Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Bấy giờ Hà Đào nghe em nói, thì bán tín bán nghi, liền nói luôn rằng:
– Tiền này là tiền quan trên treo thưởng, em cứ cầm lấy, rồi sẽ có trọng thưởng về sau. Bây giờ em hãy nói cho anh biết bọn kia ở trong túi là thế nào?
Hà Thanh thong thả móc ra một tập giấy, rồi trỏ mà bảo anh rằng:
– Bọn cướp ấy ở đây tất cả…
– Làm sao lại viết vào đấy?
– Chẳng dấu gì ca ca: Dạo trước vì tôi có thua bạc, không còn một đồng nào trong túi, sau có bọn con bạc rủ đến thôn An Lạc, cách ngoài cửa Bắc chừng 15 dặm, tới một khách điếm họ Vương, để đánh chơi với họ, nhân bấy giờ có giấy quan sức, phàm các hàng cơm phải đóng sổ biên tên tuổi quê quán những hành khách qua trọ, và phải cho rõ là đi đâu, làm việc gì, để bất thần quan tư khám xét, và một tháng đem trình sở tại một lần. Nhưng vì Tiểu nhị ca không biết chữ nên phải nhờ tôi viết giúp hộ trong nửa tháng trời. Một hôm vào khoảng mồng ba tháng sáu, chợt có một bọn bảy người buôn táo, kéo bảy cỗ xe Giang Châu đến nghỉ ở hàng. Trong bọn ấy tôi biết một người đi đầu là Tiểu Bảo Chính ở thôn Đông Khê, vì dạo trước có một người con bạc đã dẫn tôi đến nhà ông ta một lần. Khi tôi mang sổ ra hỏi tên họ để biên, thì có một người râu ba chòm mặt trắng bệch chạy đến mà nói với tôi rằng: “Chúng tôi người họ Lý, ở Hào Thôn, buôn táo về Đông Kinh”. Tôi nghe vậy cũng biên vào sổ, song trong lòng thì hơi lấy làm ngờ. Đến hôm sau chủ điếm đưa tôi đi đánh bạc, tới một chỗ ngã ba đường, lại gặp anh lạ mặt gánh đôi thùng đến đó, tôi không biết hắn là ai. Sau thấy chủ điếm gọi mà bảo rằng: “Bạch đại lang đi đâu đó? ” Bấy giờ người kia đáp rằng: “Tôi có gánh dấm, đem vào làng bán đây “. Chủ điếm lại quay lại bảo tôi rằng: “Anh ấy là Bạch Nhật Thử Bạch Thắng, là một tay con bạc đấy”. Tôi nghe nói cứ an tâm như vậy. Sau thấy đồn ầm ĩ lên rằng: Trên đồi Hoàng Nê Cương, có bọn buôn táo đánh thuốc mê lũ công sai mà cướp đồ lễ sinh nhật, bấy giờ trong bụng tôi đoán chắc là lũ ấy chứ chẳng sai. Nay muốn biết đoan đích thì chỉ bắt tên Bạch Thắng đến đó là có thể tra ngay ra được. Cái này là tập sổ tay riêng của tôi, tôi sao chép lấy ở đấy.
Hà Đào nghe nói cả mừng, lập tức dẫn Hà Thanh vào trình với Tri phủ. Tri phủ gọi Hà Thanh vào nhà trong hỏi hết đầu đuôi mọi lẽ, phái tám tên công sai cùng với Hà Đào, Hà Thanh đi ngay đến nhà hàng rượu ở thôn An Lạc, để bắt đưa đến nhà Bạch Thắng.
Bấy giờ vào khoảng đầu trống canh ba, mấy người đưa nhau đến nhà Bạch Thắng, người chủ hàng đánh lừa để gọi người nhà ra mở cửa. Vào trong nhà thấy Bạch Thắng đương nằm rên rỉ trên giường, sau hỏi người vợ mới biết là hắn đang bị sốt. Khi dựng Bạch Thắng dậy thấy sắc mặt của hắn nửa hồng nửa trắng, chúng liền thừng trói lại, mà quát hỏi rằng:
– Ở Hoàng Nê Cương làm việc gì có biết không?
Bạch Thắng giả làm không biết và không chịu nhận. Chúng lại tra khảo người vợ đều chối cả.
Về sau đám công sai đánh đóm đuốc đi tìm tang vật khắp cả mọi nơi, chợt thấy ở gầm giường có chỗ đất không phẳng, chúng bèn đào lên để xem.
Vừa đào được ba thước đất, thì chúng bỗng kêu reo ầm ĩ rồi lôi lên một bọc kim ngân ở đó. Đoạn rồi bắt hai vợ chồng Bạch Thắng và mang các đồ tang vật ấy, mà hỏa tốc giải về Tế Châu.
Sáng hôm sau quan phủ đem ra tra hỏi căn nguyên, Bạch Thắng nhất định không chịu xưng xuất cho Tiều Cái. Tri phủ cả giận sai đánh bắn máu tươi ra, mà quát lên rằng: – Thằng đầu đảng, đây đã biết đích xác là Tiều Bảo Chính ở thôn Đông Khê huyện Vận Thành, mày còn chối làm sao được nữa? Có muốn sống thì thú thực sáu tên kia ra, kẻo roi vọt khổ thân.
Bạch Thắng biết không sao chối nổi, liền thở dài một tiếng mà công nhận rằng:
– Việc ấy tôi chỉ biết có Tiều Bảo Chính là đầu đảng, đến rủ Bạch Thắng đi gánh rượu, còn sáu người kia không biết là ai cả.
Tri phủ nghe nói truyền rằng:
– Nếu vậy thì bắt tên Tiều Bảo Chính đến đây, sẽ bắt được sáu tên kia có khó gì?
Nói đoạn sai lấy gông tử tù nặng 20 cân gông Bạch Thắng lại, và đem vợ giam vào một nhà giam đàn bà, rồi cho thảo công văn cho Hà Đào đem hai mươi tên công sai nhanh nhẹn đi sang ngay Vận Thành, để hiệp đồng với bản huyện đi bắt Tiều Bảo Chính.
Lại sai hai tên Ngu hầu của Lương phủ, cùng đi với Hà Quan Sát; để nhận mặt mà bắt sáu tên kia.
Hà Quan Sát vâng lĩnh các người rồi lập tức ra đi. Sang đến huyện Vận Thành, cho hai tên Ngu Hầu và bọn công sai vào nghỉ ở một hàng cơm, rồi giắt một ít tiền và hai tên theo hầu, để vào huyện trình công văn. Khi vào đến phòng giấy, thì quan Huyện vừa tan buổi hầu sớm, Hà Đào bèn đi ra một cửa hàng nước ở trước cửa Huyện, để uống nước và ngồi đợi.
Hà Đào hỏi người hàng nước rằng:
– Trong huyện bây giờ làm sao mà vắng tanh như thế?
Nhà hàng đáp:
– Trong ấy vừa mới tan hầu xong, các người làm việc còn đi ăn uống, cho nên chưa ai đến cả.
Nhà hàng trỏ sang cổng huyện mà nói rằng:
– Kìa ông Áp Ty hôm nay đây kia.
Hà Đào ngẩng nom lên thì quả nhiên có một người Áp Ty ở trong huyện đương lững thững đi ra. Người ấy họ Tống tên là Giang, biểu tự là Công Minh, con thứ ba, nguyên quán ở Vận Thành, mặt đen, người thấp, thường gọi là Hắc Tam Lang Tống Giang, lại có tiếng là người hiếu để, bình sinh trọng nghĩa khinh tài, ai cũng gọi là Hiếu Nghĩa Hắc Tam Lang. Trên còn bố già là Tống Thái Công, mẹ thì mất sớm, có một người em tên là Thiết Phiến Tử Tống Thanh, cùng ở nhà với Thái Công, để trông nom vườn ruộng.
Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành, văn án tinh thông, sành nghề nha lại, tính thích chơi quyền chơi gậy, học được nhiều ngón võ, xưa nay lại hay kết nạp bọn hảo hán giang hồ, hễ ai đến đó, bất cứ thế nào, đều dung túng, chiều chuộng hết cả, đến khi ra đi lại giúp đỡ tiền nong tử tế. Nhất sinh coi rẻ đồng tiền. Hễ ai vay mượn hỏi xin là cho ngay không tiếc. Lại có tính hay làm ơn làm huệ, ai có việc gì ngang trái, là dàn xếp can ngăn, kỳ cho thỏa thuận mới thôi.
Thỉnh thoảng lại cho áo quan, phát vị thuốc, cứu người khổ giúp kẻ nghèo, đỡ người nguy cấp, thương kẻ khốn cùng, bởi thế nên khắp mặt Sơn Đông Hà Bắc, ai ai cũng tôn là Cập Thời Vũ Tống Minh Công, ý nói cũng như trận mưa phải thời, ở lưng trời tưới xuống để cứu muôn vật vậy.
Bấy giờ Hà Quan Sát thấy Tống Giang cùng với một tên theo hầu ở cổng huyện đi ra, bèn chạy đến đón để mời vào hàng nói chuyện.
Tống Giang thấy Hà Đào ăn mặc ra dáng một người làm việc quan, thì cũng đáp lễ tử tế rồi hỏi rằng:
– Ngài ở đâu đến đây?
Hà Đào đáp:
– Xin mời Áp Ty vào hàng uống nước rồi sẽ nói chuyện.
Tống Giang vâng, bảo người theo hầu đứng đợi ngoài cửa, rồi đi vào hàng với Hà Đào. Tống Giang cất tiếng hỏi:
– Chẳng hay tôn huynh là ai?
Hà Đào đáp:
– Thưa ngài, tôi là Hà Đào, ở phòng Tập bộ Sứ thần bên phủ Tế Châu, dám hỏi cao tính đại danh là gì?
– Thế thì tôi không được biết, xin Quan Sát tha lỗi cho. Thưa Quan Sát tôi đây là Tống Giang làm Áp Ty ở đây.
Hà Đào nghe nói rồi thụp xuống lạy mà rằng:
– Tôi nghe tiếng đã lâu, hôm nay được biết ngài ở đây.
Tống Giang cung kính mà rằng:
– Chết nỗi! Xin Quan Sát chớ thế! đón Quan Sát ngồi trên. Có đâu tôi dám ngồi trên? Quan Sát là người ở Thượng Ty, vả lại là khách xa đến đây, xin ngài ngồi trên cho.
Hà Đào nhất định không nghe, nhường nhau lâu rồi, Tống Giang ngồi chủ vị, mà Hà Đào ngồi khách vị. Tống Giang gọi nhà hàng pha trà lên, hai người cùng uống, rồi Tống Giang hỏi Hà Đào rằng:
– Quan Sát qua tới huyện tôi đây, có việc gì ở Thượng Ty chăng?
– Chẳng dấu gì ngài, có mấy việc khẩn yếu ở huyện này, tôi phải đến nói với ngài đây.
– Hay là việc trộm cướp chi đó, thưa ngài?
Hà Đào nói:
– Hiện nay tôi có mang công văn ở phủ đến đây, xin nhờ Áp Ty giúp cho.
– Vâng, Quan Sát là Thượng Ty cắt xuống, để sai bảo chúng tôi, khi nào tôi dám trễ nải, nhưng không biết rằng việc gì khẩn cấp thế thưa ngài?
– Áp Ty hiện đương giữ phần việc, vậy tôi xin nói để Áp Ty nghe: Nguyên bên Phủ tôi có phát ra một vụ cướp ở Hoàng Nê Cương, tụi ấy tám người đánh thuốc mê bọn thủ hạ quan Lương Trung Thư phủ Đại Danh Bắc Kinh, mà lấy hết các đồ lễ mừng sinh nhật quan Xái Thái Sư, tất cả 10 vạn quan tiền, nay bắt được một tên đồng đảng tên là Bạch Thắng, có khai rằng bảy tên kia, đều ở huyện đây cả. Hiện có người thân mật của quan Thái Sư sai ra ở phủ tôi để đợi bắt bọn ấy đem về, giải Đông Kinh ngay lập tức, mong rằng Áp Ty sẽ hết sức giúp ngay cho.
Tống Giang nói:
– Chính là tên Tiều Bảo Chính ở thôn Đông Khê, thuộc huyện ngài đây làm đầu đảng, còn sáu người nữa chưa biết tên họ là chi, vậy xin phiền Áp Ty dụng tâm cho một chút.
Tống Giang nghe nói ngạc nhiên kinh lạ, trong bụng nghĩ thầm:”Tiều Cái là anh em tâm phúc của mình, nay phạm tội tày trời như thế, nếu ta lại không ra tay cứu giúp, mà để cho quan tư bắt được, thì tính mệnh tất không còn…” Chàng nghĩ vậy, thì lòng riêng áy náy, rồi đáp rằng:
– Thằng Tiều Cái này khiếp thực, nó là một thằng gian ngoan ghê gớm, khắp trong huyện đây ai cũng lấy làm lạ, ai ngờ ngày nay quả nhiên làm nên tội ác như thế, tất là phải chịu tội, chứ không còn đổ cho ai được nữa!
Việc này dễ lắm, bắt ba ba trong hũ, hễ thò tay vào thì được, chứ có khó chi. Duy bức công văn này Quan Sát tất phải đưa vào trình quan Huyện chúng tôi, để sai người đi bắt, chứ một mình tôi đâu dám thiện tiện thi hành, vả những việc tày trời như thế, chớ để tiết lộ ra ngoài thì mới được.
Hà Đào cười đáp:
– Áp Ty dạy rất phải, phiền Áp Ty làm ơn đưa tôi vào trình quan Huyện một thể.
– Xin vâng, hiện bây giờ quan tôi còn nghỉ, Quan Sát hãy đợi đây một lát, rồi tôi xin đến đây dẫn ngài vào.
– Thế nào cũng nhờ Áp Ty hết sức giúp cho.
– Vâng, tất nhiên phải thế Quan Sát không cần dặn bảo. Tôi xin chạy qua về nhà thu xếp chút việc rồi lại chạy đến đây ngay, để đưa ngài vào huyện. Xin ngài ngồi chơi đây một lát.
Hà Đào nói:
– Áp Ty cứ tự tiện cho, tôi xin ngồi đây chờ đợi.
Tống Giang đứng dậy vái chào, bước ra cửa dặn nhà hàng cứ lấy nước lên để Quan Sát uống, một lát sau sẽ trả tiền, rồi xăm xăm ra đi. Lại dặn người theo hầu cứ đứng đợi ở hàng nước đấy, nếu khi quan Huyện ra coi hầu, thì cứ nói với ông khách trong hàng cứ an tâm đợi một lát, rồi Áp Ty sẽ đưa vào. Đoạn rồi vào trong tàu lấy ngựa ra đóng yên, mà dắt ra lối cổng sau huyện, rồi cầm roi xắn áo, nhảy lên mình ngựa, rồi lững thững ra ngoài huyện ly.
“Thanh roi yên ngựa thẳng dong
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra?
Có chăng ta biết sự ta,
Giang hồ tương thức dễ mà quên nhau”
Khi ra khỏi cửa Đông Môn, Tống Giang ra roi quất ngựa, chạy vun vút theo đường về thôn Đông Khê. Được một lát tới thôn Đông Khê, vào trang Bảo Chính, gọi người nhà vào báo cho Tiều Cái biết.
Lúc đó anh em họ Nguyễn, đã chia tiền của, để đi về thôn Thạch Kiệt đã lâu, duy còn Tiều Cái cùng Ngô Dụng, Công Tôn Thắng và Lưu Đường, là đương ngồi đánh chén dưới gốc cây Bồ Đào ở vườn sau, chợt nghe thấy trang khách vào báo: “Có Áp Ty Tống Giang đến có việc rất cần”.
Tiều Cái lấy làm lạ hỏi rằng:
– Áp Ty đi đến, có mang nhiều đầy tớ không?
Trang khách nói:
– Chỉ một người một ngựa, mà ra dáng vội vàng đến đây, sai tôi mời Bảo Chính ra ngay nói chuyện.
Tiều Cái đoán có sự gì, liền đứng dậy chạy vội ra để nghinh tiếp. Tống Giang chào Tiều Cái một tiếng, rồi dắt ngay vào phòng con con để nói chuyện.
Tiều Cái hỏi:
– Áp Ty có sự gì hoang mang như vậy?
Tống Giang đáp:
– Ca ca không biết, tôi với ca ca là anh em tâm phúc, nên tôi chạy bán mạng đến đấy để cứu. Bây giờ việc ở Hoàng Nê Cương phát tiết ra, Bạch Thắng đã bị bắt ở phủ Tế Châu, cung xưng cho bọn bảy người các bác. Quan Sát mang mấy chục công sai phụng chỉ quan Thái Sư và công văn phủ Tế Châu đến đây để bắt. May sao đến nơi thì Hà Quang Sát gặp tôi, tôi liền thiết kế bảo quan huyện còn ngủ, bắt anh ta còn đợi ở ngoài hàng nước, để chạy lẻn đến đây báo cho bác biết. Bác ơi! Ba mươi sáu chước, chước nào là hơn! Nếu bác không liệu mau thì nguy ngay lập tức. Bây giờ tôi phải về ngay, đưa hắn vào nha để trình công văn, xong là Tri huyện tất nhiên cho người đi bắt tối hôm nay, nếu không mau mau liệu thoát thì bây giờ đừng trách rằng tôi không thiết cứu anh em.
Tiều Cái hoảng người kinh ngạc mà rằng:
– Nếu vậy ơn lớn của hiền đệ, bao giờ cho báo đáp được?
Tống Giang nói:
– Thôi bây giờ ca ca đừng nói chuyện ơn huệ gì nữa, phải liệu việc chạy mau đi mới được, tôi xin trở về đây.
Tiều Cái nói:
– Trong đám bảy người ấy, thì ba anh em họ Nguyễn đã chia của về thôn Thạch Kiệt rồi, duy còn có ba người hiện đương ngồi ở đàng sau, hiền đệ hãy đến đó gặp họ một tí.
Tống Giang đứng dậy cùng Tiều Cái đi ra vườn sau. Tiều Cái trỏ ba người kia mà bảo với Tống Giang rằng:
– Ba người đây, một ông là Ngô Học Cứu, một ông là Công Tôn Thắng ở Kế Châu, và một người là Lưu Đường ở Đông Lộ.
Tống Giang chào qua một lượt rồi quay ra xin về, mà dặn với Tiều Cái rằng:
– Ca ca nên cẩn thận, mà cấp cấp đi ngay, tiểu đệ hãy xin từ biệt.
Nói đoạn ra cổng trang nhảy lên ngựa, ra roi phóng một mạch thẳng về huyện.
Người đâu lanh lợi tài hoa.
Tương tri nhường ấy mới là tương tri?
Ví chăng những bọn ngu si,
Thịt xương còn nỡ nể gì anh em?
Khi Tống Giang đi rồi, Tiều Cái bảo với Ngô Dụng, Công Tôn Thắng và Lưu Đường rằng:
– Các bác có biết người ấy là ai không?
Ngô Dụng nói:
– Nào có biết ai? Ông ta đi đâu mà hốt hoảng vội vàng như thế?
Tiều Cái nói:
– Ba bác chưa biết à? Nếu chúng ta mà không có người ấy thì tính mạng khó yên được bây giờ.
Ba người nghe nói, đều cả kinh mà rằng:
– Chết nỗi! Dễ thường việc ấy lộ hay sao?
Tiều Cái liền đem lời nói của Tống Giang bảo cho ba người biết, mà lại nói rằng:
– Chỉ đêm hôm nay là tất nhiên họ đến vây bắt chúng mình, ta phải liệu ngay làm sao mới được?
Ngô Dụng gật đầu nói:
– Phải, nếu không có người ấy bảo cho, thì chúng ta vào lưới cả. Nhưng không biết người ấy là ai?
Ông ấy là Hiếu Nghĩa Tống Giang làm Áp Ty ở huyện đấy.
– À, vẫn được nghe tiếng Tống Áp Ty xưa nay mà chưa gặp mặt, ai ngờ chính là ông ấy.
Công Tôn Thắng và Lưu Đường đồng thanh nói:
– Có phải chính là bọn giang hồ hay gọi là Cập Thời Vũ Tống Công Minh đấy không?
Tiều Cái gật đầu đáp rằng:
– Đích xác ông ta đấy, ông ta với tôi là chỗ tâm phúc chí giao, kết làm anh em đã bao lâu rồi, Ngô tiên sinh chưa được gặp bao giờ; người ấy mới thực là danh bất hư truyền, kết giao được những người như thế mới khỏi uổng công.
Đoạn rồi lại hỏi Ngô Dụng rằng:
– Bây giờ sự đã nguy cấp, thì anh em nên làm thế nào?
– Quan bác bất tất phải lo nghĩ, ba mươi sáu cách, chỉ có cách chạy trốn là hơn…
– Phải, vừa rối Tống Áp Ty cũng nói, chúng ta chỉ có cách trốn là hơn cả, nhưng mà trốn đâu cho tiện?
Ngô Dụng nói:
– Tôi đã định rồi, bây giờ ta phải thu thập gồng gánh, mà chạy đến nhà anh em họ Nguyễn ở thôn Thạch Kiệt, nhưng phải sai người đi gấp báo cho họ biết trước đã.
– Ba anh em họ Nguyễn là một nhà đánh cá, dung thế nào nổi được ngần này người?
– Bác không biết, đấy với Lương Sơn Bạc rất gần, mà hiện nay trong trại của họ đương phát thịnh, quan quân không dám bén mảng đến, vậy chúng ta sang thôn Thạch Kiệt, nếu có bị quan quân truy bách lắm, thì ta vào đó có tiện không?
Tiều Cái nói:
– Vâng, thế là thượng sách rồi, nhưng không biết rằng họ có chịu dung ta hay không?
Ngô Dụng cười nói:
– Ta có vàng bạc đem vào cho họ, là ta vào bọn được chứ sao?
Thế thì phải bàn định mau đi, chứ không để chậm được nữa. Ngô tiên sinh, tiên sinh với bác Lưu Đường hãy đem mấy trang khách gánh đồ đạc đến nhà họ Nguyễn rồi đón tôi, tôi cùng Công Tôn Thắng tiên sinh sẽ thu xếp đến sau.
Ngô Dụng nghe nói, lập tức cùng với Lưu Đường thu xếp năm bảy gánh kim ngân châu báu, gọi dăm bảy đứa trang khách cùng ăn cơm uống nước trước, rồi người vác đồng giản, kẻ vác thanh đao, dẫn bọn trang khách quảy gánh đi sang thôn Thạch Kiệt.
Tiều Cái cùng Công Tôn Thắng thu xếp trang viện, những trang khách nào không muốn đi theo, thì cho tiền nong, đi tìm chủ khác, còn kẻ nào theo được hãy ở lại trong trang, mà sắp sửa hành lý để cùng trốn đi.
Bên kia Tống Giang phất ngựa một mạch về đến huyện thành, buộc ngựa vào tàu rồi, lại đi ra hàng nước tiếp Hà Quan Sát. Bấy giờ Hà Đào đương đứng ở cửa hàng nước mà trông ngóng Tống Giang.
Tống Giang đến nơi nói với Hà Đào rằng:
– Quan Sát đợi lâu quá, vì tôi có mấy người bà con ở nhà bàn tí việc nhà, cho nên chậm trễ một chút.
Hà Đào nói:
– Bây giờ phiền Áp Ty đưa tôi vào hầu quan một lát.
– Vâng, xin đón Quan Sát đi.
Nói đoạn hai người đi thẳng vào cổng huyện. Vừa may gặp lúc buổi hầu, quan huyện Thời Văn Bân đương ngồi trên công đường, Tống Giang liền cầm lấy phong công văn, dẫn Hà Đào vào trước bàn giấy, bảo lính treo bài hồi tị, cấm không cho các người khác vào, rồi sẽ bẩm với Tri Huyện rằng:
– Đây là Hà Quan Sát đưa công văn ở phủ Tế Châu, có việc khẩn cấp, xin ngài xét.
Tri Huyện tiếp lấy công văn, bóc ra xem thì cả kinh bảo với Tống Giang rằng:
– Cái này là quan Thái Sư sai người thân mật, ra đợi ở Tế Châu để xét việc này, mà trả lời ngay lập tức. Vậy ta phải phái người đi bắt ngay mới được.
Tống Giang sẽ bẩm rằng:
– Đi ban ngày lại chỉ e tiết lộ chuyện ra, thì không bắt được, vậy xin để đến đêm đi thì tiện. Bắt được tên Tiều Cái, thì sáu tên kia khắc phải ra.
Tri Huyện nói:
– Cái anh Tiều Cái ở Đông Khê đây, nghe nói là tay hảo hán, sao hắn lại chịu làm những việc như thế!
Nói đoạn đòi Huyện Úy cùng hai Đô Đầu Chu Đồng và Lôi Hoành là hai tay giỏi để sai phái. Bấy giờ hai Đô Đầu cùng Huyện Úy lĩnh lời Tri Huyện cùng lên ngựa, đến Úy Ty điểm quân mà bộ, cung thủ tất cả là hơn trăm thổ binh, để cùng Hà Quan Sát và hai Ngu hầu nhận diện để đi bắt giặc.
Tối hôm ấy chỉnh đốn quân khí cùng thừng chão đâu đấy, rồi Huyện Úy cùng hai Đô Đầu đều đeo cung tên giắt đao, tay cầm đao lớn, nhảy lên mình ngựa, dẫn quân mã bộ cung thủ đi ra cửa đông, thẳng luôn về lối Đông Khê.
Vào khoảng canh một đã đến tất cả ở chùa Quan Âm thôn Đông Khê, Chu Đồng nói với mọi người rằng:
– Thẳng chỗ trước mặt đây là nhà Tiều Cái, nhà ấy có hai cổng, nếu ta đánh cổng trước, thì họ tháo cổng sau, mà ta đánh đánh cổng sau, thì là họ tháo cổng trước. Ta phải biết rằng Tiều Cái là tay không vừa, còn sáu anh kia không biết là anh nào, nhưng chắc cũng không phải là quân tử lương thiện, mà toàn là đồ vong mạng cả, nếu họ cứ kéo ra rồi lại có đám trang khách giúp sức thêm vào, thì ta địch thế nào nổi? Vậy ta nên làm lối dương đông kích tây, để chờ khi họ rối loạn lên, là ta hạ thủ, thì hơn. Bây giờ tôi với Lôi Đô Đầu chia làm hai lối đều đi bộ cả, tôi đem quân ra nấp ở cửa sau cứ đợi tiếng còi làm hiệu, còn đằng ấy thì xông vào cửa trước, thấy anh nào là trói phăng anh ấy lại.
Lôi Hoành nói:
– Bác nói phải, bác với Huyện Úy đem quân ra cửa trước, để tôi ngăn giữ cửa sau cho.
Chu Đồng nói:
– Hiền đệ không biết nhà Tiều Cái có ba đường thoát mọi khi tôi đã nhận rõ ràng, không cần đèn đóm cũng đi được. Hiền đệ vào đấy lỡ ra không rõ lối mà để họ thoát mất thì không phải chuyện chơi.
Huyện Úy nói:
– Chu Đô Đầu nói phải; bác cứ đem một nửa quân đưa ra cổng sau.
Chu Đồng Đầu nói:
– Tôi chỉ lấy ba mươi tên quân cũng đủ.
Nói đoạn điểm mười mấy cung thủ và hai mươi tên thổ binh mà tốt đi trước. Đoạn rồi Huyện Úy lên ngựa, Lôi Hoành dẫn các quân bộ và cung thủ để đi kèm với Huyện Úy, trước mặt thắp hai ba mươi bó đuốc sáng rực trời; các quân chúng đều cầm gậy còng cua, câu liêm đi về lối cửa trước nhà Tiều Cái. Vừa đi được nửa dặm đường đã thấy nhà Tiều Cái lửa bốc ngùn ngụt cháy từ giữa cháy ra, khói than mù mịt đỏ rực quãng trời. Đi được hai mươi bước nữa thì tứ phương bát diện, đằng trước đằng sau, có tới ba bốn mươi chỗ lửa phát lên trông hoa cả mắt. Lôi Hoành vác đao đi trước, quân lính hò reo chạy sau xông đến phá cổng trang để vào.
Khi vào tới nơi, lửa sáng không khác gì ban ngày mà trong quanh không thấy một người nào, chỉ nghe tiếng cửa sau kêu ầm lên rằng:
– Cửa trước đuổi bắt lấy cướp.
Nguyên Chu Đồng định bụng thả cho Tiều Cái chạy nên cố ý đùn cho Lôi Hoành đi ra cửa trước, mà Lôi Hoành cũng có ý cứu cho Tiều Cái, cho nên cố tranh toan đến cửa sau. Tiều Cái vẫn còn thu xếp chưa xong sau thấy báo là có quan quân đến bắt mới sai người phóng lửa bốn bề, rồi cùng với Công Tôn Thắng dẫn mười mấy tên trang khách kêu hò ầm ĩ, và vác đao xông ra cửa sau.
Khi ra tới cửa quát lên rằng:
– Anh nào chống với ta thì chết, anh nào tránh ta thì sống…
Chu Đồng nghe nói, ở trong bóng tối, lên tiếng bảo Tiều Cái rằng:
– Bảo Chính chạy mau, Chu Đồng đứng đợi ở đây lâu rồi.
Tiều Cái không nghe thấy tiếng gì, chỉ cắm đầu cắm cổ cùng với Công Tôn Thắng mà hăng hái xông ra. Chu Đồng giả vờ tránh mình, để mở đường cho Tiều Cái chạy.
Tiều Cái bảo Công Tôn Thắng dẫn trang khách đi trước, còn một mình thì chặn ở sau. Chu Đồng liền dẫn quân cung thủ sấn vào cửa sau nhà Tiều Cái, mà kêu quân phía trước để cùng đuổi giặc. Bên kia Lôi Hoành nghe tiếng kêu, liền quay ra cổng trang chia quân mà bộ cung thủ ra làm mấy mặt để đuổi. Lôi Hoành xung đột trong đám lửa cháy sáng, trông trước trông sau làm bộ tìm người để bắt, rồi Chu Đồng bỏ mặc đám thổ binh, một mình vác đao đuổi theo sau chân Tiều Cái, Tiều Cái thấy vậy vừa chạy vừa nói lên rằng:
– Chu Đô Đầu đuổi tôi làm gì bức bách thế, tôi có điều gì tệ bạc với ai đâu?
Chu Đồng thấy đằng sau không có ai, liền sẽ bảo Tiều Cái rằng:
– Bảo Chính không biết lòng tôi hay sao? Tôi chỉ sợ Lôi Hoành cố chấp không tha, nên tôi lừa cho hắn ra đánh cửa trước, để tôi giữ mặt cửa sau mà tha cho Bảo Chính. Bảo Chính có thấy tôi tránh đường cho đấy không? Bây giờ Bảo Chính đi đâu cũng không tiện, tất phải đến Lương Sơn Bạc mới yên thân được thôi.
Tiều Cái vâng lời mà rằng:
– Cảm ơn ngài cứu vớt, sẽ xin báo đáp về sau.
Đương khi ấy thì có tiếng Lôi Hoành quát ở đằng sau lưng rằng:
– Đừng để cho họ chạy mất.
Chu Đồng nghe vậy bảo với Tiều Cái rằng:
– Bảo Chính không sợ cứ chạy đi, tức khắc tôi ngăn cản lại cho.
Nói đoạn quay lại bảo Lôi Hoành rằng:
– Có mấy người chạy sang con đường nhỏ bên kia, Lôi Đô Đầu đuổi bắt cho mới được.
Lôi Hoành lại quay sang phía đông cùng với bọn thổ binh cùng đuổi. Còn đằng này Chu Đồng vừa nói chuyện với Tiều Cái, vừa lững thững đuổi theo đằng sau, chẳng khác chi một người hộ tống vậy.
Dần dần tối tăm mù mịt, không trông thấy Tiều Cái đâu, Chu Đồng liền giả cách vấp ngã lộn xuống đất. Bọn thổ binh đi theo sau, thấy Chu Đồng ngã, vội vàng túm vào đỡ dậy. Chu Đồng bảo chúng rằng:
– Trời tối quá, không biết lối mà lần, bước tuột xuống ruộng ngã một cái sái cả chân bên tả.
Bấy giờ Huyện Úy cũng ở đằng sau hỏi Chu Đồng rằng:
– Chính tên cướp ấy chạy mất rồi, làm thế nào được bây giờ?
Chu Đồng nói:
– Tôi đã hết sức đuổi theo, nhưng đường tối quá không làm sao mà đi được. Còn bọn thổ binh này, thì toàn là đồ vô dụng không đứa nào dám xông lên cả.
Huyện Úy tức giận quát đám thổ binh bắt phải đuổi theo. Đám thổ binh nghĩ thầm trong bụng:”Đến hai ông Đô Đầu còn không đuổi gần được họ, huống chi chúng mình.” Nhưng đành cũng phải vâng lời mà đuổi liền một lúc, rồi quay lại nói rằng:
– Đường tối lắm không còn biết lối nào mà lần được nữa!
Bên kia Lôi Hoành cũng đuổi được một lúc, rồi quanh lại mà nghĩ rằng: “Chu Đồng với Tiều Cái rất thân tất là hắn tha để cho thoát rồi, còn ta đây đuổi làm gì cho mệt? ” Nghĩ đoạn trở về bảo với mọi người rằng:
– Tôi đuổi mãi mà không thấy gì cả, chắc là đám ấy nó thoát được cả rồi.
Bấy giờ Huyện Úy cùng với hai Đô Đầu trở về đến trước cửa trang, thì đã vào khoảng canh tư rồi. Hà Quan Sát thấy bọn kia chạy ngược chạy xuôi theo đuổi hết đêm mà không bắt được người nào, thì trong bụng lấy làm lo nghĩ, không biết rằng khi về Phủ Tế Châu sẽ nói sao cho được!
Huyện Úy cũng lúng túng không biết làm thế nào, đành phải bắt mấy tên lân bang đem giải về huyện vậy.
Quan Huyện Vận Thành suốt đêm hôm ấy trông ngóng, để đợi tin tức mà không sao ngủ được. Chợt nghe tin báo quân cướp đã trốn mất, chỉ còn bắt có mấy tên lân bang giải đến. Tri Huyện liền bắt lân bang ra để tra hỏi, thì chúng đều khai rằng:
– Kẻ ở gần ra cũng cách thôn xóm, mà kẻ ở xa cũng cách tới ba bốn dặm đường, mọi ngày thường thấy trong nhà Bảo Chính, lúc nào cũng có người đến đây múa gươm tập gậy, cho nên không ai dò biết đoan đích thế nào cả.
Sau Tri Huyện cố tra hỏi, để biết rõ đường đi nước bước của nhà Tiều Cái, thì trong đám lân bang có người bẩm rằng:
– Muốn biết như vậy, tất phải bắt một vài đứa trang khách đến hỏi thì mới có thể rõ.
Tri Huyện lại hỏi lân bang rằng:
– Ta nghe nói, tụi trang khách đều trốn đi cả, còn bắt vào đâu?
Lân bang bẩm:
– Cũng có kẻ không muốn đi, thì vẫn còn ở đấy.
Tri Huyện nghe nói lập tức sai người đem mấy tên lân bang đi để dẫn bắt trang khách về tra hỏi, khi bắt hai tên trang khách về tra, trước còn từ chối không chịu nói sau đòn vọt đau đớn, mới chịu thú ra rằng:
– Trong bọn sáu người ấy bàn bạc với nhau, chúng tôi chỉ biết được có một thầy đồ ở làng là ông Ngô Học Cứu tiên sinh, một người là Công Tôn Thắng, và một người đen lớn họ Lưu thì ở đâu mới đến cả. Còn ba người nữa thì Ngô Học Cứu tiên sinh dẫn đến, nghe nói đâu là ba anh em họ Nguyễn đánh cá ở thôn Thạch Kiệt thì phải.
Tri Huyện lấy xong khẩu cung mọi người, rồi thảo công văn tường tế mà giao cho Hà Đào trở về trình phủ. Đoạn rồi Tống Giang che chở cho bọn lân bang, để xin tha cho về nhà cả.
Bọn Hà Đào nhận công văn của Tri Huyện, rồi áp giải hai tên trang khách đi vội vàng về phủ Tế Châu. Khi về tới nơi Hà Đào đem mọi việc đi bắt nã thế nào, kể rõ cho Tri Phủ nghe một lượt.
Tri Phủ nghe nói, không biết làm sao được, lại phải bắt Bạch Thắng ra tra hỏi xem ba người họ Nguyễn là quê quán ở đâu?
Bạch Thắng đã toan nhất định không nói, sau bị Tri Phủ đánh đập tra tấn riết lại phải cung rõ ra rằng:
– Một tên là Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị, một tên là Đỏan Mệnh Lang Nguyễn Tiểu Ngũ và một tên là Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất, ba anh em đều ở thôn Thạch Kiệt cả.
Tri Phủ lại hỏi:
– Còn ba người nữa là những ai?
Bạch Thắng bẩm:
– Một người là Trí Đa Tinh Ngô Dụng, một người là Nhập Vân Long Công Tôn Thắng, và một người là Xích Phát Quỹ Lưu Đường.
Tri Phủ nghe vậy lại đem Bạch Thắng giam vào nhà pha, rồi gọi Hà Quan Sát sai đem người đến thôn Thạch Kiệt để truy bắt ba anh em họ Nguyễn.
Mới hay:
Hùm thiêng vùng vẫy núi xanh,
Những phường đầu sói còn quanh quẩn tìm
Biết đâu bốn bể mò kim,
Chẳng qua gây việc kinh thiên sau này.
Một phen gió chuyển mây bay.
Sơn hà đổi mặt cỏ cây khác mầu.
Máu hồng lai láng vũng sâu,
Cho quân phỗng đá biết nhau sau này.
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này bắt đầu vào chuyện Tống Giang, Tống Giang là đầu trộm cướp vậy, đầu trộm, thì tội nặng hơn cả đám một tầng, thế mà lâu nay người ta đọc Thủy Hử, thường hường cho là Tống Giang trung nghĩa, như muốn gặp được sớm chiều, há phải tính con người muốn ưa trộm cướp, thì ra đọc văn chương mà không thông ý nghĩa. Tự ta xem đấy, thấy tội Tống Giang nặng hơn đám trộm cướp, vì y ngầm Phản thì còn là nhỏ, mà tha cho Tiều Cái mới là to, bởi đâu? Vì tha Tiều Cái để y họp đám giặc, làm cho họa đến cả triều đình, cũng do từ đấy, nếu Tống Giang mà thật trung nghĩa, thì không tha Tiều Cái; mà Tống Giang tha Tiều Cái, thì còn đâu trung nghĩa, đây mới vào bản truyện mà trước kia không có chuyện chép ra, được tỏ Tống Giang cao quý, bắt đầu tha tội Tiều Cái, thì ra Tống Giang đã tội tày trời tác giả thực chẳng kiên khen cho chút nào hết cả.
Há chẳng che giấu mà thôi, lại còn tả ra như bới vạch, như rằng quan phủ bàn kín ở nhà sau, rất là cơ mật, gọi chủ điếm làm chứng cùng đi bắt, lại rất là cơ mật. Canh ba đến nhà Bạch Thắng, đã rất cơ mật, đến canh năm lại trở về ngay, càng cơ mật nữa, giữ kín Bạch Thắng, giam riêng người vợ lại rất cơ mật, Hà Đào thân lãnh công văn, đem hai Ngu hầu đi theo nhận mặt bắt giặt, lại rất cơ mật, đến Vận Thành giấu tùy tòng trong điếm, vẫn giữ cơ mật, cho đến Hà Đào phải nói kín đáo, thì thấy cơ mật biết bao? Đấy tả ra rất nhiều văn tự, cho rõ cơ mật, càng làm cho rõ cái tội Tống Giang, theo lập pháp cho nghiêm, thì phải đúng như vậy, người đời đọc Thủy Hử mà không thông nghĩa, vội đem trung nghĩa khen ngợi Tống Giang, thì chả còn biết con ngựa kia mấy chân đi vậy!
Tả hai người Chu Đồng, Lôi Hoành, đều cốt tha cho Tiều Cái, thấy Chu Đồng được khéo, mà Lôi Hoành lại vụng, Chu Đồng được khoái, Lôi Hoành lại chậm, thấy từng chỗ Lôi Hoành nhường bước Chu Đồng rõ lắm, thế mà có biết đâu trước khi Chu Đồng chưa vào bóng tối, để thả Tiều Cái, đã có trước kia Tống Giang sớm làm được trọn nhân tình, thế thì Chu Đồng lại nhường bước Tống Giang rõ lắm, trong tay cao cường, lại có kẻ cao cường hơn, thực là tả nên tuyệt diệu.
Khi ấy Hà Quan Sát lĩnh lời Tri Phủ quay xuống phòng cơ mật, để thương nghị với mọi người. Có một người công sai, bảo với Hà Đào rằng:
– Thôn Thạch Kiệt gần kề với vũng Lương Sơn, là một nơi bến nước mênh mông cỏ lau rậm rạp, nếu không có Đại đội quan quân, thì ai dám đến đây mà bắt được cướp?
Hà Đào nghe chúng nói, mới nghĩ ra là phải, liền quay lên bẩm với Tri Phủ rằng:
– Khoảng hồ ở thôn Thạch Kiệt, chính là tiếp giáp với Lương Sơn, xung quanh toàn thị vũng hồ sâu rộng, lau cỏ um tùm, ngày thường vẫn hay cướp bóc người ta ở đó. Nay lại thêm có một bọn cường nhân mới đến, nếu không có Đại đội quân mã kéo đi, thì khó lòng mà bắt được?
Tri Phủ truyền rằng:
– Nếu vậy thì ta cho mấy viên tuần giang tinh giỏi điểm lấy hơn trăm quân mã, cùng đi với người có được không?
Hà Quan Sát vâng lời, xuống phòng cơ mật, gọi mấy tên công sai, họn lấy hơn trăm người, rồi sắp sửa lấy các đồ khí giới để sáng mai ra đi. Sáng hôm sau mấy tên Tuần giang lĩnh công văn quan Phủ Tế Châu, rồi điểm năm trăm quân mã cùng với Hà Quan Sát và đám công sai cùng đi đến thôn Thạch Kiệt.
Nói về Tiều Cái, Công Tôn Thắng đêm hôm ấy, đốt bỏ trang viện rồi đi vội vàng để trốn sang thôn Thạch Kiệt. Khi tới nửa đường đã gặp ba anh em họ Nguyễn, đều mang khí giới ra đón ở đó, mấy người cùng nhau kéo về tạm trú ở nhà Nguyễn Tiểu Ngũ.
Bấy giờ Nguyễn Tiểu Nhị đã cho vợ con vào ở tất cả phía trong hồ, rồi bảy người cùng bàn kế với nhau để nhập bọn Lương Sơn.
Ngô Dụng nói:
– Hiện nay ở ngoài đường cái, có Chu Quý mở cửa hàng bán rượu, để chiêu nạp hảo hán bốn phương, nếu chúng ta muốn nhập bọn, thì phải đến nói với anh ấy trước. Vậy ta hãy đem các đồ sản vật xếp sẵn xuống thuyền, rồi kiếm cái gì, đưa cho Chu Quý, để hắn dẫn ta lên.
Đương khi bàn soạn với nhau, thì bỗng thấy mấy người đánh cá chạy đến báo rằng:
– Hiện có quan quân kéo đến để truy nã.
Tiều Cái nghe báo, đứng dậy bảo với anh em rằng:
– Bọn họ đã đến, thì chúng ta đừng chạy nữa.
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
– Các ông đừng sợ, ta sẽ có cách đối phó lại với họ, cứ cho một nửa xuống nước, còn một nửa thì ta chém chết cho rảnh.
Công Tôn Thắng nói:
– Các ông cứ lặng im, để bần đạo thử chút tài mọn cho các ông xem.
Tiều Cái bảo với Lưu Đường rằng:
– Bây giờ bác cùng với Học Cứu tiên sinh mang tất cả tài vật và người nhà, xếp xuống thuyền, rồi đi đến bên tả con đường Lý Gia để đợi chúng tôi, chúng tôi liệu thế nào rồi sẽ đến sau.
Nguyễn Tiểu Nhị liền lấy hai con thuyền, rồi đem mẹ và người nhà, cùng các tài vật xếp xuống thuyền, để Ngô Dụng, Lưu Đường mỗi người áp một thuyền, rồi sai bảy tám tên phường chài, chèo thuyền đến bên tả con đường Lý Gia. Lại dặn Nguyễn Tiểu Ngũ và Nguyễn Tiểu Thất, lái một chiếc thuyền con, cứ theo cách thế, để đối địch với quan quân.
Bên kia bọn Hà Đào với Tuần giang cùng tụi quân mã đi gần đến thôn Thạch Kiệt, thấy ở bến đó có bao nhiêu thuyền để đó đều cướp lấy cả. Rồi sai bọn quân lính thiện nghề thủy thủ nhảy xuống thuyền để tiến đánh đường thủy, còn bọn mã binh thì tiến mặt đường bộ. Trên ngựa dưới thuyền, thủy bộ đều tiến thẳng kéo đến Nguyễn gia trang.
Khi tới nơi quan quân hò reo vang động, rồi cùng kéo nhau vào, thì chỉ thấy cái xác nhà, và mấy thứ đồ dùng nặng nề bỏ đó, Hà Đào truyền bắt những bạn chài gần đấy đến để hỏi; thì đều nói rằng:
– Hai anh em nhà Nguyễn Tiểu Ngũ và Nguyễn Tiểu Thất đều ở vào phía trong hồ cả.
Hà Đào bàn với Tuần giang rằng:
– Phía trong hồ toàn thị kênh ngang ngòi tắt, đường lối tào lạp, vả chăng nước rộng vũng nhiều, nông sâu chưa biết, nên đến đấy mà chia nhau từng ngã để tìm, thì lỡ khi mắc kế gian nhân tất là nguy hiểm. Vậy ta nên để cả ngựa trong thôn này, cho người ở đây coi giữ, rồi xuống tất cả dưới thuyền mà đi mới được.
Nói đoạn Hà Quan Sát cùng Tuần Giang, và tụi quân lính đều nhất tề xuống thuyền cả. Bấy giờ có tới hơn trăm con thuyền, cái thì chèo, cái thì chở, thẳng vào phía trong hồ, để tìm nhà anh em Nguyễn Tiểu Ngũ.
Thuyền đi được độ năm sáu dặm, trên mặt nước, chợt thấy trong đám lau lách có tiếng người hát. Chúng liền dừng thuyền lại để nghe, thì thấy tiếng hát véo von rằng:
“Quanh năm đánh cá vũng hồ trong.
Lúa má đay gai chẳng thiết trồng…
Giết hết quan tham cùng lại nhũng,
Báo đền non nước dốc lòng trung.”
Hà Quan Sát cùng mọi người nghe thấy, đều giật mình kinh sợ, mà ngơ ngác nhìn nhau. Dần dần thì thấy một người hiện ra đứng trên con thuyền, vừa chèo vừa lái ở đằng xa đi đến. Có người nhận biết trỏ bảo với chúng rằng:
– Người ấy chính là Nguyễn Tiểu Ngũ, liền giơ tay vẫy một cái, chúng đều hết sức cầm đồ binh khí mà sấn thuyền đến đuổi.
Nguyễn Tiểu Ngũ thấy vậy cười mà nói rằng:
– Chúng bây là quân giặc, tàn dân hại nước, lại còn dám cả gan tìm đến đây làm gì? Bây muốn vuốt râu hùm chơi hay sao?
Trong bọn Hà Đào có nhiều người giỏi nghề cung tên, liền giơ cung lấy tên ra, nhất tề trỏ vào Nguyễn Tiểu Ngũ để bắn.
Nguyễn Tiểu Ngũ thấy bên kia quân bắn, liền cầm chèo nhảy tót xuống nước trốn đi mất. Quân chúng đuổi đến nơi đã không thấy gì nữa, liền cùng nhau giong thuyền đi tìm.
Đi được vài quãng kênh, lại nghe tiếng còi huýt ở trong đám lau lách. Chúng bèn dàn thuyền ra để xem thì thấy có hai người chèo một con thuyền trên mũi thuyền có một người đầu đội nón lá, mình khoác áo tơi, tay cầm cây gậy nhọn đầu như quản bút, miệng véo von rằng:
Ta đây sinh trưởng ở thôn này,
Bẩm tính xưa nay thích giết người.
Hãy chém Hà Đào tuần giản trước,
Kinh sư đem hiến Triệu Vương chơi.
Hà Quan Sát cùng mọi người nghe thấy, đều ngạc nhiên kinh lạ. Sau có người nhận biết trỏ mà bảo rằng:
– Anh ấy là Nguyễn Tiểu Thất đó.
Hà Đào liền quát quân chúng rằng:
– Bây hết sức xông lên, bắt thằng giặc ấy cho ta, chớ để cho nó chạy mới được.
Nguyễn Tiểu Thất nghe nói cười rằng:
– Quân thối thây này!
Nói đoạn cầm gậy trỏ một cái, thuyền đã ngoắt vào trong kênh mất. Làm chúng hết sức dong thuyền đuổi theo, con thuyền của Nguyễn Tiểu Thất vẫn đi vun vút vào trong kênh con, mà miệng vẫn còn huýt còi làm hiệu.
Thuyền quân đuổi mãi vào tới trong, thấy bến nước hẹp dần mãi đi, Hà Đào liền bắt quân sĩ dừng thuyền mà kéo nhau lên bộ.
Khi lên đến gần bờ thấy bốn mặt mênh mang, toàn là lau lách, không có một lối nào để len chân đi được. Trong bụng Hà Đào lấy làm nghi hoặc, gọi hỏi những người ở thôn ấy, thì chúng đều nói rằng:
– Chúng tôi tuy ở đây, nhưng cũng không biết rằng chỗ này đường lối ra thế nào cả.
Hà Đào nghe nói lại càng kinh lạ, bèn sai hai chiếc thuyền, mỗi đem vài ba người công sai chèo đi để thăm đường lối.
Hai thuyền đi một lúc lâu không thấy trở về. Hà Đào tức giận mà rằng:
– Mấy thằng ấy sai đi không được việc gì cả.
Nói đoạn lại năm tên công sai thạo việc khác, chở hai chiếc thuyền nữa, đi thám thính xem. Được một hồi lâu, lại không thấy tăm hơi gì cả. Hà Đào lẩm bẩm gắt lên rằng:
– Mấy thằng công sai ấy, xưa nay vẫn nhanh nhẹn mà sao bây giờ lờ mờ như thế? Đi từ bao lâu đến giờ cũng không thấy một thằng nào về cả?
Bấy giờ trong đám quan quân ở đó, không ai hiểu biết đầu đuôi ra sao mà mặt trời thì nghe chừng đã gần tối. Hà Đào lấy làm sốt ruột nghĩ một mình rằng: “Bây giờ đứng mãi đây, thì rồi làm ra thế nào? Bất nhược ta phải thân chinh đi mà xem mới được”.
Nghĩ đoạn sai chọn một chiếc thuyền nhẹ nhàng cắt mấy tên công sai lão luyện đều cầm theo khí giới, rồi Hà Đào xuống ngồi ở mũi thuyền bắt năm sáu tay chèo thực nhanh, đi vào các chỗ lau lách để thám thính.
Bây giờ mặt trời đã xế non tây, thuyền đi ước được năm sáu dặm nước, đến một nơi gần bến, thấy có một người vác cái cuốc đương ở đâu chạy lại, Hà Đào liền hỏi rằng:
– Anh chàng kia! Anh là người nào? Ở đây là chỗ nào?
Người kia nghe hỏi đứng dừng lại mà đáp rằng:
– Tôi là người làng ở đây, chỗ này gọi là chỗ Đoạn Đầu Cảng, hết lối đi rồi.
Hà Đào hỏi:
– Anh có thấy hai chiếc thuyền đi qua đây không?
Người kia nói:
– Có phải là thuyền đi bắt Nguyễn Tiểu Ngũ? Ấy họ đương đánh nhau ở rừng Điếu Lâm, về phía trước mặt kia.
– Đây đến đấy có xa không?
– Ở ngay trước mặt đây kia thôi.
Hà Đào nghe nói liền sai cắm thuyền lại, bắt mấy tên công sai cầm khí giới đi lên bờ để cứu đám kia. Mấy tên công sai vừa bước lên bờ, thì anh chàng vác cuốc kia giơ thẳng cánh, cuốc cho mỗi tên công sai một cuốc, đứt phăng đầu ra mà lăn xuống nước.
Mấy tên công sai còn ở thuyền thấy vậy, hoảng hốt toan nhảy chạy, thì bỗng đâu anh chàng vác cuốc trên bờ đã nhảy tót xuống thuyền, mà tặng cho mỗi tên công sai một nhát cuốc nữa chết lăn ra cả đó.
Bấy giờ Hà Đào bị một người kéo xuống nước, rồi ôm thốc lên bờ cởi đai nịt ra mà trói chặt vào, rồi đến khi trông mặt mới biết người ấy chính là Nguyễn Tiểu Thất, mà người vác cuốc chính là Nguyễn Tiểu Nhị.
Hai anh em Nguyễn Tiểu Thất, Nguyễn Tiểu Nhị cùng chạy đến trỏ mặt Hà Đào mà mắng rằng:
– Ba anh em ông xưa nay chỉ thích giết người đốt nhà, phỏng mày nghĩ hơi sức được bao nhiêu mà dám cả gan dẫn quan quân vào bắt lũ chúng ông?
Hà Đào nói:
– Hảo hán ơi! Chúng tôi là vâng lệnh quan trên, không đi không được, nào có phải tự mình dám cả gan đến đây mà bắt hảo hán đâu? Xin hảo hán thương tôi còn chút mẹ già tám mươi tuổi đầu, không ai nuôi nấng mà tha tính mạng cho tôi…
Anh em họ Nguyễn bảo nhau trói tròn lại bỏ xuống sạp thuyền, rồi vất những xác đứa kia xuống nước, đoạn rồi thổi mấy tiếng khẩu hiệu, thì thấy trong đám lau lách có tới bốn năm anh chài trổ ra cùng nhảy lên thuyền cả, còn Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất cũng mỗi người cưỡi một chiếc thuyền con mà cùng ra đi.
Bấy giờ vào khoảng giữa canh một, bọn Tuần giảng cùng quân lính mong mãi không thấy Hà Quan Sát về, thì ai nấy ngơ ngác không hiểu ra sao, đành phải ngồi bó cánh trên thuyền mà nghỉ mát.
Chợt đâu có một trận quái phong ở sau lưng thổi lại, làm cho dây buộc thuyền đều bị đứt tất cả. Chúng đương kinh sợ hãi hùng, không biết đường thi thố, thì bỗng lại nghe thấy hiệu còi thổi ở phía sau, rồi có một vầng lửa sáng ở trong đám lau lách đi ra. Đám quan bảo nhau rằng: Phen này không còn cách chi mà sống được nữa! Khi đó vừa một trăm chiếc thuyền vừa lớn vừa nhỏ, đều bị gió đánh lật lộn nghiêng trành không sao giữ được, rồi thấy đống lửa kia vẫn cứ lù lù tiến đến trước mặt.
Nguyên đó là một đoàn thuyền con buộc hai cái làm một, trên để toàn cỏ khô lau héo đốt lửa cháy dần dật, rồi buông thuận chiều gió mà trôi đến đó. Hơn một trăm chiếc thuyền của đám quân lính phần thì đậu liền khít với nhau, phần thì kênh nước hẹp hòi, không có chỗ để tránh, thành ra mười mấy chiếc thuyền lớn ở đầu bị lửa xông vào đốt cháy. Dưới đáy nước lại có người kéo ngầm thuyền lửa sấn vào đốt phá thuyền quân, làm cho các quân lính trên thuyền, đều nhao nhao nhảy lên bờ chạy trốn.
Dè đâu bước lên đến bờ lại toàn thị khóm lau vũng lách không có lối đi, đằng trước cũng thấy lửa cháy đùng đùng trên khóm lau cháy xuống gió to ngọn lửa càng to, đám quân lính không có chỗ nào lẩn lút, đành phải nhảy xuống những chỗ vũng lầy để đứng.
Trong đám hỏa quang rực rỡ, thấy có một chiếc thuyền con đi vun vút tới nơi, đằng lái thuyền đứng chèo, đằng mũi thuyền có một tiên sinh ngồi, tay cầm một thanh kiếm sáng loáng miệng quát lên rằng:
– Đừng để cho một thằng nào bên đông chạy thoát.
Bọn quân lính đứng trong đám bùn lầy, nghe vừa dứt lời thì thấy bờ lau bên đông có hai người dẫn bốn năm anh chài cầm đao thương sáng loáng chạy đến bờ lau, bên tây cũng có hai người dẫn bốn năm anh phường chài tay cầm Phi Ngư Câu sáng quắt chạy ra.
Hai bên đổ xô vào, vớ được anh nào là chém anh ấy, chỉ một lúc tụi quân binh chết cả trong đám bùn lầy, không còn anh nào sống sót.
Than ơi!
Vì đâu cho chúng lầm than
Tội nào giết hết quan tham chưa đành!
Nguyên hai người bên đông là Tiều Cái, Nguyễn Tiểu Ngũ, hai người bên tây là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Thất, và một tiên sinh ngồi trên mũi thuyền, thì là Công Tôn Thắng ngồi để hô gió.
Bấy giờ năm vị hảo hán dẫn mười mấy tên chài lưới ở thôn trang, chém hết quân binh trong vũng lầy bờ cỏ, duy còn một mình Hà Quan Sát là vẫn trói cuốn tròn như cái bánh, mà vất ở trong khoang thuyền.
