Phong thần diễn nghĩa (nguyên bản) (giản thể: 封神演义; phồn thể: 封神演義; cũng gọi là Bảng phong thần, Vũ Vương phạt Trụ ngoại sử phong thần diễn nghĩa, Phong thần truyện, Thương Chu liệt quốc toàn truyện (tái bản), là một bộ tiểu thuyết được viết lại trên cơ sở cuốn Vũ Vương phạt Trụ bình thoại in đời Nguyên, trong đó bao gồm các tư liệu lịch sử cùng với các thần thoại, truyền thuyết.
Phong thần diễn nghĩa xoay quanh việc suy vong của nhà Thương và sự nổi lên của nhà Chu, cùng với đó là rất nhiều thần thoại, truyền thuyết Trung Hoa, bao gồm các thần, tiên, yêu quái v.v. Trong chừng mực nào đó, Phong thần diễn nghĩa mô tả cuộc sống của người Trung Hoa đương thời, nơi tôn giáo có một vai trò lớn trong cuộc sống hàng ngày.
Tác giả của Phong thần diễn nghĩa (bảng phong thần) có thuyết nói là Hứa Trọng Lâm (giản thể: 许仲琳; phồn thể: 許仲琳), hiệu là Chung Sơn Dật Tẩu, người Phủ Ứng Thiên huyện Trực Lệ biên soạn. Thuyết khác lại cho rằng tác giả rất có thể là Lục Tây Tĩnh (giản thể: 陆西星; phồn thể: 陸西星), hiệu Trường Canh, người huyện Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô. (nguồn: wiki)
Theo sử Trung Hoa thì trước kia đời Nghiêu, Thuấn vợ thứ hai của vua Ðế Cốt là Giảng Ðịnh đi cầu con ở gò Cao Mai trông thấy chim én đẻ rơi trước mặt. Bà Giảng Ðịnh cho là điềm lành, liền lấy trứng chim én ấy nuốt vào bụng. Quả nhiên vì nuốt trứng, bà thọ thai sinh được một trai đặt tên là Khiết.
Khiết lớn lên phò vua Nghiêu, rồi đến vua Thuấn, được phong làm chức Tư Ðồ. Vì có công dạy dân, về sau Khiết được phong làm Lạc Ấp, và làm chúa một xứ.
Dòng dõi ông Khiết vẫn nối chức cai trị Thái Ấp cho đến đời ông Thái Ất, tức là Thành Thang.
Thành Thang là người nhân đức và trung hậu, nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí, thất thời ẩn cư cày ruộng nơi Sằn Dã, liền đến rước về, dâng cho vua Kiệt, nhà Hạ dùng. Ấy là vì lòng trung, Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình.
Ai ngờ vua Kiệt bất trí, không biết dùng người tài, nghe lời dua mị, không trọng dụng Y Doãn. Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang.
Bấy giờ vua Kiệt càng ngày càng đắm say tửu sắc. Giết quan Long Phùng là một vị gián quan có công với nước, nên chẳng ai dám ra can ngăn nữa.
Hành động của vua Kiệt mỗi lúc một thối nát hơn. Ông Thành Thang thấy vậy sai người qua khóc lóc để khuyên can. Vua Kiệt đã không nghe còn bắt ông Thành Thang giam tại Hạ Ðài suốt một thời gian mới thả về.
Trong lúc vua Kiệt ham dâm, độc ác như vậy thì ông Thành Thang lại tỏ cho thiên hạ thấy ông là một người nhân hậu có tiếng.
Một hôm, ông Thành Thang ra ngoài đồng thấy người đi săn bủa lưới bốn phía, và vái:
– Trên trời sa xuống, dưới đất chun lên, tất cả bốn phương đều vô mảnh lưới.
Ông Thành Thang nghe lời vái ấy than thầm:
– Nếu vậy muôn cầm đìểu thú đều bị bắt hết còn gì?
Ông bèn truyền mở ba phía lưới ra, rồi khiến các thợ săn vái rằng:
Muốn lại thì lại, muốn qua thì qua
Ở trên trời sa xuống, có cánh bay xa
Ở dưới đất chun lên, có chân chạy ra
Con nào liều mạng, thì vào lưới ta
Cầm thú đều ra khỏi lưới hết. Bởi vậy đời sau người ta thường nói: “Mở lưới Thành Thang ” tức là ý muốn nhắc đến tích ấy.
Giăng lưới để bắt cầm thú để ăn thịt mà chỉ giăng một mặt, chừa chỗ cho con thịt thoát ra thì lòng nhân còn gì hơn. Bởi vậy tiếng đồn tới cõi Hớn Nam, thiên hạ đều khen Thành Thang đức lớn, hơn bốn mươi nước đều theo.
Ðến sau, vua Kiệt vô đạo, hại dân gần chết, ông Y Doãn phò Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào.
Các chư hầu hội đũ mặt, tôn Thành Thang lên làm Thiên tử, Thành Thang vẫn từ chối, chỉ muốn nhận bổn phận chư hầu thôi, nhưng vì các chư hầu khác ép buộc, Thành Thang cực chẳng đã phải thuận lời lên ngôi Thiên tử lập Kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi mở đầu nhà Thương.
Vua Thành Thang bỏ các điều luật ác hiểm của vua Kiệt, đặt ra những việc dân ưa, dân mến, lấy đức trị dân, nên ai nấy đều theo về cả.
Trong thời gian đầu, vì vua Kiệt bất nhân, nên trời hạn hán suốt bảy năm, vua Thành Thang mới cầu mưa thì trời liền mưa xuống.
Vua trị dân nhân đức, dân coi vua như cha mẹ, trong nước không xảy ra điều gì cần phải xài đến luật pháp nữa.
Vua Thành Thang trị vì được 13 năm, thọ được 100 tuổi, rồi truyền xuống con cháu đến 28 đời, tổng cộng là 564 năm, đến đời Ân Thọ (vua Trụ) thì nhà Thương mới mất.
Hai mươi tám đời vua nhà Thương truyền nối như sau:
1 – Thành Thang
2 – Thái Giáp
3 – Óc Ðinh
4 – Thái Canh
5 – Tiển Giáp
6 – Ứng Kỷ
7 – Thái Hậu
8 – Trọng Ðỉnh
9 – Ngoại Nhâm
10 – Hà Ðản Giáp
11 – Tổ Ất
12 – Tổ Tân
13 – Óc Giáp
14 – Tổ Ðinh
15 – Nam Canh
16 – Ðương Giáp
17 – Bàn Canh
18 – Tiểu Tân
19 – Tiểu Ất
20 – Võ Ðinh
21 – Tổ Canh
22 – Tổ Giáp
23 – Lâm Tân
24 – Canh Ðịnh
25 – Thái Ðỉnh
27 – Ðế Ất
28 – Ân Thọ (Trụ Vương).
Truyện này nói về cuối đời nhà Thương, lúc Trụ Vương mất nước, và nhà Châu lên kế vị.
Vua Trụ là con thứ ba của vua Ðế Ất. Vua Ðế Ất có ba người con là Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển và Ân Thọ.
Nhân khi vua Ðế Ất ngự ngoài vười xem hoa mẫu đơn với các quan, thấy lầu Phi Vân gãy mất một kèo, liền truyền các quan thay cây kèo ấy. Các quan xúm lại đỡ không nổi.
Bấy giờ có Ân Thọ đi theo, thấy vậy một mình xốc lại, một tay đỡ cây kèo, một tay nhổ cột lên thay.
Các quan trông thấy sức mạnh của Thọ Vương ai cũng quỳ lạy chúc mừng.
Thừa Tướng Thương Dung và quan Ðại Phu Mai Bá, Triệu Khải đồng quỳ tâu với vua Ðế Ất:
– Thọ Vương tuy là con út nhưng tài năng như vậy có thể làm rạng rỡ nhà Thương sau này, xin Bệ hạ phong làm Thái Tử, để nối ngôi.
Ðế Ất bằng lòng, lập Ân Thọ lên làm Thái Tử.
Vua Ðế Ất trị vì được ba mươi năm thì băng hà. Lúc lâm chung có phú thác Thọ Vương cho Thái Sư Văn Trọng, nên sau đó Thọ Vương được lên ngôi Thiên tử tức Trụ Vương, đóng đô tại Triều Ca.
Hai người anh của vua Trụ tuy không được nối ngôi, song vẫn một lòng hiếu thuận, không hiềm khích, hoặc có ý ganh tỵ. Bởi vậy từ trong đến ngoài đều an lạc.
Văn thì có Thái Sư Văn Trọng đủ tài trị nước, võ thì có Trấn Quốc Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ đủ tài trấn áp các nước chư hầu.
Trong cung ba bà cung hậu như Chánh Cung Khương hoàng Hậu, Tây Cung Hoàng Thị (em Hoàng Phi Hổ), Ninh Khánh Cung Ðương thị đều có đức hạnh, trinh chính, hòa nhã, hiền lành.
Vua Trụ ngồi hưởng thái bình, muôn dân lạc nghiệp, mưa hòa gió thuận, tưởng không có gì sung sướng hơn.
Bấy giờ nhà Thương cầm đầu một số chư hầu gồm bảy trăm Trấn chia làm bốn Cõi có một chư hầu lớn thay mặt nhà Thương điều khiễn.
Bốn Trấn chư hầu lớn gồm có:
1 – Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở (cha của Khương Hoàng Hậu).
2 – Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ
3 – Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương)
4 – Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ.
Mỗi Trấn chư hầu lớn cai trị gần một trăm chư hầu nhỏ, cộng bảy trăm Trấn chư hầu.
Sau khi Trụ Vương lên ngôi được bảy năm thì có một số chư hầu nhỏ phía Bắc do Viên Phước Thông cầm đầu nổi loạn. Thái Sư Văn Trọng phải tuân lệnh đi đánh dẹp.
Văn Trọng ra đi, việc triều chính thiếu người định đoạt, nên vua Trụ thường gần gũi hai tên Vưu Hồn và Bí trọng, là hai tên xu nịnh, trước kia đã nhiều lần Văn trọng can không cho vua Trụ gần hai tên ấy.
Một hôm vào tiết tháng ba, vua Trụ ngự triều, Thừa Tướng Thương Dung tâu:
– Ngày mai là ngày rằm, nhằm vía bà Nữ Oa, xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước.
Vua Trụ hỏi:
– Bà Nữ Oa là người thế nào đến nỗi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương?
Thương Dung tâu:
– Bà Nữ Oa là em gái của vua Phục Hy, hiện là một vị thần linh hiển lắm. Trước kia Cung Công làm phản, đụng đầu vào núi Bất Châu, đất bị nghiêng sụp, bà Nữ Oa bèn lấy năm sắc đá vá trời. Bởi có công với đời như vậy, nên mấy triều vua đều lập miễu phụng thờ. Nơi nào thờ miễu Bà thì nơi ấy mưa thuận gió hòa, mối nước được yên, dân gian khỏe mạnh. Xin bệ hạ đến đó dâng hương, chẳng nên khinh dễ.
Vua Trụ nhận lời:
– Nếu vậy mai Trẫm sẽ đến đó dâng hương cầu phước, sẵn dịp du ngoạn một chuyến.
Hôm sau, vua trụ truyền long giá ra đi, các quan đi theo phò tá rất đông. Ba ngàn binh kỵ mã, tám trăm quân Ngự Lâm do Hoàng Phi Hổ điều khiển, trước sau đông nghẹt.
Xa giá đến đâu dân chúng đều thắp nhang đèn trước cửa vọng bái.
Khi đến trước đền thần Nữ Oa, vua Trụ bước xuống xe đến nơi chính điện đặt một đĩnh trầm, và các quan đồng lạy.
Vua Trụ trông thấy trong điện trang nghiêm lắm, những hình tượng toàn bằng vàng ngọc đứng hầu hai bên. Những cặp con trai cầm phướng đúc vàng, những tượng con gái chạm bằng ngọc đứng dâng hương. Trên điện không thiếu gì hạc múa loan xòe, rồng bay phượng lộn, đèn chưng như sao mọc, khói tỏa như mây mờ, uy nghiêm chẳng khác gì đền vua.
Trụ Vương đang say mê, thì bỗng một luồn gió nhẹ thổi qua làm bức màn vẹt qua, vua trông thấy tượng bà Nữ Oa rất rõ, hình dung như một người sống chẳng khác gì một nàng tiên, hương trời sắc nước không đâu bì kịp.
Lời xưa thường nói:
– Nước gần mất thì có yêu nghiệt hiện ra.
Vua Trụ nhìn tượng thần Nữ Oa không nháy mắt tự nhủ với lòng:
– Ta tuy làm vua giàu có bốn biển, nhưng trong tam cung lục viện không thấy có người nào được cái nhan sắc như vậy.
Nghĩ rồi truyền thị vệ đem bút mực đến, và đề một bài thơ ngay trên vách tường:
Lạnh lùng trướng phủ xõa màn loan
Bóng sắc khen ai khéo điểm trang
Liễu uốn mày ngài khoe sắc lục
Xiêm tung sóng nưóc điểm non vàng
Hải đường sương đượm màu tươi tốt
Thược dưọc mưa nhuần bóng vẻ vang
Ðem về cung điện dựa thiên nhan
Thừa Tướng Thương Dung thấy vua Trụ đề thơ như vậy thất kinh quỳ tâu:
– Bà Nữ Oa là thần thánh đời thượng cổ. Tôi tưởng bệ hạ chỉ nên dâng hương cầu phước cho mưa thuận gió hòa, sóng trong biển lặng. Còn việc đề thơ có ý trêu cợt như vậy không nên. Xin bệ hạ truyền lấy nước rửa đi kẻo thiên hạ trông thấy truyền ngôn cho bệ hạ không có đức chánh.
Vua Trụ nói:
– Trẫm thấy tượng thần xinh đẹp, đề một bài thơ tán thưởng chớ chẳng có ý gì khác. Vả lại Trẫm là thiên tử cũng nên để lại mấy vần thơ này cho thiên hạ rõ nhan sắc của bà, và chiêm ngưỡng vần thơ của Trẫm chứ?
Dứt lời truyền hồi loan. Các quan không ai dám nói lời nào nữa. Về đến đền Long Ðức, các quan chúc mừng rồi ai về dinh nấy.
Bấy giờ nói đến bà Nữ Oa đi lên cung Hỏa Vân chầu ba Thánh là: Phục Hy, Thần Nông, và Hoàng Ðế.
Khi chầu xong bà Nữ Oa trở về đền, lên ngồi nơi chánh điện. Hai bên gái ngọc trai vàng làm lễ, bà Nữ Oa nhìn qua bên vách thấy bài thơ của vua trụ, nổi giận nói:
– Ân Thọ hôn quân! Không lo sửa mình trị thiên hạ lại sanh tâm tà bậy, không sợ luật trời. Thật đáng ghét! Trước kia vua Thành Thang đuổi vua Kiệt thu thiên hạ, hưởng dư sáu trăm năm đến nay tuần thời đã hết. Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh.
Nói rồi liền đằng vân bay vào triều, cố vật chết vua Trụ để rửa hờn. Nhưng vừa lướt đến phía ngoài hậu cung Nữ Oa gặp hai đạo hào quang xông đến cản lại.
Hai đạo hào quang này là của Ân Hồng và Ân Giao (Nguyên vua Trụ có hai người con trai, người anh là Ân Hồng, người em là Ân Giao, sau này đều được phong thần, nên mới có hào quang như vậy). Hôm ấy hai anh em vào hậu cung chầu vua Trụ. Bà Nữ Oa bị hào quang cản trở, tính ra mới biết vua Trụ còn hai mươi tám năm nữa mới tận số, nên đằng vân trở về miễu.
Tuy nhiên, lòng vẫn căm tức không nguôi, bà liền gọi Thể Vân đồng tử lấy bầu vàng đem ra để giữa sân giở nút, rồi đưa tay chỉ một cái, tức thì trong bầu bay ra một đạo hào quang trắng phau như giải lụa, dài hơn năm trượng. Ðạo hào quang lại hiện ra hình một cậy phướng ngũ sắc tua tủa khắp một vùng.
Phướng này gọi là phướng chiếu yêu. Trong giây phút sa mù bao phủ, gió lộng áo ào, các yêu đều hiện đến.
Bà Nữ Oa ra lệnh cho Thể vân đồng tử bảo các yêu trở về động hết, chỉ chừa lại ba con yêu tại mả Huỳnh Ðế và cho vào ra mắt.
Ba yêu vâng lệnh, vào quỳ lạy xưng:
– Chúng tôi là hồ ly ngàn năm, chim trĩ chín đầu và đàn tỳ bà bằng đá ngọc thạch đến chầu nương nương.
Bà Nữ Oa nói:
– Nay cơ nghiệp Thành Thang đã mỏi mòn, vua Trụ sắp đến ngày mất nước. Núi Kỳ Sơn phụng gáy nhà Tây Châu, người đó là khí số do trời định. Ba chị em bây hãy dấu mình yêu quái, trà trộn vào cung điện, làm cho Trụ vương điêu đứng. Ðợi cho Võ vương đánh trụ thành công, ta cho chúng bay thành thần. Song ta cấm một điều là không được tàn hại bá tánh, chỉ trả thù Trụ Vương thôi.
Ba yêu vâng lệnh lui ra, đằng vân về động.
Vua Trụ từ khi dâng hương đền Nữ Oa trở về, mê bóng sắc pho tượng đến nỗi đêm ngủ không ngon, ngày ăn không được, coi ba cung sáu viện như cỏ rác, chẳng đoái hoài đến. Tâm tư canh cánh bên lòng buồn bã không muốn nói chuyện với ai nữa.
Ngày kia Trụ Vương đến đền Hiển Thánh, có các hoạn quan theo phò trong lúc buồn bã, Trụ Vương sực nhớ đến Vưu Hồn, Bí Trọng, hai tên này thường nói nhiều điều vui tai, vua có thể nhờ hai người này tìm cách giải khuây được, bèn cho đòi Bí Trọng đến.
Bí Trọng lúc này là Trung Gián Ðại Phu, nghe vua đòi liền ứng hầu ngay, và tâu:
– Bệ hạ có việc gì cần sai khiến hạ thần?
Trụ vương buồn bã nói:
– Vừa rồi Trẫm có đi dâng hương đền Nữ Oa thấy tượng Nữ Oa xinh đẹp đến nỗi trong tam cung lục viện của Trẫm cũng không có kẻ nào bằng. Nếu sắc đẹp ấy Trẫm không được thưởng thức thì dầu Trẫm có làm vua cũng không toại nguyện. Khanh có cách gì giải buồn cho Trẫm không?
Bí Trọng tâu:
– Bệ hạ giàu có bốn biển, đức sánh Thuấn, Nghiêu. Mọi vật trên đời này đều là của bệ hạ hết, có gì mà bệ hạ không toại nguyện? Nếu bệ hạ cần một sắc đẹp tuyệt mỹ thì bệ hạ chỉ cần xuống lệnh cho bốn Trấn chư hầu tuyển bốn trăm mỹ nữ đem dâng thì thiếu gì kẻ tuyệt sắc.
Trụ Vương nghe tâu rất đẹp dạ, phán:
– À, thế mà Trẫm như ngu độn không nghĩ ra. Thôi để ngày mai Trẫm sẽ truyền như vậy.
Vua Trụ nghe Bí Trọng tâu mừng lắm, lập tức về cung. Sáng hôm sau lâm triều, Trụ Vương phán:
– Nay Trẫm muốn ra chỉ dụ cho bốn trấn chư hầu kén chọn mỗi trấn một trăm mỹ nữ, chẳng luận giàu sang, quí tộc, miễn là dung nhan đẹp đẽ, cốt cách dịu dàng, ăn nói khuôn phép để sung vào cung sai khiến.
Quan Tể Tướng Thương Dung quỳ tâu:
– Xưa nay, hễ vua phải đạo thì muôn dân noi gương, không cần dạy dỗ, nước vẫn yên vui, dân vẫn tùng phục. Hiện trong cung bệ hạ đã có dư ngàn cung nữ, hậu phi lại hiền đức không ai bằng, nếu bệ hạ còn kén thêm nữa, thần e rằng dân gian không phục. Thần có nghe nói, đạo làm vua nên vui cái vui của dân, nên lo cái lo của dân. Hiện nay trời đang hạn hán, bệ hạ không lo cái khổ của dân, lại chọn nữ sắc, hạ thần thấy không phải lẽ. Ðời Nghiêu, Thuấn dạy thiên hạ không cần khí giới, không dùng hình pháp, khiến cho trời xuống điềm lành, sao Kiêu chiếu sáng trời, chim phụng đỗ nơi sân, cỏ chỉ mọc đầy nội, người đi lại đầy đường, chó không tiếng sủa, ngày nắng, đêm mưa, lúa trổ hai gié, ấy là điềm thạnh trị.
Trụ Vương nói:
– Ta kế vị nhà Thương mấy năm nay, tuy không được như đời Nghiêu, Thuấn, nhưng trăm họ yên vui, bốn phương quy thuận, há không phải là đời thuận sao?
Tể Tướng Thương Dung tâu:
– Nay phương Bắc đang có giặc, mọi miền dân chúng đang khốn đang khốn đốn vì nạn binh đao. Thái sư phải bỏ việc triều đình đi dẹp loạn, nếu bệ hạ lo cái lo của dân thì phải dùng người hiền, đuổi kẻ nịnh, lấy nhân đức làm đầu, tự nhiên thiên hạ thái bình, khí hòa rải khắp thiên hạ. Còn bệ hạ phải ưa nhìn tà sắc, tai ưa nghe tiếng dâm, săn thú dục vườn, vui riêng cái vui của sắc dục, tất nhiên không tránh khỏi loạn ly. Theo ý hạ thần, bệ hạ không nên tuyển mỹ nữ vào cung trong lúc này, xin bệ hạ xét lại.
Vua Trụ ngồi suy nghĩ hồi lâu, mặt buồn bã nói:
– Lời của khanh rất phải! Thôi Trẫm bãi bỏ ý định chọn mỹ nữ vào cung.
Dứt lời, Trụ Vương truyền bãi chầu.
Qua năm thứ tám, vào tiết tháng tư, bốn trấn chư hầu lớn đưa mấy trăm chư hầu nhỏ về Triều Ca để chầu nhà Thương theo thể thức hàng năm.
Bấy giờ các chư hầu đều biết Thái Sư Văn Trọng đi dẹp loạn chưa về, quyền binh trong triều do Bí Trọng, Vưu Hồn, hai tên nịnh thần ấy gần gũi vua xúi giục, muốn cho vua Trụ khỏi quở trách, ai cũng đem ít nhiều lễ vật hối lộ nơi tư dinh của hai tên gian thần ấy.
Duy có một mình Tô Hộ, làm Ký Châu Hầu, tánh tình cương trực không chịu dua mị ai, việc phải trái đều nói thẳng trước mặt, nên không đem lễ vật riêng đút lót cho Bí Trọng và Vưu Hồn.
Hai tên gian thần này đem lòng oán trách Tô Hộ, chờ dịp để trả thù.
Ðến ngày mồng một là ngày lành. Trụ Vương lâm triều, các quan ứng hầu đủ mặt. Huỳnh Môn Quan vào tâu:
– Năm nay nhằm lễ chung, chư hầu lớn nhỏ đều tề tựu đến chầu bệ hạ để nghe dạy việc. Tất cả đang đứng ở ngoài chờ lệnh.
Trụ Vương hỏi Thương Dung:
– Thừa Tướng định tiếp đón chư hầu như thế nào cho tiện?
Thương Dung tâu:
– Bệ hạ chỉ cần đòi bốn trấn chư hầu lớn vào chầu để hỏi thăm dân tình mọi nơi và nếp sống ra sao thôi. Bệ hạ nên dùng lời giả ơn họ. Còn các trấn chư hầu nhỏ thì để họ đứng chầu ngoài ngọ môn cũng được.
Trụ Vương nghe theo, liền sai Huỳnh Môn Quan đòi các trấn chư hầu lớn vào đền ra mắt.
Bốn trấn chư hầu tuân lịnh, qua khỏi cửa Cửu Long, đến quỳ trước sân. Vua Trụ bước xuống ngai, đứng nơi thềm rồng phủ dụ:
– Các khanh giúp Trẫm vỗ an dân thứ, trấn ải dẹp loạn, đánh xa trị gần, có công khó nhọc như vậy Trẫm rất hài lòng.
Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở tâu:
– Chúng tôi đội ơn trên ban chức tổng trấn, hằng ngày ráng lo nhiệm vụ, sợ không tròn trách nhiệm bệ hạ giao phó, nếu có nhọc sức ngựa trâu đôi chút bất quá cũng chỉ mong đền bổn phận làm tôi. Nay được bệ hạ ra ơn vỗ về, thật chúng tôi vạn hạnh.
Trụ Vương rất vui mừng, truyền Thừa Tướng Thương Dung và Á Tướng Tỉ Can khiến quân dọn tiệc tại đền Hiển Thánh, đãi đằng bốn vị tổng trấn cho tử tế.
Bốn trấn chư hầu lạy tạ rồi theo Thương Dung và Tỉ Can đến dự tiệc. Trụ Vương bãi triều vào hậu cung đòi Bí Trọng và Vưu Hồn đến hỏi:
– Năm ngoái các khanh khuyên ta xuống chiếu nhờ bốn trấn chư hầu kén chọn mỹ nữ, nhưng bị Tể Tướng Thương Dung cản ngăn. Năm nay sẵn dịp bốn trấn chư hầu về đủ mặt, Trẫm có nên phán truyền lệnh ấy hay không?
Bí Trọng tâu:
– Thừa Tướng trước kia can việc kén mỹ nữ, bệ hạ đã nghe theo, bây giờ lại truyền kén nữa, tôi e các chư hầu hay được mất uy tín của bệ hạ chăng? Tôi có nghe đồn con gái Ký Châu Hầu Tô Hộ quốc sắc khuynh thành, huê nhường nguyệt thẹn, nếu bệ hạ chọn vào cung cấm chắc được toại nguyện. Vả lại đòi một người vào cung không làm cho dân chúng xôn xao, và cũng không có gì.
Vua Trụ khen:
– Khanh thật là kẻ đa mưu túc trí. Như vậy mới đủ sức giúp Trẫm trong lúc này.
Nói rồi khiến nội thị ra ngoài đòi Tô Hộ vào ra mắt.
Nội thị tuân lệnh ra đến nhà trạm truyền:
– Thiên Tử cho mời Ký Châu Hầu vào thương nghị việc nước.
Tô Hộ theo nội thị vào thẳng đến Long Ðức, làm lễ tung hô rồi quỳ nghe lệnh. Trụ vương hỏi:
– Trẫm nghe khanh có một người con gái nết na dịu dàng, tánh tình thuần hậu, Trẫm muốn chọn vào hậu cung để được gần Trẫm, nếu được vậy khanh sẽ là quốc thích, ăn lộc trời, hưởng ngôi lớn, yên trấn nơi Ký Châu, danh vang bốn biển. Ðời người được vinh hiển, giàu sang như vậy ai lại không thích, chẳng biết ý khanh như thế nào?
Tô Hộ nghe Trụ Vương nói mặt lạnh như tiền, tâu:
– Bệ hạ có tam cung lục viện, cung nữ hơn ngàn người thì thiếu gì kẻ mặt liễu mày hoa? Bệ hạ còn chưa thỏa mãn sao? Xin Bệ hạ chớ nghe lời kẻ dua mị nghĩ điều dục vọng. Vả lại con tôi còn thơ dại, lễ phép chưa biết gì, đức hạnh và nhan sắc đều thiếu, bệ hạ nhọc lòng tưởng đến làm chi. Xin hãy bền lòng lo việc chánh, để thiên hạ mến đức như vậy không rạng rỡ đức trị dân sao?
Vua Trụ cười lớn nói:
– Xưa nay ai cũng muốn cho con gái mình làm rạng rỡ tông môn, đáp đền hiếu thảo. Nay con gái của khanh vào làm Phi hậu sánh vai với Trẫm, còn khanh thì lên hàng Quốc thích, vinh hiển nhất đời còn gì hơn? Sao khanh không nghĩ chuyện ấy, cố chấp làm gì?
Tô Hộ đón biết do Vưu Hồn, Bí Trọng mất ăn, bày chuyện trả thù, nên giận nói lớn:
– Tôi nghe nói: Vua làm điều có đức thì muôn dân mến phục, bốn phương quy thuận, muôn dân kính vì, lộc trời trọn hưởng. Xưa Vua Kiệt nhà Hạ vì đam mê sắc dục, làm lắm điều ác, còn nhà Thương thì không màn của lợi, đức lớn ân nhiều, nên thiên hạ theo về, dựng lên đại nghiệp. Nay Bệ hạ không bắt chước tổ tông, lại noi theo gương nhà Hạ, dẫm chân lên bước đường vong quốc, hạ thần lấy làm tiếc. Hễ Hoàng đế ham sắc thì mất xã tắc, Ðại phu ham sắc thì mất cơ nghiệp, thứ dân tham sắc thì lụy thân. Vua là tấm gương của bầy tôi, hễ Vua lỗi đạo thì tôi lăng loàn, lập phe tụ đảng, mối nước rối ren. Tôi chỉ sợ cơ nghiệp nhà Thương gầy dựng sáu trăm năm nay, vì bệ hạ mà sụp đổ.
– Xưa nay hễ đạo làm tôi phải gìn lòng trung nghĩa, vua cho hầu thì lật đật đến hầu chẳng dám đợi xe, Vua khiến chết chẳng dám từ chối. Nay Trẫm chỉ cần kén một đức con gái vào làm Hậu Phi mà ngươi dám buông lời chống trả, mắng nhiếc Trẫm, lại sánh Trẫm với vua kiệt là một ông vua mất nước. Có ai dám vô lễ như thế không?
Liền truyền cho nội thị bắt Tô Hộ đem đến tòa pháp ti kết tội khi quân. Nội thị tuân lệnh bắt Tô Hộ trói lại.
Vưu Hồn, Bí Trọng vội quỳ tâu:
– Tội khi quân của của Tô Hộ đáng xử phạt lắm, nhưng vì Bệ hạ nuốn kén con gái của Tô Hộ rồi lại làm tội Tô Hộ e thiên hạ không hiểu sự tình nghĩ lầm rằng Bệ hạ trọng sắc khinh hiền. Xin Bệ hạ ra ân tha tội cho Tô Hộ về nước. Tô hộ sẽ cảm đức bệ hạ, đem ái nữ dâng vào cung. Như vậy Bệ hạ sẽ tránh được tiếng thị phi, mà tỏ mình có lòng nhân nữa.
Vua Trụ nghe nói bớt giận, truyền tha tội cho Tô Hộ, bảo phải về nước, không được nấn ná ở triều ca ngày nào nữa.
Lệnh vua vừa ban xuống, nội thị liền mở trói đuổi Tô Hộ ra lập tức.
Tô Hộ trở về trạm dịch. Các tướng xúm lại nghênh tiếp, và hỏi thăm:
– Chẳng hay Thiên tử mời Chúa công vào triều bàn chuyện cơ mật gì vậy?
– Hôn quân vô đạo chẳng tiếc sự nghiệp của tổ ông để lại, nghe lời nịnh thần buộc ta phải tiến dâng con gái để sung vào Hậu Phi. Ta đoán chắc việc này do Bí Trọng, Vưu Hồn xúi giục, muốn đem sắc đẹp mê hoặc lòng vua để tranh uy thế? Ta can vua nhưng vua không nghe, lại bảo ta nghịch mạng truyền dẫn đến pháp ti bắt tội.
Các tướng thở dài, hỏi:
– Nếu vậy Chúa công làm thế nào về được?
Tô Hộ nói:
– Hai đứa gian nịnh ấy lại tâu xin với hôn quân tha tội cho ta trở về để cải hối, và dâng ái nữ cho hôn quân. Việc này nếu Thái Sư Văn Trọng có ở triều, hai đứa gian thần ấy đâu dám lộng hành như vậy? Hôn quân đã sa vào tội lỗi, tiếc thay cơ nghiệp Thành Thang sớm tối phải tan tành.
Các tướng hỏi:
– Vậy chúa công có ý định thế nào đối với việc này?
Tô Hộ nói:
– Nếu không dâng Ðắc Kỷ vào cung thế nào hôn quân cũng đem quân đánh phá nước ta, bằng dâng Ðắc Kỷ vào đó sau này hôn quân thiếu đức làm hư xả tắc, thiên hạ sẽ cho ta là kẻ bất trí. Các tướng có mưu nào gở rối chăng?
Các tướng đồng nói:
– Hễ vua bất chánh thì tôi không phục, nay Thiên tử trọng sắc khinh hiền, Chúa công cũng cần gì phải tôn thờ. Cứ trở về giữ lấy nước mình an vui một cỏi.
Tô Hộ đang giận nghe mấy lời của các tướng chẳng khác nào lửa cháy đổ thêm dầu, mặt giận phừng phừng nói:
– Ðấng trượng phu chẳng bao giờ thèm làm lén, đi ở phân minh.
Nói rồi khiến quân đem bút mựt ra, đề bốn câu thơ trên vách tường trước cửa đền, để thiên hạ rõ ý mình không tùng phục nhà Thương nữa:
Quân loạn thần cương
Hữu bại ngũ thường
Ký Châu Tô Hộ
Vĩnh bất triều Thương
Có nghĩa là:
Vua chẳng kỷ cương
Lỗi đạo luân thường
Ký Châu Tô Hộ
Chẳng chầu nhà Thương
Sau khi đề ra bài phản thi Tô Hộ dẫn các tướng ra khỏi Triều Ca trở về nước.
