chỉ chỗ cho biết, Sở Bình vương lại đem về làm lễ an táng.

Lại nói chuyện tư mã Đốc ang vây nước Từ, lâu ngày không đánh được, sợ tội không dám rút quân về, liền tư thông với nước Từ, cứ đóng đồn giữ ở đấy; sau nghe tin Linh vương chết, mới dám rút quân về. Về đến đất Dự Chương, bị công tử Quang nước Ngô (con trưỏong Chư Phán) đem quân đón đánh. Công tử Quang nước Ngô bắt được tư mã Đốc, rồi thừa thế chiếm lấy ấp Châu Lai của nước Sở.

Bình vương lên ngôi, làm lễ an táng cho Tử Can và Tử Tích, cho Đấu Thành Nhiên làm lệnh doãn, Dương Mang (tên tự là Tử Hà) làm tả doãn. Vì nghĩ thương Viễn Yểm và Bá Châu Lê khi trước bị oan mà chết, Bình vươngcho con Bá Châu Lê là Bá Khước Uyển làm hữu doãn, và em Viễn Yểm là Viễn Xạ cùng Viễn Việt đều làm đại phu; con Triều Ngô, Hạ Khiết và Sái Hựu, đều cho làm quan hạ đại phu cả; lại thấy công Phường là người dũng cảm, cho làm chức tư mã.

Bấy giờ Ngũ Cử đã chết rồi, Bình vương nghĩ đến khi trước Ngũ Cử là người trực tính, hay can gián nhà vua, mới phong cho con là Ngũ Xa ở đất Liêu, gọi là Liên công. Con Ngũ Xa là Ngũ Thượng, cũng được phong ở đất Đường, gọi là Đường công. Còn như bọn Viễn Khải Cương, Trịnh Đan, và các quan triều thần đều được giữ nguyên chức cũ. Sở Bình vương lại muốn phong chức cho Quan Tòng. Quan Tòng nói là cha đời trước đã có nghề bói, nay xin làm chức bốc đoán. Sở

Bình vương thuận cho. Các quan triều thần đều sụp lạy tạ ơn, chỉ có Triều Ngô và Sái Hựu xin từ chức mà đi. Sở Bình vương hỏi cớ làm sao. Triều Ngô và Sái Hựu đều nói :

– Chúng tôi đem quân giúp đại vương là có ý muốn cầu phục nước Sái. Nay đại vương đã lên ngôi, mà tôn tự nước Sái chúng tôi vẫn chưa có ai cúng tế, chúng tôi còn mặt mũi nào đứng ở trong triều đại vương nữa. Ngày xưa Linh vương tham sự chiếm đất, để cho lòng người oán giận, bây giờ đại vương muốn thu lấy lòng người thì nên phục quốc cho nước Trần và nước Sái mới phải.

Sở Bình vương khen phải, mới sai người tìm dòng dõi vua Trần và vua Sái, tìm được con thế tử Yến Sư nước Trần tên là Ngô và con thế tử Hữu nước Sái tên là Lư; liền sai quan thái sư chọn ngày tốt phong cho Ngô làm Trần hầu tức là Trần Huệ công; Lư làm Sái hầu tức là Sái Bình công. Triều Ngô và Sái Hựu theo Sái Bình công trỏ về nước Sái. Hạ Khiết theo Trần Huệ công trở về nước Trần. Quân Trần, quân Sái đều được khao thưởng, rồi quân nước nào lại rút về nước ấy. Bao nhiêu châu báo của Trần, Sái khi trước Sở Linh vương lấy về, chứa ở trong kho nước Sở, bấy giờ đều được trả lại cho Trần và Sái cả. Sáu nước nhỏ khi trước Sở Linh vương bắt thiên về phía Kinh Sơn, bấy giờ đều được trở về chốn cũ. Vua tôi các nước ấy đều mừng rỡ và cảm ơn Sở Bình vương khôn xiết.

Con trưởng Sở Bình vương tên là Kiến, tên tự là Tử Mộc (mẹ là con gái nước Sái) bấy giờ tuổi đã lớn, được làm thế tử. Sở Bình vương lại cho Liên công là Ngũ Xa làm chức thái sư ( Thái sư và thiếu sư đều là chức quan để dạy thế tử, cũng như chức thái phó và thiếu phó.) Có một người nước Sở tên là Phi Vô Cực, xưa nay vẫn theo hầu Bình vương, khéo du nịnh lắm. Bình vương có lòng yêu, cho làm đại phu. Phi Vô Cực xin theo thế tử Kiến. Sở Bình vương mới cho làm chức thiếu sư; lại cho Phấn Dương làm đông cung tư mã. Sở Bình vương thấy trong nước được thái bình, chỉ ngày đêm vui chơi hưởng thanh sắc.

Nước Ngô chiếm ấp Châu Lai, Bình vương cũng chẳng nghĩ gì đến sự báo phục. Phi Vô Cực làm chức thiếu sư, nhưng ngày nào cũng theo hầu ở bên cạnh Bình vương. Thế tử Kiến ghét Phi Vô Cực là người du nịnh, có ý khinh bỉ. Quan lệnh doãn là Đấu Thành Nhiên cậy công chuyên quyền, Phi Vô Cực gièm với Bình vương đem giết đi, rồi cho Dương Mang làm lệnh doãn. Thế tử Kiến thương nói Đấu Thành Nhiên chết oan. Phí Vô Cực lo sợ, sinh lòng hiềm khích với thế tử Kiến. Phí Vô Cực lại tiến dẫn Yên Tương Sư, Bình vươngcho làm chức hữu lệnh cũng có lòng yêu lắm.

Lại nói chuyện nước Tấn từ khi lập ra Tử Kỳ cung, chư hầu đều biết là có ý trễ nãi, không phục nữa. Tấn Chiêu công lên ngôi muốn phục hưng bá nghiệp đời trước, nghe nói Tề Cảnh công cho Án Anh sang sứ nước Sở, cũng sai người đến trách nước Tề sao không sang triều kiến nước mình. Tề Cảnh công thấy Tần và Sở trong nước nhiều việc biến loạn, có ý muốn thừa thế lên làm bá chủ, mới định nhân liệu sang triều kiến nước Tấn, cho kẻ dũng sĩ là Cổ Gia Tử đi theo. Khi qua sông Hoàng Hà, có con ngựa tả tham (con ngựa buộc ở bên tả xe) buộc ở man thuyền. Tề Cảnh công vốn yêu con ngựa ấy lắm, đang đứng xem kẻ ngự nhân (giữ ngựa) cho ngựa ăn, bỗng thấy có một trận mưa to, sóng gió rào rạt, thuyền nghiêng muốn úp, có con giải lớn thò đầu lên trên mặt nước, há miệng thật to, ghếch vào mạn thuyền, ngoạp con ngựa tả tham là lặn xuống sông. Tề Cảnh công kinh sợ. Cổ Gia Tử đứng bên cạnh, tâu rằng :

– Chúa công chớ sợ ! Tôi xin đi tìm !

Nói xong, cởi áo cầm gươm, nhảy xuống dưới nước, rẽ sóng mà bơi, khi nổi khi chìm, trôi đi đến chín dặm, rồi chẳng thấy tông tích đâu cả. Tề Cảnh công thở dài mà nói rằng :

– Cổ Gia Tử chết mất rồi !

Được một lúc, sóng gió im lặng, trông thấy có máu chảy ở mặt nước. Cổ Gia Tử tay trái kéo đuôi con ngựa tả tham, tay phải xách cái đầu con giải, đầm đìa những máu, ở dưới nước lên. Tề Cảnh công kinh sợ mà khen rằng :

– Thế thì thật là thần dũng ! Tiên quân ta ngày xưa đặt ra đội dũng tước, cũng chưa có ai giỏi như vậy !

Nói xong liền hậu thưởng cho Cổ Gia Tử. Khi đến nước Tấn. Tề Cảnh công vào yết kiến Tấn Chiêu công. Tấn Chiêu công bày tiệc để thết đãi. Nước Tấn thì có Tuân Ngô làm tướng lễ (Khi ăn tiệc hay tiếp khách vẫn có một người đứng coi sóc hoặc chỉ bảo gọi là tướng lễ). Nước Tề có A1n Anh. Khi rượu đã ngà ngà say. Tấn Chiêu công nói với Tề Cảnh công rằng :

– Bây giờ không biêt lấy gì làm vui, xin đánh đầu hồ ( là cầm cái thẻ ném vào miệng bầu để cầu được trúng).

Tề Cảnh công vâng lời. Thị vệ lấy cái hồ ra và dâng một nắm thẻ để đánh. Tề Cảnh công nhường cho Tấn Chiêu công đánh trước. Tấn Chiêu công đang cầm cái thẻ ở trong thì Tuân Ngô hát ví rằng :

“Có gò thịt cao,

Có ao rượu sâu

Chúa công tôi trúng

Làm chủ chư hầu”.

Tấn Chiêu công ném mạnh một cái thì thẻ trúng vào hồ, bèn ném cả bó thẻ xuống đất. Các quan nước Tấn thấy vậy, đều sụp lạy chúc mừng. Tề Cảnh công có ý không bằng lòng, khi cầm cái thẻ lên để đánh đầu hồ, cũng hát rằng :

“Có gò thịt cao

Có ao rượu sâu

Thẻ này tôi trúng

Thay chân quân hầu”.

Tề Cảnh công cũng buông mạnh một cái, trúng ngay vào trong hồ, bèn cười to lên, rồi ném nắm thẻ xuống đất. Án Anh cũng sụp lạy chúc mừng. Tấn Chiêu công đổi ngay sắc mặt. Tuân Ngô nói với Tề Cảnh công rằng :

– Nhà vua lỡ lời mất rồi ! Chỉ vì nước Tấn tôi nối đời làm bá chủ mà nay nhà vua tới đây, sao nhà vua lại nói thay chúa công tôi làm chủ chư hầu ?

Án Anh thay lời Tề Cảnh công mà đáp rằng :

– Ngôi bá chủ có nhất định thuộc về ai bao giờ, ai có đức thì người ấy được. Ngày xưa nước Tề làm bá chủ, rồi đến nước Tấn thay; nước Tấn có đức thì ai dám không phục, nhược bằng không có đức thì Ngô và Sở cũng có thể thay Tấn được, huống chi là Tề !

Dương Thiệt Bật nói :

– Hiện nay nước ta đang làm chủ chư hầu, việc gì phải bói đầu hồ mới biết ! Tuân Ngô nói thế cũng là không phải !

Tuân Ngô biết lỗi, nín lặng không nói gì cả. Cổ Gia Tử đứng ở dưới thềm nói to lên rằng :

– Ngày đã về chiều, nên bãi cuộc rượu !

Tề Cảnh công cáo từ lui ra. Ngày hôm sau, trở về nước Tề.

Dương Thiệt Bật nói với Tấn Chiêu công rằng :

– Chư hầu sắp có lòng ly tán, nếu không dùng binh lực thì sao giữ được quyền bá chủ.

Tấn Chiêu công khen phải, liền truyền lệnh luyện tập quân mã và sai sứ sang nhà Chu xin cho một vương thần (người bề tôi của vương tử nhà Chu) đến, hẹn tới tháng bảy năm ấy thì đại hội chư hầu ở đất Bình Khâu (đất nước Vệ). Chư hầu nghe nói có vương thần dự hội, đều phải đến cả. Tấn Chiêu công giao cho Hàn Khởi giữ nước rồi đem đại binh thẳng đường tiến sang Bộc Dương(kinh thành nước Vệ). Quân đông cả thảy ba mươi trại. Chư hầu thấy quân Tấn rầm rộ như vậy đều có ý sợ.

Khi khai hội, Dương Thiệt Bật bưng chậu máu dâng lên mà nói rằng :

– Tiên thần nước tôi là Triệu Vũ, quá tin lời ước bãi binh mà giao hiếu với nước Sở. Vua Sở là Hùng Kiến (tức là Sở Linh vương) thất tín, đến nỗi diệt vong. Nay chúa công tôi muốn bắt chước như kỳ hội Tiền Thổ trước, trên nhờ ơn thiên tử, dưới dẹp yên trung nguyên, xin các nước cùng thề để làm tin.

Các chư hầu đều cúi đầu đáp rằng :

– Xin vâng lệnh !

Chỉ có Tề Cảnh công nín lặng không nói gì cả. DươngThiệt Bật nói với vua Tề rằng :

– Nhà vua có ý không muốn thề hay sao ?

Tề Cảnh công nói :

– Chư hầu không phục thì mới phải thề, nếu ai cũng vâng mệnh thì còn thề làm gì nữa !

Dương Thiệt Bật nói :

– Kỳ hội ở Tiền Thổ khi trước, nước nào là nước không phục, sao cũng phải thề! Nhà vua không theo thì chúa công tôi thế tất phải đem quân đến hỏi tội.

Dương Thiệt Bật nói chưa dứt lời thì nghe hiệu trống đánh, các trại quân đều cấm cờ đại bái ( cờ dùng trong khi giao chiến). Tề Cảnh công có ý sợ, mới đổi giọng mà đáp rằng :

– Quý quốc còn cho việc thề là không thể bỏ được, có đâu tôi lại không dám theo !

Bấy giờ Tấn Chiêu công thề trước, rồi sau đến chư hầu, từ Tề, Tống trở xuống đều thề cả. Vương thần là Lưu Trí không phải thề, chỉ đứng chứng kiến mà thôi. Nước Châu và nước Cứ đem việc nước Lỗ thường sang xâm nhiễu cáo với Tấn Chiêu công, Tấn Chiêu công trách Lỗ Chiêu công rồi bắt quan thượng khanh nước Lỗ là Thúc Tôn Ý Như giam lại một chỗ. Từ Phục Huệ Bá nói riêng với Tuân Ngô rằng :

– Nước Lỗ to gấp mười nước Châu và nước Cử, nếu Tấn bỏ Lỗ thì Lỗ tất theo Tề và Sở, chẳng cũng thiệt cho Tấn lắm ru ! Và khi Sở đánh Trần và Sái, Tấn đã không cứu, mà nay lại bỏ một nước anh em hay sao!

Tuân Ngô khen phải, nói chuyện với Hàn Khởi. Hàn Khởi vào tâu với Tấn Chiêu công. Tấn Chiêu công liền tha cho Thúc Tôn Ý Như về nước Lỗ. Từ bấy giờ chư hầu đều có ý không tôn phục nước Tấn.

Chương 71: Vì quả đào, cùng nhau sống chết – Tham gái đẹp, quên tình cha con

Tề Cảnh công đến dự hội ở Bình Khâu, dẫu sợ binh uy nước Tấn mà phải thề, nhưng trong lòng biết là nước Tấn không có chí lớn, thì muốn khôi phục lại sự nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công thuở xưa. Khi về nước, Cảnh công bảo quan tướng quốc là Án Anh rằng :

– Nước Tấn làm bá chủ ở phía tây bắc, ta làm bá chủ ơ phía đông nam, cũng được chứ sao!

Án Anh nói :

– Nước Tấn xây đắp lâu đài để làm khổ dân, bởi vậy mà chư hầu ly tán. Nay chúa công muốn làm bá chủ, không gì bằng thương dân !

Tề Cảnh công nói :

– Thương dân thì làm thế nào ?

Án Anh nói :

– Giảm bớt hình phạt thì dân khỏi oán, nhẹ bớt thuế má thì dân biết ơn. Tiên vương ngày xưa, hễ thấy dân nghèo khổ, tất lấy thóc kho mà chu cấp, nay chúa công cũng nên bắt chước.

Tề Cảnh công nghe lời Án Anh, lấy thóc kho ra để chu cấp cho những người nghèo khổ. Người trong nước ai cũng bằng lòng. Nước Tề lại đòi các nước ở phía đông triều cống. Nước Từ không chịu theo. Tề Cảnh công sai Điền Khai Cương làm tướng, đem quân đi đánh. Hai bên đánh nhau ở đất Bồ Toại (đất Từ). Điền Khai Cương chém được tướng nước Từ là Doanh Sáng và bắt giáp sĩ năm trăm người. Vua Từ sợ lắm, sai sứ đến cầu hoà.

Tề Cảnh công liền ước với vua Đàm, vua Cừ và vua Từ cùng ăn thề ở đất Bồ Toại. Vua Từ đem cái đỉnh của nước Thân Phủ đến lễ đút Tề Cảnh công. Vua tôi nước Tấn dẫu biết như vậy, mà không dám hỏi đến. Từ bấy giờ nước Tề mỗi ngày một cường thịnh cùng với nước Tấn cùng làm bá chủ. Tề Cảnh công thường cùng Điền Khai Cương dẹp được nước Từ, và cùng Cổ Gia Tử chém được con giải, đều cho vào hàng “ngũ thặng tân”. Điền Khai Cương lại tiến dẫn cùng tên Tiệp là người vũ dũng. Nguyên công tôn Tiệp mặt như chàm đổ, hai mắc ốc nhồi, mình cao hơn trượng, sức khoẻ mang nổi mấy nghìn cân. Tề Cảnh công trông thấy lấy làm lạ, mới cùng công tôn Tiệp đi săn ở Đông Sơn.

Đang săn, bỗng trông thấy một con hổ, trán có đốm trắng, ở khe núi gầm thét chạy ra, toan vồ con ngựa của Tề Cảnh công. Tề Cảnh công kinh hãi. Công tôn Tiệp ở trên xe nhảy xuống, chẳng có gươm giáo gì cả, hai tay không xông vào bắt con hổ ấy, tay trái nắm lấy gáy con hổ, tay phải đấm mạnh một cái, con hổ chết ngay lập tức, Tề Cảnh công khen là vũ dũng, cũng cho dự vào hàng “ngũ thặng tân”. Công tôn Tiệp liền cùng với Điền Khai Cương và Cổ Gia Tử kết làm anh em, tự xưng là “tam kiệt” ở nước Tề. Bọn “tam kiệt” cậy mình có công to và sức khoẻ, vẫn thường khinh bỉ các quan triều thần, nhiều khi ở trước mặt Tề Cảnh công mà ăn nói hỗn láo, chẳng có lễ phép chút nào cả. Tề Cảnh công tiếc cái tài ba của ba người ấy cũng có ý khoan dung cho.

Bấy giờ trong triều có một kẻ nịnh thần là Lương Khâu Cứ, Tề Cảnh công cũng yêu lắm. Lương Khâu Cứ trong thì siểm nịnh Tề Cảnh công để được tin dùng, ngoài thì giao kết với “tam kiệt” để thêm vây cánh. Bấy giờ có Trần Vô Vũ đang phóng tiền của thu lòng người, có ý muốn chiếm nước Tề, mà Điền Khai Cương lại là thân thuộc với Trần Vô Vũ, Án Anh lấy làm lo lắm, vẫn muốn lập kế trừ đi, nhưng sợ Tề Cảnh công không nghe, lại sinh kết oán với bọn “tam kiệt” vì thế cũng không dám nói.

Một hôm, Lỗ Chiêu công cũng vì cớ không phục nước Tấn, muốn kết giao với Tề, thân hành sang triều kiến Tề Cảnh công. Tề Cảnh công bày tiệc để thết đãi. Nước Lỗ thì Thúc Tôn Nhược (con Thúc Báo) làm tướng lễ. Nước Tề thì Án Anh làm tướng lễ. Bọn “tam kiệt” chống gươm đứng ở dưới thềm; kiêu căng ngạo mạn, không coi ai ra gì ! Lỗ Chiêu công và Tề Cảnh công rượu đã ngà ngà say. Án Anh tâu rằng :

– Trong vườn quả kim đào đã chín, xin sai người ra trẩy để chúc thọ hai vua.

