Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Bấy giờ lũ kia đổ xô vào trói Lâm Xung, rồi Cao Thái Úy thét quân lính dàn hàng, để đem Lâm Xung ra chém.
Lâm Xung kinh sợ kêu là oan uổng, thì Cao Thái Úy lại quát lên rằng:
– Oan gì? Ngươi tự tiện đi vào Bạch Hổ Đường có việc chi? Bây giờ trong tay vẫn cầm đao đấy, không phải là ngươi định hại ta hay sao?
– Bẩm Thái Úy không cho đòi, thì khi nào tôi dám vào? Hiện có hai tên dẫn tôi vào đây lúc nãy.
– Trong phủ ta có lính nào ta chả biết, ta sai đi hay không, ta lại không biết à? Tả hữu đâu? Hãy đem nó ra phủ Khai Phong, bảo quan Phủ tra xét việc này thế nào rồi sẽ xử quyết cho nó.
Nói xong sai một người thân mật lấy thanh đao của Lâm Xung phong vào cẩn thận, rồi giải ra phủ Khai Phong. Tên người nhà giải Lâm Xung và thanh đao ra phủ Khai Phong, lại đem lời Thái Úy bẩm cho quan Phủ biết.
Quan Phủ nghe nói liền hỏi Lâm Xung rằng:
– Lâm Xung làm chức Giáo Đầu, sao không biết pháp luật, mà cầm đao đi vào Bạch Hổ Đường như thế? Tội có đáng chết hay không?
Lâm Xung chấp tay kêu rằng:
– Xin ân tướng xét cho, việc này thực là oan ức, chúng tôi dốt nát thô lỗ, song cũng biết đôi chút pháp luật có đâu dám thiện tiện vào Bạch Hổ Đường như thế? Việc này chẳng qua vì một lẽ riêng, chúng tôi có thể đoán ra rằng, xin ân tướng xét kỹ cho.
– Vì lẽ chi ngươi cứ nói?
Lâm Xung bèn thuật đầu đuôi từ khi Cao Nha Nội gặp vợ mình ở Nhạc Miếu, cho đến khi lập kế ở nhà Ngu Hầu, lại đến lúc mua thanh đao, và hai tên lính gọi vào trong phủ Thái Úy, rồi vì sao mà đến thế này, nhất nhất phải kể cho Phủ Doãn nghe.
Phủ Doãn nghe xong, nhất diện viết công văn về trình Thái Úy, rồi nhất diện hãy cho gông cổ Lâm Xung, mà giam vào ngục.
Vì đâu nên nỗi nước này!
Anh hùng trái vận đắng cay chăng trời?
Bên kia bố vợ Lâm Xung là Trương Giáo Đầu, biết tin con rể mắc nạn liền kiếm tiền của đến nói với người tra án, để châm chước giúp cho. Người này họ Tôn tên Định, vốn tính hiếu thiện, xưa nay hay che chở giúp đỡ cho người, nhân thế người ta thường gọi là Tôn Phật Nhi.
Tôn Định biết đầu đuôi là Lâm Xung oan khuất, liền kêu với quan Phủ rằng:
– Việc này xét ra Lâm Xung thực là oan khuất, xin quan lớn che chở cho hắn thì hơn.
Quan Phủ lắc đầu mà phán rằng:
– Tội này là hắn làm ra, quan Thái Úy đã phê chấp vào tội “vô cố cầm đao tới Bạch Hổ Đường định sát hại quan trên” như thế, còn che chở sao được?
– Bẩm ngài, nếu vậy thì phủ Khai Phong đây, đã thuộc về nha tư của quan Thái Úy họ Cao, chứ không phải thuộc về triều đình nữa hay sao?
– Nói lạ!
– Xưa nay ai không biết rằng Cao Thái Úy đã ỷ quyền ỷ thế, làm lắm điều xằng, thế mà phủ Khai Phong lại hùa vào làm đảng nữa, thôi thì bảo giết là giết, bảo mổ là mổ, như vậy há không phải phủ nha riêng của Thái Úy sao?
– Đành vậy, nhưng việc này biết làm thế nào cho được?
– Cứ ý chúng tôi xem ra thì Lâm Xung vô tội, nhưng chỉ có một điều là bây giờ không bắt đâu được hai tên lính dẫn hắn vào Bạch Hổ Đường thì cũng hơi khó lòng một chút, vậy chỉ nên khép tội cho hắn là cầm đao đi lầm vào Bạch Hổ Đường, thì phạt 20 trượng, và bắt đi xung quân ở một nơi xa, thế là đủ rồi.
Phủ Doãn nghe nói có lẽ, liền đem việc ấy vào bẩm cho Cao Thái Úy biết. Cao Thái Úy nghe lời Tri Phủ nói, cũng biết là việc mình làm xằng hụt lý, và cũng hơi e lòng Tri Phủ, nên ưng lời mà phê phó ngay.
Hôm đó Tri Phủ trở về Phủ, cho đòi Lâm Xung lên tháo các đồ gông ra, đánh phạt 20 trượng, rồi gọi thợ thích chữ vào mặt, rồi lại gông vào cẩn thận, mà viết công văn trao cho hai tên công sai giải tù, sang đài ở Thương Châu. Hai tên công sai là Đổng Siêu và Tiết Bá, vâng lĩnh giấy má rồi đem Lâm Xung ra khỏi phủ Khai Phong. Bấy giờ hàng xóm láng giềng, cùng bố vợ Lâm Xung là Trương Giáo Đầu, cùng đến cửa phủ, để đón tiếp, rồi đưa cả nhau vào một cái hiệu ở bên cầu để nói chuyện.
Lâm Xung phàn nàn với Trương Giáo Đầu, rồi lại nói rằng:
– May nhờ Tôn Phật Nhi có lòng che chở giúp đỡ, cho nên đòn cũng đỡ đau, chứ không thì có lẽ không đi được nữa.
Trương Giáo Đầu nghe nói nửa cảm nửa thương, liền gọi tửu bảo lấy rượu ra đãi hai người giải tù cùng uống cho vui. Rượu được vài tuần, thì Trương Giáo đầu lấy ra mấy lạng bạc đưa cho tên công sai, rồi dặn dò để trông nom giúp đỡ.
Bấy giờ Lâm Xung đứng dậy chấp tay nói với trượng nhân rằng:
– Con chẳng may gặp ngày xung tháng hạn, bỗng dưng nên nổi nước này, vậy con có mấy lời tâm sự xin trượng nhân thương đến, từ khi vợ chồng con sum họp với nhau, đến nay đã được ba năm, tuy rằng trời chưa cho con một chút con nào, song sự ăn ở với nhau, thực chưa hề có điều gì là trái ý, tới nay con phải đi đày ải xa khơi, sau này mất còn chả biết, nếu mà để vợ con ở góa một mình, thì thực trong lòng không ổn! Vả chăng vợ chồng con cũng còn đương trạc thanh xuân, e khi ở lại trong nhà, lỡ bị Cao Nha Nội lại đem lòng ức hiếp, thì bấy giờ sẽ xử ra sao? Việc ấy quyết nhiên không nên vì con mà để mất con đường thân thế, vậy tiện đây đông đủ xóm giềng, con xin viết tờ giấy hưu thư, để cho vợ con tùy tiện lấy chồng, như thế thì con mới yên lòng đi được.
Trương Giáo Đầu gạt đi rằng:
– Chết nỗi! Sao hiền tế lại nói như vậy. Bây giờ chẳng may gặp phải cơn đang vận túng, đành hãy đến Thương Châu mà lánh nạn ít lâu, rồi sau này tất nhiên trời kia thương lại, cũng còn vợ chồng sum họp với nhau, chứ có điều chi mà ngại! Nhà lão đây nghèo cũng còn kiếm được để nuôi hai thầy trò nó, trong năm ba năm mà đợi khi sắc cầm tái hợp về sau. Còn như Cao Nha Nội có ý lôi thôi, thì ta sẽ cấm con gái ta ở nhà, còn gặp ở đâu mà sinh sự được nữa. Việc ấy hiền tế cứ an tâm, đi sang Thương Châu ở đó, rồi thỉnh thoảng viết giấy về cho ta, quần áo ta đây sẽ chu cấp gửi sang, chớ nghĩ quanh quẩn, làm cho thêm khổ?
– Đành vậy, con xin cảm tạ trượng nhân song không thể nào yên tâm để cho vợ con lỡ làng như thế được! Nếu trượng nhân có lòng thương tôi, mà nhận lấy lời cho, thì tôi chết đi mới được yên hồn nơi chín suối, xin với trựơng nhân biết cho.
Trương Giáo Đầu nghe vậy lại càng cảm động, nhất định không ưng lời, đoạn rồi xóm làng túm vào mà khuyên can, không nên như thế.
Lâm Xung quả quyết đáp rằng:
– Nếu trượng nhân không nghe lời tôi, thì sau này có được về đây, tôi quyết không đoàn tụ với nhau được nữa!
Trương Giáo Đầu nghe nói, không biết trả lời ra sao, liền bảo Lâm Xung rằng:
– Nếu vậy tùy ý hiền tế, muốn viết sao cứ viết, nhưng tôi đây không gả chồng cho con gái tôi thì thôi.
Nói đoạn sai tửu bảo lấy bút và mượn người đến viết hộ. Trong thư viết như sau:
– Tôi là Lâm Xung làm chức Giáo Đầu ở Đông Kinh, nhưng vì mắc tội phải đi đày ở Thương Châu, sau này sống chết thế nào chưa biết! Vậy nhân lập hưu thư tình nguyện cho vợ là Trương Thị trở về xuất giá, từ nay không can thiệp điều chi? Việc này tự ý định làm, không ai bức bách, sợ sau không tiện, nên viết để làm tin…
Ngày…tháng…năm…Lâm Xung ký tên và in tay ở dưới.
Vừa khi Lâm Xung ký xong, toan đưa cho Trương Giáo Đầu, thì thấy người vợ vừa gào vừa khóc, ở đâu đi đến lại có cả con trẻ cắp gói quần áo đi theo sau nữa. Lâm Xung trông thấy, liền quay ra bảo vợ rằng:
– Nàng ơi! Tôi có một câu chuyện, đã thưa với trượng nhân rồi, hiện nay tôi bị vận nạn thế này, chưa biết về sau còn sống chết hay không, vậy nàng còn đương xuân xanh tuổi trẻ, phải nên sớm liệu mà kiếm chỗ để nương thân, tôi đã viết bức hưu thư ở đây, nàng giữ lấy làm tin, không nên vì tôi để lỡ độ xuân xanh mới được.
Trương Thị nghe nói lại khóc nức nở mà rằng:
– Trời ơi! Tôi có điều chi thậm tệ, mà phu quân nỡ bỏ tôi như thế?
Lâm Xung an ủi rằng:
– Đó là lòng tốt của tôi, không muốn để cho bó buộc làm lỡ cả nhau, chuyện nên mới viết bức thư này, xin nàng cứ an tâm, đừng nghĩ nữa thêm phiền.
Trương Giáo Đầu quay lại bảo với con gái rằng:
– Thôi, con cứ lặng yên, để cho chồng con viết, sau đây ta không gả chồng cho con nữa thì thôi, mà vạn nhất chồng con nó không về đây nữa, thì sau này ta sẽ kiếm kế sinh nhai, cho con yên ấm một đời mà yên lòng thủ tiết, thế là cũng được chứ sao?
Trương Thị nghe nói đã cay đắng trong lòng, lại trông thấy phong thư ở đó, thì khóc lên một tiếng mà ngã ngất ra đây. Than ơi!
Vì đâu mưa gió bất bình
Để ai chia rẽ gánh tình vì ai?
Ngán thay là kiếp ở đời,
Anh hùng khi cũng thua trời mới căm!
Trương Giáo Đầu cùng Lâm Xung thấy vậy, thì đổ xô vào kêu gọi, hồi lâu mới tỉnh, đoạn rồi những đàn bà hàng xóm, cùng túm vào khuyên giải, mà dìu dắt Trương Thị ra về.
Bấy giờ Trương Giáo Đầu lại bảo Lâm Xung rằng:
– Hiền tế đi chuyến này, phải bảo trọng lấy thân, nếu có cơ hội gì, thì phải về đây mới được, còn vợ con ở nhà, thì tôi sẽ đem về cùng ở với tôi, để chớ khi tái hợp, hiền tế chớ nên phiền nghĩ làm chi. Nếu có ai đi về thì hiền tế năng gửi thư luôn cho tôi được biết.
Nói đoạn thì Lâm Xung lạy từ nhạc phụ Trương Giáo Đầu cùng lân bang, rồi khoác khăn gói, theo hai tên công sai ra đi. Hai tên công sai dẫn Lâm Xung về tới phòng Sứ Thần ký giam ở đó, rồi cùng nhau về nhà để sửa soạn hành lý. Khi đó hai tên công sai là Đổng Siêu và Tiết Bá đều người nào trở về nhà ấy, để sắp sửa đồ hành trang, có một tên tửu bảo ở tửu điếm gần đó, chạy đến nhà Đổng Siêu mà nói rằng:
– Có một vị quan nhân người ở hàng tôi, bảo mời ông đến chơi nói chuyện.
Đổng Siêu hỏi:
– Ai thế?
– Bẩm không biết là ai, ông ấy bảo cứ mời ông đến chơi thì biết.
Đổng Siêu nghe nói, liền theo tên tửu bảo, đi đến tửu điếm xem ai. Khi tới một gian gác ở tửu điếm ấy, thì thấy người kia ra vái chào Đổng Siêu mà nói rằng:
– Xin mời ông vào ngồi chơi.
Đổng Siêu thấy lạ mặt liền hỏi:
– Tôi trông ngài hình như chưa được quen biết bao giờ? Chẳng hay ngài có việc chi mà cho gọi đến đây?
Người kia cười mà đáp rằng:
– Xin ông cứ ngồi chơi, rồi một lát sẽ biết.
Nói xong kéo Đổng Siêu ngồi xuống một bên, sai tửu bảo gọi rượu và thức nhắm lên, rồi lại nói luôn rằng:
– Không biết rằng ở nhà ông Tiết Bá ở đâu?
Đổng Siêu đáp:
– Ở ngay ngõ trước kia.
Người kia nghe nói, liền sai tửu bảo chạy ba chân bốn cẳng đi mời Tiết Bá đến. Khi Tiết Bá đến nơi, Đổng Siêu liền quay ra bảo rằng:
– Vị quan nhân này mời chúng ta đến đây, không biết rằng nói chuyện gì?
Người kia nghe nói biết ngay rằng Tiết Bá, liền đứng lên mời ngồi.
Tiết Bá hỏi:
– Chúng tôi xin hỏi khí không phải, quý hiệu ngài là chi xin cho biết.
– Xin ông hãy ngồi xơi rượu với tôi rồi sẽ biết.
Nói đoạn sai tửu bảo rót rượu ba người cùng uống. Một lát người ấy móc túi ra lấy 10 lạng bạc, để ra bàn mà nói rằng:
– Món tiền này xin hai bác nhận cho, tôi có câu chuyện muốn phiền hai ông đây.
Đổng Siêu, Tiết Bá thấy vậy đều ngạc nhiên, không hiểu mà nói rằng:
– Chúng tôi không có được biết ngài, đau mà dám nhận tiền của ngài?
– Có phải hai ông sắp đi Thương Châu nay mai đó không?
– Vâng, chúng tôi vâng lời quan sắp giải Lâm Xung đến đấy.
– Bởi vậy tôi muốn phiền hai ông một chút, tôi là Lục Ngu Hầu người nhà quan Cao Thái Úy đây.
– Chết nỗi! Nếu vậy sao chúng tôi dám ngồi uống rượu với ngài?
– Không hề chi, các ông có hiểu việc Lâm Xung đối với quan Thái Úy thế nào không? Bây giờ ngài sai tôi đưa món tiền này để biếu các ông, các ông cứ nhận mà hết sức giúp cho. Cứ đến chỗ nào vắng vẻ, thì các ông giết phăng tên Lâm Xung ấy đi, rồi sau đi phủ Khai Phong, nếu có việc gì, thì quan Thái Úy sẽ đảm nhận cho, không ngại chi cả.
Đổng Siêu nghe nói liền đáp rằng:
– Việc ấy chỉ sợ không làm được! Vì trong công văn của phủ, chỉ nói là giải sang Thương Châu, chứ không nói gì đến sự giết hắn cả. Vả chăng ông ta còn đương khỏe mạnh, có thể nào hạ thủ ngay được, ngộ vạn nhất có xảy ra thế nào thì không tiện lắm.
Tiết Bá nói:
– Lão Đổng ơi! Lão vớ vẫn quá! Quan Thái Úy bảo thế nào mà ta không phải theo? Huống chi ngài đã ủy Ngu Hầu ra bảo mình, và lại cho tiền ở đây, thì anh còn từ nan thế nào được. Thôi anh em ta cứ chia lấy mà nhận lời thì hơn.
Nói đoạn hai người chia nhau lấy mười lạng bạc, rồi bảo Lục Khiêm rằng:
– Được, xin ngài cứ an tâm, chỉ trong mấy độ đường, là chúng tôi liệu ngay thôi.
Lục Khiêm cả mừng nói rằng:
– Hễ khi các ông làm xong, thì mang cái kim ấn ở mặt Lâm Xung về đây, để cho tôi biết làm tin. Gọi là có mấy lạng bạc đấy, các ông đừng chê ít mà cố sức cho, tôi xin đợi ở nhà đó.
Đoạn ba người lại uống một lúc nữa, bấy giờ Lục Khiêm mới trả tiền hàng, mà cùng nhau từ giả chia đường.
Khi đó Đổng Siêu, Tiết Bá đem tiền về giao để ở nhà, rồi khoác khăn gói hành lý, mỗi người vác một thanh gậy đến phòng Sứ Thần đem Lâm Xung giải đi.
Đời nhà Tống có lệ, phàm những quân lính giải tù, đi đến đâu ngủ trọ đều không phải trả tiền. Hôm ấy hai người đi hơn 30 dặm đường thì trời sắp tối, liền tìm vào một hàng cơm để trọ, rồi sáng hôm sau lại ăn uống mà đi thực sớm.
Bấy giờ đương độ tháng 6, tiết trời nóng bức lạ thường, mấy hôm trước Lâm Xung mới bị đòn, còn chưa việc gì, tới nay mới được vài hôm, bị khí trời nung nóng, làm cho các chỗ bị đánh đều sưng tất cả lên, đau đớn quá đỗi không làm soa đi được.
Tiết Bá thấy Lâm Xung đi chậm thì mắng rằng:
– Từ đây tới Thương Châu những 2000 dặm đường, mà đi như thế, thì bao giờ cho tới nơi được!
Lâm Xung phàn nàn rằng:
– Tôi chỉ vì bị mấy chục trượng, bây giờ trời nóng phát lên, cho nên không thể nào mà đi nhanh được, xin các ông thứ cho.
Đổng Siêu thấy vậy thì bảo rằng:
– Thôi thong thả vậy, không nói làm gì nữa.
Tiết Bá thì vừa đi vừa chưởi rủa, lảm nhảm xuốt cả ngày không thôi, khi trời đã sắp tối, vào một cái hàng kia, Lâm Xung biết thân phải giở khăn gói lấy ra ít tiền, bảo nhà hàng dọn rượu, để mời hai anh kia cùng uống. Bấy giờ hai anh đổ rượu cho Lâm Xung uống thật say, nằm vật xuống một xó, rồi Tiết Bá đi đun một nồi nước sôi, đổ ra cái chậu rửa chân, đem đến gọi Lâm Xung dậy mà bảo rằng:
– Giáo Đầu hãy dậy rửa chân đã rồi hãy ngủ.
Lâm Xung nghe nói toan dậy, song bị cai gông làm vướng không sao mà co mình dậy được, Tiết Bá liền bảo rằng:
– Để tôi rửa chân hộ cho vậy.
Lâm Xung vội gạt mà rằng:
– Có đâu dám thế!
Tiết Bá nói:
– Chỗ lữ thứ này cần gì, để tôi rửa đỡ cho.
Lâm Xung tin thực, thò chân cho Tiết Bá rửa hộ, Tiết Bá cầm chân Lâm Xung dúng vào một cái trong chậu nước sôi. Lâm Xung giật mình kéo cẳng lên, thì đã bỏng hai bàn chân, liền rên rỉ mà kêu rằng:
– Như thế thì sống sao được?
Tiết Bá làm bộ nói rằng:
– Xưa nay người có tội phải hầu công sai chứ, công sai phải hầu người có tội bao giờ? Bây giờ người ta đã có lòng tốt rửa chân cho tử tế, lại còn ỏe họe nước nóng nước lạnh, thực là làm phúc phải tội là thế.
Nói đoạn lại lẩm nhẩm mắng nhiếc suốt đêm, Lâm Xung không dám mở miệng nói câu gì cả. Sáng hôm sau Tiết Bá dậy sớm giục nhà hàng làm cơm ăn, Lâm Xung thì đau đớn nằm vật ra đấy, mà không ăn được, khi hai người ăn cơm xong, thấy Lâm Xung không đi được, thì Đổng Siêu đưa cho một đôi giầy đay để đi, Lâm Xung bất đắc dĩ phải xỏ chân vào giầy, rồi tính tiền tả tiền hàng, mà theo hai người lên đường.
Bấy giờ vào khoảng trống canh năm, Lâm Xung mới đi được chừng vài ba dặm đường, thì hai bên chân đi đôi giầy mới sát vào toạc hẳn cả ra, rồi máu chảy đầm đìa, đành chỉ kêu gọi ầm ĩ mà không sao đi được nữa.
Tiết Bá quay lại mắng rằng:
– Có đi thì đi mau, mà không thì gậy đánh vào đít bây giờ đấy.
Lâm Xung kêu vang rằng:
– Khốn nạn! Tôi dám lười đâu! Vì hai chân đau quá, không sao đi được nữa, xin các ông xét cho.
Đổng Siêu nói:
– Nếu vậy để tôi dắt cho mà đi.
Nói xong đến dắt Lâm Xung đi, khi đi được độ 4, 5 dặm đường, thì xem chừng Lâm Xung lại mỏi mệt quá, không sao mà bước đi được nữa. Bấy giờ trông đằng trước đằng sau đã có mấy khu rừng lớn cây cối um tùm, khói mây mờ mịt, tục gọi tên là Dã Trư Lâm, là một nơi rất hiểm ác quạnh hiu, xưa nay những kẻ vô lương, thường đút tiền cho đám không sai để kết quả tính mệnh biết bao tay hảo hán ở đó.
Khi ấy hai tên công sai cố dìu dắt cho Lâm Xung đi đến khu rừng ấy rồi Đổng Siêu thở dài mà nói rằng:
– Đi suốt cả ngày không được mươi dặm đường, thì bao giờ cho đến Thương Châu?
Tiết Bá nói:
– Tôi cũng mệt lắm không sao đi được nữa, hãy ngồi đây nghỉ một lát vậy.
Nói đoạn ba người cùng vất khăn gói hành lý xuống gốc cây, rồi mằm vật xuống để nghỉ. Vừa đi nằm chợp được một tí, thì bỗng thấy hai tên công sai kêu to lên một tiếng, mà nhảy choàng dậy, Lâm Xung thấy vậy, thì hỏi:
– Các ông làm sao thế?
Tiết Bá, Đổng Siêu bảo Lâm Xung rằng:
– Chúng tôi đương chợp mắt toan nghỉ một tí, nhưng lại sợ không có khóa xích gì, lỡ bác trốn mất thì sao?
– Tôi là thằng hảo hán ở đời, đã bị thế này, thì chịu vậy chứ có khi nào thèm chạy trốn mà chi!
Tiết Bá nói:
– Đành vậy, nhưng chúng tôi không yên tâm, muốn rằng trói bác vào đây thì mới tiện.
– Tùy ý các ông, muốn trói thì trói, chứ tôi có nói gì đâu?
Tiết Bá liền lấy thừng trói Lâm Xung vào gốc cây cẩn thận, rồi cùng với Đổng Siêu vớ lấy gậy, cầm ở tay giơ thẳng cánh lên nhắm ở giữa ót Lâm Xung để đánh. Hỡi ơi!
Hóa nhi thực có nỡ lòng,
Đang tay vùi dập anh hùng mà chơi!
Lấy ai xoay đất chuyển trời,
Trăm năm càng thấy chuyện đời càng đau!
Cây xanh lá biếc một màu,
Hỏi hồn nghĩa hiệp về đâu bây giờ?
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này gồm hai đoạn văn tự, tả Lâm giáo sư với sự hưu thư, và tả Dã Trư Lâm với sự roi vọt, một đoạn thấy rõ nhi nữ tình thâm, và một đoạn thấy rõ anh hùng khí đỏan, hãy xem tác giả tả văn, những chỗ khác nhau.
Khi đó Tiết Bá giơ gậy nhằm giữa đầu Lâm Xung để đánh, thì bỗng dưng thấy một người thét như sấm ở đằng sau, rồi thấy thanh thuyền trượng đánh vút một cái bắn phăng ngay gậy của Tiết Bá đi lăng lắc đâu mất, đoạn rồi có một vị hòa thượng ở đâu hiện thân đến mà quát rằng:
– Tao ở rừng này, nghe hai chúng bây nói đã lâu.
Nói đoạn múa thuyền trượng giơ giới đao, toan đánh hai công sai.
Bấy giờ Lâm Xung mở bừng mắt ra trông thấy vị hòa thượng mình mặc áo trắng, một tay cầm giới đao, một tay cầm thuyền trượng, thì nhận ra ngay là Lỗ Trí Thâm, liền kêu lên rằng:
– Sư huynh hãy khoan tay đừng đánh vội, để tôi nói câu này đã.
Trí Thâm nghe nói, dừng tay đao trượng, rồi trừng hai con mắt nhìn Đổng Siêu, Tiết Bá bằng một cách nghiêm khắc đáng kinh. Hai anh ấy thấy vậy thì đứng nhũn người ra, không còn cựa quậy được nữa.
Lâm Xung nói:
– Việc này là tại Cao Thái Úy bảo Lục Ngu Hầu sai họ giết tôi, chứ không phải tội tự họ đâu? Nếu sư huynh giết họ thì oan cho họ lắm!
Trí Thâm liền quay sang cắt thừng trói ra, mà dắt Lâm Xung dậy rồi kể chuyện rằng:
– Từ khi tương biệt ở chỗ mua bảo đao rồi, sau nghe bác bị Cao Cầu ức hiếp, bắt đi đày ở Thương Châu, tôi liền đến phủ Khai Phong để tìm mà không gặp. Đến lúc biết tin bị giam ở phòng Sứ Thần, thì tôi đã toan đến đấy, song lại thấy có một tên tửu bảo, đi tìm hai đứa công sai này, để đến bàn thì thầm, to nhỏ với một người nữa tôi liền có bụng ngờ, chắc là nó toan hại bác, cho nên phải cố đi theo. Tối hôm qua vào hàng cơm, thấy hai thằng ăn mày này nó làm trời làm đất, nhúng chân bác vào chậu nước sôi, tôi cũng biết cả, đã tính giết ngay lúc bấy giờ, nhưng lại sợ hàng quán đông người không tiện, cho nên phải thôi. Sáng hôm nay lúc đầu trống canh năm, bác sắp ra đi tôi đã đến đây trước, đoán chắc đến đây tất nhiên quân này nó hại bác, thì tôi sẽ giết đi, ai ngờ quả nhiên thế thực. Giá tôi không sớm ở đây, thì tính mạng bác còn đâu với nó được nữa! Bác cứ yên lặng để tôi giết phăng chúng nó là xong.
– Thôi bây giờ sư huynh đã cứu được tôi rồi, còn giết người ta làm gì nữa.
Trí Thâm quát bảo hai tên công sai rằng:
– Nếu ta không nể anh em bạn, thì ta xé xác chúng bay ra làm mắm đấy.
Nói xong bỏ giới đao vào bao và ra lệnh rằng:
– Hai thằng ăn mày này phải dắt bạn ta đi theo ta mới được.
Hai tên công sai nghe nói cúi đầu cúi cổ nhặt lấy khăn gói cho Lâm Xung rồi hai người lại cùng đỡ Lâm Xung, để đi theo Lỗ Trí Thâm.
Khi ra khỏi rừng được ba bốn dặm đường, thấy có một hàng rượu con con ở đó, Trí Thâm liền dẫn bầy người vào nghỉ. Đoạn gọi tửu bảo lấy bánh và rượu thịt lên để cùng nhau ăn uống.
Bấy giờ hai tên công sai mới khép nép mà hỏi rằng:
– Bẩm sư phụ, người trụ trì ở chùa nào, chúng con chưa được biết?
Lỗ Trí Thâm cười mà đáp rằng:
– Các anh hỏi ta làm gì, định về tâu nộp với Cao Cầu phải chăng? Ta nói thiệt, ai sợ hắn, chứ ta đây không sợ gì đâu? Nếu ta có gặp hắn, thì ta cũng đãi hắn mấy trăm cái thuyền trượng này đã.
Hai tên công sai nghe vậy thì câm như miệng hến, không dám nói năng gì nữa. Được một lát cơm rượu xong rồi, liền cùng tính trả tiền hàng, mà cùng nhau trở ra, Lâm Xung hỏi Lỗ Trí Thâm rằng:
– Sư huynh định đi đâu bây giờ?
Trí Thâm đáp rằng:
– Giết người phải lấy máu, cứu người thì phải tới nơi, vậy tất nhiên tôi phải đưa bác sang đến tận Thương Châu, chứ không đành lòng mà để bác đi một mình được.
Hai tên công sai nghe thấy vậy, thì cay đắng trong lòng, chắc rằng mưu kế của mình không thi hành được nữa, nhưng cũng đành chịu vậy thôi. Từ đó các cụ nhất nhất theo ở Trí Thâm, bảo đi thì đi, bảo đứng thì đứng, tử tế ra thì mắng nhiếc, láo xấc ra thì roi vọt, không anh nào dám ho he gì cả. Cách ít lâu thuê được cỗ xe, Trí Thâm để cho Lâm Xung ngồi trên xe mà mình đi đất với hai tên công sai.
Trong khi đi đường, Lỗ Trí Thâm thường mua các thứ rượu thịt cho Lâm Xung ăn, và cả hai tên công sai được ăn ké vào đó. Duy mỗi khi đến hàng quán để nghỉ, thì Trí Thâm lại bắt hai tên công sai phải thổi cơm, hầu hạ luôn cạnh không anh nào dám cưỡng.
Thỉnh thoảng hai anh lại bàn thầm với nhau rằng:
– Việc này, khi ta trở về đến Đông Kinh, mà Cao Thái Úy hỏi đến, thì ta biết nói làm sao cho được?
Tiết Bá bàn định một kế rằng:
– Mới đây nghe nói ở vườn rau Giải Vũ thuộc chùa Tướng Quốc, có một lão sư mới đến, tên gọi Lỗ Trí Thâm, có lẽ chính là anh này đây hẳn. Nếu quả vậy thì khi ta trở về, ta cứ nói thực với Thái Úy rằng:
– “Chúng tôi định giết Lâm Xung ở rừng Dã Trư, nhưng chẳng may bị lão sư ấy nó ngăn cản, mà nó lại đưa sang đến tận Thương Châu, cho nên không sao mà hạ thủ được”. Đoạn rồi hai ta trả lại 10 lạng bạc cho Lục Khiêm cũng được chứ gì.
Hai anh bàn định cẩn thận với nhau, rồi lại chăm chăm theo Lỗ Trí Thâm, mà không hề có một điều gì cưỡng trái.
Khi đi được 17, 18 ngày đường, Lỗ Trí Thâm dò biết là ở đó cách Thương Châu còn có dăm bảy dặm nữa, mà lại toàn là nơi đông đúc sầm uất, chứ không vắng vẻ như trước, thì trong bụng đã hơi yên vững, liền tìm vào một chỗ ngồi nghỉ và bảo với Lâm Xung rằng:
– Từ đây đến Thương Châu đường xá đã đông vui, mà cũng không còn xa mấy nữa, vậy tôi xin từ biệt bác, để rồi khi khác sẽ gặp nhau.
Lâm Xung bồi hồi cảm tạ mà nói rằng:
– Bây giờ sư huynh có về, thì xin nói chuyện đi đường cho nhà tôi được biết, còn tôi đây nếu trời còn cho sống, thì tất nhiên có ngày trả nghĩa sư huynh.
Trí Thâm lại lấy ra mấy lạng bạc đưa cho Lâm Xung, và lại đưa cho đám công sai mấy lạng mà dặn rằng:
– Lũ bây đáng lẽ ta chém cổ đi rồi, nhưng vì ta nể mặt anh em bạn mà tha cho đấy, vậy từ đây trở đi, chúng bay phải nên cẩn thận, đừng trở bụng chó má ấy ra nữa, mà nguy hiểm đến thân nghe chưa?
Hai tên công sai giơ tay ra đỡ lấy tiền, và đáp rằng:
– Bẩm ngài, đó là quan Thái Úy bắt như vậy, chứ chúng tôi đây có bao giờ đem lòng tàn nhẫn mà cư xử với ai!
Nói đoạn vừa mới toan chia tiền với nhau, thì Lỗ Trí Thâm lại trừng mắt nhìn hai tên công sai, rồi lại trông sang gốc cây thông gần đó mà hỏi rằng:
– Đầu chúng bây có rắn bằng cây gỗ thông này không?
– Bẩm ngài, đầu chúng con là thịt da cha mẹ sinh thành, có đâu mà rắn như thế được.
Lỗ Trí Thâm phăm phăm vác cây thuyền trượng đánh vào gốc thông một cái thật mạnh, sâu vào đến hai ba tấc gãy răng rắc xuống một lượt, rồi quay ra thét bảo hai tên công sai rằng:
– Bây trông đó, nếu mà mang tâm phản trắc, thì ta cho đầu chúng bây cũng như cây thông ấy.
Lũ công sai thấy vậy, thì hoa mặt choáng người, mà không dám thở nữa.
Đoạn rồi Trí Thâm đeo đao vác trượng, từ biệt Lâm Xung mà quay trở về. Lâm Xung thấy Trí Thâm quay về rồi, liền bảo đám công sai rằng:
– Bây giờ chúng ta đi đi thôi.
Bấy giờ hai tên công sai vừa tỉnh hồn, định mắt lại mà hỏi Lâm Xung rằng:
– Gớm, nhà sư ấy sao mà khỏe đến thế, đánh gãy hẳn cây thông dễ như bỡn vậy.
– Thế đã thấm vào đâu, đến như cây liễu ở chùa Tướng Quốc ông ấy còn nhổ được cả gốc lẫn rễ lên nữa.
Đổng Siêu, Tiết Bá nghe nói lại trông nhau, lắc đầu le lưỡi mà kinh sợ vô cùng. Đoạn ba người cùng kéo nhau đi.
Trưa hôm ấy đến một tửu điếm ở gần bên cạnh đường cái quan, Lâm Xung bèn mời Đổng Siêu, Tiết Bá vào nghỉ. Khi vào tới nơi, thấy hai ba tên tửu bảo rót rượu mang thịt, đưa hến nơi này đến nơi khác, mà chỗ Lâm Xung ngồi, thì không ai nhìn đến. Lâm Xung đợi mãi một hồi lâu, cũng không thấy gì cả, lấy làm sốt ruột, liền đập tay xuống bàn mà hỏi rằng:
– Chủ nhân đâu? Ngươi khinh ta là kẻ phạm nhân mà không thèm tiếp đến là nghĩa lý gì? Ta có ăn quịt của nhà ngươi đâu?
Chủ nhân nghe nói liền đáp:
– Các ngươi không biết, tôi có lòng tử tế đãi các người đấy.
– Tử tế gì? Khách đến không thèm tiếp, còn gì là tử tế.
– Để tôi nói cho mà nghe: Trong thôn kia có một ông đại tài chủ, tên gọi là Sài Tiến, ở đây thường gọi là Sài Đại Quan Nhân, mà đám giang hồ thì vẫn gọi là Tiểu Đoàn Phong Sài Tiến, vốn là con cháu Sài Thế Tôn nhà Đại Chu khi trước. Từ khi Trần Kiều binh biến nhường ngôi cho Thái Tổ rồi. Vũ Đức hoàng đế mới sắc phong cho thề thư thiết khoán ở nhà ông ta, vì thế mà không ai dám khinh rẻ. Ông ta thích chiêu hào những hảo hán trên đời, cho nên trong nhà lúc nào cũng nuôi đến năm bảy mươi người ở đó! Lại thường dặn ở nhà tôi, nếu thấy những người nào mắc tội đày ải qua đây, thì đưa vào để ông ta giúp đỡ, bởi vậy nên tôi không dám bán rượu cho các người, sợ khi uống rượu đỏ mặt vào, mà tới nơi, thì ông ta lại cho là phong lưu, mà không giúp đỡ nữa chăng!
Lâm Xung nghe nói quay lại bảo với Đổng Siêu, Tiết Bá rằng:
– Khi tôi còn làm Giáo Đầu ở Đông Kinh, vẫn thường nghe thấy tiếng Sài Đại Quan Nhân, nhưng ngày nay mới biết là ở đây, vậy bất nhược ta thử vào đấy xem sao?
Đổng Siêu, Tiết Bá nghĩ một lát rồi nói:
– Như vậy có thiệt hại gì đến ta mà không đi.
Nói đoạn liền thu thập hành lý, mà đến hỏi chủ hàng rằng:
– Nhà Sài Đại Quan Nhân ở chỗ nào, xin chỉ giúp cho, chúng tôi đương tìm đến đấy.
Chủ hàng trỏ về phía trước mặt mà bảo rằng:
– Cách đây độ hai ba dặm đường, đi qua cái cầu đá lớn, rồi đến một chỗ góc đường gần quanh, thì có một nơi trang viện lớn, tức là ở đó.
Lũ Lâm Xung bèn tạ chủ nhân rồi cùng nhau theo lối ấy mà đi. Quả nhiên đi độ 2, 3 dặm đường thì đến một tòa cầu đá lớn, đoạn rồi thấy đường rộng thênh thang, chẳng khác gì một nơi quan lộ, gần trông có một đám tơ liễu xanh rì, hiện ra một tòa trang viện rất to, chung quanh toàn là hào rãnh đào sâu, mà trên bờ trồng tinh dương liễu. Ba người dẫn nhau đi theo con đường lớn, vòng quanh sang mặt tả, thì đến một nơi cầu nhỏ cổng trong.
Bấy giờ có ba bốn tên trang khách, đương ngồi hóng mát ở đó. Lâm Xung cùng hai tên công sai liền vái chào mà nói rằng:
– Dám chào các ông, xin phiền các ông vào nói với Quan Nhân rằng: “Có tên Lâm Xung là phạm nhân ở Đông Kinh qua đây, xin chào yết kiến”.
Lũ trang khách nghe nói thì đáp rằng:
– Các ông hôm nay thực là đen lắm, giá có gặp Quan Nhân ở nhà, thì ít ra cũng phải có rượu thịt tiền nong để đãi, nhưng tiếc vì ngài lại mới đi săn sáng hôm nay rồi.
– Bẩm ngài đi săn bao giờ mới về?
– Cái đó không biết đâu là chừng, chỉ sợ ngài lại đi sang nghĩ bên Đông Trang, thì khó lòng gặp được!
Lâm Xung thở dài mà than rằng:
– Nếu vậy, thì chúng tôi kém phúc đức quá! Thôi, xin chào các ông, chúng tôi đi vậy!
Nói xong ba người thui thủi đi ra.
Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Tiền đồ man mác ai là tương tri?
Lạ thay trong lúc gian nguy?
Cơn đen đen cả đường đi lối về.
Bấy giờ trong bụng Lâm Xung hơi có phần buồn bã, trách thương cho số phận long đong, đi đến đâu cũng lỡ làng không gặp. Chợt đâu vừa đi được nửa dặm đường, thì thấy một bọn đương cưỡi ngựa ở quãng rừng xa trở lại, đằng trước có một người sang trọng, vào trạc ngoài 30 tuổi, lưng đeo một cây cung, một túi tên, cưỡi con ngựa trắng lông quăn, mà dẫn lũ sau đi về trang viện.
Lâm Xung thấy vậy trong bụng đã đoán chắc là Sài Đại Quan Nhân về đó, song còn ngờ ngợ chưa dám hỏi ngay.
Đương lúc trù trừ chưa quyết, thì đã thấy người ấy phóng ngựa đến trước mặt Lâm Xung mà hỏi rằng:
– Người đeo gông là ai đó?
Lâm Xung thấy hỏi liền cúi đầu chào mà đáp rằng:
– Tôi là Cấm Quân Giáo Đầu Lâm Xung ở Đông Kinh, bị quan Cao Thái Úy ức hiếp, bắt đi đày sang Thương Châu, nhân qua đây thấy nói có quan Sài Đại Quan Nhân là tay hảo hán, hay chiêu hiền nạp sĩ xưa nay, cho nên muốn vào yết kiến, nhưng chẳng may lại không được gặp.
Lâm Xung vừa nói dứt lời, thì người kia vội nhảy xuống ngựa đi gần đến tận nơi mà nói rằng:
– Nếu vậy thì tôi xin lỗi, không nghênh tiếp được ngài, xin ngài tha thứ cho.
Nói xong cúi rạp xuống đất mà lạy, đoạn rồi dắt Lâm Xung đi vào trang viện.
Khi vào tới nhà khách, Sài Tiến mời Lâm Xung ngồi chơi rồi nói:
– Chúng tôi được nghe danh Giáo Đầu đã lâu, nay ngài lại đến đây cho tôi được thừa tiếp, thì thực là thỏa lòng khát vọng vô cùng.
– Lâm Xung tôi vẫn biết tiếng Quan Nhân, khắp trong bốn bể ai ai cũng có lòng kính phục, nhưng hiềm vì chưa có dịp nào mà bái yết tôn nhan, nay vì bước oan khổ lưu ly, mà lại được tới đây để hầu ngài như thế, thì thực may lắm.
Sài Tiến khiêm tốn hồi lâu, rồi gọi trang khách sai dọn rượu để uống.
Lâm Xung có ý từ chối mà rằng:
– Quan Nhân có lòng hạ cố như thế là quá đáng, còn đâu dám phiền nhiễu làm chi!
Sài Tiến nhất định không nghe, đáp rằng:
– Mấy khi Giáo Đầu đến đây, có lẽ nào lại vô lễ như thế được.
Nói đoạn thúc trang khách lấy rượu lên, rót luôn ba chén mời Lâm Xung. Lâm Xung uống ba chén, lại rót ba chén để tạ lại Sài Tiến. Đoạn rồi Sài Tiến tháo cung bỏ tên, đưa người nhà cất đi, mà ngồi tiếp rượu Lâm Xung. Sài Tiến nhường Lâm Xung ngồi khách vị mà tự mình ngồi chủ vị, còn hai tên công sai thì ngồi dưới Lâm Xung. Được một lát mặt trời đã lặn non tây, người nhà lại bày các thực phẩm la liệt trên bàn, nào là hải vị sơn hào, không gì là không có.
Sài Tiến cất chén mời Lâm Xung uống rượu, lấy các món nhắm rồi giở chuyện giang hồ, đàm luận với nhau rất là vui thú.
Đương khi chén tạc chén thù, thì thấy trang khách vào báo rằng:
– Có Hồng Giáo Sư sang chơi.
Sài Tiến quay bảo trang khách rằng:
– Bây mời vào đây, uống rượu một thể cho vui.
Đoạn rồi sai người kê thêm bàn ghế, để ngồi tiếp vào đó.
Khi Hồng Giáo Sư vào, Lâm Xung đoán chắc là thầy dạy Sài Tiến liền đứng dậy cúi đầu mà chào rằng:
– Tôi Lâm Xung kính chào Giáo Sư.
Hồng Giáo Đầu nghe thấy Lâm Xung chào, thì cứ lặng yên không chào lại, mà cũng không thèm để mắt tới. Lâm Xung thấy vậy, thì cúi mặt xuống mà không dám ngẩng đầu lên. Sài Tiến trỏ vào Lâm Xung mà bảo Hồng Giáo Đầu rằng:
– Ông này là Lâm Xung Giáo Đầu, dạy 80 vạn cấm quân ở Đông Kinh đấy, xin giới thiệu để ngài biết.
Lâm Xung thấy Sài Tiến nói xong, liền cúi rạp xuống đất, lạy chào Hồng Giáo Sư. Bấy giờ Hồng Giáo Sư cũng không đáp lễ, mà chỉ nói một câu rằng:
– Thôi đừng lạy nữa.
Sài Tiến thấy vậy, trong lòng có ý không thích, song cũng không dám nói ra, Lâm Xung lạy xong rồi, nhường Hồng Giáo Sư ngồi lên trên, mà lui xuống ghế dưới, Hồng Giáo Đầu cũng cứ ngồi phăng ghế trên, mà không khiêm tốn một chút gì cả, Sài Tiến thấy vậy, trong lòng lấy làm khó chịu, không bằng lòng chút nào cả, song không muốn nói ra.