Còn vua Trụ tuy nghe lời Vưu Hồn, Bí Trọng tha Tô Hộ nhưng sợ Tô Hộ trở về không chắc chịu dâng Ðắc Kỹ, nên lòng vẫn buồn bực không an. Tiếp đến có Huỳnh Môn Quan vào tâu:
– Tô Hộ đề phản thi trước ngõ, hạ thần chẳng dám dấu, xin phép vào trình bệ hạ rõ.
Nói rồi trải tấm giấy trên long án. Vua Trụ xem xong nổi giận mắng:
– Trẫm thuận theo lòng người ưa dung tha những kẻ có tội không giết loài chuột, mới cho về xứ. Thế mà nó không biết xét thấy thân phận, lại đề phản thi trước đền, lăng nhục triều đình. Ta không thể bỏ qua hành động ấy được.
Liền cho lệnh đòi ba viên đại tướng là Ân Phú Bại, Triều Ðiển, và Lổ Hùng vào phán:
– Tô Hộ bất trung, làm phản thi đề ngoài ngọ môn nhục mạ Thiên Triều. Các khanh hãy điểm hai mươi muôn binh đi tiên phuông, Trẫm sẽ dẫn các quan theo sau hậu tập.
Lổ Hùng cuối đầu nghĩ thầm:
– Tô Hộ là người trung nghĩa thuở nay, tánh tình ngay thẳng, chẳng biết vì sao lại có hành động như vậy. Hay kẻ nào thù oán phao vu chăng? Tội trạng còn chưa rõ ràng, nếu để nhà vua thân chinh thì Ký Châu còn gì?
Nghĩ như vậy, Lổ Hùng quỳ tâu:
– Tô Hộ có tội, cần gì Bệ hạ thân chinh cho nhọc. Nay bốn trấn chư hầu còn đó, nếu muốn bắt Tô Hộ, Bệ hạ chỉ cần sai một trong bốn chư hầu ấy đem quân vấn tội cũng đủ.
Trụ vương hỏi:
– Bốn trấn chư hầu ấy Trẫm nên sai ai đi bắt Tô Hộ?
Bí Trọng quỳ tâu:
– Ký Châu thuộc phần đất Bắc Bá Hầu điều khiển, xin Bệ hạ sai Sùng Hầu Hổ đem binh bắt Tô Hộ là phải lẽ.
Trụ Vương y lời, Lổ Hùng lại nghĩ thầm:
– Sùng Hầu hổ là người tham lam hung dữ, nếu lấy oai thiên tử đi chinh phạt, dân Ký Châu sẽ bị thảm họa không ít. Sẵn đây có Tây Bá Hầu là người nhân đức, nếu tiến cử Tây Bá Hầu thì lưỡng toàn.
Nghĩ như vậy, Lổ Hùng tâu:
– Sùng Hầu Hổ tuy làm tổng trấn cõi Bắc, nhưng ân đức chưa có bao nhiêu, nếu thay Bệ hạ đi chinh phạt e không thắng, chi bằng sai Tây Bá Hầu là Cơ Xương, lâu nay nổi tiếng nhân nghĩa, may ra không tốn tên đạn mà bắt Tô Hộ dễ hơn.
Trụ Vương ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
– Thôi để Trẫm sai cả hai trấn chư hầu ấy cùng hợp sức đem binh vấn tội thì tiện hơn.
Tiếp đó, Trụ Vương thảo chiếu sai nội thị truyền đạt.
Bấy giờ, bốn trấn chư hầu đang dự tiệc với Thừa tướng Thương Dung và Tỉ Can tại đền hiển Thánh, bổng có sứ đến dạy Tây và Bắc Bá Hầu nghe truyền chiếu chỉ.
Hai trấn chư hầu thấy có chiếu Thiên tử vội quỳ mọp dưới đất, Sứ thần tuyên đọc như sau:
“Trẫm nghe: Mão đội trên đầu, dép đi dưới chân, không thể làm trái ngược được. Chúa trị dân tôi thờ chúa, ấy là do đạo trời. Nay Tô Hộ chẳng biết đạo nghĩa, không kể phận vua tôi, khinh lờn phép nước, Trẫm vì lòng nhân tha cho về nước, nhưng lại không biết hối cải ăn năn, đề phẩn thơ có ý nghịch mạng trời, nay Trẫm ban bùa việt, cờ mao, uy quyền cho Tây và Bắc Bá Hầu thay mặt Trẫm, đem binh đến Ký Châu vấn tội. Nếu ai vì tình riêng dung tha kẻ tôi loàn sẽ bị liên can “
Thiên sứ đọc chiếu xong, hai vị tổng trấn đều lạy tạ, vâng mạng.
Ðoạn Tây Bá Hầu nói với Thừa Tướng Thương Dung và ba vị tổng trấn kia:
– Tô Hộ đến chầu Thiên tử chưa vào đền ra mắt, sao trong chiếu lại nói không kể phận vua tôi, khinh lờn phép nước? Việc này chưa hiểu nguyên nhân ra sao. Vả chăng Tô Hộ là người trung nghĩa thuở nay, hằng có công với triều đình. Còn việc đề thơ ngoài ngõ phản đối thiên triều, tôi e không xác đáng. Nếu Bệ hạ nghe theo lời kẻ quấy, sai chinh phạt tôi trung, e không hợp với lòng dân. Xin Thừa Tướng và Á Tướng ngày mai vào chầu, hỏi xem tội Tô Hộ là tội gì cho biết. Nếu đáng trừng phạt thì trừng phạt, còn không đáng thì phải can vua kẻo tội nghiệp Ký Châu Hầu.
Tỉ Can nói:
– Lời Tây Bá Hầu luận rất phải. Phàm trị một người nào cũng nên nêu rõ tội trạng cho minh bạch đã.
Sùng Hầu Hổ nói:
– Dù sao lệnh thiên tữ đã ban, chúng ta không nên làm trái. Tôi chắc Tô Hộ có ý phản Thương, nếu không lẽ nào thiên tử kết tội?
Tây Bá Hầu Cơ Xương nói:
– Lời ông luận chỉ đúng theo lẽ thường. Còn ở đây Tô Hộ là người quân tử, lòng thẳng dạ ngay. Tận trung phò chúa. Một người như vậy đâu thể phản phúc một cách dễ dàng. Nếu chúng ta không dè đặt. Thiên tử đã nghe lời sàm tấu, chúng ta cứ tuân theo mệnh lệnh thiên triều, chẳng hóa ra chúng ta cùng một lũ vô dụng, không biết gì phải trái sao?
Sùng Hầu Hổ to tiếng:
– Ông nói sao lạ vậy? Không cần biết lệnh vua phải hay trái, chúng ta là tôi thần, vua sai gì chúng ta không thể không tuân. Kẻ nào trái mệnh vua tự nhiên đã mang tội khi quân rồi.
Tây Bá Hầu cười nhạt:
– Nếu vậy ông hưng binh đi trước. Tôi sẽ theo sau.
Sùng Hầu Hổ lập tức từ giã về nước. Tây Bá Hầu còn nán lại nói với Thừa Tướng Thương Dung:
– Tôi sẽ về Tây kỳ cất binh theo sau.
Tiệc mãn, các trấn chư hầu ai về nước nấy.
Khi Tô Hộ về đến Ký Châu, con trai lớn là Tô Toàn Trung đem các tướng ra khỏi thành nghênh tiếp. Cha con mừng rỡ, kéo nhau vào thành. Các tướng quỳ lạy chúc mừng và hỏi:
– Chúa công vào triều thiên tử năm nay có điều gì khác lạ không?
Tô Hộ buồn bã nói:
– Nay thiên tử từ bỏ hết các việc chánh, nghe lời nịnh thần làm điều phi nghĩa, bắt ta dâng con gái vào triều làm Hậu Phi. Ta dùng lời ngay can gián. Thiên tử cho ta phản nghịch. Ðang cơn giận dữ ta đề phản thi vào ngọ môn rồi bỏ về đây. Sớm tối chắc có binh chư hầu tuân lệnh hôn quân kéo đến đây vấn tội. Vậy các tướng lo chỉnh đốn binh mã, trên thành dự bị cung tên trí thủ đâu đó sẵn sàng, chờ ngày đối phó.
Các tướng tuân lệnh ngày đêm canh phòng cẩn mật.
Ngay lúc đó, Sùng Hầu Hổ về nước lập tức điểm năm vạn quân, người ngựa rộn ràng, kéo đến Ký Châu đánh Tô Hộ. Khi đến nơi Sùng Hầu Hổ truyền lệnh an dinh hạ trại xong cho các tướng nghỉ ngơi một bữa, rồi mới ra binh.
Quân thám thính trong thành hay được vào báo với Tô Hộ.
Tô Hộ hỏi:
– Chư Hầu nào hưng binh vậy?
Quân sĩ thưa:
– Thấy hiệu cờ đề Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ.
Tô Hộ giận nói:
– Nếu người khác thì dùng phải trái tỏ bày được, chớ Sùng Hầu Hổ là kẻ bất chấp nhơn nghĩa, có nói cũng uổng lời thôi. Chi bằng sẵn dịp này ta xua binh đánh nó một trận cho nó thấy cái oai của ta.
Nói rồi điểm binh ra ngoài thành khiêu chiến. Các tướng theo hầu rất đông. Tô Hộ cho ngựa lướt đến trước trại Sùng Hầu Hổ, nói:
– Ta là Ký Châu Hầu muốn mời Bắc Bá Hầu ra nói chuyện.
Sùng Hầu Hổ được tin liền dàn quân bố trận, trước mặt dựng hai cây cờ thêu rồng, sau lưng có người con trai lớn là Sùng Ứng Bưu theo phò tá. Còn Sùng Hầu Hổ thì mặc giáp vàng, đầu đội kim khôi sáng chói, lưng buộc đai ngọc, tay cầm đại đao uy phong lẩm liệt. Tô Hộ thấy vậy xá Sùng Hầu Hổ một cái và nói:
– Ngài vẫn mạnh giỏi chứ? Tôi vì mặt giáp trụ trong người không được trọn lễ xin ngài miễn chấp. Chẳng biết ngài kéo binh tới Ký Châu này để làm gì?
Sùng Hầu Hổ nói:
– Ngươi đề thơ phản thiên triều, nghịch mạng thiên tử, nên thiên tử sai ta đem binh đến vấn tội.
Tô Hộ nói:
– Hễ vua bất minh tôi phải loạn. Nay thiên tử vô đạo, trọng nịnh khinh hiền, không lo việc nước lại nghĩ đến điều sắc dục, khiến kén Hậu Phi. Như thế chẳng bao lâu nhà Thương sẽ ly loạn. Còn tôi là tay chân của ngài, đem thân bảo vệ bờ cỏi, sao ngài lại không bênh vực. Nghe lời hôn quân chinh phạt làm gì?
Sùng Hầu Hổ nạt lớn:
– Ngươi là đứa phản thần, tội đáng tru lục. Nay ta vâng lệnh đem binh hỏi tội, lẽ ra ngươi phải bó tay nạp mình, còn cầm đao lên ngựa ra đây đối diện với ta sao?
Dứt lời Hầu Hổ đưa mắt nhìn sang một bên, hỏi lớn:
– Có ai dám ra bắt tên phản tặc đó cho ta không?
Phía tả có một tướng đầu đội kim khôi, mình mang giáp vàng, cỡi ngựa ô, lách ngựa đến trước nói:
– Xin Chúa công để tôi bắt nó cho.
Bên kia, Tô Toàn Trung thấy vậy vỗ ngựa tới hét lớn:
– Ðừng phách lối! Ngươi là Mai Võ ta đã biết tài ngươi rồi, chớ hợm hĩnh mà mất mạng.
Mai Võ thấy Toàn Trung cản lại, mặt đỏ ngầu, hét:
– Cha con bây đã phạm tội phản nghịch còn liều lĩnh chống lại binh trời. Ta chắc chắn sẽ không tránh khỏi nạn diệt tộc đó.
Tô Toàn Trung vỗ nhựa múa kích đâm ngang hông. Mai Võ đưa búa ra đỡ. Hai bên đánh nhau được hai mươi hiệp. Mai Võ bị Toàn Trung đâm một kích trúng ngay yết hầu nhào xuống ngựa.
Tô Hộ thấy con mình đã giết được tướng địch, thừa thắng gióng trống lên. Những viên dõng tướng Ký Châu là: Triệu Bính, Trần Qui Trinh đồng giục ngựa múa đao lướt tới đốc quân hãm chiến. Quân Sùng Hầu Hổ túng thế bỏ chạy, quân Ký Châu chạy theo đâm chém tơi bời.
Rượt quân giặc trên hai mươi dậm, Tô Hộ mới gióng kiểng thu quân, kéo vào thành khao thưởng tướng sĩ, và hỏi:
– Hôm nay chúng ta thắng trận đầu, thế nào Sùng Hầu Hổ cũng sẽ củng cố lực lượng báo thù. Nếu Sùng Hầu Hổ tăng cường các tướng ở các trấn áp đảo Ký Châu ta thì liệu làm sao?
Phó tướng Triệu Bình thưa:
– Việc chinh chiến thắng bại là thường. Vả lại thế chiến không phải một trận là hết. Ngày trước Chúa công đã đề phản thi bất khuất thiên thư, nay lại ra binh giết hại chư hầu, ấy là thế cỡi cọp, không thể xuống được. Theo ngu ý của tôi đã hành động phải dứt khoát, không nên lưỡng lự. Sùng Hầu Hổ vừa thua một trận binh tướng xiểng liểng, ta nên thừa cơ truy kích, đánh cho Sùng Hầu Hổ một trận nữa không còn manh giáp, tiếp đó phải giao thiệp với các trấn chư hầu, lấy nhân nghĩa đối đãi, thu những chư hầu nào có cảm tình với ta dựa thế để làm hậu viện, như vậy mới giữ được Ký Châu này.
Tô Hộ nghe nói khen:
– Ý kiến ngươi rất hay. Vậy phải thực hiện gấp phương pháp đó.
Nói rồi liền sai Toàn Trung lãnh ba ngàn binh ra mai phục nơi trấn Ngủ Cang, cách Tây môn mười dậm để chờ lịnh.
Toàn Trung vội kéo binh ra đi, Tô Hộ lại khiến Trần Qui Trinh làm Tả Chi, Triệu Bính làm Hữu Dực, còn mình lãnh đạo trung quân, đang lúc hoàng hôn cuốn cờ giấu trống người ngậm thẻ, ngựa cất lạc, kéo đi, đợi nghe tiếng súng lệnh thì ba mặt áp vào cướp trại địch.
Còn Sùng Hầu Hổ ỷ mạnh, đem quân chinh phạt xứ xa, chẳng ngờ mới ra trận đầu đã hao binh tổn tướng, lòng hổ thẹn, dẫn một số tàn quân đóng trại nghỉ ngơi, suốt đêm ngồi than thở với các tướng:
– Từ trước đến nay ta chinh chiến đã nhiều, chưa thua trận nào nhục như trận này, đã mất một tướng, lại hao binh quá sức, nay liệu làm sao?
Ðại tướng Huỳnh Nguyên Tuế thưa:
– Binh gia thắng bại là chuyện thường, Chúa công chớ lấy thế mà buồn rầu. Tôi dám chắc binh của Tây Bá Hầu nay mai sẽ kéo đến đây, chừng ấy chúng ta hợp binh hai mặt đánh một trận trả thù, lấy Ký Châu rất dễ.
Sùng Hầu Hổ bày tiệc ăn uống giải khuây, rồi vào trướng an nghỉ.
Tô Hộ kéo binh tới, cho quân thám thính dọ xét địch tình, thấy trong dinh quân sĩ đều mỏi mệt ngủ say hết, liền ra lệnh đốt ba tiếng pháo, ba ngả binh xông vào một lượt đánh giết tưng bừng.
Quân Sùng Hầu Hổ loạn lên, đạp nhau mà chạy, người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp gác yên, túa ra các cửa trại bị giáo đâm, gươm chém, chết thôi vô số.
Tô Hộ cầm thương cỡi ngựa đi lộn trong quân tìm Sùng Hầu Hổ. Còn Sùng Hầu Hổ lúc ấy đang ngủ say, nghe quân la ó vội ngồi dậy, mang giáp cầm đao, vừa lên ngựa ra khỏi cửa trại đã gặp Tô Hộ lướt tới mắng lớn:
– Hầu Hổ! Ngươi chạy đi đâu? Mau xuống ngựa chịu trói cho rồi.
Dứt lời đâm liền một giáo. Hầu Hổ thất kinh đưa đao ra đỡ, thời may có Sùng Ứng Bưu, Kim Quỳnh và Huỳnh Nguyên Tuế tiếp đến bảo vệ. Bên Tô Hộ cũng có Triệu Bình, Trần Qui Trinh vừa dùa binh đánh đến nơi, trông thấy liền chận ba tướng của Sùng Hầu Hổ lại giáp chiến.
Các tướng đánh nhầu với nhau một lúc, Kim Quỳnh bị Triệu Bình chém đầu. Sùng Hầu Hổ thất kinh không dám cự với Tô Hộ nữa, vừa đánh vừa chạy, nhờ có con là Sùng Ứng Bưu ra sức bảo vệ mới khỏi chết.
Tuy vậy thân xác Hầu Hổ chẳng khác chó nhà hoang, cá lọt lưới chạy thôi giáp mão tơi bời. Thương hại mấy vạn binh của Hầu Hổ chết như rạ, máu chảy thành sông, thây phơi như núi.
Tô Hộ đuổi theo được mười dậm rồi thu binh trở lại. Cha con Hầu Hổ chạy mãi không dám dừng chân. Tiếp đó có Huỳnh Nguyên Tuế và Tôn Tử Võ kéo một mớ tàn quân chạy theo kịp, Cha con Hầu Hổ mới vững bụng thu góp tàn binh, kiểm điểm lại thấy mười phần hao hết phân nửa.
Hầu Hổ than:
– Ta cầm binh tự bấy lâu nay chưa thua trận nào như vậy. Bởi ta khinh Ký Châu là tiểu trấn, không phòng bị nên mới lầm mưu địch. Còn Tây Bá Hầu Cơ Xương thì chắc là không tuân lệnh thiên tử, ngồi ở nhà xem thắng bại thôi. Thật là nhục! Thù này biết bao giờ mới nguôi được?
Sùng Ứng Bưu thưa:
– Quân ta mới thua, uy thế đã nhục lắm rồi. Chi bằng cứ tạm đồn binh nơi đây rồi cho người sang thôi thúc Tây Bá Hầu xem người có ý định như thế nào rồi sẽ tính.
Hầu Hổ nói:
– Con nói như vậy cũng phải. Thôi, cứ để trời sáng sẽ cho người đến Tây Bá Hầu đôn đốc.
Cha con đang đàm luận, bổng nghe tiếng quân ó vang trời, xa xa có một tướng nhỏ, đội mão vàng, giắt hai chiếc lông trĩ, mặc giáp đỏ, cỡi ngựa kim, tay cầm cây kích, mặt tròn tự trăng rằm, môi đỏ như son, bay ngựa tới nạt lớn:
– Sùng Hầu Hổ, ta vâng lệnh phụ thân ta mai phục nơi đây đợi ngươi đã lâu lắm, ngươi không không xuống ngựa bó tay còn đợi đến chừng nào nữa?
Sùng Hầu hổ thấy viên tiểu tướng ấy là Tô Toàn Trung, nổi giận mắng lớn:
– Cha con bay làm phản, Nghịch mạng triều đình, tội chết tày non, dẫu có bầm thây chúng bây đến tan nát cũng chưa đền tội. Ta vô ý nên mắc mưu, chưa phải thắng một trận mà nên công được, chúng bây chớ có vô lễ đón đường chận ngõ, ta e nay mai binh triều kéo đến đây, cha con bây dầu có cánh lên trời cũng chẳng kịp.
Tô Toàn Trung cười ngất:
– Thôi thôi, chớ nhiều lời vô ích, hãy nói chuyện với cây kích của ta đây.
Vừa nói, Toàn Trung vừa vung kích đâm tới. Bên kia Huỳnh Nguyên Tuế lướt ngựa tới cản mũi kích Toàn Trung lại bảo vệ Sùng Hầu Hổ.
Hai tướng đánh nhau chừng vài hiệp, Tôn Tử Võ giục ngựa ra múa chỉa ba đánh giúp với Huỳnh Nguyên Tuế, quyết hạ cho kỳ được Tô Toàn trung. Ai ngờ Tô Toàn trung võ nghệ siêu quần, một mình chấp hai tướng, đánh vùi như mưa Bấc. Ðánh chừng hai chục hiệp, Toàn Trung ra miệng hét lên một tiếng, đâm Tôn Tử Võ một kích nhào xuống ngựa. Huỳnh Nguyên Tuế cả giận, vung thương đâm chém rất dữ, nhưng Toàn Trung không thèm đánh với Huỳnh Nguyên Tuế, lướt ngựa tới đâm Sùng Hầu Hổ.
Sùng Hầu Hổ sợ hãi lui ngựa ra sau. Sùng Ứng Bưu vội lướt tới đỡ cây kích của Toàn Trung rồi hiệp lực với Huỳnh Nguyên Tuế cự chiến. Toàn Trung lúc này đánh với ba tướng, nhưng càng đánh càng hăng, không biết mệt, múa kích như mưa bay gió táp.
Ðánh được một lúc, Sùng Hầu Hổ bị Toàn Trung chém toẹt một đường đứt nửa áo giáp. Hầu Hổ mất vía quất ngựa chạy dài. Ứng Bưu lúng túng bị Toàn Trung đâm một kích nhắm cánh tay, gần nhào xuống ngựa, may nhờ có Huỳnh Nguyên Tuế bảo vệ mới chạy khỏi.
Tô Toàn Trung đắc thắng, rượt đám tàn quân của Sùng Hầu Hổ chém giết một hồi, thấy trời còn khuya chẳng dám đuổi theo, vội thâu binh về.
Khi Toàn Trung về đến chân thành, trời mới rựng sáng, vội kêu quân mở cửa vào ra mắt Tô Hộ thưa:
– Con vâng lệnh thân phụ mai phục tại Ngủ Cang, đến nữa đêm địch quân chạy đến đó, một mình con chém đứt vạt giáp của Sùng Hầu Hổ, đâm chết Tôn Tử Võ và đánh Sùng Ứng Bưu gần sa xuống ngựa, vì trời tối, sợ có điều gì sơ xuất con không dám đuổi theo, xin phụ thân miễn tội.
Tô Hộ nói:
– Con đã làm chúng nó khiếp vía rồi, như thế cũng đủ, khỏi cần truy kích nữa.
Cha con Sùng Hầu Hổ bị thương chạy riết cho đến sáng mới dám dừng lại, kiểm điểm binh mã thấy trong đám tàn quân người nào cũng bị lỗ đầu chảy máu, người thì rách áo cụt tay, không một tên quân nào còn nguyên vẹn.
Binh tướng một đoàn trở thành vô dụng. Nhìn thảm trạng ấy Hầu Hổ thấy lòng đau đớn vô cùng, ngồi than thở mãi.
Huỳnh Nguyên Tuế nói:
– Chúa công hơi đâu than thở? Việc binh thắng bại là thường. Bởi ta sơ ý nên nhằm mưu địch. Vậy Chúa công dừng binh nơi đây, viết thơ thôi thúc Tây Bá Hầu đem binh đến rửa hận. Ký Châu chẳng qua chỉ là một trấn nhỏ, dẫu hùng mạnh đến đâu cũng không chống nỗi binh của thiên triều.
Sùng Hầu Hổ nói lảm nhảm:
– Tây Bá Hầu Cơ Xương không tuân mệnh thiên tử, không chịu đem binh tiếp ứng, ấy là tội khi quân và làm nhục ta. Ta căm hận lắm. Nếu nay ta thôi thúc nó đem binh đến phạt Ký Châu chẳng khác nào ta cứu vớt tội khi quân của nó, và thể diện ta cũng tổn thương.
Mặt Sùng Hầu Hổ lúc đỏ lúc tái, lòng lúng túng chưa biết tính kế gì, thì bổng xa xa có một đoàn quân người ngựa kéo đến đông nghẹt. Hầu Hổ thất kinh vội cầm thương lên ngựa, toan tìm đường chạy.
Nhưng may thay đạo quân này không phải là quân của Ký Châu Hầu Tô Hộ. Cầm đầu là một tướng mặt đen như lọ, râu đỏ như râu tôm, chân mày bạc, con mắt ốc, đầu đội mão da thú, mình mặc giáp liên hoàn, lưng mang đai ngọc, cỡi một con thú mắt lừa tròng vàng, hai tay cầm cặp búa đồng.
Sùng Hầu Hổ thấy tướng ấy thì mừng rỡ reo to:
– A, không phải địch quân. Chính em của ta đem binh đến giúp đỡ.
Thật vậy, tướng ấy là Sùng Hắc Hổ, em ruột của Hầu Hổ, làm Chúa Tào Châu. Các tướng sĩ đều xuống ngựa làm lễ.
Hắc Hổ nói với Hầu Hổ:
– Em nghe anh thất cơ nên đem binh đến giúp, không ngờ lại gặp nhau đây, thật may lắm.
Hầu Hổ thở dài:
– Ngu huynh sơ ý lầm mưu tên phản loạn, bây giờ binh tướng lớp chết, lớp bị thương, còn đánh ai được nữa?
Sùng Hắc Hổ nói:
– Hiền huynh chớ lo. Một mình đạo binh của em đây cũng đủ sức tiêu diệt Ký Châu rồi. Vậy hiền huynh ra lệnh đồng hiệp binh trở lại thành Ký Châu rồi sẽ liệu.
Sùng Hầu Hổ ra lệnh kéo binh trở lại. Hắc Hổ có ba ngàn phi mã nên xông pha đi trước, còn binh mã hai vạn bổ xung vào đội tàn quân của Hầu Hổ kéo theo sau.
Quân thám thính về báo cho Tô Hộ hay:
– Nay có binh của Sùng Hắc Hổ ở Tào Châu kéo đến vây thành.
Tô Hộ nghe nói ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ một lúc lâu, rồi than thầm:
– Sùng Hắc Hổ võ nghệ cao cường, lại có phép tiên, nội thành không tướng nào cự lại. Nay nó kéo binh đến đây biết liệu làm sao?
Hai bên tướng sĩ đều lo lắng. Tô Toàn Trung bước ra thưa:
– Hễ binh đến thì tướng ngăn, nước tràn vào thì lấy đật chận. Một mình Hắc Hổ làm gì nên việc mà phụ thân sợ sệt như vậy?
Tô Hộ thấy con mình nông nỗi nạt lớn:
– Ngươi là đứa hậu sanh, chưa từng trải việc đời, biết gì mà nói. Ngươi tưởng ngươi anh hùng lắm sao? Hắc Hổ là người có học phép tiên, lấy đầu tướng giặc giữa vòng binh như lấy đồ trong túi. Ngươi chớ có khoe khoang mà uổng mạng.
Toàn Trung nói:
– Phụ thân khiếp sợ tài năng của chúng mà quên uy thế của quân ta. Con ra binh trận này, nếu không bắt được Sùng Hắc Hổ quyết không về đây thấy mặt phụ thân nữa.
Tô Hộ nói:
– Thằng phách lối. Ta cho mày ra trận một chuyến cho biết khôn.
Toàn Trung vội nhảy lên ngựa, kéo ba ngàn quân ra trận, kêu lớn:
– Chúng bay vào gọi Sùng Hắc Hổ ra đây cho mau.
Quân trở vào báo với Hắc Hổ:
– Có Tô Toàn Trung mời Chúa công ra nói chuyện.
Hắc Hổ nghĩ thầm:
– Mình kéo quân đến đây không phải để so tài cao thấp mà để gỡ rối việc này. Anh mình nóng nảy, đem quân đánh Tô Hộ là điều thất sách. Nếu có Tô Toàn Trung ra trận thì ta dùng lời phải trái gọi Tô Hộ ra phân giải ắt xong, cởi mở hận thù giữa anh ta với Tô Hộ rất tiện.
Hắc Hổ nghĩ rồi lên ngựa ra trước trại, thấy Toàn Trung đang múa kích mặt giận hầm hầm, thì nói lớn:
– Toàn Trung! Cháu trở về mời phụ thân của cháu ra đây cho chú nói chuyện đã.
Tô Toàn Trung còn nhỏ, chưa hiểu việc đời, lại nghe cha mình khen tài Hắc Hổ là anh hùng, nên không phục, quyết một trận đua tranh, liền lướt ngựa tới mắng lớn:
– Sùng Hắc Hổ, ngươi với ta là thù địch, còn nói chuyện tình nghĩa làm gì? Hãy lui quân về Tào Châu thì giữ được tánh mạng, bằng ở đây giao tranh ắt mất đầu.
Hắc Hổ nổi giận gầm lên một tiếng;
– Thằng súc sanh, vô lễ!
Toàn Trung múa kích chém liền. Hắc Hổ đưa cặp búa đồng ra đỡ.
Hắc Hổ có tiếng là tay võ nghệ cao cường, lúc nhỏ lại có học được phép tiên về phái Triệt Giáo, bởi vậy lúc ra trận có mang bầu phép sau lưng, biến hóa nhiều lối lạ. Toàn Trung không rõ việc ấy, cậy mình có tài sức, múa kích như bay, quyết bắt sống cho được Hắc Hổ làm nổi tiếng anh hùng với thiên hạ chơi.
Toàn Trung đánh với Hắc Hổ năm mươi hiệp, tài múa kích của Toàn Trung quả vô địch, Hắc Hổ cầm búa đồng đỡ gạt đến toát mồ hôi, hơi thở khò khè, còn Toàn Trung vẫn hăng say không biết mệt.
Thấy vậy Hắc Hổ cũng phải khen thầm:
– Tô Hộ có thằng con xứng đáng quá. Cọp cha sanh cọp con là phải.
Nói rồi quày ngựa bỏ chạy. Toàn Trung ngỡ Hắc Hổ cự không lại, cười ngất nói:
– Nếu mình nghe lời cha mình thì mình đã lầm tên tướng dở này rồi! Có thế mà cũng khoe là dũng tướng. Dù mầy là Hắc hay Bạch Hổ mặc kệ, ta quyết bắt sống đem về lột da để thiên hạ biết danh ta.
Nói rồi giục ngựa đuổi theo rất gấp. Hắc Hổ nghe phía sau tiếng lạc ngựa của Toàn Trung đã đến gần, liền mở nút hồ lô niệm chú lâm râm, tức thì trong hồ lô bay ra một làn khói trắng tua tủa. Trong làn khói trắng ấy hiện ra một con chim ó mỏ sắt, kêu chí choé, bay đến mổ vào mắt Toàn Trung. Toàn Trung thất kinh cầm kích xoay tròn, không cho chim ó mổ mắt mình. Chim ó không xông vào được, liền mổ vào mắt ngựa. Con ngựa đau quá ré lên một tiếng nhãy lồng lên ném Toàn Trung xuống đất.
Hắc Hổ nhảy xuống ngựa, đè Toàn Trung hối quân trói lại dẫn về dinh.
Sùng Hầu Hổ nghe tin thắng trận, vội ra ngoài nghênh tiếp, Hắc Hổ nói:
– Em mới ra quân đã bắt được viên tiểu tướng đem về đó.
Hầu Hổ thấy Toàn Trung, nghiến răng trợn mắt nói:
– Ðêm vừa rồi, ngươi đón đường đánh quân ta tại Ngủ Cang, ngươi anh hùng thật. Nay sao lại chịu trói, không tỏ tài anh hùng tao xem thử?
Toàn Trung đứng trợn mắt nhìn Hầu Hổ nói:
– Chúng bay dùng tà thuật bắt ta đâu gọi là anh hùng. Ta tiếc không cầm quân được lâu để bắt chúng bay nhai xương cho đả giận.
Hầu Hổ sỉ sỏ:
– Nay ngươi đã bị bắt, ngươi còn dám vô lễ sao? Cha con ngươi tội đáng tru lục, giờ đây ta chém ngươi trước đã.
Nói rồi liền hô võ sĩ dẫn Toàn Trung ra ngoài xử tử.
Hắc Hổ can:
– Hiền huynh bớt giận. Tội cha con Toàn Trung đáng chết, song cha con nó làm phản triều đình, hiền huynh được ủy thác đến đây vấn tội. Vậy bắt được tội phạm, hiền huynh phải giải về Triều Ca cho thiên tử hành hình, nếu hiền huynh tự tiện giết đi, sau này không khỏi tiếng khi quân. Vả lại, con gái Tô Hộ là Ðắc Kỷ đang được thiên tử mơ ước, nếu sau này Ðắc Kỷ được gần gủi thiên tử, xin tha tội cho Tô Hộ, và Tô Hộ lên hàng Quốc thích, quyền hành trong tay, muốn trả thù hiền huynh là chuyện rất dễ. Chúng ta dại gì chuốc lấy oán cừu, mà không có lợi gì cho chúng ta cả?
Sùng Hầu Hổ nghe nói như sáng con mắt lên:
– Hiền đệ định xử trí việc này ra sao?
Sùng Hắc Hổ nói:
– Cứ giam Toàn Trung lại, chờ bắt được Tô Hộ rồi sẽ giải về triều đình cho Thiên Tử xét xử. Chúng ta chỉ tuân lệnh Thánh hoàng thôi không chuốc lấy ân oán làm gì?
Sùng Hầu hổ hậm hực:
– Hiền đệ nói cũng phải. Song chúng nó làm nhục anh mấy lần nơi trận chiến, nếu không trả được thù hận ấy, anh không thể vui được.
Nói rồi truyền đem giam Toàn Trung đợi giải về Triều Ca và truyền dọn tiệc ăn mừng thắng trận.
