Hồi 27: Cự mặt Quản Doanh, anh tù cứng cổ – Mộ danh hảo hán, cậu trẻ ra ân

Khi đó Trương Thanh nói với Võ Tòng rằng:

– Việc này không phải là chúng tôi có bụng gì ngăn trở, song chỉ e khi Đô Đầu đến đất Mạnh Châu tất nhiên bị nhiều điều khổ nhục, vậy bất nhược đem hai tên công sai này giết đi, rồi Đô Đầu ở tạm đây ít bữa. Nếu sau Đô Đầu có chịu đi lạc thảo, thì tôi xin thân hành đưa ngài sang Nhị Long Sơn, ở với Lỗ Trí Thâm cũng được, ngài nghĩ sao?

Võ Tòng đáp rằng:

– Huynh trưởng có lòng tốt nghĩ đến tôi như vậy, thực là cảm tạ vô cùng. Duy tính tôi xưa nay chỉ quen đánh giết những kẻ chướng ác ở đời, còn như hai tên công sai này, thì họ đối với tôi rất là tử tế, tôi xem ý không phải là đứa xằng, không lẽ nào mà mình lại nỡ hại đi được. Nếu huynh trưởng có lòng yêu tôi, thì xin cứu hai tên ấy vậy, không nên giết hại người ta.

– Đô Đầu đã là bậc trọng nghĩa như vậy, chúng tôi cũng không lẽ nào dám làm trái lương tâm của ngài.

Trương Thanh nói đoạn, liền gọi người nhà, dựng hai tên công sai dậy, rồi Tôn Nhị Nương pha thuốc giải độc đổ vào cho hai người uống.

Được một lúc hai anh kia như người mơ màng trong giấc chiêm bao, rồi bầng mắt ngồi dậy, nhìn Võ Tòng mà nói rằng:

– Chết nỗi! Sao tôi nằm say ở đây? Ta nhớ lấy nhà này, để lần sau về, lại đến đây uống rượu.

Mọi người nghe nói, ai cũng ôm bụng cười mà không nhịn được.

Bấy giờ Trương Thanh sai người nhà đi giết gà vịt làm cơm, dọn ra dưới giàn nho, để thiết VõTòng cùng hai người công sai. Võ Tòng nhường hai tên công sai ngồi trên, mà mình thì ngồi đầu dưới với Trương Thanh còn Tôn Nhị Nương thì ngồi một bên mạn bàn, uống rượu với nhau rất là vui vẻ. Trương Thanh sai lấy đôi khẩu giới đao đưa cho Võ Tòng xem, quả nhiên là một thứ sắt tốt, có tuyết hoa rực rỡ, thực là hiếm thấy xưa nay. Đoạn rồi cùng nhau kể chuyện giang hồ, đôi bên đều lấy làm thú vị. Võ Tòng lại đem chuyện Tống Công Minh là người hào hiệp thế nào, mà hiện nay đương ở nhà Sài Đại quan nhân, kể cho Trương Thanh nghe một lượt. Hai tên công sai nghe thấy chuyện, thì chỉ ngây người lặng tiếng, rồi bái lạy không thôi. Võ Tòng liền bảo với hai người rằng:

– Các bác có lòng tử tế, trông nom cho tôi, trong khi đi đường, nay không lẽ nào đem lòng giết hại. Chúng tôi kể chuyện bọn giang hồ hảo hán với nhau, các bác cứ việc uống rượu, không có điều chi mà sợ.

Sáng hôm sau Võ Tòng từ tạ xin đi. Trương Thanh nhất định không nghe lưu lại ở đó luôn ba bốn hôm để khỏan đãi. Võ Tòng nhân cảm thấy lòng hậu đãi của vợ chồng Trương Thanh, liền xin kết làm anh em, Trương Thanh hơn Võ Tòng chín tuổi, nên bái nhận Võ Tòng làm em.

Khi Võ Tòng sắp sửa ra đi, vợ chồng Trương Thanh lại làm tiệc tiễn hành, rồi đưa ra mươi lạng bạc để tặng Võ Tòng, và lấy ít tiền tiễn hai tên công sai nhân thể. Võ Tòng cảm tạ lòng thành, rồi cùng nhau bái biệt vợ chồng Trương Thanh mà đi sang Mạnh Châu.

Trưa hôm ấy đi đến Mạnh Châu, hai tên công sai giải Võ Tòng vào trong phủ. Quan phủ phê nhận công văn, giao cho hai tên công sai trở về phủ Đông Bình, còn Võ Tòng tống cho xuống trại. Tên lính dong Võ Tòng xuống trại, thấy trước cửa có cái bảng đề ba chữ”. Bình an trại”rất lớn. Khi vào đến phòng trại con con, thì thấy mấy người cùng tụi tù đồ, đến mà bảo với Võ Tòng rằng:

– Đại hán mới đến đây, nếu có tiền nong thư tín gì, thì cầm ra tay để một lát nữa đưa cho Sai Bát, kẻo một trăm trượng ra oai, không phải là vừa đâu. Chúng tôi thấy Đại hán cũng một tình cảnh như chúng tôi nên nghĩ lòng thỏ tử hồ bi mà bảo cho hảo hán biết trước, liệu kiếm chi mà đút lót ngay đi, thì mới khỏi trăm trượng ra uy kia được.

Võ Tòng nói:

– Vâng, các ông bảo thế tôi xin cảm ơn, tôi đây cũng có ít tiền hễ họ tử tế thì tôi đưa ngay, bằng họ lại ậm oẹ bướng bỉnh thì một đồng tôi cũng không mất làm gì.

Chúng lại nói:

– Hảo hán ơi! Không nói thế được!quan xa bản nha gần, mình đã có tội đến đây, không lụy người ta không được…

Vừa nói đến đó, thì đã có người nói rằng:

– Sai Bát quan nhân đã đến.

Chúng nghe nói đều lảng vảng chạy mất hết. Võ Tòng bèn cởi khăn gói rồi ngồi xuống đó. Bấy giờ một người chạy vào hỏi tên rằng:

– Anh nào là tù đồ mới đến đây?

Võ Tòng đáp lên rằng:

– Chúng tôi đây.

Người kia nói:

– Thằng này người như thế, mà lại đợi ta phải nói à? Mày là một hảo hán đánh hổ ở núi Cảnh Dương, đã làm qua chức Đô Đầu, tưởng là hiểu việc thì phải. Mày đã đến đây, lại không biết ta là Sai Bát à?

Võ Tòng cười nhạt mà đáp rằng:

– A? Thằng này lại đến đây mà lôi thôi chực để lão gia biếu tiền hay sao? Gọi là một chữ đây cũng không mất…Đây chỉ có một ít quả đấm thanh tịnh, có thì ta đãi một đôi. Còn tiền ta để đánh chén, xem mày định làm gì? Chỉ có một lẽ là mày lại đem tao về huyện Dương Cốc là cùng.

Sai Bát nghe nói cả giận quay ngoắt đi ra. Bấy giờ bọn tù đồ kia lại chạy vào bảo với Võ Tòng rằng:

– Chết nỗi? Hảo hán cự với lão ta, thế thì chốc nữa sẽ khổ. Bây giờ lão ta đến nói với Quản Doanh, tất lại định hại tính mạng chứ không chơi.

Võ Tòng điềm nhiên mà rằng:

– Không sợ! Mặc xác họ muốn gì thì làm văn giở văn, võ giở võ chứ sao?

Đương khi xao xác chuyện trò, thì thấy ba bốn tên lính chạy đến gọi lên rằng:

– Tù mới là Võ Tòng đâu?

Võ Tòng đáp:

– Lão gia ngồi đây, có chạy đâu mất mà làm ầm lên thế?

Bọn lính xông vào lôi thốc Võ Tòng lên nhà điểm tù. Khi tới nơi thấy Quản Doanh ngồi tên sập, rồi có năm sáu tên giải Võ Tòng lên. Quản Doanh sai tháo gông ra, rồi truyền rằng:

– Tên tù kia, ngươi đã biết cựu chế vua Thái Tổ Vũ Đức Hoàng Đế khi xưa, phàm các đứa phạm tội tù đồ, trước hết phải đánh trăm trượng ra oai đã… Lính đâu đem đánh mau…

Nói dứt lời, thì tụi lính nhâu nhâu túm đến, toan lôi trói để đánh.

Võ Tòng nghiễm nhiên bảo chúng rằng:

– Không cần gì chúng bay phải mó tay vào ta, đánh thì cứ đánh, cũng không cần phải trói giữ, nếu ta có tránh một roi nào, không kể là tay hảo hán đánh hổ, mà xóa cả mấy roi trước, lại đánh bắt đầu từ một trở đi. Nếu ta có kêu một tiếng cũng không phải là thằng con trai giỏi, làm việc ở đất Dương Cốc.

Mọi người đứng đó nghe thấy vậy đều cười rằng:

– Thằng xuẩn hán muốn chết, để xem nó làm ra sao?

Võ Tòng tiếp luôn rằng:

– Muốn đánh thì cứ đánh cho hết sức, đừng nể nang một roi nào, đây không thích thế.

Những người đứng xem chung quanh đều cười ầm cả lên. Đoạn rồi một tên lính vác côn vào xin phép ra roi.

Chợt đâu có một người đứng ở đằng sau Quản Doanh, mình cao sáu thước tuổi ngoài đôi mươi, trên nét mặt trắng, ba nhánh râu thưa, đội khăn tay trắng, mặc áo sa xanh, tay quấn dải lụa trắng, ghé vào tai Quản Doanh nói thì thầm mấy câu. Đoạn rồi thấy Quản Doanh truyền rằng:

– Tên tù mới kia? Ngươi đi đường bị bệnh gì đó?

Võ Tòng đáp rằng:

– Không có bệnh gì cả, uống rượu tốt, thịt nuốt được, cơm ăn được, đi đường cũng được.

Quản Doanh lại nói:

– Tên này chắc là bệnh mới khỏi, ta nom mặt chưa được khoẻ thì phải, thôi hãy gửi cho một trăm trượng đó…

Bấy giờ tụi lính đứng hai bên đều bảo Võ Tòng rằng:

– Tướng công đã có lòng thương thế, anh cứ nói là đương yếu có được không?

Võ Tòng nói:

– Ta không đau yếu gì, cứ đánh luôn cho xong đi, chịu đựng lôi thôi thêm bận ruột, bao giờ cho trả được xong?

Các người kia đều cười không nhịn được. Quản Doanh cũng cười mà nói rằng:

– Chắc anh này bị bệnh nhiệt mà không ra được mồ hôi, nên mới nói lảm nhảm như thế? Thôi không cần nghe hắn nói, hãy cứ đưa xuống dưới phòng trại giữ ở đó.

Mấy tên lính dạ ran, rồi mang Võ Tòng xuống phòng trại, bấy giờ bọn tù đồ đều đến hỏi Võ Tòng rằng:

– Bác có thư tín của ai đưa đến, để nói với Quản Doanh che chở cho không?

Võ Tòng đáp:

– Không có gì cả.

– Nếu vậy họ không đánh bây giờ, tất là nguy với họ. Chắc là họ toan sát hại chứ không chơi.

– Họ sát hại bằng cách nào?

Chiều hôm nay tất họ đưa mấy bát cơm gạo trong kho đến, để bác ăn cho rõ no, rồi họ đem xuống hầm đất trói tròn lại, lấy chăn bó cuộn vào mà đút nút chặt lỗ mũi lỗ mồm, mà dựng lên vách chỉ một lúc là chết.

– Còn có phép gì nữa không?

– Còn một cách nữa là họ đem trói lại, rồi đem một cái túi rất lớn để đè lên người, cũng chỉ một lúc là chết.

Võ Tòng lại hỏi:

– Vậy còn cách gì nặng hơn nữa không?

Chúng đáp rằng:

– Chỉ có hai cách ấy là ghê nhất, còn các lối khác, thì không lấy gì làm nguy hiểm cả.

Chúng vừa nói xong, thì bỗng thấy một tên lính mang cái quả tròn đến mà hỏi rằng:

– Ai là Võ Đô Đầu mới đến ở đây?

Võ Tòng đáp rằng:

– Ta đây, hỏi làm gì?

Người lính nói:

– Quản Doanh sai tôi đưa đồ đến đây cho điểm tâm.

Nói xong đem quả tròn đến để trước mặt Võ Tòng, Võ Tòng trông thấy có một bình rượu lớn, một đĩa thịt, một đĩa bánh, và một bát nước dùng lớn liền nghĩ thầm trong bụng rằng:”Cái này nó mang cho ta ăn, rồi mang trị đây! Ừ thôi, hãy ăn rồi sẽ liệu”

Nghĩ vậy, liền vớ lấy bình rượu uống một hơi vừa hết, rồi ăn uống các thứ, không còn một tý gì. Đoạn rồi tên lính bưng quả mang đi. Võ Tòng ngồi một mình trong phòng vừa nghĩ vừa cười nhạt một mình mà nói lẩm bẩm: ” Để xem nó đối với ta là người thế nào?”

Chiều hôm ấy lại thấy tên lính kia đội một quả đến. Võ Tòng hỏi:

– Sao anh lại đến đây làm gì?

Tên lính đáp:

– Tôi đưa cơm chiều đến đây.

Nói đoạn tay đặt cái quả xuống, trong bày một đĩa thịt, một bát canh cá, một thùng cơm, và hai nai rượu rất lớn.

Võ Tòng ngất ngưỡng vừa ăn vừa thầm nghĩ một mình: “Ăn xong bữa này, tất là họ kết quả mình, nhưng vậy mặc lòng, ta có chết cũng làm con ma no mới thích” Ăn uống xong rồi, tên lính thu dọn bát đĩa mà trở đi không nói năng chi cả.

Hồi lâu lại thấy tên lính ấy, cùng một tên nữa, kẻ xách thùng tắm kẻ thì xách thùng nước nóng, đem vào bảo với Võ Tòng rằng:

– Nước đây mời Đô Đầu đi tắm rửa.

Võ Tòng lấy làm lạ; Có lẽ họ cho mình tắm, rồi mới hạ thủ hay sao? Thế nào cũng không cần, ta hãy tắm cái đã…”

Nghĩ đoạn cởi quần áo, nhảy vào thùng nước tắm rửa một lúc, hai tên lính lại đưa khăn tắm vào để lau. Võ Tòng lau ráo mình mẩy mặc quần áo vào rồi, hai tên kia đổ nước, đem thùng vác về.

Đoạn rồi một anh đem màn chiếu đến, để mắc màn trải chiếu, và đưa gối cho Võ Tòng nằm. Võ Tòng đóng cửa nằm một mình không hiểu ý tứ ra làm sao? Hồi lâu bất giác người mệt ngủ thiu đi lúc nào không biết.

Cuộc đời trải chán bể dâu,

Tử sinh kinh cụ hơi đâu bận lòng?

Giang sơn phó một giấc nồng,

Xem trời xoay với anh hùng ra sao?

Sáng hôm sau chàng trở dậy, vừa mới mở cửa ra, đã thấy tên lính bưng nước nóng cho Võ Tòng súc miệng rồi lại đem lược vào chải đầu búi tóc cho Võ Tòng. Lại có một người nữa bưng cơm sáng vào mời Võ Tòng ăn. Võ Tòng vừa ăn vừa nghĩ lẩm nhẩm buồn cười, không hiểu tình ý ra sao cả.

Khi cơm nước xong, có một người vào nói với Võ Tòng rằng:

– Ở đây không được sạch sẽ, xin mời Đô Đầu sang phòng kia để nghỉ.

Nói xong liền dọn dẹp hành lý và dẫn Võ Tòng đi. Võ Tòng càng lấy làm ngờ vực lạ lùng, xong cũng liều bước đi theo, để xem trò đời hay, dở? Đi tới một nơi, đẩy cửa bước vào thấy ở trong màn giường sạch sẽ, hai bên bàn ghế, toàn là mới kê bày cả.

Võ Tòng bước chân vào, trong lòng ám tưởng; “chắc phen này họ đút mình vào hầm đất thì phải… sao mà lại dắt đến đây?”

Chàng vẩn vơ nghĩ ngợi, ngồi mãi đến gần trưa, lại thấy tên lính bưng một mâm lớn tướng, tay xách một nậm rượu đưa vào, trong mâm bày đủ các thức hoa quả, thịt cá rất là sang trọng, rồi tên lính rót rượu mời Võ Tòng uống. Võ Tòng ăn uống no say, rồi nghĩ thầm rằng:”Đám tù vừa nói với ta như vậy, ta cũng chắc rằng như vậy, ngờ đâu họ lại xử ngay một cách khác hẳn, khiến mình không biết xét đoán ra sao mà xử trí!”.

Đoạn rồi chàng thủng thẳng đi ra chơi mát trong trại.

Bấy giờ đương dạo tháng sáu, trời nắng chang chang, bọn tù đồ kẻ thì gánh nước, kẻ thì bổ củi, nhất luật đều phải phơi trãi ngoài sân mà làm các việc. Võ Tòng thấy vậy, liền hỏi chúng rằng:

– Trời nắng nôi thế này, các người vội gì mà phơi mãi ra đấy cho khổ?

Chúng nghe nói cười mà đáp rằng:

– Bác không biết, chúng tôi được làm việc ở đây, còn là phúc bằng cái đình ấy… Bây giờ còn có những hạng kém tiền đút lót, thì nhốt cả vào trong Đại lao kia, rồi khóa kìm cùng kẹp, sống cũng dở chết cũng dở, lấy đâu đã được thế này…

Chàng nghe vậy, lặng ngắt mà quay đi, khi tới phía sau Thấy đôn đá rất to, bên cạnh có lỗ thủng, chắc là một chỗ để trói buộc người ta. Chàng liền ngồi trên đó để ngủ. Hồi lâu lại một mình lững thửng về phòng.

Từ đó trở đi, luôn ba bốn hôm, bữa nào cũng có người đưa cơm rượu đến, mà hầu hạ cung phụng rất là tử tế, Võ Tòng không hiểu ra sao.

Một hôm vào giữa buổi trưa, nhân khi có người mang cơm đến, Võ Tòng liền hỏi rằng:

– Anh là người nhà ai? Sao lại mang cơm rượu đến mời tôi vậy?

Người kia nói:

– Thưa ngài, hôm nọ tôi đã nói với ngài rằng:

– Tôi là người nhà Quản Doanh tướng công đó.

– Tôi hãy hỏi anh, ai sai anh đem cơm rượu cho tôi như vậy?

– Thưa ngài, đây là tiểu Quản Doanh tướng công, sai tôi đưa đến để mời ngài.

– Tôi là một người phạm tội, xưa nay chưa từng quen biết Quản Doanh bao giờ, vậy cớ sao lại đã tôi tử tế như vậy?

– Cái đó chúng tôi cũng không được biết. Chỉ thấy Quản Doanh dặn tôi rằng:”Cứ đưa cơm nước phụng sự Đô Đầu trong ba tháng, hay là nửa năm rồi hãy nói chuyện”.

Võ Tòng ngạc nhiên mà rằng:

– Quái lạ! Có dễ họ nuôi ta cho béo, để họ thịt chăng? Thế này thì ta không thể nào mà ăn uống cho yên lòng được. Ngươi hãy nói cho ta biết, Tiểu Quản Doanh là người thế nào, thì ta sẽ ăn uống bữa cơm hôm nay.

Người kia đáp:

– Thưa ngài, Tiểu Quản Doanh là người cao lớn quấn lụa trắng ở tay, mà đứng bên cạnh Quản Doanh tướng công hôm trước đó.

– Có phải chính là người mặc áo xanh hôm ấy không?

– Bẩm, chính phải.

– Vậy thì hôm ấy ai nói cho tôi khỏi bị đánh?

– Bẩm, chính ông ta đấy.

– Nếu vậy thì quái lạ lắm! Tôi đây là người huyện Thanh Hà, ông ta là người ở Mạnh Châu, xưa nay không quen biết bao giờ, mà lại xử đãi như thế? Ông ta tên họ là gì?

– Bẩm, ông ta họ Thi tên Ân, tài giỏi võ nghệ, người ta thường gọi là Kim Nhỡn Bưu.

Võ Tòng nghe nói, liền bảo người kia rằng:

– Có lẽ người ấy cũng là một tay hảo hán nam tử ở trên đời… Vậy anh hãy mời ông ta đến đây, rồi sẽ ăn cơm, bằng không thì cơm nước từ đây tôi không dám nhận.

– Bẩm ngài, chuyện đó Tiểu Quản Doanh tôi đã dặn dò cẩn thận không cho nói trước, lẽ đâu tôi dám mời đến đây bây giờ?

– Không, anh cứ mời ông ấy đến đây, tôi sẽ nói cho.

Người kia do dự đã toan nhất định không đi, sau bị Võ Tòng thúc bách mãi, liền bất đắc dĩ phải theo lời mà đi mời Tiểu Quản Doanh ra đó.

Khi Thi Ân ra tới Phòng, trông thấy Võ Tòng, thì xụp xuống vái chào, Võ Tòng cũng đáp lễ lại mà hỏi rằng:

– Tôi là kẻ tù tội đến đây, xưa nay không được biết ngài, mà cũng không có công lao gì đối với ngài, vậy mà ngài lại cứu cho thoát khỏi sự đánh đập, rồi lại thiết đãi cơm rượu như thế, thực trong lòng lấy làm áy náy không hiểu tình ý ra sao, xin ngài cho tôi được biết rõ?

Thi Ân đáp:

– Tiểu đệ nghe danh ngài đã lâu, chỉ vì đường xá xa xôi, mà chưa sao được gặp, nay đã vì sự không may của ngài, phải dời gót đến đây, tôi muốn nhân cơ hội để bái kiến ý tôn nhân, song chưa biết lấy gì làm lễ tương kiến, nên chưa dám hầu ngài được.

– Vừa rồi thấy tên người nhà nói là, ngài dặn đợi trong ba tháng nữa sẽ nói chuyện cho tôi biết, chẳng hay Tiểu Quản Doanh có chuyện gì, xin cho Võ Tòng được biết rõ.

– Dám thưa Huynh trưởng: đó là thằng đầy tớ nó ngu si không biết nên mới đường đột nói với huynh trưởng như vậy, chứ tôi đây có khi nào mà tháo thứ nói ngay ra bây giờ?

– Nếu Tiểu Quản Doanh xử như vậy, thì tôi lấy làm phiền lòng, mà không thể nào yên được. Vậy có việc gì xin ngài nói cho nghe?

Thi Ân ngần ngừ hồi lâu rồi nói với Võ Tòng rằng:

– Tên người nhà đã trót nói lỡ mồm với ngài như thế, tôi đây không lẽ nào lại giấu huynh trưởng được, vậy xin huynh trưởng bỏ quá mà nhận lời cho. Nguyên tôi nghe tiếng huynh trưởng là một bậc Đại trượng phu lừng lẫy xưa nay, nên ý muốn phiền ngài một việc, mà việc ấy chỉ có một mình ngài là đảm đang mới được. Song huynh trưởng vừa mới đi đường xa tới đây, chắc là trong mình hãy còn mệt nhọc, vậy xin để đợi năm ba tháng nữa, huynh trưởng khoẻ rồi sẽ nói rõ thì hơn.

Võ Tòng cười vang lên mà rằng:

– Tiểu Quản Doanh ơi! Ngài chưa được rõ tôi đây dạo năm ngoái bị bệnh sốt rét tới ba tháng trời mà cũng chỉ dùng cẳng chân nắm tay đánh chết được hổ trên núi Cảnh Dương nữa là ngày này… Đành vậy, nhưng hiện nay nói ra cũng là vô ích, vậy xin khi nào huynh trưởng khoẻ mạnh ung dung rồi sẽ hay.

– Tiểu Quản Doanh cho tôi là không khoẻ, vậy hôm trước tôi trông thấy ở Thiên Vương Đường có cái đôn đá không biết rằng nặng bao nhiêu cân…

– Có lẽ nặng tới bốn năm trăm cân thì phải.

– Nếu vậy tôi với ngài thử đi qua đó xem tôi nhắc nổi được không?

– Vâng, ngài dạy thế cũng xin vâng, song hãy xin uống mấy chén rượu rồi sẽ xin đi.

Võ Tòng quyết định nói rằng:

– Hãy xin đi một lúc đã.

Thi Ân từ chối không được, liền cùng với Võ Tòng dắt tay nhau mà đi ra Thiên Vương Đường. Bấy giờ các tù đồ trông thấy Võ Tòng cùng Tiểu Lý Quảng đi ra đó, thì ai nấy đều cúi rạp người xuống để chào mà ngạc nhiên không biết ra sao?

Võ Tòng đi đến chỗ đôn đá, giơ tay sẽ lay qua một cái rồi cười mà nói rằng:

– Có lẽ tôi yếu đuối thực không thể nào vần lên được…

Thi Ân nói:

– Một hòn đá nặng có tới bốn năm trăm cân, nói chơi…

Võ Tòng lại cười ha hả mà rằng:

– Tiểu Quản Doanh chắc rằng tôi không nhắc nổi phải chăng? Ngài hãy thử coi xem thế nào?

Nói đoạn liền cởi áo ngoài ra, hai tay ôm đôn đá nhắc bổng lên rồi vứt xuống đất đến thình một cái; lõm hẳn xuống đất tới một thước sâu. Bọn tù đồ đứng quanh đấy trông thấy đều lấy làm kinh sợ lạ lùng.

Võ Tòng lại giơ tay phải nâng hòn đá tung lên hơn một trượng rồi ngửa tay lên hứng lấy, rồi đặt nguyên vào chỗ cũ. Đoạn rồi quay ra nhìn mọi người, nét mặt vẫn tự nhiên như thường, không có chút gì ra vẻ khó nhọc. Thí Ân thấy vậy bèn chạy đến vái Võ Tòng mà nói rằng:

– Huynh trưởng thật là thiên thần chứ không phải người thường ví được?

Các tù đồ cũng sụp xuống lại mà nói rằng:

– Ngài thực là người thần vậy.

Đoạn rồi Thi Ân mời Võ Tòng về nhà riêng chơi. Võ Tòng nói với Thi Ân rằng:

– Bây giờ xin Tiểu Quản Doanh cho tôi biết công việc của Tiểu Quản Doanh?

Thi Ân nói:

– Xin ngài hãy ngồi chơi đợi lát nữa gia nghiêm tôi ra chào, rồi xin nói chuyện.

– Nếu ngài dạy có việc gì, thì xin cứ nói ngay, đừng theo lối đàn bà trẻ con như vậy… không phải là lối làm việc. Tôi đây dẫu có việc gì nguy hiểm đến đâu. Cũng xin hết sức giúp ngài ngay được, ngài cứ nói ngay cho.

Cho hay là:

Tấm thân đạp đất đội trời,

Nước non đâu chẳng là nơi hữu tình?

Đã lòng cốt nhục tử sinh,

Dẫu rằng dâu bể, tung hoành sá chi.

Xưa nay phận sự nam nhi,

Chẳng qua gánh vác nặng vì non sông,

Liều thân dấn với bụi hồng,

Mà xem chim các vẫy vùng ra sao?

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi trên tả Võ Tòng giết người coi nhẹ như cỏ rác, mực giây nét máu bút vướng hơi tanh; thế mà đến hồi này đối với hai tên công sai, lại cứu sống ra, thấy rằng con người Đại nhân từ trong thiên hạ, chưa nhân từ hơn Võ Tòng việc ấy, thế thì bao nhiêu vết máu thây tanh ở một hồi trên, đến đây như rửa sạch. Ý tác giả tả Võ Tòng lúc đó, muốn cho ra một bậc người trời; Mới có cử chỉ khi mừng thì gió êm mưa dịu; khi giận thì sấm mắng sét oai, không cái gì nên, không cái gì là chẳng nên, nào phải như loại Tống Giang thấy người thì muốn khóc; hay Nguyễn Tiểu Thất thấy người thì muốn đâm, không thể nào đem ví ra cho được?

Đọc hồi này thấy Võ Tòng chợt đâu đem lời nói cảm kích vợ chồng Trương Thanh. Than ôi! Há chẳng đau lòng! Việc vợ chồng trong đời vốn hai người với nhau hết mọi nhân sự, tại sao anh ruột chị dâu Võ Tòng, cũng đôi vợ chồng, lại không được như thế? Tại Trời ư? Tại Người ư? Xét cha mẹ ngươi Tòng sinh ngươi Tòng, chẳng khỏi sinh ra anh ngươi Tòng đó là Trời, chẳng phải ở người vậy, nhưng nếu anh ngươi Võ Tòng chẳng lấy họ Phan, Tây Môn Khánh không có chuyện gì, mà chính ngươi Tòng chẳng muốn xa anh. Quan huyện cũng không nhờ đến, thì cũng do trời, đâu phải tự người, thì rõ ràng lắm vậy, khiến Võ Tòng không dám tin ai, khắp trong thiên hạ, nào ai chồng thuận vợ hòa. Thế mà mới ra khỏi phủ đình, vào vòng tiếp vật, lại gặp một đôi vợ chồng Trương Thanh như thế đáng yêu, kết bạn với chàng, thì chàng há chẳng quay mặt vào vách, gạt thầm giọt lệ đau thương!!! Tác giả mới tả rằng: Võ Tòng chợt đâu đem lời cảm kích vợ chồng Trương Thanh, thì hỡi ôi! Thực cây bút tuyệt.

Tả luôn Tiểu Quản Doanh khỏan đãi Võ Tòng, nào tự nhiên thấy một người đem quả đến, nào thịt, nào rượu, nào bánh, nào cơm, đến chiều lại thế cũng tả rõ ra nào bình rượu, đĩa thịt, liễn cơm… rồi sau lại một người đem thùng tắm, một người đem nước tắm, sau lại thay phòng ngủ hầu hạ đủ từ lấy nước cho súc miệng rửa mặt, lấy lược chải đầu, ba bốn ngày hầu hạ ăn uống, sau lại dạo chơi quanh, thế rồi về phòng lại cơm sẵn rượu kề ta thấy chép rõ ràng ra, mà chính Võ Tòng lại hoài nghi thắc mắc, một đoạn tả rõ như vậy, cho thấy biểu lộ con người hậu đãi ấy Thi Ân.

Sắp tả Võ Tòng uy trấn trại Bình An, đã dự trước một ngày, dạo chơi trước Thiên Vương Đường, bèn nhắc hòn đá xanh làm lò thiêu hương nặng sức, lạ thay! Rất lạ là tới sáng ngày chính lúc Võ Tòng giở thần oai ra diễn võ, lại không trực tả, chỉ tả một nữa phần thôi, như chép thấy hòn đá mà xin nhắc thử, rồi nhẹ nhàng nhấc lên cao lại ra tay quật mạnh xuống, làm đất lõm sâu một thước, thế rồi lại lần nữa nhắc lên, để lại chỗ cũ, mới thấy thần lực Võ Tòng, tận tình trổ ra, lại tả nốt nửa phần nữa thần oai như mặt không hồng, mồm không thở, tay không núng. Đoạn một không ngờ có đoạn hai, đọc đoạn hai không ngờ còn đoạn ba, văn thế ly kỳ, chẳng phải mở mắt ra mà xem hết.

Hồi 28: Trại Bình An, lạy cầu có nghĩa sĩ – Rừng Khoái Hoạt say đánh Tưởng Môn Thần

Khi đó Thi Ân bảo với Võ Tòng rằng:

– Xin huynh trưởng hãy ngồi chơi, việc này để tiểu đệ kể rõ ràng đầu đuôi thì mới rõ được.

Võ Tòng có ý nóng nảy mà rằng:

– Tiểu Quản Doanh bất tất phải lôi thôi dài dòng văn tự…có thế nào xin cứ nói thực ngay cho tôi được biết.

– Tiểu đệ từ thuở nhỏ theo đòi võ nghệ, cũng biết được qua loa dăm ngón còn quyền, nhận thế đất Mạnh Châu thường gọi là Kim Nhỡn Bưu…  Ở gần cửa bên đông trại này có một nơi phố xá, tên là Khoái Hoạt Lâm, xưa nay các thương khách ở Sơn Đông Hà Bắc đến đó buôn bán rất đông. Trong phố có hơn trăm nhà khách sạn lớn, và hai ba mươi sòng đánh bạc lớn. Trước đây tiểu đệ nhờ có đôi chút võ nghệ, bèn bắt tám chín mươi tên tên tù đồ khỏe mạnh ở trong trại, đem ra đó mở một ngôi tửu điếm; rồi bắt các khách sạn cùng các sòng bạc quanh đó, nếu khi có đám kỹ nữ nào qua lại, là phải đem đến tửu điếm của tiểu đệ trước, rồi mới được chia đi các nơi. Nhân thế mà tính mỗi tháng tất cả tiền vặt vãnh có thể kiếm tới hai ba trăm lạng bạc. Dè đâu có ông Trương Đoàn Huyện, người ở Đông Lộ Châu mới đến, lại dắt thêm anh chàng to lớn, tên là Tưởng Trung cũng đến ở đây…Anh chàng này mình dài chín thước, tay gậy tay quyền ít người đo kịp, bọn giang hồ vẫn gọi là Tưởng Môn Thần (thần giữ cửa họ Tưởng) xưa nay. Anh ta thường nói khoác là: Trong ba năm trời ở Thái Nhạc đánh nhau không hề có ai đối thủ, khắp trong thiên hạ chỉ một người như hắn mà thôi, nhân vậy hắn cướp lối kiếm ăn của tiểu đệ. Tiểu đệ đã khẳng khái không chịu nhường, sau bị hắn đánh một trận, có tới hơn hai tháng giời mới dậy được. Hôm nọ huynh trưởng mới đến đây, chính tiểu đệ vẫn còn đau tay phải buộc đó. Tiểu đệ nghĩ đến chuyện ấy, thực là căm tức vô cùng toan đem người đến đánh báo thù một mẻ, song lại e hắn ta với Trương Hoành Huyện rất thân, lỡ có thế nào thì ở trong trại đây làm lắm điều không tiện, bởi thế mà chưa sao báo trả được xong. Nay nghe tiếng huynh trưởng có lòng hạ cố giúp đỡ một tay, để tiểu đệ được sạch tan gánh giận vô cùng ấy, thì dẫu chết cũng được hả lòng. Duy huynh trưởng mới đến đây, e khi đường xá xa xôi, trong mình chưa khỏe, nên muốn đợi dăm ba tháng cho huynh trưởng khỏe mạnh, rồi sẽ nói ra, ai ngờ bây giờ…

Võ Tòng nghe đến đó, cười ha hả mà rằng:

– Anh Tưởng Môn Thần ấy, có mấy đầu mấy tay?

Thi Ân đáp:

– Hắn cũng một đầu hai tay thôi, chứ làm gì mà có nhiều hơn ai!

Võ Tòng cười mà rằng:

– Tôi tưởng hắn ta ba đầu sáu tay tài giỏi như Na Tra ngày trước, thì tôi cũng sợ thực, nhưng nếu có một đầu hai tay, không được tài giỏi như Na Tra, thì có làm chi mà sợ.

– Đành vậy, song tiểu đệ sức lực yếu kém, nên chỉ sợ không tài nào địch nổi hắn.

– Tôi đây không phải nói khoác, nhưng cứ võ nghệ của tôi thì bao nhiêu những thằng ngang ngạnh, không biết điều trong thiên hạ, đều không coi vào đâu cả. Bây giờ các bác cứ đem rượu đi đường để uống rồi tôi với bác cùng đến xem nó ở đâu, để tôi đánh cho một mẻ như con hổ hôm trước, nếu có chết, tôi xin đền mạng.

Thi Ân nói:

– Xin huynh trưởng cứ ngồi chơi, lát nữa gia nghiêm tôi về đây, sẽ xin nói chuyện. Việc này không vội được, hãy để sáng mai tôi cho người đi dò xem, nếu nó còn ở nhà, thì hôm sau ta đến đó, bằng không thì hãy thư thả rút giây sợ động rừng, lỡ bị nói đánh lại thì không phải chuyện chơi.

Võ Tòng ra dáng xấn xổ mà rằng:

– Tiểu Quản Doanh phải biết rằng, nếu để nó đánh được, thì ta không phải là thằng con trai. Đi thì đi ngay, cần gì phải đợi hôm nay hôm khác, Tiểu Quản Doanh cho mau mau mới được.

Đương khi hăm hở nói cười, thì bỗng thấy Lão Quản Doanh ở sau bình phong chạy ra nói rằng:

– Nghĩa sĩ ơi, lão há nghe chuyện nghĩa sĩ đã lâu rồi…Nay thằng cháu được gặp ngài thật là vén mây trông thấy mặt trời… Xin mời ngài hãy vào trong nhà, ta nói chuyện.

Võ Tòng đứng dậy, theo Lão Quản Doanh vào nhà trong. Lão Quản Doanh mời Võ Tòng ngồi, Võ Tòng khiêm tốn mà rằng:

– Tôi là một người phạm tội đến đây, đâu dám xấc xược như vậy.

Lão Quản Doanh cười rằng:

– Nghĩa sĩ không nên câu nệ như thế, cháu được gặp nghĩa sĩ là may rồi.

Võ Tòng nghe nói, liền xin phép ngồi đối diện với Lão Quản Doanh, còn Thi Ân thì đứng ở một bên. Võ Tòng lại nói với Lão Quản Doanh xin phép cho Thi Ân cùng ngồi để nói chuyện. Được một lát người nhà dọn rượu lên, Lão Quản Doanh cất chén mời Võ Tòng mà rằng:

– Nghĩa sĩ là một bậc anh hùng như vậy, thiên hạ ai không đem lòng kính phục… ? Thằng cháu ở đây có mở ngôi hàng ở Khoái Hoạt Lâm, chủ ý cũng không phải bán buôn cầu lợi, đó chẳng qua là muốn nuôi thêm hào khí cho đất Mạnh Châu, để cùng non sông đóng góp. Ngờ đâu bị tên Tưởng Môn Thần ỷ thế hào cường mà công nhiên chiếm mất, nay nếu không gặp nghĩa sĩ thì có lẽ khó lòng mà báo thù được. Vậy nếu nghĩa sĩ có lòng thương đến thì cháu xin bốn lạy làm huynh trưởng, để gọi tỏ tấm lòng thành cùng nghĩa sĩ.

Võ Tòng cung kính đáp rằng:

– Chúng tôi có tài học gì mà dám nhận lời như thế!

Nói xong cất chén rượu uống một hơi cạn hết. Thi Ân đứng dậy lạy Võ Tòng bốn lạy bái làm huynh trưởng, kết nghĩa anh em, Võ Tòng vội đứng dậy đáp lễ, rồi cùng ngồi uống rượu với nhau, đến khi Võ Tòng rất say, rồi mới vực về phòng, để nghỉ.

Sáng hôm sau, cha con Thi Ân bàn với nhau rằng:

– Hôm qua Võ Đô Đầu uống rượu say quá, chắc hôm nay còn trúng tửu, chưa có thể làm việc được, vậy ta hãy nói dối là sai người đi dò xem, thấy hắn không có ở nhà, đành để hoãn đến mai sẽ liệu.

Khi bàn định xong, rồi Thi Ân liền đến bảo với Võ Tòng rằng:

– Tiểu đệ sai người đến dò xét hẳn hòi, song hắn còn đi vắng vậy để sáng mai xin mời huynh trưởng đi cho.

Võ Tòng nghe nói, lại có ý sốt sắng mà rằng:

– Hôm nay lại nghỉ một ngày thì thực phiền cho tôi quá.

Khi cơm nước xong, Võ Tòng cùng Thi Ân đi ra trước trong dinh chơi mát một hồi, rồi lại trở về phòng khách nói chuyện võ nghệ với nhau. Trưa hôm ấy, Thi Ân mời Võ Tòng ăn cơm ở trong nhà. Trong khi thiết rượu, chỉ mời dăm ba chén, rồi cất đi mà đem cơm lên ngay. Võ Tòng đương cao hứng uống rượu, nhưng thấy vậy cũng không hiểu đầu đuôi tình ý ra làm sao? Khi cơm nước xong. Võ Tòng trở về phòng nghỉ, có hai tên đầy tớ đem nước tắm rửa đến. Võ Tòng liền hỏi rằng:

– Sáng hôm nay Tiểu Quản Doanh thiết cơm, lại không để cho uống rượu là tình ý làm sao?

Tên đầy tớ đáp rằng:

– Chẳng giấu gì Đô Đầu; Lão Quản Doanh cùng Tiểu Quản Doanh tôi đã định hôm nay là mời Đô Đầu hành sự, song lại e hôm qua Đô Đầu uống nhiều rượu, thì hôm nay chắc trúng tửu mà lỡ mất việc to bởi vậy nên không dám đem rượu ra mời Đô Đầu, mà cốt dưỡng sức khỏe để mai nhờ Đô Đầu giúp việc cho.

Võ Tòng nghe nói bật cười mà rằng:

– Như thế mà sợ ta say rượu, lỡ mất việc to, thì cũng lạ thực!

Đêm hôm ấy Võ Tòng nóng lòng sốt ruột mong sao cho chóng sáng để dậy mà đi. Sáng hôm sau chàng trở dậy sớm rửa mặt súc miệng, đội khăn mỏ xéo, mặc áo vải mùi thâm, thắt lưng đỏ, chân quấn lá đáp đi đôi giày gia, rồi lấy miếng lá cao dán đè chỗ kim ấn trên mặt. Vừa khi chỉnh đốn xong, thì Thi Ân đã đến mời Võ Tòng vào trong nhà ăn cơm.

Khi cơm nước xong, Thi Ân liền sai đầy tớ đóng ngựa để đi, Võ Tòng gạt đi mà rằng:

– Chân tôi có việc gì mà phải đi ngựa, cái đó không cần. Duy có một điều này, Tiểu Quản Doanh phải nghe tôi mới được..

Thi Ân nói:

– Có điều gì xin huynh trưởng cứ cho biết, nào tiểu đệ dám không theo.

– Bây giờ tôi với Tiểu Quản Doanh cùng đi, cần phải nhớ một câu là “Không ba chẳng qua vọng”.

– Thế nào là “Không ba chẳng qua vọng”, tiểu đệ không hiểu ý ra sao cả?

Võ Tòng cười mà rằng:

– Tôi nói cho chú nghe; Nếu chú có cần cho tôi đánh Tưởng Môn Thần, thì cứ bước chân ra khỏi thành, hễ gặp hàng rượu nào là phải mời tôi uống ba chén rượu; nếu không có ba chén rượu, thì tôi không đi qua vọng tử nữa, thế là không ba chẳng qua vọng.

Thi Ân nghe nói, nghĩ một lát mà đáp rằng:

– Khoái Hoạt Lâm cách đông môn mười bốn mười lăm dặm đường, trong quãng đó có tới mười hai mười ba hàng rượu, nếu qua mỗi hàng mà uống ba chén, thì tất cả, phải đến ba nhăm ba sáu chén rượu, như thế e khi huynh trưởng quá say, thì còn làm việc thế nào được?

Võ Tòng cả cười mà rằng:

– Tiểu Quản Doanh sợ tôi say rồi kém sức hay sao? Phải biết rằng, tôi uống một phần rượu thì tài giỏi một phần chứ uống đến mười phần rượu, thì tài sức lại ở đâu đâu kéo đến, không biết thế nào mà kể? Nếu không phải là say rượu to gan, thì nào có đánh được con đại trùng ở trên núi Cảnh Dương. Lúc đó cứ để cho tôi say mê say mệt, thì sức mới mạnh được.

Thi Ân nói:

– Nếu vậy thì càng hay lắm. Hôm qua chỉ sợ huynh trưởng quá say lỡ việc, nên không dám đem rượu ra mời. Nay huynh trưởng đã nói như vậy, thì nhà tôi sẵn có rượu ngon, xin cho người cứ gánh sắn cả hoa quả rượu chè đi, rồi đến đó sẽ dùng.

– Thế thì vừa ý tôi lắm! Có dăm ba chén rượu mới có khí lực, chứ đánh suông thì khó lòng đánh được. Hôm nay tôi đánh thằng ấy, gọi là để cho họ buồn cười một mẻ vỡ bụng mà chơi.

Bấy giờ Thi Ân sai hai tên người nhà gánh rượu nhắm đi trước, rồi Lão Quản Doanh lại chọn vài ba mươi tên khỏe để ứng tiếp theo sau, đoạn rồi Thi Ân cùng Võ Tòng ra đi. Ra khỏi trại Bình An tới cửa Đông Môn đi được bốn năm mươi bước, thì thấy bên cạnh đường có một ngôi hàng rượu phất tử phỏ phất ở trên, hai tên người nhà đã gánh rượu đến trực đó. Thi Ân liền mời Võ Tòng vào ngồi, rồi đem bày các thức rượu nhắm ra.

Võ Tòng bảo với Thi Ân rằng:

– Cái này tất phải dùng ba chén lớn, chứ chén nhỏ thì không ăn thua.

Người nhà nghe nói, liền lấy ra ba cái chén thực lớn, rồi Thi Ân rót rượu ra mời. Võ Tòng không cần khiêm nhượng mời chào, cất chén uống ba hơi hết cả, rồi đứng phắt dậy ngay. Người nhà lại thu xếp đồ đạc mà gánh mau đi trước.

Võ Tòng cười bảo Thi Ân rằng:

– Ba chén rượu thực là nở ruột gan dễ chịu lắm, thôi ta đi đi!

Nói đoạn hai người cùng ra đi. Bấy giờ đương dạo tháng bảy, trời còn nắng bức gió tây, hai người liền cởi phanh cả áo ra mà đi cho mát. Đi được độ một dặm đường nữa, lại đến một nơi tửu điếm thấp thoáng, lá cờ bay ở trong giữa rừng cây. Thi Ân đứng dừng lại hỏi Võ Tòng rằng:

– Chỗ này là một hàng rượu nhà quê, huynh trưởng cũng tính là một vọng chăng?

Võ Tòng đáp:

– Phải lắm, uống ba chén rồi sẽ đi.

Nói đoạn hai người lại vào hàng ngồi, rồi người nhà đem rượu vào rót ba chén để Võ Tòng uống. Uống xong lại đứng dậy cùng đi.

Từ đó cứ mỗi khi gặp hàng rượu, lại vào uống ba chén rồi đi. Dần dần đi qua có tới mươi chốn hàng rượu, Thi Ân thấy Võ Tòng vẫn chưa có dáng say, thì lại càng lấy làm vui trong dạ.

Bấy giờ Võ Tòng hỏi Thi Ân rằng:

– Từ đây đến Khoái Hoạt Lâm, ước chừng còn bao nhiêu nữa.

Thi Ân đáp:

– Không còn bao lâu nữa, ở ngay khu rừng trước mặt kia rồi.

– Nếu vậy thì Tiểu Quản Doanh nên tránh một nơi khác, mà đợi tôi, để một mình tôi tìm đến hắn cũng được.

– Vâng, huynh trưởng dạy thế thì phải lắm, song cần nên cẩn thận dụng tâm, chớ có khinh địch mới được.

Võ Tòng cười rằng:

– Cái đó không cần phải dặn, cứ cho bọn người nhà nó đưa tôi đi, còn gặp hàng rượu nào thì tôi phải uống nữa.

Thi Ân liền dặn người nhà đi theo Võ Tòng, còn tự mình thì đi lánh một nơi.

Võ Tòng đi qua ba bốn dặm đường lại uống thêm mười chén rượu nữa. Lúc đó vào khoảng sắp trưa, khi trời nóng bức, thỉnh thoảng mới hây hây hơi có chút gió. Võ Tòng nghe chừng hơi rượu bốc lên, cũng có dăm bảy phần chếch choáng. Chàng liền cởi phăng áo vải làm bộ say mười phần rồi ngả bên đông vẹo bên tây, mà khệnh khạng đi vào trong rừng.

Lũ người nhà trỏ vào đằng trước mặt mà nói rằng:

– Đến con đường chữ Thập kia, tức tửu điếm của Tưởng Môn Thần rồi đó.

Võ Tòng nói:

– Gần đến đây rồi, thì các ngươi nên lánh cho xa, để khi nào ta đánh ngã hắn rồi sẽ đến.

Nói đoạn đi thốc vào trong rừng, thấy một anh đại hán như tượng Kim Cương, khoác cái áo vải trắng, tay cầm cái phất xua ruồi, bắc ghế ngồi ở gốc cây hòe hóng mát. Võ Tòng càng giả mặt say, liếc mắt nhìn qua một lượt rồi trong bụng nghĩ thấm: “Anh chàng này tất là Tưởng Môn Thần hẳn? ” Chàng nghĩ vậy lại sồng sọc đi vào.

Đi được dăm ba mươi bước đã đến quãng đường chữ Thập, có một tửu điếm rất lớn, trước cửa treo là cờ viết bốn chữ “Hà Dương phong nguyệt” rất to. Khi đến tận cửa thấy một dãy chắn song sơn đầu, hai bên treo hai cái biển vàng viết hai câu: “Rượu Thánh vung Trời đất; Bầu Tiên tít tháng ngày”. Trong đó một bên kê đặt giường thịt dao thớt và các thức đồ dùng, còn một bên thì lò bếp và các đồ làm bánh. Phía trong có ba cái chum đựng rượu rất lớn, chôn ngập một nửa xuống đất. Khoảng giữa mặt một cái quầy, cười ó một người đàn bà trẻ tuổi ngồi trong. Người ấy là vợ lẽ Tưởng Môn Thần mới lấy, nguyên là một tay con hát khi xưa.

Bấy giờ Võ Tòng chạy thẳng vào hàng, đến bên quầy ngồi đối diện với người đàn bà, rồi đăït hai bàn tay lên quầy mà nhìn chị chàng kia không chớp mắt. Người đàn bà thấy vậy, thỉnh thoảng mặt nom đi chỗ khác.

Võ Tòng lại nom vào trong, thấy có năm bảy tên tửu bảo ở đó, chàng bèn gõ bàn gọi lên rằng:

– Nào chủ hàng rượu ở đâu?

Vừa gọi xong thì có một tên tửu bảo chạy đến, nhìn Võ Tòng rồi hỏi rằng:

– Ngài muốn lấy bao nhiêu rượu?

Võ Tòng nói:

– Lấy hai vò, nhưng hãy đem đây ta nếm xem đã.

Tên tửu bảo chạy đến bên quầy bảo người đàn bà, lấy hai vò rượu đổ vào thùng rồi đem lên một chén đưa cho Võ Tòng uống mà bảo rằng:

– Rượu đây xin ngài nếm cho.

Võ Tòng cất lấy chén rượu xem qua một lượt, lắc đầu mà nói rằng:

– Không tốt, không tốt, lấy thứ khác đây.

Tên tửu bảo biết ý Võ Tòng, đã ra dáng say, bèn cầm đến quầy bảo người đàn bà rằng:

– Nương tử đổi cho hắn thứ khác vậy.

Người đàn bà liền cất rượu ấy đi, rồi đổi lấy thứ rượu thực tốt đưa ra, tửu bảo lại hâm nóng một chén đưa ra cho Võ Tòng nếm.

Võ Tòng sẽ nhấp một tý rồi lại kêu lên rằng:

– Rượu này cũng không ngon? Muốn sống thì đổi thứ khác đây.

