Nói về Cao Minh, Cao Giác giải ngự tửu đến thưởng Viên Hồng, Viên Hồng biết mặt hai anh em họ Cao là Ðào tinh và Liễu quỷ ở núi Kỳ Bàng, còn hai anh em họ Cao cũng biết Viên Hồng là con vượn bạch ở núi Mai Sơn nên gặp nhau mừng rỡ lắm.
Kế đó thiên sứ trở về Triều Ca còn Viên Hồng, Cao Minh, Cao Giác đồng hợp lực dẫn quân khiêu chiến.
Tử Nha nghe tin tướng Thương khiêu chiến liền hỏi các tướng:
– Ai dám ra đối địch?
Na Tra xin đi, Tử Nha nhậm lời.
Na Tra lên xe, xông ra trận, hỏi hai tướng:
– Chúng bay lên gì?
Cao Minh nói:
– Ta là Cao Minh, em ta là Cao Giác vâng lệnh Viên nguyên soái ra binh bắt Tử Nha, ngươi là ai dám ra đây thế mạng?
Na Tra nổi giận mắng:
– Loài yêu quái dám vô lễ.
Nói rồi đâm một thương, Cao Minh đưa búa ra đỡ, Na Tra hiện ba đầu tám tay đánh với hai tướng.
Qua mấy hiệp, Na Tra quăng Càn khôn quyện lên đánh trúng đầu Cao Giác đổ hào quang và quăng Cửu long thần hỏa trạo lên chụp Cao Minh đốt một hồi.
Thấy hai tướng địch đâu mất, Na Tra trở về thưa với Tử Nha:
– Tôi đập Cao Giác một Càn khôn quyện nát ra tro và đốt Cao Minh trong nơm phép tiêu thành khói.
Tử Nha nghe nói mừng rỡ, khen Na Tra oai hùng.
Chẳng ngờ Cao Minh, Cao Giác không chết chạy về dinh ra mắt Viên Hồng thưa:
– Khương Thượng cậy các tướng thần thông thu thành đoạt ải, nay gặp chúng ta thì chúng nó không làm gì nổi.
Viên Hồng khen ngợi chẳng cùng.
Hôm sau, sai anh em họ Cao đến dinh Châu khiêu chiến nữa.
Quân vào báo:
– Có Cao Minh, Cao Giác đến khiêu chiến.
Tử Nha lấy làm lạ hỏi Na Tra:
– Ngươi nói là hai anh em họ Cao đã bị người giết hết sao lại còn đến đây?
Na Tra nói:
– Có khi hai tướng ấy học phép Tiềm thân nên mới khỏi. Xin Nguyên soái cho tôi ra trận xem thử.
Tử Nha truyền sáu trăm chư hầu đồng theo xem trận.
Khi ấy Cao Minh nói với Cao Giác:
– Na Tra nói anh em chúng ta có phép Tiềm thân nên bảo Tử Nha ra trận để dò xét. Tử Nha lại truyền sáu trăm chư hầu đi theo, vậy anh em ta phải trổ tài một phen cho chúng biết.
Nói vừa dứt lời đã thấy nơi dinh Châu quân sĩ kéo ra đông nghịt, Tử Nha ngồi trên Tứ Bất Tướng, hai bên các tướng theo hầu, đàng sau mấy trăm chư hầu đông nghẹt.
Khương Thượng lướt tới, gọi Cao Minh, Cao Giác nói:
– Các ngươi dám ngịch mạng trời, chuốc họa vào thân sao?
Cao Minh cười ngất nói:
– Khương Thượng! Ta cũng biết ngươi là học trò núi Côn Lôn, song lâu nay ngươi chưa gặp người hay cứ tưởng mình là giỏi. Hôm nay ta cho ngươi thấy lẽ cao thấp.
Nói rồi đâm một kích. Dương Nhậm giục thú tới, đưa giáo Phi Vân đỡ liền.
Cao Giác xách búa xông vào, Lý Tịnh cầm kích lướt tới ngăn lại.
Dương Tiễn đứng ngoài xem rõ, biết Cao Minh, Cao Giác không phải người, nhưng không rõ loài yêu gì hiện thân.
Dương Nhậm đánh với Cao Minh một hồi, liền lấy quạt Ngũ hỏa quạt một cái, Cao Minh la lên một tiếng, hóa khói đen bay mất.
Còn Lý Tịnh quăng cái tháp vàng lên, chụp Cao Giác, nhưng khi giở ra thấy cái tháp không.
Viên Hồng thấy hai tướng bại tẩu, liền sai Ngô Long, Thường Hạo ra tiếp.
Thường Hạo hét lớn:
– Có ta đến đây, chớ khá dễ ngươi.
Dương Tiễn nổi xung, giục ngựa ra cự chiến.
Ngô Long xông vào, bị Na Tra cản lại giao công, còn Viên Hồng quyết đánh một trận mà bắt Tử Nha liền xách thiết bảng vào trận.
Lôi Chấn Tử, Vi Hộ thấy Viên Hồng xông vào lập tức cản lại.
Lôi Chấn Tử vỗ cánh bay lên, giơ côn đập xuống, Vị Hộ quăng Gián ma xử đánh Viên Hồng.
Viên Hồng biết Gián ma xử là báu vật cầm trong tay thì nhẹ, nhưng quăng lên cao rớt xuống thì nặng như núi, nên hiện hào quang bay đi.
Gián ma xử sa nhằm con ngựa của Kim Viên Hồng nát như tương.
Dương Tiễn quăng Hạo thiên khuyển, Thường Hạo hóa gió bay đi.
Na Tra quăng nơm phép ra, Ngô Long hóa mây xanh bay mất.
Té ra Tử Nha thắng trận cũng như không, liền thâu binh về trại.
Dương Tiễn thưa:
– Cứ giao chiến như vậy thật vô ích. Khi thầy tôi gần về có dặn binh tới Mạnh Tân sẽ gặp Mai Sơn thất quái ngăn trở, phải ráng giữ gìn. Nay tôi thấy mấy tướng ấy đều có hào quang, chắc là chúng nó. Xin sư thúc phải dùng phép gì mới được.
Tử Nha suy nghĩ một hồi rồi lập trận bát quái cửu cung, sai Lý Tịnh trấn giữ hướng Ðông, Na Tra trấn giữ hướng Tây, Lôi Chấn Tử trấn giữ hướng Nam, Dương Nhậm trấn giữ hướng Bắc, Dương Tiễn thủ tại trung ương.
Các tướng đều đóng nọc bằng cây đào, trên nọc có dán bùa, bốn phía đều có cắm sẳn đồ ô uế như máu chó mực, gà ô, phân, nước tiểu.
Tử Nha lại trao mỗi tướng nột cái thiệp, dặn:
– Nếu thấy ta dụ Cao Minh, Cao Giác vào trận, phải dùng đồ ô uế đổ lên cây đào, thì loài yêu quái biến không được.
Lại dặn Dương Tiễn:
– Nếu ngươi thấy bốn cửa đổ vật ô uế trên nọc rồi thì ngươi dùng phép ngũ lôi đánh xuống.
Các tướng đều tuân lệnh, đâu đó sắp đặt sẳn sàng.
Bấy giờ Cao Giác nghe Tử Nha bàn soạn cũng nực cười.
Cao Minh thấy bố trận thì cười ngất. Bởi Cao Minh mắt thấy xa ngàn dặm, còn Cao Giác thì tai nghe ngàn dặm, cho nên việc gì trong trại binh Châu hai người cũng biết.
Hai anh em cười nói với nhau rằng:
– Chúng khéo bày chuyện con nít, dễ gì mà bắt anh em ta được.
Hôm sau Khương Thượng dẫn binh khiêu chiến.
Viên Hồng nghe tin sai Cao Minh, Cao Giác ra đón địch.
Hai anh em họ Cao ra trước trận cười lớn nói:
– Tử Nha! Ngươi xưng là đại Nguyên soái Tây Kỳ, song không bằng một đứa thất phu? Nếu ngươi có tài thì điều binh khiển tướng, sao lại đóng nọc đào, dán bùa tà, dùng phân với nước đái đàn bà mà làm gì. Ta không phải yêu tinh ủy mỵ, dùng phép tà đạo đâu.
Nói rồi áp tới đánh liền.
Nam Cung Hoát, Võ Kiết xông ra hỗn chiến, cái búa đồng của Cao Minh chạm với siêu đao của Nam Cung Hoát nẩy lửa, còn cây thương của Võ Kiết rất lẹ, địch với cây kích của Cao Giác cũng tài.
Tử Nha thấy bốn tướng đánh cầm đồng, liền múa gươm xông vào trợ chiến.
Ðánh được ít hiệp, Tử Nha giục Tứ Bất Tướng chạy ngay, Cao Minh cười lớn:
– Tử Nha, ta biết ngươi muốn dụ ta vào trận cửu cung bát quái, song ta há sợ sao.
Nói rồi Cao Minh, Cao Giác đồng đuổi theo Tử Nha.
Bấy giờ Lý Tịnh, Na Tra, Lôi Chấn Tử, Dương Tiễn đang trấn tại các cửa trận, thấy hai tướng rượt Tử Nha nhảy vào, liền vội vã đổ những vật ô uế lên đầu cây đào.
Dương Tiễn bắt ấn sấm nổ vang trời.
Vi Hộ và Tử Nha xông ra cố ý bắt hai tướng chẳng ngờ hai tướng ấy đã hóa hào quang xanh bay mất.
Tử Nha ngơ ngác thu binh về trại, nổi giận nói:
– Trong dinh có kẻ phản phúc, đem tin báo với giặc thì biết ngày nào thành công.
Dương Tiễn thưa:
– Xin sư thúc xét lại, binh tướng Tây Kỳ theo Nguyên soái đến đây, trước cự ba mươi sáu đạo binh, sau qua năm ải, nhiều trận sinh tử còn chưa nói lộ ra ngoài, huống chi nay đã gần tới Triều Ca lẽ nào theo giặc. Tôi coi Cao Minh, Cao Giác là loài yêu mỵ, chắc nó độn vào dinh nghe lóng mà thôi. Ðể tôi đi thăm dò, tìm cho ra gốc tích của nó rồi sẽ liệu.
Tử Nha nói:
– Ngươi định đi đâu bây giờ?
Dương Tiễn thưa:
– Không nên nói trước. Nếu bàn tính trước chúng biết được khó thành công.
Tử Nha không hỏi nữa, và tối hôm ấy Dương Tiễn một mình lén ra đi.
Bên kia, Cao Minh, Cao Giác vào dinh ra mắt Viên Hồng, thuật chuyện phá trận:
– Bữa nay Dương Tiễn đi đâu không biết, chắc là đi tìm lý lịch của chúng ta, song chúng nó làm gì tìm được?
Nói rồi ba tướng đồng cười với nhau.
Trong lúc đó, Dương Tiễn độn thổ đến động Kim Hà, thấy cửa đá đóng chặt, bèn gõ cửa và kêu.
Ðồng tử ra hỏi:
– Sư huynh về đây có chuuyện gì?
Dương Tiễn nói:
– Ta về yết kiến thầy có việc gấp, hãy vào thưa giùm.
Ðồng tử vào thưa lại. Ngọc Ðảnh chơn nhơn đòi Dương Tiễn vào và hỏi:
– Ngươi về đây làm gì?
Dương Tiễn đem hết các việc tường trình một hồi.
Ngọc Ðảnh chơn nhơn nói:
– Hai con quái vật ấy là Ðào Tinh, Liễu Quỷ. Ðào Tinh râu đỏ, Liễu Quỷ mặt xanh. Nguyên tại Kỳ bàn có cây liễu và cây đào lâu năm, lớn lắm, rễ bò ba mươi dặm, thọ khí âm dương nhờ hơi nhật nguyệt thành ra hai con tinh. Tại núi ấy có miễu Huỳnh Ðế Hiên viên, trong miễu có lên cốt hai con quỷ sứ bằng đất, một con tên là Thiên lý nhãn, một con tên là Thuận phong nhĩ, Ðào Tinh, Liễu Quỷ nhập vào hai cốt ấy, nên Thiên lý nhãn trông thấy ngàn dặm, Thuận phong nhĩ nghe xa ngàn dặm, nếu ngoài ngàn dặm thì không thấy, không nghe được. Vậy ngươi bảo Tử Nha sai người đến Kỳ Bàn sơn bứng gốc đào, cột liễu, đốt cho tiêu ra tro, và đập nát hai cái hình quỷ sứ trong miễu Hiên viên, thì nó hết linh, hết phép, rồi làm theo kế này, tự nhiên trừ tuyệt.
Dương Tiễn tuân lệnh từ tạ lui ra về, ra khỏi núi Ngọc Tuyền, trở lại Mạnh Tân.
Tử Nha thấy Dương Tiễn về ra mắt, liền hỏi:
– Ngươi đi việc ấy ra thế nào?
Dương Tiễn lắc đầu không nói.
Tử Nha hồ nghi hỏi:
– Bữa nay ngươi làm gì lạ vậy?
Dương Tiễn nói:
– Bữa nay đệ tử chưa dám tỏ bày, xin cho mượn cây cờ lệnh để sai khiến chút việc.
Tử Nha biết có việc mật nhiệm, nên không dám hỏi nữa, liền lấy cờ lệnh đưa ra.
Dương Tiễn lãnh cờ ra sau dinh điểm ba ngàn binh truyền hai ngàn quân cầm hồng kỳ phất bốn phía, còn một ngàn quân thì đánh trống, xáng thanh la, nghe chát lỗ tai trông lòa con mắt.
Tử Nha lấy làm lạ, không hiểu cớ gì.
Dương Tiễn lại gần thưa:
– Cao Minh, Cao Giác là Thiên lý nhãn và Thuận phong nhĩ, nên phất cờ đỏ cho Cao Minh không thấy, xáng thanh la cho Cao Giác không nghe.
Nói rồi thuật hết mọi chuyện, và thưa:
– Thầy tôi dạy trừ căn nó rồi phải dùng phép thiên la địa võng cho ngút khói tỏa tứ bề, dụ chúng nó vào vòng, quăng Ðả Thần Tiên đánh mới được.
Tử Nha mừng rỡ y lời, sai Lý Tịnh đem ba ngàn quân đào gốc hai cây ấy, lại sai Lôi Chấn Tử đi đập hai cốt quỷ sứ trong miễu Hiên viên.
Hai tướng đều tuân lệnh.
Lúc ấy Cao giác nghe bên binh Châu gióng chiêng nổi trống, liền bảo Cao Minh:
– Anh xem thử bên dinh Châu làm cái gì vậy?
Cao Minh nói:
– Cờ đỏ phất tứ bề, coi lòa con mắt, không thấy vật gì cả. Hiền đệ nghe thử chúng đang nói chuyện gì đó?
Cao Giác nói:
– Chiêng trống vang trời, chát lỗ tai muốn điếc, dầu nó nói chuyện gì cũng chẳng nghe được.
Hai anh em hồ nghi và tức tối vô cùng.
Còn Tử Nha đợi Lý Tịnh và Lôi Chấn Tử trở về mới dám bày binh bố trận.
Bữa sau, Lôi Chấn Tử trở về thưa:
– Tôi đập cốt trong miễu Hiên viên nát tan, và tự lịnh đốt luôn miễu ấy làm cho tuyệt tích trừ căn, để chúng nó hết chỗ nương dựa, đợi phạt Trụ xong sẽ cất miễu lại cho ngài.
Tử Nha khen phải, truyền Na Tra, Võ Kiết lập trận Ngũ hành, xung quanh đều có bùa, chính giữa để một cái chén.
Lập trận xong rồi, Lý Tịnh trở về thưa lại:
– Hai cây cổ thụ đã bị đào tận gốc.
Tử Nha mừng rỡ, chờ đến sáng đem quân ra khiêu chiến.
Bỗng nghe quân vào báo:
– Trịnh Luân vận lương đã về.
Tử Nha truyền vào, Trịnh Luân đem nạp quan ấn, và nghe Thổ Hành Tôn đã chết, Trịnh Luân buồn bã vô cùng.
Bấy giờ Viên Hồng đánh với binh Châu đã lâu mà không phân thắng bại, nhóm các tướng truyền rằng:
– Ðêm nay chúng ta thừa lúc bất ngờ đi cướp trại địch, quyết một chuyến cho thành công.
Nói rồi liền khiến Cao Minh, Cao Giác, Thường Hạo, Ngô Long, bốn người chia làm bốn hướng đi trước. Còn các tướng Ân Phá Bại, Lôi Khai, Ân Thành Tú, Lỗ Nhân Kiệt đi theo biến ứng.
Các tướng đều tuân lệnh kéo binh ra đi.
Cũng lúc ấy binh Châu, Tử Nha đang ngồi đàm đạo bỗng thấy trận gió thổi tới, cát bay mịt mù, liền đánh tay biết rõ, vội sai quân đóng nọc đào làm phù phép bủa lưới dưới trên như sa mù, nhìn không thấy trận rồi truyền Lý Tịnh thủ hướng Ðông, Dương Nhậm thủ hướng Bắc, Vi Hộ và Dương Tiễn thủ giữa đài. Còn Nam Cung Hoát, Võ Vương trong dinh. Các tướng đều tuân lệnh.
Ðến canh hai, Cao Minh, Cao Giác đi đầu, Thường Hạo, Ngô Long đi đội giữa, khi đến gần trại Châu chia làm bốn mặt công phá, còn các tướng Ân Phá Bại, Lôi Khai, Ân Thành Tú, Lỗ Nhân Kiệt cũng chia làm bốn đạo tiếp ứng.
Lỗ Nhân Kiệt nói với Ân Thành Tú:
– Ðêm nay đi cướp trại, chẳng những không thắng mà còn lâm hại nữa.
Ân Thành Tú hỏi:
– Vì sao vậy?
Lỗ Nhân Kiệt nói:
– Tử Nha dùng binh như thần, lại thêm nhiều tướng tài phép lẽ nào không đề phòng, chúng ta thủng thẳng đi sau, coi mòi bại trận thì chạy trước.
Lúc này Cao Minh, Cao Giác đã đến dinh Châu liền phát ba tiếng pháo.
Hai tướng xông vào hai mặt, Ngô Long và Thường Hạo tiếp theo.
Tử Nha đứng trên đài xõa tóc làm phép gió thổi mây bay, khói dậy sa mù tối tăm trời đất.
Khi ấy Tử Nha làm phép trên đài, bủa thiên la, địa võng, cho nên Cao Minh, Cao Giác xông vào trại Châu thấy chớp giăng, sấm bủa binh ó trống rung.
Tử Nha đứng trên đài có Dương Tiễn bên tả, Vi Hộ bên hữu, Lý Tịnh, Dương Nhậm, Lôi Chấn Tử và Na Tra đồng chia ra bốn hướng trấn giữ vây phủ Cao Minh, Cao Giác. Cao Minh, Cao Giác không ngờ bị trận phủ vây tứ tướng, không biết đường nào mà chạy, bị Tử Nha quăng Ðả Thần Tiên đánh Cao Giác bể đầu, Cao Minh nát óc hai hồn bay về đài Phong thần.
Bấy giờ Viên Hồng nghe trong dinh Châu chiêng trống rầm trời, tiếng quân reo dậy đất, liền dẫn binh vào tiếp ứng, đến nơi thấy Vi Hộ đánh với Ngô Long, Vi Hộ quăng Gián ma xử, Ngô Long hóa hào quang bay mất, còn Thường Hạo đánh với Na Tra.
Na Tra quăng Cửu long thần hỏa trạo lên, Thường Hạo cũng hóa hào quang bay mất. Viên Hồng tức giận xông vào, bị Dương Nhậm cản lại, Viên Hồng đánh với Dương Nhậm một hồi, rồi hiện hình con vươn bạch trên đầu, cầm một cây côn đánh xuống. Dương Nhậm vừa lấy quạt ra toan quạt Viên Hồng nhưng không kịp, bị con vượn bạch trên đầu Viên Hồng cầm côn đánh xuống, trúng đầu Dương Nhậm chết tươi.
Tiếp đó hai bên hỗn chiến với nhau một hồi cho đến sáng, Tử Nha giống kiểng thâu quân. Dương Tiễn nói:
– Hôm nay tuy chúng ta giết được Cao Minh, Cao Giác nhưng lại mất Dương Nhậm thì cũng không gọi là thắng. Tôi xem Viên Hồng là yêu quái, ngặt không rõ vật gì hóa ra tôi xin đến núi Chung Nam mượn kiếng chiếu yêu đem về tìm căn nguyên của nó mới được. Nếu cứ để nó đón đường ở đây mãi biết bao giờ mới đến Triều Ca.
Tử Nha nói:
– Tướng quân tính rất hay, vậy phải đến núi Chung Nam gấp rồi về kẻo ta trông đợi.
Dương Tiễn đằng vân thẳng đến núi Chung Nam, vào ra mắt Vân Trung Tử, mượn kiếng chiếu yêu và nói:
– Chẳng biết Viên Hồng thuộc loại gì hóa thân?
Vân Trung Tử nói:
– Nó là bảy con quái tại Mai Sơn, sức ngươi bắt được nó còn dư.
Nói rồi đưa kiếng chiếu yêu cho Dương Tiễn.
Dương Tiễn từ tạ độn thổ về dinh thuật lại mọi việc với Tử Nha.
Lúc này bên dinh Thương, Viên Hồng cũng nóng lòng, triệu tập các tướng đến nghị kế phá địch. Viên Hồng hỏi:
– Các tướng ai có mưu chi trừ giặc không?
Ân Phá Bại nói:
– Lâu nay hai bên giao tranh không phân thắng bại, vừa rồi chúng ta lại mất hai vị đại tướng, nếu cứ giữ tình thế này mãi khó lòng, chi bằng ngày mai quyết ra giao tranh một trận cho phân thắng phụ.
Viên Hồng khen phải, liền ra lệnh chuẩn bị sẳn sàng, rạng ngày kéo quân đến trước dinh Châu khiêu chiến.
Tử Nha hay tin cũng dẫn binh tướng ra ngoài.
Viên Hồng giục ngựa đến trước, Tử Nha cản lại nói:
– Sao túc hạ không biết cơ trời, còn cản đường chư hầu để cho lê dân đồ thán? Như hàng đầu thì được phong hầu, còn nghịch mạng ắt không khỏi hối hận?
Viên Hồng cười nói:
– Ngươi bất quá là gã câu cá tại Bàn Khê, có tài gì dám khoe khoang như vậy.
Nói rồi quay lại bảo Thường Hạo:
– Bắt Khương Thượng cho ta.
Thường Hạo vâng lệnh giục ngựa tới, Dương Tiễn đón lại đánh liền.
Ðánh được mười lăm hiệp, Thường Hạo bại tẩu, Dương Tiễn đuổi theo và lấy kiếng chiếu yêu ra soi, thấy Thường Hạo nguyên hình là con Bạch xà rất lớn.
Khi ấy Thường Hạo hóa ra khói đen hiện hình Bạch xà, quyết hại Dương Tiễn.
Dương Tiễn cất kiếng chiếu yêu, chỉ còn thấy khói đen mà thôi, liền hóa hình thành một con rít lớn, có cánh hai càng sắt bén như hai cái kéo, bay vào trong khói đen, kẹp cổ con mãng xà té nhào.
Dương Tiễn hiện hình người, chặt đầu con rắn, rồi bắt ấn ngũ lôi hóa sấm, đánh thây con rắn nát như tro.
Viên Hồng thấy Thường Hạo chết rồi, nổi giận hét lớn:
– Dương Tiễn cả gan dám giết đại tướng của ta.
Nói rồi giục ngựa tới. Na Tra hiện ba đầu tám tay đón Viên Hồng mà đánh.
Dương Tiễn soi kiếng, thấy Viên Hồng là con Vượn bạch, biết vật linh khó trị lắm.
Na Tra đánh ít hiệp rồi lấy gươm phép quăng lên, chụp Viên Hồng mà đốt, chẳng ngờ Viên Hồng độn hỏa trốn khỏi.
Còn Ngô Long lướt tới đánh với Na Tra.
Dương Tiễn lấy kiếng soi, thấy con rít chúa.
Ngô Long đánh không lại, quày ngựa bỏ chạy. Na Tra giục đuổi theo.
Dương Tiễn kêu lại nói:
– Ðạo huynh, hãy nhường công ấy cho tôi.
Nói rồi giục ngựa đuổi theo Ngô Long.
Ngô Long thấy Dương Tiễn đến gần hiện khói đen, hóa hình con rít lớn phun độc. Dương Tiễn liền rùng mình, hóa ra một con gà ngũ sắc, cao lớn dị thường bay vào khói đen, mổ con rít lủng đầu rơi xuống.
Tử Nha thấy giết được hai tướng địch liền thâu binh về.
Ân Phá Bại và Lôi Khai xem thấy rắn rít, cười thầm nói với nhau.
– Yêu quái trổ mặt là điềm mất nước. Ai đời rắn rít mà lại cầm quân, làm đến Phó tướng.
Viên Hồng thấy các tướng bàn luận thẹn đỏ mặt, nói đỡ:
– Ta không ngờ Ngô Long, Thường Hạo là hai con tinh, thiếu chút nữa hỏng việc.
Các tướng đều nói:
– Tử Nha rất thao lược, bên dưới lại còn có nhiều tướng thần thông giúp sức, chúng tôi nhắm nơi đây khó giữ, chi bằng thâu binh về giữ Triều Ca nơi đó thành lũy chắc chắn, chư hầu đánh lâu sẽ nản lòng kéo binh trở về.
Viên Hồng nói:
– Các tướng nhu nhược quá thì làm sao có tinh thần đánh giặc, chốn này là nơi trọng đại, nếu bỏ giặc chiếm cứ thì giữ triều ca sao nổi. Ý kiến các ông là muốn rước giặc vào thành đấy.
Các tướng thấy Viên Hồng nói gắt, không ai dám vào bàn luận nữa, bỏ ra ngoài nói chuyện riêng, Lỗ Nhân Kiệt nói nhỏ với Âu Thành Tú:
– Nhắm Tây Châu thế nào cũng thu giang sơn nhà Thương, nên khiến triều đình phong yêu quái làm tướng. Chúng ta con dòng trung nghĩa mấy đời, bề nào cũng chết cho trọng tiết. Song ở đây liều mình theo yêu quái nhắm cũng chẳng ích chi, thà về thủ Triều Ca rồi chết.