Nguyễn Tiểu Nhị xách trùng làm hại dân sự ở Tế Châu, lẽ ra chúng tao xé xác làm muôn mảnh, nhưng nay hãy tha cho, để về báo với thằng giặc già Tri Phủ Tế Châu rằng:
– Chúng tao là ba tay anh hùng họ Nguyễn ở thôn Thạch Kiệt và Đông Khê Tiều Cái Thiên Vương, không ghẹo gì nó, mà không đến vay mượn lương thảo gì trong thành, nó đừng đến đây mà mua cái chết nhé. Nếu mà nho nhoe với chúng tao, thì không cứ là một thằng Tri Phủ cỏn con cho ngay đến lão Xái Thái Sư đến đây nữa, gọi là ta đánh cho vài ba mươi cái khoét thịt vào đã. Bây giờ tao tha cho mà về, chớ đến đây nữa, mà phải truyền cho chúng nó đừng mơ tưởng hoài công! Đây không có đường cái lớn, để tao đưa ra ngoài đường cái cho mà đi.
Bấy giờ Tiểu Thất lấy một con thuyền nhẹ nhàng kéo Hà Đào xuống chở ra gần đường cái mà quát lên rằng:
– Cứ đi thẳng đây khắc tìm thấy lối đường, còn đám kia đã giết hết cả rồi. Bây giờ thả cho mầy được về tử tế thế này, chắc là thằng giặc già Tri Phủ nó lại cười ta, vậy ta hãy lưu lại để cho nó biết. Nói đoạn rút dao găm ở bên mình ra xẻo hai tai Hà Đào, máu chảy đầm đìa lênh láng, đoạn rồi lau đao cởi trói vất Hà Đào lên bờ mà đi.
Hà Đào được thoát tính mạng kinh sợ hãi hùng, vội vàng tìm đường cút thẳng về Tế Châu. Khi đó Tiều Cái, Công Tôn Thắng cùng ba anh em họ Nguyễn với tụi phường chài cùng lên thuyền, đến bên đường Lý Gia để tìm Ngô Dụng, Lưu Đường họp vào làm một.
Ngô Dụng hỏi đến việc cự quan quân, Tiều Cái liền đem đầu đuôi kể hết cho nghe, ai nấy đều vui mừng hớn hở. Đoạn rồi lại chỉnh đốn thuyền bè, cùng nhau kéo đến hàng rượu Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý.
Khi tới nơi Ngô Dụng đem đầu đuôi chuyện mình kể cho Chu Quý nghe, và nói để xin vào nhập đảng. Chu Quý thấy vậy cả mừng, mời các người lên, chào hỏi xong rồi, đón cả vào trong nhà để thết rượu.
Đoạn rồi Chu Quý ra thủy đình lấy một mũi tên bắn vào vụng lau để ra hiệu. Được một lát đã thấy tên tiểu lâu la chở một con thuyền ra. Chu Quý vội vàng viết một phong thư thuật chuyện và kể tên họ mấy vị hào kiệt định lên nhập đảng, giao cho tiểu lâu la đem về trình trước cho sơn trại biết, rồi nhất diện giết dê khỏan đãi mọi người suốt đêm hôm ấy.
Sáng hôm sau, Chu Quý cho gọi một chiếc thuyền lớn mời mấy vị hảo hán xuống thuyền, rồi cho cả chiếc thuyền của Tiều Cái đem đến cùng trở về sơn trại. Khi đến một chỗ kênh nước kia chợt thấy trên bờ có tiếng thanh la kêu, rồi có bảy tám tên lâu la đánh bốn con thuyền tuần tiễu đi qua. Khi trông thấy Chu Quý thì đám lâu la trên thuyền kia đều cúi chào Chu Quý rồi lại lái thuyền vút đi trước.
Chu Quý cùng bọn Tiều Cái đi vào đến bến Kim Sa thì cùng nhau kéo lên bờ duy để mấy người nhà và mười mấy tên phường chài đợi lại ở thuyền. Bấy giờ có mấy tên tiểu lâu la xuống núi tiếp đón lên ải. Vương Luân cùng mọi người Đầu Lĩnh đều ra quan ải để nghinh tiếp. Bọn Tiều Cái thấy vậy vội vàng thi lễ để chào.
Vương Luân đáp lễ lại mà nói rằng:
– Vương Luân tôi được nghe tiếng Tiều Thiên Vương đã lâu, như sét đánh bên tai, nay được ngài hạ cố đến đây, thì thực là may quá!
Tiều Cái nói:
– Tiều mỗ tôi là một người vô học tính khí thô mãng, ngày nay tự biết vụng về kém dốt, cam tâm đến đây làm một tên tiểu tốt ở trướng tiền, xin ngài rộng lượng bao dung, thì lấy làm may mắn.
Vương Luân đáp rằng:
– Ngài dạy làm gì thế, hãy xin mời vào tiểu trại, rồi ta sẽ bàn định về sau.
Nói đoạn cùng các Đầu Lĩnh dẫn đám Tiều Cái đi lên sơn trại.
Khi tới Tụ Nghĩa Sảnh, Vương Luân mời bọn Tiều Cái bảy người ngồi bên phía hữu, còn các Đầu Lĩnh cùng Vương Luân thì ngồi bên phía tả, đoạn rồi nhạc công đánh bài nhạc của sơn trại để chào mừng, và sai một tên tiểu Đầu Mục ra thuyền để tiếp đón các người nhà vào khách quán yên nghỉ. Hôm đó trong sơn trại giết mấy con bò, mười mấy con gà và năm con lợn, tiệc bày sang trọng trống phách vang lừng, rất là vui vẻ.
Khi tiệc đến nửa chừng, Tiều Cái liền đem tâm sự từ đầu đến cuối giải bầy cho Vương Luân nghe. Vương Luân nghe đoạn kinh hãi hồi lâu, trong bụng ngần ngừ không biết trả lời ra sao, chỉ ầm ừ ứng đáp sao cho xong câu chuyện. Đến khi tan tiệc các đầu lĩnh đưa bọn Tiều Cái xuống khách phòng ở ngoài quan ải để nghỉ và cắt hầu hạ cẩn thận. Trong bụng Tiều Cái lấy làm mừng rỡ, bảo với Ngô Dụng cùng mọi người rằng:
– Chúng ta làm nên những tội ngập trời. Nếu không có Vương Đầu Lĩnh thương yêu, mà để cho ở đây như thế, thì có lẽ chúng ta cũng nguy lắm nhỉ?
Ngô Dụng nghe nói chỉ cười nhạt, mà không nói sao cả.
Tiều Cái thấy vậy liền hỏi rằng:
– Làm sao tiên sinh lại cười nhạt hoặc có điều chi, xin tiên sinh nói cho tôi biết?
Ngô Dụng đáp rằng:
– Tính bác ngay thẳng, vẫn tưởng là Vương Luân chịu lưu chúng ta ở đây hay sao? Bác không biết ruột hắn, chứ bác lại không xem nhan sắc và cử động của hắn à?
– Nhan sắc cử chỉ của hắn ra sao?
– Bác không biết, lúc mới đầu dự tiệc hắn còn chuyện trò với bác ra dáng thân tình, về sau bác kể chuyện ra những là giết đám quân quan, buông tha Hà Đào, cùng là Nguyễn Thi Tam Hùng, mười phần hào kiệt, thì bấy giờ hắn biến ngay sắc mặt đi, ngoài miệng tuy ứng đáp nói cười, mà trong lòng thì thực khác hẳn. Nếu quả hắn có bụng lưu chúng ta ở đây, thì bấy giờ đã định vị thứ rồi mới phải. Việc ấy dẫu đến Đỗ Thiên, Tống Vạn cũng xin tùy theo đáp ứng chứ không hiểu được thâm ý của Vương Luân, duy có một anh chàng Lâm Xung là ngày trước đã làm qua Giáo Đầu ở kinh sư cũng đã hơi hiểu việc, nay bất đắc dĩ phải ngồi vào bậc ghế thứ tư, thì trong lòng vẫn hậm hực bất bình, xem như cách nói chuyện với bác buổi sáng thì đủ biết. Tôi xem anh ta thực là có ý trở mặt với Vương Luân; để tôi thuyết cho mấy câu, khắc là họ tính ngay lập tức.
Bấy giờ Tiều Cái mới tỉnh biết, liền bảo Ngô Dụng rằng:
– Thôi, trăm sự nhờ ở kế sách của tiên sinh cả.
Cho hay quân tử xem người,
Xem từ tiếng nói câu cười xem sao?
Dẫu cho khôn khéo trăm chiều,
Như trong thấy ruột lẽ nào dấu xong!
Sáng hôm sau bỗng thấy người nói có Lâm Xung Giáo Đầu đến chơi. Ngô Dụng liền bảo với Tiều Cái rằng:
– Nếu người ấy đến đây, thì tất là trúng kế ta hẳn!
Nói đoạn bảy người vội ra đón Lâm Xung cùng vào phòng khách nói chuyện. Ngô Dụng đến trước mặt Lâm Xung mà nói rằng:
– Hôm qua được các ngài có lòng hậu đãi, chúng tôi lấy làm cảm tạ vô cùng.
Lâm Xung nói:
– Tôi thực là lỗi phép với các ngài, nhưng ngặt vì nếu có bụng tử tế mà không có quyền thì cũng không làm sao được, xin các ngài thứ lỗi cho.
Ngô Dụng nói:
– Chúng tôi tuy không ra gì, nhưng cũng không phải là loài thảo mộc, lẽ nào lại không biết tấm lòng tử tế biệt nhỡn của ngài, thực là cảm ơn vô hạn.
Đoạn rồi Tiều Cái mời Lâm Xung ngồi ghế trên. Lâm Xung nhất định không nghe, nhường Tiều Cái ngồi trên rồi tự mình ngồi cánh đuôi, còn Ngô Dụng và sáu người kia ngồi một dẫy ở dưới nữa.
Tiều Cái nói với Lâm Xung rằng:
– Tôi được nghe tiếng Giáo Đầu đã lâu không ngờ nay lại được gặp ở đây!
Lâm Xung nói:
– Tôi khi còn ở kinh sư chơi với anh em không hề có một chút gì là sơ xuất, ngày nay được gặp ngài đây thật là không thỏa lòng chút nào, cho nên tôi phải đến đây để xin lỗi với ngài.
Tiều Cái tạ lại rằng:
– Xin cảm tấm lòng quý báu của ngài.
Ngô Dụng lại hỏi Lâm Xung rằng:
– Ngày trước tôi được nghe tiếng Đầu Lĩnh còn ở Đông Kinh kể biết bao phần hào kiệt, thế mà không biết vì sao bị Cao Cầu hãm hại phải sang ở đất Thương Châu? Sau tôi nghe nói ở Thương Châu lại bị chúng lập mưu đốt mất thảo trường, rồi không biết ai đưa Đầu Lĩnh đến sơn trại ở đây từ bao giờ như vậy?
Lâm Xung thở dài mà rằng:
– Nói đến thằng Cao Cầu nó hãm hại tôi thì lại kinh dựng tóc gáy lên, không biết bao giờ trả thù cho được! Còn việc tôi đem thân đến lẩn lút ở đây là nhờ ở Sài Đại Quan Nhân tiến cử giúp cho đấy, ngài ạ!
– Sài Đại Quan Nhân có phải bọn giang hồ vẫn kêu là Tiểu Toàn Phong Sài Tiến đó phải không?
– Chính người ấy đấy.
Tiều Cái nói:
– Tôi cũng nghe tiếng ông ta là người trọng nghĩa khinh tài hay kết nạp bọn hào kiệt bốn phương, là dòng dõi Đại Chu Hoàng Đế khi xưa, nhưng tôi chưa gặp được bao giờ!
Ngô Dụng nói với Lâm Xung rằng:
– Sài Đại Quan Nhân tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ ai ai cũng biết, nếu Giáo Đầu không phải là một bậc võ nghệ siêu quần thì sao ngài có chịu giới thiệu đến đây! Câu này không phải là tôi nịnh, nhưng cứ lý ra thì Vương Luân nên nhường ghế thứ nhất để Đấu Lĩnh ngồi mới là công bằng, mà mới khỏi phụ công Sài Đại Quan Nhân tiến cử.
Lâm Xung nói:
– Vâng, tiên sinh có lòng khen thế thực là cảm tạ, tôi đây vì phạm tội phải chạy đến nương nhờ Sài Đại Quan Nhân, ngài cũng hết lòng giữ lại ở đó, song sợ phiền lụy đến ngài không tiện, nên lại phải vật nài để xin đến sơn trại đây. Ai ngờ ngày nay đi cũng dở mà ở cũng dở, không phải vị gì chỗ ngồi hơn kém, song có điều Vương Luân là người tâm thuật không định, bàn nói không nghe, như thế cũng khó lòng ở với nhau lâu được.
Tôi xem Vương đầu lĩnh tiếp người tử tế, hòa nhã ung dung như thế mà tâm địa lại hẹp hòi hay sao?
Ngày nay may được các ngài đến đây thực chẳng khác gì mặt gấm thêu hoa, lúa khô được nước, thế mà anh ta vẫn mang lòng ghen ghét tài năng, chỉ sợ các ngài tranh cướp. Lúc đêm ngồi ăn tiệc thấy các ngài nói đến chuyện giết hại quan quân, anh ta đã có điều không thích, không muốn lưu các ngài ở lại, cho nên mới mời xuống nhà khách dưới quan ải đây để nghỉ.
Ngô Dụng nghe vậy liền nói ngay rằng:
– Nếu Vương đầu lĩnh đã có lòng như thế, thì chúng tôi bất tất phải đợi ông ta nói ra, chúng tôi xin đi chỗ khác trước là hơn.
Lâm Xung gạt đi rằng:
– Các ngài đừng nghĩ thế, tôi đây chỉ sợ các ngài đem lòng chán nản, nên phải đến sớm đây để nói cho các ngài biết. Đến ngày hôm nay xem; nếu hắn tiếp đãi tử tế không có điều chi khác ý như hôm qua thì thôi, bằng hắn có một câu gì sâm sỉ khó chịu, thì xin các ngài cứ mặc tôi đây.
Tiều Cái nói:
– Nếu được ngài quá yêu, cầu như thế, thì anh em chúng tôi cảm thấy quý chừng nào?
Ngô Dụng lại gạt đi mà rằng:
– Lẽ nào ngài lại vì chúng tôi là người mới đến, mà trở mặt với anh em cũ được, vậy nếu có thể dung được thì hay bằng không, thì anh em chúng tôi xin cáo thoái trước là hơn.
Lâm Xung quyết đoán mà rằng:
– Tiên sinh sai rồi, cổ nhân đã nói:”Tinh tinh tiếc tinh tinh, hảo hán tiếc hảo hán” chứ như những đồ súc sinh khốn nạn ấy thì anh em gì với nó? Xin các ngài cứ khoan tâm để lát nữa tương hội.
Nói đoạn đứng dậy từ biệt mọi người mà trở lên núi.
Hồi lâu có tên tiểu lâu la đến nói rằng:
– Hôm nay Đầu Lĩnh ở sơn trại chúng tôi cho mời các vị hảo hán đến thủy đình ở bên Nam núi để hội yến.
Tiều Cái nhận lời vào bảo tiểu lâu la về bẩm trước với Đầu Lĩnh rồi xin theo lên sau. Tên tiểu lâu la đi rồi, Tiều Cái hỏi Ngô Dụng rằng:
– Tiên sinh, phen này thế nào?
Ngô Dụng cười đáp rằng:
– Huynh trưởng cứ vững tâm, phen này có lẽ làm chủ sơn trại cũng nên. Cứ xem ý Lâm Xung hôm nay thế nào cũng có ý tính Vương Luân hẳn? Nếu hắn có bụng ấy thì tôi giở ba tấc lưỡi thuyết cho hắn phải quả quyết mới nghe. Huynh trưởng cứ đặt khí giới ngầm trong mình hễ thấy tôi vuốt râu là phải sấn đến mà giúp hắn thì mới được.
Tiều Cái cùng mọi người nghe thấy đều mừng thầm trong bụng. Bấy giờ vào khoảng cuối giờ thìn, trong trại đã ba bốn phen cho người ra thúc mời, Tiều Cái cùng mọi người đều ăn mặc gọn gàng giắt khí giới sẵn trong mình rồi đi phó hội. Vừa sắp ra đi đã thấy Tống Vạn cưỡi một con ngựa và có tụi lâu la khiêng bẩy cỗ kiệu đến mời. Bẩy người liền lên kiệu theo Tống Vạn đến thủy trại bên nam núi.
Khi đến trước thủy đình thì bẩy người bước chân xuống kiệu, Vương Luân, Đỗ Thiên, Lâm Xung và Chu Quý đều chạy ra đón tiếp mời vào thủy đình, phân tân chủ để ngồi.
Bên ấy Vương Luân cùng bốn người đầu lĩnh Đỗ Thiên, Tống Vạn, Lâm Xung, Chu Quý ngồi chủ vị phía tả. Bên kia Tiều Cái cùng sáu người hảo hán Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, và ba anh em họ Nguyễn ngồi khách vị về phía hữu, dưới thềm tụi lâu la luân lưu đứng hầu rót rượu.
Khi rượu được vài tuần, thỉnh thoảng Tiều Cái khơi nói đến chuyện tụ nghĩa, thì Vương Luân lại tìm chuyện khác mà đánh trống lấp đi. Bấy giờ Ngô Dụng sẽ liếc mắt nhìn xem Lâm Xung thì thấy Lâm Xung ngồi nghiêng mình trên ghế tréo mà trợn mắt trừng trừng nhìn Vương Luân.
Hồi lâu tiệc rượu đã gần trưa, bỗng thấy Vương Luân gọi lâu la mà bảo đem đến đây.
Đoạn rồi thấy ba bốn tên lâu la chạy đi một lúc rồi một tên lâu la bưng một cái mâm lớn, trên để năm đĩnh bạc rất to đem đến.
– Nay được các vị hào kiệt hạ cố đến đây tụ nghĩa, thực là hạnh phúc vô cùng. Nhưng hiềm vì sơn trại chúng tôi cũng như một nơi vũng hẹp dung sao được nổi chân long, vậy gọi là có chút lễ thành, xin các ngài thu nhận và tìm nơi trại lớn để mở mang, rồi chúng tôi sẽ xin sai người đến tận dưới cờ mà xuống đầu nộp lễ.
Tiều Cái đáp rằng:
– Chúng tôi nghe tiếng ngài đây chiêu hiền nạp sĩ đã lâu, bởi vậy chúng tôi muốn đến đây để nương tựa. Nay các ngài đã không dung được thì chúng tôi xin cảm tạ cáo lui, chứ vàng bạc ngài cho không khi nào dám nhận! Chúng tôi không dám khoe là giàu có, song cũng còn được đủ dùng, vậy lễ vật xin dâng lại hầu ngài. Rồi chúng tôi xin cáo biệt ngay bây giờ.
Vương Luân lại nói:
– Ngài từ chối làm gì? Việc này không phải là sơn trại chúng tôi không muốn lưu các vị hào kiệt ở đây, nhưng chỉ vì nhà cửa chật hẹp, lương thực hiếm hoi, sợ ngày sau lại thêm lỡ cho các ngài không tiện, bởi thế nên muốn để cho các ngài đi nơi khác còn hơn.
Vương Luân vừa nói dứt lời thì đã thấy Lâm Xung dựng đứng đôi lông mày, trợn tròn hai con mắt, ngồi ở trên ghế mà quát lên rằng:
– Lần trước ta lên núi anh cũng kêu là nhà chật lương ít, ngày nay Tiều Huynh cùng các vị hào kiệt đến đây, anh cũng đem câu ấy ra để thoái thác, thế là nghĩa gì?
Ngô Dụng chêm mấy câu rằng:
– Xin Đầu Lĩnh bớt giận, cái này là tội tại chúng tôi đến đây, để làm hại mất tình khí sơn trại các ngài. Bây giờ Vương Đầu Lĩnh đã thết đãi tử tế và lại tặng tiền nong cho về, nào có đuổi mắng gì đâu! Vậy xin Đầu Lĩnh đừng giận nữa, chúng tôi đi là xong.
Lâm Xung nói:
– Như thế là hạng người giắt dao găm, gan lim mặt sứa, tôi không thể nào mà nhịn hắn được nữa.
Vương Luân nghe nói quát mắng rằng:
– Thằng súc sinh này đã say rượu đâu, sao dám nói xúc phạm đến ta như thế? Mầy làm mất cả thứ tự trên dưới hay sao?
Lâm Xung cũng cả giận mắng rằng:
– Liệu như mầy là một thằng cùng nho thì hỏng, trong bụng không có một chút văn học gì, phỏng đáng làm chủ sơn trại hay không?
Ngô Dụng bảo Tiều Cái rằng:
– Tiều huynh ơi! Chỉ vì chúng ta lên đây làm dở dang cả cho các ngài Đầu Lĩnh, anh em ta nên kiếm chiếc thuyền mà cáo biệt về ngay mới được.
Nói xong bảy người đều đứng dậy toan đi ra. Vương Luân giữ lại mà nói rằng:
– Hãy xin mời các ngài lui lại cho trọn bữa tiệc hôm nay đã.
Lâm Xung giơ chân đạp đổ cái bàn đổ lộn ra một bên, rồi đứng dậy thò tay vào túi rút ra một con dao sáng loáng, dường như ngọn lửa bốc lên rần rật vậy.
Bấy giờ Ngô Dụng vuốt râu ra hiệu, Lưu Đường liền liền chạy lên trên đình giả vờ ôm lấy Vương Luân mà can rằng:
– Thôi, không nên xung kích lẫn nhau nữa?
Ngô Dụng cũng giả cách ngăn Lâm Xung lại mà rằng:
– Đầu Lĩnh không nên vội vàng quá như thế?
Công Tôn Thắng cũng phân với đôi bên rằng:
– Chớ nên vì chúng tôi mà làm hỏng mất đại nghĩa mới được.
Đoạn rồi Nguyễn Tiểu Nhị ngăn giữ Đỗ Thiên, Nguyễn Tiểu Ngũ ngăn giữ Tống Vạn, Nguyễn Tiểu Thất ngăn giữ Chu Quý, làm cho bọn lâu la ở dưới đều ngây người đờ mắt mà sợ hãi kinh hồn.
Lâm Xung nhẩy đến nắm chặt lấy Vương Luân mà mắng rằng:
– Mày là một thằng thôn dã cùng nho, nhờ có Tống Thiên mới được ở chốn này, Sài Đại Quan Nhân giúp đỡ cho như thế, rồi lại chu cấp tiền nong như thế, thế mà đến lúc tiến cử ta lên đây mầy còn từ chối! Tới nay các vị hào kiệt muốn lên núi nhập bọn, cũng toan đuổi đi mà không nhận cả; có lẽ Lương Sơn Bạc này là của riêng nhà mầy hay sao? Những tư cách ghen ghét nhỏ nhen như thế không giết đi còn để làm gì? Một thằng vô tài vô lượng, không thể nào làm chủ sơn trại này được.
Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu quý toan chạy đến để khuyên giải Lâm Xung lại bị bọn kia ngăn giữ không sao dám cựa.
Khi đó Vương Luân cũng muốn tháo thân để chạy song bị Lưu Đường cùng Lâm Xung giữ riết không sao chạy được, liền kêu lên rằng:
– Nào những người tâm phúc của ta mọi khi đâu cả?
Bấy giờ có mấy người tâm phúc cũng muốn chạy đến để cứu, nhưng lại trông thấy Lâm Xung ra vẻ hung hăng dữ tợn, thì cũng không anh nào dám bén mảng đến gần. Tức thì Lâm Xung giữ chặt lấy Vương luân, mắng luôn một chặp nữa, rồi đưa dao vào chính giữa bụng, đâm cho một nhát chết quay ra đấy, bọn Tiều Cái thấy, thì ai nấy đều rút dao ra, cầm lăm lăm ở tay. Lâm Xung cắt lấy thủ cấp Vương Luân xách ra ở tay, bọn Đỗ Thiên và Tống Vạn, Chu Quý trông thấy đều kinh sợ hết hồn, quỳ xuống mà nói rằng:
– Chúng tôi xin theo lệnh ca ca.
Tiều Cái vội vàng đỡ ba người dậy, đoạn rồi Ngô Dụng len vào vũng máu, kéo tay ghế thứ nhất mời Lâm Xung ngồi, và quay ra bảo mọi người rằng:
– Nếu ai không phục tùng thì cứ lấy Vương Luân làm phép, ngày nay xin lập Lâm Giáo Đầu làm chủ sơn trại.
Lâm Xung nghe nói kêu lên rằng:
– Tiên sinh sai rồi, tôi ngày nay chỉ vì các vị hảo hán, lấy nghĩa khí làm trọng, nên phải giết một người bất nhân vô nghĩa ấy đi, chứ thực không có lòng nào mà mưu tranh lấy địa vị ấy. Nay Ngô huynh lại nhường cho tôi như thế há chẳng mua cười với bọn anh hùng trong thiên hạ lắm sao? Việc ấy nếu các ngài bức bách quá, thì chỉ xin một chết mà thôi. Nay tiểu đệ có một câu này, nếu các ngài bằng lòng sẽ xin nói.
Chúng nghe nói, đều đáp rằng:
– Đầu Lĩnh có câu gì xin cứ nói cho nghe. Ai dám trái lời Đầu Lĩnh.
Đời còn lắm kẻ gian ngoan,
Lẽ nào non nước không tan nát hoài?
Xưa nay thiệt hại giống nòi,
Gây nên thảm hại tày trời bởi đâu?
Đã không chí cả tài cao,
Còn tham những tiếng sang giàu nhục thân.
Bo bo phần giữ lấy phần,
Ngoài ra nào nghĩa nào nhân biết gì?
Giống đâu có giống ngu si,
Sao không tính trước đường kia nỗi này?
Đến khi hào kiệt ra tay,
Phỏng chừng rêu cỏ được rày mấy nơi?
Chẳng qua của thế người đời,
Mà trăm năm để tiếng cười về sau?
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Hồi này nửa trên mượn miệng họ Nguyễn chưởi tệ quan lại, tiếp đến nửa sau lại mượn lời Lâm Xung chưởi tệ Tú Tài, lời nói phấn khích, khác hẳn nhã nhặn, song lẽ chép ra những lời oán độc; Sử Mã cũng không khỏi được sự này, thì còn trách làm sao được những vị Tỳ quan (Quan chép sử)!
Hồi trước tả Chu, Lôi khi tróc nã, chỉ chép ngăn sau Tiều Cái; hồi này tả Hà Đào khi tróc nã, chợt đâu chia làm hai nửa, nửa trước chỉ chép họ Nguyễn thủy chiến, nửa sau chỉ chép Công Tôn Thắng hỏa công, tới khi sau vào Lương Sơn Bạc gặp Lâm Xung, thì chỉ chép một Ngô Dụng thiệt biện, xét bảy người mới tả sáu người đều lập kỳ công, trung gian còn một Lưu Đường, chưa từng ra sức, thì lại đến hồi sau mới chép nốt mạo hiểm đêm trăng tới Vạn Thành, để cho rõ bảy người này, đều là bậc kỳ tài ra sức, không chịu thua nhau. Hỡi ơi! Đám cường hào còn cùng nhau đua sức, thế mà sao đời nay nhiều kẻ ở ngôi nhận trọng trách, ăn lộc lâu ngày, mà không từng chịu làm lấy một việc gì, thì chẳng đáng thẹn ước?
Tỳ quan chép Sử, ngại những cái gì, ngại nhất là thấy những việc làm ra vô lý của đương thời mà không thể nào bênh nổi? Nay đọc một hồi Hà Đào đi bắt giặc, thấy một sự đáng răn, là khi chưa bắt giặc, đã cướp ngay thuyền, ai chẳng biết rằng bắt thuyền để bắt giặc, sao chẳng nghĩ ra trăm ngờ việc bắt thuyền, là thảm hơn bắt giặc, vì bắt thuyền để bắt giặc, vì bắt thuyền để bắt giặc kia, mình đã là giặc cướp của rồi; trong lòng trăm họ đã ngờ lắm vậy. Cho đến khi đã bắt thuyền rồi, lại không bắt giặc, lại còn đem thuyền bắt được, cưỡi đi như đi chơi, khiến trăm họ thấy rằng bắt lấy thuyền kia, không phải để đi bắt giặc, chính là để đi chơi! Than ôi! Bắt thuyền để bắt giặc, để trăm họ lầm rằng lấy của giặc để bắt giặc, đã một sự không nên, nữa là bắt thuyền để cốt đi chơi, thì sao cho phải, còn nói làm sao? Còn nói làm sao? Vậy quân tử đọc đến thiên này, cũng động lòng mà giận những đám quan quân, không còn trách Sử quan không bên vực nữa.
Hà Đào lĩnh năm trăm binh, tỏ ra thấy như lá thu tan tác, không đánh được chút nào, mà lũ Tiều Cái chỉ có năm người, thêm mươi anh hàng chài nữa mà tả ra như thiên binh vạn mã, có khai hợp, có dụ và cướp, có phục có ứng, có xông có đột, với câu chuyện ấy, ai bảo thuở đó có thực chuyện này, do ở tác giả bày ra trận bút binh mục, tung hoành trong giây khéo léo tả ra.
Thánh Thán đến đây, luống ngậm ngùi than: Con người kết oán nguy thay! Đương lúc Lâm Xung bị bạc đãi, ở ngôi thứ bốn, há quên giận Vương Luân, chỉ vì có thể, không thể trả thù, mà phải nín nhịn, đến khi gặp bảy anh em Tiều Cái, tuy không quen với nhau từ trước, song thế có thể làm, há chẳng động tâm, dù cho Vương Luân ưu đãi, với sự còn ngờ, gặp dịp rửa hận làm ngay không nể, với sự ngậm hờn rất đáng sợ thay!
Bấy giờ Lâm Xung vất đầu Vương Luân xuống, rồi một tay cầm đao nhọn trỏ vào mọi người mà nói rằng:
– Tôi tuy là một kẻ cấm binh bị tội lưu lạc đến đây, song ngày nay thấy các vị hào kiệt có lòng hạ cố đến ở sơn trại cho vui, thế mà Vương Luân nỡ đem tâm địa hẹp hòi, ghen ghét tài đức, không chịu lưu giữ các ngài, nhân thế tôi phải tính trước hắn đi, chứ thực không có bụng gì mưu đồ ngôi chủ trại. Cứ như cầm đầu thì tôi cũng không khi nào cự địch quan quân, chỉ mong có một ngày kia trừ bỏ những tên tâm địa độc ác ở bên cạnh nhà vua đi, thế là thỏa chí. Nay nhân có Tiều huynh là một người trọng nghĩa khinh tài, trí dũng gồm đủ, thiên hạ ai ai nghe thầy cũng phải phục theo, vậy tôi xin lấy nghiã khí làm trọng, mà lập lên làm chủ trại, ở đây, các ngài nghĩ thế nào, có xứng đáng không?
Chúng nghe nói đều đáp rằng:
– Đầu Lĩnh dạy thế là phải.
Tiều Cái thoái thác rằng:
– Không thế được, xưa nay dẫu khách giỏi đến đâu, cũng không nên chiếm quyền chủ, tôi đây là một người khách mới đến, khi nào dám chiếm ngôi trên!
Lâm Xung nhất định không nghe, sấn lại kéo Tiều Cái đẩy vào ghế, rồi nói lên rằng:
– Bây giờ việc đã đến nơi, không cần phải từ chối, nếu không nghe lời tôi, thì cứ lấy Vương Luân làm phép.
Nói xong cố dìu Tiều Cái ngồi lên ghế, rồi quát bảo mọi người ra trước đình làm lễ mừng. Nhất diện bắt tiểu lâu la về đại trại mở yến hội, nhất diện cho đem xác Vương Luân đi chôn, và nhất diện sai đến trước núi sau gọi tất cả các tiểu Đầu Mục về Tụ Nghĩa Sảnh ở Đại Trại.
Đoạn rồi Lâm Xung với mọi người, mời Tiều Cái cùng lên kiệu ngựa đi đến Tụ Nghĩa Sảnh. Khi tới nơi Tiều Cái vào ngồi ở ghế chính trung, đốt một lò hương để vào gian giữa, rồi Lâm Xung đến trước mặt mà nói rằng:
– Lâm Xung tôi là kẻ thất phu thô mãng, không có học hành tài đức gì, nay may có các vị hào kiệt đến đây đã rạng tỏ được đại nghĩa trong sơn trại, không còn cẩu thả như xưa nữa. Vậy nhân có Ngô Học Cứu tiên sinh đây, xin tiên sinh nhận chức quân sư để giữ binh quyền, sai bảo tướng tá, mà vào ghế thứ nhì cho.
Ngô Dụng vội từ chối mà rằng:
– Tôi là anh học trò thôn quê, trong bụng dầu có tài kinh luân tế thế, dẫu xưa cũng từng được qua Binh Pháp Tôn, Ngô, song chưa có chút là công lao gì, lẽ đâu dám chiếm ngôi trên?
Lâm Xung nói:
– Việc đã đến nơi, không cần khiêm nhượng, tiên sinh phải ngồi.
Ngô Dụng phải nghe lời, ngồi vào ghế ngồi thứ hai.
Lâm Xung nói:
– Công Tôn Thắng tiên sinh, xin ngồi vào ghế thứ ba.
Tiều Cái không thuận, bảo Lâm Xung rằng:
– Làm thế không được, nếu cứ suy nhượng mãi, thì Tiều Cái tôi xin thoái vị.
Lâm Xung nói:
– Tiều huynh lầm rồi, Công Tôn Thắng tiên sinh là người có tiếng, xưa nay giỏi nghề dùng binh, lại có phép gào mưa gọi gió, biến hiện qủy thần, anh em đã ai theo kịp?
Công Tôn Thắng khiêm tốn mà rằng:
– Tôi dẫu có chút phép thuật tầm thường, song không có chi là tài tế thế, mà dám ngồi trên, vậy xin Đầu Lĩnh ngồi cho.
Lâm Xung lại nói:
– Cứ xem một trận đánh được quan quân thì đủ biết diệu pháp của tiên sinh. Tiên sinh ngồi đây chính như bộ đỉnh ba chân khuyết một chân không được, xin tiên sinh đừng từ chối nữa.
Công Tôn Thắng không từ chối được, đành phải nghe lời ngồi ghế thứ ba.
Bấy giờ Lâm Xung lại toan nhường nữa. Tiều Cái, Ngô Dụng và Công Tôn Thắng nhất định không nghe nói rằng:
– Vừa rồi Đầu Lĩnh bầu cho tam phân đỉnh túc, chúng tôi đã xin vâng lời, tạm ngồi ba ghế trên rồi, nay đến Đầu Lĩnh còn nhường cho ai nữa, thì chúng tôi ba người xin nhất định thoái cả.
Nói xong ba người dìu Lâm Xung ngồi lên ghế thứ tư. Đoạn rồi Tiều Cái nói rằng:
– Bây giờ xin hai Đầu Lĩnh Đỗ, Tống ngồi lên cho.
Đỗ Thiên, Tống Vạn không nghe, liền nhường để Lưu Đường ngồi vào ghế thứ năm, Nguyễn Tiểu Nhị thứ sáu, Nguyễn Tiểu Ngũ thứ bảy, Nguyễn Tiểu Thất thứ tám, rồi Đỗ Thiên thứ chín, Tống Vạn thứ mười, Chu Quý thứ mười một. Bấy giờ mười một vị ở Lương Sơn Bạc yên định chỗ ngồi, rồi trước núi sau núi tất cả bảy tám trăm lâu la, đều vào lạy mừng, mà chia đứng hai hàng ở dưới.
Tiều Cái nói với chúng rằng:
– Các ngươi nghe lệnh đó, ngày nay Lâm Giáo Đầu cho tôi lên làm chủ trại ở đây, Ngô Học Cứu làm chức quân sư, Công Tôn Thắng cùng coi giữ binh quyền, Lâm Giáo Đầu cùng cùng các đầu lĩnh quản trị sơn trại, còn các ngươi ai nguyên chức ấy, theo phận mà làm, coi sóc các công việc đằng trước đằng sau, giữ các chốn trong trại ngoài bến chớ có để sơ xuất điều chi. Các ngươi phải nên hết sức cùng lòng mà gây nên đại nghiệp với nhau mới được.
Đoạn rồi sai thu dọn hai bên phòng xá để cho lão tiểu hai nhà họ Nguyễn ở, và đem các đồ châu báu sinh nhật còn lại, cùng các thứ kim ngân tài bạch của nhà đem đến, để thưởng các Tiểu Đầu Mục vá các tụi lâu la. Lại giết trâu giết ngựa tế lễ thiên địa thần minh rồi mở tiệc mừng, cùng uống rượu với nhau mãi đến đêm mới nghỉ. Trong mấy ngày hôm sau lại bày tiệc luôn để khao thưởng trên dưới rất là vui vẻ.
Bấy giờ Tiều Cái, Ngô Dụng cùng các vị đầu lĩnh mới kiểm điểm kho đụn, sửa sang sơn trại, chế tạo các đồ quân khí, thương đao cung tên, mũ giáp thuyền bè, và luyện tập các quân lính thủy thủ tập đánh trên thuyền, để phòng bị khi quan quân kéo đến.
Cách ít lâu, một hôm Lâm Xung thấy Tiều Cái trọng nghĩa sơ tài cư xử rộng rãi, đãi vợ con các người khác đều được chu tất thì trong bụng chợt nghĩ đến vợ mình là Trương Thị ở Đông Kinh, ngày nay sống chết thế nào chưa biết, chàng liền đem tâm sự bầy giải với Tiều Cái rằng:
– Tôi từ khi lên Lương Sơn, đã có ý mang cả vợ con lên đây một thể, nhưng về sau thấy Vương Luân là một người tâm địa hẹp hòi, cho nên trong lòng do dự lại thôi. Tới nay vợ con vẫn còn lưu lạc ở Đông Kinh, không biết rằng có còn sống được hay không!
Tiều Cái nghe nói liền bảo rằng:
– Nếu hiền đệ, còn bảo quyến ở Đông Kinh, thì sao không sai người đi đón về đây? Hiền đệ khá viết một phong thư cho người đi mau mau lập tức về Đông Kinh mà đón ngay mới được.
Lâm Xung vâng lời lập tức viết thư rồi sai hai tên lâu la thân tín mang về Đông Kinh để đón.
Cách hai tháng trời đã thấy hai tên lâu la trở về báo rằng:
– Chúng tôi đi đến Đông Kinh vào ngay trong thành, hỏi thăm tới nhà Trương Giáo Đầu thì thấy nói là Nương Tử bị Cao Thái Úy bức bách, đã liều thân tự ải từ hai năm về trước. Trương Giáo Đầu thì vì lo nghĩ phẫn uất, rồi vào khoảng nửa tháng nay cũng mắc bệnh mất rồi, duy còn có một người con hầu là Cẩm Nhị, thì hiện đã gả chồng mà cùng nhau ở đó. Các lân bang gần quanh ai ai cũng đều nói như thế cả, vậy xin báo để Đầu Lĩnh biết.
Lâm Xung nghe nói thì tầm tã nhỏ đôi hàng lụy, rồi từ đó trong lòng không còn vương vấn việc nhà chi nữa. Tiều Cái thấy chuyện như vậy, thì cũng bùi ngùi tỏ dạ cảm thương.
Đoạn rồi từ đó trong sơn trại chỉ hằng ngày thao luyện binh mã chiến thuyền, để phòng khi cự địch quan quân.
Một hôm các Đầu Lĩnh đương họp nhau bàn việc ở trên Tụ Nghĩa Sảnh, chợt thấy tiểu lâu la vào báo rằng:
– Phủ Tế Châu sai điểm hơn hai nghìn binh mã và các thuyền lớn nhỏ có tới bốn năm trăm chiếc, hiện đương đóng ở quãng hồ rộng ngoài thôn Thạch Kiệt, xin vào báo để các ngài biết.
Tiều Cái nghe báo cả kinh bàn với quân sư Ngô Dụng rằng:
– Quân quan đến đó, ta nghĩ cách nghinh địch thế nào cho được?
Ngô Dụng cười mà đáp rằng:
– Huynh trưởng bất tất phải nghĩ, khắc tôi đã có cách để đối địch. Xưa nay thường nói:”Nước đến đất ngăn, binh lâm tướng đón” ngại chi.
Nói đoạn gọi ba anh em họ Nguyễn đến, ghé vào tai dặn rằng: Như thế…như thế…
Rồi lại gọi Lâm Xung, Lưu Đường đến mà bảo rằng:
– Hai các ông cứ thế này…thế này…
Đoạn rồi lại gọi cả Đỗ Thiên và Tống Vạn đến, mà phân phó cẩn thận, rồi ai nấy phụng mạng ra đi.
Nguyên quan Phủ Tế Châu, sai một viên Đoàn Luyện sứ là Hoàng An và một viên Bộ đạo quân đem hơn một nghìn người và bắt tất cả các thuyền ở trong hạt, đem hết đến hồ Lương Sơn Bạc. Bấy giờ Đoàn Luyện sứ Hoàng An đem quân lính xuống thuyền, mở còi nổi hiệu thẳng xông đến Kim Sa. Khi gần đi đến bến, chợt thấy tiếng véo von văng vẳng đưa lại bên tai. Hoàng An liền nói:
– Đấy có phải tiếng hoạch dốc (Ống sáo của lâu la) đấy không? Hãy cắm thuyền lại xem sao?
Nói xong vừa dừng lại, thì bỗng thấy trên mặt nước có ba chiếc thuyền vừa đi đến. Mỗi thuyền đều có năm người, bốn người cầm chèo và một người ngồi mũi thuyền, cùng đầu đội khăn hồng, mình mặc áo hồng thêu hoa tay cầm câu neo cả. Khi đó có người nhận biết, nói với Hoàng An rằng:
– Ba người ngồi ba mũi thuyền, chính là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ và Nguyễn Tiểu Thất đó.
Hoàng An nghe vậy vội truyền rằng:
– Chúng bây hãy hết sức tiến lên, bắt ba thằng giặc ấy cho ta.
Nói đoạn hai bên có đến bốn năm mươi chiếc thuyền, đều hò reo mà chèo sấn đến.
Ba chiếc thuyền kia thấy vậy, liền huýt còi lên hiệu rồi quay ngoắt trở lại. Hoàng An cầm thương trong tay vung lên mà bảo rằng:
– Mau giết chết mấy thằng giặc kia đi, ta sẽ trọng thưởng cho các ngươi.
Ba thuyền kia cứ lẳng lặng mà chèo đi, không nói gì cả. Thuyền quan quân đuổi riết đến sau rồi đem cung tên ra bắn. Ba anh chàng họ Nguyễn lại giơ da thanh Hồ lên để đỡ tên mà chạy.
Thuyền sau hết sức đuổi theo, ước chừng được hai ba dặm nước, thì chợt thấy đằng sau Hoàng An có một người bơi thuyền nhỏ đi vun vút mà bảo rằng:
– Chớ nên đuổi nữa! Chúng tôi vừa lúc nãy xông vào, bị họ đánh đuổi xuống nước cướp mất cả thuyền rồi.
Hoàng An ngạc nhiên hỏi:
– Làm sao lại bị chúng như thế được?
Người kia nói:
– Chúng tôi đương chèo thuyền vào, chợt thấy đằng xa có hai chiếc thuyền, mỗi thuyền có năm người đi đến, chúng tôi liền gắng sức đuổi theo. Khi đuổi được ba bốn dặm trên mặt nước, thì thấy xung quanh toàn là cảng hẹp, mà lại có tới bảy tám chiếc thuyền trổ ra, rồi cung tên bắn xuống như chuồn chuồn không sao đánh được, bất đắc dĩ phải lui thuyền trở lại, dè đâu trở lại đến chỗ cảng hẹp, thì thấy trên bờ có tới hai ba mươi người, cầm một đoạn thừng rất to căng ngang mặt nước. Chúng tôi đương toan đến xem cái thừng, thì bị trên bờ ném đá xuống rào rào như nưa, ai nấy phải nhảy thuyền bỏ xuống nước để trốn. Đến lúc trốn về được tới bờ, thì đã thấy bao nhiêu quân lính giữ ngựa, đều bị chúng giết chết trên mặt nước mà lấy mất cả ngựa. Vì thế nên phải vội vàng ra khóm lau tìm được chiếc thuyền để đến báo Đoàn Luyện hay.
Hoàng An nghe đoạn ngẩn người kêu khổ, rồi phất cờ trắng bảo quân sĩ quay trở về mà không đuổi nữa. Các thuyền được lệnh vừa quay mũi thuyền trở lại, thì đã thấy ba chiếc thuyền lúc nãy, dẫm mười mấy chiếc thuyền nữa, mỗi thuyền cũng chỉ có năm người, tay phất cờ đỏ, miệng thổi khẩu hiệu, quay lại đuổi riết quan quân. Hoàng An thấy vậy, cũng toan dàn thuyền ra để đón đánh, thì lại thấy trong đám ngàn lau có tiếng pháo nổ, rồi bóng cờ đỏ phất phới cả một lượt. Đoạn rồi mấy chiếc thuyền đuổi theo sau gọi lên rằng:
– Hoàng An để đầu lại đấy.
Hoàng An kinh sợ hết sức chèo thuyền, đến bên cạnh bờ lau, lại bị bốn năm mươi chiếc thuyền ở tiểu cảng hai bên bắn ra tua tủa như ném gạo vậy. Hoàng An vội vàng tìm đường tháo lui, ngờ đâu trông đến thuyền, thì chỉ còn độ ba chiếc con, liền hớt hải nhẩy sang một chiếc khoái thuyền, rồi quay cổ lại nom thấy quân lính, anh nào anh ấy ngã lọp tọp xuống nước, có kẻ bị lôi mất cả thuyền đi, rồi đến già nữa bị chết ở dưới nước. Hoàng An đương cỡi chiếc khoái thuyền, đương tháo thân để chạy, chợt thấy trong đám lau lách có một chiếc thuyền của Lưu Đường nhô ra buông móc kéo thuyền Hoàng An lại, rồi nhảy sang thuyền ôm lấy Hoàng An mà kêu lên rằng:
– Cấm đứa nào cựa động.
Bấy giờ quân lính có kẻ biết lội nước, song thấy những người xuống nước đều bị bắn chết, thì không anh nào dám nhảy xuống, mà đành chịu ngồi yên trên thuyền cho họ trói.
Lưu Đường lôi Hoàng An mang được lên bờ, thì thấy Tiều Cái, Công Tôn Thắng cưỡi ngựa cầm dao, dẫn năm sáu mươi người, hai mươi cỗ ngựa ở đằng rẻo núi, đi lại tiếp ứng. Tất cả bắt sống được mấy trăm người, và cướp được bao nhiêu thuyền, đều đem về thủy trại bên Nam để đó. Đoạn rồi Tiều Cái cùng các Đầu Lĩnh nhất tề lên sơn trại. Tới nơi Tiều Cái xuống ngựa vào Tụ Nghĩa Sảnh, các Đầu Lĩnh đều cởi nhung phục, cất quân khí ngồi dàn ra bên, đem Hoàng An ra trói ở cột cái, rồi lấy vàng bạc vóc nhiễu ra thưởng cho các lâu la. Cộng tính tất cả cướp được hơn sáu trăm cỗ ngựa, đó là công lao của Lâm Xung, đánh mặt tiểu cảng bên Đông là của Đỗ Thiên, Tống Vạn, đánh mặt tiểu cảng bên Tây là công của Nguyễn Thị Tam Hùng, còn bắt được Hoàng An là công của Lưu Đường.
Các Đầu Lĩnh thấy buổi bắt đầu đã được toàn thắng, thì ai nấy lấy làm vui thích, giết dê mổ ngựa mở tiệc ăn mừng. Trong sơn trại lại có rượu ngon nấu uống, ngó sen cá tươi dưới hồ bắt lên, các thứ hoa quả nào hạnh, nào đào, nào mơ, nào táo, ở bên núi phía Nam, cùng các giống lợn, gà, ngỗng, vịt nuôi sẵn trong nhà, không có một vật gì là không có, bấy giờ tha hồ mà yến ẩm thung dung. Đương khi yến ẩm cùng nhau, chợt thấy lâu la lên báo rằng:
– Tiểu Đầu Lĩnh Chu Quý sai người lên hầu.
Tiều Cái truyền gọi vào, hỏi có việc chi?
Tên lâu la bẩm rằng:
– Chu Đầu Lĩnh thám được một bọn khách buôn có tới mươi người đi liên kết với nhau, chiều nay tất do qua lối này, xin báo để Đại Vương biết.
Tiều Cái nghe báo, bảo với chúng rằng:
– Hiện nay ta đương cầu kim ngân tài bạc để chi dùng, vậy có ai đem người xuống cướp lấy được chăng?
Vừa nói dứt lời thì Nguyễn Tiểu Nhị đã đứng lên nói rằng:
– Ba anh em tôi xin đi.
Tiều Cái nói:
– Thế thì hay lắm, nhưng anh phải cẩn thận đi mau, lại phải về mau mới được.
Ba anh em họ Nguyễn vâng lời, lui ra thay áo xiêm, giắt đao lưng, cầm đao lớn, đoạn điểm lấy hơn một trăm lâu la, rồi vào Tụ Nghĩa Sảnh bái biệt mọi Đầu Lĩnh mà xuống núi ra bến Kim Sa, đáp thuyền sang hàng rượu Chu Quý. Tiều Cái sợ ba anh em họ Nguyễn không làm được việc, lại sai Lưu Đường đem hơn một trăm người nữa, để xuống núi tiếp ứng, và dặn lại rằng:
– Đến đó phải làm sao cho khéo, để lấy kim ngân tài bạch, chứ không được giết hại khách thương.
Lưu Đường vâng lời ra đi. Tiều Cái đợi mãi đến canh ba, cũng không thấy bọn ấy về, liền sai Đỗ Thiên, Tống Vạn dẫn thêm năm mươi người nữa để xuống tiếp ứng. Đoạn rồi lại cùng với Ngô Dụng. Công Tôn Thắng, và Lâm Xung cùng uống rượu đến sáng. Sáng ngày ra thấy lâu la lên báo rằng:
– Chu Đầu Lĩnh đã lấy được hai mươi xe kim ngân tài vật, và bốn năm mươi con lừa ngựa đem để nộp.
Tiều Cái hỏi:
– Không giết hại đến người chứ?
B- ẩm, khách thương thấy thế lực kéo đến mạnh tợn, thì bỏ xe cộ hàng hóa chạy ngang, chưa hề giết hại một người nào cả.
Tiều Cái cả mừng mà rằng:
– Chúng ta từ đây trở đi, không nên giết hại người ta mới được.
Nói đọan đưa ra một lạng bạc thưởng lâu la, và sai đem các thức rượu quà xuống núi để đó tiếp. Khi đến bến Kim Sa, đã thấy mấy viên Đầu Lĩnh đem các đồ xe cộ tải lên trên bờ, rồi lại sai mang thuyền ra để tải lừa ngựa. Những Đầu Lĩnh trông thấy cả mừng cất chén mời rượu xong rồi, cho ra đón cả Chu Quý về trại, để yến ẩm.
Tiều Cái cùng các Đầu Lĩnh về đến Tụ Nghĩa Sảnh, đem các tài vật khăn gói lên giở hết ra để xem, bao nhiêu vóc lụa xếp về một bên, hàng hóa xếp về một bên, còn kim ngân bảo cụ thì xếp ra trước mặt. Gọi tiểu Đầu Mục coi kho lên giao cho mỗi thứ chia lấy một nửa đem cất vào kho, còn một nửa nữa thì chia làm hai phần, mười một vị Đầu Lĩnh lấy một phần, và một phần cho chúng chia nhau.
Bao nhiêu những quân sĩ mới bắt được, hết thẩy đem thích chữ hiệu vào mặt, rồi chọn những người khỏe mạnh cho đi chăn đẵn củi, người yếu đuối, thì cho đến các nơi coi xe cắt co, còn Hoàng An thì đem giam vào phòng giam ở đằng sau trại.
Bấy giờ Tiều Cái nói với các Đầu Lĩnh rằng:
– Chúng tôi thoạt tiên đến đây, cũng chỉ mong nương tựa vào Vương Luân, để tránh tai nạn, ngờ đâu nhờ được Lâm Giáo Đầu sau nhường cho tôi lấy ngôi vị chí tôn, rồi lại được luôn hai việc vui mừng, một là trị được quan quân, bắt được người ngựa thuyền bè, và bắt được Hoàng An ở đó. Hai là lấy được tài vật kim ngân rất nhiều, đấy thực là toàn nhờ ở tài năng của anh em hết cả.
Chúng Đầu Lĩnh khiêm tốn mà rằng:
– Việc ấy là nhờ ở phúc ấm của Ca Ca chứ chúng tôi có tài cán chi đáng kể.
Tiều Cái lại nói với Ngô Dụng rằng:
– Mười anh em ta sở dĩ còn được tính mạng đến đây, là ơn của Chu Đô Đầu và Tống Áp Ty, có khi nào mà ta quên được! Cổ nhân nói:”Biết ơn không báo, không phải là người”. Vậy ngày nay ta có kiếm được kim ngân châu báu kia là bởi tại đâu? Việc đó ta phải sai người đem một ít đến Vận Thành, để trả nigh ân nhân là một sự quan trọng thứ nhất. Còn một điều là Bạch Thắng hiện nay bị giam ở nhà pha Tế Châu, ta cũng phải đến đó mà cứu hắn mới được.
Ngô Dụng đáp rằng:
– Việc đó huynh trưởng không cần phải nghĩ, tiểu đệ xin chu tất được, Tống Áp Ty là một người nhân nghĩa, không cần gì đến sự ta báo ơn, nhưng lễ phép phải thế, cũng không bỏ thiếu được, vậy xin để tên việc một chút, rồi sẽ bảo anh em đi ngay. Đến như Bạch Thắng thì tất phải sai một người nào thạo việc, đem tiền đến đút lót mọi nơi, để dần dần về sau sẽ liệu bề thoát thân cho hắn. Còn chúng ta đây bây giờ phải thương lượng với nhau, và đồn lương tích thảo, chế khí tạo thuyền sửa sang thành quách, chỉnh đốn nhà cửa, và tu bổ các thứ y giáp cung thương để dự phòng nghinh địch quân quan thì mới được.
Tiều Cái nói:
– Cái đó xin nhờ ở Quân sư chỉ giáo cho.
Ngô Dụng vâng lời rồi quay ra sai vát các việc, làm cho Lương Sơn một ngày một hưng thịnh mãi lên.
Nước non riêng thú từ đây,
Một sảnh Tụ Nghĩa mấy tay anh hùng,
Đua nhau ngang dọc vẫy vùng,
Bỏ chi cá chậu chim lồng mà chơi!
Nói về tụi quân binh của Hoàng An, có kẻ chạy trốn thoát về, báo cho Tri Phủ Tế Châu biết tin quan quân bị thua, Hoàng An bị bắt, và các hảo hán ở Lương Sơn Bạc toàn là anh hùng dũng đởm, không hề ai dám đến gần, vả chăng hồ nước mênh mông, kênh ngòi rất lắm, đường lối khó dò, sự thế khó lòng mà truy bắt được. Quan phủ nghe vậy cả kinh, bèn phàn nàn với người nhà Thái Sư rằng:
– Trước đây Hà Đào đã bị một phen khốn đốn một thân được thoát ra về, mà chúng còn cắt tai làm nhục, năm trăm quân mã, không còn sót được mống nào. Tới nay sai Đoàn Luyện Sử Hoàng An, và bộ đạo quan của bản phủ, đem bao nhiêu quân mã đi truy tầm, cũng đều bị nguy hiểm cả, hiện Hoàng An còn bị bắt lên núi mà quan quân thì chết chóc vô ngần, như vậy thì biết tính làm sao cho được?
Tri Phủ đương kinh hoàng thở than, thì bỗng thây lính vào báo rằng:
– Có quan mới đến thay, hiện đương ở nhà quan cư ngoài cửa Đông Môn.
Tri Phủ nghe báo, vội vàng lên ngựa ra ngoài Đông Môn để tiếp. Khi đến quan cư hai bên chào hỏi, đoạn rồi quan mới đưa công văn ra, để cho Tri Phủ xem, Tri Phủ xem xong liền cùng quan mới đi vào trong nhà, đem các ấn tín sương khố, cùng các giấy mà tài liệu bàn giao cho quan mới, rồi đặt tiệc để thiết đãi.
Trong khi ăn tiệc Tri Phủ đem các chuyện ở Lương Sơn Bạc kể cho quan mới nghe. Quan mới nghe đoạn xám hẳn mặt lại mà nghĩ thầm trong bụng: “Thái Sư đem việc này đài cử cho ta, ai ngờ là cái nguyên ủy như thế, ở đây tướng giỏi thì không, binh mạnh cũng không, bắt sao được giặc! Mà nhắc lỡ chúng kéo đến đây để vay lương quấy nhiễu thì ta giữ gìn làm sao được”. Nghĩ vậy trong lòng càng áy náy vô cùng.
Sáng hôm sau quan phủ cũ, dọn dẹp đồ đạc trở về Đông Kinh thỉnh tội. Bấy giờ quan phủ mới bẩm xin một viên quan quân đến trấn thủ Tế Châu, bàn định chiêu binh mãi mã, chứa thảo đồn lương, mộ các binh phu dân khỏe mạnh và mư trí hiến sĩ, để phòng bị bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc. Nhắc diện thảo sớ lên Trung Thư Sảnh, xin sức cho các châu quận xung quanh phải giúp sức để tiểu trừ quân giặc, nhắc diện lại thảo công văn sức đi các châu huyện thuộc hạt bản phủ, cũng phải đề phòng truy nã và coi giữ bản hạt cho nghiêm, để dự bị trừ quân giặc cướp.