Tên tửu bảo cố nín hơi không nói, rồi đem đến cho người đàn bà mà nói rằng:

– Nương tử dầu lòng đổi thứ khác vậy, lão này nghe chừng say rồi, chỉ muốn sinh sự thôi, ta đừng chấp họ mới được.

Người đàn bà nghe nói đổi lấy một thứ rượu thượng hạng đưa cho tửu bảo. Tên tửu bảo hâm nóng tử tế, rồi rót một chén đưa cho Võ Tòng. Võ Tòng cất lên rồi nói rằng:

– Ừ! Cái rượu này còn hơi có mùi mẽ một chút…Này thằng kia, chủ nhân nhà mầy họ gì?

Tên tửu bảo đáp rằng:

– Chủ nhân tôi họ Tưởng.

Võ Tòng liền nói:

– Sao lại họ Lý?

Chị đàn bà nghe vậy lấy làm khó chịu, liền nói với tên tửu bảo rằng:

– Thằng chó này lại muốn chết chăng?

Tên tửu bảo nói:

– Nghe chừng anh ta ở đâu mới đến đất này, chưa biết thế nào, nên mới liều lĩnh như thế!

Võ Tòng liền hỏi rằng:

– Các người nói chuyện gì đấy?

Tên tửu bảo đáp rằng:

– Chúng tôi nói chuyện riêng đằng này ngài cứ xơi rượu đi.

Võ Tòng tiếp luôn rằng:

– Ngươi bảo người đàn bà ấy ra đây uống rượu với ta một lúc.

Tên tửu bảo gạt đi rằng:

– Chết nỗi! Sao nói càn thế? Bà ấy là vợ ông chủ nhà tôi đấy.

– Vợ ông nữa thì làm sao? Uống rượu với ta phỏng đã việc gì?

Chị chàng kia nghe nói cả giận mắng lên rằng:

– Đồ chết toi này hỗn thực. Nói xong toan đẩy cái quầy để chạy ra. Võ Tòng vội cởi phăng cái áo bên trên ra thắt ngang xuống bụng, cầm thùng rượu hắt một cái đổ tóe ra đất rồi nhảy vào trong quầy. Vừa khi chị chàng kia mới đứng dậy toan đi ra, bỗng bị Võ Tòng sấn đến một tay nắm đầu tóc, một tay cầm chặt lấy thắt lưng rồi xách qua mặt quầy mà ném ngay vào trong chum rượu. Khi đó có một tên tửu bảo nhanh chân chạy đến toan đánh Võ Tòng, bất đồ bị Võ Tòng nắm xách cổ lên mà bỏ ngay vào chum rượu; rồi lại có một tên tửu bảo nữa chạy đến, cũng bị tóm lấy ném ngay vào chum rượu nốt. Ba người đều giãy lục đục ở trong chum rượu, mà không anh nào nhảy ra được. Sau có hai tên tửu bảo nữa ở trong nhà chạy xông ra, cũng bị Võ Tòng đánh cho mỗi tên một cái đá ngã ệp xuống mà không dậy được. Đoạn rồi Võ Tòng xông vào đánh tất cả mọi người nhà bếp anh nào anh ấy, đều thục thân mà chạy cho mau để báo với Tưởng Môn Thần.

Tưởng Môn Thần nghe báo tin thì ngạc nhiên cả kinh, liền đẩy ngã ghế ra, phất một cái đuôi ruồi xuống đất, rồi vội vàng chạy đến hàng xem. Vừa đến khoảng đường rộng ở trước cửa, thì gặp Võ Tòng cũng ra đến đó. Tưởng Môn Thần tuy có sức lớn hơn người, song ít lâu nay tửu sắc ham mê, sức lực cũng có phần hao kém, bởi thế mà thoạt khi trông thấy Võ Tòng thì trong bụng đã hơi hơi núng, Tuy vậy song chàng vẫn khinh thị Võ Tòng còn đương say rượu, nên cứ thị hùng mà sấn vào để đánh.

Khi xông vào tới nơi, thì Võ Tòng giơ tay quyền lên, nhằm giữa mặt Tưởng Môn Thần đánh dứ một cái rồi quay ngoắt mà chạy ngay. Tưởng Môn Thần cả giận, xông vào đến đuổi, bất đồ bị Võ Tòng mau chân đá phi một cái trúng ngay vào giữa bụng.

Tưởng Môn Thần giơ tay lên đỡ, rồi phi quyền để đánh lại, Võ Tòng né mình tránh tay quyền của Tưởng Môn Thần, rồi lại giơ chân bên hữu đá phi một cái nữa, trúng ngay vào thái dương Tưởng Môn Thần.

Tưởng Môn Thần bị cái đá ngã lộn về đằng sau, Võ Tòng liền xông vào đạp chân lên bụng, giở quả đấm ra đánh luôn. Nguyên trước Võ Tòng đánh nhử một cái, rồi quay ngoắt mình đi, mà phi chân trái đá trúng một bên, rồi lại phi chân phải đá luôn bên nữa. Phép đánh đó gọi là “Ngọc Hoàn Bộ Uyên ương cước” là một ngón võ nghệ biệt tài của Võ Tòng thao luyện xưa nay, không phải những tay tầm thường ví được. Bấy giờ Võ Tòng đánh luôn năm bảy cái đấm, Tưởng Môn Thần không sao bò ngóc dậy được, chịu nằm ép dưới đất mà kêu van xin tha.

Võ Tòng nghe vậy dừng tay đánh mà bảo với Tưởng Môn Thần rằng:

– Nếu ngươi muốn ta tha, thì phải nghe ba việc này mới được.

Tưởng Môn Thần kêu lên rằng:

– Hảo hán tha cho tôi, dẫu đến trăm việc tôi cũng xin theo, huống chi là ba việc.

Võ Tòng bèn lấy chân dậm lên trên bụng Tưởng Môn Thần, mà nói ra ba việc cho nghe.

Mới hay là:

Giang hồ say tỉnh tỉnh say,

Ngang trời dọc đất thân này xem không,

Bấy lâu xuôi ngược bềnh bồng,

Biết nhau chăng có non sông với mình,

Tuồng gì là giống hôi tanh,

Thế gian thêm để bất bình riêng ai,

Trăm năm cõi tục còn dài,

Nam nhi xin chớ phụ lời bồng tang!

Lời bàn của Thánh Thán:

Xét đến viết Sử, việc của quốc gia, mà người cầm bút, việc của văn sĩ, chép việc quốc gia, phải đâu chỉ theo lối tự sự có sao nói thế mà thôi, còn ngòi bút phả vẫy vùng ngang dọc, làm sao cho tỏ những ý nghĩa uống ẩm của từng chuyện người trong Sử, như thế mới gọi là kỳ văn! Như Sử Ký Tư Mã Thiên đã soạn, Tư Mã Thiên chép chuyện Bá Di, thì đâu phải chỉ ở Bá Di mà chép chuyện du thủ du thực, thì phải đâu ở du thủ thực; Đến như chép chuyện của Hán Võ, chỉ là chuyện của Hán Võ mà chẳng phải chí như chí của Hán Võ…Có ghét gì những chí ấy, như kiểu tuyên truyền hay chê bai chỉ là văn chương mà thôi vậy. Mã Thiên chép ra, là văn của Mã Thiên, Mã Thiên trong bút chép ra để mà tự sự, thì có tài liệu của văn Mã Thiên, vì chép ra những việc lớn của đời, như triều nghị nghiêm trang, lễ nhạc long trọng, chiến trận ngu cấp, tế lễ thận trọng, mưu kế phiền toái, hình ngục khiếp thươn.. Phải cung tài liệu cho kỳ văn tuyệt thế, mà quân tướng chẳng đến hỏi đến, vì rằng làm ra mọi, là quyền quân tướng, chẳng phải thư sinh được dự bàn, mà chép ra sử sách,là quyền văn sĩ, dù quân tướng ngôi cao mà đâu có thể cấm đoán! Có gì đâu quân tướng có thể làm ra những việc dở thay, nhưng không thể làm ra những việc ấy còn mãi với đời, có thể làm cho việc của quân tướng được mãi với đời, cho đến trăm ngàn muôn đời, hãy còn ca ngợi kính yêu, thì phải nhờ đến công của kỳ văn tuyệt bát mà việc của quân tướng, khác nào vuốt theo đuôi ngựa mà thấy rõ ra.

Thế cho nên Mã Thiên làm văn, ta thấy rằng việc to thô quá, thì thu vén lại thấy rằng việc nhỏ nhen quá, thì phô phang ra. Hoặc thấy rằng việc còn thiếu sót, thì phụ thêm vào, trái lại việc đầy đủ thừa ra, thì bỏ bớt đi, đó là kế vì vãn, đâu phải kế vì việc, nếu khiến văn của ta trở nên một kỳ văn tuyệt thế, thì ta phải truyền cho việc, nên muốn chỉ truyền lại công việc, lại khiến cho đầy đủ không mất đi, thì ta làm văn phải được hế nào, đã trở nên kỳ văn tuyệt thế, nếu không đem văn chương của chúng ta ra truyền, thì làm sao mà truyền nổi chuyện hãy còn mãi mãi? ? ? Đức Khổng Tử chả nói rằng: Câu chuyện thì của Tề Hoàn, Tấn Văn, còn về văn chương thì của Sử Ký, câu chuyện là của Tề Hoàn, Tấn văn, thành ra chỉ là chép việc chứ không là văn, còn văn chương thì của Sử Ký, lại hóa ra chỉ có văn mà không phải việc, còn văn là của văn chương thì câu chuyện cũng khỏi chép đến Tề, Tấn, nên thuyết về Văn Liệu, Khổng Tử cũng nói qua đến vậy.

Hỡi ôi! Bậc quân tử từ xưa, nhận mạng vua cầm bút, vì chép chuyện một đời, moi móc gấm thêu châu ngọc tự trong lòng, trở nên tuyệt thế kỳ văn, há có một nhà văn nào, mà không chép hết ra mọi chuyện, chẳng qua muốn thành tuyệt thế kỳ văn, để tự vui sướng, mà phải Trương đúng là Trương, Lý đúng là Lý, không một chút cong ngay ngang dọc tô điểm tô mầu, với cái chí kinh doanh thảm đạm vậy! Thì đọc Sử Tỳ Quan, mà lại quái đến Tống Tử Kinh, cho rằng đặt để nên lời, chẳng đọc sách Tàn Đường hay sao?

Hồi này tả Võ Tòng, vì Thi Ân đánh Tưởng Môn Thần chép việc đấy, Võ Tòng uống rượu, lại thêm văn đấy, đánh Tưởng Môn Thần, là liệu vậy, uống rượu, là moi gấm thêu châu ngọc ở trong lòng, vì có rượu phải có người đại hán đánh hổ trên núi Cảnh Dương, là tay uống rượu đệ nhất của muôn thủa;Có rượu phải có chỗ, ra khỏi cửa đông Mạch Châu, đến rừng Khoái Hoạt phải mười bốn mười lăm dặm đường, lại là nơi uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu lại có lúc, trời hè nóng bức, hiu hắt gió Tây, cởi áo ngoài ra đón gió, lại là lúc đáng uống rượu vào đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu phải ra lệnh uống; Không ba chẳng qua Vọng, lại là lệnh uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu còn có Giám Sát, uống luôn là ba chén phải đi ngay, lại là giám sát uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu phải có đếm, cứ mười hai mười ba nhà là một vọng tử, lại là tửu trù đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu lại có người kèm theo, gần đến chỗ Vọng, đã sửa soạn ra ba chép trước, uống xong gấp gấp chạy đi, lại là người kèm rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu lại có món đưa cay, chợt nghĩ đến vong huynh, mà phóng thanh khóc rống, chợt đâu căm lũ gian dâm, mà vỗ bàn kêu lên, lại là món đưa cay rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu phải nhớ, nhớ đến Tống Công Minh ở trang Sài Tiến Vương Tôn, lại là uống rượu nhớ đệ nhất của muôn đời; Uống rượu có thói say, chờ cho Tưởng Môn Thần không được ở đường đất Mạnh Châu lại là thói uống say đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu có thán thưởng, bốn chữ Hà Dương Phong Nguyệt, hai câu Rượu Thánh vung trời đất; Bầu Tiên tít tháng ngày, lại là thưởng rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu có đề tài, là Khoái Hoạt Lâm (Rừng sống thú), lại là tửu đề đệ nhất của muôn thủa…Bao nhiêu thứ đó, đều do văn của hồi này, đâu phải việc của hồi này, nếu là việc của hồi này mà thôi ấy, thì Thi Ân đem Võ Tòng đi đánh Tưởng Môn Thần, một đường uống hết ba mươi nhăm, sáu chén rượu chỉ y theo lệ Tống Tử Kinh, chép qua một lượt là đủ, việc gì phải phiền đến Thi Lại An soạn ra văn một hồi này. Ngán thay! Đời không kẻ đọc nổi chuyện, thì ta còn biết làm sao? ? ?

Hồi 29: Thi Ân ba phen vào lao ngục – Võ Tòng một phen náo phi vân

Khi đó Võ Tòng trỏ vào mặt Tưởng Môn Thần mà bảo rằng:

– Điều thứ nhất ngươi phải đi khỏi rừng Khoái Hoạt; bao nhiêu đồ đạc để lại đây trao trả cho chủ củ là Kim Nhỡn Bưu Thi Ân…Ai cho ngươi được chiếm nhậm chốn này?

Tưởng Môn Thần vội vàng kêu van rằng:

– Xin vâng…Xin vâng…

– Điều thứ hai: Bây giờ ta tha ngươi, ngươi hãy đi mời tay anh hùng đầu chóp ở chốn này, để đến đây tiếp chuyện với Thi Ân.

– Vâng, chúng tôi xin theo được..

– Điều thứ ba: Từ đây phải lập tức trở về làng nước, không cho ở đất Mạnh Châu đây. Nếu còn vất vưởng loanh quanh, ta gặp một lần là đánh một lần, bắt gặp mười lần là đánh mười lần, nhẹ ra thì đánh cho kỳ ốm, mà nặng ra thì đánh chết cũng nên, ngươi nghĩ sao?

Tưởng Môn Thần kêu luôn lên rằng:

– Được, tôi xin vâng lời hết thảy.

Võ Tòng nghe vậy, bèn kéo Tưởng Môn Thần đứng dậy, thấy mặt mũi tái nhợt, máu chảy đầm đìa, chàng liền trỏ vào mặt mà mắng rằng:

– Ngươi phải biết con hổ trên núi Cảnh Dương, ta chỉ đánh ba cẳng tay cũng đủ chết,…nhà ngươi đây phổng sức lực được là bao nhiêu… ? Muốn sống phải trao trả ngay, chậm một tý là ta đánh chết.

Tưởng Môn Thần nghe đến đó mới hiểu ra Võ Tòng, bèn vâng dạ luôn mồm mà xin giao trả.

Đương lúc ấy Thi Ân dẫn hai ba mươi tên lính đến, định để đánh giúp, khi thấy Võ Tòng đã đánh được Tưởng Môn Thần rồi, thì lấy làm vui mừng vô hạn.

Võ Tòng trỏ vào Tưởng Môn Thần mà nói rằng:

– Hiện chủ cũ ở đây rồi, ngươi phải mau mau trả ngay, và cho người đến nói lại, mau đi.

Tưởng Môn Thần đáp rằng:

– Xin mời hảo hán hãy vào trong hàng đã.

Nói đoạn liền dẫn Võ Tòng cùng mọi người vào trong tửu điếm. Khi vào tới nơi, thấy rượu chè be bét cả ra nhà cửa, mấy đứa trong chum ngoi ngóp bò lên ướt như chuột lột, còn đám người nhà thì chạy mất tăm, không còn ai dám lảng vảng ở đấy. Bấy giờ Võ Tòng ngồi vào trong ghế, quát bảo Tưởng Môn Thần phải mau mau thu thập hành lý, tống chị đàn bà đi trước, rồi nhất diện sai bắt mấy đứa tửu bảo không bị thương, cho đi tìm mươi người đầu sỏ ở quanh đấy, đến để bàn giao. Khi mọi người đã đến đông đủ. Võ Tòng liền sai lấy các thứ rượu ngon ra dọn bàn, mời mọi người cùng uống. Được một lát Võ Tòng nói với chúng rằng:

– Dám thưa các vị cao lân tôi từ khi ở huyện Dương Cốc sang đây, nghe nói Khoái Hoạt Lâm vốn là một cái cơ nghiệp của Tiểu Quản Doanh Thi Ân ngày trước, sau bị Tưởng Môn Thần đến đó ỷ thế mà lấn hiếp cướp mồi. Tôi đây tuy không có can thiệp gì vào đó, song tính tôi bình sinh hay đánh những kẻ tham mê vô lý giữa đường thấy sự bất bình, tất phải ra tay trừ khử, dẫu chết cũng cam tâm. Ngày này bản ý tôi muốn đánh chết Tưởng Môn Thần, để trừ cái hại cho thiên hạ, song tôi còn vị nể các vị cao lân đây, nên đã giữ mạng anh ta ở đó. Hiện bây giờ anh ta phải lập tức đi xứ khác, bằng tôi còn gặp mặt ở đây thì xin theo như con hổ trên núi Cảnh Dương mà trị.

Bấy giờ chúng nghe nói, mới hiểu Võ Tòng chính là anh hùng đánh hổ trên núi Cảnh Dương, liền tề thanh đứng dậy nói đỡ Tưởng Môn Thần rằng:

– Xin hảo hán thư tâm, tức khắc Tưởng Môn Thần sẽ trả lại chủ cũ.

Tưởng Môn Thần kinh sợ vô cùng, liền đem tất cả các đồ đạc trao cho Thi Ân, rồi thuê một cỗ xe, xếp một ít hành lý, và bẽn lẽn từ tạ mọi người mà đi thẳng. Đoạn rồi Võ Tòng cùng Thi Ân mời mọi người ở đó uống rượu, mãi đến chiều hôm mới tan. Lão Quản Doanh nghe tin Thi Ân lại chiếm được Khoái Hoạt Lâm, liền cưỡi ngựa đi đến tửu điếm tạ ơn Võ Tòng, rồi ăn mừng luôn mấy hôm rất vui vẻ. Khi đó ở Khoái Hoạt Lâm mọi người nhận biết Võ Tòng, thì ai nấy đều lấy làm kính trọng, mà đến chào mừng suốt lượt. Thi Ân liều lưu Võ Tòng lại ở đó, rồi sửa sang hàng quán buôn bán rất là sầm uất gấp năm gấp bảy khi xưa…Từ khi Thi Ân nhờ được Võ Tòng báo thù trả oán, lại chiếm được lợi quyền đối với các hàng rượu sòng bạc hơn trước, thì trong lòng rất khâm phục Võ Tòng không khác gì cha mẹ sinh ra.

Thấm thoát hơn một tháng trời, bây giờ nắng hè đã nhạt, ngọn gió thu đã rải rác hơi sương trên mặt đất. Một hôm Thi Ân đương ngồi trong tửu điếm, cùng Võ Tòng nói chuyện côn quyền. Chợt đâu có ba tên lính dắt một con ngựa đến trước cửa điếm mà nói rằng:

– Chúng tôi vâng lệnh Đô Giám tướng công, nghe nói Võ Đô Đầu ở đây.

Thi Ân nhận biết mấy tên đó là người nhà Đô Giám binh mà Trương Mông Phương ở đất Mạnh Châu, liền chạy ra mà hỏi rằng:

– Các bác hỏi Đô Đầu làm chi?

Đám kia trả lời:

– Chúng tôi vâng lệnh Đô Giám tướng quân nghe nói Võ Đô Đầu là bậc hảo hán, nên sai chúng tôi đến đây để mời, hiện có thiếp của tướng công ở đây.

Thi Ân cầm lấy cái thiệp xem xong nghĩ thầm trong bụng: “Trương Đô Giám là Thượng Ty của phụ thân ta, thì sai khiến điều gì không được! Huống chi Võ Tòng lại là một người bị tội đến đây, cũng thuộc quyền người ta cai trị, có lẽ nào mình dám giữ lại mà không cho đi? Nghĩ đoạn rồi quay vào nói với Võ Tòng rằng:

– Nay có quan Trương Đô Giám sai người mang ngựa đến đây, để đón huynh trưởng, vậy huynh trưởng nghĩ sao?

Võ Tòng vốn là người cương trực xưa nay, không cần chi hỏi đến điều ủy khúc, bèn đáp ngay rằng:

– Người ta đã đến tìm mình, thì cứ đi một chuyến xem sao?

Nói đoạn liền thay khăn áo, đem một tên nhỏ theo hầu, rồi lên ngựa theo vào Mạnh Châu.

Khi tới trước cửa dinh Đô Giám, Võ Tòng liền xuống ngựa, theo bọn lính đi vào trong dinh. Bấy giờ Trương Đô Giám đương ngồi ở tiền sảnh, thấy nói Võ Tòng bước vào sảnh cúi đầu lễ chào, rồi khoanh tay đứng ở một bên.

Trương Đô Giám hỏi Võ Tòng rằng:

– Ta nghe nói anh là một tay Đại trượng phu hảo nam tử anh hùng vô địch, dám vì người sống cũng liều, vậy nay trong quân ta còn thiếu một người như thế, chẳng hay anh có chịu giúp ta làm một tay thân mật ở trong nhà hay không?

Võ Tòng cúi đầu tạ ơn rằng:

– Chúng tôi là một kẻ tù tội ở bên dưới, nếu nay tướng công lại có lòng đề cử lên cho, thì chúng tôi xin vâng lệnh theo hầu dưới trướng.

Đô Giám cúi đầu tạ ơn rằng:

– Chúng tôi là một kẻ tù tội ở bên dưới, nếu nay tướng công lại có lòng đề cử lên cho, thì chúng tôi xin vâng lệnh theo hầu dưới trướng.

Đô Giám nghe nói cả mừng, bèn sai lấy hoa quả rượu ngon lên, và từ rót mời Võ Tòng uống thực say, rồi sai dọn một gian phòng ở nhà dưới để Võ Tòng nghỉ. Sáng hôm sau lại sai người đến nhà Thi Ân, lấy các đồ hành lý cho Võ Tòng, rồi lưu luôn ở trong dinh Đô Giám.Từ đó Đô Giám đối với Võ Tòng rất là thân mật, không lúc nào là không gọi đến luôn luôn. Dần dần để cho Võ Tòng đi lại khắp chốn nhà trong nhà ngoài, chẳng khác chi họ hàng thân thích vậy. Đô Giám lại cho gọi thợ, may áo mùa thu cho Võ Tòng mặt rất là tử tế.

Võ Tòng cũng lấy làm vui lòng, gặp một người ân đức như vậy, nên hết sức trông nom, mà không chút gì trễ. Bởi vậy chàng cũng không có lúc nào trở về Khoái Hoạt Lâm mà nói chuyện với Thi Ân được nữa. Thỉnh thoảng Thi Ân có cho người thăm hỏi Võ Tòng, song nhiều khi bị người ngăn trở ở ngoài, mà không được gặp. Được ít lâu nhiều người nhờ đến Võ Tòng nói giúp việc quan, Trương Đô Giám đều thuận tình cho cả. Nhân thế mà không bao lâu các đồ kim ngân tài bạch của dân gian tặng đãi rất nhiều, Võ Tòng liền mua một cái hòm mà chứa cả vào đó.

Một hôm giữa độ Trung Thu tháng tám, Trương Đô Đầu bày tiệc trông trăng ở dưới lầu Uyên Ương trong một khu nhà sâu kín, rồi cho Võ Tòng vào dự tiệc. Võ Tòng có quyền thuộc Đô Giám đều ngồi ăn tiệc ở đó, thì có ý rụt rè, uống một chén rượu, rồi đứng lên mà cất lẻn đi.

Trương Đô Giám thấy vậy, thì hỏi rằng:

– Đương uống rượu, sao lại đi đâu thế?

Võ Tòng khép nép thưa rằng:

– Ân tướng có lòng yêu, ban cho ăn uống, song trên có ân tướng lại có Phu Nhân cùng quý quyến ở đây, chúng tôi đâu dám mạn phép như thế!

Trương Đô Giám cười mà bảo rằng:

– Anh lầm rồi, ta kính anh là một người nghĩa sĩ, nên mới đặc cách mời vào đây uống rượu cũng như người nhà thân vậy. Sao lại chối từ như thế?

Võ Tòng bẩm rằng:

– Chúng tôi là một kẻ phạm tội, không khi nào dám thế xin ân tướng tha cho.

Trương Đô Giám lại than vãn rằng:

– Nghĩa sĩ không nên nghĩ tỉ mỉ làm gì, ở đây có ai là người ngoài đâu! Nghĩa sĩ cứ ngồi uống rượu cho vui.

Võ Tòng hai ba lầm từ chối.Trương Đô Giám nhất định không nghe, bắt Võ Tòng phải cùng ngồi uống rượu. Võ Tòng không thể nào từ chối được, đành phải xin phép, rồi bắc cái ghế xa xa phía dưới mà nghiêng mình ngồi đó.

Trương Đô Giám liền sai con hầu lên rót rượu mời Võ Tòng uống.

Uống được dăm ba chén, rồi Trương Đô Giám lại bảo với Võ Tòng rằng:

– Đại trượng phu uống rượu, cần gì phải dùng đến thứ chén nhỏ nhen này?

Nói đoạn sai lấy chén lớn rót luôn mấy chén để mời Võ Tòng.

Bấy giờ bóng Nga vằng vặc, soi cửa bên đông. Võ Tòng uống rượu chừng đã hơi hơi chếnh choáng, dần dần quên cả lễ độ giữ gìn, mà uống tràn một lúc. Trương Đô Giám lại gọi con tì nữ đáng yêu duyên dáng, là Ngọc Lan ra để ca mừng tiệc rượu. Đoạn rồi lại trỏ bảo Ngọc Lan rằng:

– Ở đây không có ai xa lạ, duy có Võ Đô Đầu thì là một người tâm phúc của ta, vậy nhân tết Trung Thu này, người nên hát khúc “Trung Thu bối Nguyệt” để cho chúng ta nghe.

Ngọc Lan vâng lời cầm phách gõ, rồi cất lên tiếng hát bài ca Trung Thu thủy điêu của ông Tô Đông Pha rằng:

Cái bóng trăng kia có tự bao giờ!

Tay nâng chén rượu hỏi khật khờ dăm câu:

Chốn cung Trời muôn trượng cao cao,

Đêm nay là cái đêm nao hỡi trời?

Anh cũng toan cưỡi gió về chơi,

E khi lầu ngọc xa khơi thêm lạnh lùng:

Xênh xang múa giỡn bóng trăng trong,

Khác nào vơ vẫn trong vòng trần ai?

Buông rèm châu thấp thoáng xa xôi,

Can chi hờn giận lựa thời em mới trốn khuôn?

Khách trên đời tan hợp với vui buồn,

Bóng trăng kia khi mờ tỏ với khuyết tròn kể cũng bao phen?

Trải ngàn xưa ai đã vững chu tuyền!

Lòng riêng chỉ nguyện với bóng thuyền cho được dài lâu.

Ngọc Lan hát xong đặt phách xuống đứng ra một bên. Trương Đô Giám lại sai Ngọc Lan đi rót rượu khuyên mời. Ngọc Lan vội vàng vâng lời rót một chén rượu đưa mời Đô Giám, một chén rượu đưa mời phu nhân rồi đến chén thứ ba đưa mời Võ Tòng.

Võ Tòng cúi đầu xa xa đứng dậy, nâng tiếp chén rượu mời; xin phép Đô Giám cùng phu nhân rồi mới dám uống. Trương Đô Giám lại trỏ Ngọc Lan mà bảo Võ Tòng rằng:

– Con bé nây thông minh lắm, không những là thuộc biết âm luật ca hát, mà lại giỏi nghề thêu vá nữa. Nếu nghĩa sĩ không chê là tầm thường, thì trong mấy bữa nữa ta sẽ chọn ngày lành tháng tốt, mà cho cùng nhau kết lứa nhân duyên, nghĩa sĩ nghĩ sao?

Võ Tòng đứng dậy vái mà rằng:

– Chúng tôi có khi nào dám mạn phép quá thế?

Trương Đô Giám cười rằng:

– Ta đã nói vậy tất là phải làm, anh chớ nên từ chối, không khi nào phụ lời ta mới được!

Nói đoạn lại bắt Võ Tòng uống luôn ba chén rượu nữa.

Bây giờ đêm đã hơi tĩnh, Võ Tòng nghe chừng hơi rượu đã hăng, chàng sợ lỡ ra có điều thất lễ, bèn đứng dậy xin phép cáo lui. Khi về tới phòng chàng thấy trong bụng còn no đầy chưa có thể ngủ được, liền cởi áo bỏ khăn lấy cái gậy ra giữa sân, đứng dưới bóng trăng trong mà múa chơi một lúc. Hồi lâu ngửa mặt nom trời, ước đã vào khoảng canh ba, chàng liền cất gậy vào phòng để nghỉ.

Chợt đâu ở nhà trong có tiếng kêu cướp ầm ĩ cả lên. Võ Tòng nghe thấy vậy trong lòng tự nghĩ: ” Trương Đô Giám có lòng yêu ta như vậy, hiện bây giờ trong nhà có cướp, tất nhiên ta phải vào cứu mới xong” chàng nghĩ đoạn, vội vớ lấy thanh gậy mà chạy thốc vào nhà trong.

Khi ấy gặp nữ Ngọc Lan, lật đật ở trong nhà chạy ra, trỏ bảo Võ Tòng rằng:

– Một thằng cướp chạy vào lối vườn hoa ở đằng sau kia.

Võ Tòng nghe nói liền gậy chạy rảo vào vườn hoa, tìm khắp lượt không thấy gì, lại quay trở ra. Đương khi lật đật chạy dưới bóng cây nhấp nhoáng, chàng ta vô ý vấp ngay phải quãng thừng chăng ngang lối đi mà ngã đâm nhào xuống đất. Bỗng đâu thấy bẩy tám tên lính đổ xô ra reo ầm lên rằng:

– Cướp đây rồi, bắt lấy.

Đoạn rồi chúng co giây, trói ngay Võ Tòng lại. Võ Tòng kêu vội lên rằng:

– Tôi đây, không phải cướp đâu?

Chúng nghe nói, mặc kệ cứ trói ghi lại mà không phân phải trái chi cả. Một lát thấy ở trên nhà sảnh có đèn đóm sáng trưng rồi thấy Trương Đô Giám quát lên rằng:

– Trói cổ nó đem đến đây.

Chúng nghe nói, đều túm vào lôi kéo Võ Tòng vừa đi vừa đánh, mà dong lên trước sảnh.

Võ Tòng liền kêu lên rằng:

– Tôi là Võ Tòng đây có phải cướp đâu?

Trương Đô Giám nom thấy cả giận, biến hẳn nét mặt mà quát lên rằng:

– Quân tù tội khốn nạn kia, mày thực là một thằng mắt giặc, ruột giặc, gan giặc…ta đây cất nhắc cho mày được nên người có điều chi phụ bạc với mày không? Vừa rồi ta còn cho ngồi chung uống rượu, chỉ mong cất nhắc cho mày được nên danh giá con người ai ngờ mày lại xử tệ với ta như thế?

Võ Tòng kêu lên rằng:

– Việc này có can hệ gì đến chúng tôi? Tôi đương đuổi bắt cướp. Tôi đây đầu đội trời, chân đạp đất, không khi nào chịu làm việc như thế bào giờ?

Trương Đô Giám lại quát lên rằng:

– Quân quái này, thôi đừng xoen xoét cái mồm nữa; Bây hãy ra khám ở phòng nó xem có tang vật gì không.

Bọn lính vâng dạ, rồi lôi Võ Tòng ra phòng để khám. Khi mở hòm ra thấy ở trên có ít quần áo, còn ở dưới thì toàn thị là các đồ dùng bằng vàng bạc cả. Võ Tòng thấy vậy ngẩn người, không biết kêu nói làm sao cho được. Chúng lại giải Võ Tòng, và khiêng hòm lên trước cửa sảnh.

Trương Đô Giám thấy vậy quát mắng ầm ĩ lên rằng:

– Quân này vô lễ đến thế thì thôi! Tang vật rành rành ở trước hôm kia còn cãi được không! Người ta thường nõi: “Chúng sinh còn độ được, đến người thì khó lòng mà độ được!” Té ra mày chỉ có ngoài mặt là người, còn trong lòng ruột cũng không khác gì cầm thú… !

Nói đoạn, liền sai phong tang vật lại, rồi cho đem Võ Tòng vào cơ mật hãy giam ở đó. Nhất diện sai người sang nói với Tri Phủ, và đem đút lót các chốn Áp Ty, Khổng Mục để lên án Võ Tòng.Sáng hôm sau đám hộ tập quan sát bắt Võ Tòng giải sang bên phủ, và đem các tang vật đến trình. Trương Đô Giám cũng sai người nhà đem giấy trình sự mất cướp ở trước mặt phủ quan.

Tri Phủ xem xong quát tả hữu trói chặt Võ Tòng lại, rồi gọi lấy các hình phạt đem ra. Võ Tòng vừa toan cất mồm lên kêu, thì quan phủ lại quát lên mà rằng:

– Thằng này nguyên là một thằng phát vãng đến đây, nay lại trông thấy các đồ vàng bạc thế kia, lẽ nào mà không sinh lòng cướp bóc? Chúng đâu không cần hỏi nó làm gì, cứ đem ra mà đánh hết sức đi…Lính nghe nói dạ dăm dắp một lượt rồi đem roi ra tra đánh Võ Tòng đen đét như mưa rào trên mặt đất vậy.

Võ Tòng không biết thế nào mà chống cự nổi, bèn liều má xưng nhận là:

– Tối hôm Rằm tháng Tám có thừa cơ vào nhà trong, mà lấy trộm các đồ kim ngân mọi lẽ…

Quan Phủ sai lấy cung rồi lại lấy gông, gông cổ Võ Tòng mà giam xuống nhà lao. Võ Tòng bị giam xuống nhà lao, bấy giờ trong bụng mới tỉnh ngộ mà nghĩ thầm rằng: “Cái này chắc là thằng Trương Đô Giám bày mẹo, để hãm hại mình như vậy! Nếu sau này có phen thoát tội được ra, thì quyết nhiên phải liệu cho nói một phen mới được”.

Chàng nghĩ vậy thì trong lòng căm tức vô cùng. Còn mấy tên coi ngục đều nhận được tiền của Trương Đô Giám, nên đem Võ Tòng bỏ vào nhà đại lao, rồi cùm chân khóa tay, gông cổ, trói lại nghiêm ngặt.

Hùm thiêng khi đã sa cơ,

Rừng cây gai góc giờ có ai?

Bên kia Thi Ân nghe tin Võ Tòng bị bắt, bèn vội vàng về thành bàn với Lão Quản Doanh. Lão Quản Doanh nói rằng:

– Việc này chắc là Trương Đoàn Luyện muốn báo thù cho Tưởng Môn Thần, nên mới nói với Trương Đô Giám mà mưu sự như thế, chắc rằng các chốn cùng môn trên dưới đều có đút lót tiền nong, mà giết hại Võ Tòng chứ không chơi. Cứ như bụng ta, ta tưởng Võ Tòng cũng không đến nỗi nào tử tội, vậy nên ta cho người đến nói lót với hai người Ấp Lao và Tiết Cấp để duy trì tính mạng cho Võ Tòng, rồi ta ở ngoài mà liệu cách xoay sau:

Thi Ân nói:

– Hiện người Tiết Cấp coi tù bây giờ là người họ Khang, vốn thân mật với con xưa nay, hay đến đó mà nói…

– Phải lắm, người ta vì con mà đến nỗi bị quan tư bắt bớ, nay con không cứu người ta, thì đợi đến bao giờ nữa!

Thi Ân liền lấy mấy trăm lạng bạc, đem đến nhà Khang Tiết Cấp để đút lót. Khi tới nơi Thi Ân đem đầu đuôi chuyện Võ Tòng nói cho Tiết Cấp nghe. Khang Tiết Cấp nghe nói liền bảo Thi Ân rằng:

– Chẳng dấu gì huynh trưởng, việc này toàn mưu mẹo của Trương Đô Giám, cùng Trương Đoàn Luyện là hai anh em kết nghĩa với nhau đó. Hiện nay Tưởng Môn Thần vẫn ở nhà Trương Đoàn Luyện, sai người đem tiền đi đút lót khắp cả các nơi, trên có quan Phủ làm chủ, rồi đến chúng tôi đây, ai ai cũng được tiền cả, chỉ tính sao kết quả Võ Tòng nữa là xong. Duy ở đây có một người Khổng Mục họ Diệp, coi là có trung trực nghĩa khí, không chịu hãm hại lương dân, bởi thế mà Võ Tòng cũng đỡ được nhiều điều nguy hiểm. Nay nếu ngô huynh đến cứu giúp Võ Tòng, thì bao nhiêu những việc trong ngục phó để mặc tôi, tôi sẽ liệu đường mà khoan dung tử tế, còn ngô huynh phải nhờ người đến nói với Khổng Mục họ Diệp, để liệu sớm kết đoán cho ra! Thì mới có thể cứu tính mệnh được.

Thi Ân nghe nói, bèn đưa ra một lạng bạc để tạ ơn Khang Tiếp Cấp, Tiết Cấp hai ba lần từ chối, nhưng Thi Ân nhất định không nghe, bất đắc dĩ về sau phải nhận. Đoạn rồi Thi Ân bái biệt Tiết Cấp mà trở về dinh, tìm biết một người quen biết Diệp Khổng Mục, mà nhờ đưa một trăm lạng bạc để nói giúp.

Nguyên Diệp Khổng Mục vốn biết tiếng Võ Tòng là hảo hán, nên vẫn có lòng thương nể, mà đem các văn án định lòng lựa đổi giản dị. Duy Tri Phủ thì ăn nặng, song chẳng qua là một tội cướp trộm đồ vật, chưa lấy gì mà kết tử tội cho được. Nhân thế Tri Phủ vẫn cứ dùi dắng rảnh chuyện. Nay Diệp Khổng Mục, thấy có người đem tiền đến nói cứu mạng cho Võ Tòng, thì trong lòng càng mừng rỡ, bèn hết sức đem cái văn án giảm nhẹ bớt đi, rồi đến khi mãn hạn sẽ thi hàn kết đoán. Ngày hôm sau Thi Ân sửa soạn rượu nhắn chững chạc, nhờ Khang Tiết Cấp dẫn vào đại lao, để thiết đãi Võ Tòng. Bấy giờ Võ Tòng nhờ có Khang Tiết Cấp tử tế trông nom, khoan thứ các đồ hình nặng nên chàng cũng được ung dung không đến nỗi nguy nan như trước. Thi Ân lại đưa tiền cho các người canh gác mà dặn dò trông nom cẩn thận cho Võ Tòng. Khi cơm nước xong, Thi Ân ghé vào tai Võ Tòng bảo thầm các câu chuyện, và dặn dò cứ yên tâm, rồi sau sẽ có ngày thoát khỏi.

Võ Tòng từ ngày được Khang Tiết Cấp khoan túng dễ dàng, thì chàng đã định ý toan vượt ngục, nay thấy Thi Ân nói vậy;thì rầu lòng nấn ná xem sao? Cách hai hôm sau, Thi Ân lại mang cơm rượu tiền nong, nhờ Khang Tiết Cấp dẫn vào lao để đưa cho Võ Tòng, và các người canh gác ở đó.Đoạn rồi Thi Ân lại nhờ người nói lót các nơi, để mau mau sửa soạn văn thư cho chóng xong mọi việc.

Cách mấy hôm nữa, Thi Ân lại sắp rượu thịt cùng quần áo, để đưa vào cho Võ Tòng ăn uống và thay giặt. Trong mấy hôm đó, Thi Ân vào trong nhà lao thăm hỏi Võ Tòng được ba buổi, bất đồ bị người nhà Trương Đoàn Luyện dò biết tình hình, liền đem chuyện về báo với Trương Đoàn Luyện ngay lập tức. Trương Đoàn Luyện nghe nói, bèn đem sự thực sang nói với Trương Đô Giám. Trương Đô Giám lại sai người đem vàng lụa đến đút lót Tri Phủ, và nói hết mọi lẽ cho Tri Phủ nghe.

Tri Phủ vốn một tay tham nhũng xưa nay, khi nhận vàng lụa rồi, liền sai người lảng vảng trông nom trên dưới nhà lao, và tra xét các người qua lại. Thi Ân nghe biết chuyện ấy đành phải chịu phép ở nhà, không dám ra vào trông nom chi nữa. Tư đó Võ Tòng nhờ được Khang Tiết Cấp cùng mấy tên canh gác trông nom tử tế, còn Thi Ân thỉnh thoảng đến nhà Tiết Cấp để dò la tin tức mà thôi.

Thấm thoát trong hai tháng trời, Diệp Khổng Mục hết sức đem các việc oan khuất của Võ Tòng, để giải bày cùng Tri Phủ, và hết sức bênh vực mọi điều. Bấy giờ Tri Phủ biết rõ việc đó là Trương Đô Giám ăn lễ của Tưởng Môn Thần, mà thêu đặt nên chuyện, để hãm hại Võ Tòng, thì trong bụng cũng lấy làm nản mà tự nghĩ rằng: “Té ra họ được ăn tiền, mà để tiếng giết người cho ta, thì làm sao cho tiện? ” Nhân thế Tri Phủ cũng để mặc đó, mà không lý hội gì đến nữa.

Dần dần đến hạn sáu mươi ngày, Tri Phủ bắt Võ Tòng ở trong ngục ra, thay bỏ gông trói, rồi Diệp Khổng Mục đem án ra tuyên cáo, định tội Võ Tòng phạt hai mươi trượng đày sang Ân Châu, còn tang vật ăn trộm, thì giao trả chủ cũ. Trương Đô Giám đến nhận các đồ tang vật. Đoạn rồi Tri Phủ gọi thợ, khắc kim ấn vào mặt Võ Tòng, đánh hai mươi trượng, gông thứ gông nặng, và thảo công văn sai hai tên công sai đi áp tải Võ Tòng. Nguyên khi Võ Tòng bị đánh, đã nhờ được Lão Quản Doanh xuất tiền nói lót các nơi, lại được Diệp Khổng Mục có lòng trông nom giúp đỡ, và Tri Phủ cũng thương là oan khuất không may, nên mấy chục trượng đòn cũng không lấy gì đau đớn. Hôm đó Võ Tòng nhịn tức theo giữ phép công, đeo gông vào cổ mà theo hai tên công sai đi thẳng ra thành. Đi được hơm một dặm đường, chợt thấy Thi Ân ở bên cạnh đường, chạy ra đón rước mà rằng:

– Tiểu đệ đợi quan anh đã lâu rồi…

Võ Tòng trông thấy Thi Ân lại có quấn lụa trên tay, chàng liền hỏi rằng:

– Mới ít lâu nay không được gặp Tiểu Quản Doanh, sao đã lại đau tay như thế?

Thi Ân đáp rằng:

– Chẳng dấu gì Ca Ca, từ hôm tiểu đệ vào thăm Ca Ca được ba lần rồi, sau quan Phủ sai người cấm đoán, nên không dám vào đấy nữa. Bất đồ được nửa tháng trời, một hôm tiểu đệ đương ở Khoái Hoạt Lâm, bỗng thấy Tưởng Môn Thần lại đem bọn người đến để đánh nhau. Tiểu đệ lại bị hắn đánh một trận rất đau rồi lại chiếm giữ Khoái Hoạt Lâm và bắt tiểu đệ phải tìm các người ở quanh đó để nói lại. Nhân thế trong mấy hôm trời, tiểu đệ phải nằm nghỉ ở nhà mà không đi đâu được. Nay nghe tin huynh trưởng phải đi đày ở Ân Châu, đệ đem hai tấm áo bông đến để Ca Ca thay mặc đi đường, và có hầm hai con vịt chín để trong hàng kia, xin mời Ca Ca vào uống mấy chén rượu rồi sẽ đi.

Nói đoạn quay ra mời hai người công sai vào hàng một thể.

Hai tên công sai nhất định từ chối mà rằng:

– Khi nào chúng tôi lại ăn uống với thằng giặc tù này, lỡ ra quan tư biết đến thì sao?

Lại quay lại bảo với Võ Tòng rằng:

– Nếu anh không muốn đánh đòn, thì phải đi ngay mới được.

Thi Ân biết nói thế không ăn thua gì, liền đem mười lạng bạc đến tặng đám công sai, đám kia nhất định không lấy rồi ra uy sừng sộ bắt Võ Tòng phải đi.

Thi Ân liền rót hai chén rượu đưa Võ Tòng uống rồi buộc khăn gói áo vào lưng rồi, treo hai con vịt lên đầu gông cho Võ Tòng, mà ghé vào tai dặn rằng:

– Trong gói đó có hai áo bông, một bọc tiền và mấy đôi giầy gai ở đó…Song đường xá xa xôi, phải nên để phòng cẩn thận, mấy thằng công sai này, nghe chừng không có bụng tốt đâu?

Võ Tòng gật đầu nói rằng:

– Bất tất phải dặn, tôi đã hiểu rồi…cho nó thêm hai thằng nữa đến đây, cũng không sợ gì chúng nó. Chú cứ về tôi khắc có xử trí.

Nói đoạn Thi Ân liền bái biệt Võ Tòng, rồi sùi sụt gạt lệ trở ra về.

Một phen tri kỷ cùng nhau,

Vì ai nên nỗi bể dâu hỡi trời?

Rồi đây non nước xa vời,

Anh hùng mang giận muôn đời bao tan!

Võ Tòng, từ khi theo hai người công sai lên đường, đi được khoảng vài dặm, hai tên công sai bàn vụng với nhau rằng:

– Sao chưa thấy hai thằng ấy đến đây… ?

Võ Tòng nghe biết ý chúng, liền cười thầm mà tự nghĩ rằng “Quân khốn nạn này, lại muốn trêu lão gia đây!” Chàng nghĩ vậy, thì tay phải sẽ rút đanh một bên gông để tháo tay trái ra, rồi để con vịt quay vào cho tay phải cẩm, còn tay trái thì xé thịt để ăn. Đi được năm dặm đường, thì chàng đã ăn hết hai con vịt chín. Bấy giờ chừng đi khỏi thành độ tám chín dặm đường, chợt thấy phía trước có hai người vác đao giáo đứng đợi ở đó. Khi hai người trông thấy tụi công nhân dong Võ Tòng đến, thì cùng đổ ra mà đi một thể.

Võ Tòng liếc mắt hai anh kia, cùng hai công sai đưa mắt cho nhau, ra ám hiêïu bảo nhau, thì trong lòng cũng đã hiểu ngầm ý tứ, song vẫn vờ làm ra mặt không biết. Đi được vài dặm đường nữa, thì bỗng đến một nơi bến nước mênh mông, bốn mặt toàn là bãi sâu sông rộng.Năm người cùng nhau tiến bước, tới một cái cầu to rộng, bên cạnh có một cái lầu để bia, trong bia khắc ba chữ “Phi Vân Phố” rất to.

Võ Tòng thấy vậy, bèn giả vờ nói rằng:

– Chỗ này là chỗ nào đây?

Hai tên công sai đáp rằng:

– Mắt anh mù đâu! Không trông mấy chữ Phi Vân Phố để ở bên kia à?

Võ Tòng đứng lại mà nói rằng:

– Tôi muốn đi cầu một cái đã.

Vừa nói dứt lời, thì hai anh đứng đón lúc nãy bỗng vác dao sấn gần vào, Võ Tòng liền quát lên một tiếng, đá thốc luôn cho một cái ngã lăn xuống nước. Còn một anh nữa vừa toan quay mình, thì đã bị chàng đá luôn cho một cái nữa, ngã quay đơ ra, mà lặn tùm xuống nước. Hai tên công sai thấy vậy vội trông lối dưới cầu mà toan chạy xuống. Võ Tòng thét lên rằng:

– Chúng bây chạy đi đâu?

Nói xong cầm gông bẻ một cái, gãy tan ra làm đôi, rồi sấn xuống dưới cầu để đuổi. Một tên công sai thấy Võ Tòng đuổi đến, thì kinh sợ rụng rời, mà tự ngã lăn ra đất, còn tên kia thục thân cố chạy, cũng bị chàng đuổi tới, mà đánh cho một cẳng tay vào sau lưng ngã lăn xuống đó.

Đoạn rồi Võ Tòng vớ lấy thanh đao quăng rơi ở bến nước, quay lại đâm cho mỗi thằng một nhát, kết quả tính mạng hai tên công sai. Bấy giờ hai anh ngã lăn xuống nước vừa mới lóp ngóp bò lên, toan cất cẳng để chạy, bất đồ bị Võ Tòng đuổi đến, đâm chết một anh, còn một anh nữa, thì chàng ta nắm đầu giữ lại, rồi quát lên rằng:

– Muốn sống thì phải thực ta tha cho, ai xui mày đến đây như thế!

Anh kia run sợ mà kêu rằng:

– Chúng tôi là đồ đệ Tưởng Môn Thần, sư phụ tôi cùng Trương Đoàn Luyện bàn nhau, sai chúng tôi đến đây, để giúp hai tên công sai mà hại hảo hán đó.

– Sư phụ mầy là Tưởng Môn Thần, hiện bây giờ ở đâu?

– Khi chúng tôi ra đi, thì hiện đương cùng Trương Đoàn Luyện uống rượu ở lầu Uyên Ương tại nhà Trương Đô Giám, để đợi tin chúng tôi về báo.

Võ Tòng nghe nói liền bảo tên kia rằng:

– Nếu vậy thì ta không thể nào tha cho mầy được.

Nói đoạn giơ dao lên một nhát, ngã chết còng queo ra đó.

Đao này mình định giết ai?

Vì đâu bỗng hóa ra ai giết mình!

Nực cười trời khéo xoay nhanh,

Thanh đao kia để vô tình với ai… ?

Bấy giờ Võ Tòng lần các con dao lưng, chọn lấy một con rất tốt giắt vào mình. Lại e hai tên kia chưa chết hăn, liền đâm thêm cho mỗi anh mấy nhát, vất cả xuống bến nước, rồi lên cầu đứng vẫn vơ một mình mà nghĩ. Chàng nghĩ thầm rằng: Bầy giờ ta đã giết xong bốn đứa này rồi, song còn đám Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần, vẫn còn ở đó thì bao giờ cho thỏa lòng tức giận bấy nay!” Chàng nghĩ vậy, thì vác đao quanh quẩn hồi lâu, rồi thốt nhiên định bụng, mà xăm xăm về lối Mạnh Châu, mới hay:

Trông giang sơn luống ngại ngùng!

Giết người mang tiếng để lòng mang oan,

Hay chi đồng loại tương tàn,

Mà đem giọt máu tưới tan khối thù,

Giận trời còn lắm phàm ngu,

Trăm năm để khách giang hồ bận tay,

Phi Vân còn bến nước đây.

Còn về còn nhớ đến ngày rửa oan…

Lời bàn của Thánh Thán:

Tác giả tả Khoái Hoạt Lâm, sớm Tưởng tối Thi, nay Thi mai Tưởng, bèn khiến người chẳng còn trở lại khoái ý, Sử quan có ích cho đời, xét ra không ít, vì không muốn cho bọn cường hào tranh chiếm của thiên hạ với nhau.