Âu Thành Tú nói:
– Hiền huynh nói phải lắm, thà chết với vua chớ không chết với yêu quái. Vậy chúng ta thừa lúc chúng sai khiến bỏ trốn về Triều Ca cho yên.
Hai người bàn luận xong, trở vào hầu hạ Viên Hồng như cũ.
Kế đó có quan đốc lương đến bẩm với Viên Hồng:
– Lương chỉ còn đủ dùng năm ngày.
Viên Hồng viết biểu về Triều Ca xin vận lương, và hỏi các tướng:
– Ai muốn đi dâng sớ vận lương?
Lỗ Nhân Kiệt xin đi.
Viên Hồng nhậm lời.
Bấy giờ tại Triều Ca có một người mình cao hai trượng, sức mạnh vô cùng, đến nỗi chèo ghe trên bộ cũng như chạy dưới sông, một bữa ăn trọn một con bò, tay cầm một cây Bài bác mộc tên Ô Văn Hóa.
Hôm ấy, Ô Văn Hóa đến lấy bảng cầu hiền xin ra đánh giặc giúp nước.
Vua Trụ phong chức Oai võ tướng quân, truyền khâm sai dẫn đến Mạnh Tân cho Viên Hồng điều dụng.
Quân vào báo với Viên Hồng, Viên Hồng đòi vào, thấy Ô Văn Hóa cao lớn phi thường liền hỏi:
– Tướng quân chắc là tài trí phi thường, vậy có mưu gì đánh binh Châu không?
Ô Văn Hóa thưa:
– Tôi bất quá chỉ có sức mạnh thôi, vâng lệnh Thiên Tử đến đây cho Nguyên soái sai khiến.
Viên Hồng mừng rỡ nói:
– Có tướng quân giúp sức chắc bắt được Tử Nha.
Hôm sau, Ô Văn Hóa xin dẫn quân ra khiêu chiến.
Viên Hồng nhậm lời, Ô Văn Hóa đến trước dinh Châu, chống chỉa ba dưới đất kêu lớn:
– Hãy bảo Khương Thượng ra đây chịu chết.
Tử Nha nghe tiếng thét như sấm, nhìn ra thấy một người cao lớn phi thường, đứng vòi vọi như cây tre, chống chỉa ba dài quá. Ai nấy đều giựt mình.
Long Tu Hổ thưa:
– Tôi xin ra trận.
Nói rồi nhảy ra.
Ô Văn Hóa ngó xuống cười rằng:
– Ngươi là con tôm càng thành tinh thì phải.
Long Tu Hổ thấy Ô Văn Hóa râu dài ba thước hình tượng như thần Kim cang, liền lướt tới. Ô Văn Hóa hỏi:
– Vật gì nhảy ra đó?
Long Tu Hổ nổi giận mắng:
– Thất phu, vô lễ! Ta là học trò thứ ba của Khương Nguyên soái tên Long Tu Hổ, sao ngươi dám chế nhạo?
Ô Văn Hóa cười ngất, nói:
– Ngươi là súc sanh, không giống hình người, sao xưng học trò Tử Nha?
Long Tu Hổ nói:
– Ta là Oai võ tướng quân.
Ô Văn Hóa nói:
– Ngươi về kêu Tử Nha ra đây nạp mình chớ giết ngươi vô ích lắm.
Long Tu Hổ nổi giận quăng một cục đá.
Ô Văn Hóa đâm một chỉa ba.
Long Tu Hổ né khỏi, lưỡi chỉa ba lút xuống đất hơn ba thước rút không lên.
Khi Ô văn Hóa rút chỉa lên được lủng một chỗ đất sâu và trong lúc ấy cũng đã bị Long Tu Hổ quăng đá trúng cùng mình.
Ðứng chịu một lúc Ô Văn Hóa sưng cả mình mẩy đau quá bỏ chạy.
Long Tu Hổ đắc ý đứng cười ngất rồi trở về dinh nói với Tử Nha.
– Tướng ấy cao lớn nhưng vô dụng.
Tử Nha nghe nói cũng bỏ qua, không bàn đến chuyện Ô Văn Hóa vóc lớn nữa.
Còn Ô Văn Hóa cao giò chạy một lúc đã quá hai mươi dặm, nhìn lại thấy con tôm càng không đuổi theo mới ngồi xuống một gốc cây trên mé gò cao vén đầu gối xem thử các chỗ sưng rồi vò lưng, vò cổ một hồi cho bớt đau mới trở về dinh ra mắt Viên Hồng.
Viên Hồng thấy Ô Văn Hóa thuật chuyện liền quở rằng:
– Mới ra trận đầu sao không ráng thủ thắng?
Ô Văn Hóa nói:
– Tôi không ngờ con quái thú ấy quăng đá. Xin Nguyên soái bớt giận để đêm nay tôi cướp trại báo cừu.
Viên Hồng nói:
– Ngươi cố gắng giữ gìn ta sẽ đem binh theo giúp sức.
Canh hai đêm ấy dinh Châu nghe một tiếng pháo nổ rất lớn.
Ô Văn Hóa xông vào đâm chết binh tướng vô số.
Viên Hồng theo sau tiếp ứng hiện khí yêu mịt trời binh tướng chẳng thấy đường mà chạy.
Còn Tử Nha nghe tin Ô Văn Hóa cướp dinh thất kinh lấy Hạnh Huỳnh kỳ cỡi Tứ Bất Tướng bay mất.
Các đệ tử thấy cặp con mắt Ô Văn Hóa có ngời như hai ngọn đèn, đều hãi kinh, độn thổ đi hết.
Tứ hiền bảo vệ Võ Vương đi trốn còn các tướng sĩ ai chạy khỏi thì sống ai vô phước thì bỏ mạng.
Ô Văn Hóa xông vào dinh Châu như vào chỗ không người, cây chỉa ba đâm một cái có hơn mười tên quân bị chết một lượt, thật là chuyện hi hữu.
Xông vào đến trại gặp Long Tu Hổ, Ô Văn Hóa nổi giận đâm một chỉa ba Long Tu Hổ chết tốt.
Ô Văn Hóa cắt đầu, lần theo cửa trại ra đến sau dinh.
Dương Tiễn đang giữ kho lương đàng sau thấy Ô Văn Hóa đến, sợ Ô Văn Hóa đốt lương liền nhổ một cây cỏ biến ra một người cao lớn bằng hai Ô Văn Hóa kêu lớn:
– Ô Văn Hóa đừng tới nữa, có ta đây.
Ô Văn Hóa nhìn không rõ thấy người cao lớn ngỡ cha mình hiện hồn về liền kéo chỉa ba bỏ chạy.
Ðàng sau Dương Tiễn hiện hình cao lớn đuổi theo mãi bỗng gặp Viên Hồng tiếp ứng Dương Tiễn hét lớn:
– Tinh vượn chớ làm dữ, có Dương Tiễn đây.
Nói rồi xáp vào hỗn chiến.
Ðánh vài hiệp Dương Tiễn thả Hạo thiên khuyển ra.
Viên Hồng trông thấy liền hóa hào quang bay mất.
Nhắc lại các chư hầu nghe nói có người cao lớn cướp dinh liền đem binh đến cứu.
Hai bên quân lính chống cự với nhau cho đến sáng mới trở về.
Còn Tử Nha cùng các đệ tử theo phò Võ Vương chạy mãi cho đến sáng mới dám tìm đường về trại, điểm binh hao hơn hai mươi vạn, tướng trận hao hết ba mươi bốn người. Thật từ lúc khởi binh đến nay chưa trận nào Tử Nha thất bại như vậy.
Kế đó Tử Nha được tin Long Tu Hổ bỏ mình buồn rầu không kể xiết.
Dương Tiễn thuật lại việc hóa hình dọa Ô Văn Hóa và giao tranh với Viên Hồng.
Tử Nha khen:
– May nhờ tướng quân có phép thần thông nếu không binh lương đều tiêu hết. Bởi ta sơ ý không ngờ con người vũ phu ấy lại có trí đến cướp trại.
Viên Hồng thắng trận liền dâng sớ về báo với Trụ Vương.
Trụ Vương được tin binh Châu chết mười muôn thì không còn lo sợ nữa, đờn ca yến tiệc suốt canh thâu.
Bấy giờ Dương Tiễn bàn với Tử Nha:
– Phải tính trừ Ô Văn Hóa trước rồi mới phá Viên Hồng.
Tử Nha nói:
– Trừ đứa vũ phu ấy chẳng khó gì.
Liền ra một mật kế trao cho Dương Tiễn.
Dương Tiễn lãnh mạng đến núi Mạnh Tân dọ đường vào nơi Bàng long cách dinh Châu chừng sáu mươi dặm đặt địa lôi dưới đường, hai bên dùng bổi khô chất sẳn.
Lúc ấy Trụ Vương mừng thắng trận sai người đem áo cẩm bào và rượu thịt thưởng Viên Hồng và Ô Văn Hóa.
Hai người tạ ơn, Viên Hồng nói với Ô Văn Hóa:
– Thiên Tử hậu đãi như vậy, chúng ta phải hết lòng giúp nước.
Ô Văn Hóa nói:
– Ðể ngày mai tôi xuất kỳ bất ý bắt Khương Thượng mà ban sư.
Viên Hồng truyền mở yến tiệc khao quân.
Trong lúc đang ăn uống bỗng có quân vào báo:
– Võ Vương và Khương Thượng đang xem lén dinh ta.
Viên Hồng liền sai Ô Văn Hóa lẻn ra ngõ sau, đi vòng bắt Võ Vương và Khương Thượng.
Ô Văn Hóa vâng lệnh xách chỉa ba bọc ngõ sau, chạy ồ tới la lớn:
– Khương Thượng! Ngươi chạy đâu cho khỏi, phen này ta quyết bắt ngươi mà dâng công.
Võ Vương thất kinh giục ngựa chạy trước, Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng theo sau.
Ô Văn Hóa thấy hai người chạy qua Tây Nam, thì mừng lắm, liền cong lưng đuổi riết.
Tử Nha làm bộ ngó lại nói:
– Xin Ô tướng quân trở về, dung cho chúa tôi một thuở, chúng tôi nguyện kéo binh về Tây Kỳ, không dám làm loạn nữa.
Ô Văn Hóa đắc ý nói:
– Nếu tha chúng bay phen này thì ngàn đời không còn gặp cơ hội này nữa.
Vừa nói vừa chạy như dông. Nhưng Ô Văn Hóa chạy bộ nên đuối chân chỉ được năm mươi dặm thì chậm lại.
Tử Nha kêu lớn:
– Ngươi dám đánh với ta ba hiệp chăng?
Ô Văn Hóa nghe nói khích nổi giận lướt tới:
– Ta lại gì sợ ngươi sao?
Nói rồi múa chỉa ba đâm thật mạnh.
Tử Nha làm cách sợ sệt, bỏ chạy nữa.
Ô Văn Hóa thấy hai người chạy vào đường núi, lòng mừng khấp khởi, nói lớn:
– Chúng bay chạy vào đây chẳng khác con thú cùng đường. Ta chỉ còn có việc bắt đem về làm thịt mà thôi.
Hai người này chạy đến giữa núi liền tìm đường ẩn thân, còn Ô Văn Hóa chạy theo hoài không thấy đâu cả, chẳng ngờ Nam Cung Hoát và Võ Kiết xô cây lấp đường đốt ngòi lôi một tiếng nổ chát chúa những bổi khô cháy sáng trời nóng như một cái lò bát quái. Thương hại Ô Văn Hóa bị cháy trong động lửa hồng, không còn đường nào chạy thoát.
Có bài thơ rằng:
Tài cao sức mạnh cướp dinh Châu,
Mấy vạn hùng binh thảy rụng đầu
Khinh địch, không mưu theo đuổi nột,
Vào hang bị lửa tợ thui trâu.
Nam Cung Hoát và Võ Kiết thấy Ô Văn Hóa cháy thui rồi, liền trở về thưa lại với Tử Nha.
Tử Nha nói với Dương Tiễn:
– Nay đã trừ được Ô Văn Hóa rồi tướng quân liệu cách gì phá Viên Hồng?
Dương Tiễn nói:
– Viên Hồng là con vượn bạch ở núi Mai Sơn nên linh thiên và thần thông lắm phải chậm rãi tính kế trừ mới được.
Tử Nha nói:
– Vậy chúng ta cứ ở đây đợi Ðông Bá Hầu đến sẽ kéo binh qua Mạnh Tân một thể.
Bấy giờ Viên Hồng nghe tin Ô Văn Hoá bị thiêu chết trong đường núi lấy làm buồn bã. Bỗng có quân vào báo:
– Có một thầy sãi xin ra mắt.
Viên Hồng truyền mời vào và hỏi:
– Thầy ở đâu? Ðến đây dạy việc chi?
Thầy sãi nói:
– Tôi họ Trư, tên Tử Chân ở núi Mai Sơn cách chỗ Nguyên soái một đỗi, Nghe tin Nguyên soái cầm binh nên tìm vào giúp sức.
Viên Hồng mừng rỡ mời ngồi và nói:
– Nếu vậy thì tốt lắm.
Ân Phá bại nói nhỏ với Lôi Khai:
– Không xong rồi có yêu đến nữa.
Còn Viên Hồng trọng Trư Tử Chân lắm, truyền dọn tiệc đãi đằng.
Bữa sau Trư Tử Chân cầm gươm dẫn quân đến trước dinh Châu khiêu chiến.
Quân vào báo, Tử Nha dẫn Nam Cung Hoát và Bắc bá hầu ra trận, các đệ tử đều theo hầu.
Ra đến nơi thấy một người thầy chùa lai râu cạo mới ra mặt đen như mực, môi dài tai lớn, mày rậm mắt lồi.
Tử Nha hỏi:
– Ngươi ở đâu mới đến?
Tử Chân nói:
– Ta là Trư Tử Chân ở núi Mai Sơn.
Tử Nha nói:
– Sao không ở núi cho an thân lại đến đây nạp mạng?
Tử Chân cười lớn nói:
– Nhà Thương truyền ngôi hai mươi mấy đời, chúng bây hưởng lộc cả bầy sao nay nỡ làm phản? Ta đến đây thì chúng bay phải tỉnh ngộ quy hàng bằng cãi lời chết không còn một đứa.
Tử Nha mắng:
– Súc sanh! Chết đến nơi mà không biết lại múa lưỡi làm hung.
Trư Tử Chân cầm gươm lướt tới.
Phó tướng Nam Bá Hầu là Dư Trung ỷ mạnh cầm thiết bản xông ra.
Tủ Chân thấy tướng ấy mặt đỏ hầm như trái táo, ba chòm râu dài liền vung đao hỗn chiến.
Ðánh được hai mươi hiệp Tử chân bỏ chạy, Dư Trung thừa thắng đuổi theo.
Tử Chân hả miệng khói đen bay ra ngùn ngụt kín một vùng, liền hiện hình heo rừng cắn đứt nửa thân hình Dư Trung mà nuốt.
Ðoạn Trư Tử Chân hiện hình người trở lại kêu lớn:
– Khương Thượng dám đánh với ta chăng?
Dương Tiễn giục ngựa tới nạt lớn:
– Có ta đây.
Nói rồi hỗn chiến. Ðánh ít hiệp Tử Chân cũng bỏ chạy nữa, Dương Tiễn cũng đuổi theo Tử Chân cũng hiện nguyên hình heo rừng, cắn Dương Tiễn ăn thịt như Dư Trung.
Tử Nha thấy vậy liền truyền quân gióng kiểng thâu quân.
Trư Tử Chân thắng trận hăm hở về dinh thuật chuyện với Viên Hồng.
Viên Hồng mừng rỡ làm tiệc khoản đãi.
Trong lúc đang uống rượu có quân vào báo.
– Ngoài dinh có một vị anh hùng xin vào ra mắt.
Viên Hồng truyền mời đến.
Người ấy bước vào ra mắt. Người này mặt trắng phau phau, râu dài đuôn đuột, trên đầu có hai cái sừng như hai sừng dê, Viên Hồng hỏi:
– Tráng sĩ quê quán ở đâu?
Người ấy thưa:
– Tôi họ Dương tên Hiển, ở núi Mai Sơn.
Viên Hồng mừng rỡ mời ngồi vào tiệc.
Tử Chân và Dương Hiển khoe tài với nhau.
Ân Phá Bại nghi là người cũng một đảng với Viên Hồng, nên ngồi nhìn Lôi Khai cười chúm chím.
Uống rượu đến canh hai tiệc chưa mãn.
Bỗng nghe trong bụng Tử Chân có tiếng nói:
– Tử Chân! Ngươi biết ta là ai không?
Tử Chân thất kinh, hỏi:
– Người là ai? Ở đâu mà nói đó?
Lúc này Dương Tiễn ở trong bụng Tử Chân, thấy Tử Chân không biết, cười lớn nói:
– Ta là Dương Tiễn, học trò Ngọc Ðảnh chơn nhơn, đang ở trong bụng ngươi. Bởi ngươi ở Mai Sơn ăn thịt nhiều người, nay đã tới số. Ta rút bộ đồ lòng của ngươi để ngươi chừa thói cũ.
Nói rồi chà vào gan ruột Tử Chân.
Tử Chân đau quá la lớn:
– Ðau chết đi! Xin đại tiên làm ơn đừng chê trách loài súc vật.
Dương Tiễn hỏi:
– Ngươi muốn sống hay muốn chết?
Tử Chân thưa:
– Xin đại tiên mở lòng thương phận súc sanh dày công tu luyện nay mới được thành hình người.
Dương Tiễn nói:
– Nếu ngươi muốn sống thì hiện nguyên hình qua quỳ trước dinh Châu thú tội. Còn cãi lời ta xé mất một nửa lá gan.
Tử Chân sợ chết song nghĩ lại hiện nguyên hình, khó coi lắm, nên cứ năn nỉ cầm chừng. Dương Tiễn hỏi lớn:
– Ngươi trái lệnh ta phải không? Nói cho ta biết đặng ta ra tay cho sớm?
Tử Chân sợ chết bất đắc dĩ phải hiện nguyên hình con heo rừng chạy lon ton ra cửa trại.
Còn Viên Hồng hổ ngươi ngồi gãi má, Dương Hiển mắc cỡ gục đầu.
Các tướng ngồi ngẩn ngơ, ba quân bịt miệng nhau cười chúm chím.
Heo rừng ngoắt đuôi chạy miết đến trại Châu quỳ trước cửa dinh.
Bấy giờ trống đã trở canh tư Nam Cung Hoát đi tuần tới cửa trại thấy một con heo ngồi sù sụ, liền kêu binh sĩ dậy:
– Ấy là heo của dân đi lạc, chúng bay đừng bắt nó, để sáng có ai nhìn thì cho lại.
Dương Tiễn ở trong bụng heo, nói:
– Không phải đâu! Ấy là trư tinh ở Mai Sơn. Nay tôi đã vào trong bụng mà bắt nó, xin tướng quân báo cho Nguyên soái rõ.
Nam Cung Hoát nghe tiếng nói biết Dương Tiễn liền sai người thỉnh Tử Nha dậy và bẩm lại mọi điều.
Tử Nha truyền thắp đèn đuốc sáng rỡ như ban ngày nổ một tiếng pháo lệnh, các chư hầu và các tướng đồng theo tử Nha ra trước cửa dinh, thấy một con heo rừng quá lớn.
Tử Nha hỏi:
– Sao ngươi đến đây chịu chết?
Dương Tiễn ở trong bụng thưa:
– Xin Nguyên soái truyền chém nó đi cho tuyệt hậu họa.
Tử Nha truyền Nam Cung Hoát chém một đao, đầu heo rơi xuống đất, máu phụt đỏ ối. Dương Tiễn theo vòi máu ấy nhảy ra, ai nấy đều lạ lùng.
Tử Nha truyền bêu đầu heo rừng trước cửa.
Viên Hồng và Dương Hiển hay việc tồi tệ như vậy không lẽ làm thinh.
Viên Hồng nói:
– Chúng ta tu luyện ở núi Mai Sơn cả ngàn năm, một người bị hiện nguyên hình làm cho hư danh cả bọn, xấu hổ biết chừng nào! Ta quyết bắt Tử Nha báo cừu mới hả giận.
Dương Hiễn nói:
– Dương Tiễn ỷ tài cao phép lạ, làm cho Tử Chân mắc kế. Nếu không báo thù thì chẳng phải là người.
Bỗng có quân vào báo:
– Có thiên sứ đến.
Viên Hồng ra nghinh tiếp.
Thiên sứ vào truyền:
– Nay vâng chỉ đem cho tướng quân một người tài năng, để tướng quân sai khiến.
Viên Hồng vâng chỉ đưa Thiên sứ ra khỏi dinh rồi trở vào hỏi người mới đến:
– Tướng quân tên chi?
Người ấy thưa:
– Tôi họ Ðài tên Lễ, quê ở Mai Sơn, nghe vua cầu hiền nên đến giúp nước.
Viên Hồng nói với các tướng:
– Nay có người tài đến giúp, chúng ta đồng ra hỗn chiến một trận cho biết thấp cao.
Nói rồi dẫn quân đến trại Châu khiêu chiến.
Quân vào báo.
Tử Nha dẫn các tướng ra trận, nói:
– Viên Hồng, ngươi không biết cơ trời, binh tướng mỗi ngày mỗi hại, sức ngươi như châu chấu đá xe, làm sao chống nổi?
Viên Hồng cười lớn nói:
– Dầu ngươi có thiên binh ngàn tướng cũng không thể vượt qua khỏi Mạnh Tân này.
Dương Tiễn đánh với Dương Hiển được ba chục hiệp, Dương Hiển liền quay người bỏ chạy.
Dương Tiễn đuổi theo, lấy kiếng chiếu yêu ra rọi, thấy một con dê núi, đang phun hào quang trắng xóa, che khuất một vùng, rồi hiện hình dê núi đứng chờ Dương Tiễn.
Dương Tiễn hóa ra một con cọp, nhảy đến chụp con dê.
Dê thấy cọp sợ quá kêu lên một tiếng lăn cù dưới đất.
Dương Tiễn hiện lại hình người chém đầu dê xách về trước trại nói lớn:
– Bẩm Nguyên soái, tôi đã giết được con quái này rồi.
Còn Ðài Lễ hỗn chiến với Na Tra một hồi, rồi phun một cục châu đỏ lớn bằng cái chén. Na Tra trông thấy thất kinh bại tẩu.
Trong lúc Ðài Lễ lúng túng, Dương Tiễn chém một đao. Ðài Lễ rụng đầu, coi lại là con chó sói.
Tử Nha thấy thắng trận truyền gióng kiểng thâu về.
Còn Viên Hồng nghe tin hai tướng mình bị chết. Bối rối chưa biết tính sao, bỗng có quân vào báo:
– Có một vị tướng xin ra mắt.
Viên Hồng truyền vào thấy tướng mình cao mười sáu thước đầu mọc cặp sừng, áo đỏ giáp vàng, tai nhọn môi trớt, vào bái Viên Hồng.
Viên Hồng hỏi:
– Tướng quân tên họ là chi?
Người ấy thưa:
– Tôi họ Kim tên Ðại Thăng, quê quán ở Mai Sơn.
Viên Hồng truyền dọn tiệc đãi đằng.
Bữa sau Kim Ðại Thăng cỡi thú một sừng cầm đao, đến trước trại Châu khiêu chiến.
Quân vào báo, Tử Nha hỏi các tướng:
– Ai muốn ra trận?
Trịnh Luân bước tới xin đi, Tử Nha nhận lời.
Trịnh Luân cỡi thú ra trước trận hỏi lớn:
– Ngươi là ai đó?
Kim Ðại Thăng nói:
– Ta là phó tướng Kim Ðại Thăng. Còn ngươi tên họ là chi?
Trịnh Luân nói:
– Ta là Quan lương Trịnh Luân. Ta xem tướng ngươi kỳ dị, không phải loài người. Sao lại đến đây mà chịu chết?
Kim Ðại Thăng nổi giận giục con thú một sừng lướt tới, múa đao chém liền.
Trịnh Luân đỡ ra và đánh lại.
Ðánh được ít hiệp Kim Ðại Thăng phun cục Ngưu hoàng to bằng cái chén, trúng vào mặt Trịnh Luân. Trịnh Luân té nhào xuống ngựa, Kim Ðại Thăng chém một đao đứt làm hai khúc.
Quân vào báo với Tử Nha:
– Kim Ðại Thăng chém chết Trịnh Luân rồi.
Tử Nha than:
– Trịnh Luân từ khi theo Tô Hầu về Châu công trận rất nhiều không ngờ bữa nay bị tướng vô danh sát hại.
Các tướng đều buồn bã, ai nấy thương tiếc vô cùng.
Có bài thơ rằng:
Phép nhiệm thâu hồn ít kẻ đang,
Nào hay tới số bởi tay ngang
Gió thổi linh hồn nương mây bạc,
Vào cửa phong thần hưởng khói nhang.
Bữa sau Tử Nha hỏi các tướng:
– Ai muốn ra trận báo cừu cho Trịnh Luân?
Dương Tiễn lãnh mạng, cầm giáo lên ngựa, đến trước trại Thương kêu lớn:
– Kim Ðại Thăng hãy ra đây trả nợ máu.
Quân vào báo, Kim Ðại Thăng cỡi thú một sừng, cầm giáo ba mũi, xông ra.
Hai bên đánh được ba mươi hiệp, Kim Ðại Thăng phun cục Ngưu hoàng bay ra như than lửa đỏ.
Dương Tiễn không biết vật gì, phải hóa hào quang bay tránh qua hướng Nam, Kim Ðại Thăng giục thú đuổi theo.
Dương Tiễn lấy kiếng chiếu yêu ra coi, thấy nó là một con trâu nước, liền định cách biến hóa để trừ nó, xảy có mùi hương bát ngát, xa xa có ngọn phướng phất phơ, có tám nàng đồng nữ theo hầu.
Nàng đồng nữ kêu lớn:
– Dương Tiễn! Mau đến ra mắt nương nương.
Dương Tiễn không biết là ai, song cũng quỳ lạy thưa:
– Ðệ tử là Dương Tiễn, xin làm lễ nương nương.
Ðạo cô nói:
– Ta là Nữ Oa, vì thấy Trụ mạt Châu hưng, nên đến giúp ngươi bắt Mai Sơn thất quái.