Bấy giờ quan Huyện Vận thành cũng thuộc hạt bản phủ ấy, khi tiếp được giấy sức phải coi giữ bản cảnh, đề phòng bị giặc Lương Sơn, liền gọi Tống Giang lên cho thảo văn án, sức đi các thôn dã bắt phải nhất luật coi giữ cho nghiêm. Tống Giang xem thấy công văn, thì trong bụng nghĩ thầm rằng: “Ta không ngờ bọn Tiều Cái lại gớm ghê như thế! Đã cướp đồ lễ sinh nhật giết cả quan quân, cắt tai Hà Đào, rồi lại bắt cả Hoàng An lên núi, tội ấy có lẽ đến chu diệt chín họ chứ chẳng chơi. Đã đành rằng sự bất đắc dĩ thực, nhưng pháp luật cũng không tha, vậy hoặc khi lỡ đến thế nào, thì làm sao cho được? “.
Chàng nghĩ vậy, thì cũng hơi có điều ăn năn khó chịu, liền giao các công văn cho Trương Văn Viễn, để lập thành văn án, sức đi các chốn hương thôn, rồi một mình lững thững đi ra ngoài huyện.
Vừa đi được vài ba mươi bước, thì chợt nghe đằng sau có tiếng người gọi. Tống Giang ngoảnh đầu lại nom, thì thấy một mụ mối là Vương Bà đương dắt tay một người đàn bà mà bảo rằng:
– Nhà mụ này thực có duyên, kia Áp Ty đã đến đây kìa!
Tống Giang thấy vậy, đứng dừng lại hỏi:
– Có việc gì thế?
Vương Bà trỏ vào người đàn bà bảo với Tống Giang rằng:
– Nguyên người này là Diêm Bà, người ở Đông Kinh, chồng là Diêm Công, giỏi nghề ca xướng, có một người con gái tên là Bà Tích, năm nay mới mười tám tuổi, nhan sắc cũng khá, mà nghề ca xướng cũng hay. Mới đây ba vợ chồng bố con, đưa nhau sang Sơn Đông tìm quan nhân không gặp, phải lưu lạc đến huyện Vận Thành này, cũng muốn đem nghề ca xướng kiếm ăn, nhưng ở đây không mấy người thưởng thức, thành ra cũng túng bấn long đong, mà phải ở tạm vào một nơi hang cùng ngõ hẻm. Chẳng may Diêm Công hôm qua lại bị bệnh thời tiết, nằm chết ở đó, mẹ con không có tiền để tống táng, phải nhờ đến tôi làm mối giúp cho, nhưng bây giờ cũng khó lòng mà cầu cứu ở đâu cho được. May đâu vơ vẫn lại gặp Áp Ty đi qua đây, nên tôi đưa bà ta đến để nói với Áp Ty, xin Áp Ty rộng lòng thương mà giúp cho người ta một cỗ quan tài.
Tống Giang nghe nói mà đáp rằng:
– Nếu vậy thì các người theo tôi đến nhà hàng này, mượn bút nghiêng tôi viết cho mấy chữ, mà ra nhà Trần Tam Lang bên đông huyện lấy quan tài.
Khi vào tới hàng viết giấy xong rồi, Tống Giang lại hỏi luôn rằng:
– Nhà mụ có tiền nong gì để chi vào việc ấy chưa?
Diêm Bà đáp:
– Chẳng dấu gì Áp Ty, quan tài chưa có, thì làm chi có tiền nữa.
– Nếu vậy ta cho mụ mười lạng bạc đây, để mà lo liệu.
– Áp Ty có lòng thương thế, thì thực là cha mẹ tái sinh, xin được làm trâu ngựa để đền ơn lớn.
Tống Giang gạt đi rằng:
– Bất tất phải nói thế.
Nói đoạn lấy ra một đĩnh bạc đưa cho Diêm Bà, và viết giấy cho đi lấy quan tài, rồi đứng dậy ra về. Diêm Bà nhận được giấy và tiền, thì vội vàng cảm tạ rồi ra nhà Trần Tam Lang để lấy quan tài, mà lập tức đem về làm ma cho chồng. Khi tống táng xong, lại thừa được dăm sáu lạng bạc, hai mẹ con dè xẻn chi dụng với nhau.
Một hôm Diêm Bà đến tạ ơn Tống Giang, thấy trong nhà không có đàn bà con trẻ, liền về hỏi Vương Bà ở bên cạnh vách rằng:
– Sao nhà Áp Ty không thấy có người đàn bà nào, hay là ông ta chưa có vợ chăng?
Vương Bà nói:
– Tôi chỉ thấy nói ông ta ở Tống Gia Thôn, chứ cũng không thấy nói có vợ con chưa? Hiện nay làm Áp Ty ở huyện, thì vẫn cứ ở trọ nhà hàng, thời thường lại cho quan tài, cho vị thuốc, rất hay cứu những người nghèo nàng, có lẽ chưa có vợ con gì thì phải.
Diêm Bà nói:
– Con bé nhà tôi nó cũng khá, biết nghề hát xướng, ăn nói khôn ngoan, ngày trước ở Đông Kinh ai cũng có lòng thương mến, đã có mấy người nhà tử tế toan xin làm con nuôi, nhưng vì vợ chồng già chỉ có một con, nên không muốn cho đi, ai ngờ ngày nay lại làm khổ nó. Nay nhân Áp Ty chưa có đàn bà nội trợ, tôi nói với Áp Ty có lòng cứu đỡ giúp tôi, ngày nay không biết lấy gì để trả ơn, nên cũng muốn kết làm thân quyến để đi lai cho vui, vậy xin nhờ bà tác thành giúp cho.
Vương Bà nhận lời rồi, hôm sau nói với Tống Giang, Tống Giang trước còn khảnh khái không nghe, sau bị Vương Bà tán hươu tán vượn nói ngọt nói ngon, thì cũng bằng lòng y thuận, rồi thuê một gian nhà gác ở ngõ phố bên tây huyện, mà sắm sanh các đồ vật liệu cho mẹ con Diêm Bà đến ở đó.
Thấm thoát nửa tháng trời, đã thấy mẹ con Diêm Bà đều quần là áo lượt, lượt giắt trâm cài, nghiễm nhiên ra vẻ phong lưu lịch sự.
Tống Giang nguyên là một tay hảo hán, xưa nay chỉ thích luyện tập võ nghệ, còn về phần mỹ sắc, thì không lấy gì làm đậm đà cho lắm. Lại nhân Bà Tích là con gái mười lăm mười tám, đương trạc thanh xuân, tình tứ phong lưu, Tống Giang không thể nào mà chìu dỗ, bởi thế trong mấy hôm đầu cũng còn vui vẻ với nhau, rồi ngày sau thì một thưa nhạt dần đi.
Một hôm bất thình lình, Tống Giang dắt người Thiếp Thư là Trương Văn Viễn cùng đến uống rượu ở nhà Tích Bà. Người này nguyên cùng làm một phòng Áp Ty với Tống Giang, thường gọi là Tiểu Trương Tam, mặt mũi khôi ngô, hình dung dón dả, bình sinh thích du đãng, rong chơi hết nhà này lại sang nhà khác, lại học được đủ mọi ngón phong lưu đàn địch sênh ca, không gì là không thạo. Tích Bà vốn là một tay ca xướng xuất thân, nhất đán trông thấy Trương Tam thì trong lòng hơi hơi có chiều ưa thích, mà để ý đến luôn. Còn Trương Tam cũng là một phường tửu sắc ăn chơi, cho nên trông thấy thì lòng riêng riêng hiểu, mà đầu mày cuối mắt, đôi bên để ý cùng nhau. Về sau mỗi khi Tống Giang đi vắng, thì Trương Tam lại giả vờ đến gọi Tống Giang; rồi Tích Bà lại mời giữ vào chơi nói chuyện, lâu la sớm mận tối đào, mà mưa Sở mây Tần, không bao lâu đã được phỉ lòng sở ước.
Dần dà từ đó tấm lòng yêu thương của Tích Bà đối với Trương Tam càng ngày càng đằm thắm. Mà không coi Tống Giang vào đâu. Một đôi khi Tống Giang có về đến nhà, thì Tích Bà lại gây chuyện nọ kia, mà không có chút gì gọi là tình ân ái. Tống Giang tuy thế mặc lòng, cũng không hề lấy mỹ sắc làm quan tâm, năm chừng mười họa, mươi bữa nửa tháng mới trở về phòng nghỉ một lần, vì thế cái dây thân ái của Trương Tam cùng với Tích Bà càng ngày càng thêm khắng khít, làm cho phố phường ai ai cũng biết.
Sau Tống Giang cũng nghe tin phảng phất như vậy, nhưng cũng hồ đồ bán tín bán nghi, vả trong bụng lại tự nghĩ rằng:”Người ấy không phải là một người vợ cái con cột, không có lệnh cha mẹ cưới xin gì mà phải quan tâm cho lắm. Nếu nó không có lòng trung thành với mình, thì cũng mặc thây nó cho rảnh, can chi nói đến thêm phiền!”.
Nhân thế có khi tới mấy tháng trời, Tống Giang cũng không hề qua nhà một lần nào nữa. Thỉnh thoảng Diêm Bà có cho người đi mời, thì Tống Giang lại từ chối là bận việc không về nhà được.
Có một hôm kia, vào buổi chiều, Tống Giang ở trong huyện đi ra hàng nước ở đối cửa để ngồi uống nước, chợt thấy một đại hán đầu đội nón chiên, mình mặc áo lá đen, dưới chân quấn là đáp, đi giày gai, lưng dắt thanh đao, vai vác khăn gói lớn, mồ hôi nhễ nhại, hơi thở hồng hộc, đứng quay mặt vào huyện để nom rồi lại đi.
Tống Giang thấy vậy, lấy làm nghi hoặc, liền đứng dậy đi theo đại hán để xem. Vừa đi được vài bước thì đại hán ấy quay lại nhìn Tống Giang mà nét mặt hơi có ý ngờ ngợ. Tống Giang nhìn kỹ nét mặt người kia, thì thấy dáng cũng hơi quen, nhưng có điều gặp ở đâu từ bao giờ không nhớ. Anh chàng kia cứ đứng nhìn mãi Tống Giang, có ý băn khoăn mà không dám hỏi. Tống Giang nghĩ thầm trong bụng: Anh này thật quái lạ, cứ nhìn ta chằm chặp là lý gì? Chàng nghĩ vậy, nhưng không dám cất lời hỏi trước.
Bấy giờ anh chàng đại hán kia chạy vào hỏi một nhà hàng lượt ở gần đấy rằng:
– Ông Áp Ty kia là ai đấy?
Nhà hàng đáp:
– Ông ấy là Tống Áp Ty đấy.
Anh kia nghe lời nói, rồi cảm ơn cắp đao chạy ra trước mặt Tống Giang chào một tiếng rất to mà hỏi rằng:
– Áp Ty có nhận được tiểu đệ chăng?
Tống Giang đáp:
– Tôi nom ngài quen mặt lắm thì phải!
Người kia nói:
– Xin mời Áp Ty đi mấy bước lại đây ta nói chuyện.
Tống Giang theo người kia vào một cái ngõ hẻm vắng vẻ, rồi đến một tửu điếm ở đấy, người kia bảo với Tống Giang rằng:
– Xin ngài vào đây nói chuyện tốt hơn.
Nói đoạn hai người cùng vào tửu điếm, lên trên gác chọn chỗ bàn ghế sạch để ngồi. Người kia mở khăn gói để xuống dưới gầm bàn đựng dao vào một chỗ, rồi đến trước mặt Tống Giang thụp lạy.
Tống Giang vội vàng đáp lễ lại rồi bảo rằng:
– Chẳng hay ngài là ai, tôi không rõ.
– Ân nhân quên tiểu đệ rồi hay sao?
– Tôi trông ngài thì quen lắm, nhưng không nhớ ra là ai, xin tha lỗi cho.
– Tiểu đệ chính là Xích Phát Quỹ Lưu Đường, đã được bái yết ngài một lần, ở nhà Tiều Bảo Chính, mà ngài đã rộng lòng cứu vớt cho đây…
Tống Giang nghe nói cả kinh mà rằng:
– Hiền đệ to gan thế? Lỡ ra bọn thám tử dò biết thì có khốn không?
– Vì chúng tôi mang ơn rất lớn, nên không dám quản ngại sự chết mà đến đây để bái yết ngài.
– Thế nào, các ông Tiều Bảo Chính cận lai ra sao?… ai bảo hiền đệ đến đây như thế?
– Bẩm, Tiều Ca Ca tôi rất cảm tạ ơn ngài đã cứu thoát được toàn tính mạng, hiện nay làm chúa Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, có Ngô Học Cứu làm quân sư, Công Tôn Thắng giữ binh quyền, còn Lâm Xung phò tá đã giết Vương Luân ở đó, và mấy người nguyên trước ở sơn trại đó, là Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu Quý, cũng đều thần phục bảy anh em chúng tôi, tất cả là 11 người Đầu Lĩnh, lâu la bảy tám trăm người, lương thực không biết đâu mà kể. Nhân thế sai Lưu Đường tôi mang cho một phong thư, và trăm lạng vàng đến đây để tạ Áp Ty, và tạ ơn Chu Đô Đầu một thể.
Lưu Đường nói xong, giở gói hành lý lấy ra một bức thư, và trăm lạng vàng đưa choi Tống Giang. Tống Giang bóc thư xem xong, lấy một lạng vàng và bức thư bỏ vào túi văn thư, ở phía trong áo, rồi bảo với Lưu Đường rằng:
– Còn số tiền này hiền đệ bọc lại mang về, tôi không dùng đến.
Nói xong quay ra gọi tửu bảo dọn rượu, và các thức nhắm lên, rồi sai tửu bảo đứng rót rượu mời Lưu Đường uống. Được một lát mặt trời đã xế, tên tửu bảo đi xuống dưới nhà, Lưu Đường lại toan lấy tiền đưa cho Tống Giang.
Tống Giang gạt đi mà rằng:
– Hiền đệ nghe tôi nói: Bảy anh em các bác mới đến sơn trại đương cần tiền bạc để tiêu, và tôi đây trong nhà cũng đủ chi dùng, vậy tôi xin gửi lại ở đấy, rồi khi nào cùng túng, sẽ xin đến lấy về tiêu. Còn như Chu Đồng thì nhà ông ta cũng phong lưu, bất tất phải đưa đến nữa, để tôi nói qua cho ông ta biết cũng xong, như thế không phải là có ý rẻ rúng chê bai đâu? Hôm nay cũng không dám lưu hiền đệ lại chơi nhà, vì lỡ ra bọn thám tử biết được thì xảy chuyện to ngay. Vậy xin đêm nay trời quan mây tạnh, hiền đệ nên mau gót trở về, nói với các vị Đầu Lĩnh rằng: Tôi vì bận việc, không đến mừng được, xin thứ tội cho.
Lưu Đường nói:
– Đại ân của ngài chúng tôi không biết lấy gì báo đáp được, vậy gọi là cho tôi đem chút lễ mọn, đưa đến Áp Ty để tỏ lòng thành kính của anh em. Đây là Đại Đầu Lĩnh Chính Ca Ca, và quân sư Ngô Học Cứu, đã xuống lệnh cho tôi, không phải như chuyện ngày thường, nếu tôi đem về, thì tất là bị phạt chứ không chơi, vậy xin Áp Ty chớ nên từ chối nữa.
– Nếu phải hiệu lệnh nghiêm minh, vậy tôi viết phong thư cho hiền đệ mang về là xong.
Lưu Đường lại hết sức nói, Tống Giang nhất định không thu nhận, rồi gọi mượn bút mực của nhà hàng, và lấy một tờ giấy viết phong thư cẩn thận để giao cho Lưu Đường.
Lưu Đường là người tính trực, thấy Tống Giang một mực thoái thác như thế, thì cũng không làm sao được, liền chịu phép gói vàng và bỏ cả phong thư vào bao cẩn thận, rồi nói với Tống Giang rằng:
– Vâng, Áp Ty đã dạy thế thì tiểu đệ xin trở về sơn trại ngay bây giờ.
Tống Giang nói:
– Hiền đệ biết lòng cho, tôi không kịp lưu hiền đệ ở lâu đây được.
Lưu Đường liền lạy tạ Tống Giang bốn lạy rồi sửa soạn ra đi. Tống Giang gọi tửu bảo lên gác mà dặn rằng:
– Ông khách có lưu hai lạng bạc đây, để sáng mai rồi ta sẽ đến tính.
Nói xong cả hai cùng xuống lầu đi ra ngoài tửu điếm. Bây giờ đương giữa tháng tám, trời im mây tạnh, trăng sáng trên không, hai người đưa nhau ra đến đầu ngõ phố, rồi Tống Giang cầm tay Lưu Đường mà dặn rằng:
– Hiền đệ hãy nên cẩn thận, chớ có đến đây nữa, ở đây bọn thám tử rất nhiều, không phải là chuyện chơi đâu! Thôi xin chào hiền đệ trở về cho bình yên.
Nói đoạn bái biệt mà chia tay đôi ngả, Lưu Đường nhân được trời thanh bóng sáng, liền trở gót mau mau trở về sơn trại.
Bấy giờ Tống Giang lững thững vừa đi vừa nghĩ; Gớm thay cho bọn họ to gan, ngộ lỡ đám công sai biết, thì nguy xiết bao! Lại nghĩ đến chuyện Tiều Cái dám bỏ nhà đi làm cái nghề lạc thảo như thế, thì trong bụng càng ra dáng mà nghĩ ngợi một mình.
Chợt có tiếng đằng sau gọi:
– Áp Ty đi đâu đấy? Sao mấy hôm không thấy Áp Ty đâu cả?
Tống Giang nghe tiếng liền giật mình quay lại xem ai…Cho hay là:
Giang hồ nghĩa nặng tri âm,
Hỏi chi tài mệnh thăng trầm về sau.
Non cao nước vẫn còn sâu,
Thân này xoay với bể dâu còn dài.
Đất đâu lấp được miệng đời,
Vàng đâu mua chuộc được người thủy chung?
Ai lên nhắn hỏi trời công,
Làm chi đem thói má hồng trêu ngươi?
Tức gan đến lúc căm trời,
Gươm kia hồ dễ tha đời được sao!
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Sách này nhiều chỗ bút lực hơn người, thường thường ở lúc hai hồi giáp nhau, đều là một việc, mà thấy khác đi, không một nét bút nào mà phạm đến, như hồi trên vừa tả Hà Đào, hồi này lại tiếp tả Hoàng An vậy. Thấy rằng một phen trước đã khua sông động bể, đến phen này lại động bể khua sông, thực là một dạng tài tình, một dạng thế bút, độc giả hãy nhận xét kỹ càng cho thấy, không một câu một chữ giống nhau, điều đó có lạ gì đâu? Tác giả đã khéo xếp đặt tự trong lòng, như vẽ ra hai cây trúc vậy. Thì cây trúc nào chẳng có cành, có lá có dóng dốt như nhau, khi vẽ ra hai cây trúc đứng song đôi, rất giống nhau mà rất khác nhau xa vậy.
Sách này đã một hồi tả Hà Đào chia làm hai phen, tả Hoàng An chỉ một phen. Hà Đào hai phen tiền với hậu, Hoàng An một phen lại chia tả va øhữu. Hà Đào hai phen Thủy chiến và Hỏa công. Hoàng An cũng hai phen vừa mô tả lại vừa thực họa, nên nhiều điểm sai biệt, cũng là một hồ nước ấy, cũng là một bãi lau này, cũng những tay hão hán ấy, cũng những đám binh quan này sự cách quãng đã phân biệt, mà ý tứ chẳng như nhau thấy rằng đem ngàn vàng ra để cầu lấy một nét bút phạm vào nhau, không thấy chút nào giống cả, văn tả đến thế mới thấy càng diễn ra càng thấy ly kỳ.
Một đoạn văn Tống Giang với Bà Tích, ngòi bút của tác giả đặt ra, để cho Tống Giang có chuyện, nên phải nảy ra một sự Tống Giang giết người, vì muốn Tống Giang có sự giết người, thì phải thêm chuyện Bà Tích, vì có chuyện Bà Tích duyên kiếp, thì phải sinh ra sự Vương Bà xin áo quan. Cho nên từ sau khi Vương Bà xin áo quan, cách sau dăm tờ lại có chuyện Vương Ông xin áo quan, chẳng qua đưa lại cho hồi sau Tống Giang bị phạm tội trốn đi, đó là chính là khế tử, độc giả thấy lúc trước cho áo quan, đến sau lại cho áo quan, đầu thì Vương Bà, cuối đến Vương Ông, thấy tác giả như vảy mực ra đùa, thêm ly kỳ câu chuyện.
Bấy giờ Tống Giang thấy có tiếng người, liền đứng dừng chân lại, thấy Diêm Bà chạy lật đật đến mà nói rằng:
– Mấy hôm nay tôi cho người mời không thấy Áp Ty đâu cả, con bé nhà tôi nó ngu dại không biết gì, lỡ có điều xúc phạm đến Áp Ty, xin ngài hãy nể lòng tôi mà bỏ qua đi cho, rồi tôi sẽ bắt nó nói lại với ngài. Hôm nay được gặp đây, thể nào cũng xin đón về nhà một lúc.
Tống Giang nghe nói đáp rằng:
– Hôm nay trong huyện bận rộn lắm không thể nào về đó được, xin để khi khác vậy.
– Không được, con bé cháu nó đợi ở nhà, thế nào cũng mời Áp Ty chạy qua về một lát, sao Áp Ty lại nỡ lòng như thế?
– Tôi bận lắm thực, để ngày mai tôi về đó.
Diêm Bà nhất quyết rằng:
– Làm thế nào thì hôm nay cũng phải mời Áp Ty cho kỳ được.
Nói đoạn lại níu lấy áo Tống Giang mà rằng:
– Ai đã xúi Áp Ty thế? Con bé nhà tôi suốt một đời nó phải trông cậy vào Áp Ty cả, Áp Ty nên phải tự mình chủ trương lấy, chứ nghe người ta nói nhảm làm chi! Nếu nó có điều gì không phải, xin Áp Ty cứ chắc ở tôi đây mới được. Thôi xin mời Áp Ty về qua đây một lúc.
Áp Ty đáp rằng:
– Bà không nên gàn trở tôi, tôi còn bận nhiều việc quan trọng không thể dứt ra được!
– Việc quan thì dẫu Áp Ty có chậm trễ một đôi chút, quan Huyện cũng chả trách nào, duy tôi hôm nay nếu để cho Áp Ty đi, thì khó lòng được gặp nữa! Xin mời Áp Ty đi với tôi, về đó sẽ nói chuyện.
Tống Giang vốn là người nhanh nhẹn dễ dàng, nay bị Diêm Bà rầy rà như thế, thì không thể nào từ chối được, liền bảo Diêm Bà rằng:
– Nếu vậy cứ buông áo ra để tôi đi.
Diêm Bà nói:
– Chỉ sợ Áp Ty không về đó, thì tôi biết đâu mà theo kịp?
– Có khi nào thế, tôi đã nói là đi chứ gì?
Nghe đoạn Diêm Bà buông áo Tống Giang ra, rồi cùng đi về. Khi tới nhà Tống Giang đứng dừng ở ngoài. Diêm Bà đẩy cửa vào mà nói rằng:
– Áp Ty đã về tới đây, có lẽ lại không vào nhà hay sao?
Tống Giang nghe nói bất đắc dĩ bước lững thững đi vào trong nhà, đến một chỗ ghế ngồi xuống đó. Diêm Bà sợ Tống Giang lại chạy trốn, liền quay bên cạnh để ngồi, rồi gọi lên rằng:
– Con ơi! Người tâm ái của con là Tam Lang đã về đây.
Bấy giờ Bà Tích đương nằm ở giường trên gác, một mình nghĩ ngợi vẩn vơ bên đôi ngọn đèn chong mà đợi Trương Tam đến. Chợt nghe tiếng mẹ gọi như vậy, thì trong bụng đoán chắc Trương Tam ở đó, liền vội vàng ngồi dậy vuốt ve đường tóc, rồi nói lảm nhảm rằng:
– Đồ chết toi, làm cho người ta đợi khổ! Bà lại cho mấy cái bạt tai cho đáng kiếp!
Nàng vừa nói vừa đi tất tả xuống thang. Dè đâu đi đến chấn song ngó cổ xuống nom thấy ngọn đèn pha lê chiếu sáng, Tống Giang đương cùng Diêm Bà ngồi đó, nàng liền quay ngoắt trở lên, mà nằm vật xuống giường như cũ.
Bà Tích nằm trên giường nói với xuống rằng:
– Nhà này có xa gì mà người ta không lên đến đây? Người ta cũng chẳng mù chột gì mà phải đợi tôi đón lên mới được? Cần chi phải khẩn khoản như thế?
Diêm Bà nghe vậy mắng con rằng:
– Con ranh, nó không biết Áp Ty đến đây lại còn nói láo nói hỗn ở đây, để Áp Ty lại thêm phiền lòng.
Nói xong lại cười bảo Tống Giang rằng:
– Tôi với Áp Ty ta cùng lên gác vậy.
Khi Tống Giang nghe thấy những lời Bà Tích nói, thì trong lòng đã khó chịu rồi, không còn muốn lưu lại một chút nào, sau vì bà lão lôi kéo, nên cũng phải miễn cưỡng mà cùng lên gác.
Cái nhà ấy nguyên có mấy gian gác lục lăng, ngăn nửa ngoài kê làm chỗ ngồi chơi, còn nửa trong làm phòng ngủ, kê một bộ giường bình khung hai đầu đều có chấn song, trên treo một bức màn là đỏ, cạnh đầu giường có cái mắc để vắt khăn mặt, một bên để cái chậu thau một cái khăn bao, và một bên kê một cái bàn con sơn vàng, trên để cây đèn bằng thiếc. Hai bên góc tường kê hai cái ghế, trên vách trước mặt treo một bức tranh, đối diện giường kê bốn cái ghế ghép hàng chữ nhất đều nhau.
Khi Tống Giang lên gác, Diêm Bà liền kéo vào trong phòng, rồi Tống Giang ngồi vào một cái ghế ở góc nhà, mà quay mặt vào phía giường.
Diêm Bà lại vào giường dựng người con gái dậy mà bảo rằng:
– Áp Ty đã đến kia, con ơi! Sao tính nết con hư thế, cứ nói nọ nói kia, để Áp Ty giận không về đến đây nữa! Lúc không thì lại ngồi nhà mà lo nghĩ, bây giờ ta đã khó khăn mời được Áp Ty về đây, sao con không ngồi dậy nói chuyện, lại còn giở những thói ấy làm chi?
Bà Tích cầm tay mẹ đẩy ra mà nói rằng:
– Bà làm gì mà phải rối lên, tôi có tội gì chưa? Người ta không thèm về đến đây, thì bảo tôi nói chuyện làm sao?
Tống Giang nghe vậy cứ ngồi lặng yên.
Diêm Bà lại kéo cái ghế chéo kê liền cạnh Tống Giang, rồi kéo con gái đến đó mà bảo rằng:
– Con hãy đến đây ngồi với Tam Lang một lúc vậy, không nói chuyện thì thôi, không việc gì phải thế!
Bà Tích không chịu ngồi bên cạnh, liền đến một cái ghế đối diện Tống Giang để ngồi, Tống Giang ngồi cúi đầu xuống, mà không nói năng gì cả.
Diêm Bà trông thấy người con gái bấy giờ, có vẻ khác nét mặt, liền nói lên rằng:
– Không tửu không tương, sao thành đạo trường, lão có một bình rượu ở kia, để lấy thêm một ít hoa quả ra đây, rồi sẽ nói chuyện với Áp Ty, con cứ ngồi với Áp Ty một lúc, có việc gì mà thẹn, ta đến đây ngay bây giờ.
Tống Giang thấy vậy, thì nghĩ lẩm nhẩm một mình rằng:”Cái con mụ già này thực là vô lý, đem nhốt ngay mình vào đây, mà không còn thoát ra được nữa. Để con mụ ấy đi xuống gác, ta sẽ xuống sau mà đi quách cho rảnh”.
Diêm Bà thấy Tống Giang có ý hơi khác, liền quay trở ra, rồi cài trái cửa ngoài đi. Tống Giang thấy vậy, biết rằng Diêm Bà hiểu mình muốn tháo, nên mới phòng bị như thế, thì lại lấy làm băn khoăn khó chịu.
Khi bấy giờ Diêm Bà xuống dưới gác, vào trong bếp thắp đèn lên, thấy có nồi nước đã bắc sẵn đó, liền dóm củi lên đun, rồi lấy một ít tiền lẻ chạy tháo ra ngoài phố mua một vài thứ hoa quả cùng là thịt gà, cá tươi đem về bày vào mâm tử tế, rồi lấy rượu để vào nồi hâm nóng rót vào hồ, bày thêm các thứ rau và ba đôi đũa, ba cái chén vào mâm, mà bưng lên gác dặt ở ngoài phòng. Đoạn rồi mở cửa đem vào phòng trong, bày la liệt trên cái bàn sơn. Khi ấy trông đến Tống Giang thì vẫn cúi đầu xuống mà lặng yên, còn Bà Tích thí lại quay đi nơi khác. Diêm Bà liền nói rằng:
– Con đứng dậy ra đây, mời chén rượu đi con.
Bà Tích đáp rằng:
– Các ngươi cứ uống đi tôi không phiền thế.
Diêm Bà lại khuyên rằng:
– Cha mẹ đã biết tính con thủa bé rồi, nhưng đối với ai, chứ với Tam Lang thì con không nên như thế mới được.
Bà Tích lại đáp luôn rằng:
– Tôi không muốn mời rượu, thì không mời rượu, chẳng lẽ phi kiếm lấy đầu tôi hay sao?
Diêm Bà cười rằng:
– Đành thế, ta lại cũng không trách, nhưng Áp Ty là người phong lưu nhân vật, không có bụng gì bao giờ. Con không mời rượu thì thôi, hãy cứ quay lại uống vài chén vậy.
Bà Tích cứ lặng yên không quay mặt trở lại, Diêm Bà rót rượu ra rồi cầm chén đũa mời. Tống Giang bất đắc dĩ phải uống một chén gượng gạo. Diêm Bà cười mà nói với Tống Giang rằng:
– Áp Ty đừng nên trách, những chuyện lôi thôi rắc rối, để mai xin kể rõ Áp Ty nghe, người ngoài họ thấy Áp Ty ở đây cho nên có vài kẻ nóng lòng sốt ruột, đặt điều ra giọng nọ kia, xin Áp Ty chớ để vào tai, Áp Ty hãy cứ uống rượu đi cho.
Nói xong lại rót ba chén rượu nữa, để lên trên bàn rồi bảo với con gái rằng:
– Sao con tính khí trẻ con thế? Hãy quay lại đây uống qua loa một chén đã sao?
Bà Tích nói:
– Việc gì cứ rầy rà đến tôi, tôi no rồi, không thể nào uống rượu được nữa…
Diêm Bà khuyên rằng:
– Con quay lại tiếp Tam Lang vài chén có được không?
Bà Tích nghe nói liền nghĩ thầm trong bụng rằng:
– “Ta đây còn bận nhớ Trương Tam, ai hơi đâu mà tiếp rượu với hắn được. Nhưng nếu không đổ cho hắn say, thì tất là họ còn nhiễu mãi, âu là ta miễn cưỡng cho êm câu chuyện đi là xong”. Nghĩ đoạn bất đắc dĩ cầm lấy chén rượu uống một nửa.
Diêm Bà thấy vậy cười rằng:
– Con cứ buồn bã mãi, hãy cứ chén tràn đi vài chén, sẽ ngủ có được không? Áp Ty ngồi xơi luôn đi cho vui?
Tống Giang bị Diêm Bà mời chào khan vãn, lại phải uống luôn dăm ba chén nữa. Diêm Bà cũng uống mấy chén rồi lại chạy xuống dưới nhà để hâm rượu. Bây giờ Diêm Bà thấy con gái đã quay lại tiếp rượu với Tống Giang, thì trong bụng lấy làm hớn hở mà nói một mình rằng:
– “Nếu đêm nay giữ được lão ấy ở đây, thì tất là hắn quên cả những điều giận dữ, bấy giờ ta lại bám vào hắn một dạo đã, rồi lại liệu về sau”. Mụ vừa nghĩ vừa lấy làm thích, liền đứng ở trước bếp rót ngay ba chén lớn mà uống luôn mấy hớp.
Khi đó nghe trong mình đã phảng phất có hơi rượu, liền rót luôn một chén nữa để uống hết một nữa, còn một nửa lại đổ cho vào bình, mà mang lên gác. Khi lên tới gác, thấy Tống Giang lại cúi đầu ngồi yên, mà con gái lại quay mắt đi nơi khác. Diêm Bà liền cười mà bảo rằng:
– Làm sao mà hai người như bụi đất cả, không ai nói năng gì thế? Áp Ty ơi! Mình là người đàn ông, cũng phải nói dăm ba câu chuyện cho khuây khỏa dần dần đi mới được…
Tống Giang đương phân vân trong bụng, thấy Diêm Bà nói, thì cũng lặng yên, không nói sao cả, Diêm Bà nghĩ thầm trong bụng rằng:
– Anh chàng này không biết gì cả, cứ cho như mọi ngày mình nói chuyện đùa vậy. Hôm nay ta có phải là chuyện đùa đâu?
Bụng nghĩ vậy, liền nói ngang nói dọc, nói ngược nói xuôi, không còn thiếu câu gì.
Ở huyện Vận Thành có một anh bán hàng những đồ ướp là Đường Ngưu Nhị, vẫn thường gọi là Đường Nhị Ca, xưa nay hay quanh quẩn ở phố xá, mà thỉnh thoảng được Tống Giang cấp đỡ giúp cho. Đôi khi có việc quan việc tư gì đi báo Tống Giang, thì lại kiếm được một vài quan tiền để tiêu. Mỗi khi Tống Giang có sai việc gì, thì cố sống cố chết để làm, không hề nề quản. Hôm ấy Đường Ngưu Nhị đương bị thua bạc trần trụi, không biết xoay sở vào đâu, liền chạy đến huyện tìm Tống Giang để cầu cứu.
Bất đồ đi tới huyện, thì không thấy Tống Giang đâu, liền vội vàng quay ra phố để đi tìm. Khi ra phố mọi người quen biết đều hỏi rằng:
– Đường Nhị Ca đi tìm ai mà chạy vội vàng như thế?
Đường Ngưu Nhị nói:
– Tôi đương có việc cần cấp, phải đi tìm cô lão nhưng không thấy đâu cả.
– Cô lão là ai?
– Ấy là ông Tống Áp Ty ở huyện này chứ ai?
Chúng liền bảo Đường Ngưu Nhị rằng:
– Chúng tôi vừa thấy ông ta cùng Diêm Bà mới đi qua đây xong.
Đường Ngưu Nhị nghe nói, trong bụng nghĩ thầm rằng:
– “Phải rồi, con thối thây Bà Tích này, nó vẫn tư thông với Trương Tam, dấu diếm không cho Tống Áp Ty biết, tiếng như vậy, cho nên lâu nay không về tới đó, thế mà hôm nay sao còn lần mò đến làm chi. Cái này chắc là bị con sọm già vờ vĩnh bám lấy thôi chứ gì? Hôm nay ta đương quẫn bách, bất nhược đến đấy tảo mấy quan tiền, đi chén vài chén rượu chơi”. Nghĩ đoạn đi đến thẳng nhà Diêm Bà thấy bên trong vẫn còn đèn sáng mà cửa lại không đóng, liền lật đật chạy vào đến thang giá. Khi đến chân thang đã nghe thấy tiếng Diêm Bà đương cười ha hả trên gác, chàng ta liền lẻn bước đi lên ghé vào khe gác dòm thấy Tống Giang cùng Bà Tích đều cúi đầu ngồi im, còn Diêm Bà thì đương ngồi cái ghế ở đầu bàn mà miệng nói thiên hô bát sát không dứt lúc nào. Đường Ngưu Nhị biết vậy, lẻn tót vào cúi chào ba người, rồi đứng vào một bên. Tống Giang thấy hắn đến lấy làm dễ chịu, liền liếc mắt bảo cho Đường Ngưu Nhị biết ý, để thoái thoát mời đi. Đường Ngưu Nhị vốn tay ranh vặt, thấy vậy thì hiểu ý ngay, liền nói với Tống Giang rằng:
– Tôi đi tìm ngài mãi không thấy, ngờ đâu ngài ngồi uống rượu ở đây, ngài có thấy sốt ruột gì không?
Tống Giang hỏi:
– Chẳng hay trong huyện có việc gì cần đấy?
Đường Ngưu Nhị nói:
– Áp Ty quên rồi hay sao? Cái việc lúc nãy, quan Huyện hiện đương cho bốn năm người lính đi tìm ngài mãi, nhưng mà không thấy ở đâu cả. Quan Huyện đương gắt ầm lên đấy, Áp Ty phải đứng dậy đi ngay mới được.
Tống Giang làm bộ hoảng hốt mà rằng:
– Nếu cần vậy, thì ta phải đi ngay mới được.
Nói đoạn đứng dậy toan đi xuống gác, Diêm Bà nắm giữ lại mà rằng:
– Áp Ty không nên thế… Gớm thực! Đường Ngưu Nhị, ngươi lại đến đây lòe lão à? Đừng múa rìu qua mắt thợ thế nữa? Bây giờ quan Huyện còn ở trong nhà uống rượu vui đùa với vợ con, chứ công việc nào bây giờ. Ngươi nói với ai chứ, với ta đây thì không khi nào ta mắc lừa đâu?
Đường Ngưu Nhị nói:
– Có việc cần, quan Huyện đòi thực, chứ tôi đây nói dối làm gì?
– Thôi đừng láo, hai mắt lão nương đây gọi là sáng suốt hơn pha lê đấy, vừa rồi Áp Ty đưa mắt bảo ngươi, ta lại không biết hay sao? Người ta thường nói:”Giết người còn tha được, chứ gian ý thì dung sao được? “.
– Mầy phá đường lối kiếm ăn của ta, thì có khác gì giết bố mẹ vợ con người ta không? Lại còn to mồm gì, hở thằng nhãi con kia! Bà đánh một chập bây giờ.
Đường Ngưu Nhị sấn vào mà rằng:
– Đây bà đánh đi.
Diêm Bà lại đương lúc chếch choáng hơi men, liền giơ tay tát cho Đường Ngưu Nhị một cái, rồi đẩy mạnh ra ngòai cửa, đóng chặt cửa lại mà miệng thì mắng nhiếc lảm nhảm không thôi.
Đường Ngưu Nhị phải một cái tát, tức giận vô cùng đứng ngoài cửa mà kêu lên rằng:
– Con khỉ già mầy liệu hồn, hôm nay không có Áp Ty ở đây, thì gọi là tan nát cửa nhà với ta. Không nay thì mai, nếu ta không kết quả được mầy, thì ta không là thằng họ Đường nữa!
Chàng ta hăm hở vỗ bụng vỗ tay nói chán một lúc rồi đi.
Bấy giờ Diêm Bà lên gác bảo với Tống Giang rằng:
– Áp Ty ôi! Rõ là vô sự, thì dung túng những đứa ấy làm chi? Nó là một thằng chè rượu loang toàng, đi đến đâu là nói quàng nói xiên, ai còn không biết. Những đồ qủy sống ấy, thì cho nó đến cửa đến nhà làm gì cho thêm bận!
Tống Giang vốn là người chân thực xưa nay, cho nên thấy mụ nói trúng vào bệnh của mình, thì ngồi ngây người ra, mà không nói được câu nào nữa.
Diêm Bà lại nói rằng:
– Xin Áp Ty đừng trách tôi, tôi có trọng Áp Ty thì mới thế. Đã lâu con gái tôi với Áp Ty không gặp nhau, hôm nay uống rượu xong chắc lá phải đi nghỉ sớm mới được. Để tôi dọn dẹp đi thôi.
Nói xong mời Tống Giang uống thêm mấy chén rượu nữa, rồi vội vàng thu dọn mà đi xuống bếp. Tống Giang ngồi trên gác nghĩ chuyện Bà Tích đối với Trương Tam, dẫu có tiếng đồn như vậy, nhưng mắt mình chưa nom thấy, cũng không chắc rằng có thực hay không? Vả chăng đêm cũng hơi khuya, đi đâu cũng không tiện, chàng liền định kế nằm tạm ở đó, để xem người đàn bà kia xử trí ra sao? Chợt đâu lại thấy Diêm Bà ở dưới nhà chạy lên mà nói rằng:
– Đêm đã khuya rồi, hai người đi nghỉ đi kẻo muộn.
– Áp Ty đi xuống bếp, dọn xong rồi rửa chân rửa tay, mà tắt đèn đi ngủ.
Bấy giờ Tống Giang ngồi ở trên gác, liếc mắt trông Bà Tích rồi lại thở dài, mà không nói gì cả. Được một lát, Bà Tích để nguyên quần áo trèo lên giường tựa vào gối thêu, rồi quay mặt vào trong vách mà ngủ.
Tống Giang thấy vậy nghĩ thầm rằng:”Con bé này lạ thực, nó bỏ mình đây rồi vào ngủ trước là nghĩa lý gì? Hôm nay mình bị con mụ già dắt về đây, bắt uống rượu uống chè, rồi lại nói ngon nói ngọt, làm cho mình thêm khó nghĩ trong lòng. Thôi bây giờ đêm đã khuya rồi, cũng đành phải đi ngủ vậy chứ, còn biết sao giờ? “.
Chàng nghĩ vậy liền bỏ khăn lên bàn, cởi xiêm áo ngoài vắt lên trên giá, treo thắt lưng, dao túi cùng văn thư lên chỗ chắn song ở trên giường, rồi cởi bỏ giầy ra nằm ở phía sau Bà Tích.
Nằm một lát vào khoảng nửa canh hai, Bà Tích vẫn nằm quay mặt mà còn cười nhạt một mình, Tống Giang thấy vậy, trong lòng càng buồn bực khó chịu không sao ngủ được.
Đêm vui nào được bao lâu
Đêm buồn mong trước mong sau càng dài.
Lạ cho là giống trên đời,
Xưa nay gươm phấn giết người bao phen!
Tống Giang nằm nghĩ vơ vẩn dần dần sang trống canh ba, hồi lâu lại sang trống canh tư, lại cho sang đến canh năm, mà cũng không sao nhắm mắt cho yên. Chàng bèn trở dậy đến thau nước rửa mặt, đội khăn mặc áo chỉnh tề, rồi lẩm bẩm mắng rằng:
– Giống hèn hạ, nó vô lễ thực!
Bấy giờ Bà Tích cũng còn thức, nghe thấy tiếng Tống Giang mắng, thì quay mặt ra mà nói rằng:
– Người thế mà không biết dơ…
Tống Giang nghe nói, thì trong lòng càng lấy làm khó chịu, đành phải nín lặng quay ra đi xuống thang gác.
Diêm Bà nghe thấy tiếng người ở trên gác đi xuống, thì vội vàng trở dậy mà nói rằng:
– Áp Ty hãy ngủ một lúc nữa, trời sáng sẽ dậy có được không, có việc gì mà phải dậy từ canh năm như vậy?
Tống Giang nghe hỏi, cứ lặng yên mở cửa ra đi.
Diêm Bà lại nói luôn rằng:
– Áp Ty đi rồi, khép cửa lại cho tôi nhé!
Tống Giang lại lùi lũi đi ra và khép vào tử tế, rồi trong bụng vừa tức bực buồn cười, lững thững bước ra đi.
Khi gần tới cửa huyện thấy có một ngọn đèn con lấp ló ở đó, Tống Giang liền dấn bước đến nơi, thì thấy lão Vương Công là anh hàng thang đã ra chợ sớm ở trước cửa huyện để bán. Lão ta trông thấy Tống Giang đi đến liền hỏi ngay rằng:
– Áp Ty đi đâu mà sớm thế?
– Đêm qua say rượu nghe lầm tiếng trống canh dậy sớm quá.
– Nếu vậy Áp Ty uống nhiều rượu quá, xin ngài xơi một bát thang nhị trần cho giải rượu.
– Tốt lắm, đem đây tôi ăn một bát.
Tống Giang nói xong chạy đến ghế để ngồi, Vương Công múc một bát thang nhị trần, đương nóng nghi ngút đưa lên cho Tống Giang.
Tống Giang ăn xong chợt nhớ đến:”Mọi khi thỉnh thoảng vẫn ăn thang của lão này, lão ta không chịu lấy tiền. Bởi thế ta có hứa cho lão cỗ áo quan, mà vẫn chưa cho được. Nay nhân tiện có món tiền của Tiều Cái đưa cho đây, âu là đãi hắn ta một số tiền mua quan tài, thì chắc là lão ta thú lắm!”.
Nghĩ đoạn liền bảo Vương Công rằng:
– Mọi hôm tôi vẫn hứa cho lão cỗ quan tài mà chưa cho được, nay nhân có tiền đây, tôi đưa cho lão, để lão ra nhà Trần Tam Lang mua lấy một cỗ áo quan; đem về để sẵn ở nhà, phòng khi trăm tuổi về sau, đỡ phải lo phiền việc ấy nữa.
Vương Công nói:
– Ân chủ ngài vẫn có lòng giúp đỡ cho lão tôi nhiều, nay lại cho tiền để lo hậu sự như thế, kiếp này lão tôi không báo đáp được, thì kiếp sau xin làm thân trâu ngựa để đền ơn.
Tống Giang cười rằng:
– Có làm chi cái đó, mà phải nói ơn.
Nói đoạn sờ tay vào trong áo để lấy túi giấy và tiền, thì bỗng kinh ngạc mà nghĩ thầm rằng:”Khổ chưa! Túi văn thư lại bỏ quên ở giường con khỉ ấy rồi, mình vội nóng đứng dậy, đi không nhớ đến.. Mấy lạng vàng thì chẳng làm chi, nhưng còn bức thư của Tiều Cái, đã định đốt ngay trước mặt Lưu Đường ở trong hàng rượu nhưng nghĩ thế không tiện nên hãy tạm để vào đấy, rồi sẽ đốt sau. Ai ngờ lại bị con mụ già nó bắt mình lôi thôi đến đó, con ranh nó lại võ vẽ biết năm ba chữ, ngộ lỡ nó xem ra thì có nguy không? “. Chàng nghĩ vậy liền đứng dậy bảo Vương Công rằng:
– Ông lão ơi! Tôi quên mất rồi, vẫn tưởng tiền để trong túi đây, sai ngờ bỏ quên mất ở nhà rồi. Lão hãy yên tâm, để tôi về lấy, rồi sẽ đem ra đây cho lão ngay lập tức. Vương Công cười đáp rằng:
– Thôi, Áp Ty cần gì phải lấy, để hôm nào Áp Ty cho tôi cũng được chứ sao?
Tống Giang nói rằng:
– Tôi còn có việc cần ở đây cũng không nên, phải về lấy ngay mới được.
Nói xong lật dật chạy về nhà Bà Tích, Bà Tích từ lúc Tống Giang đi ra cửa rồi, liền ngồi dậy nói lảm nhảm một mình rằng:”Lão quái! Làm cho bà suốt đêm không ngủ được, cái mặt ấy lại toan bắt bà phải làm lành, nhưng phải biết rằng bây giờ bà có Trương Tam rồi, bà còn hơi đâu mà tiếp đến người ấy nữa. Từ nay trở đi không về đến đây, lại càng hay lắm!”. Nàng vừa nói vừa giở chăn ra, rồi cởi áo trên, rút quần ngoài, mà toan đi ngủ lại. Chợt đâu trông thấy bên chắn song ở cuối giường thấy có một cái thắt lưng da lụa đỏ vắt ở đấy, nà liền cười mà nói rằng:
– “Thằng cu Hắc Tam Lang này đáng kiếp, còn bỏ quên cái thắt lung đây, bà hãy cất lấy, để cho Trương Tam thắt đã”.
Nói đoạn giơ tay vớ lấy thắt lưng, và cả con dao túi treo ở trên đo, để xem. Khi cầm thấy hơi nặng liền giũ ra xem thì thấy trong ấy có một cái túi giấy, lại có một thỏi vàng ở đó. Nàng cầm lấy soi lên đèn, quả nhiên là vàng thực, liền cười ha hả mà rằng:
– Đây là trời cho ta và Trương Tam đây, may quá, mấy hôm nay Trương Tam đương không có gì, xem hôm nay có thú không?
Nói rồi liền bỏ vàng lên bàn, mà mở bức thư ra xem. Trên đầu thư thấy viết hai chữ Tiều Cái, rồi xuống dưới có những việc quan hệ rắc rối cũng nhiều. Nàng xem xong lắc đầu mà nói rằng:
– Xưa nay ta vẫn cho là thùng rơi xuống giếng, ai ngờ ngày nay giếng cũng rơi vào thùng, ta đương muốn cùng với Trương Tam kết làm phu phụ, chỉ tại vì có mầy ngăn trở hóa không xong, phen này có lẽ khó lòng mà tránh khỏi tay ta được! Nguyên mày thông đồng với tụi cướp Lương Sơn, cho nên nó mới đưa trăm lạng vàng đến để biếu đây… Được rồi, để bà tiêu khiển cho mày một dạo. Hãy xem phong thư và tiền nong để cả túi này, mày có tài thánh cũng không đến đây mà lấy lại được nữa!
Gớm cho cái nọc nữ nhi
Thế gian còn có giống gì độc hơn?
Trách nào những kẻ non gan
Mấy phen nước mất nhà tan vì tình!
Đương khi Bà Tích đắc sách một mình, thì bỗng nghe dưới nhà có tiếng kẹt cửa, rồi có tiếng người trong giường hỏi lên rằng:
– Ai đấy?
Người ngoài cửa đáp:
– Tôi đây.
Người trên giường lại nói:
– Tôi đã bảo còn sớm, Áp Ty không nghe bây giờ quả nhiên lại phải trở về đó. Thôi hãy lên nghỉ với… một lúc rồi sáng ngày sẽ đi.
Người ấy nói dứt lời, thì đã có tiếng giầy bước lên trên gác. Bà Tích nghe đích xác là tiếng Tống Giang đã đến, vội vàng cuốn dây lưng túi giấy và dao vào một cuộn, rồi đút xuống dưới chân mà nằm quay vào vách vờ làm mặt ngủ.
Tống Giang lên đến nơi, xông vào chỗ chắn song, không thấy thắt lưng đâu, trong bụng đã bồn chồn kinh sợ, đành phải nén lòng giận mà lấy tay lay người đàn bà dậy, rồi nói rằng:
– Nàng ơi! Nàng trả lại túi giấy cho tôi.
Bà Tích nghe tiếng, giả vờ là ngủ không trả lời.
Tống Giang gượng cười mà nói rằng:
– Nàng đừng giận tôi, mai tôi sẽ nói lại với nàng.
Bấy giờ Bà Tích sẽ nói lẩm bẩm rằng:
– Bà đương ngủ, mà ai lại đến quấy nhiễu thế?
– Nàng đã biết là tôi rồi, lại còn giả cách làm chi thế?
Bà Tích trở mình ra phía ngoài mà nói rằng:
– Hắc Tam Lang, chàng nói gì đó?
Tống Giang nói:
– Nàng trả lại cho tôi cái túi giấy?
– Chàng đưa vào tay tôi từ lúc nào mà lại hỏi đến tôi?
– Tôi bỏ quên ở chắn song gần giường đây, chắc chỉ có nàng bắt được, chứ còn ai đến đây mà lấy?
– Nói lạ! Chàng nói chuyện ma qủy gì chắc?
– Đêm qua tôi có điều gì không phải, để sáng mai tôi xin nói lại…nàng trả cho tôi, đừng nên đùa thế?
– Tôi đùa với chàng làm gì? Tôi không bắt được, thì trả làm sao?
Lúc nãy nàng vẫn mặc nguyên quần áo, bây giờ đã cởi cả ra, lại đắp chăn ngủ, thì tất là nàng bắt được của tôi.
Bà Tích trợn ngay mắt mà rằng:
– Bà lấy thực đấy, nhưng mà bà không trả, tha hồ cho đi đến phủ huyện nào mà kêu là ăn cướp thì kêu.
Đàn bà đến thế thì thôi,
Gian dâm đanh ác giết người không dao.
Ở đời nhắn bạn mày râu,
Trông gương tày liếp liệu sau mà chừa!
Tuồng chi chăn chiếu thập thò,
Anh hùng tan nát cơ đồ nữa sao?
Bấy giờ Tống Giang thấy Bà Tích nói vậy, cũng còn đấu dịu mà rằng:
– Khi nào tôi lại dám bảo nàng ăn cướp.
Bà Tích làm già lên rằng:
– Phải biết bà đây không phải cướp đâu?
Tống Giang nghe vậy càng lấy làm nóng ruột, đành phải đấu dịu cho xong, liền nói rằng:
– Xưa nay tôi có điều gì không phải với mẹ con nàng, thì xin nàng trả lại cho tôi, tôi còn phải đi có việc bấy giờ.
– Mọi khi vẫn hằm hằm cho là bà đi lại với Trương Tam, dẫu có điều gì cũng chưa đến phạm tử tội, như thằng thông đồng với bọn cướp kia…
– Chết nỗi, nàng chớ nên nói to, lỡ hàng xóm nghe thấy thì nguy lắm.
– Đã sợ người ngoài nghe tiếng, sao còn làm thế được? Cái phong thư thế nào bà cũng giữ chặt lấy, bao giờ nghe bà ba điều, thì mới buông tha cho.
Tống Giang nói:
– Cứ gì ba điều, dẫu đến mười điều tôi cũng nghe theo cả.
Bà Tích nói:
– Chỉ sợ không theo được thôi.
– Làm được thì tôi theo ngay, hãy cứ nói tôi nghe xem những điều gì?
– Điều thứ nhất: Từ hôm nay phải đem tờ văn tự mua tôi dạo trước, trả lại cho tôi; mà viết thư cho tôi cải giá với Trương Tam, không được lôi thôi gì đến nữa.
– Được rồi.
– Điều thứ hai: Các đồ tôi gài giắt trên đầu, đồ tôi mặc ở mình, cùng các thứ khí dụng trong nhà, phải viết một bức thư trao cho tôi, từ nay trở đi không được đến lấy vào đấy.
– Được lắm.
– Còn điều thứ ba: Thì khí khó, chỉ sợ không theo được thôi.
– Có khi nào, hai điều kia còn nghe được, nữa là còn một điều nữa?
– Vậy thì cái món tiền một trăm lạng vàng của Tiều Cái ở Lương Sơn Bạc đưa đến đây, phải giao cho tôi, rồi tôi sẽ trả lại cho cái túi giấy, và tha cho cái tội tày trời ấy, Tống Giang ngẩn người ra mà rằng:
– Các điều trên, tôi xin theo cả, duy còn một trăm lạng vàng ấy, thì tôi không nhận của họ, nếu có thì tôi xin đưa nàng ngay lập tức bây giờ, chứ không khi nào dám tiếc.
Bà Tích lắc đầu mà rằng:
– Phải biết rằng:”Quan thấy tiền như ruồi thấy máu”. Không lẽ nào nó đưa tiền cho người ấy, mà không nhận bao giờ? Anh đừng nói những câu buồn cười như thế? Mèo nào là mèo không biết ăn mỡ, của vua Diêm Vương bao giờ có tha quỷ về không? Muốn tốt thì đưa trăm lạng vàng ấy đây mới được; nếu có sợ tang chứng trộm cướp, thì cứ đưa ngay đây.
Tống Giang cố cầm lòng mà đáp rằng:
– Nàng phải biết tôi đây là một người rất thực, không khi nào lại nói dối ai, nếu nàng không tin, thì tôi hạn cho xin ba ngày, để tôi về bán đồ đạc nhà cửa lấy trăm lạng vàng đưa đến cho nàng, bây giờ nàng hãy cho tôi xin cái túi ấy đã.
Bà Tích cười nhạt đáp rằng:
– Anh Hắc Tam Lang buồn cười thực, anh lừa tôi như lừa đứa trẻ con vậy. Bây giờ tôi đưa giấy cho anh, rồi ba hôm nữa mới đến anh để hỏi tiền, thì có khác gì bắt chạch đằng đuôi không? Tôi cứ là tiền trao cháo múc, bác cứ đem đến đủ tiền đây, là tôi đưa ngay.
– Hiện bây giờ tôi không có đồng nào.
– Vậy thì sáng mai vào chỗ công đường, cũng nói là không có tiền có được không?
Tống Giang nghe đến hai chữ công đường, thì máu nóng đầy lên, không thể nào nhịn được, liền trợn mắt lên hỏi người đàn bà rằng:
– Mầy có trả lại ta hay không?
Bà Tích đáp rằng:
– Hung tợn thì làm gì ai, bà không trả có được không?
– Thực không trả phải không?
– Không trả…ta truyền cho một trăm tiếng không trả nữa đấy. Nếu mà trả thì cứ đến huyện Vận Thành mà lấy.
Chước đâu nham hiểm lạ đời
Thoạt nghe ai cũng rụng rời chân tay!
Mấy người nam tử xưa nay,
Trông gương trước đấy phỏng tày liếp chưa?
Tống Giang nghe nói, liền giằng chăn ra để tìm. Bà Tích ôm chặt lấy vào trong bụng để giữ. Tống Giang hết sức kéo một cái thực mạnh, thì thấy cuộn thắt lưng lòi ra ở đấy, chàng liền vội thò tay cướp lấy. Bà Tích cứ giữ khăng khăng. Tống Giang giằng mãi không thể nào lấy ngay ra được. Sau khi hai người giằng co mãi, thì con dao túi ở trong bọc, bỗng rơi ra ngoài. Tống Giang liền vơ lấy dao cầm lăm lăm ở tay, Bà Tích thấy vậy kêu lên rằng:
– Hắc Tam Lang giết người hay sao?