Hồng Giáo Sư ngồi một lát rồi mới hỏi Sài Tiến rằng:
– Hôm nay làm sao Đại Quan Nhân lại hậu đãi một kẻ đi đày như thế?
Sài Tiến nói:
– Ông này là Giáo Đầu dạy 80 vạn Cấm binh ở Kinh Sư, chứ chẳng phải là người thường đâu?
– Chết nỗi! Đại Quan Nhân lầm rồi, vì ngài hay thích chơi võ nghệ, cho nên bao nhiêu bọn tù tội qua đây, cũng nói hươu nói vượn, mượn tiếng Giáo Đầu mà kiếm chén đó thôi, Quan Nhân tưởng họ là thực hay sao?
– Người ta giả mạo sao được, ông chớ coi khinh nữa, mà…
Hồng Giáo Đầu nghe đến đó, thì đứng phắt ngay dậy mà nói rằng:
– Tôi chẳng khinh ai, nhưng nếu hắn có dám đi với tôi một bài gậy, thì mới có thể biết là Giáo Đầu hay không được.
Sài Tiến cả cười mà rằng:
– Tốt lắm! Tốt lắm! Lâm Võ Sư nghĩ sao?
Lâm Xung ra dáng khiêm tốn mà đáp rằng:
– Chúng tôi có đâu dám thế.
Hồng Giáo Đầu thấy vậy, đoán chắc là Lâm Xung không biết gì, liền làm bộ thách thức già lên. Bấy giờ Sài Tiến vừa phần muốn xem võ nghệ của Lâm Xung, có giỏi hay không, vừa phần thì cũng muốn Lâm Xung đánh đổ Hồng Giáo Đầu, để cho hết múa mép, liền nói lên rằng:
– Được lắm! Hãy xin uống rượu đã, để chốc nữa trăng mọc rồi sẽ hay.
Nói xong hai người cùng ngồi uống rượu. Khi uống được năm bảy chén, thì bóng Nga đã vằng vặc rạng soi trước cửa, Sài Tiến liền đứng dậy mà nói rằng:
– Bây giờ hai vị Giáo Đầu, thử đấu một ngọn xem sao?
Lâm Xung nghe nói, cũng muốn đấu chơi, nhưng lại e khi đánh ngã ông Giáo Sư ấy, thì dối với Sài Tiến có điều gì không tiện, nên đành phải ngồi im, không dám nói gì cả.
Sài Tiến biết Lâm Xung có ý trù trừ, liền nói lên rằng:
– Hồng Giáo Sư cũng mới đến ở đây, song vùng này không có ai là địch thủ, vậy Lâm Võ Sư đấu thử xem sao? Không có điều chi mà ngại! Vả tôi cũng muốn nhân đây được xem võ nghệ của các ngài một thể, xin ngài chớ từ nan.
Lâm Xung nghe Sài Tiến nói câu ấy, mới hiểu rõ ý tứ, liền muốn đứng dậy để đánh thử ngay. Bấy giờ Hồng Giáo Đầu lại đứng lên trước mà thách thức rằng:
– Nào, mau lên, thử đấu với ta một bài xem sao!
Nói xong nhảy ra sân cởi áo ngoài ra, rồi lấy một cây gậy múa may xoay xở, mà kêu lên rằng:
– Ra đây, mau, mau!
Sài Tiến thấy Hồng Giáo Đầu ra dáng cấp bách, liền nói với Lâm Xung rằng:
– Võ Sư cứ thử đi một bài có ngại chi!
Khi đó Lâm Xung làm ra dáng rụt rè mà nói:
– Xin Quan Nhân chớ cười mới được.
Nói xong liền lấy một cây gậy chạy ra sân, bảo Hồng Giáo Đầu rằng:
– Xin ngài tha lỗi cho.
Hồng Giáo Đầu thấy Lâm Xung bước ra, thì trong bụng tức giận, muốn nuốt sống được ngay mới thích, liền vác gậy đến đấu luôn, mà không nói năng gì cả. Hai người mới quần nhau được độ năm bảy hiệp, thì Lâm Xung bỗng nhảy ra ngoài mà kêu lên rằng:
– Hãy khoan!
Sài Tiến thấy vậy, chạy đến hỏi Lâm Xung rằng:
– Sao Võ Sư đương đấu lại thôi thế?
– Thưa ngài, có lẽ tôi thua mất.
– Có lẽ đâu vừa đánh mấy hiệp mà đã thua ngay thế được.
– Thưa ngài, vì tôi còn bị gông trói vướng mắc, tất nhiên không thể nào đấu được.
Sài Tiến nghe vậy, liền cười mà nói rằng:
– Trời ôi! Tôi quên đi mất đấy, được có khó gì đâu.
Nói đoạn sai người lấy 10 lạng bạc liền đưa cho đám công sai mà bảo rằng:
– Thế này thì không phải, tôi phiền hai ông làm ơn hãy tạm tháo gông cho Lâm Giáo Đầu một lúc. Rồi sáng mai đi, sẽ lại lắp vào tử tế, nếu có xảy chuyện gì, trách nhiệm tôi xin chịu cả? Mười lạng bạc đây xin bác nhận lấy cho.
Đổng Siêu, Tiết Bá thấy Sài Tiến là tay lỗi lạc phi thường, thì cũng không dám trái ý, vả chăng lại được 10 lạng bạc bỏ túi, mà Lâm Xung cũng không có lẽ trốn ngay đi đâu được, vậy thì làm gì không nhận cho xong, liền nhận ngay lấy tiền, mà tháo gông cho Lâm Xung lập tức.
Sài Tiến cả mừng mà reo lên rằng:
– Nào bây giờ hai ông Giáo Sư thử một keo xem sao?
Khi đó Hồng Giáo Đầu thấy tay gậy của Lâm Xung lúc trước cũng hơi có vẻ rối loạn, thì trong bụng đã coi thường, mà cho là không thấm vào đâu, liền xăm xăm chạy toan ra để đánh.
Sài Tiến lại dìu Hồng Giáo Đầu khoan lại, rồi gọi trang khách lấy lên 25 lạng bạc, mà nói rằng:
– Món tiền này gọi là tạm làm tặng vật, vậy nếu ngài nào được, thì xin thu lấy cả cho.
Hồng Giáo Đầu thấy vậy, lại múa mang đầu gậy diễn ra một thế “Bả hỏa siêu thiên” để nạt Lâm Xung kinh sợ, bên kia Lâm Xung hiểu ý Sài Tiến muốn cho mình được, nên mới quăng tiền ra như vậy, liền cũng múa gậy mà diễn thế “Bát thảo tâm sà”một lúc.
Bấy giờ Hồng Giáo Đầu thét lên một tiếng, rồi vác gậy xông vào đánh Lâm Xung, Lâm Xung lùi về đằng sau một bước, Hồng Giáo Đầu sấn lên một bước, rồi giơ gậy vụt luôn một cái nữa.
Lâm Xung xem những cách tiến thoái của Hồng Giáo Đầu hơi loạn, liền giơ gậy lia từ mặt đất lia lên một cái rất mạnh, Hồng Giáo Đầu không kịp giở tay đỡ, bị đầu gậy của Lâm Xung đánh vào đầu một cái nên thân, đoạn rồi bật hẳn cây gậy ở trong tay đi, mà ngã xuống đất.
Sài Tiến thấy vậy mừng reo lên, rồi gọi người lấy rượu ra rót mừng Lâm Xung một chén, còn Hồng Giáo Đầu thì ngã xuống sân mà gượng mãi không sao dậy được, chúng thấy thế ai cũng cười ầm cả lên, rồi túm vào để đỡ Hồng Giáo Đầu dậy. Hồng Giáo Đầu bò được dậy lấy làm hổ thẹn quá chừng vội lẻn cút đi lúc nào, không ai biết nữa.
Bấy giờ Sài Tiến dắt tay Lâm Xung vào nhà trong, mời ngồi đánh rồi lại sai đem tiền thưởng cho Lâm Xung, Lâm Xung từ chối không được, sau bất đắc dĩ phải cảm ơn, mà nhận lấy cho xong. Đoạn rồi Sài Tiến lưu Lâm Xung ở luôn trong trại năm bảy hôm nữa, thiết đãi rất là long trọng. Sau đám công sai thấy lưu luyến quá lâu, bèn có ý thúc giục, để cho Lâm Xung ra đi.
Sài Tiến biết thế không lưu được, liền đặt tiệc tiễn hành, và viết hai phong thư đưa cho Lâm Xung mà dặn rằng:
– Quan Đại Doãn ở Thương Châu đối với tôi rất là tử tế, mà thấy người Quản doanh hay là Sai Bát ở đấy thì lại là thân mật với tôi lắm, vậy tôi gửi hai phong thư này, xin ngài cứ đưa cho họ, tất là họ phải biệt nhãn đãi ngài.
Nói đoạn lấy 25 lạng bạc đưa tặng Lâm Xung, và lấy 5 lạng bạc tặng lũ công sai một thể. Sáng hôm sau cơm nước xong rồi, Sài Tiến sai trang khách quảy hành lý đi theo ba người, bấy giờ Lâm Xung lại đeo gông như trước, và từ biệt Sài Tiến để lên đường.
Sài Tiến tiễn chân ra đến cổng trang, mà dặn rằng:
– Bây giờ ngài sang đây phải bảo trọng lấy thân, rồi đến mùa đông thì tôi xin đưa quần áo rét sang để ngài dùng cẩn thận.
Lâm Xung bái tạ mà rằng:
– Tấm lòng nhân hậu của Quan Nhân, bao giờ tôi báo được.
Đoạn rồi hai tên công sai cũng bái tạ Sài Tiến mà đi.
Ân cần trong lúc chia tay,
Anh hùng ly biệt cho hay khác thường!
Trưa hôm ấy, ba người đi tới thành Thương Châu, liền cho đám trang khách trở về, rồi ba người cùng mang lấy khăn gói hành lý mà vào chầu nha để đệ trình công văn.
Khi Châu Doãn xem xong, rồi phê một đạo hồi văn giao cho hai tên trở về Đông Kinh, còn Lâm Xung thì giao xuống phòng đề lao để đợi lệnh.
Lâm Xung bước vào phòng đợi ở đề lao, đã thấy bao nhiêu những tội nhân, lao xao chạy đến, bảo với Lâm Xung rằng:
– Ở đây có một người Quản Doanh và một người Sai Bát, đều là những tay ghê gớm bất nhân cả. Nếu có tiền nong đút lót thì họ còn cho được tử tế, bằng không thì họ đút ngay vào nhà hầm làm cho khốn nạn không sao mà chịu được nữa. Lại còn có một cách, nếu mình có tiền cho họ, thì khi bắt đầu vào đỡ phải chịu 100 roi ra oai, chỉ nói dối là có bệnh cũng được, thế mà không có tiền, thì làm thế nào họ cũng đánh đủ 100 roi ấy, dẫu có sống được cũng đến tồi tàn đau đớn mới thôi.
Lâm Xung nghe nói liền hỏi:
– Như vậy thì phải đưa bao nhiêu tiền mới xong?
– Muốn được cho tử tế, thì hai người ấy, tất phải đưa mỗi người 5 lạng bạc mới xong.
Đương khi nói chuyện, thì đã thấy tên Sai Bát đến hỏi rằng:
– Tên nào là tên phạm tội sung quân mới đến? Đâu?
Lâm Xung thấy hỏi vậy, bèn đứng lên nói rằng:
– Thưa chúng tôi đây ạ.
Sai Bát thấ Lâm Xung nói vậy, mà không có tiền nong gì đưa ra, liền biến hẳn sắc mặt đi, rồi trỏ vào Lâm Xung mà mắng rằng:
– Thằng này gớm thực, sao mầy trông thấy tao mà mầy không lạy? Mầy có biết khi ở Đông Kinh làm nên tội ác thế nào? Thế mà đến đây mầy còn lên mặt với tao à? Tao nom mặt thằng này xám xì lại, như thế là đời mầy không có lúc nào mà ngóc cổ lên được đâu? Mầy là đồ băm không đứt, đánh không chết, mà lại lạc vào tay ta, để rồi chốc nữa ta cho mầy biết.
Sai Bát vừa nói vừa mắng, tháo thốc luôn một hồi, mắng lấy mắng để làm cho Lâm Xung muốn nói cũng không biết nói vào đâu được nữa! Lũ tội nhân đương đứng quanh đấy, thấy vậy thì lảng vảng cút cả mỗi anh một nơi.
Bấy giờ còn một mình Lâm Xung đứng lại, đợi cho hết cơn gắt, liền lấy ra 5 lạng bạc đưa cho tên Sai Bát rồi làm bộ vui cười mà nói rằng:
– Thưa bác, tôi có 5 lạng bạc gọi là có chút lòng thành xin bác nhận giúp cho.
Sai Bát trông thấy 5 lạng bạc liền hỏi:
– Cái này là đưa cho ông Quản Doanh với tôi nữa đây, có phải không?
– Không, đây là tôi kính tặng riêng ngài, còn ông Quản Doanh thì tôi đã có mười lạng bạc đây, để tôi phiền bác đưa giúp hộ cho.
Bấy giờ tên Sai Bát nhìn Lâm Xung rồi cười mà bảo rằng:
– Lâm Giáo Đầu, tôi nghe tiếng Giáo Đầu đã lâu, thực là một tay hảo hán ở đời, chẳng qua Cao Thái Úy thù hằn mà hãm hại đấy thôi, nhưng thế nào mặc lòng, sau này tất nhiên cũng khá, vì một người tướng mạo đường đường, mà lại có tiếng tăm lừng lẫy như Giáo Đầu thì làm chi mà chẳng phen chức trọng quyền cao uy quyền to tát… !
Lâm Xung nghe đến đó đã chán cả tai, liền nói lên rằng:
– Vâng, thôi trăm sự nhờ ở bác cả, đây tôi có bức thư Sài Đại Quan Nhân gửi đến, phiền bác làm ơn đưa cho ông Quản Doanh giúp hộ.
Nói đoạn đưa bức thư ra cho viên Sai Bát.
Sai Bát nói:
– Được lắm, có bức thư của Sài Đại Quan Nhân, thì cũng như thêm 10 lạng bạc nữa rồi còn ngại điều chi? Nhưng nếu lát nữa Quản Doanh có đến đây, gọi đánh 100 roi ra oai, thì Giáo Đầu cứ bảo là mới ốm dậy, để rồi tôi nói đỡ cho, như thế thì người khác họ khỏi ngờ.
Nói xong nhận lấy thư và tiền rồi đi ra.
Lâm Xung thấy thế thì thở dài, than một mình rằng:
– “Tha hồ nghĩa nặng tình sâu, Anh em máu mủ chẳng đâu bằng tiền” thế gian nói không sai câu gì cả!
Bấy giờ tên Sai Bát nhận 10 lạng bạc và một bức thư của Lâm Xung, thì chàng ăn xén đứt đi 5 lạng, chỉ còn có 5 lạng, đưa lên cho Quản Doanh, mà tán tỉnh Lâm Xung là tay giỏi tay tài, chỉ vì Cao Thái Úy giá vạ vừa oan, chứ chẳng có tội chi là nặng, vả chăng lại có thư của Sài Đại Quan Nhân gửi đến đây, thì tất nhiên phải xử lý cho khác người ta mới được.
Quản Doanh xem thư xong, rồi cho người đòi Lâm Xung lên điểm danh. Khi Lâm Xung lên tới nơi Quản Doanh bảo ngay rằng:
– Anh là phạm nhân ở bên Đông Kinh mới đến đây phải không? Theo như luật cũ có đức Thái Tổ Vũ Đức Hoàng Đế, phàm người nào mới đến sung quân, tất phải chịu 100 roi đòn ra oai trước đã, vậy tả hữu đâu, đem tên phạm mới ra đánh cho ta!
Lâm Xung nhớ lời Sai Bát dặn liền kêu lên rằng:
– Bẩm, chúng tôi đi đường xa bị bệnh chưa được khỏi, xin hãy cho tạm khất ít bữa, sẽ xin theo lệnh.
Tên Sai Bát đứng bên đỡ lên rằng:
– Người y hiện đương có bệnh thực, xin ngài hãy khoan thứ cho hắn.
Quản Doanh nghe nói truyền rằng:
– Hiện nay người khán thủ ở Thiên Vương Đường mắc hạn đã lâu, vậy để cho Lâm Xung sang thay người đó.
Quản Doanh cũng ưng thuận liền, phê giấy cho Sai Bát đưa Lâm Xung sang Thiên Vương Đường. Sai Bát dẫn Lâm Xung vào phòng đề lao, lấy hành lý rồi cùng ra đi mà bảo rằng:
– Giáo Đầu ôi! Tôi thực là hết lòng hết sức, mới để cho Giáo Đầu ở Thiên Vương Đường này, chỉ sớm khuya quét tước dầu đèn, rất là nhàn hạ. Giáo Đầu thử xem những người khác xem, có phải là làm vất vả cả ngày, mà không được yên không? Lại còn những anh không có gì, thì còn đút vào trong hầm đất, chết không ra chết, sống không ra sống, thế thì khổ biết bao nhiêu!
Lâm Xung nghe nói thì cảm ơn, rồi đưa mấy lạng bạc nữa cho Sai Bát mà bảo rằng:
– Phiền bác làm ơn giúp tôi thế nào cho tôi được tháo gông ra một thể?
Sai Bát vâng lấy vâng để, rồi về kêu với Quản Doanh, mà tháo gông cho Lâm Xung ngay lập tức.
Từ đó Lâm Xung coi giữ ở Thiên Vương Đường, sớm hôm chỉ đèn hương quét tước trong nhà, không có việc chi là khó nhọc. Quản Doanh với Sai Bát, anh nào cũng đã vớ được ít tiền của Lâm Xung đút lót, cho nên cũng phó mặc tự do mà không sai khiến đến. Thỉnh thoảng Sài Đại Quan Nhân lại gửi sang cho ít quần áo tiền nong, để Lâm Xung chi dụng, thành ra đôi khi Lâm Xung lại được dư dật, mà cứu đỡ cho bọn tù túng thiếu đói chung quanh.
Sớm hôm thay đổi, ngày tháng lân la, cái thân hào hiệp giang hồ dẫu bó buộc vào nơi cương tỏa, nhưng một mình ăn ở ra vào, cũng chẳng có điều cho là thúc bách băn khoăn, bởi thế mà hạ hết đông sang, cảnh trời đã xoay chuyển thế nào không biết.
Một hôm vào khoảng giữa buổi trưa, Lâm Xung lững thững ra ngoài cửa đình, đi bách bộ chơi, chợt thấy có người gọi ở phía sau mà hỏi rằng:
– Lâm Giáo Đầu! Ngài đi đâu mà lại ở đây?
– Lâm Xung nghe gọi lấy làm ngạc nhiên, không hiểu là ai, liền quay đầu lại xem.
Ngậm ngùi nước thẳm non xa,
Nào ai quen biết đâu mà hỏi han?
Chẳng hay con Tạo đa đoan
Còn mang oan nghiệt mà toan ghẹo người?
Thôi thôi chấp hết chuyện đời
Gan già nuốt lệ gượng cười đã quen
Bốn phương trăng gió giáp gìn,
Đi đâu mà chẳng là duyên giang hồ?
Lời bàn của Thánh Thán:
Văn chương là một thứ lạ, ví như mây mái trên trời non sông dưới đất, hoa cỏ thú cầm…thiên hình vạn trạng, biến ảo khôn lường…Hỡi ôi văn chương diễn đạt hay là sáng tác, nếu không như muôn hình biến ảo thì không bao giờ lộ ra hết những cái hay cái thú của văn chương?
Ta nói thế là sao? Như chuyện đánh Lâm Xung ở giữa rừng, mà Trí Thâm tới cứu, nhà sư đâu đến như ở trên trời xuống vậy. Nay xem phép tả thuật, sao mà thấy biến ảo như thế? Đoạn thứ nhất, mới thấy thuyền trượng đưa đến, đoạn thứ hai, một hòa thượng nhảy ra, đoạn thứ ba, nhà sư áo trắng dùng thuyền trượng giới đao, đoạn thứ tư mới rõ là Trí Thâm. Nếu đem họ Công Cốc, Đại Đái hai nhà danh sử viết ra, cũng nói từ thuyền trượng, đến nhà sư…song chưa bằng ở đây chép ra rất đột ngột, mà có thứ tự, đương lúc nguy nan của truyệïn nhân, chợt đâu một chuyện diễn ra, hoãn lại, khiến độc giả cũng kinh tâm loạn mục huống chi lũ công sai khi ấy khiếp sợ không dám hỏi tên họ, bút pháp đến thế rất là biến ảo.
Lại như hồi trên tả Lâm Xung, không thể không gác chuyện Trí Thâm vì về bước sinh ly của Lâm Xung phải tả luôn cho thấy thống khổ. Đó là cái khéo của phép hành văn, cho đến hồi này mới tả theo miệng Trí Thâm thuật lại, là kể từ lúc Lâm Xung gặp nạn đúng như lời thuật của Trí Thâm đã dự biết rồi khác nào mưa rừng theo gió vậy.
Lại lúc công sai tức giận Trí Thâm, lẽ nào chẳng hỏi, vừa hỏi đã bị ngay Trí Thâm chặn họng không dám hỏi nữa. Độc giả cũng không biết rõ là ai. Cho đến lúc Trí Thâm khoe thuyền trượng, Lâm Xung nhân đó nói ra như người ấy đã nhổ cây dương liễu tại chùa Đại Tướng Quốc đã trả lời gián tiếp công sai hỏi từ trước, mà không được trả lời, một nhân sự đâu tới biết rằng phải hỏi đến thì không nói, thế mà sau không hỏi, lại có sự nói ra, khác nào Rồng ở trên cây, thấy giải đằng đông thấy móng đằng tây, thật là ngòi bút kỳ diệu!
Lại như Hồng Giáo Đầu muốn đấu võ, lại gặp Sài Quan Nhân mời uống rượu, đấy đã một lần nhụt lại khiến người ta trong bụng không vui, mà Lâm Võ Sư ngần ngừ chưa dám, đến lúc đấu võ, được bốn năm hiệp, Lâm Giáo Đầu nhảy ra, nói rằng còn bị đóng gông, xin ngừng lại tháo gông, khiến Sài Tiến xin tháo gông xong đã, hai ba lần nhụt lại thò ra, khiến độc giả bút phép viết lên kỳ tuyệt.
Lại như lúc Hồng Giáo Đầu vào tỷ thí, một phần tả Hồng Giáo Đầu, một phần tả Lâm Giáo Sư, một phần tả Sài Đại Quan Nhân, có thể gọi là rất phức tạp và rất vội vàng, thế mà trung gian còn tả thêm hai người công sai, thì tác giả phải tĩnh tâm nhanh việc mới nổi.
Lại như Sai Bát nói ra mấy lời lật mặt, sau tiếp tả luôn Sai Bát mấy lời vui vẻ biết người, văn tự so lên, trở nên hài hước, đó là ba lan của văn chương, cần ỡ sự xẩy ra gần mới hay, nếu xảy ra xa nhau, không lấy gì làm thú! Nếu như bỗng dưng thấy thuyền trượng xẩy đến, rồi sau thuyền trượng ra đi, ba lan chỉ ở một thiên đầu với cuối; Lâm Xung khi đến, Sài Tiến đi săn, Lâm Xung ra đi, Sài Tiến trở về, chỉ trong một truyện từ đầu tới cuối. Đó lại là một điều nhận ra như thế.
Những chuyện như thế, đều như máy mài, non sông, cỏ hoa, cầm thú…kia biến ảo khôn lường, truyện Thủy Hử phép văn như vậy, nên xét cho ra.
Trong một hồi này, ngoài chính văn ra, tả đến bàng văn, xem chuyện đút của, mấy lần chí ý; như Lục Ngu Hầu lót cho công sai 10 lạng bạc còn hứa khi xong việc, thì thêm 10 lạng nữa, 1 lần đáng ngán; Ôi! Lục Ngu Hầu là người thế nào, mà lót 10 lạng bạc, mà 10 lạng bạc có đáng kể đâu, mà cần có một người tới đút, khiến Lỗ Trí Thâm biết mà cứu tới nơi, công sai không làm gì nổi, 2 lần đáng ngán: Ôi 10 lạng bạc, toan tính với nhau, mà tính mạng Lâm Xung chẳng kể, rồi hai người bàn bạc đánh trả lại 10 lạng bạc cho xong, 3 lần đáng ngán; Bốn người ở trong hàng mà hai người tính vụng ngoài 10 lạng bạc, không có việc gì hơn hỏi thăm Sài Tiến đi vắng, trang khách cũng không nói săn đón, lại rằng: Các ông chẳng may, nếu Sài Quân ở nhà, thì phải có cơm rượu tiền nong đối đãi, 4 lần đáng ngán; Rượu thịt tiền nong, đối với tiểu nhân mới nên nói rủi may, mà Hồng Giáo Đầu khinh miệt Võ Sư, cũng rằng đến gạt rượu cơm tiền nong, 5 lần đáng ngán; Ôi tiểu nhân khinh miệt quân tử chẳng phải vật chất, mà thôi, Võ Sư muốn tháo gông, Sài Tiến lót 10 lạng bạc, công sai cũng bằng lòng, 6 lần đáng ngán; Bạc kia để sẵn, phép luật triều đình, cũng đến nể nang, mà Hồng Giáo Đầu thua cuộc, đoạn Đại Quan Nhân đem 25 lạng bạc khiến nên, 7 lần đáng ngán; Của sẵn để đấy, thân phận danh dự không tiếc, Sài Tiến nêu ra, do 25 lạng bạc, 8 lần đáng ngán; Dẫu rằng thánh hiền hào kiệt, có tâm sự quang minh, cũng phải do đấy kính yêu, nếu bằng không thì rất là nhạt nhẽo, hai công sai cũng vì 5 lạng bạc, cho nên ra khỏi, Lâm Võ Sư tạ ơn, hai công sai cũng tạ ơn, 9 lần đáng ngán; Có của ấy thì thù ghét cũng thân, thú vật cũng mến, hết sức ra ngoài thân phận, Sai Bát tranh lấy, đã tranh của Quản Doanh 5 lạng bạc, thế mà khi chửa đưa, thì ra mặt chửi mắng khi đã đưa tiền, thì giở mặt khen lao, 10 lần đáng ngán; Ngần xưa tin nhau, không đổi lòng ngay, Võ Sư lót 10 lạng bạc cho Quản Doanh, Sai Bát ngắt 5 lạng, chỉ đưa 5 lạng, 11 lần đáng ngán; Có của thì cái gì mà chẳng trọn vẹn, không có của còn ai giúp sức, bọn tù được Lâm Xung giúp đỡ, 12 lần đáng ngán, chỉ vì có của cho người, mà cảm Lâm Xung ân nghĩa, ai cũng ngợi khen, tiếng khen đoạn của tạo nên thì kẻ sĩ thường nghèo, chẳng dám ở nhà học đạo, mà theo với thế gian thì chẳng biết gì thời vụ, há chẳng đáng thương thay!
Bấy giờ Lâm Xung thấy người gọi, liền quay lại xem, thì nhận ra là Lý Tiểu Nhị, ở Đông Kinh khi trước, liền hỏi lên rằng:
– Kìa Tiểu Nhị! Nhà ngươi cũng ở đây sao?
Nguyên tên Tiểu Nhị khi trước còn làm công cho một tửu điếm ở Đông Kinh, thỉnh thoảng lại được Lâm Xung giúp đỡ cho ít nhiều, sau tên ấy ăn cắp tiền của chủ, bị người ta bắt được đem đến nộp quan, Lâm Xung lại che chở cho, rồi cho tiền để đến hồi thoát nạn. Đến khi tên ấy không muốn ở Đông Kinh nữa, thì Lâm Xung lại cho tiền nong làm vốn, để đi kiếm chỗ khác mà làm ăn.
Khi ấy Lý Tiểu Nhị thấy Lâm Xung quay lại hỏi; liền cúi xuống lạy chào mà rằng:
– Thưa ân nhân, từ khi được ân nhân cứu vớt cho đi, sau lại bị lênh đênh không gặp, mà lần lữa đến mãi Thương Châu, tìm vào một tửu điếm họ Vương để ở, khi ở đấy được ít lâu, thì hàng quán một ngày một phát đạt, mà khách hàng ăn ai cũng đến khen là làm ăn sạch sẽ. Bởi vậy chủ nhân có lòng yêu dấu mà gả con gái và bắt gửi rể ở luôn ngay đó. Tới nay hai ông bà ấy chết đi rồi, mà con trai không có, cho nên vợ chồng con được thừa hưởng ngôi hàng ấy mà buôn bán ở đây, vậy dám hỏi ân nhân có việc gì, mà cũng đến đất này như thế?
Lâm Xung trỏ lên cái kim ấn ở trên mặt mà đáp rằng:
– Ta chỉ vì lão Cao nó không bằng lòng, cho nên nó sinh sự bắt sung quân ở đây, hiện nay quan sai ta giữ Thiên Vương Đường đó.
Lý Tiểu Nhị nghe nói, liền mời Lâm Xung về tửu điếm, bắt vợ ra lạy chào mà nói:
– Vợ chồng chúng tôi ở đây đương buồn về nỗi không có ai là người thân thích, thế mà nay lại được ân nhân đến đây, thì thực là hạnh phúc vô cùng.
Lâm Xung thấy vậy liền đáp rằng:
– Tôi bây giờ đương cơn hoạn nạn thế này, chỉ e có điều làm giảm mất danh giá của vợ chồng anh thôi.
– Sao ngài dạy thế, tiếng ngài lừng lẫy khắp cả mọi nơi, còn ai không biết đến bao giờ, nay ngài ở gần đây, nếu có quần áo gì, xin cứ đưa ra ngoài này, để nhà tôi vá khâu giặt giũ, không hề dám quản công.
Nói đoạn liền dọn rượu ra thiết đãi Lâm Xung, rồi mãi đến tối mới đưa về Thiên Vương Đường để nghỉ. Từ đó Lý Tiểu Nhị thỉnh thoảng lại mời Lâm Xung ra chơi uống rượu, hoặc khi lại đưa các thức ăn uống vào trại cho Lâm Xung, còn các thức quần áo giặt giũ, vá may đều nhờ ở tay vợ chồng Tiểu Nhị, nhân thế Lâm Xung cũng được thư nhàn dễ chịu, mà đôi khi có được đồng nào lại đưa cho vợ chồng Tiểu Nhị, để thêm làm vốn buôn.
Tháng ngày thấm thoát, một hôm vào giữa mùa đông, Lý Tiểu Nhị đương đứng ở cửa, chợt trông thấy có một người đi vào trong hàng ngồi đó, rồi lại có một người nữa nối gót theo vào sau. Người đi trước trông ra dáng một viên chức quan quân, mà người đi sau thì ra vẻ tên lính hầu chi đó.
Khi hai người vào cùng ngồi ở một bàn, Lý Tiểu Nhị liền hỏi:
– Các ngài xơi cơm rượu chăng?
Người kia đưa ra một lạng bạc cho Lý Tiểu Nhị mà bảo rằng:
– Bác hãy cất tiền này đi, rồi cho tôi bốn bình rượu ngon ra đây, rồi lúc nào có khách sẽ bày các món ăn lên, không cần phải hỏi.
– Ngài định mời ai đến đây?
– Tôi phiền bác vào trong dinh mời giúp ông Quản Doanh và ông Sai Bát ra đây giúp. Nếu các ông ấy có hỏi là ai mời thì bác cứ nói rằng: “Có Quan Nhân ngồi đợi có việc cần”nhé.
Lý Tiểu Nhị vâng lời, một lát hai người cùng đến.
Khi tới nơi hai người kia đứng lên chào Quản Doanh và Sai Bát, rồi mời ngồi. Quản Doanh có ý rụt rè mà hỏi rằng:
– Chẳng hay các ngài ở đâu tới, chúng tôi không được biết?
– Xin các ngài hãy ngồi chơi, rồi một lát ngài xem thư đây sẽ biết.
Nói xong quay ra báo Tiểu Nhị lấy rượu, và bày các thứ lên. Đoạn rồi rót rượu mời hai người kia uống, rồi quay lại bảo Lý Tiểu Nhị rằng:
– Thôi anh cứ đi chỗ khác, để đây còn nói chuyện riêng, nếu có việc gì đây sẽ gọi.
Tiểu Nhị vâng lời, rồi quay ra ngoài cửa, sẽ bảo với vợ rằng:
– Hai người này ta lấy làm lạ lắm.
– Sao mà lấy làm lạ?
– Ta xem hai người cùng nói tiếng Đông Kinh, mà cũng biết đến Quản Doanh và Sai Bát cả. Sau khi ta vào rót rượu, thì chỉ nghe Sai Bát nói câu gì lại có ba chữ “Cao Thái Úy” ở đấy? Chẳng hay việc này có quan hệ đến Giáo Đầu Lâm Xung chăng? Để ta ở đây, đằng ấy thử ra lối sau nghe lóng xem sao?
– Hay là gọi Lâm Giáo Đầu ra đây, để nhận xem có phải không?
– Chết nỗi. Ôâng ấy nóng tính, hơi một tí là đốt nhà giết người ngay, nếu bây giờ ông ấy ra đây, mà quả là người đối thủ với ông ấy, thì tất nhiên là sinh sự lôi thôi lụy cả đến mình chứ không chơi. Thôi cứ vào đấy nghe xem sao đã.
Người vợ lấy làm phải, liền chạy vào nghe ngóng một lúc, rồi chạy ra bảo với Tiểu Nhị rằng:
– Ba bốn anh đó nói thì thầm gì, không nghe được câu nào cả, về sau người kia đưa ra một gói bạc cho Quản Doanh và Sai Bát, ý hẳn tiền nong cho đó. Rồi thấy Sai Bát gật gù bảo rằng:
– Được, việc ấy cứ để mặc tôi, thế nào tôi cũng kết quả được tính mạng nó.
Vừa nói đến đó, thì đã thấy trong kia gọi món ăn lên, Lý Tiểu Nhị chạy vào đưa món nấu lên, thì thấy trong tay Quản Doanh hãy còn cầm một phong thư ở đó. Bấy giờ mấy người quay ra ăn cơm xong tính tiền hàng đưa trả cẩn thận rồi, Quản Doanh, Sai Bát đứng dậy về trước, còn hai người kia đi ra sau.
Vừa đi được một lát, thì Lâm Xung ở đâu chạy đến. Tiểu Nhị liền mời vào điếm ngồi chơi, rồi đem các câu chuyện vừa rồi kể rõ từng ly từng tý cho Lâm Xung nghe, rồi lại nói rằng:
– Việc ấy nghe chừng có quan hệ đến ân nhân, cho nên tôi đương định tìm để nói cho ân nhân biết.
Lâm Xung nghe nói liền hỏi Tiểu Nhị rằng:
– Người ấy tướng dạng ra thế nào?
– Bẩm người ấy vào trạc 30 tuổi, tướng ngũ đoản, mặt trắng bệch, mà không có râu ria gì cả.
Lâm Xung nghe nói kinh ngạc mà rằng:
– Nếu vậy thì chính thằng Lục Ngu Hầu rồi, thằng ăn mày ấy lại muốn đến đây hại ta hay sao? Trời ơi! Nếu ta gặp nó bây giờ, thì phải làm cho nó nát thịt tan xương nó mới yên được! Nói xong hằm hằm đứng dậy mà đi ra phố, mua một con dao găm rồi giắt vào lưng, rồi đi khắp các nơi để tìm Lục Ngu Hầu.
Vợ chồng Tiểu Nhị thấy vậy lấy là kinh sợ, mà nghe ngóng suốt ngày hôm ấy, cũng không thấy tin tức gì cả.
Sáng hôm sau Lâm Xung lại dậy sớm, giắt dao đi lùng khắp cả mọi nơi tìm Ngu Hầu không thấy mà trong dinh cũng không có điều chi là khác, liền chạy ra hàng bảo với Tiểu Nhị rằng:
– Đến hôm nay cũng chưa việc gì là làm sao?
Tiểu Nhị nói:
– Nếu vậy, thì càng hay lắm, ân nhân cứ phóng tâm mặc đấy là xong.
Sau Lâm Xung lại đi tìm Lục Ngu Hầu đến ba bốn hôm luôn, mà cũng không thấy đâu, thì trong bụng đã nguôi nguôi dần mà không nghĩ đến nữa.
Chợt đến hôm thứ sáu, Quản Doanh gọi Lâm Xung đến mà bảo rằng:
– Ngươi ở đây đã lâu, mà Sài Đại Quan Nhân cũng không tiến cử cho ngươi được, vậy có một chỗ Thảo Đường ngoài cửa Đông Môn 15 dặm, xưa nay vẫn nộp cỏ tháng để lấy tiền, có một tên lính già coi giữ ở đó, nay ta muốn đài cử cho ngươi ra thay, để lão lính già lại về ở Thiên Vương Đường, vậy ngươi nên thu xếp, rồi ta sẽ bảo Sai Bát đưa ra.
Lâm Xung vâng lời, rồi đi ra ngoài phố bảo với vợ chồng Lý Tiểu Nhị rằng:
– Hôm nay lão Quản Doanh cắt ta ra coi ở thảo trường, là ý làm sao?
Tiểu Nhị nói:
– Ở đó lại tốt hơn ở Thiên Vương Đường, vì mỗi khi thu cỏ, thì lại được tiền thường lệ để tiêu. Xưa nay nếu không đút lót cho họ, thì bao giờ lại được làm những việc như thế?
– Họ không mưu hại ta, mà lại sai ta ra chỗ tốt, là nghĩa làm sao?
– Cái đó cũng cần phải nghĩ, ân nhân cứ đi, hễ không việc gì là tốt rồi, duy có một điều là ân nhân đi xa thế, thì chúng tôi lại không năng được hầu hạ mà thôi.
Nói đoạn dọn rượu ra mời Lâm Xung uống, Lâm Xung uống rượu xong, lại trở về Thiên Vương Đường, lấy khăn gói và hành lý, giắt dao găm vào lưng rồi vác một cây gậy con mà theo Sai Bát đi ra thảo trường.
Bây giờ đương độ nghiêm đông lưng trời mây kín, gió bấc đìu hiu, mưa tuyết âm thầm, rất chiều lạnh lẽo. Lâm Xung theo Sai Bát đến thảo trường, thấy ở ngoài đắp toàn tường đất, giữa có cổng lớn đi vào. Khi vào tới nơi thấy có bảy tám gian lá, xung quanh xếp toàn cỏ ngựa, giữa có hai gian thảo sanh, người lính già đương đốt lửa sưởi ở trong đó.
Khi đó Sai Bát bảo với tên lính già rằng:
– Quản Doanh sai tôi dẫn Lâm Xung ra đây để thay cho lão về coi ở Thiên Vương Đường, lão lập tức đi ngay.
Lão già nghe nói, liền lấy chìa khóa, dẫn Lâm Xung đi khắp nơi, mà giao phó rằng:
– Trong kho đây có quan biển ký, mà mấy đống có đều có số hiệu cả, tôi xin giao đủ từng ly, và tất cả các chìa khóa đây nữa.
Nói xong đếm mấy đống cỏ chỉ cho Lâm Xung biết rồi trở vào thảo sảnh thu thập gói áo để đi. Khi sắp ra đi lại bảo với Lâm Xung rằng:
– Ở đây có đủ các thức mâm bát, nồi niêu và hỏa lò, tôi xin để đây cho ông dùng.
Lâm Xung vâng, nhận rồi bảo lão già rằng:
– Bên Thiên Vương Đường tôi cũng có đủ, ông đến đấy lại xin dùng những thứ của tôi.
Lão già lại trỏ lên cái bầu lớn treo ở vách mà rằng:
– Nếu khi uống rượu, thì cứ đi về phía đông cách đây chừng 2, 3 dặm thì có hàng rượu ở đó.
Nói xong rồi từ biệt Lâm Xung, mà cùng với Sai Bát ra về.
Bấy giờ Lâm Xung cổi để các đồ chăn áo, vào ngồi một nơi, rồi ngồi bên cạnh đống lửa để sưởi. Một mình trông trước trông sau thấy nhà cửa tồi tàn dột nát mà mỗi khi gió thổi, thì lại chuyển đi ầm ầm, liền nói lẩm bẩm rằng: “Cái nhà này khó lòng mà giữ cho qua được mùa đông, vậy khi nào hết tuyết ta phải vào trong thành tìm anh thợ đất nó sửa lại ngay cho mới được.”
Nói đoạn lại quay vào đống lửa để sưởi, Khi được một lát, thấy trong mình hãy còn rét lạnh, lại nhớ đến lời dặn của lão già khi nãy; có thể mua rượu được, liền xăm xăm dậy, đậy đống lửa lại, lấy một ít tiền giắt vào lưng, rồi đeo bầu khoác nón bước ra nhoài cổng, khóa chặt cửa lại mà đi sang bên phía đông.
Khi ấy gió lạnh căm căm, Lâm Xung dày đạp đống tuyết mà đi, chẳng khác gì ngọc vỡ châu rơi ở trên đường vậy. Vừa đi được nửa dặm đường thấy có một tòa miếu làm ngay đó, Lâm Xung bèn đứng lại cúi đầu lễ mà khấn thầm rằng:
– Dám xin thần minh phù hộ cho tôi, rồi sau tôi xin đốt vàng lễ tạ.
Khấn xong lại đi một lúc nữa, đã đến một chỗ có nhà cửa đông đúc, Lâm Xung liền tìm một hàng rượu đi vào.
Khi tới nơi chủ hàng hỏi Lâm Xung rằng:
– Khách ở đâu đến đây?
Lâm Xung trỏ vào cái bầu mà nói rằng:
– Nhà ngươi có nhớ cái bầu này không?
Chủ hàng xem ra cái bầu mà nói:
– Cái này của lão quân ở trong thảo trường phải không?
– Chính phải đó.
– Nếu vậy thì xin mời ông ngồi đây uống rượu mấy chén cho đỡ lạnh đã.
Nói xong lại thái một đĩa thịt bò ra, rót một hồ rượu nóng lên mời Lâm Xung. Lâm Xung ăn uống xong lại mua thêm một miếng thịt, và một bầu rượu nữa, rồi tính tiền trả chủ hàng mà về.
Bấy giờ gió càng to, mưa tuyết xuống lại càng nhiều lắm. Lâm Xung đi lật đật về tới thảo trường, mở khóa cổng đi vào thì bỗng ngạc nhiên mà kêu lên rằng: “Trời ơi! Cái thảo trường kia đổ mất rồi, ta ở vào đâu cho được!”Đoạn rồi lại e đống lửa ở trong chưa tắt, mà lỡ ra bốc cháy thì nguy, liền lách tay vào sờ xem, thì thấy nước tuyết tưới vào lạnh như tro tàn vậy, Lâm Xung lại lần vào sờ lên giường kéo được một cái chăn khoác lên trên mình, thì thấy mặt trời sắp tối, bèn nghĩ vẫn vơ một mình, không biết nghỉ đâu cho tiện?
Đương cơn nhà nát vách tan
Đem thân mưa gió tồi tàn thêm nguy!
Mới hay vận mạng bất kỳ
Phút nào được mấy họa thì đến luôn
Lâm Xung đương ngần ngại lo âu, chợt nhớ đến tòa miếu ở bên đường, thì nghĩ ngay ra một cách đến nằm tạm một đêm, liền chống gậy khoác khăn vác cả đồ đạc rồi khóa cổng lại tử tế, mà đi đến đó. Khi tới nơi bước vào trong cổng miếu, thấy bên cạnh có một hòn đá lớn, chàng liền vần hòn đá lại, đè chặt cánh cổng mà đi vào trong miếu.
Trong miếu có một tòa Sơn Thần Tượng, ngồi ở bên điện, hai bên có hai vị Phán Quan, và một tên tiểu quỷ đứng hầu, lại có giấy vàng bỏ lung tung một đống ở đó, Lâm Xung để gậy và bầu rượu lên trên đống giấy, rồi giũ sạch tuyết ở trên mình, cổi bỏ áo ngoài và nón ra, mà để lên trên bàn thờ. Nói đoạn ngồi xuống đó kéo chăn đắp nửa chân dưới mà lấy rượu thịt ra đánh chén.
Đêm khuya tuyết giá, trời đông,
Rượu bầu lạnh ngắt lửa lòng nóng gan
Cơn say say cả giang san,
Hỏi chi họa phúc tuần hoàn uổng công!
Đương khi Lâm Xung uống rượu một mình, thì bỗng nghe tiếng nổ lốp bốp ở gần đấy, chàng liền ngó cổ ra chỗ vách miếu để xem, thì thấy bên thảo trường lửa cháy rần rật bốc lên, chẳng khác gì trận Xích Bích hỏa công, mà Tào Tháo bị khốn với Chu Lang vậy.
Chàng thấy vậy liền vớ cây gậy chạy ra cổng, toan mở cửa để đi cứu hỏa, bất đồ lại nghe thấy có tiếng người nói lao xao ở đằng kia đi đến, chàng liền nấp ở trong cổng để nghe xem sao? Bấy giờ nghe kỹ thấy tiếng chân ba người đi đến trước cổng miếu, đẩy cổng toan vào nhưng lại bị hòn đá đè chặn ở trong, cho nên đẩy mấy lần cũng không được liền cùng nhau đứng ở thềm cổng, mà xem lửa ở bên thảo trường.