Bên kia quân sĩ theo Toàn Trung ra trận, thấy Toàn Trung bị bắt vội vã chạy về báo với Tô Hộ:
– Công tử ra binh, rượt Sùng Hắc Hổ chạy một lúc, bị hắn dùng pháp thuật bắt sống rồi.
Tô Hộ nói:
– Ta đã biết trước rồi, thế nào nó cũng không toàn mạng được. Bởi nó ỷ tài, không nghe lời ta nên mới bị bắt đó.
Nét mặt Tô Hộ dàu dàu. Các tướng xúm lại khuyên giải, và xin ra trận để báo thù cho Toàn Trung. Tô Hộ nói:
– Không được đâu! Hắc Hổ là trang dũng tướng, lại có tà thuật hại người. Các ngươi ra đó chẳng khác gì đem trứng chọi đá. Làm một việc biết chắc không thành công thì không nên làm.
Các tướng thưa:
– Dù sao cũng đem hết sức mình chống giặc đã! Chúa công nói như vậy chẳng lẽ chịu đem Ký Châu này giao cho địch sao?
Tô Hộ thở dài:
– Việc này do ta gây nên. Nay đã lỡ, ta không muốn các ngươi là những kẻ vô tội phải gánh chịu tai ương.
Nói rồi Tô Hộ cấm các tướng không cho ra quân, chỉ truyền kiên thủ thành trì chờ lệnh.
Ðêm ấy Tô Hộ ngồi một mình trước long án, ôm đầu suy nghĩ:
– Ðem thân tùng phục một kẻ vô đạo là kẻ bất trí, ta không thể làm được. Còn chống lại kẻ vô đạo trong lúc cô thế, làm thiệt hại sinh mạng binh tướng ta không bằng lòng. Ôi, chỉ tại ta sanh con Ðắc Kỷ có chút ít nhan sắc, khiến cho hôn quân nghe lời bọn nịnh thần mới sanh chuyện rắc rối như vậy. Bây giờ thế đã cùng, thà ta chịu hy sinh cả gia quyến còn hơn để chúng bắt đem về Triều Ca thêm nhục.
Tô Hộ định giết hết vợ con rồi tự vận cho xong. Vì vậy vào khoảng canh hai đêm ấy, Tô Hộ cầm gươm thẳng đến hậu dinh.
Lúc này Ðắc Kỷ vẫn chưa ngủ, thấy cha mình cầm gươm vào phòng trong lúc đêm khuya, khép nép thưa:
– Thưa phụ thân, đêm khuya rồi sao phụ thân không an nghỉ, lại xách kiếm vào hậu cung?
Nét mặt vô tư và kiều diễm của Ðắc Kỷ làm cho Tô Hộ động lòng. Dù Tô Hộ bực tức đến đâu cũng không thể làm cái chuyện hùm dữ ăn thịt con, huống chi Ðắc Kỷ ngây thơ đẹp đẽ như vậy. Tô Hộ nỡ nào giết con cho đành. Hai hàng nước mắt Tô Hộ rưng rưng chảy. Lần đầu tiên, nước mắt kẻ khẳng khái như Tô Hộ hoen ố trước cảnh đau lòng.
Tô Hộ nói:
– Cha cũng vì sanh con ra mà mang họa đó.
Ðắc Kỷ hỏi:
– Mấy hôm nay con có nghe triều đình đem binh đến vấn tội cha nhưng chẳng rõ cha đã phạm tội gì với thiên tử?
Tô Hộ bùi ngùi:
– Khí số nhà Thương đã hết, khiến Trụ Vương không lo sửa mình gìn giữ sự nghiệp, nghe lời nịnh thần đam mê sắc dục. Vừa rồi cha vào Triều Ca chầu, hôn quân buộc cha tiến dâng ái nữ, cha không tuân lệnh, nên hôn quân khiến chư hầu kéo quân tới đánh Ký Châu ta. Anh con đã bị bắt, trong thành không ai đủ sức chống lại Sùng Hắc Hổ. Sớm tối cả thành đều bị bắt. Cha tính thà liều mình trước còn hơn để chúng bắt mang nhục.
Ðắc Kỷ thưa:
– Chỉ vì con mà cả nước mang khốn như vầy. Thôi để con liều mình cứu nước vậy.
Tô Hộ nói:
– Chết một mình con không cứu được gia đình và tướng sĩ đâu. Chỉ trừ việc con bằng lòng vào triều để thỏa mãn tính dục của hôn quân mà thôi.
Ðắc Kỷ nói:
– Như vậy xin cha cứ tiến dâng con vào triều cũng được. Thân con đâu kể gì, miễn thân phụ khỏi tội, nước nhà được bình yên.
Tô Hộ nói:
– Hôn quân vô đạo, sớm tối cơ nghiệp không còn. Nếu đưa con vào đó không khỏi sau này mang tiếng với thiên hạ.
Cha con Tô Hộ vừa nói đến đây thì bên ngoài có tiếng trống báo nguy. Tô Hộ vội xách kiếm ra khỏi hậu cung, đã thấy quân giữ cửa hối hả chạy vào báo:
– Sùng Hắc Hổ công thành rất gấp.
Tô Hộ truyền lệnh các tướng giử chặc bốn cửa thành, dùng cây đá, tên bắn và nước sôi dội xuống không cho địch quân hãm thành.
Các tướng tuân lệnh quan phòng rất gắt. Bên ngoài Sùng Hắc Hổ cũng không có ý hãm thành, chỉ muốn cho mời Tô Hộ ra để đàm luận thôi, nhưng không thấy Tô Hộ ra buộc lòng phải truyền quân công phá. Khi thấy trên thành kháng cự, Hắc Hổ liền thu quân về trại.
Sùng Hầu Hổ thấy em mình không công thành, lại kéo binh về liền vào trướng hỏi thăm:
– Sao hiền đệ không bắt thang lên đoạt thành?
Hắc Hổ nói:
– Trong thành dự trữ tên đạn khá nhiều, nếu đoạt thành sẽ hao binh không ít. Tôi xem thành Ký Châu lương thảo không bao nhiêu, nếu cố thủ cũng chỉ trong vòng một tháng là cùng. Chúng ta cứ đóng quân nơi đây, đợi quân của Tây Bá Hầu tới sẽ tính kế, Còn Tây Bá Hầu không đến, thành Ký Châu một thời gian nữa cũng sẽ thất thủ, không cần phải đánh.
Sùng Hầu Hổ nghe nói cũng an tâm, truyền mở tiệc khao thưởng quân sĩ. Trong lúc đó Tô Hộ không biết tính lẽ nào, phần nóng lòng vì con mình là Tô Toàn Trung bị bắt, sống chết chưa được tin.
Trong lúc lo lắng thì có Trịnh Luân đi giải lương về.
Tô Hộ than:
– Tuy có thêm lương thực nhưng cũng chẳng ăn thua gì, vì thành Ký Châu này nếu không giải vây được, sớm tối quân sĩ phải chết đói hết.
Trịnh Luân vào chầu, hỏi thăm tin tức:
– Tôi nghe Chúa công phản Thương, Hầu Hổ đem binh vấn tội, tôi lo lắng bôn ba về đây. Chẳng hay Chúa công thắng bại như thế nào?
Tô Hộ buồn bã nói:
– Ta vì không phục hôn quân nên hành động như vậy. Nay Hầu Hổ tuân lệnh hôn quân đến đây vấn tội. Ký Châu ta nhỏ bé, cự sao lại binh triều. Ta tính sai sứ sang các nước chư hầu dọ xét ý tình để liên minh chống cự, như thế mới lâu dài được. Ngặc vì Toàn Trung bị Hắc Hổ bắt giử, chưa biết sai ai đi làm công chuyện ấy.
Trịnh Luân nói:
– Hầu Hổ chẳng qua là đứa bất trí, chúa công sợ gì nó? Còn các trấn chư hầu nếu nghe lời hôn quân cùng đến đây một lúc, tôi thiết tưởng chưa chắc đã lấy được Ký Châu một cách dễ dàng. Ý kiến liên minh các chư hầu để chống lại nhà Thương thì cũng phải biểu dương lực lượng chúng ta đã.
Tô Hộ nói:
– Trước kia các tướng cũng đã bàn đến kế sách ấy. Hai trận đầu ta ra binh, đánh Sùng Hầu Hổ không còn manh giáp, sau đó có Sùng Hắc Hổ đem binh đến trợ lực. Hắc Hổ học phép tiên, tài năng vô địch, trong thành không ai dám đương cự, Toàn Trung cũng vừa bị bắt sống.
Trịnh Luân nói:
– Sá gì một Hắc Hổ mà sợ? Tôi từ lâu nay đã được Chúa công hậu đãi ơn ấy chưa đền. Nay nguyện ra binh bắt Hắc Hổ, cứu công tử cho.
Tô Hộ ngạc nhiên nhìn các tướng, nói:
– Hắc Hổ có phép thuật cao cường, nội thành không ai dám ra đánh. Tướng quân có tài gì mà nói như vậy?
Trịnh Luân rút gươm giơ lên trời nói lớn:
– Nếu tôi ra trận mà không bắt được Hắc Hổ xin dâng đầu cho Chúa công để trừng trị những kẻ phách lối.
Nói rồi nhảy lên con thú mắt đỏ tròng vàng, xách cặp thiết tiên, đốt ba tiếng pháo khai thành, dẫn ba ngàn quân ra trước trại địch, gọi lớn:
– Sùng Hắc Hổ? Hãy ra cho ta bảo đây.
Quân vào báo:
– Có một tướng bên Ký Châu dẫn binh đến khiêu chiến.
Sùng Hắc Hổ đang ngồi nghị luận, nghe quân báo liền đứng dậy nói:
– Hiền huynh để em ra trận xem tướng nào dám vô lễ như vậy?
Nói rồi dẫn ba ngàn quân ra khỏi trại, thấy một tướng mắt như tròng táo, râu như rễ tre, đội mão đỏ, mặc giáp vàng, thắt đai ngọc, cũng cỡi thú như mình, liền lướt tới hỏi:
– Tướng nào đó? Tên họ là gì?
Trịnh Luân nói:
– Ta làm chức Ðốc Lương, tên Trịnh Luân đây. Có phải tên ngươi là Hắc Hổ, đã bắt sống con trai chủ tướng ta chăng? Nếu biết điều hãy mau trả lại, còn cưỡng mệnh thân xác ngươi sẽ tan như bột.
Hắc Hổ nổi giận mắng:
– Thằng khốn! Ðừng phách lối! Chủ mày là Tô Hộ nghịch mạng thiên triều, tội ấy đáng phanh thây. Mày là tôi thần của nó thì cũng liên can, sao chưa chịu quy hàng để bảo tồn tánh mạng, còn dám ra đây múa miệng?
Nói rồi Hắc Hổ giục thú tới, vung búa chém, Trịnh Luân đưa thiết tiên ra đỡ. Hai tướng đánh nhau được hai mươi hiệp chưa phân thắng bại. Trịnh Luân thấy Hắc Hổ có đeo hồ lô sau lưng biết là bầu phép, thầm nghĩ:
– Ðánh người phải ra tay trước mới được. Trước kia mình có học phép hớp hồn của ông Ðộ Ách Chơn Nhơn. Nay dùng phép ấy bắt Hắc Hổ đem về nạp cho Chúa công, để Chúa công khỏi khinh ta là vô dụng.
Nghĩ rồi, Trịnh Luân cầm thiết tiên ngoắt ra sau lưng một cái, ba ngàn binh kéo đến như một con rắn dài, người thì cầm câu móc, kẻ cầm dây xiềng, coi như một đoàn quân chuyên việc trói người.
Hắc Hổ lấy làm lạ, nghe trong lỗ mũi của Trịnh Luân có tiếng như chuông ngân, rồi hai đạo hào quang trắng toát bay ra. Hắc Hổ tối tăm mày mặt, nhào xuống đất, hai chân dãy lia lịa. Trịnh Luân truyền quân bắt Hắc Hổ trói lại. Chỉ chốc lát, Hắc Hổ tỉnh hồn coi lại thấy mình mẩy bị trói gò như một con heo sắp được chọc tiết, thất kinh nghĩ thầm:
– Thằng này có phép thuật gì kỳ lạ, bắt mình không hay biết gì hết?
Lúc này Tô Hộ đang ngồi trong trướng lo cho số mạng Trịnh Luân không thoát khỏi tay tà thuật của Hắc Hổ.
Bổng có quân vào báo:
– Trịnh tướng quân đã bắt được Hắc Hổ đem về, còn đứng ngoài chờ lệnh.
Tô Hộ ngạc nhiên, không rõ Trịnh Luân làm thế nào bắt được Hắc Hổ, liền đòi vào khen thưởng, và hỏi:
– Hắc Hổ là một dõng tướng, lại học được nhiều phép tiên, tướng quân làm thế nào bắt được nó?
Trịnh Luân kể lại lúc nhỏ mình có học được phép mầu do tiên gia chỉ giáo, và kể lại trận đánh với Hắc Hổ vừa rồi cho Tô Hộ nghe. Tô Hộ mừng rỡ truyền dẫn Hắc Hổ vào bệ kiến.
Quân dẫn Hắc Hổ đến. Tô Hộ liền bước xuống mở trói cho Hắc Hổ, đoạn quỳ trước mặt Hắc Hổ nói:
– Tôi cam thọ tội với thiên tử, không lấy gì đền được. Trịnh Luân không biết nên xúc phạm oai trời, xin hiền đệ rộng dung.
Hắc Hổ thấy Tô Hộ đối đãi với mình như vậy, vội xụp xuống, nói:
– Trước đây anh em ta kết nghĩa, lòng hẳn chẳng quên. Nay ngu đệ đem binh đến đây chỉ cốt gỡ rối mối thù giữa hiền huynh và Sùng ca ca tôi, chớ đâu có ý chinh phạt. Hôm trước, cháu tuổi nhỏ, cậy sức anh hùng, không chịu mời hiền huynh ra cho tiểu đệ nói chuyện, cố ý giao phong nên tiểu đệ phải bắt về cầm tạm để tiện bề đàm đạo với hiền huynh.
Tô Hộ nói:
– Nếu hiền hầu không quên nghĩa cũ, trọn tình như vậy còn gì quý hơn.
Dứt lời Tô Hộ gọi các tướng lãnh của mình ra mắt Hắc Hổ.
Hắc Hổ thấy Trịnh Luân liền kính cẩn nói:
– Trịnh tướng quân tài phép hơn tôi nhiều. Tôi phục Trịnh tướng quân trọn đời.
Bầu không khí rất hòa nhã. Tô Hộ nhường Hắc Hổ ngồi trên, hối quân đem rượu ra cùng uống.
Ấy mới là:
Ngàn chung tri kỷ, rượu còn ít
Nửa tiếng trái tai, lời quá nhiều
Bấy giờ quân của Sùng Hắc Hổ chạy về báo tin cho Sùng Hầu Hổ hay. Hầu Hổ thất kinh nói:
– Em ta phép thuật cao cường vì cớ gì mà bị bắt?
Quân sĩ thưa:
– Trong lúc đang giao chiến, chúng tôi thấy hai đạo hào quang trắng xóa từ trong lỗ mũi Trịnh tướng quân bay ra, tức thì đệ nhị chủ tướng bị sa xuống ngựa và bị quân sĩ Ký Châu bắt trói giải về thành.
Hầu Hổ nghe nói thất kinh, nghĩ thầm:
– Ôi chao, trong đời lại có phép lạ như vậy sao? Nếu Tô Hộ đã có người tài như vậy giúp sức thì binh ta cự sao lại?
Tiếp đó, Sùng Hầu Hổ cho người đi dọ thám tin tức Tây Bá Hầu.
Xảy có quân vào báo:
– Tây Bá Hầu sai sứ giả đến ngoài trại, xin vào ra mắt.
Hầu Hổ trong bụng không vui, nhưng cũng phải mời vào hội kiến.
Sứ thần của Tây Bá Hầu mặc đồ trắng, lưng thắt đai xanh, bước vào thi lễ và nói:
– Tôi là Táng Nghi Sanh, vâng lệnh Tây Bá Hầu đến ra mắt hiền hầu.
Hầu Hổ nóng lòng hỏi:
– Chúa ngươi không tuân lệnh thiên tử, chẳng chịu động binh, nay sai ngươi đến đây một mình để làm gì?
Táng Nghi Sanh thưa:
– Chúa công tôi cho việc binh đao là việc dư, bất đắt dĩ mới phải dùng đến. Nay Chúa công tôi sai đem đến cho Tô hầu một phong thơ, lấy lời hơn lẻ thiệt khuyên Tô hầu dâng con chuộc tội. Nếu Tô hầu nghe theo thì dân chúng khỏi nạn binh đao, quân sĩ khỏi lo chết chóc. Còn Tô hầu cứ khăng khăng một mực, chừng ấy sẽ đem binh vấn tội cũng chẳng muộn.
Sùng Hầu Hổ nghe nói cười lớn:
– Ta đem quân đến vây thành Ký Châu, giao phong mấy trận thế mà Tô Hộ vẫn cứng đầu ra binh đối địch, không kể mạng lệnh thiên tử nữa. Nay chúa ngươi chỉ sai ngươi đem đến một phong thơ, làm sao Tô Hộ chịu dâng con mà chuộc tội? Ðó là Tây Bá Hầu đã trái mạng thiên tử, nên mới tìm cách gỡ gạc tội lỗi mà thôi. Ngươi cứ đem thư sang đó xem Tô Hộ có chịu đầu hàng không cho biết.
Táng Nghi Sanh nói:
– Chúa công tôi cho lẽ phải có sức mạnh hơn là gươm giáo.
Sùng Hầu Hổ hiu hiu tự đắc:
– Thì ngươi cứ đem thư đưa cho Tô Hộ rồi sẽ rõ.
Táng Nghi Sanh từ giã Hầu Hổ thẳng đến thành Ký Châu, kêu quân canh bảo vào báo tin.
Lúc đó Tô Hộ đang ăn uống với Hắc Hổ, bổng có quân vào báo:
– Tây Bá Hầu sai người đến trao thơ.
Tô Hộ nói:
– Tây Bá Hầu là người hiền đức, ta không nên đối xử vô lễ.
Nói rồi truyền quân khai thành tiếp sứ. Táng Nghi Sanh bước vào thủ lễ, Tô Hộ hỏi:
– Quan Ðại Phu từ Tây Kỳ đến đây có việc gì chỉ giáo chăng?
Táng Nghi Sanh cung kính đáp:
– Trước đây hiền hầu có làm thơ bất phục thiên tử, nhà vua giận sai Chúa tôi đem binh chinh phạt. Nhưng Chúa tôi biết hiền hầu là người ngay thẳng, tánh khí cương trực, nên không dám ra quân, sai tôi đây dâng hiền hầu một bức tâm thư, xin hiền hầu khai phán.
Dứt lời, lấy phong thư dâng lên Tô Hộ.
Tô Hộ thấy trong thư viết như sau:
“Tây Bá Hầu Cơ Xương cúi lạy dưới trướng Ký Châu Hầu. Tôi nghe nói: Người trong một nước đều là tôi của vua. Vua ra lệnh, tôi không dám trái. Nay hiền hầu có một gái đẹp và hiền đức, Thiên tử muốn chọn vào cung, đó cũng là việc phải xưa nay, sao hiền hầu đã nghịch mệnh vua lại đề phản thi trước ngọ môn nữa. Tội đó không thể châm chước được.
Hiền hầu chỉ biết thương con mà quên nghĩa vua tôi. Hiền hầu là kẻ trung nghĩa xưa nay, tôi không nỡ ngồi nhìn thảm họa đất Ký Châu nên tạm gởi vài lời, khuyên hiền hầu đổi họa làm phước.
Nếu hiền hầu dâng con vào đền sẽ hưởng ba điều lợi:
Thứ nhất, con làm hậu phi được vua yêu dấu, cha làm Quốc trượng uy thế lẫy lừng, ăn lộc ngàn chung, vang danh bốn bể.
Thứ nhì, cõi Ký Châu gia quyến an toàn, tướng sĩ không hề bị khổ sở về binh đao.
Thứ ba, nhân dân Ký Châu không vì lòng khẳng khái của hiền hầu mà mang tai họa.
Xin hiền hầu nghĩ lại, phải biết kinh quyền để tránh tai họa. Tôi với hiền hầu cùng làm tôi nhà Thương cả, đã là tôi trong một nước thì lời hơn lẽ thiệt nói cho nhau biết là nhiệm vụ chung, xin hiền hầu đừng chấp nê, xét cho thấu đáo. Tôi đang mong hồi âm”.
Tô Hộ đọc xong ngồi làm thinh và gật gù mãi.
Táng Nghi Sanh thấy vậy thưa:
– Chúa công tôi nghĩ tình đồng trào nên không nỡ đem binh lực chinh phạt, đó là một dụng ý tốt, xin hiền hầu nghĩ lại cho ý kiến gấp.
Tô Hộ trao bức thư cho Sùng Hắc Hổ xem và nói:
– Tây Bá Hầu là người hiền đức, lời nói trong thư cũng rất hòa nhã. Người đã vì ta khuyên ngăn điều hơn thiệt, ta lẽ nào không nghe theo sao?
Sùng Hắc Hổ cũng nói:
– Lời nói phải nặng hơn Thái Sơn, hiền huynh cũng nên vì nghĩa lớn bỏ những câu nệ nhỏ nhen.
Tô Hộ quay sang nói với Táng Nghi Sanh:
– Quan Ðại Phu về thưa lại với Tây Bá Hầu, tôi sẽ dâng con chuộc tội. Tôi tuân theo lời nhơn nghĩa của Tây Bá Hầu chớ không phải tôi sợ binh lực của Tây Kỳ đâu.
Nói rồi truyền quân mở tiệc thết đãi Sanh Nghi nơi quán dịch.
Hôm sau, Tô Hộ viết thư phúc đáp Tây Bá Hầu và tặng Nghi Sanh một số vàng bạc, nhờ Nghi Sanh về thưa lại cho rành rằng mình đã nghe lời dâng con chuộc tôi.
Nghi Sanh từ tạ ra về, Tô Hộ đưa đón hơn hai dậm đường, rồi trở về nói với Hắc Hổ:
– Chúng mình sống trên tình nghĩa. Tây Bá Hầu đã tỏ lời khuyên giải, chúng mình không lẽ không nghe theo. Thực ra trước đây tôi có chủ trương liên minh với chư hầu chống lại Trụ Vương, nhưng hiện thời ý định ấy không còn nữa.
Sùng Hầu Hổ nói:
– Nếu hiền huynh đã quyết định như vậy thì phải đưa ái nữ vào chầu Thiên Tử cho sớm để khỏi bị cản trở.
Tô Hộ liền truyền lệnh sắm sửa đưa Ðắc Kỷ đến Triều Ca. Hắc Hổ nói:
– Việc của hiền huynh như vậy đã xong rồi. Tôi xin trở về thả Toàn Trung ra và bàn với ca ca tôi giải binh, đồng thời làm sớ dâng về triều để hiền huynh tiện bề dâng con chuộc tội. Hiền huynh chớ tính lui tính tới nữa mà hỏng việc.
Tô Hộ nói:
– Tôi có cảm tình với hiền đệ và nặng nghĩa với Tây Bá Hầu lẽ nào tiếc một đứa con gái hay sao? Hiền đệ cứ an lòng trở về, chúng ta còn nhiều ngày gặp gỡ.
Hai đàng chia tay trong luyến tiếc.
Hắc Hổ vừa ra khỏi thành, trở lại đại trại, quân thám thính hay được liền vào báo cho Sùng Hầu hổ hay.
Sùng Hầu Hổ lật đật mời Hắc Hổ vào hỏi:
– Vì sao em về được? Từ khi em bị bắt đến nay anh lo lắng không yên, thường ngày cho người dọ thám, nhưng không nghe tin tức gì cả.
Hắc Hổ nói:
– Tô Hộ chịu dâng con chuộc tội rồi. Chúng ta nên giải binh thôi. Em tuy bị bắt, nhưng Tô Hộ vẫn đối đải tử tế, không sao cả.
Sùng Hầu Hổ nghiến răng hỏi:
– Tô Hộ nghe lời thuyết phục của Tây Bá Hầu rồi sao? Thật đáng ghét. Nó trái lệnh Thiên Tử, nằm ở nhà không tốn một tên quân, chỉ viết một phong thư sai một tên quan quèn đem đến, thế mà được việc, còn ta hao tổn bao nhiêu xương máu mà công lao không thành. Chẳng lẽ bây giờ ta lại giải binh thì nhục nhã quá.
Sùng Hắc Hổ nói:
– Anh thật bất trí. Cùng một chư hầu lớn với người ta, anh ỷ tài đem quân chinh phạt đến nỗi hao binh tổn tướng như vậy, còn người ta chỉ viết một phong thư, không cần mất một mũi tên mà thành công. Anh không biết hổ thẹn sao? Thôi giải binh trở về, đừng nói nhiều nữa.
Sùng Hầu Hổ hậm hực nói:
– Em theo phe bọn chúng, không kể đến tình anh em nữa à?
Sùng Hắc Hổ giận dữ:
– Anh đã làm ô nhục giòng họ Sùng, từ nay em không còn muốn thấy mặt anh nữa.
Dứt lời, truyền quân thả Tô Toàn Trung. Tô Toàn Trung thấy Hắc Hổ tỏ tình như vậy rất mến phục, cúi đầu tạ ơn:
– Chú sanh cháu một lần, cháu coi ơn ấy như trời biển.
Sùng Hắc Hổ nói:
– Cháu về hối thúc phụ thân vào triều chầu vua cho sớm.
Toàn Trung đi rồi, Sùng Hắc Hổ mặt lầm lì kéo quân trở về. Còn Sùng Hầu Hổ lưỡng lự một chút, nhắm bề không xong, cũng giải binh trở lại đất Bắc, làm sớ dâng về triều tạ tội.
Toàn Trung vào thành Ký Châu ra mắt Tô Hộ.
Tô Hộ nói:
– Nay có thư Tây Bá Hầu khuyên giải, cha tính dâng em con cho thiên tử mà chuộc tội để cứu lấy giang san trăm họ. Lẽ nào tiếc một đứa con gái làm khổ nhân dân đất Ký Châu.
Toàn Trung nói:
– Giận là giận hôn quân không lo sửa đức trị dân thôi. Còn cá nhân dù phải hy sinh cũng chẳng hại gì. Nay phụ thân đã quyết định như vậy con đâu dám cãi.
Tô Hộ hỏi:
– Vậy thì con ở nhà quyền trị Ký Châu, sớm tối phải siêng năng chăm lo công việc, đừng sanh sự lôi thôi. Ðể cha đem em con dâng cho vua xong cha sẽ trở về.
Toàn Trung vâng lệnh. Tô Hộ trở vào hậu cung thuật rõ ý định mình cho phu nhân là Dương thị hay.
Dương thị khóc òa, nói:
– Con gái mình lâu nay chưa từng biết phép tắc triều đình, nay tiến cung biết có điều gì khổ thân không?
Tô Hộ nói:
– Phúc họa làm sao biết trước đưọc. Việc đến đâu hay đến đó, bây giờ đưa Ðắc Kỷ vào chầu vua để cứu đất Ký Châu này khỏi nạn đao binh đã.
Dương thị khóc mãi, Tô Hộ khuyên giải suốt đêm vẫn chưa nguôi.
Hôm sau, Tô Hộ chọn ba ngàn quân kỵ mã, năm trăm gia thần sắm sửa xe loan, bảo Ðắc Kỷ điểm trang lên kiệu ra đi.
Ðắc Kỷ nghe dạy nước mắt như mưa, lạy mẹ và anh từ giã bịn rịn hơn nửa ngày chưa ra khỏi cửa. Thế nữ hai bên khuyên dỗ, phu nhân mới chịu rời, bước vào phòng để cho Ðắc Kỷ ra đi.
Tô Toàn Trung theo đưa năm dậm mới trở lại. Tô Hộ cỡi ngựa theo sau xe loan, đàng trước trương một cây đại kỳ đề hai chữ “Quí Nhân”.
Ðoàn ngựa nhắm hướng Triều Ca thẳng tới, trải không biết bao nhiêu khó nhọc, lúc xuống thác, lúc leo gềnh, lặn lội mấy ngày mới đến huyện Qua Châu.
Ngày kia, đoàn người ngựa đến trạm Ân Châu thì trời tối, dịch thừa được tin liền đón tiếp rước vào trạm nghĩ ngơi. Tô Hộ bảo dịch thừa dọn thính đường cho quí nhân nghĩ.
Chẳng dám dấu ngài, trạm này hơn ba năm nay có yêu tinh làm lộng, ai đi đường lỡ tối cũng không dám ngủ ở thính đường mà chỉ ngủ ở đại trại thôi. Vậy xin để quí nhân ngủ nơi đại trại mới bình yên vô sự.
Tô Hộ nói:
– Người quý của thiên tử, yêu tinh nào dám phá? Sẵn đây có nhà trạm lại ngủ trong trại coi sao được?
Dịch đường không dám trái mệnh, liền hối bộ hạ quét dọn nhà thính đường, thắp hương cho tan yêu khí, dọn một căn phòng rộng để cho quý nhân ngủ.
Tô Hộ dẫn Ðắc Kỷ vào phòng, có năm mươi thế nữ theo hầu hạ, năm trăm gia tướng theo canh cửa, ba ngàn binh mã đóng bên ngoài. Còn Tô Hộ thắp đèn nến ngồi trước nhà khách, nghĩ thầm:
– Chỗ này là trạm dịch, khách qua đường đi lại đông đảo, xung quanh dân chúng cư ngụ rất nhiều, thế mà bảo có yêu quái phá phách thật là chuyện lạ. Tuy nhiên ta cũng nên phòng bị là hơn.
Nghĩ như vậy, Tộ Hộ liền lấy cây roi đuôi beo để trên bàn, rồi ngồi xem sách.
Trời khuya,bên ngoài ánh sao lờ mờ, bốn bề đều yên lặng, chỉ còn một mình Tô Hộ thức mà thôi. Nghe tiếng trống trở canh xa xa vừa điểm. Tô Hộ nghi ngại trong lòng, cầm roi bước vào phòng xem chừng, thấy bọn thế nữ và tiểu thơ đều ngủ im lìm hết. Tô Hộ yên lòng, trở về ngồi xem binh thơ.
Qua một hồi lâu, Tô Hộ nghe trống trở canh hai, không thấy có động tĩnh gì cả. Tô Hộ ngồi xem sách mãi…
Trống canh ba vừa điểm, bỗng có một luồng gió lạnh toát thổi đến, ngọn nến gần muốn tắt rồi tỏ lại. Tô Hộ thấy lòng hồi hộp, toan xách roi chạy xuống phòng ngủ, thì đã nghe có tiếng la của bọn thế nữ hoảng hốt:
– Yêu quái! Yêu quái!
Tô Hộ vội xách roi cầm đèn chạy xuống, nhưng gió thổi tắt đèn, Tô Hộ phải hối quân thắp lên. Lúc xuống đến nơi thì thấy bọn thế nữ run cầm cập không nói ra tiếng.
Tô Hộ vén màn hỏi Ðắc Kỷ:
– Con có thấy yêu quái gì không?
Ðắc Kỷ thưa:
– Con đang chiêm bao nghe thế nữ la hoảng, còn chờ dậy thì thấy bóng đèn của phụ thân dọi vào, không thấy yêu quái gì cả.
Tô Hộ nói:
– Ðội ơn trời phù hộ cho con khỏi giật mình. Thôi con nghỉ đi.
Tô Hộ trở lại nhà khách cho đến sáng. Tô Hộ có biết đâu lúc đèn tắt thì Ðắc Kỷ đã bị hồ ly hớp hồn rồi nhập vào xác Ðắc Kỷ trả lời với Tô Hộ. Chính hồ ly tinh đã mượn xác Ðắc Kỷ báo Trụ Vương sau này mất nước.
Suốt đêm đi tuần không thấy yêu tinh gì hết. Tô Hộ mừng quá tự nhủ:
– Nếu con gái ta đêm nay có bề nào thì không khỏi mang tội với thiên tử.
Thật ra hiện Ðắc Kỷ chỉ còn cái xác thôi, phần hồn đã bị yêu tinh chiếm đoạt rồi. Tô Hộ lầm yêu tinh là con mình, thật tội nghiệp.
Sáng hôm sau lên đường, đi suốt mấy ngày đêm nữa mới đến Triều Ca. Tô Hộ truyền quân đóng trại nghỉ ngơi rồi sai người vào thành dâng sớ nhờ Hoàng Phi Hổ vào tâu với Trụ Vương xin dâng con chuộc tội.
Hoàng Phi Hổ bèn cho người mời hai cha con Tô Hộ nhập thành trước, còn quân sĩ thì đóng ở ngoài thành chờ lệnh.
Vưu Hồn, Bí Trọng hay tin Tô Hộ đem con chuộc tội, lại không thấy dâng lễ vật gì với chúng, thầm nói với nhau:
– Tuy đã đem con gái vào triều, nhưng tánh vua hờn giận không chừng, một lời nói của chúng ta cũng đủ làm cho mầy mất mạng đừng tưởng thế là xong. Rồi đây mầy sẽ biết hai đứa tao lợi hại bực nào.
Bấy giờ vua Trụ đang ngự tại đền Long Ðức, có kẻ hầu cận vào tâu:
– Có Bí Trọng xin vào yết kiến.
Trụ Vương cho vào. Bí Trọng vào lạy mừng và nói:
– Nay Tô Hộ đem con đến dâng để chuộc tội, hiện còn ở ngoài thành chờ lệnh.