Tống Giang nghe tiếng kêu khi ấy, thì trong lòng bừng bừng tức giận nghĩ ngay ra cách trừ đi mới xong. Khi ấy Bà Tích định kêu lên tiếng nữa, thì tay tả Tống Giang đã nắm chặt lấy Bà Tích, rồi tay hữu giơ dao cho một nhát vào giữa thái dương phọt máu tươi ra như suối chảy.
Mới hay:
Anh hùng khi đã ra tay,
Trời kia cũng chuyển đất này cũng tan.
Huống chi một gái dâm ngoan,
Ngựa dày voi xé dễ còn ai thương!
Bây giờ giống lưỡi không xương,
Phỏng còn ngoắt ngoéo trăm đường nữa chăng?
Tống Giang đâm Bà Tích một nhát, sợ rằng chưa chết hẳn, liền cầm dao tặng luôn mấy nhát nữa lăn cổ xuống dưới gối, rồi vội vàng vớ lấy túi giấy, mở phong thư châm đèn đốt, rồi thắt lưng lên tử tế mà đi xuống gác. Diêm Bà nằm ở dưới nhà, lúc nghe tiếng con gái kêu:”Hắc Tam Lang giết người”. Thì trong bụng không hiểu ra làm sao, bèn vội vàng nhảy bổ, mặc xống áo rồi đi xộc lên gác.
Vừa hay mới hết thang gác, thì chạm ngay phải Tống Giang đi xuống, Diêm Bà liền hỏi rằng:
– Hai người làm gì ở trên ấy mà ầm ầm lên thế?
Tống Giang nói:
– Con gái bà nó vô lễ quá, bị tôi giết đi rồi.
Diêm Bà cười rằng:
– Nói làm gì thế, có lẽ Áp Ty thấy trái mắt, hay là uống rượu say sưa mà thích giết người như thế hẳn? Thôi đừng nói đùa lão nữa!
– Bà không tin cứ lên buồng mà xem, tôi giết thực rồi đó.
Diêm Bà nói:
– Tôi không tin chút nào.
Nói xong đẩy cửa buồng vào xem, thì máu chảy lênh láng khắp buồng, mà xác con gái đã nằm chết vật ra đó.
Diêm Bà kêu lên rằng:
– Khổ quá! Bây giờ làm thế nào?
Tống Giang nói:
– Tôi đây là tay hảo hán, không bao giờ lại chịu chạy trốn, vậy bà muốn sao tùy ý.
Diêm Bà điềm nhiên bảo Tống Giang rằng:
– Con bé này nó không ra gì, Áp Ty giết cũng không lầm, duy có một điều là thân tôi già yếu, không ai nuôi nấng cho đây?
Tống Giang đáp:
– Cái đó không cần gì, cứ như lời bà nói, thì bà không phải lo. Nhà tôi cũng không đến nỗi túng, tôi xin nuôi được bà no ấm suốt đời thì thôi.
– Nếu thế hay lắm! Cám ơn Áp Ty…Còn sự con bé chết đây, thì tống táng làm sao?
– Việc ấy dễ lắm, chỉ ra nhà Trần Tam Lang mua một cỗ quan về đây là xong rồi, còn các đồ khâm liệm và chi phí, thì tôi sẽ đưa mấy lạng bạc cho bà lo liệu.
– Hay là bây giờ nhân lúc chưa sáng, ta nên đi mua áo quan đem về chôn ngay, thì hàng xóm không ai biết được.
– Được lắm, bà đem giấy bút đây, tôi viết mấy chữ cho bà đi lấy áo quan.
– Không nên viết giấy, bây giờ Áp Ty đi với tôi thì họ mới giao ngay cho.
Tống Giang khen phải, rồi hai người cùng đi xuống gác. Diêm Bà mang khóa ra khóa trái cửa lại, rồi hai người cùng đi về lối trước cửa huyện, để ra nhà Trần Tam Lang.
Khi gần đến phía tả cửa huyện thì trời mới sáng, mà cửa huyện vừa mới mở xong, Diêm Bà liền túm lấy Tống Giang, rồi giở mặt mà kêu ầm ĩ lên rằng:
– Có kẻ giết người ở đây…
Tống Giang ngạc nhiên kinh hoảng, vội giơ tay bịt mồm Diêm Bà lại, song mụ ta cứ lăn lóc kêu hoài, không ai giữ nổi. Bấy giờ có mấy người trong huyện chạy ra, trông thấy Tống Giang, thì túm đến, khuyên mụ kia rằng:
– Mụ im mồm đi, Áp Ty không phải là người thế đâu? Có việc gì cứ nói tử tế.
Diêm Bà lại kêu rằng:
– Chính nó là thằng hung thủ, nhờ các ông bắt nó mà giải vào huyện cho tôi.
Tống Giang vốn xưa nay là người rất tốt trên dưới ai cũng kính yêu, bởi thế nên bọn lính tráng không hề anh nào tin lời mụ Diêm Bà nói, mà cũng không anh nào động đến Tống Giang.
Đương khi mụ kêu gào ầm ĩ, thì Đường Ngưu Nhị rửa một mâm gừng muối ở đâu đi về đó. Đường Ngưu Nhị thấy Diêm Bà đương níu lấy áo Tống Giang, thì chợt nhớ tới câu chuyện tối hôm qua, thì trong lòng nổi giận đùng đùng, liền vội vàng đem mâm gừng để vào cái ghế của anh hàng bán thuốc, rồi hăm hở chạy ra quát lên rằng:
– Con khỉ già kia, làm gì mà níu áo Áp Ty như thế?
Mụ kia vừa kêu vừa nói rằng:
– Đường Ngưu Nhị, mày đừng đến đây mà đánh tháo cho người, mầy phải đền mạng.
Đường Ngưu Nhị nghe nói cả giận, chạy thốc vào cầm lấy tay mụ kia dằng hẳn ra, rồi tát lấy tát để làm cho mụ kia không biết lối nào mà mở mắt, đành phải buông Tống Giang ra. Tống Giang được thoát tay Diêm Bà, liền thừa lúc náo nhiệt cất lẻn chạy ngay để tháo thân.
Diêm Bà luống cuống, không biết làm thế nào, lại túm ngay lấy Đường Ngưu Nhị mà kêu lên rằng:
– Tống Áp Ty giết con gái tao, bây giờ mầy lại đây, mầy đánh tháo ra rồi, trời ơi!
Đường Ngưu Nhị kinh ngạc nói rằng:
– Nào rằng: biết đâu đến chuyện ấy.
Diêm Bà lại kêu:
– Nhờ các ông bắt hộ tôi thằng giặc con này, không có thì rầy rà đến cả bây giờ?
Khi đó bọn lính thấy Tống Giang không còn ở đó, liền bảo nhau chạy đến, anh thì bắt lấy Diêm Bà, anh thì nắm lấy Đường Ngưu Nhị mà kéo cả vào huyện.
Cho hay là:
Lòng kia hồ dễ như ai,
Chung thân vơ vẫn quanh nơi chiếu giường.
Đã lòng nặng với bốn phương,
Dẫu cho nát đá tan vàng cũng thây!
Vẻ chi một mảnh bèo mây,
Toan đem mặt phấn mà ngây dạ hùng.
Thế gian bao kẻ nông lòng,
Từ nay những ngón ăn không liệu chừa.
Chớ nên quen thói mập mờ,
Lỡ khi sấm sét nữa mà chết oan!
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Hồi này mượn đề miêu tả ra lòng đen tối của đàn bà, không còn thứ xấu nào chẳng rõ ra, khiến cho đãng tử tuổi về già xem đến phải lè lưỡi; mà đãng tử tuổi còn đương ham muốn, xem đến phải chùn lòng, rõ thực là một thiên văn tự khéo châm chích những chàng đãng tử, lấy đó làm gương. Tả gái đĩ già mồm ra tuồng gái đĩ, tả sọm già đúng mốt sọm già, rất khéo đến thế?
Thế nào mà tả gái đĩ ra tuồng gái đĩ? Xem y đã bày trò, vốn bắt chẹt ông chồng cho được, tới khi nũng nịu bắt chẹt không xong, quay ra lạnh lùng cười nhạt, rõ ra mở cửa đón khách, đuổi hiền mời gian, bất đắc dĩ với nhau, rồi chồng ra khỏi thỉ chửi rủa, mới thay quần áo đi nằm lại còn xem xét trước sau, vớ được đồ vật bỏ sót, như nắm được chuôi, cố giữ cho được để mà bắt chẹt, đến khi người chồng phải quay lại nài xin, mới trở mặt phụ tình, làm tình làm tội đủ điều, đưa những điều kiện không còn chút lương tâm, chứ đừng nói gì đến ân nghĩa cũ, bắt chồng phải cho lấy kẻ khác, rõ cái dâm đã muốn giết nhau, bắt phải đưa vàng bạc, cái ác đã muốn giết nhau, lại còn đe dọa nữa, cái liều đã muốn giết người, cho nên đức Đại Hùng Thế Tôn gọi là Hoa Tiễn, như ta nói Hoa Hồng có gai, đúng không ngoa vậy.
Thế nào mà tả sọm già đúng mốt sọm già? Xem ý lúc đầu nói cho con gái phải nghĩ lại, cho tới khi con gái làm bộ giận hờn, lại giở giọng than tiếc cho con gái, một buổi tối nói ra xem từng câu ngụ ý ai oán Tống Giang, tiếc cho con gái không phải là không hết lòng vàng đá, bởi vì ai đã hững hờ? Cho tới sáng ra, thấy con gái bị giết, lại không hốt hoảng khóc lên, còn dùng lời ngọt, buông tha tội phạm, đợi đến khi ra tới cửa Huyện, mới níu áo kêu lên… gớm thực? Chẳng phải tay sọm già, thì sao giở đến những ngón ấy?
Khi đó chúng đem Diêm Bà cùng Đường Ngưu Nhị vào đến huyện quan. Huyện nghe nói việc giết người, bèn vội vàng ra công đường để hỏi.
Chúng dẫn Diêm Bà quỳ bên hữu, Đường Ngưu Nhị quỳ bên tả, rồi quan Huyện ngồi trên hỏi rằng:
– Việc gì? Giết người thế nào? Nói ta nghe.
Diêm Bà bẩm:
– Lão tôi người họ Diêm, có con gái tên là Bà Tích, dạo nọ bán cho Tống Áp Ty làm tỳ thiếp, đến hôm qua con gái tôi cùng Tống Giang uống rượu trên gác, thì có tên Đường Ngưu Nhị này đến sinh sự, rồi ra phố chửi rủa ầm ầm, cả phố sá ai cũng biết. Sáng hôm nay thấy Tống Giang ở nhà ra phố một lúc, rồi trở về mà giết chết con gái tôi, sau tôi kéo được Tống Giang đến cửa huyện, thì bị tên Đường Ngưu Nhị này lại đánh tháo cho đi mất, vậy xin kêu để quan lớn xét cho.
Tri Huyện hỏi đến Đường Ngưu Nhị rằng:
– Sao thằng kia dám đánh tháo cho kẻ hành hung?
Bẩm quan lớn:
– Con không biết đầu đuôi ra sao cả, nguyên tối hôm qua con có đến tìm Tống Áp Ty ở đấy, thì bị mụ này đuổi ra. Sáng hôm nay con đi bán hàng sớm, lại thấy mụ này đương lôi kéo Tống Áp Ty, nên con chạy đến để can, rồi Tống Áp Ty bỏ đi đâu mất thực là không biết chuyện giết người chi cả.
Quan Huyện quát lên rằng:
– Mầy nói láo! Tống Giang là người thành thực quân tử, có khi nào lại giết càn như thế? Việc này chắc chính mầy làm ra, tả hữu đâu?
Tri Huyện nói đoạn, liền gọi nha lại lên thấy khẩu cung. Bấy giờ Trương Văn Viễn nghe nói là Tống Giang giết con Diêm Bà, là nhân tình của mình, thì trong lòng tức giận, vội vàng ra lấy khẩu cung mọi người, rồi lại viết đơn giúp cho Diêm Bà để kêu. Đoạn rồi đem các người kêu biên án, và cho gọi Trưởng Phố và các nhà lân bang, đến mở cửa nhà Diêm Bà để khám nghiệm xác chết. Khi tới nơi, khám thấy người chết bị mấy nhát dao trên đầu và ở thái dương, còn con dao hành hung thì vất trên xác. Chúng biên khám đoạn rồi cho lấy áo quan mà bỏ xác chết vào, mà đem ra quàn tại tự viện, rồi đem các người ấy về trình huyện.
Quan Huyện xưa nay đối với Tống Giang rất là tử tế, có ý muốn thoát tội cho Tống Giang, liền bắt Đường Ngưu Nhị ra mà tra hỏi ba bốn lần.
Đường Ngưu Nhị nhất định cung rằng:
– Không biết đầu đuôi chuyện giết người ra sao cả.
Tri Huyện nói:
– Thằng này, nửa đêm mày đến nhà người ta mà sinh sự cãi cọ, thì tất có can thiệp đến đây.
Đường Ngưu Nhị lại kêu:
– Bấy giờ con chỉ tìm Tống Áp Ty có chút việc chứ thực không có ý gì cả.
Tri Huyện quát lên rằng:
– Nói lạ! Tả hữu đâu, đem đánh nó xem!
Quan Huyện vừa nói dứt lời, thi hai tên lính như hùm như beo đổ ra, trói Đường Ngưu Nhị đánh đến ba bốn mươi roi. Đường Ngưu Nhị tuy bị đau, nhưng vẫn cứ khăng khăng nói một mực như trước.
Khi ấy quan Huyện cũng biết rằng không phải tự Đường Ngưu Nhị, song nhất tâm định cứu cho Tống Giang được thoát, liền lấy hạng gông lớn gông Đường Ngưu Nhị lại, rồi giam vào nhà giam.
Trương Văn Viễn lên công đường bẩm với quan Huyện rằng:
– Đã đành quan xử thế, song việc này hiện còn có con dao bên cạnh người chết, là con dao của Tống Giang, vậy thế nào cũng phải bắt Tống Giang đến hỏi, mới biết đoan đích được.
Quan Huyện bị Trương Văn Viễn kêu đi kêu lại, không thể nào mà im được, bất đắc dĩ phải sai người đi bắt Tống Giang. Sau bắt không được Tống Giang, lại phải bắt mấy người lân bang đến hỏi, thì ai cũng khai Tống Giang đi đâu mất, không thấy đâu cả.
Trương Văn Viễn lại bẩm với quan Huyện rằng:
– Phạm nhân là Tống Giang đi trốn đi mất, song hiện còn bố là Tống Thái Công và em là Tống Thanh ở trong thôn trang, vậy xin đến đó bắt bố cùng em phải đến quan, rồi lặc hạn cho đi tìm phạm nhân để đem về nộp, thì hắn không còn trốn đi đâu được nữa.
Quan Huyện nghe nói, biết rằng phải lẽ, song chủ ý cốt tha cho Tống Giang, nên cứ dùi rằng đổ tội cho Đường Ngưu Nhị để sau sẽ kiếm kế mà gỡ dần ra.
Ai ngờ Trương Văn Viễn cố lòng thu xếp văn án, rồi lại xúi giục Bà Tích đến kêu nài mọi lẽ, làm cho quan Huyện không còn thể nào mà bỏ im đi được, đành phải thảo công văn, sai ba tên lính, đến Tống gia trang để bắt Tống Thái Công và Tống Thanh.
Khi ba yên lính đi đến Tống gia trang, Tống Thái Công ra đón tiếp mời vào thảo đường, rồi mấy người lính đưa công văn ra cho Tống Thái Công xem.
Tống Thái Công xem xong bảo với bọn lính rằng:
– Xin các bác hãy ngồi chơi, để tôi thưa chuyện: Nguyên lão tôi từ thuở trước vẫn chăm chỉ việc canh nông, quanh năm trông nom vườn ruộng ở đây, để kiếm kế sinh nhai, không hề có điều chi trái phép. Còn như thằng con bất hiếu là Tống Giang, thì nó vẫn ngỗ nghịch từ thuở nhỏ, không chịu theo giữ phép nhà, mà nhất định đi làm lại. Sau tôi can gián nó cũng không nghe, nên hồi mấy năm trước tôi đã đến quan để trình sự ngỗ nghịch của nó, và xin xuất tịch tên nó không nhận là người ở trong trang này nữa. Từ đó nó vẫn ở đâu ngoài Huyện, còn tôi đây cùng con là Tống Thanh vẫn làm ăn quanh quẩn trong chốn thôn ở gần đây, hai đằng tịnh không có điều gì can thiệp đến nữa. Tôi lại e khi nó làm gì trái phép mà liên lụy đến tôi, cho nên tôi có xin chữ quan trước phê cho để làm bằng chứng, hiện còn giữ đây ở kia, để tôi lấy ra cho các bác sao lại, đem về trình quan.
Bọn lính vốn xưa nay có lòng tử tế đãi với Tống Giang, và thấy Tống Thái Công đã có bằng cớ, không can thiệp gì đến với Tống Giang, thì cũng không tội chi mà bới vẽ thêm rầy, liền nói với Thái Công rằng:
– Vâng, nếu cụ đã có giấy má như vậy, thì xin cho chúng tôi sao lại, để đem về trình huyện cho xong.
Tống Thái Công nhất diện sai người giết gà vịt làm cơm, để thiết đãi bọn lính, nhất diện đem giấy ra cho bọn ấy sao, rồi lại đưa mười lạng bạc ra để tiễn. Xong đâu vào đấy, chúng liền từ giã Thái Công trở về huyện bẩm với quan trên mọi lẽ, và đưa bản giấy sao ra để trình.
Quan Huyện cũng không có lòng nào muốn bắt Tống Giang, nay thấy báo về vậy, thì cũng lấy làm vừa ý mà bảo chúng rằng:
– Ông lão ấy có giấy quan làm bằng đây, vả chăng Tống Giang cũng không còn có thân thuộc nào nữa, thì truy nã vào đâu được? Bây giờ chỉ có một lẽ treo thưởng một nghìn quan tiền để yết thị đi các nơi, cho người ta bắt giúp mà thôi.
Trương Văn Viễn lại xúi Diêm Bà làm bộ rũ rượi lăn khóc, mà kêu lên với Quan Huyện rằng:
– Việc ấy thực là Tống Thanh còn dấu diếm Tống Giang ở trong nhà, xin quan lớn thương đến thân già, mà cứ cho đi bắt Tống Giang đến đây cho…
Quan Huyện quát lên rằng:
– Ba bốn năm trước phụ thân nó đã lên cáo tội ở quan để truất tịch đi rồi, hiện có giấy quan phê ở đây, còn bắt thế nào nhà người ta được nữa?
Diêm Bà lại kêu rằng:
– Bẩm quan lớn, ở đây ai không biết anh ta là Hiếu Nghĩa Hắc Tam Lang, vậy giấy này chắc là giả mạo, xin tướng công xét kỹ lại cho.
– Bây nói lạ! Hiện có chữ và ấn tín của quan trước phê cho mà mày bảo giả mạo thế nào?
Diêm Bà thấy quan truyền vậy, thì rên rỉ khóc lóc mà rằng: – Việc mạng người là to, nếu tướng công không xét cho, thì tôi xin lên Châu Phủ tôi kêu lên, để quan trên xét. Con tôi chết oan khổ lắm!
Bấy giờ Trương Văn Viễn lại ở ngoài kêu luôn với quan Huyện rằng:
– Việc này nếu tướng công không cho người đi thì mụ này tất nó lên kêu ở thượng ty, bấy giờ lỡ ra quan trên có đòi đến, thì khó lòng mà trả lời sao được!
Quan Huyện nghe nói, không biết làm thế nào được, đành phải cho thảo công văn, sai Chu Đồng, Lôi Hoành đem lính đến Tống gia trang mà vây bắt Tống Giang. Hai Đô Đầu Lĩnh công văn đem bốn mươi tên lính đến Tống gia trang, Tống Thái Công nghe báo, vội vàng ra để nghinh tiếp.
Lũ Chu Đồng bảo với Thái Công rằng:
– Xin Thái Công tha lỗi, chúng tôi vâng lệnh quan sai đến đây để bắt Tống Giang, vậy Tống Giang ở đâu, xin Thái Công cho biết?
Tống Thái Công đáp:
– Xin nhị vị Đô Đầu xét cho: Thằng nghịch tử Tống Giang đối với tôi không có can thiệp chi cả. Hiện trước tôi đã có giấy kêu quan, quan đã phê cho làm bằng… Trong mấy năm nay nó đã lập ra sổ bộ khác, không còn ở đây với tôi, và cũng không về đến đây bao giờ.
Chu Đồng nói:
– Đã đành như vậy, song chúng tôi là kẻ công nhân cứ theo giấy bắt người, vậy không biết rằng trong trang có ai hay không? Cũng phải cho chúng tôi khám hết một lượt, rồi mới về bẩm quan được.
Nói xong liền cho binh bổ vây khắp bốn mặt gia trang; rồi tự đứng canh trước cửa, mà bảo Lôi Hoành vào khám tìm một lượt.
Lôi Hoành đi vào trong trang, tìm khắp cả đằng trước đằng sau, rồi ra bảo với Chu Đồng rằng:
– Thực ở trong trang không thấy.
Chu Đồng nói:
– Tôi chưa được vào khám, thì chưa lấy gì làm chắc, vậy bác hãy giữ ngoài cửa đây, để tôi vào khám kỹ lại lượt nữa xem sao?
Tống Thái Công nói:
– Lão tôi là một người biết pháp luật, có khi nào dám dấu ở trong trang!
Chu Đồng nói:
– Cái đó là mệnh lệnh bề trên tất chúng tôi phải làm cho tời nơi tới chốn, xin Thái Công đừng trách.
– Vâng, xin ngài cứ tự tiện mà làm.
Chu Đồng lại dặn Lôi Hoành rằng:
– Lôi Đô Đầu hãy giữ Thái Công ở đây, đừng để Thái Công trốn đi mới được.
Nói xong đi sộc vào trang, dựng thanh đao xuống bên vách khép cửa lại, rồi đi thẳng vào điện thờ Phật của Tống Thái Công. Tới đó Chu Đồng nhắc giường thờ để qua một bên, mở tấm cửa dưới mặt đất lên, rồi vớ lấy cái đầu thừng ở dưới cánh cửa, đập một cái thực mạnh, thì nghe có tiếng boong boong ở dưới, rồi thấy Tống Giang ở trong hầm đi ra.
Tống Giang trông thấy Chu Đồng, thì giật mình kinh sợ, Chu Đồng liền bảo Tống Giang rằng:
– Công Minh ca ca ơi! Ca ca đừng tưởng là tiểu đệ đến bắt đâu! Vì ngày trước có khi đánh chén với nhau, ca ca thường nói với tôi rằng:”Trong Phật Đường nhà ca ca có một cái hầm trên bày bàn thờ Tam Thế Phật, và có đậy cánh cửa bằng đất hễ có việc gì khẩn cấp là chui vào ở đó”. Bởi vậy nên tiểu đệ mới biết được chỗ này. Hôm qua quan Huyện sai Lôi Hoành cùng tiểu đệ đến đây, cũng là sự bất đắc dĩ, phải che mắt thế gian cho xong chuyện, chứ quan Huyện thực có lòng vì nể ca ca lắm. Chỉ vì con mụ già ấy nó bị thằng Trương Văn Viễn xúi giục lên quan, nếu quan không xét, thì nó đến tận Châu Phủ để kêu, bởi thế nên phải sai chúng tôi đến đây để bắt. Lúc nãy Lôi Hoành vào đây, tôi chỉ sợ lỡ gặp ca ca mà hắn lại không biết cách để chu toàn thì nguy lắm, nhân thế tôi phải chạy vào đây, để báo cho ca ca biết. Ở đây tuy cũng được, nhưng không phải là chỗ an thân, vì sợ khi có kẻ biết được đến đây, thì bấy giờ làm sao cho tiện?
Tống Giang nói:
– Tôi đã nghĩ đến quãng đó, ai ngờ lại được hiền huynh chu toàn cho, bằng không thì Tống Giang tất bị bắt chứ không chơi.
– Thôi bây giờ huynh trưởng phải tìm chỗ khác mà lánh mình mới được.
Tiểu đệ nghĩ kỹ, chỉ có ba chỗ yên thân được: – Một là nhà Tiểu Đoàn Phong Sài Tiến ở quận Hoành Hải, bên Thương Châu, hai là Tiểu Lý Quãng Hoa Vinh ở trại Thanh Phong bên Thanh Châu, và ba là nhà Khổng Thái Công ở bên núi Bạch Hổ, Khổng Thái Công có hai người con trai, người con trưởng là Mao Đầu Tinh Khổng Minh, và người thứ tên là Đạc Hỏa Tinh Khổng Lượng, thỉnh thoảng vẫn đến huyện đây chơi bời với tôi. Chỉ có ba chỗ ấy, nhưng chưa biết rằng đi chỗ nào cho tiện!
Huynh trưởng nên nghĩ mau mau, liệu đi đâu thì đi ngay đi, chớ để chậm trể thì khốn!…
– Còn các việc quan tư ở đây, xin nhờ huynh giúp cho. Nếu có cần gì vàng lụa đưa đón các nơi đâu, thì xin cứ cho đến đây mà lấy.
– Việc ấy huynh trưởng cứ phóng tâm tôi xin cáng đáng được. Huynh trưởng nên liệu kế mà đi đi.
Tống Giang tạ ơn Chu Đồng rồi đi vào trong hầm, Chu Đồng liền đậy cánh cửa đất lại, rồi nhắc giường thờ kê lại tử tế, mà lấy dao trở ra đi.
Khi ra tới ngoài, Chu Đồng bảo với Lôi Hoành rằng:
– Tôi tìm khắp lượt, quả nhiên không thấy đâu thực, chẳng hay ta bắt Thái Công đem đi có được không?
Lôi Hoành nghe Chu Đồng nói lấy làm ngạc nhiên mà nghĩ thầm rằng: “Mọi ngày Chu Đồng đối với Tống Giang vẫn là tử tế, sao ngày nay hắn lại toan xử như thế? Hoặc là trong bụng hắn đã đổi khác đi chăng? Nếu hắn còn nhắc đến câu ấy, thì ta phải liệu sao mà cứu giúp Thái Công mới được!”. Đoạn rồi hai người thu gọi lính lại, mà cùng đi vào thảo đường.
Tống Thái Công vội vàng sai làm rượu để khỏan đãi. Chu Đồng gạt đi mà rằng:
– Thái Công đừng cho ăn uống nữa, xin mời Thái Công cùng Tứ Lang đi đến huyện một thể.
Lôi Hoành hỏi Thái Công rằng:
– Sao không thấy Tứ Lang ở nhà đây?
Thái Công nói:
– Tôi mới sai nó sang thôn gần đây, để đánh ít đồ dùng làm ruộng không có ở nhà, còn thằng Tống Giang thì ba năm trước, tôi đã kêu quan xóa sổ, không còn ở trong trang đây, hiện có giấy quan phê làm chứng kia.
Chu Đồng nói:
– Cụ nói thế không xong, chúng tôi vâng lệnh quan Huyện đến đây, bắt hai ông con nhà cụ, vậy thế nào cũng phải đến huyện mới được.
Lôi Hoành can Chu Đồng rằng:
– Chu Đô Đầu, bác nghe tôi nói: – Tống Áp Ty tuy nhiên phạm tội, nhưng ở trong tất có duyên cớ làm sao, chứ chưa chắc đã là tử tội! Huống chi Thái Công đây lại có văn thư ấn tín làm bằng, cũng không phải là giả mạo gì, vậy chúng ta nên nghĩ đến tình với Áp Ty khi trước mà che chở mới được. Nay ta cứ sao tờ giấy này, để về trình quan xem sao đã.
Chu Đồng nghe nói liền đáp rằng:
– Bác nói thế, thì tôi cũng không nỡ nào làm ác nghiệt cho đành.
Tống Thái Công bèn đứng dậy tạ ơn hai người, rồi sai người nhà dọn rượu lên thiết, và đưa 20 lạng bạc lên tiễn Chu Đồng và Lôi Hoành, hai người nhất định không nhận, sau giao cho bọn thổ binh mỗi người chia nhau một tí, đoạn rồi sao lấy giấy má cẩn thận mà cùng nhau từ tạ Tống Thái Công để về huyện. Khi tới huyện, hai Đô Đầu đem căn do lên trình với quan Huyện rằng:
– Chúng tôi vâng lệnh đến đó, để vây bắt gia trang tìm trước tìm sau, tịnh không thấy tung tích đâu cả. Tống Thái Công thì hiện đương bị cảm nằm đó, nghe chừng nguy cấp đến nơi, còn Tống Thanh thì nghe đâu đi từ tháng trước, tới nay chưa về, nhân vậy chúng tôi sao giấy tờ Thái Công trình quan khi trước để đem nộp.
Tri Huyện nghe nói, biết rằng Tống Giang đã trốn thoát được rồi, thì cũng không cần làm chi cho phiền nhiễu, liền nhất diện cho thảo giấy trình lên bản phủ, và nhất diện thảo công văn tự đi các nơi.
Bấy giờ các người có hàm ơn với Tống Giang khi trước, đến nói với Trương Văn Viễn để im thôi việc ấy đi. Trương Văn Viễn phần thì nể lời chúng nói, phần thì tự mình khi trước cũng có chịu ơn của Tống Giang, còn như Bà Tích thì cũng chết đi rồi, cũng không làm sao được nữa, nhân đó cũng đành bỏ mặc mà không nói làm chi.
Chu Đồng lại kiếm ít tiền, đưa cho Diêm Bà khuyên giải, không cho lên châu phủ để kêu nài chi nữa. Còn các nơi châu phủ thì Chu Đồng đã sai người đưa tiền đến đút lót cẩn thận, không còn đâu đòi hỏi lôi thôi. Lại được quan Huyện Vận Thành hết lòng che chở, nên chỉ xuất một nghìn quan tiền thưởng mà bảo công văn tư đi truy nã các nơi, còn Đường Ngưu Nhị thì kết án là cố tha người phạm bắt hai mươi trượng đày ra ngoài năm mươi dặm, và các người liên can việc ấy đều cho về an cư lập nghiệp.
Nói về Tống Giang vốn là một nhà làm ruộng vì cớ sao mà có nhà hầm như vậy?
Nguyên thời nhà Tống khi trước, làm quan dễ mà làm lại rất khó, trong triều đình vô đạo, các gian thần xàm nịnh, đều lộng lẫy chuyên quyền, cứ kẻ thân thì dùng, kẻ có tiền thì cất, bởi thế mà làm quan rất dễ. Còn như làm lại thí dụ một chức Áp Ty này nếu lỡ có phạm tội trách gì, nhẹ ra thì chạm mặt đày đi sung quân, những chốn xa khơi, mà nặng ra thì biên tịch gia tài, chém ngay lập tức, bởi vậy phải dự bị một nơi ẩn mình từ trước. Lại còn sợ khi liên lụy đến bố mẹ, nên bố mẹ phải làm một giấy thưa trình ở quan, để lấy chữ quan phê làm chứng như thế.
Bấy giờ Lôi Hoành, Chu Đồng đi rồi, Tống Giang liền ở trong hầm bò ra mà nói với Tống Thái Công rằng:
– Hôm nay sở dĩ con được thoát tội là nhờ có Chu Đồng là người tử tế, vậy ơn ấy không bao giờ quên được. Duy anh em con thì ngày nay tất phải tìm nơi lánh nạn xa xôi, rồi sau này hoặc có được tha, thì bấy giờ chúng con mới có thể về nhà được. Vậy nay thân phụ ở nhà, xin thân phụ sai người đưa tiền cho Chu Đồng, để nhờ ông ta nói lót các nơi, và tư cấp cho mụ Diêm Bà một ít, để nó khỏi lên thượng ty kêu khiếu lôi thôi.
Thái Công nói:
– Hai anh em con cứ thu xếp ra đi, phải cẩn thận rồi đến đâu thì cứ viết giấy về đây cho ta biết, còn ở nhà mặc ta lo liệu các con không phải bận lòng.
Chiều hôm ấy Tống Giang cùng Tống Thanh thu thập hành lý, rồi đầu trống canh tư sáng hôm sau, dậy sớm sắp sửa ra đi. Tống Giang đầu đội nón chiên trắng, mình mặc áo đoạn trắng, thắt dây lưng thêu, chân đi đôi giày gai, còn Tống Thanh thì đeo khăn gói, ăn mặc ra người theo hầu, rồi cùng ra trước thảo đường để bái biệt Thái Công.
Tống Thái Công rơm rớm hai hàng nước mắt mà dặn rằng:
– Hai con đi đây muôn dặm xa xôi, chớ kêu nghĩ điều chi cho phiền não.
Tống Giang, Tống Thanh cùng vâng lời, rồi dặn dò trang khách, phải sớm khuya hầu hạ Thái Công, chớ để có một điều gì trái đạo. Đoạn rồi hai anh em đều giắt đao lưng, vác thanh đao lớn, mà cùng nhau từ giã gia trang.
Thanh đao thẳng chống lên đường.
Giang hồ một gánh tuyết sương lưng trời.
Bốn phương non nước mù khơi.
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời từ đây.
Bấy giờ đương độ thu tàn đông tới, hai anh em Tống Giang vừa đi vừa bàn với nhau, không biết đi đâu cho tiện.
Tống Thanh nói với Tống Giang rằng:
– Tôi nghe thấy tiếng đồn ở quận Hoành Hải bên Thương Châu, có Sài Đại quan nhân, là dòng dõi Đại Chu Hoàng Đế khi xưa, mà chưa được bái yết bao giờ. Thấy nói ông ta là một người trọng nghĩa khi tài hay kết nạp bọn giang hồ, cứu giúp người nguy bách, thực là một Mạnh Thường Quân đời nay, hay là anh em thử đến đấy xem sao?
Tống Giang đáp rằng:
– Trong bụng ta cũng nghĩ như thế… Mọi khi ông ta vẫn thường thư từ đi lại với ta luôn nhưng cũng chưa được gặp bao giờ, nay nhân tiện ta đến đó.
Hai người bàn định xong rồi, liền lên đường đi về lối Thương Châu. Trong khi đi đường, thôi thì lần mò lánh trốn, dãi nắng dầm mưa, ăn có khi phải bát của người ốm, nằm phải giường của người chết, ở những hàng quán, không dám từ nan.
Được ít lâu đi tới Thương Châu, hai anh em liền hỏi thăm đến thôn trang Sài Tiến. Khi tới cổng trang, Tống Giang hỏi thăm trang khách rằng:
– Sài Đại quan nhân có nhà chăng?
Trang Khách đáp:
– Đại quan nhân tôi sang thu thóc ở bên Đông trang.
– Đây sang Đông trang đường đi xa hay gần?
– Đây sang đấy có tới bốn mươi dặm đường.
– Vậy thì đi lối nào được?
Trang khách thấy hỏi ân cần liền hỏi rằng:
– Chúng tôi hỏi khí không phải, quý tính cao danh của ngài là gì, cho chúng tôi được biết.
Tống Giang đáp:
– Tôi là Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành tới đây.
– Có phải ngài là Cập Thời Vũ Tống Áp Ty chăng?
– Phải chính tôi đây.
– Nếu vậy thì Đại quan nhân tôi thường nói luôn đến tên ngài, mà vẫn oán giận là không được gặp. Nay ngài đến đây thì tôi xin đưa ngài sang Đông trang cho tiện.
Nói đoạn liền dẫn Tống Giang, Tống Thanh ra đi.
Đi bộ ba bốn giờ đã tới Đông trang, trang khách dẫn hai người vào một mái đình, mời ngồi đó, rồi đi vào báo với Sài Tiến.
Tống Giang cùng Tống Thanh cởi khăn gói dựng đao vào một bên, và bỏ cả đao lưng ra, rồi ngồi đợi ở trên đình. Được một lát thấy trong trang cửa giữa mở toan ra, rồi thấy Sài Tiến dẫn năm ba người theo hầu vội vàng ra đón. Khi ra đến tiền đình, Sài Tiến trông thấy Tống Giang liền vái sụp xuống đất mà nói rằng:
– Thật là khao khát tiếng ngài quá nỗi, may sao trời lại giun rủi đến đây, cho tôi được gặp, thực lòng này vui vẻ biết bao.
Tống Giang cũng lạy xuống đất mà nói rằng:
– Tôi là thằng tiểu lại ngu dốt, hôm nay đến nương nhờ ngài ở đây.
Sài Tiến vội vàng đỡ dậy mà nói rằng:
– Hôm qua nhà có hoa đèn, sáng nay lại quẹt kêu trước ngõ, dè đâu chính là quý huynh giáng lâm tới đây.
Nói xong miệng cười tươi tỉnh như được của vậy, Tống Giang thấy Sài Tiến tiếp đãi trân trọng thì trong lòng vui mừng, liền bảo em ra lạy chào Sài Tiến. Sài Tiến đáp lễ xong rồi, sai người hầu đem các đồ hành lý của Tống Giang, để vào phòng bên tây phía trong. Đoạn rồi Sài Tiến dắt tay Tống Giang đi vào nhà chính ở trong, mời ngồi chơi nói chuyện.
Sài Tiến hỏi Tống Giang rằng:
– Nghe nói huynh trưởng làm việc quan bên huyện Vận Thành, sao nay lại rảnh mà đến chơi ở chốn hoang thôn này được? này được?
– Tôi được nghe tiếng Đại quan nhân đã lâu, khác nào như sét đánh ngang tai vậy, lại nhiều khi tiếp được thư từ của ngài gửi đến, trong lòng thực là hâm mộ không biết đến đâu mà kể. Nhưng ngặt vì bấy lâu nay chỉ quanh co bận việc tầm thường, nên không sao đến hầu ngay được, ngày nay cũng vì tài hèn trí kém lỡ xẩy ra một việc bất thần, hai anh em nghĩ đi nghĩ lại không có đâu là chỗ nương thân, song sau chợt nghĩ đến ngài đây là bậc khinh tài trọng nghĩa, cho nên cùng kéo đến đây để nương nhờ ít bữa.
Sài Tiến nghe nói cười mà rằng:
– Xin huynh trưởng cứ yên tâm, dẫu có người phạm tội đến tội Thập ác đại tội mà đã đến đây, thì cũng không lo gì cả. Không phải là Sài Tiến tôi nói ngoa, song tha hồ cho quan quân truy nã chưa dễ ai đã dám coi khinh một chỗ tiểu trang ở đây.
Bấy giờ Tống Giang mới đem chuyện giết Diêm Bà Tích và sự bắt bớ thế nào kể cho Sài Tiến nghe. Sài Tiến cười và nói rằng:
– Nếu vậy thì xin huynh trưởng cứ vững tâm, dẫu cho giết một Đại Thần ở trong triều hay là cướp ngay tiền ở trong kho tàng, Sài Tiến này cũng dám chứa ở đây.
Nói đoạn mời hai anh em đi tắm rửa, rồi lấy ra hai bộ quần áo khăn giầy sạch sẽ, để cho hai người thay.
Khi tắm rửa xong rồi, trang khách mang quần áo cũ của hai người vào một phòng kín ở nhà trong để uống rượu. Bấy giờ Tống Giang ngồi chính giữa, Sài Tiến ngồi đối diện Tống Giang, còn Tống Thanh vì có anh ngồi ở trên, nên phải khiêm tốn mà ngồi về một bên. Ba người ngồi xong, thì có mấy người trang khách thân mật, cùng thấy anh chủ quán đứng hầu để lần lượt rót rượu.
Trong khi đó Sài Tiến mời chào rất ân cần, hai anh em Tống Giang lại lấy làm khâm phục vô cùng, rượu được vài tuần, thì ba người cùng đem lòng khát vọng của mình xưa nay mà giải bày cùng nhau, rất là vui vẻ.
Được một lát sắc trời đã tối, người nhà thắp đèn lên, rồi Tống Giang từ tạ xin thôi, không uống rượu được nữa. Sài Tiến nhất định không nghe, cố ép cho Tống Giang phải uống.
Tống Giang bắt đắc dĩ phải vâng lời, rồi ngồi uống rượu mãi cho đến hết canh một, bấy giờ mới xin được phép đứng dậy đi rửa. Tống Giang đứng dậy đi rửa.
Sài Tiến liền sai trang khách, cầm đèn lồng đưa Tống Giang ra tận khỏi góc nhà bên Đông để đi rửa. Tống Giang đứng dậy vừa đi vừa nói một mình rằng:”Ta phải trốn mấy chén rượu mới được”. Nói xong liền sồng sộc đi xuống dãy nhà ở trước mặt. Bấy giờ Tống Giang đã chếnh choáng hơi men, chân đi không vững, nên chàng cứ bước liều mà không biết gì hết cả.
Khi ấy dưới nhà có một đại hán đương bị ngược tật, trong mình lạnh rét khó chịu, liền lấy cái xẻng đựng lửa, để gần chỗ ngồi mà sưởi. Dè đâu Tống Giang đương say rượu, chân bước lập cập dẫm lên phải cái xẻng làm cho than lửa trong xẻng bắn tung ra cả lên mặt đại hán kia.
Đại hán giật mình toát mồ hôi ra, rồi hăng máu nhảy choàng dậy, nắm lấy cánh tay Tống Giang mà quát lên rằng:
– Anh là thằng nào? ở đâu? Dám đến đây mà tiêu khiển với ta?
Tống Giang cả kinh, lúng túng chưa biết nói làm sao. Bấy giờ tên trang khách cầm đèn nghe thấy vậy, thì vội vàng chạy lại kêu lên rằng:
– Không được vô lễ, ông ấy là vị khách quan rất trọng đãi của Đại quan nhân đấy.
– Khách quan với chả khách quan, ta đây lúc mới đến, cũng là khách quan, mà cũng là trọng đãi đấy, thế mà bây giờ sao lại khinh mạn ta? Thế mới biết là:”Mấy người tử tế giữ gìn được lâu”.
Nói xong giơ tay toan đánh Tống Giang. Người trang khách vội vất đèn xuống, mà xông vào để can giữ lại. Đương khi đôi bên giằng nhau, thấy hai ba cái đèn lồng ở đàng kia chạy đến, rồi thấy Sài Tiến cũng chạy đến mà nói rằng:
– Tôi đi theo Áp Ty không kịp, sao Áp Ty lại lôi thôi ở đây?
Tên trang khách liền đem chuyện Tống Giang dẫm phải xẻng lửa mà thuật lại cho Sài Tiến nghe. Sài Tiến cả cười mà nói rằng:
– Đại hán không biết vị Áp Ty danh tiếng này hay sao?
Đại hán đáp rằng:
– Lừng lẫy có bằng Tống Áp Ty ở huyện Vận Thành ta chăng?
Sài Tiến lại cười mà rằng:
– Bác biết Tống Áp Ty không?
– Tôi chưa gặp mặt bao giờ, nhưng vẫn nghe tiếng Cập Thời Vũ Tống Công Minh là tay hảo hán đã lâu.
– Làm sao lại biết được ông ấy là tay hảo hán?
– Khoan, tôi đã nói xong đâu! Ông ta là người Đại trượng phu có đầu có đuôi, có sau có trước, tôi chỉ đợi bao giờ khỏi bệnh, là đi tìm đến ông ta đấy…
– Bác có muốn gặp ông ấy không?
– Không muốn gặp thì nói đến làm gì?
Sài Tiến trỏ Tống Giang mà bảo đại hán rằng:
– Bác ơi! Xa nghìn dặm đường, mà gần thì chỉ trước mắt đó thôi. Chính ông này là Cập Thời Vũ Tống Công Minh đó.
Đại hán ngạc nhiên nhìn Tống Giang mà nói rằng:
– Không lẽ là ông ta đây?
Tống Giang đáp:
– Chính tôi Tống Giang thực.
Đại hán kia nhìn lại một lượt, rồi cúi đầu xuống lạy mà nói rằng:
– Không ngờ hôm nay được gặp huynh trưởng ở đây…
Tống Giang thấy vậy liền hỏi:
– Vì cớ sao mà đại hán lại quá yêu tôi thế.
Đại hán đáp:
– Vừa rồi tôi thực vô lễ, xin ngài tha lỗi cho. Thực có mắt mà không trông thấy Thái Sơn.
Nói đoạn quỳ ngay xuống đất, mà không đứng nữa.
Mới hay là:
Những cơn thất ý xưa nay,
Thường là cơ hội cho tay anh tài.
Ví không trừ bỏ chông gai,
Tấm thân sao thoát ra ngoài cơ mi,
Ở đây càng trải gian nguy càng hung!
Mở gương kim cổ mà trông,
Anh hào mấy kẻ cam lòng thân an.
Sống không biết mặt giang sơn,
Thì oan nghiệt ấy ai bàn làm chi?
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Xưa kia Bá Nha có khúc đàn lưu thủy cao sơn, sau khi Tử Kỳ đã chết, thì không dạo đàn nữa, khiến đời sau thuật chuyện, nghĩ đến đau lòng, ai không vì đó mà than: Sao ta không được đồng thời, để gặp Bá Nha, kết bạn tri ân! Hỡi ơi! Sao mà nói nghe dễ dàng thế nhỉ? Vì ta xét đến nghĩa thanh âm rất là vi diệu, xét tới rất khó, xin đừng nói dễ mà biết thẩm âm, so đến văn chương thấy dễ hơn nhiều, vì trong văn chương đời nay còn dễ xem hơn nữa một tầng, như các Sử quan này, thử mở con mắt minh nguyệt, và giở trái tim châu ngọc, uốn ngọn lưỡi sán hoa, mà giải truyện Thủy Hử của Thi Nại Am tiên sinh, thì lựa là phải nghe đàn Bá Nha, mới phải là nghe tiếng đàn mà biết ý nhã? ? ?
Đây xen đến án mạng Tống Giang giết Bà Tích, tác giả phải dùng đến nhiều bút mực, trăm nghìn khúc chiết, đưa lại cho Tống Giang một sự giết người, do lòng văn của tác giả, muốn làm cho Tống Giang phải bỏ Vận Thành đi đến Thương Châu, khi đó Trương Tam thì muốn tróc nã, mà Huyện Quan lại muốn dong tha, nếu khi ấy không có Trương Tam làm thầy dùi cho sọm già, để Huyện Quan đổ tội cho Đường Ngưu Nhị, há rằng đem những văn tự hồi trên, để nói về Đường Ngưu Nhị tất cả hay sao?
Phải tả Trương Tam để thầy dùi sọm già, chủ bắt Tống Giang, để làm cốt truyện, mà tả Huyện Quan với mọi người trong thành, để hết sức bênh vực Tống Giang, mà sợ rằng phải đến tróc nã, để làm thêm văn, cho đủ câu chuyện. Nếu Trương Tam không thầy dùi, thì sọm già không thưa kiện, mà sọm già không thưa kiện, thì Huyện Quan chẳng bắt nữa, Huyện Quan không bắt nữa thì Tống Giang không phải trốn, Tống Giang không phải trốn, thì không đưa ra chuyện Võ Tòng, câu chuyện phải dính lýu nhau như thế, sao người đời xem đến chuyện này, còn cứ chê trách Quan Huyện, bực tức Trương Tam, mà còn tự cho mình hiểu nổi Bá Nha, thì than ôi! Còn biết Bá Nha là bậc người nào?
Tả hai người Chu Đồng, Lôi Hoành đều có tâm sự, đều có pháp văn, lại đều chẳng như nhau, mà đều hết sức, từng câu đều thoáy ý, cùng với khi tha Tiều Thiên Vương, chính là một dạng kỳ bút, lại là hai dạng kỳ bút, cho nên cái tài của kẻ tài, ta không biết đến đâu mà hạn lượng nổi.
Bấy giờ Tống Giang thấy đại hán kia quỳ xuống đất, liền giơ tay đỡ dậy mà hỏi rằng:
– Chẳng hay quý tánh cao danh túc hạ là gì, xin cho tôi được biết?
Sài Tiến trỏ vào đại hán ấy mà bảo với Tống Giang rằng.
– Bác này người ở huyện Thanh Hà, họ Võ tên Tòng, ở vai thứ hai, đến chơi đây đã một năm nay đó.
Tống Giang cả mừng mà rằng:
– Xưa nay vẫn thường nghe tiếng Võ Nhị Lang, mà ai ngờ lại vơ vẩn gặp đây, cái cơ hội ấy rất là hiếm có, vậy xin đón lên nhà để nói chuyện một thể.
Tống Giang lấy làm vui mừng liền dắt tay Võ Tòng cùng đi lên trên nhà, rồi bảo anh em là Tống Thanh ra chào. Sài Tiến mời Võ Tòng vào ngồi dự tiệc. Tống Giang có ý mời Võ Tòng cùng ngồi ngang hàng, song Võ Tòng nhất định không nghe mà ngồi vào ghế thứ ba.
Sài Tiến sai người nhà dọn lại bàn tiệc rồi hết sức khuyên mời ba người sơi rượu… Bấy giờ dưới bóng đèn sáng Tống Giang nom rõ mặt Võ Tòng là một người hiên ngang khác chúng, thì trong lòng càng vui vẻ bội phần. Nhân lại hỏi Võ Tòng rằng:
– Nhị Lang làm sao cũng quanh quẩn đến đây?
Võ Tòng đáp rằng:
– Nguyên tiểu đệ khi ở Thanh Hà có cãi nhau với một anh làm việc quan, rồi nóng người tiết lên đánh anh ta một đấm nằm vật ra đấy, tiểu đệ chắc rằng thế nào anh ta cũng chết mà liên lụy đến thân nên phải chạy sang Sài Đại quan nhân đây để mà lánh mặt, tới nay đã hơn một năm rồi. Sau tiểu đệ hỏi thăm thấy nói là anh ta không việc gì cả, liền muốn trở về qua làng rồi đi sang tìm đến ca ca dè đâu lại bị sốt rét ngồi sưởi thì gặp ca ca dẫm phải cái xẻng lửa, làm cho tiểu đệ giật mình toát cả mồ hôi, có lẽ lại khỏi cả bệnh sốt.
Tống Giang nghe nói cả mừng cùng ngồi uống rượu với nhau đến canh ba mới tan. Đoạn rồi Tống Giang dắt Võ Tòng xuống tây hiên để cùng ngủ…
Sáng hôm sau Sài Tiến sai giết dê mổ lợn để khỏan đãi Tống Giang mà lưu giữ ở đây. Cách mấy hôm sau Tống Giang lấy tiền nhờ người may quần áo cho Võ Tòng mặc. Sài Tiến thấy vậy liền lấy ra một hòm vải đoạn sai thợ ở trong nhà may áo, may xiêm cho tất cả ba người mà không dám để cho thiệt hại đến tiền của Tống Giang.
Nguyên Võ Tòng từ khi mới đến ở đấy, Sài Tiến cũng khoản đãi tử tế không có chút gì trễ nải. Duy tính khí Võ Tòng là người chướng trực mỗi khi đánh chén say vào thì lại hay sinh sự với người nhà, người cửa, lỡ ra anh nào có điều gì sơ xuất, thượng cẳng tay hạ cẳng chân liền, đánh đá luôn ngày mà không nể anh nào cả. Bởi thế bọn người nhà là không ai bằng lòng với Võ Tòng cả, mà thường khi lại đem chuyện lên để nói cho Sài Tiến biết. Sài Tiến thấy vậy thì cũng không có lòng nào khinh bỉ đuổi đi, song từ đó cách tiếp đãi cũng dần dần không được chu tất như là khi trước nữa.
Ngày nay may được có Tống Giang đến đây, hàng ngày lại bạn bè tiếp đãi với Võ Tòng, làm cho Võ Tòng cũng hả vui trong dạ mà khỏi cả bệnh xưa… Ở đó được mười lăm hôm, thì Võ Tòng có ý muốn trở về làng để thăm anh cả, song Sài Tiến cùng Tống Giang cố giữ lại mà không cho đi.
Võ Tòng nói với hai người rằng:
– Tôi còn có anh cả ở nhà, mà lâu nay không thấy có tin tức gì đến đây, vậy thế nào cũng xin về qua mới được.
Tống Giang nói:
– Nếu quả là Nhị Lang, có lòng muốn về, thì cũng không nên cưỡng là lưu lại, xong có lúc nào rảnh rỗi thì lại xin mời đến đây để xem cơ hội ra sao?…
Võ Tòng vâng lời mà cảm tạ Tống Giang, Sài Tiến lại lấy một ít tiền bạc đưa tiễn Võ Tòng.
Võ Tòng tạ ơn mà rằng:
– Chúng tôi ở đây đã lâu thực là phiền nhiễu Đại quan nhân lắm lắm.
Nói đoạn thu xếp khăn gói hành lý để sắp sửa ra đi.
Sài Tiến lại đặt tiệc tiễn hành, mấy người chè chén trò chuyện với nhau đến khi quá vui rồi Võ Tòng mới xin bái biệt để đi.
Bấy giờ Võ Tòng mình mặc áo trừu đỏ mới, đầu đội nón chiên trắng, lưng đeo khăn gói; tay xách gậy mà từ biệt mọi người để lên đường.
Trong khi sắp sửa ra đi, Tống Giang còn cầm lại rồi chạy về phòng lấy mấy lạng bạc giắt vào lưng mà bảo với Võ Tòng rằng:
– Tôi xin đưa chân hiền đệ đi một quãng cho vui.
Nói đoạn Võ Tòng từ biệt Sài Tiến, ra đi, hai anh em Tống Giang cũng xin phép để đi tiễn chân một thể.
Ba người ra khỏi Đông Trang được độ dăm bảy dặm đường, Võ Tòng liền quay lại vái Tống Giang mà rằng:
– Tới đây đã xa rồi xin huynh trưởng trở về kẻo Sài Đại quan nhân mong đợi.
Tống Giang đáp rằng:
– Để tôi đưa chân hiền đệ một quãng nữa có hại gì.
Nói đoạn ba người lại cùng đi cùng nói chuyện với nhau.
Vào khoảng hai ba dặm đường nữa, Võ Tòng lại cầm tay Tống Giang mà rằng:
– Tôi xin đưa chân đến chỗ tửu điếm ở bên đường cái kia, để ta cùng uống với nhau mấy chén rượu nữa rồi ta sẽ trở về.
Đoạn rồi ba người, cùng dấn bước đến chỗ tửu điếm bên đường… Khi tới nơi, Tống Giang ngồi đầu bàn dưới, còn Tống Thanh thì ngồi một bên, rồi tửu bảo dọn rượu lên ba người cùng uống.
Bấy giờ mặt trời đã xế non Tây, Võ Tòng liền nói với Tống Giang rằng:
– Ca ca đã có lòng hạ cố mà không bỏ Nhị Lang này thì xin ca ca nhận cho bốn lạy để bái nghĩa làm huynh.
Tống Giang rất lấy làm vui mừng liền nhận bốn lạy của Võ Tòng rồi lấy ra một đĩnh mười lạng bạc đưa tiễn Võ Tòng.
Võ Tòng từ chối không lấy mà rằng:
– Cái đó xin để ca ca chi dụng.
Tống Giang nói:
– Hiền đệ bất tất phải từ chối, nếu hiền đệ không lấy thì ta không dám nhận làm anh em…
Võ Tòng bất đắc dĩ phải nhận lấy mà bọc vào khăn gói tử tế, Tống Giang lại lấy ít tiền lẻ ra để tính trả tiền rượu, đoạn rồi Võ Tòng cầm lấy gậy mà cùng nhau đứng dậy đi ra ngoài tửu điếm… Khi ra tới cửa Võ Tòng lại gạt lệ bái biệt mà đi. Còn hai người anh em Tống Giang thì đứng trước cửa hàng trông theo mãi đến khi người xa xa khuất mới cùng nhau lui gót trở về.
Trông chừng trời đổ non tây
Anh hùng này lúc chia tay cũng sầu!
Rồi đây một bước xa nhau
Kinh trời động đất biết đâu có người
Bây giờ Tống Giang cùng Tống Thanh trở về đến nửa đường thì gặp Sài Tiến cưỡi ngựa và sau lưng dắt hai con ngựa đi không để ra đón, Tống Giang trông thấy cả mừng liền cùng nhau lên ngựa dóng cương cùng về trang viện. Đoạn rồi Sài Tiến lưu hai anh em Tống Giang cùng ở đó mà cung phụng rất là tử tế…
Võ Tòng từ khi bái biệt Tống Giang đi được mấy thôi đường thì trời đã tối, liền tìm vào một tửu điếm để nghỉ. Sáng hôm sau cơm nước xong rồi lại một mình ra đi thực sớm. Chàng vừa đi vừa nghĩ thầm trong bụng rằng:”Xưa nay chỉ nghe tiếng bọn giang hồ nói là Cập Thời Vũ Tống Công Minh mà không được gặp. Ngày nay mới biết là quả nhiên danh bất hư truyền, kết giao được một người như thế, để làm anh em, thực cũng khỏi phí một đời hảo hán”.
Võ Tòng nghĩ như vậy, thì trong lòng cũng lấy làm vui vẻ, và hâm mộ vô cùng. Cách vài hôm sau, một hôm vào khoảng quá trưa, chàng đi tới gần địa hạt huyện Dương Cốc, nghe trong bụng cũng có đôi phần đói khát, muốn tìm vào tửu điếm để ăn. Chợt trông thấy trước mặt có một ngôi hàng rượu, trước cửa cắm lá cờ chiêu bài, viết mấy chữ rằng: “Ba chén không qua được núi”.
Chàng ta thấy vậy liền xăm xăm đi vào hàng, kiếm ghế ngồi và dựa gậy vào một chỗ, rồi gọi nhà hàng lấy rượu. Bấy giờ thấy chủ hàng mang ra ba cái chén, một đôi đũa và một đĩa rau chín, đặt lên trên bàn, rồi bảo với chủ hàng rằng:
– Cái rượu này tốt, uống vào dễ chịu lắm, chủ nhân có thức gì nhắm đem lại đây.
