Chương 74: Giết Vô Cực tỏ lòng Nang Ngoã – Đâm Khánh Kỵ nổi tiếng Yêu Ly

Phí Vô Cực đem lòng ghen ghét Bá Khước Uyển, mới cùng với Yên Tương Sư thương nghị, nghĩ ra một kế, nói dối quan lệnh doãn nước Sở là Nang Ngoã rằng :

– Tử Ác (tên tự Bá Khước Uyển) muốn bày tiệc mời ngài, nhờ tôi nói trước để xem ngài có lòng hạ cố đến chăng ?

Nang Ngoã nói :

– Người ta có lòng mời, lẽ nào lại không đi !

Phí Vô Cực lại nói với Bá Khước Uyển rằng :

– Quan lệnh doãn có nói chuyện với tôi, muốn sang chơi uống rượu ở nhà ngài, chẳng hay ngài có vì quan lệnh doãn mà sửa một tiệc rượu được không ?

Bá Khước Uyển không biết là mưu, liền đáp lại rằng :

– Tôi phận hèn chức nhỏ, được quan lệnh doãn quá yêu đến, còn gì vinh hạnh bằng ! Sáng mai tôi xin sửa tiệc để mời quan lệnh doãn, nhờ ngài nói giúp cho.

Phí Vô Cực nói :

– Ngài mời quan lệnh doãn, định dùng thứ gì để kính biếu ?

Bá Khước Uyển nói :

– Tôi không biết quan lệnh doãn ngài thích thứ gì ?

Phí Vô Cực nói :

– Quan lệnh doãn chỉ thích áo giáp và binh khí. Nay thấy các đồ giáp binh ta bắt được của quân Ngô khi trước, ngài được chia một nửa, cho nên muốn uống rượu ở nhà ngài mà nhân tiện mượn xem các đồ giáp binh ấy. Ngài nên cho đem cả ra đây, để tôi chọn xem những cái nào tốt.

Bá Khước Uyển sai đem các đồ giáp binh ra cho Phí Vô Cực xem. Phí Vô Cực chọn những cái tốt nhất, cả thảy được năm mươi chiếc, rồi bảo Bá Khước Uyển rằng :

– Thôi thế cũng là đủ ! ngài cho bày cả ở phía trong cửa, rồi che màn đi, hễ quan lệnh doãn hỏi đến thì mang ra mà dâng, tất nhiên quan lệnh doãn lấy làm quí báu; còn các thứ khác thì quan lệnh doãn không thích gì cả.

Bá Khước Uyển tin là thực, mới mắc màn ở phía trong cửa, bày các đồ giáp binh, rồi nhờ Phí Vô Cực đi mời Nang Ngoã. Khi Nang Ngoã sắp đi, Phí Vô Cực lại nói với Nam Ngoã rằng :

– Lòng người ta không biết đâu mà lường ! Tôi xin sang trước để dò xét xem tình ý thế nào rồi ngài hãy sang.

Phí Vô Cực đi một lúc, chạy hộc trở về, vừa nói vừa thở mà bảo Nang Ngoã rằng :

– Xuýt nữa thì tôi làm hại quan lệnh doãn! Tử Ác mời ngài hôm nay, không phải là lòng tử tế, tất có ý muốn hại ngài. Tôi trông thấy trong màn ở phía bên cửa, có bày các đồ giáp binh. Ngài vô ý mà sang hôm nay, tất nhiên bị hại.

Nang Ngoã nói :

– Ta cùng Tử Ác không có hiềm khích gì, làm sao lại thế ?

Phí Vô Cực nói :

– Kẻ kia cậy được đại vương yêu, muốn thay ngài làm lệnh doãn. Và tôi nghe Tử Ác âm mưu với nước Ngô. Khi quân ta sang cứu ấp Tiềm, các tướng quân nước Ngô có loạn, đem quân sang đánh; Tử Ác ăn tiền của nước Ngô, cho là việc bất nghĩa, rồi bắt quan tả tư mã (tức là Thẩm Doãn Thư) phải rút quân về. Ngày trước nước Ngô nhân nước ta có loạn mà sang đánh, chính là một dịp báo thù, nếu không ăn tiền của Ngô, sao lại chịu rút quân ? Tử Ác mà đắc chí thì nước Sở nguy mất !

Nang Ngoã còn chưa tin, lại sai người khác đi xem. Khi về đều nói trong màn ở phía bên cửa nhà Bá Khước Uyển quả có giáp binh thật. Nang Ngoã nổi giận, liền sai người triệu Yên Tương Sư đến, nói cho biết việc Bá Khước Uyển cùng với Dương Lập Trung, Dương Hoàn và Dương Đà đồng mưu với nhau đã lâu, vẫn muốn cầm quyền chính nước Sở.

Nang Ngoã nói :

– Nó là một đứa thất phu ở nước khác đến (Bá Khước Uyển là con Bá Châu Lê. Bá Châu Lê vốn trước là quan nước Tấn sang đầu nước Sở), mà lại dám làm loạn, ta quyết đâm chết mới nghe.

Nang Ngoã liền tâu với Chiêu vương, sai Yên Tương Sư đem quân đến bắt Bá Khước Uyển. Bá Khước Uyển biết là mắc lừa Phí Vô Cực, bèn đâm cổ mà chết. Con Bá Khước Uyển là Bá hi sợ hãi bỏ trốn. Nang Ngoã truyền đốt nhà Bá Khước Uyển. Người trong thành không ai chịu đốt. Nang Ngoã càng giận lắm, liền hạ lệnh rằng :

– Ai không chịu đốt nhà Bá Khước Uyển thì cùng bắt tội.

Người trong thành ai cũng biết Bá Khước Uyển là người hiền, nhưng vì có lệnh của Nang Ngoã, đều phải cầm một nắm rơm, ném vào nhà Bá Khước Uyển. Nang Ngoã truyền cho quân sĩ vây kín nhà Bá Khước Uyển. Chỉ trong chốc lát, cả nhà Khước Uyển hoá ra tro cả. Nang Ngoã giết hết vây cánh của Bá Khước Uyển lại bắt cả Dương Lập Trung, Dương Hoàn, và Dương Đà, vu cho tội thông mưu với Ngô, đem giết chết. Người trong nước ai cũng thương là oan.

Một hôm, Nang Ngoã nhân đêm sáng trăng, trèo lên lầu chơi, nghe văng vẳng bên tai có tiếng hát ở phía ngoài chợ. Bài hát như sau :

“Đừng ai bắt chước Bá Khước Uyển, trung mà bị Oan Tấm thân đã uổng, nắm xương cũng tàn !

Nước Sở không có vua, chỉ có họ Phí và họ Yên !

Quan lệnh doãn khác nào tượng gỗ, bị chúng sai khiến Trời có thấu chăng ? Báo ứng hiển hiện ! “ Nang Ngoã vội vàng sai người đi dò xét, xem ai hát thì thấy trong phố xá nhà nào cũng bày đèn hương nghi ngút để cúng lễ. Hỏi ra mới biết, là dân chúng cúng Bá Khước Uyển, vì trung mà bị Oan, cầu cho được thấu đến trời. Người nhà về báo với Nang Ngoã. Nang Ngoã mới vào hỏi các quan trong triều. Bọn công tử Thân đều nói Bá Khước Uyển không có tư thông với Ngô bao giờ. Nang Ngoã có ý hối. Thẩm Doãn Thư nghe nói người trong nước đều nguyền rủa quan lệnh doãn, mới bèn vào cung bảo Nang Ngoã rằng :

– Người trong nước ai cũng oán ngài, ngài có biết không ? Phí Vô Cực là một kẻ dèm pha ở nước Sở này, cùng với Yên Tương Sư kết làm vây cánh với nhau, lập mưu đuổi Triều Ngô và Sái hầu Chu :

lại xui tiên vương làm những điều càn dỡ, để đến nỗi thế tử Kiến chết tại đất ngoài. Trước hắn đã làm cho cha con Ngũ Xa chết oan, nay lại làm cho Bá Khước Uyển cùng ba họ Dương đều chết oan cả. Người trong nước oán hai người ấy đến xương tuỷ, đều đổ lỗi là tại ngài dung túng và ai cũng nguyền rủa ngài. Một mai nước Sở có việc gì thì giặc nổi mặt ngoài, dân phản mặt trong, tôi lấy làm nguy cho ngài lắm! Chi bằng ngài trừ lũ ấy đi thì mới yên việc được.

Nang Ngoã sợ hãi, đang ngồi đứng dậy mà bảo Thẩm Doãn Thư rằng :

– Đó thật là điều lỗi của tôi ! Xin quan tư mã giúp tôi một tay để trừ bỏ hai thằng giặc ấy.

Thẩm Doãn Thư nói :

– Nếu vậy thì phúc cho nước nhà lắm, tôi xin vâng mệnh.

Thẩm Doãn Thư bèn sai người truyền bá cho dân trong nước biết rằng :

– Qaun tả doãn (tức là Bá Khước Uyển) bị chết oan đều là tại Phí Vô Cực và Yên Tương Sư, quan lệnh doãn đã rõ mưu gian ấy, nay định đem quân đi đánh. Dân trong nước ai muốn theo thì cho đi.

Thẩm Doãn Thư nói chưa dứt lời, dân trong nước đều đua nhau cầm binh khí đi trước. Nang Ngoã kể tội Phí Vô Cực và Yên Tương Sư, rồi bắt đem chém, bêu đầu ở ngoài chợ. Người trong nước không đợi quan lệnh doãn truyền bảo, đều tranh nhau đem lửa đốt nhà Phí Vô Cực và Yên Tương Sư. Nang Ngoã lại giết hết vây cánh Phí Vô Cực và Yên Tương Sư, từ bấy giờ người trong nước mới không oán giận nữa.

Vua nước Ngô là Hạp Lư hỏi Ngũ Viên rằng :

– Ta muốn cho nước được cường thịnh để tranh nghiệp bá, nên làm thế nào ?

Ngũ Viên sụp lạy, rồi ứa nước mắt mà đáp rằng :

– Tôi là một kẻ tội nhân ở nước Sở, cha và anh tôi bị Oan, chết chẳng ai chôn, giỗ chẳng ai cúng, nên tôi phải đem thân sang đây để trông nhờ đại vương. Đại vương không bắt tội, là may rồi, khi nào lại còn dám dự đến chính sự của nước Ngô.

Hạp Lư nói :

– Không có nhà ngươi thì ta còn phải chịu nhục ở dưới kẻ khác, nay nhờ nhà ngươi chỉ bảo mà được thế này, còn định đem chính sự trong nước phó thác cho nhà ngươi, cớ sao đang nửa chừng mà nhà ngươi lại có ý chán, hoặc là nhà ngươi cho ta không đáng giúp hay sao ?

Ngũ Viên nói :

– Không phải thế ! Tôi nghe nói người thân bao giờ cũng hơn người sơ, người gần bao giờ cũng hơn người xa. Tôi là một kẻ lưu lạc ở nước khác đến, có đâu lại dám ở trên các mưu thần nước Ngô! Huống chi cái thù lớn của tôi chưa báo được thì lòng tôi bối rối, còn nghĩ ra được mưu kế gì ?

Hạp Lư nói :

– Mưu thần nước Ngô không ai bằng nhà ngươi, nhà ngươi chớ nên từ chối. Khi công việc nước ta được tạm yên, ta sẽ vì nhà ngươi báo thù. Nhà ngươi muốn thế nào, ta xin theo ý.

Ngũ Viên nói :

– Bây giờ đại vương muốn thế nào ?

Hạp Lư nói :

– Nước ta ở xếch về phía đông nam, đất thấp mà ẩm, lại có cái nạn nước bể, ruộng nương không mở mang ra được, nhân dân không vững lòng để làm ăn. Nay muốn cho nước cường thịnh thì nên thế nào ?

Ngũ Viên nói :

– Dân có yên ổn thì nước mới được cường thịnh, cho nên phải làm thế nào để mặt trong có thể giữ dân mà mặt ngoài có thể đánh giặc được. Muốn như vậy thì phải làm cho thóc lúa đầy đủ trong kho, phải sửa sang thành quách và luyện tập binh mã.

Hạp Lư nói :

– Nhà ngươi nói phải lắm ! Vậy thì việc ấy ta giao cho nhà ngươi.

Ngũ Viên liền đi xem ngắm hình thế, chọn được một nơi đất tốt ở phía đông bắc núi Cô Tô. Tức thì đắp một cái thành lớn, rộng bốn mươi bảy dặm, chia làm tám cửa như sau :

Bản Môn và Xà Môn ở phía nam; Tề Môn và Bình Môn ở phía bắc; Lâu Môn và Tượng Môn ở phía đông; Xương Môn và Tư Môn ở phía tây. Thành quách đã đắp xong rồi, Ngũ Viên đón Hạp Lư thiên đô vào đấy, rồi tuyển mộ quân sĩ, dạy cho biết những phép chiến trận. Lại đắp một cái thành nữa ở phía nam Phượng Hoàng sơn, để phòng giữ nước Việt, gọi là Nam Vũ thành. Hạp Lư cho lưỡi “Ngư Trường” (tức là lưỡi gươm truy thủ mà Chuyên Chư đâm Vương Liêu) là vật chẳng lành, mới bỏ vào hòm, phong kín lại mà không dùng đến nữa; lại đắp một cái thành ở Ngưu Thủ sơn, đúc mấy nghìn thanh kiếm, gọi là Biển Chư. Lại tìm được người nước Ngô tên gọi Can Tương, cùng học một thầy với Âu Giả Sác. Can Tương đi tìm những kim loại, thiêt loại tinh anh, rồi chọn ngày chọn giờ, sai các đồng nam và đồng nữ cả thảy ba trăm người, ngày đêm đốt than, nấu suốt ba tháng, mà vàng và sắt đều không chảy. Can Tương không biết vì cớ làm sao. Người vợ là nàng Mạc Gia bảo Can Tương rằng :

– Thần vật, tất phải đợi sinh khí của con người mới thành được. Nay phu quân đúc kiếm, trong ba tháng không xong, hoặc giả thần vật còn phải đợi sinh khí của con người đó chăng ?

Can Tương nói :

– Ngày xưa thầy ta cũng đúc mãi không thành kiếm, rồi hai vợ chồng đều nhảy vào trong lò, bấy giờ mới thành; về sau ai đúc kiếm ở chân núi ấy cũng phải làm lễ tế lò, mới dảm mở ra. Nay ta đúc mãi không được, hay là cũng phải như thế !

Nàng Mạc Gia nói :

– Thầy ta còn bỏ thân để đúc nên kiếm thần, sao ta lại không bắt chước.

Nàng Mạc Gia liền tắm gội sạch sẽ ra đứng ở cửa lò, rồi sai các đồng nam và đồng nữ kéo bễ đốt than. Khi lửa cháy dữ thì nàng Mạc Gia nhảy vào trong lò. Được một lúc, vàng và sắt đều chảy ra cả, đúc nên được hai thanh kiếm :

thanh đúc trước đặt tên là Can Tương, thanh đúc sau, đặt tên là Mạc Gia. Can Tương giấu thanh đúc trước (tức thanh kiếm Can Tương) đi, rồi đem thanh kiếm Mạc Gia đến dâng Hạp Lư. Hạp Lư cầm thanh kiếm chém thử vào viên đá, viên đá tức thì đứt đôi ra. Hạp Lư thưởng cho Can Tương một trăm nén vàng.

Sau Hạp Lư biết là Can Tương giấu mất một thanh kiếm, sai người đến đòi, và bảo nếu không chịu trả thì sẽ bị giết. Can Tương đem thanh kiếm ra xem. Thanh kiếm ở trong bao nhảy ra, hoá thành con rồng xanh. Can Tương cưỡi con rồng xanh ấy bay lên trời mất. Sứ giả về nói với Hạp Lư. Hạp Lư thở dài, từ bấy giờ càng quý thanh kiếm Mạc Gia lắm. Thanh kiếm Mạc Gia sau không biết về đâu mất. Cách hơn sáu trăm năm, đến triều nhà Tấn, có quan thừa tướng tên gọi Trương Hoa trông thấy trên trời có khí lạ, liền triệu một người giỏi thiên văn là Lôi Hoán đến hỏi. Lôi Hoán nói :

– Đó là cái tinh của bảo kiếm, ở về địa phận Phong Thành.

Trương Hoa tức khắc bổ cho Lôi Hoán làm huyện lệnh ở Phong Thành. Lôi Hoán đào nền nhà ngục, bắt được cái hòm bằng đá, dài hơn sáu thước, mở ra xem, trong có hai thanh kiếm, dùng thứ đất ở núi Tây Sơn mà đánh thì ánh sáng rực rỡ. Lôi Hoán đưa một thanh kiếm cho Trương Hoa, còn một thanh nữa lưu lại để dùng. Trương Hoa xem thanh kiếm rồi bảo rằng :

– Đây tức là thanh kiếm Can Tương, còn thanh kiếm Mạc Gia đi đâu mất. Tuy vậy mà thần vật thế nào rồi cũng lại hợp với nhau.

Sau Lôi Hoán và Trương Hoa cùng đeo kiếm đi qua bến Diên Bình, tự nhiên hai thanh kiếm nhảy xuống nước mất, vội vàng sai người lặn tìm, thì thấy có hai con rồng ngũ sắc vểnh râu trừng mắt, làm cho người ấy sợ mà trở về. Từ bấy giờ mất tích hai thanh kiếm ấy.

Vua nước Ngô là Hạp Lư quý thanh kiếm Mạc Gia lắm. Lại thuê người làm cái kim câu (lưỡi gươm cong queo) ai làm giỏi thì được thưởng trăm nén vàng.

Người trong nước đua nhau làm kim câu dễ dàng. Có một người câu sư (người thợ làm kim câu) tham giải thưởng to, giết chết hai con, lấy máu tưới vàng, đúc thành hai cái kim câu, đem dâng Hạp Lư. Qua mấy ngày nữa, câu sư đến cửa xin lĩnh thưởng. Hạp Lư hỏi :

– Người ta dâng kim câu nhiều lắm, sao một mình nhà ngươi dám đến lĩnh thưởng ? Cái kim câu của nhà ngươi có khác gì không ?

Câu sư nói :

– Tôi muốn được thưởng, đã giết chết hai con để đúc thành hai cái kim câu ấy, người khác bì thế nào được !

Hạp Lư truyền đem hai cái kim câu ấy ra xem. Các thị vệ tâu rằng :

– Hai cái kim câu ấy đã bỏ lẫn vào trong đám kim câu khác, trông giống nhau lắm, không thể chọn lấy riêng ra được.

Câu sư nói :

– Xin đại vương cho tôi xem.

Thị vệ đem cả đống kim câu ra để ở trước mặt câu sư. Câu sư cũng không biết cái nào mà chọn, mới gọi tên hai đứa con mà nói rằng :

– Ngô Hồng và Hổ Kê ơi! Ta ở đây, sao hai con không hiển linh ở trước mặt đại vương ?

Câu sư nói chưa dứt lời thì hai cái kim câu ở trong đống nhảy ra, ấp vào ngực câu sư. Hạp Lư kinh sợ mà bảo rằng :

– Ừ, thế thì nhà ngươi nói thực !

Hạp Lư liền thưởng cho câu sư một trăm nén vàng. Từ bấy giờ Hạp Lư cũng quý hai cái kim câu ấy như thanh kiếm Mạc Gia, đeo luôn ở trong mình.

Bấy giờ Bá Hi nước Sở sợ tội chạy trốn, nghe nói Ngũ Viên đã làm quan ở nước Ngô, mới trốn sang nước Ngô, vào yết kiến Ngũ Viên. Hai người nhìn nhau mà khóc, rồi Ngũ Viên đưa Bá Hi vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư hỏi Bá Hi rằng :

– Nước ta ở về nơi hẻo lánh xứ Đông Hải này mà nhà ngươi chẳng quản xa xôi, cố tìm tới, tất cũng có nghĩ được điều gì hay để bảo ta chăng ?

Bá Hi nói :

– Đời ông (Bá Châu Lê) và đời cha (Bá Khước Uyển) tôi vẫn một lòng tận trung với Sở. Nay cha tôi không có tội gì mà bị giết oan, tôi phải bơ vơ chạy trốn, nghe nói đại vương là người cao nghĩa, đã thu dùng Ngũ Viên, cho nên tôi đem thân tới đây, sống chết cũng ở trong tay đại vương vậy.

Hạp Lư có lòng thương, cho làm quan đại phu, để cùng với Ngũ Viên cùng bàn việc nước. Quan đại phu nước Ngô là Bị Ly hỏi riêng Ngũ Viên rằng :

– Ngài nghĩ thế nào mà tin Bá Hi như vậy ?

Ngũ Viên nói :

– Sự Oan uổng của Bá Hi, cũng chẳng khác gì sự Oan uổng của tôi. Tục ngữ có câu rằng :

“đồng bệnh tương liên” (cùng bệnh thì thương nhau), hẳn ngài chẳng còn lạ gì điều ấy.

Bị Ly nói :

– Ngài chỉ biết mặt ngoài chưa biết mặt trong. Tôi trông Bá Hi, mắt nhìn như mắt chim ưng, chân đi như dáng con hổ, thế là người tham nịnh tàn ác, chớ nên đến gần. Nếu người ấy được trọng dụng thì tất luỵ đến ngài.

Ngũ Viên không cho là phải, cùng với Bá Hi cùng thờ vua Ngô.

Lại nói chuyện công tử Khánh Ky trốn sang ở Ngải Thành, chiêu nạp kẻ hào kiệt, kết liên với lân quốc, muốn đợi thời để về nước Ngô đánh báo thù. Hạp Ly nghe tin ấy, bảo Ngũ Viên rằng :

– Việc Chuyên Chư ngày trước, thật ta nhờ sức nhà ngươi. Nay Khánh Ky lại muốn báo thù, ta ăn không biết ngon, nằm không được yên, nhà ngươi nên vì ta mà nghĩ giúp mưu kế.

Ngũ Viên nói :

– Tôi cùng với đại vương mưu việc giết Vương Liêu, cũng đã là bất trung rồi; nay lại mưu giết cả con Vương Liêu nữa, thế thì còn trời đất nào !

Hạp Lư nói :

– Ngày xưa vua Vũ vương nhà Chu đánh vua Trụ, lại giết cả Vũ Canh (con vua Trụ), người nhà Chu chẳng thấy ai chê cả. Nếu Khánh Ky hãy còn thì cũng như là Vương Liêu chưa chết, nhà ngươi chớ nên vì được điều nhỏ mọn mà gây nên cái tai vạ về sau. Ta phải có một tay như Chuyên Chư nữa thì việc này mới xong được ! Nhà ngươi tìm tòi những kẻ trí dũng kể đã lâu ngày, vậy nhà ngươi có biết ai không ?

Ngũ Viên nói :

– Khó nói lắm! Tôi có quen một người bé nhỏ, có thể bàn mưu được.

Hạp Lư nói :

– Khánh Ky sức khoẻ lắm, một người bé nhỏ thì làm gì nổi ?

Ngũ Viên nói :

– Người này dẫu bé nhỏ, nhưng sức khoẻ địch nổi muôn người.

Hạp Lư hỏi :

– Người nào thế ? Tại sao nhà ngươi biết là giỏi, thử nói ta nghe ?

Ngũ Viên nói :

– Người ấy họ là Yêu, tên là Ly, là người nước Ngô. Ngày xưa tôi thấy hắn dám nhiếc mắng một người tráng sĩ tên gọi Tiêu Khâu Tố, cho nên biết là người giỏi.

Hạp Lư hỏi :

– Việc người ấy mắng nhiếc một người tráng sĩ thế nào ?

Ngũ Viên nói :

– Tiêu Khâu Tố vốn người Đông Hải, có người bạn làm quan chết ở Ngô. Tiêu Khâu Tố sang Ngô để viếng bạn, đi qua bến Hoài Tân, toan cho ngựa xuống uống nước. Người giữ bến bảo Tiêu Khâu Tố rằng :

Con sông này có thuỷ thần, trông thấy ngựa thì hay bắt mất, ông đừng cho ngựa xuống uống nước”. Tiêu Khâu Tố nói :

“Có tráng sĩ đứng đây, thuỷ thần nào dám hiện lên”. Tiêu Khâu Tố liền sai người nhà dắt ngựa xuống sông cho uống nước. Qủa nhiên, con ngựa ấy rít lên mà sa xuống nước mất. Người giữ biến nói :

“Thuỷ thần bắt mất ngựa của ông rồi!” Tiêu Khâu Tố nổi giận, xoay trán người ra, rồi cầm kiếm nhảy xuống nước, để đánh nhau với thuỷ thần. Thuỷ thần hoá phép nổi sóng rất dữ dội, mà không làm gì nổi Tiêu Khâu Tố. Cách ba ngày ba đêm, Tiêu Khâu Tố ở dưới nước nổi lên, bị thần đánh mù mất một mắt. Khi đến nước Ngô, vào viếng tang người bạn, Tiêu Khâu Tố dửng dưng tự đắc thuật lại chuyện đánh thuỷ thần, có vẻ lên mặt với mọi người, thái độ không được khiêm tốn. Bấy giờ Yêu Ly cũng ngồi ở đấy, có ý bất bình, bèn bảo Tiêu Khâu Tố rằng :

“Nhà ngươi lên mặt với mọi người, muốn tự đắc là dũng sĩ đó chăng ? Ta nghe nói kẻ dũng sĩ đã đánh nhau với ai, chẳng thà chết chứ không chịu nhục; nay nhà ngươi đánh nhau với thuỷ thần, chịu mất ngựa không lấy lại được, lại bị hỏng mất một mắt, nghĩ nên hổ thẹn biết dường nào, thế mà còn đeo đẳng cái thân sống thừa, thế là đồ vô dụng ở trong khoảng trời đất, còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa!” Tiêu Khâu Tố bị nhục, có ý hổ thẹn, nín lặng không nói gì cả, rồi cáo từ lui ra. Chiều hôm ấy, Yêu Ly về nhà nói chuyện với vợ rằng :

“Hôm nay ta làm nhục một kẻ dũng sĩ là Tiêu Khâu Tố ở trong một đám tang, hắn căm tức vô cùng ! Đêm nay thế nào hắn cũng đến báo thù. Ta nên nằm sẵn ở giữa nhà để đợi hắn đến. Nàng chớ có đóng cửa.” Người vợ vốn biết dũng khí của chồng mới theo lời chồng bỏ ngõ cửa. Qủa nhiên Tiêu Khâu Tố nửa đêm hôm ấy giắt dao đến nhà Yêu Ly, trông thấy cửa ngỏ, mới đi thẳng vào, thấy Yêu Ly rũ tóc nằm ở phía dưới cửa sổ. Yêu Ly thấy Tiêu Khâu Tố đến, cứ nghiêm nhiên mặc kệ, không thèm cựa quậy, cũng không có ý sợ hãi. Tiêu Khâu Tố cầm dao kề vào cổ Yêu Ly mà kể tội rằng :

“Nhà ngươi có ba điều đáng chết, đã biết hay chưa ? Yêu Ly nói :

“Chưa biết”. Tiêu Khâu Tố nói :

“Nhà ngươi làm nhục ta trong đám tang, đó là một điều đáng chết; khi về nhà lại không biết lo xa, dám bỏ ngỏ cửa , đó là hai điều đáng chết; trông thấy ta mà không chạy trốn, đó là ba điều đáng chết. Thế thì tự nhà ngươi muốn chết, còn oán gì ta nữa !”. Yêu Ly nói :

“Ba điều ấy cũng chưa đáng chết, nhưng nhà ngươi có ba điều hèn, đã biết chưa ?” Tiêu Khâu Tố nói :

“Chưa biết”. Yêu Ly nói :

“ Ta làm nhục nhà ngươi trong đám đông người, mà nhà ngươi không dám nói lại một câu nào, đó là một điều hèn; nhà ngươivào nhà ta mà không lên tiếng, có ý lẻn trộm, đó là hai điều hèn; cầm dao kề vào cổ ta rồi mới nói khoác, đó là ba điều hèn. Nhà ngươi có ba điều hèn ấy, lại còn trách ta thì thật là đáng khinh lắm !” Tiêu Khâu Tố bèn rút dao lại mà khen rằng :

“Kể cái vũ dũng của ta, đời không mấy kẻ bàng, mà Yêu Ly lại còn hơn ta, thế thì thật là một dũng sĩ ! Nếu ta giết người dũng sĩ thì mang tiếng với đời, mà không giết thì ta cũng khó lòng mà gọi là vũ dũng được !” Tiêu Khâu Tố nói xong, liền ném dao xuống đất, đập đầu vào cửa sổ mà chết.

Ngũ Viên lại nói với Hạp Lư rằng :

– Trong khi Tiêu Khâu Tố đến viếng tang, tôi cũng có ngồi đấy, nên tôi biết rõ. Như thế, không phải là Yêu Ly sức khoẻ địch nổi muôn người sao ?

Hạp Lư nói :

– Nhà ngươi triệu đến đây cho ta.

Ngũ Viên đến gặp Yêu Ly và bảo rằng :

– Vua Ngô mến cái tài của nhà ngươi, muốn được gặp mặt.

Yêu Ly kinh sợ mà nói rằng :

– Ta là người thường dân hèn mọn, có tài giỏi gì mà dám ứng triệu.

Ngũ Viên hai ba lần giải bày những tình ý kính mến của vua Ngô, Yêu Ly mới theo Ngũ Viên vào triều. Hạp Lư lúc trước nghe Ngũ Viên khoe tài của Yêu Ly vẫn tưởng là người khôi ngô lạ thường, đến lúc trông thấy Yêu Ly hình thù thấp bé, mặt mũi xấu xa, có ý không bằng lòng, mới hỏi Yêu Ly rằng :

– Ngũ Viên nói Yêu Ly là dũng sĩ, có phải nhà ngươi đó chăng ?

Yêu Ly nói :

– Tôi bé nhỏ không có sức khoẻ, gió thổi mạnh thì ngã, nhưng đại vương muốn sai gì, tôi cũng xin cố làm !

Hạp Lư nín lặng, không nói gì cả. Ngũ Viên biết ý, liền tâu rằng :

– Con ngựa hay không cần to lớn, quí hồ sức khẻ, có thể mang nặng đi xa được thì thôi. Yêu Ly hình dáng dẫu xấu, nhưng tài trí lạ thường, nếu không dùng người ấy thì không thể thành sự được, xin đại vương chớ bỏ hoài !

Hạp Lư truyền dẫn Yêu Ly vào trong hậu cung và cho ngồi. Yêu Ly nói :

– Tôi xem ý đại vương, chắc là lo nghĩ về công tử Khánh Ky. Tôi có thể giết chết hắn được.

Hạp Lư cười mà bảo rằng :

– Khánh Ky sức khoẻ như voi, chạy nhanh hơn ngựa, ta e rằng nhà ngươi không địch nổi!

Yêu Ly nói :

– Giết được người ta, cốt ở trí khôn, không ở sức khoẻ, tôi được đến gần Khánh Ky thì giết hắn như cắt tiết con gà mà thôi.

Hạp Lư nói :

– Khánh Ky là người tài trí, vẫn hay chiêu nạp những kẻ vong mệnh (những người có tội đi trốn) ở bốn phương, thấy nhà ngươi là người khách ở nước Ngô đến, khi nào lại quá tin mà cho nhà ngươi đến gần ?

Yêu Ly nói :

– Khánh ky đã hay chiêu nạp những kẻ vong mệnh, định mưu hại nước Ngô, thì tôi xin giả cách làm một người có tội trốn đi. Xin đại vương hãy giết vợ con tôi, chặt cánh tay phải của tôi. Khánh Ky tất phải tin tôi mà cho đến gần, như thế mới có thể nên việc được !

Hạp Lư ngậm ngùi nói :

– Nhà ngươi không có tội gì, ta nỡ nào làm hại nhà ngươi như thế !

Yêu Ly nói :

– Tôi nghe nói vui vợ con mà không biết hết đạo thờ vua thì không gọi là trung được; ham cửa nhà mà không biết lo việc giúp vua thì không gọi là nghĩa được. Nếu tôi được nên danh trung nghĩa thì dẫu chết sạch cả nhà, cũng được thoa? lòng.

Ngũ Viên đứng bên cạnh, cũng nói với Hạp Lư rằng :

– Yêu Ly vì nước quên nhà, vì chủ quên mình, thế mới thật là bậc hào kiệt. Khi đã nên việc rồi, đại vương sẽ truy tặng cho vợ con y, để lưu danh tiếng về sau, thế là được !

Hạp Lư thuận cho. Ngày hôm sau, Ngũ Viên cùng Yêu Ly vào triều. Ngũ Viên xin cử Yêu Ly làm tướng, đem quân đi đánh Sở. Hạp Lư mắng rằng :

– Ta xem sức Yêu Ly, dẫu đánh một đứa trẻ con, cũng vị tất đã nổi, huống chi là đánh Sở ! Và ngày nay công việc trong nước mới yên, ta không muốn động binh.

Yêu Ly nói :

– Nếu vậy đại vương bất nhân quá! Ngũ Viên giúp đại vương được nước Ngô, mà đại vương khơng báo thù hộ cho Ngũ Viên hay sao?

Hạp Lư nổi giận mắng rằng :

– Nhà ngươi là một đứa gia nhân, biết đâu được việc lớn trong nước, sao lại dám đương triều nói hỗn với ta như vậy!

Nói xong truyền cho lực sĩ bắt Yêu Ly đem chặt một cánh tay phải đi, rồi giam vào trong ngục. Lại sai người bắt giam cả vợ con Yêu Ly nữa. Ngũ Viên thở dài mà lui ra. Triều thần đều không biết chủ ý thế nào cả. Mấy hôm, Ngũ Viên mật truyền cho quân canh ngục phải khoản đãi Yêu Ly. Yêu Ly thừa cơ lẻn trốn, gặp ai cũng kể những nổi oan khổ, rồi tìm đến nước Vệ, vào yết kiến công tử Khánh Ky. Khanh Ky nghĩ là nói dối, không nhận cho theo. Yêu Ly cởi áo ra cho Khánh Ky xem. Khánh Ky trông thấy cụt một cánh tay phải, mới tin là thực, liền hỏi rằng :

– Vua Ngô đã giết vợ con nhà ngươi, chặt cánh tay nhà ngươi, may nhà ngươi định theo ta làm gì?

Yêu Ly nói :

– Tôi nghe nói vua Ngô giết thân phụ công tử mà cướp mất ngôi vua, nay công tử kết liên với chư hầu, định về đánh báo thù, vậy tôi đem cái thân sống thừa này đến theo công tử, tôi đã biết rõ hết tình hình nước Ngô; với cái tài của công tử mà công tử lại dùng tôi làm hướng đạo thì chắc có thể về nước được. Công tử báo thù cho thân phụ, tôi cũng báo thù cho vợ con tôi.

Khánh Ky nghe nói, vẫn chưa lấy làm tin lắm. Được ít lâu, có người tâm phúc của Khánh Ky đi thăm ở nước Ngô về, đem việc vợ con Yêu Ly bị đốt ở giữa chợ, thuật lại cho Khánh Ky nghe. Khánh Ky mới thực lòng tin dùng Yêu Ly, hỏi Yêu Ly rằng :

– Ta nghe nói vua Ngô dùng Ngũ Viên và Bá Hi làm mưu chủ, luyện binh tuyển tướng, trong nước cường thịnh lắm, mà ta thì quân ít sức yếu, làm thế nào mà bảo thủ được ?

Yêu Ly nói :

– Bá Hi là đồ vô mưu, không lo gì người ấy; chỉ có một mình Ngũ Viên là trí dũng kiêm toàn, nhưng nay cũng đã có hiềm khích với vua Ngô rồi.

Khánh Ky nói :

– Ngũ Viên là ân nhân của vua Ngô, nay vua tôi nước Ngô đang tương đắc với nhau, sao bảo là có hiềm khích ?

Yêu Ly nói :

– Công tử mới biết một mà chưa biết hai. Ngũ Viên sở dĩ tận trung với vua Ngô là muốn mượn quân để đánh Sở mà báo thù cho cha anh, nay Sở Bình vương đã chết, Phí Vô Cực cũng chết, mà vua Ngô thì an hưởng phú quí, chẳng nghĩ đến việc báo thù cho Ngũ Viên. Tôi vì cớ nói giúp cho Ngũ Viên mà bị vua Ngô làm hại, tôi chắc rằng trong lòng Ngũ Viên cũng oán vua Ngô lắm ! Tôi trốn thoát được, cũng là nhờ cái công chu toàn của Ngũ Viên đó! Ngũ Viên có dặn tôi rằng :

“Đi chuyến này, thử dò xem ý công tử thế nào, nếu công tử chịu vì tôi báo thù thì tôi xin làm nội ứng cho công tử, để chuộc lại cái tội đồng mưu với vua Ngô năm xưa!” Nếu công tử không nhân dịp này đem quân về đánh, lại để cho vua tôi hắn lại liên hợp với nhau thì tôi dám nói quyết rằng cái thù của công tử và của tôi, chẳng còn ngày nào báo được.

Yêu Ly nói xong, khóc rầm lên rồi toan đập đầu vào vách mà chết. Khánh Ky vội vàng ôm lại mà bảo rằng :

– Khoan đã ! Ta xin theo lời nhà ngươi. Ta xin theo lời nhà ngươi!

Nói xong liền đem Yêu Ly về Ngãi Thành, dùng làm tâm phúc, sai luyện tập quân sĩ và sửa sang thuyền bè, định trong ba tháng nữa thì theo dòng sông mà tiến sang đánh quân Ngô. Khánh Ky và Yêu Ly cùng ngồi một thuyền. Khi đi đến giữa dòng, thuyền sau còn đi cách xa, Yêu Ly bèn nói với Khánh Ky rằng :

– Công tử nên ngồi lên mũi thuyền để ra lệnh cho quân sĩ.

Khánh Ky lên ngồi ở mũi thuyền. Yêu Ly chỉ còn một tay, cầm cái giáo ngắn đứng hầu. Bỗng giữa sông nổi lên một trận gió. Yêu Ly quay mình đứng về đầu gió, mượn sức gió thổi, cầm giáo đâm suốt vào bụng Khánh Ky, ngọn giáo thò ra phía sau lưng. Khánh Ky xách ngược Yêu Ly lên, dìm đầu xuống nước ba lần, rồi lại ẵm lên để lên trên đầu gối cúi nhìn mà cười, và bảo rằng :

– Thiên hạ lại còn có kẻ dũng sĩ này dám cả gan đâm ta ! Quân sĩ toan xúm lại để đâm Yêu Ly, Khánh Ky gạt đi mà bảo rằng :

– Người này là dũng sĩ! Chớ nên trong một ngày để chết hai dũng sĩ của thiên hạ. Đừng giết hắn làm gì, nên tha cho hắn về Ngô để tỏ lòng trung của hắn!

Khánh Ky đẩy Yêu Ly xuống dưới chân, rồi giơ tay rút ngọn giáo ra. Máu chảy như xối, Khánh Ky chết.

Chương 75: Tôn Vũ dạy cung nữ tập trận – Nang Ngoã bắt chư hầu lễ tiến

Khánh Ky gần chết dặn quân sĩ chớ giết Yêu Ly.

Yêu Ly nói :

– Ta có ba điều không thể dung được. Dẫu công tử tha ta, ta cũng không tham sống làm gì.

Mọi người đều hỏi :

– Ba điều gì không thể dung được ?

Yêu Ly nói :

– Vì đạo thờ vua mà giết cả vợ con, thế là bất nhân; vì vua mới mà giết con vua cũ, thế là bất nghĩa; nên việc cho người mà đến nỗi tàn hại cả thân thể, cả vợ con, thế là bất trí. Đã phạm ba điều ấy, còn mặt nũi nào mà đứng trên cõi đời nữa !

Yêu Ly nói xong, liền đâm đầu xuống sông. Người lái thuyền lại vớt Yêu Ly lên. Yêu Ly nói :

– Nhà ngươi vớt ta làm gì ?

Người lái thuyền nói :

– Nhà ngươi về nước, tất được tước lộc, sao lại không về ?

Yêu Ly nói :

– Đến vợ con mà tính mệnh ta cũng còn không tiếc huống chi là tước lộc. Các ngươi đem xác ta về Ngô mà lấy trọng thưởng.

Nói xong, giật lấy thanh kiếm của người đứng bên, chặt bỏ chân đi, rồi tự đâm cổ mà chết. Mọi người bèn rủ nhau đem thi thể Yêu Ly và Khánh Ky sang nộp vua Ngô là Hạp Lư. Hạp Lư bằng lòng, trọng thưởng cho mọi người, rồi dùng lễ thượng khanh an táng Yêu Ly ở dưới cửa thành mà khấn rằng :

– Nhà ngươi hãy đem thân dùng để giữ thành cho ta.

Hạp Lư lại truy tặng cho vợ con Yêu Ly, lập miếu thờ chung Yêu Ly với Chuyên Chư, dùng lễ công tử an táng Khánh Ky ở bên mộ Vương Liêu và đặt tiệc lớn để thết đãi triều thần. Ngũ Viên khóc mà tâu với Hạp Lư rằng :

– Những mối thù của đại vương, đều trừ được cả, còn mối thù của tôi, biết bao giờ mới trả xong!

Bá Hi cũng khóc lóc mà xin quân đánh Sở. Hạp Lư nói :

– Việc ấy để sáng mai sẽ bàn.

Ngày hôm sau, Ngũ Viên và Bá Hi lại vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư nói :

– Ta muốn vì hai người mà đem quân đánh Sở, nhưng chẳng biết dùng ai làm tướng được?

Ngũ Viên và Bá Hi đồng thanh đáp :

– Tùy ý đại vương, dẫu ai làm tướng chúng tôi cũng xin hết sức.

Hạp Lư nghĩ thầm Ngũ Viên và Bá Hi đều là người Sở, nếu họ đã báo thù xong thì khi nào chịu ra sức giúp mình nữa, mới nín lặng không nói gì cả, chỉ ngẩng mặt hứng gió nam mà thở dài.

Ngũ Viên hiểu ý, nói với Hạp Lư rằng :

– Đại vương sợ nước Sở lắm quân nhiều tướng hay sao ?

Hạp Lư nói :

– Chính thế!

Ngũ Viên nói :

– Tôi xin cử một người chắc chắn đánh được Sở.

Hạp Lư hớn hở hỏi :

– Nhà ngươi định cử ai ? Tài người ấy thế nào ?

Ngũ Viên nói :

– Người ấy họ Tôn tên Vũ, cũng là người nước Ngô ta.

Hạp Lư nghe nói là người nước Ngô, thì có ý mừng rỡ.

Ngũ Viên lại tâu rằng :

– Người này tinh thông thao lược, có làm ra mười ba thiên binh pháp, mà đời không mấy người biết tài. Hiện nay người ấy ẩn ở La Phù sơn. Nếu được người ấy làm quân sư thì cả thiên hạ cũng không ai địch nổi được, huống chi là Sở!

Hạp Lư nói :

– Nhà ngươi thử triệu đến đây cho ta.

Ngũ Viên nói :

– Người này không phải là kẻ tầm thường, phải đem lễ vật đến đón thì có lẽ mới chịu ra.

Hạp Lư theo lòi, mới lấy mười nén hoàng kim, một đôi bạch bích, sai Ngũ Viên đến La Phù sơn đón Tô Vũ. Ngũ Viên vào yết kiến Tôn Vũ, giải bày những tình ý kính mến của Hạp Lư. Tôn Vũ mới theo Ngũ Viên vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư xuống thềm chào đón, rồi mời ngồi, hỏi về binh pháp. Tôn Vũ đem mười ba thiên binh pháp đệ dâng Hạp Lư. Hạp Lư sai Ngũ Viên đọc cả lên một lượt. Ngũ Viên đọc. Mỗi khi đọc hết một thiên thì lại ngợi khen không ngớt. Mười ba thiên pháp ấy như sau đây :

1) Thuỷ kế thiên; 2) Tác chiến thiên; 3) Mưu công thiên; 4) Quân hình thiên; 5) Binh thế thiên; 6) Hư thực thiên; 7) Quân tranh thiên; 8) Cửu biến thiên; 9) Hành quân thiên; 10) Địa hình thiên; 11) Tưu địa thiên; 12) Hoa? công thiên; 13) Dụng gián thiên.

Hạp Lư ngảnh lại bảo Ngũ Viên rằng :

– Xem binh pháp này, thì biết cái tài thông thiên triệt địa của Tôn tiên sinh. Chỉ tiếc thay ta đây nước nhỏ quân ít, biết làm thế nào ?

Tôn Vũ nói :

– Binh pháp của tôi chẳng những dùng trong đám quân sĩ mà thôi, dẫu đến đàn bà con gái, biết theo hiệu lệnh của tôi, cũng có thể đi đánh giặc được.

Hạp Lư vỗ tay cười mà nói rằng :

– Sao tiên sinh nói viễn vông quá như vậy, lẽ nào đàn bà con gái mà lại sai cầm gươm tập trận được ?

Tôn Vũ nói :

– Đại vương bảo tôi nói viễn vông thì hãy xin cho phép tôi luyện tập các cung nữ, nếu không được thì tôi xin chịu tội.

Hạp Lư truyền đem ba trăm cung nữ giao cho Tôn Vũ luyện tập. Tôn Vũ nói :

– Xin đại vương chọn cho hai người sủng cơ (cung nữ được vua yêu) làm đội trưởng thì hiệu lệnh mới có thể thi hành được.

Hạp Lư lại truyền gọi hai người sủng cơ là Tả cơ và Hữu cơ đến trước mặt mà bảo Tôn Vũ rằng :

– Hai nàng này là người yêu của ta, phòng có làm đội trưỏong được không ?

Tôn Vũ nói :

– Làm được ! Nhưng phân việc binh tất phải có thưởng phạt thì hiệu lệnh mới được nghiêm chỉnh, xin đại vương cho lập một người làm chấp pháp, một người làm quân lại để tuyên bố hiệu lệnh, hai người làm cổ lại để cầm trống và mấy người làm nha tướng để cầm gươm giáo đứng ở trên đàn cho trọng sự thể.

Hạp Lư đều thuận cho cả. Tôn Vũ chia đám cung nữ ra làm tả đội và hữu đội; cho Tả cơ quân lính tả đội, còn Hữu cơ quân lính hữu đội. Hai đội đều mặc binh phục và cầm binh khí.

Tôn Vũ tuyên bố hiệu lệnh có ba điều :

1. Không được hỗn loạn hàng ngũ; 2. Không được cười nói rầm rĩ; 3. Không được có ý làm trái hiệu lệnh.

Tôn Vũ hẹn đến sáng hôm sau thì mọi người đều hội tại giáo trường (nơi luyên tập quân sĩ). Người nào cũng mình mặc áo giáp, đầu đội mũ trụ, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm mộc. Tả cơ và Hữu cơ thì trang phục như tướng quân, đứng ở hai bên, chờ Tôn Vũ thăng trường. Tôn Vũ thân hành ra chỉ bảo mẫu mực và bày thành trận thế. Lại truyền đem hai lá cờ vàng đưa cho Tả cơ và Hữu cơ để cầm đứng trước, còn các cung nữ đứng ở sau. Hai đội chực cả ở hai bên để nghe lệnh. Tôn Vũ hạ lệnh rằng :

– Hễ nghe thấy hồi trống thứ nhất thì hai đội đều đứng dậy cả, nghe hồi trống thứ hai thì tả đội quành về bên hữu, hữu đội quành về bên tả, nghe hồi trống thứ ba thì đều giơ kiếm ra như thể đánh nhau; hễ nghe thấy hiệu thanh la thì rút quân kéo lui.

Các cugn nữ đều bưng miệng cười. Viên cổ lại đánh một hồi trống. Các cung nữ kẻ ngồi kẻ đứng, không được đều nhau. Tôn Vũ đứng dậy mà nói rằng :

– Hiệu lệnh không rõ, diễn tập không đúng là tội quan tướng đó !

Tôn Vũ truyền cho viên quân lại truyền bá hiệu lệnh một lần nữa. Viên cổ lại đánh một hồi trống. Các cung nữ đều đứng dậy, nhưng nghiêng nghiêng vẹo vẹo, đổ xổ vào nhau, mà vẫn cười như trước. Tôn Vũ liền vén hai tay áo, cầm lấy dùi mà đánh trống, hiệu lệnh vẫn tuyên bố như trước. Tả cơ và Hữu cơ cùng các cung nữ đều cười ồ lên cả.

Tôn Vũ nổi giận, hai mắt trợn lên, tóc dựng trên đầu, liền gọi :

– Viên chấp pháp đâu !

Viên chấp pháp đến quỳ ở trước mặt. Tôn Vũ nói :

– Hiệu lệnh không rõ, diễn tập không đúng là tội tại quan tướng đó ! Đã tuyên bố hiệu lệnh mà quân sĩ không theo thì là tội tại quân sĩ đó! Cứ theo quân pháp, nên trị tội gì ?

Viên chấp pháp nói :

– Nên chém !

Tôn Vũ nói :

– Quân sĩ không thể giết hết được, ta nên trị tội hai viên đội trưởng !

Tôn Vũ truyền đem hai người nữ đội trưởng ra chém để làm gương. Các nha tướng trông thấy Tôn Vũ hầm hầm nổi giận, thì không dám trái mệnh, liền trói Tả cơ và Hữu cơ điệu ra. Hạp Lư ngồi ở trên đài trông thấy, vội vàng sai Bá Hi cầm cờ tiết đến nói với Tôn Vũ rằng :

– Ta đã biết tài dụng binh của tướng quân rồi. Nhưng hai nàng ấy là người nâng khăn sửa túi của ta và rất hợp ý ta. Ta không có hai nàng ấy thì ăn không biết ngon, xin tướng quân tha cho.

Tôn Vũ nói :

– Việc quân không phải là việc đùa! Tôi đã chịu mệnh làm tướng rồi thì khi ở trong quân, dẫu có mệnh vua, cũng không được phép theo nữa. Nếu theo mệnh vua, tha kẻ có tội thì sao cho quân sĩ phục !

Tôn Vũ truyền chém ngay Tả cơ và Hữu cơ, đem bêu đầu ở trước hàng quân. Các cung nữ đều sợ run cầm cập, không dám ngẩng nhìn. Tôn Vũ lại chọn hai người khác ở trong hai đội ấy cho làm tả đội trưởng và hữu đội trưởng, rồi nổi trống và tuyên bố hiệu lệnh :

hồi trống thứ nhất, đều đứng dậy cả; hồi trống thứ hai, đều đi vòng quanh; hồi trống thứ ba, hai bên cùng hợp chiến, khi nghe hiệu thanh la thì lui quân. Quân sĩ lúc tiến lúc lui, đều đúng khuôn phép, không sai một chút nào. Trong khi diễn tập từ trước đến sau ai nấy đều im lặng như tờ. Tôn Vũ bèn sai viên chấp pháp đến tâu với Hạp Lư rằng :

– Quân đội đã được chỉnh tề rồi, xin tùy ý đại vương điều khiển, bây giờ dẫu đại vương bảo nhảy vào đống lửa, cũng không ai dám lui tránh.

Hạp Lư thương Tả cơ và Hữu cơ lắm, sai làm lễ hậu táng ở Hoành Sơn, rồi lập đền thờ, gọi là Ái cơ tử. Vì lòng thương Tả cơ và Hữu cơ nên Hạp Lư mới có ý không muốn dùng Tôn Vũ. Ngũ Viên nói với Hạp Lư rằng :

– Đại vương muốn đánh Sở mà làm bá chủ thiên hạ, cho nên mong tìm được người tướng giỏi. Nhưng người tướng giỏi, cần nhất phải là một người quả quyết, nếu không có Tôn Vũ thì ai là người dám vượt sông Hoài, sông Tử, băng qua nghìn dặm mà sang đánh Sở bây giờ ? Gái đẹp dễ có, chứ tướng giỏi khó tìm, nay thương hai nàng ấy mà bỏ mất một tướng giỏi thì khác nào như tiếc đám cỏ xấu mà bỏ mất đám lúa tốt đó!

Hạp Lư nghe nói tỉnh ngộ, bèn phong Tôn Vũ làm thượng tướng quân, hiệu là quân sư, giao phó cho việc đánh Sở. Ngũ Viên hỏi Tôn Vũ rằng :

– Phải tiến quân từ chỗ nào ?

Tôn Vũ nói :

– Phàm việc dụng binh, trước hết phải giữ gìn mặt trong đã, rồi mới có thể đánh mặt ngoài được. Tôi nghe nói em Vương Liêu là Yểm Dư ở nước Từ, Chúc Dung ở nước Chung Ngô, hai người ấy đều muốn báo thù. Nay ta phải trừ bỏ hai người ấy, rồi sẽ tiến binh đánh Sở.

Ngũ Viên khen phải, tâu với Hạp Lư. Hạp Lư nói :

– Từ và Chung Ngô đều là nước nhỏ, ta sai sứ đến bảo bắt họ, tất họ phải theo lời.

Hạp Lư liền sai một người sang Từ bắt Yểm Dư và một người sang Chung Ngô bắt Chúc Dung. Vua Từ là Chương Vũ không nỡ để cho Yểm Dư chết, mới mật sai người báo Yểm Dư. Yểm Dư trốn đi, lại gặp Chúc Dung. Hai người bàn nhau chạy sang nước Sở. Sở Chiêu vương mừng mà nói rằng :

– Hai công tử ấy đều thầm oán nước Ngô, ta nên nhân lúc họ cùng khốn mà kết nạp.