Trụ Vương nổi giận mắng Tô Hộ:
– Ðồ thất phu vô đạo. Khi trước nhờ hai khanh bảo tấu, Trẫm mới tha chết đuổi về, nó lại dám đề phản thi ngoài ngọ môn, rồi chống lại binh trời. Tội ấy làm sao dung thứ được. Sáng mai Trẫm sẽ xử tội nó trước mặt triều thần cho rõ tội khi quân.
Bí Trọng tâu:
– Pháp luật đặt ra không phải dành riêng cho ai cả mà để trị chung cho cả nước. Nay Tô Hộ khi quân như vậy, nếu không xử trị thì luật nước đâu còn?
Trụ Vương nói:
– Khanh tâu rất phải. Ðể ngày mai Trẫm sẽ trừng trị kẻ tôi loàn ấy cho xứng đáng.
Bí Trọng từ tạ lui ra. Hôm sau, Trụ Vương lâm triều, bá quan vào chầu đủ mặt, Hoàng Môn Quan vào tâu:
– Có Tô Hộ xin vào yết kiến, và dâng con chuộc tội.
Trụ Vương cho đòi vào. Tô Hộ mình mặc áo tù, đầu không đội mão, quì lạy trước sân, tâu:
– Kẻ tội nhân đáng chết, xin bệ hạ rộng dung.
Trụ Vương vỗ án hét:
– Tô Hộ! Ngươi đã đề phản thi trước ngọ môn, trọn đời không vào chầu Thương. Sau đó Sùng Hầu Hổ cử binh vấn tội, ngươi còn dám ra binh sát hại binh triều, nay ngươi còn vào đây làm gì.
Dứt lời, hối võ sĩ dẫn Tô Hộ đem ra pháp trường xử trảm để bêu đầu răn chúng.
Quan Thừa Tướng Thương Dung quỳ tâu:
– Tô Hộ phản Thương, tội rất nặng. Song trước kia bệ hạ vì muốn chọn Phi Hậu mà làm Tô Hộ lỗi đạo. Nay Tô Hộ đã biết ăn năn, dâng con hối lỗi, tưởng bệ hạ cũng nên rộng lòng dung tha.
Bí Trọng cũng quỳ tâu:
– Xin bệ hạ truyền đòi Ðắc Kỷ vào chầu, nếu Ðắc Kỷ xinh đẹp, bệ hạ dùng được thì hãy xá tội cho Tô Hộ. Còn nếu Ðắc Kỷ dung nhan không đẹp ý, bệ hạ sẽ truyền giết cả hai cha con cũng được.
Trụ Vương khen phải, liền truyền Ðắc Kỷ vào chầu. Ðắc Kỷ được lệnh, bước tới trước ngai vàng quỳ lạy.
Vua Trụ trông thấy Ðắc Kỷ tóc mai da tuyết, mắt phụng má đào, lưng nhỏ dịu dàng, mày xanh tiên tuế, ngón tay như mũi viết, da mặt tợ phù dung, trong lòng mê mẩn.
Làn môi son hé mở, đôi mắt phụng liếc rất tình tứ, Ðắc Kỷ tâu:
– Tôi là con kẻ phạm tội xin vào chầu, chúc Thánh hoàng vạn tuế.
Vua Trụ vừa trông thấy dung nhan lạnh lùng, lại thêm tiếng nói thanh tao như chim hót, trong người có một cảm giác đê mê, không thể nào nói được. Ngồi chết điếng một lúc mới mở miệng truyền gọi bọn cung phi:
– Chúng bay hãy mau dẫn Tô nương nương đến lầu Thọ Tiên đợi Trẫm.
Ðắc Kỷ theo bọn cung phi bước vào khuất bóng sau rèm, đôi mắt nhà vua vẫn còn say sưa.
Giây lát, Trụ Vương phán:
– Tô Hộ đã biết hối cải, dâng con chuộc tội, Trẫm xóa bỏ hết lỗi lầm. Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ, Trẫm gia phong cho Tô Hộ thêm chức Quốc Thích, truyền mở tiệc nơi đền Hiển Khánh ba ngày để bá quan văn võ từ chức Thừa Tướng trở xuống đều đến đó làm lễ chúc mừng Quốc Thích. Xong tiệc, các quan đưa Quốc Thích dạo khắp Triều Ca, để cho dân chúng hoan hỷ, và sau đó hai quan văn, ba quan võ đại diện Trẫm đưa Quốc Thích về nước.
Tô Hộ cúi lạy tạ ơn. Trụ Vương liền bãi triều, lui về hậu cung.
Các quan triều thần thấy Trụ Vương đam mê sắc dục như vậy có ý không bằng lòng, nhưng vì Trụ Vương bãi triều quá sớm, không thể cản ngăn, đành trở lại đền Hiển Khánh để cùng các quan dự yến chúc mừng Tô Hộ.
Vua Trụ về cung Thọ Tiên ăn uống vui vầy với Ðắc Kỷ, đêm ấy loan phụng giao hòa rất tương đắc. Ý tình gắn bó như keo sơn.
Từ khi Ðắc Kỷ vào cung, vua Trụ ngày thì mở tiệc ăn chơi, tối đến vui riêng trong cung cấm, bỏ phế việc triều nghi, không hề để mắt đến những lời sớ của các quan nữa. Có ai vào xin ra mắt, vua Trụ cũng không cho.
Ngày qua tháng lại như thoi đưa, thì giờ đối với kẻ si mê sắc dục chẳng khác bóng câu qua cửa sổ. Loáng mắt đã hai tháng trời, vua Trụ không một lần ngự triều, cứ ở mãi trong cung Thọ Tiên vui riêng với Ðắc Kỷ. Bá quan dâng sớ chất đống cao ngập đầu, vẫn không thấy mặt rồng đâu hết. Như vậy lấy ai nghị việc?
Ðây nói chuyện ông Vân Trung Tử là một vị tiên, tu luyện đã ngàn năm trên núi Chung Nam. Ngày kia Vân Trung Tử xách giỏ đi hái thuốc thấy yêu khí bốc lên đến mây xanh, liền xem xét một hồi, rồi than:
– Con hồ ly tinh đã nhập vào xác người tác quái. Ta mang nghiệp tu hành cốt làm điều nhân đức, nếu không vì thiên hạ, trừ con yêu ấy thì có lẽ nhân gian sinh ra lắm chuyện khổ đau.
Than rồi liền gọi học trò là Kim Hà đồng tử đến bảo:
– Ngươi đi bẻ cho ta một khúc cây tòng khô để ta đẽo chiếc gươm trừ yêu.
Kim Hà đồng tử hỏi:
– Thưa thầy, sao không dùng guơm báu chém yêu cho dứt hậu hoạn?
Vân Trung Tử nói:
– Con yêu ấy chỉ là giống hồ ly tu luyện ngàn năm, cần gì phải dùng đến gươm báu. Ta dùng thanh gươm gỗ cũng đủ trừ nó rồi.
Ðồng tử vâng mệnh đi bẻ một nhánh tùng. Vân Trung Tử đẽo thành một thanh gươm phép, dặn học trò giữ động, rồi đằng vân thảng đến Triều Ca.
Bấy giờ vua Trụ đang đắm sắc, đã lâu ngày chẳng lâm triều.
Bá quan văn võ không biết làm sao nên đàm luận xôn xao.
Quan Thượng Ðại Phu Mai Bá nói với Thừa Tướng Thương Dung và Á Tướng Tỉ Can:
– Nay Bệ hạ đắm sắc, bỏ cả triều chính, không coi giang sơn là trọng ấy là điểm loạn lớn. Các ông quyền cao lộc cả, gần gũi bệ hạ hơn, lẽ nào lại khoanh tay ngồi ngó. Xưa nay hễ vua làm quấy thì tôi can, cha làm sai thì con bàn, bạn làm sai thì có bạn khuyên. Các ông không hiểu lẽ ấy hay sao?
Thừa Tướng Thương Dung nói:
– Bệ hạ ngày đêm ở mãi trong cung cấm, không làm sao thấy mặt được, các ông bảo chúng tôi làm thế nào bây giờ?
Mai Bá nói:
– Chúng ta hội đủ mặt văn thần võ tướng rồi giống chuông trống thỉnh bệ hạ ra đền, đồng một loạt can gián. Nếu người này tâu mà bệ hạ không nghe thì đến người khác, quyết làm sao cho bệ hạ từ bỏ sắc đẹp, tránh xa kẻ nịnh mới được.
Thừa Tướng Thương Dung nói:
– Quang Ðại Phu nói rất phải. Chúng ta đồng lòng can vua mới đưọc. Bệ hạ đang lâm vào trạng huống này, một mình tôi không đủ sức.
Các quan đồng ứng lên một lượt:
– Xin Thừa Tướng mời bệ hạ lâm triều cho được. Chúng tôi nguyện nhất loạt ủng hộ lời can gián của Thừa Tướng.
Thương Dung liền truyền nổi trống đền rất gấp. Vua Trụ đang ở nơi lầu Trích Tinh nghe nhạc với Ðắc Kỷ, bỗng có tiếng trống nổi lên inh ỏi, thất kinh nói với Ðắc Kỷ:
– Mỹ nhân ở đây chờ Trẫm một chút. Trẫm ngự triều xem chuyện gì gấp mà các quan nỗi trống đền như vậy?
Ðắc Kỷ nói:
– Thần thiếp đoán chắc không có việc gì đâu. Chẳng qua triều thần thấy bệ hạ yêu mến thần thiếp nên ganh tỵ mời bệ hạ ra để can gián thế thôi.
Trụ vương nói:
– Mỹ nhân chớ lo. Trẫm ra ngoài một chút là vào ngay, dù triều thần có nói gì Trẫm cũng không nghe theo.
Ðắc Kỷ vội vã lạy đưa. Vua Trụ lên xe đến ngai ngồi ngự. Trăm quan văn võ lạy mừng xong, Vua Trụ thấy Thừa Tướng Thương Dung tay ôm một chồng sớ rất dầy. Bên kia thấy Hoàng Phi Hổ và các quan Ðại phu cũng chuẩn bị như sắp có nhiều việc tâu trình, thì thất kinh, vì bị tửu sắc nhiều, trong đời Vua Trụ hình như không còn muốn làm việc gì khác nữa.
Tuy nhiên, đã lâm triều không lẽ trở vào hậu cung ngay, đành ngồi nán lại mà lòng buồn bã.
Thừa Tướng Thương Dung quỳ tâu:
– Tâu bệ hạ các chư hầu lâu nay dâng sớ về đợi bệ hạ phê chuẩn rất nhiều việc, chẳng biết vì sao bệ hạ không lâm triều, ngày đêm luôn ở nơi cung cấm. Hạ thần chắc có người ở gần bệ hạ cám dỗ chăng? Xin bệ hạ xem việc xã tắc là trọng.
Vua Trụ thở dài nói:
– Trẫm nghe bốn biển bình yên, muôn dân lạc nghiệp. Duy phía Bắc có loạn thì Trẫm đã sai Thái Sư đi dẹp rồi. Ðó chẳng qua như mụt ghẻ lở, có nghĩa gì. Còn việc triều chính đã có các khanh thay Trẫm điều hành, Trẫm dù có nghỉ ngơi một thời gian cũng chẳng sao. Các khanh chớ học đòi theo khuôn sáo cũ mà chê Trẫm không chiếu cố đến xã tắc. Người tôi trung không thấy vua nghỉ ngơi chút ít mà bỏ việc, hoặc có ý khi quân.
Thương Dung tâu:
– Mọi việc đều do bệ hạ quyết định cả, nếu bệ hạ giao cho một đại thần nào mà không tránh khỏi tiếng chuyên quyền, và bệ hạ lại mang tiếng không cần mẫn. Xin bệ hạ xa lánh con đường cũ, đuổi kẻ gian, bỏ sắc dục, trọng đức thương dân, thì xã tắc mới bền vững, nước mới giàu, dân mới mạnh.
Vua Trụ lắc đầu:
– Thôi thôi, Trẫm không muốn nghe mãi những lời nhàm tai ấy. Các khanh không có lời nói nào khác để Trẫm đẹp lòng hay sao?
Trụ Vương nói đến đây thì có Quan Huỳnh Môn vào tâu:
– Có ông Vân Trung Tử xưng là đạo sĩ ở núi Chung Nam xin vào yết kiến bày tỏ mật sự.
Trụ Vương nghi thầm:
– Các quan hôm nay cố can gián nhiều việc, nếu ta để chúng nói mãi nghe khó chịu, lại rườm tai, chi bằng cho vị đạo sĩ này vào nói qua loa vài câu cho vui rồi bãi chầu là hay hơn.
Nghĩ như vậy, Trụ Vương liền ra lệnh mời đạo sĩ vào.
Vân Trung Tử mặc áo rộng xanh, mặt như dồi phấn, môi tợ thoa son, bước vào trước đền khoan thai để giỏ hoa xuống, nghiêng đầu xá vua Trụ một cái, không lạy, và nói:
– Tôi xin ra mắt bệ hạ.
Vua Trụ thấy đạo sĩ chỉ xá mà không lạy nên không bằng lòng nghĩ thầm:
– Trẫm trị ngôi trời, giàu sang bốn biển, ai ở trong đất nước đều là bề tôi cả, đạo sĩ tuy là kẻ tu hành, song cũng không thoát ra ngoài bản đồ của Trẫm, tại sao có ý khi quân như vậy?
Tuy nghi thế, song nếu chấp trách Trụ Vương lại sợ triều thần khinh mình hẹp hòi, nên làm ra vẻ đại lượng, hỏi qua gốc tích.
– Ðạo sĩ từ đâu đến đây?
Vân Trung Tử nói:
– Tôi theo mây nước đến đây.
Trụ Vương hỏi:
– Sao gọi là mây nước?
Vân Trung Tử đáp:
– Lòng tự vừng mây trắng, ý như dòng nước trong.
Trụ Vương mĩm cười, có ý trêu chọc:
– Nếu mây tan nước cạn thì người về đâu?
Vân Trung Tử nói:
– Mây tan vần nguyệt rạng, nước cạn trái châu bày.
Câu này ý Vân Trung Tử muốn nói: Nếu mây tan thì hiện vào cung Nguyệt, nước cạn thì ẩn vào trái Châu.
Vua Trụ thấy Vân Trung Tử đối đáp thông suốt, đổi giận làm vui phán:
– Lúc nãy đạo sĩ làm lễ mà không triều bái, Trẫm cho là thất lễ. Nhưng bây giờ thấy đạo sĩ có nhiều ý lạ, Trẫm rất vui lòng. Vậy Trẫm bỏ qua đấy.
Nói rồi chỉ một chiếc cẩm đôn, mời Vân Trung Tử ngồi.
Vân Trung Tử chẳng hề khiêm nhượng, liền ngồi xuống ghế, cúi đầu nói:
– Như thế mới phải chứ. Ngôi cửu trùng cũng quý, mà đạo tam giáo cũng cao, lẽ nào không ý thức đưọc?
Trụ Vương hỏi:
– Ðạo tiên cao ở chổ nào?
Vân Trung Tử nói:
– Xin bệ hạ nghe tôi đọc thì rõ:
“Ðạo chia tam giáo, Tiên trọng muôn phần. Trên chẳng chầu thiên tử, dưới chẳng lạy công khanh, lánh tục trần nên ở ẩn, bỏ lưới tục mới đi tu. Uống nước suối không màng danh lợi, ở gành non quên nhục quên vinh. Ðội trời không biết nắng, mặc áo rách coi đời, bẻ bông tươi đội làm nón, cắt cỏ khô làm mền. Lấy nước suối súc miệng, ăn trái cây sống đời. Có lúc vổ tay reo lớn, có khi duổi cẳng nằm dài. Gặp khách tiên thì giảng kinh, nói chuyện, gặp bạn đạo thì uống rượu ngâm thơ. Cười vui theo ý muốn, nói năng theo thích lòng. Không cần bó buộc, chẳng cần nể nang. Luận việc thịnh suy thời thế, xét điều côi rẽ hồn linh. Mặc ý nắng mưa thay đổi, không cần câu thúc thời gian. Ðời già hóa trẻ, tóc bạc trở xanh. Vào non hái thuốc, trị bịnh cứu người. Biết dữ lành vì thông quẻ bói, biết họa phúc vì rõ lòng người. Truyền phép đạo mở lòng cứu thế, làm phép bùa trừ khử yêu ma. Ðạo cao rồng cọp sợ, đức trọng quỷ thần kiêng. Cỡi mây xanh bay lên phủ tía, ngồi hạc trắng dạo khắp cung tiên. Biết mấy thiên tạo hóa, thông đạo đức thần linh. Coi danh lợi như mây trôi bèo dạt, so nghề pháp như cứu cánh tinh thần. Tuy tam giáo là trọng, song chỉ một đạo là cao”.
Vua Trụ nghe nói cũng vui tai, liền phán hỏi:
– Trẫm nghe lời đạo sư nói, nghe mình nhẹ nhàng như thoát khỏi càn khôn, ngẫm lại giàu sang khác gì mây gió. Song chưa biết đạo sư ở động nào? Nhơn việc chi đến đây xin cho Trẫm biết.
Vân Trung Tử nói:
– Bần đạo là Vân Trung Tử, ở động Ngọc Trụ, tại núi Chung nam, nhân lúc thung dung đi hái thuốc, thấy khí yêu xuất hiện tại Triều Ca, khi đến đây thấy quái khí tụ nơi cung cấm, bởi vậy bần đạo có ý xin bệ hạ trừ yêu quái để cứu muôn dân.
Trụ Vương nói:
– Nơi cung cấm là chỗ canh phòng nghiêm ngặt ngày đêm đều có quan quân ứng hầu, đâu phải chốn rừng núi u tịch mà có yêu quái lộng hành? Có lẽ đạo sư lầm chăng?
Vân Trung Tử vừa cười vừa nói:
– Yêu quái là giống tà ma, nếu biết nó thì nó không dám đến. Sở dĩ nó dám lộng hành là vì bệ hạ không biết nó. Nếu không trừ sớm sau này tai họa không nhỏ. Tôi xin đọc bốn câu thơ này cho bệ hạ rõ:
Sắc sắc màu dở khấy bệnh nhân
Hao mòn thể chất lẫn tinh thần!
Nếu ai biết nó là yêu mị
Yêu mị làm sao giết được thần?
Trụ Vương hỏi:
– Nếu trong cung có yêu thì làm cách gì trừ được?
Vân Trung Tử nói:
– Không khó gì. Tôi có một thanh gươm bằng gỗ, bệ hạ đem trấn trong cung tự nhiên yêu ma phải chết.
Nói rồi giở giỏ ra, lấy thanh gươm trao cho Vua Trụ, và đọc tiếp bốn câu thơ nữa:
Ðẻo nên hình kiếm vốn cây khô
Phù phép thần tiên đã luyện vô
Một đạo hào quang chưa thấy ánh
Ba ngàn yêu khí đã ra tro
Trụ Vương hỏi:
– Gươm này trấn tại đâu?
Vân Trung Tử nói:
– Trấn tại lầu Phấn Cung (gần cung cấm) trong ba ngày sẽ thấy hiệu nghiệm.
Trụ Vương liền sai nội thị đem gươm treo tại lầu Phấn Cung như lời Vân Trung Tử nói.
Nội thị vâng lệnh đi tức khắc.
Trụ Vương lại nói với Vân Trung Tử:
– Ðạo sư có phép lạ, thấu được thiên cơ, biết trừ yêu mị, nếu đạo sư chịu rời bỏ Chung Nam sơn về đây giúp Trẫm, Trẫm sẽ phong cho quan tước, hưởng lộc đời đời, như vậy không sung sướng sao, dại gì ở góc núi đầu non, phí một cuộc đời tài ba như vậy.
Vân Trung Tử nói:
– Bệ hạ có lòng chiếu cố đến kẻ núi non,quê mùa. Song bần đạo là kẻ biếng nhác, không từng biết chuyện trị nước trị dân. Sáng dậy mặt trời lên ba sào còn ngủ nướng ở trần trùn trục vẫn ngao du…
Trụ Vương ngắt lời:
– Như thế có gì là sung sướng, sao cho bằng áo tía đai vàng, con sang vợ quý, muốn hưởng gì cũng có.
Vân Trung Tử nói:
– Tuy vậy có rất nhiều cái hay, tôi xin đọc cho bệ hạ nghe:
Mình thảnh thơi
Lòng thong thả
Muôn việc mênh mông không đoác cả
Chẳng bận lo công danh như lặt rau
Chẳng muốn cướp đất như nhổ mạ
Chẳng tham lưng buộc đai ngời
Chẳng muốn mình mang gấm lạ
Chẳng ham làm Tể Tướng mà vuốt râu
Chẳng muốn dựa quân vương cho phỉ dạ
Chẳng tham lên ngựa xuống xe
Chẳng muốn vào quỳ ra xá
Chẳng ham ba họ hưởng quyền cao
Chẳng muốn ngàn chung ăn lộc cả
Lều tranh bao quản hẹp hòi
Áo vải chỉ nài tơi tả
Túi khô sẳn đóa hoa tươi
Áo rách có hồ sen lá
Mê mang giấc điệp mặt nghinh ngang
Mường tượng tiệc đào môi giục giả
Quản bao thỏ lặn ác tà
Mãn xuân sang hạ…
Vua Trụ nghe đến đây, khen:
– Trẫm nghe lời đạo sư ca thật là thanh lịch.
Liền khiến quân đem hai mâm vàng biếu cho Vân Trung Tử làm lộ phí về đường. Vân Trung Tử cười lớn:
– Cảm tình bệ hạ, nhưng bần đạo không biết dùng những thứ đó, xin bệ hạ nghe bần đạo ngâm bài thơ này:
Theo duyên theo phận ẩn sơn lâm
Tợ nước, đường mây, kinh ít cuốn
Nắm dây cầm bản, gậy non tầm
Thuốc hay trong túi cho người mạnh
Thơ mới bền lòng gặp khách ngâm
Mỗi hột kim đơn ngàn tuổi lẻ
Chẳng ham vàng bạc đựng đầy mâm
Vân Trung Tử ngâm xong, xá Vua Trụ một cái, rồi giũ tay áo đi thẳng.
Bấy giờ các quan muốn thay nhau lên tâu trình công việc, nhưng Trụ Vương ngồi lâu đã mỏi mệt, liền đứng dậy về cung.
Bá quan ngơ ngác, cùng nhau tự động bãi triều, chờ dịp khác.
Vua Trụ về đến dinh Thọ Tiên không thấy Ðắc Kỷ ra đón, lòng hồi hộp không yên.
Có quan nội thị ra rước, vua hỏi:
– Tô mỹ nhân sao không ra đón trẫm?
Nội thị tâu:
– Tô mỹ nhân lâm bệnh nặng nằm thiêm thiếp trên giường. Trụ Vương thất kinh, vội bước xuống long xa, hối hả vào phòng khoát màn, xem thấy Ðắc Kỷ mặt trắng nhợt, môi như giấy bạch, nằm thở pheo pheo như gần đứt hơi.
Vua Trụ gọi lớn:
– Mỹ nhân, trước khi Trẫm lâm triều diện mạo mỹ nhân còn như đóa hoa tươi, sao mới chốc lát sắc diện mỹ nhân như thế này Trẫm biết làm sao bây giờ?
– Bệ hạ ơi! Khi sớm mai thần thiếp đưa bệ hạ lâm triều, thần thiếp đoán chừng bệ hạ gần về nên ra ngoài đón, chẳng ngờ khi đi ngang lầu Phấn Cung, thần thiếp thấy cây gươm treo ở đấy nên giật mình toát mồ hôi ra, bịnh tình thế này. Thần thiếp tủi phận mình bạc phước vô duyên, không được hầu bệ hạ được lâu. Xin bệ hạ an dưỡng mình rồng, đừng nghĩ đến thần thiếp nữa…
– Lão đạo sĩ nói là trong cung có yêu, cho gươm linh để trừ yếm, tại sao Tô mỹ nương trông thấy gươm ấy lại lâm bịnh. Tô Ðắc Kỷ là con gái của Tô Hộ, thì sao lại là yêu quái được. Chắc đạo sĩ đã gạt ta dùng tà thuật để hại người yêu của ta.
Nghĩ như vậy, Trụ Vương thuật chuyện Vân Trung Tử đến tặng gươm thiêng cho Ðắc Kỷ nghe. Ðắc Kỷ vừa khóc vừa nói:
– Bệ hạ đã nghe lầm loài quỉ mị, dùng tà thuật gây rối cung vi, nếu bệ hạ không đốt cây gươm ấy thì thần thiếp chết mất.
Trụ Vương liền truyền nội thị đem gươm phép đốt tức khắc.
(Cơ nghiệp Thành Thang đã đến lúc suy đồi, nên khiến Vân Trung Tử không dùng gươm thiệt. Nếu Vân Trung Tử dùng gươm thiệt thì hồ ly tinh trông thấy đã chết ngay, còn đâu phá rối Trụ Vương mất nước?)
Ðến khi sức khỏe Ðắc Kỷ đã bình phục. Trụ Vương trở lại ăn chơi như cũ.
Bấy giờ Vân Trung Tử chưa về núi, còn ở chốn Triều Ca, thấy yêu khí bỗng nhiên từ trong cung xông lên nữa, lấy làm lạ đánh tay tính quẻ một hồi rồi gật đầu thầm nhủ:
– Ta muốn đem gươm báu trừ yêu khí, giúp cơ nghiệp Thành Thang một thời gian nữa nào ngờ số trời đã định, khó nổi đổi dời, nên khiến gươm tùng bị đốt. Như vậy nhà Thương hết vận nhà Châu ra đời, thần tiên sẽ bị nạn. Ôi đã mất công xuống trần một phen lại không làm nên việc. Tiện đây ta cũng nên viết ít chữ để lại cho người đời sau thấy.
Nghĩ rồi lấy viết đề lên bức tường đài Tư Thiên hai mươi bốn chữ như vầy:
“Yêu phong uế loạn cung đình. Thánh đức bá vương Tây thổ. Yết trí huyết nhiễm Triều Ca. Mậu ngủ trung giáp tý “
Nghĩa là: “Khí yêu quấy rối cung càn. Thánh đức bủa giăng hướng dậu. Muốn hay máu nhuộm Triều Ca. Giáp tý trong năm Mậu ngũ “.
Ðề thơ xong, Vân Trung Tử lui về núi. Thiên hạ thấy đạo sĩ đề thơ xúm lại xem, nhưng không hiểu ý.
Nhiều người tự cho mình là hay chữ, vây quanh đông nức, xem mãi vẫn không tìm ra được ý thơ.
Bấy giờ có quan Thái Sư coi việc thiên văn là Ðổ Nguyên Tiến ở triều về, thấy dân chúng xúm lại bên vách Ðài Tư Thiên liền hỏi:
– Chuyện gì dó vậy?
Quân canh bẩm:
– Ông đạo sĩ đề thơ trên vách, nên dân chúng xúm nhau xem.
Ðổ Thái Sư ngồi trên ngựa thấy hai mươi bốn chữ, ý rất xa xôi xem qua khó hiểu, liền truyền quân đem nước rửa đi, đoạn về dinh ngẫm nghĩ mãi mà vẫn không tìm ra đưọc dụng ý.
Qua mấy ngày chiêm nghiệm, Ðổ Nguyên Tiến nghĩ thầm:
– Ðây chắc là đạo sĩ dâng gươm đã đề như vậy. Theo ý đạo sĩ thì trong cung yêu khí xuất hiện. Còn ta xem thiên văn lại thấy hung tinh ứng ở cung Càn, ắt việc chẳng lành.
Nay bệ hạ đam mê tửu sắc, bỏ phế công việc trong triều, sớm tối thể nào cũng xảy ra đại họa. Ta làm tôi hưởng lộc nước đã hai triều, lẽ nào trong lúc lâm nguy khoanh tay ngồi ngó, không một lời can gián sao? Ta xem văn võ trong triều ai nấy đều lo sợ, buồn bực vô cùng, sẳn dịp này ta viết một tờ sớ khuyên vua, may ra giúp ích được gì chăng?
Nghĩ như vậy, Ðổ Nguyên Tiến nội đêm ấy viết sớ cho xong.
Sáng hôm sau, Ðổ Nguyên Tiến đem vào đưa cho Thừa Tướng Thương Dung, và nói:
– Tôi xem thiên văn thấy hung tinh xâm phạm cung Càn, còn bệ hạ vui say tửu sắc, bỏ bê việc triều chính, họa đến chẳng xa. Tôi làm sớ này dâng lên bệ hạ, xin Thừa Tướng chuyển dùm.
Thương Dung nói:
– Thái Sư đã dâng sớ lẽ nào tôi không chuyển đạt, ngặt vì mấy hôm nay bệ hạ không lâm triều, các quan không ai được thấy mặt, chỉ có cách là tôi phải mạo hiểm vào cung cấm mà dâng mới xong.
Ðổ Nguyên Tiến nói:
– Ðó là bổn phận của Thừa Tướng, làm sao cho Thiên tử hối cải, chúng ta là tôi thần, dẫu có bị sấm sét, búa rìu chút ít mà xã tắc được yên thì cũng cam.
Thương Dung vội từ tạ Nguyên Tiến đi thẳng vào cung cấm. Qua khỏi chín căn đền lớn, đi ngang qua đền Long Ðức, đến đền Hiển Thánh, đến Tỉ Thiện rồi đến Phấn Cung lầu.
Thương Dung ra mắt quan Phụng Ngự, nói:
– Tôi có việc cần xin vào bái yết hoàng thượng.
Quan Phụng Ngự nói:
– Thọ Tiên là cung cấm, chổ Hoàng thượng an nghỉ, các quan ngoài không vào được đâu.
Thừa Tướng Thương Dung nói:
– Ta làm Thừa Tướng há chẳng hiểu luật triều đình sao? Chẳng qua là Thiên tử không lâm triều, ta có việc cần nên phải đem thân đến đây. Ngươi mau vào tâu với Thiên tử có Thừa Tướng Thương Dung đang đứng chầu ngoài cửa.
Quan Phụng Ngự không dám cãi lời, vội vào tâu.
Trụ Vương phán:
– Thừa Tướng Thương Dung có việc gì cần thiết phải vào nội cung chầu Trẫm kìa? Tuy Thương Dung là tôi bên ngoài, nhưng phò tá nghà Thương đã ba trào, lại già cả, cho vào chầu cũng được.
Quan Phụng Ngự liền trở ra truyền đòi Thừa Tướng vào.
Thương Dung vào quỳ trước long sàng.
Trụ Vương hỏi:
– Thừa Tướng có việc gì khẩn cấp mà phải vào cung cấm chầu Trẫm?
Thương Dung tâu:
– Có Thái Sư Ðổ Nguyên Tiến xem thiên văn thấy yêu khí ẩn trong cung, tai họa tới không lâu. Bởi vậy có làm sớ nhờ tôi dâng đến bệ hạ. Ðổ Nguyên Tiến là tôi già, tay chân của bệ hạ không nỡ ngồi nhìn cơ nghiệp điêu tàn, xin bệ hạ xét lại, chăm lo mối nước để trăm quan được vui vẻ, dân chúng nhớ đức phụng thờ.
Nói rồi hai tay dâng sớ lên.
Trụ Vương giở ra xem, trong sớ viết đại lược như sau:
“Tôi là Ðổ Nguyên Tiến, coi đài thiên văn, vì nhiệm vụ cúi trình qua Thiên tử mấy lời tâm huyết. Tôi nghe nói: nước nhà thịnh thì có điềm lành, nước nhà lâm nguy thì sanh loài yêu nghiệt. Tôi xem đài thiên văn thấy điều bất lợi, khí yêu quyện nơi đền vua, hơi ngút nơi cung cấm. Bởi bệ hạ đốt mất gươm thiêng, nên khí yêu tái hiện nơi hoàng cung, nếu khí ấy lên đến Ðẩu Ngưu thì tai ương rơi vào xã tắc.
Thần trộm nghĩ: Từ ngày Tô Hộ dâng con đến nay, ngai vàng bụi đóng, mối nước buông lòng, sân chầu cỏ mọc xanh um, trước thềm rêu phong màu lục. Trăm quan hết sức mong chầu chực, việc nước không kẻ ngó ngàng. Tôi không thấy mặt rồng, chúa vẫn vui đùa tửu sắc, khác nào mây che mặt nguyệt, khói tỏa cung thềm, đàn sáo quen tai, vua tôi lạ mắt. Biết chừng nào chầu chực như xưa, thái bình như cũ.
Nay tôi chẳng từ rìu búa, không ngại dữ lành, lòng lo cho nước non, quên mình mang tội, nếu bệ hạ nghe tiếng phải, thấy điều ngay thì trăm họ rất mang ơn “.
Vua Trụ xem xong cho lời Nguyên Tiến là phải, song nhớ lại chuyện đạo sĩ Vân Trung Tử tặng gươm trừ yêu, suýt hại mạng mỹ nhân, thì nổi giận, nói:
– Sớ này cũng nói đến chuyện yêu mị chẳng khác tên đạo sĩ trước kia. Thật là chuyện rắc rối.
Liền quay qua hỏi Ðắc Kỷ:
– Trong sớ, Ðổ Nguyên Tiến cũng nói yêu mị trong cung là tại sao vậy?
Ðắc Kỷ quỳ tâu:
– Ngày trước,Vân Trung Tử là một gã yêu đạo bày chuyện dối vua, khiến muôn dân nghe việc ấy mà loạn động, tư tuởng không an. Nay Ðổ Nguyên Tiến làm chức Thái Sư tại triều mà cũng cùng một hành động dối vua như tên yêu đạo đó nữa thì dân chúng sẽ đảo huyền, lòng người xao loạn. Yêu mị ở Triều Ca chính là bè lũ mị chúa ấy, xin bệ hạ truyền chém hết những ai có ý mê hoặc như vậy mới giữ gìn xã tắc được.