Nói rồi truyền Thanh Vân đồng nữ đem dây phục yêu bắt Ngưu tinh.
Thanh Vân đồng nữ vâng lịnh, cầm dây đến đón đầu.
Bỗng thấy Kim Ðại Thăng giục thú một đầu chạy tới Thanh Vân đồng tử cản lại, kêu lớn:
– Yêu nghiệt! Ta vâng lệnh nương nương đến đây bắt ngươi đây.
Kim Ðại Thăng liền chém một đao.
Thanh Vân đồng tử tránh khỏi, quăng Phục yêu sách lên, sai Huỳnh Cân lực sĩ bắt Kim đại Thăng xỏ mũi, rồi giơ trái chùy đánh trên lưng ba bốn cái.
Kim Ðại Thăng rống lên ba tiếng, hiện hình con trâu nước.
Huỳnh Cân lực sĩ giao trâu nước cho đồng nữ bắt đem nộp cho Nữ Oa.
Dương Tiễn mừng rỡ, tạ ơn.
Nữ Oa đạo cô dặn:
– Dương Tiễn, ngươi dắt con trâu nước này đem về dinh cho Khương Nguyên soái xử tội. Chẳng bao lâu ta cũng cho phép ngươi bắt Viên Hồng.
Dương Tiễn tạ ơn, dắt trâu về trại.
Nhắc lại khi Tử Nha nghe tin Dương Tiễn hiện hào quang bại tẩu, còn Kim Ðại Thăng hồng hộc đuổi theo lòng lo lắng không an.
Na Tra thưa:
– Dương Tiễn có thất thập nhị huyền công, có gì mà sợ?
Tử Nha nói:
– Nay Ðông Bá Hầu chưa đến lại thêm thất quái ngăn đường nên ta lo sợ lắm.
Bỗng có quân vào báo:
– Dương Tiễn đã về.
Tử Nha mừng rỡ đòi vào.
Dương Tiễn thuật hết mọi việc và thưa.
– Xin Nguyên soái ra xem tôi trị tội yêu quái.
Tử Nha mừng rỡ dắt các chư hầu đồng đến cửa trại, thấy một con trâu nước rất lớn đang bị xỏ mũi, đứng thở khì khì.
Tử Nha sợ nó sút chạy giựt sứt dây mũi, nên truyền lấy dây sỏ thêm cột chặt rồi bảo Nam Cung Hoát khai đao.
Nam Cung Hoát lấy hết sức mạnh chém vào cổ trâu đến ba lần đầu trâu mới rụng, tám mươi vạn binh đều khen Nam Cung Hoát có sức mạnh phi thường.
Viên Hồng hay tin ấy, tính lại bảy anh em ở Mai Sơn đã chết hết sáu, chỉ còn có một mình thật khó nỗi tới tui.
Tuy Viên Hồng có thất thập nhị huyền công, nhắm cũng khó bề cự được.
Còn Khương Thượng vào dinh ra khách hỏi Dương Tiễn:
– Mai Sơn thất quái hiện nay đã trừ được mấy con?
Dương Tiễn vào thưa:
– Ðã giết hết sáu con, chỉ còn một con vượn già.
Tử Nha nói:
– Thế thì đêm nay hội chư hầu đi cướp trại, ta giao phần ngươi chống cự với Viên Hồng. Hễ trừ được nó thì an mọi việc.
Dương Tiễn nói:
– Con vượn già này nhiều phép tắc lắm xin cho Na Tra theo tôi để phòng rủi ro.
Na Tra bước tới cười hì hì:
– Anh có thất thập nhị huyền công mà sợ con vượn già sao?
Dương Tiễn nói:
– Nó là loài khỉ, tu luyện ngàn năm, thần thông đáo để. Các loài thú ta chỉ sợ có khỉ mà thôi.
Tử Nha nói:
– Nếu vậy thì Na Tra theo bảo vệ Dương Tiễn cho hết lòng.
Bên kia Viên Hồng rầu rĩ, gượng khách nói với Lôi Khai và Ân Phá Bại:
– Binh Châu đông quá ta sợ khó giữ được chỗ này. Vậy hai ngươi phải dâng sớ viện binh, chớ nên chậm trễ.
Hai tướng y lời.
Ðêm ấy vào hết canh hai, Tử Nha dẫn binh tướng kéo đến trại Viên Hồng, phát lên một tiếng pháo, Nam Bá Hầu Ngạc Thuận dẫn hai trăm chư hầu vào cửa trước, Bắc Bá Hầu Sùng Ứng Loan vào cửa tả, Lý Tịnh, Vi Hộ, Lôi Chấn Tử cửa hữu.
Na Tra, Dương Tiễn xông vào giữa quyết bắt Viên Hồng.
Viên Hồng hay tin quân Châu cướp dinh mặt mày kinh hãi, cầm thiết côn nhảy ra khỏi trướng đã gặp Na Tra và Dương Tiễn xông vào hai bên hỗn chiến ầm ầm.
Lúc này binh Châu vào dinh Thương như cọp vào chuồng dê, muốn giết bao nhiêu cũng được, thây nằm chật đất, máu chảy thành sông.
Dương Tiễn đánh với Viên Hồng không phân thắng bại, vì cả hai đều có thất thập nhị thần công.
Na Tra xen vào trợ lực, nhưng cũng không có ích lợi chút nào, sau cùng đứng bên ngoài để xem hai người đánh nhau.
Viên Hồng hiện nguyên hình trên cao đánh xuống, Dương Tiễn hiện hào quang bay tới chém liền, Viên Hồng hiện hào quang đỡ.
Hai bên đâm chém thế nào cũng không trúng, đánh như gió thoảng mây bay, Dương Tiễn tức giận nói:
– Con khỉ này lợi hại quá. Nếu bắt được ngươi ta lột da.
Viên Hồng nói:
– Ta sẽ bắt ngươi mổ mật mà báo cừu.
Hai người đều biến hóa đủ hình, vì mỗi người đều có bảy mươi hai phép biến, biến đủ hình cây cỏ, chim cá, cầm thú, vân vân.
Ví dụ: Người này biến ra voi, người kia biến ra cọp mà cự, người này biến lại sư tử đánh cọp, người kia biến ra chim bay đi, người này biến bò cắt đâm chim, người kia biến rắn mà trốn. Người này biến rít chạy theo, người kia biến gà mà mổ. Người này biến chồn bắt gà, người kia biến chó sói cự với chồn…
Viên Hồng thấy mình biến vật chi, thì Dương Tiễn đều biến vật khác cự lại, nhắm chừng khó thắng được, bất quá thì cầm đồng, nên nghĩ thầm:
– Nay Ân Phá Bại và Lôi Khai đều chạy trước, còn dinh trại đã bị cướp mất rồi, chi bằng dụ Dương Tiễn đến Mai Sơn, nơi ổ hang của mình nó sẽ thất thế, chừng ấy sẽ tìm cách giết nó báo cừu.
Nghĩ rồi liền trá bại chạy về núi Mai Sơn.
Dương Tiễn đuổi theo bén gót.
Còn Na Tra thấy Dương Tiễn và Viên Hồng tài phép phi thường, dẫu có đuổi theo cũng chẳng đánh được ai, và cũng chẳng giúp được gì, nên ở lại phá dinh với các tướng.
Còn Lôi Khai và Ân Phá Bại lúc này đã chạy trước về Triều Ca, chỉ còn một số binh suy tướng nhược, còn lại quân chư hầu giết sạch.
Ðến sáng chỉ còn cái trại trống trơn.
Tử Nha truyền đốt hết binh trại rồi thâu binh về.
Nói về Viên Hồng thấy Dương Tiễn đuổi theo bén gót, liền bỏ ngựa đằng vân về núi Mai Sơn, Dương Tiễn cũng vội bỏ ngựa đằng vân theo lập tức.
Viên Hồng túng thế hóa ra cục đá.
Dương Tiễn tìm hoài không thấy liền trợn con mắt giữa, thấy cục đá biết là Viên Hồng liền hóa ra người thợ cầm mũi đục đến đục.
Viên Hồng thất kinh liền hóa gió bay mất.
Dương Tiễn theo đến núi Mai Sơn, tìm Viên Hồng không thấy, lại thấy bầy khỉ cả ngàn con, cầm gậy xúm lại vây đánh.
Dương Tiễn biết Viên Hồng hóa ra, song một mình khó cự, liền hóa hào quang bay đến một chót núi khác.
Bỗng nghe mùi hương tiếng nhạc, Nữ Oa nương nương hiện đến.
Dương Tiễn cúi đầu làm lễ, Nữ Oa nương nương nói:
– Ngươi đã rõ phép thuật của Viên Hồng chưa?
Dương Tiễn thưa:
– Con vượn già thật thần thông quảng đại. Tôi không thể thắng được.
Nữ Oa nương nương nói:
– Nó là con khỉ hấp tinh nhật nguyệt thuận khí càn khôn, ngươi là học trò của Ngọc Ðảnh chơn nhơn, ròng nghề biến hóa song cũng không thể nào trừ được. Dầu cho những vị tiên trưởng trên thượng giới, mà không biết cách cũng không giết nó được.
Dương Tiễn thưa:
– Nương nương biết cách nào trừ được con vượn bạch này thì chúng tôi rất đội ơn.
Nữ Oa nương nương nói:
– Ðể ta cho ngươi một phép báu mới bắt nó được.
Nói rồi trao cho Dương Tiễn một bức họa đồ.
Dương Tiễn tạ ơn.
Nữ Oa nương nương trở về cung.
Dương Tiễn giở bức họa đồ ra thấy bên trên có đề năm chữ:
“Sơn hà xã tắc đồ”, giữa họa đồ có vẽ núi sông bên dưới có hàng chữ dạy cách dùng phép ấy, cũng như bản thái cực đồ của Lão Tử vậy.
Dương Tiễn cứ theo phép ấy mà làm, treo bức họa đồ trên một cành cây lớn rồi trở lại núi Mai Sơn.
Viên Hồng thấy Dương Tiễn trở lại, liền gọi lớn:
– Dương Tiễn! Ngươi còn đến đây nạp mình sao?
Dương Tiễn cười ngất, nói:
– Thôi rồi! Lần này thì chắc ngươi phải chết.
Nói rồi cầm giáo gõ lên đầu Viên Hồng rồi bỏ chạy.
Viên Hồng nổi giận đuổi theo.
Dương Tiễn dụ Viên Hồng đến chỗ có treo bản đồ sơn hà xã tắc.
Bản đồ hiện ra phong cảnh núi non rất đẹp.
Dương Tiễn dụ Viên Hồng vào bản đồ ấy, rồi nhảy xuống đất đứng nhìn.
Nói về Viên Hồng lên bức họa đồ mà tưởng như mình đang lên một hòn núi rất đẹp, phong cảnh tốt đẹp, cỏ hoa muôn sắc.
Viên Hồng cảm thấy thảnh thơi, dạo gót khắp nơi, xem cùng bốn phía rồi hiện hình vượn bạch đi kiếm trái cây mà ăn. Hễ tưởng gì thì có nấy, chẳng khác bức Thái Cực Ðồ. Viên Hồng đang tìm trái cây thì nghe mùi hương thơm ngát, thấy trên cây đào có trái chín, liền làm bộ khỉ, nhảy nhót trên cây, đu từ cành này sang cành khác hái được vài trái đào, để vào mũi ngửi rồi ăn. Ðoạn nhảy xuống gốc cây, ngồi trên thạch bàn hóng mát.
Dương Tiễn thấy con vượn bạch nhảy nhót trên họa đồ, lại hái đào mà ăn, rồi ngồi yên trên bàn thạch, thì cứ làm theo lời dạy trên bức họa đồ, cầm đao nhảy lên đón đánh.
Viên Hồng thấy Dương Tiễn vùng đứng dậy, nhưng đứng không nổi, vì ăn mấy trái đào nên mình nặng như treo đá.
Dương Tiễn bắt vượn bạch, lấy dây phược yêu trói lại, nhảy xuống đất thâu bức họa đồ, trở mặt về hướng Nam tạ ơn, rồi xách vượn bạch về dinh.
Về đến nơi Dương Tiễn thưa với Tử Nha:
– Ðệ tử đuổi Viên Hồng đến Mai Sơn, gặp Nữ Oa nương nương cho phép báu, gọi là “Sơn hà xã tắc đồ”, đệ tử đã bắt được Viên Hồng dẫn về dinh chờ lệnh.
– Loài thú quái gở, nghịch mạng trời, hại binh Châu, chém nó đi là phải.
Dương Tiễn tuân lệnh xách gươm ra chặt đầu, song không chảy máu mà hơi xanh trong cổ nó bay lên, hiện ra bông sen xanh nở, rồi úp lại, hóa ra cái đầu.
Dương Tiễn chém mấy lần cũng đều mọc đầu lại như vậy.
Chém hoài mọc mãi, không biết làm sao, Dương Tiễn liền vào báo lại với Tử Nha ra xem, và bảo chém thử thì quả như vậy.
Các tướng thấy lạ, mỗi người có tới chém mỗi lần, chém cả hàng trăm lần, con vượn bạch vẫn hoàn đầu như cũ.
Tử Nha nói:
– Con vượn này tu đã lâu năm, nhờ khí càn khôn, hấp hơi nhật nguyệt nên biến hóa lạ thường thật là linh vật.
Nói rồi truyền quân dọn bàn hương án, lấy bầu phép của Lục Yểm để lên bàn, hào quang chói ngút ba trượng.
Tử Nha lạy và bái:
– Xin bửu bối hiện hình.
Tức thì có một vật hiện lên ngọn hào quang dài chừng bảy tấc rưỡi, có hai chưng mày và hai con mắt. Hào quang trong con mắt vật ấy chiếu thẳng lên xoáy con vượn.
Tử Nha lạy và bái:
– Xin bửu bối trở mình.
Liền thấy cây gươm có cánh bay qua bay lại trên không mà vượn bạch rụng đầu, phun máu có vòi. Ai nấy đều kinh hãi.
Có thơ than rằng:
Phi đao Lục Yểm đựng trong bầu,
Phép nhiệm lưu truyền để giúp Châu,
Vượn bạch nay đà văng thủ cấp,
Hồ Ly có thuở cũng rơi đầu.
Các tướng thấy vậy hỏi:
– Chẳng hay gươm ấy làm sao trị được yêu quái?
Tử Nha nói:
– Khi phá trận Vạn Tiên rồi, Lục Yểm có cho ta báo vật ấy để sau này có việc cần dùng. Báu ấy gọi là Phi đao, Lục Yểm luyện dày công mới được. Hào quang trong cặp mắt nó chiếu xuống chính giữa xoáy đầu, dù thần tiên hay yêu quái điều biến không được. Khi trước cũng nhờ nó mới chém được Dư Nguyên.
Ai nấy đều khen Võ Vương có phước.
Bấy giờ Ân Phá Bại và Lôi Khai chạy về Triều Ca tâu với vua Trụ.
– Viên Nguyên soái không phải là người, các tướng lãnh chiêu hiền đều là quái vật, mỗi khi thất trận đều hiện nguyên hình, bởi cớ ấy nên bị tướng Châu giết hết, làm nhẹ thể triều đình. Xin bệ hạ mau mau xuống chỉ thủ thành, nếu trễ chư hầu kéo đến thì khó cản.
Vua Trụ kinh hãi lâm triều phán hỏi:
– Nay binh Châu mạnh bạo như vậy, bá quan tính làm sao?
Văn võ nhìn mặt nhau làm thinh không có một tiếng nói.
Phi Liêm gượng tâu:
– Xin bệ hạ truyền chỉ, treo bảng bốn cửa thành, hễ ai đánh được binh Châu thì phong chức phẩm, lại xét Lỗ Nhơn Kiệt văn hay võ giỏi, sức mạnh trí dày, nếu luyện tập binh mã, lo việc thủ thành, thì giặc cũng khó phá nổi. Vả lại chư hầu ở xa đến đây, nếu đánh mãi mà không phá thành được, sẽ chán nản lui về. Chừng ấy chúng ta đuổi theo, đánh một trận chắc là đại thắng.
Vua Trụ phán:
– Khanh tâu phải lắm.
Liền xuống chỉ treo bảng cầu hiền và giao cho Lỗ Nhơn Kiệt tập binh thủ thành.
Bấy giờ nhắc lại việc Kim Tra và Mộc Tra, trước kia được lệnh của Tử Nha đến giúp Ðông Bá Hầu đánh ải Du Hồn.
Hai anh em đi được nửa đường Kim Tra nói với Mộc Tra:
– Nếu anh em ta đến giúp Ðông Bá Hầu đánh với Ðậu Binh chắc bất lợi, chi bằng mình giả làm đạo sĩ vào giúp Ðậu Binh, hễ nó tin thật chúng mình sẽ làm nội ứng lấy thành dễ như chơi.
Mộc Tra khen:
– Kế ấy hay lắm.
Kim Tra đem kế ấy nói với người đi sứ, bảo về thưa lại với Ðông Bá Hầu rõ, và dặn đừng cho lậu tiếng.
Người đi sứ tuân lời trở về thưa lại với Khương Văn Hoán.
Còn Kim Tra, Mộc Tra độn thổ đến trước cửa ải Du Hồn, kêu quân giữ cửa nói:
– Ngươi vào bẩm với chủ tướng có hai đạo sĩ ở ngoài biển xin ra mắt.
Quân vào báo lại, Ðậu Binh truyền mời vào.
Kim Tra, Mộc Tra bước vào làm lễ. Ðậu Binh mời ngồi, nói:
– Hai vị đến đây có việc gì dạy bảo?
Kim Tra nói:
– Bần đạo là Tôn Ðức, vị này là Từ Nhơn, đồng ở Bồng Lai tu luyện, nhân đi ngang qua đây thấy Khương Văn Hoán muốn đoạt ải này, để hội chư hầu tại Mạnh Tân, đem binh đánh Thiên Tử. Ấy cũng bởi Khương Thượng phản nghịch, dụ hoặc chư hầu, làm cho bốn biển không yên, muôn dân khổ sở. Chúng tôi coi thiên văn thấy số nhà Thương còn vượng lắm, chư hầu và Khương Thượng không làm gì nổi, vậy nên đến giúp sức với tướng quân, bắt Khương Văn Hoán nạp về triều ca rồi thừa thắng đánh đuổi chư hầu.
Ðậu Binh nghe nói và ngẫm nghĩ, chưa biết quyết định ra sao.
Phó tướng là Giao Trung nói lớn:
– Chủ tướng chớ nên tin lời ấy. Bởi các đệ tử Khương Thượng đều là đạo sĩ khó phân biệt được giả nhơn. Vả lại, hôm trước có nghe tin sáu trăm chư hầu hội tại Mạnh Tân, hiệp quan với Cơ Phát. Nay Khương Thượng thấy ải này cản trở, hai trăm chư hầu phương Ðông không qua được, nên sai đệ tử giả dạng vào ải làm nội công. Nếu tin thì mắc kế.
Kim Tra liền cười ngất, nói với Mộc Tra:
– Thật quả như lời đạo hữu đã bàn trước.
Cười rồi quay lại nói với Ðậu Binh:
– Ông tướng quân ấy nghi cũng phải, bởi rắn rồng đương lộn xộn, thiệt giả khó phân. Dầu chúng tôi không phải phe Khương Thượng thật lòng, hễ lạ mặt tướng quân nghi là phải. Song chúng tôi có chuyện này: Bởi sư thúc tôi bị Khương Thượng giết tại trận Vạn Tiên, chúng tôi muốn đánh báo cừu, ngặt binh quyền không có, nên tới cậy binh tướng quân để tru diệt loài phản, trước đền ngọn rau tấc đất, sau lo báo cừu, và giúp tướng quân thành công kẻo thương người trung liệt. Nay tướng quân chẳng tin cậy thì thôi, bần đạo cũng chẳng cãi lẽ làm chi cho mệt, vậy xin kiếu.
Nói rồi đứng dậy vỗ tay cười lớn và trở ra.
Ðậu Binh nghe nói nghĩ thầm:
– Trước kia cũng có nhiều đạo sĩ đánh Tây Kỳ, toàn là kẻ tu trên núi xuống trần, không riêng gì học trò của Tử Nha. Hai người này đã cố tình giúp sức, nếu vì nghi ngờ mà bỏ qua thì uổng lắm.
Nghĩ rồi liền khiến quân chạy theo mời lại.
Anh em Kim Tra vừa ra khỏi ngõ, bỗng nghe sau lưng có tiếng kêu.
– Hai vị đạo sư! Lão gia tôi cho mời.
Kim Tra làm mặt giận nói:
– Ta định đem mấy trăm thủ cấp của chư hầu nạp cho chủ tướng ngươi, mà chủ tướng ngươi lại từ chối. Nay ta có trở vào cũng hổ mặt.
Quân sĩ năn nỉ:
– Nếu vị đạo sư đi luôn thì chúng tôi có tội.
Mộc Tra nói với Kim Tra:
– Ðạo huynh, Ðậu tướng quân đã cho mời thì cứ trở vào xem sao, nếu trọng đãi thì giúp, còn bạc đãi thì đi. Chuyện ấy rất dễ.
Kim Tra giả nét mặt buồn buồn, cùng với Mộc Tra trở lại.
Quân vào báo, Ðậu Binh bước ra nghinh tiếp và nói lả bả:
– Tôi thuở nay bất tài chưa quen với các vị đạo trưởng. Vả lại lúc này đương giặc giã nên bị phó tướng tôi đa nghi, thật mang tội với hai vị xin chịu lỗi mười phần. Nay Khương Thượng đồn binh tại Mạnh Tân còn Khương Văn Hoán phá thành ngày một, lòng dân náo động chẳng hay hai vị có kế chi trừ giặc?
Kim Tra nói:
– Khương Thượng tuy đồn binh tại Mạnh Tân song sáu trăm chư hầu là binh ô hợp, tỉ như đàn quạ cả bầy, hễ thấy cung tên thì bay tản. Riêng đạo binh Khương Văn Hoán, nếu dùng kế bắt được nó thì hai trăm chư hầu thấy phải tan. Chúng ta thừa thắng kéo quân đánh sáu trăm chư hầu tại Mạnh Tân. Chúng thấy Khương Văn Hoán bị bắt thế nào cũng kinh hãi bỏ chạy. Khương Thượng yếu thế tất phải lui binh. Chúng ta thừa thắng đoạt lại năm ải rất dễ dàng.
Ðậu Binh truyền dọn tiệc chay mời hai người ăn uống.
Rạng ngày có quân vào báo:
– Ðông Bá Hầu sai tướng đến khiêu chiến.
Ðậu Binh hỏi:
– Chẳng hay vị đạo trưởng có kế chi phá trận?
Kim Tra nói:
– Bần đạo đã đến đây phải ra trận cho biết, xem thế giặc ra sao mới liệu kế được.
Nói rồi cầm gươm giáo đứng dậy bảo Ðậu Binh:
– Xin tướng quân cho tôi mượn ít người cầm dây đi theo trói.
Ðậu Binh truyền một toán binh sĩ đi theo, Kim Tra cầm gươm báu theo sau đến giữa trận thấy một tướng cầm đao hét lớn:
– Ðạo sĩ nào đó? Muốn đem cổ ra thử cây siêu ta sao?
Kim Tra hỏi:
– Ngươi là ai mà phách lối như vậy?
Tướng ấy đáp:
– Ta là Tổng binh Mã Triệu bộ hạ của Ðông Bá Hầu.
Kim Tra nói:
– Bần đạo là Tôn Ðức, ở núi Bồng Lai. Ta coi khí số nhà Thương còn dài, mà chư hầu lại nghịch trời làm phản. Khương Văn Hoán chinh phạt mấy năm, quân dân đồ thán, ta động lòng thương phải ra tay dẹp loạn, cứu dân trong nước lửa. Nếu các ngươi hàng đầu thì sống, bằng nghịch mạng phải bỏ mình.
Nói rồi xông vào hỗn chiến.
Hai người đánh được ba mươi hiệp, Kim tra quăng Ðộn Long Thun trói Mã Triệu.
Ðậu Binh thừa thế xua quân áp tới rượt bắt quân của Khương Văn Hoán rất nhiều, rồi truyền gióng kiểng thâu quân.
Sau khi vào thành, Ðậu Binh đắc chí truyền dẫn Mã Triệu vào.
– Ta rủi bị yêu đạo dùng tà thuật bắt được, có giết thì giết, cần gì phải nói nhiều.
Ðậu Binh nổi giận truyền quân dẫn ra xử trảm.
Kim Tra can:
– Chẳng nên chém Mã Triệu, vì nó là dõng tướng của Khương Văn Hoán. Ðợi bắt chúng nó trở về Triều Ca lập công.
Ðậu Binh tin Tôn Ðức có tài, chắc sớm muộn cũng bắt được Khương Văn Hoán, nên y lời truyền cầm ngục Mã Triệu.
Bấy giờ Khương Văn Hoán thấy quân thua chạy về báo:
– Có một đạo sĩ ra trận bắt Mã Triệu đem vào thành.
Khương Văn Hoán mừng rỡ nghĩ thầm:
– Chắc không bao lâu sẽ lấy được ải Du Hồn.
Khương Văn Hoán có ý mừng như vậy là vì đã có tin trước của Kim Tra và Mộc Tra.
Ngày hôm sau, Khương Văn Hoán dẫn binh khiêu chiến, Ðậu Binh hỏi:
– Nay Khương Văn Hoán ra trận, hai vị đạo trưởng định kế gì bắt nó?
Kim Tra, Mộc Tra đồng nói:
– Chúng tôi ra trận này để xem binh thế, bữa sau sẽ làm phép bắt Khương Văn Hoán và hai trăm chư hầu phương Ðông.
Nói rồi cầm gươm ra trận, thấy một vị tướng mạnh bạo, cỡi ngựa hồng, cầm siêu đao, mặc áo con rồng, đội mão chư hầu thì biết là Khương Văn Hoán.
Khương Văn Hoán hỏi:
– Yêu đạo tên gì?
Kim Tra nói:
– Hai ta là Tôn Ðức, Từ Nhơn, ở Bồng Lai đảo. Sao ngươi dám phản chúa, không giữ đạo làm tôi, gây loạn lạc mấy năm, tội đáng tru di tam tộc. Nay nếu hàng đầu khỏi chết, bằng nghịch mạng ắt không dung.