Trương Đô Đầu cho Võ Tòng đi lại trong nhà, để lừa cho chết, nào ngờ lại bị chết, cái cơ họa phúc không lường, độc giả đến lạnh lùng khiếp sợ.

Sau khi Võ Tòng giết chết chị dâu, lại tả ra rất nhiều thú phong lưu khinh bạc, như loại Thập Tự Phi, Khoái Hoạt Lâm, lại chợt đâu tả ra ở dưới lầu Uyên Ương nhà Trương Đô Giám, giữa tết Trung Thu yến ẩm, toàn những chuyện tình, hoặc đưa đến, hoặc gợi ra vui đùa… đến đem Ngọc Lan hứa gả, khiến anh em Võ Đại, Võ Nhị, có Kim Liên với Ngọc Lan, bỗng thấy nên đôi, lòng vàng gấm vóc moi ra, thực là tuyệt thế.

Tả Võ Tòng sau khi đã giết bốn người, chợt dùng bốn chữ “Vác dao dùng dằng”, thực khéo dùng như Trang Tử, khiến độc giả sau này, chẳng rõ là Thủy Hử dùng theo Trang Tử, hay là Trang Tử dùng theo Thủy Hử.

 Hồi sau tả máu ngập lầu Uyên Ương, một chuyện lộn trời đảo đất, mà trước đã tả câu bốn chữ này, chợt khiến người đọc suy xét, ngọn bút thần diệu là thế, đâu phải người đời dễ biết ra ngay!

Hồi 30: Trăng sáng mài dao, báo oán giết nhà Đô Giám – Trời đêm lánh nạn, giả sư qua núi Ngô Công

Võ Tòng vác đao trở về Mạnh Châu, vừa đi đường vừa nghĩ quanh co, lại càng căm giận cho bọn nhà họ Trương, không thể nào mà buông tha không giết được. Khi về tới trong thành, thì vừa hay đã tối, chàng liền tìm đến một chỗ tàu ngựa ở sau vườn hoa nhà Trương Đô Giám để nấp. Được một lát nghe có tiếng cửa mạch ở góc mở cót két, chàng ngó cổ vào xem, thì thấy tên bồi hầu ngựa, cầm cái đèn lồng ở trên nhà đi xuống tàu ngựa, rồi quay mà cài cửa lại. Đoạn rồi tên bồi bỏ cỏ cho ngựa ăn, treo đèn lên một chỗ, mà trải chăn chiếu cởi áo xống lên giường nằm ngủ. Võ Tòng nghe tiếng trống vừa điểm một canh bốn khắc, chàng bèn lén gót đến trước cửa ở chỗ tàu ngựa mà khua rung làm bộ như người cậy cửa. Tên bồi ngựa nằm trong quát lên rằng:

– Lão gia vừa ngủ mà mầy toan đến ăn cắp quần áo à? Còn sớm lắm… !

Võ Tòng lặng ngắt, dựng thanh đao vào một bên, rút dao ra cẩm ở tay, rồi lại cạy cửa lạch cạch luôn một lúc.Tên bồi ngựa nằm trong nóng tiết nhảy bổ dậy, không kịp mặc áo xống, vội vớ lấy cái đòn gánh, rút then cửa toan mở ra để đánh. Dè đâu vừa mới rút được then cửa ra, thì bị Võ Tòng đẩy sấn cánh cửa bước vào mà nắm chặt lấy cánh tay. Cậu bồi ta toan cất tếng kêu lên, lại trông thấy thanh đao sáng nhoáng ở dưới bóng đèn, thì kinh hồn khiếp vía, rời rụng chân tay, mà sẽ xin kêu van để tha mạng.

Võ Tòng nói:

– Có nhận ra ta là ai không?

Tên bồi ngựa nghe thấy tiếng, mới biết Võ Tòng liền kêu rằng:

– Ca Ca ơi! Có việc gì đến tôi xin Ca Ca tha cho tôi!

Võ Tòng lại hỏi:

– Mầy phải nói thực, hiện giờ Trương Đô Giám ở đâu?

– Hôm nay Trương Đô Giám cùng Trương Đoàn Luyện và Tưởng Môn Thần uống rượu suốt ngày, hiện còn ở lầu Uyên Ương đó.

– Mầy nói có thực không?

– Tôi nói dối thì lên đinh ở mồm.

Võ Tòng nói:

– Ừ, nếu vậy thì ta cũng không thể tha cho mầy được!

Nói đoạn đâm chết thằng bồi ngựa ra đó. Đoạn rồi lau đao bỏ vào bao, đến trước bóng đèn cởi khăn gói lấy hai tấm áo bông của Thi Ân đưa cho, mà thay mặc cẩn thận rồi vớ lấy cái chăn đơn của tên bồi ngựa bọc lấy tiền nong vặt vãnh treo vào một bên cửa. Bấy giờ chàng dựng cánh cửa chéo lên tường thổi tắt ngọn đèn, đi ra cửa cầm lấy thanh đao, rồi nhờ bóng trăng suông mà nhảy qua tường vào phía trong. Khi vào tới trong tường, chàng mở then cửa mạch, đi vào rồi khép luôn hai cánh cửa lại. Đoạn rồi theo ánh đèn sáng mà đi thẳng lên bếp.

Võ Tòng nấp bên cạnh bếp, nghe tiếng hai đứa thị nữ, đương đứng ở trong bếp, phàn nàn với nhau rằng:

“Hầu hạ suốt ngày hôm nay, bây giờ chưa ngủ…lại còn nước nước với nôi nôi… ! Hai anh khách ấy rõ không biết dơ, chén đã say khướt ra, thế mà còn chưa chịu xuống lầu đi ngủ, không hiểu rằng chuyện trò đến bao giờ? “

Hai ả đương oán hận với nhau ở trong bếp, thì Võ Tòng ngoài này dựng thanh đao một chỗ, rồi rút con dao còn vấy máu ở trong túi ra, đẩy cửa mở bếp mà nhảy tót vào, vớ lấy chị ả đứng ngoài đâm cho một nhát. Còn chị kia toan té cẳng chạy, thì gân cốt rủn ra mà không sao chạy được, toan há mồm để kêu thì mồm lưỡi lýu lại, mà không kêu lên, đành cứ tái người sạm mặt đứng im đấy chịu chết. Võ Tòng sấn đến đâm một nhát dao ngã lăn xuống đất rồi tắt đèn trong bếp, quay ra theo bóng trăng mà lên nhà trên.

Nguyên Võ Tòng trước đã ở đó ít lâu, nên đường ngang lối tắt đều thuộc cả, chàng liền theo lối tắt đi thẳng đến lầu Uyên Ương. Khi tới chân thang, chàng ta sẽ rón chân tay, sờ bò lần lên thang gác.

Bấy giờ bọn đầy tớ hầu hạ đã mỏi mệt, không còn anh nào đứng lảng vảng ở gần đấy, chỉ nghe tiếng ba người là Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện và Tưởng Môn Thần vẫn còn nói chuyện với nhau.

Võ Tòng lắng tai nghe thấy Tưởng Môn Thần tán tụng luôn mồm mà rằng:

– Việc này nhờ ở Tướng Công, nên mới bào thù được thế…Chúng tôi sẽ hết lòng bào đáp Tướng Công.

Trương Đô Giám nói rằng:

– Cái đó nếu tôi không nể Trương Đoàn Luyện đây, thì có khi nào làm thế được. Cũng may ông tuy tốn mất ít tiền, song được như thế là tốt lắm!…Bây giờ thằng ấy chết rồi thì phải. Tôi bảo nó đưa đến Phi Vân Phố là hạ thủ, không biết đã xong chưa? Để sáng mai bốn đứa ấy về đây sem sao?

Rồi thấy Trương Đoàn Luyện nói rằng:

– Bốn thằng giết một thằng, thì làm gì chẳng xong?

Lại đến Tưởng Môn Thần nói rằng:

– Chúng tôi cũng dặn mấy tên đồ đệ như vậy, chắc là sáng mai thế nào cũng có tin về báo.

Võ Tòng nghe ngần ấy câu chuyện, thì lửa giận trong lòng dần dật bốc lên cao mấy nghìn trượng, như xung đột tới trời, liền tay phải cầm đao, tay trái xòe năm ngón tay, rồi nhảy sấn vào trong lầu. Khi đó dăm ba ngọn nến thắp linh tinh, một vài chỗ bóng trăng soi chếch mếch. Trong lầu sáng như gương, các đồ cốc chén cốc rượu chè đều chưa thu dọn sạch. Tưởng Môn Thần ngồi ở trên ghế, chợt trông thấy Võ Tòng nhảy vào, thì giật mình hết vía, bao nhiêu đảm lượng can tâm, đều theo lên mây trời mất cả. Chàng ta hất hải vội đứng mau dậy, dè đâu thấy đến vút một cái, thì con dao Võ Tòng đã ném luôn một nhát cả người lẫn ghế đều đổ lăn ra. Võ Tòng chém xong vừa quay người lại, thì thấy Trương Đô Giám đương té cẳng toan chạy, chàng liền chém cho một nhát vào đầu, xẻ hẳn từ tai đến cổ mà ngã vật ra sàn gác. Còn Trương Đoàn Luyện nguyên là một tay quan võ sĩ xuất thân, bây giờ tuy có chếch choáng hơi men, song sức lực cũng còn hăng hái, nhân trông thấy hai người bị đâm chết, một mình khó chạy cho xong, liền vớ lấy một cái ghế múa lên để đánh Võ Tòng.

Võ Tòng hăng máu bắt lấy ghế, đẩy cho một cái thực mạnh, Trương Đoàn Luyện bị ngã lăn chiêng ra đằng sau, rồi Võ Tòng sấn vào mà cắt hẳn lấy đầu. Đằng kia Tưởng Môn Thần tuy bị một nhát thương, song vẫn còn khí lực, liền cố mà lóp ngóp bò dậy, Võ Tòng lại quay lại, phi chân trái đá lăn ngã xuống, rồi chân phải đè lên bụng mà chém đứt lấy đầu. Đoạn rồi quay lại mà cắt lấy đầu Trương Đô Giám.

Bấy giờ trên bàn còn bày rượu thịt ở đó, Võ Tòng liền rót rượu uống luôn mấy cốc, rồi xé lấy một miếng áo của bọn chết kia, mà thấm máu, viết mấy chữ to lên vách vôi: “Kẻ giết người chính là Võ Tòng đánh Hổ”.

Chàng giết xong quay ra chọn cốc chén ở trên bàn lấy một vài thứ quý báu giắt vào mình, còn thì vất bừa ở đó, rồi trở ra toan xuống gác. Vừa khi ấy nghe tiếng Phu nhân ở dưới nói lên rằng:

– Bọn các quan ở trên gác say rượu lắm hẳn? Bây đâu lên gác đỡ các ngài đi nghỉ đi!

Phu nhân nói chưa dứt lời thì đã có hai người ở dưới đi lên thang gác.

Võ Tòng nấp vào đầu thanh gác nom ra, thì chính là hai đứa thân hầu Trương Đô Giám, vừa mới trói mình dạo trước, chàng liền đứng nấp vào xó tối, để nhường cho hai anh đi vào gác, rồi đứng ra mà chặn đường xuống. Hai anh kia vào đến sàn gác, thấy ba cái xác chết nằm sóng sượt ở trên vũng máu, thì kinh sợ hết hồn, cứng lưỡi không thể nào kêu lên thành tiếng, vừa toan tháo chạy ra, thì Võ Tòng đã tiến vào giết phăng một anh, còn anh nữa thì quỳ xuống kêu xin tha mạng. Võ Tòng miệng nói: – Không tha được!

Tay thì nắm chặt lấy thằng kia, rồi cũng cho một nhát dao kết quả nốt.

Đoạn rồi chàng nghĩ thầm: “Đánh rắn phải đánh dập đầu, dẫu cho chết đến trăm đứa, cũng chỉ một chết mà thôi”. Liền lăm lăm vác đao đi xuống gác. Phu nhân ở dưới nhà hỏi lên rằng:

– Trên gác làm gì mà ầm ĩ gớm lên thế?

Vừa hỏi xong, thì Võ Tòng đã đi vào đến trước cửa phòng. Phu nhân thấy người to lớn bước vào trong bụng lấy làm quái lạ, cất mồm vừa hỏi một tiếng.

– Ai?

Thì Võ Tòng đã đưa dao vào chém ngay một nhát; ngã lăn xuống đất, Võ Tòng lấy chân đè lên mà cắt lấy đầu. Dè đâu cưa mãi không thấy đứt. Võ Tòng giơ dao lên hé bóng trăng soi cửa để xem, thì thấy lưỡi dao đã quăn mẻ ra, như người bằm hỏng vậy. Chàng thấy thế, vội vàng quay xuống bếp, vớ lấy thanh đao, rồi lại sồng sộc đi lên trên nhà. Khi đó dưới bóng đèn sáng trông thấy đứa bé đương cầm đèn soi xác của Phu nhân trên mặt đất mà kêu lên rằng:

– Trời ơi! Khổ!

Võ Tòng thấy vậy, vác dao vào chém chết Ngọc Lan, còn hai đứa bé con cũng cho mỗi đứa một nhát. Đoạn rồi chạy ra nhà giữa, trước hết cài kín cửa ngoài, rồi quay vào lùng quanh trong nhà, thấy có ba người đàn bà ở đó, liền chém cho mỗi người một nhát nằm chết đứ đừ ra đất. Lúc đó máu uất ở trong mình, cùng với ngọn máu giết người đã tiêu tan đi hết, Võ Tòng liền nói một mình rằng:

– Bây giờ ta mới được vừa lòng, thôi đi ngay mới được…

Nói đoạn bỏ hết bao dao, cầm một thanh đao lớn đi ra ngoài cửa mạch, đến tầu ngựa vớ lấy khăn gói, bỏ thêm mấy thứ cốc chén vào trong đó, rồi gói bọc cẩn thận, buộc kỹ vào lưng, mà quay ra vườn sau để đi.

Canh khuya gió oán tung trời,

Gươm pha máu đỏ trăng soi dạ vàng.

Trăm năm qua gác Uyên Ương

Thử xem hàng máu trên tường bao phai

Võ Tòng đi tới thành tự nghĩ:

– Nếu dùng dằng đợi khi mở cổng thành mới ra, thì tất là bị bắt bất nhược thừa lúc ban đêm mà chạy lấy thoát cho rảnh. Nghĩ đoạn liền nhảy lên mặt thành đứng nom ra ngoài thấy địa thế cũng không cao là mấy, chàng liền ném thanh đao xuống trước, rồi co cẳng mà nhảy theo xuống sau. Khi nhảy xuống bên cạnh hào thấy bóng trăng soi sáng, hào nước không sâu, chàng lại xắn quần cởi lá đáp, rồi xắn quần xắn áo lội qua hào mà sang bên kia.

Sang đến bờ hào bên kia, chàng sực nhớ đến trong gói có mấy đôi giầy của Thi Ân mang cho, liền cởi gói ra lấy một đôi để đi. Bấy giờ nghe tiếng trống trong thành đã điểm bốn canh ba khắc, chàng lại nói thầm một một mình rằng: “Trời ơi! Cái lòng phẫn uất của ta bây giờ mới được thỏa, nhưng quanh đây không còn chỗ nào khả dĩ lưu luyến được lâu, âu là ta đợi tìm nơi khác mà xa lánh thì hơn.”

Chàng nghĩ vậy, vác dao theo đường nhỏ mà đi sang bên hông. Đi được một quãng xa ước chừng gần hết trống canh năm, trời còn tối mờ mịt chưa sáng. Võ Tòng xông pha hăng hái suốt đêm, đến đó nghe trong mình mệt nhọc, các đầu roi bị đánh, lại phát lên rất là đau đớn. Chợt đâu thấy một tòa nhà cổ miếu ở trong đám rừng cây gần đó, Võ Tòng liền đi rảo bước chạy vào, đựng đao vào một chỗ, rồi cởi khăn gói làm gối, mà nằm vật xuống để ngủ.

Võ Tòng vừa toan nhắm mắt ngủ, thì bỗng có hai người đem dây móc vào móc chặt lấy cổ Võ Tòng rồi hai người nữa chạy xổ ra, mà trói chặt lại. Bốn người bàn với nhau rằng:

– Thằng này to béo lắm, ta đem mau về cho Đại ca mới được.

Nói xong cướp lấy đao và khăn gói Võ Tòng, rồi túm nhau vào kéo như kéo dê, không cho đặt chân xuống đất, mà dong thẳng đi.

Lũ kia vừa đi vừa nói với nhau rằng:

– Thằng cha này trên mình có vệt máu, không biết rằng ở đâu đến đây? Có lẽ nó đi trộm cướp ở đâu hẳn.

Võ Tòng nghe vậy, lặng ngắt không mở mồm nói một câu gì cả.

Đi được độ bốn năm dặm đường, đến một nơi nhà cỏ, liền kéo Võ Tòng mà lôi vào đó. Khi tới nơi, chúng thắp đèn lên, rồi lột xống áo Võ Tòng ra mà trói vào cột. Võ Tòng liếc mắt nom thấy trên sà nhà bên bếp treo toàn thị thịt đùi người, thì nghĩ thầm trong bụng rằng: “Mình đen quá, lại vớ phải thần chết rồi, còn sống thế nào được nữa. Nếu biết rằng cơ hội thế này, thì thà rằng ra thũ ngay ở Tri Phủ Mạnh Châu, để cho nó chém cho một nhát, lại còn để tiếng được với đời.”

Bấy giờ bốn người kia trói xong rồi, cầm lấy khăn gói của Võ Tòng mà gọi lên rằng:

– Đại ca, Đại tẩu dậy mau mau, chúng tôi đã tìm được một món hàng hóa ở đây.

Nói đoạn thì thấy có tiếng ở nhà trước ứng lên rằng:

– Ta đến đây, chúng bây chớ hạ thủ vội.

Được một lát có hai người ở nhà ngoài đi vào, Võ Tòng ngửa cổ lên nom, thấy một người đàn bà đi sau anh chàng to lớn mà sồng sộc bước vào.

Hai người nhìn kỹ Võ Tòng, rồi người đàn bà nói lên rằng:

– Chết nỗi! Có phải là Thúc thúc đó không?

Anh chàng đàn ông cũng kêu lên rằng:

– Thôi phải rồi, chính phải là anh em ta đây rồi. Hai người ấy là ai? Nguyên vợ chồng Thái viên tử Trương Thanh, kết nghĩa anh em với Võ Tòng khi trước.

Bấy giờ hai người thấy vậy, liền cởi trói cho võ Tòng; rồi mời ra nhà ngoài nói chuyện. Võ Tòng đem hết mọi chuyện, từ khi bái biệt vợ chồng Trương Thanh, cho đến khi bị bắt ở đây, kể hét cho hai người nghe.

Khi ấy bốn tên bắt Võ Tòng lúc nãy, nghe chuyện liền quỳ xuống mà nói rằng:

– Chúng tôi là người trong nhà Trương Thanh đại ca đây, nhân vì mấy hôm nay đánh bạc thua luôn phải vào rừng kiếm cách xoay xở, bất đồ thấy ngài ra dáng mệt nhọc vào miếu để nằm, nên chúng tôi mới dám hạ thủ trói bắt. Song cũng may Đại ca tôi dặn, chỉ cho bắt sống, đem về không được hại, nếu không thế, thì có lẽ hại đến tính mệnh ngài. Điều đó thực chúng tôi lầm lỡ xin ngài tha tội cho.

Vợ chồng Trương Thanh cười rằng:

– Chúng tôi cũng vì hơi ngại trong lòng, nên bấy lâu bao nhiêu hàng hóa phải để nguyên sống mang về mà không cho hạ trước, nhưng nào có ai hiểu đâu được tâm sự của mình…Nay nếu anh em ta đây mà không nhọc mệt, thì không nói gì đến bốn các người, dẫu đến bốn mươi kẻ cũng khó lòng mà tới gần được.

Bốn anh kia nghe nói chỉ cúi đầu lạy tạ Võ Tòng không thôi. Võ Tòng bảo chúng đứng dậy mà nói rằng:

– Thôi được, bây giờ các anh không có tiền đánh bạc, để đây ta thưởng cho.

Nói đoạn bắt lấy khăn gói mở ra. Lấy mười lượng bạc vụn cho bốn người chia nhau. Trương Thanh thấy vậy cũng lấy ra ba lạng bạc nữa mà thưởng thêm cho chúng. Chúng được tiền lạy tạ Võ Tòng và Trương Thanh mà đem ra chia nhau.

Trương Thanh bảo với Võ Tòng rằng:

– Nguyên hiền đệ không biết: Từ khi hiền đệ đi rồi, chỉ e hoặc có khi lỡ xẩy việc chi mà lại trở về đây, nên tôi phải phòng bị dặn chúng từ trước hoặc khi chúng gặp mà lỡ ra e cự không nổi, thì chúng tất hành hung, bởi thế lại phải cấm không cho đem dao mác gì đi theo cả. Vừa rồi tôi chợt nghe nói, đã có bụng ngờ, quả nhiên là hiền đệ…

Tôn Nhị Nương nói rằng:

– Mấy hôm trước tôi chỉ nghe tin thúc thúc say rượu đánh được Tưởng Môn Thần, ai ai cũng lấy làm kinh sợ; đến nỗi bao nhiêu đám khách thương ỏ Khoái Hoạt Lâm qua lại đây, không ai là không tán tụng luôn luôn. Ai ngờ về sau lại xẩy ra những việc kinh thiên động địa, thế mà vợ chồng tôi không biết chi cả. Bây giờ thúc thúc đương mệt nhọc xin vào trong phòng nghỉ một lúc rồi sẽ nói chuyện…

Trương Thanh bèn dẫn Võ Tòng vào buồng khách nghỉ, rồi hai vợ chồng sai làm cơm rượu để sắp sửa thết đãi Võ Tòng.

Nói về bọn người nhà Trương Đô Giám ở Mạnh Châu, có kẻ lẩn nấp trốn được mãi đến khi trời sáng mới dám thò ra, hô gọi các quân lính cùng người nhà người cửa túm vào xem xét, rồi bảo nhau sang trình quan phủ. Quan phủ nghe nói cả kinh, hỏa tốc sai người đến kiểm soát số người bị chết, và dò xem lối quân hung phạm ra sao.

Hôm sau chúng về báo Tri Phủ rằng:

– Thoạt tiên quân cướp vào tầu ngựa, trút bỏ hai tấm áo cũ ở đó. Sau vào đến bếp giết chết hai đứa thị nữ và bỏ một con dao hành hung đã quằn mẻ tại bên cửa bếp. Đoạn rồi lên lầu Uyên Ương Trương Đô Giám cùng hai tên người nhà và người khách là Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần rồi lấy máu viết mấy chữ: “Kẻ giết người chính là Võ Tòng đánh hổ” lên tường vôi. Dưới nhà gác lại giết một Phu nhân, một thị nữ tên là Ngọc Lan, hai người con bé và ba người đàn bà, cộng tất cả là giết chết mười lăm mạng, và mất một bộ sáu cái chén uống rượu bằng vàng bạc.

Tri Phủ nghe rõ đầu đuôi liền sai người canh giữ bốn mặt cổng phủ, rồi kiểm soát quân mã cùng các viễn bộ tập, các thầy Trưởng Phố đến khắp các nơi để khám bắt Võ Tòng.

Sáng hôm sau lại thấy Lý Trưởng sở tại Phi Vân Phố đến trình bốn người bị giết chết, hiện còn vệt máu tươi dưới chân cầu, và xác chết ở vũng nước. Tri Phủ tiếp được giấy trình, liền gọi Huyện Uùy lên, nhất diện sai người đến Phi Vân Phố khiêng bốn xác chết lên để khám, hai người là lính phủ còn hai người nữa, đều có người nhà đến nhận xác đem chôn, và làm giấy kêu quan bắt hung thủ đền mạng. Trong thành bắt đóng cửa luôn ba ngày để đến từng nhà khám xét.

Tri Phủ lại sức giấy cho các viên cai quản các thuộc địa hạt trong phủ, phải đến từng xã, từng thôn, từng xóm mà tìm bắt hung thủ. Lại viết tên tuổi và hình dung Võ Tòng xuất tiền ba nghìn quan treo giải thưởng cho người nào bắt được tên phạm. Đoạn rồi thảo công văn Tân Ước sức các nơi, ai biết chỗ Võ Tòng trốn tránh, đem lên trình quan được thưởng; bằng ai chứa chấp nếu bắt được, thì bị tội cùng với phạm nhân.

Cách ba hôm sau, tiếng tăm ầm ĩ khắp nơi, đám thám tử cùng đám tập bộ không đâu là không lai vãng dò xét. Trương Thanh nghe tin ấy, liền báo với Võ Tòng rằng:

– Ngày nay nếu quan quân nhân truy nã riết như vậy, thì hiền đệ ở đây rất là không tiện. Việc này không phải là tôi sợ chi, song nếu lỡ ra quan quân dò xét đến nơi, thì bây giờ làm sao cho được? Vậy nay tôi nghĩ chỉ chốn này, trước đây cũng đã nói qua cho hiền đêï biết rồi nhưng chẳng hay hiền đệ có thuận đi cho không?

– Trong mấy hôm nay, tôi đã nghĩ ở đây không sao mà yên được. Song như tôi có một người anh đã bị chị dâu bất nhân giết chết đi, đến đất này lại bị người ta hãm hại, thân thế gian truân họ hàng không còn có ai, để mà nương tựa! Nay ca ca có lòng tốt mà tìm chốn cho tiểu đệ nương thân, thì còn có điều chi mà không thuận? Ca Ca cứ nói cho tôi biết là ở đâu?

– Chính là chùa Bảo Châu trên núi Nhị Long ở Thanh Châu là nơi ca ca Lỗ Trí Thâm tôi, cùng Dương Chí đương làm bá một phương đó. Nay hiền đệ nếu muốn an thân thì tất phải đến đấy mới xong, còn có đi đâu được hơn nữa? Vả chăng ở đấy đã nhiều phen viết giấy bảo tôi nhập bọn song ý tôi còn lưu luyến chỗ này chưa có thể đi được. Vậy nay tôi xin viết thư nói rõ đầu đuôi, và tiến dẫn hiền đệ lên đó, thì chắc là họ phải vui lòng mà nhận, hiền đệ nghĩ sao?

– Đại ca nói phải lắm! Tôi cũng định bụng đã lâu, song chưa phải thời, nên chưa làm được.

Trương Thanh liền viết một phong thư kỹ lưỡng, đưa cho Võ Tòng rồi bày tiệc để tiễn.Bấy giờ Tôn Nhị Nương chợt bảo với Trương Thanh rằng:

– Làm thế không được! Nếu thúc thúc cứ thế mà đi, ngộ lỡ ra bị người ta bắt được thì sao?

Võ Tòng nói:

– Tẩu tẩu thử nói xem, làm sao mà tôi đi không được? Làm sao mà họ bắt được tôi?

Tôn Nhị Nương nói:

– Hiện nay quan tư sức giấy đi các nơi, vẽ hình vẽ ảnh, thưởng ba nghìn quan tiền để bắt; Vả chăng trên trán thúc thúc có kim ấn rõ ràng, còn ai không biết?

Như thế mà đi đường thì giấu thế nào nổi được người ta? Trương Thanh nói:

– Kim ấn trên mặt thì dán miếng thuốc cao che đi cũng được chứ sao?

Tôn Nhị Nương cười rằng:

– Thiên hạ chỉ có một mình khôn, con người ta dễ thường ngu ngốc cả. Bọn công nhân bây giờ phỏng làm như thế mà bịt mắt họ được chăng? Tôi có một cách này chỉ sợ thúc thúc không chịu nghe thôi.

Võ Tòng nói:

– Tôi đã là thằng tù lánh nạn, thì còn việc gì mà không theo được nữa?

Tôn Nhị Nương cả cười mà rằng:

– Tôi nói ra đây, thúc thúc đừng giận nhé.

– Xin tẩu tẩu cứ nói, thế nào tôi cũng vâng.

– Hai năm trước có một người đi qua đây, bị tôi giết chết, câu chuyện ấy thúc thúc đã nghe rồi. Hiện nay còn một cái mũ nhà sư bằng sắt, một cái áo xống tràng đen, một cái thắt lưng thưa sắc tạp, một bản hộ điệp, một chuỗi tràng hạt, bằng một trăm linh tám cái trối xương người, một đôi giầy bằng da cá nhà táng, và hai khẩu giới đao bằng xác hoa. Hai khẩu đao ấy đêm đêm thỉnh thoảng lại kêu, ngày trước thúc thúc đã xem rồi thì phải. Ngày nay đã định trốn nạn, thì trừ phi cắt tóc giả làm một người hành giả đội mũ che kim ấn đi, rồi cầm lấy tờ hộ điệp ấy để hộ thân, thì mới có thể được. Thúc thúc mặt mũi cũng giống, tuổi tác cũng vừa, thực là nhân duyên tiền kiếp, cứ nhận ngay tên họ người ấy mà đi, không còn ai hỏi đến nữa. Thế có được không?

Trương Thanh vỗ tay khen rằng:

– Được lắm, thế mà không nghĩ tới, thúc thúc định sao?

Võ Tòng nói:

– Cái đó thì tôi bằng lòng rồi, song chỉ sợ không giống được mà thôi.

Trương Thanh nói:

– Để tôi thử mặc vào cho thúc thúc xem sao.

Tôn Nhị Nương liền vào buồng đem các thứ mũ áo ra cho Võ Tòng mặc.

Võ Tòng liền mặc áo thắt lưng, bỏ xõa tóc xuống rồi đội mũ đen đeo tràng hạt không khác gì một nhà sư vậy.

Trương Thanh cùng Tôn Nhị Nương cả cười mà rằng:

– Thực là kiếp trước đã định, cho nên mới được như thế.

Võ Tòng liền cầm gương soi mặt cũng phải phì cười, mà không nhận được.

Trương Thanh hỏi:

– Thúc thúc cười chi như thế?

Võ Tòng nói:

– Tôi trông tôi, tôi cũng bật cười… không biết làm sao, tự nhiên lại hóa ra một nhà sư. Bây giờ đại ca đem cắt tóc cho tôi vậy.

Trương Thanh liền lấy kéo ra cắt tóc cho Võ Tòng rồi sắp sửa đồ đạc cho Võ Tòng đi. Trương Thanh lại bảo Võ Tòng để các đồ chén bạc của Trương Đô Giám lại đây, rồi bọc thêm một ít tiền nữa vào cho Võ Tòng và sai thợ khâu một cái túi gấm, đựng tờ hộ điệp để cho Võ Tòng buộc sát vào trước bụng. Chiều hôm ấy Võ Tòng cơm rượu xong rồi, thu thập các đồ hành lý, giắt hai khẩu giới đao, vào lưng, rồi từ tạ vợ chồng Trương Thanh mà đi lánh nạn.

Trương Thanh cầm tay than vãn dặn rằng:

– Hiền đệ đi đường phải nên cần để tâm cẩn thận., rượu không nên uống lắm, không nên tranh khí với ai, phàm các công việc chớ có làm liều làm bạo, thế mới giữ được thái độ kẻ tu hành, mà khỏi bị người ta dò biết. Khi nào đến Nhị Long Sơn, thì viết thư về ngay cho tôi biết, vợ chồng tôi ở đây cũng không phải là kế cửu, có lẽ nay mai sẽ xếp dọn mà theo lên đó cũng nên. Hiền đệ cần phải bảo trọng lấy thân và nói với Lỗ, Dương, hai Đầu lĩnh rằng vợ chồng tôi xin gửi lời bái chúc.

Võ Tòng vâng lời rồi từ tạ ra đi. Hai vợ chồng đứng trông theo một lúc, rồi vỗ tay mà khen rằng:

– Quả nhiên rõ là một ông hành giả, không còn ai dám ngờ nữa?

Bấy giờ đương dạo thàng mười, ngày ngắn không đầy gang tấc, Võ Tòng giã từ Thập Tự Phi đi vội vàng được một lúc thì trời đã sắp tối, được vào khoảng năm mươi dặm đường, chợt trông thấy một tòa núi cao đứng sừng sững ở trước mặt. Võ Hành Giả liền mau bước mà đi lên núi. Khi lên tới gần đỉnh núi, chàng đứng dừng lại, quay trông sang phía bên đông, đã thấy vừng trăng mới mọc sáng rọi cây cỏ trên non, rất là thích mắt.

Đương khi trông ngắm ngẩn ngơ thì chợt thấy có tiếng người cười ở khu rừng trước mặt. Võ Hành Giả liền nói một mình rằng: “Quái lạ ở đây núi non tịch mịch thế này, còn làm chi mà có tiếng người cười nói? ” Chàng nghĩ đoạn rảo bước đi sang bên rừng để xem. Chợt thấy trong rừng thông bên cạnh núi có một tòa am, ướt có mười mấy gian nhà lá, nhà mở hai cánh cửa sổ có một tiên sinh cùng mấy người con gái cùng ngồi, đương đùa rỡn xem trăng ở đó. Võ Hành Giả thấy vậy, thì ngạc nhiên nghĩ thầm rằng: ” Anh này trông ra mặt tu hành xuất gia, mà sao dám làm những việc thế kia!”

Chàng vừa nghĩ vừa rút hai khẩu giới đao sáng nhoáng, giơ ra bóng trăng để xem, rồi lại nói một mình rằng: “Mấy khẩu đao này tốt thực, vào tay ta, ta chưa thử một lần nào… ? Âu là ta đem tiên sinh khốn nạn này mà thí nghiệm một cái xem sao?

Chàng nói vậy, liền để một khẩu ở ngoài, còn một khẩu lại đút vào trong bao, xắn hai tay áo lên đến vai, rồi lượn ra lối trước am mà gõ cửa…Tiên sinh ngồi trong nghe tiếng gõ cửa liền khép hai cánh cửa sổ đằng sau lại. Võ Hành Giả lại tìm một tảng đá mà gõ ầm lên. Chợt có tiếng ken két, cánh cửa bên cạnh mở tung ra, rồi có một tên đạo đồng chạy ra quát rằng:

– Anh là người nào? Nửa đêm gà gáy dám đến đây gõ cửa làm ấm ĩ đến thế?

Võ Hành Giả trợn ngược hai con mắt ghê gớm, rồi quát lên rằng:

– Hãy đem thằng đạo đồng này mà tế đao đã.

Nói xong giơ đao lên đánh beng một cái, tên đạo đồng mất hẳn đầu ra một bên, mà ngã vật ngay xuống đất. Bấy giờ tiên sinh kia ngồi trong am mà kêu to lên rằng:

– Đứa nào dám giết thằng đạo đồng của ta?

Nói xong nhảy tót xuống múa hai thanh bảo kiếm xông ra để đánh Võ Tòng.

Võ Hành Giả cười mà rằng:

– À! Thằng này lại gãi chính vào chỗ ngứa…Được đến đây để ta thử đao.

Nói đoạn rút khẩu giới đao nữa ở trong bao ra rồi hai tay múa hai khẩu đao đón đánh tiên sinh kia. Đôi bên đấu nhau ở dưới bóng trăng thanh, kẻ đi người lại, kẻ đỡ người đâm, lên xuống quanh quẩn như bốn đạo hào quang, kết thành một đoàn lãnh khí vậy.

Hai bên cự địch đương hăng, thì bỗng dưng có tiếng đao vang động, rồi có một người ngã lăn ra đất.

Mới hay:

Mấy hàng mưa tuyết đầu người rụng,

Tiếng bóng trăng hàn tiếng kiếm reo,

Làm trai thứ nhất ba điều,

Một là thân thế riêng chiều tự do.

Hai là giết sạch quân thù,

Moi gan tàn ác đền bù núi sông.

Ba là ngang dọc vẫy vùng.

Làm cho tỏ mặt anh hùng ngàn thu.

Ví chăng sống chẳng ra trò,

Thì tu mi với liễu bồ khác chi?

Lời bàn của Thánh Thán:

Đọc hết một hồi máu chảy lầu Uyên Ương, mà than cho người thiên hạ mài dao giết người, sao thấy lạ thay! Thầy Mạnh nói: Giết cha người ta ắt người ta phải giết lại cha mình; Giết anh người ta, ắt là người ta phải giết lại anh mình, trong lúc ta mài dao, với kẻ kia mài dao, nào khác gì đâu! Thế thì chẳng phải tự sát, chẳng qua gián tiếp, đổi tay dao mã để giết cha anh…Hỡi ôi! Há chỉ thế đâu, đổi tay dao mà giết, còn lấy dao ta để giết người, để cho dao người giết lại ta, cũng đều là tự sát, như thế ta chỉ thấy dao giết người của ta, mà không thấy dao giết ta của người, đến khi họa cơ đưa lại, mới giật nảy mình, như lũ ba người Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện, và Tưởng Môn Thần ngộ hại, còn đau mà chẳng đau lòng!!! Đương khi trao ý kiến cho công sai, mà còn khiến thêm hai đồ đệ đi theo giúp sức, há chẳng từng ân cần hỏi đến: Ngươi có mang dao không? Hai người trả lời có dao! Thì lại hỏi đến: Dao có sắc không? Hai người nói: Tốt! Thì lại hỏi đến: Dao đã mài chưa? Hai người nói: Mới mài! Thì lại hỏi đến: Dao ấy có giết nổi một Võ Tòng không? Hai người lại nói: Đến mươi lăm thằng như Võ Tòng cũng giết nổi; há một Võ Tòng?

Đương khi ấy há chẳng khoe dao tốt mà đi, cầm mà múa bay mà tới để chém cho đứt, thế rồi, đầu Võ Tòng phải rơi, máu Võ Tòng phải đổ, oan Võ Tòng phải báo, mệnh Võ Tòng phải hết…Bấy giờ thử mà xem, chém mà xách, đem về cho mọi người thấy, để ngợi khen uống rượu vui mừng?

Lũ ba người Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần, coi ở trong thiên hạ to lớn kia, với quần chúng muôn nhà, không còn ai được vui sướng cho bằng cuộc yến ẩm trên lầu Uyên Ương giết được kẻ thù! Có ngờ ngoài bến Phi Vân tay sai bị giết, trong Tàu ngựa tắt đèn? ? ? Hỡi ơi! Dao sắc đã mang đi cửa trước, nào ngờ dao sắc khác đưa đến cửa sau, lại theo họ Võ bấy giờ nghĩ lại lúc mài dao, chỉ sợ rằng đầu thử trước! Nào ngờ đêm ấy mười chín mạng người, đã đem đầu thử trước! Hởi ơi! Há nói chơi đâu! Xét ra thì lúc mua dao, để lại đeo dao, đeo dao lâu ngày chưa giết một ai, chẳng thà đừng mua dao nữa mà lại càng không nên đeo, dù là sẵn có, tự khi mua dao, để lại đeo dao, đeo dao lâu ngày, đêm nay giết thử một ngày, muốn giết chưa xong, lại lật lại tự mình chịu giết, mà bị đến mười chín mạng người, thế mua dao để tự sát mới mua dao; Đeo dao cũng để tự sát mới đeo dao, chả còn lạ nữa! Hới ôi! Tai vạ nấp sẵn, bí ẩn khôn hay, đến lúc đưa lại, nhanh không thể trốn, từ xưa tới nay, thường thường như thế cả, sao người đời còn say chưa tỉnh, không đọc đến đoạn văn này của Thủy Hử chăng? ? ?

Đoạn văn này rất khéo, chẳng tả Võ Tòng lòng thô tay bạo gặp người là muốn giết ngay, hãy nên coi tác giả tả từng chi tiết trong ngòi bút tả, nào ngòi bút nhọn, nào phép bút nghiệm, nào sức bút cứng, nào đường bút tới nơi…Như câu tả người bồi ngựa nghe quen tiếng, nhận biết Võ Tòng và câu Liễu hoàn mắng thầm khách nọ chưa dọn tiệc xong…Phi nhân chợt tự hỏi “Ai”. Đó là nhàn bút, mới tả ra hết đủ đầy; Khi giết bồi ngựa, thổi tắt đèn đi, mở cửa mạch lách vào, kéo cánh cửa lại, giết chết Liễu Hoàn, tắt đèn trong bếp, chạy ra trước cửa…Tả những câu đến thế, do ngòi bút sắc; Mới đầu tả người canh bốn điểm, sau rồi tả bốn canh ba điểm, trước giơ bọc lấy áo của Thi Ân và tiền sau lại lấy ra dùng giày gai, đó là bút pháp được nghiêm; Lẻn vào cửa sau. Giết kẻ bồi ngựa, rồi đánh nhoàng ra cửa sau, giở đến bọc dao, mở cánh cửa mạch, mấy lần lãnh ra lãnh vào khép cánh, sấn vào trên lầu, giết chết ba tên, rồi lại xuống thang lầu, nhường cho hai người đi lên, giết chết ba tên, rồi lại xuống thang lầu, nhường cho hai người kia đi lên, rồi trở lên lầu giết nốt, rồi trở xuống lầu giết nốt Phu Nhân, trở lại dưới bếp lau dao, chạy tới trung đường, đi ra khỏi cửa, bao nhiêu lần chuyển thân hành động, đó là sức bút cáp lớn lao, một mạch tả gồm mười một chỗ tả đèn bốn chỗ tả trăng, đó là lối bút chia ra cách biệt.

Trên lầu Uyên Ương, ta xét biết ra, với nghĩa rằng, việc đắc ý và thất ý khéo đi đôi không rời khỏi nhau, như đôi chim sống mái liền nhau vậy.

Một đoạn văn Võ Tòng qua núi Ngô Công, ý tứ đối ngầm với việc Lỗ Đạt qua chùa Ngõa Quan, hai đoạn văn cũng vừa mới được giới đao, chém bọn giả tu hành, giới đao ấy vốn con dao cảnh cáo.

Hồi 31: Võ Hành Giả say rượu bị bắt – Tống Công Minh gặp nạn được tha

Nguyên khi Võ Hành Giả đấu với tiên sinh kia được mười lăm hợp, bèn lừa miếng phá đỉnh nhường cho tiên sinh sấn vào, rồi Hành Giả quay ngoắt lại đằng sau mà chém cho một nhát chết lăn xuống đó. Đoạn rồi Võ Tòng kêu lên rằng:

– Người đàn bà nào ở trong nhà ra đây cho ta hỏi. Ta không thèm giết làm chi.

Bấy giờ người đàn bà ở trong am nghe nói, liền chạy ra mà lạy rạp xuống đất.

Võ Tòng trỏ người đàn bà mà bảo rằng:

– Không cần phải thế ngươi hãy nói cho ta biết rằng: Đây là chỗ nào, mà tiên sinh ấy là người nào?

Người đàn bà khóc mà đáp rằng:

– Chúng tôi là con gái Thái Công ở dưới núi đây, cái am này là am mộ của tổ tiên tôi khi trước, còn tiên sinh kia thì không biết là người ở đâu. Duy trước đây một hôm tiên sinh ấy đến nhà tôi ngủ trọ, rồi nói với cha tôi là giỏi nghề bói toán địa lý nhân thế cha tôi lưu lại trong trang để nhờ xem giùm am mộ ở đây. Sau anh ta dỗ dành cha tôi ở luôn trong trang mấy ngày, rồi đến khi trông thấy tôi thì ở rịt đó mà không đi nữa. Khi ở được ba tháng thì giết luôn cả cha mẹ anh chị tôi rồi hiếp bách đem tôi lên đây để ở. Còn đứa đạp đồng lúc nãy cũng là anh ta bắt cướp ở đâu đem đến đây. Núi đây gọi là ngọn núi Ngô Công, anh ta thấy địa thế đẹp đẽ nên muốn chiếm giữ ở đây mà tự đặt tên là Phi Thiên Ngô Công Vương Đạo Nhân.

Võ Hành Giả hỏi:

– Ngươi còn có họ hàng gì nữa hay không?

– Chúng tôi cũng còn có mấy nhà thân thích, song toàn là đám cầy cuốc nhà quê ai dám cự nhau với nó?

– Tên ấy nó có tiền của gì không?

– Nó có thì người thu thập lấy để ta đốt bỏ am này cho rảnh.

– Sư phụ có xơi rượu thịt gì không? Có thì xin mời sư phụ vào trong am.

– Vào đó, lỡ có đứa nào ám toán ta chăng?

Người đàn bà ra dáng thực thà mà nói rằng:

– Tôi có được mấy cái đầu mà dám đánh lừa sư phụ? Xin ngài cứ vào.

Võ Tòng theo người đàn bà đi vào trong am, thấy bên cạnh cửa sổ có một cái bàn bày rượu thịt ở đó, chàng bèn vớ lấy chén lớn, rót rượu ra mà ăn uống một hồi, đến khi người đàn bà thu nhặt tiền nong xong thì cho một mồi lửa mà đốt cả am.

Bấy giờ người đàn bà đem bọc kim ngân ra dâng Võ Hành Giả. Võ Hành Giả từ chối mà rằng:

– Ta không cần tiền nong làm gì, cho ngươi đem về làm sinh nhai, đi mau đi.

Người đàn bà bái tạ rồi đi xuống núi.

Võ Hành Giả đem hai cái xác vứt vào đống lửa, rồi cất dao vào bao, mà trời đêm rảo bước, trông chừng thẳng trỏ Thanh Châu. Đường đi được mười mấy hôm trời, qua các nơi phố sá thôn, điếm, không đâu là không thấy giấy quan trên niêm yết để truy nã Võ Tòng, song may chàng đã đổi tục ra thiền, cho nên giong ruổi bầy lâu mà không ai hỏi đến. Thấm thoắt bước sang mùa đông, tiết trời đã ra chiều lãnh lẽo, Võ Hành Giả đi trên đường thỉnh thoảng lại mua rượu thịt để ăn uống, song cũng không sao mà địch nổi với ngọn sóc phong. Một hôm chàng đi đến một cái đồi con, chợt trông thấy trước mặt có tòa núi chon con đẹp đẽ, chàng liền xăm xăm tìm lối đi xem. Khi xuống dưới gò, đi được dăm ba dặm được, chợt trông thấy có một tửu điếm, đằng trước có giải khe trong, mà đằng sau toàn là núi đá.

Võ Hành Giả đứng dừng lại, nhìn vào tửu điếm thấy cảnh vật sơ sài, ra dáng một hàng rượu ở nơi thôn dã, chàng liền xăm xăm chạy vào ngồi ở trong hàng, rồi gọi nhà hàng mà bảo rằng:

– Chủ hàng lấy hai nai rượu, có cá thịt gì mang ra đây.

Chủ nhân nghe nói chạy ra trả lời rằng:

– Chẳng dấu gì sư phụ, rượu thì đây có thứ rượu Hoàng, còn cá thịt thì hết cả rồi.

Võ Hành Giả nói:

– Hãy mang rượu đây, uống cho đỡ rét đã.

Chủ nhân vâng lời dọn ra một đĩa rau chín, và đem ra hai nai rượu ra hai chun lớn để Võ Tòng uống. Võ Hành Giả uống một lúc hết cả hai rồi gọi lấy hai nai nữa mà uống luôn.

Nguyên khi đi đường, Võ Hành Giả cũng đã chếch choáng hơi men, đến đây lại uống nai rượu nữa, lại bị gió bấc đìu hiu, thổi nâng hơi rượu, bốc lên làm cho chàng không mấy chốc mà khí lực hung hăng khó chịu, liền quát to tiếng mà hỏi nhà hàng rằng:

– Nhà này không còn gì thực hay sao? Cá thịt của các ngươi vẫn ăn xoàng đâu, đem đây bán lại cho ta cũng được.

Chủ hàng nghe nói cười thầm trong bụng: “Sư nào lại có như thế. Chỉ đòi uống rượu với ăn thịt…làm gì có được bây giờ… !” Liền trả lời rằng:

– Không thể nào có được bây giờ.

Võ Tòng gắt lên rằng:

– Ta có ăn quịt của nhà ngươi đâu? Sao lại không bán cho ta.

Chủ hàng đáp:

– Tôi đã nói với sư phụ lúc nãy, chỉ có rượu thôi, còn có gì nữa mà bán.

Đương khi ấy, thì có một Đại hán dẫn ba bốn người đi vào trong điếm. Chủ hàng trông thấy liền vui cười đón vào mà rằng:

– Xin mời Nhị Lang ngồi.

Đại hán kia hỏi chủ hàng rằng:

– Việc gì tôi bảo đã sửa soạn xong chưa.

Chủ nhân đáp:

– Gà với thịt đã chín cả rồi, chỉ còn đợi Nhị Lang đây thôi. – Cái bình rượu Thanh Hoa của tôi đâu?

– Thưa ở trong kia.

Đại hán nghe đến đó, liền đi vào một chỗ bàn ghế ở trước mặt Võ Hành Giả mà ngồi lên cánh trên còn bốn người nữa ngồi vào cánh dưới. Bấy giờ chủ hàng đem lọ rượu Thanh Hoa đến mở nút ra rồi rót vào một bát chậu lớn để giữa bàn. Võ Hành Giả liếc nom thấy biết ngay là một thứ rượu tốt, lại thấy hơi rượu thơm ngon, đánh thoảng vào mũi, thì trong lòng rất lấy làm khao khát, muốn sao mà cướp lấy để uống thì mới được thỏa lòng. Một lát chủ nhân lại đem một đĩa thịt gà chín, và một đĩa thịt lợn cùng các thứ rau dưa đũa chén bày lên trên bàn ở trước mặt Đại hán. Võ Hành Giả thấy vậy, lại nom đến bàn rượu của mình, chỉ độc có đĩa rau khốn nạn, thì trong lòng tức tối khó chịu, muốn đập vỡ cả bàn đi, liền gọi chủ nhà hàng mà quát lên rằng:

– Nhà hàng sao khinh người thế?

Chủ hàng nghe nói vội quay lại nói rằng:

– Sư phụ tha lỗi cho, người muốn lấy rượu nữa, thì tôi đem thêm.

Võ Hành Giả trợn mắt lên mà mắng:

– Anh này bán hàng lạ thực? Rượu Thanh Hoa với thịt gà, sao anh không bán cho ta? Ta đây cũng mua mất tiền chứ sao?

Chủ hàng đáp rằng:

– Rượu với thịt đó, là của nhà Nhị Lang đem đến, chỉ ngồi nhờ nhà tôi ăn uống đó thôi.

Võ Hành Giả sốt tiết bất phân trái mà quát lên mắng rằng:

– Đồ láo… xấc.

Chủ hàng thấy vậy, thì nói rằng:

– Tôi chưa thấy một người xuất gia nào mạn phép như thế bao giờ?

Võ Hành Giả lại quát lên rằng:

– Thế nào là lão gia mạn phép? Lão gia có ăn không hay sao?

Chủ hàng cười nhạt mà rằng:

– Tôi chưa thấy người xuất gia nào tự xưng là lão gia bao giờ?