Tề Cảnh công nghe lời, truyền cho người giữ vườn đem kim đào vào dâng. Án Anh tâu rằng :

– Kim đào là một của báu, tôi xin thân hành đi coi xét việc trẩy quả.

Án Anh bèn lĩnh chìa khoá cửa vườn rồi đi ngay. Tề Cảnh công nói với Lỗ Chiêu công rằng :

– Đời Tiên công tôi ngày xưa, có người Đông Hải, đem cái hột đào đến để dâng, nói là giống “Vạn thọ kim đào”, nguyên giống ở Độ Sách sơn ngoại bể, cũng gọi tên là “Bàn đào” nữa. Nước tôi trồng đã hơn ba mươi năm, cành lá rất tốt, nhưng chỉ khai hoa mà không kết quả; mãi đến năm nay, mới bói được mấy quả, tôi lấy làm quý lắm, nên phải khoá cửa vườn lại, nay nhân có nhà vua tới đây, tôi xin đem ra để dâng nhà vua.

Lỗ Chiêu công chấp tay cảm ơn, lát sau thì Án Anh đưa người giữ vườn bưng mâm đào vào dâng. Trong mâm có sáu quả đào, quả nào cũng to bằng cái bát, sắc đỏ như viên than hồng, mùi hương bay ngào ngạt, thật là một thứ của quí. Tề Cảnh công hỏi rằng :

– Chỉ có bấy nhiêu quả đào thôi à ?

Án Anh nói :

– Còn ba, bốn quả nữa chưa chín, bởi vậy chỉ trẩy có sáu quả.

Tề Cảnh công sai Án Anh mời rượu, Án Anh tay bưng chén ngọc, đến dâng trước mặt Lỗ Chiêu công. Thị vệ bưng mâm đào đến. Án Anh chúc một câu rằng :

“Đào to bằng đấu

Thiên hạ ít có

Hai vua cùng ngự

Nghìn năm hưởng thọ !”

Lỗ Chiêu công uống xong chén rượu, cầm ăn một quả đào, thấy ngon ngọt lạ thường, nên ngợi khen mãi không ngớt mồm. Đến lượt Tề Cảnh công, cũng uống một chén rượu, cầm ăn một quả đào, ăn xong, lại bảo quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Nhược rằng :

– Thứ đào này quí lắm! Quan đại phu có tiếng là người giỏi, nay lại làm tướng lễ ở đây, cũng nên xơi một quả.

Thúc Tôn Nhược quì xuống mà tâu rằng:

– Hiền đức của tôi, còn kém quan tướng quốc (trỏ Án Anh) muôn phần. Quan tướng quốc trong thì sửa sang chính trị, ngoài thì khiến cho chư hầu phải phục, có công to lắm, vậy thứ đào này nên nhường để quan tướng quốc xơi, tôi đâu dám tiếm!

Tề Cảnh công nói :

– Đã như vậy thì ban cho cả hai người, mỗi người một chén rượu và một quả đào.

Án Anh và Thúc Tôn Nhược lạy tạ rồi lĩnh lấy. Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng :

– Trong mâm còn hai quả đào, chúa công nên truyền lệnh cho các quan, người nào có công lao nhiều thì ra mà lĩnh lấy quả đào ấy.

Tề Cảnh công khen phải, rồi sai thị vệ truyền dụ cho các quan rằng :

– Trong hàng các quan ai cũng có công lao nhiều, đáng ăn quả đào này thì cho được đứng ra mà tâu. Đã có quan tướng quốc xét công lao mà cho đào.

Công tôn Tiệp đứng ra tâu rằng :

– Ngày xưa tôi theo chúa công đi săn ở Đông Sơn, ra sức giết được hổ thì công ấy thế nào ?

Án Anh nói :

– Cái công bảo giá (bảo vệ nhà vua) to ngất trời ấy, còn gì hơn nữa !

Án Anh nói xong, đưa cho một chén rượu và một quả đào. Công tôn Tiệp lãnh lấy rồi lui xuống. Cổ Gia Tử đứng ra mà tâu rằng :

-Giết hổ chưa lấy gì làm lạ! Khi trước tôi giết được con giải yêu quái ở sông Hoàng Hà, khiến chúa công nguy mà lại yên, công ấy thế nào ?

Tề Cảnh công nói :

– Ta còn nhớ lúc bấy giờ sóng gió dữ dội, nếu không có tướng quân chém được con giải ấy thì thuyền ta tất phải đắm, đó thật là một kỳ công trên đời, đáng uống rượu và ăn đào lắm!

Án Anh vội đưa rượu và đào cho Cổ Gia Tử. Bỗng thấy Điền Khai Cương bước lên mà nói rằng :

– Tôi phụng mệnh chúa công đi đánh Từ, chém được tướng Từ, bắt sống được hơn năm trăm quân Từ, vua Từ cùng vua Đàn, vua Cử đều sợ hãi mà phải xin hoà, tôn chúa công lên làm chủ, cái công ấy có đáng ăn đào hay không ?

Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng :

– Cái công của Điền Khai Cương ví với hai tướng trước, lại còn gấp mười, nhưng nay hết đào rồi thì hãy tạm thưởng cho một chén rượu, đợi đến năm khác sẽ hay.

Tề Cảnh công bảo Điền Khai Cương rằng :

– Công nhà ngươi to lắm, chỉ tiếc thay nói chậm, thành ra hết cả đào.

Điền Khai Cương chống gươm nói rằng :

– Giết hổ và chém giải, chẳng qua là những việc nhỏ mà thôi. Ta đây xông pha tên đạn ở ngoài nghìn dặm, biết bao nhiêu công khó nhọc, lại không được ăn đào, chịu nhục ở trước mặt hai vua, để tiếng cười về mai hậu, còn mặt mũi nào mà đứng trong triều đình nữa !

Nói xong, đâm cổ chết ngay. Công Tôn Tiệp giật mình, cũng rút gươm mà nói rằng :

– Chúng ta công nhỏ mà được ăn đào, họ Điền công to mà không được ăn. Ta ăn đào mà không biết nhường, sao gọi là liêm; thấy người ta chết mà không theo, sao gọi là dũng !

Nói xong, cũng đâm cổ chết. Cổ Giả Tử kêu rầm lên rằng :

– Ba chúng ta kết nghĩa với nhau, thề cùng nhau sống chết, nay hai người đã chết, ta còn ham sống làm gì!

Nói xong, lại cũng lấy gươm đâm cổ chết. Tề Cảnh công vội vàng sai người ngăn lại, nhưng không kịp. Lỗ Chiêu công cũng đứng dậy nói :

– Tôi nghe ba tướng ấy đều là những bậc tài giỏi nhất thiên hạ, tiếc thay trong một buổi sớm mà chết mất cả ba người !

Tề Cảnh công nghe nói, thì biến sắc, chỉ làm thinh không đáp. Án Anh thong dong đáp rằng :

– Đó chẳng qua là mấy kẻ vũ dũng ở nước tôi mà thôi, dẫu có chút công nhỏ mọn, cũng không đáng tiếc.

Lỗ Chiêu công nói :

– Ở bên quí quốc, những kẻ vũ dũng như thế phỏng được mấy người ?

Án Anh đáp rằng :

– Những kẻ bày mưu lập kế ở chốn miếu đường, có tài làm tướng quốc hoặc làm nguyên soái thì dến vài ba mươi người, còn những kẻ vũ dũng ấy thì chẳng qua chỉ để chúa công tôi sai khiến mà thôi, dẫu sống hay chết, nước Tề tôi cũng không hơn thiệt gì cả !

Tề Cảnh công nghe nói, mới được yên lòng. Án Anh lại rót rượu mời Lỗ Chiêu công và Tề Cảnh công. Hai vua cùng uống rượu thật vui rồi tan về. Khi Lỗ Chiêu công về rồi, Tề Cảnh công gọi Án Anh mà hỏi rằng :

– Trong tiệc mới rồi, khanh nói khoe khoang để giữ thể diện cho nước Tề ta; nhưng ta chỉ lo không biết lấy ai thay vào bọn “tam kiệt” ?

Án Anh nói :

– Tôi xin tiến cử một người giỏi hơn “tam kiệt”.

Tề Cảnh công hỏi :

– Khanh định tiến cử ai?

Án Anh nói :

– Có Điền Nhượng Thư, văn võ toàn tài, dùng làm đại tướng được.

Tề Cảnh công nói :

– Người ấy cùng một họ với Điền Khai Cương phải không ?

Án Anh nói :

– Người ấy dẫu cùng họ với Điền Khai Cương nhưng về ngành thứ mà Điền Khai Cương không biết trọng đãi, cho nên vẫn ẩn ở Đông Hải. Chúa công muốn tuyển tướng thì không ai bằng người ấy.

Tề Cảnh công nói :

– Khanh đã biết là người giỏi, sao không tâu ngay ?

Án Anh nói :

– Người giỏi, chẳng những chọn cho được vua mới chịu ra làm quan, lại cần phải chọn bạn nữa, như bọn Điền Khai Cương và Cổ Gia Tử thì khi nào Điền Nhượng Thư chịu đứng cùng hàng!

Tề Cảnh công ngoài miệng dẫu không nói ra, nhưng trong lòng vẫn hiềm về nỗi họ Điền thân thuộc với Trần Vô Vũ, vậy nên ngần ngại không quyết định. Một hôm, có biên lại (chức quan ngoài biên thuỳ) báo tin rằng :

– Nước Tấn thấy nói “tam kiệt” đã chết, cât quân sang đánh mặt đông; nước Yên cũng thừa cơ đem quân sang xâm nhiễu mặt bắc.

Tề Cảnh công sợ lắm, liền sai Án Anh đem lễ vật ra Đông Hải đón Điền Nhượng Thư vào triều. Điền Nhượng Thư giảng giải binh pháp, hợp ý Tề Cảnh công lắm. Ngay ngày hôm ấy, Tề Cảnh công cho Điền Nhượng Thư làm nguyên soái, đem quân đi đánh Tấn và Yên. Điền Nhượng Thư tâu với Tề Cảnh công rằng :

– Tôi vốn con nhà hèn hạ ở chốn thôn dã, nay chúa công giao binh quyền cho, e rằng lòng người không phục xin chúa công chọn một người nào được trọng vọng trong nước xưa nay, để làm giám quân, thì hiệu lệnh của tôi mới có thể thi hành được.

Tề Cảnh công theo lời, sai quan đại phu là Trang Giả đi làm giám quân, Điền Nhượng Thư và Trang Giả cùng lạy ta lui ra. Ra đến ngoài triều, Trang Giả hỏi Điền Nhượng Thư rằng :

– Quan nguyên soái định đến bao giờ thì cất quân đi?

Điền Nhượng Thư nói :

– Giờ ngọ ngày mai, tôi xin đợi ngài ở quan môn để cùng đi, xin ngài chớ sai hẹn.

Đến giờ ngọ ngày hôm sau, Điền Nhượng Thư truyền cho quân sĩ cấm cây gỗ làm nêu để xem bóng mặt trời, và sai người đến giục Trang Giả. Trang Giả còn ít tuổi, vốn thấy mình được quí hiển mà kiêu căng lại cậy thế Tề Cảnh Công yêu vì, nên chẳng coi Điền Nhượng Thư ra gì; vả lại vẫn tưởng là mình làm giám quân thì muốn thế nào cũng được. Ngày hôm ấy, họ hàng đều bày tiệc tiễn chân. Trang Giả vui chén quá say, thấy sứ đến giục, cũng chẳng buồn đứng dậy. Điền Nhượng Thư đợi mãi, mặt trời đã xế về tây, mà vẫn chưa thấy Trang Giả đến, mới trèo lên tướng đài để truyền hiệu lệnh cho quân sĩ. Trang Giả đi đến quan môn, thủng thỉnh xuống xe, trèo lên tướng đài. Điền Nhượng Thư cứ nghiểm nhiên ngồi không đứng dậy mà hỏi Trang Giả rằng :

– Quan giám quân vì cớ gì bây giờ mới đến ?

Trang Giả chắp tay vái mà đáp rằng :

– Nhân vì tôi sắp khởi hành, họ hàng bạn hữu đều bày tiệc tiễn chân, thành ra đến hơi chậm mất một chút.

Điền Nhượng Thư nói :

– Phàm người làm tướng, trong ngày chịu mệnh vua thì phải quên nhà; khi đã truyền lệnh cho quân sĩ thì phải quên cha mẹ; khi tay cầm dùi trống, xông pha tên đạn thì phải quên cả thân mình. Nay nước giặc sang xâm nhiễu, ngoài biên thuỳ náo động, chúa công ta ngủ không yên giấc, ăn không ngon miệng, đem việc đánh giặc uỷ thác cho hai ta, cùng mà sớm tối lập công để cứu khổ cho trăm họ, còn lòng nào mà cùng với họ hàng bạn hữu bày cuộc vui nữa !

Trang Giả tủm tỉm cười, đáp rằng :

– Cũng may mà còn kịp, quan nguyên soái bất tất phải quá trách.

Điền Nhượng Thư nổi giận, đạp bàn mà mắng rằng :

– Nhà ngươi cậy được chúa công yêu, làm cho quân sĩ sinh lòng trễ biếng, nếu lúc ra trận cũng như thế thì hỏng hết cả công việc !

Điền Nhượng Thư truyền gọi chức quân chính đến hỏi rằng :

– Cứ theo quân pháp, hễ hẹn mà đến chậm thì nên bắt tội gì ?

Chức quân chính đáp rằng :

– Cứ theo quân pháp thì phải xử trảm !

Trang Giả nghe nói phải đem chém mới có ý sợ, vội vàng ở trên tướng đài chạy xuống. Điền Nhượng Thư truyền cho quân sĩ trói lại, rồi đem ra cửa quân để chém. Bấy giờ Trang Giả không còn một chút hơi rượu nào cả, van van lạy lạy xin tha. Những người theo hầu Trang Giả chạy đến báo tin với Tề Cảnh công. Tề Cảnh công kinh hãi, liền gọi Lương Khâu Cứ, sai cầm cờ tiết đến bảo Điền Nhượng Thư tha tội chết cho Trang Giả, lại dặn phải đi xe thật mau, kẻo không kịp, nhưng đi đến nơi thì Trang Giả đã chết rồi. Lương Khâu Cứ không biết, tay cầm cờ tiết, đi xe thẳng tiến vào cửa quan.

Điền Nhượng Thư truyền cho quân sĩ ngăn lại, rồi hỏi chức quân chính rằng :

– Vào quan môn mà dám đi xe nhanh như vậy, thì nên bắt tội gì ?

Chức quân chính đáp rằng :

– Cứ theo quân pháp thì cũng phải xử trảm.

Lương Khâu Cứ mặt như chàm đổ, kêu là phụng mệnh mà đến, chứ không phải tự mình. Điền Nhượng Thư nói :

– Đã có mệnh vua thì tha cho không chém, nhưng làm thể nào cũng phải giữ quân pháp, vậy thì ta phá xe, giết ngựa đi để thay mạng cho sứ giả.

Lương Khâu Cứ được khỏi chết, cúi đầu len lét mà đi. Quân sĩ thấy vậy, ai cũng sợ hãi. Đại binh của Điền Nhượng Thư chưa kéo ra đến nơi, mà quân Tấn nghe tin đã bỏ trốn đi rồi. Quân Yên cũng rút về. Điền Nhượng Thư đuổi theo mà đánh, chém được hơn một vạn đầu giặc. Người nước Yên thua to, phải đem lễ vật sang xin hoà.

Khi Điền Nhượng Thư rút quân về, Tề Cảnh công thân hành ra đón, phong làm chức đại tư mã, sai giữ binh quyền. Chư hầu nghe tiếng Điền Nhượng Thư, ai cũng kính phục. Tề Cảnh công trong có Án Anh, ngoài có Điền Nhượng Thư, trong nước mỗi ngày một cường thịnh. Tề Cảnh công thấy nước nhà đã được cường thịnh, ngày nào cũng đi săn và uống rượu để cầu vui, còn quyền chính giao hết cho Án Anh, khác nào như Tề Hoàn công dùng Quản Di Ngô khi trước.

Một hôm, Tề Cảnh công ở trong cung cùng với cung nữ uống rượu; đến nửa đêm, bỗng nhớ đến Án Anh, truyền cho nội thị đem tửu khí và các thức nhắm đến nhà Án Anh, rồi báo trước cho Án Anh biết rằng :

– Chúa công sắp đến !

Án Anh đội mũ mặc áo, cầm hốt đứng chắp tay ở ngoài cửa để đón. Tề Cảnh công chưa kịp xuống xe, Án Anh đã chạy lại, sợ hãi mà rằng :

– Chư hầu có việc gì chăng, hay nước nhà có việc gì chăng ?

Tề Cảnh công nói :

– Không.

Án Anh nói :

– Thế thì sao đang đêm chúa công lại thân hành đến nhà tôi ?

Tề Cảnh công nói :

– Quan tướng quốc công việc khó nhọc, nay ta có rượu ngon và các thứ âm nhạc, không dám vui một mình, xin cùng với quan tướng quốc cùng vui.

Án Anh nói :

– Việc giao kết chư hầu và giữ yên nước nhà thì tôi xin hết sức; còn những việc bày cuộc vui để hầu hạ chúa công thì đã có người khác, tôi không dám dự đến.

Tề Cảnh công quay xe trở lại, rồi sang nhà quan tư mã là Điền Nhượng Thư. Nội thị đến báo trước cho Điền Nhượng Thư biết. Điền Nhượng Thư đầu đội mũ trụ, mình mặc áo giáp, tay cầm kích, đứng ở ngoài cửa để đón. Khi xe Tề Cảnh công đến. Điền Nhượng Thư cúi đầu mà hỏi rằng :

– Chư hầu có nước nào quấy nhiễu hay đại thần có người nào phản nghịch chăng ?

Tề Cảnh công nói :

– Không.

Điền Nhượng Thư nói :

– Thế thì sao đang đêm chuá công lại thân hành ra nhà tôi ?

Tề Cảnh công nói :

– Nào có biết gì khác đâu, chỉ vì ta nghĩ đến cái công khó nhọc của tướng quân, vậy có rượu ngon và các thứ âm nhạc, muốn cùng với tướng quân cùng vui !

Điền Nhượng Thư nói :

– Việc đánh nước thù và dẹp kẻ phản nghịch thì tôi xin hết sức; còn những việc bày cuộc vui để hầu hạ chúa công thì thiếu gì người, sao chúa công lại hỏi đến kẻ giới trụ (giới áo giáp trụ, Giới trụ nghĩa là những tướng võ).

Tề Cảnh công có ý không được vui. Nội thị hỏi :

– Chúa công định về cung hay đi đâu ?

Tề Cảnh công nói :

– Đi sang nhà quan đại phu là Lương Khâu Cứ.

Nội thị lại báo trước cho Lương Khâu Cứ biết.

Lương Khâu Cứ tay trái ôm đàn cầm, tay phải cấp ống kèn, miệng hát nghêu ngao mà ra đón Tề Cảnh công ở tận ngoài đường. Tề Cảnh công bằng lòng, mới cởi áo ra, rồi cùng với Lương Khâu Cứ uống rượu vui, và nghe các thứ âm nhạc mãi đến gà gáy, mới trở về cung.