Bèn cho hai công tử ở đất Thư Thành, để luyện tập quân mã mà chống nhau với nước Ngô. Hạp Lư giận nước Từ và nước Chung Ngô, sai Tôn Vũ đem quân đi đánh. Vua Từ là Chương Vũ chạy sang nước Sở. Tôn Vũ bắt vua nước Chung Ngô đem về, lại lẻn sang đánh Thư Thành, giết Yểm Dư và Chúc Dung. Hạp Lư muốn thừa thắng tiến vào đánh Sính Đô (kinh thành nước Sở), Tôn Vũ nói với Hạp Lư rằng :

– Dân đang mỏi mệt, chưa nên dùng vội.

Tôn Vũ nói xong, liền rút quân về. Ngũ Viên hiến kế rằng :

– Phàm ít mà thắng được nhiều, yếu mà thắng được mạnh là tất phải hiểu cái lẻ “dĩ dật đãi lao” ( mình thong thả khoẻ khoắn, chờ cho quân địch mệt nhọc, đến để đánh). Tấn Điệu công ngày xưa chia quân làm ba đạo để làm cho Sở phải khó nhọc, mới đánh được Sở ở đất Tiêu Ngư. Kẻ cầm quyền ở nước Sở ngày nay đều là những phường ngu dốt, không biết gì, xin đại vương cũng chia quân làm ba đạo để sang quấy nhiễu nước Sở. Cứ thay đổi nhau, Sở ra thì ta về, mà Sở về thì ta ra, khiến cho kẻ kia mệt mỏi, bấy giờ ta sẽ kéo cả ra mà đánh thì tất phải vỡ được.

Hạp Lư khen phải, mới chi quân làm ba đạo, cho sang quấy nhiễu bờ cõi nước Sở. Sở đem quân ra cứu. Ngô lại rút quân về, người nước Sở rất khổ sở.

Hạp Lư có người con gái yêu tên là Thắng Ngọc. Một hôm ăn tiệc, người nhà bếp dâng món cá hấp. Hạp Lư ăn một nửa, còn thừa đưa cho Thắng Ngọc. Thắng Ngọc giận, nói :

– Đại vương cho con cá ăn dở, thế là làm nhục ta, ta còn sống làm gì nữa.

Thắng Ngọc lui ra, rồi tự tử. Hạp Lư thương lắm, mới làm một cái lăng thật to ở ngoài Sương Môn, đào hào đắp luỹ, nhưng chỗ đất đào thành ra cái hồ lớn (tức là hồ Vũ Phần bây giờ); lại đục đá hoa để làm quách, bao nhiêu vàng bạc châu báu ở trong kho, đem chôn gần đến nửa phần; chôn thêm cả một thanh bảo kiếm là thanh kiếm Bản sinh, lại sai người múa bạch hạc (làm con hạc trắng đội mà múa) ở giữa chợ nước Ngô. Dân kéo đến xem kể hàng vạn người, nhân tiện bảo mọi người theo lối Toại môn ( cửa hang đi ngầm dưới đất vào huyệt) mà vào xem. Trong Toại môn có làm một cái máy. Khi dân đã kéo ồ cả vào, Hạp Lư liền cho giật máy cho cửa đóng sập lại, rồi đem đất lấp đi. Kể hàng vạn người vừa trai, vừa gái, đều chết tất cả.

Hạp Lư nói :

– Ta bắt hàng vạn người chết theo thì con gái ta ở dưới suối vàng, không đến nỗi cô quạnh.

Lại nói chuyện Sở Chiêu vương, một hôm đang nằm ở trong cung, bỗng sực thức dậy, thấy bên gối có hào quang sáng rực, liền ngoảnh lại trông thấy một thanh bảo kiếm. Sáng hôm sau, Chiêu vương sai triệu Phong Hồ Tử là một người giỏi xem kiếm, vào cung, rồi đưa thanh kiếm cho xem. Phong Hồ Tử trông thấy thanh kiếm, kinh sợ mà nói rằng :

– Đại vương lấy đâu được thế này ?

Sở Chiêu vương nói :

– Đêm qua ta ngủ dậy, bắt được ở bên gối, chẳng hay đó là thanh kiếm gì ?

Phong Hồ Tử nói :

– Đây là thanh kiếm “Trạm Lư” của một kiếm sư tên gọi Âu Giã Tử đúc ra. Ngày xưa vua nước Việt đúc được năm thanh kiếm. Vua nước Ngô là Thọ Mộng muốn lấy, vua nước Việt mới đem dâng ba thanh là “Ngư trường”, “Bản sinh”, và “Trạm lư”. “Ngư trường” là thanh truỷ thủ sau đâm chết Vương Liêu, thanh kiếm “Bản sinh” sau chôn theo con gái Hạp Lư, chỉ còn có một thanh kiếm “Trạm lư” này. Tôi nghe nói thanh kiếm này thiêng lắm, hễ vua làm điều trái lẽ thì thanh kiếm này biến mất; nó hiện ra ở nước nào thì nước ấy được cường thịnh. Nay vua Ngô giết Vương Liêu để cướp ngôi, lại chôn sống hàng vạn người theo con gái, người nước Ngô ai cũng oán giận, vậy nên thanh kiếm “Trạm lư” này bỏ chỗ vô đạo mà đến chỗ hữu đạo đó!

Sở Chiêu vương quí thanh kiếm “Trạm lư “ lắm, đeo luôn ở cạnh mình, lại tuyên bố cho người trong nước biết, lấy làm một cái điềm hay. Hạp Lư mất thanh kiếm, sai người đi dò tìm. Có kẻ báo là thanh kiếm ấy đã về nước Sở. Hạp Lư nổi giận nói :

– Đó tất là vua Sở đút tiền cho bọn thị vệ ta để lấy trộm thanh kiếm đây !

Hạp Lư tức thì giết chết mấy chục thị vệ vẫn hầu hạ chung quanh; lại sai Tôn Vũ, Ngũ Viên và Bá Hi đem quân đi đánh Sở, và sai sang mượn quân nước Việt. Vua nước Việt là Doãn Thường chưa tuyệt giao với Sở, không chịu phát binh. Khi bọn Tôn Vũ đã đánh được đất Lục và đất Tiềm của nước Sở rồi, không thấy có quân tiếp ứng, liền rút quân về. Hạp Lư giận nước Việt không chịu phát binh đánh Sở, toan quay sang đánh Việt. Tôn Vũ can rằng :

– Năm nay tuế tinh ở về địa phận nước Việt. Ta đánh Việt tất không lợi.

Hạp Lư không nghe, đem quân đánh Việt; phá vỡ quân Việt ở đất Huế Lý, cướp lấy của cải, rồi lại rút về. Tôn Vũ nói riêng với Ngũ Viên rằng :

– Sau bốn mươi năm nữa, chắc nước Việt sẽ cường thịnh mà nước Ngô phải suy vong!

Năm sau, quan lệnh doãn nước Sở là Nang Ngoã đem quân đánh Ngô, để báo thù trận đánh ỏo đất Lục và đất Tiềm khi trước. Hạp Lư sai Tôn Vũ và Ngũ Viên đem quân ra nghênh chiến, phá vỡ quân nước Sở ở đất Sào, bắt được tướng nước Sở là Can Phồn đem về. Hạp Lư nói :

– Chưa vào tới Sính Đô, thì dẫu phá vỡ quân Sỏo cũng là vô công.

Ngũ Viên nói :

– Tôi có lúc nào quên được Sính Đô đâu, chỉ vì nước Sở đang cường thịnh, không nên khinh thường. Nang Ngoã (quan lệnh doãn nước Sở) dẫu không được lòng dân, nhưng chư hầu chưa ai ghét cả. Tôi nghe Nang Ngoã hay ăn tiền, chẳng bao lâu chư hầu tất cả cũng sinh biến, bấy giờ ta sẽ nhân dịp mà đánh Sở.

Hạp Lư giao cho Tôn Vũ luyện tập thuỷ quân; còn Ngũ Viên thì ngày nào cũng sai người dò thám công việc nước Sở. Một hôm, nghe báo có nước Đường và nước Sái sai sứ sang thông hiếu, hiện đã tới cõi ngoài. Ngũ Viên mừng mà nói rằng :

– Đường và Sái đều là thuộc quốc của nước Sở, nay tự nhiên sai sứ sang thông hiếu với ta, tất đã có lòng oán Sở. Ấy là cơ hội trời khiến cho ta phá Sở, tiến vào Sính Đô đó.

Nguyên các nước thấy Sở Chiêu vương bắt được thanh kiếm “Trạm lư”, thì đều đến chúc mừng. Đường Thành công và Sái Chiêu công cùng đến. Sái Chiêu côgn có một đôi ngọc bội màu mỡ dê và hai chiếc áo cấu bằng lông điểu bạch, bèn đem mỗi thứ một chiếc dâng Sở Chiêu vương để làm lễ chúc mừng, còn thì để mình đeo mà mặt. Nang Ngoã trông thấy thích lắm, sai người đòi lấy. Đường Thành công có một đôi ngựa rất quí, tên gọi Túc Sương; Thành công đem đôi ngựa ấy thắng xe đi đến nước Sở, ngựa đi nhanh mà êm lắm. Nang Ngoã cũng có ý thích, sai người đòi lấy. Đường Thành công không cho.

Khi Đưòong Thành công và Sái Chiêu công vào triều kiến xong, Nang Ngoã nói dèm với Sở Chiêu vương rằng :

– Đường và Sái tư thông với Ngô, nếu tha cho về thì tất dẫn Ngô sang đánh Sở, chi bằng ta bắt giữ lại.

Sở Chiêu vương bèn truyền giam Đường Thành công và Sái Chiêu công ở quán xá, cho một nghìn quân cạnh giữ. Bấy giờ Sở Chiêu vương còn ít tuổi, quyền chính đều ở tay Nang Ngoã. Đường Thành công và Sái Chiêu công bị giam tại Sở, đã ba năm trời. Thế tử nước Đưòong không thấy Đường Thành công về, sai quan đại phu là công tôn Triết đến nước Sở thăm tin, mới biết là Đường Thành công bị giam. Công tôn Triết nói riêng với các thị vệ rằng :

– Chúa công ta tiếc đôi ngựa để chịu giam mãi ở nước Sở, sao lại trọng súc vật mà khinh nước nhà như thế! Chi bằng chúng ta lấy trộm đôi ngựa ấy đem dâng quan lệnh doãn nước Sở để chúa công được về. Khi chúa công về rồi, có trị chúng ta về tội lấy trộm ngựa thì chúng ta cũng cam lòng!

Thị vệ theo lời, liền đem rượu cho kẻ giữ ngựa uống thật say, rồi lấy trộm đôi ngựa đem dâng Nang Ngoã và nói với Nang Ngoã rằng :

– Chúa công tôi có lòng kính mến quan lệnh doãn, vậy sai chúng tôi đem đôi ngựa quý này đến dâng.

Nang Ngoã mừng lắm, nhận lấy đôi ngựa. Ngày hôm sau vào tâu với Sở Chiêu vương rằng :

– Nước Đường đất nhỏ quân ít, dẫu ta có tha cho về, cũng chẳng làm gì ta nổi.

Sở Chiêu vương nghe lời, tức thì tha cho Đường Thành công về nước. Khi Đường Thành công đã về đến nước Đường, công tôn Triết và các thị vệ đều sụp ở trước sân để xin chịu tội. Đường Thành công nói :

– Các ngươi không đem ngựa mà dâng đứa tham phu qấy thì sao cho ta được về nước. Đó là lỗi của ta, các người cũng đừng oán ta !

Đường Thành công trọng thưởng cho công tôn Triết và các thị vệ. Sái Chiêu công nghe nói Đường Thành công dâng ngựa được về, cũng đém áo cừu và ngọc bộ dâng Nang Ngoã. Nang Ngoã lại nói với Sở Chiêu vương rằng :

– Sái cũng như Đường, ta đã tha cho Đường thì còn giữ Sái làm gì nữa.

Sở Chiêu vương theo lời. Sái Chiêu công cáo từ lui về, trong lòng căm tức; khi đến sông Hán Thuỷ, bèn cầm viên bạch bích ném xuống sông mà thề rằng :

– Nếu ta không đánh được Sở mà lại qua sông này lần nữa thì xin chết như thế này !

Khi về nước, tức khắc cho thế tử Nguyên sang làm con tin tại nước Tấn, để mượn quân đánh nước Sở. Tấn Định công đem việc Nang Ngoã tham lam vào tố cáo với Chu Kính vương. Chu Kính vương sai quan khanh sĩ là Lưu Quyền đem quân đến giúp. Tống, Tề, Lỗ, Vệ, Trần, Trịnh, Hứa, Tào, Cừ, Châu, Đốc, Hồ, Đằng, Tiết, Kỷ, Tiêu Châu, Từ và Sái cả thảy mười bảy nước đều oán giận Nang Ngoã là người tham lam, đem quân theo Tấn. Sĩ Uông nước Tấn làm đại tướng, Tuân Di làm phó tướng, đem quân chư hầu hội ở đất Thiệu Lăng. Tuân Di nghĩ mình vì nước Sái mà đánh nước Sở là có công với nước Sái, nên cũng muốn đợi ăn tiền, bèn sai người bảo Sái Chiêu công rằng :

– Tôi nghe nói nhà vua có áo cừu và ngọc bội, đem dâng vua tôi nước Sở, sao đến nước tôi lại không có gì cả ? Chúng tôi vì nhà vua mà cất quân đi, đưòong xa hàng nghìn dặm, chẳng hay nhà vua định lấy gì mà khao thưởng quân sĩ của nước tôi ?

Sái Chiêu công nói :

– Tôi thấy quan lệnh doãn nước Sở là người tham lam, vậy nên bỏ Sở mà theo Tấn. Nay nếu ngài nghĩ cái nghĩa minh chủ mà đem quân đánh Sở thì năm trăm dặm đất ở xứ Kinh Tương kia đều là để khao thưởng quân sĩ cả, còn gì lợi hơn nữa !

Tuân Di nghe nói, có ý hổ thẹn. Bấy giờ trời mưa to luôn mãi, quan khanh sĩ nhà Chu bị bệnh sốt rét. Tuân Di nói với Sĩ Uông rằng :

– Ngày xưa Tề Hoàn công cường thịnh như thế mà còn chịu đóng quân ở Thiệu Lăng để giảng hoà với Sở. Tiên quân nước ta là Văn công chỉ đánh được Sở có một trận mà việc tranh chiến lan man mãi không thôi. Nước ta từ khi cùng Sở giảng hoà, hai bên vẫn không hiềm khích gì với nhau, vậy thì không nên gây ra việc tranh chiến. Huống chi độ này mưa nhiều nước lụt, bệnh sốt rét đang phát, tôi e rằng tiến lên vị tất đã đánh được Sở, mà lui về lại bị quân Sở đuổi theo, ta nên lo trước mới được.

Sĩ Uông cũng là một đứa tham phu, muốn ăn tiền của nước Sái, nhưng chưa được mãn nguyện, mới mượn cớ mưa nhiều nước lụt, tiến binh không lợi, cho thế tử Nguyên trở về nước Sái, rồi hạ lệnh rút quân. Các nước thấy nước Tấn rút quân, cũng đều rút quân về cả. Sái Chiêu công thấy các nước rút quân về, trong lòng chán ngán, khi về qua nước Thẩm, gị6n vua Thẩm không theo đánh Sở, mới sai quan đại phu là công tôn Tính đem quân đánh Thẩm, bắt vua Thẩm giết đi, để cho hả lòng oán Sở. Nang Ngoã giận lắm, đem quân đánh Sái, vây thành nước Sái. Công tôn Tính nói với Sái Chiêu công rằng :

– Ta không thể trông cậy ở nước Tấn được, chi bằng sang cầu viện nước Ngô. Các quan nước Ngô như Ngũ Viên và Bá Hi đều là cừu địch với Sở, tất thế nào cũng giúp ta.

Sái Chiêu công nghe lời, liền sai công tôn Tính sang ước với Đường Thành công để cùng đi mượn quân nước Ngô, lại cho người con thứ là công tử Kiền sang ở làm tin. Ngũ Viên đưa vào yết kiến Hạp Lư và nói với Hạp Lư rằng :

– Đường và Sái oán giận nước Sở mà xin làm tiên phong để sang đánh Sở. Cứu Sái là một tiếng tốt, đánh Sở là một lợi to. Đại vương muốn tiến binh vào Sính Đô thì nên nhân cơ hội này !

Hạp Lư nhận lời, sai công tôn Tính về trước để báo cho Sái Chiêu công biết.

Hạp Lư đang bàn việc tiến binh, bỗng nghe báo có quân sư là Tôn Vũ xin vào yết kiến. Hạp Lư mời vào. Tôn Vũ nói :

– Nước Sở khó đánh là vì có nhiều thuộc quốc, ta chưa dễ tiến đến tận nơi được. Nay vua Tấn xương lên một câu mà mười tám nước hợp :

trong mười tám nước ấy thì Trần, Hứa, Hồ và Đốn đều là thuộc quốc của Sở, mà cũng bỏ Sở theo Tấn, xem thế thì biết người ta đều oán Sở, chẳng những Đường và Sái. Phen này nước Sở cô thế rồi!

Hạp Lư bằng lòng, sai Bị Ly và Chuyên Nghị giúp thế tử Ba giữ nước, cho Tôn Vũ làm đại tướng. Ngũ Viên và Bá Hi làm phó tướng, công tử Phu Khái làm tiên phong, công tử Sơn đốc vận lương thực, rồi đem sáu vạn quân Ngô theo đường thuỷ qua sông Hoài, tiến sang nước Sái. Nang Ngoã thấy quân Ngô thế to lắm, liền giải vây nước Sái mà chạy về; lại sợ quân Ngô kéo quân sông Hán, mới đóng quân giữ ở đấy, và sai người về Sính Đô cáo cấp. Sái Chiêu công ra nghênh tiếp Hạp Lư, rồi vừa khóc vừa kể những tội ác của vua tôi nước Sở. Được một lúc, Đường Thành công cũng đến. Đường Thành công và Sái Chiêu công tình nguyện cùng theo đánh Sở. Lúc sắp khởi hành, Tôn Vũ truyền cho quân sĩ lên cả đường bộ, còn bao nhiêu thuyền bè cứ để ở khúc sông Hoài. Ngũ Viên thấy vậy, sẽ hỏi riêng Tôn Vũ.

Tôn Vũ nói :

– Ta đi đường thuỷ thì ngược nước mà chậm, khiến cho Sở phòng bị trước được, khó lòng phán nổi.

Ngũ Viên rất lấy làm phục. Đại binh nước Ngô qua đường Dự Chương tiến thẳng đến đóng ở phía bắc sông Hán, còn quân Sở đóng ở phía nam. Nang Ngoã ngày đêm chỉ lo quân Ngô tiến đến, nghe nói thuyền bè nước Ngô có ở sông Hoài, bấy giờ mới yên lòng. Sở Chiêu vương nghe tin quân Ngô sắp sang đánh, liền họp các quan lại để hỏi kế. Công tử Thân nói :

– Tài Tử Thường không phải là tài đại tướng. Đại vương nên sai quan tư mã là Thẩm Doãn Thư đem quân đi, giữ cho quân Ngô khỏi qua sông Hán. Kẻ kia đi xa xôi không có tiếp ứng thì tất không ở lâu được !

Sở Chiêu vương theo lời sai Thẩm Doãn Thư đem một vạn quân rưỡi hợp cùng Nang Ngoã để chống quân Ngô. Thẩm Doãn Thư đem quân tới nơi, Nang Ngoã đón vào. Thẩm Doãn Thư hỏi rằng :

– Quân Ngô đi đường nào mà đến đây được chóng như vậy ?

Nang Ngoã nói :

– Quân Ngô bỏ thuyền bè ở sông Hoài, rồi theo đường bộ qua Dự Chương tới đấy.

Thẩm Doãn Thư cười ha hả mà nói rằng :

– Người ta nói Tôn Vũ dụng binh như thần, cứ như ta xem thì khác nào trò trẻ.

Nang Ngoã nói :

– Sao vậy ?

Thẩm Doãn Thư nói :

– Người nước Ngô quen thạo thuyền bè, lợi về việc đánh thuỷ, nay lại bỏ thuyền bè ở khúc sông Hoài để đi cho chóng, vạn nhất thua trận thì lấy đường nào mà chạy về ? Ta nghĩ cũng nực cười!

Nang Ngoã nói :

– Quân kia hiện đang đóng ở phía bắc sông Hán, ta dùng kế gì mà phá được ?

– Tôi chia cho ngài năm nghìn quân. Ngài cứ theo dọc bờ sông Hán mà đóng đồn, bao nhiêu thuyền bè, bắt để cả ở bên này sông, lại sai quân thuỷ đi tuần khắp mặt sông, khiến cho quân Ngô không thể nào qua sông được, rồi tôi đem đại binh qua đường Tân Tức đi thẳng sang sông Hoài, đốt hết những thuyền bè của quân Ngô đi lại, dùng gỗ đá lấp con đường Hán Đông. Lúc bấy giờ ngài đem quân qua sông Hán đánh vào mặt trước, tôi đem quân đánh mặt sau. Kẻ kia thuỷ bộ đều nghẽn cả, không có đường mà chạy, chắc hẳn là ta bắt sống được vua tôi nước Ngô.

Nang Ngoã mừng lắm, nói :

– Tôi chịu kém cái tài cao đoán của quan tư mã !

Thẩm Doãn Thư cho quan đại tướng là Vũ Thành Hắc coi năm nghìn quân ở lại để giúp Nang Ngoã, còn mình thì đem đại binh tiến thẳng vào đường Tân Tức.

Chương 76: Hạp Lư tiến vào thành Sinh Đô – Ngũ Viên khai quật mộ vua Sở

Thẩm Doãn Thú đem quân đi rồi, quân Ngô và quân Sở vẫn chống giữ nhau ở hai bên bờ sông Hán. Được mấy ngày, Vũ Thành Hắc muốn du nịnh Nang Ngoã, mới nói với Nang Ngoã rằng:

– Quân Ngô bỏ thuyền lên cạn thì còn lấy gì làm tài giỏi, vả lại không thuộc địa thế, nên quan tư mã đã chắc là chúng tất thua. Nay quân ngô cố đánh đã trong mấy hôm mà không thể qua sông được thì tất sinh lòng trễ biếng, ta nên tiến binh sang mà đánh ngay.

Một người tướng yêu của Nang Ngoã tên gọi Sử Hoàng cũng nói:

– Người trong nước ngày nay yêu ngài thì ít, mà yêu quan tư mã thì nhiều. Nếu quan tư mã đem quân đốt được thuyền bè nước Ngô thì trận đánh Ngô này, quan tư mã được công đầu. Như ngài đây làm quan lệnh doãn, quyền cao chức trọng mà đã bị mấy lần thua trận, nay lại nhường cái công đầu ấy cho quan tư mã thì còn mặt mũi nào mà đứng đầu hàng trăm quan nữa ? Tôi chắc rằng quan tư mã tất thay ngài làm lệnh doãn mà thôi, chi bằng ta theo cái kế của Vũ Thành Hắc đem quân qua sông mà quyết một trận thắng phụ.

Nang Ngoã nghe lời, mới truyền tiến binh qua sông Hán sang bày trận ở Tiểu Biệt sơn. Sử Hoàng đem quân ra khiêu chíên. Tôn Vũ sai tướng tiên phong là công tử Phu Khái đem quân ra đối địch. Công tử Phu Khái chọn ba trăm quân dũng sĩ, đều dùng thứ gỗ tốt làm tay thước, gặp quân Sở đâu thì đánh túi bụi vào đầu. Quân Sở thấy vậy, đều kinh sợ không thể địch nổi, bị quân Ngô đánh cho một trận. Sử Hoàng thua to chạy về. Nang Ngoã bảo Sử Hoàng rằng:

– Nhà ngươi xui ta qua sông Hán, nay mới đánh có một trận mà đã bị thua, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa!

Sử Hoàng nói:

– Nay đại binh vua Ngô đón ở dưới núi Đại Biệt, chi bằng đêm nay đương lúc bất ngờ, ta đem quân sang đánh thì có thể bắt sống vua Ngô được.

Nang Ngoã theo lời, liền truyền một vạn quân, định đêm hôm ấy theo con đường tắt tiến sang Đại Biệt sơn. Tôn Vũ được tin công tử Phu Khái thắng trận, các tướng đều đến chúc mừng, bèn nói:

– Nang Ngõa là một người ngu dốt, nay Sử Hoàng thua trận, nhưng chưa lấy gì làm tổn hại cho lắm. Đêm nay tất thế nào cũng lẻn đánh đại dinh ta, ta nên phòng bị trước mới được.

Tôn Vũ bèn sai công tử Phu Khái và Chuyên Nghị đem quân bản bộ phục hai bên Đại Biệt sơn, và sai Đường Thành công cùng Sái Chiêu công chia quân làm hai đạo để tiếp ứng. Lại sai ngũ Viên đem năm nghìn quân lẻn sang tiểu Biệt sơn để đánh đại dinh của Nang Ngõa, còn Bá Hi thì đem quân tiếp ứng. Tôn Vũ lại sai công tử Sơn bảo hộ vua Ngô (Hạp Lư) sang đóng đồn ở núi Hán Âm để tránh nơi xung đột. Canh ba đêm hôm ấy, quả nhiên Nang Ngõa đem quân lẻn đến đại dinh của quân Ngô, thấy im lặng như tờ, chẳng có phòng bị gì cả; khi tiến vào trong dinh, cũng chẳng thấy vua Ngô đâu cả. Nang Ngoã biết có quân phục, vội vàng trở ra, bỗng gặp hai đạo quân của Chuyên Nghị và công tử Phu Khái ở hai bên đổ ra đánh. Đường Thành công quát to lên mà bảo Nang Ngoã rằng:

– Trả lại đôi ngựa túc sương của ta thì ta tha chết cho nhà ngươi!

Sái Chiêu công tử cũng quát to lên mà bảo rằng:

– Trả lại áo cừu và ngọc bội của ta thì ta tha cho!

Nang Ngoã vừa buồn vừa thẹn, vừa tức, vừa sợ. Trong khi nguy cấp, nay nhờ có toán quân của Vũ Thành Hắc kéo đến, cứu được Nang Ngoã chạy. Chạy được mấy dặm, nghe báo đại binh của mình đã bị tướng nước Ngô là Ngũ Viên cướp mất rồi, còn Sử Hoàng thua trận, không biết chạy đi đâu mất, Nang Ngoã kinh sợ chẳng còn hồn vía nào cả, bèn đem bại binh chạy sang đất Bách Cử. Sử Hoàng cũng đem đại binh đến đấy, hai người mới cùng lập đồn trại. Nang Ngoã nói:

– Tôn Vũ dụng binh thật là tài giỏi, chi bằng ta hãy trốn về, để xin thêm quân rồi sẽ đánh.

Sử Hoàng nói:

– Ngài đem đại binh đánh Ngô, nay bỏ mà trốn về, vạn nhất quân Ngô qua sông Hán, tiến thẳng vào Sính Đô thì cái tội ấy đổ cho ai được. Chi bằng ngài cố sức mà đánh, dẫu có chết tại trận, cũng còn để được tiếng thơm về sau.

Nang Ngoã còn đang ngần ngại thì nghe báo Sở Chiêu vương đã cho một toán quân đến tiếp ứng. Nang Ngõa vội vàng ra nghênh tiếp thì trông thấy quan đại tướng là Viễn Xạ. Viễn Xạ nói:

– Đại vương nghe tin thế quân Ngô to lắm, sợ quan lệnh doãn không thể đánh nổi, vậy sai tôi đem một vạn quân đến để trợ chiến.

Vĩễn Xạ lại hỏi đến chuyện đánh nhau trước. Nang Ngoã thuật lại nét mặt có ý bẽn lẽn. Viễn Xạ nói:

– Nếu quan lệnh doãn theo lời quan tư mã thì can gì đến nỗi thế này! bây giờ chỉ có một kế:

đào hào, đắp lũy, không đánh nhau nữa, đợi quân của quân tư mã về rồi cả hai sẽ hợp sức mà đánh.

Nang Ngoã nói:

– Chỉ vì ta khinh thường sang đánh đại binh quân Ngô, thành bị quân Ngô cướp mất đại binh của mình, chứ nếu hai bên cứ đối trận với nhau thì quân Ngô cũng chẳng mạnh hơn quân Sở ta được. Nay tướng quân mới đến đây, nên nhân cái nhuệ khí của ta mà quyết một trận.

Viễn Xạ không nghe, lập riêng một nơi đồn trại khác, cách đồn trại Nang Ngoã những hơn mười dặm. Nang Ngoã cậy mình quyền cao chức trọng, không sợ Viễn Xạ. Viễn Xạ cũng khinh Nang Ngoã là người ngu dốt, có ý không chịu. Hai bên thành ra bất hoà, việc gì cũng không bàn bạc với nhau nữa. Tướng nước Ngô là công tử Phu Khái dò biết là Nang Ngoã và Viễn Xạ bất hoà với nhau, mới vào nói với vua Ngô rằng:

– Nang Ngoã tham mà bất nhân, có nhiều người oán; Viễn Xạ dẫu đến trợ chiến, nhưng không chịu theo hiệu lệnh, bởi vậy quân sĩ đều sinh lòng trễ biếng, nếu ta đánh thì có thể phá vỡ được.

Hạp Lư không nghe, công tử Phu Khái lui ra mà nói rằng:

– Dẫu đại vương không nghe, nhưng ta cũng cứ đi, may ra phá vỡ quân Sở thì có thể tiến vào Sính Đô được.

Sáng hôm sau, công tử Phu Khái tự đem quân bản bộ sang đánh Nang Ngõa. Tôn Vũ nghe tin, vội vàng sai Ngũ Viên đem quân đi tiếp ứng. Công tử Phu Khái tiến vào đánh trại Nang Ngoã, Nang Ngõa không phòng bị gì cả. Trong trại náo loạn. Vũ Thành Hắc liều chết để đánh. Nang Ngõa không kịp lên xe, đi đất chạy ra sau trại, đùi chân trái bị một mũi tên, may nhờ có Sử Hoàng đem quân đến, vực Nang Ngõa lên xe và bảo Nang Ngõa rằng:

– Quân lệnh doãnh liệu mà tránh đi, còn tôi xin liều chết ở đây.

Nang Ngõa cỡi bỏ áo bào ra, rồi ngồi xe đi thẳng, không dám trở về Sính Đô, mà trốn sang Trịnh. Ngũ Viên tiến quân đến nơi. Sử Hoàng sợ Ngũ Viên đuổi theo Nang Ngoã, mới cầm kích xông vào đánh, giết chết quân Ngô hơn hai trăm người. Quân Sở chết hại cũng độ số ấy. Sử Hoàng bị trọng thương mà chết. Vũ Thành Hắc đánh nhau với công tử Phu Khái, nhưng đánh không nổi cũng bị công tử Phu Khái chém chết. Con Viễn Xạ là Viễn Diên nghe tin Nang Ngõa bị thua, vào nói với cha, xin đem quân ra cứu. Viễn Xạ không cho, lại thân hành ra đứng ở cửa dinh, nghiêm cấm quân sĩ không ai được náo động, nếu náo động thì chém. Đại binh của Nang Ngoã đều về với Viễn Xạ. Viễn Xạ điểm lại, còn có hơn một vạn; mới hợp cả lại, thành một đạo quân, bấy giờ quân thế lại mạnh. Viễn Xạ nói:

– QUân Ngô thừa thắng kéo đến đây thì ta không thể địch nổi, chi bằng ta nhân lúc quân Ngô chưa đến mà rút về Sính Đô, rồi sau sẽ liệu.

Viễn Diên đi trước, Viễn Xạ đi sau. Công tử Phu Khái nghe tin Viễn Xạ rút về, liền đem quân đuổi theo, đến đất Thanh Phát, thấy quân Sở đanh sắp thuyền quan sông. Quân Ngô toan xông vào đánh. Công tử Phu Khái can rằng:

– Dẫu giống thú mà mình làm quá lắm, nó còn cắn lại huống chi là người. Nay ta xông vào đánh gấp thì tất họ phải liều chết để cự lại, chi bằng ta hãy tạm đóng quân một nơi, đợi khi quân Sở qua sông được nửa chừng, bấy giờ sẽ đổ ra mà đánh. Ta chắc rằng quân Sở kẻ nào đã qua sông rồi thì mong được thóat nạn, kẻ nào chưa qua thì tranh nhau mà sang, còn ai muốn đánh nữa.

Công tử Phu Khái tức thì lui hai mươi dặm đóng quân lại. Khi bọn Tôn Vũ kéo đến, nghe thuật lại lờinói của công tử Phu Khái, ai cũng khen phải. Hạp Lư bảo Ngũ Viên rằng:

– Ta có người em như thế thì lo gì mà không tiến vào Sính Đô được.

Ngũ Viên nói:

– Tôi nghi Bị Ly đã có xem tướng công tử Phu Khái, nói Phu Khái là người chân lông mọc ngược, tất có ngày phản nghịch. Dẫu người ấy tài giỏi thật, nhưng chớ nên trao quyền cho.

Hạp Lư nghe nói, không cho là phải. Viễn Xạ nghe tin quân Ngô đuổi theo, đã toan bày trận để đối địch, sau lại nghe tin quân Ngô kéo lui, mới mừng mà nói rằng:

– Ta vẫn biết người nước Ngô nhát, không dám đuổi kỳ cùng!

Viễn Xạ hạ lệnh cho quân sĩ sắp sửa để qua sông. Mười phần quân Sở mới qua sông được ba thì công tử Phu Khái đem quân đến. Quân Sở tranh nhau sang đò, thành ra đại loạn. Viễn Xạ không thể nào ngăn cấm được nữa, phải bỏ mà chạy trốn. Quân Ngô theo sau đuổi đánh, cướp được cờ trống gươm giáo rất nhiều. Tôn Vũ sai quân Đường và quân Sái cướp lấy thuyền bè dưới sông để phòng khi dùng đến. Viễn Xạ chạy đến đất Ung Lạp, quân sĩ đều đói, không thể đi được, nhưng mừng răng chạy được xa rồi, mới cùng nhau thổi cơm ăn. Khi cơm vừa chín thì quân Ngô lại kéo đến. Quân Sở chưa kịp ăn phải bỏ cả cơm mà chạy. Quân Ngô sẵn cơm, liền ăn cho no rồi lại đuổi theo. Quân Sở ngã xéo lên nhau, chết hại không biết bao nhiêu mà kể! Viễn Xạ đổ xe, bị công tử Phu Khái đâm chết. Con Viễn Xạ là Viễn Diên cũng bị quân Ngô vây kín. Viễn Diên cố sức đánh mà không thể ra thóat được.

Bỗn nghe ở phía đông bắc, lại có tiếng quân reo. Viễn Diên nói:

– Quân Ngô lại kéo đến nữa thì tính mệnh ta không toàn!

Nguyên đó là toán quân của quan tư mã Thẩm Doãn Thú kéo sang Tân Tức, nhưng nghe tin Nang Ngoã thua trận, mới theo đường cũ lui về. Về đến đất Ung Lạp, vừa gặp quân Ngô đang vây Viễn Diên. Thẩm Doãn Thú mới chia quân làm ba toán mà tiến vào. CÔng tử Phu Khái không thể địch nổi, phải giải vây mà chạy. Thẩm Doãn Thú cố đánh một trận. Quân Ngô chết mất hơn nghìn người. Thẩm Doãn Thú toan đuổi theo thì gặp đại binh của Hạp Lư đến. Hai bên cùng đóng quân lại để chống giữ nhau. Thẩm Doãn Thú bảo kẻ gia thần là Ngô Câu Ti rằng:

– Quan lện doãn vội đánh, làm cho kế của ta không thành chẳng qua cũng là lòng trời. nay thế giặc đã to quá, âu là sáng mai ta quyết chiến một trận, may mà thắng thì là phúc cho nước Sở, nhược bằng không thắng thì ta xin gửi nhà ngươi giữ hộ cái đầu của ta, chớ để co quân Ngô bắt đươc.

Thẩm Doãn Thú lại bảo Viễn Diên rằng:

– Thân phụ nhà người đã chết về tay giặc, thì nhà ngươi không nên chết nữa, nên mau mau về đi mà nói với Tử Tây (tên tự của công tử Thân) để nghĩ cách giữ Sính Đô mới được.

Viễn Diên sụp lạy nói rằng:

– Xin quan tư mã cố sức đánh giặc Ngô để lập nên cônng lớn.

Nói xong, nước mắt chảy xuống ròng ròng, Viễn Diên từ biệt Thẩm Doãn Thú rồi đi. Ngày hôm sau, hai bên bày trận giao chiến. Thẩm Doãn Thú xưa nay xử với quân sĩ rất có ân nghĩa; quân sĩ cảm cái ơn ấy đều cố sức đánh giặc. Công tử Phu Khái dẫu có tài vũ dũng, nhưng khônng thể địch nổi, đã sắp phải thua chạy. May gặp đại binh của Tôn Vũ, phía hữu có Ngũ Viên và Sái Chiêu công, phía tả có Bá Hi và Đường Thành công, cùng nhau xông vào đánh quân Sở. Quân Sở bỏ chạy tán loạn, Thẩmm Doãn Thú bị mấy mũi tên, nằm gục ở trên xe, không thể đánh được nữa, liền gọi Ngô Câu Ti mà bảo rằng:

– Ta nay đã thành ra người vô dụng rồi, nhà ngươi nên mau mau lấy đầu ta mà đem về tâu với đại vương.

Ngô Câu Ti không nỡ. Thẩm Doãn Thú cố sức gào lên một tiếng, rồi nhắm mắt lại. Ngô Câu Ti bất đắc dĩ cầm thanh kiếm chém lấy đầu Thẩm Doãn Thú, rồi bọc lại mà mang về Sính Đô. Quân Ngô thừa thế, cứ việc thẳng đường mà tiến. Viễn Diên về trước, vào yết kiến Sở Chiêu vương, kể chuyện Nang Ngõa và chuyện thân phụ mình là Viễn Xạ bị giết, vừa kể vưa khóc. Sở Chiêu vương kinh sợ, vội vàng triệu bọn công tử Thân và công tử Kết đến để thương nghị , toan đem quân ra tiếp ứng. Bỗng thấy Ngô Câu Ti đến, đệ trình cái đầu Thẩm Doãn Thú và thuật lại nguyên nhân thua trận là bởi quan lệnh doãn không theo kế của quan tư mã.

Sở Chiêu vương khóc mà nói rằng:

– Ta không biết dùng quan tư mã ngay từ trước, ấy là lỗi của ta!

Sở Chiêu vương xỉ mắng Nang Ngõa thậm tệ. Ngô Câu Ti nói:

– Quân Ngô mỗi ngày một tiến, đại vương nên nghĩ cách giữ lấy Sính Đô.

Sở Chiêu công một mặt sai người triệu con Thẩm Doãn Thú là Thẩm Chư Lương đến để đem đầu cha về làm lễ an táng, lại phong cho Thẩm Chư Lương làm Diệp công; một mặt bàn bỏ Sính Đô chạy về phía tây.

Công tử Thân khóc mà can rằng:

– Xã tắc, lăng tẩm ở Sính Đô cả, nếu đại vương bỏ đi thì biết bao giờ lại về được!

Sở Chiêu vương nói:

– Nước Sở ta chỉ hiểm về sông Hán, nay quân Ngô đã sắp kéo đến nơi, chẳng lẽ ta cứ bỏ tay ngồi chịu trói hay sao!

Công tử Kết nói:

– Tráng dinh trong thành hãy còn mấy vạn. Đại vương nên đem thóc lúa trong kho ban thưởng cho mọi người, để họ cảm ơn mà cố sức chống giữ; lại sai sứ sang bảo các nước Hán đông đem quân vào giúp ta. Quân Ngô tiến vào đất ta lương thực khó vận, tài nào ở lâu được.

Sở Chiêu vương nói:

– quân Ngô lấy lương ở nước ta chứ lo gì thiếu ăn. Ta xem như Đốn, Hồ theo Tấn; Trần, Sái theo Ngô thì biết là cách thuộc quốc đều bỏ ta cả, ta còn trông cậy nỗi gì!

Công tử Thân lại nói:

– Tôi xin đem quân ra, cố sức đánh giặc, nếu đánh không được, bấy giờ sẽ chạy, cũng chưa lấy gì làm chậm.

Sở Chiêu vương nói:

– Nước ta còn hay là mất, nay ở tay hai anh (trỏ công tử Thân và công tử Kết) nên làm thế nào thì hai anh cứ làm ta đây cũng không cần biết.

Sở Chiêu vương gạt nước mắt vào cùng. Công tử Thân và công tử Kết thương nghị, sai đại tướng là Đấu Sào đem năm nghìn quân ra giữ Mạc Thành để phòng đường bắc, quan đại tướng là Tống Mộc đem năm nghìn quân ra giữ Kỷ Nam thành để phòng đườn tây bắc. Công tử Thân đem một vạn quân đóng ở Lỗ Phục giang để phòng mặt đông. Chỉ còn phía tây Xuyên Giang, phía nam Tương Giang, đều là nơi hiểm trơ, không phải là đường quân Ngô tiến vào, thì không phòng bị. Công tử Kết đem bọn công tôn Do Vu, công tôn Ngữ, Chung Kiện, Thân Bao Tư đi tuần ở trong thành rất là nghiêm mật. Vua Ngô là Hạp Lư họp các tướng để hỏi kỳ tiến vào Sính Đô.

Ngũ Viên nói với Hạp Lư rằng:

– Quân Sở dẫu thua luôn, nhưng Sính Đô vẫn còn toàn thịnh. Vả lại ba thành liên tiếp với nhau, chưa dễ đánh nổi; Lỗ Phục giang ở phía tây là một lối tắt vào Sở, tất Sở có quân phòng bị. Nay ta cứ theo mặt bắc tiến vào, chia quân làm bao đạo:

một đạo đánh Mạch Thành; một đạo đánh Kỷ Nam thành; còn đại vương thì đem đại binh kéo thẳng vào Sính Đô. Như vậy thì khác nào sấm sang không kịp bưng tai, kẻ kia giữ chỗ này mất chỗ nọ, ta có thể phá vỡ Sính Đô được.

Tôn Vũ khen phải. Hạp Lư liền sai Ngũ Viên và công tử Sơn đem một vạn quân đi đánh Mạch Thành, quân Sái theo giúp đạo ấy; Tôn Vũ và công tử Phu Khái đem một vạn quân đi đánh Kỷ Nam thành, quân Đường theo giúp đạo ấy; còn mình thì cùng với bọn Bá Hi đem đại binh tiến vào đánh Sính Đô. Ngũ Viên đi mấy ngày, đã gần đến Mạch Thành, nghe nói có quan đ.ai tướng nước Sở là Đấu Sào đóng quân ở đấy, liền sai lập đồn trại rồi thay hình đổi dạng, cùng với hai tên lính đi xem xét hình thế. Ngũ Viên đi đến một làng, thấy người trog làng đang bắt con lừa xay lúa mạch. Người ấy cầm roi đánh con lừa, con lừa chạy thì cái cối xay quay chuyển đi, rồi bột lúa mạch lấm tấm roi xuống. Ngũ Viên thấy vậy, sực nghĩ ra mà rằng:

ta tìm được kế để phá Mạch Thành rồi!

Ngũ Viên liền trở về dinh, mật truyền cho quân sĩ, mỗi người phải tìm một cái túi vải, trong đó có chứa đất, lại phải làm một bó cỏ, hẹn đến đầu canh năm sáng hôm sau thì đem nộp, ai không có sẽ chém; đến đầu canh năm sáng hôm sau, lại truyền lệnh mỗi người phải có bao nhiêu đá vụn, nếu không cũng chém. Sáng hôm nay, Ngũ Viên chia quân làm hai đạo:

Sái Chiêu công đem một đạo quân đến phía đông Mạch Thành còn công tử Kiên (con Sái Chiêu công) đem một đạo quân đến phía tây Mạch Thành, hai đạo đều truyền cho quân sĩ đem đất đá và cỏ, đắp thành một cái thành nhỏ. Ngũ Viên thân hành đứng đốc xuất quân sĩ, chỉ trong một lúc thì đắp xong. Một cái thành hẹp mà dài, giống hình con lừa, gọi là Lư thành, còn mọot cái thành tròn, giống hình cối xay, gọi là Ma thành, Sái Chiêu công không hiểu ý ra làm sao cả.

Ngũ Viên cười mà nói rằng:

– Phía đông có con lừa, phía tây có cối xay thì tất xay nhỏ được bột lúa mạch.

Đấu Sào ở Mạch Thành nghe tin quân Ngô đặp hai thành ở phía đông và phía tây, vội vàng đem quân ra đánh. Khi đến nơi Đấu Sào thấy hai thành đắp đã vững rồi. Đấu Sào đến thành phía đông. Trên thành cắm cờ san sát, tiếng mõ đánh không lúc nào im. Đấu Sào giận lắm toan xông vào đánh thì thấy cửa thành mở rộng, có một viên thiếu niên tướng quân đem quân ra nghênh chiến. Đấu Sào hỏi họ tên. Viên tướng quân đáp rằng:

– Ta đây là con vua Sái, tên gọi công tử Kiền.

Đấu Sào nói:

– Đứa nhụ tử kia không phải là tay đối địch với ta. Chẳng hay Vũ Viên ở đâu mà không thấy ?

Công tử Kiền nói:

– Ngũ Viên đã đi đánh Mạch Thành của nhà ngươi rồi.

Đấu Sào càng giận, cầm kích xông vào đánh công tử Kiền. Hai bên đánh nhau độ hơn hai mươi hợp, bỗng có quân thám tử đến báo với Đấu Sào rằng:

– Quân Ngô đã đến đánh Mạch Thành, xin tướng quân mau mau rút quân về.

Đấu Sào sợ mất sào huyệt, vội vàng rút về. Quân sĩ thấy vậy sợ hãi, thành rối loạn. Công tử Kiền thừa thế đánh một trận, nhưng không dám đuổi theo. Đấu Sào về đến Mạch Thành, gặp Ngũ Viên đang dàn quân để vây thành. Đấu Sào chào Ngũ Viên mà bảo rằng:

– Lâu nay ngài vẫn mạnh giỏi chứ ? sự Oán thù đời trước của nhà ngài là do Phí Vô Cực gây ra, nay đứa du nịnh ấy đã bị giết rồi, ngài còn căm tức nỗi gì nữa! cái ơn ba đời làm quan nước SỞ, tôi tưởng ngài chưa thể quên được!

Ngũ Viên đáp rằng:

– Tiền nhân ta có công to với Sở, vua Sở không nghĩ đến lại giết oan cha anh ta và muốn giết cả ta nữa. May mà có trời giúp, ta mới thóat được nạn, chịu cay đắng trong mười chín năm nay cho đến bây giờ. Nhà ngươi có xét tình thì mau mau tránh ra xa, chớ có cùng ta xung đột, để bảo toàn lấy tính mệnh.

Đấu Sào liền mắng rằng:

– Đứa phản tặc kia, nếu ta tránh mày thì còn ra thế nào!

Đấu Sào bèn cầm kích xông vào đánh Ngũ Viên. Ngũ Viên cũng cầm kích ra nghênh chiến. Hai bên đánh nhau, mới được mấy hợp, Ngũ Viên bảo Đấu Sào rằng:

– Nhà ngươi đã mệt nhọc rồi, ta cho nhà ngươi vào thành, đến sáng mai sẽ đánh.

Đấu Sào nói; – Ngày mai sẽ quyết chiến một trận!

Hai bên cùng rút quân. Người trong Mạch Thành liền mở cửa để đón quân Đấu Sào vào. Đến nửa đêm, tự nhiên trên mặt thành nghe có tiếng reo:

“quân Ngô đã vào trong thành rồi!” nguyên trong quân Ngũ Viên có nhiều người trước là quân Sở sang đầu hàng, bởi vậy Ngũ Viên cố ý thả cho Đấu Sào vào thành, rồi sai những quân ấy trà trộn với quân Sở mà lẻn vào trong thành đợi đến nửa đêm sẽ giòng dây qua mặt thành đã có hơn một trăm quân Ngô đương reo ầm cả lên; ở ngoài thành thì có quân Ngũ Viên tiếp ứng. Quân Đấu Sào thấy vậy, bỏ chạy tán loạn. Đấu Sào ngăn cấm không được, cũng phải bỏ chạy. Ngũ Viên không đuổi theo nữa, chiếm lấy Mạch Thành rồi sai người báo với Hạp Lư.

Tôn Vũ đem quân qua Hổ Nha sơn quanh vào đông Dương Bản, trông thấy sông Chương Giang ở phía bắc thế nước to lắm, Kỷ nam thành thì thế đất hơi thấp, phía tây có Xích Hồ, nước hồ thông vào Kỷ Nam thành và Sính Đô. Tôn Vũ nghĩ ngay một kế, truyền cho quân sĩ lên đón cả ở gò cao, sắp sẵn thuổng cuốc, đến đem hôm ấy thì đào một cái ngòi sâu, tháo nước sông Chương Giang cho chảy vào Xích Hồ, lại đắp một cái đê dài chắn nước, làm cho mặt nước cao hơn mặt đất hai ba trượng.

Bấy giờ vừa gặp mùa đôg, gío tây nổi lên, Tôn Vũ liền tháo nước cho chảy vào Kỷ Nam thành. Quan trấn thủ ở Kỷ Nam thành tên gọi Tống Mộc, tưởng là nước lên, truyền cho dân chạy về Sính Đô để tránh nước; chẳng ngờ thế nước mỗi ngày một lớn, cả xứ Sính Đô cũng trắng xoá như bể. Tôn Vũ sai người đẵn tre ở trên núi ghép làm thuyền bè. Quân Ngô tiến thẳng đến tận kinh thành nước Sở, bấy giờ người nước Sở mới biết là quân Ngô tháo nước sông Chương Giang, ai cũng sợ hãi, bỏ chạy tán loạn. Sở Chiêu vương biết là Sính Đô không thể giữ nổi, mới sai Trâm Doãn Cố sắp thuyền, rồi cùng em gái là Qúi Vu cùng xuống thuyền để chạy. Công tử Kết đang đứng trên mặt thành thúc quân giữ nước, nghe nói Sở Chiêu vương đã xuống thuyền chạy, bất đắc dĩ cũng phải chạy theo. Tôn Vũ phụng Hạp Lư tiến vào trong thành, rồi sai người đi phá cái đê ngang chắn nước, nước lại rút về sông Chương Giang rồi chia quân đi giữ các mặt. Ngũ Viên ở Mạch Thành cũng đến yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư ngồi ở trên điện Sở Chiêu vương, các quan triều thần đều vào lạy mừng. Đường Thành công và Sái Chiêu công cũng vào yết kiến. Hạp Lư mừng lắm bày tiệc mua vui. Đêm hôm ấy, Hạp Lư ngủ ở trong cung Sở Chiêu vương.

Các thị vệ bắt được Sở Chiêu vương phu nhân, đem dâng Hạp Lư. Hạp Lư toan cho vào hầu, nhưng còn ngần ngại. Ngũ Viên bảo Hạp Lư rằng:

– Nước còn chiếm lấy, huống chi là vợ!

Hạp Lư mới cho vào hầu. Có người tâu với Hạp Lư, nói mẹ Sở Chiêu vương là nàng Bá Doanh, tức là vợ thế tử Kiền, khi trước Sở bình vương thấy đẹp chiếm lấy, nay cũng mới đứng tuổi, chưa lấy gì là già. Hạp Lư động lòng, sai người đến triệu. Bá Doanh không chịu ra. Hạp Lư nổi giận, sai người đi bắt. Bá Doanh đóng chặt cửa phòng lại, rồi lấy thanh kiếm đập vào cửa mà nói rằng:

– Thiếp nghe nói vua là tiêu biểu cho một nước. Cứ theo lễ thì trai gái không ngồi cùng giường, không ăn cùng mâm, để giữ cho có phân biệt. Nay nhà vua trái lễ mà bày cái gương dâm loạn cho người trong nước. Kẻ vị vong này sẽ đâm cổ mà chết, chứ không dám theo lời!

Hạp Lư hổ thẹn, xin lỗi mà rằng:

– Ta vì kính mến phu nhân, muốn được trông mặt, chứ có dám có ý nghĩ gì đâu!

Hạp Lư lại nghiêm cấm tướng sĩ không ai được vào. Ngũ Viên tìm mãi, không bắt được Sở Chiêu vương mới cho bọn Tôn Vũ và BÁ Hi chiếm cứ lấy các nhà quan đại phu, bắt thê thiếp vào hầu hạ, để làm cho sỉ nhục. Đường Thành công, Sái Chiêu công cùng công tử Sơn vào sục tìm nhà Nang Ngoã thì thấy áo cừu và ngọc bội vẫn để nguyên phong ở trong hòm, đôi ngựa túc sương cũng vẫn ở trong chuồng ngựa. Đường Thành công và Sái Chiêu công bèn lấy lại những đồ vật của mình đem dâng Hạp Lư. Hạp Lư thấy nhà Nang Ngõa có nhiều châu báo vàng bạc, bèn cho phép các thị vệ tha hồ vào lấy, thành ra của cải rơi bừa bãi cả ngoài đường. Công tử Sơn toan cướp lây vợ Nang Ngoẫ. Công tử Phu Khái đến, lại đuổi công tử Sơn mà tranh lấy. Ngũ Viên xin với Hạp Lư muốn phá huỷ nhà tôn miếu nước Sở.