Võ Hành Giả đứng phắt dậy, tát cho chủ hàng một cái làm lộn nhào ra một xó. Chàng đại hán kia đương ngồi uống rượu, thấy vậy thì nổi lòng tức giận nhìn đến anh chủ hàng thì đã sưng hẳn một bên mặt mà chúi vào một xó. Không sao dậy được, chàng liền đứng dậy trỏ vào mặt Võ Tòng mà bảo rằng:

– Lão sư qủy kia, việc gì mà dám đến đây đánh nhau, tu hành đâu có thế?

Võ Tòng nói:

– Ta đánh nó, có việc gì đến anh?

Đại hán cả giận mà rằng:

– À! Lão sư này gớm thực? Ta bảo tử tế, thế mà ngươi dám xấc với ta…

Võ Hành Giả sốt tiết lên, đẩy cái bàn chạy ra mà quát lên rằng:

– Thằng này mầy nói ai?

Đại hán kia cười mà rằng:

– Lão sư này muốn đánh nhau với ta chắc… ? Được lắm! Ra đây.

Võ Hành Giả cũng cười mà rằng:

– Mầy bảo ta sợ mầy, không dám đánh mầy hay sao?

Nói rồi vừa sấn bước ra đi. Đại hán kia nhảy thót ra ngoài cửa Võ Hành Giả lại chạy ra đuổi theo. Đại hán thấy Võ Tòng to lớn, liền đứng vững lấy thế để đợi, Võ Hành Giả xông vào, đại hán kia cố sức cự lại, không thể nào địch nổi với thần lực ngàn cân, bị Võ Tòng gạt ngang bụng một cái ngã lăn ngay ra, như đứa trẻ con vậy. Ba bốn anh nhà quê kia trông thấy, kinh sợ rụng rời, không một anh nào dám bén mảng đến gần.

Võ Hành Giả đạp lên đại hán, giơ quyền đánh cho mấy chục cái, rồi cúi xuống xách lên ném lẳng ra ngoài khe nước trước cửa.

Ba bốn anh nhà quê kia kêu khổ ầm ĩ, rồi vội đổ nhau ra, nhảy xuống khe cứu đại hán kia lên, mà kéo nhau chạy về phía Nam.Bấy giờ anh chủ hàng rượu cựa quậy được, thì đã rụng rời chân tay, liền chạy vào mà nấp ở sau nhà, mà không dám thò ra nữa.

Võ Hành Giả đi vào hàng rượu nói một mình rằng:

– Được lắm! Chúng bây đi cả, lão gia đánh chén chơi.

Nói đoạn vớ chén múc rượu ở bát chậu ra để uống. Mấy đĩa thịt gà trên bàn, chưa anh nào dùng đến, Võ Tòng không cần dùng đũa, liền giơ tay xé luôn để ăn. Được một lúc hết cả rượu thịt trên bàn, trong bụng đã no say dễ chịu, liền xắn hai tay áo lên tận vai, rồi ra cửa theo rẻo bờ khe mà chạy. Khi đó gió thổi réo lên như cuốn, Võ Tòng chân đi không vững, song cũng hết sức để đi cho chóng. Vừa đi khỏi tửu điếm ước chừng bốn dặm đường, đến một nơi bên cạnh tường đất, bỗng có con chó vàng đâm xổ ra trông vào Võ Tòng mà cắn.

Võ Hành Giả đương khi say rượu, trong bụng hung hăng, những toan tính sinh sự, chợt thấy con chó cứ đuổi theo cắn riết, thì càng lấy làm khó chịu, liền rút phăng một khẩu giới đao ra, vội rảo bước đi thực nhanh.

Con chó chạy theo sủa mãi, Võ Hành Giả tức mình giơ đao chém cho một nhát rất mạnh, chàng chém một nhát không trúng vào đâu, song vì dùng sức quá mạnh đến nỗi bị chúi đầu đâm nhào ngay xuống khe mà không sao cựa dậy được. Con chó thấy vậy, lại quay ra bờ khe mà gõng gãnh sủa mãi.

Bấy giờ đương dạo mùa đông, khe nước nông chờ, chừng hai ba thước, song khí trời lạnh như cắt ruột gan, Võ Hành Giả cố dậy được, thì áo quần mình mẩy đã lướt thướt như là chuột lội. Chàng quay nom xuống nước thì thấy thanh đao rơi ở đáy khe, vẫn lóng lánh soi lên mặt nước, bèn vội vàng lại lội xuống để nhặt lấy dao, dè đâu khi lội xuống nước, thì lại ngã lăn ra, dẫy sùng sục như cá quẫy trong chum, mà không sao lại dậy được nữa. Đương khi nguy cấp, thì có một bọn ước chừng mười mấy người, đều cầm gậy ở tay, đi theo đại hán, đầu đội nón chiên, mình mặc áo vàng, tay cầm gậy đỏan, mà cùng đi đến đó. Khi chúng nghe tiếng chó cắn, liền đứng dừng lại, nom xuống khe nước trỏ bảo nhau rằng:

– Lão sư ăn cướp lúc nãy, đánh tiểu Ca Ca đây, bấy giờ tiểu ca ca đi tìm đại ca không thấy…Hiện đương dẫn hai ba mươi trang khách đến tửu điếm để truy bắt, ai ngờ hắn đã nằm ở đây rồi?

Vừa nói dứt lời, thì thấy anh chàng bị đánh lúc nãy đã thay bộ quần áo khác, tay cầm thanh đao cùng với một bọn hai ba mươi người trang khách vác gậy vác côn, thổi khẩu hiệu mà kéo nhau đi đến.

Khi tới nơi thấy vậy, thì trỏ Võ Tòng mà bảo anh chàng mặc áo vàng rằng:

– Chính thằng sư ăn cắp này đánh tôi lúc nãy đó.

Anh chàng mặc áo vàng liền quát lên rằng:

– Chúng đâu! Trói nó lại kéo cổ về trang, đánh cho nhừ tử một mẻ. Chúng nghe nói đều xô xuống trói Võ Tòng lại mà khiêng lên bờ.Võ Tòng vừa phần say rượu, vừa phần bị ngã rét, cóng cả tay chân, không thể nào cựa được, đành phải chịu chết cho bọn kia giằn vật. Bọn kia kéo Võ Tòng lên, rồi lôi về một nơi trang viện rất lớn, hai bên toàn thị tường cao trắng xóa, liễu rủ xanh rì, vườn bọc chung quanh, mấy lớp cửa nhà ở giữa, chúng đem Võ Tòng vào, lột bỏ quần áo, cướp lấy các đồ giới đao hành lý, trói vào gốc cây liễu lớn, rồi thét người đem roi ra đánh. Vừa khi đánh được dăm ba roi, bỗng thấy một người ở trong nhà chạy ra, liền hỏi rằng:

– Các anh đánh ai làm vậy?

Anh mặc áo vàng, thấy người kia hỏi, bèn chấp tay lại mà đáp rằng:

– Dám bẩm sư phụ: Hôm nay anh em tôi cùng ba bốn người bạn quanh xóm đây, đi uống rượu ở tửu điếm ngoài kia, bỗng dưng bị lão sư ăn cướp này sinh sự huyên náo. Đánh em tôi một mẻ rất đâu, rồi ném em tôi xuống khe nước, sứt mẻ cả đầu óc ra. Sau may có anh em cứu về, mới thay quần áo rồi ra tìm hắn, thì thấy hắn đã chén hết cả rượu thịt của chúng tôi, mà say khướt nằm vật ở dưới khe nước. Nhân thế nên chúng tôi bắt nó đem nó đem về đây, đánh cho nó một trận…

Chúng tôi xem ra thằng này cũng không phải là người xuất gia, vì trên mặt có kim ấn bỏ xõa tóc xuống để che đi, tất nhiên một thằng bị tù tội gì, trốn tránh đến đây? Để chúng tôi hỏi rõ căn do, rồi đem nộp quan mới được.

Anh chàng bị đòn lúc trước, có ý tức giận mà rằng:

– Ta hỏi nó làm gì? Thằng ăn mầy ấy lúc nãy đánh tôi đau nhừ tử cả người, có lẽ đến mấy tháng nữa cũng không khỏi được; Vậy bất nhược cứ đem nó mà đánh cho chết, rồi đốt phắt nó đi, thì mới hả lòng tôi được.

Nói đoạn, vớ lấy roi toan quất đánh luôn.

Người kia chạy tới gần can ra mà bảo rằng:

– Hiền đệ hãy khoan tay, để tôi xem đã, anh chàng này ra dáng một tay hảo hán lắm.

Bấy giờ Võ Tòng đã hơi tỉnh táo trong người, nghe thấy họ nói vậy, thì cứ nhắm nghiền mắt lại, mà mặc thây cho nó đánh mắng, không nói năng một câu gì cả. Người kia chạy lại gần Võ Tòng nom kỹ các vết thương trên lưng rồi nói lên rằng:

– Quái lạ? Những vết thương còn rành rành thế này, có lẽ là một anh mới bị xử đoán chi đây?

Nói xong quay lại vuốt tóc ở mặt Võ Tòng lên, nhìn kỹ một lượt, rồi kêu lên rằng:

– Có lẽ Võ Nhị Lang, anh em ta chắc?

Hai anh chàng kia nghe nói thì cả kinh mà rằng:

– Sao, vị Hành Giả này lại là anh em với sư phụ hay sao?

Người kia đáp:

– Anh ta chính là Võ Tòng đánh hổ ở núi Cảnh Dương, mà tôi thường nói chuyện với anh em đấy. Không biết vì cớ sao, lại ăn mặc lối hành giả, mà lạc đến đây như thế?

Hai anh nọ nghe vậy, liền cởi trói cho Võ Tòng, lấy quần áo khô ráo đưa cho mặc, rồi mời ngay vào trong thảo đường.

Khi vào tới thảo đường, Võ Tòng vừa toan lạy tạ, thì người kia ra dáng nửa mừng nửa sợ mà bảo Võ Tòng rằng:

– Hiền đệ chưa tỉnh rượu, hay xin ngồi nghỉ một lát đã.

Nói đoạn liền bảo người đem nước nóng lên cho Võ Tòng lau rửa, và đem các thức bánh ngọt ra để cho Võ Tòng giã rượu. Võ Tòng được người kia hết dạ chu chuân, thì trong lòng thấy làm vui mừng khôn xiết, tỉnh hẳn cơn say, mà chấp tay lạy tạ.

Người kia là ai?

Chính là người họ Tống tên Giang, biểu tự là Công Minh vậy.

Bấy giờ Võ Hành Giả nói với Tống Công Minh rằng:

– Vẫn tưởng ca ca ở nhà Sài Đại quan nhân, sao lại đến đây như vậy? Chẳng hay anh em gặp nhau trong giấc chiêm bao đó sao?

Tống Giang đáp rằng:

– Từ khi cùng hiền đệ chia tay ở nhà Sài Đại quan nhân, rồi tôi ở lại đấy được hơn nửa năm nữa.Sau nhân sốt ruột vì nỗi phụ thân ở nhà, nên phải cho Tống Thanh về trước, để thăm viếng cửa nhà. Kế đó tiếp được thư nhà đưa đến, nói công việc ở nhà đã có Lôi Hoàng, Chu Đồng giúp đỡ, đều được yên ổn tất cả, duy còn có giấy truy nã bản thân, thì đã tư giấy đi các nơi để bắt, song cũng không lấy gì làm khẩm bách cho lắm. Lại nhân có Khổng Thái Công mấy phen cho người đên hỏi, sau thấy Tống Thanh về đó, mới biết là tôi đương ở nhà Sài Đại quan nhân, bởi vậy Khổng Thái Công cho người về tận đó, mà đón tôi về đây. Đây là Bạch Hổ Sơn; trang viện này gọi là Khổng Thái Công trang. Người đánh nhau với hiền đệ vừa rồi là con thứ hai của Khổng Thái Công, vì tính nóng nảy, hay sinh sự đánh nhau, nên thường gọi là Hỏa Đột Tinh Khổng Lượng: Còn người mặc áo vàng đây là con cả Khổng Thái Công, tên là Mao Đầu Tinh Khổng Minh, hai anh em đều học tập võ nghệ, tôi thường chỉ dẫn giúp cho, nên vẫn gọi tôi là sư phụ. Tôi ở đây cũng được hơn nửa năm, vài hôm nữa cũng muốn đi sang bên trại Thanh Phong một phen, xem sự thể thế nào? Khi tôi còn ở nhà Sài Đại quan nhân, nghe nói hiền đệ đánh hổ trên núi Cảnh Dương, rồi làm Đô Đầu ở huyện Dương Cốc, sau lại nghe thấy nói đánh chết Tây Môn Khánh, rồi không biết vì sao mà lại ăn mặc giả sư, đi đến đất này?

Võ Tòng liền đem chuyện mình, nào khi đánh hổ, nào khi làm Đô Đầu, khi giết Tây Môn Khánh, lúc gặp Trương Thanh cả vợ chồng và khi Thi Ân đánh Tưởng Môn Thần, lúc giết mười lăm người ở nhà Trương Đô Giám, rồi trốn về nhà Trương Thanh, ăn mặc Hành Giả, qua núi Ngô Công giết kẻ đạo nhân, cho đến ngày nay say rượu đánh nhau ở nhà tửu điếm; kể hết đầu đuôi cho Tống Giang nghe hết kỹ càng một lượt.

Bấy giờ hai anh em Khổng Minh, Khổng Lượng nghe nói thì cả kinh, đều cúi mình mà lạy rạp xuống đất. Võ Tòng vội vàng đáp lễ mà nói rằng:

– Vừa rồi tôi trót lỡ tay, xin các ngài bỏ lỗi đi cho.

Hai anh em nhà kia cũng khiêm tốn mà rằng:

– Cái đó là tội tại chúng tôi, xin ngài tha thứ cho là tốt.

– Các ngài đã có lòng chiếu cố đến tôi, thì xin trả lại cho các đồ trang phục cùng hành lý, chớ để thất lạc một chút cái gì, mà không tiện cho chúng tôi lắm.

Khổng Minh nói:

– Điều đó túc hạ không cần nghĩ, chúng tôi xin sai người cất giữ cẩn thận để nộp trả lại ngài.

Đoạn rồi Tống Giang cho mời Khổng Thái Công ra tiếp kiến Võ Tòng. Khổng Thái Công liền sai người nhà làm tiệc khỏan đãi rất là long trọng. Tối hôm ấy Tống Giang giữ Võ Tòng cùng ngủ một giường để kể chuyện hàn huyên trong nửa năm trời, không một câu gì không thú vị.

Hôm sau Khổng Thái Công lại sai giết dê mổ lợn, bày tiệc linh đình để đãi Võ Tòng. Các người thân thích trong thôn, cùng mấy người môn hạ gần đó, đều đến bái yết, Tống Giang thấy vậy, trong lòng mừng rỡ vô cùng. Khi tiệc đã tan, Tống Giang hỏi Võ Tòng rằng:

– Bây giờ Nhị đệ định đến đâu để nương thân được?

Võ Tòng đáp rằng:

– Đêm hôm qua tôi đã thưa chuyện với ca ca rằng: Trương Thanh có viết giấy cho tôi, lên chùa Bảo Châu, trên núi Nhị Long, để nhập bọn với Hoa Hòa Thượng Lỗ Trí Thâm, rồi vợ chồng hắn thu xếp đến sau.

– Nếu vậy thì tốt lắm…Chẳng dấu gì Nhị đệ. Nhà tôi viết thư đến nói với tôi rằng: Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh làm Trị trại ở trại Thanh Phong, biết chuyện tôi có giết chết Diêm Bà, nên có viết giấy bảo tôi đến trại đó ở chơi ít bữa. Tôi đã định đi chơi mấy hôm nay, song vì tiết trời còn khó chịu, nên chưa sao đi được. Nay mai thế nào cũng phải đến đấy một phen, vậy bất nhược rồi anh em ta cùng đến đó một thể, có được không?

– Ca Ca định đem tôi cùng đi, cũng là hay lắm, song ngày nay tôi đương bị tội với quan tư, dẫu gặp ân xá cũng không tha được, nên thế tôi mới quyết lòng mà lên núi Nhị Long để lạc thảo tị nạn. Vả chăng tôi ăn mặc lối sư, nếu đi với Ca Ca mà lỡ bị người ta bắt được, thì bất miễn lại thêm liên lụy đến ca ca không tiện. Đã hay rằng anh em sống chết cùng nhau,cũng không lấy gì làm ngại, song còn có Hoa Tri Trại đó thì sao? Vậy xin ca ca cứ mặc cho tiểu đệ sang núi Nhị Long rồi sau đấy, may ra trời có thương lại, mà được triều đinh xá tội chiên an, thì bấy giờ sẽ xin tìm ca ca cũng được.

– Nếu Nhị đệ có lòng quy thuận triều đình, thì có phen tất trời kia trông lại mà bảo hộ giúp cho. Vậy nay Nhị đệ hãy ở lại chơi đây mấy hôm rồi sẽ tùy lòng tự tiện, tôi không dám can gián làm chi.

Từ đó Võ Tòng cùng Tống Giang chơi ở trong trang mười hôm, rồi cùng nhau từ tạ xin đi. Khổng Thái Công hết sức lưu lại, mà không cho đi vội. Hai người lại phải ở luôn ba bốn hôm nữa, rồi nhất định cùng xin từ biệt. Khổng Thái Công lưu lại không được, liền đặt tiệc tiễn hành chè chén suốt ngày hôm đó. Sáng hôm sau Khổng Thái Công sai lấy một bộ quần áo sư mới may, cùng các khí cụ của Võ Tòng khi trước, trao trả Võ Tòng, và đưa ra năm mươi lạng bạc để tiễn chân hai người làm lộ phí. Tống Giang hết sức từ chối không lấy, sau hai bố con Khổng Thái Công nhất định bỏ vào khăn gói mà không cho trả lại. Hai người bất đắc dĩ phải nhận lấy tiền nong, rồi Võ Tòng lại ăn mặc lối Hành Giả như trước, còn Tống Giang cũng sửa soạn áo xiêm, lưng giắt dao găm, đầu đội nón chiên, cầm dao lớn, mà cùng nhau từ giã cha con họ Khổng.

Khổng Minh, Khổng Lương gọi trang khách đem hành lý cho hai người, rồi anh em cùng tiễn chân ra khỏi ngoài bảy mươi dặm, rồi mới bái biệt ra về. Bấy giờ Tống Giang đeo lấy khăn gói, cùng Võ Tòng vừa đi đường vừa nói chuyện với nhau, mãi tới lúc trời tối mới tìm vào ngủ trọ. Sáng hôm sau lại dậy sớm, cơm nước, xong rồi lại cùng đi với nhau.

Đi được bốn năm mươi dặm đường, đến chỗ ngã tư ở Thụy Long Trấn. Tống Giang liền tìm người quen ở quanh đó, mà hỏi thăm đường sang Nhị Long Sơn, và Thanh Phong Trại. Người ở đó đáp rằng:

– Đường đi Nhị Long Sơn rẽ sang bên tây, mà đi về Thanh Phong Trại, thì rẽ sang bên đông.

Tống Giang nghe rõ đường lối, rồi dắt Võ Tòng vào hàng rượu cùng uống, rồi bảo Võ Tòng rằng:

– Anh em ta nên chia ngả đây cho tiện.

Võ Tòng nói:

– Tiểu đệ xin đưa ca ca đi một quãng nữa, sẽ trở về lối này cũng được.

Tống Giang gạt đi mà rằng:

– Bất tất phải phiền như thế, dẫu đến đâu, rồi cũng ly biệt mà thôi.Hiền đệ phải nên cẩn thận tiền trình, tới đó nên chừa bớt rượu, cho khỏi sinh sự lôi thôi.Nếu sau này triều đình có giấy chiêu an, thì hiền đệ nên rủ Lỗ Trí Thâm cùng về quy phục, đem thân ra chốn biên cương để ra tài ngọn giáo thanh đao, lập chút công lao cùng xã tắc, mà hưởng sự vinh hoa, lưu danh sử sách như thế thì may ra mới khỏi uổng công một đời… Ta đây dẫu có chút lòng trung nghĩa, mà tài năng còn kém, chắc đâu tiến bộ về sau! Duy hiền đệ là một tay anh hùng như thế, tất nhiên làm được sự nghiệp phi thường, vậy hiền đệ nên nhớ lời ta mà tính toán sau này sao cho được gặp nhau là thỏa.

Võ Hành Giả cúi đầu vâng lời, cùng uống rượu một lát, rồi đứng dậy tính trả tiền hàng mà đi ra. Khi tới ngã ba, Võ Tòng thụp xuống đất lạy Tống Giang bốn lạy.

Tống Giang gạt nước mắt không nỡ rời tay trông Võ Tòng mà dặn rằng:

– Xin anh em chớ quên lời ta, phải bớt tính uống rượu, mà trọng lấy thân mới được.

Võ Tòng ngậm ngùi mà chia bước về Tây. Đằng này một mình Tống Giang thui thủi theo đường bên Đông, vừa đi vừa nghĩ nhớ đến Võ Tòng, không lúc nào trong dạ được yên.

Tống Giang đi được vài hôm, đến một nơi non cao rừng rậm, phong cảnh ưa nhìn, chàng vừa đi vừa nghiêng ngả ngắm xem, bất giác mặt trời gần tối mà không có chỗ nào trú chân cho tiện. Bấy giờ trong bụng kinh hoàng, e ngại mà tự nghĩ rằng: “Nếu phải đương trời mùa hạ, thì ta nghĩ trong rừng một tối cũng không hề chi, song bây giờ đương buổi mùa đông, gió sương lạnh lẽo, không những là rét mướt không yên, mà lỡ ra có hổ báo hay rắn độc tới nơi, thì làm sao mà giữ thân cho được!” Chàng nghĩ vậy, liền mải miết cố đi tìm một nơi để nghỉ tạm.

Ước chừng đi được gần một trống canh, trong bụng càng thấy nóng nảy lo sợ, bèn rảo cẳng bước chân, không kịp cúi nom xuống đất. Dè đâu đương đi bỗng vấp phải sợi giây giăng ngang trước lối, rồi thấy tiếng chuông ở trong rừng vang động ầm ĩ cả lên.Đoạn rồi có mười lăm mười sáu tên lâu la nấp ở trong rừng cây chạy xô ra;reo hò quát tháo mà bắt trói Tống Giang, cướp lấy thanh đao hành lý, rồi đánh lửa thắp đuốc giải Tống Giang lên núi.

Khi tới sơn trại, thấy xung quanh toàn thị gỗ vầy làm trại, chính giữa có một tòa thảo sảnh, trên kê ba bộ ghế tréo lót da hổ và ở phía dưới có tới trăm gian nhà lá. Bọn lâu la trói tròn Tống Giang như một cái bánh kéo cổ vào buộc ở cột cái, rồi có mấy tên lâu la ở trong sảnh nói rằng:

– Đại vương vừa mới đi nghỉ, không nên vào báo vội. Hãy đợi lát nữa Đại Vương tỉnh rượu sẽ mời ra đây, khóet ruột gan con trâu ấy làm thang giã rượu, rồi chúng ta thừa lộc miếng thịt tươi cho thú.

Tống Giang bị trói ở ngoài cột, nghe thấy nói thế, thì trong bụng nghĩ thầm rằng: “Mình thực là thiển cận quá chừng;chỉ vì giết một con đàn bà gian dâm vô lý, mà đến nỗi xẩy ra biết bao nhiêu câu chuyện nguy nan, khốn đốn; Ngày nay lại đem xương thịt mà tống táng ở đây, thì thực là uổng quá!” Bấy giờ thì tụi lâu la thắp đèn thắp đuốc sáng rực cả nhà, còn Tống Giang thì rét cứng cả người mà không sao cựa được, chỉ còn liếc mắt mà vơ vẫn nhìn quanh, rồi lại cúi đầu mà ngậm ngùi than thở!

Hồi lâu vào khoảng canh ba, chợt thấy mấy tên lâu la ở đằng sau chạy ra kêu lên rằng:

– Đại vương đã ra đó. Đoạn rồi cùng thắp thêm đèn đuốc ở trên sảnh sáng trưng như ban ngày vậy.

Tống Giang liếc mắt nom lên thấy Đại Vương ấy bước ra, đầu đội khăn điều, mình khoác áo lụa hồng, ngồi vào một cái ghế da hổ ở giữa.

Nguyên Đại Vương ấy, tổ quán ở đất Lai Châu, họ Yến tên Thuận, biệt hiệu là Cẩm Mao Hổ (Hổ lông gấm) vốn là một anh tài dê lái ngựa xuất thân, nhân vì buôn thua bán lỗ mới lưu lạc ở chốn sơn lâm mà xoay nghề cướp bóc.

Bấy giờ Yến Thuận hỏi chúng rằng:

– Các con bắt được trâu ấy ở đâu?

Tụi lâu là đáp:

– Chúng con phục sẵn ở đằng sau núi, chợt nghe thấy tiếng chuông kêu dống bên rừng, anh em vội chạy đến xem, thì con trâu này khoác khăn gói đi có một mình, vấp phải cái giây ngã lăn xuống đất, nhân vậy chúng con bắt về để hiến Đại Vương làm thang giải rượu.

Yến Thuận gật đầu khen tốt, rồi truyền đi mời hai Đại Vương nữa để ra đó cùng hưởng. Chúng lâu la đi mới được một lúc thì thấy mời hai vị Đại Vương nữa ra, cùng ngồi vào ghế ở trên sảnh với Yến Thuận. Một người bên cạnh tướng Ngũ Đỏan, đôi mắt sáng quắc, tổ quán ở đất Lưỡng Hoài. Họ Vương tên Anh, bọn giang hồ thường gọi là Nụy Cước Hổ (hổ cùn cẳng) nguyên trước làm nghề phu xe, sau phạm tội giết khách đi xe lấy của, bị bắt được, rồi vượt ngục trốn ra đến núi Thanh Phong, cùng Yến Thuận nhập vào một bọn. Còn anh chàng ngồi bên hữu, người trông mảnh dẻ thanh tú, mặt trắng râu ba chòm, đầu đội khăn hồng, nguyên quán ở Tô Châu Triết Giang, họ Trích tên Thiên Thọ, người ta thường gọi là Bạch Diện Lang Quân (Anh chàng mặt trắng) khi trước làm thợ bạc, sau nhân học được ít nhiêu võ nghệ, lưu lạc giang hồ, qua tới Thanh Phong Sơn, gặp Vương Nụy Hổ đánh nhau tới năm sáu mươi hiệp, quyết không được thua; Yến Thuận nhân thấy thủ đoạn hơi khá, bèn lưu ở trên núi, mà dự ngồi vào ghế thứ ba.

Bấy giờ ba người cùng ngồi chỉnh tề, rồi Vương Nụy Hổ bảo bọn lâu la rằng:

Nói đoạn, thì một tên lâu la cầm một cái chậu đồng lớn, đựng nước ở trước mặt Tống Giang, một tên lâu la nữa cầm thanh đao nhọn sáng nhoáng ở tay chạy đến, rồi hai tên lâu la túm vào té nước mà rửa bụng Tống Giang.

Phàm chỗ bụng người ta, toàn thị huyết nóng tụ lại, nay nếu lấy nước lạnh dội vào cho tan hết máu nóng rồi moi lấy tim gan ăn ngon vô hạn. Bọn lâu la rửa xong rồi, té nước lên rửa mặt Tống Giang.

Tống Giang thấy vậy thở dài mà than rằng:

– Tiếc cho Tống Giang chết ở đất này…

Chàng vừa than dứt, thì thấy Yến Thuận quát tiểu lâu la hãy khoan tay, mà hỏi lên rằng:

– Thằng ấy nói lẩm bẩm Tống Giang gì đó!

Tên tiểu lâu la bẩm rằng:

– Tên ấy kêu rằng: Tiếc cho Tống Giang bỗng dưng mà chết ở đây.

Yến Thuận nghe nói đứng dậy mà hỏi rằng:

– Anh chàng này có biết Tống Giang hay sao?

Tống Giang đáp:

– Chính tôi là Tống Giang đây.

Yến Thuận chạy đến gần mà hỏi luôn rằng:

– Anh là Tống Giang ở đâu?

Tống Giang đáp:

– Tôi là Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành, thuộc phủ Tế Châu đây.

Yến Thuận giựt mình hỏi rằng:

– Có phải Cập Thời Vũ Tống Công Minh ở Sơn Đông, giết chết Diêm Bà Tích đó chăng?

– Sao bác lại biết, chính tôi là Tống Tam Lang Tống Giang đó.

Yến Thuận nghe nói kinh ngạc, bỗng đổi sắc mặt, giật lấy dao ở tay tiểu lâu la, cắt hết giây trói ra, rồi cởi áo đỏ đương khoác ở mình, để khoác cho Tống Giang mà kéo mời vào ghế giữa. Đoạn rồi bảo Vương Nụy Hổ cùng Trịnh Thiên Thọ cùng đứng ra ngoài mà cúi rạp xuống để lạy.

Tống Giang ngạc nhiên vội vàng đáp lễ lại, rồi hỏi lên rằng:

– Vì cớ sao ba vị tráng sĩ, không giết tôi mà lại trọng đãi như vậy?

Nói đoạn cũng cúi xuống đất để lạy, Bấy giờ ba người kia đều quỳ xuống đất, rồi Yến Thuận nói lên rằng:

– Chúng tôi thực là có mắt, mà không biết được người hay chỉ nên khoé mắt vứt đi cho rảnh…Vừa rồi nếu không hỏi kỹ căn do, thì có lẽ hại đến nghĩa sĩ chứ không chơi…Chúng tôi xưa nay mười mấy năm lưu lạc giang hồ, vẫn nghe tiếng ngài là người trọng nghĩa khinh tài, cứu nguy đỡ nạn, song cũng là duyên hèn phận mỏng, nên chưa từng được gặp tôn nhan. Ngày nay cũng là trời xanh khiến cho chúng tôi được gặp ngài đây, thực là thỏa lòng khao khát xiết bao… !

Tống Giang khiêm tốn đáp rằng:

– Tôi đây đã có tài đức gì, mà được các ngài quá yêu như thế?

Yến Thuận tiếp luôn rằng:

– Nhân huynh là một người ơn to lượng rộng, kết nạp hào kiệt bốn phương, xưa nay ai không nghe tiếng, mà kinh phục uy phong. Bọn Lương Sơn Bạc hiện nay hưng thịnh lẫy lừng, nghe nói cũng nhờ ơn huynh chu toàn cho cả, vậy chẳng hay vì cớ sao mà một mình ngài lại qua đây như thế?

Tống Giang liền kể chuyện từ khi cứu Tiều Cái giết Diêm Bà Tích cho đến khi ở nhà Khổng Thái Công, định đến tìm Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh tới đây, cho mọi người nghe một lượt. Ba người kia cả mừng, sai lấy áo xiêm ra cho Tống Giang mặc, rồi giết dê ngựa, làm tiệc khỏan đãi suốt đêm mãi đến canh năm mới mời Tống Giang đi nghỉ.

Ngày hôm sau, Tống Giang lại đem các chuyện đi đường, cùng anh hùng khí phách của Võ Tòng thuật lại cho ba người nghe.

Ba người nghe nói, đều dậm chân vỗ tay mà kêu lên rằng:

– Chúng tôi thực là vô duyên, không được gặp, nếu nay có thêm người ấy ở đây, thì không biết rằng vui vẻ đến đâu?

Đoạn rồi ba người giữ riết Tống Giang ở đấy luôn năm bảy ngày chè chén chuyện trò rất là thỏa thích.

Bấy giờ đương dạo sơ tuần tháng chạp, tục người Sơn Đông, thường hay đi viếng thăm phần mộ tổ tiên. Một hôm chợt thấy bọn lâu la ở dưới núi lên báo rằng:

– Trên đường cái có một cỗ kiệu, bảy tám người theo sau, gánh theo một đôi quang quả, đi thăm mộ qua đây.

Vương Nụy Hổ vốn là một tay hiếu sắc, nghe chúng báo vậy, chắc là ở trong kiệu có đàn bà, liền vội vàng đếm bốn năm mươi tên tiểu lâu la, mà xin phép xuống núi. Tống Giang cùng Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ cản ngăn không được, đánh để mặc cho Vương Nụy Hổ đi, rồi ba người ung dung uống rượu với nhau ở trong ttrại. Hồi lâu thấy tên tiểu lâu la đi thám thính chạy vể báo rằng:

– Bọn bảy tám người đương đi, trông thấy Vương Nụy Hổ kéo quân xuống, thì bỏ chạy trốn mất, chỉ còn bắt được người đàn bà trong kiệu, và đôi quang quả vàng hương ngoài ra không có gì nữa.

Yến Thuận nghe nói liền hỏi chúng rằng:

– Người đàn bà ấy hiện ở đâu?

Tên tiểu lâu la bẩm:

– Vương Đầu Lĩnh bắt mang vào phòng ở đằng sau núi.

Yến Thuận nghe vậy thì vỗ tay cả cười. Tống Giang nói rằng:

– Vương huynh lại có tính tham luyến nữ sắc, như thế không phải là việc của tay hảo hán.

Yến Thuận cả cười mà rằng:

– Bác ấy việc gì cũng chịu khó cả, duy có một bệnh ấy thì khó lòng mà chừa đi được.

Tống Giang nói:

– Tôi cùng hai ngài, ta nên xuống cản ngăn đi mới được.

Yến Thuận cùng Trịnh Thiên Thọ vâng lời, rồi dẫn Tống Giang đi. Khi đến phòng Vương Nụy Hổ, vừa đẩy cửa ra, đã thấy chàng ta đương giằng co với người đàn bà, để cầu hoan ở đó. Chàng thấy ba người đến, thì vội vàng đẩy người đàn bà ra, rồi mời ba người vào ngồi chơi.

Tống Giang hỏi người đàn bà kia rằng:

– Nương tử là vợ con nhà ai? Có việc chi mà qua lại nơi đây làm vậy?

Người đàn và ra dáng e thẹn cúi chào ba người mà đáp rằng:

– Chúng tôi là vợ Tri Trại ở trại Thanh Phong, nhân mẫu thân mới mất, đến nay là lễ Tiểu Tường, chúng tôi qua đây thăm mộ, xin các ngài rộng lòng thương mà cứu tính mạng cho.

Tống Giang nghe nói ngạc nhiên, kinh lạ nghĩ thầm trong bụng: “Nay mai ta định đến Hoa Tri Trại chơi, chẳng hay người này là vợ Hoa Tri Trại, có lẽ nào mà ta không cứu được? ” Chàng nghĩ đoạn liền hỏi rằng:

– Vậy thì phu quân nàng là Hoa Tri Trại, sao không cùng đi với nàng?

Người đàn bà đáp rằng:

– Dám thưa Đại Vương chúng tôi không phải là vợ Hoa Tri Trại.

– Vừa rồi nàng nói là vợ Tri Trại ở trại Thanh Phong đó mà…

– Thưa ngài ở trại Thanh Phong hiện nay có hai Trị Trại, một ông quan văn và một ông quan võ: Quan võ là Hoa Tri Trại, còn quan văn tức Tri Trại Lưu Cao là chồng chúng tôi.

Tống Giang nghe nói lại nghĩ thầm rằng: “Chồng hắn đã là đồng liêu với Hoa Tri Trại, nếu nay ta không cứu thì khi đến đó sao cho tiện… ? ” Nghĩ đoạn liền bảo với Vương Nụy Hổ rằng:

– Tôi có một câu này, không biết rằng quan bác có ưng ý cho chăng?

Vương Anh đáp rằng:

– Ca Ca có điều gì xin cứ cho nghe.

Tống Giang nói:

– Đại phàm những đám hảo hán, nếu phạm vào ba chữ “Lưu Cốt Tủy” tất là bị thiên hạ chê cười. Huống chi người đàn bà này lại là vợ một quan tước của triều đình, vậy xin bác nể lòng tôi, nghĩ đến hai chữ Đại Nghĩa của đám giang hồ mà tha cho người ta thì phải?

Vương anh nói:

– Dám bẩm ca ca: Vương Anh tôi lây nay chưa có một người Áp Trại Phu Nhân, để sớm khuya làm bạn cho vui, vả chăng ở đời nay, những đám mũ cao áo dài nào có ra chi, mà ca ca phải đem lòng bênh vực. Xin ca ca để mặc cho tiểu đệ thì hơn.

Tống Giang nghe nói quỳ xuống đất mà rằng:

– Nếu hiền đệ muốn cầu một người Phu Nhân Áp Trại, để sau này Tống Giang xin tìm một người xứng đáng về đây, còn người này là vợ anh em đồng liêu của bạn tôi, thế nào cũng xin hiền đệ nể lòng tôi mà tha thứ cho người ta.

Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ thấy vậy, liền chạy đến nâng Tống Giang dậy mà nói rằng:

– Xin ca ca đứng dậy cho, cái đó điều chi là khó.

Tống Giang tạ ơn mà rằng:

– Nếu các ngài có lòng nghĩ vậy, thì tôi lấy làm cảm tạ vô cùng.

Yến Thuận thấy Tống Giang cố ý muốn tha người đàn bà, nên cũng không cần hỏi Vương Anh có bằng lòng hay không; liền quát đám phu kiệu mà cho khiêng người đàn bà ấy đi.

Người đàn bà nghe nói vội quay đầu vào Tống Giang, lạy lấy, lạy để mà miệng kêu:

– Tạ ơn Đại Vương, tạ ơn Đại Vương.

Tống Giang bảo người đàn bà rằng:

– Cung nhân bất tất phải lạy tạ tôi, tôi là người khách ở Vận Thành qua đây, chứ có phải là Đại Vương nào đâu!

Người đàn bà lạy tạ xong rồi, quay ra bước lên kiệu mà giục đi xuống núi. Bấy giờ Vương Nụy Hổ vừa buồn vừa thẹn không nói năng một câu gì. Tống Giang liền dắt ra ngoài sảnh mà khuyên rằng:

– Hiền đệ không nên để bụng làm chi, sau dẫu thế nào tôi cũng xin vì hiền đệ tìm được một chỗ nhân duyên cho xứng đáng; không khi nào tôi dám sai lời.

Yến Thuận cùng Trương Thanh cùng vỗ tay cả cười. Còn Vương Nụy Hổ bị Tống Giang bó buộc lễ nghĩa như vậy, tuy trong lòng hơi hơi khó chịu, song cũng không hề dám ra miệng, đành phải gượng cười mà cùng nhau uống rượu cho vui.

Bên kia tụi quân lính ở trại Thanh Phong bị Vương Nụy Hổ cướp mất Cung Nhân, thì vội vàng chạy về báo cho Lưu Tri Trại biết.

Lưu Tri Trại nghe nói,đùng đùng nổi giận thét lấy quân trượng ra đánh phạt tụi quân lính, quân lính kêu rằng:

– Đám chúng tôi có năm bảy người, mà bọn lâu la kể có ba bốn mươi kẻ, thì làm sao mà nổi?

Lưu Tri Trại thét lên rằng:

– Chúng bây nói láo! Nếu không đi cứu được Cung nhân về đây thì ông bỏ tù cả suốt lượt bây giờ.

Tụi quân lính bị quở phạt, không biết làm thế nào, đành phải nhờ tám mươi tên lính khỏe mạnh ở trong trại mà đem khí giới đi để cứu.

Khi đi tới nửa đường, thì bỗng gặp hai tên phu kiệu, đương khiêng kiệu phu nhân mà chạy như gió thổi chạy về. Tụi quân lính liền hỏi thăm vì cớ gì mà được thoát nạn như vậy? Cung nhân ngồi trong kiệu đáp rằng:

– Chúng bắt ta lên núi, sau nghe nói ta là Lưu Tri Trại phu nhân thì chúng hoảng hốt kinh sợ, lạy tạ rồi vội vàng gọi phu kiệu đưa ta về ngay lập tức.

Đoàn quân lính kêu rằng:

– Xin Cung nhân thương hạ cho anh em chúng tôi mà nói với Tướng Công, là anh em chúng tôi đã đánh cướp cứu được Cung nhân trở về, nếu không thì chúng tôi bị đòn vọt nguy mất.

Chị chàng kia đáp rằng:

– Được, cứ về đó, rồi ta sẽ có cách nói cho.

Nói xong bọn quân lính đều cúi đầu lạy tạ, rồi cùng nhau quay gót trở về. Bấy giờ hai tên phu kiệu cứ cắm cổ chạy nhanh như biến, không còn ai đuổi theo cho kịp. Bọn quân lính thấy vậy, thì hỏi rằng:

– Hai các anh mọi khi vẫn đi chậm như vịt mà sao ngày nay lại chạy nhanh quá như thế?

Hai tên phu kiệu đáp rằng:

– Chúng tôi có muốn nhanh làm gì…. Vì đánh vun vút lên ở đằng sau, cho nên phải chạy chạy đấy thôi.

Đám người kia cười phá lên mà rằng:

– Các anh nói chuyện ma qủy hay sao; đằng sau có ai mà kêu rằng họ đánh?

Hai tên phu kiệu mới quay đầu nom lại, rồi kêu lên rằng:

– Trời ơi! Té ra chúng tôi đi vội quá, nghe tiếng chân quần quật, vẫn tưởng là có người đánh ở đằng sau…

Chúng nghe nói nhìn nhau mà cười ở vỡ bụng. Khi về tới trại, Lưu Tri Trại trông thấy Cung nhân thì cả mừng mà hỏi rằng:

– Ai cứu cho Phu nhân về ngay như thế?

Chị đàn bà đáp:

– Chúng cướp tôi lên núi, không được động hề đến chân, đã toan đem ra để giết, sau thấy nói tôi là vợ Quan Tri Trại ở trại Thanh Phong, thì anh nào cũng kinh sợ mà lạy van chí chết. Lại may có đám quân lính đến cứu về, vì thế nên tôi mới được thoát nạn chóng như vậy.

Lưu Cao nghe nói hớn hở tự đắc, bèn truyền lấy mười bình rượu và giết một con lợn để khao thưởng bọn quân lính.

Nói về Tống Giang, từ khi cứu thoát được chị đàn bà kia, lại lưu lại ở sơn trại luôn năm bảy hôm nữa, rồi mới từ giã ba người để sang chơi Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh. Bọn anh em Yến Thuận cố giữ cùng không được, bèn sai bày tiệc tiễn hành, và đưa thêm một ít kim ngân, để Tống Giang đi đường chi dụng. Sáng hôm sau khi Tống Giang ra đi, ba vị Đầu Lãnh lại sai đem rượu đi theo, ra ngoài hai ba mươi dặm, cùng Tống Giang uống chén ly bôi, rồi trân trọng dặn rằng:

– Ngày nay xin tạm biệt ca ca, rồi sau khi tới trại Thanh Phong, mong rằng ca ca sẽ lại về đây cho anh em chúng tôi được gặp, thực là hạnh phúc vô cùng.

Tống Giang đinh ninh từ tạ vâng lời, rồi khoác khăn gói, vác thanh đao, bái biệt mọi người, mà trông chừng thẳng trỏ Thanh Phong.

Quan san sương tuyết một màu.

Lòng xưa man mác đường sau gập ghềnh,

Giang hồ một lái lênh đênh,

Con chèo nghĩa hiệp tung hoàng bao phen

Sự đời ai hẹn mà nên,

Cái quay vô ảnh hoàng thiên khéo vần.

Trót gan chơi với phong trần,

Phong ba kia với phong vân chọn gì…

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này vừa tả xong chuyện của Võ Tòng, tiếp tay tả luôn chuyện của Tống Giang, liên đới cả luôn chuyện của Hoa Vinh, trung gian chuyện của ba anh hùng sơn trại Thanh Phong, cũng xuất hiện ra, với phép diễn tả dứt nối ấy, tác giả theo Bút pháp của văn chương tả ra rất khéo, vì sự tích của 108 vị anh hùng, trong 70 hồi, tả được đầy đủ, là một việc khó, nên lối diễn tả thấy như ca nhạc, lời ca vừa dứt, tiếng nhạc tiếp theo sau, trở nên tai tiếng ca với nhạc.

Hồi 32: Xem Ngao Sơn Tống Giang bị bắt – Náo Phong Trại Hoa Vinh báo thù

Thanh Phong ở ngay vào giữa quãng ngã ba đất Thanh Châu. Chỗ ấy tên là Thanh Phong trấn đường thông ba mặt, núi non giặc cướp rất nhiều, nhân thế mới đặt trại Thanh Phong để trông coi địa hạt. Quanh trại đó có tới bốn năm ngàn nhà ở, dân sự làm ăn kể cũng có điều sầm uất. Giữa trần có chợ to phố lớn, bên nam có một trại nhỏ của quan võ Hoa Vinh đóng đó.

Hôm ấy một mình Tống Giang đi tới trấn Thanh Phong, hỏi thăm đến cửa trại Hoa Vinh, nói với quân lính canh cổng để vào báo trước.

Một lát, có một vị quân quan trẻ tuổi chạy ra đón chào Tống Giang, rồi thét lính đỡ lấy khăn gói và đao, mà mời Tống Giang vào ngồi ở chính sảnh. Đoạn rồi cúi đầu lạy bốn lạy mà nói rằng:

– Từ khi bái biệt huynh trưởng tới nay thấm thoát đã năm sáu năm trời, trong lòng rất là khát vọng. Dạo trước huynh trưởng giết một đứa yên hoa, rồi bị quan quân truy tầm định bắt. Tiểu đệ nghe nói như ngồi phải chông gai, đã viết luôn mười mấy phong thư, gửi sang gia trang để mời đón mà không thấy huynh trưởng tới chơi. Nay bỗng đâu được gặp huynh trưởng ở đây, thực là thỏa lòng vô hạn. Nói xong lại cúi đầu xuống lạy, Tống Giang vội vàng đỡ dậy mời ngồi nói chuyện. Hoa Vinh khiêm tốn ngồi chếch về một bên, rồi Tống Giang đem chuyện mình thuật hết đầu đuôi cho Hoa Vinh. Hoa Vinh nghe nói có ý cảm động mà rằng:

– Té ra thời vận nhân huynh chuân kiển quá chừng, ngày nay tới đây, xin nhân huynh hãy ở tạm vài năm rồi sau đây sẽ liệu đường xuất sử.

Nói đoạn mời Tống Giang vào ngồi chơi ở nhà trong, rồi gọi vợ là Thôi Thị và em gái ra lạy mừng. Nhất diện sai lấy áo xiêm khăn giầy cho Tống Giang tắm rửa thay giặt, rồi mới mời vào uống rượu.

Trong khi uống rượu Tống Giang đem chuyện cứu phu nhân của Lưu Tri Trại thuật cho Hoa Vinh nghe.

Hoa Vinh chau đôi mày mà bảo Tống Giang rằng:

– Huynh trưởng cứu người ấy làm gì” Chúng tôi đang muốn làm cho nó chừa bớt cái mồm điêu hoạt thì mới hả lòng.

Tống Giang ngạc nhiên hỏi rằng:

– Quái lạ! Tôi thấy nói là vợ quan Tri Trại ở trại Thanh Phong nên tôi nghĩ đến tình đồng liêu của hiền đệ, mà hết sức ngăn trở Vương Nụy Hổ để cứu cho thoát nạn, vậy chẳng hay là cớ sao mà hiền đệ lại nói như thế?

– Nguyên huynh trưởng không biết: Trại Thanh Phong đây nếu để cho một mình tôi coi giữ, thì cường đạo xa gần có đâu dám sinh lòng quấy nhiễu, ai ngờ mới đây có anh khốn nạn ấy đến, làm Tri Trại ở chốn này, tiếng gọi là văn quan mà một chữ không biết, chỉ chăm chăm lừa dối đám dân gian, mà pháp luật triều đình không còn chút gì là được. Tiểu đệ tuy là một chức võ quan, song vẫn bị hắn ta chọc tức luôn luôn không thể nào giết ngay đi được cho nó thỏa lòng… Huynh trưởng còn cứu làm chi cho uổng sức. Vả chăng con mụ ấy lại là một đứa bất lương chỉ phỉnh phờ ông chồng để làm càn làm bậy hãm hại lương dân mà ăn tiền đút lót. Những người khốn nạn như thế, giết đi còn chưa đáng tội lỗi hơi đâu cứu vớt thêm phiền.

Tống Giang khuyên Hoa Vinh rằng:

– Hiền đệ chớ nên nghĩ thế! Xưa nay thường nói “Không nên buộc chết cho người”, vả chi lại là đồng liêu với hiền đệ, dẫu có điều không phải cũng nên che đậy cho người; thế mới là phải đạo.

Hoa Vinh hối ngộ mà rằng:

– Huynh trưởng dạy thế rất là phải lắm. Để ngày mai tôi có vào việc quan gì đó, sẽ nói chuyện huynh trưởng cứu vợ con hắn cho hắn biết.

Tống Giang gật đầu khen rằng:

– Nếu vậy thì càng rõ cái hay của hiền đệ ra, tự nhiên là thiên hạ phải phục.

Từ đó hai vợ chồng Hoa Vinh khỏan đãi Tống Giang càng ngày càng trân trọng và dọn dẹp một gian phòng ở nhà trong, để lưu Tống Giang ở đó. Cách bốn năm hôm, Hoa Vinh sai đầy tớ riêng dắt một ít tiền, để đưa Tống Giang đi chơi xem phong cảnh trong trấn. Tống Giang đi xem, thấy chợ búa huyên hòa, phố phường rộn rịp, nào nơi quán thấp, nào chốn lầu cao, miếu mạo chùa chiền, phong cảnh sầm uất. Mỗi ngày Hoa Vinh lại cắt một người cho đem tiền đi hầu Tống Giang, song mỗi khi vào hàng quán rượu chè, thì Tống Giang lại bỏ tiền ra chi dụng, còn tiền của Hoa Vinh, thì để mặc cho người nhà được hưởng. Bởi thế Tống Giang ở đó chưa được bao lâu, mà bọn người cửa người nhà không ai là không có lòng kính mến.

Ngày tháng thoi đưa, sớm chiều lần lữa, Tống Giang ở trại Thanh Phong được hơn một tháng trời, mà chốc đã đông tàn xuân đến, phong quang khác hẳn mười phần. Bấy giờ đến Tết nguyên tiêu, các dân cư ở trấn Thanh Phong thu góp tiền nong, kết trên giăng giấy kết hoa, treo năm bẩy trăm ngọn đèn hoa rất là rực rỡ; còn ở trong miếu thổ thần, cùng các nơi phố sá đều treo đèn hết thảy, dẫu không ví được với kinh sư là nơi đô hội song cũng chẳng khác chi một thành bất dạ vậy.

Buổi sáng hôm ấy Hoa Vinh tiếp rượu Tống Giang ở trong trại, mãi đến gần trưa mới xin phép đứng dậy, kiểm điểm mấy trăm tên lính, sai đi đàn áp nơi phố sá mà canh giữ bốn bên cửa trại cho nghiêm. Vào khoảng xế chiều Hoa Vinh trở về trại, nói với Tống Giang rằng:

– Lẽ ra đêm nay tiểu đệ xin đi hầu huynh trưởng, để xem phong cảnh nguyên tiêu là phải, song ngặt vì tiểu đệ phải trông coi quân lính, không thể nào dứt ra đi được. Vậy đến tối xin cho mấy tên người nhà, dẫn hiền huynh đi du ngoạn mọi nơi, tiểu đệ xin đợi ở nhà để khi về đây, ta cùng uống rượu cho vui.