Khương Văn Hoán mắng:
– Yêu đạo, cậy tà thuật bắt đại tướng ta, ta quyết giết lũ bây báo thù cho Mã Triệu.
Nói rồi thì chém một đao, Kim Tra đưa gươm ra đỡ.
Ðánh được tám hiệp, Khương Văn Hoán bại tẩu, Kim Tra, Mộc Tra đuổi theo rượt một đỗi xa xa, liền kêu Khương Văn Hoán nói:
– Ðêm nay vào lúc canh hai, hiền hầu đem binh đến, tôi làm kế dâng ải Du Hồn.
Khương Văn Hoán nói:
– Xin y lời.
Nói rồi làm bộ lấy cung tên bắn lại.
Mộc Tra đưa gươm gạt tên, Kim Tra hét lớn:
– Gian tặc, bắn lén ta, không phải mặt anh hùng. Ta cho ngươi sống thêm một đêm, để mai lấy đầu cũng không muộn.
Nói rồi đồng lui về ải.
Ðậu Binh hỏi:
– Sao hai vị không dùng phép bắt nó?
Kim Tra nói:
– Bần đạo vừa lấy phép, nó đã biết trước chạy đi. Thôi, chẳng muộn gì, để ngày mai bắt nó cũng được.
Bỗng có quân vào báo:
– Có phu nhân ở hậu đường ra thương nghị với lão gia.
Nàng ấy chính là vợ Ðậu Binh, tên Triệt Ðịa phu nhân.
Kim Tra, Mộc Tra thấy người đàn bà đi tới, vội đứng dậy thì Triệt Ðịa phu nhân đáp lễ rồi hỏi chồng:
– Hai vị đạo sĩ nào vậy?
Ðậu Binh đáp:
– Hai vị này ở núi Bồng Lai là Tôn Ðức và Từ Nhơn, đến giúp ta đánh Khương Văn Hoán. Hôm qua bắt được Mã Triệu đợi sáng mai bắt Văn Hoán rồi đem binh đánh Khương Thượng và sáu trăm chư hầu, làm cho chúng nó trước sau lui tới không được.
Triệt Ðịa phu nhân nói:
– Lão tướng quân có tin cũng phải đề phòng chẳng nên buông lơ mà lắm hại. Lời xưa có nói: “Muốn câu cá thì dụng mồi thơm, muốn phản người thì dùng tiếng ngọt”.
Kim Tra, Mộc Tra đồng nói:
– Phu nhân nói phải lắm! Chúng tôi còn ở đây làm chi cho sanh chuyện nghi nan. Vậy hai tôi xin kiếu.
– Xin hai vị đạo trưởng miễn chấp. Bởi phu nhân có học binh thơ tinh thông võ nghệ, nên cứ theo binh pháp mà đề phòng, chưa rõ lòng hai vị. Tôi xin chịu lỗi hai vị đừng chấp làm chi.
Kim Tra làm bộ giận nói:
– Bần đạo lòng trung trời đất cũng biết. Bởi phu nhân nghi kỵ anh em tôi mới quyết giã từ, nay lão tướng đã nói hết lời, chúng tôi phải nán lại đây một đôi bữa. Ngày mai tôi dùng phép bắt Khương Văn Hoán cho rõ lòng ngay thật. Chừng ấy e phu nhân không còn mặt mũi nào ngó chúng tôi nữa.
Triệt Ðịa phu nhân thấy chồng mình tin tưởng hai đạo sĩ, lặng lẽ rút lui.
Triệt Ðịa phu nhân nai nịt hẳn hòi còn Ðậu Binh cũng áo giáp chỉnh tề.
Kim Tra nói với Ðậu Binh:
– Nay Khương Văn Hoán phá thành ban đêm, ngỡ ta hơ hỏng. Vậy để tôi với phu nhân thủ thành còn tướng quân và bạn tôi ra cự chiến. Bạn tôi sẽ quăng phép bắt nó cho rồi.
Triệt Ðịa phu nhân nói:
– Ông đạo này thủ thành với tôi chắc vô sự.
Ấy là ý Triệt Ðịa phu nhân muốn cầm chân một người để khỏi lo biến, vì chẳng lẽ hai người bỏ nhau.
Ðậu Binh cầm đao lên ngựa, Triệt Ðịa phu nhân dặn với:
– Giao chiến ban đêm phải giữ gìn vì lắm kế gian. Nhất là không nên theo đuổi giặc.
Kim Tra biết ý ngó Mộc Tra. Mộc Tra cũng hiểu ý dừng lại.
Khi Ðậu Binh đến cửa ải, lướt ra hét lớn:
– Phản thần đêm nay đã tới số.
Khương Văn Hoán không thèm nói lại vung đao chém tới. Ðậu Binh cũng giơ đao ra đỡ rồi hỗn chiến.
Kim Tra thấy hai tướng đánh đồng lực, liền quăng Ðộn Long Thun trói mèo Ðậu Binh lại. Khương Văn Hoán chém một đao đứt làm hai đoạn.
Thương thay! Ðậu Binh có tài tiến thủ, trấn ải Du Hồn hai mươi năm, Khương Văn Hoán và hai trăm chư hầu thường đánh phá nhưng không nổi, bởi thời trời khiến nên mắc kế Kim Tra.
Còn Mộc Tra ở trên lầu với Triệt Ðịa phu nhân, thấy hai trăm chư hầu kéo tới, liền lén quăng gươm Ngô Câu lên và vái thầm:
– Xin bửu bối trở mình.
Gươm Ngô Câu ở trên cao quay như chong chong chém Triệt Ðịa phu nhân rụng đầu.
Thật là những kẻ trung tín trọn đạo hai đường. Chồng vợ thành thần một lượt.
Mưu cao kế rộng xòe tay trắng,
Má phấn môi son nhuốm giọt hồng.
Mộc Tra chém Triệt Ðịa phu nhân xong, đứng trên mặt thành nói lớn:
– Ta là Mộc Tra, vâng lệnh Khương Nguyên soái đến đây lấy ải Du Hồn, nay chủ tướng đã bị giết rồi, nếu ai hàng đầu thì dung, bằng nghịch mạng thì giết.
Trong thành các tướng sĩ ai nấy đều quỳ lạy hàng đầu.
Mộc Tra truyền mở cửa ải. Khương Văn Hoán kéo hai trăm chư hầu vào ải.
Giao Trung cự không lại, liền liều thân tự vận theo chủ tướng.
Khương Văn Hoán tra khảo lương tiền, chiêu an bá tánh và thả Mã Triệu ra.
Kim Tra nói với Khương Văn Hoán:
– Hiền hầu kéo binh đi sau. Tôi phải về Mạnh Tân trước để báo tin cho Nguyên soái hay biết mới được.
Khương Văn Hoán y lời.
Kim Tra và Mộc Tra từ giã đằng vân trở về Mạnh Tân.
Bấy giờ Tử Nha thấy đã đến ngày mồng chín là ngày Mậu ngũ mà Khương Văn Hoán chưa đến kịp, ngày đêm trông ngóng, bỗng có quân báo:
– Kim Tra, Mộc Tra đã trở lại.
Tử Nha mừng rỡ đòi vào mắt. Kim Tra, Mộc Tra thuật hết mọi chuyện.
Tử Nha khen kế nhiệm mầu, rồi nói:
– Trời định ngày Mậu ngũ, chư hầu nhóm đủ mặt nơi Mạnh Tân để kéo đến Triều Ca. Nay quả như vậy.
Ðến rạng đông ngày Mậu ngũ, Khương Văn Hoán và hai trăm chư hầu đến Mạnh Tân vào ra mắt Tử Nha.
Tử Nha dẫn tất cả vào ra mắt Võ Vương, cộng cả thảy là tám trăm chư hầu, còn các chư hầu nhỏ thì không kể, cộng binh là một trăm sáu mươi vạn, tế cờ rồi kéo đến Triều Ca truyền quân đóng trại.
Các dãy trại của tám trăm chư hầu đóng dài thườn thượt, bao bốn phía thành, quân đông như kiến, cờ xí nghịt trời, gươm giáo như rừng, thật chưa bao giờ từng thấy sức mạnh tập trung như vậy.
Quân thủ thành Triều Ca trông thấy vội chạy vào báo.
Quan đương giá vào tâu với Trụ Vương:
– Nay tám trăm chư hầu đóng quân quanh thành Triều Ca, binh mã ước một trăm sáu mươi vạn.
Trụ Vương thất sắc, ngự lên lầu xem thử, quả thật như vậy, liền quay lại hỏi các quan đại thần:
– Bá quan tính kế gì cho chư hầu về nước?
Quan thủ thành là Lỗ Nhân Kiệt tâu:
– Nay nhà đã cháy, xã tắc đã mục nát, một cây cột khó chống nổi dù cho tường dài đến đâu cũng không thể đổi lòng quân. Nay xin bệ hạ sai sứ cầu hòa, lấy nghĩa quân thần khuyên chư hầu về nước.
Vua Trụ nghe nói ngồi làm thinh.
Quan Trung Ðại phu Phi Liêm tâu:
– Xin ra chỉ trọng thưởng thì sẽ có tướng tài ra giúp sức, thành Triều Ca rộng hơn trăm dặm, hy vọng trong dân chúng còn người tài ẩn mặt. Vả lại Lỗ Nhân Kiệt là người tài trí, ra sức thủ thành cũng chưa đến nỗi gì. Trong thành quân sĩ còn hơn mấy mươi vạn, lương thực còn nhiều, chư hầu mới kéo tới đã lo nghị hòa họ sẽ chê cười ta yếu đuối.
Trụ Vương khen phải, truyền lập quán cầu hiền treo bảng rao trong dân chúng, nếu ai có tài, ra cầm binh đánh đuổi được chư hầu thì trẫm phong vương chia đất, cả họ được làm quan.
Bấy giờ, cách thành Triều Ca ba mươi dặm, có một người hiền ở ẩn tên Ðinh Sách, thấy chư hầu vây Triều Ca, Trụ Vương ra bảng chiêu hiền thì nghĩ thầm:
– Trụ Vương bất chánh, Ðắt Kỷ lộng quyền, ưa nịnh giết trung tham hoa đắm sắc, nên người hiền lớp bỏ chức, lớp đầu Châu, trong triều chỉ còn một số tham quan ô lại, chỉ có tài xu nịnh. Nay ở trước tình thế này, dù cho kẻ tài năng đến đâu cũng phải bó tay mà chịu, cứu sao khỏi cơn binh biến? Còn ta, tuy biết binh pháp mặc lòng, song không thể cãi mệnh trời được. Nghĩ thương vua Thành Thang đầy lòng nhân đức, nhờ Y Doãn đuổi vua Kiệt nhà Hạ qua đất Nam Sào, dựng nên nghiệp cả, truyền ngôi 644 năm, đến bây giờ mất nước.
Than rồi ngâm:
Nghĩ nhớ Thành Thang những bấy lâu,
Lấy nhân đuổi kiệt nhóm chư hầu
Truyền ngôi cho đến đời vua Trụ,
Một mối sơn hà để lại Châu.
Xảy thấy người bạn nữa là Quách Thần bước vào, Ðinh Sách hỏi:
– Hiền đệ đến chơi hay có chuyện chi lạ?
Quách Thần đáp:
– Nay chư hầu vây thành, vua treo bảng cầu hiền, em đến bàn với anh ra tài giúp chúa để hưởng lộc triều đình, cho rạng danh, khỏi uổng công lâu nay rèn luyện.
Ðinh Sách cười rằng:
– Hiền đệ nói cũng phải, trong lúc nước nhà nguy biến thì người dân đều có trách nhiệm. Song Thiên Tử lỗi đạo, thiên hạ trở lòng đầu Châu phản Trụ, chúng ta khó đem một gáo nước mà rưới muôn xe lửa đỏ. Vả lại Tử Nha là người tài trí, tướng tá đều là đệ tử tiên gia, chúng mình ra sức chỉ thiệt thân, lại làm hại cả muôn ngàn binh sĩ.
Quách Thần nói:
– Chúng ta lâu nay sống nhờ ngọn rau tấc đất, lẽ nào quên nghĩa quân vương? Nước còn thì mình còn, nước mất thì mình mất, sao lại nghĩ chuyện tham sanh. Trong nguy biến mới biết tôi trung, lúc bình thường ai kể đến? Tài trí của anh lại thua Tử Nha hay sao mà sợ, anh đừng nhút nhát, hãy cứu chúa lập công.
Ðinh Sách nói:
– Ðây là chuyện đại sự, đã làm không thể hối hận được, phải suy tính kỹ càng, chớ nóng nảy.
Xảy có một người cao lớn bước vào. Ðinh Sách đứng dậy chào hỏi:
– Ðổng hiền đệ đến chơi có gì vội vã vậy?
Người mới vào là Ðổng Trung, hăm hở nói:
– Tôi thỉnh anh ra phò chúa diệt Châu. Bởi tôi thấy bảng cầu hiền, lấy làm toại chí, có viết tên anh và tên anh Quách đứng chung đem nạp cho Phi Liêm. Phi Liêm đem nạp cho Thiên tử, và truyền ngày mai vào hầu, nên tôi đến cho anh hay trước.
Ðinh Sách trách:
– Sao hiền đệ không nói với ta, tự ý biên tên như vậy?
Ðổng Trung nói:
– Tôi nhắm anh có tài, đủ sức giúp nước phò vua trong cơn binh lửa nên đã thay mặt anh tiến cử, xin anh chớ giận.
Quách Thần khen phải, cười lớn nói:
– Ta đương ép đại huynh ra phò vua giúp nước, nay hiền đệ đã biên tên dâng lên vua rồi thì hợp lý lắm.
Ðinh Sách thấy việc đã lỡ, dù cưỡng cũng chẳng được nào, nên lấy rượu ra đãi hai bạn, để cùng bàn việc đánh Châu.
Rạng ngày, ba anh em đến ngọ môn hầu chỉ.
Quan giữ cửa vào báo lại, vua Trụ đòi vào.
Ba người xưng tên, quỳ lạy chúc mừng xong, vua Trụ phán:
– Hôm qua Phi Liêm tiến cử ba khanh tài cao, nếu dẹp được binh Châu thì trẫm phong thưởng theo lời đã hứa trong bảng cầu hiền.
Ðinh Sách tâu:
– Chúng tôi thực không mong một quyền tước địa vị nào. Nay vì báo ơn vua nên trong nguy biến phải liều thân với nước. Việc chinh chiến là chuyện hiểm nghèo, cực chẳng đã mới phải dùng đến. Ðang lúc chư hầu thế mạnh như vũ bão, sức như núi Thái Sơn đè quả trứng, chúng tôi xin liều mạng cầu trời, việc thắng bại không dám chắc.
Trụ vương mừng rỡ, phong Ðinh Sách làm Thượng tướng, Quách Thần và Ðổng Trung làm Oai võ tướng quân, ban cẩm bào khôi giáp.
Ba tướng tạ ơn, vua Trụ truyền Lỗ Nhân Kiệt cầm đầu, dẫn quân ngự lâm ra cự chiến.
Gặp lúc Tử Nha dẫn các tướng đến trước thành khiêu chiến, Lỗ Nhân Kiệt cùng ba tướng khai thành, bước ra xá Tử Nha một cái.
Tử Nha đáp lễ và hỏi:
– Chẳng hay tướng quân là ai?
Lỗ Nhân Kiệt đáp:
– Tôi là Tổng đốc binh mã Ðại tướng quân Lỗ Nhân Kiệt. Ông là người có đạo đức sao không trọng nghĩa quân thần, nỡ nhóm chư hầu phạt Chúa, làm cho mang tiếng khi quân, biết mấy ngàn năm rửa tội ấy. Nay Thiên Tử rộng lượng, không bắt tội khi quân, vậy nên khuyên các chư hầu lui binh về nước đặng cống sứ, Thiên Tử cũng trọng đãi như thường, bằng không nghe lời, Thiên Tử nổi giận đem hết binh trào qua phạt cả nước, thì không còn ăn năn nữa.
Tử Nha cười nói:
– Tội Trụ vương đã nhiều, tám trăm chư hầu đến đây cứu dân phạt tội, một vài ngày nữa Trụ vương sẽ mất nước, tướng quân đã biết chán rồi, còn nói gượng làm chi?
Lỗ Nhân Kiệt nổi giận nói:
– Thất phu! Ta tưởng ngươi có đạo đức, nên đem lẽ phải phân trần té ra ngươi là đứa hồ đồ, ăn nói lỗ mãng.
Nói rồi nhìn tả hữu hỏi:
– Tướng nào bắt nghịch tặc cho ta?
Quách Thần nói lớn:
– Có tôi đây.
Liền giục ngựa múa siêu lướt tới. Nam Cung Hoát cản lại đánh liền.
Ðinh Sách cầm thương xông vào trợ chiến, Võ Kiết đón lại giao phong.
Nam Bá Hầu Ngạc Thuận xông ra gặp Ðổng Trung cự địch, Khương Văn Hoán nổi giận giục ngựa tới chém Ðổng Trung.
Na Tra ngứa tay cũng xông vào đánh.
Dương Tiễn nói lớn:
– Chúng ta vượt năm ải đến Triều Ca, lẽ nào đứng ngó.
Nói rồi vỗ ngựa xông vào.
Hai bên hỗn chiến một hồi, Na Tra quăng Càn Khôn Quyện đập Ðinh Sách nát sọ, Quách Thần bại tẩu bị Dương Tiễn bay ngựa theo chém rụng đầu, Ðổng Trung bị Khương Văn Hoán đâm lủng ruột.
Thương thay, ba tướng chết cùng một lúc.
Lỗ Nhân Kiệt thất kinh chạy vào thành đóng cửa.
Tử Nha thâu quân về trại.
Lỗ Nhân Kiệt vào ra mắt Trụ vương tâu việc ba tướng tử trận, Trụ vương buồn bực phán:
– Tình thế này biết tính làm sao?
Ân Phá Bại tâu:
– Nay mười phần không kể một, nhân dân náo loạn, thiên hạ đảo huyền. Song trước kia tôi có quen với Tử Nha, nay xin liều chết đến dinh Châu nói việc trái phải, khuyên chư hầu kéo binh về. Nếu được như vậy thì phước của bệ hạ, bằng không được tôi quyết mắng giặc mà chết, không trở về nữa.
Trụ vương y tấu.
Ân Phá Bại từ tạ ra đi.
Tử Nha đang đàm đạo với chư hầu, xảy nghe quân báo:
– Có thiên sứ đến.
Tử Nha liền mời vào.
Ân Phá Bại bước đến, thấy Tử Nha ngồi giữa, chư hầu ngồi xung quanh, vội vã bái một cái.
Tử Nha hỏi:
– Lão tướng quân đến chỉ dạy việc gì?
Ân Phá Bại nói:
– Lão phu cách mặt Nguyên soái đã lâu, không ngờ lâu nay Nguyên soái quản suất chư hầu, vang danh bốn biển, nên đến đây chúc mừng và thưa với Nguyên soái một việc, chẳng biết Nguyên soái có bằng lòng chăng.
Tử Nha mời ngồi và nói:
– Lão tướng quân nhằm chuyện gì đáng nói thì nói cho chúng tôi nghe, còn việc không đáng nói thì thôi, đừng đem ra bàn luận vô ích.
Ân Phá Bại nói:
– Tôi có nghe rằng: Thiên Tử sánh với trời, mà phá trời sao phải lại trong phép nước, nếu ai tự ý chinh phạt, thì là loạn thần, tội loạn thần không thể dung được. Còn làm tôi phản chúa thì là nghịch thần, tội ấy tru di cả họ, ai giết cũng vô can. Ðời xưa vua Thành Thang nhân đức mười phần, thế ngôi nhà Hạ, truyền đến nay hơn sáu trăm năm, thì chư hầu thiên hạ đều mang ơn hết thảy, ai cũng là tôi nhà Thương. Nay chẳng lo đền ơn, lại nhóm chư hầu làm phản, giết dân lấy đất, hại tướng hãm thành, vây triều ca tội nặng không kể xiết, muôn đời không quên. Tôi lấy làm bất bình với Nguyên soái điều ấy. Theo ý tôi tưởng thì nếu vua thất đức, làm tôi chỉ nên khuyên vua, các chư hầu nên làm sớ, vạch lỗi của vua, buộc vua phải từ bỏ lỗi lầm, xa lánh tửu sắc, gần trung, xa nịnh. Nếu vua vẫn không nghe thì sẽ hành động cách khác, còn vua đã nghe thì cũng nên giữ đạo làm tôi, chư hầu ai về nước nấy, hưởng phúc thái bình. Chẳng hay Nguyên soái cho lời nói tôi thế nào?
Tử Nha cười, và nói:
– Lão tướng luận sai rồi. Thiên hạ là của chung, chẳng phải riêng ai, tại sao chúng ta cứ cố định một mình Trụ vương mới là vua, trong lúc đó Võ Vương nhà Châu nhân đức rãi dày, bốn phương đều biết Trụ vương vô đạo, thiên hạ đảo huyền ai ai cũng ghét? Xưa vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn, vua Thuấn truyền ngôi cho vua Võ đâu có luận đến giống dòng. Ðến đời vua Kiệt vô đạo đắm mê tửu sắc, yêu nịnh giết trung bỏ việc triều đình kém bề nhân đức khiến vua Thành Thang là người nhân nghĩa phải đạo làm vua đuổi vua Kiệt ra Nam Sào, bủa đức trị dân dựng nên nghiệp cả như thế cũng bảo vua Thành Thang là bất trung bất nghĩa sao? Nay nhà Thương truyền hơn sáu trăm năm, khí số đã hết. Trụ vương noi dấu vua Kiệt ngày xưa làm điều bạo ngược, dĩ nhiên xã tắc phải dời đổi. Chúng ta trung với vua, nhưng vua đã không có đạo làm vua thì còn trung với ai nữa. Xưa nay có vì vua nào bạo ngược như vậy chăng? Nay chư hầu phạt kẻ vô đạo cứu dân, cũng như trước kia vua Thành Thang phạt Kiệt không gọi là đánh chúa.
Ân Phá Bại nghe mấy lời của Tử Nha biết là lẽ phải, không còn lời lẽ nào thuyết phục nữa. Song đã mang sứ mệnh đến đây hễ không được việc không trở về thì thà mắng vài tiếng rồi chết cho xong.
Nghĩ rồi mắng lớn:
– Ta tưởng chúng bay là người đạo nghĩa nên đến giải phân, không ngờ là kẻ hồ đồ, nói năng lỗ mãng, không biết nghĩa quân vương, không nể tình tôi chúa.
Khương Văn Hoán giận quá, xách gươm bước tới chỉ mặt Ân Phá Bại nói:
– Ngươi làm đại thần hàng ngày không can vua, để vua hung bạo giết hại nhân dân làm lắm điều độc ác, nay ngươi còn đến đây dùng miệng lưỡi để mắng nhiếc ta sao? Lẽ ra biết phận mình lui về cho sớm.
Khương Văn Hoán tuy làm thinh song trong lòng rất hậm hực.
Ân Phá Bại thấy vậy mắng lớn:
– Cha ngươi mưu với Hoàng hậu mà thí vua, Thiên Tử giết đã đáng ngươi không biết sửa mình lại đem lòng phản nghịch.
Khương Văn Hoán không cầm được giận dữ, trợn mắt hét:
– Thất phu! Cha ta phải thác oan mẫu quốc bị hại chắc cũng do ngươi bày mưu. Nếu không giết ngươi để báo cừu thì còn sống sao được nữa?
Nói rồi rút kiếm chém Ân Phá Bại một gươm bay đầu.
Tử Nha ngăn trở không còn kịp nữa.
Các chư hầu đều nói:
– Ân Phá Bại già mồm hỗn láo giết đi là phải lắm.
Tử Nha lắc đầu nói:
– Không nên làm như vậy. Ân Phá Bại là đại thần của Thiên Tử đến đây lấy lễ giảng hòa, lẽ nào chúng ta chém đi? Dù phải trái cũng vậy chúng ta không nên để cho mình mang tiếng bất nghĩa.
Khương Văn Hoán nói:
– Bởi nó uốn lưỡi mắng tôi trước chư hầu làm nhục tôi như vậy làm sao tôi chịu được.
Tử Nha nói:
– Chuyện đã lỡ rồi ăn năn cũng đã muộn. Thôi hãy chôn thây cho tử tế rồi lo việc tấn binh.
– Quân thám thính dò biết Ân Phá Bại giảng hòa không được, chọc giận Khương Văn Hoán, bị Khương Văn Hoán chém đầu rồi.
Vua Trụ kinh hãi ngồi làm thinh.
Ân Thành Tú khóc và thưa:
– Hai nước đua tranh, không nên chém sứ, lẽ nào Khương Văn Hoán khi bệ hạ lắm. Vậy xin cho tôi ra trận liều chết báo thù cha.
Trụ Vương an ủi:
– Tuy khanh trung hiếu mặc lòng, song cũng phải đề phòng.
Ân Thành Tú lạy tạ, kéo binh ra trước dinh Châu khiêu chiến.
Quân vào báo, Khương Văn Hoán xin đi, Tử Nha nhận lời, Khương Văn Hoán liền dẫn binh ra trận, kêu Ân Thành Tú nói:
– Ân Thành Tú! Ngươi ra đánh báo cừu cho cha ngươi phải không? Bởi cha ngươi xúc phạm đến chư hầu, nên ta xử tội. Còn ngươi muốn chết theo phải không?
Ân Thành Tú nổi giận mắng:
– Thất phu! Hai nước đang giao tranh sao được phép chém sứ? Cha ta vâng lệnh Thiên Tử đến giảng hòa, nỡ nào ngươi đem chém đi. Ta quyết ra đây hỏi tội ngươi báo cừu cho thân phụ.
Nói rồi xong tới đánh.
Hai bên hỗn chiến một hồi.
Khương Văn Hoán là con hổ phương Ðông, Ân Thành Tú làm sao chống cự lại vừa đánh được vài mươi hiệp, Khương Văn Hoán chém Ân Thành Tú rơi đầu xách về nạp cho Tử Nha.
Tội nghiệp! Ân Thành Tú nên trang trung hiếu, chỉ vì nóng trả thù cha mà mang hại.