Tôn Vũ can rằng:

– Việc binh nên phải lấy điều nghĩa làm chủ. Sở Bình vương bỏ thế tử Kiến mà lập con Tần nữ, tin nghe những đứa tham nịnh, giết hại những người trung lương, dùng cách tàn bạo mà đối đãi với chư hầu. Bởi thế, quân Ngô ta mới đến đây được. Nay đã phá vỡ kinh thành nước Sở rồi, ta nên lập ngay con thế tử Kiền là công tử Thắng lên làm vua Sở đi. Người nước Sở vẫn thường nhớ thế tử Kiến, tất nhiên bằng lòng, mà công tử Thắng sẽ cảm ơn nước Ngô ta, không bao giờ dám bỏ sự triều cống. Thế thì đại vương dẫu xá cho Sở, cũng như là chiếm lấy Sở, danh và thực trọn cả đôi đường.

Hạp Lư muốn diệt nước Sở, mới không nghe lời Tôn Vũ liền phá huỷ nhà tôn miếu của nước Sở. Đường Thành công và Sái Chiêu công cũng cáo từ về nước. Hạp Lư lại bày tiệc ở Chương Hoa đài, cho các quan triều thần uống rượu. Nhạc công tấu nhạc. Các quan triều thần vui vẻ cả, chỉ có Ngũ Viên vẫn cứ buồn rầu, ứa nước mắt mà khóc. Hạp Lư bảo Ngũ Viên rằng:

– Nhà ngươi đã thoa? được chí báo thù nước Sở rồi, cớ sao lại còn buồn rầu ?

Ngũ Viên gạt nước mắt đáp rằng:

Sở Bình vương thì đã chết rồi, vua Sở bây giờ cũng trốn mất, thế thì cái thù của cha anh tôi, muôn phần chưa báo được một phần!

Hạp Lư nói:

– Vậy ý nhà ngươi muốn thế nào ?

Ngũ Viên nói:

– Xin đại vương cho tôi đào mã Sở Bình vương lên, phá áo quan ra mà chém lấy đầu thì tôi mới hả được lòng căm tức.

Hạp Lư nói:

– Nhà người giúp ta được nhiều việc, ta tiếc gì mà không cho đào nắm xương khô ấy lên, để báo thù cũ cho nhà ngươi.

Ngũ Viên hỏi biết mộ Sở Bình vương chôn ở ngoài cửa đông, liền đem quân bản bộ đến. Khi đến nơi, thấy bốn mặt đồng cỏ xanh ngắt, một vùng nước hồ trong veo, chẳng biết mộ chôn ở chỗ nào cả. Ngũ Viên mới vật mình than khóc mà nói rằng:

– Trời ơi! trời không khiến ta báo được thù cho cha và anh ta hay sao!

Bỗng có một ông cụ già đi đến trước mặt Ngũ Viên, vái chào mà hỏi rằng:

– Tướng quân muốn tìm mộ Sở Bình vương để làm gì ?

Ngũ Viên nói:

– Sở Bình vương lấy tranh vợ của con, dùng kẻ du nịnh hại người trung lương, lại giết cha anh ta, lúc sống ta không thể đâm chết y được thì lúc chết ta cũng muốn xả xác y ra để báo thù cho cha ta và anh ta ở dưới suối vàng.

Ông cụ già nói:

– Sở Bình vương cũng biết mình có nhiều người oán, sợ có kẻ đào mà, vậy nên mộ chôn ở giữa hồ. Tướng quân muốn tìm áo quan thì phải tát cạn cái hồ này mới lấy được.

Ông cụ già nói xong, lại trỏ cho Ngũ Viên biết chỗ. Ngũ Viên sai người lặn xuống mò, sờ thấy có một cái quách bằng đá, liền sai quân sĩ mỗi người mang một túi đất xếp xung quanh mộ, rồi tát nước ra, đào lên xem. Khi mở cái quách đá ấy ra, thấy trong có một cái áo quan rất nặng. Mở áo quan ra xem, chỉ thấy mũ áo và mấy trăm cân sắt mà thôi. Ông cụ già nói:

– Đấy là áo quan giả, còn áo quan thật ở bên dưới kia.

Ngũ Viên liền sai đào một tầng nữa, quả nhiên có áo quan thật. Khi lôi xác ra, thấy đích thị là xác Sở Bình vương da thịt vẫn còn nguyên cả. Ngũ Viên trông thấy, hầm hầm nổi giận, tay cầm cái roi đồng, đánh luôn ba trăm roi, khiến xương rơi thịt nát. Ngũ Viên lại lấy chân giẫm lên bụng xác Sở Bình vương, rồi hỏi ông cụ già rằng:

– Tại sao cụ lại biết rõ chỗ chôn Sở Bình vương và sự thể quan quách như thế ?

Ông cụ già nói:

– Tôi có phải là ai đâu, chính là thợ đá đã làm cái mộ này lúc bấy giờ! bấy giờ Sở Bình vương sai bọn thợ đá chúng tôi hơn năm chục người làm một ngôi giả. Khi làm xong, sợ bọn chúng tôi tiết lộ ra, liền đem giết hết cả, chỉ có một mình lão trốn được. Nay cảm lòng hiếu nghĩa của tướng quân, lão phải đến đây để mách bảo. vả cũng là để báo thù cho hơn năm chục cái hồn oan của bọn thợ đá chúng tôi khi xưa.

Ngũ Viên sai đem vàng bạc thưởng cho ông cụ già.

Lại nói chuyện Sở Chiêu vương đi thuyền quan sông Thư Thủy, trốn vào Vân Trung, gặp một bọn giặc độ mấy trăm người, đang đêm xuống cướp thuyền, cầm giáo đánh Sở Chiêu vương. Bấy giờ công tôn Do Vu đứng ở bênh cạnh, lấy lưng che chở cho Sở Chiêu vương và quát to lên rằng:

– Đây là vua Sở, các ngươi làm gì thế ?

Công tôn Do Vu nói chưa dứt lời thì ngọn giáo của bọn cướp đâm trúng vào vai, máu chảy đầm đìa đến tận gót. Do Vu ngã gục xuống đất. Bọn giặc nói:

– Chúng ta chỉ biết tiền của chứ không biết vua là ai cả ! đến như quan lệnh doãn đại thần, cũng còn tham ăn tiền, huống chi là chúng ta!

Bọn giặc nói xong, bao nhiêu vàng bạc ở trong thuyền, lấy hết sạch cả. Trâm Doãn Cố vội vàng ôm Sở Chiêu vương, chạy lên bờ, Sở Chiêu vương kêu to lên rằng:

– Có ai cứu em gái ta đó không ?

Quan hạ đại phu là Chung Kiến ghé lưng cõng nàng Qúi Vu đi theo Sở Chiêu vương. Khi ngảnh đầu trông lại đã thấy bọn giặc phóng hoa? đốt thuyền. Sở Chiêu vương chạy được mấy dặm, thì trời sáng rõ. Công tử Kết, Tống Mộc, Đấu Tân và Đấu Sào đều lục tục theo đến nơi. Đấu Tân nói với Sở Chiêu vương rằng:

– Nhà tôi ở Viên ấp chỉ cách đây độ bốn mươi dặm, xin đại vương hãy tạm đến đó, rồi sau sẽ liệu.

Được một lúc, công tôn Do Vu cũng theo đến. Sở Chiêu vương ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Nhà ngươi bị thương nặng, làm thế nào mà khỏi được ?

Do Vu nói:

– Tôi đau quá không chạy được, khi lửa cháy đến mình tôi, bỗng thấy có một người vực tôi lên bờ. Trong khi mơ màng, tôi nghe tiếng nói rằng:

“ta là quan lệnh doãn nước Sở cũ, tên gọi Tôn Thúc Ngao. Nhà ngươi nói cho đại vương biết:

quân Ngô chẳng bao lâu nữa, sẽ phải rút về. Xã tắc nước ta vẫn còn vững bền mãi mãi!” nói xong, lại lấy thuốc dịt vào vai cho tôi, khi tôi tỉnh dậy, hết cả đau đớn, vậy mới theo kịp đến đây.

Sở Chiêu vương nói:

– Tôn Thúc Ngao tước, nguyên là người ở Vân Trung. Anh linh đến nay vẫn còn chưa mất!

Mọi người đều ngợi khen và lấy làm lạ lùng. Đấu Sào đem lương khô ra để mọi người cùng ăn. Trâm Doãn Cố cầm bầu đi lấy nưóc, để dâng Sở Chiêu vương. Sở Chiêu vương sai Đấu Tân đi tìm thuyền ở bến Thành Cữu. Đấu Tân trông thấy ở phía đông có một chíếc thuyền đi đến. Trong thuyền có cả đàn bà con trẻ. Nhìn kỹ thì ra thuyền của quan đại phu là Lam Doãn Điệp. Đấu Tân gọi mà bảo rằng:

– Đại vương ở đây, nhà ngươi nên đem thuyền lại để chờ.

Lam Doãn Điệp nói:

– Ông vua đã mất nước rồi, ta còn chở làm gì!

Lam Doãn Điệp nói xong, không hề ngánh cổ lại. Đấu Tân chờ đợi ít lâu nữa, lại thấy một chiếc thuyền đánh cá. Đấu Tân cởi áo ra, ném cho người lái thuyền. Người lái thuyền mới ghé thuyền vào bờ. Sở Chiêu vương và nàng Qúi Vu xuống thuyền đi sang Viên ấy. Người em thứ hai của Đấu Tân là Đấu Hoài đi làm cơm.

Khi Đấu Hoài dâng cơm, thường hay trông trộm Sở Chiêu vương. Đấu Tân có ý nghi, mới cùng người em út là Đấu Sào hầu liền ở bên cạnh Sở Chiêu vương. Đến nửa đêm, Đấu Tân nghe có tiếng liếc dao ở sau nhà. Đấu Tân mở cửa ra xem, thì thấy Đấu Hoài tay cầm một con dao nhọn, nét mặt hầm hầm. Đấu Tân hỏi:

– Em liếc dao làm gì ?

Đấu Hoài nói:

– Em định giết vua.

Đấu Tân nói:

– Vì cớ gì mà em lại sinh lòng phản nghịch ?

Đấu Hoài nói:

– Thân phụ ta (tức là Đấu Thành Nhiên) một dạ trung thành,mà vua Bình vương nghe lời Phí Vô Cực lại đem giết đi. Vua Bình vương đã giết thân phụ ta thì ta giết con vua Bình vương để báo thù lại, chẳng cũng nên chăng ?

Đấu Tân nổi giận mắng rằng:

– Vua cũng như trời. Trời giáng họa cho ai thì người ấy phải chịu, chứ ai lại dám oán trời!

Đấu Hoài nói:

– Khi còn ở nước thì là vua, nay mất nước rồi thì là kẻ thù. Thấy kẻ thù mà không giết, sao gọi là người được ?

Đấu Tân nói:

– Cổ ngũ có câu rằng:

“Không nên oán đến đời con”. Vả đại vương đã biết hối cái lỗi của đời trước mà dùng anh em ta, nay lại nhân lúc đại vương nguy cấp mà giết thì sao cho phải đạo. Nếu mày có lòng ấy, ta phải chém mày trước!

Đấu Hoài cắp dao ra đi, vẫn còn chưa nguôi cơn giận. Sở Chiêu vương thấy ngoài cửa có tiếng quát mắng, liền dậy mặc áo rồi đứng nghe trộm, nghe hết cả đầu đuôi, mới không dám ở Viên ấp nữa. Đấu Tân, Đấu Sào cùng công tử Kết thương nghị, rồi đem Sở Chiêu vương chạy sang nước Tùy.

Lại nói chuyện công tử Thân đống quân ở Lỗ Phục Giang nghe tin Sính Đô đã mất rồi, Sở Chiêu vương phải chạy trốn, sợ người trong nước tan tác, không có ai làm chủ, mới mặc đồ vương phục, để cho yên lòng dân. Dân chạy lọan, đều theo Sở Chiêu vương mới nói với Hạp Lư rằng:

– Chưa bắt được vua Sở thì chưa diệt được nước Sở, tôi xin đem một toán quân đi về phía tây để dò tìm mà bắt về.

Hạp Lư thuận cho. Ngũ Viên đem quân đi dò tìm, nghe tin Sở Chiêu vương ở nước Tuỳ, vội vàng thẳng đường tiến sang nước Tùy, đưa thư cho vua Tuỳ, bắt phải nộp Sở Chiêu vương.

Chương 77: Giọt lệ Bao Tư tràn sân Tần – chiếc thuyền Chiêu Vương về nước Sở

Ngũ Viên đón quân ở phía nam nước Tuỳ, rồi sai sứ đưa thư cho vua Tuỳ. Trong thư đại lược như sau:

“Các nước ở xứ Hán Đông, thuộc về dòng dõi thiên tử nhà Chu, nay bị nước Sở nuốt gần hết, may mà trời giúp nước Ngô ta, cho đến hỏi tội vua Sở. Nếu nhà vua bắt vua Sở đem nộp thì những ruộng ở Hán Dương, sẽ để cho nhà vua tất cả. Đại vương tôi xin cùng nhà vua kết làm anh em, cùng thờ thiên tử nhà Chu”.

Vua nước Tuỳ xem xong, liền họp các triều thần lại để thương nghị. Công tử Kết nước Sở, nét mặt cũng giống SỞ Chiêu vương mới nói với vua Tuỳ rằng:

– Nay việc đã nguy cấp đến nơi, tôi xin giả làm vua Sở để đem minh nộp nước Ngô, may ra có thể thoát được.

Vua Tùy sai quan thái tử bói xem tốt xấu thế nào. Trong quẻ bói có câu rằng: “Trị có ngày loạn, nguy có ngày yên, cũ chớ nên bỏ, mới chớ nên cầu, tây lân là hổ, đông lân là thịt”.

Vua Tuỳ nói:

– Cũ là SỞ mà mới là Ngô, thế này là quỷ thần bảo ta cứ theo Sở.

Vuy Tuỳ bèn sai sứ ra trả lời Ngũ Viên rằng:

– Nước tôi từ xưa đến nay, vẫn phụ thuộc với Sở, vua Sở qua đây, tôi không thể nào mà từ chối được, nay vua Sở đã đi sang nước khác rồi xin tướng quân xét cho.

Ngũ Viên thấy Nang Ngoã ở Trịnh, nghi Sở Chiêu vương cũng chạy sang Trịnh. Vả lại người nước Trịnh khi trước giết thế tử Kiến, việc ấy cũng chưa báo thù, mới đem quân sang đánh Trịnh. Bấy giờ người bề tôi hiền nước Trịnh là Du Cát mới mất. Trịnh Định công sợ lắm, đổ lỗi cho Nang Ngoã. Nang Ngõa tự tử mà chết. Trịnh Định công đem xác Nang Ngõa ra nộp quân Ngô và nói với quân Ngô rằng:

– Vua Sở thực chưa đến nước Trịnh!

Quân Ngô vẫn không chịu lui, nhất định đòi diệt nước Trịnh để báo thù cho thế tử Kiến. Các quan đại phu nước Trịnh xin liều đánh một trận để quyết thắng phụ. Trịnh Định công nói:

– Quân mã nước ta phỏng có bằng nước Sở hay không ? nước Sở còn bị nước Ngô phá vỡ, huống chi là ta!

Trịnh Định công liền hạ lệnh rằng:

– Có ai lui được quân Ngô thì ta quyết xin chia quyền chính nước Trịnh cho.

Lệnh ấy tuyên yết đã được ba ngày. Bấy giờ người con ông lão đánh cá cũng chạy lọan trốn ở trong thành nước Trịnh, nghe nói nước Ngô dùng Ngũ Viên làm tướng, mới vào nói với Trịnh Định công xin lập kế lui được quân Ngô. Trịnh Định công hỏi:

– Nhà ngươi phải dùng bao nhiêu quân mã mới lui được quân Ngô ?

Người ấy nói:

– Tôi không phải dùng một lưỡi gươm nào, chỉ xin chúa công cho tôi một chiếc mái chèo nhỏ, để tôi vừa đi vừa hát, tự khắc quân Ngô phải lui.

Trịnh Định công không tin, nhưng việc đã gấp lắm, chẳng biết làm thế nào, cũng phải đưa cho người ấy một cái mái chèo mà bảo rằng:

– Nếu nhà ngươi lui được quân Ngô thì ra sẽ trọng thưởng.

Người con ông lão đánh cá bèn chèo qua thành ra, đi thẳng vào dinh Ngô, gõ mái chèo mà hát rằng:

“Ngươi trong lau! người trong lau!

Lưng đeo bảo kiếm bảy về sao.

Có nhớ năm xưa chàng qua sông,

Cơm nếp, canh cá ai cho ăn ?…

quân Ngô bắt được, giải vào nộp Ngũ Viên. Vào đến nơi, người ấy vẫn hát như trước. Ngũ Viên ngạc nhiên đứng dậy mà hỏi rằng:

– Nhà ngươi là ai ?

Người ấy cắp mái chèo mà đáp rằng:

– Tướng quân không trông thấy tay tôi cầm cái gì hay sao ? tôi tức là con ông lão đánh cá ở Ngạc Trử đó!

Ngũ Viên động lòng thương xót mà nói rằng:

– Thân phụ nhà ngươi vì ta mà chết, ta vẫn muốn báo ơn, nhưng không biết làm thế nào. Ngày nay may được gặp đây. Nhà ngươi trông thấy ta mà hát như thế là muốn điều gì ?

Người ấy nói:

– Tôi chẳng muốn điều gì cả! nguyên vua Trịnh tôi đã sợ binh uy của tướng quân, có hạ lệnh cho người trong nước rằng: “Ai lui được quân Ngô thì ta xin chia quyền chính nước Trịnh cho”. Tôi thiết nghĩ thân phụ tôi cũng được biết tướng quân, muốn xin tướng quân xá cho nước Trịnh!

Ngũ Viên thở dài mà than rằng:

– Trời ơi! ta được thế này, đều nhờ ơn ông lão đánh cá đó, khi nào ta dám quên!

Tức thì Ngũ Viên truyền giải vây nước Trịnh rồi rút quân về. Người con ông lão đánh cá nói với Trịnh Định công. Trịnh Định công mừng lắm, bèn phong cho một trăm dặm đất. Người trong nước gọi là Ngư đại phu.

Ngũ Viên đã giải vây cho nước Trịnh, rút quân về đóng nước Sở, rồi hai người đi chiêu dụ các nước phụ thuộc của Sở và dò tìm tin tức Sở Chiêu vương.

Lại nói chuyện Thân Bao Tư từ khi quân Ngô phá vỡ được kinh thành nước Sở, liền chốn vào ở trong hang đá đất Di Lăng, nghe tin Ngũ Viên đào mã mà đánh vào thây Sở Bình vương, lại đang dò bắt Sở Chiêu vương, mới viết một bức thư sai người đưa cho Ngũ Viên. Trong thư đại lược nói rằng:

“Nhà ngươi khi trước đã làm bề tôi Sở Bình vương, nay lại đem thi thể Sở Bình vương ra mà làm tàn nhục như vậy, dẫu gọi là báo thù, nhưng cũng khí quá lắm! phàm làm qúa thì không ai chịu được, nhà ngươi nên mau mau rút quân về, ta đây phải noi theo cái ước phục Sở”.

Ngũ Viên tiếp được thư, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo người mang thư rằng:

– Ta bận nhiều việc, không thể viết thư trả lời được. Nhà ngươi vì ta mà nói lại với Thân Bảo rằng: “trung và hiếu không thể vẹn cả đôi ” trời tối đường xa, nên phải đi ngược làm trái.

Người mang thư về nói với Thân Bảo Tư, Thân Bảo Tư nói:

– Ngũ Viên quyết chí diệt nước Sở, chẳng lẽ ta cứ ngồi yên hay sao! Sở Bình vương phu nhân ngày xưa là con gái Tần Ai công, thế thì đại vương ngày nay tức là cháu ngoại nước Tần. Vậy muốn khôi phục nước Sở, tất phải cầu viện nước Tần mới được!

Thân Bao Tư liền thẳng đường chốn sang nước Tần, đi vội suốt ngày đêm, bàn chân xây xát, máu chảy đầm đìa, phải xé áo ra mà buộc. Khi đến Uông Châu, Bao Tư vào tâu với Tần Ai công rằng:

– Nước Ngô tham như lợn, độc như rắn, lâu nay vẫn muốn cắn nuốt chư hầu, bây giờ đã bắt đầu từ nước Sở trước. Đại vương tôi bị thua, phải chạy trốn ở nơi thảo dã, có sai tôi sang đây để cáo cấp với quý quốc, xin qúy quốc nghĩ tình thân thuộc mà đem quân giải cứu cho.

Tần Công Ai nói:

– Nước Tấn ta hẻo lánh ở về phía tây này, quân hiếm tướng ít, giữ mình không nổi còn giúp được ai!

Than Bao Tư nói:

– Sở và Tần tiếp giáp nhau. Nay Sở bị Ngô đánh mà Tần không cứu, Ngô đã diệt Sở thì tất có ngày đánh Tần. Nhà vua giúp Sở, tức là giữ cho Tần đó. Chẳnng thà Sở về tay Tần, còn hơn về tay Ngô. Nếu nhà vua cứu nước Sở khỏi mất thì nước Sở tôi xin đời đời thần phục nước Tần.

Tần Ai công còn ngần ngại chưa quyết, nói rằng:

– Quan đại phu hãy về nghỉ ở công quán, để ta thương nghị các triều thần đã.

Thân Bao Tư nói:

– Đại vương tôi còn đang chạy trốn nơi thảo dã, chưa ở yên được nước nào, khi nào tôi dám ra nghỉ ở công quán.

Bấy giờ Trần Ai công chỉ ham mê tửu sắc, chẳng thiết nghĩ gì đến chính sự. Thân Bao Tư xin mãi mà Tần Ai công nhất định không chịu phát binh. Thân Bao Tư cứ đội mũ mặc áo, đứng luôn ở trong sân vua Tần, ngày đêm kêu khóc, không lúc nào im tiếng, cứ như thế trong bảy ngày bảy đêm liền không ăn uống một tí gì cả. Tần Ai công thấy vậy, kinh ngạc mà rằng:

– Bề tôi nước Sở biết nghĩ đến vua khẩn thiết như thế ư! nước Sở có bề tôi hiền như thế mà còn bị nước Ngô đánh, huống chi là ta không có người bề tôi hiền nào, khi nào nước Ngô lại để cho yên!

Tần Ai công nói xong, ứa nước mắt khóc, đọc bài thơ Vô Y để tỏ ý phát binh sang giúp Sở. Thân Bao Tư lạy tạ. Từ bấy giờ Bao Tư mới chịu ăn uống. Tần Ai công sai quan đại tướng la Tử Bồ và Tử Hổ đem quân theo Thân Bao Tư sang cứu Sở. Thân Bao Tư nói:

– Đại vương tôi ở nước Tuỳ, mong được quân cứu, khác nào như đại hạn mong mưa, tôi xin về trước để báo cho đại vương tôi biết. Quan nguyên soái đem quân quan đất Thương, đất Cốc mà sang phía đông, chỉ trong năm ngày có thể đi tới Tương Dương được, bấy giờ sẽ quay về phía nam và sang Kinh Môn; còn tôi đây xin đem quân Sở qua Thạch Lương sơn, cũng đi về phía nam, thế thì chỉ trong ba ngày có thể gặp nhau được. Quân Ngô đang cậy thắng, tất không phòng bị. Vả quân sĩ ở nước ngoài, lâu ngày cũng muốn về, nếu ta phá vỡ được một toán thì tự khắc phải tan cả.

Tử Bồ nói:

– Ta chưa thuộc đường lối, tất phải có quân Sở hướng dẫn mới được, quan đại phu chớ sai hẹn.

Thân Bao Tư đến nước Tuỳ, vào yết kiến Sở Chiêu vương, thuật lại chuyện sang mượn quân Tần, hiện nay nước Tần đã phát binh sang cứu, Sở Chiêu vương mừng lắm, bảo vau Tuỳ rằng:

– Khi trước trong quẻ bói có câu: “Tây lân là hổ, đông lân là thịt”. Nước Tần ở phía tây nước Sở mà nước Ngô ở phía đông, câu ấy thật ứng nhiệm

Bấy giờ bọn Viễn Diên, Tống Mộc cũng thu thập quân mã còn lại đến theo Sở Chiêu vương. Công tử Thân và công tử Kết thu thập quân sĩ nước Tuỳ để cùng tiến phát. Quân Tần đóng đồn ở Tương Dương để đợi quân Sở. Thân Bao Tư đưa bọn công tử Thân và công tử Kết vào yết kiến quân Tần, rồi quân Sở đi trước, quân Tần kéo sau. Đi đến sông Nhi Thuỷ thì gặp toán quân của công tử Phu Khái (tướng nước Ngô). Tử Bồ bảo Thân Bao Tư rằng:

– Quan đại phu hãy đem quân Sở giao chiến với quân Ngô trước, tôi sẽ tiếp sau.

Thân Bao Tư ra trận, giao chiến với công tử Phu Khái. Công tử Phu Khái nhờ có sức mạnh, coi thường Thân Bao Tư. Hai bên giao chiến ước hơn mười hợp, chưa chia thắng phụ. Tử Bồ và Tử Hổ đem quân đến tiếp ứng. Công tử Phu Khái trông thấy hiệu cờ có chữ Tần, kinh sợ mà nói rằng:

– Cớ sao lại có quân Tần đến đây như vậy ?

Công tử Phu Khái vội vàng thu quân thì đã tan mất đến quá nửa. Bọn công tử Thân và công tử Kết thừa thế đuổi theo đến năm mươi dặm mới thôi. Công tử Phu Khái chạy về Sính Đô, vào yết kiến Hạp Lư, thụât chuyện quân Tần mạnh lắm, quân Ngô không thể đương nổi. Hạp Lư có ý sợ. Tôn Vũ nói với Hạp Lư rằng:

– Việc binh là việc nguy hiểm, nên dùng tạm chớ không nên dùng lâu. Vả đất Sở còn rộng, lòng dân chưa chịu phục Ngô, khi trước tôi xin đại vương lập công tử Thắng lên làm vua Sở, chính là vì điều ấy. Chi bằng bây giờ ta sai sứ sang nói với Tần, hẹn cho vua Sở về nước, rồi cắt cõi tây nước SỞ để thêm đất cho nước Ngô ta cũng không phải là không lợi. Nếu đại vương cứ quyến luyến ở Sở để chống Sở, quan Sở sẽ tức giận mà cố sức, quân Ngô kêu ngạo mà trễ nải, lại thêm có quân Tần như giống hổ lang giúp Sở thì tôi chưa chắc đã vẹn toàn được.

NGũ Viên biết chừng không thể bắt được Sở Chiêu vương cũng cho lời nói Tôn Vũ là phải. Hạp Lư toan theo. Bá Hi nói với Hạp Lư rằng:

– Quân ta từ khi khai chiến đến giờ, đi đến đâu phá vỡ đến đấy, chỉ đánh năm trận mà lấy đuợc Sính Đô, nay mới gặp quân Tần, đã toan rút lui về, trước hăng hái thế nào mà tại sao nay lại nhút nhác như vậy ? xin đại vương cứ cấp cho tôi một vạn quân, tôi quyết đánh cho quân Tần chẳng còn một mống nào trở về, nếu không đánh được, xin chịu tội chết!

Hạp Lư khen mà cho đi. Tôn Vũ và Ngũ Viên cố can Bá Hi không nên đánh. Bá Hi không nghe, đem quân ra giao chiến với quân Sở. Bá Hi trông thấy tướng nước Sở là công tử Thân liền quát to lên mà mắng rằng:

– Mày thật là vạn phần chết rồi, khác nào như đống tro nguội, nay còn mong nóng lại sao !

Công tử Thân cũng mắng rằng:

– Mày là một đứa phản nghịch, bây giờ còn mặt mũi nào trông thấy ta!

Bá Hi giận lắm, cầm kích xông vào đánh công tử Thân. Công tử Thân cũng cầm giáo nghênh chiến. Hai bên đánh nhau mới được mấy hợp thì công tử Thân giả cách thua chạy. Bá Hi đuổi theo được độ hai dặm, thì phía tả có quân Thẩm Chư Lương, phía hữu có quân Viễn Diên, ra mà đánh. Tướng nước Tần là Tử Bồ và Tử Hổ cũng đem quân xông thẳng vào giữa trận quân Ngô. Bá Hi cố sức xung đột mà không thể địch nổi, may nhờ có toán quân của Ngũ Viên kéo đến, mới cứu thóat được Bá Hi về. Bá Hi vào yết kiến Hạp Lư, sụp lạy xin chịu tội. Tôn Vũ bảo riêng với Ngũ Viên rằng:

– Bá Hi là người cậy công mà tự đắc, sau này tất làm tai vạ cho nước Ngô. Chi bằng nhân việc y thua trận này, ta mượn quân pháp chém đi cho rồi.

Ngũ Viên nói:

– Kẽ kia dẫu thua trận, nhưng trước đã có công to. Vả ta đang đánh nhau với quân giặc, không nên chém một đại tướng.

Ngũ Viên liền tâu với Hạp Lư xin tha tội cho Bá Hi. Quân Tần kéo đến tận Sính Đô. Hạp lư giao cho công tử Phu Khái và công tử Sơn giữ Sính Đô, còn mình thì đem quân ra đóng ở Kỷ Nam thành, sai Ngũ Viên, Bá Hi chia quân ra đóng ở Ma thành và Lư thành, để cùng nương tựa nhau mà chống cự với quân Tần. Lại sai sứ đi mượn quân Đường và nước Sái. Tướng nước Sở là Tử Tây bảo Tử Bồ rằng:

– Quân Ngô đã lấy Sính Đô làm sao huyệt, nếu lại được Đường và Sái giúp vào thì khó lòng địch nổi; chi bằng ta thừa thế đem quân sang đánh Đường. Nước Đường đã phá thì nước Sái sợ mà không dám giúp, bấy giờ ta mới có thể phá được quân Ngô.

Tử Bồ khen phải, liền cùng với Tử Kỳ đem quân sang diệt nước Đường, giết Đường Thành công. Sái Ai công sợ, khômg dám đem quân giúp Ngô nũa. Công tử Phu Khái vẫn cậy mình có công phá Sở, chỉ vì thua trận ở Nghi Thuỷ, Hạp Lư mới sai đong quân giữ Sính Đô cùng với công tử Sơn. Bởi vậy công tử Phu Khái có ý không bằng lòng, nghĩ thầm rằng cứ theo lệ nước Ngô, thì anh phải truyền ngôi cho em, sau này mình sẽ được nối ngôi. Nay Hạp Lư đã lập công tử Ba là thế tử thì mình quyết không khi nào được lập nữa; chi bằng ta nhân lúc này đem quân về nước cướp ngôi xưng vương, chẳng hơn là sau này lại phải tranh nhau hay sao!

Công tử Phu Khái bèn đem quân bản bộ lẻn ra cửa đông, qua sông Hán mà về nước Ngô, nói dối người nước Ngô rằng Hạp Lư bị quân Tần đánh, không biết chạy đi đâu mất, cứ theo thứ tự thì mình được lên ngôi nối ngôi.

Công tử Phu Khái tự xưng là vua nước Ngô, sai con là Phù Tang đem quân đóng ở Hà Thuỷ để chặn đường không cho Hạp Lư về. Thế tử Ba nước Ngô cùng với Chuyên Nghị thấy vậy bèn đem quqan lên mặt thành chống giữ, không cho công tử Phu Khái vào. Công tử Phu Khái sai sứ sang mượn quân nước Việt, hẹn khi thành sự, sẽ biếu năm thành để tạ ơn.

Hạp Lư nghe tin quân Tần sang diệt nước Đường, giật mình kinh sợ, toan họp các tướng lại để thương nghị. Bỗng thấy công tử Sơn đến báo việc công tử Phu Khái không biết vì cớ gì mà đem quân về nước Ngô. Ngũ Viên nói:

– Nếu vậy thì Phu Khái tất có lòng làm phản!

Hạp Lư nói:

– Công tử Phu Khái là một kẻ vũ phu, chẳng làm gì nổi, ta chỉ lo cho người nước Việt nhân chuyện này mà gây sự với ta. Đại vương nên rút quân về ngay để dẹp loạn trong nước trước.

Hạp Lư bèn giao cho Tôn Vũ và Ngũ Viên đóng quân giữ Sính Đô còn mình thì với Bá Hi theo đường thuỷ về nước. Khi về đến sông Hán, được tin của thế tử Ba cáo cấp nói công tử Phu Khái làm phản, lại đi mượn quân nước Việt về để đánh Ngô. Hạp Lư kinh sợ mà rằng:

– Ngũ Viên nói đúng lắm!

Hạp Lư liền một mặt sai sứ sang Sính Đô để rút quân Tôn Vũ và Ngũ Viên về; một mặt kéo thẳng về nước và truyền dụ cho các tướng sĩ biết rằng ai bỏ công tử Phu Khái mà về hàng ngày thì giữ nguyên chức, nếu chậm không hàng sẽ bị giết chết.

Toán quân của Phù Tang (con công tử Phu Khái) ở sông Hoài nghe lệnh đều bỏ về với Hạp Lư cả. Phù Tang chạy sang Cốc dương. Công tử Phu Khái toan bắt dân ra làm lính, nhưng người nước Ngô nghe tin Hạp Lư hãy còn, đều rủ nhau chạy trốn. Công tử Phu Khái đem quân bản bộ đón đánh Hạp Lư.

Hạp Lư nói:

– Ta tin cậy nhà ngươi như tay chân, cớ sao nhà ngươi lại làm phản ?

Công tử Phu Khái nói:

– Nhà ngươi giết Vương Liêu, cũng là làm phản chứ chi!

Hạp Lư nổi giận, truyền cho Bá Hi ra đánh. Đánh được mấy hồi, Hạp Lư thúc cả đại binh tiến vào. Công tử Phu Khái dẫu có sức khỏe, nhưng quân Hạp Lư nhiều quá, không thể địch nổi, thành ra thua to. Phù Tang đã sắp thuyền sẵn ở sông Giang để chờ công tử Phu Khái, rồi cùng nhau trốn sang nước Tống. Hạp Lư về nước Ngô, thế tử Ba đón vào trong thành, cùng bàn mưu để chống nước Việt. Tôn Vũ tiếp được thư của Hạp Lư truyền rút quân về, đang cùng với Ngũ Viên thương nghị, bỗn nghe báo có một người trong đám quân Sở đưa bức thư cho Ngũ Viên. Ngũ Viên mở ra xem thì tức là bức thư của Thân Bao Tư gửi đến. Trong thư đại lược như sau:

“Vua tôi nhà ngươi chiếm sứ Sính Đô trong bấy nhiêu ngày mà không dẹp yên được nước Sở, đủ biết là ý trời không muốn làm cho nước Sở phải diệt. Nhà ngươi đã giữ lời nói diệt Sở thì ta đây cũng quyết giữ cái chí phục Sở, nhưng tình bạn hữu với nhau, giúp nhau thì co, chứ hại nhau thì không nên; nếu nhà ngươi liệu bớt cái uy quân Ngô thì ta đây sẽ cũng không dùng hết cái sức quân Tần”.

Ngũ Viên đưa thư cho Tôn Vũ xem và bảo rằng:

– Nước Ngô ta đem mấy vạn quân kéo thẳng vào kinh thành nước Sở, đốt nhà tôn miếu, phá nền xã tắc, đánh vào xác người chết, chiếm lấy nhà người sống. Kể trong việc kẻ làm tôi mà báo thù vua, từ xưa đến nay, chưa bao giờ được thoả như thế! vả quân Tần dẫu đánh được ta một trận, nhưng ta cũng chưa tổn hại cho lắm. Binh pháp có câu rằng: “Thấy dễ thì tiến, thấy khó thì lui”, may sao quân Sở chưa biết nỗi nguy cấp của ta, nên lui về là phải.

Tôn Vũ nói;

– Ta rút về không thì bị quân Sở cười, chi bằng tâu với đại vương mà xin phong cho công tử Thắng.

Ngũ Viên khen phải, mới viết thư trả lời Thân Bao Tư. Thư nói như sau:

“Sở Bình vương đuổi người con vô tội, giết người bày tôi vô tội, ta đây xiết bao căm tức, vậy mới nên cơ sự này! ngày xưa Tề Hoàn công không nỡ diệt nước Hình và nước Vệ; Tần Mục công ba lần lập vua cho nước Tấn, để tiếng khen đến đời nay. Ta đay đãu hèn mọn, cũng trộm biết cái nghĩa ấy. Nay con thế tử Kiến là công tử Thắng đang lưu lạc ở nước Ngô, chưa được yên Sở; nếu nước Sở chịu đón công tử Thắng về để giữ việc cúng tế thế tử Kiến thì khi nào ta dám không rút quân mà giúp nên cái chí của nhà ngươi!”

Than Bao Tư được tin, nói chuyện với công tử Thân. Công tử Thân nói:

– Ý ta cũng muốn lập công tử Thắng.

Công tử Thân bèn sai người sang nước Ngô đón công tử Thắng về. Thẩm Chư Lương can rằng:

– Thế tử Kiến ngày xưa đã bị truất thì công tử Thắng tức là một kẻ cừu địch, nay mình lại nuôi kẻ cừu địch để làm hại nước hay sao ?

Công tử Thân nói:

– Thắng là một kẻ thất phu, không can chi điều ấy!

Công tử Thân vâng mệnh Sở Chiêu vương triệu công tử Thắng về mà hẹn phong cho đại ấp. Tôn Vũ và Ngũ Viên liền hạ lệnh rút quân. Phàm những báu vật ở trong kho nước Sở, đều chất lên xe chở về. Lại thiên những dân Sở kể hàng vạn nhà sang ở chỗ đất hoang của nước Ngô. Ngũ Viên bảo Tôn Vũ theo đường thuỷ đi về trước, còn mình theo đường bộ qua Lịch Dương Sơn, định tìm Đông Cao công để trả ơn. Khi đi đến nơi thì chẳng thấy nhà cửa đâu cả. Lại sai ngươi sang Long Động Sơn để tìm Hoàng Phủ Nột, cũng chẳng thấy tông tích Nột ở đâu. Ngũ Viên thở dài mà than rằng:

– Thật là những bậc cao sĩ!

Ngũ Viên nói xong, liền đến chỗ ở trước, sụp lạy hai lạy rồi đi. Khi đến cửa Chiêu quan, quân Sở để bỏ trốn hết cả. Ngũ Viên sai phá cửa quan ấy. Khi qua bến Lại Thuỷ, Ngũ Viên than rằng:

– Năm xưa ta bị đói ở đây, có xin cơm của một người con gái. Người con gái cho ta ăn cơm, rồi đâm đầu xuống sông mà chết. Ta có đề mấy câu trên viên đá, chẳng hay có còn hay không ?

Ngũ Viên sai người đào lên thì chữ đề trên viên đá vẫn còn y nguyên như cũ. Ngũ Viên muốn đem một nghìn nén vàng để đề ơn, nhưng không biết nhà người con gái ở đâu, mới sai ném vàng xuống vệ sông mà khấn rằng:

– Lòng ta không phụ, nàng có thiêng liêng, xin nàng chứng giám!

Khấn xong rồi đi. Đi chưa được một dặm, có bà lão ngồi bên cạnh đường trông thấy quân Ngô kéo qua thì khóc. Quân sĩ bắt lại hỏi:

– Vì có gì mà khóc ?

Bà lão già nói:

– Ta có một người con gái chưa chồng, mẹ con cùng ở với nhau, đã hai mươi năm trời; sau con ta ra đập sợi ở bến sông này có gặp một ông quân tử lỡ độ đường, mới đem cơm cho ăn, nhưng sợ việc bị tiết lộ ra, liền đâm đầu xuống sông mà chết. Ta nghe nói ông quân tử ấy tức là Ngũ tứớng quân. Nay Ngũ tướng quân thắng Sở trở về mà chẳng thấy đền ơn cho con ta. Ta tủi rằng con ta chết uổng, vậy nên ta khóc.

Quân sĩ bảo rằng:

– Chủ tướng ta đây tức là Ngũ tướng quân đó! ngài muốn đem một nghìn nén vàng đền ơn ấy mà không biết nhà bà ở đâu, hiện đã ném vàng xuống vệ sông, sao mà không đến đấy mà lấy.

Bà già mới đến vệ sông lấy vàng đem về.

Vua Việt là Doãn Thương nghe tin bọn Tôn Vũ rút quân về nước Ngô, biết Tôn Vũ tài nghệ dụng binh, khó lòng đánh nổi, nên mới rút quân về. Lại nghĩ thầm Việt chẳng kém gì Ngô, liền tự xưng là Việt vương. Hạp Lư xét cái công phá Sở, cho Tôn Vũ đứng đầu. Tôn Vũ không muốn làm quan, lại xin về núi. Hạp Lư sai Ngũ Viên lưu lại. Tôn Vũ bảo Ngũ Viên rằng;

– Ngài lại còn không biết đạo trời hay sao ? nóng lắm thì rét nhiều, xuân qua thì thu đến. Nay đại vương cậy mình cường thịnh, tất sinh lòng kiêu xa, nếu ta không xin về thì rồi có hậu hoạn. Chẳng những tôi lo cho tôi, tôi lại còn lo cho ông nữa.

Ngũ Viên không cho làm phải. Tôn Vũ cố ý cáo từ về núi. Hạp Lư đưa tặng mấy xe vàng lụa. Trong khi đi đường, Tôn Vũ đều đem ban phát cho những dân nghèo khổ. Về sau không biết Tôn Vũ đi đâu mất.

Hạp Lư phong Ngũ Viên làm tướng quốc, và cũng theo lối như Trọng phụ nước Tề và Tử Văn nước Sở khi trước, chỉ gọi tên tự của Ngũ Viên là Tử Tư mà thôi. Lại cho Bá Hi là thái tể, cùng dự quốc chính; đổi tên cửa Sương Môn gọi là Phá Sở Môn; xây đá ở Lâu môn về phía nam, đóng quân ở đấy để giữ với nước Việt, gọi là Thạch Môn quan. QUan đại phu ở nước Việt là Phạm Lãi, cũng đắp thành ở Tích Giang để chống giữ với nước Ngô, gọi là Cố Lăng.

Lại nói chuyện công tử Thân và công tử Kết trở về Sính Đô, một mặt thu táng hài cốt Sở Bình vương và sửa lại tôn miếu xã tắc; một mặt sai Thân Bao Tư đem thuyền sang nước Tuỳ đón Sở Chiêu vương. Sở Chiêu vương giao ước với vua Tuỳ: hai nước quyết không xâm phạm nhau. Vua Tuỳ tiễn Sở Chiêu vương xuống thuyền, rồi mới trở về. Sở Chiêu vương đi đến giữa sông Đại Giang, ngồi ở trong thuyền, ngẩng trông bốn mặt, lại nhớ đến những sự khổ sở trong khi lưu lạc năm xưa bỗng thấy dưới mặt nước nổi lên một vật to bằng cái đấu, sắc đỏ hồng hồng, sai người vớt lên xem, rồi đem hỏi các quan chẳng ai biết vật gì cả.

Sở Chiêu vương liền cầm dao chặt đôi ra, thấy trong có một quả như quả dưa; đem nếm xem thì thấy ngon ngọt lạ thường. Sở Chiêu vương truyền đem chia cho mỗi người một miếng mà bảo rằng:

– Thứ quả này không biết gọi tên là gì, âu là ta ghi lại để đợi có nhà bác vật nào sau này biết chăng.

Đi một ngày nữa, đến đất Vân Trung, Sở Chiêu vương thở dài mà than rằng:

– Đây là chỗ ta mất cướp hôm xưa đây, nên phải ghi lấy!

Sở Chiêu vương truyền cắm thuyền lại ở bên bờ sông, sai Đấu Tân đắp một cái thành nhỏ ở đấy, để cho những khách qua đường có chỗ trú ngụ.

Bọn công tử Thân và công tử Kết đi ra ngoài Sính Đô năm mươi dặm để nghênh tiếp Sở Chiêu vương. Sở Chiêu vương về đến Sính Đô, trông thấy ngoài thành sương trắng đầy đường, trong thì cung khuyết tàn phá, bỗng hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Khi vào yết kiến mẹ là nàng Bá Doanh, hai mẹ con trông nhau mà khóc.

Sở Chiêu vương nói:

– Nước nhà chẳng may gặp phải đại biến, đến nỗi miếu xã bị phá, lăng mộ bị nhục. Cái thù này bao giờ mới báo lại được ?

Nàng Bá Doanh nói;

– Ngày nay con đã về, trước hết cần phải thưởng phạt cho công minh, sau phải phủ dụ trăm họ, chờ khi nào thế lực sung túc, bấy giờ sẽ nghĩ cách báo thù.

Sở Chiêu vương sụp lạy, xin vâng lệnh. Đêm hôm ấy, Sở Chiêu vương ngủ ở trai cung, sáng hôm sau vào tế cáo tôn miếu xã tắc và đi thăm nom phần mộ, rồi mới ra coi triều, để các quan vào lạy mừng.

Sở Chiêu vương nói:

– Ta tin dùng những đứa tiểu nhân, đến nổi gần mất nước, nếu không có bọn các ngươi thì bao giờ ta lại được trông thấy mặt trời. Làm mất nước là tội của ta, phục được nước là công của các ngươi đó!

Các quan đại phu đều lạy tạ. Sở Chiêu vương thết đãi các tướng nước Tần và khao thưởng quân Tần rồi tiễn đưa về nước. Lại luận công hành thưởng, cho công tử Thân làm lệnh doãn, công tử Kết làm tả doãn. Thân Bao Tư có công to đi mượn quân Tần, Sở Chiêu vương định cho làm hữu doãn.

Thân Bao Tư nói:

– Tôi sang mượn quân Tần là việc nước chứ không phải vì thân tôi. Nay đại vương đã lấy được nước rồi thì lòng tôi được thoả, có đâu tôi dám nhận chức này để cầu lợi.

Thân Bao Tư nhất định từ chối không nhận. Sở Chiêu vương cứ ép mãi. Thân Bao Tư đi trốn. Người vợ bảo Thân Bao Tư rằng:

– Phu quân đem cả vợ con liều thân họai thể, để đi mượn quân Tần về thu phục lại nước Sở, dẫu nhận thưởng cũng xứng đáng, can gì phải trốn ?

Thân Bao Tư nói:

– Trước đây, ta vì tình bè bạn, không tiết lộ cái mưu của Ngũ Viên, để cho Ngũ Viên phá được nước Sở. Đó là cái tội của ta. Đã có tội còn đi nhận công, ta lấy làm xấu hổ lắm!

Thân Bao Tư liền đem vợ con trốn vào rừng núi. Sở Chiêu vương sai người tìm mãi cũng không được, mới ban khen và yết ở cửa nhà Thân Bao Tư mấy chữ :”Nhà người trung thần”. Sở Chiêu vương lại cho Do Vu làm hữu doãn mà bảo rằng:

– Khi trước nhà người vì che chở cho ta mà bị một mũi giáo ở đất Vân Trung, bao giờ ta dám quên ơn!

Còn bọn Thẩm Chư Lương, Trung Kiến, Tốn Mộc, Đấu Tân, Đấu Sào và Diễn Viên, đều được thăng chức cả. Sở Chiêu vương lại triệu Đấu Hoài, toan thưởng. Công tử Thân can rằng:

– Khi trước Đấu Hoài định hại đại vương, nên đem trị tội, cớ sao lại thưởng ?

Sở Chiêu vương nói:

– Kẻ kia định báo thù cho cha, thế tức là hiếu tử. Đã là hiếu tử thì không làm được trung thần!

Sở Chiêu vương cho làm đại phu. Lam Doãn Điệp xin vào yết kiến Sở Chiêu vương. Sở Chiêu vương giận về nỗi khi trước ở Thành Cữu không chịu ghé thuyền cho đi, toan bắt đem giết, mới sai người ra bảo Lam Doãn Điệp rằng:

– Khi trước nhà ngươi bỏ ra ngoài đường xá, nay lại còn xin yết kiến làm gì ?

Lam Doãn Điệp nói:

– Nang Ngoã ngày xưa quên ơn nhớ thù, đến nỗi bị thua ở Bắc Cử, cớ sao đại vương lại còn bắt chứơc ? vả chiếc thuyền ở Thành Cữu, sao êm ái bằng cung điện ở Sính Đô. Tôi bỏ đại vương ở Thành Cữu là có ý muốn đại vương tỉnh ngộ lại. Ngày nay tôi tới đây là muốn xem đại vương đã biết tỉnh ngộ hay chưa ? đại vương không xét những cớ mất nước mà lại nhớ cái tội tôi không ghé thuyền; tôi dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, chỉ tiếc thay cho cơ nghiệp nước Sở!

Công tử Thân tâu với Sở chiêu vương rằng:

– Lam Doãn Điệp nói thẳng lắm! đại vương nên tha cho, để ghi lấy câu chuyện trong khi thất bại.

Sở Chiêu vương bèn cho Lam Doãn Điệp vào yết kiến, lại cho được giữ nguyên chức đại phu như cũ. Các quan triều thần thấy Sở Chiêu vương độ lượng rộng rãi như vậy, ai cũng bằng lòng. Sở Chiêu vương phu nhân nghĩ mình khi trước thất thân với Hạp Lư, xấu hổ không dám trông mặt Sở Chiêu vương nữa, liền thắt cổ mà chết.

Bấy giờ nước Việt đang gây sự với nước Ngô, nghe tin Sở Chiêu vương phục quốc, sai sứ đến chúc mừng, nhân tiến một người tôn nữ. Sở Chiêu vương lập làm kế thất, tức là nàng Việt Cơ. Việt Cơ là người hiền đức. Sở Chiêu vương rất kính trọng. Sở Chiêu vương lại nghĩ thương em gái là Qúi Vu khi trước đi theo trong lúc họan nạn, muốn chọn một người hiền để gả. Qúi Vu nói với SỞ Chiêu vương rằng:

– Phép làm con gái , không được gần đàn ông. Khi trước Chung Kiến đã có cõng em đi thì tức là chồng em đó, em không muốn kết duyên với người khác nữa.

Sở Chiêu vương liền gả Qúi Vu cho Chung Kiến; lại cho Chung Kiến làm tư nhạc đại phu. Sở Chiêu vương lại nhớ đến sự hiển vinh của quan lệnh doãn cũ là Tôn Thúc Ngao, sai người lập đền thờ ở đất Vân Trung. Công tử Thân thấy Sính Đô bị tàn phá, và người nước Ngô ở đấy đã lâu, quen biết hết đường lối, mới tâu Sở Chiêu vương xin thiên đô sang đất Nhược, gọi là Tân Sính. Sở Chiêu vương bày tiệc, cùng với các quan triều thần uống rượu vui.

Trong khi tiệc rượu đang vui, quan nhạc sư là Hồ Tử sợ Sở Chiêu vương chỉ biết cái vui ngày nay mà quên cái khổ năm trước, lại giống như lối cũ Sở Bình vương, mới ôm cây đàn cầm đến trước mặt Sở Chiêu vương mà tâu rằng:

– Tôi có khúc đàn “Cùng Nột”, xin gảy để đại vương nghe.

Sở Chiêu vương nói

– Ta sẵn lòng nghe lắm!

Hồ Tử ôm cây đàn mà gảy, tiếng nghe rất sầu thảm ! Sở Chiêu vương hiểu ý, nước mắt chảy xuống ròng ròng. Hồ Tử cất cây đàn đi, rồi lui xuống dưới thềm. Sở Chiêu vương truyền bãi tiệc, từ bấy giờ chăm chỉ về việc chính trị. Khi công tử Thắng về, Sở Chiêu vương lên làm Bạch Công. Lại đắp một cái thành cho công tử Thắng ở, gọi là Bạch công thành. Sau thành ra một chi họ Bạch ở đấy. Công tử Phu Khái ở nước Tống nghe tin Sở Chiêu vương không nghĩ những điều thù oán cũ, mới trở về nước Sở. Sở Chiêu vương biết là người vũ dũng, phong cho ở Đường Khê, gọi là Đường Khê thị.

Công tử Thân nghĩ việc làm mất nước Sở, căn nguyên bởi nước Đường và nước Sái. Nay Đường đã diệt mà Sái hãy còn, mới tâu với Sở Chiêu vương đem quân đi đánh Sái để báo thù. Sở Chiêu vương nói:

– Nay việc nước mới yên, ta chưa dám bắt dân phải khó nhọc.

(Theo Xuân Thu truyện chép từ Sở Chiêu vương năm thứ 10 phải chạy trốn; năm thứ 11 được phục quốc. Mãi đến năm thứ 20 mới đem quân đi đánh nước Đốn, bắt vua Đốn tên là Tường; năm thứ 21 đem quân đi đánh nước Hồ, bắt vua Hồ tên là Báo, để báo cái thù khi trước theo Tấn đánh Sở; năm thứ 22 vây nước Sái, hỏi cái tội khi trước theo Ngô vào Sính Đô. Sái Chiêu công phải xin hàng. Sở Chiêu vương thiên nước Sái sang khoảng sông Giang và sông Nhũ. Còn trong 10 năm giữa thì Sở Chiêu vương biết dưỡng đức cho dân được yên nghỉ, bởi vậy đánh đâu được đấy, lại làm cho nước Sở cường thịnh.