Đoạn rồi nghe thấy có một người ở trong đám ấy nói rằng:
– Làm mẹo thế có kỳ diệu hay không?
Lại có người nói rằng:
– Cái đó là nhờ Quản Doanh và Sai Bát, có lòng chịu khó giúp cho, mới được như thế, để về Đông Kinh tôi sẽ kêu Thái Úy cho ngài được thăng chức chuyến này.
Lại có kẻ nói rằng:
– Phen này thì Lâm Giáo Đầu tất chết, chứ chẳng sai, thế là bệnh Nha Nội có thể khỏi được rồi đó.
Anh kia lại nói:
– Thằng Trương Giáo Đầu gớm lắm, ba bốn phen nhờ người đến nói, nó nhất định không nghe! Nay con rể chết rồi, thì phỏng có giữ được không? Ấy cũng chỉ vì lão Trương Giáo Đầu không thuận mà bệnh thế Nha Nội càng ngày càng nặng, cho nên chúng tôi mới phải sang đây, nhờ đến các ngài đó.
Một anh thì lại nói:
– Bây giờ tôi nhảy vào trong tường, cứ mỗi đống củi lại cho một bó lửa, tính tất cả đến mười mấy bó lửa, rồi còn chạy đi đâu được nữa?
Anh kia lại ra dáng đắc ý mà rằng:
– Có trốn được thoát hôm nay thì cái tội đốt thảo trường cũng đến chết thôi.
Bấy giờ một anh nói rằng:
– Thôi bây giờ chúng ta đi về trong thành đi.
Một anh lại giữ lại mà rằng:
– Khoan, ta hãy xem một lúc nữa, rồi ta nhặt một vài cái xương của nó đem về, để cho Thái Úy biết là chúng ta thạo việc.
Khi đó Lâm Xung nghe rõ tiếng ba người, biết là một tên Sai Bát, cùng Lục Ngu Hầu và Phú An ở đó, thì trong bụng tự nghĩ rằng:
– Gớm thực, quân này định sát hại ta đây. Nếu nay trời không thương ta, mà cái nhà kia không đổ, thì có lẽ ta bị quân này đốt chết chẳng chơi. Quân súc sinh này để nó làm chi làm hại thế gian nữa?
Nghĩ đoạn, sẽ vần hòn đá đè chặn cánh cổng, để ra một bên, rồi cầm gậy mở cánh cổng bước ra, mà quát lên rằng:
– Quân súc sinh này, mầy chạy đi đâu được nữa không?
Ba anh kia nghe thấy vậy, thì kinh chạy, nhưng lại cuống cẳng không sao chạy được, Lâm Xung liền giơ gậy đánh cho Sai Bát một cái gậy ngã quay ra đấy. Lục Ngu Hầu kinh sợ rụng rời kêu xin tha tội, còn tên Phú An thì giơ cẳng chạy cho mau để thoát. Bất đồ chạy được mươi bước, thì Lâm Xung đã nhảy theo, đánh cho một gậy ngã lăn xuống đất, rồi quay lại quát Lục Ngu Hầu rằng:
– Thằng xỏ lá kia, mầy chạy đi đâu?
Nói xong, xông đến dí đầu gậy vào bụng Lục Ngu Hầu ngã sóng soài ra đất, rồi lấy chân đè chận lên bụng, rút thanh dao găm ra trỏ vào mặt mà mắng rằng:
– Đồ khốn nạn này, ta với mầy có thù hận gì, mà mầy làm hại ta đến thế? Mầy phải biết giết người còn có thể tha được, chứ cái lòng độc ác ấy không thể nào mà dung thứ được đâu?
Lục Ngu Hầu rên rỉ kêu rằng:
– Ngài ôi! Việc ấy là Thái Úy sai tôi, chứ bỗng dưng tôi đâu dám thế?
Lâm Xung cả giận mắng rằng:
– Quân chó đểu này, ta chơi với mày từ thuở bé đến giờ, nay sao nỡ mưu kế hại ta, thế mà còn chối xoen xoét là không phải tại mầy… được mầy hãy nếm con dao ta xem.
Nói đoạn liền cởi phăng áo Lục Ngu Hầu ra, rồi đưa dao sả từ trên bụng sả xuống, rồi lấy ruột gan ra cầm ở tay.
Khi nom thấy Sai Bát cựa cạy toan chạy, Lâm Xung lại cầm dao đến bảo rằng:
– Thằng này nữa, mày cũng hùa đảng vi nó, để ta cho một dao nhân thể.
Đoạn rồi giơ dao cắt đầu Sai Bát bêu lên trên gậy, rồi lại quay lại cắt cả đầu Phú An, và đầu Lục Ngu Hầu, mà buộc túm tóc ba cái đầu vào với nhau, xách vào để ở bàn thờ trong miếu. Bấy giờ Lâm Xung lại mặc áo đội nón, đem rượu ở trong bầu rót ra uống hết, rồi vất bầu và chăn ra đấy, mà vác gậy giắt đao đi ra.
Vừa đi được 2, 3 dặm, thì thấy thôn dân đương lao xao kẻ thừng người gậy, kẻ câu liêm đổ xô ra thảo trường để chữa cháy, Lâm Xung gặp bọn ấy liền bảo rằng:
– Các ngươi cứ đến đấy mà chữa cháy để ta đi báo quan.
Nói đoạn vác gậy chạy đi thực nhanh. Bấy giờ mưa tuyết càng ngày càng mạnh, Lâm Xung cắm đầu cắm cổ đi mãi về phía đông, ước chừng gần hai trống canh, nghe trong mình lạnh rét quá chừng, liền đứng dừng quay cổ lại xem, thì đi cách thảo trường đã xa lắm rồi. Vời trông đằng trước hãy còn một khu rừng cây cối um tùm, trong đó có mấy gian nhà lá, bị tuyết đè xiêu vẹo, lại có bóng đèn ở trong vách soi ra.
Lâm Xung mải mốt chạy đến đấy, đẩy cửa bước vào thấy một lão nhà quê già, cùng dăm ba đứa trẻ ngồi quây quần xung quanh đống lửa để sưởi, chàng lại chạy đến gần mà nói rằng:
– Xin chào các ngài, tôi là lính ở trong Thương Thành, đi qua đây bị tuyết mưa ướt lạnh, xin vào ngồi nhờ, để hơ nóng một chút, xin các ngài rộng cho.
Lão nhà quê nói:
– Bác cứ ngồi đấy mà hơ nóng, có ai cấm đâu.
Lâm Xung liền ngồi gần lại vào đống lửa để vừa sưởi vừa hơ áo. Được một lúc trông thấy bên cạnh đống tro để một vò rượu, hơi bốc sặc cả lên, Lâm Xung liền nói với lão nhà quê rằng:
– Tôi có tiền lẻ đây, nhờ ngài để cho ít rượu để uống.
Lão già không thuận mà đáp rằng:
– Ở đây chúng tôi phải thay đổi nhau để canh kho thóc, trời rét mướt như thế này, mà có bằng ấy rượu, đến chúng tôi cũng không đủ uống, còn lấy đâu để lại được nữa.
Lâm Xung lại vật nài mà nói rằng:
– Cụ bớt ra cho tôi vài ba chén rượu uống qua loa cho đỡ rét vậy.
– Lão nhà quê nhất định không nghe mà bảo Lâm Xung rằng:
– Thôi, ông đừng lôi thôi nữa tôi không để lại được đâu.
Bấy giờ Lâm Xung thấy hơi rượu xông lên mũi, thì trong bụng thèm quá, lại hỏi luôn lão nhà quê rằng:
– Thế thì các ông không để lại cho tôi thực à?
– Quái lạ cái bác này, người ta đã tử tế cho vào sưởi ở đây, lại còn đòi rượu uống sao?
Có đi ngay ra không, không thì chúng tôi kéo ra bây giờ đấy.
Lâm Xung nghe nói, nổi giận mà rằng:
– Các anh này vô lễ thực.
Nói xong giơ gậy, lấy thanh củi đương cháy, giơ vào mặt lão già, làm cho râu ria cháy nhẵn nhụi cả một lượt. Lũ nhà quê thấy vậy, thì đứng ùa cả lên, Lâm Xung liền vung gậy đánh rối tít mù làm cho anh nào anh nấy đều chen nhau mà chạy tháo cả. Lâm Xung thấy bọn ấy chạy rồi, thì nói một mình rằng: “Được lắm, chúng bay chạy cả, thì ông mang rượu ra uống một mình vậy”. Nói đoạn trông lên vách có hai cái gáo dừa treo ở đó, liền với lấy xuống một cái, rồi nghiêng vò múc rượu ra uống một mình. Uống một lúc còn thừa một nửa, lại bỏ lại đấy, rồi chân cao chân thấp, vác gậy ra cửa mà đi. Đi được hai dặm đường, thì hơi rượu ngấm ra mà say sưa mê mệt, lại bị cơn gió bấc thổi mạnh quá, làm cho chàng ngã lăn xuống khe núi, mà không động đậy được nữa.
Bấy giờ lũ trẻ nhà quê chạy đi lấy được roi gậy về, mà không thấy Lâm Xung đâu nữa, liền đổ xô nhau đi tìm. Khi tìm đến chỗ khe núi, thấy anh chàng đương nằm khô khoăm ở đó, mà gậy thì vất ra một bên; lũ nhà quê liền reo ầm lên, rồi đem thừng đến trói Lâm Xung, mà bảo nhau đi giải nộp chủ nhân. Mới hay:
Bước chân chưa thoát nạn kia
Mà đâu nạn nọ đã kề tới nơi!
Ông xanh nghĩ cũng nực cười,
Công đâu đùa bỡn với đời mãi rượu?
Buồn tênh cho lũ thôn phu
Trông non Thái cũng như gò cỏn con
Hùm thiêng khi nấp mạn cồn.
Vùng cơn tỉnh dậy phỏng còn xác chăng?
Lời bàn của Thánh Thán:
Trong phép văn chương diễn tả, há phải chỉ tả luôn một mạch của một việc mà thôi, có việc trước gợi mối ra sau, có việc đi qua cũng gợi mối ra sau, như thế há đâu chỉ nói ra một việc. Ôi! Văn tả từ trước, nhằm đích về sau, thì phải biết văn này đương gợi mối văn sau, chẳng phải riêng của hồi này vậy. Đoạn văn còn rớt sau, mà nhằm theo đích trước, thì phải biết văn trước chưa hết, thuộc của tiền văn, chẳng phải hậu văn, có như thế khiến trong lòng độc giả xét thấy như có kim có chỉ mà tin tác giả đã biến ra hai ba việc được, tả việc nào đứt đi việc ấy, thì sao thấy sâu xa, của sự diễn tả trong phép văn chương?
Như vợ chồng tên Lý Tiểu Nhị, đâu phải gặp ngay Lâm Xung trong lao thành, một sự tình cờ được ngộ cố tri, đi lại thân mật, cũng chỉ chú ý ở lúc đứng nghe trộm đằng sau, câu chuyện của đám khách nói, một đoạn kỳ văn, chẳng thể chẳng viết trước ra làm cái mối đầu, đó là việc trước mà gợi ra sau vậy.
Như ở trang gia chẳng chịu về ngay; lại còn uống rượu, khi uống rượu xong thấy cháy thảo trường, thế rồi phải tìm vào miếu nghỉ, để nghe ra manh mối, ứng với câu chuyện hoài nghi bấy nay, và rõ tin tức ở Đông Kinh qua lời Lục Khiêm nói, để từ trong miếu giết bỏ kẻ thù, đấy là đoạn văn tả việc đương xẩy mà gợi mối sau.
Lục Khiêm, Phú An, Quản Doanh, Sai Bát bốn người, bàn việc trong quán hàng, không rõ nói gì, tường chẳng được tường, bỏ đi không thể bỏ đi, nay ở trong tai mắt vợ chồng Tiểu Nhị, chỉ nghe lỏm ba tiếng Cao Thái Úy, đã nhằm vào một đích gì đây, lại thấy hẹn nhau biếu tiền, sau Tiểu Nhị đem thức ăn lên, lại thấy trong tay Quản Doanh cầm một phong thư, nửa kín nửa hở, nửa giấu nửa phô…như văn cảm, không thể vạch ra, như chữ bia tàn, không thể đọc được, nhưng thâm tâm con nhà hiếu cổ, có thể lấy ý ngoài mà xét nổi, như một đoạn ấy, có thể bảo là Thánh làm văn, và qủy làm văn vậy.
Khi giết tù trong cửa miếu ra, đã dùng gậy đánh ngã Sai Bát, tiếp tả Lục Khiêm, tả giết Lục Khiêm chưa xong, tả ngay đánh luôn Phú An hai đứa đã ngã, quay lại rượt Lục Khiêm để giết, vừa mổ xong bụng Lục Khiêm, thấy Sai Bát cựa dậy, mới cắt luôn đầu Sai Bát, treo trên đầu gậy, quay lại cắt cổ luôn Lục Khiêm, Phú An, như thế ba bốn lần để giết ba người, rất có thứ tự, rất có cách quãng, và rất có phương pháp, khúc chiết chẳng hoang mang, chẳng thiếu sót…, đó là Thánh làm văn và quỷ làm văn.
Chuyện xưa nói lại, khi trời oi bức treo tranh mùa rét, khi trời mùa lạnh, treo tranh mùa bức, khiến khách ngồi chơi xem đến mà có ảnh hưởng, thực câu chuyện đáng buồn cười! Nhưng chưa thần kỳ bằng một hồi này, Thi Nại Am tác giả, tả một bức tranh vừa nóng lại vừa lạnh, tả tuyết thì rét thấu xương, tả lửa thì nóng rát mặt, khác nào xưa có vị sư đau bệnh, khi chúng tăng hỏi đến khí hậu thế nào, thì rằng: Khi hàn thì bằng giết Đồ Lê, khi nóng thì cũng bằng giết Đồ Lê (tên nhà sư), nay đọc thiên này, tả hàn cũng hàn bằng giết độc giả, mà tả nhiệt cũng nhiệt bằng giết độc giả, một đoạn văn chương, thực là kỳ tuyệt trong rừng văn nghệ.
Sau vách nhà hàng, nghe bốn người nói, không nghe được kỹ càng rất khéo ở chỗ không nghe được kỹ càng; Trong miếu sơn thần, nghe ba người nói, nghe được kỹ càng, rất khéo ở chỗ nghe được kỹ càng, tuy rằng sau vách nhà hàng, trong miếu sơn thần, hai phen nghe chuyện, đều nghe ra cả, cũng đáng cho đời thấy lối bí của oan gia, thế mà đời nay có bao kẻ ngu khuất mặt nói xấu người ta, thì đâu phải riêng bọn Lục Khiêm này mưu kế.
Trong văn tả tình tả cảnh, nên nhận xét kỹ xem, như hai lần lửa cháy thì rõ chẳng phải lỗi làm cháy tự Lâm Xung, chỉ mang chăn áo đến ở, thấy rõ Lâm Xung phải đến thảo trường vì tính kế một đêm ấy, để vừa tội giết người, đó là ý tứ của người viết chuyện.
Lũ nhà quê đem Lâm Xung giải đến một nơi trang viện, rồi bảo trang khách vào báo với chủ nhân. Bấy giờ chủ nhân còn ngủ chưa dậy, lũ nhà quê bèn đem Lâm Xung đến chỗ bóp gác mà để nằm ở đó. Đến lúc Lâm Xung tỉnh rượu, mở bầng mắt trông ra thấy mình nằm một nơi trang viện rất lớn, thì lấy làm lạ quá mà kêu lên rằng:
– Đứa nào mang ta đến đây thế này?
Lũ nhà quê thấy Lâm Xung kêu, thì cầm gậy đến mà bảo rằng:
– Liệu hồn, mầy còn to mồm nữa kia à?
Bấy giờ có cả lão già bị đốt râu cũng ở đấy, mặt hằm hằm bảo với chúng rằng:
– Nói lôi thôi với nó làm gì, cứ đánh thật lực đi, để chốc nữa quan nhân dậy, sẽ hỏi tội nó.
Nói xong túm vào đánh lấy đánh để, làm cho Lâm Xung không thể nào cựa quậy được nữa. Đương khi nguy cấp, khốn đốn, thì bỗng thấy một tên trang khách kêu lên rằng:
– Quan nhân đã đến đây kia.
Lâm Xung nghe nói, thì lờ mờ nom thấy một vị quan nhân, đương khoanh tay ra sau lưng mà lững thững đi đến, rồi hỏi lũ kia:
– Bây đánh ai thế?
Lũ nhà quê bẩm rằng:
– Đêm hôm qua chúng con bắt được thằng ăn cắp này, xin đem đến để nộp ngài.
Vị quan nhân ấy đi gần tới nơi trông thấy Lâm Xung thì ngạc nhiên kinh lạ, vội thét đuổi lũ kia, mà tự đến cởi trói cho Lâm Xung rồi hỏi rằng:
– Chết nỗi! Giáo Đầu đi đâu, mà bị chúng đem đến đây như thế?
Lũ kia thấy quan nhân xử sự như vậy, thì bảo nhau bỏ đấy mà chạy cút, mỗi đứa mỗi nơi. Bấy giờ Lâm Xung mới liếc mặt nom lên, thì chính là Tiểu Toàn Phong Sài Tiến ở đó liền nói:
– Đại quan nhân cứu tôi với.
Sài Tiến lại hỏi:
– Tại làm sao mà Giáo Đầu lại đi đến đây để đến nỗi chúng làm như thế được?
– Thưa ngài, chuyện tôi nói ra dài lắm, vậy xin ngài hãy cho vào nhà trong, xin kể ngài nghe.
Nói đoạn, Sài Tiến mời Lâm Xung vào trong nhà, ngồi chơi. Lâm Xung liền đem câu chuyện đầu đuôi, từ khi Lục Ngu Hầu cùng mưu với Quản Doanh, Sai Bát để đốt thảo trường cho đến khi chạy trốn đến đây, thuật rõ cho Sài Tiến nghe.
Sài Tiến nghe rõ căn nguyên liền thở dài mà rằng:
– Nếu vậy thì vận quan anh còn bĩ lắm. Nay trời xui khiến lại cho tiểu đệ được gặp quan anh đây, thì xin tạm ở với tiểu đệ ít lâu, rồi ta sẽ liệu đường tiến thủ.
Nói đoạn sai trang khách lấy áo xiêm sạch sẽ ra cho Lâm Xung thay, rồi thiết đãi rượu chè, mà cho Lâm Xung ở đó. Bên kia Quản Doanh dò biết câu chuyện Lâm Xung, liền lập mưu vào báo với Châu Doãn, là chính tay Lâm Xung đã giết Sai Bát, Lục Ngu Hầu, và Phú An, rồi đốt thảo trường mà trốn đi đâu mất.
Châu Doãn nghe báo cả kinh, lập tức cho vẽ hình kê tên, treo thưởng 3.000 quan, để thưởng người bắt được Lâm Xung, rồi phái các viên thám tử đi khắp các chốn thành thị thôn quê để dò la tầm nã rất là cấp bách, bấy giờ Lâm Xung ở nhà Sài Tiến được dăm bảy hôm, bỗng nghe tin thì trong lòng nóng nảy băn khoăn mà nói với Sài Tiến rằng:
– Quan nhân có lòng tốt lưu cho tiểu đệ ở đây, thực tiểu đệ lấy lòng vui lắm, song ngặt vì ngày nay quan quân đương hết sức tầm nã, để truy bắt, ngộ vạn nhất họ lần mò dò bắt ở đây, thì lại thêm phiền lụy đến quan nhân không tiện, vậy tiểu đệ muốn rằng quan nhân sẽ lấy lòng quảng đại mà giúp cho ít tiền, để tiểu đệ tìm đi nơi khác là hơn, ngày sau trời cho có còn sống được, tiểu đệ xin làm thân trâu ngựa, mà đền nghĩa trúc mai.
– Nếu Giáo Đầu có ý e ngại, mà không muốn ở đây, thì tôi có một phong thư để giới thiệu sang một chỗ kia có được không?
– Ngài có lòng tốt như thế, thì còn gì bằng! Nhưng chẳng hay ngài định giới thiệu cho ở đâu?
– Ở Tế Châu thuộc quận Sơn Đông, có một chỗ gọi là Lương Sơn Bạc. Vừng quang rộng hơn 800 dặm, khoảng giữa có thành Uyển Tử và vùng Liễu Nhi; Hiện nay có ba người hảo hán là Bạch Y Tú Sĩ, Vương Luân làm đầu, Mô Tước Thiên Đỗ Thiên làm thứ hai, và Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn làm thứ ba, tụ họp có tới bảy tám trăm lâu la ở đấy. Xưa nay thường có những người nặng tội phạm, trốn tránh vào đấy, thì họ đều dung nạp cả? Bọn ba người ấy đối xử với tôi, cũng hơi có lòng trung hậu, nếu tôi viết thư để quan bác vào đấy, thì tất là được ngay, ngài nghĩ sao?
Lâm Xung gật đầu đáp rằng:
– Ngài có lòng tốt như thế còn gì hơn nữa.
Sài Tiến lại nói:
– Có một điều hơi khó là hiện nay quan quân truy nã bắt ngặt, mà ở chỗ cửa quan con đường đây đi sang châu khác, thì lại có hai viên quan canh cửa giữ tra hỏi luôn luôn, như thế thì khó lòng đi cho lọt được.
Sài Tiến nói xong cúi đầu nghĩ một lát mà ngẩng lên mà bảo rằng:
– Được rồi, tôi có kế này, khả dĩ thoát cho quan bác đi được.
Nói đoạn gọi một tên trang khách lên sai mang một gói hành lý đi trước, ra khỏi cửa quan, đi một quãng xa đứng đợi ở đấy, rồi la sai mấy chục con ngựa và sắp sửa các đồ cung tên để đi săn. Đoạn rồi bảo Lâm Xung cưỡi lên mình ngựa, cùng đi lẫn vào đám đi săn, mà theo Sài Tiến đi ra quan ải. Khi đến cửa quan mấy viên quan coi giữ ở đó, vốn quen biết Sài Tiến đã lâu, liền đứng lên chào hỏi Sài Tiến mà rằng:
– Quan Chầu lại đi săn hôm nay phải không?
Sài Tiến xuống ngựa cúi chào rồi lại hỏi luôn rằng:
– Các ngài có việc chi mà phải canh giữ cẩn thận ở đây?
– Chúng tôi vâng lệnh quan trên Châu Doãn ở đây để tra bắt tên Lâm Xung, phàm các thương khách đi qua đều phải khám hỏi tất cả.
Sài Tiến thấy vậy, liền cười mà bảo rằng:
– Trong bọn tôi cũng có tên Lâm Xung đây, sao các ngài không nhận ra mà bắt lấy.
Hai viên quan liền cùng cười mà đáp rằng:
– Ngài là người biết pháp luật, có bao giờ lại làm như thế! Xin các ngài cứ đi đi cho.
Sài Tiến lại cười mà nói rằng:
– Các ngài lại có lòng tin tôi như thế thì hay lắm, để tôi đi săn có được con gì, xin đem đến biếu các ngài.
Nói xong bái biệt mà lên ngựa, dẫn lũ sau cùng đi.
Khi ra ngoài cửa quan ước chùng mươi lăm dặm thì đã thấy tên trang khách vác khăn gói đứng đợi ở đấy. Sài Tiến liền bảo Lâm Xung xuống ngựa, thay bộ quần áo đi săn, rồi mặc bộ quần áo thường, đội nón dắt dao găm khoác khăn gói, vác thanh đao lớn trên vai, đoạn rồi hai người từ biệt cùng nhau, để Sài Tiến quanh đi săn, mà Lâm Xung thì lên đường trốn sang Tế Châu.
Một lời đã biết đến nhau,
Trăm ngàn nguy hiểm dễ hầu tiếc công?
Bâng khuâng lòng những giận lòng,
Nước non biết mẹo anh hùng này chưa
Trời đông tuyết giá, dặm khách thân cô, từ khi bái biệt Sài Đại quan nhân rồi một mình vơ vẫn trên đường, sớm nghỉ tối đi, trong mười mấy ngày trời, rất là buồn bã. Một hôm trời đã chiều hôm, Lâm Xung đi gần đến một khoảng hồ rộng, chợt trông thấy bên cạnh hồ có một hàng rượu thập thò trong ánh tuyết, chàng liền mải mốt tìm vào để trọ.
Khi vào tới nơi, chàng vừa mới giũ sạch tuyết bám trên áo, bỏ nón và hành lý ra, dựng thanh đao vào một bên, để đặt mông xuống ngồi, thì đã thấy một tên tửu bảo chạy đến mà hỏi rằng:
– Ngài xơi rượu phải không?
– Phải, lấy hai nai rượu ra đây?
Tửu bảo vâng lời lấy hai nai rượu ra, Lâm Xung lại hỏi:
– Có gì nhắm không?
Tửu bảo đáp rằng:
– Có thịt bò tươi, thịt bò chín và thịt ngỗng béo gà non, ngài muốn xơi gì?
– Hãy thái hai cân thịt bò chín ra đây.
Tửu bảo chạy vào một lát, mang ra một miếng thịt bò tướng, và các thứ rau quả để lên trên bàn, rồi rót rượu ra chén. Lâm Xung uống mấy chén rằng rồi đưa mắt trông vào thấy một người, đương khoanh tay đàng lưng, lững thững ở trong đi ra cửa xem tuyết, rồi hỏi tửu bảo:
Tửu bảo cám ơn, uống một chén rượu rồi, Lâm Xung lại hỏi rằng:
– Từ đây đến Lương Sơn Bạc còn xa hay gần.
– Bẩm, đây đi Lương Sơn Bạc, chỉ còn có dặm đường nữa, nhưng phải đi đường thủy, chứ không có đường bộ. Nếu ngài có muốn đi thì phải dùng thuyền mới được.
– Ngươi có thể tìm cho ta một chiếc thuyền không?
– Bẩm ngài, trời sắp tối, mà tuyết xuống ầm ầm thế kia, thì tìm đâu được thuyền?
Lâm Xung nói:
– Ta đưa nhiều tiền đây, người cố tìm cho ta một chiếc thuyền để ta đi.
Tửu bảo nhất định từ nan mà rằng:
– Bây giờ thực là không tìm đâu được.
Lâm Xung nghe nói trong bụng lấy làm khó chịu, lại cất rượu uống luôn mấy chén nữa. Bấy giờ một mình nghĩ trông trước trông sau, càng thấy buồn tênh buồn ngắt, đoạn rồi lại nghĩ ngẫm mà tự ân hận rằng: “Khi trước ta ở kính sư, làm chức Giáo Đầu, cứ hàng ngày lại đi rong chơi phường phố, chè chén vui cười, biết bao nhiêu là thú vị! Thế mà ai ngờ ngày nay lại bị thằng cọp già Cao Cầu kia nó hãm hại ta, làm cho đến nỗi phải chạm dấu vào mặt, đày ải phương xa, rồi lại lênh đênh đến tận chốn này, khiến cho ta có nước không được về, có nhà không được ở, đem ngày những âm thầm mà chứa chất kể biết bao cay đắng, thế thì có đáng giận hay không?” Nghĩ đoạn liền gọi tửu bảo mượn bút với nghiêng rồi nhân khi tửu hứng, giơ lên vách vôi, mà viết tám câu thơ rằng:
Khẳng khái thay! Lâm Xung,
Trung nghĩa dốc một lòng
Giang hồ từng nổi tiếng,
Thiên hạ khét anh hùng.
Thân thế thường chìm nổi.
Công danh ngán bấp bông!
Ngàn sau như thỏa chí,
Lừng lẫy Thái Sơn Đông.
Viết xong vất bút xuống rồi lại ngồi uống rượu ngẫm nghĩ một mình. Chợt đâu thấy người xem tuyết lúc nãy chạy vào, cầm cánh tay Lâm Xung mà nói rằng:
– Bác này to gan thực! Bác ở Thương Châu, làm ra những tội tày đình, hiện quan tư còn đương thưởng tiền để bắt, thế mà lại dám đến đây à?
Lâm Xung quay lại hỏi rằng:
– Bác biết tôi là ai?
– Bác là Báo Tử Đầu Lâm Xung chứ ai!
Lâm Xung tảng lờ đáp rằng:
– Không phải tôi là họ Trương kia mà.
Người kia cười mà rằng:
– Thôi, bác đừng nói lòe tôi nữa, tên bác vừa mới viết trên vách, hãy còn kim ấn đây kia, bác chối sao được.
Lâm Xung biết thế không thể chối được, liền hỏi:
– Anh bắt tôi hay sao?
Người kia lại cười mà đáp:
– Tôi bắt bác để làm gì, bác hãy tôi theo vào trong Thủy Đình này, ngồi chơi rồi sẽ nói chuyện.
Nói xong lại gọi tửu bảo thắp đèn trong Thủy Đình, rồi mời Lâm Xung vào cùng ngồi mà nói rằng:
– Vừa rồi tôi thấy quan bác muốn thuê thuyền đi vào Lương Sơn Bạc, nhưng ở đấy là một cái trại của đám cường hào, quan bác định đến để làm gì?
– Không dấu gì bác, tôi bây giờ bị quan trên truy riết, không trốn vào đâu được, cho nên tôi phải vào đấy mà nhập bọn với họ cho xong.
– Đành vậy, nhưng tất là có ai tiến cử cho bác đây hẳn?
– Có người bạn cũ của tôi ở quân Hoàng Hải, thuộc về Thương Châu tiến cử cho tôi đến đó.
– Có phải là ông Tiểu Toàn Phong Sài Tiến chăng?
– Sao ngài lại biết ông ấy?
– Nguyên ông ấy với các Đại Vương ở trong trại cũng chơi thân với nhau, thỉnh thoảng lại có thư từ đi lại luôn luôn, ngày trước khi Vương Luân mới thi hỏng về, có cùng với ông Đỗ Thiên đến ở nhà ông Sài Tiến được ít lâu, rồi đến lúc đứng dậy ra đi, ông ấy lại tặng đãi tiền nong tử tế.
Lâm Xung nghe nói đến đó, đoán chắc rằng người kia cũng là một tụi ở Lương Sơn, liền hỏi bằng cách lễ phép rằng:
– Thưa ngài tôi thực là có mắt mà không trông thấy Thái Sơn xin ngài tha lỗi, mà cho biết đại danh là gì?
Người kia vội đáp lễ mà rằng:
– Thưa ngài, tôi là thủ túc của Vương Đầu Lĩnh, tên là Chu Quý, nguyên người ở phủ Nghi Châu, huyện Nghi Thủy, đám giang hồ thường gọi tôi là Hãn Địa Hốt Luật xưa nay. Nay trong sơn trại cắt tôi ra giả danh mở một ngôi hàng ở đây, chỉ cốt để thám thính những kẻ qua người lại, ai có tiền của thì lên báo với sơn trại, mà ai côi cút không có gì thì để mặc cho đi, kẻ nào có của cải đến đây, nhẹ ra thì cho uống thuốc mê, mà nặng ra thì tất phải kết quả tính mạng, rồi thái thịt phơi khô mà lấy mỡ đốt đèn ngay lập tức. Vừa rồi vì thấy ngài hỏi thăm đường vào Lương Sơn Bạc, cho nên không dám hạ thủ, sau thấy ngài viết tên lên vách, bấy giờ tôi mới biết ngài là bậc anh hùng có tiếng đã lâu, cũng may mà tôi được gặp ở đây, thực là vạn phúc. Vả chăng lại có Sài Đại Quan Nhân tiến cử, thì ngài tới nơi, tất là được trọng dụng chớ chẳng chơi.
Nói xong sai tửu bảo lại dọn rượu thiết đãi Lâm Xung. Hai người cùng ngồi ở Thủy Đình uống rượu hồi lâu, rồi Lâm Xung hỏi Chu Quý rằng:
– Bây giờ làm sao có thuyền mà đi vào Lương Sơn Bạc được?
– Ngài cứ nghỉ ngơi đây một tối, rồi sáng mai khắc có thuyền để tôi cùng đi với.
Đoạn rồi hai người cùng đi nghỉ. Sáng hôm sau vào khoảng trống canh năm, Chu Quý đã gọi Lâm Xung dậy, súc miệng rửa mặt rồi cùng nhau uống dăm ba chén rượu, ăn qua loa một chút điểm tâm. Lúc bấy giờ trời còn lờ mờ chưa sáng thực, Chu Quý đi ra Thủy Đình, mở cánh cửa rồi lấy một cái cung, đặt tên nhắm vào thẳng một đám lau lách ở trong bến nước mà bắn ra một phát. Lâm Xung thấy vậy, hỏi Chu Quý rằng:
– Bắn như thế là ý gì?
– Đó là hiệu tên của sơn trại ở đây, bắn thế một lát có thuyền bây giờ.
Được một lát, quả nhiên có năm bảy tên lâu la nhỏ, chèo một cái thuyền đến bên cạnh Thủy Đình, Chu Quý liền vẫy Lâm Xung mang các đồ đao trượng hành lý mà xuống thuyền. Thuyền chèo vào vũng Kim Sơn, mà đi đến bến, Chu Quý cùng Lâm Xung bước lên trên bờ để mấy đứa tiểu lâu la, đeo khăn gói vác đao trượng đi theo sau lên sơn trại, còn mấy đứa tiểu lâu la, chèo thuyền tấp về một chỗ.
Lâm Xung lên đến bờ, nom hai bên toàn thị cây lớn đẫy ôm, rồi thấy một tòa Đoạn Kim Đình ở ngay lưng chừng núi. Đi một lát nữa đến một tòa cổng lớn, mặt trước bày dàn các đồ gươm giáo cung nỏ mác phạng roi…toàn xếp những gỗ súc đá đạn rất là oai vệ. Hai bên lối đi dàn các hiệu cờ đội ngũ, rồi lại đi qua hai lần cổng nữa, mới tới cửa trại. Bấy giờ Lâm Xung nhìn khắp bốn mặt non cao, ba tòa cửa rộng, lại có miếng đất phẳng lỳ như mặt kính, chu vi chừng ba bốn trăm trượng. Ở giữa, ngay giữa chỗ khe núi vào là tòa cửa chính còn hai cái phòng xép ở ra hai bên, Chu Quý đưa Lâm Xung đi qua cửa vào đến Tụ Nghĩa Sảnh, thấy khoảng giữa kê một cái ghế chéo, Bạch Y Tú Sĩ Vương Luân ngồi đấy. Bên tả cũng một cái ghế chéo, Mô Tước Thiên Đỗ Thiên ngồi, còn bên hữu một cái ghế nhỏ, Vận Lý Kim Cương Tống Vạn ngồi. Chu Quý đưa Lâm Xung đến trước mặt chào ba người, rồi Lâm Xung đứng bên cạnh Chu Quý.
Chu Quý nói với ba người kia rằng:
– Ông này là ông Lâm Xung làm chức Giáo Đầu dạy 80 vạn Cấm Quân ở bên Đông Kinh, tên hiệu Báo Tử Đầu Lâm Xung vì Cao Thái Úy hãm hại, phải đi đày sang Thương Châu, rồi lại bị người lập kế đốt mất thảo trường, cho nên bất đắc dĩ phải giết chết ba người mà đi trốn vào nhà ông Sài Tiến. Nay ông Sài Tiến có đưa thư tiến cử để nhập đảng vào đây, xin trình để chư huynh biết…
Lâm Xung thấy Chu Quý nói liền lấy thư đưa ra, Vương Luân cầm lấy thư bóc xem rồi, mời Lâm Xung ngồi vào ghế thứ tư, còn Chu Quý thì ngồi vào ghế thứ năm. Nhất diện lại sai tiểu lâu la đem rượu lên rót ba tuần rồi mới hỏi thăm đến chuyện Sài Đại quan nhân.
Lâm Xung thấy hỏi đáp rằng:
– Sài Đại quan nhân chỉ ngày ngày đi ra ngoài nội săn bắn làm vui, không có việc chi là lạ.
Vương Luân hỏi han hồi lâu, rồi tự nghĩ một mình rằng:
– Mình là một anh học trò thi hỏng, chỉ vì bực chí mà dắt Đỗ Thiên lên đây lạc thảo, rồi sau mới có Tống Vạn đem được ít binh mã mà tụ họp thêm vào. Nhưng khốn vì mình đây võ nghệ cũng chẳng biết gì, mà Đỗ Thiên, Tống Vạn thì cũng loàng nhoàng chẳng được bằng ai, vậy mà lại rước một anh này đến đây, trước anh ta đã làm chức Giáo Đầu, tất cao cường võ nghệ, ngộ sau này biết thóp mà tranh chiếm chúng mình, thì cự địch làm sao cho nổi? Âu là ta chối phắt cho hắn đi chỗ khác là hơn. Như thế thì cũng có điều hơi ngại với Sài Đại quan nhân, mà mang tiếng là thằng bội bạc, song cũng không thể nào mà dung được hắn ở đây.
Nghĩ đoạn liền sai đặt tiệc để thiết, Lâm Xung cùng các bạn hảo hán trên trại. Khi ăn tiệc xong, Vương Luân sai tiểu lâu la lấy một cái mâm 50 lạng bạc, và cây lụa lên, rồi đứng dậy mà nói với Lâm Xung rằng:
– Không mấy khi Sài Đại quan nhân lại giới thiệu cho Giáo Đầu đến tiểu trại chúnh tôi, để vào đảng, thực chúng tôi lấy làm may mắn. Song hiềm vì chúng tôi ở đây trại nhỏ, lương ít, nhà cửa chật hẹp, sức vóc yếu đuối, sợ sau này lại lỡ mất đường tiến thủ của ngài. Vậy nay gọi có chút lễ mọn xin ngài chấp nhận lấy, và ngài liệu đi tìm chỗ khác mà lập chí, thì có lẽ tiện hơn. Xin ngài chớ lấy làm lạ mà ngờ bụng chúng tôi.
Lâm Xung nghe nói liền từ chối mà rằng:
– Chúng tôi nghìn dặm tìm danh nhân, muôn dặm tìm minh chủ, nay nhờ được Sùài Đại quan nhân tiến cử đến đây, để cùng các ngài theo đuổi, vậy chúng tôi tuy tài hèn mọn, cũng xin hết sức bình sinh, không có điều chi siểm nịnh, dám xin các ngài rộng lòng cho ở lại đây. Chúng tôi thực không phải là cốt đến đây để lấy tiền tặng của các ngài, xin Đầu Lĩnh xét cho.
– Hãy hay rằng vậy, nhưng ở đây nhỏ hẹp thế này, để ngài ở làm sao được. Ngài chớ nghĩ chúng tôi có bụng gì đâu.
Chu Quý nghe Vương Luân nói liền can rằng:
– Dám thưa Ca Ca tôi nói câu này, xin Ca Ca thứ lỗi cho, trong trại ta đây lương thực tuy ít, cũng có thể lấy thêm được ở các nơi, nhà cửa tuy không chỉnh đốn, cũng có thể lấy gỗ lạt trong rừng mà làm thêm được. Vậy thì Sài Đại quan nhân đã tiến cử Lâm Giáo Đầu sang đây, có lẽ lại để người đi đâu cho tiện? Vả lại Sài Đại quan nhân trước đã có ơn với sơn trại ta đây, nay nếu làm như vậy, mà quan nhân biết ra tất là mang tiếng không hay. Huống chi Lâm Giáo Đầu lại là một người giỏi về võ nghệ, ở đây hẳn cũng làm được việc hay, vậy có điều chi mà ngại?
Đỗ Thiên cũng nói rằng:
– Trong sơn trại ta hẹp gì một người mà không thu lưu được! Nếu Ca Ca làm thế, e khi Sài Đại quan nhân biết đến, thì tất là đeo điều bội nghĩa vong ân. Phương chi ngày trước ta nhờ vả cũng nhiều, thế mà ngày nay tiến cử một người đến đây, mà ta lại thoái thác không nhận, thì nghe sao cho xuôi?
Tống Vạn cũng khuyên Vương Luân rằng:
– Ta nên nể lòng Sài Đại quan nhân mà lưu Lâm Giáo Đầu làm chức Đầu Lĩnh ở đây là phải, nếu không thì bọn giang hồ người ta tất nhiên cười ta là lũ vô nghĩa không ra gì.
Bấy giờ Vương Luân quay ra bảo các người cùng đảng rằng:
– Anh em không biết, người ta ở Thương Châu, đã gây ra những tội tầy trời, nay lại lên sơn trại ta đây, ngộ nhỡ ra không phải là người tâm phúc, mà định đến để dò xét thực hư, thì ta làm thế nào?
Lâm Xung nói:
– Tôi vì phạm tử tội, trốn tránh đến đây một mình, còn có điều chi mà các ngài lấy làm ngờ nữa.
Vương Luân nói:
– Nếu quả thực là có lòng vào đảng với chúng tôi, thì xin nộp một đầu danh trạng để làm tin.
– Vâng, chúng tôi cũng biết vọc vạch được dăm ba chữ, xin cho đem giấy bút đây, để tôi viết đầu danh trạng.
Chu Quý nghe nói cười bảo Lâm Xung rằng:
– Không phải thế, Lâm Giáo Đầu ơi! Phàm đám hảo hán muốn nhập bọn với nhau, tất phải có đầu danh trạng, đầu danh trạng này là xuống núi giết được một người mà lấy thủ cấp lên đây, cho mọi người đều tin theo bụng mình, chứ có phải là giấy đầu danh đâu?
Lâm Xung nói:
– Cái đó thì cũng dễ, để tôi xuống núi, xem có ai là tôi làm được ngay, nhưng chỉ sợ không có ai đi qua lại thì làm thế nào?
Vương Luân ra lệnh rằng:
– Tôi hẹn cho ông trong ba ngày, nếu có đầu danh trạng, thì xin lưu lại ở đây, bằng không thì ông đừng trách chúng tôi nữa.
Lâm Xung cúi đầu vâng lời. Đêm hôm ấy chè chén, xong rồi, Chu Quý lại trở về tửu điếm, còn Lâm Xung thì đem các đồ hành lý đao trượng mà đến ngủ ở phòng khách.
Sáng hôm sau Lâm Xung dậy cơm nước xong, rồi gọi một tên lâu la chở thuyền đưa ra ngoài núi, đến một chỗ đường con vắng vẻ để đợi khách qua lại, mà lấy đầu danh trạng. Đợi suốt từ sáng đến tối, không có một người nào qua lại ở đó, Lâm Xung lấy làm buồn bã, lại phải cùng tiểu lâu la mà cùng trở về sơn trại.
Khi về tới trại, Vương Luân hỏi rằng:
– Đầu danh trạng ở đâu?
Lâm Xung đáp:
– Ngày hôm nay không có một ai qua lại, cho nên chưa làm sao lấy được.
– Nếu ngày mai không có nữa, thì khó lòng mà ở đây được.
Lâm Xung nghe vậy, thì không dám nói gì, song trong lòng hơi buồn bực không vui.
Sáng hôm sau cơm nước xong, lại cùng tên tiểu lâu la xuống núi, tiểu lâu la lại đưa Lâm Xung sang mạn núi bên nam, nấp ở trong rừng, đợi suốt từ sáng đến trưa, cũng không thấy một ai cả.
Mãi sau có bọn tới 300 người, liền lũ với nhau qua đó, Lâm Xung thấy vậy, đành giương mắt nhìn họ đi mà không dám hạ thủ. Đoạn rồi lại rình mãi đến tối, cũng không có một người nào đi qua nữa.
Lâm Xung lấy làm bực dọc, bảo với tiểu lâu la rằng:
– Vận ta đen quá, đến nỗi hai ngày hôm nay không có một mống nào, đi lẻ loi ở đây cả, như thế biết làm sao bây giờ?
Tiểu lâu la nói:
– Ngài hãy cứ khoan tâm, còn một ngày mai nữa, tôi xin đưa ngài sang mạn núi bên đông kia, thì may ra có thể kiếm được.
Nói đoạn cùng trở về sơn trại.
Khi về tới nơi, Vương Luân lại nói rằng:
– Hôm nay thế nào, đầu danh trạng đâu?
Lâm Xung chỉ biết thở dài, mà không biết trả lời làm sao được. Vương Luân lại cười mà bảo rằng:
– Ngày nay lại không có rồi! Thôi tôi hẹn ba ngày, mà nay đã hết hai rồi, còn một ngày mai nữa, nếu không có, thì xin ngài cứ đi đâu cho, chứ không nên gặp nhau nữa.
Lâm Xung nghe thấy vậy, thì trong lòng lấy làm phiền não, chỉ trông trời mà than thở một mình. Hết một đêm hôm ấy, lại đến sáng hôm sau, Lâm Xung lại ăn qua loa một ít cơm, rồi sắp cả khăn gói vào lưng, và vác cây thanh đao lớn, cùng với tiểu lâu la đi xuống phía núi bên đông để đón.
Khi tới sườn núi, đứng nấp ở bên trong khu rừng, ước từ sáng đến trưa, tịch không một ai qua lại.