Ngày hôm sau, Án Anh và Điền Nhượng Thư cùng vào triều tạ tội, lại can Tề Cảnh công không nên đang đêm ra uống rượu ở nhà các quan, Tề Cảnh công nói :

– Ta không có hai người thì lấy ai trị nước, không có Lương Khâu Cứ thì lấy ai mua vui? Ta không làm trở ngại đến công việc của hai ngươi, hai ngươi chớ nên can dự đến công việc của ta !

Bấy giờ Trung Nguyên nhiều việc, nước Tấn không thể quản cố được. Tấn Chiêu công lên làm vua được sáu năm thì mất, thế tử Khứ Tật lên nối ngôi, tức là Tấn Khoảnh công. Năm thứ nhất đời Tấn Khoảnh công, Hàn Khởi và Dương Thiệt Bật đều ốm chết cả. Nguỵ Thư cầm quyền chính. Tuân Lịch và Phạm Uông đều có tiếng là người hay ăn lễ. Kẻ gia thần của Kỳ Doanh, tên là Kỳ Thắng, tư thông với vợ Ô Tang (cũng là gia thần của Kỳ Doanh). Kỳ Doanh bắt Kỳ Thắng, Kỳ Thắng lễ đút Tuân Lịch. Tuân Lịch nói với Tấn Khoảnh công mà gièm Kỳ Doanh. Tấn Khoảnh công lại bắt Kỳ Doanh. Dương Thiệt Thực Ngã (con Dương Thiệt Bật) là phái Kỳ Doanh, liền giết Kỳ Thắng. Tấn Khoảnh công nổi giận, giết Kỳ Doanh và Dương Thiệt Thực Ngã, lại diệt cả họ Kỳ và họ Dương Thiệt. Người nước Tấn nghe nói, ai cũng thương là oán. Sau Lỗ Chiêu công bị kẻ cường thần là Quí Tôn Ý Như đuổi, Tuân Lịch (nước Tấn) lại ăn tiền của Quí Tôn Ý Như, không cho Lỗ Chiêu công chạy vào nước Tấn. Tề Cảnh công hội chư hầu ở Yên Lăng, để bàn mưu giúp cho Lỗ Chiêu công về nước, bởi vậy ai cũng kính phục. Từ bấy giờ uy danh Tề Cảnh công mới lừng lẫy.

Lại nói chuyện vua nước Ngô là Di Muội lên ngôi được bốn năm thì ốm nặng, theo lời cha anh dặn ngày trước, muốn truyền ngôi cho em là Qúi Trát. Qúi Trát từ chối mà nói rằng :

– Ta quyết không bao giờ chịu nhận ! Dẫu tiên vương ta ngày xưa có trối lại, nhưng ta cũng không dám theo, bởi vì ta coi sự phú quí khác nào như gió thu thoảng qua mà thôi, có thiết gì !

Quí Trát liền trốn về ở Diên Lang. Triều thần nước Ngô bèn lập con Di Muội là Châu Vu lên làm vua, cải tên là Liêu, tức là Vương Liêu. Con Chư Phán là công tử Quang giỏi về việc binh, Vương Liêu dùng làm tướng. Công tử Quang cùng với quân sĩ Sở giao chiến ở đất Trường Ngạn (đất nước Sở), giết được quan tư mã nước Sở là công tử Phương. Người nước Sở kinh sợ, phải đắp thành ở đất Châu Lai để phòng giữ nước Ngô. Bấy giờ Phí Vô Cực khéo du nịnh, Sở Bình vương (Lư) yêu lắm. Sái Bình công đã lập đích tử tên là Chu làm thế tử, người thứ tư tên là Đông Quốc muốn tranh, mới lễ tiền cho Phí Vô Cực, để nhờ nói hộ với Bình vương ( Phí Vô Cực là quan nước Sở, được Sở Bình vương yêu lắm. Bấy giờ Sái thuộc Sở, vậy nên phải nhờ Phí Vô Cực nói hộ).

Sở Bình vương thấy vậy, hỏi Phí Vô Cực rằng :

– Tại sao người nước Sái đuổi thế tử Chu ?

Phí Vô Cực nói :

– Thế tử Chu định làm phản nước Sở ta, người nước Sái không bằng lòng, vậy nên đuổi đi.

Sở Bình vương cũng không hỏi gì đến nữa. Phí Vô Cực ghét thế tử Kiến (con Sở Bình vương), bèn muốn làm cho cha con phải lìa rẽ nhau, nhưng chưa có kế gì. Một hôm, Phí Vô Cực tâu với Sở Bình vương rằng :

– Thế tử đã lớn tuổi, sao đại vương không cầu hôn cho thế tử, mà muốn cầu hôn thì không đâu bằng nước Tần. Tần là một nước cường thịnh xưa nay vẫn giao hiếu với Sở, nếu ta kết hôn với Tần thì thế lực nước Sở càng thêm vững vàng.

Sở Bình vương nghe lời, sai Phí Vô Cực sang nước Tần cầu hôn cho thế tử Kiến. Tần Ai công cũng họp triều thần để thương nghị. Các quan đều nói :

– Xưa nay nước Tần ta, và nước Tấn vẫn kết hôn với nhau, nay nước Tấn đã lâu không đi lại với ta, mà nước Sở hiện đang cường thịnh, vậy ta nên cho nước Sở kết hôn.

Tần Ai công liền hẹn gã em gái là nàng Mạnh Doanh cho nước Sở. Sở Bình vương lại sai Phí Vô Cực đem lễ vật sang nước Tần xin cưới. Phí Vô Cực sang đến nước Tần, đem lễ vật đệ trình lên. Tần Ai công bằng lòng, sai công tử Bồ đưa nàng Mạnh Doanh sang nước Sở. Hành trang có cả thảy một trăm cổ xe, các dâng thiếp theo hầu kể có vài ba mươi người. Nàng Mạnh Doanh vào từ biệt anh rồi đi. Trong khi đi đường Phí Vô Cực thấy nàng Mạnh Doanh nhan sắc tuyệt trần; lại thấy trong đám dâng thiếp có một người dáng điệu đứng đắn lắm, hỏi dò ra mới biết là Tề nữ (con gái nước Tề). Nguyên trước thân phụ Tề nữ sang làm quan ở nước Tần. Tề nữ theo sang từ thuở bé, đến sau vào làm thị nữ trong cung, hầu nàng Mạnh Doanh. Phí Vô Cực dò biết như vậy, nhân đêm hôm ấy ngủ ở quán xa, mật triệu Tề nữ đến mà bảo rằng :

– Ta trông thấy nàng có quý tướng, muốn giúp cho nàng được làm vợ ngôi thế tử, nếu nàng chịu theo kế ta thì sau này phú quí không biết đâu mà kể !

Tề nữ cúi đầu nín lặng. Phí Vô Cực về trước một hôm, vào tâu với Sở Bình vương, nói nàng mạnh Doanh đã đến, còn cách xa độ ba xá. Sở Bình vương hỏi rằng :

– Nhà ngươi đã được trông thấy mặt nàng chưa? Nhan sắc thế nào ?

Phí Vô Cực biết Sở Bình vương là người ham tửu sắc, định khoe khoang vẻ đẹp của nàng Mạnh Doanh để làm cho Sở Bình vương phải động lòng, may sao lại gặp Sở Bình vương hỏi đến, chính trúng vào kế của mình, bèn tâu rằng :

– Mắt tôi trông thấy con gái đã nhiều, nhưng chưa thấy người nào đẹp như nàng Mạnh Doanh! Chẳng những trong cung nước Sở không có ai bằng, dẫu tượng truyền các bậc tuyệt sắc đời xưa như Đắc Kỹ và Ly Cơ, cũng chỉ nghe tiếng đồn mà thôi, chứ e rằng nàng Mạnh Doanh đẹp muôn phần, vị tất những người kia đã được một !

Sở Bình vương nghe nói, mặt đỏ bừng lên, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thở dài mà nói rằng :

– Ta xưng vương làm gì cho uổng ! Chẳng gặp được người tuyệt sắc ấy, thật cũng phí một đời !

Phí Vô Cực xin đuổi hết những người chung quanh rồi mật tâu với Sở Bình vương rằng :

– Nếu đại vương yêu sắc đẹp của nàng Mạnh Doanh thì sao đại vương không lấy đi ?

Sở Bình vương nói :

– Ta đã cưới về cho thế tử, làm vậy sợ hại đến luân lý.

Phí Vô Cực tâu rằng :

– Việc gì mà hại ! Nàng Mạnh Doanh dẫu cưới cho thế tử, nhưng chưa hề đến nơi; nay đại vương đón nàng vào cung, còn ai dám nghị luận nữa.

Sở Bình vương nói :

– Ta khoá được miệng các quan, chứ bưng thế nào được miệng thế tử ?

Phí Vô Cực nói :

– Tôi xem trong đám dâng thiếp có Tề nữ là người dáng điệu đứng đắn, cho giả làm nàng Mạnh Doanh được. Tôi xin đưa nàng Mạnh Doanh vào cung, rồi đem Tề nữ tiến cho thế tử, như vậy thì hai bên cùng phải giấu kín cả, thật là trọn vẹn mọi bề !

Sở Bình vương mừng lắm, dặn Phí Vô Cực phải bí mật lắm mới được. Phí Vô Cực bảo công tử Bồ nước Tần rằng :

– Hôn lễ nước Sở, không giống các nước, tân nhân tất phải vào cung yết kiến đại vương tôi đã, rồi mới cùng với thế tử thành thân.

Công tử Bồ xin vâng lệnh. Phí Vô Cực bèn đưa nàng Mạnh Doanh và các dâng thiếp vào cung để yết kiến Sở Bình vương, rồi để nàng Mạnh Doanh ở lại đấy; lại bắt các cung nữ giả làm dâng thiếp nước Tần, còn Tề nữ thì gỉa làm nàng Mạnh Doanh, đưa sang cung thế tử Kiến. Các quan và thế tử Kiến đều không biết mưu gian của Phí Vô Cực. Sở Bình vương sợ thế tử Kiến biết việc nàng Mạnh Doanh, mới cấm thế tử Kiến không cho vào cung, rồi ngày đêm chỉ cùng với nàng Mạnh Doanh uống rượu mua vui, chẳng thiết gì đến chính sự cả.

Bấy giờ bên ngoài cũng có nhiều người thì thào nghi việc nàng Mạnh Doanh. Phí Vô Cực sợ thế tử Kiến biết, mới bảo Bình vương rằng :

– Nước Tấn làm bá chủ được lâu năm, chỉ vì tiếp giáp với Trung Nguyên. Vua Linh vương ta ngày xưa đắp thành ở Trần và Sái là có ý muốn tranh nghiệp bá, nay hai nước được phục quốc, Sái mà Sở lui về ở phương nam thì làm sao mà tranh nghiệp bá được, sao đại vương không sai thế tử ra trấn thử ở đất Thành Phủ, để giao thông với phương bắc, còn đại vương thì chuyên một mặt mà mở mang về phương nam, như vậy thì có thể thu hết được thiên hạ.

Bình vương còn ngần ngừ chưa quyết. Phí Vô Cực lại ghé tai mật tâu rằng :

– Việc nàng Mạnh Doanh, lâu ngày tất phải tiết lộ, nếu để cho thế tử đi xa, chẳng cũng lợi cả đôi đường hay sao!

Bình vương nghĩ ra, liền sai thế tử Kiến đi trấn thủ ở đất Thành Phủ, cho Phấn Dương làm quan tư mã ở đất Thành Phủ. Lại dặn Phấn Dương rằng :

– Nhà người thờ thế tử, cũng như là thờ ta !

Ngũ Xa biết Phí Vô Cực gièm pha, đã toan can ngăn Bình vương.

Phí Vô Cực biết vậy, lại tâu với Bình vương sai Ngũ Xa sang Thành Phủ để giúp thế tử. Khi thế tử Kiến đã đi rồi. Bình vương lại lập nàng Mạnh Doanh làm chánh hậu và đuổi Sái Cơ (mẹ thế tử Kiến) về đất Viên Dương; bấy giờ thế tử Kiến mới biết chuyện nàng Mạnh Doanh đã bị cha đổi mất, nhưng không thể làm thế nào được. Nàng Mạnh Doanh dẫu được Bình vương yêu dấu, nhưng thấy biết vậy cũng không dám hỏi. Được hơn một năm, nàng Mạnh Doanh sinh con trai, Bình vương yêu quí lắm, đặt tên là Trân.

Khi Trân đã được đầy tuổi tôi, Bình vương hỏi nàng Mạnh Doanh rằng :

– Từ khi nàng vào cung đến giờ, thường hay buồn rầu ít được vui vẻ, là cớ làm sao ?

Nàng Mạnh Doanh nói :

– Thiếp vâng mệnh vua anh, sang hầu hạ đại vương, vẫn tưởng rằng Tần Sở một nhà, thanh xuân đôi lứa; khi đã vào tới cung, mới biết đại vương đã nhiều tuổi. Thiếp không dám oán đại vương, nhưng chỉ tiếc rằng sinh sau đẻ muộn quá !

Sở Bình vương cười mà nói rằng :

– Cái đó là bởi số phận ! Khanh về với quả nhân thì muộn, nhưng làm chánh hậu thì đã sớm được không biết mấy năm rồi !

Nàng Mạnh Doanh nghe nói, trong lòng nghi hoặc, mới dò hỏi các cung nữ. Các cung nữ không thể giấu được, bèn thuật chuyện lại cho nghe. Nàng Mạnh Doanh thở dài, rồi ứa nước mắt khóc. Bình vương biết ý, hết sức chiều chuộng, hẹn lập Trân làm thế tử, bấy giờ nàng Mạnh Doanh mới hơi yên lòng. Phí Vô Cực vẫn lấy việc thế tử Kiến làm e ngại, sợ sau này Kiến nối ngôi thì tất trị tội mình, mới tâu với Bình vương rằng :

– Tôi nghe tin thế tử cùng với Ngũ Xa bàn mưu phản nghịch, mật sai người giao thông với Tề và Tấn, đại vương phải phòng bị mới được.

Bình vương nói :

– Thế tử vốn là người hiếu thuận, có đâu có những việc ấy !

Phí Vô Cực nói :

– Thế tử vì việc nàng Mạnh Doanh mà đem lòng oán giận. Nay ở đất Thành Phủ, vẫn luyện tập binh mã, thường khen Mục vương ngày xưa nổi loạn mà được hưởng nước Sở, con cháu phồn thịnh, thế là có ý muốn bắt chước. Nếu đại vương không trừ bỏ đi thì tôi xin muốn trốn trước để khỏi tai vạ.

Bình vương vẫn muốn bỏ thế tử Kiến, lập Trân làm thế tử, lại nghe lời nói của Phí Vô Cực, cũng hơi động lòng, toan hạ lệnh bỏ thế tử Kiến.

Phí Vô Cực lại tâu rằng :

– Thế tử đang giữ binh quyền ở ngoài, nếu hạ lệnh bỏ thì khác nào như giục thế tử làm phản. Ngũ Xa sẽ làm chủ mưu cho thế tử. Chi bằng đại vương triệu Ngũ Xa về đã, rồi sau đem quân bắt thế tử, mới có thể trừ bỏ được.

Bình vương khen phải, sai người triệu Ngũ xa. Ngũ xa về. Bình vương hỏi rằng :

– Thế tử Kiến đem lòng phản nghịch, nhà ngươi có biết không ?

Ngũ Xa vốn là người chính trực, đáp rằng :

– Đại vương chiếm lấy vợ thế tử, cũng đã quá lắm rồi, nay lại nghe lời đứa tiểu nhân mà bỏ tình cốt nhục, thì sao cho đành ?

Bình vương có ý hổ thẹn, truyền bắt Ngũ Xa giam lại. Phí Vô Cực tâu rằng :

– Ngũ Xa dám nói như vậy, quả là có lòng oán vọng. Nếu thế tử biết Ngũ Xa bị bắt thì tất nổi loạn, đem quân Tề và quân Tấn về, ta khó lòng đương nổi !

Bình vương nói :

– Ta muốn sai người đi giết thế tử, chưa biết dùng ai.

Phí Vô Cực nói :

– Sai người khác đi thì thế tử tất chống cự được, chi bằng mật dụ cho quan tư mã là Phấn Dương phải bắt thế tử mà giết đi.

Bình vương liền sai người mật dụ Phấn Dương rằng :

– Giết thế tử thì được trọng thưởng, tha thế tử thì phải tội chết.

Phấn Dương tức khắc sai người tâm phúc báo cho thế tử Kiến biết, dặn phải mau mau đi trốn.

Thế tử Kiến kinh sợ. Bấy giờ Tề nữ đã sinh con trai, đặt tên là Thắng. Thế tử Kiến liền đem vợ con chạy sang nước Tống. Phấn Dương biết thế tử Kiến đã trốn rồi, mới bảo người Thành Phủ trói mình lại, giải về Sinh Đô nộp Sở Bình vương. Phấn Dương tâu với Bình vương, nói thế tử đã trốn mất rồi. Bình vương nổi giận mắng rằng :

– Việc này tự miệng ta nói ra, vào đến tai nhà ngươi, còn ai biết nữa mà báo thế tử !

Phấn Dương nói :

– Chính tôi báo thế tử ! Ngày trước đại vương có dặn tôi rằng : “Nhà ngươi thờ thế tử, cũng tức như là thờ ta!” Tôi vâng lời dặn ấy, không dám hai lòng, cho nên phải bảo cho thế tử biết. Sau nghĩ ra mới biết là mắc tội, hối lại không kịp !

Bình vương nói :

– Nhà người đã tha thế tử, lại dám đến yết kiến ta, không sợ chết hay sao ?

Phấn Dương nói :

– Tôi đã không theo được lời dặn sau cùng của đại vương nếu lại sợ chết mà không đến thì thành ra hai tội. Và chưa có tang chứng gì là thế tử phản nghịch cả, nếu đem trị tội chẳng cũng oan lắm sao! Thế tử sống thì tôi dẫu chết cũng được thoả lòng !

Bình vương động lòng, và có ý thẹn, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo Phấn Dương rằng :

– Phấn Dương dẫu có trái mệnh, nhưng tấm lòng trung trực cũng đáng khen !

Bình vương xá tội cho Phấn Dương, vẫn cho được làm quan tư mã ở Thành Phủ. Bình vương lập con nàng Mạnh Doanh là Trân làm thế tử, lại cho Phí Vô Cực làm chức thái sư. Phí Vô Cực tâu rằng :

– Ngũ Xa có hai con là Ngũ Thượng và Ngũ Viên, đều là bậc tài giỏi, nếu để trốn sang nước Ngô thì tất hại cho nước Sở, chi bằng ta bắt Ngũ Xa phải viết thư triệu về. Kẻ kia tin lời cha, tất rủ nhau về cả, bấy giờ ta giết hết đi, mới có thể trừ được hậu hoạn.

Sở Bình vương mừng lắm, sai người vào ngục đem Ngũ Xa ra, rồi đưa giấy bút cho mà bảo rằng :

– Nhà ngươi xui thế tử làm phản, đáng lẻ phải chết chém, nhưng ta nghĩ đến cái công tổ phụ nhà ngươi, không nỡ bắt tội. Nhà ngươi nên viết thư triệu hai con về, ta sẽ phong quan chức cho.