Chương 78: Lê Di hiến kế dùng lai binh – Khổng Tử kể tội giết Thiếu Chính

Tề Cảnh công thấy nước Tấn không đánh nổi nước Sở, chư hầu đều có ý chán, muốn thay nước Tấn làm bá chủ. Lỗ Chiêu công khi trước bị quan đại phu nước Lỗ là Quí Tôn Ý Như đuổi. Tề Cảnh công định giúp cho Lỗ Chiêu công về nước, nhưng Qúi Tôn Ý Như cố ý chống cự không theo. Lỗ Chiêu công lại sang cầu cứu nước Tấn. Quan đại phu nước Tấn là Tuân Lịch cũng ăn tiền của Qúi Tôn Ý Như mà không chịu giúp Lỗ Chiêu công. Lỗ Chiêu công phải chết ở nước ngoài. Qúi Tôn Ý Như liền bỏ thế tử Diễn mà lập công tử Tống lên nối ngôi, tức là Lỗ Định công. Lỗ Định công vì cớ Qúi Tôn Ý Như giao thông với Tuân Lịch nước Tấn, cho nên theo Tấn mà không theo Tề: Tề Cảnh công giận lắm, dùng Quốc Hạ làm tướng đem quân sang quấy nhiễu bờ cõi nước Lỗ, nước Lỗ cũng không thể đánh lại nổi. Chưa được bao lâu, Qúi Tôn Ý Như chết, con là Kỳ nối chức tức là Qúi Khang tử. Nguyên trước Mạnh thị, Qúi thị và Thúc thị, ba họ ấy từ khi Lỗ Chiêu công còn ở nhà, cũng đã cùng nhau chia ba nước Lỗ. Họ nào cũng có dùng riêng gia thần để cầm quyền chính, thành ra vua Lỗ không có bề tôi. Đến lượt bọn gia thần lại tiếm quyền của ba quan đại phu làm nhiều điều ngang ngược, xâm phạm đến chủ mình. Bấy giờ Mạnh Tôn Vô Kỵ, Qúi Tôn Tư, Thúc Tôn Châu Cừu, dẫu mỗi nhà có một cái ấp riêng, nhưng quyền chính đều về tay chức ấp tể cả.

1. Mạnh thị có Thành ấp, viên ấp tể là Công Liễm Dương.

2. Qúi thị có Phí ấp, viên ấp tể là Công Sơn Bất Nhữu.

3. Thúc thị có Cấu ấp, viên ấy tể là Công Nhược Điểu.

Thành của ba ấp đều tự ba nhà lập riêng, rất là bền vững, chẳng khác gì kinh thành ở Khúc Phụ. Trong ba viên ấp tể ấy thì Công Sơn Bất Nhữu ngang ngược hơn cả. Công Sơn Bất Nhữu có một người gia thần họ Dương tên Hổ, tên tự là Hoà, vốn người trán to vai rộng, cao hơn chín thước, sức khỏe lạ thường, lại nhiều mưu trí. Lúc đầu Qúi Tôn Tư tin dùng, cho làm chức ấp tể; sau dần dần Dương Hổ chuyên hết quyền chính nhà Qúi thị, thành ra Qúi thị lại bị Dương Hổ áp chế, không biết làm thế nào được.

Bấy giờ lại có quan thiếu chính, tên là Mão, vốn người học rộng nhớ dai, lại có tài khéo nói. Cả nước ai cũng cho là một người thông thái. Nhưng thiếu chính Mão có tính nham hiểm, phản phúc; khi thấy ba nhà thì tán tụng là có công giúp vua yên nước; khi thấy bọn Dương Hổ thì lại giả cách nói những giọng phù công thất (trỏ vua Lỗ) mà ức tư gia (trỏ ba nhà), làm cho hai bên cừu địch lẫn nhau, nhưng ai cũng yêu cái tài hùng biện của thiếu chính Mão, cho nên không ai tỏ được mưu gian của y cả.

Lại nói chuyện Mạnh Tôn Vô Kỵ, tức là con Trọng Tôn Quặc, cháu Trọng Tôn Miệt. Khi Trọng Tôn Quặc hãy còn vẫn mến danh tiếng Khổng Tử người nước Lỗ, bắt con là Mạnh Tôn Vô Kỵ theo Khổng Tử để học lễ.

Khổng Tử nước Lỗ tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni. Cha là Thúc Lương Ngột, khi trước làm quan đại phu ở Trâu ấp, tức là viên dũng tướng hai tay nâng nổi cái cánh cửa treo ở thành Bức Dương ngày trước. Nguyên trước Thúc Lương Ngột lấy con gái họ Thi nước Lỗ, không có con. Người thiếp sinh được một con, tên là Mạnh Bì thì lại có tật ở chân. Thúc Lương Ngột mới sai người đến nhà họ Nhan để cầu hôn. Họ Nhan có năm con gái, đều chưa gả chồng cả, có ý chê Thúc Lương Ngột đã già, mới bảo các con rằng:

– Các con có đứa nào thuận kết duyên với quan đại phu ở Trâu ấp không ?

Các con chẳng ai trả lời cả. Người con gái út tên là Trưng Tại, đứng dậy thưa rằng:

– Phép làm con gái khi còn ở nhà phải theo lời cha, cha đặt đâu con phải ngồi đấy, còn phải hỏi gì!

Họ Nhan nghe nói lấy làm lạ, liền gả Trưng Tại cho Thúc Lương Ngột. Trưng Tại đã kết duyên với Thúc Lương Ngột rồi, vợ chồng lo về sự hiếm hoi, cùng nhau vào lễ cầu tự ở Ni Sơn. Trưng Tại trèo lên trên núi cây cối đều rung động lên. Khi làm lễ xong trở xuống thì lá cây lại rủ xuống như cũ. Đêm hôm ấy, Trưng Tại nằm mộng thấy thần Hắc Đế triệu đến mà bảo rằng:

– Sau này nàng sẽ sinh được con thánh, nhưng khi nào lâm sản nên vào trong Không Tang.

Đến khi tỉnh dậy thì thành có thai. Một hôm Trưng Tại lại mơ mơ màng màng như người chiêm bao, trông thấy năm ông cụ già đứng ở dưới sân, tự xưng là năm vì sao, dắt một con thú giống như con trâu con mà có một sừng, mình lại có vằng. Con thú ấy trông thấy Trưng Tại thì nằm phục ngay xuống mà nhả cái thước ngọc ở trong miệng ra. Trên cái thước ngọc có câu văn rằng: “Con nhà thủy tinh, nối đời Chu suy mà làm Tố vương”. Trưng Tại biết có điềm lạ, mới lấy dải lụa buộc vào sừng con thú ấy mà dắt đi. Khi tỉnh dậy, nói chuyện với Thúc Lương Ngột. Thúc Lương Ngột nói:

– Con thú ấy tất là con kỳ lân.

Gần đến ngày đẻ, Trưng Tại mới hỏi Không Tang là chỗ nào. Thúc Lương Ngột nói:

– Núi Nam Sơn có cái hang đá, tục gọi là Không Tang đó.

Trưng Tại nói:

– Khi tôi lâm sản, tất phải đến đấy.

Thúc Lương Ngột hỏi:

– Sao vậy ?

Trưng Tại thuật chuyện chiêm bao hôm trước, rồi sửa soạn đến ở hang đá Không Tang. Đến hôm ấy, có hai con rồng xanh ở trên trời xuống, phục ở hai bên sườn núi, lại có hai người thần nữ đem nước hương lộ đến gội đầu cho Trưng Tại, gội xong thì biến đi. Khi Trưng Tại lâm sàn, bỗng thấy trong hang đá có một thứ nước suối ấm chảy ra, để Trưng Tại tắm. Trưng Tại tắm xong, suối lại cạn ngay. Khổng Tử sinh tuớng có lạ: môi như môi trâu, tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng như lưng con rùa; miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng mà cao. Thúc Lương Ngột nói:

– Vì ta cầu tự ở Ni Sơn mà được đứa bé này, vậy thì ta đặt tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni. Chưa được bao lâu thì Thúc Lương Ngột tạ thế.

Trưng Tại hết lòng nuôi con. Khổng Tử, khi lớn lên, mình dài chín thước sáu tấc, có thánh đức, ham học, đi chu du các nước, khắp thiên hạ chỗ nào cũng có học trò. Vua các nước đều có lòng kính mến, nhưng bị các nhà quyền qúi đem lòng ghen ghét, thành ra không nước nào dùng được.

Bấy giờ Khổng Tử đang ở nước Lỗ. Mạnh Tôn Vô Kỵ nói với Qúi Tôn Tư rằng:

– Muốn dẹp yên được biến loạn thì tất phải dùng Khổng Khâu.

Qúi Tôn vừa đứng dậy thay áo thì có người ở Phi ấp đến báo rằng:

– Chúng tôi đào giếng thấy một chỗ đất rỗng, trong có con dê, không biết là cớ sao ?

Qúi Tôn Tư muốn thử sức học của Khổng Tử liền dặn người ấy không được nói, rồi vào bảo Khổng Tử rằng:

– Có người đào giếng, bắt được con chó, không biết là cớ sao ?

Khổng Tử nói:

– Cứ như ý tôi thì đó tất là con dê, chứ không phải con chó.

Qúi Tôn Tư kinh sợ mà hỏi rằng:

– Cớ sao lại biết ?

Khổng Tử nói:

– Tôi nghe nói loài sơn quái gọi là qúi võng lạng, loài thuỷ quái gọi là long võng tượng, loài thổ quái gọi là phần dương. Nay đào được một con vật ở dưới đất, tất là con phần dương đó!

Qúi Tôn Tư nói:

– Tại sao gọi là phần dương ?

Khổng Tử nói:

– Phần dương nghĩa là con dê không phải đực, không phải cái, chỉ có hình giống con dê mà thôi.

Qúi Tôn Tư liền gọi người Phi ấp vào hỏi thì quả nhiên như thế, lại càng kinh sợ mà khen rằng:

– Khổng Khâu thật là một tay bác học, không có cái gì là không biết.

Qúi Tôn Tư dùng Khổng Tử làm quan tể ở đất Trung Đô. Việc ấy đồn đến tai Sở Chiêu vương. Sở Chiêu vương sai sứ giả đưa đồ lễ và đem một vật bắt được ở dòng sông Giang khi trước đến hỏi Khổng Tử. Khổng Tử nói:

– Đấy là quả bèo, có thể bổ mà ăn được.

Sứ giả nói:

– Tại sao ngài lại biết ?

Khổng Tử nói:

– Khi trước tôi có sang Sở, nghe đứa trẻ hát rằng: “Vua Sở qua sông, bắt được quả bèo, to bằng cái đấu, đỏ như mặt trời, bổ ra mà ăn, vị ngọt như mật”. Vì thế mà tôi biết.

Sứ giả nói:

– Quả bèo có dễ tìm được không ?

Khổng Tử nói:

– Bèo là một vật lênh đênh trên mặt nước, không có chỗ nhất định, không kết thành quả được, thế thì trăm nghìn năm mới có một lần. Đó là cái triệu tan mà lại hợp, suy mà lại thịnh, đáng mừng thay cho vua Sở!

Sứ giả về nói với Sở Chiêu vương. Sở Chiêu vương lấy làm kính phục. Chính sự của Khổng Tử làm cho đất Trung Đô rất là thịnh trị. Các nước đều sai người đến xem để bắt chước. Lỗ Định công biết Khổng Tử là người giỏi, triệu cho làm quan tư không. Năm thứ 19 đời Chu Kính vương, Dương Hổ muốn chuyên quyền nước Lỗ mới bàn mưu với Công Sơn Bất Nhữu và Thúc Tôn Chiếp, định giết Qúi Tôn Tư và Thúc Tôn Châu Cừu, rồi cho Công Sơn Bất Nhữu thay Qúi Tôn Tư, Thúc Tôn Chiếp thay Thúc Tôn Châu Cừu, còn mình thì thay Mạnh Tôn Vô Kỵ.

Dương Hổ mến Khổng Tử là người hiền, muốn dùng để giúp việc cho mình, mới sai người đến bảo ý cho Khổng Tử biết. Khổng Tử không chịu theo. Dương Hổ sai người đem một con lợn chín đến biếu Khổng Tử. Khổng Tử nói:

– Đây là kế của Dương Hổ buộc ta phải đến tạ ơn y để y được tiếp kiến mà dụ ta đó.

Khổng Tử sai học trò rình lúc Dương Hổ đi vắng mới đến nhà Dương Hổ, đưa danh thiếp rồi về. Dương Hổ không dùng được Khổng Tử. Khổng Tử mật nói với Mạnh Tôn Vô Kỵ rằng:

– Dương Hổ rồi tất làm loạn, mà loạn khởi từ họ Qúi trước, ngài nên phòng bị mới khỏi tai vạ.

Mạnh Tôn Vô Kỵ liền mộ ba trăm tráng sĩ, giả cách thuê làm nhà ở ngoài cửa nam, kỳ thực để phòng lọan. Mạnh Tôn Vô Kỵ lại báo quan tể ấp Thành là Công Liễm Dương phải sửa soạn quân mã để khi có tin báo thì tức khắc đến cứu. Tháng tám năm ấy, nước Lỗ sắp làm lễ Đế tế. Vô Kỵ nghe tin, liền nói:

– Dương Hổ mời Qúi Tôn Tư, việc này khả nghi lắm!

Mạnh Tôn Vô Kỵ sai người báo với Công Liễm Dương, hẹn đến trưa hôm ấy thì đem quân tới cửa nam để tiếp ứng. Ngày hôm ấy, Dương Hổ thân hành đến nhà Qúi Tôn Tư, mời Qúi Tôn Tư lên xe. Dương Hổ đi trước, Dương Việt (em họ Dương Hổ) đi sau, xung quanh đều là người phái họ Dương cả. Chỉ có một người dong xe cho Qúi Tôn Tư là Lâm Sở, xưa nay vẫn là môn khách nhà họ Qúi. Qúi Tôn Tư có lòng nghi, mới nói riêng với Lâm Sở rằng:

– Nhà ngươi có thể đưa xe ta tới nhà họ Mạnh được không ?

Lâm Sở hiểu ý, khi đi đến con đường rộng, thì rẽ dây cương quay xe về phía nam, rồi gia roi đánh ngựa. Ngựa lồng chạy mau lắm. Dương Việt trông thấy, gọi ầm lên rằng:

– Kìm ngựa lại!

Lâm Sơ chẳng nói gì cả, gia roi đánh mãi. Ngựa càng chạy mau. Dương Việt tức thì nổi giận, giương cung bắn Lâm Sở, nhưng bắn không trúng, bèn cũng ra roi đánh ngựa kéo xe của mình để đuổi. Trong khi vội vàng, Dương Việt đánh rơi roi ngựa. Dương Việt cúi xuống nhặt roi thì xe Qúi Tôn Tư đi đã xa rồi. Qúi Tôn Tư tới cửa nam đi thẳng vào nhà họ Mạnh mà kêu lên rằng:

– Mạnh Tôn cứu ta với!

Mạnh Tôn Vô Kỵ sai ba trăm tráng sĩ phục sẵn ở phía trong hàng rào. Được một lúc, Dương Việt đến, thúc quân phá rào, tráng sĩ ở trong bắn ra, quân Dương Việt chết hại rất nhiều. Dương Việt cũng bị trúng tên mà chết. Dương Hổ ngảnh lại, không trông thấy Qúi Tôn Tư, bèn quay trở về lối trước, hỏi người đi đường rằng:

– Các ngươi có trông thấy xe quan tướng quốc không ?

người đi đường nói:

– Ngựa lồng, đã đi ra phía cửa nam rồi!

Nói chưa dứt lời thì gặp đại binh của Dương Việt chạy đến. Dương Hổ mới biết là Dương Việt đã bị bắn chết, Qúi Tôn Tư đã trốn vào nhà họ Mạnh rồi, cũng tức thì nổi giận, định đem quân vào triều để hiếp Lỗ Định công phải đánh họ Mạnh. Khi đi đến nửa đường, gặp Thúc Tôn Châu Cừu, Dương Hổ lại hiếp cả Thúc Tôn Châu Cừu, bắt phải đem quân cùng sang đánh họ Mạnh ở cửa nam. Mạnh Tôn Vô Kỵ cố sức chống giữ.

Dương Hổ sai phóng hoả. Qúi Tôn Tư sợ lắm. Mạnh Tôn Vô Kỵ thấy trời vừa đúng trưa, bảo Qúi Tôn Tư rằng:

– Không sợ! có quân ở Thành ấp sắp đến cứu.

Chưa dứt lời thì có một viên mãnh tướng ở phía đông đem quân đến, quát to lên rằng:

– Ta là Công Liễm Dương đây, các ngươi chớ xâm phạm đến chủ ta.

Dương Hổ giận lắm, xông lại đánh Công Liễm Dương. Hai bên giao chiến hơn năm mươi hiệp, tinh thần Dương Hổ càng thêm hăng hái. Công Liễm Dương đã có ý hơi khiếp sợ. Thúc Tôn Châu Cừu ở sau mặt trận kêu to lên rằng:

– Dương Hổ thua rồi!

Rồi tức khắc đem quân đưa Lỗ Định công chạy về phía tây. Quân của vua Lỗ cũng chạy theo vua. Mạnh Tôn Vô Kỵ phá rào đem quân ra đuổi. Gia thần nhà họ Qúi là Khổ Việt cũng đem quân đến. Dương Hổ thế cô, chạy về giữ cửa Quán Dương. Ba nhà cùng hợp quân đến đánh. Dương Hổ không thể địch nổi, sai đốt cửa Lai Môn. Quân Lỗ tránh lửa phải rút lui. Dương Hổ xông qua đống lửa mà ra, chạy sang nước Tề, vào yết kiến Tề Cảnh công, đem ruộng Quán Dương dâng nước Tề, để mượn quân đánh Lỗ. Quan đại phu nước Tề là Bão Quốc nói với Tề Cảnh công rằng:

– Nước Lỗ đang dùng Khổng Khâu ta không thể địch nổi. Chi bằng ta bắt Dương Hổ và đem ruộng Quán Dương trả lại nước Lỗ, để lấy lòng Khổng Khâu.

Tề Cảnh công nghe lời, bắt Dương Hổ giam ở Tây Bỉ. Dương Hổ cho quân canh uống rượu say, rồi trốn sang nước Tống. Nước Tống cho Dương Hổ ở đất Khuông. Dương Hổ rất ác với người đất Khuông. Người đất Khuông toan giết. Dương Hổ lại trốn sang nước Tấn, làm tôi Triệu Uởng. Tề Cảnh công thấy Dương Hổ trốn mất, sợ người nước Lỗ nghi mình dung nạp, mới sai sứ đưa thư cho Lỗ Định công, nói rõ việc Dương Hổ trốn sang nước Tống, và ước với Lỗ Định công cùng hội ở núi Giáp Cốc để giảng hoà. Lỗ Định công họp ba nhà cùng thương nghị. Mạnh Tôn Vô Kỵ nói:

– Người nước Tề hay nói dối, chúa công chớ khinh suất mà đi dự hội.

Qúi Tôn Tư nói:

– Nước Tề đã nhiều lần đem quân đánh ta, nay muốn hoà hiếu, cớ sao ta lại từ chối ?

Lỗ Định công nói:

– Nay ta định sang hội với Tề, nên cho ai đi bảo giá ?

Mạnh Tôn Vô Kỵ nói:

– Tất phải dùng Khổng Khâu là ông thầy của tôi.

Lỗ Định công liền triệu Khổng Tử đến, giao cho việc tướng lễ để sang hội với Tề.

Lúc Lỗ Định công sắp đi. Khổng Tử tâu rằng:

– Tôi nghe nói có văn thì tất phải có vũ, hai điều ấy không thể bỏ một điều được. Xem như việc Tống Tương công sang hội ở Vu Địa khi trước, thì ta cũng nên phải phòng bị. Xin chúa công cho quan tư mã đem quân đi theo mới được.

Lỗ Định công nghe lời, truyền cho quan đại phu là Thân Câu Tu làm hữu tư mã, Nhạc Kỳ là tả tư mã đem quân đi theo sau; lại sai quan đại phu là Tư Vô Hoàn đem quân đến đóng cách hội sở độ mười dặm. KHi đến đất Giáp Cốc, Tề Cảnh công đã lập sẵn một cái đàn cao ba tầng, cách thức trông rất đơn giản. Tề Cảnh công đóng ở phía hữu, Lỗ Định công đóng ở phía tả. Lúc bấy giờ quan đại phu nước Tề là Lê Di là một người có nhiều mưu trí. Từ khi Lương Khâu Cử chết đi, Tề Cảnh công tin dùng Lê Di lắm. Đêm hôm ấy, Lê Di xin vào yết kiến. Tề Cảnh công cho vào. Tề Cảnh công hỏi rằng:

– Có việc gì mà đêm hôm nhà ngươi tới đây như vậy ?

Lê Di tâu rằng:

– Nước ta xưa nay vốn là cừu địch với Lỗ, chỉ vì nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, ta sợ mai sau có hại đến nước Tề ta, vậy nên mới lập ra hội này. Tôi xem Khổng Khâu là người biết lễ mà không có vũ dũng, chẳng quen việc tranh chiến bao giờ. Sáng mai chúa công ra khai hội, truyền đem phườg nhạc các nước đến, để cho vua Lỗ được vui, rồi sai ba trăm quân Lai Di giả hình làm nhạc công, tiến vào bắt vua Lỗ và bắt cả Khổng Khâu nữa; còn tôi ở dưới đàn sẽ đem quân đuổi đánh quân Lỗ. Bấy giờ tính mệnh vua tôi nước Lỗ ở trong tay ta, chúa công muốn định đọat thế nào tuỳ ý.

Tề Cảnh công nói:

– Việc này có nên làm hay không, để ta phải bàn với quan tướng quốc (trỏ Án Anh).

Lê Di nói:

– Quan tướng quốc vốn chơi thân với Khổng Khâu. Nếu nói cho quan tướng quốc biết thì việc này không thể làm được, xin chúa công cứ giao cho tôi.

Tề Cảnh công nói:

– Ta cũng nghe lời nhà ngươi, nhưng nhà ngươi phải cẩn thận lắm mới được.

Lê Di tức khắc đi bảo với quân Lai Di. Ngày hôm sau, Tề Cảnh công và Lỗ Định công hội nhau ở trên đàn. Nước Tề thì Án Anh làm tướng lễ; nước Lỗ thì Khổng Tử làm tướng lễ. Hai bên vái chào nhau. Khi làm lễ xong, Tề Cảnh công nói với Lỗ Định công rằng:

– Tôi có đủ phường nhạc các nước, xin cùng với nhà vua cùng vui.

Tề Cảnh công truyên cho người Lai Di lên tấu nhạc Lai Di. Bọn ba trăm người Lai Di tay cầm các đồ vũ mạo và kiếm kích ở dưới đàn kéo lên, miệng hát những tiếng lúi lo, theo với âm nhạc. Khi người Lai Di lên đến nửa thềm, Lỗ Định công trông thấy, đã có ý lo. Khổng Tử không sợ hãi gì cả, rảo bước sang đứng ở trước mặt Tề Cảnh công mà tâu rằng:

– Hai nước ta đang hội nhau để tỏ lòng hiếu, nên dùng lễ Trung quốc, sao lại dùng đến âm nhạc của giống rợ mọi như vậy, xin cho bỏ đi.

Án Anh không biết là kế Lê Di, cũng tâu với Tề Cảnh công rằng:

– Khổng Khâu nói thế, chính là hợp lễ đó!

Tề Cảnh công có ý thẹn, liền truyền cho người Lai Di lui xuống. Lê Di thấy vậy giận lắm, lại gọi phường nhạc nước Tề đến mà dặn rằng:

– Khi ăn tiệc đến nửa chừng, các ngươi hát bài thơ Tệ Cẩu rồi ra bộ dỡn cợt nhau, để làm cho vua tôi nước Lỗ phải tức giận thì ta sẽ trọng thưởng cho.

Lê Di trèo lên trên đàn, tâu với Tề Cảnh công rằng:

– Xin tấu âm nhạc trong cung để chúc thọ hai vua. Tề Cảnh công nói:

– Âm nhạc trong cung, không phải là âm nhạc rợ mọi, nên cho tấu ngay.

Lê Di truyền cho phường nhạc ra diễn. Bọn phường nhạc hơn hai chục người, đều cải trang vẽ mặt chia làm hai bên, một bên đóng nam, một bên đóng nữ. Họ kéo nhau, hát toàn những giọng dâm loạn, vừa hát vừa cười. Khổng Tử chống gươm trừng mắt nhìn Tề Cảnh công mà tâu rằng:

– Kẻ thất phu dám cợt nhạo vua chư hầu thì tội đáng chết, xin cho quan tư mã nước Tề chiếu phép hành tội.

Tề Cảnh công không nói gì cả. Bọn phường nhạc lại cợt nhao như trước. Khổng Tử nói:

– Hai nước ta đã giao hiếu với nhau coi nhau như anh em thì quan tư mã nước Lỗ, tức là quan tư mã nước Tề.

Khổng Tử nói xong, liền ngảnh xuống dưới đàn mà vẫy Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ. Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ lên thẳng trên đàn, bắt hai tên đứng đầu trong bọn ca công đem xuống chém; còn những đứa khác đều sợ mà bỏ chạy. Tề Cảnh công kinh hãi. Lỗ Định công tức khắc cáo từ. Lê Di lúc trước vẫn định đón ở dưới đàn để bắt Lỗ Định công, sau một là thấy Khổng Tử có tài ứng biến, hai là thấy Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ đều là tay anh hùng, ba là nghe nói ở ngoài mười dặm có quân Lỗ đóng, mới phải lui về. Tề Cảh công về, gọi Lê Di vào mà trách rằng:

– Khổng Khâu làm tướng lễ, đều theo nhạc cổ nhân, sao nhà ngươi lại xui ta dùng cách rợ mọi ấy, ta đang cùng với nước Lỗ giao hiếu, nay thành ra cừu thù.

Lê Di sợ hãi xin chịu tội, không dám cãi một câu nào. Án Anh nói với Tề Cảnh công rằng:

– Người quân tử khi đã biết lỗi của mình thì dùng cách thành thực mà tạ lại. Nay nước Lỗ có ba xứ ruộng ở Vấn Dương: một là Hoan Điền, Dương Hổ nước Lỗ đem dâng nước ta, đó là của bất nghĩa; hai là Vận Điền, năm trước nước ta lấy của nước Lỗ cho Lỗ Chiêu công ở; ba là Quí Âm Điền, tiên quân ta ngày xưa nhờ thế lực của nước Tấn mà lấy của nước Lỗ. Nước Lỗ mất ba xứ ruộng ấy vẫn lấy làm căm tức. Chúa công nên nhân dịp này đem ba xứ ruộng ấy trả lại nước Lỗ để xin lỗi thì vua tôi nước Lỗ tất phải bằng lòng, mà tình giao hiếu của ta và Lỗ càng thêm bền chặt.

Tề Cảnh công bằng lòng, liền sai Án Anh đem ba xứ ruộng ấy trả lại nước Lỗ. Ruộng Vấn Dương nguyên trước là của Lỗ Hi công ban cho Qúi Hữu, ngày nay nước Tề trả lại vua Lỗ, tức lại về tay họ Qúi. Bởi vậy Qúi Tôn Tư cảm ơn Khổng Tử, truyền đắp thành ở đất Qúi Âm, gọi là Tạ Thành để ghi công ấy; lại nói với Lỗ Định công thăng chức cho Khổng Tử làm đại tư khấu.

Bấy giờ có một con chim lớn dài ước ba thước, mình đen cổ trắng, mỏ dài mà có một chân, tự phía nam nước Tề bay sang nước Lỗ, vỗ hai cánh đứng múa ở ngoài đồng, người làm ruộng đuổi đi không được, rồi sau nó bay về phía bắc. Qúi Tôn Tư nghe có chuyện quái dị ấy, đem hỏi Khổng Tử, Khổng Tử nói:

– Con chim ấy tên gọi là thương dương, sinh ở bên Bắc Hải. Khi nào trời sắp mưa to thì con thương dương múa. Bởi vậy chỗ nào thấy con thương dương múa tất là chỗ ấy sắp có cái hại mưa dầm, chỗ giáp giới Tề và Lỗ nên phải phòng bị mới được.

Qúi Tôn Tư truyền cho dân ở đấy phải đắp đê và lợp nhà cho kỹ. Chưa được ba ngày thì quả nhiên trời mưa rất to, sông Vấn nước đầy tràn lên. Nước Lỗ đã có phòng bị trước, cho nên không bị hại. Việc ấy đồn đến nước Tề. Tề Cảnh công càng thêm kính phục Khổng Tử. Từ đấy Khổng Tử nổi tiếng là một nhà bác học, khắp trong thiên hạ ai cũng gọi là thánh nhân. Khổng Tử tiến dẫn Trọng Do (tên gọi là Tử Lộ) và Nhiễm Cầu (tên tự là Tử Hữu), Qúi Tôn Tư đều dùng làm gia thần.

Một hôm, Qúi Tôn Tư hỏi Khổng Tử rằng:

– Dương Hổ dẫu trốn đi, nhưng Công Sơn Bất Nhữu lại nổi lên, dùng cách gì mà trị được ?

Khổng Tử nói:

– Ta phải dùng lễ chế thì mới trị được. Cứ theo như lễ chế thì gia thần không được chứa giáp binh, quan đại phu không được đắp thành một trăm trĩ, bởi vậy chức ấp tể không trông cậy vào đâu mà dám nổi loạn, sao ngài không bắt Công Sơn Bất Nhữu phá thành đi và bỏ đồ giáp binh đi, có phải là yên việc không ?

Qúi Tôn Tư khen phải, nói với họ Mạnh và họ Thúc. Mạnh Tôn Vô Kỵ nói:

– Nếu có lợi cho nước nhà thì ta có tiếc gì.

Bấy giờ thiếu chính Mão đang ghét Khổng Tử, muốn phá việc ấy, mới sai Thúc Chiếp Mật báo cho Công Sơn Bất Nhữu biết. Công Sơn Bất Nhữu muốn giữ thành để làm phản, biết người nước Lỗ vẫn kính trọng Khổng Tử, cũng muốn nhờ Khổng Tử giúp cho, bèn sai người đưa lễ vật và một bức thư cho Khổng Tử. Thư rằng:

– “Từ khi Tam Hoàn chuyên chính, vua yếu, bề tôi mạnh, lòng người ai cũng oán giận. Tôi dẫu làm quan với họ Qúi, nhưng vẫn một lòng mến điều công nghĩa, xin đem Phi ấp nộp làm của công, rồi giúp vua để trừ kẻ cường bạo, khiến cho nước Lỗ lại theo được cái nghiệp cũ của Chu công thuở xưa. Nếu ngài cho tôi là phải thì xin mời ngài quá bộ sang Phi ấp, ta sẽ bàn việc. Gọi là có chút lễ vật kính dâng, xin ngài nhận cho”.

Khổng Tử nói với Lỗ Định công rằng:

– Nếu Công Sơn Bất Nhữu làm phản thì ta lại phải khó nhọc về việc dùng quân. Xin chúa công cho tôi sang Phi ấp để bảo hắn nghĩ lại mà đổi lỗi đi, phỏng có nên chăng ?

Lỗ Định công nói:

– Công việc nước nhà, ta trông cậy vào nhà ngươi cả, nhà ngươi chớ nên lúc nào rời bên cạnh ta.

Khổng Tử trả lời lại bức thư và lễ vật của Công Sơn Bất Nhữu. Công Sơn Bất Nhữu thấy Khổng Tử không nhận lời, liền sai người nói với quan tể ấp Thành là Công Liễm Dương và quan tể ấp Cấu là Công Nhược Điểu để cùng nổi loạn. Công Liễm Dương và Công Nhược Điểu đều không theo. Viên mã chính ở Cấu âp tên gọi là Hầu Phạm là người có sức khỏe lại giỏi bắn, người Cấu ấp ai cũng sợ. Hầu Phạm vẫn có ý muốn làm lọan, mới sai ngừơi giết Công Nhược Điểu, rồi tự xưng làm quan tể ấp Cấu, đem quân Cấu chống cự với ba nhà. Thúc Tôn Châu Cừu nghe tin Hầu Phạm làm phản, đến bảo Mạnh Tôn Vô Kỵ. Mạnh Tôn Vô Kỵ nói:

– Tôi xin giúp ngài một tay để cùng trừ đứa phản nô ấy.

Bấy giờ họ Mạnh cố sức chống giữ. Mạnh Tôn Vô Kỵ không thể đánh nổi, bảo Thúc Tôn Châu Cừu sang cầu viện nước Tề. Có kẻ gia thần họ Thúc tên gọi Tử Xích ở trong ấp Cấu, giả cách theo Hầu Phạm. Hầu Phạm tin dùng lắm. Tử Xích bảo Hầu Phạm rằng:

– Họ Thúc sai sứ sang mượn quân nước Tề, hai nước hợp quân đánh ta, ta địch thế nào nổi ? chi bằng ta đem ấp Cấu sang hàng nước Tề. nước Tề mặt ngoài dẫu thân với Lỗ, nhưng trong thực ghét Lỗ. Nếu Tề được ấp Cấu thì có thể hiếp Lỗ được. Tất Tề mừng lắm, phải đem chỗ đất to hơn ở nơi khác đền lại cho ngài. Đàng nào ngài cũng có đất ở, mà lại bỏ được chỗ nguy đến chỗ yên, còn gì lợi bằng!

Hầu Phạm khen phải, sai người sang xin hàng với nước Tề và nộp ấp Cấu. Tề Cảnh công hỏi Án Anh rằng:

– Họ Thúc mượn quân ta để đánh ấp Cấu, nay Hầu Phạm lại nộp ấp Cấu mà xin hàng, ta biết xử thế nào ?

Án Anh nói:

– Ta đang cùng với Lỗ hoà hiếu, sao lại nhận cho kẻ phản thần nước Lỗ sang đầu hàng. Ta nên giúp họ Thúc là phải.

Tề Cảnh công cười mà nói rằng:

– Cấu ấp là ấp riêng của họ Thúc, có dự gì đến vua Lỗ, huống chi Hầu Phạm đang xâu xé với họ Thúc, đó là một việc không may cho Lỗ mà rất may cho Tề. Ta đã có kế, cứ nhận lời cả hai bên để làm cho họ hỏng việc.

Tề Cảnh công bèn sai quan tư mã là Điền Nhương Thư đóng quân ở giáp giới nước Lỗ để đợi khi có biến: nếu Hầu Phạm đánh được họ Thúc thì chia quân giữ lấy ấp Cấu, rồi đón Hầu Phạm về nước Tề; nếu họ Thúc đánh được Hầu Phạm thì giả cách nói là đem quân sang giúp họ Thúc mà đánh ấp Cấu. Tùy cơ ứng biến, ấy là cái kế gian hùng của Tề Cảnh công đó. Tử Xích thấy Hầu Phạm đã sai sứ sang Tề rồi, lại bảo Hầu Phạm rằng:

– Nước Tề vừa mới giao hiếu với Lõ, chưa chắc đã chịu giúp ta, ta nen sắp sẵn binh giáp để ở cửa dinh, vạn nhất có sự nguy biến gì dùng đến cho tiện.

Hầu Phạm vốn kẻ vũ phu không biết suy xét, tin là phải, mới truyền sắp sẵn binh giáp để ở cửa dinh. Tử Xích viết một bức thư, bắn ra ngoài thành cho quân Lỗ. Quân Lỗ nhặt được thư, đưa cho Thúc Tôn Châu Cừu. Thúc Tôn Châu Cừu mở thư ra xem. Thư rằng:

“Tôi là Tử Xích đã lập sẵn mưu kế đánh Hầu Phạm, chẳng bao lâu nữa trong thành tất có nội biến, xin chúa công đừng lo ngại “.

Thúc Tôn Châu Cừu mừng lắm, báo tin cho Mạnh Tôn Vô Kỵ biết rồi sắp quân để đợi. Mấy hôm sau sứ giả ở nước Tề về, báo với Hầu Phạm, nói vua Tề đã bằng lòng nhận Cấu và định đổi cho một cái ấp khác. Tử Xích nghe tin, vào mừng Hầu Phạm, khi trở ra, sai người bá cáo cho nhân dân biết rằng: họ Hầu sai sứ giả xin đem Cấu âp phụ thuộc với Tề, sứ giả về nói quân Tề sắp kéo sang.

Nhân dân nghe nói náo động cả lên, có nhiều người đến hỏi Tử Xích. Tử Xích nói:

– Ta cũng nghe nói như vậy, nhưng Tề đang giao hiếu với Lỗ, không muốn chiếm đất, định thiên dân sang ở đất Liêu Nhiếp nước Tề. Xưa nay người ta vẫn có câu “ở đâu sâu đấy” nay nghe nói sắp sửa phải bỏ xứ mình mà đi, ai là người không sợ hãi.

Mọi người nghe nói, huyên truyền nhau, ai cũng oán giận. Một đêm Hầu Phạm đang uống rượu say. Tử Xích biết vậy, liền sai mấy chục người tâm phúc đi quanh thành mà kêu ầm lên rằng:

– Quân Tề đã đến ngoài thành rồi! chúng ta nên mau mau sắp đồ hành lý, chỉ trong ba ngày nữa đã phải bồng bế nhau đi!

Nói xong lại khóc. Dân ấp Cấu náo động, đến họp cả ở cửa Hầu Phạm. Những người già yếu tiếng khóc như ri; còn những kẻ cường tráng; đều nghiến răng nghiến lợi, oán giận Hầu Phạm. Bỗng trông thấy cửa dinh có đồ binh giáp, chúng liền cướp lấy, mặc áo giáp vào mình, tay cầm đồ binh, cùng nhau reo ầm lên mà vây chung quanh nhà Hầu Phạm. Quân sĩ giữ thành bấy giờ cũng theo chúng mà phản Hầu Phạm. Tử Xích vội vàng bảo Hầu Phạm rằng:

– Dân ấp Cấu không chịu phụ thuộc nước Tề, đều bảo nhau làm phản. Ngài có còn binh giáp để cho tôi ra đánh không ?

Hầu Phạm nói:

– Binh giáp của ta đều bị chúng cướp mất cả rồi! bây giờ chỉ nên nghĩ cách nào tránh tai vạ là hơn.

Tử Xích nói;

– Tôi xin cố sức đưa ngài đi trốn.

Nói xong lại ra bảo với mọi người rằng:

– Các người nên nhường một lối để cho họ Hầu đi trốn.Họ Hầu trốn thì quân Tề cũng không đến nữa.

Mọi người theo lờ, nhường một lối cho đi. Tử Xích đi trước, Hầu Phạm đi sau, gia thuộc còn hơn một trăm người và hơn mười cỗ xe. Tử Xích đưa ra khỏi cửa đông, rồi đem quân Lỗ vào thành mà phủ dụ nhân dân.

Mạnh Tôn Vô Kỵ toan đuổi theo Hầu Phạm. Tử Xích can rằng:

– Tôi đã nhận lời cho hắn được trốn thóat rồi!

Mạnh Tôn Vô Kỵ nghe lời không đuổi nữa, liền phá bớt thành Cấu đi ba thước, rồi dùng Tử Xích làm quan tể ở đấy. Hầu Phạm chạy sang với quân Tề. Tướng nước Tề là Điền Nhương Thư biết là quân Lỗ đã phá vỡ ấp Cấu, liền rút quân về. Thúc Tôn Châu Cừu và Mạnh Tôn Vô Kỵ cũng trở về nước Lỗ. Lúc trước Công Sơn Bất Hữu nghe nói Hầu Phạm chiếm đánh, thì mừng mà nói rằng:

– Bây giờ họ Quí đang thế cô, ta thừa hư lẻn đánh, có thể cướp được nước Lỗ.

Nói xong, liền đem quân ấp Phi tiến vào đất Khúc Phụ.

Thúc Tôn Chiếp làm nội ứng, mở cửa thành cho Công Sơn Bất Nhữu vào. Lỗ Định công vội vàng triệu Khổng Tử đến hỏi kế. Khổng Tử nói:

– Quân nhà vua yếu lắm, khong thể dùng được, tôi xin đưa chúa công chạy sang với họ Qúi.

Khổng Tử bèn đưa Lỗ Định công chạy sang họ Quí. Trong cung họ Qúi có một cái đài cao rất bền vững, Lỗ Định công ở đấy. Được một lúc, quan tư mã là Thân Câu Tu đem hết binh pháp ra trao cho quan tư mã, để phục ở hai bên tả hữu. Còn quân sĩ thì xếp hàng ở trước đài. Công Sơn Bất Nhữu cùng Thúc Tôn Chiếp thương nghị rằng:

– Ta làm việc này, vẫn mượn tiếng là phù công thất mà ức tư gia. Nếu ta không phụng vua Lỗ làm chủ thì sao đánh nổi họ Qúi ?

Nói xong, liền vào cung để tìm Lỗ Định công, nhưng tìm không thấy, biết là Lỗ Định công đã chạy sang nhà họ Qúi, mới đem quân sang, đánh nhau với bọn quân nhà vua. Bọn quân này bỏ chạy. Bỗng thấy Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ ở hai bên đem quân tiến ra. Khổng Tử phù Lỗ Định công đứng ở trên đài, bảo người Phí ấp rằng:

– Chúa công đứng đấy, các ngươi lại không biết bỏ nghịch mà theo thuận hay sao ? nên mau mau cởi áo giáp mà đầu hàng đi thì được xá tội.

Người Phi ấp biết Khổng Tử là bậc thánh nhân, ai dám không nghe, bèn bỏ đồ binh mã sụp lạy ở dưới đài. Công Sơn Bất Nhữu và Thúc Tôn Chiếp thế cùng, bỏ chạy sang nước Ngô. Thúc Tôn Châu Cừu đã phá được thành Cấu. Qúi Tôn Tư cũng sai phá bớt thành Phi ấp, chỉ còn để theo như phép cũ. Mạnh Tôn Vô Kỵ cũng muốn phá ấp Thành. Tề ấp Thành là Công Liễm Dương hỏi kếu thiếu chính Mão. Thiếu chính Mão nói:

– Ấp Cấu và ấp Phi vì làm phản mà phải phá thành, nếu lại phá cả ấp Thành thì hóa ra ta cũng chẳng khác gì lũ phản thần hay sao! nhà ngươi cứ nói phá ấp Thành thì khi quân Tề sang xâm cõi bắc, ta lấy gì mà đương nổi. Cứ một mực giữ lời nói ấy thì dẫu chống cự lại mà khong cho phá, cũng không gọi là làm phản được.

Công Liễm Dương theo kế ấy, sai quân sĩ trèo lên mặt thành mà nói với Mạnh Tôn Vô Kỵ rằng:

– Tôi giữ thành này, không phải là vì họ Mạnh, chính là vì nước Lỗ, nếu phá đi thì sợ khi quân Tề kéo đến, không lấy gì mà đương nổi. Vậy xin liều chết mà cố giữ chứ không dám động đến một viên gạch.

Khổng Tử cười mà nói rằng:

– Công Liễm Dương không khi nào nói được câu ấy, tất có người xui đó.

Qúi Tôn Tư khen Khổng Tử định được ấp Phi, tự biết là tài đức mình không bằng, mới để cho Khổng Tử giúp làm việc tướng quốc, việc gì cũng hỏi đến Khổng Tử, nhưng Khổng Tử nói câu gì thì thiếu chính Mão lại cố ý dèm pha khiến cho người nghe phần nhiều mê hoặc. Khổng Tử mật tâu với Lỗ Định công rằng:

– Nước Lỗ không cường thịnh lên được, là tại trung nịnh không phân biệt, thưởng phạt không nghiêm minh, ví như người muốn trồng lúa tốt, tất phải trừ bỏ cỏ xấu. Xin chúa công cương quyết, cho đem các đồ phủ Việt trong nhà thái miếu ra bày ở dưới lưỡng quán để dùng về việc hình.

Lỗ Định công thuận cho. Sáng hôm sau, Lỗ Định công truyền cho triều thần hội nghị, để bàn việc phá ấp Thành. Người thì nói nên phá, người thì nói không nên phá. Thiếu chính Mão muốn đón ý Khổng Tử, nói phá ấp thành có sáu điều kiện: 1. để tôn trọng quyền vua, không ai được bằng; 2. để tôn trọng cái hình thế đô thành; 3. để ức quyền tư môn; 4. để khiến cho kẻ gia thần lộng quyền không có chỗ nương cậy; 5. để yên lòng ba nhà (Mạnh, Thúc, Qúi); 6. để cho các nước nghe việc nước Lỗ ta làm phải kính phục.

Khổng Tử tâu với Lỗ Định công rằng:

– Ấp Thành nay đã cô thế, còn làm gì được, huống chi Công Liễm Dương vẫn có lòng trung với nhà vua, sao dám bảo là lộng quyền ? thiếu chính Mão dùng lời nói khéo để làm rối lọan chính sự, khiến cho vua tôi ly gián nhau, cứ theo phép thì nên giết.

Triều thần đều nói:

– Thiếu chính Mão là một người có danh vọng của nước Lỗ ta, dẫu có nói lầm nữa, cũng chưa đến phải tội chết.

Khổng Tử lại tâu với Lỗ Định công rằng:

– Thiếu chính Mão là người dối giá mà lại biện bác, làm cho người ta mê hoặc. Nếu không giết đi thì chính sự không làm nổi. Xin chúa công cho đem phủ việt ra để trị tội.

Khổng Tử truyền cho lực sĩ trói thiếu chính Mão ở dưới lưỡng quán mà giết đi. Triều thần, đều xám xanh cả nét mặt. Ba nhà trông thấy, cũng phải sợ hãi. Từ khi giết được thiếu chính Mão rồi, Lỗi Định công và ba nhà mới một lòng nghe lời Khổng Tử.

Khổng Tử mới chỉnh đốn kỷ cương trong nước, lấy những điều lễ nghĩa và liêm sĩ mà dạy dân, cho nên dân không nhiễu loạn mà chính sự mỗi ngày một hay. Ba tháng về sau, phong tục biến cải cả; các nhà buôn gà lợn, không dám nhồi cám để dối người mua; trong khi đi đường bên trai bên gái phân biệt khác nhau, không có hỗn loạn; thấy của rơi ở đường, nhưng không phải của mình thì không ai thèm nhặt; người các nước đến du lịch dều được nước Lỗ tiếp đãi tử tế, không để thiếu thốn.

Dân nước Lỗ làm một bài ca để tán tụng công đức Khổng Tử. Bài ca ấy truyền tụng sang đến nước Tề. Tề Cảnh công kinh sợ mà nói rằng:

– Nếu vậy thì sau này nước ta tất bị nước Lỗ xâm chiếm, ta nên phải nghĩ kế để phòng bị!

Chương 79: Lê Di lập kế hại Khổng Tử – Văn Chủng bày mưu thông Bá Hi

Khi Tề Cảnh công hội ở Giáp Cốc về, Án Anh ốm chết. Tề Cảnh công thương khóc mấy ngày, đang lo trong triều không có người hiền tài, lại nghe tin nước Lỗ dùng Khổng Tử mà được cừơng thịnh, mới lo sợ mà nói rằng:

– Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu tất nên nghiệp bá, mà nên nghiệp bá thì tất phải tranh đất. Nước ta tiếp giáp với Lỗ thì cái họa ấy tất đến nước ta trước, biết làm thế nào ?

Quan đại phu là Lê Di tâu rằng:

– Chúa công lo nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, sao không tìm cách ngăn đi ?

Tề Cảnh công nói:

– Nước Lỗ đang giao quyền chính cho Khổng Khâu, ta dùng cách gì mà ngăn trở được ?

Lê Di nói:

– Tính con người ta, hễ được cường thịnh, thì tất sinh lòng kiêu giật, xin chúa công lập một bộ nữ nhạc đem cho vua Lỗ. Vua Lỗ đã nhận nữ nhạc thì tất sinh lười biếng mà chán Khổng Khâu. Bấy giờ Khổng Khâu tất phải bỏ Lỗ mà đi, chúa công mới có thể ngồi yên được.

Tề Cảnh công bằng lòng, sai Lê Di xem trong đám nữ lư, chọn những đứa xinh đẹp, độ trong 20 tuổi, cả thảy 80 người, chia làm 10 đội, đều cho ăn mặc gấm vóc và dạy hát múa. Khúc hát ấy gọi là “Khang lạc” thah âm và điệu bộ đều mới lạ, đủ mọi chiều phong vận, ở đời chưa có bao giờ! khi luyện tập đã thành rồi, lại dùng cỗ ngựa, cương vàng, yên nạm, mỗi con một sắc, trông đẹp như gấm, sai sứ đem dâng Lỗ Định công. Sứ giả làm hai rạp bằng gấm ở ngoài cửa Cao Môn nước Lỗ, rạp phía đông bày đàn ngựa, rạp phía tây bày nữ nhạc, rồi đệ quốc thư vào tâu Lỗ Định công rằng:

“Tôi là Chử Cữu, cúi đầu dâng Lỗ quân hầu mấy lời. Khi trước hội ở Giáp Cốc, tôi có thất lễ với quân hầu, trong lòng vẫn lấy làm hổ thẹn, may mà quân hầu có lòng dung thứ, cho tôi được giao hiếu như xưa. Từ ngày ấy đến giờ, trong nước nhiều việc không sang sính vấn được, nay có mấy đội ca vũ, để khuây lòng điện hạ, bảy cỗ ngựa hay,, để êm xe điện hạ, xin đem dâng quân hầu, gọi là chút lòng kính mến, xin quân hầu nhận cho”.

Qúi Tôn Tư thấy nước Lỗ được thái bình, cũng đã sinh lòng kiêu căng trễ nãi. Bỗng nghe nói nữ nhạc nước Tề mỹ miều thánh thót, trong lòng vui vẻ, liền đổi y phục, cùng với mấy người tâm phúc, đi xe lẻn ra Cao Môn để xem. Bấy giờ người nhạc trưởng đang diễn tập, tiếng hát lanh lảnh lên đến mây xanh, điệu múa nhẹ nhàng nhấp phới như làn gió dịu, khi tiến khi thoái, vẻ sáng làm quáng cả mắt người xem. Qúi Tôn Tư đứng xem một lúc lâu, trông thấy nhan sắc và phục sức, lòng như ngây dại. Lỗ Định công một ngay ba lần cho triệu, mà Qúi Tôn Tư chỉ vì ham mê nữ nhạc mà không vào triều. Đến ngày hôm sau, Qúi Tôn Tư mới vào yết kiến. Lỗ Định công đưa quốc thư của nước Tề cho xem. Qúi Tôn Tư tâu rằng:

– Đó là nhã ý của vua Tề, ta không nên từ chối.

Lỗ Định công cũng có lòng tưởng mộ liền hỏi:

– Nữ nhạc để ở đâu, ta thử đi xem thế nào.

Qúi Tôn Tư nói:

– Hiện ở ngoài Cao Môn. Chúa công ra xem, tôi xin đi theo. Nhưng sợ náo động trăm họ, chi bằng ta đổi y phục là hơn.

Bấy giờ vua tôi cũng bỏ phẩm phục, lên một cái xe nhỏ, đi ra Cao Môn. Có kẻ báo tin cho người nhạc trưởng, người nhạc trưởng truyền cho bọn nữ nhạc phải ra sức hát múa. Bấy giờ véo von đủ giọng, uốn éo trăm chiều, mười đội vũ nữ, dập dìu thay đổi, thật là đầy tai mệt mắt, nghe nhìn không kịp, làm cho hai vua tôi nước Lỗ bất giác cũng tay múa chân nhảy.

Thị vệ lại khoe với Lỗ Định công rằng:

– Ở về phía đông, có nhiều ngựa đẹp.

Lỗ Định công nói:

– Xem một chỗ này cũng tuyệt rồi, bất tất phải hỏi đến ngựa nữa!

Đêm hôm ấy, Lỗ Định công về cung, suốt đêm không ngủ. Bên tai vẫn văng vẳng nghe tiếng âm nhạc, phảng phất như mỹ nhân nằm ở cạnh mình. Ngày hôm sau, sợ hỏi triều thần thì lại mỗi người nói một cách, Lỗ Định công cho triệu một mình Qúi Tôn Tư vào cung, để viết thư đáp lại Tề Cảnh công. Trong thư giải lòng cảm kích, ở đây không nói xiết được! lại lấy trăm nén vàng để tặng sứ giả nước Tề, rồi đem nữ nhạc vào cung, chia cho Qúi Tôn Tư ba mươi người. Còn ngựa thì giao cho ngữ nhân chăn nuôi. Lỗ Định công và Qúi Tôn Tư mới được nữ nhạc, chỉ lo hưởng dụng cho thoả, ngày thì hát múa, đêm thì chiếu chăn, suốt trong ba hôm, chẳng nghĩ gì đến chính sự trong nước. Khổng Tử nghe biết việc ấy, chán mà thở dài. Học trò Khổng Tử là Trọng Do đứng hầu bên cạnh nói rằng:

– Chúa công lười biếng, chẳng nghĩ gì đến chính sự. Thầy nên đi nước khác.

Khổng Tử nói:

– Nay mai sắp tế giao, nếu nhà vua còn giữ được đại lễ thì cũng chưa đến nỗi nào!

Đến lúc tế giao, Lỗ Định công vừa làm lễ xong, tức khắc về cung, chẳng ra coi triều, cũng chẳng nghĩ gì đến phần tế. Người coi việc chia phần tế đến hỏi thì Lỗ Định công phó thác cho Qúi Tôn Tư, Qúi Tô Tư lại phó thác cho kẻ gia thần. Khổng Tử đi tế về mãi đến chiều tối, cũng chẳng thấy thịt phần đưa đến, mới bảo Trọng Do rằng:

– Nếu vậy thì cũng là tại lòng trời!

Khổng Tử lại ngồi gẩy một khúc đàn cầm. Gẩy xong khúc đàn, liền sắp sửa hành trang để rời nước Lỗ. Trọng Do và Nhiễm Cầu cũng bỏ quan đi theo Khổng Tử. Khổng Tử bỏ nước Lỗ sang nước Vệ. Vệ Linh công mừng rỡ đón vào. Khi Khổng Tử vào, Vệ Linh công hỏi việc chiến trận. Khổng Tử nói:

– Chiến trận thì tôi chưa học đến.