Trụ Vương nghe Ðắc Kỷ nói, mặt đỏ bừng, quay lại nói với Thừa Tướng Thương Dung:
– Tô mỹ nhân luận rất phải. Yêu mị đó chính là bọn theo phe yêu đạo, mê hoặc lòng dân, gây mầm phản loạn. Ðổ Nguyên Tiến tuy là tôi già song tội không thể dung tha.
Liền truyền lệnh chém Ðổ Nguyên Tiến bêu đầu để răn chúng.
– Ðổ Nguyên Tiến là tôi ba đời, tuổi cao tác lớn, lâu nay trải mật, gìn giữ lòng son, khuông phò xã tắc, sớm lo trả ơn vua, tối lo đền xã tắc. Việc bất đắt dĩ nên phải nói, bệ hạ nỡ giết đi sao đành? Chỉ vì lời can gián của Thái Sư mà bệ hạ đem giết. Thái Sư dẫu chết cũng được tiếng trung thần, song tôi e bệ hạ không khỏi mang tiếng gièm pha, trăm quan bất bình nổi loạn. Xin bệ hạ nghĩ lại tha tội cho Thái Sư kẻo oan.
Trụ Vương nói:
– Thừa Tướng không hiểu việc này. Bởi tên yêu đạo mị dân, khi vua, buông lời huyền hoặc Thái Sư lại cũng một phe với nó, làm cho lòng dân đảo huyền, nếu không chém Thái Sư Ðổ Nguyên Tiến thì không thể trấn an thiên hạ được.
Thương Dung quỳ tâu mãi, nhưng Trụ Vương nhất định không nghe, hối thúc quan thái giám đuổi Thương Dung ra ngoài và truyền chỉ chém Ðổ Nguyên Tiến tức khắc.
Thương Dung nhất định không chịu ra về, Trụ Vương phải sai hai quan thái giám khiêng Thương Dung bỏ ra ngoài cửa cung rồi đóng cửa lại.
Thương Dung bất đắc dĩ phải dứng dậy lễnh mễnh trở ra, về đến nhà ngự thư thấy Ðổ Nguyên Tiến râu tóc bạc phơ, đôi mắt chứa chan hy vọng, đang đợi Thương Dung
Thương Dung nhìn mặt Ðổ Nguyên Tiến chua xót vô cùng.
Thì ra Ðổ Nguyên Tiến bị vua truyền chém đầu răn chúng mà Nguyên Tiến vẫn chưa biết, còn hy vọng ở lời sớ của mình có thể sửa đổi được lòng vua.
Ðổ Nguyên Tiến thấy Thương Dung liền hỏi lớn:
– Sao? Thừa Tướng đã dâng sớ của tôi lên Thiên tử rồi chứ?
Thương Dung buồn bã nói:
– Bệ hạ xem sớ rồi, nhưng….
Ðổ Nguyên Tiến còn đang ngơ ngác thì đàng sau một tốp võ sĩ và một quan thái giám bước đến đọc tờ chiếu chỉ của Trụ Vương:
“Ðổ Nguyên Tiến khi quân dối vua, lừa gạt dân chúng, tội đáng chém đầu, nay xử theo phép nước “.
Quan thái giám đọc chiếu xong, võ sĩ áp lại trói Ðổ Nguyên Tiến dẫn ra pháp tràng.
Nhưng mới dẫn đến cầu Cửu Long xảy gặp một viên quan Ðại Phu mặc áo rộng đỏ, trông thấy cản lại hỏi:
– Ðổ Thái Sư phạm tội gì mà bệ hạ truyền chém?
Ðổ Nguyên Tiến thấy quan Ðại Phu ấy là Mai Bá, một kẻ trung thần xưa nay có tiếng, liền chắc lưỡi than:
– Thiên tử ham mê tửu sắc, bỏ việc triều chánh, tôi làm sớ khuyên can Thiên tử lại cho tôi là đồng đảng với đạo sĩ hôm nọ, tìm lời ủy mị để dụ lòng dân làm loạn, nên truyền chém đầu tôi để răn chúng. Vua đã bảo chết, đạo làm tôi đâu dám trái, chỉ thương hại cơ nghiệp Thành Thang xây dựng bao nhiêu đời, nay vì sắc đẹp mà tiêu theo mây khói. Ôi, chắc quan Ðại Phu cũng thấy như tôi, đời người chỉ là tai ương thảm họa, công danh chỉ là mây bay, đời đã vậy còn luyến tiếc gì sự sống nữa.
Mai Bá xua tay bảo đao phủ thủ hãy khoan hành quyết Nguyên Tiến, để mình đến trước mặt vua minh oan đã.
Dứt lời mai bá hối hả chạy vào đền, bỗng gặp Thừa Tướng Thương Dung mặt buồn dàu dàu, đang đứng nhìn sững về phía pháp trường, Mai Bá hỏi:
– Thừa Tướng ơi, Ðổ Thái Sư bị tội gì mà bệ hạ đem giết?
Thương Dung nói:
– Thái Sư dâng sớ can vua, bệ hạ nghe lời Tô mỹ nhân bắt tội Thái Sư. Tôi hết lời can gián, nhưng bệ hạ không nghe, biết làm sao?
Mai Bá nghe nói nổi xung:
– Thừa Tướng nói sao lạ vậy? Bổn phận ông coi về chuông vạc, sửa chữa âm dương, thấy nịnh thì trừ, gặp gian thì giết, khen kẻ giỏi, tiến người hiền. Vua phải thì làm thinh, vua trái thì can gián. Nay Thiên tử nghe lời nữ sắc, giết hại tôi hiền, Thừa Tướng không dám mở lời cản ngăn, ấy là tham sống sợ chết, lánh tội tiếc thân, như vậy đâu phải bổn phận một vị Thừa Tướng?
Thương Dung buồn bã nói:
– Quan Ðại Phu chớ trách tôi như vậy. Bệ hạ không nghe thì còn biết làm sao?
Mai Bá quay lại nạt bọn đao phủ thủ:
– Hãy khoan khai đao, đợi ta và Thừa Tướng vào cung xin tội cho Thái Sư đã.
Nói rồi nắm tay Thương Dung dắt đến cung Thọ Tiên, vào thẳng Phấn lầu, quỳ mọp dưới đất.
Quan thái giám trông thấy vào tâu:
– Có quan Thừa Tướng và quan Ðại Phu Mai Bá xin vào yết kiến.
Trụ Vương nổi giận nói:
– Như quan Thừa Tướng già nua, đã ba đời phò chúa thì vào được còn Mai Bá sao dám đương nhiên vào đây.
Liền dạy cho Thương Dung vào, và đuổi Mai Bá đi. Mai Bá nhất định không chịu, khiến cho thái giám không thể nào đuổi được. Thừa dịp Thương Dung vào chầu, Mai Bá cũng theo quỳ một bên.
Trụ Vương trông thấy hỏi:
– Mai Bá, ta không truyền đòi ngươi vào, sao ngươi vào đây?
Mai Bá tâu:
– Lâm triều là nhiệm vụ của bệ hạ, chầu chực để nghe dạy việc là phận làm tôi.
Trụ Vương mắng:
– Ngươi không hiểu luật triều đình, vào cung cấm là phạm tội sao?
Mai Bá tâu:
– Hạ thần đã hiểu, nhưng hạ thần là tôi của bệ hạ. Làm tôi phải đến chầu vua, nếu không biết vua ở đâu mà chầu thì hạ thần còn biết làm tôi với ai? Nếu bệ hạ ngự triều xét việc thì hạ thần không phạm tội vào cung cấm.
Trụ Vương thấy Mai Bá nói dằng dai bực mình hỏi:
– Ngươi vào đây có việc gì?
Mai Bá tâu:
– Xin quỳ nghe lời chỉ giáo của bệ hạ.
Trụ Vương nói:
– Ta không có việc gì cần đến ngươi cả. Hãy ra ngoài mau.
Mai Bá nói:
– Nếu bệ hạ không có việc gì sai khiến thì hạ thần xin hỏi bệ hạ Ðổ Thái Sư phạm tội gì mà bệ hạ đem giết?
Trụ Vương nói:
– Ðổ Nguyên Tiến đồng mưu với yêu đạo, đặt chuyện làm cho lòng dân rối loạn, không phân biệt chánh tà. Một vị đại thần đáng lẽ lo trấn an bá tánh thì lại gây hoang mang trong triều, Trẫm hành hình là đáng lắm, tại sao không tội.
Mai Bá nói lớn:
– Tôi nghe các bậc minh quân ngày xưa trị dân theo khuôn phép, nghe lời phải của trung thần, hằng ngày ngự triều lo việc, quên cả ăn ngủ, như thế mới gây được cơ nghiệp, giữ vững được mối nước. Nay bệ hạ đam mê tửu sắc, sáu tháng không ngự biết gì đến chánh lệnh, thế mà có người dâng sớ can gián lại bị bệ hạ chém đầu răn chúng, thì hạ thần thiết nghĩ không biết bệ hạ răn như thế nào? Vua cũng như một tòa nhà, tôi trung như rường cột. Nếu bệ hạ chặt bỏ hết rường cột thì tòa nhà làm sao đứng vững. Xin bệ hạ xét lại, tha tội cho Ðổ Thái Sư để khỏi làm phật ý trăm quan, và thiên hạ trông thấy cảm đức.
Vua Trụ bị Mai Bá nói một hồi bực mình hét:
– Nghịch thần! Ðã trái lệnh vào cung còn lắm miệng, già mồm. Tội ngươi thông đồng với Nguyên Tiến đáng xử trãm, song Trẫm nghĩ ngươi là tôi có công, nên truyền cách chức Ðại phu, không dùng ngươi nữa.
Mai Bá ré lên:
– Hôn quân, ngươi nghe lời Ðắc Kỷ bỏ đạo vua tôi. Nay bệ hạ chém đầu Ðổ Nguyên Tiến chẳng khác nào chém đầu tất cả bá tánh nơi Triều Ca này. Tôi bị cách chức không hại gì, công danh như mây khói, tôi không màng, chỉ tiếc cơ nghiệp Thành Thang gây dựng mấy đời vì hôn quân hám sắc mà đổ nát. Bởi Thái Sư Văn trọng mắc dẹp loạn Bắc phương nên hôn quân mới vứt bỏ lề luật, u ám như vậy. Mai Bá này chết xuống suối vàng vẫn còn xấu hổ không dám nhìn thấy mặt tiên quân.
Trụ Vương bị Mai Bá mắng giận lắm, truyền võ sĩ bắt Mai Bá đem ra pháp trường lấy dùi đồng đập cho nát đầu để làm gương.
Ðắc Kỷ quỳ tâu:
– Xin bệ hạ tạm hoãn lại đạ.
Trụ Vương hỏi:
– Loạn thần mắng vua như thế, mỹ nhân còn can gián làm gì?
Ðắc Kỷ tâu:
– Làm tôi mà đứng trước đền trợn mắt, nhíu mày, dùng lời lẽ sỉ mắng vua như vậy thì dù có đập nát đầu cũng chưa đền tội được. Xin bệ hạ truyền cầm tù Mai Bá một đôi ngày để thần thiếp chế ra một dụng cụ hành hình, làm cho những kẻ nghịch thần trông thấy khiếp vía thì sau này mới trấn áp được những kẻ ngông cuồng như Mai Bá.
Vua Trụ hỏi:
– Mỹ nhân định chế ra dụng cụ gì?
Ðắc Kỷ tâu:
– Vật ấy gọi là Bào Lạc, hình thù như cây cột đồng, bề cao 29 thước, bề tròn 8 thước, có khoét ba cái miệng đựng lửa than. Cột đồng ấy đúc bằng đồng lọc. Lúc muốn hành hình một tội nhân thì quạt lửa cho cột đồng đỏ lên, rồi trói tội nhân lại dí vào đấy, tức thì xương thịt tội nhân cháy thành tro trong nháy mắt. Thần thiềp nghĩ rằng không dùng hình phạt như vậy thì không sao trừ được những kẻ già mồm miệng, những tôi thần phản nghịch mắng vua, không kể pháp luật.
Trụ Vương khen:
– Lối trừng phạt của mỹ nhân quả xứng đáng. Vậy mỹ nhân vẽ kiểu để truyền quân sĩ làm Bào Lạc cho gấp.
Nói rồi truyền dẫn Mai Bá đem nhốt ở thiên lao, chờ ngày hành tội.
Thương Dung thấy Vua Trụ nghe lời Ðắc Kỷ làm Bào Lạc hại tôi trung để ở trước cung Thọ Tiên thì nghĩ thầm:
– Nay nước nhà gần mất, vua nghe lời của yêu mị không kể gì đến tình vua tôi nữa. Ta những tưởng có thể khuyên can để cải hóa Cửu Trùng, ngờ đâu càng ngày vua càng thiếu đức, nếu ta còn góp mặt ở triều đình thì cũng chì làm bù nhìn cho hôn quân, chẳng ích gì cho dân chúng nữa. Chẳng thà lánh mặt đi là hơn.
Nghĩ rồi vào tâu với Vua Trụ:
– Nay thiên hạ thái bình, nước nhà thạnh trị, tôi tuổi tác đã già, lẩm cẩm không giúp ích được việc gì cho bệ hạ nữa, nếu cứ mãi ở địa vị cao sang mà không tròn trách vụ, e mắc tội với triều thần, vậy xin được phép đem nắm xương tàn về thôn dã, cởi áo mão gửi lại, nhường cho kẻ tài ba. Hạ thần làm tôi đã ba trào, tài hèn đức mọn, không bị quở trách cũng là ơn lắm rồi.
Vua Trụ nói:
– Khanh tuy tuổi đã cao, nhưng sức còn mạnh, lẽ nào bỏ Trẫm mà về quê hưởng thú thanh nhàn.
Thương Dung nói:
– Bệ hạ cho thần cáo hưu về xứ, nếu còn sống được ngày nào cũng ước mong được thấy mặt trời Nghiêu, ơn đức ấy còn gì hơn.
Trụ Vương nói:
– Khanh là tôi có công mấy đời với nghiệp đế chưa hề bị lầm lỗi điều gì. Nay ý khanh đã quyết, Trẫm đâu dám làm phật ý.
Liền sai hai vị thái giám dùng lễ vật đưa Thương Dung về quê, truyền quan sở tại phải ân cần thăm viếng Thương Dung luôn để tỏ tình tôi chúa.
Bấy giờ các quan nghe tin Thừa Tướng Thương Dung trả chức về hưu đều mến tiếc.
Có người cho Thương Dung hèn nhát, gặp lúc quốc gia nguy vong không đem thân cứu nước, trốn tránh nhiệm vụ, tìm lẽ sống riêng.
Có kẻ cho hành động Thương Dung là một hành động phản đối Trụ Vương, mong cho Trụ Vương thấy đó mà hồi tỉnh lại. Tuy vậy, không ai dám nói ra.
Hoàng Phi Hổ, Tỉ Can, Vi Tử, Cơ Tử, Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển và các vị thân vương đồng họp nhau làm tiệc nơi Trường Ðình để tiễn hành.
Tỉ can hỏi Thương Dung:
– Hôm nay Thừa Tướng hồi hương, chúng tôi ai cũng bùi ngùi cảm mến. Ðã ba trào vua, Thừa Tướng là người đứng đầu trong nước, giúp chúa trị dân, nay nỡ nào đành bỏ cơ nghiệp Thành Thang, bỏ cả bạn hữu đồng triều, lánh mặt về quê hưởng riêng một thú?
Thương Dung rươm rướm nước mắt nói:
– Xin các vị vương thân chớ chê trách. Tôi dẫu phải nghiền xương đền nợ nước cũng không dám từ nan. Ngặt nay chúa thượng nghe lời Ðắc Kỷ chế hình Bào Lạc hại trung thần. Một hình phạt rất dã man tàn nhẫn, tôi không thể can gián nổi. Nghĩ mình tài hèn trí mọn, không xứng ngồi ghế Thừa Tướng trong lúc này, nên cởi áo từ quan ước mong có một kẻ nào đủ tài đức, cứu vãn được cảnh tai ương này, lên thế tôi cầm quyền chính, giác ngộ thánh hoàng, thì cơ nghiệp Thành Thang mới có cơ bền vững, bằng không nước nhà ly loạn không lâu. Tôi từ chức là vì lẽ đó, chớ đâu dám trốn tránh nhiệm vụ, nuôi dưỡng tấm thân yếu hèn này làm gì. Hôm nay các ngài làm tiệc tiễn hành, nhưng chẳng may nước nhà vẫn không thoát khỏi cơn khói lửa thì những ly rượu này vẫn là những ly rượu hẹn ngày tái ngộ trong phút lâm chung, xin các ngài hiểu lòng tôi như vậy.
Nói rồi tay bưng rượu, miệng ngâm bài thơ:
Cảm nghĩa đưa nhau rượu một chung
Trrường đình giả bạn tủi khôn cùng
Nghoảnh đầu trông lại thành hai kiếp
Về ruộng cầu mong vững chính trùng
Nhật đỏ không tiêu danh Hạ, Kiệt
Lòng son khó nhuộm máu Long, Phùng
Tỏ lời lệ nhỏ hòa chun rượu
Mong thuở về trào viếng bạn trung
Ai nấy nghe mấy vần thơ của Thương Dung cũng rơi lệ.
Thương Dung lên ngựa, các quan đưa đón hơn mười dậm mới trở về.
Trong lúc đó Vua Trụ vẫn chìm ngập trong tửu sắc, khồng hề nghĩ đến việc nước nhà.
Cách ít hôm, thợ làm Bào Lạc đã xong, Vua Trụ mừng lắm, hỏi Ðắc Kỷ:
– Bào Lạc đã làm rồi, mỹ nhân định liệu thế nào?
Ðắc Kỷ truyền đem Bào Lạc đến xem.
Quân sĩ tuân lệnh đẩy Bào Lạc đến trước cửa cung.
Trụ Vương và Ðắc Kỷ bước ra xem thấy một cột đồng cao lớn, dưới có bánh xe, đẩy đi rất dễ.
Ðắc Kỷ soát lại một hồi rồi khen:
– Thợ làm rất đúng cách. Trụ đồng này nếu đốt lửa thì sức nóng phi thường, không tưởng tượng nổi.
Trụ Vương nói:
– Ðể ngày mai Trẫm đem ra thí nghiệm đốt Mai Bá tại triều cho quần thần thấy kinh hoàng vỡ mật.
Ðắc Kỷ nói:
– Bệ hạ đủ can đảm làm như vậy thì bọn nghịch thần mới khiếp uy.
Trụ Vương nói:
– Mỹ nhân chế ra được báu vật trị đời, công của mỹ nhân rất lớn.
Sáng hôm sau, tuy trong mình mỏi như giần, Trụ Vương vẫn gượng dậy sớm ra trước triều, truyền đánh ba hồi trống triệu tập quần thần lại.
Triều thần đã hơn nửa năm không thấy mặt vua, nay được thiết triều ai nấy mừng rỡ, vội vã ứng hầu đủ mặt.
Sau khi triều bái xong. Vua Trụ không xem sớ, cũng không xét việc gì khác, chỉ truyền quân đẩy Bào Lạc ra trước sân rồng.
Hoàng Phi Hổ thấy trụ đồng cao chất ngất, không hiểu là vật gì, để dùng làm gì. Còn các quan hình như cũng không ai hiễu, đưa mắt nhìn nhau không dám nói gì.
Vua Trụ truyền lệnh dẫn Mai Bá ra, đồng thời đốt từng lửa, quạt cho ống đồng thật đỏ, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, trông thật ghê hồn.
Quân vào ngục dẫn Mai Bá ra đến ngọ môn.
Các quan thấy Mai Bá đầu bù tóc rối, không đội mảo, không mặc áo, mình mẩy dơ bẩn vì đã bị giam vào ngục hơn một tuần rồi.
Mai Bá đến trước sân rồng, quỳ nói:
– Tôi là Mai Bá cúi đầu ra mắt bệ hạ.
Vua Trụ chỉ Bào Lạc, gọi Mai Bá nói:
– Thằng khốn nạn! Ngươi biết vật gì đó không?
Mai Bá nhìn không biết vật gì kỳ lạ, liền tâu:
– Hạ thần không hiểu vật đó để làm gì cả.
Trụ Vương nói:
– Bởi ngươi già hàm, vào cung lớn tiếng chửi vua, nên Trẫm chế ra vật ấy để đốt ngươi cho tan xương nát thịt, làm gương cho những kẻ bất trung, phản nghịch đó.
Mai Bá nghe nói nổi giận, mắng lớn:
– Hôn quân vô đạo! Ta làm quan Ðại Phu đã ba trào, công nghiệp đến bực nào mà phải chịu hành hình như vậy? Ta coi cái chết như lông hồng, chỉ tiếc cơ nghiệp Thành Thang một phút bị đứa hôn quân làm đổ nát. Ta chết không nỡ nhìn thấy các tiên vương dưới suối vàng.
Vua Trụ giận dữ, truyền quân dùng lòi tói cột hết tay chân Mai Bá dí vào Bào Lạc. Tội nghiệp! Mai Bá chỉ kịp ré lên một tiếng, xương thịt cháy khét lẹt, phút chốc thành tro. Một tấm lòng trung, một thân đầy nghĩa khí, chỉ một phút chốc không còn gì hết.
Người sau xem chuyện này có làm thơ than:
Xương thịt tuy là hóa bụi tro
Lòng son vì nước giữ bo bo
Sống vì nghĩa chúa lo ngay thẳng
Chết giữ danh thơm chẳng đắn đo
Lửa đốt hồn linh chầu tiên đế
Tiếng khen sử sách vẫn không mờ
Hỡi ai đầu bẹo trên cờ trắng
Có nhớ lời trung nước dặn dò
Ðốt Mai Bá trước sân chầu, Trụ Vương cố ý làm cho triều thần khủng khiếp, không dám can gián vua nữa. Nhưng sự thực, trước mặt Trụ Vương ai trông thấy cũng chán nãn không muốn can gián làm gì. Người nào mặt cũng lầm lầm lì lì không nói.
Họ không sợ chết, không dám can vua, nhưng vì họ thấy can cũng vô ích, thà từ quan lui về đồng ruộng còn hơn. Do đó chẳng ai nói một lời, cứ đưa mắt nhìn nhau thôi.
Vua Trụ không hề hiểu tâm trạng của triều thần lúc ấy, tưởng các quan ai cũng sợ cách trừng phạt của mình, nên trong lòng lấy làm đắc ý.
Vua truyền bãi chầu về cung, các quan lặng lẽ lui gót, chỉ còn lại các vì Vương nghẹn ngào trong đau đớn.
Tỷ Can nói với Hoàng Phi Hổ:
– Trong lúc Bắc phiên nổi loạn, Thái Sư Văn Trọng bận đi dẹp giặc xa, không ngờ ở nhà thiên tử đắm say tửu sắc nghe lời Ðắc Kỷ chế hình Bào Lạc giết tôi trung. Nếu tiếng đồn đến tai chư hầu chẳng biết thiên hạ sẽ đảo huyền đến bực nào. Chúng ta hưởng lộc triều đình đã mấy trào, chẳng lẽ khoanh tay ngồi ngó tai ương thân họa sắp đến?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Bệ hạ đốt Mai Bá không phải chỉ đốt một tôi trung mà đốt cả cơ nghiệp Thành Thang đấy. Lời xưa có nói: Vua bất minh tôi ắt loạn. Mối nước không thể nào gìn giữ được nữa. Chúng ta ngồi đây cũng không biết chết sống ngày nào, đừng nói là Mai Bá.
Các vị thân vương đều nhìn nhau thở dài, nhưng không ai có kế sách gì cả, đều gạt lệ trở về tư dinh.
Còn Vua Trụ, sau khi đốt Mai Bá xong, hăm hở trở về cung Thọ Tiên, có Ðắc Kỷ bước ra nghênh tiếp.
– Mỹ nhân bày ra Bào Lạc thật hay lắm. Bữa nay Trẫm đem Mai Bá ra đốt giữa sân triều, các quan đều kinh tâm táng đỡm, không ai dám thò đầu ra nói lời nào. Thật Bào Lạc là vật báu trị dân, yên nhà lợi nước. Từ rày sắp tới Trẫm không còn kẻ hỗn láo, buông lời nhục mạ Trẫm nữa.
Ðắc Kỷ nói:
– Những kẻ khi quân nếu không dùng đến cực hình ghê gớm thì trị sao nổi. Thần thiếp còn nhiều cách khác chưa dùng đến.
– Mỹ nhân có cách gì hay cứ cho Trẫm biết, đừng ngại gì cả.
– Trẫm được mỹ nhân bên cạnh thì lo gì trị nước không xong.
Khen rồi tuyền nội thị bày yến tiệc đãi Ðắc Kỷ, tán thưởng tài năng của mỹ nhân.
Bấy giờ, tiếng tơ vọng trúc vang rền, bàn tiệc không thiếu gì món ngon vật lạ, Vua Trụ vừa ăn vừa xem Ðắc Kỷ múa hát, tâm hồn như bay bổng trên chín từng mây, không còn biết gì là khuya sớm nữa. Cho đến lúc trống đã trở canh ba mà tiếng nhạc còn réo rắc vang một góc trời.
Ðêm ấy Khương hoàng hậu không ngủ được, nghe tiếng nhạc vang vầy, liền hỏi mấy cung nữ:
– Trống đã trở canh ba, sao còn tiếng nhạc ở đâu náo nhiệt như thế?
Cung nữ thưa:
– Ðó là tiếng đàn bên cung Thọ Tiên. Chúa thượng cùng Tô mỹ nhân vui chơi đó.
Khương hoàng hậu than:
– Lúc này ta có nghe tin hoàng thượng nghe lời Tô Ðắc Kỷ chế hình Bào Lạc đốt Mai Bá giữa triều. Mai Bá là một tôi trung, phò vua đã ba đời, sao nỡ hành hình thảm thiết như vậy? Thế là hoàng thượng bị con khốn kiếp này khuynh đảo tinh thần, không còn phân định được phải trái nữa. Ta làm hoàng hậu chưởng quản tam cung lục viện lẽ đâu thấy việc trái mắt mà không nói tới.
Nói rồi truyền cung nữ đẩy xe, xách đèn đến cung Thọ Tiên.
Lúc này Trụ Vương đang uống rượu với Ðắc Kỷ, có Huỳnh Môn quan vào tâu:
– Khương hoàng hậu đến trước cửa cung xin vào ra mắt.
Trụ Vương đang say rượu, lại thức khuya, hai con mắt lim dim lè nhè nói với Ðắc Kỷ.
– Có Chánh cung đến, mỹ nhân nên ra thủ lễ rước Chánh cung vào.
Ðắc Kỷ tuân lệnh bước ra trưóc cửa nghiêng mình uốn gối quỳ xuống tiếp đón.
Khương hoàng hậu truyền đỡ Ðắc Kỷ dậy.
Ðắc Kỷ dắt Khương hoàng hậu vào cung, đồng yết kiến Trụ Vương.
Trụ Vương truyền dành chổ cho Khương hoàng hậu ngồi và tiếp tục bày tiệc đãi Khương hoàng hậu.
Khương hoàng hậu ngồi một bên Vua Trụ, trong lúc đó Ðắc Kỷ lễ mễ đứng hầu trông rất phải phép.
Vua Trụ đẹp lòng nói với Khương hoàng hậu:
– Ái hậu sang đây chung vui, Trẫm mừng lắm.
Liền truyền Ðắc Kỷ đờn ca múa hát để cho hoàng hậu xem.
Ðắc Kỷ tuân lệnh vua, vừa múa vừa ca, thân hình yểu điệu, xiêm y lả lướt chẳng khác gì Hằng Nga múa khúc Nghê Thường trên Nguyệt điện, tiếng hát lại thanh tao như tiếng chim đầu Xuân.
Vua Trụ mê ly quên cả trời đất.
Còn Khương hoàng hậu mặt dàu dàu, ngồi nhìn xuống đất, không uống rượu, cũng không thưởng thức nhạc khúc của Ðắc Kỷ đang trình diển trước mắt.
Trụ Vương trông thấy không hài lòng, hỏi:
– Hậu ơi! Ngày tháng như thoi đưa, đời người chẳng khác bóng câu qua cửa sổ, chẳng mấy chốc đã trở về già, không ăn chơi cho thỏa chí bình sanh thì còn gì thú vị nữa. Như giọng ca tiếng hát của Tô mỹ nhân đây, dù Hằng Nga trên cung trăng cũng không sánh kịp, sao Hậu không uống rượu nghe đàn, lại buồn rầu như vậy.
Khương hoàng hậu vội bước xuống quỳ tâu:
– Thần thiếp lòng không vui, dù có tiên xuống phàm múa hát cũng không làm khuây được.
Trụ Vương lè nhè:
– Thì Tô mỹ nương có thua gì tiên nữ chốn bồng lai? Hậu không biết thưởng thức cái hay cái lạ đó?
Khương hoàng hậu nói:
– Ðắc Kỷ múa hát có gì gọi là báu lạ đâu?
Trụ Vương hỏi:
– Như vậy thì thế nào mới gọi là báu lạ?
Khương hoàng hậu nói:
– Thần thiếp nghe nói hễ vua có đạo đức thì khinh của quí mà trọng đức lành, đuổi tôi gian, xa sắc dục. Ðó mới chính là cái báu lạ của nhà vua.
Trụ Vương cười ha hả, nói:
– Trẫm làm vua, giàu sang bốn biển, muốn hưởng thú gì không có, dẫu trong trời đất, báu lạ nào Trẫm lại không có quyền hưởng đến?
Khương hoàng hậu nói:
– Trời chỉ có những báu lạ là mặt nhật, mặt nguyệt và các vì tinh tú. Ðất chỉ có những báu lạ là năm thứ thóc, năm thứ giống trái. Nước chỉ có báu lạ là tôi ngay, tướng giỏi. Nhà chỉ có báu lạ là con cháu thảo hiền. Những báu lạ như vậy bệ hạ không tìm hưởng, lại chọn ca, lựa múa, nghe lời dua nịnh, giết tôi ngay, gần gũi sắc dục, đó không phải là báu lạ mà chính là thứ làm mất nước, xin bệ hạ bỏ đi dừng tiếc. Bớt rượu, xa tửu sắc, chăm lo chính sự, sửa nết răn mình, thì họa may trời xuống phúc, thiên hạ thái bình, bốn biển yên vui.
Vua Trụ đang say nghe những lời nói của Khương Hậu chẳng khác nào như những gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt, cơn giận dữ nổi lên, mắng lớn:
– Ðồ khốn nạn, không biết điều. Trẫm tưởng tình sai mỹ nhân múa hát cho nghe, đã không màng tới còn làm ra mặt dạy đời. Khổ vì nó ở địa vị chánh cung, do tiên quân lựa chọn, nếu không ta sai lấy dùi đồng đập cho nát óc mới hả giận.
Vua Trụ nói lảm nhảm, đôi mắt lim dim, ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.
Ðến canh tư, Trụ Vương mới giật mình tỉnh rượu thấy trong mình không được khoan khoái, nhớ lại những lời của Khương Hoàng Hậu vừa rồi thì lửa giận còn đang trong lòng, liền gọi Ðắc Kỷ bảo:
– Mỹ nhân ơi, Chánh cung vô lễ, lòng Trẫm chưa nguôi, vậy mỹ nhân múa hát một hồi nữa để Trẫm làm khuây.
Ðắc Kỷ quỳ tâu:
– Từ rày sắp lên thần thiếp không dám múa hát nữa.
Trụ Vương hỏi:
– Vì sao mỹ nhân lại nói thế?
Ðắc Kỷ tâu:
– Hoàng Hậu quở trách việc ca hát là hư nhà hại nước, thần thiếp xét lời ấy cũng có lý. Thần thiếp thân phận tôi đòi, vào chầu bệ hạ, được bệ hạ yêu dấu gần gũi một phút không rời. Nếu trái lệnh Hoàng hậu, một là phải bị đuổi ra khỏi cung cấm không còn được thấy mặt bệ hạ nữa, hai là Hoàng Hậu lấy cớ nói thần thiếp quyến rũ bệ hạ bỏ bê việc nước, kết tội thần thiếp thì thần thiếp lấy gì mà che chở nổi?
Ðắc Kỷ nói dứt lời, đôi dòng nước mắt chảy ròng ròng xuống má, mặt mày ủ ê, trông rất khổ nảo.
Vua Trụ thấy thế càng giận Khương Hoàng Hậu hơn, nói:
– Mỹ nhân cứ ca hát cho Trẫm giải khuây. Con khốn nạn ấy chẳng đếm xỉa tới làm gì. Ðể mai Trẫm sẽ phế nó xuống, lập mỹ nhân lên làm Hoàng Hậu. Trẫm uy quyền tuyệt đỉnh, muốn làm gì chẳng được?
Ðắc Kỷ giả cách hoan hỉ, múa hát tưng bừng, suốt đêm không nghỉ.
Ngày kia nhằm ngày mồng một, các cung phi đều phải vào chầu Hoàng Hậu theo lệ thường.
Hoàng Quý Phi và Dương Quý Phi đến trước.
Hoàng Hậu và hai Quý Phi đang ngồi tâm sự thì có cung nga vào báo:
– Có Tô Ðắc Kỷ đứng hầu ngoài cửa.
Khương Hoàng Hậu cho vào.
Ðắc Kỷ khép nép vào đến nơi, thấy Khương Hoàng Hậu ngồi giữa, Hoàng Quý Phi và Dương Quý Phi ngồi hai bên vội sụp lạy ra mắt.