Ngũ Xa biết là Bình vương đánh lừa, để triệu về mà giết cả đi, mới tâu rằng :

– Con trưởng tôi là Ngũ Thượng, nhân hậu ôn hoà, nghe tôi triệu thì tất về ngay; còn con thứ tôi là Ngũ Viên thì văn vũ toàn tài, mà tính nhẫn nại, mai sau có thể làm nên việc được, nó tinh khôn lắm, vị tất đã chịu về.

Bình vương nói :

– Nhà ngươi cứ theo lời ta mà triệu về, còn về hay không, không can dự đến nhà ngươi !

Ngũ Xa không dám trái mệnh, liền viết một bức thư, đại lược nói rằng :

“Ta có lời cho hai con là Thượng và Viên biết rằng : Ta vì nói thẳng trái ý đại vương mà phạm tội, nhưng đại vương nghĩ đến công của tổ phụ ta ngày xưa, không nỡ giết chết, vậy có theo lời bàn của các quan mà tha tội cho , lại muốn phong quan chức cho hai con nữa. Hai con nên mau mau về triều, nếu chậm thì có tội.”

Ngũ Xa viết xong, đệ trình Bình vương, Bình vương xem qua, lại truyền giam Ngũ xa vào ngục, và sai Yên Tương Sư đem thư sang Đường Ấp để triệu Ngũ Thượng và Ngũ Viên. Khi Yên Tương Sư sang đến Đường Ấp thì Ngũ Thượng cùng Ngũ Viên đã sang Thành Phủ rồi. Yên Tương Sư lại sang Thành Phủ, đến gặp Ngũ Thượng, liền đem lời chúc mừng. Ngũ Thượng nói :

– Thân phục tôi đang bị giam, còn vui gì mà chúc mừng ?

Yên Tương Sư nói :

– Đại vương quá nghe người ta nói, bắt giam tôn công (trỏ Ngũ Xa ), may có các quan bảo lịnh, tâu rằng nhà tôn công về trước đã ba đời trung trực, cho nên đại vương nghĩ lại, bèn phong cho tôn công làm tướng quốc, và phong cho hai ngài làm Hồng Đô hầu (Thượng) và Cái hầu (Viên). Tôn công bị giam đã lâu, nay mới được tha, mong nhớ hai ngài lắm, vậy có sai tôi mang thư đến đây để đón.

Ngũ Thượng nói :

– Thân phụ tôi bị giam, lòng tôi thật đau như cắt, nay được tha là may, khi nào lại dám mong quan chức !

Yên Tương Sư nói :

– Đó là mệnh vua, ngài chớ nên từ chối !

Ngũ Thượng mừng lắm, liền đem thư vào nhà trong cho em là Ngũ Viên xem.

Chương 72: Dụ hai con, Sở Bình lập kế – Nghĩ một đêm, Ngũ Viên bạc đầu

Ngũ Viên, tên tự là Tử Tư, người ở Giám Lợi, mình cao một trượng, lưng rộng người ôm, mày rộng một thước (đời thượng cổ, thước (xích) tấc (thần) rất nhỏ ), mắt sáng như điện, sức khoẻ lạ thường, lại văn vũ toàn tài, là con Ngũ Xa, em Ngũ Thượng. Ngũ Thượng cùng với Ngũ Viên đều theo cha sang đất Thành Phủ. Yên Tương Sư phụng mệnh Sở Bình vương ra dụ Ngũ Thượng, Ngũ Viên vào triều. Yên Tương Sư vào yết kiến Ngũ Thượng trước, đưa bức thư của Ngũ Xa, rồi xin vào yết kiến Ngũ Viên. Ngũ Thượng cầm bức thư vào nhà trong cho Ngũ Viên xem và bảo rằng :

– May thay, phụ thân được khỏi tội, hai ta được phong hầu, em nên ra tiếp kiến sứ giả.

Ngũ Viên nói :

– Phụ thân được khỏi tội, cũng đã là may, ta có công gì mà được phong hầu, chẳng qua chỉ là triều đình lừa ta đó thôi. Ta về thì tất bị hại.

Ngũ Thượng nói :

– Hiện có thư của thân phục ta, khi nào lại là giả dối được.

Ngũ Viên nói :

– Phụ thân một lòng tận trung với nước, nay bị tội oan, biết là thế nào rồi sau chúng ta cũng báo thù, cho nên phụ thân muốn cho chúng ta hiến thân cho nước để khỏi lo về sau.

Ngũ Thượng nói :

– Em nói thế chẳng qua là phỏng đoán thôi, vạn nhất bức thư là chân tình thì cái tội bất hiếu của chúng ta để đâu cho hết !

Ngũ Viên nói :

– Để em xin bói một quẻ.

Ngũ Viên nói xong, liền đoán rằng :

– Cứ như quẻ bói này, thì vua dối bề tôi, cha dối con. Nếu về tất bị hại, chứ chẳng khi nào được phong hầu cả !

Ngũ Thượng nói :

– Không phải ta tham gì chuyện phong hầu, mà ta chỉ mong được trông thấy phụ thân mà thôi.

Ngũ Viên nói :

– Người nước Sở sợ có anh em ta ở ngoài, vậy nên chưa dám giết phụ thâh, nếu ta lầm mà về thì chỉ khiến cho phụ thân chóng chết mà thôi.

Ngũ Thượng nói :

– Cái tình cha con, nếu ta được trông thấy mặt thì ta chết cũng thoả lòng !

Ngũ Viên thở dài mà rằng :

– Về mà cũng chết, phỏng có ích gì ! Nếu anh muốn về thì từ đây em xin vĩnh biệt.

Ngũ Thượng khóc hỏi rằng :

– Em định đi đâu ?

Ngũ Viên nói :

– Ở đâu có thể báo thù được nước Sở, thì em đi.

Ngũ Thượng nói :

– Trí lực của anh thua em xa lắm. Vậy anh nên về Sở, còn em thì đi nước khác. Anh lấy sự theo cha làm hiếu, em lấy sự báo thù làm hiếu, mỗi người một chí. Từ đây trở đi, anh em ta không được trông thấy nhau nữa !

Ngũ Viên sụp lạy bốn lạy để từ biệt Ngũ Thượng. Ngũ Thượng gạt nước mắt, ra tiếp kiến Yên Tương Sư nói em là Ngũ Viên không muốn phong hầu, không thể cưỡng được. Yên Tương Sư đưa Ngũ Thượng về yết kiến Bình vương. Bình vương truyền bắt Ngũ Thượng giam lại. Ngũ Xa thấy một mình Ngũ Thượng về triều, liền thở dài mà nói rằng :

– Ta vẫn biết Ngũ Viên không chịu về.

Phí Vô Cực lại tâu với Bình vương rằng :

– Còn một Ngũ Viên, nên sai bắt ngay, nếu chậm thì hắn trốn mất !

Bình vương nghe lời, liền sai quan đại phu là Vũ Thành Hắc đem quân đi bắt Ngũ Viên. Ngũ Viên nghe tin quân Sở sắp đến bắt mình, khóc mà nói rằng :

– Nếu vậy thì cha tôi và anh tôi không khỏi chết được !

Liền bảo vợ là Gĩa thị rằng :

– Ta muốn trốn sang nước khác, mượn quân về để báo thù cho cha, anh, nên không thể trông nom đến nàng được, biết làm thế nào ?

Gĩa thị trừng mắt nhìn Ngũ Viên mà nói rằng :

– Đại trượng phu nghĩ đến cái thù của cha, anh, lòng đau như cắt , còn lòng nào mà tưởng đến người đàn bà ! Phu quân nên mau mau trốn đi, chớ nghĩ đến thiếp !

Gĩa thị nói xong, liền vào trong nhà thắt cổ mà chết. Ngũ Viên vật mình lăn khóc, đem thi thể Giã thị chôn tạm vào một nơi, rồi thu xếp khăn gói, mình mặc áo bào trắng, đeo kiếm cầm cung trốn đi. Ngũ Viên chưa đi được nửa ngày thì quân Sở đã kéo đến vây nhà, không tìm thấy Ngũ Viên, đoán chừng Ngũ Viên tất chạy về phía đông, mơí tức khắc đuổi theo. Ước độ ba trăm dặm, đến một chỗ đồng không mông quạnh, Ngũ Viên giương cung bắn chết người dong xe của Vũ Thành Hắc; lại nhắm Vũ Thành Hắc, toan bắn luôn một phát nữa. Vũ Thành Hắc sợ hãi xuống xe bỏ chạy. Ngũ Viên bảo Vũ Thành Hắc rằng :

– Ta định bắn chết nhà ngươi, nhưng hãy tha cho để nhà ngươi về báo cho vua Sở biết rằng : “Nước Sở muốn còn giữ được cúng tế thì chớ giết cha và anh ta, bằng không thì tất ta phải diệt nước Sở, mới hả được lòng căm tức của ta!”

Vũ Thành Hắc cúi đầu đi thẳng, về báo với Sở Bình vương. Sở Bình vương giận lắm, sai Phí Vô Cực giải cha con Ngũ Thượng ra chợ để chém. Khi sắp bị chém, Ngũ Thượng nhiếc mắng Phí Vô Cực là một đứa du nịnh, làm hại kẻ trung lương. Ngũ Xa ngăn Ngũ Thượng mà bảo rằng :

– Cần gì phải nói cho rởm, ai nịnh ai trung, sau này sẽ có công luận ! Ta chắc rằng Ngũ Viên còn sống thì vua tôi nước Sở cũng khó lòng ngồi yên được mà ăn !

Bình vương nói :

– Ngũ Viên dẫu trốn, nhưng đi tất chưa xa, ta nên sai người đuổi theo.

Bình vương bèn truyền cho quan tả tư mã là Thẩm Doãn Thu phải đem quân đi duổi bắt cho kỳ được. Ngũ Viên đi đến bờ sông Đại Giang, liền nghĩ ngay một kế : cởi cái áo bào trắng đang mặc treo lên cành liễu, lại đem đôi giầy bỏ ở bên bờ, rồi thay đôi giầy cỏ, cứ men bờ sông mà đi. Thẩm Doãn Thu đuổi theo đến bờ sông, bắt được giầy và áo của Ngũ Viên, đem về tâu với Bình vương rằng :

– Không biết Ngũ Viên đi phương nào mất !

Phí Vô Cực tâu rằng :

– Tôi có một kế làm cho Ngũ Viên không còn đường nào mà trốn.

Bình vương hỏi kế gì ? Phí Vô Cực nói :

– Một mặt chiên yết các nơi, bất cứ người nào, hễ bắt được Ngũ Viên thì thưởng năm vạn thạch thóc, và cho làm thượng đại phu; còn ai chứa chấp hoặc buông tha Ngũ Viên thì cả nhà đều bị chết chém; bao nhiêu những người qua lại ở bến sông hoặc cửa ải, đều phải khám xét thật kỹ. Lại sai sứ đi báo khắp các nước, không nước nào được dùng Ngũ Viên. Như thế thì Ngũ Viên sẽ không có đường trốn, dẫu chưa bị bắt mà cô thế cũng chẳng làm gì nổi !

Bình vương theo kế ấy, sai người vẽ hình tượng Ngũ Viên để cho đi tầm nã các nơi.

Ngũ Viên men bờ sông đi về phía đông, định trốn sang nước Ngô, nhưng ngặt vì đường sá xa xôi, chưa thể đi được; lại nghĩ muốn sang nước Tống để tìm thế tử Kiến, mới theo con đường Thu Dương mà đi. Đi đến nửa đường, bỗng trông thấy một toán xe ngựa tấp nập, Ngũ Viên ngờ là có quân Sở đón đường, phải đứng nấp ở trong bụi rậm; sau nhìn kỹ mới biết là người bạn cũ của mình tên gọi Thân Bao Tư, nhân đi sứ nước ngoài về qua đấy. Ngũ Viên chạy ra, đứng ở bên xe. Thân Bao Tư vội vàng xuống xe tiếp kiến và hỏi Ngũ Viên rằng :

– Nhà ngươi vì cớ gì mà lủi thủi một mình như vậy ?

Ngũ Viên đem việc Bình vương giết oan cha và anh mình nói cho Thân Bao Tư nghe, vừa nói vừa khóc. Thân Bao Tư nghe nói, cũng động lòng mà hỏi rằng :

– Bây giờ nhà ngươi định đi đâu ?

Ngũ Viên nói :

– Ta nghe nói kẻ thù của cha mẹ thì không cùng đội trời chung, nay ta định trốn sang nước khác, mượn quân về đánh Sở, ăn thịt vua Sở, xé thây Phí Vô Cực, cho hả tấm lòng căm tức của ta !

Thân Bao Tư can rằng :

– Vua Sở dẫu vô đạo, nhưng dù sao cũng là vua, nhà ngươi đã mấy đời ăn lộc vua, nỡ nào lại làm phản ?

Ngũ Viên nói :

– Ngày xưa Kiệt và Trụ bị kẻ bề tôi giết, cũng chỉ vì vô đạo, nay vua Sở dâm loạn, lấy tranh vợ của con, lại nghe lời du nịnh mà làm hại kẻ trung lương, ta mượn quân về Sinh Đô là để quét rửa những sự ô uế cho nước Sở đó; huống chi lại là báo thù cho cha và anh ta nữa. Ta thề rằng nếu ta không diệt Sở thì không còn đứng ở trên đời !

Thân Bao Tư nói :

– Nếu ta bảo nhà ngươi báo thù nước Sở thì ta là kẻ bất trung, mà bảo nhà ngươi đừng báo thù lại là đẩy nhà ngươi vào chỗ bất hiếu. Thôi tuỳ ý nhà ngươi, ta cũng vì tình bạn hữu mà không tiết lộ cho ai biết cả. Nhưng nhà ngươi định diệt Sở thì ta đây quyết cứu Sở, nhà ngươi định làm cho Sở nguy thì ta đây quyết giữ cho Sở yên !

Ngũ Viên từ biệt Thân Bao Tư rồi đi ngay. Đến nước Tống tìm thấy thế tử Kiến, hai người cùng ôm nhau mà khóc, rồi kể những tội ác của Sở Bình vương. Ngũ Viên nói :

– Thế tử đã vào yết kiến vua Tống chưa ?

Thế tử Kiến nói :

– Nước Tống đang có loạn, nên ta chưa vào yết kiến được.

Lại nói chuyện vua Tống tên là Tá, là con một người thiếp yêu của Tống Bình công. Tống Bình công nghe lời kẻ hoạn quan là Y Lệ, giết thế tử Toạ mà lập Tá. Tống Bình công mất, Tá lên nối ngôi, tức là Tống Nguyên công. Tống Nguyên công người xấu xí, mà tính nhu nhược, lại không có tín nghĩa, ghét họ thế khanh là họ Hoa cường thịnh, mới cùng với bọn công tử Dán, công tử Ngự Nhung, Hướng Thắng và Hướng Hành bàn mưu trừ bỏ họ Hoa. Hướng Thắng nói lộ cho Hướng Ninh (con Hướng Thư) biết. Hướng Ninh quen thân với Hoa Hướng, Hoa Định và Hoa Hợi, mới báo bọn ấy nổi loạn trước. Hoa Hợi giả cách cáo ốm. Các quan đều đến hỏi thăm. Hoa Hợi bắt công tử Dán và công tử Ngự Nhung đem giết đi, giam Hướng Thắng, Hướng Hành vào trong kho. Tống Nguyên công nghe tin, vội vàng lên xe thân hành đến nhà họ Hoa xin tha cho Hướng Thắng và Hướng Hành. Hoa Hợi lại bức hiếp Tống Nguyên công phải giao thế tử và một người thân thuộc để làm tin, mới chịu nghe lời.

Tống Nguyên công nói :

– Ngày xưa nhà Chu và nước Trịnh cùng trao đổi con tin với nhau, nay ta giao thế tử cho nhà ngươi thì nhà ngươi cũng phải giao con tin với ta.

Hoa Hợi thương nghị, rồi cho con mình là Hoa Vô Cảm cùng con Hoa Định là Hoa Khải, con Hướng Ninh là Hướng La sang ở làm con tin cho Tống Nguyên công. Tống Nguyên công cũng cho thế tử Loan và người em là công tử Địa sang ở làm con tin cho Hoa Hợi. Hoa Hợi mới tha cho Hướng Thắng và Hướng Hành theo Tống Nguyên công về triều. Tống Nguyên công và phu nhân nhớ thế tử Loan lắm, ngày nào cũng đến nhà Hoa Hợi để thăm thế tử Loan, ăn cơm xong mới về. Hoa Hợi lấy thế làm bất tiện, toan đưa thế tử Loan sang trả. Tống Nguyên công mừng lắm. Hướng Ninh không nghe, bảo Hoa Hợi rằng :

– Ta phải bắt thế tử sang làm tin vì chúa công không biết thủ tín, nếu ta trả thế tử thì tai vạ tất đến nơi!

Tống Nguyên công nghe tin Hoa Hợi không chịu trả thế tử Loan, tức thì nổi giận, sai quan tư mã là Hoa Phí Toại đem quân đánh Hoa Hợi. Hoa Phí Toại nói :

– Còn thế tử ở đấy, sao chúa công không nghĩ ?

Tống Nguyên công nói :

– Chết sống đã có mệnh, ta không thể nào chịu được những điều sĩ nhục này !

Hoa Phí Toại nói :

– Chúa công đã nhất quyết thì có đâu tôi dám trái ý.

Hoa Phí Toại liền sửa soạn quân mã để sắp sang đánh Hoa Hợi. Tống Nguyên công đem những con tin của Hoa Hợi là Hoa Vô Cảm, Hoa Khải và Hướng La chém tất cả. Con Hoa Phí Toại là Hoa Đăng quen thân với Hoa Hợi, liền chạy sang báo Hoa Hợi. Hoa Hợi vội vàng sắp quân để nghênh chiến, nhưng lại bị thua.

Hướng Ninh toan giết thế tử Loan. Hoa Hợi nói :

– Ta đã đắc tội với vua, nay lại còn giết thế tử thì ngươita tất nghị luận !

Liền đem con tin giao trả, rồi cùng với bè cánh trốn sang nước Trần. Hoa Phí Toại có

ba con : con trưởng là Hoa Khu, con thứ là Hoa Đa Liêu, còn Hoa Đăng tức là con thứ ba. Hoa Đa Liêu vốn đã bất hoà với Hoa Khu, nhân cái loạn họ Hoa, mới tâu với Tống Nguyên

công rằng :

– Hoa Khu đồng mưu với Hoa Hợi và Hoa Định, nay sai người sang nước Trần triệu Hoa Hợi là có ý muốn làm nội ứng.

Tống Nguyên công nghe lời, sai kẻ hoạn quan là Nghi Liêu đi bảo Hoa Phí Toại. Hoa Phí Toại nói :

– Việc này tất là tại Hoa Đa Liêu nói gièm, nhưng chúa công đã nghi Hoa Khu thì xin đuổi đi.

Kẻ gia thần của Hoa Khu là Trương Mang nghe được tin ấy, sang hỏi Nghi Liêu. Nghi Liêu không chịu nói. Trương Mang rút gươm mà bảo rằng :

– Nếu nhà ngươi không nói ta đâm chết.