Ngày hôm sau, thì đi ngay. Lúc đi qua ấp Khuông, về địa giới nước Tống, người ấp Khuông vốn ghét Dương Hổ, thấy Khổng Tử giống mặt Dương Hổ, ngỡ là Dương Hổ lại đến, mới họp nhau để vây. Trọng Do nói với Khổng Tử xin đánh. Khổng Tử can rằng:

– Ta không có thù hằn gì với người ấp Khuông cả. Việc này tất có duyên cớ làm sao đây. Ta cứ yên rồi đám kia tự khắc tan.

Khổng Tử lại ngồi gảy đàn cầm. Vừa lúc ấy thì Vệ Linh công sai người đến mời Khổng Tử trở lại. Người ấp Khuông mới biết là lầm, đến xin lỗi, rồi kéo nhau đi, Khổng Tử lại trở về nước Vệ, vào trọ ở nhà quan đại phu là Cừ Viên.

Lại nói chuyện Vệ Linh công phu nhân là nàng Nam Tử, con gái nước Tống, có nhan sắc và tính tình dâm đãng. Khi còn ở Tống, Nam Tử đã tư thông với công tử Triều, cũng là một người đẹp trai. Hai bên cùng đẹp cả nên yêu nhau hơn vợ chồng. Đến lúc về với Vệ Linh công, sinh được người con tên là Khóai Qúi. Khoái Qúi đã lớn, được lập làm thế tử rồi mà nàng Nam Tử vẫn chưa bỏ được tính xưa. Bấy giờ nước Vệ lại có một chàng đẹp trai tên gọi Di Tử Hà, vốn được Vệ Linh công yêu dùng. Có khi Di Tử Hà ăn quả đào đã hết một nửa, còn thừa đem đút vào miệng Vệ Linh công. Thế mà Vệ Linh công cũng bằng lòng ăn, lại khoe với người khác rằng:

– Di Tử Hà yêu ta đến thế là cùng! một miếng đào ngon, cũng không nỡ ăn cả, lại đem chia cho ta.

Triều thần, ai cũng cười vụng. Di Tử Hà cậy thế chuyên quyền, làm nhiều điều bậy bạ. Vệ Linh công ngoài thì yêu Di Tử Hà, trong thì sợ nàng Nam Tử, muốn tìm cách làm sao cho nàng được bằng lòng nen thỉnh thoảng lại gọi công tử Triều ở Tống sang chơi với Nam Tử. Tiếng xấu đồn lan mà Vệ Linh công không lấy làm thẹn. Khóai Qúi nghĩ giận lắm, bèn sai kẻ gia thần là Hí Dương Tốc, định khi vào triều kíến thì đâm chết nàng Nam Tử để rửa sự xấu ấy đi. Nam Tử biết chuyện, mách với Vệ Linh công. Vệ Linh công đuổi Khoái Quí. Khoái Qúi chạy sang nước Tống, rồi lại sang nước Tần. Vệ Linh công lập con Khoái Qúi là công tử Triếp làm thế tử. Khi Khổng Tử trở lại nước Vệ, nàng Nam Tử biết Khổng Tử là bậc thánh nhân, rất có lòng kính trọng, mới xin tiếp kiến.

Một hôm, Vệ Linh công ngồi cùng xe với nàng Nam Tử, để Khổng Tử đi xe sau. Khổng Tử thở dài mà than rằng:

– Vua Vệ yêu đức không bằng yêu sắc!

Khổng Tử liền bỏ Vệ sang Tống, cùng với học trò giảng lễ ở dưới gốc một cây lớn. Quan tư mã nước Tống là Hoàn Khôi cũng vì đẹp trai mà được Tống Cảnh công yêu, bấy giờ đang có quyền thế, có ý ghét Khổng tử, mới sai ngươi chặt cây đi, rồi tìm cách giết Khổng Tử. Khổng Tử phải cải trang, bỏ trốn sang Trịnh, lại sắp sang Tấn. Nghe nói Triệu Uởng nước Tấn giết kẻ hiền thần, mới phàn nàn rằng:

– Giống điểu thú còn không nỡ hại lẫn nhau, huống chi là người!

Khổng Tử lại trở về nước Vệ. Chưa được bao lâu thì Linh công mất. Người nước Vệ lập công tử Triếp, con Khoái Qúi lên làm vua, tức là Vệ Xuất công. Khóai Qúi cũng nhờ có Tấn giúp, cùng với Dương Hổ chiếm cứ ấp Thích. Bấy giờ Khoái Qúi và công tử Triếp hai cha con tranh nhau, Tấn giúp cho Khoái Qúi, Tề giúp cho công tử Triếp. Khổng Tử thấy vậy, ghét là trái lễ, bỏ Vệ sang Trần, lại sắp sang Sái. Sở Chiêu vương nghe tin Khổng Tử ở khoảng nước Trần và Sái thi sai người đi đón. Các quan đại phu nước Trần và nước Sái sợ nước Sở dùng Khổng Tử thì nguy cho nước mình, bèn sai người đem quân vây Khổng Tử. Khổng Tử bị tuyệt lương trong ba ngày, mà vẫn gảy đàn đọc sách. Bỗng thấy có một người dị nhân cao hơn chín thước, mũ cao áo dài, tay cầm ngọn giáo, trỏ vào mặt Khổng Tử mà quát lên, nghe tiếng thật to. Trọng Do thấy vậy chạy đến lôi ra, cùng đánh nhau ở sân. Người ấy rấ khỏe, Trọng Do không đánh nổi. Khổng Tử đứng bên, nhìn xem hồi lâu, rồi bảo Trọng Do rằng:

– Sao không nắm vào cạnh sườn!

Trọng Do liền nắm vào cạnh sườn thì người kỳ dị ấy hết sức, hai tay cứng đờ ra mà ngã xuống đất, hóa thành một con cá chiên lớn. Học trò đều lấy làm quái lạ. Khổng Tử nói

– Phàm vật gì già mà suy thì các tinh phụ vào. Ta giết đi thì thôi, chớ có chi là lạ!

Khổng Tử sai học trò đem mổ để nấu ăn cho đỡ đói. Học trò đều mừng mà nói rằng:

– Thật là của trời cho!

Sứ nước Sở đem quân đến đón Khổng Tử. Khổng Tử đến nước Sở. Sở Chiêu vương mừng lắm, toan đem đất Lý Xa phong cho Khổng Tử. Quan lệnh doãn là công tử Thân can rằng:

– Ngày xưa Văn vương ở Phong, Vũ vương ở Kiểu, chỉ độ một trăm dặm đất mà biết tu thân tích đức, thành ra thay quyền nhà Ân mà lên làm vua. Nay đức tính của Khổng Tử chẳng kém gì Văn vương và Vũ vương mà học trò lại đều là bậc đại hiền, nếu phong đất cho thì sau này tất là thay quyền nước Sở ta mất.

Sở Chiêu vương lại thôi. Khổng Tử biết là nước Sở không thể dùng mình được, lại trở về nước Vệ. Vệ Xuất công muốn giao quyền chính, nhưng Khổng Tử không chịu theo. Quan tướng quốc nước Lỗ là Qúi Tôn Phí cũng đến triệu h.c trò Khổng Tử là Nhiễm Cầu. Khổng Tử nhân thế, lại trở về nước Lỗ. Nước Lỗ trọng đãi Khổng Tử, coi như bậc quan đại phu về cáo lão. Sau đó trong bọn học trò Khổng Tử, thì có Trọng Do và Cao Sai làm quan nước Vệ; Đoan Mộc Tứ, Nhiễm Cầu, Hữu Nhược và Ninh Bất Tề làm quan nước Lỗ.

Lại nói chuyện vua Ngô là Hạp Lư khi đánh được nước Sở, uy danh lừng lẫy, sinh ra chơi bời, sửa sang cung thất; lập cung Trường Lạc ở giữa kinh thành, lại đắp Cao đài ở trên núi Cô Tô (núi ấy ở phía tây nam thành nước Ngô, cũng là núi Cố Tư), mở một con đlb* đi vòng quanh núi. Mùa xuân và mùa hạ thì Hạp Lư ở ngoài thành, mùa thu và mùa đôg thì vào ở trong thành. Một hôm, Hạp Lư nghĩ đến cái thù người Việt đánh Ngô khi trước, định sang báo lại. Lại nghe tin Tề và Sở sai sứ giao hiếu với nhau, nên giận mà nói rằng:

– Tề và Sở giao hiếu với nhau là một sự lo cho ta ở phía bắc. Ta muốn đánh Tề trước, rồi sau sẽ đánh Việt.

Tướng quốc là Ngũ Viên can rằng:

– Lân quốc sai sứ đi lại giao hiếu, đó là lẽ thường, vị tất đã phải là Tề định giúp Sở mà hại ta, ta chớ nên cất quân sang đánh vội. Nay vợ cả thế tử Ba đã mất, chưa có kế thất, sao đại vương không sai sứ sang Tề cầu hôn, nếu Tề không cho, bấy giờ sẽ đánh, cũng không muộn.

Hạp Lư theo lời, sai quan đại phu là Vương Tôn Lạc sang nước Tề, để cầu hôn cho thế tử Ba. Bấy giờ Tề Cảnh công tuổi đã già cả, chí khí suy kém, không được hăng hái như xưa. Trong cung chỉ còn có một người con gái đang nhỏ chưa gả chồng, không nỡ đem bỏ đất Ngô. Ngặt vì trong triều không có người tài, ngoài biên không có tướng giỏi, nếu trái ý nước Ngô thì e rằng Ngô lại đem quân sang đánh, chịu lầm than khốn khổ, như nước Sở, bấy giờ hối sao kịp! quan đại phu là Lê Di cũng khuyên Tề Cảnh công nên kết hôn với Ngô, chớ nên làm cho Ngô tức giận, Tề Cảnh công bất đắc dĩ phải gả con gái là nàng Thiếu Khương cho Ngô. Vương tôn Lạc về nói với Hạp Lư. Hạp Lư về sai Vương Tôn Lạc đem sính lễ sang nước Tề, để cưới nàng Thiếu Khương về cho thế tử Ba.

Tề Cảnh công phần thương con gái, phần sợ nước Ngô, đem lòng căm tức, bỗng hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, thở dài mà nói rằng:

– Nếu Án Anh và Điền Nhương Thư còn thì nào ta đến nỗi phải sợ người nước Ngô như thế này!

Tề Cảnh công lại bảo quan đại phu là Bão Mục rằng:

– Ta nhờ nhà ngươi đưa con gái ta sang Ngô. Đây là con gái yêu của ta, nhà ngươi tâu với vua Ngô săn sóc cho nó.

Tề Cảnh công thân hành ra đỡ nàng Thiếu Khương lên xe rồi tiễn đến cửa nam mới trở lại. Bão Mục đưa nàng Thiếu Khương sang Ngô, và đem lời nói của Tề Cảnh công tâu với Hạp Lư. Bão Mục mến tiếng Ngũ Viên là người giỏi, bèn cùng với Ngũ Viên kết giao. Nàng Thiếu Khương hãy còn nhỏ tuổi, dẫu cùng thế tử Ba kết hôn, nhưng chưa biết cái vui vợ chồng, chỉ một lòng tưởng nhớ cha mẹ, ngày đêm kêu khóc. Thế tử Ba thường khuyên dỗ, nhưng nàng Thiếu Khương vẫn sầu thảm không vui, dần dần uất kết thành bệnh. Hạp Lư thương lắm, mới truyền lập một cái lầu ở phía bắc Môn rất là hoa mỹ, đặt tên là Vọng Tề Môn, để cho nàng Thiếu Khương hàng ngày lên chơi đấy. Nàng Thiếu Khương trèo lên Vọng Tề lầu, trông về phía bắc, chẳng thấy nước Tề đâu cả, lại còn thương xót, nên bệnh mỗi ngày một nặng.

Khi nàng Thiếu Khương gần chết, dặn thế tử Ba rằng:

– Thiếp nghe nói đứng đỉnh núi Ngư Sơn, có thể trông về Đông Hải được. Xin thế tử chôn thiếp ở chỗ ấy, may ra hồn thiếp có khôn thiêng còn được trông về nước Tề.

Thế tử Ba tâu lại với Hạp Lư, rồi sai an táng nàng Thiếu Khương ở trên đỉnh núi Ngư Sơn. Hạp Lư muốn chọn trong các công tử để lập một người làm thế tử, nhưng chưa biết lập ai, vẫn định bàn với Ngũ Viên. Vợ cả thế tử Ba sinh được một người con, tên là Phù Sai, năm ấy đã hai mươi sáu tuổi. Phù Sai vốn người ngang tàng anh vĩ, thật là một bậc tài nhân. Nghe nói ông là Hạp Lư muốn chọn lập thế tử, liền vào yết kiến Ngũ Viên mà nói rằng:

– Ta đây là cháu đích tôn, nếu lập thế tử mà bỏ ta thì định lập ai ? việc này chỉ xin nhờ một câu nói của quan tướng.

Ngũ Viên nhận lời. Được một lúc, Hạp Lư sai người triệu Ngũ Viên đến để bàn việc lập thế tử. Ngũ Viên nói:

– Muốn cho về sau khỏi sinh biến loạn thì phải lập đích tử, nay thế tử dẫu tạ thế, nhưng đã có đích tôn là Phù Sai đó.

Hạp Lư nói:

– Ta xem Phù Sai là người ngu mà bất nhân, sợ không giữ được cơ nghiệp.

Ngũ Viên nói:

– Phù Sai là người tín nghĩa; vả lại cha chết thì con thay đó la hợp lẽ phải, còn nghi ngờ nỗi gì!

Hạp Lư nói:

– Ta nghe nhà ngươi, nhà ngươi cố mà giúp thế tử !

Hạp Lư nói xong, liền lập Phù Sai làm thế tôn. Phù Sai đến nhà Ngũ Viên tạ ơn. Năm thứ 24 đời Chu Kính vương, Hạp Lư tuổi già, tính khí càng thêm nóng nảy, nghe nói là vua nước Việt là Doãn Thường mất, con là Câu Tiễn mới lập, bèn định nhân khi nước Việt có tang, đem quân sang đánh. Ngũ Viên can rằng:

– Nước Việt dẫu có tội đánh lén nước Ngô khi trước, nhưng nay đang có tang, ta chớ nên đánh vội.

Hạp Lư không nghe, giao quốc chính cho Ngũ Viên và Phù Sai, rồi cùng bọn Bá Hi, Vương Tôn Lạc và Chuyên Nghị, đem ba vạn tinh binh tiến sang nước Việt. Vua Việt là Câu Tiễn thân hành ra đốc quân, Chư Kế Dĩnh làm đại tướng, Linh Cô Phù làm tiên phong, Trù Vô Dư và Tư Hãn làm tả hữu doãn, gặp quân Ngô ở đất Huề Lý, hai bên đóng dinh, cách nhau mười dặm, cùng nhau giao chiến, chưa phân được thua. Hạp Lư giận lắm, mới đem hết quân lên bày trận ở Ngũ Đài Sơn, nghiêm cấm trong quân không được khinh động, chờ khi quân Việt trễ nãi sẽ đánh. Câu Tiễn trông thấy quân Ngô nghiêm chỉnh, bèn bảo Chư Kế Dĩnh rằng:

– Khí thế quân Ngô đang hăng hái như thế kia, ta chớ nên khinh thương, phải dùng kế để làm cho họ rối loạn.

Câu Tiễn sai quan đại phu là Trù Vô Dư và Tư Hãn đốc quân sĩ ở hai bên tả hữu xông vào đánh dinh quân Ngô. Quân Ngô cứ giữ vững thế trận, rồi dùng cung nỏ mà bắn lại. Quân Việt không phá nổi, lại phảu rút về. Câu Tiễn không biết làm thế nào. Chư Kế Dĩnh mật tâu rằng:

– Ta nên dùng lũ tội nhân..

Câu Tiễn hiểu ngay. Ngay hôm sau, mật truyền quân lệnh: bắt lũ tội nhân vẫn đem theo trong quân, cả thảy ba trăm người, chia làm ba toán, đều để trần vai áo, lấy kiếm trỏ vào cổ, tiến sang quân Ngô. Người đi đầu nói với quân Ngô rằng:

– Chúa công tôi không biết tự lượng sức mình, để đắc tội với qúy quốc, nay qúy quốc đã đem quân đến đánh, chúng tôi không dám tham sống, xin tình nguyện chết thay chúa công tôi.

Người đi đầu nói xong thì cả bọn cứ thứ tự đâm cổ mà chết.

Quân Ngô xưa nay chưa trông thấy bao giờ, đều lấy làm quái lạ, ngây mặt ra mà nhìn; rồi lao nhao hỏi lẫn nhau, không biết là cớ làm sao. Bỗng thấy quân Việt nổi hiệu trống, Trù Vô Dư và Tư Hãn đem hai toán quân, cầm dao cắp mộc, xông đến tận nơi mà đánh. Quân Ngô hoảng hốt, thành rối loạn. Câu Tiễn lại đem đại binh kéo đến, phía hữu có Chư Kế Dĩnh, phía tả có Linh Cô Phù, xông vào trong trận quân Ngô. Tướng Ngô là Vương Tôn Lạc cố sức cùng với Chư Kế Dĩnh giao chiến. Linh Cô Phù trông thấy vua Ngô là Hạp Lư, liền cầm dao xông vào để chém. Hạp Lư vội vàng bỏ chạy, Linh Cô Phù đuổi theo, chém vào chân phải Hạp Lư rơi giầy, ngã lăn xuống đất, may có tướng quân của Chương Nghị đến, mới cứu thoát được. Chương Nghị bị nhiều viết thương nặng. Vương Tôn Lạc biết là Hạp Lư bị thương, không dám ham đánh, vội vàng rút quân, bị quân Việ đuổi theo giết chết quá nửa. Hạp Lư bị thương nặng, tức khắc rút quân. Linh Cô Phù bắt được chiếc giầy của Hạp Lư, đem về nộp Câu Tiễn. Câu Tiễn mừng lắm.

Bấy giờ Hạp Lư tuổi đã già, không chịu đau được, đi được bảy dặm đường thì kêu to lên một tiếng mà chết. Bá Hi hộ tang đi trước, Vương Tôn Lạc đem quân đi sau, dần dần về đến nước Ngô. Quân Việt cũng không đuổi theo nữa. Phù Sai nối ngôi làm vua nước Ngô; đưa linh cữu Hạp Lư ra an táng ở Hải Dũng Sơn; sai thợ đào núi làm huyệt, rồi đem lưỡi “Ngư trường” của Chuyên Chư dùng khi trước để chôn theo, cùng rất nhiều vàng ngọc. Khi an táng rồi, lại giết hết cả bọn thợ để chôn theo nữa. Ba hôm sau, có người trông thấy ở trên núi ấy có con bạch hổ nằm phục, mới gọi tên ấy là Hổ Khâu Sơn. Kẻ thức giả cho là tại chôn nhiều vàng, nên kim khí hiện ra như thế. Đến đời nhà Tần, Tần Thuỷ HSi người đào mộ Hạp Lư để tìm lưỡi Ngư trường, nhưng tìm không thấy, chỗ đào sau thành ngòi sâu, tức là Hổ Khâu kiếm trì. Chương Nghị bị thương nặng, cũng chết, phụ táng ở sau núi ấy, nay không biết mộ tại chỗ nào. Phù Sai đã an táng Hạp Lư rồi, lập con trưởng là Hữu làm thế tử, lại sai mười nội thị thay đổi nhau đứng ở giữa sân, mỗi khi mình đi ra đi vào thì mấy người ấy lại quát to lên, gọi tên mà bảo:

– Phù Sai! mày quên cái thù vua Việt giết ông mày rồi sao ?

Phù Sai liền khóc mà đáp rằng:

– Dạ! không bao giờ tôi dám quên!

Phù Sai lại sai Ngũ Viên và Bá Hi luyện thủy quân ở Thái Hồ, lập trường bắn ở Linh Nham Sơn để tập bắn, đợi khi hết tang ba năm, sẽ sang đánh nước Việt để báo thù.

Bấy giờ Tấn Khoảnh công nhu nhược, sáu quan khanh tranh quyền, chực giết hại lẫn nhau. Tuân Di (tức là Phạm thị) cùng Sĩ Cát Xạ (tức là trung hàng thị) thân nhau giao kết hôn nhân, bởi vậy Hàn Bất Tín và Ngụy Nam Đa đều có bụng ghét, Thâm Lịch (tức là Trí thị) có yêu một gia thần, tên gọi là Lương Anh Phủ, muốn cho làm quan khanh. Lương Anh Phủ cậy có Tuân Lịch yêu, lập kế đuổi Tuân Di để thay giữ quyền chức, bởi vậy Tuân Lịch cũng sinh thù ghét Phạm thị và Trung Hàng thị. Quan thượng khanh là Triệu Uởng có người cháu tên là Ngọ, được phong ở đất Hàm Đan, mẹ Ngọ là em gái Tuân Di, cho nên Tuân Di là cậu mà Ngọ là cháu.

Năm trước, Vệ Linh công và Tề Cảnh công họp mưu phản Tấn, Triệu Uởng nước Tấn đem quân đánh Vệ. Nước Vệ sợ, xin nộp năm trăm nóc nhà để tạ tội. Triệu Uởng cho Ngọ ở lại đất Hàm Đan gọi là Vệ Cống. Chưa bao lâu, Triệu Uởng muốn thiên năm trăm nóc nhà ấy sang Tấn Dương. Ngọ sợ người nước Vệ không phục, chưa dám vâng lệnh ngay. Triệu Uởng cho là Ngọ chống cự với mình liền nổi giận, bắt về Tấn Dương mà giết đi. Tuân Di giận Triệu Uởng về việc giết cháu, mới bàn nhau với Sĩ Cát Xạ định cùng đánh Triệu Uởng để báo thù cho Ngọ. Triệu Ưởng có người mưu thần tên gọi Đổng An Vu, bấy giờ đang giữ thành Tấn Dương cho Triệu Uởng. Đổng An Vu nghe được mưu của Tuân Di và Sĩ Cát Xạ, tức khắc về Giáng Đô nói với Triệu Uởng rằng:

– Phạm thị và Trung Hàng thị vẫn liên kết với nhau, nay nếu họ nổi loạn thì ta khó lòng trị được, ngài nên phòng bị trước.

Triệu Uởng nói:

– Nước Tấn ta vẫn có lệnh rằng kẻ nào làm loạn thì phải chịu tội chết. Ta cứ đợi hắn nổi lọan trước rồi sau sẽ hay.

Đổng An Vu nói:

– Để cho hắn nổi loạn thì hại trăm họ, chẳng thà một mình tôi chết thay. Nếu có việc gì tôi xin chịu tội.

Triệu Uởng không nghe. Đổng An Vu cứ sửa soạn giáp binh để đợi khi có việc. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ tuyên bố với mọi người rằng:

– Đổng An Vu sửa soạn giáp binh là có ý định hại ta.

Nói xong, liền họp quân đến vây nhà Triệu Uởng. May mà Đổng An Vu đã phòng bị sẵn, mới đem quân cứu thóat được Triệu Ưởng chạy sang thành Tấn Dương. Triệu Uởng sợ hai nhà kia đem quân đến đánh, mới lập cách cố thủ. Tuân Lịch bảo Hàn Bất Tín và Ngụy Nam Đa rằng:

– Triệu Uởng là đầu trong sáu quan khanh. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ không vâng mệnh vua mà dám đem quân đuổi đánh, thế thì quyền chính về tay hai nhà ấy cả.

Hàn Bất Tín nói:

– Chi bằng ta buộc hai nhà ấy vào tội thủ xướng mà đánh đuổi đi.

Ba người cùng vào tâu với Tấn Định công, rồi phụng mệnh Tấn Định công đem quân đi đánh Tuân Di và Sĩ Cát Xạ, Tuân Di và Sĩ Cát Xạ cố sức chống lại, nhưng không thể địch nổi, mới bàn nhau và bắt hiếp Tấn Định công. Hàn Bất Tín sai người rao ở giữa chợ rằng:

– Phạm thị và Trung Hàng thị mưu phản, nay định đem quân vào hiếp vua.

Người trong nước tin lời ấy, đều cầm binh khí đến cứu Tấn Định công. Ba nhà nọ nhờ sức người trong nước, phá tan được quân Tuân Di và Sĩ Cát Xạ. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chạy sang đất Triều Ca. Hàn Bất Tín nói với Tấn Định công rằng:

– Phạm thị và Trung Hàng thị thật là kẻ khởi xướng việc loạn, nay đã bị đuổi rồi, còn họ Triệu mấy đời có công to với nước Tấn ta, nên cho được phục chức.

Tấn Định công thuận cho, liền gọi Triệu Uởng ở Tấn Dương về cho được phục chức. Lương Anh Phủ (gia thần của Tuân Lịch) muốn thay Tuân Di làm quan khanh. Tuân Lịch vào nói với Triệu Uởng, Triệu Uởng hỏi Đổng An Vu. Đổng An Vu nói:

– Nước Tấn ta chỉ vì có nhiều người cầm giữ quyền chính, nên mới thành ra nhiễu loạn, nếu lập Lương Anh Phủ thì khác nào lại thêm một Tuân Di.

Triệu Uởng mới không cho Lương Anh Phủ làm quan khanh. Lương Anh Phủ giận lắm, biết là tại Đổng An Vu ngăn trở, mới bảo Tuân Lịch rằng:

– Họ Hàn và họ Ngụy đều về phái họ Triệu thì ta cô thế mất! họ Triệu chỉ trông cậy vào mưu thần là Đổng An Vu, sao ta chẳng nghĩ cách trừ đi ?

Tuân Lịch hỏi:

– Dùng kế gì mà trừ được ?

Lương Anh Phủ nói:

– Đổng An Vu sửa soạn giáp binh để gây nên loạn. Phạm thị và Trung Hàng thị nếu bị kẻ thủ xướng thì nên bắt tội Đổng An Vu.

Tuân Lịch bèn theo lời Lương Anh Phủ đến trách Triệu Uởng. Triệu Uởng sợ. Đổng An Vu nói với Triệu Uởng rằng:

– Tôi định bụng liều chết đã lâu rồi! tôi chết mà yên được họ Triệu thì chết còn hơn sống!

Đổng An Vu lui ra, thắt cổ chết. Triệu Uởng đem giăng xác Đổng An vu ra ngoài chợ, rồi sai người bảo với Tuân Lịch rằng:

– Hiện đã trị tội Đổng An Vu rồi!

Tuân Lịch cùng Triệu Uởng kết minh, hai bên cam kết không hại nhau. Triệu Uởng vẫn thờ riêng Đổng An Vu ở trong gia miếu để báo đền công trước. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chiếm Triều Ca đã được lâu ngày. Những nước chư hầu phản Tấn đều muốn nhân dịp ấy làm hại nước Tấn. Triệu Uởng đã nhiều lần đem quân đến đánh, nhưng Tề, Lỗ, Trịnh, Vệ đều sai sứ giúp thóc và quân cho Tuân Di cùng Sĩ Cát Xạ, Triệu Uởng không thể đánh nổi, mãi đến năm thứ 30 đời Chu Kính vương, Triệu Uởng họp quân ba nhà: Hàn, Ngụy và Trí mới phá vỡ được Triều Ca. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chạy sang đất Hàm Đan, sau lại chạy sang Bách Nhân. Chưa được bao lâu thành Bách Nhân cũng vỡ, bọn vây cánh của Tuân Di va Sĩ Cát Xạ là Phạm Cao Di, Trương Liễu Sóc đều bị chết trận, còn Dư Nhượng cũng bị con Tuân Lịch là Tuân Giáp bắt được. Con Tuân Giáp là Tuân Dao xin tha cho Dự Nhượng, từ bấy giờ Dự Nhượng về làm tôi Trí thị. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ bỏ trốn sang nước Tề. Trong bọn sáu quan khanh nước Tấn, từ bấy giờ chỉ còn có bốn là Triệu, Ngụy, Hàn, Trí mà thôi.

Mùa xuân tháng hai năm thư 26 đời Chu Kính vương, vua Ngô là Phù Sai đã hết tang ông, mới cáo nhà thái miếu, rồi sai Ngũ Viên làm đại tướng, Bá Hi làm phó tướng, cử đại binh theo đường thuỷ qua Thái Hồ sang đánh nước Việt. Vua Việt là Câu Tiễn họp triều thần lại để thương nghị. Quan đại phu là Phạm Lãi (tên tự là Thiếu Bá) tâu rằng:

– Nước Ngô bị ta giết mất vua, lập chí báo thù đã ba năm nay rồi, khí lực đang hăng hái lắm, ta khó lòng mà địch nổi, nên phải nghĩ cách cố thủ mới được.

Quan đại phu là Văn Chủng tâu rằng:

– Cứ như tôi thiển nghĩ thì không gì bằng sai người xin lỗi để cầu hoà, để cho hắn rút quân về, rồi sau sẽ liệu.

Câu Tiễn nói:

– Hai người, một người nói thủ, một người nói hoà, đều không phải là thiện kế. Nước Ngô là thế thù của ta, nay đem quân sang đánh ta, nếu ta không đánh lại, thì chẳng cũng hèn lắm!

Câu Tiễn liền đem ba vạn quân ra đón đánh ở dưới núi Tiêu Sơn. Lúc mới giao chiến, quân Ngô hơi lùi. Quân Việt giết được hơn trăm người. Câu Tiễn thừa thắng tiến vào, đi được mấy dặm thì gặp đại binh của Phù Sai. Hai bên bày trận giao chiến. Phù Sai đứng ở mũi thuyền, tay cầm dùi đánh trống để đốc suất tướng sĩ. Tướng sĩ đều hăng hái hơn trước. Gặp có gío bắc nổi lên, sóng nổi dữ dội, Ngũ Viên và Bá Hi mỗi người ngồi một chiếc thuyền lớn, giương buồm thuận gió mà tiến. Quân Ngô đem cung nỏ bắn ra như mưa. Quân Việt ngược gió, không thể đương nổi, thua to bỏ chạy. Quân Ngô chia ba đường đuổi theo. Tướng Việt là Linh Cô Phù đắm thuyền mà chết. Tư Hãn cũng bị tên mà chết. Vua Ngô thừa thắng đuổi theo, giết được quân Việt không biết bao nhiêu mà kể. Câu Tiễn chạy vào Cố Thành, quân Ngô vây kín mấy lần, khiến cho quân Việt không có đường lấy nước uống. Phù Sai mừng mà nói rằng:

– Ta chắc rằng chỉ trong mười ngày thì quân Việt đều chết khát tất cả!

Ngờ đâu ở trên đỉnh núi có một cái suối nước. Dưới suối có nhiều cá ngon. Câu Tiễn sai đem mấy trăm con cá sang biếu vua Ngô. Vua Ngô kinh sợ. Câu Tiễn để Phạm Lãi cố thủ ở đấy, rồi đem một toán tàn binh lẻn chạy về núi Cối Kê quân sĩ chỉ còn có hơn trăm nghìn người. Câu Tiễn thở dài mà nói rằng:

– Từ đời tiên quân đến giờ, trong ba mươi năm, ta chưa hề thua trận nào như thế này! cũng bởi ta không nghe lời Phạm Lãi và Văn Chủng đó!

Quân Ngô đánh Cố Thành gấp lắm. Ngũ Viên đóng dinh ở phía hữu. Bá Hi đóng dinh ở phía tả. Trong một ngà, Phạm Lãi ba lần sai người đến cáo cấp với vua Việt là Câu Tiễn. Câu Tiễn sợ lắm.

Văn Chủng hiến kế rằng:

– Nay việc đã nguy cấp lắm, nhưng cho người ra xin hoà, cũng còn có thể kịp được!

Câu Tiễn nói:

– Nước Ngô có quan thái tể là Bá hi, người ấy tham của mê sắc, lại có lòng ghen ghét những kẻ tài năng, cùng với Ngũ Viên đồng triều mà vẫn không hợp ý nhau. Vua Ngô sợ Ngũ Viên mà thân với Bá Hi lắm, ta nên sang dinh Bá Hi, khéo nói với hắn, để hắn chủ việc giảng hoà cho. Bá Hi nói với vua Ngô, điều gì cũng được, dẫu Ngũ Viên biết mà ngăn trở, cũng không thể kịp.

Câu Tiễn nói:

– Nhà ngươi sang yết kiến Bá Hi, nên dùng lễ vật gì ?

Văn Chủng nói:

– Quân trung thì không gì hiếm bằng nữ sắc. Ta nên tìm mỹ nữ mà đem dâng. Nếu trời còn thương nước Việt ta thì Bá Hi tất nghe lời.

Câu Tiễn tức khắc sai sứ về đô thành nói với phu nhân tuyển những mỹ nữ trong cung cả thẩy được tám người, cho trang sức rất lịch sự, lại thêm hai mươi đôi bạch bích, một nghìn nén hoàng kim, ngay đêm hôm ấy sai Văn Chủng sang dinh Bá Hi xin vào yết kiến. Bá Hi lúc đầu đã toan từ chối, nhưng sai người ra dò thì thấy có nhiều lễ vật, mới thuận cho vào. Bá Hi ngồi vắt chân ở trên giường để đợi. Văn Chủng quỉ mà kêu rằng:

– Chúa công tôi là Câu Tiễn hãy còn trẻ tuổi, chưa biết gì, không khéo thờ nước lớn, để đến nỗi tai vạ, nay chúa công tôi đã biết hối tội, xin đem cả nước làm tôi vua Ngô, nhưng sợ vua Ngô không nghe; chúa công tôi biết ngài là người có công với Ngô, mặt ngoài là bức thành cho nước Ngô, mặt trong là tâm phúc của vua Ngô, vậy sai tôi là Văn Chủng sang để van lạy ngài trước, nhờ ngài nói dùm cho một câu, gọi là có chút lễ lạc, đem dâng ngài. Từ nay trở đi, còn nhiều ân nghĩa về sau nữa.

Văn Chủng liền cầm cái đơn kê khai các lễ vật dâng trình Bá Hi. Nhưng Bá Hi còn làm ra vẻ giận dữ mà mắng rằng:

– Nước Việt ngươi chẳng qua chỉ trong sớm tối thì bị phá diệt! phàm của cải nước Việt, cái gì không về tay nước Ngô, mà nhà ngươi còn dám đem lễ vật nhỏ mọn này sang dử ta hay sao!

Văn Chủng lại nói:

– Nước Việt tôi dẫu thua, nhưng nay đóng ở Cối Kê, hiện còn năm nghìn quân tinh nhuệ, có thể giao chiến được một trận. Nếu giao chiến mà thua, bấy giờ chúa công tôi sẽ đốt hết kho tàng mà đem thân trốn đi nước ngoài, để cầu viện quân Sở, chưa chắc nước Việt tôi đã về tay nước Ngô được. Giả sử có về tay nước Ngô nữa thì qúa nửa của cải nộp về cho Ngô, còn ngài và các tướng chẳng quan mỗi người được một vài phần; chi bằng ngài làm ơn nói cho nước Việt tôi được giảng hoà thì chúa công tôi dẫu đem thân nhờ vua Ngô, mà thực là đem thân nhờ ngài đó. Mỗi khi cống hiến, chưa nộp vua Ngô, đã phải nhớ đến ngài trước. Có phải là ngài hưởng riêng một mối lợi to, mà các tướng không ai được dự đến. Huống chi giống thú mà đến lúc cùng khốn, cũng phải cố cắn; nếu Việt liều một trận sống chết, nào đã chắc rồi ra thế nào!

Văn Chủng giãi bày một hồi lâu, làm cho lòng Bá Hi chuyển động. Bá Hi mới giật đầu mà tủm tỉm cười. Văn Chủng lại trỏ cái đơn kê khai lễ vật mà nói rằng:

– Tám người mỹ nữ này đều tuyển ở trong cung nước Việt, nhưng nếu chọn ở dân gian thì sẽ còn nhiều người đẹp hơn. Chúa công tôi được về nước Việt thì xin hết sức tìm tòi để lại đem dâng nộp.

Bá Hi đứng dậy mà nói rằng:

– Quan đại phu không sang hữu dinh (trỏ dinh Ngũ Viên) mà tới đây hẳn cũng biết là tôi không có ý hại người. Để đến sáng mai, tôi xin đưa quan đại phu vào yết kiến vua Ngô, rồi sẽ bàn định.

Bá Hi nhận lễ vật và lưu Văn Chủng ở trong dinh, bày tiệc thết đãi. Sáng hôm sau, Bá Hi đưa Văn Chủng vào yết kiến Phù Sai. Bá Hi vào trước, đem những tình ý Câu Tiễn sai Văn Chủng sang xin hoà, nói với Phù Sai. Phù Sai bừng bừng nét mặt mà bảo rằng:

– Nước Việt cùng ta có cái thù không đội trời chung, khi nào ta lại cho hoà!

Bá Hi nói:

– Đại vương không nhớ lời nói của Tô Vũ khi xưa hay sao! “Việc binh là nên dùng tạm, chứ không nên dùng lâu”. Nước Việt dẫu đắc tội với ta, nhưng tôi tưởng nước Việt cũng đã chịu nhún nước Ngô ta nhiều lắm: vua Việt xin làm tôi nước Ngô, vợ vua Việt xin làm thiếp nước Ngô, bao nhiêu châu báu nước Việt, đem nộp vào cung nước Ngô cả. Nước Việt chỉ xin ta một điều là để cho còn chỗ cúng tế mà thôi. Vậy thì ta cho nước Việt hoà, lợi biết dường nào, mà ta được tiếng là tha cho nước Việt. Như vậy thì nước Ngô ta có cớ làm bá chủ được. Nếu cố sức mà diệt nước Việt thì Câu Tiễn kia tất cũng đành đốt tôn miếu, giết vợ con, ném hết vàng ngọc suống sông, rồi đem năm nghìn quân cảm tử mà liều chết với nước Ngô ta, chẳng cũng hại đến tôi con của chúa công lắm ru! dầu có giết được người ấy, sao bằng thu được nước ấy, chả có phần lợi hơn ư!

Phù Sai nói:

– Bây giờ Văn Chủng ở đâu ?

Bá Hi nói:

– Hiện đang đứng chờ ở ngoài.

Phù Sai cho triệu vào. Văn Chủng quì gối kéo lết mà tiến lên, lại đem những lời hôm trước mà nói với Phù Sai nhưng còn có phần khúm nún hơn. Phù Sai nói:

– Vua ngươi xin làm tôi Ngô, vậy thì có chịu theo ta về Ngô hay không ?

Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng:

– Đã xin làm tôi nhà vua thì sống chết ở trong tay nhà vua, thế nào cũng xin vâng mệnh.

Bá Hi nói với Phù Sai rằng:

– Vợ chồng Câu Tiễn đều tình nguyện xin về Ngô, vậy thì nước Ngô ta dẫu tha cho Việt, cũng chẳng khác gì chiếm được nước Việt. Đại vương còn muốn chi nữa!

Phù Sai liền cho nước Việt giảng hoà. Có người sang hữu dinh báo tin cho Ngũ Viên biết. Ngũ Viên vội vàng vào yết kiến Phù Sai. Khi vào đến nơi, thấy Bá Hi và Văn Chủng đã đứng ở bên cạnh Phù Sai. Ngũ Viên hầm hầm nổi giận, hỏi Phù Sai rằng:

– Đại vương đã cho nước Việt giảng hoà rồi à ?

Phù Sai nói:

– Ta đã cho rối

Ngũ Viên kêu luôn mấy tiếng:

– Không nên! không nến

Văn Chủng hoảng sợ, đứng lui xuống mấy bước để nghe Ngũ Viên nói hết. Ngũ Viên can Phù Sai rằng:

– Việt tiếp giáp với ta, thế không cùng đứng được! nếu Ngô không diệt Việt thì Việt cũng diệt Ngô. Kìa như Tần Tấn, dẫu ta đánh được, mà đất của họ, ta không thể ở được, xe của họ ta không thể đi được; còn như Việt mà ta đánh được, thì đất của họ ta ở được, thuyền của họ ta đi được, đó là cái lợi của xã tắc, không thể bỏ. Huống chi Việt là kẻ thù lớn của tiên vương ta ngày xưa, ta không diệt Việt thì chẳng phụ mất lời thề trước sân ngày xưa hay sao ?

Phù Sai nín lặng, không biết nói ra thế nào, chỉ đưa mắt mà nhìn Bá Hi, Bá Hi nói:

– Quan tướng quốc nói thế là lầm! nếu bảo rằng Ngô Việt ở về mặt thuỷ, thế tất phải diệt nhau, thì Tần, Tấn, Tề, Lỗ cùng ở mặt bộ, có lẽ cũng phải diệt nhau hay sao ? nếu bảo rằng Việt là kẻ thù lớn của tiên vương nước Ngô, không thể tha được, vậy thì quan tướng quốc thù Sở biết dường nào, mà sao không diệt Sở, lại cho Sở hoà làm gì ? nay vợ chồng Câu Tiễn đều tình nguyện về Ngô, so với Sở chỉ nộp một công tử Thắng, thì lại càng không giống nhau nữa! quan tướng quốc làm điều trung hậu mà muốn cho đại vương mang tiếng khắc bạc, trung thần có bao giờ như thế ?

Phù Sai mừng mà bảo Ngũ Viên rằng:

– Bá Hi nói phải, nhà ngươi hãy lui về, đợi khi nước Việt cống tiến, ta sẽ chia tặng nhà ngươi.

Ngũ Viên sầm nét mặt lại, thở dài mà than rằng:

– Tiếc thay! ta không nghe lời Bị Ly, mà lại cùng với đứa gian thần đồng sự!

Ngũ Viên căm tức không thôi; mồm cứ lẩm bẩm; khi lui ra ngoài, bảo quan đại phu là Vương Tôn Hùng rằng:

– Nước Việt nuôi dân trong mười năm, lại dạy dân trong mười năm nữa, chẳng qua chỉ hai mươi năm thì cung điện nước Ngô thành ra ao chuôm mất cả!

Vương Tôn Hùng cũng chưa lấy làm tin lắm. Ngũ Viên nuốt giận mà trở về hữu dinh. Phù Sai cho Văn Chủng về báo với Câu Tiễn. Câu Tiễn lại sai Văn Chủng sang tạ ơn. Phù Sai hỏi:

– Bao giờ thì vợ chồng vua Việt theo ta sang Ngô ?

Văn Chủng nói:

– Chúa công tôi đội ơn đại vương xá cho, định trở về nước nhà thu xếp nhưng ngọc lụa trai gái để đem sang cống, xin đại vương hãy tạm khoan kỳ hạn cho. Dầu chúa công tôi có đem lòng thất tín cũng chẳng trốn được búa rìu sấm sét của đại vương.

Phù Sai thuận cho, liền ước định đến trung tuần tháng năm thì vợ chồng vua Việt phải sang Ngô. Lại sai Vương Tôn Hùng theo Văn Chủng sang Việt để giục vua Việt phải mau mau khởi trình, còn quan Thái tể là Bá Hi thì đóng một vạn quân ở Ngô Sơn để chờ vua Việt, nếu vua Việt sai hẹn không sang thì sẽ đem quân diệt nước Việt. Phù Sai kéo đại binh trở về trước.

Chương 80: Phù Sai mắc mưu tha vua Việt – Câu Tiễn hết sức thờ nước Ngô

Quan đại phu nước Việt là Văn Chủng được vua Ngô cho hoà, về tâu với vua Việt rằng:

– Vua Ngô đã rút quân về, có sai quan đại phu là Vương Tôn Hùng theo tôi đến đây để giục khởi trình; còn quan thái tể là Bá Hi thì đóng quân ở Ngô Sơn để đợi chúa công sang cống .

Câu Tiễn nghe nói, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng . Văn Chủng nói:

– Kỳ hạn đã gần đến nơi, chúa công nên mau mau trở về thành để thu xếp việc nước, chứ thương khóc làm gì!

Câu Tiễn gạt nước mắt trở về thành, trông thấy chợ búa như cũ mà trai tráng tiêu điều thì rất là hổ thẹn . Vua Việt mời Vương Tôn Hùng nghỉ ở công quán rồi thu xếp vàng ngọc đóng thành mấy xe; lại chọn những mỹ nữ trong nước được ba trăm ba mươi người, định đem ba trăm người nộp Phù Sai, còn ba mươi ngươi đem nộp cho Bá Hi . Câu Tiễn vẫn còn chưa muốn khởi hành, Vương Tôn Hùng phải giục giã luôn mãi .

Câu Tiễn khóc mà bảo triều thần rằng:

– Ta nối nghiệp tiền nhân, vẫn một lòng kính sợ; không dám lười biếng, nay vì một trận thua mà đến nỗi này, phải đem thân đi làm thằng tù ở nước khác, chuyến đi này chắc không có ngày trở lại!

Triều thần đều ứa nước mắt . Văn Chủng tâu rằng:

– Ngày xưa vua Thang bị giam ở Hạ Đài, Văn vương bị giam ở Dữ Lý mà sau nên được nghiệp vương; Tề Hoàn công phải chạy sang nước Cử, Tấn Văn công phải chạy sang nước Địch, mà sau nên được nghiệp bá . Xem thế thì biết cai cảnh khổ sở, chính là trời mở đường cho đứng vương bá đó . Chúa công cứ vững lòng mà theo ý trời, sẽ có ngày hưng thịnh được, can chi mà quá nghĩ, để đến nỗi tổn thương cái chí của mình .

Ngày hôm ấy Câu Tiễn làm lễ tế nhà tôn miếu, Vương Tôn Hùng đi trước một ngày, Câu Tiễn và phu nhân đi sau . Triều thần tiễn đến bến sống Chính Giang . Phạm Lãi sắp thuyền ở Cố Lăng và bày một tiệc rượu tiễn . Văn Chủng dâng chén rượu chúc cho Câu Tiễn . Câu Tiễn ngẩng mặt lên trời mà thở dài, rồi cầm chén mà rơi nước mắt, chẳng nói gì cả . Phạm Lãi nói:

– Các bậc thánh hiền đời xưa cũng thường gặp những cảnh khổ não, những điều sỉ nhục, không thể chịu được, có phải là chỉ một chúa công ngày này mà thôi đâu!

Câu Tiễn nói:

– Ngày xưa vua Nghiêm dùng hiền thần là Thuấn và Vũ mà thiên hạ được trị bình, dẫu có thuỷ tai, cũng không hại người lắm . Nay ta phải bỏ Việt sang Ngô, giao nước nhà cho các quan đại phu, các quan đại phu nghĩ sao cho khỏi phụ lòng ta trông cậy!

Phạm Lãi bảo triều thần rằng:

– Tôi thiết tưởng vua phải lo thì bề tôi nhục, vua phải nhục thì bề tôi nên chết . Nay chúa công ta phải lo về nỗi bỏ nước, phải nhục về nỗi sang Ngô, bọn ta đây há lại không có một kẻ hào kiệt vì chúa công chia buồn hay sao ?

Các quan đại phu đồng thanh đáp rằng:

– Ai cũng là tôi con, tuỳ ý chúa công sai khiến .

Câu Tiễn nói:

– Các quan đại phu còn có lòng thương ta thì xin cứ tự nói chí mình để xem ai có thẻ theo đi, ai có thể ở nhà giữ nước được ?

Văn Chủng nói:

– Ở nhà để xem xét công việc trong nước thì Phạm Lãi không bằng tôi, nhưng đi theo chúa công mà lâm cơ ứng biến thì tôi không bằng Phạm Lãi .

Phạm Lãi nói:

– Văn Chủng xét mình đã rõ lắm, chúa công nên đem việc nước mà giao cho, còn như việc nhẫn nhục mà theo chúa công để nghĩ cách báo thù thì tôi không dám từ chối .

Phạm Lãi nói xong thì lần lượt đến các quan đại phu tỏ bày ý kiến . Quan thái tể là Khổ Thành nói:

– Tuyên bố mệnh lệnh để tỏ đức tính của nhà vua, và quyết đóan những việc khó khăn, khiến cho dân biết yên phận, đó là việc của tôi!

Quan hành nhân là Duệ Dung nói:

– Đi sứ các nước chư hầu, ứng đối không đến nỗi chịu nhục, đó là việc của tôi!

Quan tư trực là Hạc Tiến nói:

– Vua có điều gì trái lẽ, xin hết sức can ngăn, dẫu kẻ thân thích nhà vua cũng không vị nể, đó là việc của tôi!

Quan tư mã là Chư Kế Dĩnh nói:

– Bày trận đánh giặc, dẫu tên đạn bời bời mà không chịu lui, vẫn một cố tiến, đó là việc của tôi!

Quan tư nông là Cao Như nói:

– Dốc lòng khuyên dân cố chăm chỉ làm ăn, nghĩ cách tiết kiệm, đó là việc của tôi!

Quan thái sử là Kế Nghê nói:

– Xem xét thiên văn địa lý để dò biết mọi sự cát hung, đó là việc của tôi!

Câu Tiễn nói:

– Ta dẫu phải sang làm tù ở nước Ngô, nhưng đã có các quan đại phu dốc lòng cố sức mà giữ gìn nước nhà, thì ta còn lo gì nữa!

Câu Tiễn cho các quan triều thần ở lại, còn mình thì cùng với Phạm Lãi đi sang Ngô . Vua tôi tiễn biệt nhau đều ràn rụa nước mắt, Câu Tiễn ngửa mặt lên trời mà than rằng:

– Cái chết ai không sợ, nhưng ta đây nghĩ đến cái chết, mà trong bụng không thấy sợ chút nào!

Nói xong, xuống thuyền đi ngay . Mọi người đi đưa đều khóc tất cả, rồi sụp lạy ở bên bờ sông . Câu Tiễn cũng không ngảnh lại . Câu Tiễn phu nhân vịn mạn thuyền mà khóc, trông thấy đàn ô thước đang nhặt tôm ở ven sông, bay đi lượn lại, có ý thoả thích, liền cảm mà làm bài hát rằng:

“Đàn chim (hề …) cao bay

Vẫy vùng (hề …) đường mây!

Thân thiếp (hề …) vô tội,

Trách trời (hề …) độc thay!

Hây hẩy (hề …) gió may,

Trở về (hề …) bao ngày!

Lòng đau (hề …) như cắt,

Nước mắt (hề …) vơi đầy! “

Câu Tiễn nghe thấy phu nhân than vãn như vậy, thì trong lòng xao động, nhưng muốn cho phu nhân được nguôi lòng, cũng gượng cười mà nói rằng:

– Lông cánh của ta đã đủ rồi, tất cũng có ngày cao bay, lo gì điều ấy!

Câu Tiễn đã đi đến địa giới nước Ngô, sai Phạm Lãi vào yết kiến quan thái tể nước Ngô là Bá Hi ở Ngô Sơn, và dâng vàng lụa trai gái . Bá Hi nói:

– Văn Chủng ở đâu, sao không thấy đến ?

Phạm Lãi nói:

– Văn Chủng còn phải giữ nước cho chúa công tôi, cho nên không đến được .

Bá Hi theo Phạm Lãi đến gặp mặt Câu Tiễn . Câu Tiễn cảm tạ cái ơn giúp cho . Bá Hi nhận với Câu Tiễn thế nào cũng lập mưu cho Câu tiễn được trở về nước Việt . Câu Tiễn cũng hơi yên lòng . Bá Hi cho quân giải Câu Tiễn về Ngô, đưa vào nộp Phù Sai . Câu Tiễn trần vai áo sụp lạy ở dưới thềm .

Câu Tiễn phu nhân cũng theo vào . Phạm Lãi đem cái đơn kê khai các vật qúy và mỹ nữ dâng lên Phù Sai . Câu Tiễn sụp lạy hai lạy mà kêu rằng:

– Tôi tớ nhà vua ở miền Đông Hải là Câu Tiễn, vì không biết sức mình, để đến nỗi đắc tội với đại vương ở nơi biên cảnh, nay đại vương xá tội, lại cho được sang đây hầu hạ, nếu đại vương lại thương tình mà tha tội chết cho thì thật lấy làm đội ơn vô cùng!

Phù Sai nói:

– Nếu ta nghĩ đến cái thù tiên vương ngày xưa thì không thẻ nào tha cho nhà ngươi được!

Câu Tiễn lại lạy mà kêu rằng:

– Tội tôi thật đáng chết, xin đại vương thương lại cho!

Bấy giờ Ngũ Viên đứng bên cạnh, mắt quắc ra lửa, tiếng vang như sấm, nói với Phù Sai rằng:

– Con chim bay ở trên mây xanh, ta còn muống giương cung ra bắn, huống chi nay nó lại đậu ở trước sân! Câu Tiễn vốn là người nham hiểm, bây giờ như con cá trong hũ, sống chết ở tay kẻ nhà bếp, vậy nên nịnh hót van lạy để cầu khỏi chết, một mai đắc chí, khác nào như con hổ về núi, con cá kềnh ra biển, còn trị làm sao!

Phù Sai nói:

– Ta nghe nói người đã hàng phục mà mình còn giết thì họa đến ba đời . Ta không phải vì yêu vua Việt mà không giết, nhưng sợ trái ý đạo trời .

Bá Hi nói:

– Quan tướng quốc chỉ nghĩ cái lợi trước mắt một lúc, mà không hiểu cái lợi yên nước về sau . Đại vương nói thế, thật là một bậc nhân giả .

Ngũ Viên thấy Phù Sai tin lời du nịnh của Bá Hi, không theo lời can của mình, thì căm tức mà lui ra . Phù Sai nhận lễ vật của Câu Tiễn, rồi sai Vương Tôn Hùng làm một cái nhà đá ở bên cạnh mộ Hạp Lư, giam vợ chồng Câu Tiễn ở đấy, lột mũ áo đi mà cho mặc quần áo xấu, bắt giữ việc chăn ngựa . Bá Hi vẫn giấu diếm đem thực phẩm cho, nên Câu Tiễn không đến nỗi chết đói . Mỗi khi Phù Sai đi chơi, lại bắt Câu Tiễn cầm roi ngựa, đi đất ở trước xe, người nước Ngô đều trỏ mà bảo nhau rằng:

– Đấy là vua nước Việt!