Nói xong sai dọn các thức điểm tâm lên cho hai người cùng ăn uống. Tối hôm ấy khí trời ấm áp, lờ mờ có bóng trăng xuống, Tống Giang cùng ba bốn tên người nhà Hoa Vinh dạo bước xem hội thi đèn. Khi ra tới phố, thấy nhà nào nhà ấy, đèn thắp từng hàng, hoa treo suốt lượt, nào đèn vẽ lối cổ tích, đèn lối Bách mẫu đơn hoa, đèn lối hoa sen, đèn kiểu hoa phù dung…không một kiểu gì không có. Bốn năm người đi lững thững đến trước cửa miếu Thổ Thần, xem phong cảnh Ngao Sơn một lúc, rồi lại dắt nhau quay đi. Mấy người đi về phía bên nam được chừng năm bảy trăm thước, thì thấy phía trước mặt đèn đóm tưng bừng, có một đoàn người đang đứng quanh vùng đó, một nơi tường viện lớn, mà tiếng nổi thanh la, cùng tiếng giọng họ reo ầm ĩ vang tai. Tống Giang thấy vậy, vội vàng đến để xem, ai ngờ người lùn khó xem, lại phải đứng sau tụi người đám đông, nên không sao xem rõ được, sau tụi người nhà phải đạp đám người đông, để cho Tống Giang len vào tận nơi, để xem cho rõ. Khi vào tới nơi, thấy một tụi con nhà nghề, đương nhảy múa rồi rút lên ở đó Tống Giang thấy lão nhà nghề nhảy múa uốn éo nhiều lối buồn cười, thì vỗ tay mà cười to lên mấy tiếng. Bấy giờ vợ chồng Lưu Cao đương ngồi xem ở bên trên. Người vợ thấy tiếng cười hơi quen tai, liền ngẩng cổ nom, thấy Tống Giang đứng đó, thì vội vàng trỏ mặt mà bảo chồng rằng:

– Kìa thằng lùn đen kia, chính là thằng đầu sỏ đám giặc, nó bắt thiếp ở núi Thanh Phong dạo trước đó. Lưu Tri Trại ngạc nhiên kinh sợ liền gọi sáu bảy tên đầy tớ thân mà quát lên rằng:

– Bắt thằng giặc lùn đen kia cho ta.

Tống Giang ngẩng đầu trông lên, nghe tiếng quát bắt lại, thì chợt trông thấy vợ chồng Lưu Cao ở đó, bèn vội vàng co cẳng chạy luôn. Bất đồ chạy được mươi nhà, thì bọn kia đã đuổi kịp đến sau, liền bắt Tống Giang trói lại, mà dong về trong trại. Mấy anh người nhà Hoa Vinh đi hầu Tống Giang, thấy vậy thì chạy về báo cáo cho Hoa Vinh biết.

Bấy giờ Lưu Cao về trại, thét giải Tống Giang lên mà thét mắng rằng:

– Quân kia, mày là giặc cướp ở núi Thanh Phong ai cho phép bây dám cả gan đến đây xem đèn xem hội?

Tống Giang kêu rằng:

– Chúng tôi là Trương Tam ở huyện Vận Thành, bạn thân với Hoa Tri Trại, mới đến chơi mấy hôm nay ở đây, làm gì biết núi Thanh Phong, sao mà ngài dạy thế?

Con vợ Lưu Cao ở phía sau bình phong nghe thấy vậy, liền chạy ra mà nói lên rằng:

– Đồ ăn cướp kia, lại còn cãi à? Mầy có nhớ khi ta gọi mày là Đại Vương không?

Tống Giang đáp rằng:

– Cung nhân lầm rồi, bấy giờ tôi nói với cung nhân rằng: Tôi đây cũng là khách ở Vận Thành bị bắt đến đây, nào phải Đại Vương đâu?

Lưu Tri Trại nói:

– Mầy bảo rằng mày là thằng bị cướp đến đó…sao mày nay lại ở đây xem đèn được?

Con mụ kia lại tiếp luôn rằng:

– Chính mầy ngồi ghế giữa ở sơn trại, ta kêu là Đại Vương mãi nào mày có nói gì đâu?

Tống Giang thở dài mà rằng:

– Cung nhân không nhớ gì đến công tôi cứu đỡ cho cung nhân được thoát nạn gian dâm, nay còn đổ vạ cho tôi là ăn cướp, thì còn trời đất nào nữa.

Chị chàng kia nghe nói, cả giận mà quát lên rằng:

– Quân rắn đầu rắn mặt ấy, không đánh cho nó một mẻ thì sao nó chịu nhận.

Lưu Cao khen là phải, liền thét lính lấy roi lên vật đánh Tống Giang vọt bắn máu tươi rồi khóa xích hai chân tay, đợi sáng hôm sau làm xe tù để giải lên châu.

Bên kia Hoa Vinh nghe thấy lũ người nhà về báo thì giật mình kinh ngạc, liền viết phong thư, sai người thân mật sang nói với Lưu Cao, để cứu cho Tống Giang. Khi người nhà đưa thư sang đến văn trại, Lưu Cao cho gọi vào sảnh sự, cất lấy thư bóc ra xem thấy trong thư viết đại khái như sau này:

– “Hoa Vinh bái thượng Lưu Cao tướng công. Nhân tôi có người bà con thân tên Lưu Văn mới ở Tế Châu đến đây. Hôm qua vì đi xem hội đèn, lỡ có xúc phạm tôn uy, thì xin ngài nghĩ tình tha thứ đi cho tôi sẽ xin đến cảm tạ. Mấy lời thô thiển, lượng cả xét soi”

Lưu Cao xem xong nổi giận đùng đùng, xé nát phong thư mà mắng rằng:

– Anh Hoa Vinh này vô lễ quá! Hẳn là quan tước triều đình sao dám thông đồng với giặc, mà bưng bít mắt ta? Thằng giặc này, nó đã khai là tên Trương Tam, ở Vận Thành, thế mà Hoa Vinh dám viết giấy đến đây nói là Lưu Văn ở Tế Châu… ? Hắn tưởng rằng nói họ Lưu, thì mình nghĩ tình cùng họ, mà tha cho nó chăng…Có khi nào ta đây lại khờ dại đến thế? Tả hữu đâu! Đem thằng người nhà này đuổi cổ nó ra.

Tên người nhà bị đuổi ra, vừa căm tức, vội chạy về báo cho Hoa Vinh biêt. Hoa Vinh nghe nói, càng lấy làm nóng lòng sốt ruột, liền sai người nhà đóng ngựa, rồi mặc giáp, đeo cung, cầm đao, dẫn mấy mươi tên binh lính giáo gậy, mà thẳng xông sang trại Lưu Cao.

Bấy giờ đám lính canh cổng bên trại Lưu Cao trông thấy Hoa Vinh đến, thì anh nào cũng sợ mất mật, mà chạy tán đi các ngả.

Hoa Vinh đi vào đến trong sảnh, liền xuống ngựa, cầm giáo ra tay, rồi dàn mấy tên quân ra trước cửa sảnh kêu to lên rằng:

– Mời Lưu Tri Trại ra đây nói chuyện…

Lưu Tri Trại nghe tiếng Hoa Vinh, thì sợ mất hồn mất vía, nấp chui vào một chỗ mà không dám thò ra.Hoa Vinh đứng đợi hồi lâu, không thấy Lưu Cao ra, liền hô quân lính đi ra thẳng đằng sau, để cứu người bị bắt. Ba bốn mươi tên lính, vâng lệnh đổ ùa đi tìm, đến một gian phòng ở dưới trại, thấy Tống Giang bị trói treo lên xà nhà, xích sắt xích cả chân tay, mà thịt da sứt ra từng chỗ, tụi quân lính túm lại cởi nâng Tống Giang xuống, tháo bỏ xích sắt, rồi cùng nhau vực ra ngoài cửa sảnh.

Hoa Vinh trông thấy rất là thổn thức trong lòng bèn sai lính đưa về nhà trước, rồi nhảy lên ngựa mà nói to lên rằng:

– Lưu Cao! Ngươi là một ông quan văn Tri Trại ở đây, sao nỡ đãi Hoa Vinh như thế? Nhà ai không có bà con thân thích, ngươi nỡ lòng nào mà bắt biểu huynh ta, đem về nhà mà vu rằng trộm cướp cho đành? Để nay mai ta sẽ nói chuyện với ngươi.

Nói đoạn dẫn chúng về trại, để trông nom phục thị Tống Giang.

Máu nóng đã chan lò chí khí

Gan già chi ngại lúc gian truân!

Biết chăng hỡi khách hồng quần,

Oán kia sao để đền ân cho đành?

Bấy giờ Lưu Cao thấy Hoa Vinh cứu người đem đi rồi, liền âm ọe ra công đường, điểm lấy hai trăm người sang trại Hoa Vinh để cướp lại.

Bọn hai trăm quân lính đó, có hai người làm giáo đầu, một người võ nghệ khá sắc sảo tinh nhanh, song không đọ nổi với Hoa Vinh kia được. Khi chúng được lệnh của Lưu Cao, thìtrong lòng đã có ý ngần ngại, nhưng mà lệnh trên bắt buộc, không thể từ nan, đành phải chỉnh đốn cung thương, mà kéo sang Hoa Trại.

Sáng sớm hôm ấy, chúng kéo nhau sang đến cửa trại, thấy cửa vẫn mở toang không đóng, chúng đều kinh sợ, không anh nào dám cả gan mà sấn đi vào trước.

Bấy giờ Hoa Vinh ngồi trong nhà sảnh, thấy chúng đứng đông nghịt cả ngoài cửa, bèn lấy cung tên giơ lên mà quát to bảo chúng rằng:

– Bớ quân sĩ các ngươi, oan có đầu mà nợ thì có chủ. Nay Lưu Cao sai các ngươi đến đây, toan để báo thù cho hắn, song ta e hai viên Giáo đầu mới đến, chưa biết võ nghệ của Hoa Vinh, vậy ta hãy bắn mấy mũi tên, cho các anh coi thử…Nếu không sợ thì cứ vào đây mà rửa mặt Lưu Cao. Trông…mũi tên này ta bắn vào cái quả nắm ở đầu thanh phạng của Môn thần bên tả đây.

Hoa Vinh nói dứt lời, rồi bắn đến tách một cái, chính đúng vào đầu phạng Môn thần bên tả. Hai trăm người trông thấy, đều kinh sợ thất thần. Hoa Vinh lại lấy mũi tên thứ hai, rồi quát bảo chúng rằng:

– Chúng bây xem mũi tên thứ hai này ta bắn vào cái mào đỏ mũ Môn thần bên hữu đây.

Nói đoạn, thấy đánh tạch một tiếng; mũi tên đã cắm vào giữa mào đỏ ở giữa mũ Môn thần bên hữu, không trệch đi một ly nào.

Bấy giờ hai mũi tên ấy vẫn dán ở trên cánh cửa, Hoa Vinh lại lấy ra một múi tên thứ ba, rồi quát lên rằng:

– Bây trông mũi này ta bắn vào giữa bụng tên Giáo đầu mặc áo trắng trong đám quân đó.

Viên Giáo đầu kia nghe tiếng thì kêu lên, rồi ngoắt mình chạy trước còn đám quân lính thì ồ nhau mà té chạy hết cả.

Bấy giờ Hoa Vinh sai đóng cửa trại lại, rồi trở vào nhà trong nói chuyện với Tống Giang, rằng:

– Việc này thực là lỗi tại tiểu đệ, vì sơ ý một chút, để đến nỗi huynh trưởng phải chịu những khổ nhục như vậy, xin huynh trưởng tha trong lỗi cho.

Tống Giang đáp rằng:

– Tôi đây có quản chi những điều ấy, duy Lưu Cao tất còn sinh sự chưa thôi, vậy anh em ta phải nghĩ cách phòng bị thế nào thì mới được.

Hoa Vinh nói:

– Có thế nữa thì tiểu đệ xin liền bỏ chức quan này mà liệu cho nó một mẻ là xong.

Tống Giang thở dài mà rằng:

– Ai ngờ con vợ nó lại nỡ lòng đem oán trả ân, xui chồng đánh bắt, làm nhục đến mình như vậy. Tôi đã toan nói rõ tên họ, lại e tiết lộ việc Diêm Bà Tích, nên phải nói dối là Trương Tam ở huyện Vận Thành. Dè đâu Lưu Cao lại đem lòng tàn nhẫn cho tôi là Hổ Trương Tam ở Vận Thành, đến làm giặc ở núi Thanh Sơn, và toan đóng xe tù để giải. Nay nếu không có hiền đệ cứu cho, thì dẫu lưỡi sắt môi đồng cũng không thể nào biện bạch phân minh ra được.

– Nguyên trước tiểu đệ tưởng anh ta là người biết chữ, thì tất nhiên thương người cùng họ. Dè đâu hắn lại xử bạc tình đến thế! Hay cho nhân tình thế cố, lắm nỗi buồn tênh, nghĩ đến bao nhiêu, lại càng thêm căm tức.

Tống Giang cười nhạt mà rằng:

– Hiền đệ còn nói chi hai chữ tình nghĩa ở đời vậy, cho thêm bận lòng, bây giờ hắn đã bị hiền đệ công nhiên đến cướp lấy người về, rồi sai đám quân lính đến đây, lại sợ kinh chạy tán, thì tất nhiên phải tư giấy đi các nơi, để sinh sự với ta, vậy ta phải liệu trước thế nào mà lánh thân mới được. Tôi định rằng chiều nay tôi phải chạy về núi Thanh Phong, còn hiền đệ ở đây với hắn dù khi có xẩy việc thì bất quá cho là đôi bên văn võ bất hòa, cũng không khi nào đến tội. Nhược bằng tôi còn vất vưởng ở đây, nhỡ ra bị nó bắt một lần nữa, thì khó lòng mà phân thuyết cho ra…Hiền đệ nghĩ sao?

Hoa Vinh nghĩ ngợi hồi lâu, rồi đáp rằng:

– Huynh trưởng là bậc cao minh, nghĩ vậy rất là phải lắm, song hiện nay còn đương đau đớn như vậy, thì đi làm sao được?

– Đành vậy, việc gấp đến nơi, dẫu thế nào không đi cũng không được.. Hiền đệ để mặc tôi đi mới xong.

Hoa Vinh nghe nói, cũng không dám cưỡng lời, liền sai mua thuốc cao cho Tống Giang dán vào các chỗ đau, và sắp sửa các đồ hành lý, để tối hôm ấy Tống Giang cất lẻn về núi Thanh Phong.

Đêm khuya một bước ngại ngùng,

Thói đời lạnh ngắt lửa lòng nóng ran!

Trông vời khói hợp mây tan,

Thân này nợ với giang san thế nào?

Lưu Cao từ khi thấy quân lính tan nát chạy về, ai nấy đều kinh sợ cái oai thế hùng dũng của Hoa Vinh, thì trong lòng lấy làm căm tức, liền nghĩ ra một kế, mà tự nói một mình rằng: “Hoa Vinh đã cướp được tên giặc ấy về, tất nhiên đêm nay cho trốn trên núi Thanh Phong, rồi sáng mai sẽ tranh biện với ta…dẫu cho đến tai quan trên, thì chẳng qua hai bên văn võ bất hòa, cũng không làm gì được hắn. Vậy đêm nay ta phải sai vài ba mươi tên phục sẵn bên ngoài năm dặm đường để đón. May ra mà vớ được thằng giặc ấy, thì ta sẽ lẳng lặng, cho người lên báo với châu phủ, để về bắt cả Hoa Vinh, mà kết quả nó đi một thể bấy giờ toàn trại Thanh Phong sẽ thuộc về ta cai trị, không còn đứa nào dám ho he láo xấc với ta!” Chàng nghĩ đoạn, liền gọi hơi hai mươi tên lính, sắp sẵn các đồ khí giới mà dặn dò cẩn thận, để đến tối đi bắt Tống Giang. Vào khoảng canh hai tối hôm ấy, quả nhiên thấy quân lính bắt trói Tống Giang đem về Lưu Cao cả mừng lấy làm đắc sách, liền sai đem Tống Giang giam vào nhà sau, giữ kín không cho ai biết, và nhất diện thảo công văn cho hai tên tâm phúc, lên báo với quan Tri Phủ Thanh Châu.

Quan Phủ Thanh Châu, họ Mộ Dung, tên là Ngạn Đạt, tức là anh nàng Quý Phi vợ vua Huy Tôn nhà Tống bấy giờ, sinh bình cậy thế em gái ngang dọc ở đất Thanh Châu, tàn hại lương dân, lừa dối liêu hữu, không một điều chi là kiêng nể không làm, hôm đó đương ngồi coi hầu, bỗng tiếp được công văn của Lưu Tri Trại đưa đến, Tri Phủ xem xong lấy làm kinh ngạc mà rằng:

– Hoa Vinh là con cháu công thần, có sao dám thông đồng với cường tặc ở núi Thanh Phong như vậy? Việc này chưa biết hư thực ra sao, song ta cắt người qua đó xem xét hư thực mới được.

Nói đoạn liền cho gọi Đô Giám bản châu đến để sai đi.Đô Giám này tên là Hoàng Tín, võ nghệ cao cường, đã từng nổi tiếng ở đất Thanh Châu. Trong địa hạt Thanh Châu có ba chốn ác sơn, một là núi Thanh Phong, hai là núi Nhị Long, ba là núi Đào Hoa, đều có giặc cướp tụ họp ở đó, Hoàng Tín thường tự phụ, có phen trừ hết giặc cướp ở ba núi mới nghe, nhân thế người ta đặt tên cho Trấn Tam Sơn Hoàng Tín.

Bấy giờ Hoàng Tín vâng lệnh Tri Phủ, liền chọn lấy năm mươi tên lính sắp sửa mũ giáp, nhảy lên mình ngựa, tay cầm đôi thanh kiếm, mà kéo quân mau tới Thanh Phong. Khi tới nơi, Tri Trại là Lưu Cao đón tiếp, mới vào nhà trong, mở tiệc thiết đãi Hoàng Tín, khao thưởng các hàng quân lính, và nhất diện sai bắt Tống Giang ra cho Hoàng Tín xem.

Hoàng Tín xem xong bảo với Lưu Cao rằng:

– Thằng này bất tất phải hỏi lôi thôi làm gì,cứ đóng ngay xe tù bỏ nó vào đó, rồi viết chữ vào lá cờ là tên đầu cướp Hổ Trương Tam ở núi Thanh Phong mà giải đi cho rảnh.

Tống Giang nghe vậy, đành mặc cho họ xử trí, không cãi nói vào đâu được nữa, Hoàng Tín lại hỏi Lưu Cao rằng:

– Khi bắt được tên Trương Tam này, Hoa Vinh có biết hay không?

Lưu Cao đáp rằng:

– Tiểu quan bắt được từ đêm hôm qua, liền đem giấu ngay vào nhà trong, có lẽ Hoa Vinh vẫn tưởng là nó trốn thoát được rồi, nên không thấy động tĩnh chi cả.

– Nếu vậy thì hay lắm! Sáng mai cứ cho bày tiệc ở công đường, và sai bốn mươi người nấp quanh ở đó, rồi tôi đi đến trại Hoa Vinh nói dối là quan phủ Mộ Dung nghe thấy hai bên văn võ bất hòa, nên cho tôi về đây, mời sang Văn Trại để uống rượu, mà xếp dàn cho im chuyện. Khi sang đến đấy phải dặn quân lính trước, cứ nghe hiệu tôi đập chén thì đổ xô ra trói lại, rồi giải lên phủ một thể, như thế phỏng có được không? Lưu Cao cả mừng khen rằng:

– Kế sách của tướng công thực là thần diệu, khác gì bắt ba ba trong hũ, còn trốn đi đâu cho thoát được!

Sáng hôm sau Lưu Cao sai người làm tiệc, bày dọn ra ngoài công đường, gọi mấy chục tên lính, cho nấp kín ở chung quanh, rồi đến gần trưa thì Hoàng Tín cưỡi ngựa dẫn vài ba người hầu đi sang bên trại Hoa Vinh. Khi tới nơi, bọn quân lính báo cho Hoa Vinh biết. Hoa Vinh hỏi chúng rằng:

– Hoàng Tín đến đó, có nói là việc chi không?

Quân lính đáp rằng:

– Hoàng Đô Giám chỉ nói là đến thăm ngài, chứ không có việc gì cả.

Hoa Vinh nghe vậy, liền ra cửa đón tiếp mời vào ngồi chơi trong sảnh mà hỏi rằng:

– Dám thưa Đô Giám, chẳng hay tướng công qua đây chơi có việc gì?

Hoàng Tín đáp rằng:

– Hạ Quan nay vâng lệnh Tri Phủ, đến đây: Vì nghe nói hai ngài không được hòa thuận với nhau, quan phủ chỉ e các ngài vì nỗi tư thù, mà làm lỡ mất việc công, nên phải sai tôi đem dê rượu đến đây để cùng các ngài phân giải. Hiện giơ đã bày sẵn sàng ở bên Công Đường Văn trại, vậy xin ngài cùng lên ngựa đến đấy ngay cho.

– Hoa Vinh tôi, đâu dám khinh rẻ Lưu Cao, chẳng qua ông ta là một ông quan chính, thường hay tìm bới những sự lỗi lầm của Hoa Vinh, dè đâu đến tai quan trên như thế. Nay lại phiền cho Đô Giám đến đây, quan trên như thễ. Nay lại phiền cho Đô Giám đến đây, thực chúng tôi không biết lấy gì mà trả ơn cho được.

Hoàng Tín ra mặt thân mật, ghé vào tai Hoa Vinh sẽ nói nhỏ rằng:

– Quan Phủ vốn biết túc hạ là người tài đảm, hữu dụng trong lúc can qua, chứ như lão kia là văn quan, thì có làm gì được! Nay ngài cứ đi ngay cho. Nói xong lại thúc giục Hoa Vinh mau mau đứng dậy cùng đi. Hoa Vinh giữ lại, uống chơi vài chén rượu, Hoàng Tín gạt đi mà rằng:

– Để khi giảng giải xong rồi, ta uống rượu cho thỏa chí với nhau, ngại gì?

Hoa Vinh phải vâng lời, lập tức sai người đóng ngựa đóng cương cùng Hoàng Tín ra đi. Khi tới văn trại hai người cùng xuống ngựa Hoàng Tín dắt tay Hoa Vinh đi vào công đường, cùng Lưu Cao thi lễ, rồi ba người ngồi vào bàn dự tiệc. Bấy giờ lính tráng đã dắt ngựa của Hoa Vinh buộc ra sau trại, và cài cửa trước cửa sau rất là cẩn thận. Hoa Vinh ngồi trong tiệc rượu, tự nghĩ Hoàng Tín đối với mình cùng là hàng quan võ, thì tất nhiên thành thực với nhau, mà không nghĩ ngại điều chi, cho nên cứ phóng tâm uống rượu, Hoàng Tín nâng một chén rượu mời Lưu Cao mà rằng:

– Quan Phủ nghe nói hai ngài không được thỏa thuận với nhau, ngày nay sai Hoàng Tín qua đây, là cốt để vì các ngài mà dàn xếp cho yên, từ nay xin các ngài phải lấy quốc gia làm trọng, có công việc gì, lại bàn định với nhau mà thi hành cho thỏa thích.

Lưu Cao đáp rằng:

– Lưu Cao tôi là một kẻ bất tài, song cũng biết được đường kia lẽ nọ, có dám kêu cựa điều chi, cái đó chẳng qua là người ta thêm đặt nói càn, làm phiền đến Tri Phủ cùng tướng công đây, thực chúng tôi lấy làm cảm động vô hạn.

Hoàng Tín cười rằng:

– Nếu ngài giữ được như vậy, thì còn gì hơn nữa.

Đoạn rồi lại rót chén rượu thứ hai đưa cho Hoa Vinh mà khuyên rằng:

– Cứ theo như lời Lưu Tri Trại nói: Thì điều đó chẳng qua thêm đặt bởi người ngoài, chứ các ngài có đâu như thế? Vậy xin ngài uống chén rượu này để thỏa thuận cho vui.

Lưu Cao lại rót một chén mời Hoàng Tín mà rằng:

– Vì việc chúng tôi mà phiền đến Đô Giám tới đây,vậy một chén rượu này xin ngài cúi nhận uống cho.

Hoàng Tín cảm ơn, đỡ lấy chén rượu cầm ở tay, liếc trông ra thấy mười mấy tên lính đi vào công đường, chàng liền vứt ngay chén xuống đất để ra hiệu. Bấy giờ bốn tên công đường bỗng ồn ồn có đến bốn năm mươi tên đổ xô ra mà túm lấy Hoa Vinh, Hoàng Tín quát lên rằng:

– Trói nó lại.

Hoa Vinh thấy thế liền kinh ngạc kêu lên rằng:

– Tôi có tội gì…Tôi có tội gì?

Hoàng Tín cười nhạt, rồi quát mắng rằng:

– Lại còn chối hay sao? Người là một quan chức dám kết thông với giặc Thanh Phong để toan mưu phản triều đình như thế phỏng đáng tội gì? Ta đây còn nghĩ đến tình diện khi trước, nên không muốn bắt cả vợ con nhà ngươi đó thôi.

Hoa Vinh cãi lại rằng:

– Làm cướp phải có chứng cớ mới được chứ?

Hoàng Tín nói:

– Để ta đem chứng cớ đoan đích cho mà xem, không còn kêu ca gì nữa…Chúng đâu? Đem ra đây.

Nói đoạn thì thấy quân lính đẩy một cỗ xe tù, thấy Tống Giang nằm co ở trong xe đó. Hoa Vinh thấy vậy giật mình đờ hẳn người ra, mà không biết nói làm sao được nữa.

Hoàng Tín lại nói:

– Cái đó ta có biết đâu, hiện có người nguyên cáo là Lưu Cao đây.

Hoa Vinh cười nhạt mà rằng:

– Được lắm! Người ấy chính là người thân quyến của ta ở huyện Vận Thành đến chơi, các ngươi lại muốn vu cho là ăn cướp cũng được. Để khi giải đến Thượng Ty ta đã có cách.

Hoàng Tín cười mà rằng:

– Phải, tôi giải bác lên phủ, rồi bác lên đấy mà kêu.

Nói đoạn, quay ra bảo Lưu Cao điểm lấy một trăm lính trại để đi, và đem xe tù ra để giam Hoa Vinh mà hộ tống giải phủ.

Hoa Vinh nói với Hoàng Tín rằng:

– Đô Giám đánh lừa tôi đến đây, dù sao công việc thế nào đã có triều đình xử trị, song cũng nên nghĩ lại tôi đây là một chức võ quan mà tha cho, đừng bắt phải bỏ xiêm áo, cứ để tôi ngồi vào xe tù cũng được.

Hoàng Tín nói:

– Cái đó thì được, xin vâng.

Nói xong liền cho Hoa Vinh ngồi vào xe tù, rồi gọi Lưu Tri Trại sắp sửa để cùng đi áp giải lên phủ, mà không cho hại đến tính mạng tội nhân.

Mới hay:

Cơ trời họa phúc xưa nay,

Trong gang tấc đã đổi thay mấy lần,

Hễ ai biết mẹo hồng quân,

Chữ Tài chữ Lụy xoay vần làm sao?

Dấu thân trong cuộc ba đào?

Khoe đời xem xét thế nào cho tinh?

Lạ chi đen bạc thế tình,

Lỡ khi oan nghiệt đếm mình kêu ai?

Lời bàn của Thánh Thán:

Nhà văn có bút pháp, gọi là theo cành tiếp lá, mỗi lần diễn tả phải khác nhau ra, song le tự sự cho thanh khiết, dùng bút cho minh nhã, cũng không thể coi thường, vì như đạo chơi non núi, dạo qua một cảnh núi, lại hỏi thăm một cảnh núi, lúc bấy giờ, dạo qua lối tắt tiểu kiểu với những cảnh bờ cong bãi cát, dòng nước lượn quanh…chợt đâu núi trước chưa hồn vía vừa định, thì núi sau đã tới tai mắt lại để vào tuy rằng trong gian lắm nỗi bực mình, song chẳng phải là không thỏa ý, nay dạo chơi qua một cầu, một nước, một bãi, một bờ…quang cảnh đã thú, huống chi cả bảy mươi hồi chuyện, đều chép ra như vẽ bao nhiêu quanh cảnh khác nhau. Đây ý nói của Bình giả, xét thấy một hồi này tả ra cảnh ngộ Tống Giang lâm nạn ly kỳ ở trại Thanh Phong, vì một Lưu Cao, liên đới Hoa Vinh, cũng chỉ vì Tống Giang lánh nạn kia, lại gặp nạn này, theo bút pháp tả ra gọi là theo cành tiếp lá, thấy ở một hồ này vậy.

Tác giả tả Hoa Vinh rất là văn tú, đối với hảo hán, đối với đồng liêu thấy hơn hẳn người, sau chuyện Võ Tòng, ít có một người như thế xứng đáng Hổ thần Nho Tướng, chia ra hai phần, họp lại toàn bích vậy.

Hồi 33: Đường Thanh Châu, Trấn Tam Sơn ra sức – Núi Thanh Phong, Tịch Lịch Hỏa mắc mưu

Bấy giờ Lưu Tri Trại mình mặc áo nhung phục, tay cầm quân khí, cưỡi lên mình ngựa, cùng với Hoàng Tín, dẫn hơn một trăm quân, đao gươm sáng quắc, chiêng trống vang lừng, đi ra cổng trại mà áp tải Hoa Vinh và Tống Giang, trông chừng thẳng nẻo Thanh Châu. Đi được ba bốn mươi dặm đường, gần đến một khu rừng kia, bỗng thấy đám lính đi trước bảo nhau rằng:

– Phía rừng trước mặt có người nom dòm, ta hãy đứng dừng lại.

Nói xong liền đứng dừng lại cả. Hoàng Tín thấy vậy, ngồi trên mình ngựa mà bảo rằng:

– Sao đương đi lại đứng dừng như thế?

Chúng bẩm rằng:

– Phía trước có người thám thính chi đó.

Hoàng Tín quát lên rằng:

– Mặc xác nó, cứ đi đi. Dần dần đi gần tới khu rừng trước mặt, thì bỗng nghe có tiếng thanh la khua gỡ vang lừng, quân chúng ai nấy đều kinh sợ hoang mang, phải cố công ra sức mà chạy.

Hoàng Tín thấy vậy, quát chúng đứng lại sắp hàng ra trước mặt, rồi bảo Lưu Cao coi áp lấy xe tù. Lưu Cao ngồi trên mình ngựa, cố hết sức mà không sao cất mồm vâng lên được, trong miệng chỉ lẩm bẩm khấn rằng:

– Nam mô cứu khổ cứu nạn thiên tôn…ối trời ơi! Mười vạn quyển kinh, ba mươi đàn tiếu, cứu vớt cho tôi…

Chàng vừa khấn, vừa run sợ sắc mặt biến hẳn, khi vàng khi xanh như người mất máu. Duy Hoàng Tín là một tay võ quan xuất thân, nên vẫn bền gan vững dạ, vỗ ngựa xông đến để xem.

Khi gần tới nơi, thấy có bốn năm trăm tiểu lâu la, người to sức khỏe mặt mũi dữ tợn, đầu bít khăn hồng mình mặc áo ngắn, lưng đeo gươm sáng, tay cầm giáo dài, chia bốn ngả vây bọc lấy bọn quân quan. Đoạn rồi có ba hảo hán ở trong rừng xông ra, một người mặc áo xanh, một người mặc áo tím, và một người mặc áo hồng, đều đầu đội khăn chữ Vạn, tay vác thanh đao, cùng trổ ra ngăn đón đường đi.

Người đi giữa là Cầm Mao Hổ Yến Thuận, người đi cạnh là Nụy Cước Hổ Vương Anh, và người đi cánh dưới là Bạch Diện Lang Quan Trịnh Thiên Thọ ba người cùng quát lên rằng:

– Ai đi qua đó, phải đứng dừng lại nộp ba nghìn quan tiền thuế đường đây, rồi mới được đi.

Hoàng Tín ngồi trên mình ngựa thét mắng rằng:

– Các anh không được vô lễ thế, Trấn Tam Sơn ở đây có biết không?

Ba anh hảo hán lại trừng mắt mà quát lên rằng:

– Anh là Trấn Vạn Sơn cũng phải để ba nghìn quan tiền lại đây, bằng không thì chúng ta không buông tha cho đi. Hoàng Tín đáp rằng:

– Ta là Đô Giám đi việc quan làm gì có tiền mà cho các ngươi?

Ba chàng kia cả cười mà rằng:

– Đô Giám thì làm gì? Đến ngay Hoàng Đế qua đây, cũng phải nộp ba nghìn quan mới được. Nếu không có thì lưu mấy người lại đây, rồi sau đem tiền đến chuộc.

Hoàng Tín nghe nói nổi giận đùng đùng mắng rằng:

– Quân cường tặc này vô lễ quá… ?

Nói xong quát tả hữu nổi trống chiêng vỗ ngựa múa gươm xông ra đánh Yến Thuận. Bên kia ba vị hảo hán đều múa đao xông vào cự địch. Hoàng Tín ngồi trên mình ngựa, hết sức đánh đỡ được hơn mười hiệp, thì nghe chừng sức kém, khó lòng mà địch nổi ba người. Đằng kia Lưu Cao vẫn run cầm cập, đứng ra nhìn lại thấy địa thế như vậy, thì chỉ chực thừa cơ mà chạy thoát thân. Sau Hoàng Tín thấy thế ba người hăng hái, sợ khi lỡ ra mình lại bị bắt thì tất nhiên giảm mất uy danh, liền ngoắt cương ngựa quay về lối sau để chạy. Ba anh hảo hán thấy vậy cùng nhau gắng sức đuổi theo. Hoàng Tín không kịp nom đến quân lính, ra roi hết sức mà chạy tháo một mình về tót ngay Trấn Thanh Phong.

Quân lính trông trước sau không thấy Hoàng Tín đâu nữa, liền reo hò ầm ĩ, bỏ cả xe tù mà kéo nhau chạy hết.

Bấy giờ còn trơ một mình Lưu Cao, thấy nguy cấp tới nơi, vội vàng quất ngựa ra roi cũng toan chạy mau cho thoát. Dè đâu mới chạy được mấy bước, thì bỗng bị đám lâu la giật giây chăng dưới mặt đất, làm cho con ngựa ngã gục xuống, mà bắn hẳn Lưu Cao ra ngoài. Bọn lâu la kéo nhau vào bắt trói Lưu Cao, rồi cướp lấy xe tù mở ra để cứu. Khi đó Hoa Vinh đã đạp phá xe tù của mình, nhẩy bổ ra ngoài giựt đứt các giây trói ở tay, rồi phá tan xe tù kia để đón Tống Giang ra. Bọn lâu la bóc lột quần áo của Lưu Cao đưa cho Tống Giang mặc rồi cướp lấy con ngựa của Lưu Cao,và ba cỗ ngựa đóng xe, mà đưa Tống Giang về trước. Đoạn rồi ba tay hảo hán cùng Hoa Vinh và mấy tên tiểu lâu la trói trần truồng Lưu Cao mà áp giải lên sơn trại.

Nguyên sau khi ba vị hảo hán ở núi Thanh Phong đã từ biệt Tống Giang thì trong lòng lấy làm áy náy không yên, bèn sai mấy tên lâu la tinh thạo, đi đến trấn Thanh Phong để dò xem tin tức.Sau khi nghe biết Hoàng Tín cùng Lưu Cao đã bắt cả Hoa Vinh cùng Tống Giang mà đóng xe tù giải lên quan phủ. Nhân thế ba tay hảo hán phải ra công gắng sức, đem tiểu lâu la chận đánh giữa đường, mà cứu hai người về trại.

Hôm đó vào khoảng canh hai, kéo nhau về đến sơn trại, vào tụ nghĩa sảnh, ba người mời Tống Giang và Hoa Vinh ngồi giữa, rồi sai dọn rượu lên cùng ngồi tiếp đãi, và cho phép đám tiểu lâu la cùng đi đánh chén với nhau. Bấy giờ Hoa Vinh cảm tạ ba tay hảo hán mà nói rằng:

– Hoa Vinh cùng ca ca tôi, nhờ được ba tay hảo hán vừa cứu cho, thực là ân sâu nghĩa nặng, chúng tôi xin khắc cốt minh tâm, để sau này báo đáp. Duy Hoa Vinh tôi có vợ và em gái ở trại Thanh Phong tất nhiên là bị Hoàng Tín bắt bớ lôi thôi, vậy nay có phương kế nào mà cứu ra cho được?

Yến Thuận đáp rằng:

– Xin Tri Trại cứ vững tâm, chắc rằng Hoàng Tín cũng không khi nào dám bắt cung nhân, mà nếu có nỡ lòng quyết bắt thì tất nhiên cũng phải đem qua lối này, chứ không đi đâu thoát được. Đến sáng mai ba anh em tôi xin xuống núi một phen để đón cung nhân và lệnh muội về đây một thể.

Nói đoạn liền gọi tiểu lâu la sai đi trước để dò thăm tin tức. Hoa Vinh nghe nói liền đứng dậy tạ ơn Yến Thuận, Tống Giang bảo với Yến Thuận rằng:

– Xin hiền đệ truyền giải Lưu Cao lên đây cho.

Yến Thuận vâng lời, sai lâu la trói Lưu Cao vào cột nhà ròi nói với Tống Giang rằng:

– Xin moi lấy ruột gan quân tàn ác ấy để mừng cho ca ca. Hoa Vinh nói:

– Để đó, tôi hạ thủ cho mới được.

Tống Giang trỏ mặt Lưu Cao mà nói rằng:

– Quân tàn ác bất nhân kia, ta với ngươi xưa nay có can thiệp thù oán gì nhau, ngươi nỡ nào nghe một đứa đàn bà vong ân bội nghĩa mà hại đến ta… ?

Hoa Vinh đứng dậy nói lên rằng:

– Ca ca hỏi làm gì những giống khốn nạn ấy cho nó bận mồm.

Nói đoạn liền mang dao ra rạch lấy ruột Lưu Cao đem vào để trước mặt Tống Giang, rồi sai lâu la vứt xác vào một xó.

Dao oan liếc đá giang hồ,

Từ nay bội bạc ngoan ngu hết hồn?

Bấy giờ Tống Giang nói với mọi người rằng:

– Ngày nay tuy đã giết được đứa thất phu đê mạt ấy, song còn con mụ đàn bà khốn nạn kia, ta cũng không thể nào mà tha cho được.

Vương Anh đáp luôn rằng:

– Sáng mai tôi xin đi bắt về đây, tất phen này về tay tôi hẳn.

Chúng nghe nói ai nấy đều ôm bụng cả cười. Đoạn rồi ăn uống vui cười mãi đến đêm khuya mới nghỉ.

Sáng hôm sau cùng nhau bàn định đi đánh trại Thanh Phong, Yến Thuận nói với mọi người rằng:

– Hôm qua bọn lâu la đều bị khó nhọc suốt ngày,hãy xin tạm cho nghỉ một hôm, rồi sáng mai sẽ đi sớm cũng được

Tống Giang cùng mọi người đều khen phải, liền cho tụi lâu la chơi nghỉ một hôm, để ngày hôm sau đi đánh trại.

Nói về Hoàng Tín, một mình chạy trốn về trại Thanh Phong, bèn kiểm điểm binh mã canh giữ bốn mặt cửa trại, rồi thảo công văn giải bầy sự nguy cấp: “Hoa Vinh liên kết với giặc núi Thanh Phong, trại Thanh Phong sớm hôm nguy cấp”, để báo với Tri Phủ Mộ dung và xin sai lương tướng mau mau trừ liễu cho xong.

Quan Tri Phủ Mộ Dung tiếp được công văn phi báo khẩn cấp về việc quân tình, lại lấy làm cả kinh liền lập tức sai gọi Thanh Châu chỉ huy Tổng quản binh mã là Tần Thống chế, để bàn định việc quân.

Người này họ Tần tên Minh, quê ở Khai Châu Sơn Hậu tính nóng nảy, tiếng to như sấm, người ta thường gọi là Tịch Lịch Hỏa Tần Minh vốn nhà dòng dõi võ quan. Khiến cây gậy lang nha (nanh con lang) sức khỏe muôn người khôn địch. Bấy giờ Tần Minh nghe lịch Tri Phủ cho mời, bèn vội vàng vào nha thương nghị. Quan Phủ Mộ Dung đưa giấy phi báo của Hoàng Tín cho Tần Thống Chế xem.

Thống Chế xem xong cả giận nói rằng:

– Thằng trẻ con đỏ đầu dám vô lễ đến thế thì thôi! Việc này ngài không cần phải lo nghĩ, tôi xin đem quân mã đi ngay, nếu không băt được giặc, xin thề không trông thấy ngài nữa.

– Nếu tướng quân chậm trễ một chút, thì e sợ khi họ đến đánh trại Thanh Phong nguy mất.

– Khi nào dám chậm trễ, đêm nay tôi xin điểm lấy binh mã; rồi sáng sớm mai phải đi ngay mới được.

Quan Phủ nghe nói cả mừng, liền truyền lịnh sắp sẵn các thức rượu thịt cùng lương khô, đem để ra ngoài thành khao thưởng quân sĩ. Khi đó Tần Minh nghe nói Hoa Vinh làm phản, thì trong bụng sôi nổi giận dữ, bèn lên ngựa về dinh Chỉ Huy, điểm lấy một trăm quân mã, một trăm quân bộ, truyền cho ra thành dàn trận thế, để sắp sửa hành binh.

Quan phủ Mộ Dung đem người nhà ra một nơi tự viện ở ngoài thành, sai chưng bánh hâm rượu để đợi quân sĩ ra thành mà khao thưởng. Khi kéo quân ra tới cửa thành trước mặt viết một là cờ đỏ bảy chữ” Binh mã Tổng Đốc Tần Thống Chế” rất to, Tần Minh mặc áo nhưng phục, ngồi trên mình ngựa, quả nhiên là một bậc dũng tướng anh hùng.

Tần Minh dẫn quân mã đến gần tự viện, thấy Tri Phủ đứng đón ở đó. Liền vội vàng xuống ngựa để nghinh tiếp. Tri Phủ nâng chén rượu mà mời khuyên Tần Minh, và dặn dò cặn kẽ, chúc cho chóng được tấu khải trở về.

Khi khao thưởng quân sĩ đã xong, bèn nổi mấy tiếng súng hiệu, rồi Tần Minh từ giã Tri Phủ mà nhảy lên mình ngựa, dàn thành đội ngũ nghiêm trang mà kéo quân đến núi Thanh Phong.

Bọn tiểu lâu la ở trên núi biêt tin tức, liền phi báo các vị hảo hán. Bấy giờ các vị hảo hán đương sửa soạn đi đánh trại Thanh Phong bỗng nghe tin báo Tần Minh kéo quân đến đánh, thì ai nấy đều nhìn nhau không biết lấy kế sách gì để mà cự địch.

Hoa Vinh bảo với mọi người rằng:

– Việc này các ngài không không cần phải lo, xin cứ cho tiểu lâu la ăn uống no say, rồi tôi sẽ có kế sách để thi hành. Trước hết ta hãy chơi nhau bằng sức, rồi sau phải dùng mẹo mới xong. Xin cứ như thế này…như thế này…có được không?

Tống Giang vỗ tay khen rằng:

– Diệu kế…diệu kế…phải làm như thế mới được.

Nói đoạn, liền cùng với Hoa Vinh cắt đặt các việc, và sai đám tiểu lâu la phải phòng bị sẵn sàng, để thi hành kế sách.

Hoa Vinh chọn lấy con ngựa tốt, một bộ áo giáp dấy, cùng các đồ gươm giáo cung tên ra để nghinh địch.

Nói về Tần Minh khi dẫn quân đến địa phận núi Thanh Phong, liền hạ trại ở ngoài mươi dặm. Sáng hôm sau đầu trống canh năm, quân sĩ trở dậy thổi cơm ăn thật sớm. Aên uống xong rồi, nổi súng hiệu, kéo quân ra chỗ rộng ở sát núi Thanh Phong, mà dàn thành trận thế. Bỗng đâu nghe thấy tiếng chuông trống vang trời, Tần Minh liền kim cương ngựa, đứng dừng lại, hoành ngang cây gậy lang nha, trợn mắt lên nhìn, thì thấy Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, dẫn một toán binh ngựa phi xuống núi.

Khi xuống đến chân núi. Hoa Vinh sai bày thành trận thế, rồi cầm giáo ngồi trên mình ngựa, quay mặt cúi chào Tần Minh.

Tần Minh giận dữ quát lên rằng:

– Người là một mệnh quan của Triều đình, vốn dòng cửa tướng xưa nay, triều đình sai ngươi giữ chức Tri Trại coi giữ một phương, lộc nước ơn vua, phỏng có điều gì tệ bạc? Lẽ nào ngươi dám liên kết với giặc cướp mà bội bạc lại triều đình như vậy. Nay ta đến đây bắt người đem về nộp với triều đình, ngươi có phải là biết điều thì xuống ngựa mà chịu trói cho xong, chớ để ta bận đến chân tay thêm việc.

Hoa Vinh tươi cười đáp rằng:

– Dám bẩm Tổng Quản, như Hoa Vinh này có bao giờ dám mang tâm bội bạc triều đình, cho nặng…Cái đó chẳng qua là lão Lưu Cao lấy không làm có, đem việc công để trả thù riêng, khiến cho tôi có nhà như mất, có nước như không, bởi thế nên phải tạm đến lánh mình ở đây, xin Tổng Quản xét lại mà giải cứu cho.

Tần Minh không hỏi phải trái chi nữa, quát ngay lên rằng:

– Không xuống ngựa cho ta trói lại, còn đợi đến bao giờ? Ngươi đừng nói khéo để rối loạn quân tâm nữa?

Nói xong thét tả hữu khua trống, rồi múa gậy xông vào đánh Hoa Vinh, Hoa Vinh cả cười mà rằng:

– À! Té ra Tần Minh không hiểu lòng tốt của người ta! Ta đây nghĩ đến ngươi là một chức quan trên, nên mới khiêm nhượng như vậy… ngươi đã cho ta là sợ ngươi hay sao?

Nói đoạn múa giáo xông ra đánh Tần Minh. Đôi bên cự địch với nhau, có tới bốn năm mươi hiệp, chưa quyết được thua, Hoa Vinh lừa miếng phá đĩnh, rồi quay ngựa ra lối đường nhỏ ở dưới núi mà chạy.

Tần Minh cả giận phóng ngựa đuổi theo Hoa Vinh, Hoa Vinh cắp giáo vào nách, tay tả cầm cung, tay hữu tút một mũi tên đặt lên trên cung, rồi dừng ngựa giương cung mà quay mình lại bẵn một phát trúng ngay vào mũ Tần Minh. Tần Minh giật mình kinh sợ, không dám đuổi theo Hoa Vinh liền quay ngoắt lại toan đuổi đám lâu la để giết. Dè đâu, khi quay mình trở lại, thì chúng lâu la đã chạy trốn lên núi, mà bên kia Hoa Vinh cũng kéo về sơn trại cả rồi.

Tần Minh thấy vậy trong lòng càng lấy làm tức giận, liền quát quân chúng đánh trống khua chiêng mà kéo lên núi. Bấy giờ chúng reo hò ầm ĩ, rồi đám bộ binh xông lên núi trước. Khi qua được vài ba ngọn núi thì thấy các nơi hiểm yếu ở trên, đều có đá gỗ ầm ầm ném xuống, tụi bộ binh bị ném ngã có tới bốn năm mươi người, liền kinh sợ đổ xô xuống mà không dám lên nữa. Tần Minh lại càng sôi nổi giận dữ, bèn đem đám quân mã đi quanh dưới núi, để tìm đường tiến lên. Chúng tìm quanh quẩn mãi đến quá trưa, chợt nghe thấy phía bên tây có chiêng trống vang lừng rồi có một đội quân cờ đỏ ở trong đám cây rậm đi ra.

Tần Minh dẫn quân mã cố đuổi đến nơi, thì bỗng dưng chiêng đã im mà cờ đỏ cũng không thấy nữa. Nom đến chỗ đó, không phải là con đường lớn, chỉ có một lối nho nhỏ, mà giữa lối toàn là cây chặt để ngổn ngang ra đó, mà không sao đi được. Tần Minh vừa toan sai quân dọn lối để đi, thì có một tên lính báo rằng:

– Mạn núi bên kia đông có tiếng chiêng trống, và một toán quân cờ đỏ kéo ra.

Tần Minh nghe báo liền dẫn quân mã phi sang góc bên đông để đánh.

Khi sang tới nơi, lại thấy im phăng phắc, không thấy gì nữa, chàng lấy làm căm tức, phóng ngựa đi tìm khắp bốn chung quanh, thì toàn là cây gẫy cành nghiêng, không có đường lối nào mà đi cho được.

Bỗng lại thấy người đến báo rằng:

– Góc núi bên tây lại nghe thấy tiếng chiêng trống, lại một toán quân cờ đỏ kéo ra.

Tần Minh vội vàng phi ngựa sang góc bên tây, thì lại không thấy tăm hơi chi cả.

Tần Minh vừa tức giận, đương nghiến lợi nghiến răng, quanh co uất ức một mình, thì thấy phía đông, lại thấy cở trống nổi lên, chàng lại phải đem quân sang đuổi. Dè đâu sang đếnnơi lại im lặng như không vậy. Chàng ta tức nổ ruột gan, quát quân sĩ toan tìm đường để lên núi chợt đâu lại nghe tiếng chiêng trống ấm ĩ ở phía bên tây như thúc giục tới gần, làm chàng lại phải quay sang bên đó. Khi tới nơi lại không có gì, tìm khắp cả vẫn không đường lối tới trên núi cả.

Bấy giờ trong một đám quân sĩ nói với Tần Minh rằng:

– Quanh đây không có đường lớn, ta muốn đi lên thì sang mạn núi đông nam mới tìm ra lối. Nếu cứ quanh quẩn ở đây, thì không khéo lỡ ra nguy hiểm.

Tần Minh nghe vậy, vội truyền lệnh cho quân sĩ mau mau kéo về mạn núi đông nam. Khi tới dưới núi, thì trời đã gần tối, người ngựa đều mệt nhoài không đi được, bèn bảo nhau đóng trại để làm cơm.

Chợt đâu trông lên phía núi, đã thấy đèn đuốc sáng rực chiêng trống ầm ĩ cả lên, Tần Minh cả giận, lại phải kéo bốn năm mươi quân mã, mà đi lên núi,. Khi lên được mấy bước, bị tên đạn bẵn xuống như mưa, bị trúng thương mấy anh binh sĩ. Tần Minh lại phải rút quân trở xuống mà truyền cho làm cơm. Chúng vừa mới bắt đầu làm cơm, thì lại thấy có tám chín mươi bó lửa ở trên núi đi xuống. Tần Minh vội vàng toan dẫn quân đến, thì bỗng dưng lửa lại tắt rồi.