Nghi Liêu sợ hãi, nói thực tất cả. Trương Mang về báo với Hoa Khu, xin giết Hoa Đa Liêu. Hoa Khu nói :

– Một mình Hoa Đăng phải đi trốn đã đau lòng thân phụ lắm rồi, nay anh em ta lại tàn hại lẫn nhau thì còn ra thế nào, âu là ta chịu nhường mà tránh đi.

Hoa Khu từ biệt với cha là Hoa Phí Toại. Trương Mang đi theo. Vừa gặp Hoa Phí Toại ở trong triều ra, Đa Liêu cầm cương, Trương Mang trông thấy, hầm hầm nổi giận, chém chết Hoa Đa Liêu và bức Hoa Phí Toại cùng chạy ra ở Nam Lý. Lại sai người đến nước Trần triệu bọn Hoa Hợi về để cùng mưu phản. Tống Nguyên công sai Nhạc Đại Tâm làm đại tướng đem quân vậy Nam Lý. Hoa Đăng lại sang mượn quân nước Sở. Sở Bình vương sai Viễn Việt đem quân sang giúp họ Hoa. Ngũ Viên nghe tin quân Sở sắp đến, liền cùng thế tử Kiến chạy sang nước Trịnh. Tấn Khoảnh công cũng đem quân chư hầu đến giúp Tống Nguyên công. Chư hầu không muốn giao chiến với Sở, liền khuyên Tống Nguyên công cũng rút quân vây Nam Lý về, để thả cho bọn Hoa Hợi chạy sang nước Sở, rồi hai bên cùng nhau bãi binh.

Bấy giờ quan thượng khanh nước Trịnh là công tôn Kiều mới mất, Trịnh Định công thương tiếc vô cùng, lại vốn biết Ngũ Viên là anh hùng, và nước Trịnh đang giao hiếu với Tấn mà cừu địch với Sở, cho nên khi nghe tin thế tử Kiến đến, thì lấy làm mừng lắm, sai người mời vào công quán, và tiếp đãi rất hậu. Thế tử Kiến và Ngũ Viên mỗi lần vào yết kiến Trịnh Định công lại kể lể những nỗi oan tình, vừa nói vừa khóc. Trịnh Định công nói :

– Nước Trịnh ta nhỏ quân ít, không làm gì được. Nhà ngươi muốn báo thù thì sao không bàn mưu với nước Tấn.

Thế tử Kiến để Ngũ Viên ở lại nước Trịnh rồi đi sang nước Tấn vào yết kiến Tấn Khoảnh công. Tấn Khoảnh công hỏi hết đầu đuôi cho ra ở quán xá, rồi họp sáu quan khanh là Nguỵ Thư, Hàn Bất Tin, Triệu Uông, Phạm Uông, Tuân Di, và Tuân Lịch, để thương nghị.

Bấy giờ sáu quan khanh cầm quyền chính, không ai chịu kém ai. Tấn Khoảnh công nhu nhược, việc gì cũng không dám chuyên quyết, mà trong bọn sáu quan khanh, chỉ có Nguỵ Thư và Hàn Bất Tín có tiếng là người giỏi, còn bốn người kia toàn là những phường tham quyền cậy thế, nhất là Tuân Di lại hay ăn lễ lắm. Khi công tôn Kiều còn cầm quyền chính nước Trịnh, thì các quan khanh đều phải sợ cả; đến khi Du Cát thay công tôn Kiều, Tuân Di nước Tấn mới đòi ăn lễ của Du Cát. Du Cát không theo, từ bấy giờ Tuân Di ghét nước Trịnh. Khi vào thương nghị, Tuân Di mật tâu với Tấn Khoảnh công rằng :

– Nước Trịnh xưa nay vẫn là bất thường, lúc thì theo Tấn, lúc thì theo Sở. Nay thế tử Kiến ở nước Trịnh, nước Trịnh tất tin lời. Nếu thế tử Kiến chịu làm nội ứng cho ta, để đem quân sang đánh Trịnh thì khi đánh được Trịnh, ta sẽ phong cho thế tử Kiến, rồi sau này tìm cách diệt Sở, chẳng cũng nên lắm ru !

Tấn Khoảnh công theo kế ấy, liền sai Tuân Di đến báo thế tử Kiến. Thế tử Kiến nhận lời, rồi từ biệt Tấn Khoảnh công trở về nước Trịnh, bàn mưu với Ngũ Viên. Ngũ Viên can rằng :

– Ngày xưa tướng nước Tấn là Kỳ Tử và Dương Tôn cũng bàn mưu đánh nước Trịnh, đã chẳng được thành sự, lại không có chỗ mà dung thân. Người ta đang lấy điều trung tín mà đãi mình, sao lại nỡ hại người ta ? Việc ấy tôi thiết tưởng không nên làm.

Thế tử Kiến nói :

– Ta đã nhận lời với vua tôi nước Tấn rồi !

Ngũ Viên nói :

– Ta không dám làm nội ứng cho Tấn, cũng chưa có tội gì, nếu lập mưu lẻn đánh nước Trịnh, thì tín nghĩa đều mất cả, còn ra thế nào ! Thế tử làm việc này, tôi chắc rằng tai vạ sắp đến.

Thế tử Kiến tham được nước Trịnh, không nghe lời can của Ngũ Viên, liền đem gia tài mộ riêng quân vũ dũng , lại giao kết với các người hầu gần Trịnh Định công để dùng làm vây cánh. Tấn Khoảnh công mật sai người sang hẹn ngày với thế tử Kiến, nhưng chẳng ngờ việc tiết lộ ra, có người vào đầu thú với Trịnh Định công. Trịnh Định công cùng Du Cát thương nghị, triệu thế tử Kiến vào uống rượu ở trong vườn, nhưng cấm người hầu theo vào. Khi uống được mấy chén Trịnh Định công hỏi thế tử Kiến rằng :

– Ta đây đem lòng tử tế mà dung nạp thế tử, sao thế tử lại lập tâm định hại ta ?

Thế tử Kiến nói :

– Tôi có như thế bao giờ ?

Trịnh Định công gọi người đến đối chứng. Thế tử Kiến không thể chối được nữa. Trịnh Định công truyền cho lực sĩ bắt thế tử Kiến mà đem giết đi, lại giết cả những người ăn tiền của thế tử Kiến mà không đầu thú, cả thảy hơn hai chục người. Ngũ Viên đang ở quán xá, tự nhiên thấy rùng mình, mới nghĩ thầm rằng :

– Không khéo thì thế tử nguy mất !

Được ít lâu, người theo hầu thế tử Kiến trốn về quán xá nói việc thế tử Kiến bị giết. Ngũ Viên tức khắc cùng con thế tử Kiến là công tử Thắng thẳng đường sang nước Ngô, nhưng sợ có quân Trịnh đuổi theo, vẫn phải ngày núp đêm đi, trăm cay nghìn đắng, không kể hết được !

Đi qua nước Trần, biết không phải là chỗ dung thân được, lại đi về phía đông trong mấy ngày nữa, sắp đến cửa Chiêu Quan. Chỗ này hai bên núi cả, ra khỏi cửa quan thì có một con sông thông sang nước Ngô được. Mới rồi, nhân việc Ngũ Viên đi trốn, Sở Bình vương sai quan tư mã là Viễn Việt đóng quân ở đấy. Ngũ Viên đi đến Lịch Dương sơn, chỉ cách Chiêu Quan độ sáu mươi dặm, ngần ngừ không dám đi vội, còn ẩn núp trong rừng rậm. Bỗng gặp một ông lão chống gậy đi tắt vào trong rừng. Ông lão ấy trông thấy Ngũ Viên có vẻ lấy làm lạ, mới đến trước mặt mà vái chào. Ngũ Viên cũng chào lại.

Ông lão nói :

– Nhà ngươi có phải là Ngũ Viên đó không ?

Ngũ Viên giật mình đáp rằng :

– Sao ngài lại hỏi câu ấy ?

Ông già nói :

– Lão đây là học trò ông Biển Thước, tên gọi Đông Cao công. Thuở còn trẻ lấy nghề làm thuốc để đi choi khắp các nước, nay đã tuổi tác, về nghỉ ở đây. Mấy năm trước, Viễn tướng quân (trỏ Viễn Việt) có bệnh, mời lão đến thăm; lão trông thấy trên cửa quan có treo bức tranh vẽ Ngũ Viên, giống nhà ngươi lắm, vậy nên lão hỏi. Nhà ngươi bất tất phải giấu, lão ở sau núi này, nhà ngươi quá bộ lại chơi, lão sẽ nói chuyện.

Ngũ Viên biết không phải là người thường, mới cùng công tử Thắng đi theo Đông Cao công. Đi được vài dặm, có một cái nhà gianh. Đông Cao công vái Ngũ Viên mời vào. Vào đến trong nhà, Ngũ Viên sụp lạy hai lạy. Đông Cao công vội vàng đáp lễ mà bảo rằng :

– Chỗ này không phải chỗ nhà ngươi ở được !

Nói đoạn lại đưa Ngũ Viên và công tử Thắng đi về phía tây, vào cái cửa nhỏ rồi sang qua vườn trúc. Sau vườn có ba gian nhà đất, cửa bé bằng lỗ chui, cùng nhau cúi đầu mà vào. Trong nhà có bày bàn ghế, hai bên khoét hai cửa sổ con cho sáng. Đông Cao công nhường cho Ngũ Viên ngồi trên. Ngũ Viên trỏ vào công tử Thắng mà bảo :

– Có tiểu chủ tôi ở đâu, tôi xin đứng bên.

Đông Cao công hỏi là ai. Ngũ Viên nói :

– Đây tức là con thế tử Kiến nước Sở tên gọi công tử Thắng; còn tôi chính thực là Ngũ Viên, thấy ngài là bực trưởng giả, vậy không dám giấu, vua Sở giết cha và anh tôi, làm thế nào tôi cũng phải báo thù, xin ngài chớ tiết lộ.

Đông Cao công mơi mời công tử Thắng ngồi trên, còn mình và Ngũ Viên mỗi người ngồi một bên. Ngồi xong, Đông Cao công bảo Ngũ Viên rằng :

– Lão đây chỉ biết cứu người, khi nào lại có lòng hại người. Dẫu nhà ngươi ở đây một năm, hai năm cũng không ai biết, nhưng cửa Chiêu Quan canh phòng nghiêm ngặt lắm, nhà ngươi làm thế nào mà đi qua được, tất phải nghĩ một kế gì cho được vẹn toàn ?

Ngũ Viên quỳ xuống mà hỏi rằng :

– Ngài có kế gì cứu thoát tôi được thì sau này tôi xin hậu tạ.

Đông Cao công nói :

– Chỗ này hẻo lánh, không có ai biêt, nhà ngươi cứ ở đây, rồi lão sẽ nghĩ một kế đưa nhà ngươi và công tử đi qua cửa quan được.

Ngũ Viên lạy tạ. Đông Cao công ngày nào cũng làm rượu thết đãi. Đã được bảy ngày mà Đông Cao công không nói gì đến kế đưa qua cửa quan cả. Ngũ Viên nói với Đông Cao công rằng :

– Trong lòng tôi đang nghĩ việc báo thù, coi một khắc như một nam, nếu nấn ná mãi ở đây thì khác nào như kẻ chết rồi. Ngài đã là người cao nghĩa thì cũng nên thương tình đôi chút.

Đông Cao công nói :

– Lão nghĩ đã kỹ lắm, nhưng còn đợi người nữa đến đây!

Ngũ Viên hồ nghi không quyết. Đêm ấy nằm không ngủ được, muốn từ giã Đông Cao công để đi thì sợ không qua được cửa quan, thêm mắc tai vạ, muốn cố ở để đợi thì lại sợ kéo dài ngày tháng, mà cũng chưa biết là Đông Cao công đợi ai. Nghĩ quanh nghĩ quẩn, băn khoăn đau đớn, như có người cầm dao đâm vào ruột, đang nằm bỗng đứng dậy chạy xung quanh nhà, trời đã tảng rạng mà không biết. Đông Cao công đẩy cửa bước vào, trông thấy Ngũ Viên, kinh hãi mà hỏi rằng :

– Râu tóc nhà ngươi cớ sao mà khác hẳn đi như vậy! Hay là vì nghĩ quá mà hoá ra như thế?

Ngũ Viên không tin, cầm lấy gương soi thì ra râu tóc đã trắng xoá cả. Ngũ Viên mới ném cái gương xuống đất, rồi nức nở mà khóc rằng :

– Hai mái tóc đã bạc cả mà chẳng làm nên được một việc gì ! Trời ơi là trời !

Đông Cao công nói :

– Túc hạ chớ lấy làm buồn, đó là một điều tốt !

Ngũ Viên lau nước mắt, mà hỏi rằng :

– Sao lại gọi là điều tốt ?

Đông Cao công nói :

– Túc hạ tướng mạo khôi ngô, người ta dễ nhận lắm, nay râu tóc trắng xoá, trông lạ hẳn đi, có thể che được mắt thiên hạ. Và người bạn già của lão cũng đã tới nơi thì kế lão may ra thành được.

Ngũ Viên hỏi :

– Ngài định làm thế nào ?

Đông Cao công nói :

– Người bạn của lão tên gọi Hoàng Phủ Nột, ở Long Động sơn, cách đây bảy mươi dặm. Người ấy mình cao chín trượng, trông dáng hơi giống nhà ngươi. Nay bảo hắn giả hình nhà ngươi mà nhà ngươi thì giả hình làm đứa theo hầu. Khi hắn bị bắt, chúng đang lao nhao rối rít thì nhà ngươi lẻn qua cửa quan mà đi.

Ngũ Viên nói :

– Cái kế của ngài dẫu khéo, nhưng để luỵ đến bạn của ngài thì tôi không đành lòng !

Đông Cao công nói :

– Không hại gì cả, lão sẽ có cách giải cứu. Lão đã bàn kỹ với Hoàng Phủ Nột rồi. Ông ta là người khẳng khái, nhận lời ngay, bất tất phải lo ngại.

Nói xong, sai người mời Hoàng Phủ Nột vào để chào Ngũ Viên. Ngũ Viên trông thấy quả nhiên giống mình thật, trong lòng mừng lắm. Đông Cao công lại dùng một thứ thuốc để Ngũ Viên bôi mặt, làm cho khác hẳn đi. Khi trời đã nhá nhem tối, Đông Cao công bảo Ngũ Viên cởi áo trắng đưa cho Hoàng Phủ Nột mặc, còn Ngũ Viên thì mặc áo cánh trắng, giả làm người theo hầu. Công tử Thắng cũng ăn mặc như đứa trẻ con nhà quê.

Ngũ Viên và công tử Thắng sụp lạy Đông Cao công bốn lạy và nói rằng :

– Sau này nên việc được thì quyết xin hậu tạ.

Đông Cao công nói :

– Lão thương nhà ngươi bị oan, vậy nên muốn giúp, chứ có mong tạ làm gì !

Đêm hôm ấy, Ngũ Viên cùng với công tử Thắng theo Hoàng Phủ Nột đi sang cửa Chiêu Quan. Mờ mờ sáng hôm sau thì vừa đi đến nơi. Tướng nước Sở là Viễn Việt truyền cho quân sĩ canh phòng nghiêm mật. Phàm những người đi qua phải tra xét kỹ lưỡng. Trên cửa quan có treo một bức tranh Ngũ Viên để đối chứng. Khi Hoàng Phủ Nột đến cửa quan, quân sĩ trông thấy hình dáng giống người trong tranh lắm, mình mặc áo trắng, mà lại có vẻ sợ hãi, liền bắt giữ lại rồi phi báo với Viễn Việt. Viễn Việt cưỡi ngựa ra xem, nhác trông đã bảo “Chính phải rồi!”, bèn truyền cho quân sĩ bắt lấy đem về. Hoàng Phủ Nột giả cách không biết chuyện gì, chỉ van lạy xin tha.

Bấy giờ quân sĩ và nhân dân ở xung quanh đấy nghe tin bắt được Ngũ Viên, đều nô nức kéo nhau đến xem. Ngũ Viên nhân lúc cửa quan mở rộng, cùng công tử Thắng đi lẫn vào trong đám đông người, ăn mặc đã khác thường, râu tóc lại trắng xoá, vả lại ai cũng tưởng Ngũ Viên đã bị bắt rồi, nên không tra xét gì nữa, thành ra Ngũ Viên và công tử Thắng đi thoát qua được. Viễn Việt đem Hoàng Phủ Nột ra tra hỏi, bắt làm tờ cung, để định giải về Sính Đô. Hoàng Phủ Nột cãi rằng :

– Tôi là ẩn sĩ ở Long Động sơn, tên gọi Hoàng Phủ Nột có hẹn với một người bạn là Đông Cao công cùng đi chơi, không dám làm điều gì trái phép cả, sao lại bắt trói thế này ?

Viễn Việt nghe tiếng Hoàng Phủ Nột nói, nghĩ thầm rằng :

– Ngũ Viên mắt sáng như điện, tiếng vang như chuông, người này hình dáng dẫu giống, nhưng tiếng nói hơi nhỏ, hay vì cớ dãy gió dầm sương xui thành ra thế chăng ?

Viễn Việt còn đang nghi hoặc thì nghe báo có Đông Cao công vào yết kiến. Viễn Việt truyền đem Hoàng Phủ Nột giải đi một nơi, rồi mời Đông Cao công vào. Đông Cao công nói với Viễn Việt rằng :

– Chúng tôi nhân đi chơi qua đây, nghe tin tướng quân đã bắt được kẻ vong thân (viên quan đi trốn) là Ngũ Viên, vậy tôi xin có lời mừng.

Viễn Việt nói :

– Quân sĩ có bắt được một người mặt giống Ngũ Viên, nhưng hắn vẫn chưa chịu thú nhận.

Đông Cao công nói :

-Quan tướng quân cùng cha con Ngũ Viên cùng làm quan một triều, có lẽ nào lại không nhận được rõ mặt ?

Viễn Việt nói :

– Ngũ Viên mắt sáng như điện, tiếng vang như chuông, người này mắt nhỏ mà tiếng bé. Ta ngờ là vì cớ khổ sở lâu ngày mà thành ra thế.

Đông Cao công nói :

– Tôi cũng có biết mặt Ngũ Viên, xin cho tôi xem qua, sẽ rõ hư thực.

Viễn Việt truyền giải Hoàng Phủ Nột đến. Hoàng Phủ Nột trông thấy Đông Cao công, vội vàng gọi mà bảo rằng :

– Ông hẹn tôi cùng đi chơi, sao không đến mau, để tôi phải chịu nhục thế này!

Đông Cao công nói với Viễn Việt rằng :

-Tướng quân lầm rồi ! Đây là người bạn tôi, tên gọi Hoàng Phủ Nột, có hẹn tôi cùng đi chơi ở đây, chẳng ngờ hắn lại đi trước. Nếu tướng quân không tin thì tôi đã có tờ quá quan văn điệp (giấy phép đi qua cửa quan) này, sao tướng quân lại vu cho là vong thân được ?

Đông Cao công liền thò tay vào trong ống áo lấy tờ quá quan văn điệp ra đệ trình Viễn Việt. Viễn Việt có ý thẹn, đứng dậy cởi trói cho Hoàng Phủ Nột và rót một chén rượu mời uống mà bảo rằng :

– Việc này là bởi quân sĩ bắt lầm, xin ông chớ lấy làm lạ !

Đông Cao công nói :

– Quan tướng quân giữ phép triều đình, như thế là phải, có việc gì mà lạ !