Câu Tiễn chỉ cúi đầu mà đi . Câu Tiễn ở nhà đá đã được hai năm, Phạm Lãi sớm tối hầu hạ, không rời một bước . Một hôm, Phù Sai triệu Câu Tiễn vào yết kiến . Câu Tiễn sụp lạy . Phạm Lãi đứng ở phía sau . Phù Sai bảo Phạm Lãi rằng:

– Ta nghe nói gái khôn không lấy chồng ở nơi cửa nhà tan nát, danh hiền không làm quan ở một nước diệt vong . Nay Câu Tiễn vô đạo, nước đã sắp diệt, vua tôi đều làm nô bộc, bị giam cầm ở trong nhà tù, chẳng cũng đã nhục lắm ru! ta muốn tha tội cho nhà ngươi, nếu nhà ngươi biết đổi lỗi, bỏ Việt theo Ngô, thì ta sẽ trọng dụng . Đó là bỏ ưu họan mà lấy phú quý, nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Bấy giờ Câu Tiễn phục ở dưới đất mà khóc, chỉ sợ Phạm Lãi theo Ngô mất . Phạm Lãi sụp lạy mà tâu với Phù Sai rằng:

– Kẻ đã mất nước, không dám nói hay; tướng đã thua trận, không dám nói mạnh . Tôi là kẻ bất trung bất tín ở nước Việt, không biết giúp chúa công tôi làm điều thiện, để đến nỗi đắc tội với đại vương . May mà đại vương không giết, cho vua tôi được gần nhau, để ra vào hầu hạ đại vương, thế thì tôi đã được mãn nguyện rồi, có đâu còn dám mong phú qúy!

Phù Sai nói:

– Nhà ngươi đã không chịu đổi ý thì lại cứ về nhà đá .

Phạm Lãi nói:

– Xin vâng mệnh!

Phù Sai đứng dậy, trở về cung . Câu Tiễn và Phạm Lãi trở về nhà đá . Câu Tiễn ăn mặc tồi tàn, cắt cỏ nuôi ngựa . Câu Tiễn phu nhân cũng lôi thôi rách rưới, đi gánh nước để quét dọn phân ngựa . Còn Phạm Lãi thì kiếm củi để nấu cơm, mặt mũi gầy gò . Phù Sai sai người dò thám, thấy vua tôi nước Việt cùng nhau làm lụng không ra ý oán giận, mà suốt đêm suốt ngày, cũng không thấy buồn rầu chút nào, mới cho là đồ vô chí, chẳng nghĩ đến làm chi nữa .

Một hôm, Phù Sai lên Cô Tô đài, trông thấy vợ chồng Câu Tiễn ngồi ở cạnh đống phân ngựa . Phạm Lãi cầm chổi đứng hầu một bên, mới ngảnh lại bảo Bá Hi rằng:

– Câu Tiễn chẳng qua là vua một nước nhỏ, Phạm Lãi chẳng qua là một kẻ học trò, thế mà trong khi hoạn nạn, họ vẫn còn giữ được lễ vua tôi, ta rất có lòng kính trọng .

Bá Hi nói:

– Chẳng những đáng kính, thực cũng đáng thương!

Phù Sai nói:

– Thực như lời quan thái tể nói . Ta đây nghĩ cũng thương tình . Nếu hắn biết đổi lỗi thì phỏng có nên ta không ?

Bá Hi nói:

– Đại vương mở lượng hải hà mà thương kẻ cùng khốn, gia ân cho Việt, chắc là Việt cũng biết đền ơn . Xin đại vương phải quyết đoán .

Phù Sai nói:

– Ta sẽ sai quan thái sử chọn ngày tốt để tha cho vua Việt về nước .

Bá Hi mật sai người đến nhà đá báo tin cho Câu Tiễn biết .

Câu Tiễn mừng lắm, nói với Phạm Lãi . Phạm Lãi nói:

– Để tôi xin bói một quẻ, xem lành dữ thế nào .

Phạm Lãi bói, rồi nói với Câu Tiễn rằng:

– Dẫu có tin như vậy, cũng chưa nên lấy gì làm mừng .

Câu Tiễn nghe nói, lại có ý buồn . Ngũ Viên nghe tin Phù Sai sắp tha Câu Tiễn, vội vàng vào yết kiến Phù Sai mà tâu rằng:

– Ngày xưa vua Kiệt giam vua Thang mà không giết, vua Trụ giam vua Văn vương mà không giết, đến lúc đạo trời quay lại, chuyển họa thành phúc thì vua Kiệt bị vua Thang đuổi, nhà Thương bị nhà Chu diệt . Nay đại vương giam Câu Tiễn mà không giết, tôi e rằng lại sắp có hoạ như nhà Hạ và nhà Thương .

Phù Sai nghe Ngũ Viên nói, lại có ý muốn giết Câu Tiễn, bèn sai người triệu Câu Tiễn vào . Bá Hi lại báo trước cho Câu Tiễn biết . Câu Tiễn kinh sợ, lại nói với Phạm Lãi . Phạm Lãi lại nói:

– Chúa công đừng sợ! vua Ngô giam chúa công đã ba năm nay; trong ba năm còn không nỡ, huống chi là bây giờ! chúa công cứ đi, không ngại!

Câu Tiễn nói:

– Ta chịu ẩn nhẫn bấy lâu nay mà không đến nỗi chết, đều là nhờ mưu kế của quan đại phu cả .

Câu Tiễn vào thành yết kiến Phù Sai, phải chầu chực trong ba ngày, mà không thấy Phù Sai ra thị triều . Bá Hi ở trong cung ra, phụng mệnh Phù Sai truyền cho Câu Tiễn lại về nhà đá . Câu Tiễn lấy làm lạ hỏi .

Bá Hi nói:

– Đại vương nghe lời Ngũ Viên, định đem giết ông vậy nên triệu đến . May gặp khi đại vương bị cảm hàn, không thể dậy được . Tôi vào thăm bệnh, nhân tâu với đại vương rằng: “Người bệnh muốn cầu yên thì phải làm phúc, nay vua Việt chầu chực ở đây, chỉ đợi ngày chịu chết, oán khí xông lên đến trời . Đại vương nên tạm tha cho y về nhà đá, đợi khi khỏi bệnh rồi sẽ định liệu”. Vì nghe lời tôi mà đại vương tha cho ngài về nhà đá đó!

Câu Tiễn cảm tạ khôn xiết . Ở nhà đá được ba tháng nữa, Câu Tiễn nghe tin Phù Sai vẫn chưa khỏi bệnh, mới bảo Phạm Lãi bói một quẻ . Phạm Lãi bói xong, bảo Câu Tiễn rằng:

– Phù Sai không chết ngày kỷ tị thì bớt, đến ngày nhâm thân thì khỏi hẳn . Bây giờ đại vương cố xin vào thăm, khi được vào thăm, cố tình nếm phân cho Phù Sai, rồi lạy mừng mà nói kỳ khỏi bệnh . Đến kỳ khỏi thật thì tất nhiên y cảm ơn mà tha cho đại vương .

Câu Tiễn ứa nước mắt mà nói rằng:

– Ta đây dẫu chẳng ra gì cũng là một ông vua không nhẽ lại chịu nhục mà nếm phân cho người ta hay sao!

Phạm Lãi nói:

– Ngày xưa vua Trụ giam Văn vương ở Dữu Lý, giết con Văn vương là Bá Ấp Khảo rồi ướp thịt mà đưa cho Văn vương ăn, thế mà Văn vương cũng chịu đau đớn mà ăn thịt con . Ta muốn thành đại sự thì cần gì những điều nhỏ mọn . Vua Ngô có lòng thương người như đàn bà mà không có lòng quả quyết như kẻ trượng phu, đã toan tha ta rồi đổi ý . Ta không làm thế thì sao cho vua Ngô chịu rủ lòng thương .

Câu Tiễn tức khắc đến nói với Bá Hi rằng:

– Nghe nói bệnh tình đại vương không giảm, lòng tôi lo lắng, ăn ngủ không yên, xin theo ngài vào thăm, để tỏ tình thần tử .

Bá Hi nói:

– Ngài đã có lòng tốt, để tôi xin chuyển tấu .

Bá Hi vào yết kiến Phù Sai, bày tỏ cái tình Câu Tiễn nhớ mến, xin vào thăm bệnh . Phù Sai đang khi cơn bệnh trầm trọng, nghĩ thương tình Câu Tiễn mà cho vào . Bá Hi đưa Câu Tiễn vào thăm Phù Sai . Phù Sai trừng mắt nhìn mà bảo rằng:

– Câu Tiễn cũng vào thăm ta đó à ?

Câu Tiễn sụp lạy mà tâu rằng:

– Kẻ bề tôi ở trong tù nghe nói long thể bất hoà, thật là nát gan héo ruột, chỉ mong được trông thấy mặt rồng mà không biết làm thế nào!

Câu Tiễn nói chưa dứt lời thì Phù Sai đau bụn muốn đi ngoài, mới lấy tay xua bảo Câu Tiễn ra . Câu Tiễn nói:

– Khi tôi ở Đông Hải có học người y sư được một cách xem phân mà biết bệnh chóng hay là chậm khỏi .

Câu Tiễn nói xong chắp tay đứng ở cửa sổ . Nội thị đưa cái thùng đến cạnh giường nằm, rồi vực Phù Sai dậy đi ngoài . Phù Sai đi ngoài xong rồi nội thị bưng cái thùng đưa ra ngoài cửa . Câu Tiễn mở nắp thùng ra, thò tay bốc phân rồi quỳ xuống mà nếm . Mọi người xung quanh đều bịt mũi cả . Câu Tiễn lại vào sụp lạy Phù Sai mà tâu rằng:

– Kẻ tù này xin chúc mừng đại vương, bệnh đại vương đến ngày kỷ tị thì bớt, sang tháng ba về ngày nhâm thân thì khỏi hẳn .

Phù Sai hỏi:

– Tại sao mà biết ?

Câu Tiễn nói:

– Tôi nghe người y sư có dạy phân là cốc vị, hễ thuận thời khí thì sống, trái thời khí thì chết . Nay kẻ tù này nếm phân đại vương, thấy vị đắng và chua, chính hợp cái thời khí xuân hạ phát sinh, bởi thế mà biết .

Phù Sai bằng lòng mà nói rằng:

– Câu Tiễn nhân đức thay! thần tử đối với quân phụ, ta chưa thấy ai chịu nếm phân để đóan bệnh bao giờ!

Bấy giờ nhân Bá Hi đứng ở bên cạnh, Phù Sai bèn hỏi rằng:

– Quan thái tể có nếm được không ?

Bá Hi lắc đầu nói:

– Tôi thật rất yêu đại vương, nhưng việc ấy tôi không làm nổi .

Phù Sai nói:

– Chẳng những quan thái tể, dẫu thế tử của ta cũng không thể làm được!

Phù Sai truyền tha Câu Tiễn, không bắt về nhà đá nữa, được tuỳ tiện tìm chỗ ở, đợi khi Phù Sai khỏi bệnh sẽ cho về nước . Câu Tiễn lạy tạ rồi lui ra . Từ bấy giờ Câu Tiễn tìm được chỗ ở trong nhà dân, nhưng vẫn giữ việc nuôi ngựa như trước . Sau Phù Sai quả nhiên khỏi bệnh, đúng như lời Câu Tiễn nói .

Phù Sai cho Câu Tiễn là trung thành với mình, nên khi đã khỏi bệnh, liền truyền bày tiệc ở trên Văn Đài, cho Câu Tiễn vào dự yến . Câu Tiễn giả cách không biết, vẫn mặc áo tù mà đến . Phù Sai trông thấy, truyền Câu Tiễn tắm gội và ban cho mũ áo . Câu Tiễn hai ba lần từ tạ rồi mới dám nhận . Câu Tiễn thay mũ áo xong, lại vào sụp lạy Phù Sai . Phù Sai vội vàng đỡ dậy và hạ lệnh rằng:

– Vua Việt là người nhân đức, không nên làm nhục lâu, ta định tha tội, cho được về nước, nay nên tiếp đãi tử tế .

Các quan đại phu đều vái nhường Câu Tiễn, mời ngồi, rồi ngồi cả hai bên cạnh . Ngũ Viên thấy Phù Sai quên hẳn thù xưa, trong lòng căm tức, không chịu vào ngồi, liền quay trở ra . Bá Hi nói:

– Đại vương ta lấy cái lòng một người nhân đức mà tha cái tội của người nhân đức . Tôi nghe nói “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, ngày nay ai là nhân thì ngồi lại, ai là bất nhân thì bỏ đi . Quan tướng quốc là người cương dũng, cho nên thẹn không dám ngồi chứ sao!

Phù Sai cười mà nói:

– Quan thái tể nói phải lắm!

Rượu được ba tuần, Phạm Lãi và Câu Tiễn đều đứng dậy dâng chén chúc thọ cho Phù Sai . Phù Sai bằng lòng lắm, ngày hôm ấy uống rượu thật say, rồi sai Vương Tôn Hùng đưa Câu Tiễn ra quán, đợi trong ba ngày nữa, sẽ đưa về nước . Sáng hôm sau Ngũ Viên vào tâu với Phù Sai rằng:

– Hôm qua đại vương lấy khách lễ mà đãi kẻ thù là nghĩa thế nào ? Câu Tiễn trong bụng như hổ lang, mà mặt ngoài giả cách cung kính . Đại vương thấy ý nói lời xu nịnh, chẳng nghĩ gì đến gai vạ mai sau . Bỏ lời trung trực mà nghe kẻ dèm pha, nghĩ điều nhân nhỏ mà nuôi kẻ thù lớn, khác nào như buông nắm lông ở trên lò than mà mong khỏi cháy, ném quả trứng ở dưới cân nặng mà muốn được toàn, thì có lẽ nào ?

Phù Sai không bằng lòng nói rằng:

– Ta ốm trong ba tháng, quan tướng quốc chẳng thấy hỏi thăm được một câu, thế là quan tướng quốc bất trung, lại chẳng thấy quan tướng quốc là quà cho cái gì, thế là quan tướng quốc bất nhân . Làm bề tôi mà bất trung và bất nhân thì còn dùng được việc gì nữa! Câu Tiễn bỏ nước mà sang đây, đem của cải đến dâng nộp, đem thân làm tôi tớ, đó là điều trung; khi ta có bệnh, chịu nếm phân ta mà không có lòng oán giận, đó là điều nhân . Nếu ta theo ý riêng của quan tướng quốc mà giết kẻ thiện sĩ ấy thì trời nào còn tựa ta nữa!

Ngũ Viên nói:

– Sao đại vương nghĩ lầm như vậy ? con hổ mà thu mình lại thì tất là chực vồ, con cáo mà rụt cổ lại thì tất là định cắn . Vua Việt vào làm tôi Ngô, dẫu trong lòng oán giận, đại vương cũng không thể biết được . Bây giờ y cúi xuống mà nếm đống phan của đại vương, chắc đâu không có một ngày kia y ngẩng lên mà ăn gan ruột của đại vương . Đại vương không xét mà mắc mưu thì tất có ngày bị hại .

Phù Sai nói:

– Quan tướng quốc chớ nói nữa, ý ta đã quyết định rồi!

Ngũ Viên biết không thể can được, uất ức mà lui ra .

Đến ngày thứ ba . Phù Sai lại bày tiệc rượu ở ngoài Sà Môn để tiễn Câu Tiễn . Các quan đều dâng chén rượu tiễn chân, chỉ có Ngũ Viên không đến dự . Phù Sai bảo Câu Tiễn rằng:

– Ta tha cho nhà vua về nướ, nhà vua nên nhớ ơn nước Ngô, chớ đem lòng thù oán!

Câu Tiễn sụp lạy mà nói rằng:

– Đại vương thương tôi là kẻ khốn cùng, cho được sống mà về nước, tôi xin đời đời không dám quên ơn . Trời cao thăm thẳm, soi xét lòng tôi, nếu tôi phụ Ngô thì trời nào có tựa!

Phù Sai nói:

– Người quân tử không sai lời! thôi, nhà vua lên đường . Nên gắng! nên gắng!

Câu Tiễn lại sụp lạy, nước mắt đầm đìa, ra vẻ quyến luyến .

Phù Sai thân hành vực Câu Tiễn lên xe . Phạm Lãi cầm cương xe . Câu Tiễn phu nhân cũng sụp lạy tạ ơn, rồi cùng lên xe đi về phía nam . Bấy giờ là năm thứ 23 đời Chu Kính vương . Câu Tiễn về đến bến Chiết Giang, trông thấy phong cảnh khác xưa, thở dài mà nói rằng:

– Ta vẫn tưởng phải từ biệt trăm họ, bỏ thân cõi khác, ngờ đâu nay lại được về nước giữ lấy việc cúng tế .

Câu Tiễn ngảnh lại nhìn phu nhân mà khóc . Các người xung quanh cũng đều cảm động mà khóc cả . Văn Chủng đem triều thần và dân trong thành ra đón ở bến Chiết Giang, tiếng rao dậy đất . Câu Tiễn sai Phạm Lãi bói xem ngày nào tốt để tiến vào thành . Phạm Lãi bấm đốt ngón tay, rồi nói với Câu Tiễn rằng:

– Ngày mai rất tốt, chúa công nên đi mua cho kịp .

Câu Tiễn tức khắc giục ngựa tiến vào trong thành . Muốn ghi sâu trong lòng cái nhục ở Cối Kê, Câu Tiễn muốn đắp thành và thiên đô ra đấy để luôn luôn nhớ tới, bèn giao hẳn việc ấy cho Phạm Lãi lo liệu .

Phạm Lãi xem thiên văn, xét địa lý, lập ra một cái thành mới, bao bọc núi Cối Kê ở trong, phía tây bắc lập lầu Phi Dục ở núi Ngoạ Tang để làm thiên môn; phía đông nam lập Lâu Thạch Đậu để làm địa bộ . Còn mặt tây bắc thì để không, và nói phao lên rằng đã thần phục nước Ngô, không dám lấp đường cống hiến, nhưng kỳ thực là để tiện đường tiến đánh Ngô mai sau .

Khi thành đã đắp xong, bỗng thấy trong thành mọc ra một quả núi, chu vi mấy dặm, như hình con qủi, cây cỏ rậm rạp, có người trông quả núi ấy, nhận được là núi Đông Vũ ở xứ Lang Gia, không biết cớ sao lại bay đến đây được . Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng:

– Tôi đắp cái thành này ứng với thiên tượng, vậy nên có quả núi ấy hiện lên, đó là cái điềm nước Việt ta nên được nghiệp bá .

Câu Tiễn mừng lắm mới đặt tên núi ấy là Quái Sơn, cũng gọi Phi Lai Sơn, cũng gọi là Qui Sơn . Sau khi thiên đô sang ở đấy Câu Tiễn bảo Phạm Lãi rằng:

– Ta thực thất đức, để đến nỗi nước nhà suy đốn, phải đem thân đi hầu hạ người khác, nếu không có quan tướng quốc và các quan đại phu giúp thì sao được như thế này ?

Phạm Lãi nói:

– Đó là nhờ hồng phúc của chúa công, chứ chúng tôi có công gì . Nhưng xin chúa công chớ lúc nào quên cái nhục ở nhà đá thì mới có cơ báo thù được nước Ngô .

Câu Tiễn nói:

– Xin vâng lệnh dạy bảo!

Bấy giờ bèn giao quốc chính cho Văn Chủng, quân chính cho Phạm Lãi, tôn trọng hiền tài, kính lão thương nghèo, trăm họ đều bằng lòng .

Câu Tiễn từ khi nếm phân, thành ra bệnh hôi miệng . Phạm Lãi biết có một thứ rau ở một quả núi về phía bắc thành, tên gọi là rau trấp . Rau ấy ăn được, nhưng hơi có mùi hôi, mới sai người đi hái rau trấp đem về, để cả triều cùng ăn, cho lẫn mùi hôi . Sau ngươi ta gọi tên núi ấy là Trấp Sơn . Câu Tiễn gấp muốn báo thù, mới cố sức chăm chỉ suốt ngày suốt đêm, khi buồn ngủ thì lại lấy cỏ lục mà đánh vào mắt, chân lạnh muốn rụt lại thì lấy nước giập vào, mùa đông thường ngồi gân nước băng, mùa hạ thường ngồi gần đống lửa, xếp củi mà nằm lên trên, chớ không dùng giường nệm; lại treo một quả mật ở chỗ ngồi, thỉnh thoảng lại nếm một ít . Câu Tiễn đêm nào cũng khóc sụt sùi, khóc chán rồi thở dài; lại luôn luôn nhắc đến hai tiếng “Cối Kê” . Câu Tiễn thấy sau khi suy bại, dân so giảm kém mới hạ lệnh cấm con trai không được lấy vợ già; ông già không được lấy vợ trẻ; con gái mười bảy tuổi không lấy chồng, con trai hai mươi tuổi không lấy vợ thì bắt tội cha me; đàn bà sắp chửa sắp đẻ, đều phải trình quan, để quan cho thầy thuốc đến coi sóc; sinh con trai thì thưởng cho hồ rượu và con chó; sinh con gái thì thưởng cho hồ rượu và con lợn; ai sinh ba con thì quan nuôi hộ hai; ai sinh hai thì quan nuôi hộ một; hễ có ai chết thì Câu Tiễn thân hành đi đưa đám và thương khóc . Câu Tiễn mỗi khi đi đâu, cũng đem cơm và đồ ăn để ở trong xe, hễ gặp trẻ con thì cho ăn và hỏi tên họ .

Đến mùa làm ruộng, Câu Tiễn cũng vác cày đi cày . Phu nhân cũng chăm việc dệt cửi, cùng chia sự lao khổ . Trong bảy năm, Câu Tiễn không thu thuế của dân, ăn mặc rất là tiết kiệm . Thế mà chẳng tháng nào Câu Tiễn không sai sứ sang cống hiến nước Ngô; lại sai người vào núi hái dây cát, dệt làm vài nhỏ, định đem dâng Phù Sai, nhưng chưa kịp dâng . Phù Sai khen lòng trung thành của Câu Tiễn, sai nguời phong thêm đất cho, phía đông đến Câu Dụng, phía tây đến Hùê Lý, phía nam đến Cô Miệt, phía bắc đến Bình Nguyên, cả thảy hơn tám trăm dặm . Câu Tiễn sai người đem vải cát mười vạn tấn, cam mật một trăm vò, áo cầu lông chồn năm đôi, tre nứa mười thuyền sang dâng Phù Sai tạ để cái ơn phong đất . Ngũ Viên nghe nói, liền cáo ốm không vào triều . Phù Sai thấy Câu Tiễn một lòng thần phục, lại càng tin lời nói của Bá Hi . Một hôm Phù Sai hỏi Bá Hi rằng:

– Ngày nay trong nước thái bình, ta muốn mở thêm cung thất để lấy chỗ vui chơi, nên làm tại chỗ nào ?

Bá Hi nói:

– Ở gần đô thành ta, đài cao cảnh đẹp, còn đâu bằng Cô Tô, nhưng cái đài của vua trước dựng lên chưa đước tráng lệ lắm, đại vương nên sửa lại cái đài ấy, khiến cho cao có thể trông thấy trăm dặm, rộng có thể dung được nghìn người, rồi họp những ca đồng vũ nữ ở đấy, thì thật là một sự khóai lạc đệ nhất nhân gian .

Phù Sai khen phải, liền treo giải, cầu tìm những cây lớn gỗ quí . Văn Chủng nghe tin, vào nói với Câu Tiễn rằng:

– Tôi nghe nói: “Con chim bay ở trên mây cao, chỉ chết vì miếng ăn tốt, con cá lặn ở dưới vực sâu, chỉ chết về cái mồi thơm”. Nay chúa công muốn báo thù nước Ngô thì phải tìm mồi xem Ngô thích cái gì mới có thể trị nổi .

Câu Tiễn nói:

– Dẫu tìm được điều họ thích, nhưng làm thế nào mà trị nổi ?

Văn Chủng nói:

– Tôi có nghĩ cách phá Ngô, cả thảy được bảy kế:

1. Chịu tốn của cải để làm vua tôi nước Ngô bằng lòng .

2. Lấy gía đắt mua thóc, để làm cho Ngô thiếu lương thực .

3. Đem mỹ nữ sang dâng để làm Ngô phải mê hoặc .

4. Đem thợ khéo, gỗ tốt sang dâng, để cho Ngô làm cung thất tốn hại tiền của .

5. Dùng kẻ mưu thần để làm cho nước loạn .

6. Hại kẻ trung trực để làm cho thế cô .

7. Tích của, luyện quân, để đợi khi địch suy yếu .

Câu Tiễn nói:

– Quan tướng quốc nói phải lắm, nhưng nên dùng kế nào được ?

Văn Chủng nói:

– Nay vua Ngô đang sửa lại đài Cô Tô, ta nên tìm cây lớn gỗ qúi đem dâng .

Câu Tiễn liền sai hơn ba nghìn thợ mộc vào rừng tìm gỗ, tìm hơn một năm mà chưa được cây nào thật tốt . Thợ mộc đều có lòng oán giận, đêm ngày ta thán với nhau .

Một hôm đang đêm, tự nhiên trời sinh hai cây thần mộc, to hai mươi vi, dài năm mươi tầm, một cây ở phía nam núi, gọi là cây tử, một cây ở phía bắc núi, gọi là cây nam . Thợ một kinh ngạc, vội vàng về báo với Câu Tiễn . Triều thần chúc mừng Câu Tiễn rằng:

– Lòng thành của chúa công cảm động đến trời, cho nên trời sinh gỗ thần để giúp chúa công .

Câu Tiễn mừng lắm, thân hành đến làm lễ tế rồi mới sai đẵn đem bào nhẵn đi và dùng thuốc xanh đỏ vẽ hình rồng rắn, sai Văn Chủng đưa sang dâng Phù Sai . Phù Sai thấy cây gỗ to đẹp lạ thường, xiết bao mừng rỡ . Ngũ Viên can rằng:

– Ngày xưa vua Kiệt làm Linh Đài, vua Trụ làm Lộc Đài khổ dân hao của đến nỗi mất nước, Câu Tiễn muốn hại ta, nên đem dâng gỗ này đó!

Phù Sai nói:

– Câu Tiễn được cây gỗ qúi này, không để mà dùng, lại đem dâng ta, thế là lòng tử tế, sao lại từ chối ?

Nói xong, truyền đem hai cây gỗ để sửa đài Cô Tô . Trong năm năm mới làm xong, cao ba trăm trượng, rộng tám mươi tư trượng, trèo lên thì trông suốt được hai trăm dặm . Nguyên trước đã có con đlb* đi thẳng lên núi, bây giờ làm rộng thêm ra . Trăm họ phải ngày đêm phục dịch, lao lục mà chết rất nhiều .

Câu Tiễn nghe tin, bảo Văn Chủng rằng:

– Quan tướng quốc nói: nên đem thợ khéo gỗ tốt sang dâng để cho hắn làm cung thất, tốn hại tiền của . Kế ấy đã thi hành rồi . Nay trên đài cao, tất phải tuyển ca nhi vũ nữ, nếu ta không tìm được người tuyệt sắc thì sao làm cho hắn mê hoặc được, quan tướng quốc bàn mưu giúp ta .

Văn Chủng nói:

– Việc gì cũng bởi trời cả . Trời đã sinh thần mộc thì lo gì không có mỹ nữ . Nhưng nếu ta sụ tìm thì e rằng dân tình náo động . Tôi nghĩ được một kế, có thể xem mặt hết con gái trong nước, lúc đó tuỳ ý chúa công kén chọn.

Chương 81: Tây Thi làm mê hoặc vua Ngô – Tử Cống đi du thuyết các nước

Vua Việt là Câu Tiễn đang muống tìm mỹ nữ trong nước để dâng vua Ngô là Phù Sai. Văn Chủng hiến kế rằng:

– Xin chúa công phái một trăm nội thị đi lẫn với bọn thầy tướng, giả cách đi xem tướng khắp trong nước, thấy mỹ nữ thì biên lấy tên và chỗ ở. Dùng cách ấy mà chọn thì lo gì không có người!

Câu Tiễn theo kế ấy, mới trong nửa năm, mà đã tuyển được hai nghìn mỹ nữ. Câu Tiễn sai chọn lại, được hai người đẹp nhất, truyền vẽ tranh để định đem dâng Phù Sai. Hai người ấy là Tây Thì và Trịnh Đán.

Tây Thi là con một người kiếm củi ở núi Trữ La. Trữ La có hai thôn: thôn Đông và thôn Tây, vậy nên gọi là Tây Thi. Trịnh Đán cũng ở Tây thôn, láng giềng với Tây Thi. Nhà lại gần sông, má hồng mặt hoa, ánh rọi vào nhau chẳng khác gì hai đóa phù dung trên mặt nhánh. Câu Tiễn sai Phạm Lãi đem một trăm nén vàng đến đón về, cho mặc đồ the lụa, ngồi xe có màn phủ. Người trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muống xem mặt tranh nhau ra ngoài cõi để đón, đường xá chật ních. Phạm Lãi để Tây Thi và Trịnh Đán ở quãn xá rồi truyền dụ rằng ai muốn xem mặt mỹ nữ, phải nộp một đồng tiền. Chỉ trong một lúc mà tiền bỏ đầy qũi. Hai mỹ nữ trèo lên trên lầu, đứng tựa vào bao lan, ở dưới trông lên, khác nào tiên nữ đứng trên không. Tây Thi và Trịnh Đán ở lại ngoài thành ba ngày, tiền thu được không biết bao nhiêu mà kể, đều nộp vào kho cả. Câu Tiễn cho hai mỹ nữ ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một nhạc sư già dạy cho hát múa, khi nào thành nghề, sẽ đem sang tiến Phù Sai.

Bấy giờ là năm thứ 31 đời Chu Kính vương, Câu Tiễn lên làm vua mới được bảy năm. Trước đó một năm thì Tề Cảnh công mất, thế tử Chương lên nối ngôi. Bấy giờ Sở đang nhiều việc mà Tấn lại suy yếu, Tề thì Án Anh chết, Lỗ thì Khổng Tử đi, nước nào cũng đều yếu thế cả, chỉ có nước Ngô là cường thịnh nhất. Phù Sai cậy binh lực của mình có ý định xâm chiếm dần các nước Sơn Đông. Chư hầu đều lấy làm lo sợ.

Nói chuyện Tề Cảnh công phu nhân, có con trai mà chết non mất, còn các công tử thứ xuất cả thảy sáu người. Trong sáu người ấy thì công tử Dương Sinh nhiều tuổi hơn cả, công tử Trà hãy còn nhỏ, mẹ công tử Trà là Dục Tự, dẫu phận hèn nhưng được vua yêu. Tề Cảnh công vì mẹ mà yêu con, cho nên nuông chiều công tử Trà lắm vẫn gọi là An nhụ tử. Tề Cảnh công làm vua đã được năm mươi bảy năm, tuổi hơn bảy mươi, mà không chịu lập thế tử, có ý đợi cho An phụ tử lớn lên, chẳng ngờ bị ốm nặng, mới dặn thế thần là Quốc Hạ (con Quốc Trọng) và Cao Trương (con Cao Yển) giúp công tử Trà lên làm vua.

Quan đại phu là Trần Khất (cháu Trần Vô Vũ) vốn chơi thân với công tử Dương Sinh, e công tử Dương Sinh bị hại, mới khuyên bảo Dương Sinh đi trốn. Công tử Dương Sinh cùng với con là Nhâm và gia thần là Hàm Chi, cùng trốn sang nước Lỗ. Tề Cảnh công sai họ Quốc và họ Cao đuổi các công tử sang ở Lai Ấp. Khi Tề Cảnh công đã mất rồi, An nhụ tử lên nối ngôi. Quốc Hạ và Cao Trương cùng giữ quyền chính. Trần Khất mặt ngoài làm ra thoả thuận, nhưng trong bụng thì rất căm ghét. Trước mặt các quan đại phu, Trần Khất nói dối rằng:

– Họ Cao và họ Quốc lập mưu muốn bỏ hết các cựu thần mà dùng vây cánh An nhụ tử.

Các quan đại phu tin là thật, đều đến hỏi kế Trần Khất. Trần Khất liền cùng Bão Mục (cháu Bão Quốc) thủ xướng đem người nhà các quan đại phu đến đánh họ Cao và họ Quốc, giết được Cao Trương, còn Quốc Hạ bỏ trốn sang nước Cử.

Bấy giờ Bão Mục làm hữu tướng, Trần Khất là tả tướng, lập Quốc Thư và Cao Võ Bình giữ việc cúng tế họ Cao và họ Quốc. Năm ấy An nhụ tử hãy còn ít tuổi, chưa biết gì cả. Trần Khất định bụng muốn lập công tử Dương Sinh, mới mật sai người sang nước Lỗ triệu Dương Sinh về. Công tử Dương Sinh đang đêm về đến nước Tề, để Hàm Chi và con là Nhâm ở ngoài cõi, rồi một mình lẻn vào thành, ẩn trong nhà Trần Khất. Trần Khất giả cách là nhà có giỗ, mời các quan đại phu đến uống rượu. Các quan đại phu đều đến cả, Bão Mục còn uống rượu ở nơi khác, sau cùng mới đến. Trần Khất đợi cho mọi người ngồi yên cả, liền đứng dậy mà bảo rằng:

– Tôi mới mua được cái áo giáp rất tốt, xin đem ra để các ngài xem.

Rồi một người lực sĩ bỗng mang một cái túi lớn ở trong nhà ra, để ở giữa sân. Trần Khất thò tay mở túi, thì có một người thò đầu ra, tức là công tử Dương Sinh. Mọi người đều kinh sợ. Trần Khất vực công tử ra, để đứng ngảnh mặt về phía nam, rồi bảo các quan đại phu rằng:

– Cứ theo phép thường thì nên lập trưởng tử, nay An nhụ tử ít tuổi quá, không đáng làm vua, ta phụng mệnh quan tướng quốc họ Bão, đổi lập trưởng công tử (trỏ Dương Sinh).

Bão Mục trừng mắt mà cãi rằng:

– Ta nói thế bao giờ ? sao lại vu cho ta, nhà ngươi cho ta là say hay sao ?

Công tử Dương Sinh chắp tay vái Bão Mục mà nói rằng:

– Việc thay cũ đổi mới, nước nào không có, hễ hợp nghĩa là hơn. Quan đại phu nên xét xem có hợp nghĩa hay không, chứ cần gì cãi nhau về việc quan đại phu có dự mưu hay không ?

Trần Khất không đợi nói hết câu, cố ép Bão Mục phải sụp lạy. Các quan đại phu bất đắc dĩ cũng đều cùng phải sụp lạy cả. Trần Khất và các quan đại phu đều ăn thề, rồi sắp xa giá rước công tử Dương Sinh vào triều lên ngôi vua, tức là Tề Điệu công. Ngày hôm ấy, bọn Trần Khất đem An nhụ tử ra ngoài cửa cung giết đi. Tề Điệu công nghi Bão Mục không thuận lập mình, mới hỏi Trần Khất.

Trần Khất cũng ghét Bão Mục chức vị ở trên mình, mới dèm với Tề Điệu công rằng:

– Bão Mục vẫn giao kết với các công tử. Nếu không giết Bão Mục thì trong nước không yên được.

Tề Điệu công lại giết Bão Mục, rồi lập con Bão Mục là Bão Tức giữ việc cúng tế Bão Thúc Nha. Trần Khất một mình làm tướng quốc. Người nước Tề thấy Tề Điệu công giết hại kẻ vô tội, đều có lòng oán. Điệu công có em gái gả cho vua nước Châu tên là Ích. Ích kiêu ngạo vô lễ, thường bất hoà với nước Lỗ. Quan thượng khanh nước Lỗ là Qúi Tôn Tư nói với Lỗ Ai công đem quân đánh Châu, bắt vua Châu giam ở đất Phụ Hà. Điệu công giận lắm, nói:

– Nước Lỗ bắt vua Châu, tức là khinh nước Tề ta!

Điệu công liền sai sứ sang mượn quân nước Ngô, ước cùng đánh Lỗ. Phù Sai nói:

– Ta vẫn muốn dùng quân sang đánh các nước ở Sơn Đong, nay đã có cớ rồi!

Phù Sai thuận cho nước Tề mượn quân. Lỗ Ai cũng kinh sợ tức khắc tha cho vua Châu về nước, rồi sai sứ sang xin lỗi với nước Tề. Tề Điệu công sai quan đại phu là Mạnh Xước sang nói lại với vua Ngô rằng:

– Nước Lỗ đã phục tội rồi, không dám phiền đến quân nước Ngô nữa.

Phù Sai nổi giận, nói:

– Nước Ngô ta có phải là thuộc quốc của Tề đâu mà quân ta đánh hay không đánh, đều phải vâng lệnh nước Tề. Âu là ta thân hành đem quân đến nước Tề, để hỏi cái tội làm sao mỗi lúc nói một khác.

Nói xong, đuổi Mạnh Xước ra. Nước Lỗ nghe tin vua Ngô giận Tề, liền sai sứ đem lễ vật sang dâng vua Ngô, lại ước với vua Ngô cùng đánh nước Tề. Phù Sai vui lòng thuận ngay, tức khắc cất quân cùng với nước Lỗ đến vây phía nam nước Tề. Người nước Tề ai cũng kinh hoảng, và thầm oán Tề Điệu công tự nhiên sinh sự.

Bấy giờ Trần Khất đã chết rồi, con là Trần Hằng giữ quyền chính, nhân dịp người trong nước không thuận mới bảo Bão Tức rằng:

– sao nhà ngươi không làm “đại sự” đi ? ngoài thì gỡ cho quân Ngô khỏi giận, mà trong thì báo được cái thù cho gia tiên.

Bão Tức chối từ là không làm nổi , Trần Hằng nói:

– Ta xin giúp nhà ngươi!

Nhân khi Diệu công đi luyện quân, Trần Hằng dâng rượu độc cho Điệu công mà giết đi rồi sai người nói với quân Ngô rằng:

“Chúa công tôi đắc tội với thuộc quốc đã bị bệnh mà chết, thế là trời đã thay đại vương mà trị tội chúa công tôi rồi. Nếu đại vương rủ lòng thương xót không phá huỷ xã tắc nước tôi, thì nước tôi xin đời đời thần phục thượng quốc “.

Phù Sai liền rút quân về. Quân nước Lỗ cũng kéo về nước. Người nước Tề đều biết Điệu công bị hại, nhưng có lòng sợ và yêu họ Trần, vậy nên không ai dám nói đến. Trần Hằng lập con Điệu công là Nhâm lên nối ngôi, tức là Tề Giản công. Giản công muốn chia quyền cho họ Trần, mới cho Trần Hằng làm hữu tướng, Hàm Chi làm tả tướng.

Bấy giờ vua Việt là Câu Tiễn luyện tập mỹ nữ học múa hát trong ba năm, đã được điêu luyện, liền cho đeo hạt trai, ngồi xe ngọc, hương thơm ngào ngạt, có một bọn thị nữ rất đẹp theo hầu, rồi sai quan tướng quốc là Phạm Lãi đem sang nước Ngô tiến Phù Sai. Khi Phù Sai ở nước Tề về Ngô, Phạm Lãi vào yết kiến, sụp lạy mà tâu rằng:

– Kẻ bề tôi hèn ở Đông Hải là Câu Tiễn, cảm ơn đại vương, không thể cùng thê thiếp đến hầu hạ ở bên cạnh được, vậy có tìm khắp trong nước, được hai người khéo nghề múa hát, sai chúng tôi đem nộp vương cung, để giữ việc quét rửa.

Phù Sai trông thấy, cho là thần tiên mới giáng hạ, hồn phách mê mẩn. Ngũ Viên can rằng:

– Tôi nghe nói nhà Hạ mất vì nàng Muội Hỉ, nhà Ân mất vì nàng Đắt Kỷ, nhà Chu mất vì nàng Bao Tự. Mỹ nữ là một vật làm cho mất nước, chúa công chớ nên nhận.

Phù Sai nói:

– Người ta ai chẳng có lòng hiếu sắc. Câu Tiễn tìm được mỹ nữ mà chịu đem tiến ta, điều đó chứng tỏ Câu Tiễn một lòng trung thành với ta, quan tướng quốc chớ nghi.

Rồi không nghe lời Ngũ Viên, Phù Sai nhận lễ cống của nước Việt. Hai người mỹ nhân đều tuyệt sắc. Phù Sai yêu cả hai, nhưng đẹp lộng lẫy và khéo nũng nịu thì Tây Thi có phần hơn, bởi vậy Tây Thi được ở đài Cô Tô với Phù Sai, mỗi khi đi chơi đâu thì nghi vệ chẳng khác gì phi hậu. Trịnh Đán ở Ngô cung, ghen với Tây Thi, uất ức không nói ra được, hơn một năm thì chết. Phù Sai thương lắm, đem chôn ở núi Hoàng Mao và lập đền thờ cúng. Chuyện này sau sẽ kể tiếp, bây giờ hãy nói Phù Sai yêu Tây Thi, sai Vương Tôn Hùng lập ra cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm cho chỗ Tây Thi ra chơi. Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp ? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đấy rất nhiều chum, bên trên lát ván, để cho Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp. Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt. Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi. Lại có động gọi là động Tây Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay người ta gọi là vết chân Tây Thi. Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường cùng với Tây Thi gẩy đàn ở đấy. Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dãi nước ở phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa. Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen. Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình. Phía nam đô thành có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư Thành để nuôi cá, Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để nấu rượu. Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là Tiên hạ loan.

Phù Sai từ khi được Tây Thi, cứ ở luôn luôn trên Cô Tô đài, bốn mùa vui chơi, rượu chè đàn địch, chẳng thiết đến việc gì cả. Chỉ có quan thái tể là Bá Hi và Vương Tôn Hùng thường hay hầu ở bên cạnh. Mỗi khi Ngũ Viên xin yết kiến, Phù Sai vẫn từ chối không cho vào. Vua Việt là Câu Tiễn nghe tin Phù Sai say mê Tây Thi mới lại bàn mưu với Văn Chủng. Văn Chủng nói:

– Tôi nghe nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu. Năm nay lúa má hỏng cả, thóc gạo kém lắm, đại vương nên xin với vua Ngô vay thóc mà chu cấp cho dân. Nếu trời không tựa Ngô thì xui khiến vua Ngô cho ta vay thóc.

Câu Tiễn liền sai Văn Chủng đem nhiều lễ vật đút cho Bá Hi, để Bá Hi đưa vào yết kiến Phù Sai. Phù Sai cho Văn Chủng vào yết kiến ở Cô Tô đài. Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng:

– Nước Việt tôi năm nay mất mùa, trăm họ khốn khổ, xin đại vương phát cho vay một vạn thạch thóc ở kho Thái Sương, để cứu cho dân khỏi đói. Sang năm lúa chín, lại xin đem nộp.

Phù Sai nói:

– Vua Việt thần phục nước Ngô ta, dân Việt đói khác nào như dân Ngô ta đói, ta có tiếc gì thóc kho mà không đem ra để cứu dân Việt.

Ngũ Viên nghe tin sứ nước Việt đến cũng theo đến Cô Tô đài, vào yết kiến Phù Sai. Khi thấy Phù Sai cho nước Việt vay thóc, Ngũ Viên lại can rằng:

– Không nên! sự thế ngày nay, phi Ngô lấy Việt, tức Việt lấy Ngô. Tôi xem ý vua Việt sai sứ đến vay thóc, không phải là thực vì dân đói mà vay, chính là định làm cho nước Ngô ta hết thóc đó. Ta có cho vay cũng chẳng thêm tình thân ái, mà không cho vay cũng chưa đến nỗi gây oán thù, chi bằng đại vương từ chối đi là hơn.

Phù Sai nói:

– Khi Câu Tiễn bị giam ở nước ta, phải đi giật lùi mà dắt ngựa cho ta, chư hầu ai cũng biết cả. Nay được ta tha cho về, Câu Tiễn cảm cái ơn tái sinh, vẫn một lòng trung thành mà cống hiến, khi nào lại còn dám phản nghịch mà lo!

Ngũ Viên nói:

– Tôi nghe vua Việt ngày đêm chăm chỉ, luyện tập quân sĩ để định báo thù nước Ngô. Nay đại vương lại đem thóc cho vay, tôi e rằng có một ngày kia chỉ có giống hưu nai chạy chơi ở trên Cô Tô đài này mà thôi.

Phù Sai nói:

– Câu Tiễn đã nguyện xin làm bề tôi ta, có lẽ nào bề tôi mà dám đánh vua hay sao ?

Ngũ Viên nói:

– Vua Thang đánh vua Kiệt, vua Vũ đánh vua Trụ, không phải bề tôi đánh vua là gì ?

Bá Hi đứng bên cạnh, quát lên rằng:

– Quan tướng quốc nói quá, sao lại ví đại vương ta với Kiệt, Trụ được!

Bá Hi lại tâu với Phù Sai rằng:

– Ngày xưa Tề Hòan công hội chư hầu ở Quì Khâu, có ước với các nước phải cho nhau vay thóc, là để giữ lấy nghĩa giao lân. Huống chi Việt là một nước cống hiến ta xưa nay, sang năm lúc chín thì Vịêt lại đem đủ số thóc sang nộp. Thế thì chẳng thịêt gì cho Ngô, mà lại được ơn với Việt, việc gì mà đại vương không làm!

Phù Sai bèn truyền cho nước Việt vay một vạn thạch thóc, và bảo Văn Chủng rằng:

– Ta trái ý các quan triều thần mà cho Việt vay thóc, sang năm được mùa, phải đem nộp đủ, chớ có thất tín.

Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng:

– Đại vương thương nước Việt tôi mà cho vay, khi nào nước Việt tôi dám thất tín.

Văn Chủng lĩnh một vạn thạch thóc đem về nước Việt. Câu Tiễn mừng lắm. Triều thần hô vạn tuế. Câu Tiễn truyền đem thóc ấy cấp phát cho dân nghèo trong nước. Trăm họ đều ca tụng công đức. Năm sau, nước Việt được mùa to, Câu Tiễn hỏi Văn Chủng rằng:

– Ta không trả thóc nước Ngô thì là thất tín, nếu trả thì hại Việt mà lợi cho Ngô, biết làm thế nào ?

Văn Chủng nói:

– ta nên chọn những thóc tốt, luộc đi rồi đem trả, kẻ kia thấy thóc tốt tất nhiên đem trồng cấy, ấy là trúng cái kế của ta đó!

Câu Tiễn theo kế ấy, đem thóc chín trả nước Ngô, không thiếu một đấu nào. Phù Sai khen rằng:

– Câu Tiễn thật là người thành tín!

Phù Sai lại trông thấy hột thóc to lớn lạ thường, bèn bảo Bá Hi rằng:

– Đất nước Việt tốt lắm, cho nên hột thóc cũng tốt, ta nên phân phá cho dân để lấy giống.

Năm ấy khắp nước Ngô đều gieo thóc Việt, nhưng chẳng mọc cây nào cả. Dân Ngô bị đói to. Phù Sai vẫn cho là thổ nghi không giống nhau, chứ không biết là thóc Việt đã luộc chín rồi. Câu Tiễn nghe nói nước Ngô bị đói, toan đem quân đánh Ngô. Văn Chủng can rằng:

– Chưa nên đánh vội, vì nước Ngô còn có kẻ trung thần.

Câu Tiễn lại hỏi Phạm Lãi. Phạm Lãi nói:

– Cũng chẳng bao lâu nữa, xin đại vương luyện tập quân sĩ để đợi thời.

Câu Tiễn nói:

– Quân sĩ nước ta còn phải luyện tập nữa sao ?

Phạm Lãi nói:

– Việc chiến tranh cần phải có quân tinh nhuệ, quân tinh nhuệ lại cần phải có tài nghề, như kiếm kích và cung nỏ. Mà các nghề ấy nếu không được minh sư dạy bảo thì không sao tài giỏi được. Tôi biết có người xử nữ ở Nam Lâm, giỏi nghề kiếm kích lắm; lại có người nước Sở tên gọi là Trần Anh, giỏi nghề cung nỏ, xin đại vương cho đón về mà dùng.

Câu Tiễn sai sứ đem lễ vật đi mời xử nữ và Trần Am. Người xử nữ ấy không biết tên họ là gì, nguyên vẫn ở trong rừng, chẳng học ai cả mà giỏi nghê kiếm kích. Sứ giả phụng mệnh Câu Tiễn đến Nam Lâm mời xử nữ. Xử nữ bằng lòng đi ngay. Nửa đường, gặp một ông cụ đầu bạc, đứng ở trước xe mà hỏi rằng:

– Nàng có phải là xử nữ ở Nam Lâm đó không ? kiếm thuật của nàng thế nào mà nàng dám nhận lời mời của vua Việt. Âu là ta hãy thử nhau một phen.

Xử nữ nói:

– Xin tuỳ ý tôn ông.

Ông lão ấy liền bẻ bụi trúc ở trong rừng như dứt nắm cỏ khô, toan đâm xử nữ. Ngọn trúc rơi xuống đất. Xử nữ bắt ngay lấy, rồi đâm lại ông lão. Bỗng thấy ông lão nhảy lên trên cây, hóa làm con vượn trắng, rồi kêu rống một tiếng mà đi mất. Sứ giả lấy làm lạ. Xử nữ vào yết kiến Câu Tiễn. Câu Tiễn mời ngồi, rồi hỏi nghề kiếm kích. Xử nữ nói:

– Nghề kiếm kích, trong phải giữ vững tinh thần, ngoài phải làm ra mặt an dật. Trong như đàn bà vậy, mà thực dữ như con hổ, nhanh như con thỏ, khiến người ta không kịp chớp mắt. Ai theo được cái đạo ấy thì một người địch nổi trăm người, trăm người địch nổi vạn người. Nếu đại vương không tin xin cho thử xem.

Câu Tiễn sai một trăm dũng sĩ xúm ngọn kích mà đâm xử nữ. Xử nữ giơ tay bắt luôn các ngọn kích mà ném xuống đất. Câu Tiễn phục là giỏi, mới giao cho luyện tập binh sĩ. Có ba nghìn quân sĩ theo được phép dạy. Hơn một năm, xử nữ cáo từ xin về Nam Lâm. Lần sau Câu Tiễn sai người đến mời thì không thấy đâu cả. Có người cho là trời tựa nước Việt, vậy sai thần nữ đem kiếm thuật xuống giúp.

Lại nói chuyện Trần Am nguyên là người nước Sở, vì tội giết người, phải trốn sang nước Việt. Phạm Lãi thấy là người bắn giỏi lắm, chẳng sai phát nào, liền nói với Câu Tiễn đón làm xạ sư. Câu Tiễn hỏi Trần Am rằng:

– Chẳng hay cung nỏ từ đâu mà sinh ra ?

Trần Am nói:

– Nó sinh ra bởi cung, cung sinh ra bởi ná, ná sinh ra bởi một người hiếu tử đời xưa. Nguyên đời xưa nhân dân thuần phục, đói thì ăn thịt giống vật, khát thì tìm uống nước mưa, người chết thì lấy cỏ bọc lại, đem ném ra giữa đồng. Sau có người hiếu tử, không nỡ để cho giống cầm thú ăn thịt cha mẹ mình, mới chế ra ná để giữ. Đến đời Thần Nông Hoàng Đế chế ra cung tên để dẹp bốn phương, bấy giờ có Hồ Phủ sinh ở Kinh Sơn nước Sở, cha mẹ chết sớm cả, từ lúc còn bé, vẫn tập nghề cung tên, bắn đâu trúng đấy, sau đem nghề bắn truyền cho Hậu Nghệ. Hậu Nghệ truyền cho Bàng Mông, Bàng Mông truyền cho Cầm Thị. Sau vì chư hầu đánh nhau, cung tên không thể trị nổi, mới chế ra thứ nỏ. Cầm Thị truyền cho Sở Tam Hầu, từ bấy giờ nước Sở cứ dùng tên nỏ để đối địch với các nước. Tiền nhân tôi ngày xưa học nghề nỏ ở nước Sở, đã năm đời nay. Nỏ bắn vào đâu thì chim không kịp bay, thú không kịp chạy, xin đại vương cho thử xem.

Câu Tiễn cũng giao cho Trần Am luyện tập cho ba nghìn quân sĩ, dạy nghề bắn nỏ. Trần Am dạy phép “liên nổ” bắn luôn ba mũi tên, không ai tránh kịp. Trong ba tháng thì quân sĩ học được hết phép. Trần Am bị bệnh mà chết. Câu Tiễn làm lễ hậu táng ở đấy, mới đặt tên cái núi ấy gọi là Trần Am sơn.

Ngũ Viên nghe tin Câu Tiễn luyện tập quân sĩ, mới vào yết kiến Phù Sai, khóc mà tâu rằng:

– Đại vương cứ tin nước Việt một lòng thần phục nước Ngô. Nay Việt dùng Phạm Lãi, ngày đêm luyện tập quân sĩ, các nghề kiếm kích cung nỏ, đều tài giỏi cả. Một mai nhân chuyện gì mà sang đánh nước ta thì nước ta nguy lắm. Nếu đại vương không tin, sao không sai người dò thám xem.

Phù Sai liền sai người sang dò thám nước Việt, người ấy biết hết những việc xử nữ và Trần Am, về báo với Phù Sai. Phù Sai bảo Há Bi rằng:

– Việt đã thần phục ta rồi, sao lại còn luyện tập quân sĩ làm gì nữa ?