Bấy giờ gặp buổi tuyết tàn mới tạnh, bóng ác sáng soi, Lâm Xung bảo với tiểu lâu la:
– Vận ta thế này đen thực, còn mặt mũi nào trở lại sơn trại nữa. Vậy bất nhược ngay bây giờ mặt trời chưa tối, ta tiện đây thu lấy hành lý, mà đi tìm nơi khác là hơn!
Vừa nói dứt lời, thì thấy tên tiểu lâu la trỏ tay ra mà bảo rằng:
– Kia kìa! Có phải có một người đi đến kia không?
Lâm Xung quay ra nom, thì quả nhiên có một người đang lừ lừ ở góc núi đàng xa đi đến, chàng liền thở dài một tiếng, ra dáng bất đắc dĩ trong lòng, rồi vác đao nhảy xổ ra.
Người đi đường trông thấy Lâm Xung nhảy ra, thì kêu một tiếng rồi vất gánh xuống đường mà vùng chạy tháo thân? Lâm Xung vội vàng đuổi theo đến chỗ góc núi, thì anh kia chạy ngoắt đi đâu mất không sao bắt được. Bấy giờ Lâm Xung quay lại bảo với tên lâu la rằng:
– Ngươi xem vậy ta thế có ngán không? Đợi ba ngày mới gặp một người, thì nó lại chạy mất, còn làm thế nào được nữa?
Tiểu lâu la nói:
– Không hề chi ngài dẫu không giết được người, nhưng đã có gánh lụa đây cũng có thể thay vào được.
– Nếu thế thì ngươi gánh về trại trước, để ta đứng đây đợi lúc nữa xem sao?
Tiểu lâu la vâng lời, gánh gánh lụa đi về trại trước. Chợt đâu lại có một người to lớn vác một thanh đao ở đâu lù lù đến, Lâm Xung đã mừng thầm trong bụng: “Chắc là trời giúp cho ta phen này hẳn? “
Vừa nghĩ vậy, thì người kia cầm thanh đao đi đến, quát lên như sấm vang rằng:
– Đồ ăn cướp kia, muốn sống thì đem trả hành lý của ta. Chính ta đương muốn bắt chúng bây, nay chúng bây lại còn muốn nhổ râu hùm nữa sao?
Nói đoạn giơ đao nhảy sấn vào mà đánh Lâm Xung, mới hay:
Già gan mới biết gan già,
Giang hồ vùng vẫy ai mà kém ai?
Tuốt gươm đứng dậy hỏi trời:
Nam nhi này chịu thua thời được sao
Không gan ai gọi anh hào,
Không lên, ai biết non cao mấy trùng
Dấn thân trong đám bụi hồng
Một liều bảy, tám, chín lung lung ta quyết liều.
Lời bàn của Thánh Thán:
Toàn Phong là gió dữ, sức nó quay tròn từ đất nổi lên, mới đầu thì những bụi than hợp lai, dần dần làm cho đá chạy cát bay, khiến trời đất tối tăm, người vật đều kinh khiếp, mới gọi là toàn, tức cơn gió Lốc, ý nói gió Lốc vơ những thứ ác dơ bẩn, quét đi một nơi như thế vậy. Bến nước có một số người, cũng từ Lâm Xung tới vậy. Mà vợ Lâm Xung về Bến Nước, thì ra sức của Sài Tiến làm nên. Xét tên của Sài Tiến gọi là Toàn Phong, thì thấy lời kia dữ lắm, thế mà lại cho làm Tiểu (Toàn Phong) là sao? Ví Sài Tiến đối với đám người Bến Nước, cũng ví như một cánh bèo, rồi đến Lý Quỳ cũng vào Bến Nước, khiến trên dưới phân ngôi, làm cho nhật nguyệt đôi vầng không sáng láng, cho nên lấy làm dữ dội những cơn gió, mà gọi là Hắc Toàn Phong (tên Lý Quỳ) nay một kẻ kia là Hắc, thì Sài Tiến lại là Tiểu vậy, mới gọi Sài Tiến làm Tiểu Toàn Phong.
Hồi này một nửa về trước, chỉ bình thường không lạ, song chép việc cũng đơn giản đủ ý, đến nửa hồi sau, tả Lâm võ sư uống rượu trong hàng nét bút như qủy lạ, tự đầu muốn lại vồ người, dẫu ngồi trong lầu gác đọc qua, cũng không thể chẳng vỗ bàn mà kêu khóc vậy.
Tiếp tay tả Vương Luân ghen ghét, đó cũng là thói quen của lũ ấy, chẳng nói làm chi, chỉ duy chỗ ba ngày sang sông, mỗi ngày một tả khác, văn bút như vậy, cũng thấy ly kỳ! Rất kỳ là ngày thứ nhất không thấy bóng người qua; Ngày thứ nhì có đám 300 người qua, làm không đám động tay; Ngày thứ ba sao thấy một người, lại bị chạy mất, phải đợi đến lần thứ hai, mới nảy ra một tay đại hán, đều là những đoạn văn kỳ ảo đặc biệt, không thể bỏ qua. Trong văn có từng chỗ tả tuyết, khéo điểm xuyết ly kỳ…
Ta đọc trong đoạn văn ngày thứ ba, đến chỗ đánh cướp lấy gánh hàng, với câu trời còn chưa tối, thấy rằng Nại Am là một bậc tài tử chính đáng, độc giả đời sau, xem nên lưu ý, cho rõ lối hành văn.
Lâm Xung thấy người kia múa đao đến đánh thì hai mắt trợn tròn xoe, hàng râu hùm dựng ngược, rồi cũng giơ giao ra cự lại, hai bên kẻ đánh người đỡ, chống nhau ước chừng hơn ba mươi hiệp, mà chưa rõ được thua.
Khi đánh được độ hai mươi hiệp nữa, sắp quyết được thua, thì chợt thấy tiếng trên đỉnh núi gọi to lên rằng:
– Hai vị hảo hán hãy khoan tay, đừng đánh nhau nữa.
Lâm Xung nghe vậy, nhảy tót ra ngoài vòng, rồi hai bên cùng đứng dừng đao lại.
Bấy giờ Vương Luân, Đỗ Thiên, Tống Vạn cùng mấy đứa tiểu lâu la xuống núi chở thuyền ra, rồi đi đến chỗ hai người mà nói rằng:
– Hai thanh đao của hai vị hảo hán thực là thần xuất qủy một không ai theo kịp, ông này là Báo Tử Đầu Lâm Xung, là anh em chúng tôi, còn ông mặt xanh kia là ai, xin cho chúng tôi biết tên họ?
Người kia nói:
– Ta là Dương Chí, cháu Ngũ Hầu Dương Lệnh Công, là dòng dõi ba đời cửa tướng, lưu lạc ở Quan Tây. Khi còn ít tuổi có thi võ cử, rồi làm đến chức Điện Tư Chế Sứ Quân, sau đức Đạo Quân xây lăng vạn tuế, sai mười người Chế Sứ ra Thái Hồ, tải đá hoa về nộp kinh sư. Chẳng may đi đến giữa sông Hoàng Hà, bị cơn phong ba đánh đắm thuyền, mất cả đá hoa cho nên phải trốn đi nơi khác, mà không dám về kinh nữa. Nay nhân nghe tin triều đình xá tội, ta định thu nhặt ít tiền để về kinh sư lo liệu ở Cơ Mật Viện mà kiếm kế an thân, dè đâu đi qua đây lại bị các ngươi đánh tên gánh thuê mà cướp mất, vậy các ngươi nên đem trả lại cho ta lập tức.
Lâm Xung nói:
– Nếu vậy ngài là Thanh Diện Thú Dương Chí đó chăng?
– Chính phải.
– Thế thì may lắm, xin mời Chế Sứ hãy vào chơi qua trong trại, xơi chén rượu suông đã, rồi chúng tôi xin nộp lại gánh hành lý.
– Hảo hán đã nhận biết tôi, thì xin trả lại gánh hành lý, còn hơn là cho tôi uống rượu.
– Mấy năm trước tôi vào thi ở Đông Kinh, cũng có được nghe tiếng Chế Sứ, thế mà ngày nay lại được gặp ở đây, thực là may quá, thế nào cũng xin đón Chế Sứ vào chơi qua loa chứ không có ý gì khác cả.
Dương Chí từ chối không được, đành phải theo lũ Vương Luân xuống thuyền mà đi vào sơn trại, Vương Luân cho tìm cả Chu Quý lên Tụ Nghĩa Sảnh, sai bắc bốn cái ghế chéo, để Vương Luân, Đỗ Thiên, TốngVạn, Chu Quý ngồi về bên tả, còn một bên hữu, thì bắc hai cái ghế chéo, để mời Dương Chí, Lâm Xung ngồi. Đoạn rồi sai mổ trâu làm tiệc khỏan đãi Dương Chí. Đương khi uống rượu, Vương Luân nghĩ thầm trong bụng: “Nếu ta lưu một Lâm Xung ở, thì tất nhiên có điều không ổn cho ta, vậy bất nhược tiện đây giữ cả Dương Chí ở lại, để có tay địch thủ với Lâm Xung, thì mới được.”
Cho hay:
Mấy quân bé mệt ở đời.
Chưa đi đã sợ chưa ngồi đã kinh!
Những là lúng túng nghĩ quanh,
Chẳng qua thêm để vận mình mà chi?
Bấy giờ Vương Luân nghĩ vậy, liền đem chuyện Lâm Xung từ đầu đến cuối, thuật lại cho Dương Chí nghe, đoạn rồi bảo Dương Chí rằng:
– Cái này không phải là Vương Luân tôi muốn cử hợp Chế Sứ ở đây đâu. Nhưng tôi thiết nghĩ: Tôi đây đã bỏ văn theo võ, đến lạc thảo đất này, mà Chế Sứ là người có tội, dẫu nay được tha rồi, nhưng cũng khó lòng được phục nguyên chức tước. Vả chăng hiện nay Cao Thái Úy lại coi giữ binh quyền, thì tất nhiên hắn không dùng ngài được, vậy bất nhược ngài tạm dừng ngựa ở đây, để cùng nhau hưởng cái phú quý, kim ngân tửu nhục, mà làm tay hảo hán có lẽ lại hơn, không biết ý ngài nghĩ sao?
– Các ngài có lòng như thế tôi lấy làm cảm ơn lắm, song tôi còn có một người bà con thân ở kinh sư, khi tôi làm việc quan có phiền lụy người ta nhiều lắm, mà chưa sao tạ ơn lại được. Vậy nay tôi muốn trở về qua đấy một phen, xin các ngài trả lại hành lý cho tôi, bằng không thì Dương Chí tôi đành bỏ đấy, mà đi tay không vậy.
Vương Luân cười rằng:
– Vậy thôi, Chế Sứ đã không ở, thì chúng tôi cũng cưỡng bách làm chi. Nhưng xin ngài hãy khoan tâm ngồi đây một tối, rồi sáng mai đi sớm.
Dương Chí cả mừng lưu lại ở đấy một tối. Sáng hôm sau Vương Luân lại làm rượu tiễn Dương Chí, đoạn rồi sai tiểu lâu la quảy hành lý đưa xuống dưới núi mà bái biệt, rồi trở về lưu giữ Lâm Xung ở lại.
Bấy giờ Dương Chí đi ra đến đường cái, tìm một người nhà quê thuê quảy gánh hành lý, mà cho tên lâu la trở về sơn trại, rồi thẳng đường trông nẻo Đông Kinh.
Khi tới Đông Kinh, Dương Chí tìm vào một tửu điếm để trọ, rồi trả tiền cho đứa gánh thuê trở về. Cách vài hôm sau Dương Chí nhờ người đến đút lót ở Khu Mật Viện, để lo bổ Chế Sứ Điện Tư Phủ như cũ. Lúc ấy phải đem các thứ kim ngân tài vật để đưa chỗ nọ, tặng chỗ kia, đến khi hết sạch cả tư trang hành lý, mới xin được giấy khai phục trong Khu Mật Viện, nhưng còn phải đến trình Cao Thái Úy mới xong.
Tới khi đến trình Cao Thái Úy, Thái Úy đem các lý lịch và giấy má ra xem một lượt, rồi cả giận mà rằng:
– Ngươi cùng đi vận tải với chín tên Chế Sứ, thì chín tên kia đã đem về giao nộp từ bao giờ rồi, duy còn có ngươi là đánh mất đá hoa, mà thiện tiện trốn đi đâu mất, quan quân truy nã không ra, thế mà nay lại muốn phục chức hay sao? Tuy rằng ngươi đã có giấy tha, nhưng cũng không khi nào rửa hết tội danh, mà phục chức được.
Nói xong đem các giấy má phê bỏ tất cả, rồi đuổi Dương Chí ra ngoài Soái Phủ.
Cây con đâu có cái tổ chim Hồng!
Quân hèn đâu có cái lượng bao dung nổi người?
Dương Chí trở về nhà trọ, trong bụng lấy làm uất ức mà tự nghĩ một mình rằng:
– Lời nói của Vương Luân khuyên ta thế mà có lý. Nhưng hiềm vì nhà ta, vốn là tiếng tăm trong sạch xưa nay, lẽ nào ta lại đem cái đi thể của tổ tiên mà làm nhơ bẩn cho đành? Bởi vậy ta cũng muốn trở về đây để đem cái tài võ nghệ, cây cao ngọn giáo ra chốn biên đình, hoặc may lập được chút công danh để báo đền quan phụ, thì cũng hả trong lòng một chút. Ai ngờ bị lão Cao Cầu nó cay nghiệt tàn nhẫn, làm cho ta không còn kế chi mà xuất đầu được nữa, chán chưa!
Chàng nghĩ vậy, trong lòng lại phân vân khó chịu, đường xa tiền hết, đất khách quê người, không biết làm sao cho ổn được!
Nhân nhớ đến ông cha ngày trước, còn để lại thanh bảo đao, xưa nay vẫn đeo luôn ở bên mình, liền nghĩ kế đem ra phố bán, để lấy ít tiền mà đi nơi khác lập thân, Khi đem ra bán, đứng ở phố Quần Ngựa, có tới mấy giờ đồng hồ, cũng không thấy ai đến hỏi mua cả, chàng lấy làm nóng ruột, lại vác ra một chỗ náo nhiệt ở trên cầu Thiên Hán để bán.
Dương Chí đứng một lúc thấy người ở hai bên phố đều la nhao nhao bảo nhau rằng:
– Cọp đã đến ta trốn đi.
Đoạn rồi người nào người ấy đổ xô nhau mà trốn vào trong ngõ. Dương Chí thấy vậy, nói lẩm bẩm một mình rằng:
– Họ nói quái lạ! Ở chỗ cấm thành này, còn làm gì có cọp đến đây được?
Nói đoạn xa trông thấy một anh đại hán, người đen chùi chũi, say rượu bứ bự đương chân nam đá chân chiêu đi đến.
Nguyên đó là một thằng vô lại, có tiếng ở kinh sư, vẫn thường gọi là Một Mao Đại Trùng Ngưu Nhị, xưa nay chỉ chuyên nghề rắc rối ở đầu đường cuối phố, gặp ai là cũng dây vào, làm cho lôi thôi khó chịu, mà quan tư ở Phủ Khai Phong không sao trị nỗi. Bởi vậy mà ai trông thấy cũng tránh mặt cho xa, không còn dám đi gần đến.
Bấy giờ tên Ngưu Nhị đi đến trước mặt Dương Chí, dằng tay cầm lấy thanh đao xuống để xem rồi hỏi rằng:
– Anh, của này định bán thanh đao bao nhiêu tiền?
Dương Chí đáp:
– Thanh bảo đao này của tổ phụ tôi để lại, tôi định bán lấy 3.000 quan tiền.
Ngưu Nhị quát lên rằng:
– Đao ăn mày này lại bán đến ngần ấy tiền? Ta cứ mua 30 kẽm một con dao, cũng thái được thịt, cắt được đậu rồi. Con dao khốn nạn này có cái gì tốt mà gọi là bảo đao?
– Thanh đao của tôi có phải như của đám hàng chợ đâu. Nó là bảo đao kia mà…
– Thế nào gọi là bảo đao?
Dương Chí nói:
– Một là có thể chặt đồng chặt sắt mà lưỡi không quằn, hai là thổi lông đi qua được, ba là chém người mà đao không có máu, thế cho nên gọi là bảo đao.
– Anh có dám cắt đồng bây giờ không?
– Anh cứ đem đến đây, tôi cắt cho mà xem.
Ngưu Nhị thấy nói, bèn chạy đến một cái hàng ở cầu, tảo lấy một món tiền đồng, để thành một chồng ở bên cầu, rồi gọi Dương Chí rằng:
– Anh kia, nếu anh chặt đứt được, thì ta trả cho 3.000 quan.
Bấy giờ các người đứng xem, dẫu không anh nào dám đứng gần, song cũng đứng túm ở đằng xa mà nom lại. Dương Chí vén tay áo cầm đao, nhắm cho trúng rồi chém một nhát, cọc tiền đứt hẳn làm đôi. Những người đứng xem thấy vậy, ai cũng reo ầm lên.
Ngưu Nhị quát lên rằng:
– Reo cái gì thế? Anh này còn điều thứ hai, thế nào nữa?
Dương Chí nói:
– Điều thứ hai là thổi lông đi qua được, nếu cầm một sợi tóc thổi qua lưỡi đao thì tất đứt làm đôi.
Ngưu Nhị nói:
– Ta không chắc được như thế.
Nói đoạn nhổ ngay sợi tóc trên đầu, đưa cho Dương Chí mà bảo rằng:
– Anh thử làm cho ta xem?
Dương Chí tay tả cần sợi tóc đưa lên trước lưỡi dao, rồi thổi một cái thực mạnh, sợi tóc đứt làm đôi mà rơi xuống đất.
Ngưu Nhị hỏi:
– Còn điều thứ ba là cái gì?
Dương Chí nói:
– Là chém người mà đao không có máu.
– Thế nào là chém người mà đao không có máu.
– Nghĩa là cầm thanh đao mà chém giết một người, mà máu không kịp vây vào được.
– Ta không chắc được như thế, anh thử cầm đao chém một người cho ta xem?
Dương Chí nói:
– Trong chỗ Cấm thành này, bỗng dưng giết người sao được? Nếu không tin thì mang con chó đến đây, tôi chém cho mà xem.
Ngưu Nhị nói:
– Anh bảo giết người không có máu, chứ anh có nói giết chó đâu?
– Thôi anh không mua thì thôi, đừng nhiễu người ta làm gì thế?
– Anh đưa đây ta xem nào.
Dương Chí nói:
– Không có tiền, tôi không cần chuyện cho xem nữa!
Ngưu Nhị nói:
– Anh có dám giết ta không?
– Tôi với anh trước không thù, sau không oán, việc gì mà tôi giết anh?
– Xin hàng phố làm chứng cho tôi, Dương Chí này hết tiền phải mang đao đi bán, lại bị thằng khốn nạn nó chực ăn cướp đao mà đánh tôi đây.
Bây giờ hai bên hàng phố sợ Ngưu Nhị bằng một phép, không ai còn dám đến gần mà can ngăn nữa.
Ngưu Nhị thét lên rằng:
– Mầy bảo ta đánh mầy…ừ thì ta đánh chết nữa coi sao.
Miệng nói rồi giơ tay lên đánh Dương Chí, Dương Chí vội né mình để tránh, rồi nổi máu nóng lên cầm đao nhằm giữa trán Ngưu Nhị chém cho một nhát, ngã lăn quay xuống đất. Đoạn rồi nhảy sấn vào đâm luôn mấy nhát váo bụng Ngưu Nhị, máu chảy lênh láng ra đường.
Khi đó Dương Chí bảo với phố xá rằng:
– Tôi giết thằng ăn mày này, không việc gì liên lụy đến ai cả. Bây giờ nó chết đây rồi, các ông các bà cứ đi vào Phủ với tôi, để tôi nhận tội cho.
Gươm thần chém chết oan gia,
Trừ loài đê tiện cũng là nghĩa chung.
Đường hoàng thay! Việc anh hùng,
Trời soi đất xét để hòng sợ chi?
Bấy giờ các người hàng phố nghe nói, mới đổ ra đi theo Dương Chí vào Phủ Khai Phong. Tới nơi vừa gặp lúc buổi hầu, Dương Chí cùng bọn hàng phố đi vào công đường, rồi đặt thanh bảo kiếm ra trước mặt, mà bẩm rằng:
– Chúng tôi là Dương Chí, trước làm Điện Tư Phủ Chế Sứ, sau bị đắm mất Hoa Thạch Cương, phải cách chức về. Nay hết tiền tiêu mang thanh đao đi bán, bất đồ bị thằng vô lại là Ngưu Nhị, nó toan cướp đao, rồi lại sinh sự đánh tôi, bởi vậy tôi tức mình đánh nó chết ra đó, hiện có các phố xá làm chứng, xin trình quan lớn biết cho.
Các người hàng phố cũng túm vào làm chứng, mà kêu với quan Phủ rõ các căn nguyên, quan Phủ nghe nói truyền rằng:
– Đã làm nên tội, mà tự ra thú tội, ta tha đánh cho. Nói đoạn sai gông Dương Chí lại, rồi phái hai viên nha, giải Dương Chí cùng các người hàng phố ra cả Thiên Hán Kiều, để khám nghiệm tử thi, mà làm thành văn án. Đoạn bắt các người hàng phố làm đơn khai bẩm, rồi cho về, còn Dương Chí thì giao xuống nhà lao giam giữ.
Bấy giờ các bọn canh giam ở nhà lao, thấy nói Dương Chí đánh chết một con Cọp không lông, thì ai nấy có lòng kính phục tử tế, mà không sách nhiễu tiền nong chi cả. Các người hàng phố ở quãng cầu Thiên Hán thấy Dương Chí trừ được một đứa đê hèn, liều lĩnh quấy nhiễu loài người ấy, thì cũng lấy làm phục, mà bảo nhau đưa tiền nong vào cho Dương Chí tiêu. Còn người giữ phần ăn, thấy Dương Chí là một tay hảo hán mà lại trừ được hại cho người, vả chăng nhà tên Ngưu Nhị, cũng không có một ai mà đến khống khiếu, thì cũng đem văn án mà rút nhẹ bớt đi. Sau hết, án cho Dương Chí là vì đánh nhau lỡ giết chết người. Giam ở đó đủ 60 ngày, rồi đem trình quan Phủ cho thợ thích kim ấn vào mặt, đánh phạt hai mươi trượng, đóng gông giải sang Đại danh phủ ở Bắc Kinh, để sung quân. Còn thanh bảo đao thì để vào công khố.
Khi kết án xong rồi Phủ Doãn phê cho hai tên công sai là Trương Long, Triệu Hổ giải đi. Hai tên công sai vâng lệnh giải Dương Chí ra đến phố cầu Thiên Hán, thì các nhà phú hộ trong phố mời cả ba người, vào một tửu điếm để thiết đãi. Đoạn rồi đưa tiền cho hai tên công sai mà nói rằng:
– Xin các ông nghĩ đến ông Dương Chí, là một người vì dân trừ hại, mà trông nom tử tế giúp cho.
Trương Long, Triệu Hổ đáp rằng:
– Chúng tôi đây cũng biết ông ấy là một tay hảo hán, các ông không phải dặn hai chúng tôi, xin thế nào cũng phải tử tế.
Bấy giờ các nhà phú hộ lại đưa tiền tiễn cho Dương Chí, rồi cùng bái biệt ra về. Dương Chí đưa hai tên công sai về đến nhà trọ, tính trả tiền nong cẩn thận, còn thừa sai làm rượu thiết đãi hai người và mua ít thuốc cao dán vào chỗ bị roi đánh, rồi khoác khăn gói hành lý, cùng hai tên công sai đi sang Bắc Kinh.
Đường đi nắng sớm mưa mai,
Phòng khi hưu thích, ba người cùng chung.
Không bao lâu đã tới Bắc Kinh, ba người liền tìm một tửu điếm để đưa nhau vào trọ. Nguyên quan Lưu Thú ở Đại danh thủ Bác Kinh, vốn là con rể quan Thái Úy Xai Kinh ở trong triều, tên là Lương Trung Thư Húy là Thế Kiệt, là một tên lên ngựa coi quân, xuống ngựa coi dân, uy quyền rất lớn xưa nay. Khi hai tên công sai giải tên Dương Chí vào, đến sảnh sứ, Lương Trung Thư xem văn thư xong, thì nhận ra ra rằng: Khi ngài ở kinh sư cũng có biết Dương Chí, liền hỏi han đầu đuôi các lẽ.
Dương Chí đem căn nguyên chuyện mình, kêu rõ cho Trung Thư nghe, Trung Thư cả mừng phê hồi văn cho công sai về, rồi sai tháo gông cho Dương Chí, mà lưu lại trong sảnh để sai khiến.
Từ đó Dương Chí ở trong Đại danh phủ, sớm khuya hầu hạ rất là siêng năng cẩn thận. Được ít lâu Lương Trung Thư có ý đề cử cho Dương Chí làm một chức võ quan, song lại e các tướng không phục, bèn nghĩ ra một kế bắt các quan quân trên dưới hết thẩy đến ngày mai phải tới giáo trường để diễn võ. Đoạn gọi Dương Chí lên mà bảo rằng:
– Ta có lòng muốn đề cử cho ngươi làm một chức quan võ để có ít lương tiêu, nhưng không biết võ nghệ của ngươi thế nào.
Dương Chí đáp rằng:
– Tôi nguyên là võ cử xuất thân, trước đã làm Điện Tư Phủ Chế Sứ, mười tám ban võ nghệ đều đã thông thạo cả. Nay nếu ân tướng rộng lòng thương mà đề cử lên, cho chúng tôi được rẽ mây trông thấy mặt trời, thì ân đức ấy xin kết cỏ ngậm vành để báo.
Lương Trung Thư nghe nói cả mừng, liền ban cho Dương Chí một bức áo giáp để dự bị ra diễn võ ngày mai.
Sáng hôm sau, bấy giờ đương diệp trung tuần Tháng hai, chiều trời ấm áp gió lạnh mây quang, Lương Trung Thư cơm nước đoạn rồi cho Dương Chí cùng lên ngựa, mà tiền hô hậu ủng đưa ra giáo trường. Khi ra tới giáo trường, đến trước cửa Diễn võ sảnh Lương Trung Thư xuống ngựa, rồi sai bắc một chiếc ghế ngồi ở đó. Hai bên tả hữu đứng dàn giá các hàng quan viên, nào Chỉ Huy Sứ, Đoàn Luyện Sứ, Chánh Chế Sứ, Thống Lĩnh Sứ, cùng là Chánh Bài Quân, Phó Bài Quân, trăm viên tướng tá, mấy đội ngựa quân, rất là uy nghi tề chỉnh.
Trên chốn tướng đài có hai viên Đô Giám, một viên là Lý Thiên Vương Lý Thành, một viên là Văn Đại Đao Văn Đạt, là tay dũng lực hơn người, thống lĩnh các hàng quân mã; đều quay mặt về chỗ Lương Trung Thư ngồi mà cúi chào làm lễ. Đoạn rồi trên giữa Tướng Đài dựng lên một lá cờ vàng, khua trống nổi kén làm hiệu. Bấy giờ trong chốn Giáo Trường, đứng im tăm tắp không hề ai dám nói ra.
Một lát thì là Hồng Kỳ dẫn quân ở trên Tướng Đài lay động, năm quân đều trông lệnh mà sắp sửa chỉnh tề. Đoạn rồi ngọn cờ phấp phới, tiếng trống vang lừng, năm trăm quân đều cầm khí giới trong tay, dàn thành bài trận. Lại thấy ngọn cờ Trắng ở trên Tướng Đài phất lên, thì hai hàng trận quân ngựa đều sắp lượt chỉnh tề đứng ra trước mặt.
Khi đó Lương Trung Thư truyền đòi Phó Bài Quân Chu Cẩn ra thính lệnh. Chu Cẩn ở bên tả trấn nghe lệnh đòi, liền đánh ngựa ra trước cửa sảnh, rồi xuống ngựa ngả ngọn thương mà dạ một tiếng rất to.
Trung Thư truyền lệnh rằng:
– Cho phép Phó Bài Quân ra diễn võ.
Chu Cẩn vâng tướng lệnh vác thương nhảy lên mình ngựa xông ra quay ngược quay xuôi, xông tả múa hữu, diễn mấy bài thương ở trước diễn võ sảnh. Bấy giờ Lương Trung Thư mới truyền Dương Chí ra trước sảnh mà bảo rằng:
– Dương Chí! Ta nghe trước đây ngươi đã làm Chế Sứ ở Điện Tư Phủ bên Đông Kinh, vì phạm tội mới phải tới đây, nhưng hiện nay bốn phương giặc cướp; quốc gia đương lúc cần tài, vậy ngươi có dám ra thử võ nghệ với Chu Cẩn không? Nếu ngươi hơn được Chu Cẩn thì ta sẽ cho ngươi thay vào chức ấy.
Dương Chí cung kính bẩm rằng:
– Ân tướng đã rộng thương, truyền cho như thế, chúng tôi đâu dám sai lời.
Lương Trung Thư liền truyền dắt ra một con ngựa trận, và truyền quan kho lấy đồ quân khí ra chuyện Dương Chí.
Dương Chí vâng lệnh ra sau nhà Võ Sảnh, đem áo giáp của Trung Thư cho mặc vào, rồi thắt đai đội mũ, lưng đeo cung tên, tay cầm thương dài, nhảy lên ngựa mà ra đấu với Chu Cẩn, mới hay là:
Kiếp sinh ví có gặp thì
Tài này sức ấy kém gì ai đâu?
Cảm người lượng cả ân sâu
Anh hùng họa biết mặt nhau phen này
Cuộc đời thay đổi, đổi thay
Hôm nào thế ấy hôm nay thế nào?
Rồi đây cung kiếm ra vào
Chắc rằng xuống thấp lên cao còn nhiều
Lời bàn của Thánh Thán:
Trong phép văn chương, diễn tả ra từng chuyện, có nhiều chỗ giống nhau, và nhiều chỗ khác nhau, những câu chuyện giống nhau, tả ra gọi là phạm vào nhau, những câu chuyện khác nhau, tả ra gọi là tránh xa nhau, văn sĩ diễn tả rất hay ở chỗ khéo phạm đến nhau như một chuyện, song lại biến khác xa nhau, tức đã tránh nhau. Khi phạm đến nhau, rồi lại tránh xa nhau, không một chuyện nào giống hẳn chuyện nào, mới thấy phép văn dũ xuất dũ kỳ, tác giả mới thực là chân chính tài tử. Như ở chuyện này, sau khi tả xong Lâm Xung mua đao báu, rồi xảy ra câu chuyện, cho đến hồi này tiếp tả luôn Dương Chí bán đao báu, rồi cũng xảy ra câu chuyện, hai chuyện cùng phải tội tù, kết lại tưởng như một may một rủi, thế mà cả hai đều phải trốn tránh, không đắc chí với đời, đã thấy phép văn khéo phạm đến nhau, mà lại khéo tị khác nhau.
Lại rằng: Ta đọc Thủy Hử đến đây, không khỏi ngậm ngùi, mà than rằng: Tác giả Thủy Hử, muốn bảo là chẳng phải tài tử, sao có thể được? Hỡi ôi! Trong lòng kẻ có tài phi thường, phải có ngọn bút phi thường, có ngọn bút phi thường, phải có sức phi thường, nếu không có tài phi thường, thì làm sao cấu tứ nổi? Mà không có bút phi thường, làm sao mà trổ tài năng? Và không có sức phi thường, làm sao viết nổi bút ấy? Nay xem Thủy Hử tả Lâm Võ Sư, chợt thấy vì bảo đao mà diễn ra văn chương kỳ thái; Tới khi tả Dương Chế Sứ cũng thấy vì bảo đao mà cũng diễn ra văn chương kỳ thái. Hỡi ôi! Tả chuyện hào kiệt không bao giờ hết nay chợt gác chuyện hào kiệt, mà tả bảo đao, đó là mượn cái tài phi thường, mà biết đâu bảo đao là thế thân hào kiệt? Chỉ tả chuyện bảo đao đi đến hứng thú, đã thành ra tả hào kiệt hứng thú ở trong rồi. Tả bảo đao mà ra hào kiệt vậy. Đem bảo đao tả chuyện võ sư, lại đem bảo đao tả chuyện Chế Sứ, hồi trước một thanh bảo đao làm sáng chói võ sư, hồi này cũng một thanh bảo đao làm sáng diễn ra, nổi lên đối trĩ, dùng bút đến thế, rất kỳ hiểm vậy, nếu bảo rằng chẳng phải phi thường, mà xét mặt nhơn ngơn, đối với trăm nghìn người đều nhận xét ra, còn cãi rằng không phi thường sao được.
Chuyện mua đao với chuyện bán đao, diễn ra khác nhau, mà cũng giống nhau, rồi vẫn khác nhau, văn tự từng câu từng chữ, không phạm đến nhau bút pháp tác giả ly kỳ biến ảo, khác nào cảnh lạ như Thái Sơn nổi bên đông, Hoa Sơn nổi bên tây, hai bên đối trĩ ly kỳ, không một chút giống nhau, thì đủ biết rằng ngọn bút loài người, khác nào văn chương tạo hóa!
Dưới cầu Thiên Hán, tả chuyện anh hùng bí lối, khiến người như ngồi suốt đêm đông; gấp tả ngay trước sảnh Diễn Võ, tả chuyện anh hùng đắc ý khiến người như chợt tới đài xuân, lúc buồn thêm một nỗi buồn, khi vui thêm một chuyện vui, đều là tài tác giả phi thường, theo đuổi từng bước theo hình long hổ mà xuất hiện.
Khi đó Dương Chí và Chu Cẩn toan xông ngựa ra để đấu nhau, thì bỗng thấy quan Đô Giám Văn Đạt thét lên rằng:
– Hãy khoan tay.
Bấy giờ Dương Chí và Chu Cẩn đều đứng dừng ngựa lại.Văn Đạt từ thượng sảnh chạy lại bẩm với Lương Trung Thư rằng:
– Dám bẩm ân tướng, vâng lệnh ân tướng, cho hai bên ra thử võ nghệ, cũng chưa biết rằng bên nào thua được, song đao thương là vật vô tình xưa nay, chỉ dùng để giết thù đánh giặc. Nay quân tướng trong nhà tập thử với nhau, mà cũng cứ dùng như thế, lỡ ra hoặc đến tàn tật, hay là thiệt đến tính mạng thế nào thì đối với việc quân có điều không lợi. Vậy dám xin ân tướng truyền cho tháo bỏ trên dưới ngọn thương mà bọc vải chấm vôi vào đó, rồi cho hai tướng phải mặc áo đen, để trông vết trắng mà phân thua được thì hơn.
Lương Trung Thư khen là có lẽ, liền truyền cho hai tướng cứ theo thế để thi hành. Khi buộc thương thay áo xong đâu vào đấy rồi hai người lại lên ngựa để xông ra đấu.
Hai bên đánh nhau ước được 4, 5 mươi hiệp, thì trên áo Chu Cẩn đã be bét có tới 3, 4 mươi dấu trắng, mà bên kia Dương Chí chỉ có một nốt trắng ở trên vai, Lương Trung Thư thấy vậy cả mừng, gọi Chu Cẩn đến trước sảnh mà bảo rằng:
– Quan trước cho ngươi làm chức quân trung Phí Bài, nhưng cứ xem võ nghệ của ngươi như thế, thì phỏng đánh đông dẹp bắc làm sao cho được? Vậy từ nay ta cho Dương Chí thay vào chức ấy.
Trung Thư nói dứt lời, thì quan Đô Giám Lý Thành đến trước bẩm rằng:
– Bẩm ân tướng, Chu Cẩn dẫu đánh thương có kém, song nghề cung nghề ngựa quen giỏi xưa nay, nếu ân tướng truất ngay như thế, thì e nỗi lòng quân không phục, vậy lại xin cho hai bên thử đấu nghề cung nghề ngựa xem sao?
Lương Trung Thư cho là phải, liền truyền cho Dương Chí và Chu Cẩn lại lấy cung tên ra đấu.
Hai người cùng vâng tướng lệnh, đoạn rồi Dương Chí đến chỗ treo cung chọn lấy một cây ngay ngắn, cầm ra tay nhẩy lên ngựa, rồi ra trước Võ Sảnh ngồi lên trên yên ngựa, cúi mình mà bẩm với Trung Thư rằng:
– Bẩm ân tướng cung tên là việc võ, ngộ lỡ ra thương hại đến người, thì bấy giờ làm sao? Xin ân tướng dạy trước cho.
Trung Thư nói:
– Đã là võ phu thí nghệ, thì còn cần chi đến sự tổn thương, cho phép các ngươi cứ bắn, giỏi thì được mà thua chết thì thôi không ngại. Dương Chí vâng lệnh, rồi quay ngựa đi ra trước trận.
Bấy giờ Lý Thành lại truyền cho hai bên mỗi người cầm lá chặn che tên, rồi mới ra trận. Khi ra trận, Dương Chí bảo Chu Cẩn rằng:
– Bây giờ tôi nhường bác bắn tôi ba phát trước, rồi tôi bắn lại sau.
Chu Cẩn nghe nói, trong bụng đã căm tức vô cùng, muốn sao bắn cho Dương Chí một phát suốt óc chết ngay thì mới thích. Về phần Dương Chí nguyên là một tay quan võ xuất thân, cũng đã am hiểu các thủ đoạn xưa nay cho nên cũng không coi vào đâu cả.
Khi ấy trên Tướng Đài phất lá thanh kỳ, thì Dương Chí vỗ ngựa cho đi về bên Nam, rồi Chu Cẩn cũng buông ngựa đuổi theo. Đoạn rồi Chu Cẩn bỏ dây cương xuống yên ngựa, mà tay tả cầm cung, tay hữu cầm tên, nhắm đằng sau Dương Chí bắn ra một phát Dương Chí nghe thấy tiếng dây cung bật đến banh một cái, liền tránh ngoắt ra một bên, thành thử mũi tên bắn vụt ra ngoài mất. Chu Cẩn thấy vậy, trong bụng hơi mừng, lại lấy ra một mũi tên nữa, nhè lúc Dương Chí đi gần, mà nhằm giữa sau lưng bắn luôn một phát nữa. Dương Chí nghe biết tiếng tên thứ hai đã phát thì không né mình để tránh mà cầm cây cung ở tay gạt một cái đúng vào mũi tên kia bắn ngay ra đất.
Chu Cẩn thấy hai phát tên bắn ra đều vô ích cả, thì trong lòng lại bồn chồn khó chịu, quây ra thấy con ngựa của Dương Chí đã đi hết đất giáo trường, mà quay vòng trở lại chính sảnh, chàng bèn cùng quay ngựa lại mà đuổi theo. Bấy giờ lại lấy mũi tên thứ ba mà dùng hết sức bình sinh, nhằm thực đích xác vào chính giữa sau lưng Dương Chí mà bắn ra.
Dương Chí biết vậy, vội ngồi trên yên ngựa, quay mình lại giơ tay lên bắt lấy mũi tên, rồi phóng ngựa vào Diễn võ sảnh mà vất mũi tên của Chu Cẩn xuống. Lương Trung Thư trông thấy cả mừng, truyền lệnh cho Dương Chí ra bắn cho ba phát tên.
Khi đó lá thanh kỳ ở trên Tướng Đài lại lay động, Chu Cẩn liền vất cung xuống đất, cầm lá chắn ra tay, mà vỗ ngựa đi sang phía Nam.
Dương Chí thúc hai chân vào vế, thì con ngựa lốp đốp co cẳng chạy theo, đoạn rồi chàng giương cung bắn ở tay, bắn đứt đến tạch một cái. Đằng kia Chu Cẩn nghe tiếng tên bắn, thì vội quay mình mà giơ lá chắn lên, để đỡ, té ra lại không thấy gì cả. Bấy giờ Chu Cẩn lại nghĩ trong bụng: “Anh này chắc chỉ biết đánh gậy, mà không biết bắn, để đợi khi hắn bắn dứt phát nữa, thì ta sẽ kêu to lên, thế thì ta đắc thắng”.
Chu Cẩn vừa nghĩ xong, thì ngựa đã đi đến đầu giáo trường bên Nam, chàng liền quay cương cho ngựa chạy trở lại.
Con ngựa của Dương Chí thấy con ngựa kia quay đầu lại, thì cũng ngoắt ngay lại đuổi theo. Dương Chí lấy một mũi tên trong túi ra, rồi nghĩ một mình rằng: “Nếu ta bắn vào giữa chỗ lưng sau, thì tất là hắn chết, ta với hắn không có cừu thù gì, mà làm như thế thì không tiện, vậy ta cứ bắn cho hắn bị thương thôi cũng được”.
Nghĩ đoạn tay tả dang ra như đẩy núi Thái Sơn, tay hữu co lại như ôm đứa con đỏ, rồi thấy cánh cung vòng lên, như vòng trăng khuyết, mà mũi tên bắn vụt ra như sao đổi ngôi vậy. Bây giờ nói còn chậm, chứ bấy giờ thì rất nhanh, mũi tên ấy bắn ra, Chu Cẩn chưa kịp trở mình, đã bị trúng ngay vào cánh tay bên tả, ngã lăn xuống đất, còn con ngựa thì chạy thộc ra đằng sau Diễn Võ Sảnh.
Dương Chí vẫn thần sắc tự nhiên như thường, xuống ngựa đến trước sảnh lạy Lương Trung Thư mà nhận chức. Chợt có người ở dưới thềm bên tả, chạy đến kêu lên rằng:
– Khoan khoan hãy nhận chức, để tôi với anh thử đấu một lúc xem sao?
Dương Chí nghe nói bèn quay lại nom thấy người ấy đứng trước mặt Lương Trung Thư mà bẩm rằng:
– Bẩm ân tướng, Chu Cẩn bị yếu mới dậy, cho nên đến nỗi bị thua Dương Chí, nay tiểu tướng dẫu bất tài, xin cho ra đấu với Dương Chí một keo. Bằng có kém thua một tý nào, xin nhường ngay chức của tiểu tướng cho Dương Chí, tiểu tướng không hề dám oán hận điều chi.
Lương Trung Thư trông ra, thì chính là Chánh Bài Quân, ở Đại danh phủ tên là Sách Siêu, vốn người nóng tính xưa nay, việc quốc gia thường hay tranh khí mà xốc vác tiên phong, cho nên ai cũng gọi tên là Cấp Tiên Phong Sách Siêu.
Khi ấy Lý Thành ở trên Tướng Đài nghe thấy vậy, thì cùng xuống trước cửa sảnh mà bẩm với Lương Trung Thư rằng:
– Dám thưa ân tướng, ân tướng đã cắt Dương Chí ra đây, thì tất nhiên là người giỏi, không phải là tay Chu Cẩn đối địch. Vậy để cho Chánh Bài Quân Sách Siêu đọ lại thì mới biết rõ được võ tài hơn kém. Xin ân tướng cho phép thế mới công bình.
Lương Trung Thư nghe nói, nghĩ thầm trong bụng rằng: “Ta cốt đài cử cho Dương Chí, thế mà chúng tướng lại không phục, vậy ta cứ để cho hắn đánh đổ Sách Siêu, thì tất nhiên các cậu dẫu chết, cũng không còn oán hận điều chi được người”. Nghĩ đoạn quay ra bảo Dương Chí rằng:
– Nếu vậy thì ngươi theo quân kho ra mà chọn lấy quân khí, rồi cho mượn chiến mã của ta, để mà ra đấu, nhưng phải cẩn thận, chớ coi thường mới được.
Dương Chí vâng lời tạ ơn, rồi trở ra sắm sửa.
Bấy giờ Lý Thành cũng gọi Sách Siêu ra mà bảo rằng:
– Anh phải biết, anh không như người khác được, lúc nãy Chu Cẩn là học trò anh bị thua rồi, nay nếu anh lại lỡ ra thế nào, thì họ không còn coi đám quan quân ở Đại danh phủ này ra gì nữa đâu. Tôi có con ngựa chiến, ra trận đã quen, và các thứ đai giáp đây, cho anh mượn mà dùng, tất phải dụng tâm cẩn thận, chớ để mất nhuệ khí mà nguy.
Sách Siêu nghe lời, tạ ơn Lý Thành mà ra đi sắm sửa đai giáp.
Khi đó Lương Trung Thư đứng dậy, đi ra trước thềm rồi các quân hầu mang ghế chéo bắc ra chỗ bao lơn Nguyệt Đài để Trung Thư ngồi, vào tả hữu đứng dàn ra hai bên, rồi có một tên cầm tàn đứng che ở đằng sau ghế.
Bấy giờ ở trên Tướng Đài phất hồng kỳ ra hiệu, thì hai bên đều nổi chiêng trống vang lừng, đoạn rồi tiếng trống dứt, thì tiếng pháo nổ lên, mà bên kia Sách Siêu bên này Dương Chí, đều phất ngựa ra đứng dưới cờ mặt trận. Hồi trống thứ hai nổi lên, trên Tướng Đài phất lá Bạch kỳ, thì quan quân đâu đấy đứng im phăng phắc một lượt.