Khương Hoàng Hậu truyền cung phi đỡ dậy, Ðắc Kỷ đứng hầu một bên trông rất là phải lễ.
Dương Quý Phi đến trước mặt hỏi:
– Tô mỹ nhân là người này có phải không?
Khương Hoàng Hậu đáp:
– Phải. Nàng này chính là Tô Ðắc Kỷ, con gái Tô Hầu ở Ký Châu.
Dứt lời, Khương Hoàng Hậu quay trở lại quở Ðắc Kỷ:
– Thiên tử ở cung Thọ Tiên, ngày đêm đắm mê tửu sắc, phế việc triều đình, sao ngươi không có một lời can gián, cứ ngày đêm đờn ca múa hát, làm cho rối lòng thiên tử, đến nỗi thiên tử không tưởng đến việc phải quấy, nghe lời nịnh, giết tôi ngay, bỏ phép Thành Thang, làm suy mối nước. Những việc ấy là tại ngươi cả. Nếu ngươi không chừa thói cũ, chẳng tuân lệnh trên. Ta sẽ lấy phép công mà trị đó.
Ðắc Kỷ giận đỏ mặt, nhưng buộc thế phải làm thinh, cúi đầu không nói nửa lời.
Tan buổi chầu, Ðắc Kỷ trở về ngồi một mình than thở.
Người cung nga hầu cận là Cổn Quyên trông thấy thế, bước đến hỏi:
– Nương Nương vào chầu Hoàng Hậu có việc gì không vui?
Ðắc Kỷ nghiến răng:
– Ta là Hậu Phi, được bệ hạ yêu dấu, mà Khương Hoàng Hậu ỷ quyền Chánh Cung mắng nhiếc ta trước mặt hai vị Quý Phi, xấu hổ không thể tả. Oán này biết bao giờ mới trả được?
Cổn Quyên nói:
– Bệ hạ đã hứa cho Nương Nương lên làm Hoàng Hậu thì lo gì oán ấy không trả xong?
Ðắc Kỷ nói:
– Tuy bệ hạ yêu ta mà hứa như vậy, chớ phế một Hoàng Hậu không phải là dễ. Triều thần sẽ ngăn cản, thiên hạ sẽ dèm siểm. Hơn nữa, Chánh Hậu còn sờ sờ ra đó. Bệ hạ làm sao xô xuống được mà đưa ta lên chiếc ghế uy quyền ấy? Muốn được việc phải tìm cách giết Chánh Cung đi thì mới xong. Ngươi có mưu nào hay không?
Cổn Quyên nói:
– Tôi là phận đàn bà con gái, tính kế sao được? Nếu Nương Nương muốn mưu việc lớn thì nên cậy một vị đại thần bày mưu mới tiện.
Ðắc Kỷ hỏi:
– Vị đại thần nào dám vào đây? Vả lại, ta xem phần các quan trong triều đều chống đối bệ hạ, nếu ta mời tới e lậu tiếng chăng.
Cổn Quyên nói:
– Tôi có biết quan cận thần Bí Trọng được vua yêu dùng và cũng rất ham tiền của địa vị. ngày mai nhân lúc bệ hạ đi dạo vườn, Nương Nương cho mời Bí Trọng đến đây tôi sẽ cậy Bí Trọng bày một kế mà hại Hoàng Hậu. Xong việc, Nương Nương nhớ bảo tâu với Thánh Hoàng cho Bí Trọng thăng chức thì thế nào Bí Trọng cũng thỏa lòng.
Ðắc Kỷ nói:
– Việc này ta cậy vào ngươi. Nhớ đừng để lộ chuyện nguy hiểm đấy.
Cổn Quyên nửa nói đùa nửa nói thật:
– Ðịa vị của Nương Nương hiện giờ muốn gì chẳng được, huống hồ hại một Hoàng Hậu. Xin cứ để tôi lo cho.
Ðắc Kỷ nói:
– Ta chỉ sợ Bí Trọng không chịu giúp.
Cổn Quyên nói:
– Danh giá là miếng mồi sai khiến muôn người. Chỉ sợ Nương Nương không cần đến thôi, chứ nếu sai khiến thì ai chẳng tuân.
Hôm sau trời nóng, Ðắc Kỷ rủ Trụ Vương ra dạo ngoài vườn hoa. Cổn Quyên thừa dịp sai nữ tỳ mời Bí Trọng đến cung, lén đưa cho Bí Trọng một bức mật thư và nói:
– Thư này do Tô Nương Nương gởi. Quan Ðại Phu phải coi một mình đừng tiết lộ cho ai biết. Nếu việc thành công thì tước quyền không nhỏ. Phải mau mau tính kế, đừng để trễ.
Bí Trọng nhận mật thư, trở về dinh mở ra xem, thấy Ðắc Kỷ nhờ tìm kế giết Khương Hoàng Hậu.
Bí Trọng nghĩ thầm:
– Khương Hoàng Hậu là con gái của Khương Hoàn Sở, mà Khương Hoàn Sở đang trấn tại Ðông Lổ, binh rồng tướng mạnh vô địch khắp chư hầu. Ðã vậy, Khương Hoàn Sở có đứa con trai là Khương Văn Hoán tài năng xuất chúng, cầm đầu tướng lãnh dư ngàn người, nếu ta hại không được e chết cả họ. Vả lại Khương Hoàng Hậu ở với thiên tử đã sanh được hai vị Hoàng Tử, thế lực trong ngoài như vậy thực khó lòng trừ được. Tốt hơn hết ta không nên động đến nguy hiểm.
Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Bí Trọng thấy cũng không xong. Ðắc Kỷ là cục cưng của vua Trụ, nếu không lập kế hại Khương Hoàng Hậu, làm phật lòng Ðắc Kỷ, thì trong lúc vua say rượu, hoặc đang lúc ấp yêu, Ðắc Kỷ tâu ra tâu vào, mạng mình chắc chết….
Tới lui khó nghĩ, ngồi đứng không yên, Bí Trọng tính cả ngày vẫn không tìm ra được mưu kế nào thích đáng. Bỗng có tên gia nhân khổ người vạm vỡ, mình cao một trượng, lưng nách như voi vừa đi tới. người tên Khương Hoàn, trước kia ở tại Ðông Lổ, nghèo khổ được Bí Trọng đem về sai khiến bấy lâu nay.
Vừa thấy Khương Hoàn, Bí Trọng nẫy sanh ra một kế, vội gọi Khương Hoàn đến hỏi:
– Khương Hoàn, ngươi đi đâu vậy?
Khương Hoàn thưa:
– Tôi thấy vắng đại quan nơi thính đường nên đi tìm. Xin đại quan tha lỗi.
Bí Trọng nói:
– Ngươi có lòng với ta như vậy là điều tốt, tội lỗi gì đâu. Ngươi ở với ta được bao nhiêu lâu rồi?
Khương Hoàn nói:
– Ðã năm năm, tôi từ Ðông Lổ sang đây sống nhờ đại quan. Trước kia tôi nghèo khổ quá, ngày nay được no ấm như vầy, tôi tưởng ơn của đại quan không biết ngày nào tôi trả nổi.
Bí Trọng nói:
– Ta nuôi ngươi lâu nay là có ý dùng vào việc lớn. Nay việc lớn đã đến, chẳng biết ngươi có vì ta mà hết lòng không?
Khương Hoàn thưa:
– Tôi mang ơn đại quan, dù tan xương nát thịt tôi vẫn không dám từ nan. Nếu đại quan có việc gì cần đến kẻ ngu muội này thì xin cứ chỉ bảo.
Bí Trọng nói:
– Việc này hệ trọng lắm. Nếu ngươi làm được chẳng những lộc lớn quyền cao mà ngươi có thể tiến thân nữa. Nhưng nếu ngươi để lậu ra cho người ngoài biết được thì chúng ta chết cả lũ.
Khương Hoàn nói:
– Xin đại quan tin vào lòng trung thành của tiểu nhân là đủ.
Bí Trọng liền dặn nhỏ Khương Hoàn hồi lâu rồi trao mật kế. Khương Hoàn tuân lệnh ra đi.
Bí Trọng lại thảo một mật thư, nói rõ kế của mình, lén trao cho Cổn Quyên trình lên cho Ðắc Kỷ biết.
Ðắc Kỷ xem thư mừng lắm, đinh ninh chuyến này nhất định hại Khương Hoàng Hậu như chơi.
Ngày kia nhân lúc Trụ Vương đang vui, Ðắc Kỷ liền tâu:
– Bệ hạ vì quá quyến luyến thần thiếp không ngự triều. Thần thiếp e bỏ lâu ngày các quan sanh dị tâm. Vậy ngày mai bệ hạ nên bỏ chút ít thì giờ ra đàm luận quốc sự.
Trụ Vương khen:
– Mỹ nhân có ý lo đến xã tắc. Ðàn bà như vậy thật là ít có, dẫu những Phi Hậu hiền đức tới đâu cũng không sánh kịp. Thôi để ngày mai Trẫm lâm trào họp bàn với các quan cho mỹ nhân đẹp dạ.
Trụ Vương có ngờ đâu đó là mưu mô của Bí Trọng đã thông đồng với Ðắc Kỷ.
Sáng hôm sau Ðắc Kỷ lại hối thúc Trụ Vương lâm triều.
Trụ Vương truyền nổi trống đền để triệu tập các quan đến hầu cho đủ mặt.
Các quan ai nấy đều lạ lùng, không hiểu tại sao đã mấy tháng trời đắm mê tửu sắc, ở mãi trong cung, bỏ phế triều chính, nay Trụ Vương bỗng nhiên đổi khác.
Mọi người đều sửa soạn triều bái chúc mừng.
Vua Trụ từ trong cung Thọ Tiên ngồi long xa đi ra, hai bên có tả hữu hộ giá. Khi đến Phấn Cung, đèn thắp sáng lòa, mùi hương ngào ngạt. Xẩy có một người cao lớn, ẩn mình trong xó, đầu bịt khăn ngang, tay cầm gươm báu, nhảy ra hét lớn:
– Hôn quân đắm mê tửu sắc, ta vâng lệnh Hoàng Hậu đến giết hôn quân, đem sự nghiệp Thành Thang về cho chúa ta sửa trị.
Nói rồi lướt tới đâm đùa. Các quan bảo giá liền cản lại giật gươm, bắt trói người ấy tức khắc.
Vua Trụ giận lắm, truyền dẫn tên thích khách ra trước triều vấn tội.
Các quan tung hô xong, Trụ Vương gọi Hoàng Phi Hổ và Tỉ Can đến trước đền, nói:
– Hôm nay Trẫm lâm triều có chuyện lạ lùng lắm.
Tỉ Can hỏi:
– Bệ hạ có việc gì vậy?
Trụ Vương nói:
– Lúc ta ra đền, vừa đến Phấn Cung, có một người trong xó tối nhảy ra chém Trẫm. Tuy đã bắt được nó rồi, nhưng việc này rất trọng đại, cần phải tra xét kỹ càng để hiểu rõ ngọn nghành hành động phản loạn ấy.
Hoàng Phi Hổ thất kinh, hỏi các quan:
– Ðêm hôm rồi vị nào tuần đền mà để gian tế lén vào cung được?
Quan Tổng Binh Lê Hùng quỳ thưa:
– Tôi tuần cả đêm không thấy ai hết. Chắc là vào lối canh năm nó trà trộn với quan trào vào lầu Phấn Cung để xuẩn nghịch đấy.
Hoàng Phi Hổ truyền dẫn tên thích khách ra.
Trụ Vương nói:
– Ai muốn thay mặt Trẫm tra xét vụ này?
Bí Trọng liền bước tới quỳ tâu:
– Hạ thần xin lãnh việc này cho.
Ðó chính là âm mưu của Bí Trọng lập ra trước.
Tên thích khách là Khương Hoàn, gia nhân của Bí Trọng sai khiến.
Bí Trọng làm quan gián nghị, lẽ ra không có quyền tham dự vào việc tra xét gian nhân, nhưng vì Bí Trọng sợ để người khác tra xét, đánh đập, Khương Hoàn khai toạc ra thì mang họa.
Trụ Vương nhận lời.
Bí Trọng dẫn Khương Hoàn ra trước Ngọ Môn, không tra hỏi, đánh đập gì hết mà Khương Hoàn vẫn khai đủ điều.
Bí Trọng vội vào trước bệ, quì tâu:
– Hạ thần đã tra hỏi gian nhân xong. Việc rất quan trọng.
Các quan ai nấy đều lắng tai nghe.
Trụ Vương hỏi:
– Ðứa hung phạm nghe lời ai sai khiến mà hành động như vậy?
Bí Trọng gật gù tâu:
– Việc này hạ thần chẳng dám tâu.
Trụ Vương hét:
– Ngươi đã lãnh mệnh tra hỏi gian nhân, sao lại ú ớ như vậy?
Bí Trọng nói:
– Nếu bệ hạ tha tội cho hạ thần, hạ thần mới dám thuật lại lời của gian nhân đã cung khai.
Trụ Vương nói:
– Ngươi cứ khai sự thật, giữa đây có đầy đũ mặt văn võ bá quan xét xử.
Bí Trọng tâu:
– Thích khách họ Khương tên Hoàn là gia tướng của Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở. Nó vâng lệnh Khương Hoàng Hậu làm chuyện thí quân để Khương Hoàng Sở có dịp cướp ngôi. Nay bệ hạ phước lớn tày trời nên gian nhân mới bị bắt.
Trụ Vương nghe tâu vổ án hét như sấm:
– Khương Hậu là người hôn phối của Trẫm mà làm điều phản nghịch như vậy thì còn đạo lý gì nữa. Nếu trong cung đã sinh tệ thì họa tới bên mình. Giặc bên ngoài còn đề phòng được chớ giặc trong thành làm sao giữ được? Trẫm giao việc này cho Tây Cung Hoàng Quí Phi tra hỏi Khương Hậu cho rõ ràng rồi tâu lại cho Trẫm biết.
Dứt lời Trụ Vương đứng dậy về cung tức khắc, không hỏi han gì đến các việc khác đang chờ mệnh vua.
Các quan hôm ấy vào triều bệ kiến đã sắp xếp rất nhiều công việc để tâu trình, nhưng gặp việc bất thường như vậy ai nấy đều bàn tán xôn xao quanh vụ thí quân, và cũng không nói đến việc riêng của mỗi người nữa.
Quan Ðại Phu Dương Nhậm nói với Hoàng Phi Hổ:
– Khương Hoàng Hậu lâu nay có tiếng đoan chính và hiền lành, trị trong cung rất phải phép, chưa chắc đã làm chuyện như vậy. Tôi nghi trong cung có kẻ bày mưu để hại Hoàng Hậu chăng? Nếu chúng ta bỏ về hết, gian nhân có dịp lộng hành thì oan cho Hoàng Hậu lắm. Vậy chúng ta ở lại đây, đợi tin Tây Cung Hoàng Quí Phi tra xét ra sao đã rồi sẽ liệu.
Các quan nghe theo, họp nhau nơi đền Cửu Giao chờ tin tức.
Bây giờ Khương Hậu đang ngồi trong cung, xẩy thấy quan Phụng Ngự cầm chiếu vua đem vào. Khương Hậu vội quỳ nghe đọc chiếu như sau:
“Hoàng Hậu ví thiên tử như đất sánh với trời, làm mẹ chung cả thiên hạ, mà chẳng lo đức chánh cho tròn. Lẽ ra phải coi sóc việc trong cung, giữ gìn giềng mối, để tiếng tốt về sau. Thế mà lại nuôi trai mạnh là Khương Hoàn, khiến núp trong Phấn Cung đón đường giết Trẫm. May mà mạng Trẫm chưa tuyệt nên mới bắt được gian nhân. Sau tra trước đền, gian nhân thú nhận rằng Khương Hậu tư thông với cha là Khương Hoàng Sở toan cướp ngôi vua. Như thế đạo tam cang không tròn. Trẫm đã truyền bắt Khương Hoàng Hậu giải đến Tây Cung, nhờ Thứ Phi tra hỏi. Vậy Thứ Phi cứ chiếu theo công luận chớ nên vị tình.
– Ôi chao! Tại sao có việc lạ lùng? Ta xưa nay ở trong cung lo bề đức hạnh, tránh điều lỗi, sợ tiếng chẳng lành. Chẳng biết thằng giặc nào sanh sự, đổ tiếng xấu cho ta như vậy? Nay thiên tử không xét, lại giải đến Tây Cung, thân ta còn gì nhục nhã hơn. Mất còn không kể, chỉ uổng tiếng làm người không trọn nghĩa nhân.
Hoàng Hậu tuy khóc nức nở, song phải theo quan Phụng Ngự đến Tây Cung.
Hoàng Quí Phi tiếp chỉ, xem xong để trên án.
Khương Hoàng Hậu quì nói:
– Lâu nay tôi sửa trị trong cung việc gì cũng ngay thẳng, lấy nhân đức làm gương. Nay chẳng biết việc dữ do đâu xảy đến, bệ hạ không xét lại nhất quyết đổ lỗi cho tôi. Xin Quí Phi xét lại kẻo oan tình.
Hoàng Quí Phi nói:
– Trong chiếu, thiên tử đề quyết Hoàng Hậu sai Khương Hoàn thí vua, đoạt giang sơn cho Khương Hoàng Sở. Vua lại có ý dứt tình hôn phối, bỏ nghĩa cang thường. Nếu việc này như vậy, tội đáng tru di.
Khương Hoàng Hậu nói:
– Xin Quí Phi xét lại. Cha tôi cầm đầu hai trăm trấn chư hầu nhỏ, thân làm Quốc Trượng, chức đến Tam Công, con gái làm Chánh Cung, cháu ngoại làm Thái Tử, sau bệ hạ muôn tuổi có phải con tôi lên nối ngôi không? Hễ con nối nghiệp thì tôi làm Thái Hậu, cha tôi thêm vinh hiển. Lẽ đâu cha tôi mưu phản để hai trăm chư hầu kéo binh tới vấn tội, để tiếng xấu thiên thu. Tôi dẫu đàn bà cũng không đến đổi ngu muội làm chuyện thí quân vô lý như vậy. Nếu Quí Phi đem lời này nói đến tai thiên tử, may ra thiên tử thấu đáo lý tình, tôi được giải oan, thì ơn của Quí Phi không nhỏ.
Hoàng Quí Phi còn đang băn khoăn thì chiếu đã đến giục.
Hoàng Quí Phi liền lên kiệu đến cung Thọ tiên.
Vua Trụ hỏi:
– Con khốn đó đã chịu tội chưa?
Hoàng Quí Phi tâu:
– Tôi tuân lệnh tra hỏi rất nghiêm, Khương Hoàng Hậu quả là kẻ vô tội. Tôi chắc trong triều có gian tế, hành động như vậy để vu oan giá họa cho Hoàng Hậu đó.
Trụ Vương hỏi:
– Ái khanh lấy bằng chứng gì mà luận như vậy?
Hoàng Quý Phi tâu:
– Tôi xét Khương Hoàng Hậu là người hôn phối của bệ hạ đã lâu ngày, lại sanh được Ðông Cung. Nếu sau bệ hạ chầu trời, tự nhiên Hoàng Hậu sẽ lên ngôi Thái Hậu, ức gì đâu mà lại gây họa dữ? Còn như Ðông bá Hầu thân làm Quốc Trượng trị hai trăm trấn chư hầu, bỏ chức mình lên làm vua, còn Hoàng Hậu bỏ chức mình lên làm Công Chúa? Ðiều ấy dù đứa ngu cũng chưa làm, huống hồ cha con Khương Hoàng Sở là kẻ ngay vua thảo chúa? Xin bệ hạ xét lại lý tình, nghĩ công ơn và đạo đức của Chánh Cung đã mười mấy năm theo hầu bệ hạ mà tha tội cho Chánh Cung thì ơn ấy rất trọng.
Vua Trụ nghe nói ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
– Lời của Quý Phi phân tách rất rành rẽ, tình lý thấu đáo. Ðây chắc Hoàng Hậu bị hàm oan, nhưng rõ nguyên nhân do đâu.
Ðắc Kỷ bước tới, chúm chím cười, Trụ Vương hỏi:
– Mỹ nhân cười gì vậy?
Ðắc Kỷ tâu:
– Hoàng Quý Phi đã bị Chánh Cung dùng tình cảm lung lạc sự thật rồi. Xưa nay kẻ làm dữ bao giờ cũng sắp đặt lý lẽ để chống đối. Chớ căn cứ vào lý lẽ mà tin theo hành động. Lý lẽ chỉ có giá trị đối với người ngay thẳng mà không có nghĩa gì đối với kẽ tham lam. Nay tội ác đã vỡ lở ra rồi, dù là kẽ ba đầu sáu tay cũng không ai chịu mình là tội phạm. Hành động thí quân tang chứng đã rành rành. Khương Hoàn là tay chân của Khương Hoàng Sở, ai cũng biết, thì Hoàng Hậu còn chối vào đâu nữa. Vả lại trong tam cung lục viện, Khương Hoàn không chỉ ai, lại đề quyết Hoàng Hậu thì sao gọi Hoàng Hậu là vô tội được?
Vua Trụ ngồi trầm tư:
– Tình lý thật khó minh.
Ðắc Kỷ nói:
– Trong đời không ai chịu mình là kẻ có tội. Nếu muốn tỏ rõ sự thật bệ hạ chỉ cần đem cực hình ra tra khảo tự nhiên biết hết.
Hoàng Quý Phi nói:
– Tô mỹ nhân nói sai rồi. Hoàng Hậu án với vua là mẹ thiên hạ. Từ Tam Hoàng, Ngũ Ðế đến nay, hễ Chánh Cung có tội hình chỉ được phép lưu đày, hoặc biếm sang lãnh cung, chớ không được tra tấn, chém giết.
Ðắt Kỷ nói:
– Xưa khác, nay khác. Luật hình là để sửa trị muôn người, không vì sang mà không chịu tội, cũng không vì hàn mà phải cực hình. Nếu luật chỉ đặt ra để trừng trị riêng kẻ thiếu uy quyền thì còn gì lẽ công bình? Xin bệ hạ cứ xuống lệnh khoét Hoàng Hậu một con mắt. Con mắt là mộng của trái tim, Hoàng Hậu sợ đau tất phải khai thiệt.
Vua Trụ nói:
– Ta bỏ điều luật tiên quân trừng trị Chánh Cung như vậy, các triều thần dị nghị chăng?
Ðắc Kỷ nói:
– Triều thần sẽ cho bệ hạ là một minh quân, không thiên vị. Dù vợ con có tội vẫn xét trị ngay thẳng.
Vua Trụ khen phải, liền truyền chỉ thi hành.
Hoàng Quý Phi thấy lệnh vua độc ác như vậy chết điếng, đứng nhìn một lúc rồi lên kiệu ra về.
Bấy giờ Khương Hoàng Hậu còn ở tại Tây Cung, đợi lời xin tội của Hoàng Quý Phi.
Hoàng Quý Phi về đến thấy Khương Hậu thì khóc oà, nói:
– Hoàng Nương ơi! Tôi có lòng tâu xin cho Hoàng Nương khỏi tội, bệ hạ sắp nghe theo, nhưng Ðắc Kỹ ghen hờn, thù oán, bày bệ hạ khảo tra, khoét một con mắt của Hoàng Nương để Hoàng Nương nhận tội. Bệ Hạ không tưởng tình chăn gối, đã nghe theo lời con ác phụ đó. Bây giờ biết làm sao? Hay Hoàng Nương chịu tội đỡ để bảo vệ thân xác rồi sau sẽ liệu.
Khương Hoàng Hậu vừa khóc vừa nói:
– Cám ơn em có lòng thương chị, song chị cũng là người có học, lẽ nào tiếc sinh mạng mình mà chịu tiếng nhơ. Chị đã không có hành động giết chồng, phản vua, thì chịu đỡ làm sao được. Nếu vua không thương chị thì thì chị chịu tan xương nát thịt mà thôi. Dầu phải chết để bảo tồn danh tiết chị cũng vui, huống hồ khoét một mắt.
Hoàng Quý Phi nói:
– Tôi xem Ðắc Kỷ tàn nhẫn lắm, thế tất bày nhiều việc ác nữa. Bệ Hạ là đấng chí tôn, thân xác chúng ta không dám tiếc, chỉ cần chúng ta làm sao bảo vệ được tiếng thơm muôn đời, không phản vua, hại nước là được rồi.
Hoàng Hậu và Quý Phi còn đang than thở thì đã có chiếu vua đến giục, bảo Hoàng Hậu phải khoét một mắt.
Quý Phi quá đau lòng, lại một lần nữa khuyên Hoàng Hậu:
– Hay chị chịu đỡ cho qua cơn sóng gió rồi sẽ tính. Nếu để khoét mắt thì còn chi tính mạng?
Khương Hoàng Hậu nói:
– Thà chết cũng đành, tôi không thể chịu tội vô cớ được.
Quang Phụng Ngự nhiều lần thúc hối, cực chẳng đã Quý Phi mới tuân lệnh khoét một mắt của Khương Hoàng Hậu để trong chậu vàng đem về dâng cho vua. Máu chảy lai láng. Hoàng Hậu ngã lăn xuống đất bất tỉnh.
Có thơ than:
Khoét mắt đau lòng kẽ trung lương
Ðắm sắc quên tình, nịch quân vương
Ngàn năm oán hận đời còn nhớ
Số kiếp phôi pha mảnh má hường
Hoàng Quý Phi động lòng khóc tức tưởi, theo chân viên quan Ngự phụng đến cung Thọ Tiên để yết kiến vua Trụ.
Vua Trụ thấy mặt Hoàng Quý Phi liền hỏi:
– Con khốn nạn ấy bị khoét mắt đã thú nhận tội lỗi rồi chứ?
Hoàng Quý Phi quỳ tâu:
– Khương Hậu không có lòng bất nghì, quyết không chịu tội oan. Tôi ép chịu đỡ, Khương Hậu cũng không nghe, thà chịu chết chớ không chịu tiếng nhơ. Tôi phải tuân lệnh bệ hạ khoét mắt đến dâng, thật đau đớn khi nhìn vào chậu này.
Trụ Vương nhìn vào trong chậu vàng có để con mắt đầy máu tươi, lòng bất nhẫn, nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ ăn năn hối hận, nhưng đã muộn, liền day qua trách Ðắc Kỷ:
– Trẫm nghe lời mỹ nhân khoét con mắt của Hoàng Hậu, té ra vẫn không tra ra án. Nếu Hoàng Hậu vô tội mà bị hành hình như vậy các quan trách Trẫm thì Trẫm biết phải trả lời làm sao?
Ðắc Kỷ nói:
– Thần thiếp tưởng Chánh Cung có bụng hại chồng phản chúa. Nay việc đã lỡ như vậy rồi, nếu không làm cho Chánh Cung chịu tội thì tội ác sẽ dồn lên bệ hạ hết. Hơn nữa, Ðông Bá Hầu đang trấn một cõi, binh hùng tướng mạnh, nếy hay được chuyện này tất đem binh vấn tội bệ hạ, báo oán cho con, bệ hạ liệu làm sao?
Trụ Vương nghe nói toát mồ hôi, hỏi:
– Bởi ta nghe lời mỹ nhân mới sanh chuyện như vậy. Bây giờ ta biết liệu làm sao?
Ðắc Kỷ nói:
– Việc đã lỡ rồi. Bây giờ phải làm thế nào cho Khương Hoàng Hậu nhận tội thì mới che mắt được các quan, và Ðông bá Hầu khỏi viện cớ để cử binh.
Trụ Vương bấy giờ như bị dồn vào tường, lòng bối rối, không biết phải tính sao, tới lui đều bất tiện, ngồi làm thinh giây lâu mới mở lời hỏi Ðắc kỷ:
– Mỹ nhân có cách nào làm cho Khương Hoàng Hậu chịu tội không?
Ðắc Kỷ nói:
– Bệ hạ cứ truyền cho Hoàng Quý Phi tra khảo đến mức, thế nào khương Hoàng hậu cũng không chịu đau nổi, buộc lòng phải nhận tội.
Trụ Vương hỏi:
– Mỹ nhân định tra khảo cách nào?
Ðắc Kỷ nói:
– Dùng bàn ủi đồng thật nóng, ủi vào hai bàn tay, hơi nóng cháy ruột gan, lẽ nào không chịu tội?
Trụ Vương nói:
– Theo lời Hoàng Quý Phi thì Khương hậu đã chịu hàm oan, ta khoét một mắt đã là tàn nhẫn lắm rồi, nỡ nào còn dùng lửa đốt hai bàn tay nữa?
Ðắc Kỷ nói:
– Việc đã đến nước này chẳng khác nào cỡi cọp, nhảy xuống sẽ bị cọp ăn mất. Thà để Khương Hoàng Hậu chịu oan còn hơn bệ hạ mắc tội với chư hầu và các quan văn võ.
Trụ Vương cực chẳng đã phải truyền chỉ làm y như lời Ðắc Kỷ.
Hoàng Quý Phi nghe nói hồn vía lên mây, vội vả trở về cung, thấy Khương Hậu máu me dầm dề, còn nằm rên rỉ dưới đất, trông rất thảm thiết.
Hoàng Quý Phi nói:
– Chị ơi! Chuyến này chắc chết. Vua nghe lời Ðắc Kỷ bày chuyện tàn nhẫn. Chẳng biết kiếp trước chị mang tội gì mà kiếp này mắc phải tai ương như vậy.
Vừa nói vừa đỡ Khương Hậu dậy. Sau một hồi đau đớn, Hoàng Quý Phi lại khuyên:
– Thôi chị đánh liều chịu đỡ để bảo tồn tánh mạng. Tôi thấy bệ hạ quá nuông chìu Ðắc Kỷ không kể đến tình vợ chồng rồi. Nếu chị không nhận tội, bệ hạ sẽ truyền nướng bàn ủi đỏ dí vào hai bàn tay chị. Hình phạt thảm khốc như vậy làm sao chị chịu nổi.
Khương Hậu khóc lóc nói:
– Số phần chị đã như vậy thì liều một thác cho xong. Thôi em làm chứng cho lòng chị, chị đành nhắm mắt, cắt đứt dây oan nghiệt.
Nói vừa dứt lời thì có quan Phụng ngự đem bàn ủi đến và truyền lệnh:
– Vâng chỉ bệ hạ, nếu khương Hoàng Hậu không chịu tội thì đốt hết hai bàn tay.
Khương Hậu lòng sắc đá, chẳng thà chết chớ không chịu nhơ danh, liền đưa hai bàn tay ra hứng lấy cực hình.
Quan Phụng ngự để hai bàn ủi nóng lên, thịt cháy xèo xèo, khét lẹt, mấy ngón tay cong quắp lại, các gân guốc cháy khô.
Khương Hậu hét lên một tiếng rồi chết giấc.
Người sau có làm thơ than:
Bàn ủi đỏ lòm ngọn lửa than
Hai tay như sắt, dạ như vàng
Thương cho bảy lá gan trinh tiết
Dẫu nạn mười năm chữa hết oan
Hoàng Quý Phi không dám mở mắt nhìn, bụm mặt khóc như mưa.
Thấy Khương Hoàng hậu chết giấc, Hoàng Quý Phi khiến quan Phụng ngự thôi tra khảo rồi lên xe đến cung thọ Tiên tâu với Trụ vương:
– Khương Hoàng hậu bị hành hình hai bận, chết giấc hai lần, vẫn nhất thiết không nhận hàm oan. Tôi chắc trong cung có gian thần bày mưu hại Khương Hậu đó. Nay bệ hạ đối xử với Chánh Cung quá tàn nhẫn trong lúc Chánh Cung vô tội, tôi e sẽ xảy ra việc chẳng lành.
Vua Trụ thất kinh, nói:
– Việc này trẫm lỡ nghe lời mỹ nhân, bây giờ biết làm sao?
Ðắc Kỷ lại quỳ tâu:
– Bệ hạ chớ lo, Khương Hoàn còn đó, xin bệ hạ cho Hổ Oai tướng Triệu Ðiền, Triệu Lôi dẫn Khương Hoàn đến cung Tây đối nại trước mặt giai nhân mình, Khương Hậu không còn chối cãi vào đâu nữa.
Hoàng Quí Phi về đến Tây Cung thì Triều Ðiền, Triều Lôi cũng dẫn Khương Hoàn đến quỳ dưới đất.
Hoàng Quý Phi trông thấy thở dài, nói với Khương Hậu:
– Nương Nương ơi, bệ hạ lại truyền dẫn thằng oan nghiệt đến đây để đối nại. Thật là mưu của Ðắc Kỷ hết. Song việc này em chẳng thấy ngại gì. Em sẽ có cách làm cho đứa gian manh khai ra kẻ bày mưu, để bệ hạ rõ chuyện trắng đen.
Thật ra Hoàng Quý Phi đã có dự mưu, muốn dùng hình phạt tra tấn Khương Hoàn để tìm hiểu sự thật.
Khương Hậu trông thấy gần đó có một gã tráng hán tay chân bị trói chặc, thân hình cao lớn, mặt mũi hung ác liền mắng lớn:
– Thằng khốn kiếp! Mày nghe lời ai làm điều quấy lại đổ tội cho ta. Tàn ác như vậy, trời nào để mày sống.
Khương Hoàn nói lanh lãnh:
– Tôi là kẽ gia nhân của Hoàng Hậu trước kia. Hoàng Hậu quên rồi sao? Hoàng Hậu muốn thí vua đem cơ nghiệp Thành Thang cho Ðông Bá Hầu sửa trị, nên sai tôi làm việc ấy. Nay việc không thành, tôi bị bắt, cứ sự thực khai ngay. Hoàng Hậu bảo tôi phải nói làm sao bây giờ?