Bá Hi nói:

– Nước Việt đội ơn đại vương phong đất cho, nếu không có quân sĩ thì lấy gì mà giữ ? vả việc luyện tập quân sĩ để giữ nước là thường, can chi mà đại vương nghi ngại.

Phù Sai cũng không thể đành lòng được, mới có ý muốn cất quân đánh Việt.

Lại nói chuyện họ Trần nước Tề, đã mấy đời được lòng dân, vẫn có ý muốn cướp nước, đến đời Trần Hằng lại càng muốn mưu phản, nhưng sợ đảng họ Cao và họ Quốc còn nhiều, mới nghĩ cách để trừ đi. Trần Hằng tâu với Tề Giản công rằng:

– Nước Lỗ là nước láng giềng ta mà theo Ngô đánh ta thì cái thù ấy không thể quên được.

Tề Giản công nghe lời. Trần Hằng tiến dẫn Quốc Thư làm đại tướng, Cao Vô Bình và Tôn Lâu làm phó tướng, bọn các quan đại phu là công tôn Hạ, công tôn Huy và Lư Khâu Minh đều đem quân theo. Trần Hằng thân hành đi tiên phong, đóng quân ở trên sông Vấn, quyết chí diệt Lỗ rồi mới rút về. Bấy giờ Khổng Tử đang ở Lỗ, sang thuật kinh Thi và kinh Thư. Một hôm, có người học trò là Cầm Lao ở Tề sang Lỗ, vào yết kiến Khổng Tử. Khổng Tử hỏi thăm việc nước Tề, mới biét là quân Tề đã đóng ở ngoài cõi, kinh sợ mà nói rằng:

– Lỗ là nước cha mẹ của ta, nay có họan nạn, ta tất phải cứu.

Khổng Tử nhân hỏi học trò rằng:

– Có ai dám vì ta sang sứ nước Tề, để ngăn nước Tề đừng sang đánh nước Lỗ không ?

Tử Trương (họ là Chuyên Tôn, tên là Sư) và Tử Trạch (tức là công tôn Long, người nước Vệ) đều xin đi. Khổng Tử không cho. Tử Cống (tên là Tứ, họ là Đoan Mộc) đứng dậy mà hỏi rằng:

– Như Tứ này có thể di được không ?

Khổng Tử nói:

– được!

Tử Cống tức khắc đi đến sông Vấn, xin vào yết kiến Trần Hằng. Trần Hằng biết Tử Cống là học trò giỏi của Khổng Tử, đến đây tất là có ý muốn du thuyết, mới lập nghiêm nét mặt để đợi Tử Cống vào. Tử Cống cứ thản nhiên vào, hình như không trông thấy ai cả. Trần Hằng mời ngồi mà hỏi rằng:

– Tiên sinh đến đây, muốn vì nước Lỗ mà làm thuyết khách đó chăng ?

Tử Cống nói:

– Tôi đến đây là vì Tề, chớ không phải vì Lỗ. Nước Lỗ là một nước khó đánh, sao quan tướng quốc lại đánh ?

Trần Hằng nói:

– Sao lại bảo nước Lỗ khó đánh ?

Tử Cống nói:

– Nước Lỗ, thành mỏng mà thấp, hào hẹp mà nông, nhà vua yếu, quan đại thần vô tài, quân sĩ không luyện tập, cho nên bảo là khó đánh. Cứ như tài quan tướng quốc bây giờ thì không gì bằng đánh Ngô. Nước Ngô, thành cao mà hào rộng, binh giáp tinh lợi, có nhiều tướng giỏi, thế mà dễ đánh đó!

Trần Hằng nổi nóng mà nói rằng:

– Khó và dễ, tiên sinh nói điên đảo khác thường như vậy, tôi thật không hiểu.

Tử Cống nói:

– Quan tướng quốc cho đuổi hết người xung quanh đi, tôi xin phân giải.

Trần Hằng liền đuổi hết người xung quanh đi, rồi ngồi gần lại mà hỏi Tử Cống, Tử Cống nói:

– Tôi nghe nói: lo ở mặt ngoài thì nên đánh nước yếu, lo ở mặt trong thì nên đánh nước mạnh. Tôi thiết nghĩ cái tình thế quan tướng quốc ngày nay, không có thể cùng với các đại thần cộng sự được. Nay cái đại thần có công phá nước Lỗ mà quan tướng quốc không có công gì, tôi e thế các đại thần mỗi ngày một to thì quan tướng quốc nguy lắm. Nếu quan tướng quốc quay sang đánh Ngô thì các đại thần khổ về giặc mạnh, quyền chính trong nước chỉ một tay quan tướng quốc nắm mà thôi, còn gì hơn nữa!

Trần Hằng tươi nét mặt lại mà bảo rằng:

– Lời nói của tiên sinh, thật hiểu thấu ruột gan tôi lắm; nhưng nay tôi đã đóng quân ở đấy, nếu quay sang nước Ngô thì tất người ta sinh nghi, biết làm thế nào ?

Tử Cống nói:

– Quan tướng quốc cứ đóng quân mà không đánh vội, tôi xin sang nói với vua Ngô đánh Tề để cứu Lỗ, bấy giờ quan tướng quốc đánh Ngô, thì thật là có cớ.

Trần Hằng bằng lòng, mới bảo Quốc Thư rằng:

– Ta nghe nói Ngô sắp đánh Tề, ta đóng quân ở đấy, chớ nên kinh động, để xin người dò thám xem nước Ngô thế nào. Ta phải đánh Ngô trước, rồi sau sẽ đánh Lỗ.

Quốc Thư vâng lời. Trần Hằng trở về kinh thành nước Tề. Tử Cống tức khắc đi gấp sang Ngô, vào tâu với vua Ngô là Phù Sai rằng:

– Khi trước Ngô và Lỗ hợp quân đánh Tề, nước Tề vẫn căm thù lắm; nay quân Tề đã đóng ở Vấn Thuỷ, sắp sang Lỗ, rồi cũng đánh đến Ngô, sao đại vương không đánh Tề để cứu Lỗ ? Đại vương phá vỡ được nước Tề mà thu phục được nước Lỗ thì uy danh lừng lẫy, hơn cả nước Tấn, chắc là nước Ngô nên được nghiệp bá.

Phù Sai nói:

– Khi trước nước Tề đã tình nguyện xin thần phục nước Ngô, vì thế ta mới rút quân về, nay chẳng thấy triều cống chi cả, ta vẫn định đem quân sang hỏi tội một phen, nhưng nghe nói vua Việt luyện tập quân sĩ, có ý rình ta, vậy ta muốn đánh Việt trước, rồi sau sẽ đánh Tề, cũng chưa lấy gì làm muộn.

Tử Cống nói:

– Không nên! Việt yếu mà Tề mạnh. Cái lợi đánh Việt nhỏ mà cái hại thả Tề thì to. Vả chăng sợ nước Việt yếu mà tránh nước Tề mạnh thì sao gọi là trí. Trí và dũng đều mất cả thì tranh thế nào được nghiệp bá. Nếu đại vương có ngại nước Việt thì tôi xin sang báo vua Việt đem quân theo hầu đại vương đi đánh nước Tề, đại vương nghĩ thế nào ?

Phù Sai bằng lòng mà nói rằng:

– Nếu như thế thì chính hợp ý ta!

Tử Cống cáo từ Phù Sai rồi sang yết kiến vua Việt là Câu Tiễn. Câu Tiễn nghe nói Tử Cống sắp đến, thân hành ra đón ở ngoài ba mươi dặm, mời vào công quán, tiếp đãi rất hậu, rồi khúm núm hỏi rằng:

– Nước tôi ở hẻo lánh về sứ Đông Hải này, tiên sinh không ngại xa nhà mà đến đây chẳng hay có điều gì chỉ bảo ?

Tử Cống nói:

– Tôi đến đây để viếng đại vương!

Câu Tiễn sụp lạy mà nói rằng:

– Tôi nghe nói họa với phúc là láng giềng với nhau, tiên sinh đến đây viếng tôi, tức là phúc cho tôi đó, xin tiên sinh dạy bảo cho biết.

Tử Cống nói:

– Mới rồi, tôi vào yết kiến vua Ngô, bảo vua Ngô đánh Tề cứu Lỗ, vua Ngô nghi nước Việt có ý mưu phản, vậy nên muốn đánh Việt trước. Nếu đại vương không có chí báo thù mà khiến cho người ta nghi, thì thật là vụng lắm ? nếu có chí báo thù mà khiến cho người ta biết, thì thật là nguy lắm!

Câu Tiễn ngạc nhiên, quì xuống mà nói rằng:

– Xin tiên sinh nghĩ mưu cứu cho.

Tử Cống nói:

– Vua Ngô kiêu ngạo mà ưa nịnh. Bá Hi chuyên quyền mà khéo dèm. Nay đại vương dùng đồ lễ hạu và lời nói ngọt, rồi xin một toán quân theo Ngô đánh Tề, kẻ kia đánh mà thua thì từ đó suy yếu đi; nếu đánh mà được thì tất sinh lòng kiêu ngạo, muốn làm bá chủ chư hầu, chắc phải đem quân đánh Tần. Như thế thì nước Việt mới có dịp thừa thế sang đánh Ngô được.

Câu Tiễn sụp lạy hai lạy mà nói rằng:

– Tiên sinh đến đây, thật là trời giúp cho tôi, khác nào như tôi đã chết mà lại được sống lại. Tôi xin vâng lời tiên sinh.

Câu Tiễn bèn đem trăm nén hoàng kim, một thanh bảo kiếm và đôi ngựa tốt đưa tặng Tử Cống, Tử Cống cố ý chối từ, trở về báo với vua Ngô rằng:

– Vua Việt cảm cái ơn đại vương sinh toàn cho, nghe nói đại vương có bụng nghi, lấy làm sợ hãi lắm, nay mai sắp sai sứ đến tạ.

Phù Sai mời Tử Cống ra công quán ở lại trong năm ngày. Quả nhiên nước Việt sai Văn Chủng đến nước Ngô, tâu với Phù Sai rằng:

– Kẻ bề tôi hèn ở Đông Hải là Câu Tiễn đội ơn đại vương không giết, cho được sống để cúng tế, dẫu chết cũng chưa đủ đền ơn. Nay nghe nói đại vương vì nghĩa mà đánh kẻ mạnh, cứu kẻ yếu, vậy có sai tôi là Văn Chủng đem hai mươi chiếc binh giáp, một cái mâu khuất lư và một thanh kiếm Bộ Quang của tiên vương để lại sang dâng đại vương. Khi nào đại vương cất quân thì Câu Tiễn xin đem ba nghìn quân đi theo để xông pha trong chốn mũi tên hòn đạn, dẫu chết cũng không dám từ chối.

Phù Sai bằng lòng lắm mới triệu Tử Cống mà bảo rằng:

– Câu Tiễn thật là nguời tín nghĩa! hắn định đem ba nghìn quân theo ta đánh Tề, tiên sinh nghĩ thế nào ?

Tử Cống nói:

– Không nên! ta đã dùng quân Việt mà lại cho vua Việt theo đi thì cũng quá lắm! đại vương nên nhận cho quân Việt theo mà từ chối không cho vua Việt đi.

Phù Sai nghe lời. Tử Cống cáo từ nước Ngô, lại đi sang nước Tấn vào nói với Tấn Định công rằng:

– Tôi nghe nói: “hễ không lo xa thì tất có hại gần”. nay Ngô sắp sửa đánh Tề, Ngô đánh mà được Tề thì tất cùng Tấn tranh nhau làm bá chủ, nhà vua nên luyện tập quân sĩ để mà đợi sẵn.

Tấn Định công nói:

– Xin vâng lời dạy.

Khi Tử Cống trở về nước Lỗ thì quân Tề đã bị quân Ngô đánh thua rồi.

Chương 82: Ngũ Viên liều chết can vua Ngô – Khoái Qúi lập mưu về nước Vệ

Bấy giờ là năm thứ 36 đời Chu Kính vương, vua Việt là Câu Tiễn sai quan đại phu là Chư Kê Sinh đem ba nghìn quân giúp Ngô đánh Tề. Vua Ngô là Phù Sai cử đại binh đi đánh Tề sai người lập biệt quán ở đát Câu Khúc chung quanh trông ngô đồng mùa thu gọi là Ngô Cung cho Tây Thi ra nghỉ mát ở đấy đợi khi thắng Tề thì Phù Sai cũng về nghỉ ở đấy cho quan mùa hạ.

Khi quân Ngô sắp khởi hành, Ngũ Viên lại can rằng:

– Nước Việt chính là cái bệnh trong tim trong ruột của ta, còn nước Tề chẳng qua như là bệnh ghẻ lở ở bên ngoài mà thôi. Nay đại vương đem mười vạn quân, đi nghìn dặm đường, để chữa cái bệnh ghẻ lở mà quên cái bệnh tim ruột, tôi e rằng chưa thắng được Tề mà đã phải khổ với Việt.

Phù Sai nổi giận mà nói rằng:

– Ta đã định ngày phát binh mà lão tặc dám đem lời quái gở để ngăn trở quân ta, nghĩ có đáng tội không !

Lúc bấy giờ Phù Sai đã có ý muốn giết Ngũ Viên. Bá Hi mật tâu với Phù Sai rằng:

– Ngũ Viên là một bậc lão thần đời trước, ta không nên giết, chi bằng đại vương sai sang ước chiến với nước Tề, để cho người Tề giết đi.

Phù Sai nói:

– Quan thái tể nói phải lắm!

Phù Sai liền viết một bức thư kể tội nước Tề đánh Lỗ là khinh Ngô, sai Ngũ viên đưa sang vua Tề, định khiến vua Tề tức giận mà giết Ngũ Viên. Ngũ Viên biết là nước Ngô tất mất mới đem người con là Ngũ Phong cùng đi. Khi đến Lâm Tri (kih thành nước Tề) Ngũ Viên đem bức thư của Phù Sai vào dâng lên Tề Giản công. Tề Giản công nổi giận, toan giết Ngũ Viên. Bão Tức (con Bão Mục) can rằng:

– Ngũ Viên là trung thần nước Ngô, đã nhiều lần can ngăn mà không hợp ý vua Ngô, nay vua Ngô sai sang đây là ý muốn mượn tay ta giết đi để khỏi mang tiếng là kẻ giết kẻ trung thần, chi bằng ta tha cho về, khiến bọn trung bọn nịnh công kích lẫn nhau, mà Phù Sai phai chịu tiếng ác.

Tề Giản công tiếp đãi Ngũ Viên tử tế, rồi hẹn đến cuối mùa xuân thì khai chiến. Nguyên Ngũ Viên cùng với Bão Mục quen nhau, cho nên Bão Tức can Tề Giản công không nên giết Ngũ Viên. Bão Tức hỏi riêng Ngũ Viên về việc nước Ngô. Ngũ Viên ứa nước mắt mà không nói gì cả, chỉ cho con là Ngũ Phong nhận làm em Bão Tức, rồi gửi ở đấy. Về sau gọi là vương tôn Phong, không dùng họ Ngũ nữa. Bão Tức thở dài mà nói rằng:

– Ngũ Viên định về cố can mà chịu chết, cho nên để con lại nước Tề đây!

Lại nói chuyện vua Ngô là Phù Sai hẹn ngày cất quân, đi qua Cô Tô đài, ăn cơm trưa ở đấy. Cơm xong, chợp ngủ đi, bỗng có một giấc chiêm bao; khi tỉnh dậy, trong lòng hoảng hốt, mới gọi Bá Hi vào mà bảo rằng:

– Ta vừa chợp ngủ đi, chiêm bao thấy vào Chương Minh cung; khi vào đến nơi, thấy hai cái nồi đun chưa chín; lại có hai con chó đen; một con sủa về phía nam, một con sủa về phía bắc; lại có hai cái cuốc bằng gang, cắm trên tường; lại thấy nước chảy cuồn cuộn vào chốn điện đường; còn về hậu phòng thì nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông, chẳng ra trống; trông ra phía vườn trước, chẳng thấy cây gì khác cả, chỉ toàn một giống ngô đồng. Quan thái tể đóan hộ ta xem tốt xấu thế nào ?

Bá Hi sụp lạy mà chúc mừng rằng:

– Tốt thay! giấc mộng của đại vương, ứng vào việc đánh Tề này! hai chữ “chương minh” nghĩa là phá giặc thành công, tiếng tăm lừng lẫy; hai cái nồi đun mà chưa chín, nghĩa là khí thế đại vương đang thịnh; hai con chó đen; một con sủa về phía nam, một con sủa về phía bắc nghĩa là các nước phải đến triều phục nước ta; hai cây cuốc cắm ở trên tường, nghĩa là dân thợ, dây cày chăm việc làm ruộng; nước chảy cuồn cuộn, vào chốn điện đường, nghĩa là các nước đem đồ cống hiến đến nhiều; nơi hậu phòng nghe tiếng ầm ầm, chẳng ra chuông, chẳng ra trống, nghĩa là cung nữ vui vẻ; trông ra phía vườn trước, toàn một giống ngô đồng, nghĩa là đem thứ gỗ cây ngô đồng ấy làm đàn cầm, đàn sắt thì tiếng kêu rất êm ái. Mộng của đại vương tốt không biết dường nào mà kể!

Phù Sai dẫu ưa lời nịnh, nhưng vẫn không đành lòng, lại hỏi Vương Tôn Lạc, Vương Tôn Lạc nói:

– Tôi dốt không biết đóan mộng, ở núi Dương Sơn về phía tây thành có một người dị sĩ, tên gọi Công Tôn Thánh. Người ấy học rộng lắm, nếu đại vương còn hồ nghi, sao không triệu đến mà bảo đoán xem.

Phù Sai nói:

– Nhà ngươi triệu đến đây cho ta.

Vương Tôn Lạc đi triệu Công Tôn Thánh.

Công Tôn Thánh hỏi cớ, rồi phục xuống đất mà khóc. Người vợ đứng cạnh cười mà bảo rằng:

– Phu quân dở hơi quá! sao nghe thấy vua triệu mà lại khóc lóc như mưa ?

Công Tôn Thánh thở dài mà nói rằng:

– Thương thay! việc này nàng không biết được. Ta đã tính số ta đến ngày nay là hết. Bây giờ ta phải vĩnh biệt với nàng, cho nên ta thương khóc đó.

Vương Tôn Lạc giục Công Tôn Thánh lên xe, cùng đến Cô Tô đài. Phù Sai triệu Công Tôn Thánh vào, rồi nói chuyện chiêm bao cho nghe và bảo đoán. Công Tôn Thánh nói:

– Tôi biết nói thì tất chết, nhưng dẫu chết cũng cứ nói. Lạ thay! giấc mộng của đại vương, ứng vào việc đánh Tề này! chữ “chương” nghĩa là thua chạy vất vả; chữ “minh” nghĩa là về nơi âm ti; hai cái nồi đun mà chưa chín, nghĩa là đại vương thua chạy, không kịp nấu ăn, hai con chó đen: một con sủa về phía nam, một con sủa về phía bắc, nghĩa là phải chạy về âm phương, vì âm thuộc về sắc đen; hai chiếc cuốc cắm ở trên tường nghĩa là quân Việt vào cày cuốc nền xã tắc nước Ngô; nước chảy cuồn cuộn vào chốn điện đường, nghĩa là chốn điện đường bỏ không, nước trôi sóng vỗ; nơi hậu phòng nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông, chẳng ra trống nghĩa là cung nữ bị bắt, thở vắn than dài; trông ra phía vườn trước, toàn một giống ngô đồng, nghĩa là đem gỗ cây ngô đồng làm đồ minh khí, đợi khi tống táng. Xin đại vương bãi quân đánh Tề đi, và sai quan thái tể là Bá Hi sang tạ tội với Câu Tiễn thì nước mới yên mà thân mới toàn được!

Bá Hi đứng ở cạnh tâu với Phù Sai rằng:

– Đứa thất phu ở nơi thảo dã, lại dám ăn nói càn gỡ, chẳng giết còn để làm gì!

Công Tôn Thánh chừng mắt mà mắng Bá Hi rằng:

– Quan thái tể quyền cao chức trọng, lộc nước cơm vua, mà chẳng hết lòng trung thành, lại cứ giữ lối du nịnh. Ngày khác quân Việt diệt Ngô, quan thái tể phỏng có còn giữ được đầu hay không ?

Phù Sai nổi giận nói:

– Đứa thất phu không có kiến thức gì, chỉ một mực nói càn, không giết thì tất nhiên làm mê hoặc mọi người.

Nói xong, truyền cho lực sĩ đem cái dùi sắt để đánh Công Tôn Thánh, Công Tôn Thánh kêu to lên rằng:

– trời ơi! trời có thấu cái tình oan này cho tôi không ? trung mà bị tội! thật mà chết oan! sau khi tôi chết rồi, xin chớ có mai táng, đem quẳng thây tôi ở dưới núi Dương Sơn, sau này còn làm cái vang cái bóng để báo đại vương!

Phù Sai đã đánh chết Công Tôn Thánh, mới sai người quẳng thây dưới núi Dương Sơn mà kể tội rằng : Giống sài lang ăn thịt mày, lửa đốt xương mày, gió bay tro mày, hình tiêu ảnh diệt, còn đâu là vang bóng để báo ta được!

Bá Hi rót chén rượu dâng lên mà chúc rằng:

– Mừng thay! đại vương đã trừ được giống yêu quái, xin cạn một chén rượu này, rồi sẽ phát binh.

Trung quân thì Phù Sai và Bá Hi, thượng quân thì Tư Môn Sào, hạ quân thì Tào Cô, cả thảy mười vạn quân và ba nghìn quân Việt, cùng kéo thẳng về phía Sơn Đông. Phù Sai sai sứ sang ước hội trước với Lỗ Ai công để hợp quân đánh Tề. Ngũ Viên đem lời hẹn của Tề Giản công báo với Phù Sai ở ngang đường rồi cáo ốm xin về trước, không theo đi đánh.

Lại nói chuyện tướng nước Tề là Quốc Thư đóng quân ở bến sông Vấn, nghe tin Ngô và Lỗ hợp quân đến đánh, liền họp các tướng lại để thương nghị. Bỗng nghe báo: quan tướng quốc là Trần Hằng sai em là Trần Nghịch đến. Quốc Thư và các tướng mời vào. Trần Nghịch nói:

– Quân Ngô đã kéo sang đất Doah Bác, việc nguy cấp đến nơi! quan tướng quốc sợ các tướng không chịu cố sức, vậy sai tiểu tướng đến đây để dốc chiến. Cứ như việc ngày nay, cho đánh trống, chứ cấm không cho đánh chiêng.

Các tướng đều nói:

– Chúng tôi xin liều chết để quyết chiến!

Quốc Thư truyền lệnh cất quân đi đón đánh Ngô. Đi đến Ngải Lăng, gặp toán thượng quân của tướng nước Ngô là Tư Môn Sào. Quốc Thư hỏi các tướng rằng:

– Ai dám ra đối địch ?

Công tôn Huy hớn hở xin đi, rồi đem quân bản bộ ra nghênh chiến. Hai bên đánh nhau hơn ba mươi hợp, chưa phân được thua. Quốc Thư đem toán trung quân xông vào, tiếng trống như sấm. Tư Môn Sào không thể địch nổi, phải bỏ chạy. Quốc Thư thắng trận, càng thêm hăng hái, truyền cho quân sĩ, mỗi khi ra trận, phải đem theo một cái thừng dài và bảo rằng:

– Tựa nước Ngô đều húi tóc cả, ta nên lấy thừng để mà xâu đầu.

Quân Tề nhao nhao như điên cuồng, cho là sắp phá vỡ được quân Ngô. Tư Môn Sào đem bại binh về yết kiến Phù Sai, Phù Sai nổi giận toan chém Tư Môn Sào. Tư Môn Sào nói:

– Tôi mới ra trận, chưa biết hư thực thế nào, cho nên bị thua; nếu đánh một trận nữa mà không được, bấy giờ xin chịu tội chết.

Bá Hi cũng cố xin hộ cho, Phù Sai đuổi Tư Môn Sào ra, rồi giao toán thượng quân cho quan đại tướng là Triển Như. Gặp có tướng nước Lỗ là Thúc Tôn Châu Cừu đem quân đến giúp, Phù Sai đưa ra một thanh kiếm và một bộ áo giáp, sai làm hướng đạo, đóng quân ở cách Ngải Lăng năm dặm. Quốc Thư sai người đưa chiến thư đến. Phù Sai hẹn đến ngày hôm sau. Hôm sau Phù Sai sai Thúc Tôn Châu Cừu bày trận thứ nhất; Triển Như bày trận thứ hai; Tào Côn bày trận thứ ba;; Tư Môn Sào đem ba nghìn quân Việt đi lại để dụ địch; còn mình thì cùg với Bá Hi đem đại binh đóng nơi gò cao mà tuỳ cơ tiếp ứng. Lại cho tướng nước Việt là Chư Kê Dĩnh theo ở bên cạnh để cùng xem đánh. Quân Tề đã bày trận xong, Trần Nghịch cùng với các tướng đều ngậm ngọc mà bào nhau rằng:

– Ai chết thì đem liệm ngay!

Công tôn Hạ và Công tôn Huy bắt quân sĩ hát bài “Tống táng” và cùng thề với nhau rằng:

– Hễ ai còn sống mà về thì không phải liệt sĩ trượng phu!

Quốc Thư nói:

– Các tướng đều liều chết cố đánh thì tất phải được!

Khi hai bên bày trận xong rồi, Tư Môn Sào ra khiêu chiến. Quốc Thư bảo công tôn Huy rằng:

– Viên đại tướng ở trong tay nhà ngươi đó, nhà ngươi nên ra mà bắt lấy.

Công tôn Huy cầm kích ra đánh, Tư Môn Sào bỏ chạy. Thúc Tôn Châu Cừu đem quân ra đón đánh Công tôn Hy. Tư Môn Sào lại quay trở lại khiêu chiến. Quốc Thư lại sai công tôn Hạ ra đánh. Công tôn Hạ ra, Tư Môn Sào lại chạy, công tôn Hạ đuổi theo. Đại tướng nước Ngô là Triển Như lại đem quân ra đánh công tôn Hạ. Tư Môn Sào lại quay trở lại khiêu chiến. Tướng nước Tề là Cao Vô Bình và Tôn Lâu đem quân ra đánh.

Tướng nước Ngô là Cô Tào một mình đánh nhau với hai tướng nước Tề, mà chẳng sợ hãi một chút nào cả. Hai bên giáp chiến, chết hại đã nhiều. Quốc Thư thấy quân Ngô không lui, bèn cầm dùi đánh trống để thúc đại binh tiến vào. Phù Sai đứng trên gò cao, trông thấy quân Tề hăng hái, quân Ngô đã dần dần kém thế, liền sai Bá Hi đem một vạn quân xuống tiếp ứng. Quốc Thư trông thấy quân Ngô lại đến, đã toan chia quân ra đối địch, bỗng nghe tiếng chiêng dậy đất, quân Tề vẫn tưởng là quân Ngô định lui, chẳng ngờ Phù Sai đem ba vạn quân tinh binh chia làm ba đạo, lại lấy chiêng làm hiệu tiến quân, theo lối tắt xông thẳng vào trận địa quân Tề, làm cho quân Tề đứt ra làm ba ngả. Bọn Triển Như và Tào Cô nghe nói Phù Sai lâm trận, càng thêm hăng hái, đuổi đánh quân Tề thất điên bát đảo. Triển Như bắt sống được công tôn Hạ, Tư Môn Sào đâm chết công tôn Huy, Phù Sai bắn trúng Tôn Lâu, Lư Khâu Minh bảo Quốc Thư rằng:

– Quân Tề chết gần hết rồi, ngài nên đổi y phục mà trốn đi, rồi sau sẽ liệu kế.

Quốc Thư thở dài mà nói rằng:

– Ta cần mười vạn quân Tề, mà bị người nước Ngô đánh thua, còn mặt mũi nào mà về triều nữa.

Quốc Thư nói xong, liền cởi áo giáp xông vào trong đám quân Ngô, bị quân Ngô đâm chết. Lư Khâu Minh núp ở trong đám cỏ cũng bị tướng nước Lỗ là Thúc Tôn Châu Cừu bắt được. Phù Sai đại thắng quân Tề, các tướng hiến công, chém được tứơng nước Tề là Quốc Thư và công tôn Hy, bắt sống được công tôn Hạ và Lư Khâu Minh, cũng đem chém nốt; chỉ có Cao Vô Bình và Trần Nghịch hai người trốn thoát mà thôi, còn người khác hoặc bị chém, hoặc bị bắt, không biết bao nhiêu mà kể. Phù Sai hỏi Chư Kê Dĩnh (tướng nước Việt) rằng:

– Nhà ngươi xem quân Ngô cường dũng, so với quân Việt thế nào ?

Chư Kê Dĩnh sụp lạy mà tâu rằng:

– Quân Ngô cường dũng, thiên hạ không nước nào địch nổi, huống chi nước Việt tôi là một nước hèn yếu xưa nay.

Phù Sai bằng lòng, trọng thưởng cho quân Việt, sai Chư Kê Dĩnh về trước để báo tin thắng trận cho Câu Tiễn biết. Tề Giản công lo sợ, cùng với Trần Hằng và Hám Chỉ thương nghị, rồi sai sứ đem nhiều lễ vật sang lễ Phù Sai để xin hoà. Phù Sai bảo nước Tề và nước Lỗ lại giao hiếu với nhau như anh em, không được gây việc tranh chiến. Nước Tề và nước Lỗ đều vâng mệnh cả. Phù Sai rút quân về đến Ngô cung ở Câu Khúc, bảo Tây Thi rằng:

– Ta để mỹ nhân ở đây là muốn cho được chóng gặp mặt.

Tây Thi sụp lạy và chúc mừng. Bấy giờ gió thu hây hẩy, lá ngô rườm rà. Phù Sai và Tây Thi trèo lên trên đài, uống rượu rất vui, đến đem khuya bỗng có tiếng lũ trẻ hát. Phù Sai lắng nghe, hát rằng:

“Lá đồng gặp mùa lạnh

Vua Ngô tỉnh, chưa tỉnh…?

Lá Ngô đang mùa thu

Vua Ngô sầu, lại sầu…!

Phù Sai không bằng lòng, sai người bắt lũ trẻ đến mà hỏi rằng:

– Ai dạy chúng bay hát câu ấy ?

Lũ trẻ nói:

– Có một đứa trẻ áo đen, không biết ở đâu đến, dạy chúng tôi hát như thế, rồi lại đi đâu mất.

Phù Sai nổi giận mà nói rằng:

– Ta đây tự trời sinh ra, có thần thánh ủng hộ, khi nào lại phải sầu!

Phù Sai toan giết lũ trẻ, Tây Thi cố xin mãi mới thôi. Bá Hi tâu rằng:

– Xuân đến thì muôn vật vui, thu đến thì muôn vật sầu, đó là đạo trời. Đại vương lúc vui lúc sầu đều hợp với đạo trời, còn lo gì nữa!

Phù Sai bằng lòng, đóng ở Ngô cung ba ngày, rồi mới về kinh thành. Các quan triều thần đều vào chúc mừng. Ngũ Viên cũng đến, không nói gì cả. Phù Sai trách Ngũ Viên rằng:

– Quan tướng quốc can ta không nên đánh Tề, nay ta thắng được Tề trở về, quan tướnc quốc không có công gì cả, tưởng cũng nên hổ thẹn!

Ngũ Viên giận lắm, vùng vằng buông thanh kiếm xuống mà tâu rằng:

– Trời định làm mất nước nào thì vẫn cho có điều mừng nhỏ, rồi mới giáng điều to lớn. Việc thắng Tề chẳng qua là một điều mừng nhỏ đó, tôi e rằng sắp có điều to lớn đến nơi.

Phù Sai tức giận nói rằng:

– Đã lâu không gặp quan tướng quốc, tai ta được im ắng dễ chịu, nay lại đến kể lể rầy rà hay sao!

Phù Sai nói xong, bưng tai nhắm mắt, ngồi ở trên điện. Được một lúc, Phù Sai bỗng trừng mắt nhìn thẳng mà quát to lên rằng:

– Quái lạ!

Các quan tâu rằng:

– Đại vương thấy gì ?

Phù Sai nói:

– Ta trông thấy bốn người tựa lưng nhau rồi mỗi người chạy về một phía; lại thấy ở dưới điện có hai người đứng đối nhau: người ngảnh mặt phía bắc giết người ngảnh mặt phía nam. Các ngươi có trông thấy như thế không ?

Các quan đều nói:

– Chúng tôi không trông thấy gì cả.

Ngũ Viên tâu rằng:

– Bốn người chạy về bốn phía nghĩa là bốn phương phải ly tán; người ngảnh mặt phía bắc giết người ngảnh mặt phía nam, nghĩa là kẻ dưới làm hại người trên, bề tôi giết vua. Nếu đại vương không biết tu tỉnh thì tất có ngày hại thân mất nước!

Phù Sai nổi giận nói:

– Tướng quốc nói gở như vậy, ta không muốn nghe!

Bá Hi nói:

– Bốn phương ly tán, nghĩa là vì phải chạy đến phục dịch ở sân nước Ngô. Nước Ngô ta làm bá chủ, sắp có cơ thay nhà Chu, ấy cũng là cái điềm bề tôi phạm đến vua đó.

Phù Sai nói:

– Quan thái tể nói một lời làm cho lòng ta mở rộng. Tướng quốc thì già nua lắm rồi, chẳng nói được câu nào như thế cả.

Mấy hôm sau, vua Việt là Câu Tiễn đem bề tôi nước Việt thân hành đến nước Ngô để chúc mừng thắng trận. Đối với các quan nước Ngô, vua Việt đều có quà biếu cả.

Bá Hi nói:

– Thế là bốn phương phải phục dịch ở sân nước Ngô đó!

Phù Sai bày tiệc ở trên Vân Đài. Câu Tiễn ngồi hầu. Các quan đại phu đều đứng hầu ở bên cạnh. Phù Sai nói:

– Vua không quên người bề tôi có công, cha không quên người con có công. Nay quan thái tể là Bá Hi vì ta luyện tập quân sĩ có công, ta định thưởng cho làm thượng khanh; vua Việt thờ ta như cha, một lòng hiếu thuận, ta định phong thêm đất cho, để đền cái công giúp ta. Các quan đại phu nghĩ thế nào ?

Các quan đại phu đều nói:

– Đại vương thưởng công cho kẻ khó nhọc đó là việc bá vương.

Ngũ Viên sụp xuống đất khóc mà tâu rằng:

– Than ôi, thương thay! người trung bịt miệng, lũ nịnh nâng tay, trái cho làm phải, gian tưởng là ngay; có một ngày kia, diệt nước Ngô này, miếu xã tàn phá, cung điện đầy gai!

Phù Sai nổi giận:

– Lão tặc gian trá, làm tai làm quái, chỉ muốn chuyên quyền, để hại nước ta. Ta nghĩ đến tiền vương, mà không nỡ giết, cho về mà tự xử lấy, đừng trông thấy mặt ta nữa.

Ngũ Viên nói:

– Lão thần này, nếu bất trung bất tín, thì đã chẳng được làm tôi tiền vương, nay khác nào như Long Bàng gặp vua Kiệt, Tỷ Can gặp vua Trụ. Tôi dẫu bị giết nhưng đại vương cũng khó toàn! tôi xin từ đây vĩnh biệt, không trông thấy đại vương nữa!

Ngũ Viên nói xong, tức khắc lui ra. Phù Sai vẫn còn chưa nguôi cơn giận, Bá Hi nói:

– Tôi nghe nói khi trước Ngũ Viên sang sứ nước Tề, có đem con gửi họ Bão, thế là có ý muốn phản Ngô, đại vương nên xét kỹ.

Phù Sai sai người đem thanh kiếm Chúc Lâu đưa cho Ngũ Viên. Ngũ Viên cầm lấy thanh kiếm mà than rằng:

– Đại vương muốn ta chết đây!

Ngũ Viên nói xong, liền chạy ra đứng ở giữa sân, ngửa mặt lên trời mà kêu to lên rằng:

– trời ơi! trời ơi! ngày xưa tiền vương không muốn lập mày, mày nhờ sức ta mới được nối ngôi. Ta vì mày mà phá Sở, phá Việt, khiến cho uy danh lừng lẫy khắp chư hầu. Nay mày không theo lời ta, lại bắt ta chết. Ta chết ngày nay thì ngày mai quân Việt đến đào xã tắc nước Ngô đi đó!

Ngũ Viên lại bảo người nhà rằng:

– Khi ta chết rồi, các ngươi phải khoét mắt ta mà treo ở cửa đông để ta được xem quân Việt kéo đến!

Nói xong tự đâm cổ mà chết.

Nội thị đem thanh kiếm về tâu với Phù Sai và thuật lại những lời nói của Ngũ Viên trong khi gần chết. Phù Sai thân hành đến xem thi hài rồi nói rằng:

– Ngũ Viên, mày đã chết rồi thì còn biết gì nữa!

Phù Sai lại truyền cắt lấy đầu, đem treo ở trên cửa Bàn Môn còn thi thể thì đem bỏ vào cái bao da ngựa, sai người quẳng xuống khúc sông Tiền Đường mà bảo rằng:

– Nhật nguyệt cháy xương mày, thuồng luồng ăn thịt mày, hình thể mày tiêu diệt, phỏng có còn gì không!

Thi thể Ngũ Viên theo dòng sông trôi đi, sóng đánh dạt vào bờ. Dân ở đấy sợ hãi bảo nhau vớt lên, đem chôn ở núi Ngô Sơn. Đời sau đổi tên là Trư Sơn (bởi vì Ngũ Viên tên tự là Tử Tư), nay ở trên núi còn có miếu Tử Tư. Phù Sai giết Ngũ Viên rồi, mới cho Bá Hi làm tướng quốc, lại định phong thêm đất cho nước Việt. Câu Tiễn cố ý xin từ chối, Phù Sai mới thôi. Câu Tiễn về Việt, càng dốc lòng nghĩ mưu đánh Ngô. Phù Sai chẳng để ý đến, lại càng kiêu căng phóng túng, bắt mấy vạn dân đi đắp Hàn thành, xẻ một cái kênh ở phía đông bắc xuyên sang phía tây bắc, khiến nước sông Giang, sông Hoài chảy vào sông Nghi, rồi thông sang sông Tề. Thế tử Hữu biết ý Phù Sai lại muốn hội minh với trung quốc, vẫn muốn can ngăn, nhưng lại sợ Phù Sai giận, mới nghĩ ra một việc để làm cho Phù Sai tỉnh ngộ.

Một hôm đang buổi sáng sớm, thế tử Hữu đeo cung mang tên ở hậu viên đi về, áo giày ướt sạch cả. Phù Sai thấy lạ, liền hỏi. Thế tử Hữu nói:

– Mới rồi, con ra chơi hậu viên, nghe tiếng con ve kêu ở trên cây, chạy lại gần xem, thấy con ve đang ngân nga trước gió, tự lấy làm yên ổn, không ngờ có con bọ ngựa đang leo ở trên cành cây, giơ hai càng lên, rình bắt con ve để ăn thịt; con bọ ngựa chỉ biết con ve, không ngờ có con chim sẻ vàng đang bay lượn ở đấy, định mổ con bọ ngựa; con chim sẻ chỉ biết con bọ ngựa, không ngờ có con đứng ở đấy đang giương cung định bắn con chim sẻ. Con chỉ biết con chim sẻ không ngờ lại có một cái hố sâu ở bên cạnh, nên trượt chân ngã xuống, thành ra ướt cả áo giày, đến nỗi làm trò cười cho phụ vương.

Phù Sai nói:

– Mày chỉ tham cái lợi trước mắt, mà không nghĩ đến cái hại sau lưng, thiên hạ còn ai ngu như thế nữa!

Thế tử Hữu nói:

– Thế mà thiên hạ còn có người ngu hơn con: nước Lỗ là dòng dõi Chu công, lại nhờ công dạy bảo của Khổng Tử, không xâm phạm gì đến lân quốc, thế mà nước Tề tự nhiên đem quân đánh Lỗ. Tề tưởng lấy được Lỗ, chẳng ngờ có Ngô đem quân đi nghìn dặm để đánh Tề. Ngô đánh Tề, tưởng lấy được Tề, chẳng ngờ có nước Việt kia lại đem quân quyết tử quan Tam Giang, thông Ngũ Hồ để diệt nước Ngô, thiên hạ còn ai ngu như thế nữa!

Phù Sai nổi giận, nói:

– Đấy là cái giọng lưỡi của Ngũ Viên ngày xưa, ta nghe đã chán tai lắm, bây giờ mày lại bắt chước, để làm ngăn trở công việc của ta hay sao ? mày có phải là con trai ta thì từ nay cấm không được nói đến việc ấy nữa!

Thế tử Hữu sợ hãi lui ra.

Phù Sai giao cho thế tử Hữu cùng vương tử Địa và vương tôn Dị Dung giữ nước, còn mình thì đem quân sang hội với Lỗ Ai công ở đất Thái Cao, với Vệ Xuất công ở đất Phát Dương, rồi ước với chư hầu đại hội ở Hoàng Trì (đất nước Vệ), muốn cung với nước Tấn tranh nhau nghiệp bá.

Câu Tiễn nghe tin Phù Sai đã đem quân đi vắng, mới cùng với Phạm Lãi thương nghị, rồi đem ba nghìn quân “tập lưu” (tức là thuỷ binh) cùng với ba nghìn “tuấn sĩ”, sáu nghìn “quân tử”, theo đường bể qua sông Giang để lẻn sang đánh Ngô. Tiền đội là Trù Vô Dư kéo đến nước Ngô. Vương tôn Dị Dung ra đánh, được mấy hợp thì vương tử Địa đem quân ra, Trù Vô Dư ngã ngựa bị bắt. Ngày hôm sau Câu Tiễn đem đại binh đến. Thế tử Hữu định giữ thế thủ. Vương tôn Dị Dung nói:

– Quân Việt vẫn có lòng sợ nước Ngô ta, vả ở xa lại đây tất nhiên mệt nhọc. Ta thắng lần nữa thì họ phải chạy; nếu không thắng, bấy giờ sẽ giữ thế thủ, cũng chưa lấy gì làm muộn.

Thế tử Hữu nghe lời, liền sai Dị Dung ra đánh, Hữu đem quân theo sau. Câu Tiễn thân hành đốc suất quân sĩ đánh nhau với Ngô, khí thế hăng hái lắm. Lúc bấy giờ ở nước Ngô quân sĩ tinh dũng đều theo Phù Sai đi vắng cả, ở trong nước chỉ còn toàn quân sĩ chưa luyện tập. Nước Việt thì toàn là quân tinh dũng đã luyện tập mấy năm nay, cung tên kiếm kích, linh lợi khác thường! lại thêm có Phạm Lãi và Thế Dung đều là những tướng lão thành, Ngô khó lòng địch nổi. Quân Ngô thua to. Vương tôn Dị Dung bị Thế Dung giết chết. Thế tử Hữu bị hãm ở trong đám quân Việt, bị mấy mũi tên vào mình, sợ quân Việt bắt được thì nhục, liền tự tử chết. Quân Việt kéo thẳng đến dưới chân thành. Vương tôn Địa đóng chặt cửa thành lại, rồi cố giữ thế thủ và sai người đi cáo cấp với Phù Sai. Câu Tiễn cho thuỷ quân đóng ở Thái Hồ và lục quân đóng ở Tư Môn, sai Phạm Lãi đốt đài Cô Tô, lửa cháy hơn một tháng chưa tắt, bao nhiêu chiến thuyền của Ngô, đều bắt đem về Thái Hồ cả. Quân ngô không dám ra đánh.

Lại nói chuyện Phù Sai cùng với Lỗ Ai Công và Vệ Xuất Công, cùng đến Hoàng Trì, sai người mời Tấn Định công. Tấn Định công sợ thế, cũng phải đến hội. Phù Sai sai Vương Tôn Lạc cùng với quan thượng khanh nước Tấn và Triệu Uởng bàn việc để tên trước sau ở trong tờ tái thư. Triệu Uởng nói:

– Nước Tấn đã mấy đời nay làm minh chủ, còn phải hỏi gì nữa!

Vương tôn Lạc nói:

– Tổ nước Tấn là Thúc Ngu, là em vua Thành vương, tổ nước Ngô là Thái Hà, là bá tổ vua Vũ vương, tôn ti cách nhau mấy từng; huống chi Tấn dẫu làm chủ minh, mà khi hội ở Tống, ở Quắc, đều phải đứng dưới Sở, nay lại muốn đứng trên nước Ngô hay sao ?

Hai bên tranh nhau, mấy ngày không quyết. Bỗng có sứ giả của vương tử Địa sai đến, mật báo việc quân Việt đánh Ngô, giết thế tử Hữu, nay đang vây thành, sự thế rất nguy cấp. Phù Sai kinh sợ. Bá Hi rút gươm chém chết sứ giả. Phù Sai nói:

– Tại sao quan tướng quốc lại giết sứ giả ?

Bá Hi nói:

– Việc này hư thật chưa rõ, nếu để sứ giả tiết lộ ra thì Tề và Tấn tất thừa cơ sinh sự, đại vương tài nào mà về yên được.

Phù Sai nói:

– Quan tướng quốc nói phải lắm, nhưng Ngô và Tấn còn đang tranh trưởng chưa xong, nay lại có tin này, vậy ta nên bỏ về ngay, hay ở lại dự hội mà chịu cho Tấn làm trưởng ?

Vương tôn Lạc nói:

– Hai đàng đều không được cả. Ta bỏ không dự hội mà về ngay thì người ta biết ta có sự nguy cấp; nếu dự hội mà chịu cho Tấn làm trưởng thì rồi ta làm gì cũng tất phải vâng mệnh nước Tấn, vậy thì ta quyết phải tranh trưởng, mới khỏi lo ngại!

PHù Sai nói:

– Muốn tranh cho được thì làm thế nào ?

Vương Tôn Lạc mật tâu rằng:

– Nay việc đã nguy cấp lắm, xin đại vương nổi hiệu trống mà khiêu chiến, để làm cho người nước Tấn phải sợ.

Phù Sai khen phải, đêm hôm ấy sửa sang quân sĩ kéo sang chỗ quân Tấn đóng cách nhau chỉ có độ một dặm, rồi bày trận ở đấy. Vua Ngô tự tay cầm dùi đánh trống, một vạn cái trống ở trong quân đều đánh theo, tiếng chuông tiếng mõ đồng thời nổi lên inh ỏi. Quân Tân sợ hãi không biết vì cớ gì, mới sai quan đại phu là Đổng Cát sang hỏi. Phù Sai đáp rằng:

– Ta phụng mệnh thiên tử nhà Chu làm chủ minh các nước, nay vua Tấn trái mệnh tranh trưởng, để đến nỗi dùng dằng mãi không xong. Ta sợ sứ giả đi lại thêm phiền, vậy phải thân hành đến đây mà thương nghị. Nước Tấn theo hay không theo, ngày hôm nay phải quyết.

Đổng Cát về báo với Tấn Định công. Bấy giờ Lỗ Ai công và Vệ Xuất công cùng đều ngồi ở đấy. Đổng Cát nói riêng với Triệu Uởng rằng:

– tôi xem ý vua Ngô, ngoài miệng dẫu nói cứng, nhưng nét mặt buồn rầu tất là trong bụng có điều gì lo nghĩ lắm, hay là quân Việt đã sang đánh Ngô rồi! nếu ta không chịu cho hắn đứng tên trước thì tất hắn liều mà đánh ta, nhưng ta cũng không nên chịu nhường suông, phải bắt hắn bỏ vương hiệu đi mới được.

Triệu Uởng bèn tâu với Tấn Định công. Định công lại sai Đổng Cát sang nói với Phù Sai rằng:

– Đại vương phụng mệnh thiên tử nhà Chu hội chư hầu, chúa công tôi không dám trái, nhưng nước Ngô nguyên là tước bá mà lại tiếm hiệu xưng vương thì đối với thiên tử nhà Chu ra sao ? Đại vương nên bỏ vương hiệu đi mà xưng là Ngô công thì chúa công tôi xin vâng mệnh.

Phù Sai cho lời nói ấy là phải, liền tự xưng là Ngô công, rồi ra tiếp kiến các vua chư hầu. Ngô công thề trước, thứ đến nước Tấn, thứ nữa đến nước Lỗ và nước Vệ.

Phù Sai rút quân theo đường thuỷ về nước Ngô. Đi đến nửa đường, được luôn mấy tin nước nhà cáo cấp, quân sĩ nghe nói, ai cũng sợ hãi; vả lại đi xa mỏi mệt, nên chẳng ai nghĩ gì đến sự giao chiến. Quân Ngô giao chiến với quân Việt. Quân Ngô thua to. Phù Sai sợ lắm, bảo Bá Hi rằng:

– Quan tướng quốc nói vua Việt không bao giờ làm phản, cho nên ta nghe mà tha cho về nước. Sự thế ngày nay, quan tướng quốc phải sang xin hoà với Việt; nếu không thì thanh kiếm ta đưa cho Ngũ Viên ngày trước, ta lại đưa cho quan tướng quốc đó!

Bá Hi liền sang quân Việt, sụp lạy Câu Tiễn, xin tha tội cho nước Ngô, còn những lễ vật để khao thưởng quân sĩ, nước Ngô lại xin theo như nước Việt năm trước. Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng:

– Nước Ngô cũng chưa nên diệt, ta hãy cho hoà để đền ơn cho Bá Hi. Từ đây Ngô cũng không cường thịnh được nào!

Câu Tiễn cho nước Ngô giảng hoà, rồi rút quân về, đó là năm thứ 38 đời Chu Kính vương. Sang năm sau, Lỗ Ai công đi săn ở Cự Gia. Kẻ gia thần nhà Thúc Tôn Thị tên gọi Thư Thương bắt được một con thú, mình như mình con hoãng, đuôi như đuôi con trâu, đầu sừng lại có thịt, lấy làm quái mà giết chết, đem hỏi Khổng Tử. Khổng Tử xem, rồi nói rằng:

– Đây là con lân! xem sừng nó hãy còn cái dải, biết rằng đó là của Nhan Mẫu ngày xưa buộc vào. Than ôi! thế này thì đạo ta cùng mất rồi!

Khổng Tử liền sai học trò đem chôn. Bấy giờ Khổng tử mới đem bộ sử nước Lỗ, từ năm đầu Lỗ Ẩn công đến năm Lỗ Ai công bắt được con lân, công 242 năm, chép thành một quyển gọi là kinh Xuân Thu, để hợp với Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc, cả thảy là sáu kinh.

Năm ấy quan hữu tướng nước Tề và Trần Hằng biết nước Ngô bị quân Việt đánh thua, không lo gì đến cường địch ở mặt ngoài nữa, còn mặt trong thì chỉ ngại có Hám Chỉ. Tề Giản công sợ hãi bỏ chạy. Trần Hằng đuổi theo mà giết, lại giết hết cả bè phái họ Hám, rồi lập em Tề Giản công là Vụ Lâu làm vua, tức là Tề Bình công. Khổng Tử nghe tin Trần Hằng giết Tề Giản công, vào tâu với Lỗ Ai công, xin đem quân đi đánh. Lỗ Ai công bảo Khổng Tử nói với ba nhà Mạnh, Thúc, Qúi, Khổng Tử than rằng:

– Tôi chỉ biết có vua Lỗ, chứ không biết ba nhà là ai!

Trần Hằng cũng sợ chư hầu đem quân dến đánh, bao nhiêu những đất chiếm được của Lỗ, Vệ đều trả lại cả, phía bắc kết giao với bốn quan khanh nước Tần, phía nam kết giao với Ngô và Việt. Lại theo lối Trần Vô Vũ khi trước, đem tiền thóc cấp phát cho những kẻ nghèo khổ, người trong nước ai cũng bằng lòng. Trần Hằng lập mưu trừ dần phái Bão, Án, Cao, Quốc và các công tộc, chiếm lấy quá nửa nước Tề làm phong ấp của mình. Lại tuyển con gái trong nước từ bảy thước trở lên, để ở hậu phòng cả thảy đến trăm người tha hồ cho tân khách ra vào, không cấm đoán gì cả. Trần Hằng sinh được con trai hơn bảy mươi người, muốn dùng kế ấy để làm cho bọn Trần chóng cường thịnh. Sau các quan đại phu và ấp tể ở nước Tề đều là họ Trần cả.

Lại nói chuyện thế từ Khoái Qúi nước Vệ ở Thích Ấp, con là Vệ Xuất công (Triếp) đem người trong nước ra để chống cử với Khoái Qúi. Quan đại phu là Cao Sài can ngăn. Khóai Quí không nghe. Chị gái Khoái Qúi lấy quan đại phu là Khổng Ngũ sinh được người con tên gọi Khổng Khôi, lại nối chức làm đại phu, cầm quyền chính nước Vệ. Gia thần họ Khổng là Hồn Lương Phu tư thông với nàng Khổng Cơ (tức là chị gái Khoái Qúi). Nàng Khổng Cơ sai Hồn Lương Phu đi sang Thích ấp hỏi thăm em là Khóai Qúi.

Khóai Qúi cầm tay mà bảo rằng:

– Nhà ngươi làm thế nào mà giúp cho ta về nước làm vua thì ta cho nhà ngươi được đội mũ miện và đi xe hiên, dẫu có tội đáng chết, cũng tha cho ba lần.