Đêm hôm đó tuy có mặt trăng song bị mây mờ che tối, nên đường đi cũng lờ mờ khó hiểu. Tần Minh căm tức quá chừng, liền sai quân lính lấy lửa ra đốt cháy những cây quanh.

Chợt thấy trên mỏm núi có tiếng sao thổi véo von, Tần Minh vội phóng ngựa lên xem, thì thấy có tới mười mấy bó lửa soi sáng góc núi, và Hoa Vinh đương tiếp rượu với Tống Giang ở đó.

Tần Minh thấy vậy, trong lòng căm tức bội phần, bèn đứng dừng ngựa ở dưới mà quát tháo mắng nhiếc Hoa Vinh.

Hoa Vinh ngồi trên cười mà nói rằng:

– Tần Thống Chế bất tất nóng nảy hãy lui về rồi sáng mai ta sẽ quyết một trận sống chết với nhà ngươi.

Tần Minh ầm ầm giận dữ quát lên rằng:

– Đồ phản tặc mày hãy xuống đây đối địch với ta vài ba trăm hợp rồi sẽ hay…

Hoa Vinh cười đáp rằng:

– Tần Tổng Quản, hôm nay ngươi đương mệt nhọc, dẫu ta có đánh được ngươi, cũng không lấy gì làm thích…Ngươi hãy cứ về ở dưới mà chưởi mắng ầm ĩ cả lên.

Đương khi mắng nhiếc om sòm thì chợt thấy quân mã của mình xôn xao rối loạn, Tần Minh vội vàng quay ngựa trở xuống núi để xem. Khi đó ở phía núi bên kia, có đạn lửa bắn xuống, đằng sau lưng có toán lâu la nấp trong đám tối bắn ra. Quân mã thấy vậy đều kinh sợ kêu thét, mà kéo nhau xuống khe cho thoát.

Bấy giờ vào khoảng canh ba, bọn quân mã đương nấp ở trong khe thì bỗng dưng có ngọn nước ở dòng trên chảy xuống, làm cho quân mã đều hốt hoảng hãi hùng, mà tranh nhau hết sức nhảy lên bờ, lại bị đám lâu la kia quăng dây móc ra, bắt sống mà mang lên núi, còn anh nào ở dưới khe, thì bị ngập tràn mà chết chìm cả ở đó.

Lúc đó Tần Minh lại càng tím ruột thâm gan trông trước trông sau, thấy có một con đường nhỏ đi lên trên núi, chàng liền xốc ngựa mà sồng sộc đi lên. Dè đâu vừa đi được bốn năm mươi bước, thì bỗng dưng cả người lẫn ngựa đều ngã lăn xuống hố. Đoạn rồi có bốn năm mươi tên lâu la ở đâu bổ ra, lột hết quần áo và quân khí của Tần Minh, rồi bảo nhau trói lại và dắt lấy cả ngựa, mà giải lên trên núi Thanh Phong.

Nguyên trước Hoa Vinh lập kế, sai mấy bọn tiểu lâu la, hoặc ở bên đông núi, hoặc ở bên tây núi, lần lượt kéo nhau mà dẫn dụ khiêu khích, khiến cho Tần Minh mỏi mệt khốn đốn, không sao được yên. Lại sai đem túi đất lấp hai bên dòng suối, đợi đến đêm khuya cố bức bách cho quân mã phải lẩn trốn xuống đó, rồi tháo nước đầu trên, cho bọn quân đắm đuối. Bởi vậy Tần Minh mang năm trăm quân mã, đã già nửa bị chết trong khe, còn hơn một trăm người, và bảy tám mươi cỗ ngựa bị bắt sống, mà không sót một ai là thoát thân về được. Bấy giờ trời đã gần sáng Hoa Vinh Tống Giang cùng ba vị đầu lĩnh đương ngồi trên Tụ Nghĩa Sảnh, thì thấy bọn lâu la giải Tần Minh vào. Hoa Vinh trông thấy vội vàng ở trên ghế nhảy xuống dưới thềm cởi trói cho Tần Minh, kéo lên trên sảnh rồi cúi đầu xuống lạy.

Tần Minh vội đỡ dậy mà nói rằng:

– Tôi đã bị bắt đến đây, chỉ có giết chết mà thôi, can chi mà xử như vậy?

Hoa Vinh qùy xuống mà đáp rằng:

– Bọn tiểu lâu la ngu dốt không biết, lỡ phạm đến tôn nhan, xin ngài tha tội ấy cho?

Nói đoạn, sai người lấy áo xiêm gấm vóc đưa cho Tần Minh mặc.

Tần Minh hỏi Hoa Vinh rằng:

– Vị hảo hán ngồi kia là ai? Xin cho tôi biết…

Hoa Vinh nói:

– Người ấy là anh em với tôi, họTống tên Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành khi trước, còn ba người đây là Yến Thuận, Vương Anh, Trương Thanh, làm chủ trại ở đây…

Tần Minh ngạc nhiên mà nói rằng:

– Ba vị này tôi đã hiểu, song Áp Ty đây có phải là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh đó chăng?

Tống Giang cung kính đáp rằng:

– Vâng, chính chúng tôi đây.

Tần Minh nghe nói, liên thụp lạy xuống đất mà nói rằng:

– Tôi được nghe tiếng nghĩa sĩ đã lâu, nay được gặp đây, thực thỏa lòng khát vọng.

Tống Giang cũng vội vàng cung kính mà đáp lễ lại.

Tần Minh thấy hai chân Tống Giang có vẻ đau đớn ngượng ngạo liền hỏi luôn rằng:

– Chăng hay chân ngài làm sao như thế?

Tống Giang đem chuyện từ khi xa lánh Vận Thành, cho đến khi Lưu Cao bắt đánh, thuật hết cho Tần Minh nghe.

Tần Minh nghe chuyện lắc đầu kêu rằng:

– Nếu cứ lời đằng kia nói, thì cơ hồ lỡ mất việc to! Việc này để tôi về bẩm với quan Phủ Mộ Dung mới được.

Bọn Yến Thuận bèn lưu Tần Minh ở lại rồi nhất diện sai giết dê lợn để thết đãi. Các quân sĩ bắt được, đều cho vào ở một phòng mà thưởng cho cơm rượu tử tế.

Khi uống Đô Đầu vào tuần rượu, Tần Minh vội đứng nói rằng:

– Nay được các vị hảo hán có lòng tốt, mà không giết hại Tần Minh; vậy xin trả lại các đồ mũ áo ngựa gậy, để Tần Minh xin trở về bản châu cho tiện.

Yến Thuận cười mà đáp rằng:

– Tổng Quản không nên cố chấp như vậy…Tổng Quản dẫn năm trăm quân mã đến đây, không còn sót một người nào, nay nếu trở về châu phủ, tất nhiên quan Phủ khó dung; Vậy chi bằng Tổng Quản hãy tạm ở đây, chia vàng xẻ áo cùng nhau định họat tự do, như thế chả hơn là ra luồn vào cúi càng thêm nhọc mệt hay sao?

Tần Minh nghe nói, đi thẳng xuống thềm mà đáp rằng:

– Tần Minh này sống làm người nhà Tống, chết làm ma nhà Tống, triều đình đã giao cho làm chức Tổng Quản; lại kiêm chức Thống chế Sứ Quan, xưa nay có điều chi phụ bạc với Tần Minh, mà Tần Minh nỡ đem lòng bội bạc cho đành? Các vị hảo hán định giết tôi, thì cứ giết đi cho rảnh.

Hoa Vinh vội vàng chạy xuống kéo tay Tần Minh mà can rằng:

– Xin huynh trưởng hãy khoan tâm, nghe tiểu đệ nói một câu này xem đã. Tôi nay cũng con nhà tước lộc của triều đình, chỉ bị người ta bức bách, mà phải tạm lánh đến đây; Còn như Tổng Quản ngài đã không bằng lòng làm nghề lạc thảo,thì cũng xin ngồi chơi cho trọn bữa cơm hôm nay, rồi tôi sẽ nộp trả các đồ quân khí cho ngài trở lại Thanh Châu.

Tần Minh khăng khăng một mực không nghe. Hoa Vinh lại tiếp luôn rằng:

– Mấy hôm nay Tổng Quản khó nhọc, dong duổi suốt cả đêm ngày, vậy xin để cho con ngựa ăn uống nghỉ ngơi, rồi sẽ trở về được, đi đâu mà phải vội!

Tần Minh nghe nói cũng có lý, bèn trở lại vào trong sảnh cùng ngồi uống rượu. Năn vị hảo hán luân lưu rót rượu để mời. Hôm đó Tần Minh vừa phần mệt nhọc la đà, vừa phần bị các hảo hán ân cần mời mọc, dần dần cũng phóng tâm uống rượu, cho tới khi rượu đã quá say, phải vực vào trong phòng để nghỉ. Tần Minh ngủ một giấc cho đến sáng hôm sáng hôm sau bầng mặt tỉnh dậy, vội vàng súc miệng rửa mặt, rồi tháo thứ xin phép trở về. Mấy vị hảo hán cố lòng cầm bắt giữ Tần Minh ở lại ăn bữa cơm sáng, rồi mới đem các đồ mũ giáo gươm ngựa mà trả lại. Tần Minh vâng lĩnh các đồ nhung khí, đội mũ mặc giáp cầm gậy lang nha, nhảy lên mình ngựa, rồi từ tạ mọi người mà đi xuống núi, trở về núi phu Thanh Châu.

Khi đi gần tới Thanh Châu, còn cách chừng hai mươi dặm đường, Tần Minh xa trông trong đám khói bụi, không thấy một người nào qua lại ở đó trong bụng đã lấy làm nghi ngại lạ lùng. Dần dần về tới trong thành thấy mấy trăm nóc nhà ở ngoài thành khi trước, đều bị cháy hại tồi tàn, chỉ còn trơ một đống gạch vụn tro thừa vất ngang tàng trên mặt đất. Quanh đó lại có số con trai con gái bị chết cháy không biết bao nhiêu mà kể.

Tần Minh thấy vậy cả kinh, bèn đánh ngựa qua đám tro tàn, mà thẳng tới thành gọi người mở cửa. Khi vào tới nơi, đã thấy đích kiều cất cao lên, mà hai bên cổng đều cắm cờ lên hiệu, bầy dàn các đồ binh khí dụ bị đánh giặc ở đó. Tần Minh dừng ngựa đứng ngoài kêu to lên rằng:

– Có ai trong thành, bỏ đích kiều xuống cho ta vào.

Trong thành nghe tiếng Tần Minh gọi, thì bỗng dưng nổi hiệu trống chiêng, mà hò reo ầm ĩ như là giặc đến bên thành vậy.

Tần Minh đứng bên ngoài kêu lên rằng:

– Ta là Tần Tổng Quản đây, quân, mau mở cửa cho ta vào.

Nói vừa dứt lời, thì thấy Mộ Dung Tri Phủ, trèo lên vọng canh ở thành mà quát lên rằng:

– Quân phản tặc kia! Bay không biết sỉ nhục, còn vác mặt đến đây, toan lừa ta mở cửa thành cho ngươi nữa hay sao?

Tần Minh ngạc nhiên kinh lạ mà hỏi rằng:

– Tần Minh này có điều chi, mà Tông Tổ nói như vậy.

Tri Phủ lại quát lên rằng:

– Có điều chi ngươi còn phải hỏi ta sao? Đêm hôm qua ngươi đêm quân đến đánh thành không được, sao lại đốt nhà đốt cửa làm hại muôn dân, hiện nay ta đã sớ tấu triều đình, chỉ đợi nay mai bắt được ngươi là xé thây ra làm muôn đoạn, thì mới cam tâm. Triều đình có phụ bạc gì ngươi mà ngươi nỡ bất nhân như vậy?

Tần Minh cũng lẫy làm ngạc nhiên mà đáp rằng:

– Tần Minh này thua thiệt mất cả quân mã, sau lại bị chúng bắt lên núi, đến giờ mới được thoát về đây…Đêm qua hà tằng có đánh thành bao giờ?

Tri Phủ quát lên rằng:

– Ta đây lại không được biết các đồ mũ giáp gậy ngựa của ngươi hay sao… ? Quân lính trên thành đây, không ai không trông thấy chính ngươi cưỡi ngựa cầm côn xông pha, trong đám lửa mà giết hại dân gian, ngươi còn chối sao cho được? Ừ, cho rằng ngươi có thua mà bị bắt nữa, thì năm trăm tên lính mang đi, lại không có một đứa nào trốn về báo được hay sao? Bây giờ định đánh lừa ta mở cổng thành, để ngươi vào cướp lấy vợ con mang đi…Nhưng phải biết rằng vợ con ngươi ta đã giết chết cả rồi, chỉ còn mấy cái thủ cấp đây kia, có xem thì bảo quân sĩ bêu lên, cho mà nom thấy.

Nói đoạn, sai quân sĩ đem bêu đầu vợ con Tần Minh lên cho xem. Tần Minh là một người nóng tính, khi trông thấy đầu vợ con bị chém chết, thì đùng đùng phẫn uất, không biết nói làm sao cho được.Bấy giờ trên thành bắn tên đạn như mưa. Tần Minh bất đắc dĩ phải quay mình chạy lánh ra ngoài. Khi nom ra thấy trên mặt đất ở ngoài thành, còn lốm đốm một vài nơi, chưa dứt khói lửa, chàng quanh đi quẩn lại nghĩ ngợi một mình, những muốn tìm nơi mà tự tử cho xong, hồi lâu chàng liền dóng cương ngựa mà lững thững đi theo con đươnøg khi trước.

Đi được mươi dặm đường, chợt thấy ở trong đám rừng cây trước mặt, có một tụi nhân mã đi ra, và có năm vị hảo hán đều cưỡi ngựa buông cương đi trước. Năm người ấy, tức là Tống Giang, Hoa Vinh, và ba anh em Yến Thuận, dẫn một toán hai ba trăm lâu la đến đó. Bấy giờ Tống Giang trông thấy Tần Minh, liên nghiêng mình cúi chào mà hỏi rằng:

– Sao Tổng Quản không trở lại phủ Thanh Châu mà một mình, một ngựa vơ vẩn, toan đi đâu bây giờ?

Tần Minh nghe hỏi, mặt hầm hầm đầy những nộ khí mà đáp rằng:

– Không biết thằng giặc cướp trời chu đất diệt nào nó ăn mặc giả mạo như tôi rồi đem quân về đánh thành, đốt hại nhà cửa của lương dân, làm vợ con tôi bị chết lây vì nó, khiến tôi đây cũng lên trời hết lối, xuống đất không đương, không biết làm sao cho được? Bây giờ nếu vớ được thằng ấy, thì thế nào cũng đánh cho nó một mẻ, gọi là gãy hết gậy mới thôi.

Tống Giang mỉm cười đáp rằng:

– Dám thưa Tổng Quản, tôi có câu chuyện này, song ở đây không tiện nói ra, vậy xin đón ngài hãy về qua sơn trại rồi sẽ bẩm rõ với ngài.

Tần Minh đương lúc phẫn uất vô liêu, bất đắc dĩ cũng phải nghe lời, mà theo năm người cùng thẳng dong về núi Thanh Phong. Khi về tới sơn trại, bọn tiểu lâu la đã sắp sẵn các thứ rượu chè ở trên Tụ Nghĩa Sảnh, để đợi. Năm vị hảo hán mời Tần Minh ngồi ở ghễ, rồi nhất tề quỳ xuống ở trước mặt Tần Minh. Tần Minh thấy thế cũng vội vàng quỳ xuống để đáp lễ.

Tống Giang bắt đầu nói lên rằng:

– Dám xin Tổng Quản tha lỗi cho. Hôm nay Tổng Quản không có lòng hạ cố, nhất định không chịu lưu lại sơn trại ở đây, bởi vậy Tống Giang định ra một kế, cho tên lâu la hơi giống tướng dạng, ăn mặc các đồ mũ giáp, cùng cưỡi ngựa cầm quân khí của ngài, mà dẫn quân về đánh phủ Thanh Châu, lại cho Yến Thuận, Nụy Hổ đem năm mươi người đi giúp sức, giả làm Tổng Quản định vào đánh thành để cướp lấy vợ con, rồi lại đốt nhà giết người, để dứt hẳn lối về của Tổng Quản. Cái đó đều là tội của chúng tôi, vậy nay chúng tôi mời ngài đến đây để xin tha thứ cho.

Tần Minh nghe nói như xé đứt ruột gan, toan đứng tên đánh nhau với bọn Tống Giang cho hả dạ, song một là vì cùng một tinh tú giáng sinh tính tình rất hợp, hai là bị bọn họ lấy lễ phép bó buộc, không sao trở mặt cho đành, ba là có ra oai cũng khó lòng địch nổi bọn đó. Bởi vậy Tần Minh đành phải nên lòng tức giận mà nói lên rằng:

– Anh em các ông làm thế, vẫn biết có lòng tốt muốn lưu Tần Minh ở lại chốn này, song chỉ thiệt riêng cho Tần Minh, là vợ con chết cả, không còn lấy chi làm thú đời, như thế phỏng có độc địa hay không?

Tống Giang đáp rằng:

– Nếu không làm như thế, khi nào huynh trưởng nỡ dứt lòng mà đến đây cho được? Hiện nay Hoa Vinh có một người em gái, tư chất cũng hiền tuệ hơn người vậy huynh trưởng có ưng thuận, thì xin cho sắm sửa tư trang mà làm lễ tục huyền ngay lập tức huynh trưởng nghĩ sao?

Tần Minh thấy bọn kia hết lòng kính ái như vậy, thì cũng nguôi tấm lòng, mà không còn nói năng chi nữa. Bấy giờ Hoa Vinh đứng dậy mời Tống Giang vào ghế giữa rồi Tần Minh, Hoa Vinh, ba vị hảo hán y theo thứ tự mà ngồi, đoạn rồi kéo cờ nổi hiệu, chè chén vui mừng và cung nhau thương nghị để đánh trại Thanh Phong.

Tần Minh nói mọi người rằng;

– Việc đó rất là dung dị, các ông không cần phải quan tâm. Nguyên Hoàng Tín là người thuộc hạ của tôi, khi trước tôi có dạy bảo các môn võ nghệ, cùng tôi rất là thân mật, vậy ngày mai tôi đến đó thuyết cho anh ta nhập bọn, rồi sẽ đem bảo quyến của Hoa Vinh sang đây, và bắt vợ con Lưu Cao, để báo thù cho huynh huynh trưởng, như thế thì phỏng được chăng?

Tống Giang cả mừng mà rằng:

– Nếu được Tổng Quản giúp sức cho như thế thì còn gì hơn nữa.

Nói đoạn lại cùng nhau, chè chén, cho đến chiều mới tan. Nói ề Hoàng Tín từ khi báo quan Phủ Thanh Châu rồi, sai bắt dân phu cùng lính trại, hết sức canh phòng cẩn mật, và sai đị dò la tin tức các nơi. Chàng đợi luôn mấy hôm không thấy phủ Thanh Châu đem binh đến cứu, trong lòng lấy làm lo sợ nghi ngại, không biết xử trí ra sao? Chợt một hôm thấy quân sĩ vào bào rằng:

– Có quan Tổng Quản Tần Minh, một mình một ngựa đến gọi mở cửa ở ngoài trại.

Hoàng Tín nghe báo, vội vàng lên ngựa ra xem, quả nhiên chỉ có Tần Minh một mình một ngựa đứng đợi ở ngoài, không có một ai theo hầu hết thẩy. Chàng liền truyền quân sĩ mở trại, bỏ đích kiều xuống để đón Tần Minh vào. Khi đến Công Sảnh ở đại trại, Hoàng Tín mời Tần Minh ngồi, rồi hỏi rằng:

– Chẳng hay Tổng Quản cớ sao mà lại một mình tới đây như vậy?

Tần Minh liền đem chuyện bị thua hôm trước, thuật lại cho Hoàng Tín nghe, và nói rằng:

– Cập Thời Vũ Tống Công Minh là một người trọng nghĩa khinh tài, thiên hạ ai cũng biết, hiện nay nay tôi đã vào đảng ở trại Thanh Phong vậy muốn đến đây nói với Hoàng Quân để cùng đến đó nhập bọn cho vui, can chi lưu luyến chốn này để chịu người ta đè nên?

Hoàng Tín nghe nói liền đáp rằng:

– Hoàng Tín tôi vợ con chưa có cũng không hệ lụy điều chi, vả chăng đã có ân quan ở đó, thì lẽ nào tôi lại không theo? Nhưng trước đây không thấy nói Tống Công Minh ở đó, mà sao bỗng dưng lại đến ngay đấy được?

Tần Minh cười nói:

– Ấy chính là anh Hổ Trương Tam ở Vận Thành mà bác toan giải hôm trước đó. Bấy giờ ông ta sợ nói thực tên ra thì vỡ chuyện, nên phải nói dối là Trương Tam.

Hoàng Tín nghe nói đập chân xuống đất mà than rằng:

– Chết nỗi! Nếu bấy giờ tôi biết ông ta là Tống Công Minh, thì đã tha ngay rồi, còn đâu sinh ra lắm sự lôi thôi! Cái đó chẳng qua là nể mặt Lưu Cao, suýt nữa nguy mất một người nghĩa sĩ.

Đương khi hai người bàn định với nhau, để sắp sửa ra đi, thì bỗng thấy có tin báo hai đường quân mã ở đâu đến đánh trại. Hai người nghe báo, vội vàng cùng nhau lên ngựa, để ra cửa trại nghinh địch.

Mới hay:

Lòng người ai bán mà mua

Xưa nay mấy kẻ lọc lừa nên thân?

Ở đời có oán có ân,

Biết đời phải lựa đồng cân cho đều

Hay chi những thói ngoan điêu

Gây nên thảm họa trăm chiều tại ai?

Một phen khói lửa tung trời

Thành xương vũng máu hỏi đời biết chăng!

Lời bàn của Thánh Thán:

Ta thấy người nhà Nguyên diễn kịch, mỗi một tấn trò, chia làm bốn đoạn (màn); mỗi đoạn chỉ dùng một người ra hát, còn mọi người trong đám bạch trình ra, thừa tiếp mà tiếp mà khiêu động, điều đó không lạ vì người xưa ở trong lòng tự có một thiên văn tự tuyệt diệu rồi, đã được thành văn, có ý tứ, có khởi ra kết lại, có gọi đến thưa ngay, có mở ra lại đóng lại đóng vào, nếu không chỗ dựa thì bỗng dưng không thể thể tả ra?

Cho nên nhà văn phải mượn vào chuyện xưa sống chết hợp tan, theo đề làm văn, ý muốn cho đời sau biết đến văn chương của mình mà thôi! Xưa kia chẳng đem việc cũ tả ra văn cho ta biết đến, từ khi phép kịch mất đi, mà việc một hồi, có tới hơn bốn mươi đoạn, lời của một đoạn lại bao nhiêu kẻ cùng xướng lên, nghe như ếch kêu ra rả, chẳng ra trò gì nữa.

Xét việc đời xưa truyền lại đời sau, mà không dùng văn chương sao được, để cho ông già kể lại, măng sữa trẻ con truyền lẫn nhau, rồi bút mực chép ra, không đúng. Cho nên Sử quan học phép viết Sử tử xưa, đối với một bộ sách phải có ít là dăm hồi, mỗi hồi lại ít nhiều sự nữa, song nếu một người lập truyện một người, mười người lập truyện mười người theo phép viết Sử, một sự có liên can nhiều người văn nhân phải có tài liên quán, nên một sự có mỗ Giáp mỗ Ất, thực sự của mỗ Giáp mỗ Ất không dự, song phải tả ra lại khi Giáp, ắt không cùng một việc, song tả mỗ Giáp mà liền tới mỗ Ất ít nhiều, và tác giả yêu đến mỗ Ất mà phải cần tả ra dính líu tới mỗ Giáp.

Cho nên nhà văn cầm bút, thấy quyền rất nặng, chép chuyện mỗ Giáp lại luôn mỗ Ất dính vào, như trong chuyện Tống Giang, lại tả Võ Tòng, theo lệ liên quán vậy; Chép chuyện mỗ Giáp, mỗ Ất không dự đến như chép Hoa Vinh chẳng tả Tống Giang, đó là theo lệ vậy. Hỡi ơi! Một người có việc của một người, một truyện có văn của một truyện, một thiên một đoạn, có chỉ định của đầu đề, nếu người ta không xét thấy, cũng cầm bút quệt mà viết ra, đua nhau theo lối Sử quan, thì sao xứng con người cầm bút.

Cổ Bản truyện Thủy Hử, tả Hoa Vinh, bèn tả đến Tống Giang, vì Hoa Vinh mà tả tới, mà tục bản truyện Thủy Hử chỉ tả thoàng qua vài lời, sao mà thấp kém đến thế, chẳng hay kẻ nào thay đổi, cũng chả tưởng hỏi làm chi, nên ở đây theo lệ viết văn mà thuật lại.

Hồi 34: Nơi lữ điếm, Thạch Dũng đưa thư – Vũng Lương Sơn, Hoa Vinh bắn nhạn

Bấy giờ Tần Minh cùng Hoàng Tín đi ra cổng trại, trông thấy hai đường quân mã rất đông, một đường là Tống Giang với Hoa Vinh, đường là Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, đều dẫn hơn một trăm người kéo đến. Khi tới nơi, Hoàng Tín vội mở cổng trại, bỏ đích kiều xuống, để đón hai đường binh mã cùng vào trong trại. Tống Giang truyền lệnh cho bọn lâu la, không được giết hại một người dân và một người lính nào trong trại đó. Lại truyền cho vào trại bên Nam, bắt hết cả nhà Lưu Cao để giết. Vương Nụy Hổ được lệnh ấy, vội vàng đến đó cướp lấy vợ Lưu Cao, cùng các thứ kim ngân tài vật, lừa ngựa trâu dê thì giao cho đám lâu la thu nhặt để tải về. Hoa Vinh trở về nhà thu dọn các đồ đạc. Công việc thu xếp đâu đấy yên ổn rồi, mấy vị hảo hán cùng nhau dóng ngựa áp tải các đồ vật mà trở về sơn trại.

Khi về tới sơn trại, Vương Nụy Hổ vội đem vợ Lưu Cao dấu vào trong tư phòng, Yến Thuận thấy vậy liền hỏi rằng:

– Con đàn bà đê tiện ấy đem đi dấu làm gì?

Vương Nụy Hổ đáp rằng:

– Phen này đã bắt được về tới đây, xin để cho tôi làm phu nhân áp trại.

Yến Thuận nói:

– Đành rằng để cho bác làm phu nhân áp trại, song hãy đem ra đây cho tôi hỏi đã.

Tống Giang bảo với mọi người rằng:

– Chính tôi cũng đương muốn hỏi chuyện nó, xin hãy đem ra đây…

Vương Nụy Hổ vâng lời, cho gọi chị chàng ra trước cửa sảnh.

Chị chàng kia khóc lóc kêu van, xin tha tính mạng.

Tống Giang quát lên rằng:

– Giống gian dâm này, còn nỉ non về nỗi gì nữa? Ta nghĩ mầy là một người vợ con nhà quan, nên mới cứu cho thoát nạn, ai ngờ mầy đem lòng tàn ác, mà toan hại ta. Đồ vong ân bội nghĩa, thì trời đất nào dung thứ được!

Yến Thuận đứng phắt dậy nói rằng:

– Giống dâm phụ ấy, còn hỏi làm gì nữa?

Nói đoạn rút dao lưng ra, chém cho một nhát ngã gục xuống đó.

Gươm vàng pha vị tanh hôi,

Máu hồng nhuộm máu con người bạc đen.

Thế gian nhắn bạn thuyền quyên,

Ở đời liệu thói đảo điên nên chừa…

Vương Nụy Hổ thấy vậy, trong lòng lấy làm tức giận vô cùng, liền vớ một thanh dao, toan đánh nhau với Yến Thuận.

Bọn Tống Giang đứng dậy vội vàng giữ lại, khuyên bảo Vương Nụy Hổ rằng:

– Yến Thuận giết đứa dâm phụ ấy là phải lắm. Bác phải biết rằng tôi hết sức cứu nó, cho vợ chồng lại được đoàn tụ với nhau, thế mà nó còn trở mặt xui chồng toan hãm hại tôi, con người như thế nếu để về sau, tất là nguy hiểm…Vậy sau đây tôi xin tìm cho bác một người rất là xứng ý, đừng nên nghĩ đến con người ấy làm chi!

Yến Thuận cũng bảo Vương Nụy Hổ rằng:

– Nếu anh còn muốn để con đàn bà ấy về sau, tất nhiên có phen nó lại hại chứ không chơi.

Vương Nụy Hổ bị can như vậy, thì nín lặng không biết nói làm sao được. Yến Thuận gọi lâu la khiêng bỏ xác, rửa sạch huyết tính rồi, lại sai dọn tiệc ăn mừng.

Ngày hôm sau, Hoa Vinh mời Tống Giang, Hoàng Tín làm chủ hôn, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, và Trương Thanh làm nhà mối, để làm lễ thành hôn cho em gái lấy Tần Minh. Bao nhiêu lễ vật đều tự Hoa Vinh xuất tiền mãi biện. Đoạn rồi cùng nhau ăn uống vui chơi ba bốn ngày rất là thỏa thích.

Cách năm bảy hôm thấy lâu la đi thám sự về báo rằng:

– Quan Phủ Mộ Dung hiện đã đệ công văn lên phủ Trung Thư, tâu rõ về việc Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín làm phản, và xin đại đội binh mã nay mai đánh dẹp núi Thanh Phong.

Các vị hảo hán nghe cả kinh, liền cùng nhau bàn định mưu kế để cự địch quân quan, Tống Giang nói với chúng rằng:

– Ở đây là một nơi sơn trại, tầm thường, lỡ ra quan quân kéo đến, thì cũng khó lòng cự địch. Vậy tôi có một kế này, chẳng hay các ngài có ưng thuận thế chăng?

Mọi người đều nói rằng:

– Huynh trưởng có kế gì xin cứ nói cho nghe..

Tống Giang nói:

– Gần đây có một nơi là Lương Sơn Bạc, bên trong có thành Uyển Tử, có vụng Liêu Nhi, dài rộng tám trăm dặm. Hiện có Tiều Thiên Vương tụ rất đông quân ở đó, quan quân không hề dám xâm phạm đến nơi. Vậy chúng ta đến đấy nhập bọn thì có lẽ tốt hơn.

Tần Minh nói:

– Nếu được những chốn như thế, thì còn gì hơn nữa! Nhưng bây giờ không có ai quen biết, mà tiến dẫn ta lên, thì có khi nào họ chịu nhận.

Tống Giang cả cười liền đem chuyện Tiều Thiên Vương cướp lễ sinh nhật, cho đến khi đưa vàng tạ ơn, rồi đến nỗi xảy ra chuyện giết hại Diêm Bà Tích, lênh đênh lưu lạc giang hồ, thuật lại cho mọi người nghe. Tần Minh nghe nói cả mừng đáp rằng:

– Nếu vậy huynh trưởng là Đại Ân Nhân của bọn họ, thì còn ngại chi đến chuyện kia khác, ta nên mau mau thu xếp đi ngay, kẻo chậm trễ tất nhiên lỡ việc.

Nói đoạn, chúng lập tức sắp mười mấy cỗ xe, và cộng có hai ba cỗ ngựa tốt đều để tải đi. Còn đám lâu la kẻ nào không muốn theo, thì cho tiền nong đi tìm chủ khác, kẻ nào muốn theo thì biên vào sổ quân. Bấy giờ tính cả quân lính của Tần Minh đem đến, cộng được hơn bốn năm trăm người chia làm ba đội, đều giả dạng quan quân đi đánh Lương Sơn Bạc.

Khi thu xếp xong đâu vào đấy, các hảo hán đều đốt bỏ sơn trại, chia làm ba đội, Tống Giang cùng Hoa Vinh dẫn bốn năm mươi tên lâu la, và bốn mươi tên kỵ mã, hộ tống năm bảy cỗ xe đi trước. Tần Minh Hoàng Tín dẫn tám chín mươi quân ngựa, cùng mấy cỗ xe đi đội thứ nhì, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ cùng Trương Thanh, dẫn bốn năm mươi cỗ ngựa, và hơn hai trăm lâu la đi đội thứ ba, trông chừng thẳng trỏ Lương Sơn Bạc.

Trong khi đi đường, các cờ hiệu, đều rõ là quan quân đi đánh giặc, vì thế mà không ai dám ngăn trở đường đi.

Đường đi được năm bảy ngày, một hôm Tống Giang cùng Hoa Vinh cưỡi ngựa đi trước, bọn quân mã áp tải người nhà đisau, cách ước hai mươi dặm đường.Khi đến một nơi gọi là Đối Aûnh sơn, có hai tòa núi ở hai bên, khoảng giữa là một khu đất rộng phẳng, chợt nghe trong núi có tiếng thanh la đánh ầm cả lên. Hoa Vinh thấy vậy bảo với Tống Giang rằng:

– Chỗ này chắc có cướp bóc ra ngăn đường, ta phải phòng bị chống cự mới được.

Nói đoạn liền cắp gươm vào nách, lấy cung tên ra, sắp sửa cẩn thận, rồi nhất diện sai quân kị thôi thúc hai toán xe ngựa đằng sau, kéo lên đóng vào một nơi. Đoạn rồi Hoa Vinh cùng Tống Giang dẫn hơn hai mươi tên quân kị đi thám thính đường lối.

Đi được già nửa dặm đường, chợt thấy phía trước mặt có một tóan quân mã ước hơn trăm người, mặc toàn áo đỏ giáp đỏ, có một người tráng sĩ mặc áo đỏ, hoành tay kích ngồi trên mình ngựa quát to lên rằng:

– Hôm nay ta quyết cùng người một trận, xem ai được ai thua?

Đoạn rồi thấy đằng sau núi, trông thấy ước một trăm nhân mã, đều mặc áo trắng giáp trắng, cầm thiên phương họa kích cưỡi ngựa đi trước. Đôi bên cờ trắng đỏ phất phới, chiêng trống vang lừng hai bên tráng sĩ cũng đương kích, xông ngựa lẳng lặng ra giữa khoảng đất rộng, đánh nhau tới hơn ba mươi hiệp, chưa ngã được thua.

Hoa Vinh cùng Tống Giang ngồi trên mình ngựa nom ra, liền lắc đầu khen ngợi luôn mồm. Sau Hoa Vinh đánh ngựa đi gần đến chỗ đánh nhau, thấy hai tráng sĩ đương hăng hái ra sức, hai cây kích loàng nhoáng như hai cành phan bị gió thổi, rồi bỗng dưng hai cái ngù ở trên đầu kích, quấn chặt lấy nhau, không sao mà gỡ ra cho được.

Hoa Vinh ngồi trên mình ngựa thấy vậy, thì liền cầm cương ngựa lại, tay tả vớ lấy cây cung trong túi Phi ngư, tay hữu vớ lấy một mũi tên trong Tẩu thú, rồi đặt tên lên cung, giang tay thẳng cánh, nhằm giữa mối hai cái xoắn vào với nhau mà bắn ra một phát đứt hẳn làm đôi, tung đôi kích ra mỗi đằng một ngả.Tụi hơn hai trăm người trông thấy, thì vỗ tay reo ầm cả lên.Hai tráng sĩ cũng dừng tay kích, quay ngựa xông đến trước mặt Hoa Vinh, đều cúi chào mà xin hỏi tên người bắn giỏi.

Hoa Vinh trỏ vào Tống Giang mà nói rằng:

– Người nghĩa huynh tôi đây là Cập Thời Vũ Tống Công Minh là Áp Ty ở huyện Vận Thành khi trước. Còn tôi đây là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh làm Tri Trại ở trấn Thanh Phong.

Hai tráng sĩ nghe nói, vội vàng nhảy xuống ngựa, bỏ tay kính ra, rồi lạy lấy lạy để mà nói rằng:

– Chúng tôi được nghe tiếng đã lâu.

Tống Giang cùng Hoa Vinh xuống ngựa, đỡ hai người dậy mà hỏi rằng:

– Xin hỏi cao tính đại danh của hai vị tráng sĩ?

Người mặc áo hồng đáp:

– Chúng tôi họ Lã tên Phươn, người ở Đàm Châu, bình sinh chỉ thích theo đòi như Lã Bố, nhân tập đánh cây Thiên phương họa kích, rồi ai cũng gọi tên là Tiểu Oân Hầu Lã Phương. Sau nhân đi bán thuốc tới đất Sơn Đông, bị thua lỗ mất cả tiền nong, không thể nào trở về cố hương được, đành phải tạm trú ở đây, để kiếm ăn về nghề ăn cướp bóc. Dè đâu có một tráng sĩ này ở đâu mới dẫn đến, muốn cướp lấy sơn trại của Lã Phương, Lã Phương muốn dàn xếp cho mỗi người một núi, mà tráng sĩ nhất định không nghe, bởi thế hai bên đánh nhau kể đã mấy hôm nay, chưa ai chịu nhường nhịn ai cả.

Tống Giang lại hỏi tên họ người mặc quần áo trắng.

Người kia nói rằng:

– Chúng tôi họ Quách tên Thịnh, người ở Gia Lăng thuộc Tứ Xuyên, trước đây có học võ nghệ của Trương Đề Hạt đất Gia Lăng, luyện được cây kích tinh thạo, người ta thường gọi là Kiển Nhân Quý Quách Thịnh. Nhân trước đi buôn thủy ngân đắm thuyền hết vốn, sau nghe nói ở Đối Aûnh Sơn đây có người đánh kích rất giỏi, mới đến chiếm sơn lâm để cướp bóc kiếm ăn, bởi vậy muốn qua đây thử ngón xem sao? Dè đâu, cùng nhau đối địch luôn mấy ngày cũng chưa phân được thua…Nay cũng là sự bất thình lình gặp được hai ngài ở đây, thực là hạnh phúc.

Tống Giang nghe nói, lấy làm vui mừng, liền đem chuyện mình nói cho hai người biết và lại bảo rằng:

– Cũng là dịp may, mà tôi được gặp hai vị ở đây, vậy tôi muốn khuyên cho đôi bên hòa giải, chẳng hay các ngài có bằng lòng không?

Hai người đều cả mừng mà vâng lời…

Bấy giờ mấy đội nhân mã ở đằng sau, cũng vừa tới đó, Tống Giang cùng Hoa Vinh dẫn hai người, để tiếp kiến mấy vị hảo hán kia, đoạn rồi Lã Phương mời lên núi để tiếp đãi. Ngày hôm sau Quách Thịnh cũng mời sang núi để làm rượu khao mừng.

Tống Giang liền bàn vói hai người, để cùng lên Lương Sơn Bạc ở với Tiều Cái Thiên Vương. Hai người đều vui lòng theo nhận, rồi lập tức thu thập người ngựa, sửa soạn vật liệu để cùng nhau khởi trình. Đương khi sắp sửa đi, thì bỗng Tống Giang bảo chúng rằng:

– Hãy thong thả, không thể đi được! Nay mình đem tới bốn năm trăm nhân mã tới Lương Sơn Bạc, bọn họ thế nào cũng có người dò thăm tin tức, thảng hoặc họ cho là mình đánh lấy Lương Sơn thực, thì bấy giờ không phải chuyện chơi.Vậy để tôi cùng Yến Thuận xin đi trước bảo cho họ biết rồi các vị sẽ chia làm ba đội lục tục đi sau.

Tần Minh, Hoa Vinh cùng mọi người đều khâm phục là phải, liền lui quân chia toán đi sau. Tống Giang cùng Yến Thuận mỗi người cưỡi một con ngựa,dẫn mười lăm tên tùy hành đi trước. Đi được hai ngày đường bỗng một buổi trưa hôm kia, đến một tửu điếm ở bên cạnh đường cái quan, Tống Giang cùng Yến Thuận bèn vào nghỉ để ăn uống. Khi vào tới trong điếm thấy có một chỗ ngồi ăn hơi rộng, còn mấy nơi khác đều là chật hẹp cả. Trong một chỗ rộng đã có anh chàng, mình dài tám thước, sắc mặt hơi vàn, hai con mắt lờ mờ, có một hàng ria thưa thớt, đầu đội khăn mỏ lớn, mình mặc áo trừu đen, lưng thắt dây bao trắng, dưới chân lá đáp đi đôi giày gai, dựng thanh gậy một bên, và để cả một bọc hành lý vào đầu bàn mà ngồi ở đó. Bấy giờ Tống Giang cùng Yến Thuận gọi tửu bảo đến mà bảo rằng:

– Ta đi đây có đông người theo hầu, vậy hai chúng ta vào ngồi trong kia, rồi ngươi nói với người khách kia nhường chỗ rộng ấy cho bọn người nhà họ ngồi uống rượu.

Nói đoạn Tống Giang cùng Yến Thuận vào ngồi ở trong, dặn tửu bảo lấy rượu thịt cho bọn hầu ăn trước. Tên tửu bảo thấy bọn theo hầu đứng đông chật cả nhà, liền đến bên cạnh người nhồi một mình kia, mà nói rằng:

– Phiền bác làm ơn nhường chỗ rộng này cho bọn người nhà hai vị quan nhân trong kia ngồi một chút…

Chàng kia nghe gọi mình là bác, thì cau mặt mà đáp rằng:

– Đến trước ngồi trước, đến sau ngồi sau…Người nhà quan nhân nào, mà bảo nhường chỗ? Lão gia không nhường cho ai cả.

Yến Thuận nghe thấy vậy, liền bảo với Tống Giang rằng:

– Thằng cha này vô lễ quá.

Tống Giang gạt đi rằng:

– Mặc xác hắn, mình chấp làm gì?

Bấy giờ anh chàng kia quay vào nhìn Yến Thuận cùng Tống Giang mà tủm tỉm cười nhạt. Tên tửu bảo lại nói với chúng ta rằng:

– Bác xét cho chỗ hàng quán buôn bán, đổi giúp sang chỗ khác một tý đã hại gì?

Anh chàng kia cả giận, vỗ tay lên bàn quát rằng:

– Thằng ranh con xấc thực, khinh lão gia có một mình, bắt phải đổi chỗ ngồi hay sao? Mày phải biết, có vua đi đến đây, lão gia cũng không đổi…nói to là đánh luôn bấy giờ…

– Nào tôi đã nói gì?

– Mầy dám nói gì mà nói…

Yến Thuận thấy vậy, trong lòng không sao nhịn được, liền nói lên rằng:

– Anh chàng này nói đáo để chứ! Không đổi thì thôi, làm gì mà rối lên thế?

Anh chàng kia đứng phắt dậy, vớ lấy thanh đao mà nói rằng:

– Ta nói nó, không việc gì đến nhà anh. Lão gia đây khắp trong thiên hạ, chỉ nể có hai người, còn ngoài ra đạp chân lên mà giẫm xuống đống bùn cả.

Yến Thuận tức mình vớ lấy cái ghế ngồi, cũng đứng phắt dậy toan đánh. Tống Giang nghe khẩu khí anh chàng kia, cũng không phải tay vừa liền đứng chắn ngang, khuyên giải cả đôi bên, rồi nói lên rằng:

– Xin các ông đừng lôi thôi nữa…Tôi xin hỏi ông này, vừa rồi ông nói rằng: Trong thiên hạ ngày nay có hai người là ông trỏ vào ai đó?

Anh chàng kia nói:

– Tôi nói ra đây, chắc các bác cũng phải kinh sợ, chứ không chơi.

– Vâng, ông cứ cho tôi được biết tên hai người đó.

– Nghe, một người là con cháu Sài Tiến Tôn ở quận Hoành Hải tên là Tiểu Toàn Phong Sài Tiến, Sài Đại Quan Nhân.

Tống Giang nghe nói sẽ gật đầu là hỏi luôn rằng:

– Còn một người nữa là ai?

– Một người nữa lại to lắm nữa, người này là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh, làm Áp Ty ở huyện Vận Thành khi trước…

Tống Giang nghe đến đó, thì trông Yến Thuận mà tủm tỉm sẽ cười. Yến Thuận cũng bỏ cái ghế xuống mà tươi hẳn nét mặt lại.

Anh chàng kia lại tiếp luôn rằng:

– Lão gia chỉ trừ có hai người ấy, còn ngoại giả cho đến Tống Đại Hoàng Đế cũng không cần.

Tống Giang nói:

– Khoan, tôi nói câu này. Hai người ấy tôi đây cũng có biết cả, ông cứ ngồi đây, rồi sẽ gặp hai người ấy.

Anh chàng kia nói rằng:

– Nếu ông đã biết thì tôi cũng không giấu làm chi. Cách ba năm trước đây tôi có ở nhà Sài Đại Quan Nhân hơn bốn tháng trời, duy chưa được gặp Tống Công Minh mà thôi.

– Vậy ông muốn gặp Hắc Tam Lang hay sao?

– Hiện nay tôi đương đi tìm ông ta đây.

– Ai bảo ông đi tìm?

– Người anh em ông ta là Thiết Phiến Tử Tống Thanh, có đưa gia thư cho tôi để tìm đến ông ta.

Tống Giang nghe nói cả mừng, liền vội chạy đến, ôm lấy chàng kia mà nói lên rằng:

– Thế mới biết “Hữu duyên nghìn dặm cũng gần, vô duyên giáp mặt khó phần gặp nhau”, chẳng giấu gì, chính tôi là Hắc Tam Lang Tống Giang đây.

Anh chàng ngây người, nhìn kỹ Tống Giang một lượt, rồi thụp xuống lạy mà nói rằng:

– Nếu vậy thì may quá! Trời xanh xui khiến được gặp Ca Ca, bằng không thì tiểu đệ lại phải đến Khổng Thái Công một phen chung quy vô ích.

Tống Giang kéo chàng kia vào trong mà hỏi rằng:

– Ở nhà tôi lâu nay có việc gì không?

Chàng kia ung dung đáp rằng:

– Dám bẩm Ca Ca, tôi họ Thạch tên Dũng, người phủ Đại Danh, bình sinh thích đánh bạc nên họ thường gọi là Thạch Tướng Quân. Sau nhân trong đám bạc mà đánh chết người, phải trốn sang Sài Đại Quan Nhân để ở. Xưa nay thường nghe tiếng Ca Ca, bèn đến huyện Vận Thành để tìm, dè đâu Ca Ca bận việc đi vắng, duy có Tứ Lang ở nhà, Tứ Lang thấy đệ thăm hỏi ân cầm, liền mách cho chỗ Ca Ca ở tại nhà Khổng Thái Công bên núi Bạch Hổ và có gửi bức thư cho đệ mang đến đây.

Tống Giang nghe nói, trong bụng hơi ngờ ngợ, hỏi Thạch Dũng rằng:

– Khi bác quan nhà tôi, ở đấy mấy ngày? Có gặp phụ thân tôi không?

– Tôi chỉ ở đó một tối rồi đi ngay, không thấy Thái Công đâu cả.

Tống Giang lại nói chuyện nhập đảng ở Lương Sơn cho Thạch Dũng nghe. Thạch Dũng nói rằng:

– Tôi vẫn biết tiếng Ca Ca là người trọng nghĩa khinh tài, vậy phen này Ca Ca lên ở Lương Sơn, tất nhiên cũng cho tiểu đệ đi theo.

– Cái đó có khó gì, hãy ngồi đây chơi nói chuyện một lúc đã.

Nói đoạn liền trỏ Yến Thuận cho Thạch Dũng biết, rồi gọi tửu bảo đem rượu lên. Thạch Dũng đứng dậy mở gói hành lý, đưa bức gia thư cho Tống Giang.

Tống Giang tiếp lấy bức thư, nom ngoài phong bì không thấy có hai chữ Bình an, trong lòng càng lấy làm ngờ vực, vội mở ngay phong thư ra để đọc.Chàng lược xem bức thư, thấy viết mấy chữ: “Thân phụ bị bệnh, tạ thế đầu tháng giêng năm nay, hiện còn đình cữu trong nhà, chỉ đợi Ca Ca về, sẽ làm lễ an táng. Vậy Ca Ca sớm liệu trở về, chớ để em mong, lỡ việc…Em khấp huyết bái thư!”

Tống Giang đọc xong ngã ngất người ra, rồi ôm bụng mà kêu lên rằng:

– Thằng con bất hiếu này, làm nên những tội ác dở dang, để đến nỗi cha già bị chết, không được trọn đạo làm con, như thế có khác gì giống súc sinh kia nữa?”

Nói đoạn đập đầu vào vách mà khóc to lên. Yến Thuận, Thạch Dũng vội vàng chạy đến ôm lấy Tống Giang, Tống Giang khóc lóc hôn mê hồi lâu mới tỉnh, liền bảo Yến Thuận, Thạch Dũng rằng:

– Tôi đây không phải có bạc tình các anh em, song trước đây tấc lòng chỉ vương vất có cha già ở đó.

Tới nay cha già đã mất thì thế nào cũng phải trở về ngay, để các ông cứ việc vào Lương Sơn Bạc mới được.

Yến Thuận khuyên rằng:

– Nay chẳng may Thái Công đã mất rồi nếu Ca Ca có trở lại nhà, cũng khó lòng được trông thấy mặt, thiên hạ có bố mẹ nào mà sống mãi được với con. Vậy xin Ca Ca hãy thư thả khoan tâm dẫn anh em chúng tôi lên núi, rồi anh em chúng tôi cùng đến sơn trang, thế chẳng hóa ra ổn tiện lắm không? Rắn không đầu làm sao đi được? Vậy nếu Nhân huynh trở về, thì đến đó ai chịu thu nhận chúng tôi?

Tống Giang gạt đi rằng:

– Nếu chúng tôi đưa các ông lên núi, rồi mới trở về, thì mất nhiều ngày quá, không thể nào làm như thế được. Nay tôi xin viết một phong thư nói rõ tình hình mọi lẽ, để các ông đem cả Thạch Dũng tới đó vào bọn Lương Sơn Bạc, còn tôi phải về ngay mới được. Nếu không biết đến thì thôi, nay đã biết đến, thì một ngày đằng đẵng coi tựa mấy thu, không cần ngựa nghẽo, không cần người theo, chỉ một mình tôi phải về ngay lập tức mới yên.

Hai người cố tình lưu giữ không được, Tống Giang lập tức gọi tửu bảo đem mượn bút mực, vừa sụt sùi vừa viết phong thư, ân cần dặn dò ở trong, rồi không kịp dán phong bì mà đưa ngay cho Yến Thuận. Đoạn rồi cởi lấy lá đáp cùng giày gai của Thạch Dũng quấn vào chân, lấy một ít tiền bạc, giắt con dao lưng, và cầm lấy thanh gậy của Thạch Dũng, toan lập tức đi không ăn uống chút gì vào miệng.

Yến Thuận dìu lại mà rằng:

– Ca Ca đợi Tần Tổng Quản, cùng Hoa Tri Trại đến đây, rồi đi cũng được, làm chi mà phải tháo thứ thế?

Tống Giang nói:

– Tôi không thể nào đợi chờ được nữa. Bức thư của tôi đấy rồi không ngại điều chi, hiền đệ Thạch Dũng khá nói chuyện đầu đuôi cho mọi người biết, và từ tạ anh em giúp tôi. Tôi bây giờ làm thế nào mà một bước nhảy về ngay được tới nhà, thì mới thỏa lòng được.