Đoạn rồi lá thanh kỳ trên Tướng Đài lay dộng, rồi chiến cổ thứ ba nổi lên, thì thấy cửa trận tả rẽ ra, tiếng nhạc kêu xoang xoảng, rồi quan Chánh Bài Quân Sách Siêu cưỡi con ngựa bạch của Lý Đô Giám tay cầm quân khi đi ra giữa trận vẻ rất oai nghiêm. Bên kia cửa cờ hữu trận cũng mở ra rồi Dương Chí tay cầm cây thương, cưỡi con ngựa đỏ Thiên Lý tiên phong của Lương Trung Thư, nhạc khua xoang xoảng đi ra, đứng giữa trận địa, nom rất hùng dũng.
Bấy giờ quân kỳ bài cầm cờ lệnh, vỗ ngựa đến trước trận, mà tuyền lệnh rằng:
– Vâng lệnh tướng công, truyền cho hai viên đều phải dụng tâm cẩn thận, bằng có sơ xuất hớ hênh, thì là có phạt. Nếu ai đắc thắng tất có thưởng to.
Hai người được lệnh, đều thúc ngựa ra giáp trận với nhau. Sách Siêu ra dáng tức giận; Múa cây phủ trong tay mà đánh Dương Chí trước, Dương Chí đỡ thương lên đón, rồi hai bên hết sức bình sinh đánh nhau tới 50 hiệp, mà không rõ được thua.
Lương Trung Thư ở trong Nguyệt Đài, ngồi ngây ra xem hai người đấu võ, quan quân đứng ở hai bên cùng các hàng quân sĩ trong trận, đều nom nhau mà thì thầm rằng:
– Chúng ta theo việc quân đã lâu cũng có nhiều phen ra trận nhưng chưa từng thấy hai tay hảo hán như thế bao giờ?
Lý Thành, Văn Đạt đứng trên Tướng Đài, nom xuống đều phải vỗ tay khen là giỏi quá! Văn Đạt lại e trong hai người, hoặc lỡ ra bị đau đớn thiệt hại, liền bảo kỳ bài quan giơ cờ hiệu cho hai bên dừng lại.
Khi đó trên Tướng Đài nổi hiệu thanh la lên, song Dương Chí, Sách Siêu đương hăng đánh để tranh công, không ai chịu dừng tay cả.
Quan kỳ bài thấy vậy, phải quay ra trước trận, mà thét lên rằng:
– Hai tay hảo hán hãy khoan tay, tướng công có lệnh…
Dương Chí, Sách Siêu nghe lệnh mới chịu thu tay thương phủ, mà xóc ngựa quay về bản trận, đứng ở dưới cờ để đợi lệnh.
Bấy giờ Lý Thành, Văn Đạt ở Tướng Đài, chạy xuống Nguyệt đài bẩm với Lương Trung Thư rằng:
– Bẩm Tướng Công, võ nghệ của hai người ấy, đều có thể trọng dụng được lại.
Lương Trung Thư nghe nói cả mừng, truyền lệnh cho Kỳ Bài Quân đòi Dương Chí, Sách Siêu vào, rồi sai phòng Quân Chánh thảo văn án cho hai người thăng chức Đề Hạt. Hai người vâng lệnh lạy tạ Lương Trung Thư, rồi trở ra thay bỏ các đồ nhung phục, Trung Thư lại gọi hai người vào làm lễ tương kiến với nhau, mà dự vào ban Đề Hạt. Đoạn rồi Lương Trung Thư cùng các quan viên lớn nhỏ cùng ăn tiệc ở Diễn Võ Sảnh, mãi đến mặt trời xế hôm mới tan.
Khi trở ra về thấy các phụ lão hai bên hàng phố, đều dắt dúm đi theo ra dáng vui mừng hớn hở, Lương Trung Thư ngồi trên mình ngựa hỏi rằng:
– Các người, dân chúng có việc gì mà vui mừng như thế?
Bọn già lão bẩm rằng:
– Từ khi chúng tôi sinh ra ở Bắc Kinh tới nay, chưa hề bao giờ được thấy hai người hảo hán địch thủ như buổi hôm nay, bởi thế chúng tôi đều lấy làm vui mừng quá đỗi.
Trung Thư nghe nói, trong bụng càng lấy làm thích. Khi về tới phủ, các quan viên đều bái tạ Trung Thư, rồi ai về nhà nấy, duy còn một mình Dương Chí là lưu lại ở phủ Đại Danh mà hầu hạ Trung Thư, sớm khuya rất là cần mẫn. Từ đó Lương Trung Thư lại càng thương yêu Dương Chí, các quan viên gần đó, cũng dần dần kéo đến làm quen mà Sách Siêu thấy Dương Chí võ nghệ cao cường thì cũng dốc lòng kính phục.
Đời người như cái con quay.
Khi im phắc khi xoay xoay tròn
Bây giờ chim đã vào ngàn
Biết rằng sau có lạc đàn nữa không?
Sớm hôm thay đổi, ngày tháng xoay vần, thấm thoát không bao, mà xuân qua hạ lại. Một hôm vào khoảng giữa tết Đoan Ngũ, Xài phu nhân bảo với Trung Thư rằng:
– Tướng Công ngày nay làm đến chức Thống Súy, cầm quyền quốc gia ở trong tay, vậy cái công danh phú quý ấy, ở đâu mà đến nhỉ?
Lương Trung Thư đáp rằng:
– Tôi lúc thuở nhỏ có theo đòi kinh sử, có biết ít nhiều đạo lý, lẽ đâu lại không biết cái công danh phú quý này là của Thái Sơn cất nhắc lên cho.
– Tướng Công đã biết như vậy, mà sao lại quên ngày Sinh Nhật của phụ thân tôi?
– Có khi nào quên được. Đến hôm Rằm tháng sáu đây, là Sinh Nhật của Thái Sơn, hiện tôi đã sai người mua sắm mười vạn kim ngân châu báu, để làm lễ thọ từ tháng trước, chỉ nay mai mua xong là mang dâng đó thôi. Chỉ có một điều tôi còn phân vâng chưa quyết, là năm trước đã sai người đem bao nhiêu kim ngân châu báu để dâng, bất đồ đi đến giữa đường, bị quân gian cướp lấy, đến nay truy nã chưa ra, vậy thì bây giờ biết sai ai đưa đi cho chắc được.
– Hiện nay ở trong phủ biết bao nhiêu quan quân ở đó, Tướng Công há lại không chọn được một người tâm phúc mà sai khiến hay sao?
Lương Trung Thư nói:
– Nhưng mà chuyện ấy còn hơn một tháng trời nữa, để bao giờ mua sắm xong rồi, sẽ chọn người mang đi cũng được, vội gì? Phu nhân cứ an tâm, thế nào tôi cũng chu tất được.
Nói về tỉnh Sơn Đông, phủ Tế Châu, huyện Vận Thành, có một quan Huyện mới, tên là Thời Văn Bân, mới đến nhậm ở đó, một hôm cho hai viên Tuần Tập Đô Đầu là Chu Đồng và Lôi Hoành đến mà bảo rằng:
– Ta nghe trong hạt Tế Châu đây, có một bọn cướp ở Lương Sơn Bạc, xưa nay vẫn thường giết người lấy của mà cự địch cả quan quân. Vả lại e các đám trộm cắp ở hương thôn cũng vùng vẫy theo lên, thì đảng ác tất to mà khó trị. Vậy nay hai các ngươi phải chịu khó đem đám thổ binh, một đằng đi ra cửa tây, một đằng đi ra cửa đông, để chia đường tróc nã giặc cướp đem về giải nộp ở đây, mà không được quấy nhiễu dân gian chi cả. Ta thấy nói ở trên ngọn núi thuộc về Đông Khê có một thứ cây Đại hồng mà không đâu có nữa, vậy các ngươi đi về phải đem theo mấy cái lá cây để ta biết làm tin mới được. Nhược bằng không có cái lá ấy thì tất là man trá, ta sẽ trọng phạt không tha.
Hai người Đô Đầu này, một người là Đô đầu Mã binh coi 24 tên quân và ngựa cùng 20 tên thổ binh; Một người là Đô đầu Bộ binh, coi 20 tên thương đầu mục, và cũng có 20 tên thổ binh nữa.
Người Đô đầu Mã binh họ Chu tên Đồng, mình cao hơn tám thước, râu dài thước rưỡi coi như râu hùm, mặt dài mắt sắc, hơi giống tướng mạo Quan Vân Trường, là một nhà phú hộ ở bản xứ, nhân vì có lòng trọng nghĩa khinh tài, cho nên thường kết giao với đám giang hồ hảo hán, mà học được mọi ban võ nghệ; Người Đô đầu Bộ binh tên là Lôi Hoành, mình dài bảy thước rưỡi, mặt mũi đỏ tía, ria râu xòe như cái quạt, sức vóc khỏe mạnh hơn người, thường nhảy qua được những nơi hào rãnh rộng chừng 3, 4 trượng, cho nên người ta thường gọi ông là Sáp Sí Hổ, nguyên là một tay thợ rèn xuất thân, cũng hơi có lòng nghĩa khí, nhưng tâm địa thì vẫn hẹp hòi.
Hôm đó hai người vâng lệnh Tri huyện, rồi trở về điểm các thổ binh của mình, mà chia đường đi tuần canh. Lôi Hoành dẫn 20 tên đi ra cửa đông, xét nét vùng quanh các thôn xã, rồi trở về ngọn núi ở thôn Đông Khê, nhặt được nắm lá Đại hồng, rồi lại đi xuống thôn để về nhà Bảo Chính.
Bấy giờ trời đã tối, Lôi Hoành cùng quân lính, đi được 2, 3 dặm đường, bỗng đến một tòa miếu Linh Quan, thấy cửa còn bỏ ngỏ, Lôi Hoành liền bảo với chúng rằng:
– Cái miếu này làm sao mà không đóng cửa? Hay là có trộm cắp nấp ở trong này chăng? Ta thử vào soi ở đó xem sao?
Chúng vâng lời, cùng nhau đem đuốc vào soi, thì thấy trên án thư một đại hán cổi trần trùng trục, cuộn áo làm gối mà nằm gáy khò khò ở đó.
Lôi Hoành thấy vậy, đoán chắc là một tay trộm cướp nằm đó, lấy làm khâm phục Huyện quan là thần minh, liền quát một tiếng, sai thổ binh đổ xô vào trói lại.
Anh kia nghe tiếng, toan vùng trở dậy, thì đã bị thổ binh lấy thừng trói chặt cánh tay, mà dong ngay về thôn Bảo Chính.
Buồn tênh cho khách giang hồ,
Bỗng dưng sao lại lần mò đến đây.
Canh trường giấc điệp còn say,
Bừng con mắt dậy mới hay giật mình.
Hóa công cũng giống vô tình,
Làm chi sự bất thình lình trêu ai?
Rồi đây quấy nước đục trời,
Còn thân còn để cho đời biết tay…
Lời bàn của Thánh Thán:
Người xưa có nói: Vẽ cung điện Hàm Dương thì dễ, vẽ Sở nhân đốt lửa thì khó: Vẽ ngàn dặm thuyền bè thì dễ, vẽ nước trào tháng Tám thì khó. Nay đọc truyện Thủy Hử đến hồi Đông Quách tranh công, tả cho có khác vẽ lửa vẽ trào, do một ngọn tuyệt bút. Vì Lương Trung Thư rất yêu Dương Chí, nhằm vào sau đây dùng vào việc Sinh Nhật Thái Sơn, nên yêu để mà sau ký thác việc trọng đại cho nên trước phải lưu ý đề cử làm quan mà cần phải mở cuộc đấu võ ở Giáo Trường cho cônh chúng không còn tị nạnh. Lúc đầu chỉ một Chu Cẩn xin đấu thì lược tả đấu thương, tường thuật đấu cung mã, cũng gọi là một cuộc đấu tài hứng thú, thế mà tác giả lại đem cái tài không bờ không bến, còn diễn ra cuộc đấu võ khác nữa, cho xuất hiện ra một Sách Siêu, chợt thấy ở dưới thềm bên tả xin đấu sức đua tài, khiến Lương Trung Thư thấy sự xảy ra ngoài ý định. Bấy giờ hai người từng giao thủ, mà Lương Trung Thư lưu ý Dương Chí, muốn cho thắng trận, mới cho mượn chiến mã bên kia Lý Thành cũng giúp Sách Siêu mà cho mượn chiến mã, kể ra cuộc đấu có phần sôi nổi gay go…Trước khi hai tay chưa từng cử động tý chút, đã làm cho độc giả chú ý, khác dạng kinh hồn động phách trừng mắt, để tâm chờ đợi, thế mà còn gác chuyện đấu võ, lại tả ra Lương Trung Thư chạy tới Nguyệt Đài, nào đặt tiền thưởng, rượu ngon, trịnh trọng ngồi dưới tàn che quạt rũ, đợi cho mấy lần pháo nổ, trống khua mấy lần phất lên Cờ Đỏ, Cờ Vàng, Cờ Xanh, Cờ Trắng rồi sau mới tả ra hai tay hảo hán xuất trận, khiến độc giả đợi chờ, để tâm trừng mắt, sao khỏi kinh hồn mất vía vì một cuộc tranh công? Đợi đến khi hai người chiến đấu, chỉ tả một câu chính văn: Đánh đến 50 hiệp không phân thắng phụ. Tả đến đấy rồi tiếp làm cho Lương Trung Thư ngây ngô, quan quân cũng ngây ngô, khắp giáo trường không ai nói một câu, chỉ Lý Thành, Văn Đạt hai người luôn mồm khen giỏi, khiến độc giả nghĩ bụng, khắp Giáo Trường ai cũng chú trọng hai tay với chiến mã binh khí, chẳng mình Trung Thư ngây ra, đến ngay độc giả cũng ngây ra, đến khi ra lệnh thu quân, còn tả một câu: Hai hảo hán còn muốn tranh công, không chịu ngừng lại. Hành văn đến thế, khác nào vẽ lửa vẽ trào? Trời sinh tuyệt bút tự có bút mực, chưa có văn này, tự có văn này, chưa có phê bình này vậy. Hỡi ôi! Thú vui thiên hạ, không gì bằng đọc sách, đọc sách không gì bằng Thủy Hử, lại còn nỡ nào chẳng cùng với khoái nhân trong thiên hạ đời sau bên rượu dưới đèn, để tán thưởng áng văn như vậy!
Một hồi sách này, ngu phu đọc đến, thì cho rằng Đông Quách tranh công, để định phận cho Dương Chí, một sự long trời lở đất xẩy ra, có hay đâu chỉ nhằm vào việc Sinh Nhật sau đây mà ký thác Dương Chí, cho nên bỗng không nảy ra một sự như lâu đài lừng lẫy giữa trời, chỉ do Lương Trung Thư yêu Dương Chí vậy. Cho nên trong khi tả Lương Trung Thư lưu ý Dương Chí là những chỗ văn tuy ít, song là chính, mà tả Chu Cẩn, Sách Siêu tỷ thí, văn tuy nhiều rực rỡ dọc ngang lại là phụ bút, nếu đọc không phân ra chủ khách chính phụ thì không nhận được ra những cái hay.
Lôi Hoành sai bọn thổ binh giải tên đại hán ấy về nhà Tiểu Bảo Chính ở thôn Đông Khê để ăn uống, điểm tâm qua loa rồi sẽ giải về huyện sau. Nguyên Bảo Chính thôn Đông Khê là người họ Tiều, tên là Cái, vốn con nhà phú hộ ở trong làng, bình sinh trọng nghĩa khinh tài, hay giao kết bọn hảo hán trong thiên hạ, bao nhiêu người đến ở đó, bất luận là hay dở thế nào, hết thảy đều dung nạp tử tế, rồi đến lúc ra đi, lại tặng đãi tiền nong để mà chi dụng. Chàng ta sức vóc khỏe mạnh, thích nghề roi gậy kiếm cung, mà không cần vợ con bận rộn, suốt ngày chỉ luyện tập gân cốt mà thôi.
Ngoài cửa Đông Môn huyện Vận Thành có hai thôn, một bên gọi là Đông Khê, một bên gọi là Tây Khê, hai bên cách nhau bằng một cái khe lớn. Ngày trước bên thôn Tây Khê, thường có ma qủy hiện hình, ban ngày dắt người xuống dưới khe, mà không ai trị nổi. May đâu một hôm có một người đạo sĩ đi qua, người trong thôn liền đem chuyện kể cho đạo sĩ biết. Đạo sĩ bảo người hàng thôn trỏ đến chỗ ấy, rồi dựng một cái bảo tháp, bằng đá xanh lên để trấn trụ bên khe, thì bao nhiêu ma qủy bên Tây Khê, kéo sang Đông Khê để ở. Bấy giờ Tiều Cái thấy chuyện như thế, lấy làm tức giận, đi sang bên kia khe cướp lấy bảo tháp đá xanh, đem về trấn ở bên đây. Bởi thế người gần đấy ai cũng gọi chàng ta là Thác Tháp Thiên Vương Tiều Cái, mà uy thế lừng lẫy trong thôn, đám giang hồ ai cũng biết.
Khi đó Lôi Hoành cùng bọn thổ binh dong anh hảo hán kia, tới cổng trang, bảo trang khách vào báo cho Bảo Chính biết. Tiều Cái còn đang ngủ chưa dậy, bỗng nghe tin báo Lôi Hoành đến, thì vội vàng gọi mở cửa trang để đón Lôi Hoành và bọn thổ binh vào.
Bọn thổ binh rong chàng hảo hán vào ở một chỗ phòng kia, còn Lôi Hoành thì dẫn mấy tên đầu quân đến thảo trường để chào Bảo Chính.
Bấy giờ Bảo Chính trở dậy tiếp chào rồi hỏi Lôi Hoành rằng:
– Chẳng hay Đô Đầu có công cán gì, mà đêm hôm đến đây làm vậy?
– Tôi vâng lệnh Quan Huyện cùng với Chu Đồng mỗi người đi tuần tiễu một mặt, nhân qua đây nghỉ chân nhờ Bảo Chính một lát, làm phiền giấc ngủ, xin ngài thứ lỗi cho.
Tiều Bảo Chính nói:
– Cái đó có hề chi, xin ngài ngồi chơi xơi chén rượu cho vui.
Nói đoạn, nhất diện sai người nhà dọn rượu lên để thiết đãi, rồi lại hỏi Lôi Hoành rằng:
– Ngài qua tệ thôn đây, có bắt được tên trộm cướp nào không?
Lôi Hoành nói:
– Mới rồi đi qua điện Linh Quan, có một tên đại hán, đương nằm ngủ ở trong miếu, tôi đoán chắc là tay gian quái nằm ở trong đó, nên tôi có cho trói lại để nộp Quan Huyện; Nhân tiện qua đây còn sớm, cũng muốn vào đây để nói cho Bảo Chính biết, để lỡ ra khi quan trên có hỏi đến, thì Bảo Chính cũng được rõ căn nguyên. Người đó hiện còn trói, để ngoài phòng kia.
Tiều Cái nghe nói thì để bụng, rồi lại nói với Lôi Hoành rằng:
– Xin cảm ơn ngài có lòng hạ cố, cho biết đến như thế.
Được một lát thì nhà dọn cơm lên. Thương Châu nói rằng:
– Ngồi đây có lẽ nói chuyện không tiện, vậy xin mời ngài vào nhà trong cho kín đáo.
Liền sai người nhà thắp đèn dọn rượu vào nhà trong, mời Lôi Hoành vào uống rượu, và sai dọn rượu đãi bọn thổ binh luôn thể.
Tiều Cái ngồi tiếp rượu Lôi Hoành, trong bụng nghĩ thầm rằng:
– Trong thôn ta đây làm gì có trộm cướp mà lão này bắt được? Âu là ta lẻn đi xem kỹ xem sao.
Nghĩ đoạn cất chén mời luôn dăm bảy chén, rồi gọi người ra ngồi tiếp Lôi Hoành mà nói rằng:
– Xin mời ngài cứ xơi rượu, tôi xin phép ra cửa một lát, rồi lại vào hầu ngay.
Nói rồi đứng dậy, thắp cái đèn bóng đi ra. Bấy giờ bọn thổ binh đang uống rượu ở nhà ngoài, Tiều Cái liền bảo người nhà dẫn vào phòng người bị trói để xem. Khi đẩy cửa phòng bước vào, thấy một chàng cao lớn lông ngông mình đen chùi chũi, hai bắp chân và hai trái đùi để trần như nhộng vậy.
Tiều Cái giơ đèn soi lên mặt, thì thấy mặt đen trán rộng, hai bên mái tóc có nốt ruồi đỏ, mọc mấy cái lông vàng ở trên, chàng liền hỏi người kia rằng:
– Bác này ở đâu đến đây, tôi không trông thấy ở trong thôn này bao giờ cả.
Người kia đáp:
– Tôi là khách ở xa, muốn đến tìm người ở mạn này, thế mà lại bắt trói tôi cho là trộm cướp, rồi tôi cũng có chỗ phân biện được.
– Bác định tìm ai ở đây?
– Tôi định đến tìm một tay hảo hán ở đất này.
– Hảo hán tên là gì?
– Hảo hán ấy là Tiều Bảo Chính.
Tiều Cái nghe đến đó vẫn điềm nhiên hỏi rằng:
– Bác tìm người ấy có việc gì?
Người kia đáp:
– Ông ấy là một tay nghĩa sĩ hảo hán xưa nay, thiên hạ đã biết tiếng, nay tôi có món quà phú quý muốn tìm đến để mách ông ấy đây.
Tiều Cái nghe vậy thú thực rằng:
– Nếu vậy thì Tiều Bảo Chính chính là tôi đây, mà đương định đến để tìm cách cứu bác đây. Thôi có phải thế thì bác cứ nhận tôi là ông cậu, rồi đến khi tôi đưa bọn kia ra đây, thì bác gọi to lên, bấy giờ tôi sẽ có cách thoát thân cho bác.
Người kia có vẻ vui mừng mà rằng:
– Nếu thế thì phúc đức nhà tôi, lại lạc vào tay ngài, xin ngài liệu cách chu toàn giúp chuyện cho.
Đoạn rồi Tiều Cái lại đi đóng cửa phòng cẩn thận, mà trở vào nhà trong tiếp rượu Lôi Hoành.
Anh em bốn bể là nhà
Đã trong thanh khí lại là sẵn quen.
Bấy giờ hai người uống rượu hồi lâu, thấy vầng đông đã hơi rạng sáng, Lôi Hoành liền từ tạ đứng dậy mà nói rằng:
– Bây giờ trời đã sáng rồi, tôi xin phép Bảo Chính, để trở về cho kịp buổi hầu.
Tiều Cái nói:
– Vâng, ngài đi có việc quan, tôi cũng không dám lưu lại nữa, song nếu lần sau ngài có qua đây, lại xin đón vào chơi xơi nước.
Nói đoạn đưa chân Lôi Hoành lững thững đi ra. Khi đó các thổ binh rong hảo hán kia ra đến cửa trang, Bảo Chính trông thấy, liền bảo với Lôi Hoành rằng:
– Anh này trông khỏe mạnh lắm nhỉ?
Lôi Hoành nói:
– Thưa ngài, chính hắn là thằng ăn cướp bắt được ở điện Linh Quan hôm qua đấy.
Nói vừa dứt lời, thì bỗng thấy anh chàng kia kêu ta lên:
– Cậu ơi! Cậu cứu tôi với!
Tiều Cái giả vờ không biết, quay lại nom kỹ một lượt rồi quát lên rằng:
– Á, thằng này là thằng Vương Tiểu Tam đó phải không?
Anh kia đáp:
– Vâng, chính tôi đây, xin cậu cứu tôi với.
Mọi người nghe lấy làm kinh ngạc, rồi Lôi Hoành hỏi Bảo Chính rằng:
– Người này là ai? Sao lại biết Bảo Chính?
– Thưa ngài, thằng này là thằng Vương Tiểu Tam con bà chị tôi đây, hồi có còn nhỏ có ở đây bốn năm, rồi sau nó theo bố mẹ sang Nam Kinh, chừng đã mấy mươi năm trời nay rồi. Hồi nó mười bốn mười lăm tuổi có theo một người buôn bán qua đây một lần, rồi từ bấy tới nay không thấy tăm hơi đâu cả. Sau chỉ thấy người ta nói là nó lêu lổng không ra gì, thế mà sao bây giờ lại vơ vẩn ở đây. Lạ thực! Tôi trông nó bây giờ cũng không nhớ mấy, chỉ còn nhận được cái nốt ruồi đỏ ở trên mái tóc, cho nên được biết nó là cháu.
Nói xong quay ra mắng rằng:
– Tiểu Tam? Sao mầy đến đây mà không tìm vào nhà tao, lại còn đi trộm cướp làm càn như vậy?
Người kia cũng kêu rằng:
– Thưa cậu, tôi có đi làm càn dở gì đâu?
– Mày không làm càn, có lẽ đâu người ta lại bắt?
Nói đoạn vớ lấy thanh gậy ở trong tay một đứa thổ binh giơ lên toan đánh.
Lôi Hoành cùng mọi người đều túm lại khuyên rằng:
– Bảo Chính hãy khoan tay, để hắn nói xem sao đã.
Anh kia lại nói:
– Xin cậu hãy bớt giận, để tôi kể cậu nghe: Từ khi tôi về đây một lần, vào quãng mười bốn, mười lăm tuổi, tới nay đã ngoại mười năm rồi, hôm qua nhân đi đường uống mấy chén rượu quá say, không dám vào chào cậu, cho nên phải nằm tạm ở miếu đó một đêm, định sáng nay sẽ vào. Ai ngờ bị bọn họ đến, bất vấn thị phi gì cả, cứ trói phăng mà giải đến đây, chứ nào tôi có trộm cướp gì đâu? Tiều Cái lại giơ gậy lên, tay thì toan đánh, mà miệng thì mắng rằng:
– Đồ súc sinh, mầy đến đây mà không tìm ta ngay, mà tham ăn uống làm vậy? Nhà ta không có rượu cho ngươi uống hay sao? Mày làm thế thì có nhục không?
Lôi Hoành can ngăn mà rằng:
– Thôi, Bảo Chính đừng giận nữa, anh ấy cũng không ăn trộm ăn cướp gì đâu. Bởi vì chúng tôi thấy anh này to lớn, mặt mày lại vơ vẫn nằm ngủ ở miếu, cho nên tôi mới ngờ mà bắt đó thôi, nếu có biết là cháu ngài, thì có đâu chúng tôi lại thế.
Nói xong gọi thổ binh cởi trói cho người kia, để trả lại cho Bảo Chính.
Chúng nghe nói lập tức cởi trói cho người kia. Lôi Hoành lại nói;
– Xin Bảo Chính tha lỗi cho, vì chúng tôi lỡ lầm không biết là cháu ngài, thực là đắc tội. Chúng tôi xin phép ngài để về huyện thôi.
Tiều Cái nói:
– Hãy khoan, mời Đô Đầu vào chơi tôi nói câu chuyện này đã.
Nói xong lại mời Lôi Hoành vào nhà trong, đưa ra 10 lạng bạc mà rằng:
– Tôi gọi là chút thành tâm, xin Đô Đầu nhận lấy cho.
Lôi Hoành từ chối mà rằng:
– Sao ngài lại thế? Chúng tôi không dám nhận.
– Nếu thế thì ngài không nể Tiều Cái tôi, xin thế nào ngài cũng cầm lấy cho.
Lôi Hoành miễn cưỡng cầm lấy mà rằng:
– Bảo Chính đã dạy thế, thì tôi xin tạm lấy, rồi sau sẽ trả ơn ngài.
Bảo Chính lại gọi anh kia đến tạ ơn Lôi Hoành, và lấy thêm ít tiền đưa cho lũ thổ binh, rồi lại tiễn chân bọn ấy ra về.
Bấy giờ Tiều Cái mời anh chàng kia vào nhà trong, sai người lấy quần áo cho thay, rồi ung dung hỏi đến tên họ hành tung.
Người kia nói:
– Tôi họ Lưu tên Đường, vốn người ở Đồng Lộ, nhân vì bên mái tóc có lông đỏ, cho nên họ thường gọi tôi là Xích Phát Qủy, nay nhân có một món phú quý rất to, toan đến đây để hiến ngài, ai ngờ bị họ bắt đem đến đây, thực là sự bất hạnh mà cũng may cho tôi lắm, vậy xin Ca Ca hãy nhận tôi bốn lạy rồi sẽ thưa chuyện.
Nói xong lạy luôn ngay bốn lạy. Tiều Cái hỏi:
– Phú quý thế nào, ở đâu, bác hãy nói tôi nghe xem sao?
Lưu Đường nói:
– Chúng tôi từ thủa nhỏ trôi nổi giang hồ, nay đây mai đó, cũng kết nạp được ít bạn hảo hán ở trong đời, xưa nay vẫn thấy bọn tay chơi ở Sơn Đông Hà Bắc, thường hay lẩn quẩn đến đây, bởi thế nên tôi biết tiếng Ca Ca, mà muốn đến đây để bàn một việc. Nhưng việc này tất phải kín đáo không thể nào có một người ngoài nghe được.
– Ở đây toàn là tâm phúc của tôi cả, xin cứ nói không hề chi.
– Ngài có biết chuyện Lương Trung Thư ở Bắc Kinh đây sắp đưa châu báu về mừng bố vợ là Thái Sư ở Đông Kinh không? Ấy năm ngoái đã đưa đi một chuyến 10 vạn quan tiền châu báu, mà giữa đường bị người ta cướp mất, đến nay tra mãi không ra. Tới năm nay lại sắp tải đi 10 vạn kim ngân châu báu nữa, để mừng sinh nhật hôm rằm tháng sáu, có lẽ nay mai là khởi trình đây. Tôi thiết tưởng cái của bất nghĩa, nó khoét xương hút máu của dân ấy, dẫu ta có lấy đi cũng chẳng tội gì? Vả tôi nghe tiếng Ca Ca là người tài giỏi, mà tôi đây dẫu chẳng ra gì, cũng biết được một đôi ngón võ, bởi vậy muốn đến bàn với Ca Ca, nên thừa cơ hội mà cướp lấy món tiền của cái đồ ăn cướp ngày của dân kia, mà cứu bọn giang hồ bần bách, có thú hơn không? Cứ như bọn chúng ta đi, thì tôi tưởng không kể gì nó có dăm ba người, dẫu nó có tới vài ba nghìn quân, ta cũng có thể vung đầu gậy mà không sợ chi hết cả. Việc ấy nếu Ca Ca định làm, thì tiểu đệ xin tình nguyện giúp một tay, Ca Ca nghĩ sao?
Tiều Cái nói:
– Ta hãy thư thả bàn kỹ xem đã. Nay bác mới ở xa đến, chắc là hãy còn mệt nhọc, vậy xin hãy vào phòng nghỉ, rồi ta sẽ bàn lại.
Nói xong gọi người nhà dẫn Lưu Đường vào một gian phòng mới nằm ở đó. Khi Lưu Đường nằm một mình ở trong phòng, chợt nghĩ ra rằng: “Mình phen này thực vất vả quá! Cũng may mà gặp được Tiều Cái, cho nên mới thoát được thế này, nhưng nghĩ lại giận cho thằng khốn nạn hôm qua, bỗng dưng nó bắt mình, bảo ngay là giặc cướp, mà trói giam mất hẳn một đêm, thế có tức không? Bây giờ có lẽ nó đi cũng chưa xa mấy, âu là ta đuổi đánh cho nó một mẻ, mà lấy lại món tiền cho Tiều Cái là hơn. Đồ súc sinh ấy nó quen thói tham quan lại nhũng xưa nay, phải liệu cho nó mới được”.
Nghĩ đoạn vớ thanh đao đi ra, khép cửa buồng lại, rồi lẻn ra ngoài trang mà chạy về đằng Nam để theo Lôi Hoành. Mới hay:
Anh hùng đứng ở trên đời,
Lẽ nào dung túng những loài tham ô.
Ra tay múa ngọn gươm thù,
Moi gan tàn ác đền bù núi sông.
Bấy giờ mặt trời đã cao hơn trượng, Lôi Hoành đương dẫn lũ thổ binh đi lững thững trên đường, Lưu Đường chạy thốc lại đến nơi mà quát lên rằng:
– Tên Đô Đầu kia, muốn sống đứng lại đấy.
Lôi Hoành nghe nói giật mình quay cổ lại, thấy Lưu Đường hầm hầm chạy đến, liền giật lấy thanh đao của đứa thổ binh mà thét lên rằng
– Thằng kia mày định đuổi ta để làm gì?
Lưu Đường nói:
– Mầy có biết điều để 10 lạng bạc đây, thì ta tha cho mày.
– Tiền này là tiền của cậu mầy tặng ta đây, có chuyện gì đến mày? Nếu ta không nể cậu mầy, thì ta chém cổ đi rồi, lại còn dám đến đòi tiền ta hay sao?
Lưu Đường hầm hầm giận dữ mà rằng:
– Ta tự nhiên vô cớ không làm giặc ăn cướp gì, thế mà mầy dám bắt trói ta một đêm, rồi lại biểu cậu ta mà lấy 10 lạng bạc là nghĩa gì? Quân này hút máu hút mủ của dân đã quen, còn toan bắt nạt bọn ta à? Muốn tử tế đưa trả món tiền ấy đây, bằng không ta xé xác lập tức bây giờ cho mà coi.
Lôi Hoành cũng nổi giận trỏ Lưu Đường mà mắng rằng:
– Mầy là đồ ăn cắp làm nhục cả gia phong, lại còn dám vô lễ với ta à?
– Chính mầy là đồ ăn cướp ăn hại của dân của nước, mầy còn há mồm mắng ai?
Lưu Đường nói xong vác đao xông vào đánh luôn. Lôi Hoành cười ha hả rồi giơ đao lên đỡ. Hai bên đánh nhau ở giữa đường cái có tới 50 hiệp, mà không biết bên nào được bên nào thua.
Bọn thổ binh thấy vậy, toan kéo nhau đến để giúp sức Lôi Hoành, mà đánh Lưu Đường. Chợt đâu bên cạnh đường có một người, ở trong cánh cửa phên, vác đôi đồng giản bước ra kêu lên rằng:
– Hai hảo hán hãy khoan tay tôi nói câu này đã.
Nói đoạn xông vào đưa đồng giản rẽ đám đánh nhau ra làm đôi. Lưu Đường và Lôi Hoành dừng tay đứng xa ra ngoài vòng, rồi nhìn lên thấy người kia, mày xanh mắt sắc, mặt trắng râu dài, ăn mặc ra dáng một nhà nho sĩ. Nguyên người ấy tên là Trí Đa Tinh Ngô Dụng, biểu tự là Học Cứu, đạo hiệu là Gia Lượng tiên sinh, vốn người làng ở đấy, chơi với Tiều Cái rất thân xưa nay.
Bấy giờ Ngô Dụng tay cầm đồng giản trỏ hỏi Lưu Đường rằng:
– Bác này ở đâu? Vì cớ sao lại đánh với Đô Đầu thế?
Lưu Đường trừng mắt nhìn Ngô Dụng mà nói rằng:
– Không việc gì đến nhà thầy.
Lôi Hoành thấy vậy, liền đem đầu đuôi kể cho Ngô Dụng nghe, Ngô Dụng nghe nói bảo Lưu Đường rằng:
– Nếu vậy thì bác đừng chấp nê nữa, ông cậu bác với tôi là chỗ chí thân, mà Đô đầu đây là người tử tế, nếu bác lại làm như thế, thì mất cả thể diện ông cậu bác chứ không phải chơi.
Lưu Đường đáp rằng:
– Nhà thầy không biết, nguyên việc này là hắn đánh lừa để lấy tiền, chứ cậu tôi có bằng lòng cho hắn đâu! Nếu hắn không trả lại, thì tôi thề quyết không thôi.
Lôi Hoành nói:
– Trừ khi có Bảo Chính đến đây thì tôi trả lại.
Lưu Đường nói:
– Ngươi muốn đổ oan cho người ta là giặc, rồi lại lừa lấy tiền mà không trả ta là nghĩa lý gì?
– Ta nhất định không trả.
– Không trả thì hỏi thanh đao ở tay ta đây.
Ngô Dụng lại gạt đi mà rằng:
– Hai bên đánh nhau suốt nửa ngày trời, chưa biết bên nào được thua, giờ định còn đánh nhau đến đâu nữa.
Lưu Đường nói:
– Đánh đến bao giờ một thằng sống, một thằng chết mới thôi.
Lôi Hoành nói:
– Nếu ta có sợ ngươi, thì ta đã thét thổ binh vào đánh giúp, nhưng thế không phải là hảo hán, chỉ một mình ta cũng đánh đổ được ngươi cho mà xem.
Lưu Đường cả giận vỗ bụng thét lên rằng:
– Ta không sợ, ta không sợ!
Nói đoạn lại xông vào đánh nhau, Ngô Dụng hết sức can ngăn cũng không được. Chợt đâu thấy bọn thổ binh trỏ đằng xa mà nói rằng:
– Bảo Chính đã đến kia, ta đến nói với Bảo Chính mới được.
Lưu Đường nghe nói vội quay lại xem, thấy Tiều Bảo Chính đương khoác áo xốc xa xốc xếch, chạy tong tả đến mà quát lên rằng:
– Thằng rồ dại kia không được vô lễ.
Ngô Dụng thấy Bảo Chính đến, cười ta lên mà bảo rằng:
– Xin mời Bảo Chính đến đây, các ông đương đánh nhau hăng quá.
Tiều Cái vừa thở hồng hộc vừa nói:
– Làm thế nào mà đã trốn đến đây để đánh nhau thế?
Lôi Hoành nói:
– Anh ấy vác đao đến đòi trả lại 10 lạng bạc, nhưng tôi bảo có ngài đến, thì tôi sẽ trả, ai ngờ anh ấy giơ tay đánh luôn, có tới năm sáu mươi hiệp, rồi sau thầy đồ đến khuyên giải mãi cũng không thôi.
Tiều Cái nói:
– Thằng súc sinh này, thế mà tôi không được biết, xin Đô đầu nể mặt tôi mà đi về, rồi khi khác tôi xin đến tạ tội.
– Vâng, có thầy đồ đấy, tôi có chấp anh ta đâu, làm thế thì thành ra lại phiền cho Bảo Chính quá.
Lôi Hoành nói xong bái tạ Tiều Cái, Ngô Dụng mà kéo thổ binh về huyện.
Bấy giờ Ngô Dụng nói với Tiều Cái rằng:
– Hôm nay nếu Bảo Chính không ra đây, thì có lẽ xảy ra chuyện to mất. Võ nghệ của cháu ngài giỏi lắm, tôi đứng nấp xem đã lâu, thấy Lôi Hoành đã là một tay thiện nghệ, mà cũng chỉ che đỡ quanh co không sao địch nổi. Nếu hai người đánh nhau luôn một hồi nữa thì Lôi Hoành tất nguy mất, vì thế nên tôi phải chạy ra can lại. Nhưng không biết rằng cháu ngài ở đâu đến đây, mà tôi không thấy ở trang bao giờ?
Tiều Cái nói:
– Tôi đương tính sai người đi mời ngài đến nói chuyện, bất đồ tìm đến anh này thì không thấy đâu, mà thanh đao ở trên giá cũng mất. Sau thấy trẻ chăn trâu nói hảo hán vác thanh đao chạy ra phía Nam, tôi liền tất tả đuổi theo đến đây, may mà có ngài khuyên giải hộ, không thì lỡ ra việc lớn không chơi. Bây giờ xin mời thầy qua bên tôi chơi, bàn mấy câu chuyện cần đã.
Ngô Dụng vâng lời, quay về nhà học, cất đồng giản đi, dặn nhà chủ cho học trò nghỉ một buổi, rồi khóa cửa buồng học, mà cùng với Tiều Cái, Lưu Đường đi vào trang viện.
Khi về tới nhà, Tiều Cái mời Ngô Dụng vào cả nhà trong cùng ngồi nói chuyện, rồi đem tên họ Lưu Đường, cùng câu chuyện đến đây để thuật cho Ngô Dụng nghe, và lại bảo rằng:
– Bác ta đến đây, thực là một ý rất tốt mà lại ứng với giấc mộng của tôi đêm qua. Đêm hôm qua tôi nằm mê thấy bảy vì sao Bắc Đẩu, rơi xuống nóc nhà, mà trên chỗ chuôi sao Đẩu lại có một vì sao nhỏ, hóa ra một tia sáng đi sang Bắc mất. Tôi đoán như thế, tất là có lợi, đương định đi mời thầy đến để xem việc ấy như thế nào?
Ngô Dụng cười mà đáp rằng:
– Tôi thấy bác Lưu Đường đến đây, bằng một cách nhiêu khê như vậy, trong lòng cũng đã đoán được bảy tám phần rồi, nếu quả như thế thì là một việc rất hay nên làm, những của tham tàn bất nghĩa không lấy thì để làm chi! Duy có một điều là việc này bất tất phải nhiều người, nhưng, mà ít người quá cũng không được. Trong bọn người nhà đây kể cũng nhiều, nhưng mà vô dụng cả, còn ba người mình tuy có giỏi thực, cũng khó lòng mà đảm nhiệm được xong, việc này tất do phải có bảy tám tay hảo hán mới xong, chứ nhiều quá cũng vô ích.
Tiều Cái nói:
– Chẳng hay là ứng vào với số sao ở trong giấc mộng chăng?
– Có lẽ, giấc mộng của quan bác không phải tầm thường, cái này chắc là về mạn Bắc lại có người phù trợ được ta đây hẳn.
Nói đoạn, chau mày ngồi nghĩ một lúc, rồi lại nói rằng:
– Được rồi…được rồi…tôi nhớ ra trong ấy có ba anh em nhà này, võ nghệ cao cường mà nhất sinh can đảm, là có thể giúp ta xong việc, để rồi ta xin kể cho Bảo Chính nghe…
Cho hay:
Anh hùng mới biết anh hùng,
Có trong thanh khí mới cùng tìm nhau,
Giang Hồ xuôi ngược bấy lâu,
Non xa nước bạc thiếu đâu anh tài?
Đã mang tiếng gớm ghê đời,
Làm cho đáo để cho người gớm ghê!
Phù vân là của bất nghì,
Giết người tàn ác tội gì hay không!
Lời bàn của Thánh Thán:
Một bộ sách bảy mươi hồi, chép một trăm lẻ tám anh hùng, thì Tiều Cái là người khởi lên làm Thủ Lãnh, Tiều Cái khởi lên làm Thủ Lãnh, mà không chép ngay tự hồi đầu, như mọi chuyện khác, đến hồi 13 mới xuất danh, bao nhiêu chuyện đã xẩy từ 13 hồi trước, nhân đó mà được biết tác giả trong lòng chứa toàn bộ truyện, rồi sau hạ bút viết ra. Nếu không trong lòng chứa toàn bộ truyện, tả Tiều Cái ngay từ đầu, làm những chuyện kinh thiên động địa, như quấy nước chọc trời, thì đám giặc ấy còn đâu giá trị, phải tả ra bao nhiêu rắc rối mọi người, để đưa lại Tiều Cái làm Thủ Lãnh, đám người ấy mới khỏi tai tiếng sau này.
Gia Lượng mới ra khỏi lều tranh, nói một câu đầu: Việc này ít người làm chẳng được, mà nhiều người làm cũng chẳng được, lời nói chí lý thay dẫu đem trị thiên hạ, cũng không khác vậy. Câu nói ít người làm chẳng được, cũng như câu nói nhiều người làm chẳng được, vì kẻ hay người dở, phải xét được ra, để mà dùng đến. Hỡi ôi! Vua không kín đáo, thì mất đến thân mình, đúng như câu: Dân có thể khiến theo, không thể cho biết, đấy cơ mưu vậy. Theo Lễ chế nhà Châu dùng 360 vị quan, đều thuộc loại dân khả xử đây, bất khả xử tri, vì Khu Mật Viện Đại Thần chỉ Tam Công Tam Cô dự bàn, còn nhiều người không được. Ngô Dụng nói há chẳng phải là yếu luận việc Vương Đạo trị thiên hạ đấy ư? Một bộ truyện tả 108 anh hùng, làm đầu là Tiều Cái, khởi ra từ giấc mộng, thì than ôi! Đáng tỉnh ngộ thay! Vì kể ra sự tích 108 người, có cười, có khóc, có khen, có chê, có nhường, có cướp, có luồn cúi, có báo thù…Thế mà khởi đầu từ một giấc mộng, thì biết ở đời việc gì không là mộng ảo? Đại địa mộng quốc, xưa nay mộng ảnh, vinh nhục mộng sự, chúng sinh mộng hồn…Há chuyện 108 người này là mộng, xưng hùng xưng bá, nay còn đâu? Đại thiên thế giới đều là mộng cả, độc giả đến nay chẳng đáng ngại.
Khi đó Tiều Cái nghe Ngô Dụng nói, thì vội vàng hỏi rằng:
– Ba người ấy là ai, xin ngài cho tôi biết?