Hồn Lương Phu về, nói với nàng Khổng Cơ. Nàng Khổng Cơ sai Hồn Lương Phu ăn mặc giả đàn bà sang đón Khóai Qúi về. Đang đêm khuya, Hồn Lương Phu và Khóai Qúi cùng ăn mặc đàn bà, kẻ dũng sĩ là Thạch Khất và Mạnh Áp làm nguời dong xe, cùng ngồi xe kín, giả là tỳ thiếp, lẻn vào trong thành, nấp ở nhà nàng Khổng Cơ. Khổng Cơ nói:

– Công việc nước nhà đều ở tay con ta cả, nay con ta đang uống rượu ở trong cung, ta nên đón nó lúc về mà bắt phải làm thì mới thành sự được.

Khổng Cơ bảo Thạch Khất, Mạnh Áp và Hồn Lương Phu đều mặc giáp đeo gươm để đợi, còn Khoái Qúi thì phục ở trên đài. Được một lúc, Khổng Khôi ở trong cung say rượu trở về.

Khổng Cơ gọi mà bảo rằng:

– Trong họ cha mẹ thì ai là thân hơn cả ?

Khổng Khôi nói:

– Họ về bên cha thì có bác chú, họ về bên mẹ thì có cậu mà thôi.

Khổng Cơ nói:

– Con đã biết cậu là người rất thân của mẹ thì sao con lại không giúp cho Khoái Qúi ?

Khổng Khôi nói:

– Tiền quân khi xưa bỏ con lập cháu, vậy nên con không dám trái mệnh.

Khổng Khôi đứng ngay dậy, bỏ đi ra nhà xí. Khổng Cơ sai Thạch Khất và Mạnh Áp đứng chờ ở ngoài nhà xí, đợi khi Khổng Khôi ra thì nắm lấy áo mà bảo rằng:

– Thế tử cho chúng tôi đến triệu ngài.

Chúng kéo Khổng Khôi lên trên đài, để yết kiến Khoái Qúi. Khổng Cơ đã đứng sẵn ở bên cạnh, quát to lên rằng:

– Khổng Khôi! sao con không lạy thế tử đi ?

Khổng Khôi bất đắc dĩ phải sụp lạy. Khổng Cơ nói:

– Ngày nay con có chịu theo cậu hay không ?

Khổng Khôi nói:

– Xin vâng mệnh!

Khổng Cơ liền giết một con lợn đực để lấy máu, bảo Khóai Qúi và Khổng Khôi ăn thề với nhau.

Khổng Cơ bảo Thạch Khất và Mạnh Áp giữ Khổng Khôi ở trên đài, rồi sai Hồn Lương Phu đem gia giáp của Khổng Khôi vào đánh Vệ Xuất công. Vệ Xuất công đang say rượu, sắp đi nghỉ, nghe nói có loạn, sai nội thị đi triệu Khổng Khôi. Nội thị nói:

– Chính Khổng Khôi nổi lọan!

Vệ Xuất công kinh sợ, tức khắc lấy hết các đồ bảo khí trốn sang nước Lỗ. Các quan trong triều ai không muốn theo Khoái Qúi đều bỏ trốn cả. Trọng Do là gia thần Khổng Khôi, bấy giờ đang ở ngoài thành, nghe tin Khổng Khôi bị hiếp, toan vào thành để cứu, gặp quan đại phu là Cao Sài ở trong thành ra, bảo Trọng Do rằng:

– Cửa thành đóng rồi. Quyền chính không ở tay nhà ngươi thì lúc họan nạn, can gì mà nhà ngươi dự đến.

Trọng Do nói:

– ta đã ăn lộc của Khổng Khôi, không dám đứng trông.

Vừa bấy giờ có người ở trong thành đi ra, Trọng Do nhân khi cửa ngỏ, liền vào trong thành, đi thẳng đến dưới đài, gọi to lên rằng:

– Trọng Do ở đây, quan đại phu họ Khổng cứ xuống!

Khổng Khôi không dám thưa. Trọng Do toan đốt đài. Khoái Qúi sợ, sai Thạch Khất và Mạnh Áp cầm giáo xuống đài để đánh nhau với Trọng Do. Trọng Do cầm kiếm để đối địch. Hai ngọn kích của Thạnch Khất và Mạnh Áp cùng xúm lại đâm Trọng Do đứt cái dải mũ. Trọng Do bị thương nặng, lúc sắp chết nói:

– Cứ theo trong lễ thì người quân tử dẫu chết cũng không chịu bỏ mũ!

Trọng Do nói xong, còn buộc dải mũ lại, rồi mới chết. Khổng Khôi lập Khóai Qúi lên nối ngôi, tức là Vệ Trang công. Vệ Trang công lập người con thứ là Tật làm thế tử, cho Hồn Lương Phu làm quan khanh.

Bấy giờ Khổng Tử ở nước Việt nghe tin Khóai Qúi nổi loạn, bảo học trò rằng:

– Có việc loạn này thì Cao Sài sắp về đây mà Trọng Do thì tất chết mất!

Học trò hỏi:

– Tai sao mà thầy biết ?

Khổng Tử nói:

– Cao Sài biết theo đại nghĩa thì tất toàn thân được, còn Trọng Do hiếu dũng mà khinh sinh, tài nào khỏi chết đuợc!

Nói chưa dứt lời thì quả nhiên thấy Cao Sài chạy về. Thầy trò trông thấy nhau, nửa bi ai nửa mừng rỡ. Bỗng có sứ giả nước Vệ đến, nói với Khổng Tử rằng:

– Chúa công tôi mới lập, mến tiếng phu tử, nhân có món ăn ngon này, sai tôi đem dâng.

Khổng Tử nhận lấy rồi mở ra xem thì thấy một lọ thịt ướp, liền sai đậy lại mà bảo sứ giả rằng:

– Đây là thịt ướp của học trò ta là Trọng Do, có phải không ?

Sứ giả kinh sợ mà nói rằng:

– Phải! nhưng tại sao phu tử lại biết ?

Khổng Tử nói:

– Nếu không phải vua Vệ thì khi nào lại ban cho thế này!

Khổng Tử sai học trò đem chôn, rồi khóc mà than rằng:

– Ta vẫn thường lo cho Trọng Do bất đắc kỳ tử, nay quả nhiên như thế.

Sứ giả cáo từ xin về. Chưa được bao lâu thì Khổng Tử cũg bị bệnh rồi mất. Năm ấy ngài bảy mươi ba tuổi. Bấy giờ là ngày kỷ sửu, tháng tư, mùa hạ, năm thứ 41 đời Chu Cảnh vương. Học trò đưa linh cữu ngài ra an táng tại Khúc Phụ, nấm mộ rộng những một khoảnh đất, các cây cối ở đấy, chim chóc không dám đến đậu. Các triều vẫn phong ngài là “đại thành chí thánh văn tuyên vương”, nay lại đổi làm “đại thành chí thánh tiên sư”. Thiên hạ đều lập văn miếu để thờ, mỗi năm hai lần cúng tế. Con cháu Khổng Tử nối đời được phong là Diễn Thánh công.

Lại nói chuyện Vệ Trang công (Khoái Qúi) nghi Khổng Khôi là vây cánh của Vệ Xuất Công (Triếp), mới cho Khổng Khôi uống rượu say rồi đuổi đi nước khác. Khổng Khôi chạy sang nước Tống. Vệ Trang công thấy kho tàng trống không cả, mới gọi Hồn Lương Phu vào mà thương nghị rằng:

– Nhà ngươi có kế gì lấy lại được các đồ bảo khí không ?

Hồn Lương Phu mật tâu rằng:

– Vong quân bây giờ cũng là con chúa công, sao chúa công không triệu về.

Chương 83: Diệp Công khởi binh đánh Vu Thắng – Câu Tiễn báo thù giết Phù Sai

Vệ Thành công thấy bao nhiêu bảo khí ở trong kho tàng đều bị Vệ Xuất công lấy đem đi cả, mới bàn mưu với Hồn Lương Phu. Hồn Lương Phu nói:

– Vong quân bây giờ cũng là con chúa công, sao chúa công không triệu về ? Hễ vong quân về thì lấy được các đồ bảo khí.

Có đứa tiểu nội thị nghe đượcc câu ấy, ra nói riêng với thế tử Tật. Thế tử Tật sai mấy người tráng sĩ đem một con lợn đực đi theo mà lẻn vào trong cung, hiếp Vệ Trang công phải uống máu ăn thề, cấm không được triệu vong quân về và bắt phải giết Hồn Lương Phu. Vệ Trang công nói:

– Việc không triệu Triếp về thì dễ lắm, còn Hồn Lương Phu thì khi trước ta có thề vớ hắn, tha cho ba tội chết, biết làm thế nào ?

Thế tử Tật nói:

– Vậy thì đợi khi hắn có bốn tội sẽ giết!

Vệ Trang công thụân cho. Chưa được bao lâu, Vệ Trang công nhân làm cái trướng da hổ, triệu các quan đại phu vào để ăn mừng. Hồn Lương Phu mặc áo tía, ngoài khoác áo lông chồn mà đến. Khi ngồi ăn lại không cởi bỏ thanh kiếm. Thế tử Tật sai lực sĩ lôi Hồn Lương Phu ra chém. Hồn Lương Phu nói:

– Tôi có tội gì đâu!

Thế tử Tật kể tội rằng:

– Bề tôi vào yết kiến vua, phải có y phục nhất định; khi ăn phải cởi bỏ kiếm. Thế mà nhà ngươi dám mặc áo tía, đó là một tội; dám khóac áo lông chồn, đó là hai tội; không cởi bỏ kiếm, đó là ba tội!

Hồn Lương Phu kêu rằng:

– Chúa công đã có ước với tôi tha cho ba tội chết!

Thế tử Tật nói:

– Vong quân là con mà chống cự với cha, thế là đại nghịch, bất hiếu, sao nhà ngươi muốn triệu về, có phải là bốn tội đó không ?

Hồn Lương Phu không trả lời được nữa cúi đầu chịu chết chém. Mấy hôm sau, Vệ Trang công nằm mộng thấy một con ma xõa tóc kêu rằng:

– Ta đây là Hồn Lương Phu, đã kêu với trời rằng ta không có tội!

Vệ Trang công sai Tư Di bói xem tốt xấu thế nào, Tư Di nói:

– Không hại chi cả!

Khi đã báo cáo từ lui ra, Tư Di nói chuyện với người khác rằng:

– Hồn oan đã báo thù như vậy là cái điềm thân chết nước loạn!

Tư Di liền bỏ trốn sang nước Tống. Vệ Trang công lên làm vua đã được hai năm, không sang triều cống nước Tấn. Quan thượng khanh nước Tấn là Triệu Uởng đem quân đánh Vệ. Nước Vệ đuổi Vệ Trag công. Vệ Trang công chạy sang nước Nhung, bị người nước Nhung giết chết, lại giết cả thế tử Tật.

Người nước Vệ lập công tử Ban Sư lên nối ngôi. Trần Hằng nước Tề đem quân cứu Vệ bắt Ban Sư, lập công tử Khởi (thứ đệ của Khóai Qúi). Quan đại phu nước Vệ là Thạch Phổ đuổi công tử Khởi, lại đón Vệ Xuất công về làm vua. Vệ Xuất công về, lại đuổi Thạch Phổ. Các quan đại phu không bằng lòng lại đuổi Vệ Xuất công. Vệ Xuất công chạy sang nước Việt. Người nước Vệ lập công tử Mạc cũng là thứ đệ của Vệ Xuất công, tức là Vệ Điệu công. Từ bấy giờ nước Vệ vẫn thần phục nước Tấn, thế nước mỗi ngày một suy yếu.

Lại nói chuyện Bạch công Thắng (công tử Thắng được phong là Bạch công, mới lấy Bạch làm họ) từ khi về nước Sở, nghĩ đén cái thù người nước Trịnh giết cha, vẫn muốn báo lại, chỉ vì Ngũ Viên là ân nhân của Bạch công Thắng, mà Ngũ Viên khi trước đã cứu Trịnh, vả lại Trịnh thần phục Sở Chiêu vương, cũng không có điều gì thất lễ, cho nên Bạch công Thắng nhịn không nói ra. Khi Sở Chiêu vương đã mất rồi, quan lệnh doãn là công tử Thân và quan tư mã là công tử Kết lập con nàng Việt nữ là Chương lên nối ngôi, tức là Sở Huệ vương, Bạch công Thắng tự nghĩ mình là con thế tử Kiến trước, tất thế nào công tử Thân cũng phải triệu mình đến để cùng cầm quyền chính nước Sở, nhưng không thấy công tử Thân triệu, lại không thấy phong thêm tước lộc, thì trong lòng tức giận, đến khi nghe tin Ngũ Viên chết, liền nói:

– Bây giờ tức là lúc ta nên báo thù nước Trịnh!

Bạch công Thắng sai người xin với công tử Thân rằng:

– Nước Trịnh hại cha tôi khi xưa, quan lệnh doãn đã có biết. nếu tôi không báo thù thì còn làm người sao được! quan lệnh doãn thương đến cha tôi là người vô tội thì xin cho một toán quân sang kể tội mà đánh nước Trịnh, tôi xin làm tiền phu, dầu chết cũng không hối hận.

Công tử Thân từ chối rằng:

– Nay tân vương mới lập, trong nước chưa yên, nhà ngươi hãy thư thả.

Bạch công Thắng mượn việc phòng bị nước Ngô, sai kẻ gia thần là Thạch Khất đắp một cái thành và luyện tập quân sĩ. Lại nói với công tử Thân xi đem quân bản bộ của mình đi dánh Trịnh. Công tử Thân thuận cho. Bạch công Thắng chưa kịp đem quân đi thì Triệu Uởng nước Tấn đã đem quân đánh Trịnh. Nước Trịnh sang cầu cứu với nước Sở. Công tử Thân lại đem quân cứu Trịnh. Nước Tấn rút quân về. Công tử Thân cùng với nước Trịnh ăn thề, rồi cùng rút quân. Bạch công Thắng giận lắm, nói:

– Không đánh Trịnh mà lại cứu Trịnh, thế là quan lệnh doãn định lừa ta! ta phải giết quan lệnh doãn trước, rồi sau sẽ đánh Trịnh.

Bạch công Thắng cho triệu một người trong họ là Bạch Thiện ở đất Lê Phong.

Bạch Thiệu nói:

– Theo nhà ngươi mà làm loạn nước thì là bất trung với vua; bội nhà ngươi mà bỏ tình riêng thì là bất nhân với người trong họ.

Nghĩ như vậy, Bạch Thiện bỏ chức quan về làm vườn ruộng, cho đến khi chết. Người nước Sở gọi tên cái vườn của Bạch Thiện ở là “Bạch Thiện tướng quân được pho”. Bạch công Thắng nghe tin Bạch Thiện không đến, nổi giận mà nói rằng:

– Không có Bạch Thiện thì dễ thường ta không giết nổi lệnh doãn hay sao!

Bạch công Thắng nói xong, liền gọi Thạch Khất đến mà bảo rằng:

– Đánh quan lệnh doãn và quan tư mã, dùng độ năm trăm quân mỗi người có nổi không ?

Thạch Khất nói:

– Chưa đủ! ở Thị Nam có kẻ dũng sĩ tên gọi Hùng Nghi Liêu, nếu được người ấy thì khỏe bằng năm trăm người.

Bạch công Thắng liền cùng với Thạch Khất đi sang Thị Nam vào yết kiến Hùng Nghi Liêu.

Hùng Nghi Liêu kinh sợ mà nói rằng:

– Vương tôn là bậc qúi nhân, chẳng hay tới đây có việc gì ?

Bạch công Thắng nói:

– Ta có một việc, muốn bàn với nhà ngươi

Nói xong, liền bảo cho biết việc định giết công tử Thân. Hùng Nghi Liêu lắc đầu mà nói rằng:

– Quan lệnh doãn có công với nước mà không thù gì với tôi cả, tôi không dám làm việc ấy.

Bạch công Thắng nổi giận, tuốt gươm trỏ vào Hùng Nghi Liêu mà bảo rằng:

– Nếu nhà ngươi không theo thì ta giết nhà ngươi trước!

Hùng Nghi Liêu vẫn cứ điềm nhiên, thong dong mà bảo rằng:

– Ngài định giết tôi, khác nào như giết con kiến, can gì phải nổi giận!

Bạch công Thắng vứt thanh kiếm xuống đất mà khen rằng:

– Nhà ngươi thật là dũng sĩ, ta thử đó mà thôi!

Bạch công Thắng mời Hùng Nghi Liêu lên xe rồi đem về, lấy lễ thượng tân mà đãi. Hùng Nghi Liêu cảm khích, mới bằng lòng theo Bạch công Thắng. Khi vua Ngô là Phù Sai hội chư hầu ở Hòang Trì, nước Sở sợ nước Ngô mạnh, truyền cho biên giới phải phòng giữ nghiêm mật. Bạch công Thắng nói thác là quân Ngô định lẻn đánh nước Sở, rồi lại đem quân cướp bờ cõi nước Ngô, có lấy được ít đồ khí giới, liền khoe khoang mà nói dối thắng to lắm, xin đem những đồ khí giới bắt được, thân hành về dâng vua Sở, để dương uy cho nước Sở. Công tử Thân không biết là kế, tức thì thuận cho. Bạch công Thắng đem binh khí và áo giáp của mình, đóng làm hơn một trăm xe, nói là đồ lấy được của quân Ngô, sai một nghìn tráng sĩ đưa về triều để dâng nộp.

Sở Huệ vương đang ngồi ở trên điện. Công tử Thân và công tử Kết đứng hầu hai bên. Bạch công Thắng vào yết kiến. Sở Huệ vương trông thấy ở thềm có hai viên tướng quân mình mặc áo giáp, mới hỏi là ai. Bạch công Thắng nói:

– Đó là hai viên bộ hạ của tôi, tên gọi là Thạch Khất và Hùng Nghi Liêu, có công đánh Ngô đó!

Nói xong, liền giơ tay vẫy hai người. Hai người toan bước lên thềm, công tử Kết mắng rằng:

– Đại vương ra đang ngự trên điện, biên thần chỉ cho lạy ở dưới thềm, không được phép lên.

Thạch Khất và Hùng Nghi Liêu cứ rảo bước mà tiến lên. Công tử Kết sai thị vệ ngăn lại. Hùng Nghi Liêu gạt mạnh một cái, các thị vệ ngã lăn cả, rồi hai người cứ việc tiến. Thạch Khất rút gươm đánh công tử Thân. Hùng Nghi Liêu rút gươm đánh công tử Kết. Bạch công Thắng quát to lên mà bảo tráng sĩ rằng:

– Sao các ngươi không tiến cả lên ?

Một nghìn tráng sĩ đều cầm binh khí tiến vào. Bạch công Thắng giữ chặt lấy Sở vương, không cho cựa cạy. Thạch Khất trói công tử Thân lại. Triều thần sợ khiếp đảm. Chỉ có công tử Kết vốn là người có dũng lực, rút ngay được chiếc kích ở trên điện, giao chiến với Hùng Nghi Liêu. Hùng Nghi Liêu bỏ thanh gươm xuống, rồi cướp lấy chiếc kích của công tử Kết. Công tử Kết nhặt lấy thanh gươm rồi chém vào vai bên tả Hùng Nghi Liêu. Hùng Nghi Liêu cũng đâm trúng vào bụng công tử Kết. Hai người hăng quá, cùng chết ở nơi điện đình. Công tử Thân bảo Bạch công Thắng rằng:

– Mày sang ăn nhờ nước Ngô, ta nghĩ tình cốt nhục, triệu mày về nước, phong làm tước công, nào ta có phụ bạc gì với mày mà mày làm phản ?

Bạch công Thắng nói:

– Nước Trịnh giết cha ta. Mày cùng nước Trịnh giảng hoà thì mày tức là nước Trịnh. Ta vì cha ta báo thù, chứ ta có nghĩ gì đến tình riêng!

Công tử Thắng than rằng:

– Tiếc thay! ta không nghe lời Thẩm Chư Lương ngày trước.

Bạch công Thắng chém đầu công tử Thân, rồi phơi thây ở trong triều. Thạch Khất nói:

– Nếu không giết vua đi thì việc không xong được.

Bạch công Thắng nói:

– Đứa nhụ tử ấy không có tội gì, thôi thì bỏ đi là xong.

Bạch công Thắng truyền giam Sở vương ở Cao Phủ, và muốn lập vương tử Khải (con Sở Bình vương) lên làm vua. Vương tử Khải cố ý xin từ chối. Bạch công Thắng giết chết. Thạch Khất lại khuyên Bạch công Thắng lên làm vua. Bạch công Thắng nói:

– Các huyện công còn nhiề, ta nên triệu cả đến

Bạch công Thắng đóng quân ở nhà thái miếu. Quan đại phu là Quản Tu (dòng dõi Quản Trọng, trốn sang nước Sở) đem quân đánh Bạch công Thắng. Đánh nhau trong ba ngày, quân Quản Tu thua, Quản Tu bị giết. Ngũ Công Dương mật sai người đào chân tường Cao Phủ làm một cái huyệt nhỏ, đang đêm lẻn vào, đem Sở Huệ vương ra, trốn ở trong cung Sở Chiêu vương phu nhân (tức là Việt nữ). Diệp công là Thẩm Chư Lương nghe tin, đem quân đất Diệp về Sở. Mới về đến ngoài cõi, đã thấy dân nước Sở kéo nhau ra đón. Ai trông thấy Diệp công chưa đội mũ trụ, mặc áo giáp, đều ngạc nhiên mà nói rằng:

– Sao ngài không đội mũ trụ ? người trong nước mong ngài đến, khác nào như con đỏ mong cha mẹ, vạn nhất mà mũi tên của quân giặc phạm tới ngài, thì chẳng hóa phụ lòng người trong nước lắm sao!

Diệp công liền mặc áo giáp, đội mũ trụ mà đi. Đến gần đô thành, lại gặp một toán dân chúng ra đón, trông thấy Diệp công đội mũ trụ, lại ngạc nhiên mà nói rằng:

– Sao ngài lại đội mũ trụ ? người trong nước mong ngài đến, khác nào như năm mất mùa mà mong thóc gạo, được trông thấy mặt ngài thì mừng như sống lại. Dầu kẻ già, người trẻ, ai cũng liều chết mà giúp ngài. Cớ sao ngài lại đội mũ trụ để che kín mặt đi, khiến cho người ta có bụng hồ nghi mà không cố sức!

Diệp công liền bỏ mũ trụ đi. Biết lòng dân về với mình. Diệp công cắm cờ đại bái trên xe. Châm Doãn Cố thấy Bạch công Thắng cho người triệu mình, toan đem tư thuộc vào thành, sau trông thấy lá cờ đại bái có đề chữ “Diệp”, liền theo Diệp công. Người nước Sở trông thấy Diệp công đến, mở toang cửa thành ra để đón. Diệp công đem quân đánh Bạch công Thắng ở nhà thái miếu. Thạch Khất bị thua, vực Bạch công Thắng lên xe, rồi trốn sang Long Sơn, định chạy sang nước khác. Diệp công đem quân đuổi theo. Bạch công Thắng thắt cổ mà chết. Thạch Khất đem chôn ở phía sau núi. Diệp công đem quân đến, bắt sống được Thạch Khất, hỏi rằng:

– Bạch công Thắng ở đâu ?

Thạch Khất nói:

– Đã tự tử rồi!

Diệp công lại hỏi:

– Xác chôn ở đâu ?

Thạch Khất nhất định không chịu nói ra. Diệp công truyền đem một cái vạc nước đun sôi để ở trước mặt Thạch Khất mà bảo rằng:

– Nếu nhà ngươi không chịu nói ta sẽ bỏ vào vạc.

Thạch Khất cởi ngay áo ra rồi cười mà bảo rằng:

– Việc thành thì được làm quan to, việc chẳng thành thì sẽ bị bỏ vạc, đó là lẽ thường! khi nào ta lại chịu bán cái xác người chết để cầu thóat nạn!

Thạch Khất nói xong, liền nhảy vào trong vạc, thân thể nát nhừ, thành ra Diệp công không thể tìm ra xác Bạch công Thắng. Diệp công lại đón Sở Huệ vương về làm vua. Bấy giờ nước Trần nhân thấy nước Sở mất mùa, đem quân sang lấn cõi. Diệp công tâu với Sở Huệ vương rồi đem quân diệt nước Trần. Diệp công lại cho con công tử Thân là Ninh nối chức lệnh doãn, cho con công tử Kết là Khoan nối chức tư mã còn mình thì cáo về đất Diệp. Nước Sở đã nguy mà từ đó lại được yên, bấy giờ là năm thứ 42 đời Chu Kính vương.

Năm ấy, vua Việt là Câu Tiễn cho người do thám, biết Phù Sai từ khi quân Ngô lui rồi, chỉ say mê tửu sắc, chẳng thiết gì đến triều chính, vả lại mấy năm mất mùa luôn, lòng dân ta oán, Câu Tiễn liền cử đại binh sang đánh Ngô. Quân Việt vừa ra đến cõi, Câu Tiễn trông thấy ở trên đường cái có một con ễnh ương lớn trợn mắt phình bụng, ra ý tức giận, Câu Tiễn đang ngồi xe, vịn vào cái ngáng xe mà đứng dậy để tỏ lòng kính.

Mọi người chung quanh đều hỏi:

– Đại vương thấy gì mà kính như vậy ?

Câu Tiễn nói:

– Ta trông thấy con ễnh ương tức giận, khác nào như quân sĩ đang hăng trong khi đánh giặc, cho nên ta kính.

Quân sĩ đều bảo nhau rằng;

– Con ễnh ương tức giận mà đại vương còn có lòng kính. Chúng ta cố công luyện tập trong mấy năm nay lại không bằng con ễnh ương hay sao ?

Bấy giờ quân sĩ đều khuyên bảo nhau, liều chết để đánh giặc. Người trong nước tiễn đưa con em đi tòng chinh, đều khóc mà từ giã rằng:

– Chuyến này đi mà không diệt được Ngô thì chớ về nước mà gặp nhau nữa.

Câu Tiễn lại hạ lệnh cho các quân sĩ rằng:

– Ai mà hai cha con cùng ở lính thì cho cha về; hai anh em cùng ở lính thì cho anh về; có cha mẹ mà không anh em thì cho về để nuôi cha me; có tật bệnh không thể đi lính được thì cũng chu cấp thuốc men lương thực cho.

Quân sĩ cảm ơn ấy, đều reo hò mừng rỡ. Khi đi đến bờ sông, chém kẻ có tội, để giữ quân pháp, hành quân rất là nghiêm túc. Vua Ngô là Phù Sai nghe tin quân Việt lại đến, cũng đem hết quân ra bờ sông để đối địch. Quân Việt đóng đồn ở bờ sông phía nam, quân Ngô đóng đồn ở bờ sông phía bắc. Câu Tiễn chia quân ra làm hai đạo: Phạm Lãi coi hữu quân. Văn Chủng coi tả quân. Đội “quân tử” sáu nghìn người theo Câu Tiễn đi giữa. Hai bên định đến sáng hôm sau thì cùng nhau giao chiến ở giữa dòng sông. Tối hôm trước, Câu Tiễn truyền cho trung quân im lặng theo dòng sông mà lên trước năm dặm để đợi quân Ngô, dặn đến nửa đêm thì nổi hiệu trống mà tiến. Lại truyền cho hữu quân im lặng theo dòng sông lên trước mười dặm đợi khi tả quân tiếp chiến thì đổ ra mà đánh, đều dùng trống lớn để vang động khắp gần xa.

Đến nửa đêm quân Ngô bỗng nghe tiếng trống rầm trời, biết là quân Việt đến đánh lén, vội vàng đốt đuốc lên soi, chưa trông rõ gì cả; lại nghe có tiếng trống ở phía xa nổi lên, quân Việt hai mặt vây kín quân Ngô lại. Phù Sai kinh sợ, vội vàng chia quân ra để đối địch, chẳng ngờ Câu Tiễn đem sáu nghìn quân, nhân khi trời tối, lẻn vào trong trận quân Ngô. Bấy giờ trời mới sáng, quân Ngô trông tháy trước sau tả hữu chỗ nào cũng là quân Việt, biết mình không thể địch nổi, vội vàng bỏ chạy. Câu Tiễn đem quân đuổi theo. Đến đất Lập Trạch, thì đuổi kịp lại đánh nhau một trận nữa. Quân Ngô lại thua. Quân Ngô đánh luôn ba trận, đều thua cả ba. Tướng nước Ngô là bọn Tào Cô và Tư Môn Sào đều chết trận cả. Phù Sai chạy thẳng về đô thành, đóng chặt cửa lại. Câu Tiễn theo con đường Hoàng Sơn để tiến quân, lại đắp một cái thành ở ngoài cửa Tư Môn, gọi là Việt thành, muốn để làm cho nước Ngô phải khốn quẫn.

Câu Tiễn vây Ngô lâu ngày, người nước Ngô khốn quẫn quá. Bá Hi cáo ốm không dám ra. Phù Sai bèn sai Vương Tôn Lạc trần vai áo, kéo lết đầu gối mà tiến sang tâu với Câu Tiễn rằng:

– Kẻ bề tôi cô độc là Phù Sai ngày trước đắc tội ở Cối Kê, nhưng không dám trái mệnh, được cùng với đại vương giảng hoà; nay đại vương cất quân sang đánh cô thần, kẻ bề tôi cô độc cũng mong đại vương nghĩ đến việc Cối Kê trước mà xá tội cho.

Câu Tiễn có ý không nỡ, đã toan cho hoà. Phạm Lãi nói rằng:

– Đại vương ngày đêm lo nghĩ, mưu tín trong hai mươi năm, nay sắp thành công mà lại bỏ đi là nghĩa làm sao ?

Câu Tiễn bèn không cho hoà. Sứ giả nước Ngô đi lại bảy lượt mà Văn Chủng và Phạm Lãi nhất định không nghe, lại nổi hiệu trống đánh thành. Người nước Ngô không còn sức mà đánh nữa. Phạm Lãi và Văn Chủng bàn nhau muốn phá cửa Tư Môn mà vào. Đêm hôm ấy, mọi ngừơi bỗng thấy trên cửa thành có treo cái đầu Ngũ Viên, mặt to bằng bánh xe, mắt sáng như chớ, râu và tóc đứng dựng cả lên, sáng rực trong mười dặm. Tướng sĩ nước Việt, ai cũng sợ hãi, phải tạm đóng quân lại. Đến nửa đêm hôm ấy, bỗng có mưa to gió lớn, sấm ran chớp giật, đá bay cát múa, nhanh hơn tên nỏ. Quân Việt gặp phải chẳng chết thì cũng bị thương, dây chão đức hết, thuyền không kết liền với nhau được. Phạm Lãi và Văn Chủng lo sợ, trong khi đang mưa, trần vai áo trông lên cửa thành sụp lạy mà tạ tội. Được một lúc thì gío mưa im lặng. Phạm Lãi và Văn Chủng đang ngồi ngủ gà để đợi trời sáng bỗng chiêm bao thấy Ngũ Viên ngồi trên một cái xe thắng con ngựa trắng đi đến, mũ áo chỉnh tề cũng như lúc sống, bảo Phạm Lãi và Văn Chủng rằng:

– Khi trước đã biết quân Việt thế nào cũng kéo đến, có xin treo đầu ta ở cửa đông, để được mắt nom thấy quân Việt vào, chẳng ngờ vua Ngô đem treo đầu ta ở cửa nam. Lòng trung của ta chưa tuyệt, không nỡ khiến cho bọn ngươi chui qua đầu ta mà vào, vậy mới nổi cơn mưa gió để làm cho quân Việt phải lui. Nhưng lòng trời đã định cho nước Việt chiếm lấy nước Ngô thì ta cũng không thể nào ngăn cấm được, bọn ngươi muốn vào thì đi theo phía cửa đông, ta sẽ mở đường cho.

Hai người cùng chiêm bao như nhau, liền nói với Câu Tiễn. Câu Tiễn sai người khai một cái kênh từ phía nam qua phía đông, khi khai đến cửa Xa Môn và cửa Tương Môn thì bỗn thấy nước ở Thái Hồ từ cửa Tư Môn chảy vào, làn sóng dữ dội, làm thành một cái vũng lớn, có nhiều giống cá chuyên, cá phù theo nước kéo vào. Phạm Lãi nói:

– Ấy là Ngũ Viên mở đường cho quân ta đi đó!

Phạm Lãi nói xong, tức khắc kéo quân vào thành. Phù Sai nghe tin quân Việt vào thành, Bá Hi đã xin hàng, liền cùng với Vương tôn Lạc và ba con chạy sang Dương Sơn, đi suốt ngày suốt đêm, bụng đói miệng khát, hai mắt hoa mờ. Các người chạy theo bức được mấy bắp ngô sống, đem bóc ra rồi dâng cho Phù Sai. Phù Sai ăn xong, ngồi xuống đất, lấy ta vốc nước ở dưới ngòi mà uống, lại hỏi:

– Mới rồi ta ăn thứ gì thế ?

Các nguời nói:

– Đó là ngô sống.

Phù Sai nói:

– Công tôn Thánh ngày trước bảo ta rồi phải chạy vất vả và không kịp nấu cơm ăn, chính là thế này.

Vương tôn Lạc nói:

– Ăn no rồi thì xin đi. Phía trước có một cái hang sâu, ta hãy tránh vào đấy.

Phù Sai nói:

– Mộng gở đã đúng thì sắp đến ngày chết, ta còn tránh làm gì nữa!

Nói xong, cứ ngồi ở Dương Sơn, bảo Vương tôn Lạc rằng:

– Ngày trước ta giết công tôn Thánh, ném ở trên đỉnh núi này, chẳng hay còn có thiêng hay không ?

Vương tôn Lạc nói:

– Đại vương thử gọi xem!

Phù Sai gọi to lên rằng:

– Công tôn Thánh!

Ba lần gọi mà đều nghe tiếng dội theo. Phù Sai kinh sợ, lại thiên sang ở Vu Toại. Câu Tiễn lại đem một nghìn quân đuổi theo, vây kín mấy dặm. Phù Sai viết một bức thư, buộc đầu mũi tên, bắn vào trong đám quân Việt. Quân Việt nhặt được, đệ trình Phạm Lãi và Văn Chủng. Phạm Lãi và Văn Chủng cùng mở ra xem. Thư rằng:

“Tôi nghe giống thỏ đã hết thì chó săn tất bị mổ; địch quốc đã diệt mưu thần cũng chẳng còn. Sao quan đại phu không giữ lại cho nước Ngô một sợi tơ mành, để làm chỗ thóat cho mình ?”

Văn Chủng cũng viết một bức thư buộc vào mũi tên mà đáp rằng:

– “Nước Ngô có sáu điều lỗi to: giết kẻ trung thần là Ngũ Viên, đó là một điều lỗi to, giết kẻ trung thần là công tôn Thánh, đó là hai điều lỗi to; quan thái tể Bá Hi là người sàm nịnh mà lại tin dùng, đó là ba điều lỗi to; Tề, Tấn vô tội mà đem quân sang đánh, đó là bốn điều lỗi to; Ngô, Việt cùng tiếp giáp nhau mà hay sang xâm nhiễu, đó là năm điều lỗi to; nước Việt giết tiên vương nước Ngô, mà nước Ngô không biết báo thù lại dung túng kẻ địch để gây nên tai vạ, đó là sáu điều lỗi to. Có sáu điều lỗi to ấy thì tài nào mà không mất nước! ngày xưa trời đem nước Việt cho Ngô, Ngô không chịu nhận; nay trời lại đem nước Ngô cho Việt, có đâu Việt lại dám trái mệnh trời!”

Phù Sai tiếp được thư, đọc đến điều lỗi thứ sáu, ứa nước mắt mà nói rằng:

– Ta quên kẻ thù của tiền vương mà không giết Câu Tiễn như thế là bất hiếu, vì vậy mà trời không tựa nước Ngô nữa!

Vương tôn Lạc nói:

– Tôi xin sang yết kiến vua Việt một lần nữa để cố kêu lại.

Phù Sai nói:

– Ta cũng không phục lại nước Ngô như cũ nữa! nếu vua Việt cho nước Ngô làm một nước phụ thuộc nhỏ để đời đời thần phục nước Việt thì ta cũng đành lòng.

Vương tôn Lạc sang đến quân Việt. Phạm Lãi và Văn Chủng không tiếp, CÂu Tiễn trông thấy sứ giả nước Ngô khóc lóc mà về, liền động lòn thương, sai người bảo Phù Sai rằng:

– Ta nghĩ cái tình nhà vua ngày trước xin để nhà vua ở đất Dũng Đông, cấp cho năm trăm nóc nhà để trọn đời nhà vua.

Phù Sai sụt sùi mà đáp rằng:

– Đại vương thương tình mà xá cho Ngô thì Ngô cũng tức là một nơi ngọai phụ của đại vương đó. Nếu phá xã tăc, bỏ tôn miếu thì tôi lấy năm trăm nóc nhà làm gì. Tôi nay già rồi, không thể theo sau hàng bách tính, chỉ còn chết mà thôi!

Sứ giả nước Việt về rồi, Phù Sai cũng vẫn chưa chịu tự tử.

Câu Tiễn bảo Phạm Lãi và Văn Chủng rằng:

– Sao hai ngươi không bắt Phù Sai mà giết đi cho rồi ?

Phạm Lãi và Văn Chủng nói:

– Phù Sai cũng là một ông vua, chúng tôi không dám giết, xin đại vương phụng mệnh trời mà làm, chớ nên để chậm.

Câu Tiễn liền chống thanh kiếm “Bộ quang” đứng ở trước quân, sai người bảo Phù Sai rằng:

– Ở đời, chẳng có ông vua nào sống mãi, rút cục cũng một chết là xong, việc gì phải đợi quân ta kề gươm lên cổ ?

Phù Sai thở dài mấy tiếng, ngảnh trông bốn phía khóc mà than rằng:

– Ta giết trung thần là Ngũ Viên và Công tôn Thánh, nay ta phải tự tử, cũng là muộn lắm rồi!

Phù Sai lại bảo các người chung quanh rằng:

– Giả sử chết mà có biết thì ta còn mặt mũi nào trông thấy Ngũ Viên và công tôn Thanh ở dưới suối vàng! âu là các ngươi lấy ba bức lụa mà phủ mặt cho ta!

Nói xong, rút gươm đâm cổ mà chết. Vương tôn Lạc cởi áo để phủ mặt cho Phù Sai rồi cũng lấy dây lưng thắt cổ ở bên cạnh. Câu Tiễn truyề theo lễ vua chư hầu, chôn Phù Sai ở Dương Sơn, lại sai quân sĩ mỗi người một sọt đất mà đắp vào, chỉ trong một lúc thành ra nấm mồ lớn. Còn ba con Phù Sai, thì đem đày ở núi Long Vi. Câu Tiễn vào thành Cô Tô, ngự ở cung vua Ngô, triều thần vào lạy mừng. Quan thái tể là Bá Hi cũng ở trong hàng ấy, cậy có cái ơn giúp đỡ Câu Tiễn ngày trước, ra vẻ đắc ý. Câu Tiễn bảo Bá Hi rằng:

– Nhà ngươi là quan thái tể nước Ngô, ta đây không dám xem nhà ngươi là bề tôi. Vua nhà ngươi ở Dương Sơn, sao nhà ngươi không đi theo ?

Bá Hi thẹn mà lui ra. Câu Tiễn sai lực sĩ bắt mà giết đi, lại giết cả gia tộc mà bảo rằng:

– Thế là ta báo thù cho Ngũ Viên đó!

Câu Tiễn phủ dụ dân Ngô đem quân qua sông Giang, sông Hoài cùng với Tề, Tấn, Tống, Lỗ và chư hầu hội ở Thư Châu (đất nước Tề), lại sai người đem lễ vật vào cống thiên tử nhà Chu. Bấy giờ Chu Kính vương đã mất, thái tử Nhân lên nối ngôi, tức là Chu Nguyên vương. Chu Nguyên vương đem cổn miệng, khuê bích, đồng cung, hồ thỉ ban cho Câu Tiễn, cho mệnh làm bá chủ ở phương Đông. Câu Tiễn vâng mệnh. Chư hầu đều sai sứ đến mừng.

Bấy giờ nước Sở đã diệt nước Trần, cũng sợ binh uy nước Việt, sai sứ đến mừng. Câu Tiễn cắt đất ở trên sông Hoài mà cấp cho nước Lỗ; những đất mà nước Ngô chiếm được của nước Tống khi trước, lại đem trả Tống, chư hầu đều mến phục, tôn Câu Tiễn làm bá chủ. Câu Tiễn về đến nước Ngô, sai người lập Hạ Đài ở đất Cối Kê, để rửa nhục bị thua khi trước; lại bày tiệc ở trên Văn đài nước Ngô cùng với các quan uống ruợu, sai nhạc công tấu khúc “phạt Ngô”. Nhạc công gảy đàn cầm mà hát rằng:

“Vua ta thần vũ chứa binh uy

Muốn trừ vô đạo, hỏi nhật kỳ.

Phạm Lãi, Văn Chủng liền tâu quì:

– Ngô giết trung thần Ngũ Tử Tư,

Nay chẳng đánh Ngô còn đợi chi ?

Mưu thần phụng mệnh ngay tức thì

Mở mang nghìn dặm một trận đi.

Sự nghiệp lừng lẫy nên nhớ ghi!

Thưởng phạt xứng đáng chẳng tiếc gì.

Vua tôi vui chén hổ mấy khi! “

Các quan trên đài, đều tươi cười cả, chỉ có Câu Tiễn nét mặt không được vui. Phạm Lãi thấy vậy, phàn nàn một mình rằng:

– Đại vương không muốn nói đến công kẻ thần hạ, thế là mối nghi kỵ đã trông thấy rồi!

Ngày hôm sau Phạm Lãi vào cáo từ với Câu Tiễn rằng:

– Tôi nghe vua bị nhục thì bề tôi nên chết. Khi trước đại vương bị nhục ở Cối Kê mà tôi không chết là định ẩn nhẫn để báo thù nước Ngô. Nay nước Ngô đã diệt rồi, xin đại vương gia ân cho cái thân già yếu này đuợc về nghỉ.

Câu Tiễn ứa nước mắt khóc, ướt đầm cả áo mà bảo rằng:

– Ta nhờ sức nhà ngươi mà được như thế này, đang nghĩ để đền công lại, cớ sao nhà ngươi lai nỡ bỏ ta mà đi ? nhà ngươi ở lại thì ta giao quyền chính cho, nếu đi thì vợ con nhà ngươi, ta sẽ giết hết.

Phạm Lãi nói:

– Giết tôi thì hơn, chứ vợ con tôi có tội gì! thôi thì sống chết cũng tuỳ ý đại vương, tôi chẳng nghĩ chi cả!

Đêm hôm ấy, Phạm Lãi đi một chiếc thuyền nhỏ, ra Tề Nữ môn, qua Tam Giang vào Ngũ Hồ. Ngày hôm sau, Câu Tiễn biến sắc mà bảo Văn Chủng rằng:

– Có thể đuỏi theo mà bắt Phạm Lãi lại được không ?

Văn Chủng nói:

– Mưu trí của Phạm Lãi, quỉ thần cũng khó lòng lường được, ta không nên đuổi theo.

Văn Chủng lui ra. Có người đưa cho Văn Chủng một bức thư, Văn Chủng mở ra xem, tức là bức thư của Phạm Lãi. Thư rằng:

“Vua Ngô có nói: giống thỏ đã hết thì chó săn tất bị mổ, địch quốc đã diệt thì mưu thần cũng chẳng còn”, ngài không nhớ hay sao ? vua Việt môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công. Cùng ở lúc họan nạn thì được, chứ cùng ở lúc an lạc thì không được, nếu ngài không đi, tất có tai vạ”.

Văn Chủng xem xong, muốn gọi hỏi người đưa thư thì người đưa thư đã đi đâu mất. Văn Chủng có vẻ âu sầu, nhưng vẫn chưa tin lời Phạm Lãi, liền phàn nàn rằng:

– Thiệu Bá (tên tự của Phạm Lãi) xử như thế cũng khí quá!

Mấy hôm sau, Câu Tiễn rút quân về Việt, đem cả Tây Thi về. Câu Tiễn phu nhân mật sai người bắt Tây Thi đem ra bờ sông, buộc viên đá lớn vào, rồi đẩy xuống sông mà bảo rằng:

– Nó là cái vật vong quốc, còn để làm gì!

Người sau không rõ chuyện ấy, ngoa truyền là Phạm Lãi đem Tây Thi đi Ngũ Hồ, mới có hai câu thơ rằng:

“Đem Tây Thi đi là có ý

Sợ còn nghiêng nước hại quân vương!”

Xét ra thì Phạm Lãi đi có một mình, đến vợ con cũng còn bỏ lại, huống chi là Tây Thi, lại có người nói Phạm Lãi mê Tây Thi, mới lập ra cái kế đem đẩy xuống sông, đó cũng là nói lầm. La Ôn có thơ minh oan cho Tây Thi rằng:

“Nước nhà còn mất bởi cơ trời

Sao cứ Tây Thi đổ lỗi hòài ?

Tây tử nếu làm Ngô mất nước

Thì xưa Việt mất bởi tay ai ?”

Câu Tiễn nghĩ cái công của Phạm Lãi, đem một trăm dặm đất phong cho vợ con Phạm Lãi. Lại sai thợ đúc một pho tượng Phạm Lãi bằng vàng để ở bên cạnh, trông giống Phạm Lãi như đúc. Phạm Lãi từ Ngũ Hồ đi ra bể, bỗng một hôm về đem cả vợ con đi, sang ở nước Tề, đổi tên là Chi Di Tử Bì, làm quan thượng khanh. Chưa được bao lâu lại từ chức về ẩn ở Đào Sơn, chăn nuôi các giống súc vật, sinh sản được lợi kể hàng nghìn nén vàng, tự xưng là Đào Chu công. Sách “Trí phú kỳ thư” tức là của Đào Chu công làm ra.

Câu Tiễn không ban thưởng cái công diệt Ngô, lại không chia cho các quan một thước đất nào cả, lại không muốn thân cận với công thần. Kế Nghê giả cách điên dại, rồi xin từ chức. Bọn Duệ Dung cũng nhiều người cáo lão. Văn Chủng nhớ lời nói của Phạm Lãi, cáo ôm không vào triều. Cận thần của Câu Tiễn, có kẻ không bằng lòng với Văn Chủng, liền nói dèm rằng:

– Văn Chủng tự nghĩ rằng công to mà thưởng ít, có ý oán vọng, vậy nên không vào triều.

Câu Tiễn vốn biết tài Văn Chủng, nhưng nghĩ thầm rằng Ngô đã diệt rồi, cũng chẳng cần đến tài của y nữa, chỉ sợ khi y làm loạn, chẳng ai trị nổi. Nhưng muốn trừ đi, lại không có cớ gì.

Bấy giờ Lỗ Ai công cùng ba nhà (Mạnh, Trọng, Qúi) có hiềm khích với nhau, muốn mượn quân nước Việt trừ bỏ ba nhà, mới giả cách sang chầu nước Việt để mượn quân. Câu Tiễn lo Văn Chủng làm phản, không dám phát binh. Lỗ Ai công chết tại nước Việt. Một hôm, Câu Tiễn đến thăm bệnh Văn Chủng. Văn Chủng làm ra đang ốm nặng, gượng dậy mà nghên tiếp. Câu Tiễn liền cỡi thanh kiếm ra mà ngồi, bảo Văn Chủng rằng:

– Ta nghe người chí sĩ không lo cái thân mình chết, mà lo cái đạo mình không hành được. Nhà ngươi có bảy thuật, ta mới thi hành có ba đã diệt được Ngô; còn thừa bốn thụât, nhà ngươi định dùng làm gì ?

Văn Chủng nói:

– Tôi cũng không biết dùng làm gì được.

Câu Tiễn nói:

– Hay nhà ngươi đem bốn thụât ấy mà mưu hộ cho tiền nhân nước Ngô ở dưới âm phủ, phỏng có nên chăng ?

Câu Tiễn nói xong, lên xe đi về, bỏ lại thanh kiếm ở chỗ ngồi. Văn Chủng cầm lấy xem thì trên vỏ kiếm có hai chữ “Chúc lâu” tức là thanh kiếm của Phù Sai đưa cho Ngũ Viên để tự tử khi trước. Văn Chủng ngửa mặt lên trời mà than rằng:

– Cổ nhân có câu “ơn to không báo”. Ta không nghe lời Thiếu Bá đến nỗi bị giết, chẳng cũng ngu lắm ru!

Văn Chủng lại cười mà nói rằng:

– Các nhà bình luận đời sau tất đem ta sánh với Ngũ Viên, thế thì ta còn oán hận gì nữa!

Văn Chủng nói xong, liền cầm kiếm tự tử. Câu Tiễn nghe tin Văn Chung chết, mừng lắm, đem ra chôn ở Ngoạ Long Sơn. Sau người ta gọi núi ấy là Chủng sơn. Chôn chưa được một năm thì nước biển dâng lên, xói núi, cuốn linh cữu xuống bể. Câu Tiễn làm vua được hai mươi bảy năm thì chết, tức là năm thứ 7 đời Chu Nguyên vương, con cháu nối đời xưng bá.

Lại nói chuyện sáu quan khanh nước Tấn, từ khi Phạm thị và Trung hàng thị mất đi rồi, chỉ còn có bốn quan khanh là Trí, Triệu, Hàn, Ngụy mà thôi. Trí thị cùng với Tuân thị và Phạm thị nguyên đầu là họ Tuân cả, vì muốn phân biệt, mới theo lối Trí Oánh, đổi là Trí thị. Bấy giờ Trí Dao cầm quyền chính gọi là Trí Bá. Bốn quan khanh nghe tin họ Điền giết vua chuyên quyền mà chư hầu không ai đánh, đều bàn nhau chiếm đất để làm phong ấp. Phần đất của Tấn Xuất công, lại ít không bằng phần của bốn quan khanh. Tựu trung hãy nói Triệu Giản tử tên là Ưởng, sinh được mấy người con: người con trưởng tên là Bá Lỗ, người con nhỏ nhất tên là Vô Tuất, là con một người thị tỳ. Có người thầy tướng tên gọi Cô Bố, tên tự là Tử Khanh, đi đến nước Tân. Triệu Ưởng sai gọi đến để xem tướng cho các con, Tử KHanh nói:

– Không ai đáng làm tướng quân!

Triệu Ưởng than rầng:

– Nếu vậy thì họ Trịnh ta suy mất!

Tử Khanh nói:

– Lúc tôi đến đây, có gặp một chàng trẻ tuổi đi ở đường mà kẻ theo hầu đều là người trong phủ ngài, ý chừng cậu ấy là con ngài, phải không ?

Triệu Ưởng nói:

– Đấy là đứa con nhỏ của ta, tên gọi Vô Tuất, là con một thị tỳ, không đáng kể đến.

Tử Khanh nói:

– Trời có lòng bỏ thì dẫu qúi cũng hóa tiện, trời có lòng tựa thì dẫu tiện cũng hóa qúi. Cậu ấy có tốt tướng khác với các công tử. Tôi chưa được xem rõ, ngài nên cho gọi đến.

Triệu Uởng sai người gọi Vô Tuất đến. Tử Khanh trông thấy vội vàng đứng dậy vái chào mà nói rằng:

– Thật là một vị tướng quân!

Triệu Uởng cười mà không nói gì cả. Hôm khác, Triệu Uởng lại gọi các con đến để hỏi xem học vấn ra sao. Vô Tuất hỏi đâu nói đấy, lời lẽ phân minh. Triệu Uởng biết là người giỏi, liền bỏ Bá Lỗ mà lập Vô Tuất làm đích tử. Một hôm, Trí Bá giận nước Trịnh không đến triều, muốn cùng Triệu Uởng đánh Trịnh. Gặp khi Triệu Uởng ốm, sai Vô Tuất đi thay. Trí Bá đem rượu đổ cho Vô Tuất uống. Vô Tuất không thể uống được. Trí Bá đang say nổi giận, cầm chém ruợu ném vào mặt Vô Tuất, bị thương chảy máu, tướng sĩ họ Triệu đều giận muốn đánh Trí Bá. Vô Tuất nói:

– Đó là một điều nhỏ, ta nên nhẫn nhục!

Khi Trí Bá rút quân về nước, lại nói là lỗi của Vô Tuất, muốn cho Triệu Uởng bỏ Vô Tuất, nhưng Triệu Uởng không theo. Từ bấy giờ Vô Tuất thành ra có hiềm khích với Trí Bá. Triệu Uởnng ốm nặng, bảo Vô Tuất rằng:

– Ngày khác nước Tấn có loạn, chỉ đất Tấn Dương có thể trông cậy đuợc, con nên nhớ lời.

Nói xong thì mất. Vô Tuất nối nghiệp Triệu Uởng tức là Triệu Tương Tử. Đó là năm thứ 11 đời Chu Định vương (tên là Giới, con Nguyên vương) Bấy giờ Tấn Xuất công giận bốn quan khanh chuyên quyền, mật sai người mượn quân Tề và quân Lỗ về đánh. Điền thị nước Tề cùng ba nhà nước Lỗ lại đem các mưu ấy bảo Trí Bá. Trí Bá giận lắm, cùng với Hàn Khanh tử là Hổ, Ngụy Hoàn Tử là Câu, Triệu Tương Tử là Vô Xuất hợp bốn nhà lại để đánh đuổi Tấn Xuất công. Tấn Xuất công chạy sang nước Tề. Trí bá lập cháu tằng tôn Tấn Chiêu công là Kiên lên nối ngôi, tức là Tấn Ai công. Từ bấy giờ quyền chính nước Tấn đều về tay Trí Bá. Trí Bá bèn có ý muốn chiếm nước Tấn, nên cho triệu các gia thần đến để thương nghị.