Hoàng Quý Phi nổi giận mắng Khương Hoàn:
– Phản thần! Mày làm cho Hoàng Hậu thân thể ra nông nổi này mà không chút gì ăn năn hối hận sao? Nếu mày không nói rõ kẻ nào sai biểu mày thì ta quyết đánh mày cho đến chết.
Lúc bấy giờ An Giao và Ân Hồng là hai vị Hoàng Tử con ruột của Khương Hoàng Hậu đang đánh cờ ở Ðông Cung, bỗng có thái giám Dương Dung chạy vào gọi lớn:
– Hai vị Hoàng Tử, hãy thôi đánh cờ đã. Có việc trọng đại xảy đến.
Ân Giao, Ân Hồng tánh còn con nít, ham chơi, không thèm để ý tới lời nói của thái giám.
Thái giám Dương Dung la lớn:
– Không biết đứa phản tặc nào đã âm mưu thích khách bệ hạ rồi đổ tội cho Chánh Cung, khiến Bệ Hạ hành hình Chánh Cung một cách thảm thiết.
Ân Giao đứng phắt dậy, hỏi vội:
– Mẫu Hoàng ta bị hành hình như thế nào?
Dương Dung nói:
– Bệ hạ đã khoét mắt còn đốt cả hai tay, cố tình tra khảo nhưng Chánh Cung vì oan tình quyết chẳng chịu tội.
Ân Hồng nói:
– Phụ Hoàng ta lại nỡ nào đối xử với Mẫu Hậu ta như thế. Ðây chắc có kẻ phản nghịch xúi Phụ Hoàng ta bỏ đạo cang thường.
Ân Giao hỏi:
– Mẫu Hoàng ta hiện giờ ở đâu?
Dương Dung nói:
– Hiện đang cùng với đứa gian nghịch đối chất nơi Tây Cung.
Ân Giao kêu lên một tiếng, cùng với Ân Hồng chạy vội đến Tây Cung. Vừa bước vào thấy Khương Hậu máu chảy dầm dề, nằm thở hổn hển. Cả hai vị Thái Tử đều ôm chầm lấy Hoàng Hậu khóc rống lên.
Ân Giao mếu máo:
– Vì sao Mẫu Hậu lại ra nông nỗi này. Dù Mẫu Hậu có phạm tội gì đi nữa cũng không thể chịu trừng phạt như vậy.
Khương Hậu thấy hai con mình, khóc tức tưởi:
– Con ơi! Cha con mê sắc, không kể đến nghĩa vợ chồng, nghe lời Ðắc Kỷ khoét mắt và đốt hai tay mẹ cháy như vầy. Khương Hoàn, kẻ phản nghịch đang ở trước mặt các con kia, nó đã âm mưu với bọn ác tâm, thí quân rồi khai cho mẹ chủ mưu. Mẹ thà chết chớ không chịu tiếng nhơ. Hai con phải trả cho mẹ thù này, ấy là các con đền ơn mẹ sanh thành dưỡng dục.
Nói đến đây Khương Hậu rú lên một tiếng rồi tắt thở, có lẽ giờ phút đó Khương Hậu bị kích động quá không còn chịu nổi.
Ân Giao thấy mẹ mình chết thảm, đau lòng quá, nhẩy xổ đến trước cửa cung, giật một thanh gươm chém Khương Hoàn một nhát đứt thành hai đoạn. Máu tuôn như suối. Tuy vậy Ân Giao vẫn chưa hã giận, cầm gươm chạy ra cửa, nói lớn:
– Ta phải giết chết Ðắc Kỷ để rửa hận cho Mẫu Hoàng ta.
Ân Giao xách gươm chạy như tên bắn.
Triều Ðìền, Triều Lôi thấy Ân Giao giết Khương Hoàn lại xách gươm đến cung Thọ Tiên, liền chạy về phi báo.
Hoàng Quý Phi thấy thế thất kinh, than:
– Ấu nhi, chưa thạo việc đời, e rằng sẽ mang họa.
Liền khiến Ân Hồng chạy theo gọi Ân Giao lại.
Ân Hồng không dám cãi lệnh Dương Quý Phi, vội chạy theo gọi:
– Hoàng Huynh! Hãy mau trở lại để Nương Nương dạy việc.
Ân Giao cực chẳng đã phải quay trở lại, mặt hằm hằm sát khí.
Hoàng Quý Phi nói:
– Ðiện Hạ nóng nảy quá! Tại sao lại chém Khương Hoàn. Nó là đứa oan nghiệt, làm cho Hoàng Hậu bị hành hình. Nhưng cũng chính nhờ nó mà ta có thể rửa oan cho Hoàng Hậu. Ta đã có cách tra hỏi, nay Ðiện Hạ giết mất Khương Hoàn rồi còn ai để khai ra sự thật nữa? Ta định đốt tay nó, để nó chịu không nổi mà khai ra đứa chủ mưu.
Bấy giờ Ân Giao mới thấy việc nóng nảy của mình là tai hại.
Hoàng Quý Phi lại nói:
– Ðiện Hạ còn xách gươm vào cung giết Ðắc Kỷ nữa. Ðắc Kỷ đang gần gũi với Bệ Hạ, nếu Ðiện Hạ cầm gươm vào đó, Bệ Hạ nghe theo lời đứa gian nịnh, kết tội Ðiện Hạ muốn giết vua thì Ðiện Hạ lấy lý nào mà gỡ được? Ta chắc Triều Ðiền, Triều Lôi, hai đứa ấy đã về cung Thọ Tiên đặt điều tâu dối rồi.
Ân Giao ăn năn nhưng việc đã muộn, lòng nóng như lửa đốt mà không biết phải làm cách nào cho nguôi cơn bực tức được.
Quả thật, lời dự đoán của Hoàng Quý Phi không sai. Triều Ðiền, Triều Lôi về đến cung Thọ Tiên, thở hổn hển vào tâu với Trụ Vương:
– Ðiện Hạ đã giết chết Khương Hoàn còn xách gươm chạy vào cung, không biết ý định thế nào?
Vua Trụ giận lắm, hét:
– Tội phản nghịch của Khương Hậu chưa tra xét xong, còn dám xách gươm vào hại cha. Tội ấy không dung được.
Nói rồi liền trao gươm Long Phụng cho hai tướng, truyền chém đầu Ân Giao, Ân Hồng đem về nạp.
Hai tướng vâng lệnh đến Tây Cung.
Bọn thể nữ trông thấy vội vào báo với Hoàng Quí Phi:
– Bệ Hạ trao gươm Long Phụng cho hai tướng Triều Lôi, Triều Ðiền bảo đi tìm hai vị Hoàng Tử giết.
Hoàng Quí Phi nghe nói mặt xám ngắt, nghĩ thầm:
– Ðã hại vợ lại giết con thì còn đạo đức gì nữa. Con là nguồn huyết mạch, sao nỡ cắt bỏ cho đành? Nếu ta không liều lĩnh thì không thể cứu hai vị HoàngTử phen này.
Liền chạy vọt ra trước cửa cung, đón hai tướng lại hỏi:
– Sao bây loạn phép, dám xông vào cung cấm?
Hai tướng thưa:
– Chúng tôi vâng lệnh Bệ Hạ đi tìm hai vị Thái Tử hạ sát đem đầu về nạp.
Hoàng Quí Phi hét lớn:
– Loạn thần! Chớ xảo ngôn, lúc nãy các ngươi ở đây đã thấy hai vị Thái Tử ra khỏi Tây Cung rồi, tại sao các ngươi còn đến đây tìm? Rõ ràng là các ngươi mượn lệnh Thiên Tử đột nhập vào cung cấm để trêu chọc các cung phi. May phước chúng bây có gươm Vua, nếu không ta chém đầu hết.
Triều Ðiền, Triều Lôi nghe nói thất sắc, vội cúi mặt chạy thẳng qua Ðông Cung, không dám nói lời nào nữa.
Hai tướng đi rồi, Hoàng Quí Phi vào gọi Ân Giao, Ân Hồng nói:
– Hôn quân quyết giết hết vợ con. Nay Quốc Mẫu đã chết, hai vị Ðiện Hạ cũng khó sống được, phải liệu cách mà trốn đi.
Ân Giao hỏi:
– Phụ Hoàng còn có hành động nào nữa?
Hoàng Quí Phi chỉ ra cửa cung nói:
– Bệ Hạ vừa sai hai tướng họ Triều cầm gươm Long Phụng đến tìm giết hai vị Ðiện Hạ đấy. Vậy hãy sang tạm chổ Dương Quí Phi lánh mặt một thời gian, đợi các quan can gián xem sao.
Hai vị Hoàng Tử khóc òa nói:
– Phụ Hoàng không nghĩ đến tình vợ con nữa, chúng con còn biết nương cậy vào đâu. Hoàng nương thương chúng con bảo bọc, ơn ấy rất trọng.
Hoàng Quí Phi nói:
– Hãy lo lánh mặt kẻo trễ thì họa đến chẳng kịp nữa. Ơn nghĩa nhị vị xin đừng nói đến.
Ân Giao nói:
– Nay Mẫu Hoàng bị chết thảm thiết như vậy, xin Hoàng nương tìm cách khâm liệm dùm, kẻo tội nghiệp quá!
Hoàng Quí Phi nói:
– Việc đó tôi đang lo. Hai vị Ðiện Hạ cứ tin lòng tôi là đủ.
Ân Giao, Ân Hồng lạy tạ rồi trốn qua cung Hình Khánh.
Vừa đến nơi đã thấy Dương Quí Phi đang đứng trước cửa cung ngóng chờ tin tức của Khương Hoàng Hậu.
Ân Giao trông thấy khóc rống lên.
Dương Quí Phi thất kinh hỏi:
– Hai vị Ðiện Hạ có việc gì vậy? Chẳng hay tin tức của Mẫu Hậu thế nào?
Ân Giao thưa:
– Phụ Hoàng tôi nghe lời Ðắc Kỷ dùng cực hình tra tấn khoét mắt và đốt tay Mẫu Hoàng tôi. Mẫu Hoàng tôi chết rồi. Nay Phụ Hoàng lại trao gươm rồng, truyền hai tướng họ Triều tìm giết anh em tôi nữa. Xin Dương nương nương thương tình cứu mạng.
Dương Quí Phi nghe nước mắt tràn trề nói:
– Thật là tàn nhẫn! Thôi, hai vị Ðiện Hạ hãy mau vào cung trốn đỡ rồi sẽ liệu.
Ân Giao, Ân Hồng liền vào trong tìm chổ kín ẩn thân.
Còn Dương Quí Phi thì đứng canh chừng ngoài cửa, phòng anh em họ Triều đến lục soát.
Quả nhiên, Triều Ðiền, Triều Lôi lục soát bên Ðông Cung không tìm thấy Ân Giao, Ân Hồng liền xách gươm thẳng đến cung Hình Khánh.
Gặp lúc Dương Quí Phi đứng ngoài cửa cung, trông thấy liền truyền các quan thái giám bắt hai tướng họ Triều trói lại, và nói:
– Chỗ này là cung cấm, sao chúng bây dám đến xông vào, vô kỷ cương như vậy? Ta tru di tam tộc đó.
Anh em họ Triều mất vía, run rẩy nói:
– Chúng tôi tuân lệnh Bệ Hạ đến tìm bắt hai vị Ðiện Hạ. Vì có gươm lệnh trong mình nên không dám làm lễ, xin Quí Phi chỉ dùm hai vị Ðiện Hạ cho chúng tôi.
Dương Quí Phi hét:
– Ðừng nói bậy! Ðiện Hạ ở nơi Ðông Cung, còn cung Hình Khánh là cung riêng của ta, chúng bây đến đây lớ quớ ta chém đầu lập tức. May mà có gươm lệnh, nếu không hai đứa bây đã mất đầu rồi.
Hai tướng túng thế phải quay về.
Dương Quí Phi liền vào cung gọi Ân Giao, Ân Hồng nói:
– Chỗ này tai mắt rất đông, hai vị Ðiện Hạ ở lâu không tiện, hãy đến đền Cữ Gian vào ra mắt Vi Tử, Cơ Tử, Tỉ Can, Tử Ðiền, Hoàng Phi Hổ, may ra những vị đại thần ấy có thể tâu với vua xin tội cho nhị vị.
Hai anh em Ân Giao lạy tạ ra đi.
Dương Quí Phi ngồi một mình buồn bã nghĩ thầm:
– Khương Hoàng Hậu là vị hôn phối của vua, còn hai Ðiện Hạ là dòng máu của vua, thế mà vua còn nghe theo lời của Ðắc Kỷ dứt bỏ tình nghĩa, cắt lìa ruột thịt, huống chi ta là cung ba, phận bọt bèo, lại không có con cái gì hết, sớm muộn không khỏi bị Ðắc Kỷ làm nhục. Hơn nữa nếu Trụ Vương hay chuyện dấu hai vị Hoàng Tử trong cung thì tội ấy không thể trốn lánh vào đâu, chi bằng tính trước cho yên.
Nghĩ như vậy, Dương Quí Phi than khóc nữa ngày rồi vào hậu cung thắt cổ tự vận.
Quan Thái Giám biết được, vội vào báo với Trụ Vương.
Trụ Vương không rõ Dương Quí Phi buồn vì việc gì mà tự sát như vậy, liền truyền tẩn liệm, quàn nơi Bạch Hổ.
Bấy giờ, Hoàng Quí Phi cũng vào cung Thọ Tiên khóc lóc, tâu:
– Khương Hậu bị hành hình chịu không nổi đã chết rồi. Trước khi chết, Khương Hậu có trối trăn rằng: “Tôi thờ Bệ Hạ đã mười mấy năm chẳng hề phạm lỗi, không chút ghen tương. Chẳng biết gian nhân nào đã bày điều vu oan giá họa để Bệ Hạ ra hình phạt như vậy. Thần chết không bằng thú vật, tiếng nhơ không biển nào rửa cho hết. Sau khi tôi chết, xin Bệ Hạ để xác tôi nơi đền Bạch Hổ cho các quan luận tội minh oan”. Ðó là mấy lời Khương Hậu cậy tôi tâu lại với Bệ Hạ. Hiện giờ xác Khương Hậu vẫn còn ở Tây Cung, xin Bệ Hạ nghĩ tình nguyên phối cho phép tẩn liệm để khỏi tiếng thị phi.
Vua Trụ truyền làm theo lời của Hoàng Quí Phi.
Hoàng Quí Phi lạy tạ, rồi về cung lo việc tẩn liệm thi hài của Khương Hậu rất trọng thể.
Trong lúc đó hai tướng Triều Ðiền, Triều Lôi từ cung Hình Khánh trở về tâu lại với Trụ Vương:
– Chúng tôi tới Ðông Cung tìm khắp nơi vẫn không thấy hai vị Ðiện Hạ.
Vua Trụ hỏi:
– Hay là chúng tới Tây Cung thăm Khương Hậu?
Hai tướng tâu:
– Không có bên Tây Cung, cũng không có nơi cung Hình Khánh.
Vua Trụ nói:
– Không có trong ba cung tức chúng đã trốn ra đền lớn, thông tư với triều thần, âm mưu khởi loạn chăng. Phải bắt giết cho được.
Hai tướng tuân lệnh, một lần nữa vác gươm rồng ra đi.
Bấy giờ Ân Giao, Ân Hồng đã thoát ra được trước đền lớn, thấy bá quan còn hội đủ mặt để chờ tin Hoàng Hậu.
Hai vị Hoàng Tử khóc lên.
Hoàng Phi Hổ lật đật nghênh đón, hỏi:
– Vì cớ vì hai vị Ðiện Hạ kinh hãi như vậy?
Ân Giao nói:
– Võ Thành Vương ơi! Hãy cứu mệnh chúng tôi với. Mẫu Hậu không có lòng phản nghịch mà Phụ Vương tôi nghe lời Ðắc Kỷ chẳng xét oan tình, ra lệnh khoét mắt, rồi đốt cháy cả hai bàn tay, khiến Mẫu Hậu phải bỏ mình. Chúng tôi thấy Khương Hoàn đứa phản nghịch thí vua có mặt trong Tây Cung để đối chứng, nổi giận chém đi, Phụ Vương tôi lại sai hai tướng họ Triều, trao gươm rồng, tìm giết. Thật không còn tình nghĩa gì nữa. Xin các quan tìm cách cứu vãn tình thế, minh oan cho Mẫu Hậu, cứu mạng anh em chúng tôi trong cơn nước lửa này.
Ân Giao, Ân Hồng kể lể một hồi, lại khóc lớn lên. Các quan thấy cảnh ấy cũng phải động lòng. Có một người đề nghị:
– Chúng ta hưởng lộc nước, mũ cao áo dài, ngồi chễm chệ thế này, lẽ nào nước nhà đảo lộn lại ngồi ngó. Vậy thì nổi trống đền lên, mời Bệ Hạ lâm triều để tra xét phân minh vụ án này, trước minh oan cho Quốc Mẫu, sau truy tầm đứa gian nghịch trừ loạn.
Các quan còn phân vân chưa biết phải làm gì thì có một người hét lên một tiếng như sấm:
– Thiên Tử đắm say tửu sắc, giết vợ hại con, bày Bào Lạc đốt tôi trung. Tình vua tôi đã tổn thương, tình gia đình đã đổ vỡ, mối nước không thể giữ nổi nữa đâu. Chi bằng chúng ta tính chuyện khác cho rồi.
Một người khác lại ứng tiếng phụ họa:
– Phải rồi! Chim khôn chọn cây hiền mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nay vua giết vợ hại con, nhơn nghĩa không còn, cương thường đảo lộn. Một ông vua như vậy chúng ta cứ khom lưng tôn thờ, đã mang tiếng xấu hổ, lại không ích gì cho quốc gia. Còn cứ nhìn nhau khóc lóc như đàn bà lại là hèn hạ. Theo ý tôi, nên đồng lòng phế hôn quân xuống, tôn vua khác lên ngôi. Như vậy mới bảo vệ xã tắc được.
Các quan xem lại thì người ấy là Phương Bật và Phương Tướng, hai anh em ruột đang làm chức Triều Ðiển tướng quân.
Hoàng Phi Hổ nghe nói nạt lớn:
– Hai ngươi là quan nhỏ, sao dám loạn ngôn như vậy? Bao nhiêu cận thần đây không đủ trí để định đoạt à? Các ngươi tội đáng chết. Không trốn đi còn đứng đó đợi bị bắt hay sao?
Phương Bật và Phương Tướng cúi đầu lui ra ngôi vị mình. Tuy nhiên hai người cũng ngầm hiểu ý của Hoàng Phi Hổ muốn gì rồi.
Hoàng Phi Hổ thấy việc nước sanh nhiều tai biến, lòng dân rời rã, triều thần không còn cách gì đứng vững, buồn bã than với các quan đại thần. Những vị trung thần tuổi trẻ, nghiến răng trợn mắt, hậm hực vô cùng.
Còn các bậc lão thành có công xây dựng lâu nay, mang nhiều tình cảm, không có ý định thay trật đổi ngôi, chỉ căm hận kẻ đã gây ra thảm họa.
Quan cận thần Dương Nhậm, một lão quan lớn tuổi thở dài nói:
– Vua bị mờ ám, giết vợ hại con, không kể đến tình tôi chúa, nhất định bên trong có kẻ gian nịnh âm mưu làm loạn. Một lũ chúng ta bây giờ chỉ làm trò cười cho chúng, và một ngày nào đó, tánh mạng chúng ta cũng không khỏi chết.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Lời của Dương Ðại Phu nói rất phải. Song chúng ta làm tôi Thành Thang đã ba đời, bề nào cũng phải khuyên vua bỏ lỗi sửa mình.
Tỉ Can, Vi Tử Khải, và Vi Tử Ðiểu nhớ đến cơ nghiệp của tiền nhân, khóc sụt sùi không dứt.
Phương Bật và Phương Tướng thấy tình trạng không giải quyết đến đâu liền hô lớn:
– Vua Trụ lỗi đạo lắm, giết vợ, hại con, bỏ cương thường, nay chúng tôi đưa hai vị Ðiện Hạ đến Ðông Lổ viện binh trừ hôn quân và tôn Ðông Cung lên làm vua thay thế Vua Trụ kế nghiệp Thành Thang.
Nói rồi hai anh em họ Phương cõng Ân Giao, Ân Hồng chạy ra khỏi triều, rời Triều Ca, nhắm Ðông Lổ chạy riết.
Ân Giao, Ân Hồng nhờ anh em Phuơng Bật, Phương Tướng mà thoát đại nạn.
Người sau có thơ tặng anh em họ Phương:
Anh em Phương Bật thật anh tài
Cõng Chúa ra ngoài chẳng sợ ai
Nghĩa khí khuyên đừng chê lổ mãng
Ðem thân làm ngựa, chúng kinh oai
Các quan thấy Phương Bật, Phương Tướng làm phản, hết thảy đều kinh tâm. Chỉ riêng Hoàng Phi Hổ làm như không biết, và cũng không để ý đến.
Tỉ Can là chú của Vua Trụ, bước đến hỏi nhỏ Hoàng Phi Hổ:
– Anh em họ Phương ra mặt phản loạn giữa triều, sao Võ Thành Vương để yên như vậy?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tôi tiếc nội trào không ai bằng anh em họ Phương cả. Chúng nó tuy lỗ mãng song còn biết thương Quốc Mẫu thác oan, lo hai vị Thái Tử bị hại. Vì chức nhỏ, không được phép can gián, nên trong tình thế nguy cấp không biết làm thế nào, phải liều thân cõng hai vị Thái Tử chạy đỡ. Chúng cũng biết, một khi triều đình đem quân đuổi bắt thì tánh mạng chẳng còn. Chúng ta cũng nên thương tình hơn là chấp trách.
Các quan chưa kịp đàm luận thì đã nghe tiếng chân người chạy rần rần. Xem lại là Triều Ðiền và Triều Lôi cầm gươm lệnh chạy đến giữa đền, hỏi:
– Có hai vị Ðiện Hạ đến đây chăng?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Hai vị Ðiện Hạ vừa đến đây khóc lóc. Anh em họ Phương động lòng cõng chạy trốn rồi. Họ vừ thoát ra cửa Nam thành, hai ông có lệnh vua sai thì hãy đuổi theo bắt về trị tội.
Triều Ðiền và Triều Lôi nghe Phương Bật và Phương Tướng làm phản đều thất kinh, không dám đuổi theo. Bởi vì Phương Bật mình cao mười sáu thước, còn Phương Tướng mình cao mười bốn thước, cả hai sức mạnh như voi, hung dữ như cọp, nếu hai tướng họ Triều đuổi theo anh em họ Phương nổi giận đá cho mấy đá là toi mạng.
Thật ra Hoàng Phi Hổ thấy anh em họ Ðiền không có lương tâm, quyết lòng giết hai vị Thái Tử nên cố nói gạt, để chúng đuổi theo anh em họ Phương, ăn đòn một trận cho bỏ ghét, nhưng Triều Ðiền và Triều Lôi đã lượng sức mình, nói xuôi:
– Hai vị Ðiện Hạ đã trốn thì thôi. Ðể tôi về tâu lại với Thiên Tử.
Nói rồi về cung Thọ Tiên tâu:
– Phương Bật, Phương Tướng làm phản, cõng hai vị Ðiện Hạ chạy sang Ðông Lổ rồi.
Trụ Vương nổi giận hét:
– Hai ngươi phải đuổi theo bắt chúng nó cho mau.
Triều Ðiền tâu:
– Anh em họ Phương vũ dũng phi thường, chúng tôi bắt sao được. Xin Bệ Hạ giáng chỉ sai Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ mới được.
Trụ Vương liền viết chiếu đưa ra. Triều Ðiền cầm chiếu vua đến giữa đại điện truyền rằng:
– Hoàng Phi Hổ phải lãnh gươm lệnh đuổi theo bắt anh em họ Phương và lấy thủ cấp Ân Giao, Ân Hồng về phục chỉ.
Hoàng Phi Hổ cười rằng:
– Tôi biết rồi, Triều Ðiền muốn giao gánh cho ta đó.
Liền lãnh gươm và chiếu của vua trở về dinh.
Các tướng Hoàng Minh, Châu Kỳ, Long Hoàn, Ngô Khiêm xin theo phò tá, Hoàng Phi Hổ nói:
– Các em theo làm gì. Ta đi rồi trở về ngay.
Liền lên lưng trâu ngũ sắc, lướt ra cửa thành như gió. Con trâu này chạy nhanh hơn ngựa, một ngày đi tám trăm dậm.
Bấy giờ anh em Phương Bật cõng hai vị Ðiện Hạ chạy bộ một ngày thảng thốt chỉ mới ba chục dậm đường. Kể ra như vậy anh em họ Phương cũng đã có sức khỏe vô địch rồi. Thấy đã mệt mỏi, hai người để Ân Giao, Ân Hồng xuống nghỉ chân.
Ân Giao, Ân Hồng nói:
– Ơn hai vị tướng quân biết ngày nào chúng tôi mới trả được?
Phương Bật nói:
– Anh em tôi thấy Bệ Hạ vô đạo, giết vợ hại con, lòng không đành ngó hai vị Ðiện Hạ chết oan nên liều mình cõng chạy. Thế nào cũng gặp nguy hiểm. Một là triều đình đem quân đuổi bắt, hai là không biết chỗ nào nương dựa.
Trong lúc đang bàn bạc, bỗng thấy Hoàng Phi Hổ cỡi trâu năm sắc chạy tới, Phương Bật thất kinh, nói với hai vị Ðiện Hạ:
– Nguy rồi! Chúng tôi biết không tránh khỏi đại họa. Thiên Tử sai Võ Thành Vương theo bắt chúng ta kia, biết liệu làm sao?
Phương Tướng nói:
– Võ Thành Vương là người nhân đức, không đến nỗi dã tâm, xin nhị vị Ðiện Hạ lấy lời hơn lẽ thiệt phân giải, thế nào người cũng không sát hại.
Còn đang bàn bạc thì Hoàng Phi Hổ đã tới.
Ân Giao vội quỳ xuống đất hỏi:
– Có phải Võ Thành Vương theo bắt chúng tôi chăng?
Hoàng Phi Hổ thấy vậy thất kinh, xuống trâu, quỳ đáp lễ và nói:
– Tội tôi muôn thác, xin Ðiện Hạ đứng dậy, đừng làm như thế.
Ân Giao nói:
– Võ Thành Vương đến đây có việc gì?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tôi vâng lệnh Thiên Tử đem gươm Long Phụng đi bắt hai vị Ðiện Hạ lấy thủ cấp về dâng, nhưng tôi không nỡ, xin hai vị Ðiện Hạ dạy cho tôi biết làm thế nào để khỏi tội?
Ân Giao nói:
– Võ Thành Vương không thấy Mẫu hậu chết thảm thiết sao? Chúng tôi là con, máu huyết Thành Thang, thế mà Phụ hoàng tôi lại nhẫn tâm giết hại, đó là tại Ðắc Kỷ xui nên. Nếu Võ Thành Vương để chúng tôi sống, tìm cách giết Ðắc Kỷ để báo thù cho Mẫu hậu thì ân ấy quyết không quên.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tôi há lại không biết điều ấy hay sao? Ngặt vì có lệnh vua, nếu tha hai vị Ðiện Hạ thì mang tội dối vua, còn tuân lệnh thì chẳng khác nào hùa với kẻ gian ác làm bậy. Cả hai đường đều khó xử, tôi còn đang lưỡng lự.
Ân Giao nói:
– Nếu thế tôi đã có cách. Võ Thành Vương tuân lệnh vua đến đây chẳng thể về không, vậy thì xin lấy thủ cấp tôi đem về nạp, còn Ân Hồng em tôi còn thơ bé lắm, xin để cho nó sống tị nạn nơi khác đặng ngày sau khôn lớn báo thù cho mẹ tôi. Nếu được vậy, tôi dù thác cũng chẳng dám quên ơn.
Dứt lời liền tiếp lấy gươm Long phụng toan tự cắt lấy thủ cấp mình.
Ân Hồng vội chạy đến giựt gươm nói:
– Không nên! Anh là Ðông Cung Thái Tử, thừa kế sự nghiệp tổ tông. Em còn thơ dại không làm gì nên việc, để em chết thay anh mới phải.
Rồi quay sang nói với Hoàng Phi Hổ:
– Xin Võ Thành Vương đem đầu tôi về nạp, tha cho anh tôi trốn sang Ðông Lổ hay Tây kỳ viện binh báo oán. Tôi chết cũng không dám tiếc.
Ân Giao ôm Ân Hồng nói:
– Không được! Em còn nhỏ tuổi, tội gì phải mang tai họa như vậy? Tuổi em là tuổi phải được hưởng những gì hạnh phúc, sống trong yêu thương. Nay Mẫu hoàng đã mất, tình gia đình không còn, anh lại để em chết thay anh sao đành?
Hai anh em dành nhau thanh gươm để được chết.
Phương Bật và Phương Tướng thấy thảm cảnh khóc oà la lớn:
– Ôi! Thật là đứt ruột!
Hoàng Phi Hổ đứng trân một lúc rồi nói:
– Thôi, hai tướng chớ khóc lóc làm gì, hai vị Ðiện Hạ cũng không cần tranh nhau cái chết nữa. Chuyện này chỉ có năm người trong chúng ta biết mà thôi, xin chớ để lộ ra ngoài mà mang họa. Thà tôi chịu tội dối vua còn hơn mang tiếng độc ác. Bây giờ Phương Bật hãy đưa Ðông Cung qua Ðông Lổ cho Khương Hoàng Sở, còn Phương Tướng thì đưa nhị Ðiện Hạ qua Nam Ðô cho Ngạt Sùng Võ. Ðến nơi hai người nói với hai trấn chư hầu ấy biết là ta tha hai vị Ðiện Hạ giữa đường, nhờ hai trấn chư hầu ấy đem binh về Triều Ca dẹp nịnh. Chừng đó mọi việc đã có ta.
Phương Bật nói:
– Hai anh em tôi nóng nảy lại bất trí, thấy việc trái ý thì làm, không suy nghĩ trước. Nay đến đây trong túi không có một đồng, còn Ðông Lổ và Nam Ðô là hai nơi vòi vọi, nếu đi bộ phải mất mấy ngày đường, cơm gạo đâu mà ăn? Nhịn đói đi sao nổi?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Việc này ta cũng không tính trước, nên cũng không có đem tiền theo.
Ngẫm nghĩ hồi lâu, Hoàng Phi Hổ lấy chiếc ấn đeo trong mình trao cho hai tướng và nói:
– Ấn này bằng vàng, có thể bán lấy tiền mua thức ăn được. Hai ngươi lấy mà dùng.
Hai tướng cúi lạy tạ ơn, và thấy rõ lòng nhân đạo của Hoàng Phi Hổ thật bao la.
Hoàng Phi Hổ lại dặn hai vị Thái Tử:
– Xin hai Ðiện Hạ cứ yên tâm đi tới chỗ. Lần này tôi mang tội dối vua một chuyến không sao.
Dứt lời, Hoàng Phi Hổ lên lưng trâu ngũ sắc trở về triều thì trời đã sẩm tối. Bá quan còn đang đứng chực nơi Ngọ Môn để đón tin tức. Thấy Hoàng Phi Hổ về, Tỉ Can hỏi:
– Công việc ra thế nào?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Hai tướng cao giò chạy mau quá, tôi theo không kịp, trời tối nên phải về phục mệnh.
Các quan nghe nói, ai cũng mừng thầm.
Võ Thành Vương vào cung tâu với Vua Trụ:
– Tôi vâng lệnh theo hơn bảy mươi dậm đường, đến một ngả ba hỏi thăm kẻ đi đường, họ đều nói không thấy. Tôi không biết ngõ nào tìm nữa, phải trở về tâu lại với Bệ Hạ hay.
Trụ Vương nói:
– Chúng nó chạy thoát thì thôi. Khanh cứ về an nghỉ, sáng mai Trẫm sẽ lâm triều đàm luận.
Võ Thành Vương lui ra khỏi cung.
Ðắc Kỷ thấy không bắt được Ân Giao, Ân Hồng lòng lo lắng, tâu với Vua Trụ:
– Bệ Hạ chớ xem nhẹ việc này. Ân Giao, Ân Hồng là cháu ngoại của Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở, nếu hai vị Ðiện Hạ về đến Ðông Lổ thế nào cũng sanh biến. Chi bằng sai hai tướng Ân Phá Bại và Lôi Khai dẫn ba ngàn quân cấp tốc đuổi theo bắt lại. Như vậy mới khỏi sợ sanh ra hậu họa.
Trụ Vương khen phải, liền đòi hai tướng ấy đến. Truyền chỉ đem ba ngàn binh mã, bất luận ngày đêm phải theo cho kịp để bắt cho được hai vị Thái Tử.
Hai tướng tuân lệnh lạy tạ lui ra, thẳng đến dinh Hoàng Phi Hổ để lãnh binh mã.
Bấy giờ Hoàng Phi Hổ vừa trở về dinh, đang ngồi buồn lo phải trái, nghĩ đến cảnh loạn ly của thiên hạ không sao tránh khỏi. Xảy nghe quân báo:
– Có hai tướng Lôi Khai và Ân Phá Bại đến hầu.
Hoàng Phi Hổ truyền cho vào. Hai tướng vào làm lễ xong, Hoàng Phi Hổ hỏi:
– Nơi đại điện vừa gặp mặt, việc gì lại đến đây?
Hai tướng thưa:
– Bệ Hạ truyền chỉ dạy hai chúng tôi lãnh ba ngàn binh đuổi theo bắt hai vị Ðiện Hạ đem về trị tội, và anh em Phương Bật đem về gia hình. Xin Nguyên Soái cho chúng tôi lãnh binh kẻo trễ.