Ngô Dụng đáp:
– Ba người ấy là ba anh em ruột ở thôn Thạch Kiệt, gần Lương Sơn Bạc, xưa nay chỉ sinh nhai về nghề đánh cá, và cũng đôi khi có giở ngón chơi bời ghê gớm. Một người là Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị, một người là Đỏan Mạnh Nhị Lang Nguyễn Tiểu Ngũ, và một anh là Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất, ba anh em đều chơi thân với tôi cả. Và tôi xem ý ba anh ấy dẫu không học thức gì, song thực là những người có chí khí nam nhi, mà lại có lòng nghĩa hiệp quả cảm, nếu được có bọn họ giúp cho, thì chả việc gì mà không xong được.
Tiều Cái nói:
– Tôi cũng nghe danh thấy tiếng ba anh em họ Nguyễn đã lâu, nhưng chưa có dịp nào được gặp…Thôn Thạch Kiệt chỉ cách đây chùng một dặm đường, hay là thử cho người đi triệu họ đến đây, được chăng?
– Không được, việc ấy tất là tôi đi thì mới thuyết được họ đến đây, chứ sai người đi thì hỏng mất.
Tiều Cái cả mừng mà rằng:
– Nếu tiên sinh nghĩ thế thì còn gì hơn, nhưng chẳng hay bao giờ tiên sinh định đi?
– Việc này không thể chậm được, chỉ đêm hôm nay tôi đi, là sáng mai có thể đến đấy được rồi.
Tiều Cái lấy làm vui lòng khen phải, rồi sai người nhà dọn rượu lên để ba người cùng đánh chén.
Ngô Dụng bảo với Lưu Đường rằng:
– Con đường từ Bắc Kinh đi sang Đông Kinh, thì ta đã thuộc cả rồi, nhưng không biết rằng họ đi lối nào? Việc này có lẽ phải phiền Ngô Huynh thám thính giúp, xem hôm nào họ đi, và họ đi đường nào mới được.
Lưu Đường nói:
– Vâng, để đêm nay tiểu đệ xin đi.
Ngô Dụng nói:
– Nhưng mà hãy thư thả, nay mới là đầu tháng năm, còn cách hơn bốn mươi ngày nữa, mới đến rằm tháng sáu, vậy hãy xin đợi tôi đi bảo đám kia về rồi sẽ liệu.
Đoạn rồi ba người cùng uống rượu với nhau, hồi lâu mới nghỉ. Vào khoảng đầu trống canh ba, Ngô Dụng dậy sớm rửa mặt mũi, ăn qua miếng cơm sáng rồi, giắt lấy ít tiền mà từ giã Tiều Cái, Lưu Đường rồi đi sang Thạch Kiệt. Trưa hôm sau đi đến thôn Thạch Kiệt, Ngô Dụng vào thẳng nhà Nguyễn Tiểu Nhị. Khi đến cửa thấy có mười mấy gian nhà lá ở giữa khoảng non cao nước thẳm, trước hàng dậu thưa có chăng phơi một bức lưới rách và có mấy con thuyền câu buộc ở cọc dậu.
Bấy giờ Ngô Dụng lên tiếng hỏi rằng:
– Nhị Ca có nhà hay không?
Vừa hỏi dứt lời, thì Nguyễn Tiểu Nhị đã chạy ra, trông thấy Ngô Dụng rồi vồn vã hỏi chào rằng:
– Kìa tiên sinh, đã lâu không được gặp, chẳng hay cơn gió gì, thổi tiên sinh trôi dạt đến đây thế?
Ngô Dụng cười mà đáp rằng:
– Tôi có chút việc, muốn đến phiền Nhị Ca đây!
– Việc gì xin tiên sinh cứ nói.
– Tôi lâu nay ngồi dạy học ở nhà một người Đại phú hộ, nay ông ta sắp làm bữa tiệc, muốn cần dùng mươi lăm con cá lớn, vào khoảng mười bốn, mười lăm cân một, bởi vậy tôi muốn đến đây phiền quan bác giúp cho.
Nguyễn Tiểu Nhị cười mà đáp rằng:
– Tiểu đệ hãy xin hầu tiên sinh mấy chén rượu, rồi ta sẽ nói chuyện được chăng?
Ngô Dụng nói:
– Được lắm, chính ý tôi cũng muốn uống với Nhị Ca mấy chén cho vui đây.
– Nếu vậy bên kia hồ có mấy hàng rượu, ta xuống thuyền sang đấy đánh chén một thể.
Ngô Dụng nói:
– Thế thì hay lắm, nhưng tôi còn muốn nói chuyện với bác Tiểu Ngũ nữa, không biết rằng bác ấy có nhà không?
Tiểu Nhị nói:
– Ta thử cùng đến đấy xem!
Nói đoạn bảo Ngô Dụng cùng xuống thuyền cởi dây buộc mà chèo đi.
Vừa chèo đi được một quãng, thì thấy Tiểu Nhị vẫy tay đằng trước mặt mà nói to lên rằng:
– Thất Ca có thấy Ngũ Ca đâu không?
Ngô Dụng nghe hỏi, ngẩng lên nom thì thấy trong đám bụi lau, có một con thuyền lách ra, rồi thấy Nguyễn Tiểu Thất đội nón lá, mặc áo ngắn, ngồi ở trên vừa chèo vừa hỏi rằng:
– Nhị Ca định tìm Ngũ Ca để làm gì đó?
Ngô Dụng liền ứng lên rằng:
– Thất Ca ơi! Tiểu Đệ đến hầu chuyện các bác đây!
Nguyễn Tiểu Thất trông thấy Ngô Dụng, thì mừng rỡ mà rằng:
– Chào tiên sinh, tiên sinh đến đây từ bao giờ, mà sao lâu nay không được gặp thế?
Ngô Dụng nói:
– Mời bác đi uống rượu với Nhị Ca một thể đi.
– Vâng, hôm nay có tiên sinh đến chơi, tôi xin đi hầu ngài mấy chén rượu cho vui.
Nói đoạn cùng chèo thuyền đi đến một chỗ gò cao ở giữa hồ, trên có bảy tám gian nhà lá, rồi Nguyễn Tiểu Nhị lên tiếng mà hỏi rằng:
– Lão Nương ơi! Ngũ Ca có nhà hay không?
Bà già nghe hỏi, chạy ra đáp rằng:
– Ối chà! Nói thế nào được! Bây giờ cá cũng không đánh, chỉ suốt ngày cờ bạc rông dài, xác xơ như nhộng vậy. Vừa rồi mới về tháo cành thoa ở trên đầu tôi, đem đi đánh bạc rồi đấy.
Tiểu Nhị nghe nói thì cười một tiếng, rồi lại quay thuyền đi.
Nguyễn Tiểu Thất đi thuyền sau nói với Nguyễn Tiểu Nhị rằng:
– Không biết làm sao mà Ngũ Ca đen thế? Đánh bạc chỉ thua hoài mãi thôi…mà đến tôi đây cũng thế, phen này thực là trần trụi không còn gì nữa.
Ngô Dụng thấy nói như thế, thì trong lòng ám tưởng: “Anh này tất mắc kế của ta”. Bây giờ hai thuyền chèo đi được một lúc, đến bên cầu Độc Mộc có một đại hán vác hai chuỗi tiền, đương vội xuống thuyền sắp đi. Nguyễn Tiểu Nhị kêu to lên rằng:
– Ngũ Lang phát tài chăng?
Nguyễn Tiểu Ngũ nghe hỏi mà cười rằng:
– Té ra là Ngô tiên sinh đấy à? Sao mấy năm nay không gặp tiên sinh thế? Tôi đứng trên cầu trông thấy các ông đã nửa ngày rồi.
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Tôi với Ngô tiên sinh đến tận nhà tìm, thấy lão nương nói rằng đi đánh bạc rồi chúng tôi lại kéo đến đây để mà tìm. Bây giờ chúng ta mời Ngô Tiên Sinh đi lên hàng đánh chén đi.
Nguyễn Tiểu Ngũ nghe nói, nhảy xuống thuyền, ba cái cùng thong dong chèo đi đến một chỗ khóm sen gần đó, rồi buộc thuyền vào bến mà đi đến tửu điếm.
Khi vào tới tửu điếm, bốn người cùng đến một chỗ nhà sàn, tìm chỗ bàn ghế sơn dầu sạch sẽ, rồi Tiểu Nhị nói với Ngô Dụng rằng:
– Tiên Sinh đừng cười anh em tôi là thô tục…xin đón tiên sinh ngồi trên.
Ngô Dụng nói:
– Có đâu dám thế, xin mời các bác ngồi.
Tiểu Thất nói:
– Ca Ca xin ngồi chủ vị, để tiên sinh ngồi khách vị, còn hai anh em tôi ngồi đây trước là xong.
Ngô Dụng cười nói:
– Phải, tính Thất Lang nhanh nhẹn thế là phải.
Đoạn rồi bốn người cùng ngồi, gọi một thùng rượu và các thứ đũa chén lên.
Nguyễn Tiểu Nhị hỏi nhà hàng rằng:
– Có gì nhắm tốt không?
– Có thịt bò mới, béo lắm, các ngài xơi.
– Được rồi, lấy mươi cân thái to to đem ra đây.
Nhà hàng vâng lời quay đi, Nguyễn Tiểu Nhị lại nói với Ngô Dụng rằng:
– Xin tiên sinh chớ cười chúng tôi là vô lễ.
– Lẽ nào?…tôi đến đây phiền nhiễu các bác thì có, Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Sao tiên sinh dạy thế?
Bấy giờ nhà hàng đem thịt bò lên bầy trên bàn, rồi ba anh em họ Nguyễn cất chén, mời Ngô Dụng xơi rượu và lấy thức nhắm.
Ngô Dụng ăn có mấy miếng thịt, thì không nuốt đi được nữa. Bọn kia thì ngốn như xa cán ngốn bông vậy. Một lúc rồi Nguyễn Tiểu Ngũ mới ngẩng đầu lên hỏi chuyện Ngô Dụng rằng:
– Tiên sinh đến chơi đây…Chẳng hay có việc gì nữa?
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Bây giờ tiên sinh ngồi dạy học ở một nhà phú hộ, ngài muốn đến đây hỏi anh em ta tìm hộ cho mươi lăm con cá to, nặng chừng mười bốn mười lăm ký một.
Nguyễn Tiểu Thất nói:
– Giá mọi khi ra thì đến năm ba chục con cũng có thể kiếm được, nhưng bây giờ thì đến hạng cá mươi cân cũng khó lòng mà có được.
Nguyễn Tiểu Ngũ nói:
– Nếu tiên sinh có dùng hạng cá to độ năm sáu cân một, thì chúng tôi xin tặng ngài được mươi con.
Ngô Dụng cười mà rằng:
– Tôi có tiền đây, mua hết bao nhiêu thì xin tính trả, song tất phải dùng hạng mười bốn mười lăm cân mới được, còn hạng bé thì tôi không dùng đến.
Nguyễn Tiểu Thất nói:
– Nếu thế thì tiên sinh tìm ở đâu cũng không được, đến ngay như hạng năm sáu cân mà Ngũ Ca tôi nói, cũng là hiếm lắm mà cũng phải đợi đến mấy hôm mới có thể tìm được nữa là…Á quên trong thuyền tôi có mấy con cá nhỏ còn sống ở đó, ta đem ra đây mà chén cho xong.
Nói đoạn chạy ra mở sạp thuyền bắt mấy con cá ước năm bảy cân lên, đem vào bếp nấu nướng một lúc rồi đem bày lên bàn ăn.
Nguyễn Tiểu Thất lại nói:
– Xin mời tiên sinh xơi tạm vậy.
Bấy giờ bốn người lại cùng bắt tay vào ăn uống một lúc, rồi Ngô Dụng tự nghĩ một mình rằng:
– Ở chỗ này bây giờ nói chuyện cũng không tiện, tất thế nào đêm nay cũng phải ngủ lại ở nhà trọ, thì mới có thể nói được.
Được một lát trời đã gần tối, Nguyễn Tiểu Nhị nói với Ngô Dụng rằng:
– Bây giờ trời sắp tối rồi, xin đón tiên sinh về nghỉ ở nhà tôi, rồi sáng mai ta sẽ bàn.
Ngô Dụng nói:
– Tôi đi hôm nay thực là may mắn, mới gặp được cả ba bác như thế này, vậy tiền bữa rượu hôm nay chắc là không khi nào các bác để cho tôi trả. Nhưng còn đêm nay tôi còn phải nghỉ nhờ ở bên Nhị Ca một tối, nhân tôi có ít tiền đây, muốn phiền các bác mua hộ ngay rượu thịt ở đây, rồi ta về mua thêm con gà ở quanh xóm để tối nay đánh chén nói chuyện với nhau có được không?
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Có khi nào chúng tôi lại để cho tiên sinh trả tiền; cái đó chắc anh em chúng tôi phải chuẩn bị cả, chả lẽ lại không kiếm được đủ hay sao?
– Đành vậy, nhưng trong lòng tôi thành tâm như thế, nếu các bác không nghe lời ấy, thì tôi xin về bây giờ, không dám lưu lại nữa.
Nguyễn Tiểu Thất nói:
– Thôi tiên sinh đã nói, thì ta hãy cứ cầm lấy, rồi sau sẽ liệu.
Ngô Dụng nói:
– Phải, tính Thất lang nhanh nhẹn thế, thú lắm.
Nói đoạn, lấy một lạng bạc đưa cho Nguyễn Tiểu Thất, Tiểu Thất lấy tiền, gọi nhà hàng ra mua một hũ rượu lớn, hai mươi cân thịt bò sống, và đôi gà to, rồi Tiểu Nhị tính trả tiền mà về. Bốn người đi ra khỏi tửu điếm, tìm đến chỗ buộc thuyền, rồi bước xuống cổi thuyền chèo về nhà Nguyễn Tiểu Nhị.
Khi về tới nơi, Nguyễn Tiểu Nhị mời mấy người vào mái Thủy Đình đằng trong để ngồi chơi rồi sai vợ (ba anh em duy một mình Tiểu Nhị có vợ) và người nhà giết gà nấu thịt làm chén.
Vào khoảng gần hết canh một, các thức nhắm đã làm xong, bày biện ở trên bàn, bốn người quây quần vào đánh chén.
Bấy giờ Ngô Dụng lại giở đến chuyện mua cá mà rằng:
– Ở đây hồ lớn như thế, mà sao lại không có cá to?
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Chả giấu gì ngài, cá to thì trừ ra chỉ ở Lương Sơn Bạc là có được, chứ ở thôn đây hẹp hòi làm sao tìm bới cho ra!
– Đây với Lương Sơn Bạc chỉ có một con nước thông nhau, không xa là mấy, sao không vào đấy mà đánh cá có được không?
Nguyễn Tiểu Nhị thở ra một tiếng mà than rằng:
– Nếu vào được, còn nói làm chi nữa?
Ngô Dụng hỏi:
– Làm sao bác lại thở dài, mà bảo không vào được?
Nguyễn Tiểu Nhị vội đỡ lời lên rằng:
– Tiên sinh không biết, chỗ Lương Sơn Bạc trước vẫn là kho cơm áo của chúng tôi, nhưng ngày nay lại không dám đến nữa rồi.
Ngô Dụng nói:
– Có lẽ một chỗ rộng lớn như thế, mà quan tư lại cấm đánh cá hay sao?
– Quan tư nào cấm chúng tôi đánh cá, có đến ông Diêm Vương sống cũng không cấm được nữa là…
– Nếu vậy, sao không dám vào?
– Tiên sinh không biết đâu, để tôi kể chuyện cho tiên sinh nghe…
Ngô Dụng làm bộ ngơ ngẩn mà rằng:
– Thực tôi không biết là thế nào cả.
Nguyễn Tiểu Thất tiếp luôn:
– Chỗ Lương Sơn Bạc thì gớm lắm! Bây giờ mới có một bọn cường đạo ở đấy, họ có cho đánh cá nữa đâu!
Ngô Dụng lại hỏi:
– Thế ra tôi không biết! Bây giờ lại có bọn cường nhân ở đấy, mà sao tôi không nghe thấy bao giờ?
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Bọn ấy có anh đầu đảng là một anh học trò thi hỏng trở về, tên là Bạch Y Tú Sĩ Vương Luân, anh thứ hai là Mô Tước Thiên Đỗ Thiên và anh thứ ba là Vân Lý Kim Cương Tống Vạn. Lại có anh là Hãn Địa Hốt Luận Chu Quý, thì mở cửa hàng ở ngoài đường cái, để dò xét sự tình. Mới đây lại thêm một anh hảo hán, trước đã từng làm Giáo Đầu dạy cấm quân ở Đông Kinh, tên là Báo Tử Đầu Lâm Xung nào đó, lại là một tay võ nghệ siêu quần, không ai địch nổi. Mấy đứa chó má ấy nó tụ họp có tới năm bảy trăm lâu la, chỉ đi phá nhà cửa, cướp bóc khách buôn, rồi giữ riết lấy chỗ ấy, làm cho anh em chúng tôi, đến hơn năm nay mất cả áo cơm với họ, mà không dám vào đấy nữa!
Ngô Dụng nói:
– Có sự lạ thế mà tôi không biết! Nhưng làm sao quan quân lại không tróc nã họ đi?
Nguyễn Tiểu Ngũ nói:
– Nếu quan quân mà động đến, tất là tàn hại đến dân, vì họ nghe tiếng động ở đâu, là họ hãy bắt các giống lợn gà chó má ở đấy để chè chén với nhau, rồi họ lại tống lấy ít tiền đã, bởi thế nên đám tuần cảnh bộ tập cũng đành phải mặc họ, mà không dám đến các hương thôn. Vả chăng nếu Thượng Thư có sai đến đám nào đi, thì anh nào anh ấy cũng sợ xôn xao cả rồi, còn làm gì được họ nữa?
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Chúng ta đây dẫu dạo này không kiếm được cá lớn, song cũng không đến nỗi bị họ quấy nhiễu như thế, cũng khá lắm rồi.
Ngô Dụng nói:
– Như thế, thì họ cũng khoái hoạt lắm nhỉ?
Nguyễn Tiểu Ngũ nói:
– Bọn ấy nó không sợ trời, không sợ đất, cũng không sợ quan tư, chỉ là có vàng bạc thì tiêu với nhau, có gấm vóc thì mặc với nhau, rượu uống hàng vò, thịt ăn hàng tảng, như thế thì làm gì mà không khoái hoạt? Như anh em tôi thành ra cũng có võ nghệ trong mình, mà không làm sao được như bọn họ, thế có chán không?
Ngô Dụng nghe đến câu đó, thì trong bụng lại mừng thầm, chắc là kế sách phải xong.
Nguyễn Tiểu Thất lại nói:
– Người ta sống một thời, cũng như cây cỏ sống một mùa, như anh em chúng tôi chỉ đánh cá kiếm ăn, sao bằng học họ được một ngày, là một ngày khoái hoạt.
Ngô Dụng nói:
– Hạng người ấy thì họ làm gì? Sự nghiệp của họ bất qua chỉ đến khi quan tư bắt được là roi trượng vào thân, mà uy thế hùng dũng cũng đến vất đi, để chịu tội, chứ làm sao hơn được nữa?
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Đám quan tư bây giờ, thì lại gà mờ không biết lắm. Những đứa ngập mắt chán vạn ra đấy, nhưng nào có việc gì đâu? Anh em chúng tôi bây giờ, thực là mất cả khoái hoạt, nếu có ai dắt cho đi như bọn kia, thì là đi ngay lập tức.
Nguyễn Tiểu Ngũ nói:
– Tôi cũng thường nghĩ như thế, nhưng anh em mình thực là võ nghệ chẳng kém gì ai, nhưng nào có ai biết đến.
Ngô Dụng nói:
– Nhưng mà có ai biết đến, thì ca bác cũng chả chịu đi đâu?
Nguyễn Tiểu Thất đáp:
– Nếu có ai biết đến anh em chúng tôi, thì dẫu dấn thân vào nơi nước lửa chúng tôi cũng đi, mà nếu có ai dùng đến chúng tôi được một ngày, thì dẫu cho chết ngay cũng được thỏa lòng, ở nơi chín suối.
Ngô Dụng nghe nói lấy làm mừng thầm trong bụng: “Ba anh em đã có ý thế, để ta tìm kế nhủ khuyên dần”. Liền cất chén mời ba người uống luôn mấy tuần rượu nữa, rồi hỏi rằng:
– Bây giờ các bác phỏng có dám lên Lương Sơn Bạc mà bắt tụi ấy hay không?
Nguyễn Tiểu Thất đáp luôn rằng:
– Nếu có bắt được họ mà đem nộp quan lấy thưởng, thì cũng bị đám hảo hán giang hồ trên đời chê cười không ra gì nữa.
Ngô Dụng nói:
– Như ý tôi thiết nghĩ: Bây giờ ba bác bực mình vì chài lưới kiếm ăn, cũng chả lấy gì làm khoái hoạt, vậy hay là ca bác nhập bọn với họ hóa ra lại thú hơn.
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Tiên sinh không biết, chứ anh em chúng tôi đã mấy phen toan vào nhập bọn với họ đấy. Nhưng về sau thấy bọn thủ hạ của Bạch Y Tú Sĩ Vương Luân thường nói rằng: Anh ta bụng dạ hẹp hòi, không có lượng bao dung kẻ khác, mới đây Giáo Đầu Lâm Xung đến đó, cũng bị anh ta đãi chẳng ra gì, vì thế anh em tôi chán nản không muốn lên đấy nữa.
Nguyễn Tiểu Thất nói:
– Giá bọn họ mà được khẳng khái như tiên sinh, yêu đãi anh em tôi thì còn đâu nữa?
Nguyễn Tiểu Ngũ cũng nói:
– Phải, nếu bọn họ được như Ngô tiên sinh, thì anh em tôi đi đã lâu rồi, còn đâu đợi đến ngày nay, dẫu cho có vì họ mà chết nữa cũng can tâm.
Ngô Dụng khiêm tốn mà rằng:
– Tôi đây đã thấm vào đâu, bây giờ thiên hạ thiếu gì những tay hảo hán anh hùng hào kiệt mà…
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Đã đành là bọn hảo hán không thiếu gì, nhưng anh em chúng tôi không được gặp.
Ngô Dụng nói:
– Gần đây có ông Tiều Bảo Chính ở thôn Đông Khê, huyện Vận Thành, các bác có biết không?
Nguyễn Tiểu Ngũ nghe nói liền hỏi:
– Chẳng hay ông ấy là ông Thác Tháp Lý Thiên Vương Tiều Cái đó chăng?
Ngô Dụng nói:
– Chính phải đấy.
Nguyễn Tiểu Thất nói:
– Chỗ ông ấy ở chỉ cách đây chừng hơn trăm dặm đường, nhưng chúng tôi cũng là duyên hèn phận bạc, cho nên chỉ nghe tiếng mà không được gặp mặt bao giờ!
Ngô Dụng nói:
– Ông ta là tay nam tử giỏi giang, mà lại có lòng trọng nghĩa khinh tài, vậy sao các bác không đến chơi với ông ta?
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Vì anh em chúng tôi cũng không có việc gì đi đến đấy cho nên cũng không được gặp.
Ngô Dụng nói:
– Ấy bấy lâu nay tôi vẫn dạy học ở gần ngay cạnh trại của ông ta đấy, mới đây nghe nói ông ta sắp có một việc rất phú quý, cho nên tôi muốn đến đây bàn với các bác, để chẹn đường mà cướp lấy, các bác nghĩ sao?
Nguyễn Tiểu Ngũ nói:
– Không được, người ta là người trọng nghĩa khinh tài, có khi nào chúng ta lại làm thế, để cho bọn giang hồ hảo hán chê cười.
Bấy giờ Ngô Dụng cả cười mà rằng:
– Tôi vẫn tưởng bụng các bác cũng không được vững chắc, chứ nào biết đâu các bác lại có lòng khẳng khái, hiếu nghĩa như thế. Tôi xin nói thực với các bác, chính tôi ở chỗ Tiều Bảo Chính đến tìm các bác đây, nếu các bác quả có lòng giúp đỡ, thì tôi sẽ nói một việc này để các bác nghe.
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Ba anh em chúng tôi thực là nhất tâm như thế, không hề có một chút gì giả dối cả. Nếu quả có việc ngang tắt gì, mà muốn phiền tiên sinh đến bảo anh em tôi đi, thì chúng tôi xin thề rằng: Nếu không bỏ tính mạng để giúp được việc ấy, thì khi cạn chén rượu này chúng tôi sẽ chịu tội ác đến thân, mà chết vào sự phi mệnh.
Bấy giờ Nguyễn Tiểu Thất cùng Nguyễn Tiểu Ngũ, đều vỗ tay lên đầu mà rằng:
– Một bầu nhiệt huyết đây, chỉ bán cho người biết của đấy thôi.
Ngô Dụng nói:
– Ba bác ở đây, không phải là tôi định đến quyến rủ, để làm hại cái lòng tử tế của các bác, nhưng việc này là một việc lớn, chứ không phải tầm thường: Nguyên đến hôm rằm tháng sáu này, là ngày sinh nhật của Sài Thái Sư ở trong triều, người con rể là Lương Trung Thư ở Đại danh phủ Bắc Kinh có mua tới 10 vạn quan kim ngân châu báu, nay mai sắp đưa vào mừng. Chuyện ấy có một người hảo hán là Lưu Đường đến mách, cho nên muốn đến đây bàn với các bác, hôm ấy ta sẽ lập kế tìm tới chỗ núi non tĩnh mịch nào mà chẹt lấy, cái của bất nghĩa ấy, để chi dụng với nhau có khoái hoạt không? Chẳng hay các bác nghĩ sao?
Nguyễn Tiểu Ngũ nghe nói cả mừng, bảo với Tiểu Thất rằng:
– Thất lang, ta định thế nào?
Nguyễn Tiểu Thất nhảy quớ lên mà rằng:
– Cái chí nguyện một đời, có lẽ phen này mới thỏa chăng? Trời ơi! Việc ấy thực là gãi vào chỗ ngứa! Nhưng chẳng hay đến bao giờ mới đi?
Ngô Dụng nói:
– Vào khoảng đầu canh năm, xin mời các bác đi sang nhà Tiều Bảo Chính với tôi.
Ba anh em họ Nguyễn rất vui lòng, cùng Ngô Dụng uống rượu tới đêm khuya mới ngủ. Sáng hôm sau bốn người cùng dậy sớm, ăn cơm nước xong rồi, bọn anh em họ Nguyễn dặn dò nhà cửa cẩn thận, rồi cùng Ngô Dụng đi ra. Khi tới thôn Đông Khê đã thấy Tiều Cái, Lưu Đường, ra đứng ở gốc cây hòe để đón Ngô Dụng dẫn ba anh em họ Nguyễn tới gốc cây hòe, để chào Lưu Đường và Tiều Cái. Tiều Cái trông thấy ba anh em họ Nguyễn thì trong bụng mừng thầm. “Nguyễn thị tam hùng, thực là xứng đáng”,liền mời về trong trang để nói chuyện. Bấy giờ sáu người cùng nhau thủng thỉnh đi vào trong trang, đến tận nhà trong; kéo ghế chia tân chủ cùng ngồi, rồi Ngô Dụng đem chuyện ba anh em họ Nguyễn, cũng tâm đầu ý hợp kể cho mọi người nghe.
Tiều Cái cả mừng liền sai người nhà giết lợn dê mua sắm vàng hương về để làm lễ.
Ba anh em họ Nguyễn trông thấy Tiều Cái mặt mũi hiên ngang, nói năng lỗi lạc, thì cũng hết bụng vui mừng mà nói rằng:
– Nếu chúng tôi không có Ngô tiên sinh dẫn đến đây, thì làm sao được gặp các ngài?
Đoạn rồi Tiều Cái lại sai người làm cơm dọn lên sáu người cùng ăn uống, nói chuyện với nhau suốt nửa đêm ấy. Sáng sớm hôm sau, Tiều Cái bày các đồ giấy vàng ngựa mã, cùng các lễ dê lợn lên mặt trước nhà trong, rồi sáu người cùng làm lễ phát nguyện với nhau.
Mọi người thấy Tiều Cái rất lòng thành kính như vậy, thì ai nấy đều hớn hở vui mừng, mà đồng thanh thề nguyện rằng:
– Lương Trung Thư ở Bắc Kinh làm hại dân gian, lấy hại nhiều tiền của, nay lại đem vào Đông Kinh để mừng sinh nhật Xái Thái Sư, vậy những của ấy toàn là những của gian ngoan bất nghĩa. Nay trong sáu anh em chúng tôi, lấy lòng trọng nghĩa khinh tài, nếu ai có một chút gì tư lợi, thì xin trời chu đất triệt, thần minh soi xét không dung.
Làm lễ xong rồi đốt vàng đốt mã cẩn thận, đoạn rồi cùng ngồi uống rượu thụ lộc thánh với nhau. Đương khi đó thấy người nhà vào báo rằng:
– Ngoài cửa có một tiên sinh nào, nói rằng muốn gặp Bảo Chính để xin tiền.
Tiều Cái nghe nói bảo người nhà rằng:
– Sao bây không biết gì cả! Ta còn mắc uống rượu tiếp khách trong này, thì bay lấy dăm ba đấu gạo đưa cho người ta rồi nói: Ta còn bận, không thể tiếp có được không?
Người ấy vâng lời chạy ra một lúc rồi lại vào nói rằng:
– Chúng con đã cho mấy đấu gạo, nhưng tiên sinh ấy nhất định không đi, tự xưng là Nhất Thanh Đạo Nhân, muốn gặp Bảo Chính để nói chuyện, chứ không phải vì tiền gạo mà đến đây.
Tiều Cái mắng rằng:
– Bây không biết là thế nào à? Ra nói với người ta rằng: “Hôm nay ta còn mắc bận, không thể vào tiếp được, xin đến hôm sau vậy”.
– Bẩm con đã nói thế, nhưng tiên sinh ấy bảo rằng: Không cần gì tiền bạc, chỉ nghe thấy tiếng Bảo Chính là người nghĩa khí, nên muốn đến chào đó thôi.
Tiều Cái gắt rằng:
– Chúng bây không đỡ được việc gì, chỉ nhiễu ta thôi. Nếu người ta có chê ít, thì cho thêm người ta, chứ hà tất phải vào nói với ta! Nếu ta không bận tiếp rượu ở đây, thì ta xử trí ngay rồi, còn cần chi chúng bây phải nói. Thôi đi ra liệu cho người ta thế nào cho xong đi, đừng vào nói với ta nữa!
Người nhà nghe nói, lại chạy ra bảo với người kia. Chợt đâu ngoài cửa trang ầm ầm cả lên, rồi thấy một người lật đật chạy vào bảo rằng:
– Tiên sinh ấy đã phát cáu, đánh mười mấy tên người nhà ngã lăn ra cả ngoài kia.
– Xin mời các ngài hãy ngồi xơi rượu, để tôi chạy ra xem sao?
Nói đoạn chạy hất hải ra ngoài cửa trang, thì thấy một người cao chừng tám thước, đạo mạo đường đường, trông rất cổ quái, đương ở chỗ cây hòe ngoài cổng, vừa đánh vừa nói ầm ĩ lên rằng:
– Không biết người, không biết người…
Tiều Cái nghe nói, chạy ra lên tiếng mà rằng:
– Tiên sinh ơi, xin ngài bớt giận! Tiên sinh đến nhà Tiều Bảo Chính, có phải là thiếu gạo nước lương thực thì người ta đã đưa ra rồi, còn việc chi mà tiên sinh giận dữ như thế?
Người kia nghe nói, thì cười ha hả lên mà rằng:
– Bần đạo đến đây có phải vì cơm gạo tiền nong gì đâu. Tôi đến đây cốt tìm Tiểu Bảo Chính để nói chuyện, chứ đến 10 vạn quan tiền, tôi cũng chẳng coi vào đâu nữa là…Đám thôn phu vô lý quá!
Tiều Cái hỏi:
– Nếu vậy tiên sinh đã biết Tiều Bảo Chính chăng?
– Tôi được nghe tiếng, chứ chưa gặp mặt bao giờ.
– Thế thì chính tôi đây, tiên sinh có chuyện gì muốn nói?
Người kia vội vàng nói:
– Xin chào Bảo Chính, xin Bảo Chính tha lỗi cho tôi.
Tiều Cái nói:
– Không dám, xin mời tiên sinh vào trong nhà xơi tạm chén nước đã.
Nói xong liền mời người kia vào trong nhà, trong khi lũ Ngô Dụng thấy có người lạ vào, thì cùng bảo nhau chạy nấp cả vào một chỗ. Đoạn rồi Tiều Cái mời tiên sinh kia vào ở nhà trong để đãi nước.
Khi uống nước xong, tiên sinh kia hỏi Bảo Chính rằng:
– Ngồi đây không thể nói chuyện được, xin ngài cho đến chỗ nào kia thì tiện hơn.
Tiều Cái biết ý, liền mời đến một chỗ gác con con rồi hỏi rằng:
– Thế này khi không phải, tôi xin hỏi quý tánh cao danh, và ngài ở đâu đến.
– Bần đạo là Công Tôn Thắng, đạo hiệu là Nhất Thanh Đạo Nhân, vốn người ở Kế Châu, từ thuở nhỏ có theo đòi võ nghệ, người ta thường gọi là Công Tôn Thắng Đại Lang. Tôi có học được ít đạo thuật, thường hay hô gió gọi mưa, cưỡi mây đạp gió, cho nên đám giang hồ thường gọi bần đạo là Nhập Vân Long, xưa nay vẫn được nghe tiếng Bảo Chính ở Vận Thành đây, nhưng cũng là vô duyên, cho nên chưa được gặp. Nay có món 10 vạn quan kim ngân bảo muốn đem đến đây để làm quà yết kiến, chẳng hay nghĩa sĩ có nhận cho chăng?
Tiều Cái cười mà đáp rằng:
– Tiên sinh nói đó, có phải là việc sinh nhật ở Bắc Kinh không?
Công Tôn Thắng ngạc nhiên mà rằng:
– Sao Bảo Chính lại biết được?
– Tôi đoán xằng vậy, không biết rằng có hợp ý tiên sinh không?
– Vâng, cái món phú quý ấy, ta chớ bỏ mất mà hoài. Cổ nhân nói: “Đáng lấy không lấy, sau chớ phàn nàn! “Bảo Chính nghĩ sao?
– Đương khi nói chuyện, thì chợt có một người ở đâu chạy ra nắm lấy tay Công Tôn Thắng mà rằng:
– Gớm thực! Dương gian có vương pháp, âm phủ có qủy thần, ngươi dám bàn những việc ấy hay sao? Ta đứng nghe lâu rồi.
Công Tôn Thắng nghe nói, nét mặt biến hẳn đi mà không biết nói trả lời làm sao được? Mới hay:
Nước bèo gặp gỡ tự nhiên,
Nào ai hò hẹn mà nên hẹn hò?
Xưa nay những khách giang hồ,
Lưng bầu nhiệt huyết ai mà khác chi?
Tức gan sao nhịn được cười,
Kìa quân tham nhũng lộ người lầm than.
Đỉnh chung xa mã muôn vàn,
Chẳng qua máu mủ dân gian chứ gì?
Ra tay trừ của bất nghì,
Chứng minh xin có trời kia đất này!
Lời bàn của Thánh Thán:
Bắt đầu câu chuyện Thủy Hử, từ thôn Thạch Kiệt vậy, mà sau kết lại truyện Thủy Hử, cũng ở Thạch Kiệt vậy, nghĩa của hai chữ Thạch Kiệt nói ra là định số vậy. Song lẽ nói từ Thạch Kiệt là theo lệ mà thác thủy (gợi mối) ra đây, chứ còn truyện Thủy Hử 108 anh hùng, thì vốn có trước kia, tức đã nói từ 13 hồi vậy, 108 người vốn có trước, thì phải kể là có từ trước, sao lại bắt đầu từ Thạch Kiệt? Thì phải đọc hồi Nguyễn Thị Tam Hùng, ở thôn Thạch Kiệt, để nhận ra 108 anh hùng, đi vào nơi Bến Nước, đã định đoạt từ đó mà ra.
Họ Nguyễn nói rằng: Người sống một đời, cỏ sống một mùa.. Hỡi ôi! Lời nói hết ý vậy! Vì người sinh cõi đời, kẻ sống đến bảy mươi là thường thì lấy thời gian ấy mà nói, trong khoảng ấy, lại một nửa là đêm, còn một nửa ngày, lại không những thế mà thôi con người từ 15 tuổi về trước, hãy còn trẻ thơ, cũng như vất đi không đáng kể, sau khi 50 tuổi, tai mắt kém đi, cũng như vất bỏ vậy, trong khoảng đó chỉ còn 35 năm, lại còn bị cuộc đời mưa gió chiếm mất, bệnh tật chiếm mất, lo nghĩ đói rách chiếm mất…Thế thì như họ Nguyễn nói đến bọn không sợ trời không sợ đất, có tiền bạc thì tiêu với nhau, có gấm vóc thì mặc với nhau, rượu uống hàng vò, thịt ăn hàng tảng, như thế thì làm gì mà không khoái hoạt…Thử hỏi rằng họ Nguyễn kia đã được mấy ngày? Mà chẳng động tâm. Cho nên tác giả chép ra tên của ba người họ Nguyễn với một sự ngao ngán sâu xa; Nào là Lập Địa Thái Tuế, Hoạt Diêm La, Đoản Mệnh Nhị Lang, than ôi sống thác nhanh chóng, kiếp người không thường, giàu có khó tìm, nên tùy sở thích, chuyện đời nếu không viết ra sách, thì đâu được bền lâu?
Gia Lượng thuyết họ Nguyễn, khéo đưa đón ý, người đời có thể bắt chước, khi buông khi nắm, từ xa đến gần, như dắt lại tới, khác nào Gia Cát Lượng đối Mạnh Hoạch, đâu phải người đời có thể bắt chước, cho nên xem hồi Du Thuyết Nguyễn Thị, nên xem xét văn chương uyển chuyển, của bút phép tài tình, của một tác phẩm.
Khi ấy có người chạy vào cầm lấy tay Công Tôn Thắng mà hỏi, Tiều Cái bèn ngẩng lên nom, thì chính là Trí Đa Tinh Ngô Dụng, liền cười mà bảo rằng:
– Tiên sinh, mời tiên sinh ra đây nói chuyện.
Ngô Dụng cũng cười mà nói rằng:
– Tôi nghe tiếng ông Nhập Văn Long Công Tôn Thắng đã lâu, ai ngờ ngày nay mới được gặp ở đây!
Tiều Cái lại trỏ Ngô Dụng mà bảo Công Tôn Thắng rằng:
– Tiên sinh này là Trí Đa Tinh Ngô Dụng đây.
Công Tôn Thắng nghe nói ra dáng vui mừng mà rằng:
– Ngài là Gia Lượng tiên sinh phải không? Tiếng ngài lừng lẫy bấy lâu, mà tôi bây giờ mới được gặp ở nhà Bảo Chính đây, thế mới biết Bảo Chính là người trọng nghĩa khinh tài, cho nên bọn hào kiệt không ai là không đến đây tụ họp.
Tiều Cái nói:
– Hiện còn có mấy người bạn nữa ở trong kia, xin mời ngài vào đấy để cho biết nhau một thể.
Nói đoạn ba người cùng vào nhà trong, cùng Lưu Đường và ba anh em họ Nguyễn làm lễ tương kiến, đoạn rồi đều nói lên rằng:
– Ngày hôm nay được gặp gỡ đông đúc thế này, cũng không phải là sự ngẫu nhiên, vậy xin Tiều Bảo Chính ngồi vào ghế giữa cho.
Tiều Bảo Chính khiêm tốn mà rằng:
– Chết nỗi! Tôi là anh chủ nhân tầm thường, đâu dám ngồi trên như thế!
Ngô Dụng nói:
– Bảo Chính là người hơn tuổi, xin cứ ngồi trên cho phải.
Tiều Cái biết thế từ chối không tiện; đành phải ngồi trên ghế thứ nhất, để Ngô Dụng ngồi ghế thứ nhì, Công Tôn Thắng ghế thứ ba, Lưu Đường thứ tư, Nguyễn Tiểu Nhị thứ năm, Nguyễn Tiểu Ngũ thứ sáu, Nguyễn Tiểu Thất ngồi xuống ghế thứ bảy. Đoạn rồi sai người lấy các thứ rượu nhắm khác lên, cũng đánh chén làm vui.
Khi chè chén ung dung, Ngô Dụng nói với mọi người rằng:
– Mới đây Bảo Chính nằm mộng thấy bảy ngôi sao Bắc Đẩu rơi xuống nóc nhà, thế mà nay chúng ta lại tụ họp bảy người ở đây, thì có lẽ là trên ứng mệnh trời, cái món phú quý kia, tất là bỏ thông tay mà lấy được. Vậy hôm trước đã nói với Lưu Huynh, để đi thám thính đường lối đi của họ, xin đến sáng mai xin ngô huynh đi sớm giúp cho.
Công Tôn Thắng nghe nói liền ứng lên rằng:
– Việc ấy không cần phải thám thính nữa, bần đạo đã biết rõ là họ đây theo con đường lối Hoàng Nê Cương rồi.
Tiều Cái nói:
– Về phía đông Hoàng Nê Cươngchừng 10 dặm đường, là thôn An Lạc, ở đấy có một tay hảo hán, gọi là Bạch Nhật Thử Bạch Thắng, cũng thường hay đến chơi tôi, mà tôi vẫn cấp đỡ cho luôn.
Ngô Dụng nói:
– Thế thì một sao sáng ở trên sao Bắc Đẩu, có lẽ là ứng vào người ấy chăng? Nếu vậy thì ta lại có việc dùng hắn được.
Lưu Đường hỏi:
– Từ đây đến Hoàng Nê Cương nghe chừng cũng xa, không biết rằng chúng ta định ước ở đâu cho tiện.
Ngô Dụng đáp:
– Chỉ ở nhà Bạch Thắng, tức là chỗ dung thân của chúng ta đó, vả chăng ta cũng phải cần đến Bạch Thắng kia mà.
Tiều Cái lại hỏi Ngô Dụng rằng:
– Tiên sinh định lấy cách êm ái, hay lấy cách cường ngạnh?
Ngô Dụng cười mà đáp rằng:
– Việc ấy tôi đã an bài quy cũ rồi, để ta xem tinh binh của họ, đáng lấy bằng sức khỏe, thì ta lấy bằng sức khỏe, đáng lấy bằng trí khôn, thì ta lấy bằng trí khôn…Tôi có một kế như thế này…thế này…không biết rằng có hợp ý các ông không?
Tiều Cái nghe xong dậm chân xuống đất mà khen rằng:
– Diệu kế, diệu kế, không trách gọi là tiên sinh Trí Đa Tinh, thực là xứng đáng, dẫu đến Gia Cát Lượng cũng đến thế mà thôi.
Ngô Dụng mỉm cười mà rằng:
– Thôi đừng nói đến nữa, tai vách mạch rừng phải cho cẩn thận, sao cho mình biết với nhau là được.
Tiều Cái lại nói với mọi người rằng:
– Bây giờ ba bác họ Nguyễn hãy trở về, để bao giờ có việc, sẻ đến đây tụ họp với nhau, Ngô tiên sinh thì cũng về dạy học, còn Công Tôn tiên sinh cùng với Lưu Đường, thì nghỉ lại ở đây với tôi.
Bàn định xong; lại cùng nhau uống rượu, đến khuya mới nghỉ.
Ngày hôm sau cơm nước xong rồi. Tiều Cái lấy 30 vạn hoa ngân đưa tặng ba anh em họ Nguyễn mà nói rằng:
– Gọi là một chút lòng thành, xin các bác thu nhận lấy cho. Ba người từ chối không lấy, nhưng Tiều Cái nhất định không nghe, sau bất đắc dĩ phải cùng nhau nhận lấy mà bái biệt ra về.
Khi đưa chân ra cổng trang, Ngô Dụng lại ghé tai ba người mà dặn với rằng:
– Cứ thế này…cứ thế này…hễ đến hẹn, chớ để lỡ mới được.
Ba người vâng lời, rồi trở về thôn Thạch Kiệt. Bấy giờ Ngô Dụng cũng về nhà dạy học, rồi thỉnh thoảng lại đến bàn chuyện trò với Tiều Cái, Công Tôn Thắng, Lưu Đường ở thôn Bảo Chính.
Ai hay một chốn thôn cùng.
Gây nên thế sự lạ lùng từ đây.
Ở đời ví chẳng ra tay.
Thì trăm năm với một ngày khác chi
Nói về Lương Trung Thư ở Bắc Kinh, khi đã mua sắm xong các đồ lễ vật, để mừng nhạc gia, liền định tìm người mà chọn ngày mà cho đem sang Đông Kinh. Khi đó hai vợ chồng Lương Trung Thư bàn soạn với nhau, rồi Lương Trung Thư phàn nàn rằng:
– Bây giờ lễ vật đã sắm sanh đủ cả, chỉ nay mai là được khởi hành, duy còn một việc đem đi, thì chưa biết tìm ai cho chắc chắn!nếu lại hớ hênh như năm trước, để nó cướp 10 vạn kim ngân châu báu, mà đến nay truy nã không ra, thì thực là uổng lắm.