Chủ hàng đáp:
– Hàng tôi chỉ có thịt bò chín thôi.
– Được, thái vài ba cân thịt, đem đây nhắm rượu.
Chủ hàng vâng lời ra thái hai cân thịt, để vào một cái đĩa lớn đem lên rồi lại rót ra thêm một chén rượu nữa là ba. Khi uống xong chủ hàng cất rượu đi mà không rót nữa. Võ Tòng liền vỗ bàn mà kêu lên rằng:
– Nhà hàng sao không rót rượu nữa ra đây?
Nhà hàng đáp:
– Ngài xơi thịt nữa thì tôi đem lên thôi.
– Ta uống rượu nữa và thái thịt lên đây một thể.
– Ngài cần thịt thì tôi xin thái thêm, chứ rượu thì tôi không bán nữa.
– Quái lạ? Sao không bán rượu cho ta nữa?
– Ngài có trông thấy trên cửa tôi yết rằng:”Ba chén không qua được núi” chăng?
– Rượu của tôi đây đâu phải là rượu của quê nhà, nhưng cũng không kém gì các thứ rượu tăm, phàm ai đến hàng này uống vào ba chén, là say ngay không thể nào qua được núi. Bởi vậy nên bao nhiêu người tới đây cũng chỉ uống ba chén, mà không ai gọi lấy thêm bao giờ.
Võ Tòng cười mà rằng:
– Thế sao ta uống hết ba chén cũng không thấy say?
– Thứ rượu của tôi đó, gọi là rượu Thấu bình hương là thơm thấu ra ngoài bình, lại gọi là rượu Xuất môn tảo, nghĩa là mới uống vào thì ngọt như rượu nếp, rồi một lúc ngã say người ra.
– Thôi đừng nói khoác, không rót ba chén nữa đây, thì không trả tiền nữa.
Chủ hàng thấy Võ Tòng quả nhiên chưa có gì là say, liền lấy rượu rót thêm ba chén cho Võ Tòng nuống. Võ Tòng uống lại khen rằng:
– Rượu tốt thực! Chủ hàng ôi! Ta uống chén nào trả tiền chén ấy, cứ rót đây cho ta.
– Chết rồi, ngài chớ uống liều thế, rượu này say chết người, không ai mà chữa được đâu?
– Thôi anh đừng nói láo, sanh có bỏ thuốc mê vào đó, thì ta đây cũng có mũi chứ…
Chủ hàng không biết làm thế nào được, lại phải rót ra ba chén nữa, Võ Tòng lại gọi lấy thêm hai cân thịt nữa lên, rồi uống luôn mấy chén rượu, ra dáng khoái hoạt vô cùng.
Khi uống hết mấy chén rồi, Võ Tòng bỏ ra ít tiền lẻ để bàn, rồi gọi chủ hàng đến mà bảo rằng:
– Anh thử xem tiền tôi có đủ trả tiền rượu không.
Chú hàng đếm thấy nhiều tiền liền đáp rằng:
– Đây còn thừa của ngài, để trả lại ngài.
– Không cần trả lại, cứ rót rượu ra đây là được rồi.
– Ngài muốn uống nữa, đây cũng còn đến dăm sáu chén, nhưng chỉ sợ ngài không uống được thôi.
– Có dăm sáu chén, thì cứ mang tất cả ra đây.
Chủ hàng nghe nói liền đáp rằng:
– Ông to lớn thế này, mà ngã lăn ra thì ai nâng dậy được?
Võ Tòng cười mà rằng:
– Ta lại cần đến anh nâng đỡ dậy, thì đã không phải là tay hảo hán.
Chủ hàng nghe nói mặc lòng, nhất định không đem rượu ra bán nữa.
Võ Tòng nổi giận lên mắng rằng:
– Ta không thèm uống quịt của các ngươi, các ngươi đừng trêu tức lão gia, mà lại tan cả nhà bây giờ!
Chủ hàng nghĩ thầm trong bụng:”Anh này đã chếng choáng rồi, mặc thây hắn ta, chẳng dây vào làm gì nữa!”. Nghĩ đoạn liền đem rượu ra rót luôn năm sáu chén cho Võ Tòng uống. Võ Tòng uống xong, tính tất cả trước sau có tới mười tám chén rượu liền vớ lấy gậy đứng phắt dậy mà nói rằng:
– Nào ta có say gì đâu?
Nói đoạn đi ra đến cửa lại cười ha hả lên rằng:
– Nào ta có say gì đâu? Thế mà chả nói rằng ba chén không qua được núi!
Đoạn rồi vác gậy chạy xông đi. Bấy giờ chủ hàng chạy ra gọi lên mà bảo rằng:
– Này ông khách đi đâu đấy?
Võ Tòng nghe nói đứng dừng lại mà rằng:
– Gọi ta làm cái gì? Ta có thiếu tiền của anh đâu mà gọi?
– Tôi gọi vì có lòng tử tế đó thôi, ông hãy vào nhà tôi mà xem giấy của quan yết thị đã.
– Yết thị gì?
– Hiện nay ở trên núi Cảnh Dương có một con cọp rất lớn, cứ đến chiều là ra đón ở đường, để hại người qua lại, xưa nay giết hại đã có tới hai ba mươi tên hảo hán, mà chưa ai làm sao trị nổi. Bởi vậy quan trên đã nghiêm sức cho bọn săn bắn đi lùng bắt, và yết giấy cho các hành khách, tất phải đợi nhau kết thành một tụi trong khoảng giờ tị, giờ ngọ, giờ mùi (tức khoảng trưa) thì mới được đi qua núi, còn buổi sớm chiều hôm và khách đi một mình, thì cấm không cho đi qua đấy. Nhân thế rồi sợ ông đi có một mình, mà lại gần tối rồi, lỡ ra thiệt đến tính mạng thì nguy, vậy bất nhược, ông hãy tạm nghỉ ở nhà hàng tôi, để đợi sáng mai có đông người rồi sẽ đi mới được.
Võ Tòng nghe nói cười mà đáp rằng:
– Ta đây người ở huyện Thanh Hà, xưa nay đi qua núi Cảnh Dương này, ít ra cũng có vài mươi lần, nào có thấy ai nói đến chuyện beo cọp gì đâu? Anh đừng giở đến chuyện ấy mà lòe ta mới được. Mà cho hẳn có cọp nữa, thì ta đây nào có sợ gì!
Nhà hàng nói:
– Đấy là lòng tốt của tôi, tôi muốn cứu ông, nếu không tin, thì lại xem bảng yết ở đây thì biết.
Võ Tòng gạt phắt đi mà rằng:
– Thôi đừng nói nữa… Dù có có cọp thực nữa, lão gia đây cũng không sợ.. Anh định giữ ta ở lại đêm nay cướp tiền hại ta, rồi lại đem cọp ra lòe ta hay sao?
Chủ hàng lấy làm bực mình liền đáp lại rằng:
– Ông không biết lòng cho tôi, được, thôi tùy ý, không tin thì cứ đi đi.
Nói xong lắc đầu, ra vẻ tức mình mà mà trở vào nhà.
Võ Tòng lại điềm nhiên vác gậy lên vai, bước khoát đạt lên núi Cảnh Dương. Đi được bốn năm dặm đường, đến chỗ chân núi, thấy bên đường có một cây lớn gọt trắng một quãng vỏ, có viết mấy hàng chữ lên trên. Võ Tòng đứng dừng lại ngửa mặt lên xem, thì thấy chữ yết rằng:
“Trên núi Cảnh Dương có con cọp lớn hại người, vậy phàm có khách thương qua lại, tất phải đợi đến giờ Tị, giờ Ngọ, Giờ Mùi, mà tụ họp đông người, sẽ đi qua núi. Xin chớ có liều mà chết”.
Võ Tòng xem xong cười mà nói rằng:
– Cái này là mưu mẹo của thằng hàng cơm, nhưng ta đây có sợ gì, định lừa người ta phải trọ lại ở hàng nó đây… nhưng ta đây có sợ gì?… Nói đoạn lại vung ngang cây gậy mà đi lên núi. Bấy giờ vào khoảng giờ Thân, mặt trời đã sắp tà tà lặn, Võ Tòng thừa lúc hơi men cao hứng, cứ vùn vụt bước tràn lên núi.
Đi độ nửa dặm đường, đến một tòa miếu cổ, chợt trông thấy trước cửa miếu dán một tờ bảng yết, chàng liền đứng dừng lại ngẩng lên để xem. Trong bảng yết rằng:
“Huyện Dương Cốc yết thị cho các hành khách bộ hành cùng biết. Hiện nay trên núi Cảnh Dương có con cọp lớn giết hại nhiều người. Bản huyện đã sắc cho các nhà đi săn lùng bắt chưa được. Vậy phàm khách thương đi đến đây, tất phải đợi có đông người, mà chờ đúng giờ Thìn, giờ Tỵ, giờ Ngọ, giờ Mùi thì mới qua núi được. Còn các giờ khác và khách đi một mình, đều cấm không cho đi qua núi, e khi thiệt hại tính mạng không chơi”.
Nay yết thị. Ngày… tháng… năm niên hiệu Chính Hòa.
Võ Tòng nom đến đấy, đã có ấn tín quan tư cẩn thận, bấy giờ mới tin trên núi có hổ, liền toan quay lại xuống núi để nghỉ. Đoạn rồi lại nghĩ thầm trong bụng rằng:
“Nếu bây giờ ta về đấy, tất nhiên bị chủ điếm chê cười, như thế là không phải tay hảo hớn… làm thế nào cho tiện? “.
Chàng nghĩ vơ vẩn một lát, rồi lại nói một mình rằng: Sợ cái gì? Ta thử đi xem đã làm sao?… Nói xong lại vác gậy mà sồng sộc đi lên.
Rượu này sức ấy tài kia,
Trời còn coi bé huống chi vật thường?
Ví không thiết thạch can trường
Gánh sao cho nổi tang thương với đời?
Khi Võ Tòng đi được mấy bước, nghe chừng hơi rượu đã bốc lên hừng hực, liền lật cái nón khoác về sau lưng, rồi cắp gậy vào một bên sườn, mà hăm hở bước đi. Hồi đó đương dạo tháng 10, đêm dài ngày ngắn, nên đi chữa được mấy chút đường thì thấy mặt trời đã lặn, chàng liền nói lẩm bẩm một mình rằng:
– Ở đây làm gì có hổ, chẳng qua họ chỉ sợ không dám đi lên đó thôi.
Nói đoạn lại dấn bước đi lên, bấy giờ hơi rượu càng ngày càng ngấm, lại càng nóng bức khó chịu, chàng liền một tay cầm gậy, một tay cởi phanh áo ngực mà đi thốc vào lối rừng cây. Chợt trông thấy viên đá xanh lớn để ở một bên đường, Võ Tòng liền dừng lại, dựng thanh gậy vào mạn rồi nằm lăn lên viên đá toan ngủ.
Đương khi nghiêng ngả thích tình, thì bỗng có một trận cuồng phong đưa đến, rồi nghe thấy ở đằng sau bụi cây có tiếng gầm lên dậy đất, đoạn rồi một con cọp rất lớn ở đâu xuất hiện ra.
Võ Tòng trông thấy, kêu lên một tiếng”Ái chà”, rồi nhẩy bổ dậy vớ thanh gậy nấp vào bên cạnh viên đá. Con cọp kia đương khi đói, miệng khát, trông thấy có mồi ăn, liền gầm lên một tiếng, cong vót đuôi lên, giơ hai vuốt chân trước cào xuống đất mấy cái, rồi nhún mình nhằm nơi Võ Tòng nấp mà nhẩy vọt xuống đánh sầm một cái, khác nào như đất lở trời long vậy.
Võ Tòng thấy vậy giật mình đổ toát mồ hôi, thành ra hơi rượu đương nồng, mà bỗng dưng mát lạnh, rồi vất mình đến vút một cái, mà tránh hẳn về sau lưng cọp.
Hổ ta trông về phía sau không được, liền đập hai hàng vuốt trước xuống đất, rồi ném mình mà quay ngoắt để vồ. Võ Tòng lại lùi sang một bước mà tránh hẳn về một bên. Hổ ta thấy vồ không trúng, thì gầm thét lên một tiếng như sấm đánh lưng trời, cơ hồ đất núi Cảnh Dương cũng phải ầm ầm chuyển động, rồi dựng thẳng đuôi lên cứng như gậy sắt và vật sang để đánh. Võ Tòng lại lánh về một bên, thành ra anh hổ lại đánh cái trẫng.
Nguyên giống hổ bắt người, thường dùng ba cách: Một là tát, hai là vồ, ba là đánh; Nay thấy dùng hết ba cách ấy, mà không ăn thua gì, trong lòng dạ đã chột đi một nửa phần, liền gầm lên một tiếng nữa, mà quay chồm trở lại.
Võ Tòng thấy hổ ta quay chồm lại, liền hai tay múa cây gậy, ráng hết sức bình sinh, giơ thực thẳng cánh, vụt một cái nghe rắc một tiếng, rồi có một cây to đổ ngay trước mặt.
Chàng định tình lại để nom thì té ra ngọn gậy đánh gấp quá, không trúng vào con cọp, mà lại trúng ngay vào cây khô ở bên, làm cho cây cũng gãy xuống mà gậy thì mất phăng đi một nửa, chỉ còn một nửa ở tay.
Bấy giờ con cọp nóng tiết, lại gầm thét ầm ĩ mà quay lại vồ luôn cái nữa.
Võ Tòng vội giật lùi lại vào khoảng hai mươi thước, vừa hay khi ấy hai chân trước của cọp ta vồ soài xuống chỗ đất ở trước mặt Võ Tòng, chàng liền vứt văng gậy ra một bên, rồi vung hai tay ra nắm lấy bờm con hổ mà ấn xuống đất.
Hổ ta hết sức cựa dậy, song bị Võ Tòng cũng hết đè xuống, mà giơ gót cẳng nhè giữa mặt con hổ mà rọi lấy rọi để một hồi. Hổ tức mình kêu gầm rít lên, rồi hai chân sau cào đập cào xuống mặt đất, làm cho đống đất đằng sau lõm xuống hẳn như vũng sâu vậy. Mãi sau hổ ta mệt nhoài mệt lử không còn hơi sức nào cự lại được, Võ Tòng liền tay trái giữ chặt lấy bờm ấn xuống đất, rồi rút tay phải ra mà giơ những nắm đấm tay như sắt, hết sức bình sinh, đánh luôn cho năm bảy mươi quả đấm nữa.
Hổ ta bị đấm một lúc, vọt máu tươi ra khắp cả mồm mũi và hai mắt, rồi chỉ thở lên hồng hộc, mà lử đi không cựa được.
Bấy giờ Võ Tòng buông tay ra, rồi chạy đến bên gốc cây tìm lấy đoạn cây gãy, mà đem đến đánh luôn mấy chục cái nữa, cho hổ chết hẳn mới thôi.
Đoạn rồi chàng sấn vào vũng máu, định xách con hổ đem xuống dưới núi, song vì lúc trước dùng sức quá mạnh, thành thử bấy giờ chân tay đều rời rả cả ra, mà không sao nhắc nổi lên được.
Võ Tòng thấy vậy, liền bỏ con hổ ở đấy, rồi lại lên trên viên đá ngồi nghỉ. Một lúc chàng nghĩ thầm rằng:”Bây giờ trời đương tối tăm thế này, nếu ta ngồi đây mà lỡ có con hổ nào nữa bò ra, thì cự địch làm sao được? Bất nhược ta hãy xuống núi tìm chỗ ngủ, rồi sáng mai sẽ liệu”.
Nghĩ đoạn liền lấy nón, lại khoác lên vai rồi quanh quất theo lối rừng cây mà đi lần xuống núi… Vừa đi được nửa dặm đường thì quả nhiên lại thấy hai con cọp nữa đương ở trong đám bụi cỏ hiện ra, chàng bèn kêu một tiếng”Trời ơi” mà rằng:
– Phen này thì ta nguy mất!.
Nói đoạn thì thấy hai con cọp ấy bỗng dưng đứng dựng ngay lên mà đi. Võ Tòng địng tình lại để xem thì té ra là hai người đầu đội lốt hổ, mà mỗi người tay cầm một cái đinh năm đi đến.
Hai người ấy trông thấy Võ Tòng thì lấy làm kinh ngạc mà hỏi rằng:
– Anh… anh này có dễ… ruột beo, gan sư tử, mật lớn bọc cả lấy thân hay sao mà đêm hôm không có khí giới gì ở trong tay lại dám đi qua đây như vậy? Anh… anh là người hay ma?
Võ Tòng lại hỏi rằng:
– Hai các anh là người thế nào?
Hai người kia đáp rằng:
– Chúng tôi là đám đi săn ở bản xứ đây.
– Các anh định lên núi làm gì?
Hai anh kia lại chếnh choáng người lên mà rằng:
– Chết nỗi anh không biết à? Ở đây có một con cọp rất to, đêm đến vẫn ra ăn thịt người, đám đi săn chúng tôi hiện đã thiệt mất bảy tám mạng, còn đám thương khách qua lại cũng chết hại không biết đến đâu mà kể. Bây giờ quan huyện sức giấy cho lý trưởng làng tôi phải loan cho bọn đi săn để lùng bắt, nhưng giống gớm ghê ấy nào đã ai dám đến gần được nó ở đâu? Bởi thế mà chúng tôi bị đòn vọt mấy lần cũng chưa sao bắt được. Hôm nay anh em kéo đến mười mấy tên dân phu trong làng, anh nào anh nấy đều phải mang gậy cung tên thuốc mà nấp ở các nơi để rình. Vừa rồi trông thấy anh ở trên núi đi xuống chúng tôi lấy làm kinh sợ tưởng hắn đã ra, ai ngờ lại là người, mà sao dám đi bây giờ? Thế anh có trông thấy con cọp ấy không?
Võ Tòng cười mà đáp rằng:
– Ta đây là Võ Nhị Lang người ở huyện Thanh Hà, vừa rồi đi qua đám rừng cây ở trên, bỗng có con cọp ra đó bị ta đánh cho mấy cẳng tay chết rồi.
Hai anh đi săn nghe nói ngây hẳn người ra một lúc rồi mới nói rằng:
– Không có lẽ thế?
– Các anh không tin, thử nom xem trên mình ta có máu me be bét ra đây không?
– Làm thế nào mà đánh được nó?
Võ Tòng liền đem chuyện lúc đánh nhau với hổ thuật cho hai người nghe.
Hai người nghe xong thì hoảng hốt mơ hồ vừa mừng vừa sợ, rồi gọi đám phu cùng đến đó mà nói chuyện cho chúng nghe.
Võ Tòng bảo với tụi đi săn rằng:
– Các anh thử theo ta lên núi này mà xem.
Chúng nghe nói vẫn còn nửa tin nửa ngờ chưa dám quả quyết đi lên. Sau các người đều có dao gang đá lửa liền bàn nhau thắp đèn đến dăm bảy bó đuốc mà liều theo Võ Tòng đi lên núi.
Khi tới giữa núi, quả nhiên có con hổ nằm chết lăn queo ở đó chúng thấy mừng rũ người ra, rồi bảo nhau về báo cho Lý Trưởng biết. Còn mấy tên dân phu thì lấy thừng chão ra trói chặt con hổ lại mà khiêng xuống núi. Vừa đến chân núi thì đã thấy một tụi bảy tám người ầm ầm kéo đến, rồi khiêng một cỗ kiệu để đón Võ Tòng về nhà huynh dịch ở làng để ngủ. Khi tới nơi, Lý Trưởng trong làng đã đến đấy đón tiếp Võ Tòng vào, rồi chúng khiêng con hổ về ở thảo sảnh. Bấy giờ các đàn anh trong làng, cùng hai ba mươi tên tay săn đều kéo đến chào Võ Tòng mà hỏi thăm tên họ và việc say rượu đánh hổ, kể suốt đầu đuôi cho chùng nghe một lượt.
Chúng liền cả mừng mà rằng:
– Ngài thực là anh hùng hảo hán, hiếm có xưa nay.
– Nói đoạn các tay săn liền đem mấy món dã vị, để tạm mời Võ Tòng uống rượu. Nhân khi đánh hổ xong, nghe trong mình mệt nhọc liền nói với mọi người để tìm nơi yên nghỉ. Các đàn anh thấy vậy, sai trang khách dọn một phòng, để mời Võ Tòng vào nghỉ.
Đến sáng hôm sau cho mấy người lên huyện báo trước, rồi nhất diện xếp đặt chõng thừng dự bị để đem hổ lên trình huyện. Khi Võ Tòng trở dậy rửa mặt mũi xong, thì đám huynh dịch trong làng đã giết xong một con dê và đem một gánh rượu đến để tiếp đãi. Võ Tòng mặc khăn áo chỉnh tề, rồi ra tiếp kiến mọi người.
Bấy giờ các đàn anh đều cất chén mời Võ Tòng mà nói rằng:
– Dân chúng tôi đây bị con cọp già ấy quấy nhiễu làm hại bao nhiêu người mà các tay săn cũng bị mấy phen đánh phạt. Nay nhờ có ngài ra tay trừ được nó đi, một là hạnh phúc cho nhân dân chúng tôi, mà hai là bọn hành khách được bình an vô sự, thật là ơn nặng nghĩa dầy, không biết đâu mà kể, vậy chúng tôi xin nâng chén rượu này để mừng ngài vạn phúc!
Võ Tòng từ tạ mà nói lại rằng:
– Đó là nhờ phúc ấm của các ngài đây, chứ như tôi có gì mà tài giỏi?
Nói xong mọi người đều đến chào mừng và mời Võ Tòng uống bữa rượu hôm ấy rất là vui vẻ.
Khi uống rượu xong, chúng liền khênh hổ ra đặt vào chõng và đem tấm đoạn hoa hồng ra khoác lên cho Võ Tòng, còn hành lý của Võ Tòng thì gửi ở đó, mà nhất diện cùng nhau lên huyện. Ra tới cổng trang đã thấy quan Huyện Dương Cốc sai người đến đón Võ Tòng cùng lên kiệu cùng chúng cùng đi. Chúng khênh chõng hổ đi trước mà cũng phủ tấm đoạn hoa hồng lên trên.
Bấy giờ nhân dân huyện Dương Cốc nghe đồn đánh chết hổ trên núi Cảnh Dương, thì đâu đấy đi đón xem chật ních cả đường, Võ Tòng ngồi trong kiệu nom ra đã thấy chen vài thích cánh hết vòng trong đến lớp ngoài rộn rịp, ầm ầm, những người túm vào xem hổ, không biết cơ man nào mà kể!
Khi tới huyện đường, quan Huyện Dương Cốc trông thấy Võ Tòng, quả nhiên là một tay anh hùng dũng, lại trông thấy con cọp lông gấm to lớn như thế, thì trong bụng nghĩ thầm:”Nếu không phải một tay đại hán như thế kia, thì làm sao đánh được con hổ ấy!”.
Nói đoạn liền cho mời Võ Tòng lên công đường, rồi hỏi thăm đầu đuôi chuyện đánh hổ ra sao? Võ Tòng lại đem chuyện thuật lại một lượt cho mọi người nghe, các người đứng quanh đấy, nghe rõ đầu đuôi, thì ai nấy cũng đều choáng người kinh lạ, mà nhìn chòng chọc vào cả Võ Tòng.
Quan Huyện lại sai rót rượu mừng Võ Tòng trước nơi công chúng, đoạn rồi sai lấy món tiền một nghìn quan của các huynh dịch gom lại để đem thưởng cho Võ Tòng. Võ Tòng không nhận tiền thưởng từ tạ với mọi người rằng:
– Đó chả qua là phúc ấm của dân dự miền này nên trong khi bất ý ngẫu nhiên mà trừ ngay đi được, chứ chúng tôi đây công lao gì mấy, mà dám nhận tiền thưởng của các ngài. Tôi nghe nói những tay săn ở đây chỉ vì con cọp già ấy, mà phải bị trách phạt bao nhiêu phen, vậy thiết thưởng nên đem một nghìn quan tiền đó, mà chia cho các người ấy thì phải hơn.
Quan Huyện cùng mọi người ấy đều đáp rằng:
– Cái đó xin tùy ý tráng sĩ.
Võ Tòng cả mừng, liền đứng trước mặt công chúng mà lấy món tiền một nghìn quan ấy ra, chia thưởng cho các tay đi săn hết cả.
Mới hay:
Giữa đường gai góc ra tay,
Anh hùng phận sự xưa nay thường tình.
Vì đâu dẹp nỗi bất bình,
Há rằng trục lợi tham danh như người.
Quan Huyện Dương Cốc thấy Võ Tòng vừa phần lực lưỡng khác người, mà lại có lòng trung hậu hào hiệp như thế, thì lấy làm hâm mộ, mà có ý muốn đài cử lên, liền hỏi rằng:
– Hảo Hán vốn là người huyện Thanh Hà, cùng với huyện Dương Cốc không xa mấy, vậy bản chức muốn lưu hảo hán ở lại đây, làm một chức Đô Đầu trong bản huyện, hảo hán nghĩ sao?
Võ Tòng có ý ngần ngừ một lát, rồi đáp rằng:
– Tướng công đã có lòng hạ cố chúng tôi cũng xin vâng.
Quan Huyện nghe nói cả mừng, bèn sai gọi Áp Ty đến lập tức thảo giấy cấp cho Võ Tòng làm chức Đô Đầu ở đó. Đám huynh dịch thấy vậy, đều đến cất chén mừng Võ Tòng, có tới ba bốn ngày mới dứt.
Võ Tòng ở huyện Dương Cốc nhận chức Đô Đầu, được quan trên có lòng yêu nể, dân dưới cũng nghe tiếng mà phục tòng, không còn điều chi e ngại. Duy có một điều là chàng định về thăm anh, mà chưa đi được, thì thỉnh thoảng cũng không khỏi áy náy trong lòng đôi chút.
Một hôm chàng đi chơi mát ở ngoài phố huyện, chợt đằng sau có tiếng gọi lên rằng:
– Võ Đô Đầu ơi! Nay Đô Đầu đã phát đạt rồi, không còn biết nhìn đến anh em nữa nhỉ?
Võ Tòng nghe nói, thì giật mình quay nhìn rồi kêu lên một tiếng:
– Ối trời ơi! Kìa!…
Cho hay là:
Đã sinh ra kiếp đa tài,
Đem thân đảm lấy việc đời mới cam.
Những khi thú độc sơn lâm,
Ở đời hổ dữ lang tham còn nhiều…
Bể Đông đã quyết tay chèo,
Dẫu cho máu nổi ngọn triều cũng chơi!
Ví không tâm huyết hơn người,
Thi tài kia với vô tài khác đâu.
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Trong thiên hạ người ta nói chuyện ma qủy thì dễ, mà nói ra hùm beo thì khó, tại sao? Vì ma qủy âm thầm, mà hùm beo, dữ dội, nói ma qủy thì đâu đích xác, chỉ theo ý nghĩ nói ra, còn nói hùm beo thì phải có thực, nói ra nó phải thế nào, cho nên bộ truyện Thủy Hử không tả chuyện quỷ quái, mà tả hổ cũng nhiều, đến hai ba lần, với ý tả ra việc dễ không cần, chỉ tả việc khó, mà thấy vui như nom trước mắt.
Tả hổ như là hổ sống, đã tả hổ ra như sống, phải tả đến người vồ bắt hổ, tả người vồ bắt hổ, lại hai ba lần vồ mới trúng, cho rõ ra sức hổ thế nào, mới đọc thấy như là con hổ sống, đấy là bút lực hơn đời.
Ta thường nói, tài tử với bất tài cách xa nhau, nào phải chỉ mươi mười lăm dặm, như tả hổ này phải làm cho sống lại, tả hổ sống lại cần tả lúc vồ người, nay đem họp hàng nghìn người lại, vận ra ngàn lòng, duỗi ra ngàn tay, cầm lấy ngàn bút, chép ra không rõ con hổ, thì không thấy được rõ là tả hổ, chỉ có Thi Nại Am, chỉ một người, một lòng, một tay, một bút, đối với giấy tờ, không phí bút nhiều, như vẽ ra một hổ một người, thấy như sống động, lại tả phụ thêm nào gió bay cát bụi, cây đá núi rừng… người như người thần, hổ như hổ dữ, gió bụi đá cây, chính nơi rừng hổ, khiến cho người đọc, choáng mắt rối lòng, như thế mấy ai tả nổi?
Đọc một thiên tả hổ, mà khen người ấy người thần, hổ kia hổ dữ, phải đâu tả dễ dàng ra, mà lại còn khéo nữa, sau khi xem xong bảng văn cửa miếu mới tin rằng có, muốn quay trở lại, đã thấy sợ oai hùm, tới lúc gió reo hùm lại, càng ghê khiếp nữa, lại phải nấp vào sau tảng đá, tới khi hổ to lớn lại gầm lên, khiến người phải kinh, mà mồ hôi toát ra tỉnh cả hơi rượu, nghĩ phải đánh hổ cho bằng được, dùng hết khí lực, chân tay rời rã, sau lại ngồi nghỉ trên tảng đá xanh, sắc trời đã tối nhá nhem, còn sợ lại gặp hổ nữa, phải lần xuống núi, xuống núi chẳng bao xa, thấy trong đám bụi cây nhảy ra đôi hổ, lại kinh khiếp chùn tay, vì đả hổ mệt rồi, sợ không còn sức nữa… tả ra những đoạn văn như đứng trong nguy hiểm đó, cùng với hồi sau này giết hổ ở Nghi Lĩnh, không một nét bút giống nhau, mới thấy tài tình.
Khi đó Võ Tòng nghe có người gọi, bèn quay lại nom, thì chính người ấy là Võ Đại Lang. Anh ruột của mình, liền thụp ngay xuống đất lạy mà rằng:
– Ca ca cũng ở đây hay sao? Hơn một năm nay tiểu đệ không được gặp ca ca, trong bụng lấy làm áy náy vô cùng.
Võ Đại Lang đáp lại rằng:
– Nhị đệ đi trong bấy nhiều lần, làm sao mà không gửi thơ về cho ta, khiến cho ta vừa oán giận, mà lại nhớ mong hoài.
– Sao ca ca lại nói vừa oán giận vừa nhớ mong hoài?
– Ta oán giận là khi chú còn ở huyện Thanh hà chỉ uống rượu say, rồi lại đánh nhau với người khác để cho ta bị quan tư đòi hỏi quấy rầy, đến mấy tháng trời mới gỡ được xong… Ta mong là mong vì ta mới lấy được người vợ ở Thanh Hà, rồi bao quân khốn nạn nó cứ làm rắc rối cả ngày; nếu có chú ở nhà, thì còn đứa nào dám đến mà xấc láo. Bây giờ ta ở đây cũng được yên thân, lại phải dọn đến phố đây thuê nhà mà ở bởi thế càng mong nhớ lắm.
Nguyên Võ Tòng cùng Võ Đại Lang, là hai anh em ruột, cùng cha mẹ sinh ra, song Võ Tòng thì mình cao tám thước, tướng mạo đường đường, sức lực kể có trăm ngàn cân nặng, bởi thế mới đánh được hổ trên núi Cảnh Dương, mà lẫy lừng danh tiếng. Còn Võ Đại thì người ngắn không đầy năm thước, hình dung xấu xí, đầu tóc mặt mũi trông rất buồn cười, người huyện Thanh Hà thấy anh ta tủn hoẳn như thế, nên thường gọi anh ta là Tam Thốn Đinh Xác Thụ Bì.
Trong hạt huyện Thanh Hà có một nhà phú hộ, nuôi một đứa hầu con tên là Kim Liên, hơn hai mươi tuổi, nhan sắc cũng có vẻ ưa nhìn. Phú hộ có ý muốn gạ gẫm, song Kim Liên nhất định không nghe, toan đi mách với bà chủ là vợ phú hộ. Nhân thế lão phú hộ tức giận, bèn đem con Kim Liên gả cho Võ Đại Lang mà không lấy một đồng một chữ nào cả. Từ khi Võ Đại Lang lấy được Kim Liên về, thì bọn nhàn đãng chơi bời ở quanh đấy, cứ hàng ngày đến nhà để chế diễu, làm cho Võ Đại Lang tức bực muôn phần.
Còn Kim Liên thấy hình dạng Võ Đại tủn hoẳn, tùn hoằn, nhân vật không ra nhân vật, mà không có chút gì ra vẻ phong lưu, thì cũng đem lòng khinh dễ, mà ngày ngày phóng túng tự do.
Thỉnh thoảng mấy đứa tụi du đãng lại vơ vẩn đến cửa mà nói rằng:”Miếng thịt dê rơi vào miệng chó”, làm cho Võ Đại Lang càng tức bực, nên trong lòng phải thu xếp cửa nhà mà dọn đi nơi khác.
Khi tới huyện Dương Cốc, thuê một gian nhà, hai vợ chồng cùng ở, rồi mỗi ngày Võ Đại Lang làm bánh chưng ra phố bán để kiếm ăn. Hôm ấy nhân gánh hàng đi bán, chợt gặp Võ Tòng, thì hai nhưng em chuyện trò với nhau rất là vui vẻ. Bấy giờ Võ Đại bảo với Võ Tòng rằng:
– Này em này, hôm nọ ta thấy phố sá đồn ầm lên rằng có người họ Võ đánh chết con hổ trên núi Cảnh Dương, rồi quan huyện cho làm chức Đô Đầu ở đây. Ta vẫn đoán chắc là em, nhưng chưa làm sao mà biết đích xác, nay được gặp ở đây, thực là may lắm. Thôi, ta hãy nghỉ sự buôn bán, để cùng về nhà chơi đã.
– Ca ca thuê nhà ở đâu?
Võ Đại Lang trỏ ra trước mặt mà bảo rằng:
– Nhà ở ngõ Tử Thạch kia.
Võ Tòng bèn gánh đỡ hàng cho anh, rồi theo Võ Tòng về ngõ Tử Thạch. Khi tới cửa, Võ Đại gõ cửa gọi người ra mở. Đoạn rồi thấy một người đàn bà trẻ trung là vợ Võ Đại ở trong nhà, chạy ra mà hỏi rằng:
– Sao mình về sớm thế?
Võ Đại trỏ vào Võ Tòng mà bảo rằng:
– Chị mầy không biết, chú nó đã về đây, đi ra mà chào đi.
Nói đoạn nhắc lấy gánh hàng cất vào trong nhà, rồi chạy ra bảo em rằng:
– Nhị đệ vào trong nhà này chào chị đi.
Võ Tòng vâng lời, vén màn vào chào chị dâu.
Võ Đại có dáng vui mừng bảo với vợ rằng.
– Đại tẩu ơi! Người họ Võ đánh hổ trên núi Cảnh Dương, mới rồi nhận chức Đô Đầu, tức là em ta đây.
Người đàn bà nghe nói, liền chấp tay vái chào lại Võ Tòng.
Người đàn bà chạy đến nâng Võ Tòng dậy mà nói rằng:
– Thúc thúc chớ làm như vậy không tiện.
– Xin tẩu tẩu cứ ngồi lên nhận lễ.
– Lẽ đâu dám thế? Mọi hôm tôi nghe thấy mụ Vương Bà bên cạnh vách đây nói chuyện có người đánh chết hổ, đã toan rủ nhau đi xem, nhưng mà bận việc nên không đi được, ai ngờ lại chính là thúc thúc đây. Xin mời thúc thúc lên gác ngồi chơi nói chuyện.
Nói đoạn ba người cùng lên gác ngồi, rồi vợ Võ Đại bảo với chồng rằng:
– Để tôi ngồi tiếp thúc thúc đây đại ca đi kiếm thức gì, về mời thúc thúc xơi rượu.
Võ Đại nói:
– Phải lắm, nhị đệ hãy ngồi chơi đấy, rồi tôi lên ngay bây giờ.
Nói xong liền ba chân bốn cẳng chạy đi xuống gác.
Bấy giờ người đàn bà thấy tướng mạo Võ Tòng như vậy, thì nghĩ thầm trong bụng rằng: “Hai anh em nhà này, cùng cùng một cha mẹ sinh ra, sao mà Võ Tòng lại lực lưỡng thế kia, ví phỏng ta lấy được người chồng như thế, thì cũng đáng một đời… như ông chồng mình thì khổ quá, người chẳng ra người, ma chẳng ra ma, không còn thể nào mà chịu được! Ừ! Như vậy anh Võ Tòng kia, hổ anh ta còn đánh được, trách nào mà khí độ chẳng hơn người? Nghe nói anh ta chưa vợ, hay tiện đây ta bảo đến cùng ở chung một nhà, thì cái đoạn nhân duyên sau này há chẳng thú lắm sao? “
Nghĩ đoạn tủm tỉm cười mà hỏi Võ Tòng rằng:
– Thúc thúc ở đây được bao lâu?
Võ Tòng đáp:
– Mới đến đây được mười lăm hôm nay.
– Thúc thúc ở đâu?
– Tôi hiện ở tạm trong huyện.
– Nếu thế thì không tiện lắm nhỉ?
– Tôi có một mình cũng dễ xử, vả chăng sớm khuya đã có đám thổ binh hầu hạ.
– Bọn ấy nó hầu hạ làm sao được chu tất? Chi cho bằng thúc thúc dọn về ở cả đây, để tôi trông nom cơm nước một thể, thỉnh thoảng thúc thúc có muốn ăn uống gì, cũng đỡ phải phiền lòng nghĩ đến, như thế chẳng tiện hơn sao?
– Vâng xin cám ơn tẩu tẩu.
– Chẳng hay là có thiếm ấy ở đâu? Thì đem về cũng tiện.
Võ nhị nói:
– Tôi chưa có vợ con chi cả.
– Năm nay thúc thúc bao nhiêu tuổi.
– Võ nhị tôi hai mươi lăm tuổi.
Người đàn bà mỉm cười mà rằng:
– Vậy thì thúc thúc hơn tôi ba tuổi, dạo trước thúc thúc ở đâu đến đây?
– Tôi ở Thương Châu hơn một năm, vẫn tưởng ca ca còn
ở huyện Thanh Hà, ai ngờ cũng dọn đến đây rồi.
– Thúc thúc không biết, nói ra dài lắm, từ khi tôi lấy ca ca rồi, bị người ta nói khinh rẻ khó chịu, bất đắc dĩ mới phải dọn đến đây ở, giá được hùng tráng như thúc thúc, thì đứa nào dám ho he đến nữa.
– Vì ca ca tôi xưa nay vốn tính không liều lĩnh như tôi.
Chị chàng ta lại cười mà rằng:
– “Người không xương cứng, sao vững được thần” Tính tôi xưa nay thích nhanh nhẹn, chứ những người lì lì gọi ba lần chẳng thưa, bốn lần chẳng chuyển như thế, thì chịu làm sao được?
Võ Tòng nói:
– Tuy thế gia huynh tôi không sinh sự, không phiền đến tẩu tẩu phải lo.
Đương khi nói chuyện, thì Võ Đại đã mua rượu thịt và cùng các thứ hoa quả đem về bếp, rồi chạy lên gọi vợ mà bảo rằng:
– Mình xuống dọn rượu mang lên đây.
Chị chàng nghe nói liền bảo Võ Tòng rằng:
– Chú tính người thế, thì còn biết gì nữa, chú đương ngồi ở đây mà gọi tôi đứng dậy thì sao cho tiện?
Võ Tòng nói:
– Xin tẩu tẩu cứ tự tiện cho.
Người đàn bà lại lên tiếng bảo Võ Đại rằng:
– Sao không nhờ Vương Bà ở bên kia sang dọn giúp cho? Có thế cũng không biết làm sao được.
Võ Đại liền gọi Vương Bà ở nhà liền vách sang dọn tử tế, rồi bày lên bàn trên gác. Đoạn rồi bảo vợ ngồi vào bàn chủ vị ở giữa, để Võ Tòng ngồi đối diện, còn mình ngồi ra một bên. Bây giờ Võ Đại nâng bầu rượu rót ra ba chén, rồi người vợ nâng chén rượu lên mà nói với Võ Tòng rằng:
– Thúc thúc chớ cười, ở đây không có gì thết đãi, xin thúc thúc xơi chén rượu suông.
Võ Tòng nói:
– Cám ơn tẩu tẩu, sao tẩu tẩu dạy quá lời thế?
Bên kia Võ Đại thì lúi húi vừa hâm rượu vừa rót rượu, mặc cho hai người thù tạc với nhau, mà không nói câu gì cả.
Người đàn bà cười nụ mà nói rằng:
– Cá thịt đây sao thúc thúc không chịu ăn một miếng nào cả, để tôi xin gắp cho thúc thúc xơi.
Võ Tòng thấy vậy, cho là tình ruột thịt chị em trong nhà, nên cứ điềm nhiên ăn uống không lý hội gì đến tình kia ý khác.
Còn Võ Đại vốn tính vụng về, xưa nay có biết tiếp đãi đến ai, vì thế nên khi chị chàng kia phóng ý tự nhiên, uống dăm ba chén rượu, rồi giương hai con mắt nhìn chòng chọc vào Võ Tòng mà không chớp, Võ Tòng thấy vậy thì có ý ngượng, cúi đầu xuống mà không dám trông lên.
Uống rượu được một lúc, rồi Võ Tòng xin phép trở về huyện, vợ chồng Võ Đại cố lưu lại không được, liền cùng nhau đưa Võ Tòng xuống dưới gác.
Khi xuống đến dưới nhà, chị chàng ta lại nói với Võ Tòng rằng:
– Thúc thúc tất phải dọn đến đây mà ở, nếu không thì hai vợ tôi mang tiếng người ta chê cười, là anh em không bằng người ngoài. Mình nên thu xếp một gian phòng. Để mời thúc thúc về đây cho vui, chứ ở phố xá người ta mai mỉa.
Võ Đại nói:
– Đại tẩu nói phải đấy, nhị đệ nên dọn về đây ở cho tôi đỡ buồn.
Người đàn bà lại dặn khan dặn vãn rằng:
– Thúc thúc phải nhớ mới được, tôi ở đây mong đợi thúc thúc đó.
Võ Tòng vâng lời, chào anh chị mà đi về huyện.
Về tới huyện. Võ Tòng liền đem chuyện kêu với quan Huyện và xin phép dọn ra ngõ Tử Thạch cùng ở với anh, và hằng ngày xin đúng giờ vào hầu việc. Quan Huyện nghe nói khen Võ Tòng là người hiếu để liền y lời cho phép ngay. Võ Tòng tạ ơn Quan Huyện, rồi thu thập hành lý cùng các đồ vật, và gọi một tên thổ binh để gánh ra nhà Võ Đại.
Võ Đại thấy em đến, thì trong lòng vui mừng khôn xiết, liền tìm thợ mộc về ngăn một gian phòng rồi kê giường ghế, bàn và lò sưởi để cho Võ Tòng ở đó.
Nước non nghĩa nặng,
Cốt nhục tình sâu,
Tài cao chí cả đến đâu,
Anh em cốt nhục dễ hầu dám khinh.
Thế gian lắm kẻ bạc tình,
Bỏ nhà làm bộ tung hoành nước non.
Biết đâu hiếu để tan hồn,
Thì lòng chủng loại phổng còn được chăng.
Võ Tòng từ khi đến ở nhà cùng anh thì người chị dâu hết sức chiù chuộng, sáng dậy nước sôi hầu hạ, trưa đến cơm cháo trông nom, không hề chút gì trễ nãi. Võ Tòng thấy chị dâu khó nhọc như vậy, toan bắt một tên thổ binh ra để hầu hạ thổi nấu, song vợ Võ Đại nhất định không nghe mà tự xin đảm nhiệm hết cả.
Mấy hôm sau Võ Tòng lại đưa tiền cho Võ Đại mua các thức trà bánh, để mời phố xá xóm giềng đến chơi nói chuyện. Các nhà hàng phố cũng đem trà bánh đến biếu đãi anh em Võ Tòng, đi lại rất là tử tế.
Võ Tòng lại lấy một tấm đoạn hoa đưa tặng người chị dâu để may áo xiêm. Vợ Võ Đại thấy vậy, thì hớn hở mừng thầm mà rằng:
– Thúc thúc có lòng yêu như vậy, tôi xin vâng lĩnh ngay, không dám từ chối.
Từ đó Võ Tòng cứ ngày hai buổi đi vào hầu trong huyện, rồi lại trở về ăn ngủ ở nhà Võ Đại, còn Võ Đại thì vẫn giữ nghề bán bánh để kiếm ăn như trước. Mỗi khi Võ Tòng ở huyện về bất cứ sớm khuya, người đàn bà đều chỉnh đốn cơm canh, mà thờ phụng Võ Tòng một cách vui vẻ thân mật, làm cho Võ Tòng phải e ngượng không đành tâm. Thỉnh thoảng chị ta lại kiếm chuyện khơi đùa, song Võ Tòng là một người ngay thẳng vẫn cứ điềm nhiên, có chuyện thì nói, không chuyện thì thôi, cũng không lấy gì làm nghi ngại.
Thấm thoát hơn một tháng trời, bấy giờ vào khoảng tháng chạp mùa đông, ngày nào cũng gió bấc đìu hiu, mây đen kín mít, mà tuyết phủ sương che rất chiều lạnh lẽo. Một buổi sáng hôm kia, Võ Tòng vào hầu huyện, mãi quá trưa không về ăn cơm. Vợ Võ Đại ở nhà, cơm nước trưa xong, liền giục chồng đi bán hàng chiều, rồi nhờ Vương Bà ở bên cạnh vách, mua các thứ rượu nhắm mang về, và quạt một lò lửa để sẵn vào đó. Đoạn rồi trong bụng nghĩ thầm rằng:”Hôm nay ta phải tìm cách để khiêu ghẹo anh này, không có lẽ anh ta là đá gỗ mà không động tình được! ” Nàng nghĩ vậy, thì trong bụng hớn hở mừng thầm, liền ra trước rèm để đợi ngóng Võ Tòng.
Được một lát thấy Võ Tòng lặn lội trên đá, tuyết đi về, chị chàng ta vội mở cánh cửa rèm ra đón mà nói rằng:
– Thúc thúc hôm nay rét lắm nhỉ?
Võ Tòng cảm ơn đáp lại, rồi bước vào vào trong cửa mà bỏ nón xuống, chị chàng kia liền hai tay đỡ nón xuống cho Võ Tòng. Võ Tòng thực bụng thấy vậy nói rằng:
– Có đâu dám phiền tẫu tẩu như vậy?
Nói đoạn treo nón lên vách, rồi cởi đai nịt và áo dài ra, mà đem treo vào phòng. Người đàn bà bảo với Võ Tòng rằng:
– Sáng hôm nay tôi đợi suốt buổi, sao không thấy thúc thúc về ăn cơm?
– Tôi có anh em bạn ở trong huyện mời ăn sáng, nên không về được. Vừa rồi lại có người mời uống rượu, nhưng tôi không muốn ở lại, đành phải tháo để về đây.
Người đàn bà cười mà rằng:
– Nếu vậy thúc thúc vào lò sưởi cho ấm.
Võ Tòng vâng lời rồi tháo giày ướt, đi sang đôi giầy khác, mà ngồi vào ghế bên cạnh lò lửa ở phòng khách để sưởi.
Chị chàng kia đóng cửa trước cài cửa sau cẩn thận, rồi đem các thức nhắm bày vào bàn trong phòng Võ Tòng.
Võ Tòng thấy vậy liền hỏi:
– Ca ca đi đâu chưa về?
– Ca ca còn đi bán hàng đã về đâu, tôi xin hầu thúc thúc mấy chén rượu cho vui.
– Xin để đợi ca ca về sẽ uống.
– Đợi thế nào được, biết bao giờ mà đợi?
Người đàn bà nói xong liền đem rượu ra hâm.
Võ Tòng nói.
– Xin tẩu tẩu ngồi đây, để tôi dọn đỡ.
Chị chàng cười mà rằng.
– Thúc thúc cứ ngồi, để tôi làm cũng được.
Nói đoạn cũng kéo chiếc ghế, để bên cạnh lò lửa để ngồi, rồi rót rượu ra cầm ở tay mà bảo với Võ Tòng rằng:
– Trời đương rét lạnh thế này, xin thúc thúc uống một chén rượu thành đôi nữa.
Võ Tòng lại tiếp lấy uống hết, rồi cũng rót một chén đưa mời chị dâu. Người đàn bà uống xong lại rót luôn chén nữa, để lên bàn trước mặt Võ Tòng, hơi lộ da bụng, bỏ rũ tóc mây, miệng cười chúm chím như bông hoa, mà bảo Võ Tòng rằng:
– Tôi thấy người ta nói rằng: Thúc thúc có nuôi một người con hát, ở phố bên kia trước cửa huyện, không biết rằng có thực chăng?
Võ Tòng đáp rằng:
– Tẩu tẩu đừng nhge người ta nói càn làm gì, tôi đâu có phải một người như thế đâu?
Người đàn bà lại nói:
– Chẳng chắc đâu! Miệng thế nhưng lòng lại khác thì sao?
– Tẩu tẩu không tin, cứ hỏi ca ca thì biết.
– Người ấy thì còn biết gì, nếu biết được những việc ấy, thì chả phải đi bán bánh, xin mời thúc thúc xơi chén rượu nữa.
Nói xong lại rót rượu mà uống luôn ba bốn chén nữa. Bấy giờ người đàn bà đã hơi men chếnh choáng, lại càng khiêu động lòng xuân không ai giữ được, liền kiếm chuyện để khiêu ghẹo Võ Tòng.
Võ Tòng đã hơi biết ý, chỉ cúi đầu mà không nói câu gì nữa. Đoạn rồi người đàn bà đứng dậy đi hâm rượu, thì Võ Tòng lấy cái que cời ra để gảy lò than mà nghĩ ngợi một mình. Khi người đàn bà hâm rượu xong đem vào buồng, thì một tay cầm vò rượu, một tay vỗ ngay vào vai Võ Tòng mà nói rằng:
– Thúc thúc chỉ mặc thế này mà không lạnh à?
Võ Tòng thấy vậy, đã có sáu bảy phần khó chịu trong lòng bèn im mà không nói gì cả.
Người đàn bà giơ tay giật lấy cái que cời mà rằng:
– Thúc thúc không quen cời lửa để tôi làm cho. Làm sao cũng được như lò lửa thường nóng luôn mới được.
Võ Tòng lại thấy khó chịu lên đến tám chín phần, đành phải ngôi im thin thít. Bấy giờ dục tâm của người đàn bà chừng đã bốc lên như lửa cháy, không còn hiểu đâu đến Võ Tòng có đồng ý hay không liền vứt cái que cời xuống, rồi rót ra chén rượu uống hết một nửa, còn một nửa đưa cho Võ Tòng mà bảo rằng:
– Nếu có phải là người hữu tình, thì uống hết nửa chén này.
Võ Tòng giật lấy chén rượu hất xuống đất mà nói rằng:
– Tẩu tẩu không nên dơ dáy như thế?
Nói đoạn đẩy người đàn bà một cái, rồi trợn mắt lên mà rằng:
– Võ nhị này là thằng con trai đội trời đạp đất, không phải giống chó mà làm bại hoại phong hóa, bỏ mất luân lý kia! Tẩu tẩu chớ nên giở lối vô liêm sĩ như vậy, lỡ khi có đến thế nào thì mặt Võ Nhị này còn nhận thấy tẩu tẩu, chứ cái nắm tay kia không biết tẩu tẩu đâu… Từ nay xin đừng thế mới được.
Chị chàng kia nghe như vậy, thì chết nửa phần ruột, vừa tức vừa thẹn, rồi đẩy cái ghế ra mà nói rằng.
– Người ta đùa cho vui, thế mà cho là thực hay sao? Người đâu không biết lòng kính trọng của người ta?
Nói đoạn dọn bát chén đi thẳng xuống bếp. Còn Võ Tòng thì buồn bực uất ức mà ngồi ở trên buồng một mình.
Được một lát Võ Đại đi bán hàng về, vừa bước chân vào đến cửa đã thấy người đàn bà khóc sướt mướt, hai mắt đỏ hoe, chàng ngạc nhiên mà hỏi rằng:
– Đánh nhau với ai đó?
Chị chàng vừa khóc vừa nói:
– Anh tệ bạc quá, nỡ lòng nào dắt người ngoài đến, để khinh bỉ tôi!
– Ai dám đến đây mà khinh bỉ?
– Ông Võ Nhị nhà anh chứ ai! Tôi thấy hắn đi về rét mướt, vội vàng đem rượu cho uống. Ai ngờ hắn thừa cơ vắng vẻ, mà toan trêu ghẹo lả lơi, không còn ra thể thống gì nữa?
Võ Đại nghe nói vậy liền gạt đi rằng:
– Em tôi xưa nay là người trung trực, không khi nào như thế, thôi đừng nói to nữa mà hàng xóm người ta cười cho đấy.
Nói đoạn bỏ mặc vợ đó mà lên buồng Võ Tòng.
Vẽ chi một chữ ái tình,
Để cho xương thịt tan tành sao đang!
Thế gian vạn kẻ khôn ngoan,
Hỏi lòng hữu ái được thường thế chăng?
Võ Đại lên buồng liền gọi em mà hỏi rằng:
– Em đã ăn cơm chưa! Ta cùng đi ăn một thể cho vui.
Võ Tòng thấy anh hỏi, thì ngồi yên không nói nửa lời, trong bụng nghĩ vơ vẩn một lúc, rồi đứng dậy thay giầy khoác áo, thắt lưng đội nón mà ra đi.
Võ Đại thấy vậy, liền gọi lên rằng:
– Nhị đệ đi đâu đấy?
Võ Tòng lẳng lặng đi ra không đáp.
Võ Đại thấy Võ Tòng đi rồi, liền xuống bếp hỏi vợ rằng:
– Tại làm sao ta gọi hắn cũng không thưa, cứ cắm đầu đi thẳng không biết rằng đi đâu thế.
Người đàn bà làm bộ mắng chồng rằng:
– Sao mà ngu thế, nó thẹn, không còn mặt mũi nào trông thấy mình, thì phải cút đi chứ làm sao? Từ đây trở đi, tôi cấm không lưu người ấy ở nhà này nữa.
– Nếu để cho hắn dọn đi, thì phố xá người ta nói mình còn ra gì nữa.
– Nói lạ, nó đùa bỡn tôi thì thiên hạ không cười!… Thôi anh ở với hắn, tôi đây không mặt chó thế được, anh cho tôi một tờ ly hôn, rồi anh rước hắn đến đây mà ở.
Võ Đại nghe như vậy, thì cứng lưỡi ra, không làm sao mà nói được. Đương khi ấy thì Võ Tòng dẫn một tên thổ binh đem đôi quang gánh đến, đi thẳng vào buồng thu thập các đồ đạc, rồi lại gánh ra mà đi ngay, Võ Đại chạy theo ra cửa hỏi rằng:
– Nhị đệ làm sao lại dọn đi đâu thế?
Võ Tòng quay lại đáp rằng:
– Ca ca không cần phải hỏi, cứ để mặc tôi đi là được rồi.
Nói xong liền đi thẳng, mà không hề quay lại.
Võ Đại lấy làm lạ, không hiểu ra sao, mà cũng không dám hỏi một câu nào nữa. Bấy giờ người đàn bà đứng ở trong vẫn lẩm bẩm mắng luôn miệng rằng:
– Được lắm! Ai bảo rằng có em làm Đô Đầu, thì tất nuôi được cả chị lẫn anh, ngờ đâu lại đến đây mà khoét hại! Rõ là giống Hoa Mộc Qua chỉ tốt mã bề ngoài… Thôi, đi đi cũng là phúc, ta cảm ơn trời đất, bớt được cái nợ oan gia ở trước mặt…
Võ Đại thấy vợ nói vậy, thì lại càng áy náy trong lòng không biết đầu đuôi ra sao. Rồi đó hằng ngày Võ Đại lại đi buôn bán như thường mấy phen toan vào huyện, để tìm em về ở nhưng lại bị người vợ xỉa xói ngăn đón mà không cho đi, cũng đành lòng mà chịu vậy.
Nói về quan Huyện Dương Cốc, từ khi về để nhiệm ở huyện đó tới nay, thấm thoát đã được hơn hai năm trời, tuy không độc ác là mấy, song khoét của dân gian cũng không biết cơ man nào mà kể. Bấy giờ định bụng muốn chuyển của về, gửi một nhà thân quyến ở Đông Kinh, để lo liệu kiếm đường thăng quan tiến chức, nhưng lại e đường sá xa xôi, nhiều tay trộm cướp, mà chưa có ai, là người đảm đang tâm phúc, nên chưa dám sai đi.
Một hôm chợt nghĩ Võ Tòng là tay anh hùng đảm lược, liền cho gọi đến mà bảo rằng:
– Ta có người bà con thân ở Đông Kinh, nay muốn đưa một ít lễ vật, và một phong thư vào để hỏi thăm gia sự, nhưng chỉ vì đường sá xa xôi, nhiều đều không tiện vậy ngươi có thể vì ta mà đảm đang đi được, thì sau này ta sẽ trọng thưởng cho.
Võ Tòng vâng lời mà rằng:
– Chúng tôi nhờ được ơn ngài đài cử lên cho dẫu có việc gì sai khiến, chúng tôi cũng không dám từ nan, và đất Đông Kinh là nơi đô hội, chúng tôi cũng muốn qua trải một phen, vậy xin ngài cứ sắp sửa đi cho, chúng tôi cũng hết lòng tuân lệnh?
Nói đoạn quay về nhà trọ, lấy ra một ít tiền, gọi một tên thổ binh ra phố mua một bình rượu và các thức nhắm, rồi đi tới phố Tử Thạch, tìm vào nhà Võ Đại. Khi tới nơi, Võ Tòng ngồi đợi ngoài cửa rồi sai tên thổ binh đem các thứ đồ ăn vào bếp để dọn.