Nói xong cắm đầu cắm cổ mà ngần ngừ thẳng bước ra đi.

Tha hương bước một ngại ngần,

Giang hồ tình nặng tử thần nghĩa sâu!

Cương thường chót vót ngàn thâu,

Lấy ai khóc nỗi bể dâu cho đời?

Bấy giờ Tống Giang ra đi, rồi Yến Thuận, Thạch Dũng cùng nhau ăn uống một lúc trả tiền hàng mà kéo nhau ra đi, Thạch Dũng cưỡi ngựa của Tống Giang, cùng Yến Thuận dẫn lũ theo hầu, đi được năm bảy dặm đường, tìm vào một hàng cơm để nghỉ. Vào khoảng buổi trưa hôm sáu, ba bộ quân mã cũng đều tiếp đến. Yến Thuận, Thạch Dũng tiếp mấy vị hảo hán, rồi đem chuyện Tống Giang cho mọi người nghe, các vị hảo hán nghe nói đều trách Yến Thuận không biết lưu Tống Giang ở lại.

Thạch Dũng bảo với mọi người rằng:

– Tống Ca Ca nghe nói phụ thân mất, thì vội vàng vật vã khóc lóc, rồi sục sạo ra đi, không thể nào mà lưu lại được, hiện có viết một bức thư để lại đây, dặn chúng ta cứ mau mau lên núi, không ngại điều chi hết thảy.

Hoa Vinh cùng Tần Minh xem thư xong, bàn với mọi người rằng:

– Bây giờ vơ vẩn giữa đường, tiến thoái đều khó, trở về không được, mà cùng nhau chia rẽ ở đây, tất là không tiện, vậy bất nhược ta cứ đến đấy xem sao?

Nói đoạn liền kể chín vị hảo hán cùng đi, làm một toán bốn trăm quân mã kéo đến Lương Sơn? Khi tới gần Lương Sơn, tới một khu rừng bên cạnh bờ lau, chợt thấy trên mặt nước có tiếng chiêng trống vang trời, cờ bay phất phới, rồi thảy trong đám vũng nước có hai chiếc khoái thuyền đi ra. Một chiếc thuyền đi trước có bốn năm mươi tiểu lâu la, và một vị Đầu Lĩnh. Báo Tử Đầu Lâm Xung ngồi trước mũi thuyền; thuyền sau cũng ba bốn mươi tên lâu la, một vị Đầu Lĩnh ngồi ở trên mũi thuyên, là Phát Xích Quỹ Lưu Đường.

Bấy giờ Lâm Xung trông thấy bọn kia đi đến, liền quát lên hỏi rằng:

– Các người quân quan ở đâu, dám đến đây thu bắt bọn ta. Các ngươi phải biết, bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc đây, nếu trêu vào thì không một thằng nào sống được…

Bọn Hoa Vinh, Tần Minh nghe nói vội vàng xuống ngựa, đứng trên bờ mà nói rằng:

– Chúng tôi không phải là quan quân ở đâu, hiện có thư của Tống Công Minh Ca Ca đưa đến, xin vào nương tựa ở Đại trại ở đây.

Lâm Xung nghe vậy, liền nói rằng:

– Nếu có thư của Tống Công Minh, thì xin mời các ngài đến tửu điếm đằng kia sẽ tiếp kiến.

Nói đoạn, rồi đứng trên thuyền vẫy lá cờ xanh, có một con thuyền ở giữa đám bụi lau đi ra. Trong thuyền có ba người ngư phủ, một người ngồi lại coi thuyền còn hai người lên bờ nói với bọn Hoa Vinh rằng:

– Xin mời các vị tướng quân đi theo tôi đến đằng này.

Đoạn rồi hai chiếc thuyền đều thổi còi lên hiệu, phất ngọn cờ trắng, nổi tiếng thanh la mà vụt đi mất. Mọi người trông thấy kinh ngạc bảo nhau rằng:

– Nay mới thấy Lương Sơn Bạc danh bất hư truyền, trách nào quan quân không dám chạm đến đây. Sơn trai chúng ta bao giơ cho theo kịp được?

Bấy giờ bọn Hoa Vinh đi theo người ngư phủ đi quanh trên con đường phẳng lặng rộng, một lát thì tới tửu điếm Chu Qúy, Chu Quý thấy chúng đến, thì vui mừng đón tiếp, sai mổ hai con bò làm rượu mời bọn họ. Bọn Hoa Vinh đưa thư của Tống Giang cho Chu Quý xem.

Chu Quý xem xong, bèn đến chốn Thủy Đình bắn một phát tên vào đám lau để ra hiệu. Phút chốc có tiểu lâu la chở một chiếc khoái thuyên ở trong đám lau đi ra. Chu Quý đưa thư cho tiểu lâu la, và dặn dò đầu đuôi để lên báo trước sơn trại. Ngày hôm sau quân sư Ngô Học Cứu dẫn hai ba mươi chiếc thuyền lớn, ra tửu điếm Chu Quý để đón tiếp mọi người. Ngô Học Cứu cùng Chu Quý mời chín vị hảo hán đem các đồ hành lý, vợ con cùng nhân mã xuống thuyền, cùng đi vào bến Kim Sa.

Khi tới bến, đã thấy Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh Lương Sơn, đều ăn mặc nhung phục, dẫn phường nhạc ra đón tiếp, Tiều Cái cùng chín người bọn Hoa Vinh thi lễ, rồi cùng lên ngựa, đưa về Tụ Nghĩa Sảnh.

Hồi đó Bạch Nhật Thử Nhật Thắng đã nhờ được mưu kế của quân sư Ngô Học Cứu, mới vượt được ngục Tế Châu mà cùng về ở đó. Bọn Tiều Cái, ndu, Công Tôn Thắng; Lâm Xung; Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhi, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu Quý, Bạch Thắng, đón bọn Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín, Yến Thuận, Vương Anh, Trương Thanh, Lã Phương, Quách Thịnh, và Thạch Dũng vào Tụ Nghĩa Sảnh, rồi tự ngồi sang phía ghế bên tả, chín vị hảo hán kia ngồi vào phía ghế bên hữu. Hai bên phân tọa chỉnh tề, ở giữa đốt lò hương lớn, rồi các vị hảo hán cùng thề ước với nhau. Bọn Tiều Cái sai giết trâu ngựa mở tiệc khao mừng, và sai dọn phòng ốc ở sau núi, để gia quyến các vị hảo hán ở,lại cho bọn thân nhân theo hầu các vị hảo hán mới đến, đều dự tiệc cùng đám tiều đầu mực ở sơn trại. Trong khi dự tiệc Hoa Vinh cùng Tần Minh, từng xưng tán đức tốt của Tống Giang, và đem chuyện báo ơn báo oán ở núi Thanh Sơn, thuật lại cho các vị Đầu Lĩnh nghe. Bọn Tiều Cái nghe vậy, ai cũng có vẻ vui mừng. Sau khi nói chuyện Lã Phương, Quách Thịnh đánh nhau, Hoa Vinh bắn một mũi tên đứt đôi cái ngù buộc kích, thì Tiều Cái có ý không tin, liền ấm ư đáp lại rằng:

– Nếu có được tài bắn như vậy, thì hôm nào thử thí nghiệm xem sao?

Ngày hôm ấy, đôi bên đều mở lòng uống rượu, khi chén đã hơi say, các vị Đầu Lĩnh liền mời bọn Hoa Vinh đi quanh nom phong cảnh rồi lát nữa lại vào dự tiệc. Các vị hảo hán cùng các vị Đầu Lĩnh đều dắt tay nhau dạo xem phong cảnh trước núi, rồi cùng nhau ra đến đệ Tam Quan.

Đương khi xem ngắm, chợt thấy tiếng chim hồng kêu kí két ở đằng xa bay lại, Hoa Vinh nghĩ thầm trong bụng rằng:

– “Tiều Cái nghe ta nói bắn đứt cái ngù buộc kích, thì ra dáng không tin, vậy bất nhược tiện đây ta bắn thử một phát, cho họ biết tay mới được!”

Hoa Vinh nghĩ đoạn, liền mắt nom thấy trong bọn theo hầu đi đó, có người sẵn cung tên, chàng liền mượn lấy cung tên để bắn. Khi cầm lấy xem, thấy cây cung Nô Kim Thước Hoạch óng ả dễ coi chính là hợp ý cho Hoa Vinh, chàng liền giơ cung cầm tên bảo với Tiều Cái rằng:

– Vừa rồi các vị Đầu Lĩnh thấy nói Hoa Vinh này bắn đứt dây ngù buộc kích, nghe chừng có ý không tin, vậy nhân có hàng nhạn bay qua, tôi xin bắn một con để các ngài coi thử. Tôi định bắn con nhạn thứ ba, bay ở trên kia, nếu không trúng, thì xin các ngài đừng chê cười…

Nói đoạn giương cung nhắm thẳng lên trên, bắn đến tách một cái, thì quả nhiên con nhạn thứ ba rơi xuống núi, Tiều Cái sai quân nhặt về để xem, thấy mũi tên đúng giữa đầu con nhạn. Ai lấy đều lấy làm kinh ngạc bái phục là mũi tên thần.Ngô Học Cứu xưng tán Hoa Vinh rằng:

– Cứ như tay thần của tướng quân, thì không những ví với Tiểu Lý Quảng, dẫu đến ngay Dưỡng Do Cơ cũng khó lòng mà đọ được! Thực là may mắn cho sơn trại, mà có ngài đến ở đây.

Từ đó, các vị Đầu Lĩnh đều lấy làm kính phục Hoa Vinh, rồi cùng nhau trở về yến hội. Ngày hôm sau, trong trại lại đặt tiệc ăn mừng, và bàn định ngôi thứ các vị hảo hán mới tới. Tần Minh đáng lẽ ngồi trên đám đó, song có Hoa Vinh ngồi ghế thứ năm, vai dưới Lâm Xung, mà để Tần Minh ngồi ghế thứ sáu, Lưu Đường thứ bảy Hoàng Tín thứ tám, dưới ba anh em họ Nguyễn, song đến Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Lã Phương, Tống Vạn, Chu Quý và Bạch Thắng, cộng tất cả hai mươi mốt vị Đầu Lĩnh cùng ngồi dự tiệc với nhau. Sau khi yến tiệc vui mừng, trong sơn trại lại chế thêm thuyền bè, nhà cửa xe pháo giáo gươm cùng các đồ cung tên cờ giáp để phòng khi cự địch quân quan.

Giang sơn riêng một góc trời,

Cơ mưu trí dũng trên đời kém chi?

Sẵn sàng võ bị binh suy,

Cư an phải có tư nguy mới là.

Bên kia Tống Giang từ khi chia tay cùng Yến Thuận. Thạch Dũng, liền vội vội vàng vàng đi gấp đường để trở về cố lý. Chiều hôm đó đi đến một tửu điếm của Trương Xã Trưởng, vốn là một người tử tế với Tống Giang từ xưa nay, nay thấy Tống Giang đi ca mới về, mà nét mặt buốn bã như chiều thần nuốt hạt châu, liền có ý băn khoăn mà hỏi rằng:

– Áp Ty đi vắng hơn một năm nay, bây giờ mới về chơi nhà, mà sao nét mặt buồn bã làm vậy? Chẳng hay trong bụng có gì không vui chăng? Bấy giờ gặp việc Quan Tư đã tới kỳ ân xá, chắc là Áp Ty cũng được giảm tội đi rồi thì phải?

Tống Giang đáp rằng:

– Lão thúc dạy phải lắm, tôi bây giờ việc quan tư cũng chẳng ngại gì, duy phụ thân sinh ra tôi mới mất, thì lẽ nào mà không đau khổ trong lòng.

Trương Xã Trưởng nghe nói cả cười mà rằng:

– Áp Ty điên hay sao? Lại nói chuyện buồn cười như thế? Thái Công nhà ngài vừa mới ngồi uống rượu ở đây, vừa mới về được một lúc rồi, sao lại nói lạ thế?

Tống Giang ngạc nhiên nói rằng:

– Thúc thúc xem…Đây là bức thư của Tống Thanh viết rõ ràng là cha tôi mất dạo tháng giêng, chỉ đợi tôi về làm lễ thiên táng đó mà…

Xã Trưởng cầm lấy thư xem, rồi vỗ tay mà kêu lên rằng:

– Quái lạ! Sao lại có thể được? Chính lúc trưa cụ với Vương Thái Công ở đông thôn, vừa mới uống rượu ở hàng tôi xong, khi nào tôi lại nói sai?

Tống Giang nghe nói, lấy làm quái lạ không hiểu ra sao…  Đành ngồi đó đến tối rồi mới từ giã Xã Trưởng mà lẻn về nhà. Khi tới cửa trang thấy cửa nhà vẫn êm cả, không có việc chi động tĩnh khác. Bọn trang khách thấy Tống Giang về thì ai nấy vui mừng mà chạy ra đón.

Tống Giang lại hỏi ngay rằng:

– Phụ thân ta cùng Tứ Lang có nhà không?

Tụi trang khách nói:

– Thái Công ngày nào cũng mong mỏi Áp Ty đã mòn cả mắt, ngày nay trông thấy Áp Ty về, chắc là vui mừng không biết đâu mà kể…Thái Công đi uống rượu cùng Vương Thái Công ở nhà Trương Xã Trưởng mới về vừa xong, hiện đương nằm ngủ trong phòng đó.

Tống Giang nghe nói càng lấy làm lạ, vội vất thanh gậy xuống, rồi đi thẳng vào thảo đường. Bấy giờ Tống Thanh thấy anh về, vội vàng chạy ra đón lạy chào rất là ân cần. Tống Giang thấy Tống Thanh quả nhiên không mặc đồ hiếu phục, thì trong bụng đùng đùng nổi giận trỏ mặt Tống Thanh mà mắng rằng:

– Thằng súc sinh này vô lý quá bố còn sống trờ trờ kia, sao mày dám viết giấy nói liều, để cho ta chực tự tử ở giữa đường…không còn thiết đến cửa nhà chi nữa.Mày là đồ bất hiếu như thế…

Tống Giang vừa nói đến đó, Tống Thanh chưa kịp trả lời, thì đã thấy Tống Thái Công ở trong bình phong đi ra, gọi Tống Giang mà bảo rằng:

– Con không nên gắt mắng em nữa, cái đó không can thiệp gì đến nó. Vì ta mong mãi không thấy con về, nên mới sai em con viết thư như vậy, cho con phải về ngay. Vả ta nghe nói Bạch Hổ Sơn có nhiều trộm cướp, sợ khi con bị họ bắt bớ, rồi bức bách làm nghề lạc thảo, gây nên những tội bất hiếu bất trung, nên nhân thấy Thạch Dũng qua đấy, phải gửi thư cho con về lập tức, cái đó đều mệnh lệnh của ta, con không nên mắng em con nữa.

Tống Giang nghe nói, vội đổi nét mặt làm vui cười, lạy rạp xuống đất mà thăm hỏi hàn huyên, rồi mới kể đến việc quan ở huyện.

Thái Công bảo với Tống Giang rằng:

– Khi hai anh em con đi rồi, may nhờ có Chu Đồng và Lôi Hoành chu toàn che chở giúp cho, nên công việc cũng hơi được ổn thỏa, chỉ tư giấy đi truy bắt các nơi, mà trong nhà không còn lôi thôi gì nữa. Gần đây nghe nói triều đình sách lập Hoàng Thái Tử lên ngôi vua, có giáng một đạo xá thứ, phàm kẻ nào có tội nặng đều được giảm bớt cả cho. Bởi thế ta lại cũng mong con về đây…Bây giờ dẫu có bắt được, cũng đến đi đày đi ải mà thôi, không có gì là nặng lắm. Hãy để đó xem sao?

Tống Giang nhân hỏi đến chuyện Chu Đồng và Lôi Hoành, Thái Công đáp rằng:

– Mấy bữa trước thấy nói hai người cùng đi việc quan vắng cả, Chu Đồng thì sai đi Đông Kinh, còn Lôi Hoành thì không biết rằng sai phái đi đâu? Hiện nay trong huyện có hai người quyền mới đều là người họ Triệu cả.

Cha con ngồi chuyện một lúc, rồi Thái Công bảo Tống Giang đi ngủ sớm cho đỡ mệt. Khi mặt trời mới mọc, vào khoảng hết trống canh một, mọi người trong nhà đâu đấy đã ngủ yên phăng phắc, thì chợt thấy đuốc sáng rực cả lên, cửa trước cửa sau ồn áo kêu thét, rồi có tiếng quát lên rằng:

– Bắt lấy Tống Giang, đừng để chạy mất.

Cả nhà nghe thấy kinh sợ hãi hùng, không biết đầu đuôi xử trí ra sao?

Hay là:

Trăng trong soi bóng tử thần,

Hỏi rằng có thấu gian truân nỗi đời?

Bấy lâu góc bể bên trời

Nào khi trốn tránh nào nơi lọc lừa

Nhân tình trải mấy nắng mưa

Giang hồ còn chút thân thừa là đây.

Hiếu trung chất một lòng đầy,

Ví không non nước thân này kém ai?

Ai lên nhắn nhủ thử trời

Còn thân chắc cũng còn nơi vẫy vùng.

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này rất nhiều chi tiết, một tiết Trại Thanh Phong khởi hành; Một tiết gặp Lã Phương, Quách Thịnh ở núi Đối Aûnh; Một tiết gặp Thạch Dũng ở tửu điếm; Một tiết Tống Giang nhận được gia thư; Một tiết Lương Sơn Bạc canh phòng cẩn mật; Một tiết Hoa Vinh bắn nhạn trổ tài; Sau một tiết Tống Giang trở lại nhà.

Đọc đến trại Thanh Phong khởi hành, với số xe ngựa, tướng binh, kể qua một lượt phân phối một lượt, rõ ràng một đoạn sử ký.

Đọc đến một tiết đấu kích ở Đồi Ảnh Sơn, thấy tác giả diễn ra một áng văn bỗng đâu rất thú, đó tả một tướng quân trẻ tuổi, phải được như thế! Đọc đến một tiết tả Thạch Dũng, cần xem tả được Thạch Dũng tướng quân như hổ dữ ngăn đường, thực là đáng khiếp, chỉ chịu phục hai vị hào kiệt, con người hào kiệt mới chịu phục nhau, thì con người hào kiệt đối với thiên hạ như thế nào?

Đọc đến một tiết Tống Giang được thư nhà, cần xem chỗ Thạch Dũng chả đưa thư ra ngay, lại không rõ sự thể trong thư nói gì, chỉ coi thông thường, làm cho Tống Giang mừng quýnh; Sau khi uống rượu nói chuyện, mới dỡ thư xem, chưa kịp xem thư, thấy không đề hai chữ Bình An ngoài phong bì, khiến Tống Giang ngờ, đều dùng ngọn bút kỳ do.

Đọc đến tiết Tống Giang, chạy về chịu tang, cần xem tác giả vẽ sống lạ con người bôn tang, nào đổi dày bỏ gậy, bỏ tiết Thủy Bạc, cần xem xả bài trí hùng lệ, hiệu lệnh nghiêm trang, cần xem chỗ giữ cẩn theo phép, cần xem chỗ lo sâu nghĩ xa, cần xem chỗ hỏi han, cặn kẽ, cần xem chỗ không vội tin lời nói, cần xem chỗ không hờ hững khách xa, đều dùng bút rất hết ý.

Đọc đến tiết Hoa Vinh trổ tài bắn nhạn, cần xem chỗ bắn giữa đám anh tài, xin định bắn con nào, còn khiêm tốn sợ không đúng…thấy Hoa Vinh văn nhã hơn người.

Đọc đến tiết Tống Giang về nhà, cần xem chỗ chợt vào nhà Trương Xã Trưởng nói chuyện, lại e không tin, sau tả thêm một Vương Xã Trưởng cùng uống rượu nữa, đó hình thể lối hành văn.

Hồi 35: Vũng Lương Sơn, Ngô Dụng cử Đới Tung – Núi Yết Dương, Tống Giang gặp Lý Tuấn

Bấy giờ Tống Thái Công nghe tiếng ồn ào, vội vàng trở dậy bắc thang trèo lên tường xem, thấy ngoài tường đóm thuốc sáng choang, hai viên Đô Đầu dẫn hơn trăm người đến vây ở đó.

Hai viên Đô Đầu này, nguyên là hai anh em họ Triệu, một người tên là Năng, một người tên là Đắc, cùng mới đến huyện Vận Thành làm Đô Đầu cả. Khi đó hai viên Đô Đầu bảo với Tống Thái Công rằng:

– Thái Công có phải là người biết điều, thì đem Tống Giang ra đây, để chúng tôi bắt hắn đem về nộp quan; bằng không thì chúng tôi bắt Thái Công để mang thay hắn.

Tống Thái Công đáp rằng:

– Tống Giang có ở nhà này đâu?

Triệu Năng nói:

– Thái Công đừng che mắt nữa? Chính Tống Giang ở nhà Trương Xã Trưởng ra về vào lúc tối nay, hiện có người theo dõi đến đây, còn chối từ sao được?

Bấy giờ Tống Giang đứng ở bên thang nghe vậy thì bảo với Thái Công rằng:

– Phụ thân nói với họ làm gì? Việc con đã gặp một kỳ ân xá, chắc là cũng giảm được ít nhiều. Vậy xin để mặc con ra thú trước cửa quan cũng chẳng chết nào mà sợ? Bọn này là bọn vô kiến thức, không quen biết với họ bao giờ, phụ thân nói làm chi cho mệt.

Thái Công nghe Tống Giang nói, thì ra dáng xót thương mà rằng:

– Nếu vậy thì cha đây làm khổ cho con hay sao?

Tống Giang nói:

– Phụ thân không nên phiền não làm chi? Con ra thú với quan tư thế là may lắm. Bằng cứ như mọi khí mà bôn tẩu giang hồ, gặp rặt những tay giết người đốt nhà, rồi lỡ ra bức bách phải đi tùng đảng, thì còn bao giờ được gặp phụ thân. Ngày nay dẫu có lỡ đi đày ải xa khơi xong cũng có kỳ hạn, sau này sẽ trở về đây, bấy giờ cha con đoàn tụ với nhau há chẳng vui lắm sao?

Tống Giang nói xong liền nhảy lên thang bảo với bọn người kia rằng:

– Tôi là Tống Giang đây, xin mời Đô Đầu hãy cho vào trong trang xơi nước, rồi sáng mai tôi sẽ đi đến quan. Tôi không phải đến nỗi chết gì mà ngại?

Triệu Năng nói:

– Thôi anh đừng mưu mẹo lừa cho hai anh em chúng tôi vào đây nữa.

Tống Giang cười mà đáp rằng:

– Có khi nào tôi dùng mưu mẹo để liên lụy đến anh em? Mời hai Đô Đầu cứ vào đây?

Nói đoạn xuống thang quay ra mở cổng, mời hai Đô Đầu vào trong trang, rồi nhất diện sai giết gà vịt làm cơm thiết đãi, và cho đám quân sĩ ăn uống. Khi ăn uống xong Tống Giang lại lấy ba mươi lạng bạc, đưa lại hai Đô Đầu mà giữ lại nghỉ ở đó một tối.

Sáng hôm sau, Triệu Năng, Triệu Đắc, áp giải Tống Giang về đến huyện Vận Thành. Quan Huyện Thời Văn Bân trông thấy cả mừng, truyền đem Tống Giang ra lấy khẩu cung. Bấy giờ Tống Giang cầm bút cung nhận các lẽ đại khái sau đây.

“Vào khoảng mùa thu năm ngoái, có mua Diêm Bà Tích về làm tỳ thiếp, sau vì một việc không may, hai bên cãi cọ lẫn nhau, nhân khi say rượu, lỡ tay đánh chết, rồi phải trốn tránh phương xa. Nay bị quan trên bắt được, xin thú mọi điều, không dám chút gì man trá.”

Tri Huyện xem nhận tờ cung, rồi truyền cho đem giam xuống nhà giam lao. Khi đó khắp huyện nghe tiếng Tống Giang bị bắt thì ai nấy đều có lòng thương xót, mà cùng nhay đến nói Tri Huyện, để rút bớt tội cho. Quan Huyện vốn có lòng tử tế với Tống Giang, nên cũng cho thả lỏng trong lao, mà không bắt gông cùm trói buộc, và lại đem tờ cung mà phê chuẩn ngay cho. Tống Giang lại đem tiền đút lót các nơi, cho đâu đấy đều hết lòng vị nể, không ai bới móc lôi thôi. Diêm Bà khi đó cũng đã chết rồi, không còn ai làm khổ chủ. Trương Tam thì người dưng nước lã, Bà Tích không còn, nên cũng lặng im cho xong chuyện.

Bấy giờ, quan Huyện làm thành văn án, đợi hết hạn sáu mươi ngày, giải lên trên Tế Châu để kết đoán. Quan Phủ Tế Châu xem đến hết căn do, và truy theo với ngày ân xá, liền giảm tội cho Tống Giang, phạt đánh hai mươi trượng, và phát vãng sang phủ Giang Châu. Các quan lại ở châu thành nhiều người quen biết Tống Giang, vả lại có tiền nong nói lót từ trước, nên đến khi phạt đánh, cũng không lấy gì làm đau đớn, như mọi kẻ tội nhân.

Khi phạt đánh xong rồi, quan Phủ cho thảo công văn, sai hai tên công sai cùng tụi Thương Thiên Lý Vạn gông cổ Tống Giang, mà sai sang Giang Châu. Giải ra cổng phủ thì Tống Thái Công và Tống Thanh đến đón ở đó, mời hai người công sai vào hàng thiết rượu, và đưa tiền ra để tiễn tặng.

Đoạn rồi Thái Công đưa quần áo cho Tống Giang thay, và gọi ra ngoài chỗ vắng mà dặn rằng:

– Ta biết Giang Châu là một nơi phong phú dễ chịu, nên phải chịu tốn tiền, xoay sở cho con đến chỗ đó. Vậy con nên cẩn thận giữ gìn, rồi ta sẽ sai Tứ Lang đến thăm hỏi, và tiền nong ta sẽ thường thường đưa cho, phen này con đi tất qua Lương Sơn, lỡ khi họ có xuống núi bắt ép lên nhập bọn, thì thế nào con cũng chớ theo, mà chớ để cho thiên hạ cười là bất nghĩa bất trung mới được. Những điều cha dặn con chớ quên sau này may có ngày đoàn tựu với nhau thế là hạnh phúc.

Tống Giang vâng lời, rồi bái biệt phụ thân, mà cùng hai tên công sai ra đi. Tống Khánh đưa chân Tống Giang một quãng đường xa. Khi sắp từ biệt nói với Tống Thanh rằng:

– Ta đi phen này, ở nhà bất tất phải lo nghĩ làm chi, duy phụ thân nay tuổi cao sức yếu, anh thì muôn dặm xa xôi, vậy em ở nhà phải nên trông nom phụng dưỡng, chớ bỏ đó mà sang Giang Châu mới được. Ta đi đến đâu, anh em quen biết cũng nhiều, nếu có thiến thốn tiền nong, khắc đã có người giúp đỡ, rồi sau này nhờ trời tất cũng phải có phen đoàn tụ với nhau. Nói đoạn hai anh em cũng ngậm ngùi lai láng mà cùng nhau gạt lệ chia tay.

Cố hương xa cách từ đây,

Nước non còn hẹn đến ngày trùng lai.

Đen thân đọ với đất trời,

Hỏi rằng cung kiếm chìu người hay chăng?

Sau khi từ biết Tống Thanh, Tống Giang cùng hai tên công sai lẽo đẽo lên đường. Hai tên công sai này đã được tiền của Tống Giang tiễn tặng, và cũng biết Tống Giang là người hảo hán xưa nay, nên cũng hết lòng chiêu đãi, mà không hoạnh hoẹ điều chi.

Tối hôm ấy đi đến một tửu điếm, Tống Giang cùng hai tên công sai vào nghỉ trọ. Tống Giang mua rượu thịt đãi hai tên công sai cùng uống, và bàn với hai người rằng:

– Chả dấu gì hai bác, các hảo hán trên Lương Sơn quen biết tôi rất nhiều, nay cứ theo đường thẳng đi qua lối này, thì tất nhiên họ cướp lấy tôi, mà hai bác cũng phần kinh sợ, vậy sáng mai dậy sớm mà tìm lối tắt nào để đi, cho tránh khỏi chỗ ấy là hơn.

Hai tên công sai vâng lời mà rằng:

– Nếu vậy chúng tôi cũng biết lối tắt, ta phải theo lối tắt mà đi, thì họ còn biết đâu mà bắt được?

Đêm hôm ấy ba người cùng định kế với nhau, rồi sáng hôm sau trở dậy ăn cơm sớm, rồi cung theo lối tắt mà đi. Khi đi được hơn mươi dặm đường, chợt trông thấy ở sường núi trước mặt có toán quân đi ra. Tống Giang nom lên thì thấy Xích Phát Quỹ Lưu Đường dẫn một toán quân hai ba mươi tên lâu la sồng sộc chạy ra chỗ Tống Giang mà toan đánh chết hai tên công sai. Trương Thiên, Vạn Lý thấy vậy đều sợ hết vía, mà quỳ ngay xuống dưới đất. 

Hoa Vinh hỏi lên rằng:

– Sao không tháo gông ra cho huynh trưởng?

Tiều Cái đáp lên rằng:

– Tôi biết ý huynh trưởng rồi…Cái đó có khó gì? Chỉ có một điều là không lưu luyến huynh trưởng ở sơn trại thì thôi…Nhưng Tiều Đầu Lĩnh lâu nay không được gặp nhân huynh, phen này muốn cùng nhân huynh tỏ lộ mấy lời tâm phúc, vậy xin người hãy quá bộ vào chơi sơn trại rồi sẽ đi…Có vội gì?

Tống Giang nghe nói đáp ngay rằng:

– Chỉ có tiên sinh là biết được ý tôi…

Nói đoạn lại nâng hai người công sai dậy ma tiếp luôn rằng:

– Phải để cho hai người này được tử tế…thà rằng giết tôi, chứ không thể hại họ được!

Đoạn Ngô Học Cứu liền đón bọn Tống Giang, cùng vào trong núi. Khi đến bên núi, có kiệu ra đón bên đinh đoạn kim. Đoạn rồi truyền lệnh cho các vị Đầu Lĩnh cùng về tụ họp và đón tiếp vào Tụ Nghĩa Sảnh.

Khi vào tới tụ Nghĩa Sảnh, Tiều Cái ra ý ân cần cảm tạ mà rằng:

– Từ khi ở đất Vạn Thành, nhờ ngài cứu thoát cho khỏi nguy nan, anh em thường vẫn nhắc đến ơn lớn của ngà, mới đây lại tiến dẫn các vị hào kiệt lên núi, thực là làm cho vẻ vang sơn trại vô cùng, ơn ấy biết bao giờ mà lũ chúng tôi biết báo đền cho xứng đáng.

Tống Giang đáp rằng:

– Chúng tôi sau khi từ biệt các ngài rồi giết đứa dâm phụ, phải đem thân đi đào tẩu giang hồ, hơn một năm trời dòng dã, dạo trước đã toan lên núi để thăm hỏi các ngài, song giữa đường tiếp được gia thư nói rằng phụ thân tạ thế, nên phải vội vàng về ngay. Ai ngờ đó là thân phụ mong mỏi, sợ khi nhập bọn với ai, nên mới viết thư nói dối gọi về, và cũng bởi đó nên quan trên bắt được. Nhưng cũng may được nhiều người che chở trông nom, nên cũng không có điều chi khổ sở; mà đi đầy đến đất Giang Châu, cũng là một nơi dễ chịu. Nay các ngài đã có lòng cho gọi, tôi không đến bái yết thì không tiện, song ngặt vì kỳ hạn đến nơi, không thể nào ở lâu đây được, nay anh em đã được gặp nhau, thế cũng là đủ, vậy xin các ngài tha lỗi cho tôi đi.

Tiều Cái nói:

– Có điều chi mà phải vội vàng thế, xin huynh trưởng ngồi chơi thư thả rồi sẽ hay.

Nói đoạn mời Tống Giang cùng ngồi vào ghế giữa. Tống Giang cho gọi hai tên công sai ngồi sát ở hai bên, mà không hề rời xa một bước. Tiều Cái bảo các đầu lĩnh chào Tống Giang, rồi cho ngồi dàn ra hai bên, và sai tiểu đồng rót rượu. Trước hết Tiều Cái chào Tống Giang, rồi từ Quân sư Ngô Học Cứu cho đến Bạch Thắng, đều cất chén mời khắp lượt. Rượu được vài tuần, Tống Giang lại đứng dậy mà rằng:

– Thế này thì biết đủ tấm lòng thân ái của các ngài đối với Tống Giang, song Tống Giang hiện đương là người có tội, không thể nào mà ở lâu được, vậy xin từ tạ để đi.

Tiều Cái cười rằng:

– Nhân huynh cần gì phải như vậy? Nếu nhân huynh không muốn giết hại hai tên công sai, thì cứ cho họ ít tiền rồi tống họ về, sau có lý thế nào cũng chỉ nói là bọn Lương Sơn Bạc cướp mất huynh trưởng rồi, không có kẻ nào trị tội họ mà sợ.

Tống Giang đáp rằng:

– Xin huynh trưởng chớ nói những lời như thế? Nếu thế không phải là cứu vớt Tống Giang, mà chính là làm khổ Tống Giang đó, Tống Giang này trên có cha già chưa từng được một ngày phụng dưỡng, có lẽ nào dám trái lời nghiêm huấn làm cho liên lụy đến cha? Trước đây cũng vì một lúc cao hứng, toan đến đây ở cùng các ngài, nhưng may sao trời kia xui khiến lại gặp được Thạch Dũng, mà được trở về nhà, cho đến cố hương, rồi sau phụ thân nói hết đầu đuôi; bắt phải ra thú quan tư mà chịu tội cho im các chuyện. Khi bước chân ra đi đày ở đất Giang Châu, phụ thân lại ân cần dặn dò, không được đua theo sự khoái lạc của mình, mà làm lụy đến cả cha em nhà cửa. Nay nếu Tống Giang tôi không nghe lời đó, thì là trên trái lẽ trời, dưới trái lời cha, trọn đời làm kẻ bất hiếu bất trung, dẫu có sống nữa cũng là vô ích. Nếu các ngài không có lòng tha cho Tống Giang được đi, thì Tống Giang này xin chết ngay trong tay các ngài này cho rảnh chuyện. Nói đoạn lai láng hai hàng nước mắt, rồi đứng dậy mà quỳ cúi rạp suống đất.

Tiều Cái, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng đều đỡ Tống Giang dậy mà rằng:

– Nếu Ca Ca quyết định đi sang Giang Châu, thì xin hãy thư thả một hôm, rồi sáng mai sẽ xin đưa ngài xuống núi.

Mấy người cùng nhau gìn giữ năm lần bảy lượt. Bấy giờ Tống Giang mới nhận lời mà lại ở đó. Song Tống Giang cũng nhất định không cho tháo bỏ gông ra, và cứ bắt hai người công sai ngồi sát luôn bên cạnh, không để cho rời một bước nào.

Sáng sớm hôm sau, Tống Giang lại nằng nặc quyết ý đòi đi, Ngô Dụng liền sai bày tiệc tống hành và báo với Tống Giang rằng:

– Dám thưa Ca Ca, Ngô Dụng tôi có một người anh em chí thân, hiện đang làm Tiết Cấp, coi nhà lao ở Giang Châu, họ Đới tên Tung, người đó thường gọi là Đới Viện Trưởng, anh ta giỏi việc thần hành, một ngày có thể đi được tám dặm đường, nên người ta thường gọi là Thần Hành Thái Bảo. Người ấy chuyên là một người trọng nghĩa khinh tài, nhân vậy đêm qua tiểu đệ có viết một phong thư, để huynh trưởng sang đó nên kết thân với người ấy, rồi sau đây lỡ có việc gì, thì người ấy sẽ thông tin cho anh em cùng biết.

Nói đoạn đưa thư cho Tống Giang, rồi mời vào dự tiệc. Khi ăn tiệc xong, các vị Đầu Lĩnh hết sức giữ Tống Giang không được, liền đem ra một mâm vàng bạc gói tặng Tống Giang, và lại đưa hai mươi lạng bạc cho hai tên công sai, rồi sai người gánh hành lý mà đưa chân xuống núi. Ngô Học Cứu cùng Hoa Vinh đưa đến đường cái, đi ra ngoài hai mươi dặm, rồi mới bái biệt trở về.

Bấy giờ hai tên công sai, thấy Tống Giang đi đến đại trại nhân mã, các vị Đầu Lĩnh đều phải lại phục, lại được thêm kim ngân tiễn tặng như vậy, thì trong lòng lấy làm nửa mừng nửa sợ, mà từ đó hết sức hầu hạ Tống Giang, không hề chút gì sơ xuất.

Ba người cùng đi được hơn nửa tháng trời, đến một nơi có một tòa núi cao, hai tên công sai nói với Tống Giang rằng:

– Ở đây là núi Yết Dương, đi qua núi Yết Dương tức là con sông Tầm Dương, từ dó sang Giang Châu toàn là thủy bộ, cũng không còn xa mấy nữa.

Tống Giang đáp rằng:

– Nếu vậy bây giờ trời còn đương sớm, ta nên đi mau qua núi, rồi sẽ tìm chỗ nghỉ mới được.

Nói đoạn ba người cùng rảo bước đi mau lên núi, đã trông thấy ở dưới chân núi có một hàng rượu quay lưng vào núi, mà trước mặt toàn cây cổ quái um tùm. Tống Giang thấy vậy với hai người kia rằng:

– Chúng ta đương đói khát, hãy vào hàng kiếm thức gì ăn uống rồi sẽ đi.

Đoạn rồi ba người cùng đi vào hàng rượu. Hai tên công sai để các đồ hành lý lên bàn, dựng gậy vào một bên vách, rồi Tống Giang mời hai người ngồi lên ghế trên, mà tự mình ngồi xuống phía dưới.

Ba người ngồi đợi, mãi đến nửa tiếng đồng hồ không thấy ai ra bán hàng.

Tống Giang liền kêu lên rằng:

– Chủ nhà ở đâu, sao không ra bán hàng?

Nói vừa dứt lời, thì thấy tiếng trả lời rằng:

– Tôi ra đây, tôi ra đây.

Bấy giờ thấy một anh chàng to lớn râu quăn sắc đỏ, mặt hổ kéo tia, đầu đội khăn mích, mình mặc áo trấn thủ, để hở hai cánh tay, phía dưới buộc một cái khăn rất lớn, ở trong nhà chạy ra cúi chào ba người mà hỏi:

– Các ngài xơi bao nhiêu rượu?

Tống Giang nói rằng:

– Chúng tôi đương đói bụng, ở đây có thịt thà gì không?

– Thưa ngài, ở đây chỉ có thịt trâu chín với rượu trắng thôi.

– Được lắm, thái cho ba cân thịt,và rót một nai rượu đem đây.

Anh chàng kia nói rằng:

– Thưa ngài, xin ngài tha lỗi cho, ở hàng tôi đây phải trả tiền trước, rồi mới bán rượu thịt sau.

Tống Giang cười rằng:

– Ta trả tiền trước, cũng được chứ sao?

Nói đoạn liền mở khăn gói lấy mấy lạng bạc vụn đưa ra. Anh chàng kia đứng bên cạnh, liếc nom thấy khăn gói của Tống Giang hơi nặng, thì trong bụng lấy làm vui mừng hớn hở, liền cầm tiền mà vội quay vào thái thịt rót rượu, rồi lấy ba cái chén, đôi đũa, đem ra rót rượu cho ba người uống.

Ba người vừa uống rượu vừa nói chuyện với nhau. Bọn giang hồ bây giờ thường nói là có nhiều người hay bỏ thuốc mê vào rượu cho thiên hạ uống, rồi cướp lấy tài vật kim ngân, lại giết người lấy thịt đem ra làm bánh, nhưng thiết tưởng chả có lẽ nào lại thế được!

Anh hàng rượu đứng cạnh nghe thấy vậy, thì cười mà nói rằng:

– Ba các ông đã nói thế, thì chớ nên uống rượu vào. Rượu thịt của tôi toàn là thuốc mê ở trong đó.

Tống Giang cũng cười mà rằng:

– Thôi bác đừng nói dỡn nữa. Thấy người ta bảo là thuốc mê thì cũng nói là có thuốc mê…

Hai tên công sai bảo Tống Giang rằng:

– Đại Ca xem thứ rượu này uống nóng thì tốt hơn.

Anh chàng kia tiếp luôn rằng:

– Các ông muốn xơi rượu nóng để chúng tôi đi hâm.

Nói đoạn rồi đem hâm nóng, rồi rót luôn cho ba người uống. Ba người vừa mới uống được một lượt rượu, thì hai tên công sai bỗng đờ mắt sè bọt mép ra, rồi ngã lăn xuống.

Tống Giang thấy vậy, vội đứng lên kêu rằng:

– Sao các bác mới uống một chút rượu mà đã say như thế?

Nói đoạn quay vào toan đỡ hai người kia dậy. Dè đâu chưa kịp đỡ hai người kia, thì tự mình đã thấy hoa mắt choáng đầu, rồi cũng nằm vật ra đó.

Bấy giờ anh chủ hàng nói một mình rằng: Trời ơi! Mấy ngày không có gì buôn bán, hôm nay trời lại đem cho ba món hàng này thực là qúy hóa quá.

Nói xong liền vác Tống Giang đem vào nhà mổ người, ở trong sườn núi, đặt lên trên ghế mổ, rồi lại trở ra vác luôn hai người công sai vào. Đoạn đi trở ra đem các đồ hành lý vào nhà trong mở ra xem thấy rặt những vàng bạc rủng rỉnh, thì tự nói lẩm bẩm rằng: “Ta mở hàng mấy năm nay, chưa bao giờ gặp thằng tù nào nhiều của như thế này? Quái lạ! Một thằng bị tù sao lại lắm vàng như thế? Chẳng hay là trời đem đến, để đãi riêng ta hẳn?”

Xem trong cái bọc, rồi lại cẩn thận, mà chạy ra cửa đứng ngóng. Được một lát người ở dưới núi đi lên, đi thẳng vào tửu điếm.

Anh chủ hàng trông thấy vội vàng đón tiếp mà hỏi luôn rằng:

– Đại ca đi đâu thế?

Bọn kia có một anh to lớn đáp rằng:

– Chúng tôi định lên đây đón một người này, chắc hẳn bây giờ họ đến đây thì phải? Chúng tôi ngày nào cũng đứng đón ở chân núi, mà sao mãi không gặp, hay là họ còn lươn khươn ở đâu?

Anh chủ hàng hỏi rằng:

– Đại Ca định đón ai?

– Tôi đón một người nam tử thực ra tuồng ở đây.

– Nam tử ra tuồng là ai thế?

– Bác muốn nghe tên ông ta hay sao? Ông ta là Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành chứ ai?

– Có phải là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh chăng?

– Phải, chính ông ta.

– Ông ta đi qua đây làm gì?

– Nào tôi có biết đâu. Nguyên mấy ngày hôm nọ, có mấy anh em ở Tế Châu, trở về nói chuyện rằng: Ông ta không biết bị việc gì, mà phải giải tới Tế Châu, rồi kết án đày sang đất Giang Châu, thế nào cũng phải đi qua lối này, chứ không còn đi lối nào được. Trước đây ông ta ở Vận Thành, tôi cũng cố ý muốn tìm cho được gặp, huống chi ngày nay qua ở đất này, thì có lẽ nào mà không đón cho kỳ được? Nhân thế phải đón ở quãng núi này, đến bốn năm hôm nay, không gặp một người tù nào đi qua hết thảy. Hôm nay đợi mãi sốt ruột, định đến đây thăm bác, và kiếm thức gì chén một thể…Thế nào họ hàng dạo này có khá không?

Chủ hàng đáp:

– Chả dấu gì đại ca, mấy tháng nay không có một chút gì cả. May sao trời lại run rủi dắt cho ba cái hàng hóa đến đây, nhờ trời cũng kha khá.

Anh chàng mới đến vội vàng hỏi rằng:

– Ba người ấy thế nào?

– Một người tù với hai người công sai.

Anh chàng kia nghe nói giật mình hỏi rằng:

– Người tù đi đấy có phải là thấp béo đen đen không?

Chủ hàng đáp:

– Phải, người cũng không lấy gì làm to lớn, mà nét mặt đỏ tía như quả bồ quân vậy.

– Chưa động thủ đến chứ?

– Chưa, tôi vừa khiêng vào phòng, đợi bọn người nhà chưa thấy đứa nào về, nào đã hạ thủ được đâu?

Anh chàng kia ra dáng hoảng hốt mà rằng:

– Nếu vậy để tôi vào xem qua xem sao?

Nói đoạn bốn người cùng vào phòng mổ. Khi vào tới nơi thấy Tống Giang cùng hai tên công sai, nằm ngổn ngang ở trên ghế mổ.

Anh chàng kia tuy nom thấy Tống Giang, song vẫn là không biết mặt xưa nay, lại nom đến chỗ kim ấn, thì không được rõ ràng, nhân thế trong bụng nghi hoặc, không biết có phải là đích xác hay không? Chợt nghĩ ra một kế, liền bảo lấy gói hành lý của đám công sai để giở ra xem. Khi xem đến công văn, anh chàng kia ra dáng hớn hở mà rằng:

– Trời ơi! Nếu tôi đến chậm một chút, thì Ca Ca không còn gì là tính mệnh… ? Anh lập tức lấy thuốc cho Ca Ca mau tỉnh dậy thì mới được.

Chủ hàng lật đật đi pha thuốc, rồi cùng anh chàng kia vào phòng tháo gông cho Tống Giang, mà đổ thuốc cứu cho tỉnh dậy. Đoạn rồi bốn người cùng túm vào dìu Tống Giang mà đặt ở khách vị nhà ngoài.

Được một lát, Tống Giang mở bừng mắt dậy, thấy bốn người kia đứng ở chung quanh thì lấy làm kinh lạ, không hiểu ra sao.

Anh chàng kia vội vàng ra trước mặt mà cúi lạy Tống Giang. Tống Giang lấy làm ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Ông là ai? Hay là gặp tôi trong giấc mộng?

Nói đoạn thì cũng thấy anh chủ hàng quay ra sụp lạy dưới đất.

Tống Giang lại hỏi:

– Ở đây là chỗ nào? Hai ông là ai, xin cho tôi được biết?

Anh chàng kia đáp rằng:

– Tiểu đệ họ Lý tên Tuấn, người ở Lư Châu, làm nghề chở thuyền ở sông Dương Tử, vì có tài lặn lội dưới nước nên người ta thường gọi là Hỗn Giang Long Lý Tuấn. Người anh em bán hàng rượu ở đây, là người ở núi Yết Dương, xưa nay chỉ nhờ nghề cướp bóc kiếm ăn, nên người ta thường gọi Thôi Mạnh Phán Quan Lý Lập. Còn hai người này là hai anh em ruột, cũng chuyên nghề bóc lột kiếm ăn, có tài lội nước bơi thuyền, mới đến ở với Lý Tuấn tôi, một người là Động Dao Đồng Uy, và một người là Phiến Giang Thần Đồng Mãnh.

Bấy giờ bốn anh cùng lạy Tống Giang bốn lạy, rồi Tống Giang hỏi rằng:

– Vừa rồi đã đánh thuốc độc cho Tống Giang mê chết, vậy sao lại biết Tống Giang mà cứu dậy?

Lý Tuấn đáp rằng:

– Tiểu đệ có một người anh em buôn bán ở Tế Châu về, kể chuyện nhân huynh bị quan tư bắt bớ đày sang đất Giang Châu, nhân thế tiểu đệ liền đến đây để đón bốn hôm nay. May cũng là sự bất thình lình vào hàng định uống chơi dăm chén rượu, dè đâu thấy Lý Lập nói chuyện, liền có bụng ngờ mà lần vào trong phòng để xem. Bấy giờ tiểu đệ cũng không biết mặt nhân huynh, sau phải đem công văn ra mới biết.  Tiểu đệ nghe nhân huynh đã lâu, nhiều phen đã định đến hầu mà không sao đi được. Nay được gặp gỡ ở đây, thực là hạnh phúc vô cùng. Vậy chẳng hay nhân huynh vì lẽ chi, mà phải đày sang Giang Châu như thế?

Tống Giang liền đem chuyện mình giết Bà Tích, cho tới khi bị quan tư bắt được, kể hết cho mọi người nghe.

Bốn người đều khen ngợi thở than, rồi Lý Lập bảo với Tống Giang rằng:

– Chẳng hay Ca Ca ở lại chốn này, can chi phải đến lao thành ở đất Giang Châu mà chịu khổ?

Tống Giang đáp rằng:

– Bọn Lương Sơn Bạc đã hết lòng giữ tôi ở đó, mà tôi không thể nào lưu lại, để liên lụy đến phụ thân tôi huống chi ở đây… ?

Lý Tuấn nghe nói, liền quay lại bảo Lý Lập rằng:

– Ca Ca là bậc nghĩa sĩ, hẳn không khi nào liều, vậy bác nên cứu cho hai người công sai kia dậy.

Lý Lập vội vàng gọi đám người nhà mới về đó, vào khiêng hai người công sai ra ngoài hàng, rồi đem thuốc giải cứu tỉnh dậy.

Khi hai tên công sai tỉnh dậy đều nhìn nhau mà cùng nói rằng:

– Chúng tôi có lẽ đi đường khó nhọc, ngủ say lúc nào không biết.

Mọi người nghe nói đều cười phá lên.

Chiều hôm ấy Lý Lập làm rượu thiết đãi mọi người, rồi giữ ở đó một tối. Sáng hôm sau lại thiết đãi cơm rượu tử tế, và đưa gói hành lý trả lại hai người công sai, bấy giờ bọn Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, mời bọn Tống Giang mà từ giã Lý Lập rồi cùng về nhà Lý Tuấn.

Khi tới nơi Lý Tuấn cũng thiết đãi ân cần, và bái Tống Giang kêt làm huynh đệ rồi lưu lại ở đó mấy hôm. Cách vài ba hôm, Tống Giang từ tạ xin đi, Lý Tuấn liền mở tiệc tiễn hành và trả các đồ hành lý cho ba người, rồi đưa chân khỏi núi Yết Dương mới ngậm ngùi bái biệt.

Nước bèo gặp gỡ tự nhiên,

Hay đâu hoạn nạn là duyên giang hồ.

Bọn Tống Giang hôm đó từ gĩa Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, rồi ba người cùng nhau thẳng lối trông chừng Giang Châu. Vào khoảng trưa hôm ấy, đi đến một nơi cửa nhà đông đúc, phố xá chen vui, thì chợt thấy có một toán người, đương túm đen túm đỏ, mà đứng châu vào một chỗ.

Tống Giang thấy vậy rẽ đám đông đi vào xem, thì thấy có một anh chàng đánh gậy bán thuốc cao, đương múa may quay cuồng ở giữa.

Anh chàng kia đi một bài gậy, rồi lại vất gậy ra đi một bài quyền. Tống Giang lấy làm thích chí khen ngợi luôn mồm.