Viễn Việt lại đem vàng lụa đưa tặng Đông Cao công và Hoàng Phủ Nột. Hai người tạ ơn lui ra. Viễn Việt lại truyền lệnh cho quân sĩ phải canh giữ nghiêm ngặt như trước. Ngũ Viên qua được cửa Chiêu Quan, trong lòng mừng thầm, thẳng đường đi mau. Đi được mấy dặm, bỗng gặp một người Ngũ Viên nhìn xem ai thì tức là Tả Thành, hiện đang làm lính canh cửa Chiêu Quan. Nguyên hắn là người ở đất Thành Phủ, khi trước có theo hầu cha con Ngũ Viên đi săn bắn, cho nên nhận được rõ mặt Ngũ Viên lắm. Tả Thành trông thấy Ngũ Viên thì kinh sợ mà hỏi rằng :

– Triều đình đang tầm nã ngài gấp lắm, sao ngài lại qua được cửa quan ?

Ngũ Viên nói :

– Đại vương biết ta có một viên dạ minh châu, bắt ta phải đem nộp, nay viên hạt châu ấy về tay người khác, ta còn phải đi tìm. Mới rồi, ta đã bẩm mệnh quan Viễn tướng quân (trỏ Viễn Việt), ngài cho ta đi.

Tả Thành không tin mà nói rằng :

– Đại vương có truyền lệnh : ai tha ngài thì cả nhà bị chém. Vậy xin ngài hãy cùng tôi trở về cửa quan, để tôi hỏi lại chủ tướng, rồi sau sẽ đi.

Ngũ Viên nói :

– Nếu bắt ta trở lại để hỏi chủ tướng thì ta nói là viên hạt châu ấy đã giao cho nhà ngươi; nhà ngươi khó lòng mà gỡ tội được. Chi bằng nhà ngươi làm ơn tha cho ta đi, lại thành ra tử tế.

Tả Thành vốn biết Ngũ Viên là bậc anh hùng, không thể đương nổi, mới tha cho đi. Khi về đến cửa quan, cũng giấu kín chuyện ấy, không dám nói đến. Ngũ Viên đi mau một quãng nữa, trông thấy sông Đại Giang, mặt nước mênh mông, làn sóng cuồn cuộn, lại không có thuyền bè gì cả. Ngũ Viên thấy mặt trước thì bị sông chắn, mặt sau thì bị quân theo, trong lòng đang bồn chồn hoảng hốt, bỗng thấy có một ông lão đánh cá ngồi chiếc thuyền nhỏ, bơi ngược dòng nước đi lên. Ngũ Viên mừng mà nói rằng :

– Trời chưa nỡ hại ta !

Nói xong, liền gọi ông lão đánh cá mà bảo rằng :

– Ông đánh cá ôi, cho tôi sang với ! Ông đánh cá ôi, mau mau cho tôi sang với !

Ông lão đánh cá toan ghé thuyền để đón, nhưng trông thấy trên bờ có người đi, mới lên tiếng mà hát rằng :

– Kia kìa bóng dâu

Đã xế ngang đầu….

Đôi ta hẹn nhau

Trong bụi hoa lau…

Ngũ Viên nghe câu hát hiểu ý, liền men bờ sông đi thẳng xuống bãi, núp vào trong bụi hoa lau. Một lúc lâu, ông lão đánh cá ghé thuyền vào bờ, không thấy Ngũ Viên đâu cả, lại lên tiếng hát rằng :

– Mặt trời đã xế

Lòng ta thương lo….!

Mặt trăng đã mọc

Sao không sang đò…. ?

Ngũ Viên và công tử Thắng ở trong bụi hoa lau chui ra. Ông lão đánh cá vội vàng gọi xuống thuyền. Khi hai người đã xuống thuyền thì ông lão đánh cá cầm mái chèo từ từ bơi đi. Một lúc sang tới bờ bên kia, ông lão đánh cá bảo Ngũ Viên rằng :

– Đêm qua nằm mộng thấy tướng tinh rơi vào trong thuyền. Lão biết là có người lạ qua đây, vậy nên lão đón, tình cờ lài gặp nhà ngươi. Nhà ngươi quyết không phải là người thường , nên nói thực cho lão biết.

Ngũ Viên liền nói thực họ tên cho nghe. Ông lão đánh cá ái ngại mà bảo rằng :

– Lão trông nét mặt nhà ngươi có ý đói, để lão đi lấy cơm cho ăn. Nhà ngươi hãy đợi đây một chút.

Ông lão đánh cá liền buộc thuyền ở dưới gốc cây, để đi vào trong xóm lấy cơm cho Ngũ Viên và công tử Thắng ăn. Ông lão đánh cá đi mãi không thấy trở lại. Ngũ Viên bảo công tử Thắng rằng :

– Lòng người khó dò lắm, chắc đâu là hắn không gọi người để bắt ta.

Hai người lại cùng nhau núp vào trong bụi hoa lau. Một lúc lâu, ông lão đánh cá đem cơm canh, cá thịt đến dưới gốc cây, không trông thấy Ngũ Viên đâu cả mới gọi to lên rằng :

– Người trong bụi lau ơi! Người trong bụi lau ơi! Lão có định hại nhà ngươi để cầu lợi đâu!

Ngũ Viên ở trong bụi lau thưa mà đi ra.

Ông lão đánh cá nói :

– Lão biết nhà ngươi đói, đi lấy cơm cho ăn, sao nhà ngươi lại trốn ?

Ngũ Viên nói :

– Tính mệnh tôi bây giờ ở trong tay cụ. Tôi đang lúc lo nghĩ, trong lòng bàng hoàng, chứ cũng không phải là bỏ trốn.

Ông lão dọn cơm, Ngũ Viên và công tử Thắng ăn no. Lúc sắp đi, Ngũ Viên cởi thanh kiếm đưa cho ông lão đánh cá mà bảo rằng :

– Thanh kiếm này là của tiên vương ban cho. Ông cha tôi đeo thanh kiếm này đã ba đời rồi. Gía đáng trăm nén vàng, xin để đền ơn cụ.

Ông lão đánh cá cười mà bảo rằng :

– Lão nghe nói vua Sở có treo giải : “Ai bắt được Ngũ Biên cho thóc năm vạn thạch và tước thượng đại phu. Như thế lão còn chẳng tham, lẽ nào lại tham thanh kiếm trăm nén vàng làm gì! Vả thanh kiếm này cần dùng cho nhà ngươi, chứ lão có dùng chi đến!

Ngũ Viên nói :

– Cụ đã không nhận thanh kiếm, xin cụ cho biết tên họ để sau này hậu tạ.

Ông lão đánh cá nổi giận nói rằng :

– Lão thấy nhà ngươi bị oan, vậy nên thương mà giúp nhà ngươi, nhà ngươi lại đem câu hậu tạ mà nhử lão, thế thì sao gọi là trượng phu được !

Ngũ Viên nói :

– Cụ dẫu không mong báo, nhưng lòng tôi sao đành !

Ngũ Viên lại cố nài ông lão đánh cá nói họ tên.

Ông lão đánh cá bảo rằng :

– Ngày nay gặp nhau đây, nhà ngươi là kẻ mang tội đi trốn, lão là người tha kẻ có tội, còn hỏi họ tên làm gì! Huống chi lão kiếm ăn ở trên mặt nước, bèo trôi sóng dạt, dẫu hỏi họ tên, cũng không mấy khi đã gặp. Vạn nhất lòng trời xui khiến, lại được gặp nhau thì lão gọi nhà ngươi là “người trong bụi lau”, nhà ngươi gọi lão là “ông lão đánh cá”, thế cũng là đủ!

Ngũ Viên lạy tạ rồi đi. Được mấy bước, lại quay trở lại bảo ông lão rằng :

– Nếu mặt sau có quân đuổi theo thì xin cụ đừng tiết lộ gì hết.

Chương 73: Ngũ Viên giả dại hát giữa chợ – Chuyên Chư dâng cá giết Vương Liêu

Ông lão đánh cá đã chở thuyền cho Ngũ Viên qua sông, lại dọn cơm cho Ngũ Viên ăn, mà không chịu nhận thanh kiếm. Ngũ Viên đã đi rồi nhưng lại sợ có quân đuổi theo, lại quay trở lại, dặn ông lão đánh cá chớ tiết lộ cho ai biết. Ông lão đánh cá thở dài mà nói rằng :

– Lão làm ơn cho nhà ngươi mà nhà ngươi lại nghi lão. Nếu bây giờ có quân đuổi theo, thì dẫu ai chở quân sang sông, lão cũng bị nghi mà không thể nào giải tỏ được. Thôi thì lão liều chết để cho nhà ngươi khỏi nghi !

Ông lão bèn cởi dây buộc thuyền ra, quẳng mái chèo đi, rồi lật thuyền tự đắm mình chết đuối ở giữa dòng sông. Ngũ Viên thở dài mà nói rằng :

– Tôi gặp ông mà được sống, ông vì tôi mà phải chết, thật đáng đau lòng !

Ngũ Viên và công tử Thắng đi đến đất Phiên Dương, đói quá phải xin ăn, gặp một người đàn bà, đang ngồi giặt ở bến sông Lại Thuỷ, có đem theo một đô cơm. Ngũ Viên dừng chân đứng lại hỏi người ấy rằng :

– Bà làm ơn cho tôi xin một bữa cơm có được không ?

Người đàn bà cúi đầu đáp lại rằng :

– Thiếp một mình ở nhà với mẹ, đã ba mươi năm nay chưa lấy chồng, có đâu lại dám đem cơm cho một người khách lạ !

Ngũ Viên nói :

– Tôi gặp bước cùng khốn này, phải xin một bữa, bà rủ lòng thương mà cho, còn ngại nỗi gì !

Người đàn bà ngẩng đầu trông thấy Ngũ Viên mặt mũi khôi ngô, liền bảo Ngũ Viên rằng :

– Thiếp trông mặt nhà ngươi không phải người thường, chẳng lẻ lại vì một điều nhỏ mọn mà để cho nhà ngươi phải đói khát hay sao ?

Liền mở giỏ cơm ra đưa cho Ngũ Viên, Ngũ Viên và công tử Thắng chỉ ăn một ít mà thôi. Người đàn bà ấy nói :

– Các ngươi còn phải đi xa, sao không ăn cho no ?

Hai người lại ngồi ăn hết cả. Lúc sắp đi Ngũ Viên bảo người đàn bà rằng :

– Bà đã rủ lòng thương mà cho ăn, chúng tôi không bao giờ dám quên ơn, xin nói thật, chúng tôi là những người đi trốn, nếu gặp người khác hỏi, xin bà chớ tiết lộ.

Người đàn bà có ý buồn mà than rằng :

– Mẹ goá con côi, ba mươi năm nay thiếp vẫn một lòng trinh tiết, nào ngờ vì một giỏ cơm mà thành ra nói chuyện với đàn ông, còn gì là trinh tiết nữa ! Thôi, các người cứ đi!

– Ngũ Viên từ biệt rồi đi. Được mấy bước, ngoảnh đầu trông lại, thấy người đàn bà ấy đã ôm một viên đá lớn, nhảy xuống sông tự tử. Ngũ Viên thương xót vô cùng, mới cắn đầu ngón tay, lấy máu viết hai mươi chữ lên trên một viên đá rằng :

“Nàng ngồi giặt Ta đi xin Ta bụng đói Nàng chết đuối Sau mười năm nữa Báo ơn nghìn vàng ….” Ngũ Viên viết xong, lại sợ người khác trông thấy, bèn lấy đất lấp kín lại. Ngũ Viên đi được hơn ba trăm dặm thì đến đất Ngô Xu, thấy một tráng sĩ trán dô, mắt sâu, dáng dữ như hổ, tiếng to như sấm, đang đánh nhau với một tráng sĩ khác, ai can cũng không được. Bỗng có một bà lão ở trong nhà bước ra, gọi mà bảo rằng :

– Chuyên Chư ! Không nên thế !

Tráng sĩ có ý sợ hãi, ngừng tay trở vào trong nhà. Ngũ Viên lấy làm lạ, hỏi người đứng bên rằng :

– Tráng sĩ như thế kia, mà sao lại sợ một người đàn bà ?

Người đứng bên nói :

– Người ấy sức khoẻ địch nổi muôn người, xưa nay không hề sợ ai cả; lại vốn là một người có nghĩa khí, thấy ai có sự bất bình, thường liều chết để cứu giúp. Bà lão đứng gọi trong cửa mới rồi, tức là mẹ người ấy đó. Chuyên Chư, tức là họ tên người ấy đó! Người ấy có hiếu với mẹ lắm, dẫu đang giận đến đâu mà nghe mẹ bảo, cũng phải thôi ngay.

Ngũ Viên khen rằng :

– Thế mới thật là người giỏi!

Hôm sau, Ngũ Viên tìm vào yết kiến Chuyên Chư, Chuyên Chư ra nghênh tiếp, hỏi lai lịch của Ngũ Viên. Ngũ Viên nói thật họ tên, và kể hết những nông nổi mình bị Oan. Chuyên Chư nói :

– Ngài bị cái oan to như thế, sao không tìm vào yết kiến vua Ngô để mượn quân báo thù ?

Ngũ Viên nói :

– Vì chưa có người tiến dẫn.

Chuyên Chư nói :

– Hôm nay ngài hạ cố tới đây, định bảo tôi điều gì chăng?

Ngũ Viên nói :

– Tôi mến hiếu đức của ngài, muốn cùng ngài kết giao.

– Chuyên Chư mừng lắm, liền vào nói với mẹ, rồi cùng Ngũ Viên kết làm anh em. Ngũ Viên hơn Chuyên Chư hai tuổi, Chuyên Chư gọi bằng anh. Ngũ Viên vào bái yết bà mẹ Chuyên Chư. Chuyên Chư cũng đưa vợ con ra chào Ngũ Viên, rồi giết gà làm cơm ăn, vui vẻ như anh em ruột. Chuyên chư lại mời Ngũ Viên và công tử Thắng ngủ đấy một đêm.

Ngày hôm sau, Ngũ Viên bảo Chuyên Chư rằng :

– Anh xin từ giã em vào kinh thành để tìm cơ hội phục sự Ngô vương.

Chuyên Chư nói :

– Vua Ngô là người vũ dũng mà kiêu ngạo, không bằng công tử Quang biết tôn kính kẻ hiền sĩ, sau này có cơ thành sự được.

Ngũ Viên nói :

– Em đã chỉ bảo, anh xin nhớ lời. Sau này có lúc dùng đến em, xin em chớ từ chối.

Chuyên Chư nhận lời, Ngũ Viên và công tử Thắng từ giã rồi đi. Đến đất Mai Lý, thì thầy thành quách nhỏ hẹp, chợ búa lụp sụp, kẻ đi người lại, chẳng ai quen thuộc với mình. Ngũ Viên mới giấu công tử Thắng ở ngoại thành, rồi bôi mặt, xoa? tóc giả cách điên cuồng, tay cầm ống tiêu, đến giữa chợ ngồi thổi, để xin ăn những khách qua đường. Ngũ Viên cầm ống tiêu thổi một bài như sau này :

“ Ngũ Tử Tư! Ngũ Tử Tư !

Tấm thân lưu lạc đến bao giờ!… Trăm cay nghìn đắng, chứ thương thì thương….

Chưa báo thù được cho cha, dẫu sống cũng dư!

Ngũ Tử Tư! Ngũ Tử Tư!

Một đêm lo nghĩ đầu bạc phơ!… Kinh hồn mất vía, chứ thương thì thương… Chưa báo thù được cho anh, dẫu sống cũng dư!

Ngũ Tử Tư! Hoa lau bụi nọ, bến sông kia!… Liều chết cố sống, chứ thương thì thương … Chưa báo thù được cho thân, dẫu sống cũng dư!…” Người trong chợ không ai hiểu gì cả.

Lại nói chuyện công tử Quang nước Ngô là con vua Ngô trước, tên gọi Chư Phàn. Khi Chư Phàn chết, đáng lẽ công tử Quang được lên nối ngôi, nhưng Chư Phàn vâng lời cha dặn, muốn truyền ngôi cho các em để theo thứ tự cho đến Qúi Trát, bởi vậy Dư Sái và Dư Muội (em Chư Phàn) được theo thứ tự lên làm vua. Đến khi Dư Muội chết, Qúi Trát không chịu nối ngôi, đáng lẽ lại lập con Chư Phàn mới phải, nhưng Vương Liêu (con Dư Muội) có lòng tham, tự lập lên làm vua. Công tử Quang không phục, muốn giết Vương Liêu, ngặt vì bọn triều thần đều bè cánh với Vương Liêu cả, không biết bàn mưu với ai. Công tử Quang vẫn ẩn nhẫn, tìm một người có tài xem tướng, tên gọi Bị Ly, cử làm chức giữ chợ, dặn phải chú ý tìm kẻ hào hiệp.

Một hôm, Ngũ Viên thổi ống tiêu đi qua chợ, Bị Ly thấy tiếng sầu thảm, mới lắng tai nghe, rồi chạy ra xem, thì kinh hãi mà nói rằng :

– Tôi xem tướng đã nhiều, chưa có ai lạ như thế!

Bị Ly liền vái chào Ngũ Viên, mời ngồi lên trên, Ngũ Viên khiêm nhượng không dám ngồi. Bị Ly nói :

-Tôi nghe tin nước Sỏo giết một người trung thần là Ngũ Xa, con là Ngũ Tử Tư trốn đi nước ngoài, chẳng hay ngài có phải là Ngũ Tử Tư chăng ?

Ngũ Viên chưa kịp trả lời. Bị Ly lại nói :

– Tôi không phải muốn làm hại ngài, chỉ vì tôi thấy ngài tướng mạo kỳ dị, tôi muốn giúp ngài được nên phú quý.

Ngũ Viên mới nói thực tất cả. Người hầu Bị Ly, nghe được chuyện ấy, vào báo với Vương Liêu. Vương Liêu gọi Bị Ly đến, bắt phải đưa Ngũ Viên vào yết kiến. Bị Ly một mặt sai người báo riêng cho công tử Quang biết; còn một mặt bảo Ngũ Viên tắm gội thay áo để vào yết kiến Vương Liêu. Vương Liêu trông thấy mặt, có ý lấy làm lạ, mới cùng Ngũ Viên nói chuyện, biết Ngũ Viên là người giỏi, cho làm quan đại phu. Ngày hôm sau, Ngũ Viên vào lạy tạ, nói đến những sự cha và anh mình bị Oan, nghiến răng nghiến lợi, hai mắt quắc lên như nẩy lửa. Vương Liêu khen là người khí khái, mới rủ lòng thương nhận giúp quân cho để báo thù. Công tử Quang vốn biết tiếng Ngũ Viên là người trí dũng, có ý muốn dùng, nghe nói Ngũ Viên vào yết kiến Vương Liêu, sợ Vương Liêu dùng mất liền vào nói với Vương Liêu rằng :

– Tôi nghe nói kẻ vong thân nước Sở là Ngũ Viên chạy sang nước ta, đại vương cho là người thế nào ?

Vương Liêu nói :

– Ngũ Viên là người giỏi mà có hiếu.

Công tử Quang nói :

– Đại vương thấy thế nào mà biết là người giỏi và có hiếu?

Vương Liêu nói :

– Ngũ Viên vũ dũng khác thường, cùng với ta bàn việc nước, đều hợp lẽ cả, thế tức là giỏi. Ngũ Viên nghĩ đến tình oan của cha và anh mà không lúc nào dám quên, có nói với ta xin mượn quân để báo thù, thế tức là hiếu.