Vợ Võ Đại trông thấy Võ Tòng đến, thì tơ lòng lại vấn vương không dứt, trong bụng nghĩ thầm, tưởng là Võ Tòng lại hồi tâm đến mình, nên vội vàng lên gác sửa sang phấn sáp, chỉnh đốn khăn áo rồi chạy xuống cửa đón Võ Tòng mà nói rằng:
– Thúc thúc! Sao lâu nay không thấy về đến đây? Tôi lấy làm phiền lòng quá! Mấy hôm giục ca ca vào huyện tìm thúc thúc để nói lại, nhưng nào có thấy ở đâu? Hôm nay thúc thúc về chơi đây, sao lại còn mua sắm cho phí tiền như thế?
Võ Tòng đáp rằng:
– Võ nhị có một câu chuyện muốn nói với ca ca cùng tẩu tẩu nên mới về đây.
Người đàn bà nói:
– Vậy xin mời thúc thúc lên gác chơi.
Bấy giờ Võ Đại cũng đi bán hàng mới về, ba người liền cùng nhau lên gác rồi kéo ba cái ghế ngồi quây quần vào bàn. Được một lát thì tên thổ binh dọn rượu lên. Võ Tòng liền rót rượu mời hai anh chị uống.
Người đàn bà đưa mắt trông liếc Võ Tòng luôn luôn. Võ Tòng không hề nhìn đến, chỉ rót rượu mời, rồi lại cúi xuống mà uống rượu.
Rượu được vài tuần, Võ Tòng liền rót một chén đầy, cầm lên tay nói với Võ Đại rằng:
– Dám thưa ca ca, nay Võ Nhị tôi vâng lệnh quan Huyện sáng mai phải đi Đông Kinh có việc, lâu ra thì vài tháng, mà chóng ra thì độ bốn năm mươi ngày, mới về đây được, vậy tôi có mấy câu này xin để ca ca biết: Ca ca vốn xưa nay là một người nhu nhược, mà tôi lại đi vắng không ở nhà, chỉ sợ phố phường lắm quân vô đạo, bất miễn nó lại đến đây sinh sự lôi thôi. Vậy từ đây trở đi đáng lẽ mỗi ngày bán mươi chiếc bánh, thì rút lại chỉ bán năm chiếc, mà phải nên đi muộn về sớm, không nên rượu chè la cà ở đâu cả, khi về tới nhà thì phải buông rèm đóng cửa cho cẩn thận, để khỏi mang tiếng người ta chê cười. Nếu ai có điều gì xấc láo, ca ca không nên cãi cọ làm chi, cứ đợi tôi về đây, rồi tôi sẽ liệu. Nếu ca ca theo lời tôi, thì xin uống hết chén rượu này.
Võ Đại cất chén rượu mà rằng:
– Em nói phải lắm, tôi xin nghe lời hết cả.
Nói xong uống một hơi hết. Võ Tòng lại rót chén rượu thứ hai cất lên mà nói với người đàn bà rằng:
– Tẩu tẩu là người sắc sảo tinh ngoan, không cần phải nói lắm. Duy ca ca tôi là người phác trực, phàm việc gì cũng nhờ tẩu tẩu trông nom giúp cho. Người ta thường nói:”Lệnh ông không bằng cồng bà”. Nếu tẩu tẩu thu xếp được yên ổn cửa nhà thì ca ca tôi còn chi phiền muộn. Tẩu tẩu há lại không nhớ câu:”Giậu kín thì chó hết vào” hay sao?
Người đàn bà bị Võ Tòng nói đúng mấy câu tâm lý như vậy, thì đỏ hồng mặt lên, rồi trỏ vào Võ Tòng mà mắng luôn rằng:
– Đồ thối thây việc gì mà đem chuyện đâu đâu đến nói xấc với lão nương? Phải biết rằng ta đây chỉ kém thằng đàn ông một nước không đội mũ lên đầu mà thôi. Ta đây đứng trên nắm tay cũng được, chứ không phải là một con ươn hèn khốn nạn gì đâu? Từ khi ta lấy Võ Đại đến nay thực con kiến cũng không lọt vào đến nhà, còn có điều chi mà bảo rằng: Giậu ngăn không kín để chó chạy vào nữa! Đừng đem những câu ấy mà nói xấc láo ở đây mới được!…
Võ Tòng cười mà rằng:
– Nếu được tẩu tẩu hết lòng như thế, thì còn gì hơn nữa? Chỉ e bụng ở không được như miệng nói mà thôi. Vậy nay Võ Nhị này xin nhớ hết mọi lời, và xin uống hết chén này cho.
Chị chàng kia tức giận đẩy chén rượu ra, rồi sồng sộc bước xuống dưới gác. Đi đến nữa chừng thang lại quay mặt lên mà nói rằng:
– Người đã là một tay thông minh lanh lợi, sao không nhớ đến câu: Chị dâu cũng như mẹ… ? Khi ta lấy Võ Đại, nào có thấy anh nào em nào, thế mà bỗng dưng ở đâu đến, rồi thì thân với chẳng thân, lại toan làm bố người ta nữa. Lão nương cũng là xúi vận, cho nên mới gặp những chuyện không ra gì như thế!…
Nói đoạn vừa khóc vừa đi xuống, vừa nói lảm nhảm hết câu nọ đến câu kia không dứt miệng. Trên này hai anh em Võ Đại ngồi uống rượu với nhau một lúc nữa, rồi Võ Tòng đứng dậy xin về.
Võ Đại nắm lấy tay mà bảo Võ Tòng rằng:
– Em nên đi mau về sớm, cho anh em lại được gặp nhau ở đây nhé?
Nói đoạn nhìn Võ Tòng mà lã chã tuôn rơi hàng lụy, Võ Tòng thấy vậy liền bảo anh rằng:
– Nếu ca ca không muốn buôn bán gì thì cứ ở nhà, rồi tiền nong tôi sẽ đưa đến cho.
Võ Đại nghe nói, lại càng ra dáng cảm động trong lòng, mà đưa em xuống gác. Khi tới cửa, Võ Tòng lại dặn rằng:
– Đại ca, những lời tôi dặn, chớ nên quên mới được.
Nói xong bái biệt Võ Đại, mà cùng tên thổ binh trở về huyện.
Bâng khuâng đất khách quê người,
Cảm tình cốt nhục nặng lời chia ly,
Thói đời trông thấy mà ghê!
Người dưng nước lã chắc gì ai đâu?
Sáng hôm sau, Võ Tòng sửa soạn khăn gói hành lý rồi lên trình với quan Huyện để đi. Quan Huyện lấy một cỗ xe để các hòm đồ vật vào đó, rồi bắt hai tên binh sĩ khoẻ mạnh và hai người nhà tâm phúc cho đi theo kèm với Võ Tòng. Đoạn rồi Võ Tòng từ tạ quan huyện Dương Cốc mà vác đao khoác gói, coi áp tải xe cùng bốn người kia thẳng trỏ Đông Kinh.
Võ Đại từ khi Võ Tòng đi rồi, bị người vợ đay rứt nhiếc móc đến ba bốn ngày trời, chỉ cắn răng chịu vậy, mà không thèm nói lại nửa lời nào cả. Duy các công việc trong nhà thì từ đó nhất nhất theo lời Võ Tòng đã dặn, làm bánh rút đi một nửa, rồi sáng ngày nửa buổi mới đi, mà chiều đến quá trưa đã về nhà, cất rèm đóng cửa không hề xao nhãng đi đâu. Người đàn bà thấy vậy, trong lòng rất lấy làm khó chịu, liền trỏ vào mặt Võ Đại mà mắng nhiếc rằng:
– Suốt ngày ta không được trông thấy mặt trời, lại phải đóng cửa làm chi? Thiên hạ người ta tưởng nhà này cấm ma quỷ gì mới phải bưng bít cả ngày như thế! Nghe những đồ anh em khốn nạn ấy, không sợ người ta nhổ vào mặt hay sao?
Võ Đại điềm nhiên đáp lại rằng:
– Mặc xác thiên hạ, ta cứ nghe lời của em ta, khỏi sinh sự lôi thôi khó chịu.
Người vợ lại nói:
– Ôi cha! Một thằng đàn ông, không biết tự chủ lấy mình hay sao? Lại phải nghe người ta sai khiến!
Võ Đại cả quyết đáp rằng:
– Những lời nói của em ta là vàng là ngọc, ta phải theo mới được, không cần dùng đến ai!
Từ đó mỗi ngày đi về thì người đàn bà lại sinh sự nói này nói nọ, Võ Đại cũng cứ điềm nhiên mặc kệ, chỉ cốt giữ sao cho đúng lời em dặn thì thôi.
Dần dần chị chàng kia nói lắm mỏi mồm, cũng không ăn thua gì cả, liền phải theo ý Võ Đại, cứ mỗi khi Võ Đại sắp về, thì lại đóng cửa buông rèm như trước. Võ Đại thấy vậy thì lòng cũng hơi mừng, đỡ phải lo nghĩ băn khoăn như trước.
Cách dăm ba hôm, đến một ngày kia, bấy giờ đông đã gần tàn, khí trời cũng hơi ấm áp, vào lúc buổi chiều, Võ Đại đi bán hàng sắp về, người vợ liền chăm chăm cầm cái nạng ra để nhắc rèm xuống, dè đâu vừa giơ lên toan đỡ đầu rèm, thì tay cầm không vững, bị tuột một cái đổ cả đầu gậy ra ngoài, đập ngay vào khăn anh chàng đi qua ngoài phố.
Anh chàng kia đương đi, đứng dừng lại toan cự mắng mấy câu, hay đâu khi quay mặt lại trông thấy người đàn bà có vẻ mỹ miều phong lịch, thì ngây hẳn người ra, tan hết nộ khí ngay lập tức, mà tủm tỉm cười không nói năng chi cả. Chị đàn bà thấy thế, thì chắp tay vái mà nói rằng: – Chúng tôi lỡ tay, xin ngài tha lỗi cho.
Người kia giơ tay sửa lại khăn trên đầu, rồi cũng đáp lễ lại mà rằng:
– Không hề chi, xin quý nương cứ tự tiện.
Bấy giờ mụ Vương Bà đương ngồi dưới rèm ở ngoài hàng, trông thấy như vậy, liền cười mà hỏi người đàn ông rằng:
– Ai bảo Đại quan nhân đi qua thềm nhà người ta mà đi khéo thế?
Người đàn ông cũng cười mà nói rằng:
– Cái đó thì tôi không phải, xin nương tử tha lỗi cho.
Vợ Võ Đại lại cười mà đáp rằng:
– Có đâu dám thế, quan nhân tha lỗi cho tôi là tốt lắm rồi.
Anh chàng kia liếc mắt nhìn vợ Võ Đại rồi nói to lên một tiếng mà rằng:
– Dạ! Tôi không dám…
Nói xong, lững thững đi ra, song vẫn còn quay lại nom theo, mãi đến khi người đàn bà đã cất rèm trở vào rồi mới đi hẳn.
Người ấy nguyên là một tay tài chủ, khi trước cũng lọc lừa gian dối du đãng võ viền, không còn thiếu một ngón gì là không có, ít lâu nay mới phát tích lên, mới mở một ngôi hàng bán thuốc bắc ở trước cửa huyện, rồi lại chuyên nghề luồn lọt với đám quan lại cùng các người làm việc trong huyện, để đưa đón việc quan, mà xoay sở kiếm tiền kiếm lễ. Nhân thế mà khắp trong hàng huyện, ai trông thấy anh ta cũng vị nể hơn người.
Anh ta người họ Tây Môn, tên là Khánh, bày vai hàng thứ nhất, trước đây vẫn gọi là Tây Môn Khánh Đại Lang. Mới đây nhân vì phú quý phong lưu hơn trước, nên người ta lại gọi là Tây Môn Đại quan nhân.
Bấy giờ chàng ta đi một lúc, rồi lại quay về chỗ hàng Vương Bà, ngồi chơi nói chuyện. Vương Bà cười mà bảo rằng:
– Vừa rồi Đại quan nhân dạ một tiếng nghe oai thế?…
Tây Môn Khánh cũng cười mà hỏi rằng:
– Bà ơi! Tôi hỏi thực, người đàn bà bấy giờ là vợ con ai thế?
Vương Bà đáp rằng:
– Người ấy là em vua Diêm La Đại Vương, con ông Ngũ Đạo tướng quân đấy, hỏi làm gì?
– Tôi hỏi tử tế, bà đừng nói đùa thế?
– Sao quan nhân lại không biết? Người ta là vợ anh hàng quà ở trước cửa huyện đó mà.
– Có phải vợ anh Tam Tứ bán kẹo táo đó chăng?
Vương Bà lắc đầu đáp rằng:
– Nếu thế thì đã hay lắm. Đại quan nhân thử đoán xem ai?
– Hay là vợ anh hàng bạc Lý Nhị đấy?
Vương Bà lại lắc đầu mà rằng:
– Không phải, nếu vậy thì xứng đáng lắm rồi.
– Thôi có lẽ vợ anh Tiểu Ất hẳn.
Vương Bà cả cười mà đáp rằng:
– Nào có phải, thế thì còn nói gì nữa? Đại quan nhân cứ thử đoán xem?
Tây Môn Khánh lắc đầu làm thinh. Vương Bà cả cười nói tiếp:
– Tôi nói để quan nhân cười vỡ bụng ra nhé? Bà ấy là vợ ông Võ Đại, vẫn bán bánh chưng ở phố đấy.
Tây Môn Khánh nghe nói dậm chân cười sằng sặc mà rằng:
– Có phải là anh Võ Đại Lang, mà người ta vẫn gọi là Tam Thốn Đinh Xác Thụ Bì đó chăng?
– Chính hắn đấy.
– Khổ chưa! Rõ là một miếng thịt dê lạc vào miệng chó… – Ấy người ta thường nói:”Thằng hèn lại cưỡi ngựa hay, vợ tài đảm lắm, phải tay chồng đần!” Ông tơ xe chỉ thế có thú không?
Tây Môn Khánh lại hỏi Vương Bà rằng:
– Vương Bà ơi! Tôi còn thiếu bao nhiêu tiền nước của bà nhỉ?
– Chưa có là bao, quan nhân để bao giờ trả cũng được.
– À! Thằng con trai bà nó đi đâu với ai?
– Ngài hỏi đến chuyện ấy thì tôi lại sốt ruột lắm, cháu nó đi theo một người khách đi sang Hoài Thương, đến nay chưa về, không biết rằng còn sống hay là chết rồi đấy?
– Sao không cho nó theo tôi có tiện không?
– Nếu được Đại quan nhân có lòng thương, thì còn nói gì hơn nữa?
– Được cứ để nó về đây, rồi sẽ liệu có khó gì?
Nói đoạn lại tán dăm ba câu chuyện láo, thế rồi đứng dậy ra về.
Ít lâu sau Tây Môn Khánh lại đến một cái ghế ở trước cửa hàng Vương Bà, mà ngồi quay mặt sang nhà Võ Đại Lang. Được một lát, Vương Bà chạy ra hỏi rằng:
– Đại quan nhân có xơi dấm mơ chăng?
Tây Môn Khánh đáp:
– Tốt lắm; bà cho tôi một bát, cho nhiều mơ vào.
Vương Bà quay vào làm một bát dấm mơ, đưa cho Tây Môn Khánh ăn.
Tây Môn Khánh ăn xong, bỏ bát lên chõng hàng rồi bảo Vương Bà rằng:
– Bà làm thứ dấm mơ này tốt lắm, trong nhà có nhiều không?
Vương Bà nói rằng:
– Lão tôi một đời làm mối, có để ai ở nhà đâu?
– Lạ chưa? Tôi hỏi dấm mơ, mà bà lại nói chuyện làm mối, là ý nghĩa gì?
– Tôi tưởng Đại quan nhân bảo tôi làm mối tốt?
– Ừ! Thì bà làm mối cho tôi một món này, rồi tôi sẽ trọng tạ bà về sau.
– Đại quan nhân nói làm gì thế? Bà ấy ở nhà biết, thì phổng có chết không?
– Không; đàn bà nhà tôi tốt lắm, rất có bụng thương người xưa nay. Hiện bây giờ cũng đương dung mấy người ở nhà đấy, nhưng không có một người nào là hợp ý tôi cả. Nếu bà có bụng giúp, thì xin bà cứ giúp tôi, không ngại gì, cốt sao cho hiệp ý tôi là được rồi.
– Hôm nọ có món tốt lắm, chỉ sợ quan nhân không thích thôi?
– Nếu vậy thì cứ làm mối cho tôi, tôi xin hậu tạ.
– Người ấy thì dư cái đẹp đi rồi, chỉ có một điều là khí cao tuổi một chút.
– Hơn một vài tuổi, cũng không can gì.
– Người ấy tuổi Mậu Dần, cầm tinh hổ, năm nay mới có chín mươi ba tuổi thôi.
Tây Môn Khánh cười ầm lên rằng:
– Bà này điên hay sao, chỉ nói chuyện buồn cười mãi.
Nói xong vừa cười vừa đứng dậy đi. Bấy giờ đã nhá nhem tối, Vương Bà liền chạy vào thắp đèn, rồi định quay ra để đóng cửa. Dè đâu vừa bước ra đã thấy Tây Môn Khánh, lại đến ngồi ở đầu ghế mà chầu sang nhà Võ Đại rồi.
Vương Bà thấy vậy liền hỏi rằng:
– Quan nhân xơi một bát thang Hòa hợp có được chăng?
Tây Môn Khánh đáp rằng:
– Tốt lắm, bà đem ra đây.
Vương Bà múc một bát thang Hòa hợp ra cho Tây Môn Khánh.
Tây Môn Khánh ăn xong đứng dậy bảo Vương Bà rằng:
– Tiền để đến mai tính một thể nhé?
Nói xong cười mà về.
Sáng hôm sau Vương Bà vừa mới mở cửa toan dọn hàng, thì lại thấy Tây Môn Khánh quanh quẩn đương đi đi lại lại ở trước cửa rồi.
Vương Bà thấy vậy nghĩ thầm rằng:”Thằng cha này chăm đến đây thế? Xưa nay chỉ quen xoay người ta mãi, phen này bà bôi cho một tí mỡ vào mũi, gọi là còn thèm thuồng, còn thờ phụng bà mới được!” Nghĩ đoạn liền mở cửa ra rồi, quay quạt hỏa lò và bày các thứ bán hàng.
Bấy giờ Tây Môn Khánh chạy tót vào hàng ngồi vào một cái ghế bên cạnh rèm mà trông sang nhà Võ Đại. Vương Bà cứ lúi húi cầm quạt quạt hỏa lò, mà giả vờ ra dáng không biết.
Tây Môn Khánh liền gọi Vương Bà mà bảo rằng:
– Bà cho tôi mấy chén trà ra đây?
Vương Bà nghe nói, vội ngẩng đầu lên nhìn, rồi cười mà nói rằng:
– Kìa Đại quan nhân đã đến đấy à? Lâu nay ít khi được gặp quan nhân, xin mời ngài ngồi chơi.
Nói đoạn rót hai chén Khương trà bưng ra. Tây Môn Khánh bảo Vương Bà rằng:
– Bà ngồi chơi đây, uống với tôi một chén nước.
Vương Bà đáp:
– Tôi có phải là người theo dõi đuôi đâu?
Tây Môn Khánh cười khanh khách mà rằng:
– Bà ơi! Ở bên này họ bán gì thế?
– Họ bán thứ canh Hà lậu tử, rất nóng và rất nhiều vị cay vào đó.
– Cái bà này chỉ nói đùa thế thôi…
Vương Bà nói rằng:
– Nào có phải tôi nói đùa, người ta đã có chồng rồi đấy… – Tôi nói thực câu này, anh ta làm bánh ngon, tôi muốn thử dăm chục cái có được không?
– Nếu muốn mua thì đợi lát nữa, người ta về rồi mua, chứ có việc gì đến đây?
– Bà nói phải lắm, để đợi lát nữa vậy.
Nói xong ngồi uống nước một lúc, rồi lại đứng lên mà bảo Vương Bà rằng:
– Bà nhớ biên vào sổ hàng cho tôi.
– Vâng, tôi xin biên cẩn thận ạ.
Tây Môn Khánh lại cười nhạt rồi quay đi.
Bấy giờ Vương Bà ở trong hàng, liếc mắt nom Tây Môn Khánh, thì thấy chàng cứ đi sang bên Đông, rồi lại quay về bên tây, quay về tây rồi lại sang đông, quanh quanh quẩn quẩn ghé ghé nom nom, có tới năm lần bảy lượt, rồi lại chạy vào hàng Vương Bà. Vương Bà thấy vậy bảo Tây Môn Khánh rằng:
– Sao quan nhân ít đi thế? Lâu nay mới lại được gặp…
Tây Môn Khánh cười phá lên, móc túi ra lấy một lạng bạc đưa cho Vương Bà mà nói rằng:
– Tôi hãy đưa bằng này, để trả tiền trước, xin bà nhận lấy cho.
Vương Bà cười nói rằng:
– Sao quan nhân đưa nhiều thế?
– Bà cứ cầm lấy đã.
Vương Bà trong bụng đã mừng thầm, liền giơ tay cất lấy món tiền rồi nói rằng:
– Tôi xem chừng Đại quan nhân có dáng khát, vậy xin ngài xơi bát nước chè non nhé!
– Sao bà khéo đoán thế?
Vương Bà cười đáp rằng:
– Có khó gì mà không đoán được! Người ta bảo rằng:”Cần gì hỏi trước han sau, Cứ trông nhan sắc biết nhau rành rành… ” Tôi đây dẫu kẻ nghiêu khê dị dạng đến đâu, cũng có thể đoán được cả.
– Vậy hiện nay tôi có chút tâm sự, nếu bà đoán được tôi xin đãi bà năm lạng bạc.
– Tôi đây không cứ gì ngũ trí thần thông, cũng có thể đoán được mười phần thế sự. Đại quan nhân ghé tai lại lại đây tôi bảo. “Mấy hôm nay nhà thầy chỉ quanh quẩn dòm nom cái đám bên cạnh vách kia chứ gì!” tôi đoán thế có phải không?
Tây Môn Khánh ra dáng bẽn lẽn rồi cười mà đáp rằng:
– Bà lão này thực khôn hơn Tùy Hòa mẹo hơn Lục Giả tôi không dám dấu bà; không biết vì cớ sao mà tự hôm tôi trông thấy mặt chị chàng ta, đến nay thì ba hồn bảy vía đều biến theo đi đâu mất cả. Hiện nay tôi vơ vẩn, không biết ai là người dắt lối đưa đường, không biết rằng bà có cách gì giúp được tôi không?
Vương Bà cười khanh khách mà đáp rằng:
– Lão tôi chả dấu gì Đại quan nhân; nhà tôi đây bán nước như qủy cầm canh vậy; Từ hôm mồng ba tháng sáu cách ba năm nay, trời mưa tuyết lớn, không có bán gì nữa đâu! Quanh quẩn chỉ nhờ nghề bắt thóp xằng để kiếm ăn mà thôi.
– Thế nào là nghề bắt thóp xằng?
Vương Bà lại cười mà nói rằng:
– Tôi đây nhất là làm mối, rồi thì làm mụ dầu, làm bà đỡ, đi dỗ mấy người làm, anh mồi chài rồi đi buôn người, ngón nào cũng thạo.
– Nếu bà tác thành giúp tôi, tôi xin hậu tạ ơn bà mười lạng bạc.
– Ngài phải biết rằng: Việc bợm bãi xưa nay, rất là việc khó, phải sao có đủ năm cái tư cách này mới được: Một là phải đẹp như Phan An, hai là phải có sức khỏe mạnh, ba là phải có tiền như Đặng Thông, bốn là phải rất nhẫn nại, năm là phải tốn công phu; Năm điều ấy nếu thiếu một điều, thì không thể được.
Tây Môn Khánh có vẻ mừng rỡ rằng:
– Chẳng dấu gì bà già, năm điều ấy tôi có đủ cả rồi; Điều thứ nhất mặt tôi tuy không không được như Phan An, nhưng cũng có thể thương thực; Điều thứ hai khi tôi cỏn nhỏ cũng giữ được thân thể mạnh khỏe; Điều thứ ba trong nhà tôi dẫu không lấy của đâu được bằng Đặng Thông, song tiền của cũng dư dật; Điều thứ tư tôi đây rất có tính nhẫn nại, dẫu ai đánh đến bốn trăm cái, tôi cũng không đánh trả bao giờ; Điều thứ năm tôi thực chịu khổ công phu, bằng không thì sao có lần mò thế này? Bà ơi! Bà cố sức tác thành cho tôi, tôi xin hậu tạ.
– Đành rằng năm điều ấy ngài có đủ rồi, song còn có một việc này khó lắm, có lẽ ngài không theo được!
– Bà cứ nói thử xem, xem có điều gì làkhó?
– Ngài chớ nên giận tôi nói thẳng mới được! Phàm sự bợm đãi đã đủ mười phần tư cách rồi, song còn một thứ tiền, nếu chỉ tiêu đến chín phần ly, mà còn thiếu một ly nữa là vất đi cả. Thế mà nhà thầy thì vốn là người hà tiện, xưa nay không chịu tiêu phí đồng tiền, như thế thì có lẽ khó lòng làm nổi.
– Tưởng gì, chứ bệnh ấy thì dễ chữa, bây giờ tôi cứ theo ý bà là được chứ sao?
– Nếu vậy thì tôi có một cách này, làm cho Đại quan nhân có thể được giáp mặt người ấy, nhưng chả biết rằng:
– Ngài có bằng lòng không?
– Bà muốn bảo thế nào, thì tôi cũng xin bằng lòng cả, ba có kế gì là diệu?
Vương Bà cười nói rằng:
– Hôm nay trời đã muộn rồi, Đại quan nhân hãy cứ đi về, rồi trong nửa năm nay hay là ba tháng nữa, sẽ đến đây bàn định…
Tây Môn Khánh nghe vậy, thì quỳ xuống mà nói rằng:
– Bà ơi! Bà ơi! Bà không nên độc ác như thế?
– Tôi có một kế sách này, dẫu chưa đến bậc vào miếu Võ Thành Vương, song cũng hơn cách Tôn Vũ Tử dạy nữ binh bắn mươi người, thì trúng được chín kia đấy. Bây giờ tôi nói cho Đại quan nhân nghe nhé! Người ấy con nuôi nhà phú hộ ở huyện Thanh Hà, thì nghề kim chỉ tất là khéo lắm, vậy ngài mua cho tôi một tấm lụa trắng, một tấm vóc lam, một tấm vải trắng và mươi lạng chỉ tơ, cốt để mang đến đây. Đoạn rồi tôi đến nói dối người ấy là, có một ông tài chủ đem đến cho tôi bộ áo tống chung, và sang đó mượn lịch xem ngày để tìm thợ về cắt. Như thế mà người ấy nghe nói cứ điềm nhiên, không hỏi đến chuyện ấy nữa, thì việc ấy tất hỏng mất. Nhưng nếu người ấy lại hứa lời cắt giúp tôi, thì tất có một phần bợm đó rồi. Khi tôi mời nàng sang nhà để cắt, nếu nàng không chịu sang thì cũng là hỏng mất. Nếu nàng lại vui lòng mà nhận lời sang nhà để giúp, thì lại có hai phần bợm rồi đó. Khi nàng sang nhà tôi, thì phải dọn các thức rượu nhắm để đó thiết đãi, nhưng ngày thứ nhất, thì cậu không được đến đây; Còn đến ngày thứ hai, nếu nàng nhận lại từ chối, mà đem về nhà khâu, thì cũng lại là hỏng mất. Bằng như nàng ở đấy mà khâu cho, thì việc ấy có ba phần bợm đó. Ngày hôm ấy cũng không đến được, phải đợi đến ngày thứ ba, cậu sẽ ăn mặc cho chững chạc, rồi đến cửa đằng hắng một cái mà nói lên rằng: “”Sao lâu nay không thấy Vương bà đâu? “” Bấy giờ tôi nghe tiếng, rồi tôi ra mời vào ngồi chơi, nếu nàng ta thấy thế mà đứng dậy ra về là hỏng mất. Bằng nàng thấy vậy mà cứ ngồi im khâu, thì việc ấy có bốn phần hên đó.
Khi ngồi chơi tôi sẽ khoe với nàng rằng: “Cậu là người tài chủ mà làm phúc cho tôi, mà nhà cậu rất là sang trọng tử tế, rồi cậu lại phải tán tỉnh thêm vào, nếu thế mà nàng không bắt chuyện, thì việc cũng vất đi mất! Nhưng nếu nàng cũng hé răng ra ứng đáp, thì có được năm phần bợm, rồi đó. Bấy giờ tôi lại tán là hai tay tài chủ, kẻ xuất công người xuất của, nếu không phải là may mắn cho tôi, thì sao có gặp được nương tử ở đây, vậy xin quan nhân tạm làm chủ thiết đãi nương tử giúp tôi, đoạn rồi cậu đưa tiền cho tôi đi mưa rượu. Nhưng nếu nàng đứng dậy ra về, lại là hỏng mất. Nhược bằng nàng điềm nhiên ngồi lại, thế là có được sáu phần bợm rồi đó.
Khi cầm tiền rồi, thì tôi lại nói nhờ nàng ngồi tiếp Đại quan nhân giúp để tôi đi mua các thức nhắm, nếu nàng từ chồi đứng dậy ra về, là việc cũng hỏng. Bằng nàng ưng ý mà ngồi lại, là việc ấy có bảy phần bợm đó. Đến lúc mua được thức nhắm về, tôi lại nhờ nàng xếp đồ khâu lại, để cùng ngồi uống rượu cho vui, thế mà nàng không chịu ngồi là việc hư hỏng. Nếu nàng bằng lòng ngồi cho, thì việc ấy có tới tám phần bợm rồi đó. Uống dăm ba chén rượu, tôi giả vờ là hết rượu,bảo cậu phải mua thêm. Bấy giờ cậu sẽ nhờ tôi đi mua hộ, đoạn rồi tôi đi khép cửa, để mặc hai người ở đó, thế mà nàng hoảng hốt đòi về là hỏng việc. Bằng nàng cứ ngồi yên không nói chi, là việc có chín phần bợm rồi đó.
Đến đó chỉ còn thiếu có một phần nữa là xong, nhưng phần này thì rất là khó; Bấy giờ cậu ngồi ở đấy, phải lựa lời đem những câu chuyện ngon ngọt mà khơi gợi dần dần, chớ có bạo động mà lỡ việc, thì tôi không biết đâu đến được nữa! Trước hết phải giơ tay áo lên bàn, giả cách đánh rơi chiếc đũa, rồi lại vội vàng cúi xuống nhặt, và rờ tay vào chân nàng mà nắm một cái, nếu nàng gắt giận cự mắng, thì tôi sẽ chạy vào cứu, song như thế cũng là hỏng việc, không còn làm thế nào được nữa! Nhược bằng nàng lẳng lặng không nói gì, thì bấy giờ có đủ mười phần bợm rồi đó. Kế sách ấy thế nào?
Tây Môn Khánh nghe xong cả cười mà rằng:
– Được lắm, dầu chưa lên được đến gác Lăng Yên, song ấy thế thực là diệu kế.
– Nhưng cốt nhất là phải nhớ đưa mười lạng bạc mới được.
– Cái đó chắc lắm, có khi nào được ba miếng quất bì, mà lại quên hồ Động Đình được? Nhưng kế sách ấy, bao giờ bà bắt đầu làm cho?
– Chỉ chiều hôm nay là có tin rồi, bây giờ nhân lúc Võ Đại chưa về, tôi phải sang nói qua trước xem sao, cậu về cho người mang vóc lụa đến ngay cho tôi mới được.
Tây Môn Khánh hớn hở mừng ra mặt mà nói rằng:
– Nếu được bà tác thành cho, thì khi nào tôi dám sai lời.
Nói xong từ tạ Vương bà quay ra phố mua các vật liệu đùng như Vương bà đã dặn, rồi bọc gói cẩn thận, và đem thêm năm lạng bạc lẻ đưa đến cho Vương bà, Vương bà nhận các đồ bảo vật, bảo Tây Môn Khánh hãy về, rồi một mình xăm xăm theo lối cửa sau mà sang nhà Võ Đại. Vợ Võ Đại thấy Vương bà đến, liền mời lên gác ngồi nói chuyện.
Vương bà hỏi:
– Sao mấy hôm nay nương tử lại không sang chơi nhà tôi xơi nước?
Chị chàng kia đáp rằng:
– Mấy hôm nay tôi không được khỏe trong mình, nên không muốn đi đâu cả.
– Chẳng hay nhà nương tử có cuốn lịch không? Nhờ nương tử xem giúp già tôi xem ngày nào có thế may áo được?
– Bà may áo gì thế?
– Ối chào! Chả giấu gì nương tử; Tôi bây giờ cũng đau yếu luôn, chẳng chắc rằng trời đất ra thế nào, bởi thế muốn may một áo tống chung, để phòng bị cho đỡ lo về sau. May lại có một tài chủ ở gần đây có lòng tốt thương đến già tôi, đem cho mấy tấm vóc lụa, vẫn cứ để ở nhà mãi mà không sao may được? Ngày nay nhân thấy trong mình đã già yếu, nên muốn may đi cho xong, nhưng mấy hôm trước thì anh thợ may đằng kia cứ kêu là bận việc không may được, thành ra nấn ná mãi đến nay, nương tử nghĩ có khổ không?
Chị chàng nghe nói cười mà rằng:
– Tôi đây khâu vá vụng về lắm, nhưng nếu bà có bằng lòng dùng tạm, thì tôi xin may giúp cho.
Vương bà cũng cười hớn hở mà đáp lại rằng:
– Nếu được nương tử giúp cho, thì tôi chết cũng thỏa lòng, nương tử vốn là tay khéo, xưa nay tôi đã biết, nhưng có khi nào dám phiền đến nương tử như thế?
– Có can chi việc ấy! Tôi đã hứa giúp bà thì tất nhiên tôi hết lòng giúp, để tôi đem lịch ra chọn ngày nào là ngày Hoàng đạo, rồi ta may cũng được chứ sao?
– Nương tử có lòng giúp tôi như thế, thực là một vị Phúc tinh tới nơi, còn cần chi phải chọn ngày nữa?.. Hôm trước tôi cũng nhờ người xem, họ nói đến ngày mai là ngày Hoàng đạo nhưng tôi tưởng mai áo thì không cần ngày Hoàng đạo nên cũng không nhớ làm gì.
– May áo Thọ chính phải cần ngày Hoàng đạo, nếu vậy thì không cần phải xem nữa.
– Vâng, nương tử đã có lòng tốt như thế, thì đến mai tôi xin sang đây dọn dẹp để nhờ nương tử khâu giúp cho… nhưng có điều không ai coi nhà cho tôi bên ấy.
– Được, để sáng mai tôi ăn cơm nước xong rồi sẽ sang đấy khâu giúp bà, bất tất phải mang sang đây cũng được.
Vương bà nghe nói thì lấy làm mừng rỡ cảm ơn, rồi tạ từ trờ về báo cho Tây Môn Khánh biết rồi để dự bị việc ngày mai.
Sáng hôm sau Vương bà dậy sớm dọn dẹp buồng the sạch sẽ, đem các đồ hoa quả và sắp sẵn nước non bày ra bàn để đợi. Bên kia vợ Võ Đại đợi khi chồng cất gánh hàng ra đi, rồi mới treo rèm ra cửa, quay vào lối cửa sau mà đi sang nhà Vương bà. Vương bà vội vàng đón vào, mời xơi nước nôi và hoa quả, rồi đem các thứ vải vóc ra cho vợ Võ Đại đo cắt. Vương bà đứng xem lối cắt áo và may, thì tán tụng thêm lên: Thật là khéo léo, lão già đã bảy tám mươi rồi chưa từng thấy ai may áo khéo thế! Khi người đàn bà may đến trưa, Vương bà bày dọn cơm canh mời ăn uống tử tế, xong rồi lại khâu vá cho đến chiều tối mới về.
Khi về nhà vừa gặp Võ Đại bán hàng về, nàng liền cuốn rèm mở cửa cùng vào, Võ Đại thấy vợ má hồng lên, liền hỏi:
– Hôm nay nàng uống rượu ở đâu mới về?
Người vợ đáp:
– Vương bà ở cạnh vách đây, có sang nói may giúp chiếc áo tống chung, rồi tôi sang may giúp, đến trưa, có mời ăn uống, chứ có uống rượu ở nơi nào.
Võ Đại nói:
– Ối chào! Thôi đừng uống rượu nữa, mình cũng có nhiều khi phải cậy đến Vương bà, nếu ngày mai còn phải sang giúp bà ta, thì đừng uống rượu nữa, mà mang sẵn tiền sang mua rượu uống với bà ta cho phải lối với nhau, vì rằng: Bán anh em xa mua láng giềng gần, phải xử như thế mới được, nếu không muốn mời lại, thì đem vải vóc về nhà khâu vá cho xong, rồi đem sang trả cũng được.
Người vợ nghe xong, không nói năng gì.
Hôm sau Võ Đại đi chợ, Vương bà lại sang khuyên dỗ đón mời sang làm giúp, nàng lại đi sang, Vương bà đem trà nước rồi, ngồi vào làm việc, đến gần trưa, nàng đưa ra một ít tiền nói với Vương bà rằng:
– Hôm nay tôi mang tiền sang đây, bà mua rượu về rồi bà con mình cùng chén.
Vương bà nói:
– Ồ! Thế ra nghĩa lý gì, tôi mời nàng sang đây làm giúp, thì tôi phải mời rượu sao lại để cho nàng mang tiền sang đây mua rượu nhắm ăn uống, thì ra làm sao?
Người đàn bà nói:
– Hôm qua tôi có nói chuyện với chồng tôi, thì chồng tôi bảo rằng đã giúp bà thì giúp cho hết sức, vì chỗ xóm giềng còn nhờ vả nhau nhiều, nên tôi mới xử như vậy.
Vương bà nói:
– Đại Lang là người tốt qúa, vậy tôi xin nhận tấm lòng tốt, mua thêm nhiều rượu thức ăn, để cùng ăn uống cho vui.
Vương bà nhận tiền, mua những thứ ngon lành, ân cần mời khuyên, sau khi ăn uống xong, rồi nàng lại làm giúp cho đến chiều mới về, Vương bà khéo léo tạ ơn, làm cho nàng vui vẻ.
Ngày thứ ba, Vương bà dòm biết Võ Đại đi bán hàng rồi, lại chạy sang ân cần đón rước làm giúp cho xong. Người đàn bà được lòng mà nói:
– Tôi vốn định sang ngay, chả cần bà phải sang đón.
Liền vào trong buồng Vương bà làm giúp, theo thường lệ Vương bà lại đem quà nước mời khuyên. Tây Môn Khánh đúng ngày hẹn ấy, ăn mặc chải chuốt kịch sự, đến thăm Vương bà, đem thêm một món tiền nữa, tới nơi liền nói to lên rằng:
– Sao Vương bà lâu nay không thấy đến tôi?
Vương bà chợt thấy tiếng hỏi, thì hỏi lại:
– Ai đấy?
Tây Môn Khánh nói:
– Tôi đây!
Vương bà chạy ra cười nói:
– Ô! Tôi tưởng là ai ngờ đâu Thí chủ Đại Quan nhân đã tới, quý hóa lắm! Vậy xin mời ngài vào chơi, tôi đương may chiếc áo thọ.
Rồi kéo tay áo Tây Môn Khánh vào buồng nói với người đàn bà kia rằng:
– Đây là Thí chủ quan nhân đã giúp vải vóc cho tôi may áo.
Tây Môn Khánh thấy người đàn bà ấy liền chào. Người đàn bà cũng vội vàng ngừng tay, mà bái chào lại. Vương bà liền trỏ vào người đàn bà mà nói với Tây Môn Khánh rằng:
– Lão già đã may mà được quan nhân cho vải vóc, hơn một năm chưa may được, đến nay lại may mà gặp được mong nương tử đây ra sức làm cho, thật là vừa khéo vừa hỹ, Đại quan nhân hãy xem thử, coi có thực tay thợ giỏi không.
– Ừ khéo thật! Chả biết rằng nương tử học được ở đâu, mà may cắt khéo như thần tiên thế vậy?
Người đàn bà cười nói:
– Xin Đại quan nhân đừng cười, chúng tôi còn vụng lắm!
Tây Môn Khánh hỏi lại Vương bà:
– Dám hỏi khí không phải, chẳng hay nương tử này ở đâu đến?
– Đại quan nhân quên à?
– Tôi quên làm sao?
Vương bà cười nói:
– Nương tử đây là vợ Võ Đại Lang ở khít vách đây hôm nọ đã làm đụng cái nạng vào đầu quan nhân có lẽ không đau chăng, mà vội quên ngay được?
Người đàn bà thẹn đỏ ửng mặt lên mà nói:
– Ngày nọ tôi trót lỡ tay, mong rằng Đại quan nhân tha thứ.
Tây Môn Khánh đáp:
– Thôi nhắc làm chi việc nhỏ ấy.
Vương bà nói tiếp:
– Đại quan nhân đây là người hòa nhã, không nhớ lâu đâu, thực là người tốt.
Tây Môn Khánh nói:
– Trước kia tôi không biết ra, nàng là vợ của Đại Lang vốn là người làm ăn, bán hàng ngoài phố, đối với mọi người lớn nhỏ đều hòa thuận tốt nết, thực là khó lấy được một người chồng như thế.
Vương bà đón lời ngay:
– Vương tử lấy được Đại Lang, khi cần đến việc gì, Đại Lang cũng chiều chuộng thân yêu lắm.
Người đàn bà ra chiều chán ngán nói luôn:
– Ối chà! Làm gì đồ vô dụng ấy! Xin Đại quan nhân chớ chê cười!
Tây Môn Khánh nói lại:
– Nương tử lầm rồi, người xưa đã dạy: Mềm nhũn là cái gốc lập thân, cương ngạnh chỉ gây mầm tai vạ, Đại Lang của nương tử lành hiền như thế, là để phúc đức về sau, chả là hay lắm ư?
Vương bà đón luôn:
– Phải, phải, quan nhân dạy đúng.
Tây Môn Khánh tán tụng láo một hồi, rồi ngồi xuống ghế, đối diện với nàng.
Vương bà nói chuyện:
– Nương tử! Có biết đến vị quan nhân này chăng?
Người đàn bà nói:
– Có được đi đến đâu mà biết!
Vương bà khoe:
– Đại quan nhân đây là một tay tài chủ huyện ta, thường đi lại với Quan Lớn Tri Huyện, nên gọi là Tây Môn Đại quan nhân, mở hiệu thuốc ở trước cửa, nhà giàu có, nào tiền nhiều hơn sao Bắc đẩu, thóc lắm hơn lúa Trần Thương, nào ngọc, vàng, châu báu, không thiếu thứ gì, thực là triệu phú.
Người đàn bà cúi đầu xuống khâu may. Tây Môn Khánh thấy Phan Kim Liên con người tình tứ, bụng đã mừng thầm. Vương bà đi rót hai chén trà, dâng một chén mời Tây Môn Khánh, và dâng một chén mời Kim Liên mà nói:
– Nương tử hãy cùng Đại quan nhân đây uống trà cho vui.
Rồi thấy người đàn bà không e thẹn gì, Vương bà lấy bàn tay ra hiệu bảo ngầm với Tây Môn Khánh biết, việc đã thắng năm phần. Rồi Vương bà lại nói:
– Nếu Đại quan nhân không tới, thì già này không dám đến mời thực một là Trời đã xếp lại, hai là đến được vừa lúc, người ta thường nói rằng: Một khách chả nên phiền hai chủ, đã Đại quan nhân xuất tiền lại quý nương tử xuất lực, may mắn cho thân già, nay quan nhân làm chủ cho, để xin mởi nương tử cùng uống rượu mừng cho tôi thì quý lắm.
Tây Môn Khánh đáp:
– Vâng, đây là chút tiền bà mua rượu về đây cho tôi.
Người đàn bà nói:
– Thế thì phiền Đại quan nhân quá.
Miệng tuy nói, nhưng vẫn ngồi làm, Vương bà lấy tiền mua rượu người đàn bà không đứng dậy đi. Vương bà ra cửa lại nói:
– Xin phiền nương tử ở nhà ngồi tiếp chuyện Đại quan nhân, để tôi đi một lúc.
Người đàn bà nói:
– Được bà cứ đi.
Không đứng dậy về, đều tỏ ra tình ý với nhau lúc ấy.
Bấy giờ Tây Môn Khánh đối mặt nhìn người đàn bà, cũng thấy liếc trộm lại mình, đã biết ưng ý bảy tám phần rồi vậy, mới lựa lời nói chuyện gần xa… Chẳng bao lâu Vương bà mua thịt rượu ngon lành về mới sửa soạn bày ra để ăn uống, và bảo người đàn bà nghỉ tay, để bồi tiếp Đại quan nhân. Người đàn bà nói:
– Lão bà hãy tiếp Đại quan nhân tôi đâu dám thế.
Nhưng vẫn không ngừng tay đứng dậy về, Vương bà nói:
– Chính bữa rượu này để thù lao nương tử, sao lại chối từ.
Vương bà bày biện xong, rồi ba người cùng ngồi uống rượu. Tây Môn Khánh đưa chén rượu lên nói:
– Xin nương tử uống cạn chén này.
Người đàn bà nói:
– Đa tạ hậu ý của Đại quan nhân.
Vương bà nói:
– Lão đây biết nương tử uống rượu được hãy xin uống cạn cho mấy chén này.
Tây Môn Khánh lại nói:
– Lão bà thay tôi mời nương tử giúp.
Vương bà lại mời khuyên, người đàn bà uống một lúc luôn ba tuần rượu. Vương bà chạy đi hâm rượu nóng lại.
Tây Môn Khánh nói:
– Dám hỏi khí không phải, chẳng hay nương tử năm nay chừng mấy thanh xuân?
Người đàn bà nói:
– Tôi vừa 23 tuổi.
– Như vậy tôi hơn 5 tuổi.
– Dạ, quan nhân đem trời đọ đất làm chi!
Vương bà chạy lại nói:
– Nương tử đây là người giỏi lắm, nào phải may khâu mà thôi, còn thuộc làu chữ nghĩa.
Tây Môn Khánh nói:
– Kể ra thì buồn lắm, chỉ tiếc cho tôi, phận mỏng không tìm được người nào như nương tử đây.
Vương bà nói:
– Người vợ cả của Đại quan nhân chắc là hay lắm?
– Khỏi phải nói, người vợ trước của tôi còn sống, thì đâu đến nỗi cửa nhà bê bối như ngày nay, đến nay trong nhà sáu bảy miệng ăn, mà chả làm được nên việc gì cả.
Người đàn bà hỏi:
– Chẳng hay vợ trước của Đại quan nhân đã mất bao lâu?
– Giấu gì nương tử, vợ trước của tôi, vốn con nhà nghèo, cho nên việc gì làm cũng thạo, giúp nên cơ nghiệp cho tôi, chẳng may mất đi đã được ba năm, khiến tôi bấy lâu công việc bê trễ, thất điên bát đảo cả người, cho nên có đi đâu được, chỉ ở nhà lo liệu không xong.
Vương bà nói:
– Nói cho đúng ra thì xin Đại quan nhân đừng giận, vợ trước của ngài đâu bằng Võ Đại nương đây, khéo từ việc may vá.
Tây Môn Khánh nói:
– Vợ trước của tôi thì kém phần lịch sự như nương tử thực.
Vương bà lại hỏi:
– Đại quan nhân có nuôi cô nào ở phố đông kia mà không cho già này ăn uống với.
Tây Môn Khánh đáp:
– À cô Trương Tích, vốn con hát tầm thường, nên tôi đâu có thiết, đó là y muốn theo tôi.
Vương bà lại nói:
– Vậy quan nhân với Lý Kiều ở với nhau đã bao lâu?
– Cô ấy hiện ở nhà, giả thử được như nương tử đây, thì cũng cho làm vợ cái con cột rồi.
Vương bà lại nói:
– Nếu có một người nào như là nương tử, tôi đến mách cho, liệu có lấy làm vợ cả được không?
– Cha mẹ tôi đã mất, thì tôi tự chủ, có ai ngăn cản vào đấy.
Vương bà nói:
– Rồi tôi sẽ kiếm quan nhân một người vừa ý muốn.
– Cám ơn Vương bà, tôi chỉ ngại vợ chồng không tốt số mà thôi.
Bấy giờ Tây Môn Khánh chuyện với Vương bà kẻ tung người hứng với nhau một hồi.
Vương bà nói:
– Đương thích uống rượu, mà bầu đã cạn rồi, để tôi đi mua một bầu rượu nữa nhá?
Tây Môn Khánh nói:
– Trong khăn gói tôi còn 5 lạng bạc đấy, xin dưa cho Vương bà mua rượu về đây.
Vương bà nhận lấy, tạ lại mấy lời, rồi thấy hai người ý tứ đã ăn nhau có rượu ngon.
Người đàn bà đáp:
– Thôi mua nữa làm chi, xin cho thế là đủ.
Nhưng nói thế thôi, chứ không chối hẳn.
Vương bà ra khỏi cửa, lấy dây buộc cửa lại, ra ngoài đường xa ngồi chơi. Bấy giờ Tây Môn Khánh ở trong phòng với Kim Liên, liền rót rượu khuyên mời, rồi lựa tay áo làm rơi chiếc đũa xuống đất, lại xuống ngay ở chỗ dưới chân nàng, chàng mới vội cúi mình xuống nhặt, thấy hai gót chân nàng trắng nhỏ, chiếc đũa ngay đấy, chàng không nhặt đũa, lại thò tay nắm gót chân nàng một cái.
Người đàn bà cười nói:
– Quan nhân sao lại như vậy?
Tây Môn Khánh bèn quỳ xuống nói:
– Mong nương tử thương đến tôi đây!
Người đàn bà liền nâng Tây Môn Khánh lên, tỏ ý bằng lòng. Thế rồi hai người vào phòng Vương bà cởi xiêm lột áo, vấy cuộc mây mưa…
Sau khi tan cuộc sửa soạn áo xiêm, thì Vương bà đẩy cửa bước vào, giận nói:
– Hai người giở trò gì thế?
Tây Môn Khánh và người đàn bà nom thấy cả kinh!
Vương bà nói:
– Chao ôi! Chao ôi! Tôi mời chị đến đây may áo mà chị lại vụng trộm tình yêu, Võ Đại biết đến, thì ta liên lụy, bất nhược ta đi bảo trước bây giờ.
– Nếu muốn ta tha các người, thì phải theo một điều kiện.
Người đàn bà nói:
– Chả cứ một điều kiện, mười điều tôi cũng vâng theo.
Vương bà nói:
– Bắt đầu từ nay trở đi, nàng phải dấu trộm Võ Đại mà sang đây với Đại quan nhân, không được phụ lời, thì ta mới thôi, nếu một ngày không sang, thì ta bảo với Võ Đại.
Người đàn bà ấy y lời.
Vương bà lại nói:
– Tây Môn Khánh quan nhân, ngài chớ để lão già nói lắm. Công việc mười phần đã xong hứa cho những cái gì, không được thất tín, nếu người phụ ta, thì ta mách Võ Đại.
Tây Môn Khánh nói:
– Vương bà yên tâm, tôi không bao giờ thất tín.
Rồi ba người lại ngồi uống rượu với nhau vài chén nữa, thì đã xế chiều. Người đàn bà nói:
– Võ Đại sắp về rồi, tôi xin về đây.
Rồi ra đằng cửa sau, cuốn mành lên, thì Võ Đại vừa về.
Bấy giờ Vương bà bảo Tây Môn Khánh rằng:
– Thủ đoạn giỏi không?
– Xin bái phục Vương bà rồi. Tôi về nhà đem vàng đến cho bà đây, và đem những thứ gì đã hứa.
Từ đó vợ Võ Đại cứ hằng ngày, vắng chồng, liền đi lẻn lối sau, sang nhà cùng với Tây Môn Khánh ở trong phòng ân ái, tình ý với nhau gắn chặt keo sơn. Thế rồi tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, chỉ chừng nửa tháng xóm giềng hàng phố đều biết chuyện này, chỉ có Võ Đại là không biết.
Bấy giờ hàng huyện có một cậu bé, chừng mười lăm mười sáu tuổi, vốn họ Kiều, nhân vì theo hầu binh lính từ Vận Châu đến ở, nên gọi Vận Kha, trong nhà còn bố già, cậu bé ấy tinh ranh, chỉ đem những hoa quả bán cho các quán rượu ở trước huyện để sinh sống, thường bán chịu hàng cho Tây Môn Khánh. Ngày kia có một dành quả tuyết lê, đem đến phố tìm Tây Môn Khánh, không gặp sau có lẻ mau miệng bảo rằng:
– Vận Kha! Mầy muốn tìm hắn, thì ta chỉ cho một chỗ mà tìm.
Vận Kha nói:
– Chú ơi! Làm ơn bảo cho tôi biết hắn ở đâu để tôi bán lấy vài chục tiền về nuôi sống cha già thì tôi cảm ơn lắm!
Người nhanh miệng ấy nói:
– Tây Môn Khánh bây giờ đã ôm ấp vợ Võ Đại bán bánh chưng hằng ngày ở trong buồng Vương bà ở phố Tử Thạch, hắn ở trong ấy, chú mầy trẻ con, cứ vào đấy chẳng ngại gì.
Vận Kha nghe nói tạ ơn người ấy, rồi ranh con đem cái rành quả đi đến phố Tử Thạch, vào thẳng trong phòng trà, thì gặp ngay Vương bà ngồi ở chõng ngoài, Vận Kha bỏ dành quả xuống chào hỏi.
Vương bà nói:
– Vận Kha! Mày đến đây có việc gì?
– Tôi muốn tìm Đại quan nhân để xin tiền tiêu!
– Đại quan nhân nào?
– Bà còn lạ gì ông ấy, tôi chỉ hỏi ông ấy,chứ còn hỏi ông nào nữa?
– Đành rằng ông ấy nhưng cũng phải có họ tên mới được chứ?
– Phải, họ có hai chữ ấy mà.
– Hai chữ gì?
– Bà còn hỏi đùa mãi, tôi muốn tìm Tây Môn Khánh quan nhân chứ còn ai nữa?
Nói xong chạy thộc vào trong nhà, Vương bà nắm lại mà mắng rằng:
– Ranh con đi đâu thế, nhà người tà có buồng trong nhà ngoài, lại có chủ mà dám tự tiện vào được.
– Tôi tìm ông Tây Môn Khánh ra đây, bà còn giấu mãi.
– Ranh con, làm gì có Tây Môn Khánh ở đây?
– Không nên ăn cả một mình như thế, phải để phần cho tôi một chút mới được. Người ta lại không biết rồi hay sao?
Vương bà quát ầm lên mắng rằng:
– Khỉ con, biết cái gì mà biết… ?
– Ối chao ôi! Lại còn giấu voi ruộng mạ mãi, tôi nói bây giờ, chỉ sợ anh hàng bánh biết thì khốn đấy.
Vương bà lại càng nổi giận đùng đùng quát mắng lên rằng:
– Ranh con mày ở đâu đến đây mà nói láo thế?
Vận Kha cười nhạt mà rằng:
– Tôi đây là ranh con, thì bà cũng là bợm già chứ gì?
Vương bà càng tức giận, nắm lấy Vận Kha toan đánh cho mấy cái tát. Vận Kha kêu lên rằng:
– Sao bà lại được đánh tôi.
Vương bà nói:
– Mày kêu to bà đánh bây giờ.
Nói rồi đánh cho mấy cái tát tai.
– Á, con sọm già dám đánh ta.
Vương bà liền tát luôn mấy cái nữa, lại hắt cả dành quả của Vận Kha ra phố, và cố đuổi ra ngoài.
Vận Kha vừa khóc, vừa chửi, vừa chạy vừa lúi húi nhặt hoa qủa bỏ vào dành, rồi chửi mà nói rằng:
– Được rồi, tao bảo cho mày, mày giấu được tao, thì tao đã có người khác trị lại cho mày biết.
Nói xong liền xách dành giỏ mà đi thẳng.
Lời bàn của Thánh Thán:
Tả Võ Nhị coi anh như cha, vốn là đặc tính của hào kiệt có chỗ hơn người, song ta coi chẳng khó về việc Võ Đại coi em như con vậy. Chao ôi! Trong tình anh em đến như ngày nay sao dễ xử vậy thay! Một lần vì Võ Nhị đánh người, bị lây đến anh,phải tìm nơi xa bán bánh, một lần nữa Võ Nhị đã hiển đạt, như quên cả tình anh, như thế một lần khiến tan nát vì nỗi tiểu nhân và một lần khiến tan nát về lối quân tử vậy.
Hỡi ơi! Tan nát về thói tiểu nhân, lỗi vì thô bỉ, còn có thể cứu lại! Tan nát về lối quân tử, lỗi vì giả dối, không thể cứu lại, lỗi vì Tiểu nhân do trong lòng thô bỉ, mà ngoài không đến nỗi giả dối, còn có thể đem giáo hóa của thánh vương mà dạy lại. Lỗi vì Quân tử, do sự giả dối bên trong lòng cũng thô bỉ mà thôi, thì không còn đem giáo hóa thánh vương mà dạy nổi? Cho nên Võ Nhị coi anh như cha, vốn đạo của người học vấn, Võ Đại coi em như con, vốn là của người sẵn tính trời, do sự học vấn mà thờ anh như cha được như Võ Nhị người ta còn có thể bắt chước. Do tính trời mà coi em như con được như Võ Đại, khó mà bắt chước được như thế? Cho nên tác giả tả Võ Nhị, để cứu lại cái thô bỉ của tiểu nhân, tả Võ Đại, để cứu lại cái giả dối của quân tử. Hỡi ơi! Trong tình anh em, một gốc sinh ra tất phải yêu nhau vốn sẵn tính trời, học vấn cũng đến như thế vậy bất đắc dĩ phải bỏ học vấn như tiểu nhân kia, theo sẵn tính trời mà xử, dù cho quân tử cũng không khỏi tính trời.