Trụ vương nghe tin Ân Thành Tú tử trận, kinh hãi hỏi triều thần:
– Binh chư hầu mạnh như vậy, biết làm sao?
Triều thần chưa có kế gì, ngồi im không đáp.
Bỗng có quân vào báo:
– Binh chư hầu công phá thành trì một loạt.
Lỗ Nhân Kiệt tâu:
– Tôi xin đem quân thủ thành rồi sẽ tính.
Tử Nha cùng các chư hầu công thành, thấy Lỗ Nhân Kiệt thủ thành phải phép, biết không thể phá gấp được, liền thâu binh về, hội chư hầu thương nghị.
– Lỗ Nhân Kiệt có tài và trung liệt, hết lòng thủ thành. Vả lại thành triều ca chắc lắm, nếu có ráng phá được cũng còn lâu. Các tướng có mưu gì không?
Các đệ tử thưa:
– Chúng tôi xin độn vào thành làm nội công. Nguyên soái đốc quân bên ngoài làm ngoại kích thì lấy thành như chơi, có gì mà lo.
Tử Nha nói:
– Không nên làm như vậy. Nếu độn vào lấy thành không khỏi gây ra cuộc đấu chiến, làm hại bá tánh trong thành. Thành Triều Ca lâu nay đã bị hôn quân làm khổ nhiều rồi, chúng ta đến đây với mục đích cứu dân, lẽ nào còn gây cho dân chết chóc. Như thế chúng ta khác nào vua Trụ.
Các tướng nghe nói đều khen phải.
Tử Nha nói:
– Mấy năm nay Trụ vương bắt dân chịu sưu thuế nặng nề, nào cất Lộc đài, nào chặt chân xem tủy, nào mổ bụng đàn bà chửa xem thai, oán hận chồng chất trong lòng người dân, nay chúng ta muốn lấy thành tốt hơn làm hịch bắn vào thành, khuyên dân chúng tản bớt đi, còn thành không thì dễ phá.
Các tướng đồng nói:
– Nguyên soái luận phải lắm.
Tử Nha liền viết tờ hịch truyền quân dùng cung tên bắn vào thành như bươm bướm.
Có bài thơ rằng:
Quân tướng triều ca ráng thủ thành,
Vì chúng sợ chết phải hà canh
Nếu không yết thị làm cho rã,
Vây phủ mười năm cũng nhọc nhằn.
Khi thấy Tử Nha truyền quân sao mấy chục ngàn tờ cáo thị và bắn vào bốn cửa thành, dọc theo đường sá.
Binh Thương trông thấy lượm lên xem thì thấy cáo thị ấy viết như sau:
“Tây Kỳ đại Nguyên soái Khương Thượng.
Dùng cáo thị một chương, rao cho quân dân bốn cửa. Bởi vua Trụ độc như nước lửa, nên dân Thương tha oán lầm than. Cất Lộc đài dân chết cả vạn, yêu Ðắt Kỷ giết chết chẳng biết bao nhiêu người. Muốn coi tủy thì chặt chân, muốn xem thai thì mổ bụng. Bày ao rượu giết người hầu hạ, sai chinh Tây, giết kẻ chiến trường. Vì vợ đau mổ bụng Tỷ Can, nghe vợ nói cạo đầu Cơ Tử. Chém Ðiện hạ độc hơn hùm dữ, giết Chánh Cung lòng khác người phàm. Hại Ngạc Hầu nên mới có giặc Nam phương, giết Quốc trượng mới gây thù Ðông trấn. Tám trăm cõi chư hầu đều giận, mấy triệu binh hào kiệt đồng lòng nên vào năm ải như không, phá thành nào cũng dễ. Thương là thương con đỏ, cám là cám dân đen, nên lửa than chẳng muốn nhuốn nhen, vì ngọc đá hãy còn lẫn lộn. Tờ cáo thị hết lòng khuyên bảo, muộn lẽ dân sớm tính việc hàng đầu, dâng thành đặng được sống lâu, nếu nghịch mạng ắt chết oan ức, hoặc là kiếm phương xa ẩn dật, hoặc là tìm đồng trống mà náu nương, nếu canh chấu đón đường, ắt xe rồng khó tránh, mau mau xa lánh, chóng chóng dời chân, bằng đợi đốt rừng ắt là uổng mạng.”
Ai nấy xem cáo thị đều khen:
– Võ Vương quả thật nhơn đức. Nguyên soái dạy quá rõ ràng. Nếu nghịch lại không dâng thành thì e khó sống. Vì năm ải rất nhiều tướng tài mà thủ không được, huống hồ chi một thành này. Nghĩ kỹ lại Trụ Vương vô đạo bất nhơn, mình có liều cũng vô ích.
Quân dân đồng lòng đợi tới tối mở cửa dâng thành.
Các tướng biết được hết sức trừng trị nhưng không ai nghe theo cả.
Ðến canh ba, quân dân mở cửa thành kêu lớn:
– Chúng tôi là dân tị nạn xin mở cửa dâng nạp Triều Ca.
Kẻ nói trước, người nói sau vang trời dậy đất.
Lúc này Tử Nha đang ngồi trong dinh tính mưu phá thành.
Xảy thấy quân vào báo:
– Bẩm Nguyên soái! Bốn cửa thành Triều Ca đều mở, quân dân kêu Nguyên soái đến họ dâng thành.
Tử Nha mừng rỡ, truyền các binh tướng vây ngoài thành cứ một đạo là một cửa, cấm không được sát hại quân dân trong thành, và không được lấy những thứ gì dù lớn dù nhỏ. Nếu ai trái lệnh sẽ xử ngay lập tức. Binh sĩ tuân lịnh vào thành bình an. Chư hầu đóng binh từ Ngọ môn trở lại.
Lúc này Trụ Vương đang ăn uống với Ðắt Kỷ nơi Lộc đài, bỗng nghe quân ó vang trời, tiếp đó lại có Hoàng môn quan vào quỳ mọp tâu:
– Quân dân mở cửa thành cho bọn giặc vào rồi. Hiện chư hầu và Khương Thượng đang đóng binh tại Ngọ môn…
Trụ Vương thất kinh, vội gióng trống lâm triều.
Bá quan đông đủ. Trụ Vương hỏi:
– Trẫm không ngờ quân dân trở lòng mở cửa dâng thành cho Khương Thượng. Bây giờ tính làm sao đây?
Lỗ Nhân Kiệt tâu:
– Chư hầu và Khương Thượng đóng quân tại Ngọ môn thì trước sau cũng vào đây. Chi bằng tảng sáng chúa tôi ta điểm binh ngự lâm đến đánh liều một trận, may thắng thì tốt, nếu thất trận có chết cũng đành. Chứ chẳng lẽ bó tay chờ chết sao?
Trụ Vương khen phải, liền truyền Lỗ Nhân Kiệt điểm binh.
Bấy giờ Tử Nha họp chư hầu bàn rằng:
– Ðã gần sáng rồi, các vị hãy điểm binh lập tức, phải lấy hết sức mình đánh với Trụ Vương một trận, đừng nên để thất bại.
Chư hầu đồng thưa:
– Chúng tôi xin y lệnh Nguyên soái đánh trận này, dẫu có chết cũng quyết không chạy. Nếu ai nhút nhát, bại tẩu thì xin Nguyên soái trảm tức thì.
Vua Trụ lúc này sốt ruột ngồi chờ Lỗ Nhân Kiệt điểm quân thì xảy thấy Hoàng môn quan hơ hải chạy vào tâu:
– Chư hầu mời bệ hạ đến Ngọ môn nói chuyện.
Vua Trụ liền nai nịt hẳn hoi, cầm siêu đao lên ngựa truyền cầm cờ long phụng đi trước, còn mình theo sau.
Lỗ Nhân Kiệt nghe tin liền đem quân theo bảo giá, Lôi Côn, Lôi Hàng hầu hai bên.
Ra đến nơi, Trụ Vương thấy Tử Nha đứng trước, bốn vị chư hầu đứng sau.
Tử Nha trông thấy Trụ Vương liền bước ra xá và nói:
– Lão thần là Khương Thượng vì mặc giáp trong mình nên làm lễ không trọn, xin bệ hạ rộng dung.
Trụ Vương phán hỏi:
– Ngươi là Khương Thượng đó hay sao?
Tử Nha tâu:
– Phải!
Vua Trụ lại phán:
– Ngươi khi trước là quan đại phu của trẫm, tại sao lại lỗi đạo làm tôi trốn qua Tây Kỳ bày điều phản nghịch. Nay lại dụ chư hầu cướp thành lấy ải của trẫm, lại giết thiên sứ phơi thây. Tội đáng chết mười phần, hôm nay trẫm đã ra đến đây sao chưa chịu bó mình chịu tội, hay là ngươi muốn cự với trẫm phải không?
Tử Nha tâu:
– Bệ hạ cầm quyền trị muôn dân chư hầu đều cống lễ, giữ trọn nghĩa làm tôi, lẽ nào dám nghịch thiên tử. Bởi bệ hạ trên chẳng kính trời lỗi đạo thất chánh, hành hạ bá tánh chém giết đại thần nghe lời đàn bà không nghe lời trung thần can gián. Bệ hạ vô đạo đã lâu nhưng không biết sửa mình thì còn trách cứ chư hầu muôn dân phản nghịch làm sao? Bệ hạ tội chất bằng núi, oán rộng tợ biển, trời hờn người giận thiên hạ trở lòng. Nay tôi vâng theo phép trời phạt tội đại ác. Xin bệ hạ đừng gọi hai tiếng phản vua.
Trụ Vương nghe nói phán:
– Trẫm đã làm những gì các ngươi gọi là tội ác?
Tử Nha mỉm cười nói lớn:
– Tất cả binh tướng chư hầu, dân chúng hãy nghe cho kỹ tôi kể tội Trụ Vương đây.
Nói rồi quay lại hài tội Trụ Vương rằng:
1. Bệ hạ làm thiên tử, tức là cha mẹ dân sao lại ham mê tửu sắc, không kính đất trời, không tế sơn hà, chẳng trọng xã tắc, xa người hiền, gần người dữ bỏ điều đức hạnh lỗi đạo cang thường. Ấy là tội thứ nhất.
2. Khương hoàng hậu là mẹ các nước không phạm tội chi, sao bệ hạ nghe lời Ðắt Kỷ dứt bỏ tình nghĩa, khoét mắt đốt tay, hành hình một cách thảm thiết. Rồi lại phong Ðắt Kỷ là chính cung, hễ Ðắt Kỷ nói gì nghe nấy bỏ chánh quên nhân. Ấy là tội thứ hai.
3. Thái tử là từ quân. Ðông cung là vua phó sau nối cơ nghiệp cai trị chư hầu, sao bệ hạ nghe lời dứt tình phụ tử, ban gươm lệnh cho Triều Ðiền, Triều Lôi đi chém hai vị Ðiện hạ, không trọng phần hương lửa, mang tội với tổ tông. Hùm dữ chẳng ăn thịt con, sao bệ hạ độc hơn cầm thú. Ấy là tội thứ ba.
4. Những quan triều của tiên vương trước kia để lại giúp việc chánh cho thiên hạ thái bình, không có lỗi gì sao bệ hạ nỡ giết như đốt Mai Bá hại Dao Cách giết Thương Dung, mổ tim Tỷ Can, cạo đầu Cơ Tử. Ấy là tội thứ tư.
5. Chữ tín là cội rễ vua phải lấy điều tín nghĩa trị dân, sao bệ hạ gạt chư hầu vào chầu dùng kế độc phân thây Ðông bá hầu Khương Hoàng Sở, giết Nam Bá Hầu Ngạc Sùng Võ làm thiên hạ đảo điên. Ấy là tội thứ năm.
6. Việc hình phạt cốt để răn người, sao bệ hạ nghe lời Ðắt Kỷ chế Bào Lạc giết quan gián nghị, lập Sái Bồn hại kẻ cung nga, khói độc lên ngút trời xanh, hồn oan kêu vang địa ngục. Trời sầu đất oán quỷ giận thần kinh. Ấy là tội thứ sáu.
7. Của là báu của nước, tiền là mạng của dân, đáng việc mới dùng, bệ hạ xài phí đào ao chứa rượu, găm thịt làm rừng, lập Lộc đài lãng phí gần hết của kho, sai Hầu Hổ đốc công nhũng lạm tiền dân chúng. Kẻ giàu thì hao bạc, dân khó phải làm sưu, hiếp đáp dân nghèo kẻ mạnh phải mang bệnh người đau phải bỏ mình. Chỉ vì cuộc chơi mà làm cho nhân dân thảm họa. Ấy là tội thứ bảy.
8. Làm con người phải biết hổ thẹn, huống chi bậc chí tôn. Bệ hạ nghe lời của Ðắt Kỷ gạt Giả thị lên lầu trêu hoa ghẹo nguyệt, vua bất chính với vợ tôi thần, khiến người đàn bà trinh tiết phải gieo mình xuống lầu tự vận. Hoàng Quý Phi vì chị dâu đến can gián, bệ hạ cũng quăng xuống lầu giập thịt tan xương. Nỡ nào làm chuyện bất nhân như vậy? Ấy là tội thứ tám.
9. Bệ hạ thay trời trị dân, phải ở cho nhân đức, nỡ nào chặt chân kẻ bộ hành xem tủy, mổ bụng đàn bà chữa xem thai, mạng dân như cỏ rác, chỉ việc vui chơi mà làm cho vợ mất chồng, con xa mẹ, tội ác không lấy gì so sánh được. Ấy là tội thứ chín.
10. Ðạo làm vua, việc yến ẩm phải chừng mực, lẽ nào ngày đêm cùng với Ðắt Kỷ vui say mãi trên Lộc đài, không nhớ đến việc nước, không lâm triều, bỏ cả chánh sự, nghe lời Ðắt Kỷ bắt con nít thiến dương vật ăn cho bổ dưỡng, làm cho đứa con trai tuyệt tự, chết oan. Ấy là tội thứ mười.
Tuy có trung thần can gián, bệ hạ cũng không nghe, làm cho thiên hạ trở lòng, tướng binh bỏ mạng. Như Thiên tử, quả là kẻ dữ hại dân. Nay chúng tôi phò vua Võ là vua nhân đức đến đây cứu dân phạt tội. Bệ hạ không nên dùng tiếng phản vua mà nói.
– Ân Thọ, có ta đến đây! Chị ta tội gì ngươi khoét mắt đốt tay, cha ta tội gì ngươi phân thây xẻ thịt? Thù sâu tợ biển, oán chất bằng non. Nay nhờ Võ Vương hội chư hầu đến đây, ta quyết trừ kẻ vô đạo báo cừu.
Nói rồi chém một đao. Trụ Vương đỡ khỏi, Khương Văn Hoán chém tiếp một nhát, Trụ Vương đỡ rồi đánh lại.
Chư hầu xông vào trợ chiến. Chúa tôi ấu đả nhau trước Ngọ môn.
Võ Vương trông thấy than:
– Bởi thiên tử vô đạo nên mới sinh ra cớ sự như vậy. Chúa tôi đánh với nhau còn chi là cang thường nữa?
Than rồi nói với Tử Nha:
– Ba vị chư hầu sao không lấy lẽ phải can với thiên tử, nỡ nào hỗn chiến với vua?
Tử Nha nói:
– Bởi Trụ Vương phạm mười tội với trời đất, không phải đạo làm vua. Ðã không phải vua thì ai đánh cũng được. Tôi không dám can chư hầu.
Võ Vương nói:
– Tuy vua bất chánh, song đạo làm vua không nên đánh vua như vậy, xin Nguyên soái gỡ rối này.
Tử Nha tâu:
– Nếu Ðại Vương muốn như vậy thì truyền quân gióng trống lên để cứu Trụ Vương.
Võ Vương không hiểu, ngỡ đánh trống thì chư hầu lui về, nên truyền đánh trống rất dữ. Chư hầu nghe hiệu trống đồng xông vào các tướng áp tới phủ vây.
Khi ấy các tướng và các chư hầu nghe trống giục, đồng lướt tới phủ vây Trụ Vương.
Lỗ Nhân Kiệt nói với Lôi Côn, Lôi Bàng:
– Vua mắc nạn thì tôi cũng bị nhục. Chúng ta lúc này phải liều chết rửa nhục, không lẽ đứng ngoài xem bọn phản thần đánh chúa?
Lôi Côn nói:
– Anh em nói phải lắm.
Ba người đồng phá trùng vây, xông vào cứu giá.
Bấy giờ Trụ Vương hỗn chiến đã lâu, một mình chống cự với các tướng Châu vây phủ bốn phía.
Trụ Vương nổi giận, hét lên một tiếng, chém Nam Bá Hầu một đao đứt làm hai.
Lỗ Nhân Kiệt đâm Lâm Thiên nhào xuống ngựa.
Na Tra nổi giận lướt tới, nói:
– Các ngươi đừng ỷ mạnh, có ta đây.
Lôi Chấn Tử, Kim Tra, Mộc Tra đều xông vào, nói:
– Ðã đến Triều Ca lẽ nào chúng ta chịu thua trước mặt tám trăm chư hầu.
Nói rồi xông tới đánh liền. Dương Tiễn chém được Lôi Côn.
Na Tra quăng Càn khôn quyện đập Lỗ Nhân Kiệt bể đầu nhào xuống.
Lôi Chấn Tử đập Lôi Bàng chết tươi.
Vua Trụ còn có một mình tả xông hữu đột đánh với các tướng.
Khương Văn Hoán liền buông siêu đao xuống, lấy cây giản tràng giắt sau lưng, chui vào phía sau, đập lên lưng vua Trụ một giản.
Vua Trụ suýt té xuống ngựa, vội bại tẩu vào cung.
Chư hầu đuổi theo, nhưng cửa ngọ môn quân sĩ đóng kịp, không sao vào được, Tử Nha liền gióng kiểng thâu quân về trại, kiểm điểm binh tướng thì thấy trận này hao hết hai mươi sáu viên tướng, và mất hơn ba ngàn quân.
Các chư hầu đều thở ra, nói với nhau:
– Không ngờ Trụ Vương lại có sức mạnh dường ấy.
Tử Nha nói:
– Sức mạnh không thắng nổi đạo đức. Kẻ mất đạo đức phải bị diệt vong.
Võ Vương nói:
– Chúng ta đánh với Thiên Tử đã lỗi đạo làm tôi. Tôi thấy Khương Văn Hoán đánh Thiên Tử một giản lòng ta bất mãn quá.
Tử Nha nói:
– Xin Ðại vương chớ nghĩ như vậy. Lúc là kẻ nhân đạo, cầm quyền chỉ nước thì là bậc chí tôn, nhưng khi đã xa lìa đạo đức, bỏ mất thiên mệnh, đạo lý, thì chỉ là một người dâm đạo, hại dân, không coi là Thiên Tử nữa. Ðại vương còn thương xót nổi gì?
Vua Trụ chạy vào đền, ngồi lên ngai than:
– Ta hối tiếc vì không nghe lời trung thần can gián nên ngày nay mới bị nhục. Thương hại Lỗ Nhân Kiệt, Lôi Côn, Lôi Bàng đều vì ta tử trận cả.
Phi Liêm và Ác Lai tâu:
– Bệ hạ võ nghệ như thần, Một mình cự được trăm người mà còn giết được tướng, chỉ rủi ro bị một giản, nhắm chừng ít bữa cũng lành, rồi sẽ ra trận. Hạ thần tưởng chắc thế nào cũng thắng.
Trụ Vương nói:
– Trung thần không còn ai, các tướng chết hết trẫm lại bị thương còn mong gì chiến đấu.
Nói rồi cởi giáp vào cung.
Phi Liêm nói với Ác Lai:
– Giặc vây tại Ngọ môn, ngoài chẳng có binh, trong không còn võ tướng, tình thế này chắc chết, chúng ta liệu làm sao? Nếu binh chư hầu kéo vào đây ngọc đá không còn, vàng thau tiêu hết, chúng ta lâu nay tàn trữ được một số của cải mà phải tan tành thì uổng biết chừng nào.
Ác Lai nói:
– Cần gì phải đắn đo cho mệt. Kẻ trí thì coi theo tình thế mà làm. Trong ít ngày nữa, Trụ Vương phải chết, chúng ta thừa dịp đầu Châu cũng không mất phần công danh phú quý. Võ Vương nhân đức, Khương Thượng cao minh, chắc không bao giờ làm tội người đầu hàng mà sợ.
Phi Liêm nói:
– Nếu đã có ý ấy thì phải tính một kế nào để lập công. Theo ý tôi thì đợi lúc binh Châu đến phá, chúng ta trộm lấy ngọc ấn đem giao cho Võ Vương, thế nào chúng ta cũng được quyền cao chức trọng.
Hai người bàn luận với nhau trong có vẻ đắc chí lắm.
Bấy giờ Trụ Vương vào nội cung, Ðắt Kỷ, Hồ Hỷ Mỵ và Ngọc Mỹ Nhân đồng ra nghinh tiếp.
Trụ Vương rơi lụy, nói với Ðắt Kỷ:
– Trẫm coi Cơ Phát là tiểu tử, Khương Thượng là thất phu, chẳng tài cán chi, chẳng dè chúng hội binh tướng quá đông, nhóm chư hầu vây trước ngõ. Trẫm ra binh chém được ít tướng, rủi bị Khương Văn Hoán đập một giản trúng lưng. Còn Lỗ Nhân Kiệt, Lôi Côn, Lôi Bàng đã liều mình tử trận. Trẫm chắc cơ nghiệp tiên vương đến đây là dứt, ăn năn thì đã muộn.
Trụ Vương thở dài, lau nước mắt rồi nói tiếp:
– Nghĩ thương ba mỹ nhân ở với trẫm tới nay, mà trẫm phải liều mình, để cho chúng bắt ba vị mỹ nhân của trẫm. Một khi trẫm đã chết rồi, thì cả ba ái khanh đều về tay Cơ Phát hết. Trẫm nghĩ đến đó lòng đau như cắt.
Nói rồi nước mắt dầm dề.
Ba nàng yêu thấy vua Trụ khóc thảm thiết cũng động lòng khóc theo, rồi quỳ tâu:
– Ba chúng tôi nhờ ơn bệ hạ yêu dấu lâu nay, ghi lòng khắc cốt không quên, nay trong ly loạn bệ hạ tính đi đâu? Và bỏ chúng tôi sao đành?
Trụ Vương nói:
– Nếu trẫm để chúng bắt thì nhẹ thể lắm, nên phải từ giã ba ái khanh mà đi kẻo trễ.
Ðắt Kỷ níu áo khóc sướt mướt:
– Thần thiếp nghe bệ hạ nói ruột gan như dao cắt. Bệ hạ nở bỏ thần thiếp mà đi đâu?
Nói rồi cúi mặt trên đầu gối Trụ Vương mà khóc lớn.
Vua Trụ thương quá, không nỡ bỏ đi, vội hối quân dọn tiệc rượu giã biệt.
Có bài thơ rằng:
Nghĩ tới vui xưa tại Lộc đài,
Dứt tình vì giặc đánh bên ngai
Uyên ương kết cánh từ năm ấy,
Loan phụng chia lìa nội bữa nay
Binh tợ mây đen tan trống rỗng,
Tướng như sao sáng, lặn lai rai
Biệt ly chiến rượu say rồi tỉnh
Ðoái lại giang sơn vốn của ai.
Vua Trụ uống mãi, Ðắt Kỷ rót hoài.
Trụ Vương phán:
– Ta uống rượu hôm nay là uống cả nguồn ly biệt.
Ðắt Kỷ tâu:
– Xin bệ hạ chớ phiền vì thiếp là con nhà tướng, biết cỡi ngựa cầm đao, và Hồ Hỷ Mỵ, Ngọc Mỹ Nhân đều có học phép. Ðêm nay ba chị em tôi cướp dinh Khương Thượng, đánh đuổi binh Châu, nếu được thành công thì giải phá thành sầu cho bệ hạ.
Trụ Vương nghe nói gượng vui phán:
– Nếu Hoàng hậu ra công dẹp giặc này thì trẫm vui sướng biết chừng nào.
Bốn vua tôi cùng uống rượu đến hết canh hai. Ba con yêu nai nịt chỉnh tề đi cướp dinh.
Bấy giờ các chư hầu nóng lòng, hối Tử Nha ra lệnh phá đền.
Tử Nha tính toán một hồi rồi nói:
– Chỉ trong một ngày Giáp Tý vua Trụ diệt tuyệt, cần gì phải vào cung làm hư hại ngôi báu.
Bởi tính như vậy nên không đề phòng.
Ðêm ấy Ðắt Kỷ, Hồ Hỷ Mỵ và Ngọc Mỹ Nhân đồng cỡi ngựa xách song kiếm đi cướp trại. Ba con yêu đều làm phép gió ngút mây bay, binh Châu không biết Ðông Tây, chẳng phân Nam Bắc. Binh tuần đều vỡ chạy, tướng tuần cũng ngã lăn, vì trời đất tối tăm, không thấy đường nào chạy. Ba con yêu giết binh Châu rất nhiều.
Khi ấy khí yêu chiếu vào trướng, các tướng nghe hỗn loạn chạy vào bảo.
Tử Nha đánh tay biết ba con yêu hành động, liền truyền các tướng bắt cho được ba con yêu ấy, không để trốn thoát.
Na Tra liền đạp xe tới, Dương Tiễn xách đao giục ngựa ra.
Lôi Chấn Tử bay lên cao cầm côn đập xuống, Vi Hộ ở dưới thấp lấy Gián ma xử quăng lên.
Lý Tịnh múa kích xông vào, Kim Tra, Mộc tra đồng áp đến.
Ba chị em Ðắt Kỷ hỗn chiến một hồi.
Dương Tiễn kêu lớn:
– Yêu nghiệt! Sao chúng bây không sợ chết đem thây đến đây mà nạp.
Nói rồi cùng nhau vây phủ rất gắt.
Tử Nha làm phép ngũ lôi, vỗ tay sấm nổ.
Ba con yêu hãi kinh, liền nổi gió chạy về.
Vua Trụ ở trước Ngọ môn đang nghe ngóng tin tức, đợi mãi đến canh tư mới thấy ba nàng hơ hải chạy đến.
Trụ Vương hỏi:
– Ba khanh đi cướp trại, thắng bại lẽ nào?