Đoạn rồi anh chàng kia bưng cái mâm đi đến trước mặt mọi người mà nói rằng:

– Chúng tôi ở phương xa đến đây, tuy võ nghệ không có gì, song được các ngài có lòng hạ cố ban khen, vậy nếu các ngài có cần các thứ thuốc cao thì xin cho tiền để mua, bằng không thì cũng xin các ngài rộng lòng cứu giúp một chút tiền ăn, để khỏi phụ công con nhà khó nhọc.

Anh chàng nói hết một lượt không ai cho một đồng nào. Chàng ta lại quay lại lượt nữa, mà nói rằng:

– Xin các ngài rộng tay sớt bớt ra cho…

Chàng nói đã mỏi mồm song bọn người đứng xem chỉ trắng dã mắt để nhìn mà không ai cho một đồng nào gọi là có.

Tống Giang thấy vậy, liền lấy năm lạng bạc đưa ra mà bảo người kia rằng:

– Giáo đầu ơi! Tôi là một kẻ phạm tội, không có gì để giúp đỡ, vậy có năm lạng trắng đây, gọi là tỏ chút lòng thành để ngài cầm xơi nước.

Người kia cầm lấy năm lạng bạc rồi cảm ơn mà rằng:

– Trấn Yết Dương là một nơi có danh tiếng, thế mà không có ai biết đến võ nghệ là gì… ! May sao lại gặp được vị ân quan này, cũng là bị tù tội qua đây, mà lại cho được năm lạng bạc như thế, thực là:

Uổng công cười Trịnh Nguyên Hòa,

Lầu xanh mua chuộc câu ca tiếng cười.

Cứ gì hào phú mới chơi,

Áo lành vị tất là người phong lưu.

Nói xong lại tiếp luôn rằng:

– Năm lạng bạc này bằng năm mươi lạng khác, tôi xin cúi đầu bái tạ xin hỏi cao tính đại danh là gì, để tôi biểu dương cho thiên hạ cùng biết…

Tống Giang mỉm cười đáp rằng:

– Giáo sư ơi! Món tiền nhỏ mọn con con thế có kể làm gì? Đương khi nói vậy thì có một đại hán rẽ đám đông đi vào mà quát lên rằng:

– Thằng này là thằng nào? Đồ tù tội ở đâu? Dám đến đâu làm mãi tiếng đất Yết Dương của chúng ta như vậy?

Nói đoạn giơ tay quyền lên để đánh Tống Giang.

Mới hay:

Lận tài là của hiếm hoi,

Xưa nay nghĩa hiệp trên đời được bao?

Đỉnh chung đã chắc ai nào,

Vàng chôn ngọc lấp, tiếng hào vắng tanh?

Trăm năm thế thái nhân tình

Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân

Biết ai là kẻ xuất trần

Biết ai là Mạnh Thường Quân ở đời?

Ai đi nhắn nhủ đôi lời

Anh chàng họ Tống là người sao đây?

Lời bàn của Thánh Thán:

Trong một bộ sách, tả một trăm linh bảy người rất dễ, tả Tống Giang rất khó, nên đọc bộ sách này, cũng được chuyện 107 người rất dễ, mà đọc chuyện một Tống Giang rất khó hiểu. Vì tả chuyện 107 người, đều đúng ngọn bút viết ra, tốt thì thực tốt, xấu thì thật xấu, còn tả Tống Giang lại không thế, vội đọc qua thì thấy rất tốt, đọc lần nữa thì thấy tốt xấu đủ hai phần, lại đọc kỹ một lần nữa, thấy tốt không bằng xấu, sau cùng đọc xét ra, thấy đều là xấu không còn gì tốt!

Hỡi ơi! Đọc Thủy Hử mà đến hai ba lần, sau đến cuối chót, mà thực cho là xấu cả không tốt, há chẳng phải là người đọc sách giỏi ư? Song ta lại nghĩ rằng: Do chỗ toàn tốt của Tống Giang, mà đọc đến chỗ toàn xấu thì còn thấy dễ; Do chỗ toàn xấu của Tống Giang mà tả nên toàn tốt mới thực khó làm! Nay đọc đến chuyện, xem từ lời nói việc làm, tìm từng chút một, há chẳng cho rằng một bậc quân tử trung tín đốc kinh, đi đâu cũng có kẻ yêu, dù là trộm cướp, thấy rằng từng chữ, từng câu, từng tiết, từng hồi, không chút chê trách, tuy thế, há phải Tống Giang thực là người nhân con hiếu vậy? Sử ký không chép như thế ư? Chép vua Võ Triều Hán, chưa từng có một chữ chê đến Võ Triều Hán, thế mà độc giả sau này, chẳng mấy một, không tỉnh ra cho Hán Võ là không phải thế, như vậy chê khen vốn ở ngoài vòng bút mực, thì ra than ôi! Tỳ Quan chép ngoại sử đã cùng một phép với chính sử. Há dễ viết thay! Há dễ viết thay!

Hồi 36: Bến Tầm Dương canh khuya mắc nạn – Nơi Giang Phủ đất khách rời chân

Bấy giờ đại hán kia mắng Tống Giang, rồi giơ tay toan đánh, Tống Giang liền đáp lại rằng:

– Tôi có tiền thì tôi cho người ta, việc gì đến anh mà…

Đại hán kia nghe nói tức giận, vội nắm lấy tay Tống Giang mà quát lên rằng:

– Thằng ăn cướp bị tù này còn dám đối lại với ta a?

Tống Giang ung dung đáp rằng:

– Can chi mà không dám nói lại?

Đại hán kia hăng máu, liền giơ quyền đánh vào mặt Tống Giang. Tống Giang né mình tránh về một bên. Đại hán kia lại xông vào, Tống Giang thấy vậy lại toan dùng sức để chống cự, chợt đâu thấy anh chàng bán thuốc cao đã đẩy rẽ đám người đứng đông mà sấn vào đằng sau, một tay nắm lấy khăn đại hán kia, và một tay nắm giữa thắt lưng, đẩy một cái thực mạnh đại hán ta ngã quay lơ xuống đất. Đại hán bị ngã, cố lóp ngóp bò dậy, lại bị anh chàng bán thuốc cao đá luôn cho cái nữa, lại ngã lăn xuống đó. Hai tên công sai thấy vậy thì túm lại giữ can anh chàng kia không cho đánh quá. Khi đó đại hán kia trở dậy được, bèn quay nhìn Tống Giang và anh chàng bán thuốc cao mà nói rằng:

– Được lắm! Giỏi lắm! Rồi chúng bay sẽ biết tay ta…

Nói xong cúi cổ chạy thẳng về phía Nam…Bấy giờ Tống Giang hỏi người bán thuốc cao rằng:

– Chẳng hay quý tánh cao danh là gì, ngài quý quân ở đâu?

Người kia đáp:

– Tôi người ở huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Tên là Tiết Vĩnh, ông tôi ngày trước làm thuộc viên cho quan Kinh Lược Trung, sau vì ác cảm với một số đông liêu nên không được thăng dụng nữa. Đến đời tôi chỉ nhờ nghề đánh gậy bán thuốc cao để kiếm ăn, đám giang hồ thường gọi tên là Bệnh Đại Trung (con cọp ốm) Tiết Vĩnh. Vậy chẳng hay quý tinh danh là gì?

– Tôi đây họ Tống tên Giang, người ở huyện Vận Thành…

Tiết Vĩnh hỏi luôn rằng:

– Có phải ngài lá Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh không?

– Vâng, chính là tôi đó.

Tiết Vĩnh nghe dứt lời, thì cúi ngay xuống mà chào Tống Giang.

Tống Giang vội đỡ dậy mà bảo rằng:

– Ta tìm chỗ nào uống vài chén rượu nói chuyện cho vui, ngài nghĩ sao?

Tiết Vĩnh đáp:

– Xin vâng. Chúng tôi đương muốn được gặp tôn nhan, thực là trời xui khiến vậy.

Nói đoạn lập tức thu thậïp các đồ hàng hóa rồi cùng Tống Giang đi vào hàng rượu ở gần đó. Khi vào tới nơi chủ hàng bảo hai người rằng:

– Nhà tôi có rượu có thịt, song không bán cho các ông được.

Tống Giang hỏi:

– Làm sao lại không bán cho chúng tôi?

Chủ hàng đáp:

– Vừa rồi các bác đánh nhau với một ông đại hán là một ông trùm ở đất Yết Dương đấy, ông ta đã dặn nếu bán hàng cho bọn bác là ông ta phá hàng ngay…thế thì còn ai dám bán nữa.

Tống Giang nói:

– Nếu vậy thì ta đi ngay cho rảnh, nếu không thì hắn tất đến đây lôi thôi lại thêm khó chịu.

Tiết Vĩnh nói:

– Tôi xin về tính trả tiền trọ rồi một vài hôm cũng đến Giang Châu, vậy xin bác cứ đi trước cho.

Tống Giang liền lấy mười lạng bạc đưa cho Tiết Vĩnh rồi từ giã ra đi.

Khi Tiết Vĩnh đi rồi Tống Giang cùng hại tên công sai lại tìm đến mấy hàng rượu khác, đều bị chủ hàng từ chối như trước, không hề bán cho chút gì để ăn uống cả. Ba người tức giận đi mãi đến một tiệm hàng con con ở chỗ chợ, định vào đây để trọ, bất đồ cũng bị chủ hàng từ chối mà không nhận chứa.

Tống Giang biết thế không ăn thua, đành phải bảo nhau kéo đi cho rảnh. Vừa đi ra được một lúc thì bóng khuất non tây trời đã gần tối. Tống Giang cùng hai tên công sai trông trước trông sau không có hàng nước nào ở gần đó, trong bụng lấy làm lo ngại cùng bàn với nhau không biết vào đâu mà trọ được.

Chợt đâu trông thấy ở quãng rừng xa xa có bóng đèn lấp ló. Tống Giang liền bảo với hai tên công sai rằng:

– Chỗ kia có ánh đèn sáng tất là có người ở đó, vậy ta đến đấy nói khó với người ta ở trọ một đêm rồi sáng mai sẽ cùng đi sớm.

Hai tên công sai đáp rằng:

– Chỗ đèn sáng hình như không thẳng đường cái đi đến thì làm thế nào cho tiện?

Tống Giang nói:

– Bây giờ lỡ bước phải chịu khó một tí, sáng mai đi rồi ra vài dặm đường cũng được chứ sao?

Nói đoạn ba người cùng rẽ xuống con đường nhỏ đi được hai ba dặm đường thì đến nơi một trang viện lớn ở đằng sau một đám rừng cây.

Tống Giang cùng hai tên công sai lần vào cổng trang, gõ cửa mấy tiếng thì có người chạy ra mở cửa mà hỏi rằng:

– Các bác là người ở đau mà đêm hôm đến gọi cửa làm vậy?

Tống Giang cung kính đáp rằng:

– Chúng tôi là người phạm tội, đẩy sang ở Giang Châu, qua đây lỡ mất độ đường, xin vào quý trang trọ nhờ một tối rồi sáng mai nộp trả tiền phòng.

Người kia đáp rằng:

– Các ông hãy đợi đây để tôi vào hỏi chủ nhân đã…

Nói đoạn quay trở vào một lát, rồi lại trở ra bảo với ba người rằng:

– Thái Công mời các ông cứ vào.

Tống Giang cùng hai tên công sai đi vào đến trước thảo đường, vái chào trang chủ và nói chuyện lỡ đường xin nghỉ trọ một đêm. Thái Công nghe nói, liền gọi trang khách dọn phòng cho ba người nghỉ và lấy cơm nước cho ba người ăn uống. Trang khách vâng lời, dẫn ba người xuống một gian phòng, đốt cây đèn lên cho ba người ngồi nghỉ rồi dọn cơm nước lên mời ăn uống. Khi ba người ăn uống xong, trang khách lại thu dọn tất cả đem đi.

Bấy giờ hai tên công sai bảo với Tống Giang rằng:

– Bây giờ đêm hôm vắng vẻ, tôi hãy tháo gông cho Áp Ty dể ngủ, để sáng mai cho kịp dậy sớm.

Nói đoạn liền tháo gông cho Tống Giang, rồi cùng nhau ra ngoài phòng đi rửa, khi ra tới ngoài, ngửa trông lên thấy trời im sao sáng, cảnh vật như tờ, lại trông ra đằng mạn sau nhà, trong chỉ còn một ngõ hẹp con con, đi ngang qua đó. Ba người cùng đi rửa xong, rồi trở vào đóng cửa phòng đi ngủ. Tống Giang nói với hai tên công sai rằng:

– Quý hóa quá! Nay nếu không có cụ trang chủ tử tế, mà cho chúng mình trọ ở đây, thì thực là nguy hiểm không chơi…

Đương khi nói chuyện, thì bỗng thấy phía ngoài có tiếng người qua lại, rồi thấy đóm đuốc sáng rực cả lên.

Tống Giang dòm ra khe cửa nom thấy Thái Công dẫn hai người trang khách cầm đuốc đi soi khắp nơi. Liền quay vào bảo với hai tên công sai rằng:

– Trang chủ ở đây; cũng không khác gì phụ thân tôi, bao nhiêu công việc, đều phải tự mình soi xét lấy, chiều tối ban sáng, không hề bỏ chút việc nào thực là quý hóa.

Vừa nói đến đó thì lại thấy tiếng người gọi cửa ồn ào, có một tên trang khách ra mở cổng, rồi thấy một bọn năm bảy người đi vào. Trong đó có một người cầm thanh đao lớn đi trước, còn mấy người vác gậy đi theo.

Tống Giang nom kỹ, té ra anh chàng cầm đao, chính là người định đánh nhau với mình ở trấn Yết Dương lúc sớm.

Bấy giờ nghe thấy Thái Công hỏi người kia rằng:

– Tiểu Lang đi đâu về đấy? Đánh nhau với ai mà bây giờ còn vác dao váv gậy như thế?

Anh chàng kia đáp rằng:

– Việc này Gia Gia không biết, Ca Ca tôi có nhà không?

Trang chủ đáp rằng:

– Ca Ca uống rượu say, nằm ở hiên sau kia.

Anh chàng lại nói:

– Vậy tôi phải gọi Ca Ca dậy, để bắt đám này mới được!

Thái Công hỏi:

– Ngươi lại cãi nhau với ai mà gọi Ca Ca dậy. Nó dậy thì lôi thôi sinh sự chứ không chơi. Người hãy nói cho ta biết vì duyên cớ gì đã.

– Dám thưa Gia Gia: Ngày hôm nay có một anh bán thuốc cao, đến ở trấn Yết Dương, mà không vào chào anh em tôi, nên thế chúng tôi ngăn bảo các người trên trấn không ai được cho nó một đồng tiền nào. Dè đâu có một thằng tù tội ở phương nào mới đến, làm bộ ra mặt hảo hán, đưa cho anh kia năm lạng bạc, làm mất cả giá trị đất Yết Dương. Tôi tức mình toan đánh, lại bị anh hàng cao đá luôn mấy cái, đến giờ vẫn còn đau, căm tức không biết đâu mà kể. Tôi đã cho các người đi dặn các hàng rượu không được cho chúng nó ăn ngủ hôm nay, và đã cho người đi lùng bắt được anh bán thuốc, đánh cho một trận nên thân, hiện còn để tạm ở nhà Đô Đầu, rồi sáng mai sẽ trói nó lại mà lăn xuống sông cho nó mất tích. Còn hai thằng công sai với một thằng tù kia, không biết rằng nó đâu, tôi đương gọi Ca Ca lại để tìm bắt nó… Thái Công gạt đi mà rằng:

– Con ơi! Chớ nên làm những việc tội ác như thế? Người ta có tiền thì người ta cho, việc gì đến mình mà lôi thôi sinh sự? Vả chăng nó đánh mình cũng chửa đau nào… ? Con đừng nên nói với Ca Ca, rồi nó biết con bị đánh, nó lại lôi thôi giết hại người ta chứ không chơi. Con nghe lời ta đi vào buồng ngủ, đừng nên tìm Ca Ca nữa. Con cũng nên để lại một chút âm công mới được.

Anh chàng kia nghe nói mặc kệ, cứ phăm phăm vác đao đi vào hiên sau. Đoạn rồi Thái Công kia theo vào. Tống Giang nghe rõ ràng như vậy, bèn bàn với tên công sai rằng: – Nguy lắm rồi làm thế nào được đây? Ta vào đây chính là nhà nó rồi, phải tháo chạy cho mau, không thì chêùt cả bây giờ. Dẫu cho ông lão ấy không nói ra, song đám người nhà đứa nào dám giấu…

Hai anh công sai cũng hoảng hốt mà rằng:

– Nếu vậy ta phải mau đi mới được.

Tống Giang nói:

– Ta không nên đi lối cửa trước, phải khoét một lối vách mà đi lối sau mới xong.

Nói đoạn hai tên công sai đều vác hành lý, Tống Giang cầm lấy gông, rồi khóet một quãng vách mà ra lối sau.

Ba người dắt nhau, liền theo dưới bóng sáng mà đi vào con đường nhỏ trong đám rừng cây, không còn biết đến đất trời đâu hết thảy?

Đi đến một trống canh, đã đến bến sông Tầm Dương hai bên toàn là lau lách đìu hiu, ở giữa một giải trường giang trắng xóa, đằng sau lại nghe tiếng người kêu đuổi đến nơi, đèn đóm đi theo chẳng khác gì bọn người đi đánh cướp: Tống Giang thấy vậy, thì trong bụng nửa cảm thương lo sợ, kêu xin trời phật cứu cho rồi cùng nhau nấp vào lau lách. Được một lát thấy đóm đuốc đi theo đã gần tới đằng sau, bước người càng lấy làm hãi hùng kinh sợ, trông ra nước cuốn sông ngăn, đất hết trời cùng không còn lối nào mà chạy thoát được.

Tống Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:

– Nếu biết cơ hội này, thà rằng ở Lương Sơn cho rảnh chuyện. Ai ngờ tính mạng mà chôn lấp ở chốn này, thực là uổng quá…

Ngậm ngùi thay bến Tầm Dương,

Đìu hiu gió lạnh, mênh mang sóng cồn.

Ai về nhắn bạn Lương Sơn,

Tầm Dương nào phải đất chôn anh hùng.

Đương khi nguy cấp kinh hoàng, thì bỗng đâu trong đám ngàn lau bụi lách, có tiếng kẽo kẹt quai chèo rồi có một con thuyền ở đâu chở đến. Tống Giang thấy vậy, vội gọi người lái đò, mà nói lên rằng:

– Bác lái ơi! Bác làm phúc đức cứu ba chúng tôi, tôi sẽ trả bác nhiều tiền.

Người lái đứng trên thuyền nói rằng:

– Ba các bác là ai đi đâu bây giờ?

Tống Giang nói:

– Đằng sau có giặc đuổi, chúng tôi lạc bước đến đây, bác làm phúc cứu giúp, chúng tôi xin trả nhiều tiền lên.

Lái đò nghe nói, liền ghé thuyền vào, cho ba người bước lên, một anh công sai khăn gói bỏ vào trong khoang, còn một anh lấy gậy mà đẩy thuyền ra. Tên lái đò vừa bắt chèo lên để chèo, vừa lắng nghe thấy đồ hành lý để trong khoang thuyền có tiếng xủng xoẳng, thì trong bụng hớn hở mừng thầm, mà hết sức cho thuyền ra giữa dòng sông.

Bấy giờ bọn người đuổi theo đã đi gần tới bên cạnh bến sòng, có hai đại hán tay cầm thanh đao đi trước, và hơn mươi người cầm gậy giáo theo sau, đốt mười mấy bó đuốc Sở rực góc trời, kéo ùa đến đó. Khi bọn ấy đi tới bờ sông, liền gọi lái đò bảo cho thuyền vào bến.

Tống Giang cùng hai người công sai nấp vào một xó ở trong khoang, bảo với bác lái đò rằng:

– Bác đừng chở vào bến, rồi chúng tôi xin đãi tiền bác.

Anh lái đò gật đầu, rồi lẳng lặng mà kẽo kẹt chèo thuyền đi thẳng; mặc cho bọn trên bờ kêu gọi luôn mồm.

Đám ở trên bờ thấy vậy quát lên rằng:

– Bớ lái đò kia không chở thuyền vào đây, ông cho là chết cả bây giờ.

Anh lái đò cười nhạt mấy tiếng, rồi cứ im lặng không trả lời sao cả.

Trên bờ lại quát lên rằng:

– Bớ lái đò! Anh là người ở đâu, dám to gan không chở vào đây… ?

Lái đò cười nhạt đáp rằng:

– Lão gia là anh lái đò họ Trương đây, anh đừng lòe lão gia nữa.

Bấy giờ một đại hán ở trên bờ nói luôn lên rằng:

– Có phải Trương Đại Ca đấy à? Anh có trông thấy anh em tôi đây không?

Lái đò đáp:

– Ta có mù chột gì mà không nom thấy.

Đại hán lại nói:

– Nếu vậy anh hãy chở thuyền vào đây, tôi nói câu này đã.

– Có chuyện gì anh hãy để mai, thuyền bây giờ còn phải đi có việc vội.

– Anh em tôi chỉ muốn bắt ba người ở trong thuyền đó thôi.

– Ba người trong thuyền đều là cha mẹ nuôi nấng thân quyến nhà tôi, tôi mời đi xơi miếng dao phay đây.

– Anh hãy cứ chở vào đây chúng tôi nói câu này đã.

– Chịu thôi, cơm áo của tôi, bây giờ lại đem cho bác sung sướng hay sao?

Đại hán kia nghe vậy, thì nóng nảy mà rằng:

– Trương Đại Ca ơi! Chúng tôi không cần gì chuyện ấy đâu, bác cứ chở vào đây, cho tôi bắt mấy thằng tù kia thôi…

Lái đò cứ mần thinh, vừa chèo thuyền đi, vừa nói rằng:

– Ngày hôm nay mới tiếp được một việc, chả lẽ mang vào đấy cho anh phỗng mất hay sao? Thôi, hai anh tha lỗi cho, để hôm sau sẽ nói chuyện…

Tống Giang nghe thấy lái đò đối đáp như vậy, cũng không hiểu thâm ý sao, chỉ tắc lưỡi bàn với hai tên công sai mà khen rằng:

– Bác lái đò phúc đức quá, thực hết lòng cứu giúp chúng ta…Chúng ta không nên quên ơn những người như thế…Thực là trời đưa chiếc thuyền để cứu ta đó…

Bấy giờ thuyền đi đã xa, bọn trên bờ kia vẫn chịu phép cầm đuốc đứng vơ vẫn trên đám bờ lau, mà không làm gì được. Tống Giang thấy vậy liền lẩm bẩm bảo hai người kia rằng:

– Hú vía! Phen này thực là xa kẻ ác, gặp được người hay, không còn sợ hoạn nạn chi nữa!

Chàng đương nói chuyện, thì thấy anh lái ngoài kia vừa kẽo kẹt tay chèo, vừa cất tiếng véo von hát lên rằng:

“Lão đây sinh trưởng ở ven sông,

Chẳng thích giao du chỉ thích đồng.

Có phải đêm qua trời báo mộng,

Hôm nay được của rõ như không”.

Tống Giang cùng hai tên công sai nghe thấy câu hát như vậy, thì kinh ngạc không hiểu ra sao? Tống Giang suy tưởng trong bụng:

– Chẳng hay họ hát chơi như vậy? Cũng không lấy gì làm quan hệ!

Ba người đương nửa sợ nửa mừng, chưa hiểu ra sao, thì ngoài kia chú lái đò đã gác chèo lên mà nói rằng:

– Thằng tù với hai thằng công sai kia binh nhật mày quen làm hại những kẻ ăn sương, ngày nay gặp tay lão gia đây, chúng bây thích ăn miếng đao phay, hay là muốn ăn bánh hỗn độn chăng.

Tống Giang nghe nói đáp lên rằng:

– Quan bác đừng nói bông làm gì thế. Thế nào là miếng dao phay, thế nào là bánh hỗn độn?

Anh lái đò trợn mắt ghê gớm lên mà nói rằng:

– Lão gia đùa gì với bây! Bây muốn ăn miếng dao phay, thì lão gia có một con dao sắc như nước, ở dưới gầm thuyền kia, không cần phải bốn nhát năm nhát gì cả, chỉ mỗi người một nhát rồi vứt xuống nước là xong. Bằng thích đánh hỗn độn, thì cởi mau quần áo trần truồng, mà nhảy xuống sông mà tự tử.

Tống Giang nghe nói níu lấy hai người công sai mà kêu rằng:

– Khổ lắm trời ơi! Thực là phúc bất trùng lai, họa cô đơn chí!

Lái đò lại quát lên rằng:

– Ba đứa bàn định mau mau, thế nào nói đi.

Tống Giang nói rằng:

– Bác lái ơi! Xin bác xét cho. Chúng tôi có gì đâu. Chúng tôi là kẻ phạm tội, đày sang đất Giang Châu, bình sinh khổ sở, xin bác thương mà tha thứ cho.

Lái đò gắt lên rằng:

– Bây nói gì thế? Tha cho ba chúng bây à? Ta, gọi là nửa đứa cũng không tha, ông đây tên là Câu Kiển Trương Gia Gia (ông cụ Trương mặt chó) đây, bố cũng không cần, mẹ cũng không cần, bây câm mồm đi, nhảy xuống nước đi thôi.

Tống Giang vật nài kêu rằng:

– Chúng tôi xin đưa hết các đồ kim ngân cùng áo xống trong gói để dâng ông, xin ông làm phúc tha mạng cho chúng tôi.

Lái đò lặng ngắt, đi vào dưới khoang thuyền, lấy con dao sáng nhoáng lên, rồi quát bảo với ba người rằng:

– Ba chúng bây muốn làm thế nào?

Tống Giang thấy vậy, thì ngửa mặt lên trời thở dài và bảo hai tên công sai rằng:

– Chỉ vì tôi không kính trời đất, bất hiếu với cha mạ, làm nên tội ác thế này, để liên lụy đến hai bác, thực là đau xót quá chừng!

Hai tên công sai cũng níu lấy gươm mà nói rằng:

– Áp Ty ơi! Thôi còn nói làm chi nữa! Ba chúng tôi cùng chết với nhau một chỗ này thôi!

Anh lái đò sốt ruột quát lên rằng:

– Ba anh cởi áo mau mau nhảy xuống sông, nếu không thì lão gia cho mỗi anh một nhát.

Tống Giang cùng hai tên công sai, nghe nói thì ôm nhau mà quay ra trông xuống dòng sông để nhảy. Chợt đâu trên sông có tiếng kẽo ca kẽo kẹt, rồi có một chiếc thuyền vun vút đi đến. Trên thuyền có ba người một đại hán cầm cây gậy móc, đứng ở mũi thuyền, và hai người lái chèo ở đằng sau. Khi thuyền gần đến nơi, thì đại hán cầm gậy móc kia mà quát lên rằng:

– Thuyền nào dám hành sự ở đây? Hàng hóa trong thuyền đã có chủ, sao các ngươi được làm liều như thế?

Anh lái đò nghe nói, liền ngẩng lên mà nói rằng:

– Tưởng là ai, té ra Lý Đại Ca đó. Đại Ca đi buôn bán gì, mà không cho chúng tôi đi với?

– Bác Trương ơi! Bác vùng vẫy ở đây một mình… Trong thuyền có hàng hóa gì đấy? Khá không?

– Tôi nói chuyện cho bác buồn cười nhé: Tôi mấy ngày hôm nay nhẵn nhụi, không sờ vào đâu được, rồi lại đánh bạc thua không còn một đồng một chữ nào; Đương ngồi buồn ở trên thuyền, bỗng có một đám người đuổi ba món hàng hóa xuống, té ra là hai anh lính, với một thằng tù đen đen lùn thấp, không biết rằng ở đâu đến? Tôi thấy nó nói là đi đày sang đất Giang Châu, nhưng mà không thấy đeo gông xích gì cả. Còn bọn đuổi ở trên bờ, thì chính là hai anh em họ Mục, họ định đòi bắt đám này, nhưng tôi không chịu trả lại…

Đại hán kia nghe đến đó, thì ra đáng kinh ngạc mà rằng:

– Chết rồi! Chẳng hay là Tống Công Minh Ca Ca của ta đó?

Tống Giang ngồi bên này nghe tiếng người kia hơi quen quen liền kêu lên rằng:

– Hảo hán nào bên ấy? Nhờ cứu cho Tống Giang tôi với.

– Đại hán nào bên ấy? Nhờ cứu cho Tống Giang tôi với.

Đại hán kia cả kinh nói rằng:

– Té ra Tống Ca Ca của ta thực đó à?

Tống Giang nghe nói vội nhẩy ra ngoài khoang, nhờ ánh sao soi sáng. Trông sang bên kia, thấy người đứng mũi thuyền chính là Hồn Giang Long Lý Tuấn và hai người chèo ở đằng sau chính là Đông Uy, Đồng Mãnh.

Bấy giờ Lý Tuấn nhẩy sang bên thuyền này kêu lên rằng: – Khổ hại cho Ca Ca tôi, nếu tiểu đệ chậm đến đây thì còn gì là tính mạng! Hôm nay cũng là trời kia xui khiến, tiểu đệ ngồi nhà sốt ruột không yên, nên mới chèo thuyền qua đây để kiếm mồi buôn bán, dè đâu lại gặp Ca Ca bị nạn kinh nguy như thế.

Anh lái đò nghe vậy thì ngây người lạnh ngắt, hồi lâu mới cất tiếng hỏi lên rằng:

– Lý Đại Ca ơi! Té ra người lùn đen đó, chính là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh phải chăng?

Lý Tuấn nói rằng:

– Chính phải rồi, bây gờ anh mới biết khổ chưa? Chàng lái đò nghe nói vội cúi rạp xuống để lạy mà nói rằng:

– Chết nỗi! Làm sao nhân huynh không nói tên ngay từ trước, để tôi khỏi làm càn làm bậy như thế?

Tống Giang hỏi Lý Tuấn rằng:

– Hảo hán này là ai, xin bác cho tường tên họ?

Lý Tuấn đáp rằng:

– Dám thưa Ca Ca, người này nguyên anh em kết nghĩa với tôi, họ Trương tên Hoành, người Tiểu Cổ Sơn, biệt hiệu là Thuyền Hỏa Nhi, vẫn chuyên nghề lẩn lút ở bến Tầm Dương xưa nay đó.

Nói đoạn liền bơi thuyền vào đến bến rồi buộc thuyền vào bến, mà mời Tống Giang cùng hai tên công sai lên bờ.

Lý Tuấn lại bảo với Trương Hoành rằng:

– Xưa nay tôi thường nói chuyện với anh: Nghĩa sĩ trong thiên hạ bây giờ, chỉ có một mình Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Áp Ty ở huyện Vận Thành ngày nay anh đã biết chưa?

Trương Hoành bèn lấy đá lửa bật lên soi mặt Tống Giang một lượt, rồi thụp xuống bến lạy lấy lạy để mà nói rằng:

– Xin Ca Ca tha tội cho chúng tôi…Dám hỏi Ca Ca cớ gì mà đi đày sang Giang Châu như vậy?

Lý Tuấn liền đỡ lời cho Tống Giang mà kể chuyện cho Trương Hoành nghe. Trương Hoành nghe nói có vẻ vui mừng mà rằng:

– Xin nói để Ca Ca biết: Tôi có hai anh em ruột, tôi đây là lớn, còn thằng em nữa, người trắng như ngà, mà nghề chơi cũng thạo, nó có thể bơi lặn dưới nước được. Nó vừa trắng vừa giỏi, nên người ta thường gọi cho một tên lạ, là Lăng Lý Bạch Điều Trương Thuận.Trước đây hai anh em tôi thường ở Dương Tử Giang kiếm ăn với nhau, thực là lắm chuyện buồn cười…

Tống Giang nói:

– Thế nào cho tôi nghe nốt?

Trương Hoành tiếp luôn rằng:

– Hồi đó hễ khi nào anh em tôi thua bạc, thì tôi lại đánh một con thuyền ra một quãng nào xa vắng để chở khách sang ngang. Chờ khi khách bộ hành xuống đã đông, rồi em tôi ăn mặc giả làm khách đáp mà xuống ngồi ở dưới thuyền. Tôi chèo thuyền ra đến giữa sông, rồi gác chèo lên, bỏ neo xuống, tay cầm một con dao bầu đi hỏi tiền đò. Cứ lý ra mỗi người phải trả có năm trăm đồng, song tôi nhất định cứ mỗi người phải trả ba quan mới được. Trước hết tôi hãy hỏi em tôi là Trương Thuận, Trương Thuận giả vờ làm mặt không có tiền, tôi liền một tay nắm đầu, một tay xách khố mà quăng xuống sông, rồi quay ra đòi tiền hành khách. Hành khách trông vậy, thì anh nào anh ấy khiếp vía kính sợ bảo nhau góp tiền trả đủ ba quan không dám thiếu nửa đồng nào. Khi thu đủ tiền, tôi liền cho bọn kia vào bờ, rồi bấy giờ em tôi ở dưới đáy sông bò lên, chia tiền mà đi đánh bạc với nhau. Ấy, cách sinh nhai như thế, nhân huynh tưởng có nhiêu khê không?

Nói đoạn lại tiếp luôn rằng:

– Hiện nay thì đã cải nghiệp cả rồi, tôi thì ở lại bến Tầm Dương này để kiếm chác quanh co, còn em tôi là Trương Thuận thì bây giờ lại sang đánh cá ở đất Giang Châu, nay mai Ca Ca sang đó, tôi xin gửi bức gia thư nhân thể. Nhưng mà tôi không biết chữ, thì viết thế nào được?

Lý Tuấn nói:

– Chúng ta đi vào trong xóm, nhờ thầy đồ biết chữ viết cho.

Nói xong liền để Đồng Uy, Đồng Mãnh lại coi thuyền rồi Trương Hoành cùng Lý Tuấn, cầm đèn dẫn Tống Giang cùng hai người công sai đi vào trong thôn.

Đi được nửa dặm đường, thì thấy phía trước mặt có bọn người đim và có đèn đuốc sáng trưng.

Trương Hoành liền hỏi to lên rằng:

– Anh em bác chưa về hay sao?

Lý Tuấn thấy vậy hỏi Trương Hoành rằng:

– Anh em nhà nào thế?

Trương Hoành đáp:

– Đó là hai anh em nhà họ Mục đấy.

Tống Giang vội gạt đi mà rằng:

– Không được! Không được! Hai anh em ấy họ đương định bắt tôi đấy.

Lý Tuấn nói:

– Không ngại chi, họ cũng như chúng tôi, chỉ vì họ chưa biết Ca Ca đấy thôi.

Nói đoạn giơ tay lên vẫy, và thổi một tiếng còi để gọi bọn kia. Hai anh em nhà kia nghe tiếng còi gọi, bèn dẫn người nhà đi tới nơi, thấy Lý Tuấn và Trương Hoành đương cung kính chuyện trò với anh tù, mà chính mình đương đi lùng bắt, thì lấy làm ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Sao hai Đại Ca lại quen mấy người này?

Lý Tuấn cả cười mà hỏi lại rằng:

– Các bác bảo người này là ai?

Hai anh em nhà kia đáp rằng:

– Nào chúng tôi có biết là ai. Sáng hôm nay ông ta đem tiền cho thằng bán thuốc cao, làm mất cả danh giá đất Yết Dương, tôi đương tìm bắt đây.

Lý Tuấn cười rằng:

– Đây chính là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh làm Áp Ty ở Vận Thành, chúng ta vẫn nói chuyện đến luôn đấy. Các anh lạy chào đi thôi.

Hai anh em nhà kia vội vàng vất đao ra, rồi cúi lạy Tống Giang mà nói rằng:

– Chúng tôi nghe tiếng đã lâu, mà không được thừa tiếp bao giờ? Nay chẳng may xúc phạm tôn nhan, xin Ca Ca tha tội cho.

Tống Giang đỡ hai người dậy mà hỏi rằng:

– Xin hai ngài biết quý tính danh là gì?

Lý Tuấn đáp rằng:

– Hai người này đều là con nhà hộ, anh là một Già Lạn, Mục Hoằng, em là Tiểu Già Lạn, Mục Xuân, là một tay bá ở đất Yết Dương tôi đấy: Nguyên đất Yết Dương tôi có ba tay làm Bá miền núi Yết Dương: Hai là hai anh em nhà bác này làm Bá ở trấn Tầm Dương; Còn thứ ba là anh em Trương Hoành ở bến Tầm Dương, thế gọi là Tam Bá.

Tống Giang nói rằng:

– Nếu vậy thì các Bá tụ tập ở đây, thực là hạnh phúc cho Tống Giang lắm, vậy xin các Bá nghĩ tình phận anh em mà tha Tiết Vĩnh ra cho.

Mục Hoằng cười rằng:

– Có phải anh hàng thuốc cao đấy không? Nhân huynh cứ phóng tâm, tôi bảo Mục Xuân đem về nộp trả Ca Ca. Bây giờ hãy xin đón Ca Ca về tệ trang nghỉ chân một lúc đã.

Lý khen phải, liền bảo tên người nhà ra coi thuyền cho Đồng Uy, Đồng Mãnh, và nhất diện sai người về trang báo trước ở nhà để giết dê lợn làm cơm thiết đãi, rồi cùng nhau kéo thẳng về trang. Vừa đến canh năm, đi tới gia trang, Mục Thái Công ra đón vào thảo đường, mời Tống Giang cùng ngồi đối tọa, còn các người kia theo thứ tự mà ngồi.

Khi tới gần sáng, đã thấy Mục Xuân dẫn Đại Bệnh Trùng Tiết Vĩnh về đó, Mục Hoằng liền giục đem tửu tịch lên đãi Tống Giang cùng các người rồi lưu lại một đêm ở đấy.

Sáng hôm sau, Tống Giang định sắp sửa ra đi, Mục Hoằng nhất định không nghe, cố lưu lại mà đưa Tống Giang đi xem xét khắp trong thị trấn Yết Dương. Tống Giang ở luôn ba ngày, sau sợ trễ quá kỳ hẹn, bèn quyết ý từ tạ xin đi. Anh em Mục Hoằng cố lưu không được bèn bày tiệc tiễn hành để sáng hôm sau tiễn chân Tống Giang. Sáng hôm sau Tống Giang từ tạ Mục Thái Công cùng các tay hảo hán mà dặn Tiết Vĩnh hãy ở lại đó ít lâu, rồi sau sẽ tương hội ở đất Giang Châu.

Mục Hoằng cũng ân cần lưu giữ Tiết Vĩnh ở đó, rồi đưa một ít kim ngân để tiễn Tống Giang. Bấy giờ Trương Hoành đã nhờ người viết được phong thư nhờ gửi Tống Giang đưa đến Giang Châu trao cho Trương Hoành. Tống Giang gói vào hành lý cẩn thận, rồi tất cả mọi người đưa chân ra bến Tầm Dương.

Mục Hoằng sai một chiếc thuyền, xếp các đồ hành lý xuống trước, rồi đem rượu xuống thuyền để tiễn hành. Khi rượu tiễn đã tan, bọn Lý Tuấn, Trương Hoành, Mục Hoằng, Mục Xuân, Đồng Uy, cùng Đồng Mãnh đều sụt sùi bái biệt trở về. Còn Tống Giang cùng hai tên công sai, thì giong thuyền thẳng nẻo Giang Châu.

Con buồm gió thổi phất phơ,

Tầm Dương trước lại bây giờ Tầm Dương.

Cùng trong một ngọn trường giang,

Mà nay nước cuộn sóng cuồng đi đâu!

Khi tới bến Giang Châu, hai tên công sai lại đeo gông vào cho Tống Giang, rồi thu lấy các đồ lý, và đem công văn giải vào trong phủ.

Quan Phủ Giang Châu họ Xài tên Đắc Chương, con thứ chín của Thái Sư Xài Kinh ở đương triều, nhân thế những người ở Giang Châu thường gọi là Xài Cưu Tư Phủ. Người này vốn tính tham lam kiêu sa, vả chăng Giang Châu là nơi đất rộng tiền nhiều, nên Xài Thái Sư cho ra Tri Phủ ở đó,, để tiện đường phung phí ăn chơi.

Bấy giờ hai tên công sai giải Tống Giang vào trước nha. Tri Phủ trông thấy Tống Giang có vẻ lỗi lạc phi thường, liền hỏi ngay rằng:

– Làm sao trên đầu gông lại không có dấu niêm phong của châu phủ như thế?

Hai tên công sai kêu rằng:

– Chúng con đi đường bị mưa xuân thấm ướt, nát mất lúc nào không hay.

Tri Phủ nghe nói, liền truyền hai tên lính giải sang nhà lao.

Khi ra khỏi cổng phủ, Tống Giang liền mời tất cả mọi người vào một tửu điếm để thiết rượu, và lấy ra năm lạng bạc đưa cho hai tên lính ở Giang Châu. Khi ăn uống xong tên lính Giang Châu đưa Tống Giang đến lao phòng, ra đến nơi nói lót với quản doanh, Sai Bát, rồi giao Tống Giang vào đó, mà trở về trong phủ đường. Đoạn rồi hai tên công sai trước, cũng giao các đồ hành lý cho Tống Giang và hết lòng cảm tạ mà trở vào trong phủ lĩnh giấy tờ để trở về Tế Châu.

Khi đó Tống Giang nhờ người mời Sai Bát đến, đưa tặng mười lạng bạc, và nhờ đưa lên Quản Doanh mười lạng, còn các người theo hầu trong doanh và lính tráng, đều có tặng tiền trà nước hẳn hoi. Nhân thế mọi người đều có lòng vì nể Tống Giang.

Hồi lâu, chúng dẫn Tống Giang lên phong điểm danh, rồi tháo bỏ gông trói vào chào Quản Doanh. Quản Doanh vè đã được tiền đút lót nên khi thấy Tống Giang lên, liền hỏi ngay rằng:

– Tên tù phạm mới đến là Tống Giang kia, ngươi đã biết theo như luật lệ của đức Thái Tổ Võ Đức Hoàng Đế tiên triều, phàm các người mới phạm tội, phải chịu một trăm roi ra oai, vậy tả hữu đâu kéo tên phạm ra đây.

Tống Giang kêu rằng:

– Chúng tôi đi đường chẳng may bị cảm chưa khỏi, vậy xin ngài cho khất ít lâu.

Quản Doanh đáp rằng:

– Ta trông mặt anh này có lẽ còn ốm thực; Nếu vậy hãy cho gửi đó ít lâu. Anh này trước đã làm Huyện lại xuất thân, thì tất là thạo việc, nay ta cho xuống bàn giấy ở bản doanh để sao viết giấy má.

Nói rồi liền thảo giấy cho Tống Giang xuống làm ở phòng giấy. Tống Giang tạ ơn, rồi xuống lao phòng, thu xếp hành lý để sang bên phòng giấy. Các bọn tù đồ thấy Tống Giang được biệt đãi như vậy, thì bảo nhau mua rượu thịt đến mừng.

Ngày hôm sau Tống Giang lại làm rượu thiết lại bọn tù đồ, và thỉnh thoảng lại mời Sai Bát đến uống rượu, còn về chỗ Quản Doanh thì đưa đồ biếu tặng luôn luôn.

Tống Giang nhờ được sẵn tiền trong túi, hết lòng cố kết bạn với bọn Giang Châu, nên mới đến đó được nửa tháng trời, mà khắp trong dinh trại không ai là không vui thích yêu chiều.

Nhân tâm theo với hơi đồng

Thói đời nóng lạnh thôi không lạ gì?

Một hôm, Tống Giang đương ngồi uống rượu với Sai Bát ở trong phòng giấy. Sai Bát bảo với Tống Giang rằng:

– Hôm trước tôi đã nói chuyện với nhân huynh, nên đưa chút lễ vạt gì cho Tiếp Cấp coi ngục ở đây, đên nay ngó nửa tháng trời, sao hiền huynh chưa đưa cho ông ta. Nay mai ông ta đến đây, tất là lôi thôi khó chịu.

Tống Giang đáp rằng:

– Cái đó không cần…Sai Bát có tiêu tiền, thì cứ hỏi Tống Giang này mà lấy, còn như Tiết Cấp thì một chữ cũng không cho. Để xuống đây khắc tôi có cách nói.

Sai Bát lại nói rằng:

– Chết nỗi! Áp Ty ơi! Tiết Cấp này không phải là vừa đâu, ông ta ngón gì cũng giỏi, nếu lỡ có điều gì xúc phạm thì nguy chứ không chơi, Áp Ty phải liệu mới được.

– Được, xin huynh trưởng cứ phóng tâm, mặc kệ ông ta muốn thế nào, tôi cũng có cách. Dễ thường ông ta còn có việc cần đến tôi cũng chưa biết chừng…

Vừa nói xong, thì thấy có một tên bài đầu đến báo rằng:

– Tiết Cấp đã đến, hiện đương quát lác ở trên sảnh, kêu rằng tên tù mới, sao không thấy đưa tiền lệ tiền ngạch gì cả…

Sai Bát liền bảo Tống Giang rằng:

– Đấy, tôi nói có sai đâu, bây giờ ông ta đến đây, không khéo lại liên lụy cả đến chúng tôi cũng nên.

Tống Giang đứng dậy cười mà rằng:

– Xin Sai Bát tha lỗi cho. Để hôm khác tôi xin hầu rượu, bây giờ đệ nói với ông ta xem sao đã.

Sai Bát cũng đứng dậy nói rằng:

– Xin hiền huynh đi một mình vậy, chúng tôi đến đấy không tiện.

Nói xong từ biệt mà đi.

Đoạn rồi một mình Tống Giang đi đến phòng điểm danh để chào Tiết Cấp.

Hay là:

Giang Châu chiếc nhạn ly quần

Cái khuôn con Tạo xoay vần từ đây

Mấy phen hồ hải tỉnh say

Con thuyền chìm nổi đến nay chưa cùng

Gió dồn giấc mộng Thanh Phong

Lương Sơn xa cách vẫy vùng riêng ai

Hãy liều nhắm mắt thử chơi

Xem rằng thế cục xoay đến đâu?

Lời bàn của Thánh Thán:

Sách này tả 108 người, đều có tâm địa ngang tắt, thế nhưng chưa từng có ai Tống Giang con người giả dối không định đó vậy. Đối với hảo hán thiên hạ mà kết giao, mới đầu không để lồng lộng như thanh thiên, trong trắng như hao nguyệt, êm ái tựa mưa xuân, nóng thẳng như sấm hè…Chỉ có một điều tung tiền ra mà thôi. Xét ra lấy đồng tiền là gốc mua chuộc, thế mà tự nói rằng hiếu với cha mẹ, thế mà vẫn bảo rằng hiếu với cha mẹ, chẳng sợ thiên hạ không tin là hiếu với cha mẹ; Lại tự bảo rằng kính với trời đất, chẳng sợ thiên hạ không tin là kính trời đất; lại tự bảo rằng tôn triều đình, chẳng sợ thiên hạ không cho tin tôn triều đình; Lại tự bảo rằng mến bạn bè, không tin thiên hạ chăng cho là mến bạn bè…Hỡi ôi! Con người thiên hạ chỉ biết đồng tiền làm quý, mà chẳng biết tới căn để sự tung tiền, đều làm cho Tống Giang dòm biết, vì đó tính chuyện, đều làm cho Tống Giang thao túng đổi ngầm thay rõ mọi sự, đó vốn là sự xấu xa của người trong thiên hạ. Cho nên Tống Giang vốn là anh lại sảo, chỉ đem đồng tiền mua chuộc thiên hạ, mà vẫn tự xưng là Hiếu Nghĩa Hắc Tam, để tính ngầm ngôi của Tiều Cái về sau, đấy là việc xấu, sao nỡ như thế vậy vay! Tác giả vốn ghét thế gian có những con người như thế, mới mượn một Tống Giang, để lập chuyện ra, mà từng chỗ chép ra sự phóng tài hóa thu tâm, đều là lấy ngòi bút công giết chết lòng tà gian vậy.

Thiên hạ bấy giờ, không ai chả thân với Tống Giang, thế mà rất thân như Hoa Vinh kia thấy rõ lắm. Hoa Vinh đón mời, Tống Giang không khi nào chẳng tới; Hoa Vinh lưu giữ, Tống Giang không khi nào chả ở; Hoa Vinh cần tháo gông, Tống Giang không khi nào chẳng tháo…Đương lúc trên vin cớ triều đình, dưới nghe lời cha dạy, dù có một trăm Hoa Vinh chẳng từng khuyên nổi Tống Giang tạm mở gông ra làm cho đám người sơn bạc tưởng thực rằng cái gông của Tống Giang phải đến lao thành Giang Châu, thì mới dám cởi, tác giả ghét lăm, mới tả ở chỗ núi Yết Dương rằng hãy tạm mở gông, đến sau từ biệt ly, lại chép rằng; Hãy đeo gông lại. Ở trong phòng Mục Thái Công chép rằng: Trong này không ai người ngoài, hãy tạm tháo gông, mà chép rằng: Tống Giang nói rất phải hãy tạm tháo gông đến khi chạy trốn, lại chép rằng Tống Giang cầm lấy gông. Khi trong miệng Trương Hoành nói chép rằng: Bấy giờ chẳng đeo gông; Với lúc Mục Hoằng thuyền quay lại, cũng chép rằng; Mọi người ở giang biên sửa soạn đeo gông. Đến khi lên bờ Giang Châu, chép rằng: Tống Giang liền đeo gông vào; Khi tới Quan Phủ hỏi: Sao trên gông không có chữ của châu quận đi qua…Tất cả những chỗ tả đến đeo gông như thế, để so với đoạn văn trên, Hoa Vinh cần bảo bỏ gông, mà còn không được. Hỡi ôi! Than như Hoa Vinh, mà còn chả tỏ chân tâm, thì con người như gươm, còn ở với ai bền mãi!.

Hồi này từng tiết ly kỳ, từng lần nguy hiểm, kỳ không dứt không thôi hiểm còn vương còn diễn, khiến độc giả hồi này, lửa lòng muốn tắt ánh mắt đâm mờ, chỉ lo đến chết, không mong còn sống, như vào trọ tửu điếm đã chả được, đó một lần; Tìm trú thôn trang, lại vào ngay trong nhà oan gia, đó hai lần; Khoét vách trốn đi, gặp sông ngăn nước trở, đó ba lần; Tìm được thuyền, giặc còn theo sá, đó bốn lần; Trong thuyền lại gặp Sảo Công định giết, đó năm lần; Sảo Công bức bách cầm đao đe dọa, đó sáu lần…Một hồi thấy thoát một miệng hùm, lại sa ngã một miệng hùm, khiến người một đầu đọc một đầu khiếp, chẳng những đọc không xiết mà khiếp cũng không xiết được.

Hồi này tả Tống Giang vốn tuân lời cha, chẳng chịu theo ở đám Lương Sơn, chợt đâu nảy ra tả một câu bất mãn với lời cha, một câu hối hận là chẳng ở lại Lương Sơn Bạc, đều do tác giả dùng bút ghê gớm, ngụ ý rất nghiêm cho lộ bản tướng con người giả dối.