Hồi trên tả Võ Nhị đả hổ, chuyển rừng động núi, khiến người khiếp sợ. Hồi này tả Võ Nhị gặp chị dâu, đào non liễu yếu, khiến người mê say, ta từng thấy sau khi múa đao rồi thổi sáo ngâm thơ. Sau khi chém giết, uống rượu vui vầy, sao mà Thi Âm khéo tiếp tay tả ra như vậy?
Tả Tây Môn Khánh mấy phen xoay chuyển, khéo về cứu thế, khéo về đổi thay, khéo về cần gấp, khéo về lạnh lùng, khéo về thong thả, khéo về muốn ngay, khéo về phá đi, khéo về mượn lại, khéo về đón lấy, khéo về đẩy ra… Thực là một thiên gấm bật mầu hoa, rõ ra văn tự!
Tả Vương bà định kế, chỉ mấy câu là đủ, xem hắn từng một dư một kiệt, một nuốt một nhả, tùy tâm gỡ ý, bày ra năm phần Quang, trước khi bày mười phần Quang, còn đặt ra năm điều kiện, thực tác giả tài nhiều bằng bể thế bút mực như sóng lên trào xuống, diễn xuất không cùng!
Suốt hồi tả Tây Môn Khánh muốn gian dâm, chỗ chỗ đều vào trong tay bợm Già thao túng, miêu tả ra một lũ tiểu nhân, chỉ cùng một việc, lại đều theo sở thích riêng nhau, kẻ tiền tài người sắc đẹp, thực là đáng ghét và đáng cười, ta thường dậy sớm mở cửa nom ra đường, thiết nghĩ biết bao kẻ ruổi rong xe ngựa chẳng ai vì một nếp sống riêng, nay đọc đến hồi này mà cười cho sự thế.
Khi đó Vận Kha tức giận xách giỏ đi thẳng tới chỗ Võ Đại bán hàng. Vừa đi tới nơi thấy Võ Đại gánh hàng ở phố kia, mới lại gần kiếm chuyện hỏi đùa rằng:
– Lâu nay không gặp Đại Lang, sao dạo này béo thế?
Võ Đại nói:
– Xưa nay ta vẫn bình dạng như thế này có gì làm béo?
– Hôm nọ ta vẫn tìm lúa ngô mà không đâu có, người ta nói nhà Đại Lang có.
– Nhà ta không nuôi ngan vịt, làm gì có thứ ấy?
– Nhà ông không có nuôi ngan vịt, thì ông được vợ để cho ăn được béo thế kia?
Võ Đại mắng rằng:
– Đồ khỉ này, vợ tao không đi chim chuột với ai, sao mày dám bảo tao là vịt?
– Phải, vợ ông không chim trai, nhưng có trai chim vợ ông đấy.
Võ Đại lại hỏi rằng:
– Ai đấy! Chú nói anh nghe, anh có biết gì đâu?
Vận Kha nói:
– Tôi nói đùa thế thôi, nhưng có nói ra thực thì cũng ngại, chả lẽ vợ ông như thế mà ông lại không biết hay sao?
Võ Đại nói:
– Chú bảo thực cho anh, tôi xin biếu chú mươi cái bánh.
– Thôi, không cần đến bánh chưng, có muốn hỏi đến ai, thì mời tôi vào quán uống vài chén rượu, tôi nói khẽ mà nghe.
– Được, chú muốn uống rượu, thì theo tôi vào hàng.
Võ Đại quảy gánh cùng Vận Kha vào một quán hàng. Khi đặt gánh xuống vào hàng hai người cùng ngồi, Võ Đại lấy rượu thịt, và bóc một vài chiếc bánh chưng, rồi mời Vận Kha.
Vận Kha nói:
– Rượu uống ít thôi, lấy thêm thịt ăn thì tốt.
Võ Đại bảo Vận Kha:
– Chú nói cho tôi biết đi?
– Việc này không thể vội, đợi tôi ăn uống xong đã.
Sau khi ăn xong, Võ Đại hỏi, thì Vận Kha nói cho hay rằng:
– Vừa rồi, tôi đem một giỏ quả tuyết lê, tìm Tây Môn Khánh để đòi tiền, mà tìm y không thấy, có người bảo ở trong buồng Vương bà, cùng với vợ Võ Đại dan díu bấy lâu, tôi mới đến đấy cốt để kiếm y mà hỏi tiền nợ, không may bị mụ Vương bà chó má ấy, không cho vào buồng tìm, rồi sinh sự lôi thôi mụ tát tôi mấy cái, mới tức bực mà tìm đến Đại Lang, nếu lúc nãy không kiếm một vài câu nói khích thì ông đâu có chịu hỏi tôi.
– Có thực thế ư?
– Tôi bảo ông là vịt, để cho hai đứa nói vui sướng với nhau mà! Tôi nói thực, ông cứ đến buồng Vương bà, xem thực hay giả?
– Tôi có biết đâu, vợ tôi vẫn nói là sang Vương bà khâu vá, khi về thấy má ửng hồng, tôi đã hơi nghi, ai ngờ lại thế, bây giờ tôi gửi hàng đây, để đi bắt gian phu dâm phụ có nên chăng?
– Ông già cả mà không hiểu biết, con mụ chó Vương bà nó ghê gớm lắm, làm sao ông dám ra tay, nó ba người ám hiệu cho nhau, như ông đến nó nom thấy, thì họ lẩn ngay thoát được, mà Tây Môn Khánh lại thằng côn đồ, nó đánh cho ông mươi cái, thì nguy nếu có kiện thưa, nó có tiền có thế, mà ông một mình ở đây, thì làm sao, có thể nó giết ông cho khỏi mang tiếng.
Võ Đại nghe nói, liền bảo rằng:
– Phải, chú nói đúng, vậy làm thế nào?
– Tôi bị con mụ Vương bà chó má ấy đánh còn tức giận đây, hôm nay có lẽ chúng tan rồi, phải rình ngày mai mới được. Vậy chiều nay ông có về nhà, thì cứ như mọi ngày, đừng nói năng gì và lộ ra nghi hoặc tức tối, rồi ngày mai làm ít hàng thôi, quảy ra chợ bán, tôi ở ngõ hẻm đợi ông, ông đặt gánh hàng ở đó, tôi tới, tôi đến khiêu khích mụ già, cho nó đánh tôi, tôi làm cho giỏ quả rơi ra, ông chạy giả vờ can rồi nhặt hộ, khi ấy, tôi nắm lấy mụ già sinh sự, thì ông chạy thộc vào buồng mà bắt lấy gian dâm phụ, kế ấy thế nào?
– Hay quá! Thế mới thực là anh em, tôi có ít tiền đãi chú mang về mua gạo, sáng mai cơm nước xong, đến phổ Tử Thạch đợi tôi để làm việc ấy.
Vận Kha nhận tiền và mấy cái bánh rồi về, Võ Đại trả tiền rượu, đi bán bánh một lúc nữa về nhà. Nói đến vợ Võ Đại bấy lâu nay khinh miệt chồng, thì cũng biết rằng không phải, nay đã khá hơn trước ít nhiều, khi thấy Võ Đại về, cũng vui vẻ như mọi ngày, thấy chồng có dáng uống rượu thì hỏi rằng:
– Đại Lang hôm nay uống rượu ở đâu hẳn?
– Có, gặp mấy người quen uống ở hàng mấy chén với nhau thôi.
Người vợ lại bày rượu cơm cùng chồng ăn uống, đêm hôm ấy Võ Đại không giở đến việc nghi ngờ.
Sáng ra Võ Đại chỉ làm ít bánh, rồi gánh đi bán, người vợ bấy lâu chỉ mải mê với trai, có biết đâu làm ít hay nhiều, đợi chồng đi khỏi, lại lẻn cửa sau sang buồng bợm già để đợi tình nhân.
Võ Đại quảy gánh ra ngõ hẻm, đón Vận Kha rồi hỏi:
– Thế nào, chú thấy nó đến chưa?
– Nó chưa đến, ông hãy đi bán hàng một lát đã. Rồi ông đến bên tả ngõ hẻm này đợi tôi.
Võ Đại quảy hàng đi bán một lúc, rồi trở lại; Vận Kha bảo Võ Đại:
– Bây giờ chúng nói với nhau rồi, để tôi mang giỏ quả đến khiêu chiến Vương bà, rồi thi hành kế.
Võ Đại y lời gánh hàng gửi một chỗ, rồi ra rình ở một nơi.
Vận Kha đem giỏ đến hàng Vương bà rồi mắng rằng:
– Con mụ già chó má kia! Sao hôm qua mày đánh tao.
Vương bà chợt thấy Vận Kha lại đến mắng chửi, liền uất khí xông lên, chạy ra nắm lấy Vận Kha mà đánh, mắng luôn:
– Ranh con! Tao với mày không có chuyện gì, sao lại cứ đến đây chửi bởi?
– Tao chửi mày là đồ sọm già với tính chó má đấy!
Vương bà tức quá nắm lấy mà đánh, làm Vận Kha tung cái giỏ ra, rồi Vận Kha kêu to lên. Hai bên ẩu đả nhau ấm ỹ, thì chợt thấy Võ Đại sắn quần áo ở đâu chạy thẳng vào buồng. Vương bà định bỏ ranh con ra, để chạy lại ngăn Võ Đại, nhưng ranh con nắm chặt lấy không buông, Vương bà chỉ còn cách kêu lên “Võ Đại đến “, làm cho người vợ nghe thấy vội vàng chạy ra đóng chặt cửa lại. Tây Môn Khánh chui xuống gầm giường để trốn.
Võ Đại đấm phá cửa buồng không nổi, miệng kêu gào lên “Gian phu dâm phụ”…Người vợ nói ra:
– Bấy lâu múa mỏ khoe tài, bây giờ mới biết là đồ hổ giấy, ai sợ chi ngươi!
Người vợ nói câu này, có ý bảo Tây Môn Khánh ra đánh Võ Đại, cướp đường mà chạy. Tây Môn Khánh nằm ở gầm giường nghe chị chàng nói, thì hiểu ý ngay, liền đâm choàng chạy ra mở tung cánh cửa mà nói rằng:
– Đứa nào dám đánh ta?
Võ Đại thấy vậy, vừa toan nắm lấy Tây Môn Khánh, thì bị Tây Môn Khánh giơ chân trái đá cho một cái vào bụng, ngã lật ra đằng sau, rồi rảo bước chạy cút thẳng một mạch về nhà.
Vận Kha thấy Võ Đại bị ngã, Tây Môn Khánh chạy mất, bèn bỏ Vương bà mà chạy nốt. Bấy giờ phố sá đổ ra xem, thì thấy Tây Môn Khánh đã trốn rồi, nên không ai nói năng gì đến nữa. Vương bà thấy Vận Kha buông tha ra, liền chạy vào trong buồng, thấy Võ Đại mồm mép chảy máu ra lênh láng, mà nét mặt xám hẳn lại, liền gọi chị chàng kia ra lấy nước lạnh rửa sạch, rồi vực theo ngõ hẻm về nhà, đưa lên gác nằm đó.
Ngày hôm sau Tây Môn Khánh dò là tin tức, thấy không động chạm gì thưa kiện, thì lại điềm nhiên đi lại như cũ. Còn Võ Đại thì một mình ốm đau nằm ở trên giường, tới bốn năm ngày vẫn chưa dậy được, nước uống không có nước, mà vợ không thèm đếm xỉa đến, chỉ sáng nào cũng phấn sáp chỉnh đốn quần áo đi mãi đến chiều, khi về thì lại hai má đỏ hồng, rõ ra một tuồng dâm đãng. Võ Đại thấy vậy thì cay đắng trong lòng, mà không biết làm sao được.
Một hôm chàng gọi vợ đến mà bảo rằng:
– Công chuyện của các ngươi làm ta biết cả rồi, ta định bắt đứa gian tặc kia, ai ngờ ngươi lại hùa với nó mà đánh ta sống giở chết giở thế này, mà ngươi cứ hú hí vui đùa với nhau. Ta ngày nay dẫu chết cũng không làm gì, song còn em ta là Võ Nhị, thì các ngươi đã biết, nó không phải tay vừa, nếu nay mai nó về đây, tất sinh sự lôi thôi, không thể nào im được. Vậy các ngươi tử tế trông nom cho ta, thì khi hắn về ta sẽ ngơ cho, bằng không thì bấy giờ ta sẽ liệu.
Chị chàng nghe vậy không nói năng chi cả, cứ lẳng lặng đi sang bên cạnh mà thuật lại cho Vương bà, Tây Môn Khánh biết.
Tây Môn Khánh nghe vậy thì dậm chân xuống đất mà kêu lên rằng:
– Trời ơi, nếu vậy thì biết làm thế nào? Ta phải biết rằng Võ Đô Đầu đánh hổ núi Cảnh Dương là một tay đệ nhất hảo hán ở Huyện Thanh Hà, nếu mình chạm vía với lão ấy thì còn sống thế nào được? Cái ân ái của đôi ta đến quãng này thực là khó nghĩ, không lẽ nào cho đành. Vậy còn biết làm sao cho được?
Vương bà nghe nói thì cười nhạt mà rằng:
– Tôi chưa từng thấy một người đẩy thuyền như tôi đây còn chưa sợ, mà một người cầm lái như cậu đã cuống chân tay như thế bao giờ… !
Tôi thực là làm một thằng con trai, nhưng đến những lúc này thì thực không có cách gì gỡ cho ra được, chẳng hay bà có kế gì không?
– Các người định làm vợ chồng lâu hay làm vợ chồng ngắn?
– Thế nào là vợ chồng lâu, thế nào là vợ chồng ngắn?
– Nếu làm vợ chồng ngắn thì bắt đầu từ hôm nay hãy rẽ duyên đi đôi ngả, đợi khi Võ Đại yếu dậy sẽ nói lại với hắn, thì Võ Nhị về đây tất cũng im chuyện rồi sau này nếu khi Võ Nhị có đi việc quan đâu thì bấy giờ lại xum họp cùng nhau, thế là gọn nhất. Bằng muốn làm vợ chồng lâu mà cùng nhau sống mãi mãi không còn sợ đến điều chi, thì tôi có một kế sách này, nhưng cũng khó lòng bảo cho các người được.
– Vâng, xin bà hết sức che chở mà bảo cho chúng tôi lấy cách lâu dài với nhau.
– Cái kế sách này cần dùng đến một vật, giá mọi nhà thì không có, nhưng giời xui khiến vậy nhà cậu lại sẵn rồi.
– Cần có vật gì, hay là bà bảo tôi khoét mắt đưa cho bà chăng?
– Hiện bây giờ lão ấy đương đau yếu ta nên thừa cơ mà hạ thủ ngay mới được. Cậu về lấy một miếng tì sương đem đến đây cho nương tử mua một liều thuốc đau bụng về cho lão uống, đến khi chết rồi thì ta đem đốt đi thế là hết tích. Sau này Võ Nhị có về đến đây thì chị dâu với em chồng có phép nào mà tra hỏi được, bấy giờ cũng đành chịu thôi chứ gì? Đoạn rồi ta cứ đi lại kín đáo với nhau, đợi khi hết tang thì sẽ cưới về, như thế há không phải một kế trăm năm bền vững hay sao?
– Bà ôi! Nếu vậy thì tội nghiệp lắm! Nhưng mà không làm thế nào cũng được.
– Cậu phải biết rằng: Giẫy cỏ phải trừ gốc, nếu không cẩn thận thì tất là khổ về sau, cậu phải về mau lấy đem đến đây, để tôi bảo nương tử hạ thủ, rồi khi thành công phải đền ơn tôi mới được.
Độc thay tâm địa đàn bà,
Mưu kia thế nọ chẳng qua vì tiền.
Xét xoi chăng hỡi Hoàng Thiên?
Sinh chi những giống đảo điên khổ đời.
Bấy giờ ma ngũ sắc đương ám ảnh mê hồn làm cho Tây Môn Khánh mất cả tâm thần trí tuệ, không còn trông trước trông sau chi nữa, bèn lập tức đi mau về nhà mà lấy ngay thuốc độc đem đến đưa cho Vương bà.
– Vừa rồi Võ Đại bảo nàng nên trông nom tử tế thì sau này không nói với Võ Nhị nữa, vậy bây giờ nàng nên nhân câu ấy mà làm ra mặt thương yêu hối hận để phục dịch anh ta. Nếu anh ta có đòi uống thuốc thì nàng pha một chút tỳ sương này vào thuốc đau bụng mà đổ cho anh ta uống; rồi chạy lánh đi một chỗ. Đến khi nào thuốc ngấm làm cho đứt ruột đứt gan mà anh ta kêu lên, thì nàng sẽ đem chăn vào đắp kín cho hắn, mà phải cẩn thận vững vàng chớ cho ai nghe tiếng mới được. Đoạn rồi đun sẵn một nồi nước nóng và lấy một khăn lau để đó, hễ khi anh ta chết rồi thì thất khiến phải chảy máu tươi, bấy giờ nàng sẽ bỏ chăn ra, mà lấy giẻ sấp nước nóng, lau kỹ đi một lượt, rồi sau sẽ khâm liệm bỏ vào áo quan mà khiêng đi thiêu hóa là xong…
Chị chàng kia ung dung đáp rằng:
– Làm thế thì tốt lắm nhưng tay chân tôi mềm yếu, không biết rằng có thi hành nổi hay không?
Vương bà nói:
– Cái đó thì khó gì? Bấy giờ nàng sẽ gọi cửa đây, rồi tôi sang giúp cho.
Tây Môn Khánh lấy làm đắc sách, bảo hai người rằng:
– Các bà phải làm ăn cho cẩn thận, rồi sáng mai tôi sẽ đến đây xem sao?
Nói xong từ biệt mà về. Bấy giờ Vương bà mài tỳ sương nhỏ biến ra rồi bọc lại cẩn thận cho chị chàng kia. Chị chàng ta giắt thuốc vào mình, rồi trở về nhà, bèn đến chỗ Võ Đại nằm, thấy Võ Đại đã mê mệt lờ đờ như người sắp chết, nàng liền giả cách ra chiều thương xót mà khóc òa lên. Võ Đại thấy vậy, hỏi rằng:
– Làm sao mà nàng khóc?
Chị chàng lau nước mắt đáp rằng:
– Tôi trót dại bị người ta lừa dối để đến nỗi chàng phải chịu thiệt thòi như thế, thực trong lòng hối hận vô cùng. Nay tôi tìm được một nơi thuốc hay, nhưng chỉ sợ chàng còn nghi ngại, nên không dám đem về đưa chàng uống.
Võ Đại rên rỉ mà rằng:
– Nếu nàng cứu được cho ta khỏi, thì ta không còn chấp chi những chuyện trước, mà cũng không khi nào nói với Võ Nhị. Nàng cứ lấy thuốc về đây cho ta uống.
Chị chàng nghe nói vội vàng lấy ít tiền chạy sang nhà Vương bà ngồi, bảo Vương bà mua cho một liều thuốc đau bụng, rồi xăm xăm đưa về cho Võ Đại xem mà nói rằng:
– Đây thứ thuốc đau ruột, thầy thuốc dặn đến nửa đêm uống, rồi lấy chăn đắp kín mít cho toát mồ hôi ra, là sáng ngày khỏi
Võ Đại gật đầu khen rằng:
– Nếu vậy thì tốt lắm, đêm nay nàng phải tỉnh ngủ mà cho tôi uống mới được.
Bấy giờ trời đã tối mịt, chị chàng kia thắp ngọn đèn lên để đó, rồi bắc nồi nước lã lên lò, rồi bỏ một cái khăn lay vào đó đun sẵn cho nóng. Đến đầu trống canh ba, chị chàng bỏ thuốc độc vào chén, rồi múc một chén nước lã lên hỏi Võ Đại lấy thuốc đau bụng mà hòa lẫn vào đó, rồi đổ cho Võ Đại uống.
Võ Đại uống được một hớp, rồi bảo với vợ rằng:
– Sao thuốc này khó uống quá?
Chị chàng kia đáp rằng:
– Sao cho khỏi bệnh là hơn, cần gì khó uống.
Nói xong lại nâng chén thuốc đổ cho Võ Đại, Võ Đại vừa há mồm ra, thì chị chàng cầm cả thuốc đổ dốc vào cuống họng, rồi để nằm vật xuống đó mà vội vàng đứng dậy chạy ra. Được một lát thì Võ Đại kêu lên một tiếng “Oái trời ôi!” rồi nói lên rằng:
– Nàng ơi sao uống thuốc vào, lại đau ruột quá lên thế?
Chị chàng thấy kêu như vậy, liền chạy đến kéo chăn lên mà đắp trùm cả đầu đuôi cho rõ kín.
Võ Đại lại kêu lên rằng:
– Hơi tức lắm không sao chịu được.
Chị chàng đứng bên cạnh đáp rằng:
– Thầy thuốc dặn phải thế mới ra được mồ hôi. Nói đoạn lại sợ Võ Đại cựa dậy, liền nhảy lên trên mình Võ Đại, mà giữ chặt lấy bốn đầu chăn, làm cho anh kia không sao mà cựa được. Võ Đại nằm trong chăn kêu lên một tiếng, thở hộc lên mấy hơi nữa, rồi ruột xé gan bào, phút chốc đã hồn về chín suối.
Thương ôi!
Vì đâu đạo nghĩa tan tành,
Càng trông thế thái nhân tình càng cay!
Mênh mang trời rộng đất dầy,
Nộc tình giết hại xưa nay bao người?
Căm gan muốn đập kêu trời,
Bày chi tai mắt cho đời oái oăm?
Khi ấy chị chàng đốn mạt kia mở chăn ra, thấy Võ Đại đã nằm chết ra thẳng đuỗn, nghiến hai hàm răng làm một, mà trong thất khiếu đều chảy máu tươi ra, nàng liền nhảy xuống giường, rồi chạy xuống gác đi ra cửa sau lên tiếng đằng hắng cho Vương bà biết.
Vương bà nghe tiếng, liền chạy ra hỏi rằng:
– Đã xong chưa?
– Xong rồi, nhưng chân tay mềm yếu, không làm sao thi thố được.
– Có khó gì, để tôi sang giúp cho.
Nói đoạn liến xắn áo đi sang, bưng nồi nước nóng lên gác, cuốn chăn lại mà lau sạch máu me cho Võ Đại rồi khiêng xuống dưới gác, lấy áo xiêm khăn giấy mặc cho Võ Đại tử tế, đặt lên giương nằm, lấy mảnh giấy phủ trên mặt, và lấy cái khăn sạch sẽ đắp lên cho chàng. Đoạn rồi hai người lại lên trên gác dọn dẹp gọn gàng đâu đấy, rồi Vương bà trở về nhà yên nghỉ, chị chàng kia vờ vĩnh khóc cho đến sáng. Vào khoảng đầu trống canh năm, Tây Môn Khánh đã bò đến nhà Vương bà để dò hỏi tin tức, Vương bà liền đem đầu đuôi mọi chuyện thuật lại cho chàng nghe, rồi chàng đưa tiền cho Vương bà, để mua sắm quan khách cùng các đồ tống táng.
Bấy giờ Vương bà gọi chị chàng độc ác kia sang để bày chuyện. Chị chàng kia nói với Tây Môn Khánh rằng:
– Bây giờ Võ Đại đã chết rồi, còn thân tôi đây hoàn toàn trông cậy vào cậu cả đấy.
Tây Môn Khánh nói:
– Cái đó tất nhiên, nàng không cần phải nói:
Vương bà nói rằng:
– Bây giờ có một việc rất cần, là tên Đoàn Cầu Hà Cửu Thúc, vốn là người sắc sảo xưa nay, nếu lỡ ra nó biết mà nó không chịu khâm liệm cho, thì bấy giỡ sẽ làm ra sao?
Tây Môn Khánh nói:
– Việc đó để tôi bảo hắn, tất là phải nghe lời.
Vương bà nói:
– Nếu vậy thì cậu phải đi ngay mới được.
Tây Môn Khánh nhận lời rồi đi ngay. Bấy giờ trời đã sáng tỏ, Vương bà đi mua quan quách cùng các thức vàng hương đem về cho chị chàng kia. Đoạn rồi phố sá đôi bên đổ đến thăm viếng, thì chị chàng ta lại giả vờ khóc lóc, làm ra bộ thương xót vô cùng.
Phố sá có hỏi đến bệnh tật gì, vì sao mà chết thì chị chàng đáp rằng:
– Chỉ vì chứng đau bụng chữa mãi không khỏi, rồi sau càng ngày càng nặng, mà không sao cứu được nữa.
Chị chàng nói xong, lại làm bộ khóc váng cả nhà lên. Đám phố sá thấy vậy, ai cũng biết là Võ Đại chết oan, song không có việc gì can thiệp đến ai, nên cũng làm ngơ mặc đó mà khuyên giải mấy câu cho xong chuyện, rồi ai về nhà nấy. Vương bà cho đi mời Hà Cửu Thúc về để khâm liệm, và đón hai vị sư về để làm độ vong.
Bấy giờ Hà Cửu Thúc được tin mời, liền sai bọn đầy tớ đi trước đến để sắp sửa đồ đạc, rồi mình lững thững đi sau. Khi tới đầu phố Tử Thạch bỗng gặp Tây Môn Khánh gọi mà bảo rằng:
– Hà Cửu Thúc đi đâu bây giờ đấy.
Hà Cửu Thúc đáp:
– Tôi đến khâm liệm cho Võ Đại Lang ở trong phố đây.
– Hãy đến đây tôi nói câu chuyện này đã.
Tây Môn Khánh nói xong, bèn dắt Cửu Thúc vào một hàng rượu ở gần góc phố đó, rồi mời vào nói chuyện.
Hà Cửu Thúc chối từ rằng:
– Chúng tôi đâu dám ngồi với ngài như thế.
Tây Môn Khánh nói:
– Cần chi Cửu Thúc phải khiêm tốn như thế, hãy cứ ngồi đây tôi nói chuyện.
Nói đoạn hai người cùng ngồi xuống, rồi gọi nhà hàng đem rượu cùng hoa quả thức ăn lên mời Cửu Thúc cùng uống.
Cửu Thúc nghĩ thầm trong bụng: “Anh chàng này có ăn uống với mình bao giờ, cái này tất lại có chuyện rắc rối gì đây?” Nghĩ đoạn hai người cùng uống rượu với nhau.
Một lát Tây Môn Khánh lấy 10 lạng bạc ra để bàn, bảo Hà Cửu Thúc rằng:
– Cái này Cửu Thúc hãy nhận lấy cho, rồi sau đây tôi xin đưa tạ ơn nữa.
Hà Cửu Thúc chấp tay đáp rằng:
– Chúng tôi không có công lao gì, lẽ đâu nhận tiền của ngài, vả chăng ngài có sai bảo gì, chúng tôi cũng không dám thế.
– Không, Cửu Thúc cứ cầm lấy, rồi tôi nói chuyện.
– Vâng, xin ngài hãy cứ nói, thế nào chúng tôi cũng xin vâng.
– Tôi chỉ có một việc là lát nữa Cửu Thúc khâm liệm cho Võ Đại, thì Cửu Thúc che đậy mà kín đáo giúp cho, thì tôi cảm ơn lắm.
– Việc ấy tầm thường lắm, có chi tôi dám nhận tiền.
– Nếu không nhận tiền là Cửu Thúc không chịu giúp tôi rồi, xin cứ lấy cho.
Hà Cửu Thúc vốn xưa nay sợ Tây Môn Khánh là tay gian hoạt, hay đi lị đám quan tư mà bắt nạt đám dân gian, nên bất đắc dĩ phải nhận lấy rồi cáo từ mà ra đi.
Khi bước chân ra khỏi cửa, Tây Môn Khánh lại dặn với rằng:
– Cửu Thúc nhớ chớ để tiết lộ mới được, rồi sau sẽ tạ ơn. – Cửu Thúc vâng lời rồi chia tay mỗi người mỗi ngả. Hà Cửu Thúc vừa đi vừa nghĩ lẩm nhẩm: “Quái lạ, ta liệm cho Võ Đại, thì việc gì đến anh chàng này, mà lại cho nhiều tiền như thế? Chẳng hay ở trong lại có điều chi rắc rối đó chăng? “Chàng nghĩ vậy, thì trong bụng lấy làm nghi hoặc vô cùng, khi tới trước cửa nhà Võ Đại, đã thấy những đầy tớ đứng đợi ở đó. Cửu Thúc hỏi rằng:
– Võ Đại chết về bệnh gì thế?
Lũ đầy tớ nói rằng:
– Chúng tôi thấy người nhà nói là bị đau bụng mà chết.
Hà Cửu Thúc nghe đoạn, vén bức rèm bước vào thấy Vương bà đón mà nói rằng:
– Sao Hà Cửu Thúc đến chậm thế?
Hà Cửu Thúc đáp:
– Tôi bận có tí việc, nên chậm một chút.
Bấy giờ vợ Võ Đại cũng giả vờ mặc áo xiêm trắng, khóc từ trong nhà mà đi ra.Hà Cửu Thúc liền nói rằng:
– Thôi, nương tử khóc làm gì nữa? Tội nghiệp! Đại Lang mất thế mà tôi không biết gì cả.
Chị chàng lại bưng vờ lên mặt mà nói rằng:
– Khốn nạn Đại Lang nhà tôi chỉ đau bụng có năm ba hôm mà thiệt mạng, thực là cay đắng cho tôi lắm.
Cửu Thúc nhìn kỹ chị chàng một lượt, rồi tự nói một mình rằng: “Xưa nay chỉ nghe tiếng Võ Đại nương tử là đẹp, nay mới biêt được rõ người như thế, cái mười lạng bạc của anh chàng Tây Môn Khánh này, tất là có duyên cớ chi đây!” Nghĩ đoạn chạy vào chỗ xác Võ Đại nằm, cất cành phan lên, mở tờ giấy phủ mặt ra, rồi dùng hai con mắt thần trong suốt như bảo ngọc, mà định tình nhìn kỹ vào mặt Võ Đại. Đoạn rồi bỗng dưng kêu lên một tiếng ngã vật ra đằng sau, miệng hộc máu ra; năm đầu ngón tay tím lại, nét mặt tái nhợt đi, mà hai con mắt lờ đờ như người sắp chết vậy. Cả nhà thấy vậy, ai nấy đều kinh ngạc, không hiểu ra ý làm sao. Than ơi!
Máu tình pha lẫn tỏi tanh,
Lấy ai cứu vớt phù sinh cho đời?
Bắc thang lên hỏi ông trời,
Thuốc đâu chữa được con người táng tâm?
Đường nhân lối nghĩa âm thầm,
Nghe như nước réo non gầm đâu đây?
Giấc tình một tỉnh mười say,
Tiền nhân hậu quả sau này xem sao?
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này kết lại hồi trên tả Tây Môn Phan Thị gian dâm, để này ra hồi sau Võ Nhị báo thù, cũng là văn tự tả qua, song từng chỗ đều tả ra tinh tế, chứ không tả sơ sài, dù không phải là văn chính truyện.
Đoạn thứ nhất tả Vận Kha định kế, đoạn thứ hai tả Võ Đại bắt gian, đoạn thứ ba tả Vương bà giúp sức, đoạn thứ tư tả dâm phụ giết chồng, đến đoạn cuối tả Cửu Thúc suy nghĩ, tinh thần từng đoạn, xuất sắc từng việc, đừng cho là hồi nhỏ coi thường.
Tả tâm độc của gái đĩ, mấy lần toan gấp sách không xem, muốn chóng đến hồi sau xem báo thù cho khoái, như đánh trống mà tẩy uế đi.
Lúc đó Hà Cửu Thúc nằm vật xuống, thì người nhà người cửa đều xúm đen cả vào, kẻ thì phun nước, người thì kêu gọi, hồi lâu mới dần dần tỉnh dậy, rồi Vương bà sai người vực về nhà để chữa.
Khi lũ đầy tớ vực Cửu Thúc về tới nhà, đặt nằm ở trên giường,người vợ thấy vậy bèn đến bên cạnh khóc lóc mà nói rằng:
– Lúc bước chân ra đi thì hớn hở vui cười, sao bây giờ trở về thì lại như thế? Xưa nay nào có thế bao giờ?
Bấy giờ Cửu Thúc trông ra không có ai ở đó, bèn bảo sẽ với người vợ rằng:
– Nàng không phải lo nghĩ, tôi đây có việc gì đâu? Cái này chỉ vì sáng hôm nay khi tôi ra đi, gặp Tây Môn Khánh là anh chàng bán thuốc trước cửa huyện, mời đi đánh chén, mà lại đưa mười lạng bạc, mà dặn việc khâm liệm Võ Đại nên cẩn thận kín đáo giúp cho. Sau đến nhà Võ Đại trông thấy chị chàng ấy không phải là người lương thiện, thì trong bụng đã hơi có ý nghi ngờ. Kịp đến lúc trông vào mặt Võ Đại, thì quả nhiên thấy nét mặt tím bầm, trong thất khiếu đều có vết máu, mà trên môi đều có lộ vết răng cắn vào, chắc là chết vì trúng độc. Bấy giờ đã toan hô hoán lên, song ngặt vì hiện đấy không có ai là người chủ trương, mà dây với thằng Tây Môn Khánh không phải tay vừa tất là lỡ chuyện. Sau cũng toan im đi khâm liệm cho xong, nhưng lại sợ Võ Đại có người em là Võ Đô Đầu đánh hổ trên núi Cảnh Dương khi trước, vốn là một tay giết người mà không nháy mắt, nay mai sắp về tới đây, thì việc này phải lôi thôi không tài nào tránh khỏi…
Người vợ nghe đến đó thì nói luôn rằng:
– Phải, mấy hôm nọ tôi đã nghe rằng, con ông Kiều Lão ở phố sau là Vận Kha, đến phố Tử Thạch giúp Võ Đại bắt gian phu ầm cả phố lên, có lẽ là việc ấy hẳn, để tôi hỏi hắn xem sao? Còn đằng kia cứ để đám đầy tớ khâm liệm cho người ta, nếu người ta còn quàn đấy, để đợi Võ Đô Đầu về mới chôn, hoặc đem chôn ngay thì cũng chẳng việc gì mà ngại. Duy họ đem siêu hóa đi, thì tất là có sự rắc rối, bây giờ ta sẽ đến đấy đánh lộn sòng mà thủ lấy mấy miếng trối xương rồi bọc với mười lạng bạc kia để làm tang chứng, sau này Võ Đô đầu về đây mà không hỏi đến thì ta cũng mặc đó, để lưu chút nhân tình với nhà Tây Môn Khánh, mà thỉnh thoảng kiếm gạo của hắn cũng được chứ sao?
Hà Cửu Thúc nghe nói khen phải, liền gọi đám đầy tớ đến mà bảo rằng:
– “Hôm nay ta bị trúng cảm, không thể nào đến đấy được, vậy ta cho các ngươi cứ đến đấy khâm liệm cho người ta, rồi hỏi xem bao giờ đem táng, thì về báo cho ta biết. Các ngươi làm cho cẩn thận, tiền nong ở đấy ta cho tất cả mà chia nhau, đây không cần lấy đến”.
Tụi đầy tớ vâng lời đến nhà Võ Đại để khâm liệm, rồi một lúc trở về bảo rằng:
– Ba ngày nữa cất đám ra ngoài thành để siêu hóa.
Hà Cửu Thúc nghe nói xong cho tiền chúng đem về chia nhau, rồi bàn với vợ đến ngày thứ ba để thi hành kế sách.
Bên kia Vương bà hết sức giúp đỡ việc tang cho vợ Võ Đại, ngày thứ hai đón bốn vị sư về tụng kinh, rồi đến ngày thứ ba thì đưa ra Hoà Nhân Trường ở ngoài thành để siêu hóa. Hôm ấy cùng mấy người phố xá gần đấy đi đưa đám. Còn chị chàng kia thì cũng ăn mặc tang phục mà khóc vờ khóc vĩnh, đi theo linh cữu Võ Đại ra đến Hóa Trường.
Khi mới tới nơi vừa mới bắt đầu phát hỏa, thì thấy Hà Cửu Thúc tay cầm một nắm giấy tiền ở đâu chạy đến. Vương bà cùng chị chàng kia vội đến mà hỏi rằng:
– May quá Cửu Thúc hôm nay đã được mạnh khỏe rồi…
Cửu Thúc nói:
– Dạo trước tôi có mua của Đại Lang một cái bánh bao lớn mà chưa kịp trả tiền; nay đem ít tiền giấy ra đây mà đốt trả Đại Lang vậy.
Nói xong cầm giấy tiền vào đốt, rồi lại túm vào để giúp việc siêu hóa. Vương bà cùng chị chàng kia đến cảm ơn mà rằng:
– Cửu Thúc lại có lòng tốt như thế, thì thực là hiếm có, về nhà chúng tôi xin tạ ơn.
Hà Cửu Thúc đáp:
– Được, cái này là bổn phận của chúng tôi, tôi xin bà với nương tử cứ đến trai đường tiếp khách, để tôi xin trông nom ở đây.
Nói đoạn Vương bà cùng chị chàng kia đều quay ra trai đường. Bấy giờ Hà Cửu Thúc sấn vào đống lửa vớ lấy hai mảnh xương trối rồi tắt lửa đi để xem, thì thấy đầu xương đều mềm đen hết cả, chàng bèn giấu vào bọc, rồi cùng đi vào trai đường nói chuyện.
Được một lát việc siêu hóa đã xong, bọn đầy tớ đem xương tàn lấp bỏ xuống ao, rồi mỗi người kéo đi về một ngả. Hà Cửu Thúc mang hai mảnh xương về nhà, rồi lấy giấy viết rõ ràng ngày tháng tên tuổi các người đi tống táng, rồi bọc với mười lạng bạc kia vào một cái túi, mà cất ở trong buồng cẩn thận. Bên kia từ khi vợ Võ Đại đưa ma trở về, cũng bày dặt linh sàng cùng các đồ vàng mã để thờ chồng ở nhà dưới mà che mắt thế gian, còn tự mình, thì cùng đi lại với Tây Môn Khánh ngày ngày trò chuyện vui đùa ở trên gác, mưa sớm, mây hôm, mây chiều trăng tối tha hồ phỉ chí tự do, không còn ngại ai ngăn cấm. Cái cảnh tượng hai gã gian dâm vụng trộm ở nhà mụ Vương bà trước nay bỗng biến thành đôi nhân duyên như đúc như sơn như keo như rựa, khiến cho phố xá gần xa, không ai là không biết chuyện. Duy Tây Môn Khánh vốn là tay gian hoạt, đã từng có tiếng xưa nay, bởi thế ai cũng bỉm đi, mà mặc cho thỏa lòng sở dục.
Nhưng than ôi! Cái sự vui sướng chính đáng trên đời, xưa nay ông Hóa công không đãi người được trọn, huống chi là một kẻ tàn bạo đê hèn bỏ hết thiên lý nhân tâm để cầu lấy sự khoái lạc bên ngoài bì tướng thì lẽ nào mà hưởng thụ được lâu! Bởi thế cho nên thắm thoắt mới được hơn tháng trời, mà cái nông nổi cực lạc sinh bi đã từ đâu đưa đến vậy.
Võ Tòng khi tuân lệnh quan huyện áp tải các đồ châu báu vào kinh, giao cho thân nhân của quan huyện cẩn thận, rồi một mình quay ra dạo chơi phong cảnh Đông Kinh trong mấy bữa mới nhận giấy trở về Dương Cốc. Khi đi trời còn tàn đông nên lạnh lẽo, đến khi trở vế đã bắt đầu sang tiết tháng ba, khí trời rất là ôn hoà dễ chịu duy trong lòng thì hoảng hốt không yên, mà mong sao về ngay tới huyện, để thăm anh cả ở nhà.
Một hôm Võ Tòng về tới huyện Dương Cốc, quan huyện xem giấy má, thấy công việc đến nơi đến chốn cẩn thận, thì vui mừng trong dạ, liền thưởng cho một đĩnh bạc lớn, và thiết cơm rượu rất là chu đáo, Võ Tòng nhận các đồ thưởng rồi vội vàng trở về phòng, thay đổi khăn áo, khóa cửa phòng lại, đi ra phố Tử Thạch thăm anh. Bấy giờ hai bên hàng phố trông thấy Võ Tòng đã về, thì ai nấy đều lấy làm kinh sợ, mà sắp sinh sự tới nơi. Khi Võ Tòng đến nhà Võ Đại, vén bức rèm lên bước chân vào cửa, chợt trông thấy phía trong có kê bàn thờ, trên bài vị đề mấy chữ ” linh vị vong phu Võ Đại Lang “, thì giật mình kinh ngạc, đứng dừng lại mà mở mắt to ra nhìn, rồi nói một mình rằng:
– Có lẽ ta hoa mắt hay sao?
Than ơi:
Cách nhau trăng chửa thêm ba,
Mà sao phong cảnh nay đà khác xưa!
Đoái trông mây khói mịt mờ,
Đào phai lý nhạt bây giờ hỏi ai?
Đoạn rồi lên tiếng gọi rằng:
– Tẩu tẩu ơi! Võ Nhị đã về đây…
Khi đó Tây Môn Khánh đương cùng chị kia hú hí nô đùa ở trên gác, bỗng nghe tiếng Võ Nhị gọi, thì kinh sợ mất vía mà chạy tót lối sau cửa, sang nhà Vương bà để trốn mất. Còn chị chàng khốn nạn kia hoảng hốt bất thần, miệng thì nói rằng:
– Thúc thúc ngồi chơi, tôi xuống bây giờ!
Tay thì vội vàng rửa hết son phấn, tháo hết trâm thoa, trút bỏ các đồ trang sức, với các đồ dùng vô loại xưa nay, rồi mặc quần áo tang chế vào, mà giả vờ khóc hờ hờ để đi xuống gác.
– Tẩu tẩu hãy im đừng khóc nữa! Ca Ca tôi mất từ bao giờ? Bệnh tật gì, uống thuốc ai?
Chị chàng khốn nạn kia vừa khóc vừa trả lời rằng:
– Sau khi chú đi được mười lăm hôm, thì bỗng dưng Ca Ca bị đau ruột đến tám chín ngày, tôi đã đi xem bói, tìm thầy thuốc, phí tổn không biết bao nhiêu, nhưng cũng không thế nào cứu được.
Võ Tòng lại nói:
– Quái lạ, xưa nay Ca Ca tôi chưa hề có chứng đau bụng bao giờ, sao ngày nay như thế mà thiệt mạng được.
Bấy giờ Vương bà ở bên cạnh vách nghe tiếng Võ Tòng đã về, thì sợ khi lỡ chuyện gian dâm, nên cũng chạy sang đấy để liệu chiều che chở, liền bảo Võ Tòng rằng:
– Đô Đầu không nên nghĩ thế, trời còn có lúc mưa gió bất thần, huống chi người ta lại giữ được suốt đời không việc gì hay sao?
Chị chàng kia lại nói đế thêm rằng:
– Mấy hôm nọ các công việc ở nhà, đều nhờ ở tay bà này giúp cả, nếu không có bà ấy thì quanh đây không ai giúp đỡ đến tôi.
Võ Tòng hỏi:
– Vậy thì bấy giờ mai táng ở đâu?
Chị chàng đáp:
– Cả nhà có một mình tôi, không thể nào tìm được đất mà mai táng, sau để đến ba bốn ngày, rồi đành phải đem ra siêu hóa vậy.
– Ca Ca tôi mất đã mấy ngày hôm nay rồi?
– Hai hôm nữa là đoạn thất rồi.
Võ Tòng nghe nói ngần ngừ một lúc nghĩ ngợi, rồi quay ra về huyện.
Ngậm ngùi một bước một đau,
Vì ai non nước vương sầu với xuân.
Võ Tòng trở về tới huyện, liền thay mặc quần áo trắng, và thắt lưng đay ra ngoài để tang anh, rồi dắt con dao chân dài chuôi ngắn, lưỡi mỏng, sống dày, lấy mấy lạng bạc giắt lưng, và gọi một tên thổ binh đi theo, để ra phố mua sắm các đồ lễ vật.
Tối hôm ấy Võ Tòng sai tên thổ binh mang cơm canh vàng hương, đến bày ở giường thờ Võ Đại, rồi chàng thắp đèn hương quỳ xuống trước linh sàng cúi lạy mà khấn rằng:
– Trăm lạy Ca Ca, lúc sinh thời Ca Ca vẫn là người nhu nhược, song ngày nay linh hồn cũng chẳng xa đâu, vậy nếu có điều chi oan khuất, xin Ca Ca báo mộng cho hay, để em sẽ vì Ca Ca trả thù trắng nợ.
Khóc xong thì cất tiếng khóc to, rất chiều thảm thiết, khiến cho phố xá ai nghe cũng phải cảm động, bồi hồi mà mang lòng thương xót:
Hồn oan vơ vẫn non sông,
Hạt châu tầm tả anh hùng ngẩn ngơ
Võ Tòng lăn khóc hồi lâu rồi trở dậy, sai thổ binh dọn cơm canh xuống hai người cùng ăn. Đoạn rồi lấy hai cái chiếu, cho tên thổ binh một cái để trãi bên cạnh cửa trong mà nằm, còn Võ Nhị thì trãi nằm ở dưới linh sàng Võ Đại. Bấy giờ chị chàng kia trông thấy Võ Tòng nằm đó thì cũng lên gác mà đi nghỉ một mình.
Võ Tòng nằm vật mãi đến khi gần hết canh ba, mà chưa sao ngủ được, quay vào nom tên thổ binh thì đã ngủ ngáy khè khè như chết. Chàng liền ngồi dậy ngẩng nom lên trước linh sàng, thì thấy ngọn đèn pha lê như mờ như tỏ, rất chiều ảm đạm đê mê. Lắng tai nghe tiếng trống đã thấy ba canh ba khắc, bèn thở dài mà nói một mình rằng:
– Ca Ca ta lúc sinh thời vốn là người nhu nhược, thì khi chết rồi còn biết làm sao được phân minh?
Chàng vừa nói dứt lời, thấy một trận lãnh khí từ dưới linh sàn bốc lên quanh quẩn ở trên, làm cho đèn hương đều mờ mịt tối tăm mà giấy má trên vách đều bay phấp phới. Bấy giờ Võ Tòng mơ hồ kinh hãi đứng dựng hai hàng tóc gáy, bèn yên định tinh thần để nom, thì thấy có người ở trong linh sàng đi ra mà nói lên rằng:
– Em ơi! Ta chết rất là oan khổ!
Chàng nghe lơ mơ thấy vậy, toan chạy đến để xem, thì bỗng dưng người cũng không còn, mà trận lãnh khí bỗng tan đâu mất.
Đèn hiu gió lạnh từng cơn,
Trời oan bể nghiệt hỡi hồn đâu đây!
Suối vàng ai hỡi có hay,
Trời còn để có thân này có thân này có khi…
Lúc đó Võ Tòng ngã nghiêng ngơ ngẩn hồi lâu, rồi lại trông đến tên thổ binh thì vẫn ngủ yên như trước, lại nghĩ lại những điều trông thấy thì tựa hồ như giấc chiêm bao, mà té ra không phải, chàng liền nghĩ thầm trong bụng rằng: ” Cái này tất Ca Ca có bị điều oan ức, vừa rồi toan báo mộng cho ta, song lại bị thần khí của ta đánh bạt đi, cho nên không thể nào mà hiện lên rõ rệt ra được.”
Chàng nghĩ vậy thì trong lòng áy náy không yên, ngồi đợi mãi cho đến khi trời sáng. Khi ấy tên thổ binh trở dậy pha nước cho Võ Tòng súc miệng rửa mặt tử tế, rồi chị chàng kia cũng từ trên gác chạy xuống mà hỏi rằng:
– Tẩu Tẩu nói thực cho biết, Ca Ca tôi chết vì bệnh gì?
– Sao Thúc thúc vội quên thế? Hôm qua tôi đã nói là đau ruột mà…
– Vậy thì uống thuốc của ai?
– Vẫn hãy còn đơn thuốc ở kia.
– Ai đi mua áo quan?
– Cái đó nhờ Vương bà mua hộ.
– Ai đem đi tống táng?
– Việc tống táng thì nhờ anh Đoàn Đầu Hà Cửu Thúc ở đằng phố kia.
Võ Tòng nghe rõ đầu đuôi đứng dậy nói rằng:
– Bây giờ tôi hãy xin vào buổi hầu trong huyện đã.
Nói xong dắt tên thổ binh ra ngoài đầu phố mà hỏi rằng:
– Ngươi có biết nhà Hà Cửu Thúc ở đâu không?
Tên thổ binh đáp:
– Dạo trước anh ta có đến mừng Đô Đầu, ngài đã quên rồi hay sao? Nhà anh ta ở trong ngõ phố Sư Tử kia…
– Được nếu vậy ngươi đưa ta đến đấy.
Nói đoạn cùng đi đến trước cửa nhà Hà Cửu Thúc, rồi cho tên thổ binh về trước, bấy giờ Võ Tòng gõ cửa nhà Hà Cửu Thúc mà hỏi rằng:
– Hà Cửu Thúc có nhà không?
Hà Cửu Thúc mới ngủ dậy phảng phất nghe thấy tiếng Võ Tòng thì đã rụng rời luống cuống, vội vàng lấy túi tiền và lấy gói xương thu vào trong mình, rồi chạy ra đón tiếp mà rằng:
– Đô Đầu về từ bao giờ, chúng tôi không được biết?
Võ Tòng nói:
– Tôi mới về hôm qua, nay nhân có chút việc, nên muốn tìm bác để nói chuyện, bác đi với tôi một lát.
– Vâng, chúng tôi xin đi theo, xin hãy đón Đô Đầu vào nhà xơi nước đã.
– Thôi, bất tất, xin tha phép cho.
Nói xong liền dẫn Cửu Thúc đến một tửu điếm kín đáo, rồi gọi nhà hàng dọn rượu lên.
Cửu Thúc thấy vậy cung kính mà nói rằng:
– Ngài đi xa về chúng tôi chưa được đến mừng, có lẽ đâu mà lại dám phiền như thế?
Võ Tòng nói:
– Hãy xin cứ ngồi.
Bây giờ trong bụng Hà Cửu Thúc đã có tám chín phần đoán biết, song cũng không dám nói ra trước. Khi nhà hàng đem rượu ra, Võ Tòng ngồi lặng yên uống rượu mà không nói câu gì cả. Hà Cửu Thúc lại càng kinh sợ đổ toát mồ hôi mà không dám mở miệng hỏi. Võ Tòng cứ lẳng lặng uống rượu hồi lâu, rồi mới vén áo lấy thanh đao nhọn ra để lên trên bàn, làm cho tên nhà hàng trông thấy cũng kinh sợ không dám đến gần, mà Hà Cửu Thúc thì mặt xám lại như gà cắt tiết.
Võ Tòng vừa sắn hai tay áo lên, vừa vớ lấy thanh đao nhọn, rồi trỏ vào Hà Cửu Thúc mà nói rằng:
– Tiều tử đây tính người thô mãng, song cũng biết là nợ có chủ, oan có đầu, bác không việc gì mà kinh sợ, cứ nói thực cho tôi biết rõ căn do về sự Ca Ca tôi chết… là không can thiệp gì đến bác nữa. Tôi nếu có lòng hại bác, thì không phải là tay hảo hán, song nếu có một câu gì sai dối, thì con dao của tôi tất phải tặng bác, và bốn năm cai suốt sát. Bây giờ không cần nói xa xôi gì cả, hãy cứ thuật ngay cái tình trạng Ca Ca tôi lúc chết thế nào xin cho tôi biết?
Võ Tòng nói xong, khoanh tay chống ra hai bên sườn, rồi trợn ngược hai con mắt tròn xoe mà nhìn vào Hà Cửu Thúc.
Hà Cửu Thúc móc trong bọc lấy cái túi kia ra, đặt lên bàn mà nói rằng:
– Dám thưa Đô Đầu, một cái túi này là cái tang chứng rất lớn đây.
Võ Tòng cất lấy cái túi mở ra xem, thì thấy có hai mảnh xương đen, và một đĩnh bạc mười lạng, liền hỏi rằng:
– Sao cái này lại gọi là tang chứng lớn được?
Hà Cửu Thúc liền đem đầu đuôi câu chuyện Tây Môn Khánh mời đi uống rượu, cho đến lúc làm lễ siêu hóa Võ Đại như thế nào nhất nhất thuật lại cho Võ Tòng nghe, và lại nói rằng:
– Hai mảnh xương đen mềm đó, đích thực là một tang chứng chết vì thuốc độc, còn mãnh giấy chép ngày tháng, tên họ các người đưa đám đây, tức là tờ khẩu cung của tôi, xin Đô Đầu xét cho.
– Vậy thì gian phu là ai?
– Cái đó tôi không được biết đích, song trước đây nghe nói có tên Vận Kha ở đằng kia, đã một phen cùng với Đại Lang tróc nã gian phu không được. Việc đó ầm ĩ cả phố, ai ai cũng biết, xin Đô Đầu cứ hỏi Vận Kha khắc rõ.
Võ Tòng gật đầu nói:
– Nếu vậy xin phiền bác đi với tôi một lúc.
Nói xong lại giắt dao vào lưng, bọc gói xương và tiền vào túi, mà tính trả tiền hàng, mà cùng Hà Cửu Thúc ra đi.
Khi tới cửa nhà Vận Kha, thấy anh chàng đương cắp cái thúng khảo, đi đong gạo về, Hà Cửu Thúc liền gọi:
– Vận Kha có biết vị Đô Đầu này không?
Vận Kha đứng dừng lại nhìn Võ Tòng rồi đáp rằng:
– Có, tôi biết từ khi giải hổ về huyện trước… Nhưng hai ông tìm tôi có việc gì?
Nói đoạn lại tiếp luôn rằng:
– Tôi bây giờ còn bố già ngoại sáu mươi tuổi, không thể nào bỏ đấy mà đi theo đuổi hầu kiện với các ông được. Võ Tòng.
Võ Tòng nghe nói có ý cảm động mà khen rằng:
– Thằng em giỏi…
Nói đoạn liền móc túi lấy 5 lạng bạc ra mà tiếp luôn rằng:
– Tiền đây em đem về nuôi Lão phụ, rồi theo ta đến đằng này ta hỏi chuyện?
Vận Kha mừng thầm trong bụng ” Được 5 lạng bạc này để nuôi bố, thì đi với họ đến bốn năm tháng vẫn không lo ngại gì!”, liền nhận lấy tiền đem cả vào cho bố, rồi quay ra đi với hai người. Khi tới một hàng cơm kia, Võ Tòng dặn nhà hàng làm cơm ba người ăn, rồi bảo với Vận Kha rằng:
– Em còn bé tuổi, mà có lòng hiếu thuận như thế, thực là hiếm có. Lúc nãy ta đưa cho 5 lạng bạc đó là để em tạm tiêu, rồi sau đây ta còn có việc nhờ đến em, đến khi xong việc ta sẽ đãi em mười lăm lạng bạc nữa làm vốn. Bây giờ em hãy nói rõ ràng cho ta biết đầu đuôi câu chuyện em cùng Ca Ca ta đi bắt gian thế nào đã?
Vận Kha nghe nói lấy làm hả dạ, liền nói rõ đầu đuôi khi tìm Tây Môn Khánh, cùng là mưu mẹo lúc thi hành kế bắt gian, cho đến lúc Võ Đại bị đánh ngã, rồi sau bị chết thế nào, cho Võ Tòng nghe rất kỹ càng một lượt, Võ Tòng hỏi:
– Những lời nói có đích xác hay không?
– Đích xác lắm, dẫu đến cửa quan tôi cũng nói thế thôi.
Võ Tòng liền gọi nhà hàng đem cơm rượu lên ba người cùng ăn đoạn rồi trả tiền mà ra đi. Hà Cửu Thúc nói rõ với Võ Tòng rằng:
– Bây giờ xong việc rồi tôi xin phép Đô Đầu để về nhà.
Võ Tòng nói:
– Không được, bác hãy đi với tôi, đương lúc cần có hai người làm chứng cho mới được.
Nói đoạn liền đem hai người đến huyện để kêu tỏ mọi lẽ oan khuất, và xin để báo thù cho anh. Quan huyện nghe nói, bèn truyền lấy khẩu cung hai người chứng tá, rồi bàn với đám nha lại để định kế thi hành, nguyên đám quan nha ở đây đối với Tây Môn Khánh rất là có tình thân mật xưa nay, nghe thấy chuyện vậy, thì ai nấy cũng bàn định với nhau, muốn gạt xếp im đi cho rảnh.
Bấy giờ quan Huyện bảo Võ Tòng rằng:
– Võ Tòng ngươi đã làm đến chức Đô Đầu, sao mà không biết pháp luật? Xưa nay thường nói: “Gian dâm phải có đôi, trộm cướp phải có tang, giết người phải có thương tích” nay anh người đã chết rồi, xác không còn lại, chính người lại không bắt sự gian, vậy mà chỉ bằng cứ ở miệng hai đứa làm chứng này, mà cho ngay là việc giết người, thì có lẽ không thể nào làm được, người nên nghĩ kỹ xem nên làm thì hãy làm.
Võ Tòng bèn đem gói xương, và mười lạng bạc ra trình quan huyện mà rằng:
– Cái này có tang chứng hẳn hoi, há phải rằng chúng tôi đặt để nên chuyện đâu? Xin quan lớn xét kỹ cho mới được.
Tri huyện xem xong đáp rằng:
– Nếu vậy ngươi để đây, ta xét kỹ xem sao nếu việc có thể làm được, thì ta sẽ bắt hỏi cho ngươi.