Phu nhân nghe nói, liền trỏ xuống dưới thềm mà nói rằng:
– Tôi thấy tướng công vẫn thường nói người kia là một tay giỏi giang được việc, vậy sao ngài không sai hắn đi, có phải là chu tất không?
Lương Trung Thư nghe vậy, liền quay ra nhìn, thấy Thanh Diện Thú Dương Chí đương đứng ở đấy, thì có ý trù trừ gọi lên mà bảo rằng:
– Dương Chí, ta quên mất, không nhớ đến ngươi, nếu ngươi có thể mang các lễ vật mừng sinh nhật vào Đông Kinh cho ta được, thì ta sẽ cất nhắc lên cho.
Dương Chí chấp tay bẩm rằng:
– Lệnh ân tướng đã sai, tôi đâu dám trái nhưng ngài định xếp đặt thế nào, và cho bao giờ khởi hành?
– Ta định lấy 10 cỗ xe Thái Bình ở Đại danh phủ, cho mười tên cấm quân đi áp, và mỗi xe cắm một lá cờ vàng, trên đề mấy chữ “Lễ mừng sinh nhật quan Thái Sư”,rồi lại thêm mỗi xe hai người lính khỏe mạnh, đi theo vào đấy, mà trong ba ngày nữa là bắt đầu khởi hành.
Dương Chí bẩm rằng:
– Việc ấy không phải là chúng tôi dám từ chối, nhưng thực là không thể nào đi được, vậy xin ân tướng giao cho ai là kẻ anh hùng linh lợi thì hơn.
Lương Trung Thư truyền rằng:
– Việc này ta muốn cất nhắc cho ngươi, cho nên mới sai ngươi đi, rằng ta viết một phong thư riêng cho quan Thái Sư, rồi ngài sẽ tâu với triều đình phong sắc cho ngươi, vậy làm sao mà ngươi từ chối?
– Dám bẩm ân tướng, chúng tôi được nghe trước đây đã bị một phen mất cướp, tới nay truy nã cưa ra…Hiện bây giờ trộm cướp càng nhiều, mà đây sang Đông Kinh toàn là đường bộ, đi qua mấy nơi như núi Tử Kim, núi Nhị Long, núi Đào Hoa, núi Tản Cái, đồi Hoàng Nê, thung Bạch Sa, bể Dã Mân và rừng Xích Tùng.. Đều là những nơi giặc cướp ẩn núp xưa nay, dẫu khách đi không, cũng không dám đi qua đấy. Huống chi chúng ta lại biết là kim ngân châu bảo mang đi, thì làm thế nào mà chúng không cướp bóc, như vậy chẳng qua chỉ uổng phí tình mạng mà không ăn thua, bởi thế nên chúng tôi không dám đi. Trung Thư nói:
– Nếu thế thì ta sẽ điểm nhiều binh lính đi hộ tống với ngươi cũng được chứ sao?
Dương Chí lại bẩm rằng:
– Ân tướng sai đến một vạn người đi, cũng là vô ích, nếu họ nghe thấy cướp đến, thì họ tháo trước ngay rồi, còn dám làm gì được.
– Cứ như ngươi nói, thì lễ vật đành bỏ đấy, không đưa đi được nữa hay sao?
– Bẩm ân tướng, nếu ân tướng có y cho một điều này, thì chúng tôi xin vâng đi được.
– Ta đã giao cho ngươi, thì có thế nào ngươi cứ nói ta nghe…
Dương Chí nói:
– Nếu ân tướng nghe lời chúng tôi, thì không cần dùng đến xe phào chi cả, chỉ xin chia các lễ vật ra làm 10 gánh, chọn lấy 10 tên cấm quân khỏe mạnh để gánh, rồi ăn mặc giả khách buôn, mà đi ròng rã ngày đêm cho mau tới Đông Kinh, thì may ra mới được.
Lương Trung Thư nghe nói khen rằng:
– Anh nói phải, để rồi ta viết thư trình với quan Thái Sư, ngài sẽ xin cáo mệnh cho về.
Nói xong liền cho Dương Chí sửa soạn hành trang và điểm quân lính ra đi.
Sáng hôm sau Lương Trung Thư lại gọi Dương Chí vào sảnh mà bảo rằng:
– Ngươi định lúc nào bắt đầu ra đi?
– Bẩm ân tướng, chỉ sáng mai là chúng tôi lấy giấy lãnh trạng xin đi.
Lương Trung Thư nói:
– Phu nhân cũng có một gánh lễ vật, để đưa vào bảo quyến ở trong phủ, nhưng sợ anh không hiểu đường lối, cho nên cất thêm một tên Đô Quản, và hai tên Ngu Hầu để đi kèm vào cho tiện.
Dương Chí có ý ngần ngại mà bẩm rằng:
– Dương Chí này không đi được nữa.
Trung Thư ngạc nhiên mà hỏi rằng:
– Sao lễ vật đã sửa soạn cẩn thận rồi, mà ngươi lại nói là không đi được nữa?
– Bẩm ân tướng, 10 gánh lễ vật và mấy người đi có điều quan hệ ở chúng tôi, nên đi sớm thì phải đi sớm, nên đi trưa thì phải đi trưa, đều ở tay tôi cất đặt. Nay ân tướng lại cho lão Đô Quản vào hai tên Ngu Hầu cùng đi, vâng mệnh phu nhân sai khiến, trong khi đi đường hoặc sinh sự ngang trái; chúng tôi không có quyền coi giữ, mà lỡ ra hỏng đây việc to, thì bấy giờ biết nói làm sao cho được.
– Cái đó khó gì, để ta bắt họ phải tùy theo ngươi là được rồi.
– Như vậy thì chúng tôi xin ký giấy lãnh để đi, nếu có sơ xuất điều chi, thì xin cam chịu tội.
Lương Trung Thư cả mừng mà rằng:
– Ngươi thực là người có kiến thức, không phụ lòng ta đề cử chút nào.
Nói đoạn cho gọi Tạ Đô Quản và hai tên Ngu Hầu mà truyền rằng:
– Dương Chí đã nhận lấy lãnh trạng, tải các lễ vật dâng quan Thái Sư bên Đông Kinh, việc gì cũng đều quan hệ ở hắn cả, vậy các ngươi đi đường phải tuân theo ý hắn, đi đứng nghỉ ngơi, bảo sao nghe vậy, không được ngang trái điều chi. Còn những việc Phu nhân đã dặn, thì ba các ngươi phải cho chu tất, cẩn thận, đi đến nơi về đến chốn, chớ để làm lỡ mới được!
Lão Đô Quản cùng Ngu Hầu đều cúi đầu mà vâng nhận mọi lẽ. Sáng hôm sau đầu trống canh năm, sắp sửa gánh gồng ra để ngoài sảnh sự. Lão Đô Quản cùng hai Ngu Hầu, đem một gánh tài bạch của Phu nhân ra, tất cả là mười một gánh, bắt 11 tên cấm quân đều ăn mặc lối phu gánh thuê cả. Khi cơm nước xong rồi, Lương Trung Thư giao các giấy má cho Dương Chí. Dương Chí đội nón lá, giắt thanh đao lưng, cầm thanh đao lớn. Tạ Đô Quản thì ra dáng người khách đi đường, và hai tên Ngu Hầu ăn mặc ra người bán hàng, ai nấy đều cầm đao và giắt mấy thanh roi mây, mà bái từ Lương Trung Thư rồi dòng dả cất gánh ra đi.
Mười lăm người đi khỏi cổng phủ, ra tới cửa thành Bắc Kinh, rồi cùng nhau lên đường cái lớn, trông chừng thẳng ruỗi Kinh Sư. Bấy giờ đương độ trung tuần tháng năm, trời tuy lạnh ráo, mà nóng bức lạ thường. Dương Chí nhất tâm muốn đi cho kịp ngày sinh nhật, là ngày rằm tháng Sáu, cho nên cũng phải dòng dả đi mau. Từ khi ở thành Bắc Kinh bước chân ra, trong năm bảy ngày trời, hôm nào cũng đầu trống canh năm dậy đi cho mát, rồi đến giữa trưa lại nghỉ. Sau dần dần đến những nơi nhà cửa lưa thưa, đường đi vắng vẻ, các điếm nghỉ toàn thị trên gò trên núi. Dương Chí bèn bắt các quân quan cứ từ giờ Thìn thì bắt đầu đi, mà đến giờ Thân thì nghỉ. Bọn 11 đứa cấm quân toàn thị là gánh nặng è cổ, mà trời lại nóng bức như thiêu, chúng không sao chịu được, cứ thấy quãng rừng cây nào là đặt gánh xuống nghỉ. Dương Chí thấy vậy, thì thúc dục bắt đi, nếu anh nào chậm trễ lại roi mây quất đít không cho được nghỉ chút nào.
– Chúng bây còn biết cái gì nữa, muốn sống ngủ đi.
Nói đoạn giơ roi toan đánh. Chúng thấy thế ai cũng đều im hơi nín tiếng nhắm mắt cho xong. Đến gần giờ Thìn cùng nhau thổi cơm nấu nước, ăn uống xong rồi mới bắt đều cho đi.
Khi đi ra đường Dương Chí vừa đánh vừa thúc, không cho vào chỗ mát để nghỉ, các quân chúng đều lẩm bẩm oán hận luôn mồm. Hai tên Ngu Hầu cũng kêu ca với Đô Quản, làm cho Đô Quản cũng phải phiền não khó chịu vì Dương Chí. Đi được độ mười bốn mười lăm ngày, thì trong bọn mười bốn mười lăm người ấy đều oán hận Dương Chí, mà không ai bằng lòng chút nào.
Một hôm cũng vào khoảng giờ Thìn, mọi người thổi cơm nấu nước ăn uống rồi ra đi, bấy giờ giữa hôm mồng bốn tháng sáu, trời chưa tới trưa, thì mặt trời đã chói lọi ở trên soi xuống, không hề có một chút mây gợn nào che đỡ, làm cho nóng bức lạ thường không sao chịu nổi. Dương Chí thúc quân chúng đi ở một con đường hẻm trong núi, đến lúc bóng nắng đã đứng đầu, thì trên mặt đá nóng bỏng như nhung, không thể nào đặt chân xuống mà đi được! Quân chúng phàn nàn rằng:
– Trời nóng quá thế này, dễ thường phơi chết người ta chắc!
Dương Chí thấy chúng phàn nàn lại thét lên rằng:
– Chúng bây phải cho mau, đến quãng đồi đằng trước kia sẽ liệu.
Được một lát đi đến một cái đồi đất ở trước mặt, mười lăm người cùng lên đồi để đặt gánh xuống nghỉ, rồi mười một quân gánh đều chạy ra chỗ gốc cây mà nằm ngủ lăng quay ra đó. Dương Chí thấy chúng như vậy, thì kêu lên rằng:
– Chết nỗi! Đây là xứ sở nào, mà các ngươi dám nằm nghỉ ở đó? Có dậy mà đi mau lên không?
Nói đoạn lại quay sang lão Đô Quản mà bảo rằng:
– Đô Quản không biết đây chính là gò Hoàng Nê, trộm cướp vẫn thường lẩn núp ở đây, dẫu đến Thái Bình vô sự, cũng vẫn có ban ngày cướp bóc người ta, huống chi là thời buổi này, còn ai dám lên đây mà nghỉ!
Hai tên Ngu Đầu nghe nói, thì ra dáng không bằng lòng mà rằng:
– Câu ấy ông nói đến mấy lượt rồi, ông chỉ quen nói thế để dọa người ta thôi.
Lão Đô Quản bảo Dương Chí rằng:
– Thôi thì hãy để cho họ nghỉ một tí đến quá trưa ta lại đi có được không?
Dương Chí nói:
– Các ông có biết gì đâu, từ đây trở đi tới bẩy tám dặm đường, không có một cái nhà nào cả, nghỉ ở đây thế nào được?
Lão Đô Quản nói:
– Tôi hãy ngồi đây một lát rồi tôi đi, các ông cứ giục họ đi trước đi.
Dương Chí đứng dậy cầm roi dóng dả cho chúng mà quát lên rằng:
– Anh nào không đi, thì đánh đủ hai chục roi không tha.
Chúng nghe nói đều sợ hãi, đâm bổ trở dậy. Trong đám ấy có một anh nói với Dương Chí rằng:
– Đề Hạt ơi! Chúng tôi gánh nặng hàng trăm cân một có được thung dung nhẹ nhàng như các ông đi tay không đâu? Ông phải nên nghĩ lại cho chúng tôi của là người mới được. Đến ngay Tướng Công đi đây, chắc ngài cũng còn cho chúng tôi kêu được một câu nữa là…ông cứ mắng hoài đi, không còn thương chúng tôi chút nào cả.
Dương Chí lại quát lên rằng:
– Đồ súc sinh không biết gì, tao đây chỉ đánh mới xong!
Đô Quản gạt đi rằng:
– Đề Hạt hãy khoan tay để tôi nói câu này: Khi tôi ở Đông Kinh hầu hạ quan Thái Sư, bao nhiêu quan quân trên dưới trông thấy tôi đều vâng dạ răm rắp, mà không hề có kêu ngạo một câu nào. Nay bác là một anh tử tù đi sung quân, ví Tướng Công có lòng thương, cho làm chức Đề Hạt, thế mà bác chỉ quát tháo đánh đập người ta, thì còn ra lý thú gì nữa chứ?
Dương Chí nói:
– Các ông có biết đâu đường đi bây giờ thiên nguy vạn hiểm, chứ có phải chơi đâu?
– Tôi từ Tứ Xuyên Lưỡng Quảng không đâu là không đi khắp, nhưng cũng không thấy ai nói như bác bây giờ.
Dương Chí nói:
– Bây giờ nào có được như mọi lúc thái bình đâu?
– Bác nói thế mà không sợ tội khoét mồm cắt lưỡi, thiên hạ bây giờ làm sao mà không thái bình?
Dương Chí đương muốn nói đáp lại, thì bỗng thấy ở khu rừng có bóng người đương ngấp nghé, nom dòm, chàng liền trỏ mà bảo mọi người rằng:
– Kia kìa, có phải rõ quân cướp đấy không?
Nói đoạn vất roi xuống đất, vác thanh đao chạy thốc sang khu rừng mà quát lên rằng:
– Chúng bây to gan thực, dám đến đây nom dòm hàng hóa của ta à?
Chàng vừa nói vừa chạy đến, thì thấy ở khu rừng bên ấy, có một dẫy bảy cổ xe giang chấu, sáu anh đương cởi trần trùng trục, ngồi nghỉ mát, và một anh bên cạnh mái tóc có nốt ruồi đỏ cầm đao đứng đó. Tụi kia trông thấy Dương Chí, thì bảy người đều kêu lên một tiếng rồi nhảy trổ ra, Dương Chí quát lên rằng:
– Các anh là người nào?
Bảy người kia hỏi lại:
– Anh là ai? Anh đừng hỏi càn, chúng tôi đi buôn bán tầm thường, không có tiền đâu cho anh được!
Dương Chí nói:
– Các anh buôn bán tầm thường, thì đây buôn to hẳn?
Bảy người hỏi:
– Anh là hạng người nào, nói thực cho biết?
– Các anh hãy nói các anh ở đâu đã?
– Bảy anh em chúng tôi buôn táo ở Hàng Châu, đem sang Đông Kinh, đường đi qua đây, thấy họ nói chỗ này là đồi Hoàng Nê, thường có trộm cướp lẩn lút để cướp bóc khách thương, cho nên chúng tôi phải mải miết đi. Nhưng nghĩ lại mình chỉ có mấy xe táo, mà không có của cải chi, vả chăng đi được đến đây, thì trời nắng quá, không sao chịu nổi, đành phải ngồi nghỉ, đợi khi trời mát mới đi. Vừa rồi nghe tiếng nói ở trên đồi, chúng tôi tưởng là cướp cho nên phải bảo người chạy ra nom xem.
Dương Chí nói:
– Té ra chúng mình là khách đi đường cả, thế mà tôi thấy người nom dòm, vẫn cho là cướp nên vội vàng chạy đến để xem.
Bảy người kia cười mà rằng:
– Mời ngài xơi mấy quả táo cho vui.
Dương Chí nói:
– Thôi, tôi xin vô phép.
Đoạn rồi vác đao chạy về chỗ để gồng gánh.
Lão Đô Quản thấy Dương Chí trở về thì nói rằng:
– Có cướp đến đây, thì chúng ta phải chạy đi mới được chứ?
Dương Chí nói:
– Tôi tưởng là cướp, nhưng té ra là bọn buôn táo cả.
Lão Đô Quản trở ngay nét mặt mà nói với chúng rằng:
– Cứ như lời ông ấy nói lúc nãy, thì có lẽ tụi này chết hết cả rồi.
Dương Chí nói:
– Thôi ông bất tất phải nói, nếu được vô sự thì còn gì bằng nữa, bây giờ cứ để cho nghỉ, chốt mát sẽ đi.
Chúng nghe nói ai cũng bật cười. Dương Chí để thanh đao xuống đất, rồi cũng đến một gốc cây mát ngồi nghỉ.
Được một lúc, thấy đàng xa có một anh vai vác đôi thùng, chân bước lên đồi, miệng hát nghêu ngao rằng:
“Lửa trời nung nấu bấy lâu nay
Cháy lúa khô đồng héo cỏ cây,
Thương nỗi nông phu như lửa đốt
Mà ai phe phẩy quạt luôn tay? “
Anh chàng ta vừa hát vừa đi lên chỗ rừng thông trên đồi, đặt gánh để nghỉ. Bọn quân chúng trông thấy, liền hỏi anh chàng kia rằng:
– Anh gánh gì trong thùng đó?
– Rượu trắng đấy!
– Anh gánh đi đâu?
– Gánh vào các làng để bán.
– Bao tiền một thùng?
– Năm quan tiền một thùng.
Chúng nghe nói bàn với nhau rằng:
– “Chúng ta đương nóng đương khát, thử mua một thùng uống giải nóng giải khác có thú không? “
Dương Chí thấy chúng nói, liền quát lên rằng:
– Chúng bây làm gì đó?
Chúng nói:
– Chúng tôi mua rượu uống cho đỡ khát.
Dương Chí vớ lấy thanh đao quát mắng rằng:
– Tao không bảo, sao chúng bây dám thiện tiện mua rượu, quân này to gan thực.
Chúng nói:
– Không có việc gì ông cũng hống hách với chúng tôi. Chúng tôi có tiền mua rượu uống, việc gì mà hăm dọa.
Dương Chí lại mắng rằng:
– Quân khốn nạn này, không hiểu một chút nào cả. Chúng bây chỉ chực uống, không biết đường xá bây giờ vất vả, kể biết bao hảo hán bị thuốc mê đó sao?
Anh chàng bán rượu nghe nói thì nhìn Dương Chí rồi cười nhạt mà rằng:
– Ông này mới lạ chứ! Tôi có bán cho ông uống đâu, mà ông dám nói những câu vô lý như thế.
Đương khi hai bên cãi cọ ỏm tỏi, thì thấy bọn buôn táo vác đao chạy đến:
– Các anh làm gì ầm ĩ lên thế?
Anh chàng bán rượu liền đáp rằng:
– Tôi gánh rượu vào làng bán, đi qua đây trời nắng ngồi nghỉ mát, bọn kia đến hỏi mua rượu uống; tôi cũng chưa bán, thế mà ông này lại bảo rằng: Rượu tôi có thuốc mê. Các ông tính coi nói những câu vô lý thế buồn cười không?
Bảy người kia nói:
– À, thế mà chúng tôi tưởng là có cướp đến…Thôi cần gì! Chúng tôi cũng đương muốn tìm rượu giải khát đây, các ông ấy đã ngờ, thì anh bán cho chúng tôi một thùng vậy.
Anh chàng gánh rượu đáp rằng:
– Không bán, không bán…
Bảy người lại nói:
– Cái anh này rõ là vô lý, anh mang đi đâu bán không là tiền? Anh bán cho chúng tôi cũng là cứu cho chúng tôi đỡ cơn nóng khát chứ.
– Bán cho các ông một thùng, thì cũng chả làm gì, nhưng bị họ nói thế, khó chịu lắm! Vả chăng đây cũng không có chén gáo gì cả, uống làm sao được?
– Ối chào! Họ nói mặc họ, ta cứ bán đã sao? Chúng tôi đã có gáo kia rồi.
Nói đoạn hai người chạy về chỗ để xe, lấy ra hai cái gáo dừa, và mỗi người bốc một bốc táo nướng đem đến. Bảy anh túm vào bên thùng rượu múc uống lần lượt với nhau, rồi giở táo ra nhắm.
Một lát hết cả thùng rượu, bảy người quay ra bảo anh bán rượu rằng:
– Chúng tôi quên mất, không hỏi anh thùng rượu bao nhiêu tiền.
Anh kia trả lời rằng:
– Năm quan một thùng, mười quan một gánh đấy.
Bọn bảy người nói:
– Năm quan một thùng, chúng tôi xin vâng, nhưng anh thêm cho chúng tôi một gáo.
Anh kia đáp:
– Giá tiền đã nhất định rồi, không thêm được!
Bọn kia một anh đưa tiền ra trả hàng rượu, một anh thì mở ngay thùng rượu đầy, múc lấy một gáo uống. Anh chàng bán rượu vội vàng chạy đến giằng lấy, thì anh kia đã uống hết một nửa, còn một nửa trong gáo thì cầm chạy phăng sang bên rừng bên kia. Anh chàng bán rượu lật đật chạy đuổi theo, thì lại một anh ở trong rừng, lững thững chạy ra múc luôn gáo nữa.
Anh chàng kia trông thấy vội vàng nắm lấy tay, giật lấy gáo rượu đổ vào thùng đậy lại cẩn thận rồi vất gáo dừa xuống đất mà nói lẩm bẩm rằng:
– Bọn khách ấy không có một chút gì là quân tử cả, con người như thế mà làm như thế được sao?
Đằng này bọn quân chúng của Dương Chí, thấy đám kia uống rượu tới ta tới tấp như thế thì trong bụng rất lấy làm nóng nảy khó chịu, muốn sao vớ được thùng rượu mà nốc với nhau, thì mới thỏa lòng. Có một anh đến nói với lão Đô Quản rằng:
– Ngài ơi! Ngài làm phúc nói giúp chúng tôi một tiếng, bọn hàng táo nó uống cả một thùng có việc gì đâu, còn một thùng cho chúng tôi mua uống nốt để cho đỡ khát, kẻo trời nóng bức thế này, mà ở đây không có nước thì chịu làm sao được.
– Lão Đô Quản phần thì nghe chúng nói cũng thương tình; phần thì bụng mình cũng hơi muốn uống, bèn nói với Dương Chí rằng:
– Bọn hàng táo nó uống hết thùng rượu, cũng không việc gì cả vậy còn một thùng nữa cho phép bọn quân chúng nó mua, uống cho đỡ khát, chứ ở đây còn đào đâu ra nước được, không lẽ để nó chết khát hay sao.
Dương Chí nghe nói trong bụng nghĩ thầm rằng:
– “Bọn kia nó uống hết một thùng; đích xác ta trông thấy, sau nó lại múc một gáo bên thùng này để uống, cũng không thấy việc gì cả, thôi ta đánh nó suốt cả ngày, âu là bây giờ ta cũng để mặc nó uống, mỗi đứa một ít, cho nó hả lòng vậy.”
Nghĩ đoạn liền bảo với lão Đô Quản rằng:
– Đô Quản đã nói vậy, tôi xin chiều lòng cho chúng nó uống. Mới hay:
Dẫu cho dạ đá gan đồng
Lúc này há dễ cầm lòng cho đang
Tri cơ nên trước giữ giàng.
Rồi ra những sự phi thường biết đâu?
Bấy giờ lũ quân chúng nghe Dương Chí nói, thì chẳng khác gì được người cởi trói tha cho, liền hăm hở cùng nhau gom đủ năm quan tiền đến nói với anh kia để mua rượu uống. Anh kia lắc đầu mà đáp rằng:
– Rượu này có thuốc mê, tôi không bán cho các anh!
Chúng nghe nói thì làm bộ cười nịnh mà bảo anh kia rằng:
– Bác ơi! Bác nói cay làm gì thế?
Anh chàng kia lại gạt đi mà rằng:
– Tôi không bán đâu, đừng lôi thôi nữa.
Bọn buôn táo thấy vậy, bảo với anh hàng rượu rằng:
– Anh lầm rồi, vừa nãy họ nói liều thế thì mặc họ, chứ việc gì anh lại giận dỗi? Chúng tôi đã uống một thùng, có việc gì đâu, thôi anh bán cho người ta, đừng nên chấp nê nữa?
Anh chàng kia nói:
– Thôi, việc gì đương vô sự, lại làm cho người ta phải nghĩ tâm đến mình?
Bọn hàng táo tức mình đứng dậy đẩy anh hàng rượu ra, rồi xách thùng rượu đưa cho đám quân chúng uống.
Đám quân chúng thấy vậy cả mừng, giữ lấy thùng rượu, rồi hỏi bọn buôn táo mượn cái gáo dừa để uống.
Bọn buôn táo bảo đám quân chúng rằng:
– Để tôi đưa các bác mấy quả táo mà nhắm rượu nhân thể.
Đám quân chúng nói:
– Xin cảm ơn các ông, có đâu chúng tôi dám phiền thế.
Bọn buôn táo cười mà rằng:
– Chúng tôi cũng là khách đi đường cả, các bác lấy mỗi người một quả để đưa cay cho dễ uống, có làm chi mà phiền.
Nói đoạn lấy độ dăm quả táo đưa cho đám quân chúng, và đưa hai cái gáo cho mượn một thể.
Quân chúng cả mừng, vội vàng mở thùng rượu múc ra hai gáo đưa mời Dương Chí và lão Đô Quản uống trước, Dương Chí nhất định không uống, duy có Đô Quản thì giơ gáo lên nốc luôn một hơi vừa hết. Hai anh Ngu Hầu cũng mỗi người uống trước một gáo, còn thì quân chúng lần lượt chia nhau mà uống. Dương Chí thấy chúng uống vào đều vô sự cả, chàng cũng vẫn nhất định không uống, nhưng sau thấy trời nóng bức quá chừng, mà miệng ráo cổ khô không sao chịu được, chàng liền bất đắc dĩ cầm lấy gáo rượu uống liều một nửa, và ăn qua loa một vài miếng táo cho đỡ khát vậy.
Khi uống xong rồi, anh chàng bán rượu bảo với chúng rằng:
– Thùng rượu này bọn hàng táo đã uống mất nửa gáo, vậy tôi trừ cho các anh nửa quan còn phải trả đủ cho tôi.
Bọn quân chúng đưa tiền ra trả, anh chàng kia nhận lấy tiền rồi, quảy đôi thùng mà lại hát nghêu ngao đi xuống dưới đồi. Bấy giờ bọn bảy anh hàng táo đứng ở gốc thông bên kia, trỏ sang 15 người này mà nói rằng:
– Ngã này…Ngã này…
Đoạn rồi trong bọn 15 người này, hết thẩy đều nặng đầu chóng mặt, mềm rũ chân tay mà nằm vật cả ra đó. Bảy anh hàng táo thấy vậy, liền đem bảy cỗ xe giang châu đổ cả táo xuống góc rừng, rồi lấy các kim ngân tài bảo trong 11 gánh của lũ kia, mà xếp cả lên xe đậy điệm cẩn thận, rồi kéo xe xuống đồi dưới mà đi. Dương Chí trông thấy thế, trong bụng vô cùng tức bực khốn khổ, song chân tay thân thể đã mềm rũ cả ra, mà không sao cựa quậy được. Còn mười bốn anh nọ cũng chịu phép, nhìn cho bọn kia lấy hết kim ngân châu bảo mang đi, không hề làm gì được cả.
Khôn ngoan ở với ngu đần,
Vừa phần nhọc xác vừa phần uổng công.
Giống tham bao tránh khỏi tròng
Làm cho lụy đến anh hùng bởi ai?
Bảy anh hàng táo ấy là ai? Chính là Tiều Cái, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Lưu Đường và ba anh em họ Nguyễn. Còn anh hàng rượu kia, thì chính là Bạch Nhật Thử Bạch Thắng, mà gánh rượu ấy toàn là rượu ngon tất cả. Khi bảy người uống một thùng, rồi Lưu Đường lại bỏ thùng rượu bên này uống luôn một gáo nữa, cố ý làm cho bọn 15 người nọ biết là rượu tốt. Đoạn rồi Ngô Dụng lại nấp ở trong rừng bỏ thuốc mê vào gáo, mà chạy xổ ra giả vờ múc trộm. Bấy giờ Bạch Thắng quay lại giằng gáo rượu đổ trả vào thùng, làm cho thuốc mê pha lẫn cả vào rượu, rồi sau mới bán cho lũ nọ. Đó là cái kế sách của bọn 8 người hảo hán bày ra, để cướp lấy 10 vạn quan tiền châu báu vậy.
Khi ấy Dương Chí vì uống ít rượu, nên vừa được một lúc, thì chàng đã tỉnh táo dậy được trước, duy nhìn đến mười bốn người kia, thì anh nào anh nấy, vẫn còn nằm vật mãi ở gốc cây, dãi nhớt chảy ra bên mép, mà chưa anh nào dậy được. Dương Chí thấy thế, vừa phần tức bực, vừa phần lo sợ, vì mấy đứa khốn nạn tham lam, nói ngang nói dọc, làm cho mười mấy gánh châu báu kim ngân; đều tống đi tất cả, như thế thì còn về tới phủ mà trông thấy Lương Trung Thư làm sao được nữa? Chàng nghĩ vơ nghĩ vẫn, cay đắng trong lòng, liền lấy tờ giấy lĩnh trạng ra xé tan nát vứt đi. Đoạn rồi đứng mà phàn nàn một mình rằng:
– Bây giờ đi cũng dở, mà về thì cũng chết, tiến thoái đôi đường đều là tuyệt vọng cả! Thời vận anh hùng đã đến lúc long đong như thế, bất nhược liều mình mà chết ở đây cho rãnh!
Chàng nghĩ vậy liền sắn áo đi rảo bước ra mạn đồi để nhảy xuống khe mà tự tử.
Cho hay:
Cây cao càng cả gió lay
Khôn ngoan càng lắm nỗi cay đắng lòng,
Chẳng hay cũng mẹo Hóa Công,
Thử gan sắt đá anh hùng xem sao?
Bể trần mấy lớp ba đào,
Nóng gan ai dễ cắm sào được yên!
Chắp tay vái lạy Hoàng Thiên,
Thân này liền quyết một phen với đời…
Lời bàn của Thánh Thán:
Đọc đến đây ta không khỏi ngậm ngùi mà than rằng: Bậc quân tử lãnh mạng tự trong triều, Lâm chính ở ngoài quận, phải lòng trung và gắng trí khôn thế mà sau cũng táng thân mang tiếng, thì sao cho khỏi đau lòng!!! Hỡi ôi! Để một tay chuyên chế có thể điều động ba quân, mà khiến hai kẻ chăn dê, chả khỏi sinh ra rắc rối: Dùng một tâm chí làm việc, thì đến khó như xây lầu Ngũ Phượng, cũng chả chút sai lầm; Mà kéo cả họ đến bàn mưu, thì làm cái nhà nhỏ cũng không được?
Lương Trung Thư biết ngoài đường lắm trộm cướp, lại khó kiếm nổi người đi, đã nghĩ kỹ càng, cậy đến Dương Chí; ủy cho 10 vạn kim ngân, kể cũng biết người; Tại sao lại còn phụ thêm một lão Đô Đầu, và hai tên Ngu Hầu đi kèm theo nữa, cho rằng riêng lễ vật của phu nhân một gánh, gửi theo vào trong phủ để biếu bảo quyến; thì cũng đoạn Dương Chí đã lãnh 10 vạn của, khó gì một gánh nữa đâu? Nếu bảo rằng Dương Chí chẳng thuộc lối đường cho lắm, thì những tên hầu trong Tướng phủ, theo giúp việc phu nhân, đáng tin cậy lắm ư? Tức còn nghi kị Dương Chí, chưa coi là thân mật vậy. Phải chăng Lương Trung Thư coi trọng 10 vạn của, nghĩ rằng Thái Sư đã giàu sang đến thế, cũng phải động lòng, khi Thái Sư đã động lòng, thì Lương Bắc Kinh đắc sủng. Thế lại vững như bàn thạch, mới đem dâng hiến của này hòng rằng tâm Thái Sư phải động. Cho nên coi khinh Dương Chí, nghĩ rằng y vốn kẻ bần hàn, nay thấy của chẳng động lòng sao được? 10 gánh của ấy, còn nguy hiểm hơn “Giấc mơ bắt được Hưu tàu lá chuối ngoài gò”mới phải cho Đô Quản và hai Ngu Hầu đi kèm ép vậy để phòng họ Dương kia khỏi động lòng. Thế mà vẫn nhớ câu sách dạy: Dùng người chớ ngại, ngại người chớ dùng…Thế mà còn bày trò một gánh của phu nhân, cho kẻ thân tín đi kèm, để cho dấu vết nghi kỵ. Thì than ôi! Làm một người như Dương Chí lúc ấy, xét cũng khó thay! Dẫu khi đi đường, cũng nghỉ ngơi từng lúc, đều theo lời dặn, coi cả ba người, không được tự tiện, lại xét ra một viên quan cai trị trăm họ, một viên tướng điều khiển ba quân, chỉ một người là được, đằng này lại đến bốn người, đem bốn người ấy, áp tải 11 cấm binh há có được chăng? Kinh Dịch nói: Dương, như 1 vua 2 dân, đạo của quân tử, âm, như 2 vua 1 dân, đạo của tiểu nhân. Nay Trung Thư chỉ vì cớ coi trọng 10 vạn của, khinh một Dương Chí, với kế hoạch quanh co, đã theo đạo của tiểu nhân, còn mong qua Hoàng Nê Cương khỏi mất ở trong muôn một, ắt vô lý vậy. Cho nên vụ mất cướp đồ mừng sinh nhật, đâu phải cái tội ở đám 8 người Tiều Cái, đâu phải cái tội ở 11 tên Cấm binh, mà cũng không phải cái tội ở bốn người Sai áp nữa, mà chính cái tội ở Trung Thư, còn bàn gì nữa, còn bàn gì nữa? ? ?
Hoặc có kẻ hỏi: Đã xẩy ra mất cướp, sao Dương Chí chả cướp trước đi? Thánh Thán này xin đáp: Dương Chí không nên cướp vậy, vì 10 vạn của là trọng vật, chẳng cứ mồ hôi nước mắt của trăm họ ở phủ Đại Danh, mà cũng là thứ làm cho Lương Tướng Công kiệt tâm huyết nữa, vì Dương Chí vốn kẻ bần hàn, chóng được hiển đạt, cũng chỉ bởi người trên hậu đãi trước, để rồi dùng vào việc sau đây, cho nên vì cớ đem nổi 10 vạn của, mà trao cho làm Thống chế thì dễ mà vì sẵn có Thống chế, mà trao cho 10 vạn của thì khó. Dương Chí cũng biết sâu xa như thế, sao Dương Chí biết được, vì biết rằng năm vơ vét 10 vạn của, để cầu cạnh Trượng Nhân thì người ấy dùng ta phải đâu là quốc sĩ, chẳng đem lòng quốc sĩ đãi ta, mà khi đấu võ ở Đông Quạch, một ngày vượt qua mấy cấp, đều là dụng ý để sau này ta hết sức giúp việc mà thôi, khác nào ngoi chim mồi để dọa chó săn, chẳng phải ân tình, song lẽ kẻ kia có biết đâu đức của chim mồi là Phượng Hoàng phẩm, của chó săn là Kỳ Lân đâu? Cho nên trước khi Trung Thư chưa sai Đô Quản Ngu Hầu, Dương Chí đã kêu với Tướng Công, nên cho một người đi với tiểu nhân này, một người đi với tiểu nhân này, đâu phải xin Võ Dương hay Triều Ân làm phó hay giám sát, nếu Dương Chí sớm biết sự nghi kỵ, mà rồi cũng cứ đi, thì ra trượng phu biết báo ơn sâu, để đáp lại sự vội cất nhắc cho quan chức ở Đông Quách vậy, đâu có chối từ? Đem chuyện Dương Chí ra ngụ ngôn vậy. Hỡi ơi! Xưa kia quốc gia và nghi lập Giám sát, luôn luôn có đấy, ta sao nói được hết ra.
Tác giả tả Dương Chí chợt vậy mà đi, lại chợt vậy mà thôi, chợt đi lại chợt chẳng đi, thế bút uốn éo, không thể nào định trước.
Tác giả tả khí trời oi bức, chỉ một hai câu, đã bức sốt chết người xưa kia bảo rằng mùa đông treo tranh trời bức, cho ấm áp thêm, nay đọc hồi này, khác nào như thế.
Tác giả tả trên bước đường lão Đô Quản khéo giày vò, khác nào vẽ ra người ấy. Hỡi ơi! Kẻ tiểu nhân quen hưởng thời bình, chợt có họa hoạn, thì ngăn trở mọi đường, uốn lưỡi chưởi người, há chả rõ ràng đáng chú ý, đến khi biến đổi, chả biết làm sao, làm chuột làm hùm, cũng đều thua cả, há chẳng đau thương!
Tác giả tả đám bán táo một nơi, chàng bán rượu một chốn, thùng rượu không gáo, gáo lại ở chỗ khác, khiến độc giả không quên đám uống rượu tụ nghĩa ở thôn Đông Khê, huống hồ phải sau này mới biết, bút pháp tác giả, thật khéo lắm thay!
Tác giả tả anh bán rượu cãi nhau, thực là kỳ bút, nếu kẻ khác chép truyện, thì vào đề ngay, cho đến kẻ đọc, cũng thấy mãi mà không bán rượu, vì ngọn bút tả ra dần, như cung cứng ngựa mạnh, muốn xổ ra ngay, thì không thu lại kịp, tả như thế mới hay.
Tác giả tả bảy anh hàng táo gặp hàng rượu vồ lấy, như lũ bồ cắt kia tranh chim sẻ, nhảy lên, múa lên, đọc thấy mê thú.
Bấy giờ Dương Chí đương bực mình nóng tiết, chạy ra bên cạnh đồi co cẳng định nhẩy xuống để tự tử, chợt lại tỉnh ngộ mà nghĩ lại rằng:
– Cha mẹ sinh ra ta, đường đường một đấng nam nhi, sức dài vai rộng, võ giỏi tài nhanh thế mà quanh quẩn không làm được một việc gì bổ ích cho đời, nay lại hoài thân đến đây tự tử thì thực là uổng công cha mẹ sinh thành mà sống bấy nhiêu lâu cũng là vô chuyện. Chi bằng ta hãy nấn ná ở đời để xem cơ hội ra sao rồi ta hãy liệu.
Tiểu nhơn sống lắm cũng thừa
Anh hào chết vội cũng chưa đáng đời
Còn non còn nước còn người
Lẽ đâu phó mặc đất trời cho cam.
Dương Chí nghĩ vậy quay trở vào bên cạnh chỗ mấy người nằm, thấy anh nào cũng mở mắt trao tráo nhìn lên Dương Chí mà không sao cựa dậy được, chàng liền trỏ vào mặt mà mắng rằng:
– Chỉ tại chúng bây đồ khốn nạn ngu si, không nghe lời ta nói, gây nên cơ hội thế này để cho liên lụy đến ta, thực chúng bây không còn trách ai được nữa.
Nói đoạn lại dắt dao găm vào lưng rồi vớ lấy thanh đao, tần ngần đứng lặnh nhìn bốn xung quanh một lúc rồi thở dài mà lững thững đi xuống dưới đồi.
Lênh đênh ngọn núi chân đồi
Ai làm cho khách anh tài gian truân!
Bọn lão Đô Quản cùng mười một tên cấm quân kia nằm lăn lóc mãi đến mấy trống canh mới tỉnh dậy, anh nào anh nấy nhìn nhau mà tưng hửng cả người, chỉ rền rĩ trông trời kêu khổ.
Lão Đô Quản mắng chúng rằng:
– Chỉ vì các anh không nghe lời Dương Chí thành ra làm khổ cả đến ta, bây giờ còn biết làm sao được nữa?
Chúng nói với lão Đô Quản rằng:
– Lão già ơi; Bây giờ sự thế đã ra thế, chúng ta phải liệu mà thương lượng thế nào cho xong chuyện mới được?
– Các anh nghĩ thế nào?
– Cái này thì quả là lỗi tại chúng tôi thực, nhưng cố nhân đã nói! “Lửa cháy đến nơi, có thân phải tháo, ong bám vào áo, phải cởi cho mau”. Bây giờ nếu có Dương Đề Hạt ở đây thì chúng ta không còn nói năng chi nữa. Song Đề Hạt đã bỏ chúng ta mà đi mất rồi, thì khi về tới phủ ta đổ hết cho ông ta, kêu là khi đi đường ông ta bức bách đánh nhiếc làm cho chúng ta không thể đi được, rồi lại thông đồng với bọn cướp lấy đi các đồ kim ngân châu bảo, như thế có tiện không?
Lão Đô Quản gật gù khen phải và bảo chúng rằng:
– Ta hãy đợi đến sáng mai vào trình Quan Tư bản sứ, và để Ngu Hầu ở đấy nghe xem công việc rồi ta sẽ về Bắc Kinh báo với Quan Lưu Thủ để bẩm vào quan Thái Sư và sức cho quan phủ Tế Châu truy nã bọn cướp, thế mà tiện nhất.
Chúng bàn định đâu đấy rồi sáng hôm sau dậy sớm cùng đi với nhau.
Gớm quân mặt nạc đóm dầy
Làm không nổi việc còn hay hại người
Công to việc lớn trên đời
Xưa này tan nát tại thời tại ai?
Còn về phần Dương Chí tay vác thanh đao lủi thủi một mình đi xuống dưới đồi Hoàng Nê rồi thẳng trông về phía Nam, mãi đến nửa đêm mới tìm một chỗ khu rừng để nghỉ. Bốn phương non nước mịt mù, bạn bè không có, tiền nong cũng hết, một mình vơ vẫn, chưa tính con đường lui tới ra sao?
Sáng hôm sau chàng trở dậy thực sớm, để đi cho mát. Đi được hơn hai mươi dặm đường, nghe trong mình mệt nhọc đói khát, rất là khó chịu, chợt trông thấy bên đường có một hàng rượu, mà sờ lưng không đồng nào, chàng liền nghĩ ra một kế để vào đó để mà uống rượu ăn cơm.
Khi vào tới nơi, Dương Chí tìm chỗ ghế ngồi dựng thanh đao vào một bên, rồi có người đàn bà ra hỏi rằng:
– Ngài muốn xơi cơm rượu gì?
Dương Chí đáp:
– Cho tôi hai chai rượu, rồi lấy gạo, thổi cơm, có thịt cá gì mang ra đây một thể.
Người đàn bà sai tên đầy tớ rót ra hai chai rượu rồi quay ra thổi cơm xào thịt mang lên. Dương Chí ăn uống xong rồi, vác thanh đao đứng lên đi thẳng ra cửa, mà không nói năng gì cả.
Người đàn bà thấy vậy ra hỏi rằng:
– Tiền cơm tiền rượu ông đã trả đâu?
Dương Chí đáp:
– Hãy để cho tôi chịu, tôi đi thẳng đằng này một lát, rồi lại trả ngay.
Nói xong bước rảo cẳng đi luôn. Tên đầy tớ thấy vậy chạy theo nắm Dương Chí lại. Dương Chí đánh cho một đấm ngã lăn xuống đất, rồi người đàn bà kêu ầm ĩ cả lên. Dương Chí cứ mặc kệ, lặng yên mà đi. Chợt thấy đằng sau lưng có tiếng người kêu gọi lên rằng:
– Thằng kia mầy chạy đi đâu?
Dương Chí quay cổ lại xem, thấy một anh chàng to béo cổi trần, vác gậy đuổi theo đằng sau, chàng liền đứng dừng lại mà không chạy nữa.
Đoạn rồi lại thấy tên đầy tớ cùng hai ba đứa trang khách cũng vác gậy, chạy răm rắp mà đổ xô theo đến.
Dương Chí nghĩ thầm “Đánh chết một thằng đầu này, tất là chúng không dám đến nữa”. Liền múa đao xông lại để đánh với anh kia. Anh kia cũng giơ gậy lên đánh lại. Hai bên đấu nhau được đến hai ba mươi hiệp, song sức anh kia không thể nào địch nổi với Dương Chí, chỉ quanh co che đỡ cũng không xong. Bấy giờ tụi đầy tớ người nhà đã toan xông vào cả một lượt để đánh Dương Chí, thì bỗng thấy anh chàng kia nhảy ra ngoài vòng mà kêu lên rằng:
– Khoan tay, bác là ai, nói tên tuổi cho tôi biết?