Ðắt Kỷ tâu:
– Khương Thượng đề phòng rất kiên cố. Ba chị em tôi giết được một số binh tướng, nhưng rồi bị trùng vây suýt bỏ mạng.
Vua Trụ nghe nói thất sắc, trở vào buồn bã nói:
– Chẳng ngờ trời đã dứt nghiệp nhà Thương, không còn mong cứu giải.
Ðắt Kỷ cũng khóc và nói:
– Thiếp cũng quyết cướp trại đuổi binh Châu cho yên xã tắc ngờ đâu Trời chẳng cho khôi phục, bây giờ biết tính làm sao?
Trụ Vương nói:
– Trẫm cũng biết cơ nghiệp nhà Thương đến đây đã dứt, lòng trời đã khiến như vậy. Thôi trẫm với ba khanh từ giã mạnh ai nấy tìm chỗ ẩn mình, chẳng nên bận bịu nữa.
Nói rồi Trụ Vương đi thẳng lên lầu Trích tinh.
Ðắt Kỷ nói với Hồ Hỷ Mỵ Và Ngọc Mỹ Nhân:
– Bây giờ Trụ Vương đi liều mình, còn chị em chúng ta tính trốn đâu cho khỏi họa.
Hồ Hỷ Mỵ nói:
– Chỉ có Trụ Vương mê chúng mình mà thôi, nhắm không ai thương hại chúng mình hết, bây giờ trốn chỗ nào cũng không khỏi chết, chi bằng trở về trốn cũ mà nương thân.
Ngọc Mỹ Nhân nói:
– Phải lắm. Chúng ta cùng nhau trở về mả Huỳnh Ðế là tiện hơn cả.
Bàn luận xong, ba con yêu bắt cung nga ăn thịt một cấp nữa, mới chịu ra đi.
Lúc ấy Tử Nha điểm binh lại, và nói với các tướng:
– Ta sơ ý thiếu chút nữa dinh trại tan tành, may nhờ các tướng tài phép mới đuổi được yêu tinh. Nay phải tính trước kẻo chúng trốn hết.
Nói rồi truyền đặt bàn hương án, chiếu quẻ xem rõ, rồi nói:
– Nếu trễ chút nữa thì ba con yêu trốn rồi. Vậy Dương Tiễn đi bắt cho được con Trĩ chín đầu là Hồ Hỷ Mỵ, Lôi Chấn Tử đi bắt cho được Hồ Ly chín đuôi là Ðắt Kỷ, còn Vi Hộ phải đi bắt cho được Ngọc Mỹ Nhân là cây đờn tỳ bà bằng đá. Nếu để chúng nó trốn hết thì ta xử trảm các ngươi hết.
Ba tướng tuân lệnh, ra khỏi cửa bàn với nhau:
– Chuyện này khó quá! Biết nó trốn ở đâu mà kiếm?
Dương Tiễn nói:
– Bây giờ chúng nó thấy Trụ Vương yếu thế chắc trốn ra ngõ sau cung, chúng ta bay lên mây xem xuống thế nào cũng thấy.
Lôi Chấn Tử khen phải, vỗ cánh bay lên mây.
Lúc này ba con yêu ăn thịt cung nga vừa rồi, nổi gió bay lên, tính về hang cũ.
Dương Tiễn trông thấy đón lại kêu lớn:
– Ba con quái chạy đâu cho khỏi. Có ta đến bắt ngươi đây.
Hồ Hỷ Mỵ nổi giận, vung gươm mắng:
– Chị em ta gởi sự nghiệp Thành Thang cho Cơ Phát, nên chúng bây mới thành công, sao chẳng biết ơn còn bắt lại nghĩa là sao?
Dương Tiễn nổi giận mắng:
– Loài nghiệt súc! Chớ nói nhiều lời, bây mau bó tay chịu trói.
Nói rồi xông vào hỗn chiến. Lôi Chấn Tử xông vào đón Ðắt Kỷ lại đánh, Vi Hộ cũng xông vào đánh với Ngọc Mỹ Nhân.
Ðánh được một lúc, Dương Tiễn thả Hạo Thiên Khuyển ra, cắn con trĩ gãy hết một đầu, máu nhỏ ra từng giọt, song nó sợ quá quên cả đau đâm đầu chạy.
Bỗng thấy cặp phướng vàng xuất hiện, mùi hương thơm xông lên ngào ngạt, kế đó có hai tiên nữ theo hầu và Nữ Oa cỡi hạc bay đến.
Ba con yêu bị hào quang chiếu vào mặt nên chạy không được, túng thế phải quỳ xuống thưa:
– Chúng tôi không ngờ nương nương đến nơi đây, nên nghinh tiếp trễ, xin nương nương thứ lỗi. Nay Dương Tiễn và hai tướng quyết đuổi bắt chúng tôi, xin nương nương cứu mạng.
Nữ Oa nói:
– Bích vân! Ðem dây phược yêu trói chúng nó lại giao cho Dương Tiễn đem về nạp cho Tử Nha trị tội nó.
Bích Vân đồng nhi y lịnh.
Ba con yêu nghe nói vừa khóc vừa thưa:
– Năm xưa nương nương dùng phướng chiếu yêu gọi chị em tôi đến, sai vào cung cấm phá trí khôn Trụ Vương, làm nhiều điều trái lẽ, phá tan tành cơ nghiệp Thành Thang. Chúng tôi vâng lệnh làm Trụ Vương hết vây cánh, nước nhà nghiêng ngửa. Nay chúng tôi định đến tâu cùng nương nương thì bị Dương Tiễn và hai tướng đuổi theo. Xin nương nương cứu mạng chị em tôi. Nếu nương nương bắt chị em tôi giao nạp cho Tử Nha thì nương nương xuất hồ phản hồ sao?
Nữ Oa nói:
– Ta sai chúng bây phá cơ nghiệp vua Trụ là hợp ý trời. Ta có dặn các ngươi là đừng giết hại kẻ vô tội. Song chúng bây không nghe, làm nhiều điều tội ác, giết cả tôi trung. Nay tội đáng chết, sao các ngươi dám bảo ta xuất hồ phản hồ?
Lúc Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử, Vi Hộ đang đuổi ba con yêu, xảy thấy hào quang sáng lóa, mùi hương thơm phức, Dương Tiễn xem rõ, nói với Vi Hộ và Lôi Chấn Tử:
– Ấy là Nữ Oa nương nương giáng hạ, chúng ta ra mắt cho mau.
Nói rồi ba người kéo tới lạy và thưa:
– Chúng tôi không dè nương nương đến nên không kịp tiếp nghinh, xin tha tội.
Nữ Oa nói:
– Dương Tiễn, ta đã bắt trói ba con yêu rồi, ngươi dẫn về cho Tử Nha xử tội.
Ba người đồng tạ ơn, dẫn ba con yêu trở lại.
Có bài thơ rằng:
Ba yêu làm dữ hại tôi hiền,
Vua Trụ say mê đến ngửa nghiêng
Mới biết ngày nay trời báo ứng,
Hết trông về ở mé Hiên viên.
Dương Tiễn giục ba con yêu xuống trước cửa dinh, còn mình độn thổ về sau.
Quân giữ cửa thấy ba người đàn bà trên mây sa xuống, đều bị trói một dây, kế lại có ba tướng về tới liền báo với Khương Thượng.
Ba tướng được lệnh vào ra mắt.
Tử Nha hỏi:
– Các ngươi đã bắt được ba con yêu chưa?
Dương Tiễn thuật hết mọi việc, Tử Nha truyền dẫn ba nàng vào dinh.
Chư hầu và các tướng xúm lại xem đông nức.
Tử Nha nói với ba yêu nữ:
– Ba đứa bây làm nhiều điều độc ác, hại trăm họ lầm than, làm cho cơ nghiệp Thành Thang bị mất. Tuy là thiên số song cũng tại các ngươi bất nhân, xui Trụ vương chế Bào Lạc đốt trung lương, lập Sái Bồn hại cung nữ, cất Lộc đài làm hao tốn của, dân khó bỏ thây, bày Tửu Trì, Nhục Lâm giết thị thần, thái giám, chặt xương xem tủy, mổ bụng coi thai, thất đức kể không cùng, dầu thiên hạ lóc thịt các ngươi vẫn chưa đền hết tội.
Ðắt Kỷ quỳ lạy, khóc lóc thưa:
– Thiếp ở Ký Châu, con gái Tô Hộ, nương phòng khuê từ tấm bé không hiểu việc đời, bởi Thiên Tử lấy oai trời, đòi vào cung hầu hạ nên phải tuân theo chẳng ngờ Khương Hoàng hậu chầu trời sớm. Thiên Tử ép thiếp lên thay mặt Chánh Cung, việc gì cũng do đại thần, điều chi cũng bởi quyền Thiên tử, thiếp chẳng qua là một đứa đàn bà nâng khăn sửa trấp, dọn cung, dâng rượu mà thôi, còn việc triều đình thiếp tự chuyên sao được? Bởi Trụ vương thất chánh đến bá quan can gián còn chẳng được thay, huống chi tôi là phận đàn bà mà ngăn cản vua làm sao? Nay Nguyên soái oai vang bốn biển, Võ Vương đức trải khắp chư hầu, chẳng bao lâu Trụ vương cũng sẽ dâng nước đầu. Nguyên soái có giết một đứa đàn bà cũng chẳng ích chi? Lời xưa có nói: “Ðàn ông có lỗi không luận đến đàn bà. Xin Nguyên soái rộng lòng cho tôi về được quê quán thì tôi đội ơn ngàn thuở”.
Tử Nha nói:
– Ngươi mượn tiếng con gái Tô hầu để nói mỵ với thiên hạ, chứ ta đã biết rõ ngươi là Hồ Ly tinh, khi Ðắt Kỷ nghỉ tại trạm Ký Châu, ngươi hớp hồn nhập vào xác, rồi vào cung xui khiến Trụ vương làm nhiều việc bất nhân. Nay bị bắt còn tìm lời gỡ tội cũng chẳng lợi ích gì.
Nói rồi truyền quân dẫn Ðắt Kỷ ra ngoài xử trảm.
Tả đao vâng lệnh.
Các chư hầu nghe Ðắt Kỷ nói trúng lý đều động lòng thương, không tin là yêu quái.
Còn hai con yêu quỳ trước trại.
Tử Nha truyền Dương Tiễn coi việc giám sát Hồ Hỷ Mỵ, Vi Hộ coi việc giám sát Ngọc Mỹ Nhân, còn Lôi Chấn Tử coi giám sát Ðắt Kỷ.
Dương Tiễn vâng lệnh làm phép trấn trên đầu Hồ Hỷ Mỵ, Vi Mộ làm phép trấn trên đầu Ngọc Mỹ Nhân rồi truyền Tả đao xử trảm, hai con quỷ rụng đầu.
Dương Tiễn và Vi Hộ đem hai thủ cấp vào trình.
Còn Lôi Chấn Tử khiến quân trói Ðắt Kỷ ngoài cửa ải.
Ðáng lẽ trong trường hợp này Ðắt Kỷ mặt ủ mày chau, nhưng trái lại mặt Ðắt Kỷ nở hoa, những đường thanh sơn cẩm thú nổi bật lên trên hình hài nhi nữ, khiến cho ai trông thấy cũng động lòng.
Tên tả đao trông thấy Ðắt Kỷ cặp mắt hữu tình, miệng nói duyên dáng, hàm răng như hạt lựu, môi tợ thoa son, đứng nhìn không nháy mắt.
Khi Lôi Chấn Tử truyền khai đao, Ðắt Kỷ nói với tên tả đao rằng:
– Thiếp chết thật hàm oan, xin tướng quân dừng tay trong giây phút. Sớm muộn cũng chết nhưng tướng quân rộng lòng thêm một khắc giá ngàn vàng.
Tên tả đao thấy Ðắt Kỷ gọi mình bằng tướng quân lòng thêm lính quýnh, đã sẳn ý thương hoa tiếc ngọc, bây giờ lại được mỹ nhân lấy lòng như vậy, nên tay chân rời rã, cầm đao không nổi nữa, thả rơi xuống đất, mình mẩy chết tê, cặp mắt nhìn Ðắt Kỷ trân trân không nháy.
Lôi Chấn Tử thấy tả đao rớt gươm, đứng sững như hình trồng, liền truyền tên khác đến thay. Tên ấy nghe Ðắt Kỷ năn nỉ cũng rơi gươm, đúng trơ như tên trước.
Lôi Chấn Tử đổi ba bốn tên Tả đao kế tiếp, tên nào cũng chết trân như vậy, cất gươm không nổi.
Lôi Chấn Tử tuy hò hét, khiến Tả đao hạ thủ nhưng thật ra chính Lôi Chấn Tử thấy dung nhan và nghe lời năn nỉ của Ðắt Kỷ cũng rủn lòng, chân bước tới không nổi.
Lôi Chấn Tử nghĩ thầm:
– Chẳng biết con yêu này có tà thuật gì mà làm mê hoặc mọi người như vậy? Nếu tình trạng này tiếp diễn mãi thì làm sao chém Ðắt Kỷ được.
Nghĩ rồi cố gắng lê bước đến trước trướng báo lại với Tử Nha:
– Thưa sư thúc, tôi không làm nổi trách nhiệm này.
Bấy giờ Tử Nha đã truyền bêu đầu Hồ Hỷ Mỵ và Ngọc Mỹ Nhân, thấy Lôi Chấn Tử vào tay không, lại nói như vậy, vụt miệng hỏi:
– Cửu vĩ hồ ly tinh đã chạy mất rồi sao?
Lôi Chấn Tử thuật chuyện lại.
Tử Nha nổi giận mắng:
– Ngươi giám sát một con yêu mà không xong, còn mặt mũi nào làm tướng. Còn các tên Tả đao tội đáng chém đầu.
Nói rồi truyền Dương Tiễn và Vi Hộ ra thay Lôi Chấn Tử coi việc giám sát.
Hai người tuân lệnh, dẫn các tên đao phủ mới ra, bắt các tên đao phủ cũ trói lại, chờ chém Ðắt Kỷ xong sẽ xử tội các tên đao phủ bất lực ấy.
Chẳng ngờ bọn đao phủ mới này khi đến nơi thấy Ðắt Kỷ thì tay chân cũng rời rã, mình mẩy tê cứng, không sao cầm nổi cây đao.
Dương Tiễn trong người cũng thấy nôn nao, nói với Vi Hộ:
– Nó là con hồ ly tu luyện ngàn năm, có tài làm cho ngươi ta mê mẩn. Rất đỗi, Trụ vương là vị Chúa, còn phải say đắm đến mất nước, huống hồ lũ quân gia. Chúng ta phải vào thưa lại với sư thúc định liệu, kẻo giết oan bọn Tả đao tội nghiệp.
Hai người vào thưa lại với Tử Nha.
Các chư hầu nghe nói lấy làm lạ, đều có ý muốn ra pháp trường xem thử.
Tử Nha cùng chư hầu ra đến nơi, cảm thấy Ðắt Kỷ xinh đẹp mười phần, nhan sắc quyến rũ thật khó lòng giết. Tâm trạng mọi người đều giống nhau là tiếc ngọc, thương hương, nhưng không ai dám nói.
Tử Nha nói với mọi người:
– Nó là con hồ ly tu luyện ngàn năm, nên có thuật khêu gợi, làm cho lòng người mê mẩn. Rất đỗi các đệ tử tiên gia còn không cầm lòng được, thì người thường làm sao không động tâm. Thế này tôi phải dùng đến bửu bối mới trừ nó được.
Nói rồi khiến Dương Tiễn vào lấy bầu gươm phép đặt bàn hương án, để hồ lô trên bàn, và van vái:
– Xin bửu bối trở mình.
Các chư hầu và binh tướng ai nấy đều hồi hộp. Sự hồi hộp ấy thật khó tả. Có lẽ họ không nỡ giết một mỹ nhân sắc nước hương trời như Ðắt Kỷ chăng?
Tử Nha vái dứt tiếng thì nắp hồ lô mở ra, hào quang chiếu sáng lóa. Trong hào quang hiện ra một cây gươm có hai con mắt và hai cái cánh chiếu thẳng vào đầu Ðắt Kỷ.
Lưỡi gươm bay qua lại hai lần trên không trung đầu Ðắt Kỷ rụng xuống, máu vọt ra lai láng.
Các chư hầu đều thương tiếc, chắc lưỡi thở ra.
Người sau có thơ rằng:
Tả đao mê mẩn đứng xuôi tay,
Bởi sắc khuynh thành nhắm dễ say
Tranh vẽ mịn màng coi cũng kém,
Hoa cười tươi tốt vẫn không tà
Hớp hồn gái ngọc thương khi trước,
Sốt mặt anh hùng gớm buổi nay
Yêu quái hại người, người khác hại,
Bia danh Ðắt Kỷ thật oan thay.
Tử Nha chém Ðắt Kỷ xong, truyền bêu đầu.
Các chư hầu trông thấy càng thương xót.
Bấy giờ Trụ Vương đang ngồi tại đền Hiển thánh thấy cung nga chạy ùa vào đông như kiến, lấy làm lạ hỏi:
– Các ngươi vì sao kinh hãi? Hay giặc đã vào trong cung?
Cung nga quỳ tâu:
– Ba vị nương nương đang đêm đi đâu mất, nên chúng tôi phải vào đây tâu lại.
Ấy là cung nga sợ tội, nên đến báo với Trụ Vương, thực không phải mến tiếc.
Trụ Vương nghe tâu, liền khiến cung nga đi lục soát khắp cung điện để tìm kiếm, và tâu lại.
Nhưng sự tìm kiếm ấy chẳng mang lại kết quả nào.
Chẳng bao lâu nội thị vào tâu:
– Ngoài cửa, Tử Nha bêu đầu ba vị nương nương.
Vua Trụ nghe tâu thất kinh, liền bước xuống lầu Ngũ phụng xem thử, quả nhiên thấy rõ ràng ba chiếc đầu của ba giai nhân bêu bên đường.
Người sau có thơ rằng:
Ngọc nát hoa rơi thật thảm thương,
Tóc mây, da tuyết bẹo bên đường
Ca thanh, múa lịch theo luồng gió,
Tướng dịu, lời khôn vắng cõi dương
Gối phụng ngửa nghiêng mơ má phấn,
Phòng loan man mác bặt mùi hương
Bể dâu thay đổi đà ra thế,
Nghĩ lại dường như cắt thịt xương.
Trụ Vương thở dài than ngắn, xảy nghe pháo nổ dậy đất, binh ó vang trời, biết chư hầu đã xâm nhập hoàng cung, liền vội vã xuống lầu Ngũ Phụng qua đến điện Cửu Giang. Ở đây, tiếng quân reo, tiếng trống trận càng chát chúa hơn, Trụ Vương liền lên lầu Trích Tinh để cho xa bớt.
Nhưng khi đến lầu Trích Tinh thì quang cảnh thường ngày lại khác xưa, lòng Trụ Vương không còn thấy ngôi lầu cao này ấm áp, tươi đẹp nữa, mà thấy mười phần trống trải, mặc dầu các đồ vật trên lầu không thiếu món nào.
Một luồng gió thổi đến làm cho Trụ Vương rùng mình rởn óc, cảm thấy hình như muôn ngàn hồn oan từ dưới Sái Bồn hiện đến. Rồi trước mặt Trụ Vương hàng vạn người bỏ tóc xõa, áp tới trước mặt vua Trụ đòi thường mạng. Lại thấy Triệu Khải, Mai Bá kêu lớn:
– Hôn quân. Nay đã đến ngày cùng tận rồi.
Trụ Vương hơ hải bỏ chạy lại thấy Khương hậu níu lại mắng:
– Hôn quân vô đạo, giết vợ hại con, nay đã đến ngày tuyệt mạng rồi, mặt mũi nào nhìn thấy các bậc tiên vương nơi chín suối. Trụ Vương hất tay Khương hậu, vừa chạy được ít bước thấy Giả thị chỉ vào mặt mắng:
– Hôn quân bênh vợ, làm sỉ nhục ta ném xuống lầu, nay số mạng đã tuyệt, còn chạy đi đâu nữa.
Nói rồi tát vào mặt Trụ Vương một cái. Trụ Vương giật mình tỉnh lại, mới biết vừa rồi mình bị hôn mê.
Tuy vậy, Trụ Vương cũng sợ hãi, thất thiểu bước lên trên chót lầu.
Quan giữ lầu vội nghênh tiếp.
Trụ Vương thấy mặt Châu Thăng, buồn bã nói:
– Tiếc rằng ta không nghe lời can gián của trung thần, nên ngày nay mới sanh ra cớ sự như vầy. Ăn năn thì đã muộn. Nghĩ lại, trẫm là một vị chí tôn, không lẽ đợi chúng phá được thành vào bắt làm nhục. Trẫm muốn liều mình lại e thân xác còn đó thiên hạ đàm tiếu chi bằng lập giàn hỏa tự thiêu mình trọn vẹn. Vậy ngươi mau làm cho ta một giàn hỏa trên lầu này chớ nên trễ nải.
Châu Thăng khóc và tâu:
– Tôi theo hầu bệ hạ đã lâu năm, nay gặp hoạn nạn đã không có tài gì để báo quân vương thì lẽ nào lại đi thiêu chúa.
Nói rồi khóc rống lên.
Trụ Vương phán:
– Ấy là trời khiến, ngươi có tội chi? Vả lại trước kia trẫm có nhờ Cơ Phát xem số đoán rằng về sau trẫm bị chết thiêu đó cũng là số mạng tránh sao được. Hãy lập giàn hỏa cho mau kẻo trễ.
Châu Thăng không nỡ, lạy lục cầu khẩn đôi ba lần xin Trụ Vương chậm chậm sẽ tính kế. Vua Trụ nổi giận nói:
– Việc đã gấp rồi, trẫm tính hết kế, không còn cách nào hay hơn nữa. Nếu ở để chư hầu phá Ngọ môn vào đây thì tội của ngươi chẳng nhỏ. Phải lập giàn hỏa cho ta lập tức.
Châu Thăng cực chẳng đã phải xuống lầu, chất củi và đổ thuốc dẫn hỏa làm một cái giàn lớn.
Cung nga xem thấy đều kêu khóc chạy qua cung khác ẩn mình.
Châu Thăng khóc lớn:
– Bệ hạ ôi! Tôi cũng xin chết theo cho tròn trung tiết.
Nói rồi nhảy vào đống lửa.
Người sau có thơ rằng:
Trích tinh ngọn lửa cháy bừng lên,
Ngọc nát vàng tan cháy rụi đền
Cơ nghiệp Thành Thang thành tro bụi,
Sáu trăm năm lẻ nghĩ buồn tênh.
Châu Thăng liều mình chết theo Chúa nghĩ cũng đáng khen.
Trụ Vương thấy lửa cháy, vỗ ngực than:
– Ta chẳng nghe lời can gián của trung thần, nên ngày nay mất cả cơ nghiệp, mặt mũi nào còn trông thấy các tiên vương nơi chín suối.
Bấy giờ Tử Nha đang đốc quân phá cửa ngọ môn, xảy nghe quân báo:
– Lửa cháy nơi lầu Trích Tinh rất dữ.
Tử Nha dắt Võ Vương và chư hầu đến xem thử.
Võ Vương thấy trên chót lầu có một người mặc áo vàng, đội mão trẩm, cầm Ngọc Khuê, bốn phía khói un mù mịt không rõ mặt, liền hỏi tả hữu:
– Phải Thiên Tử ngồi trên lầu chăng?
Tử Nha tâu:
– Chính là hôn quân vô đạo đó. Bởi hôn quân độc ác mười phần, nên nay bị trời phạt chết thảm.
Võ Vương nghe nói lấy tay áo che mặt, quay ngựa về dinh.
Tử Nha tâu:
– Tại sao Ðại Vương có cử chỉ như vậy?
Võ Vương nói:
– Tuy Trụ Vương bạo ngược mặc lòng, song trước giờ chết tất hối hận. Chúng ta không thể đứng nhìn một kẻ sắp thiêu mình trong đống lửa, thà trở về để trước mắt khỏi thấy cảnh thương tâm.
Tử Nha nói:
– Việc đời có nhân quả. Kẻ làm dữ phải mang hậu hoạn, làm sao tránh khỏi. Ðại Vương thấy thương tâm, chẳng qua là do lòng nhân đại của Ðại Vương mà thôi, chứ cái chết của Trụ Vương thật xứng đáng.
Võ Vương vẫn bỏ ra về.
Các chư hầu thấy vậy đồng theo Võ Vương trở về hết.
Còn Tử Nha ở lại xem lửa cháy, xảy thấy lầu Trích Tinh bị sập, đánh ầm một tiếng dường như núi lở, chôn vùi Trụ Vương vào giữa.
Linh hồn Trụ Vương đã lên đài Phong Thần.
Khi ấy các quan ngự lâm và cung nga mở cửa ra đón chư hầu.
Tử Nha truyền rước Võ Vương và các chư hầu nhập cung.
Trong lúc các quân nhân ra sức chữa lửa, Tử Nha họp mặt với Võ Vương và chư hầu nghị luận.
Võ Vương nói:
– Trụ Vương vô đạo, các cung nhân và triều thần lâu nay mang họa, những kẻ nào càng gần Trụ Vương càng khổ nhiều; nay Trụ Vương đã chết, chúng ta chớ làm cho những người ấy khổ thêm, vậy phải cấm quân sĩ không nên thừa dịp này cướp bóc hãm hại muôn dân.
Tử Nha tuân lệnh truyền ra cho quân sĩ biết kẻ nào lợi dụng việc chữa lửa, lấy của giết người thì sẽ chiếu theo quân luật xử trảm.
Võ Vương nhìn về phía đông thấy hai mươi cây cột đồng đỏ hực lấy làm lạ hỏi Tử Nha:
– Chẳng hay đó là vật gì vậy?
Tử Nha tâu:
– Ðó là Bào Lạc do Trụ Vương chế ra để đốt các quan Gián nghị.
Võ Vương kinh hãi than:
– Như vậy thì làm sao quốc thái dân an được. Chẳng những nạn nhân trông thấy hết hồn, cho đến ta cũng khiếp vía. Thật Trụ Vương không có dạ thương người.
Tử Nha nói:
– Bào Lạc mới là một trong những lối hành hình tàn nhẫn của Trụ Vương mà thôi.