Hoàng Phi Hổ nghĩ thầm:
– Nếu hai tướng này đem binh đuổi theo bắt được hai vị Ðiện Hạ thì té ra ta có công tha cũng như không.
Liền nói với hai tướng:
– Bây giờ đang đêm, quân binh lộn xộn, khó điểm được. Vậy đợi đến canh năm ta phát cho.
Vì Hoàng Phi Hổ nguyên là Nguyên Soái coi việc quân binh, còn Ân Phá Bại và Lôi Khai là tướng, đâu dám trái lệnh. Hai người đành trở về dinh, đợi qua canh năm mới khởi hành được.
Hoàng Phi Hổ đưa hai tướng ra ngoài trở vào nói với Châu Kỷ:
– Ngày mai, lúc canh năm, ngươi lựa loại ngựa què, lính bệnh, đủ ba ngàn cấp cho hai tướng Lôi khai và Ân Phá Bại, cốt làm cho chúng không đuổi theo kịp hai vị Ðiện Hạ.
Rạng ngày hai tướng đến lãnh binh mã thì Châu Kỷ đã lựa đủ số người ngựa theo ý định cấp cho. Hai tướng thấy toàn thứ binh lao mã liệt trong lòng không vui, nhưng không dám nói.
Ðoàn quân kéo nhau ra khỏi Triều Ca rất mệt nhọc. Trong đó cũng có lộn một ít ngựa khỏe và những tên quân bệnh nhẹ, nhưng người mạnh phải chờ người yếu, ngựa khỏe phải chờ ngựa mệt, nên hàng ngủ so đo, lểnh mểnh suốt buổi vẫn chưa đi được mấy dậm đường.
Bấy giờ Phương Bật và Phương Tướng phò hai vị Hoàng Tử đi đã hai ngày đến một vùng xa xôi hẻo lánh, tiền bạc trong túi không có, nhà cửa lại lưa thưa, không nơi tạm trú. Tuy có kim quyết của Hoàng Phi Hổ tặng nhưng nơi này là vùng thôn dã, vàng ngọc không thể bán được, đành nhịn đói mà đi.
Ðến ngã ba lộ, Phương Bật nói với Phương Tướng:
– Chúng ta phò hai vị Ðiện Hạ đến đây cũng đã thoát nạn rồi. Vậy hai ta để hai vị Ðiện Hạ đi trước, chúng ta tìm chổ bán chiếc Kim Quyết kiếm tiền rồi sẽ theo sau.
Hai tướng bàn định xong liền tỏ ý với Ân Giao, Ân Hồng.
Ân Giao, Ân Hồng thuận tình, mỗi người đi mỗi hướng. Ân Hồng qua Nam Ðô, Ân Giao qua Ðông Lổ. Còn Phương Bật và Phương Tướng sau khi bán vàng xong sẽ chia nhau theo phò.
Sắp đặt xong, ai nấy chia tay, mỗi người đi một ngã.
Ân Hồng nước mắt không ráo, thương anh nhớ mẹ, tủi phận khôn cùng. Con vua cháu chúa, chưa từng đi bộ, nay mới đi mấy dậm đường đã thấy mỏi chân, đói lòng. Ân Hồng rẽ vào một xóm, thấy nhà kia đang ăn uống cơm hẩm canh rau, liền bước vào xin ăn.
– Tôi đi lỡ đường, xin cho tôi ăn với.
Gia đình người nông phu thấy tướng mạo Ân Hồng khôi ngô, ăn mặc sang trọng, vội dọn cơm lên ghế mời dùng bữa. Ân Hồng ăn xong nói:
– Ơn này biết ngày nào tôi mới trả được?
Mấy người trong nhà hỏi thăm:
– Quí khách là ai? Từ đâu đến mà lỡ đường?
Ân Hồng nói:
– Ta tên Ân Hồng, con Vua Trụ, định sang Nam Ðô ra mắt Ngạt Sùng Võ.
Cả gia đình người nông phu nghe thất kinh, vội sụp lạy và nói:
– Chúng tôi xác phàm mắt tục, không biết Ðiện Hạ nên thất lễ, xin Ðiện Hạ dung thứ.
Ân Hồng hỏi:
– Ðây phải là đường qua Nam Ðô không?
Người chủ đáp:
– Phải. Cứ đường này đi thẳng chừng lối ba mươi dặm đường nữa thì tới. Nếu không dùng ngựa. Ðiện Hạ phải đi mất chừng một ngày.
Ân Hồng từ giã, nhắm hướng ấy thẳng tới. Tuy nhiên chỉ đi chừng vài dặm, chân đã mỏi mê, không sao bước nổi nữa, lại gặp khoảng đồng trống, không có nhà cửa, phần thì trời tối, biết nơi nào tạm trú?
Ân Hồng nhìn thấy đàng trước, xa xa trong cụm rừng có cái miễu lớn, chắc có thể nghỉ chân được, liền ráng sức lần đến.
Trước miễu có một tấn biển đề ba chữ: Miễu Huỳnh Ðế.
Ân Hồng vào trong quỳ lạy, vái:
– Hiên Viên Huỳnh Ðế là vua Thánh chế ra lễ, nhạc, áo xiêm, đứng vào hàng Ngũ Ðế. Tôi là Ân Hồng, cháu vua Thành Thang đời thứ ba mươi mốt, vì cha tôi là Trụ Vương nghe lời dua nịnh, giết vợ hại con, nên tôi phải đi tỵ nạn, lỡ đường xin ngụ một đêm, xin nhờ ơn vua Thánh che chở. Nếu ngày sau tôi lập nên nghiệp đế, tôi sẽ đúc tượng vàng, trùng tu miếu võ để đền ơn.
Vái xong, vì quá mỏi mệt Ân Hồng nằm xuống ngủ mê.
Còn Ân Giao đi tới được hơn bốn mưoi dặm đường xảy thấy một cái dinh, trên đề ba chữ “Thái Sư Phủ “.
Ân Giao nghĩ thầm:
– Ðây là dinh quan vào xin ngủ nhờ tiện lắm.
Liền bước đến cổng gọi lớn:
– Có ai giữ cửa chăng?
Ân Giao gọi luôn mấy tiếng vẫn không thấy ai trả lời, liền đi thẳng vào trong.
Bỗng nghe có tiếng ngâm thơ văng vẳng:
Quỉ vào cung cầm án con trời
Khiến người ngay hóa lửa trơi
Hổ phận tôi già về ruộng rẫy
Biết sao can gián một đôi lời
Ân Giao lắng tai nghe hết bài thơ, rồi cất tiếng hỏi:
– Có ai trong dinh không?
Trong dinh có tiếng hỏi vọng ra văng vẳng:
– Ai đó? Trời tối quá không thấy rõ ràng.
Ân Giao nói:
– Tôi là kẻ xa lạ, đi viếng bà con, lỡ đường trời tối, xin vào đây ngủ tạm một đêm, sáng mai dời gót.
Giọng nói trong dinh lại vọng ra:
– Tiếng nói người nào giống tiếng nói của người ở Triều Ca?
Ân Giao vội đáp:
– Phải. Tôi là người ở Triều Ca đến đây.
Trong dinh hỏi:
– Ở gần thành vua không?
Ân Giao đáp:
– Gần lắm.
Vừa dứt tiếng thì bên trong cánh cửa mở, một ông già bước ra mời Ân Giao:
– Hãy vào đây cho lão hỏi thăm chút việc.
Ân Giao thoáng thấy đã biết ngay là cựu Thừa Tướng Thương Dung, nhưng Thương Dung vì quá già cả, con mắt đã yếu không trông rõ trong bóng tối lờ mờ được.
Ân Giao xá một cái và nói:
– Tôi xin chào Thừa Tướng đây.
Bây giờ Thương Dung mới nhận ra là Ân Giao, vội vã sụp lạy nói:
– Ðiện Hạ đến đây mà tôi không hay để nghênh đón, tội tôi rất nặng xin Ðiện Hạ dung thứ.
Ân Giao nói:
– Xin quan Thừa Tướng chớ câu chấp như vậy.
Thương Dung nói:
– Ðiện Hạ đi một mình đến chổ quạnh hiu như thế này chắc là trong triều có việc gì hệ trọng. Hãy nói cho lão phu biết.
Ân Giao lau nước mắt, thuật lại mọi việc vừa xảy ra ở triều đình. Thương Dung dậm chân kêu trời nói:
– Không ngờ Thiên Tử đến nỗi này. Tam cang, ngũ thường đều đổ nát, mối nước ngữa nghiêng, tôi tuy ở trong rừng mà lo việc triều nội, nơm nớp trong lòng, ăn ngủ không yên. Nay cớ sự đến thế này, Hoàng Hậu bị chết oan, hai vị Ðiện Hạ bị lưu lạc, các quan triều không ai dám mở miệng can ngăn, thế thì còn gì xã tắc. Thôi Ðiện Hạ hãy an lòng, để tôi liều mạng già về Triều Ca viết sớ can vua lần nữa xem sao.
Nói rồi đưa Ân Giao vào trong bày tiệc thết đãi.
Lúc này Ân Phá Bại và Lôi Khai dẫn đám quân lao mã liệt đi trọn ngày không nghỉ, nhưng chỉ được vài chục dặm đường. Qua ngày thứ nhì đi càng chậm hơn, đến ngày thứ ba đi chậm hơn nữa. Lần hồi mới đến ngã ba lộ, chỗ hai vị Thái Tử chia tay.
Lôi Khai thấy tình thế bi đát, nói với Ân Phá Bại:
– Chúng ta nên tuyển lựa một số binh mạnh, chia làm hai tốp kéo qua Ðông Lổ, còn một tốp tôi dẫn đến Nam Ðô cho kịp ngày giờ. Nếu cứ dẫn cả lũ lão nhược như vầy biết chừng nào mới theo kịp?
Ân Phá Bại nói:
– Võ Thành Vương đã cấp cho chúng ta ba ngàn quân, nếu đuổi bớt về e rằng người giận chúng ta chăng?
Lôi Khai nói:
– Không cần đuổi về. Cứ cho những quân lính tàn tật, bệnh hoạn đóng lại ở đây, chờ chúng ta trở lại sẽ đưa họ về triều.
Ân Phá Bại cho ý kiến ấy rất hay, liền tuyển một số người ngựa khả dĩ dùng được, còn bao nhiêu cho đóng đồn an nghỉ nơi ngã ba đường, cấm không được đi đâu hết.
Lôi Khai lại nói:
– Nếu anh về trước thì đợi tôi nơi đây, còn tôi về trước cũng sẽ đợi anh nơi đây. Chúng ta dùng ngả ba này làm chỗ hò hẹn.
Kế hoạch xếp đặt xong, hai tướng lựa được hơn hai trăm người ngựa, chia làm hai tốp kéo đi. Còn bao nhiêu quân lính bệnh hoạn được phép nghỉ ngơi, mừng không thể tả.
Triệu Khải thấy quân đem thây Thương Dung đi bỏ ngoài đồng nổi giận ra nói lớn:
– Tôi không thể phụ ơn vua trước, nên quyết chết giữa đền để tạ tội với tiên quân.
Nói rồi chỉ vào mặt Trụ Vương mắng:
– Hôn quân, nghe ta hài tội đây: Giết Thừa Tướng, hại quan trung, chư hầu sẽ không còn kính trọng. Mê Ðắc Kỷ giết vợ bỏ con, cơ nghiệp không còn. Làm vua mà không tròn bổn phận làm vua, tam cang ngũ thường đổ nát, như thế còn ai kính phục.
Trụ Vương nổi giận đỏ mặt hét:
– Ðồ thất phu, không còn biết giữ đạo vua tôi là gì nữa. Tả hữu đâu, đem Bào Lạc đốt nó đi cho khuất mắt ta.
Triệu Khải nói:
– Ta chết đi không hại gì, vì tên vua ngu muội sẽ được tiếng trung thần, còn hôn quân mất nước sẽ bị nghìn đời sỉ vả, tiếng xấu thiên thu.
Triệu Khải nói một hồi thì lửa Bào Lạc đã đỏ, quân sĩ bắt Triệu Khải trói lại, lột hết áo mão, xiềng vào Bào Lạc. Phút chốc thịt xương Triệu Khải tan thành tro bụi. Triều thần ai nấy đều thương xót, thở vắn than dài.
Trụ Vương truyền bãi trào về cung, Ðắc Kỷ ra nghênh tiếp, Vua Trụ nói:
– Bữa nay Thương Dung đập đầu tự tử, Triệu Khải bị ta dùng Bào Lạc đốt thành than. Tuy vậy, ta xem lối hành hình ấy chúng nó không ghê, vậy Khanh tính kế nào trị bọn triều thần mới được.
Ðắc Kỷ tâu:
– Xin Bệ Hạ yên tâm, thần thiếp suy tính một hôm sẽ có cách.
Trụ Vương nói:
– Nay mỹ nhân đã làm Hoàng Hậu, không còn ai vô lễ với mỹ nhân nữa, chỉ sợ Khương Hoàng Sở ở Ðông Lỗ cử binh về đánh, trong lúc Thái Sư Văn Trọng chưa về, biết ai chống cự?
Ðắc Kỷ tâu:
– Thần thiếp là phận đàn bà, mưu trí không bao nhiêu, xin Bệ Hạ đòi Bí Trọng vào hỏi xem có mưu gì hay không?
Trụ Vương khen:
– Ái khanh nói rất phải.
Liền đòi Bí Trọng ứng hầu, và nói:
– Trẫm đang lo Khương Hoàng Sở cử binh làm phản, báo cừu cho Khương Hậu, Khanh có kế gì hay để ngăn ngừa mũi giặc ấy hay không?
Bí Trọng quì tâu:
– Khương Hậu đã mất, hai vị HoàngTử bị gió thổi bay mất, Thương Dung đập đầu tự vận, Triệu Khải bị Bào Lạc ra tro, các quan văn võ thế nào cũng oán trách Bệ Hạ, và nhắm vào lực lượng Khương Hoàng Sở có thể báo thù được. Mũi giặc ấy tất không tránh khỏi. Nay Bệ Hạ nên xuống chiếu, triệu bốn Trấn chư hầu về chầu, chém đầu hết. Như vậy, tám trăm Trấn chư hầu nhỏ sẽ không ai làm chủ chẳng khác rắn không đầu, cọp thiếu vây, dù chúng có muốn làm phản cũng không được. Ðó là Bệ Hạ biết lo xa.
Vua Trụ khen:
– Khanh thật là kẻ mưu cao trí rộng. Tô Hoàng Hậu tiến cử không lầm.
Bí Trọng cúi lạy ra về. Trụ Vương liền viết chiếu sai sứ giả đi bốn Trấn. Bốn vị sứ thần tuân lệnh ra đi…
Vị sứ thần đến Tây Kỳ thấy phong tục rất tốt, cảnh vật hiền hòa, từ dân chúng đến các quan đều một lòng yêu nước, tuân theo lề luật quốc gia, không gian tham, không trộm cắp, không một tiếng gây gỗ ngoài chợ.
Sứ thần khen:
– Nghe đồn ông Bá Cơ nhân đức, trị nước ôn hòa, quả nhiên đúng như thuở Thuấn Nghiêu, lời đồn ấy không sai.
Bấy giờ, Tây Bá Cơ Xương đang lâm triều nghị việc với các quan văn võ, bỗng nghe có tin báo:
– Thiên sứ xin vào yết kiến.
Tây Bá liền dẫn bá quan văn võ ra khỏi thành nghênh tiếp.
Sứ thần bước vào trước điện, truyền đặt bàn hương án, và đọc chiếu như sau:
“Biển Bắc dậy loạn, thiên hạ đảo huyền, các quan triều thần đều hết phương hết kế. Trẫm lấy làm lo lắm nên ban chiếu triệu bốn Trấn chư hầu về Triều Ca cùng Trẫm bàn việc binh đao. Nếu được chiếu này, Tây Bá hãy đến cho mau, kẻo Trẫm trông đợi. Như dẹp xong giặc, Trẫm sẽ chia đất phong thêm. Trẫm không quên lời, Khanh chớ trễ bước”.
Tây Bá lạy rồi truyền dọn yến đải sứ và sáng hôm sau sắm lễ vật đưa Thiên sứ lên đường.
Tây Bá nói với Thiên sứ:
– Xin ngài về trước báo tin với Thiên tử hay tôi sắp xếp xong sẽ về Triều Ca liền để kịp họp mặt cùng bốn Trấn.
Sứ thần lên ngựa ra đi.
Tây Bá trở vào kêu Táng Nghi Sanh dặn:
– Ta đi khỏi thì việc trong giao cho quan Ðại phu, việc ngoài giao cho Nam Cung Hoắt và Tân Giáp.
Nói rồi cho đòi Bá Áp Khảo đến dạy rằng:
– Hôm qua Thiên tử đem chiếu đòi cha, cha có bói thử một quẻ thấy chuyến đi này dữ nhiều lành ít. Dẫu không đến chết cũng bị tù nạn bảy năm. Con ở Tây Kỳ phải noi theo lề luật, không nên đổi phép nước, cứ theo đường lối cũ mà làm. Anh em phải hòa thuận, tôi chúa phải yêu thương, muốn làm việc gì phải tính cho kỹ lưỡng. Dân nghèo phải xuất kho cứu giúp, dân no phải dạy dỗ, chớ có hành hạ khắt khe, đợi bảy năm nữa mãn hạn cha sẽ về, chớ nên thăm viếng.
Bá Áp Khảo quì thưa:
– Tâu phụ vương. nếu phụ vương bị bảy năm tai nạn vậy để con đi thế cho.
Tây Bá nói:
– Mỗi người đều có một số mạng do do trời đất an bài, trốn tránh sao được. Con cứ ở nhà làm đúng như theo lời giáo huấn của cha là giữ được hiếu đạo rồi.
Tây Bá vào cung thăm mẹ là bà Thái khuông, thưa rành các việc.
Thái Khương nói:
– Vừa rồi mẹ có gieo quẻ thấy con bị nạn bảy năm, con có biết không?
Tây Bá nói:
– Thiên tử có lệnh đòi con, con vừa gieo quẻ cũng thấy như vậy. Nay mọi việc con đã sắp xếp xong, giao cho triều thần quản lãnh, còn Bá Áp Khảo thay con thế ngôi, con vào thưa cho mẹ rõ, mai sáng con lên đường vào Triều Ca.
Bà Thái Khương căn dặn:
– Con đến Triều Ca phải giữ mình, coi bản thân là trọng.
Tây Bá lạy tạ, nói:
– Con tuân lời mẹ.
Nói rồi từ giả Nguyên Phi Thái Cơ.
(Tây Bá có bốn cái vú và hai mươi bốn người vợ, sinh được chín mươi chín người con. Con trai lớn là Bá Áp Khảo, con thứ là Cơ Phát, sau lên ngôi Thiên tử gọi là Võ Vương).
Bữa sau Tây Bá sắm sửa ra đi đem năm mươi binh mạnh.
Thế tử Bá Áp Khảo cùng quần thần là Táng Nghi Sanh, Nam Cung Hoát, Mao Công Toại, Châu Công Ðán, Thiệu Công Thích, Tất Công, Vinh Công, Tân Giáp, Tân Miễng, đến trường đình dọn tiệc tiễn hành.
Tây Bá uống rượu với các quan và nói:
– Hôm nay ta cùng các quan cách biệt, nhưng bảy năm nữa vua tôi sẽ trùng phùng.
Tây Bá dặn đi dặn lại, Bá Áp Khảo:
– Anh em con nên hòa thuận để cha khỏi nhọc lòng lo.
Các quan đều quyến luyến không nỡ rời. Giờ tiễn hành kéo dài hơn nửa buổi.
Tây Bá lên ngựa đi bảy mươi dặm thì mới đến núi Kỳ Sơn. Lần hồi đi hơn ba mươi dặm nữa mới thấy núi Yên Sơn trước mặt.
Bấy giờ trời đã gần tối, Tây Bá truyền quân dừng lại và nói:
– Trời sắp có mưa to, chúng bay hãy coi có khoản rừng rậm hoặc nhà ai gần đây núp mưa đã.
Quân lính nghe nói ngạc nhiên thì thầm:
– Trời không có chút mây, nắng chang chang như lửa, mưa sao đuợc!
Thế rồi chỉ chốc lát, mây kéo nghịt trời. Tây Bá hối quân sĩ vào rừng rậm cho mau.
Vừa chạy tới cụm rừng đã thấy trời trút nước xuống như thác đổ hơn nửa giờ vẫn chưa tạnh.
Tây Bá lại nói với quân sĩ:
– Hãy ngồi xít vào kẻo có sấm lớn.
Quân sĩ vội nép mình vào trong, xảy nghe một tiếng sấm như xé không gian, như núi lở đất long, làm ai nấy kinh hãi
Trời dứt mưa, quân sĩ uể oải lên đường. Tây Bá ướt cả áo giáp ngồi trên ngựa, nói:
– Sấm lớn quá chắc có tướng tinh ra đời. Chúng bay đi tìm đi tìm tướng tinh xem thử.
Quân sĩ đưa mắt nhìn nhau cười thầm:
– Tướng tinh là ai? Biết đâu mà tìm?
Tuy vậy quân sĩ không dám trái lệnh, phân nhau bốn hướng đi lang thang làm ra bộ tìm kiếm để dạo cảnh luôn.
Bỗng nghe bên gò mả có tiếng con nít khóc oa oa. Quân sĩ xúm lại, thấy một đứa trẻ sơ sinh ai bỏ rơi ở đó. Chúng bàn với nhau:
– Có khi tướng tinh là đứa bé bỏ rơi này chăng?
Bèn bồng đứa bé đến trao cho Tây Bá.
Tây Bá thấy thằng nhỏ mặt như nhụy đào, mắt như sao nháy, mừng lắm, nói với quân sĩ:
– Ta đã có chín mươi chín đứa con, nay nuôi thằng nhỏ này nữa cho đủ một trăm. Tướng mạng nó ngày sau quí lắm. Bây giờ bồng nó vào xóm mướn người nuôi dưỡng, đợi bảy năm nữa ta sẽ rước về.
Tây Bá cùng đoàn quân tìm đến một thôn xóm, bỗng gặp một vị đạo sĩ, tay cầm gậy bước ra cản đường nói:
– Xin chào Chúa công.
Tây Bá liền xuốg ngựa đáp lễ và hỏi:
– Ðạo sư ở động nào, đến đây có việc gì?
Ðạo sĩ nói:
– Tôi ở động Ngọc Trụ, thuộc núi Chung Nam tên là Vân Trung Tử, vì nghe sấm có biết có vì tướng ra đời nên đến đây tìm.
Tây Bá truyền đem hài nhi ra cho Ðạo sĩ xem.
Vân Trung Tử liền bồng xem một hồi rồi nói:
– Tướng tinh đợi đến lúc này mới chịu ra mắt.
Rồi nói với Tây Bá:
– Ðể tôi mang nó về núi nuôi dưỡng, chừng Chúa công trở lại tôi sẽ giao trả.
Tây Bá nói:
– Ðạo sư muốn như thế cũng được. Song tôi muốn đặt cho nó một cái tên, để sau này tôi dễ dàng gặp lại nó.
Vân Trung Tử nói:
– Do tiếng sấm đó mà sinh ra nó, vậy đặt tên nó là Lôi Chấn Tử cho tiện.
Tây Bá khen phải, trao đứa bé cho Vân Trung Tử. Vân Trung Tử từ giã, bồng Lôi Chấn Tử về động.
Còn Tây Bá đi khỏi năm ải qua sông Huỳnh Hà, thẳng đến Triều Ca, vào trạm Kim Ðình đã thấy ba Trấn chư hầu cùng nhau ngồi uống rượu.
Trông thấy. Tây Bá mọi người đều mừng rỡ đón chào, Khương Hoàng Sở hỏi:
– Tây Bá Hầu sao đến trễ vậy?
Tây Bá nói:
– Ðường xa quá, tôi lật đật mà vẫn đến sau.
Kế quân dọn tiệc, bốn vị chư hầu ngối lại uống rượu cho đến tối.
Tây Bá nói:
– Chẵng biết có việc chi quan trọng lắm, nên Thiên Tử cho đòi chúng ta, chớ như giặc Bắc thì đã có Võ Thành Vương thừa sức cán đáng, xếp đặt trong triều thì có Tỉ Can tài ba lỗi lạc, chúng ta về đây chẳng biết việc gì?
Ba trấn chư hầu kia cũng không ai định được duyên cớ, cứ ngồi uống rượu mãi.
Bấy giờ rượu đã ngà ngà say, Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ lâu nay nghe tiếng Sùng Hầu Hổ bóc lột của dân, tham nhũng nhiều việc, nên ngứa họng nói:
– Này, Bắc Bá Hầu tôi muốn nói với ngài một lời, chẳng biết ngài có giận tôi không?
Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ cười lớn:
– Có chuyện gì thì cứ nói ra nghe. Chúng ta cùng là chức hầu cả, chỗ thân tình còn e ngại gì!
Ngạt Sùng Võ nói:
– Nếu thế thì còn gì thân mật bằng. Tôi nghe ông có nhiều tăm tiếng không tốt, mất thể diện đại thần! Ông bóc lột của dân, chia với Vưu Hồn, Bí Trọng là hai tên dua mị. Việc ấy có hay không?
Sùng Hầu Hổ đỏ mặt, nói:
– Ai nói với ông như vậy!
Ngạt Sùng Võ cười lớn:
– Ðó là tiếng đồn, cần gì phải có chứng cớ. Tôi nghe ông lúc làm lầu Trích Tinh đã lấy của nhà giàu, bắt nhà nghèo nai lưng gánh chịu, thật mất lẽ công bình. Lời xưa nói: chứa lành được phước, chứa dữ gặp họa. Tôi với ông là chỗ thân tình, không lẽ cứ để ông mang tiếng xấu ấy mãi sao. Ông nên sửa chữa hành động của mình để chuộc lại tiếng xấu ấy.
Sùng Hầu Hổ ỷ thế Vưu Hồn, Bí Trọng nên tánh tình ngang ngạnh, khi đã chạm tự ái rồi không còn kể gì phải trái nữa, trợn mắt nhìn Ngạt Sùng Võ hét lớn:
– Khốn nạn! Mày dám tìm lời bêu xấu ta truớc mặt chư hầu à?
– Nam Bá Hầu lấy lời phải khuyên nhủ, sao ông lại làm dữ như vậy. Giữa tiệc có chúng tôi, lẽ nào chúng tôi để ông đánh Nam Bá Hầu. Nếu ông có lỗi thì ăn năn, bằng không thì cũng nên thanh minh, rồi bỏ qua, nối lại tình giao hảo với nhau không tốt hơn sao?
Sùng Hầu Hổ muốn đánh Ngạt Sùng Võ, nhưng thấy Tây Bá Hầu can ngăn, đành rút tay về, toan ngồi xuống, chẳng ngờ Ngạt Sùng Võ đã lẹ tay hơn, đánh ngay vào mặt Sùng Hầu Hổ một cái đau thấu xuơng.
Sùng Hầu Hổ không còn nhịn được nữa, xốc tới ôm Ngạt Sùng Võ vật xuống. Hai người bám sát nhau.
Khương Hoàng Sở vội chen vào giữa vẹt hai người ra, nói lớn:
– Ðại thần mà đánh lộn với nhau thì còn gì thể thống nữa! Bắc Bá Hầu ơi đêm đã khuya, nên đi nghỉ là hơn.
Sùng Hầu Hổ nuốt hận đi ngủ.
Có thơ rằng:
Uống rượu bày lời nói thấp cao
Tôi gian toan kế hại anh hào
Loạn ly từ đấy tràn thiên hạ
Dân ở Triều Ca mấy vạn hao.
Sùng Hầu Hổ đi ngủ, chỉ còn ba vị chư hầu ba trấn ngồi nói chuyện suốt đêm.
Có một tên quân hầu thấy vậy lén ngâm nhỏ một câu:
Nửa đêm rượu cúc vui canh lụn
Tảng sáng máu hường nhuốm chợ mai.
Vì đêm khuya, giọng ngâm rất nhỏ, nhưng nghe rất rõ ràng.
Tây Bá Hầu bỗng hỏi lớn:
– Ai vừa ngâm câu thơ đó hãy ra đây ta bảo.
Mấy tên quân hầu đều đến quì trước mặt không ai dám nhận cả.
Tây Bá Hầu nói:
– Ta vừa nghe rõ ràng, chúng bay chối sao được. Nếu không có đứa nào thú nhận ta truyền chém hết.
Bọn quân hầu thất kinh, chỉ vào một tên quân đàng trước nói:
– Tai họa xảy ra thế này là tại tên Dao Phước đó.
Tây Bá liền hỏi tên quân gọi là Dao phước:
– Vì đâu mà ngươi lại ngâm hai câu thơ ấy. Hãy nói thiệt, ta trọng thưởng.
Dao Phước thưa:
– Việc này rất trọng đại và bí mật. Tôi là đứa bộ hạ của quan nội giám nên mới rõ. Sở dĩ Khương Hoàng Hậu thác oan, hai vị Hoàng Tử bị gió thổi bay mất vì Thiên tử đam mê mỹ sắc, không nghe lời can gián của tôi trung, chế hình Bào Lạc hại tôi hiền, do đó Thiên tử sợ chư hầu dấy binh nổi loạn, nên nghe lời kẻ dua nịnh gạt các ngài về đây để chém đầu. Tôi thấy các ngài là những đại thần không nỡ giấu nên mới tiết lộ điều đó.
Khương Hoàng Sở nghe nói hỏi:
– Khương Hậu phạm tội gì mà bị hành hình đến chết?
Dao Phước kể lại mọi việc vừa xảy ra trong cung cấm và ngoài triều thần trong giai đoạn vừa rồi.
Khương Hoàng Sở nghe xong ngã lăn ra chết giấc. Tây Bá thương hại, vội đỡ dậy.
Khương Hoàng Sở quá đau đớn, nói:
– Con tôi bị khoét mắt, đốt tay, thật là một cực hình chưa bao giờ có đối với một vị Hoàng Hậu.
Tây Bá khuyên:
– Người chết rồi không sống đậy được nữa. Hiền hầu có than khóc cũng chỉ làm cho kẻ khác tủi lòng. Ðể mai, chúng ta đồng viết sớ vào triều can gián, may ra Bệ hạ hồi tâm sửa mình, lo việc chánh.
Khương Hoàng Sở nói:
– Trước đây các vị trung thần như Thương Dung, Triệu Khải, Mai Bá chỉ vì can vua mà bỏ mình. Nay các ngài vì tôi dự vào việc này e không khỏi họa. Thôi, cứ để mình tôi dâng sớ mà thôi.
Tây Bá Hầu nói:
– Hiền hầu dâng lên một sớ, còn chúng tôi đứng chung một sớ. Tất cả đều có lời can vua mới phải đạo làm tôi trong lúc quốc biến gia vong này.
Khương Hoàng Sở vừa khóc vừa ngồi lại viết sớ.
Bấy giờ Vưu Hồn, Bí Trọng thấy các trấn chư hầu đã về đủ mặt liền vào cung báo cho Trụ Vương hay.
Trụ Vương mừng lắm hỏi Bí Trọng:
– Trẫm phải làm sao bây giờ?
Bí Trọng tâu:
– Ngày mai bốn chư hầu thế nào cũng dâng sớ can gián, xin Bệ hạ đừng xem đến làm gì, cứ việc truyền đem chém đầu hết.
Vua Trụ nhận lời, sáng hôm sau, Trụ Vương lâm triều Huỳnh Môn quan vào báo:
– Bốn trấn chư hầu được lệnh bệ hạ xin vào ra mắt.
Vua Trụ cho vào. Bốn chư hầu lạy chúc mừng xong, Khương Hoàng Sở dâng lá sớ lên.
Tỉ Can tiếp lấy trải trước long sàng.
Vua Trụ không thèm xem, hỏi Khương Hoàng Sở:
– Khanh đã biết tội chưa?
Khương Hoàng Sở tâu:
– Tôi trấn Ðông Lỗ, bình an một cõi, noi theo lề luật nào có tội gì. Bệ hạ mê sắc, nghe lời nịnh thần không kể đến nghĩa vợ chồng, khoét mắt, đốt tay Hoàng Hậu hành hình một cách ghê gớm như vậy đâu phải luật Thành Thang. Ðã vậy còn ra lệnh chém hai vị Ðiện Hạ, làm Bào Lạc đốt tôi trung. Tôi đội ơn tiên đế không kể mạng sống, liều mình dâng sớ khuyên can. Xin Bệ hạ bỏ tà quy chánh, giết kẻ nịnh thần, xa rời mỹ sắc lo việc trị dân sửa đức thì người sống cũng mang ơn, mà người chết cũng cam tâm nhắm mắt.
Trụ Vương nổi giận mắng lớn:
– Lão tặc! Ngươi dám thông đồng với con gái mưu giết Trẫm soán đoạt ngôi trời. Tội ấy lớn bằng non, không lo chịu tội còn tìm lời mắng Trẫm. Võ sĩ đâu, hãy bắt tên phản tặc này đem phân thây mau.
Võ sĩ áp lại lột hết áo rnão.
Khương Hoàng Sở mắng vãi vào mặt Trụ Vương không dứt.
Ba trấn chư hầu đều quì xuống tâu:
– Khương Hoàng Sở lòng ngay phò chúa, chẳng có hành động thí quân, xin Bệ Hạ xem sớ của chúng tôi rồi xét lại.
Vua Trụ quyết tình giết hết bốn Trấn chư hầu nên không thèm coi sớ.