Dương Chí vỗ bụng đáp:
– Ta đây đi không đổi tên, ngồi không đổi họ, Thanh Diện Thú Dương Chí chính là ta.
Người kia hỏi:
– Có phải Dương Chế Sứ ở Điện Tư Phủ bên Đông Kinh đó không?
Dương Chí đáp:
– Làm sao ngươi lại biết đến tên ta? Chính ta là Dương Chí đây.
Anh chàng kia vội vất gậy ra, rồi cúi xuống lạy mà rằng:
– Chúng tôi thực là có mắt mà không trông thấy núi Thái Sơn, xin ngài tha lỗi.
Dương Chí chạy lại đỡ người kia dậy mà rằng:
– Ông là ai? Tôi không được biết.
Người kia đáp:
– Tên tôi là Tào Chính, người ở phủ Khai Phong, là học trò Giáo Đầu Lâm Xung khi trước. Nguyên nhà tôi ngày xưa chuyên nghiệp đồ tể, sau tôi cũng thiện nghệ về mặt sát sinh, nên ai cũng gọi tôi là Thao Đao Quỷ. Mới đây có một ông Tài Chu giao cho tôi năm nghìn quan tiền đem sang Sơn Đông buôn bán, bất đồ thua lỗ mất cả, thành ra không dám về nhà, mà lần lữa lấy vợ ở đây, người rót rượu lúc nãy là em vợ tôi đó. Tôi được gặp Chế Sứ thực là may mắn, vừa rồi tôi trót lỡ mạo phạm đến ngài, mới biết thủ đoạn của ngài thực là tài giỏi, không khác gì Lâm sư phụ, chúng tôi không thể nào mà địch được?
Dương Chí nói:
– Té ra anh là học trò Lâm Giáo Đầu mới bị Thái Úy hãm hại, phải đổi nghề đi lạc thảo, hiện bây giờ ở Lương Sơn Bạc đó.
Tào Chính nói:
– Chúng tôi cũng được nghe láng váng như thế song chưa biết đích xác ra sao? Xin đón Chế Sứ hãy vào chơi tạm trong hàng đã.
Nói đoạn mời Dương Chí vào ngồi chơi trong hàng gọi vợ và em vợ ra bái kiến rồi nhất diện sai làm rượu khỏan đãi.
Khi ngồi uống rượu, Tào Chính hỏi Dương Chí rằng:
– Chế Sứ vì cớ gì mà lại đi đến đây?
Dương Chí liền đem chuyện từ khi đánh mất Hoa Thạch Cương, cho tới khi đánh mất các đồ lễ vật của Lương Trung Thư, nói cho Tào Chính nghe một lượt. Tào Chính nghe vậy liền nói rằng:
– Nếu thế thì xin ngài hãy ở tạm đây trong ít bữa, rồi bàn định việc sau.
Dương Chí đáp rằng:
– Bác có lòng tiếp tôi thế, tôi cũng lấy làm cảm tạ lắm, song chỉ e Quan Tư truy nã đến nơi, ở đây lâu có điều không tiện!
– Vậy thì ngài định đi đâu bây giờ?
– Tôi định đi sang Lương Sơn Bạc tìm Lâm Giáo Đầu một thể. Dạo trước tôi đi qua đấy, gặp ngay ông ta xuống đánh nhau với tôi một lúc, rồi sau Vương Luân thấy võ nghệ hai người đều khá cả liền mời lên chơi rồi định lưu giữ ở trại, vì thế nên tôi nhận biết Lâm Giáo Đầu ngay từ độ đó. Bấy giờ Vương Luân đã có ý bảo tôi ở lại; Song tôi nhất định không chịu làm nghề lạc thảo, tới nay trên mặt đã phải thích kim ấn mà lại gặp bước thế này, nên phải liều mà định đi đến đấy, nhưng nghĩ ra thì cũng là bất đắc dĩ lắm, bởi thế nên tôi vẫn còn phân vân chưa quyết ra sao?
– Ngài nói cũng có lẽ, tôi cũng thấy nhiều người nói rằng: Vương Luân là một anh hẹp hòi không có độ lượng gì, ngày trước sư phụ tôi đến đấy cũng bị anh ta bắt hành bắt họe mãi rồi mới chịu dung, nhưng thế thì những người chí khí chịu sao cho được. Nay ở gần đây về hạt Thanh Châu có một trái núi gọi là núi Nhị Long Sơn trên có ngôi chùa gọi là Bảo Châu, địa thế cũng đẹp đẽ, mà chỉ có một lối là đi lên núi được. Xưa nay có một người tên là Kim Nhỡn Hổ Đặng Long trụ trì ở đó, nhưng mới đây anh ta đã phá giới mà để tóc và tụ họp đến 4, 5 trăm lâu la để cướp bóc kiếm ăn. Vậy Chế Sứ có ý muốn đi lạc thảo, thì chi cho bằng đến đó tiện hơn?
Dương Chí nghe nói cả mừng mà cảm ơn Tào Chính. Tào Chính lưu Dương Chí ngủ lại ở đấy một đêm. Đến sáng hôm sau nhờ Tào Chính cấp đỡ cho một ít hành lý, rồi từ tạ mà đi sang núi Nhị Long. Cho hay:
Có ăn mới biết ớt cay
Có từng trải lắm mới hay mùi đời
Cao lang mấy kẻ ra ngoài
Quê mùa rau cháo là nơi hữu tình.
Đường đi vào khoảng gần hôm, đã trông thấy một tòa núi cao cao, Dương Chí liền nghĩ trong bụng định tìm chỗ rừng cây để ngủ một đêm, rồi sáng hôm sau sẽ lên núi. Chúng nghĩ đoạn bèn lần lần vào chỗ rừng cây ở trước mặt. Bất đồ bướùc chân đi vào thì bỗng giật mình đứng lại, rồi thấy có một ông sư bụng phệ, đương cởi trần để hở những nét hoa chạm ở trên sống vai và ngồi hóng mát dưới gốc cây thông. Nhà sư ấy trông thấy Dương Chí đến thì vớ lấy cây thuyền trượng dựng ở gốc cây, đứng dậy quát lên rằng:
– Thằng quái nào? Mày ở đâu đến đây?
Dương Chí nghe tiếng biết là người ở Quan Tây cùng xứ với mình, liền hỏi lại rằng:
– Nhà sư ở chùa nào đến đây?
Nhà sư không nói năng chi cả, vác ngay thuyền trượng sư phụ xăm xăm ra đánh ngay luôn Dương Chí.
Dương Chí tức mình mà quát lên rằng:
– Thằng trọc này vô lễ thật, để ta đánh một trận cho biết tay.
Nói đoạn múa đao vào để đánh. Đôi bên đánh nhau trong khu rừng, có tới 4, 5 mươi hiệp, mà không bên nào chịu kém bên nào.
Sau nhà sư lựa thế nhảy tót ra ngoài vòng mà quát lên rằng:
– Khoan tay đã.
Bên kia Dương Chí cũng dừng tay mà lại nghĩ thầm trong bụng rằng:
– Lão sư này ở đây đến mà thủ đoạn khá lắm, có lẽ ta đây cũng khó lòng địch được hắn chắc.
Bấy giờ nhà sư hỏi Dương Chí rằng:
– Anh chàng mặt xanh kia, anh là ai?
– Ta là Đông Kinh Chế Sứ Dương Chí đây.
– Có phải là người bán đao ở Đông Kinh mà giết chết thằng Ngưu Nhị đó không?
– Không trông thấy kim ấn ở trên mặt ta đây à!
Nhà sư nghe nói cười ầm lên mà rằng:
– Tưởng là ai? Té ra là bác, sao lại gặp ở đây?
Dương Chí nói:
– Tôi hỏi khí không phải, hoà thượng là ai sao lại biết việc tôi bán đao ở Đông Kinh?
Vị hoà thượng cười mà đáp rằng:
– Tôi chính là quân quan ở Kinh Lược Lão Chung phủ Duyên An, là Lỗ Đề Hạt đây, nhân vì ba cẳng tay đánh chết thằng Trấn Quan Tây Giả, lên phải lên núi Ngũ Đài cắt tóc đi tu, sao người ta thấy tôi có thích hoa trên sống vai, cho nên thường gọi tôi là Hoa Hòa Thượng Lỗ Trí Thâm.
Dương Chí nghe nói cả cười mà rằng:
– Nếu vậy thì người cũng một hội cả chứ đâu? Trong khi giang hồ, tôi vẫn được nghe tiếng sư huynh đến tu ở chùa Đại Tướng Quốc, thế mà bây giờ sao lại gặp đây?
Lỗ Trí Thâm nói:
– Chuyện tôi dài dòng lắm, khi tôi coi vườn rau Giải Vũ ở chùa Đại Tướng Quốc; Gặp Báo Tử Đầu Lâm Xung bị Cao Thái Úy toan giết hại, tôi vì giữa đường thấy sự bất bình, phải đưa anh ta đến Thương Châu để cứu cho thoát nạn. Dè đâu lúc trở về hai đứa công sai lại toan hót với Cao Cầu là chúng định giết Lâm Xung ở rừng Dã Trư, nhưng bị tôi cứu mất, nên chúng không thi hành được. Nhân thế Cao Cầu đem tâm thù ghét, cấm sư cụ chùa Đại Tướng Quốc không cho tôi ở đấy và lại sai người đến để bắt tôi. Sau đó mấy đứa trong bọn du đảng đến báo cho tôi biết, tôi tức mình cho một nắm lửa đốt Giải Vũ mà trốn đi nơi khác. Khi đi quanh quẩn vẩn vơ đến một hàng rượu ở chỗ Thập Tự Pha Mạnh Châu, lại bị con mẹ đàn bà ở trong hàng ấy đánh thuốc mê, mà toan giết hại tính mạng. May sao lại có chồng hắn về nhà trông thấy tướng dạng và các đồ giời đao thuyền trượng của tôi, thì lấy làm kinh ngạc, liền cứu cho sống lại và kết nghĩa anh em. Hai vợ chồng nhà ấy cũng có tiếng là hảo hán, trong đám giang hồ, người chồng tên làThái Viên Tử Trương Thanh, vợ là Mẫu Dạ Xoa Tôn Nhị Nương đều có can đảm nghĩa khí hơn người. Tôi ở đấy được dăm hôm, nghe nói ở đây có chùa Bảo Châu trên núi Nhị Long có thể dung thân được, bèn từ giã hai vợ chồng nhà kia, mà định đến đấy để mà vào đảng. Ai ngờ những thằng ở trên núi này không chịu cho tôi ở đó, thành ra đôi bên sinh sự đánh nhau. Về sau sức nó yếu đuối, không thể nào địch nổi với tôi, liền đóng cả ba tòa cửa núi mà giữ riết ở trong nhà. Tôi tính quanh không thấy đường nào lên được, tức mình chưởi mắng suốt ngày, chúng cũng lặng yên không thằng nào thò mặt xuống, làm cho càng thêm căm giận trong lòng, chịu khoanh tay mà ngồi đợi ở đấy, chứ không có kế gì cho hả giận được?
Dương Chí nghe nói đến đó cả mừng liền dắt tay vào rừng quét chỗ đất sạch cùng ngồi nói chuyện với nhau suốt đêm.
Dương Chí lại đem chuyện từ khi đánh mất đá hoa cho đến lúc gặp vợ chồng Tào Chính thế nào, kể cho Lỗ Trí Thâm nghe rồi nói rằng:
– Bây giờ chúng nó giữ chặt sơn trại không chịu mở cửa ra, thì ta ở đây cũng là vô ích, vậy bất nhược ta hãy đến nhà Tào Chính để nghỉ ngơi, và sẽ bàn định xem sao?
Nói đoạn hai người cùng ra mà tìm đến tửu điếm Tào Chính. Khi tới nơi Dương Chí trỏ Lỗ Trí Thâm bảo cho Tào Chính biết, Tào Chính lấy làm vui mừng liền sai làm rượu cơm để thiết đãi hai người, rồi cùng bàn chuyện đánh phá núi Nhị Long.
Tào Chính nói:
– Nếu đám ấy mà nó đóng chặt cửa không chịu ra, thì dẫu có tới một vạn quân mã cũng khó lòng đánh nổi, không cứ là hai người. Vậy đám ấy chỉ có thể dùng mẹo mà phá mới được, chứ dùng sức thì không ăn thua.
Trí Thâm nói:
– Lúc tôi mới đến đấy còn tiếp nhau ở ngoài cửa, sao thấy hắn không chịu cho mình nhập bọn, liền đá cho một cẳng chân ngã lăn xuống đất, rồi định vào giết luôn một thể! Bất đồ bị đám lâu la chạy ùa ra cứu đem về sơn trại, rồi đóng chặt cửa lại, tha hồ cho mình mắng nhiếc ở ngoài, nhất định không thằng nào ra nữa.
Dương Chí nói:
– Chỗ ấy đã là một chỗ thú, thì hai người chúng ta cùng đến đánh lấy có được không?
Lỗ Trí Thâm lắc đầu đáp rằng:
– Không thể nào mở được cửa mà lên, thì còn làm gì được.
Tào Chính nói:
– Tôi có một kế sách này, không biết các ngài có cho là phải không?
Dương Chí nói:
– Thế nào xin cứ nói cho chúng tôi nghe.
Tào Chính nói:
– Bây giờ Chế Sứ phải ăn mặc giả làm một anh nhà quê, cũng như chúng tôi đây, đoạn rồi tôi cùng vợ và em vợ tôi với ngài đem các đồ thuyền trượng giới đao, đưa hòa thượng tới cổng núi trói thòng lọng lại rồi bảo với bọn kia rằng: “Nhà tôi mở hàng rượu ở gần đây có vị hòa thượng này vào uống rượu say nhừ say nhựt mà không chịu trả tiền, mồm còn nói lảm nhảm: Định đi tìm người đến đánh phá núi Nhị Long. Tôi nghe thấy vậy liền thừa lúc hòa thượng say bắt trói đem lên để nộp Đại Vương”. Như thế tất là họ mở cửa, cho ta vào. Khi tới nơi hễ gặp Đặng Long là tôi cầm đầu dây thòng lọng rút phăng ra, rồi đưa thuyền trượng cho hòa thượng, để mặc hòa thượng cùng ngài đánh cho nó một mẻ, không còn trốn đi đâu được nữa, còn những tụi tẹp nhẹp bên dưới, thì thấy chủ chết là tự nhiên tất chúng phải hàng phục mình cả, kế ấy các ngài nghĩ sao? Lỗ Trí Thâm cùng Dương Chí đều vỗ tay khen là diệu kế.
Đêm hôm ấy Tào Chính sắp sửa các đồ lương thực, để đi đường và dự bị đâu đấy sẵn sàng tất cả. Sáng hôm sau cơm nước xong rồi, Trí Thâm đưa khăn gói hành lý để gửi ở nhà Tào Chính, rồi ba người cùng vợ và em vợ Tào Chính và dăm bảy người nhà nữa, cùng đi lên núi Nhị Long.
Khi đi tới khu rừng gần đó, mọi người đều cởi áo bỏ xiêm, rồi lấy thừng trói thòng lọng Lỗ Trí Thâm lại, xong cắt hai tên người nhà cầm đầy thừng để rong đi, Dương Chí đầu đội nón mê, mình mặc áo vải rách, tay cầm thanh đao; Tào Chính vác cây thuyền trượng của Lỗ Trí Thâm, còn mọi ngưòi kia mỗi người cầm một cây gậy, mà dắt đùm đi lên núi.
Đến cửa núi đã thấy hai bên bày la liệt những cung nỏ đại giá ở đó. Mấy tên lâu la ở trên cổng thấy bọn nọ trói hoà thượng đem đến, thì vội chạy vào báo cho chủ trại biết.
Được một lúc thấy hai tên đầu mục chạy ra chỗ gác bóp hỏi rằng:
– Các anh ở đâu, đến đây làm gì? Bắt được lão sư ấy ở chỗ nào?
Tào Chính liền đáp rằng:
– Chúng tôi người ở thôn gần đây, có mở một ngôi hàng để bán, bỗng thấy lão hòa thượng này đến mua rượu uống mà không chịu trả tiền, rồi lại nói khoác rằng đinh về Lương Sơn Bạc, rủ mấy nghìn người đến phá núi Nhị Long, và tất cả các làng xóm ở đây. Chúng tôi thấy vậy, đem rượu ngon đổ thêm cho lão uống thật say mềm rồi trói lại, đem đến đây dâng nộp Đại Vương để tỏ lòng thuận phục của chúng tôi, và trừ khỏi những tai ngại về sau nữa.
Hai tên đầu mục nghe nói mừng quớ lên mà rằng:
– Tốt lắm, các anh hãy đợi đấy, để tôi vào báo với Đại Vương.
Nói đoạn hai người chạy vội vào báo với Đặng Long, Đặng Long nghe báo cả mừng, liền sai giải lão sư lên trại để mọi ruột moi gan nhắm rượu cho hả tấm lòng tức bực.
Chúng lâu la vâng lệnh, ra mở cửa cho bọn kia giải hoà thượng vào. Bầy giờ Dương Chí cùng lũ Tào Chính áp giải Lỗ Trí Thâm lên qua mấy tòa cửa, thấy đường lối quanh co, rất là hiểm trở. Hai bên núi cao quanh quất bao bọc ngọn chùa, thế núi nguy nga hùng tráng, khoảng giữa có một núi con đi vào các cửa, trên cửa bày chất các đồ cung nỏ đạn đá, cùng là gỗ súc gậy tre phòng bị rất là nghiêm mật.
Khi qua ba tòa nhà, vào tới trước chùa Bảo Châu, thấy ba tòa điện ngôn ở trên một miếng đất phẳng lì như mặt kính, xung quanh chấn gỗ làm thành.
Trước cổng chùa có bảy tám tên lâu la đứng gác, trông thấy bọn kia giải Lỗ Trí Thâm vào thì trỏ vào mặt mà mắng rằng:
– Thằng trọc này hôm nọ đá Đại Vương ngã, hôm nay bị bắt đến đây, gọi là xé xác ra làm trăm mảnh.
Lỗ Trí Thâm nghe vậy, cứ lặng in không nói năng chi cả. Vào tới trong điện, thấy Phật ở đấy, đều khiêng bỏ đâu mất, khoảng giữa bày một cái ghế chéo phủ gia hổ, có lũ tiểu lâu la vác roi đứng dàn hai bên. Được một lát tiểu lâu la mời Đặng Phong ra ngồi trên ghế, rồi Tào Chính cùng Dương Chí giải Lỗ Trí Thâm vào trong thềm.
Đặng Long lên tiếng hỏi:
– Thằng trọc kia hôm nọ đá ta một cái đau tức bụng dưới, vẫn hãy còn sưng chưa khỏi, hôm nay hẳn có phen vào tay ta chứ.
Trí Thâm nghe nói trợn hai mắt tròn xoe mà thét lên rằng:
– Thằng khốn nạn không biết thân, còn thị hùng, mày chạy đâu được bây giờ?
Vừa nói dứt lời thì hai người nhà Tào Chính cầm dây thòng lọng, rồi rút phựt ra, cho Lỗ Trí Thâm vớ lấy cây thuyền trượng ở tay Tào Chính, mà múa nhảy lên. Bên kia Dương Chí vất nón ra múa đao xông vào, rồi Tào Chính cùng mấy tên người nhà đều cầm gậy xông lên.
Đặng Long thấy vậy, vừa toan đứng dậy để chạy, thì đã bị Trí Thâm đánh cho một trượng vỡ óc ra làm đôi mảnh, mà ghế chéo cũng gãy nát cả ra.
Các thủ hạ lâu la, bị Dương Chí đâm chết ba bốn tên, rồi Tào Chính quát lên rằng:
– Các người mau đến mà đầu hàng, nếu đứa nào không theo thì lập tức chém hết cả bây giờ.
Khi đó năm, sáu trăm lâu la, cùng mấy tay tiểu Đầu lĩnh ở đằng trước đằng sau chùa, đều kinh sợ hoảng hốt đưa nhau đến, mà đầu hàng suốt lượt. Đoạn rồi cho đem xác Đặng Long ra đằng sau núi để thiêu hoá. Nhất diện kiểm điểm kho đụn, sửa sang nhà cửa, xem xét các đồ vật ở trong chùa, rồi mang rượu thịt ra ăn uống với nhau.
Từ đó Trí Thâm cùng Dương Chí giữ quyền sơn trại, đặt tiệc ăn mừng, rồi bầu mấy tên tiểu Đầu lĩnh để cai quản đám lâu la, Tào Chính thì đưa bọn người nhà về tửu điếm.
Nước non riêng một bầu trời,
Đêm thân trí khí ra ngoài cỏ my.
Ngang tàng rõ mặt nam nhi,
Những phường luồn cúi kể chi từ rày!
Nói về lão Đô Quản cùng 11 tên Cấm binh khi ở Hoàng Nê Cương trở về tới Bắc Kinh, liền vội vàng vào trước sảnh Trung Thư, mà quỳ lạy để chịu tội. Lương Trung Thư chưa biết đầu đuôi ra sao liền hỏi rằng:
– Các ngươi đi đường nghe chừng khó nhọc lắm, nào Dương Đề Hạt ở đâu?
Chúng nghe hỏi, bèn kêu lên rằng:
– Bẩm ân tướng, người ấy là một người bội nghĩa vong ân, không biết thế nào mà nói được! Khi ở đây bước chân ra đi được dăm bảy ngày tới Hoàng Lê Cương gặp phải một hôm khí trời nòng bức, anh em tìm vào khu rừng để nghỉ, dè đâu Dương Chí thông đồng với bảy người cường đạo, giả trang làm lũ buôn táo, rồi đem bảy cổ xe Giang Châu đến đóng trước ở đó. Sau lại sai một người gánh rượu đến gạ bán cho chúng tôi, mà bỏ thuốc mê vào đánh phản.Đoạn rồi Dương Chí cùng đám kia lấy hết cả đồ kim ngân châu báu mà trốn đi đâu mất. Hiện chúng tôi đã vào trình với quan Phủ Tế Châu, và lưu hai Ngu hầu ở đó, để chờ xem tin tức, còn anh em xin về báo để ân tướng.
Lương Trung Thư nghe nói cả kinh mà mắng rằng:
– Quân chó má, nó là một tên tù tội đến đây, ta đài cử cho nó, ai ngờ lại dám lường thầy phản bạn, đang tay làm việc bất nhân bất nghĩa như thế? Nếu ta bắt được nó phen này thì tất là xé thây ra làm muôn mảnh muối cam.
Nói đoạn lập tức bảo gọi phòng giấy lên, bảo công văn hỏa tốc đưa sang Tế Châu, và viết một phong thư bắt đưa ngay sang Đông Kinh, để trình cho Thái Sư được biết.
Cách ít bữa Xài Thái Sư nhận được gia thư của Lưu Trung Thư đưa tới, bóc ra xem lấy làm kinh ngạc mà rằng:
– Những quân trộm cướp bây giờ to gan thật? Năm ngoái chúng đã lấy các đồ lễ vật mừng của con rể mình, đến năm nay chúng lại làm luôn chuyến nữa, như thế thì để làm sao yên được?
Liền sai thảo một đoạn công văn phái một tên thân mật trong phủ, lập tức sức cho quan Phủ Tế Châu phải bắt ngay các tên giặc cướp đó, đem về để nộp.
Quan Phủ Tế Châu từ khi nhận được văn thư của Lương Trung Thư ở Bắc Kinh đưa đến, trong bụng đã lo sợ ngay ngáy chưa biết làm sao, mà liệu lý cho xong! Chợt đâu lại thấy lính vào báo rằng:
– Có người thân mật trong phủ Hoa Thái Sư ở Đông Kinh đưa công văn đến hầu.
Truy phủ nghe báo trong lòng càng kinh sợ hoảng hốt, chắc là cũng vì một việc lễ sinh nhật chi đây? Liền tức ra công đường để tiếp người nhà trong phủ Thái Sư.
Bấy giờ Tri Phủ nói với người đưa giấy rằng:
– Việc này từ khi hạ quan tiếp được giấy báo của Ngu Hầu đưa đến thì đã lập tức sai người đi tróc nã cường đạo, nhưng chưa thấy tăm hơi đâu cả. Hôm nọ bên quan Lưu Thú lại sai người đưa giấy sang thôi thúc ở đây, tôi lại phải bắt Huyện úy cùng Tập bộ, Quan sát đều phải hết sức truy tầm các ngả, mà cũng chưa bắt được ai? Vậy việc này hạ quan xin hết sức truy nã, nếu hơi thấy có chút tăm hơi nào, sẽ xin vào tận tướng phủ để bẩm với Thái Sư được biết.
Người kia nói:
– Tôi đây là người nhà tâm phúc của Thái Sư, nay vâng mệnh quan Thái Sư ra đây, chỉ cốt bắt được phạm nhân, rồi cùng về một thể. Khi bước chân ra đi, Thái Sư dặn đi dặn lại, thế nào cũng phải lưu lại ở phủ đây, để quan Phủ bắt cho kỳ được bảy tên hàng táo, một tên buôn rượu và một tên quan quân bỏ trốn là Dương Chí, hạn trong mười ngày, phải giải về Đông Kinh ngay lập tức. Nhược bằng trong mười ngày mà tra cứu không ra, thì có lẽ quan lớn cũng phải ra Sa Môn Đảo một phen, còn chúng tôi cũng khó lòng về được phủ Thái Sư, mà cũng chưa biết tính mệnh ra sao nữa. Xin quan lớn xem giấy của Thái Sư đây thì biết.
Quan Phủ xem xong thì kinh sợ vô cùng, lập tức truyền gọi các viên Tập đến để bàn hỏi. Bấy giờ có một người tên là Hà Đào vâng mệnh đến trước công đường, Tri Phủ liền hỏi rằng:
– Việc bắt bọn cướp ở Hoàng Nê Cương có phải nhà ngươi đảm nhận không?
Hà Đào đáp:
– Bẩm tướng công, từ khi Hà Đào này nhận việc ấy tới nay, đêm nghĩ ngày lo; sai những người sành sỏi thạo việc, đi đến tận Hoàng Nê Cương để dò xét, hiện nay đã mấy phen đánh đập quở trách chúng, nhưng cũng chưa dò thấy tung tích đâu cả. Việc này thực chúng tôi không dám trễ nãi, song không có thể mà dò xét cho ra được.
Quan Phủ nghe nói quát lên rằng:
– Nói lạ! Trên dễ dàng thì dưới lại lười biếng, ta từ khi đỗ Tiến Sĩ đến nay, làm nên một chức Tri Phủ ở đây, cũng không phải là dung dị, thế mà quan Thái Sư còn ra lệnh đây, hạn trong mười ngày, nếu không tầm nã cho ra, thì không những mất quan, có lẽ đến đầy Sa Môn Đảo cũng nên, các ngươi đã là một người giữ chức Tuần Bộ, mà không hết sức làm việc, để cho liên lụy đến ta, vậy ta hãy đem đày các ngươi đi một xứ rất xa, nhạn bay không tới xem sao?
Nói đoạn rồi liền gọi thợ thích chữ phát vãng vào mặt Hà Đào, bỏ trống chỗ tên châu quận để điền vào sau, rồi lại thét lên mà bảo rằng:
– Nếu ngươi không bắt được đám cướp ấy, thì quyết nhiên là tội nặng đến thân, không sao tha được.
Hà Đào vâng lời Tri Phủ, rồi lủi thủi đi xuống phòng Cơ Mật bàn việc với bọn công sai. Bọn công sai thấy Hà Đào như vậy, thì anh nào anh nấy, đều tẩn mẩn như tên xuyên mỏ nhạn, câu mắc mang nheo, không còn biết nói năng sao được! Hà Đào thở dài bảo với chúng rằng:
– Mọi lúc bình thường các anh vẫn đến đây để tảo tiền, phung phí, sao đến ngày nay có việc như thế này, chỉ thấy các anh im thin thít cả, như thế là nghĩa gì?
Các anh có thương đến cái kim ấn ở trên mặt tôi đây không?
Chúng đồng thanh nói rằng:
– Quan Sát ơi! Chúng tôi có phải là cỏ gỗ gì mà không biết! Nhưng khốn vì cái bọn buôn táo ấy, chẳng qua là bọn cường nhân ở nơi non xanh rừng rậm đi đâu qua tới đó, chợt thấy kim ngân châu báu thì họ cướp chia nhau, rồi lại tản về sơn trại, như thế thì còn bắt làm sao được họ! Dù cho có biết nữa, cũng chỉ đến nhìn họ mà thôi chứ gì?
Hà Đào chưa nghe thấy bọn ấy nói, thì trong bụng còn phiền não năm phần, đến khi nghe họ nói, thì lại phiền não lên gấp mười phần, rầu rĩ bước ra phòng giấy rồi lên ngựa về nhà. Khi về tới nhà dắt ngựa ra tàu buộc vào tàu ngựa, rồi một mình vơ vẩn băn khoăn rất chiều buồn bã.
Người vợ thấy vậy liền hỏi rằng:
– Chẳng hay phu quân ngày nay làm sao mà buồn bã như vậy?
Hà Đào thở dài đáp rằng:
– Chỉ vì cái việc tôi nói mọi hôm, là việc cướp ở Hoàng Nê Cương, nó lấy mất 11 gánh kim ngân châu báu của Lương Trung Thư mà truy tầm mãi không ra, cho nên khổ não đến mình đó thôi! Đời người nghĩ cũng éo le, như mình làm việc vua việc quan, kiếm được miếng ăn đã là vất vả, thế mà những tụi bên trên thì cao lương chung đỉnh, no béo cả họ lẫn hàng, lại còn sinh sự lễ nọ kia, những là sinh nhật với sinh thời, làm cho tự nhiên vô cố cũng náo động cả dân gian, mà phiền nhiều đến người vô tội, nào có phải là việc dân việc nước cho cam! Đây bây giờ chữ đã thích trên mặt đây, nếu nay mai không truy nã được ngay bọn cướp ấy để giải về Đông Kinh, thì tính mạng mình cũng chưa biết ra thế nào đó.
Người vợ nghe nói lắc đầu mà rằng:
– Thế thì biết làm thế nào được! Có cách gì bây giờ không?
Khi ấy vợ chồng đang than thở, bỗng thấy người em là Hà Thanh đến. Hà Đào bảo với em rằng:
– Đến đây làm gì đấy? Sao không đi đánh bạc mà lại đến đây?
Người vợ biết ý, liền vẫy Hà Thanh xuống nhà dưới, dọn cơm rượu lên, để mời Hà Thanh ăn uống.
Hà Thanh có ý không bằng lòng mà rằng:
– Ca Ca khinh tôi quá! Tôi không ra gì cũng là em ruột của Ca Ca mà Ca Ca có thế nào đi nữa, cũng là anh ruột tôi, tôi có điều gì làm nhục đến Ca Ca, mà lại cho tôi ăn uống thế này?
Người chị dâu nói:
– Chú không biết, bụng anh bây giờ đương có sự không vui đấy!
– Ca Ca ngày nào cũng kiếm tiền kiếm bổng đem về đây, anh em không hề ai quấy nhiễu, còn có chuyện gì mà không vui?
– Nào chú có biết đâu, hôm nọ vì có bọn bảy người buôn táo ở Hoàng Nê Cương cướp lấy lễ vật của Lương Trung Thư, đưa vào mừng sinh nhật Xái Thái Sư ở Đông Kinh, đến nay quan Phủ Tế Châu vâng lệnh Thái Sư, ra hạn mười hôm phải bắt cho kỳ được, bằng không tất phải đi đày ở nơi khốn khổ, chú không trông thấy chữ thích ở trên mặt anh đó sao? Chú tính như thế thì còn vui vẻ gì mà uống rượu với chú thế nào được? Thôi, chú cứ xơi cơm rượu đi, đừng nên trách anh ấy nữa!
Hà Thanh nghe nói thì gật gù mà đáp rằng:
– Phải, tôi có nghe loáng thoáng thấy họ nói có việc cướp ấy, nhưng không biết đích xác rằng nó cướp ở đâu?
– Ấy chính ở Hoàng Nê Cương đấy!
– Thế thì bọn cướp ấy là bọn thế nào?
– Chú say rượu sao? Tôi vừa nói với chú là bảy người họ buôn táo đó mà.
Hà Thanh nghe nói cười ha hả mà rằng:
– Tưởng là ai, chẳng ra là bọn buôn táo đó. Nếu vậy việc gì mà phiền? Sao không sai người đi để bắt?
– Chú nói thế thì cũng phải lắm, nhưng bắt ở đâu được mà bắt?
Hà Thanh lại cười mà đáp:
– Tẩu Tẩu lo làm gì? Mọi lúc binh thường Ca Ca vẫn năng đi lại với bọn rượu chè cá thịt mà không biết đến anh em, cho nên đến lúc hữu sự mới không biết đâu mà bắt được. Ví bằng mà mọi khi Ca Ca lại thỉnh thoảng cho anh em được chén rượu, thì bọn cướp ranh ấy làm gì mà truy nã không ra?
Vợ Hà Đào ngạc nhiên mà hỏi rằng:
– Vậy chú có biết đường lối của họ không?
Hà Thanh cười rằng:
– Thôi cứ để Ca Ca khi nào nguy hiểm đến nơi, bấy giờ sẽ liệu có cách gì cứu được hay chăng?
Nói xong đứng dậy toan đi, vợ Hà Đào cố giữ lại mời uống mấy chén rượu, rồi chạy ra bảo cho chồng biết.
Hà Đào nghe vợ nói, liền chạy vào mà bảo em rằng:
– Em biết tụi giặc ấy ở đâu, sao không cứu giúp ta?
Hà Thanh đáp:
– Tôi có biết đâu, tôi nói chuyện đùa cho vui đấy thôi, em cứu thế nào Ca Ca mà cứu?
– Thôi, sao em lại lãnh đạm như thế, em phải biết bụng ta đối với em là tử tế, chớ nên nghĩ đến những điều nọ tiếng kia, mà cứu lấy tính mạng cho ta mới được.
– Ca Ca thiếu gì những người làm việc mắt nhanh tai sáng, xưa nay có kể đến hai ba trăm người, lại không giúp đỡ được Ca Ca hay sao?
– Em ơi! Em đừng nói như thế, em biết đường lối rồi, can chi còn phải nhường ai? Em cứ báo cho ta biết rồi ta sẽ có cách đền ơn em, đừng sợ thiệt.
– Tôi biết gì mà bảo cho Ca Ca?
Hà Đào lại nói:
– Em không nên chọc tức ta, em phải nghĩ tình máu mủ mới được.
Hà Thanh đáp:
– Nhưng mà cũng không vội gì, cứ để đến lúc nguy sắp bấy giờ tôi sẽ bảo anh, để bắt bọn cướp ranh ấy.
Vợ Hà Đào nghe vậy liền bảo rằng:
– Chú ơi! Chú phải nghĩ đến tình cốt nhục mà cứu anh mới được. Hiện Thái Sư sức giấy ra truy nã phạm nhân, việc ấy là việc to tày trời, sao lại gọi là bọn cướp ra được?
Hà Thanh cười ngất mà nói:
– Tẩu tẩu ơi! Tẩu tẩu không biết, tôi đây chỉ vì đánh bạc, mà bị Ca Ca đánh mắng đã bao phen, cho nên chỉ sợ Ca Ca mà không dám can thiệp đến. Mọi khi có rượu có thịt thì chỉ vui thú với những ai ai, mà tới nay có việc mới biết anh em đấy nhỉ?
Mới hay:
Khi vui vui những đâu đâu,
Tới khi hoạn nạn mới cầu anh em.
Ai ơi! Thử ngẫm mà xem,
Nhân tình như thế bạc đen chăng đời?
Hà Đào nghe Hà Thanh nói có ý phẫn uất, liền lấy ra mười lạng bạc để lên mà bảo rằng:
– Em hãy cầm lấy món tiền này tiêu tạm, rồi sau khi bắt được cướp anh sẽ hậu thưởng cho.
Hà Thanh cười mà đáp rằng:
– Ca Ca thực là. Nếu tôi lấy món tiền này chẳng hóa ra tôi bắt chẹt Ca Ca hay sao? Không nên lấy tiền mà nhử tôi, nếu Ca Ca làm thế, thì không khi nào tôi nói nữa. Có phải là Ca Ca có lòng tử tế, thì tôi sẽ nói cho Ca Ca nghe, chứ đừng mang tiền ra mà lòe tôi như thế.
Hà Đào nói:
– Tiền ấy là của quan trên treo giải thưởng đấy, em đừng nên từ chối, hãy nói thực cho ta biết bọn ấy nó ở đâu?
Hà Thanh vỗ vào đùi mà nói rằng:
– Bọn cướp ấy, tôi đã tróc cả ở trong túi này chứ đâu?
Hà Đào kinh ngạc nói rằng:
– Em nói lạ! Làm thế nào mà bọn cướp lại ở trong túi được?
Hà Thanh nói:
– Ca Ca mặc tôi, nó ở cả trong túi tôi đây rồi, Ca Ca cứ cất tiền đi, không nên đem ra để làm mồi nưa.
Mới hay:
Mấy anh phỗng đá ngồi trên,
Đã không ích nước lại thêm lụy người.
Túi tham vét sạch của đời,
Giả danh quân quốc làm mồi ấm no.
Vẽ hươu vẽ vượn trăm trò,
Chẳng hay đục nước béo cò hay chi?
Rồi đây binh biến bất kỳ,
Muôn dân đồ thán tội thì tại ai?
Lời bàn của Thánh Thán:
Một bộ sách sắp vơ vét của 108 người, để chứa cả vào Sơn Bạc, mà phải đưa từng người một, vào Thủy Đình của Chu Quý, từng người vào ăn uống ở nhà hàng, từng người phải bắn tên hiệu, và từng người phải dẫn quan đò…như kẻ bán gạo lại miệng đếm tay nhặt từng hạt gạo một, thì bao giờ cho xong? Nếu chép từng người một đi đến như Lâm Xung kia, thì sao gọi là văn của tài tử chép. Xét từ khi trời sinh Thạch Kiệt, để tới ngày ghi tên họ mà xem, thì 108 người kia, đã lần lượt tới Lương Sơn Bạc vậy. Song le mới đầu đi đến Sơn Bạc kia, lần lượt diễn ra, còn ví như những hạt châu to nhỏ, chứa đựng cả vào một mâm ngọc vậy, có còn tản tác xa gần, chưa thể nhặt ngay hết để cùng được! Vì lúc đầu nào phải một tay hai tay nhặt hết để cùng bày, đối với việc ấy, tác giả tả dần dà, như bày đặt thứ tự, nhân đó mà chợt cấu tứ lạ lùng, mà nói đến hai chàng Dương, Lỗ, còn giấu ở Nhị Long Sơn, đợi sau then chốt mở ra, thừa thế mà động, như tiếng sấm vang phá vách, bay nhanh tới vậy. Hỡi ôi! Lời xưa có nói: Thợ giỏi khổ tâm, thực không sai vậy.
Lỗ Đạt là một nghiệt long, Dương Chí cũng là một nghiệt long, hai con nghiệt long cùng ở một nước, thì tranh một Bảo Châu, sao cho khỏi được? Tác giả vốn biết sâu như thế, nên trước đoạn văn này, tả hai người cùng ở Quan Tây, để mong lấy tình hương lý, tuy rằng lấy hai chàng Dương; Lỗ, mà mong ở cớ cùng hương lý để hợp nhau, thì cũng khó thay! Vì rằng lấy cớ hai người Dương, Lỗ cùng một quê hương để mà hợp tác, thì sao đẻ ở Quan Tây, lại không sống chết ở Quan Tây? ? ? Lại bỏ nơi chôn rau cắt rốn mà đến đất này? Đã bỏ nơi chôn rau cắt rốn mà đến đất này, thì còn nghĩ đến hai chữ Quan Tây, để buộc nhau hợp tác, thế là đã coi thường nơi sinh đẻ, còn trói buộc sao cho nổi hai Rồng? Chuyện đâu đáng kể? Tác giả vốn biết như thế, mới bảy ra chàng Thao Đao Tào Chính, tả ra là môn đệ Lâm Xung Tào Chính như kẻ giữ thừng trong tay, kết chặt lại Dương, Lỗ, khiến hai con rồng dữ thò đầu cựa đuôi, không làm sao tháo ra bỏ được! Không là gì? Quái vật thiên hạ, phải có Quái bảo thiên hạ giữ gìn. Đọc tới hồi này, thì phải biết tới Lâm Xung làm chiếc Khóa vàng của vua Võ vậy.
Nãy ta nói trong hồi này, tuy không tả Lâm Xung, vì muốn giữ hai con Rông dữ, phải có chiếc Khóa vàng của vua Võ, sở dĩ có Lâm Xung làm người cương lãnh một hồi, bàn ra thấy rõ. Nay ta muốn hỏi thử độc giả Thủy Hử khắp trong thiên hạ, cũng từng biết trong hồi này. Vì ngưng lại hai Rồng, làm ra có Rồng (Đặng Long), vì cần một khóa, làm ra có khóa (đóng chặt sơn trại), vì cần một kẻ liên hệ, làm ra một kẻ liên hệ (Tào Chính) đó chăng? Đức Khổng nói: Nhắc đến một góc, mà không biết đem ba góc kia quay lại; thì còn nói làm gì? Thế mà ta vẫn cứ nói ra cho thấy, ôi Dương, Lỗ cả hai cùng ở chùa Bảo Châu đã rồi, ngày sau lại có Võ Tòng tới nữa, thì Lỗ Đạt đã một nghiệt long, Võ Tòng cũng một nghiệt long, Lỗ, Dương liên hệ đã có Lâm Xung, Tào Chính là tay ràng buộc; Còn Lỗ, Võ hợp nhau lấy ai liên hệ? Xét đến Lõ Đạt tự thuật việc ở Mạnh Châu đầu độc, tuy chưa thực sự, song đã một lần nói ra từ miệng Lỗ Đạt, lại một lần sau nói ra ở miệng Trương Thanh, mối liên hệ vậy, sau này Lỗ, Võ tuy chưa gặp nhau lần nào, mà rồi cả hai cùng đi đến điếm Trương Thanh, thì dây liên hệ đã ở trong tay Trương Thanh lâu rồi, vậy Trương Thanh sau đó, cũng như Tào Chính ngày nay, nói rằng Trương Thanh cũng như Tào Chính, đã thực có người liên hệ, có kẻ giữ ràng, sự thực như thế, bởi chưa đọc kỹ hết. Xem như Lỗ Đạt thuật với Trương Thanh rằng xem giới đao ta kính khiếp, đến sau Trương Thanh tặng Võ Tòng thì rằng, ta có hai khẩu giới đao, đấy cũng một vật kia làm một chí này rõ vậy. Lỗ Đạt có giới đao, còn thêm thuyền trượng, Võ Tòng cũng giới đao, còn thêm xương người…Đó tác giả khéo nhuộm thêm gián sắc, làm lóe mắt người, nếu chả tin, thì đợi xem Võ Tòng qua bờ Thập Tự, cùng vợ chồng Trương Thanh uống rượu đến tối, bỗng không nảy một giới đao, hằng làm kinh thưởng, Đó! Đoạn văn trước với đoạn văn sau, đều không liên thuộc, là cớ làm sao? Hỡi ôi! Đọc sách cứ theo sách mà đọc, đâu phải là kẻ đọc sách? Lại còn quái lạ Thánh Thần mà mà hẹn lấy thì giờ ư?
Khi Dương Chí mới vào điếm Tào Chính, chẳng ngờ có vợ Tào Chính, tự khi Dương Chí vào điếm Tào Chính, mới tả ra vợ Tào Chính, để diễn xuất bản văn sau, ngòi bút lôi thôi, vốn không dừng được. Vì trong lòng tác giả muốn cho hai chàng Dương, Lỗ gặp nhau, buộc bằng Lâm Xung, giữ ở Tào Chính, sau lại muốn cho hai chàng Lỗ, Võ gặp nhau, cũng buộc bằng giới đao, giữ ở Trương Thanh, như trên đã nói. Thế mà việc xảy ra sau cách ít nhiều hồi, những người xem sách, mắt còn nhỏ như hạt đậu, chưa qua hàng mấy chục tờ, mà được biết lòng văn soi sáng, rất lạ rất ngang, cho nên tác giả muôn phần không biết làm sao, phải tả trước trong điếm Tào Chính, thêm một đàn bà, để đối với chuyện trong điếm Trương Thanh sau này, cho văn sau thêm vẻ kỳ quan, thực là cái tài của tài tử, như năng lực Hóa công.
Một đôi Dương, Lỗ gặp nhau, lấy Quan Tây thông khí, một đôi Lỗ, Võ gặp nhau, lấy xuất gia đậu cơ, đều là ngại văn chương chẳng nên thiên đoạn vậy.
Đọc đến cuối hồi, bỗng đâu có chuyện Hà Thanh báo tin, có khóc, có cười khiến người thiên hạ không em đọc đến phải thương tâm, người có anh em đọc đến cũng thương tâm, ai bảo viết sử không có ý văn khuyên dạy cho đời?