Võ Vương hỏi:
– Còn gì tàn nhẫn nữa?
Tử Nha liền thỉnh Võ Vương đến lầu Trích Tinh và chỉ Sái Bồn cho Võ Vương xem.
Võ Vương thấy dưới hầm rắn bò ngổn ngang trông khiếp vía, vội hỏi:
– Vật gì vậy?
Tử Nha tâu:
– Ðó là Sái Bồn, chỗ nuôi rắn độc để kẻ nào không tuân mệnh. Trụ vương truyền lột hết quần áo ném xuống cho rắn xé xác.
Võ Vương nghe nói lạnh mình.
Tử Nha lại chỉ Tửu Trì, Nhục Lâm cắt nghĩa rõ từng chút.
Võ Vương than:
– Ta không ngờ Thiên Tử không có lòng nhân đức, chẳng chút lương tâm.
Võ Vương thấy lửa còn cháy, khói đen ngun ngút, số cung nga chết cháy hơn phân nửa, hơi tanh khét lẹt, lòng không đành, liền truyền:
– Hãy cứu lấy thi thể bị nạn đem ra ngoài chôn cất cho tử tế.
Rồi lại hỏi Tử Nha:
– Chẳng biết thi thể Trụ Vương ở đâu? Chúng ta phải tìm cho được làm lễ an táng, nếu để vậy chúng ta mang tội không nhỏ.
Tử Nha tâu:
– Trụ Vương vô đạo, chết như vậy là do trời phạt, nay Ðại Vương nhân đức, truyền tống táng thì lòng nhân của Ðại Vương không gì bì kịp.
Liền khiến quân tìm xác Trụ Vương tẩn liệm và tống táng theo lễ Thiên tử.
Sau đó, Võ Vương cùng Tử Nha và chư hầu đến Lộc đài, xem thấy lầu cao chót vót, cảnh vật xinh tươi, trong đài gắn toàn những châu báu, ngọc ngà hào quang sáng lóe, Võ Vương chắt lưỡi than:
– Thiên Tử thâu của dân xa xỉ như vầy bảo dân chúng không cùng khổ sao được. Ðã không có lòng thương dân thì mất nước là chuyện dĩ nhiên.
Tử Nha tâu:
– Từ xưa đến nay, hễ tiết kiệm thì lâu dài, xa xỉ thì mất nước. Kẻ minh quân lấy đức hạnh làm quý không coi châu báu, ngọc ngà là đẹp.
Võ Vương nói:
– Dân chúng lâu nay bị đóng góp vào Lộc đài nên cùng khổ, nay cũng nên phá Lộc đài chia của cho dân nghèo, lại lấy kho lúa tại Cự Kiêu phát chẩn cho dân chúng bớt đói khổ.
Tử Nha nói:
– Ðại Vương có ý như vậy thì đức rải bốn phương. Xin truyền lệnh lập tức.
Võ Vương làm y lời, truyền phá Lộc đài lấy báu vật phân phát cho dân và phá kho lấy lúa cấp chẩn.
Dân chúng được của mừng rỡ vô cùng.
Xảy có tin vào báo:
– Bắt được đứa con út của Trụ Vương là Võ Cảnh hiện trốn sau hậu cung.
Võ Cảnh là con trai của Ðắt Kỷ mới sanh sau.
Võ Cảnh tuy còn nhỏ, song cũng khôn lanh, thấy Võ Vương liền sụp lạy.
Chư hầu nổi giận nói:
– Ân Thọ vô đạo, tội ác dẫy đầy, cũng nên chém Võ Cảnh để đền tội với thiên hạ.
Võ Vương can:
– Trụ Vương lỗi đạo là tại Ðắt Kỷ và nịnh thần bày, còn Võ Cảnh có tội chi? Rất đỗi các quan đại thần như Tỷ Can, Vi Tử mà còn không can gián được thì Võ Cảnh một đứa bé bỏng làm gì được? Thói thường tội của cha không luận đến con, các chư hầu nên noi đức ấy sau này. Chúng ta đợi có một tân quân là yêu cầu phong cho Võ Cảnh một cõi ngõ hầu nối kiếp lửa hương, như vậy tức là chúng ta đền ơn Thiên Tử vậy.
Chư hầu không dám cãi. Khương Văn Hoán nói:
– Nay các việc đã xong, chúng ta cũng nên tôn một tân quân lên kế vị, trời không thiếu một ngày vắng mặt nhựt, nước không nên để một bữa thiếu vua. Hễ ai có nhân đức thì ra trị thiên hạ. Tôi thấy Võ Vương nhân đức có thừa, đáng mặt lên ngôi thiên tử, xin tính chuyện ấy cho đẹp dạ chư hầu.
Các chư hầu đều nói:
– Khương hiền hầu luận phải lắm.
Võ Vương nói:
– Tôi đức mỏng tài hèn, chỉ lo giữ mình cho trong sạch còn chưa xong, dám đâu trị thiên hạ. Tôi ước mong được về nước giữ đạo thần tử mà thôi. Xin chư hầu chọn người khác cho xứng đáng với chức vị thiêng liêng ấy.
Khương Văn Hoán nói:
– Ðại Vương chớ nên khiêm nhượng. Hiện nay nhắm trong thiên hạ không ai nhân đức bằng Ðại Vương, bởi vậy chư hầu đều tùng phục nhà Châu, chỉ ước mong được có ngày hôm nay. Nếu Ðại Vương từ chối thì thật phụ lòng tám trăm chư hầu theo Ðại Vương đến đây trừ bạo cứu dân.
Võ Vương nói:
– Tôi đức hạnh bao nhiêu mà hiền hầu nói quyết như vậy, xin chọn kẻ khác đủ tài đức lên nối trị ngôi trời mới xứng.
Khương Văn Hoán nói:
– Xưa vua Nghiêu có con trai là Ðơn Châu, kém bề nhân đức nên vua Nghiêu nhường ngôi vua Thuấn. Sau Thuấn sanh con là Thương Quân cũng ít đức nên truyền ngôi cho vua Hạ Võ. Vua Hạ Võ sanh ông Khải hiền đức nên mới truyền ngôi cho, kế vị được mười bảy đời đến đời vua Kiệt bạo ngược vua Thành Thang lấy nhân đức đuổi vua Kiệt ra đất Nam Sào gầy dựng nhà Thương, truyền đến đời Trụ Vương thì vì Trụ Vương vô đạo mà nhà Thương bị mất. Thế thì nhân đạo là yếu tố xứng đáng để trị đời. Ðại Vương không dùng việc can qua mà thu phục tám trăm chư hầu, thì đã thấy đức độ Ðại Vương đến bực nào rồi. Trời khiến nhà Thương về nhà Châu, Ðại Vương từ chối sao phải.
Võ Vương nói:
– Ðức hạnh tôi còn kém, đâu dám sánh với Hạ Võ, Thành Thang?
Khương Văn Hoán nói:
– Chúng tôi theo Ðại Vương đến đây trừ bạo cứu dân, nay Ðại Vương từ chối không nhận ngôi thiên tử thì chúng tôi biết cử ai bây giờ?
Võ Vương nói:
– Khương hầu tài cao đức trọng, đáng thay mặt nhà Thương trị thiên hạ. Các chư hầu đều nói lớn:
– Chư hầu đầu Châu đã lâu, xin Ðại Vương đừng khiêm nhượng. Nếu Ðại vương quyết lòng từ chối thì chư hầu ai về nước nấy, trên không Thiên tử, mạnh ai nấy tranh hùng, thiên hạ hãy còn loạn lạc nữa.
Tử Nha nói:
– Xin quý vị đừng nóng nảy, để thủng thỉnh bàn luận thế nào cũng yên.
Nói rồi quay lại tâu với Võ Vương:
– Bấy lâu nay chư hầu kéo đầu Châu chính là muốn trừ bạo, cứu dân, tôn Ðại Vương lên ngôi Thiên Tử để thiên hạ thái bình, ấy là điềm nhân thuận, thiên lý tùng. Hễ lòng người thuận thì trời phải theo. Nếu Ðại Vương cãi lòng người, trái mệnh trời chỉ thiên hạ loạn, các chư hầu sẽ mạnh ai xâu xé nhau, thành ra cuộc cứu dân trừ bạo hôm nay chẳng ích gì cả.
Võ Vương nói:
– Tuy chư hầu có lòng thương, song ta tự xét tài hèn, đức mỏng, đảm đương nhiệm vụ to tát sẽ làm trò cười cho thiên hạ, và để tiếng xấu về sau.
Khương Văn Hoán nói:
– Lòng muôn người như một, ước ao Ðại Vương lên kế vị ngôi trời xin tính việc ấy cho sớm kẻo thiên hạ ngã lòng.
Tử Nha nói:
– Xin Ðại Vương lên ngôi đỡ, nếu sau này có người nào hiền đức hơn mình thì Ðại Vương nhường ngôi lại cũng chẳng muộn.
Chư hầu hiểu dụng ý của Tử Nha đều hết sức đốc vào.
Tử Nha liền vẽ họa đồ đài tôn vương và đặt văn sớ, rồi giao cho Châu Công Ðáng sửa sang mọi việc.
Châu Công Ðáng coi theo họa đồ cất đài cao ba tầng, chính giữa đặt bàn hoàng thiên hậu thổ hai bên có bàn thần núi, thần sông tả hữu có mười hai cây địa chỉ, mười hai cây cờ ấy đều cắm dưới đất. Xung quanh tầng trên thì dùng mười cây cờ Thiên cang. Lại có bốn cây cờ tứ quy án theo bốn mùa. Lễ vật cúng tế bày ra rất long trọng.
Bấy giờ Tử Nha thỉnh Võ Vương lên đài cùng tế, Châu Công đọc sớ rồi đốt đi.
Võ Vương ngồi giữa, chư hầu chầu chực hai hàng nhạc thiều trổi lên, ai nấy tung hô vạn tuế.
Chúc lạy xong, Võ Vương phán:
– Các khanh bình thân. Trẫm đại xá thiên hạ.
Phán rồi xuống đài truyền chỉ dọn yến tiệc đãi đằng.
Rạng ngày Võ Vương lâm triều, chư hầu, văn võ chầu chực đủ mặt, Võ Vương phán:
– Trụ Vương thất chánh thâu của dân xa xỉ, làm cho đất nước lụy mình. Nay trẫm nhờ ơn chư hầu tôn lên ngôi thiên tử, trẫm xuất hết của kho vua Trụ mà thưởng các chư hầu. Châu ngọc, vàng bạc trên Lộc đài cũng chia nhau luôn thể. Xin các vị chư hầu về nước giữ theo đạo chánh, dùng kẻ hiền năng, lạy dân lấy kỷ cang làm trọng lấy đức làm lòng, lấy tín nghĩa làm nhân bản.
Chư hầu vâng lệnh từ tạ kéo binh về nước. Còn Võ Vương truyền phá hết lầu đài vua Trụ cấp phát tiền của cho dân, tha tù Cơ Tử, phong mộ Tỷ Can viếng nhà Thương Dung, thả cung nga về xứ.
Thiên hạ thấy việc binh chấm dứt, mừng rỡ khôn cùng.
Võ Vương ở nán lại Triều Ca hơn mười bữa, chiêu an bá tánh xa gần, đâu đâu cũng tùng phục.
Tử Nha tâu:
– Xin bệ hạ chọn người hiền đức để trấn nhậm Triều Ca.
Võ Vương phán:
– Tự ý Thượng phụ xếp đặt.
Tử Nha nói:
– Bệ hạ đã không giết Võ Cảnh thì cũng nên ra ơn cho Võ Cảnh ở Triều Ca giữ phần hương khói. Nhưng phải dùng người giám thủ mà giữ gìn.
Võ Vương phán:
– Ðể mai lâm triều sẽ thương nghị.
Rạng ngày, Võ Vương lâm triều phán rằng:
– Nay trẫm phong Võ Cảnh trấn tại Triều Ca, nối đời thờ phụng nhà Thương. Các khanh định ai làm Giám quốc.
Quần thần đồng tâu:
– Việc này phải dùng người thân của vua mới được. Chúng tôi nhắm hai vị ngự đệ là Cơ Thúc Tiên và Cơ Thúc Ðộ có đủ tài trí để dùng việc này.
Võ Vương y lời, giao cho hai vị ngự đệ ở lại Triều Ca làm Giám quốc với Võ Cảnh.
Hôm sau Võ Vương lên xe về nước. Khi ngự giá vừa ra khỏi ngọ môn thì thấy bá tánh đón đường lạy, và tâu:
– Bệ hạ cứu chúng dân trong cơn nước lửa, thật chúng tôi cảm đức mười phần. Xin bệ hạ đình giá để chúng tôi đền ơn.
Võ Vương an ủi:
– Trẫm đã để hai vị ngự đệ ở lại Triều Ca làm Giám quốc thì cũng như trẫm có mặt tại đây miễn các ngươi tuân theo phép nước, lấy nhân đạo làm gốc là đủ rồi cần gì phải lạy tạ.
Nói rồi quay lại dặn Cơ Thúc Tiên và Cơ Thúc Ðộ.
– Hai khanh phải lấy dân làm gốc, đừng bao giờ để cho dân khổ nhọc, được như vậy mới giữ được quốc thái dân an, bằng trái lời trẫm thì tội chẳng nhỏ.
Phán rồi truyền đẩy xe ra khỏi Triều Ca, bá tánh theo đưa còn khóc lóc sụt sùi.
Võ Vương dẫn binh đến Mạnh Tân, qua khỏi Huỳnh Hà, lần hồi vượt qua năm ải. Ngày khải hoàn vui vẻ ghê!
Khi đi khỏi núi Kim Kê, đến núi Thú Dương bỗng có hai đạo sĩ đến đón đầu binh.
Quân chạy về báo:
– Có hai đạo sĩ mời Nguyên soái ra nói chuyện.
Khương Tử Nha ra xem thì thấy hai người ấy là Bá Di, Thúc Tề, liền hỏi:
– Chẳng hay hai vị đến đây dạy việc chi?
Bá Di hỏi lại:
– Hôm nay Nguyên soái đem binh về nước chẳng hay Trụ Vương ra thế nào?
Tử Nha đáp:
– Trụ Vương vô đạo, thiên hạ đều trở lòng, tôi đem binh qua năm ải hợp chư hầu tại Mạnh Tân, Trụ Vương tuy đông binh; nhưng vô đạo không thể thắng chính đạo. Bởi cớ ấy Ân Thọ tự thiêu mình, Võ Vương vào triều ca lấy các kho lúa phát chẩn cho dân, phá hết đền đài của Ân Thọ đã hút máu xương thiên hạ, thả tù Cơ Tử, phong mộ Tỷ Can viếng nhà Thương Dung tỏ ra kính hiền đãi sĩ. Chư hầu đều phục, tôn Võ Vương lên nối ngôi Thiên tử. Nay nhà Thương đã thuộc về nhà Châu.
Bá Di, Thúc Tề ngước mặt lên trời khóc lớn nói:
– Thảm thay! Thảm thay! Ðem dữ mà đổi dữ ta còn trông nỗi gì?
Nói rồi lui vào núi Thú Dương chẳng ăn cơm nhà Châu, hái rau rán, rau díp ăn cho đỡ dạ. Sau hai ngươi này làm ra thể ca “Ăn rau” người đời đều biết.
Có một người đàn bà gặp Bá Di, Thúc Tề, liền hỏi:
– Vì sao hai ông không ăn cơm nhà Châu?
Bá Di, Thúc Tề thuật lại; người đàn bà cười nói:
– Chẳng ăn cơm nhà Châu mà ăn rau nhà Châu thì cũng vậy.
Bá Di, Thúc Tề bỏ cả ăn uống chết tại núi Thú Dương.
Người sau có thơ rằng:
Vua Võ hưng binh trước đón đàng
Lòng trung một tấm nhớ Thành Thang
Hai phần đã hết còn chung thỉ
Muôn thác không từ chọn chữ cang
Bờ cõi đời nay buồn chẳng có
Non sông chúa cũ nghĩ thêm càng
Thương ôi, thẹn mặt không cầu sống
Chê gạo nhà Châu xuống suối vàng.
Tử Nha kéo binh đi khỏi núi Thú Dương đến núi Yên Sơn, thấy dân Châu nghênh tiếp đây đường.
Rồi đến Tây Kỳ có Táng Nghi Sanh, Hoàng Cổn dẫn bá quan tiếp giá, đồng quỳ lạy trước xe.
Võ Vương thấy Hoàng Thiên Tước theo sau lưng Hoàng Cổn liền phán:
– Trẩm chinh Ðông năm năm nay, thấy các quan tiếp giá lòng bùi ngùi:
Táng Nghi Sanh tâu:
– Nay bệ hạ đã lên ngôi trời, đáng lẽ vui mừng mới phải. Chúng tôi tiếp giá thấy mặt rồng ủ rũ là tại làm sao?
Võ Vương nói:
– Bởi trẫm muốn hội chư hầu nên phải qua năm ải, các tướng theo trẫm kẻ mất người còn, không được chung hưởng hạnh phúc, nên trẫm buồn quá.
Táng Nghi Sanh tâu:
– Ðạo làm thần tử thì liều mình với Chúa, để tiếng thơm muôn đời. Nếu bệ hạ có thương thì phong tước lộc cho con cháu cũng đủ đền đáp thâm ân, cần gì phải buồn bã.
Võ Vương về tới đền, thiên hạ theo xem như hội.
Võ Vương vào ra mắt Thái Khương, Thái Nhâm rồi vào cung. Thái Cơ mừng rỡ đón tiếp.
Võ Vương truyền dọn yến tiệc thiết đãi bá quan.
Rạng ngày Võ Vương lâm triều, bá quan vào chầu, Tử Nha tâu:
– Tôi phạt Trụ đã xong, bệ hạ dựng nghiệp nhà Châu đã yên, song còn mấy người tử trận chưa phong thần, xin bệ hạ cho tôi về núi Côn Lôn ít ngày, để lãnh sắc của Chưởng giáo tôn sư mà phong thần cho rồi việc.
Võ Vương y tấu.
Xảy có quân báo:
– Phi Liêm và Ác Lai là tôi vua Trụ trước kia bỏ trốn, nay tìm đến xin ra mắt bệ hạ.
Võ Vương hỏi Tử Nha:
– Hai người ấy là tôi của vua Trụ đến đây ra mắt trẫm làm gì?
Tử Nha tâu:
– Phi Liêm và Ác Lai là hai đức tôi nịnh của Trụ Vương, trong loạn lạc ẩn mình, nay thái bình đến đây nhờ tước lộc. Loài gian hùng như vậy còn để làm chi? Song tôi đã có việc dùng, xin bệ hạ cứ đòi vào phong chức tước.
Võ Vương truyền chỉ đòi hai người vào.
Phi Liêm và Ác Lai vào quỳ trước bệ chúc tụng xong.
Võ Vương hỏi:
– Hai khanh có việc gì đến đây ra mắt trẫm?
Phi Liêm tâu:
– Trụ Vương không nghe lời tôi ngay, đắm mê tửu sắc, nên trời xui mất cả giang sơn. Chúng tôi nghe bệ hạ nhân đức bủa khắp thế gian nên chẳng nài đường xa ngàn dặm tìm đến Tây Kỳ, cầu bệ hạ cho chúng tôi hầu việc đánh xe thì thật may cho chúng tôi lắm. Và chúng tôi xin đem dâng ấn ngọc bệ hạ dùng.
Tử Nha làm bộ khen:
– Hai vị Ðại phu khi trước cũng tận trung với chúa, bởi Trụ Vương chẳng suy xét nên mới mất thành trì. Nay hai vị đem ấn ngọc đến đây đầu Châu thật là bỏ chỗ tối tìm chỗ sáng đó. Xin bệ hạ phong chức cho hai người.
Võ Vương y tấu, đồng phong cho hai người làm chức Trung Ðại phu.
Ác Lai và Phi Liêm đều lạy tạ ơn.
Bây giờ nhắc lại Mã Thị, từ khi chê Tử Nha bất tài bất trí, đòi từ hôn, sau về lấy một ông già làm rẫy tên Trương Tam Lão. Vợ chồng sống đắp đổi qua ngày. Ðến nay Võ Vương nhờ Tử Nha phạt Trụ thâu một cõi giang sơn, thiên hạ đều nghe danh đàm luận.
Ngày kia có một bà già lối xóm đến hỏi Mã thị:
– Người chồng trước của bà nay phò Võ Vương làm đến chức Thừa Tướng, tại sao bà không tìm đến nhờ cậy?
Mã thị nói:
– Biết có phải ông ấy không?
Bà hàng xóm nói:
– Còn gì nghi ngờ nữa. Người ấy là Khương Tử Nha, lúc thất thời ngồi câu ở Bàn Khê, sau đó Võ Vương rước về phong làm Thừa tướng. Mới đây Tử Nha phò Võ Vương hội chư hầu tại Mạnh Tân, chư hầu tôn Võ Vương phong Tử Nha làm Thừa Tướng, vinh hiển nhất đời ai lại không biết.
Mã thị nghe nói thẹn đỏ mặt.
Bà hàng xóm lại nói:
– Bà dại lắm! Phải chi đừng bỏ đời chồng trước thì bây giờ vinh hiển biết chừng nào. Nay người ta cao sang tột bực, còn bà thì hẩm hút như vầy thật đáng tiếc.
Mã thị hối hận vô cùng, bỏ vào phòng nằm một mình nghĩ thầm:
– Tức vì mình có mắt mà không biết xem người. Bà hàng xóm nói phải lắm. Thật ta vô phước. Bây giờ ta có sống đến trăm tuổi vẫn trong cảnh cực khổ này. Ðã vậy lại bị thiên hạ gièm pha chế biếm. Thà chết cho khuất đi còn hơn.
Song lại nghĩ:
– Hay là ta lầm! Trong đời thiếu gì kẻ trùng tên, chắc gì lão già ấy đã làm nên việc lớn? Nếu nghe lầm mà chết thì cũng oan, chi bằng đợi chồng về hỏi cho rõ ràng đã.
Ðến chiều Trương Tam Lão đi bán cải trở về.
Mã thị dọn cơm cho chồng ăn rồi hỏi:
– Thiếp nghe Khương Tử Nha phò Võ Vương làm đến chức Thừa Tướng có phải không?
– Việc ấy quả có như vậy. Vừa rồi Khương Tử Nha đem tám trăm chư hầu đánh triều ca, diệt Trụ hưng Châu, làm đến chức Thừa Tướng. Lúc đó tôi muốn bàn với phu nhân đến yết kiến Thừa Tướng xin làm một chức nhỏ song lại sợ người giận khó lòng.
Mã thị tức tối không an.
Trương Tam Lão theo an ủi mãi, Mã thị vào phòng dùng dây thắt cổ tự vận, hồn bay lên đài Phong Thần.
Rạng ngày Trương Tam Lão mới hay, mở dây đem xuống chôn cất.
Có bài thơ cho rằng:
Chồng vinh thì hiệp, nhục thời ly,
Nay mới ăn năn có ích gì?
Hổ mặt với đời đành tự vận,
Muôn năm còn để tiếng vô nghì.
Bấy giờ Khương Tử Nha sửa soạn trở về núi lo việc Phong thần, Võ Vương dặn dò mau mau trở về kẻo mỏi lòng trông đợi.
– Ta đã định trước rồi. Ngươi cứ về tại đài Phong Thần sẽ có sắc lệnh đến đó.
Tử Nha lạy tạ với Nguyên Thỉ về tâu lại với Võ Vương và lòng nhóng đợi sắc chỉ.
Ngày kia, bỗng nghe có tiếng nhạc inh ỏi mùi hương nồng nực ngó thấy Huỳnh Cân lực sĩ cầm phướng che tàn, Bạch Hạc đồng tử bưng sắc ấn từ trên mây sa xuống.
Tử Nha ra trước phủ nghinh tiếp, đón nhận sắc chỉ để trên bàn hương án rồi lạy tạ, Bạch Hạc đồng tử và Huỳnh Cân lực sĩ từ giã trở về.
Tử Nha sửa soạn xong, đệ sắc ấn đến núi Kỳ Sơn.
Thanh Phước thần là Bá Giám hay tin vội ra nghinh tiếp.
Tử Nha vào trong đài để sắc ấn trên bàn án truyền Võ Kiết, Nam Cung Hoát làm phướng Bát quái bằng giấy trấn tám hướng và mười mấy cây cờ Thiên cang, mười hai cây cờ Ðịa chi, dẫn binh mã ba ngàn, lập trận Ngũ phương xung quanh đài.
Khương Thừa Tướng tắm gội rồi truyền đặt bàn hương án, bên tả dựng Hạnh Huỳnh kỳ, bên hữu dựng Ðả Thần Tiên, mặc áo giáp hẳn hòi mở sắc ra tuyên đọc các hồn nghe cho rõ. Sắc chỉ như sau:
“Hỗn nguyên giáo chủ, Nguyên Thỉ Thiên Tôn ban sắc:
Hỡi ôi!
Tiên phàm khác bậc, người không đạo đức khó thành. Thần, quỷ riêng phần, kẻ ở gian tà phải đọa.
Ðịa tiên dầu rõ điều biến hóa, không lòng cũng mất lẽ trường sanh.
Thiên tiên tuy thông hiểu Huyền quan, ra trận dữ cũng khó thành chánh quả.
Các ngươi:
Tuy thông đạo cả, một điều không dập lửa lòng, ra trận giao phong, sa trường bạt mạng. Khiến kẻ tôi ngay, con thảo, vì trung này hiếu nọ mà bỏ mình.
Có người đức hạnh tiết trinh, bởi lẽ ấy tiết trinh hủy hoại.
Bị luân hồi báo oán, mắc nhân quả trả oan.
Nên ta chẳng an, động lòng phải thưởng.
Nay ban sắc cho Khương Thượng thay mặt đứng phong Thần từ bậc ba phần, phong vào làm tám bộ. Các ngươi khỏi luân hồi chịu khổ, một lòng cố báo bổ giúp đời. Nếu có công hưởng lộc trời, bằng có lỗi sẽ bị oai sấm sét.”
– Bá Giám hãy treo bảng Phong Thần dưới đài cho các hồn xem rõ, lúc nào kêu tên các hồn mới được lên.
Bá Giám tuân lệnh, mở bảng Phong Thần ra thấy tên mình đứng trên hết.