– Công tử Quang nói :

– Đại vương có nhận lời cho mượn quân hay không ?

Vương Liêu nói :

– Ta thương tình hắn, đã nhận lời cho mượn rồi !

Công tử Quang can rằng :

– Xưa nay ông vua một nước lớn, không vì kẻ thất phu mà cất quân bao giờ! Nước ta đã nhiều phen giao chiến với Sở mà chưa được lần nào đại thắng; nếu giúp quân cho Ngũ Viên, mà được thì kẻ kia hả dạ, nếu ta thua thì quân ta thêm nhục, chẳng hoá ra coi một kẻ thất phu trọng hơn điều quốc sĩ hay sao? Điều ấy quyết không nên!

Vương Liêu lấy làm phải, liền bãi cái nghị đánh Sở. Ngũ Viên nghe tin công tử Quang can Vương Liêu như vậy, mới phàn nàn rằng :

– Công tử Quang đang có mưu đồ ở bên trong, ta chưa có thể nói chuyện bên ngoài được.

– Ngũ Viên bèn xin từ chức đại phu.

Công tử Quang lại nói với Vương Liêu rằng :

– Ngũ Viên thấy đại vương không chịu cất quân mà xin từ chức đại phu, thế là có ý oán giận, đại vương không nên dùng.

– Vương Liêu không dùng Ngũ Viên nữa, chỉ cấp cho trăm mẫu ruộng ở Dương Sơn. Ngũ Viên và công tử Thắng cùng nhau về cầy ruộng ở Dương Sơn. Công tử Quang liền tìm đến yết kiến Ngũ Viên và giúp cho thóc lúa, lại hỏi Ngũ Viên rằng :

– Nhà ngươi đi lại trong khoảng nước Ngô và nước Sở, đã từng gặp người nào tài dũng được gần như nhà ngươi không ?

Ngũ Viên nói :

– Tôi thì ra gì mà kể, nhưng tôi có gặp Chuyên Chư, thật là một dũng sĩ !

Công tử Quang nói :

– Ta muốn nhờ nhà ngươi mà giao kết với Chuyên Chư có được không ?

Ngũ Viên nói :

– Chuyên Chư ở cách đây cũng không xa lắm, xin cho triệu đến, chỉ ngày mai thì tới nơi.

– Công tử Quang nói :

– Đã là một tráng sĩ thì ta xin đến tận nơi mà mời, khi nào dám sai người triệu.

– Công tử Quang nói xong, liền cùng Ngũ Viên đi xe đến nhà Chuyên Chư. Chuyên Chư đang ngồi mài dao ở ngoài phố, để đi làm thịt lợn cho người ta, trông thấy ngựa xe rộn rịp, đã toan chạy trốn.

Ngũ Viên ngồi trên xe gọi mà bảo rằng :

– Anh đây mà!… Chuyên Chư vội vàng dừng tay mài dao, chờ xe Ngũ Viên đến. Ngũ Viên xuống xe chào Chuyên Chư, lại trỏ công tử Quang mà bảo Chuyên chư rằng :

– Vị này là trưởng công tử của nước Ngô, mến yêu cái tài của em, muốn đến yết kiến, em chớ nên từ chối.

Chuyên Chư nói với công tử Quang rằng :

– Tôi là một kẻ hèn mọn, có tài năng gì mà làm phiền lòng công tử.

Chuyên Chư vái chào công tử Quang mà mời vào. Nhà tranh cửa túp, mọi người phải cúi đầu mới vào được. Công tử Quang vái chào Chuyên Chư và giải toa? tấm lòng kính mến. Chuyên Chư đáp lễ lại. Công tử Quang đưa biếu các thứ vàng bạc. Chuyên Chư nhất định từ chối. Ngũ Viên ở bên cạnh cố khuyên mãi. Chuyên Chư mới chịu nhận. Từ bấy giờ Chuyên Chư thành ra người của công tử Quang. Công tử Quang ngày nào cũng sai người đưa cho gạo thịt, mỗi tháng lại cấp vải lụa cho, và thỉnh thoảng đến hỏi thăm bà mẹ Chuyên Chư.

Chuyên Chư cảm phục lòng tử tế ấy, một hôm hỏi công tử Quang rằng :

-Tôi là một kẻ hèn mọn ở chốn thôn giã, đội ơn công tử chu cấp, không biết lấy chi báo đáp, công tử có việc gì sai khiến tôi xin hết sức !

Công tử Quang liền đuổi hết người xung quanh mà bày tỏ ý muốn giết Vương Liêu.

Chuyên Chư nói :

– Vua trước là Dư Sái mất thì con là Vương Liêu đáng được nối ngôi, cớ sao công tử lại muốn giết ?

Công tử Quang thuật lại di mệnh của tổ phụ ngày xưa, và bảo Chuyên Chư rằng :

– Qúi Trát đã không chịu nhận ngôi thì nên phải trả ngôi lại cho người con đích trưởng. Người con đích trưởng tức là ta đây, chứ sao Vương Liêu lại được nối ngôi ? Ta đây sức yếu, không làm gì nổi, muốn nhờ tay nhà ngươi.

Chuyên Chư nói :

– Sao không sai một cận thần, nhân lúc thong thả, thuật lại những lời di mệnh của vua trước cho Vương Liêu nghe, khiến Vương Liêu phải thoái vị, mà lại phải dùng đến kiếm khách cho thương tổn hoà khí trong nhà ?

Công tử Quang nói :

– Vương Liêu là người tham mà cậy khoẻ, chỉ biết điều lợi chứ không biết điều nghĩa, nếu nói với hắn thì lại thêm hại mình. Ta cùng với Vương Liêu không thể nào cùng đứng được.

Chuyên Chư hăng hái mà đáp rằng :

– Công tử nói phải lắm, nhưng tôi còn có lão mẫu, chưa dám liều chết.

Công tử Quang nói :

– Ta cũng biết nhà người mẹ già con thơ, nhưng trừ phi nhà ngươi thì không ai giúp ta được việc ấy. Nếu thành sự thì mẹ già và con thơ của nhà ngươi tức là mẹ già và con thơ của ta, ta xin hết lòng cấp dưỡng, không dám phụ Ơn nhà ngươi.

Chuyên Chư ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đáp lại rằng :

– Muốn làm việc gì tất phải nghĩ cho kỹ thì mới vẹn toàn. Con cá ở dưới vực sâu mà vào trong tay người đánh cá là vì có cái mồi thơm. Nay muốn đâm chết Vương Liêu, tất phải tìm xem Vuương Liêu thích cái gì để mà tiến dâng thi mới tiến gần được. Chẳng hay Vương Liêu thích cái gì ?

Công tử Quang nói :

– Vương Liêu chỉ thích ăn.

Chuyên Chư nói :

– Trong các món ăn thì món nào Vương Liêu thích hơn cá ?

Công tử Quang nói :

– Thích nhất là món chả cá.

Chuyên Chư nói :

-Như vậy thì tôi hãy xin từ giã ngài một độ.

Công tử Quang nói :

– Nhà ngươi định đi đâu ?

Chuyên Chư nói :

– Tôi xin đi học làm món ăn, mới có cớ đến gần Vương Liêu được.

Chuyên Chư bèn đi sang Thái Hồ để học làm chả cá, trong ba tháng. Khi Chuyên Chư đã học được thành nghề rồi, lại về yết kiến công tử Quang. Công tử Quang giấu kín Chuyên Chư ở trong phủ và gọi Ngũ Viên đến mà bảo rằng :

– Chuyên Chư đã học được nghề chả cá rồi, làm thế nào mà đến gần Vương Liêu được ?

Ngũ Viên nói :

– Ta không trị nổi được chim hồng và chim hộc là vì nó có lông cánh, vậy muốn trị chim hồng và chim hộc thì tất phải cắt lông cánh nó trước. Tôi nghe nói con Vương Liêu là công tử Khánh Ky mình cứng như sắt, sức địch muôn người, tay vồ được giống chim đang bay, chân đá được giống thú rất mạnh. Vương Liêu có Khánh Ky lúc nào cũng đi liền bên cạnh, ta khó lòng làm gì nổi. Huống chi lại còn hai em là Yếm Dư và Chúc Dung, đều là người tài giỏi, lại đang giữ bình quyền, vậy bây giờ muốn giết Vương Liêu, ắt phải trừ bỏ ba người ấy trước. Nếu không trừ bộ ba người ấy thì dẫu may ra có thành sự nữa, công tử cũng không ngồi yên mà nối ngôi được.

Công tử Quang ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo Ngũ Viên rằng :

– Nhà ngươi nghĩ phải lắm! Thôi thì nhà ngươi hãy về làm ruộng; đợi có dịp nào, ta sẽ thương nghị.

Ngũ Viên cáo từ lui ra.

Năm ấy vua Cảnh vương nhà Chu mất. Người đích tử đã được lập làm thái tử tên là Mãnh, người thứ tử tên là Mang, còn người thứ tử mà lớn tuổi hơn cả (nghĩa là con bà thứ mà lớn tuổi), tên là Triều. Chu Cảnh vương yêu vương tử Triều lắm, dặn quan đại phu là Tân Mạnh, muốn cho vương tử Triều làm thái tử, nhưng chưa kịp lập thì mất. Lưu Quyền vốn có hiềm khích với Tân Mạnh, cùng Đan Kỳ giết Tân Mạnh, rồi lập thái tử Mãnh, tức là Chu Diệu vương, Doãn Cố, Cam Du và Thiệu Hoán đều là vây cánh vương tử Triều, mới cùng nhau họp quân, sai quan thượng tướng là Nam Cung Cực đến đánh Lưu Quyền. Lưu Quyền bỏ chạy sang đất Dương. Đan Kỳ rước thái tử Mãnh ra đóng ở đất Hoàng. Vương tử Triều sai Tầm Miện đem quân sang đánh. Tầm Miện bị thua mà chết.

Tấn Khoảnh công nghe nói nhà Chu biến loạn, sai quan đại phu là Tịch Đàm và Tuân Lịch đem quân sang lập thái tử Mãnh, đóng ở Vương Thành. Doãn Cố cũng lập vương tử Triều ở đất Kính, chưa được bao lâu, thái tử Mãnh ốm chết. Đan Kỳ và Lưu Quyền lại lập người em là vương tử Mang, tức là Chu Kinh vương, đóng ở Địch Toàn. Người nhà Chu gọi vương tử Mang là Đông vương, gọi vương tử Triều là Tây vương. Hai bên cùng chống cự nhau, đã sáu năm chưa thôi. Thiệu Hoán chết. Nam Cung Cực cũng bị sét đánh mà chết. Quan đại phu nước Tấn là Tuân Lịch lại đem quân chư hầu sang giúp Chu Kinh vương, đưa về Thành Chu bắt được Doãn Cố, vương tử Triều vỡ quân. Con Thiệu Hoán là Thiệu Ngân lại đem quân đánh vương tử Triều. Vương tử Triều bỏ chạy sang nước Sở. Chư hầu đắp thành hộ cho nhà Chu, rồi rút quân về. Chu Kinh Vương cho Thiệu Ngân là người phản phúc, bắt đem ra cùng chém với Doãn Cố. Người nhà Chu đều lấy làm vui mừng.

Bấy giờ người mẹ thế tử Kiến nước Sở đang ở đất Vấn Dương. Phí Vô Cực sợ bà này làm nội ứng cho Ngũ Viên, mới xui Sở Bình vương giết đi. Người mẹ thế tử Kiến nghe tin, mật sai người sang cầu cứu với vua Ngô là Vương Liêu. Vương Liêu sai công tử Quang đem quân sang đất Vấn Dương để đem mẹ thế tử Kiến về nước Ngô. Công tử Quang đi đến đất Chung Ly, tướng nước Sở là Viễn Việt đem quân ra chống cự, và sai người phi báo cho Sở Bình vương biết. Sở Bình vương cho quan lệnh doãn là Dương Mang làm đại tướng, lại đòi lấy quân sáu nước là Trần, Sái, Hồ, Thẩm, Đốn và Hứa. Vua Hồ tên là Không, vua Thẩm tên là Bính, thân hành đem quân đến. Trần sai quan đại phu là Hạ Khiết đến. Nước Đốn, nước Hứa, nước Sái cũng sai quan đại phu đến. Quân Hồ, Thẩm, Trần đóng ở phía hữu. Quân Đốn, Hứa, Sái đóng ở phía tả. Đại binh của Viễn Việt đóng ở giữa. Công tử Quang nghe tin, sai người phi báo với Vương Liêu. Vương Liêu cùng công tử Yểm Dư (em Vương Liêu) đem đại binh đến đóng ở đất Kê Phủ (đất nước Sở).

Vừa lúc ấy, quan lệnh doãn nước Sở là Dương Mang ngộ cảm mà chết, Viễn Việt thay làm đại tướng. Công tử Quang mới nói với Vương Liêu rằng :

– Nước Sở mất quan đại tướng thì quân sĩ đã ngã lòng rồi! Chư hầu theo Sở dẫu nhiều, nhưng đều là sợ thế mà theo, chứ không phải thực lòng. Vua Hồ và vua Thẩm không quen việc chiến tranh; Hạ Khiết nước Trần là người vũ dũng mà không có mưu trí; còn nước Đốn, nước Hứa và nước Sái xưa nay vẫn bị nước Sở ức hiếp, trong lòng không phục, khi nào chịu ra sức. Nay ta đem quân đánh Hồ, Thẩm, và Trần thì mấy nước ấy phải vỡ chạy trước; mấy nước ấy đã vỡ chạy thì đại binh nước Sở tất khiếp sợ mà phải thua, xin đại vương cho quân già yếu ra trước để dụ Sở, còn quân cường tráng thì phục ở phía sau.

Vương Liêu theo kế ấy, chia quân làm ba đạo :

công tử Quang ở phía hữu; công tử Yểm Dư ở phía tả; còn mình đem đại binh đi ở giữa. Trước hết hãy sai ba nghìn tội nhân xông vào hữu dinh quân Sở. Bấy giờ đang ngày hối (ngày cuối cùng trong một tháng, hôm ấy trời tối, không có trăng) tháng bảy mùa thu. Theo binh pháp thì phải kiêng ngày hối, không hành quân nên vua Hồ, Thẩm và Hạ Khiết nước Trần đều không phòng bị, bỗng nghe quân Ngô kéo đến, liền mở cửa dinh ra đánh. Bọn tội nhân nước Ngô không có kỷ luật nào cả, đứa chạy đứa đứng. Quân Sở tranh nhau đuổi bắt, cũng thành ra chẳng có hàng ngũ nào. Công tử Quang ở phía tả thừa cơ tiến đánh, đâm chết Hạ Khiết ở dưới chân ngựa. Vua Hồ và vua Thẩm sợ hãi bỏ chạy, cũng bị công tử Yểm Dư bắt được. Quân Sở chết hại rất nhiều, còn giáp sĩ bị bắt sống hơn tám trăm người.

Công tử Quang truyền đem vua Hồ và Thẩm ra chém, rồi tha bọn giáp sĩ về, để báo cho tư dinh quân Sở biết rằng vua Hồ, vua Thẩm và Hạ Khiết nước Trần đều bị giết cả rồi. Quân nước Đốn, nước Hứa và nước Sái sợ hãi, cùng nhau chạy trốn. Vương Liêu và hai đạo quân tả hữu cùng tiến vào. Đại tướng nước Sở là Viễn Việt chưa kịp bày trận, quân sĩ đã trốn mất quá nửa. Quân Ngô ở phía sau xông đến giết được nhiều lắm, người chết như rạ, máu chảy thành suối. Viễn Việt thua to, chạy thẳng một mạch năm mươi dặm đường. Công tử Quang vào đất Vấn Dương, đem mẹ thế tử Kiến về nước Ngô.

Viễn Việt nghe tin, lại đem quân sang Vấn Dương thì quân Ngô đã rút về từ bao giờ rồi. Viễn Việt biết cơ không đuổi theo được, mới thở dài mà nói rằng :

– Ta phụng mệnh vua Sở ra giữ cửa Chiêu Quan mà để cho Ngũ Viên trốn thoát được, thế là vô công; nay đã làm vỡ quân bảy nước, lại để mất mẹ thế tử Kiến thế là có hai tội. Đã vô công mà lại ó hai tội thì còn mặt mũi nào trông thấy vua Sở nữa.

Nói xong, bèn thắt cổ mà chết. Sở Bình vương nghe tin quân Ngô mạnh thế, trong lòng lo sợ mới cho Nang Ngoa? thay Dương Mang làm lệnh doãn. Nang Ngoã hiến kế rằng Sính Thành thấp hẹp, lại mở đất ở phía đông, đắp thêm một cái thành lớn, cao hơn thành cũ bảy thước và rộng thêm hơn hai mươi dặm, gọi tên thành cũ là Kỳ Nam thành, vì ở phía nam núi Kỳ Sơn; còn thành mới thì gọi tên là Sính Thành, rời đô sang đóng ở đấy, lại đắp một thành về phía tây để làm cánh tay hữu, gọi tên là Mạch Thành. Ba thành theo hình chữ “phẩm” liên lạc với nhau. Người nước Sở ai cũng khen công của Nang Ngoã. Thẩm Doãn Thư cười mà nói rằng :

– Tử Thường (tên tự của Nang Ngoã) không nghĩ gì đến đức chính mà chỉ chăm việc đáp thành. Nếu quân Ngô kéo đến thì dẫu mười Sính Thành cũng không giữ nổi !

Nang Ngoã muốn báo thù trận Kê Phủ, mới hết sức sửa sang thuyền bè và luyện tập quân thuỷ. Trong ba tháng, quân thuỷ đã thành thuộc rồi. Nang Ngoã theo sông Đại Giang tiến sang địa giới nước Ngô.

Công tử Quang nước Ngô nghe tin quân Sở kéo đến, vội vàng ra nghênh chiến thì Nang Ngoã đã rút quân về rồi. Công tử Quang nói :

– Quân Sở vừa mới rút quân về, tất không phòng bị.

Công tử Quang lẻn sang đánh ấp Sảo; diệt được ấp Sào, lại diệt cả ấp Chung Ly nữa, rồi rút quân về. Sở Bình vương nghe tin hai ấp bị diệt, thì hoảng hốt sợ hãi, thành ra ốm nặng, mới triệu Nang Ngoã và công tử Thân (tên tự là Tử Tây, là thứ trưởng tử của Sở Bình vương) đến cạnh giường nằm mà đem thế tử Trân uỷ thác cho hai người ấy. Dặn xong thì mất. Nang Ngoã bàn riêng với Bá Khước Uyên rằng :

– Thế tử Trân hãy còn nhỏ. Và người mẹ đáng lẽ là vợ thế tử Kiến, không phải chính hậu. Tử Tây (tức công tử Thân) đã lớn tuổi mà lại có đức hạnh, nếu lập Tử Tây thì nước Sở mới có cơ cường thịnh được !

Bá Khước Uyển đem lời nói Nang Ngoã kể với công tử Thân. Công tử Thân nổi giận mà nói rằng :

– Nếu bỏ thế tử Trân, tức là tỏ sự xấu của đại vương ta trước. Mẹ thế tử Trân là con gái nước Tần, đã được lập làm phu nhân, nếu bỏ thế tử Trân thì mất lòng một nước lớn ở ngoài. Thế là trong ngoài cùng oán cả, quan lệnh doãn muốn làm lợi cho ta mà lại gây vạ cho ta đấy! Nếu còn nói đến việc ấy nữa thì tất phải giết chết Nang Ngoã mới được !