Võ Tòng tạ ơn lui ra, rồi giữ Hà Cửu Thúc và Vận Kha ở lưu trong nhà, để đợi khi đòi hỏi. Bên kia Tây Môn Khánh nghe biết chuyện đó, liền đem tiền đút lót đám quan lại cho đâu đấy đều được thỏa thiếp hết cả. Đến sang hôm sau Võ Tòng lại lên thúc giục quan huyện xin cho tra xét, thì quan Huyện đưa trả lại gói xương và mười lạng bạc, mà bảo với Võ Tòng rằng:
– Việc này ngươi chớ nên nghe càn người ta, mà thưa kiện Tây Môn Khánh, vì không có một chút gì là đúng lẽ cả, thánh nhân đã dạy rằng: ” những việc trước mắt, chưa hẳn đã tin; Lời nói sau lưng, lấy đâu làm chắc!”Ngươi không nên nóng nảy làm liều mà lỡ việc!
Bấy giờ tụi nha lại đứng hai bên cũng giở ngọn lưỡi không xương ra mà tán với Võ Tòng rằng:
– Đô Đầu ơi! Những việc án mạng xưa nay, phải đủ có năm thứ là: Xác người, đấu thương, chứng bệnh, đồ hành hung, cùng là tung tích, thì mới có thể tra xét được. Nay Quan đã dạy như thế thì hãy để thong thả xem sao đã.
Võ Tòng nghe vậy lặng ngắt không nói, và bèn thu lấy gói xương và tiền, giao cho Hà Cửu Thúc giữ, rồi lại đem hai người trở về phòng, ở trong bụng vừa phần buồn bực, vừa phần căm tức, mà phàn nàn một mình rằng: ” Đáng tiếc cho lộc nước lương dân, phí tổn kể hết bao nhiêu để cung phụng cho Quan lại! Nhưng than ôi! Đem tiền mà vứt xuống sông còn được thấy tăm thấy bóng, chớ đem tiền mà cung phụng cho đám ấy, thì thực là vô ích cho đời. Nay có một việc rõ ràng như thế, mà không thể nào xét đoán cho ra, huống chi những việc u minh khó hiểu thì bấy giờ xử trí làm sao? Thực là mất tiền mất của mà phó tính mạng biết bao xích tử lương dân cho đám mèo mù này, còn bao giờ cai trị được yên? Những hạng người ấy ngoài hai chữ kim tiền, còn có biết chi là luân thường pháp luật! Thôi anh hùng sự nghiệp mong ở tay mình, oán trả ân đền, tự mình uy phúc can chi mà cậy những con người vô ích thêm phiền? “
Cũng tai cũng mắt trên đời,
Ân đền oán trả quyền trời riêng cho…
Đường đường một đấng trượng phu,
Xông pha xương núi máu hồ có khi,
Thân mình làm phúc làm uy,
Những loài máu lạnh nói chi thêm buồn.
Võ Tòng nghĩ vậy, liền gọi một tên thổ binh bắt làm cơm cho Hà Cửu Thúc và Vận Kha ăn cơm ở nhà, rồi đem mấy thổ binh đi ra phố mua gà vịt, sỏ lợn cùng các thức rượu chè hoa quả, và mua thêm mấy tờ giấy trắng cùng là bút mực, để đem đến nhà Võ Đại.
Bấy giờ chị chàng khốn nạn kia nghe nói việc Võ Tòng thưa kiện Tây Môn Khánh, đã bị quan trên xóa bỏ đi rồi, thì trong lòng lấy làm hả hê, không còn sợ điều chi nữa. Đương khi đắc ý một mình, thì chợt thấy Võ Tòng cùng mấy tên thổ binh mang các lễ vật đến nhà mà nói rằng:
– Ngày nay là tuần Tứ Tửu Vong Huynh, dạo trước ở đây cũng có quấy quả mấy người bà con phố sá, vậy tôi muốn gọi là kiếm chút lễ mọn, trước là cúng anh, sau nữa là vì Tẩu Tẩu mà tạ ơn xóm giềng cho phải đạo.
Chị chàng hỏi rằng:
– Việc gì mà phải tạ ơn họ?
– Đó là lễ phép phải thế, ta không nên bỏ thiếu mới được.
Nói đoạn sai thổ binh đem các lễ vật bày lên linh sàng, thắp đèn hương khấn lễ hồi lâu, rồi sai kê bàn ghế bày các hoa quả cùng rượu thịt ra. Lại sai hai tên thổ binh canh giữ cửa trước cửa sau cho cẩn thận, rồi gọi chị chàng kia mà bảo rằng:
– Bây giờ Tẩu Tẩu phải ở đây mà tiếp khách, để tôi đi mời khách đến đây.
Nói xong bắt đầu sang mời Vương bà ở bên cạnh vách. Vương bà nhất định từ chối không đi. Võ Tòng không nghe cố tình mời cho bằng được. Sau Vương bà không chối được, phải nhận thiếp mời mà theo Võ Tòng sang. Võ Tòng lại bảo chị chàng kia ngồi chủ toạ, mà mời Vương bà ngồi đối diện. Vương bà cũng biết việc Tây Môn Khánh là vô sự rồi, nên cũng phóng tâm ngồi đánh chén, xem Võ Tòng xử trí ra sao?
Võ Tòng dàn xếp xong rồi, bèn đi ra đi mời anh hàng bạc ở phía dưới phố là Diêu Văn Khanh. Văn Khanh cáo từ không dám nhận. Võ Tòng kéo đi mà nói rằng:
– Bác sang chơi xơi chén rượu nhạt, một lát lại về ngay có chi mà từ chối.
Văn Khanh phải vâng lời, theo đến, ngồi vào ghế dưới Vương bà. Chàng lại đến mời mấy người bên kia phố nữa, là anh Triệu Trọng Minh bán hàng mã, và bác Hồ Chánh Khanh bán rượu, nguyên là một tay thư lại xuất thân khi trước. Hai người dẫu có chối từ, song Võ Tòng cầu cạnh lôi mời, thì anh nào cũng kinh khiếp hồn mà phải theo lời hết cả.
Khi tới nơi Võ Tòng mời Hồ Chánh Khanh ngồi trên Triệu Trọng Minh ngồi dưới, rồi lại đến nhà Trương Công ở bên cạnh Triệu Trọng Minh để mời. Bấy giờ Trương Công đương ngồi nhà, thấy Võ Tòng đến thì giật mình kinh sợ, mà rằng:
– Đô Đầu đến chơi chẳng hay có việc gì?
Võ Tòng nói:
– Nhà anh tôi khi trước đến phiền lụy phố sá cũng nhiều, nay muốn mời các ông đến chơi xơi chén rượu suông đó thôi.
– Chết nỗi chúng tôi không có lễ nghi gì đến, sao Đô Đầu còn cho ăn uống như vậy?
– Có gì đâu, gọi là chút lòng thành, xin ông đi cho.
Nói đoạn kéo phăng Trương Công đến, mà ngồi dưới cánh Diêu Văn Khanh.
Khi đó cửa trước cửa sau bắt cài then cẩn thận, rồi Võ Tòng mời bốn người hàng phố, cùng Vương bà và chị chàng kia ngồi tử tế đây đấy, còn mình thì xách một cái ghế ngồi vào đầu bàn, rồi sai thổ binh rót rượu để mời. Võ Tòng cất tiếng lên nói rằng:
– Xin các vị cao lân tha lỗi cho tôi, là kẻ thô mãng mà chứng giám cho.
Mọi người nghe nói đều cung kính đáp rằng:
– Đô Đầu mới đi xa về, chúng tôi chưa có gì đến mừng, nay lại còn quấy quả thế này, thực là không phải.
Võ Tòng lại cất chén mời mà rằng:
– Thực là sơ sài không có gì, xin các ngài đừng cười…
Chúng vâng lời uống rượu, song anh nào cũng gờm gờm không hiểu ra sao. Khi uống rượu được vài tuần Hồ Chánh Khanh đứng dậy cáo từ có việc bận xin về.
Võ Tòng gạt lại mà rằng:
– Không về được, đã đến đây dẫu bận cũng xin ngồi một lát đã.
Chánh Khanh nghe nói, thì trong bụng sôi nổi như ngọn trào khi lên khi xuống, không hiểu tình ý ra làm sao, đã mời ăn uống mà còn đãi như thế, thì phải đành ngồi xuống vậy. Võ Tòng gọi thổ binh rót rượu mời khách uống. Khi mỗi người uống được độ bảy chén rồi, thì Võ Tòng lại quát thổ binh hãy dọn bàn sạch đi, để lát nữa sẽ uống. Đoạn rồi Võ Tòng đứng lên lau bàn cho sạch.
Chúng thấy vậy toan đứng vậy cản, Võ Tòng lại giơ hai tay giữ lại mà nói rằng:
– Tôi đương sắp nói chuyện, xin các ngài hãy ngồi đó. Trong đám các ngài có ai là người biết viết?
Diêu Văn Khanh trỏ vào Hồ Chách Khanh mà đáp rằng:
– Ông Hồ Chánh Khanh đây viết giỏi lắm.
Võ Tòng nói rằng:
– Vâng, xin ngài viết hộ cho.
Nói đoạn xắn tay áo lên, thò vào trong áo rút một con dao nhọn ra, đến phắt một cái, rồi đưa bốn ngón tay con bên phải, lồng vào quai dao, còn ngón tay cái thì để khoanh chống bụng, trừng hai con mắt nghiêm nghị dữ dội mà nói rằng:
– Xin các vị biết cho rằng:nợ có chủ, oán có đầu chúng tôi chỉ cần các ngài làm chứng đó thôi.
Nói đoạn Võ Tòng đứng lên nắm chặt lấy đầu chị dâu, mà tay trỏ vào Vương Bà bắt phải ngồi im. Bọn hàng phố anh nào anh nấy trông thấy đều khiếp kinh hồn vía, đều nơm nớp nhìn mà không dám thở.
Võ Tòng lại nói rằng:
– Các vị cao lân không việc chi mà sợ, tôi tuy là một anh lỗ mãng chết cũng không cần, song có oán thì báo oán, có thù thì báo thù, không can gì để các ngài cả. Chỉ phiền các ông làm chứng cho thôi. Nếu ngài nào đứng dậy chạy trước, thì đừng có trách, hãy xin mời dăm bảy nhác dao, rồi Võ Tòng sẽ đền mạng.
Chúng nghe nói đều ngây mặt đờ lưỡi không còn anh nào dám cựa.
Võ Tòng nhìn vào Vương Bà mà quát lên rằng:
– Con mụ già chó má này, nghe tao nói: Tính mạng Ca Ca ta toàn thị trong tay mầy làm hại, để rồi tao hỏi tội mầy?…
Đoạn rồi quay lại thết chị chàng kia rằng:
– Đồ dâm phụ này, nghe ta nói: Tính mạng Ca Ca ta, mầy mưu sát thế nào, muốn sống nói thực, ta sẽ tha cho.
Chị chàng kia nói rằng:
– Thúc Thúc rõ vô lý quá, Ca Ca bị đau bụng rồi chết, có liên can gì đến tôi.
Vừa nói dứt lời, thi Võ Tòng đặt phịch con dao trên bàn, giơ tay nắm lấy tóc chị chàng kia, giơ chân đạp cái bàn lăn ra, rồi với qua cái bàn xách chị chàng vật nằm lăn xuống trước mặt linh sàn.
Đoạn rồi giơ chân đạp xuống giữ lấy chị kia, mà tay phải cầm con dao trỏ vào mặt Vương bà mà bảo rằng:
– Con sọm già này, muốn sống phải nói thực ra…
Mụ già đê mạt ấy không còn lối nào thoát thân đi được, liền nói lên rằng:
– Xin Đô Đầu bớt giận, để tôi nói thực mọi điều.
Võ Tòng gọi thổ binh ra đem giấy mực nghiêng bút để lên bàn, rồi cầm dao trỏ Hồ Chánh Khanh bảo rằng:
– Phiền bác, cứ nghe câu gì là biên vào câu đó cho tôi.
Hồ Chánh Khanh đánh trống ngực thình thình, đáp lại rằng:
– Vâng… vâng…Chúng tôi xin viết ạ!
Nói đoạn giơ tay lên mài mực, rồi cầm bút, vuốt giấy mà bảo Vương bà rằng:
– Bà lão nói thực đi.
Vương bà lại giở giọng nói rằng:
– Không việc gì đến tôi, thì bảo tôi nói thế nào?
Võ Tòng quát lên rằng:
– Con cáo già công việc ta biết cả rồi, con toan chối thế nào? Nếu không thì ta phải xả con dâm phụ này ra rồi sẽ giết con cáo già…
Nói đoạn liền giơ dao trước mặt chị chàng kia mà liếc đi liếc lại. Chị chàng vội kêu lên rằng:
– Thúc thúc tha tôi, tôi xin nói…
Võ Tòng lại xách dậy, đặt trước linh sàn quát lên rằng:
– Dâm phụ nói mau! Chị chàng kia, lúc đó kinh khiếp, bạt cả hồn vía phải đem sự thực từ khi đánh rơi cái nạn vào đầu Tây Môn Khánh, cho đến khi mụ Vương bà mời sang may áo, rồi thế nào… kể ra hết một lượt. Võ Tòng bảo Hồ Chánh Khanh rằng:
– Nói câu gì thì viết vào giấy cho tôi.
Vương bà thấy chị chàng kia thú thực cả rồi, thì cũng không thể nào mà chối được, liền phải theo lời mà cung nhận hết thảy. Võ Tòng lại bảo Hồ Chánh Khanh viết giấy cẩn thận, bắt hai người điềm chỉ viết tên ở dưới, rồi bốn người hàng phố ký tên sau. Đoạn rồi lấy cái đai nịt của tên thổ binh, trói con sọm già lại, rồi cuộn tờ giấy khẩu cung đút vào túi áo, mà gọi tên thổ binh rót rượu bưng lên cúng ở trước mặt linh sàn. Bấy giờ bắt cả hai mụ đàn bà quỳ xuống trước linh sàn, rồi Võ Tòng gạt lệ khấn rằng:
– Linh hồn Ca Ca chắc còn phảng phất đâu đây, ngày nay tiểu đệ xin báo thù rửa hận, xin Ca Ca chứng dám cho.
Khấn xong bèn gọi thổ binh đem giấy tiền ra. Khi đó con dâm phụ kia thấy sự thể nguy cấp đến nơi để toan cất tiếng để kêu. Bắt đầu Võ Tòng nắm tóc giằn xuống, hai chân dặm lên hai vai, mà cởi phăng áo bụng ra, mà đưa mũi dao nhọn vào rạch một cái thật mạnh, phăng hẳn ruột ra. Đoạn rồi mồm ngậm lấy dao, hai tay móc vào lấy bộ ruột ra, để lên trước bàn thờ. Lại cúi xuống cắt đầu con dâm phụ, máu me chảy đầm đìa lai láng ra nhà, anh nào trông thấy cũng xanh mặt tái người, chỉ bưng mặt ngồi nhìn, mà không hề dám khuyên can chi cả.
Võ Tòng lại sai thổ binh lên gác lấy một cái chăn xuống, bọc đầu chị chàng kia vào, và lau sạch dao sạch sẽ, đút vào trong bao, rồi rửa sạch hai tay, mà quay ra bảo với mọi người rằng:
– Thế này khí phiền đến các vị cao lân, xin các ngài thứ lỗi cho. Mời các ngài lên gác ngồi chơi một lát, rồi tôi sẽ về ngay đây.
Đám kia len lén nhìn nhau không hiểu tình ý ra sao, đành phải theo lời mà kéo nhau lên gác. Võ Tòng lại sai thổ binh kéo cổ Vương bà lên gác rồi đóng cửa lại, mà bắt thổ binh canh giữ ở dưới.
Bấy giờ chàng ta xách cái đầu người ra đi, thẳng đến hàng thuốc nhà Tây Môn Khánh, mà hỏi tên chủ quán rằng:
– Đại quan nhân có nhà không?
Chủ quán đáp:
– Bẩm vừa mới đi rồi.
Võ Tòng lại nói:
– Bác làm ơn ra đây tôi hỏi câu chuyện này.
Chủ quán vốn biết Võ Tòng xưa nay, nên không dám cưỡng lời, bèn theo Võ Tòng ra phố, Võ Tòng dẫn vào một cái ngõ vắng, làm bộ giở mặt hỏi anh kia rằng:
– Anh muốn sống hay muốn chết?
Chủ quán run lên bần bật mà đáp rằng:
– Bẩm Đô Đầu!chúng tôi có dám xâm phạm việc gì đâu?
– Ừ! Nhưng mà anh muốn chết thì thôi, bằng muốn sống phải nói rõ cho ta biết rằng, Tây Môn Khánh hiện giờ ở đâu?
– Bẩm ngài, vừa rồi ông ta đi với một người bạn, đến uống rượu ở Đại tửu lâu bên cầu Sư Tử đó.
Võ Tòng nghe dứt lời thì quay ngoắt mình mà chạy thẳng, làm cho tên chủ quán ngây hẳn người ra, hồi lâu mới trở về được hàng.
Võ Tòng chạy vội đến Tửu lâu bên cầu Sư Tử, hỏi tửu bảo rằng:
– Tây Môn Khánh đại lang uống rượu với ai đó?
Tửu bảo đáp:
– Uống rượu với một tay tài chủ ở phòng gác về mé cạnh đường phố.
Võ Tòng lặng ngắt, đi thốc lên gác, đến gần phòng đó, nom vào chắn song cửa sổ, thấy Tây Môn Khánh đương ngồi chủ vị, một người nữa ngồi khách vị và hai đứa con hát ngồi ở hai bên. Chàng liền mở bọc chăn ra, tay xách đầu dâm phụ máu chảy long tong xuống, tay phải rút thanh đao ra, rồi vén rèm nhảy vào, mà cầm đầu dâm phụ ném vào mặt Tây Môn Khánh.
Tây Môn Khánh ngẩng đầu trông lên thấy Võ Tòng đến, thì giật mình kinh sợ, kêu lên một tiếng, bắc cẳng lên cửa sổ toan tìm đường tháo chạy. Dè đâu trông ra cửa sổ, lại chính đường phố đấy, liền nhụt cẳng lại không dám chạy, mà trong bụng thì hoảng hốt, không biết làm thế nào? Đương khi bồi hồi kinh sợ, thì Võ Tòng đã vỗ tay nhảy lên bàn, làm cho bát đĩa trên bàn đều đổ nhào cả xuống.
Hai đứa con hát trông thấy, kinh sợ mất vía, không đứa nào chạy được nữa, anh tài chủ kia cũng rụng rời chân tay mà ngã lăn ra gác. Tây Môn Khánh thấy Võ Tòng hung tợn như vậy, thì vội vàng giơ tay trỏ vờ một cái, rồi cất chân bên hữu mà đá luôn.
Võ Tòng cứ xông vào, rồi né mình tránh qua một bên, bất đồ bị Tây Môn Khánh đá ngay vào tay phải, làm cho con dao bắn hản ra cửa, mà rơi xuống phố, Tây Môn Khánh thấy Võ Tòng rơi mất dao, thì phóng tâm không sợ, liền giơ tay phải lên dứ đánh, rồi tay trái nhằm vào giữa mỏ ác Võ Tòng mà đấm, Võ Tòng né mình tránh thoát, rồi thừa thế xông vào ngay cạnh sườn Tây Môn Khánh, tay tả vòng ra ôm lấy cả đầu và vai, còn tay hữu thì nắm lấy chân trái Tây Môn Khánh mà quát lên rằng:
– Xuống…
Tây Môn Khánh lúc đó một là bị oan hồn ám ảnh, hai là bị lương tâm quở phạt, ba là tuy hơi sức có khoẻ, song không khi nào địch nổi Võ Tòng kia được, nên vừa bị Võ Tòng gạt một cái thì đầu nặng bồng, chân nhẹ tếch, mà ngã lăn xuống dưới mặt phố, nằm lặng hẳn người, phát hôn đến chương thứ mười một, hai bên phố sá thấy vậy, ai nấy đều kinh sợ bất thần. Đoạn rồi Võ Tòng cúi xuống chân ghế, nhặt lấy cái đầu đứa dâm phụ xách vào tay, nhún mình vót qua cửa sổ mà nhảy thẳng xuống mặt phố, rồi nhặt lấy con dao cầm lăm lăm ở tay. Bấy giờ thấy Tây Môn Khánh nằm chết dở ở dưới mặt đất, hai con mắt chỉ lừ đừ dấp dính mà không sao cựa được; Võ Tòng liền cầm đao xông đến, cắt phăng lấy đầu Tây Môn Khánh rồi túm lấy hai cái đầu làm một, mà xách về phố Tử Thạch.
Khi tới nhà bày hai cái đầu lên linh sàn để cúng, rồi lại gạt nước mắt mà khấn rằng:
– Ngày nay em đã giết hai đứa gian phu dâm phụ để báo thù cho Ca Ca, vậy linh hồn Ca Ca có thiên, thì về chốn Thiên Đường mà nương tựa, còn đây em xin siêu hóa cả đi.
Chàng khấn xong liền bảo thổ binh mở cửa gác, lên gọi các người ở trên gác xuống, rồi một tay lại xách hai cái đầu người, và một tay cầm con dao lăm lăm mà nói với mọi người rằng:
– Tôi có một điều này, cần phải nói với các vị cao lân, xin các ngài hãy ở đây, không đi đâu được bây giờ!…
Mấy người hàng phố đều kinh sợ một phép, chắp tay mà đáp rằng:
– Có việc chi xin Đô Đầu cứ chỉ giáo cho, chúng tôi đâu dám trái lời ngài dạy!…
Oai hùm tung động giang sơn,
Dưới đao nghĩa hiệp chứa chan máu tình,
Bể trầm muôn trượng mông mênh,
Dẹp tan ngọn sóng khuynh thành từ đây.
Xót Riềng con tạo chua cay
Đem gươm oan nghiệt trêu tay anh hào.
Một cơn bình địa ba đào
Nặng lòng cốt nhục kiếp nào đã khuây!
Vời trông trời rộng đất dầy,
Anh hùng khi cũng vơi đầy giọt châu!
Lời bàn của Thánh Thán:
Ta thường nói rằng: Chẳng lên Thái Sơn, chẳng biết chỗ cao thiên hạ, lên Thái Sơn chẳng lên tới mặt trời, thì chẳng biết Thái Sơn đã cao vậy, chẳng xem Hoàng Hà, chẳng biết nơi sâu thiên hạ, xem Hoàng Hà mà chẳng xem tới Long Môn, thì chẳng biết Hoàng Hà đã sâu vậy! Chẳng gặp Thánh nhân, chẳng biết thiên hạ đại tài, gặp Thánh nhân mà chẳng gặp Trọng Nghe nói (Đức Khổng) thì chẳng biết Thánh nhân là đại tài vậy. Nay xem đến sách cũng vậy, chẳng đọc Thủy Hử, thì không biết cái hay lạ của Thiên hạ, mà đọc đến Thủy Hử mà không đọc đến thiên Võ Tòng này, thì chẳng biết truyện Thủy Hử đã hay lạ đến thế, ôi! Cái tài tác giả há đem đấu mà đong kể được ư!
Cuốn trên tả Lỗ Đạt, đã là rất bậc trượng phu, không ngờ lại có Lâm Xung cũng rất bậc trượng phu, tả Lỗ Đạt rồi tả Lâm Xung đã hai người kỳ vậy, ví như hai người vẽ đấu tài nhau, nào vẽ ra Bích Điện, Tinh cung thủy phủ, muôn ý tứ thần tình sẵn cả, vẽ ra hiền thì thật hiền, mà dữ lại thật dữ, cũng như đẹp thì rất đẹp. Mà xấu thì lại rất xấu, kỹ thuật đến thế thì thôi, xem được đến thế mà thôi! Thấy rằng trong lòng hai tay thợ vẽ đều chứa những tuyệt bút, như những vẻ ly kỳ của Rồng của Mây, của Nhật của Nguyệt… nào phải như thế gian, trong lòng nghĩ ra, trong tay nặn ra, trong bút khua ra… Nay xem Thủy Hử của Thi Nại Am thấy như hai tay họa sĩ vẽ khác nét nhau kỳ ảo!
Tả ra ba tay rất bậc trượng phu như Lỗ, Lâm, Dương tưởng rằng nghệ thuật đến đấy mà thôi, mà được xem đến đấy mà thôi, ai ngờ lại nảy ra một truyện Võ Đô Đầu, khiến ta đọc đến văn, lại nghĩ đến người, thấy trong lòng dạ chẳng phải như lòng dạ ba người Lỗ, Lâm, dương tâm sự cũng chẳng phải tâm sự như ba người Lỗ, Lâm, Dương cho đến hình trạng kết thúc, lại chẳng như hình trạng kết thúc của ba người Lỗ, Lâm, Dương hàng động của những bậc trượng phu khác nhau xa quá! Ta được nghĩ đến người mà xem lại văn, nên đọc nhanh đi, lại đọc chậm đi, giở đi giở lại đọc hô lên tiếng hùm, tiếng beo, đọc đi cho khoái! Hỡi ôi! Xem ra một hồi, một đoạn, một câu, một chữ đâu phải loại người thế gian, trong lòng nghĩ ra, trong tay nặn ra, trong bút khua ra, thực là tuyệt bút như những vẻ ly kỳ của Rồng của Mây, của Nhật của Nguyệt… Thế mà lại muốn đo cái tài của tài tử bằng đấu bằng thưng. Thì than ôi! Nhiều kẻ không lường ra năng lực giỏi!
Hoặc có kẻ hỏi đến Thánh Thán rằng: Lỗ Đạt là người thế nào? Rằng: Là người rộng rãi; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người hẹp hòi; Lâm xung là người thế nào? Rằng: Là người độc ác; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người ngon ngọt; Dương Chí là người thế nào? Rằng: Là người chính đáng; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người cong quẹo; Sài Tiến là người thế nào? Rằng: Là người lành; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người tệ; Ngô Dụng là người thế nào? Rằng: Là người nhanh; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người ngốc; Hoa Vinh là người thế nào? Rằng: Là người thanh nhã; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người thô tục; Lư Tuấn Nghĩa là người thế nào? Rằng: Là người lớn; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người tiểu nhân; Thạch Tú là người thế nào? Rằng: Là người hay; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người dở; Thế thì một trăm linh sáu người trong bộ Thủy Hử, lại không ai hơn Tống Giang, đó là 106 người vậy chưa ai bằng Võ Tòng là một tay tuyệt luân siêu quần đó. Vậy Võ Tòng là người thế nào? Rằng: Là người trời vậy, mà có những con người khoát như Lỗ Đạt, độc như Lâm Xung, chính như Dương Chí, khoái như anh em họ Nguyễn, thực như Lý Quỳ, nhanh như Ngô Dụng, nhã như Hoa Vinh, đại như Lư Tuấn Nghĩa, hay như Thạch Tú… mà đoán quyết Tống Giang là người thứ nhất, cũng chẳng phải ư? ? ?
Tả Võ Tòng trước giết hổ, chợt về sau giết một đàn bà, hỡi ôi! Không còn giống gì gầm thết như hổ, không còn giống gì ngọt nhạt như đàn bà với hai giống ấy, đến nguy hiểm như vậy, thế mà giết hổ rồi chợt giết đàn bà, chẳng khó nhọc đến đâu, thì ít có vậy! Nay tả Võ Tòng giết hổ chẳng đầy một hồi sau tả Võ Tòng giết đàn bà, cũng chẳng đầy một hồi. Chà chà! Lạ thay! Nhớ lại họ Đại Hùng có nói: Sư tử vồ voi phải dùng toàn lực, nay xem Võ Tòng giết hổ giết đàn bà há phải dùng đến toàn lực ấy đâu! Xem đến văn mà hơi thở mắt trừng, mặt không còn sắc, càng hãi hơn khi đọc một hồi đá hổ… Hỡi ôi! Tác giả đem Sư tử ví với Võ Tòng, xem ở tên phố ấy là Sư Tử, thì đủ biết rồi!
Tay không mà muốn bắt hổ, thì không còn nhờ đâu mà trợ lực, nên người ta phải dùng đến binh khí, giáo, mác… mới dám giết hổ, đó là sự thường thế mà Võ Tòng bốn phen làm đánh nhoàng né tránh, rồi ra oai lấy sức, cầm gậy đánh mạnh, một tiếng gầm trời, gậy gãy cây đỗ, hóa ra tay không, càng làm hổ giận, đem tay không đánh với hổ giận, rồi cũng thành công,, trở nên oai thần rõ rệt, hồi trước nói rồi; Đến nay lại tả Tây Môn Khánh, cũng theo phép ấy tả ra, hẳn trong lòng tác giả nghĩ rằng: Đánh hổ còn chả dùng gậy, huống chi đánh con chuột, lại phải dùng dao, mới tả giắt dao đi đến, vừa gặp loài chuột ấy, dao lại rơi đi, cho rõ oai thần của Võ Tòng, vì giống chuột kia còn kém xa sức hổ, thấy rằng giết hổ không dùng đến gậy, giết chuột không dùng đến dao, biểu hiện ra ý nghĩa ở bốn chữ ” Dưới cầu Sư Tử”
Tây Môn Khánh làm sao mà gian nổi; Vương bà làm sao mà chủ mưu; họ Phan làm sao mà hạ độc, đã diễn từ hồi trước rõ ràng, độc giả đã thấy, độc giả đọc mà biết, lúc đọc kia chính lúc Võ Tòng đi Đông Kinh, mọi người lại muốn nghe lời Hà Cửu thuật chuyện, cho Võ Tòng biết kẻ gian phu, và lại muốn nghe lời Vận Kha thuật chuyện, cho Võ Tòng biết khi hạ độc, tuy lược tả Võ Tòng nghe chuyện, thấy Võ Tòng được rõ đầu đuôi, xem trong ý tứ văn chương, mới nhận thấy cái hay thần hóa.
Tả bốn người hàng xóm đến chứng kiến, nào anh hàng thợ bạc, hàng mã, hàng rượu, hàng… thành ra tài, sắc, tửu, khí, chứng cho lũ gian dâm, rõ là kỳ tuyệt!
– Tôi đây vì việc báo thù mà phải giết người phạm tội, thân này dẫu chết cũng cam, duy từ đây trở đi tính mệnh của tôi, phỏng còn sống nữa hay không, cũng chưa biết được. Vậy nhân đây tôi muốn siêu hóa các đồ thờ tự Ca Ca tôi, còn các vật liệu trong nhà, thì xin nhờ các ngài đem bán giúp cho, để lấy tiền theo đòi việc kiện. Bây giờ ta sẽ vào huyện thú nhận các lễ, sau đó tội tình thế nào đã có Quan trên xét đoán, duy các ngài thì cứ lấy sự thực làm chứng giúp cho.
Nói đoạn liền đem các đồ thờ tự, bài cúng vàng mã mà siêu hóa hết cả, rồi lên gác lấy hai cái hòm xuống mở ra, đưa các đồ vật cho bốn người hàng phố thu nhận để bán giúp. Đoạn rồi xách hai cái đầu người, và lôi cổ Vương bà và dẫn bốn người đi thẳng vào huyện.
Hôm đó cả huyện Dương Cốc đều kéo nhau đi xem đông lắm không biết đâu mà kể. Võ Tòng đến công đường bắt Vương bà quỳ xuống trước giữa thềm, rồi chàng đặt hai cái đầu gian phu dâm phụ, cùng đặt con dao mà quỳ xuống thềm bên tả; còn bốn người hàng phố quỳ sang bên hữu dưới thềm. Võ Tòng lấy tờ giấy của Hồ Chánh Khanh viết lúc trước đem ra trình, rồi kêu rõ đầu đuôi cho quan huyện nghe.
Quan huyện cũng kinh ngạc, rồi sai nha lấy khẩu cung Vương bà, và lấy chứng cớ các người hàng phố, rồi sai bắt Hà Cửu Thúc và Vận Kha lên, để lấy giấy chứng cớ rõ ràng một lượt. Đoạn rồi áp giải mấy người đó, cùng ra phố Tử Thạch khám nghiệm xác đứa dâm phụ, và đến trước nhà tửu lâu ở dưới cầu Sư Tử để khám nghiệm xác đứa gian phu, rồi đem về lập án.
Tri huyện sai lấy gông, gông Võ Tòng và Vương bà lại, giam cả xuống ngục, còn các người kia, thì tạm giữ tại phòng ngoài để chờ tra hỏi.
Nguyên Tri huyện đó vốn có lòng biệt đãi Võ Tòng, là người nghĩa khí đảm đang, và lại nhớ đến công việc khi xưa mang các châu báu về kinh, thì lại định tâm muốn tìm kế chu toàn cứu giúp, bèn gọi đám nha lại lên mà định bàn rằng:
– Võ Tòng là người nghĩa trực, xưa nay ai ai cũng biết. Duy hắn thiện tiện giết người, thì không thể nào mà tha ngay được, vậy nay ta nên đem các lời cung của lân bang mà chữa đổi đi.
Chúng vâng lời, chữa các khẩu cung như sau này:
– “Võ Tòng về lễ anh người chị dâu đanh ác không cho lễ, đến nỗi đôi bên cãi nhau, rồi chị dâu đạp đổ cả giường thờ giường tự, vì thế Võ Tòng đến cướp lấy bài vị của anh, mà lỡ tay đánh chết. Về sau Tây Môn Khánh vốn là đứa thông dâm cùng mụ đàn bà kia chạy vào đánh hội, rồi giằng co với Võ Tòng, khi đến cầu Sư Tử thì bị Võ Tòng đánh chết”.
Khi chữa xong đem đọc lại cho Võ Tòng nghe, rồi thảo công văn để giải phạm nhân lên phủ Đông Bình. Bấy giờ có mấy nhà nghĩa khí ở huyện Dương Cốc, nghe thấy vậy, liền đem tiền nong gạo nước để tiến tặng Võ Tòng. Võ Tòng liền xin phép quan về phòng để thu nhận các đồ hành lý, và đưa mười lăm lạng bạc cho bố Vận Kha rồi sắp sửa để đi. Các thổ binh theo hầu Võ Tòng khi trước, đều đem rượu thịt đến thiết đãi luôn canh.
Sau đó quan huyện phái người đem các đồ gói tiền gói xương, dao trượng, cùng mấy người phạm án, giải lên phủ Đông Bình. Khi tới phủ các dân sự chung quanh đổ ra xem rất đông đúc.
Quan phủ Đông Bình là Trần Văn Chiêu vốn là tay rất thông minh lanh lợi, nghe biết câu chuyện Võ Tòng đã lâu, nay thấy huyện Dương Cốc giải đến, liền đem các giấy má ra xem, gọi các người vào tra hỏi một lượt, cho đem các đồ hành hung cùng tang vật thu vào trong kho, rồi sai đóng gông rất nặng cho mụ Vương bà giam vào ngục tử tù, còn Võ Tòng thì đóng gông nhẹ, mà giam vào nhà giam thường. Đoạn rồi giao cho huyện lại lĩnh Hà Cửu Thúc, Vận Kha cùng bốn người lân bang cho về huyện Dương Cốc. Còn vợ con Tây Môn Khánh thì giữ lại ở phủ để đợi chờ giấy Bộ tư ra rồi sẽ xét đoán. Các lính tráng ở phủ Đông Bình, thấy Võ Tòng là một người hào hiệp nghĩa khí, trên quan phủ cũng có lòng thương, nên chúng thường đem tâm vì nể, không những không dám hạch sách tiền nong, mà thần thường lại khoãn đãi tử tế. Quan phủ Đông Bình đem các giấy má mà chữa đổi cho nhẹ tội Võ Tòng, rồi tự đem lên trình quan tỉnh, và cắt một người tâm phúc đem mật thư vào kinh sư, để lo cứu cho Võ Tòng. Bấy giờ các quan Hình Bộ cũng nhiều người thân mật với Trần Văn Chiêu, nên khi nhận được giấy thì lập tức cho các quan Tỉnh viện kết án nhẹ đi.
Trong án đại khái nói:
– Cứ như mụ Vương bà dụng tình cố ý manh mối gian dâm, xui giục đàn bà đánh thuốc độc cho chồng chết, lại khiến dâm phụ không cho Võ Tòng vào viếng thân huynh, cho đến nổi sát thương nhân mạng, tội ác nham hiểm làm cho bại hoại luân thường, tội ấy phải khép vào án lăng trì mới đáng. Võ Tòng tuy vì việc báo thù giết chết gian phu là Tây Môn Khánh, song tự mình thú tội, thì giảm nhẹ tội nguyên, bắt đánh bốn mươi trượng, đày ra ngoài hai ngàn dặm. Hai đứa gian phu dâm phụ đã chết không bàn, còn các người can phạm đều tha về hết thảy.”
Quan phủ Đông Bình tiếp được văn án, liền sức giấy cho Hà Cửu Thúc, Vận Kha, và bốn người hàng xóm, cùng vợ con Tây Môn Khánh, đến để nghe tuyên án. Khi các người đã tề tựu cả rồi; Quan phủ sai tuyên án cho mọi người nghe, rồi đâu đấy cho về an nghiệp. Đoạn rồi bắt Vương bà ra chợ Đông Bình để hành tội, còn Võ Tòng đánh bốn mươi trượng, thích chữ vào mặt, đem đày sang đất Mạnh Châu.
Bấy giờ Diêu Văn Khanh là người hàng xóm khi trước, mới đem tiền bán các đồ đạc ở nhà mà đưa cho Võ Tòng ra trước chợ Đông Bình xem hành hình Vương bà, rồi trở về thu thập hành lý, theo hai tên công sai sang đất Mạnh Châu. Hai tên công sai vốn biết Võ Tòng là tay hảo hán, nên trong khi giải đi cũng hết lòng tử tế, không dám chút khinh nhờn. Võ Tòng thấy vậy cũng được thư lòng đôi chút, lại nhân trong túi sẵn tiền, nên mỗi khi qua hàng qua điếm, lại chè chén ăn chơi, cho hai người cùng hưởng. Từ khi Võ Tòng giết người ở huyện Dương Cốc, bấy giờ đương dạo tháng ba, sau phải theo đòi việc kiện bị giam giữ trong hai tháng trời, tới nay đày đi sang đất Mạnh Châu, thấm thoát đã tới giữa trung tuần tháng sáu. Hồi đó trời khác chi một lò lửa Tạo nung nấu đàn người, Võ Tòng cùng hai tên công sai đi ước chừng hơn hai mươi ngày, một hôm tới quãng núi kia, ba người cùng ngồi để nghỉ một lúc, rồi lại đứng dậy đi xuống dưới núi, định tìm một hàng rượu để uống.
Khi qua núi chợt trông thấy đằng xa có mấy gian nhà lá, ở vào giữa khóm liễu đôi khe, thấp thoáng ngọn cờ bán rượu, Võ Tòng liền trỏ bảo hai tên công sai rằng:
– Có hàng rượu ở trước mặt kia, chúng ta mau tới đó.
Nói xong cùng kéo nhau đi được mấy bước, thì gặp một anh tiều phu gánh củi đi qua, Võ Tòng đứng dừng lại hỏi rằng:
– Ở đây là xứ nào; nhờ bác bảo cho?
Tiều phu đáp:
– Con đường lên núi đây, gọi là đường Mạnh Châu cách trước mặt núi có khu rừng cây kia, gọi là Thập Tự Phi.
Võ Tòng cám ơn, rồi cùng nhau kéo thẳng đến Thập Tự Phi. Khi gần tới nơi thấy cây cối um tùm, trong đó có một cây rất lớn ước chừng bốn năm vòng tay người ôm không tới, bên trên toàn thị là giây dơ leo cuốn kín mít như rừng. Đi qua gốc cây một hàng rượu, trong có một người đàn bà ngồi, mặc áo lót mình bằng sa lục, trên đầu cài cành thoa vàng lóng lánh, hai bên mái tóc giắt hai bông hoa.
Người đàn bà ấy thấy Võ Tòng cùng hai tên công sai đến cửa, thì vội vàng đứng dậy, mình mặc cái quần lụa màu hồng phơn phớt, mặt bôi đầy những phấn hồng, bỏ trễ áo trước ngực lộ màu da hồng, rồi chạy ra cửa nói rằng:
– Trong hàng có rượu ngon thịt béo, bánh bao tốt, xin mời các ngài ngồi nghỉ chân xơi rượu.
Ba người nghe nói bảo nhau vào ghế ngồi, dựa côn trượng vào một bên, cởi khăn gói hành lý để lên trên bàn, rồi cởi cả đai nịt ra cho mát. Hai tên công sai bảo với Võ Tòng rằng:
– Ở đây không có ai biết đến, tôi xin cởi tháo gông ra, cho Đô Đầu đánh chén cho sướng.
Nói đoạn liền tháo gông ra cho Võ Tòng, mà để cả lên trên bàn đó. Đoạn rồi cùng cởi cả áo xiêm ngoài, mà giắt vào bên dóng cửa sổ.
Bấy giờ mụ hàng miệng cười chúm chím mà bảo rằng:
– Khách quan xơi bao nhiêu rượu?
Võ Tòng đáp:
– Không cần hỏi bao nhiêu, cứ mang rượu ra đây thái ba cân thịt bò một thể rồi tôi tính trả tiền.
– Thưa ngài có bánh bao tốt…
– Mang vài mươi cái ra đây ta ăn điểm tâm.
Mụ hàng nghe nói vừa cười vừa quay vào bưng một thùng rượu lớn, và lấy ba cái chén lớn, ba đôi đũa, thái hai đĩa thịt khệ nệ mang ra, rồi rót bốn năm lượt rượu đưa mời khách uống. Đoạn rồi quay vào bếp bưng một quả bánh ra, để bày trên bàn. Hai tên công sai vớ được, liền nghiến ngấu ăn ngay không hỏi han gì cả.
Võ Tòng cầm lấy bánh bẻ ra xem, rồi gọi mụ hàng đến mà bảo rằng:
– Bánh này làm bằng thịt người hay thịt chó?
Mụ hàng cười khanh khách đáp rằng:
– Ngài nói đùa làm gì thế? Đời này làm gì có bánh làm bằng thịt người hay thịt chó? Bánh của nhà tôi mấy đời nay đều làm bằng thịt bò cả.
– Xưa nay tôi thường đi lại đám giang hồ, từng nghe nói chỗ Thập Tự Phi này, không ai dám đến bao giờ… anh nào béo là đem giết lấy thịt làm bánh bao, mà anh nào gầy là đem lấp sông ngay…
– Chết nỗi! Các ngài nghe nói ở đâu thế? Chắc rằng chỉ ngài nói đặt ra thôi.
– Đây, vì tôi thấy miếng thịt ở trong cái bánh này có mấy cái lông hơi giống như lông gì… Nên tôi càng ngờ lắm.
Nói xong lại hỏi luôn rằng:
– Nương tử ơi! Phu quân nàng sao không thấy ở đây?
– Thưa ngài đàn ông nhà tôi đi xa vắng chưa về.
– Nếu vậy nàng ở đây một mình có lẽ buồn lắm…
Mụ hàng mỉm cười trong bụng rồi nghĩ thầm:”Thằng tù này muốn chết chăng? Đến đây lại toan đùa bỡn với bà, thực là thí thân vào lửa, chả còn trách lỗi tại ai, để ta liệu cho… “Mụ nghĩ vậy liền bảo Võ Tòng rằng:
– Thôi, đừng nói đùa nữa, hãy uống mấy cốc rượu, rồi ra đằng sau mà nghỉ mát. Hôm nay muốn ngủ ở đây… nhà tôi cũng rộng không can gì…
Võ Tòng nghe nói đoán chắc là chị chàng này nham hiểm không vừa, liền đáp rằng:
– Nương tử ơi! Rượu này nhạt lắm, trong nhà có rượu nào tốt cho tôi mấy chén khác.
– Vâng, có rượu tốt ngon thơm hơn, nhưng chỉ vì khí đục một chút.
– Được, càng đục càng hay…
Mụ hàng cười thầm trong bụng, rồi lấy một bình rượu rất đục đem ra.
Võ Tòng xem xong khen rằng:
– Ừ! Hạng rượu này mới là rượu ngon, nhưng phải hâm nóng uống mới tốt.
– Vâng, thế thì ngài sành lắm, để tôi xin đem hâm.
Nói xong cầm bình rượu quay ra, cười thầm trong bụng mà rằng: “Thằng tù này phải chết, uống thuốc mê lại đòi uống nóng, thế thì càng chóng lắm… Hôm nay may mình được món hàng tốt”.
Khi hâm rượu nóng xong rót vào ba chén mang ra, rồi cười mà nói rằng:
– Ngài thử nếm rượu này xem?
Hai công sai vớ được rượu, thì nhắm mắt vào uống ngay. Võ Tòng lại bảo mụ hàng rằng:
– Nàng ôi! Thịt hết rồi tôi không quen uống rượu suông được, nàng thái ít thịt nữa ra đây, cho tôi nhắm rượu.
Mụ hàng thấy Võ Tòng khen vậy, chắc rằng đã uống rồi, bèn không thái thịt thà gì nữa liền quay ra kêu lên rằng:
– Ngã ngã mau…
Quả nhiên mụ vừa nói xong thì hai anh công sai đờ mồm nhắm mắt, rồi ngã lăn xuống đất, Võ Tòng cũng lờ đờ hai mắt, rồi sau nhắm mắt chặt lại mà ngã ra bên cạnh ghế.
Bấy giờ thấy mụ hành cười ha hả mà rằng:
– Được lắm, cho bây tinh bằng ma qủy, cũng phải uống thuốc rửa chân của bà…
Nói đoạn liền gọi Tiểu Nhị, Tiểu Tam mau ra đây. Chợt thấy thằng xuẩn hán ở đâu huỳnh huỵch chạy đến, khênh hai anh công sai đi trước. Mụ hàng kia chạy đến chỗ hàng rờ vào bao phục của mọi người, thấy sẵn có tiền nong ở đó, thì phá lên cười rằng:
– Hôm nay vớ được ba món hàng hoá, đủ làm bánh bao trong hai ngày nữa.. Rồi lại có được tiền nong đây.
Nói xong xách cả khăn gói bao phục vào lối trong. Một lát thấy hai thằng xuẩn hán chạy ra khiêng Võ Tòng, nhưng sức yếu không khiêng nổi, nằm đườn đườn ở dưới đất, nghe chừng nặng tới trăm cân.
Lại thấy mụ hàng kia quát lên rằng:
– Đồ chết dẫm này, chỉ biết ăn thôi, không được việc gì cả, có thế cũng phải đến bà ra tay. Thằng béo này lúc nãy lại dám đùa bỡn với bà đây.Được, nó béo thế này để làm thịt bò, còn thằng gầy kia thì làm thịt trâu cũng được… Hãy vác vào làm thịt thằng này đã.
Nói đoạn, cởi cả quần ngoài và áo ra để trần trùng trục, rồi cúi xuống cắp bổng Võ Tòng lên như không vậy.
Võ Tòng thừa thế ôm lấy bụng người đàn bà, rồi cho hai chân xuống đánh vào khủy chân mụ kia một cái ngã ngửa hẳn ra, rồi ngồi tót lên trên. Bấy giờ chị chàng ta kêu lên như cháy đồi, rồi hai thằng xuẩn hán đổ xô ra, bị Võ Tòng quát cho một tiếng, anh nào anh nấy tái xanh cả mặt lại, mà không dám xông vào đấy nữa.
Chị chàng kia bị Võ Tòng nén chặt xuống mặt đất, không sao mà cựa được, bèn kêu van rằng:
– Xin hảo hán tha cho tôi.
Vừa hay khi đó có một chàng gánh một gánh củi, đến đâu ở cửa, rồi bước vào trông thấy như thế, thì kêu lên rằng:
– Xin hảo hán bớt giận, hãy tha thứ cho… tôi sẽ thưa chuyện hầu ngài.
Võ Tòng đứng phắt dậy giơ chân trái lên đạp giữ lấy người đàn bà ấy, rồi nắm lấy hai tay quyền mà quay ra nom người kia. Anh chàng kia đầu chít khăn đầu rìu, mình mặc áo vải trắng, chân quấn lá đáp, đi đôi giày gai, lưng thắt dây bao, mặt dài như ba đầu ngón tay chéo, hơi lúng phún mấy cái ria, vào trạc hăm nhăm hăm sáu tuổi.
Chàng ta trông thấy Võ Tòng thì khoanh tay đứng lễ phép mà nói rằng:
– Xin hảo hán cho tôi biết đại danh?
– Ta đây là Võ Đô Đầu, tên Tòng không cần chi phải dấu diếm.
– Chẳng hay ngài đánh hổ ở núi Cảnh Dương đó chăng?
– Phải.
Anh chàng kia vội thụp xuống mà đáp rằng:
– Chúng tôi nghe tiếng ngài đã lâu…
Võ Tòng hỏi:
– Có phải anh là chồng người đàn bà này không?
– Bẩm vâng… Nó ngu dại không biết gì, xin Đô Đầu tha cho.
Võ Tòng nghe nói, tha cho mụ kia dậy, rồi hỏi rằng:
– Ta trông vợ chồng nhà anh cũng không phải người vừa, tên họ là chi, xin cho được biết?
Chàng chưa kịp trả lời, vội bắt vợ ăn mặc tử tế, để ra bái tạ Đô Đầu trước.
– Đó là lỗi tại tôi không được biết ngài, xin bá bá bỏ qua đi cho, xin mời bá bá hãy ngồi vào chơi đã.
Võ Tòng lại hỏi:
– Hai bác tên họ là chi, sao lại biết tên tôi?
Chàng kia đáp:
– Tôi họ Trương tên Thanh, trước coi chùa Minh Quang ở gần đây, sau vì tranh cãi một việc nhỏ, tôi nóng tiết giết sư ở chùa ấy, rồi cho, một nắm lửa mà thiêu hóa cả chùa. Dần dần không thấy quan tư động đến, bèn đến lẩn lút ở gốc cây đây, để bóc lột kiếm ăn. Chợt một hôm có một lão già gánh một gánh qua đây, tôi khinh ông ta già yếu, nhảy ra đánh nhau tới hai mươi hiệp, rồi bị ông ta đánh ngã. Nguyên ông cụ ấy khi còn trẻ vẫn chuyên về một mặt ăn sương, nhân thấy tôi là một người nhanh nhẹn, bèn mang tôi về cùng ở trong thành dạy các ngón võ nghệ, rồi đem con gái gả cho, tức là vợ tôi bây giờ ở đây. Tôi ở đó được ít lâu không tiện, lại phải quay về đây làm mấy gian nhà lá bán hàng kiếm ăn. Thỉnh thoảng khách thương qua lại, có món nào khá thì đánh thuốc mê cho chết, rồi lấy thịt mà làm thịt bò, và làm bánh mà gánh đi các nơi mà bán. Chúng tôi cũng kết nạp được nhiều hảo hán giang hồ, thường gọi tôi là Thái Viên Tử Trương Thanh, còn đàn bà nhà tôi vốn người họ Tôn, thuở nhỏ cũng học được ít nhưng võ nghệ của phụ thân, người ta thường gọi là Mẫu Dược Thoa Tôn Nhị Nương. Trước đây tôi vẫn dặn đàn bà ở nhà rằng: Có ba hạng người không nên hại đến: Thứ nhất là các tăng đồ đạo nhân, vốn không can thiệp gì đến việc đời, thì không hại đến; dè đâu một hôm xuýt hại một người kinh thiên động địa, là Lỗ Đạt, Trước làm Đề Hạt dinh Kinh Lược phủ Diên An, sau vì đánh chết anh Trấn Quan Tây, phải trốn lên Ngũ Đài Sơn để đầu phật. Nhân ông ta có thích hoa lên cánh vai, nên vẫn gọi là Hoa Hòa Thượng, nặng tới sáu mươi cân. Một hôm qua đây đàn bà nhà tôi thấy to béo, liền cho thuốc mê để thịt. May sao sắp hạ thủ, thì tôi về nhà, trông thấy cây thuyền trượng, biết ngay bèn đem thuốc cứu tỉnh lại rồi bái làm anh em. Mới đây nghe nói ông ta chiếm chùa Bảo Chân ở núi Nhị Long, cùng một ông là Thanh Diện Thú Dương Chí là Đầu Lĩnh ở đó, đã mấy lần ông ta gửi thư đến đây, bảo tôi cùng đi, nhưng không thể nào mà đi được.
Võ Tòng nói:
– Phải, hai người ấy, tôi cũng thường nghe tiếng xưa nay.
Trương Thanh tiếp luôn rằng:
– Tôi rất tiếc một ông đầu đà, người cao lớn tới bảy tám thước, cũng đánh thuốc mê mà chết mất. Khi tôi về thì đã xả chân tay ra rồi, chỉ còn để lại một cái mũ nhà sư bằng sắt; một bức áo sóng tràng đen, và một tờ hộ điệp ở đây. Những cái ấy không can hệ, duy có hai thứ rất hiếm có trên đời, đây là một chuỗi hạt làm bằng một trăm linh tám cái xương đỉnh đầu của người, và hai thanh giới đao làm bằng một thứ sắt tuyết hoa rất tốt. Tay đàn đà ấy nghe chừng giết người cũng nhiều, nên bây giờ khẩu giới đao ấy, vẫn cứ đêm đêm kêu lên thành tiếng. Tôi tiếc không cứu được nên trong lòng vẫn cứ áy náy đến giờ. Thứ hai là những kỹ nữ giang hồ thì không nên làm hại, vì bọn họ lưu lạc khắp các nơi thành thị thôn dã, gặp đám ra trò, phí tổn biết bao tâm cơ mới kiếm được đồng tiền, nếu giết họ, thì họ đồn đại đi khắp mọi nơi, mà kiếm lời lên chốn hý đài để chế giễu giang hồ hảo hán là không ra gì, còn hạng thứ ba là các người tù tội đi đày. Trong đám ấy phần nhiều là các tay hảo hán, không nên giết hại làm chi! Ba điều đó tôi thường dặn dò kỹ lưỡng xưa nay, dè đâu đàn bà nhà tôi lại không chịu y lời như vậy… Hôm nay nếu tôi chậm về, thì làm sao được gặp Đô Đầu nữa?
Người đàn bà đáp rằng:
– Bản tâm tôi cũng không định hạ thủ, nhưng một là thấy đồ hành lý của bá bá, nghe chừng hơi nặng, hai là quái lạ cho bá bá lại đem lời đùa giỡn, nên mới sinh lòng như vậy.
Võ Tòng nói:
– Tôi đây là một người chỉ chém đầu đẫm huyết, còn khi nào nói đùa bỡn với đàn bà! Nhân thấy Tẩu tẩu có ý muốn dòm dỏ đồ hành lý của tôi, nên tôi phải bày kế như thế để thử xem. Sau tẩu tẩu rót ra ba chén rượu thuốc thì tôi đổ đi ngay, rồi giả vờ làm trúng độc dè đâu tẩu tẩu làm hại tôi thực.
Trương Thanh nghe nói cả cười, liền mời Võ Tòng vào phòng khách phía trong ngồi chơi. Võ Tòng nói với Trương Thanh xin cứu hai người công sai ấy dậy. Trương Thanh lại dẫn Võ Tòng vào nhà làm thịt, thấy trên vách căng mấy cái da người, trên sà nhà treo dăm bảy cái đùi người, còn hai tên công sai thì nằm vật ở trên ghế mổ.
Bấy giờ Trương Thanh hỏi Võ Tòng, vì việc gì mà phải đi đày qua đó? Võ Tòng liền đem nguyên ủy chuyện mình nói cho hai vợ chồng Trương Thanh biết. Hai người nghe nói đều vui mừng kinh sợ mà rằng:
– Chúng tôi muốn thưa câu chuyện này, chẳng hay Đô Đầu nghĩ sao?
Võ Tòng đáp:
– Chẳng hay chuyện gì, đại ca cứ nói, tôi xin sẵn lòng để nghe.
Thực là:
Dây đâu treo nổi địa cầu?
Đất đâu lấp bể, màn đâu che trời?
Đã mang tiếng ở trên đời,
Anh tài phải biết anh tài mới hay,
Cuộc đời còn lắm tỉnh say,
Còn cơn sóng cả còn tay vững chèo!
Kiền khôn là thứ tiêu dao,
Càng nhưng lưu lạc càng nhưng kiến văn,
Trăm năm trong cõi hồng trần,
Những tay khan tế kinh luân thế nào?
Lời bàn của Thánh Thán:
Tả xong câu chuyện Võ Tòng giết chị dâu, tiếp tả Trương Thanh bán thịt người, toàn là những chuyện kinh thiên động địa, khấp qủy kinh thần, tác giả khéo diễn ra những tình tiết ly kỳ, không phải ngọn bút thường mà tả nổi, không phải lòng văn thường mà tưởng tượng nên!
Trương Thanh thuật chuyện Lỗ Đạt ngộ độc, lại thuật luôn chuyện đầu đà, theo phép hư tả, song lẽ Lỗ Đạt là thực, vì còn người, Đầu đà là hư vì đã mất, trong khi thuật chuyện Đầu đà lại có di vật làm thực, mà Lỗ Đạt ở đâu đâu thì lại ra hư, trong thực có hư, trong hư có thực, đều theo bút pháp diễn tả, cho rõ từng ý nghĩa của đoạn văn.
Sách này mỗi khi tả gặp kẻ kỳ tài, lại mất một tay kỳ tài khác cho rõ ngoài vòng vơ vét về sơn bạc, lại có con người dị dạng, đầu tiên đã mất một Vương Tiến, hồi này mất một Đầu đà, sau đả Chúc Gia Trang, lại mất một Loan Đình Ngọc. Hỡi ôi danh lưu sách sử, cũng có người may với kẻ không may, kẻ thành danh muôn thuở, đừng vội bảo rằng: Ngoài đám trai kia không có ngọc châu!