Các hồn đồng đến xem.
Bỗng Tử Nha gọi Bá Giám đến nghe sắc, Bá Giám cầm phướng lên đài quỳ xuống, Tử Nha đọc rằng:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Bá Giám xưa là Nguyên soái của Huỳnh Ðế, vâng lịnh đánh Xi vưu trước cũng lập công nhiều phen, sau bị chết nơi biển Bắc, hồn trung lạnh lẻo cũng khá thương, chừng gặp Khương Thượng đem về giữ đài Phong Thần, có công tiếp dẫn, nay phong chức là Thanh Phước thần, đứng đầu tám bộ gồm 365 vị.
Bá Giám tạ ơn xuống đài, Tử Nha truyền Bá Giám dẫn Hoàng Thiên Hóa lên, bảo quỳ và nghe sắc chỉ:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Hoàng Thiên Hóa xuống cứu cha là vì hiếu vì vua, tử trận chưa hưởng vinh hoa, thiệt mạng đáng thương lắm, nên phong làm chức Bỉnh Linh công, Tam sơn chánh thuận, cai trị ba hòn núi.
Hoàng Thiên Hóa tạ ơn bước xuống.
Tử Nha truyền dẫn Ngũ Nhạc lên đài.
Năm vị đồng quỳ nghe đọc sắc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Hoàng Phi Hổ trung thần bị nạn, phải trốn sang nước khác, hết lòng đền ơn tri ngộ Võ Vương, nên chết tại huyện Dẫn Trì, nghĩ cũng khá thương. Còn Sùng Hắc Hổ, Văn Sính, Thôi Anh, Tưởng Hùng bốn anh em kết bạn, quyết lòng phạt Trụ hưng Châu, rủi thác một lượt với Hoàng Phi Hổ, nên phong làm thần Ngũ Nhạc, cai trị năm hòn núi.
Vậy thời:
– Hoàng Phi Hổ làm Ðông nhạc Thái Sơn, Tề Thiên nhân thánh Ðại đế, làm đầu ngũ Nhạc, cai trị phần hồn. Dầu ai mới thác cũng phải đến cho thần Ðông nhạc xét tra. Ðến lúc đi đầu thai cũng vậy.
– Sùng Hắc Hổ làm Nam nhạc Hoàng sơn, Tư thiên Chiêu thánh đại đế.
– Văn Sính làm Trung nhạc Hoành sơn. Trung thiên Sùng thái Ðại đế.
– Thôi Anh làm Bắc nhạc Hằng sơn, An thiên huyền thánh Ðại đế.
– Tưởng Hùng làm Tây nhạc Hoa sơn, Kim thiên thư thánh Ðại đế.
Các người này phải lo bổn phận xem họa phước cho dân.
Năm thần tạ ơn xuống đài.
Tử Nha truyền đem Lôi Bộ lên đài.
Thái sư Văn Trọng không chịu ai tiếp dẫn, một mình dắt hai mươi bốn vị bổn hộ lên đài đứng sững không chịu quỳ.
Tử Nha rút roi Ðả Thần Tiên hét lớn:
– Lôi Bộ Chánh thần quỳ nghe đọc sắc.
Văn Trọng lúc đó mới chịu quỳ.
Tử Nha thấy 25 vị thần đã chịu phép quỳ hết mới tuyên đọc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Văn Trọng có công tu luyện, không được thành tiên, xuống phò hai trào đều tận trung, sau thất một trận mà mãn số. Trung liệt cũng đáng thương, nay cho làm đầu Lôi Bộ, cai trị 24 vị Thiên Quân xem gió, mưa, mây, chớp. Lấy oai ấm sét trị tội loài tà.
Vậy thì:
Văn Trọng làm chức Cửu thiên Nguyên lôi thinh phổ hóa thiên tôn.
Còn 24 vị thiên quân kể ra như sau:
Theo Lôi Bộ
Chức vụ: Tên người: Nhiệm vụ
Thiểm điển thần: Kim Quang thánh mẫu: coi việc sấm chớp
Hưng vân thần: Thể vân Tiên cô: coi việc kéo mây
Trợ phong thần: Hạm chi Tiên cô: coi việc làm gió
Bố võ thần: Kim Tô: coi việc làm mưa
Ðặng Trung: Ðặng thiên quân: Trương Tiết: Trương thiên quân
Ðào Vinh: Ðào thiên quân: Bàng Hồng: Tân thiên quân
Tuân Chương: Tuân thiên quân: Tất Hoàn: Tất thiên quân
Tần Hoàn: Tần thiên quân: Triệu Gian: Triệu thiên quân
Ðổng Toàn: Ðổng thiên quân: Viên Giác: Viên thiên quân
Lý Ðức: Lý thiên quân: Tôn Lương: Tôn thiên quân
Bạch Hổ: Bạch thiên quân: Vương Diệt: Vương thiên quân
Dao Tân: Dao thiên quân: Trương Triệu: Trương thiên quân
Kiết Lập: Kiết thiên quân: Dư Khánh: Dư thiên quân
Các thần lãnh chức tạ ơn lui xuống.
Tử Nha lại truyền dẫn Hỏa Bộ chánh thần lên đài, rồi đọc sắc.
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
La Tuyên xưa tu tại Hỏa Long đảo, gần thành tiên, bởi tánh lửa không dằn được mới bỏ mạng. Nay cho làm đầu Hỏa Bộ, coi việc lành dữ mà răn đời.
Vậy thì:
La Tuyên làm chức Nam phương Tam khí, Hỏa đức tinh quân chánh thần.
Lữ Nhạc tu hành dày công, bị nghe lời thị phi, xuống lập trận Ôn Hoàng mà chết. Nay nghĩ công khi trước, cho làm đầu bộ Ôn, trừ kẻ ác trong đời.
Vậy thì:
Phong Lữ Nhạc làm Chủ chưởng Ôn Hoàng Hạo thiên Ðại đế.
Còn sáu vị thần trong Ôn hộ là:
Tên thần: Chức vụ
Châu Tín: Ðông phương hành ôn sứ giả
Lý Kỳ: Nam phương hành ôn sứ giả
Châu Thiên Lân: Tây phương hành ôn sứ giả
Dương Văn Huy: Bắc phương hành ôn sứ giả
Trần Canh: Khuyến thiên Ðại sứ
Lý Bình: Hòa ôn Ðạo sĩ.
Sáu vị thần đồng tạ ơn bước xuống.
Tử Nha truyền dẫn Ðẩu Bộ Chánh thần lên, rồi tuyên đọc sắc chỉ.
Kim Linh Thánh mẫu đạo đức đủ điều, ngôi tiên đã sẵn, vì chưa dứt giận hờn, lập trận dữ nên mang họa. Nay phong chức:
Ðẩu chánh thần, ngồi trên phương Bắc, cai trị các vì tinh tú. Tám mươi bốn ngàn vì sao lớn nhỏ đều được sai khiến:
Năm Bộ Ðẩu kể ra sao:
Ðông đẩu tinh quân gồm có các thần: Tô Hộ, Kim Khuê, Cơ Thúc Minh, Triệu Bình.
Tây đẩu tinh quân gồm có: Hoàng Thiên Lộc, Long Hoàn, Tôn Tử Võ, Hồ Thăng, Hồ Văn Bằng.
Trung đẩu tinh quân gồm có: Lỗ Nhân Kiệt, Triều Lôi, Cơ Thúc Thăng, do Cơ Bá Ấp Khảo làm trung thiên Bắc cực tử vi Ðại đế.
Nam đẩu Tinh quân gồm có: Châu Kỷ, Hồ Lôi, Cao Quý, Dư Thành.
Bắc đẩu tinh quân gồm có: Thiên Cang, Hoàng Thiên Tường, Văn Khúc, Tỉ Can, Võ Khúc, Ðậu Vinh, Tả phụ Hàng Thăng, Hữu bậc Hàng Biên, Phú quân Tô Toàn Trung, Thăng lang Ngạc Thuận, Cự môn Quách Thần, Chiêu diên Ðổng Trung.
Các vì sao được phong như sau:
Tên sao: Tên người
Thanh long tinh: Ðặng Cửu Công
Ðằng xà: Trương sơn
Thái Dương: Từ Cái
Thái Âm: Khương Hoàng Hậu
Câu trận: Lôi Bàng
Bạch Hổ: Ân Thành Tú
Châu Tước: Mã Phương
HuyềnVõ: Từ Khôn
Ngọc Ðường: Thương Dung
Thiên Quý: Cơ Khúc Càng
Long Ðức: Hồng Cẩm
Hồng Loan: Long Kiết Công Chúa
Thiên hỉ: Trụ Vương
Thiên đức: Mai Bá
Nguyệt đức: Hạ Chiêu
Thiên xá: Triệu Khải
Mạo đoan: Giả Thị
Kim phủ: Tiêu Trăng
Mộc phu: Ðặng Hoa
Thủy phủ: Dư Nguyên
Hỏa phủ: Hỏa Linh
Thổ phủ: Thổ Hành Tôn
Lục hiệp: Ðặng Thiền Ngọc
Bất sĩ: Ðỗ Nguyên Tiến
Lực sĩ: Ô Văn Hóa
Tấn thơ: Dao Cách
Hà khôi: Hoàng Phi Bưu
Nguyệt Khôi: Triệt Ðịa Phu Nhân
Ðế xa: Khương Hoàng Sở
Thiên tự: Hoàng PhiBáo
Hoàng ân: Lý Cẩm
Thiên y: Tiền Bảo
Ðịa hậu: Hoàng Quý Phi
Trạch Long: Cơ Thúc Ðức
Phục long: Hoàng Minh
Dịch mã: Lôi Khai
Huỳnh phan: Ngụy Bôn
Báo vĩ: Ngô Khiêm
Tán môn: Trương Quế Phương
Ðiều khách: Phong Lâm
Câu giảo: Bí trọng
Quyện thiệt: Vưu Hồn
La hầu: Bành Tuân
Kế đô: Vương Báo
Phi liêm: Cơ Thúc Khôn
Bạo hao: Sùng Hầu Hổ
Tiểu hao: Ân Phá Bại
Quách sách: Khưu Dẫn
Lang cang: Long An Kiết
Phi đâu: Thái Loan
Ngũ quỷ: Ðặng Tú
Dương nhận: Triệu Thăng
Huyết quang Tôn: Diệm Hồng
Quan phù: Phương Nghĩa Chân
Cô thần: Dư Hóa
Thiên cẩu: Quý Phương
Binh phù: Vương Tá
Toàn cốt: Trương Phụng
Tử phù: Biện Kim Long
Thiên bại: Bạch Hiển Trung
Phù trầm: Trịnh Xuân
Thiên sát: Biện Kiết
Tuế sát: Trần Canh
Tuế hình: Từ Phương
Tuế phá: Triều Ðiền
Ðộc hỏa: Âu Dương Thuần
Huyết chi: Mã Trung
Vong thần: Cơ Thúc Ngang
Nguyệt phá: Vương Hổ
Nguyệt du: Thạch Cơ Nương
Nguyệt yểm: Giao Trung
Thất sát: Trương Khuê
Ngũ cốc: Ân Hồng
Trừ sát: Tử Trung
Thiên hình: Âu Dương Thiên Lộc
Thiên la: Trần Ðồng
Ðịa võng: Cơ Thúc Kiết
Thiên không: Mai Võ
Huê cái: Ngao Binh
Thập ác: Châu Tín
Tàm súc: Huỳnh Nguyên Tế
Ðào hoa: Cao Thị Lan Anh
Tảo chẩu: Mã Thị
Ðại họa: Lý Cấn
Lang Tịch: Hàng Vinh
Phi ma: Lâm Thiện
Cửu xủ: Long Tu Hổ
Nhất Tam thi: Tác Kiên
Nhị Tam thi: Tác Cường
Tam Tam thi: Tác Dõng
Ấm thác: Kim Thành
Dương sai: Mã Thành Long
Nhân sát: Công Tôn Ðạt
Tứ phế: Viên Hồng
Ngũ cùng: Tôn Hiệp
Ðịa không: Mai Ðức
Hồng diệm: Dương Quý Phi
Lưu Hà: Võ Vinh
Quả Tú: Châu Thăng
Thiên ôn: Kim Ðại Thăng
Hoán vu: Ðài Lễ
Thai thần: Cơ Thúc Lễ
Phục đoạn: Trư Tử Chân
Phản ngâm: Dương Hiển
Phục ngâm: Dao Thứ Long
Ðao châm: Thường Hạo
Diệt một: Trần Kế Trinh
Tuế yểm: Bành Tổ Thọ
Phá tối: Ngô Long.
Nhị thập bát tú (28 vì sao)
Các vì sao này đã rút ra nói ở trận Vạn Tiên rồi, nay xin kể tắt:
Tam thập lục thiên cang tức ba mươi sáu vị sao Ðẩu tử trận Vạn Tiên kể ra sau:
Tên sao: Tên người
Thiên khôi tinh: Cao Diễn
Thiên Cang Tinh: Huỳnh Chơn
Thiên cơ: Lư Xương
Thiên giang: Kỷ Xương
Thiên dõng: Giao Công Hiếu
Thiên hùng: Thi Cối
Thiên mãnh: Tôn Ất
Thiên oai: Lý Báo
Thiên anh: Châu Nghĩa
Thiên quý: Trần Khảm
Thiên phú: Lê Tiên
Thiên mãng: Phương Bảo
Thiên cô: Chiêm Tú
Thiên thương: Lý Hồng Nhơn
Thiên quyền: Vương Long Mậu
Thiên thiệp: Ðặng Ngọc
Thiên ám: Lý Tân: Thiên hựu: Từ Chánh Ðạo
Thiên không: Ðiển Thông
Thiên tốc: Ngô Húc
Thiên dị: Lữ Tư Thành
Thiên sát: Nhậm Lại Sinh
Thiên vi: Cung Thanh
Thiên tổn: Ðường Thiên Chánh
Thiên bại: Thân Lễ
Thiên lao: Văn Kiệt
Thiên huệ: Trương Trí Hùng
Thiên bạo: Tất Ðức
Thiên khốc: Lưu Ðạt
Tiên xảo: Trình Tam Ích
Thất thập nhị địa sát (72 vì sao theo Bộ Ðầu)
Ðịa khôi tinh: Trần Kế Chân
Ðịa sát tinh: Huỳnh Kiển Nguyên
Ðịa hung: Lỗ Tu Ðức
Ðịa oai: Hồ Bá Nhạn
Ðịa anh: Tôn Tường
Ðịa kỳ: Vương Bình
Ðịa mãnh: Bá Hữu Hoạn
Ðịa văn: Hoa Cao
Ðịa chánh: Khao Cách
Ðịa tịch: Lý Toại
Ðịa hạc: Lưu Hoành
Ðịa cường: Hạ Tường
Ðịa ám: Dư Trung
Ðịa phụ: Bao Long
Ðịa hội: Lỗ Chi
Ðịa tá: Huỳnh Bính Khánh
Ðịa hưu: Trương Kỳ
Ðịa linh: Quách Kỷ
Ðịa thú: Kim Nam Ðạo
Ðịa vi: Trần Nguyên
Ðịa huệ: Xa Khôn
Ðịa hạo: Tang Thành Ðạo
Ðịa mặc: Châu Canh
Ðịa xương: Tề Công
Ðịa cuồng: Hoát Chi Nguyên
Ðịa phi: Diệp Trung
Ðịa tẩu: Cố Tòng
Ðịa xảo: Lý Xương
Ðịa minh: Phương Kiết
Ðịa tấn: Từ Kiết
Ðịa thôi: Phán Oan
Ðịa mãng: Trát Công
Ðịa toại: Khổng Thành
Ðịa châu: Giao Kim Tu
Ðịa ẩn: Nịnh Tam Ích
Ðịa dị: Dư Trí
Ðịa lý: Ðổng Trinh
Ðịa tuấn: Viễn Ðảnh Tướng
Ðịa lạc: Uông Tường
Ðịa thiệp: Cảnh Nhan
Ðịa tốc: Hình Tam Loan
Ðịa trấn: Khương Trung
Ðịa kê: Khổng Thiệu Triệu
Ðịa ma: Lý Dượt
Ðịa yêu: Cung Thiên
Ðịa u: Ðoạn Thanh
Ðịa phục: Môn Ðạo Chánh
Ðịa tịch: Tố Lâm
Ðịa không: Tiên Ðiển
Ðịa cô: Ngô Tứ Ngọc
Ðịa kim: Khuôn Ngọc
Ðịa đoản: Thái Công
Ðịa giác: Lam Hổ
Ðịa tù: Tống Lộc
Ðịa tàn: Quan Bâu
Ðịa bình: Long Thành
Ðịa tổn: Huỳnh Ô
Ðịa nô: Không Ðạo Linh
Ðịa sát: Trương Hoàn
Ðịa ác: Lý Tín
Ðịa xủ: Từ Sơn
Ðịa số: Cát Phương
Ðịa ám: Tiêu Long
Ðịa hình: Tần Tường
Ðịa tráng: Võ Diễn Công
Ðịa liệc: Phạm Bân
Ðịa kiện tinh: Diệp Kiển Xương
Ðịa bao tinh: Giao Hoa
Ðịa tặc: Tôn Kiết
Ðịa Cẩu: Trần Mộng Canh
Cửu diện tinh quân (chín vì sao theo bộ Ðầu)
1. Sùng Ứng Bưu
2. Cao Hệ Bình
3. Hàng Bàng
4. Lý Tế
5. Vương Phong
6. Lưu Cấm
7. Vương Từ
8. Bành Cửu Nguyên
9. Lý Tam Ích
Thủy Ðức tinh quân (năm vì sao Thủy tinh)
1. Cơ Thủy Báo: Dương Chơn
2. Thủy Ðức Tinh: Lỗ Hùng
3. Bích Thủy Du: Phương Tiết Thanh
4. Sâm Thủy Viên: Tôn Tường
5. Chẩn Thủy Dẫn: Hồ Ðạo
Các vị tinh tú được phong rồi lạy tạ ơn xuống đài.
Tử Nha truyền Bá Giám dẫn Ân Giao, Dương Nhậm và bổn bộ lên, rồi đọc sắc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Ân Giao là con của vua Trụ, vì nóng lòng mẹ nên động đến cha, thiếu chút nữa anh em phải lụy. Sau cãi lời thầy dạy, không kể lời thề, tuy nghe Thân Công Báo mặc lòng, song cũng tại mình bội sư mang họa.
Còn Dương Nhậm can vua mà bị khoét mắt, sau về Châu vì Chúa liều mình.
Vậy phong Ân Giao chức Trị niên Thái quân, coi điều lành dữ trong mãn năm, phong Dương Nhậm làm Giáp tí Thái tuế đem các vị bổn hộ tuần du xét người lành dữ.
Bộ hạ hai vị thần Thái Tuế kể ra sau đây:
1. Nhựt du thần: Ôn Lương
2. Dạ du thần: Kiều Khôn
3. Tăng phước thần: Tiết A¨c Hổ
4. Tôn phước thần: Hàng Ðộc Long
5. Hiển đạo thần: Phương Bậc
6. Khai lộ thần: Phương Tướng
7. Trị niên thần: Lý Bình
8. Trị nguyệt thần: Huỳnh Thừa Ất
9. Trị nhật thần: Châu Ðáng
10. Trị thời thần: Lưu Ðồng.
Các thần được phong đều tạ ơn lui xuống đài.
Tử Nha truyền đòi anh em Vương Ma lên, rồi đọc sắc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Anh em Vương Ma trước ở tại Cửu Long đảo, bởi không giữ phần thanh tịnh, xuống trần lo việc can vua, nên mất tiên cang, phải sa thần đạo. Nay phong bốn anh em họ Vương làm Tứ thánh Ðại nguyên soái hầu hạ đền Linh Tiêu.
Bốn người này là: Vương Ma, Dương Sum, Cao Thế Càng, Lý Hưng Bá.
Bốn thần tạ ơn lui gót.
Tử Nha truyền đòi Triệu Công Minh và bốn vị Kiết thần lên, rồi tuyên đọc sắc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Triệu Công Minh, công quả đã cao, tu hành phải đạo, bởi nghe tiếng thị phi mà nóng tánh, nên sa vào trần tục, chuốt lấy rủi ro, sống không được thành tiên chết cũng về chánh quả. Nay phong làm chức Kim Long như ý Chánh nhứt Long Hổ, Huyền đăng Chơn quân, quản xuất bốn vị chánh thần mà cứu giúp người lương thiện.
Bốn vị Chánh thần phong như sau:
1. Châu bửu Thiên tôn: Tiên Thăng
2. Nạp trân Thiên tôn: Tào Bửu
3. Chiêu tài Sứ giả: Trần Cửu Công
4. Lợi thị tiên quân: Dao Thiếu Tư.
Năm vị Chánh thần tạ ơn lui xuống.
Tử Nha truyền dời bốn anh em họ Ma lên đài, rồi đọc sắc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Bốn anh em họ Ma học được phép lạ, ý muốn chống trời, song thấy ngay vua cũng khá khen, nghĩ tử tiết càng thêm thương, nay phong bốn người làm Tứ đại Thiên vương coi bốn chữ: Phong điều võ thuận.
Ma Lễ Thanh làm Tăng trưởng Thiên vương, cầm Thanh quang bửu kiếm.
Ma Lễ Hồng làm Quang mục Thiên vương cầm Hỗn nguyên châu táng.
Ma Lễ Hải làm Ða văng Thiên vương cầm Hoa hồ điêu.
Bốn vị Thiên vương tạ ơn lui xuống đài.
Tử Nha truyền dẫn Trịnh Luân và Trần Kỳ lên, tuyên đọc.
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Trịnh Luân bỏ Trụ về Châu phải trang hiền thần vận lương ra trận đáng bậc công lao, chưa hưởng quyền cao đã lìa trần thế.
Còn Trần Kỳ, tuy đón binh Châu, cãi thiên mệnh, song lòng ngay với chúa cũng đáng khen. Vậy phong hai người làm Hanh ngáp nhị tướng giữ cửa núi Tây phương.
Hai thần tạ ơn lui xuống.
Tử Nha truyền dẫn vợ chồng Dư Hóa Long lên, rồi đọc sắc:
Cha con Dư Hóa Long thờ chúa hết lòng, đáng tôi lương đống, liều thân trọn tiết, nên hưởng lửa hương. Nay phong Dư Hóa Long làm chức Chủ đậu bích hà nguyên quân. Vợ là Kim thị phong chức: Vệ phòng Thánh mẫu.
Chồng coi việc bông, trái; vợ cứu việc sanh thai.
Còn năm người con phong chức sau đây:
Ngũ phương chủ đậu thánh thần
1. Ðông phương chủ đậu thánh thần: Dư Ðạt
2. Tây phương chủ đậu thánh thần: Dư Triệu
3. Nam phương chủ đậu thánh thần: Dư Quang
4. Bắc phương chủ đậu thánh thần: Dư Tiên
5. Trung ương chủ đậu thánh thần: Dư Ðức
Vợ chồng, con cái Dư Hóa Long tạ ơn xuống đài.
Tử Nha truyền đòi Tam Cô lên, tuyên đọc.
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Ba chị em Vân Tiên tuy học đạo lớp Thiên hoàng mà chưa chứng quả, vì nóng báo cừu huynh trưởng lập trận Huỳnh Hà hại người đại đức nên phải lụy thân. Nay phong ba người làm Cảm ứng tùy thế tiên cô.
Tuy làm vị nương nương. Song phải coi việc sinh sản mà đền tội hại tiên ra phàm.
Cảm ứng tùy thế tiên cô gồm có:
1. Vân Tiêu nương nương
2. Quỳnh Tiêu nương nương
3. Bích Tiêu nương nương
Cả ba vị tiên cô đều tạ ơn lui gót.
Tử Nha truyền dẫn Thân Công Báo lên đài tuyên đọc.
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Thân Công Báo tu theo Xiển giáo, dám cãi lời thầy, quyết trợ Trụ đánh Châu, bày đặt dụ dỗ nhiều người làm bậy. Tuy số trời đã định, kẻ có tên trong bảng phải bỏ mình, song lỗi ấy thật khó dung, đã một lần thề thốt mà không chừa thói cũ. Nay dầu mang họa, nhưng nghĩ tình phong cho làm Phân thủy tướng quân, coi nước lớn, nước ròng tại Ðông Hải hay việc ấm lạnh trong hai mùa. Hạ thì giá tan. Ðông thì nước đặc. Nếu làm trái lại sẽ bị phạt nặng nề.
Thân Công Báo tạ ơn lui xuống biển.
Các vị thần ai giữ việc ấy, đều rời khỏi đài.
Từ ấy trong đài hết âm khí, gió hòa nắng tốt như thường.
Tử Nha xuống đài, truyền Nam Cung Hoát về đền ra lệnh cho bá quan văn võ ngày mai phải đến Kỳ Sơn cho đủ mặt.
Ngày hôm sau, bá quan văn võ tề tựu, đồng ra mắt Tử Nha.
Tử Nha truyền trói Phi Liêm và Ác Lai lại.
Hai người thất kinh kêu lớn:
– Chúng tôi phạm tội là kẻ bày cho vua Trụ làm hại dân nước thì thật có công đối với nhà Châu sao Thừa thường tướng lại bảo là tội. Cơ nghiệp này, nếu Trụ Vương không nghe lời chúng tôi hủy phá thì làm sao hôm nay rơi vào tay nhà Châu được? Kẻ được thiên hạ lại không biết ơn chúng tôi sao?
Tử Nha nói:
– Chúng bay thật là đứa gian hùng, thốt ra nhiều lời kỳ dị. Nếu để chúng bay sống thì cơ nghiệp nhà Châu có ngày bị hại.
Nói rồi truyền võ sĩ đem hai người ra xử trảm.
Tử Nha lại lên đài phong Thần tuyên đọc:
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Phi Liêm và Ác Lai là hai tôi gian nịnh, ngỡ trộm ấn cầu vinh, không dè đem thân đi nạp. Bởi có tên trong bảng Phong Thần nên khó trốn. Nay phong Phi Liêm làm Băng tiêu, Ác Lai làm Ngõa giải tuy là chức xấu, không được làm hung.
Phi Liêm và Ác Lai cúi đầu nghe đọc sắc xong tạ ơn bay đi. Tử Nha trở xuống đài.