Nang Ngoã sợ, mới lập thế tử Trân lên nối ngôi, cải tên là Chẩn, tức là Sở Chiêu vương. Nang Ngoã vẫn làm lệnh doãn. Bá Khước Uyển làm tả doãn. Yên TươngSư làm hữu doãn. Phí Vô Cực vì cái ơn trước làm sư phó nay cũng được cầm quyền chính. Trịnh Định công nghe nói người nước Ngô đem mẹ thế tử Kiến về, mới sai người đem châu ngọc sang tiến công, để giải cái thù khi trước giết thế tử Kiến. Mẹ thế tử Kiến đến nước Ngô. Vương Liêu cho ở ngoài Tây Môn, sai công tử Thắng (con thế tử Kiến) phụng dưỡng. Ngũ Viên nghe tin Sở Bình vương chết, vật mình lăn khóc cả ngày không thôi. Công tử Quang lấy làm lạ mà hỏi rằng :

– Vua Sở là kẻ thù của nhà ngươi, nhà ngươi nghe tin ấy, nên lấy làm mừng, cớ sao lại khóc ?

Ngũ Viên nói :

– Tôi khóc không phải là thương vua Sở, tôi tiếc rằng không được bêu đầu hắn để cho hả tấm lòng căm tức của tôi!

Ngũ Viên nghĩ giận về việc không được bêu đầu Sở Bình vương, suốt ba đêm không ngủ, mới tìm được một kế, liền nói với công tử Quang rằng :

– Công tử muốn khởi sự, còn chưa được dịp hay sao / Công tử Quang nói :

– Ta nghĩ ngày nghĩ đêm mà chưa có dịp nào.

Ngũ Viên nói :

– Nay vua Sở mới chết, trong triều nước Sở không có ai là người giỏi cả, sao công tử không tâu với Vương Liêu đem quân sang đánh.

Công tử Quang nói :

– Nếu Vương Liêu lại sai ta đi thì biết làm thế nào ?

Ngũ Viên nói :

– Công tử giả cách ngã xe đau chân thì tất Vương Liêu không khi nào sai công tử. Bấy giờ công tử sẽ tiến dẫn công tử Yểm Dư và công tử Chúc Dung làm tướng; lại sai công tử Khánh Ky đi mượn quân nước Trịnh và nước Vệ để cùng đánh Sở. Thế là một lượt trừ được ba kẻ vây cánh của Vương Liêu. Vương Liêu sắp đến ngày tận số đó!

Công tử Quang lại hỏi rằng :

– Ba đứa ấy dẫu đi rồi nhưng còn Qúi Trát ở trong triều. Qúi Trát thấy ta cướp ngôi, khi nào chịu để yên ?

Ngũ Viên nói :

– Nay Ngô và Tấn đang giao hiếu với nhau, công tử tâu với Vương Liêu sai Qúi Trát sang sứ nước Tấn, để dò xét tình hình trung nguyên. Vương Liêu là người kiêu ngạo, mà không có mưu trí, tất nhiên nghe lời. Khi Qúi Trát đi sứ về thì chuyện đã xong rồi, còn nói gì được nữa !

Công tử Quang sụp lạy Ngũ Viên mà nói rằng :

– Ta được nhà ngươi thật là trời giúp !

Ngày hôm sau, công tử Quang vào tâu với Vương Liêu. VươngLiêu hớn hở theo lời. Công tử Quang nói :

– Việc này đáng lẽ tôi xin ra sức, nhưng ngặt vì ngã xe thành ra đau chân, đang phải chữa thuốc không thể đi được.

Vương Liêu nói :

– Thế thì ta biết sai ai bây giờ ?

Công tử Quang nói :

– Việc này là một việc lớn, không phải người rất thân thì không thể uỷ thác được. Xin đại vương phải chọn cho kỹ.

Vương Liêu nói :

– Yểm Dư và Chúc Dung có nên không ?

Công tử Quang nói :

– Tất phải sai những người ấy mới được việc !

Công tử Quang lại nói :

– Xưa nay Tấn và Sở tranh nhau làm bá chủ, nước Ngô ta vẫn là thuộc quốc, bây giờ Tấn đã suy rồi, mà Sở lại thua luôn, chư hầu đều có lòng ly tán, chưa biết về tay ai. Ta nên sai công tử Khánh Ky sang mượn quân nước Trịnh và nước Vệ, để cùng đánh Sở, rồi lại sai Qúi Trát sang sứ nước Tấn để dò xét xem tình hình trung nguyên thế nào, còn đại vương thì luyện tập quân thuỷ, phòng khi dùng đến, chắc có thể tranh đước nghiệp bá.

Vương Liêu mừng lắm, sai Yểm Dư và Chúc Dung đem quân đi đánh Sở, và sai Qúi Trát sang sứ nước Tấn. Còn công tử Khánh Ky thì không sai đi. Yểm Dư và Chúc Dung đem hai vạn quân sang vây ấp Tiềm của Sở. Quan trấn thủ ở ấp Tiềm giữ thế thủ không ra đánh, rồi sai người cấp báo với Sở Chiêu vương. Bấy giờ, Sở Chiêu vương mới lên nối ngôi, hãy còn ít tuổi, nghe tin quân Ngô vây ấp Tiềm thì hoảng hốt sợ hãi. Công tử Thân nói với Sở Chiêu vương rằng :

– Người nước Ngô nhân khi ta có tang mà đem quân sang đánh, ta nên cho những quân già yếu ra nghênh chiến, để cho hắn khinh thường mà tiến vào, rồi sai quan tả tư mã là Thẩm Doãn Thư đem một vạn quân bộ sang cứu ấp Tiềm, lại sai quan tả doãn là Bá Khước Uyển đem một vạn quân thuỷ đi chận phía sau quân Ngô. Như thế thì ta có thể phá vỡ quân Ngô được.

Sở Chiêu vương mừng lắm, liền sai Thẩm Doãn Thư và Bá Khước Uyển đem quân đi. Yểm Dư và Chúc Dung đang vây ấp Tiềm, nghe tin có quân Sở đến cứu, giật mình kinh sợ, chia quân làm hai đạo :

một nửa vây thành, còn một nửa ra nghênh chiến. Thẩm Doãn Thư không đánh, sai quân đem đá lấp hết các đường đi để cho quân Ngô không có lối mà kiếm củi và lấy nước. Bá Khước Uyển lại đem quân thuỷ chẹn các cửa sông. Quân Ngô tiến thoái đều khó cả, mới phải đóng làm hai đồn, để nương tựa nhau mà ra sức chống giữ với quân Sở, rồi sai người về cáo cấp cùng Vương Liêu. Công tử Quang nói với Vương Liêu rằng :

– Khi trước tôi muốn mượn quân Trịnh và Vệ chính vì cớ ấy. Bây giờ sai ngay công tử Khánh Ky đi, tưởng cũng chưa chậm.

Vương Liêu sai Khánh Ky đi mượn quân Trịnh.

Ngũ Viên bảo công tử Quang rằng :

– Công tử có thanh kiếm truỷ thủ đó không ? Muốn dùng Chuyên Chư chính là ở lúc này.

Công tử Quang nói :

– Phải đó! Ngày xưa vua nước Việt là Doãn Thường, sai Âu Giả Tử làm năm thanh kiếm, đem ba thanh sang dâng nước Ngô ta, một là “Trạm Lư”, hai là “Bàn Sính”, ba là “Ngư Trường”, “Ngư Trường” tức là thanh kiếm truỷ thủ vậy. Hình nó dầu bé nhỏ mà sắc lắm, chém vào sắt như chém vào bùn. Tiên vương ban cho ta, ta vẫn lấy làm quý báu, giấu ở đầu giường để phòng khi nguy cấp. thank kiếm ấy mấy đêm nay cứ sáng rực lên, ý chừng thần vật ấy muốn uống máu Vương Liêu đó chăng ?

Công tử Quang đem thanh kiếm truỷ thủ ra cho Ngũ Viên xem. Ngũ Viên ngợi khen một lúc, rồi gọi Chuyên Chư đến, đưa cho xem. Chuyên Chư không đợi phải bảo, đã hiểu ý ngay, khẳng khái mà đáp rằng :

– Vương Liêu ngày nay thật là nên giết. Hai em và công tử đều đi xa cả, kẻ kia thế cô, làm gì ta nổi! Nhưng việc liều chết này tôi không dám tự chủ, xin về nói lại với mẹ già tôi đã, rồi mới dám vâng lệnh.

Chuyên Chư về nhà, trông thấy mẹ, chưa nói đã khóc. Người mẹ nói :

– Chuyên Chư, sao con buồn rầu như vậy? Hay là công tử định dùng con đó chăng ? Cả nhà ta chịu ơn công tử đã nhiều, chưa biết lấy gì báo đáp. Trung hiếu sao cho trọn cả đôi đường. Con cứ đi đi, chớ có vì mẹ mà ngần ngại. Con giúp nên việc cho công tử, để danh tiếng đời sau, mẹ đây dẫu chết cũng vui lòng!

Chuyên Chư cứ quyến luyến mãi, không nỡ bỏ đi. Người mẹ nói :

– Mẹ muốn uống một hớp nước suối thật trong, con hãy đi lấy cho mẹ uống.

Chuyên Chư vội vàng xuống suối lấy nước. Khi trở về nhà không trông thấy mẹ đâu cả, mới hỏi vợ.

Vợ nói :

– Mới rồi, tôi thấy mẹ kêu mệt, vào buồng nằm nghỉ, dặn tôi chớ có làm náo động, rồi đóng chặt cửa lại.

Chuyên Chư trong lòng nghi ngờ, mới mở cửa sổ dòm vào thì thấy mẹ đã thắt cổ chết. Chuyên Chư vật mình lăn khóc, đem thi thể chôn ở ngoài cửa tây. Chôn xong, bảo vợ rằng :

– Ta chịu ơn công tử nhiều lắm, vẫn muốn liều chết để báo đáp, chỉ vì còn mẹ già, cho nên chưa dám. Nay mẹ đã mất rồi, ta phải đi báo ơn công tử. Sau khi ta chết thì mẹ con nhà mày, thế nào công tử cũng cấp dưỡng cho. Chớ có ngăn trở việc ta !

Chuyên Chư vào yết kiến công tử Quang, thuật lại chuyện mẹ tự tử cho công tử nghe. Công tử Quang có ý ngậm ngùi, rồi tìm lời khuyên giải mãi; sau mới bàn đến việc giết Vương Liêu. Chuyên Chư nói :

– Sau công tử không bày một tiệc rượu để mời Vương Liêu. Nếu Vương Liêu chịu đến thì việc này mười phần đã xong được đến tám chín.

Công tử Quang liền vào yết kiến Vương Liêu và nói rằng :

– Tôi có một tên nhà bếp ở Thái Hồ về, mới học được nghề làm chả cả khéo lắm, thật là một món ăn khác thường ! Xin mời đại vương quá bộ đến nhà tôi nếm món ăn ấy.

Vương Liêu xưa nay vốn thích chả cá, nên vui lòng nhận lời, hẹn đến ngày hôm sau thì sang chơi. Đêm hôm ấy, công tử Quang sai giáp sĩ phục sẵn ở trong phòng kín, lại sai Ngũ Viên đem một trăm tử sĩ tiếp ứng mặt ngoài. Ngày hôm sau, công tử Quang lại sang mời Vương Liêu. Vương Liêu vào nói với mẹ rằng :

– Công tử mời con sang uống rượu, hoặc giả có mưu gì chăng ?

Người mẹ nói :

– Công tử Quang vẫn có lòng uất ức, lần này mời con, tất có ý khác, sao con không từ chối đi ?

Vương Liêu nói :

– Từ chối thì sinh ra hiềm khích, chi bằng ta phòng giữ cho nghiêm mật, chắc y không làm gì nổi.

Vương Liêu mặc mấy lần áo giáp, rồi truyền cho quân sĩ sắp hàng từ cửa cung cho đến nhà công tử Quang. Vương Liêu đi đến cửa nhà công tử Quang. Công tử Quang ra đón vào. Vương Liêu ngồi chiếu giữa. Công tử Quang đứng hầu bên cạnh. Những người thân tín của Vương Liêu đứng đầy c3 ở trong nhà và ngoài thềm. Hơn trăm lực sĩ đứng xung quanh Vương Liêu, đều cầm giáo dài và gươm sắc. Nhà bếp dâng món ăn đi qua dưới sân, đều phải cởi áo, khám xét thật kỹ, rồi mới cho quỳ gối xuống đất mà dâng lên; lại còn hơn mười lực sĩ tuốt gươm đi kèm hai bên cạnh. Nhà bếp đặt món ăn lên bàn, không dám ngẩng trông, lại quỳ gối mà lui xuống. Công tử Quang rót chén rượu kính mời Vương Liêu, giả cách khuỵu chân, làm ra bộ đau đớn mà tâu với Vương Liêu rằng :

-Chân tôi, chỗ đau vẫn chưa khỏi, mỗi khi phát đau, buốt đến tận xương, phải dùng lụa buộc chặt lại thì mới đỡ. Xin đại vương miễn thứ cho tôi được ra ngoài buộc chân, rồi lại vào ngay.

Vương Liêu nói :

– Được ! Vương huynh cứ đi !

Công tử Quang khập khiễng bước dần từng bước, đi vào nhà trong. Được một lúc Chuyên Chư dâng món chả cả cũng bị khám xét như mấy người trước, nhưng không ai ngờ lưỡi gươm truỷ thủ thì đã được giấu ở trong bụng con cá. Lực sĩ đi kèm hai bên. Chuyên Chư quỳ gối đi đến trước mặt Vương Liêu, lấy tay xé con cá, bỗng rút lưỡi gươm ra, đâm thẳng vào bụng Vương Liêu. Sức đâm mạnh quá suốt ba lần áo giáp, lòi lưỡi gươm ra phía sau lưng. Vương Liêu kêu một tiếng thật to, rồi chết ngay lập tức. Lực sĩ xúm lại, đâm Chuyên Chư nát nhừ người ra. Công tử Quang ở trong nhà biết là Vương Liêu chết rồi, mới đem quân ra giết hết những người tâm phúc của Vương Liêu. Quân theo hầu Vương Liêu bỏ chạy tán loạn cả. Bao nhiêu thị vệ Ở mặt ngoài, bị Ngũ Viên đuổi đánh cả.

Công tử Quang lên xe vào triều tuyên bố tội Vương Liêu bội ước tự lập, rồi quyền tạm nối ngôi, để đợi Qúi Trát về nước; lại truyền đem thi thể Vương Liêu ra an táng theo như lễ thường, và hậu táng cho Chuyên Chư, phong con là Chuyên Nghị làm thượng khanh, phong Ngũ Viên làm chức hành nhân, đãi như lễ khách mà không bắt làm tôi; chức thị lại là Bị Ly có cái công tiến thóc trong kho cấp phát cho thăng làm đại phu; đem tiền thóc trong kho cấp phát cho những người cùng khổ, người trong nước ai cũng bằng lòng.

Công tử Quang còn e có công tử Khánh Ky ở ngoài, sai người dò thám xem lúc nào về nước thì báo trước; thám tử về báo công tử Khánh Ky đã về gần đến kinh thành, công tử Quang bèn đem đại binh đóng ở trên sông Giang để đón đường. Khánh Ky nghe tin, tức khắc bỏ trốn. Thám tử về báo, công tử Quang phi ngựa đuổi theo. Khánh Ky bỏ xe mà chạy đất, chạy nhanh như bay, ngựa đuổi theo không kịp. Công tử Quang truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn. Khánh Ky giơ tay bắt lấy mũi tên, không phát nào vào mình cả. Công tử Quang biết chừng không thể bắn được, mới truyền cho quân trấn thủ ở phía tây phòng giữ nghiêm mật, rồi rút quân về.

Mấy hôm sau Qúi Trát ở nước Tấn về nước Ngô, biết tin Vương Liêu đã chết, liền đi thẳng ra mộ Vương Liêu khóc mà để tang. Công tử Quang thân hành ra tận mộ, xin nhường ngôi vua cho Qúi Trát và nói rằng :

– Đó là theo ý tổ phụ và các thúc phụ ta ngày xưa đó!

Qúi Trát nói :

– Muốn thế nào thì được thế, còn phải nhường làm gì ! Ai giữ được cũng thế, yên được nhân dân thì tức là vua ta đó !

Công tử Quang không thể nài ép được, mới lên nối ngôi vua, xưng hiệu là Hạp Lư. Qúi Trát lấy việc tranh nhau làm xấu hổ, cáo lão về ở đất Diên Lăng, suốt đời không nói gì đến việc nước Ngô nữa. Yểm Dư và Chúc Dung bị quân Sở vây ở ấp Tiềm, mong mãi không thấy quân Ngô sang cứu, đang cùng nhau thương nghị để tìm kế thoát thân. Bỗng nghe báo công tử Quang giết Vương Liêu cướp ngôi, hai người liền vật mình lăn khóc, rồi bảo nhau rằng :

– Công tử Quang đã giết vua cướp ngôi như vậy thì tất không để cho chúng ta được yên thân !

Hai người nói xong, toan sang đầu nước Sở, nhưng lại sợ nước Sở không tin, chưa biết làm thế nào. Chúc Dung nói :

– Nay cứ giữ chết ở đây thì bao giờ cho xong việc, chi bằng ta nhân đêm tìm đường trốn sang nước khác để liệu tính về sau.

Yểm Dư nói :

– Hiện quân Sở đang vây kín bốn mặt, chúng ta như chim ở trong lồng, làm thế nào mà thoát thân được ?

Chúc Dung nói :

– Tôi có một kế. Truyền cho tướng sĩ hai đồn, hạn đến ngày mai thì khai chiến, rồi nửa đêm hôm nay tôi cùng anh cải trang tìm đường lẻn trốn, quân Sở tất không ngờ.

Yểm Dư và Chúc Dung cùng mấy người tâm phúc giả hình làm quân tuần tiễu, rồi tìm đường lẻn trốn. Yểm Dư trốn sang nước Từ. Chúc Dung trốn sang nước Chung Ngô. Sáng hôm sau, quân sĩ hai đồn không thấy chủ tướng đâu cả, đem nhau chạy trốn, trở về nước Ngô, bỏ lại áo giáp và binh khí rất nhiều, đều bị tướng nước Sở là Bá Khước Uyển bắt được. Các tướng nước Sở muốn nhân lúc nước Ngô có loạn, đem quân sang đánh. Bá Khước Uyển nói :

– Khi trước nước Ngô nhân lúc nước ta có tang mà sang đánh, thế là bất nghĩa. Ta lại còn bắt chước làm gì !

Bá Khước Uyển liền cùng với Thẩm Doãn Thư rút quân trở về, đem những áo giáp và binh khí bắt được của quân Ngô dâng nộp Sở Chiêu vương. Sở Chiêu vương chia ra làm hai phần, một phần thì ban thưởng cho Bá Khước Uyển, lại có lòng kính trọng, việc gì cũng hỏi Bá Khước Uyển. Phí Vô Cực thấy vậy, ghét Bá Khước Uyển lắm, mới nghĩ ra một kế để làm hại Bá Khước Uyển.